Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 4

CHƯƠNG 46

Bảy Cao nói với hai tiểu đội ly khai tại cầu Bà Lát là “mình ria một loạt đạn đưa linh tụi nó trước khi rút về Đồng Tháp”. Câu nói đó coi vậy mà rất đúng với đám tàn quân của Bảy Viễn. Còn lại không hơn một trung đội, có thể nói chỉ huy đông hơn binh sĩ. Ngay đêm đó chúng lặng lẽ vượt quốc lộ 4, qua Hộ 17 về cầu Hiệp Ân đóng quân theo kế hoạch Năm Tài đã vạch ra. Trở về vùng Chánh Hưng quen thuộc, nhưng cả Bảy Viễn lẫn đám “binh tôm tướng cá” đều buồn bac uể oải.
“Ngày trở về của Bảy Viễn tồi tệ như thế này sao?”. Bảy Viễn không ngớt thở dài. Điều y ngại nhất là ăn làm sao, nói làm sao với nhà cầm quyền Pháp – Việt đây? Đường đường là một Khu trưởng Khu 7 mà về với “chính nghĩa quốc gia” chỉ có một trung đội thì “mất mặt bầu cua” quá chừng!
Sáng hôm sau, tên tường Đờ-la-tua (Dela Tour), Tư lệnh Quân khu Sài Gòn, đi xe thiết giáp tới cầu Hiệp Ân đón Bảy Viễn. Nhưng thấy cảnh “hàng thần lơ láo” có vài chục ngoe, hắn lắc đầu dở khóc dở cười. Năm Tài khéo léo tránh cho Đờ-la-tua lẫn Bảy Viễn cuộc gặp gỡ trơ trẽn như trò hề. Hắn vội bàn với Đờ-la-tua:
- Thứ Thiếu tướng, lực lượng Bình Xuyên gồm có bảy Chi đội 2, 3, 4, 7, 9, 21 và 25, nhưng trong thế kẹt không mang theo hết được. Kế hoạch về thành tuy hết sức bí mật nhưng đã bị lộ nên chúng tôi bị Việt Minh kềm cặp chặt chẽ… Xin Thiếu tướng hoãn lễ ra mắt chừng hai tuần để chúng tôi liên lạc vào khu kéo các Chi đội còn kẹt trong đó ra. Đồng thời cũng xin Thiếu tướng mở cuộc hành quân quy mô gồm cả thủy, lục, không quân đánh vào Rừng Sác để đập tan cuộc thanh trừng của Việt Minh nhằm vào các chi đội nói trên.
Đờ-la-tua lên thiết giáp quay về Sài Gòn, không thèm bắt tay Bảy Viễn đang đứng xớ rớ đâu đó, sượng sùng như chó chực xương.
Trong vòng hai tuần lễ đó, bộ tham mưu của Bảy Viễn ra sức chạy đua với thời gian. Với tiền Phòng Nhỉ ứng trước, Năm Tài tổ chức những bàn mộ lính đặt ngay trước các chợ Phạm Thế Hiển, cầu Rạch Ong, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận. Điều kiện đăng lính rất dễ dàng, hễ ký tên là bợ bạc gọi là tiền thưởng. Số người hưởng ứng quá ít, Năm Bé cho người đến các bót nhận lãnh các tay du đãng sa lưới, bảo là lính Bình Xuyên từ chiến khu trốn về. Nhờ vậy mà chỉ trong vài ba ngày, Năm Bé kiếm đủ một tiểu đoàn giao cho Tư Sang huấn luyện quân sự cấp tốc. Súng ống thì Phòng Nhì cung cấp đầy đủ, cũng như quân trang quân dụng. Mười ngày sau, dân chúng vùng Phạm Thế Hiển chứng kiến một đạo quân mới ra lò, áo giày vớ còn thơm phức mùi long não, nhưng nhìn kỹ thì các gương mặt đó rất quen: toàn là đám tiểu yêu “đá cá lăn dưa”, móc túi, giật dây chuyền ở các chợ lân cận.
Đúng ngày quy định – ngày 13-6-1948, “quân đội Bình Xuyên ly khai Việt Minh trở về chính nghĩa quốc gia của nguyên Khu trưởng Khu 7 Lê Văn Viễn “long trọng làm lễ ra mắt” tại chợ Phạm Thế Hiển. Đến dự có đầy đủ các quan chức cao câp trong chính phủ Việt-Pháp. Nhưng đóng vai chính trong màn kịch ấy là Đờ-la-tua và nguyên Khu trưởng Lê Văn Viễn. Bảy Viễn mặc quân phục sĩ quan Pháp không đeo phù hiệu binh chủng và cấp bậc. Hắn đọc diễn văn do Năm Tài thảo đại khái tố cáo Việt Minh độc quyền yêu nước đồng thời đề cao Cựu hoàng Bảo Đại đã khéo léo đấu tranh bằng ngoại giao, được người Pháp đồng tình trao trả độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Đã đến lúc những người quốc gia nên rời hàng ngũ kháng chiến trở về kiến thiết xứ sở…
Sau đó tướng Đờ-la-tua lên đọc một bài diễn văn ngắn hoan nghênh ngày trở về của quân đội Bình Xuyên và trịnh trọng phong chức đại tá cho Khu trưởng Lê Văn Viễn.
Lễ gắn phù hiệu đại tá diễn ra trong tiếng kèn, tiếng trống ồn ào của dàn quân nhạc Pháp. Sau đó “đại tá” Lê Văn Viễn hướng dẫn tường Đờ-la-tua duyệt tiểu đoàn “thiện chiến” Bình Xuyên.
Buổi lễ ra mắt kết thúc tốt đẹp. Ngay đêm ấy, tất cả cấp bộ từ tiểu đội trưởng trở lên đều được dự tiệc liên hoan đặt tại nhà hàng Đại La Thiên. Rượu mạnh chảy như suối. Như một con dê lâu năm vừa được phá vỡ, bản chất hưởng thụ tuôn rào như thác. Mỗi cấp bộ đều có quyền chọn một cô ca-va để chung vui trong đêm lịch sử này. Giữa đám đông, Bảy Viễn công khai đề cao công lao của các tay tâm phúc. Trước hết là Năm Tài, một nhà ngoại giao lỗi lạc. Kế đến là Tư Sang, một chỉ huy quân sự đại tài. Kế đến là Năm Bé, một bạn giang hồ nhiều phen vào sinh ra tử, sống chết có nhau… Nhưng nhân vật đang lên đáng chú ý nhất là Thái Hoàng Minh, cháu rễ Bảy Viễn, Minh là rễ người chị thứ hai của Bảy Viễn và theo Viễn từ lúc bộ đội Phú Thọ của Bảy Viễn mới thành lập.Hồi trong khu thì chỉ là một đại đội trưởng tầm thường, không đánh một trận nào ra hồn. Nhưng khi về thành thì… đúng như lời thiên hạ thường nói: “không có chó bắt mèo…”. Thái Hoàng Minh được Bảy Viễn chỉ định tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó là Tư Hiểu, tay này ngồi trong khu cũng chỉ là trung đội trưởng. Các ngôi thứ đều được “đôn lên”. Tư Sang, Năm Tài trở thành cố vấn tối cao, cũng như Năm Bé lãnh chức quân sư…
Cố nhiên trong lễ ra mắt và trong tiệc liên hoan không thể vắng mặt người bạn thân thiết nhất mà cũng là tai mắt của tên cáo già Savani: Môrit Thiên. Khi nghe Lâm Ngọc Đường còn kẹt Rừng Sác giữa cuộc tảo thanh ác liệt. Môrit Thiên lo cho Lâm Ngọc Đường thì ít mà mừng cho mình tốt số thì nhiều. Trong tiệc liên hoan mà đôi lúc hắn toát mồ hôi lạnh, vừa mừng vừa sợ như một kẻ chết hụt.
Sau phần lễ nghi rình rang, cuộc sống trở lại nhịp điệu bình thường. Nhiều công việc cấp thiết như xây doanh trại cho tiểu đoàn ăn ở, lập một tổng hành dinh cho ra vẻ một lực lượng quốc gia quan trọng nhất trong tình hình hiện tại. Năm Tài trổ tài tháo vát, sang ngay một căn phố số 31 đường Canton (nay là Hải Thượng Lãn Ông) để làm văn phòng liên lạc với quân đội Pháp. Bộ tham mưu của Bảy Viễn thường trực ở đây trong khi Thái Hoàng Minh và Tư Hiểu sống sát với tiểu đoàn bên Phạm Thế Hiển. Mỗi ngày người Pháp chi cho quân đội Bình Xuyên mỗi đầu người ba đồng tiền chợ. Gạo được cấp phát riêng. Như vậy mức sống của năm trăm người dưới quyền của đại tá Bảy Viễn cũng kể là cao, vì lúc này, một tô hủ tiếu chỉ có ba xu. Cấp bộ được mười đồng ngày…
Tuy nhiên không thể sống dài dài trong cảnh “tiền cấp gạo đong” như thế. Bộ tham mưu Bảy Viễn đề nghị tướng Đờ-la-tua giao công tác cụ thể xứng đáng với đông tiền trợ cấp của Pháp.
Cuộc hành quân quy mô thủy, lục, không quân đã diễn ra liên tiếp suốt một tuần lễ trong vùng Rừng Sác. Hàng trăm tàu chiến đủ loại, từ tuần dương đến giang đỉnh – thường được gọi là tàu “lồng cu” ngày đêm xình xịch lên xuống, ngang dọc trên hai con sống Lòng Tàu và Soài Rạp, đôi khi thọc sâu vô các con rạch nhỏ để càn quét. Trên trời thì “đầm già” quần đảo chỉ điểm cho đám ‘cồng cộc” lên bỏ bom và bắn dai như trâu đái. Sau một tuần ra huy hùng hổ, kết quả chẳng có gì đáng hãnh diện. Đờ-la-tua nghĩ ngay tới chuyện “đạp gai phải dùng gai mà lễ”: Đưa bộ đội Bình Xuyên trị Việt Minh là thượng sách. Hắn bảo Bảy Viễn:
- Sau thời gian ổn định, bây giờ đã đến lúc các anh bắt tay vào việc bình định xứ sở. đang lúc Việt Minh xáo trộn dữ dội, tôi giao cho các anh nhiệm vụ mở lại con đường 15. Đây là con đường huyết mạnh không kém quốc lộ 4. Nếu quốc lộ 4 là con đường lúa gạo, heo cá nuôi sống cả dân thành phố thì con đường 15 là mặt tiền của chính phủ Sài Gòn. Nó giúp du khách và nhất là các chính khách từ chính quốc sang có chỗ để cuối tuần đi du ngoạn, tắm biển. Vũng Tàu là một trong các thắng cảnh đẹp nhất Việt Nam. Phải giải tỏa con lộ 15 với bất cứ giá nào. Đây là một sự tín nhiệm mà quân đội Pháp đặt lên vai các anh.
Con đường 15 dài 120 cây sô, nhưng chỉ cần giải tỏa khoảng một nửa vì đoạn Sài Gòn – Long Thành không bị phá hoại nhiều và đã được sửa chữa từ lâu. Riêng khúc Long Thành – Bà Rịa thì bị phá họai dữ dội.
Không một chiếc cầu nào còn nguyên. Dù là xi măng hay là sắt, đều được phá bằng mìn ngay trong những ngày đầu kháng chiến. Còn đường thì cuốc tróc lớp nhựa và đá xanh lên, đào lỗ trồng tre dầy bịt. Cây cối hai bên đường đều bị đốn cho ngã lên con đường. Nếu có ai đi ngang qua vùng Thái Thiện, Phú Mỹ, người đó không nhận ra con lộ 15 là con đương quen thuộc của giới giàu sang, trưởng giả trong thời tiền chiến, cứ cuối tuần là phóng xe đi Vũng Tàu hay Long Hải ngao du cùng biển xanh song bạc…
Đồng ruộng hai bên bỏ hoang lâu năm nay đã thành rừng chồi, gây thêm khó khăn cho cuộc giải tỏa. Cả tiểu đoàn Bình Xuyên đều ngán, nhưng lệnh đã ban, đành phải cố gắng.
Thái Hoàng Minh không phải là một nhà quân sự, nhưng ngược lại hắn là một tay kinh doanh. Trước công tác mới, hắn thấy cơ hội làm ăn quy mô đã đến với hắn. Rừng bạt ngàn sẽ là kho tiền vô tận cho các nhà khai thác cay gỗ, than củi. Mỗi một cây số đường giải tỏa là Bình Xuyên có thêm được nhiều “cúp” rừng để khai thác lâm sản. Cuối năm 49 và đầu năm 50, suốt con đường dọc bờ Kinh Tẻ từ dạ cầu Tân Thuận cho tới chợ Phạm Thế Hiển, các vựa củi mọc lên như nấm. Đó là các cơ sở làm ăn có liên quan mật thiết vơi Bình Xuyên.
Tướng Đờ-la-tua thấy Bình Xuyên nặng về làm ăn cây gỗ hơn là bình định, đã quở trách và đôn đốc Bảy Viễn xúc tiến cuộc giải tỏa đường. Nhưng càng tiến sâu vô khúc đường Thái Thiện – Quán Chim – Eo Ông – Thị Vãi, Thái Hoàng Minh càng gặp sức chống trả của bộ đội và du kích. Vì vùng này trước đây là căn cứ Cộng sản 7của Hai Vĩnh. Những vụ bắn tỉa kết hợp với gài mìn, lực đạn “khẻ” dần quân số. Có một lúc sức kháng cự lên cao khiến Thái Hoàng Minh phải hoang mang, tự bắn vào cánh tay gây thương tích để xin Bảy Viễn cho đi Pháp điều trị. Đó là thủ đoạn để “giã biệt chiến trường”. Tư Hiểu lên thay. Dù được tiếp tay của quân đội Pháp, Tư Hiểu phải mất ba năm mới hòan thành cứ mạng giải tỏa con đường Sài Gòn – Vũng Tàu vào giữa năm 52. Pháp cho đây là một thắng lợi quan trọng. Ngày khánh thành đường con lộ mới được tổ chức rình rang. Đờ-la-tua đọc diễn văn ca ngợi công sức của lực lượng Bình Xuyên trong việc giải tỏa và long trọng giao cho Bình Xuyên tiếp tục bảo đảm an ninh trật tự suốt đoạn đường 120 cây số này.
Ngôi sao Bảy Viễn le lói kể từ “chiến công” ấy, Năm Tài cũng có dịp trổ nghề kinh doanh. Hắn đề nghị Bảy Viễn lập hãng xe đò Sài Gòn – Vũng Tàu lấy tên là Nghĩa Hiệp, chiếm độc quyền giao thông vận tải trên tuyến đường này. Chưa bao giờ ở Sài Gòn có một hãng xe đò làm mưa làm gió như hãng Nghĩa Hiệp của Bảy Viễn.
Kinh doanh thành công trong ngành xe đò, Bảy Viễn bỏ vòi sang ngành khách sạn, nhà hàng. Vũng Tàu lúc ấy như một thành phố hồi sinh. Du khách kéo tới nườm nượp. Khách sạn không đủ. Bảy Viễn xây cất khách sạn, nhà hàng, giao cho bà Lúa quản lý. Du khách ở tại khách sạn của bà Lúa có được cái thuận lợi là xe đò Nghĩa Hiệp đưa tới tận khách sạn trước khi ghé bến. Bận về cũng thế, xe đến tận khách sạn rước, không phải ra bến.
Đã có cơ sở làm ăn, bộ tham mưu Bảy Viễn nghĩ tới chuyện xay dựng một tổng hành dinh đồ sộ, xứng đáng với tầm vóc của Bình Xuyên. Năm Tài chọn mua một miếng đất dưới dốc cầu chữ Y, xây cất nhà ngang dãy dọc. Đầu năm 50 thì cả bộ tham mưu rời ngôi nhà sô 31 Canton để dọn về tổng hành dinh mới.
Để tổng hành dinh Bình Xuyên có một cái gì khác thiện hạ, Bảy Viễn cho xây hầm nuôi cá xấu và chuồng cọp, thêm một chuồng gấu. Thỉnh thoảng Bảy Viễn lại đi bách bộ cạnh các con thú dữ dằn ấy làm cho bất kỳ ai bên ngoài trông thấy cũng không dám coi thường cái oai của Ngài đại tá.

CHƯƠNG 47

Chỉ đạo cuộc thanh trừng tại chỗ có bộ ba Nguyễn Đức Huy, Hai Vĩnh và Việt Hồng. Nhưng bộ ba này không ăn khớp với nhau. Hai Vĩnh bất ngờ lâm bệnh nặng, dù được hai bác sĩ Hoa, Trạch và y sĩ Đang tận tình thuốc thang vẫn nằm liệt. Căn bệnh quái ác này đã ngăn trở Hai Vĩnh tới gặp bộ máy thanh trừng để can thiệp cho Tư Hoạnh. Trong tảo thanh, có rất nhiều trường hợp tình ngay lý gian và có lắm người chết oan. Việt Hồng, chính ủy viên Trung đoàn 300 là người chịu trách nhiệm chính cuộc tảo thanh. Nhưng Nguyễn Đức Huy, bí thư phân khu Duyên Hải, nằm quyền sinh sát. Nguyễn Đức Huy không ưa Mười Lực và Bảy Môn. Hàng ngày Huy cứ làm Mười Lực hoang mang bằng những câu hỏi có tính chất điều tra “nguội”, chẳng hạn như:
- Anh với Bảy Viễn như tay mặt tay trái, lẽ nào hắn không cho anh biết ý định đầu Tây của hắn? Hay là hắn “gài” anh ở lại với kế hoạch nào đó?...
Bảy Môn và Mười Lực là cặp bài trùng, lúc đi giang hồ cũng như khi đi kháng chiến, hai tay này không bao giờ rời nhau. Mười Lực bị Nguyễn Đức Huy ghìm thì Bảy Môn cũng chột dạ.
Ngày kia, Tư Huỳnh bí mật gặp Mười Lực bảo:
- “Thằng cha già râu kẽ” giao công tác cho tôi thật là ác. Nó biểu tôi giả đào ngũ chạy ra thành, tìm Bảy Viễn để kéo Bảy Viễn về khu.
Mười Lực giật mình:
- Như vậy là địch vận. Khó lắm! Làm địch vận thì ta phải “ăn trùm”với địch mới hy vọng thắng. Mày là em út của Bảy Viễn thì làm sao nói Bảy Viễn nghe?
Tư Huỳnh gật lia:
- Thì tôi cũng nói như vậy mà thằng chả có chịu nghe đâu! Bởi vậy tôi khổ lắm. Đi kháng chiến là mình cương quyết đoạn tuyệt cuộc đời cũ. Mình đã thề “một ra đi là không trở về”…
Bảy Môn ái ngại dùm bạn:
- Mày có quyền không nhận công tác nếu mày thấy không thích hợp.
- Thì tôi đã từ chối, nhưng thằng chả đập bàn “chụp mũ” tôi vô kỷ luật. Khổ ghê! Chưa thấy thằng cha nào “quan cách mạng” bằgn cha già râu kẽm này.
Vài ngày sau có tin Tư Huỳnh nhảy về thành đầu Tây. Chỉ có Mười Lực là biết Tư Huỳnh lãnh một sứ mạng vượt quá khả năng của mình.
Vài tháng sau thấy Tư Huỳnh lò mò trở vô khu. Chừng đó thiên hạ mới biết Tư Huỳnh làm công tác thành. Chuỵên cũng bình thường nên chẳng ai chú ý.
Một đêm Tư Huỳnh mời Mười Lực và Bảy Môn về nhà ăn nhậu. Rượu vào lời ra. Tư Hùynh vui miệng rỉ tai hai bạn:
- Anh Mười tài thiệt! Anh nói thất bại thì đúng là thất bại. Em út thì làm sao nói cho anh Bảy Viễn nghe được? Hai anh biết không, vừa thấy mặt tôi là Bảy Viễn đã cười bảo: “Phải thằng già râu kẽm bảo mày ra đây thuyết phục tao trở vô trong đó không? Không đời nào! Cộng sản tưởng khôn với cái kế “điệu hổ ly sơn”, nhưng thằng Bảy Viễn này con khôn hơn. Từ lâu tao muốn theo Tây cho sướng tấm thân, nhưng chưa có cách nào vừa ý. Nay Cộng sản tạo lý do cho tao đi mà uy tín vẫn không bị sứt mẻ. Thiên hạ đều biết Bảy Viễn không còn con đường nào khác. Nhưng mà thôi, không nói c hính trị nữa. Mày đã về đây thì cứ ở lại đây với tao. Mày sống với tao một thời gian thử coi Bảy Viễn có ngon hơn trong rừng không?”. Đồ nhậu đem lên: Hột vịt Bắc Thảo, củ kiệu, tôm khô, vịt quay, muốn gì có nấy. Lâu la mang tới mấy két la-ve, nước đá. Trong khi nhậu, Bảy Viễn chụp bàn tay mặt Tư Huỳnh, nắm lấy ngón út, cười lớn: “Thẹo cắt máu ăn thề còn đây, có lẽ nào Tư Hùynh lại phản Bảy Viễn cho được, phải vậy không mày, Tư?”
Trong lúc vui miệng Tư Huỳnh kể thêm:
- Hai anh biết không, khi về thành, Bảy Viễn không có tới một trung đội. Cho nên Pháp và anh Bảy chưa vội làm lễ ra mắt. Trong thời gian này Năm Tài làm việc ngày đêm. Năm Bé cũng rất tích cực. Chính Năm Bé đã mộ lính cho Bảy Viễn. Có được bao nhiêu Tư Sang lo huấn luyện bấy nhiêu. Chỉ trong vòng hai tuần là Bảy Viễn và lực lượng Bình Xuyên có thể làm lễ ra mắt nhà cầm quyền Việt – Pháp tại chợ Phạm Thế Hiển. Đó là ngày 13-6-1948…
Mười Lực kêu lên:
- Hết ngày rồi sao mà chọn ngày 13?
Tư Huỳnh cười:
- Tôi cũng có để ý điều đó. Hỏi thì Bảy Viễn cười xòa: “Thằng Tây đâu có tin dị đoan. Còn mình thì lu bu quá. Ngày nào cũng được. Miễn bợ bạc sớm ngày nào khỏe ngày đó”.
Bảy Môn vụt hỏi:
- Anh Tư trở về đây với ý định gì?
Tư Huỳnh nghiêm nghị nói:
- Trước hết về báo cáo cho thằng già râu kẽm biết là công tác đã thi hành nhưng không có kết quả… kế đến là… - Tư Huỳnh dòm bốn bề, hạ giọng xuống – chuyển lời anh Bảy nhắn hai anh…
- Hả? – cả Bảy Môn và Mười Lực đều giật mình – Nhắn gì?
- Anh Bảy nhắn hai anh nên tìm cơ hội nhảy đi. Sớm chừng nào tốt chừng ấy. Ở đây không yên thân với cha già râu kẽm đâu…
Bảy Môn và Mười Lực mắc nghẹn. Phân vân đôi ngả: Ở, sợ không yên thân, đi thì không đành. Sau cùng cả hai cả hai đành chọn sự sống. Họ ngoéo tay, hẹn đêm ấy, đêm ấy… sẽ theo con nước từ bỏ Rừng Sác để về với Bảy Viễn.
Đêm ấy, Mười Lực ray rứt không tài nào chợp mắt. Đã dứt khoát đi rồi, nhưng sao nghe xốn xang khó chịu? Thành thị có gì hấp dẫn đâu? Cả Sài Gòn Chợ Lớn Mười Lực chỉ thấy có một tòa nhà mang số 69, Larăndie. Hình ảnh xưa cũ như diễn ra lại trước mắt. Từng dọc tù nhân trần truồng như nhộng, quơ tay, múa chân, ẹo đít – trước mặt bọn thầy chú. Đó là điệu múa “Phụng hoàng” để thầy chú khám vàng đen giấu nhét ở hậu môn. Quần áo tù mốc cời, hôi hám cầm tay, chỉ được mặc vào khi múa xong điệu múa kỳ dị quái đản. Mười Lực rùng mình. Dĩ vãng xấu xa đó anh đã vung gươm chặt đứt từ mùa thù năm 45, nay lẽ nào anh lại quay về? Nhưng lão già râu kẽm “quan cách mạng” hàng ngày đang dòm ngó anh. Lão lăm le cây viết hai đầu “sinh, tử” trên tập giấy bìa đen. Chỉ lộn đầu bút là tiêu một mạng người.
Mười Lực cố tìm một lý do để ra đi. Cố tìm thì cũng có. Vợ anh mới vừa chết trước đó, việc ma chay không đúng theo ý anh: Không có ván đóng hòm, dàn kèn của Chi đội bận rộn chuẩn bị về Quân khu, không giúp đưa linh người quá cố. Còn đứa con vắng mẹ, làm sao đây? Không lẽ ôm con đánh giặc? Thế là Mười Lực đã tìm được lý do: Về thành gửi con mồ côi cho bà ngoại. Lý do không vững lắm nhưng cũng tạm giúp người ra đi yên tâm.
Riêng Bảy Môn thì việc đi hay ở không gây ray rứt nhiều như Mười Lực. Anh tin nơi số mạng mình bao giờ cũng được một chữ nhàn. Hồi làm ở hãng đóng tàu Caric ở Thủ Thiêm, anh sống khỏe hơn các bạn đồng nghiệp, có thì giờ rảnh đọc báo “Lao động” của hai tay cách mạng Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Văn Nguyễn. Nhờ vậy mà sớm có ý thức chính trị. Đi kháng chiến lúc nào cũng có Mười Lực bên cạnh. Mười Lực nắm Chi đội thì Bảy Môn nắm đại đội. Bởi sự gắn bó khắn khít đó mà khi Mười Lực quyết định về thành thì Bảy Môn cũng gật theo:
Miệt Ba Giồng coi vậy mà rất gần thành phố Sài Gòn. Chỉ một con nước là tới Phú Xuân Nhà Bè. Ghe Bảy Môn đi trót lọt, nhưng ghe Mười Lực thì gặp bọn “mặt gạch” (Malgache) chặn bắt dọc đường. Anh khai con đau đưa về thành hốt thuốc. Anh bồng đưa thằng nhỏ vừa qua “thôi nôi” mấy tuần cho bọn lính xem nhưng vô hiệu.
Bọn lính được lệnh bắt tất cả những người trong Rừng Sác đi về thành. Mười Lực được giải về bộ chỉ huy. Túng thế anh phải khai thật và xin được liên lạc với Ngài Bảy Viễn càng sớm càng tốt. Thế mới biết định mệnh lá lay và số phận con người như chiếc lá giữa dòng. Mười Lực định “rửa tay gói kiếm” về nhà ở ẩn, nhưng dòng đời lại đưa đẩy về phái Bảy Viễn thêm lần nữa.
Cũng đêm ấy, còn có một người bí mật rút về thành. Người đó là Tư Huỳnh. Sau khi thuyết phục được Mười Lực và Bảy Môn theo yêu cầu của Bảy Viễn, Tư Huỳnh cũng “lui ghe”. Nhưng anh không ngờ tên “trạo” của anh chính là người của “ông già râu kẽm”. Thế nên thuyền anh cứ loay hoay mắc cạn từ khuya đến sáng để trạm kiếm soát ở các ngã ra vô thành tóm bắt giải về bộ chỉ huy.
Một tòa án quân sự đặc biệt được lập ra. Trên ghé xét xử có Năm Hà, Nguyễn Đức Huy. Trước vành móng ngựa có Tư Huỳnh và một đồng lõa: Ba Bay tức Huỳnh Văn Nên.
Theo lời khai của Tư Huỳnh thì Ba Bay biết hết tất cả nội vụ nhưng không hiểu vì lý do gì mà Ba Bay không khai báo.
Trước tòa, Ba Bay bình tĩnh khai:
- Đúng là tôi biết nội vụ nhờ một sự tình cờ. Đi qua nhà Tư Huỳnh đúng vào đêm ba người ăn nhậu và tâm sự với nhau, tôi biết ba người sẽ về thành nhưng không khai báo. Tại sao? Tôi nghĩ rằng ba người này đều là cấp bộ chỉ huy, ăn học nhiều hơn tôi, họ có lý do nào đó để hành động mà tôi không biết được. Tôi là tay giết người, đã cho đi “mò tôm” mấy chục tên Việt gian nhưng tôi kỵ nhất là cái nghề mật báo. Nó đê hèn đốn mạt, không xứng đáng với người quân tử. Tôi thà lãnh án tử hình hơn đi khai báo ba vị đàn anh mà tôi mến mộ.
Vì thái độ “quân tử Tàu” đó, Ba Bay lãnh án hai năm tù. Phải nói đây là bản án hết sức nhẹ bởi chánh án Năm Hà lại chính là “đại ca” của Ba Bay. Và thiêng liêng hơn nữa là hai người đã thề nguyền đồng sinh đồng tử nơi đình thần Tam Thôn Hiệp bên bờ sống Lòng Tàu…
Tội của Tư Huỳnh nặng hơn. Lãnh công tác địch vận, làm không xong lại trở vô khu kêu gọi hai cán bộ cấp tiểu đoàn và trung đoàn nhảy ra đầu Tây. Bản án tử hình đã thấy trước mắt, khi công tố viên Nguyễn Đức Huy vểnh râu kẽm ra buộc tội. Tư Huỳnh lạnh lùng nói:
- Tội tôi làm, tôi xin chịu. cho tôi xin tự xử…
Nguyễn Đức Huy lắc đầu:
- Không được! Đã có đội hành quyết.
Tư Huỳnh lớn tiếng:
- Các anh biết rõ Tư Huỳnh quá mà! Khi lâm trận, Tư Huỳnh đứng thẳng lưng chỉ huy. Tư Huỳnh không bao giờ tránh đạn mà trái lại, đạn né Tư Huỳnh. Bây giờ trước khi chết, Tư Huỳnh xin anh Năm cho một đặc ân cuối cùng: cho tôi tự xử. Lúc sống mình là anh hùng hảo hơn thì lúc chết, mình cũng phải anh hùng hảo hớn.
Năm Hà chưa biết tính sao, Nguyễn Đức Huy đã ra lệnh thì hành bản án.
Tòa án tổ chức tại Hàng Điều, Bàu Bông, điều mọc như rừng trên vùng cát trắng nóng bỏng dưới ánh mặt trời. Thiên hạ rủ nhau đi xem vụ xử rất đông.
Trong một lúc, ta mất ba chiên sĩ Bình Xuyên cấp đại đội và chi đội. Ba tổn thất lớn lao này đều do một người gây nên: Nguyễn Đức Huy. Nhưng cả ba vụ đều năm trong bóng tôi nên chẳng ai biết mà kết tội lão già râu kẽm. Điều trớ trêu là chính kẻ đẩy nạn nhân vào con đường tội lỗi lại ngang nhiên ngồi ghế công tố viên lớn tiếng buộc tội này kia. Nhưng, dù ý đồ thâm độc đến đâu, thủ đoạn gian xảo cỡ nào, kẻ gian không tài nào che giấu trọn vẹn. Lão râu kẽm bị một người bí mật dòm ngó: Tám Tâm. Sau tảo thanh, Tám Tâm nhận thấy Nguyễn Đức Huy có nhiều thay đổi. Trước nhất, hắn sửa soạn “dung nhan mùa hạ” cạo gọt săc lẻm. Thì ra hắn bí mật “hốt ổ” Bảy Viễn để lại. Đám gái đẹp của Bảy Viễn được chuyển về công tác tại văn phòng Bí thư phân khu Duyên Hải. Nhưng chuyện gái chưa phải là điều lơn nhất. Tám Tâm nghi hắn hơn trong vấn để tiền bạc. Tất cả quĩ đen, quĩ trắng của Bảy Viễn, Tám Tâm sau khi tịch thu đều giao nạp cho bí thư Nguyễn Đức Huy. Để chắc ý, anh xin Huy tờ biên nhận, vì số tịch thu rất to: 15 ký vàng, 2,5 đông tiền Đông Dương…
Huy cười:
- Anh không tin Đảng sao?
- Tin chớ - Tám Tâm vội trả lời.
- Tin sao bắt Đảng phải làm biên nhận?
- Xin lỗi! Đồng chí không phải là Đảng – Nhận thấy mình làm căng quá chỉ có hại, Tám Tâm đấu dịu – Tôi rất tin anh, nhưng người khác lại không tin tôi. Nên tôi cần phải có biên nhận để trình khi Đảng xét hỏi về vụ tảo thanh.
Nguyễn Đức Huy cũng cười theo:
- Tôi thử đồng chí đó thôi. Để tôi làm biên nhận cho đồng chí.
Tám Tâm chỉ thủ tờ biên nhận về phần mình. Còn số tiền và vàng kia, anh không biết lão già râu kẽm sử dụng như thế nào?

*****

Bảy Rô cũng đã một lần “đụng tóe lửa” với quan cách mạng lão già râu kẽm. Lúc đó Bảy Rô là Ủy biên ban sản xuất Tình đội Bà Chợ (1), có nhiệm vụ thu xuất kho gạo cho tỉnh. Nhằm lúc địch phong tỏa kinh tế, cắt đức liên lạc tiếp tế, một hột gạo quý như một giọt máu, lão già râu kẽm căn dặn Bảy Rô: “Phải có chữ ký của tôi mới được xuất kho, nghe chưa?”.
Ngày kia có hai đại đội C2 và C3 từ khu Đông về đánh tàu tại sông Thị Vải. Đi đường mệt mỏi, đói bụng, liên lạc tới Bảy Rô xin xuất kho lấy gạo nấu ắn.
Bảy Rô hỏi:
- Phiếu lãnh gạo đâu?
- Tụi tôi ở khu Đông được lịnh về cấp tốc, không kịp chờ phiếu…
Bảy Rô lắc đầu:
- Không có phiếu thì tôi không dám xuất kho. Ông già râu kẽm đã dặn kỹ.
Anh liện lạc kêu lên:
- Nhưng anh không thể bỏ đói tụi tôi, những người đang đánh giặc…
Bảy Rô phân vân: xuất kho thì thế nào cũng bị lão già râu kẽm cự. Mà không xuất kho thì để bộ đội đói sao đành. Giữa hai cái phải chọn một. Anh nghe theo tiếng gọi của lẽ phải, xuất sáu chục ký gạo. Khi vô sổ, Bảy Rô lại lo: không có chứng từ hợp lệ, không có chữ ký của Hai Đại sẽ rắc rối đây!
Đúng vào lúc anh tưởng tượng vẻ mặt cau có, đôi mắt trợn trừng, hàm râu kẽm vểnh lên thì súng ngoài sông cái nổ như bắp rang sau tiếng gầm rung rinh đất của thủy lôi. Hai đại đội mà anh vừa cho ăn đang săn tàu giặc. Mọi người hồi hộp lắng nghe tiếng súng nổ, đoán chừng diễn tiến ngoài sông cái.
Chừng im tiếng súng, liên lạc về cho hay thủy lôi nổ chìm một chiếc lồng cu. Bảy Rô mừng “hết lớn”. Nếu không “thí mạng cùi” mở kho tiếp tế cho bộ đội thì làm sao có được chiến công này!…
Ngày hôm sau, lão già râu kẽm xét sổ, đập bàn vểnh râu cự Bảy Rô:
- Ai cho phép đồng chí xuất sáu chục ký gạo này? Tôi đã căn dặn phải có chữ ký của tôi mới được phép xuất kho kia mà?
Bảy Rô đã chuẩn bị trước nên trả lời trôi chảy:
- Lúc nào tôi cũng nhớ lệnh của cấp trên: phải có chữ ký của đồng chí mới xuất kho. Nhưng đây là trường hợp đặc biệt. Bộ đội từ khu Đông về đang đói. Sẵn kho ở gần, họ tấp vô.
Lão già râu kẽm cắt ngang:
- Đồng chí cho họ vay vô nguyên tắc như vậy sao? Làm việc gì cũng phải có nguyên tắc chớ!
Bảy Rô cãi lại:
- Sao lại vô nguyên tắc? Bộ đội đói thì mình phải cho ăn. Huống chi đây là bộ đội đang nằm kích tàu. Tôi xuất kho cho là đúng lắm chớ… Chợt thấy mình lên giọng với chính ủy Phân khu Duyên Hải, Bảy Rô dịu giọng:
- Nhờ ăn no mà chiều hôm qua, bộ đội mình giựt mìn đánh chìm một tàu lồng cu đó đồng chí. Có ai báo cáo với đồng chí chưa?
Nét mặt lão già râu kẽm giãn ra, tươi tỉnh:
- Có. Tôi đã được báo cáo.
Ông ta trả quyển sổ thu xuất kho cho Bảy Rô:
- Đông chí làm đúng.
Bảy Rô nhận sổ, đi như bay về kho, bụng nghĩ thầm: “rất may là bộ đội đánh thắng. Nếu đánh thua thì chưa chắc đã yên thân với cha già râu kẽm này”.
Từ cuộc đung độ này, Bảy Rô càng thêm tin tưởng nơi lẽ phải. “Không có nguyên tắc nào cao hơn lẽ phải”.
Cũng nhờ dám giỡn mặt với lão già râu kẽm mà Bảy Rô được cảm tình với anh em binh sĩ. Dù chỉ là một người giữ nhiệm vụ nhỏ, anh được mọi người mến và tặng cho anh danh hiệu “anh Bảy chịu chơi”.

Chú thích:
(1) Bà-Chợ là hai tỉnh Bà Rịa – Chợ Lơn sát nhập năm 1949-1950

CHƯƠNG 48

Về thành, Bảy Môn không về Thủ Thiêm và hãng đóng tàu Caric vì lúc ra đi anh đã hẹn “sẽ trở về trong chiến thắng”. Thân phận hàng thần lơ láo, tốt hơn nên tìm một nơi mới, sống ẩn dật, dễ chịu hơn. Anh mùa nhà ở bến đò Long Kiểng, thuộc xã Tân Quy, sống lây lất qua ngày. Xác gửi Tân Qui nhưng hồn vẩn vơ ở Thủ Thiêm. Anh tương tư con đò bập bềnh trên sóng nước. Đò máy đã có rồi, nhưng anh vẫn mê đò chèo với tiếng hò của cô lái:

Chừng nào Chợ Quán hết vôi
Thủ Thiêm hết gạo em thôi đưa đò
Bắp non mà nướng lửa lò
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm

Còn Mười Lực thì định mệnh đẩy ngay vô Bảy Viễn. Bọn “mặt gạch” giữ hai cho con Mười Lực lại, điện cho Bảy Viễn tới lãnh, Bảy Viễn đưa Mười Lực về tổng hành dinh tính giao việc ngay nhưng Tư Sang, Năm Tài khuyên nên từ từ, đề phòng Việt Minh “cấy” người. Bảy Viễn cho thết tiệc mừng bạn cũ và hỏi thăm về cái chết của Tư Huỳnh và các “nạn nhân” khác như Lâm Ngọc Đường, Tư Tỵ, Tư Hoạnh, Ký Huỳnh, Ba Hanh…
Qua ngày sau, có thư của đại úy Savani yêu cầu Bảy Viễn “cho mượn” Mười Lực. Bảy Viễn trừng Năm Tài:
- Mười Lực mới về đây, ai cho thằng Savani hay mà nó hỏi? Phải mày không, Năm Tài?
Năm Tài mồm mép:
- Mười Lực bị tụi Tây bố ráp bắt được giải về đồn chỉ huy. Mình không thông báo, đại úy Savani cũng biết.
Bảy Viễn bực mình:
- Đ.m. con người chứ đồ vật đâu mà mượn!
Năm Tài bả lả:
- Thì Savani nói vậy cho lịch sự. Như vậy là ông ta trọng anh Bảy, chứ Savani lệnh ông Bảy giao Mười Lực cho Phòng Nhì thì ông Bảy cũng phải tuân theo…
Bảy Viễn nói với Mười Lực:
- Anh Mười cứ qua bên đó. Tới chiều tôi cho người qua rước. Cưa an tâm mà đi!
Mười Lực lên xe tới văn phòng Savani. Anh được đưa tới một tấm bản đồ Rừng Sác to bằng hai tấm đệm treo trên vách. Savani đi thẳng vô vấn đề:
- Tôi nghe nói ông về với Bảy Viễn. Tôi liền xin hỏi mượn ông một ngày. Xin ông vui lòng cho tôi biết các nơi đóng quân của Bình Xuyên còn lại trong đó – Hắn trao Mười Lực một cây bút, nhưng xem lại không phải là cây bút mà là một cây thước, cứ rút ruột ra hoài cho đến khi nó dài cả thước.
“Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng” – Mười Lực than thầm – “Làm sao nỡ chỉ điểm cho máy bay lên thả bom, bắn giết anh em mình trong đó?”.
- Tôi không biết xem bản đồ.
Savani cười lạt:
- Trung đoàn trưởng mà không biết xem bản đồ thì vô lý quá! Ai tin cho được.
Mười Lực cau mày biết mình hớ. Nhưng đã đâm lao thì phải theo lao:
- Tôi nói thật! Ông có quyền không tin, nưhng tôi dốt thì chịu dốt. Tôi chỉ học hết lớp ba trường làng. Rồi đi giang hồ. Đúng là tôi chỉ huy trung đoàn nhưng tôi chỉ huy trên thực địa chớ không chỉ huy trên bản đồ như các ông. Nếu cần, tôi sẽ đưa các ông đi.
Đến lượt Savani cau mày: “Thằng dốt mà hãnh diện về cái dốt của mình, mấy cha Bình Xuyên này không giông ai hết”.
- Thôi được! Nếu ông không biết coi bản đồ thì xin cám ơn ông. – Savani bảo tài xế đưa Mười Lực trở về tổng hành dinh Bảy Viễn. Mười Lực thở phào: “Thoát nạn!”.
Nhưng hai ngày sau, Savani lại hỏi mượn lần nữa. Lần này nó không bảo Mười Lực xem bản đồ mà yêu cầu cho biết nơi đóng quân trên giấy trắng mực đen. Mười Lực đành cho hắn biết vài nơi đóng quân cũ, trước khi tảo thanh.
Trời mỗi lúc một trưa, không thấy chúng đá động đến cơm nước hoặc cho tài xế đưa về. Đến đúng mười hai giờ, lính đem tới một mâm cơm cho hai người ăn. Từ phòng bên kia Bảy Môn bước ra. Thì ra số phận hai người luôn luôn ràng buộc với nhau. Trong lúc hai người ăn thì bọn lính Tây võ trang tiểu liên, tôm xông lui tới nhìn mặt trắng trợn. Lại chờ đến chiều không thấy động tĩnh gì. Mười Lực ruột nóng như lửa. “Chúng nó định làm gì mình đây?”. Mãi tới năm giờ chiều mới thấy Năm Tài vâng lịnh Bảy Viễn tới đòi hai anh Mười Lực và Bảy Môn về. Về đến nhà, Mười Lực thấy Bảy Viễn còn đứng trước sân hét ầm lên:
- Đ.m. người của tao mà hỏi mượn hoài! Tư Sang qua bắt về, không hỏi con c. gì hết!
Mười Lực biết đây là mưu mô của Năm Tài vì khi rước anh, Năm Tài đã nói chuyện khá lâu với Savani.
Một tuần lễ sau, khi đâu đó đã êm xuôi, Bảy Viễn tổ chức tiệc mừng Mười Lực và Bảy Môn trở về chính phủ Cựu Hoàng. Cố nhiên tiệc có mời Savani cùng đám sĩ quan Phòng Nhì.
Không rõ ai đó sắp đặt mà Mười Lực ngồi đối diện với Savani. Rượu được vài tuần, Savani với giọng khiêu khích:
- Ông Mười Lực về đây làm việc với chúng tôi trong tiếng nổ sâm-banh, ông còn muốn trở về Rừng Sác nữa không?
Giọng thằng Tây nói tiếng Việt lơ lớ sao mà dễ ghét. Mặt Mười Lực đỏ rần. Anh xô ghế đứng lên, nói như hét vào mặt tên giám đốc Phòng Nhì:
- Xin lỗi ông bạn, ông bạn chưa biết Mười Lực! Mười Lực về thành vì nhiều lý do không tiện nói ra. Tuyệt nhiên không phải vì rượu thịt như ông bạn nghĩ!...
Cả buổi tiệc đều dừng đũa lắng nghe. Năm Tài lật đật chạy lại bên Bảy Viễn nói nhỏ gì đó. Bảy Viễn khoát tay đuổi Năm Tài về chỗ. Mười Lực mở nút áo sơ-mi ra, ưỡn ngực tới:
- Tôi là người Việt Nam, nhưng nếu có ai đó xúc phạm danh dự thì tôi cũng dám “harakiri”. – Mười Lực chụp con dao đưa lên, mắt long lanh nổi sao.
- Tôi nói đùa mà ông bạn dễ nóng quá! Thôi ta cụng ly làm hòa với nhau – Savani đưa ly tới, nhưng Mười Lực vờ không thấy. Buổi tiệc mất phần vui vẻ. Bảy Viễn cho ban nhạc hòa tấu giúp vui đế xóa không khí căn thẳng.
Sau bữa tiệc, Bảy Viễn nói với Mười Lực:
- Thằng Savani xấc lắm! Cám ơn anh đã cho nó một bài học.
Mười Lực cười:
- Anh khen tôi thật à? Vậy mà tôi sợ anh sẽ “rầy” tôi theo ý kiến của “cố” Tài chớ…
Bảy Viễn cười theo:
- Thằng Tài bãn lĩnh gì mà làm cố vấn cho Bảy Viễn? Nó chỉ là thằng xách cặp cho tôi thôi… nhưng phải nói là nó rất có công… mà công gì thì cũng là thằng xách cặp.
Dòng đời lặng lẽ trôi. Mười Lực như chiếc lá giữ dòng. Nhưng chiếc lá ấy đã có một thời oanh liệt, từng sống hào hùng trong Rừng Sác, giữa tiếng bom nổ đạn reo, giữa tình quân dân đậm đà thắm thiết. Giờ đây trôi dật dờ trên con Kinh Tẻ đen xì hôi hám rác rưởi, bên cạnh những con người cặn bã bon chen, chiếc lá ấy day dứt buồn phiền. Để quên, Mười Lực tìm thú vui trong các sòng bạc. Máu me trong người anh nổi dậy. Hết giờ làm việc anh thả qua các sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới. Trên đời anh chỉ còn có bốn tiếng hấp dẫn nhât: yêu, lượng, tam, túc. Và bốn tiếng quen thuộc: cầu âu, liễm, khe, tầm mển… Mắt anh chỉ long lanh trước cảnh tên tả hổ cầm chiếc đũa gạt bốn đồng tiền điếu (hoặc bốn hột me, thường là hột me nên có tên là hốt me). Máu đỏ đen gặp thời kỳ vàng son cháy bừng bừng trong huyết quản. Mười Lực quên hết kháng chiến, tảo thanh, về thành, nỗi nhục khai báo, mối thù tên cáo già Savani… anh chỉ vui với yêu, lượng, tam, túc…
Một hôm đang chơi nữa chừng một tên lính thân tín hớt hãi tới cho hay:
- Ông Năm tới…
Ông Năm là Năm Tài. Giờ đây Năm Tài học làm oai như Bảy Viễn, không muốn ai gọi tên cúng cơm của mình mà chỉ gọi “ông Năm” là đủ rồi.
Bảy Viễn ra lệnh cấm binh sĩ Bình Xuyên vào các sòng bạc. Bị bắt gặp sẽ bị phạt tù. Người có nhiệm vụ kiểm tra là Năm Tài. Nhưng chính Năm Tài cũng đôi khi cao hứng “cầu âu” một vài cú gọi là thử thời vận.
Đang cay cú ăn thua, Mười Lực nạt đùa:
- Ông Năm kệ mẹ ông Năm! Tao là ông Mười, tại sao lại sợ ông Năm?
Tên lính hoảng hốt chạy nhanh ra ngoài. Đúng vào lúc ấy Năm Tài tới. Trông thấy Mười Lực, Năm Tài bước nhanh tới vô vai:
- Anh Mười!
Từ lâu Mười Lực hận Năm Tài về việc tên này gạ ý cho Savani “mượn” Mười Lực, bắt xem bản đồ, bắt khai các nơi đóng quân… Giờ đây chính là lúc “ân oán giang hồ”. Vờ như mải mê chăm chú theo dõi tên tả hổ gạt mấy hột me. Mười Lực dùng hết sức mạnh thúc một chõ vô ba sườn Năm Tài:
- Không có anh Mười gì hết! Đi chỗ khác chơi! Tao đang thua đây, đừng có giỡn mặt!
Chừng nghe Năm Tài rú lên, Mười Lực mới quay lại giả vờ xin lỗi:
- Chết không! Anh Năm mà tôi tưởng thằng nào tới mượn tiền. Có sao không anh Năm?
Năm Tài định “ra oai” với Mười Lực, không dè bị cú “ngựa về ngược”, tức trào máu họng. Đêm đó hắn tức tốc tìm Bảy Viễn ton hót Mười Lực nêu gương xấu cho binh sĩ lại còn thúc chõ Năm Tài…
Sáng hôm sau, Bảy Viễn kéo Mười Lực xuống hố cá sấu nói nhỏ:
- Đêm qua thằng Năm Tài bắt gặp anh trong sòng me…
Mười Lực cắt ngang:
- Nó cũng chơi như tôi… mà méc cái gì!
Bảy Viễn ôn tồn:
- Luật đặt ra cho binh sĩ. Chớ cấp bộ lâu lâu đi thử thời vận thì không sao. Nhưng tôi khuyên anh nên bớt bớt lại. Anh có ăn bao nhiêu thì mấy thằng cha Tàu cũng lấy lại. Chỉ có xây mả đá, tụi nó mới không lấy lại được…
Mười Lực suy gẫm về câu nói của Bảy Viễn. Câu nói ấy rất thực tế. Chủ sòng bạc bao giờ cũng phải thắng, có vậy chúng mới mở sòng. Con bạc có khi thắng khi thua, nhưng thua nhiều hơn thắng. Cho nên sắm nhà sắm xe không bao lâu thì cầm cố, rồi bán luôn để “nướng” sạch trong sòng bạc. Mười Lực thấy Bảy Viễn khuyên mình một cách chân thật, vì chính Bảy Viễn cũng không hề bước chân vào sòng bạc, khác hẳn với các tay anh chị khác như Ký Huỳnh, Tư Hoạnh cờ bạc với nhau đặt tiền cả bụm vàng… Đó là ưu điểm nổi bật cảu Bảy Viễn.
Một đêm trời mưa rả rích, Bảy Viễn tìm tới Mười Lực.
- Có gì không anh Bảy?
Bảy Viễn thở dài:
- Đôi lúc nhớ rừng… di tìm bạn rừng năm cũ cho đỡ buồn.
- Mình làm bậy vài chầu, nghe anh Bảy? Chai Cô-nhắc anh Bảy cho hôm Tết vẫn chưa khui.
Rượu lai rai, Bảy Viễn nói:
- Hồi Tư Huỳnh trở vô trỏng, tôi có nhờ nó thăm dò xem má thằng Hoảnh ra sao? Tụi nó có làm khó dễ gì bả không?... nhưng Tư Huỳnh đi chuyến đó đi luôn không về.
Mười Lực suy nghĩ một lúc:
- Về chị Bảy thì tôi có nghe ai đó, dường như là Sáu Tuấn kể lại, anh có nhớ Sáu Tuấn không?
- Sao không! Nó là con Hội đồng Thì, vào loại em út của tôi. Đi kháng chiến tôi giao cho Sáu Tuấn công tác thuế vụ. Nó làm việc đàng hoàng, không có chơi thói “chẩn” nhắm mớ để xài riêng như mấy cha khác. Nó có bị cho “mò tôm” không?
- Trong thời gian tảo thanh, Sáu Tuấn cũng “xanh xương” với Tám Tâm. Tám Tấm cho rằng Sáu Tuấn là người thân tín nên mới được Bảy Viễn giao thu thuế… Nhưng Sáu Tuấn nắm chân Năm Hà sau đó nhảy về Khu với Tám Nghệ… Thôi hãy trở về chuyện chị Bảy. Bản chất chị rất tốt nên ở đâu cũng được mến. Hồi anh là Khu phó, chị Bảy vẫn sống an thân thủ phận. Bốn giờ sáng đã thức dậy chèo ghe đi chợ để nấu ăn. Đám choai choai cỡ thằng Hoảnh đều gọi chị bằng má, má Bảy…
- Chuyện đó tôi biết. – Bảy Viễn rơm rớm nước mắt – Tôi quý bả ở chỗ đó. Không bỏ bả cũng ở chỗ đó. Tào khang chi thê mà… lẽ ra thì tôi phải ở với bả, nhưng anh biết tôi mà… đàn ông năm thê bảy thiếp cũng chưa vừa lòng. Thiếu đàn bà, con gái đẹp, tôi chịu không nổi… Rồi sao nữa?
- Khi anh về thành, chị Bảy tá túc bên anh Năm Hà, sau đó lên khu rồi xuống miền Tây ở với vợ chồng Mười Trí. Lê Duẩn hỏi ý chị Bảy có muốn về thành không, chị tình nguyện ở lại với kháng chiến.
Bảy Viễn thở dài:
- Vợ chồng tôi là như vậy. Xa thì nhớ mà gần thì gây! – Bảy Viễn lắc đầu đưa cao ly rượu nốc một hơn cạn đến đáy.

CHƯƠNG 49

Sau tảo thanh, để chấn chỉnh tình hình ở Rừng Sác, Nguyễn Bình họp bộ tham mưu quyết định thành lập Phân khu Duyên Hải. Về ban chỉ huy Phân khu, Trung tướng chọ Năm Hà là người được anh em Bình Xuyên ủng hộ. Chánh ủy Hai Trí giới thiệu tay chân thân tín của mình là Hai Đại, tên chính thức là Nguyễn Đức Huy nắm chính trị viên.
Khi đã nhứt trí, chánh văn phòng Võ Bá Nhạc cho đánh máy giấy bổ nhậm gởi xuống các đương sự.
Nguyên văn như sau:

Quân đội Quốc gia Việt Nam
Ban quân sự Nam Bộ
GIẤY BỔ NHẬM

Chiếu theo thông tư số281/TS ngày 11-8-48 của ban Quân sự Bình Xuyên, thành lập Phân khu Duyên hải miền Đông.
Các ông có tên dưới đây được bổ nhậm và Ban chỉ huy của Phân khu Duyên Hải từ ngày 11-8-48:
Dương Văn Hà: Phân khu trưởng
Nguyễn Sơn Xuyên: Phân khu phó
Nguyễn Đức Huy: Chánh trị viên
Tổng hành dinh, ngày 11/8/48
Trung tướng Nguyễn Bình
Ủy viên Quân sự Nam Bộ

***

Nhận được quyết định này, anh em ở Rừng Sác rất phấn khởi. Tấm lòng trung thành với cách mạng của anh Năm và đông đảo anh em Bình Xuyên đã được cấp trên thấu rõ. Anh em vui lòng hưởng ứng chủ trương giải thể các Chi đội cũ để lập những đơn vị mới, điều đi các nơi trong Quân khu.
Chi đội 9 của Bảy Viễn – đa số là dân lao động vùng Phú Thọ - được sát nhập với Chi đội 7 của Hai Vĩnh để trở thành Trung đoàn 197, tức là Trung đoàn chủ lực của hai tỉnh Bà Rịa, Chợ Lớn, gọi tắt là Bà-Chợ. Liên chi 2-3 cùng một số bộ phân Chi đội 9 trở thành Trung đoàn 302 rút lên chiến khu Đ. Các chỉ huy cũng phân tán: Hai Lung về Khu 7, Năm Chảng về Chi đội 1 nay là trung đoàn 301 do Nguyễn Văn Thi nắm thay Hùynh Kỉm Trương. Ba Trứ về Lý Nhơn phối hợp với đại đội C huyện Long Thành của Lương Văn Nho, được ít lâu phụ trách đại đội pháo binh của Khu tại Đât Cuốc trong Đ. Lên bộ, khẩu “cốt che”(1) 75 ly là một gánh nặng. Phải bốn chục người khiêng lên khiêng xuống xe bò. Kỷ niệm không quên được là trận bị phục kích trên đường số 15 khi kéo “voi” qua lộ.
Hai Lung cũng có kỷ niệm nhớ đời là phục kịch hạ con “Cọp Ba Móng” từng gieo kinh hoàng trong nhiều tháng ở chiến khu Đ. Con cọp này từ Là Ngà vượt sông vô chiến khu. Nó ăn thịt người bỏ lại chiến trừong Là Ngà nên “ăn quen bén mùi”. Nó bị bắn hư mất một chân nên để lại trên cát chỉ có ba móng. Từ đó thiên hạ đặt cho nó cái tên “Ông Ba Móng”. Cùng một lúc, nó xuất hiện ở nhiều nơi: Cây Chanh, Hàng Dài, Ba Hố, Đất Cuốc, Suối Đỉa, đâu đâu dân chúng, cơ quan cũng đốn cây rào dậu kiên cố. con Cọp Ba Móng có thể nhảy qua rào cỡ hai thước cõng một con bò trên lưng chạy đi mấy cây số. Có lần Ba Trứ đi công tác cưỡi ngựa, qua một truông rừng trông thấy một chiếc áo bông đẫm máu – thêm một nạn nhân nữa của Cọp Ba Móng vừa bị vồ. Danh sách nạn nhân của Cọp Ba Móng dài sọc, ông già, con nít, thanh niên, phụ nữ đều có; bộ đội cũng góp phần xương máu, đại đội phó Xê cũng bị vồ trên đường đi công tác. Không thể để nó tác oai tác quái mãi được, anh Bùi Cát Vũ cùng một số anh em binh công xưởng nghĩ ra kế gài mìn trên thi hài nạn nhân, cuối cùng mới diệt được nó.
Hạ được con Cọp Ba Móng rồi, dân chúng và cán bộ trong chiến khu Đ thở phào nhẹ nhõm. Đây là chiến công không kém trận Chi đội 10 đánh địch nhảy dù ở Tân Hòa, Mỹ Lộc những năm đầu kháng chiến.
Kỷ niệm đáng yêu nhất đời của Năm Chảng không giống kỷ niệm của các tạn tiểu tư sản trí thức. Anh rất vui mừng được học lớp văn hóa bổ túc để chuẩn bị về thành công tác. Năm Chảng không khỏi buồn cười khi nghĩ tới chuyện điều khiển cây bút máy. Nó nhỏ nhoi, nhẹ hửng mà bướng bỉnh, rắc rối gấp chục lần cây “xà búp” vừa nặng vừa dài của anh thuở giang hồ. Nhưng anh hết sức cố gắng vì anh hòan tòan đồng ý với giảng viên là kém văn hóa không làm được việc lớn…
Vài tháng sau tảo thanh, Hai Vĩnh mới bình phục. Lãnh chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 197 không được bao lâu thì được lệnh ra Bắc trong phái đoàn quân dân chánh do đồng chí Phạm Hùng dẫn đầu. Trung ương chuẩn bị mở Đại hội Đảng vào cuối năm 49 nên đầu năm 49 phái đoàn miền Nam chuẩn bị dần. Đường Xuyên Việt dài trên hai ngàn cây số nhưng trong kháng chiến phải tính gấp đôi vì phải đi vòng, vô rừng, lên núi chưa kể phải đánh địch mà đi… Hai Vĩnh được tín nhiệm giao công tác tổ chức bảo vệ an ninh cho đoàn. Trong phái đoàn này có hai đồng chí Tám Tâm và Lưu Quý Thoái.
Không lãnh nhiệm vụ như Hai Vĩnh nhưng Tám Tâm cũng bận rộn: anh phải báo cáo về việc tảo thanh với các đồng chí Trung ương, nhất là về số tiền vàng tịch thu của Bảy Viễn. Giám đốc binh công xưởng miền Đông là Kiều Đắc Thắng đã mựơn Tám Tâm nửa triệu bạc để mua hóa chất cho binh công xưởng. Tám Tâm tới đòi trước ngày lên đường.
- Anh là cái thá gì mà tôi trả cho anh? – Kiều Đắc Thắng trừng trợn nhìn Tám Tâm – Tiền này đâu phải tiền của anh!
Tám Tâm giận xám mặt:
- Anh Hai Thắng, anh là cán bộ lãnh đạo Quân khu, sao ăn nói ngược ngạo vậy? Đồng ý là tiền không phải của tôi, nhưng chính tay tôi giao cho anh, giao tận tay anh. Và anh đã làm giấy ký nhận. Bây giờ anh trở trái làm mặt…
Kiều Đắc Thắng hung hăng chụp khẩu súng sáu. Tám Tâm nhanh tay hơn:
- Bỏ tay ra! Anh không lẹ bằng tôi đâu. Bàn tay quân phiệt của anh đã giết người ta như ngóe. Bây giờ phải có người trị anh. Năm đó anh ra Bắc, Bác đã đặt cho anh một cái tên mới: Vũ Thùy Nhân. Ý Bác muốn anh bỏ tánh quân phiệt, vũ phải tùy nhân. Tại sao anh không chút nào biến đổi?
Trong văn phòng Kiều Đắc Thắng có nhiều bảo vệ, nhưng thấy Tám Tâm ra tay trước, lại có hai bảo vệ ôm tôm-xông đứng phía sau nên không dám can thiệp. Tám Tâm đưa biên nhận ra:
- Anh ký tên đây! Tôi tới đây là tôi dám chết. Nhưng anh có sống được không? Tốt hơn là ta nên ăn nói lễ độ, đoàn kết, thân ái với nhau, phải đẹp hơn không? Nếu như anh chưa có tiền thì nói với tôi: “Anh cứ theo phái đoàn. Tiền này tôi sẽ giao cho Bộ Tư lịnh”…
Lần đâu tiên Kiều Đắc Thắng giận chín người mà không dám nổ súng. Tám Tâm nổi tiếng là thiện xạ trong bộ đội Bình Xuyên và tiếng đồn lan ra tới Quân khu 7.
Cùng đi một chuyện với phái đoàn Phạm Hùng có phái đoàn thanh niên của Trần Bạch Đằng, số người hai bên bằng nhau: khoảng ba mươi người. Tới Bình Thuận, Hai Vĩnh nói với đồng chí trưởng đoàn:
- Đoan thanh niên lúc nào cũng sôi nổi ồn ào. Mình không trách họ, nhưng nên tách ra vì đi chung dễ bị lộ, tôi sợ không làm tròn nhiệm vụ bảo vệ.
Hai Hùng gât đầu:
- Đồng chí tinh hơn trinh sát. Đúng, ta nên tách ra.
Đúng như Hai Vĩnh nhận định, địch đã đánh hơi bám sát và tới Khánh Hòa thì Trần Bạch Đằng bị địch bắt. Đi tới đâu Hai Vĩnh nắm tình hình địa phương, chuẩn bị chu đáo. Có những đoạn đường phải mang theo người chín ngày gạo. Đến đoạn Trường Sơn, Hà Hùy Giáp đau khớp xương đầu gối – bệnh đầu voi – phải uống nước đái gắng gượng tiếp tục lên đường. Đường đi càng gian khổ, tình đồng chí càng khắn khít mặn mà. Những đêm dừng chân bên đống lửa rừng, họ kể chuyện đời riêng tư cho nhau nghe, bắt đầu từ Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Trần Xuân Độ, Hai Vĩnh khiêm tốn, không dám “múa rìu qua mắt thợ” nhưng được khuyến khích anh cũng bồi hồi kể lại cuộc đời lưu lạc giang hồ cho tới khi gặp được đồng chí Bảy Trân tại nhà ông già vợ. Ngày đó đã đem lại ánh sáng trong cuộc đời tối tăm của mình…
Phải mất sáu tháng mười hai ngày mới tới nơi Trung ương Đảng đóng. Hai Vĩnh được giới thiệu học trường Nguyễn Ái Quốc, sau đó được mời tới thăm Hội đồng Chính phủ ở Tân Trào, Tuyên Quang. Anh hồi hộp mong gặp Bác. Bỗng Bác bất ngờ xuất hiện khiến nhóm học viên không kịp hô khẩu hiệu đã chuẩn bị trước.
Đêm liên hoan có đốt lửa trại, Hai Vĩnh mang theo máy ảnh Zeiss Ikon đến xin chụp với Bác làm kỷ niệm. Bác gật. Hai Vĩnh chụp hết tám cuộn phim, tất cả 48 ảnh. Có một kỷ niệm không quên được. Anh muốn chụp chân dung Bác mà cứ đắn đo mãi. Đến chừng ngõ lời, Bác cười bảo:
- Người ta đứng cho chụp mà còn xin phép!
Vì quá xúc động, Hai Vĩnh run tay làm hỏng bức ảnh quan trọng nhất. Khi rửa, tấm ảnh mất chòm tóc trên trán. Hai Vĩnh tiếc ơi là tiếc.
Cuối năm 49, Hai Vĩnh ra đường đúng và ngày ta làm lễ chào mừng Trung Quốc giải phóng lục địa.
Hết khóa ba tháng ở trường Nguyễn Ái Quốc, Hai Vĩnh lại dự khóa sĩ quan lục quân trung cấp bốn tháng tại Thái Nguyên và Vân Nam (Trung Quốc).
Hai Vĩnh học ngày đêm vì lúc đó Trung ương nhận định Mỹ sẽ nhảy vào chiến trường Việt Nam tiếp tay Pháp đang lúng túng trước các chiến dịch trung du, đồng bằng…
Ra trường, Hai Vĩnh được lệnh qua đảo Hải Nam nghiên cứu việc xây bãi tiếp nhận viện trợ của Trung Quốc.

Chú thích:
(1) Tiếng Pháp là cotière (pháo trên tàu hay ở bờ biển)

CHƯƠNG 50

Trong khi Hãi Vĩnh “xuôi chèo mát mái”ở miền Bắc thì Năm Chảng học xong khóa văn hóa bổ túc, được giao công tác mới trở về thành tìm cách xâm nhập bộ đội Bình Xuyên của Bảy Viễn, Năm Chảng tấhy trước mối nguy hiểm đang chờ mình. Bảy Viễn thì chẳng có gì đáng lo ngại. Nhưng đám “chầu rìa” Tư Sang, Năm Tài, nhất là Thái Hoàng Minh chuyên vạch lá tìm sâu và ném đá giấu tay, cần phải có bản lĩnh mới trị được chúng.
Trước ngày Năm Chảng về thành, xảy ra một biến cố khiến anh giật mình. Chỉ huy Trung đoàn 301 kiêm đặc khu trưởng Sài Gòn – Chợ Lớn Nguyễn Văn Thi bị địch bắt trong một chuyến đi thị sát chiến trường Sài Gòn. Ông Thi đã nhiều lần về Sài Gòn với vệ sĩ Tây lai tên là Léon về sau đổi là Long. Long bị Tây địch vận bằng gái và tiền cùng lới hứa sẽ cho qua Pháp học nếu hoàn thành sứ mang. Long đã phản bội và hại chỉ huy của mình. Năm Chảng xúc động nhiều vì chính ông Thi là người giới thiệu ông vô Đảng tai khu nhà thờ Bến Sắn tháng trước.
Dù có lo ngại, nhưng công tác đã lãnh thì phải thi hành. Năm Chảng về ngoại thành, viết thư nhờ người tâm phúc trao tận tay Bảy Viễn. Lá thư thứ nhất hỏi thăm xã giao “dò đường”. Được thư Bảy Viễn có câu “giang hồ trọng bạn hơn cách mạng trọng Tổ quốc”, anh viết lá thứ thứ hai ngỏ ý muốn về, nhưng ngại vì trước kia đã ký tên trong bức thư của Năm Hà và Mười Lực chống việc về thành của Bảy Viễn. Bảy Viễn viết thư khuyến khích anh trở về, kèm theo một giấy chứng nậhn có chữ ký và con dấu của “đại tá” Lê Văn Viễn để Năm Chảng về thành an toàn. Vào ngày đã định, Bảy Viễn phái Thái Hoàng Minh và Bảy Môn cùng một trung đội đi rước Năm Chảng.
Thấy Bảy Viễn trọng dụng ngay Năm Chảng, Thái Hoàng Minh có phần ganh ghét, mượn danh cháu rể (gọi Bảy Viễn là cậu) ra lệnh cho Mười Lực:
- Năm Chảng ở trong khu lâu quá, sợ bị nhuộm đỏ. Mình cần theo dõi hắn…
Thái Hoàng Minh đúng là “ngựa non háu đá”, không biết giữ Năm Chảng với Mười Lực có sợi dây tình cảm ràng buộc còn thắm thiết hơn anh em ruột thịt. Mười Lực cười nói:
- Tôi sẽ bám Năm Chảng, cứ yên chí lớn!
Nhưng Mười Lực bí mật báo trước cho Năm Chảng đề phòng:
- Coi chừng thằng Thái Hoàng Minh nghe! Nó đã tổ chức đâm chết Ba Việt rồi đó. Biết Ba Việt không?
- Biết chớ! Ba Việt là đại đội trưởng trong Chi đội 21 của Tư Hoạnh. Sau tảo thanh, Ba Việt kéo đại đội theo Tám Nghệ.
- Coi chừng tới phiên anh đó. Thằng Thái Hoàng Minh nguy hiểm không kém Năm Tài…
Trong cuộc họp tại Bình Đăng, Thái Hoàng Minh nói:
- Tôi biết trong Bình Xuyên chúng ta đang họp hôm nay có cán bộ Cộng sản trà trộn, xâm nhập để gây chia rẽ, làm suy yếu lực lượng chúng ta – Hắn đảo mắt nhìn khắp gian phòng rồi dừng lại khá lâu nơi Năm Chảng – Biết thân thì lo từ chức sớm đi.
Lúc ấy Năm Chảng được Bảy Viễn giao đại đội 4. Biết trước tâm địa tiểu nhân của Thái Hoàng Minh, Năm Chảng luôn luôn giữ gìn ý tứ trước hắn và đồng bọn. Nhưng Thái Hoàng Minh chỉ là rể của chị hai Bảy Viễn thì làm sao thân thiết bằng liên hệ giang hồ hảo hớn giữa Bảy Viễn và Năm Chảng? Anh lại có Bảy Môn, Mười Lực đảm bảo nên không ngán đám chầu rìa…

***


Đưa Năm Chảng về thành rồi, Nguyễn Đức Huy vẫn thấy chưa đủ. Một người làm sao “quậy” nổi bộ đội Bình Xuyên của Bảy Viễn? Phải đưa thêm. Lão già râu kẽm không tin hai tay Bảy Môn, Mười Lực vì họ tự động về, không có sự điều động “của Đảng”. Người được lão chú ý là Bảy Rô. Bấy giờ Bảy Rô là cán bộ binh vận Bà Rịa. Nguyễn Đức Huy lấy danh nghĩa là “bí thứ Phân khu Duyên Hải” phân công tác Bảy Rô về thành thâm nhập Bình Xuyên, Bảy Rô từ chối không được, ức đến phát khóc. Anh biết thế nào là cuộc sống nhầy nhụa trong bốn bức tường mà thiên hạ quen gọi là “tứ đổ tường” tửu, sắc, tài, phiến. Bốn bức tường đó đã đưa anh vô địa ngục trần gian – Khám Lớn Sài Gòn. Cách mạng đã nâng anh từ thằng tù giết người cướp của lên thành một con người, hơn thế nữa, nâng lên thành một chiến sĩ đấu tranh cho độc lập tự do. Giờ đây làm sao đang tâm trở về con đường lầy lội cũ! Không từ chối được, anh đành tìm cách tự an ủi: tu trên núi non mà đắc đạo là chuyện thường. Tu tại chờ mà không thành quỷ mới là đáng phục.
Bảy Rô về vùng ven, tìm người thân tín của Bảy Viễn nhờ nói trước dọn đường. Chờ đến hai tháng mới gặp thầy Tám Diệm, người đã dạy gồng cho Bảy Viễn và cũng là thầy của Bảy Rô.
Một người chưa đủ, Bảy Rô lại cậy thêm Mười Huệ là em út của Mười Trí nói vô. Một hôm Mười Huệ bảo:
- Anh Bảy, tôi đã nói rồi. Bảy Viễn nói là anh cứ tới văn phòng gặp ổng trước đã. Ngày mai ổng rảnh, vào buổi sáng.
Bảy Rô bấm gan tới tổng hành dinh Bình Xuyên, hy vọng “đầu xuôi đuôi lọt” như chuyện thuyết khách ở Tắt Cây Mắm. Nhưng lần này anh thất bại to. Anh tới văn phòng Bảy Viễn nhưng chờ hoài không thấy Bảy Viễn. nửa giờ sau, lính văn phòng cho biết ngài “đại tá” bận không tiếp được.
Bảy Rô hoang mang không hiểu thái độ của Bảy Viễn hàm ý gì thì có tay mật báo:
- Trốn ngay đi! Vài ngày nữa ông Bảy sẽ cho bắt anh đó!

****

Bảy Rô thất sắc khi nghe Bảy Lùn báo tin “động trời”. Bảy Lòn là anh của Chín Mập, Mười Nhỏ, và là em của Tư Phương, Sáu Đức. Gia đình giang hồ này đều theo kháng chiến hồi mua thu cách mạng 45… Anh em Tư Phương, Sáu Đức, Bảy Lùn theo Bảy Viễn, còn Chín Mập thì theo hai anh em Ba Dương, Năm Hà.
Bảy Lùn nói:
- Tao thấy mày ngồi trong phòng khách của “đại tá”, nhưng tao không dám vô vì thấy ông Năm nhìn mày không chớp mắt không có vẻ thân thiện chút nào.
- Ông Năm nào?
- Coi, mày không biết Năm Tài sao? Đây có hai ông, ông Bảy là đại tá và ông Năm là cố vấn…
Bảy Rô giật mình. Anh nhớ lại khúc phim đấu khẩu ác liệt giữa anh và Năm Tài tại tổng hành dinh Bảy Viễn ở Tắt Cây Mắm. “Cái thằng tiểu nhân này, nó thù dai lắm! Vậy mà mình không biết, đút đầu vô cửa tử!”
Bảy Rô nhờ Bảy Lùn nói thêm về nội bộ Bình Xuyên để nắm luôn thể.
- Năm Tài nguy hiểm nhưng Thái Hoàng Minh còn nguy hiểm hơn. Chính Thái Hoàng Minh đã bố trí cho đâm chết Ba Việt và Hai Chim. Thủ phạm giết Ba Việt là con của Kư Huỳnh. Tên này bị Thái Hoàng Minh kích “hồi tảo thanh trong rs, chính Ba Việt giết cha mày”… Khi lính tới bắt con Ký Huỳnh thì chính Thái Hoàng Minh xin bảo lãnh. Thái Hoàng Minh cũng chơi cái trò mượn tay kẻ khác thủ tiêu Hai Chim. Hắn bảo thằng Năm, con Sáu Đối: “Hai Chim giết cha mày trong rừng sau khi ông Bảy kéo quên về thành”. Thế là Hai Chim chết tưới dưới lưỡi dao “tiền thù hậu hận” của con Sáu Đối. Nhưng cái lưới của Thái Hoàng Minh đáng sợ hơn mũi gao găm của hai thằng con Ký Huỳnh và Sáu Đối.
Bảy Rô hoang mang, chạy tìm Năm Chảng hỏi ý. Năm Chảng xác nhận chuyện trên có thật, vì chính anh cũng là mục tiêu của Thái Hoàng Minh, phải mất sau tháng “ngồi chơi xơi nước” mới được giao trông coi đại đội.
Bảy Rô phóng qua cầu Hiệp Ân tìm Mười Lực “rà” lại các tin tức thu nhập. Mười Lực thông cảm tình cảnh của Bảy Rô, khuyên anh nên xuống miền Tây đầu quân Mười Lực hơn là thâm nhập Bình Xuyên. Mười Lực kín đáo đưa một món tiền nhỏ cho vợ Bảy Rô may cho chồng một bộ đồ đen để xuống miền Tây.
Không còn cách nào khác: Hai Chim, Ba Việt đã hy sinh khi chân ước chân ráo về thành. Công tác Bình Xuyên không dễ như lão già râu kẽm nghĩ…

***


Sáng sớm hôm sau, Bảy Rô lên xe đò xuống Rạch Giá tim Mười Trí. Xế chiều tới thị xã Rạch Giá, Bảy Rô mướn tam bản vô kinh Tám Ngàn. Nhưng tin tức về Mười Trí, Bảy Rô nắm không vững, chỉ nghe nói sau tảo thanh Bình Xuyên, Mười Trí được cấp trên giao công tác Hòa Hảo, đóng ở kinh Tám Ngàn. Lạ cảnh lạ người, Bảy Rô loay hoay mãi không tìm được. Vùng này là vùng giải phóng. Bảy Rô lại không có một tờ giấy lận lưng, bị Công an giữ và giải về Ty. Tại đây Bảy Rô khai là cán bộ quân báo Bà Chợ xuống miền Tây để tìm Mười Trí. Trưởng ty đánh điện về tỉnh Bà Chợ yêu cầu xác minh điều này, và trong khi chờ đợi, Bảy Rô vẫn bị giữa tại đây. Vốn là tay lao động nên anh tham gia các công việc trong cơ quan như xách nước, bổ củi, làm cá, nấu cơm, chèo ghe, vác lúa… Nhờ làm quần quật cả ngày nên Bảy Rô quên ngày tháng và đỡ sốt ruột. Thấm thoát đã bốn tháng. Tỉnh đội Bà Chợ xác nhận Bảy Rô là cán bộ quân báo được phân công tác thành. Chừng đó Ty công an mới trả tự do cho Bảy Rô và con cho mượn ghe để Bảy Rô chèo tới Đình Quỳnh là nơi Mười Trí đóng. Chèo từ sáng sớm tới chiều mới tới. Người đầu tiên Bảy Rô gặp là Chín Mập. Bạn cũ gặp lại nới xứ lạ quê người, nỗi mừng của Bảy Rô kể sao cho xiết. Bảy Rô nhào tới ôm Chín Mập. Cả hai kéo vô quán làm môt chầu rượu mừng ngày tái ngộ. Chín Mập kể cho Bảy Rô về cuộc sống mới:
- Sau tảo thanh, anh Mười Trí được giao công tác Hòa Hảo vân, lúc đầu anh lúng túng vì chẳng biết một câu kinh thì làm sao mà vận động đồng bào Hòa Hảo? Anh cứ thắc mắc về sự phân công này. Nhưng khi gặp anh Bảy Trấn thì anh Mười Trí mới hết thắc mắc. Tao có nghe lõm hai người nói chuyện với nhau:
Bảy Trấn nói:
- Chính tao đề nghị với Lê Duẩn giao công tác Hòa Hảo cho mày đó. Tại sao hả? Mày không nhớ có lần mày kể cho tao nghe là trong một ngày bị máy bay bắn tại Chi đội 4 ở Bình Hòa, Huỳnh Phú Sổ thoát chết đã nói với Năm Lửa và một số tín đồ khác: “Đây là sư thúc ủa bây. Khi thầy mấy thì sư thúc lên thay”. Mày quên rồ à?
Mười Trí chợt nhớ ra, cười ngất:
Bảy Rô hỏi Chín Mập:
- Mày theo anh Mười Trí từ lúc nào?
- Sau khi anh Năm Hà xử Ba Bay hai năm tù, tao bất mãn quá nên xin lên Khu ở với anh Tám Nghệ. Kế nghe anh Mười Trí đi miền Tây công tác Hòa Hảo, tao xin theo.
- Còn Ba Bay??
- Nó cũng ở đây. Chút nữa mày sẽ gặp. Nó cũng bất mãn anh Năm Hà. Không phải bất mãn vì bản án hai năm tù của nó. Bởi hai năm là nhẹ, quá nhẹ. Nhưng nó bất mãn cho Tư Huỳnh. Theo nó thì anh Năm quá yếu để cho Nguyễn Đức Huy thao túng. Lão ta đưa bao nhiêu người về thành nhưng có ai làm được gì đâu! Tư Huỳnh chết chính là vì lão già râu kẽm đó. Rồi sau này tao nghe nói Ba Việt, Hai Chim cũng bị tụi Thái Hoàng Minh giết…
- Kể về Ba Bay tiếp đi. – Bảy Rô nôn nóng thúc.
- Lãnh hai năm tù, Ba Bay xin về Khu theo anh Tám Nghệ. Tao gặp nó ở chiến khu Đ. Chúng tao tình nguyện theo anh Mười xuống Long Châu Hà cùng một lượt.
Bảy Rô gặp Ba Bay, Chín Mập chẳng khác nào rồng lên mây, tha hồ bay bổng. Nhưng khi Chín Mập đưa anh đến gặp Mười Trí thì anh như bị tạt một gáo nước lạnh vô mặt. Mười Trí lắc đầu vỗ trán: “Tao không nhơ Bảy Rô hay Bảy Cơ nào hết”.
Bảy Rô chới với. Đã có hai bạn nói vô mà Mười Trí cứ “hoát” ra. Rõ ràng là ông ta không muốn nhận Bảy Rô làm nhân viên. Thế là Bảy Rô lại âm thầm trở về trại giáo hóa. Ba ngày sau, Chín Mập tới lãnh Bảy Rô. Câu chuyện như sau:
Thấy Bảy Rô tiu nghỉu trở về trại giáo hóa, Chín Mập thương bạn quá, cố thuyết phục Mười Trí.
- Thiệt tình anh Mười quên Bảy Rô sao? Bảy Rô là “em út” của hai anh Ba Dương và Năm Hà đó mà…
Mười Trí gật:
- Tao nhớ chớ. Nhưng tao nghĩ nó đầu hàng…
Chừng đó Chín Mập mới hiểu lý do. Anh ra sức bênh vực Bảy Rô. Sau cùng Mười Trí xìu lòng.
- Thôi được, mày đi lãnh nó về đây.
Để lấy lòng Bảy Rô về thái độ lạnh nhạt của mình, Mười Trí cho làm heo đãi Bảy Rô. Tuy nhiên, trong bữa tiệc, Bảy Rô vẫn “làm cho ra lẽ”.
- Tôi biết anh Mười không thể nào quên tôi được. Nhưng tại sao hôm trước anh Mười bảo là “không nhớ Bảy Rô hay Bả Cơ nào hết”?
Mười Trí khề khà:
- Mày thông cảm cho tao. Tao nghĩ mày theo Bảy Viễn…
Bảy Rô được thể làm tới:
- Dầu cho trước đây tôi có lỡ dại theo Bảy Viễn đi nữa, nhưng khi hồi tâm, tôi lặn lội tới tận đây tìm anh thì lẽ nào anh đang tâm không tiếp? Cụ Hồ nói “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” mà!
Mười Trí đưa tay lên như một võ sĩ thua cuộc:
- Thôi, tao chịu thua mày!

CHƯƠNG 51-52

Công tác Hòa Hảo của Mười Trí có phần thuận lợi nhờ câu nói bốc đồng của Huỳnh Phú Sổ với các đệ tử ruột khi còn là Ủy viên Đặc khu Nam Bộ. Năm Lửa nhớ lời thầy dặn nên sau khi Huỳnh Phú Sổ chết, Năm Lửa tôn Sư thúc Mười Trí lên làm người lãnh đạo tinh thần của nhóm hăn ta. Hòa Hảo chia làm nhiều nhóm cũng như bên Cao Đài chia làm mười hai phái. Năm Lửa vốn là tay đứng bến xe đò Cần Thơ, tên cúng cơm là Trần Văn Soái, tánh nóng như lửa nên được đặt hiệu là Năm Lửa. Để có đủ quân số cự với kháng chiến, Pháp dựng lên các bộ đội giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Công giáo tiếp tay với hai trăm ngàn quân ngụy vừa được Pháp trang bị súng ống cũng như đã trang bị cho quân đội Bình Xuyên của Bảy Viễn.
Vợ Năm Lửa cũng có một đạo quân nữ, ăn mặc như đào hát bội, đóng ở Cái Vồn, một thị trần nằm sát cầu bắc Cần Thơ (nay gọi là Bình Minh). Mự tự xưng là “Phàn Lê Hoa tái thế” làm trò cưới cho các nhà báo trong nước và nước ngoài. Đất Cái Vồn là nơi làm thiên hạ chú ý từ giữa thập niên 30 với đội banh phụ nữ do ông Phan Khắc Sửu làm bầu. Đội bóng đá này chỉ đấu với các đội học sinh và mỗi lần ra quân là hiến cho khán giả những trận cười thích thú.
Mười Trí nắm được Năm Lửa phần nào và tìm cách uốn nắn đạo quân Hòa Hảo của Năm Lửa. Anh đã gợi ý cho Năm Lửa áp dụng phê bình và tự phê bình để giúp bộ đội đoàn kết thân ái, Năm Lửa cũng đem về áp dụng nhưng kết quả thật buồn cười. Hãy nghe một cán bộ ta “cấy” vào bên cạnh Năm Lửa kể:
“Trong một cuộc họp cấp bộ của Hòa Hảo ở Cần Thơ, Năm Lửa trịn trọng tuyên bố:
- Việt Minh tiến bộ nhờ có vũ khí phê bình và tự phê bình. Hôm nay, Năm – Năm Lửa tự xưng là Năm – quyết định mở hội nghị phê bình và tự phê bình trong nội bộ. Có ai tự phê bình không?
Im lặng nặng nề. Năm Lửa xoa xoa bộ râu củ ấu rậm rì:
- Một… hai… ba… Không có thì thông qua. Bây giờ tới mục phê bình. Bắt đầu Năm đây. Có ai phê bình Năm gì không?
Không khí lại chìm lặng, nặng nề. Năm Lửa lại xoa xoa bộ râu củ ấu.
- Tụi bây cứ mạnh dạn phanh phui, giúp tao sửa chữa. Tao không phiền trách tụi mày đâu.
Một người rón rén đưa tay. Năm Lửa khoái chí:
- Như vậy mới được chứ! Mày phê bình Năm cái gì đây?
Người kia ấp úng:
- Em xin phê bình ông Năm nóng tánh.
Năm Lửa bật cười:
- Phải, tao nóng tánh. Bởi vậy mới có cái tên Năm Lửa… Nhưng đó là tánh trời sanh, làm sao bỏ được! Còn ai phê bình Năm gì nữa không?
Một người khác đưa tay lên:
- Em xin phê bình ông Năm hay chửi thề Đ.m.
Bộ râu củ ấu vểnh lên, hai mắt Năm Lửa trợn trắng; nhưng hắn vội dằn xuống được:
- Ờ, đúng! Năm quen Đ.m, hồi còn ở bến xe. Muốn bỏ phải từ từ. Còn đứa nào phê bình gì nữa không?
Thấy thái độ mềm mỏng của Năm Lửa, một người thứ ba mạnh dạn đưa tay:
- Em xin phê bình ông Năm – Tới đây người ấy bỗng ấp úng. Năm Lửa xoa xoa bộ râu củ ấu, khuyến khích:
- Cứ nói tự nhiên, không việc gì phải ngại!
Người kia cố lấy can đảm nói thật nhanh:
- Em xin phê bình ông Năm hay vuốt đít em vợ!
Bầu không khí trong cuộc họp như nháng điện. Ai nấy đều xanh mặt, hết nhìn Năm Lửa đến nhìn kẻ táo tợn dám cho nổ quả bom thúi làm cả hội trường suýt chết ngạt.
Lần này Năm Lửa không còn dằn được nữa. Bộ râu củ ấu rậm rì vểnh lên tới mang tai, hai mắt trợn trừng chỉ còn tròng trắng. Hắn đập bàn quát to:
- Đ.m,cái thằng phê bình lãng xẹt! Dê em vợ mà cũng đem ra phê bình! Đ.m, không hội nghị hội nghếch gì nữa! Giải tán!
Bảy Rô được một trận cười thỏa thích. Nhưng thức đêm mới biết đêm dài, không phải công tác Hòa Hảo ở đâu cũng vui cười thoải mái như trong nhóm Năm Lửa. Có những nhóm tín đồ Hòa Hảo bị kích động hằn thù Việt Minh đã bí mật thủ tiêu cán bộ đi công tác qua làng. Nhiều cán bộ đã bị đâm chết trong nớp, vào giữa đêm, mà người giết không ai khác hơn là chủ nhà đã đãi khách một bữa cơm tối với tất cả ân cần… từ đó có câu phổ biến trong cán bộ công tác vùng Hòa Hảo: “coi vậy mà không phải vậy”.



Kỳ 52

PHÒNG NHÌ ĐƯA GÁI VÀO RỪNG SÁC
TÌNH BÁO PHÁT HIỆN RA KỊP THỜI



Bảy Viễn về thành là một thất bại lớn của Phòng Nhì, Savani mất ăn mất ngủ mấy ngày liền. Công phu bố trí hai tên “a giăng”(1) cừ Tài, Sang sát cánh bên Bảy Viễn trong mấy năm trời bỗng bị phủi sạch. Ván bài chiến khu quốc gia ma bất thành. Con đường sông từ Vũng Tàu về Sài Gòn không còn an toàn cho các tàu buôn quốc tế. Đó là con đường chiến lược cần phải duy trì với bất cứ giá nào.
Thua keo này, bày keo khác, Savani “xóa bài làm lại”. Nhìn bản đồ Rừng Sác, tên trùm Phòng Nhì vạch kế hoạch mới.
Theo báo cáo của các mật báo viên cấy trong Khu, hắn biết các Chi đội trong Liên khu Bình Xuyên đã giải thể và phiên chế thành đơn vị mới. Hắn đặc biết chú trọng Chi đội 21 của Tư Hoạnh nay hợp cùng với một số khác thành Trung đoàn 300.
Ban chỉ huy gồm có Mười Thìn trung đoàn trưởng, Ngọt trung đoàn phó và Việt Hồng chánh trị viên. Ba người này “cứng như đá xanh”, không rớ tới được, Savani nhắm vào cấp tiểu đoàn, đại đội. Một nhân vật được Savani năm lai lịch tương đối kỹ: Huỳnh Văn Nghiệp, quê Trà Vinh, trước là đại đội trưởng trong Chi đội 21, nay là tiểu đoàn trưởng phụ trách tác chiến. Nghiệp có chỗ yếu là trên ba mươi mà chưa có vợ. Tay cáo già Savani biết gái đẹp là võ khí lợi hại nhất đối với cán bộ kháng chiến. Hắn áp dụng mỹ nhân kế, chọn một số nhân viên nữ có nhan sắc bí mật đột nhập Lý Nhơn nơi Trung đoàn 300 đóng.


******


Nghiệp từ từ rơi vào tròng của Sương, người của Phòng Nhì cài vô ban tình báo Trung đoàn. Sương là một cô gái trẻ, đẹp, biết dùng võ khí trời ban cho bắt cả hồn lẫn xác những kẻ “dại gái”.
Với những cái liếc mắt đưa tình, những lời lẽ vừa buộc vừa thả, nửa đùa nửa thật, Sương nắm Nghiệp và nắm luôn các tay háo sắc khác như Long, trưởng ban chính trị; Hiệp trưởng bệnh viện; Trường… Sương càng giao thiệp rộng bao nhiêu, Nghiệp càng chiều chuộng bấy nhiêu. Khi thấy Nghiệp như trái chín cây, Sương bắt đầu lung lạc, gây chia rẽ nội bộ. Những chuyến về thành công tác, Sương đem vô Khu rất nhiều thức ăn cho Nghiệp mời bạn bè tới nhậu nhẹt. Làm nhiều lần như vậy, bỗng Sương “cúp ngang”, về tay không. Bạn bè không tới nữa, Sương liền to nhỏ:
- Anh thấy chư? Có ăn thì tới chật nhà. Không có ăn thì bỏ đi sạch bách. Bạn bè gì vậy?
Ăn quen nhịn không quen, Nghiệp xúi vợ về thành. Nhưng Sương lắc đầu:
- Má đâu có tiền mà nuôi mấy anh như cưởng hoài. Nếu như anh muốn sống đế vương thì anh phải tự tìm ra tiền…
- Bằng cách nào?
Trong đêm thanh vắng, Sường tỉ tê bày cách tìm ra tiền: Vẽ bản đồ Rừng Sác, bán rất được giá.
Nghiệp bật dậy như bị điện giật. Sương đã hiện nguyên hình là nữ điệp viên. Phản ứng đầu tiên của anh là bước qua cầu khỉ tới văn phòng ông Mười Thìn báo cáo và bắt ngay con rắn độc.
Nhưng Sương đã kịp quỳ xuống ôm chân anh năn nỉ xin bỏ qua sự nông nổi nhẹ dạ của mình. Nước mắt giai nhân làm Nghiệp do dự: “Con người kiều diễm như Sương, lẽ nào mình nỡ giết cho đành!”.
Nghiệp bỏ qua cho Sương lần đó, nhưng cũng từ đó anh trở thành tù bình của nữ gián điệp lợi hại. “Anh đã đi một xuồng với tôi, anh phải bảo vệ cho tôi, còn tôi thì tiếp tục làm tiền cung phụng cho anh”.
Nghiệp đã nhân nhượng Sương, cho ả “quá giang” đi khắp nơi ta đóng quân trong vùng.
Sương đã vẽ bản đồ, chỉ điểm các cơ quan đóng, nắm đượcngười phụ trách đài VTĐ, cho tọa độ để “cồng cộc” lên bỏ bom, bắn phá. Các hoạt động của Sương và nhóm tù binh của ả dù bí mật cũng không qua mắt được anh em trinh sát trung đoàn. Muộn tóm bắt Sương và nội bọn, phải nắm chắc bằng cớ. Làm sao? Địch đã cài gián điệp vô Trung đoàn, ta phải cài phản gián vô Phòng Nhì. Bót Ngã Ba Hàng Xanh là đơn vị chỉ huy Sương. Tên đại úy Tây lai trưởng bót này là một gã đẹp trai, khỏe mạnh nói tiếng Việt như người mình.
Sau khi nghe ban tình báo nêu rõ yêu cầu, mục đích cần nắm tên đại úy Tây lai nầy, cô Nga tình nguyện làm công tác. Đây là một phụ nữ trẻ, xinh, đầy lòng yêu nước, sẵn sàng làm bất cứ việc gì cấp trên giao để kháng chiến mau thành công.
Đưa Nga về thành, anh em lo lắng cho cô. Tên Tây lai là một thằng “điếm thúi” còn Nga là một một cô gái thiếu bản lãnh; làm địch vận mà không khéo sẽ bị địch vận động lại.
Thoạt tiên Nga đẩy xe nước ngọt bán trước cửa bót, hàng ngày làm quen với bọn lính. Nhưng Nga phạm sai lầm là quá chăm chú vào mục tiêu nên tên Tây lai đoán được ý đồ. Hắn giả si mê Nga. Khi đã chiếm được rồi, hắn giam lỏng cô trong bót.
Liên lạc thành ra bưng báo cáo tình hình bật lợi đó. Ba chỉ huy Trung đoàn quyết định phái hai anh Ba Vinh và Mười Tương bí mật về thành giải thoát cho Nga.
Sau mấy ngày chờ đợi, thời cơ đến: Tên đại úy Tây lai về họp tại Sài Gòn, Ba Vinh và Mười Tương giả người nhà cô Nga đến thăm và rủ ra quán ăn hủ tíu. Một xích lô máy đã chờ sẵn để tiến hành kế hoạch bắt cóc, đưa nga về Tiều.
Khi Nga xác nhận có gặp Sương tại bót Ngã Ba Hàng Xanh, Trung đoàn ủy quyết định bắt Sương, Nghiệp và đồng bọn. Viếc bắt cũng phải “bài bản”; đề phòng Nghiệp vọt hoặc có sẵn lực lượng trong tay gây xô xát đổ máu.
Cách hay nhất là mời họp kéo dài cho tới nước ròng, giữ Nghiệp lại. Đúng 17giờ 30, ta đưa điện tín của Bộ Tư lệnh Phân khu Duyên Hải tạm giữ đồng chí Nghiệp. Vừa loan tin, ta tước khẩu Colt 12 của hắn. Nghiệp chối dài, nhưng với chứng cớ của công an, quân báo Nhà Bè, Gò Công và nhất là sự xác nhận của cô Nga đã gặp Sương trong bót Ngã Ba Hàng Xanh. Nghiệp thú nhận đã dung dưỡng Sương. Hồ sơ bổ sung đầy đủ, nội vụ được đưa ra xử công khai tại Cần Thạnh (Cần Giờ). Trước tòa, Sương nhìn nhận tất cả tội lỗi: vâng lệnh Phòng Nhì, ả đã dùng tiền bạc và sắc đẹp tổ chức tiệc tùng, trác táng lôi kéo Nghiệp vào con đường phản cách mạng.
Những người có mặt hôm ấy càng kinh tởm con rắn độc Sương bao nhiêu càng thương tiếc anh tiểu đoàn trưởng Nghiệp bấy nhiêu. Từ một chiến sĩ dạn dày trận mạc, lập nhiều chiến công, anh trở thành kẻ phản quốc chỉ vì thiếu cảnh giác, để cho kẻ địch nằm cả hồn lẫn xác.
Khi nghe bản án tử hình, Nghiệp xin một viên đạn. Anh muốn chết như một chiến sĩ, yêu cầu cuối cùng đó được chấp nhận.
Các bản án được thi hành tại Vườn Xoài xã Lòng Hòa. Một số có dính líu được đưa về Khu để giáo dục cải tạo.
Qua vụ gián điệp này, trung đoàn nâng cao cảnh giác không để tấm bi kịch tái diễn trong đội ngũ mình.
Người nhân chứng quan trọng nhất trong vụ là cô Nga được cấp tốc đưa đi chữa bệnh hoa liễu. Sự hy sinh của cô mãi mãi được khắc sau trong trí nhớ của đồng đội.

Chú thích:
(1) agent: Nhân viên

CHƯƠNG 53-54

Năm Tài hăm hở kéo từ báo Paris-Match đến trình với Bảy Viễn:
- Kẻ thù không đội trời chung với thiếu tướng “theo ông theo bà” rồi!
Bảy Viễn ngắm nghía các bức ảnh trong tờ báo rồi kêu lên:
- Ai như Nguyễn Bình? Nó chớ ai! Thằng một mắt, lúc nào cũng mang kính râm – Báo này quảng cáo cho nó hả?
Năm Tài xáp lại gần Bảy Viễn vừa đọc mấy hàng chữ tít tiếng Pháp vừa giải thích:
- Đây là số đặc biệt về cái chết của Nguyễn Bình, theo tin tức lượm lặt của nhà báo Pháp. Theo báo này thì Nguyễn Bình bị một toán lính Miên phục kích ở biên giới Căm bốt-Lào bắn chết. Đến khi tra giấy tờ sắc-cốt mới biết là Nguyễn Bình, Ủy viên Quân sự Nam Bộ…
Bảy Viễn liếc qua các bức ảnh Nguyễn Bình đăng trên báo, lẩm bẩm như nói một mình:
- Vậy là hắn đã toại nguyện: chí trai da ngựa bọc thây!
Năm Tài nghe không rõ:
Thiếu tướng nghĩ gì về cái chết của Nguyễn Bình?
Bảy Viễn vẫn gật gù:
- Làm trai như thế là toại nguyện – và ngâm luôn:

“Làm trai chết ở chiến trường
Còn hơn chết ở trên giường thê nhi”

Năm Tài nịnh:
- Thiếu tướng có tâm hồn thi sĩ quá, đâu kém gì Tám Nghệ. Nhưng em muốn biết là thiếu tướng có vui mừng khi thấy kẻ thù của mình gục ngã?
Bảy Viễn lắc đầu:
- Không! Chỉ có đám tiểu nhân mới vui mừng trước nổi bất hạnh của kẻ khác.
Năm Tài nhột quá, rút lui êm.
Một lúc sau, Tư Thiên tới. Điệu bộ tên này cũng hăm hở như Năm Tài:
- Thiếu tướng hay tin gì chưa?
Bảy Viễn ném tờ báo Năm Tài để lại:
- Nguyễn Bình bị phục kích chứ gì?
Tư Thiên lắc đầu:
- Chuyện đó đâu ăn thua gì tới mình? Điều tôi muốn báo cho thiếu tướng biết sốt dẻo là tụi Ba Tàu đã gần mãn hạn thầu khai thác các sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới…
Bảy Viễn tò mò:
- Rồi sao?
- Đây là dịp tốt cho mình hốt bạc chứ sao, thiếu tướng? Thiếu tướng biết không, sau khi đã đóng thuế cho mình và trám họng tất cả bọn thuế vụ, bọn an ninh chìm, nổi rồi, tụi chủ con no “bóc ké” tha hồ sắm xe Huê Kỳ, cưới vợ bé…
Nghe tới vợ bẹ, Bảy Viễn ánh lên một tia thích thú…
- Thầy Tư muốn tranh ăn với tụi Bà Tàu? Tiền đâu mà đến thầu? Nghe nói mỗi ngày phải đóng cho nhà nước 500.000 đồng.
Tư Thiên cười ra vẻ tự tin:
- Tiền không thành vấn đề. Tôi sẽ lo cho thiếu tướng.
- Vậy chớ cái gì mới thành vấn đề?
- Vấn đề là thiếu tướng có chịu lấy danh nghĩa Bình Xuyên đứng ra mở sòng bạc, hay đúng hơn là khai thác hai sòng bạc co sẵn ấy là Kim Chung và Đại Thế Giới không?
Bảy Viễn chợt nhớ lời Nguyễn Bình phê bình bộ đội Bình Xuyên không tự túc mà sống bằng tiền các sòng bạc đóng thuế. Y cau mày đăm chiêu. Tư Thiên sợ Bảy Viễn từ chối, vội nói:
- Các nước văn minh trên thế giới đều có sòng bạc qui mô. Pháp có thành phố Mô-na-cô, Mỹ có Las Vegas, Anh có Hồng Kông, Ma Cao đều là những nơi các triệu phú trên thế giới đổ xô đến sạt phạt. Sài Gòn là hòn ngọc Viễn Đông cũng phải có sòng bạc cho thiên hạ giải trí chớ.
Bảy Viễn cười:
- Giải trí hay tự vẫn?
Tư Thiên nhún vai:
- Thằng nào ngu thì thằng đó chịu, mình đâu phải chịu trách nhiệm về những vụ tự tử đó thiếu tướng? – Với giọng hân hoan, Tư Thiên trình bày tiếp – Tôi đã làm một vài con tính, tiền vô như nước, thây mà mê! Riêng cái Đại Thế Giới, ngoài các sòng tài xỉu, còn đủ thứ gian hàng: chơi ru-lếch (roulette), hốt me, bắn súng, ném lon, thảy vòng vịt. Ngoài ra còn các nhà hàng, quán nhậu, vũ trường, rạp hát cải lương. Chỉ mới tính sơ sơ thì mỗi ngày cũng lời tương đương với tiền thuế. Đó là chưa kể những món tiền linh tinh như cho thầu bãi giữ xe…
Bảy Viễn ngẫm nghĩ một lúc:
- Còn các trở ngại thì như thế nào, ngoài chuyện tiền bạc?
Tư Thiên nghiêm giọng:
- Thằng Lâm Giống quyết đấu thầu cho kỳ được. Nó cũng đã tăng cường đội bảo vệ gồm các tay du đãng từ Ma Cao qua. Trong số nay có cha con đại lực sĩ họ Trần thuộc môn phái Thiếu lâm. Ngày mới qua đây cha con họ Trần biểu diễn trong Đại Thế Giới gây tiếng vang trong giới võ lâm, như nội công cho đồng đội dùng búa tài xồi đập vỡ tảng đá xanh đặt trên ngực, như đề khí đi mấy cái siêu đất không bể cái nào…
Bảy Viễn cười:
- Chuyện trẻ con đó hù dọa được ai! Thời buổi này là tiểu liên, lựu đạn. Ban công tác thành của mình dư sức dẹp đám đó.
Tư Thiên gật lia lịa:
- Lâm Giống không ngại bất cứ nhóm du đãng nào. Nhưng hắn chỉ ngán có Bình Xuyên thôi. Cho nên nếu thiếu tướng “phựt đèn xanh”, tôi đến nói một tiếng với Lâm Giống là xong ngay.
Bảy Viễn suy nghĩ một lúc:
- Nếu mình chỉ là dân anh chị như trước kia thì không có vấn đề gì. Nhưng mình đã lỡ vô kháng chiến một thời gian bây giờ trở lại con đường cũ, thấy kỳ kỳ…
Tư Thiên nhún vai:
- Thiếu tướng không làm thì cũng có kẻ khác làm. Tiền vô tay Bình Xuyên có nghĩa hơn là vô tay bọn Ba Tàu… Hay là thế này… Đêm nay tôi mời thiếu tướng đi một vòng Đại Thế Giới để biết qua cách thức khai thác của Ba Tàu. Đến khi ta thầu được rồi thì ta sẽ nghĩ cách hòan chỉnh các sòng bạc…
Đêm ấy Bảy Viễn mặc “xi vin” đóng vai du khách thám hiểm thế giới ăn chơi lớn nhất Đông Dương mà các nhà báo Pháp thường viết điều tra phóng sưj về cái mà họ gọi là Grand Monde tức là Đại Thế Giới.
Với Bảy Viễn, các sòng bạc khống có gì mới lạ, nhưng điều hắn muốn biết rõ là lề lối tổ chức. Sau mấy năm ở khu nay trở về, y thấy rõ kỹ nghệ cờ bạc tiến bộ rất nhiều. Các chủ sòng tài xỉu đều là tay lão luyện trong nghề, ngoài việc trang trí sòng bạc, chúng còn dám bỏ tiền mướn các cô gái cực kỳ xinh đẹp, nổi danh là hoa khôi ở Hồng Kông, Ma Cao về chuyên lo việc “vùa tiền” và “chung tiền” cho các tay chơi. Dạo qua một sòng tài xỉu, bạn sẽ không thể nào bỏ đi ngay khi thấy người ngọc mặc áo “cheng-sam” sát nách, cổ cao, xẻ đùi, phô bày đôi cánh tay ngà và cặp đùi thon dài, tóc uốn theo kiểu “cuốn theo chiều gió”, nhoẻn đôi môi mọng đỏ kêu lên tiếng “hối a”. Đó là hiệu lệnh để các tay chơi quyết định dứt khoát đặt tiền xuống bàn để các chuyên viên “lắc bông vụ” ra tay thay Đấng Toàn Năng ban phát ân huệ cho kẻ này và gieo rắc xui xẻo cho kẻ khác. Người ngọc mặc áo cheng sam với đôi cánh tay ngà và giọng nói ngọt ngào như tiếng mỹ nhân ngư chính là con cu mồi đã rủ men những tay chơi háo sắc và cạm bẫy.
Bảy Viễn đi một vòng các sòng bạc rồi vào một quán giải khát lộ thiên. Các thiết kế quán này cũng hay hay. Bãi đất trống được chia thành các ô vuôn mỗi cạnh dài ba bốn thước, bốn bề đều có rào lưới cho dây leo xanh mát. Đưa bạn gái vào ăn uống giữa khung trời đầy trăng sao cũng rất thơ mộng. Tư Thiên nói nhỏ với chủ nhân, một lúc sau hai cô gái đẹp đến xin phép ngồi chung bàn “cho thiếu tướng có bạn”. Tư Thiên biết Bảy Viễn rất sành ăn chơi. Tản Đà đã từng viết sách về nghệ thuật ăn chơi như “Thức ăn ngon mà rượu không ngon, không ngon. Thức ăn ngon, rượu ngon mà chỗ ngồi không ngon, không ngon”. Với Bảy Viễn phải thêm : “thức ăn ngon, rượu ngon, chỗ ngồi ngon, mà thiếu người đẹp, không ngon”…
Trong khi ngồi giải trí, Tư Thiên hỏi Bảy Viễn:
- Thiếu tướng thấy sòng bạc tổ chức thế nào?
Bảy Viễn nêu các nhận xét về người ngọc mặc cheng sam. Tư Thiên cười:
- Tôi thích vô Đại Thế Giới. Không phải để cờ bạc như người ta mà để dòm ngó, quan sát. Rất nhiều chuyện buồn cười. Đến đây có đủ hạng người. Lao động có, công chức có, trí thức có, tư sản có, nhưng tất cả đều gặp nhau ở một điểm máu đỏ đen. Cung cách chơi cũng khác. Có tay cay cú ăn thua, nướng hết đồng bạc cuối cùng để cuốc bộ về nhà xa cả năm cây số. Có tay cờ bạc xem như “cần câu cơm”, mỗi đêm chỉ kiếm vài chục đồng “tiền chợ”… Cũng có tay chuyên vô đây để ‘bắt bò lạc”.
- Bắt bò lạc? Bằng cách nào? – Bảy Viễn tò mò hỏi.
- Chút nữa ta trở lại các song bạc. Tôi sẽ chỉ cho thiếu tướng những con bò lạc khá quen thuộc. Họ là những bà thông, bà ký, lén chồng vô đây đánh tài xỉu. Khi lỡ thua thì đứng xớ rớ buồn thiu, hy vọng có một người nào đó ra tay hào hiệp cho mượn một ít để gỡ gạc hoặc về đường…
Bảy Viễn cười khoái trá:
- Mình cũng có máu hào hiệp như vậy. Vậy thì từ nay mình sẽ vô đây đều đều, không phải để thử thời vận mà để bắt bò lạc, như thầy Tư vừa nói… À, khi nãy thầy Tư nói trí thức cũng mê tài xỉu, có nhiều không?
- Nhiều chứ, thiếu tướng! Tôi có một thằng em họ, đâu cử nhân toán ở Pháp về. Nó vô đây nghiên cứu cách chơi rồi về tính toán cả tuần. Sau đó nó bảo tôi: “Tối nay hai anh em mình thử thời vận. Tôi đã tìm được bửu bối móc túi mấy cha Ba Tàu. Đó là “calcul des probabilité” phép tính xác xuất. Theo nó thì một con số, chẳng hạn như số 12, có thể trở lại theo một chu kỳ nào đó. Ta cứ “nuôi” con số 12 đó. Mỗi lần thua thì ta tăng đôi tiền đặt. Cứ vậy làm hoài cho tới khi trúng thì vừa lấy lại vốn vừa có lời chút đỉnh.
Bảy Viễn cười:
- Tôi rât dốt về toán nên không đủ can đảm nghe trình bày chi tiết. Tôi chỉ muốn biết ông cử nhân toán đó thắng được các cha Ba Tàu chỉ biết lắc bàn toán không?
Tư Thiên cười:
- Thằng cử nhân tính toán hay lắm. Nhưng rốt cuộc thì thua mấy cha Ba Tàu ở chỗ tiền vốn của nó ít quá, không đủ “nuôi” con số 12 cho tới khi nó “tái xuất giang hồ”.
Bảy Viễn cười hì hì:
- Thế mới biết mấy tay khách trú này lợi hại! Cử nhân toán mà còn cháy túi thì nói gì dân lao động thất học!...
Giải khát xong, Tư Thiên đưa Bảy Viễn đi một vòng các sòng tài xỉu để Bảy Viễn điểm qua một số “bò lạc”. Bỗng Bảy Viễn thấy một thiếu phụ ăn mặc đúng thời trang đang rẽ đám đông tiến đến sòng tài xỉu. Bảy Viễn đứng ngây người nhìn. Chưa bao giờ y gặp một người đẹp hạp nhãn đến thế. Người roi roi, cao ráo, trang điểm đơn sơ nhưng rất có “gu”: áo dài cắt vừa vặn, màu nhạt trang nhã, đài các. Y bảo Tư Thiên:
- Chờ tôi mười lăm phút.
Bảy Viễn chen đám đông, đến đứng kế bên người đẹp, đúng vào lúc á xẩm Hồng Kông sửa soạn cất cao giọng mỹ nhân hô to “hối a”. Y đưa ngón tay lên xin một phút rồi móc tiền đặt ngay cạnh số tiền người đẹp vừa đặt, nói một câu xã giao với nàng:
- Cho tôi được chia cái may của bà…
Ván bài ấy, hai người cùng thua. Người đẹp nhìn á xẩm Hồng Kông dùng cái cào có cán dài cào số tiền của mình cùng số tiền của Bảy Viễn, gom thành đống có vẻ luyến tiếc.
Bảy Viễn móc nắm bạc khác cầm trên tay, hỏi người đẹp:
- Bà đặt số mấy? Ta có nên nuôi con số vừa rồi?
Thiếu phụ mở bóp lấy tiền:
- Ván đầu báo hiệu không hên rồi.
Bảy Viễn khuyến khích:
- Không sao! Tiền hung hậu kiết. Ta cùng thử thời vận trong ba ván. Hên xui sẽ thấy rõ. – Y cùng đặt một số với thiếu phụ và ván đó họ trúng.
Ván thứ ba họ đánh cả vốn lẫn lời và thắng luôn. Bảy Viễn nói:
- Ta đã đánh đủ ba ván. Nhờ cái hên của bà mà ta thắng to. Với số tiền bất ngờ này, tôi xin phép được đãi bà ngay bây giờ. Xin mời bà nhín chút thời gian vàng ngọc qua vũ trường kế bên…
Thiếu phụ ngước nhìn Bảy Viễn với vẻ ngạc nhiên pha chút thích thú:
- Nhưng tôi chưa được hân hạnh quen biết ông…
Bảy Viễn cười:
- Trước lạ sau quen! Nhưng tôi nghĩ cùng thử thời vận trong ba ván như thế thì kể như là quen rồi, phải không bà?
Là thay bàn tay định mạng! Bà vợ sau cùng của Bảy Viễn đã gặp hắn như thế đó trong sòng tài xỉu tại Đại Thế Giới. Tính bắt bò lạc mà thành vợ chồng. Bà này tên là Hà Thị Tám, đã có một đời chồng Ấn Kiều. Bà là nhân viên văn phòng hãng thuốc lá trong Chợ Lớn và khi về ở với “thiếu tướng” Lê Văn Viễn, bà dời về biệt thự ở đường Lý Thành Nguyên. Bà Tám được đám em út của Bảy Viễn gọi là bà Lý Thành Nguyên. Bà tới sau nhưng lại về trước, được Bảy Viễn lui tới thường.
Cùng sống trong cảnh giàu sang với “thiếu tướng” Lê Văn Viễn còn có bà Lê-ông Côm (Léon Combe) tứ bà Lúa, tại biệt thự tọa lạc trên con đường mang tên nói trên (nay là Sương Nguyệt Ánh); một bà nữa là bà Chợ Quán, tứ mà Hoảnh, tại một vi la ở khu vực Chợ Quán.
Các bà vợ lớn ở đồng quê như bà ở Cần Đước, mẹ của hai cô gái Tính và Định, như bà ở An Phú, mẹ của “thiếu tá” Lê Paul ít thấy lui tới Bảy Viễn. Điều này chứng minh thành ngữ “giàu đổi bạn, sang đổi vợ” không sai chút nào.

*****


Với lực lượng cảnh sát quốc gia Bảo Đại giao cho thống lĩnh, Bảy Viễn buộc Lâm Giống phải rút lui trong việc tranh thầu khai thác Đại Thế Giới và Kim Chung. Hai sòng bạc đem lại cho Bảy Viễn nguồn lợi vô tận. Tiền thuế cho chánh phủ mỗi ngày là 700.000 đồng. Trừ hết các chi phí hai sòng bạc đem lại cho Bảy Viễn một số tiền tương đương. Bảy Viễn gọi đây là tiền nuôi quân và từ đó không nhận tiền đài thọ của Phòng Nhì và quân đội Pháp nữa. Quân số Bình Xuyên năm 1953 lên đến 11.000, chưa kể khoảng 20.000 lính kiểng, lính ma, thanh niên trốn quân dịch và mật báo viên…
Trước vận đỏ ngồi không đếm bạc, Bảy Viễn không quên công Tư Thiên. Chính Tư Thiên đã gợi ý cho y về việc khai thác hai con bò vàng này. Thưởng Tư Thiên món gì cho xứng đáng? Cái chức giám đốc cảnh sát quốc gia là điều Tư Thiên ngắm nghé từ lâu. Ác thay, Tư Sang đã nhanh tay hơn. Nếu đưa Tư Thiên nắm Nha cảnh sát đô thành thì giao Tư Sang chức vụ gì đây?
Bảy Viễn còn đang suy tính thì một vụ ám sát táo bạo xảy ra tại quán cà phê ngã tư gần Đại Thế Giới. Nạn nhân không ai khác hơn là Tư Thiên và thủ phạm là một người ngồi trên xe “trắc xông” đen. Hắn xả một bằng tôm xông vào Tư Thiên khi tài xế rà sát vỉa hè, cá bàn Tư Thiên ngồi có vài ba thước.
Trong lễ mai táng, Tư Sang đọc diễn văn ca ngợi Tư Thiên là người bạn thân thiết với anh em Bình Xuyên và hứa sẽ truy tầm thủ phạm đã sử dụng chiếc trắc xông đen của Nha cánh sát Đô thành khi thanh toán “người bạn thân thiết” của Bình Xuyên.


Kỳ 54


TRUNG QUỐC CHUYỂN SANG VIỆN TRIỀU CHỐNG MỸ
HAI VĨNH TRỞ VỀ NAM MỞ BẾN LỘC AN



Hai Vĩnh nhận công tác mới: Sang Hải Nam mở cảng chuẩn bị nhận hàng Trung Quốc viện trợ. Cuộc hành trình thật gian khổ! Ngày lên đường, chiến dịch biên giới mở. Pháp còn đóng ở Cao Bằng, ta phải mở đường rừng xuyên qua Côn Minh, từ đó đi Nam Ninh, đi Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán đảo Lôi Châu, đáp thuyền ra Hải Nam. Đảo này mới giải phóng, dân chúng nghèo khổ, chậm tiến. Lực lượng của Hai Vĩnh lên đến 700 người. Đây là một con số rất lớn so với làng mạc nghèo nàn trên đảo. Vấn đề dân vận được Hai Vĩnh đặt lên hàng đầu. Đóng ở nhà nào, anh em dân công phải giúp việc nhà như gánh nước, bổ củi. Nhờ tác phong bộ đội Cụ Hồ mà Hai Vĩnh tạo được sợi dây tình cảm giữa địa phương và quan đội mở cảng.
Công việc tiến hành ồ ạt được mấy tháng thì có lệnh ngưng, Mỹ đã nhảy vào vòng chiến ở Triều Tiên, khắp Trung Quốc đang vận động phong trào Viện Triều Kháng Mỹ.
Thế là Hai Vĩnh rút quân. Tính từ ngày bước chân tới đảo đến ngày ra đi cũng tròn trèm một năm. Kỷ niệm đáng nhớ trong công tác mở cảng này là sự cố trên đường về nước. Chín mươi dân công cùng Hai Vĩnh đi chuyến tàu chót. Trước nhỉ nhổ neo, Hai Vĩnh cẩn thận, xin Quân khu Hải Nam cho lực lượng bảo vệ nhưng được trả lời là không cần, tình hình an toàn trăm phần trăm. Trên tàu chỉ có một trung đội võ trang, có giấy tờ hợp lệ. Hai Vĩnh mang theo số hàng viện trợ về nước.
Tàu ra tới giữa eo biển đúng mười hai giờ trưa, trời nắng chang chang mà có sương mù. Tàu gặp một cơn bão dữ dội từ tám giờ tối đến mười một giờ khuya. Thuyền trưởng bắt buộc phải cho tàu ghé vào bán đảo Lôi Châu để tránh bão. Sáng hôm sau, Hai Vĩnh xuống bến trình diện. Cùng đi với anh có phiên dịch Chương rất giỏi tiếng Quảng Đông. Nhưng nhà cầm quyền địa phương bắt Chương vì tánh tự kiêu của anh này. Hai Vĩnh nói thế nào cũng không xong, phải lên đặc khu nhờ can thiệp. Đặc khu phái quân tới khám tàu, buộc khui tất cả thùng trên tàu. Hai Vĩnh giải thích đây là hàng của nhà nước Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam. Anh trình giấy tờ nhưng đại úy biên phòng tiễu phỉ lắc đầu:
- Ta làm được thì địch cũng làm được!
Hai Vĩnh ôn tồn đề nghị viên đại úy điện về Bắc Hải là nơi tàu dự định tới và điện về Hải Nam là nơi tàu rời bến để các nơi ấy xác định rõ ràng…
Đại úy chịu nghe, nhưng trong những ngày chờ đợi các nơi ấy, tất cả nhân viên trên tàu bị quản thúc. Thì ra đại úy biên phòng tiễu phỉ nghi đây là tàu phỉ bị bão tấp vào bến. Theo hắn, đây là một đám phỉ nguy hiểm vì có đến một trung đội võ trang.
Hai Vĩnh và đoàn cán bộ bị kẹt lại Lôi Châu ba ngày. Ngày đầu được lính đưa cơm tới, nhưng hai ngày sau phải mò xuống bếp tự nấu lấy mà ăn. Đến ngày thứ ba thì thái độ của đại úy phòng tiễu phỉ thay đổi hẳn. Hắn đã được điện và đến xin Hai Vĩnh xí xóa cho thái độ không đẹp đối với khách quốc tế. Hắn càng lo lắng ra mặt khi Hai Vĩnh yêu cầu hắn cho một giấy chứng nhận đã giữ tàu của đoàn Việt Nam trong ba ngày. Hắn sợ Hai Vĩnh thưa lên cấp trên, nhưng Hai Vĩnh đã khéo léo nói cho hắn an tâm.

*****

Hai Vĩnh đi ra Bắc, cô Tư Xóm Cỏ rất lo. Đường đi muôn dặm sơn khê, băng rừng vượt suối, biết bao giờ tới? Rồi biết bao giờ về?... Đó là chưa kể đụng địch dọc đường. Càng nghĩ càng lo. Nhưng rồi công việc hàng ngày giúp cô bớt suy nghĩ vẩn vơ. Kể từ ngày bỏ thành ra Rừng Sác với Chi đội 7, gia đình ông Tám Mạnh sống tập trung theo kiểu đại gia đình xa xưa. Trong thời bình chuyện này đã hiếm, trong thời chiến lại càng hiếm hơn. Khi Tây đánh chiếm Cần Giuộc và Nhà Bè, ông Tám ra lệnh cho tất cả xuống ghe ra bưng. Gánh của ông đông nhất: mười ba người con cộng với mớ cháu nội, cháu ngoại. Cô Tư vừa lo cho chồng vừa lo cho cha và các em. Công việc không đơn giản vì trong các có em Bảy Hải và Tám Hà nhất định bám trụ tiếp tục hoạt động. Bảy Hải là công an còn Tám Hà công tác thành. Cả hai bắn súng lục rất tài, tiố ngày cứ len lỏi trong dân, tìm dịp ám sát bọn Việt gian theo Pháp đánh phá cơ sở cách mạng nội thành. Vụ bắn tên Hiền Sĩ của cô Lan Mê Linh, rồi chiến công diệt tên khâm sai đại thần Nguyễn Văn Sâm của đồng chí On như khuyến khích Bảy Hải và Tám Hà thi đua hoạt động.
Ngoài công tác trừ gian diệt tề, hai anh em còn có nhiệm vụ tiếp tế đồng, chì, gan, sắt, hóa chất để công binh xưởng Chi đội 7 sản xuất lựu đạn cho các ban công tác thành. Hàng đi, hàng về, Bảy Hải và Tám Hà lên xuống Rừng Sác như con thoi.
Hoạt động trong lòng địch cực kỳ nguy hiểm, sơ ý một chút là có thể sa lưới. Cô Tư rất lo cho hai em. Nhưng vài trò của Bảy Hải và Tám Hà rất cần thiết cho binh công xưởng nên ông Tám và cô Tư đành gác cái lo riêng để nghĩ đến việc chung.
Ngày Bảy Viễn đầu Tây và chiếm khu Chánh Hưng làm sào huyệt, đóng đồn lập bót dày đặc, rải chỉ điểm khắp nơi, lùng bắt cán bộ kháng chiến, cô Tư khuyên ông Tám rút Bảy Hải và Tám Hà về rừng. Ông Tám không đợi nhắc nhưng cả hai không rút. Bảy Hải viết thư gởi về nhấn mạnh “con phải ở lại để khử mấy thằng phản bội thanh danh Bình Xuyên”.
Số người bị bọn Thái Hoàng Minh và Tiểu Lý Quảng giết ngày càng nhiều. Cô Tư lại viết thư thúc hai em rút. Chỉ có Tám Hà nghe lời chị, còn Bảy Hải thì ở lại “quyết ăn thua đủ với chúng nó”.
Thế rồi điều cô Tư lo ngại đã thành sự thật. Tin Bảy Hải bị bắt bay về Rừng Sác làm mọi người bàng hoàng. Sau đó liên lạc thành của Chi đội 7 thuật rõ về cái chết anh hùng của người cán bộ công an Chánh Hưng Bảy Hải cho gia đình.
Kẻ giết Bảy Hải là Tiểu Lý Quảng… Quảng là tay du đãng vô danh thuộc nhóm Bảy Viễn. Hắn đã được Bảy Viễn tin dùng khi bỏ rừng chạy về thành trong lúc các chiến sĩ có ý thức cách mạng đều bỏ rơi tên phản bội. Để được tín nhiệm, hắn ra sức khuyến mã, vu người này là Việt Minh vu người kia là Cộng sản. trừ Mười Lực và Bảy Môn là hai chỉ huy được Bảy Viễn trọng dụng giao cả cấp tiểu đoàn, những người trong khu về sau như Năm Chảng, Tám Hoe, Thái Sư Tử v.v… đều bị tên Quảng dòm ngó, soi mói. Có lần hắn nghe mật báo Năm Chảng sinh hoạt Đảng tại chi bộ Bình Đăng, hắn quyết tâm theo dõi Năm Chảng và khi không thu thập được gì thêm thì giở trò hỏi chặn: “Có phải trong đó phái anh về đây không?”. Năm Chảng cười ngất: “Chuyện đó đã có cán bộ Phòng Nhì, anh lo làm chi cho mệt xác?”.
Bắt được Bảy Hải, Quảng mừng như bắt được vàng. Hắn ngọt ngào dụ dỗ, khuyên Bảy Hải theo Bảy Viễn, thế nào cũng được “đại tá” trọng dụng, vì “ông Bảy là bạn của cụ Tám”. Bảy Hải nạt ngang:
- Cha ta không là bạn của tên phản bội!
Quảng dọn cơm lên mời, Bảy Hải đá tung mâm cơm.
- Tao không ăn cơm của những thằng phản bội!
Quảng nhục quá rút dao găm ra đâm Bảy Hải. Trước khi chết Bảy Hải còn hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm”…

*****


Vừa từ Nam Hải trở về nước, Hai Vĩnh xin trở vào Nam. Khởi hành tháng 8/51, anh về tới miền Đông vào cuối năm 51. Anh mang thao ba túi tài liệu, toàn sách của Liên Xô và Trung Quốc. Anh về thật đúng lúc để dự hội nghị Miền ở căn cứ Dương Minh Châu trong tỉnh Tây Ninh. Sau đó anh được đề bạt tỉnh đội phó Bà Rịa. Tỉnh đội trưởng là anh Trần Thắng Minh, tham mưu trưởng là anh Lương Văn Nho
Sau ba năm xa quê, nay trở về Rừng Sác, Hai Vĩnh thấy lòng phơi phới như con chim tung cánh ngàn phương trở về khu rừng cũ.
Gặp lại vợ con, gia đình ông Tám, anh bồi hồi xúc động. Vui chưa được bao lâu, anh đón nhận tin buồn. Cô Tư kể cho anh nghe chuyện hy sinh của Bảy Hải… Trong đám em út, Bảy Hải là người Hai Vĩnh mến thương nhất. Biết ông Tám buồn vì mất đứa con quý nhất trong nhà, Hai Vĩnh tìm lời an ủi ông:
- Con người ai cũng phải chết. Bảy Hải chết rồi nhưng tinh thần bất khuất của Bảy Hải còn sống mãi trong lòng anh em Bình Xuyên và còn sống mãi trong lòng bà con Chánh Hưng mình. Xin cha bớt buồn kẻo suy giảm sức khỏe… Còn thằng Quảng thì chắc chắn có ngày sẽ trả nợ máu với nhân dân. Vay gì trả nấy là chuyện nhãn tiền.

******


Cuộc đời không chỉ là tin buồn mà còn rất nhiều tin vui. Ngày Hai Vĩnh trở về núi Nứa, Trung đoàn 397 làm lễ cưới tập thể có ba cặp tân lang và tân giai nhân. Một cặp được Hai Vĩnh đặc biệt chú ý. Cô dâu là y tá Đặng Thị Tư, vừa tròn đôi mươi, đẹp người đẹp nết, là “bông hoa biết nói của Trung đoàn”. Chú rể là thương binh Võ Văn Trí quê tận Ninh Bình, Trí là cán bộ tiểu đội đã xung phong đầu tiên trong trận đánh lô cốt Cần Giờ. Không may sức ép của quả F.T (phá tường một loại mìn được công binh xưởng của Bùi Cát Vũ chế tạo vào năm 49) làm anh mù cả đôi mắt. Từ chỗ chăm sóc đến yêu thường không xa mấy, chị Tư yêu anh Trí, một thanh niên bị thử thách ác liệt nhưng vẫn không mất tinh thần lạc quan cách mạng. Chị Tư quý anh Trí ở chỗ đó. Có nhiều người còn đủ hai mắt nhưng không sáng bằng chồng chị. Đám cưới tổ chức tại ấp Ba Giồng, chủ hôn bên trai là đồng chí Mười Thìn, Tư lệnh Trung đoàn 300 Dương Văn Dương, chủ hôn bên gái là Tám Tâm.
Những con người cao đẹp như chị Tư không ít trên hòn đảo đạo Trần. Các chiến sĩ Trung đoàn 397 đều xem má Chín ở Bà Trao như mẹ ruột. Nhà má Chín luôn luôn mở rộng cho bộ đội đến đóng, có cá ăn cá, có muối ăn muối, chan hòa, đắp đổi cho nhau. Không ai quên mối tình mẹ con – mẹ chiến sĩ và con bộ đội – giữa má Chín và chính trị viên tiểu đoàn Lý Trần Thức. Thức là người Hà Nam, chiến đấu gan lì đến ho lao, mỗi lần ho máu ra cả chén. Hai anh Phạm Đình Công và Hứa Văn Yến gửi anh Thức tại nhà má Chín để điều trị. Có lúc Thức hấp hối vì máu khô nghẹt trong mũi không thở được. Trong lúc mọi người lắc đầu tuyệt vọng, má Chín vẫn không chịu bỏ cuộc. “Còn nước còn tát”, má dùng miệng hút máu mủ nghẹt trong mũi Thức, một cố gắng tưởng như vô vọng nhưng lại hiệu nghiệm: nhờ đó mà Thức sống.
Hai Vĩnh hãnh diện đã sớm tìm thấy nơi cù lao nhỏ này một “địa linh nhân kiệt” để đưa Chi đội 7 đến lập căn cứ vào những ngày đầu kháng chiến.

******


Công tác đầu tiên của Hai Vĩnh khi lãnh chức tỉnh đội phó Bà Rịa là xây dựng căn cứ địa Xuyên Mộc. Sau trận bão lụt năm Thìn (1952) Xuyên Mộc cũng như tất cả khu rừng miền Đông đều bị tàn phá. Mùa màng thất bát, dân chúng đói khổ, không ít cán bộ và binh sĩ bỏ ngũ. Để đánh bồi thêm, địch nhảy dù xuống Xuyên Mộc, càn quét các cơ quan và lùa dân ra rùng tạm chiến.
Trước tình thế đó, Hai Vĩnh bắt tay vào việc gây dựng lại căn cứ bằng một trận đánh lớn, điều mà không ai nghĩ tới và cũng không ai mạnh dạn tán thành khi có người đề nghị. Hai Vĩnh chọn một trung đội cứng của bộ đội địa phương giận Long Đất, điều nghiên chiến trường, đánh hai trận táo bạo, thọc sâu, rút nhanh vào khu Sông Ray, tạo thanh thế đồng thời họp huyện ủy bàn biện pháp giữ dân ở lại xây dựng căn cứ. Thiếu gạo, phải móc cử rừng ăn lấy sức để trồng khoại mì. Vùng Xuyên Mộc có củ rừng gọi là Thiên Tuế - có nghĩa ngàn năm – nhưng ăn vô thì ngây ngất vì chất mủ độc. Phải gọt vỏ ngâm lâu ngày mới ăn không bị say.
Không để căn cứ Xuyên Mộc hồi sinh, địch lấn chiếm lộ 2 bao vây căn cứ. Huyện ủy Long Điền đóng trên đất Bà Tô bị địch chụp trong thời điểm này. Hai Vĩnh chủ trương “ăn miếng trả miếng”, đánh biệt kích, thọc sâu rút nhanh. Ta bắt được tên quan ba tình báo Phạc-đen (Fardel) chỉ huy quận Lòng Điền và Đất Đỏ suốt mười năm. Địch tung đám Côm-măng-đô đánh ráo riết vào chiến khu để giải thoát Phạc-đen nhưng không thành công.
Sau khi xây dựng căn cứ Xuyên Mộc xong, Hai Vĩnh lại được giao công tác xây dựng căn cứ Hàm Tân. Chiến dịch này bắt đầu từ chuyến đi ra Bắc của đồng chí Lê Duẩn. Đi ngang qua đây, ghé lại nghe báo cáo tình hình, nhận thấy đồng bào Hàm Tân đói khổ lại bị chia cắt với các khu miền Trung (vì đây là dải đất cuối cùng của miền Trung, nhưng trên thực tế lại gắn bó máu thịt với miền Nam), đồng chí Lê Duẩn chủ trương cắt Hàm Tân giao cho Bà Rịa. Hai Vĩnh được mời dự họp với tỉnh ủy Bình Thuận. Đề nghị được hội nghị thông qua. Hai Vĩnh bắt tay vào việc xây dựng căn cứ địa Xuyên Mộc-Hàm Tân. Anh vẫn theo phương pháp cũ: phối hợp nhuần nhuyễn quân sự với kinh tế, kết hợp dân vận với bình vận, lấy bộ đội và cơ quan dân chính làm đầu tàu… Tình hình có khó khăn nhưng Hai Vĩnh vẫn lạc quan: Nhìn ra miền Bắc ta đang đánh lớn, hết chiến dịch Tây Bắc đến chiến dịch Điện Biên. Địch cố đánh mạnh ở miền Nam Trung Bộ, nhưng đó chỉ là sự cố gắng tuyệt vọng… Mà cũng chỉ có thể cố gắng đến mùa hè năm 1954…

CHƯƠNG 55

Theo tinh thần Hiệp nghị Giơ-neo 1954, các cán bộ và binh sĩ ở miền Đông Nam Bộ tập kết tại Xuyên Mộc, cán bộ và binh sĩ ở miền Trung tập kết tại Cao Lãnh và cán bộ và binh sĩ miền Tây tập kết tại Cà Mau. Cũng theo tinh thần này thì thời gian tập kết ở Xuyên Mộc chỉ có 80 ngày, ở Cao Lãnh 100, và ở Cà Mau 200 ngày.
Tình hình khẩn trương, các chiến sĩ gỗ Bình Xuyên nhắn gia đình vợ con vô Xuyên Mộc, tính chuyện quan trọng là theo chồng tập kết hay ở lại.
Hai Vĩnh và ông Tám Mạnh quyết định đưa hết gia đình ra Bắc. Tất cả mười một người con của ông bà Tám Mạnh cùng gia đình đều nhất trí ra đi. Có lẽ đây là gánh đông nhất trong số các gia đình tập kết.
Ông Tám tuy sẵn sàng đi cùng trời cuối đất, nhưng ngày xuống tàu vẫn ngậm ngùi vì chưa về thăm được mảnh đất Chánh Hưng, viếng mồ đứa con trai cưng là Bảy Hải. Ông cũng lo ngại cho cô Tư đang mang thai đưa con thứ năm phải ở lại chờ ngày sinh nở rồi đi chuyến tàu chót tại Cà Mau là địa điểm tập kết 200 ngày.
Đối với cô Tư vấn đề đi hay ở rất rõ ràng. Học tập hiệp định Giơ-neo, cô biết “đi là chiến thắng, ở là vinh quang”. Đi hay ở đều có nghĩa vụ chiến đấu và xây dựng đất nước. Ưu tiền ra Bắc dành cho thanh thiếu niên để được học tập, đào tạo thành cán bộ chuyên môn, rất cần thiết cho tương lai xứ sở. “Là một người mẹ năm con, mình phải nuôi dưỡng cho chúng nên người. Cha mình, chồng mình vì hoàn cảnh xã hội bất công mà không được ăn học, bây giờ nhất định không để con mình chịu thiệt thòi như thế…” Cô Tư nghĩ như vậy và bình tĩnh ở lại chờ ngày sinh rồi mới đi sau. Cô vui vẻ giơ hai ngón tay lên tiễn gia đình cùng các đồng đội đi Xuyên Mộc để xuống tàu ra Bắc đợt đầu.

*****


Bảy Rô rộng ngày hơn Hai Vĩnh. Anh ở miền Tây, Cà Mau, được sống 200 ngày dưới cờ đỏ sao vàng cho thỏa lòng mong ước. Khác với Hai Vĩnh, Bảy Rô chọn ở lại. Máu binh vận trong người anh quyết định việc đi hay ở dứt khoát. “Đây là lúc cách mạng cần đến mình, không thể vắng mặt!”.
Cũng trong thời gian tập kết chuyển quân, các đồng chí ở Trung ương Cục, ngày đêm ngồi trước bàn thế cờ. Mỹ tạm thời nắm Bảo Đại nhưng tên tay sai thực dân Pháp này chỉ là vật lót đường cho tên tay sai của đế quốc Mỹ là Ngô Đình Diệm. Đưa người vào dòng họ nhà Ngô là chuyện cấp thiết. Đồng thời cũng phải có người nắm giáo phái, vì trong hai năm tới, các giáo phái sẽ nắm vai trò quan trọng. Dù Diệm đi nước cờ liên kết các giáo phái hay tiêu diệt giáo phái, cũng phải có cán bộ bí mật “cài” vào để lèo lái đối phó. Trong các giáo phái, Bình Xuyên của Bảy Viễn được chú ý trước tiên. Bảy Viễn có thể ngán ngại đi với cách mạng, nhưng chung quanh hắn có khá nhiều người của ta. Mười Lực, Bảy Môn tự ý về thành, nhưng đó cũng là do sự o ép của lão già râu kẽm Nguyễn Đức Huy. Căn bản họ vẫn là người tốt. Rồi còn Năm Chảng, Tám Hoe, Thái Sư Tử… họ đã được Đảng phân công về nắm Bảy Viễn đợi thời cơ. Đến nay thì họ đã ổn định nơi ăn chốn ở rồi. Mười Lực năm tiểu đoàn, Bảy Môn, Năm Chảng nắm đại đội…
Hai cán bộ chiến lược được Trung ương Cục bố trí ở lại để nắm lấy Bình Xuyên. Đó là anh Ba Thuận nguyên bí thư tỉnh Thủ Biên (Biên Hòa và Thủ Dầu Một) và anh Bảy Khánh, bí thư tỉnh Bà Chợ (Bà Rịa và Chợ Lớn).

*****

Ngồi trước bàn cớ thế này, cáo già Savani bảo hai tay thân tín là Tư Sang và Năm Tài:
- Trong những ngày sắp tới, vai trò của hai ông rất nặng. Thủ tướng Diệm là tay sai của CIA. Chúng sẽ biến tên này thành một kẻ chống Pháp. Diệm sẽ được CIA giúp làm cuộc đảo chính hạ bệ Bảo Đại để bước lên ghế tổng thống. CIA sẽ tung tiền mua các giáo phái. Hai ông phải nắm thiếu tướng Bảy Viễn cho chắc. Tiền và gái là hai chỗ yếu của ông ta. Hai ông phải giải thích cho ông ta thấy rõ là bấy lâu nay ông ta sống trong nhung lụa là nhờ Quốc trưởng Bảo Đại và Nhà nước Pháp, Nhà nước Pháp rất thủy chung với những người cộng tác, không bao giờ có cảnh “ăn cháo đá bát” như bọn CIA. Trong bất cứ trường hợp nào, Chính phủ Pháp cũng che chở đùm bọc các ông.
Trở về tổng hành dinh, Năm Tài trỗi giọng mỹ nhân ngư:
- Thời gian tập kết chuyển quân ở Xuyên Mộc đã kết thúc. Sáng nay, hàng vạn cán bộ và binh sĩ Việt Minh xuống tàu ra Bắc. Nếu hồi trước mình không ra đây chiếm một giang sơn riêng biệt thì đời mình kể như tàn rồi. Đi cũng kẹt mà ở lại càng kẹt hơn…
Bảy Viễn đang xem báo cáo số thu chi về hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, nghe Năm Tài một cách lơ đãng:
- Trình bày tiếp đi.
- Làm sao tập kết ra Bắc được, thiếu tướng? Ngoài ấy nghèo mạt. Mỗi khi vỡ đê là hàng vạn dân chết đói. Năm 1954 có hai triệu dân chết vì thiếu ăn. Đó là chưa kể thiếu tướng không ưa người Bắc và bọn Cộng sản. Chỉ có nước ở lại. Mà ở lại thì cũng chẳng yên thân với bọn CIA đâu thiếu tướng. Bọn này chuyên môn nước cờ “tiên lễ hậu binh”, trước ném tiền ra mua chuột, sau không cần nữa thì thủ tiêu thanh toán.
Bảy Viễn vốn làm biến suy nghĩ:
- Vậy mình phải làm sao đây?
- Tôi vừa gặp trung ta Savani. Ông ta nhân mạnh là thủ tướng Diệm sẽ vâng lệnh quan thầy Mỹ đá đít Bảo Đại nhảy lên ghế tổng thống. CIA sẽ tung tiền mua các giáo phái để làm hậu thuẫn cho nhà Ngô. Trung tá Savani khuyên thiếu tướng không nên chạy theo đô la. Đồng Franc tuy không nặng nhưng bền hơn…
- Thôi, mày nói ít thôi! – Bảy Viễn sốt ruột cắt ngang – Lão Savani mà dạy khôn dạy khéo cho tao hả? Mày hãy nhắn với lão ấy là Bảy Viễn thiếu tướng với Bảy Viễn giang hồ vẫn là một!...

CHƯƠNG 56

Ba ngày ba đêm, sau khi hiệp định Giơ-neo có hiệu lực, vùng Chánh Hưng vui như Tết. Tiếng súng nổ mừng hòa bình chốc chốc lại vang lên như pháo mừng xuân. Từ ngày lịch sử này binh sĩ Bình Xuyên tin rằng mình không còn bị phục kích bắn tỉa như khi nằm lô cốt giữ con đường 15 Sài Gòn-Vũng Tàu mà tướng Đờ-la-tua giao cho Bảy Viễn và Bảy Viễn khoán lại cho cậu Hai, tức thiếu tá Lê Paul. Nhóm binh sĩ trong lực lượng Công an Xung phong đội bê rê xanh của Lư Đình Nghĩa cũng kéo về tổng hành dinh được ủy thác tụng kinh siêu độ cac tử sĩ. Trong danh sách dài sọc có tên những người đứng đầu như Lâm Ngọc Đường, Môrit Thiên, Tư Tỵ, Tư Hoạnh, Ký Huỳnh, Tư Huỳnh, Lê Văn Hanh v.v…
Tư Hiểu hiện là trung đoàn phó, rất thích hát bội. Nhân dịp này hắn cho mời gánh hát bội của kép Thành Tôn qua Chánh Hưng hát ba đêm cho binh sĩ và đồng bào xem. Ba đêm ấy trở thành một kỷ niệm khó quên đối với anh em nghệ sĩ sân khấu. Các chỉ huy Bình Xuyên có một cách thưởng thức nghệ thuật không giống ai. Mỗi sĩ quan đều có một bàn riêng. Trên bàn có chai rượu mạnh. Tư Hiểu cầm chầu mỗi khi đắc ý, nhảy lên nhét tiền vào tay nhân vật mình ưa thích thay vì kẹp tiền vô kẹp quạt giấy ném lên sân khấu. Đêm diễn tuồng “Tống tử Đơn Hùng Tín”, lúc rót rượu, Tư Hiểu nhảy lên sân khấu, tay cầm chai Mạc-ten, giật ly rượu trong tay kép Thành Tôn, hét lên: “Rượu giả! Đây mới là rượu thật”. Hắn hất nước lạnh trong ly, rót Mạc-ten òng ọc đến tràn ra ngoài, bắt uống cho kỳ được. Diễn xong màn đó nghệ sĩ say mèm. Nhưng vãn tuồng chưa phải là xong đâu. Còn màn ăn nhậu và ca tài tử lai rai cho tới khuya. Rượu ngà ngà, thay vì nhịp song lang, các ông “tướng” rút súng sau bắn chỉ thiên. Báo hại người đàn cũng như kẻ hát giật mình, đàn trật nhịp, hát đâm hơi. Giữa hai bài hát, có màn ép rượu. Ai từ chối thì bị ép rất “Bình Xuyên”: Súng sáu kề mang tai bắn rầm rầm điếc con ráy. Càng bắn càng say, Tư Hiểu sai binh sĩ khiêng cả cần xé súng lục, phát cho nghệ sĩ mỗi người một cây, ra lệnh:
- Bắn đi anh em! Đêm nay cho anh em tha hồ bắn! Đạn thiếu gì! Bắn mừng hòa bình!
Tội nghiệp các cô đào hồi nào giờ không từng biết các võ khí giết người, nay bị nhét súng vào tay bảo bóp cò. Có người vừa bóp cò vừa nhắm mắt bịt tai. Tức thì cả bọn cười vang trước cử chỉ ngây ngô ấy. Thế nên khi từ giã được, mọi người đều mừng rơn. Họ không quen trò đùa với súng đạn. Càng vui hơn nữa là mỗi nghệ sĩ đều được một bao thư dày cộm. Mỗi suất hát họ được thù lao một ghim, gấp năm lần suất hát ở rạp Thành Xương.

*****

Bảy Viễn hỏi Năm Tài:
- Hiệp đinh Giơ-neo ra sao, trình bày lợi hại nghe coi?
Năm Tài trao một bản tiếng Pháp và một bản tiếng Việt cho Bảy Viễn, nhưng Bảy Viễn khoát tay:
- Cứ trình bày miệng đi!
- Hiệp định Giơ-neo gồm 47 điều quy định về ngưng bắn ở Đông Dương. Điều quan trọng nhất là quy giới tuyến quân sự chia hai nước Việt Nam ở con sông Bến Hải ngay vĩ tuyến 17. Mỗi bên có một khu phi chiến rộng năm cây số. Miền Nam tạm thời do Pháp giữ an ninh trật tự. Trong vòng hai năm, sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào năm 56. Thời gian tập kết đổi vùng được quy định 80 cho Hà Nội, Hàm Tân, Xuyên Mộc, 100 ngày cho Hải Dương, Đồng Tháp Mười và 200 ngày cho Hải Phòng và Cà Mau…
Bảy Viễn gật gù:
- Ai thắng trong vụ này?
- Theo tôi thì hai bên tương đương. Cộng sản được miền Bắc nhưng mất miền Nam…
Bảy Viễn đưa hai ngón tay lên:
- Chỉ mất trong hai năm thôi. Chừng tổng tuyển cử thế nào họ cũng thắng. Chắc chắn là như vậy.
Tài cười lạt:
- Không chắc đâu. Hiệp nghị Giơ-neo hai năm sau sẽ có hiệp thương tổng tuyển cử, nhưng thái độ của Mỹ và Trần Văn Đỗ không ký tên vào các biên bản hiệp định cho thấy rõ là Mỹ và thủ tướng Diệm sẽ không thi hành hiệp định. Bằng cớ hiển nhiên là trong khi ta và toàn dân ăn mừng hòa bình thì Diệm ra lệnh treo cờ tang vào ngày “quốc hận”.
Bảy Viễn gật gù:
- Vậy là Mỹ sẽ nhảy vô hất Pháp ra? Mình phải tính thế nào đây?
Năm Tài giọng quả quyết:
- Thiên hạ đồn Mỹ giàu – mà Mỹ giàu thiệt – nhưng có điều thiên hạ không biết là Mỹ kỳ thị chủng tộc, khinh khi da đen và da vàng. Chơi với Pháp thích hơn. Vả lại từ trước đến nay chúng ta ăn chịu với Pháp. Bảo Đại vẫn là quốc trưởng trong khi Diệm chỉ là tên tớ phản thầy… Ghế thủ tướng của nó là ghế ba chân. Nếu muốn đảo chánh thì trung tướng Hinh dư sức tống cổ nó bất cứ lúc nào.
- Mình cũng nghĩ vậy.
Đúng lúc ấy một vệ sĩ vào trao một danh thiếp. Hai Vĩnh liếc nhanh: Trình Khánh Vàng, nguyên khu bộ phó khu 9.
- Ra mời vào!
Một người khoảng 45 tuổi, ăn mặc sang trọng, nhanh nhẹn bước vào, trịnh trọng nghiêng mình bắt tay Bảy Viễn:
- Hân hạnh được làm quen với thiếu tướng. Tôi nghe danh thiếu tướng đã lâu, từ lúc thiếu tướng còn là Khu bộ phó Khu 7 – Vàng cười – như vậy chúng mình là “đồng nghiệp” của nhau…
Bảy Viễn cười xã giao:
- Tôi cũng rất hân hạnh được làm quen với nguyên Khu bộ phó Khu 9. Nhưng xin phép hỏi… Ngài đến tìm tôi không lẽ chỉ để nhắc chuyện xưa?
Vàng hăm hở:
- Nhắc chuyện xưa chỉ là để giáo đầu tuồng thôi. Tôi đến tìm thiếu tướng cố nhiên là có việc quan trọng. Xin lỗi ông bạn đây là … - Vàng chỉ Năm Tài.
- Ngài cứ yên chí. Lại Hữu Tài là cố vấn của tôi.
Vàng chồm tới bắt tay Năm Tài:
- Tôi cũng nghe danh ông từ trong khu. Bây giờ xin đi ngay vào đề. Hiệp định Giơ-neo chia hai đất nước, miền Nam bị bỏ rơi, tiếng là trong hai năm nhưng có thể là vĩnh viễn theo kiểu nước Đức và Triều Tiên sau đệ nhị thế chiến. Điều này làm một số chiến sĩ bưng biền rất bất mãn. Tôi đại diện cho số ấy đến tìm thiếu tướng để có thái độ…
Bảy Viễn gật gù:
- Đúng!
Vàng hăng hái nói tiếp:
- Tình thế bắt buộc những người có tâm huyết phải hoạt động ngay. Tôi đã gặp một số chính khách lỗi lạc như Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân, Jean Baptiste Đồng v.v… Tất cả đều nhất trí phải liên kết lại hành động. Chúng ta phải gióng lên tiếng nói của đồng bào kháng chiến Nam Bộ trước nạn chia hai đất nước và nạn cưỡng đặt miền Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ… Tất cả bọn tôi đều trông cậy nơi thiếu tướng bởi thiếu tướng có lực lượng võ trang trong tay. Tiếng nói lẽ phải mà không được yểm trợ của lưỡi lê và súng đạn thì cũng không có sức mạnh thuyết phục…
Bảy Viễn nhìn Năm Tài gật gù:
- Đến đây thì tôi hoàn toàn đồng ý với ngài. Nhưng tôi muốn biết chương trình hành động cụ thể.
Vàng vui vẻ nói:
- Như vậy thì cuộc tiếp xúc của tôi với thiếu tướng và ông cố vấn sáng nay kể như thành công bước đầu. Còn về trình bày chương trình hành động cụ thể thì chúng tôi đã thỏa thuận là chính Hồ Hữu Tường sẽ đích thân tới đây thảo luận với thiếu tướng. Học giả kiêm nhà văn, tác giả của quyển “Gái nước Nam làm gì?” và quyển “Phi Lạc sang Tàu” chiều nay sẽ đến thuyết trình về thế ba chân vạc cho thiếu tướng và các sĩ quan tham mưu của thiếu tướng.
- Thế ba chân vạc là sao? – Bảy Viễn ngơ ngác.
- Hồ Hữu Tường đã nói sơ cho chúng tôi nghe. Thế ba chân vạc rút trong truyện Tam Quốc. Thời đó nước Tàu chia bay. Ngụy của cha con Tào Tháo, Thục của Lưu Bị và Ngô của Tôn Quyền. Cái mưu trí của Khổng Minh cũng như Châu Du hay Tư Mã Ý là liên kết nước này đánh nước kia. Tình hình của ta hiện nay cũng giống như vậy. Một bên là Mỹ-Diệm, một bên là Cộng sản (họ chỉ tập kết ra Bắc một số tượng trưng thôi mà đa số nòng cốt vẫn còn “chém vè” ở lại miền Nam để lãnh đạo nhân dân đòi thi hành hiệp định Genève) còn nhóm thứ ba là các giáo phái Cao Dài, Hòa Hảo và chủ yếu là Bình Xuyên. Theo Hồ Hữu Tường thì nhóm giáo phái của chúng ta phải học cách người xưa tức là, từng giai đoạn liên kết với bên này hay bên kia để bảo tốn thực lực và phát huy thanh thế…
Lúc Trình Khánh Vàng ra về, Bảy Viễn và Năm Tài ần cần bắt tay và nhờ Vàng chuyển đến học giả Hồ Hữu Tường lời mời mọc thân thiết.
Chiều ấy, hội trường tổng hành dinh được cấp tốc trang trí và một số sĩ quan được mời dự cuộc nói chuyện thời sự của học giả khét tiếng Hồ Hữu Tường. Đúng hai giờ chiều, một chiếc xe Pơgiô 203 đưa bộ ba Trình Khánh Vàng, Hồ Hữu Tường và Trần Văn Ân tới. Bảy Viễn và Năm Tài trực trước cửa mời khách vô hội trường. Năm Tài giới thiệu quan khách với toàn bộ tham mưu xong, Hồ Hữu Tường bước lên bục diễn giả, dáng điệu tự nhiên như một giáo sư quen nói chuyện với cả ngàn sinh viên.
- Tôi được thiếu tướng mời đến đây để nói chuyện thời sự. Tôi rất vui lòng nhận lời mời này. Nhưng xin thưa trước một điều: đừng xem tôi là một diễn giả. Hãy xem tôilà một chiến hữu. Vì số phận của chúng ta gắn liền với nhau trong những ngày nghiêm trọng sắp tới. Tôi nghe nói anh em binh sĩ Bình Xuyên nổ súng thay pháo mừng hòa bình trong mấy ngày qua. Đây là niềm vui hết sức chân chính vì trong mười năm qua không ngày nào trôi qua tại miền Nam này mà không có tiếng súng. Thằng con út của tôi lên mười và trong suốt mười năm đó, chung quanh nó thiên hạ nói toàn chuyện giết nhau. Nhưng… - Tường ngưng lại, bưng ly nước cam lên, không uống rồi đặt xuống – xin tất cả đừng có ảo vọng là hòa bình hôm nay sẽ là vĩnh viễn. Không đâu! Tôi đã thấy những đám mây đen kết tụ ở chân trời. Nền hòa bình mới vãn hồi đang bị đe dọa. Và những người bị đe dọa trước nhất chính là chúng ta đây…
Cả hội trường xôn xao. Nhiều người hỏi to: Tại sao?
Chờ mọi người yên lặng, Tường nói tiếp:
- Ai cũng biết Mỹ không ký vào hiệp định và buộc Trần Văn Đỗ cũng không ký vào đó. Và khi mực ký kết chưa khô thì họ đã có kế hoạch chống phá. Vĩ tuyến 17 với con sông Bến Hải sẽ là giới tuyến chia cắt hai nước Việt Nam. Miền Bắc rơi vào quỹ đạo Cộng sản Nga – Tàu, còn miền Nam thì được Mỹ biến thành pháo đài chống cộng của Thế Giới Tự Do. Mỹ sẽ không giữ nguyên các cơ cấu của Pháp. Về nhân sự chúng sẽ đưa người của chúng vào. Mỹ sẽ không chấp nhận sự tồn tại của các giáo phái. Không thể duy trì “nhiều quốc gia trong một quốc gia”. Công việc đầu tiền của thủ tướng Diệm là dẹp giáo phái. Các bộ đội giáo phái sẽ được sát nhập vào quân đội quốc gia. Nếu không tuân theo thì sẽ bị đập tan. Hiện Mỹ đã tung tiền mua một số tướng lãnh Cao Đài, Hòa Hảo… cho nên ngay bây giờ ta phải bắt tay vào hành động. Các giáo phái phải liên kết với nhau thành một khối. Tôi tin chắc Cao Đài và Hòa Hảo sẽ hưởng ứng lời kêu gọi của chúng ta. Nhưng hiện nay chỗ dựa vững vang nhất của ta là quân lực của tướng Nguyễn Văn Hinh. Nếu muốn đảo chánh thì hai trăm ngàn quân của tướng Hinh sẽ dư sức bóp tiểu đoàn Nùng của Diệm. Chúng ta hãy yên chí lớn…
Tiếng vỗ tay vang lên kết thúc cuộc nói chuyện của Tường. Trình Khánh Vàng hăm hở lên bục:
- Xin quý vị vài phút: Tôi vui mừng báo một tin vui. Một người bạn – tôi xin phép dấu tên – tặng cho chúng ta một đai phát thanh để chúng ta “đấu khẩu” với đài phát thanh Sài Gòn. Tôi cũng đã thuyết phục được tay xướng ngôn viên khét tiếng Văn Thiệt bỏ đài Sài Gòn để theo mình. Chắc quý vị không lạ gì Văn Thiệt, hễ va chửi ai trên đài phát thanh thì người đó tức trào máu mà chết. Rồi đây tên Diệm cũng sẽ chết tức chết tưởi vì miệng lưỡi của Văn Thiệt.
Một tiệc trà kết thúc cuộc gặp gỡ của bộ ba mưu sĩ với bộ tham mư Bình Xuyên.

CHƯƠNG 57

Tháng 12/54 Bảy Viễn được thư thủ tướng Ngô Đình Diệm mời vào dinh Độc Lập (1) thảo luận về một số vấn đề quan trọng. Bảy Viễn họp bộ tham mưu lại bàn:
- Mình có nên gặp Ngô Đình Diệm hay không?
Năm Tài lắc đầu:
- Không nên! Diệm không giở trò ma giáo, nhưng Nhu sẽ cho bộ hạ bắt thiếu tướng.
Tư Sang tiếp theo:
- Tôi nghĩ chẳng có việc gì phải bàn với chúng nó. Chủ trưởng của Diệm là diệt giáo phái. Nhưng trước khi hạ thủ, chúng trổ tài mua chuộc. Chúng cố kéo phe này đánh phe kia để cho các giáo phái đánh nhau đến xứt tai gãy gọng rồi lúc đó chúng mới dễ dàng diệt gọn.
Hồ Hữu Tường khoanh tay mỉm cười. Bảy Viễn hỏi:
- Học giả nghĩ gì mà cười vậy?
- Tôi nghĩ là hai anh em họ Lại cũng có lý phần nào. Bản chất nhà Ngô là tráo trở. Chúng lại gặp Hoa Kỳ là bọn chuyên môn đốc xúi thiên hạ đánh nhau đê làm giàu. Nhưng tại sao ta lại không đến gặp chúng nó? Đánh nhau thì phải tìm hiểu địch thủ. Địch thủ đã khở dại mời mình đến sào huyệt thì ta phải chớp lấy mà quan sát tận mắt địch tình. Rồi còn chiến tranh cân não…một lời nói đúng lúc, đúng chỗ có thể làm địch hoang mang có lợi cho ta vô cùng.
Năm Tài khoát tay:
- Không thể được! Ông Tường là học giả, ông có thể vô đinh Độc Lập nghiên cứu rồi kẹt lại trong đó cũng chẳng sao. Nhưng thiếu tướng là đầu não của Bình Xuyên, là linh hồn của Liên minh các giáo phái, không thể liều lĩnh như vậy được!
Bảy Viễn cười:
- Tôi biết hai anh em Diệm-Nhu ma giáo, chúng dám bắt tôi chứ chẳng không. Nhưng còn mấy thằng cố ván Huê Kỳ của chúng nó chớ? Tướng Ô-Đa-nhen (O’Daniel) tiếp xúc ngày một với tướng Ê-ly. Lẽ nào chúng để anh em Diệm-Nhu bắt giữ Bảy Viễn trong dinh Độc Lập? Tôi phải đi! Không đi là hèn và dại. Tại sao lại bỏ qua một cơ hội bằng vàng là vô tận tổng hành dinh của nhà Ngô?
- Nếu thiếu tướng quyết định vô dinh Độc Lập thì ta phải báo trước cho tướng Ê-ly biết – Năm Tài chụp ngay điện thoại.
- Cố nhiên! Có Ê-ly đằng sau tôi thì nhà Ngô không dám giở trò gì với tôi đâu! – Bảy Viễn nhìn hết các “tướng tá”, hỏi – Trong trường hợp thằng Diệm yêu cầu chúng ta bỏ Pháp theo chúng thì sao? Ta có nên sát nhập với quân đội quốc gia của Diệm không?
Im lặng nặng nề vài giây. Mười Lực nhìn Bảy Môn hội ý chớp nhoáng rồi nói:
- Anh Bảy muốn nhâp thì nhập. Còn tụi tôi thì ra làm dân.
Bảy Môn cũng đồ thêm:
- Quân đội của Ngô Đình Diệm do Mỹ huấn luyện, còn tụi tôi đánh giặc rừng, làm sao nhập vào chúng được?...
Bảy Viễn cười:
- Hỏi ý kiến các anh chơi vậy thôi chứ tôi biết các anh có ưa gì thằng Diệm! Còn một vấn đề nữa: Nếu Diệm yêu cầu mình án binh bất động để nó tiêu diệt Cao Đài, Hòa Hảo thì sao?
Hồ Hữu Tường lại cười:
- Hỏi tức là trả lời. Chuyện bẻ đũa từng chiếc, lẽ nào những kẻ đầu hai thứ tóc lại không biết? Thiếu tướng đùa với chúng ta đó.
Cuộc họp nhất trí để Bảy Viễn vô dinh Độc Lập phó hội với anh em nhà Ngô với mục đích tìm hiểu địch tình và cố thuyết phục Diệm hào hoãn với các giáo phái được lúc nào hay lúc nấy. Nếu sau ba tiếng đồng hồ kể từ lúc Bảy Viễn vô dinh Độc Lập mà không thấy về thì Năm Tài phải báo động với tướng Ê-ly.

*****

Những nhận định của Bảy Viễn đều không sai. Khi vô dinh Độc Lập, Bảy Viễn thấy tay chân bộ hạ nhà Ngô nhìn mình đầy vẻ hầm hừ. Lúc Diệm tiếp chuyện với Bảy Viễn, Nhu đang họp cùng bộ tham mưu ở phòng bên cạnh.
Diệm lúc nào cũng mặc đồ lớn bằng “sạc kin” (Sharskin), nước da trắng xanh càng giống hệt công tử bột, trái ngước với Bảy Viễn là một kẻ phong trần, rắn rỏi trong bộ ka-ki quân phục mang cấp tướng hai sao.
Diệm mở đầu bằng cách tranh thủ tình cảm chống cộng của Bảy Viễn:
- Tháng 5 năm 1948, tôi có nghe thiếu tướng thoát chết về tay Việt Minh. Từ đó tôi rất có cảm tình với Bình Xuyên. Vụ về hợp tác với Pháp là điều vạn bất đẵc dĩ, vì chúng ta là những người quốc gia yêu nước. Chỉ tại Cộng sản độc quyền kháng chiến nên ta phải tìm con đường riêng mà tranh đấu. Gia đình tôi là nạn nhân của Cộng sản. Anh tôi là Ngô Đình Khôi bị chúng giết mùa thu năm 1945, còn tôi thì bị quản thúc nhiều phen…
Bảy Viễn khéo léo:
- Thủ tướng bận nhiều công việc, không lẽ mời tôi tới để nhắc lại chuyện cũ? Xin thủ tướng đi ngay vào đề.
Diệm hơi khó chịu vì không thích ai cắt lời.
- Phải nhắc chuyện cũ để thấy tôi và thiếu tướng cùng chung một kẻ thù là Cộng sản. Chúng ta nên đồng tâm nhất trí chống cộng. Hiệp định Giơ-neo đã cắt một nửa đất nước cho Cộng sản. Chúng ta phải giữ gìn miền Nam, đừng cho chúng thôn tính nốt. Hiện nay Việt Minh đã bí mật chôn dấu vũ khí, bố trí cán bộ lén lút ở lại hoạt động, phá hoại công cuộc kiến thiết của chúng ta. Muốn diệt cái họa Cộng sản, phải đoàn kết các giáo phái. Chúng tôi đã thuyết phục được một số tướng lĩnh Cáo Đài, Hòa Hảo. Họ chịu đưa quân về sát nhập Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Các vị tướng lãnh đó được phong trướng trong quân đội chính quy, ngoài ra còn được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Tôi đề nghị thiếu tướng hợp tác với chúng tôi.
Bảy Viễn chuẩn bị trước nên đáp ngay:
- Xin cảm ơn mỹ ý của thủ tướng. Tranh đấu cho độc lập tự do từ lâu đã trở thành khẩu hiệu của lực lượng Bình Xuyên chúng tôi. Trong thời gian kháng Pháp, chúng tôi đã lập một giang sơn riêng biệt. Việt Minh không vô được và Pháp cũng không vô được. Chúng tối có cách đánh riêng, thích ứng với thiên thời, địa lợi. Nay thủ tướng đề nghị tôi sát nhập với quân đội chính quy, tôi e là bộ đội Bình Xuyên sẽ không thể tác chiến hữu hiệu như trước. Do đó việc sát nhập chỉ có hại hơn có lợi. Chi bằng thủ tướng cứ làm y như Pháp trước đây, tức là chia vùng cho các giáo phái chống Việt Minh tiếp tay với quân đội trung ương.
Diệm không phải là một nhà ngoại giao nên mất bình tĩnh trước một đối phương có lập trường khác hẳn với mình. Cuộc gặp gỡ kết thúc hết sức nhanh chóng. Không đầy ba mươi phút, Bảy Viễn rời dinh Độc Lập.

Chú thích:
(1) Sau khi cướp chính quyền 25/8/1945, dinh Norodom gọi là dinh Độc Lập.

CHƯƠNG 58

Nhưng Diệm chưa chịu thua cuộc. Cuối tháng 12-1954, hắn lại nhờ tiếng Ô Đa-nhen thuyết phục Bảy Viễn lần nữa. Ô Đa-nhen tới tổng hành dinh Bảy Viễn ở Chánh Hưng sau khi gọi điện hẹn trước. Ô Đa-nhen đi thằng vào đề:
- Không thể có nhiều quốc gia trong một quốc gia, Cao Đài, Hòa Hảo ngang nhiên chiếm cứ các tỉnh ở Tiền Giang và Hậu Giang, làm trở ngại công việc thống nhất quốc gia, phá hoại quốc sách chống cộng của thủ tướng Ngô Đình Diệm. Đề nghị thiếu tướng bỏ rơi hai giáo phái này cho quân đội Cộng hòa tiễu trừ. Chỉ trong vòng một tuần là xong.
Bảy Viễn mỉm cười. Tên Ô Đa-nhen này sao giống y tướng Lơcờle (Leclerc)! Hồi mới sang Việt Nam, Lơcờle khoác lác tuyên bố chỉ trong vòng ba tháng là bình định xong miền Nam.
- Một cuộc nội chiến sẽ tiêu diệt hết những chiến sĩ chống cộng trong các giáo phái. Lợi đâu chẳng thấy chỉ thấy có hại. Các ông nên bình tĩnh tìm giải pháp hay hơn…
Ô Đa-nhen nóng nảy:
- Người Mỹ không phải là người Pháp. Pháp yếu nên mới dung dưỡng giáo phái. Còn Mỹ mạnh, Mỹ không cần giáo phái tiếp tay diệt cộng.
Bảy Viễn:
- Nếu các ông muốn thì giải giới giáo phái từ từ. Nếu làm thô bạo, các ông sẽ đẩy họ vào con đường nội chiến. Nên nhớ là cán bộ Việt Minh đang lén lút ẩn náu ở nông thôn. Rất có thể trong bước đường cùng, giáo phái sẽ bắt tay với Cộng sản.
Toan tính xé lẽ Bảy Viễn của Ô Đa-nhen thất bại cũng như ý đồ của Diệm trước đó. Ô Đa-nhen hậm hực ra về. Nhưng hắn vẫn tin tưởng có thể mua được Bảy Viễn.
Tháng giêng năm 1955, Bảy Viễn lên Đà Lạt đi săn. Ô Đa-nhen muốn gặp Bảy Viễn gấp nên đề nghị tướng Ê-ly đưa trực thăng lên Đà Lạt rước Bảy Viễn về Sài Gòn. Nhưng Bảy Viễn đã biết Ô Đa-nhen quá nhiều: Nói chuyện với hắn ta chỉ phí thời giờ thôi.
Hồ Hữu Tường trách Bảy Viễn say mê săn cọp Lâm Đồng mà bỏ qua một cơ hội thăm dò ý đồ Mỹ-Diệm. Theo Hồ Hữu Tường thì Ô Đa-nhen vội vàng muốn gặp Bảy Viễn là có lý do. Hình như chúng đã thành công trong việc mua chuộc một số tướng lĩnh giáo phái và nhân đó muốn khuếch trương chiến quả làm áp lực để Bảy Viễn ngã theo chúng. Có tin đồng Trần Minh Thế đã bị mua với giá hai triệu đô la, tính theo bạc Việt Nam thời đó là 70 triệu. Nhưng việc đại tá Thế “phản Trụ đầu Châu” không gây một tiếng vang như Mỹ-Diệm trong đợi vì Thế chỉ có hai ngàn rưới binh sĩ trong khi tướng quan trọng nhất của Cao Đài là Nguyễn Thành Phương nắm trong tay hai mươi lăm ngàn quân, đông gấp mười lực lượng đại tá Thế. Nghe tin Diệm sẽ đóng cửa Đại Thế Giới và Kim Chung để buộc Bảy Viễn ngã theo Mỹ, Bảy Viễn bí mật bay qua Pháp gặp Bảo Đại bàn kế đánh Diệm. Chỉ có cách dùng quân đội tướng Hinh đảo chính là ăn chắc. Bảo Đại đồng ý đồng thời tán thành việc b liên minh các giáo phái chống Diệm.
Lập tức Bảy Viễn bay về Sài Gòn liên lạc với hộ pháp Phạm Công Tắc và được Phạm Công Tắc hứa liên minh chống Mỹ-Diệm tới cùng. Hiện Phạm Công Tắc còn nắm được tướng Nguyễn Thành Phương và để chứng minh thái độ liên kết đó, Phạm Công Tắc ra lệnh cho tướng Phương phái một tiểu đoàn Cao Đài đến chiên đấu trong bộ đội Bình Xuyên. Tiểu đoàn nay do thiếu ta Bay chỉ huy.
Bảy Viễn liên lạc ngay với Năm Lửa và được biết chính tướng Ô Đa-nhen cũng đã tiếp xúc với Năm Lửa và đề nghị Năm Lửa không can thiệp trường hợp quân đội Việt Nam Cộng Hòa tấn công Bình Xuyên. Bảy Viễn đập bàn hét lớn:
- Đ.m thằng đểu! Phải biết vậy mình bẻ cổ nó ngay khi nó tới đây dụ dỗ mình “án binh bất động” để chúng là thịt bộ đội giáo phái.
Năm Lửa phấn khởi khi biết Phạm Công Tắc và tướng Phương cương quyết trong liên minh. Năm Lửa cấp tốc đưa một tiểu đoàn Hòa Hảo đặt dưới sự chỉ huy của Bình Xuyên phòng khi Diệm tấn công Bảy Viễn. Tiểu đoàn này do thiếu ta Quăn chỉ huy.
Bảy Viễn liên lạc với tướng Ê-ly xin tăng cường. Tướng Ê-ly ra lệnh tướng Hinh gởi tiểu đoàn dù của thiếu ta Phước tăng cường lực lượng giáo phái. Song song với cuộc vận động chia rẽ giáo phái, Diệm thẳng tay đánh các đảng chính trị, chọn đảng lớn đánh trước. Đảng Đại Việt bị tấn công tới tấp, các đảng bộ ở thông quê bị Diệm “chụp” chớp nhoáng, đảng viên bị hốt về giam chật khám. Trong tình hình khốn đốn đó, đảng Đại Việt tìm Mặt trận Quốc gia Toàn lực do Bảy Viễn đứng đầu xin được bảo vệ về quân sự. Đồng thời để phản công về mặt chính trị, lãnh tụ Đại Việt là bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn vận động đại sứ Donald Heath cấp giấy phép sang thủ đô Oa-sinh-tơn trình bày nạn độc tài diệt đảng phải của Ngô Đình Diệm.
Sau đảng Đại Việt là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đảng này cũng tìm tới Mặt trận Quốc gia Toàn lực của Bảy Viễn, khiến cho đến lúc này lực lượng giáo phái mà Bình Xuyên là nòng cốt có vẻ mạnh hơn bao giờ hết.

CHƯƠNG 59

Trên cương vị Bí thư tỉnh ủy Bà Chợ, Bảy Khánh đặc biệt quan tâm nhiệm vụ cụ thể Xứ ủy Nam Bộ giao cho anh là nắm Bình Xuyên và các giáo phái. Mỹ Diệm sẽ không dung dưỡng giáo phái như Pháp. Pháp là kẻ yếu, phải chia bớt quyền hành để các giáo phái tiếp tay chống Việt Minh ở từng địa phương. Còn Mỹ là kẻ mạnh, sẽ không chia quyền cho ai, sẽ đập tan các giáo phái mà quan trọng nhất là Bình Xuyên, vì bộ đội Bình Xuyên trước đây đã từng theo Việt Minh chống Pháp.
Trong công tác liên lạc với Bình Xuyên, Bảy Khánh nhớ ngay đến các anh Bảy Môn vf Mười Lực là hai tay tài đánh giặc, vì lão già râu kẽm Nguyễn Đức Huy o ép sau vụ tảo thanh Rừng Sác nên phải trốn về thành. Bảy Khánh tin tưởng hai anh này là người yêu nước.
Người thứ ba mà anh nhắm là Năm Chảng, chi đội trưởng Chi đội 2. Sau tảo thanh anh về Khu học văn hóa bổ túc, kết nạp Đảng và đưa về thành công tác Bình Xuyên vào năm 1951. Bảy Viễn tin Năm Chảng, nhưng mấy tên chầu rìa như Ba Quảng nghi anh là người của Việt Minh, ngay đêm theo dõi khít rim. Về cả năm, Bảy Viễn không giao công tác nào quan trọng, Năm Chảng đã bí mật gởi thư ra Khu cho biết tình hình đang bị nghi kỵ và chưa làm được gì cho kháng chiến. Bức tâm thư đó, anh em trong Khu rất quý vì đây là tâm tư tình cảm của một đảng viên đang hoạt động đơn độc trong lòng địch. Giữa cảnh ăn chơi trác táng diễn ra hàng ngày – anh được giao trông coi an ninh trật tự tại các sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, người đảng viên vẫn giữ tâm hồn trong sạch như lúc còn đóng quân trong mấy cái tắt ở giữa rừng sâu.

*****

Công việc cấp bách nhất bây giờ là bố trí cán bộ đi, ở và vô mỡ bò đóng gói súng ống bí mật chôn dấu, phòng khi địch vi phạm hiệp định. Thấm thoát đã đến thời hạn 80 ngày chuyển quân của vùng Xuyên Mộc – Hàm Tân. Bảy Khánh không thể nào quên đêm thắp đuốc giữa rừng tiễn đưa anh em đi Xuyên Mộc để đáp tàu ra Bắc. Tất cả đều bùi ngùi xúc động. Chưa bao giờ anh thấy yêu khu rừng miền Đông đến thế. Tuy quê anh là Ba Tri, tỉnh Bến Tre, nhưng trong những năm dài, anh chiến đấu trong các khu rừng miền Đông “gian lao mà anh dũng” và xem nơi đây cũng thân thương gần gũi như mảnh đất chôn nhau của mình. Ánh đuốc bập bùng giữa rừng thu trong đêm chia tay là một kỷ niệm nhớ đời. “Đi là chiến thắng, ở là vinh quang”. Vinh quang đâu chưa thấy, chỉ biết là ngày mai này, địch sẽ mở cuộc hành quân tiến chiếm vùng “độc lập” mà cả chục năm qua chúng không dám đặt chân đến. Kể từ giờ phút này, người được Đảng phân công ở lại phải đổi nếp sống. Thay vì rừng cây, phải tạo rừng người. Đồng bào yêu nước ở miền Nam sẽ là những khu rừng bảo vệ các anh.
Trang bị một giấy căn cước giả, Bảy Khánh về Sài Gòn. Bà Cờ với xóm bình dân là “khu rừng” anh tạm nương náu để hoạt động… Hàng ngày Bảy Khánh theo dõi báo chí và các đài phát thanh để nắm vững tình hình. Anh thấy rõ là Mỹ quyết tâm nhảy vào Đông Dương thay Pháp củng cố thế lực Diệm để dần dần hất cẳng Bảo Đại. Nhưng Diệm đang gặp khó khăn vì các giáo phái sớm biết liên kết lại thành một khối trong Mặt trận Quốc gia Toàn lực. Mối nguy cơ cấp bách của Diệm chính là tướng Hinh. Một cuộc đảo chánh được mọi người bàn tán công khai tại các quán cà phê…
Một hôm đi dạy học về, Bảy Khánh gặp Chín Đạo, cán bộ quân báo cấp Nam Bộ. Chín Đạo nói:
- Cha con nó sắp đánh nhau tới nơi! Tháng chín rồi, Diệm ra lệnh cho Hinh phải rời Việt Nam, giao chức tham mưu quân lực Việt Nam cho thủ tướng. Hinh “phớt ăng lê” và xúc tiến cấp tốc âm mưu đảo chính. Đúng vào lúc đó Lansdale gợi ý cho Magsaysay điện qua mời các sĩ quan cấp cao của tướng Hinh sang thăm viêng Phi-lip-pin. Vài ngày sau, một phi cơ riêng của tống thống Magsaysay tới Sài Gòn đưa phái đoàn sĩ quan Việt Nam sang Mini. Tướng Hinh bị Diệm chơi một cú đau điếng. Lúc Hinh cần đám “binh tôm tướng cá” để lật Diệm thì chúng được tổ rước đi du hí cả tuần!... Anh coi thằng trời đánh Lansdale thâm hiểm chưa?
- Anh Chín đúng là quân báo. Chuyện trong ruột gan chúng nó mà anh cũng “rành sau câu”, làm như anh là người bên trong…
Chín Đạo cười thích thú:
- Sách có chữ, “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”… Bây giờ bàn tới công tác tụi mình đây. Đảng giao cho tụi mình nắm mấy cha Bình Xuyên, anh làm tới đâu rồi?
- Không được nhiều lắm. Chỉ mới đặt quan sát viên thôi. Tin đầu tiên thu nhận được là hiện nay các tay đầu cơ chính trị đổ xô nhau kiếm ghế bên cạnh Bảy Viễn. Quan trọng hơn hết là tên trốt kít Hồ Hữu Tường. Hắn tự nhận là mưu sĩ của nhóm giáo phái với thuyết ba chân vạc… Bọn chính khách xa-long lâu nay phất phơ ở thành phố tấp vô Bình Xuyên không có gì là lạ. Lạ là Trình Khánh Vàng, Khu bộ phó Khu 9 chạy theo Bảy Viễn… Anh có biết hăn được Bảy Viễn giao cho một đài phát thanh để chửi Ngô Đình Diệm tối ngày sáng đêm không?
- Có, tôi có biết. Và cũng nghe tên Văn Thiệt gằn từng tiếng thóa mạ cả dòng họ nhà Ngô. Tay này chửi tài thật. Anh em nhà Ngô mà nghe hắn chửi chắc tức trào máu…
Chín Đạo hăm hở:
- Mình phải tìm cách liên lạc với anh em Bình Xuyên ngay. Tình hình đã chín muồi. Không bắt tay ngay sẽ hỏng việc lớn. Những người của mình trong hàng ngũ Bình Xuyên, anh đã tiếp xúc được chưa? Bảy Môn, Năm Chảng, Thái Sư Tử, Tám Hoe, tay nào ngon lành?
- Mười Lực và Bảy Môn là người tốt, nhưng tôi tin tưởng Năm Chảng hơn hai hết vì Năm Chảng là đồng chí mình. Anh được kết nạp trước khi được phân công tác về thành móc nối với Bảy Viễn. Hiện ảnh đang trông coi an ninh trật tự tại Đại Thế Giới. Tôi đã cho người thăm dò. Có thể qua Năm Chảng mà mình tìm hiểu lập trường của Bảy Viễn trong lúc này…
Chín Đạo gật gù:
- Tôi và anh sẽ tìm cách tiếp xúc với Năm Chảng ngay…


Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 1
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 2
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 3
Người Bình Xuyên - Nguyên Hùng. Phần 5

Không có nhận xét nào: