Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013

Tự tồn tại và tiêu vong của vương quốc Phù Nam


Bản đồ vương quốc Phù Nam
 

FunanMap
Bản đồ vương quốc Phù Nam
Các nhà mậu dịch từ tiểu lục địa Ấn Độ, tìm kiếm nguồn cung cấp tơ lụa, đã khởi sự du hành xuyên qua các hải phận Đông Nam Á trên đường đến Trung Hoa, muộn lắm là vào khoảng thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên.  Thế kỷ này cũng chứng kiến sự xuất hiện của Phù Nam, vưong quốc đầu tiên với kích thước và nét độc đáo riêng so với bất kỳ nơi nào khác tại Đông Nam Á, ít nhất cho đến mức mà các tài liệu lịch sử có thể ghi chép được.  Nó tọa lạc trên đất liền, gần nơi mà giờ đây là vùng biên giới Căm Bốt và Việt Nam.  Các thủy thủ trong khu vực hàng hải đã bị thu hút đến các hải cảng của nó, nơi mà họ có thể trao đổi các đặc sản của các hòn đảo lấy nhiều loại sản phẩm tuyệt diệu được cung cấp tại Phù Nam.  Tuy nhiên vào cuối thế kỷ thứ tư, Mã Lai đã lôi kéo phần lớn công việc mậu dịch quá cảnh này xuống phía nam trên một thủy lộ mới chạy ngang qua Phù Nam và chuyên chở các nhà mậu dịch xuyên các eo biển hẹp mà ngày nay được gọi là eo biển Malacca và Sunda.  Và họ đã khởi đầu để giới thiệu với thế giới “các hương liệu gia vị” của vùng Moluccas [còn được mệnh danh là Quần Đảo Gia Vị, thuộc Nam Dương,, giữa đảo Sulawesi và New Guinea, chú của người dịch] – đinh hương, hạt nhục đậu khấu và vỏ hạt nhục đậu khấu.
 

Các Con Đường Tơ Lụa Trên Biển và Sự Xuất Hiện Của Phù Nam

Các con đường tơ lụa sớm nhất là các con đường trên đất liền chạy từ tây bắc Trung Hoa xuyên qua vùng Trung Á châu và Iran đến phía đông vùng Địa Trung Hải.  Các con đường này đã sớm bắt đầu được phát triển ngay từ thế kỷ thứ nhì trước Công Nguyên, vào thời nhà Hán của Trung Hoa và của Đế Quốc La Mã.  Vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, một nhu cầu ngày càng gia tăng về tơ lụa cũng đã khuyến khích sự phát triển hai con đường tơ lụa trên biển, một con đường bắt đầu với một hành trình trên đất liền từ phía Tây Trung Hoa sang Ấn Độ.  Các số lượng lớn lao các tơ lụa đã được chuyển vận xuyên qua lưu vực Tarim và băng qua dẫy núi Karakoram để vào nơi ngày nay thuộc vùng bắc của Hồi quốc (Pakistan) và Ấn Độ, rồi từ đó các chuyến tàu hàng được tải tới các hải cảng của biển Ả Rập (Arabian Sea) từ bờ biển tây bắc của Ấn Độ.  Một số tơ lụa này được chất lên các tàu cập bến nhiều hải cảng khác nhau tại Vịnh Ba Tư (Persian Gulf), nhưng phần lớn trong đó tiếp tục một cuộc hải hành dài hơn dẫn đến Biển Hồng Hải (Red Sea), sau đó lụa sẽ được vận tải xuyên qua Ai Cập, sau hết đến được vùng Địa Trung Hải (K. Hall, 1979: 38-39). Đôi khi, cũng vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, sắc dân Yuezhi, một dân tộc vùng Trung Á, đã chinh phục toàn thể chiều dài của con đường trên đất liền chạy từ Trung Hoa sang Ấn Độ, từ lưu vực Tarim đến Biển Ả Rập.  Họ đã thiết lập vương quốc Kushana, mà triều đình của nó đã trở thành một trung tâm văn hóa quan trọng.

Thủy lộ mới thứ nhì xuyên qua hải phận Đông Nam Á, đã phát sinh như hậu quả của việc các thương nhân tại bờ biển phía đông Ấn Độ muốn tìm kiếm một thủy lộ trực tiếp đến nguồn cung cấp tơ lụa tại Trung Hoa.  Khởi hành từ các hải cảng gần cửa sông Ganges River (Hằng Hà), họ lái thuyền chạy dọc bờ biển của Vịnh Bengal cho đến khi gặp Bán Đảo Mã Lai, từ đó họ xuôi nam tới địa điểm hẹp nhất, Eo Đất Kra có chiều ngang khoảng 35 dặm (xem các bản đồ, nơi trang 4 và 19 [trong nguyên bản]).  Sau khi các hành khách và hàng hóa được vận tải băng ngang giải đất hẹp này, các chiếc tàu phía bên kia kế đó đã chuyên chở chúng dọc theo bờ biển của Vịnh Thái Lan cho đến khi chúng tới được Phù Nam.  Sau khi trải qua một số thời gian tại địa phương này, họ sẽ lên các chiếc thuyền khác để làm một cuộc du hành đến Trung Hoa.

Mặc dù băng ngang Bán Đảo Mã Lai tại Eo Đất Kra đòi hỏi việc bốc dỡ, vận tải trên đất liền, và chất lại hàng hóa lên tàu, phần lớn các thủy thủ tại Vịnh Bengal có vẻ đã không có ước muốn du hành xuống phần dươi bán đảo nằm quá Eo Kra, và một cuộc du hành như thế có lẽ cũng không có mấy hấp dẫn đối với các thương nhân.  Không chỉ vì việc lái thuyền trên đoạn đường còn lại chạy quanh Bán Đảo Mã Lai sẽ làm gia tăng thêm 1,600 dặm cho chuyến du hành của họ, mà còn bởi eo biển gần mỏm phía nam thì nông và đầy các bãi đá ngầm và giòng nước nguy hiểm.  Vả chăng, ở nhiều thời điểm khác nhau, bờ biển dọc theo eo biển được tin là hang ổ của quân hải tặc còn gây nhiều nguy hiểm khác nữa (Fa Xian, 1956: 77).

Thoạt nhìn, điều có vẻ là kỳ lạ rằng vương quốc đầu tiên của Đông Nam Á đã không phát triển trên Bán Đảo Mã Lai, gần Eo Đất Kra chiến lược, mà lai trên bờ biển phía bên kia của Vịnh Thái Lan.  Sự giải thích có vẻ đáng tin nhất cho sự thành công của Phù Nam, một cách tương đối khji so sánh với các hải cảng có khả năng cạnh tranh khác trong vùng vịnh, là nhờ số cung cấp thực phẩm dồi dào của nó.  Đất đai quanh Kra bị bao phủ bởi rừng nhiệt đới, và thổ nhưỡng của nó không hỗ trợ cho sự thâm canh (Peacock, 1979:200), trong khi đó Phù Nam có lợI thế của đất nông nghiệp ở sát cận một hải lộ.  Vương quốc tọa lạc tại nơi mà bờ biển ăn lõm sâu vào phía trong đã kéo hảI phận của vịnh đến gần sát Biển Hồ (Tonle Sap) và con sông Cửu Long, một con sông dài đã bồi đắp một khối lượng lớn đất phù sa.  Thung lũng của dòng sông thì phì nhiêu và rộng lớn, và cây cối có thể tăng trưởng mà không cần dẫn nước nhờ ở mô thức ngập lụt tự nhiên của dòng sông.  Phù Nam vì thế thụ hưởng các số thu hoạch phong phú và đáng tin tưởng khiến nó có thể dự trữ thực phẩm cho chính người dân của nó và cho khách du hành, một khả năng nhiều phần đã là lý do thu hút các khách buôn bán đường trường lui tới các hải cảng của nó. (K. Hall, 1985a: 48-49, 56).

Cung cấp cho các khách du hành đi lai giữa Ấn Độ và Trung Hoa đòi hỏi các số lượng lớn lao về thực phẩm.  Bởi mô thức gió mùa thổi, các khách mậu dịch đường trường thường không thể chỉ dừng bước tại một hải cảng Đông Nam Á trong vài ngày và vài tuần. Đúng ra, phải chừng nửa năm, khi gió thổi từ đất liền ra, các khách du hành chạy thuyền từ Ấn Độ hay Trung Hoa đến một hải cảng Đông Nam Á, nơi mà họ sẽ phải ở lại cho đến khi gió chuyển hướng và thổi vào đất liền, khi đó họ có thể khởi hành để đi hoặc Ấn Độ hay Trung Hoa.  Chính vì thế, mọi tàu thuyền, bất luận là chúng đi đến hay khởi hành từ Trung Hoa, có khuynh hướng đến Đông Nam Á vào cùng một thời khoảng và ra đi cũng vào cùng một thời khoảng.  Thời lượng mà khách du hành có thể ở lại hải cảng để chờ gió đổi chiều thì khác nhau, nhưng thường vào khoảng từ ba đến năm tháng.  Bởi vì hải cảng phải nuôi ăn cho tất cả khách du hành cùng một lúc, và thường kéo dài hàng nhiều tháng, sự tiếp cận của một hải cảng ở Đông Nam Á với các số thặng dư nông phẩm có tính cách thiết yếu cho sự thành công của nó.

Hãy còn nhiều điều để tìm hiểu về Phù Nam.  Giống như nhiều vương quốc Đông Nam Á, nó được chứng minh là một đề tài khó nắm vững.  Khoa cổ học là một nguồn thông tin quan trọng, vì có nhiều bia ký được khắc trên đá hay dập trên khuôn kim loại.  Dù thế, phần lớn những gì biết được về vương quốc này đã đến từ các bản văn trần thuật đương đạI của Trung Hoa, và ngay chính danh xưng được biết giờ đây, “Phù Nam”, trong thực tế là một từ ngữ của Trung Hoa để chỉ địa điểm, chứ không phải là danh xưng có gốc Đông Nam Á (vẫn còn chưa chắc chắn).  Cũng chưa có sự đồng ý hoàn toàn về chủng tộc của người Phù Nam.  Trong quá khứ, một số học giả cho rằng họ là người giống Malayo–Polynesian, nhưng phần lớn giờ đây tin rằng họ là người Khmer xét về mặt ngôn ngữ và chủng tộc, nhờ ưu thế về bằng cớ bia ký cho thấy như thế (Jacques, 1979: 374-5).

Khu vực trọng tâm của Phù Nam nằm bên phía Việt Nam của vùng nay là biên giới Việt Nam – Căm Bốt, nhưng có một số địa điểm liên hệ mật thiết nằm bên phía Căm Bốt.  Thủ đô, Vyadhapura, được thiết lập tại một địa điểm trên đất liền, gần Biển Hồ và sông Cửu Long, trong thế kỷ thứ nhì.  Vyadhapura có thể được phiên dịch là “Thành Phố Của Nhà Vua-Thợ Săn”, hiển nhiên là một sự tham chiếu đến vị vua hồi thế kỷ thứ nhì, Hun Panhuang, là kẻ đã đi vào trong rừng, bắt và thuần hóa các con voi to lớn, huấn luyện chúng cho các mục đích quân sự, và sau đó dùng chúng để mang lại sự thần phục của các nước láng giềng (K. Hall, 1982:93).  Vào đầu thế kỷ thứ ba, viên tướng quân vĩ đại Fan Shiman đã mở rộng quyền lực của Phù Nam về hướng tây dọc theo bờ biển miền bắc của Vịnh Thái Lan và xuôi xuống Bán Đảo Mã Lai cho mãi đến Eo Đất Kra (Wolters, 1967: 37; K. Hall, 1985a: 63-64).

Các thương nhân Ấn Độ không phải là những người duy nhất thăm viếng vương quốc Phù Nam trên đường đến Trung Hoa.  Vào khoảng thế kỷ thứ nhì sau Công Nguyên, trạm trung chuyển trên đất liền này đã hấp dẫn các thương nhân từ vùng Trung Đông, và ngay cả từ nơi xa xôi như Hy Lạp.  Trong thực tế, hai ngườI tự xưng là sứ giả của Hoàng Đế La Mã Marcus Aurelius đã xuất hiện tại Trung Hoa năm 166 sau Công Nguyên, đã đến nơi đó qua ngả Phù Nam.  Không có vẻ rằng họ thực sự là các sứ giả chính thức: có lẽ đúng nhất ho là các thương nhân Hy Lạp (lệ thuộc La Mã) đã xưng nhận quy chế ngoai giao để dành được sự tiếp cận với thành phố Lạc Dương, khi đó là kinh đô của nhà Hán (Yu, 1967: 159-60; K. Hall, 1985a: 38).

Các di tích khảo cổ của ít nhất một trong các hải cảng của Phù Nam được tìm thấy gần thị trấn ngày nay gọi là Óc Eo của Việt Nam, tọa lạc phần nào trong đất liền, cách bờ biển khoảng 3 dặm, như khu định cư liên quan đến hải cảng của Phù Nam.  Khách du hành đến được nơi đó xuyên qua một mạng lưới các con kinh thoát nước nối liền Vịnh Thái Lan với Sông Cửu Long (Taylor, 1992: 158).  Các đồ vật được khai quật ở đó bao gồm các sản phẩm địa phương, các hàng hóa được trao đổi trong vùng Đông Nam Á, và hàng nhập cảng từ Ấn Độ, Iran, và Địa Trung Hải.  Rất nhiều đồ sứ được tìm thấy.  Nhiều ấn tín và nhiều đồ nữ trang có nguồn gốc Ấn Độ, và có các tấm bùa chú bằng thiếc, có vẻ được làm tại Phù Nam, với các biểu tượng của các vị thần Ấn Độ Giáo như Visnu và Siva.  Các phẩm vật từ Trung Hoa bao gồm các tượng Phật nhỏ và một tấm gương bằng đồng, trong khi từ Địa Trung Hải là các mảnh đồ thuỷ tinh, một đồng tiền vàng của thế kỷ thứ nhì, và các huy chương bằng vàng mang hình ảnh của Antoninus Pius và Marcus Aurelius (K. Hall, 1985a: 59; Wolters, 1967: 38; Christie, 1979: 284-86).

Phù Nam và Các Thủy Thủ Mã Lai

Thị trường mà Phù Nam cung cấp đã lôi cuốn các thủy thủ Mã Lai từ các phần khác nhau trong khu vực hải hành tìm đến các hải cảng của nó.  Họ mang đến các đồ tiếp liệu và nguyên liệu chẳng hạn như sắt được dùng ngay tại Phù Nam (Wolters, 1967: 52; 1982: 35n), cũng như các sản phẩm mà họ hy vọng để trao đổi vớI các hàng hóa hiếm quý được mang đến bởi các thương nhân từ các vùng đất xa xôi.  Tự nguyên thủy, các nhà mậu dịch quốc tế tụ họp tại Phù Nam, nhắm vào tơ lụa của Trung Hoa, ít hay không quan tâm đến các dặc sản của Đông Nam Á.  Nhưng người Mã Lai sau rốt đã thành công trong việc giới thiệu các sản phẩm của chính họ vào công cuộc mua bán quốc tế.

Các sản phẩm đầu tiên như thế có thể được giảI thích như sản phẩm thay thế cho những hàng hóa có giá trị mà các nhà buôn bán xa xôi đã vận tải tới Trung Hoa.  Trong số các hàng hóa này có hương trầm (frankincense) từ Đông Phi Châu và nam Ả Rập, và hương dược liệu họ bdellium myrrh từ Đông Phi Châu, nam Ả Rập, tây nam Iran, và các khu vực đá khô tại Ấn Độ (Wolters, 1967: 105, 113).  Các chất liệu này thường được dùng để chế tạo nước hoa và hương, trầm, nhưng người Trung Hoa cũng dùng chúng trong dược phẩm.   Tuy nhiên, trong thời đại của Phù Nam, các thủy thủ Mã Lai đã có thể dùng nhựa thông ở Sumatra để thay thế cho hương trầm và cánh kiến trắng [tức benzoin: an tức hương, một loai nhựa thơm từ cây ở đảo Java, chú của người dịch] để thay thế cho hương dược liệu bdellium myrrh.  Họ cũng giới thiệu một sản phẩm mới, long não, một loại nhựa sớm có giá trị như một dược phẩm và như một thành tố của hương, trầm và dầu sơn bóng (véc-ni) (Wolters, 1967: 65, 103-4, 127).  Kể từ đó trở đi, long não đắt giá nhất là long não của vùng Barus, một hải cảng trên bờ biển tây bắc của Sumatra.  Các gỗ có mùi thơm như gỗ gharu và gỗ đàn hương (sandalwood) (một đặc sản của Timor, cách Phù Nam về phía đông nam khoảng 1,800 dặm) cũng trở thành các hàng hóa mậu dịch quan trọng vào thời điểm này (Wolters, 1967: 65-66).

Một dấu hiệu về tầm quan trọng của Phù Nam đối với công cuộc mậu dịch hàng hải của Trung Hoa được cung cấp bởi một phái bộ Trung Hoa được phái đi từ vương quốc nhà Ngô (Wu) đến Phù Nam trong thế kỷ thứ ba.  Nhà Ngô, kiểm soát miền nam Trung Hoa, là một trong các vương quốc cấp vùng đã xuất hiện sau sự sụp đổ của nhà Hán năm 221.  Nhà vua của nó, quan tâm đến mậu dịch quốc ngoại, có nghe nói rằng các hàng hóa từ Ấn Độ và các vùng khác ở phương tây có thể có mặt tại Phù Nam và vì thế đã phái hai sứ giả đến đó một lúc nào đó trong thời khoảng nằm giữa các năm 245 và 250i.  Trong báo cáo sau đó của họ về cuộc viễn chinh khảo sát, họ có đưa ra sự mô tả sau đây về Phù Nam:

[Dân chúng Phù Nam] sống trong các cung điện, nhà cửa, các thành phố có tường thành bao quanh …  Dân chúng thì chuyên về canh nông.  Họ gieo hạt trong một năm và thu hái cho ba năm.  Hơn nữa, họ thích đục đẽo và chạm khắc đồ trang trí.  Nhiều đồ dùng để ăn của họ làm bằng bạc.  Thuế [quan] được trả bằng vàng, bạc, ngọc trai, và nước hoa.  Có sách vở và văn khố cất chứa và nhiều thứ khác.  Chữ viết của họ trông giống như chữ của người Hồ [một dân tộc vùng Trung Á sử dụng văn tự có nguồn gốc từ Ấn Độ] (Coedès, 1971: 42; cũng xem K. Hall, 1982: 82).

Bản báo cáo của các sứ giả cũng đoan quyết với nhà vua Trung Hoa rằng vương quốc Đông Nam Á này trong thực tế có các sự tiếp xúc với các vùng viễn tây.

Các Cuộc Hôn Nhân Quốc Tế: Giòng Tộc và Văn Hóa 

 Bởi vì các khách du hành từ Ấn Độ đã lưu trú lại tại Phù nam trong nhiều tháng mỗi lần, điều không gây ngạc nhiên rằng người dân Phù Nam, đặc biệt là giới cầm quyền của nó, đã trở nên quen thuộc với văn hóa Ấn Độ.  Mặc dù số lượng thương nhân Ấn Độ có lẽ đông hơn nhiều, có thể chính các giáo sĩ có khuynh hướng theo dấu chân của họ, các nhà Quý Tộc theo Bà La Môn giáo và các tăng lữ, đã đóng một vai trò quan trọng hơn trong các sự đối thoại về văn hóa.  Các nhà lãnh đạo địa phương bắt đầu thừa nhận và thích ứng với các thành tố lôi cuốn nhất của văn hóa Ấn Độ, khi chúng phù hợp với các mục đích riêng của họ.  Vào thế kỷ thứ nhì, các danh xưng và tước hiệu bằng tiếng Phạn (Sanskrit) đã được sử dụng, và về sau đã xuất hiện phần nào đó trong các bia khắc bằng tiếng Phạn và tiếp đến, trong các ngôn ngữ địa phương được viết bằng văn tự phát nguyên từ Phạn ngữ.  Bằng việc xích gần lại văn hóa Ấn Độ trong cung cách này, các nhà lãnh đạo này đã khởi sự một tiến trình trên toàn vùng thường được đề cập như là tiến trình “Ấn Độ hóa” (Coedès, 1971; Powers, 1993).

Các sự tham chiếu đến tiến trình “Ấn Độ hóa” của vùng Đông nam Á làm liên tưởng đến một sự so sánh mặc nhiên với sự La Mã hóa của vùng Địa Trung Hải, Phạn hóa vùng tiểu lục địa Ấn Độ, hay tình trạng Trung Hoa hóa, tức sự truyền bá văn hóa người Hán phương bắc trên khắp cõi đế quốc Trung Hoa và ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa trên nhiều phần của Hàn Quốc và  bắc phần của Việt Nam.  Tuy nhiên, các sự khác biệt quan trọng hiện hữu giữa hai tiến trình nêu trên với những gì đã xảy ra tại Đông nam Á, đem lại hậu quả rằng thành ngữ Ấn Độ hóa có thể gây hiểu lầm.  Các nhà lãnh đạo Đế Quốc Mauryan của Ấn Độ (322-186 trước Công Nguyên) đã chinh phục phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ, và các hoàng đế nhà Hán đã chinh phục phần lớn đất đai ngày nay được biết là Trung Hoa, cùng với các phần lãnh thổ tại Hàn Quốc và Việt Nam.  Người La Mã đã chinh phục các bờ biển của Địa Trung Hải, cũng như phần lớn phía tây Âu châu và Anh Quốc.  Song không có người dân nào trong số dân chúng Đông Nam Á trở nên giao kết với các khía cạnh khác nhau của nền văn hóa Ấn Độ lại có bao giờ bị chinh phục hay thực dân hóa bởi người Ấn Độ.

Mối quan hệ của người dân Đông Nam Á với văn hóa Ấn Độ chính vì thế có thể so sánh gần giống hơn với sự thích ứng của các vương quốc Nhật Nhĩ Man (Đức: Germanic) trên những thành tố của nền văn minh Byzantine và La Mã (kể cả Thiên Chúa Giáo) trong thời kỳ Trung Cổ hay sự đón nhận nồng nhiệt của Nhật Bản dành cho Phật Giáo và các các đặc tính và văn hóa Trung Hoa trong thời kỳ Nara và đến một mức độ nào đó sau này.  Trong khi đúng là người dân Đông Nam Á được khích lệ bởi các truyền thống Ấn Độ, ngưỡng mộ chúng và vay mượn một cách tự do từ chúng, họ vẫn là chủ vận mệnh của mình: chất liệu ngoại lai thường được tái tạo trong bàn tay của họ trước khi được đan kết vào một thế giới theo sự thiết kế của họ.  “Ấn Độ hóa” vùng Đông Nam Á cũng gần giống như việc “Trung Hoa hóa” Nhật Bản hay “Địa Trung HảI hóa dân Đức – các từ ngữ mà các sử gia chưa bao giờ cảm thấy có một lý do để đặt ra.

Một thẩm quyền về miền này đã nêu ý kiến rằng nhiều phong tục và thái độ căn bản biện biệt một cách điển hình các nền văn hóa Đông Nam Á với các nền văn hóa của Ấn Độ, ngay cả trong những tình trạng trong đó ảnh hưởng của các khuynh hướng văn hóa có nguồn gốc từ Ấn Độ thì hiển nhiên. Điều này cũng có vẻ là trường hợp liên quan đến sự xuất hiện của các vương quốc, bất kể đến hình thức trang trí mang đường nét đồ trang sức của Ấn Độ.  Thí dụ, có bằng cớ rõ rệt cho sự kiên trì của một cảm thức bản xứ về hệ cấp đặt trên các quyền lực cá nhân có thể hay không có thể được thừa kế. Đối với người Đông Nam Á, vấn đề dòng tộc không quan trọng cho bằng khả năng phi thường của cá nhân và / hay của các tiền nhân oai hùng đặc biệt. Điều cũng không mấy quan trọng là các tổ tiên liên hệ thuộc bên cha hay bên mẹ.  Đúng hơn, hậu duệ hoàng gia nặng về huyết tộc trong cùng gia đình (cognatic); có nghĩa các sự tuyên xác quyền hành có thể dựa hoặc trên dòng dõi phía mẹ hay phía cha đều được.  Khi đó, trong thực chất, sự giao kết với văn hóa Ấn Độ đã không làm thay đổi các cơ cấu căn bản của các xã hội Đông Nam Á, và người dân Đông Nam Á trong suốt tiến trình này đã không bỏ rơi các hệ thống giá trị bản địa của họ hay thế giới quan căn bản của họ (Wolters, 1982: 4-15).  Thay vào đó, một khi họ đã trở nên quen thuộc với hệ thống chữ viết của tiếng Phạn, với ngữ vựng và các văn bản chính trị bằng tiếng Sanskrit, và với các tôn giáo, nghệ thuật, và văn chương Ấn Độ, họ trở thành các tham dự viên có óc sáng tạo trong một thế giới văn hóa lớn rộng hơn.

Quan điểm của Phù Nam về sự đối thoại văn hóa này có thể được nhận thấy trong một huyền thoại lập quốc vốn đã lâu đời khi mà các sứ giả Trung Hoa ghi chép lại nó khoảng năm 240 sau Công Nguyên.  Theo một sự trần thuật, cuộc đối thoại với truyền thống Ấn Độ khởi đầu khi một nhà cai trị nữ phái, người mà Trung Hoa gọi là Liễu Diệp (Lin Ye), cầm đầu một cuộc đột kích vào một chiếc thuyền đi ngang qua.  Một trong những hành khách, một nhà quý tộc Bà la Môn tên Kaundunya, cầm đầu cuộc kháng cự lại cô ta và đánh bại các kẻ đột kích.  Sau đó Liễu Diệp kết hôn với nhà quý tộc Bà La Môn, nhưng cô chỉ làm như thế sau khi anh ta đã uống thứ nước của địa phương.  Hai người kế đó đã di thừa vương quốc, và bảy phần đất nước được giao cho đứa con trai của họ để cai trị, trong khi phần còn lại họ giữ làm lãnh địa riêng của mình (K. Hall, 1985a: 49; Jacques, 1979: 376; D. Hall, 1968: 25-26; Coedès, 1971: 37).

Sự hiện hữu của một thần thoại như thế không nhất thiết có nghĩa là một cuộc hôn phối hoàng gia thực sự đã xảy ra theo cung cách được mô tả.  Cuộc hôn phối rất có thể có tính cách ẩn dụ.  Bằng cách nào đi nữa, thần thoại giải thích một cách rõ ràng rằng các truyền thống bản địa đã được sinh sôi nẩy nở nhờ các truyền thống của Ấn Độ và rằng sự liên hợp chính trị vào các lãnh địa rộng lớn hơn đã xảy ra cùng một lúc với sự tương tác này.  Điều quan trọng cần ghi nhận rằng một người phụ nữ Phù Nam đã là người khởi xướng sự đối đầu, và rằng chính sự kết hôn của ngoại kiều với cô ta đã thiết lập cho người đàn ông một vị thế trong xã hội địa phương.

Việc uống nước của Kaundinya có thể được giải thích theo vài cách khác nhau.  Tuy nhiên, một ý nghĩa có thể có rằng anh ta đã uống nước thề, tuyên hứa lòng trung thành với dòng tộc địa phương, như một chỉ dấu rằng anh ta sẽ phục vụ Phù Nam, giống như các truyền thống Ấn Độ sau rốt đã phục vụ cho một loạt các thể chế chính trị nhiều tham vọng tại Đông Nam Á.  Trong bất kỳ trường hợp nào, câu chuyện chứa đựng một luân lý quan trọng: các điều tốt lành không đến từ việc tấn công và cướp bóc các chiếc thuyền ngang qua mà từ việc thân thiện với chúng.  Câu chuyện của Liễu Diệp và Kaundinya chính vì thế đã được dùng để giải thích chính sách từ khước việc cướp biển của vương quốc để nghiêng về một chính sách hợp tác với khách du hành để mang lợi cho cả đôi bên. 
Các Sự Phát Triển Khu Vực Hải Hành

Mặc dù Phù Nam nổi tiếng nhất, nó không phải là trung tâm duy nhất thịnh đạt tại Đông Nam Á trong các thế kỷ này.  Bằng cớ khảo cổ cho thấy rằng một số loại chuyển tiếp chính trị đã diễn ra tại bờ biển phía bắc của đảo Java một cách sớm sủa, ngay trong ba thế kỷ cuối cùng trước Công Nguyên (Wisseman-Christie, 1991: 25).  Và trong thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên, khi các sứ giả Trung Hoa đang thăm viếng Phù Nam, họ có nghe về một số địa điểm khác nằm trong khu vực hải hành.  Họ hay biết rằng tại “Zhiaing” (rất có thể nằm trên bờ biển đông nam của đảo Sumatra) có một ông vua đã nhập cảng giống ngựa Yuezhi từ miền tây bắc Ấn Độ, trong khi tại “Sitiao” (rất có thể nằm tại miền Trung đảo Java) là một vùng đất phì nhiêu có nhiều thành thị với các phố xá (Wolters, 1967: 52-61).

 Các trung tâm hàng hải này có vẻ đang trong tiến trình thích ứng hóa một số thành tố của tôn giáo và thuật điều hành quốc gia của Ấn Độ, ngoài việc thích nghi nhiều loại quyền lực bản xứ khác nhau chẳng hạn như sự tôn kính các tổ tiên lừng lẫy, nhằm nâng cao các vị thế chính trị của chính họ, hay ít nhất để loan báo các thành quả và chính sách của họ.  Các bia ký vào khoảng 400 năm sau Công Nguyên tại miền tây Kalimantan và vào khoảng giữa thế kỷ thứ năm tại miền tây đảo Java cho thấy rằng ít nhất có một số kẻ đã khám phá ra sức mạnh biểu tượng của văn tự Phạn ngữ (Sanskrit) (Kulke, 1991: 4-7).  Về điều cho đến hồi gần đây được nghĩ là bia ký bằng chữ Phạn cổ xưa nhất tại Đông Nam Á là bản bia ký khắc trên đá được tìm thấy tại Võ Cạnh (Dân chúng tại Võ Canh, tọa lạc tại bờ biển Việt Nam gần thành phố Nha Trang ngày nay, nói tiếng Mã Lai và sinh sống trong khu vực duyên hải thuộc thế giới hàng hải, một nơi sau này được biết là xứ Chàm).  Trên căn bản loại văn tự được sử dụng, bia ký Võ Canh đã từng được ghi có nhật kỳ khoảng cuối thế kỷ thứ nhì hay đầu thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên, nhưng một cuộc nghiên cứu gần đây đã lập luận rằng nó không thể sớm hơn thế kỷ thứ năm quá xa.  Cuộc nghiên cứu này cũng nêu ý kiến rằng Sri-Mara, nhà vua được ai điếu trong bia ký, đã không có mối quan hệ đặc biệt, lệ thuộc với Phù Nam, như đã từng được đề xuất trong quá khứ. Đúng hơn, ông ta phải được hiểu như nhà lãnh đạo các vương quốc nói tiếng Mã Lai trổi dậy trong khu vực hải hành, tương tự như các vương quốc tại Kalimantan và Java (Kulke, 1991:5). 
 

Sự Xuất Hiện Của Một Con Đường Hoàn Toàn Trên Biển Xuyên Qua Các Eo Biển Của Đông Nam Á

Bắt đầu thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên, một loạt các sự chuyển hóa chính trị đã xảy ra dọc theo các hải lộ tơ lụa khác nhau từ Trung Hoa đến Địa Trung Hải, các sự biến đổi đã đạt đến cực điểm với sự xuất hiện của một con đường hoàn toàn trên biển giữa Ấn Độ và Trung Hoa chạy xuyên qua vùng eo biển Đông Nam Á.  Trong năm 226 sau Công Nguyên, một đế quốc mới xuất hiện tại Iran, mang lại cùng với nó sự phục hoạt của quyền lực Iran tại vùng Trung Á Châu.  Các nhà vua triều đại Sassanid cai trị đế quốc này là những người theo đạo Zoroastrianism [Hệ thống tôn giáo lập bởi Zoroaster, tin là có kiếp sau và phe thiện sẽ thắng phe ác, là tôn giáo thịnh hành tại Iran trước khi nước này đổi sang đạo Hồi, chú của người dịch], và họ đặt tính cách chính thống về chính trị của mình trên một mối quan hệ đặc biệt với vị thần linh tối cao, Ahura Mazda [vị thần tối cao và sáng lập ra thế giới theo đạo Zoroastrian, chú của người dịch].  Sau đó, trong năm 320, triều đại Gupta tuyên cáo lập một vương quốc Ấn Độ giáo trên sông Hằng Hà (Ganges).  Bởi vì sự bành trướng quyền lực Iran đã làm suy yếu sự kiểm soát của vương quốc Kushana trên con đường tơ lụa từ Trung Hoa sang Ấn Độ, các nhà vua triều đại Gupta đã có thể đánh bại Kushanas, thống nhất miền bắc Ấn Độ, và đặt phần lớn tiểu lục địa dưới sự thế lực của mình.

Cùng thời khoảng đó, tại Ethiopia, Quốc Vương Ezana của vùng Axum [kinh đô cổ thời của Ethiopia, chú của người dịch] đã biến cải vương quốc của ông thành một lãnh địa theo Thiên Chúa Giao.  Axum là một thế lực lâu đời tại vùng Biển Hồng Hải, một vương quốc mà nhà tiên tri gốc Iran, Mani (215-276 sau Công Nguyên), người lập ra đạo Manichaeism, đã xếp hạng như “một trong bốn đế quốc vĩ đại nhất của thế giới” (Kobishanov, 1981: 383).  Từ lâu nó đã là một trung tâm mậu dịch lớn, nơi mà các con đường mậu dịch trên đất liền từ nội địa của Phi Châu (vùng có các sản phẩm như ngà voi) gặp gỡ các con đường hải hành của Biển Hồng Hải và Ấn Độ Dương.  Hơn nữa, vào khoảng gần đúng thời gian đó, năm 330 Constantine I đã di chuyển thủ đô của đế quốc từ Rome sang Constantinople [tức thành phố Istanbul, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, chú của người dịch] và bắt đầu biến cải Đế Quốc La Mã từ tà giáo đa thần thành Đế Quốc Byzantium theo Thiên Chúa Giáo.

Lúc đầu, sự thiết lập quyền lực của triều đại Sassanian có vẻ đã gây ra một sự đình trệ trong mậu dịch trên con đường tơ lụa trên biển đi từ các hải cảng vùng tây bắc Ấn Độ xuyên qua Hồng Hải đến Địa Trung Hải.  Người Iran đã lấn chiếm các phần đường của các con đường tơ lụa mà vương quốc Kushanas đã kiểm soát và sau đó hiển nhiên đã chuyển hướng nhiều tơ lụa nhắm chở đến các hải cảng của Ấn Độ về các con đường trên đất liền xuyên qua Iran để đến Biển Hắc Hải và Đia Trung Hải.  Tuy nhiên, sự trì chậm này không kéo dài, bởi mậu dịch của vùng Biển Hồng Hải sớm được phục hồi bởi một liên minh giữa các quyền lực mới Thiên Chúa Giáo hóa tại Constantinople và Adulis, thủ đô của vương quốc Axum tại Ethiopia.

Constantine I đã theo đuổi một chính sách Hồng Hải bao quát, dự trù để ngăn chặn sự thiết lập bất kỳ một quyền lực độc lập nào trên bán đảo Ả Rập (Shahid, 1984a: 70), và cả ông ta lẫn Nhà Vua Ezana đều bị quấy rối bởi quyền lực của Sabaeans và Himyarites, các cộng đồng Đo Thái được được thiết lập từ lâu tại Yemen.  Trong thời gian mà triều đại Sassanian củng cố quyền lực của họ, các cộng đồng này có vẻ như đã đạt được sự kiểm soát trên phần lớn hoạt động mậu dịch tiến vào Hồng Hải, và các đồng minh mới theo Thiên Chúa Giáo còn nghi ngờ chúng thông đồng với Iran.  Sau một cuộc xâm lăng của Ethiopia vào Yemen vào giữa thế kỷ thứ tư (hiển nhiên đã được thực hiện với sự trợ giúp của Byzantine), mậu dịch vùng Hồng Hải đã được phục sinh, nhưng với một sự khác biệt.  Không có thể làm gì đối với sự kiểm soát của Iran trên phần lớn mậu dịch tơ lụa, các tàu thuyền Hồng Hải không còn chính yếu đi đến các hải cảng vùng tây bắc của Ấn Độ nữa.  Thay vào đó, chúng đã di hành đến các hải cảng buôn bán hạt tiêu tại miền nam Ấn Độ và đến đảo Tích Lan (Sri Lanka).

Nhiều chiếc thuyền di chuyển qua lại giữa Hồng Hải và miền nam Ấn Độ và Tích Lan là thuyền của Ethiopia.  Mặc dù người Hy Lạp có một số thuyền tại Hồng Hải, chúng hiếm khi nào đi quá Socotra, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển phía nam của Arabia (Runciman, 1975: 132).  Tuy nhiên, bởi các nhà mậu dịch Ethiopia dùng đồng tiền của Hy Lạp để mua sản phẩm, đã có các sự khám phá lớn lao đồng tiền Byzantinium tại miền nam Ấn Độ.  Các nhật kỳ trên các đồng tiền này chứng thực rằng hoạt động mâu dịch này đã nở rộ từ thời trị vì trong thế kỷ thứ tư của vua Constantine I cho đến thời trị vì của vua Justin I (518-527) trong thế kỷ thứ sáu.  Trong thực tế, cho đến thế kỷ thứ bẩy người Ethiopia vẫn còn là quyền lực thương mại ưu thắng tại khu vực Hồng Hải (McNeill, 1963: 412).

Vào khoảng cùng lúc mà Ethiopia dành được sự kiểm soát trên Biển Hồng Hải qua việc xâm lấn Yemen, một sự phát triển quan trọng khác đã xảy ra ở phía bên kia đại dương bao la miền nam.  Vào khoảng năm 350 sau Công Nguyên, các thủy thủ Mã Lai đã phát triển một hải lộ hoàn toàn trên biển đầu tiên chạy từ Tích Lan sang đến Biển Nam Hải (South China Sea).  Sau khi lên tàu tại Tích Lan, các hành khách được lái trực chỉ theo hướng đông, xuyên qua hoặc Eo Biển Malacca hay Eo Biển Sunda, để đến một trong những hải cảng tại Biển Nam Hải. (Một số các hải cảng như thế có lẽ đã hiện hữu tại phần cực nam của Biển Nam Hải, trên các hòn đảo Sumatra, Java, và Borneo, là các hải cảng đang cạnh tranh trên hải trình này — mặc dù trong thời kỳ thịnh vượng của Phù Nam, có vẻ không hải cảng nào trong chúng lại tìm cách dành đạt quyền bá chủ trên vùng khác).  Sau một sự dừng chân, trong khi chờ đợi gió đổi chiều, họ có thể tiến bước đến Trung Hoa.

Chính vì thế, các thủy thủ Mã Lai đã có thể cung cấp sự lưu thông quốc tế trên một con đường hoàn toàn trên biển, nhanh hơn, qua lại giữa Trung Hoa và các thị trường tơ lụa.  Các khách du hành khởi đi từ Ấn Độ sang Trung Hoa không còn phải lái tàu bám sát lấy bờ biển quanh Vịnh Bengal và Vịnh Thái Lan, vận tải hàng hóa băng ngang eo đất Kra để đến được Phù Nam.  Theo hải lộ mới này, họ có thể lướt đi một cách mau lẹ trong mùa gió nồm, trực chỉ từ các eo biển đến các hải cảng tại Biển Nam Hải.  Điều này cũng có nghĩa hàng hóa vận tải xuất phát từ Trung Hoa và vùng biển Đông Nam Á có thể thực hiện một chuyến du hành nhanh chóng hơn đến các hải cảng của Tích Lan.
Sự Tường Thuật của Fa Xian Về Hải Lộ Mới Chạy Qua Eo Biển            

Sự kinh khiếp ra sao của hải lộ mới hoàn toàn chạy trên biển đối với khách du hành lần đầu được nhận thấy rõ ràng từ một bản văn tường thuật viết bởi nhà sư Phật Giáo tên Fa Xian, người đầu tiên đã mô tả đường đi này.  Vào năm 399 sau Công Nguyên, ở tuổi 65, Fa Xian rời tu viện của ông tại Tràng An, Trung Hoa, làm một cuộc hành hương về thánh địa của tôn giáo của ông tại miền bắc Ấn Độ.  Ông đã du hành sang Ấn Độ bằng con đường trên đất liền, dẫn ông băng qua các sa mạc đáng sợ và qua rặng núi Karakoram, xuyên qua các ngọn đèo ở cao độ 18,000 bộ, nơi không khí thì mỏng và mọi loại hoạt động, ngay dù bước đi, thì khó khăn.

Phần đáng kinh hãi nhất trong chuyến du hành của ông là băng qua hẻm núi sâu nơi đầu nguồn của con sông Ấn Hà (Indus River).  Ông và và các khách du hành khác đã phải chọn con đường chạy dọc theo một lối đi hẹp cắt vào sườn núi, mà Fa Xian đã nói “như một bức tường đá cao mười nghìn bộ.  Gần bờ mép, con mắt trở nên rối loạn; và muốn tiến tới, nhưng không biết đặt bàn chân nơi đâu.”  Kế đó họ đã phải leo xuống lại hẻm núi sâu, bước xuống những bậc dựng đứng lần nữa được cắt vào sườn vách đá, và rồi băng qua con sông trên một chiếc cầu được làm bằng các sợi dây thừng bện vào với nhau (Fa Xian, 1956: 9-10).  Khách du hành đã không có cách gì khác ngoài việc nhích từng phân trên đường băng ngang, ngay cả khi các luồng gió mạnh quất vào chiếc cầu đong đưa.  (Khách du lịch dũng cảm ngày nay có thể lấy xe buýt chạy từ Trung Hoa sang Hồi Quốc (Pakistan) theo con đường của Fa Xian, nhưng tất cả các báo cáo cho hay rằng, ngay cả với sự chuyển vận hiện đại, hành trình vẫn chỉ dành cho các kẻ gan dạ).

Chính vì thế, vào năm 415 sau Công Nguyên, khi ông già tám mươi tuổi Fa Xian dự trù chuyến hồi hương về Trung Hoa, ông ta đã không muốn trở về bằng cùng con đường đã dẫn ông tới.  Biết rõ những gì ở sau lưng, nhưng không biết những gì ở phía trước, ông ta đánh liều, chọn việc quay về quê bằng hải lộ hoàn toàn trên biển.  Những gì ông khám phá được là lái thuyền trên đại dương thì cũng kinh khiếp y như dấn bước trên đất liền.  Ông rời Tích Lan trên một thương thuyền chuyên chở hai trăm người, nhưng chỉ sau hai ngày rời khỏi cảng, họ đã gặp phải một cơn gió bão, kéo dài trong mười ba ngày.  Sau khi thời tiết trở lại quang đãng, họ nhận thấy chiếc tàu bị hư hỏng và sớm bị chìm.  Ngay vào lúc đó chiếc tàu bị mắc cạn ở một hòn đảo vô danh, nơi mà thủy thủ đoàn có thể sửa chữa [con tàu].  Tuy nhiên, bởi vì đi lạc, họ mất thêm thì giờ để tìm nơi đến.  Quá trễ và vớI khẩu phần đã hết từ lâu, cuối cùng họ đã lái vào một hải cảng tại vùng Biển Nam Hải (Giles, 1956: 76-78).

Fa Xian đã trải qua năm tháng tại hải cảng này. Ông có vẻ không vui thích với sự ngừng chân này, ý kiến duy nhất của ông rằng tà giáo và Bà La Môn giáo, chứ không phải Phật Giáo, được phát triển ở đó.  Trong phần thứ nhì của hành trình của ông, từ hải cảng này về Trung Hoa, chiếc tàu của ông lại gặp phải một trận bão.  Sau bảy mươi ngày thủy thủ đoàn vẫn chưa nhìn thấy vùng đất liền nào, vì thế họ biết mình đã bi lạc mất hải cảng mà họ nhắm đến – và cũng như toàn thể lục địa.  (Thời gian lái thuyền bình thường đến Trung Hoa là năm mươi ngày).  Vì thế các thủy thủ chỉ đơn giản quay sang trái (hướng tây bắc) bởi vì Á Châu ở đâu đó [trên hướng này].  Cuối cùng khi mắc cạn, họ có mặt ở tỉnh Sơn Đông, 1000 dặm phía bắc nơi nhắm đến của họ!  Họ đã không có ý tưởng rằng họ đương ở đâu, nhưng Fa Xian biết ông đã về quê hương khi ông nhìn thấy một khoảnh đất trồng các loại rau Trung Hoa (Giles, 1956: 79).

Sau cuộc trở về Trung Hoa của Fa Xian, các khó khăn trên các con đường tơ lụa trên đất liền càng làm gia tăng tầm quan trọng của các hải lộ mà ông đã đi qua.  Miền bắc Trung Hoa bị chiếm đóng bởi các dân du mục đến từ vùng thảo nguyên hoang dại giữa Á Âu, gây ra một cuộc chạy trốn khổng lồ của dân chúng Trung Hoa từ bắc xuống nam.  Bởi sự dời cư đòi hỏi tiền bạc và phương tiện, các nhóm có nhiều ưu quyền hơn chiếm đa số trong số các người tỵ nạn, một số các sử gia tuyên bố rằng có tới từ 60 đến 70 phần trăm các tầng lớp thượng lưu miền bắc di chuyển xuống phía nam sông Dương Tử.  Miền nam Trung Hoa tuy thế đã không bị xâm chiếm bởi quân xâm lăng, một phần vì các kẻ cỡi ngựa từ các đồng cỏ phương bắc không thể nào phóng ngựa băng ngang các cánh đồng lúa, và trong thực tế, hai vương quốc Phật Giáo,  Liu Song (420-479) và Nan Qi (479-502) đã phát triển ở nơi đó trong thế kỷ thứ năm.

Các di dân từ phương bắc, đã có thị hiếu từ lâu với các sản phẩm đến từ “các vùng phía tây,” đặc biệt lưu ý đến những gì họ gọi là hàng hóa “Ba Tư.” Đế Quốc Sassanian đã là một trung tâm mậu dịch và sản xuất quan trọng, và Trung Hoa tin rằng nó sẽ là một nguồn cung cấp các sản vật giá trị và hiếm quý, nhiều sản vật trong đó, trong thực tế, không phải đã được sản xuất hay trao đổi tại Iran.  Trong số nhiều hàng hóa được xem là của Ba Tư (Persian) vào lúc này là hàng dệt đắt tiền, hương dược liệu, trầm hương, chất phèn chua [alum, dùng để chế bột nổi, thuốc nhuộm và giấy, chú của người dịch], cây thì là Ai Cập (cumin), ma thạch (asbestos), hổ phách, ngọc trai và đá quý (Wolters, 1967: 129-38).

Cho đến giữa thế kỷ thứ năm, các hàng hóa “Ba Tư” vẫn tiếp tục đến được miền nam Trung Hoa bằng các con đường trên đất liền trải dài từ Iran đến Trung Hoa.  Tuy nhiên, vào năm 428, người Iran giao chiến với các kẻ du mục từ đồng cỏ hoang được gọi là sắc dân Hephthalites, hay giống Hung Trắng, là các kẻ đe dọa biên cương phía đông của nó.  Và vào năm 439 triều đình Bắc Ngụy của Mông Cổ đã củng cố quyền lực của nó trên phần lớn phía bắc Trung Hoa, kể cả các con đường chiến lược dẫn đến phía tây.  Tình thế càng nghiêm trọng hơn, triều đình bị tấn công từ Trung Á bởi một sắc dân từ đồng hoang khác.  Với sự sự giao tranh dọc theo các con đường tơ lụa trên đất liền, người ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy trào lượng các hàng hóa được gọi là của Ba Tư chảy xuyên qua miền bắc Trung Hoa xuống phía nam bị ngặn chặn.

Tuy nhiên, những người tỵ nạn tại miền nam Trung Hoa đã không bị tước đoạt bao lâu.  Các nhà mậu dịch Iran gia tăng việc sử dụng đường biển, từ vịnh Ba Tư đến Tích Lan, nơi họ có thể mua các hàng hóa Trung Hoa được mang đến hòn đảo trung chuyển này bởi các thủy thủ Mã Lai (Wolters, 1967: 150-51).  Các nhà mậu dịch từ vùng Vịnh Ba Tư đã trở nên thiết định một cách chắc chắn tại đó hồi đầu thế kỷ thứ năm (Wolter, 1967: 81), và họ đã đến Tích Lan với nhiều hàng hóa “Ba Tư “ đáng mong muốn.  Các hàng hóa này các thủy thủ Mã Lai có thể chuyển vận ngược đến Trung Hoa, nương theo gió mùa để lướt qua các eo biển.

Các thủy thủ Mã Lai cung cấp các hàng hóa “Ba Tư ” này đã lái thuyền đến Trung Hoa từ các hải cảng ở Đông Nam Á.  Chính vì thế, điều không gây ngạc nhiên là nhu cầu miền nam Trung Hoa đã sớm phát triển cho các sản phẩm của khu vực hải hành của nó.  Không chỉ thị trường về các loại nhựa và gỗ thơm vẫn còn mạnh, mà Trung Hoa trở thành một thị trường không đáy cho sừng tê giác. ( Tại Trung Hoa nó được dùng để chế tao ra một loại thuốc bổ dưỡng, bảo đảm chữa trị được chứng bất lực của đàn ông, trong khi tại Nhật Bản, nó được dùng như một loại bùa và được treo ở cột giường ngủ cho cùng mục đích đó.  Hậu quả của sự đòi hỏi của vùng Đông Á về sừng khiến cho tê giác trở nên tuyệt chủng tại Đông Nam Á.)  Người Trung Hoa cũng trở thành các người mua quan trọng các phẩm vật như lông chim, gỗ thơm, mu rùa, và ma thạch.  Và vào khoảng cuối thế kỷ thứ năm hay đầu thế kỷ thứ sáu, các người tiêu thụ Trung Hoa đã rất quen thuộc với hạt tiêu và các đồ gia vị khác của Đông Nam Á.  Tuy nhiên, bởi vì người Trung Hoa có khuynh hướng nghĩ các đồ gia vị này trước tiên và trên hết như thành phần pha chế hương, trầm hay dược thảo, họ đã nói về công cuộc thương mại này không phải như mậu dịch về đồ gia vị mà như sự trao đổi vể hương liệu và dược liệu (xiang-yao: hương dược?).
 

Các Đồ Gia Vị Vùng Moluccas          
 

Trong số các sản phẩm mà các thủy thủ Mã Lai giới thiệu trên thị trường quốc tế là “các đồ gia vị ngon miệng” hiếm có – đinh hương, hạt nhục đậu khấu, và vỏ hạt đậu khấu phơi khô (mace). – các đồ gia vị đã trở thành món hàng đắt giá nhất và sinh lợi nhất trong công cuộc mậu dịch.  (Quế và hạt tiêu chắc chắn là có gia trị, nhưng không giống như ba loại này, chúng được cung cấp với số lượng đáng kể tại một số địa điểm thuộc miền nam Á châu. )  Sự phân bố các trống đồng lớn, được chế tạo tại miền bắc Việt Nam, dọc theo bờ biển Biển Java và Biển Banda nêu ý kiến rằng các nhà mậu dịch Java có thể đã thụ đắc các gia vị ngon miệng từ “Các Đảo Gia Vị: Spice Islands” nguyên thủy, tại vùng Moluccas (cách Java hơn một ngàn dặm về phía đông và 2,000 dặm phía đông Eo Biển Malacca), và đã giới thiệu chúng vào mạng lưới mậu dịch liên vùng ngay từ thế kỷ thứ nhì hay thứ ba trước Công Nguyên (Wisseman-Christie, 1991: 25).  Dù thế, các gia vị này vẫn chưa được hay biết rộng rãi tại Ấn Độ hay Trung Hoa mãi cho đến khi có sự phát triển đường đi hoàn toàn trên biển của Mã Lai chạy từ Tích Lan đến Trung Hoa.

Gia vị được biết là đinh hương (cloves) thực sự là nụ hoa chưa nở được phơi khô, của cây đinh hương.  Trước năm 1600, các vườn đinh hương với bất kỳ tầm quan trọng về mặt thương mại nào, chỉ được trồng tại năm hòn đảo núi lửa nhỏ bé – Ternate, Tidor, Motir, Makian, và Batjan — tọa lạc ngoài khơi giáp bờ biển phía tây của đảo Halmahera (Brierley, 1994: 43).  Hạt nhục đậu khấu và vỏ hạt đâu khấu [tác giả có lẽ đã nhầm lẫn vỏ hạt này cũng là một loại cây, chú của người dịch] được trồng tại vùng đất phún xuất thạch của các đảo ở Banda, một nhóm gồm mười đảo ở Biển Banda, nằm phía chính nam của hòn đảo được gọi là Ceram (dù thế chúng quá nhỏ, với tổng số diện tích 17 dặm vuông, nên không xuất hiện hay được nêu tên trên nhiều bản đồ).  Những gì được bán như hạt đậu khấu là một hạt được tìm thấy trong hột mầm, trong khi bột vỏ (mace) đến từ lớp vỏ mỏng màu đỏ dẻo dai bọc quanh hạt này.

Với giá trị mà các đồ gia vị ngon miệng này đã thụ tạo được ở khắp Đông Bán Cầu, điều đáng để ý là không kẻ nào đã tìm cách phá vỡ cơ chế tương đương một sự độc quyền của Moluccas mãi cho đến thế kỷ thứ mười bảy, khi người Hòa Lan chiếm giữ các hòn đảo sản xuất gia vị.  Xuyên qua nhiều thế kỷ, người dân trên đảo đã canh chừng nghiêm ngặt các du khách để ngăn chặn việc lén lút mang đi hạt giống hay cây trồng.  Các người trồng cây gia vị ở Moluccas, có kỹ năng cao trong việc trông nom cây và thu hái và phơi khô các đồ gia vị, không có ý định chia sẻ kiến thức này cho kẻ khác.  Hơn nữa, ngay dù các kẻ buôn lậu có thành công trong việc xuất lén lút một số hạt giống, nhiều phần họ vẫn chưa bao giờ thu hái được một vụ gặt nào cả.  Các hạt giống mau chóng bị hư hoại, và ngay cả nếu sồng được, các cây này thường không tăng trưởng đến mức độ chín mùi.  Vả chăng, chúng cũng cực kỳ kén chọn nơi được trồng, hoàn toàn cá biệt về mặt loại đất, nhiệt độ, độ ẩm, mô hình vũ lượng hàng năm, và loại bóng râm được cung cấp bởi các cây khác.  Có một câu tục ngữ từ các người canh tác rằng “các hạt đậu khấu phải có thể ngửi thấy biển, và cây đinh hương phải trông thấy biển” (Ridley, 1912: 105).  Chính vì thế, một ít nơi trên thế giớI có thể lập lại đúng các điều kiện trên các hòn đảo gia vị này. 
 

Sự Tan Biến Của Phù Nam Giữa Những Sự Khủng Hoảng Của Thế Kỷ Thứ Sáu      

Trong khoảng năm trăm năm, cho đến thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên, lãnh địa Phù Nam đã thịnh vương, kéo dài sau khi có sự phát triển con đường hoàn toàn đi trên biển từ Tích Lan đến Trung Hoa.  Tuy nhiên, vào khoảng giữa thế kỷ thứ sáu nó đã phải gánh chịu một sự tuột dốc, và không lâu sau đó bị chinh phục từ phương bắc, bởi vương quốc Chân Lạp (Chenla) của người Khmer.  Các sử gia đã chưa có thể nhận ra các nguyên do của sự sụp đổ của Phù Nam, nhưng điều đáng ghi nhận là nó đã xẩy ra gần như đồng thời với một loạt các xáo trộn và biến chuyển đọc theo tất cả con đường mậu dịch hàng hải từ Constantinople đến Trung Hoa.

Trong năm 520 sau Công Nguyên, nhóm dân Hephthalites của vùng Trung Á chọc thủng các phòng tuyến bảo vệ bởi quân đội Sassanian, cái khiên bảo vệ cả Iran và Ấn Độ.  Các nhà lãnh đạo triều đại Sassanian tại Iran tìm cách sống sót sau sự thất trận này trong hơn một trăm năm, nhưng triều đại Gupta thì không làm được như vậy.  Do áp lực từ bên ngoài và sự căng thẳng ở bên trong, quyền lực của các nhà vua Gupta đã suy tàn, và vào khoảng giữa thế kỷ thứ sáu, đế quốc đã tan rã thành nhiều vương quốc cấp miền.  Khu vực biển Hồng Hải cũng bị xáo trộn bởi các sự giao tranh.  Vào khoảng đầu thập niên 520, nhà vua Ethiopia tố cáo rằng người Hymyarites gốc Do Thái tại Najran, bắc Yemen, là ngược đãi người theo đạo Thiên Chúa, và trong năm 525, ông ta đã thực hiện một cuộc viễn chinh trừng phạt họ, chiếm đóng Yemen trong vòng bốn mươi lăm năm sau đó.  Từ năm 527 đến năm 532 và một lần nữa từ năm 540 đén 562, Byzantine và Iran giao chiến với nhau.  Trong năm 570, một đội quân của triều đại Sassanid băng ngang bán đảo Ả Rập và xâm lăng Yemen, theo đó triệt hạ sự kiểm soát của Ethiopia trên vùng Biển Hồng Hải.  Trong thực tế, sự chiếm đóng của Iran trên Yemen kéo dài hơn sáu mươi năm.

Ngoài các xáo trộn trên các đường mậu dịch hàng hải miền nam, còn có một sự bộc phát chứng bệnh dịch hạch truyền nhiễm.  Trong quyển sách nhan đề Plagues and Peoples của mình, ông William McNeill đã mô tả làm sao mà sự truyền nhiễm đã lan rộng từ Ấn Độ và các hải cảng khác trên Ấn Độ Dương cho đến Hồng Hải.  Vào năm 542, nó đã lan đến Constantinople, nơi một nhân chứng tận mắt ước lượng rằng tỷ lệ tổn thất lên cao đến mức 10,000 người một ngày (Mango, 1980: 68).  Bệnh dịch và nạn đói còn tiếp tục tàn phá Địa Trung Hải trong gần hai trăm năm sau đó.

McNeill cho rằng sự bộc phát chứng dịch này là một hậu quả trực tiếp của các sự ràng buộc thương mại chặt chẽ giữa Ấn Độ, Phi Châu và vùng Địa Trung Hải.  Giống “chuột đen” đóng vai trò chủ nhân chứa chất các con bọ chét (rận) mang mầm dịch có nguồn gốc từ Ấn Độ.  Chúng là các con vật giỏi leo trèo và có thể dễ dàng dùng các sợi dây thừng buộc các chiếc thuyền buồm với các neo cố định để lên xuống các con tàu di chuyển từ hải cảng này sang hải cảng khác.  Trước khi có cuộc truyền nhiễm hồi thế kỷ thứ sáu, các con chuột đã di cư từ Ấn Độ sang Đông Phi Châu và vùng Biển Hồng Hải, đã chạy băng qua cầu đất hẹp để sang Địa Trung Hải, và đã lan tràn khắp vùng biển đó, mặc dù không vượt quá Eo Biển Gibraltar (nơi mà các con tàu của Địa Trung Hải hiếm khi lai vãng cho mãi đến vài thế kỷ sau này).  Chính vì thế, khi các con bọ chét trên một số con chuột này, bất luận là trên bờ biển Ấn Độ hay Phi Châu, trở nên bị nhiễm bởi trực trùng dịch hạch, chứng bệnh tàn phá này đã được truyền đi dọc theo đường đi của “sự khuếch tán giống chuột đen” (McNeill, 1976, 1976: 111-12).  Mặc dù McNeill không đề cập đến khả tính này, xem ra nhiều phần là giống chuột này cũng đã tự phân tán về phía đông của Ấn Độ, đến Phù Nam và có thể đến miền nam Trung Hoa, và các khu vực này cũng gặp phải nạn dịch hạch vào thời gian này.

McNeill còn nêu ý kiến đi xa hơn rằng sự bộc phát nạn dịch này có thể đã là một nguyên do quan trọng của sự thu hấp quyền lực tại Âu Châu từ vùng Địa Trung Hải lên phía bắc, một tiến trình đã khởi sự vào cuối thế kỷ thứ sáu. Ở bên đối xứng, mỏm phía đông của các con đường hải hành miền nam, cũng có một sự di chuyển quyền lực nhận thấy được lên phía bắc.  Phù Nam bị chinh phục từ phương bắc, và vào năm 581, Trung Hoa được tái thống nhất với triều đại nhà Tùy (518-618), đặt căn cứ tại miền bắc, đã chinh phục miền nam.

Cắt ngang giữa hai đầu mỏm này, sự di chuyển lên hướng bắc này được tăng cường sau khi có các sự chinh phục của Hồi Giáo trong các thế kỷ thứ bẩy và thứ tám.  Vùng Umayyad Caliphate, có thủ đô đặt tại Damascus, đã dành được sự kiểm soát trên tất cả các con đường từ Trung Hoa sang Địa Trung Hải, và dưới sự bảo trợ của họ các con đường trên đất liền đã phát đạt, trong khi lưu thông trên biển Hồng Hải bị sút giảm.  Cùng lúc, các cuộc chinh phục của Hồi Giáo không có vẻ đã gây ra một ảnh hưởng tiêu cực trên con đường hoàn toàn đi trên biển của Mã Lai chạy xuyên qua vùng các eo biển, bởi mậu dịch quốc tế dọc hải lộ này vẫn tiếp tục bành trướng.  Tuy nhiên, con đường vận tải Kra không bao giờ dành lại được tầm quan trọng trước đây của nó.  Thời đại của Phù Nam đã đi đến chỗ kết liễu, và từ dó trở đi, các hải cảng hùng mạnh lôi cuốn các nhà mậu dịch quốc tế đến trong vùng sẽ được tọa lạc trong khu vực hải hành của Mã Lai tại Đông Nam Á, trên các hòn đảo Sumatra và Java.

 Sau hết, thế kỷ thứ sáu đã chứng kiến một biến chuyển kinh tế quan trọng.  Cho đến thời điểm đó, không có kẻ nào tại vùng Địa Trung Hải hiểu được bí quyết sản xuất ra tơ sống; tất cả lụa mua bán, cũng như tất cả các cuộn chỉ tơ để làm ra lụa, đều được nhập cảng.  Chính vì thế, trong thế kỷ thứ sáu, khi các sự giao chiến giữa Byzantium và triều đại Sassanid làm gián đoạn các con đường mậu dịch, một cuộc khủng hoảng lụa đã phát sinh.  Trong số nhiều sự việc khác, các tấm khăn choàng bằng lụa dùng cho các sự chôn cất của người theo đạo Thiên Chúa bị thiếu hụt, Byzantium không còn có thể giữ yên các dân tộc tại biên cương của nó với các món quà ngoại giao bằng lụa, và một số lượng lớn các thợ đệt  (các người thường nhập cảng cuộn chỉ sơi hay dệt lại các vải vóc nhập cảng) bị mất việc.

Theo Procopius [sử gia Byzantium, năm 562 làm thị trưởng Thành phố Constantinople, mất khoảng năm 565(?), chú cua người dịch], vấn đề đã được giải quyết bằng một trong các hành động đánh chú ý hơn của sự do thám kinh tế.  Trong năm 551, các tu sĩ giáo phái Cơ Đốc Nestorian Christian có nói với Hoàng Đế Justinian rằng lụa làm từ các tổ kén tơ được nhả ra bởi các con tằm ăn lá dâu, và vào năm 553, theo lời yêu cầu của Hoàng Đế Justinian, các tu sĩ đã thành công trong việc đem lén các con tằm ra khỏi nước Trung Hoa bằng cách dấu chúng trong một gậy tre, sau đó đã chuyển giao chúng sang Byzantium (Simkin, 1968: 87).  Mặc dù các chuyên viên về mậu dịch lụa quốc tế ngày nay xem câu chuyện của Procopius là ngụy tạo, họ có đồng ý rằng ngành tằm tang (trồng dâu nuôi tằm), công việc thực sự sản xuất  ra các sợi tơ dệt lụa, đã được thiết lập tại các vùng đất của Byzantium phía đông Địa Trung Hải sau thời trị vì của Justinian (Liu, 1995b: 25).  Lụa của Trung Hoa vẫn còn là một vật phẩm quan trọng trong mậu dịch đường trường, nhưng các thế kỷ trong đó nhu cầu về sản phẩm này là động lực thúc đẩy đàng sau các con đường buôn bán mới, trên đất liền cũng như trên biển, đã đi đến chỗ kết thúc./-

 

THAM KHẢO:

Brierley, Joanna Hall, 1994, Spices: The Story of Indonesia’s Spice Trade, Kuala Lumpur: Oxford University Press.

Christrie, ẠH., 1979, “Lin-I, Fu-Nan, Java”, do Smith và Watson biên tập, 1979: 281-87.

Coedès, Georges, 1971, The Indianized States of Sputheast Asia, chủ biên bởi Walter E. Vella, Phiên dịch bởi Susan Brown Cowing, Honolulu: University Press of Hawaii.

Fa Xian, 1956, The Travels of Fa-hsien.  Xem Giles, 1956.

Giles, F.H., 1956, The Travels of Fa-hsien (399-414 A.D.) or Record of the Buddhistic Kingdoms, Cambridge: Cambridge University Press, 1923.  In lại: London: Routledge & Kegan Paul.

Hall, Daniel G.E., 1968, A History of Southeast Asia, ấn bản lần thứ 3, London: Macmillan, and New York: St. Martin’s Press.

Hall, Kenneth, 1979, “The Expansion of Roman Trade in the Indian Ocean: An Indian Perspective”, The Elmira Review: 36-42.

Hall, Kenneth, 1982, “The ‘Indianization‘ of Funan: An Economic History of Southeast Asia’s First State”, Journal of Southeast Asian Studies 13 (1): 81-106.

Hall, Kenneth, 1985a, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, Honolulu: University of Hawaii Press.
 

Jacques, Claude, 1979, “ ‘Fu Nan ‘, ‘Chen La ‘: the Reality Concealed by These Chinese Views of Indochina”, do Smith và Watson biên tập, 1979: 371-79.

Kobishanov, Y.M., 1981, Aksom: Political System, Economics and Culture, First to Fourth Century”, do Moktar chủ biên, 1981: 381-99.

Kulke, Hermann, 1991, “Epigraphical References to the ‘City’ and the ‘State’ in Early Indonesia”, Indonesia 52: 3-22.
 

Liu Xinru, 1995b, The Silk Roads: Overland Trade and Cultural Interactions in Eurasia.  Sắp được xuất bản bởi Temple University Press, trong loạt Khảo Luận về Lịch Sử Toàn cầu và Đối Chiếu của Hôi Sử Học Hoa Kỳ.

Mcneill, William H., 1963, The Rise of the West: A History of the Human Community, Chicago: University of Chicago Press.

McNeill, William H., 1976, Plagues and Peoples, Garden City, N.J.: Anchor Press/Doubleday.

Mango, Cyril Ạ, 1980, Byzantium: The Empire of New Rome, New York: Charles Scribner’s Sons.

Peacock, B. A. V., 1979, “The Late Prehistory of the Malay Peninsula”, do Smith và Watson biên tập, 1979: 199-214.

Powers, Janet, 1993, “Indian Sea Voyages to the Islands of Gold.”  Bài viết được trình bày tại Hội Nghị Quốc Tế Lần Thứ Nhì của Hội Sử Học Thế giới, Honolulu, tháng Sáu.

Ridley, Henry N., 1912, Spices, London: Macmillan and Co.

Runciman, Steven, 1975, Byzantine Style and Civilization, Harmondsworth, Eng.: Penguin Books.

Shahid, Irfan, 1984a, Byzantium and the Arabs in the Fourth Century, Washington, D.C.: Dumbarton Oaks.

Simkin, C.G.F., 1968, The Traditional Trade of Asia, London: Oxford University Press.                     

Taylor, Keith, 1992, “The Early Kingdoms”, do Tarling biên tập, 1992: 137-82.

Wisseman–Christie, 1991, “States without Cities: Demographic Trends in Early Java” Indonesia 52: 23-40.

Wolters, O.W., 1967, Early Indonesian Commerce: A Study of the Origins of Srivijaya, Ithaca: Cornell University Press.

Wolters, O.W., 1982, History, Culture, and Religion in Southeast Asian Perspectives, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.

Yu Ying-shih, 1967, Trade and Expansion in Han China: A Study of the Structure of Sino-Barbarian Economic Relations, Berkeley: University of California.


Sưu tầm: Nguồn Lynda Norene Shaffer

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hà Nội và các tỉnh lân cận

LỜI NÓI ĐẦU

Cách đây hai mươi thế kỷ, vào mùa xuân năm 40 sau Công nguyên, cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã đập tan bộ máy đàn áp của bè lũ bành trướng Đại  Hán, giành lại độc lập tự do cho đất nước.

Đó là niềm tự hào chung của dân tộc Việt Nam, trong đó và trước hết có niềm tự hào của Hà Nội vì châu thổ sông Hồng mà Hà Nội là trung tâm đã là cái nôi sinh thành của cuộc khởi nghĩa vẻ vang này.

Tiếp theo cuộc khởi nghĩa là những năm tháng độc lập. “Đô kỳ đóng cõi Mê Linh. Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” dù Mê Linh nay là huyện Mê Linh (Yên Lăng cũ) hay huyện Thạch Thất thì cũng là cận kề với Hà Nội.

Ba năm sau, cuộc kháng chiến chống quân Hán xâm lược bùng nổ, quyết liệt và rộng khắp. Nhiều trận đánh đã diễn ra trên đất Hà Nội. Người Hà Nội ngày ấy đã viết tiếp trang sử truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất mà tổ tiên từ thời các vua Hùng, vua Thục đã đắp xây nền tảng.

Cho nên việc tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hà Nội và các tỉnh lân cận thành phố Thủ đô không chỉ có ý nghĩa học thuật mà còn có ý nghĩa phát huy truyền thống của nhân dân vùng châu thổ sông Hồng đã có dư mấy nghìn năm lịch sử.

Tuy nhiên, việc làm này không phải là dễ dàng. Vì ngay đối với việc nghiên cứu cuộc khởi nghĩa nói chung thì tài liệu cũng đã là quá ít ỏi. Về nguồn chính sử của Việt Nam thì bộ sử cổ nhất hiện còn cũng là biên soạn sau cuộc khởi nghĩa đó hàng mười bốn thế kỷ, do vậy rất sơ lược. Đó là bộ Việt sử lược (khuyết danh) soạn vào cuối đời Trần, tức nửa sau thế kỷ XIV, chỉ ghi được về cuộc khởi nghĩa chấn động toàn cõi Giao Châu này có khoảng hai trăm chữ!

Bộ thứ hai là Đại Việt sử ký toàn thư (sẽ gọi tắt là Toàn thư) do Ngô Sỹ Liên soạn, hoàn thành năm 1479 (sử thần các đời sau có viết tiếp, bổ sung, sửa chữa), ghi chép có nhiều hơn một chút nhưng cũng không quá sáu trăm chữ.

Còn những bộ sử soạn sau đó như Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sỹ (1725-1779) hay Việt sử thông giám cương mục của sử thần triều Nguyễn soạn khoảng 1856-1889 (sẽ gọi tắt là Cương mục) thì cũng là chép lại các bộ sử cũ, có thêm một vài chi tiết do tham khảo truyền thuyết dân gian hoặc sử sách Trung Quốc.

Về nguồn sử Trung Quốc cổ, những sách đầu tiên ghi chép về thời kỳ Hai Bà Trưng mà nay dễ tìm đọc là ba bộ sau: Hán thư, Hậu Hán kỷ, Hậu Hán thư.

Bộ thứ nhất, còn quen gọi là Tiền Hàn thư, do Ban Cố soạn theo thể ký truyện, hoàn thành năm 67 sau Công nguyên, có một số tư liệu về tình hình Giao Chỉ và Cửu Chân thời Tây Hán, tức thời gian trước Công nguyên tới năm thứ 8 sau Công nguyên. Bộ sử này gồm bốn phần, chia ra 100 quyển: phần Đế kỷ 12 quyển, phần Biểu 8 quyển, phần Chí 10 quyển, phần Liệt truyện 70 quyển. Liên quan nhiều đến Giao Chỉ, Cửu Chân là Địa lý chí (quyển thứ 8) và Nam Việt vương truyện (quyển 65).

Bộ thứ hai – Hậu Hán kỷ - là sách của Viên Hoành làm quan đời Tấn Hiếu Vũ biên soạn (376-396). Bộ này viết theo thể biên niên, gồm 30 quyển, chép lịch sử nhà Đông Hán theo trình tự thời gian hàng năm của các đời vua. Phần liên quan đến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chủ yếu nằm ở quyển thứ 7.

Bộ thứ ba – Hậu Hán thư – là sách của Phạm Diệp (còn có một âm nữa là Việp) sống thời Lưu Tống (420-479), viết theo thể ký truyện. Bộ này gồm ba phần, chia ra 120 quyển: phần Đế ký 10 quyển, phần Chí 30 quyển, phần Liệt truyện 80 quyển. Những quyển có liên quan tới thời kỳ Hai Bà Trưng là phần Đế ký, quyển 1 đời Quang Vũ và phần Liệt truyện gồm các quyển 12 mục Lưu Long truyện, quyển 14 mục Mã Viện truyện, quyển 66 mục Nhân Diên truyện và  quyển 76 mục Nam Man truyện.

Do là sử của Trung Quốc nên ở hai bộ đó phần ghi chép về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng có cụ thể hơn về phía hoạt động của quân Hán. Nhưng dù vậy, phần ghi chép ấy cũng không quá vài trăm chữ.

Một bộ sách khác cung cấp thêm một ít tư liệu cho việc nghiên cứu thời kỳ Hai Bà Trưng là Thủy kinh chú. Đây là bộ địa lý lịch sử của Lịch Đạo Nguyên viết thời Bắc Ngụy (515-526) nội dung chính là chủ giải sách Thủy kinh (sách ghi chép về các sông ngòi) do Tang Khâm soạn đới Hán. Thủy kinh chú gồm 40 quyển, trong đó, quyển 37 nhân chú giải về sông Diệp Du (tức sông Hồng của Việt Nam) tác giả có đề cập tới quan hệ chiến tranh giữa Mã Viện và Hai Bà Trưng. Điều đáng chú ý nữa là Thủy kinh chú có dẫn một số đoạn văn liên quan đến nước Việt ta thời cổ trích từ những sách cổ hơn mà nay không còn thấy như Giao Châu ngoại vực ký, Việt chí v.v…

Còn như các bộ sử Trung Quốc soạn ở những đời sau như Tư trị thông giám của Tư Mã Quang (đời Tống), Việt kiệu thư của Lý Văn Phượng (đời Minh), An Nam chí của Cao Hùng Trưng (đời Thanh) v.v… phần viết về thời kỳ Hai Bà Trưng đều là chép từ các bố sử sách nói trên.

Nguồn thư tịch bác học ít ỏi như thế, nếu chỉ dựa vào đó thì nói thêm về cuộc khởi nghĩa Hai Bà cũng chẳng được là bao nhiêu.

Điều may mắn là nhân dân ta xưa – người bình dân Việt Nam – có một cách chép sử riêng. Đó là kho tàng các truyền thuyết lịch sử và sự tích những người anh hùng được lưu truyền từ đời này qua đời khác, tồn tại mãi tới ngày nay. Đành rằng trong các truyền thuyết đó có nhiều yếu tố hoang đường và không ít những sự gán ghép, thêm bớt, hư cấu của người đời sau, không loại trừ có nhân vật hoàn toàn là hư cấu, nhưng dù sao cũng chắc chắn là có phản ánh một sự thật lịch sử. Ông Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã gửi gắm vào đấy tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và mộng”1.

Vậy nên khi tách thơ và mộng - tức phần sáng tạo, hư cấu văn học – thì có thể là còn lại là cái cốt lõi lịch sử.

Thứ nữa, trong nhân dân từ ngàn xưa còn có tục lệ thờ phụng anh hùng. Những người có công với dân với nước, dù trẻ hay già, là nam hay nữ, đều được nhân dân lập đền thờ, tôn làm phúc thần, thành hoàng. Những ngôi đền ấy được dựng hoặc ở ngay quê hương bản quán của nhân vật, hoặc ở nơi là địa bàn hoạt động chính hoặc nơi hy sinh của nhân vật đó. Tại những đền miếu ấy có lưu giữ những thần tích, ngọc phả kể về cuộc đời người anh hùng được phụng thờ. Những văn bản này thực ra cũng là những truyền thuyết dân gian được cố định hóa, văn bản hóa ở một thời điểm nhất định (thời điểm ấy đối với đa số các thần tích thường là thế kỷ XVI). Cho nên khảo sát các đền miếu và thần tích, ngọc phả cũng có thể tìm ra những sự thật lịch sử bổ sung phần nào cho chính sử.

Ngoài ra, ở nhiều làng xóm hiện vẫn còn những địa điểm, địa danh như “đồn quân”, “kho lương”, “cột cờ”, “xóm nhà Bà” v.v… và vết tích những thành xưa lũy cổ. Đó là những chứng tích truyền kỳ nhưng một khi được xác định niên đại chắc chắn thì cũng là một nguồn tư liệu giúp phục hiện lại phần nào quá khứ.

Cuối cùng, trong lòng đất có chứa không ít những di vật của người các đời trước, từ những công cụ sản xuất, công cụ chiến đấu đến những dấu vết nơi ăn, chốn ở và cả những hài cốt… Các tư liệu khảo cổ học này sau khi được phân tích tìm ra niên đại cụ thể thì quan trọng chẳng khác gì tư liệu thư tịch gốc! Nhất là những tư liệu khảo cổ học lại gặp ở cùng một địa điểm có lưu hành truyền thuyết và bảo lưu tục lệ thì các tư liệu văn hóa dân gian và dân tộc học rất có khả năng là đã hàm dưỡng, chất chứa những sự thật lịch sử.

Cho nên, tuy chính sử thì quá ít ỏi nhưng chúng tôi đã dựa vào các nguồn tư liệu trên để phối hợp tiến hành tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo. Thực ra những hoạt động cứu nước của Hai Bà và nhân dân ngày ấy gồm ba giai đoạn: khởi nghĩa – xây dựng chính quyền – kháng chiến, nhưng theo cách nói đã quen thuộc, chúng tôi xin gọi gộp lại là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

Trong dăm chục năm gần đây, nghiên cứu nghiêm túc và khoa học về cuộc khởi nghĩa này thì cũng đã có một số sách và bài báo giá trị như:

- Phần “Cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc” trong Lịch sử cổ đại Việt Nam – giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến của Đào Duy Anh – 1957 (sẽ gọi tắt là Cổ đại Việt Nam - Tập IV).

- Phần “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng” trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập 1 - Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn – 1963.

- Phần “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng” trong Lịch sử Việt Nam, Quyển 1 - Tập 1 – Trương Hữu Quýnh – 1970

- Phần “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng” trong Lịch sử Việt Nam - Tập 1 - Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam – 1971.

- Phần “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng” trong Lịch sử Việt Nam (từ khởi thủy đến thế kỷ X) - Phần viết của Nguyễn Danh Phiệt – 2001.

- Bài “Tính chất cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng” của Duy Hinh, trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 72-1965.

- Bài “Tài liệu khảo cổ học và việc nghiên cứu thời kỳ Hai Bà Trưng” của Lê Văn Lan, trên Nghiên cứu Lịch sử số 149-1973…

- Bài “Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Thủ đô Hà Nội qua các di tích” của Vũ Tuấn Sán, trên Nghiên cứu Lịch sử số 149-1973 v.v…

Nhưng trong phạm vi nghiên cứu chuyên đề về cuộc khởi nghĩa ấy trên vùng đất châu thổ sông Hồng thì chưa có một tác phẩm hoàn chỉnh nào.

Trong khi đó, ngoài các tư liệu lịch sử liên quan đã nêu ở trên, qua các chuyến đi khảo sát thực địa, chúng tôi thấy nổi bật lên một thực tế là ngay ở những nơi mà xưa nay nhiều người đã biết là có gắn bó với sự tích Hai Bà và đã được mô tả thì cũng cón có nhiều điều mới phát hiện rất đáng lưu ý. Và cũng trên địa bàn châu thổ sông Hồng ngày nay có những di tích thuộc về các tướng của Hai Bà. Tại những địa điểm này, ngoài các chứng cứ vật chất (lăng mộ, thành lũy…) còn có những truyền thuyết phản ánh sự tham gia khởi nghĩa và kháng chiến bằng nhiều hình thức, phương thức khác nhau của các anh hùng nam, nữ đó. Có người đã lập đồn đắp thành lũy đánh lại giặc Hán trước cả ngày Hai Bà khởi sự. Có người tay trắng tới đầu quân và nhanh chóng trưởng thành. Có người làm trinh sát. Có người công thành… Họ chặn địch. Họ phá vây. Họ đánh thủy, đánh bộ. Có người bồng con mới sinh mà chiến đấu. Nhiều trường hợp cả gia đình vợ chồng con cái đều tham gia nghĩa quân. Có người đánh giặc ngay tại quê hương. Có người đi chiến đấu tại những miền Cửu Chân, Nhật Nam xa xưa…

Những dấu vết và truyền thuyết phong phú đó có thể giúp hình dung ra được cuộc chiến đấu ngày ấy và cũng với những thư tịch chính sử đã có thể phần nào tạo nên một bức tranh khá hoàn chỉnh về hình ảnh cuộc khởi nghĩa và cuộc kháng chiến trong những năm 40-44 vẻ vang ấy ở địa bàn Hà Nội cùng các tỉnh lân cận.

Tuy nhiên, dù có lượm lặt được một số tư liệu như vậy và đã thừa hưởng kinh nghiệm của những nhà nghiên cứu đi trước, tập sách này tất vẫn còn nhiều thiếu sót. Nhất là do hạn định của mục đích – là chủ yếu tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận – nên trong sách không đề cập hoặc chỉ nói rất sơ lược về sự kiện này ở tất cả các địa phương khác, vì thế mà cách trình bày cũng như cách lý giải một số vấn đề có thể còn chưa toàn diện, thiếu tầm khái quát.

________________________________________
1. “Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 âm lịch” – Báo Nhân dân số 29-4-1969.

Chương Một
HÀ NỘI ĐẦU CÔNG NGUYÊN

TRUNG TÂM QUẬN GIAO CHỈ

Vào nửa sau thế kỷ thứ III trước Công nguyên (tr.c.n.), Thục Phán - thủ lĩnh bộ tộc Âu Việt - kế thừa triều Hùng Vương của bộ tộc Lạc Việt, dựng nên nước Âu Lạc với kinh đô là Cổ Loa. Như vậy là lãnh thổ của người Âu và người Lạc được thống nhất lại thành một quốc gia mà trung tâm là một vùng đất nay thuộc về thành phố Hà Nội. Sự thống nhất đó làm cho đất nước thêm mạnh. Chính vì thế mà trong mấy chục năm cuối thế kỷ thứ III - đầu thế kỷ thứ II tr.c.n., quân của nhà Tần (Thủy Hoàng) rồi quân của nhà Nam Việt (Triệu Đà) nhiều lần xâm lược Âu Lạc đều bị thất bại. Chỉ tới năm 179 tr.c.n., dùng mưu mô quỷ quyệt, Triệu Đà mới thắng được Thục Phán và sáp nhập nước Âu Lạc vào lãnh thổ nước Nam Việt của Đà (lập nên từ năm 207 tr.c.n. do việc tách khỏi đế quốc Tần ba quận là Tượng, Nam Hải và Quế Lâm tức hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay). Cũng từ đó, Âu Lạc bị chia làm hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân.

Nhưng nhà Triệu không tồn tại được lâu. Năm 111 tr.c.n., nhà Tây Hán (206 tr.c.n. - 8 s.c.n.) đưa quân đánh Nam Việt. Sau khi tiêu diệt họ Triệu, Tây Hán chia phần đất cũ của Triệu Đà ra làm bốn quận là Nam Hải, Hợp phố, Thương Ngô, Uất Lâm, giữ nguyên hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, lập thêm quận Nhật Nam ở phía Nam quận Cửu Chân, hợp với hai quận ở đảo Hải Nam là Chu Nhai, Đạm Nhĩ thành ra bộ Giao Chỉ. Việc lấy tên của quận Giao Chỉ làm tên gọi chung cho bộ mới đặt ra này chứng tỏ quận Giao Chỉ khi đó là một quận trọng yếu, nếu không là quận lớn nhất thì cũng là đông dân nhất. Vì trong sách Tiền Hán thư (q.8 Địa lý chí) có số liệu về nhân khẩu các quận thuộc bộ Giao Chỉ vào khoảng thời gian cuối Tây Hán:

Quận Nam Hải có 94.253 nhân khẩu, 19.613 hộ.
Quận Thương Ngô có 71.162 nhân khẩu, 24.397 hộ.
Quận Uất Lâm có 146.160 nhân khẩu, 12.415 hộ.
Quận Hợp Phố có 78.980 nhân khẩu, 15.398 hộ.
Quận Giao Chỉ có 746.237 nhân khẩu, 92.440 hộ.
Quận Cửu Chân có 166.013 nhân khẩu, 35.743 hộ.
Quận Nhật Nam có 89.488 nhân khẩu, 15.460 hộ.

Có thể những số liệu trên không hoàn toàn chính xác nhưng do cùng một nguồn thu thập nên về mặt giá trị sử dụng để so sánh thì có thể chấp nhận được. Những con số đó cho thấy rằng vào đầu Công nguyên, số dân của quận Giao Chỉ đông gấp hai lần số dân của cả bốn quận đầu cộng lại. Điều này nói lên độ tập trung cư dân rất lớn và vị trí đặc biệt quan trọng của quận Giao Chỉ so với toàn thể bộ Giao Chỉ.

Quận Giao Chỉ ngày ấy (thời thuộc Hán) tương ứng với đất Bắc Bộ ngày nay trừ miền tây - bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán và phía tây - nam (miền ven biển Nam Định, Ninh Bình...) bấy giờ còn là biển. Quận này gồm mười huyện: 1. Liên Lâu, 2. An Định, 3. Câu Lậu, 4. Mê Linh, 5. Khúc Dương, 6. Bắc Đái, 7. Kê Từ, 8. Tây Vu, 9. Long Biên, 10. Chu Diên. So với sự phân bố đó thì thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận được đề cập trong tập sách nằm trên đất đai của bốn huyện Mê Linh, Chu Diên, Liên Lâu và Tây Vu.

Các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất (Hà Tây) nằm giữa ba mặt sông (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) thuộc địa hạt huyện Mê Linh.

Các huyện Đan Phượng, Hoài Đức (Hà Tây), hai huyện Từ Liêm, Thanh Trì và bốn quận cũ nội thành Hà Nội là thuộc địa hạt huyện Chu Diên.

Các huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc), Sóc Sơn, Đông Anh và phần đất huyện Gia Lâm (Hà Nội) ở tả ngạn sông Đuống là thuộc địa hạt huyện Tây Vu.

Còn huyện Gia Lâm phần nằm giữa sông Hồng và sông Đuống thì thuộc huyện Liên Lâu1.

Nằm trên đất đai của các huyện đó, Hà Nội vào đầu Công nguyên là trung tâm của quận Giao Chỉ đồng thời của cả bộ Giao Chỉ, không riêng về mặt địa lý mà cả về chính trị và quân sự. Vì suốt thời Tây Hán, trị sở quận Giao Chỉ đặt ở huyện Mê Linh, mà trị sở bộ Giao Chỉ cũng là đặt tại đó. Sang thời Đông Hán, các trị sở này chuyển sang huyện Liên Lâu (nay là khu vực làng Dâu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Nhưng Mê Linh vẫn là nơi đồn trú của viên đô úy quận Giao Chỉ, tức là viên chỉ huy lực lượng vũ trang của quận. Về vị trí huyện Mê Linh hiện có hai chủ trương khác nhau, hoặc đặt ở bên tả ngạn sông Hồng với huyện trị là làng Hạ Lôi nay thuộc xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc (như lâu này vẫn quan niệm) hoặc đặt ở bên hữu ngạn sông Hồng mà huyện trị cũng là làng Hạ Lôi nhưng thuộc xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, Hà Tây (như nhận định của nhà địa lý lịch sử Đinh Văn Nhật).

Cho nên nếu như Hà Nội mất vị trí kinh đô từ năm 179 tr.c.n. với việc thất thủ Cổ Loa thì Hà Nội vẫn thuộc bộ Giao Chỉ và quận Giao Chỉ, nơi đụng đầu trực tiếp giữa người dân Âu Lạc và bọn ngoại xâm đô hộ. Cũng nơi đây là địa bàn quan trọng của cuộc khởi nghĩa lần đầu tiên thành công trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta: cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
____________________________________
1. Việc xác định vị trí các khu vực hành chính thời cổ thực ra rất khó khăn vì tài liệu thư tịch rất ít ỏi, phải vận dụng các cứ liệu cổ địa lý, cổ sử, địa danh học v.v... mới có thể đoán nhận ra. Ở đây, chúng tôi dựa vào sách Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh và các luận văn nghiên cứu về vấn đề này của Đinh Văn Nhật in trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử các số 142, 155, 156, 172, 190.

GIAO CHỈ TRƯỚC CUỘC KHỞI NGHĨA

Thư tịch ghi chép về tình hình xã hội cũng như sinh hoạt nhân dân Giao Chỉ ngày ấy thì thật sự ít ỏi. Tư liệu cổ nhất là đoạn văn của Giao Châu ngoại vực ký được trích dẫn trong Thủy kinh chú. Đoạn này tuy ngắn ngủi nhưng đã phác họa một cách rất cơ bản tình hình sinh hoạt của dân cư Giao Chỉ thời tr.c.n: “Thời xưa, Giao Chỉ chưa có quận huyện thì đất đai có ruộng Lạc, ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống (mà làm). Dân làm ruộng ấy mà ăn nên gọi là dân Lạc”.

Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định rằng ruộng canh tác theo nước triều lên xuống như thế thì chỉ có thể là ruộng cấy lúa. Khảo cổ học đóng góp một dẫn chứng cụ thể: ở di chỉ Đồng Đậu (nay thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phú, xưa là đất huyện Tây Vu) có hạt lúa mà qua phân tích đồng vị phóng xạ C14 thì có niên đại là 3300 ± 100 năm. Như vậy là vào thời các vua Hùng mới dựng nước, người Việt đã trồng lúa ở đồng bằng sông Hồng. Ngoài nghề trồng lúa ra, nghề làm vườn trồng cây ăn quả cũng phát triển. Nam phương thảo mộc trạng có ghi là vào năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (tức năm 111 tr.c.n.), vừa chiếm xong Nam Việt, thành lập quận Giao Chỉ, Hán Vũ Đế đã cho xây cung Phù Lệ để trồng cây quí ở đất Nam Việt mang về, có 100 cây vải và 2 cây chuối tiêu. Tiền Hán thư cho biết là từ đời Hán Vũ Đế ở Giao Chỉ có chức quất quan coi riêng việc cống quít, có chức tu quan để đốc thúc việc dâng tiến hoa quả, thức ăn. Dị vật chí chép: “Mía sản xuất ở Giao Chỉ đặc biệt tốt và ngon, gốc và ngọn đều ngọt... ép lấy nước làm thành đường”. Tiền Hán thư còn cho biết “Người Lạc Việt biết trồng dâu... dệt vải” 1.

Bấy nhiêu thư tịch cho phép đoán định rằng vào đầu Công nguyên, ở Giao Chỉ (trong đó có đất Hà Nội) đã phát triển các nghề trồng lúa, làm vườn, trồng mía, trồng dâu (tức là đã biết nuôi tằm lấy tơ) và trồng bông. Trong mấy chục năm gần đây, nhờ những thành tựu của ngành khảo cổ mà sự đoán định đó thêm chắc chắn hơn. Cùng với những nhát cuốc khai quật lòng đất Hà Nội, ngành khảo cổ đã kể lại một cách đáng tin cậy về cuộc sống của người Hà Nội thời bấy giờ, đặc biệt là đã làm sáng tỏ một sự thật là không đợi đến đầu Công nguyên mà ngay từ thời các vua Hùng dựng nước, Hà Nội đã có những điểm tụ cư lớn, những làng cổ khá đông đúc như:

Cách đây bốn nghìn năm, ở Văn Điển và Triều Khúc (huyện Thanh Trì), Đồng Vông và Xuân Kiều (huyện Đông Anh), Gò Ấp (huyện Kim Anh), Gò Đồng (huyện Ba Vì)... đã có cư dân biết sử dụng rìu đá, đục đá, biết chế tác thật tinh xảo những mũi tên đá khá lợi hại, những viên “chì” lưới để đánh cá, biết làm đồ gốm với những hoa văn tinh tế...

Cách đây trên ba nghìn năm, ở Thành Dền (huyện Mê Linh), Vườn Chuối (huyện Hoài Đức), Đồi Đà (huyện Ba Vì), Tiên Hội và Bãi Mèn (huyện Đông Anh)... kỹ thuật đúc đồng đã bắt đầu có đà phát triển: những mũi tên đồng, lưỡi rìu đồng đã xuất hiện bên cạnh các công cụ bằng đá.

Cách đây trên hai nghìn năm, ở Núi Cả (thị xã Phúc Yên), Vinh Quang và Chiền Vậy (huyện Hoài Đức), Gò Chùa Thông (huyện Thanh Trì), Đình Tràng (huyện Đông Anh)... dân cư đã đúc đồng thành thạo với hàng loạt sản phẩm như rìu, đục, lưỡi cày, lưỡi câu, giáo, loa, mũi tên, dao găm, vòng trang sức... Đặc biệt ở Gò Chùa Thông có tìm thấy một lưỡi hái là lưỡi thứ hai tìm thấy ở nước ta, một bằng chứng chắc chắn về sự phát triển cao của nghề làm ruộng Lạc, ruộng lúa nước (Lưỡi hái thứ nhất là ở Gò Mun, tỉnh Phú Thọ).

Tới khoảng dăm sáu trăm năm tr.c.n. và tiếp đến đầu Công nguyên, làng mạc ở vùng Hà Nội bấy giờ mọc lên nhiều hơn, qui mô cũng rộng hơn. Đó là Trung Mầu (huyện Gia Lâm), Đường Mây và Cổ Loa (huyện Đông Anh), Tam Hiệp (huyện Phúc Thọ), Tây Đằng (huyện Ba Vì)... Dân cư những nơi đó không chỉ đã làm chủ kỹ thuật đúc đồng mà còn biết nấu sắt2. Sắt đã là vật liệu để tạo ra những lưỡi cuốc và nhiều nông cụ khác. Theo đó nền công nghiệp (làm ruộng và làm vườn) tất phải ở một trình độ phát triển khá cao. Điều này hoàn toàn phù hợp với sự ghi chép của các thư tịch dẫn bên trên.

Song những bằng chứng thư tịch và hiện vật khảo cổ đó thực ra cũng chỉ mới cho thấy những công cụ lao động, những vũ khí cùng với những sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp mà nhân dân ngày ấy làm ra. Còn như thời đại đó là ở trong phương thức sản xuất nào, thuộc về hình thái kinh tế - xã hội nào thì còn thiếu nhiều tư liệu để khái quát, chỉ có thể đoán định rằng cuộc đô hộ của bọn bành trướng phương Bắc với nhiều phương thức bóc lột khác nhau đã làm chậm lại không ít bước tiến của xã hội Âu Lạc.

Tuy nhiên, nếu chấp nhận sự suy luận thì những con số thống kê nhân khẩu và số hộ của bộ Giao Chỉ trong sách Tiền Hán thư (đã nêu ở trên) cho phép biết thêm về tình hình xã hội Giao Chỉ vào khoảng thời gian được đề cập tới trong sách đó. Theo những con số này, vào thế kỷ thứ nhất tr.c.n và những năm đầu Công nguyên, ở Giao Chỉ đã thống kê được tới đầu người và đặc biệt là đầu hộ. Như vậy đơn vị cơ sở của xã hội đã là từng hộ gia đình. Gia đình nói ở đây là gia đình nhỏ. Lấy con số nhân khẩu chia cho số hộ thì ở quận Giao Chỉ ngày ấy mỗi hộ (tức gia đình) trung bình chỉ có tám người (746237 : 92400 = 8 ). Rõ ràng đây là một loại hình gia đình nhỏ3. Mà gia đình nhỏ đã trở thành đối tượng thống kê - tức cũng là đã trở thành những đơn vị tồn tại và phổ biến trong xã hội - thì như vậy có nghĩa là chế độ thị tộc dựa trên quan hệ dòng máu (huyết thống) đã tan rã. Đây là một trong những dấu hiệu chứng tỏ rằng đến thời kỳ trước và kế tiếp mốc Công nguyên - trong đó có thời kỳ Hai Bà Trưng - thì đã qua đi rồi cái thời kỳ công xã thị tộc. Lúc này công xã nông thôn hình thành do quan hệ láng giềng (từ bao lâu thì chưa thể xác định) đã trở nên phổ biến trong xã hội. (Công xã nông thôn gồm những gia đình nhỏ, có thể cùng hoặc khác huyết thống tập hợp lại trên một địa vực và do yêu cầu của sản xuất - ở nước ta là trồng lúa nước - cũng như yêu cầu tự vệ đã gắn bó với nhau thành láng giềng). Và trong gia đình thì chế độ phụ quyền đã chiếm ưu thế.

Thực tế có như vậy, bởi một khi đã xuất hiện gia đình nhỏ tức là sức sản xuất đã lên cao, xã hội đã bước vào thời kỳ trồng trọt phát triển. Vì từ thị tộc mà tách ra được thành những gia đình nhỏ thì nguồn sống xã hội nói chung là ổn định, gia đình nhỏ đã có đủ khả năng tự túc về những nhu cầu ăn mặc. Muốn được như thế, công cụ sản xuất phải có hiệu quả lớn, không thể chỉ là bằng đá mà phải là bằng kim khí sắc bén, có vậy mới đủ khả năng đẩy mạnh nghề trồng trọt, bảo đảm nguồn sống cho các thành viên của từng gia đình.

Sự đoán định này được khảo cổ học hậu thuẫn: qua xác định niên đại các di vật, ngành khảo cổ học đã nhất trí nhận định rằng thời kỳ phát triển rực rỡ của đồng thau và bước đầu chuyển sang đồ sắt - tức thời kỳ cuối của giai đoạn văn hóa Đông Sơn - chính là khoảng thời gian vài ba trăm năm trước và đầu mốc Công nguyên mà thời kỳ Hai Bà Trưng là những năm tháng kết thúc4.
_____________________________________
1. Các tư liệu về hoa quả, cây trồng trích ở các sách Trung Quốc cổ là dẫn theo Trần Quốc Vượng trong bài “Mấy nét sơ lược về tình hình sản xuất nông nghiệp Việt Nam thời Bắc thuộc”, Thông báo Sử học - Nhà xuất bản Giáo dục - Tập 1, năm 1963.
2. Tại di chỉ Cổ Loa, bên cạnh những mũi tên đồng, có một số đồ sắt. Vậy kỹ thuật luyện sắt đã xuất hiện trước thời kỳ nước Âu Lạc, tức trước thế kỷ thứ 111 tr.c.n.. Tại di chỉ Gò Chiên Vậy (xã Kim Hoàng, huyện Hoài Đức) có lưỡi cuốc sắt. Di chỉ này có niên đại C.14 là 2350 ± 100 tức là khoảng thế kỷ thứ IV tr.c.n.
3. Bản dịch sách Sơ yếu lịch sử và văn hóa nguyên thủy của M.O.Côsven (NXB Văn Sử Địa - 1958) gọi là gia tộc cá thể.
4. Thuật ngữ “thời kỳ Hai Bà Trưng” dùng trong sách này không chỉ là thời gian ba năm Trưng Vương ở ngôi mà muốn chỉ cả nửa đầu thế kỷ thứ I sau Công nguyên.

DƯỚI ÁCH CAI TRỊ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ

Như đã nêu ở trên, Triệu Đà chia nước Âu Lạc làm hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhưng sau đấy tổ chức cai trị ra sao và tình hình xã hội hai quận đó như thế nào thì tài liệu rất nghèo nàn. Chỉ có thể biết một cách đại thể là Triệu Đà không xóa bỏ thiết chế sẵn có của nhà nước Âu Lạc, tức là vẫn duy trì chế độ lạc tướng, vẫn để các lạc tướng giữ quyền thế tập mà cai quản các bộ lạc của mình. Ở mỗi quận, Triệu Đà chỉ đặt một chức điển sứ coi việc chung, chủ yếu là kiểm soát và đôn đốc các lạc tướng đóng nộp cống phẩm. Bên cạnh điển sứ còn có chức tả tướng phụ trách lực lượng vũ trang đồn trú. Như vậy, một điều rất có ý nghĩa là chính việc Triệu Đà không dám cai trị trực tiếp Âu Lạc - như đối với Lưỡng Quảng - đã nói lên rằng nước Âu Lạc từng có một cơ cấu nhà nước với những chế thiết riêng biệt ổn định, hình thành trên cơ sở ý thức dân tộc khá vững chắc.

Phương thức bóc lột chủ yếu ở thời kỳ này là cống nạp các vật lạ của quí của Âu Lạc: đồi mồi, châu ngọc, sừng tê, ngà voi và các đặc sản nhiệt đới như hoa quả, hương liệu... Không có tài liệu gì nói vế đời sống nhân dân ngày ấy nhưng điều có thể khẳng định được là nhân dân Âu Lạc lần đầu tiên gánh chịu thêm ách bóc lột của ngoại bang thì cuộc sống hẳn phải cơ cực và tủi nhục. Ngoài việc phục vụ các quí tộc bản địa, họ còn phải săn bắt tìm kiếm những của báu, vật lạ để cống nạp bên cạnh việc thường xuyên phải đóng góp những sản phẩm chăn nuôi, trồng trọt và thủ công. Trong hoàn cảnh như vậy thì dù là đang ở trong một hình thái kinh tế - xã hội nào, nhân dân Âu Lạc cũng khó có thể phát triển sản xuất.

Nhà Tây Hán, sau khi diệt nhà Triệu, đã áp dụng chế độ quận huyện như ở Trung Quốc, tức là chia mỗi quận ra làm một số huyện, đứng đầu mỗi huyện là chức huyện lệnh (đối với huyện có trên một vạn hộ, còn huyện có số hộ dưới một vạn thì đặt chức huyện trưởng) do triều đình bổ dụng. Nhưng ở Giao Chỉ (và cả ở Cửu Chân, Nhật Nam) nhà Hán coi mỗi bộ lạc hoặc một liên minh bộ lạc là một huyện và vẫn để các lạc tướng cai trị với quyền thế tập như cũ, chỉ đổi danh hiệu ra là huyện lệnh (hoặc huyện trưởng) mà thôi. (Hậu Hán thư có ghi là “để lạc tướng cai trị dân như cũ” và “dùng tục cũ mà cai trị”). Như vậy là trên đại thể, Tây Hán vẫn duy trì phương thức cai trị của nhà Triệu, dù nguồn bóc lột không phong phú bằng phương thức trực tiếp cai trị nhưng lại ít động chạm đến quyền lợi của quí tộc bản địa, tức là ít gây mâu thuẫn giữa chính quyền đô hộ với giai cấp thống trị địa phương.

Ngoài ra, điều đó một lần nữa nói lên rằng tính bền vững của cộng đồng dân Âu Lạc đã khiến nhà Tây Hán không thể nhất loạt áp dụng chế độ quận huyện như ở Trung Quốc.

Cai quản mỗi quận là chức thái thú, có thêm chức đô úy chỉ huy số quân sĩ đồn trú để trấn áp nhân dân khi cần.

Đứng đầu bộ Giao Chỉ (đến năm 203 đổi gọi là Giao Châu) là viên thứ sử (có lúc gọi là châu mục). Nhưng thứ sử không cai trị trực tiếp mà chỉ giám sát các quan lại ở các quận. Hàng năm vào tháng tám, thứ sử đi tuần tra xem xét công việc cai trị của các thái thú. Sang đầu năm sau, y về kinh đô tâu trình. Như vậy thái thú là người thay mặt trực tiếp chính quyền đô hộ và có toàn quyền cai trị dân bản xứ. Hàng năm thái thú thu cống phẩm đưa tiến về triều.

Ban đầu có lẽ nhà Tây Hán chưa thu thuế, vì Sử ký (q 30) của Tư Mã Thiên có ghi “lương ăn vật dụng của quan lại sĩ tốt đều chở từ các quận cũ tới”. Như vậy là ở địa phương Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam không có thuế lúa hoặc có nhưng chẳng bao nhiêu. Phương thức bóc lột cơ bản vẫn là cống nạp. Cống phẩm vẫn là các của quí, vật lạ. Và nguồn tai họa cho nhân dân cũng vẫn là do đó mà ra. Vì để có những cống phẩm ấy, nhân dân Âu Lạc lại vẫn phải chịu bao cay đắng và tội vạ, phải xông pha lam chướng, xuống biển, lên rừng. Nhưng dần về sau, sự áp bức bóc lột còn tăng lên mạnh hơn. Nạn gánh chịu phu phen tạp dịch, xây cất thành lũy, công thự, tư dinh... ngày một nặng nề. Rất nhiều người biến thành nô tì phục vụ bọn quan lại đô hộ, thậm chí biến thành món hàng đổi trao mua bán. Tiền Hán thư (phần biểu q.2) có chép: “Vào năm Ngũ Phượng thứ 4 (tức 54 tr.c.n.), hầu tước Ích Xương can tội khi làm thái thú Cửu Chân trộm sai người mua nô tì và sừng tê, tang vật trị giá trên trăm vạn”. Hẳn đây không phải là một trường hợp duy nhất.

Ngoài ra để việc kiểm soát nhân dân Âu Lạc thêm chặt chẽ. Tây Hán dùng chính sách “trồng người”. Hậu Hán thư (q.86) ghi: “Dời những tội nhân Trung Quốc cho ở lẫn với họ. Như thế là vừa để chế ngự, vừa đồng hóa người bản địa. Cho nên nhân dân Âu Lạc đã phản ứng lại”. Sử ký (q.30) và Tiền Hán thư (q.24) còn ghi: “Đối với những quận mới chinh phạt (tức Giao Chỉ và Cửu Chân) quan lại quân sĩ Trung Quốc phần nhiều xâm phạm, vì vậy dân thường nổi lên giết quan lại nhà Hán”.

Trong khoảng một trăm năm trước Công nguyên, đại thể sự cai trị của nhà Tây Hán là như vậy. Tới những năm đầu Công nguyên, nhà Tây Hán lâm vào cơn khủng hoảng. Nông dân Trung Quốc nổi lên khắp nơi. Lợi dụng tình hình đó, vào năm 8, Vương Mãng cướp ngôi vua, lập ra nhà Tân. Rất nhiều quí tộc, quan lại, sĩ phu mà quyền lợi gắn bó với nhà Hán đã chống lại Vương Mãng. Một số chạy sang Giao Chỉ. Bọn này bổ sung thêm “quân số” cho bộ máy đô hộ, góp phần quan trọng vào công cuộc đồng hóa mà chính quyền Tây Hán đã thực hiện, đồng thời đẩy mạnh quá trình chiếm đoạt ruộng đất của các cộng đồng người Âu Lạc, lập ra những trang trại riêng nằm ngoài vòng kiểm soát của các lạc tướng huyện lệnh.

Năm 23, Lưu Tú diệt Vương Mãng rồi sau đó lên ngôi vua tức Quang Vũ Đế (25-56), tái lập nhà Hán. Sau này sử sẽ gọi đó là nhà Đông Hán hoặc Hậu Hán (25-220).

Hán Quang Vũ ra sức tăng cường quyền lực ở các địa phương xa. Trước đó hàng năm thứ sử tự mình về kinh đô báo cáo tình hình cai trị ở các quận thì từ bấy giờ phải ở luôn tại trị sở, dù có tang cha mẹ cũng không được bỏ chức, hàng năm chỉ cử một viên kế lại về thay. Cũng từ đấy thứ sử được giao thêm chức năng cai trị chứ không chỉ thanh tra như trước. Và một số chức vụ gọi là tòng sự sử được đặt ra để trông coi công việc cai trị giúp thứ sử như công tào tòng sự sử coi việc dân chính, binh tào tòng sự sử coi việc binh v.v...

Coi giữ các quận vẫn là thái thú nhưng có đặt thêm chức quận thừa để giúp việc. (Các quận ở xa có thêm chức trưởng sử). Về mặt quân sự, trước đó ở mỗi quận có viên đô úy trông coi lực lượng vũ trang đồn trú, chức phó là đô úy thừa. Năm Kiến Vũ thứ 6 (năm 30) có lệnh bãi hai chức này mà giao cho thái thú kiêm giữ. Như vậy là quyền lực của thái thú được nâng cao hơn trước. Do đó bộ máy giúp việc thái thú cũng được bổ sung: dưới thái thú và quận thừa có đặt các chức duyện sử chuyên trách từng phần việc dân, chính, quân sự... như nơi nào có muối thì thêm chức diêm quan, nơi nào có nghề rèn sắt thì thêm chức thiết quan v.v...

Còn ở cấp huyện thì vẫn là huyện lệnh, huyện trưởng - vốn là lạc tướng - cai quản nhưng hẳn là bị thắt buộc hơn trước và quyền lực (cả quyền lợi nữa) cũng có bị thu hẹp, giảm sút.

Nói chung ở Giao Chỉ và các quận khác, tới thời Đông Hán ách trực trị ngày một rõ hơn. Bộ máy cai trị được bổ sung và tổ chức lại chặt chẽ hơn. Để đủ cung cấp lương thực và phát lương cho các quan lại, binh lính, chính quyền đô hộ phải tăng cường bóc lột. Việc đánh thuế đã là hiển nhiên và tất phải đều đặn, ráo riết1. Cuộc sống nhân dân bị gò bó, khốn đốn hơn, lao dịch nặng nề hơn, việc sách nhiễu tăng lên, ruộng đất của các bộ lạc, các cộng đồng bị bao chiếm nhiều nên số người dân Âu Lạc trở thành nông nô, nô tì cho bọn quan lại quí tộc Trung Quốc cũng đông lên. Đời sống của họ càng cơ cực vì ách bóc lột trực tiếp của bọn địa chủ ngoại tộc mới này rất nặng nề và tàn bạo.

Trong khoảng thời gian ấy, ở Giao Chỉ, Tích Quang sang làm thái thú (từ những năm đầu Công nguyên). Còn ở Cửu Chân thì Nhâm Diên giữ chức thái thú từ năm 25. Các pho sử Trung Quốc đều ca ngợi hai viên này. Như Hậu Hán thư (q.86) chép: “Đời Quang Vũ, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân, dạy cho dân biết cày cấy, chế tạo mũ giày, bắt đầu đặt mối lái, dân mới biết hôn nhân. Dựng học hiệu, dạy dân lễ nghĩa”. Hoặc: “Đời Bình Đế (1-5 s.c.n.), Tích Quang sang làm thái thú Giao Chỉ, dạy dân Di (chỉ dân Âu Lạc lúc bấy giờ - N.V.P) dần hóa theo lễ” (q.760). Và: “Diên khiến đúc chế điền khí, dạy dân khai khẩn ruộng đất” (q.76).

Đó chỉ là những dòng phóng đại vừa để đề cao bọn quan lại đô hộ và tô điểm cho chính sách cai trị của nhà Hán, lại vừa để xuyên tạc hạ thấp trình độ văn minh của nhân dân ta ngày ấy. Vì không phải đợi đến hai viên thái thú dạy bảo thì người Âu Lạc mới biết cày cấy. Giao Châu ngoại vực ký chẳng đã từng ghi “Giao Chỉ khi chưa có quận huyện (tức trước khi thuộc Hán) đã có ruộng Lạc” đó sao! Còn việc đúc điền khí thì khảo cổ học đã cho biết rằng trước Công nguyên hàng bốn, năm thế kỷ người dân nước Văn Lang đã có những nông cụ bằng đồng và cả bằng sắt nữa, như lưỡi cày, lưỡi cuốc, lưỡi hái... Có điều là cách canh tác cấy trồng của người Việt khác với canh tác của người Hán. Bọn Tích Quang, Nhâm Diên muốn xóa bỏ tập quán này của người Âu Việt, Lạc Việt thay thế bằng kiểu cách Hán hòng thủ tiêu đặc tính dân tộc của người Việt.

Còn việc gọi là “chế tạo mũ, giày, bắt đầu mối lái, biết hôn nhân, dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa” thì thực chất là sự truyền bá Nho giáo vào xã hội Âu Lạc, làm cơ sở cho ý thức hệ phong kiến. Đó chính là thực hiện chủ trương đồng hóa, cưỡng bức dân ta theo phong tức lễ nghi phong kiến Hán tộc, từ việc ăn mặc đến việc cưới xin. Ngoài mục đích đó, việc mở trường học còn nhằm đào tạo thuộc viên và nô dịch hóa lớp thanh niên đương thời. Riêng việc “đặt mối lái, dân mới biết hôn nhân” thực ra thì là áp đặt những lễ nghi phong kiến phiền toái. Vì như đã nêu ở trên (mục II) vào thời kỳ này thì chế độ phụ hệ đã được xác lập. Gia đình một vợ một chồng đã thay thế chế độ quần hôn, theo đó việc cưới xin tất đã có rồi, có điều là theo phong tục người Việt và dĩ nhiên là xa lạ với người Hán2.

Tóm lại, những chính sách của Tích Quang, Nhâm Diên chỉ là “nhằm củng cố và mở rộng thế lực thống trị của phong kiến, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phong kiến thực dân, phát triển những hình thái ý thức phong kiến”3 đặng tăng cường bóc lột và đẩy mạnh đồng hóa, cưỡng bức nhân dân Âu Lạc theo văn hóa phong kiến Trung Quốc.

Sự tình này làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Âu Lạc và chính quyền đô hộ thêm gay gắt. Nhất là ở Giao Chỉ, do trình độ sinh hoạt, trình độ sản xuất cao hơn Cửu Chân, Nhật Nam (Cửu Chân phải mua lúa của Giao Chỉ) nên chính sách bóc lột và đồng hóa của chính quyền đô hộ bị phản ứng mạnh hơn. Tới năm Kiến Vũ thứ 10 (năm 34), sau khi Tô Định sang làm thái thú Giao Chỉ thì cộng với sự tham lam tàn bạo của hắn, ách thống trị của nhà Đông Hán đối với dân Giao Chỉ là không thể chịu đựng được nữa.

Điều đáng chú ý là lúc này nhà Hán đang ở thế hưng thịnh. Hán Quang Vũ kiêu hãnh với hàng loạt chiến công trong và ngoài nước: dẹp Vương Mãng, chiếm Tây Vực, Triều Tiên, thông thương với Ấn Độ, tiếp xúc với La Mã... Tên vua “hiếu đại hí công” này không muốn để Âu Lạc tồn tại một cách lỏng lẻo - như một thế kỷ qua - trong đế quốc Đại Hán mà muốn đồng hóa nhanh chóng triệt để bằng mọi cách, kể cả vũ lực. Tô Định chính là kẻ thực hiện chính sách đó. Bên cạnh việc ra sức bóc lột dân chúng, hắn ta tiến hành diệt trừ những người có uy tín và khả năng tập hợp dân chúng chống quân Hán, tức là các lạc tướng - huyện lệnh. Việc giết hại Thi Sách là một dẫn chứng. Cho nên lúc này là thời điểm đụng đầu lịch sử quyết liệt. Người Âu Lạc có cam chịu để người Hán đồng hóa không? Phải trả lời dứt khoát! Và người Âu Lạc đã trả lời bằng hàng động: mọi người, bắt đầu từ quận Giao Chỉ, đã nổi dậy chống lại cường quyền, cuốn theo các quận láng giềng lên đường tranh đấu để rồi qui tụ lại thành Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lở đất long trời làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống cai trị mà nhà Hán đã thiết lập ở bộ Giao Chỉ trên một thế kỷ qua.
_____________________________________
1. Sẽ trở lại vấn đề này ở Chương ba.
2. Theo Lĩnh Nam chích quái thì đời Hùng Vương đã có hôn nhân và “việc hôn nhân lấy gói muối (hoặc gói đất) làm đầu”. Đó là một tục lệ trong nghi thức của hôn nhân thời ấy. (Xem thêm bài “Việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu” của tác giả Nhâm Tuyết trong Hùng Vương dựng nước - Tập III - 1973).
3. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập 1 - Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn - tr.39.

Chương Hai
HAI BÀ TRƯNG
DÒNG DÕI

Các sử sách (của ta và của Trung Quốc) đều chép Hai Bà Trưng là con gái lạc tướng Mê Linh. Toàn thư có ghi chú thêm Hai Bà là dòng dõi Hùng Vương. Nhưng tên họ của vị lạc tướng đó thì không có sách nào đưa ra cả. Chỉ trong các thần tích của những làng có lệ thờ Hai Bà và thân thích thì có ghi, nhưng sự ghi chép đó không thống nhất: ngọc phả làng Hát Môn (nay thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây) ghi là Hùng lạc tướng; ngọc phả làng Nại Tử Xã (nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) ghi là Trưng Nghĩa Dũng; ngọc phả làng Hạ Lôi (nay thuộc huyện Mê Linh) ghi là Hùng lạc tướng quân; ngọc phả làng Nam An (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) lại chép: “Nguyên là Hùng Định sau đổi là Trưng Định”.

Chỉ là họ tên được ghi trong các thần tích mà lại không thống nhất và nhất là không có một dấu tích vật chất làm hậu thuẫn nên những tính danh trên chỉ có thể coi là những thông tin huyền thoại. Có lẽ cũng do quan niệm vấn đề như thế mà các sử thần nhà Nguyễn ở nửa cuối thế kỷ XIX, khi soạn bộ Cương mục, dù họ tất là đã đọc các thần tích ngọc phả đó nhưng vẫn thận trọng không đưa vào pho sử ấy.

Cho nên trong điều kiện tư liệu hiện nay, chỉ có thể phát biểu rằng cha của Hai Bà Trưng thuộc dòng dõi các vua Hùng, đời đời thế tập cai quản bộ lạc Mê Linh (từ thời thuộc Hán gọi là huyện Mê Linh) vốn thuộc đất bản bộ của tổ tiên. (Vì Việt sử lược có chép rằng Hùng Vương là người bộ Gia Ninh, vậy mà Gia Ninh thì chính là tên gọi của một huyện sau này tách từ huyện Mê Linh ra).

Về bà mẹ của Hai Bà thì chỉ có thần tích, ngọc phả ghi chép họ tên nhưng cũng thiếu sự nhất trí. Ngọc phả làng Hạ Lôi ở huyện Mê Linh, ghi tên bà là Trần Thị Đoan nhưng không nói là bà quê quán ở đâu. Ngọc phả làng Nại Tử Xã cũng ở huyện Mê Linh lại chép tên họ bà là Hoàng Thị Đào và cũng không có dòng nào nói về quê quán của bà. Trong khi đó, ngọc phả làng Nam An nay thuộc huyện Ba Vì lại khẳng định tên bà là Man Thiện và nhận làng này là quê hương bản quán của bà.

Với tình trạng thiếu thốn tư liệu như hiện nay thì không thể kết luận bản nào chép đúng, bản nào chép sai. Tuy vậy có điều khá rõ là ở Hạ Lôi và Nại Tử Xã (huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) thì không có đền thờ bà và cũng không có một dấu tích hoặc một truyền thuyết nào kể về bà. Ngược lại ở Nam An (huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) thì có cả một hệ thống truyền thuyết và còn lưu giữ nhiều dấu tích:

Nhân dân Nam An còn kể lại nhiều chuyện về bà Man Thiện, đại lược là bà vốn con nhà tướng, sớm góa bụa nhưng nuôi dạy hai cô con gái rất chu đáo. Sau này khi hai con dấy binh, bà đã đi vận động các lạc tướng lân cận hưởng ứng. Tới khi Mã Viện xâm lược, bà tổ chức kháng chiến ở cửa sông Hát và đã hy sinh trong một trận chiến trên sông. Thi hài bà được các gia tướng vớt lên an táng ở quê nhà, chỗ nay gọi là gò Mả Dạ, cách đường quốc lộ 11A (nay gọi là đường 32) một đoạn ngắn về phía đê sông Hồng. Sau đó dân làng còn lập một ngôi miếu ở cạnh gò để thờ bà, gọi tên là Miếu Mèn. Theo dân làng giải thích thì Mèn là một chữ cổ có nghĩa là mẹ và Dạ cũng là một chữ cổ chỉ người đàn bà đáng kính1. Lời giải thích đó rất có cơ sở. Vì theo những công bố mới nhất về nhân chủng học và ngôn ngữ học lịch sử thì vào đầu Công nguyên tức thời kỳ Hai Bà Trưng, người Lạc Việt chưa chia ra hai nhánh Kinh và Mường như ngày nay. Người Lạc Việt ngày ấy nói một thứ tiếng gọi là ngôn ngữ Việt - Mường. Cho nên tiếng Kinh và tiếng Mường rất giống nhau trên đại thể ngữ pháp và từ vựng cơ bản. Trở lại vấn đề Mả Dạ và Miếu Mèn thì ở tiếng Mường chữ Dạ đúng là chỉ người đàn bà đáng trọng nể và tuy không có chữ Mèn với nghĩa là mẹ nhưng có chữ Máng với nghĩa ấy. Biết đâu chữ Man trong Man Thiện và chữ Mèn trong Miếu Mèn lại chẳng là chữ Máng đọc chệch đi.

Dầu sao, Nam An là nơi duy nhất có mộ và miếu thờ bà mẹ của Hai Bà Trưng, lại có cả sự tích được lưu truyền từ bao đời. Nơi đây nhận là quê của bà mẹ đáng kính ấy không phải là vô căn cứ. Vậy Nam An có nhiều khả năng là quê hương của bà và theo đó tên bà phải là Man Thiện.
______________________________________
1. Hà Kỉnh – Bà Man Thiện - Danh nhân quê hương - Tập II - Ty Văn hóa Hà Tây - 1974.

NĂM SINH

Trưng Trắc và Trưng Nhị là chị em ruột. Chính sử không ghi năm sinh cũng như tuổi tác của cả hai bà. Ngọc phả làng Hạ Lôi (huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) cũng như ngọc phả làng Hát Môn (huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây) chép hai bà là chị em sinh đôi, ngày sinh là mùng 1 tháng tám năm Giáp Tuất tức năm 14. Niên đại này có thể chấp nhận được, vì khi khởi nghĩa (năm 40) Hai Bà Trưng đều 26 tuổi.

Thiên nam ngữ lục1 kể rằng bà Trưng Trắc khi tuổi vừa “đôi tám” thì làm bạn với Thi Sách. Vài năm sau, bà cùng chồng mưu việc lớn. Như vậy, khi khởi nghĩa bà cũng là đang ở trong lứa tuổi thanh niên.

Riêng ngọc phả làng Nam An thì lại ghi bà chị hơn bà em năm tuổi. Như vậy bà Trưng Nhị sinh vào năm 19(?).

Thần tích phả làng Nại Tử Xã (nay thuộc xã Chu Phan, huyện Mê Linh) thì lại không hề nhắc gì tới Trưng Nhị và ghi ngày sinh của bà Trưng Trắc là ngày 10 tháng tư2.

Như vậy là giữa các thần tích không có sự nhất trí về ngày tháng năm sinh của Hai Bà Trưng và những con số ngày tháng đó rõ ràng là không có gì đảm bảo tính chính xác cả. Nhưng trong thực tế, ở bốn làng trên, chỉ có Hạ Lôi và Hát Môn mới có đền thờ Hai Bà Trưng và việc cúng lễ đều lấy ngày mùng 1 tháng tám làm ngày đản (tức ngày sinh), cho nên ngày tháng này được nhiều người biết và có xu hướng công nhận như một ước lệ.
HỌ TÊN

Về họ tên của Hai Bà cũng có vấn đề phải trao đổi. Việt điện u linh chép Hai Bà “nguyên họ Lạc”3.

Lĩnh Nam chích quái chép “vốn dòng họ Hùng”4.

Toàn thư chép “nguyên họ Lạc”, sau khi lấy được 65 thành Lĩnh Nam “tự lập làm vua mới xưng là họ Trưng”5.

Cương mục chép “vốn họ Lạc, lại có họ riêng (biệt tính) là Trưng”6.

Về hai tộc danh “Lạc” và “Hùng”, nếu như ở đây không phải là sự lẫn lộn mặt chữ tương tự sự lẫn lộn giữa Hùng Vương và Lạc Vương mà một thời các nhà sử học đã tranh luận thì có thể đoán định nguồn gốc như sau:

1. Sở dĩ có tộc danh Lạc là do Hai Bà là con của Lạc tướng. Đó là lấy chức danh làm tộc danh.

2. Còn tộc danh Hùng thì có thể do chỗ Hai Bà Trưng là dòng dõi Hùng Vương.

Tất nhiên dù là chữ nào thì cũng đều là phiên âm những từ Việt cổ mà ngữ nguyên và ngữ nghĩa đã bị thời gian hai ngàn năm xóa mờ đi trong vốn hiểu biết của người ngày nay. Ví dụ chữ Hùng có thể là phiên âm một từ Việt cổ tương ứng tới từ cun trong tiếng Mường hoặc từ khun trong tiếng Thái, cả hai từ đều có nghĩa là người đứng đầu một lãnh địa.

Về tộc danh “Trưng” cũng có vấn đề cần xem xét. Ngay từ năm 1937, Cl. Mađrôn trong luận văn “Xứ Bắc kỳ cổ “ (Le Tonkin ancien) in ở B E F E O, tập XXXVII có ý cho rằng chữ Trưng không phải là chỉ họ. Ông vốn chủ trương vào đầu Công nguyên, người Việt chưa có họ.

Thực ra trong câu văn của Toàn thư (dẫn ở trên) có một chi tiết đáng quan tâm: sau khi làm vua, bà Trưng Trắc “mới xưng là họ Trưng”. Như vậy rất có thể Trưng là một từ Việt cổ tương đương với “ngôi vua” hoặc “thủ lĩnh” gì đó.

Ông Phạm Huy Thông cho rằng chữ Trưng có thể liên quan với chữ kurung là một tiếng Môn-Khơme, chỉ vua nước Phù Nam, một nước thời cổ mà khu vực trung tâm là nước Căm-pu-chia ngày nay7.

Chúng tôi thì thấy trong tiếng Khơme hiện nay vẫn còn có chữ tô ruông với nghĩa là vua. Không biết giữa chữ đó với chữ Trưng có mối liên hệ gì không? (Một thực tế là trong tiếng Việt của người Kinh có nhiều từ gốc ở tiếng Môn-Khơme).

Còn về tên của Hai Bà thì mọi sử sách của ta và của Trung Quốc cổ cũng như các thần tích ngọc phả đều chép là Trắc và Nhị. Trong chữ Hán Việt, Trắc có nhiều nghĩa: bên cạnh, nghiêng, thấp, riêng. Nhị cũng có nhiều nghĩa: thứ hai, chức phó, nghi ngờ, sai lầm. Có thể do hiểu chữ Trắc theo nghĩa bên cạnh nên ngọc phả làng Nại Tử Xã (đã nói tới ở trên) có kể rằng: “Bà mẹ nằm mơ thấy một ông lão dẫn một cô gái đứng bên cạnh giường (lập ư sàng trướng chi trắc) nên sau khi sinh bà đặt tên cho con là Trắc”. Đó chỉ là một cách giải thích theo từ nguyên học thông tục vốn rất quen thuộc đối với các nhà Nho xưa (ví dụ Giao Chỉ là ngón chân giao nhau, Văn Lang là chàng vẽ mình, xăm mình...)

Riêng thần tích làng Lâu Thượng (nay thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) lại kể khác. Năm 1942, trên tạp chí Tri Tân số 42, ông Hoa Bằng có giới thiệu thần tích này, chủ yếu là khẳng định tên của Hai Bà là Chắc và Nhì. Theo văn bản đó thì mẹ của Hai Bà có nghề chăn tằm, nghề này gọi cái kén dày là kén chắc, kén mỏng là kén nhì. Khi sinh Hai Bà Trưng, mẹ lấy luôn hai tiếng đó mà đặt làm tên con.

Ông Trần Quốc Vượng cũng có đề ra một thuyết mới: “Tên Trưng Trắc thời cổ phải phát âm là Mling Mlak (hay Bling Blak)... với tên đất, tên bộ lạc (...) được lấy làm tên họ”. Hùng Vương dựng nước - tập 1 - Bài “Từ truyền thuyết ngôn ngữ đến lịch sử” - NXB Khoa học xã hội - 1970. Nhưng Cl. Madrôn khi bàn về chữ Mê Linh có cho rằng đó là phiên âm một từ bản địa không có từ tương đồng trong tiếng Hán, từ đó có thể là Mlinh hay Mring (B E F E O - Tập XXXVII). Vậy Mling là Mê Linh hay là Trưng cũng còn phải thảo luận.

Dù sao thì cách gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị đã quá quen thuộc trong dân gian cũng như trên các sử sách xưa và nay. Cách gọi đó đã trở thành chính thống.
______________________________________
1. Đây là một cuốn diễn ca lịch sử, khuyết danh, ra đời khoảng thế kỷ XVIII, nội dung phần lớn là dựa vào truyền thuyết dân gian. Đã có bản phiên âm ra chữ quốc ngữ của Nguyễn Lương Ngọc - Đinh Gia Khánh. NXB Văn hóa.
2. Trong sách này, những tháng viết cả chữ - chứ không bằng số - đều là tháng âm lịch.
3. Bản dịch của Trịnh Đình Rư - tr.22 - NXB Văn hóa.
4. Bản dịch của Đinh Gia Khánh - Nguyễn Ngọc San - tr.62 - NXB Văn hóa.
5. Bản dịch đã dẫn - tr.91.
6. Bản dịch của Viện Sử học - tr.82 - NXB Văn sử địa.
7. “Văn hiến 4000 năm” - Báo Đại đoàn kết số 4-4-1977.

GIA ĐÌNH

THI SÁCH

Các sử của Trung Quốc như Hậu Hán thư, Việt kiệu thư, An Nam chí... đều chép chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách. Như vậy, theo cách hiểu thông thường ông này họ Thi tên Sách. Duy có Thủy kinh chú chép như sau: “Hậu, Chu Diên lạc tướng tử danh Thi Sách Mê Linh lạc tướng nữ danh Trưng Trắc”. Nghĩa là: “Sau, con lạc tướng Chu Diên tên là Thi Sách con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc”. Do trong câu đó thiếu một động từ chỉ việc lấy (con lạc tướng Mê Linh) - ví dụ như động từ thú chẳng hạn - nên có người cho rằng chữ Sách ở trong câu là động từ với nghĩa là cầu lấy: theo đó chồng bà Trắc tên là Thi chứ không phải Thi Sách. Hiểu như vậy chưa ổn. Đành rằng chữ sách có nhiều nghĩa: cái dây, tìm mời, xin, đòi, cầu lấy... nhưng chúng tôi cho rằng đây chỉ là Thủy kinh chú chép sót một chữ, vì chẳng nhẽ mọi sử sách (Hậu Hán kỷ, Hậu Hán thư là những sách có trước Thủy kinh chúViệt sử lược, Toàn thư... là những sách của ta) đều chép sai cả sao? Còn như các thần tích, ngọc phả thì lại có nhiều chỉ dẫn hơn, như ngọc phả làng Nại Tử Xã là nơi thờ Thi Sách làm thành hoàng, có kể rằng: “Thi Sách họ Dương, là con trai huyện lệnh Chư Diên Dương Thái Bình. Mẹ là bà Hồ Thị Nhữ”. Hoặc theo lời truyền miệng ở làng Hạ Lôi (huyện Yên Lăng cũ nay là huyện Mê Linh) thì Thi Sách lại là họ Đặng1. Thực ra Dương hay Đặng cũng đều là thêm thắt. Có lẽ do thấy tộc danh Thi quá hiếm nên người ghi thần tích và người kể chuyện đã thêm vào như vậy.

Về vai trò của Thi Sách trong cuộc khởi nghĩa cũng như về cái chết của ông thì sử sách ghi chép cũng khá phân tán. Hầu hết sử Trung Quốc trước sau đều không nhắc tới Thi Sách trong cuộc khởi nghĩa. Như Hậu Hán thư chỉ cho biết Trưng Trắc là vợ Thi Sách rồi tiếp đó khi viết về cuộc khởi nghĩa, toàn nói đến Trưng Trắc mà không hề nhắc tới Thi Sách. Có thể hiểu là Thi Sách đã chết (hoặc bị giết) trước hoặc ngay khi khởi nghĩa bùng nổ. Riêng có Thủy kinh chú (q.37) chép khác hẳn: “Trưng Trắc là người can đảm, dũng mãnh, cùng Thi khởi loạn, đánh phá châu quận, các lạc tướng đều theo. Trưng Trắc làm vua đóng ở Mê Linh, lấy được (hoặc tha)2 thuế trong hai năm của dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhà Hậu Hán sai Phục Ba tướng quân Mã Viện đem quân đánh... Trắc và Thi chạy vào Kim Khê cứu, ba năm mới bắt được”. Như vậy Thủy kinh chú là sách duy nhất chép Thi Sách cùng vợ khởi nghĩa, sau ba năm mới lại cùng vợ bị bắt3.

Sử Việt Nam thì đều chép Thi Sách bị Tô Định giết hại trước khi khởi nghĩa nổ ra. Thiên nam ngữ lục ghi chi tiết hơn: hai vợ chồng Thi Sách “giận thằng Tô Định gian manh”, muốn mưu đồ việc lớn. Nhưng Tô Định lại cất binh đánh thành Chu Diên trước. Thấy thế giặc mạnh Thi Sách khuyên Trưng Trắc đi tắt về Hát Môn vì:
Hát Môn có thế dụng binh
Sông sâu làm cứ, rừng xanh làm nhà

Bà nghe theo, về Hát Môn đắp thành lũy đề phòng. Ở Chu Diên, Thi Sách một mình chống cự. Song do “quan phòng sơ xuất” nên để Tô Định phá được thành, Thi Sách chết tại trận.

Như thế cũng là Thi Sách bị hại trước khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Xem sự tích một số nhân vật có tham gia vào phong trào đấu tranh đánh đuổi giặc Hán thì Tô Định còn giết hại nhiều lạc tướng, hào trưởng ở các địa phương khác trong quận Giao Chỉ. Cho nên việc giết Thi Sách cũng là điều có thể xảy ra.

Thần tích làng Nại Tử Xã có một số chi tiết cụ thể hơn: “Tô Định đem quân tới thành Chu Diên đánh Thi Sách. Thành bị hạ, Thi Sách chạy ra ngoài, đến Nại Tử Xã thì bị giặc đuổi kịp sát hại. Đó là ngày 11 tháng Chạp. Còn bà Trưng Trắc thì chạy về Mê Linh, sau đó dựng cờ khởi nghĩa...” Không biết có làng nào nữa nhận là nơi Thi Sách bỏ mình không?

Về quê quán của Thi Sách thì sử cũ và thần tích đều nhất trí là ở Chu Diên. Nhưng xác định vị trí cụ thể của huyện này thì còn nhiều khúc mắc.

Chu Diên nguyên là một trong 15 bộ họp thành nước Văn Lang của các vua Hùng. Đời Hán thuộc, Chu Diên là một trong số mười huyện họp thành quận Giao Chỉ, Dư địa chí của Nguyễn Trãi (soạn vào năm 1435) chỉ định: “Chu Diên là huyện Yên Lãng”4 (Huyện này, từ năm 1977 đổi tên là Mê Linh).

Vân đài loại ngữ của Lê Quí Đôn (hoàn thành năm 1773) ở phần Khu vũ, điều 85 có ghi: “Phong Khê thì ở đất Yên Lãng”5. Như vậy là đã có mâu thuẫn vì huyện Phong Khê là một phần đất do Mã Viện tách từ huyện Tây Vu ra từ năm 43. Mà Tây Vu và Chu Diên là hai huyện song song tồn tại trong quận Giao Chỉ. Vậy Yên Lãng đã là đất Chu Diên thì không thể lại là đất Phong Khê (Tây Vu) được.
______________________________________
1. Trong quyển Trưng Vương lịch sử - Hoàng Thúc Hội (Nhà in Đuốc Tuệ - 1937) cũng có ghi Thi Sách là họ Đặng.
2. Có một bản Thủy kinh chú thay chữ “đắc” nghĩa là là lấy được bằng chữ “phục” nghĩa là tha cho.
3. Nguyên văn: “Hậu Chu Diên lạc tướng tử danh Thi Sách Mê Linh lạc tướng nữ Trưng Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc... Trắc, Thi tẩu nhập Kim Khê cứu, tam tuế nãi đắc”.
4. Bản dịch của Phan Duy Tiếp, NXB Sử học. tr.24.
5. Bản dịch của Trần Văn Giáp. NXB Văn hóa, Tập 1, tr.171.

Cương mục của sử thần nhà Nguyễn soạn trong khoảng 1856-1889, Tiền biên (q.2) thì ghi rằng: “Huyện Chu Diên đặt từ đời Hán... nhà Đường đổi làm Diên Châu, nhà Lê đổi làm phủ Tam Đái, bây giờ là phủ Vĩnh Tường”1. Phủ này hồi cuối thế kỷ XIX gồm các huyện Bạch Hạc, Tam Dương, Lập Thạch, Yên Lạc và Yên Lãng.

Nhưng Đại Nam nhất thống chí, soạn cùng thời với Cương mục, ở phần tỉnh Sơn Tây lại có đoạn: “Huyện Yên Lãng là đất Phong Khê đời Hán, đến đời Nam Tề tách ra đặt làm huyện Bình Đạo, đời Đinh đời Lý đặt là huyện Yên Lãng”2 và ở phần tỉnh Hưng Yên có đoạn: “Hưng Yên có lẽ là đất Chu Diên”3.

Rồi ở thần tích làng Hạ Lôi thuộc huyện Yên Lãng cũ, nay là huyện Mê Linh, lại thấy khẳng định làng này là đất huyện Chu Diên. Lời truyền miệng còn chỉ định cả vị trí huyện đường của huyện này (sẽ nói ở đoạn sau). Trong khi đó sách Phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ (đời Thanh) soạn ở thế kỷ XVII lại chép: “Thành Chu Diên ở phía đông nam phủ” (ý nói là đông nam phủ lỵ phủ Giao Châu tức nội thành Hà Nội ngày nay).

Như vậy sự chỉ định vị trí huyện Chu Diên khá là phân tán. Gần đây, nhà sử học Đào Duy Anh căn cứ vào đoạn văn của Thủy kinh chú nói về các dòng sông ở đất Giao Chỉ (q.37) và lời chú của Thái bình hoàn vũ ký mách rằng sông Đáy, tức sông Hát còn có tên là sông Chu Diên, mà xác định vị trí huyện Chu Diên đời Hán như sau: “... huyện Chu Diên có thể là tương đương với một phần tỉnh Sơn Tây, một phản tỉnh Hà Đông và miền Hà Nam ở giữa sông Đáy và sông Hồng”4.

Nhà địa lý lịch sử Đinh Văn Nhật cũng có kết luận tương tự sau khi khảo sát thư tịch kết hợp với địa danh học và cổ địa lý học: “Huyện Chu Diên đời Hán trải dài giữa sông Đáy và sông Hồng, so với ngày nay là gồm các huyện Đan Phượng, Từ Liêm, Hoài Đức, Thanh Trì, nội thành Hà Nội, các huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Thường Tín, Phú Xuyên của Hà Sơn Bình và kết thúc ở hai huyện Lý Nhân, Bình Lục của tỉnh Hà Nam Ninh”5.

Ông Đinh Văn Nhật còn lý giải nguyên nhân vì sao mà một số tài liệu lại coi Chu Diên là huyện Yên Lãng bên tả ngạn sông Hồng (kỳ thực Yên Lãng là thuộc huyện Phong Khê). Đó là sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện đã triệt hạ vùng Chu Diên (cũng như vùng Mê Linh) nhất là khu vức huyện lỵ, đưa dân sang phía tả ngạn sông Hồng khi đó thuộc huyện Tây Vu (ít lâu sau sẽ tách ra thành huyện Phong Khê). Những người dân Chu Diên bị buộc phải ly hương này đã đem theo sang sông những tập quán sinh hoạt, phong tục và ký ức về quê cũ. Nhưng sau nhiều thế hệ, ký ức phai mờ đi, mọi người không nhớ nổi gốc tích xa xưa mà coi nơi họ đang ở - vốn đã qua bao đời tổ tiên họ khai phá tạo dựng nên - là đất Chu Diên.

Giả thuyết này cũng đáng được giới sử học tìm hiểu sâu hơn vì tuy sự việc phá làng dời dân đó không thấy chép trong sử sách nhưng thủ đoạn đó vốn không xa lạ đối với những bè lũ xâm lược Trung Quốc ngày trước. Có thể nêu lên một dẫn chứng: sau khi hoàn thành cuộc xâm lược, Mã Viện đã triệt hạ nhiều làng xóm Âu Lạc, đuổi dân đi, cho lính tráng Hán triều tới cư trú tại những nơi đấy, sinh cơ lập nghiệp. Người mình gọi đó là dân Mã lưu tức là những người do họ Mã lưu lại (hoặc những người họ Mã lưu ngụ). Bên cạnh đó Mã Viện còn đày ba trăm cừ súy Âu Lạc (các lạc hầu, lạc tướng) sang Linh Lăng tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Như thế thì ít nhất cũng là có tới ba trăm lãnh địa (ấp, trại) ở Giao Chỉ và Cửu Chân bị người Hán chiếm đoạt và xáo trộn6.
________________________________________
1. Bản dịch của Viện Sử học, NXB Văn sử địa, Tập 1, tr.83.
2. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, NXB Khoa học xã hội, Tập IV, tr.184.
3. Bản đã dẫn, Tập III, tr.289.
4. Đất nước Việt Nam qua các đời - tr.37 - NXB Khoa học 1964.
5. Huyện Chu Diên đời Hán - Bản thảo lưu tại Ban Cổ sử - Viện Sử học.
6. Không riêng gì phong kiến Trung Quốc mà mọi kẻ đô hộ xâm lược trên thế giới đều áp dụng thủ đoạn này. Thổ Nhĩ Kỳ đã từng làm như vậy với Bun-ga-ri, Hy Lạp... La Mã từng làm đối với dân Do Thái và ngày nay Israen đã và đang làm đối với dân Palextin.

TRƯNG NHỊ

Ngoài việc nêu bà Trưng Nhị là em và cùng khởi nghĩa với bà Trưng Trắc thì các sử cũ không có ghi gì thêm về nhân vật này. Các ngọc phả ở Hạ Lôi và ở Hát Môn có đưa ra một số chi tiết mới:

Sau khi Trưng Trắc đã khởi binh ở Phong Châu thành (?) thì bà ủy cho Trưng Nhị truyền hịch kêu gọi anh hùng hào kiệt bốn phương hưởng ứng. Tại cuộc hội quân Hát Môn, Trưng Nhị được phong là Bình Khôi công chúa và cầm một đạo binh đi đánh thành Tô Định. Sau khi thành công, bà Trưng Trắc lên ngôi vua, phong cho Trưng Nhị làm phó vương. Đến lúc Mã Viện xâm lăng, Trưng Nhị cùng chị dẫn đại quân chống cự ở nhiều nơi, cuối cùng cả hai người hóa ở đỉnh một ngọn núi thuộc Kinh Môn phủ, Thạch Thành huyện. Đó là ngày mùng 8 tháng ba. (Thần tích làng Hát Môn kể giống như thần tích làng Hạ Lôi, chỉ khác một chi tiết về chung cục của Hai Bà: Hai Bà tự trầm ở sông Hát và đó cũng là vào ngày mùng 8 tháng ba. Tuy vậy cả hai bản đều do một người soạn là Nguyễn Bính và năm soạn là Hồng Phúc thứ nhất tức năm 15721.)

Thực ra trong các thần tích này có lầm lẫn về địa danh: Kinh Môn phủ (tỉnh Hải Dương cũ) không có huyện Thạch Thành. Huyện này thuộc về tỉnh Thanh Hóa. Và những thứ chức tước “Bình Khôi công chúa”, “Phó vương”, cả việc Hai Bà chạy vào tận Thạch Thành tất cả đều là không có căn cứ chính xác. Cho nên chỉ có thể coi đây là truyền thuyết chứ chưa phải sử liệu.

Ngoài ra, từ bao đời nay, Trưng Nhị thường được thờ cùng với Trưng Trắc - như ở đền Hạ Lôi, đền Hát Môn, đền Đồng Nhân v.v... Riêng có làng Cư An (nay thuộc xã Tam Đồng, huyện Mê Linh) chỉ thờ một mình Trưng Nhị. Theo truyền thuyết địa phương, nơi đây là đất bản bộ của bà. Đáng lưu ý là ngọc phả của làng này kể về Trưng Nhị có nhiều điều khác với ngọc phả Hạ Lôi, Hát Môn cũng như khác với sự hiểu biết quen thuộc của chúng ta lâu nay.

Dưới đây là tóm lược những ý chính của văn bản đó: “Trắc và Nhị là hai chị em sinh đôi, con gái lạc tướng. Chị lấy huyện lệnh Ô Diên là Thi Sách. Em lập bản doanh ở trang Cự Triền (nay là Cư An) thuộc huyện Ô Diên, phủ Tam Đái, đạo Sơn Tây.

Thi Sách bị Tô Định giết. Trắc khởi nghĩa binh ở Phong Châu thành. Bà cho vời Trưng Nhị tới, giao quản lĩnh ba quân, truyền hịch đại cáo với thiên hạ... Với ba vạn nam nữ quân sĩ, Hai Bà về Hát Môn hội quân. Sau đó tiến đánh Tô Định. Khi đã đánh đuổi được quân Hán, Trưng Trắc lên ngôi vua, phong em là Bình Khôi công chúa. Bà này xin lui về Cự Triền mở mang đất đai, lập nên thành đó. Trưng Vương dời đô về đóng ở đó.

Mã Viện sang xâm lăng. Ban đầu quân Hán thua nhiều. Mã Viện dùng mẹo, cho một cánh quân đi đường thượng đạo, tiến ra Côn Luân, Bắc Tạ, đến Tụ Long, Bảo Lạc, Tuyên Quang, Đại Man thập lục châu. Trưng Vương cử bà Nhị lên thượng đạo cự chiến. Nhưng kỳ thực Mã Viện phái đại binh theo hạ đạo đánh vào trung châu. Được tin này, Trưng Nhị liền quay trở lại.

Khi đó Trưng Trắc đã vào Ái Châu. Nhị tìm theo, tới Thiệu Thiên phủ, Thạch Thành huyện thì cũng vừa lúc ấy bà chị lên núi và hóa. Trưng Nhị trở về Cự Triền. Quân Hán tới vây đánh. Bà phá vây và hy sinh tại trận. Đó là ngày 10 tháng tám”.

Trở lên là nội dung tóm tắt bản “Cư An xã thần tích” mà tác giả là Lễ bộ thượng thư Nguyễn Bính, soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), tháng hai, ngày mùng 102.

Như vậy thần tích An Cư có nhiều điểm khác với thần tích các làng Hạ Lôi, Hát Môn:

1. Trưng Nhị có một căn cứ riêng ở Cự Triền (tức Cư An).

2. Huyện Chu Diên còn có thể gọi là Ô Diên (?)

3. Trưng Trắc từng đóng đô ở Cự Triền và hóa ở huyện Thạch Thành thuộc Châu Ái.

4. Trưng Nhị từng chống quân Mã Viện ở Cự Triền và hy sinh tại đây vào ngày 10 tháng tám, sau khi bà Trưng Trắc hy sinh tại Thạch Thành.

Cũng chưa thể khẳng định thần tích nào chép đúng vì đều là còn ở dạng truyền thuyết. Có một điều hơi lạ là tác giả bản thần tích Cư An chính cũng là Nguyễn Bính - tác giả hai bản Hạ Lôi, Hát Môn; vậy mà lại có những sai biệt như thế3. Trong thực tế thì tại Cư An hiện còn dấu vết một tòa thành tương truyền là do bà Trưng Nhị đắp nên, gọi là thành Dền4. Và ngành khảo cổ đã từng khai quật ở đó những hiện vật bằng đá, bằng gốm, bằng đồng thuộc các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên và Gò Mun. Điều này có nghĩa là Cư An từng là một điểm cư dân đông đúc từ thời các vua Hùng đầu tiên mới dựng nước.
____________________________________
1. Toàn văn lời dịch hai bản ngọc phả này in ở phần Phụ lục.
2. Bản này có ở Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu Q4*18 (phần phủ Yên Lăng), do hương lý làng Cư An sao nộp trường Viễn Đông bác cổ ngày 4-7-1938.
3. Sự sai biệt này có thể do một trong những nguyên nhân sau:
    - Hoặc Nguyễn Bính đúng là tác giả các văn bản nói trên nhưng người các đời sau ở từng địa phương, với những động cơ, mục đích và nguồn tư liệu truyền thuyết khác nhau đã thay đổi thêm bớt ít hoặc nhiều tình tiết.
    - Hoặc Nguyễn Bính chỉ soạn một bản (nào đó), còn những bản khác do người đời sau viết ra nhưng ký tên Nguyễn Bính để cho có uy tín.
4. Ở Chương sáu sẽ trở lại vấn đề thành Dền này.

HÙNC NCUYÊN

Hầu hết các sử sách đều không chép gì về gia đình riêng của Trưng Nhị. Thiên Nam ngữ lục lại kể rằng hai chị em bà đều lấy Thi Sách (tuy không phải là kể trực tiếp mà qua lời nói của Tô Định: Hai gái má hồng dùng lấy kết duyên). Điều này không thể tin được, vì hai lẽ:

1. Lúc ấy xã hội Giao Chỉ đã bước sang chế độ phụ hệ nhưng tàn dư của cơ cấu nguyên thủy vẫn còn, nhất là vai trò và địa vị của người phụ nữ trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt xã hội còn rất cao, bằng chứng là có nhiều phụ nữ tham gia khởi nghĩa và giữ những chức vụ chỉ huy trọng yếu (theo các thần tích, ngọc phả). Như thế thì chưa thể có chế độ đa thê.

2. Theo nhiều thần tích, ngay cả thần tích làng Cư An ở trên - là nơi thờ riêng bà Trưng Nhị - đều không có dấu hiệu gì tỏ ra bà là vợ Thi Sách.

Ngược lại theo thần tích làng An Duyên nay thuộc xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây thì Trưng Nhị có chồng. Người chồng đó tên là Hùng Nguyên. Thần tích kể rằng:

“Hùng Nguyên người trang Phấn Thư, thuộc huyện Chu Diên, là con ông Hùng Đức và bà Mai Thị Ngoạn. Ông làm bạn với Trưng Nhị trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa. Sau này, khi dấy binh, Hùng Nguyên cầm đầu một đạo quân mà cờ hiệu và áo quần đều là màu xanh. Dẹp xong Tô Định, Hùng Nguyên lập ấp ở trang An Duyên, dạy dân khai hoang, cày cấy... Dân trang ngày một đông đúc.

Khi Mã Viện xâm lăng, Hùng Nguyên chiêu tập thêm dân binh theo Hai Bà chiến đấu. Sau Hùng Nguyên tử trận. Quân sĩ cũng hy sinh hầu hết. Chỉ còn sống sót có bảy người. Họ vượt được vòng vây, vế tới An Duyên. Sau đó dân làng tôn Hùng Nguyên làm thành hoàng. Hùng Nguyên trở thành một trong số bảy thành hoàng của An Duyên”.

Thần tích là như vậy, ghi lại ở đây để giữ một tư liệu chứ chưa thể khẳng định đúng sai.1
____________________________________
1. Rất tiếc là bản sao ngọc phả làng An Duyên hiện lưu ở Thư viện Khoa học xã hội không ghi tên người soạn và năm soạn. Về bà Trưng Nhị, ngoài một lần được nêu là vợ của Hùng Nguyên thì không hề được nhắc tới nữa trong suốt ngọc phả.

QUÊ HƯƠNG

Sử cũ (của ta và của Trung Quốc) đều chép Hai Bà là con lạc tướng huyện Mê Linh. Vậy huyện này hiển nhiên là quê hương của Hai Bà. Nhưng đó là khu vực nào so với ngày nay? Tại đấy làng cụ thể nào là làng của Hai Bà?

Hiện có hai chủ trương khác nhau: Một đặt huyện Mê Linh đời Hán ở về phía tả ngạn sông Hồng mà phần chủ yếu là đất đai huyện Yên Lãng, tức nay là huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. (Chính theo chủ trương này mà năm 1977 khi đặt tên cho một huyện mới, do sáp nhập hai huyện Yên Lãng và Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phú đã chọn tên Mê Linh. Tháng 12-1978, phần huyện Yên Lãng cũ được cắt về Hà Nội nhưng vẫn giữ tên Mê Linh ấy. Năm 1990, huyện này trở về thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). Tại đấy, làng Hạ Lôi được coi là quê của Hai Bà.

Một chủ trương khác lại đặt huyện Mê Linh đời Hán ở bên hữu ngạn sông Hồng mà trung tâm là vùng giáp ranh các huyện Thạch Thất, Quốc Oai. Tại đấy cũng có một làng tên là Hạ Lôi và được đoán định là quê của Hai Bà. Làng này thuộc huyện Thạch Thất nay thuộc tỉnh Hà Tây.

Dưới đây sẽ lần lượt điểm qua hai chủ trương đó:
LÀNG HẠ LÔI Ở HUYỆN MÊ LINH

Từ trước tới nay, rất nhiều người nếu không nói là tất cả đều coi huyện Mê Linh đời Hán ở bên bờ trái sông Hồng và trị sở của huyện đó là chỗ làng Hạ Lôi ngày nay.

Làng Hạ Lôi nằm bên trong đê tả ngạn, cách bờ sông chừng một ngàn mét, cách trung tâm nội thành Hà Nội 13km đường chim bay về phía tây bắc. Làng này nay hợp với làng Liễu Trì thành xã Mê Linh. Khác với các làng cổ thường có tên gọi Nôm, làng Hạ Lôi không có tên Nôm, chỉ có tên Hán - Việt. Theo bản ngọc phả vốn giữ tại ngôi đền thờ Hai Bà Trưng ở đây và cả ký ức dân làng thì Hạ Lôi là tên mới. Xưa là Cổ Lôi trang, trung gian đổi ra là Cổ Lai. Sau rốt, cách đây khoảng hai trăm năm mới có tên như hiện nay:

Hiện nay làng Hạ Lôi có 12 xóm: 1. xóm Chợ, 2. xóm Hội, 3. xóm Đình, 4. xóm Chùa, 5. xóm Cầu, 6. xóm Ao Sen, 7. xóm Xanh, 8. xóm Bờ Hè, 9. xóm Bàng, 10. xóm Đường, 11. xóm Giếng, 12. xóm Ấp Hạ. Nhưng ngày trước có cả thảy 36 giáp, chia làm hai thôn Đông và Đoài. Các di tích cổ ở cả hai thôn là như sau:

VỀ ĐÌNH MIẾU

Mỗi thôn có một văn chỉ riêng. Văn chỉ thôn Đông nguyên ở vào chỗ nay là nghĩa trang liệt sĩ. Văn chỉ thôn Đoài vốn là ở khu vực trường cấp hai hiện nay.

Tuy có hai văn chỉ nhưng cả làng chỉ có một ngôi đình. Trụ sở ủy ban nhân dân xã ngày nay là dựng trên nền đình cũ.

Đình làng Hạ Lôi thờ bốn thành hoàng là các ông Đô, Hồ, Bạch, Hạc, tương truyền đó là bốn người đầu tiên đã lập ra làng Hạ Lôi. Theo lời kể của người làng thì buổi ban đầu bốn vị đó tới đây trụ ở bốn nơi, khai phá đất đai, sinh cơ lập nghiệp. Dần dần bà con các nơi khác cũng noi theo, kéo tới đây sinh sống, lập ra bốn xóm có tên là xóm Đường, xóm Hội, xóm Nội, xóm Kiên. Đó là bốn xóm “hạt nhân” của làng Cổ Lôi sau này. (Song ngày nay mọi người chỉ biết có xóm Đường và xóm Hội. Còn hai xóm Nội và Kiên thì chẳng ai biết là ở chỗ nào, kể cả những người già nhất làng).

Ngoài ngôi đình ra, ở xóm Chợ còn có một ngôi đền thờ Cốt Tung, tương truyền là người đã phù tá vua Hùng Duệ Vương chống Thục Phán. (Làng Liễu Trì - láng giềng của Hạ Lôi - thờ Cốt Tung làm thành hoàng chính). Đền ấy nay không còn, trên nền đã xây nhà kho của hợp tác xã. Có người gọi đó là đền Đen, vì đồ thờ, cờ kiệu... đều sơn đen, do kiêng kỵ1 Cốt Tung chết vì đao kiếm. Sự tích tóm lược như sau:

“Ở làng Liễu Trì, khi đó gọi là Lục Trì sở có hai vợ chồng nhà nọ, nhân leo lên một ngọn núi, thấy có nhiều xương cốt vương vãi, họ bảo nhau nhặt nhạnh rồi tung xuống chân núi để chôn cất làm phúc. Sau hôm đó, người vợ có lòng, rồi sinh một trai, đặt tên là Cốt Tung. Cốt Tung cao lớn lạ thường, được vua Hùng tuyển đi chống quân Thục. Nhưng trong một trận chiến, ông bị thương ở cổ, máu chảy đỏ lòm. Ông xé áo buộc vết thương, tìm đường về làng. Quân địch vẫn đuổi theo. Ông liền nhấc một tảng đá to bằng con trâu mộng ném vào đám quân địch, khiến chúng kinh hãi, thôi không dám đuổi.

Về tới đầu làng (Lục Trì sở) ông ngồi tựa gốc đa rồi hóa. Mối đùn thành mộ. Còn tảng đá ném địch thì rơi ở làng Hạ Lôi, có in hằn năm vết ngón tay, mỗi vết to hơn quả chuối mắn”.

Như vậy ở làng Hạ Lôi về mặt đình miếu liên quan đến Hai Bà Trưng thì chỉ có ngôi đền thờ Hai Bà, vẫn quen gọi là đền Hạ Lôi, nằm ở rìa phía nam làng, tương truyền xây trên nền nhà cũ của bà Trần Thị Đoan, mẹ của Hai Bà. Chính ngôi đền này cùng với lời tương truyền đó đã là một căn cứ chủ yếu để khẳng định làng Hạ Lôi là quê hương của Hai Bà2.

VỀ BI KÝ

Ở kho văn bia của Thư viện Khoa học xã hội có ba bản dập từ ba tấm bia của làng này. Theo thứ tự thời gian là các bia sau:

Lưu truyền bi ký khắc năm Vĩnh Thịnh thứ mười lăm (năm 1719) ghi lại sự tích, hành trạng một người họ Dương có công đức.

Hậu hiền bi ký khắc năm Cảnh Hưng thứ tám (năm 1747) dựng ở văn chỉ thôn Đông, nói về việc xây văn chỉ này.

Tụy văn bi ký khắc năm Cảnh Hưng thứ mười (năm 1749) dựng ở văn chỉ thôn Đoài, cũng nói về việc xây văn chỉ đó.

Như vậy cả ba tấm bia ấy không liên quan gì tới Hai Bà Trưng và trong thực tế thì hai tấm sau đã bị phá. Chỉ còn lại tấm thứ nhất hiện thấy ở nhà thờ Dương Công Sủng.

Riêng ở đền thờ Hai Bà có một tấm bia nhưng lại không giúp gì cho việc nghiên cứu về Hai Bà vì nội dung chỉ ghi lại việc sửa đổi hướng đền vào năm Thành Thái thứ nhất tức năm 1899.

____________________________________
1. Hèm.
2. Ở Chương sáu sẽ nói về ngôi đền này.

VỀ NHỮNG TRUYỀN THUYẾT

Loại tư liệu này có hai nguồn:

Một là những lời kể của dân làng - sẽ gọi tắt là lời truyền miệng - chủ yếu là của những người cao tuổi mà tác giả sách này được tiếp xúc. Các vị đó có đoan rằng “ngày xưa các cụ truyền ngôn lại thế nào thì chúng tôi kể như vậy”, tức là sự tích chưa bị lịch sử hóa.

Nguồn thứ hai là bản ngọc phả đền Hạ Lôi do Lễ bộ thượng thư Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất tức năm 1572. Tuy gọi là ngọc phả đền Hạ Lôi nhưng trong đền không còn lưu giữ vì khoảng năm 1947-1948, bọn tay sai giặc Pháp đã vào đền phá phách, hủy tượng thờ, đốt ngọc phả... May là trong kho thần tích, ngọc phả của Thư viện Khoa học xã hội còn có một bản do hương lý làng này sao nộp vào tháng 4 năm 1938.

Về nguồn thứ nhất thì trong thực tế, người dân ở đây - những người không chuyên chú đi sâu tìm hiểu qua sách báo hiện nay về sự nghiệp Hai Bà - kể về Hai Bà cũng không dồi dào chi tiết.

Như một người cao tuổi trong làng - ông cụ Hương Đệ có kể cho chúng tôi nghe chuyện Hai Bà “theo lời các cụ xưa truyền lại”, nội dung cũng đơn giản. Những chi tiết chính thì mọi người đều biết: Bà Trưng Trắc là con gái nhà lạc tướng và là vợ Thi Sách. Thi Sách bị Tô Định giết. Bà khởi binh diệt trừ Tô Định và ở ngôi vua ba năm. Mã Viện xâm lăng. Bà và em gái hy sinh.

Nhưng có thêm một số chi tiết ít phổ biến:

- Đền thờ Hai Bà là xây trên nền nhà cũ của bà mẹ (bà Trần Thị Đoan).

- Hai Bà đóng đô tại đây.

- Thi Sách làm huyện lệnh Chu Diên, huyện đường chính là khu đất rộng chừng 10 mẫu ở ngay đằng sau đền Hai Bà, nay vẫn gọi là khu huyện.

- Hai Bà trầm mình ở cửa Hát chứ không phải chết vì đao kiếm nên đồ thờ tự trong đền vẫn sơn son như thường.

Về nguồn thứ hai - nguồn ngọc phả - thì nội dung phong phú hơn. Dưới đây là tóm tắt những ý chính:

“Hùng lạc tướng và vợ là Trần Thị Đoan sinh được hai gái, đặt tên là Trắc nương và Nhị nương. Ngày sinh là mùng 1 tháng tám năm Giáp Tuất. Năm 19 tuổi, Trắc nương lấy Thi Sách. Vài năm sau, Sách bị Tô Định giết. Trắc nương nuôi chí trả thù chồng, giành lại non sông. Bà cử em là Nhị nương đi chiêu mộ hào kiệt. Hơn một năm, quân đông tới ba vạn người, họp ở thành Phong Châu, sông Bạch Hạc. Bà cử binh về cửa Hát, hội quân ở bãi Trường Sa. Tại đây, Bà lập đàn kỳ đảo thiên địa bách thần. Sau đó, tiến đánh thành Tô Định ở huyện Chu Diên. Hai Bà lập đồn tại Cổ Lôi trang. Ngày mùng 7 tháng giêng, Hài Bà mở tiệc khao quân rồi tiến đánh Tô Định. Định thua chạy. Trăm quan đón Hai Bà vào thành Chu Diên. Bà chị lên ngôi vua xưng là Trưng Nữ Vương. Bà xây đô thành ở huyện Chu Diên, đất Phấn Lộ và mở một hành cung ở Cổ Lôi trang nơi xứ Đầu Bàng Thượng.

Ba năm sau, Quang Vũ sai Mã Viện sang xâm lăng. Quân Hán thường thua. Mã Viện phải lui về Giang Hán, xin viện binh. Được cấp thêm quân, Mã Viện trở lại đánh, Trưng Vương và em gái cùng năm trăm nữ tướng cải trang thành nam giới ra trận. Đánh hơn mười trận không phân thắng bại. Tới một lần quân Hán đánh phủ Hạ Hồng thuộc Hải Dương. Trưng Vương đã lập đồn tại đây. Bà dẫn nữ binh nữ tướng ra nghênh chiến. Bỗng gió lớn nổi lên, thổi tung áo mão mọi người. Quân Hán nhận ra quân Nam đều là đàn bà liền bảo nhau cởi quần áo xông vào. Các bà, các cô thẹn, chạy tán loạn. Hai Bà chạy đến huyện Thạch Thành, phủ Kinh Môn, phi ngựa lên núi và hóa. Đó là ngày mùng 8 tháng ba"1.

Gác lại một bên những chi tiết hư cấu nhằm lý giải nguyên nhân bại trận của Hai Bà (ý đồ tốt nhưng cảm thụ nghệ thuật khá tầm thường), cũng như gác lại những thông tin sai lầm về diễn biến của chiến tranh ngày ấy hoặc về địa danh Thạch Thành - Kinh Môn (phủ Kinh Môn không hề có huyện Thạch Thành, chỉ có huyện Kim Thành; còn Thạch Thành là một huyện ở Thanh Hóa) v.v... thì ngọc phả này có một số chi tiết rất đáng lưu ý:

- Không nói rõ quê hương cụ thể của Hai Bà.

- Coi Hạ Lôi là đất huyện Chu Diên và không hề nhắc gì tới địa danh Mê Linh.

- Ở huyện Chu Diên có một thành của Tô Định: để đánh thành này Hai Bà lập đồn ở Hạ Lôi. Sau khi thành công Hai Bà cho dựng hành cung ở Hạ Lôi, tại xứ Đầu Bàng Thượng2.

- Còn kinh đô thì Hai Bà lập tại xứ Phấn Lộ cũng thuộc huyện Chu Diên. Về địa danh này, chúng tôi ngờ là ngọc phả sao chép sai mặt chữ. Có thể là Ký Hợp vì thần tích chàng Hối ở làng Thịnh Kỷ (nay thuộc xã Tiền Châu, huyện Mê Linh) có đoạn viết: “... Trưng Vương theo lời tâu của chàng Hối cho lập đô tại Ô Diên huyện, Ký Hợp phường” và chú thích “Ký Hợp nay là làng Yên Lãng”. Chữ nay là chỉ thời gian soạn thần tích tức thế kỷ XVI. Lúc đó làng Yên Lãng thuộc về huyện Yên Lãng, còn hiện giờ thì làng này đã mang tên mới là làng Lý Hải và thuộc xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. (Hai chữ Phấn Lộ và Ký Hợp về mặt chữ rất dễ lẫn lộn).

- Về chung cục của Hai Bà thì ngọc phả nói là hóa ở núi huyện Thạch Thành (chứ không phải trầm mình trên sông Hát).

Như vậy ngọc phả khác nhiều so với lời truyền miệng ở chính làng Hạ Lôi (phần dưới sẽ trở lại vấn đề này).

Cũng cần nêu thêm là ở quyển “Truyền thuyết Trưng Vương” do Chi hội Văn nghệ Vĩnh Phú in năm 1975 có bài Truyền thuyết về Hai Bà Trưng viết dưới dạng tiểu thuyết mà các sự kiện, tư liệu dẫn dụng trong bài lại không có xuất xứ cho nên chúng tôi xin chưa sử dụng tới.
____________________________________
1. Xem toàn văn bản dịch ở phần Phụ lục.
2. Theo người làng thì Đầu Bàng Thượng ở chỗ giáp ranh xóm Bàng và xóm Chùa. Cl. Madrôn trong bài “Le Tonkin ancien” (BEREO XXXVII) thì ghi lầm là Đầu Bằng Thượng.

VỀ DI TÍCH THÀNH CŨ

Người làng Hạ Lôi ai cũng công nhận ngày trước ở đây có một tòa thành đất mà mọi người gọi kiêng là thiềng. Nhưng hỏi về hình dạng qui mô của thành đó thì không ai nói được. Vì ngay cả những người cao tuổi nhất làng này cũng chỉ nhớ là thủa nhỏ, khi họ bắt đầu có hiểu biết thì thiềng chỉ còn là những vạt đất nứt nối rời rạc, đôi chỗ có tre mọc, khó hình dung ra kiểu cách.

Về gốc gác của thành thì trong làng cũng có nhiều cách giải thích. Người thì bảo đó là thành do Hai Bà cho xây nên. Người thì nói đó là thành huyện Chu Diên, nhiệm sở của Thi Sách. Nhưng có người lại đoan chắc rằng huyện đường Chu Diên chỉ là khu đất rộng chừng 10 mẫu ta ở sát ngay phía sau đền Hai Bà.

Tóm lại, bằng vào ký ức và dấu vết hiện còn thì chưa có thể xác định lịch sử và hình dạng tòa thành đó. Tuy nhiên, với cách nhìn có chuyên môn, hai ông Nguyễn Lộc - Văn Lang đã nhận diện và mô tả tòa thành đó như sau:

“Đây là một tòa thành... rộng tới 100 mẫu Bắc bộ1, chiều dài có chỗ lên tới 1700m, chiều ngang nơi rộng nhất hơn 500m.

Điều đặc sắc thứ nhất của thành là hình dáng không ổn định của nó. Bình diện tòa thành gợi lên cảm giác lắp ghép tiếp hợp của ba ô thành khác nhau có hình gần chữ nhật và một ô thứ tư nữa, hình đa giác lồi chiếm hơn nửa diện tích thành.

Điều đặc sắc thứ hai là bên cạnh cấu trúc cổ điển gồm hào lũy thì tường thành có chỗ còn thấy đắp thành hai lớp song song với khoảng cách từ 1m đến 3m tạo thành một đường ống ở giữa. Cái tên “Thành ống” cũng do đó mà có. Thành ống khoanh lại trong lòng nó bốn xóm được coi là cổ nhất làng, mang những tên Đường, Hội, Nội, Kiên... Lời kể dân gian nói rằng đấy là xóm Nội - nằm trong ô thành tính từ đông sang tây là ô thứ hai - xưa là quê của bà Trần Thị Đoan... Nơi sinh hạ của Hai Bà cũng là xóm Nội”2.

Có thể đó là tình hình năm các tác giả viết bài khảo sát này - năm 1973 - chứ năm 1980, khi chúng tôi đến khảo sát thì không sao nhận ra hình dáng và qui mô này. Đặc biệt là về địa điểm xóm Nội thì ở Hạ Lôi ngày nay, ngay cả những người cao tuổi cũng không ai chỉ ra rõ được. Đó chỉ là địa danh huyền thoại.

VỀ ĐỊA DANH

Ở Hạ Lôi còn một số địa điểm mà tên gọi có liên quan đến hoạt động của Hai Bà:

- Con đường đi từ đền ra đến đường liên thôn được gọi là đường Trống quân hoặc Trung quân, tương truyền là đường trẩy quân của Hai Bà.

- Ngoài đồng có những vùng đất mang tên như Đồng Vỡ chỉ nơi quân Hán bị tan vỡ. Đồng Đống là nơi xác quân Hán chết chất thành đống. Đồng Dai là nơi quân hai bên giao chiến dai dẳng suốt ngày. Đồng Đỗi là nơi một cánh quân tiếp ứng được lệnh đỗi lại tức dừng lại v v...

Tất cả cũng là do lời truyền ngôn kể lại và cũng chỉ có giá trị là những chứng tích huyền kỳ.

VỀ NHỮNG DI VẬT KHẢO CỔ

Theo ông Vũ Kim Biên ở Ty Văn hóa Vĩnh Phú - là cơ quan phụ trách khai quật di chỉ Hạ Lôi. những năm 70 - thì ở Hạ Lôi có nhiều mộ thời Bắc thuộc (quen gọi là mộ Hán) tập trung ở ba khu vực ở Đồng Si, xóm Đường và phía nam đền Hai Bà. Ở những khu này ngoài các nấm mộ xây gạch cuốn có nhiều đồ dùng bằng gốm, hoa văn kiểu dáng phương Bắc3.

Một cán bộ khác của ty này - ông Lê Tượng - có nhận xét về di chỉ Hạ Lôi như sau: “Qua xem xét những hiện vật đào được ở mộ cổ hiện để ở đền Mê Linh và rải rác trong làng, chúng tôi thấy những hiện vật này đa số là thuộc thời Tùy - Đường”4.

Như vậy xét về mặt tư liệu khảo cổ học, sơ bộ có thể coi Hạ Lôi từng là nơi có nhiều người Hán tộc cư trú – có thể là một huyện lỵ, quận lỵ hoặc nơi đóng quân - nhưng không phải là người thời Tây Hán - Đông Hán (thời Hai Bà Trưng) mà là người thời Tùy - Đường (thế kỷ thứ VII, thứ VIII)5.
____________________________________
1. Mỗi mẫu bằng 3600m2.
2. “Đi tìm dấu vết thời kỳ Hai Bà Trưng trên miền đất đóng đô của Hai Bà” – Nghiên cứu Lịch sử số 150.
3. Những phát hiện mới khảo cổ học năm 1978 - trang 301 - Viện Khảo cổ học xuất bản.
4. Những phát hiện mới khảo cổ học năm 1975 - trang 24 - Viện Khảo cổ học xuất bản.
5. Thực ra di chỉ này chưa được khảo sát kỹ càng, còn phải xác minh tầng văn hóa, nghiên cứu địa tầng và các di vật, xác định niên đại một cách cụ thể hơn... thì mới trở thành một cứ liệu khoa học.

Tóm lại, ở Hạ Lôi có nhiều dấu vết cổ, liên quan đến Hai Bà Trưng cũng không phải ít. Theo ngọc phả, đây là nơi có hành cung của Trưng Vương. Theo lời truyền miệng, đây là làng quê của Hai Bà, Hai Bà đóng đô tại đây, thành đất cũng do Hai Bà cho xây đắp, nhiều địa điểm là chiến trường thời Hai Bà và đền Hai Bà là nền nhà cũ v.v… Chính căn cứ trên những dấu vết đó - dù là đều do truyền miệng - mà lâu nay các nhà chép sử đã coi Hạ Lôi là quê của Hai Bà. Từ khẳng định này dẫn tới những khẳng định khác: làng Hạ Lôi ấy tất là thuộc đất huyện Mê Linh đời Hán, là lỵ sở của huyện này đồng thời là quận trị quận Giao Chỉ và trị sở của bộ Giao Chỉ. Theo đấy, huyện Mê Linh đời Hán chủ yếu nằm bên tả ngạn sông Hồng.

Chủ trương đó lại được một số thư tịch cổ hỗ trợ, Toàn thư của Ngô Sĩ Liên (hoàn thành năm 1479) là sách đầu tiên ghi về điều này: “Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức Yên Lãng”1.

Ba thế kỷ sau, sách Vân đài loại ngữ của Lê Quí Đôn (hoàn thành năm 1773) có đoạn ghi: “Mê Linh nay là Yên Lãng” (phần Khu vũ, điều 53)2.

Gần năm chục năm sau đó, Phan Huy Chú ghi trong Lịch triều hiến chương - Dư địa chí (hoàn thành năm 1821): “Huyện Mê Linh nay là Yên Lãng. Trưng Vương đóng đô ở đấy”3.

Ý kiến của ba nhà bác học trên làm cho chủ trương Mê Linh đời Hán ở bên tả ngạn sông Hồng mà trung tâm là huyện Yên Lãng (từ năm 1977 đổi là Mê Linh) thêm vững vàng.

Tuy thế, chủ trương này vẫn chưa đủ sức thuyết phục vì trong những truyền thuyết được lấy làm căn cứ suy luận thực ra mang nhiều mâu thuẫn, chứa đựng những chỉ dẫn ngược nhau; các dấu vết vật chất (thành trì và các cánh đồng - chiến trường) thì nguồn gốc chưa sáng tỏ và nhất là lại có những thư tịch khẳng định ngược lại, coi Mê Linh là dải đất bên hữu ngạn sông Hồng.

Về thư tịch thì trước khi Ngô Sĩ Liên hoàn thành Toàn thư 44 năm, tức vào năm 1434, Nguyễn Trãi đã soạn pho sách địa lý đầu tiên của nước ta: Dư địa chí và các nhà Nho uyên bác đương thời là Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thiên Túng và Lý Tử Tấn đã làm phần diễn giải, chú thích: Trong sách này, điều IX có ghi: “Mê Linh là Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ”, tới điều XIX lại nhắc lại: “huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa”4.

Huyện Phúc Lộc đời Lê tới năm 1822 đổi lại Phúc Thọ và tồn tại đến ngày nay (tất nhiên địa giới có xê xích đôi chút). Làng Hát Môn vẫn còn đó, trên bờ phải sông Hồng.

Ngoài ra, cũng ở diều IX và điều XIX Dư địa chí còn ghi: “Chu Diên là huyện Yên Lãng ngày nay” và “huyện Yên Lãng là Chu Diên ngày xưa”.

Như vậy là vào đầu thế kỷ XV, theo những tác giả uyên bác nhất đương thời - và rất có thể họ cũng đã đặt chân tới nhiều miền của đất nước - thì huyện Mê Linh ở bên hữu ngạn sông Hồng và Yên Lãng chưa bao giờ là Mê Linh.

Cho nên sau Nguyễn Trãi ba thế kỷ, hẳn là bị giằng co giữa Dư địa chíToàn thư5 nên nhà bác học Lê Quý Đôn thật sự lúng túng khi định vị vị trí huyện Mê Linh. Như vừa nêu ở trên, Vân đài loại ngữ, phần Khu vũ, điều 53 có ghi: “Mê Linh nay là Yên Lãng” nhưng đến điều 85 Lê Quý Đôn lại viết: “Phong Khê là đất Yên Lãng” rồi “Chu Diên nay là Yên Lãng”. Thật là lúng túng, đầy mâu thuẫn vì từ đời Tây Hán, Chu Diên và Mê Linh đã là hai huyện song song tồn tại trong số mười huyện họp thành quận Giao Chỉ. Vậy nếu Yên Lãng đã là Mê Linh thì không thể là Chu Diên và ngược lại. Ngoài ra Phong Khê là một huyện do Mã Viện lập vào năm 43 bằng cách tách ra một phần huyện Tây Vu (phần còn lại được đặt tên là huyện Vọng Hải) vốn cũng là một trong số mười huyện của quận Giao Chỉ, nghĩa là Tây Vu cũng song song tồn tại với Chu Diên và Mê Linh. Tóm lại, Yên Lãng không thể trong một lúc mà lại thuộc về ba huyện được.
____________________________________
1. Bản dịch của Cao Huy Giu, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Tập 1, trang 89.
2. Bản dịch của Trần Văn Giáp, Nhà xuất bản Văn hóa, Tập 1 trang 111.
3. Bản dịch của Viện Sử học. Nhà xuất bản Văn sử địa - Tập 1, trang 97.
4. Bản dịch của Phan Huy Tiếp - Nhà xuất bản Sử học.
5. Thực ra, Toàn thư của Ngô Sĩ Liên hoàn thành năm 1479 nhưng sau đó nhiều người đã viết thêm, bổ sung, chú thích. Nội dung của sách này như ta thấy ngày nay là mới cố định từ cuối thế kỷ XVII. Cho nên lời chú “Mê Linh tức là Yên Lãng” trong sách này có thể không phải của Ngô Sĩ Liên mà là của những sử thần các đời sau.

Tới thế kỷ XIX, chia sẻ quan điểm của Dư địa chí, các tác giả bộ Cương mục khi chú thích địa điểm Mi Linh (tức Mê Linh) với tư cách là trị sở bộ Giao Chỉ thì ngoài việc trích dẫn Dư địa chí, Toàn thư, Vân đài loại ngữ, còn dẫn cả một câu trong Văn hiến thông khảo là sách của Mã Đoan Lâm (1245-1325): “Các đất Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương thuộc Phong Châu đều là đất huyện Mê Linh đời Hán”. Sau đó các tác giả kết luận: “Vậy Mi Linh là phong Châu mới phải”. Rõ ràng Cương mục đã chấp nhận ý kiến của Dư địa chí vì theo sách Thái bình hoàn vũ ký (do Nhạc Sử soạn trong khoảng các năm 984-998 ) thì ở huyện Gia Ninh có núi Tản Viên (q.170). Điều này có nghĩa là huyện Mê Linh đời Hán bao gồm cả khu vực có núi Tản Viên, tức khu vực hữu ngạn sông Hồng (núi Tản Viên cách huyện Phúc Lộc không quá 20km đường chim bay).

Ngoài ra Cương mục còn dẫn thêm một dẫn chứng rất có ý nghĩa: “Theo Địa lý chí trong Đường thư thì Mi Linh ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm”.

Huyện Phúc Lộc như đã nêu ở trên, nay là huyện Phúc Thọ. Còn huyện Đường Lâm ở vào quãng huyện Hoài An và huyện Mỹ Lương1. Hai huyện này tương ứng với các huyện Quốc Oai, Mỹ Đức, Ứng Hòa của tỉnh Hà Tây.

Ra đời cũng thời gian với Cương mục, bộ sách địa lý Đại Nam nhất thống chí, ở phần tỉnh Sơn Tây, khi nói về huyện Phúc Thọ có ghi cụ thể: “Đời Hán là đất huyện Mê Linh”2. Còn khi nói về huyện Yên Lãng thì cũng ghi cụ thể: “Đời Hán là đất quận Giao Chỉ, có lẽ là huyện Phong Khê. Đời Nam Tề tách ra đặt làm huyện Bình Đạo... Đời Đường đổi làm châu Nam Đạo, lại đổi làm Tiên Châu. Từ đời Đinh đời Lý về sau đặt tên huyện hiện nay”3.

Vậy là theo những ghi chép của các thư tịch trên thì huyện Mê Linh đời Hán nếu có phần đất nào nằm bên tả ngạn sông Hồng thì là ở khu vực tỉnh Phú Thọ, một thời là nửa phía tây của tỉnh Vĩnh Phú, chứ không hề ăn lấn sang đất Vĩnh Yên - Phúc Yên cũ (trong đó có huyện Yên Lãng). Và đại bộ phận đất đai huyện Mê Linh đời Hán là nằm bên hữu ngạn sông Hồng. Theo đó, làng Hạ Lôi thuộc huyện Yên Lãng không thể nào là đất huyện Mê Linh đời Hán được!

Đó là về thư tịch. Còn về tòa thành ở Hạ Lôi thì không phải là các nhà nghiên cứu đều nhất trí coi đó là công trình đắp từ thời Hai Bà Trưng. Ngay hai ông Nguyễn Lộc - Văn Lang tuy tin theo truyền thuyết tòa thành ấy là do Hai Bà xây đắp cũng có lúc tỏ ý nghi ngờ: “Chứng tích đích thực của việc này (việc Hai Bà xây đô thành - N.V.P) hiện nay chưa thấy nhiều. Chưa tìm được dấu vết có hệ thống của nơi cư trú cổ nào thuộc về niên đại đầu Công nguyên ở dưới lớp đất cư trú hiện nay trong thành”4.

Và ông Lê Tượng cũng có ý kiến: “Còn vết tích thành Mê Linh theo bản đồ địa lý và khảo sát bước đầu thì khó có thể kết luận một cách chắc chắn thuộc giai đoạn nào. Nhất là đặt trong mối quan hệ với thành Dền, thành Vượn và diễn biến chiến trận Lãng Bạc thì Mê Linh (nay thuộc Hạ Lôi) khó là kinh đô của Hai Bà Trưng”5.

Riêng chúng tôi thì cho rằng di tích thành ở làng Hạ Lôi này là thuộc về thành Bình Đạo. Vì Đại Nam nhất thống chí đã chỉ dẫn khá rõ ràng. Trong sách đó ở phần tỉnh Sơn Tây, mục Cổ tích có đoạn chép: “Thành cổ Bình Đạo: Theo An Nam chí thì thành cổ Bình Đạo ở phía tây bắc phủ Giao Châu, tức là đất huyện Yên Lãng bây giờ. Hồi thuộc nhà Hậu Hán, năm Kiến Vũ thứ 15, Mã Viện đặt huyện Phong Khê thuộc quận Giao Chỉ. Thời Tam Quốc huyện này thuộc quận Vũ Bình. Nhà Tấn vẫn theo như thế. Nhà Tống vẫn để thuộc quận Vũ Bình. Nhà Tề tách ra đặt huyện Bình Đạo. Khoảng đời Lương, đời Trần bỏ huyện Phong Khê cho nhập vào Bình Đạo. Quảng Châu ký chép Thục Vương kiêm tính lấy Phong Khê tự xưng là An Dương Vương, sau bị Triệu Đà cướp mất. Nay phía đông thành Bình Đạo có thành chín lớp chu vi chín dặm, có lẽ thành này là chỗ ở của An Dương Vương, có người cho đấy là thành cũ Phong Khê”.

Phân tích đoạn sách trên có một số điểm đáng chú ý:

- Phủ Giao Châu nói trong An Nam chí là thành Thăng Long tức nội thành Hà Nội (An Nam chí soạn đời Minh), vậy thành cổ Bình Đạo ở tây bắc nội thành Hà Nội.

- Thành cổ Bình Đạo ấy lại được Đại Nam nhất thống chí chỉ định là ở trên đất Yên Lãng.

- Thành chín lớp của An Dương Vương nói trong Quảng Châu ký chỉ có thể là thành Cổ Loa. Vậy mà thành Cổ Loa được chỉ định ở về phía đông thành Bình Đạo vậy.

Như vậy, một tòa thành nằm trên đất huyện Yên Lãng mà là ở về phía tây bắc nội thành Hà Nội và về phía đông lại có thành Cổ Loa thì chỉ có thể là tòa thành ở Hạ Lôi. Điều này phù hợp với ký ức của người dân Hạ Lôi về một huyện lỵ, huyện đường Chu Diên ở nơi đây. Thực tế là không thể có huyện Chu Diên ở đây, vậy chỉ có thể là thành Bình Đạo. (Và như vậy ký ức cũng khá là bền, vì thành Bình Đạo có từ thời Tề tức thế kỷ thứ VI).

Cho nên nếu muốn dùng những vết tích thành cổ ở làng Hạ Lôi để chứng minh nơi đây là quê hương hoặc kinh đô của Hai Bà Trưng thì sẽ không đạt kết quả vì thiếu chứng cớ xác thực.
____________________________________
1. Dẫn trong Đại Nam nhất thống chí - bản dịch tập IV - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - tr.178.
2. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm - Tập IV - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - tr.178.
3. Bản đã dẫn, tr.184.
4. Bài đã dẫn.
5. Bài đã dẫn.

PHỤ CHÚ 

- Về loại hình kiến trúc “Thành ống” của tòa thành Hạ Lôi thì ông Đỗ Văn Ninh từng có nhận xét như sau:

“Chúng tôi cũng đã đi điều tra thực địa. Phải nói rằng những vết tích thành cổ còn lại hiện nay không sao cho phép dựng lại được một bình đồ kiến trúc. Chúng tôi tỏ ý hoài nghi về những bình đồ đã được mô tả trong một số bài in ở các tạp chí, báo và họa báo trước đây.

Loại hình kiến trúc “thành ống” cũng là điều đáng bình luận. Đông Tây kim cổ chưa hề có một tòa thành xây dựng theo cách này. Hai tường thành, một ngoài một trong cách nhau chỉ từ 1-3 mét sẽ phát huy tác dụng gì trong chiến đấu?

Tường ngoài tất nhiên là chống địch đánh từ ngoài vào, thế còn tường trong? Chẳng lẽ lại để chống với ta? Nếu quân ta hoạt động dưới con đường giữa hai tường thì tường trong chính là vật chướng ngại cho sự quan hệ tiếp viện của ta với phía trong thành, tức hậu phương của ta. Nếu tường trong cũng là vòng tường thứ hai để ngăn quân giặc vào trong, xây dựng theo kiểu những tòa thành có nhiều lớp tường thì khoảng cách một mét sẽ là vô nghĩa đối với quân giặc khi chúng đã phá được thành ngoài.

Thực tế không có kiểu xây dựng thành như thế này. Khái niệm “thành ống” không có trong kiến trúc quân sự. Sử cũ không có nói, kiến trúc thành cổ không thấy còn. Như trên đã viết, đây là một thuật ngữ chỉ thấy có ở Hạ Lôi - Yên Lãng. Nói đúng ra thì nhân dân địa phương cũng không rõ nội dung thuật ngữ này, chỉ nói theo một nguồn mà xuất xứ cũng không rõ nốt.

Trong khi đó, cũng có người ở đây lại cho biết là riêng đoạn có hai lớp lũy đất ở phía sau đền Hai Bà - vẫn được một số người coi là điển hình của “thành ống” - chính là giao thông hào của du kích thời kháng chiến chống Pháp!

… “Thành ốc” Cổ Loa đúng là độc đáo song “Thành ống” Hạ Lôi không độc đáo vì rằng không có cái gọi là “Thành ống”.”.

(Về tòa thành cổ ở xã Mê Linh - Tham luận tại Hội nghị khoa học về Hai Bà Trưng do Sở Văn hóa Hà Nội tổ chức tháng 3-1982).

Còn như về nguồn truyền thuyết thì cũng có lắm mâu thuẫn, không thể lấy làm sử liệu được:

Lời truyền miệng bảo Hạ Lôi là quê của Hai Bà - tức Hạ Lôi phải là đất huyện Mê Linh - nhưng lại nói Hạ Lôi là đất huyện Chu Diên, lại chỉ định cụ thể cả huyện đường của huyện này!

Trong khi ngọc phả chỉ định dứt khoát Hạ Lôi là thuộc huyện Chu Diên và không có một dòng nào nói về quê quán của Hai Bà cũng như về huyện hoặc đất Mê Linh. Cũng ngọc phả chỉ công nhận Hạ Lôi là nơi Hai Bà lập một hành cung (nơi ở tạm của vua khi đi ra ngoài cung điện) chứ không phải lập kinh đô - kinh đô là ở đất Phấn Lộ nào đó!

Thế là về quê của Hai Bà cũng như kinh đô thời ấy trong lời truyền miệng và ngọc phả có nhiều mâu thuẫn, rối ren, do đó nguồn truyền thuyết này thật không thể coi là sử liệu được, nhất là nó lại mâu thuẫn với chính sử. (Toàn thư: “Bà Trưng... đóng đô ở Mê tinh”. Tư trị thông giám cũng chép: “Trưng Trắc... đóng đô ở Mê Linh”). Cho nên đặt huyện Mê Linh đời Hán ở về tả ngạn sông Hồng mà phần đất chủ yếu là huyện Yên Lãng (tức nay là huyện Mê Linh) với trung tâm là làng Hạ Lôi - được coi là gốc quê của Hai Bà Trưng - chủ trương đó có nhiều điểm chưa ổn đáng. Từ năm 1972, căn cứ vào sự khảo sát và phân tích địa hình, địa mạo, ông Đinh Văn Nhật - một nhà nghiên cứu địa lý lịch sử - thấy rằng làng Hạ Lôi đó và cả dải đất ven sông Hồng từ Vĩnh Tường đến Yên Lãng vào thời đầu Công nguyên - khi chưa có đê - là một khu vực mùa mưa thường bị ngập nước. Từ đó ông có nhận xét vùng Yên Lãng (trong đó có Hạ Lôi) dù là một điểm dân cư cổ cũng không thể là nơi sinh cơ lập nghiệp của một dòng họ lạc tướng bao đời thế tập, càng không thể là một trung tâm kinh tế, chính trị của một quận lớn là quận Giao Chỉ (tương đương với Bắc bộ Việt Nam) và hơn thế của cả bộ Giao Chỉ (gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam của Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam)!

Mặt khác, qua khảo cứu thư tịch, Đinh Văn Nhật có một nhận xét là đất đai huyện Mê Linh đời Hán không ăn sang đất Vĩnh Yên - Phúc Yên cũ bên tả ngạn sông Hồng, vì đó là địa hạt huyện Tây Vu và từ năm 43 là địa hạt huyện Phong Khê.

Trên cơ sở những nhận xét như vậy, tác giả đi tìm huyện Mê Linh đời Hán và trị sở của nó ở vùng đất mà Dư địa chí đã chỉ dẫn.

Đó chính là chủ trương thứ hai nhằm lý giải về vị trí của làng Hạ Lôi tương truyền là quê của Hai Bà Trưng và vị trí của huyện Mê Linh đời Hán.

LÀNG HẠ LÔI Ở  HUYỆN THẠCH THẤT

Với những luận văn nghiên cứu công phu, công bố trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử các số 148, 149, 172, 190, 1911, Đinh Văn Nhật lần lượt chứng minh rằng huyện Mê Linh đời Hán so với ngày nay là khu vực bao gồm tỉnh Phú Thọ và phía tây của Hà Tây.

Từ chỗ xác định huyện Mê Linh như vậy, tác giả đưa ra một chủ trương mới về quê hương Hai Bà: vùng Hạ Lôi mà phần đất chủ yếu nay là xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất gần như nằm ở trung tâm huyện Mê Linh đời Hán mới là quê của Hai Bà Trưng. Trị sở của huyện Mê Linh ấy cũng như của quận Giao Chỉ tất cũng ở khu vực đó. Những kiến giải của ông có thể tóm tắt như sau:

1. Vùng Hạ Lôi ấy có tên Nôm là Kẻ Lói. Từ tên Nôm đó mà thành ra tên Hán - Việt là Cổ Lôi2, tên gọi của làng Hạ Lôi này đồng thời cũng là trùng với tên cũ của làng Hạ Lôi bên Yên Lãng.

Ngày trước, đây là một vùng trù phú nên tục ngữ có câu “Đói thì vào Lói mà ăn”3. Thực ra Kẻ Lói không chỉ là một làng Hạ Lôi ngày nay mà bao gồm cả khu vực nay là các làng ở gần nhau, tên gọi có cùng một từ gốc là Lôi: Văn Lôi, Vân Lôi, Trạch Lôi v.v... Đây là một vùng bậc thềm ổn định - gọi theo tên địa lý học là bậc thềm Ba Vì - mà thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, ngành khảo cổ đã tìm thấy trong lòng đất những hiện vật thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn tức thời gian dăm bảy thế kỷ sát mốc Công nguyên. Năm 1975, ở xã Lại Thượng cũng thuộc huyện Thạch Thất có đào được 14 chiếc rìu đồng và một ngọn giáo đồng. Điều này nói lên rằng Kẻ Lói và lân cận là những trung tâm cư dân thời đầu Công nguyên tức thời kỳ Hai Bà Trưng.

2. Dự đoán này được truyền thuyết ủng hộ: ở đây có những lời kể về những dấu tích thuộc về Hai Bà như xóm Nội Nhà được kể là nơi Hai Bà cất tiếng chào đời, tức cũng là nơi có dinh cơ của lạc tướng Mê Linh, hoặc dải đất sau lưng chùa Cao được kể là nơi Hai Bà tổ chức khao quân. Lại còn những địa điểm được coi là dinh xưa, là tàu voi, là chiến trường v.v...

3. Ngoài ra nhìn dưới góc độ quân sự sẽ thấy vị trí trọng yếu của vùng được giả định là trung tâm huyện Mê Linh này về mặt chiến lược: ba mặt tây, bắc và đông được vào vệ bằng ba dải sông lớn là sông Đà, sông Hồng và sông Đáy, còn mặt nam thì có núi rừng Hòa Bình che chở. Từ trung tâm này có thể “tiến khả dĩ công” tỏa ra vùng đồng bằng, mà “thoái khả dĩ thủ” rút về giữ vùng núi rừng hiểm trở. Hoặc gặp khó khăn hơn thì sẵn có con đường hành lang Miếu Môn - Chi Nê - Nho Quan len lỏi giữa hai bên triền núi đá vôi mà rút vào Cửu Chân (như năm 43, sau khi thất thủ Cấm Khê thì tướng của Hai Bà là Đô Đương - Chu Bá đã theo đường này mà vào lập căn cứ kháng chiến ở các huyện Vô Công, Dư Phát trong quận Cửu Chân).

4. Để hoàn chỉnh chủ trương trên (huyện Mê Linh đời Hán ở bên hữu ngạn sông Hồng và quê của Hai Bà là Hạ Lôi thuộc Thạch Thất), Đinh Văn Nhật còn lý giải vấn đề tại sao lại có làng Hạ Lôi bên Yên Lãng với những dấu vết được cả một hệ thống truyền thuyết minh họa.

Ông cho rằng sau khi Mã Viện hoàn thành cuộc xâm lược hắn đã san bằng vùng Kẻ Lói - Cổ Lôi trù phú để trả thù dòng họ lạc tướng và nhân dân ở đây (cũng như đã san bằng đất Chu Diên của Thi Sách). Để xóa bỏ tận cùng mọi dấu vết, hắn còn dời dân những vùng này đến nhiều nơi khác nhau trong đó có vùng bãi sông Hồng và vùng mép bậc thềm Tam Đảo. Những người Kẻ Lói - Cổ Lôi cũng như những người dân Chu Diên đã mang theo cả tên làng tên đất cũ sang đặt cho vùng quê mới. Cho nên bên Yên Lãng quê mới cũng có những địa điểm, địa danh Cổ Lôi, Văn Lôi, Chu Diên, Đồng Vỡ, xóm Nội Nhà v.v...
____________________________________
1. Đất Cấm Khê, căn cứ cuối cùng của Hai Bà Trưng... (NCLS số 148- 149). Huyện Mê Linh thời Hán (NCLS số 172). Đất Mê Linh, trung tâm chính trị, quân sự và kinh tế của huyện Mê Linh... (NCLS số 190-191).
2. Đúng có một thực tế là để phiên âm những tên làng có chữ Kẻ đứng đầu thì sách xưa (Việt Nam cũng như Trung Quốc) đều dùng chữ Cổ, như Kẻ Chủ = Cổ Loa, Kẻ Du = Cổ Đô, Kẻ Mơ = Cổ Mai, Kẻ Noi = Cổ Nội (sau mới thêm một nét trên chữ Nội thành Nhuế) v.v...
3. Ngày trước và cả tới nay, nước sông Tích rất thất thường, mùa mưa nước từ núi Ba Vì, núi Vua Bà dồn về hay gây thiên tai thủy hại cho các làng ở ven sông. Do đó năm nào mất mùa thì dân các làng này vào Kẻ Lói tìm sự giúp đỡ.

Gần đây tiến hành khảo sát vùng này một cách chi tiết hơn, chúng tôi thấy thêm nhiều “dữ kiện”:

1. VỀ CẤU TRÚC LÀNG XÃ

Làng Hạ Lôi - Kẻ Lói nằm bên bờ phải sông Tích, cách trung tâm nội thành 25km đường chim bay về phía chính tây. Ngày nay làng Hạ Lôi hợp với làng Bằng Trù thành xã Hạ Bằng. Trước đây cả hai làng có 12 xóm: 1. xóm Khoang Mè, 2. xóm Cầu, 3. xóm Đầm, 4. xóm Quán, 5. xóm Cốc, 6. xóm Mương Ốc, 7. xóm Vực Giang, 8. xóm Trũng Nu, 9. xóm Gò Mận, 10. xóm Cổ Chềm, 11. xóm Chằm Mỏn, 12. xóm Khu Ba.

Từ năm 1956, hai xóm Khu Ba và Chằm Món cắt về xã Đồng Trúc. Hai xóm Gò Mận và Cổ Chềm cũng hợp làm một. Như vậy, hiện xã Hạ Bằng còn có 9 xóm.
(http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/AnhsachQsu/HaLoiBangTru.jpg)
h. Sơ đồ HẠ LÔI (BẰNG TRÙ)

Một điều đặc biệt là tuy trên danh nghĩa có hai làng (Hạ Lôi và Bằng Trù) nhưng thực thế chỉ là một. Có lẽ ở tỉnh Hà Tây hiếm có nơi nào giống như ở đây. Về mặt địa lý hành chính thì đó là hai làng riêng biệt. Ngày trước, trong thời phong kiến cũng như thời Pháp thuộc, mỗi làng có lý trưởng riêng, có triện đồng riêng nhưng không có địa phận riêng. Tự những thời xa xưa, khi mà Hạ Lôi còn có tên là Cổ Lôi và Bằng Trù là Minh Trù thì cũng đã thế này, dân hai làng ở xen kẽ với nhau, hai làng chung xóm, chung đồng, chưng cả đình miếu. Nghĩa là cũng trong một xóm nhưng nhà này là của người Hạ Lôi thì đó là đất làng Hạ Lôi, nhà bên cạnh là của người Bằng Trù thì đó lại là đất làng Bằng Trù và ngôi nhà tiếp theo nếu chủ là người Hạ Lôi thì đó lại là đất của làng Hạ Lôi v.v... Đồng ruộng cũng vậy, hễ một thửa ruộng về người làng nào thì thửa ruộng đó thuộc về đất của làng ấy. Cho nên hai làng Hạ Lôi và Bằng Trù không có ranh giới phân chia riêng biệt, tình trạng đó gọi là hỗn cư hỗn canh.

Sở dĩ có tình trạng như vậy là do một nguyên nhân lịch sử. Người ở đây kể rằng xưa kia làng Minh Trù ở phía thấp và làng Cổ Lôi ở phía cao. Tới một thời - chẳng nhớ là thời nào - dân Cổ Lôi có mắc míu gì đó với quan trên nên có lệnh triệt hạ làng, dân bị đuổi đi nơi khác còn đất đai thì giao cho làng Minh Trù. Mãi sau, một số người Cổ Lôi tìm về quê cũ, được người Minh Trù nhường đất, nhường đồng cho, do đó mà hình thành cái thế hỗn cư hỗn canh cho tới tận ngày nay.

Với hoàn cảnh ăn ở và làm lụng xen kẽ như vậy nên hai làng chỉ xây chung một ngôi đình. Khi có việc làng thì dân Hạ Lôi ngồi bên trái và dân Bằng Trù ngồi bên phải, mọi việc tế lễ, bổ bán đều làm chung cả.

Liệu ký ức về một làng Cổ Lôi bị triệt hạ đó có thể chính là ký ức đã phai nhạt về một sự thực quá xa xưa là Mã Viện đã san bằng Cổ Lôi trang được không?

2. VỀ ĐÌNH MIẾU

Hai làng chung nhau một ngôi đình. Đình vốn ở xóm Quán, đã bị phá. Trên nền đình nay là trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Ngày trước tại đình này thờ ba thành hoàng là Cao Hưng, Tuấn Tĩnh và Trung Liệt. Lời truyền miệng ở đây kể rằng đó là ba người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Khi ông bà chia con thì ba vị đó đến ở vùng này, dạy dân cày cấy, lập thành làng mạc. Dân cảm ơn công đức ấy, lập miếu thờ. Đến thời Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà có kỳ đảo ở miếu, rồi nằm mộng thấy ba ông lão đầu râu tóc bạc tự xưng là Cao Hưng, Tuấn Tĩnh, Trung Liệt tới xin âm phù trợ giúp. Sau khi đánh đuổi được giặc Hán, Hai Bà cho dân Minh Trù dựng đình miếu nguy nga thờ ba vị đó làm thành hoàng.

Ngoài ngôi đình ấy, ở Hạ Lôi - Bằng Trù còn có một ngôi đền thờ Hai Bà Trưng tương truyền là dựng trên chính nơi Hai Bà tập hợp đại quân. Ở vùng này các làng thường gọi đền thờ thần là quán, và quán thờ Hai Bà ở trên một gò cao, bên dưới là ao sen nên quán đó có tên là quán Ao Sen - (ở Chương năm sẽ trở lại ngôi quán này).

Về chùa thì có hai ngôi: chùa Cao (Báo Ân tự) là chùa của Hạ Lôi và chùa Thấp (Thiên Trúc tự) của Bằng Trù. Chùa Cao thuộc xóm Cốc, ở phía sau chợ mới. Chùa Thấp thuộc xóm Đầm chỗ có trại chăn nuôi. Tại chùa Cao có một tấm bia khắc năm Minh Mạng thứ hai nhưng không liên quan gì tới Hai Bà Trưng.

3. VỀ TRUYỀN THUYẾT

Ở vùng Kẻ Lói này có lưu truyền những chuyện kể về Hai Bà Trưng mà gần đây có người - dường như một ông đồ hoặc ông hương sư - đã ghi lại thành văn bản. Nhưng văn bản này có lắm nhầm lẫn, nhất là lại thêm thắt nhiều chi tiết phi lịch sử, hiện đại hóa1. Dưới đây chỉ trình bày lại phần cốt lõi:

“Sau khi Thi Sách bị Tô Định hại, bà Trưng Trắc trở về quê cha là Kẻ Lói, ở tại xóm Nội Nhà2. Rồi bà vào vùng núi mộ quân, luyện tập. Sau ba năm tích thảo dồn lương, bà dựng cờ khởi binh. Nay ở khu vực Khoang Lọng có cái giếng Cột tương truyền là nơi dựng cột cờ của nghĩa quân. Hai Bà còn lập một số đồn trại ở quanh Kẻ Lói: phía Bắc có một đồn quân ở làng Cố Thủ (còn gọi là Hương Trung), phía nam có một đồn tượng binh đóng ở làng Trúc Voi v.v... Giữa cánh đồng có Đồng Kho vốn là nơi tích lương thực, vũ khí. Bà Trưng Nhị đóng ở bên bờ trái sông Tích, chỗ Bến Nghệ nhìn sang, nơi đó nay còn một tên gọi là xóm Nhà Bà.

Vào một ngày mùng 6 tháng Mười Một, Hai Bà khao quân ở Ao Sen (nơi đó, sau dân lập quán thờ Hai Bà). Quân đông không đủ nồi nấu cỗ, phải làm cỗ thịt lột, tức là trâu lột xong da thì đặt thịt lên trên da mà nấu. Do đó cho tới trước Cách mạng tháng Tám, hàng năm vào ngày 6 tháng Mười Một làng vào đám vẫn có lệ làm tiệc trâu lột”.

Bấy nhiêu lời kể có từ xa xưa hẳn không phải là hoàn toàn bịa đặt, chắc chắn là một cơ sở thực tế. Khắp đồng bằng sông Hồng không có làng nào tự nhận là quê hương của Hai Bà Trưng, trừ làng Hạ Lôi - Kẻ Lói này và Hạ Lôi bên Yên Lãng. Vậy mà Hạ Lôi - Kẻ Lói đích thực thuộc huyện Mê Linh, theo sử sách là huyện quê của Hai Bà.

Cho nên chủ trương của Đinh Văn Nhật (coi Hạ Lôi - Kẻ Lói là quê gốc của Hai Bà) có một giá trị nhất định. (Thực ra Đinh Văn Nhật không hoàn toàn phủ định Hạ Lôi bên Yên Lãng mà ông cho rằng Hạ Lôi đó là “hậu thân” của Hạ Lôi - Kẻ Lói tức là cũng đã có tới non hai nghìn năm lịch sử).
____________________________________
1. Ông cụ Hai Tấn ở xóm Khoang Mè đã tìm cho chúng tôi đọc tài liệu này. Xin cảm ơn nhiệt tình giúp đỡ ấy. Nhưng tài liệu có nhiều sự lầm lẫn, như chép rằng Thi Sách làm tri phủ Vĩnh Tường, lạc tướng cha của Hai Bà Trưng làm thứ sử Vĩnh Yên, rồi khi Hai Bà khởi nghĩa có nằm mộng thấy thần cho một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, hoặc Trưng Nhị là thứ hậu của Thi Sách v.v… Về niên đại thì đối chiếu âm lịch với dương lịch một cách tùy tiện, sai nhiều. Ví như khi kể về việc Tô Định sang làm thái thú Giao Chỉ tài liệu này viết: “Năm Giáp Ngọ - 11 trước Tây lịch, Tô Định sang Giao Chỉ, cho Thi Sách làm thứ sử (!!)”.
2. Xóm Nội Nhà nay không phải là khu dân cư mà là khu đất canh tác bên đường từ Cổ Chềm sang Trúc Voi.

4. VỀ ĐỊA DANH

Ở Hạ Lôi - Kẻ Lói có những địa điểm tương truyền là dấu vết của cuộc đấu tranh chống giặc Hán mà tên gọi gắn với sự tích chiến đấu. Như xóm Mương Ốc được coi là nơi có hào sâu, có vọng gác, mỗi khi giặc kéo đến thì thổi ốc, thổi tù và làm hiệu. Hoặc có khu đất mang tên Ao Xâu, tương truyền là nơi giặc xâu tay người lại rồi lấy mã tấu dóc một loạt thủ cấp. Lại có chỗ gọi là Đấu Đống tức nơi mà giặc giết dân làng rồi vun thành một đống đầu chôn chung vào một hố. Sự việc này xảy ra ngày mùng 1 tháng Tư nên trước đây, hàng năm làng có lệ làm cỗ chay vào ngày đó để cúng cô hồn.

Nếu nói ra khỏi địa giới Hạ Bằng thì chỉ vài trăm mét về phía đông thì có xóm Trúc Voi tương truyền là nơi nuôi voi của nghĩa quân Hai Bà, có xóm Đồng Kho tương truyền là kho lương thảo và vũ khí, có xóm Đồng Táng là nơi an táng nghĩa quân tử trận. Cả ba xóm này nay thuộc xã Đồng Trúc, xã láng giềng của Hạ Bằng, cũng thuộc về huyện Thạch Thất.

Về xã láng giềng phía tây là xã Tân Xã (cũng thuộc huyện Thạch Thất) có thôn Rộc Vừa (Mục Uyên) ở sát ngày địa giới Hạ Lôi, thờ Lý Minh theo thần tích là một tướng của Hai Bà Trưng.

Ở cạnh bờ sông Tích nay thuộc Tân Xã có khu đất gọi là Quán nhà vươn (vương?) tương truyền có dấu vết thành lũy cổ, hiện còn những mô đá được coi là móng thành.

Xa hơn một chút, cách địa giới Hạ Lôi khoảng 3km về phía đông nam, ở xã Phú Mãn thuộc huyện Quốc Oai, Hà Tây, có khu vực tên là Đồng Vỡ, tương truyền là nơi quân Hán bị quân Hai Bà đánh tan vỡ, lại có xóm Thắng Đầu tương truyền là nơi nghĩa quân Hai Bà đánh thắng quân Hán trận đầu.

Thực ra, cũng như ở bên Hạ Lôi - Yên Lãng, các địa danh, địa điểm được gắn vào các sự kiện lịch sử cũng chỉ là những chứng tích huyền kỳ, chưa phải trường hợp nào cũng là cứ liệu chắc chắn. Chưa có hoàn cảnh và phương tiện để giám định tư liệu này, chúng tôi ghi lại ở đây chỉ với mục đích bảo tồn tư liệu.

5. VỀ NHỮNG DI VẬT CỔ

Tháng 6 năm 1979, ở xã Hạ Bằng phát hiện một số vật cổ bằng đồng thau. Nơi phát hiện là một gò đất cao ở giữa cánh đồng về phía tây khu dân cư. Gò ấy tên là gò Giếng Sãi. Đây là sự phát hiện tình cờ, nhân đào đất có người nhận ra các hiện vật này ở sườn gò. Tất cả gồm một ngọn giáo và 44 rìu to nhỏ khác nhau. Hầu hết là rìu lưỡi xéo, được xếp đặt theo một thứ tự nhất định, cán quay lên trên cùng về một phía, rìu lớn và ngọn giáo được xếp ở giữa tất cả như được bó gọn trước khi chôn.

Theo nhận xét sơ bộ của giới khảo cổ thì các công cụ sản xuất kiểu vũ khí này thuộc về thời kỳ đồng thau, muộn nhất cũng là tương đương thời kỳ Hai Bà Trưng1.

Hiện nay ở khu Dồi De cạnh bờ sông Tích trong một hố sâu có hai con voi đá đục dở (chưa có chân). Theo lời kể truyền miệng thì đây là đôi voi mà dân làng Hạ Lôi - Kẻ Lói định đem sang làm quà cho huyện Chu Diên, nơi quê cũ của ông Thi Sách. Nhưng tạc chưa xong thì Hai Bà thất trận nên mọi việc ngừng lại. Kể ra bằng chất liệu đá ong mà tồn tại hai nghìn năm thì e cũng khó, cho nên trong khi chưa xác định được niên đại cụ thể thì chỉ có thể coi đôi voi này là một chứng tích huyền thoại.

Nói rộng sang vùng lân cận thì năm 1977, tại xã Đồng Trúc láng giềng của xã Hạ Bằng, có đào được một trống đồng, trống để ngửa, bên trong có một thanh kiếm sắt (đã rỉ và gầy). Nơi đào trống cách địa giới Hạ Bằng khoảng 1000 mét. Theo nhận xét sơ bộ của giới khảo cổ thì đây là trống đồng dạng trung gian giữa loại II và loại IV Hêgơ, tức là sản phẩm đầu Công nguyên2.

Ngoài ra, ông Nguyễn Danh Phiệt trong luận văn Khôi phục và nghiên cứu lịch sử chân thực cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (lưu tại Ban Sử - Viện Thông tin khoa học xã hội) cho biết rằng ở xã Tuyết Nghĩa nay thuộc huyện Quốc Oai (Hà Tây), cách Hạ Bằng không quá 2km đường chim bay, nơi đây có phát hiện nhiều mộ Hán trên các gò gọi là Tam Tinh, Thất Tinh... cùng với nhiều mũi tên đồng, giáo mác và cả gương đồng nữa. Tại đồi Giáp, xã Đồng Yên còn có ngôi đền thờ bà Mai Thị Trang tương truyền là tướng của Hai Bà. Cạnh đền vẫn còn ngôi mộ bà Trang. Cách mộ một đoạn là nơi chôn yên cương của con ngựa chiến của bà. Cách đây gần một thế kỷ có người đào được ở chỗ này một thanh kiếm sắt và khoảng bảy chục cái lục lạc bằng đồng.

Như vậy thì bằng vào tư liệu khảo cổ học, vùng Kẻ Lói và lân cận vào đầu Công nguyên là những khu vực dân cư có cả người Việt và người Hán cư trú. Điều này có thể gợi ý về một đô úy trị hoặc trị sở của một huyện hay một quận thời đó.

Tóm lại, chủ trương của Đinh Văn Nhật đặt huyện Mê Linh đời Hán ở bờ phải sông Hồng - từ các huyện Hạ Hòa, Cẩm Khê của tỉnh Phú Thọ, qua các huyện phía tây của Hà Nội, tới Chương Mỹ, Hoài Đức - là dựa trên các thư tịch xưa của những tác giả có uy tín. Đóng góp mới của Đinh Văn Nhật chính là sự chỉ định trung tâm của huyện Mê Linh ấy là vùng Kẻ Lói với một loạt các làng Hạ Lôi, Vân Lôi, Trạch Lôi.. nơi giáp ranh các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Lương Sơn. Nơi đó đồng thời cũng là quê hương của Hai Bà Trưng. Sự chỉ định này, chủ yếu là bằng phương pháp địa lý học lịch sử có kết hợp phương pháp sử học, ngay từ khi mới phát biểu (năm 1972) đã được giới nghiên cứu chú ý. Đành rằng việc kiểm nghiệm tính chính xác của một phát hiện hoàn toàn mới mẻ về cổ sử đòi hỏi một thời gian đáng kể và tuy trong chủ trương trên cũng có một vài sơ xuất, rõ nhất là việc tác giả quá nệ vào các địa danh Hán - Việt nên ở đôi chỗ lập luận có giảm tính thuyết phục3, nhưng nói chung, cho đến nay những kết quả khảo sát thực địa, những truyền thuyết, ngọc phả mới được tìm ra những di vật khảo cổ, những dấu vết vật chất v.v... ở vùng này đã bổ sung, hỗ trợ không ít cho chủ trương đó, khiến nó trở nên một giả thuyết khoa học có nhiều khả năng tiếp cận với chân lý lịch sử.
____________________________________
1. “Phát hiện một số đồ đồng ở Hạ Bằng huyện Thạch Thất” Nguyễn Thị Dơn - “Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1979” – tr. 100.
2. Phát hiện trống đồng Đồng Chúc - Nguyễn Văn Huyên - Hà Văn Thắng - “Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1978” tr.154.
3. Như trường hợp tác giả cho rằng những làng có chữ Trưng trong tên gọi như Vĩnh Trưng, Vân Trưng, Thế Trưng... (huyện Yên Lạc) là có liên quan đến tộc danh Trưng. Thực ra những tên Hán - Việt xuất hiện rất muộn. Các làng trên vốn có tên Nôm là Kẻ Dưng, như vậy tất không liên quan gì tới họ Trưng của Hai Bà. Hoặc do dựa vào một thông tin sai của Cl. Madrôn - là ở Hạ Lôi (Yên Lãng có đầu Đầu Bằng Thượng, ông Đinh Văn Nhật cho đó là ký ức về hai làng cổ Thắng Đầu và Bằng Lộ. Thực ra ở Hạ Lôi là đất Đầu Bàng Thượng!)

Chương Ba
CUỘC KHỞI NGHĨA
NGUYÊN NHÂN

Giải thích về nguyên nhân cuộc khởi nghĩa, một số sử sách cho rằng do Tô Định giết Thi Sách mà Hai Bà dấy binh, như Đại Việt sử Kí tiền biên (q.3) chép: “Chồng bà Trắc bị (Tô Định) giết, bà Trắc sinh thù”, hoặc như Cương mục chép: “Thái thú Tô Định là người tham bạo, giết chồng bà (Trưng Trắc), bà cùng em là Nhị cử binh đánh châu trị”.

Thực ra, không thể cắt nghĩa nguyên nhân của một cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn như cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bằng việc thù hận cá nhân. Đành rằng ở đây việc Tô Định giết Thi Sách còn có nghĩa là đánh vào giai cấp quý tộc bản địa, với âm mưu tiêu diệt các lạc tướng là hình tượng tiêu biểu cho sự tồn tại của ý thức tự lập dân tộc Việt nhưng nếu không phải là sự vươn mình của cả một dân tộc nhằm giải quyết mối mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc mình và chính quyền đô hộ đã đến độ chín thì cuộc khởi nghĩa khó mà thành công. Vả cũng có những sách ghi là bà Trưng Trắc đã cùng chồng mưu việc lớn. Như Thủy kinh chú (q.37) còn chép: “Trắc cùng Thi (Sách) khởi nghĩa”. Hoặc như Thiên Nam ngữ lục có kể rằng Trưng Trắc khi ấy còn ở nhà đã căm giận “Tô Định gian manh”, tới lúc lấy Thi Sách thì cả hai vợ chồng “toan đường mở nước dựng nên nghiệp nhà”, do đó Tô Định cất binh đàn áp. Như vậy lại là bà Trưng Trắc trù tính việc khởi binh khi Thi Sách còn sống.

Cho nên việc Thi Sách bị giết hại, nếu đúng, chỉ là cái cớ, cải nguyên nhân trực tiếp. Cuộc khởi nghĩa còn có những nguyên nhân sâu xa hơn.

Một số sử sách có đưa ra những cách lý giải khác. Như Toàn thư ghi: “Vua (bà Trưng Trắc) khổ vì Tô Định dùng pháp luật trói buộc (nguyên văn: thằng dĩ pháp), lại thù Định giết chồng, bèn cùng em là bà Nhị khởi binh”1.

Linh Nam chích quái cũng chép tương tự: “Bấy giờ thứ sử Giao Châu (thực ra là thái thú Giao Chỉ) là Tô Định, tham lam tàn bạo, người trong châu quận khổ vì hắn. Bà chị giận, rủ em cất quân đánh hãm Giao Châu”2.

Sử Trung Quốc cổ cũng ghi như vậy. Hậu Hán thư (q. 86) ghi: “Trưng Trắc là con gái lạc tướng Mê Linh, gả làm vợ Thi Sách, người huyện Chu Diên, rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ Tô Định dùng pháp luật trói buộc (dĩ pháp thằng chi). Bà oán giận nên làm phản”.

Tư trị thông giám (q.43): “Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng pháp luật trói buộc. Trưng Trắc oán giận”.

Việt kiệu thư (q.3): “Thái thú Tô Định tham lam độc ác dùng pháp luật trói buộc, Trưng Trắc giận, cùng em là Nhị làm phản”.

An Nam chí (q.2): “Định tham bạo đến nỗi người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc, Trưng Nhị làm phản”.

Theo các tài liệu trên thì nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là do Tô Định tham lam bạo ngược, dùng pháp luật (của chính quyền ngoại tộc Đông Hán) trói buộc dân Giao Chỉ, có ý nghĩa là đánh vào truyền thống của dân Việt.

Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu của cuộc khởi nghĩa này, như đã sơ bộ đề cập tới ở Chương một chính là chính sách áp bức bóc lột và đồng hóa của nhà Đông Hán tới những năm đầu Công nguyên đã trở nên quá tàn tệ, thâm độc, đẩy nhân dân Giao Chỉ đến chỗ khốn cùng. Thảm họa bị diệt vong, diệt chủng là điều mọi người đều cảm nhận thấy và không thể cam chịu mà phải vùng lên tự cứu! Đó chính là đáp số mà người Giao Chỉ đã tìm ra qua thực tế cuộc sống. Cho nên những hành vi bạo ngược của Tô Định chỉ là mồi lửa làm bùng cháy cái bể dầu đang âm ỉ sôi.

Thật ra thì Tô Định là một gã khét tiếng tham lam. Ngay Mã Viện cũng có nhận xét “Tô Định giương mắt mà trông tiền”. Câu nói hình ảnh đó đã khái quát tính cách của Tô Định. Đã “giương mắt trông tiền” thì còn từ một thủ đoạn nào mà chẳng dùng để bóp nặn, đục khoét cướp đoạt tài sản của dân, trấn áp dân.
____________________________________
1. Bản dịch đã dẫn - tr.91.
2. Bản dịch đã dẫn - tr.62.

Việc mà sử cũ gọi là “dùng pháp luật trói buộc” người dân thì hẳn là chỉ việc Tô Định áp dụng luật Hán để trị người Việt. Thực tế đương thời là luật Hán khác luật Việt. Mã Viện sau đó từng “tâu hơn mười việc về luật người Việt khác với luật người Hán”. Rõ ràng là giữa hai hệ thống luật pháp của hai nước có khác nhau1. Bất chấp phong tục, tập quán và truyền thống của người Việt, Tô Định đã sử dụng luật Hán làm công cụ trấn áp, khủng bố và trên hết là nhằm phủ định sự tồn tại của người Việt. Như vậy không chỉ là “trói buộc” người dân Việt mà cả tầng lớp quý tộc bản địa (lạc hầu, lạc tướng) cũng bị đụng chạm, quyền hành của họ bị hạn chế lại.

Tuy nhiên, Tô Định dù tham bạo, hà khắc như thế thì cũng chỉ góp phần đẩy sự bất mãn thêm mâu thuẫn giữa nhân dân và chính quyền đô hộ vốn nảy sinh từ lâu và trở thành nghiêm trọng ít ra là từ thời Tích Quang.

Như đã nêu ở Chương một, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ từ đời Hán Bình đế (1 đến 5 s.c.n) và ở tới năm 34. Theo ghi chép của sử Trung Quốc thì Tích Quang đã đón nhận các quý tộc sĩ phu Hán tộc ồ ạt lánh nạn Vương Mãng (8 đến 23 s.c.n) và tìm cách cướp ruộng đất của các làng xóm Lạc Việt, Âu Việt để cấp cho bọn đó lập trang trại riêng. Theo sau sự việc này là một loạt người dân bản địa bị biến thành nông nô, nô tì cày ruộng và hầu hạ các “chủ nhân” Hán tộc.

Như vậy, người lao động ở Giao Chỉ bị mất đất, bị nô lệ hóa mà các lạc tướng cũng thấy phạm vi quyền hành của mình bị thu hẹp. Tích Quang còn phối hợp với các sĩ phu Hán tộc mở trường dạy học, truyền bá lễ giáo phong kiến Nho gia, hình thành một hệ tư tưởng hoàn toàn xa lạ đối với người Việt và làm nảy sinh một tầng lớp Nho sĩ bản xứ trực tiếp giao thiệp, phục vụ chính quyền đô hộ. Điều này cũng khiến các lạc tướng bất bình vì một bộ phận dân chúng tuột ra khỏi vòng kiểm soát của họ. Có tài liệu còn nói trước đó số quân lính đồn trú tại các thành huyện, thành quận và vài chốt khác toàn là người Hán thì bấy giờ Tích Quang tuyển thêm cả người bản địa vào. Điều này có thể tin được vì năm 30, nhà Hán bãi bỏ chức đô úy và đô úy thừa (là hai chức trưởng và phó chỉ huy quân đội, coi việc canh phòng trị an), cho thái thú kiêm giữ cả. Được toàn quyền, lại có chủ trương “dĩ Man trị Man” Tích Quang rất có thể tạo ra một cơ cấu lính ngụy tay sai để tiếp tay đàn áp dân Việt có hiệu quả hơn2.

Như thế, ách trực trị dưới thời Tích Quang đã thêm xiết chặt, cuộc sống nhân dân Giao Chỉ càng bị bóp nghẹt mà quý tộc bản địa cũng thêm nhiều bất mãn. Ngoài ra, như đã nêu ở trên, đây là thời điểm mà Hán Quang Vũ rất muốn đồng hóa nước Âu Lạc để bước đường bành trướng xuống phương nam đỡ bị trở ngại.

Cho nên, đến thời Tô Định, với chủ tâm thực hiện ý đồ cuồng vọng của “hoàng đế”, với tính cách tham bạo, độc ác tên thái thú này chỉ là kẻ cuối cùng đem lửa đến cho dầu. Bằng quyền lực và pháp luật hà khắc, hắn thẳng tay vơ vét, đàn áp nhân dân, đồng thời chèn ép, ràng buộc các lạc tướng huyện lệnh. Những ai có ý chống đối đều bị hắn trừng trị hoặc thủ tiêu. Chính sử chỉ ghi có vụ Tô Định sát hại Thi Sách. Nhưng ở nguồn thần tích ngọc phả của Hà Tây và Vĩnh Phúc thì khá nhiều bản ghi tội trạng này của Tô Định như thần tích làng Nghĩa Lộ (xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức) kể rằng Tô Định đã giết Nguyễn Viên là trưởng doanh Cổ Châu (vùng Thanh Oai), vì ông này không chịu phục tùng. Thần tích làng Cổ Ngõa (xã Phương Đinh, huyện Đan Phượng) cho biết Tô Định đã giết Nguyễn Anh là quan doãn ở Đan Phượng vì ông không chịu nộp thuế cho thái thú. Rồi nào là Đinh Đạm là trưởng bộ hộ Vũ Ninh (theo thần tích làng Bạch Trữ, xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh), Hùng Linh lạc tướng ở Hạ Trì (theo thần tích làng Hạ Trì, xã Liên Hà, huyện Đan Phượng), Cao Cự là lại viên ở Thiên Trường (theo thần tích làng Tháp Thượng, xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng) v.v... đều là những nạn nhân của chính sách khủng bố của Tô Định.

Nhưng trong thực tế, sự xiết chặt ách thống trị đã không thể làm cho người Việt sợ hãi mà chỉ làm cho mâu thuẫn giữa người Việt và chính quyền Hán thêm sâu sắc. Cuối cùng, sự căm phẫn chứa chất của quần chúng đã trào dâng tạo thành nhiều cuộc nổi dậy lớn nhỏ ở nhiều địa phương để rồi quy tụ lại ở cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo.
____________________________________
1. Sẽ nói rõ hơn ở phần sau.
2. Dưới thời Tích Quang thực đã có hoặc chưa có bộ phận ngụy quân thì cần có thêm tài liệu gốc, nhưng dưới thời Tô Định - theo truyền thuyết - thì đã có và không phải là ít. Thiên Nam ngữ lục có kể là sau khi phá tan quận thành thì Hai Bà có công bố một số chính sách, trong đó có chính sách với ngụy quân: bao nhiêu sĩ tốt ngày trước bị Tô Định bức vào lính thì bây giờ ai muốn về quê sẽ cho về, ai muốn theo khởi nghĩa thì cho theo.

NHỮNG CUỘC NỔI DẬY Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG

Tới thời Tô Định cầm quyền, người dân Việt do cống nạp, lao dịch, thuế má... quá nặng nề nên rất mực cơ cực. Ách cai trị của chính quyền đô hộ thêm trực tiếp và xiết chặt hơn trước khiến các lạc tướng và quý tộc địa phương cũng bị chèn ép hơn. Thực tế đó đã làm nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân ở nhiều vùng khác nhau. Sử Trung Quốc không ghi các trường hợp này nhưng nếu như ở thời Tây Hán, nhân dân ta đã từng nổi dậy chống bọn đô hộ - điều này sử Trung Quốc có ghi1 - thì tới thời Tích Quang, Tô Định tất không bao giờ chịu bó tay.

Sử Việt Nam thì bộ ra đời sớm nhất cũng là sau Công nguyên mười bốn thế kỷ nên không ghi được gì về những cuộc nổi dậy tất phải có này (Ngay cuộc khởi nghĩa của Hai Bà mà cũng còn chép rất sơ lược). Chỉ có truyền thuyết dân gian, kho bảo lưu những ký ức về lịch sử của người đời xưa là còn giữ được một vài hình ảnh của thời kỳ ấy: thần phả, thần tích (một hình thức văn bản hóa của truyền thuyết) của một số làng vùng trung châu còn ghi lại sự tích đánh giặc Hán trước khi Hai Bà Trưng dấy nghĩa của một số thủ lĩnh nghĩa quân. Đành rằng thần tích, ngọc phả có nhiều chi tiết hoang đường, hư cấu nhưng vẫn chứa một cốt lõi lịch sử, vẫn có một nguyên mẫu trong thực tế. Có điều là tách lọc được cái cốt lõi, cái nguyên mẫu ra khỏi mớ hỗn độn của những sự việc do đời sau bịa đặt, gán ghép thì lại không phải đơn giản mà là một công phu giám định nghiêm túc phối hợp những phương pháp khảo sát khác nhau của nhiều bộ môn khoa học. Ở đây chưa làm được việc đó nhưng để khỏi mai một nguồn tư liệu đáng quan tâm nên những trang dưới đây sẽ là phần tóm tắt sự tích một số nhân vật truyền thuyết đứng đầu trong những phong trào nổi dậy của quần chúng ở châu thổ sông Hồng trước khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa.
CHÀNG HỐI

Làng Thịnh Kỷ ở huyện Yên Lãng nay thuộc xã Tiền Châu, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc có chuyện kể về Đông Hối đại vương. Sự tích như sau:

Ở động Bích Uyển thuộc huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, bộ Hải Dương có ông Nguyễn Huyên từng làm quan ở Ái Châu. Bị giặc Hán đè nén, ông bỏ chức về ẩn ở động Bích Nham mưu việc cứu nước. Nhưng ý nguyện chưa đạt thì ông bị bệnh qua đời. Con trai ông tên là Hối nguyện nối chí cha. Hối tìm kết bạn với những người cùng chí hướng.

Chàng lập được một đội quân gồm năm trăm người. Sau một thời gian luyện tập, họ tiến đánh đồn giặc. Nhưng có tới hàng chục trận mà không thắng. Chàng Hối thấy cần phải có một kế sách khác. Chàng bàn với nghĩa quân tạm ngừng hoạt động để chàng đi tìm một phương lược mới.

Hối lên đường, đến với cậu ruột là ông Phạm Côn Huyền ở trang Ký Hợp (Trang này sau đổi ra là làng Yên Lãng - tên làng này được mượn để đặt cho huyện Yên Lãng - nhưng rồi làng Yên Lãng lại đổi ra là Lý Hải và cắt về huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay).

Lúc này ông Huyền cũng đang mưu việc cứu nước, đã chiêu mộ được một nghìn nghĩa sĩ. Nhưng Hối bàn rằng cần mở rộng căn cứ, quân số cũng cần đông hơn. Thế là hai cậu cháu chia nhau đi cổ động nhân dân quanh vùng. Hối đến trang Ngọc Kỷ (nay là làng Thịnh Kỷ), thấy thế đất có thể dụng võ, liền cùng nhân dân ở đây bàn cách đắp đồn trại chống giặc Hán.

Trai gái quanh vùng được tin, rủ nhau tới gia nhập nghĩa quân. Các nghĩa sĩ bên Đông Triều cũng kéo sang tu hội. Ông Huyền cũng thuyết phục được bà con vùng khe động ở chân núi Tam Đảo lập đồn chống lại quân Hán. Thế là từ đó hình thành một căn cứ kéo dài từ sông Cà Lồ đến giáp Tam Đảo mà hai đại đồn là Ngọc Kỷ và Ký Hợp.

Biết tình hình đó, thái thú Hồ Điển (?) tới đánh nhưng không sao phá nổi. Sau nhiều phen hao lính tổn quân. Hồ Điển bị cách chức. Tô Định sang thay. Tên này cũng có đôi ba lần tới đánh Ký Hợp và Ngọc Kỷ nhưng không thắng. Hắn phải thu quân chờ một cơ hội...

Chàng Hối về Đông Triều trù liệu lập lại căn cứ ở quê nhà. Lợi dụng thời cơ này, Tô Định thúc quân đánh Ký Hợp và Ngọc Kỷ. Ở Ký Hợp, ông Huyền chết trong chiến đấu. Nhưng ở Ngọc Kỷ thì tuy vắng chủ tướng song do đã có phòng bị nên Tô Định không hạ nổi. Khi Hối trở lại, đồn trại vẫn vững vàng.

Cho tới khoảng một năm sau, được tin Hai Bà Trưng khởi binh, chàng Hối liền đưa hai nghìn quân bản bộ tới Hát Môn tụ nghĩa. Chàng được giao chỉ huy tiến quân đi đánh quận thành... Thành công rồi, theo lời tâu trình của Hối, Trưng Vương định đô tại Ký Hợp.

Khi Mã Viện sang xâm lược, chàng Hối lập công ở Nam Hải môn cự chiến. Quân Hán đánh ba trận thua cả ba. Mã Viện gửi biểu tấu về vua Hán xin viện binh. Vua Hán ra lệnh phải dùng mưu. Mã Viện làm ra vẻ sẽ chuyển sang đánh chính ở thượng đạo qua các đất Côn Lôn, Tụ Long, Bảo Lạc... Trưng Vương điều chàng Hối lên trấn thủ mạn Bắc. Thế là Mã Viện lọt được vào trung châu, đánh Lãng Bạc rồi tới Cấm Khê. Hai Bà tử trận. Chàng Hối rút vào Cửu Chân. Giặc Hán chiếm nơi này. Hối lại trở ra Ngọc Kỷ. Lúc này chàng chỉ còn có hai trăm thủ túc. Chàng vẫn quyết tiếp tục chiến đấu. Nhưng chỉ ít ngày sau đó, quân giặc ập tới. Không kịp trở tay, Hối chỉ đủ một ngựa một gươm lao vào quân giặc. Cuối cùng bị thương nặng, Hối thúc ngựa đi xuống sông Cà Lồ mà hóa. Đó là ngày mùng 10 tháng Chín.

Qua sự tích trên, có thể lọc ra một cốt lõi là trước khi Hai Bà Trưng truyền hịch, đã có một cánh nghĩa quân hoạt động ở khư vực từ sông Cà Lồ đến chân núi Tam Đảo.
____________________________________
1. Đã nói ở Chương một.


THIÊN BẢO - TRẦN NANG

Làng Thái Lai tên Nôm là Kẻ Sải nay thuộc xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Làng Phú Mỹ xưa là trang Toàn Liệt, tên Nôm là Kẻ Sặt nay thuộc xã Tự Lập cùng huyện. Ở hai làng này có câu chuyện về vợ chồng Hùng Thiên Bảo và Trần Nang. Trần Nang theo mặt chữ trong thần tích thì là Trần Nương nhưng dân làng gọi kiêng là Trần Nang. Cô là con gái ông Trần Hậu người làng Thái Lai. Khi đó có một hào trưởng ở địa phương tên là Đinh Công Dũng tới hỏi Trần Nang làm vợ. Thấy Dũng là người tham bạo nên ông Trần Hậu không gả. Từ đấy Dũng sinh thù. Ít lâu sau, có ông Hùng Trọng, người trang Toàn Liệt, làm bộ chủ ở Hải Dương, nhân về thăm quê thấy Trần Nang đẹp người đẹp nết liền dạm hỏi cho con trai là Thiên Bảo. Và sau đó ít lâu đám cưới được tổ chức. Nhưng giữa lúc đón dâu thì Đinh Công Dũng đem thủ hạ tới đốt phá trang ấp. Thiên Bảo liền xuất trận, chém chết Dũng.

Bọn thủ hạ của Dũng sau đấy theo quân Hán. Chúng ton hót tâu nạp, dẫn bọn này về tàn phá Thái Lai và Toàn Liệt, giết ông Trần Hậu.

Thế là thù riêng hòa với thù chung, Hùng Thiên Bảo - Trần Nang cùng nhân dân hai làng Toàn Liệt, Thái Lai dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Hán.

Trần Nang lập đồn ở Kẻ Sải. Thiên Bảo đóng ở Kẻ Sặt. Hai bên làm thế ỷ dốc cho nhau. Dân chúng các nơi cũng kéo tới hội tụ. Bên Toàn Liệt có tám trăm tráng sĩ. Bên Thái Lai có hai trăm năm chục nữ binh. Họ đánh đồn quân Hán, làm lũ giặc nhiều phen khốn đốn.

Khi biết tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Thiên Bảo và Trần Nang đưa nghĩa sĩ tới Hát Môn hội quân... Sau khi đánh đuổi Tô Định, Hai Bà ủy cho họ về đóng quân tại trang ấp quê hương. Tới lúc Mã Viện xâm lược, Trưng Vương cho triệu họ ra chống giặc. Sau ba tháng chiến đấu Trần Nang bị tử thương trong một trận ác chiến. Thiên Bảo rút vào Cửu Chân giúp Đô Dương chống giặc. Cửu Chân thất thủ, ông trở về quê nhà Kẻ Sặt và mất tại đó. Nhân dân hai làng Thái Lai, Toàn Liệt lập đền thờ vợ chồng ông để tưởng nhớ những người anh hùng của quê hương.
Á LAN - CHÀNC TUẤN

Ở Đường Lâm nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây có ông Lê Tuân là một thầy thuốc tốt. Trong họ ngoài làng ai cũng mến trọng. Vợ là bà Đặng Thị chuyên việc đám tang. Họ sinh được một gái một trai, đặt tên là Ả Lan và Lê Tuấn. Hai chị em được học cả văn lẫn võ, bút nghiên và cung kiếm đều thạo.

Năm đó trời hạn hán, mất mùa. Vậy mà quan lại nhà Hán vẫn thẳng tay vơ vét, thuế phú và cống phẩm lại còn nặng hơn những năm trước. Ông Lê Tuân rủ dân làng chống lại. Lính Hán đã bắt và đánh đập ông rất man rợ, chỉ ít ngày sau ông thổ huyết, qua đời.

Ả Lan năm ấy tuổi khoảng mười tám, đã có trí lực và rất sáng việc. Nhân ngày làm tang, bà con làng xóm tới đông. Cô liền bày tỏ nỗi khổ nhục của tất cả mọi nhà và kêu gọi bà con đồng lòng đứng dậy chống bọn đô hộ. Và thế là sau đó ít lâu, ở Đường Lâm có một căn cứ của nghĩa quân do Ả Lan và Chàng Tuấn chỉ huy. Họ đã xuất quân đánh giặc Hán một vài lần.

Được tin Hai Bà Trưng dấy binh, hai chị em họ Lê cùng các nghĩa sĩ nam nữ cùng về Hát Môn hội quân. Ả Lan được giao đưa đoàn quân bản bộ ngược sông lên dẹp các trại giặc ở Thao Giang. Nghĩa quân đi tới đâu, giặc tan tới đấy. Cuối cùng hai chị em đóng quân lại ở trang Văn Lang (nay là xã Văn Lang, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ). Doanh trại ở cạnh núi Ao Trời. Chỗ khao quân là bến Cát Lớn.

Tưởng nhớ công lao chị em người anh hùng, nhân dân Văn Lang đã lập đền thờ, trước đây có lệ cúng tế vào ngày 13 tháng Giêng (tương truyền là ngày nghĩa quân tới đóng ở Văn Lang) và ngày 25 tháng Tám là ngày hóa của hai chị em cô. Điều đáng chú ý là ở đây có hèm mổ trâu đen, lấy da căng làm nồi nấu thịt để nhắc lại tiệc thịt trâu lột hôm khao quân ngày trước.

Bên trên là một vài dẫn chứng chi tiết - bằng vào thần tích, truyền thuyết - về những cuộc nổi dậy của quần chúng trước ngày Hai Bà khởi nghĩa. Dưới đây sẽ nêu vắn tắt những cuộc nổi dậy khác ở vùng châu thổ sông Hồng (vẫn bằng vào thần tích). Như về tỉnh Phú Thọ có thể nêu những cuộc nổi dậy của các nhân vật sau: nàng Vĩnh Hoa cùng nhân dân trang Tiên Nha (nay thuộc xã Nguyện Đức, huyện Yên Lạc), nàng Xuân Nương cùng nhân dân các trang Hương Nộn, Hương Nha (nay là hai xã cùng tên thuộc huyện Tam Nông), ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Trĩ, Nguyễn Lĩnh cùng bà con các động vùng núi Tùy Sơn (nay thuộc xã Hợp Lý, huyện Lập Thạch), hai chị em Ả Chàng, Ả Chạ (tức Ngọc Thanh và Ngọc Trinh) cùng bà con các trang Lũng Ngòi, Đàm Luân (nay là xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường) v.v...

Về tỉnh Bắc Ninh có thể nêu các phong trào ở vùng Ngọc Lâm và Ký Hợp (huyện Yên Dũng) với Thánh Thiên và người cậu ruột, phong trào ở Đông Cứu, Lãng Ngâm (huyện Gia Lương); với vợ chồng Doãn Công và Đào Nương, phong trào ở Du Tràng (huyện Gia Bình); với Ả Lã, Rồng Nhị v.v...

Ở tỉnh Hà Tây có bà Ngọc Ba và năm người con trai khởi nghĩa ở vùng Chương Mỹ mà căn cứ trung tâm là Kim Cốc nay thuộc xã Hoàng Diệu. Có bà Vĩnh Hoa tự nghĩa ở Lỗ Sơn nay thuộc xã Đồng Lạc, huyện Chương Mỹ. Có bà Chu Tước xây thành ở Miếu Môn thuộc xã Trần Phú, cũng huyện Chương Mỹ. Có anh em Chiêu Trưng, Đỗ Lý cùng đào hào đắp lũy chống quân Hán ở hai thôn Yên Trường và Trung Thịnh nay thuộc xã Trường Thịnh huyện Ứng Hòa. Có ba chị em Chiêu Nương, Nguyễn Hồng, Nguyễn Tuyền lập trại ở Xà Cầu nay thuộc xã Quảng Phú Cầu huyện Ứng Hòa. Có hai chị em Phạm Thông, Phạm Nhu xây dựng hai dinh trại ở Đình Xuyên, xã Hòa Nam cũng thuộc về huyện Ứng Hòa v.v...

Ở tỉnh Hải Dương có những cuộc nổi dậy chống quân Hán ở các địa phương như Mi Thữ (huyện Bình Giang) với hai chị em Nguyệt Thai, Nguyệt Độ; ở Tống Long (huyện Kinh Môn) với Tống Phả Công; ở tỉnh Hưng Yên, tại Dương Liệt (huyện Văn Giang) với Hùng Tướng Công v.v...

Vùng biển Hải Phòng có phong trào đấu tranh do bà Lê Chân phát động. Vùng biển Thái Bình có cuộc nổi dậy của bà Bát Nạn từ Phong Châu lánh nạn về vùng Tiên La, huyện Duyên Hà v.v...

Ở tỉnh Hà Nam có cuộc nổi dậy của Quế Hoa và Nữ Hoa ở Tượng Lĩnh (huyện Kim Bảng...).

Tất cả các nhân vật kể trên - vẫn theo truyền thuyết - cuối cùng đều tụ hội ở Hát Môn, đưa cánh quân bản bộ của mình nhập vào nghĩa quân Hai Bà Trưng để rồi trở nên một lực lượng hùng hậu “đi tới đâu như lướt gió tới đấy” (lời Cương mục).

CĂN CỨ PHONG CHÂU VÀ HỘI QUÂN HÁT MÔN

Về diễn biến của cuộc khởi nghĩa, sử cũ chép rất sơ lược. Bộ sử cổ nhất của ta - là Việt sử lược - chỉ ghi: “Tô Định lấy pháp luật trói buộc. Trắc giận bèn cùng em gái là Nhị đem binh Phong Châu đánh hãm các quận huyện. Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. Bà lược định 65 thành, tự lập làm vua”.

Toàn thư thêm được vài chi tiết: “Bà khổ vì Tô Định lấy luật pháp trói buộc, lại thù Định đã giết chồng mình, cùng em là Nhị nổi binh đánh lấy trị sở của châu. Định chạy về Nam Hải. Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65 thành, tự lập làm vua”.

Như vậy tư liệu chính sử thật là ít ỏi. Nhưng ở các thần tích thì có thêm ra nhiều chi tiết. Một chi tiết phù hợp giữa chính sử và thần tích là sự việc mà chính sử chép là Hai Bà “đem binh Phong Châu đánh hãm các quận huyện”. Thần tích hai làng Hạ Lôi (Yên Lãng) và Hát Môn chép: “Trưng Vương khởi binh được một năm, tướng sĩ nam nữ có tới ba vạn người, hội tại thành Phong Châu... Cử binh đến cửa sông Hát, đại hội ở bãi Trường Sa”.

Thần tích làng Tuấn Xuyên (thờ Phùng Thị Chính) chép: “Trưng Vương từ Phong Châu kéo về Hát Môn”.

Thần tích làng Thịnh Kỷ (thờ Chàng Hối), làng Đông Cao (thờ Ả Lự), làng Cư An (thờ Trưng Nhị) đều chép giống nhau: “Trưng Vương khởi binh ở thành Phong Châu”.

Như vậy có thể nghĩ rằng trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, việc đầu tiên Hai Bà phải làm là xây dựng một khu căn cứ để bước đầu có nơi chốn tập hợp lực lượng. Khu căn cứ ấy là thành Phong Châu.

Thực ra thì ngày ấy chưa có địa danh Phong Châu. Đó chỉ là tên một châu mới đặt từ đời Tùy, năm 598. Châu này là một phần của huyện Mê Linh đời Hán nên các sử sách cữ dùng tên Phong Châu để chỉ khu vực Mê Linh cũ. Do vậy, có thể khẳng định rằng Hai Bà Trưng đã từng xây dựng một căn cứ địa ở phần đất huyện quê hương mình (huyện Mê Linh). Căn cứ địa ấy về sau được sử sách và thần tích gọi là Phong Châu thành. Có điều là “thành” ấy cụ thể ở vào nơi nào thì chưa thể biết, có thể đó là kinh đô cũ của các vua Hùng mà cũng có thể đó là làng quê Hạ Lôi của Hai Bà.

Cũng có thần tích có chép là từ Phong Châu, Hai Bà ban bố lời hiệu triệu hào kiệt bốn phương cùng đứng lên đánh đuổi giặc Hán rồi đem binh về hội ở Hát Môn.

Chính sử thì không nhắc gì tới địa điểm hội quân này. Đành rằng Toàn thư cũng như Việt điện u linhLĩnh Nam chích quái có nhắc tới Hát Môn nhưng với tư cách là một nơi mà sau này “thổ nhân lập miếu thờ Hai Bà” chứ không phải là địa điểm mà đương thời nghĩa quân tập kết.

Nhưng theo sự ghi chép của nhiều thần tích và cả theo truyền thuyết dân gian thì Hát Môn là địa điểm đại hội quân sĩ, anh hùng hào kiệt bốn phương quy tụ về đây đứng dưới lá cờ của Trưng Vương trước khi xuất phát đánh quận thành Giao Chỉ. Tại đây Hai Bà lập đàn tế cáo trời đất rồi đưa đại quân đi đánh Tô thành (thành Tô Định, tức trị sở quận Giao Chỉ).

Thiên Nam ngữ lục còn chép cụ thể hơn: Hai Bà theo lời bàn của Thi Sách rời Chu Diên về Hát Môn lập đồn trại. Song Thi Sách đã bỏ mình trong khi giao chiến với Tô Định ở Chu Diên thành. (Như vậy là thêm một dị bản về cái chết của Thi Sách). Thế là:
Chị em truyền hịch xa gần
Làm trai ai chí vị dân giúp đời...
Cùng nhau họp tại Hát Môn
Cắt tay lấy máu lên đàn thề nhau.

Và chính ở làng Hát Môn, trước đây hàng năm có hai ngày làm lễ Hai Bà Trưng đó là ngày mồng 4 tháng Chín được coi là ngày Hai Bà tế cáo thiên địa và ngày mùng 6 tháng Ba được coi là ngày Hai Bà tuẫn tiết.

Như vậy là từ nhiều nguồn truyền thuyết dân gian khác nhau, một điều có thể tin được là quả có cuộc hội quân ở Hát Môn.

Hát Môn, cứ theo tên gọi thì là “cửa sông Hát”. Nhưng thực tế ngày nay thì không là như vậy. Từ đấy tới cửa sông Hát (chỗ sông Hát tách từ sông Hồng ra) còn cách cả một xã Vân Nam. Song xã này, cũng như xã Vân Phúc láng giềng chỉ mới có từ đời Lê. Vì theo lời truyền khẩu từ xưa - được ghi lại trong khoán ước - thì khu vực hai xã này chính là một cụm gồm sáu làng Vĩnh Phúc, Vĩnh Thọ, Vĩnh Khang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thuận và Vĩnh Lộc. Sáu làng này nguyên là trang Vân Thủy ở bên tả ngạn sông Hồng thuộc đất huyện Yên Lạc. Đời Lê, do đất bị lở nên cả trang rời sang sinh sống bên hữu ngạn, cư trú trên vùng bãi mới bồi và biệt lập thành sáu làng có gốc Vĩnh như hiện nay.

Như thế, trước đời Lê, chỗ các xã Vân Nam, Vân Phúc còn là lòng sông. Vậy Hát Môn phải ở ngay cạnh sông Hồng và là chỗ sông Hát tách từ sông mẹ ra. Con sông Hát ấy, nay là một lạch nhỏ, chỉ từ cầu Phùng đổ xuôi mới ra dáng một con sông và từ đấy có thêm một tên gọi khác là sông Đáy. Nhưng theo lời kể của nhân dân các làng ven sông thì thời xưa cửa sông Hát rất rộng. Thuở ấy ở chỗ đền thờ Hai Bà trên là đê mà dưới đã là dòng sông. Và có một thời, dọc bên hữu ngạn, dòng sông Hát dâng sát lên tới tận đê Hương Tảo, Ngọc Tảo. Vết tích nay còn lại là vạt đầm hồ có tên là sông Cùng, bến Chúa. Sông bến này đã đi vào ca dao:
 
Tiễn nhau bến Chúa ven sông
Nên vợ nên chồng tỏ rõ khúc nhôi

Hát Môn vào thời đầu Công nguyên tất phải là cửa sông. Thần tích của những làng thờ Hai Bà và các tướng lĩnh, dù ở Gia Lâm hay Phúc Thọ, ở Thanh Trì hay Hoài Đức, ở Yên Lãng, ở Kim Anh hay Đa Phúc v.v... đều kể là có cuộc hội quân lớn tại đây.

Hai Bà thì từ thành Phong Châu tới, đem ba vạn quân. Anh hùng hào kiệt bốn phương cũng tấp nập kéo đến. Có người dẫn theo quân bản bộ đông tới hàng nghìn, như cô Vĩnh Gia ở bãi Quân Thần Châu (nay là các làng Thượng Cát - Đại Cát, huyện Từ Liêm) với hai nghìn nghĩa sĩ, như hai chị em Ả Nương, Ả Nang ở Yên Mạc (nay là xã Liên Mạc, huyện Mê Linh) với một nghìn quân, như Lý Minh ở Mục Uyên (nay thuộc xã Tân Xã, huyện Thạch Thất) cũng đưa tới một nghìn trai tráng...

Có người lại chỉ cùng với vài chục bạn hữu tới tụ hội như ba anh em Cả, Hai, Ba ở làng Trung Hậu (nay thuộc xã Tiền Phong, huyện Mê Linh) đến với ba chục bạn trẻ, như Xa Lai ở Cao Quang (nay là xã Cao Minh, huyện Mê Linh) đem theo ba mươi lăm người thủ túc, như ba cô Ả Tú, Ả Huyền, Ả Cát ở trang Vân Thủy (nay là các xã Vân Nam, Vân Phúc, huyện Phúc Thọ) đến với năm mươi hai bạn gái...

Cũng có người tay trắng tới đầu quân và sau đã trở thành tướng lĩnh như Lũ Lũy ở trang Văn Lôi (nay thuộc xã Tam Đồng, huyện Mê Linh), Nguyễn An ở Cao Xá (nay thuộc xã Đức Giang, huyện Hoài Đức), Lôi Chấn ở Tháp Thượng (nay là xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng) v.v...

Tuy nhiên, do chỗ thần tích có nhiều hư cấu, thêm thắt nên con số về lực lượng nghĩa quân nêu ở trên có thể tin được mà cũng có thể không. Có thể nêu nghi vấn: đương thời dù quận Giao Chỉ sản xuất phát triển nhiều hơn các quận khác nhưng liệu đã đủ điều kiện để thành hình một đạo quân đông tới bốn năm vạn người? (Riêng quân của Hai Bà là ba vạn).

Kể ra cũng khó giải đáp vì không có một tài liệu thư tịch nào để làm chỗ dựa chắc chắn. Có điều là nếu quan niệm rằng các cánh quân tham gia khởi nghĩa không phải hoàn toàn là chính quy thì quân số đó có thể chấp nhận được. Có thể coi nghĩa quân là những nông nô, nô tì vừa trốn khỏi các trang ấp dinh cơ của quan lại Hán tộc, là những người dân khổ về thuế má và không muốn chết mòn chết mỏi dưới đáy biển hoặc trong rừng sâu, là những nạn nhân của một chế độ cai trị tàn bạo đã gieo bao tai họa xuống từng làng xóm, thậm chí xuống từng mái nhà Giao Chỉ, những tầng lớp người ấy khi nghe tin có một dòng họ danh vọng - là lạc tướng Mê Linh - nổi lên chống lại nhà Hán thì tất cả đã tìm đến với hy vọng và niềm tin đánh đuổi được giặc thù. Họ tự nguyện và có thể là phần nào tự túc tham gia chiến đấu, chẳng nài gì quân trang, quân dụng. Các thủ lĩnh, chỉ huy hẳn cũng không phải bận lòng nhiều về hậu cần. Và sự căm hờn cộng với ý chí diệt thù đã khiến cho đạo quân mới tập hợp từ nhiều phương lại và có nhiều thiếu thốn đó trở thành có sức mạnh chiến đấu hơn hẳn quân cướp nước.

Ngoài ra, so với dân số quận Giao Chỉ thời ấy là trên 74 vạn nhân khẩu thì con số bốn, năm vạn người vũ trang nổi dậy cũng không phải là quá đáng.

Đó là về lực lượng nghĩa quân.

Về các chỉ huy thì có người - vẫn theo thần tích và truyền thuyết - trước đây đã từng nổi dậy chống quân Hán như Chàng Hối, Thiên Bảo, Thánh Thiên... Có người vì mang nặng thù nhà như Hải Diệu, Sa Lương, Ả Lã Nàng Đê... 1. Cũng có người - và đây là số đông chỉ vì nợ nước, thấy nỗi khổ nhục của bà con làng xóm mà đứng lên chống giặc.

Điều đáng lưu ý là các chỉ huy ấy cùng quân sĩ của họ tới đây từ nhiều miền đất khác nhau. Kể những người ở xa nhất thì về phía bắc có Nguyệt Điện ở Tây Cốc, Trần Tuấn và Vương Đạo ở Phương Trung đến thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Về phía tây có Ả Nàng ở Kim Phượng nay thuộc Thanh Sơn cùng tỉnh Phú Thọ. Về phía đông có bà Lê Chân ở An Biên nay là thành phố Hải Phòng, bà Thánh Thiên ở Ngọc Lâm nay thuộc huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, bà Thánh Hậu ở Hạ Phán nay thuộc huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình. Về phía nam có bà Chu Tước ở Miếu Môn, huyện Chương Mỹ, bà Trinh Thục ở Ngọ Xá huyện Mỹ Đức, ba chị em Chiêu Nương ở Xà Cầu huyện Ứng Hòa v.v... tất cả thuộc tỉnh Hà Tây.

Những nhân vật này nếu không hoàn toàn là thực thì chắc cũng có những nguyên mẫu trong thực tế và như vậy, với nguồn tư liệu truyền thuyết, có thể kết luận rằng đúng là bốn phương hào kiệt đã tụ hội tại Hát Môn để thống nhất lực lượng mưu việc cứu nước cứu nhà.
______________________________________
1. Sẽ nói tới các nhân vật này ở Chương năm.


Theo truyền thuyết của làng Hát Môn thì ngày mùng 4 tháng Chín là ngày đại hội binh mã. Quân sĩ bạt ngàn, đứng kín cả cánh bãi dài mênh mang Trường Sa châu. Thuyền chiến cũng thành hàng thành dãy kín cả cửa Hát. Đàn tế dựng giữa trung quân.

Rất nhiều thần tích, ngọc phả chép rằng tại đàn này bà Trưng Trắc đã đọc một bài văn tế cáo trời đất. Nguyên văn như sau:

Thiên sinh nhất nhân vi thiên địa vạn vật chi tông chủ. Sinh linh sở hệ, thảo mộc sở quan. Lịch lịch triều đại đế vương thiên tử thánh minh, triều đình hữu đạo, ái dân ưu quốc, đức hóa hoằng phu, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự.

Kim hữu dị tộc nhân Tô Định, khuyển dương thường thái, tứ lộng xướng cuồng, ngược chính tàn dân, thiên địa thần nhân công phẫn.

Thiếp thiểm dĩ tiền Hùng dư diệt, nhất cá nữ nhân thuyết đáo sinh linh hoàng thiên hữu lệ. Kim nhật thống tâm thương xích trượng nghĩa, trừ tàn, nguyện bách vị chư tôn thần linh hội đàn giám thệ lực hộ thiếp Trung nữ đề binh thảo tặc, hộ quốc, an dân, trí sinh linh vu nhẫm tịch chi thượng, xuất sinh linh vu thủy hỏa chi trung, thứ vô phụ hoàng thiên chi ý, an tiên hoàng miếu tự chi linh, ủy tổ phụ cửu tuyền chi hạ
1.”

Tạm dịch:

Trời sinh con người là tông chủ của muôn loài, sinh linh cây cỏ thảy đều quan hệ. Các đời đế vương trước, vua sáng tôi hiền, yêu dân lo nước, đức hóa rộng khắp, thiên hạ thanh bình, nước nhà vô sự.

Nay có người khác giống là Tô Định, thực loài dê chó bạo ngược hại dân, trời đất thánh thần và con người ta đều giận.

Thiếp tôi là một người con gái dòng dõi vua Hùng, nghe nói tới sinh linh, trời xanh cũng rơi lệ. Nay nghĩ tới dân mà lòng đau, dấy nghĩa trừ kẻ bạo tàn, nguyện các vị tôn thần về hội đàn chứng giám lời thề, giúp cho thiếp tôi đem quân đánh giặc, giúp nước yên dân, đặt sinh linh lên trên nơi chiếu đệm, đưa mọi người ra khỏi cơn nước lửa, để khỏi phụ ý của trời, giữ yên miếu mạo vua xưa, an ủi ông cha nơi chín suối!”.


Nếu đúng là lời văn từ đời Hai Bà truyền lại thì thật sự đáng quý. Nhưng chưa hẳn! Vì ngay sự tình chiến đấu lở đất long trời - cuộc khởi nghĩa và cuộc kháng chiến ngày ấy - đương thời ai cũng biết mà truyền lại cũng chẳng được là bao, huống chi một bài văn làm sao có thể bảo lưu trọn vẹn như vậy được? Nhất là ở thời Hai Bà đã có trong tư duy người Giao Chỉ những khái niệm lịch đại đế vương, thiên tử, cửu tuyền... ?

Đây chỉ là sáng tác của người biên soạn thần tích. Đáng kể chăng là tác giả đã nhìn thấy ý nghĩa xã hội của cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo là vì dân, vì nước, vì sự tồn tại của dân tộc chứ không phải đơn thuần chỉ vì thù chồng.

Ngoài bài văn tế cáo thiên địa này liên quan tới những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa Hai Bà còn có một áng văn khác. Đó là một bài hịch có nhan đề là “Thảo Tô Định hịch văn”. Bài này được chép trong ngọc phả của hai làng Hạ Lôi (Yên Lãng) và Hát Môn. Dưới đây là phiên âm theo bản Hạ Lôi:

Nguyên ác đại đỗi cửu tàng lang dã chi tâm. Đôn đức nhân nhân dung đại nghiệt trừ chi cử. Tinh trì thốn giản, lôi động tam quân.

“Quyến ngôn: Ngã Việt khai cơ, thực tự Hùng Vương phủ trụ. Quan an dân lạc nhân đa túc hạ sinh mao, vũ thuận phong điều, mạch tận nhất hành lưỡng tuệ. Bốc thế tuần tuần hiệu thập, lịch niên vĩnh vĩnh kế thiên. Viên cập An Dương, duật canh Triệu Vũ, tương truyền chính thống. Thánh hiền chi quân diệt tác hưng, kế trị bảo an dân sự chí tâm hàm ái đới. Tự thời quyết hậu, thời vận tương phùng. Hi Tái, Chu Chương, Ngụy Lãng chi đồ, canh tương thú quận. Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục chi bối, kế tác mục châu. Cố tuy hữu tham liêm bất đồng, nhiên vị hữu hà ngược chí thậm. Nại tư Tô nghiệt vọng tứ tham tàn. Tiện thương sinh nhi quy tượng tê. Khinh hiền sĩ nhi trọng khuyển mã. Khai kim trường tắc hàn xâm nhân cốt, dịch sắc triết bì. Thái minh châu tắc mô trích ly đầu, bách hành nhất phản. Hậu liễm nhi úng khuynh thương tảo. Phiên binh nhi ốc tí hương liên, dân bất liệu sinh, vật giai thất sở.

Dư dĩ Thiên hoàng dư phái, Hùng tướng hậu côn. Mẫn xích tử chi hãm họa khanh, bất năng an chẫm. Hiệp dân vọng nhi hưng nghĩa lữ, chính thiết trừ hung.

Nhĩ đẳng quân đắc tính linh, hệ xuất tị tổ. Quốc thù đương phục, phấn tí trương phồn nhược chi cung; dị chủng tất trừ, tẩy qua vãn thiên hà chi thủy. Hồng nghiệp dĩ chí tái tạo. Nhạn trạch dĩ chi tức ngao. Vệ xã tắc, chấp can qua, duy kỳ trường dã. Lập công danh, thùy trúc bạch, cố bất vĩ tai.

Thảng hoặc thượng chấp hồ nghi, dãn sinh do dự, khởi đặc thất sự cơ chi hội, ức diệc nghiêm hình phạt chi tru. Hịch trí như phương, nhĩ đương tự miễn!


Tạm dịch:

Kẻ đầu sỏ tội lớn lòng lang chứa chất từ lâu. Người nhân đức cao dày công lớn dấy lên trừ bạo. Lời truyền như sao băng, ba quân sấm động.

Nghĩ rằng nước Việt mở cõi, thực từ đời Hùng Vương chăn dắt. Quan yên, dân vui, người người nhàn hạ, gió hòa mưa thuận lúa một dé hai bông. Nối tiếp kế đời hàng chục. Dài lâu tính năm mấy nghìn. Kịp đến An Dương, lại qua Triệu Vũ, truyền nền chính thống. Vua thánh thay nhau, nối trị giữ an, lòng dân đều quý trọng. Từ đó về sau, thời vận cùng gặp, Hi Tái (?), Chu Chương, Ngụy Lãng nối nhau làm thái thú. Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục kế tiếp làm châu mục. Tham liêm tuy có khác song bạo ngược chưa thái quá. Đến nay, giặc Tô rất mực tham tàn. Rẻ dân đen mà quý voi tê. Khinh hiền sĩ mà trọng chó ngựa. Người tìm vàng rét buốt thấu xương, nứt da, đổi sắc. Kẻ mò ngọc va chạm thuồng luồng, đi trăm về một. Thuế má nặng nề, bồ lẫm sạch trơn. Hình phạt khốc liệt, xóm làng xơ xác. Dân chẳng được yên mà súc vật cũng đều mất chốn dung thân.

Ta vốn dòng dõi thần thiêng, cháu con Hùng tướng. Thương con đỏ bị hãm dưới hầm sâu ăn nằm không yên. Hợp lòng dân dấy cờ khởi nghĩa, chính lo trừ bạo.

Các người đều có tính thiêng, cùng một tổ tiên. Thù nước báo xong, thẳng tay giương cung ứng. Trừ giặc ngoài rồi, kéo nước Ngân Hà rửa ngọn giáo.

Nghiệp lớn đã tái tạo, dân khỏi kêu than. Giữ non sông, cầm giáo gậy cốt được dài lâu. Lập công danh tên ghi sử sách há chẳng quý sao? Nếu như còn hồ nghi sinh ra do dự, đã bỏ mất thời cơ, lại chuốc lấy hình phạt nặng.

Lời hịch truyền đến, hãy đều cố gắng
2.
______________________________________
1. Đây là phiên âm theo bản thần tích ba anh em “Đức Cả, Đức Hai, Đức Ba” thành hoàng làng Trung Hậu nay thuộc xã Tiền Phong, huyện Mê Linh.
2. Trong cuốn Một số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng của Ty Văn hóa Hà Sơn Bình cũng có in bài hịch này với lời dịch của Ngô Thế Long, Nguyễn Hữu Chế (tr. 120) và ghi xuất xứ là chép từ trong một cuốn sách tìm thấy ở một gia đình nông dân làng Hát Môn. Ở bản đó có một số chữ khác với bản ghi thần tích của chính làng này nhưng cũng không sai biệt gì lớn và xét cả hai đều không có giá trị sử liệu nên chúng tôi không so sánh khảo dị.

Dù rằng Hai Bà Trưng rất có thể sử dụng thành thạo chữ Hán, vì tới thời Hai Bà, nền đô hộ của người Hán đã trên 100 năm (nếu tính từ thời Triệu Đà thì là 200 năm). Việc dạy và học chữ Hán đã phổ biến, nhất là các gia đình lạc hầu lạc tướng thì tất phải biết chữ Hán để giao dịch. Song cũng như trường hợp bài văn tế cáo trời đất đã dẫn bên trên, bài hịch này có tư duy thuộc phạm trù trung thế kỷ chứ không thể là cổ đại. Thể văn biền ngẫu chỉ mới phát sinh từ đời Đường (thế kỷ thứ IX). Một vài điển tích dùng trong bài rõ ràng không thể là của đời Hán, như câu “Tẩy qua vãn thiên hà chi thủy” nghĩa là: “lấy nước sông trời - Ngân Hà - để rửa giáo” là rút từ thơ Đỗ Phủ: An đắc tráng sĩ vãn thiên hà. Tĩnh tẩy giáp binh trường bất dụng (Ước gì được người tráng sĩ kéo sông Ngân xuống. Rửa sạch binh khí, mãi mãi không dùng nữa).

Hoặc vào thời Hai Bà Trưng, không thể có loại tư duy đặc phong kiến: lập công danh, tên ghi sử sách. Ngoài ra, Chu Chương không phải là thú quận và Tích Quang không phải là châu mục. Ngược lại mới đúng. Vì thú quận tức là thái thú, coi một quận. Còn châu mục coi một bộ tức một châu, chức này còn gọi là thứ sử. Người đời sau có thể lầm chứ đương thời Hai Bà Trưng thì không thể lầm lẫn như vậy được. Nhất là Ngụy Lãng làm đô úy quận Cửu Chân vào đời Hoàn Đế, (147-167) tức là sống sau Hai Bà Trưng hơn một thế kỷ!

Cho nên bài “Thảo Tô Định hịch văn” này cũng chỉ là một sản phẩm của đời sau1.

Tuy nhiên, sự có mặt của nó cũng có một giá trị là góp phần chứng minh một quy luật của sáng tác văn học dân gian là: cùng với thời gian, nhân dân thường sáng tác thêm những giai thoại, những tình tiết để cho hoàn chỉnh hơn pho truyền thuyết về những người anh hùng mà mình hằng yêu dấu.

Truyền thuyết về cuộc hội quân và lễ ăn thề Hát Môn còn có một dị bản lược ghi trong Thiên Nam ngữ lục:
Nàng bản bước thẳng lên đàn
Vái chưng thiên địa, giang san, quỉ thần
Tôi là con gái phụ nhân
Thời loạn ơn chúng, lập thân giúp đời.
Do thằng Tô Định rẻ người
Trước khoa (?) các vạc, sau sôi lửa lò
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.

Thế là theo Thiên Nam ngữ lục, ở đàn thề Hát Môn, bà Trưng Trắc có bốn lời thề với trời đất và ba quân: thứ nhất là rửa sạch mối thù mất nước, thứ hai là khôi phục cơ nghiệp vua Hùng, thứ ba là trả thù cho chồng và thứ tư là quyết giành thắng lợi.

Như vậy là ở các truyền thuyết trên có những chi tiết khác nhau nhưng cơ bản thống nhất ở một số điểm chính: có cuộc tập kết quân sĩ ở Hát Môn, lúc này Thi Sách không còn, tại đây bà Trưng Trắc với tư cách là thủ lĩnh tối cao đã tuyên bố mục đích cuộc khởi nghĩa là đuổi giặc Hán đô hộ và nêu quyết tâm thực hiện bằng được mục đích trên. Đó là vào khoảng cuối năm (tháng Chín âm lịch), theo sử thì là năm Kỷ Hợi tức năm 39.

Sau đó, đại quân thao luyện trong khoảng vài ba tháng2 rồi tiến “đánh hãm các quận huyện” và “đánh lấy trị sở của châu”. Theo sử đấy là vào “năm Canh Tý (40), tháng Hai, mùa xuân, người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc khởi binh đánh đuổi thái thú Tô Định tự lập làm vua”. (Cương mục)
______________________________________
1. Đọc kỹ sẽ còn thấy là có những câu như: Mẫn xích tử hãm họa khanh hoặc Khai kim trường... Thái minh châu v.v... đồng dạng với những câu Hãm xích tử ư họa khanh (vùi con đỏ dưới hầm tai vạ). Khai kim trường túc mạo tam chướng, Thái minh châu tắc xúc giao long (người tìm vàng xông pha lâm chướng, kẻ mò ngọc va chạm giao long) trong bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi.
2. Thần tích Cống Sơn đại vương của làng Thái Lai (xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh) kể rằng sau khi Hai Bà khởi binh ở Hát Môn, bà Trưng Nhị thân chinh về động Hoa Lư mời ông Cống Sơn ra để “thao luyện binh mã, huấn diễn binh thư”.

GIẢI PHÓNG ĐẤT NUỚC

Mùa xuân năm Canh Tý, Hai Bà đưa đại quân đi đánh các quận huyện. Sử cũ của ta như Toàn thưCương mục chỉ ghi là lược định được 65 thành chứ không ghi cụ thể là những thành nào1. Về diễn biến của chiến dịch thì lại không có lấy một dòng!

Chỉ có thể đoán định rằng trước tiên, nghĩa quân tiến công các đồn trại quân Hán cũng là các thành huyện thuộc quận Giao Chỉ. Tin tức về chiến cuộc này truyền đi bốn phương và nhân dân ba quận láng giềng là Hợp Phố, Cửu Chân và Nhật Nam cũng nắm thời cơ mà nổi dậy. Hậu Hán thư có ghi: “Người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng theo”2. Cứ như câu văn này thì có lẽ đại quân của Hai Bà Trưng không tiến đến ba quận trên. Tại các nơi đó, cơ bản là quần chúng hưởng ứng, tự động nổi dậy đánh bọn quan lại nhà Hán.

Tất nhiên không loại trừ khả năng là trước đó có những phái viên của Hai Bà đã tới những nơi này tổ chức nhân dân, liên kết các lạc tướng... Và khi cuộc khởi nghĩa được triển khai ở Giao Chỉ thì có thể có một vài cánh quân được điều từ đây tới các quận láng giềng để phối hợp. Như truyền thuyết về bà Man Thiện có kể là bà đã đi nhiều nơi, từ vùng núi tới vùng biển để liên kết các lạc hầu, lạc tướng, huyện lệnh, hào trưởng... Hoặc thần tích làng Cổ Ngõa (xã Liên Minh, huyện Đan Phượng) có chép Hải Diệu, một tướng của Hai Bà quê ở làng này, ngay sau hội thề Hát Môn đã lên đường vào Cửu Chân.

Nhưng nói chung là đại quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Hai Bà chỉ tập trung đánh lỵ sở các huyện ở Giao Chỉ (như thế, phạm vi chiến đấu cũng đã là rất rộng) và mũi chủ công là nhằm tiêu diệt đô úy trị Mê Linh cùng quận trị Liên Lâu. Rất có thể ngay ở quận Giao Chỉ, nghĩa quân chủ lực cũng không đi khắp mười huyện mà ở một số nơi quần chúng cùng các huyện lệnh cũng nổi dậy lật đổ chính quyền nhà Hán. Thần tích, ngọc phả nhiều làng còn ghi sự tích các nhân vật đã tổ chức và lãnh đạo những cuộc nổi dậy ở nhiều địa phương trên lưu vực sông Hồng. Như ba chị em họ Đào (thờ ở đình làng Thổ Quan, quận Đống Đa) đã tập hợp bà con đứng lên đánh bọn đô hộ ngay ở vùng đất nay là nội thành Hà Nội. Hay như Khỏa Ba Sơn (thờ ở làng Xuân Đỗ Hạ, xã Cự Khối, huyện Gia Lâm) đã đem hai trăm tráng đinh đánh đồn quân Hán tại chính làng này. Rồi bà Chu Tước ở Miếu Môn (huyện Chương Mỹ, Hà Tây), bà chúa Bầu ở Đạo Trù (huyện Lập Thạch, Phú Thọ), vợ chồng Đào Nương - Doãn Công ở Đông Cứu (huyện Gia Bình, Bắc Ninh) v.v... đều chủ động khởi binh đánh bọn xâm lược tại đất bản bộ.

Như vậy, theo sự bảo lưu trong truyền thuyết thì tinh thần chỉ đạo cuộc chiến tranh giải phóng ngày ấy là kết hợp sự tiến công của quân chủ lực với sự nổi dậy của nhân dân ở các địa phương.

Về các hướng tiến công của nghĩa quân thì chính sử chẳng có ghi chép gì, chỉ truyền thuyết là có ghi chút ít. Ngọc phả hai làng Hát Môn và Hạ Lôi (Yên Lãng) cho hay là nghĩa quân từ Hát Môn tiến về Cổ Lôi trang rồi sau đó đánh “Tô Định thành”. Cũng ở hai ngọc phả này có chép là quân Hai Bà đánh tan quân Hán ở Cổ Lôi, chém trên một nghìn đầu giặc khiến “máu thành sông có thể đi thuyền, xương cốt chất cao như như núi”. (Huyết khả hành thuyền, cốt hài sơn tích)3.

Thực ra ở hai ngọc phả trên có nhiều chi tiết lộn xộn rối ren. Nhưng việc xảy ra chiến sự ở Cổ Lôi thì có thể tin là đúng. Vì vào thời gian này quận trị huyện (trụ sở hành chính) quận Giao Chỉ đã chuyển từ huyện Mê Linh (mà trung tâm là Cổ Lôi) về huyện Liên Lâu nhưng Mê Linh vẫn là đô úy trị (trụ sở quân đội) của quận Giao Chỉ. Viên đô úy - chỉ huy lực lượng vũ trang chiếm đóng - vẫn đóng tại đây. Đành rằng theo Hậu Hán thư, từ năm Kiến Vũ thứ 6 (30 sau c.n.) đã bỏ chức đô úy, cho thái thú kiêm nhưng cũng Hậu Hán thư còn ghi thêm là: “Hễ quận nào có biến loạn thì lâm thời đặt lại chức ấy”. Có thể ở Giao Chỉ trong những năm Tô Định cầm quyền, sự phẫn nộ của quần chúng lên cao tới mức đô úy được đặt lại và đóng ở quận trị cũ tức trị sở của huyện Mê Linh mà theo chủ trương của ông Đinh Văn Nhật thì là vùng Cổ Lôi - Kẻ Lói nay thuộc khu vực giáp ranh các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, còn theo quan niệm phổ biến thì đó là làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng nay gọi là Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.

Và điều này đã nói lên sự chuẩn bị chu đáo của nghĩa quân vì dám đánh ngay vào đô úy trị, tức lỵ sở về quân sự, rõ ràng lực lượng phải khá mạnh. Còn về lỵ sở huyện Liên Lâu thì tất cả các thần tích, ngọc phả, truyền thuyết đều không hề chỉ định cụ thể địa điểm này. Nếu như mấy năm gần đây, trên các sách báo kể về truyền thuyết Hai Bà cũng như những tướng lĩnh của Hai Bà có chỉ định cụ thể đó là thành Liên Lâu (hay Luy Lâu) thì chính là đã tham khảo các sách sử để lắp cái tên lịch sử ấy vào truyền thuyết. Ngoài ra, có một thời gian dài, rất nhiều người cho rằng Tô Định đóng ở Long Biên và Hai Bà đã đưa đại quân tới đánh thành này. Như Quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái có viết:
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên Biên thành

Đó là một sự lầm lẫn. Vì mãi tới năm Vĩnh Hòa thứ nhất (136) trị sở quận Giao Chỉ mới dời từ Liên Lâu về Long Biên. Trước đó, từ cuối đời Tây Hán, trị sở ấy là vùng Lũng Khê nay thuộc xã Hạnh Phúc, huyện Thuận Thành tỉnh Hà Bắc. Thực ra gọi là Liên Lâu cũng là gọi tạm. Vì các nhà nghiên cứu đời trước (cả ở Trung Quốc và Việt Nam) từng gọi là La Lũ, Liên Thụ, Liên Lâu, Luy Lâu. Rất có thể đó là những cách người Hán đã dùng để phiên âm một từ Việt cổ hoặc là phiên âm chính cái tên gọi nôm na hiện vẫn phổ biến ở địa phương này: làng Dâu.

Đây là một làng châu thổ màu mỡ, có sông Dâu chảy qua. Sông này nay đã cạn nhưng thời xưa là một sông khá lớn thông với sông Đuống. Thuyền bè các nơi vẫn qua lại bến này. Ca dao cổ ở đây còn nhắc:
Lênh đênh ba bốn thuyền kề
Thuyền ra Kẻ Chơ, thuyền về sông Dâu.

Tại đây còn vết tích một thành lũy cổ. Cương mục có ghi chú: “Liên Thụ là tên huyện thuộc quận Giao Chỉ, nay ở xã Lũng Khê, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh, còn có vết cũ thành xưa”. Huyện Siêu Loại nay là huyện Thuận Thành. Vết cũ thành xưa đó ở ngay bên bờ trái sông Dâu. Cứ theo dấu vết thì thành được đắp theo hình chữ nhật, chiều dài khoảng 300 mét, chiều rộng hơn 100 mét. Những mảnh thành còn sót vẫn cao tới 4-5 mét. Hẳn là các đời sau có bồi đắp thêm (vì như vào thế kỷ thứ X, một sứ quân là Lý Lãng Công đã đóng ở đây) thì vết tích mới lưu lại được như vậy. Chứ từ đời Hán tới nay đã hai chục thế kỷ, thành lũy đất làm sao mà chống chọi được với gió mưa!
______________________________________
1. Hậu Hán thư, Mã Viện truyện thì ghi là “lược định trên 60 thành”. Tư trị thông giám (q.43) thì ghi “lược định 65 thành”. Cả hai sách đều không chỉ định cụ thể là những thành nào.
2. Nguyên văn: “Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố Man Lý giai ứng chi”. Man, Lý - chỉ những tộc người không phải là Hán, như vậy tức là nhân dân ở ba quận nói chung, vì nơi đây là khu vực của các bộ tộc Việt.
3. Xem toàn văn lời dịch hai ngọc phả này ở phần Phụ lục.

Mùa xuân năm Canh Tý (40), nghĩa quân Hai Bà Trưng đi đánh Liên Lâu. Dường như đi cùng với đại quân (có tới ba bốn vạn người) là một khối lượng khá đông đảo các tướng lĩnh, chỉ huy, già có trẻ có mà đa số là trẻ và nữ. Vẫn theo thần tích, Phùng Thị Chính (thờ ở Tuấn Xuyên, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì) làm nhiệm vụ trinh sát, Sa Lương (thờ ở Hạ Trì, xã Liên Hà, huyện Đan Phượng) chỉ huy thủy binh, Ả Lã Nàng Đê (thờ ở Yên Lộ - Nghĩa Lộ, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức) chỉ huy tả quân v.v... Rồi nào là Vĩnh Hoa, Vĩnh Gia, Chàng Hối, Lôi Chấn, Đào Khang, Nguyễn Nga, Ngọc Trinh... đều là đang độ tuổi hai mươi. Đặc biệt trong đại quân đi đánh quận trị có một đội nam binh cải trang thành lính nữ do Vương Cai chỉ huy (ông này cũng cải trang thành nữ tướng)1. Thật là sự kiện có một không hai trong lịch sử. Ở các nước khác, để được tham gia chiến đấu, nữ phải cải trang thành nam giới - như Mộc Lan ở Trung Quốc đời Nam Bắc triều chẳng hạn. Đằng này thì ngược lại, nam cải trang thành nữ. Phải chăng sự kiện này là ảnh xạ của một thời đại mà vai trò người phụ nữ trong xã hội còn đặc biệt quan trọng, uy tín của họ còn khá cao.

Một điều đặc biệt nữa là trong đại quân của Hai Bà có cả người Hán: Thần tích đền Càn ở xã Kê Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc có kể rằng “Đô Thiên và Minh Giang là hai quan chức người Hán. Vì căm giận triều đình nên chạy sang Giao Chỉ, chống lại nhà Hán. Khi Hai Bà Trưng dấy binh, hai ông mang quân theo”. Thì ra không đợi đến nhà Tống mới có Từ Bá Tường và đời Minh mới có Thái Phúc là những quan lại Trung Quốc nhìn ra lẽ phải, đã đứng về phía nhân dân Việt Nam chống lại bọn cầm quyền nước họ mà từ đời Hán đã có những người Hán đứng về phía người Việt chống lại vua Hán hung bạo2.

Nghĩa quân điệp điệp trùng trùng kéo tới bao vây Tô thành. Có lẽ chỉ mới trông thấy cảnh tượng này thái thú Tô Định đã hết hổn! Tới khi nghĩa quân tấn công bốn phía thì đúng là Tô Định chỉ còn biết tìm đường mà chạy trốn.

Truyền thuyết kể rằng Tô Định phải cắt râu, vứt bỏ cả ấn tín mà chạy. Cương mục chép là “Tô Định chạy về quận Nam Hải”. An Nam chí lượcThiên Nam ngữ lục thì chép Tô Định tử trận. Dù sao thì thành Liên Lâu đã được giải phóng. Hang ổ của bọn quan cai trị đại Hán đầu sỏ ở Giao Chỉ bị đập tan. Trên đà ấy nhân dân các quận láng giềng là Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cũng hưởng ứng mà vùng lên đánh đuổi các thái thú cùng bè lũ quan lại Hán tộc. Hậu Hán thư (q.86) có ghi: Thứ sử Giao Chỉ và các thái thú chỉ còn giữ được mình mà thôi”. Đúng là “quân đi đến đâu như gió lướt đến đấy” (Cương mục).

Thế là ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và cả Hợp Phố nữa, chính quyền đô hộ của người Hán đã bị lật đổ. Sau một thời gian không dài, cùng nổi dậy chiến đấu liên tục tiến công kẻ thù, nhân dân Bách Việt nói chung, Âu Việt, Lạc Việt nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng đã giành lại tự do. Nước Âu Lạc sau hai trăm năm bị đô hộ nay trở lại độc lập. Chính vì vậy mà nhân dân các tộc Việt ai ai cũng mang ơn Hai Bà, không chỉ người Lạc Việt (sau là người Kinh và người Mường) mà người Âu Việt (sau là người Tày, người Nùng) cũng coi Trưng Vương là lãnh tụ của mình, nhất là do đặc biệt tôn quý nên ai cũng muốn coi Trưng Vương là người thuộc dân tộc mình.

Viết đến trang sử khởi nghĩa oanh liệt này, sử gia Lê Văn Hưu đã có những dòng đầy tự hào: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết tình thế đất Việt ta có thể dựng được nghiệp bá vương”.

Bộ Lịch sử việt Nam - Tập I của ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1971) - khi phân tích ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa này đã có nhận xét: “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là kết tinh của cả một quá trình đấu tranh, khi âm thầm, khi công khai của nhân dân Việt Nam. Đây là một phong trào nổi dậy của toàn dân vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ. Khởi nghĩa đã thắng lợi vì đó là một phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi chứ không phải là một hành động tự phát của một tù trưởng, một bộ lạc riêng lẻ”.
______________________________________
1. Sự tích các tướng lĩnh này sẽ được trình bày ở Chương năm.
2. Từ Bá Tường, tiến sĩ, đã gửi thư cho triều đình nhà Lý tố cáo âm mưu của Vương An Thạch xâm lược nước ta.
    Thái Phúc, đô đốc, đã dâng thành Nghệ An cho nghĩa quân Lam Sơn và theo Lê Lợi ra hạ thành Đông Quan.

Cuộc khởi nghĩa mùa xuân năm 40 do Hai Bà Trưng lãnh đạo quả là bằng chứng hùng hồn của tinh thần yêu nước, yêu tự do cũng như khí phách “tấn công cả trời” của tổ tiên ta thời đó, đồng thời nó lại còn định ra một loại hình chiến tranh trước đấy chưa hề có và sau đấy dân tộc ta thường phải sử dựng: chiến tranh giải phóng dân tộc.

Khi ấy cả nước đang ở dưới ách thống trị của giặc Hán. Từng huyện đều có quân thù, mà là quân thù đang trong thế cường thịnh. Nổi dậy chống lại cả một lực lượng ngoại tộc đô hộ có dư hai trăm năm kinh nghiệm cai trị là một việc làm thật sự phi thường. Lại không chỉ dám nổi dậy mà còn đánh thắng, quét sạch chúng ra ngoài bờ cõi thì quả là vĩ đại.

Làm được như vậy tất phải là phong trào của quần chúng, của toàn dân. Nhân dân Âu Lạc ngày ấy đã ý thức được quyền làm chủ, thiết tha với tự do và độc lập, đã vươn mình đứng lên đấu tranh với một ý chí kiên cường, dám hy sinh xả thân. Có thế mới đủ sức quật ngã kẻ thù hung bạo.

Mặt khác, cũng dễ nhận ra ngay là tập hợp và tổ chức được nhân dân lại thành một lực lượng để mà chiến đấu và chiến thắng kẻ thù thì đó chính là tài năng và công lao của những người lãnh đạo phong trào, đứng đầu là Hai Bà Trưng. Suốt hai nghìn năm trở lại đây là những người phụ nữ mà lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa thành công thì không chỉ ở nước ta mà ngay cả trên thế giới cũng không có ai. Tiếc rằng rất thiếu tài liệu nên chưa thể tìm hiểu về thiên tài quân sự của Hai Bà. Chỉ có thể khẳng định một sự thực là chính Hai Bà Trưng đã định ra một phương thức tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc chưa từng có trong lịch sử: cùng nổi dậy ở mọi nơi. Bên cạnh những mũi tiến công của nghĩa quân chủ lực, Hai Bà đã vận động nhân dân và lạc tướng ở các địa phương đồng loạt khởi nghĩa. Cùng trong một thời gian, tất cả nổi dậy tiến công những cứ điểm của quân thù. Như thế, kẻ địch ở chỗ nào cũng bị đánh và quân khởi nghĩa không chỉ còn là vài ba vạn người mà là toàn dân: mọi người dân Âu Lạc đều trở thành nghĩa sĩ.

Định ra được loại hình chiến tranh ấy và đích thân tổ chức nên chiến thắng, đó chính là nghệ thuật quân sự tuyệt diệu, đầy sáng tạo của Hai Bà.

Nếu nhìn rộng ra xung quanh thì ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa này còn có một tầm vóc khác. Thời đó không phải người Hán chỉ đô hộ có một nước Âu Lạc. Về phía bắc, họ chiếm Triều Tiên, cũng chia ra thành quận huyện. Phía tây họ thần phục các bộ tộc ở Tây Vực (Tân Cương, Tây Tạng...). Phía tây - nam họ thôn tính các nước Dã Lang (Quý Châu), Điền (Vân Nam), Cùng Đô (Tứ Xuyên) v.v... Phía đông - nam họ hoàn thành công cuộc chinh phạt các tộc Mân Việt, U Việt, Đông Việt, Nam Việt... (vùng các tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, Lưỡng Quảng).

Nhưng rõ ràng là chỉ có người Lạc Việt và Âu Việt tức nhân dân ta ngày ấy, nhân dân Âu Lạc, đã dám đứng lên đánh lại chính quyền đô hộ nhà Hán và đánh thắng.

Nếu lại đặt ở bình diện nhân loại thì vào thời kỳ đầu Công nguyên, trên thế giới chỉ mới xảy ra ba cuộc khởi nghĩa của nhân dân bản địa chống chính quyền ngoại tộc đô hộ. Đó là cuộc khởi nghĩa của nhân dân xứ Gôlơ (nước Pháp thời cổ) do Vécxanhgiêtôric lãnh đạo nổ ra năm 52 tr.c.n chống chính quyền đô hộ La Mã của Xêda, cuộc khởi nghĩa của dân Do Thái ở Giêrudalem năm 66 s.c.n chống chính quyền đô hộ La Mã của Tituýt và cuộc khởi nghĩa của dân Cáctagiơ (Bắc phi Châu) do Goócđiên lãnh đạo năm 68 s.c.n cũng chống chính quyền Tituýt. Nhưng cả ba phong trào đấu tranh giải phóng đó đều thất bại!

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đúng là niềm tự hào chính đáng của dân tộc Việt Nam ta.

PHỤ CHÚ - Về những việc làm của nghĩa quân Hai Bà sau khi giải phóng Liên Lâu, sách Thiên Nam ngữ lục chép:
Trưng binh vào đến Tô dinh
Chiêu an sĩ tốt, dỗ dành quan quân
Ai đâu ở đấy yên thân
Đợi chờ xá si, dời chân về nhà
Ta thời giữ ở nước ta
Người Ngô cho nó về nhà nước Ngô
Bao nhiêu sĩ tốt ngày xưa
Phải Tô Định hiếp bay giờ được yên
Truyền ra đứng cửa viên môn
Ai nguyền phu phụ, ai nguyền lại quê
Dầu ai hết súc trợ thì
Tòng quân ra chí nam nhi mặc mình
Của Tô Định tích để dành
Phân chia thảy thảy, một manh chẳng hề.

Như vậy là đối với ngụy quân ai muốn về nhà, cho về; ai muốn theo nghĩa quân, cho theo. Đối với quân Hán thì tha cho về nước. Còn của cải của Tô Định thì chia đều cho mọi người.

Chưa chắc đấy đã là việc làm thực sự của Hai Bà nhưng rõ ràng ý đồ của tác giả là muốn nói lên tính chất chính nghĩa và tinh thần nhân đạo của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

NHỮNG NĂM ĐỘC LẬP

Chính sử đều ghi là sau khi đánh đuổi Tô Định, bà Trưng Trắc “tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh”. Như vậy, hạ được quận trị Liên Lâu nhưng bà Trưng không đóng tại đó, cũng không đóng ở quê chồng là huyện Chu Diên mà trở về định đô tại quê cha, tại đất bản bộ của lạc tướng Mê Linh, dòng dõi của các vua Hùng.

Có điều là huyện Mê Linh thì rất rộng (đã nêu ở Chương hai), không rõ kinh đô ngày ấy đặt ở nơi nào. Lâu nay do chỗ coi làng Hạ Lôi ở Yên Lãng là làng quê của Hai Bà mà rất nhiều người - nếu không nói là tất cả coi nơi ấy là đất huyện Mê Linh, từ đó suy ra kinh đô trong thời gian Bà Trưng cầm quyền cũng là ở đấy1.

Nhưng như đã nêu ở Chương hai, theo những luận văn của ông Đinh Văn Nhật lần lượt công bố từ năm 1972 đến 1978 thì quê của Hai Bà lại là vùng Hạ Lôi - Kẻ Lói ở huyện Thạch Thất, nơi đó là kinh đô trong ba năm Bà Trưng ở ngôi vua. Nay huyện Thạch Thất thuộc về tỉnh Hà Tây.

Thần tích làng Hát Môn còn cho biết là sau khi lên ngôi vua, Trưng Vương đặt quốc hiệu là Triệu. “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, điều thứ IX lại chép: “Bà Trưng gọi nước là Hùng Lạc”. Nhưng ông Hà Văn Tấn trong lời chú giải sách này cho biết là “không có sách nào ghi như thế”. Vậy, có lẽ Trưng Vương chưa đặt quốc hiệu. Danh xưng Triệu cũng như Hùng Lạc chỉ là sản phẩm của các đời sau.

Trưng Vương ở ngôi ba năm. “Ba năm gánh vác sơn hà. Một là báo phục, hai là bá vương” (Quốc sử diễn ca). Nhưng tư liệu về những năm tháng độc lập này thì quá ít. Cho tới nay, chỉ tìm thấy một dòng trong Thủy kinh chú (dẫn Giao Châu ngoại vực ký): “Trưng Trắc vi vương, trị Mê Linh huyện, đắc Giao Chỉ, Cửu Chân nhị quận dân nhị tuế điệu phú” (q.37) nghĩa là: “Trưng Trắc làm vua, đóng ở huyện Mê Linh, thu được hai năm thuế của dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân”. Nhưng một bản in Thủy kinh chú khác (do Đái Chấn làm hiệu đính) thì ở chỗ chữ đắc (nghĩa là thu được) lại là chữ phục với nghĩa là tha. Tất nhiên thu thuếtha thuế nghĩa khác hẳn nhau nhưng dù là chữ nào thì cũng đều nói lên rằng chủ quyền đất nước đã thuộc về Trưng Vương. Nếu là tha thuế thì hợp nhân tâm hơn. Đó là việc thường thấy sau mỗi lần thay đổi triều đại, nhất là sau mỗi cuộc khởi nghĩa thành công. Tha thuế là đáp ứng nguyện vọng của quần chúng bao năm khốn đốn vì tai họa thuế khóa nặng nề.

Nhưng một vấn đề căn bản là: vậy thuế nói ở đây là loại thuế gì? Có thể hiểu đây là thuế ruộng đất đánh vào các công xã mà cũng có thể là thuế đánh vào đầu người. Vì nguyên văn ở Giao Châu ngoại vực ký chép là “điệu phú”. Đương thời (thời Hán Quang Vũ) ở Trung Quốc người dân cũng đã phải gánh chịu nhiều thứ thuế phú như toán phú, canh phú, khẩu phú v.v...

Nguyên phú là tên gọi một loại thuế có từ đời Lỗ Ai Công (thế kỷ thứ V tr.c.ri) đánh vào hoa lợi ruộng đất và thu bằng tiền. Đến đời Hán Quang Vũ thì phú là thuế đánh vào đầu người. Thời ấy mỗi người dân từ 15 tuổi đến 56 tuổi mỗi năm phải nộp thuế 120 đồng tiền gọi là toán phú. Trẻ em từ 7 tuổi đến 14 tuổi hàng năm phải nộp 23 đồng tiền gọi là khẩu phú. Ngoài ra, mỗi người dân từ 23 tuổi trở lên, mỗi năm phải luân phiên phục dịch việc binh một tháng, muốn được miễn thì phải nộp 3000 đồng tiền gọi là canh phú. Lại còn hộ phú đánh vào từng hộ gia đình, quân phú (thuế cung cấp cho binh lính), tạp thuế, diêu dịch thuế v.v... 2.

Như vậy bản thân người dân Trung Quốc thời đó cũng phải chịu bao thứ thuế đánh vào đầu người! Có lẽ người dân Âu Lạc cũng phải gánh chịu không kém! Nhất là quan lại nhà Hán đã điều tra dân số - dù con số không lấy gì làm chính xác lắm - thì sự thống kê tới tận từng nhân khẩu, từng nhà cũng cho phép suy đoán là rất có thể đã có thuế phú đánh vào đầu người.

Còn thuế điệu thì là thuế đánh vào các thổ sản tơ lụa, vải vóc, đay gai v.v... Tuy nhiên tài liệu nói là tới đời Đường (thế kỷ thứ VII) mới có thuế điệu. Nhưng câu văn trên nằm ở sách Giao Châu ngoại vực ký là sách soạn hồi thế kỷ IV hoặc thứ V. Vậy có thể điệu đã có từ trước, đến đời Đường mới sửa đổi lại và điển chế hóa.

Dù sao thì nhân dân Âu Lạc dưới ách thống trị của nhà Đông Hán đã phải đóng nhiều thứ thuế, ít nhất cũng nặng nề không kém người dân Trung Quốc.
______________________________________
1. Theo thần tích của chính làng Hạ Lôi này - đã nêu ở Chương hai - thi kinh đô của Trưng Vương lại là đất Phấn Lộ nào đó thuộc huyện Chu Diên, và theo Lĩnh Nam chích quái thì “Hai Bà... đóng đô ở Ô Diên thành”. Hai chi tiết này mâu thuẫn với chính sử (như Toàn thư: Bà Trưng... đóng đô ở Mê Linh) nên chúng tôi không kể tới.
2. Trung Quốc thông sử giản biên - Phạm Văn Lan - Tân Hoa thư điếm - năm 1949 - Tập I - tr.199.

Về tổ chức nhà nước thời Trưng Vương có vấn đề pháp luật cũng đáng lưu ý. Hậu Hán thư, Mã Viện truyện có kể rằng sau khi bình định Âu Lạc, Mã Viện có tâu về vua Hán rằng: “Luật Việt khác luật Hán hơn mười điều”. Như vậy là ở thời Trưng Vương (và có lẽ là cả trước đó) nước ta đã có pháp chế. Có thể đó là một thứ luật tập quán lưu hành từ thời các vua Hùng. Gọi là luật tập quán vì đây chưa phải là một hệ thống luật pháp như ngày nay quan niệm mà là một hệ thống những tục lệ, những quy định của cộng đồng về tổ chức và về các quan hệ giữa mọi thành viên trong cộng đồng. Luật ấy thường là truyền miệng. Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên, một số dân tộc vẫn bảo lưu những pho luật tập quán được đặt thành vần vè, luật ấy ở người Ê-đê gọi là Biduê, ở người Srê gọi là Nri v.v... 1. Luật tập quán của người Việt ngày ấy hẳn mang tinh thần dân chủ khác với luật Hán là luật của chính quyền phong kiến chuyên chế.

Ngoài việc pháp luật này và việc thu (hoặc tha) thuế nói ở trên - là những việc thuộc về công tác chính quyền thời Trưng Vương - thì sử sách không cho biết gì hơn nữa. Cho nên không thể biết được tổ chức nhà nước bấy giờ ra sao, hoạt động của nó như thế nào, do đó cũng không có điều kiện để xác định tính chất của nhà nước ấy. Nhưng nếu căn cứ vào các ngọc phả, thần tích thì dù đất nước đã được giải phóng, bà Trưng Trắc vẫn rất chú trọng về quân sự, rất quan tâm tới việc phòng thủ, bảo vệ lãnh thổ. Bà đã phân phong các tướng lĩnh đi trấn các miền đất khác nhau. Nếu hệ thống hóa lại sẽ thấy mạng lưới bố phòng được hình thành như sau:

Ở biên giới phía bắc có bà Thánh Thiên quản lĩnh mười sáu châu, đồn trại chính là ở làng Ngọc Lâm (nay thuộc huyện Yên Dũng, Bắc Giang).

Ở mạn tây, các cô Ả Nương, Ả Nang và các tướng Cả Lợi, Hai Lợi, đặc trách tuần du “tây bắc nhị lộ”.

Ở vùng biển, bà Lê Chân đóng ở An Biên (nội thành Hải Phòng ngày nay), bà Bát Nàn đóng ở Tiên La (nay thuộc huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình).

Ven sông Lô có Trần Tuấn đóng ở Phương Trung, có Hùng Dũng đóng ở Quế Lâm, có Mạnh Đạo và Nguyệt Diện đóng ở Tây Cốc, tất cả đều thuộc đất huyện Đoan Hùng ngày nay (tỉnh Phú Thọ).

Ven sông Hồng có Ả Lan đóng ở Văn Lang (huyện Hạ Hòa, Phú Thọ), có Xuân Nương ở Hương Nha - Hương Nộn, có Thiều Hoa ở Hiền Quan, đều thuộc huyện Tam Nông tỉnh này. Có Ngọc Trinh ở Lùng Hòa, có Đổng Vịnh ở Thượng Lập, đều thuộc huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Có Hồ Đề ở Tráng Việt, có Vĩnh Gia ở Chu Phan, đều thuộc huyện Yên Lãng nay đổi là Mê Linh, Vĩnh Phúc. Riêng bà Phật Nguyệt ở Phương Lĩnh (huyện Thanh Ba, Phú Thọ) được cử “quản lĩnh thượng Thao Giang” (chắc là vùng Lào Cai, Yên Bái).

Xuống phía hạ lưu sông Hồng, có Khỏa Ba Sơn đóng ở Xuân Đỗ Hạ (huyện Gia Lâm - Hà Nội), có Hùng Công ở Dương Liệt (huyện Văn Giang - Hưng Yên), có Phạm Thị Hồng ở Tức Mặc (ngoại thành Nam Định) v.v...

Đặc biệt ở vùng ven sông Đáy các đồn trại của nghĩa quân khá là dày. Bên tả ngạn có Hải Diệu ở Ngõa Thượng và Lôi Chấn ở Tháp Miếu (đều thuộc huyện Đan Phượng), có Ả Lã Nàng Đê ở Yên Lộ - Nghĩa Lộ (huyện Hoài Đức) có Vương Cai ở Thượng Thanh (huyện Thanh Oai), Chiêu Trung ở Yên Trường (huyện Ứng Hòa). Bên hữu ngạn có Hoàng Đạo ở Hạ Hiệp (huyện Phúc Thọ), Ngọc Ba ở Kim Cốc (huyện Chương Mỹ), Nguyễn Lai ở Tuy Lai (huyện Mỹ Đức), Cao Thị Lỗ ở Thạch Tổ (huyện Thanh Liêm, Hà Nam)...

Còn ven sông Đuống cũng có đồn trại của các tướng lĩnh như ông Đống, ông Hựu ở Kim Hồ (huyện Gia Lâm - Hà Nội), Ả Tắc, Ả Dị ở Văn Quan (huyện Thuận Thành - Bắc Ninh), A Lã - Rồng Nhị ở Du Tràng và Tĩnh Trai ở Lai Hạ (đều thuộc huyện Gia Lương - Bắc Ninh).

Ngoài ra, cũng các thần tích ngọc phả cho biết là bà Man Thiện, mẹ của Hai Bà, có lập một đồn riêng ở Nam Nguyên, vừa là quê bà, vừa là ngưỡng cửa đi vào Hạ Lôi - Kẻ Lói. Bà Trưng Nhị thì tới Cự Triền (huyện Yên Lãng, nay là huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc) xây đắp thành lũy2 Thầy dạy của Hai Bà là ông Đỗ Năng Tế vào đóng tận Cư Phong (Thanh Hóa). Cùng đi vào hướng này có cả Đô Dương, một võ tướng thân tín của Hai Bà v.v...

Nếu những ghi chép trên của các thần tích là đúng thì quả là chính quyền Trưng Vương rất quan tâm đến việc bảo đảm an ninh và quốc phòng. Âu đó cũng là một tổng kết rút ra từ thực tế đấu tranh suốt hai trăm năm chống bọn bành trướng phương Bắc đô hộ.
______________________________________
1. Dambo – Les Populations montagnardes du Sud - Indochine. France - Asie No 49-50. Chương VI.
2. Như đã nêu ở Chương hai, đây là theo thần tích của làng Cư An, tên gọi sau này của Cự Triền. Còn theo thần tích làng An Duyên, huyện Thường Tín (Hà Tây) thì bà Trưng Nhị cùng chồng là Hùng Nguyên về lập đồn trại tại làng An Duyên này.

Chương Bốn
CUỘC KHÁNG CHIẾN

QUÂN HÁN MỞ ĐƯỜNG XÂM LƯỢC

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng làm rung động đế chế Hán. Vì đất Âu Lạc, căn cứ để nhà Hán dùng làm bàn đạp thực hiện âm mưu bành trướng xuống phương nam, đã bị tách ra khỏi đế chế này. Đó là điều làm cho Hán Quang Vũ rất không yên tâm. Cho nên dù đang phải lo đối phó với những cuộc khởi nghĩa của nhân dân nhiều nơi trên đất Trung Quốc1, Quang Vũ vẫn tích cực thực hiện dã tâm xâm lược trở lại Âu Lạc. Hậu Hán Kỷ (q.7) có chép rằng năm Kiến Vũ thứ 17 (tức năm 41), một năm sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Quang Vũ đã ra lệnh cho các quận từ Trường Sa trở xuống sắm sửa xe cộ, thuyền bè, sửa sang cầu đường, khơi thông khe lạch, trữ lương thực để chuẩn bị đánh Giao Chỉ.

Như vậy là vua Hán đã huy động cả khu vực đông nam Trung Quốc vào công việc chuẩn bị chiến tranh. Tới tháng Chạp cùng năm ấy (tức tháng 1 năm 42), hắn xuống chiếu cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân. Đoàn Chí làm Lâu Thuyền tướng quân cùng nhau đem quân bộ và quân thủy ở bốn quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô đi đánh Giao Chỉ. Thủy kinh chú có ghi lời tấu của Mã Viện gửi lên Quang Vũ khi hắn đã hoàn thành việc xâm lược: “Kẻ hạ thần đã cùng một vạn hai nghìn tinh binh hợp với đại binh thành hai vạn người và thuyền xe lớn nhỏ hai nghìn cỗ, tự vào đất Giao Chỉ, đến nay đã thành công”.

Một vạn hai nghìn tinh binh mà Mã Viện nói tới có lẽ là quân lính lấy ở bốn quận trên. Còn đại binh - là phần còn lại gồm tám nghìn tên - có thể là quân lính từ lâu được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Mã Viện. Dù sao thì quân chủ lực dùng vào cuộc xâm lược, theo như lời thú nhận trên đây của giặc, là hai vạn tên. Ngoài ra, để phục dịch cho hai nghìn cỗ xe trận và thuyền chiến hắn phải có thêm dăm bảy nghìn dân binh. Điều đáng lưu ý là tất cả lũ lính tráng này, thủy cũng như bộ, đều là người Hoa Nam, dễ thích ứng với thủy thổ Giao Chỉ. Bọn chỉ huy thì đều là tướng gian ác. Mã Viện khi ấy 56 tuổi2, là một tướng có nhiều kinh nghiệm trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Quốc cũng như các dân tộc bị đô hộ. Chính hắn vừa dẹp xong cuộc nổi dậy của nông dân Hoãn Thành thì được phong ngay làm Phục Ba tướng quân lãnh trách nhiệm đi đánh Giao Chỉ. Phó tướng là Lưu Long vốn là thái thú Nam Quận (tỉnh Hồ Bắc) nhưng đã bị cách chức vì gian dối trong việc đo đạc ruộng đất, nay được gọi ra cho làm phụ tá Mã Viện để lập công chuộc tội. Phụ trách thủy quân là Đoàn Chí cũng vừa mới tham gia đàn áp nông dân Hoãn Thành cùng với Mã Viện.

Quân tướng ấy nhận được lệnh xuất quân đánh Giao Chỉ vào tháng Chạp năm Kiến Vũ 17 (tháng 1 năm 42). Địa điểm tập kết của hai đạo quân này là Hợp Phố (nay thuộc tỉnh Quảng Tây). Nhưng vừa đến đây thì Đoàn Chí bị bệnh chết. Quang Vũ lệnh cho Mã Viện kiêm lĩnh cả thủy quân. Trong Hậu Hán thư (q.24) có một đoạn ngắn tóm tắt quá trình hành quân của tên tướng giặc này: “Quân đến Hợp Phố thì Chí ốm chết, vua xuống chiếu cho Viện kiêm lĩnh cả quân của Chí. Bèn ven theo biển mà tiến, dựa núi, mở đường hơn ngàn dặm. Mùa xuân năm 18 (tức năm 42), quân đến trên Lãng Bạc, đánh với giặc, phá được, chém mấy nghìn đầu, kẻ xin hàng hơn vạn. Viện đuổi bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, đánh bại họ mấy lần. Tháng Giêng năm sau (tức năm 43) chém Trắc và Nhị, đệ đầu về Lạc Dương”.

Căn cứ vào ghi chép đó, có thể đoán định hướng tiến quân ban đầu của Mã Viện như sau:

Sau khi nắm toàn quyền chỉ huy, Mã Viện tất là cho thuyền chiến đi nương theo ven biển, qua vịnh Hạ Long để vào sông Bạch Đằng. Còn quân bộ thì cũng “ven biển mà tiến” tức là phải từ Hợp Phố qua Khâm Châu, Phòng Thành, vượt qua biên giới ở Đông Hưng, Móng Cái rồi qua Tiên Yên, Hoành Bồ, Hòn Gai mà cùng tới sông Bạch Đằng. Sau đó, tất cả thủy bộ kéo tới tụ hội ở Lục Đầu Giang - Phả Lại. So với đường sá ngày nay thì đại để tuyến hành quân đó gần trùng với đoạn khởi đầu đường số 4 (Móng Cái - Tiên Yên) và hầu hết đường số 18 (Tiên Yên - Phả Lại). Dặm đường ấy cách đây 2000 năm hẳn là còn hiểm trở nhiều, phải vượt qua lắm rừng, lắm núi nên quân giặc dù “ven theo biển mà đến” nhưng vẫn phải “dựa núi, mở đường hơn ngàn dặm”3.
____________________________________
1. Năm 40, cùng thời gian với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, các họ lớn ở bón châu Thanh, U, Từ, Ký (tương đương với hai tỉnh Sơn Đông và Hà Bắc ngày nay) khởi binh chống chính quyền Hán trung ương. Năm 41, nông dân ở Hoãn Thành (nay thuộc tỉnh An Huy) cũng nổi dậy chống lại triều đình Hán.
2. Theo H.A.Giles trong A Chinese biography dictionary. Mã Viện sinh năm 14 trước Công nguyên, mất năm 49. (Nhưng theo Hậu Hán kỷ (q.8 ) thì Mã Viện chết năm Kiến Vũ thứ 26 tức năm 50).
3. Hợp phố - Đông Hưng: 180km; Móng Cái - Tiên Yên: 86km; Tiên Yên - Phả Lại: 180km. Vậy cả đoạn đường này dài 446km. Một dặm gồm 360 bộ. (một bộ khoảng 0,8m) tức khoảng 400m. Như thế thì 446km rất ứng với con số hơn ngàn dặm ghi trong đoạn sử nói trên.

Thần tích một số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng như thần tích bà Thánh Thiên, thần tích Chàng Hối đại vương... có kể là Hai Bà cử Thánh Thiên đem quân lên chặn Mã Viện ở biên ải. Trưng Vương lịch sử của Hoàng Thúc Hội chép cụ thể là bà Thánh Thiên chặn Mã Viện ở Quỉ Môn quan. Do quan niệm rằng Quỉ Môn quan là Chi Lăng (huyện Ôn Châu, tỉnh Lạng Sơn) và coi Mã Viện tiến theo đường Bằng Tường - Đồng Đăng - Chi Lăng nên có người cho rằng chi tiết đó là hoang đường. Đành rằng rất có thể Thánh Thiên không đón đánh Mã Viện ở Quỉ Môn quan nhưng trong thực tế Mã Viện không hành quân theo đường qua Chi Lăng. Tài liệu thư tịch dẫn ở trên đã nói lên điều đó (Mã Viện tiến theo đường ven biển). Vả theo lý mà suy ra thì cũng là như vậy: Mã Viện một mình thống lĩnh cả thủy bộ, không thể đưa quân bộ đi tách ra xa, cách quân thủy hàng mấy trăm dặm với bao núi rừng cách trở, không tiện liên lạc một bề nào cả. Nhất là từ Hợp Phố sang Giao Chỉ thì chỉ có con đường qua Đông Hưng - Tiên Yên là gần nhất. Nếu muốn vào Giao Chỉ bằng nẻo Bằng Tường - Đồng Đăng thì từ Hợp Phố phải đi ngược lên Nam Ninh (vì vướng dãy Thập vạn đại sơn), tới đây mới có đường đi xuống Bằng Tường. Như vậy đường sẽ dài ra gấp đôi, thêm lên hàng nghìn dặm nữa, lại bị cách biệt hoàn toàn với đạo quân thủy. Hẳn không có một viên tướng nào lại chọn một con đường hành quân vòng vèo tốn nhiều công sức và không tiện cho việc chỉ huy của mình. Vả lại, vào thời ấy con đường Bằng Tường - Đồng Đăng - Chi Lăng, cửa ngõ mở ra để vào Giao Chỉ về mặt đường núi thì chưa được mở. Thời ấy chỉ mới có đường sông Bạch Đằng và đường bộ đi ven biển là cửa ngõ ra vào Giao Chỉ thuận tiện hơn cả.

Ngoài ra, theo Lê Quý Đôn thì có một Quỉ Môn quan ở mạn Tiên Yên và Mã Viện đã hành quân qua đó. Sách Vân đài loại ngữ của nhà bác học này có viết: “Sách Hoàn vũ ký chép rằng Quỉ Môn quan ở phía nam huyện Bắc Lưu, cách huyện 30 dặm, có hai tảng đá đối nhau. Đời Hán, Mã Viện đi đánh Lâm Ấp có lập bia tại đó”. Lại chép rằng: “Đời Tấn, ai sang Giao Chỉ đều phải đi qua Quỉ Môn quan, ở về phía nam cửa quan ấy lại càng nhiều chướng lệ. Nay xét huyện Bắc Lưu ở gần châu Tân Yên (nay là Tiên Yên). Quỉ Môn quan nói ở trên có lẽ là nơi đấy. Nay tục truyền bảo Quỉ Môn quan ở làng Quang Lang thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn thì không phải. Sách sử chép Phục Ba Mã Viện tiến quân đi ven biển, gặp núi thì đẵn cây làm đường đi, hơn ngàn dặm mà dấu chân chưa thấy đến Lạng Sơn”1.

Vậy nếu Mã Viện có đi qua Quỉ Môn quan thì là Quỉ Môn quan này.

Dựa theo các thần tích mà đoán định thì chưa vượt quá biên giới bao xa, Mã Viện đã đụng độ với nghĩa quân Hai Bà (do Thánh Thiên chỉ huy?). Cuộc đụng độ này làm chậm lại bước tiến của hắn. Và có lẽ không chỉ một trận ở Quỉ Môn quan mà quân Hán còn phải chống chọi với những cánh nghĩa quân từ trước đã đóng ở dọc hành lang Tiên Yên - Phả Lại hoặc cả những đội quân vừa mới tập hợp khi đất nước lâm nguy.

Có một vài tài liệu lại nói rằng Thánh Thiên đưa quân tới tận Hợp Phố (Trung Quốc) tập kích Mã Viện. Nói vậy e không đúng: vì Thánh Thiên - theo thần tích đóng căn cứ ở khu vực này là làng Ngọc Lâm thuộc xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Sau khi đánh đuổi Tô Định, bà được Trưng Vương phái về đóng tại căn cứ đó và quản lĩnh công việc tuần phòng biên giới. Thực ra cũng không rõ đường biên giới ngày ấy như thế nào. Quận Giao Chỉ tiếp giáp với quận Thương Ngô hay quận Hợp Phố? Nhiều tài liệu lịch sử cũ nói Hợp Phố thuộc tỉnh Quảng Đông, nhưng đến thời Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì Hợp Phố lại thuộc tỉnh Quảng Tây. Nếu từ Ngọc Lâm mà sang Hợp Phố thì Thánh Thiên phải đưa quân vượt một đoạn đường dài tới năm trăm km, mà lại rất khó đi. Cụ thể là quân lính của Mã Viện đã phải vừa hành quân vừa phát cây, đánh đá, mở lấy đường mà đi. Cho nên khó có chuyện Thánh Thiên đánh tới Hợp Phố. Vả Hợp Phố lúc đó là nơi bè lũ Mã Viện tập trung hai vạn quân thủy và bộ, nếu bị tấn công thì sử Trung Quốc đã ghi.

Sự nhầm nhặt này có lẽ là trong thần tích có nói tới một địa điểm căn cứ của người cậu bà Thánh Thiên mà khi thì gọi là Ký Hợp, khi lại gọi là Hợp Phố. Nhưng Ký Hợp (tức Hợp Phố) này thuộc địa phận huyện Yên Dũng (tỉnh Bắc Giang) chứ không phải ở Trung Quốc. Bài “Thánh Thiên công chúa” của Nhật Nham in trên tạp chí Tri Tân số 38 (tháng 3-1942) viết theo thần tích của xã Ngọc Lâm có ghi cụ thể là Hợp Phố ở huyện Yên Dũng và sau khi người cậu bị Tô Định giết, Thánh Thiên coi sóc cả hai doanh Ngọc Lâm và Hợp Phố.

Như vậy Thánh Thiên không đánh tới quận Hợp Phố bên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Nhưng nói thế không có nghĩa là nhân dân Hợp Phố (Trung Quốc) không chống lại quân Hán. Vì mới hai năm trước đó nhân dân quận Hợp Phố đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nổi dậy đánh đuổi thái thú (đã nêu ở Chương ba). Do vậy lúc này Hợp Phố có thể cũng là đối tượng đàn áp trả thù của Mã Viện và để khỏi bị tiêu diệt thì nhân dân ở đây tất phải chống lại quân Hán.
_____________________________________
1. Bản dịch đã dẫn - tr.128.

TRẬN TÂY VU

Trận này không được chép trực tiếp trong thư tịch. Sử Việt Nam ghi vắn tắt nên đã đành là không có, nhưng sử Trung Quốc ghi có chi tiết hơn mà cũng không có. Vì trận này quân Hán thua.

Như đã nêu ở trên, quân bộ và quân thủy của giặc tụ họp lại ở Lục Đầu Giang - Phả Lại rồi sau đấy mới tỏa đi đánh các nơi. Riêng Mã Viện thì trước khi đến Lãng Bạc, y đã tới tấn công huyện Tây Vu mà khi đó trung tâm là Cổ Loa, kinh đô cũ của nước Âu Lạc. Vì Thủy kinh chú (q.37) có một câu cho phép suy luận, đoán định như vậy: “Mã Viện thấy miền Lãng Bạc đất cao, bèn từ Tây Lý (Vu) kéo quân đến đóng đồn ở đó”. Rõ ràng trước khi tới Lãng Bạc thì Mã Viện đã đóng ở Tây Vu. Đó là sự thực, vì Hậu Hán thư (q.86) có ghi một câu của Mã Viện nói với thuộc hạ: “Lúc ta đang ở giữa miền Lãng Bạc và Tây Lý (Vu), quân giặc chưa dẹp được, dưới thì nước lụt, trên thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt, trông lên thấy diều hâu đang bay bỗng sa xuống nước chết...”.

Như vậy là Mã Viện từng ở Tây Vu, hẳn là chỉ huy cuộc tấn công thành huyện Tây Vu tức thành Cổ Loa. Nhưng y đã thất bại, vì “quân giặc chưa dẹp được”. Ông Đào Duy Anh có phán đoán: “Có lẽ Mã Viện nhằm thẳng tới Mê Linh kinh đô của ta bấy giờ nhưng có thể đến Tây Vu là căn cứ của An Dương Vương xưa kia và bấy giờ hẳn cũng là một căn cứ dụng binh quan trọng của nghĩa quân, Mã Viện bắt đầu gặp sự kháng cự kịch liệt nên phải lui quân về Lãng Bạc”1.

Có thể như vậy lắm. Vì như đã nêu ở trên, sau khi đánh đuổi Tô Định, Hai Bà Trưng vẫn quan tâm đến việc đề phòng giặc Hán trở lại xâm lược, đã phân phong các tướng lĩnh đi trấn giữ các địa bàn xung yếu. Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc, đất thánh của những chủ nhân ngành sản xuất “nỏ thần” và mũi tên đồng lợi hại, một căn cứ thủy bộ kết hợp kiên cố, kiểm soát cả một vùng trũng Lãng Bạc nên chắc chắn là phải được xây dựng thành một chốt chủ yếu của phòng tuyến bảo vệ Mê Linh từ phía tả ngạn sông Hồng - sông Đuống.

Dĩ nhiên chính sử không ghi cụ thể như vậy nhưng theo truyền thuyết và thần tích thì chiến cuộc có diễn ra ở vùng Cổ Loa. Như truyền thuyết ở làng Gia Lộc, một làng ở phía đông bắc thành Cổ Loa (nay thuộc xã Việt Hùng, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) có kể rằng tại Gia Lộc này có một đồn nghĩa quân Hai Bà và là đồn ngoại vi của Cổ Loa. Tướng chỉ huy là ông Đông Bảng. Ông này đã hy sinh ngay từ thời kỳ đầu khi quân Mã Viện mới tới. Ngày hóa là mùng 10 tháng Hai. Nếu ngày hóa là chính xác thì đó chính là khoảng trung tuần tháng 3 năm 42, ứng với thời gian Mã Viện đánh thành Cổ Loa.

Hoặc như thần tích Đức Bà ở làng Dâu (tức làng Cổ Châu nay thuộc xã Vân Hà, huyện Đông Anh, cũng ở phía đông - bắc Cổ Loa) có kể rằng Đức Bà tên là Vĩnh Huy cũng đã hy sinh ngay trên đất làng này trong một trận chiến đấu chống quân Mã Viện.

Cho nên rất có thể có trận quân Mã Viện đánh thành huyện Tây Vu (thành Cổ Loa) và đó là trận mở màn cho cuộc chiến mùa xuân năm 42. Ở trận này, Mã Viện chịu bó tay nên sau gần (hoặc hơn) một tháng đánh phá, hắn phải chuyển sang Lãng Bạc. Đó là vào tháng 4 năm 42.
_____________________________________
1. Cổ đại Việt Nam - Tập IV - tr.64.

TRẬN LÃNG BẠC

Các nhà viết sử thời xưa coi Lãng Bạc là nội thành Hà Nội. Như Toàn thư thì chú rằng Lãng Bạc ở phía tây Tây Nhai của La Thành. Cương mục thì gọi đích danh Lãng Bạc là Hồ Tây. Quốc sử diễn ca cũng nói như vậy:
Uy danh động đến Bắc phương
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng...

Sang thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu đã đặt lại vị trí Lãng Bạc.

H.Maxpêrô, năm 1918, trong bài “Cuộc viễn chinh của Mã Viện”1 đã chỉ định Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).

CI. Madrôn, năm 1937, trong bài “Xứ Bắc kỳ cổ”2 cũng công nhận như vậy.

Ông Đào Duy Anh, năm 1957, trong Cổ đại Việt Nam Tập IV - cũng tán thành kiến giải đó. Tới năm 1964, trong Đất nước Việt Nam qua các đời, ông bổ sung thêm: “Lãng Bạc hẳn là miền đồng sâu ở xung quanh huyện Từ Sơn ngày nay, xưa kia có lẽ còn sâu như hồ nên tên gọi là như thế. Ở phía nam huyện lỵ Từ Sơn có nhiều đồi là miền cao ráo nhất trong cả vùng ấy, có lẽ Mã Viện đóng quân ở vùng đó”. (Huyện Từ Sơn nay thuộc tỉnh Bắc Ninh).

Ông Đinh Văn Nhật, năm 1974, trong bài “Vùng Lãng Bạc thời Hai Bà Trưng” in trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử hai số 154, 155 đã phân biệt rõ Lãng Bạc “ở vào vùng hai bên bờ sông Cầu, ngay cạnh thị xã Bắc Ninh ngày nay” và “chiến trường Lãng Bạc gồm ba khu vực: một là vùng đồi thấp và bãi sông mà sau này gọi là vùng Tiên Du, hai là vùng đồi thấp trên bậc thềm có tên là Lãng Sơn nằm giữa ngã ba sông Thương - sông Lục Nam, ba là bậc thềm Cổ Loa. Trận đánh có tính chất quyết định có lẽ đã xảy ra ở vùng Tiên Du”.

Như vậy, cho tới nay các nhà nghiên cứu đã nhất trí với nhau là nơi diễn ra trận chiến lớn giữa nghĩa quân Hai Bà và quân Hán mà bấy lâu quen gọi là trận Lãng Bạc chính là vùng đồi núi xen lẫn đồng trũng thuộc huyện Tiên Du, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Ngày ấy, Tiên Du thật là một vùng chiến lược. Điều dễ nhận thấy ngay là vùng này nằm trên trục giao thông đường bộ chính của thời bấy giờ, nối hành lang Móng Cái - Tiên Yên - Phả Lại với cố đô Cổ Loa. Trục này lại được tả phù hữu bật bằng hai con sông đi kèm hai bên và cũng đều dẫn tới Cổ Loa là sông Thiếp ở phía bắc và sông Đuống ở phía nam. Thật là tiện lợi trong việc phối hợp tác chiến giữa quân bộ và quân thủy.

Đây cũng là con đường mà theo văn học dân gian vào thời đại Hùng Vương nhân vật thần thoại Chàng Dóng đã hành quân đánh đuổi lũ giặc Ân, truy kích chúng tới tận bản doanh của chúng là núi Vũ Ninh tức núi Trâu Sơn (nay ở sườn núi này còn có một nửa tượng ngựa đá và cây cột đá gắn với chuyện Chàng Dóng).

Đây còn là con đường hành quân của Triệu Đà mà bản doanh của y cũng lại là núi Vũ Ninh và chính Triệu Đà cũng lại đã đóng quân ở vùng Tiên Du sau lần bại trận ở Cổ Loa. Cương mục có chép: “Khi Triệu Đà sang xâm lược, đóng ở núi Tiên Du. Thục Vương đem quân chống cự... Triệu Đà dời quân doanh đến núi Vũ Ninh”. Lĩnh Nam chích quái cũng chép: “Quân Triệu Đà thua to. Đã trú quân ở núi Trâu Sơn”.

Ngoài ra, vùng Tiên Du còn là nơi giáp ranh của nhiều huyện: bản thân vùng này là đất huyện Long Biên, lên mạn bắc là huyện Tây Vu, xuống phía nam qua sông Đuống đã là huyện Liên Lâu, sang phía tây là Chu Diên. Cho nên đóng ở Tiên Du, gặp thời cơ thì có thể tiến đánh các huyện lân cận một cách thuận lợi mà thất bại thì sẵn đường rút chạy về Trung Quốc cũng nhanh (như Tô Định đã từng rút chạy).

Thứ nữa, địa hình Tiên Du cũng phù hợp với yêu cầu hành quân của Mã Viện. Vì đối với một đạo quân xâm lược đi vào miền Bắc nước ta qua nẻo sông Bạch Đằng và hành lang bậc thềm ven biển thì đây là một vị trí có giá trị chiến lược lớn. Với những đồng trũng là những ruộng lúa nước mầu mỡ, vùng này là một kho của cải rất tiện cho việc cướp bóc của quân xâm lược. Ngoài ra, bên những đồng trũng lại là những đồi núi rải rác khắp chốn, như núi Chè 127m, núi Bát Vạn 98m, núi Phật Tích 83m, núi Lạn Kha 85m, núi Đông Sơn 67m, núi Long Khám 79m, núi Vân Khám 73m, núi Bất Lự 10m, núi Dạm 171m, núi Lim 23m... Đóng ở đây có thể phát huy lợi thế của cao điểm, dễ bề khống chế đối phương.

Thủy kinh chú có ghi cụ thể là: “Mã Viện thấy miền Lãng Bạc đất cao bèn từ Tây Lý (Vu) kéo quân đến đóng đồn ở đó”. Có thể Mã Viện đã rải quân khắp vùng này và có một thời gian án binh bất động, vừa để củng cố lại đội ngũ bị sứt mẻ ở Cổ Loa, vừa để thăm dò đối phương. Nhưng thời gian này không dài, vì vào tháng Ba âm lịch từ tháng 4 năm 42, nghĩa quân Hai Bà đã kéo tới giao chiến.
_____________________________________
1. L’expédition de Mayuan - trong BEFEO tập XVIII.
2. Le Tonkin ancien - trong BEFEO tập XXXVII.

Theo hai ông Nguyễn Văn Dị, Thanh Ba thì “Trưng Vương đã đem đại quân tổ chức thành trận thế phòng ngự sẵn ở Lãng Bạc, khi quân Đông Hán tiến đến thì đại quân của Trưng Vương chặn đánh. Như vậy trận đánh của Trưng Vương ở vùng Lãng Bạc là trận phòng ngự chặn đánh đại quân Đông Hán đang tiến công.”1.

Nhưng ông Trương Hữu Quýnh thì quan niệm ngược lại, coi đây là một trận tấn công của nghĩa quân Hai Bà: “Bấy giờ vào khoảng cuối xuân đầu hạ năm 43 (chính ra là năm 42 - N.V.P.). Quân Hai Bà đang được tập hợp và xem xét tình hình địch vì biết rằng thế giặc đang mạnh, chưa thể đánh ngay được. Hai Bà cũng muốn dựa vào thủy thổ của nước ta để đưa giặc vào thế bí và sau đó kéo quân đánh đồn. Quả thực những điều kiện thời tiết của nước ta cũng gây nhiều khó khăn cho giặc... Giữa lúc ấy Hai Bà Trưng kéo quân chủ động tiến công vào doanh trại giặc.”2.

Ý kiến của ông Trương Hữu Quýnh có phần hợp lý hơn. Bởi nếu bảo rằng Hai Bà đã đem đại quân tổ chức thành trận thế phòng ngự sẵn ở Lãng Bạc thì Mã Viện gặp đại quân này trước khi tới Tây Vu. Vì từ mạn biển đi vào thì qua Lãng Bạc rồi mới tới Tây Vu. Lãng Bạc nằm trên đường hành quân của giặc, nếu có nghĩa quân tại đây thì chiến sự đã phải xảy ra. Đằng này, như Thủy kinh chú đã ghi - Mã Viện thấy Lãng Bạc đất cao bèn từ Tây Vu kéo quân đến đóng tại đó - như thế có nghĩa là trong lần đầu đi qua Lãng Bạc để đến Tây Vu, Mã Viện không gặp đại quân Hai Bà. Mà cho tới sau trận Tây Vu (Cổ Loa), ở Lãng Bạc vẫn không có nghĩa quân nên Mã Viện mới kéo tới đóng đồn ở đó (và hắn sẽ đóng ở đấy khá lâu, trong suốt mùa mưa - tức mùa hè - năm 42).

Cho nên có thể là sau thắng lợi ở Cổ Loa, Hai Bà đã chủ động đưa đại quân tới Lãng Bạc tiến công giặc Hán.

Lúc ấy là cuối xuân, đầu hạ. Thời tiết đang chuyển. Trời nóng lên và mùa mưa bắt đầu. Khí trời oi bức và ẩm ướt, Mã Viện khốn đốn vì các bệnh thời khí phát sinh trong quân lính. Ngay một viên đại tướng là Bình Lạc hầu Hàn Vũ cũng đã chết vì bệnh ở Lãng Bạc. (Hậu Hán kỷ q.7).

Mã Viện có lúc đã tỏ ra khá mỏi mệt. Hậu Hán thư q.42 còn ghi lời của viên tướng già này nói với thuộc hạ sau khi ở Giao Chỉ về: “Ngày trước, khi ta còn hàn vi hăng hái muốn lập nghiệp lớn. Em họ ta là Thiếu Du thấy ta vất vả, thương hại can ta mà bảo rằng: “Người ta ở đời miễn được cơm no, áo ấm, cưỡi xe êm, đi bước chậm, làm duyện lại ở quận nhà, giữ phần mộ tổ tiên, được tiếng khen trong làng xóm thế là đủ lắm rồi. Ham giàu sang, thích công nghiệp là tự mình làm khổ mình”.

“Ta không cho lời ấy là lẽ phải. Tới khi phụng mệnh ra quân, lúc đang ở giữa miền Lãng Bạc và Tây Lý (Vu), quân giặc chưa dẹp được, dưới thì nước lụt, trên thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt, trông lên thấy diều hâu đang bay bỗng sa xuống nước chết, nằm nghĩ đến lời Thiếu Du mới thấy là chí lý”.

Khi đó, thấy lời khuyên của Thiếu Du là chí lý tức là Mã Viện đang rất nản lòng. Cùng với những khó khăn do thời tiết bày ra là sự lúng túng về chiến lược. Mã Viện hẳn chưa tìm được một cách đánh có hiệu quả.

Giữa lúc đó nghĩa quân kéo tới tiến công. Đây là một sai lầm về chiến lược của những người lãnh đạo nghĩa quân! Vì quân Hán sang đánh Giao Chỉ với phương châm đánh nhanh để thắng nhanh, là phương châm quen thuộc của mọi đạo quân xâm lược. Với ưu thế về kỹ thuật chiến đấu, chúng rất mong sớm gặp đối phương để tác chiến nếu không nói là phải tìm cho ra ngay đối phương để tổ chức trận đánh. Cụ thể là Mã Viện đã xông thẳng đến Tây Vu. Chỉ vì không hạ được thành này (do sức kháng cự mạnh mẽ của nghĩa quân thạo cung nỏ, lại có thành lũy vững bảo vệ) nên hắn phải lui sang Tiên Du.

Để chống lại một đạo quân mà bộ phận nòng cốt đã từng chinh chiến nhiều năm lại có một chỉ huy dạn dày, từng trải, có nhiều kinh nghiệm tác chiến ở những hoàn cảnh, môi trường khác nhau như đạo quân Mã Viện mà Hai Bà lại dàn quân đánh theo trận địa chiến thì là thất sách. Nhất là quân đội của Hai Bà mới thành hình trong bão táp của khởi nghĩa chưa quá hai năm, còn thiếu nhiều kinh nghiệm.

Cho nên có thể nói rằng việc nghĩa quân tới đánh Lãng Bạc đã gỡ thế bí về chiến lược cho Mã Viện! Tên giặc già này tổ chức phản công với mọi sự thành thạo, quen tay và cuối cùng giành được thắng lợi!3 Theo Hậu Hán thư (q.24) trong trận Lãng Bạc này quân Hán đã chém hơn nghìn đầu và bắt hàng hơn một vạn. Những con số này tất có phần phóng đại, nhưng trận đánh hẳn là khá dữ dội. Quân Hán chết cũng không phải ít.

Bàn về sự thất bại của Hai Bà ở Lãng Bạc, ông Dương Minh có nhận định khá xác đáng: “Năm 43 (chính ra là năm 42 - N.V.P.), nếu Hai Bà Trưng không mang quân chủ lực đến Lãng Bạc mà lại tránh cuộc tấn công của Mã Viện, chờ cho Viện phải rải quân ra để chiếm giữ các nơi, nhất là rải quân ra để bảo vệ đường liên lạc tiếp tế từ Trung Quốc sang Việt Nam, rồi mới mang quân tỉa dần quân Hán, làm cho quân Hán càng ngày càng hao mòn, mỏi mệt, mất hết ý chí chiến đấu rồi cuối cùng mới tổng phản công tiêu diệt quân Hán hay đuổi chúng ra khỏi đất nước thì một tình hình khác sẽ có thể xảy ra. Chí ít Mã Viện cũng không có cơ hội tiêu diệt nghĩa quân, chiến tranh Việt - Hán sẽ kéo dài và một khi chiến tranh kéo dài thì thắng lợi cuối cùng chưa chắc đã là phía quân xâm lược.”4.

Nhưng dù sao thì trận Lãng Bạc, một trận đánh rất lớn so với mức độ phát triển của lịch sử bấy giờ đã khẳng định bản lĩnh và làm sáng tỏ truyền thống của dân tộc chúng ta: thà hy sinh tất cả chứ không để mật độc lập tự do.
_____________________________________
1. Bài “Tìm hiểu thêm về cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Đông Hán của nhân dân ta thời Hai Bà Trưng” trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 173.
2. Trương Hữu Quýnh – Lịch sử Việt Nam - Quyển 1 - Tập 1 - trang 92 - năm 1977.
3. Có thể lúc này Mã Viện còn nhận được cả viện binh - Vì Ch. Patris trong Essai d’historie d’Annam (lmp. Đắc Lập - Huế - 1922) cung cấp một chi tiết là ban đầu Mã Viện chỉ có hai vạn quân, sau được bổ sung thêm năm vạn quân. Theo Thủy kinh chú (q.37) thì Tây Thục cũng đưa quân xâm lăng nước ta hỗ thợ Mã Viện.
4. Dương Minh – Thử xét xem nguyên nhân gì khiến cuộc kháng chiến của Trưng Trắc và Trưng Nhị phải thất bại - Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 36.

TRẬN CẤM KHÊ

Hậu Hán thư, mục Mã Viện truyện (q.24) có ghi: “Viện đuổi bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, đánh bại họ mấy lần. Tháng Giêng năm sau (tức Kiến Vũ thứ 19, dương lịch là khoảng tháng 2 năm 43 - N.V.P.) chém Trưng Trắc, Trưng Nhị nộp đầu về Lạc Dương”.

Cũng Hậu Hán thư, mục Nam Man truyện (q.86) lại viết: “Tháng Tư năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng tháng 5 năm 43 - N.V.P.) Viện phá Giao Chỉ, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị”.

Thủy kinh chú (q.37) dẫn Giao Chân ngoại vực ký: “... Mã Viện sang đánh, Trắc và Thi chạy vào Kim Khê cứu, ba năm mới bắt được”.

Cũng ở Thủy kinh chú (q.37) còn có câu: “Theo sách Việt chí thì Cấm Khê là Kim Khê ở phía tây-nam huyện Mê Linh. Theo Nam Việt chí thì Trưng Trắc chạy vào Kim Khê huyện hai năm mới bắt được”.

Qua các tài liệu trên, có hai vấn đề cần làm sáng tỏ: địa danh, địa điểm Cấm Khê và thời gian chiến sự diễn ra ở nơi ấy.
VỀ ĐỊA DANH, ĐỊA ĐIỂM CẤM KHÊ

Các tài liệu trên đều khẳng định Cấm Khê là căn cứ kháng chiến cuối cùng của Hai Bà. Đất Cấm Khê ấy còn có tên là Kim Khê và được coi là cứu hoặc huyệt. Cứu có nghĩa là khe, động. Huyệt có nghĩa là chỗ khe núi nước chảy xói vào. Vậy cứu và huyệt nghĩa cũng na ná như nhau. Kể ra bản thân chữ khê cũng đã có ý nghĩa là một cái khe núi vì ở các tài liệu nói trên, chữ khê được viết theo bộ cốc, chữ ấy có nghĩa là một khe nước ở vùng núi non (chứ không phải ở đồng bằng).

Như vậy Cấm Khê hoặc Kim Khê - có thể hiểu là Khe Cấm hoặc Khe Vàng - phải là một vùng có khe có suối tức cũng là một vùng đồi núi, mà là một vùng đồi núi không hẹp, lại hiểm trở, để nghĩa quân có thể trú ẩn an toàn và chiến đấu trong một thời gian dài ít nhất là từ một năm trở lên.

Vậy Cấm Khê cụ thể là ở chỗ nào? Từ đời nhà Đường, cuối thế kỷ thứ VII, thái tử Lý Hiền làm công việc chú giải Hậu Hán thư, đã ghi chú về Cấm Khê như sau: “Quận Giao Chỉ, huyện Mi Linh (có âm khác là Mê Linh) có Kim Khê cứu, người đời gọi lầm là Cấm Khê. Đó là nơi Trưng Trắc cố thủ. Nay thuộc huyện Tân Xương, Phong Châu”.

Như thế thì cũng có thể hình dung ra vị trí Cấm Khê được rồi. Song từ trước đến nay đã có nhiều ý kiến khác nhau chỉ định vị trí này. Các tác giả bộ Cương mục thì cho rằng: “Cấm Khê ở về địa hạt Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây” (Tiền biên - q.2). Vĩnh Tường nay là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Ông Đào Duy Anh lại đoán định Cấm Khê là xã Cẩm Khê hay còn gọi là Cẩm Viên ở huyện Yên Lạc cũng thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (Cổ đại Việt Nam - Tập IV - tr.65)1.

Thế là cả hai thuyết trên đều đặt Cấm Khê ở trên một dải đồng bằng hẹp nằm ngay bên tả ngạn sông Hồng mà hàng năm về mùa mưa lũ thường bị ngập nước (vì ngày đó chưa có đê). Như vậy không phù hợp với sự ghi chép của các thư tịch đã nêu ở trên. Vả nếu đúng là dải đồng bằng ấy thì làm sao mà Hai Bà tổ chức kháng chiến được tới hàng năm (hoặc hai hay ba năm) chống lại cuộc bao vây càn quét của hai vạn quân giặc đang nắm ưu thế quân sự? Để làm được như vậy, nghĩa quân Hai Bà phải có một căn cứ hiểm yếu, có giá trị phòng ngự tốt nhưng lại cũng không phải hoàn toàn khép kín mà có thể và cần phải liên lạc được với các căn cứ khác, với nhân dân hậu phương (có thế mới duy trì được cuộc chiến đấu).

Năm 1972, ông Đinh Văn Nhật trong luận văn Đất Cấm Khê, căn cứ cuối cùng của Hai Bà Trưng trong cuộc khởi nghĩa Mê Linh năm 40 – 43 in ở tạp chí Nghiên cứu Lịch sử các số 148-149, đã đưa ra một giả thuyết mới. Nội dưng cơ bản của thuyết này là coi trung tâm Cấm Khê, căn cứ kháng chiến cuối cùng của Hai Bà Trưng, chính là khu vực thung lũng Suối Vàng, nơi có con Suối Vàng từ sườn đông núi Tản Viên nam chảy về rồi vòng qua Hạ Lôi - Bằng Trù ở huyện Thạch Thất để đổ vào sông Tích. Thung lung Suối Vàng được coi là tên Nôm của Kim Khê cứu. Tác giả mô tả: “Con suối này bắt nguồn từ núi Xổ có đỉnh cao 178m, gần thôn Cổ Cửa trên đất các xã Đào Lãng và Bằng Lộ cũ, thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình, sau đó chảy qua xóm Suối Vàng rồi vào địa hạt xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, thành suối Hạ Bằng; suối này chảy qua chân núi Tu Hú, qua xã Hạ Bằng rồi sau cùng đổ vào sông Con ở ngang Dã Cát và Phú Vinh thuộc huyện Quốc Oai, Hà Sơn Bình”. (Nghiên cứu Lịch sử, số 148 ).

Giả thuyết này được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận. Ông Văn Tân vừa tán thành lại vừa cung cấp thêm một giả thiết về mặt ngữ âm: “Kim Khê hay Cấm Khê đều đọc là gin xi hay chín xi. Đầu tiên người ta đã dịch Suối Vàng ra gin xi (chín xi) tức Kim Khê. Sau khi truyền miệng cho nhau, người ta chỉ nói là gin xi. Rồi từ gin xi người ta viết ra Cấm Khê hoặc Cẩm Khê”2.

Thung lũng Suối Vàng đó có nhiều dấu hiệu tỏ ra là một căn cứ của Hai Bà Trưng. Ngoài tên gọi ra (Kinh Khê - Suối Vàng) nơi đây còn là một vừng rừng núi kín đáo rất phù hợp với việc xây dựng căn cứ địa: sông Đáy là vòng hào phòng thủ tự nhiên thứ nhất của vùng này, sông Tích là vòng hào thứ hai, còn rừng cây bạt ngàn của dãy Ba Vì - Viên Nam là tấm áo giáp che chở hiệu nghiệm đồng thời là nguồn cung ứng phần nào lương thực và thực phẩm. Căn cứ này lại có lối thông vào Cửu Chân qua hành lang Miếu Môn - Nho Quan.

Ngoài ra, thung lũng Suối Vàng lại gần kề Hạ Lôi - Kẻ Lói, được coi là quê hương của Hai Bà và như vậy trở thành chỗ dựa về vật chất và nhất là về tinh thần cho hoạt động kháng chiến.

Một dấu hiệu khác nữa là thung lũng này ở ngay dưới chân núi Vua Bà, ngọn núi cuối cùng của dãy Tản Viên nam. Cái tên gọi ấy phải chăng liên quan tới Bà Trưng? Đành rằng trong tục lệ thờ phụng và tín ngưỡng dân gian của chúng ta có nhiều “vua bà”. Song ở đây, bên cạnh núi Vua Bà lại có cả núi Mã Viện tương truyền là nơi đóng quân của tên giặc già này. Vậy thung lũng Suối Vàng với núi Vua Bà, núi Mã Viện càng có khả năng là có liên quan tới sự kiện Hai Bà Trưng và là một chiến trường cổ thời đó3.
_____________________________________
1. H. Maxpêrô trong L’expédition de Mayuan - BEFEO XVIII - cho rằng Cấm Khê là Cẩm Khê và coi đó là huyện Cẩm Khê, Yên Bái. Nhưng cũng chính ông tìm ra cái tên huyện Cẩm Khê thực tế chỉ mới có từ năm 1841, trước đó là huyện Hoa Khê. Cho nên ông không nghiên cứu tiếp vấn đề Cấm Khê nữa, coi như chưa biết là ở đâu.
2. Văn Tân – Công tác nghiên cứu Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo trong mấy năm gần đây - Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 161.
3. Nếu sau này ngành khảo cổ đào được ở khu vực đó những vũ khí bằng đồng, bằng sắt và phát hiện những bãi táng tập thể thì đích thực đây là Cấm Khê.

VỀ THỜI GIAN VÀ DIỄN BIẾN CỦA CHIẾN SỰ Ở CẤM KHÊ

Như đã nêu ở trên, vẫn một bộ Hậu Hán thư mà ở mục Mã Viện truyện thì ghi: “Tháng Giêng năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng tháng 2 năm 43) chém Trưng Trắc, Trưng Nhị đệ đầu về Lạc Dương.” Tới mục Nam Man truyện lại ghi: “Tháng Tư năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng tháng 5 năm 43), Viện phá Giao Chỉ, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị”.

Như vậy theo Hậu Hán thư, Hai Bà duy trì cuộc kháng chiến ở Cấm Khê được khoảng từ tám tháng đến một năm.

Nhưng cũng như đã nêu ở trên, theo Nam Việt chí thì thời gian đó là hai năm và theo Giao Châu ngoại vực ký thì thời gian đó lại là ba năm. (Sử Việt Nam như Toàn thưCương mục đều chép giống như mục Mã Viện truyện).

Thế là tài liệu về thời gian có chiến sự ở Cấm Khê khá là phân tán. Tuy nhiên, sự sai biệt về khoảng thời gian đó thật không đáng bận lòng. Vì dù là bảy tám tháng, một năm, hay hai ba năm thì cuộc kháng chiến ở Cấm Khê rõ ràng là nối tiếp cuộc khởi nghĩa mùa xuân năm 40 đã góp phần làm sáng tỏ thêm truyền thống bất khuất của dân tộc ta, đã nói lên cho kẻ thù biết rằng người Việt ở phương nam này không dễ gì chịu khuất phục thiên triều, mọi người sẵn sàng hy sinh ngay cả bản thân mình để bảo vệ độc lập và tự do!

Còn một vấn đề nữa mà chính sử cũng không có ghi chép gì, đó là vấn đề diễn biến của chiến sự tại Cấm Khê. Tuy vậy trong Hậu Hán thư, Mã Viện truyện, có một câu đáng chú ý: “Viện đuổi bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, đánh bại họ mấy lần”. Chi tiết này gián tiếp nói lên rằng tại Cấm Khê hai bên đã giao chiến nhiều trận. Đúng thế! Trong trận Lãng Bạc nghĩa quân chết tới mấy nghìn. (Hậu Hán thư, q.24). Quân Hán bị chết hẳn cũng không kém. Có thể Hai Bà đã thấy thế mạnh của quân xâm lược nên nghĩ đến việc phải rút về một căn cứ có đủ điều kiện “địa lợi, nhân hòa”. Căn cứ ấy phải là Cấm Khê, là thung lũng Suối Vàng vì như đã nêu ở trên, nơi đó địa thế rừng núi hiểm yếu có thể dựa vào “hình khe thế núi” để chiến đấu lâu dài. Nơi đó được bảo vệ bằng hai cái hào thiên tạo là sông Đáy và sông Tích nhất là sông Tích, một con sông chảy trên mép của một bậc thềm nên có khúc thì đôi bờ thoáng đãng nhưng cũng có khúc thì hai bên sông là những đồi gò vách thẳng đứng, rất thuận tiện cho việc bố trí phòng ngự. Nơi đó lại có lối ăn thông vào quận Cửu Chân, một hậu phương đáng tin cậy, bằng con đường qua hành lang Miếu Môn - Nho Quan tức con đường “thượng đạo” sau này. Sau hết, Cấm Khê đó lại kề sát Hạ Lôi - Kẻ Lói, có thể là đất bản bộ của lạc tướng Mê Linh, quê hương thân thuộc của Hai Bà.

Với giá trị chiến lược lợi hại như vậy, căn cứ Cấm Khê thực sự đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Mã Viện. Tên giặc già này kết thúc trận Lãng Bạc vào mùa xuân năm 42 nhưng mãi tới mùa xuân (hoặc mùa hạ) năm 43 mới thắng được Hai Bà ở Cấm Khê. Trận Cấm Khê ấy - theo Hậu Hán thư - nếu chỉ kể mùa khô 42 - 43 thì chiến sự kéo dài trên sáu tháng. Theo Giao Châu ngoại vực kýNam Việt chí thì chiến sự còn dai dẳng kéo tới hai hoặc ba năm sau, tức là sau khi Hai Bà tử trận, nghĩa quân vẫn chiến đấu tiếp tục ở những chốt hiểm yếu, ở những triền núi, bìa rừng hiểm trở... Với khoảng thời gian ấy cùng với số người bị giết, bị bắt - của cả hai bên - có tới vài ba vạn, trận Cấm Khê quả là một trận chiến lớn thời đó. (Chỉ nói riêng cánh quân do Lưu Long chỉ huy cũng đã giết hơn một nghìn nghĩa quân và bắt sống hơn hai vạn người). Hẳn là Hai Bà Trưng đã huy động vào trận bảo vệ căn cứ Cấm Khê này hầu hết các tướng lĩnh danh tiếng và đại bộ phận nghĩa quân. Tất nhiên điều này không thấy chép trong chính sử nhưng hoàn toàn phù hợp với sự ghi chép của các thần tích, ngọc phả. Theo như thần tích những làng thờ các tướng lĩnh của Hai Bà thì đa số những vị này đã chiến đấu anh dũng và hy sinh tại Cấm Khê. Có thể nêu vài ví dụ:

Như ở huyện Đan Phương có sáu làng thờ mười vị (Vĩnh Gia, Vĩnh Hoa, Hải, Trực, Út, Ả Tú, Ả Huyền, Ả Cát, Hải Diệu, Lôi Chấn) thì có tới bốn vị hy sinh ở Cấm Khê (Ả Tú, Ả Huyền, Ả Cát, Hải Diệu). Hay ở huyện Hoài Đức có năm làng thờ hai vị (Ả Lã Nàng Đê và Nguyễn An) thì cả hai đều tử trận tại Cấm Khê... Nói chung, theo ghi chép của các ngọc phả, thần tích thì huyện nào cũng có những tướng lĩnh chiến đấu ở Cấm Khê rồi hoặc chết tại đó, hoặc mở đường máu thoát ra ngoài vòng vây của giặc. Như ở Từ Liêm có Quách Lãng (làng Thượng Cát), ở Gia Lâm có Thành Công (làng Cổ Dinh), ở Đông Anh có vợ chồng Đào Kỳ, Phương Dung (làng Cói), ở Phúc Thọ có vợ Đỗ Năng Tế là Tạ Cẩn Nương (làng Khánh Hợp), ở Yên Lãng có Chàng Hối (làng Thịnh Kỷ), ở Sóc Sơn có Đổng Nghị (làng Ninh Bắc) v.v... Thần tích ở các làng thuộc những tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên cũng sẵn các “mô-típ” đó.

Nhưng tổn thất lớn nhất đối với nghĩa quân ở mặt trận Cấm Khê là sự hy sinh của Hai Bà. Tất cả các tài liệu lịch sử của Trung Quốc cũng như của Việt Nam đã dẫn ở trên đều thống nhất là Hai Bà tử trận tại Cấm Khê1.

Các sách sưu tầm truyền thuyết cũng đều chép như vậy.

Việt điện u linh: “Hai Bà lui giữ Cấm Khê... thua trận và cùng mất”.

Lĩnh Nam chích quái: “Bà (Trưng Vương) lui giữ Cấm Kê. Viện đem quân đến đánh... Bà thế cô, bị hại trong trận”.

Ngay ở làng Hát Môn, nơi có đền chính thức thờ Hai Bà cũng có hèm kiêng là tất cả các đồ thờ phụng đều sơn màu đen, tuyệt đối không có màu đỏ là màu máu. Khi cúng tế cũng không ai được mang trang phục màu đỏ. Như vậy cũng là phản ánh tín ngưỡng Hai Bà đổ máu hy sinh ở chiến trường.

Song cũng chính ở đền Hát Môn này, bản ngọc phả lại kể là Hai Bà tự trầm mình trong dòng Hát Giang. Và từ bao đời rồi lời truyền miệng phổ biến trong dân gian cũng kể như vậy. Năm 1840, khi soạn văn bia Trưng Vương sụ tích bi ký cho đền Đồng Nhân (xem Phụ lục), tiến sĩ Vũ Tông Phan hẳn cũng theo lời truyền miệng mà kể rằng: “Đến lúc việc chẳng chiều lòng, (Hai Bà) cùng nhau xắn tay nhảy xuống sông Hát”.

Thật ra, đây chỉ là nhân dân không muốn người anh hùng của mình lại có một chung cục thảm khốc (bị chết vì gươm đao) nên đã tưởng tượng ra một cách chết nhẹ nhàng hơn, thi thể được bảo toàn. Đó cũng là một nét đặc biệt trong lý tưởng thẩm mỹ của người bình dân Việt Nam thời xưa.

PHỤ CHÚ - Về chung cục của Hai Bà, ở các thần tích, ngọc phả có khá nhiều dị bản:

1- Ngọc phả làng Hạ Lôi (Yên Lãng): Hai Bà hóa ở một ngọn núi huyện Thạch Thành thuộc phủ Kinh Môn.

2- Thần tích làng Thịnh Kỷ (xã Tiền Châu, huyện Mê Linh) nơi thờ Đông Hối đại vương: Hai Bà hóa ở huyện Thạch Thành, thuộc phủ Thiệu Thiên, Ái Châu.

3- Thần tích làng Cư An (xã Tam Đồng, huyện Mê Linh) nơi thờ riêng Trưng Nhị: Bà Trưng Trắc tự ải ở một ngọn núi huyện Thạch Thành, Ái Châu. Còn bà Trưng Nhị thì chết ở An Cư.

4- Thần tích làng Nại Tử Xã (xã Chu Phan, huyện Mê Linh) thờ riêng Thi Sách: Hai Bà đều chết trận ở Cấm Khê.

5- Thần tích làng Tuấn Xuyên (xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì) thờ Phùng Thị Chính: Hai Bà hóa tại núi Hy Sơn.

6- Thần tích làng Thanh Lãng (xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) thờ Triệu Khoan Hòa: Bà Trưng Nhị bị tử thương ở bên sông Nguyệt Đức (tức sông Cà Lồ, theo cách gọi ở địa phương này).

7- Đặc biệt Thiên Nam ngữ lục kể về chung cục của Hai Bà khác hẳn mọi tài liệu quen thuộc: Được tin Mã Viện kéo sang, Hai Bà điểm binh lên Man thành đón đánh. Sau một vài trận, liệu thế không thắng, Trưng Vương đề nghị giảng hòa. Mã Viện y theo, lấy Man thành tức là Tư Minh làm mốc chia hai nước. Nhưng khi vừa kéo binh trở về thì cả Hai Bà “Chị em nhuốm bệnh yên hà. Nửa đêm bỏ đất lối ra lên giời”.
_____________________________________
1. Hậu Hán thư q.24: Tháng Giêng năm Kiến Vũ 19, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị...
    Cũng sách này, q.86: Tháng Tư năm Kiến Vũ 19, Viện phá Giao Chỉ, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị. Q.22: Lưu Long đuổi đến Cấm Khê, bắt được Trưng Nhị, chém hơn nghìn đầu.
    Nam Việt chí: Trưng Trắc chạy vào Kim Khê huyệt, hai năm mới bắt được.
    Toàn thư: Trưng Vương và em gái... thế cô, đều thua chết.
    Cương mục: Trưng Vương và em gái... thế cô, đều bị thất trận chết.

NHỮNG TRẬN ĐÁNH KHÁC TRÊN ĐẤT GIAO CHỈ

Hai Bà hy sinh rồi (tháng Giêng hoặc tháng Tư năm Kiến Vũ 19 tức tháng 2 hoặc tháng 5 năm 43) nhưng tại Cấm Khê các tướng lĩnh của Hai Bà vẫn cầm cự kháng chiến tới hai hoặc ba năm sau. Một số không ít tướng lĩnh và nghĩa quân khác đã chạy vào Cửu Chân - như Đô Dương, Chu Bá - tiếp tục chiến đấu. Song như thế không có nghĩa là Mã Viện đã kiểm soát được toàn bộ quận Giao Chỉ. Ý thức tự chủ của người Giao Chỉ không thế lực nào tiêu diệt nổi. Chắc chắn là nhiều nơi không chịu phục tùng quân xâm lược. Thủy kinh chú (q.37) có chép: “Tháng Mười năm Kiến Vũ 19 (tháng 11 năm 43) Mã Viện tiến vào quận Cửu Chân...”. Như vậy là suốt mùa hè và mùa thu năm 43 Mã Viện ở lại Giao Chỉ. Hẳn là để lo đối phó với các cánh nghĩa quân còn hoạt động ở nhiều địa phương khác nhau.

Tuy chính sử không có chép các sự kiện này nhưng qua các thần tích, ngọc phả thì quả là sau trận Cấm Khê, các tướng lĩnh của Hai Bà đóng ở những địa phương khác nhau vẫn tiếp tục kháng chiến chống quân Hán. Cũng theo các thần tích có thể kể tới hàng chục những cuộc chiến đấu như vậy. Thực tế này tất gây cho giặc nhiều tổn thất.

Ở huyện Phúc Thọ (Hà Tây) có Đỗ Năng Tế, Tạ Cẩn Nương và Hoàng Đạo.

Đỗ Năng Tế ngụ tại trang Khánh Hợp (nay thuộc xã Tam Hiệp). Vợ là Tạ Cẩn Nương. Bà Man Thiện từng đã đón vợ chồng ông về dạy cho hai cô con gái là Hai Bà Trưng. Khi Hai Bà khởi nghĩa, vợ chồng Năng Tế đứng đầu hàng tướng lĩnh. Tới lúc Mã Viện xâm lược, bà Cẩn Nương chiến đấu bên cạnh Hai Bà, sau tuẫn tiết ở Hát Giang. Còn ông Năng Tế thì về Khánh Hợp cùng bà con làng xóm tiếp tục chống giặc Hán cho đến hơi thở cuối cùng. Ngày ông hy sinh là 17 tháng Bảy1.

Hoàng Đạo ngụ tại làng Hạ Hiệp (nay thuộc xã Liên Hiệp), theo Hai Bà từ ngày tụ nghĩa Hát Môn. Khi Mã Viện xâm lăng, Hoàng Đạo lên chặn giặc ở Long Biên, sau trở về xây dựng căn cứ ở Quán Dâu gần bờ sông Đáy. Được gần một năm, Mã Viện đem quân tới đánh. Ông chiến đấu với giặc đến cùng và hy sinh ngay tại Quán Dâu.

Ở huyện Yên Lãng (nay gọi là huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc) có chàng Hối và Lũ Lũy.

Chàng Hối từng dấy binh đánh giặc Hán trước khi Hai Bà khởi nghĩa (đã nói ở Chương ba). Sau này khi Mã Viện đánh thắng ở Cấm Khê, Hối vào châu Ái, rồi lộn trở về căn cứ cũ ở làng Thịnh Kỷ (nay thuộc xã Tiền Châu) tổ chức bà con chống giặc. Nhưng giặc Hán đã đem một lực lượng lớn tới đánh. Hối cuối cùng tự tử ở sông Nguyệt Đức (Cà Lồ) vào ngày 10 tháng Chín.

Lũ Lũy ở làng Văn Lôi (nay thuộc xã Tam Đồng), là cháu ngoại một lạc tướng. Chàng theo Hai Bà từ ở Hát Môn. Sau khi đuổi Tô Định, chàng về đóng đồn ở Văn Lôi. Khi Mã Viện tới vây, Lũ Lũy phá được trùng vây nhưng chạy tới đầu làng thì giặc đuổi kịp. Không để sa vào tay giặc, chàng lấy kiếm quyên sinh.

Ở huyện Đông Anh có Khổng Chúng, người trại Hà Hào (sau đổi là Hà Vĩ, nay thuộc xã Liên Hà). Khổng Chúng từng theo hai người cùng làng là Thủy Hải, Đăng Giang đi đánh giặc Hán. Hai vị này hy sinh ở vùng biển. Khổng Chúng về tổ chức chiến đấu tại Hà Hào. Trong một trận đánh, ông bị ngã ngựa và hóa. Đó là ngày 12 tháng Chín.

Ở huyện Gia Lâm có ba tướng họ Đào ở Ngọc Động (nay thuộc xã Đa Tốn). Đó là Đô Thống, Chiêu Hiển và Tam Lang, theo Hai Bà từ Hát Môn. Sau này, khi Hai Bà đã hy sinh, ba chàng họ Đào về trang Đa Tốn lập căn cứ kháng chiến. Họ đều hóa vào ngày 12 tháng Bảy.

Ở huyện Thanh Trì có nàng Tía và Tam Trinh.

Nàng Tía ở trang Vĩnh Hưng (sau đổi là Vĩnh Ninh, thuộc xã Vĩnh Quỳnh), cô gái anh hùng này được gặp Trưng Vương ngay tại làng quê, được Vua Bà thu nhận. Cô dự nhiều trận đánh lại quân Mã Viện. Sau khi Hai Bà tuẫn tiết, nàng Tía vẫn tiếp tục chiến đấu. Trong một trận đánh ở bến Thần Phù, cô hy sinh. Đó là ngày 13 tháng Mười Một.

Triệu Tam Trinh ở thôn Mai Động (nay thuộc xã Hoàng Văn Thụ). Khi Mã Viện xâm lăng, ông đang trấn giữ Sơn Nam. Quân Hán uy hiếp mạnh, ông rút về làng Mai Động lập căn cứ kháng chiến. Sau đó ông mất ở xứ Khu Đống ngày 10 tháng Hai.

Ở quận Đống Đa cũng có thôn Thổ Quan tương truyền là nơi ba anh em họ Đào lập đồn chống lại Mã Viện sau khi Hai Bà thất trận. Về sau, cả ba anh em hy sinh cùng ngày mùng 2 tháng Chạp.
_____________________________________
1. Về sự tích nhân vật này, cũng như các nhân vật kế tiếp theo sẽ được nêu đầy đủ hơn ở Chương năm.

Nếu nói rộng ra vùng lân cận Hà Nội thì cũng sẽ gặp những nhân vật tương tự:

Ở thôn An Sơn, xã Đông Sơn, huyện Chương Mỹ (Hà Tây) có ba anh em họ Đặng tên là Cả, Hai, Ba đều là tướng của Hai Bà. Sau trận Cấm Khê, ba người trở về An Sơn lập đồn ở gò Đồng Lang tiếp tục kháng chiến. Trong một trận phá vây, ba chàng hy sinh ngay bên dòng Tích Giang. Ngày hóa là mùng 10 tháng Mười Một.

Hoặc các nhân vật Vương Cai ở làng Thượng Thanh (xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai); Chiêu Trung và Đỗ Lý ở làng Yên Trường (xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa), Nguyễn Nga ở làng Tuy Lai (xã Tuy Lai, huyện Mỹ Đức) v.v... đều là những nhân vật tiếp tục tổ chức kháng chiến ở vùng quê mình sau khi Hai Bà đã hy sinh.1

Tỉnh Vĩnh Phúc cũng không hiếm các nhân vật như thế. Thôn Nghênh Tiên ở huyện Yên Lạc có bà Vĩnh Hoa vẫn tiếp tục chiến đấu tại trang Tiên Nha (tên cũ của vùng Nghênh Tiên, Xuân Đài, Tiên Đài) và tử trận ngày 14 tháng Chín. Hoặc ở Hướng Lai (?) xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường có hai anh em là Cả Lợi và Hai Lợi cũng lập căn cứ chống Mã Viện. Ngày họ hy sinh là mùng 8 tháng Mười.2 Ở các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên cũng không thiếu các trường hợp tương tự (xem Chương năm).

Tất nhiên với các nhân vật trên thì ngay cả họ tên của họ cũng còn là vấn đề phải tìm hiểu nghiên cứu chứ chưa nói gì đến hành trạng. Nhưng có điều đáng lưu ý là trong những năm gần đây, nhát cuốc của các nhà khảo cổ đã lần lượt nói lên rằng vào thời kỳ hoạt động của các nhân vật truyền thuyết đó thì những địa điểm được coi là quê hương hoặc địa bàn chiến đấu của họ đã thực sự là những điểm tụ cư. Thực tế là ở những địa điểm ấy, ngành khảo cổ đã phát hiện những di vật có tuổi trước Công nguyên, muộn lắm cũng là vào đầu Công nguyên.

Huyện Phúc Thọ: ở Tam Hiệp quê Đỗ Năng Tế, Tạ Cẩn Nương) đã phát hiện những di vật thuộc văn hóa Đông Sơn3.

Huyện Yên Lãng (Mê Linh): ở Tháp Miếu là làng láng giềng của Thịnh Kỷ (đồn binh của Chàng Hối) có di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên. Ở Thành Dền, tiếp giáp làng Văn Lôi (quê Lũ Lũy) cũng là di chỉ văn hóa Phùng Nguyên.

Huyện Đông Anh: ở Việt Hùng (Xuân Kiều) xã láng giềng của Hà Vĩ (quê Khổng Chúng) có di chỉ văn hóa Phùng Nguyên. Một xã khác ở cạnh Hà Dĩ là Dục Tú (Đình Tràng) có đủ di chỉ của ba nền văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.

Huyện Thanh Trì: Chính ở xã Vĩnh Quỳnh (quê Nàng Tía) có di chỉ Gò Chùa Thông, thuộc văn hóa Gò Mun. Ở làng Mai Động, căn cứ của Tam Trinh cũng có di chỉ khảo cổ đồ đá mới.

Huyện Ứng Hòa: Hai xã gần gũi với xã Trường Thịnh (quê Chiêu Trung, Đỗ Lý) là xã Phương Tú và Quảng Phú Cầu đều có những di vật khảo cổ thuộc văn hóa Đông Sơn.

Huyện Mỹ Đức: Làng Tuy Lai (xã Tuy Lai) quê của Nguyễn Nga ở cạnh thôn Hoành, nơi trước đây đã đào được hai trống đồng Đông Sơn đặt tên là trống Miếu Môn I và II.

Huyện Chương Mỹ: Chính ở xã Đông Sơn, quê của ba chàng họ Đặng cũng có di chỉ văn hóa Đông Sơn.

Còn tỉnh Vĩnh Phúc, ở hai huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường - quê của Vĩnh Hoa và hai chàng Lợi - thì có tới tám di chỉ văn hóa Phùng Nguyên, một di chỉ văn hóa Đồng Đậu, một di chỉ Gò Mun. Chính tên gọi của văn hóa Đồng Đậu là mượn của di chỉ Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân, huyên Yên Lạc, là xã láng giềng của xã Nguyệt Đức, có thôn Nghênh Tiên quê của Vĩnh Hoa. Điều đặc biệt là ở thôn Xuân Đài (thôn cùng với Nghênh Tiên và Đinh Xá họp thành xã Nguyệt Đức) năm 1975 có phát hiện một ngôi mộ có niên đại đầu Công nguyên. Xem xét các đồ tùy táng thì đây là thi hài của một võ tướng4. Thi hài này, đặc biệt hơn nữa, lại chỉ có nửa người phía trên. Phải chăng đây là một tướng lĩnh bị chết trận trong cuộc chiến tranh Việt - Hán ngày ấy?

Như vậy là bằng vào nguồn tư liệu khảo cổ học, có thể nói một cách khẳng định rằng: vào thời kỳ Hai Bà Trưng, những làng xóm nêu ở trên đều là những điểm cư dân, những nơi có người ở đông đúc. Và nếu những người dân này có theo sự chỉ huy của một thủ lĩnh nào đó đứng lên chống quân Mã Viện thì cũng là điều tất nhiên. Vì họ đều là những người Giao Chỉ từng bị quân Hán chà đạp, vùi dập trong trên một thế kỷ!

Có điều là những phát hiện khảo cổ học giúp chuyển thông tin huyền thoại (thần tích) thành thông tin khoa học (sử liệu) đến mức nào thì còn cần phải tiếp tục nghiên cứu. Dù sao đó cũng là những dấu vết vật chất có dồi dào khả năng liên kết huyền thoại thành một sự thật lịch sử. Và rõ ràng là Mã Viện đã bị cản lại ở Giao Chỉ cho tới mùa thu năm 43 mới có thể đánh vào Cửu Chân. Nhân dân Giao Chỉ đã kìm lại bước tiến của Mã Viện, cho hắn biết thế nào là nghị lực và khí phách của người Việt phương nam.

PHỤ CHÚ - Một số nhà nghiên cứu có hình dung ra một số trận đánh khác. Như hai ông Nguyễn Văn Dị - Thanh Ba (trong bài đã dẫn) cho rằng có cuộc chiến ở vùng “quốc đô Mê Linh thuộc huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú” và là “những trận ác chiến”.

Hoặc ông Vũ Kim Biên trong bài “Về vấn đề Cấm Khê” in ở tập “Những vấn đề lịch sử Vĩnh Phú” - Ty Văn hóa Vĩnh Phú - năm 1975 - có quan niệm rằng:

- Bà Trưng đóng ở Hạ Lôi - Yên Lãng.

- Cấm Khê là làng Cẩm Khê, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phú

- Mã Viện sau khi qua ải Lạng Sơn thì tách một toán quân đi vòng qua sườn bắc núi Tam Đảo sang Tuyên Quang rồi theo tả ngạn sông Phó Đáy tiến về xuôi, quặt lại đánh Hạ Lôi.

Từ quan niệm đó, tác giả cho rằng các trận đánh ngày ấy xảy ra dọc theo lối hành quân trên.

Hai giả thiết trên sẽ có ý nghĩa trong trường hợp quốc đô ngày ấy đích thị là Hạ Lôi ở Yên Lãng.
_____________________________________
1. Về sự tích các nhân vật này xem thêm các thần tích hoặc sách Một số truyền thuyết về các tướng anh Hai Bà Trưng của Ty Văn hóa Hà Sơn Bình – 1979.
2. Về sự tích các nhân vật này xem thêm các thần tích hoặc sách Truyền thuyết Trưng Vương của Chi hội Văn nghệ Vĩnh Phú - năm 1975.
3. Thời đại kim khí ở lưu vực sông Hồng - sông Mã được tạm thời chia ra bốn giai đoạn (hoặc văn hóa) kế tiếp nhau:
    - Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên cách đây khoảng bốn nghìn năm.
    - Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu cách đây khoảng trên ba nghìn năm.
    - Giai đoạn văn hóa Gò Mun cách đây khoảng ba nghìn năm.
    - Giai đoạn văn hóa Đông Sơn cách đây khoảng hai nghìn rưởi năm.
4. Ngôi mộ lạ Xuân Đài, Yên Lạc, Vĩnh Phú - Nguyễn Lộc - “Những phát hiện khảo cổ học năm 1975” - tr.272.

MÃ VIỆN KẾT THÚC CUỘC XÂM LƯỢC

Thủy kinh chú (q.37) chép: “Tháng Mười năm Kiến Vũ 19 (43) Mã Viện vào quận Cửu Chân ở phía nam. Đến huyện Vô Công, tướng giặc đầu hàng, lại tiến đến huyện Dư Phát. Cừ súy là Chu Bá bỏ quận vào rừng sâu là nơi tê tượng tụ tập, bò tưng bày hàng mấy nghìn con. Thỉnh thoảng thấy hàng mấy chục đến trăm con voi. Mã Viện lại chia binh đến huyện Vô Biên là Cửu Chân đình ở đời Vương Mãng. Lại đến huyện Cư Phong. Tướng giặc không hàng đều bị chém tới trăm người. Cửu Chân bèn yên”.

Lại theo sách Sơ học ký dẫn tài liệu trong Nam Việt chí thì Mã Viện đào một đường sông thông qua dải núi Cửu Chân và xếp đá làm đê ngăn sóng biển để đi từ Giao Chỉ vào Cửu Chân. Chỗ núi đào đó gọi là Tạc Sơn, chỗ cửa biển ngăn sông đó gọi là Tạc Khẩu.1

Ngày nay, chưa rõ Tạc Sơn là núi nào nhưng Tạc Khẩu thì khá nhiều nhà nghiên cứu cho là cửa Thần Phù. Căn cứ vào những chỉ dẫn thư tịch trên, ông Đào Duy Anh đã phác họa ra con đường tiến quân của Mã Viện như sau:

Theo sông Đáy, Mã Viện đến địa đầu Cửu Chân là huyện Vô Công (nay là vùng Gia Viễn, Nho Quan của tỉnh Ninh Bình). Từ đây, vẫn theo sông Đáy và sông Vân Sàng, Mã Viện đến cửa Thần Phù nhưng hắn không dám vượt cửa này ra biển. Hắn cho đào “ngả thông ở giữa núi Cửu Chân”, “xếp đá làm đê ngăn sóng biển”. Như vậy Mã Viện tất đi vào sông Tống, sang cửa Lạch Trường. Đó là địa điểm có thành Dư Phát, huyện lỵ huyện cùng tên (tương ứng với vùng Nga Sơn, Hậu Lộc của tỉnh Thanh Hóa ngày nay).

Từ Dư Phát, Mã Viện ngược sông Mã, đánh quận trị quận Cửu Chân ở khu vực làng Dương Xá (tức làng Ràng). Sau đó hắn chia quân tiến đánh huyện Vô Biên (vùng Vĩnh Lộc, Thạch Thành) và huyện Cư Phong (vùng Quảng Xương, Đông Sơn, Nông Cống, Thọ Xuân).2

Thực ra vị trí các huyện ở quận Cửu Chân cũng như đường hành quân của Mã Viện vào quận này là những vấn đề cần thảo luận thêm (như ông Đinh Văn Nhật và ông Nguyễn Đình Thực đã làm trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử các số 159, 170). Nhưng có một điều chắc chắn là tại núi Trịnh ở huyện Thiệu Hóa, gần di chỉ đồ đồng nổi tiếng Thiệu Dương, đã xảy ra một trận đánh lớn. Vì mới đây, một khai quật khảo cổ đã cho những tư liệu cụ thể. Ông Lê Văn Lan đã nhận định về địa điểm này như sau: một trường hợp điển hình đã xảy ra ở địa điểm núi Trịnh. Khảo cổ học đã phát hiện được ở đây, trên một triền núi rộng, những đầu tên đồng cắm vùi theo một hướng gần thống nhất. Và rải rác khắp nơi là những di cốt và tàn tích chiến tranh khác. Việc xác định niên đại của nhũng đầu tên đồng là mạt kỳ thời đại đồng thau, khoảng trước sau Công nguyên, đã đưa địa điểm khảo cổ học này vào thời kỳ Hai Bà Trưng. Và việc đặt núi Trịnh vào vị trí trung chuyển giữa miền đồng bằng Thanh Hóa, gần khu vực quận trị Cửu Chân đầu thời Bắc thuộc với miền núi rừng phía tây, đối chiếu với những thư tịch về cuộc hành quân của Mã Viện truy kích “dư đảng” Hai Bà Trưng do các tướng Đô Dương và Chu Bá chỉ huy ở miền này, cuối cùng đã cho phép xác định một di tích chiến trường lớn ở thời Hai Bà Trưng tại địa điểm khảo cổ học được phát hiện”.3

Có thể đó là nơi đụng độ giữa Mã Viện và Chu Bá. Vì theo tinh thần câu văn Thủy kinh chú đã dẫn ở trên thì Chu Bá là cừ súy phụ trách quận Cửu Chân, ông đóng tại quận trị khi đó là Tư Phố. Tư Phố theo ông Đào Duy Anh là làng Ràng ngày nay, cách núi Trịnh không quá 5km. Vậy có thể núi Trịnh là nơi giao chiến giữa Mã Viện và Chu Bá. Do thế yếu nên Chu Bá phải rút chạy về ngàn rừng phía tây.

Mã Viện sau đó còn tiến đánh huyện Vô Biên rồi huyện Cư Phong. Tại đây Đô Dương phải ra hàng, như Toàn thưCương mục đã ghi. Vì như vậy là Mã Viện đã hoàn thành cuộc viễn chinh xâm lược kéo dài tới hai năm.

Đành rằng các chính sử không ghi chép gì về cuộc đấu tranh của nhân dân Cửu Chân chống giặc Hán nhưng Mã Viện truyện trong Hậu Hán thư có ghi về số quân và dân Cửu Chân bị giặc Hán chém giết: “Viện đem lâu thuyền lớn bé hơn hai nghìn chiếc, binh lính hơn hai vạn, tiến đánh dư đảng của Trưng Trắc ở Cửu Chân là bọn Đô Dương từ Vô Công đến Cư Phong, chém giết bắt bớ hơn năm nghìn người”.

Ở đoạn Thủy kinh chú dẫn bên trên cũng có một chi tiết liên quan tới vấn đề này: “Tướng giặc không hàng đều bị chém tới hàng trăm người”. Hẳn là nhân dân ở đây chống cự cũng rất mãnh liệt, có thế Mã Viện mới đàn áp dã man, đem chém hàng trăm tướng lĩnh. Và cùng với hàng trăm chỉ huy ấy thì số nghĩa quân bị tàn sát cũng phải tới hàng dăm bảy nghìn.

Trong số này theo sự ghi chép của thần tích có cả nhũng người từ Giao Chỉ rút vào đây phối hợp chiến đấu. Như Chàng Hối ở Thịnh Kỷ (huyện Mê Linh) từng chiến đấu bên cạnh Đô Dương ở Cửu Chân. Hay tướng Thành Công ở Cổ Linh (huyện Gia Lâm) sau thất trận Cấm Khê đã rút vào Cửu Chân và hy sinh ở trang Tâm Quy, huyện Tống Sơn. Điều đáng chú ý là ở Thanh Hóa đúng là có trang này thật, nay thuộc huyện Hà Trung (nguyên là đất huyện Tống Sơn) cách ga Đò Lèn độ 6km về phía tây bắc.

Nhưng cũng là thần tích mà lại phù hợp rất khít khao với lịch sử thì là trường hợp Nàng Tía. Nàng Tía ở làng Vĩnh Ninh (huyện Thanh Trì, Hà Nội). Sau khi Hai Bà tuẫn tiết, cô đã rút vào Cửu Chân và hy sinh trong một trận ác chiến ở Thần Phù ngày 13 tháng Mười Một. Theo Thủy kinh chú thì thời gian Mã Viện từ Giao Chỉ tiến quân vào Cửu Chân là tháng Mười (năm Kiến Vũ 19). Như thế thì trận ác chiến ở Thần Phù xảy ra sau đó một tháng là điều hợp lý!
_____________________________________
1. H. Maxpêrô dẫn trong L’expédition de Ma Yuan - BEFEO XVIII.
2. Xem “Đất nước Việt Nam qua các đời” tr.41-43.
3. “Tài liệu Khảo cổ học và nghiên cứu thời kỳ Hai Bà Trưng” - Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 148.

Theo những đoạn sách đã dẫn ở trên thì Mã Viện dừng lại ở Cư Phong. Đây là chặng cuối cùng của hành trình tiến quân của Mã Viện. Nhưng cũng còn một số sách Trung Quốc khác như Quảng Châu ký, Lâm Ấp ký, Ngô lục... lại ghi rằng Mã Viện từng đến vùng Tượng Lâm, Tượng Phố ở gần biên giới nước Tây Đồ dựng cột đồng để ghi chiến công, đồng thời làm cương giới cho nhà Hán. Nhà du lịch Du Ích Ký (do Thủy kinh chú dẫn) có nói cụ thể nơi dựng cột đồng là đối diện với sông Thọ Linh tức sông Gianh ngày nay ở Quảng Bình.

Song nhiều nhà nghiên cứu (như H.Maxpêrô, Đào Duy Anh) đã kết luận đó là chuyện hoang đường, do đời sau bịa đặt ra.1

Vùng huyện Thạch Hà tỉnh Nghệ An có một truyền thuyết liên quan tới cuộc kháng chiến của nghĩa quân Hai Bà Trưng. Truyền thuyết đó kể rằng ở Thạch Hà có khe Đá Mài, nơi ấy có những hòn đá mài to, với những vết mài lõm hẳn đi. Tương truyền đấy là nơi lính của Hai Bà đã mài kiếm trong thời gian chống Mã Viện tại vùng này.2

Truyền thuyết ấy thực hư ra sao, chưa thể xác định. Ghi lại đây để thêm tài liệu tham khảo.

Điều chắc chắn là Mã Viện chỉ tiến đến Cư Phong. Nếu có quân Hán tiến vào vùng Nghệ Tĩnh (khi đó là huyện Hàm Hoan) và cả quận Nhật Nam nữa thì đó là những cánh quân do bọn phó tướng của Mã Viện chỉ huy. Vì nếu đích thân Mã Viện cầm đầu cuộc hành quân này thì Mã Viện truyện tất đã ghi chép.

Đàn áp được cuộc kháng chiến, Mã Viện còn ở lại Âu Lạc tới gần một năm. Hắn dùng thời gian này để tổ chức lại việc cai trị. Hậu Hán thư, Mã Viện truyện có chép: “Viện qua chỗ nào là đặt quận huyện, xây thành quách, đào mương dẫn nước tưới ruộng làm lợi cho dân. Lại tâu hơn mười điều luật Việt khác luật Hán, thi hành pháp chế cũ với người Việt để ràng buộc họ”. Câu sách đó cho ta hiểu rằng Mã Viện xóa bỏ chế độ lưu dùng các lạc tướng mà áp dụng hoàn toàn chế độ quận huyện y như nguyên mẫu Trung Quốc để cai trị trực tiếp, tức là tại các cấp hành chính huyện cũng như quận, các quan lại đều do triều đình bổ nhiệm và thuyên chuyển. Do đó sự kiểm soát của chính quyền đô hộ trở nên chặt chẽ hơn, vươn tới tận từng làng, từng xóm. Và như vậy thì rõ ràng là các quý tộc bản địa (lạc hầu, lạc tướng) bị gạt bỏ ra khỏi bộ máy chính quyền. Trong thực tế thì tầng lớp này đã bị Mã Viện đánh tan tác trong quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược. Trong trận Lãng Bạc, Mã Viện “chém mấy nghìn đầu, bắt hàng hơn vạn”. Đến trận Cấm Khê, Lưu Long cũng “chém hơn nghìn đầu bắt hàng hai vạn”. Trong số này không ít là các thủ lĩnh các địa phương Giao Chỉ tức các lạc tướng, lạc hầu cũ. Rồi đến Cửu Chân, Mã Viện cũng đã chém giết bắt bớ hơn năm nghìn người” và “tướng giặc không hàng, bị chém tới hàng trăm người”.

Những người không bị giết thì cũng bị bật khỏi đất bản bộ của mình, hoặc buộc phải dời tới những vùng đất hoang hóa, hoặc bị đưa hẳn sang Trung Quốc như trường hợp ghi ở Nam Man truyện trong Hậu Hán thư: “Dời cừ súy hơn ba trăm người sang Linh Lăng” (nay là huyện Linh Lăng thuộc tỉnh Hồ Nam).

Ngoài việc củng cố lại chế độ quận huyện, Mã Viện còn “thi hành pháp chế cũ” tức là phế bỏ pháp luật truyền thống của người Việt, đem luật nhà Hán có từ đời Hán Cao Tổ, Hán Văn Đế mà áp dụng vào xã hội Âu Lạc để gò người Việt vào khuôn khổ dân nô lệ.

Song song với việc “tháo dỡ” chế độ dung dưỡng lạc tướng, Mã Viện phân chia lại các khu vực hành chính. Trước đây mỗi huyện là một bộ lạc thuộc quyền một lạc tướng cha truyền con nối. Cho nên có huyện lớn, huyện nhỏ. Bây giờ không còn lạc tướng nữa, nên huyện nào rộng thì Mã Viện chia nhỏ ra và nếu là một huyện nhỏ thì hắn đem sáp nhập vào huyện lân cận. Đó là trường hợp huyện Tây Vu, huyện Dư Phát, huyện Đô Lung... Hậu Hán thư ghi: “Huyện Tây Vu có 32.000 nhà mà biên giới thì ở cách xa huyện trị đến hơn nghìn dặm nên (Mã Viện) xin chia ra làm hai là huyện Phong Khê và huyện Vọng Hải”. Còn hai huyện Dư Phát và Đô Lung thì không có tư liệu trực tiếp song ở Tiền Hán thư thì chép quận Cửu Chân có bảy huyện: Tư Phố, Cư Phong, Dư Phát, Vô Biên, Đô Lung, Vô Thiết và Hàm Hoan. Đến Hậu Hán thư thì chỉ còn ghi có năm huyện, mất Đô Lung và Dư Phát.
_______________________________________
1. Xem thêm mục “Cột đồng Mã Viện” trong Cổ đại Việt Nam - Tập IV - Đào Duy Anh.
2. Bùi Thiết – Tình hình tư liệu và nghiên cứu cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thời gian gần đây - Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội - Tháng 3-1981.

Như vậy là Mã Viện đã phá vỡ các tổ chức bộ lạc cũ, đưa tổ chức hành chính ở Âu Lạc theo sát cách tổ chức quận huyện của nhà Hán. “Đây cũng là đòn đáng kể đánh vào tàn dư công xã nguyên thủy”1.

Mặt khác, để tăng cường bảo vệ các quận trị và nhất là huyện trị, Mã Viện đã cho xây thêm thành quách, như xây thành mới cho huyện Vọng Hải, xây Kiển thành (thành hình cái kén) ở huyện Phong Khê...

Về mặt kinh tế, Mã Viện cho “đào mương dẫn nước tưới ruộng làm lợi cho dân” thì có thể hiểu dân ở đây là các địa chủ Hán tộc từng bao chiếm đất đai của công xã Âu Lạc làm trang trại riêng hoặc cũng có thể là một phần số quý tộc bản địa đã đầu hàng.

Ở những vùng biên giới, Mã Viện để lại một số quân lính cho chúng khai khẩn đất đai, lập làng ấp. Một dẫn chứng cụ thể là trên ba trăm năm sau, Du Ích Ký đi du lịch có thấy ở bờ nam sông Thọ Linh (tức sông Gianh ở tỉnh Quảng Bình ngày nay) một làng trên 200 hộ đều là họ Mã. Người Giao Châu (tức người Việt chúng ta) gọi họ là dân Mã lưu. Hỏi ra thì đó là con cháu của những gia đình binh lính mà Mã Viện đã lưu lại ở vùng này. Cái tên Mã Lưu (do Mã Viện lưu lại) bắt nguồn từ đó. (Dẫn trong Thủy kinh chú).

Sử Trung Quốc lại còn ghi một “chiến tích” khác của Mã Viện mà thực tế là một tội ác đối với nhân dân Âu Lạc. Đó là việc tên giặc già này đã vơ vét trống đồng ở các địa phương lại, cho đúc thành một con ngựa để dâng Quang Vũ. (Hậu Hán thư q.24: Viện thích cưỡi ngựa, giỏi phân biệt ngựa tốt, bắt được trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ, bèn đúc thành hình ngựa đem về dâng vua... Ngựa cao 3 xích 5 thốn, vòng thân 4 xích 5 thốn, được đặt tại dưới điện Tuyên Đức).

Rõ ràng là một tội ác phá hoại di sản văn hóa của dân tộc ta ngày ấy. Nhưng không chỉ có thế mà việc làm này của Mã Viện còn nhằm đánh vào truyền thống dân tộc ta. Vì trống đồng là tiêu biểu cho nền văn minh Lạc Việt, là chứng tích của tâm hồn, tư duy và tài năng kỳ diệu của người Việt. Hủy hoại trống đồng ở Giao Chỉ là Mã Viện tính đến chuyện xóa đi dấu vết cụ thể của một nền văn minh, biểu tượng sức mạnh sáng tạo của cộng đồng người Việt đương thời.

Tới mùa thu năm Kiến Vũ 20 (năm 44), Mã Viện thu quân về nước. Số quân còn lại - như Hậu Hán thư có ghi - chỉ bằng năm sáu phần mười lúc ra đi. Nghĩa là ít nhất cũng có hàng vạn tên lính Hán gửi xác lại ở các nẻo đường Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhưng Mã Viện không quên chở theo một xe châu báu ngọc vàng cướp được ở Âu Lạc và nói phao lên rằng đó là xe chở quả ý dĩ dùng làm thuốc trị lam chướng! Mã Viện đã làm giàu trên xương máu của nhân dân Âu Lạc và cả trên xương máu của quân lính Hán.

Về những nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến này, lâu nay nhiều sách báo đã đề cập tới. Do tư liệu gốc quá ít ỏi nên tất cả đều là suy đoán. Có những suy đoán dễ có thể chấp nhận như: “Quân đội của Mã Viện hơn hẳn quân của Hai Bà về mặt tổ chức, mặt vũ khí, mặt kỹ thuật chiến đấu và mặt vận dụng chiến lược chiến thuật... Năm 43, nếu Hai Bà Trưng không mang quân chủ lực đến Lãng Bạc mà lại tránh cuộc tấn công của Mã Viện, chờ cho Viện phải rải quân ra để chiếm giữ các nơi rồi mới mang quân tỉa dần quân Hán, làm cho quân Hán ngày càng hao mòn mỏi mệt, mất hết ý chí chiến đấu rồi cuối cùng mới tổng phản công tiêu diệt quân Hán hay đuổi chúng ra khỏi đất nước thì một tình hình khác có thể xảy ra”2 hoặc: “Thời gian xây dựng đất nước, củng cố lực lượng phòng giữ đất nước của triều Trưng Vương còn quá ngắn. Quân đội nhà nước Hùng Lạc (chỉ nhà nước của Trưng Vương - N.V.P) chính là các đơn vị nghĩa quân chuyển lên, hợp thành, số lượng tuy đông hàng mấy vạn, tinh thần đánh giặc cứu nước rất cao nhưng mới tổ chức, trang bị, võ khí còn thô sơ và thiếu thốn, thời gian huấn luyện quân sự còn ít, chưa quen đánh lớn, đánh tập trung”3.

Cũng có những suy đoán cần trao đổi thêm:

“Nhà nước tự chủ do Trưng Vương xây dựng với sự tập hợp các bộ lạc, trong ấy về kinh tế thì quan hệ sản xuất thị tộc còn nặng, về chính trị thì xu hướng phân tán tự lập còn mạnh, chưa có cơ sở và tổ chức vững chắc, cho nên trước sự phản công mạnh mẽ của quân Mã Viện, là lực lượng quân sự của một nhà nước hùng cường thì nó không thể duy trì nổi. Vì thế mà sự thất bại cũng mau chóng và dễ dàng”4.

Hoặc: “Nguyên nhân tất bại căn bản của cuộc khởi nghĩa có hai điều. Thứ nhất là chế độ chiếm hữu nô lệ (chỉ thời kỳ Hai Bà Trưng - N.V.P) và giai cấp chủ nô (đại diện là Hai Bà Trưng - N.V.P) đã quá thời, không còn sứ mạng lịch sử nữa. Thứ hai là chế độ chiếm hữu nô lệ quá thời ở một nước nhỏ bé (Âu Lạc - N.V.P) phải đương đầu với chế độ phong kiến đang lên ở một nước rộng lớn và nằm sát nách”5.

Thực ra, để tìm nguyên nhân, cần có nhiều dữ kiện xác thực Ở đây tư liệu quá ít ỏi. Quân số của Hai Bà, việc đào luyện quân đội đó, sự chỉ đạo chiến tranh, địa điểm đích thực của các chiến trường... những vấn đề đó hoàn toàn không có một tư liệu thư tịch! Rồi lại còn một loạt vấn đề khác: chế độ xã hội đương thời, tình hình kinh tế và chính trị thủa ấy, bản chất và tổ chức chính quyền của Hai Bà v.v... Quả thật là còn thiếu nhiều điều kiện để có thể kết luận một cách khoa học về cuộc chiến tranh giữ nước do Hai Bà lãnh đạo.

Chỉ có một điều có thể khẳng định dứt khoát được là:

Sau trên hai trăm năm bị đô hộ, chính quyền độc lập dân tộc chỉ mới được xây dựng trong có hai năm; vậy mà chính quyền đó đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống một đạo quân xâm lược - đông và mạnh hơn - được tới trên hai năm nữa. Đạo quân thiện chiến kia lại do những viên tướng khét tiếng gian ác và rất giàu kinh nghiệm chỉ huy, vậy mà phải chật vật lắm mới giành được thắng lợi. Và như đã nêu ở trên, có lúc bản thân tướng tổng chỉ huy là Mã Viện thấy hoang mang (không định ra nổi đường lối chiến lược) và ân hận đã chót làm tướng sang đánh Giao Chỉ!

Cuộc kháng chiến như thế rõ ràng là đã nói lên ý chí chống ngoại xâm và khí phách ngoan cường của toàn thể nhân dân ta ngày ấy.
_______________________________________
1. Trương Hữu Quýnh - Sách đã dẫn - tr.95
2. Dương Minh. Bài đã dẫn – Nghiên cứu lịch sử số 36.
3. Nguyễn Văn Dị - Thanh Ba. Bài đã dẫn – Nghiên cứu Lịch sử số 173.
4. Đào Duy Anh – Cổ đại Việt Nam - Tập IV - tr.68.
5. Duy Hinh – Tính chất cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng - Trên Nghiên cứu Lịch sử số 72.

Chương Năm
CÁC TƯỚNG LĨNH

Về tướng lĩnh của Hai Bà, chính sử của ta như Toàn thư, Cương mục chỉ ghi tên có một người là Đô Dương. Sử Trung Quốc như Hậu Hán thư cũng chỉ ghi có Đô Dương. Riêng Thủy kinh chú chép thêm tên Chu Bá. Và cả sử ta lẫn sử Trung Quốc đều không cho biết gì về lai lịch hai nhân vật ấy.

Nhưng như chứng ta đều rõ, cuộc khởi nghĩa cũng như cuộc kháng chiến của Hai Bà lãnh đạo có tính chất toàn dân. Chắc chắn là anh hùng nghĩa sĩ ở nhiều miền đất nước đã quy tụ dưới ngọn cờ đại nghĩa của Hai Bà. Có điều là sử sách bác học xuất hiện quá muộn nên không ghi chép được nhiều. Ngay sự nghiệp cứu nước vĩ đại của Hai Bà mà Toàn thư cũng chỉ ghi được có vài chục dòng sơ lược!

Song như đã nêu trong Lời nói đầu, người bình dân có cách ghi chép lịch sử riêng của mình. Đó là tục lệ thờ cúng các anh hùng, suy tôn làm thành hoàng. Lập đền miếu để làm chứng tích truyền lại cho các đời sau. Xung quanh những chứng tích ấy là một hệ thống những tục lệ hèm húy và những câu chuyện được kể truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Những truyền thuyết này tới một thời điểm nào đó đã được ghi lại thành văn, thành những ngọc phả, thần tích.

Cho nên, qua những văn bản này tuy là những tác chẩm văn học dân gian nhưng chúng ta vẫn cũng có thể tìm hiểu được quá khứ, tìm hiểu về sự tích các nhân vật anh hùng. Có điều là từ cuộc đời thực, bước vào truyền thuyết, nhân vật đã ít hoặc nhiều được tiểu thuyết hóa, nhất là với đặc trưng của nghệ thuật sáng tác văn học dân gian và với thế giới quan thần linh chủ nghĩa của người xưa thì sự tích các anh hùng rất dễ bị thêm vào những chi tiết tưởng tượng, hư cấu hoặc hoang đường, quái dị.

Ngoài ra trong các văn bản ấy lại còn có những chi tiết như thật nhưng không thật vì đó là sự gán ghép - vô tình hoặc cố ý - tùy theo sở thích, quan niệm, tình cảm và cả trình độ của người kể chuyện cũng như người biên soạn ở các thời đại sau. Cho nên ở thần tích, ngọc phả nói chung cũng như riêng của những làng có thờ tướng lĩnh của Hai Bà Trưng đều đầy rẫy những mô-típ huyền thoại: đầu thai, báo mộng, thần thánh âm phù, cưỡi mây về trời, rẽ nước xuống biển... cùng những thứ chức tước công chúa, phó vương, đại tướng quân, chưởng lĩnh, đô đốc v.v… là những sản phẩm của hàng nghìn năm sau.

Hoặc ngay các địa danh, phần lớn là những tên châu, tên trấn, tên đạo, tên phủ huyện chỉ mới có từ thời Đinh, Lê trở về sau. Nhưng dù sao chúng tôi nghĩ rằng ở các văn bản trên vẫn có một cốt lõi lịch sử, vẫn có những con người thật. Nhất là xét về mặt tài liệu khảo cổ học. phần lớn những địa điểm mà thần tích, ngọc phả chỉ định là quê hương của các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng thì lại cũng là những địa điểm từ trước công nguyên đã có người trú ngụ. Tức là vào thời kỳ Hai Bà Trưng thì những nơi đó thật sự ở vào phạm vi các điểm tụ cư mà tên gọi có thể là những chạ hoặc những kẻ. Và tại những địa điểm ấy mà có những cá nhân, những tập thể nổi dậy chống giặc Hán thì cũng không có gì là hoang đường. Cho nên dưới đây là sự tích một số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng viết theo các thần tích, ngọc phả mà chúng tôi tìm đọc được trong những lần đi khảo sát các di tích lịch sử ở các địa phương. Những văn bản này đem so với kho thần tích ngọc phả hiện lưu trữ ở Thư viện Khoa học xã hội mang ký hiệu Q.4o18 nói chung là không có khác biệt gì. Vì kho của thư viện chính là do hương lý các làng sao từ thần tích ngọc phả được giữ gìn ở các đền miếu từ bao đời. Nói chung, các văn bản này được soạn vào khoảng niên hiệu Hồng Phúc (1572-1573) và có tác giả là Nguyễn Bính - một quan Lễ bộ phụ trách việc cấp sắc phong cho các thần. Rất có thể là Nguyễn Bính đã dựa vào các sách sưu tầm chuyện cổ có từ trước và cả những câu chuyện thời bấy giờ còn lưu hành trong dân gian mà sắp xếp, biên soạn lại. Trong quá trình “áng tác” tất là ông có thêm bớt, uốn nắn các tình tiết để cho phù hợp với quan điểm đạo đức, thẩm mỹ và chính trị của mình.

Bởi chỉ muốn nêu cái cốt lõi, cái cơ bản nên dưới đây sẽ hạn chế tối đa thuật lại những việc hoang đường, gán ghép và chỉ giữ ở mức độ tối thiểu những chi tiết thuộc về sự tích đánh giặc của các nhân vật đó theo đúng như các thần tích đã chép. Nghĩa là chúng tôi không “sáng tác thêm”, không cả ghép thần tích này vào thần tích kia, đan cuộc đời nhân vật này vào cuộc đời nhân vật nọ v.v... vì như vậy là tạo ra một truyền thuyết mới, dù hoàn toàn là thiện chí muốn tô điểm cho sự nghiệp đánh giặc thời đó thì cũng vẫn là có hại về phương diện học thuật. Do đó, phần này có khác ít hoặc nhiều so với những tài liệu về các tướng lĩnh của Hai Bà đã công bố trước đây.

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

QUẬN BA ĐÌNH

ĐÀO KỲ

Phường Phúc Xá vốn xưa là làng Cơ Xá châu. Làng này thờ bảy thành hoàng, trong số này có Đào Kỳ - tướng của Hai Bà Trưng. Đào Kỳ vốn được thờ chính tại năm làng Cói bên huyện Đông Anh. Sự tích vị này được nêu ở phần huyện Đông Anh.
QUẬN ĐỐNG ĐA

HIỀN HỰU - QUÝ MINH - PHƯƠNG DUNG

Đó là ba anh em họ Đào. Hai người đầu là anh em sinh đôi, sinh ngày 12 tháng Hai. Cô em gái sinh ngày 15 tháng Bảy. Họ vốn người ở Cửu Chân (Thanh Hóa) nhưng di cư sinh sống ở làng Thổ Quan, nay là khu vực trong ngõ Thổ Quan đằng sau phố Khâm Thiên.

Tương truyền ba anh em đã chiêu mộ dân binh theo Hai Bà đi đánh Tô Định. Sau này khi Mã Viện xâm lược, ba anh em chiến đấu ở Hát Môn rồi rút về Thổ Quan dựng ba đồn liên tiếp để chống quân Hán. Cuối cùng cả ba đã chết trong một trận giao tranh ác liệt vào ngày mùng 2 tháng Chạp.

BẢO HOA

Làng Xã Đàn nay là phường Xã Đàn ở phía trong Ô Chợ Dừa, thờ công chúa Bảo Hoa từng là nữ tướng của Hai Bà.

Bảo Hoa họ Trần là người đã chiêu tập dân binh lập ra làng này. Bà đã chống lại Tô Định, lập đồn binh tại Xã Đàn. Khi Mã Viện sang, bà đã già yếu nên cử Lã Nam (?) chỉ huy quân sĩ thay mình. Ngày kỵ là ngày mùng 2 tháng Hai.

Hiện nay, ở Xã Đàn còn miếu thờ bà, tương truyền là lập ở nơi luyện võ ngày xưa.

Làng Thịnh Hào và làng Hào Nam, nay là hai phường cùng tên, thuộc quận Đống Đa, cũng có đền thờ Bảo Hoa.
HUYỆN ĐÔNC ANH

ĐÀO KỲ - PHUƠNG DUNG

Trang Cối Giang ngày trước bao gồm suốt dọc đất ven bờ bắc sông Đuống. Sau trang ấy chia ra làm mười hai thôn, trong số đó có năm thôn đều thờ hai vợ chồng Đào Kỳ - Phương Dung. Năm thôn đó là Đông Trù, Hội Phụ, (nay thuộc xã Đông Hội) và Lê Xá, Lộc Hà, Thị Thôn (nay thuộc xã Mai Lâm).

Thần tích kể rằng: ông Nguyễn Trát người trang Vĩnh Tế huyện Lang Tài (nay là Gia Lương - Hà Bắc), lấy vợ là người Cối Giang. Tô Định muốn thu phục ông nhưng ông không thuận. Hắn liền tàn sát cả nhà. Chỉ có bà vợ và con gái là Phương Dung do về thăm quê ngoại nên thoát chết. Và thế là họ ở luôn lại bên Cối Giang.

Cũng thời gian đó, tại đây có chàng Đào Kỳ, chính gốc ở Nông Cống (Thanh Hóa) nhưng cha mẹ đã dời ra ở tại đất Cối Giang làm ăn sinh sống từ khá lâu. Đó là một chàng trai văn võ đều giỏi, lại cũng có ý chí muốn đánh đuổi giặc Hán. Thế là Đào Kỳ đẹp duyên cùng Phương Dung.

Ít lâu sau, Hai Bà Trưng khởi binh. Vợ chồng Đào Kỳ tìm đến quân doanh xin ứng nghĩa. Họ cùng địa binh đi đánh đuổi Tô Định. Sau đó, Trưng Vương cử họ về trông nom vùng đất Đông Ngàn.

Ba năm sau, Mã Viện xâm lược. Vợ chồng họ được cất lên chống giữ ở Lạng Sơn (hay Lãng Sơn?). Có tới một năm không phân thua được. Nhưng lúc đó Hai Bà Trưng lâm nguy ở Cấm Khê, Đào Kỳ, Phương Dung kéo binh về đây ứng cứu. Thế giặc mạnh, Hai Bà hy sinh. Vợ chồng Đào Kỳ lạc nhau. Đào Kỳ tuy bị vết chém ở ngang cổ “vẫn ôm đầu chạy về đến Cổ Loa mới chịu ngã”. Phương Dung sau cũng vượt được vòng vây, định về Đông Ngàn nhưng khi qua Cổ Loa, cô nhận ra mộ chồng, liền tự sát. Đó là ngày 16 tháng Tám.
(Xã Đông Hội này có di chỉ văn hóa Đồng Đậu ở Tiên Hội).

ĐÔNG BẢNG

Thôn Gia Lộc nay thuộc xã Việt Hùng, thờ Đông Bảng. Truyền thuyết kể rằng Đông Bảng từng giúp Hai Bà thu lại 65 thành trong đó có thành ở thôn Gia Lộc, cách thành Cổ Loa một cánh đồng. Ông được cử giữ thành này. Khi Mã Viện tới, Đông Bảng hy sinh ngay từ trận đánh đầu tiên, ngày hóa là mùng 10 tháng Hai.
(Xã Việt Hùng này có di chỉ văn hóa Phùng Nguyên
và văn hóa Đông Sơn ở Xuân Kiều).

THỦY HẢI - ĐĂNG GIANG - KHỔNG CHÚNG.

Làng Đại Vĩ, xã Liên Hà thờ ba vị tướng của Hai Bà là Thủy Hải, Đăng Giang và Khổng Chúng. Hai người trên là anh em sinh đôi, con ông Trương Long quê quán ở Đường Lâm, ngụ cư tại trại Hà Hào (tức nay là làng Hà Vĩ). Họ đã theo Hai Bà đi đánh Tô Định, sau trở về đóng đồn ở Hà Vĩ.

Lúc này ở Hà Vĩ có chàng Khổng Chúng mới lớn lên nhưng tỏ ra tài ba thao lược. Hai anh em họ Trương liền tiến cử Khổng Chúng với Hai Bà. Khi Mã Viện kéo sang, cả ba người được lệnh ra chặn giặc ở cửa bể. Thủy Hải và Đăng Giang đã hy sinh tại đó, ngày hóa là ngày mùng 10 tháng Bảy. Khổng Chúng thu tàn binh quay về Hà Vĩ. Mã Viện đuổi theo. Khổng Chúng bị ngã ngựa và hy sinh ngày 12 tháng Chín.

VĨNH HUY

Làng Cổ Châu tên Nôm là làng Dâu, nay thuộc xã Vân Hà, thờ công chúa Vĩnh Huy.

Vĩnh Huy họ Tống quê ở vùng núi Yên Tử. Cha mẹ chết sớm, cô rời quê, đi lưu lạc kiếm ăn. Đến trại Tế Áng - tên cũ của Cổ Châu - cô ở lại. Dần dà được dân yêu mến tôn làm trùm trưởng. Khi Hai Bà dấy binh, Vĩnh Huy mộ hơn một ngàn tinh binh tới Hát Môn tụ nghĩa, theo Hai Bà đi hạ thành Tô. Sau này khi chống Mã Viện, cô bị giặc bắt. Nhưng cô đã trốn thoát trở lại Tế Áng. Song vừa về đến nơi, trời đất bỗng tối sầm và Vĩnh Huy “bay lên trời mà hóa”.

HUYỆN GIA LÂM

THÀNH CÔNG

Thôn Sài Đồng thuộc xã Gia Thụy, ba thôn Tư Đình, Nha Thôn, Trạm Thôn thuộc xã Long Biên và thôn Ô Cách, nay thuộc xã Việt Hưng đều thờ Thành Công.

Cả năm thôn này xua là hương Cổ Linh. Ông vốn họ Nguyễn quê ở Hải Dương. Nghe tin Hai Bà khởi nghĩa, ông mộ được năm trăm trai tráng tới Hát Môn xin gia nhập nghĩa quân. Sau khi đánh đuổi Tô Định, ông đền Cổ Linh đóng đồn binh. Mã Viện xâm lăng, Thành Công lên chặn địch ở Lạng Sơn. Sau ông rút về Cấm Khê. Cấm Khê thất thủ, Thành Công chạy vào châu Ái, đến trang Tâm Quy thuộc huyện Tống Sơn (nay là huyện Nga Sơn) thì hóa.

ĐÔ - HIỀN - LANG

Đó là ba anh em ruột đồng thời là các thành hoàng làng Ngọc Động, nay thuộc xã Đa Tốn. Họ là con một người họ Đào, nguyên quán ở Sơn Nam. Ba anh em Đô Thống, Chiêu Hiền, Tam Lang đã mộ được trên ba nghìn nghĩa sĩ về tụ nghĩa ở Hát Môn. Khi Mã Viện kéo tới ba anh em dàn quân trên bến Bồ Đề (?) chống cự nhưng thế yếu cuối cùng cả ba anh em đã hy sinh.
(Ngay cạnh Nghè ông Hai - nơi thờ Chiêu Hiền - đã đào được một rìu đồng
và một ngọn giáo đồng cùng một số mảnh gốm thuộc văn hóa Đông Sơn.
Ngoài ra, cũng ở xã Đa Tốn này, bên thôn Đào Xuyên còn đào được thạp đồng Đông Sơn).

KHỎA BA SƠN

Xuân Đỗ Hạ là một trong ba thôn của làng Xuân Đỗ nay thuộc xã Cự Khối. Ngày xưa đó là ấp Hoa Động.

Khỏa Ba Sơn vốn gốc người châu Ái. Ông được Hai Bà cử tới Hoa Động lập một đồn giả để lừa quân Hán, nhờ đó mà đánh bại được Tô Định. Sau khi lên ngôi, bà Trưng cho ông trở về đóng đồn tại nơi này. Song ông đã hóa ngay giữa tiệc khao thưởng dân làng. Đó là ngày rằm tháng Mười. Tục truyền khu vườn Hồng chính là nơi ông đóng quân.

NÀNG QUỐC

Thôn Hoàng Xá nay thuộc xã Kiêu Kỵ có đền thờ Nàng Quốc. Mẹ cô người làng Kiệt Đặc (nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Hưng) tu hành (?) ở núi Thiên Thai bên bờ sông Đuống (nay thuộc huyện Gia Lương, Hà Bắc). Nhân đi tắm sông bị giao long quấn người, có mang. Xấu hổ, bà bỏ chùa ra đi. Tới Hoàng Xá, thấy có cây đào đẹp, bà ở lại và rồi sinh một gái, đặt tên là Quốc. Lớn lên nàng Quốc theo Hai Bà Trưng khởi binh, lập nhiều công. Sau này cô hy sinh ở núi Hy Sơn.

ĐỐNG - HỰU

Đống và Hựu là hai anh em sinh đôi quê ở Thanh Hóa. Được bà dì đem về nuôi ở thôn Kim Đường, nay là Kim Hồ thuộc xã Lệ Chi. Lớn lên hai anh em theo Hai Bà Trưng đánh giặc Hán. Khi Mã Viện xâm lược, hai ông được lệnh lên cản địch ở Lạng Sơn. Song thế yếu hai ông phải lùi về Kim Đường rồi bị trọng thương mà hóa (ngày 11 tháng Ba). Chỗ hóa là xứ đồng Mả Cả.

HUYỆN SÓC SƠN
(Kim Anh + Đa Phúc)

ĐỔNG NGHI

Làng Ninh Bắc nay thuộc xã Quang Tiến, thờ Đổng Nghi. Nghi là con ông Đổng Long và bà Trương Thị Hoằng. Chàng đã mộ vài nghìn dân đinh theo Hai Bà khởi nghĩa. Sau trận Cấm Khê, chàng phi ngựa vào sơn động mà hóa.

BÀ Y

Làng Kim Lũ nay thuộc xã Kim Lũ, thờ bà Y là một nữ tướng của Hai Bà nhưng sự tích thất truyền.

HUYỆN THANH TRÌ

NÀNG TÍA

Làng Vĩnh Ninh xưa có tên là Kẻ Đặng nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, có truyền thuyết về Nàng Tía. Truyền thuyết kể rằng Trưng Vương sau khi đánh đuổi Tô Định, định đô ở Mê Linh, có lần đi qua đất Vĩnh Ninh này. Tại đây Vua Bà gặp một cô gái trẻ đang gánh nước. Đó là Nàng Tía. Vua Bà gọi lại hỏi chuyện, biết được tài chí của Nàng Tía, liền đưa về triều, phong làm tướng.

Sau này, khi Hai Bà đã hy sinh, Nàng Tía vẫn tiếp tục chiến đấu tại cửa biển Thần Phù. Cuối cùng người nữ tướng này hy sinh ở đó ngày 13 tháng Mười Một.
(Xã Vĩnh Quỳnh có di chỉ văn hóa Gò Mun
và Đông Sơn ở Gò Chùa Thông).

TAM TRINH

Làng Mai Động, nay thuộc xã Hoàng Văn Thụ, thờ Tam Trinh làm thành hoàng. Thần phả kể rằng:

Ở Long Biên có nhà ông Triệu Cẩn lấy vợ là bà Tạ Thị Thành mãi năm 60 tuổi mới sinh ra Tam Trinh. (Như vậy Tam Trinh họ Triệu chứ không phải họ Nguyễn và quê gốc là Long Biên chứ không phải Thanh Hóa như một số tài liệu đã nêu). Tam Trinh sau làm nghề dạy học, tới làng Mai Động mở trường ở bên sông Kim Ngưu.

Khi nghe tin Hai Bà dấy nghĩa, Tam Trinh mộ được ba nghìn người, theo Hai Bà đi dẹp giặc.

Sau này Mã Viện kéo tới vây đánh Mai Động. Tam Trinh cùng sĩ tốt phá được vòng vây nhưng ông bị trọng thương và khi tới xứ Khu Đống thì hóa. Đó là ngày 10 tháng Hai. Tuy vậy hàng năm, làng Mai Động lại mở hội vật vào những ngày mùng 5 mùng 6 tháng Giêng tương truyền là môn võ mà quân lính của Tam Trinh ưa tập luyện.
(Làng Mai Động có những di vật khảo cổ thuộc thời đại Đá mới).

HUYỆN TỪ LIÊM

QUÁCH LÃNG - ĐINH BẠCH NƯƠNG - ĐINH TĨNH NƯƠNG

Hai thôn Đống Đa, Thượng Cát nay thuộc xã Thượng Cát và thôn Đại Cát (xưa nay là Hạ Cát) nay thuộc xã Liên Mạc vốn có tên gọi chung là làng Kẻ. Cả ba thôn đều thờ Quách Lãng, Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương là ba anh em cháu cô đồng thời họ hai bề: Mẹ Quách Lãng là chị của bố Bạch và Tĩnh, còn mẹ của hai cô này là em của bố Quách Lãng.

Cả ba đều quê ở động Hoa Lư và tinh thông võ nghệ. Riêng hai cô Bạch và Tĩnh lại thạo nghề sông nước.

Khi nghe tin Hai Bà Trưng khởi binh, họ tìm đến Hát Môn ứng nghĩa. Trên đường đi, họ dừng lại ở Thượng Cát để chiêu mộ nghĩa binh. Hai cô gái họ Đinh tập hợp được một cánh quân thủy và dông thuyền ngược lên cửa Hát. Quách Lãng ở lại Thượng Cát ít lâu để luyện cho toán quân bộ thêm thành thục rồi cũng lên Hát Môn.

Sau khi dẹp được Tô Định, ba anh em được lệnh về Thượng Cát lập đồn binh. Hai cô Bạch và Tĩnh tổ chức lại thủy quân, mở những cuộc thi bơi thuyền để binh sĩ có dịp tập luyện. Nhưng mới được vài tháng thì cả hai chị em chết trong một chuyến đắm đò. Còn Quách Lãng thì về sau hy sinh trong trận Cấm Khê.

Ngày trước, những năm được mùa nhân ngày giỗ hai cô gái họ Đinh (mùng 10 tháng Ba) các làng Kẻ thường mở hội được coi là diễn lại tích luyện binh ngày trước. Làng Thượng Cát tổ chức chạy quân, làng Hạ Cát tổ chức bơi chải trên sông Hồng.

VĨNH GIA

Cánh bãi nằm giữa hai thôn Thượng Cát và Hạ Cát có tên là Quân Thần châu (bãi vua tôi). Tên đó có từ đời Triệu Việt Vương, do tích là vị vua này chia một phần đất cho Lý Phật Tử lấy bãi này làm ranh giới. Từ đó trở về đông là đất của vua (Triệu Việt Vương), trở về tây là đất của bề tôi (Phật Tử).

Nhưng trước đấy năm trăm năm tại cánh bãi này đã có dân cư và một cô gái anh hùng đã ra đời. Đó là Vĩnh Gia mà sự tích sẽ nêu ở phần huyện Mê Linh.

Ả LÃ NÀNG ĐÊ

Làng Trung Văn nay thuộc xã Trung Văn, thờ Ả Lã Nàng Đê là nhân vật được thờ chính tại Yên Lộ - Nghĩa Lộ, huyện Hoài Đức, sự tích nhân vật này có ở phần huyện Hoài Đức.

TỈNH BẮC NINH

HUYỆN GIA BÌNH

TRUNG TRIỀU CÔNG THẦN, TƯỚNG CÔNC LINH ỨNG ĐẠI VƯƠNG:

Thành hoàng làng Đông Cao, tổng Xuân Lai, nay thuộc xã Xuân Lai, huyện Gia Bình. Chưa rõ sự tích.

CÔN NƯƠNG CÔNG CHÚA:

Thôn Phùng Xá, nay thuộc xã Bình Dương, huyện Gia Bình, có nàng Côn Nương, văn võ tinh thông. Căm ghét giặc Hán đô hộ, nàng cắt tóc làm ni sư, ăn mặc nâu sồng, tập hợp được trăm cô gái ở Ngũ Phùng trang cùng giả danh ni sư, ngày ngày luyện tập võ nghệ. Nghe tin, Hai Bà Trưng liền triệu Côn Nương đến hội quân ở Hát Môn. Sau khi đánh thắng Tô Định, Trưng Vương đã phong cho nàng là Côn Nương công chúa.

DOÃN CÔNG VÀ ĐÀO NƯƠNG:

Đây là hai vợ chồng cư ngụ tại làng Bảo Tháp, nay thuộc xã Đông Cứu, huyện Gia Bình. Ông bà đã chiêu tập nghĩa binh, thiết lập doanh trại khu Đầu Rồng, núi Thiên Thai. Lực lượng tới hàng vạn quân. Hai Bà Trưng đã mời Doãn Công và Đào Nương cùng khởi binh. Doãn Công được cử là đại tướng quân kiêm quản hai đạo thủy bộ. Sau đó ông bà cùng đại quân tiến đánh thành Tô Định. Khi khải hoàn, Doãn Công và Đào Nương được phong thực ấp ở Bảo Tháp.

CHIÊU HỮU ĐẠI VƯƠNG:

Làng Nhân Hữu nay thuộc xã Nhân Thắng huyện Gia Bình thờ Chiêu Hữu đại vương húy là Chiêu Phúc nguyên là tướng công thần của Trưng triều. Chưa rõ sự tích.

Ả LÃ - RỒNG NHỊ:

Đây là hai nữ tướng của Trưng Vương và là chị em ruột. Hai vị đã lấp đồn sở ở làng Du Tràng nay thuộc xã Giang Sơn huyện Gia Bình, chống quân Hán đã vài năm. Khi khởi binh, Hai Bà Trưng sai sứ đến mời Ả Lã và Rồng Nhị cùng tham gia khởi nghĩa. Hai nàng đem theo hai nghìn quân đến Phong Châu hội binh. Khi vây đánh thành Tô Định, Ả Lã cưỡi ngựa xông vào giữa trận tiền, chém ngay ba tên tướng giặc và hô quân tấn công. Xác quân Hán lấp đầy sông. Khi bình công, Trưng Vương cho lấy Du Tràng làm thực ấp.
HUYỆN LƯƠNC TÀI

TRÌNH CÔNG VÀ HOÀNG CÔNG:

Làng Đào Xá nay là xã Đào Xá thuộc huyện Lương Tài thờ hai vị công thần của Trưng Vương với tước phong là: Trình Công Trợ Thắng Phụ Quốc đại vương và Hoàng Công Vệ Đạo Tiệp Phù đại vương. Không còn sự tích.

ĐẠI ĐÔ ĐẠI VƯƠNG, KHU MẬT ĐẠI TUỚNG QUÂN, ĐỀ THẦN ĐỊCH LỖI ĐẠI VƯƠNG; NGU CHIÊU TÔN LINH CÔNG CHÚA:

Đó là các vị công thần triều Trưng Vương được thờ ở làng Thận Trai nay thuộc xã Trưng Xá, huyện Lương Tài. Không còn sự tích.

THÁI LANG VÀ ĐẠI LONG:

Thôn Điện Xuyên nay là làng Tỳ Điện, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài thờ hai vị tướng của Trưng Vương là Thái Lang và Đại Long. Không còn sự tích.

ĐÀ CÔNG - NGUYỆT NƯƠNG:

Thờ ở xã Phú Hòa. Không còn sự tích

NGA CÔNG, LANG CÔNG, NGHIÊM CÔNG, DƯƠNG CÔNG:

Thờ ở xã Minh Tâm. Không còn sự tích.

HUYỆN TIÊN DU

ĐÔNG QUÂN TAM VỊ ĐẠI VƯƠNG:

Làng Hoài Thượng nay thuộc xã Liên Bão, huyện Tiên Du thờ 3 anh em Đông Quân. Đó là 3 tướng của Trưng Vương từng lập đồn lũy ở Hoài Thượng để chống giặc Hán. Sự tích không rõ.

LIỄU GIÁP:

Xóm Phú Hậu, thôn Lũng Sơn, thị trấn Lim huyện Tiên Du là quê hương của Liễu Giáp. Nàng vốn con nhà nghèo ở Kẻ Trũng (tên Nôm của Lũng Sơn). Căm ghét giặc Hán tàn bạo, nàng ra sức luyện rèn võ nghệ rồi tập hợp trai tráng trong vùng lập đồn dựng trại. Khi nhận được hịch của Hai Bà Trưng, Liễu Giáp dẫn quân bản bộ tham gia khởi nghĩa, lập nhiều công trạng.

PHƯƠNG DUNG CÔNG CHÚA:

Xóm Thanh Lê, thôn Lũng Sơn, thị trấn Lim là quê hương của Phương Dung. Nàng là con của hai ông bà thuyền chài được Linh Lang thủy thần giáng sinh tại miếu thiêng bên bờ sông Tiêu Tương. Phương Dung võ nghệ cao cường, có ý chí chống giặc Hán, đã tập hợp được một vạn nghĩa quân. Trưng Vương đã phong nàng là Tiền Đạo tiên phong, tiến đánh giặc Hán theo sông Tiêu Tương. Sau thắng lợi Trưng Vương phong là Ả Lự Man Đê Phương Dung công chúa, hưởng thực ấp ở trang Thiểm Xuyên (nay là thôn Lũng Sơn).
HUYỆN THUẬN THÀNH

TẠ THÔNG VÀ ĐỀ NƯƠNG:

Làng Đa Tiện nay thuộc xã Xuân Lâm huyện Thuận Thành thờ tướng Tạ Thông và phu nhân Đề Nương. Khi Hai Bà Trưng khởi binh. Ông Tạ mộ được một nghìn hương binh, bà Đề mộ được hai nghìn hương binh cùng đến dưới cờ Hai Bà Trưng. Ông Tạ Đề Nương tiến đánh thành Tô Định, lập công lớn.

Ả TẮC - Ả DỊ:

Làng Văn Quan nay là thôn Văn Quan thuộc xã Trí Quả, huyện Thuận Thành thờ hai bà Ả Tắc - Ả Dị. Hai bà vốn quê ở Hồng Châu. Từng chiêu mộ được hai nghìn hương binh về tụ nghĩa ở Hát Môn, theo Hai Bà Trưng đi đánh thành Tô Định. Khi dẫn quân đến làng Văn Quán hai bà làm lễ thần Thổ kỳ nên được thần trợ giúp, nhanh chóng thắng giặc. Trưng Vương phong cho hai bà làng Văn Quan là thực ấp. Về sau dân lập đền thờ hai bà và thần Thổ kỳ.

MỘC HOÀN:

Làng Thanh Bình tên Nôm là Cảo Hai nay thuộc xã Xuân Lâm huyện Thuận Thành thờ một vị tướng của Hai Bà là Mộc Hoàn. Chưa rõ sự tích.

ĐỐNG CÔNG - HỰU CÔNG:

Làng Đức Hiệp thuộc xã Xuân Lâm thờ hai vị tướng của Trưng Vương là Đống Công và Hựu Công. Chưa rõ sự tích.

ĐẶNG VĂN ĐƯƠNG (ĐƯƠNG HOÀNG):

Là thành hoàng làng Ngọc Trì (làng Bún) nay thuộc xã Trạm Lộ, huyện Thuận Thành - là tướng của Trưng Vương. Trong đình có sắc phong nhưng không ghi rõ sự tích.
HUYỆN TỪ SƠN

TAM QUANG:

Làng Hồi Quan nay thuộc xã Tương Giang, Từ Sơn, thờ Tam Quang là người làng này đã chiêu mộ được ba nghìn quân theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Ông được phong là chỉ huy sứ, theo cánh quân của bà Trưng Nhị đi hạ thành Tô Định.

DIỆU TIÊN THẦN NỮ - QUẢNG KHÁNH ĐẠI VƯƠNG - PHÁP HẢI ĐẠI VƯƠNG:

Là ba vị công thần triều Trưng Vương được thờ ở làng Xuân Thụ, xã Đồng Nguyên, Từ Sơn. Riêng làng Cẩm Giang cùng xã chỉ thờ Pháp Hải đại vương.

Thần tích kể rằng: Diệu Tiên là mẹ của Quảng Khánh và là cô của Pháp Hải. Ba mẹ con cô cháu đều theo Hai Bà Trưng đi hạ thành Tô Định.

TAM NGỌ:

Làng Bính Hạ, trước thuộc tổng Phù Lưu huyện Đông Ngàn nay thuộc thôn Bính Hạ, xã Đồng Quan, huyện Từ Sơn. Ở đây thờ Tam Ngọ Thiên Linh Ứng đại vương, tương truyền ông vốn người làng này song đi khắp xứ Bắc mưu việc chống quân Hán. Đến làng Sặt, thấy đất đẹp, dân tốt, ông ở lại mở trường dạy học và ngầm chiêu mộ trai tráng luyện tập việc quân. Khi Hai Bà Trưng khởi binh. Ông đã đi theo và đánh thắng nhiều trận.
HUYỆN YÊN PHONG

TỪ MẪU HUỆ NƯƠNG TRINH THỤC HOÀNG THÁI HẬU:

Làng Đồng Mật vốn là thuộc xã Xuân Ái, trước thuộc huyện Võ Giàng, nay thuộc xã Xuân Đồng huyên Yên Phong, thờ thần Từ mẫu được gọi là Trưng Vương triều nhất vị đại vương. Chưa rõ sự tích.
(Tư liệu do ông Lê Viết Nga cung cấp)

TỈNH HÀ NAM

HUYỆN BÌNH LỤC

CAI CÔNG ĐẠI VƯƠNG:

Ở phủ Lý Nhân, huyện Nam Xang có ông Nguyễn Mưu, vợ là Ma Thị Tố sống hiền lành sinh được một con trai đặt tên là Cự, tự là Cai Công. Chàng thông minh xuất chúng, 8 tuổi đi học, vài năm văn võ kiêm toàn thông minh tài trí. Năm chàng 16 tuổi, bố mẹ lần lượt qua đời. Sau khi lo xong việc hiếu, chàng tích thảo dồn lương tập hợp được khoảng năm mươi người. Kịp nghe tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, chàng cùng năm mươi gia thần đến Hát Môn tụ nghĩa. Bà Trưng phong cho chàng là Thừa Thiên đại tướng quân dẫn quân đánh thẳng vào thành quân Hán. Thắng trận chàng về thôn Nhân Dực, xã Đồn Xá, huyện Bình Lục lập hành cung an điện. Ba năm sau Mã Viện xâm lăng. Cai Công theo Hai Bà Trưng đến thành Long Sơn cự địch. Nhưng thế yếu phải lui về Cấm Khê và cuối cùng hóa ở núi Sài Sơn. Người dân Nhân Dực lập đền thờ phụng Cai Công.

ĐỨC LÁI VUA BÀ:

Bà người làng Tái Kinh, nay thuộc xã Đinh Xá. Nổi tiếng xinh đẹp, Thái thú Tô Định đem sính lễ đến xin cưới. Bà chối từ, Tô Định liền giết cả bố mẹ. Bà liền chiêu binh về Hát Môn theo Hai Bà Trưng. Sau khi đuổi được Tô Định bà được phong thực ấp ở Bình Lục... Khi Mã Viện xâm lăng bà đem quân chống cự và hóa ở núi Phật Tích, xứ Bắc.

BA CHỊ EM HỌ TRƯƠNG:

Ở thôn Cát, xã Đình Xá có ba chị em nàng Cả, nàng Hai, nàng Ba. Ba nàng theo Hai Bà Trưng khởi binh và đều được phong là công chúa. Sau được thờ ở đền Minh Linh.

BA VỊ CHÍ SĨ ĐẠI VƯƠNG, QUẠT NGÀ CỬA NGÒI CÔNG CHÚA, HỒNG VÂN CÔNG CHÚA:

Ở bộ Vũ Ninh, đạo Kinh Bắc có Dương Trực, còn gọi là Học. Ông Học đã hứa hôn với hai chị em Nga Nương và Hồng Nương họ Đào ở thôn Xanh thuộc làng Ngô Khê. Tô Định định cướp hai cô gái họ Đào. Ông Học liền kết hôn với hai cô rồi tập hợp được sáu nghìn người theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Sau khi đánh đuổi được Tô Định, giữa hôm Trưng Vương đến chợ nhà Học Công thì trời nổi gió và Học Công cùng Nga Nương, Hồng Nương vụt biến. Trưng Vương phong cho Học Công là Chí Sĩ đại vương và hai vợ là Quạt Ngà Cửa Ngòi công chúa và Hồng Vân công chúa.

TẠ HƯNG LONG VÀ ĐỖ LINH ỨNG:

Vào thời Tô Định cai trị, ở phủ Trường Yên, động Hoa Lư có ông Tạ Hưng Long và con người cậu là Đỗ Dưỡng Công. Hai anh em theo gia đình đến sống ở thôn Cao Dương, xã Yên Đổ. Được tin Hai Bà Trưng dấy binh ở Hát Môn. Hai anh em đến bái yết xin đi đánh giặc. Đánh thắng Tô Định nhưng hai ông đã hy sinh. Trưng Vương thương tiếc cho an táng hai người ở núi Hạc Trình và truy phong là Tạ Hưng Long đại vương và Đỗ Linh Ứng đại vương.
HUYỆN DUY TIÊN

NGUYỆT NGA PHU NHÂN:

Nguyệt Nga con ông Nguyễn Bình quê làng Dưỡng Thọ. Tô Định ép ông Bình phải dâng Nguyệt Nga. Ông không nghe, Tô Định liền sát hại. Nguyệt Nga chiêu nạp mấy nghìn người tìm lên Hát Môn hội quân cùng Hai Bà Trưng. Nàng có công lớn trong việc đánh đuổi Tô Định, sau chiến thắng được hưởng lộc xã Dưỡng Thọ. Ba năm sau Mã Viện đem quân sang. Nguyệt Nga bị giặc bắt, nhưng khi sắp bị hành hình thì có chiếc thuyền rồng nổi trên dòng sông đón nàng về Dưỡng Thọ. Sau đó bà hóa tại thực ấp này. Dân lập miếu thờ nay là thôn Dưỡng Thọ xã Tiên Phong. Thôn bên cạnh là thôn An Mông thuộc xã Châu Sơn cũng thờ bà.

HÀN QUỲNH NƯƠNG:

Bà là con gái một huyện lệnh ở châu Ái và là vợ chủ bộ Hải Dương Lê Công Bình. Bà sinh được hai người con gái là Lê Minh Nương và Lê Đậu Nương. Tô Định đã giết ông Bình nên bà Hàn cùng hai con gái đến trang Văn Bút, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân hội cùng các cháu gọi bằng cô là Hàn Sanh, Hàn Hãn, Hàn Già chiêu tập binh mã chờ thời cơ. Khi Trưng Vương khởi nghĩa bà cùng các con cháu đến hội quân ở Hát Môn rồi cùng đại quân đi đánh Tô Định. Sau đó bà hóa tại Ninh Xá. Hai con gái là Minh Nương và Đậu Nương sau này phò Trưng Vương lên đánh Mã Viện ở Lạng Sơn rồi rút về Cấm Khê. Sau đó vua tôi cùng tuẫn tiết. Bà Hàn được phong là Quốc mẫu Hàn Quỳnh Nương cùng với hai con gái Minh Nương, Đậu Nương được thờ tại thôn Văn Bút, xã Trác Văn.

HUYỆN KIM BẢNG

BẠCH HOA CÔNG CHÚA:

Nàng là con gái ông Trần Công Phương và bà Đinh Thị Thái. Từ nhỏ đã giỏi cầm kỳ thi họa lẫn cung kiếm. Năm 18 tuổi, nàng theo Hai Bà Trưng khởi binh đánh thắng Tô Định. Sau đó, lại bảo vệ Hai Bà Trưng ở chiến trận Cấm Khê và hóa tại đó. Được lập đền thờ ở thôn An Lạc, xã Kim Bình.

NGUYỆT NGA CÔNG CHÚA:

Nàng là con ông Trần Công Vi và bà Phạm Đào Nương. Nàng dấy binh theo Trưng Vương, được phong là Thanh Tĩnh Chinh Thục Nguyệt Nga công chúa, nay được thờ ở thôn Lương Đống, xã Kim Bình.

QUẾ HOA CÔNG CHÚA VÀ NỮ HOA CÔNG CHÚA:

Hai nàng quê thôn Phúc Trung, nay thuộc xã Tương Lĩnh, đã nhiều năm nổi dậy chống Tô Định. Sau theo giúp Trưng Vương đánh giặc Tô Định và hy sinh tại trận tiền. Trưng Vương cho lập miếu thờ ở quê hương. Đến thời Trần, hai nàng có công âm phù Hưng Đạo Vương dẹp giặc Nguyên nên được sắc phong Hằng Nga Uyển Mị Diệu Hạnh Thuần Hòa công chúa và Yểu Điệu Tiên Cung công chúa.

NGUYỄN PHÚC TÍNH:

Ông quê ở Ái Châu ra dạy học tại làng Phương Đàn (nay thuộc xã Lê Hồ). Cậu ruột của ông là Trương Công làm tri phủ (?) Lý Nhân bị Tô Định giết chết. Nguyễn Phúc Tính đã theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa, sau thắng lợi, được lập đền thờ tại làng quê Phương Đàn.
THỊ XÃ PHỦ LÝ

THỦY TINH CÔNG CHÚA:

Tại thôn Trịnh Xuân, phường Lê Hồng Phong thuộc thị xã Phủ Lý vốn có đền thờ bà Thủy Tinh công chúa, tương truyền đã theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa.

CHÂN UY:

Thôn Châu Xá, nay thuộc phường Lê Hồng Phong, thị xã Phủ Lý có thờ Chân Uy. Ông người An Định, huyện Thụy Anh, Thái Bình đến dạy học tại thôn này. Mới sinh ra trên trán ngài có chữ thiện, học một biết mười, tinh thông binh pháp. Năm 14 tuổi, ông theo Hai Bà Trưng dấy binh. Sau Trưng Vương phong cho ông làm đại tướng coi cánh quân tiên phong đem bảy vạn quân đi đánh Tô Định. Đánh đuổi được giặc, Trưng Vương phong cho ông là Chân Uy Nghi Vũ Chính Thiện đại vương, lập đền thờ tại Châu Xá1.

NGUYỆT NGA PHU NHÂN:

Thôn Hòa Lạc nay thuộc xã Nam Hạ, thị xã Phủ Lý còn thờ bà Nguyệt Nga phu nhân tương truyền đã khởi binh theo Hai Bà Trưng đánh quân Hán.

CẨN THIỆN:

Nay thôn Phờ Vân thuộc xã Phù Vân, thị xã Phủ Lý còn thờ Cẩn Thiện cư sĩ. Tương truyền thân phụ là Thuần Công Sách và thân mẫu là Trần Quang Nương. Năm ông 20 tuổi thân phụ bị Tô Định giết, thân mẫu thương chồng rồi lâm bệnh qua đời. Cẩn Thiện theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Khi tan giặc ông về Phù Vân cùng dân xã lập ấp. Ba năm sau ông đã hy sinh ở Cấm Khê. Dân ấp nhớ ơn lập đền thờ.
___________________________________
1. Mười bốn tuổi mà là đại tướng thì đúng là huyền thoại.

HUYỆN LÝ NHÂN

BÁT NẠN PHU NHÂN:

Phu nhân là con gái ông Vũ Chất và bà Hoàng Cầu quê xã Phượng Lâu, huyện Bạch Hạc, thành Phong Châu nay là huyện Phù Ninh, linh Phú Thọ. Bà tên húy là Thục Nương, khi trưởng thành gặp lúc Tô Định hoành hành ngược bạo, bà tự xưng là Bát Nạn tướng quân theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Khi Mã Viện sang tiến đánh, bà lui quân về xã Tiên La, huyện Duyên Hà nay thuộc tỉnh Thái Bình, rồi bỗng nhiên sấm chớp và bà hóa ở gốc cây tùng. Dân ba thôn Chanh, Nội, Hà nay thuộc xã Nhân Mỹ đã thờ bà làm thành hoàng.

MỸ HẠO ĐẠI VƯƠNG, CHƯƠNG HỘ TẤU ĐẠI VƯƠNG, QUẬN CHÚA PHU NHÂN:

Ở trang Mỹ Lộc, huyện Hoằng Hóa, Ái Châu có vợ chồng ông Thành Công và bà Trần Thị Ngoạn. Một hôm bà ra sông tắm thì có con giao long bao quanh mình ba vòng rồi biến. Từ ấy bà thụ thai, sau sinh ra một bọc nở hai trai và một gái, đặt tên là Mỹ Hạo, Chương Hộ Tấu và Quận Nàng. Đến tuổi trưởng thành thì bố mẹ đều qua đời, ba anh em kéo nhau ra cư trú tại làng Đại Hoàng (nay thuộc xã Hòa Hậu). Kịp lúc đó Trưng Vương truyền hịch, ba anh em liền tới Hát Môn tụ nghĩa. Sau khi đánh thắng Tô Định, Trưng Vương cho ba anh em về đóng tại Đại Hoàng, phong là tam vị đại vương. Ít lâu sau, trong một lần xuống sông tắm, ba anh em biến thành ba con rắn rồi biến mất. Dân Đại Hoàng lập miếu thờ làm thành hoàng.

PHẤN HÙNG THẦN CẢ, CƯƠNG NGHỊ THẦN CẢ:

Hai vị con nhà họ Dương là anh em sinh đôi, anh tên húy là Đa, em tên húy là Si. Hai anh em theo Bà Trưng khởi nghĩa. Sau được phong thực ấp ở huyện Nam Sang (nay là Lý Nhân). Dạy cho dân nghề nông tang, canh cửi và không rõ hóa vào lúc nào. Nay các thôn Hải Long I và Hải Long II thuộc xã Nguyên Lý đều thờ hai vị.

TRẦN MÃ CHÂU CÔNG CHÚA:

Ở Lam Sơn huyện Lương Giang (Ái Châu) có vợ chồng ông Trần Thành và bà Trương Thị Hoan, sinh được con gái đặt tên là Trần Mã Châu. Cô lớn lên thông minh tài trí giỏi cả văn lẫn võ. Nghe tiếng, Trưng Vương mời cô ra giúp nước. Cô đóng quân ở trên bờ sông Cái thuộc đất Bảo Châu (nay là thôn An Châu, xã Đạo Lý) lập 18 doanh trại. Cô theo Trưng Vương đi đánh đuổi Tô Định được phong là công chúa. Sau đó lại đi chống Mã Viện. Trong một trận đánh, công chúa bị thương nặng, đã hóa. Thôn An Châu thuộc xã Đạo Lý đã lập đền thờ công chúa.

NGA NÀNG:

Ở đạo Nam Sơn thuộc huyện Mỹ Lương, xứ Đoài có vợ chồng ông Trần Lực và bà Nguyễn Thị Luân sinh được một gái đặt tên là Nga Nàng. Lớn lên Nga Nàng rất xinh đẹp. Tô Định sai lính đến bắt về làm vợ. Trần Công không chịu nộp. Tô Định cho quân đến đánh phá trang trại họ Trần và giết Trần Công. Bà Nguyễn Thị đem con gái chạy đến trú tại làng Thượng Châu, huyện Nam Sang. Sau đó Nga Nàng theo Trưng Vương khởi nghĩa dự nhiều trận đánh. Tới khi Mã Viện xâm lăng, Nga Nàng lui về trấn giữ ở Thượng Châu rồi hóa trong một trận đánh. Nay ở thôn Thượng Châu, xã Hợp Lý Còn đền thờ Nga Nàng.
HUYỆN THANH LIÊM

VẠN PHÚC PHU NHÂN:

Phu nhân họ Đặng người làng Cổ Đế, phủ Trường Yên. Bà theo anh giúp Trưng Vương đánh Tô Định có công được vua Trưng phong cho là Vạn Phúc phu nhân và trở thành thành hoàng thôn Kênh Cạn nay thuộc xã Thanh Lưu.

NGỌC NHAN CÔNG CHÚA:

Công chúa xuất thân trong một gia đình hào cường họ Nguyễn. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Ngọc Nhan liền tới đại dinh đầu quân. Sau khi đánh đuổi Tô Định được vua phong là Ngọc Nhan công chúa làm chức phụ chính. Ba năm sau khi Mã Viện đem quân sang, phu nhân đã hóa ở sông Hát. Nay thôn Nội Trình, xã Thanh Hương tôn phu nhân là thành hoàng.

CAO BÀ VĂN TỔ:

Ở làng Thạch Tổ (nay thuộc xã Thanh Hà) đời Hán có ông Cao Thọ và bà Lê Thị Đán sinh một gái đặt tên là Liên Hương. Căm giận Tô Định đã giết cả bố lẫn mẹ nên Liên Hương mộ binh đánh trả Tô Định. Tới khi Trưng Vương khởi nghĩa, Liên Hương theo nghĩa binh đánh Tô Định. Sau này, khi chống lại Mã Viện, cô đã tử trận ở Cấm Khê. Nay thôn Thạch Tổ, xã Thanh Hà vẫn thờ bà là thành hoàng.

CHÂU Y CÔNG CHÚA:

Công chúa là con ông Nguyễn Quang và bà Trương Mỵ quê ở Đọi Trung, huyện Duy Tiên. Năm 18 tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời. Cùng lúc đó Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Châu Y lĩnh một đội quân đi đánh Tô Định thắng lợi, được Vua Bà phong cho là Châu Y công chúa. Nhưng ba năm sau công chúa đã hy sinh trong một trận chiến đấu chống Mã Viện.

TỈNH HÀ TÂY

HUYỆN BA VÌ

MAN THIỆN

Làng Nam An (xưa gọi là Nam Nguyễn) nay thuộc xã Cam Thượng, thờ bà Man Thiện.

Theo thần tích làng Hát Môn (huyện Phúc Thọ) và làng Hạ Lôi (huyện Mê Linh) thì bà mẹ của Hai Bà tên là Trần Thị Đoan. Nhưng thần tích làng Nam An thì lại ghi tên bà là Man Thiện. Làng Nam An lại chính là quê hương của bà, do đó cái tên Man Thiện có “uy tín” riêng của nó. Man Thiện, người làng này, vốn là cháu chắt ngoại của vua Hùng. Bà làm bạn với lạc tướng Mê Linh, sinh hai gái là Trưng Trắc, Trưng Nhị.

Khi Trưng Trắc dấy binh, bà từng đi nhiều nơi liên kết các quan làng, phụ đạo hưởng ứng đại nghĩa. Đánh đuổi được Tô Định, bà lui về quê Nam Nguyễn lập đồn binh. Sau này khi hay tin hai con gái bị nguy khốn ở Cấm Khê, bà đưa quân bản bộ theo ngả đường sông định để cứu viện nhưng quân Hán đuổi theo đánh tập hậu. Trước nguy cơ thất bại, bà đã gieo mình xuống sông tìm cái thác trong. Đó là ngày mừng 10 tháng Chạp. Quân lính tìm vớt được thi hài bà đem về an táng ở khu đất cao trong đồn Nam Nguyễn cũ. Khu đất đó từ đây gọi là gò Mả Dạ, tức là mả của một bà mẹ cao cả.
(Xã Cam Thượng này có di chỉ văn hóa Đồng Đậu ở Đồi Dà).

PHÙNG THỊ CHÍNH

Làng Tuấn Xuyên nay thuộc xã Vạn Thắng thờ cô Phùng Thị Chính. Thần tích kể rằng ở trang Phú Nghĩa (láng giềng của Tuấn Xuyên) có nhà ông Phùng Bổng gốc ở Hoan Châu, nhập cư đã hai đời. Phùng Bổng lấy bà Hùng Thị Tuyết ở Phong Châu là người có họ với Hai Bà Trưng. Vợ chồng Phùng Bổn sinh được một gái đặt tên là Chính. Chính lấy Đinh Lượng là cháu bên họ ngoại ông Thi Sách.

Khi Hai Bà khởi nghĩa, Phùng Thị Chính được cử đi dò xét tình hình quân Tô Định. Cô cải trang làm người ăn mày, đi vào đất giặc. Cô nắm biết mọi đồn sở, địa giới, đường đi lối lại. Nhờ đó mà nghĩa quân nhanh chóng hạ được Tô thành1.

Khi Mã Viện xâm lược, Phùng Thị Chính theo bà Trưng Nhị làm tiên phong đi cản giặc. Lúc này Chính đang có mang. Giữa trận đánh cô trở dạ sinh con trai. Cô liền buộc con ở trước bụng rồi cầm song kiếm tiếp tục đánh bọn giặc Hán, mở đường máu phi ngựa ve thành (?). Sau khi Hai Bà thất trận, cô về sống ở Tuấn Xuyên. Song tên thái thú Hồ Điển (?) dò biết cho môi giới ép cô phải về làm tì thiếp cho hắn. Phùng Thị Chính không thuận, Hồ Điển dẫn quân tới vây bắt. Không chịu nhục, cô ra sông tự trầm. Đó là ngày mùng 6 tháng Chín. Dân Tuấn Xuyên thương cảm, lập đền thờ người con gái anh hùng và tiết liệt này.
(Xã Vạn Thắng này có di chỉ văn hóa Phùng Nguyên ở Gò Hện.
Còn ở xã láng giềng - xã Phú Phương - thì từng đào được
hai trống đồng Đồng Sơn và có di chỉ văn hóa Phùng Nguyên ở Đồng Chỗ).

_____________________________________
1. Ví dụ ở những tài liệu đó khi chép việc các nhân vật đi đánh Tô Định thì đều ghi là đánh thành Luy Lâu. Thực ra trong trên một trăm thần tích mà chúng tôi đã đọc không hề thấy có chữ Luy Lâu mà chỉ thấy chép là hạ Tô thành (thành Tô Định) hoặc Tô dinh (dinh Tô Định).

HUYỆN ĐAN PHƯỢNG

HẢI DIỆU

Thôn thượng làng Cổ Ngõa, tục danh là làng Thón nay thuộc xã Phương Đình thờ Hải Diệu. Cha ông tên Nguyễn Anh, người gốc Hoan Châu, làm quan doãn ở Đan Phượng. Vợ ông Nguyễn Anh là bà Lê Thị Hành. Họ có một trai đặt tên là Diệu. Nguyễn Anh tuy làm quan với nhà Hán nhưng có lòng thương dân, ông giảm nhẹ thuế cống cho dân. Tô Định hay biết điều đó, liền tìm cách giết hại Nguyễn Anh. Bà Hành đem con về ngụ ở làng Thón, lần lữa qua ngày.

Diệu lớn lên, nuôi chí trả nợ nước, báo thù nhà. Khi Hai Bà xướng nghĩa, Diệu cùng mười bạn trong làng chiêu tập được một nghìn nghĩa sĩ, cùng nhau đến Hát Môn bái yết Hai Bà. Hai Bà phát binh đi đánh các châu quận thì Diệu được cử đi tiễu trừ giặc ở vùng Cửu Chân.

Khi Mã Viện xâm lược, chàng Diệu chiến đấu trong đạo tiền quân. Sau chàng hy sinh ở Cấm Khê vào ngày 28 tháng Sáu. Các đời vua sau phong là Hải Diệu đại vương.

LÔI CHẤN

Làng Tháp Thượng nay thuộc xã Đồng Tháp thờ Lôi Chấn. Cha là ông Cao Cự người Thiên Trường, mẹ là bà Nguyễn Thị Phương. Ông Cao Cự tuy giữ một chức quan ở vùng Đan Phượng này nhưng có tinh thần chống đối Tô Định. Thế là tên cáo già quỉ quyệt đó đã tìm cách giết ông. Bà vợ đem con về sống nhờ ở Tháp Thượng. Năm Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Lôi Chấn 20 tuổi. Trong trận đánh đuổi Tô Định, chàng có đóng góp nhiều công trạng.

Dân làng Tháp Thượng thờ Lôi Chấn làm thành hoàng.

SA LƯƠNG

Làng Hạ Trì có bốn thôn Thượng, Trung, Hạ, Đoài Quý nay là hai xã Liên Hà, Liên Trung thờ bà Sa Lương1.

Trưởng bộ Nam Hải họ Hùng có một trai và một gái, đặt tên là Hùng Ninh (hoặc Linh) và Sa Lương. Thái thú Tô Định muốn lấy Sa Lương làm tì thiếp nhưng Sa Lương không thuận. Tô Định liền giết Hùng Ninh. Sa Lương ra ẩn náu ở vùng bãi sông Cái tức làng Hạ Trì rồi tụ tập một số bè bạn cùng căm ghét giặc Hán, mưu việc lớn.

Cách đấy ít lâu, tin Hai Bà truyền hịch sang tới Hạ Trì. Sa Lương cùng chúng bạn về Hát Môn tụ hội. Cô được giao chỉ huy một cánh quân thủy cùng đại quân đi hạ thành Tô Định.

Sau khi thắng lợi cô về đóng quân tại căn cứ Hạ Trì.

Nhưng đáng tiếc cô qua đời quá sớm, giữa lúc đang ở tuổi hai mươi. Ngày hóa là 15 tháng Bảy, ngày sinh là 8 tháng Ba.

Thủa trước, vào ngày 7 tháng Ba, cả bốn thôn chung nhau tổ chức hội trống (đánh và đi theo nhịp trống) và hội bơi chải được coi như là lặp lại cách luyện quân của Sa Lương.
(Cách Hạ Trì 4km về phút tây bắc có di chỉ Hà Nội,
 thuộc thời kỳ cuối của đá mới).

VĨNH HOA

Làng Trung Hà nay thuộc xã Trung Châu thờ Vĩnh Hoa làm thành hoàng vì thần tích kể rằng Trung Hà là “thứ đồn” của cô. Còn “chính đồn” là ở Tiên Nha đối diện qua sông Hồng nay thuộc huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc. Nguyên là ở trang Mao Điền thuộc Hồng Châu (vùng Hải Dương sau này) có Phùng Vĩnh Hoa là một cô gái nhan sắc tuyệt vời và rất thạo nghề cung kiếm. Năm cô 18 tuổi, bố mẹ kế tiếp qua đời. Vĩnh Hoa giao cửa nhà lại cho ông cậu rồi ra đi tìm bạn đồng tâm mưu việc chống quân Hán. Thấy trang Tiên Nha (nay thuộc xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) ở ngay cửa sông Nguyệt Đức (tức sông Cà Lồ), có địa thế thuận lợi cho việc tụ nghĩa nên cô ở lại đấy, mở một hàng nước để có cơ hội chiêu tập anh tài. Dần dà, dân trang nhận thấy Vĩnh Hoa không phải là người tầm thường, mới tôn làm trưởng trang. Từ đó Tiên Nha thành một đồn trại. Quân Hán kéo đến đánh phá nhưng không thắng nổi. Kịp khi Hai Bà khởi binh, Vĩnh Hoa đưa quân bản bộ đi theo, lập công lớn trong trận đánh dinh Tô Định. Sau đấy, Hai Bà lệnh cho Vĩnh Hoa về án ngữ nơi ngã tư sông hiểm yếu là vùng cửa sông Nguyệt Đức và sông Hát. (Bên hữu ngạn, chỗ sông Hồng đổ vào sông Hát có tên là cửa Hát thì đối xứng với nó ở bên tả ngạn cũng là nơi sông Hồng chia nước cho sông Nguyệt Đức - nay đã bị lấp). Vâng lệnh, Vĩnh Hoa về lập chính đồn ở trang Tiên Nha và thứ đồn ở bãi Trung Hà bên bờ hữu ngạn sông Hồng. Sau này trong một trận chống Mã Viện, Vĩnh Hoa tử tiết ở cửa sông Nguyệt Đức, ngày 14 tháng Chín.

NHẬT TRỰC - HẢI THÂN - CHÀNG ÚT

Làng Chu Phan, nay thuộc xã Trung Châu có đến thờ ba người trên, là anh em ruột đã theo Hai Bà đánh giặc Hán nhưng sự tích thất truyền.

Ả TÚ - Ả HUYỀN - Ả CÁT

Làng Hưu Trưng, nay thuộc xã Trung Châu có đền thờ ba cô gái Ả Tú, Ả Huyền, Ả Cát đều là tướng của Hai Bà. Nhưng đây là thờ vọng. Nơi ở chính là ở sáu thôn Vĩnh Phúc, Vĩnh Thọ, Vĩnh Khang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thuận, Vĩnh Lộc nay là hai xã Vân Phúc, Vân Nam, huyện Phúc Thọ.

VĨNH GIA

Làng Yên Châu, nay thuộc xã Trung Châu thờ cô Vĩnh Gia, nữ tướng của Hai Bà. Nhưng đây là thờ vọng. Nơi thờ chính là làng Nại Tử Châu thuộc xã Chu Phan, huyện Mê Linh. (Sẽ nêu ở phần nói về huyện này).
_______________________________________
1. Đây là theo thần tích làng Hạ Trì. Ở quyển “Một số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng” của Ty Văn hóa Hà Sơn Bình - năm 1979 - lại chép tên vị này là Sa Lãng.

HUYỆN HOÀI ĐỨC

Ả LÃ NÀNG ĐÊ - CHÀNG QUỐC

Ven sông Đáy có nhiều làng thờ hai tướng này.

Ghi chép về sự tích của cô có tới năm bản thần tích của năm làng khác nhau: làng Vân Côn nay thuộc xã Vân Côn huyện Hoài Đức, làng Nghĩa Lộ và làng Yên Lộ nay là xã Yên Nghĩa thuộc Hoài Đức, làng Trung Văn tức Dộc Bé nay thuộc xã Trung Văn huyện Từ Liêm, làng Phú Hạng thuộc xã Tân Phú huyện Quốc Oai, Hà Tây.

Giữa năm bản này có đôi ba chỗ sai biệt, đó là điều phổ biến trong các thần tích, ngọc phả. Căn cứ vào bản sao của làng Nghĩa Lộ là làng chỉ thờ có hai chị em Ả Lã làm thành hoàng1 thì sự tích như sau:

Ông Nguyễn Viên quê ở hạt Hoằng Hóa, châu Ái (nay là Thanh Hóa), giữ chức trưởng doanh ở Cổ Châu, huyện Thanh Oai. Ông lấy bà Trần Thị Lâm người làng Nghĩa Lộ làm vợ. Hai ông bà sinh một gái đầu lòng, đặt tên là Lã, sau đổi là Đê, do đó mọi người gọi là Ả Lã Nàng Đê. Sau lại sinh một trai, đặt tên là Quốc. Tuy là một quan chức nhưng Nguyễn Viên không a tòng bọn xâm lược nên bị Tô Định sát hại. Bà Lâm đưa hai con về sống ở làng quê Nghĩa Lộ.

Tới năm Ả Lã tròn hai mươi tuổi và chàng Quốc mười chín tuổi thì có tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Phong Châu. Hai chị em Ả Lã liền tập hợp thanh niên nam nữ trong vùng có tới năm trăm người, đi theo Hai Bà đuổi giặc.

Ba năm sau, Mã Viện xâm lược. Ả Lã và em trai theo dự nhiều trận, cuối cùng đều hy sinh tại Cấm Khê. Thi hài Ả Lã trôi theo dòng Hát, đến Phú Hạng thì được nhân dân ở đó vớt lên chôn cất và lập đền thờ.

(Ở làng Yên Lộ, tên gọi của cô là Ả Lã Làng Đê. Làng cũng là Nàng đọc chệch. Ở Vân Còn lại gọi là Ả Nữ Lương Lê. Thì Nữ chính là Lữ (một âm khác của Lã) đọc chệch. Lương là âm đọc chệch của Nương tức Nàng. Còn âm Lê thì chưa rõ nguồn gốc. Nhưng trong thần tích bằng chữ Hán của làng này thì lại chép đúng là Ả Lã Nàng Đê).

NGUYỄN AN

Thôn Cao Xá Thượng nay thuộc xã Đức Thượng và hai thôn Cao Xá Trung, Cao Xá Hạ thuộc xã Đức Giang vốn xưa là một đơn vị cư dân, gọi tên là Quách Xá. Ở đây thờ Nguyễn An làm thành hoàng.

Ông Nguyễn Tuyên là người trang Hoa Khê, phủ Gia Hưng (nay là huyện Cẩm Khê, huyện Vĩnh Phú). Ông làm bạn với bà Phạm Thị Lộc, sinh được một trai, đặt tên là Nguyễn An. Nguyễn An sau di cư tới ở tại Quách Xá. Khi Hai Bà khởi nghĩa, Nguyễn An đưa hai trăm nghĩa sĩ vùng này đi theo nghĩa quân. Sau đó họ về đóng đồn ngay tại Quách Xá. Khi Mã Viện sang, Nguyễn An và cánh quân thủ túc luôn chiến đấu bên cạnh Hai Bà. Cuối cùng tất cả hy sinh ở Cấm Khê.
(Xã Đức Giang và vùng lân cận có nhiều di chỉ khảo cổ
thuộc thời kỳ trước Công nguyên, đã nêu ở Chương bốn, mục VI).

HOÀNG ĐẠO

Làng Cát Ngòi nay thuộc xã Cát Quế thờ Hoàng Đạo. Nhưng đó là thờ vọng. Nơi thờ chính là làng Hạ Hiệp thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ. (Sẽ nêu ở phần nói về huyện này).
___________________________________
1. Làng Văn Côn còn thờ cả Lôi Công. Làng Yên Lộ còn thờ cả Thủy Hải và Tĩnh Quốc tam lang. Làng Trang Văn còn thờ cả Thủy Hải và Đào Quang Nhiên.

HUYỆN PHÚC THỌ

Ả TÚ - Ả HUYỀN - Ả CÁT

Thời cổ sơ có 12 họ đến lập trại bên tả ngạn sông Cái gọi là trại Vân Thủy thuộc đất huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường. Sau bờ sông này bị lở, dân trại Vân Thủy di cư cả đình miếu sang hữu ngạn lập ra sáu xóm, sau thành sáu làng riêng rẽ là Vĩnh Phúc, Vĩnh Thọ, Vĩnh Khang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thuận, Vĩnh Lộc. Sáu làng này nay là hai xã Vân Nam, Vân Phúc huyện Phúc Thọ. Ở đây còn lưu truyền truyện kể và thần phả về ba người con gái anh hùng, nữ tướng của Hai Bà Trưng.

Vào thời Vân Thủy còn ở bên tả ngạn, có nhà ông Phùng Liệt và bà Phạm Thị Tư sinh hai gái là Ả Tú và Ả Huyền. Chị hơn em ba tuổi. Hai cô kết bạn với Ả Cát con ông Hoàng Hy và bà Phạm Thị Chí ở bên làng Nhật Chiểu láng giềng. Ba cô vừa luyện văn luyện võ, mưu việc đánh đuổi quân Hán.

Khi hay tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, ba cô tập hợp gia nhân thân thích được cả thảy năm mươi hai người rồi vượt sông sang Hát Môn tụ hội.

Sau này cả ba đều chết tại Cấm Khê vào ngày mùng 2 tháng Chạp1.

Ngoài Vân Thủy (Vĩnh Thọ) ra, Ả Tú, Ả Huyền, Ả Cát còn được thờ ở làng Hưu Trưng phía bên hữu ngạn sông Hát nay thuộc xã Trung Châu huyện Đan Phượng.

ĐỖ NĂNG TẾ - TẠ CẨN NƯƠNG

Đỗ Năng nguyên quán ở Khoái Châu (nay thuộc tỉnh Hải Hưng) sau dời sang cư ngụ ở trang Khánh Hợp (nay thuộc xã Tam Hiệp) làm nghề bốc thuốc. Đỗ Năng lấy vợ người làng này là bà Đào Thị Dực và sinh được một trai, đặt tên là Đỗ Năng Tế. Lớn lên Năng Tế nổi tiếng là thông tuệ, làm bạn với con gái thầy học là Tạ Cẩn Nương. Bà Man Thiện nghe thấy tiếng liền cho mời vợ chồng ông tới dạy bảo cho hai con gái là Trắc và Nhị.

Khi Hai Bà mưu việc lớn, ông Năng Tế đã đi vận động các tù trưởng quan lang hưởng ứng.

Đánh đuổi Tô Định rồi, vợ chồng ông lui về Khánh Hợp. Khi Mã Viện xâm lược, bà Cẩn Nương chiến đấu bên cạnh Hai Bà Trưng và hy sinh ở Cấm Khê (hoặc sông Hát). Còn Đỗ Năng Tế cầm cự với quân Hán ở Cư Phong. Thế yếu, ông trở về Khánh Hợp và mất tại đây sau một trận tử chiến với quân thù vào ngày 17 tháng Bảy. Nơi ông mất ngày ấy là khu rừng rậm ở bìa làng. Sau dân lập đền thờ gọi là Quán Rậm hoặc Quán Cấm.

HOÀNG ĐẠO

Hoàng Lãng quê ở Hoan Châu (Nghệ Tĩnh) nhưng lưu lạc ra Bắc, ở tại làng Hạ Hiệp (nay thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ), lấy vợ tại đây là bà Phùng Thị Tam. Họ sinh một trai, đặt tên là Hoàng Đạo.

Đạo trở thành một chàng trai tuấn tú. Kịp khi Hai Bà khởi binh, Hoàng Đạo chiêu tập trai tráng ba làng Hạ Hiệp, Hiệp Lộc, Yên Dục lập nên một đạo quân và kéo tới Hát Môn tụ hội.

Sau này khi Mã Viện xâm lăng, ông đóng đồn ở quê nhà, trấn giữ khúc sông Đáy. Nhưng cuối cùng không thắng nổi quân giặc và ông đã hy sinh ngay tại đồn binh vào ngày 13 tháng Hai. Nơi đó nay là Quán Dâu gần bên bờ sông, có ngôi quán (ngôi đền) thờ Hoàng Đạo. Hai làng Hiệp Lộc và Yên Dục cũng có thờ người dũng tướng này. Bên kia sông Đáy là làng Cát Ngòi nay thuộc xã Cát Quế, huyện Hoài Đức cũng có đền thờ ông.

Ả LÃ NÀNG ĐÊ

Làng Giáo Hạ nay thuộc xã Ngọc Tảo có thờ vọng Ả Lã Nàng Đê, một nữ tướng mà nơi thờ chính là làng Yên Lộ - Nghĩa Lộ, huyện Hoài Đức (xem phần huyện Hoài Đức)
HUYỆN THẠCH THẤT

LÝ MINH

Làng Mục Uyên nay thuộc xã Tân Xã, là nơi đóng quân của Lý Minh.

Lý Minh gốc người trang Cổ Pháp, quận Vũ Ninh, đạo Kinh Bắc, nghe tin Hai Bà khởi binh liền mộ hai nghìn dũng sĩ tới Hát Môn tụ hội. Ông được cử đem quân đi tuần phòng vùng Đông và vùng Bắc. Qua làng Mục Uyên, nhân chiêm bao thấy thần âm phủ liền lấy đây làm đại doanh. Sau ông mất cũng tại đây, ngày 10 tháng Chạp. Tương truyền đền thờ ông gọi là Quán Trăm nay ở thôn Hương Trung là lập trên khu doanh trại xưa.

ĐÀO KHANG

Làng Phú Hòa xưa là Phú Đa, tên Nôm là làng Gia nay thuộc xã Bình Phú. Nơi đây thờ Đào Khang.

Ông vốn là người trang Kiệt Đặc bên Hồng Châu (nay là tỉnh Hải Hưng). Sau khi cha mẹ chết, ông dời quê, đi lưu lạc kiếm sống. Đến Phú Đa, ông ở lại cấy cày lập nghiệp. Nghe tin Hai Bà truyền hịch đánh giặc Hán ông đứng ra chiêu mộ trai tráng trong vùng, được trên nghìn người. Và tất cả lên đường theo Hai Bà ra trận. Chiến thắng trở về, ông lập đồn binh ở Phú Đa và mất tại đây ngày mùng 3 tháng Tư.
___________________________________
1. Đây là thần tích của sáu làng Vĩnh nói trên. Ở quyển “Một số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng” của Ty Văn hóa Hà Sơn Bình - năm 1979 - lại chép ba vị này tự tự hoặc chết ở giếng làng Vĩnh Thuận.

TỈNH HƯNG YÊN

THỊ XÃ HƯNG YÊN

TRẦN LŨU:

Thôn Đào Đặng, xã Trung Nghĩa, thị xã Hưng Yên thờ Trần Lữu, người đã phù Hai Bà Trưng đánh giặc.

Ông có bảy người con, đều có sức khỏe hơn người, thạo võ nghệ, giỏi văn chương. Nghe tin Hai Bà dấy binh ở Hát Giang, cha con ông Trần Lữu đến bái yết xin được đi đuổi giặc. Đuổi xong Tô Định, tám cha con đều được phong là đại tướng và về lập doanh trại ở bản quán. Sau này tất cả đều hi sinh ở Cấm Khê.

TRẦN MÃ CHÂU:

Thôn Bảo Châu, xã Quảng Châu thị xã Hưng Yên thờ bà Trần Mã Châu, nữ tướng của Hai Bà Trưng. Cô là con bộ chủ Trần Thành và bà Trương Thị Hoan, vốn quê ở huyện Lương Giang phủ Thiệu Thiên, châu Ái. Cô mồ côi mẹ khi chưa đầy một tuổi, được bà nhũ mẫu là Sơn Lạc nuôi dưỡng. Đến tuổi trưởng thành theo học Lý tiên sinh.

Thuở đó, ông Trần Thành là bộ chủ huyện Nam Xương, đã cùng ông Thi Sách là chồng bà Trưng Trắc khởi binh chống Tô Định song cả hai đều bị giặc Tô giết hại. Mã Châu căm hờn, cắt tóc cải trang làm ni cô đến chùa Bảo Châu trụ trì. Cô ngầm chiêu tập binh mã. Gái trai khoảng hai trăm người đến xin làm gia thần, luyện tập binh pháp tinh nhuệ. Kịp khi Bà Trưng khởi nghĩa, Mã Châu liền đem gia thần nhập vào đại binh của Bà Trưng. Sau nhiều trận, Tô Định đại bại phải bỏ trốn.

Ba năm sau, Mã Viện kéo quân sang. Trong một trận đánh không ngang sức, Mã Châu một mình một ngựa phá vòng vây chạy về đến Bảo Châu thì hóa. Nhân dân thương tiếc lập đền thờ.

VŨ THỊ THỤC:

Đền Tân La, thuộc xã Bảo Khê, thị xã Hưng Yên, thờ bà Vũ Thị Thục, là một nữ tướng của Hai Bà Trưng. Tương truyền khu vực đền là nơi bà đóng quân. Nơi đây đã diễn ra trận thứ bảy trong tám trận mà nghĩa quân Hai Bà Trưng giao chiến với quân Mã Viện. Bà đã hi sinh tại trận tiền.

Thực ra bà Vũ Thị Thục được thờ chính ở quê là làng Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ và đặc biệt là ở làng Tiên La, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, đền miếu hoành tráng, tương truyền là địa bàn chiến đấu chính của bà và thánh hiệu của bà là Bát Nàn công chúa.

Có thể ở Bảo Khê, Hưng Yên là nơi bà có đóng trại một thời gian, có xảy ra chiến sự.

TRẦN XUÂN HỒI VÀ TRẦN HỮU THIỆN:

Thôn Đặng Cầu, xã Trung Nghĩa, thị xã Hưng Yên có hai ngôi đền thờ hai vị tướng của Hai Bà Trưng. Đền Cây Đa thờ ông Trần Xuân Hồi và đền Đức Đại Vương thờ ông Trần Hữu Thiện. Chưa rõ sự tích.

HUYỆN ÂN THI

QUÁCH NGỌC CHI VÀ HAI NGUỜI CON:

Ở Thôn Nhân Vũ, xã Nguyễn Trãi, huyện Ân Thi thờ bà Ngọc Chi và hai người con cùng tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

Bà là con gái ông Quách Đình Hổ, làm tri phủ Thiên Thi. Chồng bà là ông Hoàng Văn Ân quê ở Hoan Châu. Một thời gian, ông Hổ già yếu nhường quyền cho vợ chồng Ngọc Chi. Họ sinh được hai trai là Hoàng Văn Miệng và Hoàng Văn Long, thông minh tài bộ, học văn học võ tinh thông. Khi hai người con đến tuổi 14, 15 thì cha chết. Cũng lúc đó Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Phong Châu. Ngọc Chi và hai con chiêu tập được sáu nghìn quân, đến bái yết Hai Bà Trưng. Sau đó họ theo Hai Bà đi đánh 65 thành. Đất nước thanh bình chưa lâu thì Mã Viện sang xâm lược. Trong trận đánh ở Hát Môn, hai chàng Miệng và Long đều hi sinh. Bà Ngọc Chi trở về quê nhà rồi cũng từ trần.

TÍN YẾT:

Thôn Tiêu Kiều, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi thờ ông Tín Yết. Nguyên thân mẫu chàng là bà Phương Dung đi tắm ở đầm rồi về mang thai sinh hạ ra chàng. Tín Yết thông minh, tuấn tú, năm 17 tuổi văn võ đã kiêm toàn. Khi Hai Bà tụ nghĩa ở Hát Môn, Tín Yết tới ra mắt, được phong chức Chỉ huy sứ tiền đạo tướng quân. Sau trận Cấm Khê, Tín Yết cũng tự trầm trên sông Hát.

HƯƠNG THẢO:

Làng Bích Tràng, xã Tiền Phong, huyện Ân Thi thờ một người có công trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Đó là cô Hương Thảo. Cô chỉ là một người giỏi đồng áng, đặc biệt có tài cắt cỏ, tương truyền cô cắt nhanh tới mức châu chấu bay không kịp, chết hàng loạt. Vì vậy mọi người gọi cô là Thảo. Khi Hai Bà Trưng phất cờ nổi dậy, cô Thảo xin gia nhập đoàn nghĩa binh do bà Thánh Thiên chỉ huy, cô được giao nuôi đội quân voi ngựa. Cô Thảo về quê dựng nhiều trại cỏ, rủ các cô gái trong vùng đi cắt cỏ phục vụ đoàn voi chiến, ngựa chiến. Sau khi đuổi Tô Định, bà Trưng Trắc lên ngôi vua phong cô là Hương Thảo tướng quân. Ba năm sau Mã Viện sang, cô vẫn ở tại Bích Tràng lo cung cấp cỏ cho voi ngựa. Khi giặc kéo đến, bắt Hương Thảo giao toàn bộ trại cỏ cho chúng, cô giả vờ đồng ý hẹn ngày giao trại. Nhưng cô đã cho đốt trại và giặc trở tay không kịp đều bị chết thiêu. Hương Thảo cũng hy sinh, được dân thờ ở trong chùa Cỏ, tương truyền là nền nhà cũ của cô.

LÔI LÂU CÔNG CHÚA - NGUYỆT HOA CÔNG CHÚA

Cũng ở thôn Bích Tràng có ngôi nghè thờ Lôi Lâu công chúa - Nguyệt Hoa công chúa. Tương truyền là tướng của Hai Bà. Chưa rõ sự tích.
HUYỆN KIM ĐỘNG

BÀ HỒNG NƯƠNG VÀ HAI CON LÀ PHỔ HỘ THƯỢNG SĨ, LINH LÔI.

Thôn Bồng Châu, xã Phú Cường, huyện Kim Động thờ ba mẹ con bà Hồng Nương. Hồng Nương chính gốc quê huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, Sơn Nam hạ đạo, lấy chồng ở thôn Bồng Châu. Sau khi sinh con thứ hai là Linh Lôi thì chồng mất, bà nuôi dạy hai con khôn lớn rồi theo nghĩa quân Hai Bà Trưng diệt giặc. Sau khi đuổi giặc Tô, ba mẹ con bà ở lại kinh đô. Trong một lần về quê Thiên Bản thì gặp cơn giông. Một con rồng vàng từ trên trời sa xuống và rước ba mẹ con bà lên trời.

NƯỚC CÔNG VÀ ĐÌNH CÔNG

Thôn Mai Viên, xã Song Mai, huyện Kim Động thờ hai vị trên, vốn là con quan tri phủ họ Dương tên Đào, người Xích Đằng. Năm hai chàng lên 5 tuổi, Dương tri phủ bị Tô Định giết. Phu nhân liền đem hai người con trốn về làng Tư Viên. Nghe tin Hai Bà dấy binh, hai chàng đến bái kiến. Sau khi dẹp yên Tô Định, hai chàng trở về Tư Viên thăm mẹ. Trên đường đi, gặp trời tối, nước sông dâng cao đón hai người về thủy cung. Hai Bà Trưng phong Nước Công làm Bến Nước đại vương và Đình Công làm Đang Đình đại vương.

HÙNG DŨNG ĐẠI VƯƠNG VÀ Ả NÀNG CÔNG CHÚA:

Làng Phú Khê, xã Thọ Vinh, huyện Kim Động thờ hai tướng của Hai Bà Trưng là hai vị trên. Hùng Dũng là con ông Hùng Đức ở làng Bồng Lai, huyện Từ Liêm, đạo Sơn Tây. Hùng Dũng đến thụ giáo với Đào tiên sinh ở phường Thịnh Quang, huyện Thọ Xương. Thấy thông minh tài bộ, tiên sinh bèn gả con gái là Ả Nàng cho chàng. Bấy giờ Tô Định đã nhiều lần tới cầu hôn Ả Nàng nhưng đều bị từ chối nên hắn lập mưu giết ông Đào. Vợ chồng Hùng Dũng nghĩ kế báo thù, ngầm chiêu mộ binh sĩ, lập thành một đội quân. Cũng lúc đó Hai Bà Trưng khởi nghĩa, vợ chồng Hùng Dũng liền tới hội quân, lập công lớn. Ông Dũng được phong là Trấn Quốc đại vương và Ả Nàng được phong là công chúa. Sau này trong trận Cấm Khê, hai ông bà đều hy sinh.

HUYỆN PHÙ CỪ

NGUYỄN VIẾT QUANG, VIẾT CƯ, VIẾT VÕ:

Đình Nghĩa Vũ, xã Minh Tân, huyện Phù Cừ, thờ ba anh em họ Nguyễn là Viết Quang, Viết Cư, Viết Võ. Họ là con ông Nguyễn Huy Thành và bà Đào Thị Ánh, vốn quê ở châu Bố Chính sau rời ra sinh sống ở Khoái Châu. Lúc đó Hai Bà khởi binh, ba anh em họ Nguyễn tới đầu quân lập nhiều chiến công. Nhưng đến trận Cấm Khê thì cả ba đều hi sinh.

ĐỖ QUỐC UY

Thôn Tân Tiến, xã Minh Tân, huyện Phù Cừ thờ một vị tướng của Hai Bà là Đỗ Quốc Uy. Chưa rõ sự tích.
HUYỆN TIÊN LỮ

ĐỘNG TẦN HỒNG LOAN CÔNG CHÚA:

Thôn Bái Khê, xã Cương Chính, huyện Tiên Lữ thờ nữ tướng này. Tương truyền thân phụ của bà là phủ quan ở Hải Dương bộ đã cùng ông Thi Sách dấy binh chống Tô Định song đều bị sát hại. Bà Động Tần liền theo Trưng Vương khởi binh. Được Trưng Vương phong là Động Tần Hồng Loan công chúa. Về sau bà hy sinh tại trận tiền.

LƯU THÁI HIỀN, THÁI THANH, THÁI THUẦN, THÁI SƠN, THỊ CHINH, THỊ CHÂU:

Thôn Trí Thiện, xã Đức Thứng, huyện Tiên Lữ thờ tứ vị đại vương và nhị vị công chúa là sáu anh em họ Lưu. Chưa rõ sự tích. Thôn An Lạc cùng xã thì thờ riêng hai bà Lưu Thị Chinh và Lưu Thị Châu.

TRẦN MINH TÔNG VÀ THÔI NƯƠNG:

Thôn Quyết Thắng xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ thờ hai ông bà Trần Minh Tông và Thôi Nương. Tương truyền là tướng của Hai Bà Trưng. Chưa rõ sự tích.
HUYỆN VĂN LÂM

TRẦN CÔNG, MINH CÔNG

Thôn Phả Lê, xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, thờ hai vị tướng của Hai Bà là Trần Công và Minh Công. Sự tích chưa rõ.

TAM GIANG:

Thôn Đại Đồng, xã Đại Đông, huyện Văn Lâm thờ Tam Giang tương truyền là tướng của Hai Bà. Sự tích chưa rõ.

PHƯƠNG DUNG CÔNG CHÚA:

Đây là một tướng của Hai Bà, được thờ ở thôn Ngọc Đà, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Sự tích chưa rõ.
HUYỆN YÊN MỸ

TRƯƠNG CÔNG ĐẠI VÀ LÝ CÔNG MẪN

Thôn Lạc Cầu, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ thờ hai vị tướng của Hai Bà. Đó là Trương Công Đại, con trai của Trương Công Nghiệp và bà Lý Thị Vị. Lý Công Mẫn là con nuôi của ông bà Trương.

Ông Công Nghiệp làm huyện quan huyện Tế Giang, đạo Kinh Bắc. Ông sinh được một trai là Công Đại và nuôi thêm Công Mẫn. Hai con nổi tiếng tài giỏi, thông minh xuất chúng. Tô Định lập kế giết cả nhà họ Trương nhưng bà Trương kịp cùng hai con trốn thoát về Lạc Cầu. Sau họ theo Hai Bà khởi nghĩa, vừa trả được thù nhà lại trả được nợ nước. Sau cả hai hy sinh trong một trận đánh lại Mã Viện.
(Theo tư liệu của Vũ Nguyên Lý)

TỈNH VĨNH PHÚC

HUYỆN BÌNH XUYÊN

ĐẠM NƯƠNG - HỒNG NƯƠNG - THANH NƯƠNG:

Đình làng Quất Lưu, nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, thờ ba vị nữ tướng của Trưng Vương.

Đó là ba chị em ruột Đạm Nương, Hồng Nương và Thanh Nương, là con gái huyện lệnh huyện Tam Dương, họ Lê. Huyện Bình Xuyên khi đó là một bộ phận của Tam Dương. Lúc này, Trưng Vương đã phất cờ khởi binh. Ba chị em họ Lê cũng nổi dậy hưởng ứng, đóng đại doanh ở Quất Lưu, đắp lũy đào hào, chiêu mộ được nhiều nghĩa sĩ, lập thêm ra sáu đồn trại ở quanh vùng quê. Cả ba cô từng theo Trưng Vương đi hạ thành Tô Định. Nhưng khi chống Mã Viện thì cả ba đều hy sinh ở trận tiền.
HUYỆN MÊ LINH
(Yên Lãng)

THIÊN BẢO - TRẦN NANG

Làng Thái Lai nay thuộc xã Tiến Thắng và làng Phú Mỹ nay thuộc xã Tự Lập đều thờ hai vợ chồng Thiên Bảo - Trần Nang làm thành hoàng. Sự tích hai tướng này đã nêu ở Chương ba.

LỰ NƯƠNG - BẠCH TRẠCH

Xã Tráng Việt ngày nay gồm ba thôn: Điệp Thôn tên Nôm là làng Đẹp, Tráng Việt tên Nôm là làng Tráng và Đông Giao (không có tên Nôm). Ở hai thôn đầu đều thờ hai chị em Lự Nương và Bạch Trạch làm thành hoàng.

Thần tích của cả hai làng đều kể:

Tại Quy Hóa động, châu Bố Chính có vị tôn trưởng tên là Hùng Hiên, dòng dõi vua Hùng. Vợ ông là bà Mai Thị Triết. Gần năm chục tuổi, họ sinh một gái, trên đỉnh đầu có chữ Thiên Sớ Lự Nương. Hùng Hiên liền đặt tên cho là Lự, hiệu là Ả Nàng. Đó là ngày mùng 3 tháng Giêng. Năm năm sau, họ sinh thêm một trai, trên đỉnh đầu có chữ Bạch Trạch nên dùng ngay chữ đó làm tên. Đó là ngày 10 tháng Sáu.

Lớn lên, hai chị em văn võ toàn tài. Lự Nương thay cha làm tôn trưởng rồi làm vua cõi đất Thiên Sớ. Một lần, hai chị em về thăm quê tổ là núi Nghĩa Lĩnh (nơi có đền thờ các vua Hùng, tỉnh Vĩnh Phú), thuyền đi đến huyện Chu Diên thì gặp Trưng Nhị. Hai bên thông tỏ họ tên, nguồn gốc và nhận ra là có họ hàng với nhau. (Hai Bà Trưng cũng là dòng dõi vua Hùng). Thế là hai chị em Lự Nương theo Hai Bà khởi nghĩa. Chị về đóng ở Tráng Việt, khi đó mới có ba chục nhà dân. Em về đóng ở Điệp Thôn khi đó cũng không quá hai chục mái nhà. Họ chiêu thêm dân lập thêm trại và sau trở thành những tướng tài của Hai Bà.

Ả LỰ - HÁC THẦN

Làng Đông Cao láng giềng của hai làng trên cũng thờ một cặp hai chị em tên gọi là Quốc Vương Thiên Sớ Ả Lự Đề Nương và Hác Thần cửa ải. Sự tích hai vị này cũng na ná như hai chị em Lự Nương, Bạch Trạch của hai làng Tráng Việt, Điệp Thôn. Ngọc phả Đông Cao kể rằng:

Người con thứ 18 của Lạc Long Quân về làm vua nước Thiên Sớ ở địa phận Thái Nguyên. Truyền đến đời thứ 27 là Hồ An (đổi từ họ Hùng sang họ Hồ). Vợ ông là bà Bạch Thị Phương. Năm Nhâm Tuất, ngày 4 tháng Giêng sinh một gái đặt tên là Đề Nương. Năm sau họ lại sinh ra một bọc trứng, nở ra một trai, đặt tên là Hác. Đề Nương thay cha làm quốc vương Thiên Sớ. Lúc đó Hai Bà Trưng bị Tô Định truy bắt, đã lánh đến ở nhờ nhà Đề Nương. Sau đó họ khởi binh đánh quân Hán. Thắng lợi rồi, Đề Nương cải tên là Ả Lự, lập cung phủ đồn binh ở Đông Cao. Nhưng sau lễ khao quân ngày mùng 1 tháng Hai thì Đề Nương thúc ngựa đi ra sông Nguyệt Đức bến Tiên Tân, “thét lên một tiếng, nước rẽ đôi đón bà về thủy cung”.

Còn chàng Hác thì sau hy sinh ở cửa bể Nam Hải trong lần ngăn chặn quân Mã Viện.

Như vậy phải chăng Ả Lự - Bạch Trạch của hai làng Tráng Việt, Điệp Thôn cũng là Đề Nương - Hác Thần của làng Đông Cao?

Thần tích ngọc phả vốn không ít những lầm lẫn về lịch sử.

LŨ LŨY

Thần tích làng Văn Lôi (nay thuộc xã Tam Đồng) kể như sau: Làng Văn Lôi xưa là trang Cổ Lôi. Trong làng có nàng Tứ là con gái một lạc tướng nhân nằm mơ thấy đám mây sà xuống mà có mang. Nàng sinh một trai, đặt tên là Lũ Lũy.

Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Lũ Lũy tìm đến đại doanh đầu quân. Sau khi dẹp xong Tô Định, Lũ Lũy về Văn Lôi lập đồn. Lúc quân Mã Viện kéo sang, chúng bao vây đồn này gọi hàng. Nhưng Lũ Lũy nhất định không đầu hàng. Giặc công phá. Biết không giữ nổi đồn trại, Lũ Lũy phá vây nhưng không sao thoát ra ngoài được. Chàng bèn rút gươm đâm cổ mà hóa (cũng có thuyết nói ông bị giặc lấy mất đầu). Đó là ngày mùng 3 tháng Ba. Nay ở xóm Trại có cánh đồng Dinh tương truyền là dinh trại xưa. Thuở trước, tới ngày kỵ, dân làng làm cỗ chay (để không đụng chạm tới dao) và làm một thủ cấp bằng giấy đặt trên bàn thờ.

PHỤ CHÚ - Làng Văn Lôi ở về phía tây-bắc làng Hạ Lôi và cách làng này tới ba làng: Liễu Trì, Đại Bái, Nội Đồng. Nhưng Văn Lôi vẫn nhận là thuộc trang Cổ Lôi xưa - như Hạ Lôi cũng vẫn thường nhận. Vậy có một thời đây hẳn chỉ là một đơn vị cư dân, sau đó một bộ phận mới tách ra đi lập nên một làng mới nhưng vẫn giữ cái gốc Lôi (Kẻ Lói?) để tưởng nhớ nguồn gốc.

Ả NƯƠNG - Ả NANG

Làng Yên Mạc nay thuộc xã Yên Mạc có vợ chồng ông Vương Hinh và bà Tạ Thị Long làm nghề trồng dâu nuôi tằm. Họ sinh được hai gái, đặt tên là Ả Nương, Ả Nang. Khi bà Trưng truyền hịch, hai chị em họ Vương chiêu tập được gần một nghìn dũng sĩ, tới hội quân ở Hát Môn. Hai cô được cử đi tuần du hai bộ Tây và Bắc. Tới núi Trâu Sơn ở huyện Tiên Du (nay núi này thuộc huyện Quế Võ, Bắc Ninh), hai cô đồn trú lại. Sau đó cả hai chị em góp công lớn trong việc hạ dinh Tô Định. Thắng lợi rồi, hai cô về khao thưởng quân gia tại làng quê Yên Mạc. Nhưng sau tiệc mừng là hai chị em đều hóa cùng lúc.

CỐNG SƠN

Làng Bạch Trữ nay thuộc xã Tiến Thắng vốn là thực ấp của Cống Sơn đại vương.

Nguyên tại châu Ái, phủ Trường Yên, động Hoa Lư có vợ chồng ông Hoàng Công Tạo và bà Đinh Thị Điền là người hiền, mấy đời làm nghề thuốc. Họ sinh có một trai đặt tên là Cống. Năm Cống 22 tuổi thì bố mẹ kế tiếp qua đời. Cống dời Hoa Lư ra bắc tìm đến ở với cậu ruột là Đinh Đạm làm trưởng bộ hộ Vũ Ninh. Nhưng chỉ ít lâu sau ông Đạm bị Tô Định giết hại. Đinh Cống trở về Hoa Lư dạy học. Là một người thày có đức độ lại có tài giáo dưỡng nên môn sinh đến rất đông, tiếng tăm của thầy vang đi xa.

Khi Hai Bà khởi nghĩa, bà Trưng Nhị thân hành đến Hoa Lư mời Đinh Cống ra hành doanh “thao luyện binh mã, huấn diễn binh thư”. Sau thắng lợi, Đinh Cống được cấp thực ấp ở Thủy Trung châu tức nay là Bạch Trữ. Các đời vua sau phong là Cống Sơn đại vương1.

ĐỨC CẢ ĐỨC HAI - ĐỨC BA

Họ là anh em sinh ba, con ông Trương Long và bà Phùng Thị Loan, nguyên quán hương Lưu Xá, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam. Nghe tin Hai Bà khởi nghĩa, ba anh em rủ thêm ba mươi bạn hữu đến Hát Môn đầu quân. Tất cả đều dự trận đánh Tô Định. Nhưng khi đã hạ được thành thì ba anh em đều hóa cùng một lúc. Làng Trung Hậu lập đền thờ vì nơi đây có một tòa cổ miếu mà bà Phùng Thị Loan đã tới cầu tự sau đó sinh ra ba chàng trai dũng sĩ ấy.

XA LAI

Ba làng Yên Điềm, Cao Quang, Đức Cung nay hợp thành xã Cao Minh (trước thuộc huyện Kim Anh nay thuộc huyện Mê Linh) và đều thờ Xa Lai, một tướng của Hai Bà Trưng. Thực ra, đời cổ cả ba làng chỉ là một đơn vị cư dân thuộc huyện Bình Tuyền, đạo Thái Nguyên. Ban đầu gọi là trại Linh Sơn, sau đổi thành Linh Quang. Cuối cùng thành ba làng như hiện nay.

Thần tích kể rằng ở đất Long Biên có cô Đặng Huệ Nương tính thích du ngoạn. Lần đó, cô đến trại Linh Sơn nơi làng Cao Quang ngày nay thấy có chùa (?) đẹp liền ở lại tu hành. Rồi một hôm qua tòa cổ miếu ở chân núi Thằn Lằn có đám mây xà vào người. Thế là cô có mang, sinh ra Xa Lai.

Xa Lai sau rủ được ba mươi lăm bạn bè theo cánh quân bà Trưng Nhị đi đánh Tô Định. Xong việc, chàng về lập đồn tại Cao Quang. Tới khi Mã Viện xâm lăng, hắn cho quân tới đánh đồn này và Xa Lai đã chết trong trận chiến.
____________________________________
1. Bố họ Hoàng, mẹ họ Đinh, như vậy là ông thần Cống Sơn này theo về họ mẹ. Điều đó vẫn thường thấy trong các thần tích. Ví dụ ông thần làng Lệ Mật (Gia Lâm - Hà Nội) có bố là Nguyễn Quang, mẹ là Hoàng Thị Tâm vậy mà tên của ông là Hoàng Quý Công.

VĨNH HOA

Làng Trung Hà nay thuộc xã Tiến Thịnh, thờ Vĩnh Hoa. Nhân vật nữ tướng này còn được thờ ở làng Tiên Nha, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phú, tức là làng đối diện với Trung Hà so với cửa sông Nguyệt Đức tức Cà Lồ ngày xưa (nay không còn vì đã bị lấp).

Ngoài ra Vĩnh Hoa còn được thờ ở làng Trung Hà bên bờ phải sông Hồng thuộc huyện Đan Phượng. Sự tích nhân vật này đã nêu ở phần huyện Đan Phượng.

CHÀNG HỐI

Làng Thịnh Kỷ nay thuộc xã Tiền Châu là căn cứ của Đông Hối đại vương tức Chàng Hối, một thủ lĩnh nghĩa quân đã nổi dậy chống quân Hán trước ngày Hai Bà khởi binh. Sự tích Chàng Hối đã được kể lại ở Chương ba.

HẢI - TRỰC - ÚT

Làng Chu Phan nay thuộc xã Chu Phan thờ ba tướng lĩnh của Hai Bà là Hải Thần, Nhật Trực và Chàng Út nhưng sự tích thất truyền.

Làng Chu Phan bên huyện Đan Phượng cũng thờ ba vị này. Về quan hệ giữa hai làng Chu Phan sẽ trình bày ở Phần Phụ chú cuối mục Vĩnh Gia dưới đây.

VĨNH GIA

Làng Nại Châu, nay thuộc xã Chu Phan là nơi thờ chính công chúa Vĩnh Gia. Thần tích kể rằng: Tại bãi Quân Thần, thuộc huyện Từ Liêm có nhà họ Tạ sinh hạ một gái, đặt tên là Vĩnh Gia. Năm cô 20 tuổi, được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, cô đứng ra chiêu mộ được hai nghìn nam binh nữ tốt rồi kéo lên Hát Môn tụ nghĩa. Cô được cắt cử đi trấn “Tây Bắc nhị lộ chư biên giang bạn”. Nhân một lần trẩy quân qua trại Cống Áng (sau đổi là Nại Tử Châu) ở sát cạnh sông Cái thấy có địa thế đồn binh liền đứng lại lập trại quân.

Và sau, trong một trận chống quân Mã Viện, cô phải rút chạy, tới Bạch Hạc giang tân (bến sông Bạch Hạc, tên gọi khúc sông Hồng từ ngã ba Hạc đến hết địa phận huyện Bạch Hạc) thì có “thần ngưu” nổi lên đón qua sông. Khi đi tới đầu trang Mạnh Lân (sau đổi là Mạnh Trữ, làng láng giềng của Nại Tử Châu) có “rồng vàng hạ xuống đón cô lên trời”. Đó là ngày 10 tháng Mười Một.

Thủa trước, tới ngày kỵ này, dân làng sửa tiệc cúng gồm bánh dày và bánh cuốn, nửa nhuộm đỏ, nửa để trắng.

Làng Yên Châu huyện Đan Phượng cũng có lập đền thờ Vĩnh Gia.

PHỤ CHÚ - Ở hai bên bờ sông Hồng vẫn có hiện tượng “chạy lở” tức là dòng sông thường làm lở bờ, mà là lở cả làng theo chu kỳ, cứ trên dưới một trăm năm lại xảy ra một lần. Lại do quy luật “sông kia bên lở bên bồi” nên dân làng bị lở bên này đa số sang bờ bên kia lập làng mới, trừ một số nhỏ ở lại trên những dải đất còn sót. Tới một hai trăm năm sau, làng mới này bị nước sông đe dọa thì dân lại chạy về bên này sông. Ngoài ra cũng có những làng do dân đông lên nên sẻ làng làm hai, một nửa ở bên này, một nửa sang bên kia sông. Cho nên ở hai bên sông Hồng chỉ nói phạm vi huyện Yên Lãng (nay gọi là Mê Linh) bên bờ trái và huyện Đan Phượng bên bờ phải thường có những cặp đôi. Như ở huyện Yên Lãng bên bờ trái sông Hồng có những làng Chu Phan, Thanh Điềm, Trung Hà, Thọ Lão, Sa Khúc, Nại Tử Châu, Nại Tử Xã thì bên huyện Đan Phượng cũng có những làng như vậy. Từng cặp làng đó vẫn coi nhau cùng một gốc và đền thờ chung một thành hoàng như:

Hai làng Chu Phan thờ Nhật Trực, Hải Thần, Chàng Út

Hai làng Thanh Điềm đều thờ Ngu Lan và Trương Nam Uyên.

Hai làng Trung Hà đều thờ Vĩnh Hoa.

Hai làng Thọ Lão đều thời Trần Liễu và vợ là Lã Thị Hồng cùng Trần Quang Khải, Trần Quang Thành.

Hai làng Sa Khúc (Nại Sa) đều thờ Quý Minh.

Hai làng Nại Tử Xã đều thờ Thi Sách và Hai Bà Trưng.

Hai làng Nại Tử Châu đều thờ Vĩnh Gia.

Cũng khó khẳng định làng nào là làng gốc vì trải mấy nghìn năm, biết bao lần “chạy lở”1, sách vở không có ghi chép mà bằng vào ký ức con người thì mức độ chính xác không vượt quá vài trăm năm.

Cho nên chưa rõ Nại Tử Châu nói ở thần tích Vĩnh Gia chính là ở bên Đan Phượng hay Yên Lãng.
____________________________________
1. Trường hợp “chạy lở” xảy ra gần đây nhất là ở Nại Nam thuộc xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng. Làng này do một số dân làng Nại Tử Xã, Nại Tử Châu bên huyện Yên Lãng sau một vụ lở bờ sông đã chạy sang đây lập ra vào hồi cuối thế kỷ XIX. Tới cuối năm 1972, Nại Nam bị lở cả làng. Dòng sông Hồng nay chảy ở chính giữa ngôi đình cũ.

HUYỆN VĨNH TƯỜNG

NGỌC THANH - NGỌC TRINH:

Đây là hai cô con gái trang Lũng Ngòi, nay thuộc xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường. Cô chị còn gọi là Ả Chàng, cô em là Ả Chạ. Lúc đó có viên quan đô hộ nhà Hán sai người đến bắt Ả Chàng về làm thiếp. Uất hận, Ả Chàng đã qua đời. Cô em là Ả Chạ quyết trả thù cho chị, đã đi nhiều nơi tập hợp những người cùng căm ghét giặc Hán. Họ tập hợp thành một đoàn quân, thường đánh các đồn giặc. Sau họ về Hát Môn hội quân, theo Hai Bà Trưng đi đánh Tô Định. Sau chiến thắng, Trưng Vương phong cho nàng là Ngọc Trinh công chúa, cho về đóng đồn ở trang Đàm Luân (nay cũng thuộc xã Lũng Hòa). Ba năm sau, Mã Viện sang xâm lăng, Ả Chạ đã chiến đấu rất dũng cảm rồi hy sinh ngay tại trang Đàm Luân này.

ĐỐNG VỊNH:

Làng Thượng Lạp, xã Tân Tiến thờ Đống Vịnh, được coi là tướng của Trưng Vương, tương truyền là hy sinh trên dòng sông Phó Đáy.
HUYỆN YÊN LẠC

VĨNH HOA:

Phùng Vĩnh Hoa, quê ở Mao Điền, đạo Hồng Châu, từ nhỏ đã học võ nghệ và văn chương. Lúc đó giặc Hán Tô Định cai trị rất tàn bạo. Năm 18 tuổi, bố mẹ lần lượt qua đời, nàng trao gia sản cho ông cậu rồi ra đi tìm cách diệt giặc. Đến trang Tiên Nha, nay thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, thấy địa thế đẹp nàng bèn ở lại rồi liên kết với nghĩa sĩ bốn phương. Kịp lúc đó, Hai Bà Trưng phát hịch khởi binh. Vĩnh Hoa bèn cùng bạn hữu tới đầu quân. Sau nhiều chiến công, Trưng Vương phong cho nàng là Vĩnh Hoa công chúa, lấy trang Tiến Nha làm “chính đồn”, trang Trung Hà bên kia sông là “thứ đồn” (xem thêm mục Vĩnh Hoa ở phần huyện Đan Phượng, Hà Tây). Ba năm sau, trong trận đánh Mã Viện, thế cùng, nàng đã tự trầm trong dòng sông Nguyệt Đức.

KHÂU NI:

Trang Nhật Chiêu nay thuộc xã Liên Châu, huyện Yên Lạc thờ một nữ tướng của Trung Vương là Khâu Ni. Nàng tên thật là A, con gái ông bà họ Quách, làm nghề thuyền chài. Có viên quan đô hộ nhà Hán định bắt cô làm thiếp. Cũng thời gian đó bố mẹ cô qua đời, cô liền gọt tóc đi tu. Khi ấy mới có 16 tuổi. Cô xưng là Khâu Ni tìm về trú ngụ tại Ngã Ba Hạc. Nuôi chí diệt thù, Khâu Ni bí mật tập hợp những người cùng chí hướng chống giặc Hán. Khi Hai Bà hội quân ở Hát Môn, Khâu Ni đến dưới cờ lĩnh mệnh, được giao chỉ huy thủy binh đánh vào thành Tô Định. Sau thắng lợi, Khâu Ni được phong là công chúa, lấy đất Nhật Chiêu làm thực ấp. Nhưng chỉ hai năm sau cô qua đời, chưa kịp tham gia chống Mã Viện.

Như vậy, ở châu thổ sông Hồng có nhiều làng thờ các vị tương truyền là tướng của Trưng Vương. Đó là tư liệu văn hóa dân gian. Song có một điều đáng lưu ý là ở những nơi đó hoặc gần đó thường có những địa điểm khảo cổ học thuộc các giai đoạn văn hóa từ Phùng Nguyên tới Đông Sơn. Điều này có nghĩa là vào thời kỳ Hai Bà Trưng, những làng ấy đã thuộc phạm vi những điểm tụ cư đông đúc.

Ngoài ra, ở các địa điểm trên cũng có nơi còn bảo lưu những tục lệ hèm húy được người dân địa phương coi là có từ thời kỳ Hai Bà Trưng nhưng thực tế rất có thể là những tia ảnh xạ của các thời xa xưa hơn. Như ở làng Hạ Lôi (Thạch Thất) vào ngày lễ Hai Bà Trưng mùng 6 tháng Mười có một lệ mở tiệc thịt trâu lột. Phải chăng đó chỉ là lặp lại một mặt sinh hoạt của nghĩa quân Hai Bà hay còn là tàn dư của tục lệ hiến tế thời kỳ bộ lạc sống chủ yếu về săn bắn?

Hoặc ở Hạ Trì (Từ Liêm) vào ngày mồng 7 tháng Ba giỗ bà Sa Lương, tướng của Hai Bà Trưng có lệ bơi chải trên sông Hồng. Đó chỉ là nhắc lại một buổi luyện tập thủy quân của Sa Lương hay còn là ảnh xạ của ngày hội nước đón trăng thời bình minh lịch sử.

Hay như ở vùng Gối có lệ mở hội chèo tàu tượng mà theo lời truyền ngôn thì là hội tưởng nhớ cuộc trẩy quân của Hai Bà Trưng. Gối là tên Nôm chỉ chung một cụm nhiều làng nay thuộc huyện Đan Phượng, có tên Hán Việt là Thượng Hội, Hạ Hội, Thúy Hội, Đan Hội, Vĩnh Kỳ, Phan Long, Ngọc Kiệu và Hạnh Đàn. Tại đây cứ vài chục năm lại một lần mở hội chèo tàu tượng. Vào năm mở hội, dân bốn làng Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ, Phan Long chung nhau dựng lại cánh đồng Ngói (thuộc Thượng Hội) những cung điện (bằng tre nứa) để làm nơi diễn xướng. Hai chiếc thuyền rồng bằng gỗ, có bánh xe di chuyển, mỗi thuyền là nơi đứng của mười ba diễn viên, đều là nữ gồm một chúa tàu, hai cái tàu và mười con tàu. Con tàu vừa hát vừa múa vừa biểu diễn động tác chèo tàu (thuyền). Cái tàu gõ sênh giữ nhịp cho con tàu hát. Chúa tàu thì điều khiển chung.

Lại còn có hai con voi đan bằng tre đặt trên bộ gỗ, cũng có bánh xe di chuyển. Mỗi voi có hai quản tượng quản tiềnquản hậu, cũng đều là nữ. Các người này cũng sẽ vừa múa vừa hát đối đáp với các con tàu bên thuyền rồng.

Thuyền rồng và voi - tàu và tượng - đặt song song nhau, bên này hát một câu thì bên kia hát đáp lại.

Tục lệ này theo một truyền ngôn ở địa phương là có từ ý thức kỷ niệm Hai Bà Trưng: xưa Hai Bà đã trẩy quân qua vùng này, tàu thuyền tấp nập trên sông Nhuệ, voi ngựa rầm rập trên đường cái. Dân làng có nhiều người đi theo nghĩa quân. Sau để tưởng nhớ sự kiện đó, dân đặt ra lệ hội chèo tàu tượng.

Như thế, theo truyền thuyết ấy, ở thời kỳ Hai Bà Trưng ở vùng Gối đã là một điểm cư dân đông đúc. Điều này lại được một phong tục cổ hỗ trợ.

Nơi đây còn bảo lưu một phong tục mà theo M.O.Côsven trong “Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy” thì là một phong tục có từ thời chế độ mẫu quyền phát triển tức thời kỳ cuối Đồ đá mới. Đó là phong tục kết hôn rất đặc biệt: phụ nữ đi lấy chồng nhưng ngay sau hôm cưới không ở lại nhà chồng mà trở về nhà mình làm ăn sinh hoạt như cũ. Sau một thời gian ngắn là dăm tháng, dài là vài ba năm - cô dâu mới sang ở hẳn bên nhà chồng. Cho tới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, phong tục đó vẫn phổ biến.

Đây chính là tàn dư khá đậm nét của một hình thức hôn nhân gọi là “cư trú riêng lẻ”, sản phẩm của giai đoạn phát triển của thời kỳ mẫu quyền. Như thế vùng Gối rõ ràng là một điểm tụ cư cổ từng có tới vài ba nghìn năm lịch sử. Vậy nghĩa quân Hai Bà có qua đây, để lại một kỷ niệm đậm đà thì cũng là điều rất có thể có.

Còn về các tướng lĩnh thì qua sự tích của họ có thể nói rằng “không có lửa, sao có khói”. Đành rằng trong thực tế, đời sống của họ tất không hẳn đúng y như truyền thuyết, ngay cả họ tên của họ cũng vậy.

Ở đầu công nguyên liệu đã có chữ Thị để chỉ phụ nữ chưa? Cũng đã có những mỹ tự Thành Công, Thủy Hải, Nàng Tế v.v... chưa? Hay cũng là cô gái trẻ mà nơi gọi là (Ả Lã, Ả Lự) nơi lại gọi là nàng (Nàng Tía, Nàng Quốc). Đó là cách gọi của từng địa phương thời bấy giờ hay thời sau? Có nơi lại gọi kết hợp cả hai: Ả Lã Nàng Đê (Tiếng Mường hiện có từ nàng ả chỉ con gái đầu của nhà lang. Tiếng Tày có từ và tiếng Thái có từ a đọc kéo dài đều có nghĩa là ). Hoặc rõ ràng là có sự lẫn lộn giữa một vài nhân vật, như Ả Lự của hai làng Tráng Việt - Điệp Thôn rất giống Đề Nương của Đông Cao, hay gốc gác Chàng Hối thành hoàng làng Thịnh Kỷ chẳng khác gì gốc gác bà Thánh Thiên ở Ngọc Lâm, huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang1.

Nhưng dù sao trong thực tế hẳn phải có những con người thật sự đã đứng lên chống quân Hán!

PHỤ CHÚ - Vẫn theo các thần tích, ngoài những nhân vật đã nêu ở trên còn một số tuy hoạt động ở những vùng khác nhưng có quê quán ở Đường Lâm. Ngày nay Đường Lâm là một xã thuộc huyện Ba Vì. Trong xã có thôn Cam Lâm - nguyên chính tên là Đường Lâm - là quê của Phùng Hưng và Ngô Quyền.

Nhưng trong thực tế, ở thôn này ngoài sự tích hai vua họ Phùng và họ Ngô thì không hề nghe kể về một nhân vật nào ở thời kỳ Hai Bà Trưng. Có thể đây là một huyện (hoặc có thời còn gọi là châu) Đường Lâm một đơn vị hành chính có từ thời Bắc thuộc, bao gồm vùng đất ngày nay là khu vực các huyện Ba Vì, Quốc Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Ngô Thì Sĩ từng chỉ ra: “Đường Lâm ở vào quãng huyện Hoài An và huyện Mỹ Lương”. Hoài An nay là phần đất huyện Mỹ Đức và một phần huyện Ứng Hòa. Mỹ Lương nay là khu vực các huyện Quốc Oai, Chương Mỹ.
____________________________________
1. Theo thần tích làng Thịnh Kỷ (huyện Mê Linh) thì Chàng Hối quê ở Bích Uyển (Kinh Môn - Hải Dương), con ông Nguyễn Huyên, có cậu bị Tô Định giết và sau đóng quân ở Ký Hợp. Theo thần tích của làng Ngọc Lâm thì Thánh Thiên cũng quê ở Bích Uyển, cha cũng là Nguyễn Huyên, cậu cũng bị Tô Định giết và sau cũng đóng đồn ở Ký Hợp. Như vậy nếu không phải là một người thì họ cũng phải là anh hoặc chị em ruột. Nhưng cả hai bản thần tích đều không ghi như vậy. Do đó phải có một bản chép lẫn. Nếu lấy địa đếm Ký Hợp làm chuẩn thì thần tích Chàng Hối đáng tin hơn. Vì đúng có trang Ký Hợp, tên gọi cổ của làng Yên Lãng, nay thuộc về xã Lý Hải, huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc). Còn bên tỉnh Bắc Giang thì ở huyện Yên Dũng chẳng có làng nào tên gọi Ký Hợp mà ở các huyện khác cũng không hề có địa danh này.

BA CHỊ EM BÀ DUỠNG

Có một cặp vợ chồng quê ở Đường Lâm, vì nghèo khó phải bỏ làng đi tha phương cầu thực. Cuối cùng họ trú lại ở thôn Nội Phật (nay là xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phú). Họ có ba con, đầu lòng là cô Dưỡng, hai em trai là Bạc và Bỉnh.

Ba chị em đi theo Hai Bà từ ngày đầu khởi nghĩa. Khi Mã Viện sang, cả ba đều hy sinh trong trận đánh bên bờ đầm Xuôi Ngành. Dân làng thương cảm lập miếu thờ ngay cạnh đầm này, nay vẫn còn gọi là miếu Ba Vị.

BA ANH EM HỌ ĐẶNG

Ở Đường Lâm có ông Đặng Long làm nghề dạy học. Nghèo túng nên ông và vợ là bà Phạm Thị Phương đến ở tại vùng Đồng Núi (nay là thôn An Sơn, xã Đông Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Tây). Họ sinh ba trai, đặt tên là Cả, Hai và Ba.

Ba anh em họ Đặng này đã lập được một đội quân theo Hai Bà đi đánh Tô Định. Thắng lợi rồi, họ được Hai Bà cho về lập đồn dựng ải tại Đồng Núi đề phòng giặc. Sau đó cả ba đều hy sinh trong cùng một trận chống trả quân Mã Viện tới hạ đồn. Hiện nay ở đầu thôn An Sơn còn có một gò cao tương truyền là nơi ba anh em họ Đặng tụ hội nghĩa quân.

CHIÊU TRUNG - ĐỖ LÝ

Đó là hai anh em sinh đôi, con trai ông Đỗ Bang ở Đường Lâm.

Họ đến Hát Môn tụ nghĩa rồi được giao đem quân đi đánh giặc Hán ở mạn phía Nam. Họ đến vùng hai thôn Trung Thịnh và Yên Trường (nay thuộc xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa, Hà Tây) xây thành đắp lũy. Sau này, khi Mã Viện xâm lược, hai anh em họ Đỗ đã hy sinh ngay tại chân thành, chỗ bây giờ gọi là Lăng Miễu hoặc Bãi Miễu. Ở thôn Yên Trường và thôn Trung Thịnh hiện còn đền thờ hai người anh hùng này, còn có những dấu tích thành lũy của họ.

Ả LAN - CHÀNG TUẤN

Sự tích hai vị này đã nêu ở Chương ba.

THỦY HẢI - ĐĂNG GIANG

Đây là hai tướng lĩnh của Hai Bà, có quê là Đường Lâm nhưng ngụ cư ở trại Hà Hào bên huyện Đông Anh. Sự tích hai vị này đã nêu ở khẳn huyện Đông Anh.

Chương Sáu
CÁC DI TÍCH

Các di tích thuộc về Hai Bà Trưng gồm có ba ngôi đền chính mà cả nước đều biết tiếng. Đó là đền Hạ Lôi ở huyện Yên Lãng cũ (nay là huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc), đền Hát Môn ở huyện Phúc Thọ (Hà Tây) và đền Đồng Nhân ở quận Hai Bà Trưng (Hà Nội).

Ngoài ra còn có năm nơi thờ khác nhưng chỉ được biết tới trong phạm vi một vài làng. Đó là đình Vân Môn ở xã Trung Châu (huyện Đan Phượng - tỉnh Hà Tây), đình Nại Tử Nam ở xã Hồng Hà (huyện Đan Phượng - tỉnh Hà Tây), đình Nại Tử Xã ở xã Chu Phan (huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc), đình Cư An ở xã Tam Đồng (huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc) và đền làng Hạ Lôi - Bằng Trù (huyện Thạch Thất - tỉnh Hà Tây).

Còn có một loại di tích khác cũng đáng được chú ý tới đó là hai tòa thành ở trên đất huyện Yên Lãng cũ: thành Hạ Lôi tương truyền là do bà Trưng Trắc cho đắp để làm đô thành (đã bàn tới ở Chương hai) và thành Dền tương truyền là do bà Trưng Nhị cho đắp để làm bản doanh.
ĐỀN HẠ LÔI

Đền ở về rìa phía đông nam làng Hạ Lôi. Ở địa phương này, có người nói ngôi đền dựng trên nền nhà cũ của mẹ Hai Bà, cũng có người nói trước đó là miếu thờ Thi Sách, sau mới mở mang thành đền thờ Thi Sách và Hai Bà.

Đền Hạ Lôi có tự bao giờ thì không thể nói chắc được, chỉ biết là chiếu theo thực trạng hiện nay thì từ quy cách kiến trúc đến đồ thờ tự, trang trí đều không vượt quá thế kỷ XIX.

Đền xây trên một khu đất rộng, thoáng, giữa cánh đồng cao, nhìn ra đê sông Hồng. Cổng đền đẹp, trên khung cửa chính có bức hoành mang bốn chữ “Ly chiếu tứ phương” (ánh sáng chiếu ra bốn phương). Sau cổng là một vạt sân rộng, cuối sân có hồ bán nguyệt. Trên bờ hồ là nhà tiền tế. Tại đây có một tấm bia và một cái chuông nhưng không cổ lắm. Bia có tên là “Cải chính miếu hướng bi ký” (Bia về việc sửa lại cho đúng hướng miếu) nói về việc sửa đổi hướng đền, khắc năm Thành Thái thứ nhất (tức năm 1899). Chuông thì có dòng niên đại đúc là năm Gia Long thứ hai tức năm 1803. Như vậy thì diện mạo và hướng đền ngày nay mới có từ năm 1899.

Phía trong nhà tiền tế là hậu cung. Tại đây trên bệ thờ vốn đặt tượng bà Trưng Trắc và tượng ông Thi Sách, đặt ngang hàng. Theo tờ khai của hương lý làng này (tháng 4-1938 ) nộp cho trường Viễn Đông bác cổ thì đời xưa đó là hai pho tượng bằng đất luyện, đến năm Gia Long thứ mười một (tức năm 1812) mới thay bằng tượng gỗ. Đặt bên ngoài tượng là bài vị bà Trưng Nhị. Bài vị này bằng đá tạc. (Như vậy ở đây thờ vợ chồng Thi Sách là chính).

Ở hậu cung và nhà tiền tế có một số hoành phi, câu đối. Hai bức hoành giàu ý nghĩa tự hào là bức “Nam quốc sơn hà” (Sông núi nước Nam) và “Hoàng đế từ” (Đền đức vua). Đôi câu đối có niên đại xưa nhất là của Vĩnh Tường tri phủ Nguyễn Thái cung tiến vào năm Tự Đức - Tân Tị tức năm 1881:

Bất thế anh hùng vương tỉ muội
Nhưng tiền cơ chỉ tuế xuân thu


Nghĩa là:

Vua chị vua em, hào kiệt thế gian khó sánh
Còn nền còn móng, xuân thu hương lửa dài lâu.


Một câu đối khác cũng khá chỉnh là của huấn đạo Phạm Quang Tiến (đứng liên danh với đồng tri phủ và thương biện phân phủ Vĩnh Tường) soạn năm Duy Tân - Canh Tuất tức năm 1910:

Sổ thiên niên Diên Quận cố đô, uất uất thông thông giang sơn ngô thổ.
Thập bát thế Lạc Hùng di trụ, oanh oanh liệt liệt tỉ muội nhất môn.


Nghĩa là:

Mấy ngàn năm Diên Quận đô xưa1, đất nước nhà ta vẻ vang rục rỡ.
Mười tám đời Lạc Hùng dòng cũ, chị em một cửa hiển hách vang lừng


Ngày trước, hàng năm việc tế lễ chủ yếu là vào những ngày mùng 6 tháng Giêng - tương truyền là ngày yến hạ khao quân, ngày mùng 1 tháng Tám là ngày sinh và ngày mùng 8 tháng Ba là ngày hóa của Hai Bà. Nhưng lễ lớn nhất là ngày mùng 6 tháng Giêng, thường được bà con các làng lân cận gọi là “ngày hội Hạ Lôi”. Vào ngày hội này có lệ cúng bánh dày và có rước kiệu. Chính đám rước ấy là “cái đinh” của ngày hội.

Từ trong đền, ba cỗ kiệu rước được rước ra cổng, kiệu Thi Sách đi trước, đến kiệu bà Trưng Trắc, sau cùng là kiệu bà Trưng Nhị. Nhưng ra đến đường cái - ở đây gọi là đường Trống Quân - thì kiệu Thi Sách lại dừng lại để kiệu Hai Bà tiến lên trước (gọi là giao kiệu) vì theo lễ “nội gia phu phụ, ngoại quốc quân thần” nghĩa là “trong việc nhà là vợ chồng, ra ngoài việc nước là vua tôi”. Điều hấp dẫn là các đô tùy khiêng hai cỗ kiệu Hai Bà đều là thiếu nữ đồng trinh, những cô gái mười tám, đôi mươi chưa chồng, đã qua sự tuyển chọn nên cô nào cũng xinh và nhất là vóc người, chiều cao thì đều tăm tắp như nhau. Mỗi cỗ kiệu có 32 đô tùy chính, 32 đô tùy dự bị, lại còn thêm hàng chục cô cầm tàn, cầm lọng, cầm các đồ lễ bộ. Như vậy là có tới khoảng một trăm rưởi cô gái tham gia vào đám rước, cô nào cũng xinh, trang phục ngày hội.

Kiệu Thi Sách thì do đô tùy nam khiêng, cũng đủ lệ bộ, khoảng bảy chục người.

Đám rước đi trên đường Trống Quân, ra đường cái, rồi tiến ve dinh để “hội đồng” với bốn vị thành hoàng Đô, Hổ, Bạch, Hạc và ông thánh Cốt Tung.

Có tài liệu viết rằng đám rước này ra sông Hồng, lấy nước giữa dòng cho vào một cái chóe đem về để dùng làm lễ tắm tượng và dâng cúng quanh năm. Nhưng hỏi tất cả các vị bô lão trong làng (như ông cụ Hương Đệ) thì không hề có chuyện này. Thực ra, nghi thức lấy nước đó chỉ là của đám rước đền Đồng Nhân.

Có tài liệu viết là đồ tế khí ở đền Hạ Lôi đều sơn đen. Cũng không phải! Đồ thờ ở đây như kiệu, ngai... đều sơn son thiếp vàng và cờ quạt đều bằng vải lụa ngũ sắc. Ở Hạ Lôi này chỉ có đền thờ Cốt Tung mới kiêng màu đỏ.
_____________________________________
1. Đây là tác giả quan niệm làng Hạ Lôi này vốn thuộc huyện Chu Diên.

ĐỀN HÁT MÔN

Làng Hát Môn nay thuộc xã cùng tên, ở huyện Phúc Thọ. Đền thờ Hai Bà, thường gọi là miếu Hát, nằm ở rìa phía đông bắc làng, mé trong đê sông Hát.

Ngay chân đê là một hàng bốn cột hoa biểu lực lưỡng, trên cột có nhấn nhiều câu đối. Từ đây vào đền còn khoảng non trăm bước. Tương truyền ngày Hai Bà khởi binh, đàn thề đã lập tại đây. Ngày ấy chưa có đê, chưa có các xã Vân Nam, Vân Phúc nên dòng Hát chảy không xa nơi lập đền thờ là mấy. Theo lời kể ở địa phương thì đền này được lập từ đời Tiền Lê nhưng đó cũng chỉ là lời truyền miệng chứ không có giấy mực ghi chép.

Theo Việt điện u linhLĩnh Nam chích quái thì dường như đền Hát Môn được lập ngay sau khi Hai Bà hy sinh.

Việt điện u linh: “Hai Bà thua trận và cùng mất. Thổ nhân thương tiếc lập đền thờ tại địa hạt huyện An Hát”.

Lĩnh Nam chích quái: “Hai Bà thế cô, bị hại trong trận. Người trong châu thương cảm, lập miếu ở cửa sông Hát”.

Lại cũng hai sách này cho biết “đời Lý Anh Tông (1138-1175) gặp đại hạn, vua sai sư Tĩnh Giác lên đền cầu mưa, quả nhiên ứng nghiệm”. Như vậy là từ trước thế kỷ XII, ở Hát Môn đã có đền thờ Hai Bà nhưng nói rằng đền này có ngay sau khi Hai Bà tử trận thì còn phải khảo sát kỹ càng hơn mới khẳng định được1.

Cứ theo quy cách kiến trúc và đồ tự thì diện mạo hiện nay là có từ cuối thế kỷ XIX, đúng như lời kể của một tấm bia dựng ở hành lang (sẽ nói tới ở phần sau).

Tại nhà tiền tế có một bức hoành phi khắc bốn chữ Lạc Hùng chính thống có ý biểu dương sự nghiệp của Hai Bà là đã nối lại nền chính thống của các vua Hùng ngày trước.

Về câu đối, có một đôi bằng chữ Nôm khá đặc sắc:

Giặc Bắc đến nhà, gia quốc thù chung hai nữ tướng
Trời Nam có chủ, non sông riêng gánh một bà vua.
(Cử nhân Dương Bá Trạc)

Nhưng đôi câu đối mà nhiều người biết đến là:

Đồng trụ triết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cấm Khê doanh hạc Hát Giang trường
(Khuyết danh)

Nghĩa là:

Đồng trụ gãy hai còn, núi non Giao Chỉ vẫn vững
Cấm Khê đầy hay cạn, sông nước Hát Giang vẫn dài.


Ở hậu cung không có tượng mà chỉ có bài vị và là bài vị Hai Bà Trưng. Không có bài vị Thi Sách. Như thế nơi đây chỉ thờ có Hai Bà. Thêm một điểm khác với bên Hạ Lôi (Yên Lãng) là thần tích thì chép Hai Bà tự vẫn ở Hát Giang nhưng đồ thờ phụng, hoành phi, câu đối, hương án, long kiệu, đều phải sơn đen. Không có màu đỏ. Ngày trước có lệ định là ai bước chân vào đền cũng phải cởi bỏ mọi thứ trang phục màu đỏ (như thắt lưng, khăn, yếm...). Như vậy lệ định này chấp nhận giả thuyết Hai Bà chết về gươm đao.

Ở Hát Môn có lệ mở hội vào ngày mùng 8 tháng Ba, tục truyền là ngày Hai Bà hy sinh. Thuở trước tiệc cúng khá đặc sắc: tiệc bánh trôi, còn gọi là bánh tù tì. Nhưng việc này không phải là dựa vào sự tích Giới Tử Thôi bên Tàu như quan niệm khá phổ biến xưa nay2. Ở đây là dựa theo sự tích bà Âu Cơ sinh trăm trứng. Cho nên bánh cũng nặn thành trăm chiếc hình trứng chim. Lễ xong, dân làng đem 49 chiếc đặt trong bông hoa sen đưa ra sông Hát (khi còn là một sông lớn) thả cho trôi xuôi. Tục này có lẽ để nhắc lại Hai Bà là dòng dõi Lạc Hùng, vì theo thần thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ thì trong số 50 người con theo cha (tức Lạc Long Quân) về xuôi, một người ở lại Phong Châu, còn 49 người kia đi về các miền khác sinh cơ lập nghiệp thành các lạc tướng lạc hầu. Lạc tướng Mê Linh tương truyền là dòng dõi Hùng Vương3.

Ngoài ngày mùng 8 tháng Ba, ở Hát Môn còn có tiệc ngày mùng 4 tháng Chín tương truyền là ngày Hai Bà lên đàn thề tế cáo trời đất. Tiệc cúng trong ngày ấy là trâu thui cả con.

Tại đền này có một số bia cổ nhưng nội dung không liên quan gì tới sự tích Hai Bà. Chỉ là những bia ghi về việc tư sửa ngôi đền. Cổ nhất là bia Cung tiến bản từ nhị vị đại vương giám sát huệ điền bi ký. Bia đã mòn nhiều, người soạn là một ông tiến sĩ khoa Ất Mùi (1595) làm Binh bộ thượng thư (chỗ ghi tên họ bị mờ hết). Kể việc viên quan nội giám cúng ruộng cho đền. Bia khắc năm Vĩnh Tộ thứ ba (1622).

Một bia khác có tên Khắc thạch bi, do Nguyễn Trí Cung soạn. Ông này đỗ hội nguyên khoa Quý Mão đời Chính Hòa (1703). Bia khắc năm Vĩnh Hựu - Bính Thìn (1736) nói về việc sửa đền.

Bia có niên đại gần nay nhất là Miếu hướng bi ký do tú tài Hồ Danh Bật soạn năm Tự Đức thứ 35 (1882) nội dung cho biết đền Hát là nơi quốc tế (vua phải cử khâm sai thay mặt đến tế) nhưng bị hư hỏng nhiều. Dân đóng góp tiền của, công sức tu sửa và chuyển hướng đền.

Như vậy thì diện mạo và ngay cả hướng đền ngày nay mới có từ năm 1882.
_____________________________________
1. Theo lời kể từ xưa truyền lại ở đây (qua lời khai của hương lý làng này vào tháng 4-1938 ) thì trước khi thờ Hai Bà, làng Hát Môn thờ thần Bạch Thạch, cao như cột đình. Bạch Thạch là đá trắng. Phải chăng đó là ký ức của một thời cổ đại còn thờ cúng cự thạch hoặc linga.
2. Đời Chiến quốc, Giới Tử Thôi phò tá Trùng Nhĩ lúc còn hàn vi. Khi thành vua, Trùng Nhĩ quên Giới. Giới ẩn trong rừng. Có người nhắc, Trùng Nhĩ cho người đi gọi nhưng Giới không ra. Trùng Nhĩ ra lệnh đốt rừng. Giới - cũng không ra và chịu chết cháy. Sau đó người Tàu có lệ không nhóm bếp vào ngày Giới chết, ngày mùng 3 tháng Ba, vì vậy từ ngày hôm trước, họ làm bánh trôi để ăn vào ngày này.
3. Có một thuyết khác giải thích lệ bánh trôi như sau: Trước lúc Hai Bà xuất quân có một bà lão làm bánh trôi dâng tiến. Do đó mà có lệ người dân Hát Môn không ai dám ăn bánh trôi trước ngày lễ mùng 8 tháng Ba, vì như thế là vô lễ, dám hưởng món quà này trước Hai Bà. Bà lão dâng bánh cũng được lập miếu thờ cạnh đền Hai Bà.

ĐỀN ĐỒNG NHÂN

Đền Hạ Lôi tương truyền là nền nhà cũ của Hai Bà. Đền Hát Môn tương truyền là nơi Hai Bà hội quân. Còn đền Đồng Nhân được dựng nên do một huyền tích. Huyền tích đã được kể lại trong Trưng Vương lưỡng vị thánh sắc: Sau khi gieo mình xuống sông Hạc (Hạc Giang), Hai Bà hóa thân thành tượng đá rực sáng, trôi xuôi đến bãi Đồng Nhân... Vua Lý Anh Tông biết chuyện cho người ra đón rước nhưng không được. Dân làng Đồng Nhân lấy vải đỏ ra đón thì được. Tượng đá lớn và nặng, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay trỏ lên trời, một chân quỳ một chân ngả. Vua bèn truyền cho dân làng ấy lập đền thờ hai pho tượng trên ở bên sông. Đó là vào năm Đại Định thứ ba tức năm 11421.

Như vậy là đền Đồng Nhân có từ giữa thế kỷ XII ở ngay sát cạnh bờ sông Hồng. Cũng hai tài liệu trên có kể tiếp là đến năm Gia Long thứ mười tám (tức năm 1819), bãi Đồng Nhân bị lở. Dân Đồng Nhân được phép dời đền Hai Bà tới làng Hoa Viên thuộc tổng Hậu Nghiêm huyện Thọ Xương, dưng trên nền Tập Võ sở của triều Lê cũ. Rồi người làng Đồng Nhân một phần cũng dời vào cư trú xung quanh đền và lập ra một làng Đồng Nhân mới trên đất làng Hoa Viên. (Làng Hoa Viên tới khoảng giữa thế kỷ XIX đổi thành Hương Viên, tới đầu thế kỷ XX lại đổi ra là Phương Viên). Nay làng Đồng Nhân đó thuộc phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng.

Như vậy điều chắc chắn là đền Đồng Nhân được xây dựng ở chỗ hiện nay từ năm 1819. Trước đó, đền ở ngoài bãi Đồng Nhân, nhưng theo các chính sử, như Việt sử lượcToàn thư thì đền được làm trên bãi ấy từ mùa xuân năm 1160 chứ không phải 1142 như lời truyền thuyết nêu trên. “Canh Thìn năm thứ 21 (1160), mùa xuân, tháng Giêng, làm đền Hai Bà và đền Xuy Vưu ở phường Bố Cái” (Toàn thư) Chữ Bố Cái có thể hiểu là Búa Cái (Búa có nghĩa là bến, nay còn đứng trong từ kép chợ búa). Vậy phường Bố Cái chính là khu vực bãi Đồng Nhân, ngày nay thuộc phường Bạch Đằng, cùng quận Hai Bà Trưng. Điều rất đáng lưu ý là cho tới nay ở trên bãi Đồng Nhân vẫn có một ngôi đền thờ Hai Bà song nhỏ hơn nên dân gọi là miếu Hai Bà. Như vậy là: đến năm 1819, do bờ sông Hồng lở nên đền Hai Bà được dời từ bãi Đồng Nhân vào đất làng Hương Viên. Song sông Hồng do quá trình lở - bồi diễn ra theo chu kỳ nên ở bãi Đồng Nhân chính gốc, dân vẫn bám trụ, nối tiếp cư trú sinh sống và họ cũng đã xây một ngôi miếu thờ Hai Bà coi như để tưởng nhớ cội nguồn gốc gác cũ. Do vậy ở Hà Nội, cụ thể là ở quận Hai Bà Trưng, có hai nơi thờ Hai Bà, một đền một miếu nhưng thực chất vẫn là một gốc. Do vậy đến ngày hội mùng 5 tháng Hai âm lịch, dân rước kiệu từ đền ra miếu rồi đình kiệu (tức dừng kiệu) đem đôi chóe xuống sông lấy đầy nước rồi rước trở về đền và làm lễ hội chính thức ở đây.

Trở lại ngôi đền Đồng Nhân trên đất Hương Viên thì ngày nay, làng xóm đã đổi thay. Đền Đồng Nhân bây giờ là ở vào phố Hương Viên, quận Hai Bà Trưng. Trước đền là hồ bán nguyệt. Một hàng cột hoa biểu lực lưỡng vốn có nhấn nhiều câu đối nhưng nay bị vỡ hầu hết. Tiếp đó là một cái sân rộng. Trên sân ở phía bên phải đền là một tấm bia khá lớn dựng trên rùa đá. Đó là bia Trưng Vương sự tích bi ký do Vũ Tông Phan, tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826) soạn vào năm 1840. Nội dung văn bia là biểu dương sự nghiệp Hai Bà và kể lại việc dân làng Đồng Nhân dời đền từ bờ sông vào nơi hiện nay.

Trong đền, ở nhà tiền tế có hai thớt voi sơn đen, voi gỗ nhưng ngà thật. Theo ông Hoa Bằng trong bài “Đền Hai Bà ở Đồng Nhân” in trên tạp chí Tri Tân số 39 thì “tương truyền hai cặp ngà voi đó là tặng phẩm do triều Lý ban cho dân làng Đồng Nhân để chế tạo voi thờ nên trong bản Thần tích làng Đồng Nhân hãy còn chép cả hai vế biền văn trích trong tờ biểu dân làng tạ ơn vua Lý về việc ban tặng ấy”.

Cũng ở nhà tiền tế giáp tường phía bên trái còn có một tấm bia do Hà Nội đốc học là cử nhân Dương Duy Thanh soạn năm 1848, cũng có tên là Trung Vương sự tích bi ký. Nội dung bia này cũng không khác gì mấy so với nội dung tấm bia Vũ Tông Phan.

Đến hậu cung sẽ thấy tượng Hai Bà đặt trên bệ cao. Nhưng không phải là tượng đá mà là bằng đất luyện. Hai tay tượng cũng không trỏ lên trời mà đưa ngang ra phía trước. Đầu cũng không đội mũ trụ. Vậy đây không phải là tượng từ đời Lý mà là mới đắp sau này. (Tất nhiên không loại trừ khả năng bên trong tượng hiện nay có một cái cốt đá, kiểu như “đá Mỹ Châu” bên Cổ Loa).

Ở nhà tiền tế cũng như hậu cung có nhiều câu đối hay như:

Đồng Nhân miếu, tôn tượng túc thanh cao, hào khí như sinh, Bắc cố mục trung vô Hán quốc.
Hát Thủy môn, nộ đào thời chấn đãng, anh phong bất tử. Nam âm sử thượng hữu Bà Vương.
(Khuyết danh)

Nghĩa là:

Miếu Đồng Nhân, tượng báu trang nghiêm hào khí như còn, ngoảnh ngó Bắc phương không nước Hán.
Cửa sông Hát, sóng hờn sôi sục anh phong không dứt, tiếng vang Nam sử có Vua Bà.


Hoặc:

Khả liên Hán đế xưng Quang Vũ
Bất để thoa quần khởi nghĩa binh.
(Khuyết danh)

Nghĩa là:

Khá thương vua Hán phô oai mẽ
Khôn đọ quần thoa dấy nghĩa binh.


Trước đây, hàng năm làng Đồng Nhân mở hội từ ngày mùng 4 đến mùng 8 tháng Hai, chính hội là vào mùng 5. Tương truyền đó là ngày dân bãi Đồng Nhân xưa đón tượng Hai Bà từ sông lên.

Trong ngày hội mùng 5 tháng Hai ấy, dân Đồng Nhân rước kiệu Hai Bà ra bờ sông Hồng, chỗ làng Đồng Nhân gốc, rồi đình kiệu lại, đem đôi chóe xuống thuyền đã túc trực sẵn, bơi ra giữa dòng lấy nước. Nước này sẽ dùng để tắm tượng và dâng cúng quanh năm. Đặc biệt đám rước ấy có đôi voi gỗ đi dẹp đường, quản tượng là đàn ông. Còn các đô tùy khiêng kiệu thì toàn là nữ, tức cũng giống như nghi vệ ở đám rước làng Hạ Lôi. Nhưng các nữ đô tùy này chỉ có một số ít là người địa phương, còn thì là những cô gái các làng có giao hiếu với Đồng Nhân như Phụng Công (ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) là nơi tương truyền có người đã cùng dân Đồng Nhân rước tượng Hai Bà ở sông lên từ đời nhà Lý. Có năm, vùng Thường Tín (Hà Tây) cũng cử người lên giúp hội vì được coi là quê hương của Hùng Nguyên, chồng bà Trưng Nhị.

Đám rước đi từ đền, ngược lên phố Lò Đúc, tới phố Hàn Thuyên mới quay trở về. Ngày trước đám rước còn lên đến chỗ nay là chân cầu Chương Dương.

Cạnh đền Hai Bà, phía bên phải là ngôi đình của dân làng Đồng Nhân và bên trái là chùa của làng này. Chùa có tên là Viên Minh tự (chùa Viên Minh). Cả đình lẫn chùa tất cũng chỉ có thể có từ sau năm 1849. Nhưng cái tên Viên Minh thì bắt nguồn từ một sắc phong vào năm 1533. Vào năm đó - năm Nguyên Hòa thứ nhất đời vua Lê Trang Tông - có sắc phong cho Hai Bà là Quảng Giáo Viên Minh Linh Thạch Trưng Vương Phật. Chữ Viên Minh lấy từ pháp hiệu này.

PHỤ CHÚ: Qua sự tích đền Đồng Nhân, có thể hiểu rằng tới đời Lý, từ là hai vị anh hùng cứu nước, Hai Bà Trưng được vương triều này tôn lên là hai nữ thần bảo hộ nông nghiệp. Tới đời Lê Trung Hưng, Hai Bà lại được tôn lên làm Phật.

Ngoài ra, nhìn dưới góc độ dân tộc học thì ở ngày hội của các làng trên có những lễ tiết đã trộn lẫn tín ngưỡng nguyên thủy vào chủ đề lịch sử (tưởng niệm Hai Bà). Như ở Đồng Nhân, việc rước nước sông Hồng, có thể là hình thức hội nước (thờ nước, cầu mưa), một lễ tiết tín ngưỡng nông nghiệp nguyên thủy. Hoặc lễ bánh trôi ở Hát Môn có thể là sự tôn xưng biểu dương thành quả của lao động nông nghiệp trồng lúa mới.
_____________________________________
1. Trưng Vương lưỡng vị thánh sắc là một cuốn sách chép tay, chỉ có 52 trang, gồm phần ghi lại các đạo sắc phong cho Hai Bà Trưng của các đời vua từ Lê Chính Hòa (1680-1705) đến Nguyễn Duy Tân (1907-1916) và phần ghi sự tích Hai Bà. Phần này hoàn toàn là sao lại lịch sử Hai Bà mà mọi người đều biết. Chỉ ở cuối sách có chép các linh tích, tức các dấu tích linh dị - như kiểu nói về tượng đá kể ở trên - là có giá trị tư liệu tham khảo.

QUÁN AO SEN

Tại xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất cũng có đền thờ Hai Bà Trưng. Như đã nêu ở Chương hai, theo chủ trương của ông Đinh Văn Nhật thì Hạ Bằng - tức Hạ Lôi và Bằng Trù - là một khu thuộc trang Cổ Lôi ngày xưa, quê hương của Hai Bà Trưng. Nhưng Hai Bà lại không phải là thành hoàng làng (thành hoàng là ba anh em Cao Hưng, Tuấn Tĩnh, Trung Liệt, các con của Lạc Long Quân) nên không thờ ở đình mà thờ riêng ở quán. Vùng xứ Đoài cũ có tập quán gọi nơi thờ các thần thánh là quán tức cũng như các làng vùng khác gọi là nghè hoặc đền.

Quán thờ Hai Bà nguyên ở trên một cái gò cạnh một ao sen nên có tên là quán Ao Sen. Tương truyền đó là nơi Hai Bà Trưng mở tiệc khao quân. Sau, quán lại được chuyển sang một cái gò đối diện tức chỗ nay là nhà trạm xá xã.

Trước đây, hàng năm có lệ cúng tế tại quán này vào ngày mùng 6 tháng Mười Một (là ngày Hai Bà khao quân). Tiệc đám là thịt trâu lột, tức là mổ trâu xong rồi, thịt xẻ ra nhưng không nấu bằng nồi mà lại lột da trâu, lấy da đó lót để nấu thay nồi. Hèm này là gợi lại bữa tiệc khao quân ngày ấy của Hai Bà, do quân số đông không đủ nồi nên phải làm ra như vậy.

Các cụ già ở địa phương còn kể là trong quán Ao Sen, trên các tấm ván nong lá gió có chạm hình Hai Bà Cưỡi voi ra trận. Tiếc rằng hồi Pháp tạm chiếm (1950- 1954) lính Pháp đã phá hủy hoàn toàn quán này, ngay tấm bia duy nhất ở đây cũng bị chúng đẩy xuống giếng rồi lấp đi. Giếng ấy nay vẫn còn vết tích cạnh đường đi. Sau ngày hòa bình lập lại, trên nền quán đã xây trạm xá xã. Theo một người cao tuổi ở đây - ông cụ Đặc ở xóm Cốc thì quán này thời xưa các cố lão còn gọi là quán Dạ. Ông Đặc không hiểu nghĩa chữ này. Phải chăng chữ Dạ ở đây cũng giống như chữ Dạ trong Mả Dạ ở Nam An quê hương bà Man Thiện? Như vậy có thể hiểu “quán Dạ” là “quán đức Bà”. Và cái tên gọi này chính cũng là tia ảnh xạ của một thời mà tiếng Lạc Việt chưa chia ra làm hai (tiếng Kinh và tiếng Mường) tức thời kỳ Hai Bà Trưng vậy.
THÀNH DỀN (CỰ TRIỀN)

Làng Cư An nay thuộc xã Tam Đồng, huyện Mê Linh. Trước đây làng này có tên là Cự Triền. Tại đó có một dấu tích thành cổ mà dân làng gọi là thành Dền. Có lẽ Dền là tên Nôm cổ của Cự Triền, vì những địa phương có tên bằng chữ Hán là Triền thì đều là phiên âm chữ Dền của tên gọi Nôm. V(í dụ ở nội thành, chỗ cuối phố Huế, đầu phố Bạch Mai ngày trước có một cửa ô tên Nôm là của ô Cầu Dền thì các sách chữ Hán đều chép là Triền Kiều ô môn).

Cái tên Cư An chỉ mới có từ thế kỷ XIX, vì ở sách Kiến văn tiểu lục soạn vào thời gian những năm cuối thế kỷ XVIII tác giả là Lê Quý Đôn còn dùng chữ Cự Triền: “Ở xã Cự Chiền (sửa là Triền - N.V.P) có nền thành cũ, tương truyền Phục Ba tướng quân cùng Trưng Nữ Vương đánh nhau ở đây”. (Bản dịch, trang 506, Nhà xuất bản Sử học - năm 1962).

Nhưng đến sách Đại Nam nhất thống chí (soạn vào thời gian nửa cuối thế kỷ XIX) thì đã có tên Cư An: “Lũy cổ Trưng Vương: ở xã Cư An, huyện Yên Lãng, có hai lũy cách nhau không xa, nền cũ này vẫn còn, tương truyền đấy là lũy cũ của Trưng Vương”. (Bản dịch, Tập IV, trang 213 - Sách đã dẫn).

Như vậy thành Dền nằm ở địa phận làng Cư An. Làng này nay thuộc xã Tam Đồng. Nhưng theo sự phân chia lại địa giới gần đây thì thành Dền lại thuộc về địa phận xã Tự Lập, vẫn là huyện Yên Lãng, tức nay là huyện Mê Linh.

Thành cách đền Hạ Lôi chừng 6km về phía tây bắc, tương truyền là nơi bà Trưng Nhị đóng quân. Cứ như cách gọi ở địa phương, ngoài tên thành Dền, thành này còn được gọi là thành Trại, thành Cờ, thành Tam Kha.

Theo sự mô tả của ông Nguyễn Lộc trong bài “Những vết tích khảo cổ về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phú”1 thì thành Dền có hình dáng khá đặc biệt: không đắp theo hình vuông, hoặc chữ nhật, hoặc đa giác đều như các thành thường gặp trên đất nước ta mà là hình bầu dục. Chỗ dài nhất là 200m, chỗ hẹp nhất là 170m. Mặt thành hiện nay có chỗ còn rộng tới 10m. Tường quanh cũng còn cao tới 1,5m so với mặt hào chạy xung quanh thành. Hai đầu thành ở phía bắc và nam hiện còn hai khu đất được đắp vòng rộng ra ngoài ước khoảng gần 1 sào Bắc Bộ. Có thể đó là hai cái mang cá? Trong thành về phía Nam có một gò cao. Ở đỉnh gò còn dấu vết nền móng ngôi miếu cổ tương truyền là nơi thờ bà Trưng Nhị và vốn là cột cờ xưa.

Ở mặt phía đông của vòng thành có một quãng bị cắt ngang vì ở đó có một hố nước. Một bên thành được đắp vòng ra ngoài hố nước ấy, còn một bên thì nhập vào một gò đất khá cao. Nơi đó có thể là cổng thành.

Trong nội thành, đối diện với cổng còn có một nền đất phẳng hình chữ nhật giống như nền nhà. Tại góc bắc thành có một hồ nước rộng khoảng 1 sào Bắc Bộ và hiện còn sâu tới 0,8 mét. Có thể đó là giếng nước dùng chung cho cả nội thành.

Còn dãy hào chạy quanh thành thì nay bị san lấp nhiều, tuy vậy có chỗ còn rộng tới 10m, sâu chừng 0,6m so với mặt ruộng xung quanh. Theo thần tích của làng Cư An thì sau khi đánh đuổi Tô Định, bà Trưng Nhị được cử về nơi đây đắp thành lũy để làm kinh đô.

Liên quan đến tòa thành Dền này còn có một tòa thành khác, cách 2km về phía đông. Đó là thành Vượn ở địa phận làng Nam Cường, giáp giới Cư An (Nam Cường nay hợp với Cư An và Văn Lôi thành xã Tam Đồng). Theo lời kể ở địa phương thì Mã Viện đã kéo quân tới đánh thành Dền trong nhiều ngày nhưng không hạ nổi. Hắn đành phải cho xây một tòa thành ở đây để làm nơi trú quân lâu dài. Đó là thành Vượn. Thành Vượn có hình gần tròn, rộng khoảng 2 héc-ta. Đường kính khoảng 150m đến 170m. Chỗ thành cao nhất là 1,5m so với mặt hào. Mặt thành có đoạn còn rộng trên 8m. Phía bắc thành có một gò đất cao, cũng gọi là gò Cột Cờ.

Kể ra bảo rằng đây là thành do Mã Viện cho đắp thì cũng có thể tin được. Vì các sử Trung Quốc đều có chép rằng Mã Viện đã xây Kiển thành ở huyện Phong Khê. Vậy mà huyện Yên Lãng, nay gọi là huyện Mê Linh, chính là huyện Phong Khê ngày xưa. Và Kiển thành có nghĩa là “thành Cái Kén”. Ở đây, thành Vượn có hình gần tròn rất giống một cái kén tằm. Vậy có thể Kiển thành ghi chép trong sử sách là thành Vượn.

Như thế thành Vượn có thể coi là hiện vật để gián tiếp chứng minh sự có mặt của thành Dền vào thời kỳ Hai Bà Trưng. Thực tế Cự Triền đúng là một làng cổ. Các nhà khảo cổ đã cho biết rằng những di vật đào được ở lòng đất trong thành Dền (gồm gốm và đồng) có niên đại trước Công nguyên, thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên và Đồng Đậu2. Và kiểu dáng của thành cũng đã được coi là loại hình thành cổ. Ông Lê Văn Lan (trong bài đã dẫn) có nhận xét: “Đặc điểm đáng chú ý nữa là kiểu dáng của những tòa thành này (Cự Triền và Miếu Môn - N.V.P) nếu một mặt tỏ ra khác biệt với những thành quách của bọn thống trị đương thời và của đất nước ở những thời kỳ sau - thường có hình tứ giác thì mặt khác, lại đồng dạng với thành Cổ Loa và cùng vơi Cổ Loa làm nên một phong cách xây thành riêng: tạo một bình diện hình gần tròn hoặc những đường cong tự do khép kín của tường thành”.

Tất nhiên trải qua hai mươi thế kỷ, nhiều cánh quân đã đóng ở Cự Triền, như quân Nguyễn Khoan (thế kỷ X) hoặc nghĩa quân của các phong trào nông dân mà cụ thể nhất là phong trào Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương. Bấy nhiêu cánh quân tất có tham gia nhiều hoặc ít vào việc làm thay đổi diện mạo thành Dền.
_____________________________________
1. Những vấn đề lịch sử Vĩnh Phú - trang 119.
2. Xem thêm bài “Phát hiện một số di tích khảo cổ ở Vĩnh Phú” của Hà Văn Hiệt trong Những phát hiện mới khảo cổ học 1972. NXB Khoa học xã hội.

LŨY BÀ CHU TƯỚC (THÀNH MIẾU MÔN)

Về thành lũy thời Hai Bà Trưng thì ngoài thành Dền ra nhiều tài liệu còn nhắc tới Lũy bà Chu Tước (còn gọi là thành Miếu Môn).

Tại khu núi đá Miếu Môn, nay thuộc xã Trần Phú, huyện Chương Mỹ, Hà Tây còn dấu vết một thành lũy mà nhân dân địa phương gọi là Lũy bà Chu Tước.

Theo truyền thuyết, bà Chu Tước và em gái là Vân Mộng quê ở Đồng Sậu (nay là một xứ đồng ở vùng núi này). Chị thì thông minh mưu trí còn em thì có sức khỏe phi thường. Thuở ấy nước nhà bị giặc Hán đô hộ, nhân dân rất cực khổ. Hai chị em bà Chu Tước theo Hai Bà Trưng mưu việc lớn. Bà Chu Tước cho xây thành đắp lũy để chờ thời cơ nổi dậy. Có một lần Vân Mộng sang thăm chị trong lúc dân chúng đang gánh đất xây thành. Để khích lệ, Vân Mộng đã đích thân tham gia gánh đất gánh đá. Bà gánh rất khỏe, chạy như bay, không ai kịp. Đến chuyến cuối cùng, trời đã gần tối, bà gánh cố cho xong. Nhưng mới đến Miếu Môn không may đòn gánh bị gãy, đá đổ tung thành ra ba đống, tạo nên núi Chùa, núi Đặng và núi Sáo ngày nay.

Cũng theo truyền thuyết, Mã Viện từng đánh tới đây. Xương chất thành đống, dân bị tàn sát, nay còn các xứ đồng gọi nhớ: đồng Xương, đồng Tàn...

Dấu vết thành lũy này gần đây vẫn còn. Năm 1974 ông Phan Đại Doãn đã mô tả như sau:

“Thành được đắp nối liền với hai chân núi đá vôi, rồi tỏa ra như các vành đai. Phía ngoài có hào sâu bám dưới chân núi. Tất cả thành lũy và hào kết thành một hệ thống ôm gọn thung lũng của ba ngọn núi Phượng Sơn, Tượng Sơn và Yên Ngựa. Thành lũy hiện nay chỉ còn lại hơn 60m, chân rộng 11m, cao 1m60. Độ sâu của hào chỉ còn gần 0,50m”1.

Không rõ từ năm 1974 đến nay dấu vết có còn được như vậy không? Song Miếu Môn đúng là có một vị trí chiến lược. Ngày nay là ngã ba án ngữ hai nẻo đường: Phía Đông từ Ngã ba Thá - nơi sông Đáy gặp sông Tích đi vào (tức theo tỉnh lộ 73) có thể sang vùng núi tỉnh Hòa Bình; phía Bắc theo quốc lộ 21A từ thị xã Sơn Tây xuôi qua đây để đến thị xã Xuân Mai rồi vào Chi Nê, Nho Quan... Tại Miếu Môn thời chống Mỹ đã xây dựng một sân bay quân sự.

Còn về di tích khảo cổ thì chính tại vùng này đã khai quật hai trống đồng loại 1 Hê-gơ, tuổi dư hai ngàn năm, được đặt tên là trống Miếu Môn I và Miếu Môn II.
_____________________________________
1. Danh nhân quê hương - Tập II - Ty Văn hóa Hà Tây - 1974 – Tr.17.

“MIẾU BÀ TRẮC”
Ở HỒ NAM (TRUNG QUỐC)

Trên đất Trung Quốc mà lại có đền thờ Bà Trưng! Kỳ lạ nhưng có thật! Vì nguồn thông tin này nằm trong thơ của danh sĩ Ngô Thì Nhậm (1746-1803). Nguyên là trong Hoàng hoa đồ phả, một tập thơ và họa do Ngô Thì Nhậm sáng tác trong thời gian đi sứ nhà Thanh (năm 1793) có một bài nhan đề Phân Mao lĩnh (núi Phân Mao):

Nhất đái thanh sơn Sở, Việt giao
Hoàng Mao dịch lộ nhận Phân Mao
Thiên thu bật tận Hành Sơn lĩnh
1
Địa khí hoàn phù Nhạn Trạch mao2.
Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ
Úy Đà quế đố lạc sơn sào
Phong lai giải uấn tây nam lợi
Vị hứa Hùng Bi vạn nhận cao.


Nghĩa là:

Một dải núi xanh ở giữa nơi giáp giới Sở và Việt
Trên đường đến trạm Hoàng Mao nhận ra đó là núi Phân Mao.
(Ranh giới của Trung Hoa do) Sách trời định ra không quá núi Hành Sơn.
Khí đất làm trôi ngược lông chim nhạn ở Nhạn Trạch (về phía nam).
Lưỡi kiếm của Bà Trưng mở ra động phủ.
Sâu quế của Triệu Đà còn đầy trong hang núi
3.
Gió từ tây nam làm nguôi cơn nồng
Coi thường núi Hùng Bi dù cao tới muôn sải
4.

Ngô Thì Nhậm có lời chú thích rằng: “Núi Phân Mao ở địa giới Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam, có cỏ mao rẽ hai ngả nam bắc, trên đường đi có biển đề Phân Mao lĩnh”5.

Như vậy thì núi này là chỗ ranh giới hai nước Sở, Việt. Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam và Việt là khu vực hai tỉnh Lưỡng Quảng ngày nay. Gọi là Hồ Nam vì ở phía nam hồ Động Đình. Và vậy là theo bài thơ này, tại Hồ Nam có đền thờ bà Trưng Trắc.

Trong một tập thơ khác của Ngô Thì Nhậm - tập Yên Đài thu vịnh cũng gồm những bài thơ do ông viết trong chuyến đi sứ năm 1793 - có một lời ghi chú khác: “Phía nam hồ Động Đình có miếu thờ Bà Trưng. Bà đã chống với Mã Viện ở Hồ Nam và giữ được vài tháng. Sau đó bà chiến đấu ở Khẩu Phong và thất bại ở Tương Âm rồi mất. Nay ở đó còn có miếu thờ Hai Bà Trưng, tục gọi là Miếu Bà Trắc, rất linh ứng”.

Rõ ràng đây chỉ là truyền thuyết. Vì chính sử Trung Quốc không ghi sự việc này. Nhưng cơ sở để hình thành truyền thuyết trên thì có thể giải thích được: Chính sử có ghi là sau khi Mã Viện hoàn thành công việc xâm lăng, hắn đã bắt trên ba trăm cừ súy người Việt đưa về Trung Quốc, an trí tại Linh Lăng. Linh Lăng chính là phần đất phía nam tỉnh Hồ Nam. Số ba trăm cừ súy đó tất phải là các thủ lĩnh nghĩa quân, tướng lĩnh của Hai Bà và các lạc hầu lạc tướng đã kiên cường chống lại giặc Hán. Những người dân Việt yêu nước này, tuy bị đày ải xa quê hương nhưng dứt khoát họ vẫn hướng về đất tổ, vẫn nuôi mối hờn căm đối với quân thù: họ đã lập “Miếu Bà Trắc” để tưởng nhớ thủ lĩnh của mình đồng thời cũng là thể hiện ý chí bất khuất của người dân nước Việt.

Những câu chuyện về cuộc khởi nghĩa và cuộc kháng chiến ngày đó tất cũng được lưu truyền trong cộng đồng ấy nhưng rồi do trải qua bao đời, bao thế hệ, cùng với quá trình địa phương hóa (tức là bị Trưng Quốc hóa) những câu chuyện đó bị “khúc xạ” đi trở thành ra truyền thuyết Bà Trưng đánh Mã Viện trên đất Hồ Nam.

Miếu Bà Trắc ở bên bờ hồ Động Đình đúng là một biểu tượng hiên ngang của tinh thần ngoan cường bất khuất của người dân Việt thời Hai Bà Trưng dù bị tách khỏi quê hương vẫn dám phủ định uy quyền của kẻ thù đang ở thế thắng.

Một số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng - Nhiều tác giả - Ty Văn hóa Hà Sơn Bình - 1979.

Truyền thuyết Trưng Vương - Nhiều tác giả - Chi hội Văn nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú - 1975.

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử trong những năm 1962 đến 1980.

Những phát hiện mới về khảo cổ học các năm 1972 đến 1979.
_____________________________________
1. Hành Sơn: tên chỉ chung dãy núi trùng điệp trên địa phận huyện Hành Dương.
2. Nhạn Trạch: chim nhạn bay về nam nhưng tới Hành Dương gặp ngọn núi Hồi Nhạn cao quá phải quay về. Nhưng lông nhạn rụng xuống lại theo sông Ly trôi về Nam. Khúc sông đó gọi là Nhạn Trạch.
3. Triệu Đà không muốn cống quế cho nhà Hán, bịa ra chuyện cây quế bị sâu phá hoại và bắt sâu này đem nộp, thực ra đó là con cà cuống.
4. Hùng Bi là một dãy núi ở huyện Kỳ Dương, huyện cực nam tỉnh Hồ Nam.
5. Xin cảm ơn anh Ngô Linh Ngọc và anh Trần Lê Văn đã cho tư liệu về thơ Ngô Thì Nhậm.

Chương kết

Trưng Vương ở ngôi có ba năm nhưng sử gia Ngô Sĩ Liên trong Toàn thư vẫn chép riêng làm một kỷ bên cạnh các kỷ Hồng Bàng, kỷ nhà Đinh, kỷ nhà Lê v.v... Quả là một ngòi bút “chí công”, một nhận thức đáng trọng. Vì vương triều này tuy tồn tại có ba năm nhưng đã mở đầu cho cả một thời đại quan trọng trong lịch sử dân tộc: thời đại đấu tranh giành độc lập, tự do.

Kỷ Trưng Vương ngắn ngủi nhưng là một khoảng thời gian vô cùng sống động, ăm ắp sự kiện: trong có trên một nghìn ngày mà dân tộc ta khi ấy đã tiến hành hai cuộc chiến tranh, là chiến tranh giải phóng dân tộc mùa xuân năm 40 và chiến tranh chống ngoại xâm vào hai năm 42-43. Giữa hai cuộc chiến ấy là thời gian xây dựng chính quyền tự chủ sau hai trăm năm bị đô hộ, bị bóc lột tàn tệ, bị đàn áp dã man và đồng hóa nghiệt ngã. Thật là hiếm có một khoảng “ba năm” mà sục sôi, vang dội, căng thẳng đến như vậy.

Nhận định về kỷ Trưng Vương ấy, bộ Lịch sử Việt Nam - Tập I - của Ủy ban Khoa học xã hội có viết:

“Nó là tia lửa nhen lên tinh thần yêu nước Việt Nam vô địch, coi độc lập dân tộc là cái quý nhất, với ý chí không gì và không bao giờ lay chuyển là giành lại và giữ gìn độc lập”.

Thật thế, cái tinh thần yêu nước Việt Nam ấy chính là của báu vô giá mà Hai Bà cùng nhân dân ngày đó để lại cho muôn đời cháu con. Chính cái tinh thần ấy đã giúp Hai Bà - từ 2000 năm trước đây - sáng tạo ra một hình thức tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc độc đáo - hình thức đồng khởi - mà tới ngày nay vẫn còn ứng dụng.

Chính với tinh thần ấy mà nhân dân Âu Lạc - mất chủ quyền từ hai thế kỷ trước - với hai tay trắng đã dũng cảm đứng lên lật đổ ách thống trị của một kẻ thù hung ác đang trên thế bành trướng cuồng nhiệt. Và hơn nữa, nhân dân Âu Lạc lại còn dựng lên một triều đại của riêng mình, còn xây đắp một chính quyền tự chủ, dù hình thức như thế nào - chưa đủ tài liệu để đoán định thì vẫn là một chính quyền thực sự của một nước độc lập. Sự ra đời của nhà nước Trưng Vương trên co sở ý thức dân tộc đã được khẳng định còn là một sự thách đố đối với tính bền vững của đế chế Hán. (Năm 41, nhân dân ở Hoãn Thành thuộc tỉnh An Huy và năm 43 nhân dân ở Ích Châu thuộc tỉnh Vân Nam hẳn là cũng noi gương Âu Lạc mà nổi dậy chống nhà Hán).

Cho nên kẻ thù run sợ, quyết dồn mọi sức lực, huy động cả một dải bốn tỉnh Hoa Nam (tức hai nước Ngô, Sở ngày trước) để chống phá, hòng cứu nguy cho sự lung lay của chính quyền bành trướng đô hộ ở vùng Bách Việt cũng như ở vùng Tây Nam Di.

Đối với ta, thời gian xây dựng chính quyền tự chủ chưa lâu, mới có hai hoặc ba năm. Nhân dân Âu Lạc thực sự chưa hồi sức sau hai trăm năm bị đô hộ. Mọi người đang phải làm rất nhiều việc để củng cố chính quyền non trẻ thì lại phải vội vã cầm vũ khí mà tự vệ chống giặc ngoại xâm. Và thế là cuộc kháng chiến bắt đầu.

Các nguồn tu liệu đều không cho biết gì về hình thái tiến hành chiến tranh chống giặc Hán ngày ấy, ngoài hai ba địa điểm có chiến sự và một chi tiết về thời gian: cuộc kháng chiến kéo dài tới hai hoặc ba năm.

Thực ra chi tiết này rất có ý nghĩa. Vì với một thứ quân giặc từng làm mưa làm gió ở Tây Vực, ở Triều Tiên, ở Hung Nô, ở Tây Nam Di vậy mà chúng đã phải mất hai (hoặc ba) năm dòng mới đàn áp được cuộc kháng chiến của nhân dân Âu Lạc. Cuộc kháng chiến ấy là bằng chứng hiển nhiên của tinh thần yêu nước Việt Nam, của ý chí bất khuất ngoan cường, dám hy sinh xả thân cho độc lập, tự do.

Cuối cùng, trong tinh thần yêu nước Việt Nam đó cũng phải kể tới tinh thần yêu nước của người phụ nữ Việt Nam. Đứng đầu cuộc khởi nghĩa và kháng chiến là phụ nữ. Các tướng lĩnh nghĩa quân đa số là phụ nữ. Và thành phần phụ nữ trong quân chủ lực không phải là ít như đã nêu ở các phần trên, chỉ ở nước ta mới có những cánh quân nam giới phải hóa trang làm nữ giới để xin đi chiến đấu. Điều này nói lên tinh thần anh hùng cũng như vai trò thực sự quan trọng của người Phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống đương thời. Có nhiều cách giải thích thực trạng này: hoặc lúc đó tinh thần dân chủ của công xã chưa hoàn toàn bị ý thức hệ phong kiến Hán tộc phá hủy, hoặc chế độ mẫu hệ tuy đã qua rồi nhưng vẫn còn những tàn dư trong sinh hoạt công cộng cũng như riêng tây, hoặc trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ phong kiến, người phụ nữ vẫn còn giữ những nhiệm vụ chủ chốt trong gia đình cũng như trong làng chạ.

Các lý do trên đều thông nghĩa lý nhưng do thiếu tư liệu gốc nên chưa thể khẳng định. Có điều là cho tới thời thịnh thế của phong kiến, sách vở thánh hiền công khai tuyên bố “nam tôn, nữ tì”, “phu xướng phụ tùy”, “thập nữ viết vô” v.v... thì ở khắp thôn xóm vẫn “công anh, công ả, công cả đôi bên”, “thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, “lệnh ông không bằng cồng bà” v.v... vậy vào đầu Công nguyên, phụ nữ Việt Nam hẳn đang còn giữ một vai trò quan trọng trong sinh hoạt xã hội.

Kỷ Trưng Vương không dài, không làm mốc cho một chế độ xã hội hoặc một phương thức sản xuất nhưng rõ ràng là đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, một kỷ nguyên đấu tranh giành độc lập, tự do, một kỷ nguyên đi vào cuộc trường chinh nghìn năm chống bá quyền Trung Quốc, kỷ nguyên ấy kết thúc vào năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền với sự ra đời của quốc đô Cổ Loa (lần thứ hai).

Điều vinh dự cho vùng đất Hà Nội nói riêng, châu thổ sông Hồng nói chung là Hà Nội - ở cả hai thời điểm mở đầu và kết thúc kỷ nguyên này - đã chứng kiến và tham gia một cách vô cùng hào hùng, tích cực, sôi động vào hầu hết những sự kiện chính. Nơi đây đã giữ gìn biết bao là kỷ niệm, dấu tích thuộc về những sự kiện đó.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng làm rạng rỡ cho dân tộc ta, cũng là làm rạng rỡ cho Hà Nội - Thủ đô của chúng ta.

PHỤ LỤC

NGỌC PHẢ CỦA HAI LÀNG HẠ LÔI VÀ HÁT MÔN

Ở Thư viện Khoa học xã hội có một bộ sưu tập các thần tích do hương lý chức sắc các làng ở Bắc bộ gửi nộp cho trường Viễn Đông bác cổ vào năm 1938. Những thần tích này hoặc là bản có từ xưa (bản cổ) hoặc là bản do các hương lý sao chép lại các bản cổ. Trong kho tài liệu này có bản ngọc phả của làng Hạ Lôi (Yên Lãng) và bản ngọc phả của làng Hát Môn.

Bản của Hạ Lôi có tên là “Nam Việt Trưng Nữ Vương Trắc Nhị nhị vương ngọc phả cổ lục”. Ở cuối có ghi năm tháng cùng với tên người soạn, người sao ngọc phả: Hồng Phúc nguyên niên (1572) chính nguyệt, sơ thập nhật, Hàn Lâm viện, Đông Các đại học sĩ (thần) Nguyễn Bính phụng soạn; Vĩnh Hựu tam niên (1737) nhị nguyệt, cát nhật, Quản giám bách thần tri điện. Hùng Lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng thảo đặc cổ bản tôn sao: Tự Đức nhị thập lục niên (1874) chính nguyệt sơ thập nhật đồng xã tôn sao.

Như vậy bản ngọc phả này được chép lại vào năm 1874.

Bản của đền Hát Môn cũng có tên gọi, có niên đại, có soạn giả y như bản Hạ Lôi. Như thế thì về nội dung, hai bản này phải hoàn toàn giống nhau mới phải. Nhưng ở đây bản Hát Môn ngoài ba chỗ có thêm chú thích thì còn có hai đoạn khác hẳn bản Hạ Lôi. Đó là điều hơi lạ. Có thể đoán rằng trong hai bản có một bản là gốc còn bản kia là do người chép lại ở địa phương đã thay đổi, thêm bớt một số tình tiết theo sự hiểu biết của riêng cá nhân hoặc theo truyền thuyết ở địa phương mình. Nhưng do chưa thể xác định được điều này nên dưới đây chúng tôi tạm dịch toàn văn bản Hạ Lôi chỉ vì bản này có số chữ nhiều hơn. Gặp chỗ bản Hát Môn kể khác thì chúng tôi chua ngay chỗ khác biệt đó ở cuối trang. Như vậy cùng một lúc bạn đọc có thể theo dõi cả hai bản ngọc phả. Cũng xin nêu thêm là do chưa thể giám định - cả văn bản lẫn nội dung - nên việc giới thiệu hai văn bản này chỉ nhằm mục đích cung cấp cho bạn đọc những tư liệu thần tích cơ bản về Hai Bà Trưng mà lâu nay có khá nhiều người cho là đã bị mất hẳn - mà cụ thể thì ở hai địa phương trên cũng không còn lưu giữ được thật1.
_____________________________________
1. Ông Trần Quốc Phi trong bài mở đầu cuốn “Truyền thuyết Trưng Vương” (Chi hội VNDG tỉnh Vĩnh Phú xuất bản - năm 1975) có viết: “Đáng tiếc là trong kháng chiến chống Pháp, giặc Pháp và bè lũ tay sai đã phá hoại (làng Hạ Lôi)... làm mất ngọc phả”.
    Ông Nguyễn Quang Ngọc trong bài “Hà Nội với cuộc khởi nghĩa Hai Bà” trên báo Hà Nội mới ngày 7-10-1979 có viết: “Điều rất đáng tiếc là thần tích Hát Môn không còn nữa”.

NAM VIỆT TRƯNG NỮ VƯƠNG TRẮC NHỊ NHỊ VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ LỤC

Nhớ xưa, tới cuối triều Hùng, thế nước cáo chung truyền đến Duệ Vương, đã là 18 đời: hưởng nước dư 2000 năm, đã là dài lâu.

Duệ Vương không có con (trai) nối dõi, nên cho vời Thục An Dương Vương vốn là cháu xa của các vua Hùng và là con của Ai Lao bộ chủ đến truyền ngôi cho. Thục Vương phụng mệnh, nối họ Hùng, kế trị ở ngôi sáu mươi năm. Thiên hạ thái bình, binh mạnh nước giàu, thấu suốt đạo Sơn Nam Hạ và quận Cửu Chân.

Khi đó Triệu úy Đà nhà Tây Hán sang xâm lược. Thục Vương bị hại. Nước Nam lại thuộc nhà Hán. Trải qua Văn Đế, Vũ Đế, tới Kiến Xương (sửa là Vũ), Tô Định làm thái thú nước Nam. Hắn hiếu sát tham tàn, bạo ngược hại dân, mọi người oán hận. Anh hùng bốn bể đều phẫn nộ.

Có Hùng Lạc tướng quân dòng dõi Lạc Long Quân, ngày ấy đã ngoài 60 tuổi. Vợ là Trần Thị Đoan cũng ngoài 40 tuổi. Vậy mà chưa có con nối dõi. Một hôm, bà Trần nằm mơ thấy một đóa mẫu đơn trong cung trăng nở hai bông. Sau đó bà có mang. Đến ngày mùng 1 tháng Tám năm Giáp Tuất trời bỗng tối sầm, trong phòng thì gió thơm ngào ngạt, khí lành phát sáng. Bà trở dạ sinh hai gái, mặt như gương ngọc, sắc như bình vàng, mày ngài, mắt phượng, má phấn, môi son, quả là tiên nữ chốn Bồng Lai, chúa hoa ở Lãng Uyển, không phải là hạng con gái tầm thường. Ông bà chăm chút hai con, đến năm hai con lên ba tuổi, đặt tên là Trắc nương, Nhị nương công chúa. Chú: Thời đó con cái vua chúa và các quan lang phụ đạo, trai thì gọi là hoàng lang, gái gọi là công chúa. (Lời chú này không rõ của ai. Nguyễn Bính hay Nguyễn Hiền? - N.V.P).

Từ đó năm tháng thoi đưa, hai chị em đã 16 tuổi. Nhan sắc nghiêng thành, tư dưng tuyệt thế, làm say hoa đắm nguyệt, cá lặn chim sa. Cả hai văn võ kiêm toàn, tài chí như thần, kiếm cung đều giỏi, cầm kỳ đều hay. Ai cũng coi là thế thượng thần tiên, nữ trung hào kiệt.

Năm Trắc nương 19 tuổi, gả về Chu Diên huyện lệnh Thi Sách. Vợ chồng hòa hợp. Được vài năm, Thi Sách bị Tô Định giết hại. Trắc nương cảm nghĩa chồng, căm giận giặc Tô, nuôi chí báo phục, mới dành chứa binh lương, chiêu mộ anh hùng hào kiệt... Bà thường nguyện: bốn bể anh hùng hãy tới giúp chúng tôi trừ Tô Định, lấy lại non sông.

Một ngày kia, Trắc nương phong em là Quốc Khôi công chúa1, sai truyền hịch chiêu dụ phụ tướng nữ binh trong thiên hạ tới phù tá. Quốc Khôi phụng mệnh. Trong mười lăm ngày phụ tướng nữ binh anh tài trí dũng có dư hai nghìn người kéo tới ứng mộ, cho làm nội giá.

Lại nói, khởi binh được một năm, tướng sĩ nam nữ tới ba vạn người. Hội tại Phong Châu thành bên sông Bạch Hạc. Trắc nương xưng là Trưng Nữ Vương, mổ trâu, ngựa khao quân, phong tước mệnh, phân phẩm vật cho chư tướng. Các đạo nội giá đều là nữ, đông tới hai nghìn người.

Ngay ngày hôm đó, cử binh đến cửa Hát Giang, đại hội ở bãi Trường Sa, Trưng Nữ Vương điểm binh sĩ, lập đàn kỳ đảo thiên địa bách thần2, khấn rằng: Nguyện trời đất bách thần phù trì: Thiếp tôi là nữ nhi, lòng thù dấy nghĩa, những lăm trừ Tô Định là kẻ khác nòi khác giống. Hắn đối với dân rất bạo ngược, dạ sói lang, hình dê chó, nhiễu loạn non sông làm sinh dân nghiêng ngửa. Thiếp tôi lòng đau, nghĩ tới tính mệnh mọi nhà mà khởi binh trừ Tô Định. Nguyện trời đất bách thần phù trì giúp đỡ cho thành công. Đức ấy dài vậy”.

Khấn xong, bỗng trên đàn mây đen bao phủ, gió mau dữ dội, cờ xí phần phật bay, chỉ về phía đất giặc. Trưng Nữ Vương cùng bách quan lễ tạ.

Cùng ngày, Trưng Nữ Vương cử binh tiến về huyện Chu Diên thuộc phủ Tam Đới3. Thời gian đó Tô Định xây thành Chu Diên. Trưng Nữ Vương tiến đến trang Cổ Lôi, lập đồn binh cự chiến Tô Định. Lúc đó trang Cổ Lôi các họ đều theo Hai Bà4. Còn chọn thêm 27 cô gái tài ba đi theo hầu nội giá.

Đến ngày mùng 7 tháng Giêng, khao quân trong vòng mười ngày. Sau đấy binh tướng chia các đạo đánh thành Tô Định. Bốn mặt la hò, các đạo cùng tiến, lửa đốt tứ bề. Tô Định không kịp dàn binh, bỏ chạy ra ngoại thành. Trưng Nữ Vương và chư tướng tiếp đến. Tô Định đại bại, chạy thẳng. Trưng Nữ Vương đuổi Tô Định đến Cổ Lôi trang, nơi đây đã có lập sẵn đồn binh. Phục binh đổ ra. Quân Tô binh tướng chịu chết, hơn một nghìn tên bị mất đầu. Đất Cổ Lôi máu chảy thành sông, xương cốt cao như núi. Tô Định chạy về bắc ngạn.

Trưng Nữ Vương lấy lại sáu mươi thành, thu phục cõi bờ. Từ đó Nam bang nhất thống. Trăm quan đón xa giá Trưng Nữ Vương vào thành Chu Diên, bà lên ngôi vua, xưng là Trưng Vương, phong em là phó vương. Từ đó thanh bình, Trưng Vương lập đô thành tại đất Phấn Lộ, huyện Chu Diên5. Ở Cổ Lôi trang, Trưng Vương lập một hành cung, năm tháng ban yến tiệc tại xứ Đầu Bàng Thượng là một dải đất có thế đẹp như một nhị sen hóa thành nơi chim phượng quần hội, gò đống bao bọc lấy minh đường, sông nước nhiễu quanh xinh đẹp...

Lại nói từ Trưng Vương ở ngôi, dân Cổ Lôi được ban họ tên, ra vào cung điện, quan tước đầy triều, vua tôi đồng đức. Thiên hạ thanh bình. Trăm họ âu ca. Không ai không thỏa lòng về cuộc sống. Không một vật nào là không được nuôi dưỡng.

Trưng Vương ở ngôi ba năm, rừng vắng hổ báo, nước chẳng ba đào, vua sáng tôi hiền, thiên hạ đều ái mộ. Đức như núi cao biển rộng, khác nào trời Nghiêu, vua Thuấn...

Lại nói Hán Quang Vũ nghe nước Nam có vua đàn bà, bèn sai Phục Ba tướng quân Mã Viện đưa quân sang đánh nước ta. Quân Hán hơn mười vạn, tướng ba nghìn viên, rầm rộ tiến tới biên giới. Quân thủy cũng gồm trên một vạn thuyền đi theo sông Giang, Hán. Lại có thêm hàng vạn ngựa chiến kèm theo.

Nhận được thư báo cáo cấp của biên quan, Trưng Vương cử tướng tuyển binh. (Chú: Cổ Lôi có năm tướng thuộc năm họ được phong hầu). Trên ba mươi viên danh tướng được phái đến các đạo ải quan cự chiến.

Qua vài năm, quân Hán thường thua, vừa chết trận vừa chết bệnh tới quá nửa, lùi về Giang, Hán, dâng biểu lên vua Hán6.

Trưng Vương nghe tin quân Hán lại vào cõi, cùng em là Quốc Khôi công chúa thay đai giáp nam giới, cưỡi ngựa cầm gươm cùng các nữ tướng tùy tòng năm trăm người cùng mặc áo quần nam tướng và một nghìn tướng nam ra nghênh chiến. Qua vài tháng, hai bên đánh dư mười trận không phân thắng bại. Tới một ngày, quân Hán tiến tới phủ Hạ Đồng, Hải Dương, nơi đó quân Trưng Vương đã lập đại đồn. Mã Viện phân các đạo bao vây tứ phía. Hai Bà không kịp bày trận, liền lên ngựa dẫn cánh quân thủ túc xông ra phá vây, chém được vài chục viên tướng Hán. Bỗng trời nổi gió dữ thổi tung cân đai, làm lộ hình là nữ. Quân Hán thấy vậy reo to lên: “Vua đàn bà, tướng đàn bà, ta nhất định bắt sống”. Chúng cởi hết quần áo xông vào. Nữ quân Trưng Vương hổ thẹn chạy tán loạn. Trưng Vương cũng phi ngựa chạy, đến Thạch Thành huyện thuộc phủ Kinh Môn, hai chị em thúc ngựa phi lên đỉnh núi và hóa. Đó là ngày mùng 8 tháng Ba. Lúc đó trời u ám tối sầm gió mưa gầm rít. Quân Hán rút chạy về thành.

Từ đó nước ta lại bị Đông Hán đô hộ.

Nói về các bề tôi của Trưng Vương, cảm công đức của Bà đứng ra tu sửa hành cung (nơi ban yến tiệc) thành đền miếu phụng thờ.

Năm Hồng Đức thứ nhất (1572) mùng 10 tháng Giêng, Hàn Lâm viện, Đông Các đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính phụng soạn.

Năm Vĩnh Hựu thứ ba (1737) ngày lành tháng Hai, Quản giám bách thần tri điện, Hùng Lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền xét riêng bản cổ mà sao lại.

Năm Tự Đức thứ hai mươi sáu (1874) mùng 10 tháng Giêng, đồng xã sao lại7.
_____________________________________
1. Bản Hát Môn: “Bình Khôi công chúa”.
2. Bản Hát Môn thêm lời chú thích: “Nay, ngày mùng 4 tháng Chín đại tế tam sinh là do ngày này mà có”.
3. Bản Hát Môn thêm lời chú thích: “Nay là phân phủ Vĩnh Tường”. (Chi tiết này chứng tỏ bản Hát Môn được sao lại sau năm 1832 là năm tách hai huyện Yên Lạc và Yên Lãng đặt làm phân phủ Vĩnh Tường).
4. Bản Hát Môn thêm lời chú thích: “Nguyên tên cổ là Cổ Lai, sau cải là Cổ Lôi, sau nữa mới cải là Hạ Lôi”. (Chú thích này nhầm, vì chính ra là: Cổ Lôi - Cổ Lai - Hạ Lôi).
5. Bản Hát Môn chép khác hẳn: “Trưng Vương lập đô tại Mê Linh (nay là Hạ Lôi, Yên Lãng), đổi ra họ Trưng, đặt quốc hiệu là Triệu, lấy Cổ Lai làm thang mộc ấp, sửa hành cung, phong hầu cho năm họ, chốn cỏ rậm thành triều đình. Dân chúng không ai ngờ lại có ngày như vậy, thật rạng rỡ uy nghi, bốn phương ngưỡng vọng, thoát tai ách, được thái bình. Từ đấy nước Nam yên vui.
    Trưng Vương ở ngôi bốn năm, rừng vắng hổ báo, nước chẳng ba đào...” (trở đi giống như bản Hạ Lôi).
6. Bản Hát Môn chép khác: “... lùi về Giang, Hán. Viện có ý lo sợ. Hắn nhớ lời em Thiếu Du nói dạo trước, cái ngày da ngựa bọc thây có thể là lúc này chăng! Viện tâu vua Hán xin viện binh. Quang Vũ cấp thêm cho mấy vạn lính.
    Lúc này, quân Trưng Vương đóng ở Hải Dương, Hạ Hồng phủ. Mã Viện hợp binh lại đánh. Qua mấy tháng xảy ra vài chục trận không phân thắng bại. Bỗng một trận gió mạnh nổi lên làm loạn quân ta, không giống như trận gió ngày trước ở đàn thề. Thế không giữ được, Vương cùng phó vương lui giữ Cấm Khê. Viện tiến quá Đông Kinh, quân đến hồ Lãng Bạc (nay là Tây Hồ). Vương dừng lại ở Hy Sơn (nay là Ngân Thị - Chợ Ngân), đóng tại đó, thề không đội trời chung với giặc. Bỗng hiện một người vận triều phục, tâu rằng: “Phụng mệnh Thượng đế ở dương trần đã lâu. Nay vận số đã hết, thỉnh xe rồng về chầu trời. Chốn thủy cung sẽ là nơi lăng tẩm mộ phần”. Vương biết số trời khó tránh. Anh hùng không luận ở thành bại. Ngày mùng 8 tháng Ba, Vương và bà em gieo mình xuống Hát Giang. Anh hồn thường giúp dân giúp nước. Dân nhớ công ơn lập miếu thờ.
    Hồng Phúc năm thứ nhất... (trở đi giống bản Hạ Lôi).
7. Bản Hát Môn không có dòng này.

NHỮNG VĂN BIA VỀ SỰ TÍCH HAI BÀ TRƯNG

Cho đến nay, trên toàn khu lưu vực sông Hồng chỉ mới biết có hai tấm bia nói về sự tích Hai Bà. Hai tấm bia này lại cùng ở một nơi: đền Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng - nội thành Hà Nội), ra đời cách nhau tám năm. Cả hai đều có tên là Trưng Vương sự tích bi ký.

Để bạn đọc tiện tra cứu, dưới đây là bản dịch hai bài văn bia đó:

1. BIA GHI SỰ TÍCH TRƯNG VƯƠNG

Trên đời có những sự nghiệp kỳ lạ, làm cho người ta không thể ngăn được lòng hâm mộ và xúc động.

Nước Đại Nam ta, từ đời Hồng Bàng đến đời Lê, trước sau trong khoảng mấy nghìn năm, có những bậc anh hùng nối tiếp nhau chiếm cứ các vùng châu thổ, dựng nên các triều chính thống như bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê.

Than ôi! Đấng trượng phu là phải như thế.

Trong nữ giới mà trượng phu, chính là Hai Bà Trưng. Hai Bà là con Lạc tướng, cháu Lạc vương, vốn không phải người thường. Nhưng từ khi nước Văn Lang bị mất, thế nước thuộc về nhà Thục, nhà Triệu, rồi đến nhà Hán, lệ thuộc nước ngoài hơn hai trăm năm. Việc ấy không cần bàn luận. Thêm vào đó, bọn thái thú nhà Hán hoành hành bạo ngược, những bậc hào kiệt chưa ai nổi dậy. Buổi ấy, trong nước có việc kỳ lạ lắm thay! Đó là việc Bà Trưng chị vì chồng, Bà Trưng em vì chị, xắn cánh tay, hô một tiếng, bọn thái thú bạo ngược bỏ chạy. Trong khoảng vài ngày, bình định được hơn năm mươi thành, oai vũ lừng khắp cõi Lĩnh Nam, thanh danh làm rung động đất Hoa Hạ. Mặc dầu trí dũng như Phục Ba mà Hai Bà vẫn ba lần đánh thắng, thanh thế làm cho người Hán bao phen ngày đêm vất vả. Đến lúc việc chẳng chiều lòng, cùng nhau xắn tay, nhảy xuống sông Hát. Trí tuệ như thế ai mà sánh kịp, tài lược như thế ai mà sánh kịp, nghĩa khí như thế ai mà sánh kịp. Chị em một nhà, anh hùng muôn thuở, Hai Bà quả là bậc người hiếm có trong nữ giới và việc làm của Hai Bà cũng khó mà có được trong nữ lưu.

Các đấng trượng phu làm việc vốn không cần bàn luận thành bại, mà việc làm của Hai Bà lại càng không nên lấy thành bại mà luận bàn. Nghìn đời sau, đọc trang sử cũ, khiến mọi người đều tăng thêm chính khí. Đến bản triều Hai Bà vẫn được ghi vào nền tự điển1. Ngoài ra, miếu thờ Hai Bà đâu đâu cũng có, ấy là do uy thiêng của Hai Bà lưu truyền lại. 

Tại làng Đồng Nhân, huyện Thanh Trì, từ xưa có lập đền thờ Hai Bà ở bãi sông. Về sau sông lở, dân làng chọn được một nơi ở Võ Miếu cũ, thuộc thôn Hương Viên, huyện Thọ Xương, được ban cấp hơn sáu mẫu đất để lập đền làm nơi hương đèn phụng thờ. Việc ấy được vua xuống chỉ chuẩn y. Thế là triều đình đã thể theo nguyện vọng của dân, điều đó có bằng cứ rõ ràng. Còn như việc thi thể không hóa và những điều linh ứng lạ lùng thì đều là những sự truyền miệng thêm thắt.

Nhân tìm được tấm bia bỏ không ở nơi đền mới, người ta cậy tôi viết bài văn, ý muốn mượn bia để truyền lại những việc đó. Tôi cũng mượn bia này để bày tỏ ý kiến, giúp người xem bia hiểu cho đúng. Vậy có bài ký này.

Năm Minh Mạng thứ hai mươi mốt trong muôn vạn năm. Canh Tý (1840) trung tuần tháng năm ngày tốt dựng bia.

Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826) nguyên đốc học Bắc Ninh, Vũ Hoàn Phủ, hiệu Đường Xuyên soạn2.
Theo bản dịch của Lê Thước - Trần Huy Hà
(Nghiên cứu Lịch sử số 149).

_____________________________________
1. Tự điển: sự tích các thần thánh và phép tắc thể lệ thờ cúng ở các đền miếu của các triều vua xưa. Hễ một vị thần được ghi vào Tự điển tức là được triều đình xếp hạng.
2. Chính là Vũ Tông Phan (1804-1862) gốc ở Bình Giang (tỉnh Hải Dương cũ) ngụ tại làng Tự Tháp, huyện Thọ Xương, tức khu vực các phố Hàng Trống, Lê Thái Tổ ngày nay. Ông là một danh sĩ của Thăng Long thời đó.

2. BIA GHI SỰ TÍCH TRƯNG VƯƠNG

Trong khoảng vũ trụ, sự nghiệp kỳ lạ phần nhiều ra từ những khách trượng phu. Phận gái làm nên sự nghiệp lạ, chẳng cũng là bậc nữ trượng phu sao? Như thế lại càng đáng ghi lắm.

Nhớ Hai Bà Trưng người Châu Phong, cha là Lạc tướng, tổ là Hùng Vương. Kể về dòng dõi kẻ thường không sánh được. Huống nữa Hai Bà đem tấm thân ngọc trắng giá trong, ôm cái chí tang bồng, hoài bão không phải vừa. Hành động lớn lao chẳng ở đấy thì ở đâu?

Từ khi nước Văn Lang nửa vời sụp đổ, bờ cõi mất về tay Thục, Triệu và Lưỡng Hán đến vài trăm năm. Thêm nỗi ngọn lửa bạo ngược của Tô Định lại lưng trời ngùn ngụt bốc.

Hai Bà, vợ vì chồng, em vì chị, bừng bừng nổi giận vùng dấy nghĩa binh, ném trâm thoa mà mặc giáp trụ, nhãng gương lược mà cầm gươm đao, không đầy vài tháng mà lược định 56 thành ngoài Ngũ Lĩnh, dựng nước, xưng vương, định đô Mê Linh. Chẳng phải sự nghiệp kỳ lạ là gì đấy?

Đến lúc phải lui về Cấm Khê, tuẫn tiết ở Hát Giang, cũng là bởi trời chứ há nên bình luận, anh hùng theo thành hay bại.

Nhưng xét đến gan dạ kia, mưu lược kia, tiết tháo kia thì Hai Bà thật không thẹn là dòng dõi thần minh.

Sau khi mất, chân thân Hai Bà hóa thành đá hiển linh ở bến sông Nhị Hà. Năm Đại Định thứ ba (1142) vua Lý Anh Tông sai lập đền ở bãi Đồng Nhân, huyện Thanh Trì để thờ Hai Bà, rất linh ứng. Các triều đều có sắc phong.

Hoàng triều ta trọng điển lễ, đã phong sắc rồi. Năm trước, đền cũ hư hỏng vì nỗi sông lở cát bay, đã được chỉ dụ nhà vua cho dời vào thôn Hương Viên, huyện Thọ Xương để dân xã thờ phụng.

Nghìn thu hương lửa, dằng dặc với trời đất không cùng.

Nay nhân sửa đền, xin kính thuật sơ qua sự tích Hai Bà để khắc vào đá, truyền lâu dài.

Hậu quân Đô thống phủ đô thống lĩnh Hà Ninh tổng đốc Vũ Khê tử Tôn Thất Bật kính ghi.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848 ) trong muôn vạn năm ngày lành, tháng Tư. Cử nhân tỉnh Hưng Yên hiện làm đốc học Hà Nội, Dương Duy Thanh kính soạn1.
Theo bản dịch của Hoa Bằng
(Tạp chí Tri Tân số 39)
24-3-1942
_____________________________________
1. Dương Duy Thanh (1804-1861) hiệu là Nhạn Phong, đỗ cử nhân năm 1828, người làng Phú Thị, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cũ, nay là huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng, là một nhà giáo dục nổi tiếng đồng thời là một nhà thơ đặc sắc. Người bấy giờ khen là một trong “quốc sĩ tứ kiệt”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

A. SÁCH VIỆT NAM

Đại Việt sử ký toàn thư - Bản dịch của Cao Huy Giu - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - năm 1967.
Việt sử thông giám cương mục - Bản dịch của Viện Sử học - Nhà xuất bản Văn sử địa - năm 1957.
Thần tích các làng có thờ Hai Bà và các tướng lĩnh.
Sưu tập thần tích của các tỉnh Phúc Yên, Sơn Tây, Hà Đông - Thư viện Khoa học xã hội.
Trưng Vương lưỡng vị thánh sắc - Thư viện Khoa học xã hội.
Lịch sử cổ đại Việt Nam - Giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến - Đào Duy Anh - Đại học sư phạm xuất bản - năm 1957.
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập I - Trần Quốc Vương và Hà Văn Tấn - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1963.
Lịch sử Việt Nam - Quyển I, tập I - Trương Hữu Quýnh - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1970.
Lịch sử Việt Nam - Tập I - Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - năm 1971.
Lịch sử Việt Nam - Viện Sử học - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - năm 2001.
Đất nước Việt Nam qua các đời - Đào Duy Anh - Nhà xuất bản Khoa học - năm 1964.
Một số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng - Nhiều tác giả - Ty Văn hóa Hà Sơn Bình - năm 1979.
Truyền thuyết Trưng Vương - Nhiều tác giả - Chi hội văn nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú - năm 1975.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử trong những năm 1962 đến 2003.
Những phát hiện mới về khảo cổ học các năm 1972 đến 2003.
B. SÁCH TRUNG QUỐC

Hậu Hán kỷ - Viên Hoành - Lĩnh Nam thuật cổ đường khắc bản. Sách của Thư viện Khoa học xã hội.
Hậu Hán thư - Phạm Diệp - Thương Vụ ấn thư quán xuất bản. Sách của Thư viện Viện Sử học.
Thủy kinh chú - Lịch Đạo Nguyên - Thương Vụ ấn thư quán xuất bản. Sách của Thư viện Viện Sử học.
Tư trị thông giám - Tư Mã Quang - Cổ tịch xuất bản xã. Sách của Thư viện Viện Sử học.  
C. SÁCH PHÁP

L’expédition de Ma Yuan - H.Maspéro - Trong tập san BEFEO, tập XVIII - 1918.
Le Tonkin ancien - CI.Madrolle - Trong tập san EEFEO, tập XXXVII - 1937.
Hết!


Sưu tầm: Nguồn ông Nguyễn Vinh Phúc