I
- NHÀ LÝ - ĐIỆN CÀN NGUYÊN - ĐIỆN THIÊN AN
1010 - Năm
Canh Tuất tháng 7, Lý Thái Tổ đóng đô ở Thăng Long, dựng
điện Càn Nguyên trên núi Nùng cũng gọi là núi Long Đỗ (1),
làm nơi coi chầu, phía trước là Long Trì (thềm rồng) cao
9 bậc, tả hữu có hai con rồng dài trên một trượng. Bên
tả điện Càn Nguyên là điện Tập Hiền, bên hữu là điện
Giảng Võ, mở cửa Phi Long thông sang cung Nghênh Xuân, cửa
Đan Phụng thông sang cung Uy Viễn, chính hướng Nam là điện
Cao minh, đều gọi là "Thềm rồng". Bên trong Thềm Rồng có
mái cong, hang hiên bao quanh bốn mặt.
Sửa điện Càn
Nguyên, dựng hai điện Long An, Long Thụy làm nơi nghỉ ngơi
của vua. Bên tả làm điện Phật Quang, bên hữu làm điện
Nguyệt Minh , đằng sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thụy làm
chỗ ở cho cung tần.
Dựng kho tàng, đắp
thành, đào hào. Bốn mặt thành mở bốn cửa : phía Đông
là cửa Tường Phù, phía Tây là cửa Quảng Phúc, phía Nam
là cửa Đại Hưng, phía Bắc là cửa Diệu Đức (2).
Cung Long Đức của
Thái tử dựng ở ngòai cửa Đại Hưng.
1020 - Năm
Canh Thân, điện bên Đông bị sét đánh, vua coi chầu ở điện
bên Tây. Dựng ba điện : điện đằng trước để coi chầu,
hai điện đằng sau để nghe chính sự (3).
1027 - Điện
Càn Nguyên bị sét đánh phải phá bỏ (4).
1028 - Năm
Mậu Thìn, Lý Thái Tổ băng ở điện Long An, bầy tôi đến
điện Long Đức xin Thái Tử vâng chiếu mệnh lên ngôi. Nghe
tin, Đông Chính Vương đem quân phục sẵn ở Long thành, các
Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương đem quân phục ở ngòai cửa
Quảng Phúc đợi Thái Tử đến thì đánh úp. Thái tử đi
từ cửa Tường Phù vào đến điện Càn Nguyên biết có biến,
sai họan quan đóng hết các cửa điện và sai trong cung phòng
giữ. Lê Phụng Hiểu đến cửa Quảng Phúc giết Vũ Đức
Vương, hai vương kia chạy thóat. Hiểu đến điện Càn Nguyên
báo cho Thái tử biết (5).
1029 - Năm
Kỷ Tỵ, tháng 6, Rồng hiện ở điện Càn Nguyên. Vua Lý Thái
Tông phán : "Trẫm phá điện Càn Nguyên, san phẳng rồi mà
rồng thềm còn hiện hay là chỗ ấy là đất tốt, đức lớn
dấy nghiệp ở chính giữa trời đất chăng?". Sai quan nhắm
lại phương hướng, theo quy mô rộng rãi hơn xây lại mà đổi
tên là điện Thiên An. Bên tả là điện Tuyên Đức, bên hữu
là điện Diên Phúc, thềm trước điện gọi là Long Trì (Thềm
rồng). Bên Đông Long trì đật điện Văn Minh, bên Tây là
điện Giảng vũ. Hai bên tả hữu Long trì đặt lầu chuông
đối nhau để nhân dân ai có việc kiện tụng oan uổng thì
đánh chuông. Bốn chung quanh Long trì đều có hành lang giải
vũ để các quan hội họp và 6 quân Túc vệ (Cấm quân). Phía
trước làm điện Phụng Thiên, trên điện dựng Lâu Chính
Dương làm nơi giữ giờ khắc. Phía sau dựng điện Trường
Xuân, trên điện dựng Các Long Đỗ làm nơi nghỉ ngơi nhìn
ngắm. Bên ngòai đắp một lần tường thành bao quanh gọi
là Long thành (6).
Thế kỷ 12, bốn
bề sân rồng có hành lang, nhà Giải vũ, và lầu gác. Sân
rồng chính điện là nơi vua thiết triều, đôi khi thiết tiệc
trong dịp lễ long trọng, hoặc lễ tuyên thệ cho các quan,
tổ chức Hội Phật, đấu hổ, đấu voi, chọi gà, đá cầu.
Cuối thế kỷ 12,
sử gia Trung quốc Mã Doãn Luân viết trong Văn Hiến Thông
Khảo : "Vua nhà Lý ở trong một tòa cung điện nguy nga,
cao bốn từng, sơn đỏ, cột chạm rồng phượng, thần tiên,
cực kỳ tráng lệ" (7).
1203 - Năm
Qúy Hợi, gác Kính Thiên sắp xong, có chim khách đến làm tổ,
sinh con trên gác ấy. Các quan can rằng : "Ngày xưa Ngụy Minh
Đế làm gác Lăng Tiêu có chim khách làm tổ. Cao Đường Long
can : "Thần từng nghe câu 'Chim khách có tổ, chim cưu đến
ở '. Nay chim khách tới làm tổ nơi cung khuyết, theo ngu kiến
của thần thì gác ấy có làm xong nữa tất có người khác
đến ở". Xin Bệ hạ xét lời Cao Đường Long, trước hết
hãy sửa đức, sau sẽ hưng công mới là phải". Vua Cao Tông
nghe lời họan quan Phạm Bỉnh Di giục làm càng gấp, nhân
dân rất khổ (8).
II. NHÀ TRẦN - ĐIỆN THIÊN AN
1230 - Năm
Canh Dần, tháng ba, trong thành Thăng Long dựng cung điện, lâu
các. Phía Đông và Tây làm hành lang giải vũ, bên tả là cung
Thánh Từ (chỗ ở của Thượng hòang), bên hữu đặt cung
Quan triều (nơi vua ở) (9).
1288 - Năm
Mậu Tý Trong 30 năm kháng chiến chống quân Nguyên, cung điện
bị tàn phá, sau chiến thắng vua phải ở hành lang Thị vệ.
1256 - Năm
Bính Thìn, tháng 5, sét đánh điện Thiên An và cung Thái Thanh.
III. NHÀ LÊ - ĐIỆN KÍNH THIÊN
1428 - Năm
Mậu Thân, Lê Lợi cho xây điện Kính Thiên ở chính giữa
Hòang thành (Hòang thành đời Lê rộng gấp hai đời Lý, Trần),
trên nền cũ chính điện thời Lý, trên đỉnh núi Nùng (theo
Cố
Lê Dã Lục ), để làm chỗ bàn việc nước.
Tháng tư, ngày rầm,
vua Lê Thái Tổ lên ngôi ở điện Kính Thiên.
Tháng 12, sửa điện
Kính Thiên, bên phải là điện Chí Kinh, bên trái là điện
Vạn Thọ, trước mặt là điện Thị Triều, nơi thiết Đại
triều hàng tháng. Ngòai điện Thị Triều có cửa Đoan môn
(10).
1465 - Năm
Ất Dậu, Lê Thánh Tông sai tu sửa điện.
1467 - Năm
Đinh Hợi, làm thêm lan can đá ở thềm điện, những thành
bậc hiện nay còn thuộc thềm điện làm thời ấy :bốn thành
chạy dài suốt 9 cấp, chia ra 3 lối đi vào điện. Hai dẫy
thành giữa chạm hình rồng bò từ trên nền điện xuống,
hai thành hai bên chạm rồng, giống cách điệu rồng cuồn
cuộn. Mặt ngòai chạm khắc hoa, mây, lửa (11).
1480 - Năm
Canh Tý, lớp thành ngòai bao bọc tòan bộ khu Hòang thành và
dân cư, lớp thành giữa bao bọc tòan bộ kiến trúc thuộc
nhà vua gọi là Hòang thành, lớp trong cùng bao quanh các cung
điện lầu các, nơi vua ở, làm việc, nghỉ ngơi, gọi là
Cấm thành. Điện Kính Thiên ở giữa Cấm thành.
Các quan vào chầu,
đến cửa Đoan môn, nếu gập ngày mưa thì tạm trú ở hai
bên hành lang Đông, Tây. Cửa Đoan môn gắn liền với sân
Đan Trì ở trước điện Kính Thiên, nơi dàn bầy nghi trượng
và các quan đứng hầu (12).
IV- NHÀ MẠC - ĐIỆN KÍNH THIÊN |
1527 - Năm
Đinh Hợi, tháng 6, Mạc Đăng Dung xưng Đế, tiếm ngôi được
ba năm, đến năm 1529 thí truyền ngôi cho con.
Tương truyền Mạc
Đăng Dung cướp ngôi, theo từng bậc bước lên bệ điện
Kính Thiên bị hai con rồng ở hai bên tả hữu thềm rồng
cắn xé áo long cổn. Dung tức giận sai quân lấy búa bổ vào
rồng nay vết sứt vẫn còn (13).
V- NHÀ LÊ TRUNG HƯNG - ĐIỆN KÍNH THIÊN |
1647 - Năm
Đinh Hợi, làm thêm lan can bằng đá ở thềm điện Kính Thiên
và làm điện nhỏ ở sân Giảng Võ
1666 - Năm
Bính Ngọ, Giáo sĩ Marini, người Ý, đến Kẻ Chợ, đã viết
: "Mặc dù cung điện chỉ làm bằng gỗ, người ta thấy ở
đấy những đồ trang trí bằng vàng, những đồ thêu, những
tấm chiếu dệt rất mịn nhiều mầu sắc, cũng như bao tấm
thảm đẹp. Cung vua có những cửa vòm bằng đá và những
bức tường thành. Cung điện xây trên một rừng cột to lớn
và chắc chắn, có cầu thang bắc lên gác. Những rui kèo ở
đây đẹp hơn mọi kiến trúc khác. Các phòng ốc rộng rãi,
hành lang có mái che với những sân rộng lớn, bao la" (14).
Thế kỷ 18, Lê
Qúy Đôn viết trong Kiến Văn Tiểu Lục: " Điện Kính
Thiên trước làm nơi vua thị triều. Từ đời Trung Hưng trở
đi ở đây đặt bài vị thờ Trời Đất nên thị triều ở
cửa điện Kính Thiên. Gập ngày đầu năm hay có việc cầu
đảo, Hòang đế ngự ở nội điện để hành lễ. Sau khi
Trung Hưng, Hòang đế lên ngôi, làm lễ kính tế Trời Đất,
đặt hương án riêng ở phía Đông Đan Trì (thềm cung điện
nền đỏ nên gọi là Đan Trì) điện Kính Thiên. Hòang đế
đội mũ xung thiên, mặc áo bào mầu huyền, hành lễ trước
hương án, trăm quan triều bái như nghi lễ tế Giao.
Lầu Kính Thiên
ở phía hữu trong phủ Chúa Trịnh, hàng năm gập ngày đầu
năm hay có việc cầu đảo, bái tạ, phụng ngự hành lễ (chữ
"ngự" trỏ Chúa Trịnh) dâng hương, đọc chúc đều hai lạy,
còn trước và sau khi đọc chúc đều lạy bốn lạy. Tất
cả là mười hai lạy. Đến như ba tuần dâng rượu đều
làm lễ quỳ và cúi đầu vái (15).
1785 - "Năm
Ất Tỵ, niên hiêu Cảnh Hưng, vua Lê hưởng thọ 70 tuổi.Thời
ấy lễ thiết triều bỏ đi đã lâu, sân chầu cũ ở núi
Nùng đã bỏ. đổi làm điện Kính Thiên để thờ Trời Đất
và phụ phối Đức Thái Tổ Hòang đế. Những ngày sóc vọng
thiết triều tại điện Cần Chính. Trong điện này, hai nhà
Tả Hữu Đãi Lậu ở sau đổ nát, sân thềm cỏ mọc um tùm,
cao ngập đầu gối, phân ngựa bừa bãi" (16).
1786 - "Năm
Bính Ngọ, tháng 7, Nguyễn Huệ ra Bắc. Hôm sau cùng Nguyễn
Hữu Chỉnh tới điện Vạn Thọ yết kiến Lê Hiển Tông,
lúc ấy đang ốm. Hòang thượng nằm trong chăn, sai vén màn
lên cho Bình (Nguyễn Huệ) vào hầu trước sập ngự.
Sau đó Chỉnh bảo
Huệ : "Hôm nọ ông vào ra mắt Hòang thượng ở điện Vạn
Thọ chỉ là tư yết. Ông nên chọn ngày lành làm lễ triều
kiến Hòang thượng để cho thiên hạ biết. Bình chọn ngày
mồng 7 tháng 7 xin vào triều kiến. Đúng ngày, Hòang thượng
mở Đại triều ở điện Kính Thiên, các quan theo thứ tự
đứng hầu. Bình đem tướng sĩ từ cửa Đoan Môn đi vào.
Sau khi làm lễ ngũ bái tam khấu (5 lạy 3 vái) Bình lấy tờ
tâu nói về công diệt Trịnh, và các sổ sách dân quân xin
Hòang thượng cho quân coi giữ" (17).
VI - NHÀ NGUYỄN - ĐIỆN KÍNH THIÊN - ĐIỆN LONG THIÊN |
1802 - Năm
Nhâm Tuất, Gia Long ra Thăng Long , ngự điện Kính Thiên do nhà
Lê dựng, bầy tôi chầu mừng.
Nhà Nguyễn dùng
điện Kính Thiên làm Hành cung, vẫn gọi theo tên cũ.
Tháng 10, Gia Long
cho bang giao là việc quan trọng, hạ lệnh cho quân Bắc thành
noi theo việc cũ của triều đình Lê, xây thêm điện Cần
Chính ở bên trong 5 cửa trước điện Kính Thiên, ngoài cửa
điện Cần Chính xây thêm một cái rạp dài, đằng trước
đặt cửa Chu Tước và nhà Tiếp Sứ ở bên sông (18).
1803 - Năm
Quý Hợi, tháng giêng, Gia Long thấy quy chế thành Thăng Long
chật hẹp, muốn mở rộng ra, sai thành thần vẽ họa đồ
dâng lên, sai các dinh quán đắp, những vật liêu cần dung
thì do quan trả tiền theo giá (19).
1804 - Năm
Giáp Tý, tháng giêng, làm lễ bang giao, Sáng sớm ngày Quý Mão,
đặt lỗ bộ đại giá ở sân điện Kính Thiên đến cửa
Chu Tước. Ngòai cửa đến bến sông Nhị thì bầy nghi vệ
binh tượng. Sai thân thần Tôn Thất Chương đến Công quán
Gia Quất, Đô Thống Chế Phan văn Triệu, Hộ bộ Nguyễn văn
Khiêm, Tham Tri Nguyễn Đình Đức đến nhà tiếp sứ ở bên
sông nghênh tiếp Sứ nhà Thanh (sang phong vương cho Gia Long).
Vua ngự ở cửa
Chu Tước, Hòang thân và trăm quan theo hầu. Sứ nhà Thanh Bố
Sâm vào điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong. Chưởng Tiền
quân Nguyễn văn Thành sung việc thu sắc, Chưởng Tiền Vũ
quân Phạm văn Nhân sung chức thu ấn. Lễ xong mời Bố Sâm
đến điện Cần Chính, thong thả mời trà rồi lui. Bèn đặt
yến ở Công quán Gia Quất, tặng biếu phẩm vật. Bố Sâm
nhận the, lụa, vải, sừng tê, kỳ nam còn dư đều trả lại.
Lại tiến mừng phương vật. Vua sai thu nhận một vài thứ
để yên lòng. Bố Sâm từ về. Vua sai Tôn Thất Chương đưa
đi một trạm và quan Hậu mệnh hộ tống ra cửa ải (20).
Tháng tư, ở Bắc
thành trước dùng điện Kính Thiên của nhà Lê làm Hành cung
nay sai làm thêm một tòa ở sau điện để làm nơi trú chân
khi vua đi tuần thú (21).
1805
- Năm Ất Sửu, Gia Long thứ tư, tháng 6, phá Hòang thành cũ,
xây lại thành Thăng Long nhỏ đi rất nhiều, theo kiểu mẫu
Vauban vuông vắn, mỗibề khỏang một cây số (vì không được
phép xây to hơn Hòang thành nhà Nguyễn ở Huế). Tường cao
một trượng 5 thước, mở 5 cửa :Đông, Tây, Bắc, Đông Nam,
Tây Nam, mỗi cửa đều có dựng bia để ghi (22).
Sai quan đốc việc
xây đắp trong thành. Khu trung tâm, chính giữa là điện Kính
Thiên, xây hơi lệch về hướng Tây (theo phong thủy) trên núi
Nùng. Cột gỗ lớn người ôm không xuể, thềm điện có 9
bâc, hai bên có rồng đá, phía sau dựng ba tòa nội điện,
Hành cung với hai điện chính Tả Vu và Hữu Vu. Quanh nội điện
xây tường gạch. Điện Kính Thiên và Hành cung có tường
cao ngăn, có hai cổng nhỏ thông với nhau. Trước mặt điện
xây một đường cổng bằng đá thẳng đến Đoan Môn, có
biển bằng đá khắc hai chữ "Đoan Môn", đây là di tích từ
thời nhà Lý. Có ba cửa, chính giữa dành cho vua đi, hai bên
cho các quan. Ngòai cửa dựng nhà Bia ghi công trạng nhà vua,
Phía sau điện là Lầu Tĩnh Bắc cũng gọi là Hậu Lâu.
Tháng 8, Gia Long
đổi tên thành Thăng Long. Chữ "long" nghĩa là "rồng" đổi
thành chữ "long" nghĩa là "thịnh", lấy cớ rồng tượng trưng
cho vua, nay vua không ở Thăng Long thì không được dùng chữ
ắy, Chữ "Hòang thành" cũng bị cấm, Thăng Long chỉ là lỵ
sở của trấn Bắc thành (23).
1820 - Năm
Bính Thìn, dựng các điện trong Hành cung Bắc thành. Phía trước
điện Kính Thiên dựng điện Thị Triều, điện Cần Chính,
đều lợp ngói. Ngòai nămcửa làm liền một dẫy hành lang
dài, trước mặt là cửa Chu Tước. Cấp tiền, vật liệu
làm Hành cung và nhà tiếp Sứ ở bên sông Nhị là 15 200 quan
tiền. Ngòai cửa điện Thị Triều là cửa Đoan Môn,hai bên
Đoan Môn có hai cửa Đông và Tây Tràng An thông ra phía Đông
và Tây Hòang thành (24).
1836 - Năm
Bính Thân, Minh Mệnh thứ 16, Vua cho là thành Thăng Long quá
cao (so với Phú Xuân) giảm bớt 1 thước 8 tấc (25).
1841 - 1843
-Thiệu Trị đổi tên điện Kinh Thiên gọi là Long Thiên. Điện
xây bệ rồng cao 9 bậc, tả hữu có hai con rồng dài trên
một trượng, chế từ đời Lý (26).
1848 - Năm
Mậu Thân, Tự Đức phá cung điện, cho dỡ hết cung điện,
đồ chạm trổ mỹ thuật bằng gỗ đá đem vào Huế (27).
VII - THỜI PHÁP THUỘC |
1873 - Đại
úy Francis Garnier đánh Hà Nội, chiếm đóng điện Kính Thiên.
1876
- Trương Vĩnh Ký trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876)
viết : "Trước hết vô Hòang thành lọt khỏi Ngọ Môn Lâu
lên điện Kính Thiên. Đền ấy thềm cao lắm. Có 9 bậc đá
Thanh, hai bên có hai con rồng cũng đá, lộn đầu xuống. Cột
đền lớn trót ôm, tinh những là gỗ lim cả. Ngó ra đằng
trước còn thấy một hai cung điện cũ cho vua Lê ở thuở
xưa. Bây giờ hư tệ, còn tích lại đó mà thôi" (28).
1884 - 86
- Trong Une campagne au Tonkin (1884-86) bác sĩ Hocquard tả
: " Điện Kính Thiên là một tòa nhà mà chiều ngang lại hơn
chiều dài, xây trên một gò đất vuông vắn, bốn mặt có
tường bao vây. Một chiếc cầu thang rộng thênh thang dẫn
lên, hai bên cầu thang này có tay vịn bằng đá chạm trổ
tinh xảo, uốn lượn rất đẹp. Người Nam coi nó là biểu
trưng cho những đám mây. Thang này chia ra làm ba khúc ngăn cách
nhau bằng hai quái vật dài ít nhất là hai thước đẽo trong
một khối đá tảng mầu xám. Cái thềm này là di tích duy
nhất của điện Kính Thiên.
Điện xây trên
nền điện cũ thời nhà Lý, có tường gạch bao quanh, có cửa
đục, cửa phía Tây đến đầu thế kỷ XX vẫn còn. Trên
bức tường thấp trước điện trổ raba cửa sát liền nhau,
cửa chính giữa dành cho vua đi. Các quan và những người khác
đi cửa hai bên, nếu đi lầm vào cửa giữa sẽ mắc tội
khi quân, bị tử hình" (29).
1886 - 87
- Điện Kính Thiên bị phá hủy. Người Pháp xây Sở Chỉ
huy Pháo binh (Direction de l'Artillerie), một tòa nhà hai từng.
Bức tường phía Tây khu quân sự của Pháp có hai cổng :một
cổng xây gạch, đắp hoa, nóc mái chồng hai lớp là di tích
chiếc cổng bên của điện Kính Thiên ; chiếc cổng thứ hai
lớn, đưa đến khu Đoan Môn cũ. Ngòai cổng đặt hai khẩu
súng thần công cổ bằng gang vì đây là cổng đi vào của
Sở Pháo thủ.
Phía Nam là cửa
Đoan môn. Cửa Đoan Môn bị sửa chữa, từng dưới ngăn thành
tám phòng nhỏ, từng trên chỉ có một phòng rộng làm chỗ
ở cho lính gác, bên ngòai có hai cầu thang ở hai bên.
Phía Bắc là Hành
cung và Hậu Lâu, trở thành khu lính thợ của Pháo binh và
đội Cơ giới (30).
VIII- DI TÍCH HIỆN CÒN (2010) |
(2010) - Điện
Kính Thiên xưa nằm trong khu Hòang thành, giữa bốn phố Hòang
Diệu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Trí Phương và Điện Biên Phủ.
Phố Hòang Diệu
có ba cổng vào :cổng giữa đưa tới nền điện Kính Thiên
cũ;cổng bên phải có lối đi nhỏ hẹp, cửa Đoan Môn nằm
bên trái lối đi ; cổng bên phải dẫn vào khu Hậu Lâu, ngòai
cổng còn hai khẩu súng thần công cổ bằng gang do người
Pháp đặt.
Mặt tiền Đoan
Môn còn hai chữ "Đoan Môn", di tích từ thời Lý. Mặt sau,
hai bên có hai cái thang lộ thiên dẫn lên một cái sân thượng
khá rộng. Bên dưới là tòa nhà Pháp xây cho lính gác ở.
Từ Đoan môn đi
thẳng phải qua một khu đất rộng, tới một tòa nhà lớn
có lẽlà chỗ trại lính của Pháp. Lại qua một cái sân nữa
mới đến Thềm Rồng có 9 bậc thang, hai bên có hai con rồng
đá lớn, di tích từ thế kỷ XV. Lên hết 9 bậc thang là đến
cái thềm, giống như một cái sân nhỏ rồi mới đến tòa
nhà hai từng của Sở Chỉ huy Pháo thủ Pháp. Đằngsau tòa
nhà này còn có mấy bậc thang đi xuống, hai bên có hai con
rồng nhỏ, di tích thế kỷ XVII.
Khá xa,phía sau điện
Kính Thiên, là Hậu Lâu, cũng bọ phá hủy, chỉ còn một tòa
nhà nhỏ hai từng người Pháp xây cho lính thợ. Ngòai cửa
có bầy mấy phiến đá xám được khai quật, đặc biệt có
một cái chân cột còn rõ nét hoa văn, di tích thòi Lý.
Sưu tầm./.
CHÚ THÍCH |
1- Núi Nùng
là một gò đất đắp từ thời Lý, cao trên 5 thước, tứ
bề vuông vức Thuyết phong thủy cho rằng trong ruột núi có
cái lỗ gọi là Long Đỗ, thông xuống lòng đất là nơi phát
tiết ra linh khí non sông.
Long Đỗ -
Theo truyền thuyết, Cao Biền đắp La thành, thấy một người
trong đám mây ngũ sắc có ý muốn trấn áp. Đêm nằm mơ thấy
người ấy xưng là thần Long Đỗ. Cao Biền đem búa đồng
chôn để yểm, đêm sau mưa gió, sáng dậy thấy búa đồng
bị đánh tan thành cát bụi. Biền sợ, lập đền thờ thần
Long Đỗ.
Đại Nam Nhất
Thống Chí, III, 170 -Văn Bia Hà Nội, I, 46 - Tuấn, chàng trai
nước Việt, II, 236 - Địa chí Thăng Long, 44.
2- Biên niên lịch
sử cổ trung đại, 88 - Sử Ký Tòan Thư, I, 191-97 - ĐN Nhất
Thống Chí, III, 170
3- Sử Ký Tòan
Thư, I, 191-7
4- ĐN Nhất Thống
Chí, III, 170.
5- SKTT, I, 199-207.
6- SKTT, I, 199-207
- Phạm Hân, 76
7- Địa Chí Thăng
Long 36-7.
8- Kinh Thi "Thiên
Nam", bài "Thước sào" : "Duy thước hữu sào duy cưu cư chi".
SKTT, I, 299.
9- Cương Mục,
V, 9.
10- Đại Việt
Thông Sử, 80 - Cương Mục, I X, 8-13 -Địa Chí Thăng Long, 44,233
-Nguyễn Thừa Hỷ, 33.
11-Địa Chí Thăng
Long, 233.
12- Phạm Hân,
72-6.
13- ĐN Nhất Thống
Chí, III, 170.
14- Nguyễn Thừa
Hỷ, 33.
15- Kiến Văn
Tiểu Lục, 59.
16- Tang Thương
Ngẫu Lục, 25.
Ngày sóc = ngày
đầu tháng ; ngày vọng = ngày rầm.
17- Hòang Lê Nhất
Thống Chí, 97.
18- ĐN Thực Lục,
III, 91.
19- ĐN Thực Lục,
III, 102.
20- ĐN Thực Lục,
III, 59.
21- ĐN Thực Lục,
III, 180.
22- ĐN Thực Lục,
III, 235.
23- Nguyễn văn Uẩn,
18-9 - Địa chí Thăng Long, 50.
24- ĐN Thực Lục,
V, 127-8 - Địa chí Thăng Long, 44.
25- ĐN Nhất Thống
Chí, III, 170.
26- ĐN Thực Lục,
XXIII, 412 ?
27- Địa chí
Thăng Long, 51.
28- Bằng Giang, 257.
29- Hocquard, 103-104.
30- Nguyễn văn Uẩn,
18-74, 389 - Địa chí Thăng Long, 58 - Masson, Hanoi pendant
la Période Héroique.
SÁCH THAM KHẢO |
- Biên niên lịch
sử cổ trung đại. Hà Nội :KHXH, Viện Sử Học, 1987.
- Đại Nam Thực
Lục Chính Biên. Hà Nội :Sử học, KHXH, 1962-78.
- Đại Nam Nhất
Thống Chí. Hà Nội :KHXH. 1969-71. Dịch giả Phạm Trọng
Điềm.
- Hocquard, Une
campagne au Tonkin. Paris :Hachette, 1892 .
- Huard, Pierre &
Durand Maurice, Connaissances du Viet Nam. Paris :Ecole Francaise
d�Extrême-Orient, 1954.
- Khâm định
Việt sử Thông giám Cương mục, Hà Nội :Văn Sử Địa.
1957. Tổ
biện dịch :Phạm
Trong Điềm, Hoa Bằng, Trần văn Giáp.
- Kiều Thu Họach
và nhiều tác giả, Địa chí văn hóa dân gian, Thăng Long,
Đôngđô, Hà Nội. Hà Nội :Sở Văn Hóa Thông tin, 1991.
- Lê Quý Đôn,
Đại
Việt Thông Sử. Dịch giả Ngô Thế Long, 1978.
"""Kiến Văn Tiểu
Lục. Dịch giả Mai Ngọc Mai.
- GS Marini, Relation
nouvelle et curieuse des Royaume de Tonquin et Lao.
Nguyễn Thừa Hỷ
trích trong Thăng Long - Hà Nội thế kỷ 17, 18, 19. Hà
Nội :Hội Sử Học Việt Nam, 1993.
- MASSON, A, Hanoi
pendant la période héroique (1873-88). Pl. XII, XIV, XV. Paris :Librairie
Orientaliste Paul Geuthner, 1929.
- Ngô Sĩ Liên, Đại
Việt Sử Ký Tòan Thư, 4 tập. Hà Nội :KHXH, 1967-73. Dịch
giả Cao Huy Giu.
- Ngô Thì Chí, Hòang
Lê Nhất Thống Chí. Dịch giả Ngô Tất Tố. Saigon :Phong
trào Văn Hóa tái bản 1969 ; tái bản ở Mỹ.
- Nguyễn Quảng
Tuân, "Hà Nội xưa và nay", Hồn Việt
số 28, tháng 10/2009.
- Nguyễn Thừa Hỷ,
Thăng
Long - Hà Nội, thế kỷ 17,18,19. Hà Nội :Hội Sử Học
Việt Nam, 1993.
- Nguyễn văn Uẩn,
Hà
Nội nửa đầu thế kỷ XX, tập I. Hà Nội, 1986.
- Nguyễn Vỹ, Tuấn,
chàng trai nước Việt (1920-70), 2 tập. Saigon, 1969 ; Đại
Nam tái bản ở Mỹ.
- Phạm Đình Hổ,
Tang
Thương Ngẫu Lục. Hà Nội :Văn Học, 1972. Dịch giả Đạm
Nguyên. Saigon :1962 ; Đại Nam tái bản ở Mỹ.
- Phạm Hân (xin
cáo lỗi cùng độc giả, bài này tôi bắt đầu tìm tài liệu
từ 2003, khi còn ở Pháp, vì thế chỉ ghi vắn tắt chứ không
ghi rõ tên sách và tên nhà xuất bản những cuốn sách tham
khảo trong bài. Nay tôi viết tiếp thì tủ sách đã phân tán.
Để có những chi tiết về tên sách hay nhà xuất bản, tôi
đã phải lục lại mục "Sách tham khảo" những quyển đã
xuất bản nhưng không sao tìm được tên sách đã dẫn trong
bài của Phạm Hân viết về Hà Nội).
- Trương Vĩnh Ký,
Chuyến
đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi , được trích lại trong
Sương
mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký của Bằng Giang.
Văn Học, 1994.
Điện
Kính Thiên ngày xưa
|
||
|
|
|
|
||
|
|
|
|
|
Điện Kính Thiên ngày nay
|
|
Một số ảnh về Thành cổ Hà Nội:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét