Sau
65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010,
các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông
đã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững.
Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan
võ kiệt xuất đã làm bừng sáng Thăng Long. Trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương
nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một
mốc son chói lọi vào năm 1076. Thật vậy, cuộc chiến tranh
xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm
1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều
Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo
lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất
oanh liệt, đầy trí dũng, minh chứng sự sáng suốt của Lý
Thái Tổ khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long.
Các nhà sử học đã nghiên cứu sự kiện lịch sử 1076 khá
sâu và đã từng công bố, thu hút sự chú ý của độc giả,
khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Cũng vì lẽ đó, một số sự kiện lịch sử quan trọng khác
đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đánh
giá đúng tầm, thậm chí có thể bị đại chúng quên lãng.
Tượng Lý Thái Tổ |
Tượng Lý Thái Tôn |
Tượng Lý Thánh Tông |
Tượng Lý Nhân Tông |
Trong tâm cảm "Từ
thuở mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng
Long", chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học
thường nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm
từ "phá Tống bình Chiêm", và các nhà nghiên cứu lại tập
trung vào những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó,
vào thời
Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt
đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của
vua Suyrayavarman II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc
Chân Lạp, thì ít nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suyrayavarman
II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành
trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm
thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất
bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh
đánh phá Đại Việt năm 1150.
Trước khi đi vào
giai đoạn lịch sử bi tráng của Đại Việt và đế quốc
Chân Lạp thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông và Suyrayavarman II
trị vì, thiết tưởng điểm qua bối cảnh lịch sử chính
trị, ngoại giao, quân sự của vài đời vua Lý, vua Chiêm và
vua Chân Lạp trước Lý Thần Tông, Suyrayavarman II, Jaya Harivarman
VI:
Trước hết điểm
qua thực lực của các nước Tống, Chiêm, Chân Lạp thuộc
liên minh chống Đại Việt để thấy tư thế vững mạnh của
Đại Việt lúc ấy :
Thêm chú thích |
Đến năm Bính Thìn
[1076], Thái Ninh năm thứ 5, triều đình Tống Thần Tông, kinh
đô Khai Phong, đang phải đối phó với nước Kim, nước Liêu
ở phía Bắc và nội bộ đang chia rẽ trầm trọng, nhưng vì
nước Tống là một đại quốc, đang hận chưa lấy được
Đại Việt mà còn bị Đại Việt đánh vào châu Ung, châu
Khâm trước đó nên họ vẫn quyết tâm đánh chiếm Đại
Việt. Triều đình Tống Thần Tông từ kinh đô Khai Phong
rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp ở phía
tây nam Đại Việt, nhằm tiêu diệt Đại Việt đang tự cường
và tự chủ.
Vua nhà Tống, rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp, năm 1076, nhằm xâm chiếm và sát nhập Đại Việt vào đồ bản Trung Hoa |
Còn nước Chiêm
Thành mặc dầu đã bị Đại Việt đánh bại nhiều lần trước
đó, thậm chí bị đế quốc Chân Lạp cướp phá, nhưng đến
năm 1074, hoàng thân Than lên ngôi xưng là Harivarman IV
(1074- 1080), nước Chiêm Thành phục hưng và vua Harivarman IV
cho dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ
lâu, cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn và xây mới nhiều
đền đài tráng lệ. Ông vua Chiêm Thành này có thực tài nên
vô hiệu hóa một chiến dịch quân sự của Đại Việt, do
Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đánh vào Chiêm Thành
năm 1075.
Thánh địa Mỹ Sơn |
Lúc bấy giờ Chân
Lạp với kinh đô Aêngko đã trở thành đế quốc, nhiều lần
định thôn tính Chiêm Thành nhưng Harivarman IV của Chiêm Thành
cũng chống trả sự xâm lược của đế quốc Chân Lạp. Thật
vậy, sau khi vua Suryavarman I tài ba của đế quốc Chân
Lạp, ngự trị ở Aêng ko, mất vào năm 1050, thì 2 người
con là Udayadityavarman II và Harshavarman III thừa kế
sự nghiệp. Thời kỳ từ 1050 đến 1066 này ở Chân lạp lại
loạn lạc cho đến tận năm 1066. Sau năm1066 Harshavarman III
có thực quyền, thống nhất được đất nước, liền nhiều
lần thân chinh đi đánh Chiêm Thành nhưng không thành công trọn
vẹn.
Một ngôi đền ở Ăngko do Harshavarman III xây dựng |
Tuy Tống- Chiêm-
Chân Lạp liên minh đánh Đại Việt nhưng không chặt chẽ,
chủ yếu vẫn là quân Tống tham chiến dưới sự chỉ huy
của
Chiêu thảo sứ Quách Quỳ. Khi liên minh này xâm
lược Đại Việt vào tháng 3, mùa xuân năm Bính Thìn [1076]
đã bị Đại Việt đánh bại, quân xâm lược Tống phải
đền tội hơn 1000 binh. Vua Lý Nhân Tông anh minh đã sai Lý
Thường Kiệt thống lĩnh đại quân để chống quân Tống.
Với tổng chỉ huy tài ba Lý Thường Kiệt, quân Đại Việt
đã làm nên đại thắng ở đại phòng tuyến Như Nguyệt lẫy
lừng trong lịch sử. Vua Lý Nhân Tông vẫn ngự ở kinh đô
Thăng Long để đọc thư báo tiệp mỗi ngày.
Tượng đài Lý Thường Kiệt |
Trên đây, chỉ
điểm lại vài nét của mốc son 1076, ghi dấu Đại Việt chiến
thắng oanh liệt trong cuộc xâm lược của liên minh Tống,
Chiêm, Chân Lạp, xin được chuyển qua nội dung chính của
bài viết.
Thế kỷ 11, 12 Chân
Lạp đang trên đà mở mang lãnh thổ, chiếm nhiều đất đai
của Chiêm Thành, Thái, Lào, Miến để phát triển thành đế
quốc Chân Lạp. Vì các vua Chân Lạp từ 1000 đến 1128 phải
giải quyết những bất ổn về nội trị, phải chống trả
những cuộc xâm lược của Champa do Harivarman IV thân chinh.
Và do những chiến công "phá Tống bình Chiêm" vang dội của
Đại Việt dưới thời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân
Tông nên đế quốc Chân lạp luôn giữ mối bang giao hòa hiếu
với Đại Việt.
Đại Việt sử ký toàn thư chép những năm
Chân Lạp có cử sứ giả sang Đại Việt để bang giao: 1012,
1014, 1020, 1025, 1026, 1039, 1056, 1077, 1089, 1120, 1123. Thời kỳ
này, chỉ một lần ngoại giao giữa Đại Việt và đế quốc
Chân Lạp có xấu đi khi đế quốc Chân Lạp liên minh với
Tống trong cuộc xâm lược năm 1076, trên danh nghĩa chứ không
thực sự tham chiến. Sau khi Harshavarman III tử nạn, do Harivarman
IV của Champa gây ra, khi vua này thân chinh đánh phá Aêngko vào
1080. Sau cái chết của Harshavarman III là thời kỳ trị vì
của Jayavarman VI (1080 - 1107 ) và Dharanindravarman I
(1107 - 1113), nói chung hai ông vua này không có gì nổi bật.
Năm 113, người cháu trai của Dharanindravarman I làm cuộc đảo
chánh dân sự, giết vua Dharanindravarman I để cướp ngôi và
trở thành vị vua kiệt xuất Suryavarman II của đế quốc Chân
Lạp. Và kể từ khi ông vua đầy tham vọng và hiếu chiến
này lên ngôi, tình hình Đông Nam Á đầy bất ổn, luôn xảy
ra xây dựng lớn mà tàn phá cũng lớn.
Giữa Đại Việt
và đế quốc Chân Lạp không còn hòa hiếu như xưa, vì tham
vọng quá lớn của Suyrayavarman II.
Suyrayavarman II được khắc trên một phù điêu bằng đá ở Angko Wat |
Dưới triều đại
của Suyrayavarman II, ở kinh đô Aêngko, ngôi đền lớn nhất
Ăngko Wat được xây dựng trong khoảng thời gian 37 năm. Angko
Wat là nơi thờ thần Vishnu. Vương quốc Haripunjaya của dân
tộc Môn (nay là miền Trung Thái Lan) bị Suyrayavarman II thôn
tính. Một khu vực xa hơn về phía tây của vương quốc Pagan
(nay là Myanmar )cũng bị Suyrayavarman II xâm chiếm và nhập vào
đồ bản của đế quốc Chân Lạp. Phía nam, Suyrayavarman II
cũng lấn đến vương quốc Grahi (nay là tỉnh Nakhon Si Tham
marat của Thái Lan) thuộc khu vực bán đảo Malay. Về phía
đông, nhiều vùng của Chiêm cũng bị sáp nhập vào đế quốc
Chân Lạp. Về phía bắc, các vùng đất song song với Đại
Việt, đến biên giới phía bắc của Lào ngày nay cũng bị
Suyrayavarman II thôn tính. Như thế thời Suyrayavarman II đế
quốc Chân Lạp có lảnh thổ với diện tích gấp 10 diện
tích lãnh thổ Đại Việt.
Quang cảnh Ăngko Wat do Suyrayavarman II xây dựng 37 năm |
Bản đồ đế quốc Chân Lạp vào thời Suyrayavarmann II |
Vào năm 1080, sau
khi hòa hoãn với Đại Việt, vua Harivarman IV của Champa đã
xua quân đánh đế quốc Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom
Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá
kinh thành Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm
tù binh. Năm 1145, vua Suryavarman II của Chân Lạp phục thù,
đánh Champa chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu thánh địa Mỹ sơn.
Mãi đến năm 1149 vua Chiêm mới đuổi được quân xâm lược.
Ảnh chụp vệ tinh bình đồ kinh đô Ăngko của đế quốc Chân Lạp |
Phù điêu đá chạm nổi đoàn binh của vua Chân Lạp ra trận ở Ăngko |
Năm 1128, Suyrayavarman
II hòa hoãn với Harivarman V của Champa để dồn sức tấn công
Đại Việt. Sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà ngày 4 tháng chạp
năm Đinh Mùi[1127] tại điện Vĩnh Quang, ngày 8 tháng chạp
linh cửu quàng ở điện Hồ Thiên, Hoàng thái tử Lý Dương
Hoán lên ngôi trước linh cửu, chưa kịp táng tiên đế, chưa
đầy hai tháng quốc tang thì Suyrayavarman II đã cử quân tướng
2 vạn sang xâm lược Đại Việt từ ngày 29 tháng giêng Mậu
Thân [1128]. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Mậu
Thân, Thiên Thuận năm thứ 1[1128]. Mùa xuân, tháng giêng...Ngày
Giáp Dần, hơn hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba
Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó
Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ
An đi đánh.". Quân Chân Lapl hơn hai vạn, của một đế
quốc với lãnh thổ rộng gấp mười Đại Việt, với sự
lãnh đạo của một hoàng đế kiệt hiệt như Suyrayavarman
II, đã từng thôn tính nhiều vương quốc, thì đây là một
cuộc xâm lược đích thực, không dừng lại ở mức cướp
bóc!
Vua Lý Nhân Tông đã tiên liệu khi để lại di chiếu,
có đoạn dặn dò : "...Mà thái tử Dương Hoán tuổi đã
tròn một kỷ[12 tuổi], có nhiều đại độ, thông minh thành
thật, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm
mà lên ngôi hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời, nối
thân ta truyền nghiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm công
nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi
một lòng giúp rập mới được. Này Bá Ngọc, ngươi có khí
lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để phòng
việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng
không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi
thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải
kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên
cạnh tiên đế..."(sdd, tr 296). "Việc không ngờ" đâu chỉ
"biến động giành ngôi của các thân vương" mà còn nạn ngoại
xâm của các lân bang nữa. Ngày Quí Hợi tháng hai, tướng
Lý Công Bình đã đánh bại quân xâm lược Chân Lạp ở bến
Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính. Ngày Đinh Mão,
tháng 2, khi các quan dâng biểu mừng vua lên ngôi thì cũng là
ngày nhận thư báo thắng trận của Lý Công Bình gửi về
kinh sư. Tháng 3, Lý Công Bình đem binh về kinh sư, dâng tù
169 người.
Tượng Lý Thần Tông |
Bị thua đau vào
cuối tháng giêng, chỉ hơn nửa năm, vào tháng 8, hoàng đế
Suyrayavarman II lại lệnh cho một đạo quân lớn gồm 700 thuyền
chiến lại đánh phá ở hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An
(nay thuộc Hà Tĩnh). Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu
sai tướng Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hóa, tướng Dương Ổ ở
châu Nghệ An đem quân đánh và phá được giặc. Suyrayavarman
II lại gửi hoàng đế Lý Thần Tông một phong quốc thư, yêu
cầu Đại Việt cử sứ giả sang Chân Lạp. Vua Đại Việt
không thèm trả lời.
Bốn năm sau, Nhâm
Tý [1132], Thiên Thuận năm thứ 5, Suyrayavarman II của Chân
lạp cử tướng hội quân cùng với Chiêm Thành lại đánh
châu Nghệ An. Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai Thái
úy Dương Anh Nhĩ huy động quân binh ở phủ Thanh Hóa và châu
Nghệ An chống trả mạnh mẽ, kết quả phá tan quân xâm lược.
Năm Ất Mão [1135],
Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 3, không xâm lược được Đại
Việt, Chân Lạp và Chiêm Thành chuyển qua hòa hoãn đều cử
sứ giả sang Đại Việt. Chỉ hai năm sau, vào năm Đinh Tỵ
[1137], Thiên Chương Bảo Tượng năm thứ 5, Suyrayavarman II,
chưa nguôi hận, lại sai tướng Phá Tô Lăng đưa quân đánh
phá châu Nghệ An. Mặc dầu sử Việt không ghi chép số lượng
quân Chân Lạp, nhưng có thể đoán định quân xâm lược phải
có số quân lớn đáng kể, vì hoàng đế Lý Thần Tông phải
xuống chiếu sai Thái úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chỉ
một tháng sau, vừa địch họa lại gặp động đất "nước
sông đỏ như máu", nhưng Thái úy Lý Công Bình cũng đánh tan
được quân giặc.
Thế kỷ thứ 12,
Champa vào thời vua Jaya Indravarman V [1086-1139]đã liên minh với
Chân Lạp để gây chiến tranh chống lại với Đại Việt.
Sau những lần xâm lược Đại Việt không thành công, Suyrayavarman
II của đế quốc Chân Lạp quay ra nghi ngờ vương quốc Champa,
dưới triều vua Jaya Indravarman III [1139-1145], đang liên minh
với Đại Việt, quyết định tuyên chiến với Chiêm vào năm
1145. Quân đội viễn chinh của đế quốc Chân Lạp xâm lược
Chiêm, chiếm thành Đồ Bàn, vua Jaya Indravarman III mất tích,
và Suyrayavarman II đặt quyền cai trị ở lãnh thổ miền bắc
Chiêm Thành. Trước tình hình nguy ngập này, vua Jaya Indravarman
VI [1139-1147], thủ lĩnh một tiểu vương quốc Panduranga, quyết
định nổi dậy chống cuộc xâm lăng của đế quốc Chân
Lạp. Vua Jaya Harivarman VI [1147-1163] kế tục nghiệp kháng chiến
và hoàn toàn thắng lợi năm 1149, giải phóng thủ đô Đồ
Bàn và đưa Chiêm Thành thoát khỏi ách thống trị của đế
quốc Chân Lạp.
Trong khoảng thời
gian từ 1145 đến 1149, đế quốc Chân Lạp đã cai trị miền
bắc Chiêm Thành và như thế đế quốc này tiếp giáp Đại
Việt ở phía tây nam. Do Suyrayavarman II phải đối phó với
cuộc kháng chiến mạnh mẽ của hai đời vua ở nam Chiêm Thành
nên tạm hòa hoãn với Đại Việt. Năm 1149 thất bại ở Chiêm,
vua Suyrayavarman II lại thân chinh đánh Đại Việt vào năm 115O.Lúc
bấy giờ vua Lý Anh Tông chỉ mới 10 tuổi, nhưng các quan văn
võ vẫn có người giỏi phò tá, trong đó có thái phó Tô Hiến
Thành là người từng dẹp được giặc Thân Lợi [1141], Thái
sư Mậu Du Đô từng được lệnh vua lo tuần phòng biên giới...Nói
chung việc canh phòng của Đại Việt rất cẩn mật. Đại
Việt sử ký toàn thư chép: " Canh Ngọ [1450], Đại Định
năm thứ 11...Mùa xuân, tháng 3, hạn. Mùa thu, tháng 7 hạn.
Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ
Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng
bèn tự tan vỡ" (sđ d, tr 318).
Vùng
núi Vụ Quang, Hương Sơn, Hà Tĩnh là tử địa
của tàn binh Chân Lạp do Suyrayavarman II chỉ huy năm 1150 |
Các nhà sử học
khi nghiên cứu văn khắc trên bia đá ở Awngko Wat, thừa nhận
Suyrayavarman II từng xâm lược Chiêm, Đại Việt trong khoảng
từ 1145 đến 1150. Năm 1149 bị vua Chiêm anh hùng Jaya Harivarman
IV từ phía nam đánh tới, dồn quân Chân Lạp lui dần về
phía bắc. Có khả năng, vào năm 1150, cuộc tháo lui của quân
Chân Lạp ở thế thua đối với quân quật khởi Chiêm Thành,
lại trở thành chiến dịch xâm lược Đại Việt. Quân Chân
Lạp lúc này vẫn còn do Suyrayavarman II chỉ huy, không những
dùng thủy binh mà còn dùng tượng binh, bộ binh trong trạng
huống "thiên không thời" (hạn hán kéo dài từ xuân đến
thu), "địa chẳng lợi"(Chiêm Thành đang hừng hực kháng chiến,
Đại Việt lo phòng vệ cẩn mật), "nhân không hòa"(cả người
Chiêm và người Đại Việt đều oán hận đế quốc Chân
Lạp) cho nên đoàn quân xâm lược của Suyrayavarman II đã có
một kết thúc bi thảm ở núi Vụ Thấp, còn gọi núi Vụ
Ôn, tức núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn tĩnh Hà Tĩnh. Có
khả năng Suyrayavarman II và phần nhiều binh lính của ông vua
hiếu chiến đã chết thảm vì lam chướng ở tử địa Vụ
Quang, quân Chân Lạp còn lại như rắn mất đầu và chỉ còn
số ít nên tự tan vỡ. Ăngko Wat hoành tráng đầy kiêu hãnh
do Suyrayavarman II khai sinh, nhưng cũng là nổi đau của linh hồn
Suyrayavarman II đang vất vưỡng đâu đó trong mây núi Vụ Quang
; bởi không có một phiến đá nào ở Awngko Wat ghi lại ngày
tháng năm tử trận của một hoàng đế đầy tham vọng. Tự
hào thay, con cháu họ Lý của miền Diên Uẩn-Cổ Pháp, những
hậu duệ kiệt hiệt của dòng họ Lý Lĩnh Nam, nối tiếp
dòng máu bất khuất của người anh hùng Lý Nam Đế, từng
trị vì đất nước Vạn Xuân vang bóng một thời độc lập
tự chủ.
Trần Viết Điền
Ảnh
bầu trời đền Lý Bát Đế, trong ngày kỵ vua Lý Anh Tôn,
có các đám mây như rồng chầu về ngôi đền |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét