Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Ván bài lật ngửa - Phần 1+2

PHẦN 1

CHƯƠNG 1

Khẩu mắc-xim (1) trên miarađo (2) vẫn tiếp tục nhả đạn. Từ cao, giọng ục ục của nó càng hách dịch, lấn át tiếng nổ rộ thật căng của hàng trăm súng trường, tiểu và trung liên khác. Giữa đêm tối, đạn của nó vạch một đường đỏ ối, xắt khu trung tâm khỏi vòng ngoài đồn đã bị quân ta tràn ngập. Cũng từ miarađo, thỉnh thoảng một quả lựu đạn O.F nụ xòe sáng rực lao xuống vùng bóng đen và tiếp liền tiếng nổ “oành” thách thức.
Luân xem đồng hồ tay: 1 giờ 25. Trận đánh đã kéo dài hơn tiếng đồng hồ rồi. Tiểu đoàn chủ lực của anh – tiểu đoàn 420 – nhận nhiệm vụ hạ đồn Biện Tạ trong chiến dịch giải phóng tuyến kinh Phụng Hiệp. Đồn Biện Tạ phụ trách hệ phòng thủ nam huyện lỵ, là căn cứ cấp đại đội mạnh nhất. Khu đồn chia làm ba cụm lô cốt, giữa có một đồn xây đá. Một trung đội Âu Phi thủ nơi xung yếu nhất, ba trung đội BVN (3) thủ ba cụm lô cốt. Chỉ 5 phút sau khi bộc phá mở rào, tiểu đoàn 420 đã làm chủ ba cụm lô cốt. Nhưng tiểu đoàn không thể tiếp cận bọn Âu Phi chỉ vì cái miarađo quái ác kia.
Những cáng thương binh ì ọp lội trên ruộng – mùa khô bắt đầu hơn tháng nay, song đám ruộng quanh đồn Biện Tạ lọt vào chỗ trũng, vẫn còn sình nhão. Mỗi lần cáng thương binh qua mặt anh, Luân xốn xang như nằm trên ổ kiển lửa.
Tiếng súng quanh đây, có vẻ đã ngưng. Nghĩa là các đơn vị địa phương đã thu xếp gọn hàng chục đồn và lô cốt lẻ. Trong khi đó, “anh Hai 420” chưa “tính sổ” xong đồn Biện Tạ.
Luân liếc chừng Vũ Thượng. Ánh sáng của hỏa khí từng chặp lóe lên gương mặt người chính trị viên – hàm anh nổi vồng. Nhưng tại sở chỉ huy trận đánh hôm nay còn có một nhân vật cao hơn: Lưu Khánh. Ông mang cấp chức Liên trung đoàn phó, đặc phái viên của Bộ tư lệnh phân liên khu.
Lưu Khánh ngồi bẹp phía sau một công sự đất, mùi bùn nực mũi. Quanh ông, máy ragônô quay nặng nề, ma-níp của hiệu thính viên gõ liên hồi. Cằm vuông, râu cạo nhẵn nhưng vẫn để lại một vệt xanh chạy từ mang tai. Lưu Khánh nghiêm nghị giống như truyền thuyết về ông ta: cười một phần mười mép, hà tiện lời đến mức ngôn ngữ của ông chỉ quanh quẩn có: ừ, không, thôi được, hử, coi chừng…
- Anh Sáu ơi!
Rốt cuộc rồi Luân phải cất tiếng:
- Cái gì? - Lưu Khánh không rời cái miarađo, hỏi cộc lốc.
- Cho tôi vô… - Luân cũng dè xẻn lời nói.
- Chi?
- Buộc khẩu 13,2 im…
- Được không?
- Được!
Lưu Khánh gọi:
- Sa đâu?
Từ bờ mẫu, một chú bé chừng 14, 15 tuổi trả lời:
- Em đây!
- Chú theo anh Bảy… đến bờ rào, gặp anh Út, tiểu đoàn phó…
- Dạ.
- Không được vô trong rào.
- Dạ.
- Chú nhớ!
- Dạ.
- Đi đi!
Quyến, cán bộ truyền tin, có dáng một học trò, nhân lúc nghỉ tay, châm chọc Sa:
- Rồi anh Sáu coi, thằng Sa thông đồng với anh Bảy…
- Nó vô trại, kỷ luật! – Lưu Khánh lạnh lùng.
- Anh Quyến phá em đó. – Sa xịu mặt.
- Để coi… - Vũ Thượng dậm dọa thêm.
*
… Luân và Sa trườn sát mặt ruộng. Chốc chốc một viên cối cỡ 60 ly mồ côi, một viên mọt-ta bay xè xè, ghé hoặc trước hoặc bên hông họ, miểng văng rào rào.
Sa trườn vài thước lại nhìn Luân.
- Anh Bảy…
- Cái gì?
- Tới rào thôi, nghen…
- Ừ...
Sa về tiểu đoàn chưa được bao lâu. Đang học trường trung học Tiền Phong, cậu giãy nảy, nhất định đòi đi lính. Ban giám đốc trường chịu thua cái nước lì của Sa, gửi cậu đến tiểu đoàn. Ngay từ ngày đầu, Sa được gọi lên Ban chỉ huy. Tiểu đoàn trưởng ngắm nghía cậu một lúc, quyết định giữ cậu làm liên lạc riêng cho ông ta. Sa thối chí. Cậu xin đi lính đâu phải mong núp bóng ông tiểu đoàn trưởng? Rời văn phòng tiểu đoàn về chỗ nghỉ, Sa lầm bầm mãi. Điệu này phải làm đơn gửi lên khu mới xong. Sa hỏi han, biết tiểu đoàn trưởng tên Bảy Luân, thuộc loại “xung phong trước lính”. Giữa lúc Sa rầu rĩ thì có lệnh gọi: Sửa soạn đi “công tác” với anh Bảy.
- Ối, thì cũng “cơm nước, trà lá” vậy thôi…
Sa từng biết vai trò của các “tiểu đồng” theo “phò” các chỉ huy. Bởi vậy, cậu uể oải xuống nhà bếp xin đường, trà…
- Không có! – trưởng quản trị tiểu đoàn xua tay đuổi Sa.
- Thằng nhỏ này ghiền trà tới giấc rồi! – Anh ta còn ném theo Sa một câu nhận xét độc địa.
- Tôi mà ghiền! Tôi xin cho tiểu đoàn trưởng đó.
Sa quay lại nghinh anh quản trị.
- Tiểu đoàn trưởng đâu biết uống trà, đừng có xạo!
Quản trị trưởng ong óng. Sa không tin lời anh ta.
Tưởng tiểu đoàn trưởng đi công tác rần rần, rộ rộ, ai dè tổng cộng có ba “chư”: tiểu đoàn trưởng, Quyến và Sa. Quyến là trung đội phó truyền tin, song hễ có người thay ngồi ở maníp thì anh ta xung phong chèo xuồng.
Xuồng rời Biển Bạch, xuôi Sông Đốc. Lợi dụng gió thuận, họ cắm trước mũi xuồng hai tàu dừa nước thay buồm. Xuồng lao vun vút. Sụp tối, họ ghé Xóm Sở.
- Chú Quyến vo gạo, chú Sa nhúm lửa…
Luân phân công cho hai người. Anh xách cần câu ra ruộng.
Họ không vào nhà dân mà nấu nướng ngay ở bờ sông. Luân mang về cả chục con cá lóc. Bữa cơm rất tươm tât.
Sa bắt đầu thích tiểu đoàn trưởng. Cậu đã tin lời quản trị trưởng: Tiểu đoàn trưởng không trà lá gì ráo.
Đêm đó, họ theo Rạch Rập, nép sát thị trấn Cà Mau, vòng qua kinh xáng Đội Cường.
Hai hôm sau, trận Đầu Gừa nổ ra. Luân trực tiếp nắm một đại đội và đại đội đã chiếm cái bót nằm giữa Cà Mau – Tắc Vân chỉ tốn không quá mười phút. Trong trận, Sa thiếu điều xỉu vì phải bám sát tiểu đoàn trưởng giữa lưới đạn đan chéo, có viên quạt rát da mặt.
Từ hôm đó, Sa dự đến năm sáu trận. Bây giờ có ai hỏi “làm liên lạc khoái không” thì cậu cười nhe chiếc răng lòi xỉ:
- Nhất trần đời!
*
… Gần tới rào, bỗng Luân nằm lại. Sa sợ ‎qu‎ính:
- “Bị” rồi hả anh Bảy?
Luân không trả lời, một loáng sau anh trườn ngang Sa. Té ra anh cởi hết quần áo, chỉ giữ khẩu “Côn” nơi bụng. Tác người nhỏ thó, da hơi ngăm, Luân tiệp với màu trời.
Khẩu mắc-xim “ục ục” tiếp từng ba viên một.
- Thằng Tây nào bắn khá quá! – Luân nhận xét.
Tiểu đoàn phó – một người cao lêu nghêu, anh đi khom mà y người ta sổng lưng – tóm tắt tình huống trận đánh: diệt và bắt sống ba trung đội ngụy, nhưng chưa biết phải “xử” cái đồn giữa ra sao.
- Được!
Luân nói thật gọn. Rồi anh vọt qua rào đang ngún khói. Sa muốn níu anh lại song không kịp. Thật tình, Sa chẳng ưa gì phải nằm với Luân tận ngoài rào.
Luân đã ngồi vào cửa lô cốt – bên trong, vài chục lính ngụy tay đặt lên ót, im re, nhìn Luân với nỗi kinh ngạc – hình như có tên cố nén cười nữa. Luân chẳng để ý đến bọn lính, anh ngắm nghía cái miarađô nổi bật trên nền trời trong vắt đầy sao.
- Cho tôi một khẩu VB (4)… - Luân bảo.
Người ta chuyển đến anh khẩu súng mút, mấy quả trômblông. Anh gắn quả trômblông vào quặng ở đầu súng, giương súng ngắm miarađo, lấy cự ly.
Sa vừa theo dõi tiểu đoàn trưởng, vừa liếc đám tù binh, có vẻ như muốn nói: các người thấy tiểu đoàn trưởng của tôi không?
- Tất cả nép kín phía trong tường!
Ra lệnh dứt, Luân bấm cò. Quả trômblông phóng lên không trung, giống cái đuôi sao chổi. Nó rơi ngay nóc miarađo, một tiếng nổ không lớn lắm và liền sau đó, khẩu mắc-xim câm họng.
Luân bắn thẳng quả trômblông thứ hai vào cửa đồn. Số phận đồn Biện Tạ được kết thúc.
Một số tù binh ngụy, dù lệnh buộc phải đặt tay lên ót vẫn chồm ra ngoài nhìn cái miarađo chìm trong ánh lửa, miệng không ngớt hít hà thán phục tài bắn của viên chỉ huy Việt Minh mà mắt thì vẫn cười cười.
Khi quân ta hò reo xông vào đồn, Luân mới hiểu tại sao họ cười: anh trần truồng, chiếc quần quấn cổ.
---
(1) Một loại đại liên
(2) một loại tháp canh lô cốt
(3) Bataillon Việt Nam - Tiểu đoàn Việt Nam (thuộc Liên hiệp Pháp)
(4) Một loại súng phóng lựu

CHƯƠNG 2

Luân và Vũ Thượng ngồi mãi trước tấm bản đồ trải trên đệm. Sau lưng họ, cán bộ tham mưu, chính trị, các đại đội trưởng, tất cả đều chờ đợi ý kiến của ban chỉ huy. Chẳng là Bộ tư lệnh quyết định mở chiến dịch lớn, phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn 420 được phân công thanh toán các đồn nằm giữa Phụng Hiệp và Cái Răng. Cục diện Đông Xuân năm nay thuận lợi hơn bất kỳ năm nào trước đây. Toàn bộ lực lượng tinh nhuệ của Pháp co cụm về quanh các thành phố lớn, một số phải dự cuộc hành quân Atlăng (1), một số phải tiếp ứng cho Bắc Bộ, giữ miền Tây Nam Bộ chủ yếu là các tiểu đoàn ngụy mới thành lập. Ta có khả năng dẫy hàng mảng đồn bót, giải phóng hằng khu vực rộng.
Đã quá giờ ăn – tu huýt thổi hai lần rồi – mà chưa ai chịu rời bản đồ.
- Trong tuyến này, tổng cộng 16 đồn và lô cốt. Nếu ta đánh bứt đồn Nhà Thờ thì cả tuyến sẽ rã. Cho nên, tôi đề nghị trinh sát liền đồn Nhà Thờ, có thể cường tập, có thể chặn chúng khi chúng ra khỏi đồn, có thể kỳ tập… Hóa trang kín dưới ghe chở cá, bất thần xung phong… - Luân gợi ý các phương án.
- Nếu kỳ tập, chính anh giành đi theo ghe, phải không?
Vũ Thượng cười. Mọi người cười theo. Sa và Quyến ngồi ở nhà bếp cũng ngó nhau cười. Vũ Thượng đoán trúng quá.
- Thì… - Luân ấp úng. Sự bẽn lẽn của anh càng khiến mọi người cười to hơn.
- Báo cáo, có điện khẩn.
Đồng chí cơ yếu hấp tấp bước qua sân, đứng nghiêm. Vũ Thượng nhận điện, đọc vội rồi trao cho Luân.
- Bộ Tư lện gọi anh – Vũ Thượng bảo.
- Không phải Bộ tư lệnh. Anh Dương Quốc Chính điện, song bảo “đến chỗ anh Sáu Ú”… tức là đến Trung ương cục…
- Chắc các anh muốn căn dặn điều gì đó… - Vũ Thượng xem lại điện.
- Cha! … - Luân tắc lưỡi – Đang triển khai mà…
- Đi một ngày một đêm là tới Bờ Đập. Làm việc xong, quay về, trinh sát cũng chưa báo cáo kịp với anh đâu… Cứ yên trí mà đi – Vũ Thượng xếp bản đồ nói.
- Vậy các đồng chí tham mưu chính trị ở nhà trao đổi thêm kế hoạch. Các đại đội cho lính nghỉ ngơi lấy sức, trinh sát nắm tình hình khu vực được phân công. Ở Cần Thơ, Sóc Trăng tụi nó còn mấy tiểu đoàn BVN vừa huấn luyện xong, một trung đoàn Âu Phi quân số thiếu… Cho nên, các đồng chí phải tính đến nhiều tính huống. đánh ven lộ, chú ý pháo. Cụm pháo 105 Phụng Hiệp gần đây thêm ba khẩu 155. Các đồn đều nhận thêm cối… Đó là khí tài của chiến tranh Triều Tiên, Mỹ viện trợ cho Pháp.
Khi các cán bộ rời sở chỉ huy, Luân than thở với Vũ Thượng:
- Tôi ngại ông Lưu Khánh rút 420 về bảo vệ Trung ương cục quá!
Vũ Thượng lắc đầu:
- Không có lý … Đang tập trung lực lượng ra phía trước mà!
- Tôi mang theo tất cả bản đồ. Biết đâu các anh lại quyết định đưa 420 lên Long Tuyền, Nhơn Ái, hoặc xa hơn, đưa hẳn lên Long Châu Hậu (2).
Luân phấn khởi trở lại. vài phút sau anh đã ngồi xuống chiếc tam bản cà rèm. Sa và Quyến ướm thử quai chèo. Chiếc tam bản rời bến, phóng đi…
---
(1) Pháp mở chiến dịch Atlan ở Tuy Hòa
(2) Một tỉnh cũ thời kháng chiến chống Pháp, gần phần hữu ngạn sông Hậu của Long Xuyên và Châu Đốc

CHƯƠNG 3

Luân bắt tay anh Tư thật chặt. Đã hơn 8 năm Luân mới gặp lại anh Tư. So với hồi đó, anh Tư mập hơn đôi chút, song da vẫn ủng, mắt thâm quầng và nhất là vẫn ho khúc khắc.
Hai người hỏi thăm nhau vài câu rồi Luân xin phép được làm việc. Nhìn số cán bộ ngồi chật nhà bên, Luân biết sáng nay, anh Tư còn tiếp có lẽ cả chục khách nữa là ít. Trải tấm bản đồ vùng Phụng Hiệp lên bàn, Luân cầm bút chì, chỉ vào hướng 420 sẽ tấn công.
- Thưa anh, đây là đường xe Phụng Hiệp – Cần Thơ…
- Nhưng hôm nay tôi gặp anh để bàn chuyện khác! – Anh Tư ngăn Luân.
Luân sững sờ. Anh Tư tươi cười:
- Chuyện khác quan trọng hơn chuyện giải phóng tuyến Phụng Hiệp… Anh đọc điện này sẽ rõ.
Bức điện thượng khẩn và tuyệt mật của Trung ương Đảng.
“Quyết tâm của Trung ương diệt chủ lực địch ở Điện Biên Phủ. Các chiến trường cần khẩn trương phối hợp. Sau thắng lợi lớn này, tình hình chính trị có thể có đột biến”.
*
Luân gặp anh Tư lần đầu – và mãi hôm nay mới gặp lại – đúng vào lúc Nam Bộ kháng chiến mở màn.
Dựa vào quân Anh – chiêu bài của chúng là thay mặt cho Đồng minh giải giới quân đội Nhật ở Nam Đông Dương – Pháp cùng một lúc chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Tòa đốc lý, Sở công an. Nhật ngầm tiếp tay Pháp, vũ trang cho chúng. Tình hình nói chung là bất lợi đối với ta – vừa giành chính quyền xong, chưa kịp tổ chức lực lượng, thiếu vũ khí.
Dưới ánh đèn dầu mờ mờ trong một căn nhà lọt giữa xóm lao động bên kia Cầu Bông, anh Tư truyền đạt các chỉ thị khẩn cấp của Thành ủy. Luân chưa hiểu anh Tư là ai. Dong dỏng cao, da trắng bệt, mắt trõm, thỉnh thoảng ôm ngực nén cơn ho cơ hồ xé phổi, lại luôn cười đôn hậu, nói không văn vẻ - hơi lộn xộn nữa – nhưng dễ hiểu, anh đã gieo ấn tượng mạnh trong Luân qua phong thái ung dung giữa bốn hướng súng nổ rộ.
Luân là một trong những người hăng hái nhất hôm đó. Anh không để ý lắm các phân tích tình hình của anh Tư.
- Theo tôi, cái cần nhất hiện giờ là súng. Xin cho súng. Có súng, chúng tôi tự biết liền cách đánh!
Luân đặt vấn đề bốp chát như vậy.
Anh Tư nhìn Luân, vẫn tươi cười:
- Anh bạn! Nếu chúng ta có đủ súng thì hà tất phải ngồi đây bàn với nhau cả buổi trời. “Cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẩy quả đất cho mà xem”. Hình như câu nói đó của Acsimet (1). “Cho tôi súng, tôi sẽ rượt bọn Gra-xi(2) chạy vắt giò lên cổ cho mà xem”. Đến lượt anh bạn, Acsimet thời nay!
Đối với Luân, cuộc nói chuyện không lấy gì làm thú vị. Tuy vậy, sau đó, anh được phái ra Hà Nội và trở về Nam với một chuyến xe lửa đầy súng đạn. Rồi anh quay ra Hà Nội. Lần sau, chuyến xe lửa đầy vũ khí phải dừng lại Quảng Ngãi – đường phía trong đã bị Pháp chiếm. Thế là Luân chuyển vũ khí bằng thuyền. Anh công tác ở Phòng liên lạc miền Nam năm 1947.
*
Là một kỹ sư vừa tốt nghiệp, Luân mang tật cao ngạo của số đông trí thức lúc bấy giờ. Suốt thời gian học đại học, Luân ít giao du. Với anh, kiến thức và chỉ kiến thức là cái đang thu thập. Bởi vậy, mặc dù quanh anh không khí chính trị sôi sục, Luân vẫn cắm đầu học. Nhật đã đổ bộ vào Đông Dương, chiến tranh thế giới và Thái Bình Dương càng lúc càng gay gắt, Luân chỉ nghe mà không hề tỏ thái độ. Ngoài sách chuyên môn – anh theo ngành canh nông – anh giải trí bằng truyện trinh thám, món giải trí đến với anh từ lúc anh còn ở bậc trung học trường Chasseloup Laubat. Về thể thao, anh chơi quần vợt – chơi khá giỏi.
Sinh trưởng trong một gia đình hội tụ gần như đủ tất cả các điều kiện để được gọi là “thượng lưu” – trí thức, Pháp tịch, đạo Thiên chúa – Luân, Robert Nguyễn Thành Luân, lại thích lối sống khắc khổ. Có thể anh là con áp út – về con trai anh là út – phải ở với bà nội và học tiểu học tại tỉnh lẻ, cho nên Luân gần gũi hơn so với các anh chị, nếp sinh hoat nông thôn.
Luân là người duy nhất trong gia đình không đỗ đạt bên Pháp. Sự lựa chọn ngành của anh hoàn toàn là một cử chỉ hiếu đễ: bà nội anh thích trồng trọt. Còn nói về nguyện vọng riêng, chính anh mơ ước trở thành một nhà trinh thám tư – một ngành thực tế không có chỗ dùng ở Viêt Nam.
Cần nói thêm cho thật chính xác: anh không sang Pháp vì khi anh đậu tú tài, đường sang Pháp bị chiến tranh làm gián đoạn.
Nhận xong bằng kỹ sư – lễ phát bằng uể oải như guồng máy chạy cầm chừng của nhà nước Pháp ở Đông Dương. Luân về Nam. Chính trên chuyến xe lửa chỉ thì thụt ban đêm và kéo khá dài ngày đó, Luân bắt đầu thay đổi cách suy nghĩ.
Tình cờ một bạn học nằm chung “cút-sết”(3) với anh, anh bạn học này tên là Quý, quê Nam Định, sinh viên ngành y, sống chung với anh nhiều năm ở Đông Dương học xá. Bỗng một dạo, Quý bỏ học. Tin đồn đại trong bạn học: Quý lên chiến khu, theo ông Võ Nguyên Giáp. Khi Luân ra Hà Nội, ông Võ Nguyên Giáp không còn dạy trường Thăng Long, ngôi trường nổi tiếng ở phố Ngõ Trạm, xong tên ông Giáp thì nghe bạn học rỉ tai, đầy thán phục.
Xe vào đến ga Đò Lèn, Quý mới có mặt trong toa. Gặp Luân, Quý hơi lúng túng. Nghĩa là Quý mua vé đi từ Hà Nội mà không lên xe tại ga Hàng Cỏ. Có lẽ tính toán khá lâu, sau cùng Quý nói thẳng với Luân.
Đúng như tin đồn đãi, Quý lên Tuyên Quang, dự lớp quân chính, cùng nhiều học sinh sinh viên khác. Bây giờ. Quý vào Nam, liên lạc với Việt Minh trong đó. Quý kể nhiều chuyện chiến khu, Luân thích nghe đến nỗi, khi xe đỗ lại tránh máy bay ban ngày – thường giữa vùng rừng núi quạnh quẽ - anh cũng không rời Quý một bước.
Tới Sài Gòn, Luân trình diện tại Sở canh nông. Giám đốc sở vẫn là người Pháp. Lão Tây thất thế rầu rầu nhìn Luân. Ngồi dưới ảnh Quốc trưởng Pétain mà có vẻ lão vểnh tai ngóng tiếng nói của De Gaulle. Còn phó giám đốc đã là một người Việt. Ông ta đỗ bằng kỹ sư nông học bên Pháp – từ thuở kỹ sư nông học còn gọi là Bác vật canh nông – làm phó giám đốc vì đại sứ Nhật muốn như vậy. Thực ra, ông ta chưa hề biết đồng ruộng Việt Nam ra sao. Gặp Luân, ông ta không nói gì về trồng trọt mà thao thao hằng mấy giờ liền về thuyết “Đại Đông Á”, về đề quốc hùng cường Đại Nippon dẫn đạo các dân tộc da vàng. Phó giám đốc ân cần mời mọc Luân viết báo Tân Á (4). Cuộc tháo chạy khỏi Phi Luật Tân, Miến Điện, Nam Dương của quân Nhật… được ông giải thích như là hoàn toàn “mưu mẹo”, y hệt ông ta là hãng Domei (5). Ông ta hé cho Luân biết chẳng bao lâu nữa, Trần Trọng Kim sẽ lập chính phủ - chính phủ Việt Nam độc lập – và ông ta sẽ giữ một ghế bộ trưởng…
Luân chỉ đến sở một lần đó. Anh đi hẳn với Quý. Hai người lội tới lội lui vùng rừng Trị An. Quý đã liên lạc được với Kỳ bộ Việt Minh. Luân giúp Quý tìm vũ khí. Rất khó, song họ cũng mua được vài khẩu súng lửa.
Người anh thứ năm của Luân là luật gia Jean Nguyễn Thành Luân. Vợ của Jean cũng là một tiến sĩ Luật, thuộc giọng họ lớn ở Bạc Liêu: dòng họ Trần. Cả hai liên hệ với nhóm trí thức yêu nước và thiên tả lúc bấy giờ: Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Thủ…
Jean nhiều lần khuyên Robert tiếp xúc với các trí thức đó – họ làm việc dưới sự lãnh đạo của các đảng viên Cộng sản đệ tam. Robert từ chối. Jean lo ngại vì trong trí thức Sài Gòn còn các nhóm khác mà khuynh hướng khá phức tạp: nhóm Tạ Thu Thâu, nhóm Hồ Vĩnh Ký, nhóm Nguyễn Văn Thinh, nhóm Hồ Văn Ngà – kẻ thì của đệ tứ Trôtkit, kẻ thì của phòng nhì Pháp, kẻ thì thân Nhật. Jean chỉ hết lo ngại khi bắt gặp Robert đọc “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, với vô số gạch dưới bằng bút chì đỏ.
*
Rồi Luân cũng hiểu được anh Tư là ai. Có lẽ trừ gốc đạo Thiên chúa, anh Tư giống Luân về nhiều mặt, thậm chí còn trội hơn nữa. Dân Tây – anh Tư tên là François, vứt bỏ cái một quốc tịch Pháp lẫn vị trí cai trị đầu sỏ, đi dạy học kiếm cơm như những thầy giáo “Annamit” chỉ có bằng sơ học, viết báo chống lại chính quyền Pháp, vào tù ra khám. Là ủy viên ủy ban quân sự khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940, anh Tư bị truy nã, bị bắt, bị tra tấn và bị kết án tử hình. Nếu không phải là công dân Pháp và nếu không có chiến tranh – đường liên lạc từ Đông Dương về Pháp nghẽn, bản án của tòa đại hình Sài Gòn không được Giám quốc(6) Pháp thông qua, đây là luật lệ dành cho các bản án đối với công dân Pháp – thì anh Tư bị điệu ra trường bắn từ lâu rồi.
Luân tìm thấy nhiều điều ly kỳ trong việc anh Tư vượt ngục: một ngày tháng 3 năm 1945, buổi sáng, còi báo động. Trong “xen-luyn”(7) tử hình, anh Tư chỉ biết cuộc oanh tạc của Anh – Mỹ khi chỗ nằm anh bỗng rung rinh dữ dội cùng với một tiếng nổ điếc tai. Anh không trông thấy gì cả. Khói trùm kín khu khám lớn, cửa “xen-luyn” của anh đổ kềnh. Lập tức, anh Tư trút bỏ quần áo tù,mặc độc chiếc quần xà lỏn, vụt nhảy khỏi khám. Anh lao đến đúng nơi bom rơi sạt bức tường cao vọi và chỉ một cái lách mình, anh đã ở ngoài đường Lagrandiere. Hai hôm sau, thân thể còn da bọc xương, phổi nhức nhối, anh Tư chủ trì cuộc họp cán bộ với cương vị bí thư Thành ủy vừa được chỉ định.
Và hôm nay, men con rạch Bờ Đập êm ả, Luân lắng nghe anh Tư không để sót một chi tiết. Luân định nhắc lại để xin lỗi chuyện hơn 8 năm trước. Song anh thôi. Chưa chắc một người như anh Tư còn có thể nhớ những thứ ấy. Luân biết rằng anh Tư đang là Ủy viên Trung ương Đảng, Thường vụ Trung ương Cục. Luân còn biết thêm: vài ngày nữa anh Tư sẽ nhận nhiệm vụ Bí thư Đặc ủy khu Sài Gòn – Gia Định, một chiến trường sôi động trong buổi tiếp giáp chiến tranh và hòa bình…
---
(1) Archimède, nhà thông thái thời cổ đại (287 - 212 trước công nguyên)
(2) Gracey, tư lệnh quân đội Anh.
(3) Couchette: toa có giường ngủ.
(4) Tờ báo thân Nhật.
(5) Hãng thông tấn chính thức của Nhật.
(6) tương tự như chức Tổng thống ngày nay.
(7) Cellule: khám nhỏ nhốt trọng phạm.

CHƯƠNG 4

- Anh còn giữ mấy bức thư của Ngô Đình Thục không?
Câu chuyện bỗng nhiên trầm trầm. Luân tiếp nhận quyết định của Đảng với một thái độ rõ ràng là miễn cưỡng. Các trận đánh sắp tới quanh Cần Thơ hoặc phía bắc lộ Cái Sắn vẫn ám ảnh anh. Từ lúc rời cơ quan mật vụ Nam Bộ, trực tiếp cầm quân ở cấp tiểu đoàn, Luân dự hàng trăm trận đánh, song không phải lúc nào anh cũng thắng. Các đơn vị của Pháp từng cho anh nếm mùi đau khổ, khi ở Vĩnh Trà Bến (1), khi ở Long Châu Hà, khi ở Rạch Giá. Cho nên, Luân đã dành tất cả thời gian học tập nghiên cứu, điều tra các loại thực địa khác nhau, các đối tượng địch khác nhau, quyết tâm trở thành một cán bộ quân sự chuyên nghiệp. Từ 1951, tiểu đoàn 420 – với sự bổ sung chính trị viên Vũ Thượng, một cán bộ xuất thân từ thợ máy hải quân Pháp – đã trưởng thành hẳn. Chiến công của tiểu đoàn trở nên niềm hãnh diện của toàn Phân liên khu. Bên cạnh các tiểu đoàn 307, 308, 311… lẫy lừng, người ta bắt đầu kể thêm 420. Trước Đông Xuân 1953-1954, tiểu đoàn 420 làm nhiệm vụ cơ động trên một địa bàn rộng lớn. Luân được đề bạt trung đoàn phó. Tình hình dường như sửa soạn cho tiểu đoàn tung hoành. Bài hát của nhạc sĩ Quách Vũ có câu “ta thắng như chẻ tre, ta thắng như nước tràn” mấy năm trước bị phê bình là “lạc quan tếu” nay có vẻ không xa sự thật là bao nhiêu. Giữa tình thế “trăm năm có một” như vậy, cấp trên lại bàn với anh cung cách hoạt động lâu dài trong lòng địch!
- Còn giữ… nhưng tôi không mang theo đây. Mang theo làm gì cái thứ…
Luân trả lời anh Tư, giọng vừa buồn vừa bực.
- Ý! – anh Tư cười đôn hậu – Cái thứ đó quí lắm đa. Anh còn nhớ mỗi thư nói cái gì không?
Luân chỉ nhớ mang máng.
- Anh cứ tiếp tục công việc đang làm. Tất nhiên, anh phải để ít ra là một nửa thì giờ cho công việc sắp tới. Văn phòng chuẩn bị sẵn cho anh khá nhiều tài liệu, gồm báo cáo, báo chí, sách… Sở công an, phòng quân báo Bộ tư lệnh sẽ cung cấp cho anh các mặt tình hình. Điều anh cần giữ kỹ như nguyên tắc là không tiết lộ với bất kỳ ai nhiệm vụ mới của anh.
Anh Tư dặn dò thêm Luân trước khi Luân vùi đầu vào đống tài liệu trong gian nhà bên cạnh nơi làm việc của anh Tư.
Không rõ ai đó vô tình hay cố ý đặt lên bàn tờ Nhân dân miền Nam số mới nhất. Luân đọc ngấu nghiến bài ký tên Trung Thành mà Luân biết là bút danh của anh Sáu Thọ, ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Trung ương Cục: “…Quân địch đang bị động, đối phó với ta ở đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ và Trung Lào, chúng phải rút gần hết lực lượng ứng chiến tinh nhuệ ở chiến trường Nam Bộ ra các nơi đó, nên ở chiến trường Nam Bộ quân địch đang hoạt động yếu hơn trước và có rất nhiều sơ hở, tinh thần binh lính ngụy lại càng hoang mang dao động trước những chiến thắng của ta…”
*
Cái cớ mà giám mục địa phận Vĩnh Long Ngô Đình Thục viết bức thư đầu tiên cho Robert Nguyễn Thành Luân khá bình thường. Năm đó, năm 1952, kỹ sư điện René Nguyễn Thành Luân qua đời ở Paris – cả Jean và Robert đều không làm sao dự lễ tiễn đưa cha đến nơi yên nghỉ cuối cùng được. Ngay cái tin ông René Nguyễn Thành Luân mất, hai anh em đều không hay, trước khi Robert nhận được thư của giám mục.
Giám mục địa phận gửi thư chia buồn với người con của một tín đồ - và bản thân người con cũng là một tín đồ - không phải là việc gì cần bàn cãi. Hơn nữa, không ai không biết ông René Nguyễn Thành Luân có mối giao hảo cá nhân rất thân mật với người chủ chăn giáo phận – một trong những giám mục người Việt Nam ít ỏi lúc bấy giờ.
Năm Luân vào ban tú tài cũng là năm Ngô Đình Thục được phong giám mục. Ông René đưa con đến chào vị giám mục địa phận – niềm tự hào của người sùng đạo như ông. Và, giám mục đã ban phép cho Luân. Từ đó cho đến khi rời thành phố vào chiến khu, Luân vẫn thường gặp giám mục – nhất là dịp nghỉ hè.
“Cha đau buồn vô hạn khi được tin chẳng lành của người bạn thân, cụ kỹ sư René Nguyễn Thành Luân, vừa từ trần, an táng tại nghĩa trang Père-la-Chaise. Cha đã cầu nguyện cho cụ và mong con cũng cầu nguyện cho người cha thân yêu của mình về nước Chúa…”
Bức thư vắn tắt như vậy thôi.
Bức thư thứ hai, nhiều ý hơn, đến vào tháng 7 năm 1953.
“Cha mừng con được an khang trong Chúa. Cha mong mỏi một ngày gần nhất được gặp con, vừa để thăm lại đứa con của giáo phận ra đi đã 8 năm, vừa han hỏi đứa con của người bạn mà cha lúc nào cũng quý mến. Con có thể cho một cái hẹn không? Cha đảm bảo tất cả an toàn và cha tin là con không hề có một chút nghi ngờ”.
Liên trung đoàn trưởng 120 – cũng là một tín đồ đạo Thiên chúa – nói lại với Luân, ông ta cũng nhận một bức thư tương tự, dĩ nhiên hình thức là chuyện nhớ mong… vì Liên trung đoàn trưởng thuộc một gia đình đạo không phải toàn tòng. Thư của giám mục gửi cho con chiên kháng chiến tương ứng với diễn biến ở chiến trường: năm 1953, thực dân Pháp đang hấp hối.
Hai tháng sau, tháng 9 năm 1953, Luân nhận được bức thư thứ ba:
“Cuộc chém giết ngoài ý Chúa đã kéo khá dài. Như các đấng bề trên và Đức Thánh Cha hằng lo lắng, cha đêm ngày cầu mong sao máu ngừng đổ. Con là một chỉ huy, cha mong con đóng góp vào một cuộc bãi binh mà mỗi bên đều giữ được danh dự. Cha nóng lòng được gặp con đặng cha con ta bàn thảo xem con có thể làm được điều gì trong phận sự mà con gánh vác ngoài đời, chu toàn đặng trách nhiệm của một dân Chúa. Ông Savany, con biết danh tiếng của ông, sẵn sàng tạo mọi phương tiện cho con gặp cha”.
Savany là trung tá, phụ trách phòng nhì Pháp ở đồng bằng sông Cửu Long.
Và bức thư mới nhất trước trận tiểu đoàn 420 hạ đồn Biện Tạ.
“Thời cuộc xoay chuyển thiệt là mau lẹ. Theo những gì mà cha nắm được, trong một ngày không xa, ông Ngô Đình Diệm sẽ về nước chấp chính. Cha hy vọng con hiểu rõ tầm quan trọng đặc biệt của sự thay đổi nầy. Là một người tín ngưỡng Chúa, lại theo chủ nghĩa quốc gia, có mối giao thiệp thân tình với gia đình họ Ngô Đình, con cần suy tính thật kỹ và nên dứt khoát trước khi quá muộn. Sắp tới, không phải người Pháp mà là người Mỹ sát cánh với chúng ta. Con nên nhớ, nước Mỹ là nước đã ném bom nguyên tử xuống nước Nhật. Đức hồng y Spellman thường thư từ với cha. Đó là một đấng bề trên hiểu biết và rộng lượng…”
Thư của giám mục gởi cho Luân vào lúc Mỹ gần như gánh trọn toàn bộ ngân sách chiến tranh Đông Dương – ngày 30-7-1953 quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận viện trợ quân sự cho Đông Dương tài khóa 1953-1854 là 400 triệu Mỹ kim; ngày 2-9-1953 chính phủ Hoa Kỳ lại quyết định bổ sung thêm 385 triệu đô la nữa. Sự viện trợ dồn dập như thế nhằm yểm trợ cho “kế hoạch Navarre” mà một trong những điều then chốt là “giao cho phía Việt Nam những phần trách nhiệm nặng nề hơn”. Bức thư cũng liên quan tới lời tuyên bố úp mở của thủ tướng Pháp Laniel ngày 12-11-1953: “Chính phủ Pháp nghĩ rằng vấn đề Đông Dương không nhất thiết phải có giải pháp quân sự. Pháp không đòi hỏi đối phương phải đầu hàng không điều kiện. Pháp mong muốn có cuộc điều đình”.
*
Cuộc hành quân Castor mở màn, với sáu tiểu đoàn Âu Phi nhảy dù chiến đóng Điện Biên Phủ. Đây là một canh bạc Pháp dốc túi, không chỉ để giảm đến mức có thể giảm sự thua thiệt trước các dân tộc Đông Dương mà còn hòng trả giá với chính đồng minh Mỹ.
Một René Coty nào đó, sau 13 vòng bầu mới được quốc hội Pháp giao ghế Tổng thống. Nó cho thấy sự phân hóa sâu sắc trong giới cầm quyền Pháp vì cái “ung nhọt” chiến tranh Việt Nam.
---
(1) tỉnh cũ thời kháng chiến chống Pháp gồm Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre

CHƯƠNG 5

Giám mục Ngô Đình Thục ngả người trên ghế bành, chăm chú theo dõi thái độ Ngô Đình Nhu.
Ông nhận được thư trả lời của Robert Nguyễn Thành Luân và tức tốc lên Sài Gòn để trao đổi với Nhu.
Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập trước đây có mấy hôm, do sắc lệnh của Quốc trưởng Bảo Đại.
Trận Điện Biên Phủ kết thúc từ đầu tháng 5, dư âm vẫn còn vang động. Lịch sử chinh phục thuộc địa của Pháp – và các đế quốc phương Tây nói chung – chưa bao giờ vấp một thất bại đau đớn và nhục nhã như vậy: 16.000 binh sĩ, một viên tướng, hàng trăm sĩ quan, với những con số khí tài ngồn ngộn đành đầu hàng giữa một tập đoàn cứ điểm kiên cố vào bậc nhất Động Dương. Tư lệnh tập toàn cứ điểm, tướng De Castries, đã bất tuân thượng lệnh: Tướng Cogny, cấp trên của De Castries, buộc ông ta tự sát. Thay vì dùng mảnh vải để thắt cổ, ông dùng nó làm cờ trắng.
Bảo Đại chấp nhận phục hồi Diệm, kẻ bị thất sủng hàng chục năm trước, không hề hàm ý là một ân huệ của hoàng gia. Cất chức Diệm trước đây, Bảo Đại tuân theo chỉ thị của Khâm sứ, bây giờ tấn phong Diệm, Bảo Đại thừa hành quyết định của hai ông chủ: Mỹ và Pháp. Bảo Đại còn bận tâm hơn những buổi dạ tiệc ở lâu đài Thorenc và ông sẽ phải trả một cái giá ê chề về quyết định “Giao toàn quyền quân và dân sự cho Ngô Đình Diệm” của ông.
Vấn đề không phải là Bửu Lộc sang gánh cho Ngô Đình Diệm. vấn đề là thế trận của thế giới tự do ở Đông Dương phải bố trí lại và cái đầu quyết định thế trận từ điện Elysee tại Paris chuyển sang White House tại Washington.
Tình hình sẽ ra sao, đó còn trong dự đoán, song cái đã phơi bày là Pháp đang cuốn gói ở Bắc Bộ.
Ngày 25-6-1954, thủ tướng chỉ định Ngô Đình Diệm xuống sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30-6 bay ra Hà Nội; trước đó một hôm, quân đội Pháp rút bỏ Nam Định và Thái Bình, hai tỉnh chiến lược mà chúng tốn công sức giữ suốt ngần ấy năm đánh nhau.
Ngày 2-7-1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra thông cáo phản đối sự rút lui của Pháp ở các vùng nhiều giáo dân đạo Thiên chúa.
Kết quả trực tiếp nhất của thông cáo phản đối là ngày hôm sau, Pháp bỏ nốt Phủ Lý và cùng ngày, hai phái đoàn quân sự Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp nhau ở Trung Giã đề bàn việc ngừng bắn.
Thế là Ngô Đình Diệm phải cho ra đời ngay một chánh phủ thân Mỹ là chính, song vẫn giữ mùi Pháp trong mọt bối cảnh hết sức tế nhị.
*
Ngô Đình Nhu đọc đi đọc lại bức thư. Bức thư gọn gàng:
“Kính Đức cha,
Mãi tới hôm nay con mới có thể kính trính đến Đức cha bức thư nhỏ nầy. Suốt mấy năm qua, con phải đi lại luôn, nhiệm vụ một cán bộ chỉ huy quân đội buộc con như vậy. Điều mà con hết sức sung sướng là nhiều tín đồ đạo Thiên Chúa có mặt trong hàng ngũ kháng chiến. Ngay ở đơn vị con, số lượng đó không ít. Hơn nữa, chúng con được chăm sóc phần hồn nhờ các linh mục không rời bỏ con chiên như cha xứ Hồ Thành Biên, cha phó Võ Thành Trinh và nhiều tông đồ khác của Chúa.
Cuộc kháng chiến của toàn dân sắp bước vào bước ngoặt lớn – ngày chiến thắng của nhân dân ta không còn xa nữa, sau võ công Điện Biên Phủ chấn động thế giới. Chính con, khi viết thư nầy trình Đức cha, vừa từ chiến dịch trở về. Đơn vị dưới quyền của con đã giải phóng một loạt làng xã bao quanh Cà Mau. Con nghĩ rằng con sẽ có dịp viếng Đức cha.
Cuối thư, con cầu Chúa ban bình an và minh mẫn cho Đức cha”.
Thư của Robert Nguyễn Thành Luân đề ngày 30-6-1954.
Căn phòng trở nên im lặng, hơi nặng nề. Ngoài tiếng giày nện đều đều của Nhu, không còn một âm thanh nào khác.
Giám mục đặt tay lên bụng, nhìn đứa em với sự chờ đợi. Dẫu sao, Nhu vẫn là người có thẩm quyền hơn hết định giá trị của bức thư và kéo theo, định thái độ của gia đình họ Ngô với viên sĩ quan Việt Minh nầy.
Giám mục viết bức thư đầu tiên cho Luân, cách đây hơn 2 năm, là do gợi ý của Nhu. Lúc đó, tin đồn Ngô Đình Diệm về nước lan dai dẳng. Một số người Mỹ đã gặp Nhu. Hồng y Spellman gửi cho giám mục hàng tá thư. Hoàn toàn không phải là vì người chủ chăn ở Nữu Ước muốn có quan hệ đặc biệt với người chủ chăn một giáo phận vô danh ở Việt Nam.
Nhu bàn với giám mục những khả năng lôi kéo người theo đạo Thiên chúa đang kháng chiến về với Ngô Đình Diệm. Trong bản kê, Jean và Robert Nguyễn Thành Luân nằm trong số những người được chú ý bằng những gạch đỏ đậm nét và trong hai người, Robert được nhiều gạch hơn vì Robert là chỉ huy quân đội và vì chưa ai nói rằng Robert vào Đảng Cộng sản. Robert không phải là chính khách, khác với Jean. Có thể Robert vẫn còn là con chiên – theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa trắng.
Nhu nói: Phải sửa soạn ngay từ bây giờ. Chúng ta cần, hết sức cần, người kháng chiến Công giáo. Lực lượng xây dựng từ các phần tử bấy lâu quẩn quanh bình sữa “mẹ bồng con” Mont Blanc sẽ chẳng làm cho chúng ta tự phân biệt với các ông Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm…
Nhưng, Luân không trả lời. Giám mục nóng lòng, viết tiếp… Mãi bây giờ Luân mới trả lời.
- Đức cha có thấy điều gì ẩn phía sau bức thư của Nguyễn Thành Luân không?
Nhu phá bầu không khí nghiêm trang hơn buổi lễ cầu kinh này bằng câu hỏi hơi nặng giọng.
Giám mục vẫn nhịp tay lên chiếc bụng khá to, nhíu mày: Bao giờ cũng vậy, ý kiến của giám mục phụ thuộc vào ý kiến người khác, trước kia ông nể Ngô Đình Khôi, rồi Ngô Đình Diệm, bây giờ ông hết sức coi trọng những suy nghĩ của Ngô Đình Nhu. Và, không riêng gì ông, trong vòng vài năm nay, Ngô Đình Nhu trở thành một “quân sư” đầy uy tín, trong đôi trường hợp,một nhà tiên tri trước mắt Diệm và Luyện.
Thục chờ đợi Nhu, tay nhịp khẩn trương lên bụng, chiếc nhẫn giám mục gần như vạch một vệt vàng.
- Em để ý những chữ: “cuộc kháng chiến toàn dân tộc”, “chiến thắng của nhân dân ta”, “võ công Điện Biên Phủ chấn động thế giới”. Hắn không quên nhắc khéo: hắn là một chỉ huy, đánh tan cả hệ thống phòng thủ Cà Mau. Trên tất cả các thứ khôn ngoan, hắn cho biết hắn vẫn là một tín đồ sùng đạo…
Thấy Thục có vẻ như chưa hiểu ẩn ý của bức thư, Nhu đứng lại:
- Hắn nhấn mạnh để chúng ta nhớ: nếu hắn trở về thành thì không phải với đôi bàn tay trắng.
- Tất nhiên – giám mục nói rụt rè – Ta cần gì những kẻ chỉ có đôi bàn tay trắng.
- Đúng… Ta cần những kẻ mang một cái gì về với ta. Nhưng tốt nhất chỉ nên mang trên cầu vai, thậm chí trên da thịt. Đừng mang trong đầu!
Giám mục ngồi thẳng dậy – ông ta phục xét đoán của em.
- Tuy vậy, để còn xem – Nhu nói chậm rãi – Đức cha viết tiếp cho hắn một thư nữa. Liệu hắn có chịu gặp Đức cha ngay không? Em muốn hắn có mặt ở thành càng sớm càng tốt trước khi các phe liên hệ đạt giải pháp về vấn đề Đông Dương. Đức cha nói cho hắn rõ: Chúng ta cư xử với một người tách ra khỏi phía bên kia khác với một kẻ phục viên..
Giám mục nghĩ rằng người em của ông đúng. Chắc Robert Nguyễn Thành Luân cũng thấy được thực tế nầy. Bởi vậy, ông lâp tức gửi cho Luân một bức thư nữa – kèm luôn điểm và ngày giờ đón Luân, qua một cha xứ ở vùng giáp ranh.

CHƯƠNG 6

Không phải ngẫu nhiên mà Luân chọn cuối tháng 6 bắn bức thư đầu tiên về cho giám mục. Hội nghị Genève sắp kết thúc, sau mẻ lưới của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở lòng chảo Điện Biên Phủ - cái lòng chảo nuốt chửng những hy vọng cuối cùng của phải chủ chiến ngoan cố ở Pháp. Navarre, rốt lại, là một viên tướng tồi. Rất tiếc, Salan còn tồi hơn.
Thế là chính phủ Laniel đổ. Và ngay ngày hôm sau, 14-6-1954, Mendès France lập chính phủ. Xu thế rút khỏi Đông Dương về mặt quân sự đã giành thắng lợi trong giới cầm quyền Pháp.
Tuy nhiên, cái cũ chưa chấm dứt hẳn thì cái mới đã nảy sinh; Pháp và Mỹ thỏa thuận dàn cảnh cho tấn tuồng tiếp diễn với những đổi thay đào kép, sửa soạn điều kiện cho Mỹ đứng chân ở vùng đất châu Á sôi nóng này.
Ngày 16-6-1954, Bửu Lộc từ chức và nội trong ngày đó, Ngô Đình Diệm trở thành thủ tướng, như là một hòa âm ăn khớp từng nốt nhạc nhỏ.
Chưa đầy một tuần lễ, Luân được thư phúc đáp. Lời lẽ của giám mục trắng trợn hối thúc và đe dọa, song đồng thời cũng bộc lộ sự bồn chồn. Luân quyết định không trả lời vội.
Nghiên cứu thành phần chính phủ Diệm, Luân hiểu rằng thế lực của Diệm chưa vững vàng, cấu trúc chính phủ chỉ là một sự dung hòa và Diệm sẽ còn phải đi nhiều bước nữa mới hòng khống chế được nó. Nếu Diệm kiêm Tổng trưởng Quốc phòng và Nội vụ thì ông ta buộc phải nhượng bộ cho hai người thân tín của Pháp làm Bộ trưởng phụ tá – Lê Ngọc Chấn và Nguyễn Ngọc Thơ, cả hai đều là đốc phủ sứ ngoại hạng. Tổng giám đốc cảnh sát vẫn nằm trong tay Lại Văn Sang, phe Bình Xuyên, Tổng tham mưu trưởng vẫn do tướng Hinh, một người Pháp, trừ màu da.
Tướng 5 sao, đương kim Tổng tham mưu trưởng Pháp Paul Ely thay tướng 4 sao Salan. Điều đó chứng tỏ Pháp chưa bỏ ảo tưởng. Pháp dứt khoát trao gánh nặng cho Mỹ song không phải vô điều kiện. Trọng tâm của tình hình, trong một thời gian nhất định, sẽ là sự tranh giành, thậm chí đẫm máu giữa tay sai của hai đế quốc – mỗi bên đều có chỗ mạnh và chỗ yếu như nhau…
*
Những tháng liền sau đình chiến thật vất vả đối với Nguyễn Thành Luân. Một mặt, anh phải làm tròn chức trách một cán bộ trung đoàn: chỉnh đốn các đơn vị, trước hết là tiểu đoàn 420, để có thể kịp tập kết suôn sẻ. Cán bộ và chiến sĩ không phải dễ dàng thông suốt đường lối kết thúc chiến tranh của Đảng ta; chúng ta đang thắng và triển vọng thắng to. Luân còn có nhiệm vụ làm cho mọi người, kể cả liên trung đoàn phó Lưu Khánh, chính trị viên Vũ Thượng đinh ninh rằng anh sẽ tập kết, chỉ có không cùng đi một chuyến tàu với họ mà thôi. Lệnh của anh Tư rất nghiêm: với Bộ tư lệnh, anh cũng phải kín miệng.
Mặt khác, anh bắt buộc nắm vững đến từng mẩu vụn vặt các diễn biến của tình hình ở Sài Gòn. Thâu đêm, Luân thảo rồi xóa, xóa rồi thảo hết phương án hành động này đến phương án hành động khác.
Luân chọn Quyến và Sa ở lại với anh. Thuyết phục hai cậu không đơn giản tuy rằng cuối cùng rồi hai cậu đồng ý‎. Anh dự tính cả vai trò của Sa và của Quyến khi về thành và những năm tiếp theo.
Cấp trên chỉ thị cho tiểu đoàn 420 xuống tàu sớm nhất. Luân hiểu rằng quyết định đó có liên quan đến anh. Giảm đến mức thấp nhất những người biết anh, cấp trên tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của anh trong những ngày gian nan sắp tới.
Luân đưa đơn vị ra tàu Arkengels đậu ngoài khơi vịnh Thái Lan, trước vàm Sông Đốc. Chiếc tàu khổng lồ đón tiểu đoàn như đón người thân. Luân tiếp xúc với thuyền trưởng – một sĩ quan Hải quân Liên Xô – và dự buổi chiêu đãi lớn tổ chức ngay trên boong tàu.
Trừ Quyến và Sa, không ai trong tiểu đoàn 420 ngờ đồng chí tiểu đoàn trưởng của mình chia tay đơn vị. Nâng ly vodka, Luân kìm lắm mới khỏi rơi nước mắt. Trước anh, đến 600 con người đã cùng anh sống chết. Đó là những đồng chí tuyệt vời.
Thuyền trưởng chúc sức khỏe anh. Còn anh, anh chúc thầm sức khỏe toàn tiểu đoàn. Bao giờ thì gặp lại họ? Luân tin con số 2 năm, mặc dù anh cảm thấy hình như con số ấy ẩn hiện chập chờn không phải là con số của toàn học.
Ngồi xem phim Liên Xô – thuyền trưởng cho chiếu phim thần thoại “Sakkô đi tìm hạnh phúc” – Luân vừa trao đổi với Vũ Thượng, vừa chia sẻ nỗi lận đận với Sakkô.
Đêm đó, Luân và Vũ Thượng thức trắng. Họ mượn hội trường của tàu Arkengels để có thể tự do nói chuyện. dưới bóng cờ búa liềm và tượng Lê nin, hai bạn chiến đấu nhắc bao kỷ niệm cũ. Đôi lúc, Vũ Thượng hỏi vặn: Thì vài tuần hoặc vài tháng anh ra, gặp tụi này, sao anh cặn dặn như “trối”? Luân giật mình, chống chế: Chưa chắc mình còn ở đơn vị - Nhưng mà dù anh phụ trách trung đoàn thì không lẽ không đến 420 được? Vũ Thượng thắc mắc, Luân không dám đi xa hơn. Vũ Thượng không được quyền biết công việc của anh.
Sáng sớm Luân rời tàu Arkengels về vàm Sông Đốc. Anh vẫy tay chào toàn thể tiểu đoàn đứng trên thành tàu. Nếu không có những cán bộ đi cùng thì Luân, Quyến, Sa đã khóc ồ…
Đã đến lúc Luân rời chiến khu, tuy thời hạn tập kết vùng Cà Mau mới già một nửa. Về thành sớm quá, không có lợi. Mà về trễ quá cũng không hay. Luân viết cho giám mục một thư ngắn. Anh chỉ bảo là vào ngày 10 tháng 12, buổi trưa anh sẽ chào giám mục tại Vĩnh Long, trên đường từ Cần Thơ về Sài Gòn, ngoài ra, không đòi hỏi đưa đón gì cả.
Trước hôm lên đường, Luân được gọi đến Trung ương Cục, anh Hai tiếp Luân.
Luân từng gặp anh Hai một số lần, lúc Luân phụ trách trưởng phòng mật vụ cũng như khi chuyển ra đơn vị tác chiến. Với con người lãnh đạo đó, Luân kính trọng theo nghĩa trọn vẹn nhất: phục và mến. Luân tìm thấy ở anh Hai cái hiểu biết sâu rộng – nhiều người trí thức kháng chiến gọi anh Hai là ông “deux cents bougies”(1) cường độ sáng cao nhất của một ngọn đèn điện vào lúc bấy giờ - tấm lòng vị tha tràn đầy tình cảm và tính nhân đạo, thái độ cởi mở, giản dị.
Trong bộ bà ba lụa đen bạc màu, anh Hai bằng giọng khu 4, dặn dò Luân như anh dặn dò một đứa em:
- Chúng ta hẹn nhau 2 năm sẽ gặp lại, nước nhà sẽ thống nhất. Chúng ta chào từ biệt nhau bằng hai ngón tay. Đó là một nguyện vọng. Đó cũng là lời hứa hẹn quyết tâm. Có thể rồi đây nguyện vọng của chúng ta thành sự thật. Nhưng, là người Cộng sản, chúng ta không được quyền chỉ một mực sống với nguyện vọng chủ quan. Nhiều dấu hiện báo trước tình hình sẽ phức tạp. Mỹ ép Pháp nhận Ngô Đình Diệm không phải để thi hành mà để phá hiệp định Genève. Tôi tin là anh đã ước lượng những điều xấu nhất. Anh từng làm Phòng mật vụ, chắc anh hiểu phần nào ý đồ của Mỹ…
Luân lặng lẽ ngồi nghe. Anh hơi đỏ mặt khi anh Hai nhắc tới Phòng mật vụ.
Rời Phòng liên lạc miền Nam về Đồng Tháp Mười, Luân được phân công đứng đầu cơ quan sưu tra tin tức địch. Đúng ra, Luân xin làm việc đó. Anh hình dung công tác tình báo thông qua sách vở - thậm chí, thông qua tiểu thuyết – và bố trí một bộ máy làm việc gần như rập khuôn bộ máy của Pháp. Anh đưa vào công tác tất cả nhiệt tình lãng mạn, những suy nghĩ mà sau này mỗi khi nhắc tới anh nóng lỗ tai bởi tính cách quá thiên về tưởng tượng của chúng, và anh mường tượng Phòng mật vụ như là một công cụ đơn thuần chuyên môn. Anh cũng thu được một vài tin có giá trị. Anh thích quá. Thế nhưng, trong mớ tin hỗn độn đó, giả nhiều hơn thật, đôi khi thật là tiểu tiết mà giả là đại sự. Chính anh suýt nữa bị bắt sống giữa Đồng Tháp Mười trong một trận nhảy dù quy mô lớn của Pháp – trước đó, tin tức chỉ chứng minh giặc tập trung lực lượng nhảy dù về hướng chiến khu Đ.
Lần đó, anh Hai phát biểu với anh về công tác tình báo. Chưa bao giờ anh nghĩ tới việc anh Hai có kiến thức về công tác tình báo. Chỉ cần mười lăm phút phân tích, anh Hai khiến anh chới với. Té ra. Luân thậm dốt ngày công tác mà anh phụ trách.
Luân được bồi dưỡng nhiều mặt qua buổi nói chuyện đó và cái lớn nhất có lẽ suốt đời anh không quên, đó là sự khác biệt về tính chất giữa tình báo cách mạng với tình báo đế quốc, sự khác biệt bắt đầu từ chỗ phương pháp cách mạng không phải là số cộng của những âm mưu.
- Diệm thay Tổng tham mưu trưởng, Hinh bị thay bằng Tỵ. Tới đây, sẽ đến lượt ngành công an… Anh thấy đó, Diệm làm những việc như vậy vừa phản ánh ý đồ hất chân Pháp của Mỹ, vừa củng cố thế lực để chống phá cách mạng nước ta. Theo tin tức gần đây, Mỹ Diệm và Pháp hô hào một cuộc di cư lớn nhằm đưa bọn phản động và những người theo đạo Thiên chúa cuồng tín, nhẹ dạ từ đồng bằng bắc bộ vào Nam, tạo hậu thuẫn mới cho tập đoàn thống trị mới.
Anh Hai nhìn Luân khá lâu. Giọng anh càng trìu mến:
- Nội bộ bọn đế quốc và tay sai sẽ nảy nở các mâu thuẫn, mâu thuẫn này dàn xếp xong thì lại đẻ ra mâu thuẫn khác. Tình thế bọn chúng hiện thời và sẽ tới khác tình thế suốt 9 năm qua: bây giờ, cách mạng lớn mạnh, vừa đánh bại một tên đế quốc sừng sỏ, đã giải phóng được nửa nước. Việt Nam từ một thuộc địa ít người biết đã trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho trào lưu độc lập dân tộc trên thế giới. Bác Hồ đã trở thành niềm hy vọng của các dân tộc đang vùng lên phá xiềng xích nô lệ. Đó là phía chúng ta. Về phía địch, hai con thú dữ ngồi chung một mâm cỗ, khó mà đề huề. Tay sai của chúng cũng không đơn thuần chỉ là bọn quan lại như trước mà là những tên có tham vọng và kinh nghiệm chính trị, kết quả tất yếu của sự thâm nhập chủ nghĩa tư bản vào nước ta. Trước mắt, mâu thuẫn Pháp – Mỹ nổi bật. Rồi, mâu thuẫn ngay trong bọn thân Mỹ, giữa các khuynh hướng chính trị, giữa tay sai dân sự và quân sự, giữa tay sai các địa phương… Bởi vì, giai cấp thống trị Mỹ không phải là cái gì thuần nhất. Hơn nữa, vấn đề Việt Nam rõ ràng đã vượt khỏi khuôn khổ của một sự kiện nhỏ hẹp, đã trở thành một bộ phận chịu tác động của các chuyển biến cùng nằm trong mối tranh chấp giữa cách mạng và phản cách mạng ở châu Á và trên thế giới. Tôi lưu ý anh mấy điểm: Mâu thuẫn nội bộ kẻ thù là có thật, khai thác mâu thuẫn đó có tầm vóc chiến lược trên đường cách mạng chiến thắng phản cách mạng, riêng ở Việt Nam khả năng đó còn lớn lao hơn bất kỳ nơi đâu. Khai thác mâu thuẫn địch mà đạt hiệu quả sẽ là một mũi tiến công vô cùng lợi hại, đánh địch từ trong lòng chúng. Nhưng, không thể nào xem mâu thuẫn nội bộ địch như là một hiện tượng độc lập – trình độ của mâu thuẫn đó đến đâu, xét cho cùng, là do sức mạnh của phong trào cách mạng quần chúng. Coi thường mâu thuẫn nội bộ địch là sai lầm, ảo tưởng ở mâu thuẫn nội bộ địch, chỉ đặt mọi niềm tin chiến thắng kẻ thù bằng khơi dậy và lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch cũng là sai lầm. Kẻ thù có mặt thống nhất tuyệt đối, đó là ý đồ chống cách mạng. Chúng dùng chiêu bài chống Cộng. “Chiêu bài chống Cộng” là cách nói về toan tính của chúng. Tất nhiên, nếu cách mạng mạnh tạo điều kiện phân hóa địch sâu sắc, thì sự thống nhất tuyệt đối kia sẽ trở thành tương đối, ít nhất cũng trong những trường hợp cụ thể.
Anh Hai giữ Luân lại ăn cơm. Trong bữa cơm, anh Hai nói thêm:
- Diệm vốn là người miền Trung, quan lại. Ông ta thiếu chỗ dựa ở miền Nam, đặc biệt chỗ dựa trong hàng trí thức. Anh có đủ hai điều kiện đó; ngoài ra, anh còn là người kháng chiến, một chỉ huy quân đội. Diệm cần những người như anh. Anh cố gắng đóng vai trò một phần tử Quốc gia kháng chiến cho thật đạt thì anh có thể thực hiện có kết quả nhiệm vụ chiến lược của Đảng giao cho. Nhân dân miền Nam đã tự khẳng định sức mạnh của mình trong quá khứ, đã trưởng thành qua chín năm thử thách, đã hưởng những kết quả lớn lao do cách mạng đem lại về ruộng đất, dân chủ, lại được nửa nước hoàn toàn giải phóng hậu thuẫn, sẽ không khuất phục trước cường quyền. Theo tôi, cái nền ấy quyết định xu thế của miền Nam và trực tiếp quyết định nhiệm vụ của anh.
Luân từ giã anh Hai. Anh Hai nắm tay Luân khá lâu:
- Cẩn thận nhé! Nên nhớ: khai thác mâu thuẫn nội bộ địch về chiến lược khác với thi thố những mưu mẹo vặt… Phải biết tự kiềm chế, hết sức huy động sức làm việc của cái đầu, cố gắng tồn tại trong lòng địch càng lâu bao nhiêu càng có lợi bấy nhiêu… Và, đối thủ chính của anh là cơ quan tình báo Mỹ!
Mắt Luân mờ. Luân không dám nói thêm vì Luân biết chính anh Hai cũng ở lại miền Nam, tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh mới trăm nghìn lần phức tạp, hiểm nguy!
Chú thích

(1) tức Hai trăm nến

CHƯƠNG 7

Đằng trước họ, ánh điện lung linh của thị trấn Phụng Hiệp. Quyến chèo lái, Luân chèo mũi, Sa tát nước, họ đã đi hai ngày theo kinh xáng Huyện Sử ra Phó Sinh, theo kinh xáng Phó Sinh ra Ngã Năm và từ Ngã Năm ngược về Phụng Hiệp.
Tám giờ. Chiếc tam bản cắm sào ở chót xóm. Phải ngủ lại một đêm. Với họ, đó là đêm cuối cùng ngủ trên vùng đất tự do.
Hai ngày qua, Luân gần như lầm lì, Sa và Quyến cũng họa hoằn mới mở miệng. Tam bản càng nhích về phía trước, họ cảm giác như bỏ lại đằng sau cái phần thiêng liêng trong thân thể họ. Cảm giác về sự mất mát nầy thêm nhói khi họ dừng tam bản. Chỉ vài mươi phút nữa, họ có thể sẽ phải trình giấy cho cái bót tiền tiêu – không phải với đồng chí dân quân vui tính mà với một tên cảnh sát mặt mũi vênh váo. Suốt 9 năm, họ ít gặp những tên cảnh sát như vậy, nếu gặp thì trong tư thế khác: tên cảnh sát lấm le lấm lét.
Trăng 16 vượt khỏi đọt dừa, mảnh vườn cây ăn quả trám bạc từ đám đất do chính phủ kháng chiến cấp, một nông dân nào đó đã lên líp, chuối chắc đã thu hoạch vài mùa, còn dừa bắt đầu cho trái lứa đầu, mương hẳn nuôi được vài trăm con cá vồ. Dòng nước lấp lánh êm đềm. Từng cơn gió chướng vỗ gợn sóng nhẹ vào mạn tam bản, kêu lách tách… Luân trằn trọc mãi. Trên bờ, Quyến và Sa cũng không ngủ. Hai cậu tựa lưng vào gốc mù u, rù rì từ sau bữa cơm và có vẻ sẽ rù rì suốt sáng.
Tiểu đoàn của họ đã đổ bộ lên Sầm Sơn. Quyến và Sa không biết Sầm Sơn, riêng Luân anh đã đến chơi nơi đó vài lần khi còn theo đại học. Tuy vậy, anh không chú ý nhiều những chi tiết mà Vũ Thượng viết cho anh về bãi biển vào mùa chớm lạnh nầy. Luân nghĩ đến đồng đội của mình – nhiều khuôn mặt hiện ra thật rõ – và bụng như quặn thắt khi câu hỏi tự chợt tới: chừng nào thì gặp lại họ? Chừng nào thì họ gặp người thân của họ ở quê nhà?
Luân trỗi dậy quấn thuốc.
- Anh Bảy chưa ngủ sao?
Sa hỏi. Nó hỏi mà không cần nghe trả lời.
- Ta nhúm lửa nấu bình nước pha trà…
Quyến bảo Sa. Một lát sau, bếp lửa bập bùng.
- Mấy chú đi đâu mà ghé ngủ tại đây?
Chủ nhà thấy lửa, lò mò ra bờ kinh. Một trung niên cao lớn, da rám nắng, mình trần, quần cụt, đập muỗi liền xì, xề bên cạnh bếp lửa.
- Vô nhà nghỉ… có đèn đuốc. Có ván. Ngồi ngoài này muỗi mòng lắm!
Chủ nhà mời khách.
- Cám ơn… Tụi tôi khuya đi sớm, với lại ngoài này mát.
Quyến trả lời.
- Mấy chú đi đâu? Ra Phung Hiệp hả?
- Ra Phung Hiệp rồi đi nữa. Lên Cần Thơ…
- Đi gặt lúa mướn hả? Coi tướng mấy chú không phải là người đi gặt lúa mướn mà!
- Vậy tướng tụi tôi làm nghề gì?
Sa hỏi vui.
- Ối nhìn qua thì biết liền, mấy chú là lính hay cán bộ, hòa bình rồi, về quê… Bữa nào không có người như mấy chú ghé đây, qua đây… Chú nhỏ - ông ta chỉ Sa – mặt mày coi sáng láng quá, sao không tập kết để còn học hành, ở lại trong Nam mần chi?
- Hòa bình thì ham thiệt, hết bị cà nông thụt, hết bị Tây bố… mà, sao cái kiểu hòa bình này nó vơi với trời nước quá! – ông nói tiếp. Một lúc sau, giữa cái im lặng của hai người khách, ông nhổ bãi nước miếng, nói giọng rầu rầu:
- Hòa bình mà quân đội đằng mình rút đi ráo, chính quyền giải tán, đoàn thể nông hội, thanh niên, phụ nữ cũng không còn… Hễ không có cái của đằng mình thì cái của tụi nó mọc ra… Vợ chồng tôi rầu thúi ruột. Thằng con đầu lòng của tôi chết trận trên Tầm Vu, mấy bữa nay vợ chồng tôi tính hoài, tính coi cái bằng “Tổ quốc ghi công” treo hay gỡ. Thằng con trai thứ hai đi 420, nó tập kết rồi…
Sa vọt miệng;
- Anh Ba đi 420 mà tên gì, ở đại đội nào?
- Nó thứ tư. Giữa anh Hai nó với nó còn con Thia. Con chị nó chết rồi, Tây bắn…
Giọng chủ nhà hơi lạc.
- Thằng đó tên ở nhà là Lóc… Thì tôi đặt tên con bậy bạ vậy… Vô lính, nó đổi ra Bảo Quốc. Trần Bảo Quốc.
- A! Sa reo lên… Tư Bảo Quốc, trung đội trưởng…
- Phải đa! Chú em biết nó hả? Chú em cũng ở 420 hả? – Chủ nhà hỏi dồn dập.
Sa vụt im. Cậu khẽ liếc Quyến, còn Quyến thì liếc xuống tam bản, nơi điếu thuốc từng chập bừng đỏ.
- Dạ, tụi này ở 420…
Luân nắm sợi dây cột tam bản bước lên bờ, trả lời.
- Ủa!
Chủ nhà bây giờ đã nhìn rõ Luân, qua ánh lửa.
- Xin lỗi, ông đây có phải là ông Bảy Luân.. Phải rồi, kỳ ông về đây với thằng Lóc. Tôi nhớ mà. Kỳ ông kéo quân đánh lộ xe đó… Trời Phật! Khỏe không ông Bảy! Ông tệ lắm, cột ghe dưới bến mà không lên nhà tôi – Chủ nhà mừng quýnh nói một thôi.
Ông già gọi vọng vào nhà:
- Bà nó ơi, ông Bảy tới nè!
- Ông Bảy nào?
Một phụ nữ bươn bươn theo bờ đất, vừa đi vừa hỏi.
- Thì ông Bảy chỉ huy thằng Lóc, chớ ông Bảy nào.
- Mèn đét ơi! Vậy sao?
Thế là ba người phải vào nhà. Ngọn đèn Hoa kỳ soi tỏ ngôi nhà ba căn rộng rãi. Giữa nhà, bàn thờ Tổ quốc với ảnh Hồ Chủ tịch, bên cạnh bằng ghi công Trần Văn Tôm. Dưới bếp, bà chủ đã cắt cổ con vịt xiêm thiệt mập. Sa nhúm lửa, Quyến đâm gừng làm nước mắm.
Ông chủ nhà uống trà với Luân. Ông tên Hai Sặt. Bây giờ Luân mới hiểu vì sao ông đặt tên con rặt ròng theo tôm cá. So với lần trước đến đây – lần đó, Luân chỉ ghé giây lát vào nửa đêm, lùa vội chén cơm rồi đi liền cho kịp giờ nổ súng – Luân thấy nhà ông Hai thay đổi nhiều: nhà nới rộng, thêm bàn ghế, ngay bộ đồ trà cũng khác, không phải là chiếc bình tích sứt vòi nữa, và ngọn đèn hoa kỳ thì mới tinh.
- Ông Bảy tính sao đây?
Hai Sặt coi như Luân phải vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi tình hình sắp tới.
Hai Sặt vốn quê Cồn Ốc tận Bến Tre. Năm Tây chiếm tỉnh, ông mang bầu đoàn thê tử sang đây, ban đầu làm mướn. Năm 1960, ông được Chính phủ kháng chiến tạm cấp cho một mẫu đất. Ông lên liếp, lập vườn 2 công. Nhờ mẫu đất đó, ông sống khá, khỏi mặc bố tời, cơm ngày hai bữa. Ông cho hai con trai đi bộ đội, con gái làm giáo viên, vợ vô nông hội còn ông thì dân quân. Hồi trước, ông ở mướn, khổ cực trăm bề. Bây giờ, mỗi năm ông bàn may cho Lóc được hai bộ chính quy, lại tính hễ Lóc cưới vợ thì cho cô dâu một đôi bông, một sợi dây chuyền…
- Đất mà chánh phủ cấp cho tôi thuộc điền Cả Bé. Va chết rồi, mà con va mới nhắn đòi lấy lúa ruộng từ năm 1946 tới giờ, cộng 8 năm mỗi công ba giạ, ngót nghét 250 giạ. Con va hăm: đốn hết dừa, cây trái… Nó nói: ruộng làm lúa không trồng bậy bạ. Hồi đằng mình còn súng ống ở đây, nó nói giọng đó, tôi bắn vô họng nó cho không còn cái răng ăn cứt, chớ đằng mình thất thế, thằng điên, thằng ngu miễn có quyền, có súng cũng lên mặt dạy khôn mình được… Ông Bảy tính sao đây?
Rồi ông chép miệng:
- Tiếc hại cây dừa, trái sai… Hổng biết giấu cái bằng ở chỗ nào? Chắc vợ chồng tôi phải về Cồn Ốc…
Luân ngồi yên khá lâu. Ông Hai Sặt vẽ trước cái hình ảnh đen tối như vậy và ông nghĩ đúng. Ngay chuyện nhỏ: treo hay gỡ cái bằng “Tổ quốc ghi công” mà Luân đã thấy khó nói gọn với ông…
- Thưa thiệt với ông Bảy, ông đừng rầy thằng Lóc, tội nghiệp nó – Hai Sặt hạ thấp giọng, liếc về phía bếp – Thằng Lóc giao cho tôi bốn cây súng mút (1), một cây mi (2), cũng được vài trăm đạn, mười lựu đạn… Nó dặn tôi chôn, khi hữu sự moi lên xài… Tôi mà có về Cồn Ốc cũng lập thế dời súng theo.
- Coi chừng ngập nước bị sét – Luân chẳng những không cằn nhằn Lóc mà còn nói đốc vô, y như sự tiết lộ của ông Hai Sặt cất cục đá nặng khỏi ngực anh.
Hai Sặt rạng rỡ:
- Dễ gì sét… bó ny lông, bôi mỡ bò, bỏ trong thùng cây – cây sao nghen – vô phương mối, vô phương mục!
Giữa bữa cháo vịt, ông Hai Sặt ghé vào tai Luân:
- Ông Bảy “nhập thành” hả?
Luân không lắc mà cũng không gật đầu.
- Không thủ súng, e khó chớ!
Ông Hai vẫn thắc thỏm giùm Luân.
Có tiếng rửa chân ngoài bến.
- Ghe ai đậu bến mình, hả má? - Giọng một cô gái hỏi vọng vào.
- Con Rô, gái út của tôi đi họp thiếu niên về… - Hai Sặt bảo Luân, mặt buồn trở lại.
Một cô gái tuổi 14, 15 bước qua cửa, lễ phép khoanh tay thưa Luân.
Từ dưới bếp, cô nói chuyện với mẹ và với Quyến, Sa:
- Tụi này không biết tại sao mấy anh, mấy chú lại bỏ tụi này… Lớp y tế học chưa hết khóa, còn mấy ngày nữa mới xong phần cấy nhau Philatốp… Tiếc quá trời!
Cổ Luân như nghẹn. Anh gác đũa. Hai Sặt không ép…
Chú thích
(1) súng trường
(2) tiểu liên

CHƯƠNG 8

Trời còn mờ mờ, trăng chưa lặn, Luân, Quyến và Sa rời nhà Hai Sặt vào chợ Phụng Hiệp. Vợ chồng Hai Sặt, con Rô, sau bữa cơm mà họ ép bọn Luân ăn “bỏ bụng” tiễn khách xuống ghe. Ghe rời bến, họ vẫn còn đứng trông theo…
Qua một vạt đất hoang um tùm lau sậy – làn ranh phân chia vùng giải phóng và vùng tạm chiếm – bắt đầu ngoại vi thị trấn.
So với vùng giải phóng, nhà cửa ngoại vi thị trấn Phụng Hiệp xơ xác hơn nhiều. Hầu như không nhà nào lập vườn và hầu như nhà nào cũng che tạm bợ bằng mấy tấm tôn, mấy bẹ lá dừa. Tuy vậy, mỗi nhà đều có luống vạn thọ.
- Còn nửa con trăng nầy với một con trăng nữa là Tết.
Quyến nhìn luống vạn thọ rồi nói. Câu nói luyến tiếc của Quyến khuấy động tâm tư của Luân. Đúng rồi, năm nay, Luân sẽ phải ăn cái tết đầu tiên xa chiến khu, xa đồng đội. Từ gần chục năm qua, cái Tết kháng chiến đã vào Luân như một thói quen dễ thương. Dù ở chiến trường nào – vùng tự do hay địch hậu – Tết đến với bao nhiêu rộn ràng: đánh vài trận “tất niên” cho ra đánh, hội nghị tổng kết, để còn sửa soạn đầu lân, tiết mục ca kịch vui với bà con. Đêm 30, thế nào cũng có buổi đón giao thừa đọc thơ chúc Tết của Hồ Chủ tịch, ăn bánh tét, thịt kho dưa giá của Hội phụ nữ và hội mẹ, thức cho đến sáng. Sáng, chia nhau đi chúc Tết chòm xóm. Thế nào cũng nhậu “ba sợi” – “ba sợi” thôi, song không ít cậu ngủ li bì, quên trời quên đất. Nơi làm việc của ban chỉ huy và từng nhà dân mà bộ đội ở nhờ, thế nào cũng có cửa tam quan bằng lá dừa, có bình hoa vạn thọ, có cờ và ảnh Cụ Hồ. Vui nhất là đêm kịch. Đơn vị ít phụ nữ - vài cô y tá, chị nuôi rất ngại lên sân khấu – cho nên các cậu trai phải đóng hóa trang: độn ngực, tập đi yểu điệu… trừ giọng ồm ồm đực rựa không sao sửa nổi, báo hại người xem cười muốn đứt ruột, nhiều bà con vừa cười vừa lau nước mắt.
Ra giêng, lại họp bàn kế hoạch tác chiến, luyện quân.
Nhịp độ đó đã thành bình thường trong Luân. Bây giờ anh như hẫng. Thật khó mà nghĩ đến một cái Tết không ló mặt ra ngoài, không chúc Tết và được chúc Tết – dẫu có chúc Tết cũng sẽ không phải là: năm mới mừng tuổi bà con, mong bà con đoàn kết, ủng hộ bộ đội, đẩy mạnh kháng chiến đến toàn thắng, theo lời dạy của cụ Hồ và chánh phủ Trung ương.
Kháng chiến đã thắng lợi, nhưng Luân mất đi cái câu chúc tốt đẹp đầu năm đó.
Trời sáng dần. Trước trụ sở Ban liên hiệp đình chiến – ngôi nhà gạch nằm trên một trong bảy ngã đổ ra Phung Hiệp – ngọn cờ đỏ sao vàng phẩy nhẹ trong gió sớm. Buổi tập thể dục sắp kết thúc. Các đồng chí thân yêu của Luân đang thở. Họ quay mặt về chiến khu, cúi đầu, ép hai cánh tay rồi mở rộng vòng tay, ưỡn ngực hít mạnh, theo hiệu lệnh điều khiển mà Luân rất quen thuộc.
Tam bản trôi chầm chậm. Luân không dám ngó ngay trụ sở - có thể có người quen Luân và với Luân, từ nay giấu kín niềm đam mê cũ là một kỷ luật. Anh biết mình không dễ dàng nhập thân vào lối sống mà mọi cái đều trái ngược với đạo lý anh hấp thu trong chín năm. Chỉ còn biết cố công. Ôi chao! Cái không khí trong lành mà anh đã hít, mỗi buổi sáng tập thể dục cùng đồng đội…
Anh nhìn Quyến, Sa: hai cậu đang hết sức căng thẳng.
Ngọn quốc kỳ in trên nước, Luân se sẽ đưa bàn tay xuống dòng kinh vuốt ve ngọn cờ. Trụ sở Ban liên hiệp đình chiến, ngọn quốc kỳ, tiếng điều khiển buổi tập thể dục và vùng tự do khu 9 cùng cái đêm chót ở nhà Hai Sặt lùi lại sau lưng anh…
*
Luân lên bờ, chợ Phụng Hiệp ồn ào hơn tưởng tượng của anh.
Tiếng xe rồ máy, tiếng lơ mời khách, tiếng rao hàng và tiếng chửi tục tằn dậy cả một góc trời. Chỉ cách có một con kinh, Luân như bước sang một thế giới xa lạ hẳn.
Sau khi kín đáo ngoảnh lại nhìn lần nữa trụ sở Ban liên hiệp và ngọn cờ Tổ quốc, Luân lũi theo sóng người đi sâu vào chợ. Chiếc tam bản của Quyến, Sa lao lách giữa đoàn xuồng ghe chen chúc xuôi luôn về hướng sông lớn. Mỗi cậu sẽ bằng cách riêng, gặp Luân sau này…
Đã lâu rồi, Luân mới đi lại một mình. Tựa như anh đang đột nhập đồn giặc. Ngay cả khi trinh sát đồn giặc, Luân cũng không đơn độc như lần này.
Luân chợt thấy lành lạnh nơi xương sống. Quanh anh, những cái nhìn chẳng giống cái mà anh thường gặp mươi phút trước đây. Tất cả đều dữ dằn.
Sau cùng, Luân đến bến xe:
- Thầy đi Cần Thơ hả?
Cũng rất lâu, Luân mới nghe lại tiếng “thầy” lãng xẹt nầy. Luân chợt nhớ rằng anh đã lọt vào một xã hội mà người ta quen gọi với ngài, cụ, ông chủ, thầy, cậu… Sẽ chỉ còn có thể gọi nhau “đồng chí” khi thật vắng và phải gọi thật khẽ…
Luân không mang xách gì theo mình. Người lơ xe lôi xển anh và tống anh lên chiếc xe đò còn trống. Luân thấy các lơ xe, bất kể hành khách đồng ý hay không, vác túi, thúng, bao… của họ ném bừa lên mui. Cái tiếp xúc khởi điểm báo với Luân sự lộn ẩu của một xã hội mà Luân phải vùng vẫy trong đó.
Chưa hết, Luân chưa yên chỗ thì hàng chục bàn tay chìa qua cửa: mía ghim, dưa hấu, nem, thuốc lá, giấy số, báo…
Luân mua bao thuốc lá Ruby Queen, diêm quẹt và tờ Tiếng Chuông.
Tờ báo ra ngày thứ Sáu, 10-12-1954, chạy tít suốt tám cột: “Giáo sư Ngô Ngọc Đối từ chức Tổng ủy tị nạn, bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến thay… Hai tựa khác cũng to không kém: Bộ trưởng Phạm Duy Khiêm được bổ Cao ủy Việt Nam tại Pháp – Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ được cử làm Tổng thanh tra quân đội thay thế tướng 4 sao Alessandri…”
Luân thầm nghĩ: Cả ba Phạm Văn Huyến, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Văn Vỹ, thân Pháp nổi tiếng, chỉ là chiếc cầu tạm mà Diệm dùng trong buổi giao thời.
Xe chờ khách khá lâu, Luân đọc hết trang tin tức, bắt đầu đọc bài xã luận, ký tên Khải Minh. Khải Minh là ai, Luân đã biết, đã gặp. Bài xã luận nhắc đến cuộc biểu tình hoan hô hòa bình và bị trấn áp đẫm máu – việc xảy ra cách nay đã hơn 5 tháng, liền sau khi hiệp định Genève ký kết. Nhắc lại sự việc đó, bài xã luận khôn khéo giới thiệu bản tuyên bố của Ủy ban bảo vệ hòa bình, đứng đầu là các ông kỹ sư Lưu Văn Lang, giám đốc Pháp Hoa ngân hàng Michel Nguyễn Văn Vỹ, luật sư Trịnh Đình Thảo, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, bác sĩ dược khoa Trần Kim Quan, giáo sư Dương Trung Tín và hơn 300 trí thức, nhân sĩ khác.
Luân lật trang trong, bây giờ anh không còn đọc được nữa. Tình hình qua vài mẩu tin đã hiện rõ thực chất: Cuộc đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước của nhân dân vừa chớm dậy, đã nhuốm máu ngay tức khắc.
Mải mê suy nghĩ, anh không chú ý người ngồi bên cạnh đang ghé mắt cùng đọc báo với anh. Khi Luân chợt nhìn ra – ông khách để bộ râu cá chốt, đeo kính đen to gọng, người gầy gầy – anh trao luôn tờ báo cho ông ta. Ông ta cám ơn và cắm cúi đọc.
“Một mật thám?”, Luân tự hỏi. Rất có thể vì đôi kiếng – gọng to – màu đen giúp đắc lực cho những cái nhìn rình rập.
Đằng sau Luân, hình như cũng có một số tay không phải dân làm ăn. Ngay người tài xế - ông ta lúc nào cũng láo liêng. Và tay lơ xe, vẻ mặt thật đáng nghi ngờ.
Xe bắt đầu chạy. Ông khách trả tờ báo cho Luân, nhồi thuốc vào ống tẩu. Khói lên bựng bựng. Hình như mắt ông ta không rời Luân.
Đường Phụng Hiệp – Cần Thơ xấu, chiếc xe đò hầm hừ vượt qua những đoạn bị phá hoại. Luân thấy vui vui: Từ phía đối ngược lại, anh quan sát kỹ hơn tác dụng cả những đêm bộ đội cùng dân hì hục đào, cuốc…
Xe qua đồn Nhà Thờ. Cây thập ác gục xuống, cái đồn chỉ còn bờ tường đá cháy nham nhở. Luân cố hình dung những đêm đánh hệ thống đồn bót dọc lộ nầy, anh long theo con rạch nào.
Xe đỗ lại trước cây chắn một trạm cảnh sát. Tất cả hành khách đều phải xuống xe. Cảnh sát khám kỹ hành lí của từng người. Từng người được mời vào trạm.
- Ông có giấy kiểm tra không?
Người khách đeo kiếng to hỏi Luân. Luân có. Tất nhiên, đó là thẻ kiểm tra giả, do nhà in Trần Phú ăn cắp kiểu, in lại. Nếu bằng mắt thường, cảnh sát không tài nào phát hiện chỗ giả của thẻ kiểm tra. Còn dựa vào máy, vấn đề sẽ khác. Luân tin chắc là trạm cảnh sát dọc đường không có máy. Nhưng cái lão đeo kiếng nầy, tại sao lại hỏi anh?
Quả như Luân đoán, viên trưởng trạm không xét nét thẻ kiểm tra của Luân. Song hắn nhìn Luân từ đầu đến chân:
- Ông đi đâu? - Viên trưởng trạm hỏi.
Luân chưa nói gì thì người khách đeo kiếng gọng to chìa giấy của ông.
- Ông Sáu khỏi đưa giấy mà!
Viên trưởng trạm trả giấy cho ông ta, cười vui vẻ.
“Tụi nó với nhau! Hẳn rồi đây!”, Luân nghĩ.
- Vậy thì tôi với anh bạn tôi đây đi nghe…
Ông ta kéo tay Luân. Luân hơi lượng sượng một chút.
- Tụi này dọ giá cá đồng ở Phụng Hiệp, còn lên dọ trên Long Xuyên…
Ông ta bãi buôi như Luân cùng đi với ông.
Viên trạm trưởng đẩy đưa:
- Ủa? Ông Hai đây đi chung với ông Sáu hả…
Ông khách rút gói thuốc mời viên trạm trưởng và làm như vô tình, ông bỏ quên gói thuốc trên bàn.
Tự nhiên, Luân thấy ông khách có một chút gì khả nghi. Mọi người trên xe đều đột ngột trở nên hiền lành.
*
Luân sắp đổi xe đi Sài Gòn thì một chiếc Citroën đến hối hả đỗ lại bên xe Cần Thơ. Trên xe bước xuống một người nhỏ nhắn đeo kiếng đen, bận áo chùng đen, đeo tượng Chúa – một linh mục. Ông ta nôn nả chạy hỏi chiếc xe từ Phụng Hiệp lên mà Luân vừa đi – đó là chiếc xe thơ chạy sớm nhất.
Luân linh cảm là ông ta tìm Luân.
Ông khách đeo kiếng gọng to – viên trạm trưởng cảnh sát kêu bằng ông Sáu - cũng đổi xe đi Sài Gòn. Ông đứng chung với Luân ở bàn bán vé. Ông linh mục đến bàn bán vé hỏi, giọng Huế:
- Xin lỗi, quí vị ở Phụng Hiệp lên đây, vị nào là kỹ sư Robert Nguyễn Thành Luân.
Luân chào ông linh mục, nhận tên mình. Linh mục mừng rỡ:
- May quá… tôi đoán chừng ông kỹ sư đi chuyến xe thơ… Quả nhiên đúng. Đức giám mục mời ông kỹ sư về tòa giám mục. Dạ, có xe riêng…
Ông Sáu sững sờ. Luân bắt tay ông:
- Cám ơn ông Sáu… Thôi, ông Sáu đi Sài Gòn, tôi có chút việc riêng ghé Vĩnh Long.
- Ông cha nầy đón ông?
Ông Sáu hỏi vặn, hất hàm về ông linh mục. Luân gật đầu.
- Vậy mà…
Ông Sáu bỏ lửng câu nói một lúc.
- Tôi đâu có lên Sài Gòn làm chi… Tính đưa ông đi đó! Tôi đi Rạch Giá.
Luân đã hiểu. Ông Sáu ngại Luân bị làm khó dễ ở dọc đường nên quyết giúp Luân. Chắc ông đoán Luân là một người kháng chiến, có thể vì qua bộ quần áo lỗi thời của Luân.
Luân bắt tay ông Sáu lần nữa, thật chặt. Nhưng ông Sáu bận quan sát chiếc Citroën và ông linh mục, có thể bận luôn những xáo trộn trong đầu, bắt tay Luân lấy lệ. Luân không thể giải thích cho ông Sáu hiểu nên đành cúi chào, gửi lại ông cái nhìn từ giã biết ơn với nhiều ngụ ý.
*
Xe ùn ở bến “bắc” Cần Thơ. Hàng đoàn GMC nối đuôi, mỗi xe đầy ắp lính. Chắc là số lính rút từ các tỉnh miền Tây về Sài Gòn sửa soạn chiếm đóng các vùng ta vừa chuyển quân xong. Hòa bình đã được hơn nửa năm, song chưa thấy dấu hiệu hòa bình trên gương mặt những người lính nầy. Họ mệt mỏi, rã rời, cáu kỉnh. Vài sĩ quan Pháp huýt gió trên xe Jeep mỗi khi có một phụ nữ Việt Nam đi gần. Vẫn mất dạy như Luân từng biết, nhưng e dè hơn.
Từ trung tâm thành phố Cần Thơ phóng ra một xe cảnh sát gắn còi mở đường, tiếp liền một chiếc Chrysler bóng nhoáng cắm cờ nhiều sao và đoạn hậu là một xe bảo vệ - cũng đến năm sáu tên quân cảnh Mỹ đội nón sơn chữ M.P, nét chữ chần vần rất nhói mắt.
Ông linh mục bảo người tài xế:
- Theo liền xe quân cảnh!
Ra lịnh xong, chính ông chồm hẳn người ra ngoài xe, phô chiếc áo chùng và tượng Chúa lủng lẳng trên cổ. Xe được phép xuống “bắc” trước những cái nhìn giận giữ của lính ngụy và những cái liếc khó chịu của các sĩ quan Pháp. Không nghe, nhưng Luân chắc là họ chửi thề. Thực tế đó cho Luân thấy cái tôn ti đang hình thành trong nấc thang đẳng cấp ở miền Nam: Mỹ rồi tới cha cố.
- Ông kỹ sư xa thành thị đã lâu, thấy có gì thay đổi không?
Khi “bắc” vượt sông Hậu, ông linh mục hỏi Luân. Trên “bắc” những người buôn bán chen lấn, vừa van nài, vừa mắng chửi người mua, tiếng loa phát giọng ma quái một đoạn ghi âm sấm giảng Hòa Hảo, tiếng đàn độc huyền, đàn ghi ta của từng tốp ăn xin…
- Thay đổi nhiều… Tỷ như, lính đông hơn, người ăn xin cũng đông hơn. Và thêm cái mới…
Luân hất hàm về chiếc Chrysler.
- Ông muốn nói đến người Mỹ?
- Phải, những người khách mới…
- Hết còn là khách rồi… Họ là bạn.
- Bạn hay là chủ?
Hỏi vặn xong, Luân cười. Ông linh mục vụt cười theo.
Luân chưa muốn bắt chuyện với ông linh mục. Con sông Hậu cuồn cuộn gợi anh nhiều ký ức. “ Bắc” vượt sông mươi phút – nơi khá rộng – còn trong chiến đấu, Luân có khi phải tốn cả giờ để từ Cần Thơ sang Trà Ôn, quãng hẹp nhất. Trên mặt sông nầy, anh đã từng đánh một trận tao ngộ: thuyền chở anh và một tiểu đội, giữa đêm mưa, băng đến giữa sông thì chạm tàu tuần – tàu tuần tắt máy, thả xuôi theo nước. Khi tàu tuần bật pha, Luân ra lịnh nổ súng. Chính anh giành khẩu trung liên của một chiến sĩ, xả thẳng vào pha. Pha tắt ngấm. Đèn pin không đủ sức phát hiện thuyền của bọn anh. Khi Cần Thơ bắn lên trời những chùm pháo sáng thì bọn anh đã lọt vào con rạch ngoằn ngoèo.
Có thể từ nay anh sẽ khó mà tao ngộ với lính tuần sông, nhưng ngay trên chuyến “bắc” vượt dòng nước bạc, giữa một tình thế bề ngoài khác xưa, ít ra cũng có chiếc Chrysler cắm cờ Mỹ được hộ tống thật sự và biết đâu, cả ông linh mục chưa hẳn chịu làm linh mục này là những trở ngại đủ gọi bằng không nhỏ.
… Xe qua Cái Vồn. Cứ vài trăm thước, một đồn lính Hòa Hảo, một trụ sở Dân xã đảng và một nhà giảng – nhà giảng xây y hệt lô cốt, loa phóng thanh ra rả. Bên trong ụ đất và rào kẽm gai, lính Hòa Hảo nón bo, đồng phục đen, mặt mũi lừ nhừ. Nhà tín đồ - nhà nào cũng trồng cột phướn và sơn cửa màu trần điều – nép dưới quyền uy của cả bộ máy quân sự chính trị và tôn giáo. Chưa chắc số đông tín đồ Hòa Hảo hiểu ý nghĩa sự ra đời của ngần ấy thứ đè nặng lên vai họ, rúc rỉa họ, nhồi nắn họ.
Cái di sản chống Cộng của thực dân Pháp còn đó.
Ông linh mục ngồi ở băng trước quay lại cười hóm hỉnh với Luân:
- Chúng ta đang qua vùng cai quản của ông Năm Lửa.
Người lái xe chợt lên tiếng:
- General Cinq Feux (1) đấy!
Ông linh mục và người lái xe cười nắc nẻ.
- Một quốc gia thống nhất không thể dung thứ cho các tiểu vương cát cứ. Khắp tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, đâu đau cũng nhan nhản đồn bót Hòa Hảo, họ làm ra luật riêng, họ thu thuế. Dân khổ hết sức!
Ông linh mục thuyết một hồi. Ông nói câu chót kèm cái chép miệng. Luân biết ông linh mục mới nhắc vùng Hòa Hảo. Còn vùng Cao Đài, Bình Xuyên, còn vùng UMDC (2) của tên Tây lai Léon Leroy… Chính phủ Diệm chọn lọc trong hàng tá đối tượng đâu là cái cần trừ khử trước hết.
- Họ sẽ biến mất trong một ngày không xa!
Ông linh mục làm một cử động minh họa: hai bàn tay xòe, chập lại và dang ra. Có thể vì thói quen ban phép lành nên dù nói đến một sự bôi xóa, ông vẫn hết sức dịu dàng.
- Ông kỹ sư biết chuyện ông Trần Văn Soái sang Hồng Kông không? - Linh mục hỏi.
Luân biết, do một tờ báo Sài Gòn tiết lộ. Anh không hoàn toàn tin là chuyện đó chính xác nhưng mẩu tin cho thấy cái thực chất của các lực lượng mà Pháp đang muốn đưa vào để trả giá với Mỹ.
Năm 1947, Bảo Đại nằm ở Hồng Kông. Ông ta rời Hà Nội sang Trung Quốc rồi không chịu về nước. Bấy giờ, ông ta là cố vấn Vĩnh Thụy – trong lúc buột mồm thốt được một câu khá kêu: “Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ”.
Cuộc xung đột vũ trang giữa ta và Pháp đã lan khắp nước. Thực dân Pháp tìm kiếm con bài chính trị. Bảo Đại lần nữa tự nguyện làm bù nhìn. Để tấn tuồng rôm rả một chút, Pháp cho một số tay sai từ Sài Gòn sang Hồng Kông “yết kiến cựu hoàng, bày tỏ tín nhiệm và thỉnh cựu hoàng hồi loan”. Thiếu tướng (3)Trần Văn Soái tức Năm Lửa là thành viên của “phái đoàn nhân sĩ và đại biểu các giới” gồm 24 người. Đến Hồng Kông, Năm Lửa thắng bộ quân phục cấp tướng, đi dạo phố. Ngoài phố, ông ta gặp Trịnh Hưng Ngẫu – một nhà chế tạo cơ khí, từng mướn ông ta làm công. Chính chụm các lò “gadoden” xe hơi cho Trịnh Hưng Ngẫu mà ông ta mang tên Năm Lửa.
Trịnh Hưng Ngẫu ngắm nghía bộ áo cấp tướng của Năm Lửa rồi bảo:
- Đây là thuộc địa của Ăng lê. Quân đội Ăng lê không có tướng 2 sao, mầy mang sao ra đường, cảnh sát tưởng mầy là tướng giả, nó còng đầu!
Hoảng hồn, Năm Lửa tháo lon, đút vô túi quần.
Luân không cười. Đâu có gì đáng cười. Anh không cười luôn với những chi tiết mà ông linh mục thuật đầy khoái trá:
- Ông Năm Lửa có ba người vợ chính, kêu bằng ba phu nhân. Một là Lưu Kim Đính, một là Đoàn Hồng Ngọc, một là Phàn Lê Hoa…
- Phàn Lê Huê chứ! – người lái xe sửa lại.
- Cũng rứa. Toàn tên phường tuồng. Mỗi bà đều vận khôi giáp, đeo gươm. Không phải để đùa mà sửa soạn đánh nhau thật!
Xe chạy đến cổng vào thị xã Vĩnh Long. Dưới một tấm bảng quảng cáo to tướng – thuốc lá Golden Club của hãng Pháp – một tu sĩ Hòa Hảo, tóc búi, áo dài, đang cầm loa điện đọc một đoạn sấm giảng của Đức thầy Huỳnh Phú Sổ.
Lòng Luân bỗng dâng lên một niềm xót xa thương hại. Còn ông linh mục – cái đầu câng câng và cái mộ trề dài thượt… Giọng quái đản đọc sấm của tu sĩ đuổi theo xe.
---
(1) tướng Năm Lửa (tiếng Pháp)
(2) Unite Mobile de Défense Chrétienne (Đơn vị cơ động bảo vệ đạo Thiên chúa)
(3) tức cấp hàm "Général de brigade" trong quân đội Liên hiệp Pháp, mang 2 sao. Quân hàm này chỉ tương đương cấp Chuẩn tướng 1 sao của Quân lực VNCH sau sau năm 1963.

CHƯƠNG 9

Xe ôm theo “rond point” (1) rẽ về phía mặt thì một toán cảnh sát thổi còi ra hiệu bắt xe ngừng. Đằng sau toán cảnh sát, lố nhố một số người mặc thường phục.
Luân biết ngay đây không phải là cuộc khám xét bình thường. Chính ông linh mục và tài xế cho Luân triệu chứng: rõ ràng họ chờ đợi cảnh nầy, qua cái liếc trao đổi khá nhanh, giấu kỹ của hai người, trước khi cảnh sát thổi còi.
- Việc chi, hỉ?
Ông linh mục lầu bầu, mở cửa xe. Ông bước đến toán cảnh sát, chìa giấy. Nhưng viên sĩ quan lắc đầu, vẹt ông sang một bên, xán lại xe. Ông linh mục nhún vai, ý muốn nói với Luân: tôi làm hết sức mình, song họ không nghe.
Tay tài xế ngả người, duỗi chân thoải mái, không nói không rằng.
- Xin lỗi, ông cho xem giấy tờ.
Viên sĩ quan cảnh sát lễ độ đưa tay lên kêpi chào Luân truớc khi ra lệnh bằng một giọng cộc lốc.
Luân điềm tĩnh rút trong túi ra tờ giấy to, chữ đánh máy, đóng mộc đỏ, đính kèm ảnh Luân trên góc. Ảnh đóng mộc nổi, khác thẻ căn cước mà Luân trình với trạm kiểm soát sáng nay.
Luân nhận rõ vẻ chưng hửng của viên sĩ quan – và cả ông linh mục, tay tài xế.
Không đọc tờ giấy, viên sĩ quan sừng sộ:
- Ông cho tôi xem thẻ kiểm tra.
- Tôi không có thẻ kiểm tra, chỉ có giấy tờ này. - Luân trả lời nhỏ nhẹ.
Viên sĩ quan bây giờ mới đọc tờ giấy. Bên trên, tờ giấy ghi hai dòng: Chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Bên góc trái: Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Rạch Giá – quận Hồng Dân. Bên dưới: Giấy đi đường. Và bắt đầu những dòng chữ: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh quận Hồng Dân, chiếu điều 14, tiết d, chương II của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam kí kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève, căn cứ vào điều 14 tiết c, chương II của hiệp định nói trên, nay cho phép Nguyễn Thành Luân, nguyên Trung đoàn phó Quân đội nhân dân Việt Nam, sinh năm 1921, được trở về sinh sống ở Sài Gòn theo nguyện vọng của ông. Mong nhà chức trách địa phương giúp đỡ ông Nguyễn Thành Luân. Hồng Dân ngày 5 tháng 12 năm 1954. Chủ tịch Hà Văn Bính.
Viên sĩ quan lúng túng.
- Giấy này không có giá trị…
Hắn trả tờ giấy lại cho Luân.
- Tôi là công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hơn nữa, là sĩ quan của quân đội kháng chiến. Tôi dùng giấy này là hợp pháp…
Luân vừa xếp tờ giấy, vừa nói.
- Chúng tôi không biết quận Hồng Dân.
Viên sĩ quan hình như không được chuẩn bị trước đối phó với tình thế này nên nói liều.
- Vậy ông cho phép tôi hỏi: Ông là ai, ông có quyền gì kiểm tra giấy tờ của tôi? - Luân vẫn từ tốn.
- À, ông muốn giở luật ra, phải không? Đây, tôi là trung úy Lê Văn Thu, đội trưởng cảnh sát thuộc Ty công an Vĩnh Long.
Hắn chìa cho Luân tấm thẻ bọc ny lông, mang chữ kí của trưởng ty công an.
Luân cười mỉm:
- Rất tiếc, tôi không biết ông trưởng ty này. Vả lại, với chúng tôi,tỉnh này tên là Vĩnh Trà, chớ không phải Vĩnh Long. Cho nên, tôi không thể bằng lòng để ông xét…
Luân nói như vậy nhưng lại mở cửa xe bước ra. Số tò mò kéo đến càng lúc càng đông. Xe cộ dồn chật ngã tư, bóp còi inh ỏi.
- Nhưng – Luân nói to – nếu các ông muốn bắt tôi thì tôi sẵn sàng theo các ông về khám. Các ông vô cớ bắt một người kháng chiến, điều đó các ông sẽ trả lời vơi Ban liên hiệp đình chiến và Ủy ban quốc tế. Bây giờ, tôi về đâu? Có cần còng tay tôi không?
Viên sĩ quan chẳng biết phải làm gì. Hắn liếc ông linh mục, ông này khẽ lắc đầu. Viên sĩ quan bỗng sừng sộ:
- Ai mà bắt ông? Chúng tôi chỉ hỏi giấy tờ, ông có đủ giấy từ thì mới ông đi!
Hắn quay lưng, đưa tay xua số người bu quanh xe:
- Cái gì mà kéo tới đông dữ vậy? Tản ngay! Muốn vô bót nằm hả?
Ông linh mục mời Luân lên xe.
- Mần ăn chi mà lạ rứa? - Ông ta càu nhàu. Chẳng biết ông càu nhàu cảnh sát xét hỏi ẩu hay càu nhàu ty công an quá dở. Xe lăn bánh, Luân vẫy vẫy đám đông…
*
Ngô Đình Nhu, quần trôpican cũ, sơ mi ngắn tay, chân nhịp nhịp đôi xăng đan lâu ngày không đánh xi, ngồi trên chiếc ghế nệm đặt trong phòng làm việc của giám mục. Giám mục Ngô Đình Thục, lúc nào cũng đường bệ ngồi sau chiếc bàn gỗ đen. Hai anh em yên lặng.
Nhu có mặt ở Tòa giám mục từ sáng sớm. Anh ta muốn đích thân chứng kiến màn kịch do mình đạo diễn. Nhu không tin ở tài ứng biến của giám mục.
Gia đình họ Ngô vốn thâm căn nhiễm tôn ti phong kiến của một đại vọng tộc. Ngô Đình Khả, phụ chính thân thần. Hai trai của Khả leo đến cực phẩm: Ngô Đình Khôi, tổng đốc, Ngô Đình Diệm từ Tri huyện thoắt Tuần vũ và sau đó, Thượng thơ bộ Lại, đầu triều. Một trai cũng cực phẩm về lĩnh vực khác: Ngô Đình Thục, 28 tuổi, lãnh chức linh mục và 13 năm sau, thụ phong Giám mục.
Khi Thục lãnh chức linh mục, Nhu lên 8 và khi Nhu vừa học xong trung học thì Thục đã là giám mục. Khoảng cách giữa hai người là khoảng cách của một thế hệ - Thục ra đời vào những năm cuối của thế kỷ trước, còn Nhu sau Thế chiến thứ nhất.
Có lẽ sự dun dủi sau đây đã phần nào đảo lộn cái tôn ti nghiêm ngặt ấy. Nhu bay nhảy đúng vào lúc nhà họ Ngô sa sút. Ngô Đình Khôi bị cách mạng trừng trị, đáng lẽ Ngô Đình Diệm cũng phải trả nhiều món nợ máu với nhân dân, nhưng chính sách khoan hồng của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cứu ông ta. Trong một tình hình xấu như vậy, chức giám mục không tỏ ra một chút uy thế nào. Người xốc vác nhà họ Ngô lại là Ngô Đình Nhu – một công chức hạng thường. Công lao “trung hưng” đó được đền bù ngay khi Diệm nắm quyền. Với thiên hạ, Nhu chỉ là một cố vấn, bào đệ của Thủ tướng. Nhưng chính Nhu vạch kế hoạch giúp Diệm phục thù Bảo Đại và Pháp – trước kia đã thay Diệm bằng Phạm Quỳnh – chính Nhu đang lèo lái chế độ miền Nam.
Quyền hạn – và cả thành tựu – đã tạo cho Nhu có cái nhìn kẻ cả, ngấm ngầm đối với hai người anh của mình. Dĩ nhiên, Nhu chẳng coi Luyện và Cẩn ra gì.
Thục là anh, là giám mục – đó là giới hạn mà Nhu tuân phục.
*
Nhu đặc biệt chú ý đến trường hợp Nguyễn Thành Luân. Hai gia đình đã quan hệ thân mật từ lâu, khi Ngô Đình Thục nhận chức Giám mục địa phận Vĩnh Long. Nói chính xác, giám mục Thục nhờ vả nhà Nguyễn Thành Luân: ông ta từ xa đến coi sóc cả một địa phận, nếu không tạo ra mối giao hảo với một vọng tộc sở tại thì rất khó chu toàn phận sự. Tín đồ đạo Thiên chúa Vĩnh Long – và đồng bằng sông Cửu Long nói chung – không nhiều, song thuộc hạng tai mắt, hầu hết là trí thức. Trong thâm tâm, Thục rất cảm ơn sự giúp đỡ hào phóng của kỹ sư điện René Nguyễn Thành Luân.
Bắt tay vào xếp đặt bàn cờ mới, Nhu hiểu rất rõ cái lỗ hổng cực lớn mà gia đình họ Ngô, bất cứ giá nào cũng phải lấp: cần một chút hơi hướng của cuộc kháng chiến để trang sức cho cái khẩu hiệu “đả Thực”. Bọn đầu hàng, đầu thú không thiếu gì, song chẳng một ai đáng giá. Trịnh Khánh Vàng từng làm đến Phó tư lịnh khu, song gã chỉ là một tên ba hoa và ăn chơi.
Vả lại, Trịnh Khánh Vàng sát cánh với Bình Xuyên ngay từ khi vừa đào ngũ. Xem đi xét lại Robert Nguyễn Thành Luân là món hàng quí hơn hết. Do đó, Nhu bày cho Thục viết thư. Nhu nóng lòng đón Luân vê trước khi Hiệp định Genève kí kết. Nhưng Luân không làm theo ý Nhu. Lần đầu, Nhu tự rút ra kết luận là với Nguyễn Thành Luân, không thể chơi cái trò dụ hàng được.
Biết tin Nguyễn Thành Luân về thành, dù sau Hiệp định Genève, Nhu mừng rơn. Đằng nào Luân cũng không thoát khỏi Nhu. Nhu bố trí đón Luân với cú dằn mặt là bắt Luân phải trình diện trong tư thế một kẻ sử dụng giấy tờ giả. Từ đó Nhu sẽ ban ơn…
*
Điện thoại reo. Nhu cầm ống nghe. Giám mục nhìn Nhu chăm chú. “Tôi đây…”, Nhu nói. “Sao? Không thành công? Nói rõ một chút…”
Nhu gác máy, mặt cau có.
Tiếng gõ cửa nhẹ.
- Mời vào! - Giám mục bảo.
Cửa phòng mở, ông linh mục đi đón Luân cúi chào, giọng như người có lỗi:
- Kính thưa Đức cha và ông cố vấn, y đã tới!
Giám mục đưa mắt dò hỏi Nhu.
- Đức cha ra tiếp y!
Giám mục rời bàn viết bước ra.
Nhu bật dậy, mở cửa sổ. Từ phòng làm việc của giám mục, Nhu trông rõ Luân đang rời xe để ở vệ đường, bước qua cổng. Luân đi chững chạc, trong bộ quần áo rõ ràng không được may đo cẩn thận, ung dung liếc những chậu hoa bày trong khuôn viên Tòa giám mục.
- Thằng này kiêu kỳ dữ đây!
Nhu lầu bầu. Nhu chỉ biết Luân qua ảnh. Đây là lần đầu, anh ta trông rõ người thật của Luân.
Nhu ngả mình lên ghế, đưa tay bóp trán.
---
(1) Điểm tròn giữa giao lộ.

CHƯƠNG 10

Phòng khách của Tòa giám mục thiếu ánh sáng. Luân phải dừng lại một lúc ở ngưỡng cửa mới có thể nhìn rõ giám mục đang tươi cười đón anh tại giữa phòng. Luân bước lên tấm thảm len và tiến đến giám mục. Giám mục ôm choàng anh. Khi giám mục buông anh ra, Luân quỳ xuống, giám mục đưa chiếc nhẫn trước mặt Luân và Luân kính cẩn hôn lên.
- Xa Đức cha rất lâu, nay gặp lại, thấy Đức cha khỏe mạnh con rất mừng – Luân nói, trước khi ngồi vào ghế mà giám mục mời.
- Anh cũng vậy. Anh chẳng khác tí nào! – Giám mục cười xởi lởi.
- Con cám ơn Đức cha đã cho người đón con.
- Ồ! Chỗ nhà anh với tôi, anh đừng nói thế! – Giám mục ngăn Luân – Thế nào, ông Jean khỏe chứ?
- Cám ơn Đức cha, anh con khỏe.
- Chị Trần cũng khỏe?
- Cám ơn…
- Hai ông bà có được mấy con?
- Thưa, anh chị con chưa có cháu nào.
Giám mục tặc lưỡi:
- Tội thì thôi… Cả hai anh chị đều tập kết, hở?
- Thưa, phải.
- Cụ René mất, thấm thoát đã gần ba năm… - Giám mục lại tặc lưỡi.
- Kính thưa Đức cha – Luân sửa cách ngồi, trịnh trọng – Hôm nay, sau khi hoàn thành nghĩa vụ công dân và nghĩa vụ dân Chúa trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc, trước khi trở lại đời sống bình thường, con tự coi có bổn phận trước tiên phải đến trình diện với Đức cha, vị chủ chăn của giáo phận mà con là con chiên, để chúc sức khỏe Đức cha và để xin Đức cha ban cho lời cầu nguyện…
Giám mục nở nụ cười thỏa mãn, đưa tay làm dấu thánh và miệng lầm bầm một câu kinh…
*
Nhu quyết định tiếp xúc Luân tại Tòa giám mục. Anh ta cần phải đi đến một kết luận dứt khoát. Do đó, bữa ăn trưa đáng lẽ chỉ là bữa ăn giữa giám mục và Luân, nó biến thành bữa tiệc của bộ ba.
Không đợi giám mục giới thiệu, Luân đã chào Nhu:
- Xin chào ông cố vấn!
Sự xuất hiện của Nhu xác định những điều Luân suy đoán. Nhu không thể chờ đợi lâu hơn. Bữa ăn hôm nay sẽ có ý nghĩa như một thánh lễ “bắp têm” với Luân hoặc sẽ là lần khảo sát chót trước khi giao anh cho công an. Luân nhớ rành rọt lời anh Tư trong bữa làm việc sau cùng với Luân:
“Anh sẽ chơi với địch một ván bài mà mọi con bài đều lật ngửa…”
Luân hiểu, ván bài bắt đầu từ sáng nay.
Giám mục ngồi đầu bàn, Nhu và Luân đối diện. Nghe tiếng Ngô Đình Nhu đã lâu, hôm nay Luân mới có dịp quan sát kỹ anh ta: gầy, môi thâm, da tái, trán cao. Với chừng đó phát tiết, nếu Nhu chỉ làm việc bằng cái đầu thì quả đây là một đối thủ có hạng. Song, trong một thoáng, Luân tìm ra sơ hở của Nhu: anh ta thích “maniéré” (1) – một tập sự lãnh tụ bao giờ cũng mang nhược điểm đó. Nhu kênh kiệu khi bắt tay Luân: buông thõng cả năm ngón tay, như là ban ơn cho kẻ khác. Nhu vừa ngồi vào ghế, liền ngả lưng, soải chân. Nhất là cái hất hàm trịch thượng:
- Sao, khỏe chứ?
Nhu cũng “đo đạc” Luân: thằng cha lầm lì, nhưng khả ái, đôi mắt rất sáng, thằng cha trí thức, con nhà giàu, chịu cực đủ chín năm…
Giám mục nâng cốc Martel khai vị:
- Mời các vị chạm cốc chúc mừng giáo dân Robert Nguyễn Thành Luân, con trai của người bạn khả kính của chúng tôi, chúc mừng buổi gặp mặt gia đình hôm nay.
Luân chạm cốc. Anh ngó thẳng vào mắt Nhu và uống cạn.
Đến tuần rượu thứ hai, Nhu nâng cốc:
- Hôm nay Đức cha và tôi mừng ông Luân. Như Đức cha vừa nói, chúng ta gặp nhau trong thân tình. Tôi mong là buổi nói chuyện sẽ thẳng thắn, bổ ích. Trước hết, xin mới Đức cha, xin mời ông Luân. Xin chúc ông Luân, người trở về, dồi dào sức khỏe.
Tuần rượu thứ ba, Luân nâng cốc.
Sau món gỏi tôm, Nhu xoay tròn ly vang trắng:
- Ông Luân có thể nói cho chúng tôi biết, ông quay về với ý định như thế nào?
Luân cười thật tươi, đủng đỉnh gắp miếng cá hấp, im lặng thưởng thức mùi vị của nó, rồi mới nói:
- Tôi chú ý ông Nhu hai lần dùng từ “trở về”, “quay về” chỉ trường hợp của tôi. Tôi không đi Pháp, không đi Mỹ, tôi ở nước Việt Nam của chúng ta, sao gọi là “trở về”, “quay về” được?
Giám mục sẽ liếc Nhu.
- Ông khó tính quá! Thì trước đây ông ở thành nay trở về thành… Tôi nói theo nghĩa đó. – Nhu cười vả lả.
- Nếu câu hỏi của ông Nhu không ẩn ý, tôi rất vui lòng về bữa gặp mặt hôm nay. Tôi không phải và không bao giờ có thể là một thứ “hàng thần lơ láo”, dù cho như Từ Hải!
Luân nói đĩnh đạc. Cuối cùng, anh pha chút hài hước và cười. Nhu cười theo:
- Nếu ông là Từ Hải, ắt phải có một nàng Kiều. Tiếc là chúng tôi chưa tìm ra một nàng Kiều. Vả lại, tôi đâu phải là Hồ Tôn Hiến!
- Vậy thì tốt lắm! – Luân nâng ly vang.
- Tôi hỏi nghiêm chỉnh: Ông định làm gì?
- Đó là một câu hỏi hòa bình. Tôi là một người lính, vì là lính, tôi quí trọng hòa bình. Nói cho cùng, chúng tôi đổ máu để vĩnh viễn chấm dứt đổ máu. Tôi sẽ làm tất cả những gì vì nền hòa bình bền vững sau khi đã làm tất cả những gì vì nền độc lập mà tất cả chúng ta đang hưởng…
Nhu nhìn Luân soi mói:
- Ông xác tín rằng việc của ông làm trong chín năm là đúng đắn?
- Có lẽ ông Nhu còn biết rõ hơn tôi là điều tin tưởng đó không chỉ của riêng tôi, của những người kháng chiến chúng tôi. Chẳng lẽ ông không tin như vậy?
- Cuộc kháng chiến lúc đầu phù hợp với ý nguyện toàn dân, song càng về sau, Cộng sản cướp công, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc biến thành cuộc đấu tranh ý thức hệ.
Luân vụt cười to. Giám mục không biết phải làm gì, đành sớt những miếng thịt bò bít tết thơm lừng vào đĩa Nhu và Luân:
- Mời các vị…
Nhu châm quẹt đốt một điếu thuốc, nén bực bội.
- Tôi xin lỗi đã cười – Luân dằn từng tiếng – Ông Nhu có thể cho tôi khiếm nhã. Song, câu hỏi của ông Nhu thật đáng tức cười. Tôi không nghĩ ông Nhu sẽ hỏi như vậy. Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Tường Tam, Bảy Viễn và những người tương tự, không phải là học giả, họ không biết phải tự bào chữa cho thái độ ươn hèn của họ không dám theo đuổi sự nghiệp kháng chiến đến cùng bằng cách nào, nên dùng câu hỏi đó. Còn ông, một người học cao, đọc nhiều sách, nổi tiếng là một nhà tư tưởng lớn, không nên lầm lẫn như vậy…
Nhu rít một hơi thuốc thật dài.
- Tôi lầm lẫn ở chỗ nào?
- Ông có nhận ra cuộc kháng chiến mang lợi ích rõ ràng nhất về cho ông Ngô Đình Diệm hay không? Hay là ông nghĩ sự quay 180 độ của người Pháp – từ sa thải đến trọng dụng ông Diệm – là hảo tâm của họ? Ông có thấy nêu không có cuộc kháng chiến, nếu cuộc kháng chiến không đi đến thắng lợi – thì ông Diệm phải lưu vong suốt đời hay không? Hiển nhiên là Phạm Quỳnh sẽ giữ ngôi vị của ông ta. Ngay ông, ông Nhu, chắc còn phải chôn vùi tháng ngày ở thư viện… Những người kháng chiến chẳng những không cướp công mà đã chia công, thậm chí, trên một nghĩa nào, đã chia công cả cho những người chẳng có một chút công, nếu không nói là có tội! Thế mà, bỗng nhiên vang lên điệp khúc: Cộng sản cướp công… Chuyện của Laurel, Hardy, chuyện của Fernandel (2)… sao lại chen vào đây?
Giám mục lo lắng. Ông thấy mặt Nhu như dài hẳn ra. Luân đã bổ một cú “nốc ao” vào tính tự phụ của anh ta.
- Người khác hô hoán về “Cộng sản cướp công” thì khả dĩ còn hiểu được. Đến ông Diệm, ông Nhu mà cũng phụ họa theo, thật kỳ quặc. Những người kháng chiến ròng rã chín năm chịu cực chịu khổ đủ điều, hy sinh mạng sống, bỗng bị lên án là kẻ cướp công! Ông Nhu không thấy tính cách khôi hài trong lập luận này sao? Ông còn nói đến cuộc đấu tranh ý thức hệ. Tôi nghĩ rằng một số người quen miệng nói mãi rồi tự kỷ ám thị mình nói đúng. Quả có sự tranh chấp ý thức hệ thật: Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh ngoài Bắc, Bảy Viễn, Nguyễn Hòa Hiệp trong Nam, chưa đánh Pháp đã đầu hàng Pháp, họ muốn cả dân tộc hạ vũ khí, trở lại thân nô lệ. Tuyệt đại đa số người kháng chiến không chấp nhận sự phản bội, quyết kháng chiến đến thắng lợi. Đó là cuộc đấu tranh ý thức hệ…
- Ông cuồng tín quá! - Nhu vớt vát.
- Hình như ông Nhu muốn ám chỉ sự cuồng tín của những người Cộng sản. Tại sao lòng yêu nước nồng nhiệt không thể có ở người Quốc gia? Vô tình, ông Nhu đẩy người Quốc gia về phía những kẻ đầu óc trống rỗng.
- Không! – Nhu cải chính – Tôi không nói như vậy. Dù sao, người Quốc gia trong kháng chiến cũng không có quyền…
- Tôi chờ câu nầy của ông. Lại một giả định mà như có thật. Ông nói quyền gì? Tôi là một người kháng chiến không thiếu một ngày, tôi có quyền không? – Luân bỗng cười: - Tiếc rằng đây là thị xã Vĩnh Long, nơi các ông quản lí, tôi không có cách gì chứng tỏ một người Quốc gia kháng chiến có quyền tới đâu. Tôi là một chỉ huy, tôi có quyền đánh giặc. Và, không phải để khoe khoang, tôi cần thưa: tôi đánh giặc không kém lắm, được khá nhiều huân chương quân công. Anh tôi, một phó chủ tịch, anh ấy có quyền, như luật pháp chính phủ quy định cho một phó chủ tịch. Tôi muốn nói thẳng với ông Nhu điều nầy: các ông phạm một thiếu sót lớn, ông cho phép tôi gọi như vậy, đó là các ông đối địch với cuộc kháng chiến. Nhất là đối địch khi kháng chiến đã đánh bại Pháp, kẻ chiếm nước ta ngót trăm năm, thậm chí không sánh nổi Bảy Viễn, Năm Lửa. Người Mỹ cung cấp cho các ông nhiều thứ, song họ không thể cung cấp cái chất dân tộc dữ dội nầy, tất nhiên, trừ thứ giả…
Nhu húng hắng ho. Anh ta bắt đầu nhìn Luân bằng những tia mắt khang khác.
- Anh hùng biện quá!
- Tôi nổi tiếng là người nói dở. Chẳng qua, tôi bảo vệ sự thật.
- Thôi, ta hãy cạn ly. Rồi còn thưởng thức món súp nữa.
Giám mục cảm thấy nhẹ nhàng. Ông ta nâng cốc vang Bordeaux óng ánh. Luân nghiêng đầu cảm ơn giám mục, uống một hớp, anh nói:
- Thưa Đức cha, con cho rằng cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là thắng lợi của tất cả người Việt Nam, kể cả những người không đồng tình về một hay nhiều mặt với Đảng Cộng sản. Rồi đây, giả tỉ như người Mỹ sẽ ở với chúng ta, cái mà chúng ta có thể kềm chế thái độ nước lớn của họ là chính những năm kháng chiến.
Giám mục gật đầu. Nhu cũng gật đầu. Luân bỗng nói như vô tình:
- Cuộc kháng chiến lớn lao đó sẽ mang về cho giáo hội Việt Nam chiếc mũ hồng y nữa kia!
Có lẽ để che giấu niềm xúc động mà giám mục ra hiệu cho linh mục phục vụ khui chai rượu digest (3) nhãn hiệu Le Cardinal (4).
- Ông có cần chúng tôi giúp đỡ gì không?
Nhu hỏi Luân, giọng đã dịu dàng.
- Hiện nay tôi chưa thấy cần… Dù sao cũng xin cám ơn ông.
- Cửa văn phòng riêng của tôi, cửa phủ Thủ tướng lúc nào cũng rộng mở. Ông đừng ngại.
Nhu chạm cốc với Luân và uống cạn.
- Cửa Tòa giám mục còn mở trước cửa văn phòng của chú nữa! – Giám mục cười hả hê.
---
(1) Làm bộ, làm điệu.
(2) Những danh hài giữa thế kỷ XX.
(3) Tiêu hóa.
(4) Hồng y.
CHƯƠNG 11
Để tiện đi lại, giám mục yêu cầu Trưởng ty công an Vĩnh Long cấp cho Luân thẻ kiểm tra. Ngay chiều hôm đó, Luân đến Ty công an.
Người đón Luân ngoài cổng chính là trung úy Thu. Hắn hơi sượng. Luân giả như không còn nhớ câu chuyện trưa nay.
Trưởng ty công an, một con người nhiều răng vàng, mặt đỏ gay, nhã nhặn mời Luân điền vào một tờ giấy những điểm chính của lí lịch Luân.
Ngó qua những phong bì lưu niệm bày dưới tấm kiếng ở bàn viết, Luân biết trưởng ty thuộc hạng công chức công an lâu năm, quốc tịch Pháp. Có rất nhiều bút tích của Perrier, giám đốc mật thám liên bang, Bazin, giám đốc mật thám Nam Việt, Mai Hữu Xuân, giám đốc PSE (1). Tên ông ta là Géo Nam. Với hạng nầy, tình thế trước mắt không phải ưu đãi, nếu không nói trùng trùng khó khăn. Cho nên, họ cố lập công. Vả lại, họ nhiều kinh nghiệm – đặc biệt, kinh nghiệm đối phó với cách mạng, chắc chắn chủ mới sẽ không phung phí…
Luân điền xong tờ giấy. Géo Nam chỉ liếc qua. Ông ta mời Luân thuốc, rồi xoa tay liên tục, ấp úng…
- Đây chẳng qua là formalité (2)… Thưa ông kỹ sư… Chúng tôi sẽ cấp cho ông kỹ sư một thẻ kiểm tra hợp lệ. Trước đó, tôi cần ông kỹ sư làm sáng tỏ vài điểm trong tờ khai lí lịch. Thiệt cực chẳng đã tôi mới dám làm phiền ông kỹ sư.
Luân biết Géo Nam đọc rất sơ sài lí lịch của anh, vậy những câu hỏi thật ra đã được sửa soạn trước. Ai sửa soạn cho Géo Nam, chẳng khó gì mà không đoán ra. Và chắc chắn người ta đã mở máy ghi âm.
- Xin ông trưởng ty cứ phép mà làm. Tôi đã sẵn sàng chịu cuộc thẩm vấn nầy… - Luân nói.
- Dạ… - Trưởng ty rối rít – Dạ, đâu phải thẩm vấn. Ông kỹ sư chớ hiểu lầm. Đức giám mục nghe được, thì rầy ra cho chúng tôi lắm.
- Xin ông trưởng ty bắt đầu!... – Luân giục.
- Dạ, hoặc ông kỹ sư trả lời từng câu, hoặc đợi chúng tôi nêu hết, ông trả lời một lần.
- Cách nào là tùy ông!
- Vậy, xin phép ông kỹ sư ta bắt đầu… - Trưởng ty cao giọng – Xin ông kỹ sư cho biết vì sao ông đang làm trưởng phòng mật vụ lại đổi ra tiểu đoàn?
- Tôi thích trực tiếp hoạt động ngoài mặt trận – Luân trả lời, giọng thản nhiên.
- Chỉ có lí do vậy thôi sao?
- Chỉ có vậy!
- Do ông tình nguyện hay do một sự gợi ý nào đó?
- Tôi tình nguyện.
- Xin lỗi, phải chăng ông kỹ sư thấy có những khó khăn khi ông phụ trách cơ quan tình báo. Khó khăn không phải vì năng lực của ông mà vì, tỷ như sự kiểm soát nầy khác…
- Cứ cho như suy luận của ông là có cơ sở đi!
- Cám ơn ông kỹ sư, tại sao ông không đi tập kết?
- Tôi muốn ở lại miền Nam.
- Cấp trên có giao nhiệm vụ cho ông không?
- Tất nhiên là có.
- Ông kỹ sư có thể cho biết vài nét về nhiệm vụ ông kỹ sư được giao…
- Ty của ông chưa có nghị quyết của Xứ ủy?
- Thưa chưa!
- Chẳng có gì là bí mật. Chúng tôi đấu tranh thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp nghị Genève, trước hết là chính quyền hai miền lập quan hệ bình thường, hiệp thương tiến tới tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.
- Xin lỗi ông kỹ sư, đài phát thanh Hà Nội cũng nói như vậy!
- Tôi đã bảo là không có gì bí mật cả mà!
- Trước khi ra thành, ông kỹ sư có gặp những người lãnh đạo cao nhất của Nam bộ?
- Có… Tôi gặp luật sư Phạm Văn Bạch, chủ tịch Ủy ban Nam Bộ, Nguyễn Văn Kỉnh trong Trung ương Cục. Dĩ nhiên, tôi gặp anh tôi, Jean Nguyễn Thành Luân. Và các đồng chí chỉ huy tôi…
- Cám ơn ông kỹ sư. Bây giờ, ta sang một vấn đề khác. Ông có thể cho biết thái độ của ông đối với chính phủ quốc gia.
- Một là tôi chưa rõ ông trưởng ty muốn nói đến chính phủ nào, của ông Bảo Đại hay của Ngô Đình Diệm…
- Coi như của thủ tướng đi…
- Hai là, thái độ của tôi như thế nào còn tùy thái độ của chính phủ ông Diệm đối với đất nước, đối với những người kháng chiến.
Luân ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Riêng với cá nhân ông Ngô Đình Diệm, tôi không giấu giếm tình cảm. Ông Diệm là người có đầu óc quốc gia. Nếu vì một lẽ gì mà nước nhà chưa thống nhất theo tinh thần Hiệp định Genève, tôi hy vọng ông Diệm giữ vững nền độc lập ở miền Nam, thực hiện dân chủ và đạt sự phát triển phồn vinh.
Géo Nam ghi chép lia lịa. Song, Luân để ý ông ta thật sự không quan tâm nhiều đến việc ghi chép. Cái chính là ông ta suy tính - hoặc nhớ - các câu hỏi.
- Người của ông có đặt quan hệ với ông không?
Câu hỏi nhà nghề nầy được Géo Nam tung ra vào lúc bất ngờ nhất.
- Có!
Luân trả lời rắn rỏi.
- Tôi không nói việc ông đến phái đoàn của Cộng sản bên cạnh Ủy hội quốc tế hay đến phái đoàn Ba Lan. Tôi muốn hỏi ông kỹ sư về quan hệ bí mật kia!
Luân ung dung:
- Tôi hiểu… Câu trả lời của tôi vấn là: Có!
- Chắc là có mật, ám hiệu?
Luân phì cười. Géo Nam biết mình hớ, loay hoay mãi với cây bút.
- Là trưởng ty công an ông dễ rút ra kết luận về việc tất nhiên đó. Nhưng tôi nói luôn để ông khỏi băn khoăn! Tôi chỉ liên hệ với tổ chức khi cần và ngược lại. Chắc ông muốn hỏi về địa điểm và ngày giờ. Xin lỗi, đây không phải là cuộc thẩm vấn như ông nói. Mà dầu là thẩm vấn, nói hay không vẫn là quyền của tôi… Hoặc giả, các ông nghĩ đến chức vụ trưởng phòng mật vụ trước kia của tôi. Tôi trở lại đời sống dân sự bình thường chứ không phải để chấp nối với cơ sở tình báo cũ của tôi. Về mặt nầy, các ông sẽ có lợi nhiều hơn nếu tôi vẫn hoạt động với tư cách cán bộ mật vụ!
- Thưa ông kỹ sư – Géo Nam chống chế - Chúng ta đang tính những bước hợp tác lâu dài. Tôi không tò mò đi vào những chi tiết nhỏ nhặt. Nếu câu hỏi làm phật ‎ý ông kỹ sư, tôi xin lỗi. Ông cho biết, sắp tới ông sẽ làm gì?
- Tôi có thể viết báo, dạy học, có thể dự vào các tổ chức quần chúng như nghiệp đoàn…
Nói đến đây Luân bỗng mạnh giọng:
- Và không loại trừ khả năng tôi hoạt động bí mật thậm chí… ra khu, cầm vũ khí! Nhân tiện, tôi báo với nhà cầm quyền: tôi không mang về thành súng đạn, thuốc nổ, điện đài.
- Chúng tôi tin ông kỹ sư!
- Tôi nhắc lại! Hiện nay cá nhân tôi không mang những thứ ấy, chúng không thuộc trách nhiệm của tôi.
Géo Nam cười nhẹ. Ông ta gạch dưới hai chữ “hiện nay” trong ghi chú. Suy nghĩ một lúc, ông ta gạch dưới thêm chữ “cá nhân tôi”.
- Câu trả lời của ông kỹ sư thật rõ ràng, thật sòng phẳng. Tôi muốn biết nếu người ta đề nghị với ông một sự hợp tác thì ý ông thế nào? Dĩ nhiên, điều kiện không thiệt thòi cho ông đâu.
- Vấn đề không phải là người ta dành cho tôi một cái gì đó. Vấn đề là đường lối chính sách chung liên quan đến hàng chục triệu người. Đây mới thật là điều kiện – Luân nói, cau mày.
- Có lẽ trong đời, đây là lần đầu tiên tôi nghe được những câu trả lời hết sức thâm trầm. Tuy khác trận tuyến với ông kỹ sư – đó là trước kia – tôi phải nói rõ sự khâm phục của tôi… Tôi sắp hỏi ông kỹ sư một câu quan trọng, mong ông kỹ sư suy nghĩ và trả lời thành thật…
Luân mỉm cười, trước sự rào đón của Géo Nam.
- Ông có phải là đảng viên Đảng Cộng sản – bây giờ kêu bằng Đảng Lao động?
Luân không trả lời ngay, môi mỉm cười. Géo Nam gần như nín thở chờ đợi.
*
Tình huống này được dự đoán từ trước, trong những phiêm làm việc kỹ thuật giữa Luân với anh Sáu Đăng, Phó giám đốc Sở Công an – một trong bảy người nắm rõ nhiệm vụ của Luân, không tính Sa, Quyến và một cán bộ nữa, tên Ngọc. Anh Sáu chính là đồng chí sẽ trực tiếp phụ trách Luân trong công tác mới.
Thật ra, Luân đã dứt khoát với anh Tư: nếu không giấu được đảng tịch thì Luân xin chiến đấu ở nông thôn; anh tự lượng sức: anh không đóng xuể vai một kẻ phản Đảng.
Thế là anh Tư giao cho anh Sáu Đăng cùng trao đổi với Luân phương cách làm sao trước sau Luân giữ đúng thân phận một phần tử Quốc gia kháng chiến ngoài Đảng với các biến chuyển về tư tưởng thật hợp lí, từng bước hòa vào một trường của chế độ phản động. Phương cách đó không dễ. Luân được 7 tuổi Đảng, từng kinh qua Bí thư tiểu đoàn, Ủy viên thường vụ trung đoàn ủy. Anh đã sinh hoạt Đảng ở cơ quan Phòng mật vụ, Ban chủ huy Liên Trung đoàn 120, các tỉnh đội thuộc đồng bằng, một số không ít cán bộ của Ủy ban Kháng – Hành (3) Nam bộ, của Sở Công an, Phòng quân báo và tất nhiên, Trung đoàn 58, tiểu đoàn 420 cùng Bộ tư lệnh Phân liên khu, thường vụ TỈnh ủy Bạc Liêu, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Long Châu Hà, Long Châu Sa và Vĩnh Trà Bến đều từng làm việc với anh theo tinh thần nội bộ Đảng.
Sau cùng, anh Sáu Đăng lập xong bản danh sách cho thấy phần lớn những người biết rành đảng tịch của anh đều ở trong diện tập kết, số còn lại không thể là mối đe dọa đối với anh.
Luân suy nghĩ rất căng thẳng và lần lần anh đi sát đến một phương thức.
*
Luân trả lời, ngó thẳng Géo Nam:
- Tôi biết các ông quan tâm chuyện nầy. Tôi lấy làm tiếc mà trả lời rằng: Chưa! – Luân trả lời, môi vẫn mỉm cười.
Géo Nam có vẻ bị xúc động. Ông ta ngó Luân một lúc:
- Tôi dự kiến ông sẽ trả lời “không”, nhưng ông lại trả lời “chưa”. Có lẽ cách sau thông minh hơn. Tuy vậy, ông cho phép tôi nêu lên hoài nghi: Làm sao Việt Minh dám trao cho một trí thức thuộc một vọng tộc,dân Tây, đạo Thiên chúa cầm đầu cơ quan mật vụ rồi nắm một đơnvị quân chủ lựclớn khi người đó không phải là đảng viên?
Luân biết đây là một tụ bài, mọi kính hiển vi châu vào câu trả lời của anh. Anh khoan thai châm thuốc.
- Nghi ngờ là quyền của các ông. Còn việc tôi chưa vào Đảng Cộng sản lại rất đơn giản: Tôi còn tin Chúa mà điều lệ Đảng đòi hỏi người đảng viên phải vô thần. Tôi không thấy có gì trở ngại đối với người ngoài Đảng Cộng sản thực hiện nhiệm vụ của mình, nên cũng không quan tâm việc mình vào hay chưa vào Đảng. Còn trọng trách? Tư lệnh Nam bộ trước đây, trung tướng Nguyễn Bình là ủy viên trung ương Quốc dân đảng. Ông nghe nói ông Nguyễn Phương Thảo chớ? Đó là một tên khác của trung tướng. Giám đốc Sở công anh Nam Bộ Diệp Ba là lãnh tụ Việt Nam Độc lập Đảng. Còn các ông Kha Vạn Cân, Nguyễn Thành Vĩnh, Tổng thư kí Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ Trần Bửu Kiếm là một lãnh tụ đảng Dân chủ. Tại địa phương nầy, Vĩnh Long, liên trung đoàn trưởng Đặng Văn Thông là một tín đồ đạo Thiên Chúa… Tôi có thể kê hàng quyển sách, hơn nữa, cả một pho tự điển về những người không phải đảng viên Cộng sản lại giữ những chức vụ cao, cao hơn tôi rất nhiều.
Géo Nam định nhận xét điều gì đó về câu trả lời của Luân, song lại thôi, ông ta tiếp tục cái đà của cuộc sát hạch.
- Ông cho biết, ông chưa là đảng viên Cộng sản, vậy ông có thích Đảng Cộng sản không?
- Nếu không thích làm sao tôi có thể hợp tác với những người Cộng sản suốt chín năm?
- Tôi có thể nói ông là…un communisant (4) hay un communiste sans parti (5)?
- Tùy ông… Il faut appeler chaque chose par son nom (6). Tôi là một người kháng chiến. Tel que je suis (7).
Géo Nam lấy khăn tay lau mồ hôi lấm tấm trên trán, ấp úng:
- Thưa ông kỹ sư, ông là một người thông minh. Đặc biệt thông minh. Tôi không còn đặt ra câu hỏi nào nữa. Sau đây, câu cuối cung, không phải là một câu hỏi.Nó là một đề nghị: Theo ông kỹ sư, chánh phủ của thủ tướng Ngô Đình Diệm cần làm cái gì mà ông kỹ sư cho là có ý nghĩa quan trọng nhất, hiện nay và sau nầy?
- Một câu hỏi khó trả lời trong vài phút, thậm chí vài giờ. Song, nếu cần một câu thôi thì câu đó sẽ là: Chính phủ của ông Ngô Đình Diệm cần phải có một chủ thuyết khả dĩ khai quật được sức mạnh tinh thần của dân chúng, làm cơ sở được cho các đối sách trước mắt và lâu dài. Cái cơ sở nhất của chủ thuyết: Quốc gia và nhân phẩm, đó là hai chủ điểm của chủ thuyết. Viện trợ Mỹ không thay đổi được chủ thuyết. Thiếu chủ thuyết mọi cố gắng đều như bèo bọt…
Bây giờ Géo Nam ghi chú thật cẩn thận, mồm lẩm bẩm cái gì đó.
- Cám ơn ông kỹ sư. Cuộc nói chuyện của chúng ta đã hoàn tất mỹ mãn. Vài hôm nữa,ông kỹ sư nhận thẻ kiểm tra. Dĩ nhiên, ông kỹ sư cho phép nhân viên chuyên môn chụp một kiểu ảnh 4x6.
Géo Nam đưa Luân đến phòng ảnh.
- Tôi báo ông trưởng ty, trong khi chở đợi nhận thẻ kiểm tra, tôi sẽ ở nhà cũ của cha mẹ tôi, thăm viếng bà con, bạn bè…
Luân vừa đi vừa bảo.
- Đó là quyền của ông kỹ sư… nếu không kỹ sư cần sai phái việc chi cứ gọi, chúng tôi sẽ cố gắng làm vừa lòng ông kỹ sư.
*
Nhu chăm chú đọc bản lí lịch của Luân:
Tên: Nguyễn Thành Luân, Robert.
Quốc tịch: Việt Nam (trước kia: Pháp)
Sinh tại Vĩnh Long, ngày 7 tháng 6 năm 1921
Học lực: Kỹ sư canh nông (Đại học Hà Nội)
Nghề nghiệp: Cán bộ kháng chiến
Trong kháng chiến:
a) Vận tải vũ khí Bắc Nam (1945 – 1947)
b) Trưởng phòng mật vụ Nam bộ (1948 – 1949)
c) Tham mưu trưởng Liên Trung đoàn 129, trung đoàn phó trung đoàn 58 kiêm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 420 quân chủ lực thuộc Bộ tư lịnh phân liên khu miền Tây Nam bộ (từ 1950 trở đi)
Tôn giáo: Công giáo.
Cha: René Nguyễn Thành Luân (đã mất)
Mẹ: Trần Thị Thủy (đã mất)
Anh: Louis Nguyễn Thành Luân, bác sĩ, ỏ Pháp.
Anh: Gustave Nguyễn Thành Luân, kỹ sư, ở Sài Gòn.
Chị: Christine Nguyễn Thành Luân, kiến trúc sư, ở Ý.
Anh: Jean Nguyễn Thành Luân, luật sư, trong Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ.
Chị: Marguerite Nguyễn Thành Luân, giáo sư, ở Anh.
Em gái: Marie – Louise Nguyễn Thành Luân, kiến trúc sư, ở Gia Nã Đại.
Vợ con: Chưa vợ
Đảng phái: Không.
- Đức cha thấy thế nào? – Nhu hỏi.
Thường thường Ngô Đình Thục rất dè dặt phải trả lời các câu hỏi của Nhu, cho nên ông chỉ nói lấp lửng.
- Cũng rõ. Ta biết cả rồi… Anh ấy còn khai chưa đủ thôi: vợ của Louis, Gustave, Jean, chồng của Christine, Marguerite, Marie-Louise.
- Chưa rõ đâu! Đây chỉ là tờ giấy trắng – Nhu kêu lên.
- Nghĩa là thế nào? – Giám mục ngơ ngác.
- Hai nghĩa: quá thật, quá đủ, do đó dẫn đến nghĩa thứ hai: chưa có chữ nào cả!
- Chú nói chi mà rắc rối quá! - Giám mục ngao ngán.
- Em diễn đạt thế này: Nó nói thật đến mức nó nói láo.
- Thôi, ta hãy nghe băng ghi âm… Có thể qua đó, chú đánh giá anh ta chính xác hơn.
Giám mục mở máy ghi âm những câu hỏi và trả lời ở Ty công an. Từng chập, Nhu tắt máy, tư lự. Giám mục cứ phải giục Nhu nghe cho hết.
Nghe xong, Nhu đi lại mãi trong phòng. Giám mục rụt rè:
- Chú còn thắc mắc gì không? Lạy Chúa, nó mà Cộng sản, tôi sẽ là người trước tiên xiềng cổ nó!
- Về lý – em nhắc lại, về lý - lời như hắn không còn chỗ nào bắt bẻ được. Chính vì không có chỗ nào bắt bẻ được mà em nghĩ: đây là một tay đáo để! Cầu mong, trong tất cả các điều hắn khai chỉ cần một điều thật thôi: quả hắn chưa vô Đảng Cộng sản…
Nhu đột ngột nói như thì thầm:
- Thưa Đức cha, ta cần, ta rất cần một người như anh chàng nầy, một anh chàng tuyệt diệu!
Giám mục nở nang mặt mũi:
- Vậy chú đã tin nó rồi?
Nhu vụt cười phá. Giám mục nhíu mày, khó chịu.
- Tin? Sao Đức cha phí phạm lòng tin quá vậy?
Nhu ngưng cười, hơi mím môi:
- Mà Đức cha nói đúng. Đó cũng là lòng tin.
Chỉ ngón tay vào ngực mình rồi chỉ vào Giám mục, Nhu nói say sưa:
- Em tin. Nhưng tin chúng ta!
Rồi tay Nhu phác lên khoảng không cử chỉ của kẻ nắm chặt cương con ngựa.
Nhu cho máy ghi âm quay trở lại, nghe đoạn Luân nói về chủ thuyết. Băng ghi cả lời lẩm bẩm của Géo Nam: “Chủ thuyết… Théorie? Doctrine?” (8)
- Anh chàng Nguyễn Thành Luân nói đúng – Nhu tắt máy – Chủ thuyết! Phải có chủ thuyết nếu không muốn mọi thứ tan như bèo bọt… Còn tay Géo Nam chỉ biết chữ chủ thuyết sau khi dịch nó ra tiếng Pháp. Mà dịch cũng không đúng. Chủ thuyết của ta phải là Foi Croyance (9)
Nhu ngó ra vườn hoa:
- Đức cha nên thúc đẩy cho quan hệ giữa Đức cha và anh ta thân mật hơn, mang tính chất gia đình, tỷ như Đức cha nhận anh ta làm con nuôi, đưa anh ta vào gia đình chúng ta. Cũng hợp lý thôi. Đức cha vốn là bạn thân của cụ René…
Nhu đột ngột quay lại:
- Đức cha thấy không? Một cuộc đọ trí hết sức lý thú, hào hứng. Một cuộc đọ trí mà đối thủ của tự bộc lộ thân phận mình trần trụi. Hay!
Nhu đứng giữa phòng, cắn ngón tay cái, trong khi cánh tay kia đặt lên ngực, đăm chiêu ngó tượng Chúa hài đồng và chiếc máng cỏ.
---
(1) Police Spéciale de l’Est (cảnh sát đặc biệt miền Đông)
(2) Thủ tục.
(3) Ủy ban kháng chiến – hành chánh, gọi tắt.
(4) Một người cảm tình Cộng sản.
(5) Một người Cộng sản không Đảng.
(6) Nên gọi mỗi vật bằng tên của nói.
(7) Tôi là như vậy đó.
(8) Lý thuyết? Chủ nghĩa?
(9) Lòng tin, tín ngưỡng.
CHƯƠNG 12
Trung tá Mai Hữu Xuân vừa nghe băng ghi âm vừa ngắm nghía bức ảnh của kỹ sư Nguyễn Thành Luân. Băng ghi âm và ảnh do Géo Nam gửi về, theo lệnh của Xuân.
Văn phòng im ả. Thỉnh thoảng Xuân nhúm một nhúm thuốc từ trong chiếc hộp mang nhãn hiệu Prince của Hà Lan tra vào píp và khoan thai châm lửa. Màu simili sậm bọc chiếc ghế tiệp với màu da nâu của Xuân. Đôi môi thâm giữ chặt chiếc píp La Bruyère, chỉ động đậy khi Xuân hít từng hơi dài và sau đó, khoan khoái thả ra làn khói nhạt.
Quê quán ở một tỉnh ven biển Trung Bộ, Mai Hữu Xuân tốt nghiệp bậc trung học tại Sài Gòn và vào đời với nghề trưởng ga xe điện Xóm Gà. Xuân xin gia nhập ngành mật thám và được tuyển chọn làm mật báo viên. Chẳng bao lâu, giám đốc mật thám Nam Kỳ để ý đến Xuân vì tinh thần mẫn cán lẫn kết quả công việc. Nhiều nhóm Cộng sản vùng Xóm Gà, Bà Chiểu tan vỡ nhờ Xuân. Bởi vậy, Xuân được đặc cách công nhận là Gardien de paix (1), một phẩm trật thường chỉ dành cho người Pháp hoặc mang quốc tịch Pháp.
Từ khi Pháp xâm lược trở lại Việt Nam – tháng 9-1945 – đường công danh của Xuân càng mở rộng. Lúc đầu giữ chức Chef brigade (2) cùng lứa với Trần Bá Thành, Michel Mỹ, Mai Hữu Xuân nhảy vọt lên vị trí thứ ba trong đẳng cấp ngành mật thám Đông Dương, chỉ đứng sau Perrier, giám đốc Liên bang và Bazin, giám đốc Nam Việt. Giao cho Mai Hữu Xuân phụ trách bộ phận cảnh sát đặc biệt miền Đông (PSE), quả Bazin biết người biết của. Ít lời, tỉ mỉ, hành động kiên quyết, không bao giờ bận bịu với tình cảm, Mai Hữu Xuân hội đủ các điều kiện của một chỉ huy mật thám chuyên nghiệp. Đức tính của Xuân không chỉ có bấy nhiêu. Người ta còn nhớ cái ngày 9-3-1945, bấy giờ Xuân làm việc ở bót Catinat. Trong số tù giam giữ ở đây, khá đông thuộc nhóm thân Nhật. Quân Nhật ụp đến, bắt tất cả nhân viên mật thám, kể cả Bazin. Tất nhiên Xuân không thể là ngoại lệ. Thế nhưng 10 phút sau đó, người ta thấy Xuân lên xe hiến binh Nhật và một giờ sau, Xuân trở lại với chiếc băng đỏ trên cánh tay: Ông ta được bổ nhậm làm phụ tá cho chỉ huy trưởng Hiến binh người Nhật. Lập tức Xuân điểm danh các điệp viên Pháp – mỗi tên được gọi tới Catinat và mỗi tên có việc khẩn cấp phải làm cả.
Rồi Nhật đầu hàng. Cách mạng nổ. Xuân trình diện sớm nhất với Quốc gia tự vệ cuộc. Giữa lúc rối tinh trăm thứ, chẳng ai để ý đến một Mai Hữu Xuân ít tiếng tăm so với những đốc phủ Tâm, đốc phủ Bạch chẳng hạn. 29 ngày sau, vào cái đêm 23-9, Xuân cùng một toán – gồm nhân viên lính kín, phòng nhì cũ, hiến binh... – dẫn đường cho quân đội Anh chiếm bót Catinat, bấy giờ là trụ sở Quốc gia tự vệ cuộc Nam Bộ. Chính Xuân mở khóa mời Bazin lên phòng làm việc của y ta. Và một lúc sau, Xuân đứng đầu Sở cảnh sát đặc biệt.
Bởi vậy, người ta có cảm giác là Mai Hữu Xuân bàng quang trước bao nhiêu đổi thay từ khi Pháp thất thủ Điện Biên Phủ. Thật ra, Xuân thôi chức vụ chỉ huy PSE – cơ quan nầy giải thể sau khi Bazin bị Việt Minh giết – và công việc chính của ông ta là trợ lý cho tướng Hinh trong ngành an ninh quân đội với quân hàm trung tá trù bị. Hinh mất chức Tổng tham mưu trưởng, Xuân vẫn bình thản. Lê Văn Tỵ gọi Xuân đến báo cáo và Xuân đã làm cho viên tướng lên lon nhờ số hên nầy hài lòng. Tỵ giới thiệu Xuân với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Diệm hài lòng nốt.
Nha an ninh quân đội, dưới quyền trung tá Mai Hữu Xuân – ông ta được thủ tướng công nhận hàm trung tá thực thụ - hoạt động rộng hơn chức danh của nó rất nhiều. Do đó, Xuân có trong tay những gì liên quan đến một Việt Minh nặng cân – như Xuân đánh giá – tên là Nguyễn Thành Luân. Xuân còn biết Nguyễn Thành Luân từ ngày 16-12-1954, đã là con nuôi của giám mục Ngô Đình Thục. Vấn đề là sớm ngăn chặn gã Cộng sản này trước khi gã rề rà quá sâu vào bếp núc nhà họ Ngô.
“Gã về thành và gặp ngay Ngô Đình Thục. Nghĩa là thế nào? Người của Nhu từ lâu? Không phải! Gã từng làm trưởng phòng mật vụ phía bên kia. Hình như có một dạo, gã miner (3) được cả trong PSE của mình. Phải rồi. thằng Thomas Bocal là một. Gã còn thông qua Thượng Công Thuận khai thác tin tức từ con rể ông ta, Michel Mỹ - phó của Bazin”.
Mai Hữu Xuân cố nhớ. Ông ta lục lọi phòng lưu trữ tuyệt mật của công an. Thêm được một số hiểu biết nữa. Nhưng chính Phòng nhì của Pháp cung cấp cho ông ta nhiều tài liệu quí, đặc biệt các phúc trình của Savany. Vậy là Luân quan hệ đã khá lâu với Ngô Đình Thục, bằng con đường quen thân của hai gia đình. Càng không ổn. Với Trần Kim Tuyến, không có gì đáng ngại: một tay tập tễnh làm mật vụ, chưa lọt khỏi ngưỡng cửa học nghề. Nguyễn Thành Luân chắc không giống anh chàng bác sĩ giả hiệu kia. Ngô Đình Nhu sẽ sử dụng gã và ai mà biết được rồi đây, cái gì sẽ xảy ra với những người như Mai Hữu Xuân. Gì thì gì, gã phải làm cho Nguyễn Thành Luân như chưa hề sinh ra… Tất nhiên, gã sẽ không trầy một chút da nếu gã tỏ ra biết điều. Hơi khó! Và, kín như bưng, tất nhiên, bởi Nhu mà ngửi được, chức Giám đốc an ninh quân đội bay ngay tức khắc đã đành, giữ được cái đầu trên cổ cũng không dễ. Chưa hẳn vì Luân là con nuôi của Thục, chưa hẳn vì Nhu trọng vọng Luân mà chính yếu là Nhu không ưa Xuân. Có lần Xuân nghe tướng Tị thổ lộ: “Cụ - tức Ngô Đình Diệm – khen ông, nhưng ông cố vấn cứ gặng tôi mãi: Mai Hữu Xuân làm được không? Mai Hữu Xuân xuất thân từ mật thám, đảm đương sao nổi việc an ninh quân đội?”. Nếu Cụ không khăng khăng giữ ông thì ông đã được trả về cho Phòng nhì Pháp từ tháng 9, tháng 10 kia!
*
Xuân tắt máy ghi âm, rời ghế. Khi Xuân đứng lên thì đó là một con người khác: nhanh nhẹn, hoạt bát. Ông ta bấm interphone:
- Commandant (4) Vọng lên gặp tôi!
Có tiếng trả lời léo nhéo ở đầu kia.
Nửa phút sau, một sĩ quan béo lùn, cầu vai bốn gạch vàng, chập chân ngoài thềm.
- Thế nào? – Xuân hỏi.
- Thưa trung tá, hắn ở số 3 Place Pigneau de Behaine, gần sân bay, nhà của anh hắn, kỹ sư hóa học Gustave. Chúng tôi bám sát!
- Ờ!
Xuân chỉ vào ảnh Luân, ra lệnh tiếp:
- Cho in nhiều tấm!
- Dạ!
- Định thế nào?
- Thưa, xin trung tá cho lịnh: Penalty, Coup franc direct hay Indirect (5)?
- Indirect.
- Dạ!
- Không lộ tin ra ngoài. Hiểu chưa?
- Dạ!
- Bao giờ?
- Chiều nay…
- Thiếu tá có thể đi được!
Mai Hữu Xuân ngồi trở lại ghế, gõ píp vào gạt tàn sửa soạn nhồi thuốc.
*
Luân len lỏi chật vật giữa dòng người chen lấn con đường Lê Văn Duyệt – vừa mới được đổi tên, trước kia nó mang tên Verdun, ghi nhớ trận Pháp thắng Đức trong Thế chiến thứ nhất – dẫn ra ngoại ô Tây Bắc. Vào lúc cao điểm như buổi chiều nay, con đường trở nên chật hẹp, lộn xộn. Chiếc motobécane Luân mượn của đứa cháu nhích từng thước một. Anh đang trở về nhà người anh – kỹ sư hóa chất Gustave – nơi Luân ở tạm chờ gia đình thu xếp một chỗ riêng. Gustave thực sự vừa mừng vừa lo cho đứa em không báo trước đột ngột xuất hiện. Luân trấn an anh mình và vài ngày sau, cả nhà biết tin Luân. Những bức điện từ Pháp, từ Anh… đánh về hỏi han sức khỏe Luân, chúc mừng Luân – bình yên sau 9 năm chiến tranh và được giám mục nhận làm con nuôi – đồng thời ủy nhiệm Gustave lo liệu cho Luân.
Mặc dù giám mục ân cần nhắc Luân sớm gặp Nhu, Luân vẫn không vội. Trước tiên, Luân tìm việc làm. Hẵng có một sinh hoạt bình thường đã. Sự vồ vập đến với Nhu có thể bị hiểu bằng nhiều cách – cách nào cũng không hay. Gustave giới thiệu Luân với chủ trường trung học tư thục Vương Gia Cần. Chủ trường lưỡng lự khá lâu. Hiệp định Genève thì hiệp định, Luân là một sĩ quan kháng chiến, liệu công an có làm khó dễ không?
Mặt khác, chà, sẽ hấp dẫn biết bao khi báo chí đăng quảng cáo: Giáo sư vừa từ bưng biền về, kỹ sư Robert Nguyễn Thành Luân, trung đoàn phó, dạy môn Toán và Pháp văn các lớp ban tú tài. Chẳng cần nói, trường chắc phải thêm chái để đón học sinh. Chưa có trường nào so nổi Vương Gia Cần. Vả lại, tay kỹ sư đi kháng chiến lâu ngày, khá lờ quờ về giá cả: anh ta nhận số tiền 25 đồng một giờ dạy – bằng phân nửa người khác – và sẽ dạy mỗi ngày ba giờ.
Cân nhắc kỹ lưỡng lợi hại rồi, chủ trường đồng ý kí hợp đồng. Ông tự an ủi: Cách đây vài hôm tại nhà sách Yểm Yểm của thi sĩ Đông Hồ, hai nhà văn kháng chiến Lý Văn Sâm và Dương Tử Giang họp mặt với đông đảo văn hữu. Báo chí đưa tin này, cho biết tổng trưởng thông tin và chiến tranh tâm lý Phạm Xuân Thái có lời hoan nghênh.
Luân sắp ra về sau khi xong các thủ tục, một số đông giáo sư và cả một số học sinh ùa lên văn phòng giám đốc gặp Luân, có lẽ do cô thư kí loan tin. Thế là một cuộc nói chuyện không dự kiến đã diễn ra. Người ta hỏi Luân về đời sống kháng chiến, về các trận đánh, về triển vọng của tình hình. Người ta xoay quanh Điện Biên Phủ. Ông chủ trường cao hứng khui một chai Whisky và cụng ly với Luân. Ông ta oang oang:
- Mấy “vous” (6) thật là formidable (7)! Camp retranché (8) vào loại kiên cố với hệ thống đồn nào Claudine, Anne-Marie, Eliane, phía Bắc có Gabrielle, Beatrice, phía Nam có Isabelle, dây kẽm gai căng rộng năm bảy chục thước… Tướng Pháp thị sát xong, lớn tiếng thách Việt Minh: Mời vào! Phó tổng thống Mỹ Nixon đến tận nơi và bảo: Ô kê! Thế mà mấy “vous”… Ối giời! – ông ta ra dấu bóp vỡ quả trứng – Mấy “vous” cho tất cả chầu Diêm vương! Người Nam ta cừ thật!
Luân nhìn khắp lượt những người có mặt. Họ không “bốc” như ông chủ trường. Hãnh diện và phân vân. Hãnh diện vì những cái đã qua, phân vân vì ngày mai. Tuy nhiên, Luân phát hiện thêm rằng cuộc kháng chiến trường kỳ qua đã gợi thức đến những người bấy lâu nay dường như ngủ ngoài thời cuộc.
Khi Luân ra về, một cô giáo tiễn Luân tận cổng. Cô rât trẻ, tên Mai, nghề chính là thư kí tòa đô chính, nhận dạy giờ để có thêm thu nhập. Luân để ý đến cô vì suốt cuộc gặp gỡ, cô không nói nửa lời, đôi mắt to buồn rười rượi. Và Luân bỗng ngờ ngờ: cô quá giống một người nào đó mà Luân quen.
- Tại sao các anh không đánh luôn, giải phóng luôn? – Cô hỏi Luân, rất khẽ.
Đâu dễ trả lời ngắn gọn một thắc mắc cỡ đó, Luân chỉ cười nhẹ:
- Vẫn đánh tiếp đó chớ…
Cô giáo nhìn Luân ngờ vực:
- Đánh bằng cách khác… Khác về cách đánh thôi!
- Đánh bằng tay không à? Đánh bằng đôi tay bị trói à? Tôi không hiểu – Cô gái lắc đầu – Riêng anh, anh tin rằng họ sẽ cư xử tốt với anh sao? Anh ra công khai như vầy mà yên tâm được sao?
Luân biết là chưa thể làm cho cô giáo trẻ thông được ngay hoàn cảnh tế nhị của cách mạng. Anh cầm tay cô:
- Cám ơn cô Mai.
*
Đông người và dòng suy nghĩ bất tận xô Luân về phía trước. Chiếc motobécane rú ga ầm ĩ.
Từ giã Sài Gòn khi thành phố còn gói gọn trong một khoảnh nội ô, Luân gặp lại nó, cơ hồ không nhận ra: những khu đầy mồ mả, sình lầy nay mọc lên nhà cửa san sát. Không phải biện Tây, biện Chà tuần tra đường phố mà là cảnh sát người Việt. Luân nhớ anh vừa nói với cô giáo Mai: vẫn đánh, song đánh cách khác. Đúng vậy, phải đánh cách khác vì điều kiện của trận đánh đã đổi thay. Cuộc kháng chiến đóng góp vào sự đổi thay đó và bây giờ, những người kháng chiến như anh phải đối phó ngay với thành quả của chính mình!
Một chiếc Jawa vượt qua mặt, cắt dòng suy nghĩ của Luân. Gã ngồi sau, rất lưng nách, ngoảnh nhìn Luân. Gió phất vạt áo gã, một khẩu súng ngắn lòi ra.
Qua kiếng chiếu hậu, Luân nhận thêm một chiếc Jawa thứ hai kè đằng sau lưng anh, Luân đoán rằng sắp có biến và chắc chúng nó chờ Luân đến khúc đường vắng gần Lăng Cha Cả.
Luân đến ngã ba rẽ vào ga Hòa Hưng. Anh mở ga xe, lách vội dòng người, ngoặt qua trước mũi hàng chục loại xe khác, giữa tiếng chửi thề ỏm tỏi của những người lái, từ phía phải anh phóng sang phía trái, lao vào con đường rẽ.
Chiếc Jawa chạy trước bị hẫng. Chiếc chạy sau cũng bị bất ngờ. Chắc chắn là nhanh nhất, một phút sau, hai xe mới lọt được vào con đường rẽ.
Luân xả hết tốc lực. Chiếc motobécane uốn lượn vun vút giữa xóm nhà lụp xụp. Chỉ cần đến Hòa Hưng, anh sẽ lần vào vô số lối nhỏ, chúng khó mà theo dấu anh.
Nhưng tiếng Jawa đã lồng lộn ngay sau lưng anh. Các tay lái xe này không xoàng.
Từ đây đến chợ Hòa Hưng phải qua một vùng trồng rau. Chậm nhất, chúng đuổi kịp Luân giữa đám rẫy.
“Nhị tì” Quảng Đông đây rồi. Luân vòng theo rìa khu nghĩa địa, đột ngột thắng xe, nhảy vài bước, chui vào đám mồ mả ngổn ngang. Anh chọn hướng ngược chiều với hai chiếc Jawa, cúi rạp người, chạy thật nhanh. Lựa một ngôi mả có mái che cao, ở nơi trống trải, Luân đu lên và nằm sát trên mái che.
Tiếng hai chiếc Jawa ngừng. Chúng đã thấy xe của Luân.
Nghĩa địa không rộng, vài phút sau, cả bốn đứa lùng sục khắp các xó xỉnh.
- Thằng này biết tàng hình chắc?
Một tên trong bọn càu nhàu:
- Thôi, đem xe của nó về cho thiếu tá.
Một tên khác bảo. Cả bọn kéo nhau ra nghĩa địa. Ba xe cùng nổ máy.
Luân vẫn nằm bẹp dính trên mái nhà mồ. Sự thận trọng của anh không vô ích. Khi trời nhá nhem, chiếc Jawa trở lại. Nó đón một tên ngồi rình Luân nơi nào đó, chịu khó đến cả tiếng đồng hồ.
Tối quá, nên Luân không đọc được bia ngôi mả. Chẳng rõ ông bà Hoa kiều nào vô tình cứu Luân…
---
(1) Cảnh sát viên hạng cao
(2) Trưởng toán.
(3) Gài bẫy, cấy vào.
(4) Thiếu tá.
(5) Phạt đền, phạt trực tiếp, phạt gián tiếp (thuật ngữ bóng đá). Ở đây, tiếng lóng muốn nói: giết, làm bị thương, bắt cóc.
(6) Ông, anh.
(7) Dễ sợ, ghê gớm.
(8) Cứ điểm phòng ngự.
CHƯƠNG 13
Đêm đó, Luân tạm ngủ ở một chỗ do Ngọc thu xếp.
Luân đắn đo mãi, sau cùng, liên lạc với Ngọc, từ một trạm điện thoại công cộng, vào gần nửa đêm.
Ngọc chở Luân bằng chiếc xe 2CV, đưa đến căn phố đầu đường Trần Hưng Đạo, đối diện với bar Kim Sơn. Họ theo cầu thang lên tầng trên. Chủ nhà niềm nở đón họ. Đó là một phụ nữ đứng tuổi, vợ một kỹ sư đi kháng chiến và đã tập kết – mà họ gọi là chị Cả.
Sau bữa cơm – tuy bất thường song rất tươm tất – Luân và Ngọc nằm chung trên đi-văng, trao đổi đến tận sáng.
Ngọc – một công chức cỡ chủ sự của Pháp, ra khu vào năm 1947, khi ủy viên nội vụ Ung Văn Khiêm thay mặt chính phủ kháng chiến Nam bộ ký chỉ thị số 4/NV lệnh cho tất cả các công chức chấm dứt sự hợp tác vơi Pháp. Anh phục vụ ở Sở Tài chính Nam Bộ, là một cán bộ có cương vị cao, liền sau ủy viên tài chính Nguyễn Thành Vĩnh. Anh được kết nạp vào Đảng.
Hòa bình lập lại, Ngọc tình nguyện chiến đấu tại chỗ và Xứ ủy điều anh về Sài Gòn, giao cho nhiệm vụ tình báo kinh tế. Ngọc là người Sa Đéc, mối quan hệ cũ của anh khá rộng. Em trai anh đang là trung tá quân đội Cao Đài, phụ trách hậu cần. Anh vốn là bạn học với Đinh Quang Chiêu, bây giờ được Ngô Đình Diệm chỉ định làm chủ tịch cơ quan ngoại hối, hàm tổng trưởng. Hơn nữa, anh với anh em Lại Văn Sang, Lại Hữu Tài – những yếu nhân của Bình Xuyên – là đồng hương. Ngọc về thành trước Luân vài tháng. Công việc của anh trót lọt. Nhờ Đinh Quang Chiêu giúp, anh góp cổ phần với một tư sản di cư mở xưởng dệt vải – xưởng bắt đầu khá phát đạt.
Theo phân công của tổ chức, Ngọc nhận chỉ thị ở Luân.
*
- Bọn nào?
Luân và Ngọc phân tích sự việc vừa rồi, lật tới lật lui các mặt. Không phải Lại Văn Sang – Ít nhất Sang chưa có lợi khi hại Luân lúc này. Không phải Cao Đài hay Hòa Hảo, với họ, Luân chưa là cái gì buộc họ bận tâm. Bác sĩ Tuyến càng không hành động kiểu đó. Phòng nhì Pháp? Có thể. Song, Phòng nhì đang chúi mũi vào hàng tá công việc gấp rút, nhằm sửa soạn cho bọn thân Pháp cự lại bọn thân Mỹ. Tình báo Mỹ? Chưa thể. Tình báo Mỹ còn ở vào thời kỳ gây dựng cơ sở, chưa hành động. Trung tâm tình báo? Sự bàn giao giữa hai giám đốc chưa xong, lực lượng xáo trộn, chưa thể hành động. Thế thì, ai? Phương pháp loại trừ ấy làm nổi lên Nha An ninh quân đội. Đến 90% là Mai Hữu Xuân nhúng tay vào. Mười phần trăm nghi vấn bị xóa bỏ khi Luân nhớ lại một hung thủ nhắc đến trong nghĩa địa, một thiếu tá nào đó.
- Tôi nghĩ như vầy, anh tính coi được không? – Ngọc chồm dậy – Vài hôm nữa, Lại Văn Sang đãi cơm tôi. Và muốn tạo thanh thế, nên mời đủ tai to, mặt lớn. Anh đến để tụi nó biết anh đang đàng hoàng sống ở Sài Gòn, có thể hạn chế ít nhiều các trò làm ẩu của tụi nó. Mai Hữu Xuân dầu thâm độc đến đâu cũng phải dè dặt. Thằng đó rất nguy hiểm, không đề phòng là mất mạng với nó. Thomas Bocal – tên thì Tây nhưng thiệt là Việt, hình như có lúc liên lạc với anh ở Phòng Mật vụ - chỉ sơ hở một chút khi chuyển thơ vô khám cho anh em mình liền bị nó khử… Theo tôi biết, Ngô Đình Nhu cũng ớn nó.
*
Nhà riêng của đại tá Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia Lại Văn Sang nằm sâu trong một vườn um tùm, trên đường Garcerie, đằng sau nhà thờ Đức Bà. Buổi dạ tiệc tưng bừng và kéo dài. Dàn nhạc Công an Xung phong liên tiếp chơi những bài hành khúc làm nền cho dạ tiệc. Dạ tiệc còn đón cặp tài tử Hongkong lừng lẫy Mã Sư Tăng và Hồng Tuyến Nữ - đển trình bày một số nhạc phẩm chọn lọc. Lại Văn Sang mời luôn đoàn nghệ sĩ bắn súng Texas – họ được thù lao trọng hậu đến nỗi bỏ hẳn buổi biểu diễn ở Nhà hát Tây đã bán vé rồi, hoàn lại tiền cho khán giả.
Luân và Ngọc được Sang đón ngoài cổng. Cả hai là “cây đinh” của dạ hội.
- Hân hạnh làm quen với ông kỹ sư!
Lại Văn Sang trong bộ quần áo chỉ huy – ông ta rất thích bộ quần áo gabardine cấp tướng mặc dù ông ta mới là đại tá – nắm tay Luân thật chặt. Dong dỏng cao, gân guốc, Lại Văn Sang quả không hổ với danh tiếng thủ lĩnh Bình Xuyên của mình, qua đôi mắt lầm lì, giọng nói rổn rảng. Ông ta sóng đôi với Luân bước vào khu vườn đã trang trí thành nơi tiếp tân ngoài trời – thanh lịch và sang trọng.
Ngô Đình Nhu và vợ đứng lên chào Luân. Đây là lần đầu tiên Luân chạm mặt Trần Lệ Xuân, một phụ nữ bắt đầu được dư luận Sài Gòn nói tới trong dạng hư hư thực thực, y như chuyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh.
- Tôi nghe nhà tôi nói về ông kỹ sư… Thật sung sướng được làm quen – Trần Lệ Xuân đặt bàn tay dịu dàng trong tay Luân, nói rất duyên dáng.
- Chắc là ông Nhu thêm thắt về tôi. Mong bà đừng tin… - Luân tươi cười đáp lại.
Lại Văn Sang mời Luân và Ngọc ngồi cùng bàn với vợ chồng Nhu.
Liếc qua quan khách, Luân biết đúng như Ngọc nói, cả “Sài Gòn thượng lưu” có mặt. Đám quân nhân khá đông chiếm mấy bàn bên cạnh, hai sĩ quan cấp tướng tựa lưng vào ghế, khẽ gật đầu chào Luân. Luân đoán đó là thiếu tướng Lê Văn Tỵ và thiếu tướng Nguyễn Văn Vĩ. Cũng không ít người ngoại quốc – hẳn là người của các sứ quán và phái đoàn.
- Ông lên Sài Gòn mấy hôm rồi? - Nhu hỏi.
- Tôi chờ ông mãi. Sao ông không đến?
Nhu nói khẽ. Luân chỉ cười mỉm như xin lỗi.
- Ông đến nhé, ta có nhiều việc để bàn!
Trong cách nói, Nhu vừa xem Luân như người nhà vừa như người đương nhiên dưới quyền của anh ta.
Lại Văn Sang bước lại sàn gỗ, nơi đặt micro:
- Thưa các thân hữu! Hôm nay, tại tư thất, tôi mời các thân hữu đến chia vui với tôi. Tôi có một người bạn học, lại là đồng hương, hai chúng tôi cùng làng, cùng học một trường hồi nhỏ. Người bạn của tôi đi kháng chiến và nay trở về. Trong kháng chiến, người bạn của tôi giữ một địa vị cao cấp ở Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Người bạn đó là anh Cò mi (1) Nguyễn Văn Ngọc.
Ngọc đứng lên giữa tiếng vỗ tay rào rào, anh cúi mái đầu đốm bạc đáp lễ bốn phía. Dàn nhạc Công an Xung phong đánh một bản giật gân. Tràng pháo cực dài, buông thõng từ một cành đa nổ giòn.
Đợi tiếng pháo dứt, Sang nói tiếp:
- Một người thứ hai, tuy không phải đồng hương, đồng học với tôi song tôi mến mộ đã lâu, mà tôi tin là không xa lạ với các thân hữu. Tôi xin giới thiệu kỹ sư Robert Nguyễn Thành Luân, Trung đoàn phó quân đội kháng chiến!
Luân đứng lên. Anh lợi dụng lúc đáp lễ quan khách mà tìm kiếm. Một người to lớn vừa chạm mắt Luân đã lẩn tránh. Y là Trịnh Khánh Vàng. Luân buồn cười nhớ tới Khu bộ phó dốt đặc nghề binh nhưng sành sỏi nhảy đầm và gái. Y biết mắc cỡ, cũng còn một chút tự trọng. Nghe đâu y với Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường đầu quân dưới trướng Bảy Viễn. Với lũ tham mưu này, Bình Xuyên không táng gia bại sản thì thật kỳ.
- Không có hắn ở đây!
Ngọc nói khẽ vào tai Luân. Họ muốn tìm Mai Hữu Xuân.
- Đáng lẽ thiếu tướng Lê Văn Viễn cũng đến chia vui với tôi, song Ngài bận công vụ ở dưới Long Xuyên, nên có lời cáo lỗi – Sang nói tiếp. Rõ ràng, Sang muốn phô trương với Nhu, Tỵ rằng Bình Xuyên đang thắt chặt liên minh với các giáo phái, lại bắt bồ với những người kháng chiến cỡ bự, chớ mà đùa với Bình Xuyên.
Môi của Trần Lệ Xuân cong lên. Nhu thì một mực thản nhiên.
- Vậy, tôi xin mời thân hữu nâng ly chúc mừng sức khỏe hai bạn kháng chiến của tôi, chúc mừng buổi hội ngộ hôm nay!
Qua tuần khai vị, Hồng Tuyến Nữ và Mã Sư Tăng hát một lúc ba bài: “Tô Châu dạ khúc”, “Hà nhật quân tái lai” và “Kim thiên bất hồi gia”. Không khí buổi dạ tiệc lắng xuống khi Hồng Tuyến Nữ cất giọng. Quả đúng là danh ca.
Lại Văn Sang đưa Luân và Ngọc đi từng bàn. Luân thầm cảm ơn Ngọc đã có một sáng kiến lớn. Không phải chỉ với ý nghĩa giới thiệu sự có mặt của Luân – mà đấy là dịp rất hiếm giúp Luân đo lường các loại thế lực tuy đang thơn thớt nói cười, song đều thủ những ngọn dao cực bén trong tay, rình rập nhau và sẵn sàng nhảy bổ vào nhau.
Lê Văn Tỵ bắt tay Luân và ông ta nói một câu có vẻ như không chủ động:
- Tôi cũng có đi kháng chiến!
Luân biết mặt biết tên được khá nhiều người: Lâm Văn Phát, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Trần Văn Đôn… những sĩ quan cấp tá.
Trong số khách nước ngoài, Luân chào James Casey, thiếu tá tùy viên của tướng Mỹ O’Daniel; và De Chauvine, cũng thiếu tá, tùy viên của tướng Pháp Paul Ély.
Sau cùng, Trịnh Khánh Vàng không trốn được đã phải đứng lên:
- Anh Bảy mạnh giỏi?
Y lúng túng chào Luân.
- Cám ơn… – Luân đáp lại, không vồn vã song cũng không lạnh lùng.
Trước khi trả Luân và Ngọc về chỗ, Lại Văn Sang bảo nhỏ Luân:
- Ông kỹ sư đề phòng con mụ Lệ Xuân hớp hồn. Nó làm cho quốc trưởng sạt nghiệp, tướng Hinh thân bại danh liệt. Nó là con quỷ cái!
Luân mỉm cười.
- Tôi nói thiệt, ông đừng coi thường nó!
Luân không cười nữa, tỏ vẻ hiểu ý Sang. Trong bụng, Luân cười thật sự: Ngang tàng như Sang lại sợ một người đàn bà – rất đẹp song đã quá tuổi con gái từ lâu.
Luân vừa ngồi trở lại bàn thì cũng chính Lại Văn Sang đưa đến một cô gái.
Cô chắc không quá trẻ như thoạt nhìn – son phấn và ánh đèn đánh lừa mọi ước đoán về tuổi tác của cô. Trong chiếc áo đen hở cổ tận vai, chiếc váy thật cao; những gì cần che giấu trên thân thể một cô gái được cô cố ý phơi bày và phải công nhận cô có một sức hút mãnh liệt.
- Tôi muốn mời hai anh thưởng thức “cây nhà lá vườn”. Đây là cô Tiểu Phụng, nữ trợ tá của quân đội Bình Xuyên, tặng hai anh và các bạn hữu một bài hát… - Sang nói.
Cô gái tên là Tiểu Phụng nghiêng người bắt tay Ngọc và Luân.
- Cám ơn… - Luân lúng búng. Anh cau mày và vừa nhận thấy Nhu mỉm cười.
Tiểu Phụng uyển chuyển lên sàn gỗ. Chân cô đeo hai vòng kiềng bạc và bước đi của cô thành mục tiêu nhìn theo thèm thuồng của hầu hết buổi dạ tiệc.
Không giới thiệu, Tiểu Phụng cất tiếng hát liền. Cô hát bài “Trung Hoa dạ khúc”. Vừa hát, Tiểu Phụng vừa ngó Luân.
Cô có giọng trầm rất hay:
- Shina no yoru…
Luân ngoảnh lại phía sau. Người ta hau háu, không rõ vì giọng hát hay vì những cái khác.
- Cô ấy đẹp quá phải không ông kỹ sư – Lệ Xuân nói.
- Tôi không quen với cách cố tình quảng cáo cái đẹp và do đó, tôi chưa thấy cô ấy đẹp. Nhưng cô ấy hát hay…
Chắc chắn là Lệ Xuân phật ý về câu trả lời của Luân: Bản thân Lệ Xuân cũng mặc áo hở cổ…
Tiểu Phụng phải hát ba lần. Hát xong, cô trở lại ngồi cạnh Luân, có vẻ kênh kiệu. Luân bắt tay cô:
- Tại sao cô hát một bài tiếng Nhật mạt sát dân tộc cô, dân tộc Trung Hoa? Cô có hiểu bài hát nói cái gì không?
Tiểu Phụng ngó Luân trân trối, vẻ kênh kiệu biến mất.
*
Mai Hữu Xuân vò nát tấm thiếp của Lại Văn Sang mời Xuân dự dạ tiệc. Tấm thiệp ghi rõ lí do dạ tiệc: mừng Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Thành Luân.
Thiếu tá Vọng đứng như trời trồng:
- Đã vầy, còn rê chiếc motobécane về! Đồ ngu!
Xuân đay nghiến:
- Nếu mất dấu nó thì đáng lẽ phải giả như chuyện đuổi bắt chỉ là sự hiểu lầm… Sau này, ta tính cách khác… Đồ ngu! Ông cố vấn thế nào cũng biết.
- Nó không thể biết mình ra tay đâu! – Thiếu tá Vọng tìm cách an ủi cấp trên mà cũng nhằm gỡ nhẹ thiếu sót của ông ta.
- Sao lại không biết? – Xuân rít qua kẽ răng – Làm một analyse(1) nhỏ thì biết liền. Thiếu tá chưa hiểu gã Luân nầy đâu…
- Trung tá cho tôi vài hôm. Từ bữa đó, nó lặn mất tiêu. Nhưng mà thế nào tôi cũng mò ra. Lần sau, nó độn thổ cũng không thoát!
- Trời đất! – Xuân tru tréo – Ngu đến mức anh thì tôi chịu thua. Từ giờ, anh chỉ được theo dõi nó, thu thập tin tức của nó cho tôi, cấm tuyệt đối không được đụng nó. Giả tỉ nó gặp mặt tụi rượt bắt nó hôm nọ thì phải chạy trốn cho lẹ, đừng để nó nắm đầu… Hiểu chưa?
- Dạ!
- Còn chiếc motobécane… Thiệt là đồ ngu!
Xuân ngừng một lúc:
- Bí mật đem lại nhà kỹ sư Gustave, dựng ngoài cửa… Trả cho họ.
Thiếu tá Vọng ngơ ngác. Xuân gắt:
- Cứ làm như vậy. Cho nó hiểu: Ta sòng phẳng, ta và nó tạm thời hưu chiến. Hiểu chưa?
Thiếu tá Vọng đi khá lâu rồi, Mai Hữu Xuân vẫn ngồi yên tại chỗ.
*
Đoàn nghệ sĩ Texas biểu diễn nhiều kiểu bắn súng độc đáo: bắn nằm, bắn ngồi, bắn ngược, bắn liên thanh, bắn đâu trúng đó.
Bữa dạ tiệc ồn ào. Đã uống đến tuần rượu thứ sáu, thứ bảy. Các cô mặc áo dài Thượng Hải, tới tấp mang thức ăn cho các bàn.
James Casey mặt đỏ bừng, lên sàn gỗ nói cái gì đó với người trưởng đoàn. Cả hai cười. James gắn vào cột một khẩu Remington đã lên đạn, đặt qua cò một thanh gỗ. Hắn ta đo đạc tầm cao của nòng súng, điều chỉnh cho nòng súng chĩa thẳng vào chiếc nón rộng vành của hắn. Lùi khỏi nòng súng chừng 10 bước, James Casey ra hiều cho dàn nhạc ngừng, khẽ cúi chào quan khách.
Lại Văn Sang nói vào micro:
- Thiếu tá James Casey muốn góp vui với chúng ta. Xin giới thiệu!
James Casey rút khẩu Vesson ngắn nòng trong bao đính ở thắt lưng, từ từ đưa lên. Hắn bắn vào thanh gỗ, thanh gỗ đập vào có khẩu súng Remington. Hai tiếng nổ nối nhau, chiếc mũ rộng vành của hắn trúng đạn, bay xuống đất.
Quan khách khoái trá, vỗ tay vang động. James Casey rời sàn gỗ.
Đoàn nghệ thuật toan tiếp các tiết mục mới thì De Chauvine đưa tay ngăn lại, sau khi nói khẽ với Lại Văn Sang.
- Thưa các thân hữu, thiếu tá Mỹ James Casey vừa cho ta thấy tài năng của ông. Thiếu tá Pháp De Chauvine lại sẵn sàng giúp vui… Xin thân hữu chờ đôi phút.
Một người giúp việc mang ra cho De Chauvine một hộp banh tennis. De Chauvine lên sàn gỗ, không xã giao gì cả tung từng quả banh lên trời và bắn một loáng sau phát, trúng cả sáu quả bằng khẩu Saint Etienne.
De Chauvine được chào đón cuồng nhiệt – cuồng nhiệt hơn cả James Casey nhiều.
- Công bằng mà đánh giá, thiếu tá James Casey dày công luyện tập hơn… - Luân nói với Nhu.
- Ông nói đúng. Song, ông thấy đây, một thiên lệch!
Nhu đáp lại.
- Biểu diễn nghệ thuật cũng bị thời tiết chính trị chi phối – Luân nhận xét hóm hỉnh.
Xôn sao trong các bàn nhiều quân nhân người Việt. Một người nào đó – một sĩ quan cấp tá – nói nhỏ với tướng Vĩ rồi tướng Tỵ. Cả hai lắc đầu. Số còn lại giả vờ không thấy cuộc vận động nầy, cắm cúi vào ly rượu.
- Chẳng lẽ chỉ sĩ quan Mỹ, sĩ quan Pháp có tài? Còn sĩ quan Việt? Ai lên gỡ sĩ diện cho tụi mình nào?
Người nói là thiếu tá Lâm – đang làm việc ở bộ tổng tham mưu
- Vậy thì xin mời thiếu tá Lâm! – Một đại úy đã chếnh choáng hét to.
- Tôi bất tài… Nếu tôi có tài, khỏi cần mời!
Lâm trả lời ảo não.
- Tôi nghĩ là ông kỹ sư đủ sức gỡ sĩ diện, phải vậy không?
Trần Lệ Xuân nói nhẹ vào tai Luân. Luân mỉm cười:
- Không nên đùa với súng!
- Nhưng mà sĩ diện? – Lệ Xuân cau mày.
- Chắc bà đồng ý sĩ diện, nếu có, không phải là chuyện của tôi! – Luân nghiêm mặt.
- Không phải là sĩ diện riêng của sĩ quan. Tôi hiểu đó là sĩ diện của tất cả người Việt Nam – Lệ Xuân vẫn ngoan cố.
- Thế bà quên rằng người Việt Nam đã làm cái gì ở Điện Biên Phủ? – Luân vẫn lạnh lùng.
- Chỉ huy với xạ thủ, đôi khi không thể là một người – Ngô Đình Nhu dàn hòa nhưng vẫn có ngụ ý – Ông kỹ sư là chỉ huy!
Luân bỗng tươi cười:
- Tôi chiều bà Nhu vậy… Tiếc là tôi không có súng.
Lệ Xuân mở chiếc xắc tay, lấy ra khẩu Walter mạ kền cỡ 6,35 đưa cho Luân.
- Ông kỹ sư có thể dùng…
Mụ đổi giọng:
- Người ta gọi súng này là súng bắn ghen. Với anh Nhu, nó thất nghiệp. Với ông kỹ sư nó có thể hữu ích.
- Tôi không thích bắn súng trong hòa bình – Luân tháo một viên đạn ra khỏi băng, dùng dao bàn nạy đầu viên đạn – nhưng sẽ cố gắng, mong tôi không làm trò cười giữa đây…
Luân vo tròn ruột bánh mì, lắp thay đầu đạn.
Ngọc trước sau chỉ cười tủm tỉm. Còn Tiểu Phụng thì lặng lẽ.
- Bây giờ tới lượt một chiến hữu Việt Nam trổ tài! – Lại Văn Sang gào to – Xin mời kỹ sư Nguyễn Thành Luân.
Tất cả những người có mặt im phăng phắc theo bước khoan thai lên sàn gỗ của Luân. Trong bộ tropical xám tro, Luân nho nhã như một học trò. Đến sàn gỗ,Luân nghiêng người chào quan khách, đám sĩ quan lập tức vỗ tay nhiệt liệt. Luân chờ đợi mãi, mấy lần ra hiệu xin lỗi. Khi tiếng vỗ tay ngưng, Luân nói từ tốn:
- Thưa quí vị, bất đắc dĩ, dân tộc Việt Nam mới phải dùng súng. Như quí vị thấy tại đây, tiếng ca hát bao giờ cũng dễ thương hơn tiếng súng. Song, trong không khí thân hữu, vì bè bạn muốn, tôi đành đùa với súng đạn một lần. Đùa trong dạng tuyệt đối không gây nguy hiểm… Tôi mời thiếu tá De Chauvine và thiếu tá James Casey lên đây, cùng dự trò vui với tôi.
Chỉ có một người vỗ tay hoan hô Luân: Tiểu Phụng.
De Chauvine đặt vội điếu thuốc hút dở lên bàn, bước lên sàn gỗ.
- Xin thiếu tá De Chauvine cầm cho điếu thuốc của thiếu tá! - Luân nhắc.
Khi De Chauvine và James Casey có mặt trên sàn gỗ, Luân mời James Casey một điếu thuốc.
- Xin thiếu tá De Chauvine châm lửa cho thiếu tá James Casey bằng chính điếu thuốc của mình! – Luân nói, tiếng Pháp.
De Chauvine chìa điếu thuốc cho James Casey. Viên thiếu tá Mỹ đặt đầu điếu thuốc của mình vào điếu thuốc của De Chauvine. Hít mấy hơi, Luân nâng khẩu Walter và bóp cò. Đóm lửa ở hai đầu điếu thuốc bị hất, xòe ra những chấm đỏ rồi tắt ngấm.
Trong tiếng hoan hô như điên của quan khách, nhất là của đám quân nhân, Luân bắt tay De Chauvine và James Casey. Anh trả khẩu súng cho Lệ Xuân. Mắt và môi ướt rượt, Lệ Xuân thì thào vào tai Luân:
- Ông bắn giỏi quá!
Tiểu Phụng cũng chúc mừng Luân. Song với câu:
- Ông nói giỏi quá!
Nhu chúc mừng Luân:
- Ông là một xạ thủ có hạng. Dụng ý của ông còn cao hơn: dập tắt ngọn lửa do người Pháp chuyền cho người Mỹ.
Luân, qua nhận xét đó, hiểu thêm anh đang chơi với một con người có cái đầu như thế nào…
---
(1)
(2) Phân tích
CHƯƠNG 14
Luân rời về một ngôi biệt thự nhỏ nằm trên đường Michel. Công việc sửa sang ngôi nhà kéo dài hai tuần lễ. Chỉ cần một lần gặp số người đến dọn dẹp, sơn quét, Luân đánh giá, anh được Trần Kim Tuyến “chăm sóc” đặc biệt kỹ lưỡng. Trên trần nhà, nhất định có hệ thống ghi âm và điện thoại thì dứt khoát có đường dây chạy về Sở nghiên cứu chính trị. Ngã ba xéo nhà, một thợ sửa xe đạp – rất ít khách, song anh ta luôn ngồi đó, lúc nào cũng với tờ báo che nửa mặt.
Luân gọi điện thoại cho Nhu. Một lát sau, xe riêng của Nhu đến đón Luân. Nhu tiếp Luân trong một gian phòng nhỏ đặt phía sau dinh Gia Long.
- Trước khi đi vào công việc, mặc cho mối quan hệ giữa ông với Đức cha, tôi muốn ông và tôi không bị gò bó… Tuổi tác hai đứa mình cũng chẳng xê xích bao nhiêu, vậy, tôi đề nghị chúng ta bỏ lối xưng hô khệ nệ, mà gọi nhau là anh. Lối xưng hô đó thích hợp hơn…
Không đợi Luân đồng ý, Nhu nói luôn:
- Anh thấy tình hình chính trị hiện thời ra sao?
Luân trầm ngâm khá lâu. Nhu tỏ vẻ tôn trọng suy nghĩ của Luân, mời anh điếu thuốc – Nhu hút loại Mélia vàng khá nặng. Luân nhận thuốc, châm lửa, nhưng hít một hơi đã ho sặc.
- Tôi quen thuốc Cẩm Lệ, xin lỗi anh.
Nhu bấm chuông, người bồi mở cửa vào.
- Cho một hộp Craven A… Cho luôn hai biere Pilsen ướp lạnh.
- Tôi hút ít thôi, thích loại xiêm mẵn Cao Lãnh thơm nhẹ. - Luân nói.
- Tôi chưa biết loại thuốc đó. Vừa đây, có người biếu tôi thuốc Gò Vấp. So với thuốc Cẩm Lệ, nó còn nặng hơn…
Người bồi mang thuốc lá và bia vào. Nhu mở hộp Craven A.
- Câu hỏi cu3a anh khá rộng, – Luân hớp một hớp bia – Tôi chỉ xin nói từ một giác độ hẹp, liên quan đến thế đứng của chính phủ ông Diệm. Chỗ dựa của chính phủ cho đến hôm nay, những ngày đầu năm 1955, tức là sau 6 tháng ông Diệm về nước chấp chính, vẫn chủ yếu là người theo đạo Thiên chúa di cư và thái độ chính trị của chính phủ Mỹ. Hôm qua, Hồng y Spellman đến và xét cho cùng, không thêm cho ông Diệm chút gì, nếu không nói là tạo ra tâm lí nghi kỵ trong dư luận: tuyệt đại đa số dân Nam vĩ tuyến 17 không theo đạo Thiên chúa. Đây là thời điểm đòi hỏi sự khôn ngoan. Ông Bùi Kiến Tín từ chức, ông Diệm đưa ông Trần Trung Dung thay, làm nẩy thêm một bất mãn khác: Ông Diệm thu tóm quyền hành vào tay gia đình. Tôi không nghĩ rằng loại ra khỏi chính phủ dược sĩ Tín, thạc sĩ Phạm Duy Khiêm là sai. Do đó, tôi không nghĩ rằng bổ ông Hồ Thông Minh làm Tổng trưởng Quốc phòng là đúng. Những người thân Pháp sớm muộn gì cũng sẽ rời khỏi chính phủ ông Diệm. Chỉ có điều nên tính sự thay thế họ bằng những người trong sạch, có danh vọng, tốt hơn hết, sinh trưởng ở Nam, càng ít dính dáng họ hàng với gia đình họ Ngô càng hay…
- Thế là anh đảo ngược dự định của tôi về anh rồi! – Nhu kêu lên rất thật.
- Tôi thiết tha mong anh cho phép đứng bên cạnh. Với tư cách đó, tôi hy vọng sẽ phụng sự hiệu quả cho lý tưởng quốc gia.
- Có lẽ anh nói đúng… Bây giờ, anh cho biết nhận định của anh về các lực lượng chống lại chúng tôi.
- Theo tôi, đây là vấn đề chính trị hơn là quân sự, một bộ phận trong chính giới Pháp đứng đằng sau các lực lượng.
Luân không nói tiếp. Nhu mỉm cười:
- Và, Mỹ đứng đằng sau chúng tôi. Có phải anh muốn nói như vậy?
- Có gì bí ẩn đâu. – Luân nhỏ nhẹ - Ngay trong chính giới Pháp, cũng đến ba khuynh hướng: Phủi tay ở Đông Dương để dồn sức giữ Algérie; giành chỗ quyết liệt với Mỹ - đây là những người Pháp chủ đồn điền, chủ ngân hàng, chủ các công ty xuất nhập cảng – và khuynh hướng nhường cho Mỹ chọn vẹn, mọi chia chác sẽ thương lượng sau. Antoine Pinay thay mặt cho khuynh hướng thứ ba nầy. Tất nhiên, sẽ không phải là lính Pháp nổ súng.
- Anh nghe chưa: Tướng Trịnh Minh Thế, thủ lĩnh Cao Đài liên minh hứa đưa 5.000 quân về hợp tác với chính phủ. Đại tá Hòa Hảo Nguyễn Văn Huê ly khai ông Năm Lửa, sẽ mang 3.000 quân về… Chúng tôi đang giảm đến mức tối thiểu những tay súng ngu xuẩn…
Nhu nghiêng đầu, nheo mắt thăm dò Luân:
- Ông Lansdale làm ăn khá thật! Song hình như ông ấy chưa đến gần được ông Bảy Viễn, mũi nhọn nhất của các lực lượng chống chính phủ. Còn những con số… Chẳng có gì quan trọng.
- Về vụ nầy ông Lansdale tỏ ra không sắc sảo bằng anh. - Nhu nói xong, uống cạn ly bia, chờ phản ứng của Luân.
- Tôi sẽ cố gắng. Tôi cố gắng tránh đổ máu…
- Cám ơn anh! – Nhu xởi lởi – Bây giờ, anh còn ý kiến gì khác và có cần gì ở chúng tôi?
- Ý kiến khác thì chưa có, yêu cầu thì có. Tôi cần một chiếc xe.
- Anh sẽ có xe ngay hôm nay. Tài xế thì anh lựa lấy. – Nhu mau lẹ đồng ý.
- Không! Tôi không muốn vượt qua giới hạn sự tin cậy. Anh ra lịnh cho cơ quan nào đó cử tài xế…
- Được thôi. Sau nầy anh đừng rủa tôi cho mật vụ kè kè anh… Bất cứ lúc nào anh cũng có thể đến đây, sau một cú điện thoại thông báo…
Nhu tiễn Luân ra tam cấp, hai người đi sát nhau như đôi bạn thân.
*
Tài xế đánh xe tới nhà Luân. Đó là một chiếc Opel, sơn màu chocolate vừa qua thời kỳ chạy thử.
- Trình ông kỹ sư, em được lệnh mang xe đến cho ông dùng! - Người lái xe lễ phép thưa với Luân – Có giấy của ông cố vấn gửi ông kỹ sư.
- Anh tên gì? – Luân vừa xem giấy giới thiệu vừa hỏi.
- Dạ, Vũ Huy Lục.
Chuông điện thoại reo. Luân nhắc ống nghe, Nhu đích thân kiểm tra xem xe đã đến chưa.
- Anh vừa di cư vào? – Luân hỏi, sau khi nói chuyện với Nhu. - Có mang vợ con theo không?
Mặt Vũ Huy Lục sụp tối:
- Dạ, không kịp… Em đang ở Phát Diệm, còn nhà em với con thì ở Hải Hậu…
Luân ái ngại nhìn Lục:
- Bây giờ anh đưa xe vào gara. Cạnh gara có một phòng, anh có thể ở, nếu anh không có chỗ khác.
*
Khách viếng thăm là một người tầm thước, trán cao. Ông ta đi một chiếc Chevrolet bệ vệ, trước và sau có hai xe jeep hộ tống, đầy công an xung phong.
Thoạt nhìn, Luân đoán ngay ông ta là Lại Hữu Tài, cố vấn của Bình Xuyên, bởi ông ta hao hao giống Lại Văn Sang.
Quả đúng, Lại Hữu Tài tự giới thiệu xong, ngắm nghía phòng khách nhà Luân.
- Đây là cái giá mà nhà Ngô trả cho sự quy hàng của ông? – Tài hất hàm hỏi.
- Tại sao ông không nghĩ rằng anh chị tôi rất sẵn sàng lo cho tôi một chỗ ở? – Luân từ tốn.
- Thôi được! – Tài vẫn lối kẻ cả - Tôi hỏi ông: Chúng tôi cũng là người kháng chiến, về thành trước ông; ông về sau, có nghĩa là công ông dày hơn chúng tôi, thế mà ông lại đem cả cuộc đời dâng cho họ Ngô. Tại sao vậy?
- Mỗi người có cách xử sự riêng. – Luân cố giữ giọng bình thản.
- Cách xử sự riêng? – Tài mỉa mai – Ông đã lầm lạc khi tưởng rằng nhà họ Ngô mạnh. Họ có gì? Phải đâu hễ nắm được Tổng tham mưu trưởng là họ có thể làm mưa làm gió? Ông nên nhớ: giáo phái hiện thừa lực lượng để tống khứ nhà Ngô. Sở dĩ chúng tôi nấn ná là vì ngại Việt Minh lợi dụng sự chia rẽ trong hàng ngũ Quốc gia. Nhưng, cái gì cũng có giới hạn – chúng tôi không cho phép nhà Ngô hung hăng áp đặt ách Thiên chúa giáo, gia đình trị và nhóm miền Trung lên cổ đồng bào ta… Ông là một trí thức, nhưng hơi tối dạ!
- Xin lỗi ông cố vấn, ông gặp tôi chỉ cốt để xỉ vả thôi sao?
- Tôi có quyền gì mà xỉ vả ông? Chẳng qua thấy ông lầm lạc, nghĩ tình kháng chiến, giác đác đôi lời may ra ông tỉnh ngộ chăng?
- Ông còn điều gì cần nói nữa không? – Luân đứng lên, hàm ý cho Tài biết cuộc nói chuyện nên chấm dứt.
Tài vẫn ngồi lì và nói tiếp:
- Tôi nghe anh Sang thuật lại, ông là một nhân tài… Tiếc cho ông mua vé hạng nhất vào xem vở tuồng khi vở tuồng sắp hạ màn. Tôi khuyên ông quay về chính nghĩa, hợp tác với chúng tôi vì đại sự, ngay bây giờ cũng chưa muộn.
- Tôi sẵn sàng hợp tác với bất kỳ ai lo điều tốt lành cho dân, cho nước.
- Tôi báo với ông: các giáo phái quyết định kết liên thành mặt trận. Nhiều nhân sĩ danh tiếng đứng về phía chúng tôi. Ông có nghe tên tuổi các ông Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân?
- Mục đích của mặt trận là gì? - Luân hỏi một cách hờ hững.
- Đánh đổ nhà Ngô bằng võ lực! Tôi đề nghị ông tham gia ban cố vấn chính trị mặt trận… - Tài cao giọng – Đánh đổ nhà Ngô và những tên tay sai…
- Vậy là trái với tôn chỉ của tôi. Tôi không tán thành đổ máu. Các ông giành giật địa vị, quyền lợi mà mặc kệ đồng bào, tôi cho là các ông đã mất sự ủng hộ của đồng bào.
Lại Hữu Tài đứng phắt dậy:
- Ông nhất quyết từ chối thiện chí của chúng tôi… Ông đừng trách! Nay mai, nhà Ngô bị chúng tôi lật đổ, ông đừng đến gõ cửa, nhớ nghe. Bình Xuyên thích làm anh em chớ không thích làm cha thiên hạ đâu!
Tài vừa đi ra cửa vừa nói. Luân cười mỉm, tiễn ông ta. Ra khỏi nhà, Luân mới bảo:
- Những lời của ông vừa rồi chắc chắn sẽ tới tai ông Nhu… Ông có thấy như vậy là bất tiện cho các ông không?
Tài hơi giật mình:
- Nghĩa là… nghĩa là nhà ông có máy ghi âm?
Luân nhún vai:
- Làm thế nào được?
Tài trấn tĩnh khá nhanh:
- Hề chi! Chúng tôi hành động quang minh chính đại mà.
- Chào ông! – Luân đưa tay cho Tài – Bình Xuyên chỉ có thể chuộc bao nhiêu lỗi lầm đã qua, từ lỗi lầm phản bội Tổ quốc đến lỗi lầm dựa hơi Tây hà hiếp đồng bào bằng việc làm có suy tính. Các ông hãy bớt nói. Các ông nói nhiều quá!
Luân nghiêm mặt. Có vẻ anh đang rầy quở Lại Hữu Tài. Tài sựng người, ngó Luân khá lâu.
CHƯƠNG 15
Lại một người khách nữa bấm chuông. Vũ Huy Lục mở cổng.
Khách đi một chiếc Sachs cọc cạch, người cao lớn, đeo kiếng cận, hình như đau mũi nên lúc nào cũng thở nặng nề. Anh bắt tay Luân vồn vã:
- Anh khỏe chớ!
Luân nhớ ngay anh ta: một cán bộ tuyên truyền ở chiến khu. Song Luân không nhớ tên. Tuy vậy, Luân vẫn làm ra bộ chưa hề quen anh ta.
- Cám ơn… Xin lỗi, ông là ai?
- Trời! Anh quên tôi rồi sao? Mạch Điền đây. Mạch Điền ở chỗ anh Lưu Quý Kỳ… Nhớ chưa?
Luân lắc đầu:
- Không nhớ… Mời anh vào trong nhà…
- Cơ quan tôi đóng ở Tân Duyệt. Anh đến đó mấy lần… Tôi về thành trước anh vài tháng.
- Vậy sao? – Luân làm như bắt đầu chăm chú – Hiện nay anh làm gì?
- Tôi dạy học ở trường Kiến Thiết. Nghe tin anh, tôi tới liền…
- Anh nghe tin tôi ở đâu? – Luân hỏi như vô tình.
- Thì… - Mạch Điền hơi ngập ngừng – Anh về thành ai mà không biết!
- Anh giỏi thiệt, tìm được nhà tôi… Ai chỉ cho anh?
- Tình cờ, cách đây 5, 6 ngày, tôi chạy xe qua, thấy xe hơi anh quẹo vô đây…
Luân cười thầm: anh dọn nhà mới có ba hôm, còn xe thì anh vừa nhận chiều hôm qua.
- Đáng l‎ý tôi không đến đây. – Mạch Điền sửa giọng, nghiêm trọng – Nguyên tắc bí mật mà! Nhưng có một việc khẩn, chúng tôi trao đổi với nhau, thấy cần phải gặp anh.
Mạch Điền ngó quanh. Vũ Huy Lục đang rửa xe ngoài sân.
- Anh có thể nói không ngại gì cả. – Luân bảo.
- Người lái xe của anh tin cậy được chớ?
- Anh cứ nói – Luân giục.
- Chắc anh biết, sau hòa bình, một số anh em ta về thành hoạt động. Tôi ở trong nhóm bí mật, phụ trách công tác văn nghệ. Chi bộ tôi trực thuộc Thành ủy, khác anh, anh sinh hoạt đơn tuyến… Vừa rồi, một đồng chí trong chi bộ tôi bị bắt. Đây, tên tuổi của đồng chí đó, ngày giờ bị bắt, hiện giam ở Catinat, trong thời kỳ hỏi cung. – Mạch Điền rút trong túi ra tờ giấy đưa cho Luân – Điều tai hại là đồng chí đó biết rành anh, vì có lúc được biệt phái xuống tiểu đoàn 420.
Mạch Điền hạ thấp giọng:
-… Và dự họp chi bộ nhiều lần với anh. Nếu “va” không giữ khí tiết thì đổ bể lớn. Tụi tôi phải tạm lắng – nhưng không đáng ngại… Đề nghị anh tìm mọi cách can thiệp với Lại Văn Sang cứu “va”.
Luân liếc qua tờ giấy, trả lại Mạch Điền.
- Gay go đa!
- Phải! – hơi thở Mạch Điền càng dồn dập hơn – Gay go cho tụi tôi một, gay go cho anh mười! Uổng công anh len lỏi tận chóp bu chế độ miền Nam.
- Tôi nói gay go là gay go cho anh! – Luân nói như đùa.
- Hả? – Mạch Điền trợn cặp mắt trắng dã nhìn Luân, mũi khịt liên hồi.
- Gay go vì anh khó mà báo cáo với bác sĩ Trần Kim Tuyến hoặc ông Ngô Đình Nhu về cái trò cò mồi này!
- Anh nói gì tôi không hiểu? – Trán Mạch Điền lấm tấm mồ hôi.
- Có gì khó hiểu đâu? Kịch bản nhạt nhẽo, đạo diễn tồi, diễn viên gà mờ!
Luân trỏ ra cổng:
- Anh đi cho khuất mắt tôi và nhớ báo cáo lại với bác sĩ Tuyến những đánh giá của tôi! Hình như anh mới tập sự làm điểm chỉ viên?
Mạch Điền dở khóc dở cười, khóm róm ra cửa, vẫn cố lảm nhảm:
- Rồi anh sẽ hối hận!
Luân nghe hắn đạp mãi mà chiếc Sachs không chịu nổ máy.
*
Ngô Đình Nhu trao cho Luân một tập giấy đánh máy, bìa bao cẩn thận:
- Chế độ chúng tôi cần một chủ thuyết. Trung tâm của chủ thuyết là tính dân tộc cổ truyền cộng với sự giải phóng phẩm giá con người, hướng phục vụ quảng đại dân chúng cần lao và giữ gìn phần hồn như một cốt lõi… Tôi suy nghĩ từ nhiều năm nay và đây là kết quả sơ bộ…
Luân biết Nhu tránh nhắc lại ý kiến của Luân: thật là bất tiện khi thú nhận đã nghe băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa Luân và Géo Nam.
- Là chỗ thân tình, tôi mong anh đọc kỹ, và cho nhận xét. Tôi sẵn sàng nghe anh trao đổi và thật thà mong, nếu như sau cùng, những suy nghĩ này thành được một cái gì đó thì nó là một thứ coproduction (1) gắn liền tên tuổi hai đứa mình…
Luân nhận xấp bản thảo, lật qua…
- Tôi thử cố gắng. Chưa chắc tôi có thể giúp ích được gì cho anh. Cứ nhìn độ dày của công trình, tôi hiểu là anh dồn cho nó nhiều sức lực…
- Anh cứ thẳng thắn… Giữa chúng ta, cái quý là thẳng thắn. – Nhu ngả người trên ghế dựa – Thế nào, nơi ăn ở của anh ổn chứ?
Luân cười mỉm:
- Đã gọi là thân tình mà anh còn hỏi theo cách đó? Hằng ngày, chẳng lẽ nhân viên của anh không báo cáo đều đặn cho anh sao?
Nhu không một chút bỡ ngỡ, cười rộ:
- Anh không cần bảo vệ sao?
- Bảo vệ kiểu tên Mạch Điền, tôi chẳng thấy thú vị!
- Được rồi! Tôi hứa từ nay, những trò trẻ nít ấy sẽ không bao giờ tái diễn. Ông bác sĩ Tuyến thường hay đánh giá sai đối thủ!
- Cố vấn của tướng Viễn, ông Lại Hữu Tài, vừa đến nhà tôi. – Luân nói và thừa biết rằng Nhu đã nghe hết câu chuyện đối đáp giữa Luân và Tài.
- Vậy sao? – Nhu tỏ vẻ kinh ngạc. Luân thầm phục Nhu đóng kịch thật tài.
- Ông ta mời tôi tham gia ban cố vấn một mặt trận nào đó của các giáo phái sắp thành lập. Tôi từ chối, bị ông ta “sạc” cho một trận rát đa.
Nhu cười nhẹ:
- Lại Hữu Tài được xem như là linh hồn của Bình Xuyên, song ông ta không đủ thông minh để hiểu ông ta gặp ai. – Nhu bỗng chuyển giọng – Mọi hy vọng hòa hoãn đã tiêu tan… Tôi nghĩ là anh sẽ không thuyết phục nổi họ.
- Chưa đến nỗi như vậy đâu. – Luân nói, trầm trầm – Tôi sẽ còn gặp họ. Khó mà đoán trước tôi thành công hay thất bại, song tôi chưa bỏ cuộc. Viễn ảnh chém giết vô lối đêm ngày dày vò tôi.
- Anh là một quân nhân mà một mực ngại đổ máu. Trong khi đó, anh bạn của anh – anh Nguyễn Văn Ngọc – lại hình như rất thích thú chơi với lửa…
- Có việc đó sao? – Luân cố nén hồi hộp.
- Tôi nắm trong tay khá đủ bằng chứng. Ông Ngọc đã đi lại nhiều lần vùng rừng Sác, Soài Rạp, sang bên Long Thành nữa. Có vẻ ông ấy định thành lập một chiến khu đánh lại chúng tôi…
Nhu ngó Luân, như muốn tìm hiểu:
- Phía bên các anh có lợi gì khi liên minh với Bình Xuyên?
- Tôi đảm bảo với anh không hề có một chủ trương như vây!
- Tôi tin anh... Chắc là quan điểm riêng của ông Ngọc.
Nhu bước lại bàn viết, rút ngăn kéo.
- Đã đến lúc anh không thể coi thường những trò đánh lén. Anh cần có vũ khí tự vệ. - Nhu đặt lên bàn một khẩu súng ngắn – Anh thích loại nào? Colt, Remington, Viker, Brockning? – Rồi Nhu cười hóm hỉnh – Rất tiếc, tôi không sẵn các hiệu của Nga Sô và Trung Cộng. Đây là khẩu P.38 do Canada sản xuất. Kỹ nghệ vũ khí của Canada không tồi…
- Hiệu súng, nước sản xuất súng, loại súng… đều không quan trọng! - Luân đáp lại, cũng cười hóm hỉnh.
- Tôi biết, cái quan trọng là tài của người bắn. Điểm này, tôi phục anh!
- Tài bắn cũng chưa quan trọng. Cái quan trọng là bắn vào đâu!
Nhu đưa tay lên trời, sôi nổi:
- Trước mắt, chúng ta có thể thỏa thuận: không bắn vào tôi, không bắn vào anh! Được chớ?
Luân nhún vai, cười bằng mắt, nhận khẩu súng.
- Các phe phái chẳng e ngại gì mà không tặng cho anh vài phát. Thậm chí họ cũng chẳng e ngại gì mà không cài vào xe anh vài kí lô chất nổ. Tôi mong anh thận trọng… Tôi buộc phải nói thẳng với anh: Mai Hữu Xuân chẳng ưa gì anh, chẳng ưa gì mối quan hệ giữa tôi và anh. Mà ông ta là giám đốc Nha an ninh quân đội. Còn Tổng nha cảnh sát của Lại Văn Sang… Tôi đã bàn với bác sĩ Tuyến, anh cần một bảo vệ. Tất nhiên, anh sẽ chọn trong số những người đã được huấn luyện… Tôi hứa danh dự với anh: người đó chỉ có mỗi nhiệm vụ bảo vệ anh, tuyệt đối không kiêm thêm việc gì khác. Có thể anh không tin, nhưng rồi anh sẽ thấy sự thật…
Luân đồng ý:
“Càng hay!”, anh nghĩ bụng, “Giám sát chặt chẽ có nghĩa là anh ta chưa tin mình đồng thời anh ta vẫn hy vọng…”.
*
Ra khỏi phòng làm việc của Nhu, Luân gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến. Con người nổi rất nhanh này – khó mà tưởng tượng kẻ có dáng dấp nho nhã lại là một mưu sĩ khôn ranh, một hung thần sắt máu – tươi cười chào Luân như những lần khác. Ông ta tiễn Luân ra xe với cử chỉ bao giờ cũng nhún nhường của một đàn em.
- Tôi muốn thưa với ông kỹ sư một việc – Tuyến nhỏ nhẹ nói.
Luân lắng tai:
- Bác sĩ cứ nói!
- Trong tình hình chính trị hiện nay, nếu ông kỹ sư ra một bản tuyên bố cá nhân bày tỏ thái độ đối với chính phủ của cụ Ngô thì theo tôi là rất có lợi…
Luân mỉm cười:
- Tại sao ông có ý nghĩ đó?
- Vì sự cần thiết chung và vì nhu cầu của riêng bản thân ông kỹ sư. – Tuyến nói rành rọt.
- Ông quên rằng tôi không bao giờ có thể là một tên phản bội? Sự cần thiết chung thì tôi chưa tính ra như ông nói, còn riêng tôi, tôi chẳng có nhu cầu nào như vậy!
Tuyến vẫn một mực tươi cười mở cửa xe cho Luân:
“Một đòn gió nữa của Nhu!”, Luân thở phào khi xe ra khỏi cổng.
Giữa đêm, Luân che ngọn đèn bàn, không để ánh sáng lọt ra ngoài. Cửa đóng kín.
Anh ghi lên tờ giấy tất cả mẫu tự quốc ngữ và latin: A Ă Â B C D Đ E Ê G H I J K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y Z W. Theo một khóa quy ước, anh viết vào một mảnh giấy bản mật mã: Đ Q Ô – Z D Ă – R T J – W Y X - …
Đồng hồ gõ hai tiếng, Luân mới làm xong báo cáo đầu tiên gửi anh Sáu Đăng.
Luân trút thuốc ra khỏi điểu thuốc lá, đặt bản báo cáo đã cuốn nhỏ vào giữa, nhét thuốc như cũ.
Một lát sau, bóng Luân chập chờn trong gara xe, với ngọn đèn pin bọc trong chiếc khăn tay, chỉ buông ánh sáng lờ mờ. Anh loay xoay một lúc với đầu máy chiếc Opel.
Ở phòng canh, Vũ Huy Lục thở đều đều…
… Lục chở Luân chạy theo đường Legrand de la Liraye. Từng chập, chiếc Opel như hụt hơi. Mấy lần Lục dừng xe kiểm tra, song không rõ vì sao xe trở chứng.
Đến đầu đường Audouit, Luân tỏ vẻ bực mình, bảo Lục đưa xe vào một xưởng nhờ sửa.
Xe đỗ lại xưởng, một số thợ đến, trong đó có một chú nhỏ mặt mũi lấm lem dầu mỡ.
Chỉ vài phút sau, người thợ già đã cười:
- Có gì đâu, dây điện bắt vào bình điện bị lỏng…
Lục thử máy. Xe bây giờ nổ giòn giã.
Trả tiền xong, Luân mời mỗi người thợ một điếu thuốc. Chú thợ nhỏ - mắt rất sáng, cười chìa chiếc răng lòi xỉ - giắt điếu thuốc lên mép tai:
- Em đi rửa tay rồi mới hút.
Chú bước vào bên trong.
Lục không thể biết chú thợ nhỏ đó là ai. Còn Luân, tất nhiên anh biết.
“Thằng Sa coi bộ khá thạo kiểu cách sống ở chợ!”
Luân nói thầm. Anh rất vui.
---
(1) Sản phẩm chung.
CHƯƠNG 16
Luân đến Tòa Đô chính. Anh muốn làm quen với Đô trưởng mới, giáo sư Trần Văn Hương, vừa thay đốc phủ sứ Nguyễn Phước Lộc. Với Trần Văn Hương, thế lực thân Pháp mất một chỗ quan trọng nhất trong cơ cấu hành chính tại thủ đô.
Luân từng nghe và cũng đã nghiên cứu về ông Hương. Xuất thân là giáo sư trung học, Hương có khá nhiều học trò nay giữ các chức vụ khác nhau trong quân đội, trong cơ quan hành chính và một số tham gia kháng chiến. Chính vì vậy mà Diệm chọn ông trong buổi giao thời. Nổi tiếng ghét Pháp, chưa có quan hệ gì đặc biệt với Mỹ, Hương là con bài giúp Diệm tạo mơ hồ trong dư luận, tô điểm cho nhãn hiệu “đả thực, bài phong” của chế độ.
Một cô thư ký đón Luân. Đó là cô Mai, dạy trường Vương Gia Cần.
- Ông chỉ đến trường lần đó, khiến ông chủ trường tốn tiền quảng cáo rồi sau phải năn nỉ học trò… - Mai trách Luân, giọng không vui.
- Tôi đã xin lỗi ông ta… Công việc không cho tôi có thời giờ. - Luân giọng cũng buồn buồn. Anh cố nhớ ai có gương mặt mà Mai giống, nhưng lần nữa, anh chịu thua.
- Tôi không ngờ, ông sớm nhập cuộc như vậy! Bây giờ ông đã là một chánh khách rồi. Hơn nữa, một nhân vật của gia đình Thủ tướng. Xin chúc mừng ông! – Mai nói mà như đay nghiến.
Luân biết chưa nên giải thích với cô thư ký hơi khác thường nầy trước khi hiểu rõ về cô. Anh im lặng. Hai người đi qua hành lang, vào một phòng rộng.
- Tôi thưa trước để ông không bị bất ngờ. Ông đô trưởng Hương vốn không ưa người của Thủ tướng. Tôi báo với ổng, còn ổng chịu tiếp hay không, tôi không thể cam đoan… Mời ông ngồi.
Chỉ cho Luân chiếc ghế, Mai xô cửa khuất vào trong, rõ ràng bực bội.
“Có thể là một người tốt, trong một gia đình dính líu với cách mạng hay bản thân là người của ta. Có thể là một quần chúng hiểu và đối xử như mọi quần chúng được cuộc kháng chiến thức tỉnh. Có thể là một phần tử khiêu khích hoặc ít ra, một phần tử thân Pháp hay thuộc phe cánh chống Diệm. Dù sao, tuổi cô còn quá trẻ. Bộp chộp…”.
Luân đang suy nghĩ về Mai thì cô đã trở ra:
- Ông đô trưởng sẽ tiếp ông, độ 15 nữa. Thật hên cho ông. Lúc đầu, ổng rầy tôi: “Tôi bảo cô cả trăm lần rồi, tôi không gặp người bên Phủ Thủ tướng, trừ cá nhân ông Diệm”. Nhưng sau khi đọc tên ông trong giấy giới thiệu, ổng đổi thái độ: “Mời ông ấy đợi tôi, đây là con của một người bạn đồng hương Vĩnh Long với tôi…”.
Mai nửa như kể công với Luân, nửa như thông báo cho Luân những chi tiết cần nắm trước.
Luân ra vẻ cám ơn cô.
- Ở đây có điện thoại không? Tôi cần nói chuyện với văn phòng ông Cố vấn… - Luân hỏi.
- Kìa! – Mai chỉ máy nói đặt ở góc phòng – Ông có thể sử dụng.
Mai lảng ra ngoài. Luân đến máy.
- Alô! Phải nhà chị Cả không? Tôi, người quen. Dạ, tôi muốn nhắn gấp anh Ngọc… Dạ, phải… Chị nhắc giúp tôi như sau: Hàng của anh Ngà lộ, chấm dứt ngay đi lại với đồng hương. Bảy Lý nhắn như vậy… Dạ, phiền chị bấy nhiêu… Ngà, Bảy Lý là ai, anh Ngọc biết… Dạ, gấp lắm…
Luân gác máy. Cửa phòng phía trong mở. Một người quắc thước, tuổi trên 50, hớt tóc ngắn, mặc complet xám bước ra.
- Thưa thầy!
Luân cúi đầu lễ phép.
- Chào anh! – Trần Văn Hương, đúng là ông ta, chìa tay cho Luân. Ông nhìn Luân từ đầu đến chân, giống một bác sĩ đánh giá bệnh nhân.
- Anh ngồi! - Ông chỉ ghế và tự ngồi xuống ghế đối diện.
Cô Mai trở vô, với khay trà.
- Cám ơn cô, cô để đó…
Trần Văn Hương rót trà mời Luân.
- Anh có việc gì cần tôi?
Hương hỏi cộc lốc.
- Dạ, em vừa nhận công việc bên Phủ Thủ tướng, đến chào thầy, mong nghe thầy chỉ biểu cho…
Luân thưa nhỏ nhẹ.
- Ừ! – Hương hài lòng rõ rệt – Anh học ở đâu? Collège Mỹ Tho? Collège Cần Thơ? Lycée Pétrus Ký?
- Dạ, em học Chasseloup…
- Vậy sao? Vậy em không học với tôi?
- Dạ, em biết thầy từ lâu. Anh của em học với thầy.
- Tên anh ta là gì?
- Dạ, Gustave Nguyễn Thành Luân. Cả Jean Nguyễn Thành Luân…
- À! Tôi nhớ rồi. Luật sư Jean Luân. Ông ta làm lớn bên Việt Minh… Học trò tôi, người phe nầy, người phe kia… Đều làm lớn… Phải chi họ nghe tôi!
Luân lặng lẽ nhìn Hương. Gương mặt chữ nhật thể hiện tính cố chấp và vầng trán hẹp, nặng nề bộ lộ sự nông cạn của tư duy. Một con người thích quyết đoán.
- Người Pháp trả độc lập cho dân ta. Tuy họ phạm sai lầm trước kia, song cuối cùng rồi nền văn minh Pháp vẫn chiến thắng. Tình hình hiện nay ở ta khá rắc rối. Cộng sản chiếm nửa nước. Nửa nước còn lại thì ươn yếu. Đáng lí tìm cách đoàn kết các lực lượng yêu nước, chống Cộng, ông Diệm lần lượt đánh tỉa họ, lần lượt dùng chính sách “củi đậu, nấu đậu” chia rẽ họ… Anh ở kề cận ông Diệm, nên lựa lời khuyên ông ta. Tôi không thích Bình Xuyên đâu, song Bình Xuyên có công trước đánh Tây, sau đánh Việt Minh, cư xử phải khéo… À! – Hương như sực nhớ ra – Anh đi kháng chiến mấy năm?
- Dạ, suốt cuộc kháng chiến!
- Ừ! – Hương, một lần nữa, nhìn Luân soi mói, song mắt ông ta bớt vẻ khinh khỉnh.
- Tôi cũng đi kháng chiến một lúc! – Hương buột miệng nói – Sau đó, tôi bệnh nặng về thành…
- Do đó, thầy có bài thơ:
“Tài sơ ráng gượng,
Bệnh nghiệt phải đành thôi;
Phận sống thừa cam chịu
Trông tay thợ vá trời!”
Luân đọc rành rọt bốn câu thơ.
- Ủa! - Hương kêu lên, kinh ngạc. - Anh cũng biết bài thơ đó?
- Dạ, em còn biết bài thầy làm năm 1919, với hai câu kết:
“Dám hỏi đồng bào mười mấy triệu
Việc đà như thế nỡ làm thinh?”
Hoặc bài “Viếng mộ Trần Bá Lộc” với hai câu:
“Mặt bia rờ rỡ lời khen thế,
Nét mực ràng ràng giọt máu dân...”
Trần Văn Hương nhổm dậy. Ông ta ngó Luân lom lom.
- Anh đọc những thơ đó ở đâu?
- Dạ, trong kháng chiến!
- Vậy sao? Tôi không ngờ… Anh em nhận xét thế nào?
- Dạ, mọi người đều thông cảm… Tỷ như bài tám câu thầy làm tháng 10/1945:
“Vẫn biết từ xưa phải có vầy
Cờ đà túng nước, tính sao đây?
Ngỡ là chí lớn, trời còn tựa
Hay nỗi tài hèn, thế khó xoay…”
Luân đọc được bốn câu. Trần Văn Hương cao hứng, đọc nốt bốn câu còn lại:
“Ở lại cho cam cùng bạn tác
Lánh đi cũng khổ với cao dày
Thôi thôi! Nghĩ lắm chi thêm hận.
Đem cái tàn hồn phó nước mây!”
- Tôi trở về thành, sau bài thơ đó… - Giọng Hương ngậm ngùi.
- Tôi sẽ thực thi một nền dân chủ ở địa phương… Ở đây, tôi chọn lựa người bổ vào các ngành theo đức, tài. Tôi gạt mọi đảng phái ra một bên. Tôi không dung tha cho tham nhũng. Nếu anh công nhận chuyện tôi làm là đúng thì tôi rất vui mừng được sự hợp tác của anh. Tôi không nhắm mắt theo các chỉ thị của Thủ tướng. Vả lại, còn Quốc trưởng, gì thì gì, nhà có nóc. Quốc trưởng tại vị, mọi người phải phục tùng ngài. Cá nhân Quốc trưởng là một chuyện, nguyên thủ quốc gia là chuyện khác. Tôi đã nói thẳng với tướng Collins và ông ta tán thành. Chánh phủ Mỹ cam kết ủng hộ Quốc trưởng. Bây giờ mà xáo trộn thì chỉ có lợi cho Cộng sản.
Hương hùng hồn thuyết một hồi lâu, khi các kỷ niệm cũ lắng xuống.
Luân từ giã Hương. Trên xe, anh tư lự. Những tài liệu mà anh có về giáo sư Trần Văn Hương quả chính xác: Gàn, kiêu căng, thiển cận, chủ quan. Thành viên của nhóm “Tinh thần” – nhóm trí thức trùm chăn suốt cuộc kháng chiến của dân tộc – Trần Văn Hương tuy vào tuổi chưa tới 55 đã tỏ ra lẩm cẩm. Điều duy nhất buộc Luân phải suy nghĩ, đó là phần tình cảm đối với cuộc kháng chiến, tuy rơi rớt, ít ỏi song vẫn còn trong ông ta.
Khi sắp ra về, Luân hỏi:
- Thầy có tin gì của anh Hai, con thầy không?
Con trai của Trần Văn Hương đi kháng chiến và tập kết ra Bắc.
- Không! Tôi không hỏi. Cả bà nhà tôi cũng không hỏi. Thứ con hư, hỏi làm gì?
Ánh mắt và giọng nói của Hương chỏi nhau. Ông ta không thể tự chủ được nữa khi nghe nhắc con mình, song mồm thì vẫn nói cứng.
Luân đi đến kết luận: Ông ta thích làm một nhân vật đầy cá tính, có lẽ ông ta gượng gập với vai kịch. Trong người ông, cả một khối mâu thuẫn…
CHƯƠNG 17
Chiếm góc đường Catinat cùng phía với Nhà dây thép, ngó ngang nhà thờ Đức Bà và xếp cạnh trường Taberd, Nha tổng giám đốc công an không đeo một bảng tên mà vẫn là mối hăm dọa đối với những ai sinh sống tại Sài Gòn. Thời Pháp thuộc, nơi đó chỉ khiêm tốn là một bót lính kín, như bót Bôlô trong Chợ Lớn. Sau khi Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai, Catinat trở thành trung tâm trấn áp toàn Nam Bộ và các tỉnh phía Nam Trung Bộ, với một nhà giam khắc nghiệt, các phòng điều tra đẫm máu. Lũ Tây lai, lũ lưu manh, lũ đấm thuê từ châu Phi, từ Ấn Độ được sử dụng, ai đã lọt vào Catinat thì khó thoát – mỗi đêm, chúng thủ tiêu hàng chục người yêu nước ở cầu An Lạc, cầu Bình Lợi – hoặc có thoát cũng thân tàn ma dại.
Do ảnh hưởng của cuộc kháng chiến, do âm mưu tô điểm cho bộ mặt bọn ngụy và nằm trong sự trả giá Mỹ - Pháp, ngày 7-10-1954, Pháp giao Catinat cho Ngô Đình Diệm. Lại Văn Sang, thủ lĩnh Bình Xuyên, Tổng giám đốc cảnh sát, chuyển đại bản doanh về đó.
Những cuộc bắt bớ tiếp tục. Bây giờ, nạn nhân không còn thuần Việt Minh như trước. Trong các phòng giam chật ních, người ta có thể gặp các trí thức lên tiếng ủng hộ hòa bình, những người hợp tác với Ngô Đình Diệm, các chủ hiệu buôn ở Chợ Lớn. Giữa một xã hội đầy rẫy cướp bóc, khám Catinat hầu như vắng bóng các hạng thường phạm. Số thường phạm bị giam trước kia nay là nhân viên của Tổng nha, chủ yếu là nhân viên điều tra.
Lại Văn Sang ném tờ giấy đánh máy xuống đất, đấm mạnh tay trên bàn, mặt đỏ phừng phừng.
Ly Kai lượm tờ giấy, lẩm nhẩm đọc. Đó là quyết định của Thủ tướng cấm khu Đại thế giới hoạt động. Lại Văn Sang đi lại trong phòng, gót giầy nện tới tấp.
- Biểu thằng Sáu Thưng lên!
Lại Văn Sang nói trỏng. Ly Kai lẳng lặng ra ngoài.
Lại Văn Sang đến bên cửa sổ, vẹt tấm màn. Cửa sổ ngó ngay dãy phòng điều tra nằm phía sau phòng làm việc của Tổng giám đốc.
Ở phòng số 3, Sang nhìn rõ một cô gái đang khóc sướt mướt. Cô khá đẹp.
- Ê! - Sang gọi vọng xuống – Cái gì đó?
Gã điều tra vội chạy ra thềm:
- Thưa anh Ba, con Lệ Chiêu…
- Lệ Chiêu là đứa nào? Con gái của hãng xà bông Cô Ba hả?
- Dạ, không phải… Nó là con ca sĩ hát ở “ba”…
- Bắt ca sĩ làm chi?
- Dạ, lệnh của Thiếu tướng…
- Sao? – Sang kinh ngạc.
- Dạ, thiếu tướng thích nó, muốn ngủ với nó một đêm, trả tới 20.000 mà nó còn làm cao…
- Vậy hả? – Sang hỏi lần nữa, giọng xui xị.
Ông ta ngó sang phòng số 4, mặc dù tai vẫn nghe rõ lời của cô ca sĩ và gã điều tra.
- Tội nghiệp em… Em có chồng, có con…
- Ăn thua mẹ gì thứ đó… Thiếu tướng thích gái có chồng, có con…
- Tội nghiệp em…
- Tao nói không có tội nghiệp gì ráo… Một đêm thôi. Cỡ Hồng Tuyến Nữ mà phải riu ríu qua hầu Thiếu tướng, sá gì mầy. Mầy hát một đêm cao lắm được 500. Thiếu tướng trả tới 20.000. Mầy cãi tao, tao bắt mầy ở luôn tại đây một tuần lễ, cho tụi công an xung phong thay phiên, một đêm mầy phải hầu một chục đứa, mà mầy mang cơm nhà tới, tụi nó chỉ có vi trùng tiêm la chớ không có đồng xu…
Không hiểu sao, Lại Văn Sang cau mày…
Từ phòng số 4 vọng lên tiếng rên của một Hoa kiều:
- Ngộ chịu! Ngộ chịu! Đừng đổ nước… ngộp quá…
Chắc là gã điều tra cười ha hả:
- Tỉu nạ má! Đợi uống hết một thùng nước rửa chén mới chịu… Hãng dầu Nhị Thiên Đường của mầy lời bạc tỷ, chỉ giúp Thiếu tướng có một triệu mà ke re cắt rắt. Kí giấy đi, chồng tiền xong, mầy về nhà…
Lại Văn Sang ngồi trở lại bàn viết. Ông ta mở một cuốn sổ ghi chi chít các địa chỉ: Nhà thuốc Ông Tiên, hãng xuất nhập cảng Ismael, hãng xe đò Thiên Tân, hãng máy bay Cosara, nhà thuốc tây Cường Lắm, tiệm vàng Nguyễn Thế Tài…
Ly Kai dẫn Sáu Thưng vào. Sáu Thưng tóc bôm bê; môi thâm xịt, cũn cỡn trong bộ đồ lớn vừa may, đi khom lưng từ cửa, rụt rè bắt tay Sang.
- Anh Sáu ngồi! – Sang chỉ ghế cho Thưng.
- Việc đã gấp – Sang nói – tôi nhờ anh Sáu. Anh vừa về với tụi nầy, tôi giao anh Sáu một công tác để lập công. Lập công lớn đa… Ngô Đình Diệm vừa ra lệnh đóng cửa Đại Thế Giới. Đại Thế Giới là nồi cơm của anh em Bình Xuyên, đóng cửa Đại Thế Giới thì anh em ình lấy gì nuôi vợ nuôi con, lấy gì lo đại sự? Đại Thế Giới lập từ hồi chưa chiến tranh, đâu phải do Bình Xuyên. Thiên hạ chơi bời giải trí ở đó đã gần 20 năm, Bình Xuyên tu bổ mở mang cách nay cũng 7, 8 năm. Hao tốn nhiều mà thâu chưa hòa vốn… Ngô Đình Diệm lại đóng cửa.
Sang vỗ bàn rầm rầm:
- Nói thiệt. Bình Xuyên quyết ăn thua đủ với nhà Ngô phen nầy!
- Phải quá mà! Thụt lui một bước, họ đẩy anh em mình té xuống kinh Tàu Hủ liền! – Ly Kai chia sẽ nỗi bất bình với Lại Văn Sang.
- Xì thẩu Ly Kai nói đúng… Xì thẩu nhắc các chủ sòng trong Đai Thế Giới yên tâm: Bình Xuyên thách đứa nào dám đụng đến Đại Thế Giới – Sang vẫn xẵng giọng – Tôi giao anh Sáu Thưng một đại đội, đóng phía chợ An Bình. Hễ tụi nó lò mò vào quấy rối, anh Sáu cho nổ súng. Tới đâu thì tới!
Sáu Thưng thẳng người:
- Anh Ba đừng lo. Đứa nào muốn lọt vô cửa Đại Thế Giới phải đạp qua xác thằng Sáu Thưng nầy!
Lại Văn Sang bước ra khỏi bàn viết, vỗ vai Sáu Thưng:
- Vậy mới là hảo hớn!
- Dạ, em lên Sài Gòn, thân như kẻ trôi sông lạc chợ, nhờ anh Ba cứu vớt, đùm bọc mới có ngày nay. Ơn đó... – Sáu Thưng vừa nói vừa rơm rớm nước mắt.
- Thôi! Anh Sáu chớ nói đến chữ ơn. Bọn mình là khách giang hồ. Quý là quý cái tình cái nghĩa…
Chuông điện thoại reo. Sang nhấc máy:
- Tôi đây, ai đó? À! – Sang chợt dịu giọng – Dạ… em đây anh Bảy. Dạ… em qua liền… Dạ, thế nào tối nay cô Lệ Chiêu cũng có mặt chỗ anh Bảy… Dạ…
Đặt máy xuống. Sang bảo Ly Kai:
- Xì thẩy đưa anh Sáu vô Đại Thế Giới, làm quen với đại đội bảo vệ. Nhắc tụi phòng 3 về cô Lệ Chiêu… Tôi sang chỗ Thiếu tướng ngay bây giờ.
Sang bước đi mấy bước, chợt gọi Sáu Thưng, ông ta thì thầm trao đổi với Sáu Thưng việcgì đó mà Ly Kai giữ ý đứng hơi xa, nghe không rõ ngoài mấy tiếng:
- Một tấn là đủ… - Sáu Thưng nói.
- Làm sao đặt? – Sang hỏi.
- Em đảm bảo với anh Ba. Em là đặc công thủy mà!
*
Ly Kai rót đầy hai ly, chai Cognac đã cạn, Sáu Thưng ngồi lắc lư trên chiếc ghế cao, cô gái bán bar che miệng cười miết vì anh chàng vỗ ngực tự xưng là “Vua rượu Cà Mau” đã không chịu nổi 10 ly như anh ta hứa trong cuộc thi tay đôi với Ly Kai. Mặt Ly Kai tái mét còn mặt Sáu Thưng thì như ớt chín.
Lúc khởi sự, Sáu Thưng chẳng những uống rượu theo lối nước nạp mà còn rờ mó vuốt ve cô ả. Bây giờ, cô ả áp sát người vào Sáu Thưng , anh ta giống như kẻ sắp chết, mắt nhắm nghiền, cất tay lên không nổi.
- Ông Sáu, tụi mình làm một cái chót rồi vô Đại Thế Giới… - Ly Kai nhét ly rượu vào tay Sáu Thưng.
- Ông Sáu Thưng cái gì cũng giỏi hết! Ông Sáu làm quan bên Việt Minh được mấy năm?
- Đâu cũng 5, 6 năm…
- Ông Sáu ở Trung đoàn 58 biết Bảy Luân không?
- Bảy Luân nào?
- Bảy Luân tiểu đoàn trưởng 420, trung đoàn phó 58 đó…
- Biết… mà va tập kết rồi, phải không? Va là kỹ sư Luân, chung một đơn vị với tôi. Bị va mà tôi không thèm đi lính nữa, về xã Trí Phải trồng khóm.
- Tốt quá! – Ly Kai vui vẻ hẳn… - Ông Sáu đánh bộ hay đánh thủy?
Y ta đột ngột hỏi sang chuyện khác.
- Tôi là đại đội phó đặc công thủy… chuyên đánh tàu, phá cầu… Cầu bao lớn, tôi cũng phá bay…
- Cỡ cầu chữ Y, ông Sáu phá bay không?
- Ậy! Đó đa… - Sáu Thưng cười hí hí – Cô em đây dễ thương quá, qua khuyên đừng lò mò lên cầu chữ Y mà nát xương, nghe! – Sáu Thưng cố đứng lên – Ta đi, hè! Cô em ơi, cho qua hun một miếng!
Cô gái chìa má, Sáu Thưng chồm qua bàn rượu. Hắn ngã vật xuống, nôn lênh láng…
CHƯƠNG 18
Sáng nay, lần đầu tiên từ khi về thành và xáp vào gia đình họ Ngô, Luân mới có dịp đến chào Ngô Đình Diệm. Anh biết sở dĩ Diệm cho gọi anh là vì Giám mục Thục muốn như vậy. Luân chờ đợi buổi gặp gỡ nầy từ mấy tháng qua. Trong tính toán, Luân đánh giá cái ô của giám mục chưa đủ kín. Có vẻ Ngô Đình Nhu không thích trình diện Luân với Diệm. Chưa bao giờ Nhu gợi ý cho đứa con nuôi của Giám mục làm quen với Thủ tướng; mặc dù lúc nào Nhu cũng nói với Luân theo kiểu gia đình.
Được điện thoại của Giám mục, Luân báo liền cho Nhu. Từ đầu dây ở dinh Gia Long, giọng Nhu không thật sốt sắng:
- Vậy sao?... Thôi được, anh cứ đến…
Diệm tiếp Luân trong không khí gia đình. Khi người sĩ quan tùy tùng đưa Luân vòng ra phía sau dinh và khi thấy Diệm mặc bộ pyjama ngồi với giám mục ngoài hành lang, Luân khấp khởi trong lòng.
- Chào cháu! – Diệm không nhỏm dậy, chìa tay cho Luân bắt.
- Kính chào Thủ tướng! – Luân hơi nghiêng mình.
Sau khi quỳ hôn nhân giám mục, Luân ngồi vào chiếc ghế mây do Diệm mời.
Diệm trong rất tươi tỉnh, đầu chải rẽ, phì phà điếu thuốc Golden Club.
- Cháu thấy dễ chịu không? – Diệm hỏi dịu dàng.
- Thưa Thủ tướng, cháu thấy rất dễ chịu.
- Nó lên được chút đỉnh, có da có thịt hơn – giám mục giọng thật đầm ấm – Cực khổ 9, 10 năm mà!
- Có lẽ vào dịp thích hợp, Đức cha đưa cháu ra Huế chào bà, các bác, các thiếm và chú Cẩn… - Diệm nhìn Luân một lượt – anh ngồi khép nép, hai tay chập vào nhau – bỗng đưa ra ý kiến đó.
- Đợi lễ thọ mẹ… Đông đủ mọi người. Cả chú Luyện cũng về… - Giám mục vui vẻ đồng ý.
- Phải đó!... - Diệm chuyển cuộc nói chuyện sang hướng khác – Cháu nghe tin Pathét Lào tấn công Nọng Khay và Huổi Theo ở Bắc Lào không?
- Thưa, cháu vừa nghe sáng nay, qua đài Pháp Á.
- Theo ý cháu, việc đó báo trước cái gì?
- Thưa, bản tin quá sơ lược cháu không đủ tài liệu để phán đoán. Tuy nhiên, theo cháu, sự thể không vượt quá những xung đột địa phương và chỉ mang tính cách nhất thời… - Luân trả lời dè dặt.
- Chú nghĩ hơi khác – Diệm dụi điếu thuốc hút dở chừng rút điếu thuốc khác, châm lửa – Pathét Lào được hai tỉnh, họ nhân lúc quân đội Hoàng gia còn yếu, toan tính mở rộng vùng kiểm soát. Tình thế sẽ chuyển biến nhanh… không chỉ ở Lào mà cả Đông Dương!
Luân im lặng. Giám mục chốc chốc ngó anh như khích lệ anh cứ nói, không sao đâu.
Thấy Luân giữ kẽ, Diệm cười:
- Đây là gia đình. Cháu đừng ngại. Chú sẵn sàng nghe, kể cả cháu nói khác ý chú.
- Dạ, Thủ tướng đã cho phép, cháu xin nói. Xét chung, nguyện vọng hòa bình hiện nay là nguyện vọng lớn nhất, bao trùm nhất ỏ bán đảo chúng ta. Chưa ai có thể phiêu lưu phá vỡ những điều mà Hiêp định Genève đã đạt. Phe nào cố tình nổ súng thì phe đó sẽ bị cô lập ngay, trong dư luận khu vữcc như rộng hơn. Vả lại…
Diệm lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu. Vừa lúc đó, Nhu đến. Thấy Luân nhổm dậy, anh ta ấn Luân ngồi yên trên ghế, tự tay kéo một ghế khác, không có lưng tựa ngồi lên, chờ Luân nói tiếp.
- Tôi đang trả lời một câu hỏi của Thủ tướng – Luân nói với Nhu.
- Biết rồi… Tôi vừa nghe loáng thoáng… Anh cho biết hết ý của anh.
- Tôi vừa nói là nguyện vọng hòa bình bao trùm cả khu vực. Có thể nói, cả thế giới. Sắp tới, Việt Nam chúng ta dự hội nghị các nguyên thủ quốc gia ở Băng Đung (1). Hội nghị Băng Đung nhất định quan tâm đặc biệt đến một nền hòa bình vĩnh cửu ở châu Á. Khi mà hai thế lực tồn tại ở đây, phía Bắc thì liên minh Nga Xô và Trung Cộng, phía Nam thì khối liên phòng Đông Nam Á…
- Anh Luân nghĩ thến nào nếu kẻ nổ súng đầu tiên ở Nam vĩ tuyến 17 không phải là chúng tôi? – Nhu ngước mái tóc lòa xòa, hỏi đố.
- Tôi chưa rõ anh Nhu muốn nói đến những tay súng nào?
- Ta cứ cho như các giáo phái ở Nam Bộ, Đại Việt ở Trung Bộ…
- Cám ơn anh Nhu không đặt giả định từ những người kháng chiến cũ, từ phía Bắc vĩ tuyến 17 – Luân cười nhẹ.
- Cho tới hôm nay, tôi chưa có cơ sở thực tế nào cho một giả định như vậy… Mặc dù, về nguyên tắc, không loại trừ một giả định như vậy, tất nhiên, chưa phải vào năm 1955.
- Còn về giáo phái và Đại Việt, tôi không coi quy mô của nó – một khi quả là súng nổ - trầm trọng đến mức các nguyên thủ quốc gia phải đem ra mổ xẻ ở Băng Đung – Luân nói, giọng đầy tự tin.
- Thế là đủ! – Nhu kêu lên vui vẻ - Ta có cách giữ ngọn cờ hòa bình về tay ta. Tôi đảm bảo với anh không bao giờ chúng tôi bấm cò trước!
- Và anh đảm bảo họ sẽ phải bấm cò trước! – Luân bổ sung câu nói của Nhu, nhấn mạnh ba chữ: “họ sẽ phải”.
Nhu cười phá. Ít khi nào Nhu cười phá – Luân nhận xét như vậy. Nhu cười phá mà đôi mắt nhìn Luân lại không cười.
*
- Anh Diệm hài lòng lắm! – Nhu bảo Luân khi hai người từ giã Diệm và Giám mục, Diệm mời Luân đến ăn cơm chiều.
Nghe Nhu, Luân chỉ cười.
- Anh đã vào Đại Thế Giới bao giờ chưa? – Nhu hỏi, như chủ động cho Luân biết rằng anh ta không bận tâm vì mối quan hệ vừa chớm, giữa Luân và Thủ tướng.
Nghe Luân bảo chưa, Nhu giục:
- Anh vào ngay, nó chẳng còn tồn tại lâu la gì nữa…
- Họ thi hành lệnh của chính phủ?
- Tất nhiên, họ chẳng thi hành đâu. Họ đắp ụ súng, tăng thêm quân.
- Và anh thì cũng đang mong họ đừng thi hành lệnh đó, phải không?
Nhu đang đều bước song song với Luân trên dãy hành lang, chợt dừng lại:
- Không khéo, anh tưởng tượng tôi là con quỷ khát máu. Anh cứ vào Đại Thế Giới thì rõ…
- Tôi không tưởng tượng quá xa như vậy đâu… Trong cuộc đọ sức nầy, Chính phủ gác trước một điểm. Bình Xuyên cờ bạc, cướp bóc, làm tiền, chính phủ yêu cầu họ ngừng tay các hoạt động trái lòng dân đó… Các giáo phái cát cứ, vơ vét thóc gạo, bắt lính, bắt phu không kể gì luật pháp, tùy tiện chém giết… Chính phủ phản đối. Cứ tấn công họ… Song, đồng thời, trước khi tấn công, hãy tuyên dương họ như bậc khai quốc công thần!
- Anh nói gì khó hiểu quá! – Nhu nhăn mặt.
- Đâu có khó hiểu. Giả sử Bình Xuyên, các giáo phái trong quá khứ và cả hiện giờ không vấp hàng loạt sai lầm, tội lỗi thì ông Diệm, ông Nhu dễ gì lay chuyển họ. Phải không? Giả sử tướng Hinh không thạo tiếng Tây hơn tiếng ta, Bảy Viễn không giỏi chửi thề hơn làm chính trị, các tướng lĩnh Cao Đài, Hòa Hảo không phải là hạng đốt nhà, cướp vợ thiên hạ thì liệu ông Diệm có thể gạt bỏ dễ dàng ra khỏi các chức tước quan trọng không? Chế độ ông Diệm gặp một vận may bằng vàng: các đối thủ sẵn sàng đưa lưng ra cho nện! Rồi nay mai, cuộc tranh chấp leo đến cái đỉnh của nó – giữa Quốc trưởng và Thủ tướng – Ông Diệm vẫn nắm chủ bài trong tay: Quốc trưởng vận với những cái đùi non ở Cannes…
Nhu không nói nữa. Anh ta tiếp tục bước đều đều, mặt như phủ một lớp băng.
- Điều mà tôi lo lắng, đó là đổ máu giữa đo thành! – Luân nói, như không để ý đến thái độ khang khác của Nhu.
- Anh cho là tôi thích đổ máu sao? Nhưng, nếu anh biết rằng trong kế hoạch gây sự, Bình Xuyên định đánh sập cả cầu Chữ Y lẫn nhà đèn Chợ Quán, anh sẽ thấy chúng tôi mới đúng là người quyết ngăn chặn đổ máu và đổ nát… - Nhu cau mày, nói gằn giọng.
- Tôi nghi tin tình báo hơi phóng đại!
- Thấy không? Anh vẫn không tin. Tôi mách cho anh một chi tiết: Bình Xuyên thu nhận một tay chuyên đánh đặc công nước, ngay xưa là quân của kháng chiến, hình như của chính đơn vị do anh chỉ huy! Gã nầy sẽ cho cầu Chữ Y chỉ còn trơ cái sườn. Với cả tấn thuốc nổ… Anh tin chưa?
- Anh nói thì tôi buộc phải tin…
- Tức quá! Nhu nổi nóng. Nhưng anh ta tự kềm chế được liền.
- Tôi sẽ cho anh xem bằng cớ. Tất nhiên, sau nầy… Bây giờ, anh vô Đại Thế Giới…

Chú thích
(1) Bandung: một thành phố của Indonésia
CHƯƠNG 19
Trên đường từ Đại Thế Giới về nhà, Luân cố nén bao nhiêu xúc động. Tài xế Lục thỉnh thoản liếc Luân, suy đoán. Luân không động đậy trên xe, thậm chí không nhìn hai bên phố đang sửa soạn Tết, như thói quen thường ngày của anh.
... So với lúc Luân biết – trước năm 1945 – Đại Thế Giới ngày nay mở rộng hơn nhiều. Tuy vẫn cửa ra vào đó, vẫn ba hàng chữ Đại Thế Giới kết bằng bóng đèn màu nhấp nháy – chữ Pháp, chữ Hoa, chữ Việt – bên trong có đến bốn võ đài, hai sân khấu Triều Châu, Quảng Đông, một sân khấu cải lương, nhiều nhóm ảo thuật, hằng mấy chục quán ăn nhỏ lớn – những cô gái “hối thén” (1) hở hang sẵn sàng chìu khách bất kỳ ở mức nào: bên cạnh, một phòng ngủ gồm cả hạng sang lẫn hạng bình dân. Nhưng, cái thu hút hằng chục nghìn người đổ xô như điên vào Đại Thế Giới là cái sòng bạc: ăn thua vài đồng có lúc lắc, bông vụ, vài chục đồng có bài ba lá, vài trăm đồng có xí ngầu lát, phé, vài nghìn đồng có một tụ đề tài xỉu. Luân không đếm xuể, chắc không dưới năm chục sòng.
Những gương mặt là Luân gặp phần lớn đều ngây dại: vì rượu, vì gái, nhất là vì ăn thua bài bạc. Chưa ai làm một bài toán để đo lường sức hủy hoại của Đại Thế Giới từ khi Bình Xuyên bao thầu nó – năm 1948. Bao nhiêu vụ tự tử? Bao nhiêu vụ giết người? Bao nhiêu vụ thụt két phải đi tù? Bao nhiêu vụ bán thân của những bà, những cô, vợ con nhà lương thiện?
Vào đây, qua cửa, nơi lính Bình Xuyên lăm lăm tiểu liên sau ụ cát, chạm mặt với một thế giới nhầy nhụa, Luân càng đinh ninh thêm về cái kết quả thắng lợi giữa Bình Xuyên và Ngô Đình Diệm. Cả thành phố, cả Nam Bộ lên án khu ăn chơi quá quắt này. Có thể rất ít người ưa Ngô Đình Diệm, song không ai là không oán Bình Xuyên...
Ngọc cũng nhất trí với Luân như vậy.
Luân gặp Ngọc – họ hẹn trước – trong quán thịt rừng đèn leo lét cạnh Đông võ đài. Ngọc hóa trang khéo đến nỗi Luân ngờ ngợ mấy giây mới nhận ra: râu mép trễ dài, áo xá xẩu, nón nỉ đen, quạt phe phẩy, Ngọc giống hệt một tài phú đi tìm của lạ.
- Tôi đã bắt được liên lạc với anh Bảy Môn. Anh Bảy đang ở trong Bộ tham mưu Bình Xuyên, nguyên thợ nhà đèn. Nhờ người anh giới thiệu – người anh là cán bộ hoạt động bí mật – tôi tiếp xúc thẳng với anh. Anh tốt, sẵn sàng nghe ta, song thế lực yếu. Tôi ráp mối giữa anh Bảy với Quận ủy Long Thành. Hễ tình hình không ổn, anh Bảy vượt sông Soài Rạp thì anh em đưa quân của anh lên miệt chiến khu Đ... Tôi bàn với anh Bảy Môn nên thoát ly trước để tránh liên lụy, song anh Bảy không chịu. Ảnh cũng có cái lý của ảnh: Bây giờ mà thoát ly thì bất quá kéo theo vài chục người. Lính tráng Bình Xuyên chưa biết tội ác của người cầm đầu, đang còn mê tín dữ. Họ tin là Pháp không bỏ Bình Xuyên, họ tin là quân đội chưa ngả về Diệm, họ hy vọng quân của Nguyễn Văn Thành trên Tây Ninh, quân của Léon Leroy ở Bến Tre, quân của Ba Cụt ở Long Xuyên, quân Ngự lâm của tướng Vĩ ở Đà Lạt... Sớm muộn gì họ cũng tỉnh mộng. Từ đó anh Bảy mới tụ tập một lực lượng khả dĩ làm nên một cái gì đó sau này.
Luân nghe và đồng ý với Ngọc.
- Tôi chưa liên lạc được với anh Sáu Đăng. Chẳng rõ Xứ ủy nhận định tình hình ra sao. – Luân thở dài.
- Tôi chỉ biết chủ trương của Liên tỉnh ủy miền Đông qua các đồng chí Long Thành: mâu thuẫn tay sai Pháp – Mỹ bước vào thời kỳ có thể bùng nổ xung đột, phe thân Pháp đã ô hợp mà lại không có cương lĩnh chính trị rõ ràng, vẫn bám chủ trương chống Cộng, nhất định bị cô lập và thất bại. Liên tỉnh ủy miền Đông chủ trương lợi dụng tình hình xung đột ở mức cố gắng lôi kéo bộ phận yêu nước trong các phái chống Diệm, vừa bảo tồn thực lực vừa tạo danh nghĩa hợp pháp để bắt đầu nhen nhóm các đội vũ trang cách mạng. Liên tỉnh ủy cho rằng không thể công khai kêu gọi quần chúng ủng hộ các phái chống Diệm bởi lẽ các phái đó đã qua và hiện nay vẫn còn chống quần chúng gay gắt, mắc nợ máu với quần chúng.
- Vậy là rõ! Ta tin đó là sự chỉ đạo của Xứ ủy... Tôi đã hành động theo hướng đó. Bây giờ, tôi khuyên anh nên lắng một lúc. Hay anh ra khu? Công việc của anh đã có kết quả tốt rồi. – Luân ngó Ngọc, trìu mến.
- Ngay khi được báo động, tôi nằm im... Tôi thấy chưa cần ra khu. Đợi thời cuộc phát triển thêm một bước nữa. Vả lại, nhóm anh Bảy Môn non nớt lắm, không có mình giúp khi hữu sự, họ khó xoay trở...
Ngọc bỗng thở dài:
- Lúc đầu, tôi hy vọng Bình Xuyên ít nhiều hiểu ra đâu là lối thoát, chịu liên minh với ta. Tôi đã năm lần bảy lượt gợi ý với Lại Văn Sang, Lại Hữu Tài và thậm chí với Bảy Viễn. Song họ vẫn u mê. Đám quân sư của họ, nhất là Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân, càng đần độn hơn. Chẳng những từ chối, họ lại hăm dọa tôi. Bảy Viễn nói trắng: “Va” (1) thù Diệm nhưng chưa thù bằng ta. Tôi đã làm hết sức mình...
Im lặng một lúc, Ngọc nói tiếp:
- Phần tôi, công việc coi như sắp xong. Công việc của anh còn rất nặng. Tôi lo cho anh. Anh nằm ngay miệng cọp!
- Nằm ngay miệng cọp nhưng vẫn ăn ngon ngủ yên! – Luân đùa và anh thấy ngay là anh đã đùa không đúng chỗ, bởi vẻ mặt băn khoăn của Ngọc.
- Cám ơn anh lo cho tôi. – Luân trở lại giọng nghiêm túc – Song, tôi biết tình hình chưa có gì đáng ngại. Hiện nay, vấn đề đối với tôi là làm sao đạt được mức tin cậy cao hơn... Giữa chúng ta, tạm thời giảm liên lạc để giữ gìn cho nhau. Anh cứ nằm im đâu đó... Thật cần thì tôi sẽ nhắn, qua chị Cả...
- Vậy tôi đi... Dầu sao anh cũng hết sức cẩn thận.
Luân lòn tay dưới bàn. Hai người xiết tay nhau thật chặt. Cả hai đều thấy cay cay ở mắt.
*
Luân tần ngần nhìn theo Ngọc cho đến khi Ngọc chìm giữa dòng người hỗn tạp, loạn xạ...
Vào thành phố, Luân nhớ mà thèm da diết cái cảnh đầm ấm quây quần anh em đồng chí, cười nói thoải mái, vui ra vui, giận ra giận. Bây giờ, nhiều đêm chợt thức giấc, Luân không sao ngủ lại được. Tứ bề thật trống trải. Kề cận anh là tài xế Lục. Tuy “va” bản chất thật thà, ngày càng lộ rõ tình cảm với Luân song làm sao Luân quên được “va” là người của bác sĩ Tuyến. Rồi đây, sẽ thêm một vệ sĩ. Tới bốn mắt dòm ngó Luân. Nhu đã rút gã sửa xe đạp, nhưng còn bao nhiêu gã khác theo dõi Luân qua ổ khóa. Hàng ngày, anh chạm mặt với những hạng mà mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của anh đều được chẻ như chẻ sợi tóc, chỉ cần một sơ hở nhỏ của anh, chúng sẽ lôi anh đến giá treo cổ. Hằng ngày, anh phải sống trong màn kịch căng thẳng, từ cái cười, cái nhún vai, cái liếc mắt đều đòi hỏi phải suy tính. Anh lợm giọng song buộc phải nói những điều trái thiên lương, trái chân lý. Thật ra, Luân chưa ước lượng hết mọi phức tạp như vậy. Liệu thần kinh anh đủ sức chiu đựng nổi cuộc tra tấn độc địa này đến bao lâu. Ngày trong giấc ngủ, anh không có quyền mớ. Những bộ phân ghi âm cực nhạy thu đến nhịp thở của anh.
Do nguyên tắc hoạt động trong lòng địch, Luân chỉ được liên hệ với Sa, Quyến và Ngọc. Với Sa, thằng bé liên lạc từng ngủ chung mùng với anh, má còn lông măng, anh gặp có một lần hôm trao “điếu thuốc”. Theo hẹn, mãi Tết âm lịch, anh mới gặp nó lần nữa. Chẳng rõ thằng nhóc xoay sở ra sao? Quyến thì chưa thấy ám hiệu. Chắc y đang “lót ổ”. Ngọc gặp Luân vài lần, nhưng từ nay cũng khó: chỉ cần Nhu biết hai người giữ quan hệ thì cả hai sẽ chẳng mong sống.
Nếu đây không là nhiệm vụ và nhiệm vụ quan trọng, anh đã nhảy ào vào chiến khu. Dù cho chiến khu không giống xưa – quân ta tập kết ra Bắc rồi, người của ta sống giữa lùm bụi, bám hầm bí mật, lấy đêm làm ngày – nhưng đó vẫn là khoảnh trời đất tự do.
Luân chợt thở dài. Anh nhớ đến Khu 9, đến các bà má, các em thiếu nhi, đến những nơi anh sống ròng rã ngần ấy năm: đầm Bà Tường, ngọn Tân Duyệt, rừng tràm Đường Sân, ngã Ba Đình, mùa cá kèo Viên An, mùa chạy nò Rau Dừa... Và gia đình ông Hai Sặt gần Phụng Hiệp... Anh nhẩm tính xem đã đủ 300 ngày cho khu chuyển quân Sông Đốc chưa... Nếu còn thì cũng còn chẳng mấy ngày nữa.
Một chú bé kéo Luân về thực tại:
- Báo mới đây thầy! Cựu thủ hiến Phan Văn Giáo sắp ra tòa vì thụt két gần 6 triệu đồng! Một vụ cướp lớn gần chợ An Đông, ba tiệm cầm đồ bị đánh một lượt, bọn cướp đi xe mang số công an...
Luân mua một tờ Tiếng Chuông. Anh thờ ơ với vụ Phan Văn Giáo. Chẳng qua Ngô Đình Diệm dợt sơ bằng vài quả đám nhứ, cú knock out sẽ dành cho những nhân vật nặng cân hơn Giáo nhiều, kể cả Bảo Đại.
Luân ngó liền bài xã luận. “Ông bạn này vẫn còn bình yên”. Luân nói về Khải Minh, người ký tên các bài xã luận báo Tiếng Chuông – đôi khi bài mang tên chủ nhiệm Đinh Văn Khai mà giọng văn thì vẫn của Khải Minh. “Chà nếu không bị ngăn cách, gặp gỡ nói chuyện ba trợn cho đã”. Luân nhớ tới Nguyễn Văn Hiếu – bút hiệu Khải Minh – bạn của anh.
Luân lật tờ báo. Anh đọc lướt qua các mục. Chẳng có gì quan trọng. Luân đã xếp tờ báo, vội vàng mở trở lại, đọc nơi trang 4, mục nhắn tin: Em trai là Lê Diệt Thù, tự Sáu Thưng, nguyên đại đội phó Tiểu đoàn 420 Bạc Liêu, nay làm việc ở Tổng nha Công an: Má đau nặng. Về ngay. Chị Ba...
Luân đọc đến bốn năm lần mẫu tin nhắn ngắn ngủn này.
Lê Diệt Thù? Sáu Thưng? À! Chính là hắn...
*
Hội nghị chi bộ đại đội 2 kéo dài đến gà gáy nửa đêm. Tất cả gần 20 đảng viên ngồi trên mấy chiếc đệm trải theo líp dừa. Ngọn đèn con cóc khói đen kịt soi mờ các khuôn mặt buồn chen với giận. Một người duy nhất vát hất cái mặt trơ trơ, đó là Sáu Thưng, đại đội phó, chuyên trách đặc công thủy.
- Các đồng chí trong chi bộ đã nói xong. Xin mời đồng chí Bảy Luân, thay mặt trung đoàn ủy, cho ý kiến.
Đồng chí bí thư chi bộ đại đội thấy hội nghị cần kết thúc, ngỏ lời.
Luân trầm ngâm khá lâu. Chuyện đã rõ. Sáu Thưng được phân công chỉ huy các tổ đặt thủy lôi ở vàm Nhựt Nguyệt chận tàu Tây. Đúng dự kiến của Ban chỉ huy trung đoàn, một đoàn tàu Tây theo ngã kênh xáng Đội Cường chạy vào vùng căn cứ ta, qua vàm Nhựt Nguyệt. Không vấp cản trở, chúng chi làm hai mũi: một xuôi dòng Bảy Háp thọc xuống Điền Quốc Gia, Nhà Thính, một ngược sông Cái Nước, vào bắn phá vàm Cái Cấm... Tại Vườn Cò, tàu chúng trúng thủy lôi, phải tháo chạy. Thủy lôi của du kích xã.
Sáu Thưng trình bày lý do: Ngòi nổ máy trái thủy lôi bị ẩm, châm điện mà không nổ. Trung đoàn cho kiểm tra, sự thật Sáu Thưng không có mặt ở vàm Nhựt Nguyệt như quy định. Vào lúc tàu Tây đột nhập vùng tự do, Sáu Thưng chè chén, sau đó, tổ chức cờ bạc ăn tiền, cách vàm Nhựt Nguyệt cả chục cây số. Một số cán bộ chiến sĩ đề nghị Sáu Thưng chấp hành chỉ thị của trung đoàn, Sáu Thưng chẳng những không nghe mà còn chửi bới om sòm...
Tại hội nghị chi bộ, Sáu Thưng không chối cãi những hành động của mình nhưng không chịu đó là sai quấy.
- Tôi đề nghị đồng chí Sáu Thưng nói trước...
Luân vẫn còn mong vớt vát. Sáu Thưng là một cán bộ đại đội lâu năm, tuy hay ăn nhậu, nhưng đã dự hầu hết các trận đánh lớn của Tiểu đoàn 420.
- Tôi không nói gì hết! – Sáu Thưng bĩu môi – Mổ xẻ đã thèm chưa? Kỷ luật gì thì kỷ luật hắt đi... Bộ mấy người tưởng tui ham chức đại đội phó lắm sao? Khuya thấy mẹ rồi, tôi đi ngủ đây!
Sáu Thưng đứng dậy, ngông nghênh bước ra khỏi đệm.
- Sáu Thưng! Đứng lại...
Luân quát.
Sáu Thưng chợt đặt tay lên báng khẩu súng ngắn trên thắt lưng, quắc mắt ngó Luân.
- Bỏ tay ra! – Luân vẫn ngồi yên tại chỗ, ra lịnh – Anh muốn tự sát hả?
- Sáu Thưng bộ quên tài bắn súng của anh Bảy rồi sao?
Một người nào đó chế nhạo. Sáu Thưng buông thõng tay lập tức.
Chi bộ quyết định khai trừ Sáu Thưng ra khỏi Đảng. Thay mặt cho ban chỉ huy trung đoàn, Luân cách chức đại đội phó của Sáu Thưng, loại hẳn ra khỏi quân đội và giao cho xã đội Trí Phải quản chế.
Chuyện từ năm 1952 Luân quên bẵng tên này. Người ta đã bỏ sót hắn trong danh sách những cán bộ từng hiểu rõ tông tích của Luân.
Có lẽ tay đặc công thủy mà Nhu nhắc chính là hắn.
Luân chưa hết bàng hoàng với mẩu tin trên tờ báo và đang dán mắt nhìn ai đó trong đám đông nên không để ý cô “hối thén” mang đến cho anh chiếc khăn nhúng nước nóng thoang thoảng mùi dầu thơm.
Ai giống Sáu Thưng đang cặp kè Ly Kai, rảo qua các gian hàng. Đúng là hắn, Sáu Thưng, trong bộ quần áo công an xung phong, súng lục xệ bên lưng, sắp đến quán nhậu mà Luân đang ngồi.
Luân xếp tờ báo và vụt ôm choàng lưng cô “hối thén”, đặt cô lên đùi anh. Cô cười ỏn ẻn, vòng tay qua cổ Luân, cúi thấp người. Cô che trọn Luân.
Ly Kai và Sáu Thưng dừng trước quán.
- Tôi có cha có mẹ đâu mà đau bịnh... Cũng không có chị có anh... Trùng tên trùng họ sao đó thôi! – Sáu Thưng bảo Ly Kai.
- Kỳ quá! Nhắn tin cho ông Sáu rõ ràng mà!
Tim Luân đập mạnh. Hai đứa mà vô quán thì chưa biết sự tình sẽ ra sao...
Cô “hối thén” nghe được hơi thở dồn dập của Luân, cắn vành tai anh:
- Vô trong kia, nị bao phòng tới sáng, chịu không?
Qua vai cô “hối thén”, Luân thấy Ly Kai và Sáu Thưng đã sang khu vực võ đài và mất hút.
Anh đợi một lúc, biết là chúng không trở lại, dịu dàng hôn nhẹ lên má cô gái, trả tiền bữa ăn, không quên tặng riêng cô “hối thén”.
Cô “hối thén” lạ lùng khi Luân thay vì mướn phòng ngủ tới sáng với cô, đã cầm tay từ giã cô, cám ơn cô hết sức chân thành.
Trong thâm tâm, Luân cảm ơn cả mẫu nhắn tin mà anh chắc là của anh Sáu Đăng.
---
(1)???
(2) Vous:¨Ông, Anh ,
CHƯƠNG 20
Mãi giữa đêm, Luân mới về nhà. Trong đầu anh hình thành một giải đáp cho bài toán Sáu Thưng vừa đột ngột đặt ra.
Thêm gã Ly Kai nữa. Theo các tin anh có, Ly Kai là chủ thầu các sòng bạc Đại Thế Giới. nhưng, vì sao gã lại quan tâm đến Sáu Thưng và đến mẩu tin trên báo? Một cái lóe chợt đến. Hày là?...
Lục đưa xe vào gara. Luân lững thững bước lên thềm. Ánh đèn đường hắt vào, Luân phát hiện một tàn thuốc lá vứt ngay cửa. Anh ngồi xuống, quan sát. Tàn thuốc bị chà vội, còn nong nóng. Chung quan Luân vắng lặng. Nhưng Luân cảm giác trước đây vài phút, một người nào đó đứng chỗ này. Có thể người đó lẩn khuất khi xe Luân về tới cổng.
Luân đi một vòng quanh nhà. Không có gì khác lạ. Tài xế Lục đã tắt đèn, chắc bắt đầu ngủ.
Luân trở lại cửa. Anh tra chìa khóa vào ổ khóa và biết ngay là có người đã vào nhà anh. Rút khẩu P.38 ra khỏi bụng. Luân áp sát tường, từ từ xô cánh cửa chờ đợi một biến cố.
- Chủ nhà đã về, sao không vô, núp ló làm gì ngoài đó?
Một giọng ồm ồm phát ra từ phòng khách. Một người vai rộng, ngồi quay lưng ra cửa, đang nhâm nhi ly rượu hắn lấy từ trong tủ của Luân. Nhìn chiếc áo công an xung phong và cái đầu bù xù, Luân nhận ra ngay là Sáu Thưng.
Mọi việc bỗng trở nên hết sức rõ ràng. Sáu Thưng biết nhà Luân, mà hắn cùng đi với Ly Kai trong Đại Thế Giới. Vậy, Ly Kai hết còn là bí mật với Luân.
Chắc chắn chưa cần khẩu P.38, Luân đút súng vào bụng, nói oang oang thân mật:
- Tưởng ai, hóa ra là anh Sáu... Mạnh giỏi không?
- Cám ơn ông kỹ sư! Tôi vẫn bình thường! - Sáu Thưng không động đậy, trả lời với giọng lạnh lùng. Trả lời xong, hắn ngửa cổ nốc cạn ly rượu...
- Cognac thứ thiệt, hơn “đế” Cà Mau xa!
Hắn chùi mép, nói bông lông.
- Lâu ngày không gặp anh Sáu, ta nhậu một trận... Đợi tôi vài phút, nhậu phải có mồi...
Luân mở tủ lạnh, mang ra tôm khô. Anh mau mắn bày bàn ở hàng hiên.
- Nhậu ngoài này cho nó mát! – Luân bảo.
Sáu Thưng xách chai Cognac theo Luân. Sau khi khép kin cửa, Luân ngồi đối diện với Sáu Thưng, giọng Luân đột ngột oai vệ:
- Anh đến nhà tôi có việc gì?
- Ông thừa biết, hỏi làm chi... - Sáu Thưng trả lời lơ lửng.
- Anh nói rõ hơn đi! – Luân ngả người, rút một điếu thuốc và hất nhẹ gói thuốc về phía Sáu Thưng.
Sáu Thưng cũng rút một điếu thuốc.
- Ông giỏi thiệt! – Sáu Thưng cười gằn – Ông giấu tất cả mọi người...
- Tôi không hiểu anh muốn nói gì? – Luân vẫn đủng đỉnh.
- Ông đừng giả bộ... Ông đâu có lạ về bản lý lịch mà ông khai rằng đến 99% sự thật, cốt để che một điều gian dối. Rất tiếc, tôi là người biết được điều gian dối đó. Tôi có thể bán bí mật của ông...
- Tại sao anh không bán? – Đầu của Luân bắt đầu nóng.
- Tất nhiên, không phải vì thương ông. Cho tới bây giờ, chưa bắn vỡ sọ ông là điều tôi còn ấm ức... Nhưng ra thành, cũng như ông, tôi tập làm áp phe. Tôi muốn biết ông trả giá bao nhiêu nếu tôi im lặng? Tôi so giá của ông với giá của người khác, ở đâu cao, tôi ngả về đó!
Luân muốn khạc vào mặt Sáu Thưng.
- Anh quên rằng anh đột nhập vào nhà tôi giữa đêm, tôi có thể bắn chết anh mà không phải chịu một trách nhiệm nào hết? – Luân không kềm chế nổi.
Sáu Thưng bỗng cười rộ. Hắn tu một ly rượu nữa.
- Cognac của ông càng uống càng thấy ngon! Tôi cần tiền mua Cognac. Vậy thôi! Còn việc ông bắn tôi, cái đó tôi không sợ. Ông bắn giỏi, ai mà không biết. Cho nên tôi đến nhà ông không lận súng. Tôi không sợ vì ông không phải là thằng ngu. Bắn tôi chết rồi nếu ông không tự sát cũng phải chạy trốn. Nó giúp cho thiên hạ xác định rằng cái mà thiên hạ nghi vấn về ông là sự thật... Tôi thách ông bắn tôi đó!
Sáu Thưng ngồi vắt chân, rung đùi liên hồi, tay khoanh trước ngực.
Luân choáng váng. Hắn nói đúng...
- Sao? Ông có thể cho đàn em mượn tạm vài chục ngàn xài đỡ... Được không?
- Này! - Luân nhíu mày – Đây là sáng kiến của riêng anh?
- Trời Phật! Ông kỹ sư nổi tiếng học thức mà nghĩ không ra sao? Tôi dại gì chia chác với kẻ khác trước khi biết ông là kỹ sư chịu hay không cái giá của tôi? Chắc ông lạ vì sao tôi biết nhà ông và có chìa khóa cửa. Kỹ sư Luân chớ nào phải Sáu Thưng vô danh tiểu tốt đâu mà khó tìm nhà? Còn chìa khóa, ông quên Bình Xuyên không thiếu bất kỳ loại chìa khóa nào hay sao?
- Thôi được... Anh nói chắc chắn số tiền đi. Anh thích sòng phẳng, tôi cũng vậy... - Luân thấy nhẹ nhõm cả người.
- Hay lắm... Người ta đồn ông kỹ sư khôn ngoan quả không sai... Tôi cần đợt đầu hai chục ngàn!
- Nghĩa là còn một đợt kế...
- Tự nhiên là vậy!
- Hiện tôi không sẵn tiền ở nhà. Tôi đưa trước anh 5.000. Mai, tôi đưa đủ. Sáng mai, 9 giờ, anh gặp tôi ở Chợ Lớn, nhà hàng Are-en-ciel...
Sáu Thưng nhận xấp bạc. Hắn chào Luân, ra cổng, ném lại câu nói:
- Ông kỹ sư hứa thì nhớ giữ lời đấy nhé!
Luân gọi dây nói cho Nhu:
- Giữa đêm, gọi cho anh như vây, tôi ngại lắm...
Giọng Nhu rất tỉnh.
- Tôi chỉ ngủ từ 2 giờ... Có việc gì gấp? Anh đã vào Đại Thế Giới chưa?
- Tôi vừa từ Đại Thế Giới về... Tôi vẫn chưa bỏ ý định thuyết phục thiếu tướng Lê Văn Viên. Họ nên tuân lịnh của Chính phủ.
- Tôi hiểu anh. Song chỉ tốn công vô ích thôi. Với các tướng lục lâm, phải quấy là món xa xỉ...
- Dẫu sao, tôi nghĩ còn nước còn tát!
- Tùy anh. Thật lòng, tôi lo lắm. Lo cho anh. Anh thấy cần mesure (1) gì đặc biệt bảo vệ an toàn không?
- Không cần đâu anh. Cám ơn anh. Tôi muốn thử thời vận một lần.
Nhu cười vang trong máy:
- Lúc nào sang bên kia cầu chữ Y là tùy anh. Song, trước khi đi, anh phone (2) cho tôi nhé.
- Còn một việc thứ hai... Sáu Thưng vừa gặp tôi.
- Sáu Thưng nào?
- Anh chàng đặc công thủy đó!
- À! - Giọng Nhu bồn chồn hẳn – Sao, gã gặp anh bao giờ, tại đâu, để làm gì?
- Vừa gặp tại nhà tôi. Gã gặp tôi để mượn tiền!
- Mượn tiền?
- Phải!
- Mượn tiền hay tống tiền?
- Tới bây giờ, hình thức gã sử dụng còn nhẹ hơn cả mượn tiền. Gã vay. – Luân nói câu này với giọng thản nhiên trong khi trán anh lấm tấm mồ hôi – Gã năn nỉ dữ quá... Tôi không nỡ làm ngơ. Gã vốn cùng chung đơn vị với tôi mà.
- Vậy sao?
Luân nghe thoáng một chút hơi thở cố nén từ đầu dây bên kia.
- Tôi muốn xáp vô gã...
- Được... Được. – Nhu bỗng phấn khởi – Tuy vậy, tôi vẫn khuyên anh thận trọng từng chút. Hạng sớm đầu tối đánh này khó chơi lắm!
- Cám ơn anh!
- Bonne chance! (3)
Nói chuyện xong, Luân thay quần áo, nằm vật lên giường. Anh giả bộ thở đều đều sau đó, song mắt thì thao láo.
Phải chạy đua với Ly Kai! Và phải báo cho Ngọc về gã Ly Kai. Các chi tiết hành động ngày mai hiện dần cho đến khi Luân ngủ thiếp đi thật sự...
Sáng hôm sau, Luân lại nhà Gustave, anh gọi một đứa cháu trai mang máy ảnh theo anh vào nhà hàng Are-en-ciel
Luân đãi Sáu Thưng một bữa tiệc linh đình.
- Tôi với anh chụp mấy pô ảnh làm kỷ niệm... Chuyện cũ ta cho qua.
Luân xởi lởi bảo Sáu Thưng.
- Hay quá!
Sáu Thưng sửa bộ. Luân ngồi sang cạnh hắn. Pô hình đầu tiên nháng lên, cả hai đang tươi cười nâng ly.
Từ đó về sau, đứa cháu chạy lăng xăng, chọn góc độ và khi chai Cognac thứ nhất vơi, Luân trao tiền. Sáu Thưng đếm cẩn thận xấp bạc dày cộm.
- Ông kỹ sư nhớ cho: Khi nào tôi cần thì ông kỹ sư đừng từ chối...
Rồi giọng Sáu Thưng đanh lại:
- Ông mà trở quẻ, tôi làm rầm lên, chừng đó ông kỹ sư đừng trách. Nói cho ông kỹ sư hay: Có người sẵn sàng trả cho tôi món tiền lớn nếu tôi chịu cung cấp cho người đó các hiểu biết của tôi về ông kỹ sư...
- Tôi nghĩ anh có thể làm việc đó, nếu anh muốn... Tôi gặp anh và giúp anh vì một lẽ khác: Chúng ta cùng chiến đấu trong một đơn vị, nay cùng về thành, lá lành đùm lá rách. Nếu anh nghĩ rằng tôi sợ anh tố giác tôi nên tôi chi tiền cho anh là anh hiểu sai. Sau này, anh cần tiền, tôi vui lòng giúp anh. Nói thật, tôi không thiếu. Nhưng anh định làm tiền tôi qua tôi hay qua ai khác, thì tôi khuyên anh đừng tính quẩn. Tôi không có gì phải sợ anh. Anh quên rằng anh chỉ là một nhân viên Bình Xuyên, trong khi tôi làm việc với Thủ tướng...
Luân thuyết một hồi, giọng đầy tự tin.
Mặt Sáu Thưng thuỗn ra:
- Thôi, ta uống tiếp!
Luân khui chai Cognac thứ hai. Anh bỗng giật thót khi bên ngoài một người bước qua, giông hệt Ly Kai. May quá, một Hoa kiều lạ hoắc.
Luân phục rượu Sáu Thưng đến mức hắn líu lưỡi:
- Ông... kỹ... sư... Tôi... đã... quá!
Luân gọi hầu bàn: Thu xếp cho Sáu Thưng một phòng ngủ, với một cô “hối thén”. Anh trả tiền phòng cả ngày và đêm.
---
(1) Biện pháp.
(2) Gọi điện thoại.
(3) Chúc may mắn.
CHƯƠNG 21
Đến giữa cầu chữ Y, nơi ngã ba rẽ, Luân chạm liền mấy ụ súng, họng đại liên chĩa về phía Chợ Lớn. Vài chiếc tank-amphibie (1) cũng nghếch nòng pháo 37 ly kiểm soát con đường dẫn lên cầu. Nhiều công sự bằng bao cát dựng hối hả trên lối dành cho người đi bộ.
Dưới chân cầu, hàng loạt đại bác không giật cỡ 51 ly, pháo 105 ly, cối 80 bố trí dọc mé sông, cạnh những thùng đạn nguyên xi. Binh lính Bình Xuyên, bêrê đội lệch, quần áo, giầy vớ mới toanh. Luân hiểu là quân đội Pháp vừa mở một khi quân trang và họ thấy không cần dè xẻn với đám đánh thuê rẻ mạt này. Một cái gì vừa tủi, vừa bực trào lên trong người Luân mỗi khi xe Luân qua những ảnh tướng Lê Văn Viễn dán la liệt khắp các gốc cây, cột điện.
Tài xế Vũ Huy Lục rõ ràng là mất tinh thần, hỏi giọng rung:
- Sắp đánh nhau, hở ông?
- Chắc chắn rồi…
- Tại sao phe Quốc gia mà đánh nhau?
Luân không trả lời. Anh bận nhớ đến nhiều thứ.
Bình Xuyên là một danh xưng chưa hẳn đã là xấu thuở xa xưa. Lúc bấy giờ, phía Nam Sài Gòn còn hoang vu. Những con rạch chi chít, len lỏi giữa vùng đầm lầy toàn là ô rô, cóc kèn và bần. Tứng xóm nhỏ dựng chơi vơi, phần lớn là nhà sàn. Dân tứ xứ tụ tập về đây, trốn làng lính có, hết kế sinh nhai có. Họ làm đủ nghề: bắt cá bắt cua, đốn củi, vào thành khuân thuê vác mướn, nấu rượu lậu… Lần hồi Bình Xuyên, Chánh Hưng được xem như vùng đất của hạng người sống ngoài pháp luật. Thật ra, số đó không đông nhưng quả địa thế Bình Xuyên cho phép các tay anh chị có một nơi tấn thối lý tưởng. Vô tình, Bình Xuyên bắt đầu nổi danh như thế đó.
Khi Nhật đổ bộ vào Đông Dương, hãng Dainan Koosi thiết lập một cơ sở đóng tàu tại Chánh Hưng và cùung lúc, cầu chữ Y khánh thành, vắt qua ba dòng kinh. Nhóm thân Nhật nhân đó lôi kéo các tay anh chị, tuồn súng cho họ. Nhật lật Pháp, lực lượng Bình Xuyên đã khá đông. Rồi, tất cả theo Việt Minh. Một bộ tư lệnh thống nhất ra đời. Lê Văn Viễn là phó tư lệnh khu, vừa là tư lệnh một số chi đội Bình Xuyên. Một rủi ro cho kháng chiến: Ba Dương, một trong thủ lĩnh yêu nước của Bình Xuyên hy sinh. Bảy Viễn lộng lên. Cuộc bàn giao giữa đảng Hắc Long – cơ quan tình báo Nhật – với Phòng Nhì Pháp diễn ra những ngày đầu kháng chiến. Bảy Viễn được giao nhiệm vụ hợp đồng với Pháp đánh một cú quyết định: Triệt tiêu cơ quan đầu não của kháng chiến. Trong một thời điểm thống nhất, từ Giồng Dinh – sát biên giới Miên, nơi trung tướng Nguyễn Bình đặt sở chỉ huy – qua Láng Le – nơi đóng trụ sở của Thành ủy Đảng Cộng sản – đến Nam Sài Gòn – nơi quân ta kiểm soát và là bàn đạp uy hiếp thành phố - quân Pháp, gồm quân bộ, quân dù, quân thủy mở một chiến dịch quy mô ngoài đánh vào, có quân Bảy Viễn, Tư Tị, quân Phạm Hữu Đức trong đánh ra. Kháng chiến vấp phải một tổn thất đáng kể, tuy rằng cơ quan đầu não không hề hấn. Hầu hết, cán bộ, đảng viên, những người yêu nước trong quân đội Bình Xuyên bị thảm sát, hàng nghìn quần chúng cả hai quận Cần Giuộc và Nhà Bè bị bắt bớ, đánh đập, thủ tiêu, hàng trăm phụ nữ bị làm nhục… Vùng tự do Nam Sài Gòn chuyển thành vùng bị chiếm.
Danh nghĩa Bình Xuyên hoen ố vì sự phản bội này.
Những tướng lĩnh chân chính của Bình Xuyên góp nhóp thủ hạ, bôn ba ra Đồng Tháp, kẻ vượt sông sang Bà Rịa. Ngọn cờ Bình Xuyên còn phấp phới là nhờ họ, nhờ những Tám Mạnh, Mười Trí, Năm Hà, Hai Vĩnh…
Trong kháng chiến, Luân thỉnh thoảng gặp các thủ lĩnh ấy. Họ hòa mình với cuộc kháng chiến, gánh vác trọng trách trong quân đội. Thật ra, sau vài năm sát cánh cưới một ngọn cờ, theo một con đường, cái nết riêng của Bình Xuyên trong họ không còn nữa. Giờ này, chắc họ đang cùng đơn vị xây dựng doanh trại, sửa soạn bước vào một thời kỳ mới của quân độ ở một nơi nào đó trên miền Bắc.
Bảy Viễn và bộ sậu, trái lại, ngày một dấn sâu hơn trong tội ác. Và, với chúng không thể nói đâu là mức tội ác tột cùng. Số phận đã cột chặt chúng với bọn chủ.
Đôi lúc, Luân bỏ lên đòn cân – một đầu là bọn Bảy Viễn và những kẻ tương tự, một đầu là Ngô Đình Diệm. Song, anh đã mau chóng đi đến kết luận: Bảy Viễn mà không chống lại Diệm theo lệnh của Tây thì sẽ phủ phục dưới gót Diệm, tăng khó khăn cho cách mạng lên gấp bội. Vấn đề là cách mạng sẽ lợi dụng được cái gì trong cuộc xung đột – hết sức vô lý nhưng lại hoàn toàn hợp lý – chứ không phải là nên dành tình cảm cho ai. Dĩ nhiên, trừ những người bị lợi dụng, những người kém cỏi về chính trị, những con vật hy sinh cả Bảy Viễn và của thực dân Pháp.
Luân lơ đãng ngó bên ngoài. Thái độ ung dung đó của Luân trấn tĩnh được tài xế Lục. Cuối cùng rồi Lục cũng đưa xe qua cổng chắn của tổng hành dinh Bình Xuyên.
Lại Hữu Tài, vẫn với vẻ bặt thiệp của một công chức pha đôi chút đường bệ của một chánh khách, đon đả bắt tay Luân tại cổng chắn và cùng ngồi xe với anh chạy một vòng quanh ngôi nhà hai tầng quét vôi xanh nằm giữa những chiến hào. Rõ ràng Tài muốn phô trương thanh thế. Tất nhiên, Tài không quên Luân là một chỉ huy quân sự có kiến thức và từng trải, nhưng Tài vẫn đinh ninh Luân là “quân sự tay ngang” trong khi bọn Tài được các sĩ quan thực thụ Saint Cyr (2) đỡ đầu. Luân chỉ yên lặng quan sát và khi xe chạy đủ vòng, anh hiểu rằng toàn bộ cấu trúc ngự phòng này, nghiêm khắc mà nói, chẳng qua là loại đồ mã. Trong cuộc đụng độ khó tránh sắp tới, rõ ràng tướng Viễn không phải là đối thủ của tướng Tỵ. Sào huyệt của Bình Xuyên sẽ được tính sổ chóng vánh. Có lẽ tướng Tỵ sẽ được thăng cấp vì trong đời sĩ quan của ông ta, trận đánh với Bình Xuyên là cái bàn nhún tốt hết đưa ông lên cao mà ít tốn công sức.
Khu tổng hành dinh tự biến thành mục tiêu từ nhiều hướng tập kích, hỏa lực chỉ bố trí một tầng – thiếu cao điểm và nhất là thiếu chiều sâu – phần lớn lại không trong thế hợp đồng và đặc biệt, không thích hợp cho đánh phòng ngự. Ngay công sự - hào nhoáng với những bao cát xếp đẹp mắt – không thể dùng cho đánh nhau thật sự.
Kiến trúc quân sự của Bình Xuyên nghèo đến mức thảm hại. Hình như các sĩ quan Pháp không gia công cho đám đệ tử của mình. Tổng hành dinh, vô số thuyền máy chực sẵn, đủ gạo nước và dĩ nhiên, đủ các thùng rượu, có cả một thuyền dành cho các cô gái giúp vui – Luân phát hiện nhờ quần áo lót phơi giống như lá cờ đuôi nheo phất phơ trong gió. Kế bên Tổng hành dinh, hai chiếc trực thăng đậu trên sân bóng, dĩ nhiên là dành cho Bộ tư lịnh và cũng dĩ nhiên không phải dùng để đánh nhau.
Tài cứ liếc Luân mãi. Ông ta hợm hĩnh chờ đợi một cử chỉ thán phục. Luân thì suy tính mình nên nói gì, nói như thế nào...
Lại Văn Sang thay Bảy Viễn tiếp Luân - Bảy Viễn đang ở Bến Tre với đại tá Léon Leroy.
Khi cùng Sang, Tài vào phòng khách, Luân thấy Ly Kai ở một chiếc bàn kê bên ngoài. Gã lễ phép đứng lên chào Luân.
Phòng khách trang trí sang trọng. Một cặp ngà voi, có lẽ dài hơn một thước mỗi chiếc, cắm trên giá bày phía sau ghế bành phủ da bò. Hẳn là chỗ ngồi của Bảy Viễn. Nền trải thảm len Thổ Nhĩ Kỳ. Những chùm đèn thủy tinh buông thõng, lấp lánh. Sa lông kiểu "Đệ nhị đế chế" mang hiệu hãng đồ gỗ Levitan bên Pháp.
Một cô gái mang khay rượu ra. Cô gật đầu chào Luân. Đó là Tiểu Phụng. Lần này Tiểu Phụng mặc áo dài.
- Ông kỹ sư khỏe?
- Cám ơn! Cô cũng khỏe?
- Cám ơn !
Tiểu Phụng rót rượu và kín đáo liếc Luân.
- Tôi rất tiếc là thiếu tướng Lê Văn Viễn không có mặt. Lần này tôi hy vọng chào thiếu tương mà vẫn không có vận may.
Luân nói, sau khi ba người chạm ly. Anh nói thật bởi anh muốn trực tiếp đánh giá tay đầu sỏ Bình Xuyên này.
- Ông kỹ sư thấy chúng tôi bố trí binh lực như thế nào?
Lại Hữu Tài không kìm chế nổi, đã đặt một câu hỏi không phải chỗ.
- Tôi đến thăm thiếu tướng và các ông hôm nay không với mục đích quân sự. Tôi rất cám ơn về sự tin cậy của các ông, đã cho tôi nhìn từ phía trong công việc bố phòng cơ mật...
- Không sao! - Tài đưa tay ngăn Luân – Hành động của chúng tôi giữa ban ngày. Nó khác ai đó chuyên làm chuyện ám muội!... Không mấy khi ông kỹ sư sang chơi. Chúng tôi lúc nào cũng đối xử với ông như người bạn, dầu cho giữa chúng ta còn rất nhiều điểm bất đồng. Trước khi ông kỹ sư đi vào mục đích riêng của cuộc viếng thăm, chúng tôi muốn nghe ở ông một sự đánh giá.
Tài nói bóng bẩy, với giọng kênh kiệu.
“Chưa phủ đầu gã ba hoa này thì chưa vô đề được!” - Luân nghĩ trong bụng.
- Nếu vậy, tôi xin phép đại tá và ông cố vấn. - Luân cười mỉm - Tôi sẽ nói thẳng, trong tình thân hữu. Chưa có dịp nghiên cứu toàn bộ sơ đồ bố phòng, tôi chỉ có thể nhận xét khu vực quanh Tổng hành dinh mà tôi trực tiếp quan sát bằng mắt và có nhận xét từ góc độ đơn thuần quân sự. Như thế được không?
- Được! Được! – Lại Văn Sang chồm hẳn người tới, trong khi Lại Hữu Tài tựa lưng vào ghế, khoanh tay trước ngực, hàm ý: Anh cứ nói, song không có gì đáng nghe đâu.
- Trước hết, tôi chưa rõ ý định chiến thuật của Bộ tư lệnh Bình Xuyên. Các ông dàn quân quanh Tổng hành dinh để làm gì? Bảo vệ Bộ tư lệnh? Chọn nơi đây làm chiến trường quyết định?. Hay, xin lỗi đại tá và ông cố vấn, chỉ cốt phô trương? Tôi nhớ không lầm, tờ Journal d'Extrême Orient (3) đăng cả một phóng sự khá dài, khá chi tiết và dĩ nhiên rất hấp dẫn về khu vực Tổng hành dinh...
Lại Văn Sang nhíu mày. Da mặt sạm của ông ta như tráng thêm một lớp mây đục. Còn da mặt bóng lưỡng của Lại Hữu Tài như bớt đi một chút hồng hào.
- Nếu bố phòng để bảo vệ tổng hành dinh thì quân số và khí tài đó hơi thừa thãi. Tôi nói chính xác hơn: quá xa mức cần thiết. Nếu để dọn trước một bãi chiến trường thì, một là, qua sơ sài, hai là, sao chọn Tổng hành dinh làm nơi quyết định? Liệu rằng vài ụ súng, vài chiếc xe lội nước đủ sức ngăn đối phương vượt cầu? Liệu rằng đối phương sẽ không sử dụng cao điểm đối diện với Tổng hành dinh, tỉ như tầng thượng của nhà đèn Chợ Quán? Những nhà chuyên môn quân sự của các ông giả định tình huống đánh nhau như thế nào? Một toán cảnh sát lùng sục khu Tổng hành dinh? Một nhóm quân sự trang bị nhẹ liều chết vượt qua công sự của các ông? Các ông có nghĩ rằng chỉ cần không đến một trăm quả pháo 105 ly là cả khu vực thành đất bằng? Các ông có nghĩ hải quân đối phương bọc hậu các ông? Các ông dự kiến đối phó thế nào khi đối phương sử dụng tuyến đường Phú Xuân – Nhà Bè một bên, cầu Ông Thìn – Cần Giuộc một bên, siết các ông thành hai gọng kềm? Tại sao các ông chỉ sửa soạn nghênh chiến từ chính diện? Còn sự phô trương, lại phải xin lỗi đại tá và ông cố vấn, vừa chẳng hăm dọa nổi ai – tôi nói những người có kiến thức sơ đẳng về quân sự - vừa ôm lấy thất bại chính trị về mình! Không phải chính phủ mà Bình Xuyên quyết gây đổ máu! Trong hoàn cảnh tế nhị của nước ta hiện thời, không lỗi lầm nào nghiêm trọng hơn là lỗi lầm tự vỗ ngực hò hét chiến tranh… Mất ngọn cờ hòa bình là mất gần như tất cả!
Luân lên lớp – đúng, anh nói với thái độ tùy từ vốn song âm sắc quyết đoán.
Lại Văn Sang chống cằm, nhìn anh không chớp mắt, Lại Hữu Tài ngồi thằgn người, đầu hơi cúi thấp.
Nếu cả ba bất chợt bước ra ngoài sẽ thấy Ly Kai sáp tai sát kẽ cửa, chiếc cổ hắn dài ra, cố nuốt tất cả cuộc nói chuyện, không bỏ sót một lời. Dĩ nhiên, gã không thể nhìn thấy bởi tấm bình phong chắn lối vào phòng gã và gã cũng không tiện đứng lên dòm bởi ba tên vệ sĩ lầm lì trấn ngay cửa với ba khẩu Thompson nòng đen trũi.
Còn ở phòng cạnh, Tiểu Phụng ngồi tựa ghế. Cô có thể dễ dàng nghe hơn Ly Kai.
- Ông kỹ sư quên một điều – Lại Hữu Tài đằng hắng lấy lại tư thế - Là cuộc chiến không diễn ra chỉ ở một khu vực cả. Cả thành phố, cả miền Nam cùng lên tiếng kia! Còn bài báo… Tôi nghĩ là dư luận sẽ hiểu đó là chúng ta bắt buộc phải tự vệ.
- Tôi luôn luôn phản đối bất kể nguyên nhân gì, phải trái về ai, nhưng, tôi sẽ sung sướng nếu quả điều ông cố vấn nói không chỉ đơn giản là một ước vọng! Các ông đánh giá hơi cao những cứ điểm mà các ông giữ trong thành phố: Một bót Catinat, một quán Théophile, một Đại Thế Giới, một đồn công an xung phong ở Bàu Sen, trên Gò Vấp… Còn gì nữa? Một đội cảnh vệ ở cầu Tân Thuận, một đồn cảnh sát ở cầu Ông Thìn. Chắc tôi còn bỏ sót một vài chỗ nữa. Gộp lại, các ông có tin là một khi đạn đã rời nòng súng, các ông chịu đựng mỗi nơi đủ 15 phút? Phần tôi, tôi không tin! Về bài báo, ông cố vấn vừa giải thích – xin lỗi – vẫn là một ước vọng. Các ông làm chính trị, hơn nữa, sẵn sàng dùng vũ lực giải quyết các tranh chấp, mà đặc tính toàn dựa trên rủi may. Dư luận trong và ngoài nước không hiểu như ông cố vấn chờ đợi. Người ta nói rằng – nói trên báo chí – Bình Xuyên bị tước đặc quyền, đặc lợi nên gây sự. Người ta nói vì ông Ngô Đình Diệm không chấp nhận thiếu tướng Lê Văn Viễn làm Quốc vụ khanh mà Bình Xuyên bạo động. Không có một lý lẽ nào có lợi cho các ông… Ông cố vấn nhắc tới các giáo phái. Chúng ta có đủ thời giờ để thẩm tra. Dầu sao, tôi cũng khuyên các ông như một phương ngôn: un tiens vaut mieux que deux tu l’auras (4). Câu phương ngôn đó cũng có thể áp dụng với những lời hứa của tướng Pháp Paul Ely.
- Nghĩa là, rốt lại, ông kỹ sư sang dụ hàng chúng tôi? – Lại Hữu Tài sừng sộ một cách đột ngột.
Luân hiểu rằng tay quân sư số một của Bình Xuyên toan gỡ gạc. Riêng bài báo, chắc là công trình của ông ta.
- Tôi sang đây với tư cách riêng. – Luân tỏ ra điềm đạm – Tôi nhắc lại: chưa bao giờ tôi nhân danh cho chính phủ, tôi không được ủy quềyn và tôi cũng không thích. Với đại tá và ông cố vấn tôi ràng buộc vì tình thân hữu. Tôi không khuyên các ông đầu hàng. Có lần tôi thưa với ông cố vấn: Hãy thận trọng. Xét cho cùng, không phải vì lợi ích của ông Diệm mà tôi đưa ra đề nghị sau đây. Đề nghị trước hết vì lợi ích của Bình Xuyên. Đề nghị đó là: Các ông nên đóng cửa Đại Thế Giới…
- Hả? Đóng cửa Đại Thế Giới? – Lại Văn Sang gầm gừ.
- Phải! Tự các ông chủ động đóng cửa, nếu các ông không muốn bị tước hết mọi tiềm năng đề kháng. Tôi khuyên như vậy tức là tránh cho các ông thất bại. Các ông không nên đầu hàng, song điều quan trọng là các ông phải tránh bị bắt buộc đầu hàng.
- Ông kỹ sư có biết chúng tôi hoàn toàn không được trợ cấp? Ngoài ngân sách nhỏ giọt của Bộ tư lệnh quân viễn chinh Pháp, chúng tôi sống nhờ tự túc. Đại Thế Giới là nguồn tài chính quan trọng nhất của chúng tôi. – Lại Văn Sang không còn hầm hè, giọng ông ta như mếu.
- Có thể nhiều tình tiết tôi không nắm đầy đủ.
Luân nói đến đây, bỗng chấm ngón tay vào nước viết lên bàn: “Các ông có dự định phá cầu chữ Y và nhà đèn?”
Anh ra dấu chỉ chỗ Ly Kai, và nói tiếp:
-… Song bất luận như thế nào, giành lại tín nhiệm chính trị trong quần chúng vẫn là quan trọng.
Sang và Tài đọc hàng chữ của Luân cùng ngó ra cửa và gật đầu.
“Sáu Thưng bán tin đó cho Nhu.” – Luân viết thêm đồng thời vẫn nói:
- Vì một sòng bạc – tôi nói theo lối của đồng bào – mà sanh ra đánh nhau, gây tàn phá, chết chóc, thật là tội lỗi…
Lại Văn Sang bỗng đấm xuống bàn, ly tách khua loảng xoảng.
- Hừ! Đồ chó đẻ!
Lại Hữu Tài vội nắm chặt tay Sang.
- Anh bình tĩnh!
- Tôi nghĩ lúc này chúng ta nên bình tĩnh. – Luân dựa theo dấu câu của Tài và viết nốt: “Chính Nhu giao tôi mang tiền thưởng cho Sáu Thưng”. – Cần coi trọng lợi ích chung. – Luân nói đều đều.
Anh đưa cho Sang một phong bì. Sang rút ra bốn tấm ảnh: Sáu Thưng nhận tiền đếm từ tay Luân, bỏ tiền vào túi, cười toe toét…
Sang nghiến răng trèo trẹo, cặp mắt càng mang dại.
Lại Hữu Tài cũng chấm tay vào nước viết: “Ly Kai?”
Luân chớp mắt một giây – anh cân nhắc nên trả lời thế nào – và viết: “Không rõ. Nên chú ý. Mọi việc càng giữ bí mật càng tốt.”
- Rất cám ơn ông kỹ sư. – Tài nói – Sự lo lắng của ông kỹ sư với chúng tôi khiến chúng tôi cảm kích. Về vụ Đại Thế Giới, chúng tôi xin chỉ thị thiếu tướng. Song, chắc là khó. Muốn hòa giải mỗi bên cần một bước nhượng bộ. Chúng tôi đã nhượng bộ nhiều, anh em ông Diệm cứ ăn hiếp tới. Bình Xuyên biết điều với ai tỏ ra biết điều. Còn khi nổ súng, sự thể khó mà lường trước. Ông kỹ sư có lý của ông, anh em Bình Xuyên chúng tôi có lý của chúng tôi… Nào, xin mời ông kỹ sư cạn ly…
Khi Luân ra khỏi phòng thì Ly Kai cũng biến mất.
“Gã đang báo cáo cho Nhu hay Tuyến đây!”.
Luân đoán như vậy.
*
Vừa về đến nhà – tài xế Lục hú hồn, phóng xe như chạy trốn – Luân đã phải nói chuyện điện thoại với Nhu.
- Anh đã về? Sao? Bị xỉ vả thậm tệ chứ gì?
Luân thuật lại rành mạch cuộc tiếp xúc. Anh có cảm giác Nhu không chú ý mấy. Mọi việc anh ta đã nắm được rồi. Thậm chí, qua hơi thở của Nhu, Luân hình dung anh ta đang cố nhịn cười.
- Anh thuyết cho họ nhiều thứ, - Nhu nói, rất vui – Tri thức quân sự nhé, đạo lý ở đời nhé, biết người biết ta nhé… Anh thành công các mặt, trừ một mặt, tiếc quá, đó là mặt chính… Anh không thuyết phục nổi họ dẹp Đại Thế Giới. Bây giờ, anh tin tôi chưa? Có phải lúc nào lá bùa kháng chiến của anh cũng linh nghiệm đâu? Thôi, nhà hùng biện tạm tránh qua để cho đại liên lên tiếng!
*
Ly Kai và Bảy Môn chạy đi tìm Sáu Thưng khá vất vả theo lịnh của Lại Văn Sang – ông ta thường muốn thấy lệnh của mình được thực hiện tính từng giây. “Chắc là Sang quyết định phá nổ cầu và nhà đèn ngay, khi nghe thằng cha kỹ sư Luân hù dọa” – Ly Kai đoán mò. Gã vội báo cho Nhu tin đó và Nhu dặn gã tới hai lần:
- Nắm cho được cuộc nói chuyện của Sang và Sáu Thưng.
Ly Kai và Bảy Môn moi Sáu Thưng trong phòng ngủ. Hắn ôm ghì cô “hối thén” – hai đứa đều trần truồng.
Sáu Thưng chưa tỉnh hẳn khi gặp Lại Văn Sang. Bảy Môn và Ly Kai đều không ai ở trong phòng.
Ly Kai nhấp nhỏm mãi. Nhưng gã đành hẹn sẽ moi tin sau ở Sáu Thưng – quanh phòng đầy vệ sĩ.
Sáu Thưng ở trong phòng Sang độ 15 phút. Cửa phòng vụt mở, với tiếng kêu thảm thiết của Sáu Thưng:
- Em không phản đâu anh Ba!
Vệ sĩ còng tay Sáu Thưng, lôi xềnh xệch. Ly Kai rụng rời. Chết cha rồi! Thằng này mà khai hé cái gì đó cho Ly Kai thì sau Sáu Thưng sẽ tới lượt gã.
Tràng đạn tiểu liên vọng tới từ bờ rạch. Ly Kai ngó quanh: Nột quá thì phóng xuống nước vậy…
… Người duy nhất nghe được một phần đối thoại giữa Sang và Sáu Thưng là anh chàng vệ sĩ.
- Nó là Cộng sản, nó sợ nên nó lo lót cho em…
- Mày tới chết mà chưa bỏ tật nói láo… Nó là Cộng sản, bàn dân thiên hạ không ai không biết, việc gì phải dấu?
- Nó sợ thiệt mà! – Sáu Thưng chống chế giọng yếu xìu.
- Im! Đồ ăn cơm quẹt mỏ. Mày bán đứng tụi tao cho thằng Nhu lấy mấy chục ngàn? Hả?
Một tiếng hự. Có lẽ Sang đá Sáu Thưng.
- Nó là Cộng sản hay nó là con mẹ gì, tao không cần biết. Tao biết nó là người của thằng Nhu. Mày khoe mày là đặc công thủy. Mày khoe mày có thể đánh sập cầu chữ Y, nhà đèn Chợ Quán, mày lãnh thuốc nổ. Rồi mày báo cho thằng Nhu! Đồ chó đẻ! Đã vậy mày còn lẻo mép…
Anh chàng vệ sĩ đồng tình với thủ lĩnh: Thằng Sáu Thưng chối mà chối thiệt là ngu…
*
Nhu nói chuyện bằng điện thoại với Luân:
- Anh nghe tin gì chưa? Chưa nghe? Lại Văn Sang khử Sáu Thưng rồi!
Nhu chờ một tiếng thở phào của Luân, song anh ta chỉ nghe giọng Luân sửng sốt.
- Sao lại khử?
- Tôi không rõ. Có thể vì anh gặp Sáu Thưng chăng?
- Không có lý! Tôi đã báo cho họ biết là tôi quen với Sáu Thưng, chúng tôi gặp nhau, tôi cho Sáu Thưng vay tiền…
- Có lẽ họ nghi… Thôi được, kể ra cũng tốt.
Nhu gác máy, đứng thừ người khá lâu. Lúc sau, Nhu quay máy:
- Ông Mai Hữu Xuân… Tôi là Nhu… Chỗ chứa thuốc nổ gần cầu chữ Y mà An ninh quân đội tìm thấy, này thế nào nhỉ?... Hả? Các ông tịch thu cả?... Không có gì… Tịch thu cũng được…
Nhu vẫn chưa hết băn khoăn.
Đêm hôm đó anh ta gặp Ly Kai.
- Có dấu hiệu gì chứng tỏ tụi nó nghi anh không?
- Lúc đầu tôi sợ quá… Nhưng khi tụi nó bắn Sáu Thưng rồi, Sang vẫn tiếp tục giao việc cho tôi y như cũ… - Ly Kai trả lời, giọng không hề pha chút một âm sắc Tàu.
- Tiếc là chưa khai thác được Sáu Thưng được bao nhiêu..
- Thôi… Từ nay anh phải hết sức cẩn thận. Hễ thấy tụi nó nghi, anh cho tôi hay lập tức…
*
Sáng mồng Một Tết Ất Mùi, phòng khách nhà Luân trang trí khá rôm rả. Có đến mấy cặp dưa hấu Đài Loan to tướng. Mỗi cặp đính theo danh thiếp: Văn phòng thủ tướng – nên hiểu là chính thủ tướng, vợ chồng ông cố vấn Ngô Đình Nhu; của Giám mục. Phải kể luôn quà Tết của bác sĩ Trần Kim Tuyến, Mai Hữu Xuân, tướng Lê Văn Tỵ, của Tổng giám đốc công an Lại Văn Sang, cố vấn Bình Xuyên Lại Hữu Tài. Đặc biệt, có quà của đại sứ Mỹ, tướng Collins – những quả táo Florida tươi mọng và của cao ủy Pháp Paul Ely – những chai champagne hảo hạng.
… Luân lên xe. Hôm nay là ngày anh gặp Sa.
Xe lăn bánh. Pháo nổ từ giao thừa đến giờ vẫn chưa ngớt. Dù thế nào, đây cũng là cái Tết Nguyên đán hòa bình đầu tiên.
Trong Luân, mọi thứ lẫn lộn: anh ăn Tết xa chiến khu.
Và không riêng gì Luân, tài xế Vũ Huy Lục trầm ngâm hẳn. Anh ta nhìn những cặp vợ chồng dắt con đi chơi Tết mà mím môi…
Nắng sớm len hàng cây vệ đường, rải lên mặt Luân những chấm vụt thoáng. Vô tình Luân vuốt tóc. Hình như đôi sợi bạc rơi…
Mình mới dự trận đánh chỉ vỏn vẹn có 45 ngày đêm!
Luân tự nhủ.
---
(1) Xe bọc thép lội nước.
(2) Trường võ bị Pháp.
(3) Nhật báo Viễn Đông, tiếng Pháp, xuất bản ở Sài Gòn.
(4) Một cái anh đang có bằng hai cái anh sẽ có.
  
PHẦN 2

CHƯƠNG 1

Những ngày tết Ất Mùi chấm dứt, Sài Gòn trở lại không khí oi ả nhiệt đới kinh niên của nó – và, bây giờ, thêm cái oi ả của thời tiết chính trị.
Sau giây phút lãng quên sự đối địch nhờ tiếng pháo – lần đầu tiên kể từ năm 1946, Sài Gòn đốt pháo Tết – đâu lại trở về đấy: Bình Xuyên tăng quân ở các chốt rải rác khắp các thành phố và ngoại ô, cố ý chứng minh rằng họ đủ mạnh và nhất định đánh, đánh cho đến khi nào lật đổ xong thủ tướng Ngô Đình Diệm. Phía Chính phủ khôn khéo hơn, ít la lối hơn, song đêm đêm, những cuộc di chuyển: các đơn vị bộ binh và thiết giáp vẫn phá giấc ngủ của mọi người.
Đài phát thanh Bình Xuyên ra rả. Người xướng ngôn là Trịnh Khánh Vàng. Tờ “Yêu nước” in bên kia cầu Chữ Y được phát không cùng đủ loại truyền đơn bươm bướm, thư ngỏ... Luận điệu và phương thức tuyên truyền rập khuôn theo kinh nghiệm của Phòng nhì Pháp pha ít nhiều tính chất “anh chị”. Tờ “Đời mới”, tuần báo của Trần Văn Ân, xuất bản công khai bên này cầu Chữ Y, muốn giới thiệu Bình Xuyên như là một cái gì độc đáo: từ kháng chiến, chuộng công bằng, rất chính nghĩa và rất trí thức. Đời tư của Thủ tướng bị sỉ vả thậm tệ - dĩ nhiên, Bình Xuyên còn đủ khôn ngoan để không ghép Thủ tướng về phe Việt Minh. Nhưng, hiệu quả của lối tuyên truyền đó thật ít ỏi, bởi hiểu biết của các tay mưu sĩ của Bảy Viễn về Ngô Đình Diệm còn mỏng, nhất là khi họ không dám đặt Ngô Đình Diệm lên bàn mổ chính trị và chọc con dao vào chỗ yếu nhất của Diệm: con bài của Mỹ. Họ chống Diệm nhưng lại ve vãn Mỹ. Và họ kẹt cứng đối với Pháp – không thể không nịnh, Pháp là kẻ nắm sự sống của họ, mà nịnh Pháp trong khí thế dân tộc hừng hực sau đại thắng Điện Biên Phủ thì thật là bất tiện. Bởi vậy, lập luận của họ đầy lộn xộn.
Đối lại, các phương tiện thông tin của chính phủ một mực kêu gọi đoàn kết quốc gia để chống Thực – Phong - Cộng và chẳng dại gì mà bỏ qua các huyệt trí mạng của Bình Xuyên: đầu trộm đuôi cướp, tay sai của Thực,... Những vụ bắt cóc và ám sát ngày mỗi nhiều hơn, tuy cả hai phía đều hạn chế ở mức triệt tiêu các cá nhân thừa hành cấp thấp.
Đại Thế Giới đóng cửa mà không có giao chiến. Paul Ély nhắc khéo Bảy Viễn: sẽ không thể tranh thủ được bất kỳ ai nếu như cuộc chiến tranh nổ ra rốt cuộc vì một sòng bạc. Bảy Viễn không cần lắm cái ý nghĩa sâu xa đó, song như vậy, có nghĩa là Pháp chưa bật đèn xanh. Trong một đêm, mặt tiền Đại Thế Giới lặng lẽ biến mất, còn lại bức tường và ba cổng ra vào với ụ súng đắp thêm và những toán công an xung phong hầm hừ. Tuy nhiên, hoạt động của Đại Thế Giới chưa dứt hẳn: sòng bạc “chọn lọc” gồm các tay chơi máu mặt Hồng Kông, Nam Vang, Tân Gia Ba (1), Chợ Lớn; các gái điếm hạng “luýt” (2) sẵn sàng tiếp khách theo một giá biểu kinh khủng và chỉ tiếp những ai báo trước. Mỗi chiều, Ly Kai vẫn mang về bên kia cầu chữ Y chiếc cặp căng phồng giấy bạc – dù chỉ bằng một phần nhỏ so với trước.
* * *
Báo chí chính phủ chạy tít lớn: Thủ tướng Ngô Đình Diệm, ngày mồng bảy tết, viếng tòa thánh Tây Ninh, hội đàm với Hộ pháp Phạm Công Tắc. Một tít khiêm tốn hơn, in bên dưới: Thủ tướng tiếp xúc với tướng Trịnh Minh Thế, chỉ huy trưởng Cao Đài Liên minh.
Thực ra, báo chí đã đảo lộn ý nghĩa chính xác chuyến đi Tây Ninh của Ngô Đình Diệm: đáng lẽ tít lớn phải dành cho cuộc gặp gỡ Diệm – Thế.
.... Đoàn công xa được bảo vệ cẩn mật, lao nhanh trên quốc lộ 1, hướng về Tây Ninh. Nó hối hả giống như tác phong của Thủ tướng. Có thể đó là một tật bẩm sinh của ông ta, có thể đó là điều cần thiết để giảm bớt nguy hiểm. Bác sĩ Trần Kim Tuyến đích thân tổ chức và trực tiếp bố trí chuyển đi này. Trên một chiếc Land Rover, ông ta chợt vọt lên phía trước, chợt lùi lại phía sau, kiểm tra cự ly các xe và kiểm tra luôn các cụm bố phòng ven lộ.
Thủ tướng ngồi trong chiếc xe Cadillac kính dầy, nguyên là long xa của Cựu hoàng, giữa hàng đống vệ sĩ, xe tướng Tổng tham mưu trưởng chạy trước xe Thủ tướng, liền sau xe Thủ tướng là xe của Mai Hữu Xuân, giám đốc Nha an ninh quân đội.
Xe Luân chạy sau xe của Mai Hữu Xuân. Trật tự nầy là do bác sĩ Tuyến xếp đặt. Trước khi xe nổ máy, Tuyến nói với Luân:
- Tôi muốn nhờ ông kỹ sư đi thật sát Cụ và tôi tin ông kỹ sư sẽ phản ứng kịp thời khi có tình huống xấu...
Ai chạy sau Luân ? À, đại tá Nguyễn Ngọc Lễ, luôn mỉm cười. Trần Kim Tuyến theo thuyết “dĩ độc chế độc”: Luân kèm Mai Hữu Xuân, Nguyễn Ngọc Lễ kèm Luân. Chắc có người kèm Nguyễn Ngọc Lễ và cứ vậy. Dù sao, Luân cũng được nhìn với một đặc ân: anh là người duy nhất có quyền mang súng ngắn trong các nhân vật tùy tùng quan trọng tiếp cận ông Diệm.
Chính Mai Hữu Xuân hiểu rõ điều đó. Khi mọi người tề tựu dùng điểm tâm ở dinh Gia Long, Mai Hữu Xuân chủ động đến chào Luân.
- Xin được phép làm quen với ông kỹ sư... - Xuân chìa tay và bắt tay Luân thật chặt – Tôi là Mai Hữu Xuân...
- Hân hạnh! – Luân đáp lễ.
Cả Xuân và Luân đều coi đây đúng là lần đầu họ quen nhau và tỏ vẻ như họ chưa từng có điều gì phải bận tâm về nhau.
- Tôi nghe tiếng ông kỹ sư và biết ông kỹ sư làm việc với ông cố vấn, song không có dịp chào ông, mong ông thứ lỗi...
Xuân nói rất nhũn nhặn:
- Không! Người phải xin lỗi là tôi. – Luân cười thật tươi – Tôi đã không đến Nha an ninh quân đội chào trung tá, vì biết trung tá rất bận và vì chưa có dịp...
Không rõ Xuân hiểu mấy chữ “vì biết trung tá rất bận” theo nghĩa nào, ông ta tránh đôi mắt của Luân, môi dường như thâm thêm một chút.
Luân nhìn qua khắp lượt số người sẽ cùng đi với Thủ tuớng, rồi như vô tình, hỏi Xuân:
- Không thấy Tống giám đốc Cảnh sát Quốc gia... Đáng lẽ việc bố trí cho Thủ tướng đi công vụ phải là việc của đại tá Sang.
- Chắc Cụ không gọi. Vả lại, có gọi, ông Sang cũng không đi... Họ đang rất bận!
Xuân trả lời, đăm chiêu, và, ông ta lặp lại chữ “rất bận” của Luân. Nói xong, biết mình hớ, môi trên ông ta giật giật...
- Bây giờ thì ai cũng bận cả! – Luân nói bình thản – Tất nhiên, không có việc bận nào giống việc nào... Đối với chuyến công tác lần nầy của Thủ tướng, theo ý trung tá, yên ổn không?
Xuân nhún vai trước câu hỏi đột ngột của Luân.
- Tôi báo với ông kỹ sư, bác sĩ Tuyến là người chịu trách nhiệm... Phần tôi, tôi chỉ lo một phạm vi nhỏ. Trong phạm vi tôi lo, sẽ không có bất kỳ một đáng tiếc nào xảy ra... Còn như ông kỹ sư muốn tìm những khả năng xấu từ hướng ông Sang, tôi không thể trả lời được. Ông kỹ sư thừa biết ông Sang là hạng người gì. Cả lãnh tụ của ông ra, ông Bảy Viễn nữa, với những hạng đó, mọi tiên tri theo lối xem họ là những cái đầu bình thường để dự đoán hành động của họ, đều mạo hiểm. Họ hành động bằng tay và chỉ bằng tay.
Nói đến đó, Xuân chợt nhìn sang người ngồi bàn kế: một người da ngăm, cao to, mặt mũi đần độn, đeo hàm đại tá. Luân biết ông ta – đại tá Nguyễn Ngọc Lễ. Luân hiểu Xuân muốn giới thiệu một người nữa chỉ dùng cái đầu để đội – đội thứ gì cũng được. Lễ nguyên là chỉ huy trưởng Bảo chính đoàn Bắc Việt, người Công giáo, sắp nhận một chức an ninh. Đó là điều khiến Xuân không ưa Lễ.
Luân và Xuân to nhỏ không lọt qua mắt Nhu. Nhu không đi Tây Ninh song vẫn có mặt tại bữa ăn sáng này. Cho nên, lúc mọi người rục rịch lên xe, Nhu thì thầm với Luân:
- Anh lo xa là phải... Song lão Xuân không có gì đáng ngại đâu, kể cả với cá nhân anh. Tôi nói cho thật đúng: hiện nay – nghĩa là năm 1955… Biết làm sao? – Nhu cười khinh khỉnh – Chúng ta chỉ có thể nói chuyện tính năm với người này, tháng với người kia và ngày với người nọ. Hiện nay, ông ta đang là người của chúng tôi. Dĩ nhiên trên tất cả, không có sự đề phòng nào là vô ích.
“Nhu xếp mình vào hạng tính tháng hay tính ngày đây?”, Luân cười trong bụng khi lên xe.
Vậy là Luân đã có thể rút ra nhận xét về Mai Hữu Xuân: Hắn không thuộc cánh Bình Xuyên, mặc dù cả Bình Xuyên và hắn đều liên quan đến Phòng nhì Pháp. Có thể chủ trương của Phòng nhì không nhất quán: phe muốn đẩy các giáo phái và Bình Xuyên đi đến gây rối với Diệm, phe muốn bảo tồn lực lượng chờ cơ hội. Xuân, với bất cứ thế nào, không thể không trung thành với chủ cũ. Nhưng, đồng thời, hắn biết phải làm gì là thông minh nhất. Vả lại hắn bị Lại Văn Sang giành mất cái ghế đứng đầu ngành Công an - ở xứ này, ai giỏi hơn hắn? Hèn chi không bao giờ hắn nhắc đến quân hàm đại tá của Sang, không bao giờ gọi Sang là Tổng giám đốc. Hắn cay cú và miệt thị Sang. Hẳn là hắn nghĩ: Thằng du côn này mà lọt vào tay tao ngày xưa thì phải biết! Có thể nói, Nhu sử dụng Xuân trước mắt như là bàn tay sắt đối với các thế lực vốn ngày xưa cùng cánh với Xuân.
---
(1) tức Jarkata, thủ đô Indonésia
(2) luxueux: hạng sang

CHƯƠNG 2

Quốc lộ mịt mù. Con đường huyết mạch của Đông Dương bị đào xới, vừa mới tráng lớp đá tạm, chạy rất xóc. Ven đường, dấu vết chiến tranh còn ràng ràng: những nền nhà trơ cột cháy nám, những cây ăn quả trụi lá. Đôi chỗ trù phú thì lại là vùng đạo Cao Đài, với bờ đất và rào kẽm gai kín mít, với một thánh thất đồ sộ ngói đỏ tường vôi và – tất nhiên – với một đồn Cao Đài, lính đội mũ chào mào kiểu các binh đoàn thuộc địa Pháp.
Luân chợt nhớ đến con đường Cái Vồn. Chẳng rõ con đường Bình Đại ra sao? Chắc chắn cũng khu dồn dân, cũng mũ chào mào, chỉ khác ở chỗ thay cho lá phướn màu trần điều của Hòa Hảo và con mắt mở to, biểu tượng của Cao Đài, là những nhà thờ và những cây thập ác.
Cả một di sản của quân xâm lược Pháp và đi kèm di sản hàng loạt vấn đề chính trị rối beng, có lẽ không dễ gì thu vén trong chốc lát.
Luân chưa đụng độ lần nào với Cao Đài – anh hoạt động ở một chiến trường nhiều Hòa Hảo. Nhưng anh đoán tình hình giống nhau thôi.
Không bao giờ Luân có thể quên trận tiểu đoàn của anh bị một trung đoàn của Ba Gà Mổ tấn công. Đó là năm 1952, mùa khô, tại thị xã Nam Thái Sơn. Trận đánh bắt đầu từ 3 giờ trưa. Quân của Ba Gà Mổ xung phong vào làng với dao, gậy là chính. Bọn chỉ huy ở phía sau. Tiểu đoàn phòng ngự trong nhiều lớp công sự, đánh bật dễ dàng các đợt xung phong. Song, quân địch cứ hò hét xông tới.
Thế là Luân – tối tăm mặt mũi trước cái chết vô lối của quân địch – đã ra lệnh tiểu đoàn rút. Toàn bộ tiểu đoàn không có ai bị trầy da, nhưng tiểu đoàn phải rút. Và, mặc dù chẳng có ai rượt đuổi, không một phát cối truy cản, tiểu đoàn rút lui như chạy trốn. Chạy trốn sự đần độn. Có lẽ những tay cầm đầu các đội quân khoác áo tôn giáo ngỡ rằng họ mạnh thật sự, cho nên hàng chục vạn sinh mệnh trai trẻ đã phung phí khắp nơi suốt 9 năm.
Luân nhắm mắt mỗi khi đoàn xe qua một đồn binh Cao Đài. Vẫn những lái buôn đó, vẫn những hàng hóa đó. Và trò buôn thần bán thánh ghê tởm này còn kéo dài đến tận bao giờ?
*
Trung tá tỉnh trưởng Bình Dương cũng văn võ quan viên trong tỉnh đón đoàn công xa ngay địa giới Hóc Môn – Củ Chi. Nhưng, đoàn công xa vẫn giữ tốc độ cao. Hình như mỗi Mai Hữu Xuân vẫy tay an ủi viên đầu tỉnh, hẳn đã cất công chầu chực từ sáng sớm. Không phải chỉ Mai Hữu Xuân, chiếc Land Rover của Trần Kim Tuyến cũng nép vào lề, chắc đợi đoàn xe qua, sẽ có đôi lời phủ dụ. Gã này bao giờ cũng chu đáo.
*
Xe đến địa giới Tây Ninh, đại tá tỉnh trưởng Lê Văn Tất, đại úy quận trưởng Trảng Bàng cung kính đứng bên lề, nơi một cổng chào và một rạp che bạt dựng vội. Đoàn ngừng lại.
Diệm bệ vệ bước ra khỏi xe.
“Đúng là một nhà chính trị!”, Luân nghĩ thầm về Diệm.
Lê Văn Tất khác tỉnh trưởng Bình Dương Vũ Thành Khuynh – Tất là chức sắc đạo Cao Đài – đạo thiệt hay đạo “giấy” cần thẩm tra, song chính với danh nghĩa đó, ông ta giữ chức tỉnh trưởng Tây Ninh. Còn trung tá Khuynh, một chỉ huy tổng đoàn Bảo chính Bắc Việt, đạo Thiên Chúa, chẳng có gì Diệm cần phải o bế công khai.
Luân xuống xe, đi sau đoàn tùy tùng. Diệm ngồi vào chiếc ghế cẩn xà cừ trong nhà bạt. Không ai giới thiệu Luân với Tất – dẫu có giới thiệu, ông ta cũng chẳng để ý, bởi Tất xoắn xuýt quanh Diệm.
- Tình hình trị an trong tỉnh ra sao, ông tỉnh trưởng?
Diệm hỏi, có vẻ chăm chú, con mắt thì xoi mói viên đại úy quận trưởng.
- Trình Cụ, tình hình yên ổn lắm.
Tất trả lời, vừa khúm núm châm lửa cho Diệm hút thuốc.
Diệm hút một hơi thuốc, bỗng quay trỏ đại úy quận trưởng, quắc mắt:
- Ông là quận trưởng?
Đại úy đứng thẳng:
- Trình Cụ, con là đại úy Lộc, quận trưởng...
- Hừ! - Diệm gằn giọng – Đại úy mô mà ăn mặc lếch thếch rứa?
Đại úy Lộc mặt xanh như thằng chổng trôi sông, chưa biết phải làm gì trước Thủ tướng và trước cả cái nhìn đổ lửa của tỉnh trưởng.
- Ta đi, hè?
Diệm đứng bật dậy.
- Mời Cụ dùng chén nước...
Tất cố nằn nì. Diệm ra hiệu. Sĩ quan hầu cận lật đật trao cho ông chiếc can và chiếc mũ phớt.
Diệm đội mũ, cầm can, nhưng lại nhận chén trà do Tất dâng, ngó quanh. Bác sĩ Tuyến kín đáo gật đầu và Diệm uống mấy hớp.
- Từ nay, nhớ ăn mặc đàng hoàng!
Diệm chọc nhẹ can vào ngực đại úy quận trưởng, mặt đã dịu.
*
Đoàn xe đến ngã ba Gò Dầu Hạ. Quận trưởng và các hương chức hội tề xếp hàng, dưới một tấm bảng to vắt ngang bùng binh: “Hoan hô chí sĩ Ngô Đình Diệm”.
Đoàn xe dừng lại. Diệm bước thẳng đến đám hội tề - tất cả mặc áo dài, đội khăn be. Có một bàn hương án hẳn hoi, đèn nến và trầm nhang.
Đám hội tề cúi rạp người chào Diệm.
- Đừng làm rứa, người ngoài ngỡ tôi là vua!
Diệm rầy quận trưởng và đám hội tề, song mắt ông ta rõ ràng hoan hỉ.
Ngó qua bên kia cầu, con đường dẫn lên biên giới. Diệm bảo quận truởng – một trung úy khá trẻ so với chức quận trưởng:
- Ông nhớ cho, biên giới ngày nay không như xưa nữa, vua Miên chẳng ưa chúng ta. Họ theo chính sách trung lập.
Quận trưởng ưỡn người, đưa tay lên vành mũ, thay cho trả lời.
Trong một thóang, Luân bỗng nhớ đến một gương mặt: tay quận trưởng này giống Liên trung đoàn phó Lưu Khánh quá. Chân mày rậm, cằm bạnh, râu quai nón, tuy đã cạo sạch vẫn để lại một bệt xanh rì. Và đôi mắt anh ta: một cái gì đó mà kinh nghiệm của Luân cho biết, anh ta không phải là quận trưởng như các quận trưởng khác.
Rồi tấm băng, bàn hương án, đám tề khăn be áo dài – “quốc phục” như Diệm thích – gợi cho Luân một chút nghi ngờ: quận trưởng hình như muốn mời bằng được Thủ tướng dừng chân ở đây.
- Trình Cụ, thân hào quận Gò Dầu Hạ mong đợi Cụ từ lâu. Nay có dịp Cụ đến, xin cụ ở lại giây lát, dùng với chúng tôi bữa cơm đạm bạc gọi là chứng nhận tấm lòng thành...
Một kỳ lão đầu búi tó, râu trắng như cước trịnh trọng thưa với Diệm. Tất nhiên, Diệm từ chối. Ông ta hớn hở vỗ về đám tề.
Luân hỏi khẽ bác sĩ Tuyến:
- Chương trình có định ghé đây không?
Bác sĩ Tuyến lắc đầu:
- Cụ thích nên bảo ngừng
Thế là đã rõ quá nửa sự thật. Luân quyết định kiếm một kết luận trọn vẹn.
Anh hỏi tên họ quận trưởng. Bác sĩ Tuyến lúng túng. Chính quận trưởng trả lời cho Luân: Anh tên là Lê Khánh Nghĩa.
Không phải họ Lưu. Nhưng, hề gì. Lê chẳng xa Lưu là mấy. Và chữ lót “Khánh”, dứt khoát không phải do ngẫu nhiên.
Chưa bao giờ Luân nghe Lưu Khánh nói về một đứa con của anh làm việc cho giặc. Song Luận biết Lưu Khánh có hai đời vợ. Vợ trước mất khi ông còn trẻ. Vợ sau sinh một con trai – Lưu Khánh Trung. Nghĩa Trung, Trung Nghĩa. Luân đã tiến gần sát kết luận. Anh đánh một đòn cuối cùng:
- Hình như trung úy quận trưởng là người Đức Hòa?
Đức Hòa là quê của vợ Lưu Khánh.
- Thưa, phải!
Tự nhiên Luân rơm rớm nước mắt. Anh phải tránh ra ngoài để khỏi gây kinh ngạc cho mọi người.
Mai Hữu Xuân từ chiếc xe truyền tin hấp tấp bước vào, rỉ tai điều gì đó với Diệm. Diệm hơi tái mặt. Rồi ông ta lấy lại bình tĩnh:
- Ta đi, hè!
Bắt tay trung úy quận trưởng và chào chung đám tề, Diệm bước vội ra xe. Ông ta hỏi bác sĩ Tuyến, nặng giọng:
- Ai bày ra chuyện đón tiếp tại đây?
Chợt thấy quận trưởng theo đưa ông tận xe, Diệm nói thêm:
- Phiền cho dân, cho địa phương quá.
Mai Hữu Xuân nói nhỏ với Luân, giọng run:
- Lực lượng trú phòng Bộ Tổng tham mưu cho hay có nhiều toán lạ mặt, ăn mặc quần áo đen đang từ biên giời tiến về quận lỵ. Tướng Tỵ đã có biện pháp...
Quận trưởng mở cửa xe cho Diệm. Mặt anh thản nhiên. Luân thầm phục: quả có bản lĩnh.
Dẫu sao, kế hoạch này cũng phiêu lưu. Không thể nào tập kích một quận lỵ và nhất là khi quận lỵ đó được tăng cường bố phòng như hôm nay.
Luân hy vọng, nếu quả có “đằng mình”, thì họ đã kịp thời rút lui khi nghe đoàn xe nổ máy. Tướng Tỵ khó vồ kịp họ.

CHƯƠNG 3

Ở Cẩm Giang, lãnh địa của tướng Trịnh Minh Thế, không có cuộc đón tiếp nào. Binh sĩ Cao Đài Liên Minh đóng trong rừng cao su, dưới những tấm tăng xám. Có vẻ tất cả đang nhàn hạ. Luân dễ dàng thấy sự khác biệt giữa Cao Đài Liên Minh với các nhóm Cao Đài khác: quân trang, quân dụng đều đính mấy chữ đen US Army. Cái vòi CIA vươn tới tận đây rồi.
Đoàn xe không ghé dinh Tỉnh trưởng mà vào thẳng Tòa Thánh.
Con đường rộng chưa rải nhựa này đã thành một chuyến tiếu lâm: Phạm Công Tắc tuyên bố với đám báo chí rằng ông ra lịnh đắp con đường đi khắp hoàn cầu, bắt đầu từ Tòa Thánh, sẽ qua Cambốt, Ấn Độ.... để toàn thế giới về Tây Ninh dự Đại hội Nhơn Sanh do Ngọc Hoàng Thượng Đế ủy nhiệm ông ta triệu tập.
Đến chợ Long Hoa, đoàn xe buộc phải giảm tốc độ. Nhìn qua, Luân càng hiểu thêm ý nghĩa của việc tranh chấp: khu chợ đông đúc, nơi trung chuyển hàng hóa nông, lâm, súc không chỉ của Tây Ninh mà cả của Đông Nam nước Cao miên. Khu “Thánh địa” tràn ngập trại cưa – lực lượng Cao Đài tự giành độc quyền khai thác gỗ ở một tỉnh có trữ lượng gỗ rất cao. Quá nhiều trạm thu thuế. Cạnh chợ, nổi lên một ngôi nhà khang trang, bề thế, mang biển hiệu: Nhàn du khách sạn.
“Tôn giáo đã khá thạo nghề kinh doanh.” – Luân thầm nghĩ.
Một bầy bò đến mấy chục con chàng ràng trên mặt đường – những con bò hóng u cổ, món hàng hấp dẫn của chợ Long Hoa – chận hẳn đoàn xe lại. Bác sĩ Tuyến phải nhảy xuống, lôi xểnh từng con ra khỏi mặt đường.
Người ta thông báo với Luân là chợ Long Hoa đông đến 10 vạn khẩu. Cơ ngơi sung túc này gắn chặt với yêu sách kiên định của ông Phạm Công Tắc: chính phủ nhường cho Tòa thánh một vùng 40 cây số vuông. Ông mơ màng về một Vatican phương Đông.
*
Bảo đạo Hồ Tấn Khoa đón thủ tướng tại cổng chính. Một người dong dỏng, mắt linh lợi – từng làm chủ quận thời Tây, chủ tỉnh thời Nhật, hàm đốc phủ sứ.
Luân có một số kiến thức về tôn giáo Cao Đài – anh nghiên cứu khi làm trưởng phòng mật vụ, và gần đây, đọc thêm tài liệu. Không tôn giáo nào ở Việt Nam pha trộn bằng Cao Đài: phong kiến trong tổ chức, tư sản trong lý thuyết, không tưởng trong một số hoạt động từ thiện. Và cũng không một tôn giáo nào ở Việt Nam có nhiều đốc phủ sứ, huyện, công chức bằng Cao Đài. Những người leo đến đỉnh chiếc thang phẩm trật dành cho người bản xứ của chế độ thuộc địa mà chưa thỏa mãn – cuộc sống thực tại không còn chỗ nào cao hơn trừ phi họ dám đứng lên lật đổ chế độ - nên lồng tham vọng vô tôn giáo. Chính trị và tín ngưỡng, dân tộc và thế giới đại đồng... mờ mờ ảo ảo trong những câu kinh dễ đọc, dễ thuộc tuy ít hàm súc và càng kém giá trị văn học.
Những điều Luân hiểu về đạo Cao Đài được bản thân tòa chánh điện xác minh.
Hộ pháp Phạm Công Tắc chờ Thủ tướng nơi thềm chánh điện. Tắc nhỏ nhắn, không râu, mặc áo quần và vấn khăn toàn trắng. Hộ pháp chắp tay trước ngực niệm mấy tiếng Nam mô... Ngô Đình Diệm – bây giờ trông trẻ hơn tuổi 54 của ông ta, gọn gàng trong bộ comlê trắng cắt thật khéo, đầu chải bảy ba – bước mấy bước lên thềm và cũng chắp tay trước ngực.
Đứng dưới thềm, Luân có dịp so sánh hai đối thủ. Tuổi tác, vóc vạc cả hai đều xấp xỉ nhau – Diệm có phần béo hơn. Họ cũng không khác mấy về lịch sử: Diệm há chẳng có lúc vào tu viện đó sao? Tắc bị Pháp đày tạn Madagascar – ông ta dính vào nhóm thân Nhật và điều này thì hiển nhiên: đạo Cao Đài tôn Cượng Để làm minh chủ và mê tín nước Nhật đế quốc như một Mạnh Thường Quân đối với các dân tộc da vàng. Bởi vậy, khi Nhật đổ bộ vào Đông Dương, cơ sở đầu tiên của chúng là các nhóm Cao Đài mà Trần Quang Vinh – một giáo sư thiên phong – làm lãnh tụ. Diệm bị Pháp cho ra rìa khi ông giữ ghế Thượng thơ bộ Lại và sau đó lưu vong sang Mỹ. Tắc về nước cùng với quân viễn chinh Pháp, Pháp đánh bóng ông và ông tỏ cho người Pháp biết là họ đã sai lầm khi không dùng ông: Quân đội Cao Đài Tây Ninh do ông thành lập sát cánh với quân đội Pháp, hùng cứ cả các trục lộ tỉnh Tây Ninh và còn thay cho quân đội Pháp đóng chốt nhiều nơi khác. Diệm về nước theo cách khác – khác về chi tiết thôi.
Và, bây giờ hai người đối mặt trong cuộc tranh dành mới. Có lẽ ý định cá nhân của hai người không đến đỗi khác nhau lắm. Cái khác nhau là tài năng.
*
Tắc yên ngôi vị tại Tòa Thánh được 9 năm. Dưới bóng cờ tam tài, ông đương nhiên là giáo chủ của một trong nhiều phái Cao Đài – mà phái Tây Ninh lớn nhất. Với quyền lực ngoài đời, người Pháp quyết định dùng ông để hướng Cao Đài phục vụ cho chiến tranh của họ - Ông Tắc tha hồ thao rúng về mặt đạo. Thế là cơ bút xuống tới tấp, đích thân Ngọc Hoàng thượng đế giao cho ông trách nhiệm giữ giềng mối đạo, đưa Cao Đài tiến lên vị trí quốc đạo ở Việt Nam và chiếm lĩnh lòng tin của toàn nhân loại. Trên giáo lý, Cao Đài chưa có giáo tông sau khi đốc phủ Lê Văn Trung liễu đạo, nhưng Ngọc Hoàng đã phong cho ông Tắc làm Hộ pháp, cai quản Hiệp thiên đài, như Quốc hội và sau đó kiêm cai quản “nhị hữu hình đài”, tức là nắm cả quyền giáo tông. Thế là cả lập pháp lẫn hành pháp đều nằm trong tay ông.
Các cuộc hành quân càn quét, khủng bố, các cuộc ném bom và bắn phá của Pháp xua hàng chục vạn người ra khỏi làng mạc hẻo lánh. Đạo Cao Đài phái Tây Ninh phát triển nhanh chóng nhờ cơ hội đó. Ai muốn không bị Pháp truy bắt và tề ngụy quấy rầy thì vô đạo. Đóng một món tiền, kê khai tên họ, sẽ được cấp giấy chứng nhận tín đồ. Vô đạo rồi, cần công quả để xây thất. Xây thất rồi, cần sống gom lại quanh thất. Sống như vậy, cần vòng rào. Đó là các chu vi. Có chu vi, phải canh gác. Lính Cao Đài ra đời, súng lãnh từ kho của Pháp. Phòng thủ lẻ tẻ chưa chắc ăn, các liên đội Cao Đài thành lập. Một mình Cao Đài đánh với Việt Minh không xuể, phải phối hợp với người Pháp. Vai trò lực lượng vũ trang Cao Đài nâng cao mãi, trở thành quân địa phương. Có quân đội thì phải có tướng, có sắc phục. Tuân đóng phải có Bộ tổng chỉ huy, Hộ pháp kiêm Tổng tư lệnh quân đội Cao Đài, và v.v...
Giữa lúc ông Tắc say sưa với chiến tranh – nó mang đến cho ông biết bao đổi thay và đặt ông lên hàng chí tôn, nó là cứu tinh với ông khỏi thân phận lưu đày tận hòn đảo nam Châu Phi, giữa Ấn Độ Dương, nơi mà ông đêm đêm phải nằm chung với gia súc và cũng là nơi mà ông buộc lòng phải ăn ở với một người phụ nữ da đen, còn bây giờ, chỉ phiền ông luống tuổi, sức có hạn... thì đùng một cái, Pháp thua. Pháp thua trận tức là ông thua trận.
Ông bớt hoang mang khi biết rằng Nam vĩ tuyến 17 vẫn còn là đất của phe Quốc gia.
Nhưng nỗi lo lắng của ông lại bắt nguồn từ phía khác. Pháp không còn ở lại với phe Quốc gia nam vĩ tuyến mà sẽ về nước. Người Pháp an ủi ông, bày vẽ cho ông. Song ông thấy chưa ổn. Ông ít quen người Mỹ và liệu người Mỹ cư xử với ông có được như người Pháp không? Nhiều triệu chứng chẳng lành: một viên đại tá Mỹ tên là Lansdale thậm thò thậm thụt móc với Trịnh Minh Thế. Tắc vốn ghét Thế. Cái thằng lấc cấc, “sớm đầu tối đánh”. Thế từng bất mãn với ông, kéo quân ra rừng “kháng chiến”. Có lực lượng và lực lượng tinh nhuệ trong tay, Thế được Pháp cưng chiều. Thế, khi nổi khùng, khui cả việc phòng the của giáo chủ ra bêu riếu. Bây giờ thằng Thế cứng đầu đó lại bắt bồ với Mỹ. Còn số bộ hạ khác – Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất, Văn Thành Cao, Nguyễn Văn Thành... – khó mà ước đoán họ sẽ trở quẻ như thế nào. Không có quân đội Pháp đứng đằng sau, đội cơ Thánh vệ của ông giống như mấy cụm kiểng, đổ ngã trước bất kỳ ngọn gió cấp nào.
Người ta nói với ông về Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Tay này không ưa gì Pháp. Song, tay này theo đạo Thiên Chúa, thật là rầy rà. Giá như Diệm theo đạo Phật thì còn đỡ. Suốt thời gian ông trị vì ở Tây Ninh, chưa có một thủ tướng nào thuộc đạo Thiên Chúa.
Các cố vấn của ông khuyên ông nên xuất ngoại một chuyến để tạo thanh thế. Người ta bố trí cho ông đi Nhật, đi Đài Loan, gặp Thái tử sẽ nối ngôi Nhật hoàng Chiêu Hòa (1), gặp Tưởng Kinh Quốc, người chủ tương lai hòn đảo nhỏ mà nhất quyết tự xưng là nước Trung Hoa nhờ núp sau cái bóng Mỹ. Nửa tháng thật vui, thật thỏa mãn – một lần nữa, ông thầm tiếc mình lên tột đỉnh vinh quang quá chậm – nhưng cũng thật gần gũi. Về nước, ông được thủ tướng Ngô Đình Diệm tiếp trong một bữa cơm trưa. Đó là lần đầu ông gặp Diệm. Chính tại bữa cơm trưa này, ông mới hay, nhân ông vắng nhà, Nguyễn Thành Phương, với tư cách Ủy viên quốc phòng chánh phủ, đã thỏa thuận sát nhập quân đội Cao Đài vào quân đội quốc gia, lực lượng chung chỉ còn một quân đoàn. Mặc dù giữ quân kỳ riêng – với hình bát quái “Vũ trụ thần giáo” và chiếc bánh xe, tượng trưng cho sự tiến hóa – Đức Hộ pháp kiêm Đại ngươn soái rốt cuộc thống lĩnh có vài chục nghìn binh mã thì làm sao “phổ độ chúng sanh” cho được. Ông nuốt không vô bữa tiệc chay nấu rất ngon và nghe cũng không vô những lời hữu hảo chung chung của Thủ tướng. Sau bữa cơm, sau cái chắp tay từ giã nhau ở tiền sảnh dinh Gia Long, ông hấp tấp quay về Tòa thánh và nội trong ngày, triệu tập hội nghị cơ mật. Đó là ngày 14-10 năm ngoái.
Nguyễn Thành Phương vắng mặt trong hội nghị cơ mật. Nguyễn Văn Thành nhân dịp hạch tội Phương đem cả nền đạo nạp cho họ Ngô. Hộ pháp đùng đùng nổi giận, hạ lịnh cách chức phó tổng tư lịnh tối cao Cao Đài của Nguyễn Thành Phương, bổ nhậm Nguyễn Văn Thành thay.
Nhưng, quyết định của Hộ pháp không linh. Nguyễn Thành Phương nhởn nhơ bẹo gan giáo chủ. Quân đội chỉ biết có Phương mà không biết Thành. Nằm đêm, giáo chủ nghiệm ra khi quân đội Pháp cuốn gói, ông chỉ còn là một hình nộm trước các tướng Cao Đài. Phải xoay trở cho kịp với thời cuộc – ông nhủ thầm.
Lại Hữu Tài, Trần Văn Ân và Hồ Hữu Tường đến Tòa thánh. Trong gian phòng mật thất – thường được gọi là Trí Huệ cung, nơi giáo chủ tĩnh tọa, tất nhiên, với vài nữ tín đồ trẻ đẹp chờ ông “kết thánh thai” - một chương trình hành động rộng lớn được xác lập. Té ra, uy tín của giáo chủ thật cao, điều mà ngay giáo chủ cũng không đánh giá nổi. Trăm họ chờ giáo chủ ra tay. Té ra, người Pháp chỉ rút lui chiến thuật.
Cũng tại Trí Huệ cung, một cuộc, hai cuộc, ba cuộc họp cấp cao tiến hành, gồm tướng Trần Văn Soái, tướng Lê Quang Vinh, tướng Lê Văn Viễn, đại tá Léon Leroy, tướng Nguyễn Văn Vĩ và luôn tướng Nguyễn Thành Phương – đã làm lành với giáo chủ. Tất nhiên, Hộ pháp Phạm Công Tắc bào giờ cũng ngồi ghế chủ tịch. Tướng Nguyễn Văn Vĩ truyền “mật chiếu” của quốc trưởng – nói miệng thôi. Theo “mật chiếu” này, cần quét gia đình họ Ngô, thành lập một chánh phủ đoàn kết quốc gia mà Hộ pháp sẽ giữ vai trò, nếu không phó quốc trưởng cũng chủ tịch nghị viện. Các ghế trong chánh phủ dã chia chác xong xuôi: tướng Viễn bộ trưởng quốc phòng, tướng Soái bộ trưởng nội vụ, tướng Vĩ tổng tham mưu trưởng, tướng Phương bộ trưởng kinh tế... Hộ pháp đảm đương quyền Quốc trưởng trước khi Bảo Đại hồi loan. Trong cuộc họp gần nhất, nhân cao hứng, Hộ pháp nói rõ ý định của ông: sẽ khôi phục lại thể chế quân chủ, ông sẽ giữ chức Phó vương và sẽ truy phong cho ông Cường Để từ tước hầu lên tước Vương, cho ông Tráng Liệt tập ấm...
Giữa lúc các mưu sĩ đang hè hụi thảo chánh cương của Mặt trận Toàn lực Quốc gia thì ngày 11-1-1955, đúng rằm thượng ngương, tướng Trịnh Minh Thế phát một bản tuyên cáo sẽ đem 5.000 quân bản bộ về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Thật là tai hại. Cao Đài chia rẽ, giáo chủ bẽ mặt với bằng hữu. Nhưng, cái đó chưa nguy bằng quân của Thế đóng ngay giữa ruột tỉnh Tây Ninh, đánh úp Tòa thánh dễ dàng nếu Thế muốn. Cả quân đoàn Cao Đài – “lính cậu” - đều ngán quân của Thế, thiện chiến và trang bị tốt hơn.
*
... Trên thềm chánh điện Tòa thánh Tây Ninh, Diệm tươi cười đứng cạnh Hộ Pháp để các phóng viên nhiếp ảnh hoạt động. Ông đã tụt giày ngoài cửa, rón rén vào đại điện và cung kính đứng yên trước biểu tượng “Thiên nhãn”, giữa hồi đại hồng chung ngân vang...
Phải xài kế hoãn binh để thu xếp việc nhà. Cho nên, khi Diệm ngỏ ý viếng Tòa Thánh, giáo chủ hoan hỉ đánh điện mời.
Về phần mình, Diệm chỉ cần bấy nhiêu. Diệm muốn tự giới thiệu với dư luận trong và ngoài nước ông ta là người một mực hòa nhã. Vả lại, không thể để cho các giáo phái liên minh về thực tế. Chiến thuật của Diệm là cách đánh tỉa.
Luân tranh thủ thì giờ quan sát chánh điện. Ngay tiền sảnh, anh đã cố nín cười trước bức tranh và lời giảng giải bằng tiếng Pháp, Anh: Nguyễn Bỉnh Khiêm – tục gọi là Trạng Trình – đang hạ bút đề thơ: người mài mực là Tôn Văn, người dâng nghiêng là Victor Hugo. Lời giảng giải cho một sự tưởng tượng ngộ nghĩnh – và tất nhiên, không phải từ một đầu óc bình thường – lại hết sức nghiêm chỉnh. Sự giảng giải kiểu đó kéo dài khắp ngôi chánh điện chạm trổ lòe loẹt, dở Tây dở Tàu. Người ta thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Quan Vân Trường, Thích Ca Mâu Ni, Chúa Jésus, thánh Mohamet, cả Karx Marx và Nguyễn An Ninh!
Hàng mấy trăm tín đồ quỳ chật chánh điện với niềm sùng tín mà Luân cảm giác rờn rợn. Quả thật, ngoại hình của ngôi chánh điện góp sức áp đảo mọi suy xét, nó lại được yểm trợ bằng giọng đồng nhi đọc kinh ru ngủ. Với những người kém văn hóa, mỗi nét trạm trổ, mỗi màu xanh đỏ - đúng ra chẳng có giá trị gì về thẩm mỹ, lại là một bí ẩn chỉ có Cao Đài Tiên Ông mới giải thích nổi.
Hộ pháp ngự lên chiếc ngai dành cho ông. Diệm vẫn đứng yên thành khẩn.
Luân bỗng thấy, Phạm Công Tắc, ngôi chánh điện, khu Tòa thánh, hàng nghìn tín đồ và cả tôn giáo Cao Đài đều là món hàng của Diệm.
---
(1) tức Showa, hay Nhật hoàng Hirohito, trị vì Nhật Bản từ 1925 đến 1989.

CHƯƠNG 4

Cuộc viếng thăm Tòa thánh của Diệm đánh dấu bằng một thông cáo báo chí ngắn gọn: Thủ tướng và Đức Hộ pháp xét duyệt tổng quát tình hình quốc nội và quốc ngoại. Thủ tướng nhắc lại lần nữa quyền tự do hành đạo của các tôn giáo và Đức Hộ pháp cam kết ủng hộ mọi nỗ lực của chính phủ ngỏ hầu thực hiện đoàn kết quốc gia chống lại Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Đức Quốc trưởng. Báo chí hoàn toàn im lặng về nội dung của cuộc gặp gỡ giữa Diệm và tướng Trinh Minh Thế ngoài mẩu tin thật đơn sơ. Thật ra, báo chí cũng không biết săn tin từ đâu. Cuộc gặp gỡ diễn ra tại một địa điểm ở chân núi Bà Đen mà người môi giới chính là đại tá Mỹ Lansdale; trên đường Ngô Đình Diệm từ Tòa thánh về Sài Gòn; đoàn công xa vẫn cứ theo quốc lộ 1, nhưng một người khác ngồi trên chiếc Cadillac thay chỗ Diệm. Dự cuộc gặp gỡ chỉ có bác sĩ Tuyến và Luân, Lansdale kín đáo rời khu doanh trại dã chiến khi Diệm đến. Về thời gian, cuộc gặp gỡ ngắn – thật ngắn – so với cả một buổi ở Tòa thánh. Vỏn vẹn 15 phút. Nhưng, 15 phút đủ cho Diệm tỏ lời khen ngợi tướng Thế và căn dặn ông ta – tựa như cha dặn con. Mọi sự Lansdale đã giải quyết từng chi tiết rồi.
Luân lặng lẽ ngồi cạnh Diệm. Trước anh, viên tướng Cao Đài khá nổi tiếng, ngoan ngoãn lắng nghe Thủ tướng. Diệm hài lòng. Tuyến kín đáo trao đổi bằng mắt với Luân. Tay bác sĩ mật vụ này khá đa nghi, sự tuân phục quá dễ dàng của viên tướng bất trị khiến hắn càng không yên tâm.
Luân hiểu rằng mọi cử động của Thế đã được Lansdale đạo diễn kỹ càng. CIA – nếu không phải là Collins – sửa soạn ngay một loạt con bài để giảm bớt cái độc quyền của Diệm. Thế ngoan ngoãn, song rõ ràng ông ta đóng vai vụng. Ông ta chỉ biết có Diệm. Với Luân và Tuyến – cùng đi với Diệm – chỉ được ông ta bắt tay hời hợt.
Ba chiếc trực thăng – do phi công Mỹ lái – hạ trên một đám đất trống. Diệm về Sài Gòn bằng đường không, dù ông đã nghe phúc trình về vụ báo động ở Gò Dầu: nhận lầm, chẳng có đám lạ mặt nào ngoài dân đốt đồng săn chuột.
Trên máy bay, Diệm hết lời trầm trồ Trịnh Minh Thế. Ông hoàn toàn tin tướng nước cờ sắp tới của ông.
Do vậy, chỉ non hai tuần lễ, sau khi thông cáo báo chí về cuộc gặp gỡ Diệm – Tắc, tại dinh Gia Long, Diệm họp báo. Lần đầu tiên, Diệm họp báo. Đó là buổi sáng ngày 12-2, khi các khu tập kết 300 ngày hết hạn, nước Việt Nam thực tế chia hai.
Phòng khánh tiết dinh Gia Long chật ních. Tuy chính phủ đã nhận dinh Norodom, song còn phải sửa sang, hơn nữa, nó là nơi của Quốc trưởng, nên Thủ tướng vẫn phải ở tạm dinh Gia Long.
Giữa khói thuốc lá mù mịt, bức ảnh phóng lớn của Bảo Đại ẩn hiện lơ lửng trên tường, có vẻ là món trang sức cho phải phép hơn là đại diện một quyền uy. Ký giả trong và ngoài nước ngồi trên các ghế giả da, đối diện với chiếc bàn đặt nhiều micro và một lọ to cắm đầy hoa Đà Lạt.
Chưa tới giờ. Từng nhóm ký giả chụm nhau, bàn tán.
- Mối tình gượng ép Quốc trưởng – Thủ tướng sắp hạ màn!
- Chẳng qua là tấm gương phản chiếu cuộc sang sổ nợ ở Đông Dương. Pháp Quốc ngân hàng gán Đông Dương ngân hàng cho Ngân hàng Manhattan.
- Quốc trưởng từ lâu đài Thorenc vừa xoa ngực một cô đào vừa ký lệnh, lệnh ông ta bốc hơi theo vô tuyến điện. Trong trận ăn thua chót, ông Diệm cầm được cán con dao, còn ông Bảo Đại cầm đúng lưỡi dao!
Một nữ ký giả - tóc đen, mắt xanh, mũi cao – nghe ngóng các lời bàn tán ấy và ghi lia lịa. Có mặt cô, tự dưng các nam ký giả hăng máu hơn: cô trẻ, đẹp nhờ hai dòng máu Âu – Á.
Bỗng, từ ngoài đường vọng vào tiếng hò hét loạn xạ:
- Đả đảo Thực, Phong, Cộng, …
- Ngô chí sĩ muôn năm…
Và đồng ca: “Ai bao năm từng lê gót nơi quê người…” – bài hát trơ trẽn như những người hát nó.
Đoàn biểu tình kéo theo đường Công Lý, trước đây mấy tháng còn mang tên Charles de Gaulle, quẹo qua dinh Gia Long. Trước cổng dinh, đoàn biểu tình dừng lại.
Ký giả ùa ra thềm, theo dõi. Có thể, trước hết, vì lạ mắt – nhất là ký giả phương Tây. Cô nữ ký giả lai Âu giương máy ảnh, bấm liền mấy “pô”.
Hầu hết người biểu tình là trẻ con, bà già, quần áo nâu, cổ chình chịnh tượng ảnh và bùa thánh, tay cắp ổ bánh mì, len lét nhìn một số người khác – tướng phốp pháp, đeo kính đen.
Từ một phòng khác, Nhu và Luân quan sát đám biểu tình. Thấy Luân lặng lẽ, Nhu bảo, giọng bực:
- Cả hai cái đầu của ông Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Thái cộng lại chỉ ra đuợc một trò lố lăng như thế! Tha hồ cho bọn nhà báo nói cạnh, nói khóe.
Ở thềm trước, Ngô Trọng Hiếu – béo ị, phì phà điếu xì gà, nói với cô ký giả lai:
- Cô Helen, đây là một cuộc cách mạng dân chúng…
- Vậy sao? – Cô ký giả tên Helen hỏi lại cố ý ngây thơ – Họ đứng đó làm gì?
- Họ chờ đại diện của Ngô chí sĩ ra nhận kiến nghị.
- Nầy, ông Ngô Trọng Hiếu – Một người gầy gò, bĩu môi - mỗi người biểu tình chỉ được trả công có một ổ bánh mì thôi sao? Đúng, đây là một cuộc cách mạng bình dân… rẻ nhất thế giới!
Helen che miệng cười, dịch lại cuộc đối thoại cho các ký giả nước ngoài nghe. Người ta quay quần chung quanh cô.
- Ông Trần Văn Ân – Ngô Trọng Hiếu phản kích – Tôi thách ông tổ chức một cuộc biểu tình như vậy. Dĩ nhiên, mướn bọn dao búa thì tốn tiền lắm. Nhưng, dù sao, bọn dao búa không nhiều lắm. Ngay trong làng nhà báo chúng ta, loại trộm cướp đếm được trên đầu ngón tay!
Cuộc đấu khẩu còn có thể kéo dài, nếu Tổng trưởng thông tin và chiến tranh tâm lý Phạm Xuân Thái không ra cổng Dinh Gia Long nhận tờ kiến nghị và nếu chuông phòng họp chưa reo.
Ngô Đình Diệm khẽ gật đầu chào những người có mặt. Hôm nay, Diệm mặc áo the. Chiếc áo khiến Diệm già và khắc khổ hơn. Ông thích nó vì có lẽ nó nhắc ông nhớ thời ông làm Thượng thơ ở Huế.
- Thưa các bạn – Diệm nói đĩnh đạc – Trước hết, tôi cám ơn tất cả các bạn trong và ngoài nước, dù thân hữu hay người còn khác chính kiến với tôi, đã vui lòng hiện diện… Từ khi về nước, tôi mong có cuộc tiếp xúc với báo chí, tiếc rằng công vụ quá đa đoan, nay mới có thể gặp các bạn. Báo chí giữ sứ mệnh quan trọng trong đời sống của thế giới hiện đại, qua báo chí mà công luận có cơ sở để nhận định các biến cố… Với thiên chức nghề nghiệp đó, tôi mong các bạn trình bày một cách chân thực tình hình đất nước Việt Nam trong một giao điểm rất đặc biệt như hiện giờ…
Giọng Diệm lúc đầu còn nhã nhặn, nhưng qua vài câu, âm sắc kẻ cả lấn dần.
- Những ai quan tâm đến tình hình Việt Nam đều biết rằng, đất nước nầy đang trải qua một thử thách bi thảm. Hiệp định Genève ký không có sự thỏa thuận của chánh phủ Việt Nam – hẳn các bạn còn nhớ tuyên bố của ngoại trưởng Trần Văn Đỗ ngay khi hiệp định ký: chánh phủ Quốc gia Việt Nam long trọng tuyên bố phản đối cung cách mà thỏa ước ký kết - để cho chính xácn tôi nhắc lại nguyên văn bằng tiếng Pháp: “Proteste solennellenment contre la façon dongt l’armistice a été conclu” (1) – và phản đối những điều kiện mà thỏa ước đó không tính đến những nguyện vọng sâu sắc của nhân dân Việt Nam giữ toàn quyền tự do hành động nhằm bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc là “độc lập và tự do”. Tuy nhiên, Việt Nam đã cố gắng và hoan nghênh mọi nỗ lực để tái lập hòa bình và sẽ không dùng võ lực để cản trở sự thi hành hiệp định mặc dù có sự dè dặt kể trên…
- Nhiều mâu thuẫn quá, phải không, thưa ông? - Cô Ký giả Helen khẽ bảo khẽ vào tai Ngô Trọng Hiếu.
- Chả có gì là mâu thuẫn, thưa cô… Chúng tôi phản đối “la façon” – cô nghe rõ chứ!
Diệm hơi liếc về phía Hiếu và Helen. Hiếu chạm nhẹ vào tay Helen, rồi ngay trở lại.
- Chia hai đất nước – Diệm nhấn mạnh – là một tội ác. Đó là sự cấu kết giữa Cộng sản và Thực dân. Rất tiếc, chánh phủ của tôi thành lập trễ, những cơ sở hầu như sụp đổ và tiếng nói chỉ vang lên trên sa mạc… Bây giờ, để tránh khỏi số phận như nửa nước phía Bắc, chúng tôi cần có một quân đội mạnh, một quân đội không theo lối mòn dẫn đến lòng chảo Điện Biên Phủ!
Phòng họp nổi lên tiếng vỗ tay:
- Adieu Điện Biên Phủ… Adieu “lòng chảo” (2)
Mắt Diệm sáng lên
- Cám ơn các bạn! Quân đội Quốc gia phải được xây dựng lại. Tôi nhấn mạnh: “xây dựng lại”. Nghĩa là không phải cải tổ, bổ khuyết, càng không phải chắp vá!
Ngô Trọng Hiếu thét to, đến nỗi cô ký giả Helen phải thè lưỡi:
- Commencer par le commencement! (3).
Diệm tảng lờ không nghe Ngô Trọng Hiếu – ông hơi nhíu mày: “Thằng ni lố bịch!”.
- Làm sao một nước độc lập có thể chấp nhận quân đội chỉ phiên chế đến cấp tiểu đoàn? và các bạn biết, các BVN (4) đóng vai trò quân bổ túc – Forces supplétives, như người ta gọi nó, một thứ partisans (5).
Giọng Diệm đanh lại – giọng miền Trung cố ý thành giọng miền Nam:
- Một điếm nhục!
Trần Văn Ân cười khẩy:
- Không còn là Forces supplétives, nhưng lại là Supply forces! (6)
Diệm vẫn trấn tĩnh:
- Trong chương trình rộng lớn của chánh phủ, tôi giành vị trí ưu tiên cho việc sớm ra đời một quân đội gồm 150.000 lính chính quy. Quân đội của tôi phải được huấn luyện và trang bị tốt. Chỉ huy của tôi là các sỹ quan có tài và có học...
Diệm cố ý gằn giọng các từ “của tôi”, “có học”.
- Rồi đây, các bạn sẽ thấy, một thế hệ mới các tướng lãnh Việt Nam, tướng lãnh đúng như đòi hỏi của quân đội chỉ biết có chiến thắng!
Phòng họp báo bật tiếng rào rào của ngòi viết. Những điều Diệm nói ném ra một loạt viễn cảnh: xáo trộn ghê gớm trong hàng ngũ chỉ huy lực lượng quân đội quốc gia.
Qua một chiếc loa phóng thanh nhỏ ở phòng trong, Nhu và Luân nghe rành mạch từng câu của Thủ tướng.
- Thế là, tuyên chiến!
Nhu mỉm cười, bảo Luân.
- Hơi muộn một chút! – Luân cười hóm hỉnh.
Diệm dừng lại vài giây, như đợi sự thách thức của ông được ghi chép bằng giấy trắng mực đen đầy đủ.
- Đồng thời với việc thành lập quân đội, tôi sẽ xúc tiến cải cách điền địa ngỏ hầu tư hữu hóa các tiểu nông, đã và sẽ định cư nửa triệu đồng bào miền Bắc tìm tự do, sẽ cải tiến thuế vụ, đánh vào những người làm giàu quá mức mà đại đa số không phải là người Việt Nam, sẽ thành lập các cơ cấu dân chủ, trước hết, một Quốc hội lâm thời sẽ ra mắt quốc dân trong đôi ba ngày tới để nghiên cứu việc thành lập Quốc hội lập hiến. Cơ cấu dân chủ nầy dựa trên các hội đồng thành phố, tỉnh, đô thành và đại diện các đoàn thể, tôn giáo, gồm có 60 vị. Sau chót, tôi sẽ cố gắng tối đa vãn hồi an ninh ở thôn xã. Phải nói rằng tình hình an ninh ở hạ tầng đang rất xấu. Không chỉ do Việt cộng! Thưa các bạn, những gì cần trình bày trước công luận, tôi đã nói hết...
Diệm nhìn phòng họp, miệng hơi cười, đầy tự tin.
- Xin Thủ tướng chi biết những dự định của chính phủ đã được Quốc trưởng phê chuẩn chưa?
Không ai bảo ai, cả phòng họp – và Diệm nữa – cùng ngó lên bức ảnh Bảo Đại treo trên tường mờ trong khói thuốc, đầu chải úp mu rùa láng bóng, gần gũi với một khách làng chơi hơn là một nguyên thủ quốc gia, trước câu hỏi của một nhà báo.
- Tôi cho rằng sự phê chuẩn quan trọng nhất là của quốc dân! – Diệm trả lời, giọng ngạo nghễ.
Một nhà báo phương Tây tự giới thiệu là phóng viên của tờ France Soir, tờ báo có số phát hành cao nhất ở Pháp, hỏi:
- Xin ông Thủ tướng nói rõ hơn về việc huấn luyện và trang bị cho 150.000 lính chính quy.
- Phái đoàn do tướng O’Daniel đứng đầu sẽ đảm trách toàn bộ chương trình, kết hợp với phái đoàn của tướng Pháp Paul Ely trong Training Relation Instruction Mission (7), gọi tắt là TRIM...
Diệm dừng đột ngột câu nói, như để tung ra một ý quan trọng. Và, đúng như vậy:
- Chánh phủ tôi hoan nghênh các huấn luyện viên Pháp tình nguyện phục vụ tại Việt Nam nếu họ nhớ rằng Việt Nam không phải là một thuộc địa che giấu sau danh từ “Quốc gia liên kết” và quên đi các quyền lợi ích kỷ xa xưa. Chánh phủ tôi cũng hoan nghênh nếu họ ra đi!
Nói chung Diệm có thói quen ít ngó thẳng vào mặt người mà ông đối thoại. Nãy giờ, ông thường ngó lên trần nhà, ra cửa sổ hoặc nhìn cử tọa, song nhìn rất bao quát, không ghé lại người nào. Bây giờ, ông lại ngó thẳng phóng viên báo France Soir.
Nhà báo Pháp nầy cười – rõ ràng cười lạt:
- Votre réponse me satisfait, Monsieur le Premier Ministre! Et, encore uen autre question, le sort des officiers Vietnamiens formés par les écoles Françaises… (8)
Diệm cướp lời, bỏ luôn thủ tục Thủ tướng phải nghe qua phiên dịch rồi mới trả lời:
- Từ nay, ở chúng tôi, chỉ có một hệ thống sĩ quan – hệ thống sĩ quan Việt Nam. Tất cả, dĩ nhiên trừ những người chống lại lợi ích đất nước, phạm tội và bất tài, đều có đất để phục vụ...
Nhà báo Pháp ngồi xuống, khẽ nhún vai. Một nhà báo Việt, ông ta tự giới thiệu là phóng viên báo “Yêu nước” - nên hiểu là của Bình Xuyên, hỏi:
- Thưa Thủ tướng, dư luận muốn biết số phận của lực lượng võ trang các giáo phái, của lực lượng không chính quy nhưng đã sát cánh cùng chính phủ suốt cuộc chiến tranh...
- Một câu hỏi rất hợp thời! – Diệm kêu lên vui vẻ, như ông chờ từ lâu – Tôi hân hạnh thông báo với các bạn: Bộ tổng tư lệnh quân đội Pháp vừa cho chúng tôi hay, kể từ ngày 15-2 nầy, tức là còn ba hôm nữa, họ sẽ thôi trợ cấp cho các lực lượng vũ trang không nằm trong phiên chế quân đội Liên hiệp Pháp...
Phòng họp ồn ào. Diêm phớt lờ:
-... Và, thực tế không có một quân đội nào như vậy... Quân đội Pháp đang lần lượt xuống tàu về nước. Đến giữa năm, như các bạn biết, sẽ không còn một người lính Pháp nào ở trên đất nước Việt Nam. Tôi hiểu “lính Pháp” - những ai ăn lương và thi hành mệnh lệnh của chính phủ Pháp – có khi màu da, tiếng nói không nhất thiết y như người Pháp!
Nữ ký giả Helen xin phép hỏi. Diệm đang nói hăng nhưng khi cô đứng lên, ông thoáng bối rối, nhìn lên tường như tìm kiếm cái gì đó.
- Trong tình hình đó, tức là tình hình quân đội Pháp thôi trợ cấp cho các lực lượng võ trang giáo phái, Thủ tướng có định trợ cấp tiếp hay không?
- Chính phủ tôi đang lo xây dựng một quân đội của Nhà nước, như tôi đã báo với các bạn...
- Nghĩa là?
- Nghĩa là ở Việt Nam chỉ có một quân đội duy nhất.
- Cám ơn Thủ tướng! – Helen ngồi xuống.
- Tôi, Trần Văn Ân, chủ nhiệm tờ “Đời mới”, xin hỏi!
Trần Văn Ân không đứng lên hẳn, chỉ hơi nhổm người, giọng kênh kiệu. Ông ta ngó Diệm và ngó chung quanh. Kiểu cách của ông ta giống một chánh khách hơn là nhà báo.
- Tôi sẵn sàng nghe. – Diệm ung dung chờ đợi.
- Thưa ông Thủ tướng chỉ định.... Monsieur le Premier Ministre désigné. – Ân dịch lại bằng tiếng Pháp và cố ý nhấn mạnh từ “désigné” (9) – Tout excès est mauvais! (10). Hẳn ông Diệm đã học câu đó từ trường hậu bổ. Chính sách đối với các lực lượng giáo phái và yêu nước – tôi nói rõ vì Bình Xuyên không phải là một tôn giáo...
- Thờ cây dao, cây búa cũng là một thứ tôn giáo! - Ngô Trọng Hiếu ngắt lời Ân, cười hô hố.
- Phàm khách đang nói chuyện với chủ, đầy tớ không được phép chõ mỏ vào! Chỗ người lớn bàn bạc việc nước, chú mầy nên đi chơi chỗ khác. – Ân phản ứng rất nhạy, Hiếu đỏ mặt, toan cãi, song Diệm đã lừ mắt. Và Ân đã thấy -... Tôi khen ông Diệm biết dạy đầy tớ. Bao giờ cũng vậy, hễ đánh giày, đấm bóp, hay những nghề na ná thì làm ở phía sau...
- Ông Ân hỏi nhanh một tí, còn tới lượt chúng tôi chứ!
Ân quay nhìn ký giả đeo kiếng đen to gọng vừa nói.
- À, ông Vũ Bắc Tiến, báo “Tự do”... Ông còn đủ thì giờ... Các câu hỏi cò mồi của ông không phải mang về nhà đâu... Tôi trở lại cuộc đối thoại với ông Diệm. Thưa nhà chí sĩ, chính sách “cạn tàu ráo máng” của ông – đó là tôi nói theo thành ngữ bóng bẩy của người Bắc, còn thành ngữ của người Nam thì “ăn cơm quẹt mỏ” - Ông không nghĩ rằng ông phải trả lời với lịch sử về cuộc nội chiến do ông đưa tới?
Rõ ràng Diệm cố kiềm chế. Ông ta bóp mãi mấy ngón tay.
- Nếu chính phủ Pháp đồng ý, các giáo phái có thể đưa các lực lượng của họ xuống tàu sang Bắc Phi, ở đó, người Pháp cần lính đánh thuê và tôi cam kết không làm khó dễ. - Diệm nói giọng chế giễu – Các bạn thông cảm cho: Không một nhà nước nào chịu “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà” cả!
Phòng họp lại rộ lên – cười thích thú có, càu nhàu có.
- Còn nội chiến, ông bạn dùng chữ hơi to... Chính phủ kêu gọi đoàn kết quốc gia. Song Nhà nước không thể là một hãng buôn, mỗi người hùn vào và chia lời... Nhà nước càng không thể là một thứ hổ lốn, chứa luôn các nhóm cờ bạc, đàng điếm và trộm cướp! – Diệm quắc mắt – Tôi nhắc lại: đứng đầu chương trình 6 điểm của chính phủ là vãn hồi an ninh!
- Như vậy đã rõ: Đổ máu không phải là ở các giáo phái và lực lượng yêu nước... - Ân rống to.
- Ông nên nhớ, trên chúng ta còn dư luận công minh... – Ngô Trọng Hiếu bây giờ mới lấy trở lại thế ăn nói.
- Dư luận công minh? – Ân khinh miệt nhìn Hiếu – Dư luận theo kiểu phát cho mỗi người một ổ bánh mì! ... Tôi xin hỏi câu cuối cùng: Thủ tướng cho biết tương lai ngành công an...
- Lại thêm một câu hỏi rất hợp thời nữa! Diệm cười kẻ cả.
*
Quán Theophile ở Đakao trong ánh đèn mờ ảo. Vẫn có người ăn uống, song không khí chán chường bao trùm, ngay cái chạm ly cũng hàm chứa một sự thất vọng. Một vài sĩ quan Bình Xuyên lơ đãng nhắm nháp thứ rượu đế cực nặng, buồn bã trong khói thuốc của chính mình uốn lượn và tan biến… Một vài cô chiêu đãi trang điểm cẩu thả, mệt mỏi liếc mắt đưa tình và đáp lại là cái nhún vai của khách làng chơi, vào quán hình như không phải để buông thả mà để tư lự…
Sàn gỗ vẫn bóng lộn nhưng vắng tanh. Từ máy hát, một giọng trầm của nữ ca sĩ nào đó – bài “Si tu reviens”.
Trên hai chiếc ghế cao kê sát quầy rượu, đại tá Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Lại Văn Sang và thiếu tá quân đội Pháp De Chauvine im lặng, chai Cognac chỉ còn một ít. Dù ăn mặc bao giờ cũng chải chuốt, chiếc pipe bao giờ cũng cuồn cuộn khói, Sang không giấu vẻ bơ phờ trên đôi mắt nặng trĩu lo âu.
De Chauvine trút cạn ly. Y ngó thẳng Sang, giọng hùng hồn giả tạo:
- Ai bảo với ông Tổng giám đốc rằng nước Pháp phủi tay ở Đông Dương? Máu của hàng vạn người Pháp và Việt đã đổ cho tình hữu nghị của hai dân tộc Pháp – Việt và cho sự hiện diện của nước Pháp tại Đông Nam Á, phải đâu là nước lã để phí phạm đến như thế.
Sang uể oải nâng ly và chỉ nhúng môi. Rượu không còn đủ uy lực chế ngự tâm trạng người thủ lĩnh Bình Xuyên nữa. De Chauvine biết rằng những lời của y chưa có đủ sức nặng. Y với tay rót thêm một ly và ngửa cổ uống sạch.
- Ông Tổng giám đốc thấy đó, quân đội Liên hiệp Pháp còn hàng chục vạn tại đây. Con số đóng giữa Sài Gòn không nhỏ. Riêng lính Sénégalais trong khu nhà Hui Bon Hoa ở Ngã Bảy cũng lên đến một lữ đoàn...
De Chauvine xem đồng hồ tay. Y chợt mỉm cười và vặn chiếc máy thu thanh Philips thật to, “mắt thần” từ từ lên xanh. De Chauvine tìm làn sóng.
- Ông Tổng giám đốc chờ nửa phút... – De Chauvine bảo.
Cô phục vụ đứng ngay sau quầy trố mắt tò mò chờ đợi. Sang vẫn lơ đãng phì phà pipe.
Sau những tiếng rè rè, bụp bụp, chiếc máy thu thanh phát một bài hành khúc. De Chauvine đến tắt máy quay đĩa.
- Các ông nghe đây... – De Chauvine nói với Sang mà như nói với tất cả khách trong quán.
Từ máy thu thanh, một giọng đàn ông Pháp rất điêu luyện:
- Ici Radio France-Asie, présence françcaise en Extreme-Orient, étettant de Saigon sur les longueurs d’one de 25, 31, 41, 49 et 240 mètres (11)
De Chauvine nhướng mắt, ngó chung quanh:
- Chers auditeurs! – Bây giờ là giọng nữ hết sức điệu – Ecoutez maintenant notre bulletin d’information... Dernières nouvelles. Paris... Selon l’argence AFP: hier, au Pailais Matignon, le Premier Edgar Faure avait eu un entretien avec le génégal d’armée Paul Ely, Haut Commissaire de rance en Indochine.... (12)
De Chauvine vênh váo, rít một hơi thuốc và ngó lên trần nhà. Sang lầm lì tắt ngang buổi phát thanh.
- Sự hiện diện của nước Pháp và chỉ hiện diện trên làn sóng. – Sang gằn giọng.
- Ông Tổng giám đốc bình tĩnh... Ông đừng quên chúng tôi còn cả nào Eiffel, Denis Frères, Cosunam, Caric, Mic, nhà băng, Michelin, Terres rouges (13), còn vô số bạn hữu và trên hết, nước Pháp còn danh dự một trong tứ cường... Bản tin cho biết tướng Paul Ely vừa gặp Thủ tướng Edgar Faure, tất nhiên, để bàn về việc của chúng ta...
Dường như không để ý đến lời dông dài của De Chauvine, Lại Văn Sang vân vê chiếc pipe, tựa lưng vào thành quầy, đong đưa hai chân giữa khoảng không, giọng trách móc:
- Người ta hoài nghi vì nhiều lẽ: Général Hinh mất chức Tổng tham mưu truởng nhưng chính phủ Pháp im lặng... Chính phủ Pháp rút quân mà không bàn bạc với chúng tôi.
De Chauvine toan chống chế, công Sang ngăn y ta:
- Ông nghe tôi... Tai hại hơn nữa, chính tướng Ely chớ không phải ai khác, thông báo thôi trợ cấp cho chúng tôi.. Thiếu tá là tùy viên của ông Ely thế mà cũng không khuyên ông ấy nên suy tính. Hàng mấy trăm ngàn quân sẽ sống ra sao? Tệ nhất là người Pháp bàng quan khi Diệm thành lập Nha cảnh sát đô thành và Nam Việt tách ra khỏi quyền lực của tôi. Thật khó hiểu! Nói thật với thiếu tá, người Việt Nam bắt đầu hỏi: Phải chăng nước Pháp hy sinh bạn hữu?
Sang lắc đầu. De Chauvine cười – nụ cười gượng vì bản thân nó không giải thích được điều gì.
- Thật là hoang đường! – De Chauvine đấm tay xuống quầy – Nước Pháp mà hy sinh bạn hữu! Không bao giờ! Jamais (14)!
Rồi De Chauvine bỏ nhỏ, ngó quanh như y sắp tiết lộ điều bí mật:
- Tất nhiên, tactique (15) phải không khéo... Kho súng thành “11è RIC” (16) há chẳng chuyển sang cho các ông?
Nói tới đó, De Chauvine bỗng nổi hăng:
- Dọc sông Rạch Đĩa đến Rừng Sác, bao nhiêu là xuồng chiến đấu chực sẵn.... Chúng tôi đâu phải tổ chức một cuộc cắm trại ở Rừng Sác, phải không? Tại Camp des Mares (17), ông thừa biết, cả một brigade (18) lính Sénégalais túc trực... Có điều, theo hiệp định Genève, nước Pháp không thể can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Phải có cái cớ!
Sang như nghe ra, khẽ gật gù.
De Chauvine được thể, lên mặt:
- Cái cớ... Cái cớ là các ông. Với khẩu hiệu: “Bảo vệ quyền lực Quốc trưởng và tuân lênh Quốc trưởng”, các ông giành ngay phút đầu lẽ phải... Ông cũng biết, Quốc trưởng sắp về nước, luôn tướng Hinh. Họ đâu phải là những người dễ bỏ cuộc! Tướng Viễn sẽ là chính khách số 1, số 2 ở đây...
Sang chấm chân xuống đất, rót hai ly rượu:
- Xin mời!
Hai người chạm ly và uống một hơi cạn.
- Tôi coi đây là lời cam kết danh dự của đại diện nước Pháp. Được không?
De Chauvine hiên ngang:
- Tất nhiên!
Họ dìu nhau ra cửa. Cửa rất hẹp vì những bao cát chiếm lối. Đám Công an xung phong, vũ trang như sẵn sàng nhả đạn, đứng nghiêm, chào...
- Các ông có một lực luợng tuyệt vời!
De Chauvine hất hàm về số lính, trước khi lên chiếc Renault, tự y lái...
---
(1) Long trọng phản đối cái cách mà hiệp định được ký kết
(2) Adieu: vĩnh biệt
(3) Bắt đầu từ cái bắt đầu
(4) Bataillon Vietnamienne: Tiểu đoàn VN
(5) thân binh
(6) quân bổ trợ. Trần Văn Ân chơi chữ: Forces supplétives (tiếng Pháp) và Supply forces (tiếng Anh) là từ cùng nghĩa.
(7) Phái bộ Huấn luyện phối hợp
(8) Câu trả lời của ngài thỏa mãn tôi, thưa Thủ tướng. Và còn một câu hỏi khác – số phận các sĩ quan Việt Nam được nhà trường Pháp đào tạo...
(9) chỉ định
(10) Tất cả những sự quá trớn đều xấu!
(11) Đây là đài phát thanh Pháp – Á, sự hiện diện của nước Pháp tại Viễn Đông, phát từ Sài Gòn trên các làn sóng 25, 31, 41, 49 trên 240 mét…
(12) Các bạn thính giả thân mến – Bây giờ xin nghe bản tin của chúng tôi. Tin mới nhận được từ Paris – theo Pháp tấn xã, hôm qua, tại điện Matignon, thủ tướng Edgar Faure đã có một cuộc tiếp xúc với tướng 5 sao Paul Ely, Cao ủy Pháp ở Đông Dương.
(13) tên các công ty của Pháp
(14) Không bao giờ!
(15) Chiến thuật
(16) 11è RIC: 11è Régiment d’Infanterie Coloniale - Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11
(17) Thành Ô Ma
(18) Lữ đoàn

CHƯƠNG 5

Ngày 4-3, Hộ pháp Phạm Công Tắc họp báo – nghĩa là sau Ngô Đình Diệm 20 ngày.
Trong 20ngày đó, nhiều sự kiện được ghi nhận: Quốc hội lâm thời được chính thức loan báo ra đời với hai nhiệm vụ: sửa soạn cho Quốc hội lập hiến và tư vấn cho chính phủ. Nghị sĩ sẽ do các hội đồng hàng tỉnh, thành phố và đô thành bầu, mỗi nơi từ 2 đến 4 người, cộng với một số chỉ định trong các đoàn thể chính trị và tôn giáo. Ký kết thỏa hiệp viện trợ kinh tế của Mỹ lần đầu tiên. 18 triệu dollar chuyển trực tiếp đến chính phủ Việt Nam mà không qua trung gian Pháp. Cơ quan TRIM bắt đầu hoạt động. Nguyễn Giác Ngộ, tướng Hòa Hảo, tuyến bố đưa 9.000 quân về hợp tác với chính phủ. Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles tới Sài Gòn. Tổng thống Mỹ Eisenhower gởi điện cho Bảo Đại, cam kết tiếp tục giúp đỡ Việt Nam chống Cộng.
Cũng trong thời gian đó, tình hình quốc tế có hai sự kiện lớn: Khối SEATO, gồm 8 nước, lần đầu tiên nhóm họp tại Bangkok; quốc vương Cambot thoái vị, nhường ngôi cho cha là Norodom Suramarit.
*
Cuộc họp báo của Hộ pháp Phạm Công Tắc thu hút tất cả các ký giả báo chí, thông tấn, truyền thanh và truyền hình trong và ngoài nước có mặt ở Sài Gòn. Người ta chịu khó lặn lội lên Tây Ninh bởi vì giấy mời họp báo ghi: Chủ tịch Mặt trận Ttoàn lực Quốc gia, giáo chủ Phạm Công Tắc, đích thân loan báo chính cương của Mặt trận mà giáo chủ vừa là đấng sáng tạo, vừa là chủ tịch tối cao.
Luân lên Tây Ninh lần thứ hai, với một bảo vệ. Bảo vệ của Luân tên Thạch – cái tên khá phù hợp với dáng dấp của anh ta: vạm vỡ, đen chũi, tuổi xấp xỉ 30. Thạch quê Chợ Gạo, tín đồ đạo Thiên Chúa, có vợ và bốn con. Vợ làm ruộng. Anh ở ngành cảnh sát công lộ. Lý do vào ngành cảnh sát của anh đơn giản: anh trốn cái bót Cao Đài ở Chợ Gạo vét lính, chạy lên Sài Gòn, sống bằng nghề vác lúa ở bến Bình Đông. Cuối năm 1954, Thạch xin vào cảnh sát vì chủ sa thải: Không đủ lúa.
Anh lo gần hai nghìn đồng mới được nhận làm cảnh sát viên. Sau một tháng học, anh lãnh giữ trật tự nơi ngã tư cạnh nhà Luân. Luân để ý đến anh và đề nghị bác sĩ Tuyến tuyển anh. Một tuần lễ qua – Luân biết trong tuần lễ đó, Thạch chịu một cuộc sát hạch chặt chẽ đặc biệt ở Sở nghiên cứu chính trị và chịu thử thách ở Nha Công an Việt Nam. Chính Thạch nói lại, trước hết, người ta điều tra về mối quan hệ giữa Thạch và Luân. Tất nhiên, Thạch chẳng biết Luân là ai, ngoài chi tiết: chủ một villa xinh xắn, thường đi lại bằng một chiếc xe hiệu Opel do một tài xế người Bắc lái. Tại Nha công an, người ta kiểm tra nghề võ của Thạch. Thạch rất khỏe, biết võ Anh, võ Nhật – học vui lúc trẻ - đã vật ngã tất cả các vệ sĩ. Ngô Đình Nhu đích thân gặp Thạch. Nhu không cho Tuyến giao nhiệm vụ cho Thạch.
- Đừng! Tôi đã hứa!
- Ta dặn riêng gã Thạch thôi! - Tuyến vẫn tiếc rẻ.
- Ông nên nhớ: Nguyễn Thành Luân đủ thông minh hiểu ta nhìn anh ta bằng cặp mắt nào. Cứ để gã Thạch đi với anh ta. Không dặn cái gì hết ngoài việc dặn gã lo phận sự thật chu đáo, phải lấy cái đầu đảm bảo cho an toàn của Luân. Còn sau này? Ông không muốn gã tiết lộ những gì, đâu phải là chuyện khó, phải không? Ngay thằng lái xe, chưa chắc ông đã làm chủ được nó. Ông quên Nguyễn Thành Luân là một cán bộ Cộng sản, thừa tài để quyến rũ tất cả....
Luân không thể biết được nội tình Nhu – Tuyến, song anh tin là anh không thể lép trong cuộc đọ trí nầy. Cho nên Thạch trở thành bảo vệ của Luân – do Nha cảnh sát Nam Việt biệt phái. Thạch kê thêm một giường cạnh giường Lục.
Luân cho phép Thạch về quê đón vợ con lên chơi vài hôm. Vợ con Thạch khiến Luân yên tâm. Chị ở xã Thân Cửu Nghĩa, qua chị, Luân biết nhiều cán bộ của ta đang mai phục tại đây.
- Anh nhớ lo cho ông kỹ sư như lo cho anh ruột mình. Người tử tế quá mà!
Đó là lời vợ Thạch dặn chồng khi lên xe – lên chiếc Opel của Luân – về quê.
*
Buổi họp báo phải hoãn vì Hộ pháp bận lễ cầu cơ. Luân bước vào chánh điện cùng với các nhà báo và – đây là nét đặc sắc – có rất nhiều nhân vật chính trị, số đeo quân hàm không ít.
Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp
Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra
Mùi hương lư ngọc bay xa,
Kính thành cầu nguyện, Tiên gia chứng lòng
Xin Thượng đế ruổi rong cưỡi hạc
Xuống phàm trần vội gác xe tiên
Ngày nay đệ tử khấn nguyền
Chín tầng trời đất thông truyền chiếu tri
Lòng sở vọng gắn ghi đảo cáo
Nhờ ơn trên bổ báo phước lành...
Những câu gần như ẩn dụ ấy tỏa rộng trong một không gian đầy khói trầm. Phải nói tốp đồng nhi – chủ yếu là nữ thanh – có giọng ngân nga hốt hồn người như các ma trong pho Liêu Trai.
Nữ phóng viên Helen, quần tây, sơ mi ngắn, vai đeo chiếc túi, tay bấm máy lia lịa. Chiếc máy ảnh của cô chợt quay về phía Luân. Một ánh lóe lên. Liền đó, cô phóng viên tiến đến trước mặt Luân, duyên dáng:
- Nếu tôi không lầm, ông là kỹ sư Rôbớt Nguyễn Thành Luân.
Cô bỗng che miệng:
- Xin lỗi ông, tôi phát âm sai, Rôbe (1) Nguyễn Thành Luân...
Rồi cô chìa tay. Luân khẽ nghiêng đầu:
- Rất hân hạnh, chào cô Helen Fanfani!
- Ô! Ông thật là một con người kinh khủng. Tôi nhớ là chưa gặp ông lần nào... – Helen ngoẹo đầu, mở to đôi mắt.
- Nhưng, tôi lại là độc giả rất trung thành của cô trên tờ Financial Affairs. Bài mới nhất của cô nói về ông Phạm Công Tắc. Chính cô mới thật là kinh khủng!
Helen nhún vai:
- Ông trả đũa tôi, phải không? Cái giá của việc tôi phát âm sai!
- Không đâu! – Luân dí dỏm – Rôbớt hay Rôbe có gì quan trọng? Tôi nói cô kinh khủng là vì tôi dễ dàng phân biệt cô với người khác, còn cô, cô moi được tôi giữa hàng nghìn đồng bào của tôi, thật tài!
Helen ngúng nguẩy:
- Ông không sợ tôi giận sao? Hình như ông nghĩ rằng tôi có mối liên quan với CIA?
Luân cười rộ:
- Trí tưởng tượng của nhà báo bao giờ cũng phong phú!
Helen xìu mặt:
- Ông không thích làm quen với một nhà báo Mỹ?
Luân vẫn không dứt cười:
- Câu hỏi của cô quả đúng là của một nhân vật CIA! Tôi chưa sẵn câu cho trả lời cho toàn bộ câu hỏi, song về một chi tiết của câu hỏi, tôi trả lời được ngay: Tôi thích làm quen với người của Financial Affairs!
Helen giả như ngượng:
- Ông khiến tôi sung sướng quá!
Luân nói luôn, rất nghiêm:
- Tôi không nói theo lối nịnh đầm. Cô khỏi lo. Tôi thích Financial Affairs, vì nói cho cùng, cái gì cũng là tài chính cả… Tiếp xúc với Financial Affairs là tiếp cận nơi quyền lực tối cao của nước Mỹ... Rõ ràng, không phải vô cớ mà Ban biên tập phái cô đến Tây Ninh, nới chẳng có lấy một bóng dáng nào của vấn đề tiền nong.
Helen nhìn Luân khá lâu.
- Tôi muốn buổi làm quen của chúng ta vui hơn… Ông bằng lòng chứ?
- Tất nhiên! – Luân trở lại giọng vui vẻ.
Bên trong chánh điện, buổi cầu cơ bắt đầu. Người ta làm những động tác như thế nào, không thể nhìn rõ từ bên ngoài. Nhưng, Luân biết là không khí rất trang nghiêm. Tôn giáo Cao Đài khác một số tôn giáo khác ở chỗ mọi việc trần thế, dù nhỏ dù lớn, đều phải do Ngọc Hoàng Thượng Đế xử lý, hoặc trực tiếp, hoặc thông qua đại diện – một vị tiên nào đó. Liên lạc với thế giới vô hình là những đồng tử.
Từ chánh điện, một Lễ Sanh xướng to bốn câu thơ:
Lý đạo nhiệm màu, bớ các con!
Thái bình gởi trọn tấm long son
Bạch cùng Thượng Đế ơn tế độ
Giáng dạy lời răn thế nước non.
Helen lắng nghe, hỏi:
- Bốn câu thơ đó nghĩa là gì?
- Ghép các chữ đầu của bốn câu sẽ là: “Lý Thái Bạch Giáng”. Tức là ông Lý Thái Bạch xuống trần.
- Ông ấy là ai?
- Là nhà thơ lớn đời Đường bên Trung Quốc, ông Lý Bạch. Tôn giáo Cao Đài coi ông ấy là sao Trường Canh. Ông làm nhiệm vụ đại loại như chánh văn phòng của Ngọc Hoàng! Ông chỉ mở đường thôi, chút nữa chính Ngọc Hoàng sẽ có chỉ thị.
Luân nói với giọng rầu rầu.
- Chuyện lớn của một nước mà ông Tắc lại tìm lối ra như thế. Giống chơi sấp ngửa!
Helen nói, thái độ đúng đắn. Luân mỉm cười, chỉ ra hiên chánh điện:
- Không phải như cô nghĩ. Cô xem kia…
Ở hiên, nhiều nhóm người tụ tập, họ trao đổi với nhau thật khẽ. Có De Chauvine, Lại Văn Sang, Văn Thành Cao, Léon Leroy, Hai Ngoán…
- Theo tôi, ông sẽ là người thu lợi nhiều nhất nếu quân giáo phái tấn công ông Diệm! – Helen nhìn qua đám sĩ quan và bảo.
- Cô là người Mỹ… - Luân cau mày.
Helen cướp lời:
- Tôi cam đoan với ông trong tôi, tỷ lệ máu Việt không thể dưới 75%. Còn lại, như họ của tôi, là máu người vùng Địa Trung Hải. Đương nhiên, tôi mang quốc tịch Mỹ... Chỉ quốc tịch thôi. Nationality, only! (2)
Luân nhún vai:
- Trên thế giới không có quốc gia nào gây rắc rối cho các nhà nhân chủng học bằng nước Mỹ. Huyết thống Mỹ là cái gì? Một câu hỏi chưa có câu trả lời dù là của máy tính điện tử.
Helen láu lỉnh:
- Đấy, ông đã công nhận tôi không có huyết thống Mỹ!
Luân ngó Fanfani, song hình như không chỉ nói với cô:
- Nước Mỹ không cần huyết thống!
Có tiếng xướng to trong chánh điện:
- Cao Đài Tiên ông giáng phàm!
Luân trầm ngâm:
- Cần làm cho minh bạch quốc tịch của ông Cao Đài Tiên ông này!
- Hiện nay, ông ta quốc tịch Pháp!
- Đúng, - Luân vẫn trầm ngâm – Và, đến một lúc nào đó, ông ấy sẽ đổi quốc tịch. Cho nên tôi nói cô là người Mỹ theo nghĩa đó. Cô nghĩ rằng tôi thích đồng bào tôi chết à? Không! Qua các bài báo của cô, tôi rút ra kết luận là, hơn ai hết, giới tài phiệt Mỹ nóng long chờ súng nổ ở Việt nam…
Fanfani chống chế:
- Tôi là nhà báo…
Luân cười độ lượng:
- Tất nhiên! Người ta sẽ không đăng bài của cô nếu cô viết khác. Tôi hiểu.
- Thế, ông lên Tây Ninh với tư cách gì?
- Tôi là người Việt Nam!
Helen lắc đầu:
- Nước Mỹ không thuần chủng như ông nhận xét. Nhưng, một chữ “tôi là người Việt Nam” sợ rằng quá gọn. Ví dụ, kia...
Helen chỉ nhóm Văn Thành Cao.
- Và, kia...
Cô chỉ Trịnh Minh Thế đang rỉ tai với thiếu tá James Casey.
Rồi, cô quay lại:
- Và, đây!
Cô chỉ vào ngực Luân
- Trong một không gian chưa lấy gì làm rộng, đã có đến ba Việt Nam! Ông nghĩ sao? Công bằng mà xét, ông đơn độc...
Luân điềm đạm bảo Fanfani:
- Cô quan sát chưa kỹ, còn một loại nữa. Đó…
Theo tay Luân, Fanfani thấy Ly Kai đang rảo bước quanh các nhóm.
- Hình như là một người Tàu?
- Phải, huyết thống Tàu, quốc tịch Việt...
- Ông ta thuộc chánh kiến nào?
Luân lắc đầu:
- Cô đến mà hỏi ông ta... – Rồi anh nói tiếp - Tuy vậy, cô nên nhớ họ chỉ là một phía, kể cả rồi họ cấu xé nhau. Phía đó không đông như cô tưởng. Họ sẽ định đoạt cái gì? Trong salông thôi!
- Tôi tôn trọng tín ngưỡng của ông. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác, nếu ông cho phép. Dù sao, tôi cũng cám ơn ông. Ông để trong đầu tôi một ấn tượng sâu sắc về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này. Có lẽ sắp đến giờ họp báo. Và, ông dự chớ? Chẳng lẽ ông lên Tây Ninh để hành hương?
Helen bắt tay Luân rất chặt. Nhưng đôi mắt đẹp của cô còn ánh lên một cái gì hơn cả cái bắt tay...
- Tôi xin phép đi làm nhiệm vụ. Xin báo trước với ông: Tôi sẽ là cái bóng của ông!
*
Cuộc họp báo hơi lê thê. Hộ pháp không phải là nhà hùng biện. Ông đọc một thôi dài bản tuyên cáo thành lập Mặt trận Toàn lực Quốc gia. Ngoài những lời lẽ phô trương như Mặt trận bao gồm tất cả cá tôn giáo và lực lượng Bình Xuyên, có quân đội trong tay, được dân chúng ủng hộ.. v.v... tuyên cáo kết tội chính phủ và cá nhân Ngô Đình Diệm “thực hiện một chính sách độc tài gia đình trị, thâu tóm quyền hành, phản bội công lao của những người chống Cộng”. Tuyên cáo nêu yêu sách: Một, mở rộng thành phần chính phủ gồm đủ đại diện các đảng phái, đoàn thể, tôn giáo; hai, trong chính phủ, các ghế bộ trưởng phải được chia công bằng; ba, chính phủ công nhận các lực lượng võ trang chống Cộng như là lực lượng quân đội quốc gia, được duy trì hệ thống chỉ huy và phụ trách các địa bàn cũ, được trang cấp và trả lương như quân đội chính quy, chính thức hóa cấp bậc tất cả sĩ quan; bốn, Quốc hội lập hiến phải gồm đủ đại biểu các đảng phái, đoàn thể, tôn giáo với số đại biểu ngang nhau và do các tổ chức đề cử, không được ngụy tạo những người không do các tổ chức đề cử; năm, tôn trọng các thánh địa Tây Ninh, Hòa Hảo, Bình Xuyên, Bình Đại và bộ máy hiện nay; sáu, thực hiện triệt để quyền bình đẳng tôn giáo, đặc biệt ở các tỉnh Tây Ninh, Long Xuyên, Châu Đốc, các quận Cần Giuộc, Nhà Bè, Lấp Vò, các vùng Cái Vồn, Bình Xuyên, Chánh Hưng, Bình Đại, An Hóa,. .. tỉnh trưởng, quận trưởng, chỉ huy quân sự và Công an phải do bốn phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và UMDC đề cử; bảy, viện trợ quân sự và kinh tế của nước ngoài cho Việt Nam phải được kiểm tra và quản lý chặt; tám, mọi quyết định quan trọng về đối nội và đối ngoại đều phải được Quốc trưởng quyệt y, trong khi Quốc trưởng còn chữa bệnh chưa về nước thì Quốc trưởng sẽ cử người thay mặt; chín,. ..
Đọc xong tuyên cáo, Hộ pháp nói vài lời:
- Bần đạo vốn thích sống ngoài vòng thị phi, nhưng thế nước đảo điên, phía Bắc, giặc Cộng chiếm, phía Nam gia đình họ Ngô chiếm, sanh linh đồ khổ. Nhiều nhà ái quốc mời bần đạo ra tay tế khốn phò nguy, bần đạo năm lần ba lượt khước từ. Song, ai cũng nói, chỉ bần đạo mới đủ sức gánh vác việc trọng hệ đó. Bần đạo kỉnh thành xin Đức Chí Tôn cho giáo huấn, vừa rồi Ngài giáng cơ, dạy bần đạo phải chịu nhọc nhằn một phen mới mong thấy cảnh thái bình – thạnh trị. Vâng ý chỉ của Ngài, bần đạo nhận chức chủ tịch Mặt trận Toàn lực Quốc gia. Vậy có lời nói thêm để hải nội chư quân tử rõ lòng của bần đạo... Bậy giờ, vị nào muốn đặt câu hỏi, bần đạo xin mời.
Người hỏi đầu tiên là một phóng viên báo “Người Việt tự do”:
- Đòi hỏi của Mặt trận đặt ra một vấn đề về pháp lý khá nghiêm trọng: đất nước này do ai cai trị? Các giáo phái hay chính phủ...
- Giáo phải đâu có đòi một mình giữ hết các ghế trong chính phủ. – Phạm Công Tắc hỏi vặn lại.
- Nhưng nếu đòi hỏi của Mặt trận mà được thỏa mãn thì còn đâu là sự thống nhất quốc gia? Đó là hình ảnh các sứ quân... – Người phóng viên không chịu lép.
- Bần đạo nghĩ như vậy mới công bằng! - Phạm Công Tắc nói buông thõng.
Một phóng viên nước ngoài hỏi:
- Thưa giáo chủ, chúng tôi hiểu rằng giữa chánh phủ của ông Ngô Đình Diệm và các nhóm quân sự trong tôn giáo có bất hòa. Cứ coi như những đòi hỏi của Mặt trận là chính đáng, chúng tôi muốn Mặt trận nói rõ hơn về quan điểm của Mặt trận đối với tương lai của miền Nam – chẳng hạn thể chế dân chủ, đường lối xây dựng kinh tế, chánh sách ngoại giao. Hình như Mặt trận đã không đả động một lời nào về những vấn đề quan trọng hàng đầu đó...
- Sau khi thành lập chánh phủ đoàn kết quốc gia, các vấn đề trên sẽ được đem ra bàn...
Thấy câu trả lời của mình được nhà bào phương Tây tiếp nhận với vẻ thất vọng, Tắc nói thêm:
-Bần đạo có một kế hoạch kinh bang tế thế mười phần hoàn hảo, tiến tới thế giới đại đồng, năm châu chung chợ. Đang dịch kế hoạch đó ra tiếng Anh, Pháp, Nga, Hoa để gửi cho vạn quốc và Hội Quốc Liên, chừng nào xong các vị sẽ rõ...
Helen mở máy ghi âm:
- Thưa giáo chủ; chủ trương của Mặt trận về thống nhất nước Việt Nam như thế nào?
- Nếu ông Ngô Đình Diệm bằng long giải quyết các yêu sách của Mặt trận, toàn thể Mặt trận xin tình nguyện đi đầu trong trận Bắc phạt. Bần đạo sẽ mang đạo kỳ cắm bên kia song Bến Hải! - Tắc trả lời khá hùng hồn.
- Nghĩa là giáo chủ và Mặt trận không tán thành Hiệp định Genève và không muốn thi hành hiệp định đó? – Fanfani hỏi tiếp.
Tắc lưỡng lự. Hình như Bảo đạo Hồ Tấn Khoa – ngồi phía sau Tắc – nhắc khẽ một câu gì đó.
- Bần đạo có một bức thư gửi cho ông Hồ Chí Minh về thống nhất đất nước. Vì là việc quốc gia đại sự, bần đạo chưa tiện cho liệt vị biết hôm nay…
- Xin giáo chủ nói nét tổng quát nhất, không ảnh hưởng gì đến bí mật của bức thư.. – Helen kiên trì.
- Thơ dài lắm… Bần đạo nói một ý thôi: bần đạo chủ trương tam đầu chế ở Việt Nam. Ông Hồ, ông Ngô Đình Diệm và bần đạo thành một hội đồng Tổng thống. Ông Hồ đại diện cho Cộng sản, ông Ngôi Đình Diệm cho Quốc gia. Bần đạo xin đóng vai trò trọng tài.
Tắc trả lời, trong giọng pha một chút tự đắc.
- Ai sẽ là chủ tịch Hội đồng tổng thống đó? – Helen chưa chịu thôi.
- Dĩ nhiên, bần đạo sẽ vì sanh linh mà chịu cực. Chủ tịch Hội đồng tổng thống phải đủ uy tín…
- Thưa giáo chủ, vậy thì vị trí của ông Bảo Đại ra sao?
Câu hỏi của Fanfani ấn Tắc vào chỗ kẹt. Ông ta quay sang số người khác – rất ít người muốn hỏi.
- Mời các vị…
… Luân ngồi cuối phóng họp, theo dõi. Anh hơi ngả người tựa vào ghế, tay chống cằm. Trước anh, những cây cột Hộ pháp đường bằng xi măng chạm rồng lòe loẹt: Cả một thế giới đồ giả bày ra và người ta quyết theo trò chơi đồ giả tới cùng, kể cả ăn thua bằng máu thật của kẻ khác. Đúng là anh em Ngô Đình Diệm rất thích một kiểu mặt trận như Mặt trận toàn lực này và còn thích hơn vị chủ tịch của nó. Không có trận đánh nào mà họ Ngô ít tốn nhất lại dễ thành công nhất bằng trận đánh đôi bên đang dàn quân, không phải một trận chiến đấu mà toàn bộ trận đánh, và Luân hiểu thuật ngữ “trận đánh” ở giác độ rộng hơn hết: trận đánh chính trị. Không còn cách nào để trì hoãn – giữ tình trạng xung đột âm ỉ như hiện nay càng lâu càng có lợi cho sự giác ngộ của quần chúng, xây dựng lực lượng cách mạng. Một khi cuộc xung đột bùng nổ, nghĩa là Mỹ - Diệm sẽ rảnh tay, con đường của cách mạng thêm gai góc.
Một người nào đến ngồi cạnh Luân. Luân nhìn sang. À, Lại Hữu Tài.
Luân bắt tay Tài, rồi yên lặng.
- Chào ông kỹ sư, ông kỹ sư thấy thế nào?
Luân mỉm cười không trả lời. Tài hỏi với giọng hí hửng.
- Tôi muốn nghe nhận xét của ông kỹ sư về thực lực của chúng tôi!
Luân xoay người, nhìn Tài với đôi mắt thương hại. Tất nhiên, tay quân sư của Bảy Viễn không đủ độ nhạy cảm để đánh giá cái nhìn đó.
- Tôi có cảm giác các ông pousser trop loin (3) mọi thực tế, nhất là sức mạnh của phía các ông. Theo tôi, thủ tướng mới của Pháp Edgar Faure gần Mỹ hơn Mendes France...
Tài ngắt lời Luân:
- Tướng Paul Ely, tôi đã gặp một số lần, rất kiên quyết...
Luân, giọng rầu rầu:
- Tướng Mỹ Collins còn kiên quyết hơn... Các ông dựa vào quân đội các ông... Nhưng, thử hỏi, xét từ chỗ đứng thuần quân sự, một lực lượng dàn mỏng như vậy, nhiều chỉ huy như vậy sẽ đánh chác thế nào? Đối phuơng của các ông có một tổng tham mưu trưởng, các ông có đến ít ra 5 người – bốn là của các giáo phái và Bình Xuyên, một là tướng Vỹ. Thật ra, còn đông hơn, có khi, mấy chục...
Tài không phật ý:
- Đây là chiến tranh nhân dân!
Luân suýt phì cười. Tấn tuồng càng về sau càng thêm yếu tố hài. May quá, một nhà báo đang hỏi Phạm Công Tắc một câu – có lẽ là hóc búa hơn hết:
- Thưa giáo chủ, chúng tôi tin vào bốn chữ “Toàn lực quốc gia” mà giáo chủ lấy làm tên cho mặt trận...
- Không phải chúng tôi đặt tên, tên của mặt trận được Thượng đế ban cho. – Tắc nói rất nghiêm chỉnh – Quý vị nghe bài cơ sau đây thì rõ:
CAO dựng đại kỳ cứu quốc gia
THIÊN binh quét sạch lũ tà ma
HÒA nhau toàn lực, con cầm lái
BÌNH trị muôn đời hưởng âu ca!
Đức Thượng đế lấy bốn giáo pháo Cao, Thiên, Hòa Bình, làm chủ lực của mặt trận...
-Thưa giáo chủ, cho là Mặt trận ngoài thế lực trần thế còn có thêm sự hỗ trợ của các đấng thiêng liêng, chúng tôi muốn giáo chủ giải thích về trường hợp tướng Trịnh Minh Thế và tướng Nguyễn Giác Ngộ ly khai. Họ đã gặp chúng tôi, đã bày tỏ thái độ sát cánh với chính phủ. Trong bốn lực lượng chủ lực như giáo chủ nói, riêng của đại tá Léon Leroy hình như quá ít ỏi để được coi là đại diện cho phong trào Thiên chúa giáo...
Phạm Công Tắc nổi giận thật sự!
- Bọn phản đạo đó, nhắc tới làm gì!
- Nhưng, thưa giáo chủ, tướng Thế có 5.000 quân!
- Chúng tôi có tới hai triệu tín đồ!
Cuộc họp báo đột ngột biến thành cuộc đấu khẩu ồn ào.
Luân hỏi Lại Hữu Tài:
- Không phải tôi mà cả thế giới đều thấy. Ông không nhận ra tính cách nguy hiểm của việc đem ảo tưởng chọi với thực tế sao?
Tài im lặng.
(1) Fanfani chơi chữ: Rôbớt (âm Mỹ) và Rôbe (âm Pháp) đều chỉ một từ Robert
(2) Chỉ quốc tịch thôi!
(3) đẩy quá lố

CHƯƠNG 6

- Bần đạo muốn biết đang hân hạn tiếp ai?
- Thưa Giáo chủ, Ngài cứ xem tôi như là một người quan tâm đến việc chung, nếu mối quan hệ giữa cá nhân tôi và Thủ tướng Ngô Đình Diệm không làm ngài vui.
- Không phải, không phải! – Phạm Công Tắc rối rít – Trái lại, bần đạo rất vui nếu buổi gặp mặt nầy là giữa chủ tịch Mặt trận Toàn lực với đại diện chính thức của Thủ tướng.
- Thú thật, thưa giáo chủ, tôi không được một ủy quyền như vậy...
- Nếu ông thấy bất tiện khi bần đạo dùng danh nghĩa Chủ tịch Mặt trận, bần đạo sẵn sàng trao đổi với đại diện của Thủ tướng trong tư cách người đứng đầu Giáo hội Đại đạo Tam kỳ phổ độ...
- Về phần tôi không thấy chi trở ngại dù Giáo chủ đứng trên danh nghĩa nào. Tôi lên Tây Ninh lần này là lần thứ hai và chỉ với tư cách hoàn toàn cá nhân...
- Hề chi! Lần trước, bần đạo thất lễ không gặp ông. Thật ra, bần đạo không hay trong đoàn của Cụ Ngô có ông... Bây giờ, bần đạo hỏi riêng ông một câu: Cụ Ngô nhận định về bần đạo thế nào?
Trên đây là mẩu đối thoại giữa Hộ pháp Phạm Công Tắc và kỹ sư Nguyễn Thành Luân, sau buổi họp báo, trong gian phòng rộng gọi là Trí Huệ Cung với những trần thiết phần nào giống sân khấu hát bội. Nhiều người xin gặp riêng ông Tắc, nhưng ông mời Luân trước tiên, mặc dù Luân chỉ đưa cho văn phòng ông một danh thiếp ghi vỏn vẹn: Kỹ sư Nguyễn Thành Luân, 5 đường Miche Sài Gòn, điện thoại: 20.461.
Trước khi bước vào văn phòng riêng của Hộ pháp, Luân chạm mặt Ly Kai. Gã toan lẫn tránh song không kịp, đành phải cúi chào Luân, rất khúm núm:
- Ông kỹ sư mạnh giỏi?
- Cám ơn! Ông cũng mạnh?
Luân chưa nắm đủ các tài liệu về gã Hoa kiều láu cá nầy, tuy anh biết chắc gã là người của Nhu – Tuyến cấy vào Bình Xuyên.
- Tôi định lên vùng chợ Long Hoa xem có thể gây dựng một kiểu giống giống Đại Thế Giới, nhưng mà coi bộ khó... – Ly Kai đưa đẩy.
- Chúc ông may mắn! – Luân chào gã.
Fanfani đón Luân ngay cửa phòng của Tắc.
- Ông trở thành vedette (1) của cái kịch bản nhiều góc cạnh nầy rồi! Ông gặp giáo chủ, nói giúp, tôi muốn làm cuộc phỏng vấn riêng giáo chủ...
- Tôi sẽ chuyển lời, còn ông ấy có chịu gặp cô hay không là do ông ấy.
- Cám ơn ông kỹ sư... Khi nào về Sài Gòn, tôi mong được gặp ông. Địa chỉ của tôi đây, – Fanfani đưa cho Luân danh thiếp – Khách sạn Majestic.
Rồi cô ta phụng phịu:
- Mà ông không đến hay gọi điện thoại cho tôi, tôi sẽ đến tận nhà ông đấy!
Luân cười nhẹ, Helen hiểu cái cười của Luân:
- Vì sao tôi biết địa chỉ của ông hả? Muốn tìm, đâu có khó!
Fanfani nói láo. Song, mặt cô đỏ nhừ. Không phải cô không thạo nghề nói láo. Luân bỗng vui vui khi cô ký giả quốc tịch Mỹ biết ngượng vì phải nói láo với anh. Dĩ nhiên, Fanfani đỏ mặt, cô trở lên hồn nhiên và hết sức dễ thương. Do vậy, Luân cầm tay cô hơi lâu hơn thường lệ một chút.
Qua vai Fanfani, Luân thấy Ly Kai đứng cạnh xe của anh, đang bắt chuyện với cả Lục lẫn Thạch.
*
Phạm Công Tắc mời Luân điếu thuốc Camel. Không rõ giáo chủ có hút không, song cái gạt tàn đầy ắp đuôi thuốc.
- Tôi không được biết nhận xét của Thủ tướng đối với giáo chủ - Luân nói, nhìn Tắc đầy ý nhị, - Vả lại, theo tôi, Giáo chủ cần gì đến nhận xét của ông Diệm khi Giáo chủ, trong yêu sách thứ 10, long trọng tuyên bố đòi ông ấy từ chức nếu không thỏa mãn nguyện vọng của Mặt trận mà Giáo chủ đã đoántrước không thể nào có một nhượng bộ tới mức đó.
Giọng Phạm Công Tắc bỗng trở nên xuôi xị:
- Tuyên bố thì tuyên bố vậy thôi!
Phạm Công Tắc khó nghe kịp tiếng thở dài nhè nhẹ của Luân:
- Ngài định làm gì nếu ông Diệm bác bỏ các yêu sách?
Phạm Công Tắc ngơ ngác:
- Làm gì à? Bần đạo đâu có định làm gì!
Đến lượt Nguyễn Thành Luân ngơ ngác:
- Vậy tại sao giáo chủ họp báo?
- Ậy! Anh em họ đốc mình, mình phải làm, không làm thì họ cười chết! Tôi ghét thằng Thế quá...
Luân phát hiện một Phạm Công Tắc thịt xương, rất thành thật, dù ông vận bộ áo đạo.
- Theo ông, Cụ Ngô có tính gấp các giáo phái không?
Vị trí giữa Luân và giáo chủ thay đổi, người đặt câu hỏi lại là Giáo chủ.
- Thưa Giáo chủ, Ngài cứ giả định là ông Diệm tính gấp đi...
Mặt của Tắc tái dần, tái dần:
- Việc gì phải gấp? – Ông ta hỏi mà lời giống như từ chốn xa xôi nào vọng về.
Luân thấy không cần thiết phải trả lời. Trong thâm tâm, Luân thương hại ông ta, một con người leo lên ghế tuyệt đối của một tôn giáo hoàn toàn nhờ thời cuộc đẩy đưa. Có lẽ suốt ngày nghe mãi cái trật tự trên thiên đường mà ông bị ám ảnh. Và cuối cùng, ông mường tượng cuộc sống diễn ra như ông phác thảo trong các câu kinh – dù gọi là của Quan Âm, của Quan Vân Trường, của Thượng Đế, đều là của viên thư ký riêng có khiếu thơ lục bát và tứ tuyệt. Ông trả lương khá cao cho viên thư ký, cho “thập nhị thời quân” - những người mà không có họ, ông không làm sao mang ý của thiên đình phổ biến giữa thế gian.
Tuy nhiên, ông cũng đủ tỉnh táo để hiểu rằng không phải bao giờ lời phán của Đức Chí Tôn đều có hiệu lực cả. Ngô Đình Diệm chẳng hạn, ông ta chỉ biết có Chúa Trời. Còn Ngọc Hoàng theo khái niệm của đạo Cao Đài thì chẳng ăn nhằm gì với ông ta.
Giáo chủ Phạm Công Tắc ngó đăm đăm tấm bản đồ Đông Dương. Vạch đỏ đậm của quốc lộ 1 cho thấy từ Tây Ninh lên Nam Vang không lấy gì làm xa xôi.
- Vạn bất đắc dĩ nếu Thủ tướng không nghĩ tình người quốc gia với nhau, bần đạo sẽ lên Nam Vang. Ở đó, bần đạo có nhiều tín đồ. Một thánh thất lớn đang xây gần cầu bắc qua sông Bassac... Ngài Sihanouk vốn kính trọng bần đạo.
- Thưa giáo chủ, thiếu tá Kossem, trưởng phòng tình báo chính phủ hoàng gia Cambốt có khi nào thư từ cho Giáo chủ? – Luân hỏi hơi đường đột.
- Ông cũng quyen thiếu tá Kossem?
- Thưa, đúng là tôi biết ông ta, chớ chưa quen… – Luân trả lời, hồ hởi.
- Tôi cũng vậy, - Tắc nói liền và quên phát hai tiếng bần đạo rất quen miệng - Tôi biết ông ta qua một đại úy, tên Thạch Chanh, phụ trách tình báo biên giới... Thiếu tá muốn quy y theo đạo Cao Đài!
- Phải, ông Kassem kiêm chỉ huy phó biên phòng, đồng thời là Tư lệnh quân nhảy dù và chỉ huy phó lực lượng phòng thủ thủ đô Nam Vang. Thiếu tá Kossem là người Chàm sao lại vô đạo Cao Đài? – Luân nói câu sau với cái cười nhẹ.
- Chà! Ông kỹ sư rành hơn tôi nhiều... Thiếu tá Kossem tán thành đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài có nhiều tín đồ người Pháp, người Ấn Độ, Nhựt Bổn... – Tắc khoe khoang một hồi – Tôi trở lại chuyện giữa tôi và Cụ Ngô. Tôi chỉ xin Cụ Ngô một điều – có điều nầy thì 10 điều trong tuyên cáo xử như thế nào tùy chính phủ. Tôi xin ký một thỏa hiệp công nhận chu vi Tòa thánh Tây Ninh rộng 40 cây số vuông và công nhận quyền tự trị của chúng tôi trong chu vi đó. Cả giang sơn đã thuộc về Cụ Ngô thì ke re cắc rắc làm chi 40 cây số vuông nhỏ mọn, ông kỹ sư nghĩ coi tôi nói có đúng không?
- Đó là đòi hỏi quan trọng nhất của Ngài?
- Phải!...
Cả lời, cả cử chỉ của Giáo chủ đều toát lên niềm thèm muốn thiết tha, Luân có cảm giác đang ngồi trước một tay trọc phú vỡ nợ, tình nguyện bỏ hết tài sản, chỉ xin ngôi nhà và ngôi mả xây, cam lây lất sống hết đời.
- Ông có thể đạo đạt lên Cụ Ngô thỉnh cầu của tôi không? Tôi sẽ chẳng bao giờ quên ơn ông kỹ sư!
Ông Tắc gần như phều phào
- Nói lại với ông Ngô Đình Diệm yêu cầu của Ngài, không có gì khó. Tôi xin hứa, nội ngày nay hoặc sáng mai, yêu cầu của Ngài sẽ đến Thủ tướng. Song, tôi nghĩ là ông Diệm sẽ từ chối!
- Tại sao vậy? Chuyện nhỏ mọn mà!
- Đúng, chuyện nhỏ mọn. Song ông Diệm từ chối vì ông ấy sợ mất cái lớn hơn và khi biết chắc sẽ không thể mất cái lớn hơn thì ông ấy nhất quyết không để mất cái nhỏ nhất!
- Vậy, ông kỹ sư thấy bần đạo phải làm gì?
- Hình như giáo chủ chưa sẵn sàng đương đầu với ông Diệm?
- Bần đạo là kẻ tu hành!
Giáo chủ Phạm Công Tắc trả lời xụi lơ và bây giờ thì Luân không kềm nổi tiếng thở dài.
- Có bao giờ Giáo chủ tính đến khả năng liên minh với những người kháng chiến cũ không? Họ rất đông, ở Tây Ninh...
Luân cố vớt vát. Nghe có bấy nhiêu, Tắc xua tay lia lịa:
- Đâu được, đâu được!... Ông kỹ sư đừng nói chơi... Nếu Cụ Ngô thể tất cho bần đạo thì bần đạo sẽ cùng đạo hữu đi tiên phong trong cuộc Bắc phạt.
Luân đứng lên:
- Cám ơn Ngài... Tôi xin kiếu.
Phạm Công Tắc cũng đứng lên, tiến Luân ra phòng ngoài:
- Nhờ ông kỹ sư đạo đạt lên Cụ Ngô về chu vi tòa Thánh.
Giáo chủ cố van vỉ, mặt đầy đau khổ trước khi trở lại cái vẻ đường bệ để gặp một nhân vật nào đó, theo thứ tự mà văn phòng đã xếp đặt.
Tiếng đồng nhi đọc một đoạn kinh bay theo Luân. Anh bước gần như thất thểu. Không phải vì anh xúc động trước một giáo chủ lẩm cẩm – mọi toan tính của ông ta sắc lại chỉ còn là sự tiếc của đời rất trần tục và có thể, rất thô tục nữa – anh xót xa cay đắng vì một con người như thế vẫn ngự trị linh hồn hàng trăm nghìn người và tùy ý dẫn dắt họ phiêu lưu vào các ngõ cụt.
Fanfani chạy vội khi xe Luân đã lăn bánh. Anh vẫy tay chào cô mặc dù quên giới thiệu cô với giáo chủ.
Có thể Fanfani yên trí là Luân giúp cô xong xuôi, nên đặt tay lên môi gửi theo cái hôn...
---
(1) ngôi sao màn bạc

CHƯƠNG 7

Chiếc máy bay vận tải bốn cánh quạt nặng nề đáp xuống đường băng Tân Sơn Nhất. Hàng trăm người rời máy bay.
Đây là một trong những chuyến bay đặc biệt chở dân di cư miền Bắc vào Nam. So với những người đi đường thủy, họ tươi tỉnh hơn, ăn mặc sạch sẽ hơn. Họ vởi vội áo choàng trước ánh nắng chói chang của Sài Gòn – Khi họ lên máy bay, hàn thử biểu chỉ 15 độ và sau 5 giờ bay, con số đó là 36 độ trong mát.
Thân nhân đón họ đứng chật phòng đợi.
Một cô gái, sách chiếc vali con, áo len vắt tay, nổi bật trong đám hành khách: cô rất đẹp, tuổi chắc không thể hơn 25, là người phụ nữ duy nhất mặc quần tây, áo sơ mi, đi săng đan.
- Cô! – Cô gái gọi to và ôm ghì một bà áo lụa, vấn khăn, dáng đài các, đang tìm kiếm ai đó.
- Dung đây sao con? – Bà ngắm nghía cô gái rồi vụt khóc òa, - Nó lớn nhanh quá... Năm kia, nó vào thăm tôi, còn bé lắm... Sao bố không vào? Cô sẵn chỗ cho bố con, hễ vào là nhận chức chủ sự Bộ tài chính ngay... Còn con nữa, con phải học tiếp để lấy bằng cử nhân chứ?
Bà bô lô ba la, vẫn giữ cô gái – tên Dung – trong vòng tay.
- Ối chà! Cháu tôi đẹp như tiên... Con gái Hà Nội có khác... Nào, cái vết sẹo ở cánh tay to không?
Dung đỏ mặt, rúc đầu vào vai bà:
- Cô... cô...
Bà phân trần với số người đứng gần – họ chú ý cô gái có nước da trắng, vẻ mặt thanh tú, thân hình cân đối:
- Nó tồng ngồng nhưng nghịch ngợm lắm... Đâu như là lúc nó bắt đầu năm thứ nhất trường Luật, nó vào thăm tôi.. Tôi là cô ruột nó... Nó lên đồn điền chè của tôi, chạy nhảy thế nào mà ngã kềnh ra, bị cây nhọn đâm vào tay...
- Chú đâu không ra đón con? – Dung đánh trống lảng.
- Chú con hôm nay hẹn ăn cơm với trung tá Trần Vĩnh Đắt, có gửi lời xin lỗi con
- Ta về thôi, cô!
Một người lễ phép chào Dung:
- Xin cô đưa vali cho em...
- Ừ, anh xách hộ... Con không nhớ anh Khai, lái xe của cô chú sao?
- Ồ.. chào anh Khai! – Dung reo lên – chị Khai sinh thêm cháu nào nữa không? Cháu Tiến đi học chưa?
Ba người ra sân, chiếc Peugeot 203 nước sơn còn ánh.
- Con nhà giàu, sướng thế! Bà cô chắc không có con, cô ta tha hồ được nuông chiều...
Một người nhận xét về Dung với bạn – nhóm ba người mặc thường phục nhưng lưng cồm cộm súng ngắn.
Còn Dung ngồi sát vào cô trên xe và biết là cô muốn hỏi một người nhưng không tiện – Cả cái khóc của cô nữa: cô khóc không vì lâu ngày gặp lại cháu gái mình.
*
Tháng 8-1945, Dung nghỉ hè để sửa sọan vào năm thứ 2 trung học thì Cách mạng bùng nổ. Với tuổi 18, Dung say sưa dự các sinh hoạt văn hóa, thiếu niên như mọi bạn bè của Dung. Cũng từ sau ngày Cách mạng, Dung mới có dịp gần gũi người chú ruột – ông là chính trị phạm bị đày lên Sơn La, vượt ngục năm 1943, chỉ huy một đội du kích vùng Bắc Sơn. Cha Dung, công chức hạng trung Sở Tài chính Hà Nội, ở vậy nuôi con – mẹ Dung mất khi Dung lên 6 tuổi – tính hiền lành, ít nói. Chính người chú đã dạy cho cô bé hiểu nhiều điều mới lạ. Chú Dung sống độc thân – thực ra, ông chẳng có thời giờ đâu mà nghĩ đến vợ con, bởi ông hoạt động cách mạng lúc còn đi học và thoát ly luôn, rồi bị tù – chiều nào rỗi thì về nhà Dung. Người cùng phố chỉ biết chú Dung là Vệ quốc đoàn, còn Dung mãi sau này, do tình cờ, biết chú làm việc ở Nha Công an. Điều đó không có gì quan trọng đối với Dung mặc dù chú dặn Dung giữ kín và Dung đã giữ kín, ngay với cha.
Năm học 1945–1946 không bình thường – học sinh bận rộn với nhiều thứ bên ngoài trường lớp. Chú Dung không bằng lòng. Ông buộc Dung phải học và chính ông kèm Dung thêm những môn học mà Dung không thích mấy, như Toán, tiếng Pháp. Không thích thì không thích, Dung vẫn cố học - cô rất thương chú.
Bấy giờ, Hà Nội vừa đói vừa lộn xộn. Tàu Tưởng kéo sang, đóng chật các công viên. Thỉnh thoảng, Dung nghe vài vụ giết người, chú Dung bảo là do bọn Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần gây rối. Chú Dung gầy rạc.
Rồi Dung cũng bước vào năm học thứ ba sau kỳ nghỉ hè. Tàu Tưởng rút hết lên biên giới, nhưng quân Pháp đã có mặt ở Hà Nội. Những trận xung đột giữa quân Pháp và tự vệ ta, tuy lẻ tẻ, song không ngày nào là không xảy ra. Bạn trai của Dung bỏ học, theo các lớp quân chính. Bạn gái cũng có đứa vào các lớp cứu thương. Dung ngỏ ý xin đi học y tá. Cha cô, từ khi chú cô về nhà, ít quyết định những vấn đề như thế. Chú cô lắc đầu. Thực tế, trường gần như đóng cửa. Tin tức trong Nam kích động dữ dội lớp trẻ, cộng với tình thế đánh nhau ngay tại Hà Nội chắc chắn là khó tránh khỏi.
Đêm 19-12, súng nổ rộ. Cha Dung chẳng biết phải xoay xở làm sao. Chú Dung về nhà và hối thúc cả nhà tản cư. Một ô tô bộ đội chở cha con Dung ra Hà Đông. Sở Tài chính của cha Dung cũng di chuyển về đó. Truờng của Dung nghe đâu vượt sông Hồng, lên vùng Bắc Ninh.
Dung dứt khoát ghi tên vào lớp đào tạo y tá cấp tốc mở ở xã Dương Hội. Học được hơn tuần lễ - Dung rất phấn khởi theo học và nóng lòng chờ lớp kết thúc sớm để cô còn trở lại phục vụ các chiến sĩ bảo vệ Thủ đô mà sự đồn đãi về thành tích đánh Tây của họ giữa lòng Hà Nội đã làm cô say mê – thì chú cô đến. Ông thầm thì với cha cô trong ngôi nhà ở tạm bên ngoài thị xã Hà Đông... Sáng hôm sau, chính chú Dung đến trường y tá xin rút tên cô và ông đưa Dung cùng đi với ông lên Ba Vì. Ban đầu, Dung ngơ ngác. Nhưng, vài hôm, cô hiểu. Lưng chừng núi Ba Vì, Dung miệt mài học một lớp học đặc biệt – rất ít học sinh và người giảng không ai khác hơn là chú cô. Ngoài chính trị và nghề nghiệp, Dung còn được học bắn súng – cái mà cô khoái nhất. Giữa năm 1947, cha cô và Dung hồi cư về Hà Nội. Thật là bẽ mặt với người cùng phố. Cha Dung lầm lì đến Nha Tài chính trình diện. Cũng không có điều gì phiền phức lắm: tên chủ Tây bảo ông làm tờ khai. Ông khai đúng sự thật: Ông tản cư với Sở Tài chính, vẫn làm công việc chuyên môn của ông, nay quân Pháp kiểm soát rộng, ông chịu cực không nổi nên thay vì rút lên căn cứ, ông về thành. Ông được nhanh chóng thu nhận trở lại và ngày ngày vác ô đến chỗ làm. Năm 1948, Dung đỗ bằng thành chung. Cha cô tậu ngôi nhà khác – tiền ở đâu thì cô không rõ. Ngôi nhà mới nằm ở khu sang trọng phố Gambetta. Một hôm, khách đến nhà. Đó là chú cô. Chú cô chỉ đến mỗi tuần ba lần và ngày giờ luôn thay đổi. Hễ đến, hai chú cháu lại bàn bạc. Cứ thế, Dung tốt nghiệp tú tài toàn phần năm 1951 và học ngành luật. Hè năm 1952, Dung vào Sài Gòn bằng máy bay. Theo bố trí của chú, Dung đến nhà “bà cô ruột” - một người Bắc lập nghiệp trong Nam từ lâu, có đồn điền trà nhỏ ở gần Blao. Dung làm quen với Sài Gòn và Nam Bộ trong dịp đó. Lần hôi, Dung biết sự thật. “Bà cô ruột” ngày xưa là người yêu của chú, nhưng chú thoát ly sớm, vả lại gia đình bà giàu có - ở Hà Nội, ai mà không biết gia đình Cự Doanh – duyên nợ bất thành. Bà lấy chồng, một bác sĩ. Hai vợ chồng dời nhà vào Sài Gòn, chồng mở phòng mạch, vợ mua đất trồng trà... Hai vợ chồng không con. Tại sao và bằng cách nào đó, Dung không rõ, mà chú Dung liên hệ được với bà. Dung chỉ biết là chính chú Dung đã vào Sài Gòn – cũng đi máy bay – và đã ở nhà hai vợ chồng ông bác sĩ. Bà nói tường tận với ông bác sĩ chuyện thời con gái của bà, ông bác sĩ vốn khoáng đạt, lại có phần kính phục chú Dung, nên đã tiếp chú Dung thật đầm ấm, thân tình.
Sau Điện Biên Phủ, Dung đang học dở chứng chỉ 3 khoa luật. Trường đại học Hà Nội dời vào Sài Gòn. Bấy giờ chú Dung không có mặt ở Hà Nội, Dung tự quyết định không theo trường – điều mà sau đó Dung bị chú “sạc” một trận dữ dội chưa từng có. Nhưng rồi chú thu xếp cho Dung đâu vào đấy. Dung bí mật lên Thái nguyên dự một lớp bồi dưỡng chính trị và nghiệp vụ ba tháng. Trở về Hà Nội, Dung sửa soạn vào Nam như một người di cư, trước khi quân ta tiếp quản thủ đô. Lúc đầu, chú Dung định cả cha Dung cùng vào Nam, song cha Dung không ưng, dù thương con, ông không thích sống mãi trong cái không khí ngột ngạt. Vả lại, ông hiểu con ông – nó thông minh hơn ông nhiều, chưa chắc ông đã có thể giúp nêu không nói là gây bận bịu cho nó. Theo hướng dẫn của chú Dung, ông vẫn đăng ký vào Nam, đến thời hạn, ông lại khai là bệnh bất ngờ, không đi được. Chuyện rất bình thường.

CHƯƠNG 8

Luân trầm ngâm bên cửa sổ, tài xế Lục đang kỳ cọ chiếc Opel, công việc thường ngày của anh. Thạch đi vắng. Sau tết, Sa chuyển cho Luân một mật thư của anh Sáu Đăng, theo đó, hôm nay Luân sẽ đón “một người cộng sự tin cậy và gần gũi” được A.07 phái vào. A.07 là ký hiệu của đồng chí đứng đầu cơ quan an ninh cả nước, dĩ nhiên trong đó có ngành phản gián. Luân chưa trực tiếp làm việc với đồng chí trong nhiệm vụ mới song đã từng công tác dưới quyền đồng chí khi anh phụ trách phòng mật vụ: một cán bộ cao cấp rất trọng nguyên tắc, hết sức tỉ mỉ và cũng dễ gần gũi. Đồng chí bị Pháp kết án tử hình và sau đó, nhờ Hội Nhân quyền đấu tranh nên được giảm án, đã nằm khám tối Côn Đảo 15 năm, chính Cách mạng tháng Tám giải thoát đồng chí.
“Một người cộng sự tin cậy và gần gũi” là ai? Luân cố đoán mà không sao đoán ra. Trong công việc của anh, thêm một người phụ lực nữa càng hay. Nhiều khi anh muốn trao đổi, nhưng chẳng có ai bên cạnh. Ngọc là người duy nhất có thể trao đổi, từ làn gặp ở Đại Thế Giới, anh thậm chí không nhắn tin qua chị Cả, đề phòng cho cả anh và cho Ngọc. Sa – khi trao thơ cho anh, nó đóng vai chú bé bán dầu cù là – chỉ gặp anh hàng tháng và tuyệt đối không nói với nhau điều gì ngoài địa điểm và ngày giờ gặp lần sau. Còn Quyến, chẳng rõ nó lộn rồng lộn rắn ở đâu.
Từ hôm Hộ Pháp Phạm Công Tắc họp báo đến nay đã ba tuần lễ đó, tình hình miền Nam tiếp tục xáo trộn. Trước hết, tướng Trịnh Minh Thế tuyên bố với báo chí không tán thành bản tuyên ngôn của Mặt trận toàn lực quốc gia, kêu gọi các đảng phái và tôn giáo đoàn kết ủng hộ chính phủ của thủ tướng Ngô Đình Diệm. Tuyên bố thì như vậy, song tướng Thế lại có tên trong Ủy ban lãnh đạo mặt trận. Ở Quảng Trị, quân chính phủ và quân của đảng Đại Việt đánh nhau thật sự. Sau nhiều ngày, quân chính phủ mới lọt được vào Ba Lòng, sào huyệt của quân Đại Việt. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Thành Đây, thiếu tá Hòa Hảo, cánh Quốc gia liên hiệp, đem quân về quy hàng trung tá Nguyễn Khánh tại Cần Thơ, lễ quy hàng tổ chức thật rầm rộ. Ngày 12-3, chính phủ ra thông báo kết thúc “Chiến dịch tự do” tiếp thu vùng Cà Mau. Trước đó mấy hôm, Thủ tướng huấn thị thành lập Công dân vụ: vừa vũ trang tuyên truyền, vừa hoạt động tình báo, vừa tổ chức cơ sở ở các vùng trước kia do kháng chiến kiểm soát.
Ngày 19-3, một sự kiện nghiêm trọng xảy ra: lính Sénégalais thuộc Liên hiệp Pháp và quân đội Việt Nam xung đột đẫm máu tại Ngã Bảy Sài Gòn. Tuyên bố, bác bỏ, lên án, đính chính, xin lỗi... giữa chính phủ Việt Nam và Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp công bố liên miên trên các báo. Trong lúc đó, Quốc trưởng Bảo Đại, từ Cannes, ra một quyết định khiến mọi người đều hỡi ơi: Từ nay, Quốc khánh Việt Nam không cử hành vào ngày 8-3 – ngày ký hòa ước Elysée năm 1949, trong đó Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam – mà sẽ lấy ngày Gia Long lên ngôi, vào 21-5.
Ngô Đình Diệm không mù mờ như Bảo Đại. Ngày 21-3, trả lời phỏng vấn của truyền thanh, ông nhấn mạnh: Phải thống nhất quân đội, không thể có lực lượng riêng biệt; phải thống nhất hành chính, không thể có địa phương tự trị; phải thống nhất tài chính, không thể có những sắc thuế do địa phương tự động đặt ra. Và mới hôm qua, khi công bố điện văn của Bảo Đại yêu cầu Ngô Đình Diệm và các giáo phái giảng hòa, báo chí đồng thời công bố lệnh của chính phủ bãi bỏ chức Khâm mạng tại Hoàng triều cương thổ - tức vùng Tây Nguyên – của Nguyễn Đệ, thân tín của Bảo Đại và của hai người nữa là người Pháp.
*
Luân bỗng thấy có điều khác lạ ở Vũ Huy Lục: anh ta vừa kỳ cọ vừa như lắng tai nghe cái gì đó, mặt anh dường ngơ ngẩn.
Luân bước ra ngoài, Lục mải lắng nghe, không biết là Luân đã đến cạnh. Trong xe, một máy thu thanh rất nhỏ đang phát… Luân cũng lắng nghe và chỉ cần mấy giây anh hiểu liền: Đài Hà Nội, buổi nhắn tin vào Nam.
Lục nhận ra Luân, hốt hoảng tắt máy, tay lẩy bẩy. Luân nhìn Lục, cái nhìn nghiêm khắc, rồi anh quay vào nhà….
Mấy phút sau, Lục rón rén đứng cạnh bàn làm việc của Luân.
- Thưa ông kỹ sư! – Luân nghe tiếng Lục nuốt tiếng khóc – Xin ông thương giùm em. Lúc vào Nam vội vã, em không kịp gặp mẹ em, vợ con em…. Em nghe đài may ra biết tin của họ. Em khổ lắm!
Rồi Lục òa khóc. Luân quan sát anh ta một lúc. Toàn bộ gương mặt Lục toát vẻ đau đớn, sợ hãi và hết sức chất phác.
- Anh ra ngoài kia! – Luân xua Lục.
Lục bước nặng nề khỏi phòng, vừa bước, vừa khóc.
Luân theo Lục đến giữa sân.
- Em đành ngồi tù, chỉ buồn không rõ gia đình ra sao… Em nhớ gia đình em…
Lục thấy Luân đưa khăn tay chậm nước mắt.
- Bác sĩ Tuyến giao anh theo dõi tôi, vậy mà…
Luân bỗng chuyển sang chuyện khác.
- Thưa ông kỹ sư, – Lục vẫn nức nở - Em thề trước Chúa là không hề báo một điều gì xúc phạm đến ông kỹ sư…. Người ta giao cho em, em là cấp dưới, không vâng không được, em định báo với ông, nhưng lại thôi, vì thấy ông kỹ sư có làm điều gì trái phép đâu… Không tin, ông kỹ sư xem đây…
Lục rút trong túi ra quyển sổ con. Luân đọc:
Ngày 6-1, ông kỹ sư gặp ông cố vấn Ngô Đình Nhu.
Ngày 9-1, ông kỹ sư gặp ông cố vấn Ngô Đình Nhu
Ngày 12-1, ông kỹ sư vào Đại Thế Giới.
Ngày 14-1, ông kỹ sư ăn tiệc ở Arc – en – ciel.
Ngày 15-1, ông kỹ sư sang cầu chữ Y….
Ghi đến đó, Lục để khoảng giấy trắng. Luân trả sổ cho anh:
- Tại sao anh không ghi tiếp?
- Dạ, có gì phải ghi? Em trình với bác sĩ Tuyến, ông ấy bảo thôi…
- Bác sĩ Tuyến bảo thôi, mặc ổng… Anh cứ ghi đều đặn, nhớ chưa?
- Dạ, - Lục trả lời, ngỡ ngàng.
- Tỷ như bữa ta chữa xe, sao anh không ghi?
- Dạ!
- Cả anh Thạch nữa…
- Dạ, anh Thạch không được giao việc như em…
- Làm sao anh biết?
- Dạ, em biết…
“Có lẽ như thế thật!”, Luân nghĩ thầm. Song chính Thạch mới là nguy hiểm cho anh. Không phải tự Thạch – điều này ít xảy ra với người như Thạch – mà từ cách ném Thạch sát anh của Tuyến: đe dọa và tra tấn sẽ buộc Thạch phun hết mọi thứ!
- Thôi được rồi – Luân nói, thân mật – Tôi mong anh sớm biết tin gia đình và gia đình anh bình yên. Con anh tên gì? Mấy tuổi? Gia đình anh sống ở đâu? Tên là Thành à? Lên bốn… Thôn Hải Lý, xã Hải Vân, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định… Chắc họ còn sống không?
- Dạ, em nghĩ là họ còn sống. – Lục tươi tỉnh dần – Em đi lính Bảo chính đoàn Bùi Chu. Ông kỹ sư ở trong Nam nên không rõ, đi lính Bảo chính để khỏi bị đưa vào quân chính quy. Nhờ vậy mà em thoát chết ở Nho Quan, rồi Nà Sản… Không gặp gia đình, em hỏi mãi, người cùng quê bảo là mẹ em không chịu đi. Chả là em có một người cậu ruột theo Việt Minh..
Luân cau mày, Lục sợ hãi:
- Dạ, em giấu tiệt việc này.. Xin ông kỹ sư thương… – Lục sắp bật khóc.
- Anh có gặp cậu anh lần nào không?
- Dạ có! Lúc cậu em hoạt động vùng Hải Hậu. Em mang thơ giúp cậu em. Đó là lúc cha Hoàng Quỳnh chưa đưa lính Pháp về đóng trong vùng. Sau nầy, cậu em đi bặt, thật lâu mới nhắn tin về cho mẹ em.
- Cậu anh làm gì, anh biết không?
- Hồi ở Hải Hậu, cậu em làm chủ tịch ủy ban kháng chiến huyện…
- Vậy sao? - Luân nói như reo – Thôi được, anh đừng nói với ai về lý lịch của anh, lôi thôi đa! Cả với anh Thạch… Bầy giờ, anh lo xe, tôi có việc.
*
Nhu và Luân ngồi trong phòng làm việc của Nhu – vẫn là gian phòng nhỏ phía sau dinh Gia Long và Nhu vẫn mặc bộ quần áo không là.
- Ngô Trọng Hiếu là một con người đần độn! – Nhu cáu kỉnh – Nhưng, hắn giỏi nịnh và anh Diệm hay nhẹ dạ… Một công chức ngân khố có thể mẫn cán song một chính trị gia loại tồi. Anh có thấy như vậy không?
Luân lặng thinh.
- Nào phải chỉ mỗi gã Ngô Trọng Hiếu. Còn Trần Gia Hiến, Trần Quốc Bửu… cực kỳ lố bịch! – Nhu càng nói càng to tiếng.
- Điều gì khiến anh bực mình? – Luân hỏi
- Sao không bực mình được? Tôi muốn ta hành động khôn khéo, bọn hắn muốn phô trương. Tôi đã bảo: hãy cứ trách nhẹ Paul Ely vụ Sénégalais ở Ngã Bảy, bọn hắn họp hội nghị, ra tuyên cáo… Ngay với tướng Vỹ, tôi chủ trương vỗ về, bọn hắn dọa. Lũ đó chỉ được mỗi cái hò hét. Tổ chức biểu tình, anh thấy đó, toàn là mướn dân di cư, thật thảm hại…
Luân cười nhẹ:
- Mỗi loại thái độ đều có mặt lợi ích đối với chính phủ cả. Chính phủ cần sự thông minh, nhưng không phải không cần sự vụng về, thậm chí, xin lỗi anh, sự ngu xuẩn… Không phải bất cứ sự ngu xuẩn nào cũng đều… ngu xuẩn cả!
Nhu chồm người gần sát Luân:
- Anh nói cái gì mà lạ vậy?
Luân chỉ bức tranh treo trên tường: qua mấy cành anh đào, một ngọn núi đầy tuyết.
- Có phải kia là bức tranh “Núi Phú Sĩ” của Foujita không? Đúng rồi. Anh nghĩ xem, nếu không có cái khung bên ngoài, bức tranh giảm giá trị đến chừng nào? Cái khung xấu, tôi biết anh sẽ nói như vậy. Khung xấu trong trường hợp này đắc dụng lắm!
- Tôi chịu anh! – Nhu ngả người – Còn anh Diệm? Tôi muốn hỏi anh: anh Diệm có quá cứng không?
- Không – Luân lắc đầu quả quyết – Ông Bảo Đại lôi thôi, mọi người sanh lờn. Thủ tướng cần mạnh tay một chút.
Nhu gục gặc gật đầu một lúc.
- Thế nào, tay vệ sĩ ổn chứ?
- Cám ơn…
- Tôi nhắc anh: nó là vệ sĩ, chỉ có vậy thôi!
- Cám ơn anh! Anh ta khác người lái xe…
- Ồ! - Nhu đưa tay lên trời – Tôi phải thề với anh đó là sáng tác của ông Tuyến… Tôi sẽ thay lái xe cho anh.
- Không cần! – Luân cười – Chúng ta làm việc lớn, mà việc lớn đòi hỏi phải có những đảm bảo. Tôi không phiền đâu…
- Tùy anh! – Nhu buông thõng – Vở kịch lớn sắp hạ màn…
- Và sẽ mở màn cho những vở kịch không nhỏ khác!
Nhu mời thuốc Luân. Làn khói xanh nhẹ lượn trùm hai người và trong khói thuốc, cả hai đều như hư ảo…

CHƯƠNG 9

Luân đến nhà sách Yểm Yểm – đường Kitchener – hơn giờ quy định một chút. Anh giả vờ chọn sách, nhưng để mắt khắp cửa hiệu. Khách mua sách khá đông.
Ai kia... Một cô gái thon thả, cao, mặc áo dài xanh. Hai điểm trùng quy ước. Nhưng “người cộng tác tin cẩn và gần gũi” lại là một cô gái? Cô đang ôm một quyển sách. Nếu đó là quyển “Gone with the wind” của Margaret Mitchell thì thật là kỳ lạ. Trong một thoáng, Luân bỗng sợ: nếu không phải là người của A.07. Cô gái – đôi mắt to và linh lợi – mải mê với giá sách.
Một cô gái khác len lỏi giữa các kệ, vận áo dài màu xanh nhưng là kiểu áo Thượng Hải, tay cũng khư khư một quyển sách. Cô đẹp, cái đẹp cố ý phơi bày – ngược lại với cô kia. Cô lại ngó Luân và nhoẻn cười. Không thể được… Đây là cô Tiểu Phụng, người ca sĩ giọng trầm đã trình bày bài “Trung Hoa dạ khúc” tại nhà riêng Lại Văn Sang và là cô gái mang rượu tại Tổng hành dinh Bình Xuyên.
Cô đến gần Luân:
- Chào ông kỹ sư! - Cô đưa tay cho Luân – Em là Tiểu Phụng… Ông kỹ sư nhớ em không?
Luân dán mắt vào quyển sách của cô. Đó là quyển “Ngựa đã thuần rôi, mời ngài lên” của Lê Văn Trương.
Tự nhiên Luân thở phào.
- Em muốn nói chuyện với ông kỹ sư…
Cô gái ngước mặt, đắm đuối nhìn Luân.
- Cám ơn… - Luân lúng túng.
- Anh! – Một tiếng reo vui lọt vào tai Luân. Cô gái mặc áo xanh – đúng là cô gái ôm quyển tiểu thuyết lừng danh của nữ văn sĩ Mỹ - đứng ngay trước mặt Luân.
- Em!... - Luân đáp lại. Hai người như sắp ôm chầm nhau…
- Cô Tiểu Phụng, làm việc với thiếu tướng Lê Văn Viễn. - Luân giới thiệu Tiểu Phụng với cô gái.
Tiểu Phụng bắt tay cô gái, mắt tối sầm.
- Bà kỹ sư? – Tiểu Phụng hỏi.
Luân đỏ nhừ mặt. Nhưng cô gái nhanh nhảu cặp tay Luân:
- Chị gọi thế là hơi sớm… Song không có gì trở ngại nếu chị thích… - Cô nói giọng Hà Nội, hơi trầm, rất đỏng đảnh.
Rồi cô quay sang Luân:
- Em đói bụng quá, đợi anh mãi...
Giọng Hà Nội của cô thật dễ thương.
- Chào cô Tiểu Phụng. Tôi sẽ gặp cô...
Luân từ giã Tiểu Phụng – anh còn kịp nghe tiếng thở dài buồn bã của cô gái.
- Em là Dung... – Cô gái nói thật nhanh vào tai Luân – Mimôsa!
- Tôi là Nguyễn Thành Luân, “Kỵ sĩ”. - Luân cũng giới thiệu thật nhanh.
Lên xe, Luân giới thiệu:
- Đây là anh Thạch, giúp việc với tôi, đây là anh Lục, lái xe... Còn đây là Dung...
Luân ngừng ngang lời giới thiệu.
- Dung là gì của anh? – Dung cười nắc nẻ - Không phải là em họ, chẳng phải bạn của em gái...
Lục và Thạch đều cười. Họ khẽ liếc hai người ngồi sát nhau trên xe.
- Bây giờ đi đâu? – Luân hỏi.
- Đi ăn phở! – Dung vẫn hồn nhiên – Em thích phở 79 Frères Louis, chỗ hai đứa mình vẫn đến, anh quên sao? À! Cô Tiểu Phụng lúc nãy quen với anh lâu chưa? – Dung hỏi đột ngột.
- Đây là lần đầu tiên tôi nói chuyện với cô ta.
- Thật không? – Dung dồn Luân, mắt long lanh.
- Cô hỏi anh Thạch, anh Lục thì biết!
Thạch quay lại sau:
- Ông kỹ sư chẳng có bạn gái trừ cô. Tôi dám cam đoan bằng cái đầu của tôi! Ông bí mật đến nỗi hôm nay, tụi tôi mới bật ngửa!
Có lẽ Lục kinh ngạc hơn Thạch: ông kỹ sư đi với cô gái xinh đẹp này từ bao giờ?
Luân cảm thấy vui vui. Thỉnh thoảng anh rụt rè liếc cô gái.
- Cô hỏi anh đi đâu suốt mấy ngày Tết… Cô giận anh đấy!
Dung cứ huyên thuyên và rõ ràng, cô khéo léo hướng dẫn Luân từng hiểu biết cần thiết về cô.
Trong tiệm phở, hai người ngồi một bàn. Lục và Thạch ngồi bàn khác. Lục chia xẻ nồng nhiệt hạnh phúc của Luân: anh cứ nhìn Luân, Dung cười tủm tỉm mãi.
- Đây là những điểm A.07 dặn anh – Dung đẩy cho Luân gói thuốc lá – Em là thư ký văn phòng Trần Vĩnh Đắt, người Hà Nội, con gái ông Hoàng Tích Bảo, Chủ sự Sở Tài chính… Cô em, dòng họ Cự Doanh, vợ bác sĩ Trần Văn Soạn. Chúng ta quen nhau nhân một dịp nào đó.. tùy anh. Một buổi xem phim “Valse dans L’ombre” (1) hay “Tant qu’il y aura des homes” (2) cũng được. Đại khái là như vậy.
Dung không còn luyến thoắng nữa. Cô nói câu chót hơi ngập ngừng..
*
- Nhờ đâu cô nhận ra tôi?
Dung không trả lời ngay. Khi Dung cười, Luân phát hiện ra cái đẹp rất mực hồn nhiên. Dung dùng phấn chỉ một lượt rất nhẹ, son cũng vậy. Nhưng, Luân thấy người ngồi trước mặt anh lộng lẫy – giống như bức danh họa châu Âu vào các thế kỷ trước.
Từ bé, Luân nhát gái. Cho đến nay, anh chưa hề có một bạn gái. Quý thường chế riễu: “Đáng lý mày không nên sinh làm giống đực!’. Anh biết chỗ vô lý của mình, song hễ gặp các cô gái, anh không dám nhìn và càng ít dám bắt chuyện. Rồi anh tham gia cách mạng. Hoàn cảnh không cho phép anh làm quen với các cô. Hôm nay, tự nhiên anh dạn dĩ hẳn. Anh ngắm “người cộng tác tin cẩn và gần gũi” mà lòng rộn một xúc cảm như chưa bao giờ có. Công việc của anh bỗng trở nên nên thơ lạ lùng. Bức danh họa kia sống động hơn những bức danh họa trên giấy. Cô ấy cười, đôi má phớt hồng lúm đồng tiền. Luân cố lục trong trí nhớ những miêu tả của các nhà văn về một cô gái đẹp. Nhưng, anh không làm nổi.
Thực ra, anh đến quán phở “Tàu bay” 79 Frères Louis lần này là lần đầu. Người ta đồn đãi nó ngon nhất nhì thành phố. Có lẽ đúng, vì khách chật ních. Thế nhưng, anh chẳng thể đánh giá bát phở trước anh. Vì trước anh còn có Dung.
“Kỳ cục!”. Sau cùng, Luân xua ý nghĩ trong đầu. Đúng là kỳ cục, anh cứ xua, ý nghĩ cứ bám.
- Em nhận ra anh!
Dung trả lời, đôi mắt ánh lên sự tinh nghịch.
Hình như bây giờ Dung mới thoát hẳn vai diễn viên – nói chung, theo Luân, cô đóng khá đạt, tuy vẫn còn một ít sơ hở mà anh định bụng sẽ trao đổi với cô.
- Nhận ra tôi? Cô ở Sài Gòn nầy?
- Không! Em vừa vào, mới được vài tháng...
- Vào?
- Vâng!
... Còn hai hôm nữa là Dung lên đường vào Nam. Chú Dung đưa cô đến một ngôi nhà vừa dựng vôi, kèo cột bằng nứa, lợp lá cọ, nằm bên trong con đường dẫn lên thị xã Thái Nguyên. Phía dưới kia, làng Trung Giã – một làng chỉ được nổi tiếng từ khi Ủy ban liên hợp đình chiến Việt – Pháp lấy nơi đó làm điểm họp.
Trời đã sang thu. Xa xa, núi Gióng nhuộm màu biếc. Chân ruộng bỏ hoang, cỏ bắt đần xanh.
Người tiếp Dung là một bác Nam Bộ, đầu húi ngắn, hơi thấp nhưng thân thể khá lực lưỡng.
Chú Dung dặn truớc: Dung gặp A.07 – và chỉ biết như vậy thôi. Tuy nhiên, Dung không phải là đứa ngốc để không xác định được vị trí của người có nét mặt vừa rất hiền vừa rât kiên quyết, cười thường hết đà, nhưng lại không cười lâu – chú của Dung là cục phó, người kia nhất định cao cấp hơn cục trưởng…
- Cháu có gì cần hỏi thêm không? – Người đó chỉ chổ cho Dung ngồi: tấm vạt tre xếp thành chiếc ghế dài.
- Thưa bác, không ạ!
- Cháu đuợc đào tạo khá lâu, khá kỹ. Đây là lúc cháu ra trận. Bao giờ cũng vậy, những điều trong bài vở với những điều trong thực tế vần còn một khoảng cách. Phải tùy hoàn cảnh mà vận dụng…
Bác cán bộ vấn thuốc – những sợi thuốc Lạng Sơn vàng, giống như loại thuốc mà chú Dung thường hút. Sau mấy làn khói – bác rít rất ngon lành – bác nói tiếp:
- Cháu sẽ giúp đỡ một người của ta. Đừng tự ái vì chữ “giúp đỡ”. Cộng tác cũng được. Người đó cần có cháu. Đây, cháu nhìn kỹ ảnh anh ta!
Bác cán bộ đưa cho Dung bức ảnh chụp một Vệ quốc đoàn vận quân phục kaki; đeo súng ngắn, tóc hơi lòa xòa, mắt thật sáng. Tuổi thì khó đoán nhưng chắc không còn trẻ.
- Nhìn kỹ! – Bác cán bộ nhắc lại vì thấy Dung không được chăm chú lắm – Cháu sẽ phải nhận anh ta trước. Nên nhớ, anh ta không mặc như thế này đâu. Chú ý, mũi anh ra… trạc 33, 34 tuổi, da ngăm ngăm đen, người dong dỏng… Cháu không được giữ ảnh nầy, phải ghi bằng trí nhớ thôi.
Dung cầm bức ảnh, tập trung đầu óc. Anh Vệ quốc đoàn có vẻ như cười với cô.
- Mật danh anh ta là “Kỵ sĩ”.
- Anh ấy “dinh tê” sao? – Dung hỏi.
- Không! Anh ta thi hành hiệp định Genève, trở lại đời sống dân sự, đảng viên…
- Chà! Kỵ sĩ! – Dung khẽ kêu lên vì bức ảnh không thể hiện chỗ nào anh chàng này có dáng kỵ sĩ, dù cho anh vẫn bộ quân phục và đeo súng ngắn.
- Đánh giặc rất giỏi, rất gan, đáng lý phong tặng anh ta xứng đáng, song anh phải gánh vác công tác mới, việc đó sau nầy sẽ tính.
- Cháu có ngại điều gì không? – Bác cán bộ hỏi đột ngột.
- Dạ, bác muốn nói ngại về loại vấn đề nào? – Dung hơi bối rối, hỏi lại.
- Dĩ nhiên, bác không nói về sự nguy hiểm của công việc. Bác tin cháu. Tính bác thẳng, bác hỏi cháu vậy chớ cháu có thấy bất tiện khi cháu cộng tác với một người đàn ông – gọi anh ta là thanh niên cũng đúng, vì anh ta chưa vợ, chưa có người yêu.
- Sao mà bất tiện, hở bác? – Dung hỏi, không vui.
- Đừng tự ái... Cháu là gái, chưa lập gia đình, bác muốn đâu đó cho rõ ràng… Bởi cháu phải đóng vai người yêu của anh ta.
Bác cán bộ vẫn từ tốn. Dung bắt đầu nong nóng má…
“Chà, người yêu!”. Cô than thầm.
- Trước mắt kẻ thù và trong xã hội đó, cháu và “Kỵ sĩ” sắp cưới, thậm chí đã cưới… Yêu cầu của công việc đòi hỏi như vậy. Cháu có thể từ chối nếu cháu thấy không thể đóng tròn vai kịch. Cũng vì việc tế nhị như vậy mà bác gặp cháu hôm nay, chứ công tác thì đồng chí Thuận đã hướng dẫn cháu cặn kẽ rồi…
Chú Dung – đồng chí Thuận – từ đầu ngồi yên ở góc nhà, bây giờ lên tiếng:
- Tôi chưa nói với nó việc đó vì tôi tin là nó không từ chối…
- Bác tôn trọng những cái thuộc tình cảm. Đây là lĩnh vực mà đôi khi nghị quyết cũng phải chịu thua. Cháu còn trẻ, còn tương lai, vả lại không phải không có công việc cho cháu… Tùy cháu.
Bác cán bộ vẫn ôn tồn.
- Nếu cháu không nhận – Dung đắn đo một lúc – thì sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với yêu cầu chung?
- Tất nhiên là khó khăn… Song, ta sẽ tìm cách khắc phục. - Bác cán bộ trả lời.
- Hoặc, cháu đóng vai em, vai bạn, vai thân thuộc, được không?
- Không tốt! Cháu người Hà Nội, anh là người Nam, bà con quen thuộc sao được. Hơn nữa, muốn đánh lạc hướng kẻ thù trong trường hợp nầy, vai anh chị yêu nhau là thích hợp hơn hết.
Dung ngồi thừ khá lâu. Ngôi nhà lặng lẽ hẳn. Vô tình, Dung giữ mãi tấm ảnh của “Kỵ sĩ” trong tay.
- Có lẽ như thế nầy, anh Thuận! – Bác cán bộ bảo chú Dung – Anh hãy đổi với cháu về phương án II. Như vậy, cháu bỏ qua, quên tất cả những gì bác nói với cháu bữa nay. Cháu sẽ vào trong đó, với nhiệm vụ khác. Còn “Kỵ sĩ”, các bác sẽ bàn thêm…
Bác cán bộ toan lấy tấm ảnh lại. Dung không đưa. Cô nhìn thật lâu tấm ảnh.
- Cháu xin nhận nhiệm vụ! – Dung nói, giọng quả quyết, song hơi run.
- Cháu suy tính kỹ chưa?
- Kỹ rồi ạ!
- Thật không?
- Sao bác lại hỏi thế?
- Cháu có nghĩ đến tương lai riêng của cháu không?
- Cháu chưa nghĩ vì có lẽ không nên nghĩ quá xa về những việc riêng…
- Hay! Vả lại… - Bác cán bộ bỗng ngừng ngang, kèm một nụ cười thật nhân hậu. Bác không nói, song Dung hiểu bác định nói gì. Má cô đỏ bừng. Chính cô, sau đó, trách mình vô lý.
- Vậy là xong. Bác chúc mừng cháu… Bây giờ, bác dặn cháu khi gặp “Kỵ sĩ”, cháu nói với anh ta: Bác Hai nhắc, đây là cuộc chiến đấu của bộ óc. Tay chân càng ít dùng tới càng hay… Sở dĩ bác dặn cháu như vậy…
- Bác Hai nào, hở bác? – Dung hỏi.
- Cứ nói như vậy là đủ! – Bác cán bộ nghiêm giọng và Dung không kềm chế được, thè lưỡi – Bác phải dặn cháu là vì anh chàng nầy muốn làm kỵ sĩ thiệt! Anh ta hấp tấp trong vụ Sáu Thưng – cháu cứ nói với anh ta – dễ tạo sơ hở cho kẻ địch phăng ra đầu mối. Không nhất thiết khử Sáu Thưng bằng cách đó. Anh ta cần khôn khéo hơn.. Cháu nhớ hết chưa?
Dung trả lời bằng cái gật đầu, mặc dù cô chẳng rõ Sáu Thưng là ai, sao phải “khử”?
- Công việc của cháu sẽ rất căng thẳng. Nó đòi hỏi cháu sự say mê. Cái chủ yếu là biết kết hợp suy nghĩ chín chắn của toán học với sự nhạy cảm thành bản năng và tinh thần gan dạ! Luôn luôn ghi trong long: Nhiệm vụ chiến lược! Nhiệm vụ chiến lược! Cốt thắng toàn cuộc…
- Bao giờ thì công việc của cháu xong? – Dung hỏi, rụt rè.
Bác cán bộ không ngó Dung mà ngó ra xa chân trời.
- Bao giờ cháu cảm thấy nó xong thì nó xong!
Câu trả lời mông mênh vẫn giúp Dung một khái niệm: Lâu dài…
… Và, anh chàng “Kỵ sĩ” đang ngồi kia. Không khác người trong ảnh bao nhiêu. Trong ảnh, khó nhận ra những sợi tóc bạc, còn trước Dung, mái tóc của Luân có khá nhiều sợ trắng.
Tự nhiên, Dung thấy thân thiết với Luân – đồng đội mà từ nay cô sẽ cùng cột chung số phận.
- Hai người đi với tôi, một tên Thạch, nguyên là cảnh sát công lộ, nay chuyển sang an ninh, quê ở Chợ Gạo, Mỹ Tho; một tên Lục, quê Nam Định, mới di cư, lái xe. Tất cả đều là người của Ngô Đình Nhu…
- Và, thêm em, bí thư của giám đốc Nha Cảnh sát! - Dung pha trò. Song, cô bặt cười ngay. - Tài xế là Vũ Huy Lục, phải không?
Luân lo lắng:
- Phải, mà sao?
- Không có gì, anh yên tâm… Tí nữa em sẽ nói…
- Ta đi thôi! – Luân xem đồng hồ, họ vào quán hơn nửa giờ rồi. - Bây giờ, tôi với cô gặp nhau ở đâu?
Dung cười phá:
- Còn ở đâu nữa? Hoặc em đến nhà anh, hoặc anh đến nhà cô… Nhớ chưa, cô của chúng ta!
Những lúc như vậy, Dung trông thật sắc sảo.
- Hôm nay, anh đến nhà cô… Ở đó, ta nói chuyện có lẽ tiện hơn.
Nhà của cô chú Dung trên đường Paulus Của, xéo nhà thờ Chợ Quán, trong một dãy nhiều căn, bên ngoài có vẻ xuềnh xoàng, nhưng bên trong rất khang trang. Dung được chia trọn hai phòng rộng trên lầu với đầy đủ tiện nghi.
Bác sĩ Soạn và vợ đón Luân như đón người thân. Họ trách Luân nào không đến chơi, nào bỏ mấy bữa cơm mà Dung ra công nấu nướng và chờ Luân mãi…
Rồi cả hai giục Luân và Dung lên lầu, ông bà tiếp Thạch và Lục ở nhà dưới.
- Em vừa chuyển theo bưu điện thư nhà cho anh lái xe của anh…
Nghe Dung nói, Luân kinh ngạc một lúc.
- Bộ Công an giao cho em….
Luân bồi hồi ngó Dung: các đồng chí chu đáo đến những cái mà anh không ngờ.
Hai người to nhỏ gần suốt buổi. Trưa, Luân dùng cơm với gia đình.
Dung tiễn Luân ra cửa. Bỗng cô bối rối: Luân vụt ghì vai cô và hôn lên má. Suýt chút nữa, Dung xô Luân ra và mắng cho một trận. Nhưng, Luân thì thào:
- Chúng nó chụp ảnh!
Dung cũng vừa nhận ra, bên kia, một ống kính máy ảnh thò ra ngoài vòng rào nhà thờ.
*
Lục hí hửng tìm Luân đang xén chậu hoa hồng do Dung mang lại:
- Em vừa nhận thư của vợ em. Có cả ảnh bà và cháu nữa… Chẳng rõ vì sao họ biết địa chỉ em. Mà dấu bưu điện Sài Gòn… Hẳn ai đó mang hộ vào. Làm sao gặp được người mang thư để cám ơn…
Giọng Lục đứt quãng.
- Gia đình bình yên không?
- Tốt lắm, ông ạ! Cả tin cậu em nữa..
- Vậy hả? Cậu anh nhắn gì không?
- Có chứ… Bào em đúng làm gì bậy, rồi thế nào cũng sum họp gia đình…
- Tôi mừng cho anh. Anh chớ nói với ai là anh nhận được tin nhà. Nhất là Sở Mật vụ… Không phải ai cũng thích tin bình yên ở miền Bắc đâu...
Lục gãi tai:
- Em trót nói với anh Thạch...
- Chú Thạch bảo sao?
- Dạ, anh Thạch cũng dặn em đừng khoe, không có lợi...
- Chú Thạch dặn đúng. Anh nên nhớ, anh là nhân viên Sở Mật vụ.
- Em muốn trả quách của nợ “mật vụ” này! - Lục càu nhàu.
- Chớ! Chớ làm bậy! Anh xin ra khỏi mật vụ là vào khám ngay...
Lục đi rồi, Luân nhìn theo, thấy hình như không phải chỉ có mỗi Dung tiếp sức cho anh.
(1) Vũ khúc trong bóng mờ
(2) Khi còn có đàn ông

CHƯƠNG 10

Cuối tháng 3. Tình hình có vẻ như đang phát triển đến giai đoạn chót: dồn dập, gay gắt.
Mặt trận Toàn lực quốc gia “tối hậu thư” cho Thủ tướng, kỳ hạn trong vòng 5 ngày phải cải tổ chính phủ theo cương lĩnh của Mặt trận, bằng không máu sẽ đổ.
Nói cho đúng, dư luận chỉ biết được bức “tối hậu thư” qua thông cáo của ông Diệm. Điều đó có nghĩa là Mặt trận chỉ muốn dọa già. Nhưng Ngô Đình Diệm hành động không theo thuyết may rủi. Ông nhận thức được rằng mọi mặt đã chín muồi để cho ông có thể mạnh tay. Cho nên, ông phơi bày công khai những gì các giáo phái đang thậm thò thậm thụt. Thông cáo của chính phủ khá rõ. Trước hết, hãy thống nhất các lực lượng vũ trang vào Quân đội quốc gia, nhiên hậu mới bàn được các vấn đề chính trị. Mà đã gọi là thống nhất các lực lượng vũ trang vào Quân đội quốc gia thì không thể còn quy chế riêng cho bất kỳ phe nhóm nào.
Tất cả các khả năng đàm phán đều bị bít kín. Ngày 28-3, tướng Paul Ely gặp Ngô Đình Diệm. Tin tức về cuộc gặp gỡ thật mâu thuẫn. Báo Việt chỉ đưa những điều Diệm nói: Pháp nên giữ thái độ trung lập, lo triệt thoái cho sớm khỏi Nam Việt nếu còn muốn lưu lại đây một chút ân tình. Báo Pháp – thật sự, có mỗi tờ Journal d’Exttrême Orient (1) – lại giới thiệu rộng rãi quan điểm của tướng Ely; nên hòa giải, tránh xung đột, xung đột chỉ có lợi cho Cộng sản. Ông ta hứa sẽ dàn xếp và tin là dàn xếp được.
Không ai biết rõ tướng Ely đã làm gì để hòa giải. Nhưng ngày hôm sau – ngày 29-3 – Tổng trưởng Quốc phòng Hồ Thông Minh nạp đơn từ chức. Thủ tướng tiếp nhận một cách ung dung: Thủ tướng kiêm nhiệm Tổng trưởng Quốc phòng.
Và, đêm hôm đó, Công an xung phong bất thần đánh vào trụ sở Cảnh sát Đô thành, bộ Tổng tham mưu – đóng trên đường Trần Hưng Đạo, gần đình Tân Kiểng. Năm quả pháo 75 ly rơi vào dinh Độc lập – hình như pháo đặt ở Thủ Thiêm. Dinh Độc lập mới sửa sang xong, gia đình họ Ngô vừa dời đến.
Súng nổ một chập rồi im. Thông cáo của Bình Xuyên khoe chiến công. Thông cáo của Bộ Thông tin chỉ nhận thiệt hại. Mặc dù đúng ra, cả đôi bên đều có người chết và Công an xung phong chết nhiều hơn. Một lần nữa, Bình Xuyên tự đút đầu vào dây thòng lọng. Họ không lường được tai họa của thói huênh hoang.
Ngày 30-3, bốn thành viên chính phủ từ chức: Trần Văn Soái, tự Năm Lửa, Quốc vụ khanh, Ủy viên Quốc phòng; Lương Trọng Tường, Tổng trưởng Kinh tế; Nguyễn Công Hầu, Tổng trưởng Canh nông; Huỳnh Văn Nhiệm, Bộ truởng Nội vụ. Bốn người đều thuộc giáo phái Hòa Hảo.
Ngô Đình Diệm chấp nhận như đã mỏi lòng chờ đợi: Tổng trưởng Cải cách Nguyễn Đức Thuận kiêm chỗ của Hầu, Tổng trưởng Tài chính Trần Hữu Phương kiêm chỗ của Tường, Bộ trưởng Phủ thủ tướng Trần Trung Dung kiêm chỗ của Năm Lửa và Tổng trưởng Tư pháp Bùi Văn Thinh kiêm chỗ của Nhiệm. Ổn thỏa cả!
*
Đại tá Lại Văn Sang chuyển văn phòng Tổng nha về bên kia cầu chữ Y từ khi tình hình căng thẳng. Trong các thủ lĩnh Bình Xuyên, Sang nổi tiếng nóng tính nhưng lại là con người biết lo xa. Ông ta nhìn thời cuộc không giống em ông và các quân sư. Nói chung, ông ta không thích bọn quân sư – nói mồm nhiều. Ông ta cũng đặt thiếu tướng Lê Văn Viễn trong một cái khung hiện thực hơn là sự đồn đại. Với Pháp, ông ta bắt đầu lung lay niềm tin. Giả sử toàn bộ lực lượng của Pháp còn tại miền Nam mà cử sự một lượt, thế ăn thua chưa dám đoán chắc, huống gì Pháp một mực án binh bất động. Vụ lính Sénégalais thử nổ súng ở Ngã Bảy mang đến một hậu quả cực kỳ xấu: Bộ tổng tư lệnh Pháp di tản hết lữ đoàn đó ra Ô Cấp. Paul Ely là tướng, đúng vậy, song có vẻ ông bị trói chân trói tay, và hành động của ông mang hơi hướng chánh khách hơn là sĩ quan.
Từ sau bữa nhậu ở quán Théophile, De Chauvine biến mất, Sang nhắn nhe thế nào cũng không gặp được.
Cuộc nổ súng đêm 29-3 gần như là quyết định của Bảy Viễn. Sang không tán thành. Ông cho rằng đã đánh thì đánh luôn, chớ “thọc lét” kiểu này chỉ lãnh phần thua. Bảy Viễn lập luận khác – dựa theo các quân sư: tạo sức ép.
Tin đáng buồn: Bót Central lủng vài chỗ ở vòng rào, Tổng tham mưu sập nhà để xe, dinh Độc Lập thì không trầy da đất.
Giữa lúc Hồ Hữu Tường họp báo khoe khoang chiến công, Sang lầm lì với chai rượu mạnh và chiếc radio đang tường thuật lễ quy thuận của tướng Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất – gồm 42 người – tại dinh Độc Lập. Phương cho biết, nhân danh Đức Hộ pháp, toàn bộ lực lượng Cao Đài từ nay đặt dưới quyền sử dụng của Thủ tướng, chủ đòi một đặc ân: Xin Thủ tướng thương tình tha thứ cho những điều sai quấy trong quá khứ.
Rốp! Chiếc máy thu thanh bán dẫn bị Sang ném vào tường.
- Thằng chó đẻ!
Chiếc máy vẫn chưa chịu dừng tiếng:
“Quý vị thính giả! Hiện diện trong buổi lễ có đại sứ Mỹ Collins, Cao ủy Pháp Paul Ely, các đại sứ các nước thân hữu và đông đảo ký giả trong và ngoài nước…”
Sang rống lên như một con thú dữ:
- Đồ khốn nạn!
Ông ta đạp chiếc máy thu thanh đến khi nó chỉ còn những mảnh vụn.
Tiếng động ở phòng của Sang xô cùng một lúc hai người vào: Ly Kai và Tiểu Phụng.
- Thưa đại tá! – Ly Kai kêu lên thảng thốt.
- Mầy! – Sang quắc mắt ngó Ly Kai. Rồi ông ta nhìn nhanh. Khẩu Colt 12 đặt ở góc bàn.
Ly Kai ba hồn chín vía ù té chạy khỏi phòng. Tiểu Phụng gỡ tay Sang – ông ta nắm khẩu súng rồi.
- Đại tá! Bình tĩnh lại….
Sang buông súng, ngồi phịch xuống ghế thở dốc.
- Đừng đụng đến tôi! – Sang gạt phắt tay Tiểu Phụng – Các người hại tôi….
Tiểu Phụng kéo ghế, ngồi cạnh Sang.
- Tình thế chưa phải đã tuyệt vọng. Đại tá là người có trách nhiệm nặng nề, hễ mất bình tĩnh thì sẽ ảnh hưởng đến binh sĩ.
Giọng Tiểu Phụng điềm đạm, thậm chí hơi nghiêm khắc. Nó hoàn toàn trái ngược với trang phục của cô: chiếc áo hở cổ, jupe cao.
- Tụi Deuxieme Bureau (2) xỏ lá! – Sang rít qua kẽ răng.
- Đại tá nguyền rủa Phòng Nhì chẳng lợi ích chi. Đại tá toan hành hung với Ly Kai càng thất sách. Ông Diệm sẽ rất vui mừng khi biết tin đại tá không sửa soạn đánh mà ngồi rên rỉ…
Tiểu Phụng trách móc Sang một hồi. Ông ta như lấy dần lại tinh thần.
- Theo cô, tôi nên làm gì?
Sang nhổi thuốc vào tẩu.
- Tôi không đủ sức trả lời câu hỏi của đại tá. Nhưng tôi biết một người có thể giúp ích cho đại tá.
- Ai? De Chauvine?
Tiểu Phụng cười lạt:
- Chính đại tá vừa nguyền rủa Phòng Nhì kia mà!
- Vậy thì ai? – Sang sốt ruột.
- Đại tá có cách gì liên lạc với kỹ sư Luân không? - Tiểu Phụng trả lời gián tiếp.
- Kỹ sư Luân? Tôi có số điện thoại của ông ta, song không thể trao đổi bằng điện thoại được… À! – Sang vỗ đùi – Có thể được… Cò mi Ngọc! Cám ơn cô.
Sang đứng lên, nhanh nhẹn.
Tiểu Phụng vẫn ngồi yên chỗ cũ. Phòng làm việc chỉ còn mỗi mình cô.
Tiểu Phụng ngồi tựa má vào thành ghế, đăm chiêu. Bên ngoài cửa sổ thoáng bóng Ly Kai.
- Đại tá đâu rồi. – Gã thò đầu qua cửa sổ, toan lủi đi. Tiểu Phụng gọi giật:
- Đừng sợ. Đại tá hết nóng rồi. Cứ đứng đó.
Sang hối hả bước vào phòng.
- Bậy quá, trễ một chút!
Ông ta chưa nói hết thì kịp trông theo ngón tay của Tiểu Phụng.
- À! Xì thẩu…. Đừng giận, nghen!
Sang cười bả lả;
- Đại Thế Giới đóng cửa luôn, phải không?
- Đóng cửa luôn… - Ly Kai vẫn chưa bớt sợ, vừa trả lời, vừa thủ thế.
- Xì thẩu thấy mở sòng bài dưới Nhà Bè được không?
- Coi mòi khó… Tôi đi xuống đó một chuyến, hễ được thì trình với đại tá.
- Ừ… Xì thẩu cứ đi. Ráng kiếm đồng ra đồng vô cho anh em…
Ly Kai mừng húm, vài phút sau đã lên xe.
- Đại tá vừa nói cái gì? – Tiểu Phụng hỏi.
- Mật vụ bắt cò mi Ngọc rồi!
- Vậy tôi phải giúp đại tá mới được! - Tiểu Phụng vụt đúng lên. Mở ví soi lại mái tóc. Nhưng không hiểu nghĩ sao, cô xếp ví, bước thẳng.
*
Đèn đường đã lên. Xe Luân từ đại lộ Hồng thập tự vừa quẹo vào đường Michel thì gặp Tiểu Phụng. Cô vẫy tay ra hiệu. Luân bảo Lục dừng xe, Thạch xuống trước, tay mân mê báng súng.
- Tôi có thể nói chuyện riêng với ông kỹ sư được không? – Tiểu Phụng giả như không thấy vẻ nghi ngờ của Thạch, hỏi Luân.
Đôi mắt van nài của cô gái buộc Luân phải cùng đi sóng đôi với cô. Hai người thả bộ bên lề, Thạch giữ một khoảng cách với họ.
- Ông kỹ sư khinh em lắm phải không?
Luân lắc đầu.
- Ông kỹ sư biết em là ai không?
Luân vẫn lắc đầu.
- Em là nhân viên Phòng Nhì Pháp!
- Cô nói điều đó với tôi để làm gì?
- Ông không ngại những người con gái trong ngành tình báo sao?
- Còn tùy tình báo của nước nào và còn tùy người con gái ấy là ai…
Tiểu Phụng bỗng cầm tay Luân. Trong một thoáng, Luân đoán là cô gái sắp tung ra một đòn cân não – thuộc loại gì, Luân chưa rõ.
- Tôi báo cho ông một tin…
- Khoan! – Luân nói khẽ vào tai Tiểu Phụng. Hai người đang lọt vào bóng một cây. Luân choàng tay qua lưng Tiểu Phụng.
- Cô cho phép tôi!
Cái siết vừa phải của Luân được Tiểu Phụng hưởng ứng buông thả. Cô áp sát người anh, nhắm nghiền mắt, hé môi chờ đón.
- Anh vệ sĩ kia… - Luân bảo nhỏ - Nào, tin gì mà cô cần cho tôi biết?
Luân, vẫn giữ tay trên vai trần của Tiểu Phụng, bước ra khỏi vùng tối. Bây giờ, chính Tiểu Phụng hổn hển:
- Bạn thân của ông vừa bị mật vụ bắt… Ông Cò mi Ngọc!
Luân chấn động tâm thần. Điều mà anh hết sức lo lắng, đã xảy ra. Anh dự đoán trước – sự xúc động của anh được Tiểu Phụng hiểu theo nghĩa khác.
- Tôi cũng vừa được thông báo tin đó!
Luân nói bằng một giọng rầu rầu.
Đến lượt Tiểu Phụng kinh ngạc.
- Vậy sao? Ai báo cho ông?
- Tất nhiên là ông Cố vấn Ngô Đình Nhu.
- Tôi đã tính lầm! – Tiểu Phụng kêu như cô rên rỉ - Tôi định làm ơn với ông, mà lại… trễ tàu!
Tiểu Phụng nói hai tiếng “trễ tàu” với vẻ ngậm ngùi.
- Dẫu sao tôi cũng cám ơn lòng tốt của cô. Ngọc và tôi là bạn thân… - Luân siết vai Tiểu Phụng.
- Chỉ là bạn thân thôi?
- Chúng tôi cùng chiến đấu chung trong bưng biền…
- Ông không lo ngại cho bản thân khi ông Ngọc bị bắt?
- Cái đáng lo ngại là sinh mạng của anh ấy!
- Ta cho qua chuyện ông Ngọc… Bây giờ, đại tá Lại Văn Sang muốn gặp ông, rất khẩn cấp… - Tiểu Phụng thăm dò mắt Luân.
Luân rời xa Tiểu Phụng một chút.
- Hẳn là Bình Xuyên đang thấy mình rơi vào bước đường cùng. Tôi nghĩ là tôi không thể giúp ích gì cho đại tá.
- Trái lại, rất có ích… Tại sao các ông không hợp đồng với Bình Xuyên? Theo những cái tôi biết, các ông còn để lại nhiều lực lượng ở Đồng Tháp Mười, rừng U Minh, Dương Minh Châu, chiến khu Đ…
- Ai mà xướng xuất việc đánh nhau trong thời điểm nầy, người đó sẽ thất bại!
- Nhưng, cơ hội… Các ông bỏ qua cơ hội sao?
Luân cười:
- Cô có vẻ đi quá phận sự của một nhân viên Phòng Nhì Pháp! Người Pháp không thích sự hợp đồng mà cô đã nêu lên.
- Làm việc nầy, tôi không lấy tư cách Phòng Nhì.
- Vậy, cô lấy tư cách gì?
Tiểu Phụng đứng lại, đối mặt với Luân, dưới cột đèn đường:
- Ông Luân! – Giọng cô nghiêm trang và qua đôi mắt cô, Luân tin chắc rằng cô sắp nói những lời chân thật – Tôi là một phụ nữ Việt Hoa. Tôi đi vào cơ quan Phòng Nhì không vì chí hướng. Một cái sẩy chân, và, với người con gái một cái sẩy chân đủ trở thành món nợ mà người đó phải trả suốt đời. Chuyện rất dài, nhưng ông không cần phải mất thì giờ. Tuy chuyện rất dài, nó vẫn có thể diễn đạt thật ngắn. Phòng Nhì dùng tôi, đúng hơn, dùng thân thể tôi, lôi kéo tướng Viễn. Còn vì sao tôi chịu làm nô lệ cho Phòng Nhì thì… phải bắt đầu cắt nghĩa từ một nguyên nhân sâu xa hơn: vì tôi thích tiền, thích son phấn và quần áo… Ông Luân! Tôi gặp ông lần đầu tại nhà đại tá. Tôi hát có phần nào cho ông, nhưng không tự lòng tôi. Tôi chứng kiến ông bắn súng. Thật thà mà nói, tôi không phục ông bắn súng. Có thể còn có người bắn giỏi hơn ông và tôi không thích súng. Cuộc đời tôi tan nát gắn liền với tiếng súng. Song tôi phục những lời ông nói trước khi bắn – trong vô số những người thượng lưu của xã hội mà tôi biết không ai có cái đầu như ông… Từ đó, tôi mến ông! Giá mà tôi có thể hát tặng riêng ông! Tôi từng băn khoăn như vậy…
Dù dưới ánh đèn sáng, Tiểu Phụng vẫn áp sát vào Luân, tay cô mân mê cổ áo anh.
- Ông đừng cười. Có lẽ tôi hơi ngông cuồng. Tuy vậy, tôi chưa bao giờ lôi hy vọng tôi lôi cuốn ông. Cấp trên của tôi có lần đặt ra việc đó, và ông biết cái gì chứa đựng trong sự lôi cuốn ấy – tôi từ chối thẳng. Rồi, tôi gặp ông ở Tổng hành dinh. Ông và đại tá, ông Tài bàn cái gì, tôi nghe cả. Tôi bắt đầu cảm thấy ông tính toán không đúng: Tại sao ông cứ nhất định can họ đánh nhau. Chẳng lẽ họ đánh nhau là gây thiệt hại cho các ông?
- Cô không thể hiểu được chúng tôi! – Luân kêu lên – Nghề tình báo của cô đã nhồi cho cô một lối tính toán độc ác… Không! Chúng tôi trước sau vẫn muốn tránh chết chóc. Kiểu thủ lợi đó xa lạ với lý tưởng của chúng tôi.
- Ông Luân! – Tiểu Phụng nằn nì – Các ông không mất gì cả mà… Ông cứ hứa với đại tá Sang là ông sẽ phối hợp khi Bình Xuyên nổ súng. Hứa thôi, còn phối hợp hay không là do ông…
- Tại sao cô tha thiết đến như vậy? Cô có lợi gì đâu?
Tay Tiểu Phụng bỗng buông lỏng, cô dang xa khỏi Luân.
- Đến tận phút này mà ông vẫn không hiểu… Ai rình rập ông, ai định thủ tiêu ông? Tôi biết cả việc ông gặp nguy nơi “nhị tì”… Tại sao ông không tìm lối an toàn: chính quyền nầy nát thì nguy hiểm giảm hẳn đối với ông, đúng không? Tôi tha thiết là vì vậy!
Luân nhìn sững Tiểu Phụng. Nói gì bây giờ? Luân bối rối. Anh chỉ còn biết khoác tay Tiểu Phụng, tiếp tục bước những bước nặng nề.
Hai người lại lọt vào một bóng cây.
- Tôi không thể hứa với đại tá. Không thể nói láo! – Luân bảo.
Tiểu Phụng đột ngột ghì cổ Luân, hôn thật mạnh vào môi anh.
- Anh cho phép em! – Cô thì thào.
Luân cảm thấy một niềm xót xa tân ruột gan. Anh đỡ lưng Tiểu Phụng, toan hôn lại.
- Không! – Tiểu Phụng tránh mặt Luân – Em yêu anh, em hôn anh. Còn anh, anh đừng ban cho em cái hôn thương hại… Anh hãy dành cho cô gì em gặp ở nhà sách…
Tiểu Phụng gỡ tay Luân, sửa lại tóc:
- Chào ông!...
Một chiếc xích lô máy trờ tới. Tiểu Phụng leo lên.
Bây giờ, Luân mới kịp thấy cô khóc nhòe cả má…

(1) Viễn đông nhật báo
(2) Phòng Nhì

CHƯƠNG 11

Ngô Đình Nhu đang đọc sách. Quyển sách nhan đề “Ambassador on spécial mission” (1) của Huân tước Samuel Hoare, đại sứ Anh ở Tây Ban Nha trong Thế chiến thứ hai. Nhu đọc say sưa, thỉnh thoảng gạch dưới dòng bằng bút chì đỏ.
Có tiếng động, cửa nối liền phòng làm việc với phòng ngủ mở.
Trần Lệ Xuân đứng trước tấm kín lớn, ngắm chiếc áo hở cổ và búi tóc cực to quấn cầu kỳ trên đỉnh đầu mụ ta.
Nhu không ngẩng đầu nhìn vợ. Lệ Xuân cũng không chào chồng.
Khi tay Lệ Xuân đặt lên nắm đấm – mụ sắp ra ngoài – thì Nhu, mắt không rời trang sách, hỏi trỏng:
- Đi đâu?
Mặt Lệ Xuân sa sầm. Mụ quay quắt nhìn Nhu, như cướp được cơ hội tuôn hết bao nhiêu ấm ức:
- Đi với André!
- Để làm gì?
- Để làm những gì tôi thích!
Bây giờ thì Nhu rời quyển sách. Anh ta châm thuốc, tay lẩy bẩy, môi dường như tái hơn.
- Còn muốn rõ điều gì nữa không? – Lệ Xuân hỏi khiêu khích.
Rồi mụ nhảy xổ đến trước Nhu, một chiếc dép trật khỏi chân mụ, mụ trút nốt chiếc kia:
- Vì ai mà tôi phải chiều chuộng Bảo Đại, thằng Hinh? Vì họ Ngô!… Biết chưa? Ai xốc vác cơ ngơi nhà chồng từ dưới đất đen đặt vô dinh Độc Lập nầy? Anh nói coi nào?
Lúc giận dữ, Lệ Xuân phát tiết hết những cái ẩn tàng bên trong người đàn bà đẹp người nhưng sống trong sự nuông chiều từ tấm bé, kiêu căng và thực tế kém văn hóa. Mặt mụ long lên, hai tay chống vào hông, như sắp xé Nhu ra trăm mảnh:
- Tôi chỉ hỏi cô: tại sao cô phải gặp André?
Nhu, dù bối rối, vẫn cố giữ phong độ một gã đàn ông.
- Sao anh không hỏi luôn mọi chi tiết? Tôi nói cho anh hay: Hôm nay, tôi đi tắm biển với André, chúng tôi ăn và nghỉ trưa ở Long Hải, chiều tối cùng dự bal ở Câu lạc bộ sĩ quan – bal kéo dài suốt sáng, tối thứ bảy mà… Còn tại sao tôi phải gặp André? André hào hoa. Anh ta hầu hạ tôi như tôi cần! Đủ chưa? Anh muốn xem ảnh tôi và André chụp không?
Lệ Xuân nói một thôi. Giọng Bắc pha của mụ thật đanh đá. Mấy lần Nhu toan đưa tay lên ôm đầu, nhưng lại thôi. Có lẽ nét mặt đau khổ của chồng khiến Lệ Xuân bất nhẫn. Mụ hạ giọng:
- Hơn ai hết, anh hiểu tôi không vì thú vui mà phải tất bật với lũ đó…. Đứa nào đụng đến da thịt tôi, không mất mạng cũng tán gia bại sản… Anh muốn làm lãnh tụ thì đừng học thói ghen!
- Nhưng mà, dư luận về cô…
Lệ Xuân cướp lời Nhu:
- Làm như tôi điếc vậy…. Bọn ăn không ngồi rồi, bọn đâm thuê chém mướn, bọn chuyên tò mò chuyện riêng của người khác bằng cách dòm qua lỗ khóa, bọn đó bôi vấy tôi đủ điều. Nào tôi ngủ với Bảy Viễn, nào tôi hò hẹn với Paul Ely. Chúng ghép tôi cả với Năm Lửa, Nguyễn Thành Phương, Trịnh Minh Thế… Thậm chí, chúng bịa chuyện tôi tằng tịu với anh Diệm… Tóm lại, chúng cho tôi là con điếm.
- Miệng lưỡi thiên hạ.. – Nhu lắp bắp
- Anh định thế nào? Chỉ muốn nắm một phần quyền ở đây thôi sao? Với chúng ra, rien ou tout (2) chứ không ngập ngừng. Trong số sĩ quan do Pháp đào tạo, ai còn ảnh hưởng lớn nhất, sau khi tướng Hinh xuất ngoại? Có phải André không? Ông Tỵ ăn thua gì. André mà quay lưng về phía chống đối: các lực lượng chính quy sẽ án binh bất động. Trong điều kiện như vậy, mấy tiểu đoàn dù của ta thừa sức trấn áp bất kể nhóm phản loạn nào… Đó, tôi phải đi với André là vì vậy…
Nhu thừ người. Trang sách vô tình đặt trong tầm mắt Lệ Xuân. Mụ bất chợt cầm quyển sách.
- Anh đang đọc Samuel Hoere, sao không gạch đỏ câu đề tặng nầy: “A ma femme, qui fut la campagne fidèle et compréhensive de ma vie politique et sans qui nul chapitre de ma carriere n’aurait pu connaître le succès” (3).
Lệ Xuân đặt quyển sách xuống, ghé lên thành ghế; vuốt tóc Nhu:
- Nói đùa với anh, em đi gặp bà Bút Trà, ngày mai mới có hẹn với André. Anh không tin em sao?
Nhu ngồi im, không hiểu để suy ngẫm cái giá mà anh ta phải trả cho cuộc chinh phục quyền lực hay để tận hưởng sự âu yếm của vợ…
Có tiếng gõ cửa. Nhu trỏ hai chiếc dép lăn lóc trên sàn để Lệ Xuân lấy lại tư thế. Người hầu gái vào:
- Thưa ông bà, ông kỹ sư Nguyễn Thành Luân xin gặp…
- Mời ông ta! – Nhu ra lịnh.
Khi người hầu gái khép cửa, Lệ Xuân hỏi:
- Thằng Cộng sản nầy thế nào rồi.
- Nó vẫn như em nói! Một thằng Cộng sản… Nhưng thật may, chất Cộng sản của nó đang loãng dần. – Nhu với tay lấy trong hồ sơ bức ảnh chụp Luân đang hôn Dung.
- Con bé kháu quá! Của ở đâu ra vậy? Tụi trong khu với nhau à? - Lệ Xuân ngắm nghía ảnh, hỏi chồng.
- Hoàng Thị Thùy Dung, di cư…
- Ái chà! Sao thằng kỹ sư tóm được con bé?
- Em nên đặt ngược câu hỏi: Vì sao con bé tóm được thằng Luân… Con bé là bí thư của Trần Vĩnh Đắt.
- Thế à?… Nhưng – Lệ Xuân trao tấm ảnh cho Nhu, cau mày – Anh nên thẩm tra kỹ. Ba mươi bốn tuổi, chưa có bồ, bỗng đùng một cái, bắt bồ với người của Nha Cảnh sát, lại là dân di cư… Lý lịch con bé rõ không?
- Rõ! Cha là công chức cao cấp của Pháp. Cô là chủ đồn điền trà trên Blao, vợ của một bác sĩ. Bà ta thuộc gia đình Cự Doanh. Cô bé học luật…
Lệ Xuân thở phào:
- Vậy thì ổn. Song anh cũng cứ dặn theo dõi…
Nhu gật đầu. Có tiếng gõ cửa. Nhu cất ảnh, Lệ Xuân sửa lại vạt áo cho thẳng thớm.
- Mời vào! – Nhu nói to.
Luân mở cửa, bước vào phòng.
- Chào anh chị!
Lệ Xuân đon đả bắt tay Luân
- Trông anh Luân hôm nay trẻ hẳn ra…. Có phải không anh?
Nhu gật đầu cười – mặc dù anh ta chờ Luân mang một bộ mặt đau khổ đến. “Vậy là hắn chưa biết tin thằng Ngọc” – Nhu nói thầm.
- Tôi lại nghĩ khác! – Luân nói vui – Anh chị hôm nay có tin gì mà phấn khởi vậy?
Nhu chớp mắt. Thằng cha này đâu rõ bão tố vừa nổi lên giữa hai vợ chồng mình. Hay là nó xỏ?
- Bao giờ thì cho chúng tôi uống rượu? – Lệ Xuân vừa chỉ ghế mời Luân ngồi, vừa nói.
- Tôi chẳng hiểu gì ráo! – Luân giả bộ ngơ ngác.
- Thôi đi, ông tướng ơi – Lệ Xuân hơi cợt nhả - người ta đồn anh kỹ sư là Phật, té ra không phải.. Đã thưa với Đức Cha, với anh Thủ tướng chưa? Còn phải báo cáo với các cụ ngoài đó nữa… Mà trước hết, anh phải trình diện cô dâu với tôi. Cô Thùy Dung năm nay bao nhiêu tuổi?
Nhu muốn ngăn vợ mà không sao ngăn được. Nói toạc như Lệ Xuân cũng bằng thú nhận với Luân là mật vụ đeo sát anh, kể cả việc riêng tư. Mà việc riêng tư nầy thì Luân chưa hề hé môi…
Dĩ nhiên Luân hiểu rằng những bức ảnh đã giúp Nhu. Nhưng, anh tránh cái chỗ tế nhị đó.
- Chị thiệt tài… Tôi cũng định sẽ thưa với cả nhà, chỉ chờ dịp thôi. Thùy Dung 24 tuổi…
- Chắc là đẹp lắm!
Nhu thiếu điều “hừ” vợ. Ngu ngốc quá chừng. Anh ta trao cho Luân điếu thuốc.
Luân nhận điếu thuốc – từ khi giao thiệp với Luân; Nhu bao giờ cũng để trên bàn một hộp Craven A – và làm như bẽn lẽn.
- Thôi, hai anh em bàn công việc. Tôi đi đây!
Lệ Xuân bắt tay Luân.
Còn hai người trong phòng. Nhu đưa cho Luân một xấp giấy đánh máy:
- Anh xem. Phúc trình của Bộ ngoại giao về Hội nghị Băng-đung. Anh Diệm sẽ đích thân cầm đầu phái đoàn Việt Nam, lấy ông Nguyễn Văn Thoại làm phó. Anh Diệm phải xuất hiện ở Băng-đung sao cho hợp với khẩu vị các nước chủ xướng, nhất là với ông Nerhu và ông Soekarno… Ngoại giao tuy gặp khó song không khó bằng nội trị. Các phái lợi dụng hội nghị Băng-đung gây rối cho ta. Anh đã biết rồi, ông Trần Văn Hương từ chức, sau các ông Nguyễn Thành Phương, Phạm Xuân Thái…
- Ông Phương từ chức có lợi cho chính phủ. - Luân nhận xét.
- Đúng. Phương bị các giáo phái chửi bới quá, từ chức không phải để phản đối chính phủ. Ông ta có hỏi ý kiến tôi. Còn ông Thái là người thân Đại Việt. Việc từ chức của ông ta không mang ý nghĩa gì lớn. Trường hợp ông Hương thì khác… Xôn xao dữ!
Nhu lấy trong cặp ra một bức điện!
- Điện của tướng Collins. Anh nghe: “Tôi đã tường trình với Tổng thống. Vài ngày nữa, Tổng thống sẽ gửi điện cho Thủ tướng Diệm xác nhận chính phủ Mỹ tiếp tục ủng hộ Thủ tướng đồng thời qua đại sứ Pháp ở Hoa Thịnh Đốn, ngoại trưởng Foster Dulles sẽ nói thẳng với chính phủ Pháp, ngăn chặn mọi ý định xúi giục hoặc tiếp tay của tướng Paul Ely với các phái muốn nổi loạn. Có thể, tướng Paul Ely sẽ bị triệu hồi”. Tất cả đều rõ ràng. Bây giờ, cốt sao Bình Xuyên không hạn chế hoạt động ở mức quấy rối, để ta ra tay một lần thật gọn. Mũi nhọn là Bình Xuyên. Ta đẩy được Bình Xuyên từ vị trí chống đối chính trị sang vị trí chống đối vũ trang với chính phủ tức là ta đã thành công trong yêu cầu xử trí toàn bộ các phe nhóm…
Nghe Nhu nói, Luân bỗng nhớ tới bộ Đông Châu Liệt Quốc. Không rõ gã nhiễm các mưu mẹo rặt Tàu ấy tự bao giờ. Nhưng phải công nhận là gã khôn ngoan và thâm hiểm. Trong ttát cả các chính khách đối lập mà Luân biết, chưa ai bằng cái móng tay của gã.
- Anh nghe vụ cháy lớn ở Khánh Hội chưa? Bộ Thông tin sắp họp báo. Phải đánh cho Bình Xuyên một đòn ra trò. Đốt nhà dân là tội ác mà dư luận quốc tế không bao giờ tha thứ….
Luân chợt mỉm cười. Nhu mất trớn liền trước cái cười ngụ ý của Luân.
- Anh chưa biết một chuyện: thủ phạm đốt nhà bị Lại Văn Sang bắt gọn đêm qua… Đài phát thanh Bình Xuyên loan báo mọi chi tiết. – Luân nói mà tránh nhìn Nhu.
Nhu tái mặt. Anh ta quên những lời hùng hồn kết tội đốt nhà anh ta vừa thốt, quên cả sự có mặt của Luân, nhảy bổ lại máy nói:
- Alô.. Tôi nói chuyện với ông Đắt… Tôi là Nhu… Ông Đắt đó, phải không?... Sao nhiều tạp âm trong phòng ông quá vậy? Tắt máy quay đĩa đi! Ông say rượu hả? Ông có nghe đài Bình Xuyên nói cái gì không? Không! Họ nói họ đã tóm hết bọn đốt nhà. Sao, họ nói láo à?
Nhu quay lại Luân, dò hỏi.
- Anh báo với ông Đắt: Lại Văn Sang bắt nhóm của Lã Văn Thụy gồm sáu tên tại hẻm 4 Cầu Kho hồi hai giờ khuya nay. Họ đã cung xưng cả mật danh F.8 của kế hoạch.
Luân nói to và Nhu hướng ống nói về phía anh.
- Ông nghe chưa? Ông không biết à? Thế mà ông dám ăn mừng, gan thật… Tôi chờ ông một giờ nữa. Té ra F.8 của ông là đốt nhà dân!
Nhu gác máy dù ở đầu dây kia Đắt vẫn còn lải nhải.
- Làm việc với lũ vừa ngu vừa ham ăn hốt uống này thật khổ!
Nhu gieo mình nặng nề xuống ghế.
*
…. Dung trực văn phòng từ 9 giờ đến 12 giờ đêm. Khi Dung vào Nha Cảnh sát thì người trực báo cho cô biết là giám đốc Trần Vĩnh Đắt đang ở văn phòng của ông. Dung vốn ghét viên giám đốc “xấu máu” nầy. Mỗi lần giao việc cho Dung, lão rề rà khá lâu, cặp mắt đảo ngược đảo xuôi khắp người cô. Lão vốn rất lười, thế mà lại đến văn phòng vào giữa đêm là việc lạ.
Dung giở chồng công văn mới nhận. Không có loại nào tối khẩn phải trình ngay cho giám đốc. Toàn là tin liên quan đến các chốt của Bình Xuyên ở đô thành và của giáo phái các tỉnh. À, cái nầy có thể tạm dùng được. Lương Trọng Tường cùng một số nhân sĩ họp ở trụ sở đảng Dân Xã, đường Duranton, trong đó có bác sĩ Phan Quang Đán – một phần tử nghe đâu là con bài của đảng Dân chủ Mỹ. Việc quan trọng, phải xin ý kiến giám đốc ngay!
Dung cầm tờ công văn, hối hả sang phòng giám đốc. Người lính bảo vệ bắc ghế ngồi án lối vào, thấy Dung, đứng dậy, bảo khẽ:
- Đại tá đang bận…
Từ trong phòng lọt ra các câu đối đáp:
- Ê, thằng kia, mầy tội gì, tù bao lâu? – Tiếng của Đắt.
- Dạ em lỡ dại…. – Tiếng trả lời ồ ề.
- Ăn cướp hả?
- Dạ… em lãnh án chung thân
- Nhà mầy ở đâu?
- Dạ hẻm số 4 Cầu Kho…
- Còn thằng kia?
- Dạ, em cùng với đại ca đây…
- Thôi, tụi bây nghe lệnh thằng đại ca của tụi bây… Mầy tên gì?
- Chín Ngón…
- Tên giấy tờ kìa!
- Lã Văn Thụy…
- Thằng Thụy cầm đầu…
Thấy không nên nghe lén lâu, Dung gõ cửa.
- Đứa nào? Tao biểu đừng có vô, chộn rộn…
Đắt gắt gỏng, song vẫn mở cửa.
- Dạ, có công văn khẩn, tôi xin đại tá ký nhận.
- Ủa, cô Thùy Dung…
Đắt cười mơn, nhận giấy tờ. Trong phòng, Dung thấy sáu tên mặc áo quần tù đang ngồi bệt dưới nền gạch; mặt mũi đứa nào cũng hung tợn.
Đắt liếc qua tờ giấy.
- Ối, tụi nầy giỏi đánh giặc miệng, hơi đâu mà lo. Cô cứ ghi vào góc, gửi cho Phòng trinh sát… Cô đi làm đêm có cần xe đưa về nhà không? Lát nữa, tôi đưa cô…
Đắt hau háu chờ cái gật đầu của DUng. Nhưng lão cụt hứng khi biết chính Luân sẽ đón Dung.
Đêm đó, cô thuật những điều nghe thấy cho Luân.
Đêm sau, hàng nghìn nhà thường dân vùng Khánh Hội phát cháy dữ dội. Cuộc điều tra cấp tốc của chính phủ đi đến kết luận là có kẻ chủ mưu đốt nhà bằng xăng đặc. Hung thủ mặc quần áo Công an xung phong Bình Xuyên, sau khi châm lửa – lửa trên gió nên phất thật nhanh và, vì đây là xóm gồm hầu hết nhad lá nên không thể nào ngăn lửa nổi – hung thủ chạy về hướng Chánh Hưng… - Báo chí thân chính phủ lập tức lên dấy lên một chiến dịch tố cáo tội ác “bọn lạ mặt” - tuy không gọi đích danh song các tang cớ đã nói rõ vụ đốt nhà tàn bạo này là do Bình Xuyên.
Với Luân và Dung, sự việc không còn bí hiểm. Nhất định là của Trần Vĩnh Đắt. Lại Văn Sang nhận được một cú điện thoại của một người dấu tên và cố ý giấu cả giọng nói báo chỗ ở của Lã Văn Thụy, biệt danh Chín Ngón, tù chung thân về tội ăn cướp. Lại Văn Sang truy tông tích của Chín Ngón chẳng mấy khó khăn và túm gọn cả sáu đứa đang say mèm. Nội vụ được đài phát thanh Bình Xuyên tường thuật tỉ mỉ. Cuộc họp báo mở ngay bên kia cầu chữ Y, trình diện hung thủ, tha hồ cho phóng viên chụp ảnh, phỏng vấn.
*
- Thằng Đắt hại tôi! – Nhu chà mạnh thái dương; kêu to – Nó tự động… Tôi sẽ sạc cho nó một trận. Đốt nhà dân làm chi? Nó báo với tôi F.8 là kế hoạch chống lại âm mưu đốt nhà của Bình Xuyên!
- Ngoài yêu cầu của chính phủ, ông Đắt tính cũng đủ đường: một cách đuổi khéo dân lao động để giành đất cất nhà… Rồi anh sẽ thấy, đơn các nhà thầu xin mua hoặc mướn đất bay về tòa Đô chính như bươm bướm… - Luân không buông tha Nhu.
- Anh nhớ cho: tôi không hề hay vụ nầy. Khi ánh lửa rực trời, tôi điện hỏi… Tôi giục xe cứu hỏa hoạt động. Anh mà gán tội cho tôi thật là oan! – Nhu làm vẻ giận dỗi.
- Và, xe chữa lửa mãi nửa giờ sau mới rời căn cứ.. Tại dốc cầu, ai đó lật một xe bánh mì cản đường. Mấy chục lính cứu lửa ì ạch hết 15 phút để làm cái việc của nửa phút là hất chiếc xe bánh mì vô lề. Và, cả một biển lửa được tưới bằng hơn chục vòi rồng… - Giọng Luân chậm rãi song là giọng đay nghiến.
- Ơ hay! Bộ anh đổ lên đầu tôi trách nhiệm hay sao? - Nhu sừng sộ.
- Tôi không đổ, trách nhiệm vẫn không chịu lánh xa anh. Anh sẽ giải thích thế nào đây? Chắc là các hãng đã đánh đi bản tin hay ho nầy và những đài phát thanh nhạy cảm sẽ không bỏ qua. Anh nghĩ sao nếu một số hội nghĩ sĩ nào đó trong Quốc hội Mỹ đặt vấn đề với Tổng thống Eisenhower?
- Tôi đã nói là tôi vô tội trong vụ nầy mà! – Nhu vò đầu kêu khổ.
- Trong khi thỏa thuận cộng tác với anh, nhiều lần tôi lưu ý anh về quan điểm của tôi: sẽ không thể còn quan hệ với nhau nếu anh quên một trong những nguyên tắc là tôn trọng, giữ gìn lợi ích của dân chúng…
- Thì chính tôi cũng luôn luôn trung thành với quan điểm đó! Tôi hứa với anh tôi sẽ làm ra lẽ. Nếu ông Đắt là tác giả, ông ấy sẽ phải trả giá đúng như tên ông ấy – rất đắt! Anh chịu chưa?
Luân lặng thing hồi lâu. Nhu gọi hai ly nước cam.
- Anh đa nghi quá! – Nhu cười.
- Chưa biết giữa tôi và anh, ai đa nghi hơn ai! – Luân cũng cười. Không khí dịu trở lại.
- Gì nữa đó? – Nhu hỏi, chờ đợi…
- Cái plafond (4) nhà tôi giúp ích cho anh được những gì rồi?
- Hả? Cái plafond? – Nhu kinh ngạc thật sự
- Tức là hệ thống ghi âm của bác sĩ Tuyến đó!
- À! – Nhu vỡ lẽ - Thằng cha Tuyến!
Nhu dùng ly nước cam để che cái sượng sùng.
- Từ hôm nay, nó sẽ không còn nữa – Nhu nói.
- Tôi không yêu cầu như vậy…
- Tôi bỏ vì máy móc đôi khi có lợi cho anh hơn cho tôi. – Nhu cười phá.
- Nếu tôi định chơi trò cút bắt với anh thì tôi đã giả đò như không biết hệ thống đó. Thật ra tôi vừa thấy nó. Đúng hơn, người thợ sửa điện thấy nó.
- Ấy là chuyện hồi tụi mình chưa hiểu nhau. Cả điện thoại của anh cũng bắt parallèle (5). – Muốn lấy lòng tin với Luân, Nhu đi xa hơn điều Luân chờ đợi – Nó cũng sẽ không còn…
Luân không lộ vẻ xúc động – anh tin là Nhu sẽ giữ lời hứa và nó tiện lợi hơn cho công việc của anh.
Người cất được gánh nặng lại là Nhu: “Với gã Luân nầy, những trò tương tự thật là trẻ con, chỉ khiến gã xem thường mình” – Nhu thầm nghĩ.
(1) Đại sứ trong nhiệm vụ đặc biệt
(2) Được ăn cả, ngã về không – Ngạn ngữ Pháp
(3) Tặng vợ tôi, người đồng đội trung thành và thông cảm của cuộc đời chính trị của tôi, thiếu em đường sự nghiệp tôi khó mà ghi được một bước thành công nào. – tiếng Pháp
(4) trần nhà – tiếng Pháp
(5) mắc song song – tiếng Pháp

CHƯƠNG 12

Các sử liệu sau này ghi rất vắn tắt về sự cố bắt đầu ngày 28-4-1955 và kéo dài đến ngày 10-5: quân đội Bình Xuyên và quân đội của Ngô Đình Diệm đánh nhau tại đô thành Sài Gòn, hàng vạn nhà cháy.
Con số thống kê và tổn thất nhân mạng theo thời tiết chính trị mà tăng giảm. Khi chiến sự đã lắng, Tổng trưởng Thông tin Trần Chánh Thành quyết giới thiệu vụ Bình Xuyên như là một thứ ghẻ ngoài da, tổng số cả đôi bên chưa quá một trăm người chết. Dĩ nhiên, cần phải nhân lên mười mấy lần hay hơn nữa con số đó mới gọi là gần với chân lý. Trong tất cả những trận giao phong với các giáo phái, quân của Ngô Đình Diệm nếu đụng phải một sức mạnh chống trả thì sức mạnh chống trả đó là của phe Bình Xuyên – và sau nầy, của Ba Cụt.
Những người chứng kiến tại chỗ biết rằng Bình Xuyên và quân của Ngô Đình Diệm nổ súng đúng ra từ đêm 29-3. Từ đêm đó, trụ sở Tổng nha Cảnh sát quốc gia đường Catinat vẫn duy trì như một đồn lũy, dù cho tổng giám đốc đã di chuyển nơi làm việc. Đối lại, những khẩu pháo 57 ly trên mấy chục chiếc xe bọc thép nép dưới vòm cây dưới dinh Độc Lập ngó châm bẩm vào các ụ cát ngay cửa Tổng nha. Mãi đến ngày 18-4, một số công chức công an lén vượt tường Trường Taberd xin đầu thú. Ở Gò Vấp, Công an xung phong và quân dù bắn nhau đến 20 ngày, và sau cùng, Công an xung phong đầu hàng. Nhưng, một đoàn xe chở lính chính phủ lại bị lựu đạn trong Chợ Lớn, thương vong nặng. Bộ Tổng tham mưu lại bị đạn cối.
Đô thành ngộp thở. Tin tức đủ loại: Pháp cho chính phủ Ngô Đình Diệm đo ván, giáo phái đã sẵn sàng, Việt Minh phối hợp “đánh rốc” từ vĩ tuyến 17 vào; Mỹ đổ bộ ủng hộ ông Diệm. Có thể xài bom nguyên tử, Trung Cộng sẽ “ra tay” chặn Mỹ… Giới Hoa kiều Chợ Lớn chưa bao giờ chịu nhường cho ai cái quyền bào chế những tin động trời nhất: Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch vốn “đánh cuội”, nay nghe lộn xộn ở Chợ Lớn, sẽ “biểu” Ngô Đình Diệm với Bình Xuyên đụng đâu thì đụng chớ đừng gây khó dễ cho Hoa kiều, nhược bằng cãi lại thì Lưu Bá Thừa và Hà Ứng Khâm, một người xua quân bộ, một người xua quân thủy, ào một lượt “Ngô Đình Diệm với Bảy Viễn nhất định xí lắc léo”…
Trong khi đó, mỗi bên đều sửa xoạn thanh toán nhau đến mức tối đa, đồng thời tự chứng tỏ mình đã cố gắng đến mức tối đa “vì lợi ích đoàn kết quốc gia”. Hội Alliance Française (1) mở cửa phòng triển lãm tranh Van Gogh. Thủ tướng Ngô Đình Diệm kêu gọi Công an xung phong hạ vũ khí, các lực lượng giáo phái thống nhất vào Quân đội quốc gia, hứa hẹn bầu cử Quốc hội. Chính phủ tung ra một đòn: tổ chức hỏi ý kiến dân về các vấn đề trọng yếu như dân chịu thống nhất quân đội không, chịu bài trừ nạn mất an ninh trật tự không v.v…
Collins về Mỹ hôm trước, hôm sau chính phủ Mỹ tuyên bố: trong hoàn cảnh tế nhị ở Nam Việt Nam, chính phủ Mỹ và cả thế giới tự do không còn có sự chọn lựa nào ngoài sự ủng hộ chính phủ do ông Ngô Đình Diệm đúng đầu. Bản tuyên ngôn cố tình quên Quốc trưởng Bảo Đại và người ta biết, đó là sự dàn xếp giữa Mỹ và Pháp.
Bởi vậy, khi báo chí đăng rộng rãi thái độ dứt khoát của Mỹ, Ngô Đình Diệm liền ký một sắc lệnh mà ông đã để sẵn trên bàn viết từ ngày ông chấp chính: cách chức Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia của đại tá Lại Văn Sang, loại Công an xung phong ra ngoài vòng pháp luật, bổ nhậm đại tá Nguyễn ngọc Lễ thay Sang, dời trụ sở Cảnh sát khỏi đường Catinat – trung tâm thần kinh của đô thành. Ụ súng lại được đắp thêm. Quân chính phủ cắm trại. Quân Bình Xuyên giàn giá.
Ngày 28-4, văn phòng của Bảo Đại ở Cannes điện về cho Thủ tướng một loạt chỉ thị - có lẽ Quốc trưởng ký khi còn ngái ngủ: Không được cắt chức Lại Văn Sang, không được làm điều gì trái với chính sách đoàn kết quốc gia của Quốc trưởng, mọi người phải tôn trọng kỷ luật, chỉ định thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng tham mưu trưởng, ra lịnh cho Thủ tướng sang Pháp ngay báo cáo tình hình với Quốc trưởng v.v….
Có lẽ Bình Xuyên nóng lòng chờ những chỉ thị như vậy. Vào một giờ trưa cùng ngày, súng nổ. Trận đụng độ lớn nhất giữa Ngô Đình Diệm và các giáo phái bắt đầu….
*
Luân vừa nghỉ trưa được mươi phút thì tiếng động dựng anh dậy.
- Đánh lớn rồi! – Thạch và Lục đứng ngoài sân bảo nhau.
Chị Sáu – người nấu ăn mà Luân vừa nhờ - niệm Phật liền miệng. Chị rất sợ súng: quê chị trải 9 năm trong tiếng súng, chồng chị - một nông dân bình thường và đứa con trai duy nhất của anh chị lên 8 chết vì đạn lạc. Không rõ đạn của Tây hay của du kích, nhưng chính từ những tiếng nổ như hôm nay…
Điện thoại reo. Nhu báo cho Luân tin tức sốt dẻo: Bình Xuyên đánh một lúc nhiều mục tiêu – Bộ Tổng tham mưa, Nha Cảnh sát Đô thành, Tổng ủy Di cư… Đạn súng cối rơi khá nhiều trong khuôn viên dinh Độc Lập….
“Một quả súng cối nổ ngay chỗ tôi với anh thường ngồi uống cà phê, hai chiếc ghế mây trúng mảnh, chậu hoa bên cạnh gãy hết mấy cành…”
Nhu ung dung – và hóm hỉnh – giữa lúc nhiều đám cháy bốc cao, tàn lửa xoáy giữa trời trưa những cột lấp lánh.
Nhu không mời Luân vào dinh Độc lập ngay – nghĩa là theo Nhu, không có việc gì quá khẩn trương cần trao đổi – nhưng lại hẹn Luân ăn cơm tối với y.
- Có món cá trích ngoài Huế gửi vào, ướp lạnh nên còn tươi, tôi nhờ nấu đúng kiểu Thuận An đãi anh…
Nhu chưa bao giờ nói chuyện ăn uống – y thật sự ít quan tâm đến nó và Luân biết là Nhu đang cực kỳ cao hứng.
Lục trèo lên nóc nhà xe, trông ngóng.
- Anh Lục! Coi chừng đạn! Xuống! – Luân thét to.
Lục tụt xuống, nói với Luân, đầy lo lắng:
- Xóm Chợ Quán cháy to.. Cô Thùy Dung…
Luân bây giờ mới sực nhớ. Anh vội vã quay dây nói lại nhà Dung. Chuông reo ở đầu dây song chờ mãi, không thấy có người lên tiếng. Không rõ vì sao Luân bỗng bồn chồn, anh cắt máy và quay lại. Chuông reo và vẫn không có người. Luân đổi số, gọi lại Nha Cảnh sát - có thể giờ này Dung đã đi làm.
Lục chia sẻ nỗi thất vọng của Luân. Anh nhìn lom lom chiếc máy. Chợt mặt Luân rạng rỡ:
- Có phải Nha Cảnh sát đó không?
Nhưng, Luân không rạng rỡ lâu:
- Xin lỗi, tôi muốn gặp cô Thùy Dung… Thùy Dung, chỗ đại tá Trần Vĩnh Đắt… - Luân gào to vì tạp âm đầy trong ống nghe – Phải, Thùy Dung…
Đầu dây kia vọng một tiếng thề tục tĩu, và hình như có cả tiếng của Dung.
Luân thừ người rất lâu.
- Hay là em đến Nha? – Lục nói khẽ.
- Không được! Đang bắn nhau loạn xạ…
Trước nhà Luân, dân chúng hớt hải kéo qua, họ tản khỏi vùng chiến sự.
Thạch mở máy thu thanh, đài Bình Xuyên phát bản tin: quân của họ “làm chủ” khu trường Pétrus Ký, chiếm Nha Cảnh sát, bao vây Bộ Tổng tham mưu. Thạch đổi làn song, đài Sài Gòn tường thuật trận đánh ngay Nha Cảnh sát Đô thành và kêu gọi lính Bình Xuyên đầu hàng.
Luân đi đi lại lại khắp phòng khách, căng thẳng.
Tình hình này đã được A.07 dự kiến trong chỉ thị gửi Luân – do Dung mang vào. Tất nhiên A.07 không thể đoán hết các tình huống, song những nét chính thì quả rất chính xác: mâu thuẫn Mỹ - Pháp phát triển đến tận nóc. Diệm, thông qua cuộc đánh dẹp này mà củng cố quyền lực và cuộc đánh dẹp sẽ để lại trong cơ thể chế độ mới ở miền Nam những vết thương không bao giờ có thể thành sẹo. Về phía Cách mạng, chưa phải lúc khai thác cơn xung đột đẫm máu này bằng vũ trang song cần phải biết chỉ cho quần chúng cách nhìn kẻ thù. Đánh bại Bình Xuyên và các phe nhóm thân Pháp, Ngô Đình Diệm tạm thời có thể bịp được một bộ phận quần chúng thông qua sự sự lợi dụng ý thức dân tộc đang bừng dậy mãnh liệt sau chiến thắng Điện Biên Phủ và lòng căm ghét Bình Xuyên, các giáo phái của quần chúng. Nhiệm vụ của Luân là sửa soạn đón các đợt xung đột nhất thiết sẽ xảy ra sau này với những nhân tố mới: từ bản thân Mỹ - Diệm. Riêng trong sự kiện này, Cách mạng cố bảo tồn được một bộ phận yêu nước trong lực lượng Bình Xuyên và các giáo phái, tạo điều kiện cho họ sống và hoạt động, dùng danh nghĩa đó mà từng bước xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Việc sau không thuộc phạm vi chức trách của Luân.
Lý thì như vậy, song cảnh rối ren trước mắt gợi cho Luân nhiều ý định – phải chi Ngọc chưa bị bắt, anh có người trao đổi và tin là có thể khơi thêm mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù. Anh cảm thấy mình quá thảnh thơi, quá bàng quang. Cái cớ thứ hai khiến anh đứng ngồi không yên là Dung.
Luân lại gọi điện về nhà Dung. Gọi cầu may thôi. Song lần này có người nhấc ống nói. Luân mừng rỡ, hỏi liền: Ai đó, Dung hả?... Nhưng là người giúp việc cho cô chú Dung. Dung đến sở và không về. Xóm Bàu Sen cháy dữ dội, sắp lan ra đường lớn. Cô chú Dung đều vắng nhà. Người giúp việc quá sợ: các toán lính Bình Xuyên và Quốc gia thay nhau cướp, hãm hiếp, cửa nẻo dù đã đóng chặt vẫn bị phá…
Luân gọi lại Nha. Im lặng. Anh suy tính một lúc, gọi Nhu. Nhu cho anh biết: Bình Xuyên lọt vào Nha, nhưng đang bị bao vây.
- Chắc không có khả năng xấu đối với cô Dung đâu… Tôi sẽ chỉ thị cho thiếu tá Cao Văn Viên tìm cô Dung cho anh. Anh yên tâm!
Nhu an ủi Luân
Điện thoại lại reo. Luân nhấc máy.
*
Dung ăn trưa xong – hôm nay, cô ăn tại nơi làm việc – tựa người vào ghế nghỉ một chút thì Trần Vĩnh Đắt hớt hải bước vào.
- Bình Xuyên sắp tấn công!
Lão kêu lên tuyệt vọng và sau đó, gọi điện cấp báo với Nguyễn Ngọc Lễ.
- Cố thủ chờ tiếp viện!
Lệnh của Nguyễn Ngọc Lễ gọn như vậy.
Nha Cảnh sát Nam phần vừa đổi chủ. Đắt thay Nguyễn Văn Tôn, chưa kịp xếp đặt lính tráng, mà dẫu có xếp đặt, bất quá Đắt có vài chục tay lính trang bị súng ngắn, đánh chắc gì được.
Chỉ vài giây sau, Đắt lên xe, giao quyền chỉ huy bảo vệ Nha lại cho một thiếu tá. Lão vẫn chưa bỏ ý định xấy đối với Dung, gọi đến lạc giọng, bảo Dung cùng chuồn với lão. Cơ hội khói lửa này, Dung khó mà thoát khỏi tay lão. Nhưng Dung từ chối.
Xe Đắt vừa ra khỏi cổng Nha vài phút, viên thiếu tá chưa biết phải làm gì, thì các toán Bình Xuyên thấp thoáng nơi đầu đường.
Dung nhìn qua cửa sổ, thấy nhân viên Nha vẫn nhởn nhơ. Cô hiểu liền: hầu hết là người của Sang. Quả đúng như vậy, cửa Nha mở rộng, Công an xung phong đường hoàng kéo vào sân, thân mật bắt tay đám cảnh sát. Viên thiếu tá và 10 người, sau cùng chạy trốn vào phòng Dung.
- Làm sao, hở cô? – Viên thiếu tá mặt cắt không còn hột máu.
Dung không biết mình phải làm gì. Giá mà “anh ấy” có mặt tại đây! – Dung nhớ liền Luân, cô với tay quay điện thoại. Nhưng vừa quay được hai số, toán Công an xung phong lăm lăm chĩa súng vào cô. Một tên – chắc là chỉ huy, ra lệnh:
- Bỏ máy xuống!
Dung đành bỏ máy.
- Thằng Đắt đâu rồi? - Tên đó hỏi.
- Ông Đắt vừa ra khỏi Nha. - Dung trả lời, bình tĩnh.
Tên chỉ huy Công an xung phong, súng lục trên tay, bê rê đội lệch, ống tay áo lộ vết chàm xanh lè, ngó Dung một hồi, liếm mép:
- Mày là ai?
- Tôi là nhân viên Nha…
- A, con này người Bắc… - Một tên khác reo.
- Sao răng mày trắng và đều dữ vậy?
Tên chỉ huy hỏi.
Dung thấy tình thế xấu rồi. Cô mân mê ngăn kéo. Khẩu súng ngắn trong đó.
- Mày là vợ bé của thằng Đắt, phải không?
Tên chỉ huy bước hẳn vào phòng.
- Ai cho phép anh nói hỗn láo như thế?
Dung quắc mắt.
Viên thiếu tá – hắn lột cấp hiệu lúc nào, không ai rõ, chắp tay:
- Dạ, cô đây là bí thư của ông Đắt..
- Bí thư?... Bí thư với vợ bé khác gì nhau…
Tên chỉ huy vừa nói vừa liếc quanh.
- Bên kia là phòng trống, phải không? – Gã hỏi viên thiếu tá.
- Dạ!
Chuyện sẽ phải diễn ra như vậy đó. Dung hiểu.
Chuông điện thoại reo. Tên chỉ huy nhấc ống. Dung nghe rõ tiếng Luân trong máy. Cô toan giằng ống nói, nhưng tên chỉ huy gạt cô thật mạnh:
- Nha bị tụi tao chiếm rồi… Mầy là ai… Thùy Dung là con nào… Đ.m, nói dai nhách!
- Anh Luân! Em… - Dung cố thét to. Tên chỉ huy gác máy.
- Mầy là Thùy Dung hả? Tính kêu cứu hả? Theo tao…
Gã nắm tay Dung, bảo số công an lố nhố ở cửa.
- Tụi bây còng hết mấy thằng trong phòng nầy, đứa nào ngo ngoe, bắn bỏ! Tao phải thay thằng Đắt với con nhỏ nầy… Theo qua, cưng!
Dung kéo ngăn tủ. Cô quyết định xả vào thằng khốn kiếp nầy mấy viên Walter và dành cho cô viên cuối cùng.
Một chiếc xe Jeep phóng vào sân. Lũ Công an xung phong kháo nhau:
- Đại tá tới!
Một sĩ quan nhảy khỏi xe. Tên chỉ huy Công an xung phong buông tay Dung, bước ra đón.
- Sao chùm nhum vô đây? Lo bố trí chống tụi Dù, tụi nó tới bây giờ.
Người sĩ quan quát to. Ông ta chợt thấy Dung.
- Cô là ai?
Dung đoán ông ta là Lại Văn Sang.
- Tôi là vợ của kỹ sư Nguyễn Thành Luân!
- Ồ! – Sang kinh ngạc – Bà làm ở Nha Cảnh sát?
Dung không trả lời, liếc về tên chỉ huy Công an xung phong.
- Mầy muốn làm ẩu hả? – Sang tát tên chỉ huy một tát nẩy lửa – Bình Xuyên sạt nghiệp cũng vì lũ mầy!
- Ở đây sắp xảy ra chiến trận, bà không nên nấn ná... – Sang bảo Dung – Bà muốn đi đâu?
Trước Nha, nhiều tốp dân chạy đùa ra phía chợ Bến Thành.
- Bà nên theo những người chạy loạn… Bà cần nói chuyện với ông Luân không?
Dung quay số.
- Anh đó hả? Em đây! Đại tá Lại Văn Sang có mặt chỗ em… Em sẽ theo đường Trần Hưng Đạo… Dạ… Bình yên… Anh muốn nói chuyện với đại tá…
Sang cầm ống nghe. Luân nói gì, không ai rõ, song sau đó, Sang đích thân đưa Dung ra cổng, rồi phóng xe Jeep về hướng cầu chữ Y.
… Luân đón Dung tại trường Cầu Kho. Gặp Luân, Dung vụt khóc òa…
*
Sài Gòn trải qua một đêm kinh động. Từ bót Central đến đường Tổng đốc Phương, súng nổ liên hồi. Súng cũng nổ ở Đa Kao, Gò Vấp, Phú Lâm, Khánh Hội. Các đám cháy rực cả thành phố.
Nhu đãi cơm Luân và Dung. Trần Lệ Xuân đi Đà Lạt vắng, Nhu giao hẹn với Luân chỉ ăn cơm, nói chuyện phiếm, còn tình hình thì đợi sáng mai. Tuy vậy, Luân cũng thuật lại cho Nhu nghe trường hợp của Dung.
- Thằng cha Sang, đúng như anh nói, còn đôi chút nhân phẩm. Tôi không xếp gã vào lũ đần độn trong Bình Xuyên. Nhưng, gã lưu ân tình với anh không phải là không có duyên cớ, gã hiểu rằng gã sẽ thua.
Giữa tiếng súng các cỡ thi nhau – trước dinh Độc Lập, quân Bình Xuyên vẫn chưa rời bót Catinat – Nhu ung dung nếm món cá trích và hỏi luôn miệng cảm giác của Luân và Dung về món ăn nầy.
- Nhu rất cứng! – Luân nhận xét với Dung khi họ từ giã Nhu, trên đường về.
Dung liên lạc được với người cô: Bình Xuyên rút khỏi Chợ Quán. Và Trần Vĩnh Đắt oang oang trong máy:
- Cô Dung bình yên chứ? Tôi đã quét cong bọn nó, sáng mai cô đến Nha làm việc bình thường…
---
(1) Hội Pháp ngữ thân hữu

CHƯƠNG 13

Nhu nhìn Ngọc, suy tính. Tuy giữa trưa, phòng giam vẫn tối mờ, ngọn đèn điện hắt một màu vàng, bệnh hoạn. Trần Kim Tuyến ngồi lùi sát bức tường ẩm ướt, thỉnh thoảng chùi đôi kính cận, lặng lẽ như một nhân chứng.
Ngọc thanh thản tựa lưng vào thành ghế, mái tóc bạc rũ xuống che vầng trán rộng. Da anh hơi xanh: mười ngày không gặp ánh mặt trời.
- Ở đây, ông được cư xử tốt không? – Nhu hỏi sau một lúc đắn đo tìm cách mở lời.
- Tôi không bận tâm tới những chuyện đó. Hẳn là bác sĩ Trần Kim Tuyến – Ngọc không ngó Tuyến – đã tính toán chi li trong mọi trường hợp đối xử. Ngay cả về chung cuộc, tôi còn không quan tâm nữa là…
- Tôi hỏi thẳng ông: Ai cử ông đi liên lạc với Bình Xuyên? - Nhu sửa giọng oai vệ.
- Điều đó có gì quan trọng? Tôi là một cán bộ, tôi hành động theo chức trách của tôi…
- Tại sao ông xui Bình Xuyên gây phản loạn? Chính các ông luôn hô hào hòa bình kia mà?
- Trong một câu nói, ông phạm đến mấy lỗi, có cái thuộc văn phạm, có cái thuộc chủ đề! – Ngọc cười hơi khinh miệt – Tôi không xúi, không xua Bình Xuyên làm bất kỳ điều gì ngược với lợi ích hòa bình của đồng bào ta. Chính các ông đã làm việc đó… Còn từ “phản loạn” ông gán cho Bình Xuyên e chưa chính xác.. Ai “phản loạn” hơn ai – giữa các ông và Bình Xuyên - cần phải xem lại!
- Ông là một đảng viên Cộng sản, phải không?
- Tôi chưa bao giờ nói khác…
- Một đảng viên Cộng sản không được quyền mù quáng! Ông đi với Bình Xuyên thì được lợi ích gì?
- Còn nếu tôi đi với các ông thì được lợi ích gì? Bình Xuyên là một nhóm ô hợp, phạm nhiều tội ác mà tội ác lớn nhất là phản quốc nhưng trong họ không phải không có người còn lương tri mà đến với Bình Xuyên…
- Ông tổ chức họ chống đối chúng tôi lâu dài?
Ngọc không trả lời.
- Ông tin là chúng tôi sẽ đổ? - Nhu hỏi, khiêu khích.
- Người ta đồn Ngô Đình Nhu là một chánh khách sắc sảo. Hóa ra người ta đồn lầm… - Ngọc dằn mạnh – Ông cho là ân huệ của chính phủ Mỹ mãi mãi dành riêng cho gia đình ông? Sao ông ngây thơ quá vậy? Đó là tôi chưa nói nhân dân miền Nam, họ không dính dáng gì đến viện trợ Mỹ. Các ông đã bắt đầu “tố Cộng” rồi chớ gì? “Tố cộng” về thực chất là tố quần chúng. Các ông dám tố quần chúng thì quần chúng dám tố các ông. Đương nhiên là như vậy!
- Cứ cho như ông nói đúng về cái nhân dân mà ông đơm đặt cho họ nhiều ưu điểm quá, nhóm Bình Xuyên lại gây hứng thú cho ông, thì quả lạ lùng…
- Những người Bình Xuyên yêu nước không hành động theo lối Bảy Viễn. Rồi ông còn đủ thì giờ kiểm nghiệm lời nói của tôi. Và không riêng gì các giáo phái, ngay quân đội mà ông đang cố gắng xây dựng làm lực lượng chống đỡ cho chế độ của ông, họ sẽ chĩa súng vào ông khi họ cho là cần thiết, hoặc khi Mỹ cho là cần thiết…
Nhu rít thuốc liên hồi, Ngọc nói những cái đáng sợ thật và những cái không phải Nhu không một lần nghĩ tới.
- Theo ông, kỹ sư Nguyễn Thành Luân là người thế nào?
Nhu bất thần đổi chủ đề cuộc trao đổi. Trần Kim Tuyến dán mắt vào Ngọc, xoi mói.
- Như thế nào là về phương diện gì? – Ngọc hỏi lại, thản nhiên.
- Chẳng hạn như xu hướng chính trị, như thái độ đối với Bình Xuyên…
- Tại sao ông hỏi tôi những điều ông đã quá rõ? Luân là bạn thân của tôi, trong kháng chiến chúng tôi quen nhau, tuy không cùng nghề nghiệp. Bạn thì thân; song tôi và anh ta khác nhau về nhiều cách nhìn. Anh ta mơ màng về một chủ nghĩa Quốc gia nào đó. Sự ấu trĩ của anh ta – như sai lầm của chính tôi vào thời gian đầu cách mạng – đôi khi khiến chúng tôi bất hòa. Anh ta không thích Bình Xuyên, kể cả những người không giống Bảy Viễn…
- Gần đây, ông thấy ông Luân có những đổi thay gì đáng kể?
- Anh ta ngày mỗi ngày mỗi mơ màng hơn. Chủ nghĩa Quốc gia nói chung đã là một hư ảo mà việc khoác cho anh em ông cái áo Quốc gia lại càng hài hước… Vĩnh viễn tôi với anh ta không thể dung hòa được quan điểm đó… Mặc dù, vĩnh viễn tôi với anh ta là bạn thân.
- Ông Luân biết tin ông bị bắt chưa?
- Tôi nghĩ là chưa… Chúng tôi liên lạc với nhau rất thưa.
- Ông tin là ông Luân sẽ tìm cách cứu ông?
- Luân là người trọng tình bạn. Còn việc cứu tôi thì chắc anh ta không làm nổi.
- Tại sao?
- Đơn giản quá mà… Tôi không tin ở chủ nghĩa Quốc gia của các ông – và bây giờ cũng là của anh ta – và tôi không thể nào từ bỏ lý tưởng Cộng sản mà tôi thiết tha để đổi lấy tự do cá nhân. Các ông không đời nào chấp nhận cho một người thù địch về ý thức hệ với các ông được sống sót và hoạt động trong cùng các ông cai quản. Nguyễn Thành Luân tôn trọng tôi, sẽ không muốn tôi thành một tên phản bội và anh ta không chịu khuyên tôi trá hàng... Đơn giản như vậy! – Ngọc nói rành rọt.
- Ông là một người cuồng tín! – Nhu kêu to – Ông bít tất cả đường sống của ông, ông có biết điều đó không?
Ngọc cười buồn:
- Tôi không thích kéo dài sự thăm dò không cần thiết.
- Kỹ sư Luân có một bạn gái, đúng hơn, có một người yêu… Ông có biết cô ấy? – Trần Kim Tuyến hỏi.
- Thế à? – Ngọc vui hẳn, nhưng Nhu bận trầm tư nên không để ý một thoáng bối rối trong mắt Ngọc – anh hoàn toàn không hay biết việc nầy và, khi biết thì anh hiểu ngay vai trò của người bạn gái ấy đối với Luân.
- Tôi nghe Luân nói về một cô bạn gái, nhưng vì mối quan hệ giữa hai người lúc đó còn chưa rõ nên anh ấy không giới thiệu với tôi.
- Ông có yêu cầu gì không? – Nhu hỏi.
- Có! Tôi muốn gặp Luân…
- Yêu cầu của ông sẽ được giải quyết…
*
Cuộc xung đột bước sang ngày thứ ba. Trừ bót Catinat và quán Théophile ở Đakao, toàn bộ lực lượng Bình Xuyên rút qua bên kia cầu chữ Y và quanh vùng Cầu Muối, cầu Ông Lãnh, Xóm Chiếu, Xóm Củi…
Tổn thất hai bên khá nặng nhưng thiệt hại của dân lại nặng hơn nhiều: hàng nghìn người chết và bị thương, hàng vạn nhà cháy. Ủy ban cứu trợ nạn nhân cuộc xung đột được thành lập khẩn cấp và Tổng trưởng Xã hội Nguyễn Mạnh Bảo được bầu làm chủ tịch. Nhưng, một phong trào quần chúng sâu rộng mới là cái quan trọng. Riêng cái tên của Ủy ban cũng dấy lên sự tranh cãi giữa chính phủ và các nhân sĩ: chính phủ muốn ủy ban mang tên Ủy ban cứu trợ nạn nhân phản loạn Bình Xuyên, các nhân sĩ kiên quyết không đồng ý. Sau cùng, chính phủ nhượng bộ.
Hoạt động chính trị còn sôi nổi hơn cả tiếng súng. Tướng Nguyễn Thành Phương và Trịnh Minh Thế đồng ký vào một thông cáo tố cáo “thực dân” và “phản loạn” gây chia rẽ, đổ máu, phủ nhận lịnh của Quốc trưởng chỉ định tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng tham mưu trưởng. Một Hội đồng nhân dân cách mạng ra đời, do Nguyễn Bảo Toàn đứng đầu, đẩy nội dung cuộc tranh chấp đến chỗ cốt tử của nó: sự tồn tại của Bảo Đại.
Ngày 30-4, gần trưa, tại dinh Độc Lập, tướng Nguyễn Văn Vĩ yết kiến Thủ tướng. Nhu quyết định một nước cờ và Diệm đồng ý. Đáng lẽ Vĩ chỉ được một mình Thủ tướng tiếp để Vĩ chính thức trao lệnh của Quốc trưởng bổ nhậm ông làm Tổng tham mưu trưởng; hàng chục sĩ quan cấp tướng đã có mặt, trong đó có hai đại tá vừa được Diệm thăng quân hàm thiếu tướng là Trần Văn Minh và André Trần Văn Đôn…
- Thưa Thủ tướng, đây là sắc lệnh của Quốc trưởng… - Vĩ ấp úng mãi rồi mới nói. Vẻ mặt đằng đằng sát khí của các tướng lĩnh đã hốt hồn ông ta. Ông ta thầm nghĩ mình dại dột nghe lời De Chauvine phiêu lưư vào dinh Độc Lập.
- Tướng quân cứ đến trao sắc lệnh cho ông Diệm. Không ai dám làm điều gì thất lễ với tướng quân đâu. Tướng quân buộc ông Diệm ra lệnh cho tướng Tỵ giao quyền cho ông. Tổng thống Mỹ Eisenhower đã cam kết với chúng tôi là Mỹ không can thiệp vào việc này.
Chuyện nghe rất dễ ăn của De Chauvine coi mòi khó nuốt trôi. Nhưng dù sao Vĩ cũng phải mở miệng.
Diệm nhận tờ giấy đánh máy, liếc qua. Thật tình, ông đã nhận bản sao điện tín từ mấy hôm trước.
- Tôi biết việc nầy rồi… - Diệm nói – Tuy nhiên, đây là việc liên quan đến cơ quan quân sự, tôi không thể tự mình giải quyết nên cho mời các ông trong Bộ Tổng tham mưu đến. Lịnh của Quốc trưởng tất nhiên không thể không thi hành, song, phải do các tướng lĩnh thu xếp với nhau. Chính phủ công nhận người nào được các tướng lĩnh tín nhiệm, ông hay ông Tỵ, ai cũng tốt…
Diệm nói chậm rãi, trong lúc các tướng chuyền nhau đọc tờ sắc lệnh.
- Tại sao lại thay đổi Tổng tham mưu trưởng trong lúc súng nổ rền? – Trần Văn Minh bắn tín hiệu.
- Mà khi hết phiến loạn Bình Xuyên, cũng không thay đổi. – Thiếu tướng Cao Đài Lê Văn Tất gầm gừ.
- Chuyện nầy có cái gì mờ ám bên trong… - Thiếu tướng Trần Văn Đôn nhún vai – Tôi nghe tin tướng Hinh về nước, đang dừng chân ở Calcutta. Hình như một sự…(ông ta lúng túng tìm một từ Việt) une Conspiratipn…
- Một âm mưu… - Lê Văn Tỵ dịch giúp Đôn.
- Phải, một âm mưu… Tôi phản đối tới cùng.
Tướng André vừa nghỉ cuối tuần ở Long Hải, da dẻ đỏ au. Không rõ có phải tình cờ không mà bà cố vấn Ngô Đình Nhu cũng nghĩ cuối tuần ở Long Hải. Điều rõ ràng là tướng Đôn đang ở trong thần thái thỏa mãn và sẵn sàng ủng hộ Thủ tướng như một hiệp sĩ…
- Đã vậy, tôi phải gửi điện khẩn trình bày với Quốc trưởng và chừng đó các ông đừng trách tôi!
Lời đe dọa không đúng lúc của Vĩ khiến phòng họp cười ồ. Người không cười là trung tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương. Phương đột ngột vỗ bàn:
- Ông Vĩ phạm tội làm rối lòng quân trong lúc đất nước gặp khó khăn. Một con người như vậy không xứng đeo lon sĩ quan cao cấp. Tôi đề nghị Thủ tướng ra lệnh bắt ngay ông Vĩ!
Nguyễn Văn Vĩ hoàn toàn không ngờ tình thế lại có thể xấu đến mức đó. Nguyễn Thành Phương mặc dù bề ngoài nho nhã, nỗi tiếng là hung thần. Gã đang muốn tâng công với Ngô Đình Diệm.
Vĩ bối rối, đưa mắt tìm người khả dĩ nương tựa được trong hồi nguy nan nầy. Chẳng có ai! André với ông vốn là bạn, nhưng bây giờ cậu ta tự nguyện làm nô lệ cho Trần Lệ Xuân, như thiên hạ đồn đãi. Vĩ đành nhìn về Ngô Đình Diệm cầu cứu. Mặt Ngô Đình Diệm lại lạnh như tiền.
Viên sĩ quan hầu cận rón rén lại gần Diệm, nói nhỏ. Diệm gật đầu, đứng lên, bảo:
- Các ông bàn tiếp, tôi có chút việc, vắng mặt giây lát. Ý kiến của trung tướng Phương rất đúng đó!
Không có Diệm, cuộc họp tẻ nhạt hẳn. Các tướng bỗng thấy ngượng nghịu, trừ Nguyễn Thành Phương.
Nhu và Luân chờ Diệm ở trong phòng.
- Anh Luân không tán thành việc bắt giam hay quản thúc tướng Vĩ. – Nhu nói – Em và anh ấy tranh luận nẫy giờ, lần lần em thấy anh ấy có lý. Cho nên mời anh vào, ta trao đổi thêm…
Diệm ngồi xuống ghế và ra hiệu cho Luân nói.
- Thưa thủ tướng, quan điểm của tôi tóm tắt như sau: Một, tướng Vĩ không là cái gì đến nỗi phải dùng biện pháp mạnh, dùng biện pháp mạnh trong trường hợp này chỉ cho thấy ta đánh giá quá cao các sĩ quan thân Pháp. Hai, giam giữ tướng Vĩ sẽ đẩy số sĩ quan cùng cảnh ngộ như tướng Vĩ ngả về phía chống chính phủ; mà số đó đang nằm trong các đơn vị chính quy của chính phủ. Ba, chạm tự ái Pháp, điều ta nên tránh. Bốn, cứ để tướng Vĩ tự do, hoặc ông ta cuối cùng rồi sẽ đổi thái độ, hoặc ông ta liều lĩnh, khả năng sau cho phép chính phủ mạnh tay mà không gây ra bất cứ phản ứng xấu nào.
Diệm cắn môi suy nghĩ một lúc…
Trưa hôm đó, Diệm đãi cơm tất cả các tướng lĩnh và không đả động gì đến việc bắt giam tướng Vĩ. Thấy thủ tướng bỏ qua, không ai nêu lại vấn đề, kể cả Phương. Tướng Phương biết nịnh vào lúc nào là khôn ngoan, vào lúc nào là dại dột. Còn tướng Vĩ, hú hồn, chọn chiến thuật: im lặng là vàng y hiệu Nguyễn Thế Tài!
Chiều hôm đó, Hội đồng nhân dân cách mạng họp ở Tòa Đô chính ra tuyên cáo đòi truất phế Bảo Đại, giao cho Ngô Đình Diệm lập chính phủ mới, dẹp phiến loạn, thu hồi chủ quyền quốc gia trọn vẹn và triệu tập Quốc hội…

CHƯƠNG 14

Ngày 1-5.
Một hiện tượng độc đáo bao trùm thành phố Sài Gòn. Giữa tiếng súng – thỉnh thoảng xem vài phát đại bác – và giữa những đám cháy khói bốc cao lưng chừng mây, hàng trăm nghìn dân chúng chạy dồn vào trung tâm thành phố. Hai chiếc tàu Marine Serpent và Marine Adler của hải quân Mỹ trút lên bến gần một vạn dân di cư, họ ngơ ngác trước cảnh chiến tranh mà họ ngỡ là thôi không còn gặp nữa. Cả một khu vực toàn lều vải được hối hả dựng lên trong và quanh trường đua Phú Thọ.
Cách chẳng bao xa bót Catinat – nơi một toán Bình Xuyên đang cố thủ - Tổng liên đoàn lao động của Lê Văn Thốt kết hợp với lực lượng thợ thuyền của Nguyễn Khánh Vân tổ chức mít ting nhân ngày Quốc tế lao động bên cạnh một cuộc mít tinh khác của Tổng công đoàn lao công Thiên chúa giáo do Trần Quốc Bửu cầm đầu. Nhiều diễn giả nói chuyện. Đề tài hòa bình được khai thác nhiều nhất. Nhóm Lê Văn Thốt còn nêu nguyện vọng cải thiện đời sống, thực hiện dân chủ và yêu cầu chính quyền hai miền sớm hiệp thương, đặt quan hệ bình thường để tiến tới tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhóm Trần Quốc Bửu đả kích Thực – Phong và cũng có vài diễn giả hô hào chống Cộng. Trước Tòa Đô chính, 5 tiểu đoàn và 2 đại đội dưới quyền của đại tá Thái Hoàng Minh, tham mưu trưởng Bình Xuyên, làm lễ quy thuận chính phủ.
Thêm hai lực lượng mới tham chiến: một đơn vị Ngự lâm quân từ Đà Lạt xuống, kèm chiến xa, chiếm Nha Bưu điện, tạo thế ỷ dốc cho nhóm Bình Xuyên trong bót Catinat và chiếm Đài phát thanh quân đội cùng Ngân hàng Nhà nước. Lực lượng kia là quân của tướng Trịnh Minh Thế. Thế tình nguyện đi tiên phong đánh vào hang ổ Bình Xuyên.
Đài phát thanh quân đội phát nhật lệnh của Nguyễn Văn Vĩ, tổng tham mưu trưởng. Vĩ ra lệnh cho binh sĩ phải ngưng nổ súng, chờ đại diện của Quốc trưởng mang chỉ thị đặc biệt về nước. Đại diện Quốc trưởng nói ở đây là tướng Nguyễn Văn Hinh, ông rời Calcutta nhưng không bay thẳng đến Sài Gòn, lại ghé Nam Vang, hẳn còn nghe ngóng tình hình.
Đài phát thanh Sài Gòn phát nhật lệnh của Lê Văn Tỵ, tổng tham mưu trưởng. Tỵ ra lệnh cho Ngự lâm quân phải rút ngay tức khắc khỏi thành phố, trở về doanh trại.
Những người bình luận thời sự sau này giả định nếu tướng Vĩ dám nổ súng, ông Diệm ắt gặp khó khăn lớn. Nhưng tướng Vĩ – và cả tướng Hinh nữa – phải đâu sinh ra để hành động có mục đích, lý tưởng, lý tưởng gì cũng được. Họ như những cái máy, bất cứ việc nhỏ việc to đều do chủ bấm nút, giật dây. Và, chính phủ của họ, người Pháp, đã mất quyền quyết định vấn đề Đông Dương… Cho nên, giả định kia là không có cơ sở.
Giữa trưa, Ngự lâm quân không kèn không trống rời các điểm, lếch thếch kéo về Đà Lạt. Một số Bình Xuyên cố thủ trong bót Catinat tiếp tục bỏ trốn…
*
Trinh Minh Thế tung lực lượng Cao Đài liên minh vào trận là sự kiện có ý nghĩa tinh thần đối với cả hai phe. Quân chính phủ được cổ vũ. Bình Xuyên thì hoang mang.
Chiều ngày 2-5, khi quân chính phủ chuyển sang phản công với hai trung đoàn bộ binh, ba tiểu đoàn dù bao một vòng rộng từ cầu chữ Y vô cầu Nhị Thiên đường và Xóm Củi thông đến Cần Giuộc, 3.000 quân của Trịnh Minh Thế ồ ạt đánh vào tuyến chính diện mà mục tiêu là đại bản doanh Bình Xuyên.
… Bộ chỉ huy Bình Xuyên chờ cuộc phản công với tâm trạng chờ thua. Bảy Viễn thực tế đã suy sụp ý chí khi Paul Ely cho biết quân Pháp không thể làm gì được trong hoàn cảnh hiện thời, ngoài việc sẽ cố gắng chuyển gia đình của các thủ lĩnh Bình Xuyên bằng trực thăng và tàu nhỏ ra tàu chiến Pháp đậu ngoài khơi Ô Cấp.
Bao nhiêu điều Bảy Viễn ôm ấp, bỗng chốc tiêu tan. Mặt trận Toàn lực Quốc gia không có một hoạt động hợp đồng nào như cùng thỏa thuận long trọng bằng giấy trắng mực đen. Trái lại, quân Cao Đài trở giáo, một bộ phận quân Hòa Hảo thề trung thành với Diệm. Léon Leroy bận bịu với bầy vợ lẽ, thay vì đánh vào Bến Tre và Mỹ Tho như y hứa thì thu xếp của cải sang ở hẳn bên Pháp. Quân Pháp, các sĩ quan Việt chịu ảnh hưởng của Pháp giữ thái độ trung lập khó hiểu. Bức tranh mà các cố vấn của Bảy Viễn phóng bút đầy màu sắc rực rỡ mỗi lúc một xám xịt. Tướng Vĩ, tướng Hinh, ngoài cái mã bảnh bao, không làm nên một trò nào coi được. Và Quốc trưởng, ông ta tiếp tục lú lẫn…
Các bộ hạ của Bảy Viễn tính sổ và càng tính sổ họ càng nhận ra rằng Bảy Viễn, đảng trưởng của họ, không có khiếu chính trị. Cách suy nghĩ và hành động du côn mà ông ta tiêm nhiễm không còn hợp thời nữa.
Dẫu sao, hai chiếc trực thăng luôn sẵn sàng. Vấn đề là trở thêm cái gì thêm trên hai chiếc trực thăng đó.
Nhóm quân sư của Bình Xuyên sợ mất mật. Cữ ngỡ là huênh hoang cho đã miệng, sẵn rượu thịt và gái, núp dưới cái ô Bình Xuyên mãn kiếp, ai dè trời đất xoay vần như thế nầy… Hồ Hữu Tường là người đau khổ nhất trong bọn. Vốn chuyên nghề ngụy biện, Tường được Bảy Viễn trọng vọng và ông ta nghiễm nhiên là nhân vật số 2 trong Ban cố vấn chính trị Bình Xuyên – chỉ sau Lại Hữu Tài. Hồ Hữu Tường phát biểu trong hàng trăm cuộc họp về nào là chiến lược Đông Nam Á, nào là chiến thuật Việt Nam trước vận hội mới v.v… Bẻm mép xạo, Tường bao giờ cũng tự tạo kiểu cách một nhà triết lý, một nhà chính trị siêu hạng, giải đáp tất cả thắc mắc của người khác. Bây giờ, nhìn sang bên kinh Tàu Hủ, thấy quân lính Ngô Đình Diệm súng ống kìn kìn, Tường rụng rời tay chân. Các cố vấn và chỉ huy khác lại không quên những điều mà Tường tiên tri – Diệm không thể đánh Bình Xuyên vì cái “thế” của Diệm và vì trận đồ đã lập xong, miền Tây có Hòa Hảo, miền Đông có Cao Đài, Sài Gòn có Bình Xuyên và quân quốc gia vốn luôn luôn trung thành với Quốc trưởng, Cao nguyên có Ngự lâm quân của tướng Vĩ – cứ mắng xéo ông ta là thằng nói dóc. Thét rồi Tường đành năn nỉ: Các anh chấp nhất làm chi, chẳng qua tôi múa mỏ để kiếm cơm!
Cả bộ máy chỉ huy Bình Xuyên đồ sộ rốt cuộc còn mỗi cái đầu của Lại Văn Sang là có phần tỉnh táo. Ông ta cay đắng nhớ những cam kết giữa Bảy Viễn với Phạm Công Tắc, Năm Lửa, Nguyễn Văn Vĩ và không ai biết từ ngày 28-4, Bình Xuyên đơn thương độc mã xung trận. Nói lực lượng Bình Xuyên thực tế là Công an xung phong, con ruột của Sang.
Ông ta đắn đo. Ông ta linh cảm là De Chauvine hứa ẩu. Nhưng, ngày 26-4, tại phiên họp đặc biệt, Bảy Viễn quyết định nổ súng – lần nầy, tổng tấn công. Hiệu lịnh cho tất cả lực lượng chống Diệm – theo Bảy Viễn – là điện của Bảo Đại, một thứ quy ước cần được hiểu như chính phủ Pháp đã bật đèn xanh.
Bản đồ Sài Gòn, Nam phần, Trung phần đầy mũi tên. Thậm chí, Bộ tổng chỉ huy đã đủ các tay sừng sỏ: Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, thiếu tướng Nguyễn Văn Vĩ, thiếu tướng Lê Văn Viễn, thiếu tướng Lê Quang Vinh, thiếu tướng Nguyễn Văn Thành, đại tá Nguyễn Tuyên…
Sang không tin sẽ có sự hợp đồng. Cho nên, tại Sở chỉ huy, ông chẳng màng đến hàng chục máy truyền tin xếp thành hàng đội nhận thông báo chiến sự các vùng khác. Và, đúng như ông đoán, chẳng có máy nào lên tiếng. Ngay chủ tịch Mặt trận, ông ta cũng im lìm trong Trí Huệ cung.
Trưa 28-4, Sang đích thân thị sát khu vực chiến sự. Cuộc nói chuyện bất ngờ giữa ông và kỹ sư Nguyễn Thành Luân càng khẳng định trong ông giờ tàn cuộc của Bình Xuyên đã điểm.
- Chào ông kỹ sư!... Tôi là Sang đây.
- Chào đại tá! Tôi hoàn toàn không hiểu vì sao các ông phiêu lưu vào cái chỗ đồng nghĩa với sự sụp đổ… Riêng đại tá, ông tin cái gì? Quân đội Pháp? Quân đội quốc gia? Các giáo phái? Sẽ chẳng có cái gì hết! Càng kéo dài đánh nhau ở thành phố càng gây thiệt hại cho đồng bào, càng khiến Bình Xuyên bị oán ghét và, thật giản dị, quân của đại tá sẽ bị tiêu diệt….
- Bây giờ, tôi phải làm gì?
- Rút ngay sang bên kia sông. Bỏ Tổng hành dinh. Sẵn sàng thuyền bè vượt sông Soài Rạp…
- Tháo chạy à?
- Nếu các ông không muốn, một tai họa còn kinh khủng hơn: quân của các ông bị bắt buộc phải đầu hàng hoặc bị giết sạch! Các ông làm việc lớn với kiểu cách trẻ con! Tôi không thể không nói thẳng với đại tá: Các ông cực kỳ ngu xuẩn. Bây giờ hãy đề phòng Trịnh Minh Thế…
Lại Văn Sang hoàn toàn không tự ái về lời lẽ nặng nề của Luân. Ông vẫn từ tốn:
- Cảm ơn ông kỹ sư… Bà kỹ sư..
- Tôi phải cảm ơn đại tá. Nhờ đại tá giúp nhà tôi ngược ra Sài Gòn an toàn.
- Tôi đảm bảo với ông kỹ sư… Không hiểu rồi trong tương lai, chúng ta còn có dịp gặp nhau không, tôi ân hận là biết ông kỹ sư quá muộn… Chúc ông kỹ sư gặp mọi điều may mắn…
… Sang đi lại giữa phòng khách Tổng hành dinh. Đạn cối và tiểu pháo rơi ngoài rào. Từ các cao điểm đối diện, súng máy quân Diệm bắn như mưa sang ngôi nhà cao tầng, đại diện quyền uy của Bình Xuyên ngót mươi năm nay. Trời bắt đầu nhá nhem.
Trước đó nửa giờ, Sang nổi nóng với Bảy Viễn – chưa bao giờ ông làm như vậy với một người, dù chẳng ra gì, vẫn là bậc đứng đầu Bình Xuyên.
- Tin tức các mặt trận ra sao?
Sang chợt nhớ lời Luân: các ông cực kỳ ngu xuẩn.
- Có bao nhiêu mặt trận mà kêu bằng các mặt trận? – Sang trả lời nhát gừng.
- Thì Tây Ninh, Long Xuyên…
- Họ đang nhậu!
- Sao? Mầy ăn nói vậy hả?
- Tời giờ nầy mà anh còn chưa tỉnh, lạ thật. – Sang rít – Tụi nó hy sinh Bình Xuyên, Bình Xuyên hy sinh Công an xung phong của tôi, anh rõ chưa?
- Cái gì mà hy sinh?
- Chẳng thằng nào nổ súng ráo. À, có một thẳng nổ súng, đó là thằng Trịnh Minh Thế. Mà nó nổ vô đây, vô Bình Xuyên! Nó sắp vượt cầu chữ Y. Anh muốn hỏi thăm nó, cứ ngồi đợi!
Một quả pháo 75 ly lao tới và nổ âdm ngay sân, xô cột cờ nghiêng về một bên. Bảy Viễn tất tả rời Tổng hành dinh không căn dặn Sang lấy một lời, bởi ông ta cho cột cờ nghiêng là điềm chẳng lành.
Hai trực thăng khởi động. Bảy Viễn chở tất cả những cái gì có thể chở được – các vali nặng chịch. Nhưng, chỉ một chiếc trực thăng dời sân cỏ, chiếc kia quay cánh quạt tại chỗ. Người lái trực thăng, một sĩ quan Pháp, không đồng ý mang tài sản của Bảy Viễn đi – nhất là tài sản của Bảy Viễn đã được chuyển trên cả một chiếc tàu to, trước đây mấy hôm – mà bỏ lại đại tá Sang. Các vali bị sứt xuống sân cỏ.
Hằng mấy chục “cố vấn” ùa quanh trực thăng. Họ xin được cứu. Viên phi công lắc đầu.
- Quân Cao Đài liên minh chiếm dốc cầu phía Chánh Hưng rồi!
Đội bảo vệ Tổng hành dinh báo cáo bằng phonie với Sang. Từ khi Bảy Viễn chạy trốn, Sang ngồi miết trên ghế, quên cả phì phò chiếc píp.
- Đại tá lên trực thăng! – Tiểu Phụng dịu dàng bảo Sang.
- Còn cô?
- Em sẽ đi bằng lối của em.
Sang không nói gì, nhìn cô gái ung dung, ông nghĩ: Các điệp viên đều như vậy.
Ly Kai hớt hải hiện ở cửa. Sang ra hiệu cho Tiểu Phụng sang phòng bên.
- Ông Ly Kai! – Sang nói, giọng bình tĩnh – Tôi biết ông là người của Ngô Đình Nhu từ lâu…
Ly Kai nép vào góc cột, mở chốt an toàn khẩu súng ngắn. Mặt gã trắng bệch. Đáng lẽ gã cao chạy xa bay từ hôm qua, song Tuyến ra lệnh cho gã bám Tổng hành dinh đến phút chót – nhận diện và tìm tài liệu về số Bình Xuyên sẽ được cài lại. Gần kề cái chết, Ly Kai vùng vẫy. Gã cố không run giọng:
- Không phải là chuyện quan trọng bây giờ. Bây giờ tôi mong đại tá suy nghĩ. Theo tôi, đại tá nên ở lại với chánh phủ. Tôi đảm bảo cho đại tá…
Sang bật cười thật giòn:
- Ly Kai! Tao đã ngu mà mầy còn ngu hơn… Dẫu còn nửa giây thì Tổng hành dinh bị chiếm, tao vẫn đủ sức cho mầy vĩnh viễn không về Tàu được! Nhưng, tao không giết mầy. Tao muốn mầy sống để nói với thằng Nhu: Tao thua nó vì tao quá con nít. Đời còn dài, thằng Nhu đừng vội đắc chí…. Mầy, mầy liệu mà lủi cho lẹ, lính của tao không rộng lượng như tao đâu…
Sang không nói không sai: hai vệ sĩ chỉ chờ Sang gật đầu sẽ xả hết băng tiểu liên vào Ly Kai, như đã từng xả vào Sáu Thưng.
Ly Kai không dám nấn ná, gã vọt nhanh ra bờ sống.
- Hạ lịnh cho rút về Rừng Sác! – Sang nói vào bộ đàm.
- Chúc cô bình an!
Sang bắt tay Tiểu Phụng.
Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân và số cố vấn bao quanh Sang. Cận vệ của Sang phải bắn chỉ thiên mới đưa Sang lại được cầu thang trực thăng.
- Các ông ở lại! - Sang bảo – Các ông đã hại chúng tôi đến nỗi nầy, theo làm gì nữa? Lưỡi các ông vẫn dẻo, xương sống chưa cứng, các ông không chết đâu, đừng sợ!
Trực thăng từ từ nhấc lên. Sang nhìn khu Tổng hành dinh, thở dài…
… Ly Kai định lội sông. Hắn vừa tụt quần áo xong thì một khẩu súng ngắn kê sát lưng gã.
- Mầy trốn hả? – Một sĩ quan Bình Xuyên quát.
- Ông đại tá tha tôi mà!
- Lại Văn Sang tha mầy, lính Bình Xuyên không tha… Đồ khốn nạn!
Nhưng Ly Kai, bằng một thế võ, đã phóng xuống nước trước khi viên sĩ quan Bình Xuyên bóp cò…

CHƯƠNG 15

Nhu ngả người trên ghế bành. Anh ta diện một bộ tergal cắt thật khéo, giầy da bóng. Trước Luân, một Ngô Đình Nhu hoàn toàn khác xưa: kiêu kỳ, thỏa mãn.
- Thế là cái ung nhọt đã vỡ toang. Vấn đề Bình Xuyên coi như bị loại ra khỏi mọi tin tức chính trị hàng ngày. Các vấn đề liên thuộc như Cao Đài, Hòa Hảo rồi cũng sẽ biến mất.
Giọng Nhu giống người trên bục giảng. Luân mỉm cười.
- Anh cho rằng tôi lạc quan hơi sớm, phải không?
Luân chưa kịp trả lời thì có tiếng gõ cửa. Người thư ký khóm róm trình:
- Thưa ông cố vấn, thiếu tướng Trịnh Minh Thế muốn gặp ông…
Nhu nhún vai:
- Mời vào!
Trịnh Minh Thế, trong bộ quần áo trận, kêpi cài hai sao, chập gót chân:
- Trận truy quét Bình Xuyên bắt đầu. Tôi dự kiến không quá 24 tiếng đồng hồ, Bình Xuyên sẽ không còn có thể bám được một thôn xóm nào…
Trịnh Minh Thế - cũng kiêu kỳ, thỏa mãn không kém Nhu – nói rành rọt.
- Công việc còn lại chỉ là săn đuổi mấy tên trốn tránh giữa rừng Sác, công việc đơn thuần an ninh!
- Thế là hay lắm… Còn gì nữa không? – Nhu hỏi
- Thưa, lực lượng Cao Đài liên minh trình lên lãnh tụ Ngô Đình Diệm một yêu cầu nhỏ: cho phép đoàn quân chiến thắng diễu hành qua các đường phố. Đó là ân sủng cao nhất của Ngô lãnh tụ với binh sĩ…
Nhu, môi hơi mím, khẽ liếc Luân:
- Được! Tôi sẽ báo với Thủ tướng. Tôi tin là Người vui lòng chấp nhận.
- Cám ơn ông cố vấn! – Thế ưỡn ngực – Xin phép, tôi trở lại chỉ huy sở hành quân!
Thế khệnh khạng nện gót giày đinh trên thảm, ra khỏi phòng.
- Anh thấy thế nào? – Nhu hỏi Luân.
- Anh thấy rồi đó. Thiếu tướng Thế thậm chí không thèm ngó tôi!
- Nhưng tôi muốn hỏi anh về việc khác kia.
- Một sĩ quan mà Pháp không đủ tiền mua!
- Và, Mỹ thừa tiền. – Nhu cắt lời Luân – Tôi không lạ việc Thế và Lansdale liên hệ mật thiết. Tôi muốn anh cho một nhận xét rõ ràng hơn.
- À! Theo tôi, tướng Thế là một sĩ quan nhiều triển vọng.
Nhu đứng lên, tay chắp sau lưng, đi lại, nói như nói một mình.
- Nhiều triển vọng hay nhiều tham vọng? Và bộc lộ tham vọng quá sớm! Phải không? Một cuộc diễu binh chiến thắng không phải là điều cao nhất mà hắn đòi hỏi….
- Nghĩa là, vấn đề Bình Xuyên và giáo phái không còn hoặc sắp không còn. Nhưng các vấn đề nói chung chưa có vẻ gì được thu gọn!... – Luân khoanh tay trước ngực, cũng không phải nói với Nhu.
Nhu dừng lại, ngắm nghía Luân.
-… Ví dụ ông tướng họ Trịnh nầy!
Nhu cười lạt:
- Bọn ngốc nghếch!
Luân hiểu rằng Nhu không chỉ gọi Thế là ngốc nghếch. Trong số “ngốc nghếch” đó, chắc có Luân.
Nhu ngồi trở lại ghế. Giọng anh ta bỗng đanh hẳn!
- Anh Luân nầy, tôi muốn hỏi thẳng anh: Sự hợp tác của chúng ta kéo dài đến bao lâu? Có bao giờ anh nghĩ đến điều đó không?
Luân trả lời như đã sẵn sàng:
- Tất nhiên là tôi đã từng nghĩ và bây giờ tôi vẫn tiếp tục nghĩ: sự hợp tác của chúng ta sẽ kéo dài đến bao giờ? Dừng đại lượng thời gian, thật ra chẳng đo được cái điều cốt lõi. Có thể năm năm, có thể mười năm…
Nhu chăm chú nghe, thỉnh thoảng rít thuốc.
-… Có thể vài tuần lế và thậm chí, trong khoảnh khắc. Giữa chúng ta, tôi không giấu giếm. Sự hợp tác là có lợi. Nói cho dễ hiểu, chừng nào anh thấy tôi không phải là “vấn đề” của anh!
Nhu cười hóm hỉnh:
- Trong khi đó, bao giờ tôi cũng là “vấn đề” của anh… Nhưng không sao. Anh làm tôi nhớ chuyện Tam Quốc, đoạn Tào Tháo và Lưu Bị luận anh hùng.
Luân cười thoải mái:
- Rất may, tôi không rơi đũa!
Nhu nheo mắt:
- Vậy là anh dành phần tiện nghi về anh. Anh là Lưu Bị thì tất nhiên tôi phải là Tào Tháo. Dù sao, tôi cũng cám ơn anh đã xem tôi ngang với người sáng lập ra một triều đại bên Trung Quốc!
Luân nghĩ thầm: Triều đại đó mang một hiệu khá buồn: nhà Ngụy. Và, nhà Ngụy chết yểu về tay Tư Mã Ý.
Nhu gọi hai “consommation” (1)
- Bác sĩ Tuyến còn làm trò gì quấy rầy anh không?
Luân lắc đầu.
- Tay bác sĩ nầy rắc rối lắm!
Luân nghĩ: thêm một “vấn đề” nữa cho Nhu!
- Tôi có một yêu cầu, anh giải quyết cho. – Luân chưa uống ly rượu do Nhu mời, nói giọng buồn.
- Cái gì đó?
- Tôi muốn gặp anh Ngọc, bạn tôi!
- À! Xin lỗi, tôi quên, vì mấy hôm nay tình hình lộn xộn… Ông Ngọc cũng đề nghị gặp anh.
Nhu lại máy nói, gọi Nha Cảnh sát.
- Mong anh khuyên ông Ngọc… Tôi sẽ sung sướng có thêm một cộng sự nữa.
Nhu bảo Luân khi hai người chào từ giã
*
Một thiếu tá đón Luân ở cổng Nha Cảnh sát. Gặp viên thiếu tá nầy lần đầu, tự nhiên Luân có cảm giác rờn rợn: người lùn choắt, cằm cạo sạch song chừa một chòm lông đen, mũi khoặm, mắt lươn – mắt đỏ chạch.
Thạch khẽ bảo Luân:
- Thiếu tá Hùng trước kia đi lính côm–măng–đô, ăn khá nhiều gan người rồi!
Quả cảm giác không lừa Luân.
- Vì trung tá giám đốc bận công vụ không đón ông kỹ sư được, gửi lời xin lỗi ông kỹ sư. Mời ông kỹ sư vào phòng giám đốc, can phạm đang ở đó.
Thiếu tá Hùng hướng dẫn Luân đến văn phòng nằm cuối hành lang. Tường Nha Cảnh sát lỗ chỗ dấu đạn của các trận đánh vừa qua.
- Xin ông kỹ sư tự nhiên! - Thiếu tá Hùng mở cửa, chìa tay vào trong. Xong, hắn ta lững thững đi lại đầu kia hành lang. Thạch và hắn ngồi uống bia, tán khào quanh một bàn con.
Luân quan sát: bốn nhân viên cảnh sát lảng vảng gần văn phòng giám đốc.
Ngọc – gầy hơn lần Luân gặp trong Đại Thế Giới – bật dậy khỏi ghế, ôm chầm Luân:
- Anh Luân!
Cả hai đều khóc.
- Anh ngồi! – Luân mời Ngọc. Anh ngó gian phòng: khá nhiều tủ đóng kín. Anh ra hiệu cho Ngọc, Ngọc gật đầu – họ thừa biết máy ghi âm đang chạy.
- Tôi xin phép ông cố vấn vào thăm anh!
- Cám ơn! Tôi đoántrước thế nào anh cũng vào!
- Sức khỏe anh thế nào?
- Không đáng ngại. Người ta không tra tấn tôi. Vả lại, cũng chẳng có gì cần tra tấn, người ta đã rõ việc làm của tôi…
Luân nhìn Ngọc: Làm sao cứu Ngọc – đồng chí, cộng sự viên, bạn của anh?
- Ta không có nhiều thì giờ. Lời khuyên bạn bè của tôi là: anh nên suy tính thật kỹ - Luân nói, thủ thỉ.
- Cám ơn anh lần nữa. Chúng ta luôn luôn là bạn, dầu cho tôi rất hoài nghi cái chủ nghĩa Quốc gia của anh. Với tình bạn, tôi lo ngại cho chính anh. Mấy hôm nay, há không phải là những người theo chủ nghĩa Quốc gia bắn nhau đó sao?
Ngọc nói rõ ràng từng tiếng một.
- Trong giờ phút bi đát nầy, tôi không muốn tranh luận với anh. Tôi chỉ hỏi anh: Tôi có thể làm gì giúp anh?
Ngọc lắc đầu, cười buồn:
- Anh không có quyền!
Ngọc nheo mắt làm hiệu.
- Và tôi, tôi không có quyền nhờ anh!
Luân nài nỉ:
- Tôi không có quyền ra lệnh thả anh, song tôi có thể xin ông cố vấn Ngô Đình Nhu…
Ngọc xua tay:
- Để làm gì? Vô ích!
- Tôi sẽ làm tất cả để cứu anh!
- Đừng… cách nào đó, anh sẽ hạ nhục tôi. Tôi không thể trở thành tên phản bội. Anh có lòng tin ở chủ nghĩa Quốc gia, anh hành động theo nhu cầu tinh thần. Tôi không có lòng tin như vậy. Tôi không quen giả đò. Giữa tôi và ông Diệm, ông Nhu có một khoảng cách của một thế giới. Tôi không tán thành giáo phái nổ súng và tôi cũng ghét anh em ông Diệm tấn họ vào ngõ cụt. Tôi cố gắng đưa một số trong Bình Xuyên – những người thức tỉnh và chưa có nợ máu với dân tộc – vào rừng. Tôi không biết rồi đây số phận họ ra sao. Tất cả còn tùy ông Diệm, ông Nhu. Còn với anh, họ thiện cảm: họ cho rằng anh lương thiện, tuy họ vẫn trách anh hợp tác với ông Diệm. Tôi phải nói như vậy là để anh thấy cái gọi là chủ nghĩa Quốc gia thật sự không hề có ở ông Diệm, ông Nhu, thì anh nên gặp họ. Họ vẫn còn biết đôi điều phải trái…
Luân vụt khóc nức nở.
- Thôi, anh về đi. Có thể đây là lần cuối chúng ta gặp nhau. Cô gì… - Ngọc vỗ trán – tôi quên tên.
- Dung... – Luân nói trong nước mắt.
- Ừ, cô Dung, cô ấy mạnh không?
- Cám ơn anh.
- Tiếc là tôi không dự được đám cưới anh chị.
Luân dìu Ngọc ra cửa. Thiếu tá Hùng đứng lên. Luân khép cửa phòng giám đốc và ôm ghì Ngọc – họ đã cách ly với máy ghi âm.
- Anh nghĩ nên trá hàng không? – Luân hỏi vào tai Ngọc.
- Không! Nguy hiểm. Nó không tin. Nó sẽ quảng cáo rùm beng tôi như một tên phản bội, có hại cho Đảng, cho phong trào lúc khó khăn nầy.
- Anh dặn gì không?
- Báo cáo giúp với các anh: Tôi có khuyết điểm trong công tác bí mật. Riêng anh, cố mà bám cái đầu cầu đã khá chắc… Bảy Môn, tham mưu trưởng Bình Xuyên là người của ta. Thế nhé!
Thiếu tá Hùng đang đi lại gần họ.
- Anh gặp tôi là tính nước cờ cao! – Ngọc tranh thủ nói them – Song phải biết dừng ở chỗ cần dừng. Nhu là tay ranh ma lắm. Anh phải hết sức cẩn thận. Còn CIA nữa…
- Cám ơn anh nhiều… - Luân nghẹn ngào – Kề cái chết, anh vẫn giúp tôi…
Họ dời nhau. Hùng ra hiệu, hai cảnh sát dẫn Ngọc vào khám. Luân bước lảo đảo.
… Toàn bộ cuôc nói chuyện giữa Ngọc và Luân truyền trực tiếp về văn phòng Nhu. Nghe xong, Nhu ngồi lặng một lúc. Có vẻ anh ta vừa thất vọng, vừa phấn khởi, vừa còn muốn kiểm nghiệm thêm. Đúng lúc đó, Luân đến. Nhìn qua, Nhu biết Luân khóc khá nhiều rồi.
- Anh đừng quá xúc động… - Nhu khuyên – Anh dùng cà phê được không?
Luân không trả lời.
- Thế nào? - Nhu hỏi.
- Không có điều gì đáng nói ở anh Ngọc. Anh ấy không bao giờ thay đổi ý kiến… Tôi chỉ mong anh nghĩ đến tôi.
- Tôi sẽ để ông Ngọc tự do ngay hôm nay nếu ông ấy hứa: Không tham gia hoạt động Cộng sản nữa. Tôi không đòi ông ấy cộng tác, mà chỉ đòi ông ấy tỏ ra vô hại đối với chúng tôi… Anh thừa biết: chúng ta còn bao nhiêu người cấp dưới, họ khó mà thông cảm với tôi nếu ông Ngọc không cam kết một điều đơn giản như vậy. Anh cứ quay vào Nha Cảnh sát khuyên ông ấy!
- Cám ơn anh! – Luân đứng lên.
- Anh vào Nha Cảnh sát? – Nhu hỏi, căng thẳng.
- Không! Tôi mệt quá, xin phép anh về nhà…
Nhu như đánh mất một cái gì, ngó theo Luân. Luân xuống tam cấp, Nhu vẫn theo dõi từ cửa sổ. Y hy vọng Luân quay lại. Song, Luân đã ném người lên xe và xe chạy ra cổng sau, đường Miss Cawell.
Chính Nhu cũng ném người lên chiếc ghế bành:
“Có phải hắn ta đúng là người như vậy không? Hay là hắn ta đóng kịch?... Khó đóng kịch đến trình độ vậy lắm…”
*
Cơn mưa đầu mùa, khác mọi năm, trút nước xuống thành phố và ngoại ô. Trong mưa, trận đánh trở nên buồn tẻ. Số tàn quân Bình Xuyên rút về phía Tân Thuận, bắn cầm chừng chờ xuồng máy đưa họ sâu vào Rừng Sác.
Tướng Trịnh Minh Thế bất bình thật sự với cả trời lẫn Bình Xuyên. Ông ta cần những tràng đạn dồn dập, những đợt phản xung phong gay cấn… Có như vậy uy tín của ông mới được nâng cao. Nếu đợt hành quân truy kích của ông chỉ là cuộc dạo chơi ngắm cảnh Nhà Bè, dù giữa mưa to, thì ai chẳng làm được. Và ông khát khao một buổi trời đẹp, thật đẹp. Cổng chào, cờ, băng ướt sũng, đoàn quân chiến thắng vừa bứơc đều, vừa gạt nước mưa, ôi còn gì là tướng Trịnh Minh Thế!
Nhưng, sự chống cự của Bình Xuyên không thể hơn được. Thế đứng trên cầu Nhà Bè nhìn rặng cây nhập nhòa, rủa thầm Bảy Viễn: Vậy mà cũng đánh!
Đành phải rút về thôi…
Đoàn xe xếp hàng thật dài. Thật vui: trời bỗng ngừng mưa. Trịnh Minh Thế sửa lại mũ áo. Ông đứng trên một xe Jeep mui trần. Đoàn xe chui qua từng cổng tam quan. Dọc lộ, các cô thanh nữ - công dân vụ huy động giỏi thật – ném những bó hoa tươi rói lên xe của ông. Ông vẫy chào, đáp lễ.
Chốc nữa, đoàn xe sẽ vượt qua cầu Mới, theo đường Nguyễn Huệ, diễu hành qua Tòa Đô chính, dinh Độc Lập, nhà thờ Đức Bà và kết thúc tại Bồn Binh. Thế nhoẻn cười. Ông ta chờ một sao nữa mọc trên cầu vai. Những ước mơ trước kia xa xăm thế, còn bây giờ, chúng quá gần gũi. Điều quan trọng nhất là phải biết mơ ước cái gì…
Xe của Thế lên đúng giữa cầu Lăng Tô, một khải hoàn môn đẹp nhất suốt con đường. Khẩu hiệu cũng hay: Chào vị anh hùng Trịnh Minh Thế, con người của chiến thắng! Xe Thế sựng lại nhận hoa và Thế thích một tấm ảnh của ông ngay dưới khẩu hiệu đó. Khá đông nhà báo chụp ảnh, trong đó, có một cô lai Âu – Thế nhoẻn cười với cô, chính xác là nhoẻn cười với vùng ngực khêu gợi của cô.
Một phát súng nổ gọn. Thế không nghe phát súng đó. Nhưng mọi người đều nghe.
Thế ngã vật. Viên đạn xuyên qua mang tai. Chiếc mũ gắn hai sao lăn long lóc theo dốc cầu. Ký giả hốt hoảng, trừ cô gái lai – cô bấm được mấy pô cái giây phút hiếm hoi nầy.
… Nhu sốt ruột chờ điện thoại. Đài phát thanh tường thuật từng chặng trở về của đoàn quân chiến thắng với những lời rất hoa mỹ. Lộ trình của tứơng Thế ngắn dần… Nhu coi đồng hồ tay. Và, phát thanh viên bỗng đổi giọng: “Quý vị thính giả! Bọn tàn quân Bình Xuyên vừa bắn lén, hạ sát người anh hùng của chúng ta, thiếu tướng Trịnh Minh Thế bị tử thương ngay giữa cầu Lăng Tô”.
Điện thoại reo:
- Alô, tôi là Nhu. Tôi biết rồi!
Nhu gác máy. Cửa phòng vụt mở. Diệm hấp tấp bước vào.
- Chú nghe chưa? Thế chết!
- Em vừa nghe…
Diệm sững người.
- Uổng quá! Tôi coi hắn như con… Bình Xuyên ác thật!
… Diệm về phòng riêng. Lệ Xuân lấy từ tủ lạnh một chai Champagne. Mụ khui, tiếng nổ thật giòn. Rót hai ly, Lệ Xuân mang đến cho Nhu.
- Chúc mừng!
Hai vợ chồng uống cạn.
… Ngày 4-5, báo chí tường thuật lễ viếng tướng Thế, quàn tại đường Eyriauds Vergnes. Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa thấy thi hài, đã ngất lịm. Bài chia buồn của Diệm thật thống thiết. Thế được truy phong trung tướng và thi hài chính thức đặt tại tòa Đô chính.
Cùng ngày, báo chí cũng đưa tin: Một người đàn ông trạc 40 tuổi, tóc bạc, bị đập vỡ sọ tại vườn cao su Thủ Đức.
*
Luân cầm tờ báo có đăng ảnh Ngọc, khóc ngất. Dung thấy cứ để cho Luân khóc. Cô hiểu đối với Luân, đây là cái đau đớn nhất từ khi anh thực hiện nhiệm vụ mới.
Trong không khí ảm đạm như vậy, Fanfani bấm chuông. Dung đón Fanfani.
- Xin lỗi, tôi đến không phải lúc… - Fanfani ngập ngừng.
Luân ra hiệu mời Fanfani ngồi, chờ anh đi rửa mặt.
- Tôi không ngờ ông Luân thân thiết với tướng Trịnh Minh Thế! - Fanfani hiểu lầm về cái khóc của Luân.
Dung toan đính chính, nhưng lại thôi. Thoạt gặp, Dung đã biết đây là Fanfani, đôi lần Luân có nhắc. Nhưng, theo Dung, cô nhà báo Mỹ không nên đi sâu vào chuyện tâm tình của Luân. Không hiểu vì sao Dung hơi khó chịu về sự có mặt của Fanfani – có mặt nói chung hay trong trường hợp hôm nay, Dung không phân tách được.
- Tôi là Helen Fanfani, phóng viên tờ Financial Affairs…
Fanfani tự giới thiệu và hẳn muốn biết Dung là ai.
- Tôi là Dung. – Dung nói, hơi cụt.
Fanfani ngắm nghía cô gái Việt mấy giây rồi buột miệng khen:
- Cô đẹp lắm…
Dung mỉm cười, miễn cưỡng.
Luân vừa trở ra phòng khách:
- Dung, bạn tôi… Còn cô Fanfani, nhà báo, hình như đã có lần tôi nói với Dung.
- Tôi đường đột đến nhà ông kỹ sư mà không nói trước, xin lỗi ông! – Fanfani lấy lại vẻ nghiêm chỉnh – Mục đích của tôi là muốn hỏi ông kỹ sư chung quanh cái chết cuả tướng Trịnh Minh Thế. Tuy vậy, nếu điều tôi hỏi lại động đến nỗi thương tâm của ông thì tôi đành không thể cung cấp cho độc giả tờ Financial Affairs một thông tin thật nóng hổi… Tôi rất hãnh diện báo với ông Luân là tôi được chứng kiến phút cuối cùng của tướng Thế không quá 5 thước, khi viên đại quái ác xuyên qua đầu tướng Thế. Tôi có hai tấm ảnh quý: Tướng Thế nhoẻn cười và tướng Thế lảo đảo… Ông kỹ sư muốn giữ kỷ niệm, tôi sẽ biếu…
- Cô có thể hỏi! – Luân bảo, không nói gì về ảnh.
- Trước hết, tôi có thể hay không cho dư luận Mỹ biết rằng tôi gặp ông đang khóc về cái chết của tướng Thế? Tôi không định trước câu hỏi này, nhưng, nó vừa nảy ra và nó quan trọng lắm…
- Tôi không là một nhân vật có một ý nghĩa gì đó để được dư luận biết về cái khóc riêng tư… Cô hãy viết về cái lịm của thủ tướng Diệm trước thi hài tướng Thế. Tôi không muốn những giọt nước mắt của tôi lại gây cười cho độc giả Mỹ…
- Hoàn toàn khác, ông Luân! – Fanfani kêu to, duyên dáng – Nói thật, chính thủ tướng Diệm, bằng cái lịm rất toán học của ông, đang gây bàn tán trong các đồng nghiệp của tôi – cả đồng nghiệp Việt Nam. Dĩ nhiên, bàn bạc như chứng kiến một màn kịch vụng về. Còn ông, tôi có thể trưng với dư luận Mỹ bằng chứng về một sự xúc động chân thật… Tất nhiên, người ta sẽ hỏi lý do nào khiến ông xúc động? Ông và tướng Thế không có quan hệ cá nhân, nếu nguồn tin tôi nắm được đúng là thông thạo, thân cận với giới hữu trách tại đây…
- Tôi nghĩ là báo chí thiếu vô tư, thậm chí ác ý về cơn xúc động của Thủ tuớng Diệm…
- Ông có sự xác tín của ông và báo chí có quyền của báo chí… Xin phép ông, chúng ta trở lại câu hỏi…
- Tôi gặp tướng Thế đôi lần, hoàn toàn vì việc chung…
- Đó! Đó là chỗ cần làm sáng tỏ - Fanfani lật sổ tay.
- Với tôi, ông Thế là một chỉ huy quân sự tài năng….
- Có thể! – Fanfani cướp lời Luân – Mến vì tài, đó là chuyện bình thường đối với phương Đông… Phải chăng, lúc ông Thế còn sống, ông không khen ông Thế và dành lời khen đó khi ông Thế thực tế không còn trên thế gian nữa?
Dung xịu mặt. Cô nhà báo nghi cả Luân dính vào cái chết của Thế! Luân, khác với Dung, chỉ cười nhẹ.
- Tôi vẫn khen ông Thế, khi ông sống hay khi ông chết..
- Cứ như lời ông! Nhưng nếu chỉ mến tài ông Thế thì làm sao ông lại khóc đến sưng húp mắt? Cô Dung – xin lỗi, tôi nghĩ ràng gọi cô Dung thích hợp hơn gọi bà – cô có đồng ý với tôi là mắt ông Luân sưng húp không?
Fanfani liếng thoắng. Trong cái liếng thoắng vẫn chứa nhiều ý tứ - cả về việc riêng của Luân – Dung. “Thật là một con người quỷ quái!” – Dung nghĩ như vậy, đồng thời cô cũng thấy câu hỏi của Fanfani rất hóc hiểm.
- Vậy thì, theo cô, vì sao tôi buồn? – Luân hỏi ngược lại.
Fanfani ngẫm nghĩ.
- Tỷ như, ẩn tình của cái chết khiến ông xúc động. – Fanfani lựa lời.
- Và liên tưởng thân phận mình, phải không? – Luân quật lại.
“Anh ấy ứng phó giỏi hơn mình!” - Dung nghĩ thầm, nhẹ nhõm.
Fanfani lúng túng. Luân cười hồ hởi.
- Nhà báo bao giờ cũng cột cái nọ qua cái kia…
- Tôi không tin ông là người đa cảm. – Fanfani vẫn chống cự.
- Nếu như hôm nay cô gặp tôi để tìm nguyên nhân cái chết của tướng Thế - chắc cô không tin Bình Xuyên giữa lúc tan tác lại có thể, bằng một phát súng hạ ngay người chỉ huy đối phương – thì tôi mách cho cô một địa chỉ có thể thỏa mãn tính tò mò nhà báo của cô: cô gặp đại tá Lansdale!
- Tôi không tin CIA dính vào đây! - Fanfani lắc đầu quả quyết.
- Cô biết kẻ nào đó hạ sát tướng Thế bằng súng gì không?
- Tôi cố len lỏi vào tận thi hài tướng Thế, nhưng cảnh sát xua tôi… Tôi thấy rõ tướng Thế trúng đạn, nhưng không biết đạn của súng gì! – Fanfani tiếc rẻ.
- Bằng súng tự động gắn máy ngắm, hiệu Remington, là loại súng sản xuất chuyên dùng có khả năng sát thương trong cự ly 800m…
- Ôi! – Fanfani chụp tay Luân, reo ro – Ông cho tôi một chi tiết lý thú… Rất lý thú. Giữa khải hoàn môn dựng trên cầu với cái chết của tướng Thế có mối liên quan. Khải hoàn môn là vật chuẩn. Và, các cô gái tặng hoa làm xe của tướng Thế phải ngừng…
- Giá mà cô chọn nghề trinh thám! – Luân hóm hỉnh – Tuy vậy, chỉ có đại tá Lansdale mới đủ quyền giám định suy luận của cô đúng được mấy phần trăm…
- Theo ông, tình hình rồi sẽ ra sao?
Luân nhún vai:
- Tôi không phải là maitre (2) Khánh Sơn hay madame Vũ Nhân, không thạo nghề coi chỉ tay, đoán mộng, đoánbài Tarot…
- Riêng về cá nhân ông, ông nhìn tương ai ra sao?
Luân cười thật tươi trước câu hỏi thăm dò của Fanfani – cô ta muốn đo lường vị trí của Luân sau các cuộc xung đột giữa Diệm và các giáo phái giải quyết xong. Anh choàng tay qua vai Dung:
- Tương lai của tôi là như thế này!
Dung đỏ mặt, bối rối gỡ tay Luân.
Fanfani, giọng trầm:
- Tôi hỏi câu sau cùng đó với thiện cảm. Tôi mừng hạnh phúc của ông bà!
---
(1) rượu nặng pha sô đa
(2) thầy bói

CHƯƠNG 16

Hai cứ điểm Bình Xuyên giữa lòng thành phố chống trả kéo dài tận ngày 10-5. Bót Catinat đầu hàng với ngót trăm Công an xung phong. Còn quán Théophile đường Legrand de la Liraye thì quân chính phủ chỉ tiếp nhận một ngôi nhà trống rỗng, toàn bộ binh sĩ Bình Xuyên và vũ khí không cánh đã bay mất.
Rừng Sác, mãi đến cuối tháng 10, mới im tiếng súng qua chiến dịch mang tên Hoàng Diệu do đại tá Dương Văn Minh và trung tá Nguyễn Khánh phụ trách. Bản thống kê được Bộ thông tin thêm thắt vẫn rất nghèo nàn. Nghĩa là cả nghìn binh sĩ Bình Xuyên không chịu theo Bảy Viễn xuống tàu sang Pháp sống lưu vong, không chịu nạp mạng cho chính phủ, đã vượt sông Soài Rạp. Dưới quyền chỉ huy của Bảy Môn, nguyên là tham mưu trưởng Bình Xuyên, thay Thái Hoàng Minh đầu hàng Diệm – lực lượng Bình Xuyên xây dựng cơ ngơi mới trên vùng rừng miền Đông hiểm trở.
Đó là việc sau.
Đã 5 ngày rồi, Luân không gặp Nhu. Nhu hai lần gọi Luân. Luân hai lần cáo bệnh. Nhu thừa biết Luân phản ứng sau cái chết của Ngọc.
- Có lẽ bày tỏ thái độ với hắn như vậy là đủ. - Luân bảo Dung khi hai người ăn sáng: đã thành lệ, ngày nào Luân cũng ăn sáng với Dung hoặc ở chỗ Dung; hoặc ở chỗ Luân – Hôm nay, tôi phải gặp hắn.
Càng lúc, Dung càng khâm phục Luân. Quanh vụ Ngọc, lúc đầu Dung lo lắng, về sau yên bụng: Luân tính toán rất chặt chẽ đâu vào đó. Lần lần, Dung học được ở Luân cung cách xử lý các tình huống với một thái độ rất chủ động. Cái gì không cần phải giả tạo trước kẻ thù, Luân sống đúng như thói quen và cảm nghĩ của anh. Cung cách đó giảm tối đa những sơ hở thường dễ vấp, để dồn tâm lực cho vai kịch đạt trên tổng thể. Luân phản ứng ra mặt về cái chết của Ngọc là từ thâm tâm. Thật nguy hiểm nếu anh làm khác, với Ngô Đình Nhu, đó là anh tự thú.
Anh đi nhà thờ không quá ít như Nhu, song cũng không quá cần mẫn, xét chung là vừa phải đối với một trí thức giữ tín ngưỡng ở mức một nhu cầu văn hóa hơn là một sùng tín.
Chưa bao giờ Luân giảng cho Dung nghe có hệ thống công tác tình báo chiến lược trong lòng địch, song Dung vẫn rút ra những kinh nghiệm qua họat động thực tiễn của Luân mà cô cho là bổ ích.
Nhận công tác với Luân, lúc đầu Dung vì nhiệm vụ - không thể để cho cả một kế hoạch mà cấp trên, trong đó có chú Thuận của Dung, bỏ bao nhiêu công sức rồi phải thay đổi. Đóng “cặp đôi” với một người xa lạ, Dung khó chịu trong lòng. Điều cô tự trấn an là: Màn kịch thôi, gì mà sợ chứ?
Gặp Luân, cô vồn vã bên ngoài. Thật ra, cô không thích tên Robert của Luân. Cô yên trí Luân, tuy là cán bộ, không phải hạng nghiêm chỉnh. Cô nhủ thầm: phải coi chừng anh ta. Chỉ vài ngày gần gũi, cô phát hiện ra trong Luân có hai lối sống tách biệt: với kẻ thù và giữa hai người. Có lẽ Luân thèm khát lối sống chân thật cho nên từ khi có Dung, anh tươi tỉnh hẳn, Dung quan sát sở thích của Luân về ăn mặc – tất cả đều giản dị, nếu không nói là hơi lè phè.
Luân không bao giờ uống rượu ở nhà; anh hút loại thuốc lá nhẹ giá trung bình. Thói quen của Luân lại là những bữa cơm có rau, có cá. Bao giờ Luân cũng giữ một khaỏang cách với Dung khi hai người gặp riêng. Rõ ràng anh hài lòng về Dung – một cộng sự, một đồng chí.
Có lần, Dung định nói rõ với Luân về mối quan hệ giữa hai người – cô bắt đầu e ngại về tương lai của nó. Thà nói rõ với Luân để hai bên cùng giữ gìn cái lằn mức mà hai bên đã thỏa thuận. Chẳng hạn, cô sẽ đề nghị Luân trước sau nên xem Dung là đứa em gái. Nhưng cô chần chờ. Chẳng có thể giải nghĩa rành rọt về sự chần chờ của cô.
“Nhỡ anh ấy buồn thì sao?”.
Dung tự biện bạch. Từ một chỗ nào rất kín đáo trong Dung có tiếng nói là lạ:
“Nhỡ chính mình không giữ được lằn ranh thì sao?”.
Hôm Công an xung phong bắt cô ở Nha Cảnh sát, giữa lúc nguy nan, người mà Dung nhớ lại là Luân. Cô đã dám giới thiệu với Lại Văn Sang cô là “vợ” của Luân. Tất nhiên, cô đóng kịch, song cô không thấy một chút ngượng ngập khi lần đầu tiên nói đến tiếng “vợ” kỳ cục đó. Và cô cũng không hối hận mình đã bạo mồm.
Dung gặp Luân tại góc đường Nguyễn Tấn Nghiệm. Luân đứng cạnh xe, chăm chú tìm kiếm. Có lẽ Luân nhận ra cô trước. Cho nên, khi cô còn cách Luân đến cả trăm thước – giữa một dòng người nhốn nháo, Luân đã vẫy cô và lao tới. Tận bây giờ, Dung không hiểu cái gì xô Dung ngả vào Luân và – Luân ghì nhẹ đầu Dung vào ngực anh – cô đã khóc nức nở.
Trên xe, Lục bảo Dung:
- Ông kỹ sư tinh mắt thật, chúng em chưa trông thấy cô mà ông đã reo: Dung kìa!
Lòng Dung rộn lên một thứ sung sướng mà cô chưa từng biết. Cô nhìn tóc Luân thêm nhiều sợi bạc. Trong các sợi bạc đó, Dung quả quyết có sợi là của cô.
Trong một thời gian tương đối ngắn, Dung khám phá ở Luân những đức tính mà chính chúng đã kéo Dung gắn bó với Luân. Có vẻ như khám phá ra Luân đồng thời Dung cũng tự khám phá. Đôi khi, Dung bỗng sợ bâng quơ: vì một lẽ nào đó cô và Luân không làm việc chung với nhau nữa…
- Em chỉ ngại anh không tự kiềm chế. - Dung bảo khẽ.
- Chúng nó giết anh Ngọc, một phần là để uy hiếp tôi… Anh Ngọc, ngay khi sắp chết, vẫn cố làm điều tốt cho đồng đội. Một mối thù lớn. Song, tôi đủ tỉnh táo biết mình phải làm gì để trả thù cho anh Ngọc, cho hàng nghìn, vạn đồng chí, đồng bào – trả thù đúng với cái nghĩa rộng lớn của nó.
*
- Quán Théophile trống rỗng. Không có đường ngầm. Không thể đi trên mái nhà. Quân đội canh gác khắp ngõ ngách. Kỳ lạ thật!
Nhu vừa bắt tay Luân vừa nói luôn điều anh ta bực bội. Đó cũng là cách anh ta giả lả với Luân. Luân nghĩ là không nên nhắc lại vụ Ngọc trong trường hợp này. Nhưng, chính Nhu nhắc:
- Còn vụ giết ông Ngọc, tôi phải làm sáng tỏ. Đã sáng tỏ. Thằng thiếu tá Hùng tự tiện. Không có lệnh của ông Đắc, ông Lễ. Tôi giao nó về bên an ninh quân đội sửa trị. Nó là sĩ quan biệt phái…
“Nếu quả đúng như lời Nhu, thì vụ này dính tới Mai Hữu Xuân.” – Luân nghĩ thầm.
- Tôi không giấu anh về quyết định kết án ông Ngọc. Song, tôi muốn đưa ông Ngọc ra tòa vì tội của ông ấy cộng tác với Bình Xuyên…
- Vụ quán Théophile đặt cho chúng ta một câu hỏi nghiêm trọng. – Luân giả như tin lời Nhu. - Chắc chắn công an xung phong theo đường Legrand de la Liraye lội qua rạch Thị Nghè. Từ Thị Nghè, họ có nhiều ngã thoát khỏi Đô thành … Đơn vị nào gác các đường Pierre, Luro, Sở Canh nông?
- Tôi đã thẩm tra: Đơn vị Dù.
Luân trầm ngâm rất lâu.
- Có phải anh thấy mối uy hiếp chúng ta cao hơn, với sự liên ca của lính Dù?
- Ông Cao Văn Viên là người thế nào? – Luân hỏi tiếp.
- Theo hồ sơ, Viên sanh ở Lào. Cha mẹ ông đều là người Việt. Nhưng ông lại có nét lai Pháp. Không một bằng chứng nhỏ nhào ông thân Bình Xuyên.
- Còn dưới quyền ông Viên?
- Tất nhiên, phức tạp. Bác sĩ Tuyến đang thẩm tra tiếp. Tôi ngại… - Nhu ngần ngừ không nói hết.
- Anh ngại anh Ngọc đã bố trí vụ này, phải không?
Nhu gật đầu, Luân cũng cảm thấy hình như chính Ngọc thảo kế hoạch cho toán Công an xung phong quán Théophile. Họ không rút qua Thị Nghè mà qua Cầu Kinh, từ Bình Quới Tây vượt sông Thủ Đức…
- Thú thật, tôi không rõ hành động của anh ngọc. Dù cho anh Ngọc bố trí, việc vẫn là: tại sao lính Dù để hàng trăm người với vũ khí tẩu thoát khỏi quán Théophile. Cái nút là ở chỗ đó.
Nhu rít thuốc liên hồi.
- Tôi sẽ cho thanh lọc lính Dù!. .. Còn một vụ nữa, là bài báo của con mụ Fanfani về cái chết của Trịnh Minh Thế. Mụ viết lập lờ, vô hình trung đặt nghi vấn Thế chết không hẳn do Bình Xuyên. Mụ còn nói đã gặp anh, anh đang khóc. Tôi chưa cho chuyển bài của mụ, song phải giải quyết sớm, kẻo mụ lại tru tréo. Bọn UPI, AP, AFP, Reuter.. có thể làm rùm lên quanh cái “tự do báo chí”… Anh quen với mụ Fanfani à? À, mà anh có khóc khi nghe tin Thế chết không?
- Có, tôi có khóc! – Luân trả lời.
Nghe Luân xác nhận, Nhu cười bí hiểm.
- Tôi không khóc Trịnh Minh Thế. Chẳng thể nào tôi khóc như vậy được. Tôi khóc vì lí do khác. Mụ hiểu lầm.
- Ra là vậy! – Nhu không cười nữa, anh ta có vẻ vừa vồ hụt.
- Tôi biết anh khóc vì cái gì rồi! Thôi, tôi chỉ muốn anh ngăn giúp mụ Fanfani đừng gửi bài đó, hoặc có gửi thì sửa vài đoạn.
- Tôi sẽ thử điều đình với Fanfani xem. Không hy vọng nhiều!
Luân từ giã Nhu.
- Chính phủ Mỹ vừa thông báo sẽ cử nhà ngoại giao chuyên nghiệp Frederich Rheinardt thay tướng Colins, chính phủ Pháp cũng sẽ cử Henri Hoppenot thay tướng Ely… Màn quân sự hạ, tới màn dân sự!
Nhu đưa Luân ra cửa, nói thêm.
*
Ngày 10-5, chính phủ Ngô Đình Diệm cải tổ “nhẹ”. Chẳng qua là việc làm hình thức – nhiều thành viên của chính phủ từ chức trước đó và đã có người thay thế rồi. Tuy vậy, việc làm hình thức vẫn cần thiết về chính trị: danh sách chính phủ do Thủ tướng ký mà không cần ghi là “Thừa lệnh Quốc trưởng”. Tiếp liền, Nguyễn Văn Vĩ bị cách chức tổng thanh tra quân đội, lột quân hàm thiếu tướng, bị truy tố ra tòa cùng với Lê Văn Viễn, Nguyễn Văn Thành, đại tá Tuyên, đại tá Lại Văn Sang... và nhóm cố vấn Bình Xuyên – số này đầu thú khi quân đội chiếm Tổng hành dinh Bình Xuyên. Ngự lâm quân bị xóa sổ.

CHƯƠNG 17

Ly Kai len lỏi trong một đường hẻm – như hầu hết đường hẻm của Chợ Lớn: thiếu ánh nắng, nhớp nháp, ồn ào và rợp bóng những quần áo phơi đủ màu sắc.
Sau cơn chết hụt, Ly Kai “lặn” một thời gian. Bác sĩ Tuyến và Nhu khuyên gã như vậy. Tay chân Bình Xuyên còn đủ sức để khử gã bất cứ lúc nào.
Nhưng rồi có một người dựng gã dậy, lôi gã ra khỏi nhà. Đó là một khách đánh bạc mà gã nhẵn mặt. Tên lão ta là Tần Hoài, một trong những chủ nhà hàng Đại La Thiên. Tần Hoài tỉ tê với Ly Kai đến ngõ hẻm âm u này, dưới chân cầu Palikao.
Ly Kai dừng trước ngôi nhà hai tầng cũ kỹ, cửa dán vô số hồng đơn. Lọt qua cửa, Ly Kai biết mình vào nơi làm đồ mã. Những sườn lân, phụng… bằng tre choán hết tầng trệt. Độ năm ba người làm việc dưới ánh đèn tù mù.
- Tôi hỏi thăm ông Loẽng… (1)
Ly Kai nói với người đứng tuổi, gầy còm.
- Tôi là Loẽng đây.
- Hẩu! – Ly Kai nói – Tôi ở chỗ ông Suần…(2)
- Suần nào? Tôi không biết!
Qua giọng nói của người đứng tuổi, Ly Kai đoán ông ta không thạo tiếng Quảng.
- Tôi ở chỗ ông Sỉu Hoải! (3) – Ly Kai nói tiếng Tiều.
- À… - Người đó gật gù.
- Tôi xin gặp ông Dảng… (4)
- Ông là Lỳ Chía (5), đúng không?
- Phải…
Người đó trỏ cho Ly Kai bậc thang gỗ.
- Lên trên kìa!
Ly Kai theo chiếc thang ọp ẹp lên tầng trên. Tầng trên chia nhiều phòng, cửa đóng kín. Từ trong một phòng, mùi thuốc phiện thơm lừng. Ly Kai gõ cửa.
- Dập lầy! (6) - Một giọng Quảng chưa thật chuẩn vọng ra.
Ly Kai đẩy cửa. Căn phòng trần thiết khá sang. Trường kỷ khảm xà cừ. Tủ bằng gỗ quý. Giữa phòng đặt bộ phản to, bóng lộn. Một người đàn bà đứng tuổi đang làm thuốc cho một người đàn ông – ánh đèn dầu phộng soi bộ mặt nung núc thịt của ông ta.
- Chào xính xáng Doèng… (7) - Ly Kai chào.
- Chào xính xáng Ly… - Người đàn ông đáp, tay tiếp dọc tẩu – Xính xáng chờ tôi. Xong điếu nầy, ta nói chuyện.
Ông ta kéo dọc tẩu, tiếng “ro ro” đều đều. Hơi ông rất dài. Khi ngao thuốc biến thành than, ông nắm ngửa,, lim dim mắt, từ từ buông làn khói nhẹ… Sau một lúc, chừng như để tận hưởng lạc thú, ông ta ngồi dậy hớp một ngụm trà.
- Xíng xáng không hút? - Người đàn ông hỏi Ly Kai.
- Có, mà không nghiền.
- Làm một điếu à…
- Hẩu! (8)
Ly Kai hút liền hai điếu. Lúc Ly Kai hút, người đàn ông lặng lẽ theo dõi gã.
Hai người ngồi lên tràng kỷ, sau khi người đàn bà dọn mâm hút, ra khỏi phòng. Đèn bật sáng. Chủ nhà vạm vỡ, bụng thật to, vận áo xá xẩu, dáng dấp người Bắc Trung Quốc.
- Tôi có nghe ông Suần nói về ông. Tôi cũng được biết ít nhiều hoạt động của ông trước đây. Ông có giữ đúng lời hứa là không báo cho Trần Kim Tuyến về cuộc gặp mặt giữa ông với tôi?
- Tôi chưa cho ai biết hết!
- Hẩu! Ta có thể bắt đầu trao đổi. Mời ông uống nước!
Tách trà bốc mùi thơm đặc biệt. Ly Kai nhìn hộp trà màu xanh chữ “Hoa Trà” bay bướm, do Tổng công ty lương thực thực phẩm Thượng Hải sản xuất – hàng của Trung Cộng.
- Mà tôi muốn biết rôi gặp ai? – Ly Kai hỏi.
- Ông Suần Quài không nói với ông sao?
- Ông Suần Quài nói tôi sẽ gặp một xính xáng tên là Doèng Choi Hứng… Thế thôi.
- Chưa đủ sao? Nếu ông muốn, thì tôi là Dảng Chái Hiến, nói theo tiếng Bắc Kinh. Kêu theo âm Hán Việt, tôi là Dương Tái Hưng. Còn tiếng Tiều thì Yểu Chại Hêng! Quá đủ rồi, phải không? Hay muốn đọc theo quê Sơn Đông của tôi? – Ông ta cười cười. Ly Kai nhận ra miệng ông cười, nhưng mắt - dưới đôi chân mày rậm – lại như đe dọa.
- Tôi muốn…
Ly Kai ấp úng.
Dương Tái Hưng nghiêm mặt:
- Ông muốn biết tôi là Bắc Kinh hay Đài Bắc, phải không?
Ly Kai gật đầu.
- Có gì quan trọng?
Ly Kai yên lặng.
- Giả tỷ như ông gặp cả hai, được không? Đặc vụ nào cũng là đặc vụ. Ông từng làm cho Bình Xuyên mà lại dính với Trần Kim Tuyến… Chẳng lẽ ông mang hai dòng máu?
- Không, tôi đẻ ở Xán Thầu…
- Vậy, ông chỉ cần nhớ tôi và ông chung một giòng máu. Không phải Việt, không có một chút dính dấp đến Việt! Ông chỉ cần nhớ bấy nhiêu thôi… Từ nay, ông làm việc với tôi. Không phải trực tiếp với tôi đâu mà với ông Loẽng, người ở tầng duới mà ông vừa gặp. Nói trước, tôi chỉ thỉnh thoảng ghé vào đây nên có việc ông cứ báo với ông Loẽng.
Dương Tái Hưng dằn giọng:
- Làm việc cho tôi tức là làm việc với Tổ quốc! Ông hiểu chớ?
Ly Kai gật đầu. Gã chẳng xúc động một chút nào khi nghe hai tiếng “Tổ quốc” kênh kiệu của Dương Tái Hưng, song gã lại thấy lạnh xương sống: Đưa “Tổ quốc” ra phủ đầu, Dương Tái Hưng nhắc khéo gã đừng có lơ mơ, không phải chuyện chơi, không thể “cỏn tài hòa” (9), càng không thể bịp bợm như trong cờ bạc.
- Ông sẽ chẳng thiệt thòi gì đâu…
Bây giờ, giọng Dương Tái Hưng dường như êm dịu. Ông ta đứng lên tìm trong giá sách, tập Mao Tuyển.
Ly Kai lạnh lùng:
- Ông định thuyết giáo với tôi về chủ nghĩa Mao sao? Ông vừa nói Bắc Kinh hay Đài Bắc đều không quan trọng mà!
Dương Tái Hưng lật các trang sách:
- Đúng! Đài Bắc hay Bắc Kinh đều giống nhau ở chỗ cả hai xài một thứ giấy thông hành… Nó đây!
Dương Tái Hưng lấy giữa các trang sách mấy tờ đo la Mỹ thứ 100 đồng.
- Ông cầm lấy! Gọi là trà nước. Tổ quốc không bao giờ bủn xỉn với những người có công. Rồi ông sẽ cho tôi địa chỉ một ngân hàng ở Hồng Kông, hoặc Tân Gia Ba để nhận tiền…
Ly Kai sững sờ nhìn những tờ giấy bạc in hình tổng thống Mỹ Lincoln. Gã thầm cảm ơn Tần Hoài đã môi giới cho một chỗ làm ăn béo bở.
- Cũng được! - Ly Kai vụt quên cái sợ hãi vừa đây thôi, lo chọn một ngân hàng tin cậy ở Hồng Kông.
- Ông nắm được danh sách nhân viên tình báo Bình Xuyên không? Tất nhiên, tôi muốn biết số được Lại Văn Sang để lại. – Dương Tái Hưng hỏi, khi Ly Kai cất cẩn thận số dollar vào túi.
- Có một ít… mà những tay không có vai vế…
Thấy Dương Tái Hưng không vui, Ly Kai xun xoe:
- Mà tôi biết một người nắm nhiều hơn tôi.
- Ai?
- Một cô lai Việt Hoa. Tên cô là Tiểu Phụng, trước làm việc với Lại Văn Sang.
- Ông có thể khai thác cô ta không?
- Khó! … Tôi già ốm quá!
Dương Tái Hưng cười:
- Cần một người trẻ, đẹp trai, sang phải không?
- Đúng! Cần có học nữa. Cô ta nói tiếng Pháp, tiếng Anh đều thạo.
- Không có gì khó… Ông cho địa chỉ của cô ta.
Dương Tái Hưng ghi chú vào quyển sổ tay xong, bảo:
- Ông nắm được danh sách người của bác sĩ Tuyến không?
- Có, mà không nhiều. Hắn kỹ lắm, giao việc cho từng người và từng người báo cáo với hắn.
- Ông có quyen ai làm cho tình báo Mỹ không?
- Có một người, và vừa chết. Tướng Trịnh Minh Thế!
- Còn Văn Thành Cao?
- Tôi có gặp. Làm quen với y không khó đâu.
- Hẩu! Ông cố làm quen với Văn Thành Cao… Mà, ông không được hé môi cho Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Nhu, hay bất kỳ ai về chuyện ông với tôi. Bình Xuyên bắn ông không trúng, còn người của tôi, ông lên trời cũng bị lôi xuống… - Dương Tái Hưng nói, giọng lạnh như nước đá.
Ly Kai lại rùng mình.
- Còn một chuyện nữa. – Dương Tái Hưng đưa cho Ly Kai xem một bức ảnh – Ông biết tên nầy?
- Biết, biết! – Ly Kai hấp tấp – Nó là kỹ sư Nguyễn Thành Luân!
- Hẩu! Cuộc gặp ông bữa nay là vì gã. Ông hãy nói kỹ về gã cho tôi nghe…
*
Cú điện thoại của Tiểu Phụng khiến Luân phân vân. Tiểu Phụng báo với Luân là ngày mai, cô rời Sài Gòn và có lẽ sẽ ở Nam Vang, sau khi về thăm bà con bên Hồng Kông. Ly Kai gặp cô nhưng cô không đồng ý “làm ăn” với gã. Cô muốn gặp Luân: “Có nhiều việc mà em nghĩ là ông sẽ có lợi nếu ông nghe em…”. Cô hẹn Luân vào 9 giờ đêm tại chỗ ngụ của cô, lầu ba, kế bên vũ trường Côte d’Ivoire, đường Trần Hưng Đạo.
- Chẳng lẽ ông kỹ sư từ chối lần mời đầu tiên mà cũng là cuối cùng của em? – Tiểu Phụng nói tha thiết như vậy trước khi gác máy.
“Đến hay không?” – Luân suy tính mãi. Có thể là bẫy rập, có thể Tiểu Phụng cần gặp anh. Cuối cùng anh tìm Dung.
- Anh không nên đến! – Dung quả quyết – Em không hề có ý nghĩ gì xấu về mối quan hệ giữa anh với Tiểu Phụng. Lần nghe anh thuật chuyện chị ấy với anh, em muốn khóc. Hoàn cảnh của chị đáng thương thật. Song, dù sao, anh cũng không nên gặp. Công việc của anh không cho phép anh mạo hiểm không cần thiết. Em tin chắc là chị đó không gài bẫy hại anh, nhưng ví dụ dây nói của chị ấy có người nghe lén, thì sao?
Luân đồng ý với Dung. Song, anh muốn bảo vệ Tiểu Phụng, nên đề nghị Dung cho nhân viên cảnh sát đến canh nhà Tiểu Phụng vào giờ hẹn.
Dung đoán rất đúng. Nha an ninh quân đội đã ghi băng cuộc nói chuyện của Tiểu Phụng với Luân.
*
Tường thuật báo chí.
“Một vụ án mạng ghê rợn vô cùng bí mật vừa xảy ra tại đường Trần Hưng Đạo, cạnh vũ trường Côte d’ivoire. Ba nạn nhân. Nam là một thanh niên đẹp trai tên Lưu Kỳ Phong. Nữ là Tiểu Phụng, nguyên nữ trợ tá của quân đội Bình Xuyên. Bị thương nặng là thiếu úy Võ Hiếu Thành, tùng sự tại Nha Cảnh sát Nam Việt. Anh bị một vật cứng đánh vào đầu.
Lưu Kỳ Phong chết vì một nhát dao găm xuyên từ lưng ra ngực. Tiểu Phụng bị bóp cổ. Cả hai thân thể lõa lồ… Nhà chức trách đang tiến hành điều tra để tìm hung thủ.”
Tại một quán ăn trong Chợ Lớn
Dương Tái Hưng: Tại sao Lưu Kỳ Phong chết?
Ly Kai: Tôi dặn gã phải cố mời Tiểu Phụng đi chơi… Hôm sau, Tiểu Phụng sẽ đi Hồng Kông bằng chuyến bay của Hàng không Pháp. Cần lấy cho được bản danh sách mà Tiểu Phụng nắm. Cô ả không chịu giao cho tôi, dầu tôi hứa tặng cô ả một món tiền lớn như ông dặn. Lưu Kỳ Phong – gã cho tôi biết – có thể làm việc đó mà không mất tiền. Gã và ả đã xem hát chung một lần, gã đưa ả về tận phòng, đã hôn hít… nhưng ả chưa chịu đi quá hơn mức đó. Gã cho là ả làm cao thôi.. Gã tin lần sau sẽ thành công. Thế mà cả hai đều chết!
Dương Tái Hưng: Ai giết?
Ly Kai: Rất khó đoán.
Dương Tái Hưng: Tại sao có mặt tên thiếu úy Võ Hiếu Thành tại hiện trường?
Ly Kai: Đó là manh mối! Thành làm việc ở Nha cảnh sát. Vợ chưa cưới của Nguyễn Thành Luân cũng làm việc ở đó, Tiểu Phụng rất thích Nguyễn Thành Luân - ả nhiều lần nói với tôi…
Dương Tái Hưng: Nghĩa là, theo ông, Nguyễn Thành Luân là hung thủ?
Ly Kai: Không! Nguyễn Thành Luân liên quan đến vụ nầy thì là điều chắc chắn. Song, hắn không thể là hung thủ. Hắn không hành động theo cách đó.
… Tại bệnh viện Đô Thành. Võ Hiếu Thành tỉnh dần. Luân nghe anh.
- Được lệnh canh gác nhà cô Tiểu Phụng, tôi đến nơi vào 8 giờ rưỡi. Vũ trường vừa mới bắt đầu. Một chiếc Renault 4 đỗ lại. Người lái xe mặc áo thun trắng kiểu thể thao, nhìn qua thì biết là một thanh niên khỏe, nét mặt đẹp kiểu người Hoa. Anh ung dung lên thang gác. Ngại bất trắc, tôi theo anh ta. Cửa phòng cô Tiểu Phụng đóng kín. Anh thanh niên bấm chuông. Tôi nép vào bóng tối và nghe cô Tiểu Phụng nói ra:
- Ông kỹ sư đó phải không?
Anh thanh niên không trả lời, vẫn gõ cửa. Một lúc sau, cô Tiểu Phụng mở cửa. Anh thanh niên bước vào và tôi nghe rõ cô Tiểu Phụng thét:
- Ra, anh đi ra ngay! Tôi sắp có khách…
Tôi rút súng, toan bắn báo động. Nhưng tiếng người thanh niên lại hết sức dịu dàng:
- Anh thương em… Em đừng xua đuổi anh, tội nghiệp!
Vậy, không thể có án mạng. Tôi áp tai vào cửa và nghe hình như họ hôn nhau… Muốn chắc ăn, tôi nhìn qua lỗ khóa. Cô Tiểu Phụng vùng vẫy… Người thanh niên ôm cô – cô trần truồng và người thanh niên cũng thế. Tôi biết không phải chuyện làm tình bình thường nên toan tông cửa … Chẳng rõ kẻ nào nện vào đầu tôi, tôi chỉ còn nhớ là mình bị hất xuống thang…
Tại Nha an ninh quân đội, thiếu tá Vọng và thiếu tá Hùng quanh chai whisky, to nhỏ:
- Đại tá hỏi tao với mầy có lưu dấu vết gì không? - Thiếu tá Hùng nói. - Tao thưa là dầu Ngọc Hoàng thượng đế xuống cũng chịu thua… Mầy đâm thằng con trai thật ngọt!
- Con nhỏ gan quá. Tao dỗ nó, nó cắn tao chớ! Đành phải siết cổ nó… Siếc mà tiếc hùi hụi. Mầy nhớ nó nói câu gì không?
- Nhớ chớ! Tao đang lục tủ nó, nghe nó nói: Tao có giữ bản danh sách đó. Tao trao cho người khác!
Khi nói, chòm lông đen trên má thiếu tá Hùng động đậy.
---
(1) tức ông Lương, phát âm tiếng Quảng
(2) tức ông Tần, phát âm tiếng Quảng
(3) tức Tần Hoài, phát âm tiếng Tiều
(4) tức ông Dương, phát âm tiếng Tiều
(5) tức Ly Kai
(6) Mời vào!
(7) Chào Dương tiên sinh!
(8) Tốt thôi!
(9) nói dóc

CHƯƠNG 18

- Anh biết tin tức miền Tây rồi chớ? – Nhu hỏi Luân.
- Biết… Súng lại nổ? – Luân trả lời ngao ngán.
- Không sao! Nổ lẹt đẹt thôi. Năm Lửa thì đánh đấm gì! Tôi lo là lo Ba Cụt. Tay nầy không dễ …
- Nhưng Ba Cụt rồi cũng thua Cao Thị Nguyệt, người có liên quan đến Phòng nhì Pháp, nắm đến cả linh hồn của Ba Cụt! Cái may của chính phủ là các nhóm nổi không cùng một lượt.. Và, Pháp chỉ quấy phá thôi…
- Ấy! Ăn nhau bấy nhiêu. – Nhu kêu lên vui vẻ - Tôi bịt hẳn các họng súng Cao Đài, tạm hòa hoãn với Hòa Hảo, tạo áp lực với Pháp để đưa Leroy ra khỏi nước… Mũi nhọn là Bình Xuyên. Các thứ khác không đánh cũng tan rã…
- Nhưng, vẫn có người chết! – Luân nói tiếp cho hết ý.
- Chủ nghĩa nhân đạo của anh lại không dẫn anh vào chùa, lạ thật!
Nhu hôm nay thật thoải mái.
- Trưa nay, ta ăn cơm… Mệt quá, nghỉ ngơi một chút chớ… - Nhu đột ngột hỏi – Anh biết chơi cờ tướng không?
- Tàm tạm – không giỏi. Gọi là vừa sạch nước cản.
- Tôi cũng không giỏi. Ta chơi thử nhau vài ván nhé!
Bàn cờ được bày - quân cờ tiện bằng ngà voi – và hai người ngồi ngoài sân, dưới bóng một cây cổ thụ. Bên cạnh, mâm rượu tươm tất.
Nhu nhường Luân đi tiên. Luân lên tượng. Nhu vô pháo đầu.
- Anh đánh thủ. Tôi đánh công. Để xem!
Nhu chơi xoàng. Nếu Luân muốn hạ anh ta thì chẳng mấy khó khăn. Nhưng Luân nương tay – Nhu lừa thế chiếu pháo bí, bị Luân phá vỡ. Nhu đành nhường tốt sang sông. Luân thí một xe diệt hai sĩ của Nhu.
- Ối chao! Ông đánh chi mà dị vậy? Một xe đổi hai sĩ, phí quá! – Nhu nhịp quân cờ kêu to.
- Không phí đâu… Tướng mất sĩ thì nguy lắm…
Nhu muốn thắng gấp, anh ta dí chốt xuống sát đường tượng của Luân.
- Anh có vẻ thạo đánh tốt! – Luân nhận xét.
- Với tôi, tất cả đều là tốt! – Nhu trả lời, trịnh thượng. Mắt anh ta liếc Luân.
Luân mỉm cười.
Hai bên buộc phải đánh cờ tàn. Ván cờ hòa.
Trần Lệ Xuân đon đả ra sân:
- Trưa rồi, hai anh em dùng cơm… Lâu dữ tôi mới thấy hai ông chơi cờ.. Ai ăn ai thua?
- Hòa! – Luân trả lời.
- Anh chơi hết sở trường chưa? – Nhu hỏi.
Luân chỉ cười chớ không trả lời.
- Tôi cám ơn lời nói của anh: Tướng mất sĩ thì nguy! Nhu chạm cốc với Luân.
*
Dung đến nhà Luân. Hôm nay chủ nhật. Cuộc chiến ở miền Tây rộ lên rồi tắt. Năm Lửa đầu hàng quá dễ. Ba Cụt buộc lòng phải lẩn tránh, với đám vệ binh ngày một vơi.
- Sắp tới, chính chúng mình nằm trong điểm hội tụ của một khẩu tự động nào đó! - Luân bảo.
Dung thở dài. Vô tình, cô đặt tay lên tay Luân. Luân vuốt nhè bàn tay có ngón mũi viết thon dài, mịn màng và rất ấm.
- Tôi nói “chúng mình” chưa thật rõ. Trong điểm hội tụ, tôi trước. Còn cô thì chưa thể xác định…
Dung rụt tay về, một cử chỉ giận dỗi.
- Nói thế thôi! Nhu chưa bóp cò đâu. – Luân trấn an Dung – Chừng nào Nhu thấy tôi còn có ích cho anh ta, chừng đó tôi còn sống. Tất nhiên, chúng ta đều biết, trên hết là Mỹ. Mỹ quyết định luôn mạng sống của Diệm, Nhu…
Nhìn Dung cắn môi, Luân thấy bồn chồn. Đáng lẽ, ngay từ đầu mình nên cho cô ấy trở ra Hà Nội… Không nên để cô ấy dấn vào chỗ nguy hiểm như vầy… Luân muốn cắt đứt lo lắng của Dung – lo lắng vì anh – nên hỏi sang việc khác:
- Liên lạc với A.07 thế nào?
- Vẫn đều… Điện đài trên B’lao. Thỉnh thoảng em theo cô lên đó…
- Không ổn! – Luân nghiêm khắc – Cô chấm dứt ngay hoạt động của điện đài.
Dung ngơ ngác.
- Chúng có thể thấy rõ chỗ trùng hợp: mỗi lần cô lên B’lao là điện đài ở B’lao hoạt động…
Dung cúi đầu. Nhận xét của Luân chính xác quá!
- Tạm thời mất liên lạc với A.07 bằng đường điện. Tôi cố gắng giữ liên lạc bằng hộp thơ…
- Tuần sau, tôi đi Đà Lạt… - Luân thông báo.
- Chi vậy? – Dung hỏi, hồi hộp.
- Ông Diệm muốn tôi qua một lớp huấn luyện ngắn hạn ở trường võ bị để đủ thủ tục nhận quân hàm…
- Anh xa Sài Gòn bao lâu?
- Chừng 6 tháng…
- Lâu dữ! – Hàng mi cong của Dung chớp. Đôi mắt to của cô chợt buồn.
Luân cười. Lần này, chính anh cầm tay Dung.
- Vài tuần, tôi về thăm vô!
- Anh sắp sửa quần áo chưa? – Dung xấu hổ, gỡ tay Luân.
Luân ngồi nhìn Dung xếp hành lý cho anh. Một cái gì ấm áp len lỏi vào Luân. Anh huýt sáo một bài hát cũ – một bài tình ca: J’ai deux amours (1).
*
Dung đưa Luân ra sân bay.
- Chào tạm biệt cô Dung! – Luân băt tay Dung
Dung cười tinh nghịch:
- Chưa tạm biệt ở đây đâu! Em xin phép lên Đà Lạt với anh. Ông Đắt đồng ý. Em được nghỉ trên đó hai tuần… Em mang theo bài vở trường Luật để ôn tập. Sắp lấy chứng chỉ năm thứ hai…
Luân sững sờ. Dung phát hiện niềm hạnh phúc trong đáy mắt Luân.
… Chiếc Dakota lướt trên vùng rừng miền Đông bát ngát.
- Anh em ta ở dưới đó – Luân bảo Dung.
Họ mải mê nhìn tấm thảm xanh trải dài như vô tận…
---
(1) Tôi có hai mối tình


Ván bài lật ngửa - phần 3+4
Ván bài lật ngửa - phần 5+6
Ván bài lật ngửa - phần 7
Ván bài lật ngửa - phần 8 
Ván bài lật ngửa - Phần 9

Không có nhận xét nào: