Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

Giáo sĩ Đắc Lộ (1593-1660) và Lịch sử Việt nam

NHẬN ĐỊNH TỔNG QUAN

Để hiểu biết đất nước ta, thì chúng ta có những bộ sử như Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục. Những bộ sử rất có giá trị này đều là những sách biên niên của triều đình, ghi lại tất cả những sự việc vua chúa làm. Nhưng lịch sử không phải là lịch sử các vua mà còn bao gồm các sinh hoạt kinh tế, văn hóa, phong tục và đời sống thường ngày của dân gian. Vì thế để bổ túc, có thể có những tài liệu khác như gia phả các dòng họ lớn, những kí sự, tùy bút của người đồng thời, những bài hay sách tường thuật như hành trình và lưu trú của những người ngoại quốc đến xứ ta, như Sứ giao châu thi tập của Trần Lương Trung nhà Nguyên mà Lê Quí Đôn có nói tới trong Kiến văn Tiểu Lục (Hà nội trang 68), như Annam Tức Sự của Trần Phú tả lại điện đài của nhà Trần ở Thăng Long (Nguyễn Khắc Ngữ, Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam, trang 145, Mỹ thuật thời Trần, Hà nội 1977, trang 13), như Sứ Giao Kỉ Sự và Lược Biên của viên sứ thần nhà Thanh và một viên quan nước ta dự đám tiếp đón, tường thuật tỉ mỉ về việc sứ thần Trung quốc tới sắc phong cho vua Lê năm 1682 (Hoàng Xuân Hãn, Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683, trong T.S.K.H.X.H. Paris 1977 trang 5...). Ngoài ra cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, cuối thế kỉ 17 cũng cho chúng ta biết về nhiều chi tiết trong đời sống văn hóa, xã hội và kinh tế vào thời kì này.

Riêng về những sách người Âu châu viết về xứ ta, đặc biệt các nhà buôn và nhà truyền giáo, thì phải kể Marco Polo + 1324 (thực ra ông này có tới Chiêm Thành, chứ không đến nước ta), Ordonez de Cevallos người Tây Ban Nha, thế kỉ 16, rồi tới thế kỉ 17 thì có các giáo sĩ Dòng Tên. Những tài liệu hiện nay chúng ta được biết thì có Tường Trình của Gaspar Luis (1621), của Baldinotti (1626), của cha Borri (1631), rồi tới Đắc Lộ. Thực ra, Đắc Lộ là người đã để lại nhiều tác phẩm hơn cả, lại thuộc nhiều loại khác nhau, như chúng ta đã thấy.

Nhưng Đắc Lộ không phải là người đầu tiên viết về nước ta, trước ông phải kể đến Borri tới Đàng Trong năm 1618, và bỏ về Macao và Âu châu năm 1622. Nhưng năm 1621 ông đã viết một cuốn Tường Trình về Đàng Trong rất đặc sắc. Sách gồm hai phần: phần 1 về tình hình đời và phần 2 về tình hình đạo. Khi Đắc Lộ viết Lịch Sử Đàng Ngoài thì ông cũng nói về tình hình đời ở phần 1, và tình hình đạo ở phần 2. Cả hai phần đều phong phú và chứa nhiều chi tiết cho ta biết thêm về con người và Đất Nước Việt Nam vào thế kỉ 17.

Chúng tôi không thể bàn giải về hết những điều Đắc Lộ viết về con người và Đất Nước Việt Nam, bởi vì thời giờ không cho phép và chất liệu quá dồi dào. Riêng về Đàng Ngoài, nếu chỉ đưa mắt xem mục lục phần 1 của cuốn sách thì đã thấy như sau: danh hiệu và vị trí, về quyền hành chúa Trịnh, lực lượng, thuyền chiến, số binh lính, các nguồn lợi, cách trả lương quân sĩ, kỉ luật quân binh, hành chính trong nước, thi Hương thi Hội, hình luật, thổ sản, súc vật, hàng hóa và thương mại, tiền bạc trao đổi troig niớn,bncữtgam ổí rdn oưnc hhnn iêot nx dị đoan, Khổng giáo, Phật giáo và Lãoeốg áàng mã, giỗ chạp, gọi hồn, ngày khánh đản của nhà chúa, nghi thức cưới hỏi, Tết Nguyên Đán, về cung giọng và các dấu trong tiếng nói, về cách gọi tên trong gia đình. Có nhiều học hỏi đối với người đồng thời, thí dụ người ta được biết Đàng Ngoài ở vào vĩ tuyến 17 tới 23, Đàng Trong từ 12 tới 17 và toàn cõi từ 12 tới 23. Và trong khi những C. Colomb, Vasco de Gama, Magellan đã đi vòng quanh thế giới và vẽ địa đồ thì Con Trời vẫn còn tin trời tròn đất vuông - thiên viên địa phương - và vẽ nước mình lớn lao ở giữa và thiên hạ bé nhỏ bao chung quanh - Trung quốc.

Cuốn Hành Trình có hai bài độc đáo, một nói về tục uống trà tàu và một về thuốc dân tộc: Đắc Lộ rất thích uống trà nhất là khi thức khuya để giải tội. Khi đau yếu ông ưa dùng thuốc nam hiệu nghiệm hơn thuốc tây.

I. Lực lượng thuyền chiến

Trước hết chúng tôi thấy bốn điều cần phải nói trước đã. Một là nước ta có rất nhiều sông ngòi. Có những con sông lớn ở Đàng Ngoài như sông Hồng và nhiều sông trung bình. Nếu đem sông Seine và sông Marne mà so sánh thì hai con sông của Pháp này chỉ là những con sông thuộc cỡ bé nhất của chúng ta mà thôi. Thứ hai là nước ta có một bờ biển dài, hãy tạm nói là từ 1500 tới 2000 kilomét. Thứ ba, mạng lưới cầu đường của ta vào thế kỉ 17 này còn rất lạc hậu, hầu như không có, nếu phải đi từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong theo con đường cái quan. Trong khi đó ở Lamã từ những thế kỉ thứ nhất trước sau công nguyên, họ đã có một kĩ thuật lát đường quan lộ rất tinh xảo kể từ thủ đô Roma cho tới các nước thuộc địa Pháp và Anh. Thứ bốn chúng ta vẫn chưa biết chế biến xe cộ dùng vào việc chuyên chở tư cũng như công, trong khi ở Âu châu, nhất là từ thời người Roma cổ, người ta đã có những xe chuyên chở hai ngựa, bốn ngựa chạy trên những đường trường rộng lớn. Vào năm 1660, Marini, người nói thật nói thẳng đã phải lên tiếng: xứ này không có xe carrosse! như vậy trên đường bộ người ta đi cáng, đi kiệu, đi ngựa (thực ra cũng rất hiếm, ngựa để cưỡi làm cảnh, cho các ông nghè vinh qui, các quan đi kinh lí). Có nói đến xe thì hẳn chỉ như xe lợn, xe cút kít bánh gỗ, đi rất chậm hoặc voi kéo lững thững mà thôi. Cho nên đường thủy kể là đường duy nhất để di chuyển và chuyên chở. Cầu lớn không thể có thì có đò ngang, chèo một tay hay hai tay. Và cũng vì thế, lực lượng thuyền chiến của Trịnh Tráng cũng như của Nguyễn Phúc Nguyên vào thời kì này khá quan trọng.

Trước hết, cũng như Baldinotti, Borri, Đắc Lộ nhận thấy thuyền của ta, nhất là của nhà chúa, được sơn quét huy hoàng, sơn son thiếp vàng. So với thuyền ở Âu châu, thì thấy có khác. Phòng chỉ huy của ta đặt ngay đầu thuyền chứ không ở cuối như ở Âu châu. Người Việt Nam, chèo ngồi hay đứng, đẩy về đàng trước, chứ không kéo về phía sau. Còn khi chèo chung thì có tiếng sênh làm nhịp (ở Âu châu là tiếng còi). Người chèo các thuyền chiến đều là những binh lính tình nguyện hay chiêu mộ, chứ không phải là những người khổ sai bị phạt đi chèo thuyền. Đắc Lộ viết: "Thuyền thì dài và thấp như thuyền của ta và nhiều khi có tới 30, 35 hay 40 tay chèo. Tay chèo thì nhẹ hơn bởi gỗ nhẹ, cho nên chỉ một hay hai người đủ để cầm chèo".

Về số thuyền chiến, Đắc Lộ cho rằng chúa Đàng Trong có tới ít ra 200, còn chúa Đàng Ngoài vì đất đai rộng lớn hơn, nên có tới gấp ba, nghĩa là từ 500 tới 600. Về kích thước, vũ khí thì ở hai nơi đều trang bị như nhau. Cửa sông ra biển thì ít nhất cũng có tới 50. Đàng Trong, các thuyền chiến thường đậu ở ba cửa biển lớn là Đà Nẵng (Hội An), Qui Nhơn và Phú Yên, gần ranh giới Chàm. Đắc Lộ còn viết: "Người Hòa Lan nghiệm thấy rằng đoàn thuyền chiến ấy có thể thắng nổi đoàn tàu lớn của mình, tuy họ tự coi mình là chúa biển".

Khi Đắc Lộ viết trong Lịch Sử Đàng Ngoài về lực lượng thuyền chiến của Đàng Ngoài thì ở Âu châu người ta hoài nghi. Do đó trong Hành Trình và Truyền Giáo, ông minh chứng: "Tôi không hối, khi nói lên những gì tôi thấy. Tôi đã một lần đếm đủ 400 trong đạo binh của chúa Đàng Ngoài, tất cả đầy đủ trang bị, có thể không rộng dài hơn thuyền chiếy không lâu đây, kôi trở về, ở cửa b về,nữ giáo dân cũ, nên nhà thờ của iển thành Gênova và thành Marseille".

Khi Đắc Lộ tới Đàng Ngoài thì đã gặp đoàn thuyền Trịnh Tráng đưa đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Đó là năm 1627. Đắc Lộ cho biết: ông đã thấy 100 chiếc đi đầu hay tiền quân, ở giữa đoàn này là thuyền của chúa, còn theo sau hay hậu quân gồm có hậu cần và thuyền chở các cung phi mĩ nữ cùng tải thóc gạo, lương khô cho binh sĩ, tất cả có chừng 500.

Về thao diễn và biểu diễn, Đắc Lộ cũng được dự và rất phục tài ba của thủy quân khéo lượn vòng, đều đặn, ngay hàng thẳng lối, mấy chục tay chèo như một. Dẫu sao những loại thuyền chiến này thường là những thuyền đi trên sông lớn sông nhỏ và có thể đi biển với một vài điều kiện, chứ không phải những thuyền buôn vĩ đại như những chiếc C. Colomb, Magellan hay Vasco de Gama dùng để đi vòng quanh thế giới. Khi Đắc Lộ nói đã thấy những thuyền Âu châu đậu trong bến Gênova hay bến Marseille thì phải chăng đó mới chỉ là những thuyền nhỏ. Chứ thực ra vào thời này những hạm đội thủy chiến của những cộng hòa nhỏ như Gênova, Vênêzia, đã gồm có những thuyền tàu có thể vượt trùng dương rồi, hoặc ít nữa đi trên Địa Trung Hải mênh mông. Thực ra, trong một chương Lịch Sử Đàng Ngoài, Đắc Lộ đã phê phán rất xác đáng về các thuyền chiến của chúng ta, khi ông nói về ngành hàng hải của chúng ta như sau:

"Người Đàng Ngoài không đi buôn bán ở các nước ngoài vì ba lí do chính này. Thứ nhất, họ không biết nghệ thuật địa bàn và nghề hàng hải, không bao giờ xa biển hay dãy núi của họ. Thứ hai, thuyền của họ không đủ sức chống chọi sóng lớn biển cả và những cơn bão lớn thường nổi lên trong cuộc hành trình lâu dài; ván và gỗ không được ghì chặt và đóng đinh đóng chốt, nhưng chỉ được cột lại, nên mỗi năm mỗi phải làm lại. Và thứ ba, chúa không cho phép họ ra nước ngoài, nơi ngành thương mại bắt thương gia phải qua lại, vì sợ mất thhếqtaâl ià cìng âm thtiun phcho chúa".

Vì thế thuyền chiến chỉ đi trên sông và chạy ven biển, chứ không ra ngoài khơi xa hoặc vượt trùng dương. Đắc Lộ đã di chuyển nhiều lần trên các sông ngòi này, sông Hồng, sông Đáy. Ông đã lấy thuyền đi đi về về từ Thuận Hóa vào Đà Nẵng (Hội An), tránh đèo Hải Vân hiểm trở, ông đã lấy thuyền đi từ Hội An đến Qui Nhơn, từ Qui Nhơn tới Phú Yên. Tất cả đều là những lộ trình các đoàn thuyền chiến xử dụng, nhưng tuyệt nhiên không thấy nói tới lộ trình đi Macao, Nhật hay Phi Luật Tân. Tuy nhiên, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã có những chiến thuyền chở sứ thần đi Campuchia.

II. Hai biến cố lịch sử quan trọng
Biến cố thứ nhất là cuộc bại trận của Trịnh Tráng năm 1627 khi ông đưa quân vào đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Sử Kí toàn thư không nói nhiều. "Tháng 2, Thanh đô vương hộ vệ thánh giá đi đánh, quân đến cửa biển Nhật Lệ, giặc cậy là biển, cố chống lại, đại quân mấy lần giao chiến không lợi, bèn trở về". Cương mục và Thực lục viết dài hơn và tương tự như nhau, cho biết: hai bên đối diện, quân Nguyễn dùng đại bác bắn làm quân Trịnh rút lui, và nhân có nước thủy triều lên, bên Nguyễn lại cho nổ súng. Trong khi bên Trịnh bắt đầu rối loạn thì quân Nguyễn phao tin là ở Bắc Hà, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp nổi loạn. Do đó Trịnh Tráng trở nên nghi ngờ, lại mấy trận thua liền, nên cho quân rút lui.

Như vậy cuộc bại trận này, theo sử nhà Nguyễn, là do mấy sự việc chính yếu: Nguyễn Phúc Nguyên có hỏa lực trổi vượt hơn là một, nhờ nước thủy triều hay lợi dụng nước thủy triều để tấn công là hai và dùng phản tuyên truyền gây nghi ngờ nơi địch là ba. Quân Nguyễn còn đưa tượng binh ra chống đánh. Đắc Lộ cho biết thêm: Trịnh Tráng mộ quân quá nhiều, số lương thực đem theo tưởng đủ để nuôi quân, nhưng vì sức cầm cự bên địch rất vững, nên cuộc chiến phải kéo dài. Nếu Trịnh Tráng còn ngoan cố giữ quân chiến đấu lâu thì e không còn lương thực nuôi quân. Còn về nước thủy triều thì Đắc Lộ cho biết quân nhà Nguyễn đã "đóng cọc nhọn và mũi sắt với dây chằng dưới mặt nước...". Thế là thuyền bị mắc cạm bẫy khi nước rút.

Khi Trịnh Tráng đưa thuyền về và gặp lại Đắc Lộ, thì người ta rất sợ cho giáo sĩ sẽ bị nhà vua quở trách và hất hủi. Đắc Lộ viết:

"Lúc này không thiếu người báo tin cho chúng tôi, cho chúng tôi nghĩ rằng chúa Đàng Ngoài rất giận chúng tôi, vì người Bồ đã cung cấp vũ khí cho chúa Đàng Trong chống lại ngài. Điều này không đúng, tuy ban đầu có tin đồn như vậy, do mưu kế người Đàng Trong dùng: họ đặt trên đỉnh núi ở biên giới một số rất nhiều hình nộm mặc theq n ihuc người Blà mưu cơ vô tội vô hha àểmcuocs ôàtthôi".

Dẫu sao, người Bồ đã thông thương vớừ năm 1615 khi họ đưa giáo sĩ Buzomi tới. Borri ở Đàng Trong từ 1618 tới 1622, ông đã cho biết người Đàng Trong đã có một số súng ống tịch thu được ở các tàu bè bị bão đánh dạt vào bờ biển và hàng ngày đem ra thao diễn. Vả lại trong hơn mười năm thông thương, Nguyễn Phúc Nguyên hẳn đã chuẩn bị cho quân binh một số súng ống đạn dược của người Bồ. Trái lại Trịnh Tráng mới gặp phái đoàn người Bồ năm 1626 với giáo sĩ Baldinotti và lần này, năm 1627 với Đắc Lộ. Biến cố lịch sử thứ hai là trận chiến giữa người Hòa Lan và thủy quân của Nguyễn Phúc Lan năm 1644. Năm này, năm có mặt của Đắc Lộ ở Đàng Trong, ở cửa Eo, có đoàn tàu người Hòa Lan đi ngang qua, vào đúng lúc có mặt của thủy quân ta. Thế là thế tử cho quân ta xông đánh bất ngờ. Thực lục viết: "Chiến thuyền trước sau bước nhanh như bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắt. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự thiêu chết. Thế tử bèn thu quân về". Thế tử nói đây là con Nguyễn Phúc Lan sau này lên nối vị cha, tức là Nguyễn Phúc Tần.

Trong Lịch sử Đàng Ngoài, nhân tiện viết về lực lượng chiến thuyền của Đàng Ngoài và Đàng Trong, Đắc Lộ đã thích thú kể lại trận thủy chiến này, chúng tôi ghi lại nguyên văn như sau:

"Chúa Đàng Ngoài tấn công chúa Đàng Trong, như tôi sẽ nói sau, ba lần đem quân đi đánh đều thất bại. Chúa liền cầu cứu với thương gia người Hòa Lan chiếm đóng bến tàu Java Cả, gọi là Jacquetra hay Tân Hòa Lan. Chúa phái người đem lễ vật tới xin cung cấp cho mấy chiếc tàu tròn của họ, để nhờ đó chúa quyết định phá hủy hạm đội người Đàng Trong. Người Hòa Lan nhận lời ngay vì biết là để tấn công chúa Đàng Trong đã công khai từ mấy năm nay tự xưng thù địch với nước mình.

Họ liền phái tới chúa Đàng Ngoài ba chiếc tàu tròn trang bị đầy đủ và có mấy khẩu súng. Đoàn tàu vô ý tới gần một hải cảng Đàng Trong vì bị gió đánh giạt, đúng lúc tình cờ chúa đang có mặt với mấy chiếc thuyền.

Chúa nhận thấy đây là viện trợ người Hòa Lan gửi chúa Đàng Ngoài để gây chiến. Cơn giận nổi lên (như thể chúng dám táo bạo thách thức ở biên giới), chúa liền bàn xem có nên cho thuyền đuổi theo, chúa hỏi ý kiến một người Hòa Lan mấy năm nay sống sót sau cơn bão táp và ở lại phục vụ chúa lo việc binh đao. Tên lính này kiêu căng và khinh thị đáp rằng: đoàn tàu này chỉ sợ có thế lực và thịnh nộ vũ khí của ông Trời. Tức giận vì thái độ hỗn xược, chúa không thèm đáp, nhưng ra lệnh cho các thuyền trưởng lập tức cho nhổ neo rời bến và tấn công đoàn tàu Hòa Lan trông rõ ở ngoài khơi.

Nhờ lúc biển lặng, chỉ có gió nhẹ thổi, nên việc tấn công đem lại kết quả: chỉ có chiếc tàu nhỏ hơn cả của người Hòa Lan nhờ gió nhẹ thổi mà chạy thoát, còn chiếc kia muốn chạy trốn đoàn thuyền rượt theo, mất hướng đụng phải cồn vỡ tan và chìm dưới làn sóng. Chiếc thứ ba lớn hơn hết, dĩ nhiên nặng nề hơn cả, gió không đẩy nổi, liền bị bốn chiếc thuyền bao vây và chiếm giữ, sau khi hết sức chống cự và bắn vô hiệu vào đoàn thuyền rất thấp đã tới nách.

Tay lái và cột buồm bị phá. Trong cơn nguy khốn và cùng cực, liền châm lửa vào kho thuốc súng đốt chiếc thuyền cùng thủy thủ, tất cả chừng hai trăm, trừ bảy người tránh ngọn lửa nhẩy xuống biển trôi theo làn sóng, được thuyền chiến Đàng Trong vớt và đem trình chúa ở trên bến đang đợi đoàn tàu chiến thắng trở về...".

Đắc Lộ còn cho….(mất 1 đoạn)… Hòa Lan xấc láo cùng bảy tên lính sống sót, lại còn cho cắt mũi tất cả, kể cả những người chết đuối dạt vào bờ và gửi ra biếu Trịnh Tráng với những lời chế nhạo. Về phần Trịnh Tráng, ông ra lệnh không tiếp đón chiếc tàu chạy thoát: họ phải hướng về phương bắc và xin đậu cùng xin lương thực ở Trung quốc. Về trận thủy chiến này, sử Hòa Lan cũng có nói tới và người ta được biết thuyền trưởng người Hòa Lan là Pierre Breck và ba chiếc tàu có tên là Kievil, Nachtegaels và Wockende. Còn về việc Đàng Ngoài thông thương với người Hòa Lan, thì Phạm Văn Sơn trong Lịch sử Tân Biên cho biết có hai văn kiện tức hai thư, một của Lê Thần Tông và một của Thế Tử viết cho người Hòa Lan ngỏ lời xin giúp quân nhu đạn dược để chống với thù địch xắc xược, một thư đề ngày 22.02.1641 và một đề năm 1641 tháng 7. (coi: Phạm Văn Sơn, sd. q. trang 133-136).

III. Một số nhân vật trong lịch sử:

Tống Thị

Hoàng tử Hoàng tử Kì

Hoàng tử Hoàng tử Khê

Bà Minh Đức Vương Thái Phi

Công Chúa Ngọc Liên

Công Chúa Ngọc Đỉnh

Thanh Đô Vương Trịnh Tráng

Nguyễn Phúc Nguyên

Nguyễn Phúc Lan

1. Tống Thị

Người đầu tiên chúng tôi nói tới ở đây là một thiếu phụ đã gây tang tóc cho giáo đoàn và nhất là đã nhúng tay gián tiếp hay trực tiếp vào vụ giết ba thày giảng Anrê, Y Nhã và Vinh Sơn, ba đồ đệ và cộng tác viên của Đắc Lộ. Nhưng trước hết, chúng tôi cũng phải nói là Đắc Lộ không viết rõ tên các nhân vật ông ghi trong các trang sách, ông chỉ viết là ông hoàng nọ ông nghè kia, hoặc bà hoàng nọ bà chúa kia, hoặc ông trấn thủ này ông trấn thủ nọ mà thôi. Tên các nhân vật trọng yếu không bao giờ được nói rõ. Do đó phải có sự tìm tòi, so đọ, đối chiếu với thời gian sưu tầm và suy nghĩ, chúng ta mới khám phá ra danh tánh và sự nghiệp, như chúng tôi sẽ có dịp bàn giải thêm ở sau đây.

Trong Hành Trình, Đắc Lộ nói tới một buổi tranh luận, trong đó có nhiều người chống đối lí lẽ giáo sĩ đưa ra, nhưng giáo sĩ đã nhờ thày Inhaxu hiểu biết vấn đề hơn đứng ra đối đáp. Thế là họ chịu thua. Xấu hổ, họ điên cuồng lên. "Từ đó họ thề sẽ hãm hại thày, và để đạt ý định, họ nhờ một bà mà chúa coi như vợ chúa, mặc dầu trước đây bà là vợ người anh của chúa, điều mà luật xứ này ngăn cấm, nhưng sắc dục đâu có biết luật lệ là gì". một chương sau, trong vụ âm mưu bắt thày Inhaxu, Đắc Lộ lại nhắc tới người đàn bà này. Ông viết: "Vào tháng 7 năm 1644 quan trấn tỉnh Quảng Nam từ phủ chúa về, đem theo sắc lệnh không phải của chúa, vì chúa vẫn tỏ thịnh tình với tôi, nhưng của bà chúa xưa nay vốn ghét đạo, như tôi đã nói và nhất là bà đã thề sẽ hãm hại Inhaxu. Ông bắt đầu bắt giam một ông già cũng tên là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà chúng tôi để bắt Inhaxu đem giết". Vì hôm đó Inhaxu không có mặt, nên họ đã bắt thày giảng trẻ tuổi Anrê.

Những điều Đắc Lộ viết về người phụ nữ nguy hiểm này thì lại được Saccano nhắc tới, khi ông này đến thay Đắc Lộ truyền giáo ở Đàng Trong năm 1646. Saccano viết: "Nhất là hoàng hậu, bà này trước đây là vợ người anh cả của chúa và hiện nay là như chính phi, tuy theo luật nước bà chưa được kể là hoàng hậu, bà vô cùng ghét Inhaxu hơn mọi Kitô hữu khác...".

Chúa nói ở đây là Nguyễn Phúc Lan, con Nguyễn Phúc Nguyên. Còn người anh cả của chúa ở đây là Hoàng Tử Kì (chúng tôi sẽ nói thêm sau). Kì được đặt làm trấn thủ Quảng Nam năm 1614 và mất năm 1631. Còn về người vợ của người anh cả của chúa là Kì, thì nay góa chồng. Thực lục viết: "Tống Phước Thông (bấy giờ làm cai cơ) trốn về với họ Trịnh. Đầu là con gái Phước Thông là Tống Thị lấy hoàng tử Kỳ, sinh được ba con trai. Phước Thông mừng cho rằng sau này hắn được vinh hiển. Kịp khi Kỳ mất, Phước Thông đại thất vọng, bèn dẫn gia quyến lẻn ra ngoài cửa Eo (hiện nay là cửa biển Thuận An) trốn đi, duy có Tống Thị ở lại". Thế là chúng ta đã nắm được đầu dây để biết về Tống Thị vợ hoàng tử Kì.

Năm 1635 Nguyễn Phúc Lan lên nắm chính quyền và năm 1639 Thực lục viết: "Vợ lẽ cố Hoàng tử Kỳ là Tống Thị vào yết kiến. Tống Thị có vẻ xinh đẹp, khéo ứng đối, từng nhân việc vào ra mắt, đem tình trạng đau khổ kêu xin và xâu một chuỗi (ngọc) bách hoa để dâng. Chúa thương tình, cho được ra vào cung phủ. Thị thần có người can, nhưng chúa không nghe".

Việc Tống Thị vừa dựa vào nhan sắc vừa đánh vào sở thích của Nguyễn Phúc Lan thì phù hợp với những gì Saccano sau này viết về ông: ông rất thích ngọc trai, cho nên mỗi lần người nào tới thường đem dâng ngọc trai. Có lần ông thích ưa lên mũi hít lấy hít để. Thế rồi năm 1648, Thực lục viết: "Trước là Tống Thị đã được vào chầu cung phủ, đưa đón thỉnh thác, của cải chất đầy như núi. Trưởng cơ Trung mưu giết đi, Tống Thị sợ".

Và Thực lục cho biết tiếp là Tống Thị lại ngầm đưa ngọc trai ra Đàng Ngoài và mật báo cho Trịnh Tráng cất quân đánh nhà Nguyễn, sẽ có quân nội ứng. Năm 1648 Trịnh Tráng cất quân vào đánh nhưng Nguyễn Phúc Lan có Thế Tử thay làm tướng, đã đẩy lui được quân Trịnh Tráng. Thế nhưng Nguyễn Phúc Lan mất trên đường trở về phủ.

Nguyễn Phúc Tần lên ngôi và đặt chú ruột là Hoàng tử Trung làm chưởng cơ. Năm 1654 Thực lục cho biết: vì thấy Tống Thị làm chuyện bậy bạ nên Trung muốn trừ đi. Tống Thị sợ, bèn tìm cách tư thông với Trung, và xúi Trung đứng ra làm phản, bắt mối với Đàng Ngoài. Việc bị bại và Trung bị giam bị giam xuống ngục rồi chết. Bèn giết Tống Thị, lấy hết gia tài tán cấp cho quân dân".

Đó là số phận một người đàn bà có một không hai trong lịch sử, một người gian dâm gieo hoang tàn trong phủ chúa, giết hại người vô tội, năm 1644 đã cho xử tử Anrê và 1646 Inhaxu và Vinh Sơn. Tới nay 1654, sau bao tội ác, đã bị chết thê thảm. Như Thực lục có chép rành rành, người vợ của anh cả nhà chúa Nguyễn Phúc Lan chính là Tống Thị vậy.

 2. Hoàng tử Nguyễn Phúc Kì

Trong Tường Trình Gaspar Luis viết từ Macao gửi về Roma năm 1621, có nói tới một ông nghè ở tỉnh Quảng Nam, ông này có cảm tình với đạo, nhưng vì có nhiều thiếp và vì giữ chức lo việc nghi lễ trong phủ và các đám ma chay tang chế, nên ông không thể tin theo đạo được. Theo từ điển thì ông nghè là một công chức được vào làm trong cung điện nhà vua. Tới đời Lê, chỉ có những người đỗ đạt cao mới được cử vào những chức vụ này. Do đó mới có thành ngữ ông nghè, chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng. Và ở phủ chúa Nguyễn Đàng Trong lúc này tuy chưa tổ chức thi hương thi hội, nhưng người giữ chức cao vào bậc nhất sau nhà chúa, trấn thủ Quảng Nam cũng được gọi là ông nghè.

Borri trong Tường Trình viết năm 1621 và xuất bản năm 1631, cũng nói tới ông nghè này. Hẳn vì phải lo việc soạn lịch, nên ông rất ham học hỏi với các giáo sĩ về cách tính toán ngày giờ có nhật thực, nguyệt thực. Đã có lần ông theo các giáo sĩ nên đã tính đúng giờ đúng lúc, trái với cách tính sai của các nhà toán học thuộc phủ chúa. Vì thế ông rất phục các giáo sĩ và còn cho các nhà toán học của ông tới học các giáo sĩ. Năm 1624 khi Đắc Lộ tới Đàng Trong thì đã nghe nói tới ông nghè. Hơn nữa năm 1625 khi giáo sĩ De Pina mất trong vụ đắm tàu ở Hội An thì đã xảy ra một việc vu khống làm cho Nguyễn Phúc Nguyên bắt các giáo sĩ phải về tất cả ở Hội An và trừng trị giáo dân. Thế là theo lời Đắc Lộ "chúng tôi đã tìm cách xoay trở vấn đề, cậy nhờ con trưởng của chúa có thịnh tình với chúng tôi, xin cho chúng tôi được phép ở lại một trăm ngày để lo đám tang cho cha De Pina...". "Người con trưởng củũng là "quan cai tỉnh có thịnh tì hiáo sĩ không là ai khác ngoài hoàng Kỳ đang làm trấn thủ Quảng Nam. viết trong hành trình vào Tt về ông như sau: "Ông nghè giúp rất nhiều vào việc truyền giáo này từ khi ông tới, như chúng tôi đã nói ở chương sáu phần hai này, khi các cha quả quyết về nhật thực. Ông hằng công bố khắp nơi rằng không có đạo nào thật hơn đạo các cha rao giảng". Còn Đắc Lộ thì viết: "Ông đã giúp đỡ chúng tôi như một giáo dân tốt mà chúng tôi có thể mong được".

Nhưng năm 1631, Thực lục viết: "Hoàng tử cả là Hữu Phủ Chưởng phủ sự Kỳ mất. Kỳ ở Quảng Nam, ân uy đều nổi tiếng. Khi mất dân sĩ đều thương tiếc. Được gia tặng Thiếu Bảo Khánh quận công và được táng theo lễ tước công". Như vậy cả sử đời, cả sử đạo đều nhận thấy ông nghè là một người có nhân có nghĩa, lo cho sự an vui toàn dân, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo. Chỉ tiếc về phía người vợ mọn là Tống Thị như chúng tôi đã nói ở trên.

3. Hoàng tử Nguyễn Phúc Khê

Về nhân vật này, Đắc Lộ viết rất ít, thế nhưng lịch sử lại cho phép khám phá ra một người hết sức quan trọng trong triều đình Nguyễn, vào cái buổi sơ khai dựng cơ nghiệp và thanh thế ở Đàng Trong.

Năm 1644 khi Đắc Lộ tới Đàng Trong, ông đã phái thày Inhã đi lên phía Bắc, còn ông thì trẩy vào phía Nam. Đắc Lộ cho biết lễ Giáng Sinh năm đó, Inhã đã tổ chức ở nhà "một bà quí phái tên là Maria, thân mẫu của chú nhà chúa". Đó là lời viết trong Tường Trình Đàng Trong. Còn trong Hành Trình, Đắc Lộ còn nói về người chú đó như sau: "Trong tư dinh bà Maria, có người quản lí các công việc của con bà cũng là chú của chúa, đã đắc lực giúp vào dự định của chúng tôi". Vậy ông chú này là ai. Bản Pháp văn viết rõ là "oncle du roi" mà chú "oncle" này trong tiếng Pháp có thể hiểu là bác, nhưng cũng còn hiểu là chú. Và chú thì đúng hơn, bởi vì thuộc vào hàng bào đệ của chúa, thuộc ngành trưởng, nên mới được làm thế tử và lên nối vị.

Lúc này là Nguyễn Phúc Lan và thân phụ Nguyễn Phúc Lan là Nguyễn Phúc Nguyên, sau này lên làm chúa từ 1613 tới 1635, còn con ông là Nguyễn Phúc Lan thì nối ngôi từ 1635, mất 1648. Như vậy ông chú nói đây là bào đệ của Nguyễn Phúc Nguyên.

Thực lục, sử nhà Nguyễn cho biết Nguyễn Hoàng được 10 người con trai. "Hoàng tử cả là Hà, thứ hai là Hán, thứ ba là Thành, thứ tư là Diễn đều mất trước. Hoàng tử thứ năm là Hải thì làm con tin ở Bắc". Hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên, khi Nguyễn Hoàng còn sống, thì làm trấn thủ Quảng Nam từ năm 1602.

Hoàng tử thứ sáu nối nghiệp cha năm 1613, thì năm 1620 Hợp và Trạch hai người em, con thứ bảy và thứ tám của Nguyễn Hoàng, làm loạn, định làm nội ứng cho Trịnh Tráng đến thanh toán Thuận Quảng. Việc phát giác hai người em này "xấu hổ sinh bệnh chết".

Tới năm 1612, Thực lục cho biết về người con thứ 10 của Nguyễn Hoàng như sau: "Gia cho chưởng cơ Hoàng tử Khê, (con thứ 10 của Thái Tổ) làm tổng trấn Tường quận công. Bấy giờ chúa tuổi đã cao, việc quân quốc phần nhiều sai Khê quyết định, duy có án nặng tử tù, sau khi phúc xét, thì đợi chúa quyết định".

Như vậy chỉ còn lại có Nguyễn Phúc Khê là em Nguyễn Phúc Nguyên mà thôi. Hoàng tử thứ 9 thì không được chính sử nói tới, nhưng một nguồn tài liệu khác cho biết tên là Dương. Thế là ông chú nhà chúa mà Đắc Lộ nói tới là Hoàng tử Khê. Chúng tôi sẽ nói sau về ông khi đề cập tới bà Maria thân mẫu của hoàng tử. Và chúng ta tiếp tục biết thêm về ông chú của nhà chúa. Năm 1631 trước khi Nguyễn Phúc Nguyên mất thì đã cho gọi Khê và thế tử đến để dặn bảo trối trăn. Riêng với Khê, nhà chúa nói: "Ta vâng nối nghiệp trước, chí ta cốt trên giúp nhà vua, dưới cứu sinh dân. Nay thế tử chưa lịch duyệt, mọi việc lớn quân quốc ta ủy hết cho hiền đệ quyết định". Khê cúi đầu khóc nói: "Thần dám đâu không đem hết sức ngựa hèn để lo báo đáp". Thế là rõ rệt, Nguyễn Phúc Nguyên trao cho Khê là "hiền đệ" mọi việc lớn trong nước và đồng thời ủy thác thế tử cho Khê để ý nâng đỡ. Khê là chú Nguyễn Phúc Lan.

Thế nhưng chưa xong, ngay năm Phúc Nguyên mất và con lên nối ngôi năm 1635 thì hoàng tử Anh là em của Phúc Lan lúc đó làm trấn thủ Quảng Nam đứng ra làm nội ứng cho nhà Trịnh đưa quân vào. Việc bại lộ, Phúc Lan không biết xử trí ra sao, liền bàn với Khê. Phúc Lan kết thúc câu nói vci Khê: "Vậy tôi muốn nhường ngôi để tắt sự tranh giành, chú nghĩ sao?".

Nhưng ông chú của chúa không nhận vì lòng trung với chúa vẫn không hề phai lạt. Khê bèn đem quân đi bắt được hoàng tử Anh và theo luật nước đem xử cùng tất cả bọn đồng lõa. Lịch sử về sau đánh giá Khê rất cao bởi vì nếu lúc đó Khê định lên nắm chính quyền thì rất thuận lợi, rất hợp pháp. Lòng trung tín của Khê sẽ còn có dịp khác được thổ lộ ra. "Chúa cho rằng Hoàng tử Khê có công lớn thưởng cho một cỗ kiệu sơn then và một quả ấn đồng". Nhưng Phúc Lan nể và kính phục ông chú vì lí do chính trị và đức trung tín, còn về mặt tôn giáo thì ông không nhượng bộ. Đắc Lộ kể trong Tường Trình về Đàng Trong là đã có sự xung khắc giữa Khê và ông cháu. Là vì Khê thường giao thiệp với nhiều người ngoại quốc ra vào tư dinh, nên ông cũng thường theo lề thói người ngoại quốc làm các trò đùa, ăn nói vui vẻ và thoải mái. Thế là Phúc Lan tỏ ý không bằng lòng và còn đưa lời chê trách. Hẳn Phúc Lan cũng có niềm ghen tị và nghi ngờ, cho nên ông chú ruột mới dám ra tay hay cho người ra tay phá hủy ngôi nhà nguyện công giáo của thân mẫu mình. Đắc Lộ viết: "Ngay đến nhà chúa cũng bỡ ngỡ vì sự khéo tay và nhanh nhẹn trong mấy trò mua vui để giải trí, ngài nghĩ ngợi và sợ hãi, quay về phía ông chú là em của đức thân phụ, ngài khiển trách ông vì đã học được nhiều điều, vì ông để cho các người của chúng tôi đi lại quen thân với ông, bởi vì thân mẫu ông theo Kitô giáo". Chúng tôi sẽ nói thêm sau về việc này. Và để kết thúc, chúng tôi đọc lời Thực lục nói về cái chết của ông chú nhà chúa, năm 1646: "Tổng trấn Nguyễn Phúc Khê mất. Khê là người họ thân của chúa, giúp việc chính trị trước sau 41 năm, trải qua ba triều, đức lớn công to, làm chỗ dựa quan trọng của đương thời. Khi mất 58 tuổi. Chúa thương tiếc lắm, tặng tá lý tôn thần bình chương quân quốc đại sự Tường quận công, thụy là Trung Nghị (năm Gia Long thứ 5 cho tòng sự ở Thái Miếu; năm Minh Mệnh thứ 12 phong Nghĩa Hưng quận vương)".

Theo gia phả nhà Nguyễn thì Khê được 13 trai 16 gái. Trong số con gái này, cháu của bà Minh Đức, có người theo Kitô giáo.

4. Bà Minh Đức Vương Thái Phi

Khi nói về hoàng tử Khê thì một phần nào đã đề cập tới bà Minh Đức. Nhưng nên viết sơ lược nguồn ngọn vấn đề như thế này. Đọc hai tác phẩm của Đắc Lộ Tường Trình về Đàng Trong (Paris, 1652) và Hành Trình (Paris, 1653), người ta thấy nhắc tới hai người: bà Maria, bà Madalêna, có khi lại là bà Maria Madalêna. Dần dần sau khi phân chia ranh giới thì thấy nổi lên tên một người khá đặc biệt gọi là Maria, thỉnh thoảng lại là Maria Mađalêna, nhưng tựu trung thì thường là Maria.

Trong Tường Trình, bà Maria này thường được gọi một cách kính cẩn bằng tiếng Pháp là: une Grande Dame hay une Dame (Bà Quí Phái hay Bà), mère de l'oncle du roi (thân mẫu của chú của chúa Nguyễn Phúc Lan),acctúe Pgincesse (bà Thái Phi đó), tante du roi (bà dì của chúa).

Năm 1624, khi Đắc Lộ tới Đàng Trong thì được De Pina đưa đi thăm bà quí phái này, "một bà hoàng, họ gần với chúa và rất sùng thần ngoại, nhưng khi nghe cha De Pina giảng thì được ơn Thiên Chúa soi sáng. Từ đó bà là điểm tựa của giáo đoàn này. Gương của bà và thế giá của bà đã giúp rất đắc lực cho việc chinh phục lương dân và duy trì lòng nhiệt thành nơi những kẻ chịu phép rửa (Hành Trình 2,5).

Nhưng khi viết lại một kỉ niệm từ 28 năm (1625-1653) về trước, Đắc Lộ ghi thêm: "Tôi vẫn thường gặp bà suốt thời kì tôi ở xứ này và tin rằng bà vẫn kiên trì từ 28 năm trong việc thi hành các nhân đức đạo Chúa Kitô". Có họ gần với chúa (proche parente du roi), Đắc Lộ chỉ nói có vậy.

Chúa đây là chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bào huynh của con bà là nguyễn Phúc Khê. Thực ra cũng không biết cách xưng hô thế nào vì Nguyễn Hoàng có nhiều thứ phi và các anh em phần nhiều là anh em cùng cha khác mẹ trong chế độ đa thê. Bà Maria này khi nghe thấy cha De Pina giảng thì lấy tên Maria trên đây là tên thánh. Tư dinh của bà hẳn cũng là tư dinh của con bà, Hoàng tử Khê được bào huynh Nguyễn Phúc Nguyên tín nhiệm trao cho chức vụ rất lớn trong quốc gia như đã nói ở trên. Nhưng trong tư dinh, bà đã cho xây cất một nhà nguyện công giáo: các giáo sĩ đi về thường tới tư dinh và cử hành các nghi lễ trong nhà nguyện. Giáo dân vùng lân cận vẫn lui tới nhà nguyện và được bà ân cần săn sóc, nếu không là chở che. Tháng 12 năm 1640 Đắc Lộ tới Đàng Trong lần thứ hai, thì đã ở trong tư dinh của bà và cử hành Tuần Thánh tại nhà nguyện trong tư dinh của bà.

Đắc Lộ kể lại lễ Giáng Sinh năm 1643, khi Đắc Lộ còn ở Macao, thày Inhaxu đã tổ chức nghi lễ ở nhà Bà: "Inhaxu trở về phủ để mừng lễ Giáng Sinh với đám đông các Kitô hữu và cả lương dân; một máng cỏ được trang hoàng rất đẹp trong một nhà bà quí phái tên là Maria, thân mẫu của chú nhà chúa, một nữ Kitô hữu kì cựu, có đức tin can tràng qua nhiều biến cố thử thách. Lòng thành kính của bà nổi bật trong ngày hôm nay, bà cho con bà và các cháu bà đến thờ lạy và tôn kính Vua vinh quang giáng trần, bà rao giảng những vinh quang Thiên Chúa cho những người từ các ngả tuôn đến viếng máng cỏ thánh". Bà quí phái, bà có họ gần với chúa thì dễ hiểu, còn bà vương phi, chúng tôi dịch chữ princesse, không phải là công chúa, cũng không phải là nữ hoàng, hẳn không thể là thái hậu hay hoàng hậu, bởi vì chỉ có thân mẫu của thế tử được chức này và cũng chỉ có bà này được ghi trong sử sách và giòng tộc nhà vua mà thôi.

Chữ tante du roi hơi khó dịch. Nói "thân mẫu chú nhà chúa" thì rõ hơn, còn nếu gọi tante du roi thì phải hiểu là "Bà Dì", chứ không phải dì, Grande tante, của Nguyễn Phúc Lan. Nhưng cứ theo văn mạch và ý nghĩ của tác giả mà hiểu: Bà Dì chúa Nguyễn Phúc Lan cũng là bà thân mẫu của ông chú chúa Nguyễn Phúc Lan, hoàng tử Khê.

Tuần thánh năm 1644, bà Maria được gặp Đắc Lộ và xưng tội rước lễ vì từ gần hai năm bà chưa gặp một linh mục nào. Lễ Lá năm đó Đắc Lộ đã cử hành trong nhà nguyện tư của bà dựng ngay trong tư dinh.

Nhưng đã có một nghi ngờ về phía nhà chúa. Nguyễn Phúc Lan sợ rằng Đắc Lộ hiểu biết về thiên văn địa lý, có thể giúp cho giòng họ Khê làm lớn, nếu Đắc Lộ chỉ dẫn cho cách để mồ, để mả, vì năm nay bà đã ngoại thất tuần. Do đó người ta đã canh phòng tư dinh của bà và giáo sĩ cũng rất e ngại không dám lui tới nhiều.

Thêm vào việc chúng tôi đã nói trên, Nguyễn Phúc Lan tỏ ý khiển trách hoàng tử Khê vì hay bắt chước người ngoại quốc làm trò vui và ăn nói thoải mái. Dụng ý của nhà chúa cho Khê biết không nên liên hệ nhiều với người ngoại quốc. Do đó, hi sinh chữ hiếu và giữ chữ trung, Khê cho phá nhà nguyện của bà. Đắc Lộ cho biết : bà như điên như dại, rất sầu khổ, đi lang thang tám ngày, không về nhà. Bà coi như có lỗi trong việc này. Đắc Lộ đã phải giải thích cho bà biết đây không phải lỗi bà và bây giờ có thể hội họp nhau ở nơi khác, chứ không cứ phải ở đây.

Khi có tàu chở ba nữ tu Clarít và hai cha tuyên úy người Tây Ban Nha dạt vào Hội An vì bị b oạđánh bạt, bà cũng rất muốn đến để xem mặt và phục vụ các "thánh nữ". Nhưng bà sợ làm phiền tới con bà và cả nhà chúa. Bà đã lén lút thuê chiếc thuyền nhỏ để đến thăm. Khi từ biệt các nữ tu, bà ao ước nhận được một áo dòng của nữ tu để khâm liệm xác bà khi bà được gọi về với Thiên Chúa. Thật là cảm động cảnh biệt li. Phải đọc nguyên văn mới thấy thấm thía (1).

Sau khi hoàng tử Khê mất năm 1646 thì bà sống cô đơn, không người che chở. Năm 1648 Nguyễn Phúc Lan cũng qua đời. Người ta phỏng đoán bà cũng mất năm 1649. Người ta cũng cho biết khi bà mất, các cháu đã hỗn xược vào lục soát các đồ vật của bà trong đó có các ảnh thánh, di vật thánh và một khăn nhỏ thấm máu. Đây hẳn là máu thánh tử đạo, nhưng họ phao ra là bà đồng bóng phù thủy.

Như trên đã nói Đắc Lộ không biết gì về danh tánh đích thực của bà mà chỉ gọi trống mà thôi. Coi Thực lục là sử nhà Nguyễn, chúng ta khám phá ra hoàng tử Tôn Thất Khê là con bà. Nhưng còn bà thì không có trong sử sách chính thức. Nhưng may thay trong gia phả giòng họ nhà Nguyễn là của Gia Long có viết "Khê là con thứ 10 (của Nguyễn Hoàng), mẹ là bà Minh Đức Vương Thái Phi".

Vậy tất cả sự nghiệp của bà Minh Đức Vương Thái Phi đều nằm trong sự nghiệp con bà là hoàng tử Khê (1588-1646), còn về tôn giáo thì bà là một trong những Kitô hữu then chốt gây dựng Giáo hội nguyên thủy Việt Nam. Nếu đã có hoàng hậu Hêlêna mẹ vua Constantin, đã có hoàng hậu Clotilde vợ vua Clovis thì chúng ta cũng có một bà vương phi vợ chúa Nguyễn Hoàng. Giáo hội công giáo Việt Nam hiên ngang vì đã có một nữ tín hữu vào tầm cỡ bà vương phi này. Chúng tôi có một mơ ước, sau khi theo vết chân các bậc đàn anh để tìm hiểu bà Maria này, như L. Cadière (Une princesse Chrétienne à la cour des premiers Nguyễn, BAVH), như Phạm Đình Khiêm (Minh Đức Vương Thái Phi, Saigon 1957), tôi đề nghị nên cổ động tôn sùng bà và có nguyện vọng xin lập hồ sơ phong thánh cho người bày tôi của Thiên Chúa, bà Maria, bà Minh Đức thứ phi chúa Nguyễn Hoàng, thân mẫu của hoàng tử Khê, mẹ bào đệ của Nguyễn Phúc Nguyên, bà dì của Nguyễn Phúc Lan. Cha Cadière cho biết đã tìm đến mộ Nguyễn Hoàng ở làng Thạch Hãn gần Quảng Trị, mộ hoàng tử Khê ở xã Hiền Sĩ về Bắc Kinh thành, nhưng còn mộ bà Minh Đức thì ở đâu, nếu không là ở trong lòng những ai biết và mến Bà, trong số đó có chúng tôi và giáo dân Việt Nam.

5. Công chúa Ngọc Liên

Cũng như khi nói về bà Minh Đức Vương Thái Phi, Đắc Lộ chỉ gọi bà Maria, thì khi nói tới công chúa Ngọc Liên ông cũng chỉ gọi là Maria hoặc Maria Madelena mà thôi. Với bà này, chúng tôi được biết thêm một người trong hoàng tộc đã theo công giáo.

Đắc Lộ gặp bà khi đi thăm các giáo dân ở tỉnh Phú Yên năm 1641 mà ông gọi là bà Maria Madalêna, vợ ông trấn thủ Phú Yên. Có vậy thôi. đây Bà đã mở bệnh xá để chữa và chứa trọ các bệnh nhân, có cả người cùi. Có lần, nhân vụ bắt bớ và phá nhà thờ, ông cho biết người ta cũng không nể bà Madalêna "có họ với chúa". "Có họ với chúa" nhưng liên hệ họ hàng như thế nào thì không ai biết. Vào thời kì này là thời Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Năm 1644, có thể là trấn thủ Phú Yên đã đổi về Quảng Nam, hoặc về hưu trí nơi đây và nếu có giữ một chức vụ gì đó thì cũng chỉ như cố vấn mà thôi. Đắc Lộ viết trong Tường Trình về Đàng Trong:

"Viên quan trấn thủ năm ngoái cai trị tỉnh Phú Yên có bà vợ rất nhân đức, bà này có thể sánh về nhiệt tình và đạo hạnh với bất cứ bà lớn nhân đức nhất nào khác bên trời Âu của chúng ta. Bà liên tục mong cho chồng bà trở lại đạo. Năm nay ông được bổ nhiệm làm trấn thủ tỉnh Quảng Nam, nơi có những Kitô hữu tiên khởi của cả nước Annam và ở đây ông đã theo ý bà cho xây cất một nhà thờ ở ngay cạnh tư dinh, để các Kitô hữu hội nhau vào các ngày lễ và ngày chủ nhật, chính ông cũng thỉnh thoảng đến thờ phượng Thiên Chúa".

Thực ra trong bản Pháp văn ông dùng chung chữ "gouverneur" là quan cai trị, cho nên và chắc chắn ông không phải làm quan trấn thủ, như chúng tôi vừa nói ở trên. Ông quan cựu trấn thủ Phú Yên này rất hiểu biết đạo và để cho bà vợ theo, nhưng phần ông, ông không theo. Đã có lần Đắc Lộ lăm le và làm phép rửa tội cho ông, nhưng tới phút cuối cùng, ông lại từ chối. Có ba lí do, một là ông còn vướng mắc nhiều thê thiếp, hai là ông thuộc hàng tướng tá, mỗi lần ra quân đều phải cúng tế thần và ba là (hay không nói ra) ông ngại triều đình và sợ dư luận. Bà Madalêna rất thất vọng vì bà tin rằng bà đã thuyết phục được chồng và Đắc Lộ đã giảng giải ngành ngọn về giáo lí cho ông hiểu (2).

Khi thày giảng Anrê bị bắt và bị điệu ra tòa, Đắc Lộ đã muốn cậy nhờ ông can thiệp. Đắc Lộ viết:

"Sau khi đã vận động hết sức với quan tòa mà không được việc gì thì chúng tôi nhờ trung gian quan cựu trấn thủ có bà vợ là Kitô hữu, nhưng ông này tỏ ra sợ sệt, không muốn dính dấp vào vụ này, để mặc cho quan tòa thừa hành lệnh từ phủ đưa tới, ông còn thêm là ông sợ chúa cho chặt đầu ông vì vợ ông là Kitô hữu".

Câu nói Đắc Lộ thường dùng để chỉ viên quan này là "quan trấn thủ có bà vợ là Kitô hữu". Dầu sao, cũng có lần người ta nể bà trấn thủ mà tránh được một phần tai hại. Đắc Lộ viết: "Khi quan tòa ra lệnh cho triệt hạ các nhà thờ ở Qui Nhơn, Bến Đá và Quảng Ngãi, các Kitô hữu ở vùng thứ nhất đã vận động rất khéo, nhờ trung gian bà vợ quan trấn thủ, một nữ giáo dân cũ, nên nhà thờ của họ chỉ bị phá có một nửa".

Sống trong một chế độ căng thẳng vì ghét đạo mà một người đàn bà, cho là vợ quan lớn, dám đương đầu công khai tỏ mình là Kitô hữu thì hẳn bà phải có uy thế với triều đình lắm. Can đảm hẳn có thừa, nhưng cũng phải có một nương tựa đó là "có họ hàng với chúa Nguyễn Phúc Lan". Nhưng họ hàng thế nào thì Đắc Lộ không biết. Khi tàu các nữ tu Clarít dạt vào bến Đà Nẵng, như đã nói ở trên, thì bà tận tình đến săn sóc. Đắc Lộ viết:

"Hơn tất cả các bà khác trong xứ, bà Maria Mađalêna, vợ quan trấn, tỏ ra rất trọng quí các "thánh nữ", tên người ta gọi như vậy. Mỗi ngày bà gửi một món quà mới để tặng, đến thăm thường xuyên và cho con gái một của bà đến với các nữ tu trong mấy ngày. Cô này chừng 13 xuân xanh, đã đem lòng quí mến các nữ tu và khâm phục nhân đức đến nỗi đã quyết định đi theo. Và người ta phải vất vả lắm mới làm cho cô đổi ý định đi theo qua Phi Luật Tân cùng với các nữ tu".

Hình như cô gái độc nhất nói đây là con nuôi, chứ không phải con đẻ.

Còn Đắc Lộ sau khi được gặp các tuyên úy chiếc tàu chở các nữ tu thì về trú trọ nơi nhà bà vợ cựu trấn thủ Phú Yên, lúc này đã đổi về Quảng Nam. Vì trong các lời lẽ của Đắc Lộ có nhắc tới quan trấn thủ Phú Yên nên kể từ cha Cadière cho tới Phạm Đình Khiêm, các người nghiên cứu lịch sử Giáo hội đã nghĩ ngay đến mấy bản văn trong bộ sử nhà Nguyễn, Thực lục tiền biên. Theo Thực lục thì tỉnh Phú Yên mới được đặt làm phủ Phú Yên cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào năm 1611. Nguyễn Hoàng sai Văn Phong làm lưu thủ đất này vì có công đánh chiếm được của Chiêm Thành. Tới thời Nguyễn Phúc Nguyên năm 1629, Văn Phong làm phản xui dân Chiêm Thành vào hùa với mình. Vì thế Nguyễn Phúc Nguyên truất phế Văn Phong và đặt con rể lên thay. Thực lục viết:

"Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống, lấy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính, sau đổi làm hệ tính Nguyễn Hữu) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn biên. (Khi mới mở mang, những nơi đầu địa giới đều gọi là trấn biên), vì có công ấy đặc biệt cho dùng ấn tín".

Như vậy ông trấn thủ Nguyễn Phúc Vinh có công dẹp được ngụy quân cựu trấn thủ Văn Phong, lại là rể Nguyễn Phúc Nguyên vì lấy công chúa Ngọc Liên. Việc được dùng ấn tín cũng là dấu hiệu được tín nhiệm nơi nhà chúa. Có thể Nguyễn Phúc Vinh giữ chức trấn thủ Phú Yên mãi cho tới năm 1644 mới đi hưu trí về ở tỉnh Quảng Nam. Sử không nói gì hơn. Nguyễn Phúc Nguyên mất năm 1635 và tới Nguyễn Phúc Lan, hẳn cũng chưa có sự thay đổi lớn mãi cho tới những năm 1644-1645 này.

Thế là chúng ta có thể và có chứng cớ (tuy mong manh) cho rằng bà Maria Madalêna hay Madalêna, vợ trấn thủ Phú Yên, người có họ hàng với chúa là công chúa Ngọc Liên, con Nguyễn Phúc Nguyên, và ông trấn thủ (Phú Yên) có bà vợ là Kitô hữu rất có thể và hẳn chắc chắn là Nguyễn Phúc Vinh nói trong Thực lục. Vì nói phải có sách, mách phải có chứng, nên cha Cadière cũng mới chỉ đưa ra "giả thuyết" mà thôi. Bây giờ với Phạm Đình Khiêm chúng tôi thấy điều này là khá chắc chắn.

Về công chúa Ngọc Liên thì một tài liệu sau này cho biết vào cuối năm 1663, bà bị bắt cùng với một số đông giáo dân tỉnh Quảng Nam. Trong số 100 người, tất cả đều chối đạo trừ 5 phụ nữ trong đó có bà Maria, 4 người là thường dân thì bị voi dày, còn bà vì thuộc huyết thống nhà chúa nên người ta nhốt bà để cho bà chết đói chết k"ác.oBb hhutđđợi căế ghyt hà chịồ ưìcknám

ngày, nhưng rồi vì khát quá bà đã xin gặp quan trấn và bà đã chối đạo. Được inbn yãgcáố âạ. ấĐ ợs uik ổàv iáo dâncr t Nầá ghrồi bà (cùng một số người vì yếu đuối đã chối đạo) đi evreuil. Lần đầu tiên cha từ chối cố ý cho bà biết tội rất nặng của bà. Nhưng mấy ngày sau, trước khi cha bị trục xuất và ra đi thì cha đã giải tội cho bà và cho bà rước lễ.

Đó là vào năm 1665 đầu tháng 3. Trong bản văn viết vào thời kì này, các giáo sĩ vẫn dùng những từ ngữ rất tôn trọng để chỉ "bà Maria" này. Có một bản văn viết bằng tiếng Pháp mà ghi rõ bằng tiếng Việt là "Bà Maria" quả phụ một quan lớn (grand mandarin). Ngoài ra người ta gọi bà là "La maitresse qui s'appelait Ba Maria", "la maitresse fort vénérable". Rồi sau không biết bà mất vào năm nào và mất trong những hoàn cảnh nào.

 6. Công chúa Ngọc Đỉnh

Khi chúng tôi nói về bà Minh Đức Vương Thái Phi, thì chúng tôi đã dựa vào nhiều đoạn văn Đắc Lộ viết về bà này và nửa giòng ghi trong gia phả Nguyễn Phúc Khê, ông này được nói nhiều Hàng trình của Đắc Lộ, chúng tôi bàn giải về công việc của ông cũng dựa vào một số bản văn của Đắc Lộ và một đoạn trích trong Thực lục nói về ông trấn thủ Nguyễn Phúc Vinh, mà cũng chỉ có một đoạn thôi. Tới công chúa Ngọc Đỉnh thì tuyệt nhiên, Đắc Lộ không cho biết gì hết.

Khi Đắc Lộ lên thăm giáo dân ở vùng lũy Trường Dục hay lũy Thầy ông viết:

"Sau khi rảo khắp trung tâm đất nước này, cuối cùng tôi tới tỉnh Quảng Bình, ở sát biên giới Đàng Ngoài có lũy kiên cố chia đôi hai nước. Người Đàng Ngoài thường dồn hết lực lượng để chiếm, nhưng đều vô hiệu. Tôi đến thành phố chính của tỉnh và đem lễ vật đến tặng quan trấn. Ông rất niềm nở đón tiếp tôi. Ông nói rất thành thạo về các mầu nhiệm đạo ta, làm cho tôi tưởng xưa kia ông là giáo dân, điều mà không bao giờ ông thú nhận" (Đắc Lộ, Hành Trình, 9.2 ch.27).

Đó là năm 1644. Chúng tôi xin trưng thêm một đoạn Saccano viết năm 1647 khi xảy ra việc bắt ba giáo dân và chính quan trấn thủ Quảng Bình là người được nhà chúa cho đứng ra xử tử. Saccano viết:

"Quan trấn thủ là Kitô hữu, nhưng chỉ có tên mà thôi, ông không sao ngăn cản được, cũng không sao cứu người vô tội thoát án tử hình, bởi vì khi ông định, hoặc là lẩn tránh, hoặc ít ra kéo dài việc thi hành bản án chúa ban ra, thì một viên quan thuộc phái nhà nho nài nẵng đòi chúa quyết định truyền thi hành án tử ngay, thế là ông buộc mình phải cho thi hành". Còn về sách đạo thì ông truyền không được đốt bằng cách nào khác, mà phải treo lên trên không, ông nói: "Vì là sách đạo Thiên Chúa, nên không được phép để cho chạm tới đất" (3).

Tìm về Thực lục năm 1623 thấy nói tới một sự việc như sau:

"Lấy Nguyễn Phúc Kiều (vốn họ Nguyễn, cho theo quốc tính, sau đổi là (hệ tính) Nguyễn Cửu) làm cai đội, coi đội mã cơ. Kiều từ Đông đô đem mật thư của Ngọc Tú về dâng. Chúa rất mừng, đặt trao cho chức ấy, rồi gả công chúa Ngọc Đỉnh cho".

Việc gả công chúa cho Nguyễn Phúc Kiều đã là dấu hiệu tin tưởng và quí mến, nhưng tới năm 1633, Nguyễn Phúc Nguyên còn trao cho Kiều chức trấn thủ Quảng Bình. Thực lục viết:

"Mùa Thu tháng 8, triệu trấn thủ Quảng Bình là Hoàng tử Tuấn về, cho Nguyễn Phúc Kiều thay".

Thế là ở hai ngọn đầu đất nước, nhà chúa đặt hai chàng rể thân tín: Nguyễn Phúc Vinh ở Phú Yên và Nguyễn Phúc Kiều ở Quảng Bình.

Nếu Thực lục chỉ ghi danh tánh Nguyễn Phúc Vinh lấy công chúa Ngọc Liên và làm trấn thủ Phú Yên có một lần, thì sử nhà Nguyễn nói về Nguyễn Phúc Kiều khá nhiều, bởi vì ông này là một tướng giỏi đương đầu với quân nhà Trịnh ở Đàng Ngoài đánh vào.

Thời Nguyễn Phúc Lan, Thực lục còn ghi chiến công của Nguyễn Phúc Kiều năm 1640 và 1648, năm ông chúa này mất. Như vậy thời kì Đắc Lộ tới Quảng Bình thì ông trấn thủ ở đây là ai nếu không phải là Nguyễn Phúc Kiều và khi xảy ra vụ án xử tử hai Kitô hữu, Autinh và Alexis năm 1647, theo lời tường thuật của giáo sĩ Saccano, thì quan trấn thủ cũng là Nguyễn Phúc Kiều, "một Kitô hữu, nhưng chỉ có tên mà thôi", theo Saccano.

Dầu sao, ông quan này cũng có thiện chí cứu các nạn nhân mà không được. Ông cố trì hoãn nhưng rồi cũng thi h thành công trong vinh trọng các sách đ

Có một chi tiết khtrọng cần phải nói ở chắc chắnết chắc chắn cuộc tử hình được diễn ra ở tại tỉnh Quảng Bình và do ông trấn thủ Quảnga ở tại tỉnh Quảng Bình và do ông trấn thủ Quảng Bình thi hành, đó là điều Saccano viết rất rõ ràng:

"Lệnh thi hành bản án được trao cho quan trấn thủ Quảng Bình, hơn nữa ông cũng được lệnh bắt các Kitô hữu và cho một hình phạt làm gương, tùy ông xét xử". "L'ordre de faire exécuter tout cela, fut donné au Gouverneur de Quanbinch et d'abondant lui fut commandé, qu'autant qu'il attraperait de Chrétiens, il en fit une punition exemplaire selon qu'il jugerait" (Metelle Saccano, Relation, Paris 1653, p.97).

Thế nhưng còn một chi tiết độc nhất làm cho chúng ta có thể phỏng đoán - và phỏng đoán mà thôi - đó là chi tiết người can đảm dám táo bạo đem chiếu điều trải trước mặt hai người sắp bị chém đầu. Saccano viết: "Các tử đạo của chúng ta bị đưa tới nơi hành hình, lương dân và binh lính cùng các nhân viên tòa án đứng một bên, còn một bên là các Kitô hữu. Cả đàn ông và cả đàn bà, làm thành một hàng rào rộng lớn. Có một Bà Kitô hữu tỏ lòng bác ái và can đảm ở chốn hành hình rộng lớn này: Bà tiến đến gần các tù nhân, trải chiếu cho các vị quì lên trên, để cho máu không thấm xuống đất và mặc dầu các vị khiêm nhường hết sức từ chối danh dự này, nhưng cuối cùng các vị phải thua sức mạnh của lòng thương mến: Bà không sợ sắc lệnh chúa mà viên lục sự vừa mới công bố: Hết những ai bị bắt tin theo đạo người Bồ thì bị chém đầu".

Phải chăng đây là bà công chúa Ngọc Đỉnh, phu nhân Nguyễn Phúc Kiều, trấn thủ Quảng Bình. Chỉ có một người tầm vóc như bà, mới dám ra mắt công khai trong việc này mà không sợ bị liên lụy.

Nếu Đắc Lộ nói nhiều về bà Minh Đức, về bà công chúa Ngọc Liên thì về công chúa Ngọc Đỉnh phu nhân Nguyễn Phúc Kiều, Đắc Lộ cũng như Saccano, đều không nói gì tới. Người tới giải chiếu cho các tử đạo quì, cũng theo giả thuyết, phỏng đoán, có thể là Ngọc Đỉnh chăng? Và chúng tôi không dám nói gì thêm.

Còn về Nguyễn Phúc Kiều thì Thực lục cho biết năm 1648 "trấn thủ Nguyễn Phúc Kiều xin giữ lũy Trường Dục để làm kế cố thủ". Năm 1652 vào thời Nguyễn Phúc Tần, Kiều được lệnh bỏ thuốc độc cho Thị Thừa chết đi. Năm 1655 trong một trận chiến, Kiều đưa quân lên làm tiên phong. Trận kéo dài và năm 1656 ông tử trận. Thực lục viết:

"Kiều bị thương rồi chết (tặng là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Tả quân đô đốc phủ tả đô đốc Nghĩa quận công, lập đền thờ ở xã Dương Xuân, cấp cho tự phu 50 người".

Cũng nên biết, khi Nguyễn Phúc Khê mất thì được tôn là "Tường quận công", còn Kiều thì được tặng chức như Khê đó là "Nghĩa quận công".

7. Thanh Đô Vương Trịnh Tráng (1623-1657)

Chúng ta không thể không nhắc tới Trịnh Tráng, hiệu Thanh Đô vương. Ông được Đắc Lộ trân trọng gọi là chúa lần đầu tiên đã tiếp đón các giáo sĩ Dòng Tên. Và thật vậy năm 1626 ông chúa này đã hậu đãi phái đoàn thương gia người Bồ có cha Baldinotti đi làm tuyên úy, nhưng thực ra đi tìm đường truyền giáo ở Đàng Ngoài. Theo Tường Trình của cha, thì thấy Trịnh Tráng cởi mở, khôn ngoan và ham học. Là con một nữ ca sĩ, ông thích hát ca xướng họa. Có lần ông mời cha Baldinotti đi dự, nhưng cha từ chối, để cho người Bồ đi mà thôi. Ông cũng ham học hỏi, thường cho người tới mời cha đến giảng cho mình nghe về thiên văn, về việc vận chuyển các hành tinh, về nguyệt thực, nhật thực. Ông tiếp đãi phái đoàn người Bồ rất nồng hậu, thường cho người đem bánh kẹo, quà cáp đến tặng. Giáo sĩ cho biết ông thao luyện võ niht,ôcgitnaự, ubện cõn, gxệm,cgèt ah y nắc iung, xem chèo thuyền chiến. Thế nhưng ông rất cẩn thận lo việc nước, nhất là lúc này đang chuẩnấb àưl cunnyvđonđ nh ẩg yịnđ a q âNguyên.

Thực ra, ông muốn liên lạc và nhất là mua súng ống đạn dược. Biệt đãi các người ngoại quốc, nhưng khi ông được người ta cho biết giáo sĩ đã mật cho người đem thư vào Đàng Trong để xin Bề trên phái người thông thạo tiếng ra Đàng Ngoài giảng đạo, thì ông nghi ngờ, rồi ông không cho phái đoàn ra đi như đã định. Ông bắt lập đền thờ và bắt phải thề là không có liên hệ gì với Nguyễn Phúc Nguyên, ông bắt phái đoàn phải thề trung thành với ông và không liên lạc với Đàng Trong. Trước khi phái đoàn ra đi, ông còn mở tiệc khoản đãi và mở kho tàng của mình cho họ coi, như thể bảo ngầm họ rằng: ta có những thứ này, có súng lục, có ngọc trai, các ông liệu đem cho ta những thứ ấy.

Khi Đắc Lộ năm 1627 tới thì được Trịnh Tráng tiếp đón nồng hậu vào lúc nhà chúa đưa quân đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Người Bồ khôn khéo đã tặnp ờn ồmktôk ẩh oúđg đặ gựôvg. Độc Lh uãstnn ể tự vệ. Đắc Lộ đã tặ,gmột đồng hồ bằng cát và một đồng hồ máy báo thức, có chuông kêu khi vặn đúng giờ đó. Đắc Lộ còn tặng ông một cuốn sách bằng chữ nho do các giáo sĩ Dòng Tên bên Tàu ấn hành. Đó là cuốn Kỉ hà nguyên bản, sách hình học của Euclide mà Từ Quang Khải cộng tác với cha Ricci đã dịch và in tại Trung quốc. Trịnh Tráng rất thích hai đồng hồ và dĩ nhiên khẩu súng nữa. Có lần ông đợi lâu chưa thấy chuông reo "báo thức" ông sốt ruột hỏi lại Đắc Lộ. Có lần ông mời giáo sĩ qua thuyền ông để nghe hát: giáo sĩ tới dự và Trịnh Tráng tò mò hỏi xem bên trời Âu người ta ca hát thế nào. Trịnh Tráng cũng cho vời Đắc Lộ tới để cắt nghĩa toán học, giải thích sự vận chuyển các hành tinh cho mình nghe. Nhưng khi giáo sĩ muốn từ thiên văn địa lí giảng đạo cho ông nghe thì ông xin khất lần khác.

Trịnh Tráng đưa phái đoàn người Bồ trong đó có Đắc Lộ và cha Marguez, một người lai Bồ, bố Bồ mẹ Nhật, về Thăng Long Kẻ Chợ, và cho phái đoàn ngụ tại phủ chúa. Nhưng sau giáo sĩ xin ở ngoài phủ để tiện việc đi lại của những người muốn đến học đạo. Trịnh Tráng đã cho một khu nhà đẹp đẽ sang trọng như nhà các qual tủọ gẻ Chợ h như bị thất lạc vì chiếc tàu chở phái đoàn về đã gặp tai nạn và đắm ở đảo Hải Nam. Dân ở đảo tìm được và cha Bề trên Palmier đã bỏ tiền ra chuộc lại, hiện còn được lưu trữ tại thư viện Vaticăng.

Theo bức thư thì thấy Trịnh Tráng cũng đã chủ ý tìm hiểu và có những lời lẽ rất thích hợp cảm ơn cha Bề trên đã phái hai "giáo sĩ tinh thức thiên văn địa lí" đem "Thánh giáo" dạy "thập giới tổng hợp tại tam" dạy cho "chúng sinh". Trịnh Tráng khá lịch thiệp khi nói mình cũng rất khâm phục "Thánh giáo" và tiếp đãi các giáo sĩ cho ngụ ở một nơi thuận tiện "xem hiện tượng trời đất và xét nghiệm điềm lành". Nhưng dẫu sao, Trịnh Tráng không quên việc giao thông buôn bán. Việc "thông hảo. .. thuận nhân tình, tiện dân dụng chi sự", dĩ nhiên không cần phải nói. Kèm theo thư Trịnh Tráng gửi tặng: trầm hương, nhị cân, Bạch tế bố, bát thất. Cát nhàn nhất lâu, trọng thập cân.

Thế là các văn kiện thời Trịnh Tráng không còn cho tới ngày nay, trừ bức quốc thư Trịnh Tráng gửi cha Bề trên Dòng Tên ở Macao năm 1627. Trịnh Tráng còn khá lịch thiệp và biết cư xử nhất là đối với người ngoại quốc, bởi vì năm 1629 khi ông nghe theo lời cận thần xúi giục mà ra lệnh trục xuất hai giáo sĩ thì ông cho người đem cho hai giáo sĩ hai đồng êcu và vải quí, cung cấp cho một chiếc thuyền có đủ thuyền trưởng và người chèo để dẫn vào Đàng Trong.

Thực ra năm 1629 này là năm đói kém vì thế vua Lê mới đổi niên hiệu Vĩnh Tộ ra Đức Long. Và cũng năm này, theo Đắc Lộ, Trịnh Tráng không thấy phái đoàn người Bồ tới như đã mong, đã hẹn: chiếc tàu năm 1627 khi trở về, đã bị đắm ở đảo Hải Nam như vừa nói, nên có sự trậm trễ, ngại ngùng của các thương gia.

Nhưng khi Đắc Lộ còn nằm chờ ở Thanh Nghệ Tĩnh thì người Bồ ở Macao đã trở lại Đàng Ngoài đem theo giáo sĩ Gaspar d'Amaral người Bồ. Thế là cả D'Amaral và Đắc Lộ cùng lên Kẻ Chợ, được Trịnh Tráng tiếp đãi, vì có người Bồ tới làm công việc thương mại (và biết đâu có bán vũ khí mà Trịnh Tráng đang cần để đối phó với Đàng Trong). Cũng năm đó khi phái đoàn trở về Macao thì giáo dân Đàng Ngoài đã đệ một bức thư lên đức giáo hoàng Urbanô VIII, đề: "tự Thiên Chúa giáng sinh chí kim, nhất thiên lục bách tam thập niên. thần bổn đạo đẳng, Kê thủ đốn thư, túc trình tư thư". Chúng tôi tất cả bổn đạo cùng nhau cúi đầu kính đệ bức thư mọn này. (Coi Võ Long Tê, Lịch sử văn học công giáo Vietnam, Saigon, 1965 trang 116.) Như vậy, mới có 3 năm thụ giáo mà giáo dân Đàng Ngoài đã ăn nói đĩnh đạc, suy nghĩ chín chắn về đạo như thế và Trịnh Tráng cũng tỏ ra hiểu biết như thế, thì hẳn là do hoạt động rất tích cực của Đắc Lộ và cũng nhờ vào óc cởi mở của Trịnh Tráng. Không cởi mở mà Trịnh Tráng đã để dòng họ nhà mình có người theo Kitô giáo, đó là bà em Trịnh Tráng cùng cụ thân mẫu đã theo đạo: bà Catarina đã nói ở trên. Nhưng cũng phải nói Trịnh Tráng đã cho xử tử một giáo dân tên là Phanchicô chỉ vì ông này không chịu bỏ việc đi chôn xác người nghèo. Nhà chúa không thể chịu để người khiêng cáng, khiêng kiệu cho ông mó tay vào xác chết (Sd. 9.2 ch. 38). Có thể coi đây là người chứng thứ nhất ở Đàng Ngoài. Thực ra cũng đã có người Kitô hữu phục vụ trong nhà chúa, phủ chúa, như viên binh sĩ pháo thủ trước kia làm việc với người Bồ, thông thạo về pháo binh, nay phục vụ cho nhà chúa và chết vì tai nạn bắn pháo (Sd. 9.2 ch. 26).

Trịnh Tráng còn sống cho tới năm 1657 và giáo sĩ Tissanier, Marini còn tường thuật và cho biết nhiều chi tiết khác về ông chúa này.

8. Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)

Đàng Trong, việc truyền giáo bắt đầu sớm hơn ở Đàng Ngoài, nghĩa là vào năm 1615 dưới thời Nguyễn Phúc Nguyên. Nhưng trong các bài tường trình, ít nói trực tiếp đến ông chúa Nguyễn này. Người ta chỉ nói tới ông nghè Quảng Nam, Hoàng tử Kì con trưởng Nguyễn Phúc Nguyên, ông chú của chúa Nguyễn phúc Khê, bà dì của chúa hay thân mẫu của bào đệ của chúa là bà Vương Thái Phi Minh Đức mà thôi.

Tuy nhiên với một số người thân thích có cảm tình với Kitô giáo như thế thì nhà chúa cũng không thể có ác cảm được. Trong những vụ nhật thực, nguyệt thực, người ta được biết là Nguyễn Phúc Nguyên có những nhà toán học riêng của mình, còn Hoàng tử Kỳ cũng có những nhà toán học riêng của mình. Mà vì Kỳ đã cho các cộng tác viên của mình đến học với Ấá ủi oìsh,đnn học viitc cígháo sĩn ày giờ xảy ra nhật thực, nguyệt thực đúng hơn các chuyên gia của Nguyễn Phúc Nguyên.

Theo Borri thì Nguyễn Phúc Nguyên có gả một công chúa cho nhà vua Campuchia, lại cung cấp chiến thuyền và võ khí cho nhà vua để đương đầu với Thái Lan đe dọa nơi biên thùy. Điều này sử ta không nói tới nhưng quốc sử Campuchia ghi rõ rệt (Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa T.P. H.C.M., 1987, trang 148).

Vẫn theo Borri, chính Nguyễn Phúc Nguyên phái sứ thần Đàng Trong đi Campuchia: ông này đã nể lời bà vợ là Kitô hữu tân tòng mà xin chịu phép rửa tội trước khi cho căng buồm trẩy đi Campuchia. Nguyễn Phúc Nguyên còn có hai tướng làm rể, lấy công chúa Ngọc Liên và Ngọc Đỉnh, Nguyễn Phúc Vinh và Nguyễn Phúc Kiều, cũng như có bà Minh Đức Vương Thái Phi là bà dì theo Kitô giáo.

Theo lời các giáo sĩ để lại, nhất là Borri thì thấy Nguyễn Phúc Nguyên rất cởi mở, rất sáng suốt. Ông tỏ ra không sợ ai, người Hòa Lan, người Bồ, người Nhật, hay ncưBi,T

ug ờn hởtc aađón nhận hết và cho phương tiện hoạt động thông thương buôn bán. Kể từ đời Nguyễn Hoàng, hai cửa biển Hội An và Qui Nhơn là hai hải cảng lớn, Nguyễn Phúc Nguyên không cần biết tới tôn giáo mới, nhưng ông cần buôn bán với người Bồ, cần súng ống đạn dược của người Bồ, để chống lại quân của Trịnh Tráng. Người Bồ đã xúi ông không cho người Hòa Lan tới, nhưng ông không nghe: ông có nhãn quan thương mại chứ không có nhãn quan ý thức hệ.

Năm 1624 Đắc Lộ tới Đàng Trong vào thời Nguyễn Phúc Nguyên, nhưng chỉ hai lần gián tiếp nhắc tới ông này. Một lần Đắc Lộ theo De Pina đến thăm bà Minh Đức và một lần xin ông nghè hoàng tử Hoàng tử Kỳ thỉnh cầu nhà chúa cho ở lại một trăm ngày để lo lễ giỗ De Pina chết đắm tàu ở Hội An năm 1625.

Sử nhà Nguyễn Thực lục tiền biên viết nhiều về sự nghiệp của Nguyễn Phúc Nguyên. Chúng tôi không nhắc tới ở đây. Chỉ biết vào thời ông, Giáo hội Kitô tương đối được bình an thịnh trị. Ông mất năm 1635 và người con thứ là Nguyễn Phúc Lan lên kế vị.

9. Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)

Chúng tôi đã một cha nhà chúa Hoàng tử Khê hay bà dì của nhà chúa, thân mẫu ông chú nhà chúa là bà Minh Đức Vương Thái Phi, nhất là Tống Thị, quả phụ bào huynh của nhà chúa là hoàng tử Hoàng tử Kỳ. Nguyễn Phúc Lan quả là người có vấn đề. Trước khi Nguyễn Phúc Nguyên mất, đã nhờ hoàng tử Khê để ý giúp đỡ thế tử trong việc trị nước. Mới lên kế vị đã có người em làm loạn khiến Nguyễn Phúc Lan chán nản muốn trao quyền trị nước cho người chú là Khê. Nhưng rồi vướng vào vụ Tống Thị, mê sắc dục tham ngọc trai, Nguyễn Phúc Lan tỏ ý chê trách ông chú làm cho ông này cho người phá nhà nguyện công giáo của bà Vương Thái Phi. Lan cũng ra lòng xa lánh Đắc Lộ và bà Vương Thái Phi vì sợ Đắc Lộ có tài địa lí tìm cách để mồ để mả cho phát, ngõ hầu dòng họ bà Vương Thái Phi sau này lên cầm quyền.

Cũng dưới thời Nguyễn Phúc Lan do ảnh hưởng xấu của Tống Thị mà Anrê Phú Yên bị chết vì đạo rồi tiếp theo sau mấy năm là hai thày giảng khác, Y Nhã và Vinh Sơn.

Tính khí ông chúa này khá kì dị. Năm 1645 khi chiếc tàu Tây Ban Nha chở bốn nữ tu Clarít và hai giáo sĩ Phanchicô bị bão đánh dạt vào cửa Hội An thì Nguyễn Phúc Lan và bà chính phi tò mò muốn một mực bắt các nữ tu phải ra mắt cho chúa ông và chúa bà xem mặt. Sau nhiều lo lắng và do dự, thuyền trưởng người Tây Ban Nha phải nhượng bộ. Thế là thuyền trưởng và quan sĩ tùy tùng cùng với năm chục thủy thủ người Tây được đưa về Thuận An. Đắc Lộ kể lại chỉ vì người ta đồn thổi là các nữ tu thánh thiện không để tóc mà cạo trọc đầu.

Nghi lễ đón tiếp các nữ tu được tổ chức cực kì long trọng. Thuyền trưởng người Tây Ban Nha với hai viên quan tháp tùng cùng hai giáo sĩ đi theo. Một bữa tiệc thịnh soạn khoản đãi phái đoàn, có ca múa, hát xướng. Có chừng bốn nghìn lính gác. Các nữ tu vẫn che kín mặt và chỉ bằng lòng vén khăn khi đi qua trước mặt chúa bà mà thôi. Tuy nhiên để chiều ý chúa bà, một bà đi theo hầu được phép sờ đầu một nữ tu đã có tuổi và rồi nói lớn tiếng cho chúa bà biết là có cạo đầu trọc thật.

Dầu sao các nữ tu được trọng kính và vì nể, được nhiều quà tặng. Giáo dân đến nghe các bà hát kinh và là một dịp làm phấn khởi giáo đoàn.

Hôm đó Nguyễn Phúc Lan cho thao diễn một trận thủy chiến trên sông Hương. Còn thế tử thì biểu diễn ngựa trận ở trên đất liền. Hôm sau lại có một cuộc thao diễn chiến thuyền khác. Ngày thứ ba Nguyễn Phúc Lan còn tổ chức tế vong linh tiên tổ có tới sáu ngàn binh lính túc trực. Đó là vào ban sáng, tới ban chiều lại thao diễn một trận thủy chiến nữa.

Đó, tính khí kì cục của ông chúa này được biểu lộ trong cuộc tiếp đón các nữ tu như vậy đó.

Đắc Lộ có lần muốn yên tâm truyền giáo thì đã phải dâng chúa tặng phẩm như đồng hồ có khắc chữ nho. Chính Nguyễn Phúc Lan đã ra lệnh trục xuất Đắc Lộ năm 1645. Từ đó ở Macao người ta biết ông chúa này thích ngọc trai, nên mỗi lần tới thông thương buôn bán thì biếu chúa những hạt trai quí. Giáo sĩ Saccano, người tiếp sau Đắc Lộ tới Đàng Trong, đã nói rằng Nguyễn Phúc Lan khi mới được tin người Bồ tới Cửa Hàn tức Hội An và đem theo ngọc trai, thì ông đã vội vã cho người tới đưa họ về phủ. Và khi nhận được từ tay người Bồ bốn hòn ngọc trai thì Nguyễn Phúc Lan đưa lên hít lấy hít nể, sung sướng. Thực lục cũng cho biết: Tống Thị đã dâng chúa một chuỗi ngọc bách hoa để được ra vào cửa phủ nhà chúa, kể từ năm 1639.

Năm 1648 Nguyễn Phúc Lan đưa quân chống lại quân Trịnh phạm cửa Nhật Lệ. Nhưng rồi ông rút quân về, tới Phá Tam Giang thì băng ở thuyền ngự. Thực lục kể lại như thế. Còn Lê Quí Đôn trong Phủ biên tạp lục thì lại viết: "Phúc Lan trúng độc của người yêu là Tống Thị, rút quân về, ngày 26 tháng 2 về đến Phá Tam Giang thì chết". (Sd. tr. 55) _

 

Sưu tầm: Nguồn ông Nguyễn Khắc Xuyên

Không có nhận xét nào: