Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

Histoire deL’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861
Người dịch: Hoang Phong
 
Lời tựa

(của người dịch)


Nguyên là một quyển sách do nhà Hachette tại Pháp xuất bản năm 1864. Sách khá xưa, vì thế tôi xin phép được dài dòng kể lại vì đâu lại có quyển sách này trong tay.

Tại Pháp, cứ mỗi năm một hai lần các làng xã tổ chức ngày bán đồ cũ. Ðó cũng là dịp dân trong vùng gặp nhau trò chuyện. Nhà nào có đồ đạc không dùng thì đem ra bán rẻ. Hoặc nhà nào dọn dẹp kho, tầng hầm, nhà xe, có thứ gì không dùng cũng đem ra bán. Có những gian hàng ăn uống vui như ngày hội. Tôi thích đi thơ thẩn dạo xem người lớn gặp nhau, trẻ con nô đùa, xem những thứ lỉnh kỉnh bày la liệt trên mặt đất, những vât kỷ niệm của ông bà họ từ xưa, những đồ dùng trong nhà còn mới hay đã hỏng. Bỗng đi ngang gian hàng của một người thanh niên còn trẻ, anh ta vọt miệng hỏi tôi:

- Ông có mua sách cũ không?

Tôi nhìn thấy trên mặt đất cạnh chân anh chỉ có độ mười quyển sách. Anh ta hiểu ý ngay và giải thích với tôi rằng:

- Có một người buôn bán sách cũ chuyên nghiệp vừa mua hết, chỉ còn có từng đó.

- Anh cho phép tôi lựa nhé!

Chưa kịp ngồi xuống xem thì anh ta đã nhanh nhẹn cúi xuống nhặt lên một quyển sách đưa cho tôi. Quyển sách mốc meo, ẩm uớt, tuy đóng bìa cứng nhưng đã rách nát. Nể nang đứng lại vì lời mời của anh, bây giờ lại nể nang vì anh ta chìa cho tôi quyển sách trước mặt. Quyển sách mốc xanh rất bẩn, vì lịch sự tôi phải cầm. Lật ra trang đầu:

Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861

Tôi ít khi đọc sách vớ vẩn, nhưng dù sao thì quyển sách này cũng nói về quê hương tôi, biết đâu có một vài chi tiết hay hay về lịch sử.

Từ ngày nhỏ tôi rất ghét môn sử, không bao giờ thuộc bài. Sử của một nước mà tôi không biết nó ở đâu, địa danh của một trận đánh cũng chẳng biết nó chỗ nào, năm ngàn người chết hay mười ngàn người chết thì cố nhớ để trả bài thế thôi, nếu vô phước mà thầy gọi trúng tên.

Ðã mua thì phải đọc. Nhưng càng đọc thử lại càng thấy nhiều xúc cảm dâng lên trong tôi. Những xúc cảm rất phức tạp, vừa đau đớn, vừa hãnh diện, vừa mỉm cười. Ðau đớn cái đau đớn của tổ tiên tôi, hãnh diện cái hãnh diện của dân tộc tôi, mỉm cười trước cái ngây ngô của lịch sử, cái thật thà dễ thương của con người. Có khi nước mắt chảy quanh nhưng cũng có khi phải bật thành tiếng cười.

Vì thế đã nảy ra cái ý dịch quyển sách này để những người đồng hương với tôi có dịp chia xẻ những cảm xúc trong tôi.

Tác giả có lối văn rất xưa, rắc rối và bóng gió, thường hay dùng chấm phẩy (;) hai chấm (:) câu và ý dài dòng, tôi cố gắng, nếu có thể được, giữ nguyên cách hành văn và cả cách chấm câu của tác giả khi dịch. Cố giữ lối trình bày ý tưởng của tác giả, nhưng cũng phải chuyển thành tiếng Việt Nam thế nào cho gọn gàng, dễ đọc. Câu nào "nửa Tây nửa ta” thì xin độc giả tha thứ.

Cuối trang thỉnh thoảng có ghi chú, nếu là ghi chú của tác giả thì tôi không thêm gì cả, nếu ghi chú của người dịch, trong mục đích giúp người đọc dễ theo dõi câu chuyện, thì tôi ghi rõ là: (ghi chú của người dịch). Nếu có ghi chú của tác giả lẫn lộn với ghi chú của người dịch thì tôi ghi cả hai cho rõ ràng.

Tên người và địa danh tôi giữ nguyên theo thời đó và theo cách viết trong sách, không thay đổi.

Sách có 10 chương, 3 trang hình vẽ và phần phụ lục. Hình 1 là bản đồ sáu tỉnh Nam Kỳ vào thời đó. Hình 2 là bố trí của đại đồn Chí Hòa[1], thành phố Saigon-Chợ Lớn và hệ thống sông ngòi chung quanh, rất tiếc là trong quyển sách rách nát của tôi tờ hình số 2 đã mất. Hình 3 là thành Mỹ Tho và hệ thống sông ngòi.

Phần phụ lục gồm có 6 phần và sau hết là Sổ tang:

Phụ lục I: Danh sách tổng tham mưu của toàn thể hạm đội đánh chiếm Nam Kỳ đặt dưới quyền chỉ huy của phó đô đốc[2] Charner, tên từng chiến hạm và sĩ quan chỉ huy, chức vụ và cấp bực của mỗi người, (danh sách chỉ có các sĩ quan chỉ huy trở lên, từ cấp bực hạ sĩ quan trở xuống không ghi, gồm 20 trang trong nguyên bản). Tôi xem như một tài liệu tham khảo nên không dịch.

Phụ lục II: Danh sách, tên tuổi, cấp bực, toàn bộ Quân đoàn viễn chinh Nam Kỳ, từ vị Chỉ huy trưởng[3] tức phó đô đốc Charner đến các sĩ quan cấp dưới, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, ban tham mưu, hành chính v.v., từ cấp hạ sĩ quan trở xuống không có trong danh sách, (tất cả 14 trang trong nguyên bản). Tôi không dịch phần này

Phụ lục III: Danh sách những quân nhân được tuyên dương công trạng, (3 trang trong nguyên bản). Tôi chỉ dịch lời tuyên dương của phó đô đốc chỉ huy trưởng, không nêu tên từng người.

Phụ lục IV: Chỉ dụ của hoàng đế Tự Ðức (ngày 4 tháng 11 năm 1860). Tôi cố gắng dịch ngược trở lại thành tiếng Việt, (3 trang trong nguyên bản).

Phụ lục V: Cách xây dựng thành trì của người Annam (gồm 3 trang trong nguyên bản). Phần này có phiên dịch.

Phụ lục VI: Quân điền[4] và dân quân Ðồn điền Annam (8 trang). Phần này có phiên dịch.

Sổ tang: Tất cả những người Pháp gục ngã ở Nam Kỳ miền dưới cho đến năm 1862. Dịch những dòng mở đầu sổ tang của tác giả. Sổ tang gồm ba phần (không dịch):

Phần 1: Danh sách những người tu hành, chức vụ, ngày chết (5 trang trong nguyên bản)

Phần 2: Danh sách quân nhân thuộc hải quân, cấp bực, ngày chết (25 trang trong nguyên bản)

Phần 3: Danh sách quân nhân thuộc lục quân, cấp bực, ngày chết (35 trang trong nguyên bản)

Cuối sách tôi xin phép độc giả được ghi thêm một vài cảm nghĩ của tôi để làm phần kết luận.

Tôi không ngồi đối diện với tác giả để tìm hiểu và hỏi han tác giả. Tôi xin phép được ngồi một bên bàn với tác giả để cùng nhau lật lại một vài trang sử nhỏ của quê hương tôi. Tác giả kể cho tôi nghe những gương oai hùng của người lính viễn chinh, tôi cũng len lén mượn ngòi bút của tác giả để mô tả lại những giọt máu của tổ tiên tôi, những giọt máu rơi rớt trên những thửa ruộng sình lầy. Hình như những giọt máu ấy vẫn còn âm ấm trong tôi.

Bures-Sur-Yvette, 08.03.00
-------------------------------------
[1] Nguyên văn bản dịch là “thành Kỳ Hòa”. - TN

[2] Nguyên văn bản dịch là “phó thủy sư đề đốc”. Thực ra, cấp bậc của Charner lúc bấy giờ là “Vice-amiral”, dịch là “Phó đô đốc”. Về sau này, Hải quân Pháp sau này có thêm cấp bậc trên Phó đô đốc là “Vice-amiral d’escadre”, dịch là “Phó thủy sư đô đốc”. Vì vậy, ở bản hiệu đính sẽ sửa chữa các lỗi này để tránh nhầm lẫn. - TN

[3] Nguyên văn bản dịch là “nguyên soái”. - TN

[4] Nguyên văn bản dịch là “Nông trại quân đội”. - TN



CHƯƠNG I

Ðề cương:

Ngưng chiến ở Bắc Kinh giúp các lực lượng Pháp rảnh tay - Phó đô đốc Charner được Hoàng đế đề cử thống lãnh viễn chinh Nam Kỳ [1] - Các lực lượng viễn chinh tổ chức trở lại, rời nước Tàu đến Saĩgon trong những ngày đầu tháng 2 năm 1861.

Hoàng đế Hien-fung[2] bất thần đào tẩu về Zhe-hol[3] nơi tận cùng xứ Mãn châu làm quân đồng minh hết hy vọng thương thuyết với Thiên Quốc. Quyết định cực đoan của Hoàng đế nước Tàu gây ra mối hiểm nguy lớn nhất cho việc tiến quân của lực lượng đồng minh lúc bấy giờ. Tương lai cho thấy nhiều điềm xấu và tối tăm: quân đồng minh đang lâm vào một cuộc chiến man rợ, kéo dài nhưng muốn chấm dứt trong danh dự cũng thật khó khăn. Mùa đông đã báo hiệu và mọi người đều biết sẽ vô cùng gay go trên đất Tàu, buộc ta phải chọn một quyết định. Lực lượng đồng minh vì thế phải rút lui, đóng quân chặt chẽ tại Tien-tsin[4], thiết lập liên lạc với căn cứ hành quân trên bờ biển qua các ngõ Tien-kou, Sing-ko, Takou[5]. Lực lượng hải quân cũng bắt buộc phải chuẩn bị theo để hứng chịu mùa đông.
Bộ mặt mới của tất cả mọi việc sẽ thay đổi hết, tùy thuộc vào những yếu tố mới, tức việc tiếp xúc với Hoàng tử Kong[6], từ tánh tình, vị thế vương quyền của ông ta cho đến kết quả trung gian của một lực lượng Âu châu liên hệ thân hữu từ lâu với nước Tàu[7]. Ngày 25 tháng 10 năm 1860, nam tước Gros, huân tước Elgin và hoàng tử Kong cùng ký một hiệp ước hoà bình. Hiệp ước thành công nhờ sự dàn xếp của tướng Ignatieff[8]. Nhờ vậy tình trạng tháo mở, quân đội của hai cường quốc được giải tỏa[9]. Lực lượng hải quân và một phần đội quân viễn chinh của ta được rảnh tay để kéo xuống đập vào Nam Kỳ với mục đích củng cố vị thế thống lãnh của Pháp ở phần đất Á châu này.

Hoàng đế [10] giao phó việc chỉ huy viễn chinh cho phó đô đốc hải quân Charner. Phó đô đốc Charner liền tổ chức lại lưc lượng hải quân do chính ông làm chỉ huy trưởng từ lúc mới khởi đầu cuộc chiến tranh với Tàu. Ông thành lập hai sư đoàn lớn. Sư đoàn thứ nhất gọi là Sư đoàn Tàu, lo việc bảo vệ và canh giữ Ta-kou, Tche-fou, Shang-haĩ[11], luôn cả các hòn đảo Chu-san và Nhật Bản; ông phong chuẩn đô đốc hải quân Protet thống lãnh sư đoàn này. Ông quyết định là các chiến thuyền của sư đoàn Tàu phải thật linh động, di chuyển ngắn hạn ở Nhật, cốt để phô trương khả năng mạnh mẽ về phương tiện mà nước Pháp sẵn có tại các vùng biển này. Mặc dù ở xa mặt trận đang được chuẩn bị là Nam Kỳ, vị thế của đơn vị thuộc miền bắc nước Tàu thật quan trọng vì giữ nhiều trọng trách như: canh chừng Nhật Bản; khống chế bọn nổi loạn trong các xí nghiệp kinh doanh ở Shang-haĩ và Ning-po; nuôi đạo quân viễn chinh và hồi huơng quân lính; ngoài ra còn phải bảo vệ hiệp ước vừa ký mà sự thực thi chưa chắc được bảo đảm; việc duy trì đường dây liên lạc giữa Ta-kou và Tche-fou. Sư đoàn thứ hai dùng để hành quân ở Nam Kỳ.

Vị tổng tư lệnh chỉ định chuẩn đô đốc Page trực tiếp chỉ huy sư đoàn thứ hai và đặt dưới sự lãnh đạo của chính mình. Hai khu vực Hong-kong và Canton[12] tách ra khỏi trách nhiệm chỉ huy của tổng hành dinh Saĩgon.

Phó đô đốc Charner thân hành đến Tien-tsin để hội ý với các sứ thần các nước và các tướng lãnh đồng minh, để thông báo những gì đã được quyết định liên hệ đến người Pháp.

Chiến hạm Duchayla giao cho Nam tước Gros sử dụng, ông này phải trở về Pháp sau khi sắp xếp cho ông de Bourboulon đổi từ Shang-haĩ đến nhậm chức ở Bắc Kinh. Chiến hạm Duchayla trên đường về sẽ ghé Hong-kong, Manille và có thể cả Saĩgon. Chiến hạm Duchayla mang theo quân bổ sung[13] cho trại binh Saĩgon. Theo các tin tức mới nhất thì quân trại Saĩgon càng ngày càng thiếu nhân lực, việc canh phòng khó khăn vì vòng đai phòng thủ rộng. Ðoàn quân đổ bộ trước kia đã tiến chung với quân đồng minh vào Bắc Kinh được giải thể. Thủy quân đánh bộ cũng tách ra khỏi quân đoàn viễn chinh trên đất Tàu để tăng cường một phần cho trại quân Ta-kou; phần còn lại chuyển đến Canton, và sau đó là Saĩgon. Tướng Jamin[14] cùng với trung đoàn bộ binh 101, tiểu đoàn 2 bộ binh, một giàn pháo binh 12 khẩu, một giàn pháo binh 4 khẩu, một đại đội công binh và một nửa bộ phận hành chánh được chuyển về Shang-haĩ. Tướng[15] Collineau được chỉ định chiếm đóng Tien-tsin với đoàn lục quân 102, hai giàn pháo binh, một đại đội công binh, một số kỵ binh và một nửa còn lại của bộ phận hành chánh. Chiến thuyền Forbin giao cho tướng[16] Cousin-Montauban, vì ông này muốn thanh tra vài nơi tại Nhật Bản trước khi quay về Shang-haĩ.

Việc điều động lực lượng vừa kể đột nhiên làm mất tầm quan trọng chiến lược của Tche-fou. Trong suốt cuộc viễn chinh Tàu, Tche-fou là kho lương chính của quân đội. Nay kho lương này chỉ còn dùng để tiếp tế cho các chiến hạm trong vùng, cho toán quân phòng ngự địa phương và cho vùng sông Pei-ho[17] khi cần tới. Tuy vậy vị trí này còn giữ một tầm quan trọng khác; trong thời gian mà vịnh Pe-tche-li và sông Pei-ho bị đóng băng thì phải dùng ngõ Tche-fou để liên lạc với Tien-tsin.

Các vấn đề chi tiết được giải quyết giữa các chỉ huy trưởng thuộc các tổng tư lịnh hải quân và quân đội. Công cuộc chuyển quân lên tàu để trực chỉ Nam Kỳ bắt đầu, mặc dù băng giá, xa bờ và bão tố.

Gió thổi gần như liên tục từ ngoài khơi vào; sóng đứng trên đáy biển bùn, chuyển thành sóng đập, tạo sình lầy gây thật nhiều trở ngại cho việc chuyển quân; nếu sóng lăn và dài thì ít gây khó khăn hơn. Khí lạnh đã bắt đầu gay gắt: dây thừng trên tàu đóng đá và sàn tàu cũng đông đá trơn trợt; ban ngày cũng thường đóng băng; ban đêm hàn thử biểu tuột xuống đến mười hay mười hai độ dưới số không. Thủy thủ đoàn của các pháo hạm lớn từ Nam Kỳ vừa đưa tới đây, vì đã quá mệt mỏi sau hai năm chiến đấu dưới khí hậu nhiệt đới, nên phải chịu cam khổ vô cùng. Vào khoảng 20 tháng 11, nước đá bắt đầu bít sông Pei-ho. Pháo hạm Alarme bị một cơn gió mạnh làm mắc cạn trên bãi ngay phía trước Ta-kou, mất luôn bánh lái và một phần đuôi tàu. Hộ tống hạm Alom-prah gặp khó khăn vì chân vịt không sử dụng được. Pháo hạm Fusée bị kẹt băng trên sông Pei-ho, sau đó nhờ một trận nước lũ bất ngờ mới thoát ra được, nhưng khi ấy thì việc chuyển quân đã thực hiện xong, cả đạo quân lên đường hết rồi.

Một phần quân số và hành trang được chuyển lên tàu từ một địa điểm cách bờ 6 hải lý, vào đúng lúc cái lạnh của mùa đông càng ngày càng mãnh liệt. Ðây là cuộc hành quân không chiến đấu khó khăn nhất mà hải quân ta đã thực hiện. Việc chuyển quân đánh dấu cuộc viễn chinh nước Tàu đã chấm dứt, chuyển sang chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Nhưng thật ra thì việc chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ được điều động ở Sha-lui-tien cách Bắc Kinh 60 dặm và cách Saĩgon đến 800 dặm[18]: các đoàn quân dùng cho chiến dịch Nam Kỳ tiến về Sha-lui-tien, các pháo hạm bằng sắt cũng được kéo về nơi này. Pháo hạm bằng sắt loại nhỏ hết sức đắc dụng trong các trận chiến, đã góp công thật đáng kể vào các trận đánh buộc các đồn bót trên sông Pei-ho phải đầu hàng. Người ta thấy loại pháo hạm này ngược xuôi không ngừng trên sông, chuyên chở quân lính và tiếp liệu. Chúng hết sức hữu dụng ở bất cứ loại công tác nào giao phó. Cách đóng các pháo hạm bằng sắt vừa kể đâu có dự trù để dùng vào việc chuyên chở giữa bến Sha-lui-tien và các chiến hạm ở cửa sông Pei-ho; khoảng cách 6 hải lý, biển động, sóng lắc, tàu chòng chành một cách đáng ngại. Máy tàu không đủ mạnh để ngược sóng trong lúc gió mạnh, nhưng là một phương tiện vô cùng quí giá giúp tay cho người lính hải quân trên đường chiến đấu: pháo hạm đủ sức dùng làm tàu kéo, đôi khi cũng dùng để chở nặng. Nhờ các tàu này mà việc chuyển quân hoàn tất trong 20 ngày, mặc dù biển động, gió bão và trời lạnh. Các tàu này đã giúp thật nhiều cho thủy thủ đoàn khỏi ra tay chèo chống; thật ra thì thủy thủ đoàn dù có bắt buộc họ chèo họ cũng không đủ sức. Ở Nam Kỳ, nơi sông ngòi chằng chịt, vai trò của các pháo hạm sẽ còn cần thiết hơn nữa; ta có thể đoán trước rồi đây các tàu này sẽ là những phương tiện rất tốt vừa để chiến đấu vừa để tiếp vận trong cuộc chiến ở Nam Kỳ. Nhưng phải công nhận việc kéo những chiếc sa-lúp pháo hạm chạy bằng hơi nước, chỉ dự trù hoạt động trong vùng nước êm, suốt 800 dặm đường biển để đến Nam Kỳ, là một kinh nghiệm mới cho ngành hải quân. Súng đại bác, đạn dược, lương thực trên sa-lúp pháo hạm đều chuyển sang các tàu kéo. Các khe hai bên vách tàu được bít kín, than đem dồn về phía mũi tàu để khi kéo thì đầu tàu khỏi bị ngóc cao quá độ. Các sa-lúp pháo hạm đã vượt qua khỏi mọi thử thách, chỉ mất có hai chiếc bị chìm trên đường đến Nam Kỳ.

Trong khi đó các tàu lớn lần lượt ra khơi sau khi chuẩn bị xong. Tàu Saône chở cu-li từ Canton. Tàu Duchayla rời bến ngày 10 tháng 10 với nam tước Gros; cột chính của tàu có treo cờ quốc gia kích thước vuông có hình ngọn lửa[19]. Ngay ngày hôm sau, huân tước Elgin cũng đi Hong-kong. Ngày 1 tháng 12, tàu Némésis ra khơi quay về Pháp sau 5 năm hoạt động ở Tàu. Ðã có bao nhiêu người ra đi với chiếc tàu này mà từ nay sẽ không bao giờ trở về nữa!

Suốt thời gian hoạt động vừa kể trên, tàu Némésis đã tham dự vào tất cả các cuộc hành quân đánh phá ở Tàu và Nam Kỳ, sử dụng đại pháo và dùng cả thủy thủ đoàn của tàu để đổ bộ. Các tàu Renommée, Monge, Dryade, Dragonne, Forbin lần lượt ra khơi theo lịch trình đã định trước. Các tàu này sẽ thượng cờ Pháp khi đến Nagasaki và Yedo; phô trương thanh thế xong thì trực chỉ Woo-sung[20] hoặc Hong-kong.

Ngày 5 tháng 12 năm 1860, các toán quân chuyển từ Bắc Kinh, đúng ra phải đến đóng ở Shang-haĩ, lại đem lên tàu để đưa đi Nam Kỳ. Các tàu chiến cuối cùng của Pháp trong vùng cũng nhổ neo rời bến trên sông Pei-ho. Cửa sông hình phễu không thấy bờ bến đâu hết giống như ở giữa biển khơi, nước thì vàng khè vì phù sa sông Pei-ho và sông Peh-tang; cuối vịnh Pe-tche-li, mà người ta thường gọi sai là vũng tàu Sha-lui-tien, và cả sông Pei-ho trở nên vắng tanh, thật hiu quạnh sau khi hơn 400 tàu đã nhổ neo. Tàu Impératrice-Eugénie, kéo cờ hiệu của phó đô đốc Charner, tàu Echo dùng làm tàu truyền lệnh, cả hai lên đường đến Tche-fou, nơi đây chỉ cách Ta-kou hơn 60 dặm. Hai tàu đã đến nơi chiều ngày 6 tháng 12. Sau khi xắp xếp chi tiết công việc tại đây xong, phó đô đốc tổng tư lịnh cùng với hai tàu lại lên đường ngày 7, đến Woo-sung tiền đồn của Shang-haĩ vào ngày 10 tháng 12. Các chiến hạm khác chậm trễ vì công tác cũng lần lượt tới nơi.

Chỉ huy trưởng viễn chinh là phó đô đốc Charner có toàn quyền gây chiến hay làm hòa với xứ Annam. Từ Hoàng Hải, eo biển Sakhaline, biển Nhật Bản cho đến eo biển Malacca và eo biển quần đảo Sonde, suốt 1800 dặm, tất cả tàu bè trương cờ Pháp phải chịu mệnh lệnh của ông. Trọng trách của ông rất lớn: vì tình trạng chiến tranh, vì cách xa mẫu quốc, thêm việc nắm giữ hai trọng trách một lúc, vừa là chỉ huy trưởng viễn chinh, vừa là sứ thần, thêm số chiến thuyền quan trọng dưới quyền chỉ huy của mình; tất cả các trách nhiệm hệ trọng đó đã góp phần làm chói lòa thanh danh của phó đô đốc. Chính đây là sự ủy quyền rộng rãi nhất từ thời Ðệ nhất đế chế[21] giao cho một vị tuớng lãnh hải quân.

Quyền chỉ huy của ông bao trùm một hải đội hơn 60 chiếc, gồm 1 đại chiến hạm chủ lực[22], 2 khu trục hạm loại một chạy bằng chân vịt, 5 khu trục hạm loại một chạy bằng buồm[23], 1 khu trục hạm loại hai chạy buồm[24], 1 chiến hạm[25] trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 chiến hạm chạy chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm[26] loại một chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 hộ tống hạm loại nhẹ[27] chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại một chạy bánh xe, 5 hộ tống hạm loại nhẹ chạy bánh xe, 6 chiến thuyền hạng nhẹ[28] chạy buồm, 5 pháo thuyền[29] loại một chạy chân vịt, 16 pháo thuyền có thể tháo lắp được[30], 2 tàu vận tải chạy chân vịt có trang bị mỗi tàu hai giàn đại pháo[31], 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực gồm có 4 sĩ quan cấp tướng[32], 13 Đại tá[33], 22 Trung tá[34], 95 Đại úy[35], 105 Trung úy[36], khoảng chừng 100 chuẩn úy, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chánh, 8.000 lính thủy. Sức mạnh hỏa lực gồm 475 miệng lửa; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và viễn đông được thuê bao để nối liền các cứ điểm từ bờ biển nước Tàu đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lịnh chọn lựa và biệt phái sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý tới.

Ðiều không được may là một số các chiến hạm đã chiến đấu từ 4 năm nay, vài chiếc đã bước vào năm thứ 5. Thiết bị trên tàu ở vào tình trạng hư hao, các nồi hơi súp-de[37] của 4 pháo hạm lớn và 3 hộ tống hạm gần như rã rời từng mảnh. Tuy nhiên thủy thủ đoàn tốt, sĩ quan xuất sắc, rất thành thạo sau 4 năm chiến đấu. Có thể nói rằng họ tuy có mòn mỏi nhưng không phải là kiệt lực, họ được khích động bằng một luồng sinh khí anh hùng. Trong số các sĩ quan rời Pháp đã lâu, có nhiều người khi đến Tàu vẫn còn là vị thành niên. Họ già đi trong gian khổ và chỉ còn biết nước Pháp qua các bức tranh họ mang theo, họ cũng chẳng hiểu gì hết về thói tục của những dân tộc trước mặt họ, biết đâu họ cũng chỉ vô tình như những thủy thủ khác mà thôi. Những năm tốt đẹp nhất của đời họ đã trôi đi trong khắc khổ, thiếu hẳn sự gần gũi với xã hội chung quanh; sự chung đụng mà ta thấy nơi nào trên trái đất cũng có, nhưng tuyệt nhiên thiếu hẳn ở cái đất Tàu này. Chẳng có gì để làm rung động quả tim của người trai trẻ mới 25 tuổi đời[38]. Vì thế họ đành chú tâm đến những chuyện khác vậy. Họ kể chuyện xông pha chiến đấu, những thành tích xuất sắc trong ngành nghề của mình, họ bàn với nhau về bảng thăng thưởng. Rốt lại cũng là lợi lộc (tôi muốn nói ở đây là danh dự chớ không phải là tiền bạc) đã làm món mồi để lôi cuốn tham vọng, làm mất đi ý nghĩa hy sinh cao cả của đời họ, kể cả những sở thích riêng tư họ cũng phải hy sinh, nhưng lúc nào họ cũng sẵn sàng hy sinh thêm, họ coi giá trị của huân chương và cấp bực từ trên ban xuống thật xứng đáng với sự hy sinh của họ. Không còn ai non dại. Họ đều có vẻ rắn rỏi và năng hoạt; người nào trước kia dù có nông nổi cũng đã trở nên nghiêm trang hơn; nhiều người đúng ra đã bước vào tuổi thích nghỉ ngơi nhưng vẫn tỏ ra rất hăng hái. Họ dễ bị khích động vì vinh quang, vì danh dự để bảo tồn thanh danh của người thủy thủ; họ tạo thành một khối quân nhân đoàn kết chặt chẽ, nếu sau này có tan rã thì dù cho có gặp hoàn cảnh thuận lợi như trước cũng biết đâu không bao giờ còn tái tạo lại được một khối chặt chẽ như vậy, vì những người đã từng tạo ra nó không còn nữa. Không cần phải khó khăn tìm tòi, ta cũng nhận thấy họ là những người của biển cả, những chiến sĩ, những nhà địa lý thủy học, bác học, ngôn ngữ học; vị chỉ huy trưởng nào chẳng sung sướng thấy dưới tay điều khiển của mình có những đại úy thuyền trưởng[39] mới 30 tuổi, chiến đấu không ngừng với sóng gió trên mặt biển xứ Tàu, cặp bờ vào đất Shang-haĩ ở bất cứ thời tiết nào, mặc dù bờ biển nơi đây được coi là khó khăn nhất thế giới. Khả năng quyết định được đem ra thử thách liên tục ở mọi sự kiện, ngay khi hành động đang xảy ra, đã tạo cho mỗi người con đường đi lên. Người chỉ huy có thể trông cậy và tin cẩn ở những con người như thế.

Công bố cuộc viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ với một lực lượng hùng hậu cũng giống như có một dòng máu mới bơm vào huyết quản của họ, những huyết quản đã bao lần sôi sục.

Giai đoạn chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ làm bùng dậy tinh thần đồng đội; nhiều người đã từ lâu được quyền trở về Pháp cũng không muốn nhắc đến chuyện này. Người nào cũng muốn dự phần vào các cuộc hành quân sắp diễn ra.

Woo-sung là một làng Tàu nghèo nàn ở ngã ba sông Yang-tze[40] và Wam-poo[41]. Làng là bến đậu và chỗ họp của hạm đội. Vùng đồng ruộng chung quanh thật bằng phẳng, chỉ hơi nhấp nhô một vài nơi: gồm có ruộng lúa và ruộng trồng bông vải thấp lè tè. Cảnh vật buồn tênh. Tất cả sinh hoạt đều dồn trên mặt sông Shang-haĩ, thuyền buồm ngược xuôi không ngừng; nhiều chiếc trọng tải đến 300 tấn: có đủ khả năng đi biển, rất linh hoạt, xoay trở thật tài tình nhờ bánh lái có đục lỗ. Tàu bè Âu châu từ khắp nơi trên thế giới đến, xuôi dòng trên sông nhưng thường thì không ghé vào Woo-sung. Hải quân bỏ neo thành hàng dài thật oai nghiêm bên phía tả ngạn vì nước sâu hơn; phía hữu ngạn nước cạn có nhiều cồn. Từ trên cột buồm của chiến hạm Impératrice-Eugénie có thể nhìn thấy thành phố Shang-haĩ[42]; liên lạc thường xuyên từ tàu với thành phố Shang-haĩ nhờ vào các pháo hạm bằng sắt, thuyền buồm hay kỵ mã do hải quân thuê mướn. Tướng Cousin-Montauban đặt bộ chỉ huy tại Shang-haĩ gồm đến 2.000 người thuộc quân đội Pháp.

Chính từ Woo-sung cuộc viễn chinh được tiếp tục chuẩn bị và quyết định từng chi tiết một. Hoàng đế[43] ra quyết định là một phần quân số viễn chinh ở Tàu sẽ đặt dưới quyền điều khiển của phó đô đốc Charner. Vị chỉ huy trưởng Charner liền hội ý với tướng Montauban và cùng nhau đưa ra các quyết định như sau:

Chuẩn tướng[44] de Vassoigne sẽ chỉ huy các binh đoàn viễn chinh, dưới quyền của vị chỉ huy trưởng. Bộ binh, lính đánh bộ người Phi châu, pháo binh, công binh, hậu cần gồm chung là 85 sĩ quan, 1.303 quân sĩ, 272 vừa ngựa vừa lừa[45]. Quân sĩ rút bỏ các đảo Chu-san. Biệt đội bộ binh đóng giữ các hòn đảo này sẽ chuyển về Hong-kong. Ðội thủy quân lục chiến trước đây đặt dưới quyền chỉ huy của đô đốc do một quyết nghị chung của đồng minh ở Ta-kou, gồm 800 người[46], nay đem sát nhập vào binh đoàn viễn chinh. Một sĩ quan tùy viên quân sự của bộ tổng tham mưu được biệt phái thêm cho binh đoàn[47] để bảo quản việc điều động quân lính và thực thi quân kỷ trong các cơ quan. Công tác lập doanh trại, cứu thương, lương thực sẽ do ủy ban kế toán quân đội đảm trách, ủy ban do một vị phụ tá quân nhu trưởng chỉ huy. Sở ngân khố và bưu điện được thiết lập thường trực tại Saĩgon. Một viên chức liên lạc được đặt tại Singapour để tiếp nhận công hàm, văn thư từ Âu châu chuyển sang Nam Kỳ.

Như vậy là binh đoàn viễn chinh đã được tổ chức xong. Nếu kể thêm đội thủy quân lục chiến sẵn có trong thành phần quân lính đóng tại Saĩgon, cùng với ban chỉ huy đã thành thạo của đội ngũ này, thì số binh đoàn nhỏ tại Nam Kỳ cũng đã tăng lên đến 4.000 người. Hiển nhiên đây là một binh đoàn[48] đủ sức tiến lên, chiến đấu, cắm quân và tiếp tục chiến đấu nữa; không như các toán quân mà sáng thì đổ bộ, chiều phải rút về điểm xuất phát, nếu muốn sống còn.

Kinh nghiệm ở bắc nước Tàu đã cho thấy sự ích lợi của phu khuân vác người Tàu. Dưới khí hậu nóng bức, nhiễm độc vì bịnh sốt rét kinh khiếp này, bọn cu-li[49] lại còn cần thiết hơn nữa. Vì thế ta có chiều hướng đặt người Âu châu giữ vai trò chiến đấu mà thôi. Một đội quân đánh thuê gồm 600 người được tuyển mộ và huấn luyện do đại tá hải quân[50] chỉ huy trưởng Canton là Coupvent-Debois đảm trách.

Tiền bạc, lương thực, than được tồn kho và phân chia cất giữ ở Hong-kong, theo những chỉ thị và tiêu chuẩn đặc biệt thích nghi và phù hợp cho nhu cầu của cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Chuẩn đô đốc Page nhận chỉ thị phải cho lịnh các tàu chiến từ Pháp sắp đến đây phải chuyển vào Hong-kong 13.000 đồng tiền[51] Mễ Tây Cơ mà các tàu này mang theo. Tàu Persévérante giữ trọng trách cất giữ số tiền đã được chia cho Pháp quy định trong hiệp ước Tien-tsin và thỏa ước Bắc Kinh. Bốn trăm ngàn khẩu phần lương thực tồn trữ ở Hong-kong xem như đã đủ cho số lượng phòng cơ. Tất cả các tàu chuyên chở lương thực phải được gởi về Saĩgon. Trong số 8.000 tấn than trên các tàu của chính phủ Pháp thuê đang cặp bến Hong-kong, thì 4.000 tấn được chuyển lên bờ, 4.000 tấn còn lại phải chở đến Saĩgon.

Ðể kết thúc bảng thống kê chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ cũng phải kể ra đây phần đóng góp của nước Tây Ban Nha. Trước đây đội ngũ người Tây Ban Nha đóng tại Saĩgon thu hẹp chỉ còn 230 bộ binh. Phó đô đốc Charner thông báo các việc đang được chuẩn bị và đã được thực hiện đến đại tá đại diện toàn quyền Hoàng gia Thiên Chúa Tây Ban Nha là Palanca Gutierrez, cùng viên toàn quyền Phi Luật Tân. Sau đây là lời ông nói với đại tá Palanca, người mà ông vẫn giữ mối liên lạc cá nhân quí mến và thân thiện: “Người Tây Ban Nha là những người đồng minh chớ không phải là thành phần phụ thuộc. Nhưng không thể nào có chuyện phân chia lãnh thổ Saĩgon được. Phải chờ sau này và ở một nơi khác, tức là Tonquin[52], thì Tây Ban Nha mới có thể được đền bù cho sự hy sinh vinh quang của mình. Ðó là tinh thần các chỉ thị của Hoàng đế Nã Phá Luân ban xuống”. Còn về việc đánh nhau thì đô đốc kêu gọi đến tinh thần nhất trí. Ông tin vào sự hợp tác mà vị toàn quyền Tây Ban Nha hứa hẹn. Nói với đại úy đại diện Phi Luật Tân, vị thủ lãnh viễn chinh cũng đòi hỏi một tinh thần như vừa kể. Theo thứ tự ưu tiên ông đòi phía Tây Ban Nha phải gởi thêm cho ông 150 kỵ binh, 400 lính bộ và 300 thủy binh gốc người Tagal[53]. Manille phải đặc biệt cung ứng 150 kỵ binh cả người và ngựa; cũng dễ hiểu là vai trò của kỵ binh rất hữu ích ở Nam Kỳ. Sự tăng viện này đã không hề xảy ra. Nhưng bù lại, đô đốc tìm thấy nơi đại tá Palanca Gutierrez một sự hợp tác trung thành và nhiệt tâm, điều này giúp ông có thể tin cẩn vào tinh thần hào hiệp của vị sĩ quan Tây Ban Nha.

Tất cả các công tác không liên quan gì đến chiến dịch viễn chinh cũng được giải quyết ở Woo-sung. Các chiến hạm Prégent, Dordogne, Gironde lên đường thực hiện công tác riêng. Chiến hạm Prégent được biệt phái đến Fou-chow-fou[54], trên bờ biển Fo-kien[55] để nhận tiền bồi thường cho nước Pháp đã được quy định trong hiệp ước Bắc Kinh. Chuyện này thật gai góc, nhưng đã được thực hiện tốt và thành công. Tàu Prégent là chiến hạm Pháp đầu tiên xuất hiện trên sông Min[56], hai bên bờ sông là thành phố Fou-chow. Tàu Dordogne đến Nhật Bản, nơi đây tình trạng của các nhà ngoại giao và lãnh sự ở Yeddo[57], vừa được cải thiện chưa được vài ngày nhờ sự hiện diện quân sự của Pháp và Anh đặt dưới quyền chỉ huy của các chuẩn đô đốc Page và Jones, lại đột nhiên trở lại cảnh như trong tù. Tàu Gironde đi Bang-cock[58] để đón các sứ thần Xiêm La.

Những công tác chuẩn bị sau cùng được tận lực thúc đẩy. Các chiến thuyền hư hại[59] đều cặp bến an toàn ở vũng tàu Shang-haĩ để sửa chữa. Từ 15 đến 21 tháng 1, thủy thủ đoàn và thiết bị lần lượt cho lên tàu để lên đường đi Saĩgon. Ngày 24 tháng 1, vị tổng chỉ huy rời Woo-sung, ngày ông rời Woo-sung ông đã quyết định từ trước. Vừa lúc chiến hạm Impératrice-Eugénie của đô đốc vượt cửa sông Yang-tze-kiang[60], thì tàu Dryade do chuẩn đô đốc Protet chỉ huy cũng vừa tiến vào cửa sông để cặp bến Shang-haĩ.

Tàu Impératrice-Eugénie chỉ ghé Hong-kong có 4 hôm để nghỉ ngơi. Tại Hong-kong tất cả đã được chuẩn đô đốc Page sửa soạn chu đáo từ trước, còn chính ông thì đã đến Nhật được 20 ngày rồi. Các tàu Fusée và Calvados vẫn còn tiếp tục sửa chữa. Thủy quân lục chiến được chuyển nhanh chóng lên tàu Impératrice-Eugénie để tàu nhổ neo đi Nam Kỳ. Ngày 7 tháng 2, tàu ngược sông Don-naĩ[61], hai bên bờ sông cây cỏ xanh tươi và bằng phẳng, tàu thả neo trên sông trước mặt thành phố Saĩgon.

------------------------------------------------------------------------------------------------------
[1] Nguyên bản là “Cochinchine”. - TN

[2] Tức Hàm Phong (1831–1861), Hoàng đế nhà Thanh 1850–1861 - TN

[3] Tức Nhiệt Hà - TN

[4] Tức Thiên Tân - TN

[5] Chưa tìm được tên gốc của các phiên âm. “Takou” phải chăng là “Đại Cổ”? - TN

[6] Tức Cung thân vương Dịch Hân (1833-1898) - TN

[7] Tức là nước Nga. (ghi chú của người dịch (ND)).

[8] Tức Nikolai Pavlovich Ignatiev (1832–1908), Bá tước Nga - TN

[9] Nước Anh và nước Pháp liên kết đi đánh Tàu. - ND

[10] Tức Napoleon đệ tam. - ND

[11] Chưa rõ phiên âm Tche-fou. Shang-haĩ chính là Thượng Hải. - TN

[12] Tức Quảng Đông - TN

[13] Thật ra thì vào lúc đó, tình thế của Saĩgon đã dươc cải thiện, nhưng vị chỉ huy trưởng Canton buộc phải tuân lịnh của Tổng tư lịnh gởi đi từ tháng 7 năm 1860 bắt phải chuyển một đại đội bộ binh đến Saĩgon. Trong khi ấy trại quân Saĩgon vừa được bổ xung một trăm thủy quân chiến đấu do tàu Weser chở tới. Hai trăm quân bổ sung khác sẽ còn được liên tục chở đến sau. – Tác giả (TG)

[14] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Thực ra, “Général” chỉ có nghĩa là “tướng” nói chung, còn
“Général d’armée” mới có nghĩa là “Đại tướng”. Jamin giữ cấp bậc “Général de brigade”, tương đương
Chuẩn tướng. – TN

[15] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Collineau giữ cấp bậc “Général de brigade”, tương đương Chuẩn tướng. – TN

[16] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Tuy nhiên cấp bậc của Montauban lúc bấy giờ là “Général de division”, tương đương “Thiếu tướng”.

[17] Tức sông Bạch Hà, nay gọi là sông Hải Hà ở Turng Quốc. - TN

[18] Mỗi dặm là 4,445 km. - ND

[19] Ðó là dấu hiệu trọng vọng lớn lao, nhưng hơi khác với cờ của tổng tư lịnh trong hải quân, cũng gần giống như vậy. - TG.

[20] Tức Ngô Tùng. - TN

[21] Ðệ nhất đế chế: là chế độ chính trị Pháp từ tháng 5 năm 1804 đến tháng 4 năm 1814, Napoleon đệ nhất làm hoàng đế. - ND

[22] Nguyên văn bản dịch là “tàu chuyên chở có trọng tải nặng”. Thực ra “vaisseau de ligne” có nghĩa là “đại chiến hạm chủ lực” - TN.

[23] Frégate de premier rang: Tàu chiến loại lớn có 3 cột buồm. – ND. Nguyên văn bản dịch là “tàu chiến đấu”. - TN

[24] Frégate de deuxième rang: Tàu chiến loại nhỏ hơn có 2 cột buồm. - ND

[25] Nguyên văn bản dịch là “Đại pháo hạm”. Thực ra “corvette” có nghĩa là “chiến hạm” - TN

[26] Nguyên bản là “aviso”. - TN

[27] Nguyên bản là “aviso de flottille”. - TN

[28] Nguyên văn bản dịch là “chiến hạm”. Thực ra “bâtiment de flottille” có nghĩa là “chiến thuyền hạng nhẹ” - TN

[29] Nguyên văn bản dịch là “pháo hạm”. Thực ra “canonnière” có nghĩa là “pháo thuyền” - TN

[30] Nguyên văn bản dịch là “thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp được”. - TN

[31] Nguyên văn bản dịch là “tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu hai giàn đại pháo”. - TN

[32] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. - TN

[33] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng đại chiến hạm”. - TN

[34] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng tàu chiến đấu”. - TN

[35] Nguyên văn bản dịch là “trung úy chiến hạm”. - TN

[36] Nguyên văn bản dịch là “sĩ quan hải quân cấp trung úy”. - TN

[37] Nguyên bản ghi “chaudière”, nghĩa là “nồi hơi”. - TN

[38] Tiếc quá, tác giả chẳng tìm được cô gái Tàu nào ở Thượng Hải sao? Có thể đây là cách viết của tác giả để tự ám chỉ mình một cách kín đáo? - ND

[39] Dịch sát nghĩa từ “Capitaine”, tương đương cấp sĩ quan cấp Tá trong Hải quân Pháp. - TN

[40] Tức sông Dương Tử. – TN

[41] Tức sông Hoàng Phố. - TN

[42] Câu này cho ta đoán có thể tác giả là người ở trên Chiến hạm Impératrice-Eugénie, hoặc thuộc đạo quân thủy quân lục chiến được đưa lên tàu đi Nam Kỳ. - ND

[43] “Hoàng đế quyết định hôm nay ở hội đồng chính phủ truyền cho thống chế bộ trưởng chiến tranh ra lịnh bằng văn thư ngày tức khắc cho tướng Montauban để bàn thảo và hội ý với ông trong mục đích chiếm giữ cho nước Pháp vị trí thật quan trọng là Saĩgon”.

Và kế tiếp: “Hoàng đế, ông biết không, đã sai viết thư cho tướng Montauban bảo ông này phải đặt dưới quyền của ông 1.800 quân”

(Hai đoạn trên trích từ 2 công văn của bộ trưởng hải quân gởi cho phó đô đốc Charner, ngày 26 tháng 9 và 10 tháng 12 năm 1860). - TG

[44] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng lữ đoàn”. - TN

[45] Ghi chú của TG                                                         Sĩ quan             Lính      Ngựa

 Bộ binh ----------------                   39                     709       22

 Bộ binh người Phi châu             3                      29         31

 Pháo binh---------------                  15                     316       184

 Công binh---------------                  4                      77         13

 Hậu cần------------------                 24                     172       22

[46] Tướng O’Malley, trên nguyên tắc, phải rời bỏ Tien-tsin cùng với trung đoàn chiến đấu 101 đến Saĩgon. Nhưng việc này không được thực thi đúng như vậy, vì sau đó chuẩn tướng de Vassoigne (thủy binh lục chiến) được chỉ định bằng công hàm bộ trưởng giữ chức phó chỉ huy trong binh đoàn viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ. ‘’...Tôi có sai tham mưu trưởng bộ tổng tham mưu viết thư cho tướng O’Malley, ngay khi có thể thực hiện được, sẽ cùng với tiểu đoàn chiến đấu 101 đến Saĩgon xáp nhập với ông.’’ (Trích thư của tướng Cousin-Montauban gởi cho phó đô đốc Charner, ngày 14 tháng giêng 1861). – TG. Cả O’Malley và de Vassoigne đều mang cấp bậc “général de brigade”. - TN

[47] Vị chỉ huy trưởng kỵ binh của Bộ tham mưu được chỉ định giữ chức vụ này, và một đại úy cũng của Bộ tham mưu làm phụ tá cho ông. - TG

[48] Nguyên văn bản dịch là “quân đoàn”. - TN

[49] Nguyên bản là “coolie”. - TN

[50] Nguyên văn bản dịch là “đại úy hải quân”. - TN

[51] Nguyên bản là “piastre”. - TN

[52] Câu ‘’hớ” này cho biết ý đồ của người Pháp sẽ đánh chiếm hết xứ Annam, chớ không phải chỉ nhắm vào hai tỉnh Gia Ðịnh và Ðịnh Tường. – ND

Trong bản dịch ghi là Bắc Kỳ, nay giữ lại như nguyên bản. - TN

[53] Người Philippine gốc Malaysia. - ND.

[54] Tức Phúc Châu phủ. - TN

[55] Tức Phúc Kiến. - TN

[56] Tức sông Mân Giang. - TN

[57] Tức Yedo, Nhật Bản. - TN

[58] Tức Bangkok. - TN

[59] Gồm các chiến hạm : Dragonne, Mitraille, Alarme, Prégent, Alom-prah. - TG

[60] Tức Dương Tử Giang. - TN

[61] Tức sông Đồng Nai. - TN

CHƯƠNG II

Ðề cương:

Chiến địa và tình trạng hai phe đối thủ - Cơ bản địa lý của đế quốc Annam - Tầm quan trọng quân sự và chính trị của thành Ki-hoa[1].

Ðế quốc Annam gồm ba xứ mà trước kia hoàn toàn riêng biệt:

- Xứ Bắc Kỳ[2], mà người Tàu gọi là Giao-chou[3], có nghĩa là Xứ sông ngòi[4], người dân sinh sống tại đây gọi là người Nam Kỳ Dong ngoai[5], xứ Bắc Kỳ còn gọi là Xứ bên ngoài, và theo một tài liệu Hòa Lan thì phải gọi là Annam phía Bắc[6];

-Xứ Trung Kỳ[7], hay là Nam Kỳ miền trung[8], còn gọi là tỉnh Huế, hay gọi đúng hơn là Dong trong[9], có nghĩa là Xứ miền trong, hay đúng hơn nữa là Annam phía Nam[10];

-Nam Kỳ miền dưới[11], mà nhiều tài liệu ghi sai là tỉnh Saĩgon, miền này các bản đồ xưa đều ghi là Cao Miên[12]. Thật vậy, trước cuộc chinh phục của các Chúa nhà Nguyễn[13], thì vùng đất này thuộc lãnh thổ của vương quốc Cao Miên.

Ngoài ra đế quốc Annam còn gồm một số nước bảo hộ phải triều cống. Ðây là tình trạng đế quốc Annam bắt đầu từ năm 1802 cho đến nay.

Một dãy núi kéo dài 800 dặm, tiếp nối từ vùng núi non Tây Tạng, không xa cao nguyên Khou-khou-noor, đổ dài xuống phía nam song song với vùng biển Tàu, phân định vị trí hai vùng vương quốc xưa nhất của đế quốc Annam. Một bên là núi và một bên là biển làm ranh giới thiên nhiên cho hai vương quốc Annam phía Bắc và Annam phía Nam; nếu dùng danh xưng không được đúng lắm nhưng thông dụng hơn thì gọi là Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ là một vùng đồng bằng rộng lớn, phù sa, phì nhiêu và phong phú nhờ sông Sang-koi hay Song-ca[14] và các phụ lưu bồi đắp. Nam Kỳ là một dải đất chỉ rộng từ 30 đến 50 dặm, kéo dài từ bắc xuống nam; dọc theo một dãy núi bao bọc nằm bên phía tây. Nước đổ ra biển bằng các sông ngòi ít ngoằn ngoèo, nước chảy cuồn cuộn, từ hướng tây ra hướng đông. Ðây là dãy núi xa nhất về phía đông trong số 5 dãy núi lớn tạo ra các vùng thung lũng rộng là xứ Miến Điện, xứ Xiêm La, xứ Cao Miên và xứ Annam. Núi trải dài từ vĩ độ 11 thành từng vùng thấp dần theo một đường uốn cong bắt đầu từ núi Vi và đổ ra sát tới biển, tạo ra một bức trường thành rộng lớn và một ngọn đèo, chỉ chừa lại một dải đất hẹp là Phan-thiet[15], làm ranh giới thiên nhiên giữa Nam Kỳ miền dưới và Nam Kỳ miền trung.

Trở xuống phía tây nam vẫn còn các núi đồi nhỏ thưa thớt, nơi đây có thể coi là vùng chuyển tiếp của ranh giới Nam Kỳ miền trung: sông ngòi ít ngoằn ngoèo, vài kinh rạch, thiên nhiên hoặc do người đào, chảy giữa các vùng núi và đồi nhỏ. Càng xuống dần phía nam thì chỉ thấy trước mặt một vùng đất mềm gồm cát, bùn và 5 con sông lớn cùng các kinh rạch thiên nhiên chia cắt thành hàng ngàn đảo. Cát thì được mang từ biển vào[16], bùn đất thì do sông Cambodge[17] bào mòn những vùng núi non chảy ngang đem bồi đắp trong mùa nước lũ. Trong quá khứ chắc rằng biển đã bao phủ cả miền Nam Kỳ ngày nay. Một vịnh hình vòng cung nằm lọt giữa hai vùng núi là Ha-tien[18] và cap Saint-Jacques[19]; sông Don-naĩ chỉ là một dòng thác; hai nhánh sông Vaĩ-co[20] tạo ra hai con sông riêng biệt. Tỉnh Long-hô (Vinh-luong)[21] lúc đó chưa thành lập; các tỉnh Gia-dinh[22], My-thô[23], An-gian[24] và Ha-tien gồm một vùng đất dựa vào núi một phần, một phần giáp ranh với vương quốc Cao Miên. Bùn đất phù sa và các bãi san hô giữa Saĩgon và Tay-ninh[25] chứng minh cho thấy vùng đất này trước kia do sông ngòi và biển tạo ra. Cát dồn lại thành cồn dọc bờ sông hòa với phù sa tạo ra ruộng đồng phong phú. Sự hình thành đất đai do sông ngòi vẫn còn đang tiếp diễn tại vùng này của xứ Annam, người Tàu gọi nơi đây là xứ sông ngòi; bùn và cát hòa lẫn nhau không phải là nước cũng không phải là đất. Những người Bắc Kỳ mạo hiểm đến đây dùng ván để trườn và lướt đi trên bùn.

Hai dãy núi kéo dài ra tới biển tại hai địa điểm là Phan-thiet và Ha-tien, giữa hai dãy núi là sông Cambodge. Biển là ranh giới thiên nhiên rõ rệt của xứ Nam Kỳ miền dưới. Tiếp giáp với xứ của người Mọi và xứ của người Chàm[26], nơi đây biên giới kém rõ ràng hơn. Khi nhìn vào bản đồ 6 tỉnh Nam Kỳ miền dưới, từ bờ biển hiện nay cho đến vĩ độ Tram-ban[27], người ta có thể nhận thấy biển vẫn còn giữ lại vết tích trong vùng đất phù sa; toàn vùng chỉ là đảo và chung quanh thủy triều dâng lên hay rút xuống đều nhận thấy rõ rệt. Tàu bè lưu thông như trên biển rộng; nước sâu, không nguy hiểm, các đường di chuyển được kẽ vạch rõ ràng.

Năm con sông lớn chảy ngang Nam Kỳ miền dưới đổ ra biển bằng một trong những cửa sông rộng lớn nhất thế giới: Năm con sông này gồm có sông Don-naĩ, sông Don-trang[28], sông Soi-rap[29], sông Vaĩ-co, sông Cambodge. Sông Cambodge bị ngáng bởi nhiều cồn chỉ có tàu bè đáy sâu dưới 14 chân[30] mới di chuyển được. Hướng và độ sâu của kinh rạch thay đổi theo mùa gió. Bờ biển thấp, cây cối xanh tươi và bằng phẳng; không một ngọn cây nào vượt cao hơn các cây đước, cây mắm để có thể dùng làm điểm chuẩn cho tàu bè định hướng. Khó khăn thiên nhiên cản trở lưu thông của tàu bè lớn nhưng không gây khó khăn gì cho các thủy thủ Annam, Xiêm, Tàu và Nhật. Họ lái các tàu ven bờ thật hay, tàu của họ có đáy rất cạn. Các nhà viết sử người Hòa Lan chép rằng sông Cambodge đổ ra biển bằng 3 cửa: cửa Umbequamme, danh xưng này theo tiếng Pháp có nghĩa là “bất tiện” Incommode, cửa Nhật Bản và cửa Saĩgon. Chiến tranh Nam Kỳ giúp thêm cho việc nghiên cứu địa lý thủy học của sông Cambodge; hiện nay người ta biết rằng sông Cambodge có 7 nhánh chính. Umbéquamme[31] là cửa đổ ra biển của một nhánh sông tách ra từ sông chánh gần Chau-doc[32], sông Nhật Bản gồm hai nhánh bắc và nam My-thô[33]. Còn về phần cửa Saĩgon thì chỉ được coi như cửa đổ ra biển của sông Don-naĩ mà thôi, sông này trước đây được xem như một trong nhiều nhánh của sông Cambodge. Trên thực tế sông Saĩgon nối liền với sông Cambodge bằng các kinh trong đất liền, sông Don-naĩ là một con sông riêng biệt tiến sâu về phía bắc, hướng vào lãnh thổ Stieng.

Các dòng sông lớn thông thương với nhau nhờ các kinh thẳng góc với hướng chính của sông. Bàn tay người ta tượng trưng rất chính xác hình ảnh hệ thống sông ngòi của Nam Kỳ miền dưới. Cách so sánh như thế cũng dễ hiểu, hình như con người hay tìm kiếm ở bối cảnh chung quanh hình ảnh của chính mình. Những nét dọc lớn của chữ M là các con sông, trừ vài chỗ tuy sông có đổi hướng cũng không làm sai lệch hình ảnh này; các đường gạch ngang của chữ M thì tượng trưng cho kinh rạch. Một số kinh do chính tay người đào, hoặc là kinh thiên nhiên do tay người sửa cho đều và vét đáy. Những kinh rạch khác là do thiên nhiên đào xới. Kinh nối hai con sông với nhau vì thế kinh có thể thông ra biển bằng hai cửa khác nhau; đáy kinh rạch có chỗ sâu chỗ cạn; chỗ cạn là nơi hai dòng nước gặp nhau bùn đất bị dồn lại. Hai bờ kinh cây cối bao phủ tạo ra vẻ dịu dàng, mềm mại, duyên dáng và ưa nhìn, nhưng không có cái vẻ lộng lẫy của rừng rậm nhiệt đới. Cây cối gồm có xoài, đước, dừa nước, cây có bông trắng như bông lài, nhiều cây có lá giống như lá cây ở Âu châu và có đủ loại màu xanh, từ màu xanh mét bịnh hoạn của cây liễu rũ cho đến màu xanh xậm có vẻ kim loại của cây hoa trà[34]. Gần bờ nước thì có loại dừa duyên dáng nhất trên trái đất, thân giống như là những cây cột của lâu đài Hy Lạp nhưng lại có sự sống, đó là cây cau. Cỏ cao, dây leo, cây dứa[35], xương rồng đầy gai tạo thành các bụi rậm mà người Âu châu không thể chui qua lọt, nhưng đối với người Annam thì họ trườn, bò và rình rập dễ dàng trong đó. Nhiều chỗ nước ăn sâu vào bờ kinh tạo ra những chỗ phục kích bất ngờ: đây là những nhánh kinh lấn sâu vào đất, nằm song song với kinh chánh, cửa vào thì có dây leo rũ xuống che kín; các hóc kẹt thiên nhiên đó có thể làm chỗ núp cho một người, một chiếc ghe hay một nhóm quân nhỏ: không có chỗ nào có thể làm chỗ phục kích chắc chắn hơn những chỗ như vậy. Kinh rạch tạo cho chiến tranh Nam Kỳ một bộ mặt thật riêng biệt. Lần đầu thấy những bờ kinh như thế, người ta tưởng dễ, thử phá gai lội bùn để vượt ngang, nhưng rồi sẽ bị ngập trong lầy, mặt mày rách nát, trở nên bất lực vì cỏ vừa mềm vừa cao quấn chặt; người ta tự hỏi không biết phải làm thế nào để chống lại quân phục kích, họ thì coi các chướng ngại này như không có. Các pháo hạm nhỏ bằng sắt là linh hồn của trận chiến Nam Kỳ, nếu không hữu dụng ngay trong khi hành quân, thì cũng rất ích lợi về sau là như vậy.

Quang cảnh của Nam Kỳ thật là bằng phẳng, buồn thảm, giống như tất cả các xứ đồng ruộng khác. Khi có một lỗ hở do cọp, nai đi ngang còn lưu lại thì tầm mắt mới vượt ra khỏi hai bên bờ kinh, nhưng cũng chẳng thấy gì lạ ngoài những cánh đồng xanh tươi đôi khi gợn sóng như mặt biển. Ðồng ruộng là đất Phật, chẳng có gì buộc chặt tâm hồn với đất đai. Thiếu chiều sâu của sự sống. Ðất nhường chỗ cho bùn; chỉ có tư tưởng mới có thể lướt đi trên vùng xanh tươi vô tận này mà thôi; xác thân sẽ lún chìm tại chỗ. Những cọng cỏ muôn thuở nối tiếp nhau, từng cọng một đều giống hệt như nhau. Trước cảnh sình lầy và bằng phẳng, nghị lực mềm yếu, chỉ có linh hồn tự vượt ra mà thoát đi. Quả thật là nơi phải gọi là cảnh toàn phúc tối thượng, xin tạm mượn chữ như vậy, - cái thoát tục vẹn toàn nhất, cái chấm dứt của buồn thảm, của nhớ nhung[36]. Tuy vậy, về phía bắc, khi đến gần một trong hai vùng núi, đất đai trở nên cao hơn, bờ sông cũng dốc hơn, rừng chen kẽ với ruộng đồng. Trong rừng có nhiều thứ dùng làm thuốc tàu, giá bán đắt hơn vàng.

Kinh rạch nối liền 5 con sông lớn ở Nam Kỳ tạo ra vô số đường di chuyển vô cùng hữu ích cho thương mãi, chiến tranh mà cũng tiện lợi cho đạo tặc nữa. Mỗi thị trấn đúng ra phải là một trung tâm vừa quân sự vừa thương mại, và nếu đúng như thế thì sự đánh chiếm của ta sẽ gọn gàng hơn; nhưng thật ra thì hai tánh cách này tách rời hẳn nhau: Saĩgon là trung tâm quân sự, My-thô là trung tâm thương mại. Các ghe thuyền của người Nhật, người Tàu, người Annam, người Xiêm có đáy cạn dễ di chuyển trên sông, nhờ vào địa điểm gần nơi sản xuất gạo, kinh lạch lại dồn hết vào sông Cambodge, thêm vào truyền thống của dân chúng địa phương từ bao nhiêu thế kỷ, tất cả góp lại làm My-thô trở thành trung tâm buôn bán lớn nhất của Nam Kỳ miền dưới trước khi người Âu châu tới đây. Saĩgon, dựa vào thành lũy và vị trí nằm chắn ngang các đường ra Huế, lên Cao Miên và xứ Mọi đã trở thành trung tâm quân sự và hành chính của cả sáu tỉnh. Hai trung tâm thương mại và quân sự là Saĩgon và My-thô dựa vào nhau bằng đường thủy vận; đó là con kinh Tàu[37] mà tầm quan trọng chiến lược phải kể vào bậc nhất.

Saĩgon, nơi trước đây có trại binh nhỏ của Pháp và Tây Ban Nha bị phong tỏa, không hẳn là một thành phố theo đúng nghĩa của Âu châu. Saĩgon cũng không phải vị trí có thành lũy kiên cố, có tầm ảnh hưởng trải rộng như trước đây, vì đang bị ta phong tỏa và thành lũy thì hư nát, thành mới hiện nay kém hẳn tầm quan trọng[38]. Nơi các cơ xưởng đóng tàu, vào năm 1819, trước khi có giặc phản loạn, người ta còn thấy hai thuyền chiến lớn theo kiểu Âu châu và 190 thuyền chiến dùng chèo. Thành quách rộng lớn trước kia và cơ xưởng đóng tàu không còn vết tích gì nữa. Nhiều lắm là hai bên bờ sông Don-naĩ còn thấy vài cơ sở có tính cách tạm thời, là những vớt vát thu góp lại sau khi Touranne[39] bị ta chiếm đóng. Dân số, ngày xưa lên đến 150.000 người, đã rút xuống một cách đáng kể. Du khách đến Saĩgon sẽ nhận thấy trên hữu ngạn sông[40] một con đường đứt đoạn và hang lỗ. Nhà cửa phần lớn bằng cây, lợp lá dừa nước. Một số ít làm bằng đá có mái lợp ngói đỏ làm vui mắt và an tâm hơn. Tiếp đó là những mái chùa thật cong; kinh Tàu và hai kinh phụ, mặt nước phẳng lỳ, dùng làm bến cho thuyền bè trong xứ; vì bối cảnh chung quanh nên nhìn thấy kinh Tàu như ngắn hẳn lại; một nhà kho xiêu vẹo dùng làm chợ, mái hình như sẵn sàng đổ xuống phía bên phải. Hậu cảnh là những chòm cau có vẻ hoà hợp với bầu trời nóng bức; cây cối khác không có gì đặc biệt. Hàng ngàn ghe xuồng chen nhau ở bờ sông tạo ra một thành phố nổi nho nhỏ. Người Annam, người Tàu, người Ấn, vài người lính Pháp, lính Tagal tới lui nhộn nhịp, thoạt tiên tạo ra một quang cảnh ngoạn mục. Nhưng sau đó thì chẳng có gì để xem ở Saĩgon, họa chăng là dọc theo bờ kinh Tàu, có nhiều nhà bằng đá khá sạch sẽ và vài nhà xưa tránh khỏi giặc phản loạn tàn phá. Trong các khu nhiều cây cau đôi khi có nông trại của người Annam cất theo lối ba gian hai chái, rất thanh lịch và kín đáo; xa hơn, nơi khu đất cao là nhà của vị chỉ huy Pháp, của đại tá Tây Ban Nha, doanh trại của nho quan Annam; đại khái chỉ có vậy. Con phố lầy lội và ổ gà, nhà cửa thưa thớt, hợp lại thành một quang cảnh khá nghèo nàn, đó là Gia-dinh-thanh[41] mà ta gọi là Saĩgon[42]. Các thành phố khác như Batavia[43], Singapour, Hong-kong cũng chỉ như vậy thôi trước khi người Âu châu đến. Có thể rồi một ngày nào đó một thành phố đẹp đẽ và đông đúc sẽ mọc lên ở vị trí của cái làng Annam bị trận chiến diệt chủng tàn phá mà ta đang thấy hôm nay[44]. Trên vùng đất cao là vòng thành cũ do người Nam Kỳ xây năm 1837[45]. Hố sâu quanh thành chỉ bị lấp ở một vài chỗ; chỉ cần vét lại là xong. Nhà cửa bên trong thành đều đổ nát. Bụi trắng tạo thành hai lằn dài trắng xóa, ở giữa là lối đi. Ðó là gạo bị đốt cháy từ năm 1859 mà đến nay vẫn còn cháy[46]. Lửa âm ỉ 24 tháng mà vẫn chưa tắt. Các hạt gạo, ở một vài chỗ vẫn còn giữ nguyên hình dáng; nhưng thật ra đã hoá thành tro; gió hoặc chỉ chạm nhẹ sẽ làm tan ra thành bụi. Truyền thuyết cho rằng một kho tàng rất lớn còn nằm trong đống lửa lớn đó.

Thành phố Sài gòn nhờ vào vị trí địa lý và kinh tế chi phối đã vượt qua nhiều khó khăn và mâu thuẫn về hành chánh gây ra từ quyền lợi bất đồng giữa các phe nhóm. Saĩgon cũng đã khắc phục được những bất hạnh do chiến tranh gây ra. Nhờ nằm vào vị trí trung tâm nên từ Saĩgon đi Batavia, Manille, Hong-kong và Canton thật là ngắn và tiện lơi. Gió mùa giúp liên lạc dễ dàng với nước Tàu và nước Nhật; ta cũng biết rõ việc buôn bán của Nhật với đế quốc Annam trước đây hết sức tích cực, thời đó cũng chẳng xa gì trước ngày có sự hiện diện của quân viễn chinh. Những kẻ phiêu lưu người Âu châu ào ạt đổ đến Saĩgon, bất kể luật lệ gì áp dụng đối với họ, họ cứ ở lại, chẳng qua vì miếng mồi hám lợi. Người ta có thể nói rằng sáng kiến cá nhân có thể bù lấp cho những gì mà nguyên tắc không thực hiện được hoàn hảo[47].

Ðại tá Victor Olivier[48] xây đắp thành lũy cho Saĩgon ngay từ năm 1791; vị sĩ quan này là một trong số 20 người Pháp do Pigneau de Béhaine, giám mục hiệu tòa d’Adran, đưa tới đây. Nhóm người này là số vỏn vẹn thoát được từ một hạm đội 20 chiến thuyền và 7 trung đoàn quân Pháp đã bị toàn quyền người Anh tại Pondichery cầm giữ trên đường kéo đến Nam Kỳ. Lúc bấy giờ, hoàng đế Gia-long[49] đang tìm cách chiếm lại lãnh thổ của mình. Cũng chẳng phải là khó hiểu khi hoàng đế Gia-long quyết định tăng cường hệ thống phòng thủ Saĩgon, vì phòng thủ Saĩgon chính là kế hoạch chung chống giữ toàn thể Nam Kỳ miền dưới. Vùng lãnh thổ này của vương quốc Annam, vì địa thế thiên nhiên bất lợi, rất dễ bị người Xiêm La và người Cao Miên xâm chiếm, người Annam rất khó chống giữ. Năm con sông lớn chảy dài trên toàn vùng tạo ra đường lưu thông giúp quân xâm lược từ phía nam hay phía tây kéo đến để đánh. Người kỹ sư Pháp này đã tìm cách giảm bớt yếu điểm thiên nhiên thật tài tình. Ông ta tìm một vị trí trung tâm của toàn vùng, tức là thành phố Saĩgon, nằm trên bờ sông Don-naĩ, - nói vậy thôi chớ ông ta cũng có thể chọn một nơi khác được - và từ nơi này có thể đưa quân tăng viện nhanh chóng đến các điểm bị hăm dọa mặc dù sông ngòi cản trở. Ðồng thời ông cũng xây dựng một vòng thành ngay tại Saĩgon, nơi giao điểm của các đường tiến quân chiến lược, để tập trung người, lương thực, khí giới và đạn dược. Thành Saĩgon hình vuông, mỗi mặt có hai chặng phòng thủ[50]. Vào năm 1835, thành bị san bằng, Saĩgon cũng bị phá sạch; dân chúng tản mát hết, một phần bị bắt làm nô lệ.

Vào năm 1837, người Annam lại xây một thành mới tại góc phía bắc của vòng thành trước kia. Họ chọn cách xây thành hình vuông có pháo đài, tường thành xây thêm gạch bên ngoài. Thành phố lại được dựng lên từ những đổ nát cũ trên hữu ngạn sông[51] và dọc theo phụ lưu là kinh Tàu. Thành mới xây kiểm soát toàn vùng, đủ sức chận đứng các mưu toan của Cao Miên và Xiêm La. Nhưng tiếc thay kém may mắn hơn khi chống lại sự xâm lược của Pháp. Phó đô đốc Rigault de Genouilly chiếm lấy thành ngày 17 tháng 2 năm 1859 và phá sạch, rồi củng cố chắc chắn trong một đồn mới do chính ông ra lịnh xây tại vị trí cũ của một đồn Annam mà ta gọi là đồn Henon-Bigne (hay thành phía Nam)[52]. Vài gia đình Thiên Chúa giáo dọn đến lập ra ngôi làng gọi là làng Giám mục, làng được đồn Pháp che chở.

Vào tháng 12 năm 1859, chuẩn đô đốc Page đến Saĩgon thay cho phó đô đốc Rigault de Genouilly; sau đó chuẩn đô đốc Page, chưa kịp chuẩn bị quay trở lại Touranne, thì nhận được lịnh phải giải tỏa nơi này, ông bèn đứng ra chọn địa thế đất đai tại Saĩgon để người Pháp xây dựng và lưu lại vĩnh viễn. Ông vạch ra các đường phòng thủ, cho xây dựng bệnh viện, nhà ở, kho hàng và mở cửa cảng cho việc buôn bán[53]. Bảy mươi tàu và một trăm ghe thuyền chuyên chở trong vòng 4 tháng được 60.000 tấn gạo cho thị trường Hong-kong và Singapour, đem đến một số lời khổng lồ cho ta. Ðồn Caĩ-maĩ[54] giúp cho việc buôn bán dễ dàng, một số làng đổ đến vì thấy cái lợi lớn mà người Pháp đem tới cho họ; số người Pháp trong đồn ít và không làm khó dễ gì cả. Người Tàu, tiếp tục theo chánh sách của họ, tìm cách bảo vệ việc buôn bán bằng cách lấy lòng cả hai bên Annam và Pháp. Kẻ địch thì đóng quân chỉ cách Saĩgon có vài cây số, trong một vùng đồng ruộng đầy mồ mả, họ ngấm ngầm phòng ngự chắc chắn. Các tuyến phòng ngự im bặt. Nhưng rồi tình trạng này sẽ sớm thay đổi.

Kể từ tháng 6 năm 1860, quan quân Annam có ý cô lập người Pháp với thành phố Tàu[55], nơi tồn trữ gạo mà người Pháp đem xuất đi từ cảng Saĩgon. Dựa vào một lực lượng khá mạnh, một hệ thống đồn lũy chặt chẽ và phân bố rộng rãi, sức di chuyển nhanh, địch quân khoét ra ở góc phía bắc thành Ki-hoa một cửa hầm đôi và đào một đường hố dài cắt đồn Caĩ-maĩ với thành phố Tàu, mục đích cô lập ta và buộc ta phải bỏ đồn. Mấu chốt của tình thế chính là từ điểm này; phải giữ hay chịu mất thị trường Tàu. Chúng ta bắt buộc phải giữ vững vị trí: trong suốt cuộc chiến tranh ở Tàu cũng thế; - một cuộc chiến mù mịt, gần như bị bỏ rơi, bỗng có một ít người đã đứng lên xứng đáng với cái thời buổi quyết liệt mà đốt tàu để không trở về mẫu quốc.

Hai chùa khác nằm giữa đồn Caĩ-maĩ và Saĩgon liền được ta chọn thêm để củng cố làm đồn và ta sẽ giữ vững bất cứ giá nào. Việc sửa sang hai chùa để làm nơi phòng thủ bắt đầu ngay tức thời. Chùa thứ nhất là chùa Ao[56], sân chùa có tường gạch chung quanh, tạm có thể phòng thủ được ngay. Chùa cách xa các tuyến phòng thủ của địch. Chùa thứ hai là chùa Clochetons[57] hoàn toàn trống trải và chỉ cách miệng đường hầm của địch có 400 mét. Ta liền lấy ngay đất ở mồ mả chung quanh đắp tường phòng ngự. Ta không thấy quân Annam đổ ra phòng ngự đường hố đã đào. Nhưng ngay ngày hôm sau bất ngờ nổ súng tủa vào chùa giết mất một người và làm bị thương thêm vài người khác. Mấy nấm mồ ta đã lấy hết đất, vì thế phải đi xa hơn và dùng bao để mang đất về; việc đắp tường phòng thủ tiến triển chậm chạp, cực nhọc, lộ liễu không có gì che tránh địch quân. Trong đêm mùng 3, rạng ngày mùng 4 tháng 7, quân Annam, ít nhất cũng đến 2.000 người, yên lặng vượt khỏi thành, bao vây chùa, trong khi đó chùa chưa biến hẳn thành đồn. Họ xông thẳng vào chùa, hò hét vang lừng. Hỏa pháo của địch cũng bắn vào các chùa khác[58] để làm thế nghi binh và đồng thời cũng bắn vào chùa Clochetons nữa, quân thì bắn xối xả vào người Pháp, người Tây Ban Nha và người Annam trong đồn. Ðánh giết nhau suốt một giờ đồng hồ. Nhờ viện binh từ Saĩgon kéo lên mới chấm dứt được trận chiến. Kẻ thù bỏ lại một trăm xác chết. Quân lính của đồn Clochetons gồm có 100 quân Tây Ban Nha do trung úy Hernandez chỉ huy, và 60 người Pháp do hai trung úy hải quân cầm đầu là Narac và Gervais[59]. Quân Annam không trở lại tấn công đồn Clochetons nữa; nhưng lại đào từ cửa hầm đôi một đường hố khác bọc song song phía sau đường phòng tuyến của ta. Do đó đồn Pháp và Tây Ban Nha lọt vào giữa hai đường hố phòng thủ của họ, chận hẳn đường thông thương với cánh đồng phía sau thành Ki-hoa.

Ngày 16 tháng 10 năm 1860, đại tá hải quân d'Aries đưa quân vào kinh Avalanche[60] (xem bản đồ 2) để thăm dò các đồn mà người Annam xây cất ngay gần tuyến phòng thủ của ta, vì khoảng cách quá gần nên ta dễ bị họ tấn công. Hai tàu nhẹ được dùng để tiến vào kinh, địch bắn rất rát nhưng vẫn tiến được tới một công sự có rào cản canh giữ điểm chốt gọi là "cầu số ba trên kinh Avalanche”. Bên ta không có người nào bị trúng đạn khi tiến tới đây; nhưng cuộc mạo hiểm nhỏ này kém may mắn hơn trên đường về; trung úy hải quân Hermand bị một viên đạn xuyên ngang đùi, vài người nữa cũng bị thương. Trung úy Rieunier đo độ sâu và vẽ bản đồ của kinh dưới lằn đạn đại pháo từ các đồn bắn ra; bản đồ này hết sức là bổ ích về sau.

 Toàn thể cánh đồng nằm giữa kinh Avalanche và kinh Tàu bị địch bủa vây bằng các đường hố dài và nhiều đồn canh gác bố trí cách khoảng nhau. Bất cứ chỗ nào có kinh rạch hay đường xá là người Annam lập đồn tại đó. Thượng lưu sông Don-naĩ bị chắn ngang. Trái với điều người ta thường nghĩ, hậu tuyến của hệ thống đồn lũy do người Annam thiết lập cũng được phòng thủ vững chắc như phía trước và hai bên cánh. Nói như vậy để cho thấy hệ thống phòng ngự của địch cũng có tầm quan trong tương đương với thành cũ của họ trước kia, chế ngự toàn vùng, kiểm soát hết các đường về My-thô, Huế và Cao Miên.
(http://i298.photobucket.com/albums/mm271/Baogt/Map_of_Saigon_and_Ky_Hoa.jpg)

Liên lạc giữa quân Annam và thành phố Tàu vẫn duy trì thường xuyên. Từ thành Ki-hoa rộng lớn, đường hố tủa ra từ các cửa hầm giống như những cánh tay bóp nghẹt trại quân nhỏ của đồng minh tại Saĩgon, làm cho trại này bất lực mặc dù địch vẫn tỏ vẻ như bất động.

Thành Annam xây theo hình vuông, gồm năm khu riêng biệt liên lạc với nhau bằng các đường tắt thông thương. Vòng đai của thành là tường bằng đất có ụ bắn, cao 3 mét rưỡi, dầy 2 thước, có đục lỗ châu mai rất khít nhau; lỗ châu mai phần nở rộng lại ngược bên so với các lỗ châu mai của các thành quách Âu châu. Khí cụ phòng thủ được tích lũy ở khắp các mặt thành, nhưng chính yếu hơn hết là mặt trước và mặt sau. Nhờ các trận đụng độ ở Touranne ta biết khá đầy đủ các loại chướng ngại vật này. Thân tre và cả cành lá gai góc được sử dụng hết sức khéo léo; thân thì làm cọc nhọn cắm trong các hầm chông, hoặc cắm thành bàn chông, làm rào hoặc làm cọc; cành thì dùng bao phủ trên tường thành tạo ra một lớp rào chằng chịt đầy gai.

Vùng đất tỉnh Gia-dinh chung quanh thành Annam là đất dẽ và cứng, theo tin dọ thám do ta thu nhặt thì các giàn pháo chiến thuật có thể di chuyển được trên vùng đất này. Mùa mưa mà ta phải ngưng các hoạt động chỉ bắt đầu vào tháng 4. Còn về ảnh hưởng của thời tiết thì khó thẩm định rõ ràng; quân lính của ta vừa mới bảo vệ Saĩgon xong trải qua biết bao nhiêu cực khổ; đâu có thể quy hết cho thời tiết Nam Kỳ miền dưới là nguyên do duy nhứt gây bệnh tật cho toàn thể quân viễn chinh.

Phong tục và tánh tình người Annam ta biết rất ít; người Annam ta thấy ở Saĩgon có thân hình mảnh mai, và có lẽ thuộc vào một sắc dân suy hóa[61]. Họ chỉ có thói hư tật xấu mà thôi, mưu mẹo, thích cờ bạc và hám lợi. Nhưng thật ra có thể phỏng đoán tính tình người Annam đúng hơn qua sức kháng cự của họ trong vài trận đụng độ đã xảy ra. Họ tỏ ra đủ sức tự vệ, nhất là trong trận tháng 4 năm 1860. Ta cũng biết rằng chính phủ của họ rất nhất quyết, kiên nhẫn, mạnh và đoàn kết; họ được huấn luyện để tuân lời một cách mù quáng, tôn thờ một vị hoàng đế thiêng liêng quả quyết không bao giờ chịu lùi. Mặc dù có vài sự xúi dục do Tây phương châm vào[62], nhưng mầm nổi loạn ngấm ngầm từ lâu ở Bắc Kỳ vẫn không bộc phát. Quyền lực của hoàng đế Tu-duc[63] vẫn nguyên vẹn. Chính phủ ta từ Pháp thông báo cho vị tổng tư lịnh biết rằng vua Xiêm vừa tuyên chiến với đế quốc Annam và gởi ra trận 60.000 quân Xiêm. Ta sẽ thấy về sau cái thực lực của đạo quân này.

---------------------------------------------------------------------------------
[1] Tức Đại đồn Chí Hòa. - TN

[2] Nguyên bản là “Tonquin". – TN.

[3] Tức Giao Châu. – TN.

[4] Nguyên bản là “Pays aquatique". – ND.

[5] Tức "Ðàng Ngoài". - ND.

[6] Nguyên bản là “Annam septentrional". – ND

[7] Nguyên văn bản dịch là “Annam”. - TN

[8] Nguyên văn bản dịch là “Annam miền trung”. - TN

[9] Tức "Ðàng Trong". - ND.

[10] Nguyên bản là “Annam méridional". – TN

[11] Nguyên bản là “La basse Cochinchine". – ND.

Nguyên văn bản dịch là “Annam miền dưới”. - TN

[12] Nguyên bản là “Cambodge". – ND

[13] Vương triều đương thời. - TG

[14] Theo cha xứ Alexandre Rhodes. - TG.

1 lieue = 1 dặm, dài 4,445km. - ND.

“Sang-koi” có lẽ là “sông Chảy”, còn “Song-ca” là “sông Cả”. - TN

[15] Tức Phan Thiết. - TN

[16] Trên phương diện Ðịa chất học không được đúng lắm, cát vẫn do sông ngòi bồi đắp. - ND

[17] Trong nguyên bản tác giả ghi là sông Cambodge. Tên ngày nay là sông Mekong, tác giả cũng dung tên sông Cambodge để chỉ chung cho sông Tiền Giang và Hậu Giang. - ND

[18] Tức Hà Tiên. - TN

[19] Tức Vũng Tàu ngày nay. - ND.

[20] Tức Vàm Cỏ. - TN

[21] Tức Long Hồ và Vĩnh Long. - TN

[22] Tức Gia Định. – TN

[23] Tức Mỹ Tho. - TN

[24] Tức An Giang. - TN

[25] Tức Tây Ninh. - TN

[26] Nguyên bản là “Moys” và “Kiams”. – ND

[27] Có khi tác giả viết là Tram-bam hoặc Tran-bam (tức là Trảng Bàng ngày nay), Vĩnh Long thì có khi tác giả viết là Vinh-luong hay Vinh-long, chúng tôi xin giữ theo nguyên bản trong từng trường hợp. - ND

[28] Tức sông Đồng Tranh. - TN

[29] Tức sông Soài Rạp. - TN

[30] Ðơn vị đo lường : dài khoảng 0,3248m. - ND. Nguyên bản ghi là “Pied”. - TN

[31] Đây có lẽ là cửa Định An của sông Hậu. - TN

[32] Tức Châu Đốc. - TN

[33] Sông Nhật Bản có lẽ là sông Mỹ Tho và 2 cửa sông nêu trên có lẽ là cửa Đại và cửa Tiểu của sông Tiền. - TN

[34] Liễu và cây hoa trà (camellia: trong nguyên bản) là các cây vùng ôn đới thường thấy ở Âu châu. - ND

[35] Nguyên bản ghi “aloes”. - ND

[36] Ðây có thể là tâm trạng của người tha hương đi chinh phạt nơi xứ lạ quê người (?). Dân địa phương sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, đều thấy thương yêu và gắn bó với mảnh đất sình lầy của mình. Biết bao nhiêu người đã ngã xuống những mảnh ruộng ngập sình để bảo vệ quê hương mình. Trên mảnh ruộng bằng phẳng họ thấy gần gũi với nhau hơn, thương yêu nhau hơn. Thân xác họ không lún xâu xuống bùn mà họ biết dùng xuồng để đi thăm hỏi nhau, giúp đỡ nhau, không cần phải đắp đường xá gì cả. Linh hồn họ không cần lướt đi đâu hết, vì tâm hồn họ gắn bó với từng cọng cỏ dưới chân họ, mặc dù từng cọng cỏ đều giống hệt với nhau. - ND.

[37] Nguyên bản ghi “Arroyo Chinois”. – ND. Người Việt gọi là “rạch Bến Nghé”. - TN

[38] Công trình mới xây dựng sau này. - TG

[39] Tức Ðà Nẵng ngày nay. - ND.

[40] Bờ bên phải kể từ nguồn đổ ra biển. - ND.

[41] Tức Gia Định thành. - TN

[42] Ðây là phác họa quang cảnh chung của Saĩgon vào tháng hai 1861. Kể từ lúc ấy về sau, nhiều công trình được thực hiện, phần lớn do công binh. Cánh đồng được tháo nước bằng mương rãnh. Ðường phố rộng, đẹp, như những đường cái quan, tạo ra phố xá Saĩgon; chắc rằng nhà cửa rồi đây sẽ mọc lên. Xưởng tàu được thành lập. Tuy thế những xây dựng này cũng không làm thành phố thay đổi bao nhiêu khi nhìn từ dưới sông lên: cũng vẫn như xưa, không có gì cho thấy đây là một thành phố; trước mặt chỉ là một phong cảnh bằng phẳng, không có cá tính gì đặc biệt, sự hiện diện của người ở cũng chỉ thấp thoáng mà thôi. - TG

[43] Tức Jakarta ngày nay. - ND.

[44] Viết theo báo le Cambodge annamite (Cao Miên Nam Kỳ) năm 1835. - TG.

[45] Tức thành Phụng. - TN

[46] Xin mạn phép thêm vài chi tiết cho rõ ràng vì tác giả cố ý viết một cách mập mờ. Thật sự người Pháp đã khởi đánh Nam Kỳ từ năm 1858. Vào lúc quân Pháp và đồng mình dồn toàn lực để đánh Tàu thì de Genouilly đem quân đánh Đà Nẵng, nhưng không có người nổi dậy tiếp tay như mong đợi. Vì không đủ sức giữ Đà Nẵng, quân lính lại bị sốt rét, dịch tả, kiết lị, chết nhiều, de Genouilly bèn đem quân vào đánh Sài Gòn, đốt kho gạo… Vì quân ít không đủ giữ thành Sài Gòn nên ông ra lênh phá thành và xây đồn nhỏ hơn để phòng thủ và chờ tiếp viện. - ND

[47] Câu này không liên hệ gì với đoạn vừa viết, chỉ là câu chuyển để tóm tắt và giới thiệu đoạn tác giả sắp viết bên dưới, tiếc rằng câu chuyển tiếp không được khéo lắm. Ðây là cách viết văn khá xưa. - ND.

[48] Victor Olivier de Puymanel (1768-1799), tên Việt là Nguyễn Văn Tín, từng được chúa Nguyễn Ánh phong chức Cai đội, nên còn được gọi là Cai Tín. Về sau, ông được phong chức Thuộc Nội Vệ úy, hàm chánh Tam phẩm, tài liệu Pháp ghi thành "Colonel de la garde royale". - TN

[49] Đúng ra là chúa Nguyễn Ánh, vì mãi đến năm 1802 ông mới lên ngôi Hoàng đế với hiệu Gia Long. - TN

[50] Tức thành Quy. Đúng ra thành có 3 lớp bảo vệ: ngoài cùng là một lớp lũy bằng đất, một lớp hào nước, rồi đến mới đến tường thành bằng đá. - TN

[51] Nguyên văn bản dịch là “tả ngạn sông”. Có lẽ dịch giả nhầm. Nguyên bản ghi là “le rive droite” - TN

[52] Tức đồn Hữu Bình, còn có tên gọi là đồn Vàm Cỏ hay đồn Giao Khẩu ngày nay ở vào khoảng dưới chân cầu Tân Thuận. - TN

[53] Cảng Saĩgon được mở cửa ngày 22 tháng hai năm 1860. - TG

[54] Tức đồn Cây Mai. - TN

[55] Tức vùng Chợ Lớn ngày nay. - TN

[56] Nguyên bản ghi “La pagode des Mares". Tên tiếng Annam không rõ, người Pháp đặt là chùa Ao vì có nhiều hồ và ao chung quanh? Quân Pháp thường chiếm các chùa để làm đồn vì là các kiến trúc có sẳn, xây gạch, cao ráo và rộng rãi. - ND.

Đây chính là vị trí thành Ô-Ma. Trước khi Pháp xâm chiếm thì là khu vực có chùa Kim Chương và đền Hiển Trung. Vị trí ngày nay là khoảng ngã tư Nguyễn Trãi - Cống Quỳnh, đại thể là nơi chùa Lâm Tế và văn phòng Bộ Công an phía Nam ngày nay. Có lẽ tác giả muốn nói đến đền Hiển Trung, do đây là nơi thờ các công thần thờ Gia Long chăng? - TN

[57] Tên của người Pháp đặt cho chùa và gọi là đồn của họ. – ND

Trước chùa có tên gọi là chùa Kiểng Phước. Nay dấu tích ngôi chùa đã không còn. Phỏng đoán vị trí của chùa nằm ở góc đường Lý Thường Kiệt và Hồng Bàng ngày nay, gần bệnh viện phụ sản Hùng Vương. - TN

[58] Cũng do quân Pháp chiếm làm đồn. - ND.

Có lẽ tác giả muốn nói đến Phòng tuyến các chùa (Lignes des pagodas) chăng? - TN

[59] Không thấy tác giả nói đến số thương vong của người Pháp và người Annam theo Pháp trong đồn. - ND.

[60] Tức kênh Thị Nghè. - TN

[61] Nguyên bản ghi “Race abâtardie"; "abâtardie" có nghĩa là thoái hóa, suy đồi. Mạn phép xin độc giả chú ý để so sánh với các đoạn tác giả viết về người Annam ở chương IX. - ND.

[62] Có lẽ tác giả biết thừa Tây phương ở đây tức là nước nào, ai xúi dục và xúi giục ai nổi dậy chống lại triều đình Huế, nhưng tác giả không muốn viết ra đấy thôi. - ND

[63] Tức Tự Đức. - TN

CHƯƠNG III

Ðề cương:

Kế hoạch chiến dịch đánh chiếm Saĩgon _Hạm đội chế ngự sông Don-naĩ_Giới tuyến các chùa cầm chân quân địch; quân viễn chinh dàn quân hình cung, phong tỏa thành Kì hòa, đặt quân An nam trong thế phải lựa chọn, hoặc phải chống trả, hoặc phải chịu nghiền nát và phân tán trong một trân đánh úp duy nhất.
Ngay hôm thủy sư đề đốc tổng tư lịnh viễn chinh đến Saĩgon, quân ta vẫn không lơi tay chuẩn bị trận chiến Nam kỳ. Tại Woo-sung, quân viễn chinh qui trước đây được phân phát khí giới, hành trang và đưa lên tàu. Tại Saĩgon, quân sĩ đã đến từ trước cũng ở thế sẵn sàng tiến quân và chiến đấu. Cách bố trí và địa điểm chiến lược đã được quyết định xong, tình báo các nơi cũng đã thu thập và bổ xung. Trọng trách được phân phối, các vấn đề cá nhân trong quân ngũ cũng được giải quyết xong. Thành phần quân đoàn thủy binh đổ bộ được lệnh tập họp; tiểu đoàn này gồm 900 người, chia thành 9 đại đội, trong số có một đại đội mệnh danh là thủy binh đột kích giữ vai trò của công binh, đánh mở đường; đại đội đặt dưới sự chỉ huy của đại úy hải quân de Lapelin.

Thủy sư đề đốc nghe Ðại tá Tây ban nha, cựu chỉ huy trưởng Saĩgon, phúc trình về các công tác của mình; vị đại tá này vừa chấm dứt nhiệm vụ phòng thủ Saĩgon suốt trong một năm qua. Thủy sư đề đốc cùng với các vị chỉ huy công binh và pháo binh đi xem xét cánh đồng Kì hòa và sau đó ông cũng đi quan sát đường giới tuyến phòng thủ do chuẩn đề đốc Page vạch ra từ kinh Avalanche cho đến đồn Caĩ-maĩ; ông muốn biết chắc đường giới tuyến này đất phải khô, khả dĩ có thể dùng cho pháo binh, mặc dù trên cánh đồng mênh mông của đường giới tuyến có nhiều ụ đất và hố nhân tạo. Sau khi quan sát, và thấy rằng với phương tiện hết sức dồi dào của đạo quân viễn chinh hiện nay, ông có thể đánh bọc hậu bất ngờ quân An nam trong khi họ đang bận lo phòng thủ ở mặt trước và hai bên cánh. Do đó, ông quyết định kế hoạch hành quân như sau mà các vị chỉ huy công binh và pháo binh phải nghe theo. Một mặt, hạm đội ngược sông Don-naĩ, phá xập các chướng ngại do địch dựng lên, phá các đập chắn, san bằng đồn lũy và kiểm soát toàn bộ thượng lưu sông. Tiếp đó là đường tuyến các chùa của ta phải đối đầu và kềm giữ cánh mặt của địch quân; đường tuyến này sẽ xử dụng pháo binh mạnh mẽ, dựa vào các công sự mới và vòng đai chiến thuyền neo trên sông Saĩgon, mục đích để cầm chân và dồn địch vào thế bất lực. Sau đó, từ đồn Caĩ-maĩ dùng làm căn cứ hành quân, toàn thể đạo quân viễn chinh sẽ tiến lên đánh gãy tuyến phòng thủ An nam tại một điểm thứ nhất, tiếp tục dùng điểm tựa này tiến lên, tránh tầm đạn của địch bọc ra phía sau để vây hậu tuyến thành Kì hòa. Từ vị trí này rất gần sông Don-naĩ, quân viễn chinh sẽ phối hợp với hoạt động của hạm đội trên sông khép kín gọng kềm mà nghiền nát địch quân. Trong khi ấy quân An nam khi bị cắt rời với kho Tong-kéou, bị vây hãm trong vòng đai sắt, không còn giải pháp nào khác, họ buộc phải đánh hoặc bị tấn công và nghiền nát. Tuy nhiên địch vẫn còn một đường tháo thân, nếu trong khi kịch chiến ta không đặt một đội quân canh chừng tại đây. Ðó là đường giám mục Adran; nhưng muốn đến được đường này thì địch phải vượt qua vùng đầm lầy thuộc kinh Avalanche.

Ðây chỉ là đường tháo chạy chớ không phải là đường rút lui trong trật tự[1].

Ðể bảo đảm tốt đẹp chương trình hành quân nên việc bố trí phải được thực hiện ngay không chậm trể. Chuẩn đề đốc Page nhận lịnh chỉ huy hạm đội ngược sông Don-naĩ lên thượng lưu và các phụ lưu, hóa giải quân địch không cho đổ quân vào vùng đồng bằng Bien-hoa. Các tàu chiến của hạm đội chuyển xuống các chùa Barbet, chùa Clochetons, chùa Caĩ-maĩ một số các đại pháo 30 ly nòng có khía [2] và súng cối 80 ly tạo ra một giàn hỏa lực thật khủng khiếp. Các nhóm quân đóng rải rác phía sau đường tuyến các chùa cho đến thành phố Tàu, dùng làm hậu quân, phải di chuyển về gần đồn Caĩ-maĩ, vì đồn Caĩ-maĩ sẽ là nơi xuất phát của các nhóm quân này để kết hợp với đại quân cùng tiến lên Quân lính chiếm đóng các căn nhà lớn bỏ hoang của dân chúng, nhà cất theo kiểu địa phương, mái thật nghiêng và hiên thấp chỉ cách mặt đất khoảng bốn chân[3] Rắn rít đầy dẫy. Ðêm, lính canh phải thận trọng; mỗi đầu người đều được quân An nam ra giá; chuyện đại úy Barbet bị ám sát là một cảnh cáo thảm khốc mà mọi người đều nhớ. Quân An nam tấn công thẳng lại không sợ, nhưng phải cảnh giác khi bị phục kích bất ngờ: địa thế đầy bụi rậm, kẻ thù thì bò và trườn như một con thú dữ [4]. Tình trạng đặc biệt như vừa kể cho thấy cái hãi hùng không tả nổi trong tiếng kêu cứu của những người lính canh.

Quân sĩ nôn nóng hăng say chờ đối đầu với kẻ thù. Cho đến giờ phút này các giới tuyến vẫn im lìm; từ chùa Clochetons ta thấy thoang thoáng các chướng ngại vật của người An nam, chẳng hạn như các cành lá úa vàng, rậm rạp và chằng chịt trên đầu tường thành. Những chòi canh có mặt bằng phẳng để đứng, một bóng người thấp thoáng, thế thôi. Chiến tuyến địch trải rộng mười sáu cây số; tổng số địch quân theo tin đồn lên đến 30000 người, ta và họ chỉ cách nhau có vài trăm thước nhưng ta thì không trông thấy họ; ta còn nghe nói họ có những chỗ cố thủ hiểm hóc trong thành; cũng nên kể thêm tính cương ngạnh của giống dân này, sức chống cự của họ và ta thì đã đánh suốt một năm chẳng được gì hết, tất cả cho thấy tầm quan trọng của địch và trận chiến sắp xảy ra. Nhưng ngày nay không còn ai nhớ tới sức mạnh đó của địch. Về sau này, khi tường thành Kì hòa bị san bằng, các bàn chông và chà gai bao phủ trở thành một lớp tro đen, khi kẻ thù bại trận, lang thang và khốn khổ, thì những người từ Pháp đến, cứ lấy hôm nay để đoán ngày xưa, rồi chế nhạo khi dễ giá trị quân sự của người An nam, không chịu phân biệt gì hết mà coi quân An nam chỉ là bọn giặc cướp.

Trong khi chờ đợi những cuộc dấn thân sắp đến, quân sĩ tìm thấy trong đời sống trước mặt một nguồn sinh lực mới, một sự vui nhộn tràn trề, mà sau này không ai tìm thấy trong các cuộc hành quân viễn chinh khác. Những người đã trải qua giai đoạn này đều coi đó là một giai đoạn lý thú và độc đáo trong cuộc đời mình. Cái mới lạ và vẻ đẹp của quang cảnh Saĩgon thật dịu dàng và duyên dáng, tạo ra một bối cảnh hết sức quyến luyến khi chợt nghĩ rồi đây sẽ phải rời xa nơi này[5] Kinh Tàu và đường cái nối tiếp với kinh này trên đất thật đông người và nhộn nhịp, đầy thực phẩm, súng ống và đạn dược chiến tranh. Trên mặt kinh các tàu sa-lúp màu xám, trước kia chuyên chở quân lính đưa lên tàu tại Peh-tang, nay thì chuyên chở các khẩu đại pháo nòng có khía và các ổ súng cối, bàn đặt súng và những quả đạn dài đầu nhọn[6].

Kinh Tàu, mà ta vẫn thường nghe nhắc tới khi nói đến Saĩgon, rất có thể là một con kinh do người đào, hoặc ít ra cũng do tay người sửa và vét giúp cho tàu bè thông thương. Kinh tách ra theo một hướng thẳng góc với sông Saĩgon, ăn sâu vào vùng đồng bằng, mặt nước phẳng và đều, rộng độ 100 thước. Kinh Tàu nối liền với kinh Thương mại[7], kết hợp với các kinh khác rồi đổ vào sông Cambodge [8] tạo ra đường lưu thông huyết mạch cho việc buôn bán trong toàn vùng Nam kỳ miền dưới. Khi rời khỏi Saĩgon, dọc hai bên bờ kinh vương lên nhiều chòm cây mảng cầu[9], cây mít, cây bông lài rất thơm, dứa gai và lau sậy. Cây cối trên bờ bên trái [10] che khuất những ruộng lúa mênh mông xa tít tới chân trời. Dẫy cây bờ bên phải, thỉnh thoảng có chổ trống để lộ ra một cái miếu[11] nhỏ, miếu dựng lên để thờ một vị thần quen thuộc của địa phương; trên bờ có nhiều căn nhà xinh xắn của người An nam, lợp ngói, nhà có trồng xương rồng bao kín chung quanh không cách gì chui qua lọt.

Một con đường cái tình trạng bảo trì khá tốt, rộng như một tỉnh lộ của ta ở Pháp, có cây xinh xắn che mát, đường chạy dài song song với kinh Tàu chỉ cách khoảng 200 thước. Ðó là một đoạn trên con đường từ Saĩgon đi My-thô. Từ Saĩgon xuống, bên phía mặt là các chùa đã biến thành đồn của ta như đồn Barbet, đồn Ao, đồn Clochetons, đồn Caĩ-maĩ. Cũng về bên phía tay mặt, xa xa sau mặt đường, đất đai có vẻ cao hơn một chút trải rộng tới chân trời. Các chòm cau và cây cối xanh tươi không còn nữa, chỉ thấy cây cỏ cằn cọc, vàng úa, thấp lè tèTất cả đều cằn cỗi và buồn thảm dưới bầu trời nung đốt; vài mô đất, vài nấm mồ sơn sáng chói trang trí tranh vẽ trên vách mộ là tất cả những gì đập vào mắt ngưòi nhìn. Cánh đồng mênh mông đó chính là cánh đồng Kì hòa. Xa hơn nữa là tuyến phòng thủ An nam, vách thành thấp, tiệp với màu đất, nếu không có bóng vài kỵ mã và chòi canh thì khó mà nhận ra thành Kì hòa.

Thành phố Tàu, dân địa phương gọi là Cho-luen, tên có gốc tiếng tàu[12], trải dài hai cây số dọc hai bên bờ kinh. Quang cảnh nhộn nhịp, cu-li Tàu và An nam tấp nập khuân vác gạo, tiền bằng đồng, dê nhỏ và cá khô. Các mái ngói màu đỏ nổi bật giữa các chòm cau giống như nơi thôn dã; thân cau thẳng băng và có khía tưởng chừng như đã từng làm mẫu cho các cột của thành quách Hy lạp. Viễn cảnh trông thấy ở khúc quanh đầu tiên của kinh tràn đầy vẻ dịu dàng, mềm mại và thanh lịch. Thật nhiều cầu nối liền hai bờ sông. Càng ra xa Saĩgon hơn, vườn tược rộng hơn, nhà cửa dần dần thưa thớt và riêng biệt hơn. Cho-luen không giống thành phố Âu châu chút nào, mà cũng chẳng giống với một thành phố Tàu hay An nam nào cả. Người ta có thể nói đây chỉ là một nơi gom tụ của một số nông trại giàu có. Sân nhà không có tường che khuất như bên Tàu, nên người ta có thể trông thấy vào giờ cơm, trong sân có kê ba cái bàn theo hình tam giác. Bàn trong cùng, kê cao hơn hết, dành cho chủ nhân, con cái, bạn hữu và người quản gia ngồi; cu-li thì ăn ở hai bàn còn lại kê thấp hơn. Lối sống giữa trời như thế cho thấy cái vẻ oai vệ của chủ nhân. Trên mặt kinh luôn luôn tấp nập, thuyền bè kẹp sát nhau, chỉ còn một lối nhỏ ở giữa. Khi nước ròng, mực nước rút xuống thật thấp, chỉ còn một dòng nước nhỏ như một con suối, đủ cho thuyền thật mỏng lưu thông; ghe thuyền khác thản nhiên cạn sình hai bên bờ mà không hư hại gì cả.Các ghe tàu này chỉ xử dụng ở nước ngọt, sơn bóng loáng bằng một thứ dầu nội hóa, trông có vẻ nhàn hạ phong lưu.

Thành phố Tàu là chìa khóa của tất cả thương nghiệp tại Nam kỳ miền dưới. Ai kiểm soát được thành phố này là nắm hết khả năng sinh hoạt của dân chúng trong phần đất An nam này. Các đồn Clochetons và Caĩ-maĩ sẽ giữ nhiệm vụ đánh chiếm thành phố Tàu; một tàu chiến loại lorcha[13] kiểm soát con kinh mà hai bên bờ là Cho-luen, tàu mang tên Jajaréo thả neo ngay cửa vào thành phố Cho-luen; do một đại úy hải quân chỉ huy, phụ tá lại là một trung úy thủy quân đánh bộ, đây là một trong những việc trớ trêu ngược đời trong trận chiến kỳ lạ này. Thành phố Tàu xây cất theo lối xưa, người Tàu sống ở đây chia ra thành từng bang hay hội đoàn, có thiết lập hẳn hoi quy uớc và xác định những ngoại lệ khỏi đóng góp. Nhiều người thật giàu có; một số người thuê trực tiếp các tàu Âu châu để gởi đi Ấn độ, đảo Réunions hoặc đi Tàu. Cũng phải xác nhận rằng ngày nay tình thế khó khăn vì sự chiếm đóng của Pháp, thương gia tại Saĩgon dựa vào giá cả của thị trường Hong-kong và Shang-haĩ, nhưng có khi biết có khi không, vì thế người Tàu lập hẳn một hệ thống chuyển thư riêng của họ giữa Saĩgon và Canton.

Trong suốt vùng Cho-leun thuộc tỉnh Gia-dinh, chùa và miếu (bàn thờ nhỏ để chuộc tội) thật là nhiều. Các miếu thờ xây cất rất trang nhã và giống hệt nhau, tương tự như các đền miếu bên Tàu. Ðền miếu xây cất có lẽ do tiền quyên góp của dân buôn bán người Tàu. Dân Tàu cũng dững dưng với tôn giáo như dân An nam, nhưng họ giàu hơn và muốn khoe khoang của cải[14]

Bốn cảnh chùa mà chuẩn đề đốc Page, một năm trước đây, đã biến thành đồn để phong tỏa Saĩgon thì nhìn từ xa cũng thấy rõ nhờ trên mái có các con rồng thật đặc biệt, những con cá đứng dựng trên đuôi và tượng chó có mắt người ta[15] theo mẫu gốc đặt ở lâu đài Yuen-minh-yuen; chắc chắn các hình tượng này không phải là các sáng tạo tùy hứng do trí tưởng tượng của người Tàu mà ra. Cảnh sân trước chùa đều có trồng loại cây dương Ấn độ có lá lớn gọi là cây Mahâ-phot, dưới một trong các cây này ông Phật đã được vua các thiên thần là Indra phong làm thầy tu.

Cảnh chùa Barbet mang tên một đại úy thủy binh bộ chiến trước kia đã từng cai quản chùa này, ông bị ám sát và bị cắt đầu nơi khúc quanh thứ nhất trên con đường dẫn đến chùa Ao. Buổi chiều hôm đó, ông cởi ngựa đi tuần tra như thường lệ. Bọn sát nhân rình rập trong một bụi cây, sau này người đi ngang đây còn chỉ chỏ cho nhau biết. Ông ta bị đột kích bằng giáo té ngay xuống ngựa. Bọn An nam liền cắt đầu, bò qua các bụi rậm và cỏ cao trở về giới tuyến cũ của thành Kì hòa. Sáng hôm sau, người ta thấy phần thân thể còn lại bị kéo bỏ bên vệ đường; con ngựa bị thương nằm bất động kế bên. Người ta kể lại rằng khi cái đầu ông đại úy đem đến đặt kế bên khay trầu của vị tướng An nam thì ông này liền đếm tiền thưởng mà không nói gì, rồi sau đó mới thốt ra một lời tiếc thương. Ðại úy Barbet có thân hình và một sức mạnh lực sĩ, tất cả người An nam đều biết mặt ông.

Chùa Ao trước kia rất nổi tiếng vì là nơi hành hương cho những người đi buôn bán từ My-thô trở về. Chùa có hai ao nên gọi là chùa Ao, một lớn một nhỏ, nước dơ bẩn, thường thấy thỉnh thoảng có xuất hiện loại cá sấu caĩman.

Chùa Clochetons hơi xa hơn các chùa kể trên nhưng cũng trên đường từ Saĩgon đi My-thô. Chùa xây cất giữa một cánh đồng mồ mả. Các tượng thần [16] sơn vàng, chất đầy chung quanh các gian phòng trong chùa, vẻ mặt tượng trưng một trạng thái gần hoàn toàn thoát tục. Một đàn gà bươi móc khắp nơi, lính thủy và bộ binh nhìn thấy mà thèm. Trên bàn của các sĩ quan có để vài chai rượu vermouth và absinthe; trước mặt đồn súng 30 ly nòng dài có khía xếp thành hàng trên các bệ bắn, lớp sơn đen trầy trụa vì súng phải khiêng lên khiêng xuống. Các chùa hay đồn binh của ta vừa kể giữ nhiều vai trò: vừa là nông trại, đồn canh gác và pháo đội.

Các vị thần phật giáo hình như đang lạc vào một thế giới khác; nụ cười mỉm của tượng, tuy nhân bản hơn là chế nhạo, nhưng hình như cũng đồng lõa với những nỗ lực của ta đang xảy ra trước mặt. Cảnh các tượng thần trước sự nhộn nhịp của đám người phục dịch bận rộn tíu tít và sức mạnh xâm chiếm của một giống dân tuy lo âu nhưng mạnh mẽ đã tạo ra một sự tương phản lạ lùng[17]

Chùa Caĩ-maĩ là điểm chốt xa nhất trên tuyến phòng thủ của quân viễn chinh, cánh mặt của đường tuyến bắt đầu từ kinh Avalanche. Chùa là vị trí tiền tuyến nhất mà trước đây ta đã chiếm được của người An nam. Chùa xây trên một gò đất cao do người đắp. Bên trong chùa các chi tiết trang trí cũng giống như các chùa khác. Phía trước mặt đồn Caĩ-maĩ là đồn An nam ta gọi là Redoute, đồn này là tiền đồn của cả hệ thống phòng thủ của địch quân, cạnh bên là một vùng đầm lầy làm chướng ngại thiên nhiên. Chùa Caĩ-maĩ của ta mấy ngày sau bất ngờ được xử dụng làm kho tồn trữ đạn dược cho pháo binh và lính bộ.

  Công việc nâng các giàn trọng pháo 30 và các ổ súng cối 80 lên bàn bắn rất là nặng nhọc, các người cai thủy thủ đảm trách việc này. Trung tá pháo binh đánh bộ là Crouzat chỉ huy một đội pháo binh phá thành và một đội pháo binh chiến thuật phải huy động hết mọi người trong tay ông. Chỉ trong bẩy ngày các bệ bắn được xây đắp xong, súng từ tàu chuyển đến được nâng lên bệ bắn cùng với một trăm quả đạn cho mỗi súng. Chùa Barbet nhận được 3 ổ súng cối 80 và hai dàn phóng hỏa tiển tấn công 125 ly; chùa Clochetons nhận 4 khẩu đại bác của hải quân nòng 30 có khía; chùa Caĩ-maĩ một khẩu 30 nòng có khía và một ổ súng cối 80. Các thủy thủ trước đây trách nhiệm về các khẩu súng này trên tàu được phân phối gởi theo để tiếp tục đảm trách việc xử dụng.

Ngày 16 tháng hai, vị tổng tư lịnh rời tàu Impératrice-Eugénie, tàu bèn hạ cờ hiệu của tổng tư lịnh xuống rồi chở toàn bộ tổng hành dinh đến trụ sở mới tại một công sự gần phía sau đồn Barbet. Vị tổng tư lịnh giao cho đại úy hải quân de Surville[18] điều khiển các chiến hạm neo dọc trên sông Saĩgon. Vị sĩ quan cao cấp liền gom tất cả thủy thủ đoàn của các chiến hạm trong tay ông để thành lập các đại đội chuyên chở tiếp liệu, đồng thời cũng cung cấp pháo thủ cho các đại bác nòng có khía đã chuyển đến các chùa; suốt hai mươi ngày, họ phải cong lưng chèo chống, từ sáng đến tối dưới bầu trời thiêu đốt, vận chuyển một số lớn các thiết bị lưu động cho cả đạo quân, dù chỉ là một đạo quân nhỏ. Rồi đây họ lại được nghe các dàn đại pháo lẫn tiếng súng nhỏ từ các trận đánh vọng lại. Họ chỉ biết chiến đấu qua việc tải thương, cứu cấp và an ủi quân sĩ bị thương. Vai trò đòi hỏi một tinh thần hy sinh cao độ. Vị chỉ huy hải quân de Surville khuyến khích để giúp họ đủ sức kiên nhẫn chịu đựng những khắc nghiệt trong công tác khó khăn của họ.

Trung tá Crouzat bố trí và hướng dẫn toán dọ thám cho biết chắc chắn chỉ có phía trước và bên trái đồn Caĩ-maĩ mới có đường di chuyển cho pháo binh để tiến đến một vị trí đất cứng cách tuyến địch độ một ngàn thước. Ðường dùng cho pháo binh cần phải san bằng, công tác giao cho một đội công binh biệt phái và một đại đội trên chiến hạm Impératrice-Eugénie đảm trách; quân sĩ làm đường phải chịu hỏa lực của địch rất khó chịu nhưng không ai bị trúng đạn._Ngày 19 tháng hai, 20 hỏa tiển phóng hỏa 125 ly của hải quân và 32 hỏa tiển của bộ binh đầu 90 ly sơn đỏ được phóng đi từ chùa Barbet đến một địa điểm cách xa chừng 5 cây số nằm trong phần doanh trại của địch, mục đích làm cho địch bối rối và lo âu. Ngày 21 và 22 tháng 2, ta tiếp tế thêm cho chùa Caĩ-maĩ, nơi làm điểm tựa để chuyển quân đánh bọc hậu, gấp đôi số đạn dược cho pháo binh và thêm 50 000 viên đạn cho lính đánh bộ.

Trên bộ các đội quân viễn chinh tiếp tục bố trí, trên sông Don-naĩ các hoạt động cầm chân địch cũng được phối hợp và phân bố. Vị phó thủy sư đề đốc chỉ huy trưởng vạch ra chương trình hành quân cho chuẩn đề đốc Page như sau:

‘’Tôi thật vinh dự cho ông biết các chiến hạm Avalanche, Sham-Rock và pháo hạm số 31 phối hợp với chiến hạm Renommée để lập ra một sư đoàn dành cho ông hành quân phía thượng lưu sông, chiến hạm Renommée sẽ mang cờ lệnh của ông.

‘’Khi tới ngang địa phận Go-viap, và sau khi đã vượt được hết các chướng ngại có thể cản trở hạm đội của ông xong, thì ông biệt phái pháo hạm số 31 ở lại kinh này. Pháo hạm phải hoạt động thật cẩn thận đừng để bị thiệt hại. Tại vị trí đó, pháo hạm tận dụng tất cả những phương tiện sẵn  có để canh chừng và chận đứng mọi di chuyển của địch quân, cấm bất cứ ai có vẻ nghi ngờ vượt từ bờ sông bên này sang bờ sông bên kia.

 ‘’Phần ông thì đem các chiến hạm Renommée, Avalanche và Sham-Rock tiếp tục tiến lên đến ngang địa phận Thu-yen-mot, cương quyết gây khó khăn cho địch trong việc di chuyển giữa hai bờ sông, nếu có thể thì cắt đưt hẳn sự di chuyển của họ.

‘’Ông có thể vượt xa hơn Thu-yen-mot trong nhất thời nếu ông thấy có lợi thế cho ông, cứ tùy cơ xử trí để đạt mục đích tôi vừa chỉ định.

‘’Tôi giao cho ông trọng trách đối xử với dân chúng khi họ không gây hấn gì. Tạo cho họ tin tưởng là điều quan trọng, đồng thời cũng nên phô trương cho họ thấy các phương tiện mạnh mẻ của ta.’’

‘’Nếu trong vòng ngày mai bố trí xong thì ông lên đường ngay khi thấy thủy triều lên.’’

Trong mục đích kềm giữ hoàn toàn quân địch trong vòng thành của họ (xem bảng hình 1 và 2), pháo hạm số 18, sau khi chuẩn đề đốc Page xuất quân, sẽ lên đường đến một vị trí trên kinh Avalanche, giữ cách xa tàu lorcha Espérance một quảng ngắn. Pháo hạm 18 giữ trọng trách cắt đứt liên lạc của địch qua lại giữa hai bờ sông và phá xập cây cầu thứ hai bắc qua kinh. Tàu được cấp thêm đạn đại pháo và súng trường._ Về phía mặt trận tuyến, pháo hạm số 31 vì nằm ở một vị trí lẽ loi tại Go-viap nên nhận được lịnh phải hành động thật thận trọng, luôn luôn giữ chổ nước sâu, sông rộng để xoay trở dễ dàng._Sau hết là pháo hạm số 16, tàu lorcha Jajaréo, pháo hạm số 27 và tàu lorcha Saint-Joseph giữ vị trí bên cánh trái của quân ta; hai chiếc trước tiến vào kinh Tàu, hai chiếc sau tiến vào kinh Rach-cat tại cửa sông Rach-baoum, tức chỉ cách thành phố Tàu khoảng năm dặm. Pháo hạm số 27 nhận quân biệt phái từ tiểu đoàn 2 bộ binh, nhóm quân này trước đây đã từng tăng cường cho thủy thủ đoàn Saint-Joseph. Ngày 17 tháng 2, pháo hạm số 27 kéo tàu lorcha về hướng ngã ba sông Don-naĩ và Soi-rap, đổ theo sông Soi-rap đến một phụ lưu là sông Rach-cat; pháo hạm tiếp tục kéo theo tàu Saint-Joseph ngược sông Rach-cat rồi dừng lại giữ vị trí ở cửa sông Rach-baoum. Tất cả bốn tàu hợp sức kềm giữ địch quân bên cánh trái của ta và tạo ra hai đường tuyến phòng thủ riêng biệt nằm phía sau giới tuyến các chùa, mục đích là vừa làm hậu thuẩn cho giới tuyến này vừa làm cho bọn An nam không còn trông cậy gì được vào các trục giao thông trên sông ngòi. Liên lạc giữa pháo hạm số 27 và tổng hành dinh sẽ do pháo hạm số 16 và đồn Caĩ-maĩ đảm trách.

Vị chỉ huy trưởng liền cho quân sĩ hay là thời cơ sắp đến. Ông nói với quân sĩ rằng người Pháp gây chiến với hoàng đế của dân An nam, chớ không phải với dân An nam; quân đội viễn chinh Nam kỳ phải bảo vệ người dân vô tội, của cải và việc buôn bán của họ.

Với các dân tộc An nam, ông thông báo sự hiện diện của ông tại đây và mục tiêu của cuộc chiến; ông vạch cho họ cách xử trí bằng những lời lẽ như sau:

‘’Charner, đề đốc thủy sư Pháp, chỉ huy trưởng toàn thể lực lượng viễn đông, đại diện toàn quyền trong việc bình định đế quốc An nam,

Nhắc cho dân chúng tỉnh Saĩgon và tất cả các quận lỵ tùy thuộc tỉnh này biết rằng đế quốc Pháp và vương quốc Tây ban nha đồng tình trong cùng một ý chí, kết hợp sức mạnh chung đến đây để hạch hỏi chính quyền An nam phải giải thích lý do về tất cả các hành động bội ước và vô ơn mà họ phải nhận tội. Vì lẽ đó, chúng tôi tuân lịnh tôn nghiêm của đại hoàng đế chúng tôi để đến đây cùng quân sĩ tra hỏi ngọn nguồn về tất cả những gì đã xảy ra từ trước.

‘’Chắc chắn không phải chúng tôi đến đây để gây khổ sở cho dân chúng. Trái lại, điều thiết tha lớn nhất của chúng tôi là che chở và mở đường thương mại cho họ để càng ngày càng làm cho họ giàu có thêm. Chúng tôi hứa sẽ đem tới hòa bình và bảo vệ hoàn toàn của cải của họ, tính mạng và nhà cửa của họ, không làm gì thiệt hại đến tất cả quan chức dân sự nào, quân sĩ nào, người dân nào chấp nhận mọi sự việc với một tấm lòng lượng thiện. Sự che chở này cũng sẽ mở rộng cho tất cả, không phân biệt những người đã quy phục chúng tôi cũng như những người chưa có cơ hội để làm._Nơi nào quân sĩ chúng tôi không đi ngang thì cứ thản nhiên buôn bán như thường lệ, không rối loạn và không lo sợ gì cả. Còn những ai, trước kia vì nhất thời khiếp sợ uy quyền của chúng tôi mà trốn chạy, và những ai, cho đến bây giờ vẫn chưa kết hợp với dân tộc chúng tôi, nếu có ý chí thật sự muốn quy phục thì chúng tôi vì lòng nhân từ sẽ đón rước và che chở không nệ gì về quá khứ.

‘’Những lời hứa hẹn hòa bình vừa ban ra, xuất phát từ lòng thực tâm của ngưòi tổng tư lịnh, không phải là những hứa hẹn chốc lát có hiệu quả ngắn hạn, mà là những lời hứa khẳng định và vĩnh viễn’’

Tất cả các cánh quân đã bố trí xong, quân sĩ sẵn sàng tiến lên và chiến đấu. Vị tổng tư lịnh chỉ thị các hàng tiền tuyến sẽ tấn công ngày 24 tháng hai.

------------------------------------------------

[1] Phúc trình do vị chỉ huy của một trong các lực lượng đặc biệt cho biết như sau:

‘’Ðể đánh bật địch quân ra khỏi trại của họ, thì phải đánh trước mặt hoặc bên cánh trái, hoặc bên cánh phải. Tấn công trước mặt thẳng về hướng Saĩgon, sẽ gay go và thương vong nhiều, địch dồn về mặt này đông nhất, phương tiện phòng thủ cũng tốt nhất. Vững tâm trong vòng đai cố thủ, địch sẽ chống cự đến cùng. Còn như tấn công bên trái của địch quả là khó khăn, vì lý do phải vượt qua đầm lầy để xáp đến gần địch. Vậy chỉ còn cách là tấn công bên cánh phải của địch mà thôi.’’

Vì những lý do vừa kể, ta chỉ cho lịnh tấn công bên trái khi nào tấn công trước mặt gây tổn thất thương vong quá nhiều và khi tấn công bên phải sẽ gần như không thực hiện nổi vì các chướng ngại thiên nhiên. Nhưng thật ra cũng không đúng như vậy vì ta chưa kể đến sức mạnh của cả hạm đội trên thượng lưu sông Don-naĩ, và địch thì không thể di động được ở bất cứ điểm nào dọc theo tuyến các chùa của ta. Nhưng nếu kể như quân viễn chinh tiến lên từ cánh trái của mình đánh bật được quân địch ở tiền tuyến của họ mà ta gọi là Redoute để gây thêm càng lúc càng khó khăn cho địch, thì chương trình hành quân sẽ không thiết lập dựa vào phương pháp loại dần các giải pháp; mà nó là hậu quả hợp lý và đúng theo sự bố trí của ta trên các mặt sông và dọc theo đường giới tuyến các chùa.Tấn công thẳng vào mặt trước của địch chẳng những tự gây tổn thương hết sức nặng, mà điều sai lầm là ta không chú ý tới hai tác dụng cực mạnh khác là hạm đội và vòng đai đại pháo kéo dài từ kinh Avalanche đến đồn Caĩ-maĩ mà ta sẵn có. Vả lại, chắc chắn quân địch, khi yên trí trong vòng thành phòng thủ, sẽ chống trả đến cùng; và còn có thể dựa vào cách tổ chức từng khu công sự riêng trong doanh trại của họ mà tăng sức kháng cự lên thành bốn. Còn tấn công phía bên phải thì điều này không thể đặt ra được.

Hậu tuyến của Kì hòa cũng mạnh như tiền tuyến vậy. Cũng phải nghỉ đến chuyện bố trí chiến thuật mà ta ta đặt ra không lọt qua khỏi sự tiên đoán của vị nguyên soái An nam.

[2] Nòng súng có khía bên trong gọi là đường khương tuyến giúp viên đạn khi bắn ra sẽ xoáy trong không khí, đi xa hơn và sức xuyên phá mạnh hơn, (ghi chú của người dịch).

[3] Mỗi chân dài khoảng hơn ba tấc (0,3248m) (ghi chú của người dịch).

[4] Trong nguyên bản là : comme une bête fauve : (ghi chú của người dịch).

[5] Tác giả vừa tả Saigon buồn thảm chẳng có gì xem ở chương II. Hóa ra :’’Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’ ( Kiều-Nguyễn Du), (ghi chú của người dịch).

[6] Trong khi đó các cỗ đại pháo An nam vẫn còn dùng đạn tròn đúc bằng sắt, (ghi chú của người dịch).

[7] Arroyo Commercial: tạm dịch là kinh Thương mại, người dịch không biết kinh này ngày nay gọi là gì, (ghi chú của người dịch).

[8] Sông Cữu long ngày nay, (ghi chú của người dịch).

[9] Rất có thể đây là các cây bình bát, cùng một giống với mảng cầu, mọc hoang ở mép kinh, (ghi chú của người dịch).

[10] Các kinh đều nối liền với hai con sông khác nhau, vì thế đổ ra biển cũng bằng hai cửa khác nhau, mặt và trái dùng ở đây luôn luôn chỉ bên mặt và bên trái thuận theo danh xưng dùng trong chiến lược và hành quân, (ghi chú của tác giả).

[11] Tác giả viết là miao trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[12] Chợ lớn là tiếng An nam, (ghi chú của người dịch).

[13] Lorcha là chiến thuyền gốc Bồ đào nha, nhưng vì nhu cầu phải kiểm soát một số quá lớn sông ngòi, nên được đem xáp nhập vào lực lượng hải quân của ta. Các tàu lorcha có trang bị một khẩu đại bác lớn trên mỗi tàu và phải mang cờ quốc gia của ta.

[14] Tôi trộm nghĩ xây cất chùa miếu có lẽ không phải là một cách khoe khoang của cải. Còn việc dững dưng với tôn giáo thì có lẽ chùa chiền khang trang rộng rãi đã bị chiếm để làm đồn cho quân viễn chinh hết rồi. Viễn chinh không phải chỉ có những viên đạn đồng phập vào thân xác họ mà còn có những viên đạn bọc nhung đâm vào tâm hồn họ nữa. Biết bao nhiêu người đã ngã xuống không phải chỉ để bảo vệ mảnh đất quê hương của mình mà còn để gìn giữ truyền thống, tín ngưỡng và văn hóa của họ nữa đấy, (ghi chú của người dịch).

[15] Có thể đây là hình tượng cá hóa long và các con lân, (ghi chú của người dịch).

[16] Trong nguyên bản, tác giả viết là dieux hoặc là dieux boudhiques, (ghi chú của người dịch).

[17] Hay lắm ! Nhận xét và mô tả rất khéo,( ghi chú của người dịch).

[18] Ðại úy hải quân d’Aries được chỉ định làm chỉ huy trưởng các lực lượng đóng tại Saĩgon.

CHƯƠNG IV

Ðề cương:


   Sáng ngày 24 tháng hai, quân viễn chinh đánh gẫy đường tuyến phòng thủ An nam tại địa điểm gọi là Redoute. Phó thủy sư đề đốc Charner trực tiếp nắm quyền điều khiển quân lính. Ðạo quân Pháp-Tây ban nha di chuyển vòng theo bên cánh rồi dàn ra ở hậu tuyến của địch quân, chiều 24 tháng 2 đóng quân ngay trên đường tháo lui của địch.


Vào bốn giờ sáng, kèn báo hiệu tập họp chào cờ. Trời còn tối; cũng như các nước nhiệt đới khác, trời chỉ bắt đầu sáng vào khoảng sáu giờ. Trong đêm tối các toán quân mò mẩm đứng vào vị trí của mình. Trước khi lên đường, quân sĩ được uống cà phê và nhận một khẩu phần rượu mạnh. Túi đeo lưng đã chuẩn bị xong từ chiều tối hôm qua. Trong túi có tám ngày lương khô và hai khẩu phần thịt nấu sẵn .

Năm giờ sáng, tất cả các toán quân đều đến vị trí dọc theo đường các chùa. Ðề đốc và đại tướng de Vassoigne dẫn đầu đứng gần cổng đồn Caĩ-maĩ, một nhóm nhỏ lính bộ người Phi châu được phái làm lính bảo vệ. Kế đó là lính bộ Tây ban nha, tiếp theo là hai đại đội lính bộ nữa. Pháo binh cắm trại tại Caĩ-maĩ tập họp thành hàng dọc theo thứ tự như sau: 6 ổ súng cối miền núi, hỏa tiển, 3 đại pháo 4 phân nòng có khía, 4 đại pháo 12 phân nòng có khía. Bộ binh bố trí trên đường cái theo thứ tự như sau: lính đánh bộ, công binh vác thang; thủy quân xung kích vác thang và chiến cụ linh tinh; thủy quân đổ bộ; thủy quân bộ chiến. Tiếp theo nữa là tùy tùng và ban cứu thương. Một đoàn gồm 600 cu li người Tàu khuân vác, 100 thú vật chuyên chở giữ vị trí dài dọc theo đường Jajareo, đường này nằm chắn ngang và thẳng góc với đường các chùa. Cách xắp xếp như thế tránh cho quân lính khỏi gặp trở ngại khi di chuyển.

Năm giờ rưỡi, đoàn quân bắt đầu chuyển động lên đường. Trời bắt đầu sáng, khí trời còn mát; bụi bặm, nhờ hơi ẩm ban đêm lắng xuống, lại dấy lên mù mịt. Các toán quân dẫn đầu đổ xuống ruộng và tiến về hướng đồn Redoute, đồn nằm ở cuối tuyến phòng thủ phía tây của quân địch. Phía trước đoàn pháo binh thì có một đại đội lính bộ phân tán mỏng làm quân biệt kích; pháo binh nhờ đường đã được phan bằng phẳng từ chiều hôm trước nên bố trí không gặp khó khăn gì. Các chùa Barbet, Clochetons, Caĩ-maĩ đã bắt đầu bắn suốt một giờ rồi. Tiếng gầm thét của các khẩu đại pháo át hết các tiếng động khác và bao trùm toàn vùng mặt trận Quân địch cũng kéo nhau giàn ra các đường phòng ngự, ồn ào chuẩn bị chiến đấu. Từ vị trí cao trên đồn, ta có thể quan sát địch quân bố trí. Tiếng chiêng và tiếng rít đặc biệt rất dễ nhận phát ra từ súng của họ chỉ nghe thấy ở khoảng trống giữa những tiếng nổ do các cổ đại pháo nòng 30 có khía của ta; súng của họ có nòng nhỏ và làm bằng sắt. Các sĩ quan từ Saĩgon lên, tập họp ở đồn Caĩ-maĩ, tiến nhanh trên đường cái, họ chỉ kịp chào và bắt tay vội vả những đồng đội đi ngang.

Ðoàn quân dàn trận đã gần xong: đại pháo do ngựa kéo trải rộng ra để bố trí trong ruộng và tiếp tục tiến lên, khi chỉ còn cách địch độ một ngàn thước liền tản ra thành từng đội, kéo chếch qua phía trái, bất thần ngừng lại và bắt đầu nhả đạn. Sức rung chuyển sắt thép, kéo dài, rít lên làm điếc tai và vang rền cả cánh đồng. Các cổ pháo nòng 12 chỉa thẳng vào đồn Redoute, các cổ pháo nòng 4 và súng cối vùng núi cũng như hỏa tiển hướng vào hai góc đồn hai bên. Ðường bắn được điều chỉnh nhanh chóng và trở nên thật chính xác. Mặc dù tuyến phòng thủ An nam yếu kém vì súng nhỏ và các điều kiện quân sự thua thiệt, họ vẫn đốt khói để che và gia tăng sức kháng cự. Súng bắn rát, nhưng nói đúng ra là phía địch đã tận lực chiến đấu, chớ không phải về phía ta.

Pháo binh lâm trận giúp cho bộ binh nghỉ tay lấy lại sức: quân tiến lên từng đại đội xếp theo hình dọc. Lịnh ra phải dàn quân khép lại khoảng cách còn một nữa. Các cổ đại pháo miền núi nhẩy chồm lên và tiến tới, bất chấp chướng ngại như gò và mồ mả, các cỗ đại pháo dàn ra chỉ cách địch quân có 500 thước. Các cỗ pháo nòng 4, hỏa tiển, đại pháo nòng 12, tiếp tục luân phiên điều động tiến lên từng chặn một. Bộ binh tiến lên thêm một chặn nữa. Dọ thám tối hôm trước cho biết có một vùng đầm lầy nằm phía bên trái gần đồn Redoute. Vì thế bộ binh tiến lệch về phía mặt để tránh, nhưng lại tránh quá xa. Lớp sau lại tiến theo nên gây ra chậm trể. Sau khi pháo binh bắt đầu khai pháo trở lại thì một lúc sau bộ binh mới giàn xong vị trí. Hai mũi tiến quân được thành lập, bên mặt là công binh, lính đánh bộ, lính đánh bộ người Tây ban nha, thủy quân đánh bộ; mũi tiến quân này do đại đội trưởng Allizé de Matignicourt chỉ huy. Mũi tiến quân bên trái gồm có thủy quân đổ bộ do đại úy hải quân Desvaux và đại úy công binh Gallimard chỉ huy.

Trong khoảng cách năm trăm thước, đạn của đối phương rơi tới tấp vào quân Pháp và Tây ban nha. Ðường bắn của quân An nam chính xác, đúng cả hướng và cả chiều cao. Trong đồn, các cổ pháo, súng nhỏ cầm tay, súng trường bắn ra xối xả. Mỗi khi phó đề đốc, bộ tham mưu và quân hộ vệ của ông dừng lại chỗ nào thì trong thành nhắm vào chỗ đó bắn ra rất rát và mảnh liệt. Pháo binh chịu trận trước tiên; chỉ trong vài phút, nhiều pháo thủ và ngựa bị trúng đạn. Khoảng cách quá ngắn trước mặt địch làm giảm ưu thế của khí giới có tầm bắn xa và chính xác của ta; mặc dù tầm đạn của ta chính xác, liên tục và ưu thế hơn, nhưng sức kháng cự của bọn An nam không bị đánh tan cũng không nao núng chút nào. Thương vong của ta tăng lên; đại tướng de Vassoigne, đại tá Tây ban nha Palanca Gutierrez, chuẩn úy Lesèble và thượng sĩ Joly bị thương nặng. Thủy sư đề đốc bèn trực tiếp cầm quân và ra hiệu lịnh. Các hàng quân chuyển động. Các cổ súng cối miền núi bắn yểm trợ hai bên cánh. Một đại đội lính đánh bộ xung kích tiến lên bắn loạn xạ để dẫn đầu cánh quân bên phải; một đại đội thủy quân đánh bộ dùng súng nhẹ dẫn đầu cánh quân bên trái. Lính công binh lên trước, tiếp theo sau là quân Tây ban nha, bộ binh, thủy quân đánh bộ. Vì phải để dành sức cho phút chót nên tất cả chỉ chẩm rải dấn lên, địch bắn xối xả, quân tấn công tiến xéo qua bên phải để khỏi rơi vào vùng đầm lầy. Còn khoảng chừng ba mươi thước, một tiếng thét vang ‘’Hoàng đế muôn năm!’’ vụt nổi lên át hết tiếng súng; quân lính ở hàng đầu nhào lên; tuy bị tầm đạn của súng hỏa mai ngay trước ngực nhưng họ vẫn cố vạch chà tre chằng chịt để bước từng bước trên miệng các hầm chông, nhảy qua bàn chông, nhào xuống hố, phá chà gai để tiến tới, tay và mặt đầy máu, quần áo rách tả tơi nhưng vẫn tiến đến bờ thành của địch một cách vinh quang.

Cánh quân bên trái cũng can trường phá gẩy tuyến phòng thủ phía ngoài của địch. Dẫn đầu là thủy binh đột kích. Họ tự mang lấy thang, câu liêm có cán, sào móc, lựu đạn: bọn cu li mang thang đều được thay ở trạm tiến quân thứ hai; việc mang thang kể như là một công tác danh dự. Không có chỗ nào phải chạm trán xáp lá cà, khi các quân lính Pháp đầu tiên nhẩy được vào bên trong, trên các các bệ bắn phía sau tường, thì họ thấy bọn An nam thối lui mang theo giáo mác, súng lớn và súng tay của họ. Quân An nam lùi lại một bước thế thôi, gần như thản nhiên, giống như những người thợ đang làm việc rồi ngưng tay; thật quả là lạ lùng, mặc dù tình thế cấp bách vì cả một đạo quân đang trèo lên tường để tràn vào; chỉ có một số thật ít bỏ chạy mà thôi. Trong mấy phút sau là họ rút về phía đại quân có cờ đuôi nheo phấp phới bên trong thành Kì hòa. Trong trận đánh ngày 24 tháng 2 này, quân An nam chấp nhận đối đầu bằng đại pháo với ta tuy họ yếu kém nhưng không thấy lòng can trường của họ bị sứt mẻ hay nao núng một chút nào cả: nhiều xác chết rải rác dọc theo tường phòng thủ cho thấy hiệu quả của súng nòng có khía của ta. Nhưng khi quân ta xung phong, tiến thẳng vào họ, thì họ thối lui nhưng không chạy, khoảng cách vẫn còn nhìn thấy nhau[1] Chuyện này cũng thấy ghi trong các phúc trinh về những trận đánh trước đây ở Saĩgon và Touranne.

Thiếu úy Thénard của công binh và trung úy hải quân Berger là hai người trèo lên tường thành trưóc nhất tại hai điểm phòng thủ bị đánh gẫy: một do đạo quân bên phải và một do đạo quân bên trái.

Trận này làm ta thiệt hại 6 người chết và 30 bị thương, trong số này có một đại tướng, một đại tá, một chuẩn úy và một thượng sĩ. Một người cu li công binh bị giết và một bị thương. Sau cùng cu li công binh cũng tiến tới chướng ngại chót, theo đúng với giao ước thường ký như vậy ở bên Tàu, mục đích là dành cho quân đánh thuê một chút danh dự. Pháo binh có nhiều ngựa và la chết hoặc bị thương. Pháo binh hành quân trên một địa thế rất khó khăn, lầy lội, giếng, hố, tường chắn rải rác, chướng ngại nhân tạo đủ loại; địa thế như vậy cực kỳ thuận lợi cho quân đánh bộ, nhưng lại bất tiện cho đại pháo dùng ngựa kéo, nhất là khi thụt lùi không phải dễ[2]

Trận chiến kéo dài hai giờ, nhưng pháo binh phải bắn rất nhiều; bắn đi tất cả 228 quả đại pháo miền núi, 146 quả đại pháo 4, 128 quả đại pháo 12, phóng 80 hỏa tiển. Tường phòng thủ của địch làm bằng tre đắp đất, không phá thủng được, không đốt cháy được mà cũng không phá xập được. Vì vậy trọng pháo phải bắn rát để giúp bộ binh tiến lên nắm vị trí của mình, bộ binh bị bóp nghẹt vì đường hẹp và lối thoát ra để giàn quân cũng hẹp.

Các binh sĩ bị thương trong lúc đang đánh nhau được chở về đồn Caĩ-maĩ, từ đây mới gởi đi bằng đường bộ hay đường sông đến nhà thương Cho-quan trên bờ kinh Tàu. Công binh bắt tay vào việc tức khắc, phá một mảng tường phòng thủ của địch để kéo trọng pháo. Chuyên chở đạn dược từ đồn Caĩ-maĩ thay vào số đã bắn. Công tác hoàn tất vào một giờ trưa. Suốt ngày và đêm 24, kho tồn trử tạm Caĩ-maĩ được bổ xung và sửa chửa. Ðạn dược thì lấy từ hai tàu Rhin và Loire đậu ở bến Saĩgon. Hai tàu dùng làm kho thuốc súng vì không tìm được nơi nào trên bờ khô ráo và đủ chắc chắn._Quân lính trở lại thu lượm các túi đeo lưng của mình vì trước đó họ phải bỏ xuống đất để tấn công. Vào khoảng chín giờ sáng, quân lính của ta chui vào tạm trú trong các căn nhà thấp lè tè mà vài giờ trước đây còn là nơi trú ngụ của quân An nam. Các túp lều này dơ bẩn, xông lên mùi hôi thối kỳ lạ giống như mùi mắm cá của người Nga. Quân lính nghỉ ngơi đến ba giờ chiều. Họ phải thức từ bốn giờ sáng, túi quân trang thì đeo trên lưng, hành quân trên đường đất bụi mù, tiếp theo là lầy lội, đánh nhau dưới sức nóng tuy là buổi sáng nhưng đã bắt đầu oi bức. Lịnh nghỉ ngơi ban ra là vì thận trọng chớ không vài vì lòng nhân từ. Ai cũng biết sức nóng của Saĩgon là sức mạnh phụ thêm cho quân An nam, sức nóng tại đây làm phát sinh vi trùng bệnh dịch hạch đầm lầy với một tốc độ khủng khiếp.

   Vào ba giờ chiều thì cho thổi kèn báo thức và thúc quân lên đường. Một đại đội thủy binh bộ chiến đặt ở lại với một ổ súng cối miền núi để giữ đồn Redoute ta vừa chiếm: làm hậu quân và giúp quân ta vẫn tiếp tục dựa vào chùa Caĩ-maĩ. Quân sĩ lên đường: pháo binh ở giữa xếp theo hàng dọc thứ tự từng giàn pháo một; bộ binh chia ra thành từng phân đội ngắn, xếp thành hai hàng dọc, bên phải một hàng, bên trái một hàng. Mặt đất dẽ cứng, phẳng, phủ một lớp rêu thật mỏng, xe chở đạn và xe quân nhu lăn bánh trên mặt rêu không gặp khó khăn gì cả, chân bước trên rêu cũng thấy thích thú [3] Quân ta tiến lên theo bên hông, bọc hậu phía sau quân địch, giữ cách xa, lọt ra ngoài tầm bắn của họ. Ðoàn quân đang đạt mục tiêu dự trù từ trước: tức tối nay phải cắm quân ở mặt tây thành An nam, chắn ngang đường rút lui của họ.

 Khoảng bốn giờ, một toán quân địch, tầm quan trọng thật khó đoán, bất thần xuất hiện từ khu rừng chồi phía bên phải của ta; quân địch có nhiều voi trận, trương cờ đuôi nheo rầm rộ. Quân An nam muốn thử chận đường tiến của ta hay chỉ muốn di tản đem dấu bớt voi trận, xe quân nhu và quân trang cồng kềnh? Trong suốt trận chiến, biến cố này vẫn còn là một bí ẩn hoàn toàn, không ai biết được chủ đích của quân An nam. Họ tiến đến gần, nổ súng với bộ binh ta. Chỉ huy trưởng liền cho 3 ổ súng cối miền núi, ba trọng pháo nòng 4 tiến lên: sức bắn trả có hiệu lực ngay. Ðịch quân dừng lại, một phần rút vào trong thành, một phần đóng quân bên ngoài dựa vào tường thành của họ.

Quân ta buộc phải tạm dừng quân vì trận đụng độ nhỏ này, nhưng lại tiếp tục tiến lên. Khoảng sáu giờ chiều thì đến địa điểm cắm quân, tức là ngay sau thành Kì hòa. Nơi đây đồng ruộng không còn hoàn toàn trống trải nữa: có vài chòm cây rải rác, rừng chồi cũng rải rác một vài nơi. Một ngôi làng gồm vài căn nhà đổ nát dựa vào một đám cây cách thành địch chừng hai cây số. Thủy sư đề đốc đặt đại bản doanh tại một trong những căn nhà bỏ hoang trong ngôi làng này. Ngay lúc đó thì đại pháo trong thành Kì hòa cũng bắn ra vài phát hướng về phía làng. Một viên đạn xuyên ngang mái nhà đại bản doanh, đồng thời súng nhỏ cũng bất thần bắn tới tấp từ khu rừng chồi vào các lều cắm quân của ta. Bộ binh hướng về phía bìa rừng để chống trả loạt tấn công bất ngờ này. Lính Tây ban nha, tiếp theo là đại đội thuộc tàu Renommée và hai đại đội khác nữa tiến lên đánh xung kích. Ngựa kéo đại pháo đã tháo cương, vì thế phải dùng tay kéo hai khẩu pháo nòng 4 đặt vào vị trí. Quân địch thì không thấy đâu hết mà súng cứ xối xả thật can trường, suốt nữa tiếng đồng hồ. Phải mất một lúc lâu mới di tản hết bộ binh đến một vị trí xa khu rừng để khỏi bị đánh bất ngờ. Pháo binh trở nên quá lộ liễu, liền đưa vài pháo thủ giữ vị trí xung kích: công binh cũng dàn ra. Trong khi đó ta cũng đã càn quyét xong khu rừng và cuộc nổ súng cũng im. Lính Tây ban nha, thủy quân, quân đánh bộ và các đạo công binh trở về đóng bên trong trại. Vài nhóm nhỏ lo nấu ăn. Phần còn lại thì quá mệt vì vừa phải chạy tới chạy lui đánh nhau, dọn trại, chẳng còn hơi sức đâu mà thổi lửa nấu ăn; họ đành ăn lương khô và uống nước lã, cũng may là cạnh trại có nhiều chỗ lấy nước. Thế cũng xong buổi ăn tối. Ăn xong mạnh người nào người nấy nằm dài ra đất._Rồi ngày mai đây, các khẩu thần công từ các hạm đội, các cỗ súng nòng có khía từ các chùa sẽ nhả đạn và ta sẽ nghe những tiếng nổ long trời. Phần chúng ta thì sẽ xông thẳng vào quân thù, hai đạo quân xáp trận, quân lính hai bên đánh xáp lá cà.
----------------
   [1] Tuy thua nhưng tức không chịu chạy, (ghi chú của người dịch).

[2] Một bàn nâng của cổ trọng pháo 12 bị gảy, hai đầu ốc bu-loong bị bung mất, vít điều chỉnh hướng bắn bị hư. Bàn nâng của cổ trọng pháo được thay ngay, bu-loong được xiết trở lại, nhưng vít điều chỉnh đường nhắm phải khó khăn lắm mới sửa được. Chỉ còn biết cầu khẩn cho cổ trọng pháo 12 này sẽ gặp địa thế khá hơn ,vì trận chiến ngày mai sẽ hứa hẹn thật nhiều gay go. (Trích phúc trình của trung tá pháo binh đánh bộ Cruzat).

[3] Ði đánh nhau nhưng vẫn thấy thích thú khi bước trên rêu, hoá ra con người cũng giống nhau và thường gặp nhau ở những chỗ nhỏ nhoi như vậy, (ghi chú của người dịch).

CHƯƠNG V

Ðề cương:


Quân Pháp-Tây ban nha tiến thẳng vào quân thù, chạm trán bên phải, ở giữa và bên trái hậu tuyến địch._Các tuyến phòng thủ An nam bị gãy sau một trận đánh sắt máu kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Suốt đêm thật yên lặng: kể cả hai bên không có một tiếng súng nào. Năm giờ sáng, pháo binh lên ngựa, mỗi người đều vào hàng ngũ của mình. Các toán quân di động chung quanh căn nhà dùng làm tổng hành dinh, một số quân đứng sẵn  gần ngay chỗ được xắp xếp, một số phải đi quanh để tìm đúng vào vị trí của mình. Mười giờ tất cả đạo quân đã vào vị trí, ngay hàng thẳng lối, cách xa mặt bắc của thành Kì hoà khoảng hai cây số. Hai cánh quân đánh bộ hai bên, giữa là pháo binh. Cánh quân bên trái gồm có công binh đi đầu mang thang, kế là thủy quân bộ chiến và bộ binh; 4 đại pháo nòng 12, 5 đại pháo nòng 4 có khía, 2 súng cối miền núi thuộc hải quân tất cả dàn theo hàng ngang chiến đấu, tiến lên phía địch để yểm trợ cánh quân bên trái; cánh quân này cũng dựa theo đoàn pháo binh tiến lên. Cánh quân bên phải gồm có lính đánh bộ Tây ban nha, thủy quân đổ bộ: thủy quân xung kích thì đi đầu và giữ trách vụ như hôm qua tức là mở đường. Ba ổ súng cối miền núi kéo theo cánh quân bên phải; ba ổ súng này, nếu có thể, sẽ tập trung bắn phá ngay giữa mặt thành, giúp quân xung phong dễ dàng hơn._Kể cả hai cánh quân bên mặt và bên trái, toán quân nào và đại đội nào hôm qua đi hàng đầu thì hôm nay làm quân trừ bị đi sau.

Mặt đất cỏ dầy chằng chịt, úa vàng vì sức nóng mặt trời, không gây ra tiếng động nào; lính thổi kèn đã ngưng, không phóng ra những âm thanh man rợ nữa. Ta ngưng đánh trống, về phía địch cũng thế, thôi đánh chiêng và cũng ngưng đánh trống. Các đại pháo trong thành Kì hoà bắn ra, vang rền, tiếng nổ của súng địch có cường độ giống nhau nên rất dễ nhận, tiếng các quả đạn xé gió rít lên rồi im bặt, không có một tiếng động nào khác. Lúc này, trong đầu quân lính, ý nghĩ cũng chỉ xoay quanh hai chữ xung phong, và cách tiến lên thế nào cho chắc chắn, họ đã từng để lại phía sau xác chết và những người bị thương, họ không bao giờ lo sợ hiểm nguy. Họ không mặc áo thêu, không màu mè loè loẹt: quần áo chỉ có màu trắng với màu đen, may bằng vải len hay vải thô[1] Nơi họ chẳng có gì chói lòa, ngoài cái lưỡi lê trên đầu súng. Lời nói của họ đầy nghị lực, lòng tin và sức mạnh. Mặc dù nơi đây thiếu hẳn cái hy vọng, mà người dân Pháp ai cũng ham muốn, hy vọng đó là được ngợi khen trước công chúng, cái ý nghĩ được sống mãi sau khi chết, tức được kẻ khác biết đến và nổi danh. Họ sẽ ngã xuống, định mệnh đã chỉ định những ai sẽ ngã xuống, ngã xuống trong bóng tối ở một nơi tận cùng của Á châu...

Tiếng súng của đối phương, lúc đầu thưa thớt, dần dần nhặt hơn. Súng bắn mạnh và chính xác, nhất là về hướng bắn thì rất đúng. Quân An nam có lợi thế hơn vì mặt trời chiếu thẳng vào mắt quân Pháp. Pháo binh vừa đạt vị trí 1 000 thước đã thấy có thiệt hại. Ðã có người và ngựa chết hoặc bị thương; một xe tải đạn có một bánh xe vỡ tan tành từng mảnh. Trung tá Crouzat thúc quân kéo súng rất nhanh đến vị trí 500 thước, rồi 200 thước; ở vị trí gần tránh bớt được nhiều bất lợi bị mặt trời chiếu vào mắt; tia nắng sớm gần như nằm ngang. Vị trí 200 thước là vị trí cuối cùng quân ta dừng lại trước khi xung kích; súng trường tại các ổ bắn trên đầu tường thành rót xuống xối xả.

Hai bên bắn nhau kịch liệt. Ở khoảng cách này, tự nhiên thấy tuờng thành làm bằng đất và tre cao hẳn lên và các lỗ châu mai thì phun khói trắng liên tục gần như mỗi giây một phát. Trên ruộng không có chỗ nào ẩn núp, chỉ biết đưa thân cho súng đạn. Thiệt hại đã khá rõ. Chỉ còn biết lợi dụng vào chiến thắng vừa đạt được hôm qua khích động quân sĩ để họ xông lên. Túi đeo lưng bỏ xuống đất; bọn cu li mang thang được thay thế: thủy sư đề đốc ra lịnh cho hai cánh quân tiến lên. Bây giờ ta sẽ đặc biệt nói về cánh quân bên phải[2] và các hiệp tấn công của cánh quân này. Ðại đội số hai [3] tiến lên xung kích; gồm tám mươi người tinh nhuệ xông lên mở đường. Có một mô đất duy nhất trong cáng đồng, cách tuyến địch độ một trăm năm mươi thước. Ðại úy hải quân de Lapelin hướng dẫn cánh quân bên phải tiến lên vị trí mô đất này một cách can trường. Tại vị trí mô đất quân lính bắt đầu nhận ra các hầm chông đầu tiên cách đó năm mươi thước, tức là cách bờ thành một trăm thước. Các chướng ngại phòng thủ thứ yếu như hầm chông được phân bố hết sức là tinh xảo. Sáu hàng hầm chông có các rào cản ngăn cách, tức là có bẩy hàng cọc nhọn tất cả; tiếp theo là hai hào sâu sát tường thành có đóng chông tre vạt nhọn, nước và bùn ngập khoảng ba chân[4], sau hai lớp hào là bờ đất nghiêng dựa vào tường thành cắm chông nhọn tua tủa, trên đầu tường thành lại xếp một hàng bàn chông rất chắc chắn; chà gai cắm trên đất phủ lên các bàn chông: tay chân mà đổ máu rồi thì hết leo qua tường. Bờ tường thành cũng cao đến mười lăm chân. Hầm chông sâu năm chân: nghi trang bằng phên đan mỏng có trồng cỏ bên trên. Ðáy hầm cắm giáo hoặc cọc vót thật nhọn. Các chướng ngại này dùng để chận thú dữ thì đúng hơn là chận người, nhưng quân sĩ ta phải vượt qua. Trong lúc quân tấn công mò mẩm, chậm chạp, cẩn thận lần theo các miệng hầm chông thì súng hỏa mai và pháo binh địch gia tăng bắn gắt thêm. Trên khoảng đất một trăm thước trước bờ thành, tiếng khô khan của các cành cây bị gẫy vang lên liên tục, đạn rơi rào rào như đang rung cành để nhặt quả hồ đào[5] Nếu ai tưởng tượng nổi, thì cứ tưởng tượng xem những người mang thang, câu liêm, sào móc phải cực khổ như thế nào, và lính cầm súng phải vướng víu như thế nào, giữa nơi đầy cạm bẩy chướng ngại như thế, để vuợt tới đích mà không chết, không thương tích. Phần lớn quân sĩ mang thang, vì chậm chạp hơn các người khác, nên hoặc lọt hầm chông hoặc bị thương. Thang dùng để bắc ngang miệng hào làm cầu. Thang nhẹ làm bằng tre, không nặng quá ba mươi cân[6] Hầu hết thang bị gãy khi quân lính bước lên. Tuy nhiên còn ba chiếc thang nguyên vẹn đem đến được vòng hào sau cùng. Nhưng khi đến được bờ đất dựa tường thành thì hai bên lại đánh nhau kịch liệt nhất, chưa từng thấy giữa người An nam và người Âu châu. Quân sĩ nào mà leo lên được tường thành, thì hoặc dùng thang, hoặc trèo lên vai các đồng đội, hoặc níu vào các cọc thấp của các bàn chông, họ bị bắn ngay trước mặt, hoặc bị nồi lửa của địch ném phỏng mặt mày, hoặc bị giáo đâm lọt ra ngoài. Những người trèo lên trước nhất trên tường thành, và trước khi bị đánh bật trở xuống, đều thấy một cảnh tượng khác hẳn khi trèo lên tường ngày hôm trước: bên trong trên bệ đứng bắn đầy lính phòng ngự, kẻ thì mang súng dài, kẻ thì mang giáo hay súng ngắn, rình quân ta bên ngoài trèo vào.

Ngay vào lúc ấy, tình thế trở nên nghiêm trọng, thì có lịnh ném lựu đạn. Hai mươi quả được ném ra, may mắn đều tới đích vì tầm ném gần như là thẳng đứng và thật nguy hiểm. Ba lính thủy ném được móc câu dính cứng phía bên trong của tường thành. Bọn quân An nam tháo gỡ không được vì vướng chà gai, bên ngoài ta thấy giáo mác của họ tua tủa nơi này thì biết; chà gai làm chướng ngại cho ta thì bây giờ lại gây trở ngại cho họ. Móc câu lại có tác dụng như cái bừa, phá ra được ba lỗ hổng. Nhưng các lỗ xa nhau quá, từ mười đến hai mươi chân, mỗi lỗ chỉ đủ cho một quân lính chui qua. Ba quân lính chui qua trước, một thuộc tàu Renommée, bị giết ngay; hai người kia thì bị thương. Cả ba bị xô ngược ra phía sau và rớt xuống hào. Quân lính khác theo sau, trèo lên tường rồi nhẩy xuống thềm đứng bắn bên trong, thềm thì trơn trợt vì máu me linh láng. Dọc chân tường la liệt xác quân An nam bị giết vì mảnh đạn bộc phá hay bị bắn.

Quân An nam ngưng đánh vì thấy rào gai bị phá thủng, rút xa vài phút trước khi quân Pháp ập vào, họ rút lui rất trật tự, thật chậm dọc theo bờ tường thành. Một nhóm quân lính của ta rượt theo, nhưng không ăn thua gì; vì địch quân rút hết vào một lớp thành khác trước khi quân Pháp đuổi tới. Quân chiến thắng liền vây quanh các vị chỉ huy của họ xem phải làm gì. Thật là đúng lúc; vì ta đang lọt vào một khu chung quanh đều có tường đất chắc chắn; trận chiến chưa ngã ngủ, còn phải tấn công một đợt nữa, mà ta thì không có chỗ nào để che núp trước một tuyến phòng thủ thật phi thường. Ðịch quân ngưng bắn một lúc, để quân lính của họ vào hết trong lớp thành mới, rồi lại tiếp tục bắn hết sức là mãnh liệt. Giống như ở Dettingue, ở Fontenoy[7], ta phải đánh nhau trên một mặt trận có tường kín mít chung quanh.

Ðể giúp theo dõi các giai đoạn của trận đánh ngày 25 tháng 2 năm 1861, ta cần hiểu sơ lược cách tổ chức phòng thủ trong thành Kì hòa. Cho đến giờ này, quân viễn chinh mới chạm trán với quân địch ở một giới tuyến nhỏ của thành Kì hòa chỉ dài một ngàn thước, tức là đồn Redoute. Thành Kì hòa thật rông lớn xây đắp theo hình vuông,(xem hình số 2). Mặt hậu tuyến

của thành Kì hòa có xây ụ phòng thủ nhô ra ở hai góc: mặt hậu tuyến là một thành hẳn hoi, xây kín, gọi là thành Giữa, dùng làm cổng sau cho cả doanh trại Kì hòa; thành Giữa nằm trên đường ranh hậu tuyến. Hai ụ phòng thủ hai bên và thành Giữa bảo vệ lẫn nhau. Tầm súng của địch trong thành có thể quét quân tấn công khi đến gần vùng ven biên, nơi mà quân ta phải xông vào. Hơn nữa, như ta thấy, vùng ven biên được bảo vệ bằng hầm chông, hào và bàn chông trong khoảng rộng một trăm thước kể từ chân tường thành. Nhìn từ xa, ta thấy các ụ phòng thủ và thành Giữa đều thẳng băng, không có góc nào nhô ra hay thụt vào. Nhưng bên trong lại có một lớp tường thẳng góc với lớp tường bên ngoài và ngăn thành Giữa ra làm hai khu; tường ngăn có bệ đứng và có lỗ châu mai để bắn; lại có hào và một khoảng đất cắm cọc nhọn chéo nhau để bảo vệ thêm. Tường thành bên trong có hai ụ bắn nhô ra để làm ổ phòng ngự: trong các phúc trình của ta, vòng thành này ta đặt tên là đường tuyến thứ hai để dễ gọi. Ngay ở góc nơi hai bờ tường nối với nhau, có một cửa lớn đầy cạm bẩy, cửa giúp hai khu thông thương với nhau khi bình thường. Khu bên trái gọi là thành Quan, danh xưng ta đặt ra vì tại đây có một đồn cố thủ với thật nhiều chiến cụ, đến mười lần nhiều hơn nơi khác. Khu bên phải bố trí để chống trả tấn công nếu có từ khu bên trái sang, tức là có tường chắn và ụ nhọn lồi ra để phòng thủ, ngoài ra còn có một đồn cố thủ nằm trong góc.

Quân viễn chinh đụng độ phía bên phải, ở giữa rồi kế tiếp là phía trái của mặt phòng tuyến địch,_một phần quân trừ bị ( thủy quân bộ chiến) giữ trọng trách tấn công vị trí ụ phòng thủ phía trái, như vậy là ta có tất cả ba mũi tấn công. Nếu cả ba mũi tấn công đều đạt kết quả, và quân thù cũng bị đánh gãy tại ba nơi cùng một lượt, và cũng kể như họ rải đều lực lượng, thì địch sẽ bị thua toàn bộ trong một lúc, thay vì tháo lui từng chặn một, bên phải rồi bên trái. Nhưng sức đụng độ của cánh quân bên phải quá mạnh làm cho tuyến địch bị thủng sau mười lăm phút. Hai mũi tấn công kia phải mất ba lần lâu hơn[8] Thủy quân đổ bộ và lính Tây ban nha, cùng đánh bên cạnh nhau ngày hôm đó, đánh song sớm hơn đươc nữa giờ, họ lọt vào một vòng đai kín như lọt vào trong một cái bẫy vậy. Thái độ vững vàng của họ thật anh hùng, đã làm chuyển hướng một phần đáng kể lực lượng địch và gián tiếp tăng cường đắc lực cho sức tấn công của hai cánh quân ở giữa và bên trái.

 Thủy sư đề đốc cởi ngựa, tư thế rất lộ liễu, ngay trước dãy hầm chông đầu tiên. Ðoàn lính bộ hộ tống gần như ai cũng bị thương. Cạnh bên ông là vị chỉ huy tổng hành dinh, đại úy hải quân Laffon de Ladébat, chỉ huy tư linh đại đội kỵ binh de Cools. Quân trừ bị vừa đến tăng cường cho cánh giữa, và nhất là cho cánh phải, vì địch gia tăng bắn riết tại đây[9] Chỉ còn một nữa đại đội ở lại coi chừng các túi quân trang; ba ổ súng cối miền núi đáng lý ra phải đâm thủng mặt trước của thành An nam, thì lại không có đủ người xử dụng. Lúc này trận chiến trở nên ác liệt vì cả hai bên đều cố gắng ra sức, một bên thì tấn công, một bên thì phòng thủ; tình thế thật nguy ngập. Cái vô tình và thản nhiên của tạo hóa chung quanh càng làm nổi bật sự hăng hái cực độ của con người, trận chiến cứ lộng hành như một trận cuồng phong dữ dội dưới thái độ bình thản của bầu trời trong xanh[10] Những tiếng thét ‘’Hoàng đế muôn năm!’’ [11] đã ngưng bặt từ lâu. Tiếng nổ lộp bộp của súng nhỏ bắn nhau, tiếng rít của đại pháo, thỉnh thoảng lại có tiếng rên siết của một người sắp chết tất cả là những nhân chứng duy nhất cho cái hăng hái cực độ của hai muơi lăm ngàn người mà một vách tường đất mỏng manh đã chia làm hai phe, cái vách tường với khoảng cách nhỏ nhoi mà ngưởi ta có thể đưa tay cho nhau, nhưng một bên thì muốn trèo qua, một bên thì cản lại. Biết bao nhiêu bảng tuyên ngôn, bao nhiêu sức huy động con người và tàu chiến, một khoảng đường cách xa sáu ngàn dậm, vàng bạc tiêu pha vô kể, để đi đến cái cảnh trước mắt này. Bốn mươi lăm phút tấn công không kết quả: sau những phút đầu hăng hái, phản ứng của quân lính trở nên yếu kém rõ rệt. Cường độ tấn công suy giảm mà cường độ phòng thủ thì tăng.

Trong khi ấy, khu bên trong thành nơi thủy quân và lính Tây ban nha lọt vào, tình trạng được quyết định như sau: tất cả nỗ lực của đám quân này dồn vào hai vị trí chính: vị trí thứ nhất là cổng thành Quan, nơi thông thương giữa hai khu, vị trí thứ hai là khu ở giữa của bức tường chắn ngang, đầu tường bên trong là ụ phòng thủ, đầu tường bên ngoài là cửa thành Quan. Nhưng hai chỗ dồn quân này hoàn toàn trống trải, không có chỗ núp; vị trí và tầm đạn của địch tại đây đã nghiên cứu trước, vì thế trong cái khoảng trống thảm thương này ngập tràn xác chết và bị thương. Một trong những cố đạo tuyên úy của quân đoàn chạy tới chạy lui, hết người hấp hối này đến người hấp hối khác, cuối xuống họ và cầu kinh lẹ lẹ bằng tiếng la tinh. Chỗ này có kẻ bị thương còn đứng vững, hoặc đã ngã xuống rồi nhưng cố đứng lên, như trung úy hải quân de Foucault, trung úy hải quân Berger, các chuẩn úy Noẽl và Frostin; hạ sỉ hải quân Rolland bị mắt cá chân bể nát tự băng bó lấy rồi vừa lết vừa chiến đấu; người lính thổi kèn Pazier, lúc mới khởi sự tấn công đã bị trúng thương ngay trán, vẫn đứng dậy và thúc kèn tấn công. Cạnh đó trung úy hải quân Jouhaneau-Laregnère té xuống, cả phần hông bên trái bị văng mất; những người chạy đến cứu đều bị ông xua đi đánh tiếp và bảo cứ để mặc ông. Trong cái khoảng kín của khu này những người Tây ban nha như Jean Laviseruz và Bernabe Fovella đã ngã xuống và sau này ai cũng biết đến, nhưng cũng có những người khác nữa mà hành động cao đẹp của họ chẳng ai biết đến, kể cả đồng đội lẫn người chỉ huy của họ!

Cái thảm kịch kể trên đến giờ phút này cũng chưa ngã ngủ, nhưng rồi cũng chấm dứt. Mỗi người chỉ huy dẫn theo vài người tiến thẳng về phía tường chắn, băng qua hào, đến tận chân tường; đồng thời tại vị trí thứ hai, tức cửa thành Quan, ta cũng khởi sự tấn công cùng một lúc với nhóm ở giữa bức tường. Trung úy hải quân Jaurès, đệ nhị sĩ quan tùy tùng của thủy sư đề đốc, tập hợp vài người gan dạ lấy búa phá cửa nơi góc tường chắn; đồng thời thành giữa cũng bị công binh chiếm; thủy quân đánh bộ, bộ binh, đại đội quân địa phương[12] do vị chỉ huy tiểu đoàn là Deleveau huấn luyện, hăng hái tràn vào phía bên trái. Tất cả quân An nam người nào chạy không kịp đều bị giết sạch; trận chiến chấm dứt bằng một cảnh tượng tàn sát cuối cùng.

Trong trận chiến này, ta có ba trăm người bị loại khỏi vòng chiến. Mười hai bị giết tại trận. Nhiều người bị thương không cứu được. Trung úy hải quân Jouhaneau-Laregnère thở hơi cuối cùng trong ngày hôm đó, sau năm tiếng đồng hồ quằn quại đau đớn vô cùng. Trung tá Testard thuộc thủy binh bộ chiến bị thương và ngày hôm sau mới chết. Những người bị thương không ai kêu la, hay thỉnh thoảng mới có vài người rên siết. Họ là những kẻ thật giản dị và đáng ngợi khen; vài người mà sự sống sắp từ giả họ mà họ không thốt ra một lời nào ta thán hay hối tiếc đã chết ở một nơi xa xôi, xa quê hương của họ là nước Pháp. Sự can trường tột bực đã cho thấy cái giá trị tinh thần của đạo quân viễn chinh Nam kỳ [13].

Một trăm năm mươi đại pháo, hai ngàn súng nhỏ Saint-Etienne [14] tình trạng bảo trì hoàn hảo; đầu đạn tròn,đầu đạn súng cối chưa cho thuốc súng, hai ngàn ký thuốc súng; giáo, chỉa, kích cùng một số lớn tiền đồng được tìm thấy trong thành. Súng tay thì bắn bằng đá lửa [15]; đó là súng từ thời đệ nhất đế chế. Các quả đạn thuộc loại láng, bằng gang, đúc cũng khá tròn; thuốc súng cũng mịn, cán khá đều hạt. Trong thành Kì hòa không thấy có súng bắn bằng bùi nhùi lửa, cũng không có cung, không có nỏ. Ta còn tìm thấy một số bản đồ An nam; các bản đồ khá đúng giúp ta làm bản đồ trinh sát.

Danh sách quân lính trong đồn được cha Croc dịch ra; cha Croc thuộc Giòng truyền giáo xứ nước ngoài, và là thông dịch viên của vị tổng tư lịnh; danh sách cho thấy có 21 000 quân sĩ chính quy. Ngoài ra ta còn biết có một ngàn tá điền của quân đội, gọi là Don-dien. Trong thành còn có thêm 10 000 nghĩa quân. Trong trận tấn công chính thì đám nghĩa quân này đóng giữ ở mặt giữa và hai cánh của thành Kì hòa. Nếu kể luôn quân số đóng giữ tại các đồn trên thượng lưu sông Don-naĩ khoảng mười lăm ngàn người, về phía quân Pháp và quân Tây ban nha hợp lại là tám ngàn quân lính, thì ta có thể nói rằng trong ngày 25 tháng hai, năm mươi ngàn người đã xáp chiến trong một khoảnh đất mà tiếng đại pháo có thể nghe thấy từ đầu này đến đầu kia. Quân thù để lại ba trăm xác chết trong khu phía mặt và khu phía trái. Xác chết phần lớn là người Bắc kỳ, khoẻ mạnh và to lớn hơn những người Nam kỳ miền dưới; ngay khi đã chết, nét mặt họ vẫn hết sức là rắn rỏi.

Trận đánh ngày 25 khác hẳn với trận đánh ngày 24, về mặt chiến thuật và sức kháng cự của quân địch. Pháo binh bắn 204 quả súng cối và 36 thùng đạn: ‘’Ðây chỉ là một nữa số đạn đã được dùng so với ngày hôm trước, nhưng trận đánh lại gay go hơn và hăng say hơn’’ [16].Vì tánh cách mãnh liệt và sáng chói của trận đánh này nên ta sẽ phân tích và nói đến nó nhiều hơn các trận đánh khác; ta nhận thấy trong trận này pháo binh can thiệp quá ít trong một thời gian cũng quá ngắn, phần tình báo cũng không đầy đủ. Bên địch có khả năng chận đứng các mưu toan tấn công của ta.

Trong trận ngày 25 pháo binh bị nắng rọi vào mắt vì thế phải xoay trở trong điều kiện bất lợi. Trận đánh ngày 24 cho thấy quân địch chịu đựng dễ dàng sức tấn công của ta ở khoảng cách xa nhờ vào công sự của họ làm bằng đất và cành cây, không cao lắm nên không bị xập, đạn đại pháo không gây hề hấn gì, đạn súng cối cũng chẳng công hiệu gì hơn. Vì vậy trong trận ngày 25 quân lính bắt buộc phải tiến gần để yểm trợ pháo binh và phải chịu thật nhiều gay go. Ðịa thế không có một chỗ nào để núp. Tình thế thật nguy hại: để tránh kéo dài tình trạng bất lợi vị tổng tư lịnh đã thu ngắn tác động pháo binh và xua quân tấn công, vì ông hoàn toàn tin tưởng ở quân sĩ. Nếu áp dụng cùng một chiến thuật như ngày 24 biết đâu thương vong còn cao hơn nữa, vì ta không phá được các lỗ hở để tấn công.

Nhiều sĩ quan đã thám sát địa thế từ chiều ngày 24 tháng hai đến sáng ngày 25. Tuy sự thám sát còn thiếu sót nhưng thật bổ ích. Thành An nam thấp và màu thì tiệp với màu đất, nên không thấy rõ các bố trí bên ngoài bờ thành của hậu tuyến địch. Ðể quan sát cách bố trí bên trong thành Kì hòa rộng lớn thì phải có chỗ cao để nhìn vào, ta chỉ có thể trông vào một bụi cây lớn duy nhất để trèo lên nhìn, bụi cây nằm lọt hẳn trong tầm bắn của địch vì gần ụ phòng thủ phía trái của thành. Xạ thủ địch đã núp trong đám rừng nhỏ này để phục kích ta chiều hôm trước, và ta đã phải khó nhọc lắm mới làm yên được tiếng súng của họ. Vì các lý do trinh sát không đầy đủ, không biết rõ cách phòng thủ bên trong thành địch, nên ngày hôm sau ta phải chậm tiến quân. Quyết định sau cùng là đưa quân đến thật gần bên phía trái vì ta biết rõ phía này hơn. Quân lính đều thấy tầm quan trọng đó khi có lịnh tạm thời đừng lại để dốc toàn lực vào phía này. Từ vị trí trinh sát trên cây ta thấy có một lớp tường phòng thủ bên trong thẳng góc với tường thành phòng thủ bên ngoài, tường chia bên trong làm hai khu khác nhau; nhưng còn một chuyện nữa không đoán được là bức tường dùng để phòng thủ chống lại sức tấn công từ khu bên trái sang khu bên phải hay từ khu bên phải sang khu bên trái? Dựa vào trại Quan ở khu bên trái để đoán là khu này quan trọng hơn thế thôi. Chắc chắn là nếu ta biết trước tầm quan trong của khu bên phải, thì bắt buộc phải tránh khu này mà chỉ đưa quân vào đánh ở giữa và ụ phòng thủ bên trái mà thôi,và trước đó thì phải chiếm đóng khu làng dựa vào khu rừng có cây cao trước đã. Nhưng chiến thuật này chỉ đưa ra sau khi trận chiến đã kết thúc, làm sao biết trước để thực hiện như vậy.

Chống lại ý kiến này, ta cũng có thể cho rằng, ngay như việc trinh sát được thực hiện đầy đủ và chiến thuật vừa kể đem ra áp dụng, quân địch không bị lừa và phân tâm do thủy quân đổ bộ của ta và lính Tây ban nha đánh lạc hướng trong suốt ba mươi phút, mà lại dồn hết sức kháng cự vào phía trái thì biết đâu sẽ đẩy lui được quân ta[17] _và cũng phải hiểu rằng ngay cả việc trinh sát được thực hiện đầy đủ và chính xác giúp quân lính hăng say vượt qua tường thành nhưng biết đâu họ không còn đủ sức và bình tỉnh để tiếp tục chiến đấu như họ đã làm? Ai mà chẳng thấy những người lính bộ hay lính thủy vừa vấp ngã vừa lần mò từng bước trên miệng hầm chông quanh co để tìm đường tiến lên dưới lằn đạn địch. Nếu trinh sát thực hiện được và biết hết con số hầm chông thì bất cứ ai cũng sẽ kết luận rằng cuộc tấn công không thể nào thực hiện nổi. Nhưng sau cùng, trận chiến ngày 25 đã đem đến kết quả; mặc dù ta đã phải trả một cái giá tương xứng cho sự thành công này, đó là cái giá của sự may mắn trong chiến tranh. Thật vậy may mắn hay rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ trận chiến nào, chỉ cần một chút xíu biến cố cũng có thể đem đến chiến thắng hay chuyển thành thất bại dễ dàng, chẳng hạn một cơn mưa rào bất thần, một bờ dốc bị máu hoặc nước mưa làm trơn trợt, một người lính nào đó nhào lên để hy sinh và bị giết.

Vị chuẩn đề đốc Page, theo kế hoạch dự trù từ trước, đã đánh chiếm nội trong ngày 25 tháng 2 tất cả các đồn trên thượng lưu sông Don-naĩ và nhất là trên sông Yen-lock. Sư đoàn đặt dưới quyền của ông gồm có các tàu Renommée, Forbin, Monge, Avalanche, pháo hạm số 31, tàu Sham-Rock, và tàu Lily. Tất cả các tàu này đều bị trúng đạn của địch, có nhiều người chết và bị thương.

Vị tổng tư lịnh đóng bản doanh trong khu trú ngụ của Quan trấn thành [18] Quân sĩ sau khi thu lượm các túi đeo lưng liền được đưa vào trú ngụ trong các nhà của quân An nam trước kia, dọc theo một con đường kéo dài cho đến phía bắc thành Kì hòa. Một nữa số bị thương được đồn Caĩ-maĩ chuyển về nhà thương Cho-quan. Số còn lại đưa vào một trạm cứu thương ngay trong thành Kì hòa. Chiều hôm ấy, các đoàn chuyên chở lấy đạn ở đồn Caĩ-maĩ thay vào số đã bắn khi đánh nhau buổi sáng và lấy thêm ba ngàn viên đạn nữa để thiết lập kho dự trữ trong thành Kì hòa. Trong vài ngày mà quân viễn chinh đã tiến sâu vào vùng đất địch, vì thế một kho đạn dược trung gian thật cần thiết.

Thái độ của người An nam trong ngày 25 thật là lạ, ta nhìn thấy được sự yếu kém về nghị lực của họ qua nét mặt không tỏ lộ của người Á châu. Cứ chỗ nào phải đánh nhau mặt giáp mặt thì họ sợ hãi cho đến nổi chỉ nghĩ đến chịu chết mà không chịu tiếp tục chống trả [19] Làm sao giải thích được việc này, nếu không công nhận đó là bản chất yếu kém về nghị lực của những giống dân phương Ðông. Chỉ có vài trăm người Âu châu mà cứ mỗi lần tiến đánh đều thắng hàng ngàn quân địch mặc dù rất dũng cảm, lần nào cũng vậy. Sự thua thiệt về khí giới không đủ để giải thích điều này: vì rõ ràng là họ đã chấp nhận đánh cận chiến, mà đánh cận chiến thì ưu thế của khí giới tối tân bị giảm đi; giết nhau sát ngay trước mặt thì một khẩu súng cổ xưa loại loe nòng hay một khẩu súng trường loại cac-bin cũng không khác xa bao nhiêu. Ngày 25 tháng 2, chuyện quân An nam không thối lui và hầu hết bị giết ngay trên thềm bắn là một chuyện gần như ngoại lệ. Chỉ vì họ nghĩ rằng, thứ nhất là quân Pháp và quân Tây ban nha không sao tràn qua được các hầm chông, kế tiếp là quân ta phải lui vì bị mâu và kích của họ đâm, hoặc bị bắn, hoặc bị pháo lửa và nồi lửa của họ ném ra.

 Các đội quân viễn chinh tỏ ra hăng hái và đoàn kết. Những ai đã dẫn họ tiến lên đều có thể tự nhủ như Montluc [20]:’’Tôi quay lại ba lần, đều thấy họ vẫn còn theo tôi’’. Lòng tin của họ lúc nào cũng nguyên vẹn, hiểm nguy làm cho kỷ luật thêm chặt chẻ. Tiếc thay, giữa vô số chướng ngại vật và khói mù mịt từ súng hỏa mai của địch, các vị chỉ huy chỉ thấy và công nhận thành tích của một số nhỏ những người chiến đấu bên cạnh mình mà thôi. Quần áo của họ đâu có chứng tỏ gì là những người lính thủy và lính bộ khác thường: cũng chỉ mặc áo len và đeo lon đã cũ nát [21] Người chỉ huy không thấy hết các thành tích của quân sĩ là một điều thật bi thảm mà tất cả mọi người đều phải gánh chịu, nhất là hàng binh sĩ cấp dưới. Nhưng rồi người ta cũng quên đi và không nghĩ tới nữa.

Thủy sư đề đốc cám ơn từ cấp bực cao nhất đến cấp bực khiêm nhường nhất trong quân đội về sự hào hùng và hy sinh của họ, cho đến cả tánh mạng của họ. Trong cùng một gian phòng, tất cả các cấp bậc đều họp chung với nhau, thủy sư đề đốc ngỏ lời công khai ngợi khen và tuyên dương công trạng một vài người. Tuyên dương công trạng là phần thưởng coi như cao quý nhất từ thời kỳ đệ nhất đế chế. Không có huân chương nào sánh bằng tuyên dương công trạng. Dù ta có ca ngợi quá lố đi nữa thì cũng không làm mất cái giá trị vĩnh viễn của sự tuyên dương, nó làm xúc động con tim mỗi người và làm sống dậy những kỷ niệm của một trận chiến máu lữa mà họ đã dấn thân. Trên cái mảnh đất xa xôi này, huân chương nào mà lại không xứng đáng để được thêm lời tuyên dương! Ai được tuyên dương đều nghĩ đến rồi đây cha mẹ mình và bạn bè mình sẽ biết đến công trạng của mình. Họ sẽ quên hết hiểm nguy và gian khổ đã trải qua; rồi bỗng nhiên cái khoảng không gian cách trở giữa người lính thủy, người lính bộ nơi cái xứ Nam kỳ xa xôi này và quê hương họ hình như đã vụt biến mất. Cái nhìn trìu mến của nước Pháp bên cạnh họ đã an ủi họ [22].
------------------------------

[1] Không thấy tác giả tả đồng phục của quân viễn chinh, áo len và áo vải thô ở đây có thể chỉ là cách nói tâng bốc, của tác giả, tuy có hơi rẽ tiền, (ghi chú của người dịch).

[2] Có lẽ tác giả thuộc cánh quân này ? (ghi chú của người dịch).

[3] Thủy quân đổ bộ, đại úy là Proubet.

[4] Mỗi chân bằng 0.3248 m (ghi chú của người dịch).

[5] Quả noix (tiếng pháp), quả walnut (tiếng anh), (ghi chú của người dịch).

[6] 1 cân Pháp = 0.5 Kg (ghi chú của người dịch)

[7] Các trận chiến trong lịch sử Pháp, trận Fontenoy xảy ra ngày 11 tháng 5 năm 1745, quân Pháp đánh thắng liên quân Anh - Hoà lan và mở đầu chiến dịch chiếm nước Bỉ, (ghi chú của người dịch).

[8] Khi tiến đến chân của bờ đất dựa vào chân tường, thì sự chống cự bên trong trở nên càng lúc càng mãnh liệt; thang của ta bắc lên liền bị quân lính bên trong dùng kích mà hất ra, sức bắn của địch tăng gấp đôi; ta bắt đầu thất vọng vì không dựng thang lên được, công binh thì mới bắt đầu đào lỗ ở tường thành, ngang với tầm bệ đứng bên trong; vị chỉ huy công binh vì thấy sức tấn công kéo dài suốt bốn mươi lăm phút đã bắt đầu suy yếu liền cho người đi xin thêm hai đại đội tăng viện (người này là trung úy hải quân Rouvier), vừa lúc đó thì vài người đã trèo qua được đầu tường. Khu có tường bao quanh này chính là hậu tuyến của cả hệ thống nội thành bên trong, và cũng là nơi trú ngụ của quan trấn thủ; ta đánh chiếm khu này. Nhưng trong khi đó ta lại mù tịt về số phận của cánh quân bên trái; cánh quân này sau khi phá được đường tuyến bên ngoài của địch, thì lọt vào vòng thành bên trong vừa ngay tầm bắn của quân An nam đứng trên bệ dọc theo vách thành Quan xây thẳng góc với tường thành bên ngoài, họ bị quân An nam bắn thẳng ngay mặt...

(Trích phúc trình của chỉ huy đại đội công binh Allizé de Matignicourt báo cáo liên hệ tới cánh quân đánh vào giữa trong ngày 25 tháng hai 1861).

[9] Ðại đội 6 và 7 quân đánh bộ tăng cường cho cánh quân bên trái; đại đội 8 phụ trách ba ổ súng miền núi bên cánh phải.

[10] Giữa cảnh hiểm nguy và sắt máu mà tác giả vẫn thấy được cái vô tình và thản nhiên của Tạo hóa và vẫn còn trầm tĩnh đẻ mượn cái tương phản đó để mô tả ý mình. Hay lắm, xin phép được ngợi khen tác giả, (ghi chú của người dịch).

[11] Ðây là tiếng thét của quân Pháp, Hoàng đế của họ là Nả phá luân đệ tam,(ghi chú của người dịch).

[12] Ðại đội quân địa phương gồm 80 người An nam, cho theo đánh chung với thủy quân bộ chiến, tỏ ra rât hữu hiệu.

[13] Trung úy hải quân Laregnère bị bắn văng mất hông bên trái. Khi đem đến ban cứu thương, người ta ném một tấm ra trải giường lên người ông để ruột gan khỏi lộ ra ngoài. Ông này đau đớn quá chừng, thật tội nghiệp! Ông há hốc miệng; không nói gì cả, nhưng mặt đầy nét lo âu, nhăn lại như cố kềm hãm những tiếng kêu thảm khốc chỉ chực vọt từ trong miệng ra.

Ðại tá Testard khi đem đến trạm cứu thương thì vùng dậy, đứng lên mà đi, trần truồng như nhộng, miệng thốt ra những lời bực bội’’ Coi nè! Cái gì thế này? Tao thấy cái đầu nặng chịch, có cái gì trong đầu tao vậy?’’Rồi ông ta lấy tay ôm đầu một cách tuyệt vọng. Một viên đạn chui vào thái dương bên trái của ông ta, sâu cở nữa ngón tay ( ngón = đơn vị đo chiều dài độ 27 mm, ghi chú thêm của người dịch). Người lính hầu của ông kéo ông ta về giường nằm; và cứ mỗi lần về giường, ông ta lại đứng lên. Một bác sĩ giải phẩu, đứng ở góc phòng,chỉ biết nhìn con người nữa sống nữa chết đó đang nói lảm nhảm, vài giờ nữa thì sẽ hết nói. Không làm thế nào mà băng bó cho ông ta được, dù có băng bó cũng chẳng ích lợi gì. Hôm sau thì ông ta chết, đúng ngày 26 tháng hai, khoảng ba giờ sáng ở nhà thương Cho-quan. Cho đến phút cuối cùng, ông ta vẫn khoẻ, mặc dù viên đạn trong đầu và thêm một vết thương ở vai.

Một thương binh khác, bị một viên đạn vào bụng, vẫn ngậm ống píp thản nhiên. Khi ông gặp ông cố đạo tuyên úy đi ngang, ông liền nói với ông này rằng:’’Ô! Tôi hả, này ông linh mục, tôi không còn lâu nữa đâu._Vậy thì anh bạn ơi, anh bạn có muốn chuẩn bị không?_Sẵn sàng.’’Ông này liền xưng tội và một giờ sau thì chết. Ðó là một người thuộc giới bình dân, ăn nói bộc trực và tự nhiên, một kẻ mà ta thường gặp nơi miền trung nước Pháp.

[14] Một tỉnh ở miền trung nước Pháp nổi tiếng về kỷ nghệ làm súng (ghi chú của người dịch).

[15] Súng hỏa mai (ghi chú của người dịch).

[16] Báo cáo của trung tá pháo binh đánh bộ Crouzat.

[17] Vị chỉ huy công binh, khi thấy sức tấn công kéo dài trong gần bốn mươi lăm phút đã giảm... (Xem báo cáo của pháo binh ngày 25 tháng hai 1861)

[18] Giữa khu này có một cái hồ, trong hồ có một con cá sấu khá lớn nuôi làm kiểng.

[19] Dù sao tất cả đã đi vào lịch sử, tôi cũng không muốn tranh luận với một người đã nằm xuống với lịch sử, chỉ tiếc rằng tác giả cho thấy quá nhiều mâu thuẩn trong sự xét đoán và quá vội vã trong những kết luận của mình ? Tác giả vừa cho biết xác quân lính trong thành Kì hòa nét mặt vẫn còn rắn rỏi, (ghi chú của người dịch).

[20] Montluc: là thống chế Pháp ở thế kỷ 16, trong quân ngũ của hai đời hoàng đế: François đệ nhất và sau đó hoàng đế Henri II, (ghi chú của người dịch).

[21] Tác giả ca ngợi hơi nhiều một chút,có thể hoá ra quá lố chăng: xứ Nam kỳ trời nóng lắm có lẽ quân Pháp không mặc áo len đâu, (ghi chú của người dịch).

 [22] Khi thấy tác giả dài dòng về vinh dự của người lính được tuyên dương, tôi cũng nghĩ tới công trạng của tác giả. Trong một phần ghi chú trước đây, tác giả tả những người bị thương ở Chợ Quán: trung úy Laregnère bị đổ ruột người ta dùng một tấm trải giường để che , đại tá Testard ôm đầu trần truồng như nhộng, một người lính bị một viên đạn trong bụng nhưng vẫn ngồi hút thuốc..., đọc đoạn ghi chú này tôi đã lo cho tác giả, có lẽ chính ông cũng bị thương? Khi tìm trong bảng tuyên dương công trạng, quả đúng tôi thấy có một người tên Pallu, bị thương. Có lẽ chính là tác giả quyển sách này.

Bảng tuyên dương công trạng xếp ông trong danh sách quân đoàn thủy binh đổ bộ. Như vậy ông có thể thuộc toán thủy quân đánh bộ được đưa lên Chiến hạm Impératrice-Eugénie của đề đốc Charner trước khi tàu rời Thượng hải đi Nam kỳ, nhưng tôi nghĩ ông cũng có thể thuộc thủy thủ đoàn thường trực của tàu Impératrice-Eugénie ? Ông là một sĩ quan còn trẻ lắm, tội nghiệp, nước Tàu rất buồn ‘’chẳng có gì làm rung động con tim của người trai trẻ mới hai mươi lăm tuổi đời’’ (xem chương I), (ghi chú của người dịch).

CHƯƠNG VI

Ðề cương:

Quân viễn chinh đánh chiếm các vị trí Tong kéou, Oc-moun, Rach-tra và tiến lên tận Tram-ban. Toàn vùng bị chiến hạm và các đạo quân lưu động của ta lục soát. Trinh sát sơ khởi về Bien-hoa và My-thô.

Tầm quan trọng của chiến thắng ngày 25 phải đến hôm sau mới biết hết. Ngày 26 khi vừa hừng đông, một đội pháo binh trang bị đại pháo nòng 4 yểm trợ một đoàn thám sát đi sâu vào thành Kì-hòa, suốt chiều dài của thành đến tận kinh Avalanche. Bốn khu công sự của Kì hòa vừa mới vừa cũ đều lọt vào tay ta cùng một lúc. Quân An nam bị đánh bật khỏi khu thành Quan liền theo các ngõ tắt chạy về đồn Avalanche của họ dưới hỏa lực đại pháo ta bắn ra từ các chùa. Vị trí của đồn Avalanche nằm sát Saĩgon, phía tây-bắc của thành phố; chung quanh là nước và sình lầy, có cắm chông bạo bọc; cách phòng thủ khá rắc rối. Nhưng từ đồn Avalanche quân An nam lại hối hả bỏ chạy, băng ngang vùng đầm lầy bằng hai lỗ trống trong bụi rậm giống như đường đi của thú dữ, quân Âu châu đưổi theo trong đầm lầy thật khó nhọc, vừa thương tích vừa lạc đường. Sau cùng quân An nam đến được con đường giám mục Adran, tại đây họ tổ chức lại, chuyển việc tháo chạy thành rút quân trong trật tự, tiến sâu vào vùng lãnh thổ của họ, qua các ngõ Tong-kéou, Oc-moun, Tay-theuye. Họ đem chôn hầu hết các cỗ súng chiến thuật trong các cánh rừng thưa, có ghi dấu hẳn hoi để sau này sẽ đào lên [1] Con đường Saĩgon được tự do lưu thông trở lại, ta cũng dẹp bỏ kho súng Caĩ-maĩ.

Trong những ngày 25, 26, và 27 tháng 2, quân ta dồn sức đắp một con đường di chuyển cho pháo binh trên vùng đất khô phía tây thành Kì hoà. Hầm chông tại đây dều được lấp đi; bàn chông, cọc nhọn, chà gai đều được tháo bỏ. Công việc không phải dễ; người An nam đào xới trong mùa mưa thì đất mềm, nay đất khô cứng dưới ánh nắng mặt trời, ta cuốc không nổi. Quân lính vừa làm vừa cố tìm cách nghỉ ngơi, họ vừa phải làm đường, làm trại, lại phải trinh sát Saĩgon và Tong-kéou (thành phố thuộc xứ triều cống cho An nam). Tong-kéou là thành phố đầu tiên trên đường đi sâu về vùng phía bắc (hướng bắc-tây-bắc). Theo lời khai của tù binh thì vùng này rất nhiều gạo và tiền đồng, có ba khu thành phòng ngự, rào tre thưa hơn so với thành Kì hòa, nhưng bảo trì tốt đủ sức kháng cự. Các thành này cũng là kho của quân An nam.

Giữa Tong-kéou và thành Kì hòa là một vùng đồng ruộng mênh mông, thỉnh thoảng mới thấy vài khu vườn trồng thuốc lá; cây thuốc lá nhỏ chỉ cao độ hai chân, khi ta lấy tay vò nát lá thì ngửi thấy một mùi thơm rất mạnh; lá khô rơi xuống thành những vệt nâu trên mặt đất. Vùng này có sông Tam léon chắn ngang đường đi: cây cầu bắc ngang sông đã bị phá xập; nhưng chếch về phía trái thì mặt đất lại cao lên, do đó chỉ cần đi xéo qua trái một chút là có thể vượt qua sông. Cánh đồng khô ráo, di chuyển dễ dàng trong mùa khô, nhưng qua mùa mưa thì ngập lụt, chỉ cần nhìn những hố do nước đào xới cũng biết; hố không sâu cũng không rộng lắm không làm cản trở cho người và ngựa. Ðịa thế đất đai được thám sát ngày 27 tháng hai cho thấy pháo binh có thể di chuyển dễ dàng; vì thế mà vị tổng tư lịnh đã phát lịnh trực chỉ Tong-kéou ngay ngày hôm sau, tức 28 tháng 2, trước khi trời sáng hẳn. Ðoàn quân viễn chinh tiếp tục chinh phạt xa hơn để giúp thủy sư đề đốc Page dễ dàng khống chế toàn vùng thượng lưu sông Don-naĩ. Ta có thể nghĩ rằng quân An nam rút về Tong-kéou, dựa vào sông Don-naĩ để tạm làm đường rút lui về mặt bắc đồng thời dựa vào các tỉnh miền nam để lập lại thế kháng cự giống như thành Kì hòa. Nhưng nhìn kỷ ai cũng thấy là họ vừa thua trận một cách nặng nề thảm thương và không còn tinh thần nữa.

Pháo binh xuất trại trước, vào lúc sáu giờ sáng, đã gặp ngay vài rủi ro ( một xe đạn lọt xuống hầm chông); pháo binh mang theo 4 đại pháo 12, 3 đại pháo nòng 4 có khía, 5 ổ súng cối miền núi và hỏa tiển, tất cả xếp thành đội ngũ ngay bên ngoài thành. Kế tiếp là bộ binh ra theo bằng một cửa nhỏ đục ở bờ tường thành. Xong xuôi tất cả đạo quân lên đường đúng sáu giờ ba mươi sáng. Pháo binh ở giữa; bên phải pháo binh là lính đánh bộ Pháp và lính đánh bộ người Tây ban nha; bên trái là lính thủy đánh bộ. Thủy quân làm trừ bị.

Toán xung kích An nam và lính đánh bộ Phi châu đi trước làm quân mở đường. Khi còn cách đồn quân An nam một ngàn năm trăm thước, thì ta thấy rõ ràng tường thành. Thành xây cất ở một nơi cao ráo nhìn xuống cánh đồng. Bên trong thành thấy có nhiều công sự lớn và một pháo đài trang bị đại pháo; tất cả tạo ra một vẻ đáng ngại. Quân ta dừng lại, pháo binh dàn trận và phân chia vị trí như sau: 3 súng cối di chuyển về phía bên phải, gần một đám cây có thể nhìn vào thành. Lính phóng hỏa tiển thì nhắm vào các công sự lớn trong thành; đại pháo 12 hướng vào khu pháo đài; đại pháo nòng 4 và hai súng cối thì bắn vào bất cứ lỗ châu mai nào có đạn đại pháo của địch bắn ra. Thủy sư đề đốc, vì muốn tránh bớt cho quân sĩ vai trò tiến công khó nhọc mà họ đã chịu đựng trong ngày 25, nên đã thay đổi chiến thuật dựa theo địa thế và kiến trúc của công sự mới này. Công sự ở vị trí cao lại có kho và pháo đài rất lớn, vì thế thủy sư đề đốc ra lịnh cho pháo binh giữ vai trò chính. Pháo binh tiến lên trước, từng khẩu một, ngựa kéo súng phóng nhanh theo nước kiệu: dừng lại từng trạm 800, 600 rồi 200 thước. Súng của pháo binh ta bắn ra rất chính xác và mãnh liệt, thế mạnh hơn quân địch thấy rõ, mỗi súng bắn đúng năm mươi quả rồi ngưng. Pháo binh địch bắn lấy lệ để che cho việc rút quân, họ có khoảng tám ngàn quân lính. Quân sĩ của họ tiến theo pháo binh từng đợt một và dừng lại tại một đồn khác, cạnh bên có một ngôi làng.

Tong-kéou bị ta lấy mà không có thiệt hại gì nhiều. Tuy vậy cũng có một số khá lớn quân sĩ bộ binh bị trúng đạn địch, bị thương hoặc bị trầy xứt. Ngay khi khởi đánh, trung tá Crouzat bị thương nặng ở đùi vì không may do tai nạn gây ra: ngựa ông đang cởi nghe tiếng rít của hỏa tiển hoảng sợ mà nhẩy dựng lên, hất ông ta ngã xuống đất.

Thành phố của xứ Triều cống là kho quan trọng của quân An nam. Ta chiếm được ba thành, thu được 1 400 tấn gạo, vô số thuốc súng, đạn pháo, lao, giáo, súng cở nhỏ, 20 đại pháo đúc bằng gang nòng 16, quân trang và tiền kẽm mà địch chưa kịp đốt giây buộc, tiền kẽm mất giây xỏ xâu thì cũng mất giá trị đi nhiều.

Quân An nam vẫn theo thói thường mang theo hết những người bị thương, phần lớn các thương binh là từ thành Kì hòa đưa về. Những căn nhà ta chiếm tường còn bê bết máu.

Xa hơn Tong-kéou là Oc-moun, một vùng trồng trầu và buôn bán trầu khá quan trọng, trầu là một loại dây leo lớn cho lá gọi là trầu. Kế tiếp Oc-moun là Rach-tra và Tay-theuye. Vào ba giờ chiều, quân vẫn tiếp tục đi. Ðường đi dẫn thẳng tới Tay-theuye; Tay-theye nằm lọt vào một vùng cây có tầm cao trung bình, lá cây không bóng lại úa, màu hung đỏ giống như tôn bị sét rĩ, chẳng thấy gì là vẻ xum xuê của cây cối miền nhiệt đới. Chỉ có sức nóng của mặt trời thì giống như ở Ấn độ; nóng như thiêu đốt. Con đường mòn, chỗ rộng chỗ hẹp, đầy cát thật mịn, thật nhiều và nóng bỏng. Quân lính mệt lã cứ đi bừa không thẳng hàng thẳng lối gì hết. Vào giờ này, mọi người đã kiệt lực, thân xác nặng như chì; ai cũng muốn dừng lại mà ngồi xuống nghỉ. Trong ngày hôm đó, một số quân sĩ của ta đờ đẩn, ngất ngư vì nóng bức, một số phát điên.

Hai bên vệ đường có vài căn nhà mà quân An nam đã phá xạch trên đường rút lui. Dân chúng ẩn nấp trong những cánh rừng thưa cách đó vài trăm thước. Thỉnh thoảng từ trong bụi rậm họ ló đầu ra nhìn rồi kinh sợ mà ù té chạy. Ở ngưỡng cửa mỗi nhà đều có một lu bằng đất nung màu đen đựng đầy nước. Vì khát chẳng ai nghỉ tới thuốc độc, đều tranh nhau mà uống. Ðến tối, có vài người nông dân bớt sợ đến gần và làm quen với ta, họ đề nghị giúp quân ta khiêng những người lính vì nóng ngã lăn ra bất tỉnh ở hai bên đường.

Vào khoảng năm giờ chiều, các toán quân dẫn đầu tràn vào thành Tay-theye đã bỏ trống. Trong thành có tiền bằng bạc, một số thật lớn tiền đồng và ba khẩu đại pháo. Thành này canh giữ con đường mà quân lính vừa đi qua, tiếp nối với con đường này là một đường đê dẫn tới ranh giới Cao miên. Một khẩu đại pháo đặt thẳng trước mặt biểu dương tầm quan trong của vị trí mà ta vừa chiếm. Nơi này cũng là ranh giới của khu rừng Oc-moun. Ở bìa rừng có một vùng đất cao và phẳng, có vài cây lớn. Quân ta quyết định đến cắm trại tại chỗ này. Xa xa là một vùng đầm lầy xa tít tới chân trời, những cánh đồng hoang vu của vùng Sologne[2] cũng không đến nỗi buồn và hiêu quạnh như nơi đây. Mười bốn thuyền chiến của địch nằm phơi khô trên mặt đất cạnh một bờ đê từ ngày ta đánh chiếm Saigon năm 1859 vẫn còn đó._ Ðịch quân rút đi không để lại một dấu vết nào khác ngoài thi hài của sáu nông dân An nam bị chặt đầu vài giờ trước đó, xác vẫn còn mang gông. Sau này người ta mới biết rằng những kẻ bị khổ hình đó là những người theo thiên chúa giáo[3]. Ngày hôm sau người đầu thú kéo đến rất đông; các làng dọc theo hữu ngạn sông Don-naĩ và hai bờ sông Vaĩ-co xin ta bảo trợ. Tàu Dragonne, ngược sông Vaĩ-co đông đến thẳng Tay-ninh, sát với biên giới Cao miên. Tàu Dragonne kiểm soát vùng lãnh thổ An nam nằm giữa hai sông Don-naĩ và Vaĩ-co. Như thế là toàn tỉnh Gia-dinh đã thuộc vào tay ta rồi, ta chiếm hết thành quách, thu hết súng ống và lương nhu.

Quân đội An nam tan rã. Trong số bốn mươi ngàn người đã chống trả cam go để chận đường tiến quân của ta thì nghĩa quân đã bỏ áo lính và phù hiệu để trở về đời sống nông dân. Các tá điền gọi là Don-dien thì quay về các nông trại quân đội của họ ở Go-cung, My-thô và Saĩgon để ghi danh trở lại. Quân chính quy tản mát thành từng nhóm nhỏ, lội hoặc dùng thuyền vượt qua sông Don-naĩ hoặc cả hai sông Don-naĩ và sông Vaĩ-co; một số về Bien-hoa, một số đổ xuống các tỉnh miền nam là My-thô và Vinh-long. Vị tổng chỉ huy An nam [4] bị thương nặng ở tay trốn về Bien-hoa.

Có thể nói rằng quân An nam đã bỏ lọt vào tay ta tỉnh trù phú nhất của Nam kỳ miền dưới Ta lợi dụng tình thế này ngay tức khắc. Các cánh quân lưu động và tàu chiến đổ đi lục xét khắp nơi trong xứ, từ phía đông, phía tây đến phía bắc. Chỗ nào cũng thấy người Pháp tra xét. Nhờ thế mà ta biết thành Tay-theuye có hình tam giác, góc nhọn lớn nhất là ụ phong thủ hướng về phía bắc, góc tây nam có đầm lầy bao bọc kéo dài cho tới sông Vaĩ-co đông.

Ngày 3 tháng 3, có một bức thư đến tay vị chỉ huy trưởng cho biết người An nam tìm cách tập trung trở lại và dùng Tram-ban làm điểm kết hợp; năm 1859 họ đã từng dùng Tram-ban làm trung khu của họ khi đánh với ta. Tức thời tiểu đoàn trưởng Comte và một đội biệt phái rất hùng hậu được gởi đi ngay chiều hôm đó. Ông ngủ lại Rạch-tra (Tay-theuye) và sáng hôm sau thì đến Tram-ban, nơi này chỉ cách Cao miên có ba mươi dặm. Ông dẫn theo bộ binh, quân đánh bộ Tây ban nha, một nữa giàn pháo nòng 4, lính phóng hỏa tiển, và một đội công binh. Nhưng thật ra quân An nam đã hoàn toàn bại trận; ở Tram-ban không thấy voi trận, không thấy xe vận chuyển,chẳng có kho hàng và quân lính gì cả. Trước khi rời nơi này, vị chỉ huy Comte đã liên lạc với đại úy tàu Dragonne đang hoạt động trên sôngVaĩ-co đông.

Tàu bè lớn và chiến hạm của ta tấp nập trên ba con sông, rộng, chắc chắn và sâu, đổ từ phía bắc xuống; vùng lãnh thổ nằm giữa ba con sông này có nhiều rừng và ruộng là tỉnh Gia-dinh còn gọi là tỉnh Saĩgon. Chuẩn đề đốc Page giữ trọng trách kiểm soát sông Don-naĩ và phong tỏa Bien-hoa. Ðại úy hải quân Bourdais kiểm soát hai nhánh sông Vaĩ-co và canh chừng kinh

Bưu điện. Ðích thân ông thì hiện diện trên sông Vaĩ-co tây với các tàu Monge và Lily đặt dưới quyền xử dụng của ông. Trên sông Vaĩ-co đông đổ lên tới Cao-miên thì có pháo hạm Alarme, pháo hạm này và các tàu của đại úy Bourdais hai bên chỉ cách nhau bằng một dãi đất khá hẹp.

Phó đề đốc thủy sư Charner ra lịnh cho các vị chỉ huy thám sát trên bờ cũng như dưới nước phải tiếp xúc với các trưởng làng và chánh tổng để chính thức đưa cho họ bảng tuyên cáo mang theo, ông tiếp lời và huấn dụ như sau:

‘’Các ông nói với họ rằng: luật pháp và thông lệ của họ sẽ được tôn trọng; họ có thể canh tác và buôn bán tự do, mang sản phẩm về Saĩgon. Họ nên tin chắc rằng thời kỳ các quan chức trước kia đã chấm dứt và thay vào đó là quan chức người Pháp, chúng ta sẽ hoàn toàn che chở cho những ai công nhận uy quyền của chúng ta và phục vụ trung thành chúng ta.

‘’Ðể xóa bỏ hết tàng tích cũ, đi tới đâu nếu các ông thấy đồn lũy thì san bằng hềt, các ông phải huy động dân chúng sống trong vùng, đông chừng nào hay chừng đó, và bắt tự tay họ phải phá hủy các thành đồn. Các ông phải chống thẳng tay không thương tiếc bọn thổ phỉ trên bộ và quân cướp hăm dọa thuyền bè trên sông. Nhưng các ông để yên các thuyền bè đánh cá và buôn bán. Sau hết là các ông thu góp hết trên toàn xứ các tài liệu liên hệ đến thể chế, luật lệ, tình trạng phòng thủ, sức sản xuất và phương tiện thương mại của họ.’’

 Thành Tay-ninh gần biên giới Cao-miên được sửa chửa lại, mở rộng thêm và trang bị thật mạnh súng ống và chiến cụ. Mối liên hệ giữa ta và Cao-miên được vạch ra. Nước Cao-miên giáp với Nam kỳ miền dưới về phía bắc và phía tây. Nước Cao miên liên lạc thường xuyên với ba tỉnh An nam là My-thô, Vinh-long, An-gian nhờ vào con sông lớn mang tên là sông Cambodge. Người Cao miên vẫn còn cải vả, tranh chấp, và luyến tiếc xứ Nam kỳ miền duới. Vì lẽ đó mà vị chỉ huy trưởng không từ nan điều gì để biến xứ Cao miên thành một đồng minh. Ông nói với vị sĩ quan đầu nảo cầm quyền chính trị ở Tay-ninh do chính ông bổ nhiệm rằng:

‘’Ông giữ trọng trách về chỉ đạo chính trị trong mọi việc, nhất là những gì liên hệ với người Cao miên. Ông nên dùng lời hứa hẹn, giúp đỡ và bảo vệ tất cả những người dân Miên nào hiền hậu sống trên lãnh thổ của ta, ông nên hội ý với vị chỉ huy quân sự của ta ở Tây-ninh để thực thi các việc này. Ông nên tìm cách tái lập ban giao tốt với các quan chức Cao miên. Ông nói với họ rằng chúng ta đã giữ thế không gây chiến với họ và chúng ta vẫn muốn duy trì tình thế này. Tóm tắt là ông phải hết sức nỗ lực để tạo lập yên ổn và an ninh chung quanh ông, ông phải nhớ báo cáo thường xuyên với tôi về tình hình liên quan đến vùng thuộc địa mới thành hình của ta.’’

Vị chỉ huy trưởng đồng thời cũng sai một sĩ quan đem dâng quà biếu và chuyển những lời giao hảo của nước Pháp lên vua Cao miên (ngày 24 tháng 3 năm 1961) như sau:

‘’Các biến cố tại Nam kỳ mới đây có lẽ Hoàng thượng đã được thông báo. Hoàng thượng biết rằng các đạo quân Pháp-Tây ban nha đánh đuổi người An nam ra khỏi chiến lũy Kì hòa; Saĩgon đã được giải tỏa, quân thù An nam tan rã bỏ chạy kắp nơi. Dân chúng trong vùng cũng như những nơi xa đều kéo đến xin quy phục và chấp nhận sự bảo hộ mà chúng tôi ban ra cho họ.

‘’Ý đồ của nước Pháp là bảo toàn lâu dài đất đai đã xâm lược, tạo dựng ở Nam kỳ miền dưới một thuộc địa và mang tới đó những lợi ích của văn minh Âu-châu.

‘’Nước Cao miên vẫn giữ những mối liên lạc thân hữu với nước Pháp. Tôi hy vọng rằng những liên hệ giữa chúng ta càng ngày càng nhiều và càng trở nên thắm thiết hơn.

‘’Với danh nghĩa là chỉ huy trưởng của các lực lượng quân đội trên đất và trên mặt biển tại xứ Nam kỳ, và là đại diện của nước Pháp, tôi xin cam kết với Hoàng thượng hảo ý của chúng tôi về vương quốc Cao miên và tôi xin đáp lại những đề nghị hoà bình và hữu nghị mà Hoàng đế vua cha của Ngài từng đưa ra trước đây, thưa Ngài, cho vị đại diện của Hoàng đế cao cả của công dân Pháp tại Saĩgon.

‘’Tôi cũng hết sức vinh dự báo cho Hoàng thượng rõ tôi có ý định, trong một ngày gần đây, sẽ đem quân đánh My-thô và chiếm cứ vùng này, điểm phòng thủ cuối cùng của người An nam về phía Cao miên.

‘’Vị chỉ huy hộ tống hạm đưa tin của Hoàng đế và Hoàng tộc quốc gia chúng tôi là tàu Norzagaray, sẵn sàng liên lạc với Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng chuẩn y.

‘’Xin kính dâng Hoàng thượng...’’

Sự vận động này đã thành công mỹ mãn. Từ đây về sau, nước Cao miên không bao giờ làm việc gì gây bối rối cho sự xâm lược của Pháp. Nhà vua đáp lại bằng các lễ vật và bằng cách gởi sang một ban sứ thần đáng kể (gồm tám mươi người), đi từ Kom-pot đến Saĩgon bằng đường bộ. Sau hết cũng nên nói rõ là các tin tình báo trước đây chuyển cho chính phủ Pháp hoàn toàn sai, tại Cao miên người ta không nghe nói gì hết về đạo quân Xiêm 60000 người, đạo quân này nếu có thật sẽ là một lực lượng tiếp tay giúp ta chống lại người An nam. Vài tháng sau, có một kẻ ngấp nghé cướp ngôi đã dấy quân chống lại nhà vua đang trị vì tại Cao miên[5]. Ðường lối chính trị của thủy sư đề đốc Pháp, trong tình thế này cũng dễ hiểu; trừ một vài người vụ lợi ra còn phần đông, ngay cả đến hôm nay, vẫn coi giải pháp của ông là hoàn hảo nhất: tức là khi nào những người lãnh đạo Cao miên còn muốn giải quyết những tranh chấp giữa họ về chủ quyền lãnh thổ mà ta chiếm được thì ông sẽ ngăn chận họ, bằng một cách giản dị là đưa họ vào cảnh đánh đấm lẫn nhau ở một nơi khác [6]

Ngày 10 tháng ba 1861, các đạo quân viễn chinh quay về Saĩgon. Một toán quân lưu động và hai ổ súng cối miền núi được giữ lại ở Tong-kéou; thêm một đại đội thủy quân đánh bộ và một đại đội lính người An nam tại Tay-theuye, phần khí giới thì cấp thêm cho họ một khẩu đại pháo 30 của hải quân. Một đại đội thủy quân bộ chiến đóng tại Kì hòa. Pháo binh trở lại đóng giữ chùa Ao. Thủy quân đổ bộ thì lại trở về đóng ở thành phố Tàu như trước. Các toán bộ binh khác đóng rải rác dọc theo các chùa bỏ hoang[7] dài cho đến đồn Avalanche. Nhà cửa ở đây san sát nhau, gần như liên tục từ Saĩgon đến Cho-leun, nối liền hai thành phố, không khí vui nhộn và thân thiết như ở thôn quê. Những ngôi nhà nhỏ lụp xụp của thành Kì hòa, đủ để hai mươi ngàn quân An nam trú ngụ, không còn thích nghi để phân phát cho quân lính đã có thói quen với đời sống Âu châu. Các căn nhà này đã bị sập trước khi các tuyến phòng thủ bị san bằng. Nhà cửa hư nát, vô số quần áo rách còn bê bết máu, xác người rải rác trong các hầm chông làm phát sinh cả một thế hệ ruồi nhặng tủa bay dầy đặc trong không khí; hàng triệu con ruồi khát máu, tàn khốc bao phủ hết thành Kì hòa như bâu quanh một vết thương mới bị lở loét, biến Kì hòa thành một hầm chôn người không thể nào ở nổi. Phải chờ cho đến khi nào đây để những xác chết hóa thành bụi, đám mây ruồi nhặng nhơ nhớp sẽ lắng xuống, và những bầy quạ bay đi xa? Vì thế mà thành Kì hòa bị san bằng trừ một đồn duy nhất nằm trên đường về Saĩgon, đồn có tên mới là đồn Testard, tên của trung tá Testard bị giết ngày 25 tháng hai. Vòng thành Kì hòa mênh mông trước đây, người ta tưởng là do một vị hoàng đế Ai cập nào đó đã huy động vô số tay người xây lên, nay chỉ còn lại một đồn lẻ loi, tên đồn dùng để nhắc lại cái chết vinh quang của một con người hào hùng và cao đẹp.

Chợ búa của Saĩgon và thành phố Tàu thật dồi dào sản phẩm. Tất cả các nơi trong tỉnh đổ về; nhờ quyết định của vị chỉ huy trưởng, lương hướng từ Paris cấp cho quân lính gia tăng, đem đến cho họ một sự vui thích vô ngần; thật là một điều quí giá khi người lính có một ít tiền trong túi. Tiền phụ trội giúp từng nhóm quân cải thiện bữa ăn hằng ngày: vả lại những người bán hàng An nam kéo đến vì người mua sẵn có tiền để trả. Người lính bộ nào, người lính thủy nào, khi về Pháp lãnh đồng lương chết đói, lại không nhớ tới cái lúc mà những ghim thịt nướng bốc khói thơm lừng trở đều liên tục trên bếp than hồng dưới bóng mát của những hàng cau ở Cho-quan và Cho-leun; họ nhớ tới để vừa thích thú lại vừa tiếc rẻ.

Ðạo quân viễn chinh, trong vòng mười lăm ngày, đã đánh năm trận, thực hiện mười hai cuộc trinh sát, hành quân dưới bấu trời gay gắt, phải chịu hiểm nguy, ăn lương khô uống nước bẩn; đêm thường thức suốt vì đám muỗi độc địa và đàn kiến lửa [8] đâm chích. Quân sĩ thật sự cần được nghỉ ngơi. Nhưng không thể nói là họ đã hoàn toàn kiệt quệ không thể nào không cho họ nghỉ.

Ngay ngày hôm sau khi thủy sư đề đốc cho thượng cờ hiệu của ông trở lại trên chiến hạm Impératrice-Eugénie đang thả neo trên sông Saĩgon, tức là ngày 12 tháng 3 năm 1861, liền tức thời ông ra lịnh phải thám sát các vùng chung quanh Biên-hoa và My-thô. Fou-yen-mot là một đầu cầu chắc chắn của ta trên một trong hai con đường dẫn đến Bien-hoa. Chỉ huy tiểu đoàn Comte và quân đánh bộ đi dọ thám vùng ven biên của Bien-hoa bằng cách mượn đường băng ngang Fou-yen-mot. Ðồng thời, một ủy ban khác gồm có đại úy hải quân du Quilio, vị chỉ huy đại đội tổng hành dinh de Cools và vị chỉ huy đại đội công binh Allizé de Matignicourt, giữ trọng trách thám sát sông Vaĩ-co tây tại cửa kinh Bưu điện. Cuộc trinh sát không tiến xa hơn được vì kinh bị chận, con đường Bưu điện đi về My-thô phải băng ngang nhiều sông rạch mà cầu lại bị phá hết. Ðường xá trên ruộng là các đường rất hẹp, chỉ đủ cho một người đi. Ủy ban trinh sát đều nhất trí cho rằng phải mất ít nhất là mười lăm ngày để đắp lại con đường Bưu điện để cho pháo binh xử dụng.

Mọi người đều biết giá trị của các vị chỉ huy trong quân ngũ và những thử thách mà họ đã trải qua; vị thủy sư đề đốc quí mến họ, từng hãnh diện và công khai đề cao họ; tất cả các điều này đã giúp tiếng nói của họ không bị bỏ ngoài tai, họ đã chính thức đệ lên vị tổng tư lịnh chỉ huy ý kiến của họ, đại khái nói lên rằng ‘’quân sĩ đã mệt mỏi, sức người thì có hạn; cuộc chiến của ta không giống với một cuộc chiến nào khác, ngay cả so với cuộc chiến trải qua bên

Tàu mà khí hậu nơi đó vừa mới tha chết cho họ. Rằng hai lần di tản liên tiếp mà chưa mang đi hết ngưòi bị thương tại các bịnh viện Saĩgon và Cho-quan.’’

Nhiều vị khác cũng nói lên rằng ‘’ta vừa thắng một trận lớn, đừng nên làm gì lu mờ uy danh của ta. Rằng việc đánh hạ thành Kì hòa là một chiến thắng vẻ vang cho quân đội, ta phải giữ lấy uy thế. Ta đi đánh ở đâu bây giờ? Ðánh My-thô thì mùa mưa sắp tới rồi. Ði đánh Bien-hoa thì ta đừng quên là còn phải chỉnh đốn phần lãnh thỗ đã xâm lược, cai trị một đám dân đang lâm vào một tình trạng hổn loạn vì những người cai quản họ trước đây đã bỏ chạy hết.’’

Những ai có chủ trương như vừa nói rồi đây sẽ đổi giọng cho xem. Chuyện thật rõ ràng là trong vòng tháng 3, tình báo của ta về Bien-hoa cũng như khi ta phân tích các thông tư của vị quan chỉ huy thị trấn này đều cho thấy nếu tiến đánh Bien-hoa thì thị trấn này cũng sẽ lọt vào tay ta dễ dàng như Tong-kéou và Tay-theuye mà thôi.

Nhưng thủy sư đề đốc cho rằng không nên đánh chiếm Biên-hòa, ông quyết định chiếm My-thô. Vì thế, ông hối hả vì mùa mưa sắp đến, ông sai dọ thám các cửa biển đổ vào sông Cambodge, đồng thời cũng cho người tìm kiếm trên đất xem có đường nào nằm giữa sông Vaĩ-co tây và con Sông Lớn Cambodge khả dĩ pháo binh có thể dùng được, đồng thời cũng xem có con kinh nào giúp các pháo hạm có thể di chuyển được để tiến về My-thô. Ông chỉ thị cho trung úy hải quân Lespès, tức đại úy hạm trưởng tàu Norzagaray, phải dọ thám sông Cambodge, ông đưa ra những huấn dụ như sau:’’trung úy Lespès đã từng dọ thám sông này và biết nơi nào nguy hiểm, vậy hãy lợi dụng khi trời tốt đo chiều sâu các đường sông, tìm các điểm chuẩn trên bờ để hướng dẫn các tàu di chuyển về sau. Nếu gặp dân chài lưới, thì phải cố gắng hỏi và thu thập tất cả các sự kiện cần thiết. Không những chỉ biết chiều sâu và tính chất của đáy kinh mà còn phải cố gắng biết trước những loại chướng ngại nào địch dựng lên mà ta phải phá để vượt qua khi tiến gần đến My-thô. Vì vậy, phải biết bắt đầu từ khoảng cách nào thì địch lập các đập cản, đập làm bằng loại vật liệu gì._Ðường kinh rộng hay hẹp? Ngòng ngoèo hay thẳng? Kinh nằm vào hướng nào so với các đồn địch trên bờ? Ðồn trang bị súng ống như thế nào và cách thành địch bao xa? Bờ sông có dễ đổ bộ hay không? Sau hết là tình trạng My-thô ra sao? Trại quân có đông không? Quân lính có sẵn sàng chiến đấu hay không?_ Chắc gì đã tìm được người trả lời cho ta hết các câu hỏi này, nhưng điều hệ trọng là thu thập tối đa tin tức tình báo cần thiết nếu có thể được.’’

Ðại úy chiến hạm Norzagaray, là một sĩ quan gan dạ và là một nhà thủy học lanh lợi, nhưng ông quay về mà không tìm ra cửa kinh để vào sông Cambodge [9]. Một vài tin tình báo, vừa không chính xác lại vừa có vẻ bịa đặt, cho biết vào mùa mưa có một cửa rạch về phía tây của con kinh hiện nay, theo đó các tàu của hạm đội trang bị súng lớn cũng có thể xử dụng được. Dù sao, nếu như không thể nào dùng tàu để tiến vào sông Cambodge vì kinh rạch không đủ sâu, và nếu sau khi phá xập các cừ cọc ở đáy sông cũng vẫn không thể đưa tàu lọt vào mặt nam của thành My-thô, thì ta đành đổ bộ lên một hòn đảo nằm giữa các kinh rạch để đánh thành My-thô ở mặt bắc vậy. Nhưng quyết định sau cùng là thám sát một lần nữa hệ thống kinh rạch đổ vào sông Cambodge. Hai hộ tống hạm của ta là tàu Lily và tàu Sham-Roch tiến vào những nơi mà tàu Norzagaray đã trinh sát tám ngày trước. Hai đại úy thuyền trưởng của hai hộ tống hạm là các trung úy hải quân Franquet và Rieunier, đã từng ở Nam kỳ từ bốn năm nay. Kỹ sư thủy học Manen vẫn tiếp tục được phép cho tháp tùng trong công tác trinh sát này. _Thêm một lần nữa cũng không tìm thấy đường rạch nào có thể đưa vào sông Cambodge. Còn nơi đổ bộ thì không có gì thuận lợi lắm; các đồn địch chia nhau canh phòng một vùng rất rộng lớn.
------------------------------------------------------------

[1] Sáng ngày 25 tháng hai, trong khi quân ta phá được thành địch một cách vẽ vang, thì một đạo kỵ binh phóng theo rượt quân An nam trên đường tháo chạy, không cho họ rút về khu thành của xứ Triều cống (tức là thành Tong-kéou). Nhưng đoàn kỵ binh không bắt được quân An nam nào làm tù binh. Họ không bao giờ để bị dồn vào đường cùng. Ta cứ mượn lời sau đây từ chính miệng của một trong những người tướng chỉ huy của họ đã công khai trách họ: ‘’Quân sĩ chạy như chuột’’. Họ nhờ có vùng đầm lầy Avalanche để tránh , quân Âu châu không đưổi theo được. Nhưng đoàn kỵ binh viễn chinh thật ra chỉ gồm có vài bộ binh Phi châu và vài kỵ binh người Tagal; có người đổ thừa rằng số kỵ binh mà trước kia ta đòi vị đại úy toàn quyền Phi luật tân phải cung cấp cho đoàn viễn chinh đã không được thực hiện như ý muốn. Tác dụng của một đoàn kỵ binh không thể thay bằng vài cỗ súng miền núi: vì lý do ta đã xử dụng toàn thể quân sĩ vào việc tấn công thành địch, nên không còn người để đuổi theo quân địch rút lui.

[2] Sologne là một vùng đầm lầy rộng lớn ở cửa sông Loire, thuộc miền trung nước Pháp. Biết đâu tác giả chẳng phải là người của vùng này, ông có tả một người lính bị thương ngồi hút píp, ăn nói bộc trực và tự nhiên, ông nhận ra ngay cái cung cách của một người bình dân thường gặp nơi miền trung nước Pháp ? (ghi chú của người dịch).

[3] Ngày hôm sau, người ta lại đào được bẩy xác chết khác vùi dưới một lớp đất mỏng, xác bị chặt đầu, ta nhận ra trong số này hình như có xác của một trung sĩ thủy quân đánh bộ, đã bị quân An nam bắt làm tù binh từ sáu tháng nay, (ghi chú của tác giả).

[4] Ông Nguyễn tri Phương là vị quan trấn giữ thành Kì hòa, em của Ông là Nguyễn Duy tử trận,(ghi chú của người dịch).

[5] Vua Cao miên là Norodom bị chính người em là Si-Vattha cướp ngôi, phải bỏ trốn sang Xiêm la, (ghi chú của người dịch).

[6] Câu này trong nguyên văn cũng hết sức lắc léo, ta thấy tác giả muốn ám chỉ bàn tay của vị phó thủy sư đề đốc đã lợi dụng sự bất đồng chính kiến trong hoàng gia Cao miên về sự chiếm đóng Nam ky của Pháp để đưa họ vào cảnh tự diệt lẫn nhau. Người Cao miên vẫn còn mong mỏi sau này sẽ chiếm lại Nam kỳ, không muốn người Pháp phổng tay trên. Về sau người Pháp lại giao cho một người truyền giáo sang Xiêm la thuyết phục Norodom đưa ông về cướp lại ngôi, nhưng phải chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, (ghi chú của người dịch).

[7] Bị chiếm đóng đúng hơn là ‘’bỏ hoang’’, (ghi chú của người dịch).

[8] Trong nguyên bản là fourmis de feu viết theo lối chữ nghiêng, có lẽ là dịch thẳng từ tiếng An nam là kiến lửa mà ra, (ghi chú của người dịch).

[9] Ngày 24 tháng ba, ông này đã được phái đi Kam-pot trong công tác liên hệ với vua Cao miên.

CHƯƠNG VII

Ðề cương:

Ðánh chiếm My-thô._Chiến thuật tấn công._Thành An nam bị vây hãm trên đất liền và từ mặt sông Cambodge._Chương trình hành quân vẫn được duy trì mặc dù bịnh dịch tả, sốt rét, kiết lỵ, chướng ngại thiên nhiên và nhân tạo; tàu di chuyển khó khăn, cọc cừ đóng dài cả dặm; thành đồn trang bị súng ống rất mạnh và địch biết sử dụng thành thạo._Sau khi thành My-thô bị đánh bại, mùa mưa bắt đầu mãnh liệt._Các cuộc hành quân phải hoãn lại.

Các lực lượng hải quân, công binh, pháo binh, tổng hành dinh thay phiên nhau thăm dò sông Cambodge từng giờ một và đồng thơi thám thính vùng ven biên My-thô.

Có hai con rạch nối liền sông Vaĩ-co tây và thành phố My-thô. Một trong hai con rạch đổ thẳng vào sông Cambodge, đó là kinh Bưu điện [1], kinh này trong các báo cáo thời ấy mang tên An nam là Rach-run-ngu [2] Con rạch thứ hai là kinh Thương mại[3] Kinh Thương mại đánh vòng xa hơn kinh Bưu điện nhưng cũng đổ vào sông Cambodge, cách My-thô chừng tám dặm về phía thượng lưu, tức thuộc vùng hậu tuyến thành My-tho. Kinh Thương mại nối dài với con kinh huyết mạch là kinh Tàu [4] tạo ra đường lưu thông buôn bán nối liền các vùng phì nhiêu thuộc tỉnh My-thô và Saĩgon. Nếu dùng làm đường chiến lược để đánh My-thô thì kinh Thương mại thuận lợi hơn kinh Bưu điện. Kinh Thương mại không giống với kinh Bưu điện vì kinh Bưu điện khi gần đến thành My-thô thì trở nên hẹp và hướng thẳng vào thành, các pháo hạm nhỏ trở nên quá lộ liễu khi tiến gần đến thành địch. Tốt nhất là đặt vài tàu nhỏ trên kinh Thương mại để chận đường rút lui của địch trong khi ta dùng kinh Bưu điện để tấn công. Kinh Thương mại không có đập chắn cũng không có cắm chông, cũng không có đóng đồn; nhưng kinh lại cạn, cỏ nhiều rất vướng, các phương tiện thủy vận của ta không dùng kinh này được.

Rốt lại chỉ còn kinh Bưu điện. Quân địch làm đập chắn và phòng thủ rất chặt chẻ kinh này, vì biết đây là đường nước sâu nhất mà các pháo hạm bằng sắt của ta có thể dùng để tấn công vào thành. Trinh sát và phúc trình của bọn gián điệp đều cho biết có rất nhiều đập chắn ngang, các đồn canh lại trang bị khí giới hùng hậu, rồi đây quân ta bắt buộc sẽ phải gặp sức kháng cự mạnh mẽ. Ðường cái quan từ sông Vaĩ-co đến My-thô thì người An nam đã phá hư hỏng không còn xử dụng được nữa, cầu bắc qua các kinh nhỏ đã bị phá xập. Ðường cái có bảy kinh nhỏ cắt ngang, đường vòng như hình cánh cung mà dây cung là con kinh Bưu điện.

Vì vậy là trên bờ, dưới sông hay trên mặt biển, tất cả đều cho thấy chuyến này đánh vào thành My-thô là một chuyện khó khăn và nhiều rủi ro. Nhưng sau khi ta phá hết đập, hạ hết các đồn canh giữ trên kinh Bưu điện, các pháo hạm bằng sắt sẽ có thể dùng kinh này để tiến đánh thành Mỹ-thô. Các cỗ súng nòng có khía đem đặt trên tàu sẽ giữ vai trò giống như đại pháo do ngựa kéo, hai bên bờ sẽ có bộ binh yểm trợ. Khi các toán quân viễn chinh tiến gần tới thành thì biết đâu nhờ may mắn ta sẽ gặp một con nước lớn bất ngờ trên sông Cambodge để có thể đưa cả hạm đội tới gần để đánh thành địch ngay trước mặt và cả bên hông thành [5]

Chương trình chiến thuật được quyết định như vừa kể, và ngày 26 tháng ba đại úy hải quân Bourdais, từ mười lăm ngày nay đóng nút chận tại cửa kinh Bưu điện nhận được lịnh bắt đầu hành quân đánh My-thô và phải khởi sự phá ngay các đập đầu tiên. Pháo hạm lớn Mitraille, đại úy Duval chỉ huy; pháo hạm số 18, đại úy Peyron chỉ huy; pháo hạm số 31, đại úy de Mauduit Duplessix chỉ huy; đại đội quân đổ bộ theo tàu Monge do đại úy de la Motte-Rouge chỉ huy; 200 thủy quân đổ bộ (thuộc các đại đội 2 và 5, do hai đai úy Proubet và Hanès cầm đầu); 30 người Tây ban nha do trung úy Maolini chỉ huy; 1 ổ súng cối miền núi và mười người phụ trách ổ súng này thuộc chiến hạm Impératrice-Eugénie thì giao cho thiếu tá Bourdais sử dụng và điều khiển. Ðại úy công binh Mallet và đại úy tư lịnh Haillot được biệt phái thêm cho đoàn quân xuống đánh My-thô.

Thủy sư đề đốc đưa xuống cho đại úy hải quân Bourdais những lời chỉ thị của ông liên quan đến cuộc hành quân và nhất là cách phải đối xử như thế nào khi ra mắt phó vương An nam:’’Ông phải nói với phó vương An nam trấn giữ thành My-thô, khi trao thư tôi cho ông ta, rằng ông ta phải để ta chiếm giữ thị trấn này và cả vùng tứ giác mà ranh giới là sông Vaĩ-co tây, kinh Bưu điện, kinh Thương mại và sông Cambodge, mà không được phép làm khó dễ gì hết; ông ta phải tuân theo điều chúng ta đòi hỏi không được trì hoản hay chậm trể vì bất cứ lý do gì.

‘’Nếu ông ta muốn về Saĩgon, xin ông cứ cấp cho ông ấy một tờ giấy thông hành. Ông ta sẽ được đối đãi trong thể. Nếu ông ta muốn đầu thú sang hàng ngũ của ta, ông ta sẽ được giữ nguyên tước phong, nhưng phải trở về dân sự. Nếu ông muốn rút lui an phận trên lãnh thổ An nam thì ta sẽ cấp cho phương tiện.

‘’Ông hãy thận trọng khi thám sát và lúc tiến về Mỹ-thô. Ông đừng quên là nếu bất cứ một người nào của ta bị địch bắt làm tù binh tức là một sự thất bại của ta; ngay cả lọt vào tay họ sống hay chết cũng thế._Mặc dù khi ông yết kiến vị phó vương cũng không được phép quên mục tiêu tối hậu của ta là chiếm My-thô (27 tháng 3 năm 1861).’’

Vị chỉ huy Bourdais tìm cách đưa tàu vượt kinh Thương mại trong suốt những ngày 27, 28, 29, và 30 tháng ba. Các pháo hạm bị lún bùn và bị cỏ quấn; càng ngày tàu càng gặp nhiều khó khăn, quả thật phải công nhận là kinh Thương mại không thể nào dùng để đưa tàu đến Mỹ-thô được. Vì thế vị chỉ huy Bourdais phải dồn tất cả lực lượng dưới quyền ông vào kinh Bưu điện. Ngày 1 tháng 4 ông đã tập hợp hết tàu bè của ông vào kinh này.

Tàu Mitraille, sau nhiều lần tìm cách vượt kinh Thương mại không xong thì nhận được lịnh trở về kinh Bưu điện. Tàu Mitraille khi vào Kinh Bưu điện phá được hai đập đầu tiên trong kinh này. Trung úy hải quân Gardoni, hai đêm trước đó cũng đã tìm cách tiến được đến đập thứ ba nhưng chạm trán với hai đồn trấn giữ nằm hai bên bờ; đạn bắn xéo từ hai đồn làm cho tàu không tiến lên được nữa.

Ngày 1 tháng tư, hai đoàn dọ thám trên bờ xác định vị trí hai đồn này. Tức thời pháo binh kéo súng bắn vào: nhưng vị trí vẫn còn cách xa một ngàn hai trăm thước nên không biết rõ kết quả. Hôm sau, ngày 2 tháng tư, Tàu Mitraille tiến lên, theo sau là tàu Alarme; nhưng tàu Mitraille lại bị mắc cạn cách đồn thứ nhất bốn trăm thước và làm nghẽn đường tiến của tàu Alarme phía sau. Tuy vậy, kinh còn đủ rộng để các pháo hạm số 18, 31 và 20 len qua được. Ba pháo hạm tiến đến sát đồn địch, khoảng cách chỉ còn bằng tầm súng ngắn cầm tay, chỉ trong mấy phút là khống chế được đồn này.

Cả hai đồn (đồn thứ nhất và đồn thứ hai), xây cất trên bùn, chung quanh có hào, nước sâu đến hai thước Mỗi đồn có đục mười hai lỗ châu mai. Các khí cụ phòng thủ phụ thuộc gồm có bàn chông, cọc nhọn và nhất là chung quanh đồn lại đầy bùn sình, vì thế không thể nào đánh thẳng vào được. Từ xa ta chỉ biết nã súng vào đồn. Ðồng thời, tuy dưới lằn đạn của địch từ trong đồn bắn ra, ta vẫn phá thêm được hai đập (đập thứ ba và thứ tư)._Trong trận này, đại úy hải quân Bourdais trương cờ chỉ huy của mình trên pháo hạm số 18. Hai tàu Mitraille và Alarme, mặc dù một bị mắc cạn một bị nghẽn không lên được, nhưng cả hai đã dùng hỏa lực để góp phần vào chiến thắng ngày mùng một tháng tư.

Ta mất suốt hai ngày, 2 và 3 tháng 4, để phá đập. Ðịch nhận chìm nhiều sọt đá dưới đáy kinh, quân lính phải mò lên từng tảng một. Cọc nhọn và cừ bằng thân cau cắm rất sâu dưới lòng kinh, ta phải dùng cần trục để nhổ lên. Ðể nhổ cọc ta đóng giàn thật chắc trên bờ, sau đó luồn lòi tói qua ròng rọc để buộc cừ cọc ngập trong bùn sình rồi kéo lên. Quân ta phải lội xuống kinh, sình ngập ngang người, phần phía trên phơi ra nắng nóng bỏng. Dịch tả lan tràn trong đoàn quân viễn chinh. Người nào không bị dịch tả thì bị sốt rét hoặc kiết lỵ. Từ lúc ta dùng đại pháo để hạ các đồn xong thì ngày đêm quân lính phải ra sức vét kinh, nhất là khi nhìn họ làm việc lom khom rét cầm cập dưới bầu trời thiêu đốt, ta thấy rằng sức nhẫn nại của họ đang thúc dục ta phải đắnh thành My-thô càng sớm càng hay. Người nào ngã xuống thì cho các sa-lúp dùng chở ngựa đem họ về tàu Mitraille và Alarme, bị mắc cạn và kẹt ở phía sau từ ngày 2 tháng 4.

Ngày 3 tháng 4, đập phá xong, ba pháo hạm bằng sắt tiến lên, được hai mươi phút lại chạm trán và bắn nhau với một đồn khác (đồn thứ ba) nằm phía bờ bên trái. Ngay phút đầu người chỉ huy An nam trong đồn bị thương văng mất một bên vai. Sức phòng thủ liền giảm đi, đồn bị ta hạ, địch bỏ chạy. Ðại đội 2 của ta chiếm lấy đồn. Ðồn có bốn lỗ châu mai dùng canh giữ hai đập cắm cọc và cừ nhọn (đập thứ năm và thứ sáu); đồn địch nằm vào khoảng giữa hai đập. Ðập thứ nhất cũng giống như các đập trước đây, tức cắm bằng thân tre và thân cây cau vạt nhọn; xa hơn một chút là một thuyền chiến chở đầy đất mà địch đem đánh đắm giữa kinh. Khoảng giữa hai đập thứ năm và thứ sáu có neo hai mươi lăm chiếc bè chất đầy lưu huỳnh và bùi nhùi. Vị trí này là nơi hai dòng nước trên sông Vaĩ-co và Cambodge gặp nhau, nên bùn đất dồn lại, đáy kinh rất cạn; ngay khi nước lớn cũng chỉ sâu một thước rưỡi. Chiếc thuyền chiến thì địch đánh đắm ngay vào nơi hai dòng nước gặp nhau.

Sau khi đồn thứ ba bị hạ, vị chỉ huy Bourdais liền ra lịnh cho đại úy Duval nội trong ngày mang tàu Mitraille quay về báo cáo tin chiến thắng của quân viễn chinh với vị tổng tư lịnh chỉ huy, đúng theo chỉ thị ông nhận lãnh trước khi hành quân. Ðại úy Bourdais sai phải báo cáo rằng ông đã chiếm được ba đồn, phá được năm đập; và chậm nhất là ngày 5 tháng tư sẽ phá xong đập thứ sáu để tiến lên; ông cũng đã đi được nữa đường từ sông Vaĩ-co đến sông Cambodge._ Vị sĩ quan lãnh trọng trách mang báo cáo sơ khởi về Saĩgon cũng gặp nhiều khó khăn. Tất cả sông rạch ông phải đưa tàu đi đều tùy thuộc vào thủy triều lên xuống, khi nước ròng thì nhiều nhánh cạn khô.
  Nếu ba pháo hạm cứ tiếp tục liều lĩnh tiến lên mà không có bộ binh yểm trợ, ít nhất từ một trong hai bên bờ, sẽ phải gặp nhiều khó khăn. Hai bên lườn pháo hạm thường chạm với cây rừng mọc hai bên bờ kinh; địa thế ta không biết rõ; địch quân lại gia tăng thêm sức chống trả. Ta đang lâm vào một giai đoạn thật nguy hiểm trên đường tiến đánh My-thô. Ngày 4 tháng 4, từ Saĩgon ta hối hả thành lập một đội quân tăng viện, nhờ hộ tống hạm Echo do đại úy de Vautré chỉ huy đưa xuống. Ðạo quân tăng viện gồm 200 lính bộ do hai đại úy Lafouge và Azières cầm đầu; 100 thủy quân, 2 đại đội thủy quân đánh bộ, hai cỗ đại pháo nòng 4, hai súng cối miền núi nòng có khía trang bị đầy đủ thùng bọng và xe đạn, nhưng không có ngựa kéo, tất cả do đại úy Amlaudrie du Chauffaut cầm đầu; một đội công binh biệt phái gồm 50 người do đại úy Bovet cầm đầu và thiếu úy hải quân Amirault biệt phái sang công binh làm phụ tá. Thiếu úy Mahieu của công binh cũng đi theo, viện quân có chở thêm 20 000 viên đạn trừ bị cho bộ binh. Ðoàn quân viễn chinh trở nên khá đông và quyền chỉ huy chuyển sang tay của đại úy hải quân Le Couriault du Quilio, ông là sĩ quan tùy tùng của chính thủy sư đề đốc. Vị chỉ huy tiểu đoàn công binh là Allizé de Matignicourt làm phụ tá điều khiển tổng hành dinh cho vị chỉ huy mới tức là Le Couriault du Quilio. Hai hôm sau tức ngày 6 tháng tư, lại có thêm nhiều toán quân tăng viện nữa do đại úy hải quân Desvaux chỉ huy và hướng dẫn đưa từ Saĩgon đến Rach-run-ngu[6] Ðồng thời trung úy bộ binh Guilhoust ở Thu-yen-mot cũng được lịnh đem theo xuống tàu 3 ổ súng cối miền núi và trực chỉ My-thô.

Ngày 4 tháng 4, phó thủy sư đề đốc Charner ra huấn thị cho vị chỉ huy mới của đoàn quân viễn chinh đi đánh My-thô bằng những lời lẽ như sau: ‘’ Tôi giao cho ông thống lãnh đoàn viễn chinh đi đánh My-thô...Sau khi được báo cáo tình trạng hạm đội của ta trong kinh, và địa thế chung quanh thành My-thô, ông liệu xem có đủ sức đánh chiếm My-thô không, hay ông cần thêm yểm trợ nữa. Ông hãy cân nhắc và hành động thật cẩn thận không để xảy ra một rủi ro nào hết.Theo tình báo của người An nam đưa thì chung quanh thành có nhà dân vì thế ông có thể dùng cho quân ta ẩn nẩp và đặt một giàn pháo để phá thành nếu cần._Nếu ông thấy ta có thể đào mương để tháo nước trong hào chung quanh thành thì hãy thực hiện vào ban đêm, chuyện này cũng không phải là khó khăn lắm. Ðây là một vấn đề phải nghiên cứu tại chỗ._Nếu vị phó vương đề nghị thương thảo với ông, thì ông sẽ trả lời rằng phải để ông chiếm thành rồi mới nói chuyện. Không một phút nào ông được phép quên là ông đang liên hệ với một con cáo sẵn sàng đánh lừa ông.’’

Và ngày 6 tháng tư:

‘’Ông xem thử có thể đưa các pháo hạm bằng sắt vượt qua các địa thế mà ông đã thấy để vào sông Cambodge hay không. Rất có thể ông còn phải phá thêm nhiều đập nữa, và cũng có thể còn nhiều ghe thuyền địch đánh chìm để làm nghẹt kinh. Chưa nói đến là các pháo hạm bằng sắt của ta sẽ còn gặp khó khăn vì nước cạn. Tuy nhiên, đáy kinh là bùn nên các pháo hạm có thể vừa cày sâu xuống bùn một chân[7] mà vẫn có thể tiến lên được.

 ‘’Người ta cho tôi biết ở My-thô có nhiều thuyền chiến rất tốt, có thể quân An nam đem vài chiếc ra chống với ông đó. Vì thế phải cẩn thận mới được. Hủy diệt được các thuyền này là điều hết sức mừng cho ta; nhưng nếu bắt được các thuyền này thì lại còn tốt hơn nữa; mục đích là cắt phương tiện rút quân của địch. ‘’Tàu Lily và tàu Sham-Rock, vắng mặt từ tám hôm nay, sẽ không gia nhập vào lực lượng của ông. Ý định của tôi là sau khi tiếp tế cho các tàu này xong sẽ cho hai pháo hạm giúp sức cố tìm đường để lọt vào sông Cambodge.

‘’Ông cũng chịu khó để ý xem là có thể thử đem hai tàu Mitraille và Alarme vào sông Cambodge được không. Nước thủy triều có thể giúp sức thêm. Ông xem thử ta có thể dùng hai thuyền buồm đáy bằng kéo pháo hạm giống nhự ngựa kéo để giúp pháo hạm thêm sức lướt lên hay không?’’

Trong khi đó vào ngày 5 tháng 4, sau khi đã phá xong các đập thứ năm và thứ sáu (ngày 3, 4, và 5 tháng tư), hạm đội của thuyền trưởng Bourdais, khi đó vẫn còn dưới quyền điều khiển của ông và đưọc tăng cường thêm pháo hạm số 16 do đại úy Béhic chỉ huy, đã tiến tới một đập nữa (đập thứ bảy). Lần đầu các tàu gặp địch quân chống trả từ hai bên bờ cùng một lúc; quân địch bắn xuống, các pháo hạm bắn trả thì quân xung kích biến mất. Ðây là một cảnh cáo cho ta. Quân ta tìm thấy một xác chết trên bờ và nhiều vết máu. Một đại đội thủy binh đổ bộ (đại đội 2) dừng quân và đóng tại địa điểm nơi hai dòng nước gặp nhau để làm quân yểm trợ, vừa để chống trả quân An nam thường tấn công lẻ tẻ ban đêm.

Lúc này thì bộ binh của ta hai bên bờ, vừa bị quân số thu hẹp, vừa phải cực nhọc phá đập nhổ cừ, nhổ chông, kiệt sức vì bịnh kiết lỵ, dịch tả và sốt rét, nên không còn đủ sức yểm trợ cho pháo hạm dưới sông nữa. Họ trông chờ đám quân tăng viện từ Saĩgon đưa xuống để tiếp sức bảo vệ các pháo hạm; ngoài công tác bảo vệ, quân tăng viện còn phải trinh sát để hướng dẫn pháo hạm, xác định vị trí đồn địch để tránh khỏi bị phục kích bất ngờ. Nhưng việc thực hiện thật khó khăn, nhiều khi không làm nổi: vì bọn gián điệp nói láo, hoặc hai bên nói với nhau không hiểu.

Tình báo do người An nam cung cấp (chỉ dẫn rất đúng) là bên tả ngạn chỉ có một kinh phụ, trong khi đó bên hữu ngạn có đến năm con rạch vừa lớn vừa nhỏ đổ vào Rach-run-ngu. Khi cách thành My-thô hai ngàn thước, con đường cái quan dọc bờ kinh có thể đắp lại và dùng được. Vì vậy quân ta quyết định tiếp tục hành quân theo bờ bên trái, sau đó khi gần đến My-thô sẽ đổi sang bờ bên mặt.

Nhóm quân tăng viện từ Saĩgon đi theo tàu Écho đổ bộ sáng ngày 5 tháng 4 ở ngã ba sông Vaĩ-co và sông Run-ngu; địa điểm này do chiến hạm Rhin trấn giữ. Ngay ngày hôm sau, đại đội 2 bộ binh và thủy binh đánh bộ được cho xuống các sa-lúp do pháo hạm số 22 kéo theo; di chuyên thường trễ nải vì cừ cọc khi phá đập vẫn còn nổi lều bều làm tắc nghẽn nhiều nơi trong kinh Bưu điện. Gặp chỗ đáy cạn, pháo hạm phải tháo bỏ các ghe sa-lúp để vượt qua trước, còn ghe sa-lúp cứ thả trôi theo dòng nước. Mặc dù bị mắc cạn nhiều lần, nhưng bộ binh và thủy quân đánh bộ cũng đến được vị trí đập thứ tám vào lúc ba giờ chiều. Ðại đội trưỏng Allizé liền cho lịnh đổ bộ và tiến lên theo bờ phía trái. Ðại đội 10 thủy quân và 50 lính Tây ban nha do trung úy Maolini chỉ huy cũng nhập chung trong đám quân này. Ðất mềm, sình lầy, cây cối chằng chịt, thân dẽo lại gai góc, ngựa và la không tiến lên được, các ổ súng cối mang theo đành phải khuân vác trên vai. Cứ bốn cu li mang một cỗ súng, bốn cu li khác thì vác bàn bắn, hai cu li khiêng một thùng đạn. Cứ chia nhau như vậy và họ đi thật nhanh.

Các pháo hạm theo sau cách khoảng độ một trăm bước: nhưng pháo hạm mới tiến lên được 500 thước lại phải dừng lại vì thân cau địch chặt và ném ngổn ngang dưới kinh. Vừa dừng lại thì đồn địch (đồn thứ tư) bắn túa ra; ta cũng không biết vị trí đồn chỗ nào.

Chính nơi này địch tập trung tất cả mọi phương tiện phòng thủ của họ. Dưới nước các chướng ngại khổng lồ bít hết kinh. Trên bờ họ dàn trận theo một đường tuyến dài một cây số, trước trận là quân xung kích, phía sau có pháo binh và quân trừ bị. Phía ta, bộ binh, thủy quân, lính Tây ban nha, thủy quân đánh bộ đổ quân tràn ra đồng. Bộ binh dàn ra làm quân xung kích, bên phải có thủy quân và lính Tây ban nha hỗ trợ, bên trái có thủy quân đánh bộ hỗ trợ. Quân xung kích hai bên liền bắn nhau. Trận chiến bất thần ngã ngũ sau hai loạt tấn công của bộ binh Tây ban nha do trung úy Maolini hướng dẫn rất gan dạ; địch lui quân, trái với thường lệ, họ không mang theo xác chết. Ta liền biệt phái một nhóm bộ binh chiếm đồn. Số quân sĩ còn lại cắm trại trong một ngôi làng gần ngay phía trước đồn.

Pháo hạm phải dừng lại trước các chướng ngại khi quân hai bên đụng nhau trên bờ. Các loại chướng ngại có kích thước thật đang nể. Ðập dưới đáy kinh thật chắc chắn (đập thứ tám) lấp một phần kinh dài suốt chín mươi thước gồm ba chặn, mỗi chặn có chín ghe nhận chìm chở đầy bùn đất, phía sau đập suốt 1 100 thước thì địch dùng một số thân cau ném chắn ngang mặt kinh, một số đóng xuống đáy kinh san sát giống như một nơi ương cây giống. Sau trại cây giống lại có một đập nữa (đập thứ chín). Ðập thứ chín nằm ngay phía trước đồn mà ta vừa chiếm xong và phía trước ngôi làng quân ta đang cắm trại, các pháo hạm còn kẹt lại phía sau.

Ngày 7 tháng 4, ta khởi công phá đập. Chờ lúc nước ròng, ta vét bùn trong các thuyền nhận chìm. Người An nam nhận chìm ghe nhưng đục lỗ quá cao không đục ở đáy, nên khi vét hết bùn thuyền lại nổi, thủy triều dâng lên thì thuyền trôi đi. Công việc phá đập nặng nhọc hơn các ngày hôm trước nhiều, nước ngập lên đến vai, đầu ló ra khỏi nước thì trời nóng như thiêu như đốt. Bộ binh nhiều người bị dịch tả: thủy quân đã bị dịch tả từ mấy ngày trước rồi. Càng ngàng càng phải huy động thêm bác sĩ cho đoàn viễn chinh; những người lính đánh bộ không bao giờ quên sự tận tâm của các bác sĩ Champenois và Azaĩs; bên thủy quân có bác sĩ Dugé de Bernonville. Ngay khi đến đập thứ bảy đã có đến 150 quân sĩ bị bịnh phải di tản: mỗi người một bịnh đòi hỏi phải săn sóc khác nhau; y tá cũng thiếu, bọn cu li Tàu bị dịch tả phải tự xoa bóp cho nhau. Nhiều tàu sa-lúp móp méo dưới móng ngựa từ khi còn ở Peh-tang bên Tàu bây giờ lại tệ hơn, bị thủng đáy và nước tràn vào; phần lớn các ghe thuyền cướp được của quân An nam cũng bị nước vào. Xác của quân lính ta thâm đen vì tai ương dịch tả, tạm thời đặt ở gầm tàu, cứ mỗi lần tàu bị chòng chành thì đè lên người sống. Thật quả là những trạm cứu thương quân y hết sức thảm thương. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà trung úy hải quân Vicaire đã thấy trên chiếc sa-lúp Loire năm người trút hơi thở trước mắt mình. Hạm trưởng và sĩ quan trên tàu Monge tiếp tục chỉ huy thủy thủ phá đập, đây là số quân lính duy nhất từ khi khởi sự phá đập đến nay mà vẫn còn đứng vững. Trong số thủy thủ đoàn của tàu Monge nhiều người đã chết, người nào còn sống sót chắc lâu lắm mới đủ sức hồi phục. Vị chỉ huy Bourdais bị sốt; những hôm gần đây ai cũng thấy ông suy yếu rõ. Ông thường xuống xuồng nhỏ để huy động, nếu thấy quân lính chèo xuồng lơi tay vì mệt lã thì ông quay sang người cầm đầu bọn lính chèo mà nói rằng: ‘’Bảo họ cố gắng lên, tao sẽ đề nghị gắn huân chương cho mày’’. Cứ như thế mà ông thúc họ cố gắng thêm Vị chỉ huy Bourdais, người điều động lính chèo và năm anh chèo xuồng người nào cũng ngất ngư như sắp chết. Vào một buổi chiều, khi đập thứ chín đã phá xong và sức chịu đựng đã cùng cực, người ta để ý thấy có một vài người Pháp và người Tagal bắt đầu than phiền.

Trong hai ngày gánh chịu cực nhọc và thương vong để phá đập, các pháo hạm bằng sắt đã vượt được khúc kinh bị chận để gặp đám bộ binh chiếm đồn An nam còn đang đóng quân để chờ. Kinh Bưu điện đổi hướng một cách bất ngờ tại vị trí này. Một khuỷu sông rất gắt làm kinh xoay hướng, cách đó vài trăm thước kinh lại đổi hướng một lần nữa cũng rất gắt làm cho Rach-run-ngu trở lại hướng bắc nam như trước.

Bọn gián điệp mà ta tra hỏi cho biết trước khi đến My-thô còn có một đồn quan trọng nữa trên kinh Bưu điện. Sau khi xác định vị trí của đồn, quân ta chọn chiến thuật như sau: dùng cu li mang vài khẩu đại pháo bọc hậu để bắn vào phía sau đồn, trong khi đó hạm đội sẽ tấn công vào mặt trước. Ngày 9 tháng tư, nhóm quân sĩ tăng viện cuối cùng đã đến nơi và nhập hết vào đạo quân viễn chinh đánh My-thô; pháo hạm số 20 (hạm trưởng Gougeard) vừa đến cũng tháp tùng theo các pháo hạm số 18, 31, 16, để tiến lên dẫn đầu. Ðạo quân trên bộ tiến dọc theo kinh Bưu diện. Ðiểm tập họp của hạm đội và quân trên bộ là cửa một con kinh nhỏ đổ vào Rach[8]

Các pháo hạm tới điểm tập họp nhanh chóng. Nhưng cả đoàn quân trên bộ lạc đường. Tên dẫn đường An nam cố tình đánh lạc hướng đoàn quân hay chính anh ta bị lạc cũng không biết, hoặc có thể anh ta cũng không hiểu quân ta muốn gì. Việc di quân hết sức cực nhọc, vì đoàn quân lọt vào một vùng toàn ruộng, kinh rạch chằng chịt, rừng thưa rải rác[9] Gần các bờ rạch, đất ướt sũng và mềm vì nước thủy triều lên xuống; bên trong, cách bờ một chút, thì người An nam theo tập quán đào dẫn mương rãnh khắp nơi, rễ cau bò ngập trong mương; quân lính ta chịu thua, lanh quanh không tiến lên được. Cả đạo quân phải nhắm chừng mà đi không hay rằng lạc hướng, càng đi càng xa con kinh Bưu diện, sai một góc đến 30 độ. Bỗng quân ta gặp một ngôi làng có rất đông quân lính An nam. Quân Pháp liền dàn ra chuẩn bị đánh nhau, trong khi đó quân địch lại rút lui mất hết. Quân ta liền chiếm làng chẳng phải đánh gì cả. Ta xem lại thì thấy ngôi làng nằm đúng trên con rạch mà cửa rạch là nơi tập họp; làng chứa đầy súng, lao và quân dụng. Quân ta biết cửa kinh là điểm tập họp nhưng cửa kinh còn cách bao xa thì thật khó tính cho ra; đúng tên dẫn đường đánh lạc hướng quân ta rồi, phải cẩn thận có thể lọt bẫy. Quân ta lại tiến lên hy vọng tìm được một nơi tạm ổn để cắm quân. Nhưng cả đoàn lọt vào một vùng đầm lầy, hố mương chằng chịt, cỏ mọc bít bùng; địa thế vừa nguy hiểm, lại vừa không giữ được trọng trách giao phó là yểm trợ cho đoàn pháo hạm.

Quân ta tiến lên lại vô tình lọt vào cạnh ngay đồn địch mà ta đang lùng tìm để đánh; bọn gián điệp bảo thế; trung tá Allizé cũng có linh cảm như thế. Quân ta liền quay lại đường cũ và cắm quân trong ngôi làng vừa rồi. Ít ra là nơi đây, dựa vào con rạch ta có thể để liên lạc với hạm đội. Ðoàn quân cắm trại vừa xong thì đại đội 3 của đại úy Sénez được lịnh lên đường hộ tống một đoàn vận tải lương thực sắp đến; đại đội phải đi đêm mà không được nghỉ ngơi gì.

Vào khoảng mười một giờ tối (ngày 9 tháng 4), bỗng nghe thấy tiếng la và tiếng báo động của quân canh. Một vùng sáng choang đang di chuyển trên kinh Bưu điện. Trung úy hải quân Joucla trên tàu Echo, chỉ huy đoàn vận chuyển đạn dược và lương thực, liền nhảy xuống ghe nhỏ xáp đến phía đuôi các pháo hạm thông báo tình trạng nguy hiểm. Sau đó thì hướng ghe vào bờ kinh, nơi mà đoàn tàu vận chuyển đang tập họp, ông ra lịnh phải nhổ neo thật gấp. Nhờ nước lớn và chảy mạnh nên việc tách bến cũng nhanh. Ông tiến lên trước và kéo một thuyền hỏa công của địch. Trung úy Besnard, do trung tá Allizé đưa đi thám thính cũng kéo một thuyền hỏa công khác ra xa. Ðó là hai thuyền buồm chở đầy dầu; cả hai đều được khéo léo đưa vào một nhánh kinh nhỏ của Rach-run-ngu, thật là may phước. Hai thuyền hỏa công cháy rực, lửa sát tới mặt nước; cỏ và cây bị cháy nám cả một vùng rộng lớn. Phản ứng và hành động mau lẹ này làm cho hai trung úy hải quân Joucla và Besnard rất hãnh diện.

Nước trong kinh chảy mạnh khoảng hai hải lý, vì thế thật nguy hiểm. Các pháo hạm phải buộc giây vào nhau. Ngay đêm đó phải dựng một hàng cọc chắn bảo vệ các pháo hạm, và từ đêm hôm sau vị chỉ huy đoàn quân cứ tối đến là cho giăng xích sắt chận ngang kinh.

 Ngày 10 tháng 4, từ mờ sáng, ta lại đổ đi tìm xem đồn địch ở đâu.

Một đoàn trinh sát do đại úy pháo binh du Chauffaut hướng dẫn (gồm bộ binh Tây ban nha, một đại đội bộ binh, một đại đội thủy quân đánh bộ) băng đồng mà đi. Tên dẫn đường An nam trước hết dẫn họ đi xéo qua phải; vì bị quân ta hối thúc quá và sau đó thì đánh hắn, hắn bèn đổi hướng đi và dẫn cả đoàn trinh sát của ta thẳng tới sát My-thô. Cả toán quân cải nhau huyên náo và hổn loạn; trong khi ấy bọn lính Tây ban nha gốc người Tagal và một chiếc ghe An nam hai bên bắn nhau vài phát. Ðoàn trinh sát lại quay về; trên đường bị một khẩu đại pháo không biết từ đâu bắn tới một quả: vài người trong đoàn cho rằng chổ đại pháo bắn ra tức đúng là đồn địch rồi: vài người khác thì cho rằng chưa chắc[10] Trung úy hải quân ( thuộc công binh) đề nghị dùng ghe đổ xuống Rach-run-ngu xem sao. Ghe bị bắn, nhưng tìm ra đồn và ông quay ghe ngược trở về. Việc dùng ghe thám thính như thế nguy hiểm lại chưa có phép của cấp trên. Vài nông dân cho biết rằng kinh không có canh phòng và các đồn đều di tản hết rồi.

Trinh sát thì quá mơ hồ, nhưng ta lại phải mang quân tiến lên. Trong tình thế này, vì không biết đích xác đồn ở đâu, nên ta cứ kể như đồn địch đã di tản hết chỉ còn lưu lại một ít pháo binh; vì thế vị chỉ huy du Quillo cho lịnh trung tá Bourdais cứ tiến đánh My-thô. Ông chỉ thị cho trung tá Bourdais phải hết sức cẩn thận và cũng cho ông này biết là sáng nay ta vừa bị một phát đại pháo nhưng không biết ở đâu bắn tới. Trung tá Bourdais dẫn ba đại đội quân tăng viện, bộ binh, thủy quân, thủy quân đánh bộ tiến về Mỹ-thô, tất cả là ba trăm người. Họ có lịnh khi gần đến My-thô còn độ hai ngàn thước thì dừng lại chờ đạo quân viễn chinh đi sau. Vào ba giờ chiều, các toán quân của trung tá Bourdais xuống tàu sa-lúp, phía trước là các pháo hạm: cả đoàn lên đường, pháo hạm số 18 dẫn đầu mang cờ hiệu của trung tá Bourdais; tiếp theo là các pháo hạm 31, 22, 16. Pháo hạm 20 bỏ neo ở lại không theo đoàn tàu._Một lúc sau có lẽ chính đồn địch mà ta tìm kiếm từ hai ngày nay (đồn thứ năm) bắt đầu nổ súng. Các pháo hạm của ta cứ nhắm hướng phỏng chừng mà bắn trả, rồi tiếp tục tiến lên. Ta vẫn không biết đính xác đồn địch ở đâu hết. Bất thình lình, đồn hiện ra ngay trước mặt chỉ cách bốn trăm thước, đúng vào một khúc quanh của con kinh. Pháo hạm số 18 đi đầu có mang cờ hiệu của trung tá Bourdais bắn một quả đạn. Ðồn An nam liền bắn trả ba quả, ba quả đạn An nam đều có hiệu lực. Một rớt lên tàu, một làm bị thương một quân lính của ta; quả thứ ba làm bay mất quả tim và cánh tay trái của trung tá Bourdais. Tức thời pháo hạm 18 vọt lên, theo sau là pháo hạm 31. Cả hai được các pháo hạm 16 và 22 dàn ra yểm trợ. Bốn đại pháo nòng 30 có khía phóng đạn liên hồi vào đồn An nam. Ðồn bị lủng nát, quân phòng ngự bỏ đồn rút lui. Quân Pháp liền chiếm đồn._Kể từ lúc đó kinh Bưu điện được hoàn toàn khai thông.

Như vậy là đường My-thô được khai thông bằng cái chết của đại úy hải quân Bourdais. Quân sĩ đều phát lộ niềm xúc cảm khó tả, lẫn lộn giữa chiến công và mất mát: thôi ta cứ để những xúc cảm đó gắn bó với nhau. Sức mạnh của xúc cảm làm cho mọi người phải bật lên tiếng kêu Trời; nhưng rồi từ từ cũng lắng xuống. Người ta phủ lên xác của ông một lá cờ để làm vinh danh ông, và cũng có thể là để che cảnh tượng khủng khiếp đừng cho những người còn đang chiến đấu phải nhìn thấy. Khi thu nhặt các phần thi thể, ta tìm được cánh tay của ông, nhưng trái tim thì tìm không thấy. Trong suốt tám ngày trước đây, ngày nào ông cũng phá được một đồn hay san bằng một đập. Ông tiến lên, xô ngã những chướng ngại trước mặt bằng cánh tay lúc nào cũng nôn nóng, những cảnh chết chóc và hấp hối không làm sờn lòng hay nhụt chí của ông. Ðó là hình ảnh của cuộc đời ông. Ông chưa đầy bốn mươi tuổi; và vừa thăng chức đại úy thuyền trưởng đại chiến hạm trong vinh dự, trong cái tuổi mà người khác còn trong cấp bực thứ yếu. Không phải vì thiếu sĩ quan mà ông đã được thăng cấp, tiếng vang từ Paris cho biết: chính tiếng nói của chỉ huy trưởng và của cả đoàn quân viễn chinh đã đem đến cho ông cấp bực ấy. Nhưng ông đã ngã xuống khi vừa thấy đích, trợt chân trên một vũng máu. Chúng ta phải sống. Ông ta không còn nữa. Chẳng có gì xảy ra cả.

Ðại úy hải quân Desvaux [11] nhận quyền điều khiển các pháo hạm thay thiếu tá[12] Bourdais. Tất cả đoàn quân viễn chinh còn lại từ từ di chuyển, đến sáng ngày 11 thì đến đồn thứ năm mà quân ta đã chiếm trước đây: đoàn quân lên tàu khi trời còn tờ mờ, quân lính trèo lên tàu rất mau và trật tự tại một nhánh kinh phụ. Hai đoàn trinh sát cho đi trước. Quân trên bộ bỏ hẳn bờ bên trái, đổi sang đi trên đường cái dọc theo bờ bên phải của Rach-run-ngu, đường dẫn thẳng về My-thô. Một trong hai đoàn trinh sát cho biết đồn Tam-léon (đồn thứ sáu) địch đã di tản hết: hai đại đôi bộ binh bèn chiếm lấy đồn. Tam-léon là một ngôi làng cách My-thô ba ngàn thước, nằm vắt ngang một con kinh nhỏ. Ðoàn trinh sát thứ hai do đại úy công binh Bovet hướng dẫn, gồm có bộ binh Tây ban nha và một đại đội lính đánh bộ, vượt qua ba con rạch nhỏ cắt ngang đường cái quan, rồi tiến đến gần thành địch, chỉ còn cách có hai trăm thước. Bắt đầu ngày 10 tháng tư cả đạo quân viễn chinh đã đến gần sát My-thô. Bỗng trong toán quân biệt phái trinh sát của đại úy Bovet nổi lên tiếng đôi co: chia làm hai phe cải nhau om xòm[13] Suốt phần còn lại trong ngày 11 tháng tư ta quyết định dành để tưởng niệm thiếu tá Bourdais[14], không hành quân nữa. Việc tưởng niệm một ngưòi chiến hữu thì toàn thể quân sĩ ai cũng cho là phải nhưng đã làm ngưng trệ việc hành quân: làm cho cả đoàn quân mất công đầu, tức là chiếm My-thô trước tiên. Chỉ chậm trể có vài giờ mà đành mất ưu thế: My-thô đã lọt vào tay chuẩn đề đốc Page.

Ðêm 11 tháng tư, lại có thêm quân bổ xung từ Saĩgon xuống nhập vào đoàn viễn chinh: vì ta chưa biết chắc là chỉ cần trở bàn tay để chiếm thành hay phải vây hãm lâu dài. Viện binh gồm có một đội pháo binh nòng 12 có ngựa kéo, phân đoàn 4 pháo binh mang theo ngựa và xe tải đạn, vì cho đến giờ này ta vẫn phải dùng sức người thay ngựa. Ngày 12 tháng tư, tất cả đạo quân đều tụ họp tại làng Tam-léon; tiền quân ta đóng cách thành địch chỉ có một ngàn năm trăm thước; trung úy Aigueparses chỉ huy toán tiền quân gồm năm mươi bộ binh đóng tại một bìa rừng cau và dừa, phía sau khu rừng dừa là thành phố My-thô. Ðường cái đã làm lại, tất cả các cầu cũng bắc lại. Ðoàn pháo hạm bỏ neo phía trước đạo quân một quảng ngắn, cách thành địch một ngàn năm trăm thước, pháo hạm bắn vào thành bẩy quả đạn súng cối có khía. Vào khoảng 11 giờ sáng, ta thấy một đám khói bốc lên ngay cửa vào tỉnh My-thô. _ Quân viễn chinh qua nhiều lần tăng viện, đã trở thành một lực lượng chín trăm người. Riêng dàn pháo binh, không kể đại pháo trên tàu sa-lúp và các ca-nô vũ trang, đếm được mười tám miệng lửa, trong số này có sáu súng cối._Ngày 13 tháng tư, đã biết rõ địa thế nên quân ta tiến lên:gồm công binh mang thang, súng cối miền núi, hỏa tiển, bốn đại đội thủy quân đánh bộ. Ta cũng bố trí để phòng hờ địch tấn công ta từ bên ngoài thành: bằng cách cho đại đội 4 bộ binh làm xung kích đi trước dò đường và tìm vị trí thuận lợi để tấn công. Trung tá du Quillio đang nghĩ cách ra tay đánh úp vào thành. Khi quân ta tiến gần khoảng cách chỉ còn bằng tầm đạn của địch thì lại thấy cờ tam sắc phất phới trên tường thành từ lúc nào rồi. Ngày hôm sau, 14 tháng tư, quân sĩ mới kéo vào bên trong thành.

Ðoàn chiến hạm của chuẩn thủy sư đề đốc Page, tiến từ cửa biển vào theo đường thủy mà ta đã khổ công dò tìm; hạm đội oanh liệt và gan dạ phá chông trên sông Cambodge dưới lằn đạn của địch tiến đến sát thành My-thô khoảng hai giờ sáng ngày 12 tháng 4. Thành đã bỏ trống, thủy thủ đoàn chiếm thành không phải nổ một tiếng súng nào cả.

Một mặt đoàn thám thính của ta sáng ngày 10 tháng 4 đã tiến đến thẳng trước mặt thành My-thô, một mặt đoàn pháo hạm cũng oanh liệt tiến lên làm cho quân địch mất tự tin; đến đêm 11 một đoàn trinh sát khác của ta lại xáp đến gần thành chỉ còn cách 200 thước, đồng thời trên sông Cambodge đoàn chiến hạm của thủy sư đề đốc Page cũng bắt đầu nhả đạn, người An nam bị áp lực ở mặt tiền tuyến và cả hậu tuyến. Họ rút lui.

Sự trùng hợp có vẻ bất ngờ của hai lực lượng xử dụng hai phương tiện hành quân khác nhau thật sự đã được nghiên cứu trước và chuẩn bị từ trước. Ngày 6 tháng 4, vị phó đề đốc Charner cho chỉ huy trưởng chiến dịch My-thô biết trước là có thể trông cậy vào một lực giúp sức hiện diện kịp thời trên sông Cambodge;’’Hai tàu Lily và Sham-Rock, vắng mặt từ tám hôm nay, không theo đoàn quân chiến dịch My-thô; ý đồ của tôi là cho hai pháo hạm đi theo hai tàu này để cố tìm đường biển đưa vào sông Cambodge.’’._Vị chỉ huy trưởng phải chờ đến ngày 8 tháng tư mới có thể thẩm định được việc di chuyển của hạm đội trên sông Cambodge từ cửa biển vào và khả năng phòng thủ của địch hai bên bờ. Trên bờ đạo quân viễn chinh cũng tỏ ra đang thắng thế và sắp tiến đến gần My-thô. Lúc này chính là lúc có thể phối hợp hai đạo quân: một từ biển vào và một do chỉ huy du Quilio dùng sông rạch để đem quân đến My-thô Vì vậy trong ngày 8 tháng tư phó thủy sư đề đốc Charner đưa các lời huấn thị như sau cho chuẩn thủy sư đề đốc Page còn đang đóng quân gần Bien-hoa:

‘’Tôi giao cho ông hai tàu Lily và Sham-Rock, sau khi thăm dò sông Cambodge xong sẽ bất thần quay về Saĩgon để được tiếp tế.

‘’Ông có thể trương cờ hiệu của ông trên bất cứ chiến hạm nào trong đoàn chiến thuyền mà ông thích: trên chiến hạm Fusée, Lily, Sham-Rock, hay cả trên chiếc Dragonne cũng được, tàu này hiện đang giữ vị trí tiền quân của ta.

‘’Ông phải hành động cẩn thận, ông phải hết sức nỗ lực theo đường biển ngược sông Cambodge để đánh My-thô, trong khi đó trên bộ đoàn quân viễn chinh sẽ ngược Rach-run-ngu đánh liên tục vào thành.

‘’Tôi tiếc rằng, ngoài số quân và chiến hạm sẵn  có, tôi không thể giao cho ông hơn nữa. Ðiều tối quan trọng dưới mắt tôi là kết quả trận này có thể tháo gở cho hoàn cảnh khó khăn của ta hiện nay. Hạm đội của ông xuất hiện trên sông Cambodge chắc chắn sẽ đánh lạc hướng quân địch, góp phần làm cho My-thô mau xụp đổ và làm cho quân thù phải sớm điều đình.’’

Chuẩn thủy sư Page rời Bien-hoa ngày 10 thang 4, vào 10 giờ sáng, bằng tàu Fusée do đai úy Bailly điều khiển. Theo sau có tàu Lily và Sham-Rock. Ông vượt các bãi cạn ở cửa sông Cambodge, gần đó có tàu Dragonne do đại úy Galey đang thả neo làm tiền đồn; đại pháo hạm Dragonne cũng tháp tùng theo dẫn đầu và chỉ đường cho cả hạm đội. Vào hai giờ sáng thì hạm đội thả neo cách đập thứ nhất 400 thước. Thật may mắn cho ta đêm tối đen chưa từng thấy, không có một ánh sao nào trên trời, ta phá cọc và cừ để lấy đường cho tàu; trong khi đó các đồn địch bắn loạn xạ. Sáng ngày 11, hạm đội ngược sông Cambodge bằng nhánh phía nam nhưng lại phải ngừng lại nơi đầu một hòn đảo vì có đập chắn; hòn đảo chia sông thành hai nhánh (nhánh nam và nhánh bắc). Hai bên đập có đồn canh giữ, mỗi đồn có 18 khẩu pháo. Ngày 12 tháng tư, đoàn tàu nã pháo vào hai đồn, đồng thời phá cừ cọc để đi. Vào một giờ rưỡi trưa, hạm đội thả neo trước thành My-thô chỉ cách thành có 200 thước; nhưng thành My-thô đã di tản trước đó ba giờ đồng hồ rồi. Thủy thủ đoàn của hạm đội do trung úy hải quân Desaux hướng dẫn chiếm thành và thượng cờ tam sắc. Ðạn súng cối do cánh quân trên bộ của ta phóng vào thành trong các ngày 12 và 13 tháng 4 may mắn không trúng quân sĩ nào của ta trong thành.

Sông Cambodge nằm vào mặt nam của thành phố My-thô, sông Run-ngu nằm bên phía đông. Ðối với kinh Bưu điện thì thành phố nằm trên hữu ngạn. My-thô là một vùng nhà cửa rộng lớn, nhà lợp bằng lá dừa lùn theo tập quán của người An nam, nhìn xa giống như nhà lợp rơm của ta. Bộ mặt chung của thành phố có vẻ nghèo nàn; nhưng dọc theo kinh Bưu điện thì nhà cửa có vẻ thanh nhã một cách đáng nể; nhà xây cất theo lối nông thôn, nối nhau liên tục, mái lợp ngói nổi bật trên những vùng trồng dừa và cau, tất cả cho thấy vẻ phong lưu, thỉnh thoảng vài nhà tỏ ra thật giàu có. Ta chỉ có thể dùng cảnh hào hoa của Cho-quan và kinh Tàu mới có thể so sánh được cảnh tượng hai bên bờ Rach-run-ngu mà thôi. Cây dừa ở đây to lớn hơn các cây ta thấy ở Saĩgon: quân viễn chinh đánh My-thô uống thật là đã khát.

Thành My-thô xây cất theo lối Âu-châu. Thành vuông vức có ụ làm pháo đài. Hào chung quanh rộng có nước; tường thành cao rất dầy. Vài nơi chung quanh thành là đầm lầy, vì vậy sức phòng thủ do công trình nhân tạo còn có thiên nhiên hỗ trợ nữa. Khí giới của thành My-thô thì có đại pháo nòng lớn. Thành kiểm soát hết sông Cambodge và các đường thủy đổ vào sông này. Do đó thành có một vị trí chiến lược quan trọng. Hơn nữa My-thô còn là vựa thóc lại vừa là thị trường lúa gạo quan trọng của cả đế quốc An nam. Nếu trong mùa mưa mà đánh thành My-thô khi có thêm ba tỉnh miền nam hỗ trợ, thì quả thật ta không thể nào đánh nổi.

Vị phó vương của sáu tỉnh, trước khi bỏ thành, thả hết người thiên chúa giáo, ông nói với họ rằng ‘’Hãy cứ đi theo các bạn người Pháp của quý vị’’. Ðó là một gương nhân từ mà về sau cả người An nam và kể cả kẻ thù của người An nam tức là người Pháp chúng ta không ai làm nỗi. Ông cho đốt hết các kho nhà nước,và cả các xâu tiền kẽm. Ta chẳng còn vớt vát được gì.

Gạo cháy dở dang bán giá rẻ mạt chỉ để nấu rượu gọi là sam-chou[15], một loại rượu trắng của người An nam. Tiền kẽm chỉ có giá khi còn bó lại thành xâu. Buộc lại thì công nhiều lắm, vì thế tiền mất hết giá. Tại các ụ đóng ghe ta cướp được vài thuyền quan thật đẹp bằng gỗ giá tị là một loại gỗ rất quí. Ta liền tu sửa các ghe cướp được, trang bị khi giới, đem tăng cường cho hạm đội của ta.

Quyết định của địch quân rút bỏ thành My-thô làm cả đoàn quân tăng viện do chỉ huy trưởng viễn chinh đưa từ Saĩgon xuống trở nên vô ích. Tóm lại tất cả cuộc hành quân chỉ gồm có giai đoạn chuẩn bị chớ không đánh đấm gì cả, thôi cũng là chuyện may. Tin thắng trận My-thô đến tai của vị chỉ huy trưởng và đại tướng de Vaissoigne khi hai ông thân hành đi thăm mặt trận Mỹ thô. Chiến thắng giúp cho vị chỉ huy có thể lần lượt phân phối đưa quân đội giữ nhiệm vụ ở các nơi khác, Quân lính hầu hết là quân tình nguyện. Trước khi thành My-thô mất đã có vài đám mưa rào báo hiệu mùa mưa đã tới, mưa gây ra tình thế càng ngày càng khó khăn hơn, có vẻ như muốn cho thấy là ý kiến của những người trước đây chống lại việc tiến đánh My-thô là có lý. Thư từ quân lính gửi đi theo từng chuyến định kỳ, tức ngày 11 tháng 4, chắc phải nhắc tới việc này. Nhưng thành My-thô lại mất quá sớm vào ngày 12 tháng tư; vì thế khi tàu đưa thư Écho đến Singapour thì trong số thư chống lại việc tiến đánh My-thô cũng có cả thư báo tin chiến thắng thành My-thô gửi về Pháp.

Ðề đốc thủy sư cử một sĩ quan đóng tại My-thô đại diện cho ông ở đây: trước khi rời My-thô ông hoạch định cho vị sĩ quan này những gì phải làm và những gì không nên làm.’’ Quyền lực của ông là quân binh, hành chính và chính trị. Ông đừng quên là kẻ thù còn trước mặt: vậy phải bảo trì pháo binh và bộ binh. Vùng lãnh thổ tứ giác giữa các sông Cambodge, Bưu diện, Thương mại và khúc sông Vaĩ-co tây là do quân ta chiếm cứ. Dân chúng sẽ được thông báo về việc thành lập lãnh thổ ta bằng một tuyên cáo. Ðối với người dân lương thiện ông áp dụng sự công minh, khoan dung và nhã nhặn. Ông chống lại cướp bóc để che chở họ. Ông không nên tìm cách tự ý bành trướng việc chinh phạt của người Pháp. Dân chúng ở phía bắc vùng tứ giác ta nên xem như đồng minh hơn là kẻ thù. Giải hết tù về Saigon. Chuyển hết thương mại về Saĩgon. Saĩgon phải là trung tâm thương mại duy nhất của ta.’’ Nhờ sự tín cẩn đặc biệt của thủy sư đề đốc đối với mình nên đại úy hải quân Devaux mới được giao những trọng trách lớn lao như vậy trong suốt mấy tháng đầu tiên sau khi chiếm My-thô. Phó thủy sư đề đốc chỉ huy trưởng, trước khi quay về tổng hành dinh ở Saĩgon, đã giải quyết hết những gì liên hệ đến việc phòng thủ My-thô: bốn trăm người đóng giữ thành. Ðại pháo của hải quân thì đem dùng trang bị cho thành mới chiếm.

Toàn thể pháo binh đánh bộ trở về Saĩgon, quân sĩ pháo binh trở lại đóng chỗ cũ trong thành phố Tàu và dọc theo các chùa như trước kia để chờ qua hết mùa mưa. Tình trạng sức khoẻ của quân lính đi đánh My-thô suy xụp một cách nghiêm trọng; vào cuối tháng tư, các bịnh viện chật cứng bịnh nhân sốt rét và thổ tả. Trong lúc đánh nhau con người sống một đời sống giả tạo: khi nghỉ ngơi, ta cứ tạm cho như vậy, thì sự thực lại trở về với họ, vi trùng của tinh thần và thể xác phát sinh và bành trướng: tình thần buồn nản, xác thân rã rời. Mùa mưa thật sự đến rồi, cả Nam kỳ miền nam biến thành một vùng đầm lầy mênh mông. Bầu trời mất hết vẻ trong sáng: từng chập trời đổ mưa như thác. Chỉ có cảnh xanh tươi của miền nhiệt đới là tồn tại, ngoài ra chẳng có gì khác hơn là màu tối tăm của mưa dông đầy trời. Mùa màng thay đổi trên quê hương ta hình như cũng phù hợp với bản tánh dễ biến đổi của ta. Nơi xứ Nam kỳ y trang muôn thuở của thiên nhiên, lúc nào cũng như nhau, tạo cho ta một nỗi buồn thảm vô biên[16] Dịch tả vẫn hoành hành: nạn nhân vẫn lẩn quẩn trong đám quân đi đánh My-thô. Vị chỉ huy tiểu đoàn của công binh là Allizé de Matignicourt chết liền sau khi ngã bịnh có hai ngày. Thế là kỳ viễn chinh sau hết đã làm thiệt mất hai vị sĩ quan lớn. Trung tá Bourdais bị quân thù giết; trung tá Allizé, kém may mắn hơn không có cái vinh dự đó, đã bị dịch thổ tả mang đi. Dịch tả trong mười lăm ngày đã gây chết chóc nhiều hơn là đại pháo và súng bắn trong một trận hỗn chiến.

  Ðám táng của ông là một tang lễ thật lớn. Gần như tất cả sĩ quan của toàn thể đạo quân viễn chinh đều hiện diện: công binh, pháo binh, thủy quân, bộ binh, thủy quân đánh bộ, các cơ quan bịnh viện đều có cử người đại diện. Ðoàn người đưa đám chật ních cả nghĩa trang của người An nam, mà bây giờ đây đang chôn đầy người Pháp. Mười hai cái hố đào sẵn  ở nghĩa trang ngập nước do cơn mưa từ tối hôm qua, mưa đã biểu lộ sự đau đớn của mình bằng màu nước hòa với chất sét trong đất trở nên đỏ như máu. Gió mùa tây-nam lộng hành mang đến cho bầu trời những đám mây màu chì: một cảnh nữa đêm nữa sáng bao phủ mặt đất, buồn thảm hơn cả một ngày nhật thực. Mưa trút như thác đổ: hình như có sự giận dữ nào đó đã vơ hết mưa gió để ném xuống mặt đất từng mảng lớn[17]_ Những nỗi niềm chán nản và yếu mềm đã thấy xuất hiện trong nhóm dân đi chiếm thuộc địa. Mục đích của chúng ta trở nên tối tăm: ta tự hỏi biết bao nhiêu nhân mạng phải hy sinh để được lợi ích gì đây? Chung quanh ta đều thiếu thốn tất cả, thiếu cả trời cả đất; xem kìa những lỗ huyệt há hốc sẵn sàng chờ đón ta, khép kín bạn hữu của chúng ta, giống như những tiếng điểm danh của con Quái vật sẵn sàng ngấu nghiến chúng ta. Ta chỉ biết khẩn cầu và chờ đợi một tiếng nói vương lên giúp ta sức mạnh và chịu đựng để chống chỏi với những tại họa này. Bỗng có một người bước ra[18], tiến đến bờ huyệt cất lên những lời nói đó:

‘’Thưa quí vị, người ta nói rằng mãnh đất này, để trả thù cho việc xâm lược của ta, đã nuốt sống cái tinh khiết nhất của dòng máu chúng ta. Chính vì thế, mà chúng ta đã nhìn thấy tận mắt những vị chỉ huy của quân đoàn nổi danh đã ngã xuống, như Labbé, Deroulède, Livet; và ngày hôm nay một lỗ huyệt mở ra để đón phần thân xác của trung tá Allizé.

‘’Cái chết của trung tá Allizé là một cái tang chung. Các vị chỉ huy của ông tôn vinh ông vì kiến thức rộng rãi của ông và sự can trường vững chắc của ông; thuộc hạ của ông thương mến ông vì tính tình nhã nhặn của ông. Ông đã đem đời mình đóng góp cho công cuộc đánh chiếm My-thô: sự hy sinh đời sống cao cả của ông làm cho chúng ta vững tâm hơn là làm cho chúng ta xao xuyến; sự hy sinh này rồi đây sẽ làm nẩy nở được chăng công trình mà tất cả chúng ta bắt buộc phải làm!’’
-----------------------------------------------------------------------

[1] Arroyo de la Poste: trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[2] Trong các bản đồ mới nhất ghi là Rach-vung-ngu, (ghi chú của tác giả).

[3] Arroyo Commercial : trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[4] Arroyo Chinois : trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[5] Chính phó thủy sư đề đốc Charner chỉ huy trận đánh My-thô

[6] Một đại đội thủy quân đổ bộ, đại đội 7, đại úy Galache điều khiển ; hai súng cối nòng 16 và 200 quả đạn cho mỗi khẩu, trung úy pháo binh Savilly trách nhiệm diều khiển; hỏa tiển chiến thuật ; 1 tàu sa-lúp trang bị một súng cối nòng 15 do trung úy hải quân Vicaire điều khiển ; pháo để phá các đập chắn ; các tấm tôn để sửa chữa các pháo hạm bằng sắt bị thủng. Trung úy hải quân Delassaux, giữ vai trò quản lý đạo thủy quân đổ bộ đi cùng tàu với vị chỉ huy là Desvaux.

[7] Ðon vị đo chiều dài khoảng hơn 30 cm, (ghi chú của người dịch).

[8] Tức Rach-run-ngu (ghi chú của người dịch).

[9] Xem bảng hình 3, nơi nào có cây cối đều vẽ rõ, phần còn lại là ruộng.

[10] Sau này người ta mới biết rằng cỗ đại pháo đặt tại một ụ đóng ghe của tỉnh My-thô, (ghi chú của tác giả). Cách mô tả cho ta thấy là tác giả hiện diện trong nhóm trinh sát này, (ghi chú của người dịch).

[11] Cấp bực của Bourdais là capitaine de vaisseau, cấp bực của Desveaux là capitaine de frégate, vaisseau là đại chiến hạm, frégate là hộ tống hạm hay chiến hạm cở nhỏ ba cột buồm, (ghi chú của người dịch).

[12] Trong ngành hải quân thường có thói quen tăng cấp chỉ huy lên một bậc, (ghi chú của người dịch).

[13] Ðây là cách viết nữa chừng của tác giả : quân sĩ chia làm hai phe, một phe muốn làm đám tang cho thiếu tá Bourdais, một phe muốn tiếp tục tiến quân, (ghi chú của người dịch).

[14] Ðồn nơi đại úy đại chiến hạm Bourdais gục ngã được đặt tên là đồn Bourdais, theo chỉ thị của tổng tư linh viễn chinh. Xác của vị chỉ huy Bourdais được mang về My-thô.

[15] Người dịch không đoán ra được tiếng An nam thật sự viết như thế nào, (ghi chú của người dịch).

[16] Trời mưa tác giả nhớ nhà, (ghi chú của người dịch).

[17] Tác giả tả mưa ở một xứ nhiệt đới rất tài tình, lại phù hợp với hoàn cảnh chết chóc và tâm trạng của người lính viễn chinh. Quả thật là khéo, (ghi chú của người dịch).

[18] Ta có thể đoán người này chính là tác giả ? Ông không bao giờ để lộ cái tôi của mình qua suốt quyển sách, ta phải chú ý lắm mới thấy hình bóng và ý tưởng của tác giả phía sau những câu chuyện và những lời mô tả. Quả thật là tài tình. Những lời phân ưu bóng bẩy và sâu sắc trước lỗ huyệt của trung tá Allizé lại càng làm cho ta tin hơn chính là những lời của tác giả.

CHƯƠNG VIII

Ðề cương:


Cục diện Nam Kỳ miền duới sau khi thành Kì hòa và thành My-thô bị mất. - Chỉnh đốn binh bị. - Tổ chức dân sư.

Chiến thắng Kì hòa và Mỹ-thô gây tiếng vang vô cùng rộng lớn trên toàn cỏi Á - châu. Bọn phưu lưu dẫy đầy trên các vùng biển nước Tàu kéo nhau đổ đến Saĩgon,_ từ dân miền núi Fo-kien, dân đảo Hải nam, dân Quảng đông, dân Ả rập, Ấn độ, cho đến dân các bộ lạc Karing và Xong. Bọn phưu lưu người Âu châu tại Shang-haĩ, Hong-kong, Batavia[1] và Manille vì còn e ngại các cuộc biểu dương lực lượng quân sự còn có thể xảy ra nên vẫn đứng xa chờ đợi. Người An nam bị rúng động mạnh. Họ nhiều lần khoe khoan với triều đình Xiêm la và Cao miên là người Pháp không thắng họ được, họ thường dẫn chứng các trận đánh ở Touranne[2] như là các chiến thắng vẻ vang của họ, tuy có những lần tạm thời thua chạy nhưng không phải vì thế mà họ thất bại[3] Vị phó vương An nam cho các quan chức của hai tỉnh vừa bị mất hay rằng ông không thể ra lịnh gì cho họ cả trước khi có sự chuẩn y của triều đình Huế. Từ nghìn xưa đến giờ vẫn thế, cứ mỗi lần có sự xáo trộn ở Nam kỳ miền dưới là giặc cướp xuất hiện khắp nơi; tình trạng xã hội tại hai tỉnh lỵ xinh đẹp của ta là Saĩgon và My-thô lâm vào mối nguy bị tan rã là vậy.

Trong hoàn cảnh đó, vị tổng tư lịnh nghĩ rằng nên tạm thời ngưng việc chinh phạt, nếu không muốn trông thấy phần lãnh thổ đã lọt vào tay ta lâm vào cảnh điêu tàn. Quân sĩ đã kiệt lực, thương vong quá nhiều do dịch tả, sốt rét, kiết lỵ; mùa mưa biến Nam kỳ miền dưới thành một vùng lầy lội mênh mông, hồ ao rải rác khắp nơi; quả thật là những lý do mạnh mẻ để ngưng việc đánh chiếm thêm. Ðây là lúc mà người Pháp phải tự xử lý những hậu quả do chính mình gây ra sau khi chiếm đoạt một vùng lãnh thổ ba ngàn dậm vuông và đuổi hết những người cầm quyền cũ. Sau đây là lời một vị hoàng đế Ðông phương đã nói với một vị thái thú Trung đông: ‘’Ông nghỉ rằng tôi có thể đứng từ xa để cai trị được không? Tại sao các ông đến đây để chinh phạt chúng tôi, mà lại không cai trị nổi chúng tôi?’’ Tất cả phương châm của chiến tranh chinh phạt đều nằm trong nét dễ hiểu này.

Vì vậy các cuộc hành quân đều ngưng lại, các hoạt động quân sự được giới hạn trong khu vực lãnh thổ thuộc hai tỉnh đã chiếm mà thôi. Thành Kì hòa bị san bằng đã trả lại cho con sông Don-naĩ một quang cảnh tuyệt vời; đối với sông Cambodge, sau khi thành My-thô đã bị chiếm, quang cảnh cũng trở lại như xưa Ðó là hai con sông tuyệt đẹp, mà ta hoàn toàn chủ động dễ dàng với những phương tiện sẵn  có. Tuy nhiên, sông không thể so sánh với núi hay sa mạc trên phương diện biên thùy, nhất là trong một xứ mà người dân rất thích sống lưu động trên sông nước. Thật ra thì vùng Lưỡng Hà [4] này mới chỉ bao gồm có tỉnh Bien-hoa, giữa Nam kỳ miền dưới và lãnh thổ Huế còn có cả một vùng núi non làm biên giới thiên nhiên. Ta chỉ có thể so sánh nơi đây là vùng Lưỡng Hà khi nào chiếm hết toàn thể lãnh thổ mà thôi. Xâm chiếm tức khắc không thể thực hiện được vì các lý do vừa kể: quân lính kiệt lực, mùa mưa và tình trang hổn loạn hiện nay.

Cũng đúng lúc để ta đặt lại vấn đề có nên đánh chiếm thành Bien-hoa hay không và nếu đánh gục đường tuyến địch trên sông Don-naĩ để đặt đầu cầu trên đất địch, tức là Bien-hoa, thì có lợi ích như thế nào? Ðánh chiếm vị trí này để mở đường lên phía bắc, thì quả là người An nam sẵn sàng dưng cho ta, chỉ cần báo trước họ là đủ; nhưng vào thời điểm này chỉ là một chiến thắng quân sự vô nghĩa. Một khi đánh chiếm Bien-hoa sẽ đưa tới hai quyết định ta phải chọn: hoặc là tàn phá hết vị trí này hoặc là chiếm giữ. Giải pháp thứ nhất đưa đến một hậu quả vô bổ; giải pháp thư hai đưa đến một hậu quả nguy hại.

Vậy thì Bien-hoa là gì? Là vỏn vẹn một vị trí ranh giới. Ví như chúng ta phá hủy Bien-hoa, người An nam sẽ rút về hậu tuyến, tức trên đường ra Huế, như thế họ lọt ra ngoài tầm kềm tỏa của ta. Hiện nay là mùa rất thuận lợi cho việc đào xới. Ta có thể tin rằng họ sẽ chờ ta đánh và dành cho ta những bất ngờ bằng cách đào hào đắp lũy cố thủ với các chướng ngại phòng ngự phụ thuộc mà họ thành thạo một cách phi thường. Tóm lại chẳng có lợi gì cho ta cả.

Còn nếu ví như ta chiếm giữ vị trí này. Bien-hoa sẽ trở thành một đầu cầu của ta nằm hẳn trên đất địch, nhưng lại hoàn toàn cô lập. Nếu chúng ta muốn phong tỏa nhanh chóng Bien-hoa, cũng như phong tỏa Saĩgon trước kia, thì cần có năm trăm quân, một số đồn nhỏ để nối liền với tỉnh Gia-dinh, một số pháo hạm để làm chủ trên nhánh sông Bien-hoa. Tất cả những chuyện này cũng chỉ để xua quân An nam được bốn đến năm dặm trên đường ra Huế, chẳng có ích lợi gì thêm cho phần lãnh thổ thuộc địa của ta đã chiếm.

Theo ý kiến chung cũng như theo nguyên tắc quân sự thì trong hoàn cảnh như thế ta nên chú ý vào bối cảnh toàn diện hiện nay mà không nên để ý đến khía cạnh riêng của một vấn đề; vì vậy không thể nào có quyết định gởi một đạo quân viễn chinh đi đánh Biên-hòa. Sông Don-naĩ là một biên giới tạm thời; hữu ngạn thuộc về ta, tả ngạn thuộc người An nam trừ ra hai vị trí trên tả ngạn ta phải giữ: một là ngôi làng thiên chúa giáo nằm đối diện với Saigon, hai là Fou-yen-mot do ta trang bị mạnh mẽ để kiểm soát toàn vùng. Làng thiên chúa giáo trung thành với ta, bảo vệ họ là chính đáng và rất đúng trên phương diện chính trị. Fou-yen-mot dùng để canh chừng toàn xứ, và cũng là nơi ta lấy gỗ để bán; ngoài ra khi cần thiết ta sẽ xuất quân từ đây để đánh bọc hậu vào phía bắc Bien-hòa khi cần chiếm vị trí này.

Ðể khống chế toàn lãnh thổ ta thiết lập hệ thống bố trí quân sự như sau:

Thành lập một đường tuyến chiến lược chắc chắn từ đồn Testard, các đồn Tong-keou, đồn Oc-moun, đồn Tay-theuye cho đến thành Tay-ninh, các đồn lũy liên đới hỗ trợ với nhau, kéo dài từ Saĩgon dọc theo biên giới giữa Nam kỳ và vương quốc Cao-miên. Sông Don-naĩ sâu, tàu bè cở lớn có thể lưu hành dễ dàng vào sâu tới sáu mươi dặm trong đất liền kể từ bờ biển; trên sông tấp nập tàu bè chuyên chở lớn nhỏ, hộ tống hạm, pháo hạm. Như thế kể như tại tỉnh Saĩgon và mặt giáp ranh với tỉnh Bien-hoa ta có hai đường tuyến quân sự, hỗ trợ nhau và cách nhau từ năm đến tám dặm. Ðường tuyến thứ nhất gồm các lực lượng lưu động trên sông, có khả năng hiện diện khắp nơi; có thể đặt đại pháo ở hàng trăm vị trí khác nhau để nhắc nhở cho quân thù là bất cứ một manh nha khởi nghĩa nào cũng sẽ bị quân sĩ tăng viện của ta đến tận nơi để trừng trị. Ðường tuyến thứ hai gồm có thành đồn trải dọc song song với sông Don-naĩ. Về phía sông Cambodge, My-thô là trại quân lớn và ta có cả một hạm đội canh chừng mạnh mẽ khắp phần tứ giác phía đông và phía tây, kiểm soát tất cả kinh rạch và sông Cambodge. Quân sĩ hành quân ngoài Saĩgon lên tới 1 425 người, như thế ta đã chiếm tối đa diện tích lãnh thổ mà ta có đủ sức để giữ.

Nếu như quân An nam dám mạo hiểm để tấn công ta thì cách bố trí vừa thấy đủ sức chống lại họ. Bị đẩy lui về Bien-hoa quân An nam thấy phía sau quân ta có thể dồn lại dễ dàng bất cứ chỗ nào để đánh tan họ nếu họ có ý muốn tấn công. Cho đến bây giờ, nếu ví như ta chưa đủ sức ngăn chận các cuộc hành quân từ Huế vào, thì đã có các biên giới thiên nhiên giữa Nam kỳ miền nam và Nam kỳ miền trung bảo vệ: đó là vùng núi non xuất phát từ núi Vi. Phần đất của người Âu châu chiếm giữ dựa vào dãy núi đá, về phía nam thì có sông Cambodge làm ranh giới và ba tỉnh miền nam áng ngữ, không có gì phải sợ quân địch xua quân từ miền bắc; nhưng thực ra ta lại gặp phải nhiều khó khăn trong việc bình định phần lãnh thổ đã chiếm. Người An nam không để ta yên một lúc nào hết, họ dung túng giặc cuớp trong khắp Nam kỳ miền dưới [5] Các tỉnh Ha-tien, An-gian, Vinh-long phì nhiêu một cách kỳ lạ, họ hoàn toàn có thể tự túc được. Chỉ cần vỏn vẹn một vài hiệu lịnh của triều đình, một vài tuyên cáo, không hơn không kém là các tỉnh này sẽ lọt ra khỏi lãnh thổ thuộc địa tương lai mà ta hoạch định thiết lập cho nước Pháp. Ðiều khó khăn để ta biểu dương uy quyền của kẻ xâm lăng là bản chất thiên nhiên của toàn vùng, nơi này gồm hàng ngàn đường sông rạch có thể so sánh với một vùng Kabylie [6] đầy sông ngòi. Sông rạch tạo ra một hệ thống mạng lưới quá rộng lớn đầy kẻ hở không thể ngăn chận hết sự xâm nhập của người An nam

Khi toàn lãnh thổ rộng lớn từ bờ biển Tàu cho đến ranh giới Cao miên lọt vào tay ta, thì các quan chức của triều đình Huế từ các cấp tổng đốc, phou và huyen đều bỏ trốn hết; nhưng các chánh tổng, xã trưởng và các viên chức hội đồng xã đều ở lại làng của họ. Các điều khoản trong tuyên cáo của ta vào tháng ba và tháng tư 1861 bảo đảm luật pháp, tài sản và phong tục cho họ. Ta không vội gì áp dụng những công thức tuyệt vời của Tây phương mà chỉ nên bảo đảm tài sản sẵn  có, tìm cách tránh cho họ những thói xấu mà họ chưa hề biết, nhất là cứ để họ như trước, tức là người nông dân lo trồng lúa và đánh cá. Thật vậy, nếu có một đường hướng chung để giúp ta cai trị thì ta phải sớm khám phá ra nó, càng sớm càng hay, sau khi ta xâm chiếm Saĩgon và My-thô. Vị chỉ huy trưởng Pháp phải đối đầu với một dân tộc mà luật lệ của họ, phong tục của họ ông ta đều mù tịt; ngôn ngữ họ dùng là một trong ba ngôn ngữ của cả vũ trụ này mà khi nói lên thì giống như hát. Những người thông ngôn thì thiếu, hành chánh An nam bị nứt rạn, một nữa nhân viên đã bỏ trốn. Sau hết ta có thể xem như dân tộc An nam bị những người lãnh đạo của họ bỏ rơi, đang thèm khát tự do, sẵn sàng bảo vệ đức tin Thiên Chúa của mình [7] Ta phải công nhận khi bước chân vào sâu trong lãnh thổ Nam kỳ miền dưới, ta nhận thấy ngay dân chúng được nhào nặn theo lối uy quyền phụ hệ của Á châu. Ta cũng có ngay cảm giác là các quan chức Nam kỳ khác xa với các quan chức hành chánh hèn nhát và lạm quyền của Tàu. Về phần người theo thiên chúa giáo, trước đây thì họ trốn lánh; nhưng trên đường chinh phạt My-thô, khi các pháo hạm đem đến nhiều chiến thắng cho thấy người An nam càng ngày càng khó bảo vệ vùng tứ giác, thì họ ra mặt ngay và biến những người ngoại đạo thành một thứ nô lệ [8] Trong số quân sĩ của thành Kì hòa và My-thô, người nào không rút về Bien-hoa hoặc các tỉnh miền nam Cao miên thì làm giặc cướp để sinh sống; sau đó họ lại trở về đầu quân và gây thêm nhiều lẫn lộn và bối rối cho ta. Chỉ cần những xáo trộn thật nhỏ cũng có thể nguy hại đến phong tục của một dân tộc, dân Nam kỳ miền dưới gánh chịu nạn cướp bóc là thế. Trong những ngày đầu, sau tiếng sét giáng xuống thành Kì hòa, một mối kinh sợ bao trùm tâm hồn người An nam. Nổi kinh hoàng bị người Âu châu xâm chiếm họ giữ kín không nói ra; các làng mạc xin đầu thú và xin ta cử người cai quản. Trước bộ tham mưu của ta, các xã trưởng và chánh tổng nối đuôi nhau không ngớt. Họ quỳ gối và dập đầu để thỉnh nguyện, theo cái tư thế tuy đã thành khuôn mẫu ở Á châu, nhưng lại va chạm mạnh đến quan niệm của người Âu châu về nhân phẩm con người. Bằng một dọng như cầu kinh của người An nam, họ vừa run vừa cầu khẩn ta đừng bỏ rơi dân chúng trong thôn xã của họ và bày tỏ sự sợ hải giặc cướp hoành hành.

Hoàn cảnh đặc biệt đó cho thấy ngay các quyết định ta phải làm. Ngay trước mắt là cơ cấu thị xã của họ ta phải giữ nguyên một cách cẩn thận. Các cấp bực của triều đình Huế, như tổng đốc, tỉnh trưởng, quận trưởng đều trốn hết, phần sợ hãi người Pháp phần vì trung thành với hoàng đế An nam. Vị chỉ huy trưởng của ta đưa một số sĩ quan đến những nơi còn bỏ trống để làm đại biểu cho mình bên cạnh dân chúng An nam. Vai trò của họ đối với dân An nam vừa chinh phục xong cũng giống như các đại biểu gọi là Missi Dominici [9] ở thế kỷ thứ mười tám. Một số mang chức phou, một số mang chức huyen. Họ vẫn dùng lại ấn dấu của người An nam, vì dưới con mắt người Á châu điều này rất hệ trọng. Chức vị của các đại biểu hoàn toàn có tánh cách dân sự; nhưng họ có thể trưng tập quân đội được cử bên cạnh để trợ lực cho mình và để bảo đảm uy quyền. Vì vậy ở mỗi tỉnh, mỗi quận đều có một vị chỉ huy quân sự và nhân viên dân sự. Các ông phou và các ông huyen cứ mỗi tám ngày là phải phúc trình với vị chỉ huy trưởng về tình hình trên toàn xứ. Ranh giới lãnh thổ vẫn giữ nguyên như trước, các vị đại biểu chỉ huy các cơ quan An nam vừa kể không được vượt quá giới hạn các thành phố và làng mạc đã qui định trong khu vực của mình.

 Việc cử người đại diện cho chính quyền Pháp trong vòng tứ giác từ phía đông do biển bao bọc cho đến biên giới sát với nước Cao miên cũng chẳng phải là việc khó khăn gì; cái khó là họ không biết tiếng An nam mà phải đối đầu với những trường hợp phản bội và những người thông ngôn chỉ biết nói bập bẹ.

Tại xứ này bắt buộc phải biết tiếng An nam và tiếng Tàu để giao dịch và viết lách văn thư, nhưng đó là những thứ ngôn ngữ ta không hiểu thấu nổi. Cần có sự cải tiến chung cho Á châu bằng cách đưa hai mươi bốn chữ cái vào ngôn ngữ của họ để làm sáng tỏ bất thần cả một thế giới huyền bí mà ta có thể bị gạt gẩm dễ dàng; tất cả đều quanh co, lắc léo. Trong số các rào cản mà Á châu dùng ngăn chận ta thì chữ viết là thành trì kiên cố nhất. Người Âu châu nào cũng khựng lại trước những chữ viết bằng dấu gẩy gập lại, giống như tâm trí con người sống ở cái phần đất này trên thế giới đã do ảnh hưởng chung quanh mà bị méo mó đi. Sách vở tiếng An nam ta có vào năm 1861 vỏn vẹn chỉ có một cuốn tự điển, giá bán khá đắt, gồm một vài ngữ vựng dịch ra bằng bốn thứ tiếng: muốn hiểu các ngữ vựng này thì phải biết tiếng la tinh, vì thế không thể nào phổ biến tiếng An nam một cách thỏa đáng cho quân sĩ nào của ta chỉ biết đọc qua loa. Vị chỉ huy trưởng liền cho phiên dịch gấp rút một sách ngữ vựng Pháp-Annam và Annam-Pháp: hệ thống dấu do cha Al. Rodes sáng chế ra được giữ nguyên để soạn sách ngữ vựng, hệ thống dấu dùng để xác định cách chuyển dọng trong một ngôn ngữ giống như hát mà không cần phải ghi chú thêm. Quyển sách này phải đem đi in tận bên Ấn độ:vì cách đánh dấu quá khó làm trở ngại rất nhiều cho việc ấn loát. Trong khi chờ đợi sách phổ biến, ở Saĩgon có hai trường học được thành lập, một dùng đào tạo thông ngôn, một dùng để dạy tiếng Pháp cho trẻ con An nam. Trường thứ nhất do một linh mục sẵn sàng chiếu cố giúp ta, ông này biết rành tiếng An nam, thật là một điều hiếm hoi, kể cả những người nói được ngôn ngữ này cũng không biết rành rọt được như ông. Ông buộc lòng phải ứng biến mà tạo ra một phương pháp giảng dạy khác hơn cách mà ông đã học, và ông đã vui lòng thực hiện việc này cho quân đội viễn chinh. Học trò của ông gồm một số sĩ quan và nhất là thủy quân và lính bộ có phép đặc biệt cho miễn công tác, họ là những người quyết tâm lưu lại luôn trong xứ. Hầu hết người Pháp nào kiên trì đeo đuổi việc học đều trở thành những người thông ngôn mà ta có thể tin được phần nào. Trường học tiếng An nam góp công giúp nền quản lý của Pháp thoát ra khỏi ảnh hưởng giáo điều Cơ đốc, vì các vị giám mục xem sự quản lý của Pháp là thiếu hạnh kiểm; có một danh từ la tinh đại khái ám chỉ điều này như một sự mưu mẹo, lạm quyền và tham nhũng giống như của châu Á.

Trường học tiếng An nam còn mang lại một điều tốt nữa. Hiểu biết một ngôn ngữ là phương tiện hay nhất để thấu hiểu phong tục của một dân tộc: muốn hiểu một chữ hay những cách nói lắc léo của một ngôn ngữ thì phải hiểu chữ này hay cách nói như thế được đem dùng vào những trường hợp nào. Vài chữ và vài cách diễn đạt đơn sơ nhất đã hé mở cho ta thấy phía sau cái vẻ đau buồn rộng lớn của người An nam là cả một thế giới ý tưởng vô cùng phong phú: nếu hiểu rằng người An nam cũng là con người thì sự hung bạo của ta sẽ bớt đi. Nhưng khi ta trừng phạt nặng nề những kẻ nào làm hại ta thì cũng là một việc dễ hiểu thôi. Khi ta biết được một chữ, ta thường hay lập đi lập lại;ta sẽ kính nể một dân tộc hơn khi ta có thể nói được ngôn ngữ của họ, nhất là một ngôn ngữ khó cực kỳ như vậy. Sau hết ta cũng tự lấy làm lạ có những người Pháp chịu rời bỏ xứ sở của mình để cùng sống với một dân tộc xa xôi; đương nhiên họ chấp nhận sẽ chết ở đây, cuộc sống lưu vong là mục đích của đời họ; điều lạ lùng này đã làm xúc động và sưởi ấm một vài con tim với một chút lòng từ thiện thiên chúa.

Mục đích của trường học thứ hai là dạy tiếng Pháp cho trẻ em An nam. Việc dạy tiếng Pháp mới có lần đầu trong xứ An nam: vì từ trước người An nam học ngoại ngữ chỉ gồm có tiếng la tinh và tiếng Anh. Giáo điều thiên chúa ở các tỉnh đều giảng bằng tiếng la tinh. Theo thông lệ hoàng đế Tự Ðức mỗi năm gởi mười lăm học sinh trẻ sang Singapour học tiếng Anh.

Tiếng An nam và tiếng Pháp đồng lượt được truyền bá là giai đoạn tối cần trong việc chinh phạt của ta, kết quả lại tạo ra một thứ ngôn ngữ chung giống như ngôn ngữ sabir [10] mà người Ý đã mang đến cho nước Thổ nhỉ kỳ. Nhưng phải nói rằng người Tàu tích cực hơn người An nam vì họ là những người đầu tiên được ta huấn luyện. Mỗi tối, người buôn bán ở Saĩgon và Cho-leun sau khi ghi chép sổ sách xong thì họ thay phiên nhau lập đi lập lại bài học mà họ gọi là học tiếng Pháp. Một vài thành ngữ quy ước và vài tiếng Mã lai cũng thường nghe nhắc đi nhắc lại trong các mẩu đối thoại dùng như những điểm chuẩn cho dể hiểu nhau. Việc chiếm đóng Canton [11] từ trước và sự sinh sống lẫn lộn giữa một ngàn năm trăm cu li người Tàu và quân đội Pháp cho thấy một vài dấu hiệu chứng tỏ bắt đầu có sự hiểu ý lẫn nhau. Củng như tất cả các dân tộc chọn chủ nghĩa hình thức, lễ độ là cả một khoa học xã hội; những thương gia từ khắp miền biển Tàu đổ về đây chăm chú nghiên cứu học hỏi cách ăn nói, cười hỏi, xã giao của các người lính thủy và lính bộ; quân lính của ta là những người duy nhất mà họ có thể gần gủi để tìm hiểu tập quán người Âu châu. Các dân tộc Á châu đều có tinh thần nhất quán trong cách suy luận: không có một thương gia nhỏ nhoi nào ở Saĩgon này mà lại không tin rằng mình đã đánh giá đúng nước Pháp sau khi mới tiếp xúc với một người dân Pháp duy nhất; nói một cách khác thì họ tin rằng một người cai và một vị đại tướng cũng đều có cùng một cách cư xử như nhau.

Vì thế đã phát sinh một ngôn ngữ chung, mặc dù ảnh hưởng của Anh ngữ cho đến nay vẫn hết sức là mạnh; ngôn ngữ chung đã phát sinh từ khi có hai mươi ngàn quân Pháp sang đánh bên Tàu và sau đó kéo xuống đánh chiếm Nam kỳ.

Một vài sĩ quan trong số người được cử nắm giữ các chức vụ hành chính chịu khó học tiếng An nam và nghiên cứu phong tục của người An nam. Nhưng sau những hung bạo của chiến tranh, việc học hỏi dù có đi chăng nữa cũng mang rất nhiều thiển cận. Tinh thần suy nghĩ bình đẳng thật là hiếm hoi; trong một vài trường hợp đặc biệt lắm mới có một người Âu châu chịu hạ cố mà nhìn xuống xem những gì đã xảy ra cho một dân tộc nổi danh man rợ, để đủ sức hy sinh mà trút bỏ định kiến có sẵn  của mình đối với họ. Vào thế kỷ mười bẩy và mười tám, vài người hiểu biết rộng rãi và nhiều nghị lực như Pallu du Ruault, giám mục Héliopolis, Pigneau de Behaine, giám mục Adran, đại tá công binh Victor Olivier không tin rằng họ đã hy sinh đời mình một cách vô ích để khai hóa cho người An nam. Thật quả họ là những người Pháp vĩ đại mà vết tích công trình vẫn còn đó, từ biển Tàu cho đến ranh giới tận cùng của đế quốc An nam! Họ biết cách làm lắng xuống cái ngạo mạn của một dân tộc khuấy động nhất và hiếu chiến nhất ở Á châu [12] Người An nam đều nghe họ. Nhưng tất cả những gì mà họ quan sát thấy đã theo họ mà mất mát khi họ vĩnh viễn ra đi Có lúc người Hòa lan và người Anh cũng làm như họ nhưng đều thất bại: ví dụ như Crawfurth và Mackensie chẳng hạn. Cho đến mãi gần đây, cũng chưa có ai biết rõ ràng về đặc tính nhân chủng của người An nam. Khi đi sâu và sống chung trong làng mạc của họ, giữa ruộng đồng và rừng rú của họ, ta mới nhận ra những nét đặc biệt của tánh tình người An nam; trước đây ta chỉ biết cơ cấu quản lý thôn xã, tổ chức hành chính và tánh khí đặc biệt chung của các dân tộc Á châu nơi họ mà thôi; trong đó gồm có sự kính trọng tập thể làng mạc và uy thế vương quyền. Một vài nét mà ta nhận thấy trên diện mạo và tính tình người An nam còn xa mới tượng trưng được bản chất toàn diện của họ; nhưng phải nói hẳn ra đó là duy nhất những gì mà ta có thể hy vọng đã quan sát được đúng. Hình như cũng có một sự trùng hợp nào đó trong những thiếu sót của chân dung người An nam mà ta không biết được; càng tìm cách xác định cho thật đúng, ta càng nhận ra một cách rõ ràng những điều ta chưa biết nơi họ. Nghiên cứu về đặc tính, diện mạo và tinh thần người An nam không phải là một chuyện vô bổ không hợp thời trong hoàn cảnh chiến tranh ở Nam kỳ như hiện nay: tìm hiểu tường tận về khả năng và phong tục của dân tộc An nam cho ta thấy một cách hùng hồn những thiếu sót mà người Pháp đã vấp phải.

-------------------------------------------------------------------------

[1] Batavia là Jakarta ngày nay, (ghi chú của người dịch).

[2] Tức Ðà nẳng ngày nay, (ghi chú của người dịch).

[3] Xin mạn phép được nhắc lại là thủy sư đề đốc Rigault de Genouilly và vị cố vấn quân sự và chính trị của ông là Giám mục Pellerin sau khi đánh chiếm Ðà nẳng (1858), trông chờ vào việc nổi dậy của một số người An nam để tiếp tay đánh vào Huế, nhưng việc nổi dậy không sảy ra. Ðóng binh cố thủ tại Ðà nẳng, quân lính bị dịch tả, sốt rét, kiết lỵ đành phải bỏ nơi này để đánh Saigon (1859). Tại Saigon cũng không thấy ai nổi loạn, lại phải cố thủ chờ đại binh kéo từ Tàu sang (1861), (theo Stanley Karnow, Viêtnam, WGBH, 1983), (ghi chú của người dịch).

[4] Trong nguyên bản là Mésopotamie, tức vùng Trung đông nằm giữa hai con sông Tigre và Euphrate, thuộc I-rắc ngày nay. Một trong những nền văn minh sáng chói và lâu đời nhất của nhân loại (thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ I trước Thiên Chúa) đã phát sinh ở đây; tổ chức làng mạc sinh và canh nông cũng đã phát triển tại vùng này từ những thế kỷ thứ IX đến thứ VII trước Thiên Chúa, (ghi chú của người dịch).

[5] Biết đâu cũng có du kích lẻ tẻ lẫn lộn với giặc cướp khắp nơi ? (ghi chú của người dịch).

[6] Kabylie là một vùng núi non thuộc bắc Algérie, rất khó kiểm soát, hầu hết do sắc dân Berbère cư trú, họ luôn luôn nổi dậy và yêu sách quyền bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ của họ, (ghi chú của người dịch).

[7] Những người nông dân An nam chất phác ở giữa thế kỷ 19 thèm khát tự do, và dân tộc An nam sẵn sàng bảo vệ đức tin Thiên Chúa của mình ? Có lẽ hơi khó hiểu một chút! (ghi chú của người dịch).

[8] Nguyên văn:..Ẩ.avaient reduit les paĩens en une sorte d’esclavage. Xin minh chứng để tránh hiểu lầm. Ðộng từ ‘’réduire’’ trong câu tiếng Pháp có nghĩa nặng hơn động từ ‘’xem’’ trong câu tạm dịch, (ghi chú của người dịch).

[9] Khâm sai, quan thanh tra (ghi chú của người dịch).

[10] Nói chung là một loại ngôn ngữ đơn giản hóa, pha trộn nhiều ngôn ngữ khác nhau, dùng vào việc buôn bán và giao dịch thông thường, (ghi chú của người dịch).

[11] Tức là Quảng châu bên Tàu, (ghi chú của người dịch).

[12] ???, (ghi chú của người dịch).

CHƯƠNG IX

Ðề cương:


Diện mạo của người An nam. - Ðặc tính tinh thần. - Sự chuyên chế phụ hệ.



Người An nam là một sắc dân thuộc giống người mà các nhà nhân chủng học xếp vào giống Mông cổ. Họ có vẻ nhỏ con. Hai chân cứng cáp, hông nhỏ, thân dài và gầy, vai khá rộng, ngực nở nang, các bắp thịt cổ cũng vậy, đầu có kích thước tương xứng với cả thân hình, hai bàn tay nhỏ nhưng ngón dài có nhiều mấu. Nước da tùy thuộc theo trình độ giáo dục, địa vị xã hội và công ăn việc làm; màu da thay đổi từ màu sáp ong đến màu gỗ gụ. Trán tròn, hai bên thái dương lõm vào và xương gò má nhô cao; cặp mắt đen, chỉ hơi xếch một chút, toát ra một vẻ dịu dàng, buồn thảm và rụt rè. Mũi thì quá rộng về phía trên: đó là nét đặc biệt chung của gương mặt Á châu. Người đàn ông An nam khoảng ba mươi tuổi mới có râu; ngay khi có râu cũng chỉ lưa thưa ở môi và càm. Ðàn ông để tóc dài, giống như tóc của người Tàu trước thời kỳ bị giặc Mông cổ xâm chiếm; cách nay sáu mươi năm một số dân miền núi Fo-kien vẫn còn để tóc dài chống lại lịnh phải cạo đầu do người Mông cổ thống trị ban ra. Người đàn ông An nam coi trọng việc để tóc, họ búi tóc để hở hai vành tai. Người giàu đội khăn nhiễu Tàu che búi tóc, khăn nhiễu xếp thật khéo và rất nghệ thuật; người nghèo ra đường không đội khăn; đôi khi ta thấy họ xổ tóc, vừa lắc đầu vừa giũ tóc, cổ ngữa thẳng ra giống hệt cử chỉ của người phụ nữ. Người đàn ông An nam có dáng đi thật lạ và khoan thai: nhất là đầu có một dáng dấp đặc biệt, chắc là do búi tóc gây ra. Ta có thể nghĩ rằng vì cách để tóc mà người Tàu, người An nam so với người Âu châu đầu và cổ có giáng dấp khác nhau. Nhưng phong tục làm ngạc nhiên người Âu châu hơn hết tại phần đất Á châu này là nhuộm răng đen, thật không đẹp chút nào cả: trông xa giống như rụng hết răng. Người An nam, giống như tất cả các dân tộc Mã lai lúc nào cũng nhai trong miệng nhiều thứ hợp lại gồm lá trầu, cau, thảo quả, vôi, có khi thêm cả thuốc lá nữa. Hương liệu này có mùi vị rất dễ chịu nhưng rất cay và chát. Nếu ta cho rằng người An nam răng đen là vì ăn trầu là sai: răng của họ nhuộm đen bằng một loại thuốc nhuộm làm bằng các vị thuốc Tàu. Nhiều người đàn bà Âu châu ở Macao cũng lén ăn trầu nhưng răng họ vẫn trắng.

Y phục của một dân tộc thường bị chi phối bởi bản chất cơ thể của họ. Y phục của người đàn ông An nam là áo dài cài nút ở bên hông, quần cắt theo lối Tàu đoan trang hơn quần của ta, chân mang dép da đỏ. Ấy là y phục của người An nam có vị thế, giàu có hoặc là thương gia; còn hầu hết dân dã, nông dân và những người sinh sống trên ghe thuyền, thì chỉ dùng một miếng vải rộng buộc bằng dây lưng gọi là can-chian [1]. Trẻ con thì hoàn toàn trần truồng.

Tuy nhiên cũng có vài đứa mặc một miếng vải hình trái tim che bộ phận sinh dục. Trẻ con cạo trọc chỉ chừa vài chỏm tóc ở vài chỗ trên đầu. Y phục của phụ nữ cũng không khác của đàn ông bao nhiêu: cũng áo dài lụa và quần. Mặc quần bốn màu rực rỡ là cách ăn mặc thật thanh lịch của phụ nữ, vải màu ráp theo chiều dọc. Dáng đi của người phụ nữ có vẻ quả quyết lạ lùng[2] Ai thấy họ đi trên đường phố Saĩgon sẽ để ý ngay, trên vai có một con két lông xanh, hai cánh tay đong đưa có lẽ là để đánh nhịp theo bước chân? Áo lụa ôm sát với thân người phô trương tất cả vẻ thiên nhiên của thân hình họ[3] Có nhiều người phụ nữ An nam rất đẹp: mặt tròn trỉnh, hai mắt như nhung và xếch rộng, da nhợt và mờ, dáng dấp mong manh và thanh nhã như trẻ thơ, nói chung cũng không khác biệt gì với quan niệm về sắc đẹp phụ nữ ở Âu châu.

Người đàn bà An nam ham mê nữ trang còn hơn cả những người đàn bà Âu châu. Họ đeo nữ trang từ trên tóc, trên cổ, ở cánh tay và cổ chân; tùy theo giàu nghèo nữ trang làm bằng vàng, cẩm thạch, bạc hay thủy tinh. Nữ trang thật tinh xảo không rườm rà, thô kệch và khó coi như ở Ấn độ và Á rập. Người ta để ý thấy có ba loại vòng đeo tay mà người phụ nữ mang tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời mình: khi mới có chồng, sau khi có con đầu lòng, và sau hết là lúc tuổi già. Vòng đeo tay có hình tượng trưng bốn [4] hoặc tám con vật huyền thoại. Người đàn bà An nam cũng đeo giây chuyền ở cổ bằng bạc, dài và phẳng, còn đeo vòng ở cổ chân nữa. Nhẩn thì có ba loại: dẹp, có nhiều mặt nhỏ hoặc là các kiểu hoa. Hoa trên trang sức có kẻ gân hết sức là tinh vi [5]. Thợ nữ trang cực kỳ khéo léo: họ tự nấu vàng, cán vàng. Người Âu châu nào thấy họ làm cũng phải chịu thua.

Nếu quả đúng là tánh khí của một dân tộc biểu lộ từ nơi ăn chốn ở, thì phải nó rằng người An nam để ý chăm sóc và dồn hết mọi sáng kiến để trang hoàng nơi ở của họ sau khi chết. Mồ mả xây hết sức rắc rối, nhưng thường thấy hơn hết là xây theo hình tròn, sơn màu hồng hay tím nhạt thật sáng, tất cả tạo ra một vẻ dịu dàng và đẹp mắt. Nhưng nhà họ ở thì tối tăm, kín đáo và buồn thảm. Nhà xây theo lối ba gian hai chái và chỉ có tầng trệt. Mái nhà nghiêng xuống thật thấp, chỉ cách mặt đất vài chân, do đó bên trong tối om ngay cả giữa ban ngày, nhưng cũng vì thế mà trong nhà mát rượi rất dễ chịu, mặc dù bên ngoài trời nóng bức. Nhà người nghèo thì lợp lá dừa lùn xếp chồng lên nhau như nhà lợp rơm của ta; sườn nhà thì làm bằng tre và người An nam chỉ cần hai đến ba ngày là làm xong một căn nhà, nhờ cha mẹ hay bạn bè giúp tay. Nhà cửa của người giàu thì lợp bằng ngói đỏ, kèo nhà làm bằng gỗ cẩm lai, rất dễ đánh cho bóng láng. Trước ngưỡng cửa nhà của người An nam hoặc trên mũi ghe của họ cũng vậy, có nhiều chậu cây kiểng đặt gom lại với nhau, gồm có cây mạ, một loại cây thân mập và một loại cây nhỏ giống như cây sim hay cây lựu mà cành thì uốn nắn thành chữ Tàu.

Nếu thật sự muốn tổng hợp chân dung người An nam từ những điều quan sát của một nhà nhân chủng học thì ta chi có thể tạo ra một tấm tranh phác họa thô sơ mà thôi, không tình cảm cũng không có sự sống. Mô tả chi tiết đường nét của một sắc dân không khó gì cả, chỉ cần chú ý một chút là đủ; nhưng muốn tạo ra vẻ mặt của một người suy tư, thương yêu và đau khổ thì dù muốn dù không ta phải thêm vào bức chân dung cái vị trí xa xôi của quê hương họ, cái nóng bức của miền nhiệt đới, cho đến cái khung cảnh chung quanh cuộc sống của họ. Nói vắn tắt là phải gần gủi với họ. Ta phải nhìn xuyên qua cái vẻ bên ngoài bất di bất dịch của Á châu, xuyên qua cái khuôn đúc duy nhất tạo ra vóc dáng y hệt nhau, ta mới thấy được cá tính bên trong của từng con người. Nhưng ngày nay khó mà nhìn thấy đặc tính tổng hợp của người An nam. Chính những quang cảnh vui chơi của họ đã bị chiến tranh tàn phá hết. Ta nghe kể lại rằng trước đây gần Saĩgon có nhiều chợ búa, nhà hát, vòng ngựa quay cho trẻ em. Một trong những quang cảnh biểu diễn tài tình nhất là cảnh chơi cờ tướng, sân cờ là một vùng đất rộng mênh mông, trò chơi giống như hai đoàn kỵ binh đánh nhau. Hai bên đấu với nhau cạnh tường thành Saĩgon. Hai vị hoàng đế cởi ngựa và mặc áo thêu rồng ở ngực, quan và quân lính mặc áo màu sạc sỡ. Cách chơi vạch rõ trên mặt đất như một bàn cờ khổng lồ.

Nhưng bây giờ thì người An nam chỉ biết ngồi bên những chiếc bàn gỗ thô sơ kê sát ngưỡng cửa trong làng của họ, miệng đỏ lòm vì nhai trầu; họ ngồi trong một tư thế suy tư làm ta liên tưởng đến các giống thú nhơi lại; hình như họ đang buồn tiếc so sánh những cảnh đang diễn ra trước mặt họ với những cảnh vui chơi tràn đầy kỷ niệm trước đây mà ta không hề biết. Chính trên mặt sông người An nam có thể đã tìm lại được bản chất tự nhiên của họ. Những người chèo ghe ngược xuôi trên mặt nước, dừng lại trò chuyện với nhau về việc mua bán mới đây của người Pháp; họ chỉ mặc một tấm vải màu xanh dương hay màu nâu nhạt, thân để trần màu xậm như gạch, tóc thì đen lánh, tất cả tạo ra một sự kết hợp màu sắc hết sức dung hòa và nhả nhặn; Tuy họ không có vóc dáng của một giống dân lực lưỡng nhưng ta phải nói rằng người An nam chịu đựng việc cởi trần rất giỏi. Mặc dù ăn mặc giản dị như thế, họ đưa thân ra nắng mà chẳng e dè gì hết, không bao giờ da bị phỏng nắng tàn bạo như người Âu châu; quả thật đất đai của họ đã sinh ra họ, họ sinh sống vào đúng vị trí của họ trên địa cầu này.

Người An nam rất ôn hòa, dễ bảo mặc dù bên trong vẫn có sức kháng cự; dễ gập mình nhưng cũng đầy khả năng để vương thẳng lên; suy tư, rụt rè nhưng khá vui vẻ.

Họ ham vui chơi, khi làm được tiền là xài ngay; đây là đặc tính khác hẳn với người Tàu. Họ không thích cũng không có một khả năng gì về thương mại: đất cát phì nhiêu lạ lùng của xứ An nam thu hút người ngoại quốc, họ đổ xô đến đây và nắm hết việc thương mại trong xứ. Người Anh và người Hòa lan từ lâu tìm cách buôn bán với Nam kỳ nhưng không thành công.

Hàng thương mại chính là gạo: nếu cứ bỏ mặc cho người An nam thì họ chỉ trồng lúa vừa đủ để sống không dư thêm một hạt. Họ là nông dân và làm nghề chèo chống chuyên chở bằng thuyền bè: hai nghề có vẻ trái ngược nhau, nhưng thật ra rất phù hợp và bổ túc cho nhau, vì mùa màng có định kỳ rõ rệt, đến đúng mùa mới gieo mạ và cấy lúa. Ðời sống như thế hết sức phù hợp với sở thích và khả năng của người An nam. Họ thích đi dạo chơi, không chủ đích gì hết, đi dạo thế thôi._Anh làm gì vậy_ Lam ray, tôi trồng lúa._Anh đi đâu vậy?_Di doy [6], tôi đi chơi. Mới nhìn hai hành động này có vẻ không phù hợp với nhau nhưng thật sự hết sức hợp lý: một năm chỉ có hai mùa lúa nên họ có nhiều thì giờ vui chơi, lối sống như thế đã trở thành phong tục của họ.

Người An nam trồng một ít mía đủ cho nhu cầu mà thôi. Ðường mía của họ rất ngon, trong chiến dịch 1861 ta tìm thấy nhà nào ở tỉnh Gia-dinh cũng có. Trong xứ cũng có vài nơi trồng cây chàm làm thuốc nhuộm và trồng bông vải với phẩm chất rất tốt. Nam kỳ sau này có thể cung cấp bông vải cho thị trường Âu châu. Nhưng không phải chuyện gì đương nhiên cũng có, muốn gặt hái thì cũng phải có người trồng, phải phối hợp nhiều cố gắng, và phải có hòa bình.

Ðất Nam kỳ miền dưới phì nhiêu, người dân có nhiều phương tiện để trở nên sở hữu chủ mảnh ruộng của mình, dân làng cho nhau mượn trâu để làm việc, triều đình Huế cho vay tiền và ưu đải canh nông trên hết; tất cả các điều vừa kể giúp người dân An nam sinh sống dễ dàng và không nghĩ đến việc vượt biển mà di cư đi nơi khác. Nền giáo dục của họ cũng không khuyến khích họ bỏ xứ, chưa kể họ đã có sẵn  bản chất luyến tiếc đất đai của họ. Luật pháp quốc gia cấm việc vượt biên, và người An nam thì rất tôn trọng luật pháp. Người ta không gặp một người An nam nào trên đất Tàu, Phi luật tân, đảo Java hay Ấn độ thuộc Anh. Chỉ trên đất Xiêm la có một số trại người An nam bị vua Xiêm bắt về làm nô lệ trong những lần đánh nhau với hoàng triều Huế [7]

 Chính những lý do kể trên đã giúp người dân Nam kỳ không làm cu li, đời sống và nhà cửa quá dễ dàng; nếu cần họ chỉ việc dọn đi nơi khác trong xứ để làm ăn mà không cần vượt ra khỏi biên giới. Nhưng hình như mối giây buộc chặt họ với đất đai chỉ có tính cách bề ngoài mà thôi. Khí lúa đã gặt và bó xong, thì người nông dân trở thành người chèo chống trên mặt sông ngòi, di chuyển khắp nơi trên đất Nam kỳ. Trong một số trường hợp, vì sợ bắt làm nô lệ hoặc vì áp lực chính trị, họ có thể kéo nhau bỏ hết nguyên một tỉnh để ra đi. Họ để lại phía sau cả một sa mạc hoang tàn cho kẻ địch. Cũng chính vì thế mà sau một trong các lần xâm lược của Cao miên trước đây vào Nam kỳ dân chúng tỉnh Gia-dinh đồng loạt bỏ đi hết.

  Cách giải quyết như thế, hình như rất phù hợp với tính tình của người An nam, và không giống với bất cứ một dân tộc nào khác ở Á châu. Họ chịu vặn mình để nhịn nhục, dù có lấy tay để xiết họ thì họ cũng tìm cách lọt ra và biến mất, đó là thái độ và hành động mà họ đã chọn. Khi ta ngược đải họ, họ sẽ bỏ đi ngay nếu có thể được; họ không thích bất cứ gì có vẻ nóng nẩy và giận dữ. Vì sự mù tịt của người Âu châu về ngôn ngữ của họ, nhất là trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược, và vì nhu cầu tránh bỏ mọi phiền phức đối với người da vàng bại trận, mọi quyền hành ta đều giao cho những thuộc hạ ở cấp thấp nhất, họ thực thi bằng những cử chỉ sỗ sàng, giận dữ và hung bạo. Thái độ của người An nam trong hoàn cảnh đó là nhịn nhục và không phán đoán, phục tùng trước một sức mạnh mà họ coi là điên rồ và mù quáng; tất cả cho ta thấy một thứ gì âm ỉ, ghê sợ không kềm hãm được và đó cũng đủ cho thấy sự khác biệt giữa hai giống dân.

  Cũng phải nói cho rõ là cái đám tạp dân Á châu tại Saĩgon không thể gây cho ta những ý tốt về các dân tộc tại đây, nhất là đối với dân tộc An nam. Người ta vẫn nói rằng người An nam bị úa tàn khi giao tiếp với nền văn minh của chúng ta, giống như những vị thuốc mà ta đưa cho họ không thích hợp với cơ thể của họ, hay nói đúng hơn là với tính khí của họ. Có ai tin rằng trong số đám người kia đang cuối đầu bị dẫn đi làm lao động có những kẻ đã đủ sức đương đầu một tiếng rưỡi đồng hồ với quân đội Pháp trang bị vũ khí tối tân? Nhưng thật ra ta chỉ nhận thấy những biến cố hằng ngày đập vào mắt mà thôi, ta phải nhìn sát vào quang cảnh của một dân tộc đang bị đưa vào ách nô lệ thì mới hiểu được tại sao họ đã liều lĩnh chiến đâu đến cùng. Người An nam có nhiều can đảm, có thể nói là họ rất hào hùng trong hoàn cảnh kho khăn của họ; nhưng đánh giá đúng những điều này thật khó cho ta, những ý nghĩ nẩy mầm và phát triển trong đầu một người Á châu hoàn toàn khác với chúng ta; vì lẽ không có gì tương đồng để xét đoán vì thế trên phương diện này ta chỉ nên nhìn vào những điều quan sát hơn là đưa ra những kết luận [8] Trong xứ An nam con người hòa mình trong đám đông hình như không thấy để lộ một cá tính riêng biệt nào hết, sự tôn thờ hoàng triều đã san bằng mọi con người, không có ai nhô đầu cao hơn kẻ khác: nơi đây không còn có chỗ cho sự ganh đua; trong một số đạo quân Âu châu thì trái lại sự ganh đua thật là náo nhiệt. Người An nam chiến đấu mạnh khi họ tự tin rằng họ sẽ đẩy lui được quân địch. Vì vậy mà trong một ngày may mắn quân đội ta đã làm lung lay lòng tin của địch khi họ dựa vào những chướng ngại phòng thủ mà họ cho là ta không phá nổi; khi họ tháo chạy thì tán loạn như một đàn chim vụt cất cánh, họ chui vào các bụi rậm như một con cọp, đối với họ không phải là một sự nhục nhã khi biết rằng không còn cách gì chống cự được [9] Cũng chính là những con người như thế đã dùng lao chống lại súng các-bin của ta trên đồng ruộng My-thô._ Sau các trận chiến ở Touranne và Saĩgon vào những năm 1859 và 1860 ai cũng tin chắc rằng chiến thuật của họ là cố thủ trong các thành đồn kiên cố mà thôi, họ không dám đánh dàn trận với ta hoặc phưu lưu trên địa thế trống trải. Các trận Go-cung, các trận khởi nghĩa năm 1861 và 1862 chứng minh rằng chẳng những họ dám chiến đấu với ta trên địa thế mà còn dám khơi chiến với chúng ta trên các loại mặt trận như vậy.

   Trận chiến mà người An nam gánh chịu trong gần sáu năm đã biến đổi hẳn chiến thuật chung về tấn công cũng như phòng thủ, nhưng khí giới thì vẫn thế, không thay đổi gì. Rõ ràng là sau khi thành Kì hòa bị mất, họ cũng mất hết tin tưởng vào thành lũy mênh mông và các chướng ngại phụ thuộc mà họ thiết lập một cách vô cùng tài tình; nhưng họ vẫn chỉ tiếp tục dùng lao, súng hỏa mai cổ lổ mồi bằng đá lửa, pháo vác trên người, súng nòng 4 cũng vác trên vai mà bắn. Tuy các dàn đại pháo là phần duy nhất có một chút giá trị nào đó trong số khí giới của người An nam: họ đã dùng đại pháo trong các cuộc khởi nghĩa để gây khó khăn cho ta. Họ rất thích các loại đại pháo và xử dụng rất giỏi. Không biết họ tìm đâu ra mà nhiều đại pháo như vậy? Ta thấy chỗ nào cũng có: một phần họ chôn dấu trong rừng, đánh dấu cẩn thận để dễ tìm, một phần thì họ dấu dưới các đống lúa gạo, kho bọng. Tóm lại họ thích tiếng nổ của thuốc súng; giống như cái say mê của trẻ con người Tàu, họ thích pháo như thế nào thì họ cũng thích tiếng nổ của đại pháo như vậy.

    Còn nói về bản chất của chính người lính, ta có thể nói rằng họ quen chiến trận, và những biến cố sau này đã cho ta hiểu rõ hơn bề trong của bản tính người An nam. Uy quyền của triều đình Huế bị nứt rạn ở các tỉnh do quân Pháp chiếm tạo dịp cho một số người nhiều nghị lực đứng lên tạo lập công danh, nhất là khi họ thấy căn bản sinh tồn của dân tộc họ bị hăm dọa. Những người lãnh đạo các nhóm du kích sau khi đã ăn gan [10] và uống vài ly sam-chou [11], họ thề thà chết quyết tâm đánh giặc Pháp, rồi họ lên đường. Hầu hết những người này phải chết một cách khốn đốn và nhục nhã, nhưng hình như cái chết của họ không làm thối chí họ hàng và bè bạn họ [12]

   Ngoài cái can đảm của người An nam mà những vị lãnh đạo can trường đã truyền lại cho họ, ta còn thấy trong đó có sự dị đoan khủng khiếp nữa. Khi một người đồng đội bị giết, họ liền mổ thây móc lấy tim còn thoi thóp để chia nhau mà ngấu nghiến. Sau đó họ tiến lên, không có gì cản nỗi: họ có đầy gan [13]_Có một nhà tu người An nam tỏ ra là người rất hào hùng và quả quyết, cách đây vài năm đích thân tìm đường ra Huế để kiện tụng: vì có người muốn đuổi ông ta để chiếm đất. Một tên chánh đảng cướp biết tin tìm đến ngôi nhà mà ông tá túc trên đường ra Huế. Khi đến nơi anh tướng cướp thấy có một người chết vừa được tắm rửa. Những người chung quanh đang lo tẩm liệm liền chỉ xác chết mà bảo chính là xác của nhà tu, nhưng thật sự những người này nói dối để tìm cách cho nhà tu trốn đi. Tên trùm đảng cướp liền nói rằng: ‘’Nếu quả thật như vậy thì để xem có công hiệu đúng như người ta nói không: hắn phải có gan lớn lắm mới dám ra tới Huế mà kiện thưa’’. Thế rồi bọn cướp moi tim xác chết mà ăn. Từ đó nhà tu lặng câm, không hó hé gì nữa. Ông ta là người lanh lợi và thận trọng, theo lời đồn đải thì ông ta có nhiều thoi vàng và bạc, thật quả ông ta vừa chết hụt [14]

  Truyền thống ăn gan của các trùm đảng cướp cũng như nhục hình áp dụng trong phần đất này của Á châu có thể làm cho ta tưởng lầm là một quôc gia vô nhân đạo. Nhưng ta có thể khẳng định ngược hẳn lại, người An nam rất khiếp sợ cảnh máu rơi. Ở Âu châu, giết người thường đi đôi với cướp bóc: vì giết người là để bảo đảm việc cướp bóc dễ dàng; bọn cướp bóc An nam chỉ lột sạch nạn nhân nào lọt vào tay họ nhưng không giết; trước năm 1859 [15], chưa chắc đã có đến ba vụ giết người trong một năm. Ta không nói đến những năm sau này, vì án mạng ta đều ghép vào tội chính trị [16]. Sau hết luật pháp An nam, giống như ở Xiêm la và bên Tàu quy tội hết cho cả làng, đó cũng là cách chận đứng sự lan tràn tội phạm. Trong xứ An nam án mạng xảy ra là một chuyên cực kỳ hệ trọng, luật của người An nam buộc họ sống theo bản tính thiên nhiên của họ tức là không bao giờ giết chóc.

  Sự khiếp sợ máu rơi không cấm cản được sự độc ác của họ theo lối Á châu; có nghĩa là họ áp dụng hình phạt bằng cách tra tấn mà chỉ có quỷ sứ thoát ra từ địa ngục mới sáng chế ra được. Ta hãy thử tìm hiểu nguyên do vì đâu lại có sự mâu thuẩn giữa việc sợ hãi máu rơi và sự tàn bạo, hai hành động thật trái ngược nhau. _Say mê chế độ, viễn tưởng ấu thời dai dẳng đeo đuổi con người An nam trong hoàn cảnh thực tế mơ hồ, tin các lý thuyết do trời định, sự lẫn lộn giữa quy luật tôn giáo và chính trị, nhân viên nhà nước quá đông và uy quyền quá mạnh, tất cả tạo ra thần quyền mà đầu não là Hué, thần quyền đó đã áp đặt bàn tay của mình lên những động lực tế nhị nhất của linh hồn con người, để xúc phạm, nhào nặn làm cho linh hồn úa tàn. Sau khi san bằng tất cả mọi linh hồn họ lại làm tan tành thể xác bao bọc cái linh hồn đó [17] Từ tác dụng này đến tác dụng khác, tránh sao chẳng có liên hệ, có thể vì thế mà ta không ngạc nhiên gì khi thấy nhân viên của một chánh quyền phụ hệ và chuyên chế, bẻ gẩy, cắt cụt, tháo gở con người từng mảnh như một hình nộm. Tội ác không thể tha thứ trong xứ là phản nghịch hoàng triều, tội phạm bị xử lan-ti: tức bị xẻ thây làm trăm mảnh, xong bỏ hết vào một cái lu đem đặt trước nhà của kẻ tội phạm. Phải hiểu rằng trong đầu của các dân tộc này khi đày đọa xác chết tức làm gia tăng hình phạt cho nặng nề thêm. Hình phạt có nhiều loại, ta có thể kể ra đây những loại khủng khiếp nhất [18]: như kéo thân phạm nhân trên những thân tre cắt dọc, thân tre cắt như hằng ngàn lưỡi dao cạo; kẹp bằng kềm nguội hay nung đỏ; dùng dao sét rỉ; lưỡi cày nung nóng; ghế có đóng đinh nhọn; kể cả bỏ rắn vào quần kẻ bị kết án nữa.

    Tuy nhiên người An nam tuy khéo léo tạo ra nhiều phương pháp nhục hình lại không biết dùng thuốc độc tràn đầy trong rừng rú của họ[19]: mặc dù triều đình Huế thề nguyền sẽ giết hết chúng ta bằng bất cứ phương tiện gì, nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu bằng những khí giới bắt chước chúng ta nhưng hết sức là thô sơ. Dân gian nói rằng tướng sĩ của họ luôn luôn tôn trọng truyền thống hào hùng khi chiến đấu, trong những trường hợp kể ra sau đây cho thấy những kẻ man rợ đó xứng đáng là bậc thầy để dạy ta những bài học về nhân đạo.

    Một trung sĩ pháo binh của ta bị địch bắt năm 1860[20], mang về thành Kì hòa, nhưng được đối xử tử tế và nuôi dưỡng đàng hoàng. Người này còn được gởi cả tin tức về cho ta nữa. Khi các đường tuyến An nam bị đánh bại, quân sĩ chạy trốn tán loạn thì ông ta bị giết; nhưng chỉ bị chặt đầu thế thôi, không giống như ở các nước Tây tạng, Miến điện xác chết còn bị thêm nhục hình thật ghê tởm._ Một chiếc thuyền buôn loại hai cột buồm do thương gia của ta ở Saĩgon thuê mướn đi từ Hong-kong đến Saĩgon, nhưng không may bị mắc cạn ở một eo biển gần mũi đất Ti-wane[21], ngay giữa vùng đất địch. Tuy rằng dân chúng đói kém vì lệnh cấm gạo [22], và mặc dù tình trạng chiến tranh không hề dung tha do ta gây ra, những người bị đắm thuyền được tiếp đón, nuôi dưỡng, lại còn được giúp để đưa tin tức; khi ta đến cứu thì thấy họ được tiếp đải trọng hậu hơn cả một số những nơi tử tế mà ta có thể biết trên bờ biển Âu châu. Ðó là một vài nét cho thấy một dân tộc không thiếu tình nhân đạo.

    Người An nam chấp nhận phút khổ hình cuối cùng với một thái độ giản dị, trầm tĩnh, đáng kính nể: không một cử chỉ nào, không một lời nói nào cho thấy sự thất vọng, sợ hãi, hay hèn nhát. Trong một số khá lớn các trường hợp ta chỉ thấy có một người An nam duy nhất đã khóc, đó là một thanh niên còn nhỏ chưa đến tuổi trưởng thành [23] Trong vòng tháng sáu năm 1861, khi đầu quân sĩ viễn chinh được treo giá thêm một lần nữa, và khi bản tuyên cáo của triều đình Huế sớm lọt vào tay ta thì ta bắt được hai mật sứ trẻ mang các bảng tuyên cáo này của triều đình gần Tran-bam; hai mật sứ giống trẻ con hơn là vị thanh niên. Ta giải hai đứa nhỏ này về Saĩgon để đưa về tổng hành dinh trên mẫu hạm của đề đốc là chiếc Impératrice - Eugénie. Khi còn đang trên sông Don-naĩ chúng xin ta ban cho chúng một ân huệ; chúng xin với một vẻ giản dị và hồn nhiên đến nỗi lúc đầu ta cũng không nghĩ đến mục đích của những lời van xin đó: hai đứa xin phép ta được nhảy xuống sông để tự tử. Tất cả người An nam đều biết lội: nhưng ta không nghĩ rằng hai đứa bé tìm cách trốn, thật sự là chúng xin được tự tử, có thể vì sợ bị tra tấn; theo chúng thì khi bị bắt tức là phải chịu tử hình. Cái tuổi cực kỳ trẻ thơ của hai tội phạm thật là đáng chú ý, và trong trường hợp này sự thương hại lớn hơn những lý do chính trị.

   Ta tự đặt câu hỏi từ đâu đã phát sinh ra sự trong sáng như vậy mà ta có thể so sánh với sự thanh thản ở cấp bực của linh hồn? Có phải bên trong họ có một hình ảnh nào đó đã an ủi họ, như một lời hứa hay một kỷ niệm chẳng hạn? Họ có so sánh giữa sự sống và cái chết hay không, hay họ xem cái chết còn tốt đẹp hơn sự sống? Có phải là bản chất tôn giáo hay tánh khí của họ đã trợ lực cho họ? Chắc chắn không phải là bản chất tôn giáo rồi: ta không thấy gì khác biệt trên phương diện này giữa người An nam thiên chúa giáo và người An nam ngoại đạo; những người ngoại đạo rất tin những pháp lý của vị Phật sau cùng, nhưng những giáo lý của ông Phật không vượt lên tới cấp bậc tư tưởng thiên tính, và ông Phật chỉ là một vị thánh lương y mà thôi [24] Còn người theo thiên chúa giáo thì ngày nay ta đã biết giá trị của họ thế nào rồi. Những gì làm cho người An nam rắn rỏi là ý chí của họ, điều này làm họ khác hẳn với các sắc dân khác ở Á châu. Chính ở những kẻ yếu kém sự linh hoạt và mềm dẻo của trí tuệ càng phát hiện một cách rõ rệt hơn, chính đó là bản chất của tính khí người An nam. Thường thường đàn bà và trẻ con An nam tỏ ra can đảm và liều lĩnh hiếm có.

   Người đàn bà An nam được tự do hơn bất cứ một nơi nào ở Á châu. Người ta kể rằng ảnh hưởng của họ rất lớn nơi thôn quê làng mạc. Nếu có một người nông dân nào bị tù tội phi lý, vợ hắn bế con trên tay tìm đến cổng quan mà kêu oan: không ai có thể cản nổi bà này. Người phụ nữ trong các sách truyện An nam, cũng như trong những mẫu đối thoại chuyển thành thơ [25] mà họ hát tay đôi với nhau giữa đồng ruộng, hoặc trong các vở kịch giản dị trên ghe thuyền ta đều thấy một dáng dấp, một âm dọng cực kỳ diệu dàng và tế nhị của người phụ nữ; điều này cho thấy rõ ràng đặc tính cá biệt của người đàn bà An nam trên toàn cỏi Á châu. Ta tự hỏi còn có gì diệu dàng và chất phác hơn những lời ta thán của một người si tình ngõ lời với một gốc chanh?

‘’Tôi xin chào và khen ai trồng chanh _ tôi muốn hái quả chanh ngon. _ Khi thấy hoa thấy trái, tôi thấy tâm hồn của chanh; _ nhưng đụng phải gai, nên tôi phải tránh, _ Có biết bao nhiêu những kẻ tài tử giai nhân _ dòm ngó săn đón chung quanh _ Chanh ơi! tôi muốn bước tới chỗ thương yêu: nhưng chanh từ chối._ Tại sao, tàn nhẫn quá, chanh làm cao quá vậy, có phải chanh coi thường tôi chăng?’’

  Hôn nhân và mai táng là hai sự kiện quan trọng nhất trong đời người An nam, trong những trường hợp này người nghèo cũng được ngang hàng như người làm lớn hay người giàu có: tức là họ được mặc áo dài rộng màu mè và thêu hình vẽ, thông thường chỉ dành riêng cho các bậc quan; ngay cả quan quân khi gặp đám cưới hay đám ma của một người nhà quê, dù thấp hèn cách mấy đi nữa, cũng phải xuống ngựa và nhường bước cho đám đông.

  Ðám cưới có tới sáu lễ; nhưng thông thường thì chỉ giữ có ba, có khi còn giữ hai lễ mà thôi, như sau: người thanh niên phải tìm một người làm môi giới báo trước cho cha mẹ người con gái rồi chọn ngày và giờ. Ðúng ngày đã chọn, người con trai cùng với người mai và các người chứng thân hành đến nhà cha mẹ cô gái. Một người trong số những người chứng bưng một mâm khảm sa cừ, trên mâm có bày trầu, trái cau, vôi, thảo quả, và trong một cái hủ nhỏ có một cặp bông đeo tai, tất cả được phủ bằng một tấm lụa đỏ. Mọi người đều mặc áo dài lễ phục; mâm cau có người đi kế bên che lọng. Người con trai dâng trầu cau cho cha mẹ cô gái: nhưng không mời cô này gì hết.

   Lễ thứ hai cũng giống lễ thứ nhất. Ðúng ngày gọi là đính hôn, người con trai, người mai và các người làm chứng lại thân hành đến nhà cha mẹ người con gái. Trên mâm có một cặp vòng đeo tay chạm hình tám con thú tượng trưng thích nghi theo tình trạng sắp làm vợ của người con gái. Nhiều người khác trong đám đội mâm có để ba áo dài và một cái quần. Lễ vật đều có đậy khăn đỏ và che lọng. Người ta cũng thấy dẫn theo một con heo đen để làm lễ vật.

  Lễ đính hôn xong. Mười lăm ngày sau là lễ hợp hôn. Người con trai đã đính hôn lại tới nhà cha mẹ của nguời hôn thê với nghi lễ giống như trước. Anh ta dẫn cô dâu về nhà mình, có cha mẹ cô gái và tất cả những người làm chứng đi theo; tất cả dự tiệc thật lớn, tiệc chấm dứt vào lúc sáu giờ chiều, vì người An nam không ăn đêm. Cha mẹ cô dâu rút lui; nhưng trước đó, vài người ứng khẩu đọc thơ, theo nghĩa trong đó là chúc hai vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc và có nhiều con. Ðôi khi người con trai thưa với cha mẹ vợ là nhà chưa được tươm tất, tiện nghi để đón vợ mình về xin hẹn thêm ba ngày nữa. Ðó là cách nói thật thà ngõ ý mình không phải người hấp tấp.

   Trẻ con An nam có bẩm tính linh hoạt, tự tin và gây sự. Chúng có vẻ mặt rất cởi mở, bầu bỉnh và khả ái: càng lớn, vẻ dịu dàng mất đi; hai gò má nhô ra nhiều hơn sự cần thiết; hai má nhô lên nơi người An nam như là một biến đổi về cơ thể, tình cảm cũng thay đổi trên nét mặt. Không phải là chuyện lạ khi thấy trẻ con đứng cách xa vọt miệng gán cho người lính của ta một tiếng kỳ cục [26] Cha mẹ của những đứa trẻ thì ngồi chồm hổm ở ngưỡng cửa, họ càng có vẻ buồn bã bao nhiêu thì vẻ mặt của trẻ con lại vô tư bấy nhiêu [27] Cái tương phản lộ liễu đó chẳng qua là tại chiến tranh mà ra. Trong bốn cuộc chiến tranh leo thang liên tiếp, người An nam trở nên âu sầu và buồn thảm quá chừng, người thì mất nhà, người thì mất cặp trâu, kẻ thì mất ruộng. Chỉ có con cái của họ là hưởng được cái cảnh nhộn nhịp biến đổi không ngừng làm chúng thích thú.
 
 Người An nam có thói ham mê cờ bạc cao độ. Những phu khuân vác do công binh ta mướn ở các công trường xây cất khi vừa lãnh lương xong được vài đồng kẽm là tụm nhau mà đánh bạc, họ chơi bằng cách nắm tay và chơi chẵn lẻ. Cử chỉ của họ chính xác, co giật cực kỳ mau lẹ    [28]. Trò chơi thật mau ngã ngũ: thoáng là đã thua sạch, chỉ có một người ăn duy nhất. Họ lại mượn trước tiền lương của ngày hôm sau và tiếp tục chơi. Thường những người ở vùng biển, sống bằng nghề chuyên chở giữa vùng ven bờ và My-thô, ra đi trên những ghe thật đẹp chở đầy ắp hàng hóa, khi về thì thua hết vì cờ bạc, chỉ còn có cái can-chian trên người.

  Những người An nam ta thấy lúc nào cũng hối hả đem những gì họ kiếm ra để chơi cờ bạc và hình như họ không tìm thấy sự thích thú khi tom góp của cải để làm giàu; họ có những rung cảm cao độ về cảnh nghèo khó. Bài thơ sau đây, mà ta thấy họ hát trên khắp các mặt sông rạch ở Nam kỳ miền dưới, sẽ nói lên điều đó. Bài thơ không có tên tác giả. Người thông dịch An nam lúc nào cũng nhắc lại rằng:’’ Ở An nam, người ta làm nhiều thứ lắm, nhưng không bao giờ tìm cách phô trương giá trị của chuyện mình làm.’’

 ‘’Cảnh nghèo đói ơi, mi nói cho ta nghe._ Tại sao mi theo ta từng bước, chẳng khi nào mi để ta yên?_ Cảnh vườn hiu quạnh, cỏ mọc đầy._ Căn nhà ba cột, nhìn mái nhà dòm thấy trời xanh._Phần số của ta chỉ có bấy nhiêu đó. Trước cửa chủ nợ đòi khan hết tiếng, trong nhà con nít đói khóc hết hơi._ Số phận của ta phải chịu nghèo; nhưng cảnh nghèo chỉ còn vài năm nữa mà thôi, _ Rõ ràng đâu phải ai cũng nghèo hoài.’’

  Khi ta nhìn vào các dân tộc sống ở những nơi tận cùng của Á châu, thì không thể nào ta lại không chú ý tới người Tàu; ta thấy họ khắp nơi, chỗ nào cũng có, sống riêng hay trà trộn với dân chúng địa phương.

  Người Tàu rất đông tại Nam kỳ miền dưới: tập thể của họ gồm khoảng chừng 30 000 gia đình trước khi người Pháp xâm chiếm; ngày nay con số đó tăng lên gấp bội. Họ có nội qui, điều lệ đóng góp; nắm hết nội thương, ngoại thương trong xứ. Họ có tinh thần hấp thu và khả năng hoà mình dễ dàng với hoàn cảnh chung quanh, điều này giúp họ bành trướng ở An nam và ở những nước khác khi họ tụ tập lại; chỉ cách Saĩgon có mấy dặm ta thấy Cho-leun giống như là trên đất Tàu. Những người giàu có hay khá giả nếu có lấy vợ người An nam thì họ ép buộc người đàn bà phải sống trong chỗ tối tăm kín đáo, không được hoạt động gì cả; người đàn bà mất hết tự do và ảnh hưởng của mình trong gia đình và xã hội, không như khi họ lấy chồng người An nam. Người Tàu trả một số tiền gọi là thuế thân và khỏi đi lính, nếu không đóng thì không được mua đất và không được ghi tên trong sổ bộ của nhà vua. Người An nam phải chịu đựng ảnh hưởng của người Tàu và không thích họ chút nào. Họ gọi người Tàu là quiet [29], danh từ có tính cách miệt thị; nhưng khi họ cần đến người Tàu giúp đỡ, và chuyện này thường thấy xảy ra, thì người Tàu là ‘’các vị sáng suốt’’.

   Người Tàu xâm nhập khắp nơi. Mặc dù chiến tranh, cướp bóc hiểm nguy đủ loại, nhưng chính người Tàu ngược xuôi trên khắp miền kinh rạch, đi vào từng nhà người nông dân An nam dọc theo từng con kinh, thương lượng, thông thường là bằng cách hăm dọa, để mua trọn mùa lúa của họ. Cứ như vậy mà từ nhà nông dân này qua nhà nông dân khác họ mua lúa từng số lượng nhỏ rồi chở về My-thô hoặc Cho-leun. Từ đó việc buôn bán và chuyển lên tàu lớn thì cũng giống như ở Âu châu hoặc các nơi khác ở Viễn đông; tại Singapour cũng một phương pháp như vậy. Chuyện gì xảy ra ở Singapour thì cũng xảy ra ở Saigon, không tránh khỏi được. Người Tàu tự làm môi giới buôn bán với nhau, không cần trung gian chi phí, gom hết lợi nhuận và tạo ra những gia tài kếch xù Người Âu châu,_ nói chung người Anh và những người Âu châu khác,_ phải qua tay bọn thương gia địa phương: người Anh ở Singapour chỉ là người nhận ký gởi hàng hoá và thu tiền hoa hồng môi giới mà thôi. Những gia tài thật sự kếch xù ở trong tay người Tàu, trước kia họ chỉ là những người làm thủ công nghệ ở Quảng châu hay Hải nam. Việc người Âu châu đến Saĩgon không làm nao núng người Tàu chút nào, họ không sợ sự cạnh tranh của người Âu châu. Họ tin tưởng ở cách làm ăn của họ, người Âu châu không thể nào xâm nhập vào nổi. Trong thời buổi khó khăn, dưới sự xâm chiếm của Pháp, mặt ngoài họ giả như theo về phía quan quân An nam, và họ cũng có theo thật, chẳng qua là lúc đó My-thô và các tỉnh miền nam vẫn còn trong tay người An nam và người An nam còn đủ sức đảm bảo việc thương mại của họ.

  Trung tâm xâm nhập của người Tàu vào An nam là Cho-luen, chỉ cách Saĩgon có hai dặm. Ðó là một thành phố hoàn toàn Tàu. Dân Tàu ở đây gồm có bẩy bang hội, mỗi bang có một người cầm đầu gọi là hong-phoo; các người hong-phoo đeo một cái nút màu vàng là dấu hiệu của khoan dung và uy quyền._ Sau trận đánh chùa Clochetons năm 1860, ta thấy hết sức rõ ràng là thị trường tàu vỉnh viễn sẽ lọt vào tay ta, các người hong-phoo đều xin ta bảo trợ, và ta đã chấp thuận.

    Dân Tàu ở Nam kỳ miền dưới hàng năm vẫn tăng lên một cách đáng kể vì số thủy thủ người Tàu hàng loạt đổ đến từ Fo-kien, Kouang-ton và Hải nam. Sau các biến cố Kì hòa và My-thô ta thấy dân khắp nơi đổ xô đến đây, những người nghèo đói và bần cùng vì nghiện ngập thuốc phiện hoặc vì cờ bạc, bọn cướp bóc hết thời cũng nhập vào số đó, tuy cũng có người làm ăn nhưng khó phân biệt họ với cái cặn bả do miền biển Tàu thải ra như vừa kể trên; họ là những người có nghề nghiệp,_ như thợ hồ, thợ lợp nhà, thợ mộc làm nhà, làm tàu, thợ rèn,_ kể cả một vài người khá giả mang theo vốn liếng để kinh doanh.

   Xin ngưng ở đây những nhận xét về các nhóm dân ở Nam kỳ miền dưới. Nghiên cứu chính thức của chính phủ ta về họ hình như chỉ dựa vào những tình trạng mới thích ứng của họ về sau này thôi.

   Người An nam tôn thờ vua như cha mẹ của mình, như một giáo chủ, một người ở bậc tối thượng, chuyên chế, nhưng không độc tôn. Hình thức chính phủ không khác gì chế độ chuyên chế phụ hệ ở Tàu, người An nam được giáo huấn trong chế độ như vậy. Hoàng đế là một người cha; tùy tùng của hoàng đế có quyền như người trưởng tộc; thần dân thuộc hàng con cái mãn đời: hoàng đế tại triều đình gọi dân là con đỏ, xit-eu [30], để ám chỉ màu da của trẻ con mới đẻ, vì lẽ người cha càng thương môt đứa con hơn khi thấy nó càng yếu đuối. Ý tưởng này cảm động biết bao nhiêu nếu mà thực hiện được! Nhưng nếu con người chỉ là một đứa trẻ yếu đưối, không xứng đáng, không đủ sức tự bước đi và suy nghĩ thì sao!

   Hoàng đế An nam, như đã nói, không phải là người chuyên chế độc tôn: các thành viên của hội đồng tư vấn có thể bắt vua nghe theo mình bằng văn bản hoặc bằng lời biện luận cương quyết. Các văn bản mà ta tìm thấy trong cung mùa hè của các hoàng đế Tàu cho ta một ý niệm về sự tự do lạ lùng trong các lời diễn đạt của các quân sư.

  Hoàng đế nhận lãnh phụ cấp một cách minh bạch: mỗi tháng, bộ trưởng ngân khố quốc gia cấp một số tiền mà ta có thể biết rõ ràng [31]; nhưng số tiền này không đáng kể lắm, nếu ta cứ tạm so sánh với số tiền của công chúa vợ hoàng tử kế vị sẽ rõ: bà này mỗi tháng lãnh được năm mươi xâu tiền và năm phần gạo. Tuy nhiên hoàng đế An nam có các nguồn lợi khác, và được xem như một trong các hoàng thân giàu nhất Á châu. Giống như vua Xiêm, ông có quyền làm thương mãi, trên thực tế ông là thương gia lớn nhất trong nước. Ở Ðông phương điều này không làm hại đến uy quyền của ngôi vua.

   Tại Huế, hoàng đế cũng có tổ chức những buổi xuất hành trọng thể; nhưng ông cũng thường du hành với một đoàn tùy tùng thật ít người. Trong trường hợp trọng thể thì đi đầu có hai quân sĩ truyền lệnh: thông báo là hoàng thượng sắp xuất hiện, phải tránh bước nhường đường. Kế đó là các quan cởi ngựa và cởi voi, sau cùng mới đến hoàng đế. Phía sau là đoàn tùy tùng che lọng khá đông đảo. Dân chúng quì gối hai bên đường: nhưng vẫn có quyền đến gần để dâng lên vua đơn thỉnh nguyện của mình. Một vị quan cao cấp bên cạnh hoàng đế đứng ra nhận đơn; thường là chính hoàng tử con vua thân hành nhận đơn [32] Những người đưa đơn ngậm ở miệng một tờ giấy màu xanh. Tục lệ này là do sự tích thật xưa: có một người oan ức nhưng đi đến đâu cũng bị đuổi xô, bèn ngậm một tờ giấy xanh trong miệng mà kêu khóc, tiếng kêu oan lên đến tận trời. Ta thấy trẻ con An nam ngày nay cũng hay chơi trò thổi còi bằng cách dùng lá dừa quấn làm còi, đó cũng là cách tượng trưng chuyện đưa đơn vừa kể [33]. Ta thấy những người kêu oan trên đường, cất lên những tiếng kêu khóc, giọng ré lên rất cao hoặc ồ xuống rất trầm, họ cố gắng thay đổi âm điệu [34].

   Hoàng đế An nam có một vợ do mẹ chọn, ông tiếp nhận người vợ chính thức trước hội đồng bô lão đúng theo nghi lễ quy định. Ngoài ra ông có thêm bẩy bà thứ phi. Hoàng cung xây cất tại một địa thế có vị trí trắc trở của thiên nhiên, trong cung chỉ có đàn bà hầu cận. Các hoạn quan chỉ canh giữ gần cửa thành nơi hoàng đế tiếp các vị đại quan vào những ngày nhất định; nhưng sự hiện diện của hoạn quan vẫn là trường hợp đặc biệt; ta có thể nói chung quanh hoàng đế chỉ có đàn bà.

   Chỉ cách đây mười hai năm, hoàng đế An nam còn phải thân hành ra đến biên giới Tàu, áo mão trịnh trọng, tiếp sứ thần của hoàng đế Tàu để làm lễ đăng vương. Nhưng hoàng đế hiện nay thì lên ngôi tại Hué.

   Khi Hoàng đế lên ngôi thì phải bỏ tên cũ của mình và không được phép dùng tên này nữa, đồng thời một số chữ khác cũng cấm không được dùng [35] Tu-duc gọi là Haong-giâm[36]: chữ haong bị cấm trên khắp nước; người ta không được phép dùng trong khi nói chuyện, thi cử giấy tờ bộ đời._ Than[37], là tên mẹ của một trong số các hoàng đế An nam, dân gian cấm không được dùng tên Than trong một thời gian, và trên toàn nước phải gọi là Thiet. Mẹ vua Tu-duc tên là Thi: hiện nay người ta gọi là Thim trên toàn cỏi An nam. Chẳng những các cuộc tranh luận trong dân chúng cũng phải tránh tiếng này; nhưng ngay cả trong những dịp hệ trọng hơn mà nhà nho nào lỡ dùng chữ này trong văn thư cũng bị xử đánh bằng gậy. Việc đánh đòn là điểm đặc biệt làm tổn thuơng đến sự nhậy cảm của người Âu châu, nhất là trên đất Pháp; nhưng thật ra hoàng đế An nam bắt toàn dân phải đọc trại đi một chữ hoàn toàn không phải vì sự chuyên chế độc đoán, mà đây chỉ là một qui ước về lễ độ theo đúng tục lệ mà thôi.

Tên họ ở nước An nam có tầm quan trọng đặc biệt và khác lạ hơn cả với bên Tàu. Trên toàn nước không có hơn quá bốn mươi họ. Người An nam thêm vào họ một chữ nữa ám chỉ các đức tính tốt, sự xinh đẹp, hoặc dựa vào mùa màng, thiên nhiên: như suan tức là mùa xuân, quê là quế; gen-seng [38] là một loại thuốc thảo mộc tuyệt vời.

   Các viên chức nhà nước khi được bổ nhiệm thường chọn cho mình một tên mới có tính cách trừu tượng không phải là tên cũ của mình, nhưng là tên để đặt cho quận, cho tổng hay cho làng [39]. Vì thế lần lượt làng bỏ tên cũ và chọn tên mới có vẻ Tàu, êm tai hơn, hoặc để tránh không có chữ nào cấm: vì tính thận trọng của nho sĩ trong sự tôn trọng luật lệ. Kể từ ngày đó, tên làng chính thức được dùng trong mọi giấy tờ hộ tịch; nhưng dân làng vẫn dùng tên cũ trong khi nói chuyện, dần dần cho đến lúc tên chính thức trở nên quen thuộc, tên cũ gác qua một bên rồi quên đi, hoặc có trường hợp lại đổi qua một tên mới nữa khi có quan chức mới đến thay.

    Ở An nam người ta có thể đổi tên mà không cần thủ tục gì cả; nhưng cấm không được dùng tên của bạn bè, của một người quen biết: vì đó là một sự lăng nhục. Như ta thấy, những ý tưởng này thật khác biệt với quan niệm thiên chúa giáo hay La mã liên hệ đến việc bảo hộ hay nhận con đỡ đầu.

     Mỗi tỉnh do một quan tổng đốc cai quản, quan tổng đốc có hai cấp: cao và thường, tùy theo tầm quan trọng của tỉnh mình cai quản. Nam kỳ miền dưới, như mọi người đều biết, có sáu tỉnh, ba tỉnh lớn và ba tỉnh nhỏ, trước đây hợp lại làm một phó vương quốc đặt dưới uy quyền tối thượng của một đại biểu triều đình Huế gọi là king-luoc. Các phụ tá của vị tổng đốc gồm quan thuế vụ, quan án, một vị tướng giữ việc quân sự và một quan văn. Duới tổng đốc là các quan-phou và quan-huyen nắm giữ những đơn vị hành chính trong tỉnh, tương đương với tỉnh và quận của ta [40] Cũng không phải quá dài dòng khi cần xác nhận ở đây là các danh từ ta tạm dùng để chỉ định tương đương tỉnh trưởng và quận trưởng không có cùng định nghĩa như trên đất Pháp. Một tỉnh trưởng Pháp có thể viết văn thư trực tiếp lên cấp bộ trưởng, trái lại vị quan phou không có quyền này. Một vị quan-huyen hiếm hoi lắm mới phúc trình những việc mình làm lên quan- phou mà ta gọi tương đương là tỉnh trưởng. Ông ta không cần chứng tỏ sự hiện diện thường trực của mình cũng như sự tùy thuộc của mình vào cấp trên tức quan phou theo nghĩa thông thường mà nói.

   Các quan-huyen là cấp bực thấp nhất trong các quan chức chính thức do nhà nước tuyển chọn bằng thi cử, không bắt buộc có liên hệ mật thiết gì hết với nơi mà ông đến nhậm chức. Dưới ông là chức sắc hội đồng xã do dân chỉ định: một số người ở hội đồng xã chịu trách nhiệm trực tiếp với nhà nước, nên có tánh cách chính thức, một số khác chỉ liên hệ trực tiếp với dân mà thôi. Người cai quản trực tiếp dưới quan-huyen là caĩ-tong; đó là người quản lý của tổng; vị caĩ-tong được chọn ra trong số muời hai hay mười lăm xã trưởng bằng cách bầu cử. Như vậy là ta đang nói đến tầng thấp nhất trong mô hình kim tự tháp mà đỉnh chóp là hoàng đế: tầng thấp nhất chính thực là dân gian trong nước và những người tự họ bầu ra, tượng trưng là cấp làng mà cách tổ chức như sau:

  Trước nhất có ong-xa. Ở Pháp ta gọi là ‘’ông xã’’ [41]: ông có ấn dấu và giữ việc đối ngoại, trực tiếp trình    tấu với quan nhà nước. Ông được dân bầu và phải được nhà nước chuẩn y. Ông thực thi quyền hành trong ba năm, sau ba năm nếu quản lý tốt thì được cử vào hội đồng xã.

   Dưới ong-xa có hai ly-truong phụ tá. Có những làng quá nhỏ không có ong-xa mà chỉ có một ông ly-truong cai quản, làng sẽ tùy thuộc vào xã trưởng của làng cạnh bên. Chức sắc thấp nhất của hội đồng xã là pho-ly trợ tá cho ly-truong, sau cùng là các ong-huong phụ giúp các pho-ly.

    Ðó là các viên chức vừa tùy thuộc vào chính quyền lại vừa tùy thuộc vào dân làng; nhưng ngoài ủy ban hành chính liên hệ thường xuyên với chính quyền tỉnh và quan chức nhà nước còn có cả một hệ thống đẳng cấp rất uy thế, mặc dù không có tính cách chính thức gì hết; một vài người trong đẳng cấp này còn đứng cao hơn cả ông xã trưởng.

   Ðẳng cấp này là ong-ca, một người cao niên đã làm nhiều việc tốt, đã từng là xã trưởng. Ðó là vị ‘’cao niên nhất trong lớp người lớn tuổi’’. Làng nào có nhiều vị cao tuổi đáng kính như vậy thì dân làng rất là hãnh diện và làng được đặc biệt ân sủng. Ðối với người An nam sự kính trọng tuổi già cũng lan rộng ra đến việc kính trọng những cổ thụ trăm năm, mà họ coi là một biểu tượng của sự phồn thịnh. Vị bô lão tức ong-ca còn có quyền trên trước ngay cả với ông xã trưởng, nhất là trong các yến tiệc và ở chùa.

    Sau ong-ca là huong-thanh, chức vị như một cố vấn xã, có quyền đưa ra ý kiến và ứng cử đại biểu. Huong thanh là người có học của làng. Huong-hao là người thủ quĩ. Ông ứng tiền cho nông dân khi thất mùa, mặc dù giàu có và luôn luôn có vẻ hào phóng nhưng ít khi ông xóa nợ cho người nghèo. Ông cũng là người làm chủ lễ và dạy dỗ cho trẻ em cách chào hỏi, vâng dạ, thưa gởi. Dân cũng phải tuân theo những khuyến cáo của ông để khi các phou va huyen có xuống thì được suông sẻ._Ong cai dĩnh có trọng trách bảo trì dinh thự nhà nước và chùa chiền._ Các người ap giống như các thừa phát lại của ta, vì cấp bực thấp không gọi bằng ong. Người ta cũng chọn trong số những người ap để làm cai hướng dẫn từng nhóm mười người đi làm xâu. Họ cũng được cử làm vệ sĩ nữa._ Sau hết là ở mỗi phủ có một ong-huong-diong, trông giữ thành đồn, đây là một chức vụ mới đặt ra khi đánh nhau với người Pháp. Vai trò của họ rất quan trọng trong các cuộc khởi nghĩa.

   Ông xã xét xử những lỗi nhẹ, tội nhẹ; nhưng khi có ai phạm lỗi nặng và trọng tội thì ông phải đưa lên trình quan án của tỉnh. Ông có một số người tùy tùng là các vệ sĩ để sai thi hành lịnh của ông; nhưng trên thực tế ông có hết làng để sai bảo; gần như không bao giờ có lính: trong việc giải quyết các vấn đề nội vụ ở An nam ta không bao giờ thấy sự hiện diện của người lính.

   Các hình phạt mà ông xã áp dụng là việc đánh đòn. Người chịu tội nằm sấp bụng, người xử phạt dùng roi để đánh vào hai mông lột trần. Nếu thấy có vết roi phạm trên thắt lưng, thì người cầm roi sẽ bị phạt phải chịu đòn. Thường khi chịu đòn thịt văng lên không khí. Dân chúng, ngoài sự trừng trị khốc liệt vì trọng tội ra, thì bị phạt như trẻ con: người già như người trẻ đều bị roi vọt. Những tay cự phách ở Pháp về các cách trừng trị sầu não nhất cũng chưa chắc có dịp nhìn thấy một người lớn tuổi phải nằm xấp trong cái tư thế nhục nhã như vậy, và khi đứng lên thì run rẩy, mặt đầy nước mắt. Nhưng phải nói gì đây khi những người chứng kiến xem đó là một cách làm gương rất hữu hiệu, và ta có nên tin hay không khi nghĩ rằng có một số người trong tận cùng thâm tâm của họ lại thích trông thấy sự đau đớn của xác thân bị hành hạ?[42]

   Người xã trưởng rất ngại bị roi vọt. Nhưng đôi khi việc xử đòn lại là một vinh dự, một niềm hãnh diện công khai trước dân chúng. Khi một xã trưởng bị phạt roi bởi tận tình đòi hỏi quyền hạn của dân trong làng, thì ông được dân chăm lo săn sóc và trọng vọng. Người dân biết ơn; cả làng mang tiền đến cho ông; để tránh ý diễu cợt đối với một người phải chịu oan, dân chúng bảo nhau rằng vị xã trưởng tuy chịu đòn nhưng rất hãnh diện.

   Ðôi khi chuyện phạt đòn chỉ là hình thức: chánh tổng hay xã trưởng chỉ sửa sai răn dạy cả hai phía đi kiện mà thôi; sau đó không xong mới xét xử._ Khi có một kẻ nào đưa đơn khiếu nại lên hoàng đế thì phải chịu ba mươi roi trước đã: đây là cách chịu tội đã xúc phạm đến hoàng thượng; nhưng không có nghĩa là đơn khiếu nại vì thế mà bị bỏ qua, thường là họ thắng kiện vẻ vang.

  Nhưng không phải chỉ có các các quan chức nhà nước là có quyền phạt roi dân chúng; mà ngay những bô lão cũng có quyền. Các xã trưởng không chen vào: vì coi là một chuyện nội bộ trong gia đình. Khi đến thời kỳ đóng thuế thì chuyện phạt đòn xảy ra nhiều nhất ở Nam kỳ, vì nhiều người tuy bị phạt roi vẫn không chịu trả thuế; họ thà chịu đánh mà không trả thuế vẫn còn lợi hơn. Trong khi đó ta cũng phải nói thêm rằng chuyện phạt roi không xảy ra nhiều như ta kể chuyện đâu. Họ sống trong một chế độ rất hiền từ, như trong một gia đình mà thôi. Quan quân không hung dữ, uy quyền nhu nhược. Trong chế độ tồi tệ đó ta thấy một chiều hướng rất hoà hoãn không có gì cho thấy cảnh dân chúng bị trừng trị [43].

 Tất cả sinh hoạt của người An nam đều phát huy và tập trung nơi làng mạc. Làng là nơi người An nam dựa vào để phát huy một chút tự do cho mình; làng cũng là một thể chế cho phép họ được hội họp và liện hệ với nhau. Ðể chỉ uy thế ngang nhiên của một người nông dân và vợ lên tìm quan án để biện giải người ta thường dùng lời phát biểu như sau:’’Coi kìa làng lên tới nơi rồi đó’’.

Các thể chế của làng giúp cho người nông dân An nam khéo léo, lanh lợi hơn người nông dân Âu châu. Họ biết tranh luận trong công việc liên hệ đến họ, biết luật lệ, quyền hạn của mình và đòi thực thi những điều lệ đó. Họ biết cách chào hỏi, cách ngồi, cách thỉnh nguyện đúng theo nghi lễ. Họ bầu trực tiếp xã trưởng của họ và các nhân viên khác nắm giữ hành chính trong làng xã. Căn nhà lợp lá dừa lùn của họ được kính trọng, đúng theo luật pháp. Nếu một tùy viên của quan phou hay quan huyen bước qua khỏi ngưỡng cửa là người đàn bà trong nhà tấn công liền.

Hệ thống cai trị của chính phủ An nam vừa hữu hiệu vừa bảo đảm mọi quyền hạn của người dân, không thấy gì sơ hở; trừ ra cá nhân con người bị mờ đi trong tập thể chung; có thể nói là mất hẳn. Vì được cư xử như thế, nên người An nam tuy bị kềm chế nhưng không nghi ngại cũng chẳng có cảm giác phải lệ thuộc sự điều khiển của nhà nước. Nếu sai lệch đều bị roi vọt; dưới vẻ tự do bề ngoài, đời sống tập thể ở làng mạc chỉ có thể tồn tại khi người nắm quyền còn đủ sức duy trì. Các ý tưởng chính trị, tinh thần trào phúng, cách diễn đạt bóng gió hoặc ý nhị, xa xôi, là nguồn động lực duy nhất của các dân tộc bị áp bức, không thấy xuất hiện trong dân chúng An nam [44], có thể người An nam không phải là một dân tộc bị áp bức. Tất cả những diễn biến tốt đẹp đó là do lòng kính mến pha lẫn sự sợ hãi đối vơi nhà vua mà ra. Tuy lòng kính mến và sợ hãi có giảm đi đối với các cấp đại diện của triều đình ở những nơi xa xôi trong nước.

   Các biện pháp của ta áp dụng vào những tháng đầu năm 1861, như đã có nói trước đây, là phát huy chung  quanh ý tưởng đạo đức và lương thiện: mục đích để tách xa người An nam khỏi những thói xấu mới phát sinh do chiến tranh và cố gắng giữ họ trong khuôn phép cũ để duy trì họ trong tình trạng dễ dạy, ngoan ngoãn như trước kia. Nhưng tiếc thay, phải công nhận rằng người Tây phương vì bản chất và định kiến quá nhiều, quả không thích nghi chút nào để quản lý người Ðông phương. Nền hành chánh pha trộn nhiều thứ làm mất đi đức tính tôn trọng con người của ta; đôi khi ta có thể nghĩ rằng tinh thần rộng lượng đối với kẻ yếu kém và người bại trận đã suy giảm trong số những người viễn chinh. Tính khí vẫn còn là một chướng ngại: người An nam quen tiếp xúc với quan chức của họ lúc nào cũng trầm lặng, chừng mực, họ không hiểu gì hết khi thấy ta múa may dận giử, mất kiên nhẫn, la hét, những tia máu làm mặt mày ta méo mó. Không hiểu biết ngôn ngữ làm cho mọi sự trở nên phức tạp và gây ra vô số tai họa, nhưng lỗi không phải hoàn toàn do những người mới đến. Sau hết nếu ta nhìn vào khía cạnh tinh thần hay trên phương diện thực tế của phương pháp trị dân bằng roi vọt của người An nam, ta sẽ thấy dưới nhãn quan của họ cách trừng phạt đó không làm tổn thương đến danh dự họ chút nào hết [45], ý tưởng là trẻ thơ đã không làm cho họ nghĩ tới phẩm cách cá nhân của mình. Người Pháp không thể nào giữ vai trò quyền uy phụ hệ để trị con cái như vậy được; họ cũng không ước mơ làm được chuyện đó Trong khi ấy họ lại cứ nghĩ là nên bảo tồn phương pháp trừng trị của những người cầm quyền cũ, không hiểu rằng một khi bản chất_tức đạo làm con_ đã mất đi thì phương pháp chỉ là giả tạo mà thôi. Ví dụ Âu châu vào thế kỷ thứ tám, khi hai mươi dân tộc khác nhau bị chinh phục và chịu chung một chính thể, mỗi người khi đem ra xử đều có quyền chọn lựa luật pháp áp dụng cho mình. Ví như nếu người An nam mà có cái quyền đó, chắc là họ không chọn luật lệ của ta mà họ sẽ đòi hỏi những quan án cũ của họ xét xử họ. Trước khi người Pháp đến, các dân tộc An nam được quản lý bởi một luật pháp pha lẫn tôn giáo, phép vệ sinh trong xã hội, chánh trị và đạo đức [46]; tất cả đều chi phối lẫn nhau và lẫn lộn với nhau. Một số điều rất đúng và cực kỳ khéo léo, không trái ngược với quy luật thiên nhiên chút nào Bộ luật liên hệ đến dân quyền của ngườI An nam được soạn thảo dưới thời hoàng đế Gia long sau nhiều thời kỳ giặc giã xâm lấn, vì giặc xâm lược thường thấy xảy ra. Trong bộ luật này, tính cách chuyên chế đặc biệt của Tàu vẫn còn nặng nề, nhưng ta thấy ảnh hưởng tục lệ Nhật bản thật sâu đậm; nổi bật hơn hết là tính chất hiền lành và chất phác đặc biệt của người An nam trong bộ luật.

     Vì lý do thận trọng, vì chủ trương khai hóa nền văn minh thiên chúa của ta, ta có nên hủy bỏ không áp dụng đối với người An nam luật pháp dựa trên bộ luật còn nguyên vẹn của họ: chẳng hạn ta có nên giữ hình phạt đưa đến cái chết từ từ, và có nên dựa theo đẳng cấp các hình phạt ở Á châu hay không? Ta nghĩ rằng vừa có thể chứng tỏ việc bành trướng và sự hiện diện của kẻ xâm lược như ta, ta vẫn có thể kính trọng thói tục của người dân trong xứ. Sau hết nếu ta muốn tránh những nguyên do thúc đẩy người An nam lánh xa ta, thì một mặt phải cần dẹp bỏ quyền xử phạt quá sơ lược mà quan quân An nam áp dụng; và mặt khác các dân tộc An nam phải đạt được mức tin tưởng chắc chắn là sự khác biệt của ta đối với họ chỉ có trên vẻ mặt của ta, trong cử chỉ của ta; ta còn có những gì vượt cao hơn những thứ đó,và những khác biệt nếu có thì chỉ trên nguyên tắc mà thôi. Ví như ta có thiếu những đức tính tốt, và cả tính xấu của quan quân An nam, để không đủ sức cai trị họ, thì tốt hơn hết cho ta là cứ đem áp dụng cho họ chế độ cũ mà họ đã quen: nhưng tiếc thay kinh nghiệm thực tế đã cho thấy cách áp dụng này hoàn toàn thất bại. Ngay cả chế độ mà triều đình Hué áp dụng cho họ và khống chế họ, người An nam trong một số trường hợp, đã bộc lộ một cách mạnh mẽ phẩm cách cá nhân của mình: ta có thể đưa ra ví dụ về sự can trường khi bị tra tấn, hành hạ và hành động tuẩn tiết của họ, điều này không phải phần lớn do ảnh hưởng từ lòng quyết tâm mà vì khí tiết nóng nảy và bướng bỉnh của họ đã trổi dậy. Trước mặt người khâm sai của triều đình, người dân An nam có cảm giác như một đứa trẻ nhỏ, nhưng trong lòng họ sẽ nẩy sanh tức khắc một mối tử thù khi có người ngoại quốc nào muốn cầm roi đánh họ. Nếu những ai coi người Á châu như một đàn cừu vô giác trước cái đẹp tinh thần thì thật quả là những người điếc đặc không đủ sức để hé mở lòng mình. Họ phải là những người hoàn toàn ngu dốt mới tin như vậy, họ không hiểu rằng chính những người Á châu đó đã từng rơi nước mắt khi nghe kể chuyện một vị lương y thông thái, con vua, một bậc thầy thánh thiện đã từ bỏ vợ con, ngai vàng, để đi thuyết giảng cho con người những quy luật thiên nhiên mà họ đã quên [47]
-------------------------------------------

[1]Can chian = cái chăn ??? (ghi chú của ngưởi dịch).

[2] Có lẽ tác giả muốn tả dáng vừa đi vừa bơi của mấy bà ? (ghi chú của người dịch)

[3]Theo tác giả có lẽ phụ nữ An nam đẹp hơn các cô Tàu ở Thượng hải ? (ghi chú của người dịch).

[4] Long lân quy phụng ??? (ghi chú của người dịch).

[5] Tác giả tỉ mỉ và ‘’dòm’’ kỷ quá. Tính đa nghi rất xấu, nhưng biết đâu tác giả đã từng đi chọn nữ trang? Nhất là thấy ‘’cách nhìn’’và ‘’tình cảm’’ của tác giả về dân tộc tôi đã thay đổi ‘’khá nhiều’’ so với những chương đầu của quyển sách, (ghi chú của người dịch).

[6] Lam ray và Di doy là những chữ chép lại theo nguyên văn trong nguyên bản. Lam ray : có lẽ là làm rẫy. Di doy: có lẽ là đi chơi, tác giả đã âm theo giọng nói miền nam? (ghi chú của người dịch).

[7] Một đại biểu của Ðảo Réunion sau khi đến Saĩgon năm 1860, đã tin chắc khó có thể đưa dân Nam kỳ miền dưới di dân ào ạt như bên Tàu, mà Ðảo Réunion đã lợi dụng trước đây để có công nhân làm việc.

[8] Người dịch e rằng tác giả khá mâu thuẩn với mình, nếu chú ý ta sẽ nhận thấy tác giả thường đưa ra nhiều kết luận vội vã làm giảm bớt giá trị của quyển sách. Trong đoạn này ta cũng thấy tác giả mặc tình cho nhận xét và tình cảm của mình trào ra đầu ngọn bút, liên tục từ ý này sang ý khác; chẳng qua tác giả còn trẻ quá, nhưng cũng chính vì thế ta đã thấy được một chút gì thành thật. Trong chương này và một số chương khác ta cũng bắt gặp nhiều đoạn tương tợ. Dù sao với đoạn vừa đọc ta cũng thấy được một chút nào sâu sắc, một chút nhận bản và tình người bộc lộ trong lòng tác giả, (ghi chú của người dịch).

[9] Ta có câu tục ngữ :‘’Tránh voi chẳng xấu mặt nào’’ , (ghi chú của người dịch).

[10] Các chữ này chép lại theo đúng trong nguyên bản, không phải là những chữ đã dịch sang tiếng Việt, (ghi chú của người dịch). 

[10] Các chữ này chép lại theo đúng trong nguyên bản, không phải là những chữ đã dịch sang tiếng Việt, (ghi chú của người dịch).

[11] Các chữ này chép lại theo đúng trong nguyên bản, không phải là những chữ đã dịch sang tiếng Việt, (ghi chú của người dịch).

[12] Xin chú ý đoạn sau, tác giả sẽ tả người An nam bị xử tử, (ghi chú của người dịch).

[13] Ðúng theo nguyên văn: ils ont du gan, người dịch mạn phép nghĩ rằng tác giả không phải là một nhân chứng trong câu chuyện này. Tác giả lẫn lộn gan và tim, dù sao cũng đều là ‘’đồ lòng’’ cả, cái lẫn lộn trong đầu mới hệ trọng và nguy hại hơn, (ghi chú của người dịch).

[14] Câu chuyện có vẽ hoang đường rõ rệt, không có gì hợp lý, chính xác về địa danh cũng như thời gian. Có lẽ là một câu chuyện cổ tích trong dân gian, không có một giá trị gì so với những điều tác giả viết với tư cách một nhân chứng, (ghi chú của người dịch).

[15] Tức là trước khi người Pháp khởi đánh Nam kỳ (ghi chú của người dịch).

[16] Câu này cho thấy cướp bóc, án mạng gia tăng sau khi người Pháp chiếm Saigon và My-tho. Người Pháp xử tử rất nhiều, có lẽ ghép tất cả trọng tội vào chính trị để gây khiếp sợ cho người An nam, không cho họ nổi dậy, (ghi chú của người dịch).

[17] Tôi e rằng tác giả đi hơi xa trong sự suy luận. Trong đoạn trên tác giả vừa viết là ta chỉ nên xác nhận những gì quan sát mà thôi, không nên đưa ra một kết luận nào hết. Trong đoạn này tác giả lại thả cho trí tưởng tưởng của mình tha hồ tung hoành, đưa ra những giả thuyết và những giải thích có thể đã vượt hơn khả năng của mình.

Nhưng thật tình, quả là ái ngại khi thấy một người chân ướt chân ráo từ xa đến lại xét đoán một dân tộc khác một cách hết sức ôm đồm trên quá nhiều lãnh vực không thuộc phạm vi của mình. Tác giả trong khi viết có lẽ quên mình là một kẻ xâm lược đi chiếm thuộc địa, và nơi quê hương mình Nã phá luân đệ tam đang đưa chế độ quân chủ vào một giai đoạn độc tài cao độ nhất. Tác giả có tả ở các phần trước, khi quân viễn chinh xung phong thì đồng loạt hét lên:’’Hoàng đế muôn năm’’ (Vive l’Empereur!) Quân An nam tuy có tôn thờ hoàng triều nhưng không nghe kể lại khi xung phong có hét lên: ‘’Hoàng đế muôn năm’’ hay không. (ghi chú của người dịch).

[18] Ðành rằng trong luật pháp thời xưa ở Việt nam có tội tùng xẻo, lăng trì, voi giày, ngựa xé, nhưng tôi trộm nghĩ quân viễn chinh vừa chiếm xong hai tỉnh Gia-dinh và My-thô, quan chức triều đình Huế bỏ trốn cả, lấy ai trừng phạt tội phạm cho tác giả xem. Có thể tác giả nghe kể chuyện rồi thuật lại như chính mình đã trông thấy thật. Ai chẳng đồng ý với tác giả ta nên tố cáo và chống lại sự hung bạo bất cứ từ đâu đến. Ngày nay người ta có thể đến viếng một vài lâu đài cổ trên đất Pháp có những hầm bí mật nhốt người và trưng bày những dụng cụ tra tấn cực kỳ tinh xảo của thời trung cổ Âu châu; tôi nghĩ rằng cái cày nung nóng, con dao rĩ sét hay bỏ rắn vào quần thì tôi cũng chẳng thấy gì cầu kỳ hơn và độc ác hơn những khí cụ tôi thấy ở Âu châu (chưa kể là tác giả tả người An nam không mặc quần, chỉ quấn một tấm vải rộng như tác giả thấy, vậy bỏ rắn vào đâu ?). Những hình phạt ghê rợn được đồn đại trong dân gian có tính cách răn dạy hơn là sự thực, tác giả cũng có nói trong đoạn dưới là việc trừng phạt bằng roi cũng chỉ có tánh cách tượng trưng. Chắc nhiều người cũng nghe nói dưới thời Pháp thuộc, trong bót Catinat Saĩgon người Pháp tra tấn bằng cách cho điện giật, treo tay lên trần nhà rồi đổ nước xà bông vào miệng hay treo ngược hai chân ngày đêm cho đến chết hoặc phải khai; thỉnh thoảng ta cũng thấy phim tài liệu trên màn ảnh truyền hình về cuộc thảm sát Mỹ lai, cảnh những người viễn chinh cuối cùng bị bắt sau trận Ðiện Biên Phủ, họ bị hạ nhục, bỏ đói, bịnh tật và chết gần hết; theo lời tác giả thì khi thành Kì hòa thất thủ quân An nam nào chạy không kịp đều bị giết sạch. Sự hung bạo tái diễn liên tục trong lịch sử con người, chỉ thay đổi bộ mặt đôi chút để thích hợp với từng vị trí và giai đoạn thế thôi, (ghi chú của người dịch).

[19] Người này đi vào thành phố Tàu, lúc đó vẫn còn thuộc lãnh thổ địch. Một đám đông bao quanh: vài người An nam trỏ một con gà mái và thách người lính của ta bắn xem có trúng không. Rõ ràng chỉ để đánh lừa người trung sĩ của ta. Anh nâng súng cac-bin mà nhả đạn, chưa kịp nạp đạn khác thì đám đông ập vào tóm lấy anh.

[20] Có lẽ tác giả muốn nhắc đến việc kéo quân đi đánh Oc-muon, vừa bị nóng bức vừa khát nước người lính viễn chinh cứ tranh nhau uống bừa nước trong lu của người dân để trước nhà mà không để ý là có thể có thuốc đôc trong đó. Tiếc rằng tác giả không nhắc thêm là những người nông dân chất phác và thật thà sau khi bớt sợ đã kéo ra khiêng giúp những người lính trong đạo quân viễn chinh ngã lăn ra bất tỉnh vì nóng, (ghi chú của người dịch).

[21] Trong nguyên bản ghi là cap Ti-wane, không biết nơi nào ở cửa sông Saigon ? (ghi chú của người dịch).

[22] Quân Pháp cấm chở gạo từ vùng Nam kỳ miền dưới lên phía bắc lãnh thổ để gây đói kém cho vùng chưa chiếm, tác giả sẽ nói đến trong chương X, (ghi chú của người dịch).

[23] Mô tả rõ ràng thái độ của những người bị tử hình,tác giả hẳn là một nhân chứng? (ghi chú của người dịch).

[24] Lắm khi ta trộm nghĩ biết đâu chỉ cần một vị lương y giỏi là đủ, hơn là có một linh hồn nô lệ, (ghi chú của người dịch). 

[25] Có lẽ đây là hò của những ngưòi làm ruộng, (ghi chú của người dịch).

[26] Có lẽ đây là một lời chửi tục mà tác giả không muốn nói trắng ra, (ghi chú của người dịch).

[27] Tác giả rất thích dùng phương pháp tương phản để mô tả, (ghi chú của người dịch).

[28] Có thể đây là trò chơi đánh tù tì của trẻ con ngày nay? (ghi chú của người dịch).

[29] Có lẽ là phiên âm của tiếng chệt ,(ghi chú của người dịch).

[30] Nếu dựa vào phiên âm mà đoán thì sit-eu có lẽ là sĩ thứ ? Sĩ thứ là người dân, hay dân trong nước, không có chữ nào có nghĩa là đỏ , tuy nhiên ta có thành ngữ răn dạy vua quan : ‘’phải thương dân như thương con đỏ’’(ghi chú của người dịch).

[31] Có thể tác giả biết rõ tiền phụ cấp của hoàng đế Tu-Duc nhưng không nói thẳng, chỉ đơn cử một thí dụ nhỏ để ta so sánh. Hoàng đế Tự Ðức không có con, vậy vợ của Hoàng tử kế vị là ai? Quả thật là khéo léo vô cùng. Ðây có thể là tập quán tôn trọng đời tư thường thấy ở người Âu châu (?), và cũng là lối viết văn của tác giả, chỉ nói một nữa hoặc nói bên cạnh cho ta hiểu nhưng không nói thẳng hoặc nói hết, (ghi chú của người dịch).

[32] Chi tiết này rất đúng vì hoàng đế Tự Ðúc không có con và một vị đại thần phải đứng ra nhận đơn, (ghi chú của người dịch).

[33] Ðây chỉ là trò chơi của trẻ con, không liên hệ gì đến việc dâng đơn kêu oan lên nhà vua. Sụ suy luận bằng cách liên tưởng của tác giả có thể đã được đẩy đi quá xa, (ghi chú của người dịch).

[34] Mặc dầu không hiểu nghĩa những lời ta thán, nhưng tác giả mô tả âm giọng lời kêu van thật chi tiết. Ðiều này chứng tỏ tác giả có thể đã chứng kiến thật sự cảnh hoàng đế xuất hành, (ghi chú của người dịch).

[35] Có lẽ tác giả không hiểu điều này. Khi lên ngôi, vua chọn vương hiệu, tên vẫn còn. Dân gian tránh dùng một số chữ là sợ phạm húy, (ghi chú của người dịch).

[36] Haong giâm = Hồng Nhậm, (ghi chú của người dịch).

[37] Than= Thân, (ghi chú của người dịch).

[38] Có thể tên là Sâm, còn tên gen-sen có lẽ hơi lạ ? (ghi chú của người dịch).

[39] Thật ra thì người dân ghép cho ông phủ, ông huyện, ông cai tổng,... tên của phủ, của huyện, của tổng... để tránh gọi tên tục của các ông này mà thôi, (ghi chú của người dịch).

[40] Tạm dịch các chữ Préfecture và Sous-préfecture là tỉnh và quận, ta cũng có thể dịch là quận và huyện. Nói chung không có sự tương đồng khẳng định trong cách phân chia hành chính từ cấp tỉnh trở xuống giữa An nam và Pháp, (ghi chú của người dịch).

[41] ‘’monsieur le maire’’ trong nguyên văn (ghi chú của người dịch).

[42] Tác giả lại tìm cách giải thích, (ghi chú của người dịch).

[43] Xin người đọc so sanh với những đoạn trên khi tác giả tả những phương pháp trừng trị man rợ của quan quân An nam. Luật pháp của người An nam dựa vào sự răn dạy hơn là trừng phạt trong mục đích trả thù, (ghi chú của người dịch).

[44] Rất tiếc là tác giả mới đến đánh chiếm An nam, làm sao có đủ thời giờ và khả năng đi sâu vào ngôn ngữ, văn hóa và nghệ thuật của một dân tộc. Văn chương bình dân An nam, tức là ca dao, hát hò, hát vè, các vở kịch giản dị trình diễn trên ghe thuyền mà tác giả đã thuật ở các đoạn trước là hình thức phát biểu rất bóng bẩy, tượng trưng, sâu sắc những xúc cảm, ước mơ, những gương tốt về đạo đức, phản ảnh hoàn cảnh chung quanh họ. Văn chương trào phúng và châm biếm thì có lẽ người An nam rất sở trường, ngưòi dịch có dịp tiếp xúc với khá nhiều dân tôc trên thế giới, nhưng chưa có dịp may chung đụng với một dân tộc nào vừa lanh lợi, vừa châm chọc lại vừa tếu như dân tộc An nam. Bằng cớ là tác giả có tả con nít An nam chọc lính Tây ở đoạn trên bằng những tiếng kỳ cục. Tôi nghĩ rằng nền văn chương châm biếm không bắt buộc phải là hậu quả phát sinh từ một một dân tộc bị áp bức. Tôi rất biết ơn và kính phục những nhận xét nhiều khi rất khách quan của tác giả về dân tộc tôi, nhưng mỗi lần tác giả tìm cách giải thích hay kết luận thì tôi hơi thất vọng một chút, (ghi chú của người dịch).

[45] Dịch câu này tôi nghĩ đến câu tục ngữ :’’thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi’’ (ghi chú của người dịch).

[46] Tác giả nhận xét rất đúng, (ghi chú của người dịch).

[47] Tác giả có viết: ‘’Dân An nam là một giống dân thoái hóa, nhiều thói hư tật xấu hơn là đức tính tốt’’ (xem chương II),’’duới một trong những gốc cây maha-phôt ông Phật được vua các thiên thần là Indra phong làm thầy tu’’ (xem chương III), người dịch mạn phép nghĩ rằng kẻ xâm lược bành trướng và áp đặt nền văn minh Thiên Chúa của mình (lời của tác giả ở đoạn trên), nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng một cách gián tiếp và kín đáo nền văn hóa của kẻ bị trị. Dù sao tôi cũng xin ngã nón trước sức thích ứng và hấp thu mau chóng của tác giả trước một dân tộc và một nền văn hoá mà cách đây không lâu còn hoàn toàn xa lạ đối với tác giả, (ghi chú của người dịch).

CHƯƠNG X

Ðề cương:

Người An nam một mặt cầu hòa một mặt chuẩn bị chiến tranh. - Trong khi đó dân chúng chịu ách nô lệ. - Người Pháp tiếp tục bành trướng và củng cố thuộc địa. - Phó đề đôc hải quân Charner trao lại quyền hành ngày 30 tháng 11 năm 1861.

   Hai mươi ngày sau khi ta đánh thắng thành Kì hòa, bộ trưởng tài chính của đế quốc An nam, sứ thần của triều đình Hué và phó vương của sáu tỉnh Nam kỳ miền dưới, cho người chuyển thư nghị hòa lên chiến hạm Impératrice-Eugénie. Vị quan trung gian cho việc cởi mở đầu tiên này trước kia nắm giữ một chức vụ hành chánh quan trọng của tỉnh Gia-dinh; trước đây ông bị giáng cấp, nói theo cách nói của người An nam là vì ông’’ăn của dân’’ [1] quá nhiều. Những hành động nghiêm khắc như thế của triều đình Huế không phải là hiếm thấy. Tuy nhiên, trong xứ chuyện ăn hối lộ không phải là một hành vi làm mất danh dự và cựu chánh án Saĩgon không phải vì thế mà bị mất chức hẳn. Ông được xem như người rất giỏi văn chương Tàu và tiếng Bắc kỳ; dân tại Saĩgon ai cũng biết ông và cho rằng chính ông là người soạn thảo các văn thư chính thức để trao đổi với ta. Bề ngoài tuy có chức vị nhỏ, nhưng thực tế vai trò của ông rất hệ trọng. Ta đưa xuồng ca-nô của tàu Primauguet đón ông [2], đoàn tùy tùng rất ít gần như không có ai. Tàu Primauguet thả neo trên sông Ðon-naĩ tại một khúc uốn cong hướng ngược về phía Saĩgon, tại đây có hai nhánh sông và ở giữa là đường lên Bien-hoa. Thông điệp của người An nam gồm những câu rất tổng quát ta thường thấy dẫy đầy trong các văn thư Tàu: đó là những câu liên quan đến tai ương và thảm họa chiến tranh. Sau cùng, vị sứ thần của triều đình Huế không chấp thuận một điều khoảng nào hết của ta đưa ra để tái lập sự thuận hòa giữa hai đế quốc: ông cho rằng’’Tất cả chỉ lợi cho Pháp; không có một điều nào thủa đáng cho phía An nam’’

Vị toàn quyền Pháp trả lời (ngày 26 tháng tư 1861): ’’ rằng nếu hòa ước được ký kết, thì ngoại thương của người An nam hiện nay hoàn toàn xụp đổ vì các tuần dương hạm Pháp khống chế, sẽ được tự do hoạt động trở lại, _ rằng nước Pháp thay vì tạo khó khăn, có thể trong vài trường hợp, sẽ hậu thuẩn cho chính quyền Hué. Ông chuyển những ý kiến này lên sự khôn ngoan của nhà Nguyễn [3], và ông sẽ rất hài lòng nếu nhận được lời phúc đáp cho thấy hé mở chút gì có thể hòa giải được’’.

Vị phó đề đốc nói đến việc thương mại suy xụp vì các tuần dương hạm phong tỏa là cách làm áp lực của ta đối với sứ thần An nam. Một nghị định của ta, ký ngày 23 thánh 4, cấm chở gạo lên vùng phía bắc lãnh thổ. Hậu quả của lệnh cấm gạo cho thấy ngay tại sao ta đã đánh chiếm My-thô. Gạo là vấn đề quan tâm chính của chính quyền An nam.

Tin này làm dân An nam kinh hoàng. Ngay sau khi mất My-thô, họ vẫn tiếp tục hy vọng là khắc nghiệt của chiến tranh không đến nỗi nào ảnh hưởng nguy hại đến việc cung cấp gạo là nguồn sinh sống duy nhất của họ. Sứ thần của hoàng đế Tu duc phải kêu lên vì những khắc nghiệt do ta tạo ra, về những sự việc đã rồi, về những điều kiện quá cứng rắn mà ta đưa ra cho họ, và sau hết là cái thảm họa mới này ( công hàm ngày 3 tháng 5 năm 1861). ‘’Từ ba năm nay các ông gây chiến với chúng tôi, trong cái xứ khốn khổ này không có gì thoát khỏi tay các ông. Các ông đốt hết kho tồn trữ của chúng tôi, chiếm cứ và phá tan đồn lũy của chúng tôi, đốt chiến thuyền, phá sạch nền thương mại; ghe thuyền chở vải quí cũng bị đánh chìm, giết quân sĩ, đốt nhà của chúng tôi. Các ông còn hạch sách tiền bạc bồi thường; chúng tôi nghèo lắm rồi. Nói có Trời những cảnh tang thương mà các ông gây ra có vui sướng gì? Ngày nay các ông lại cấm gạo; dân tình sẽ chết đói mà thôi.’’ Sau hết, ông nói tiếp bằng vẻ kiêu căng:’’Vì lẽ Ngài chỉ còn dành cho chung tôi một giải pháp cuối cùng, thế thì chúng tôi đành phải cầm khí giới để chiến đấu vậy.’’

Vị phó đề đốc hải quân trả lời (ngày 7 tháng 5 năm 1861) rằng: ’’ông sẽ dùng vũ khí để đẩy lui vũ khí.’’

Tuy nhiên, việc đàm phán vẫn tiếp tục sau hai công hàm đó. Việc thương thảo kéo dài từ tháng năm, tháng sáu, tháng bẩy cho đến ngày 4 tháng tám, và bất thần ngưng lại từ ngày đó [4] Sau đây là lá thư của phó đề đốc hải quân, chỉ huy trưởng các lực lượng Pháp, gởi cho sứ thần của hoàng đế An nam, ngày 7 tháng sáu, cho biết đầy đủ căn bản đề nghị của ta để tái lập hòa bình và sự khước từ của phía An nam.

‘’Tôi nhanh chóng phúc đáp thư của Ngài mà tôi hân hạnh đã nhận được, tôi tin rằng trong thư trước đây tôi đã cho biết một cách chi tiết những căn bản theo đó chúng ta có thể đi đến một thỏa ước hòa bình lâu dài.

Tuy nhiên, vì sợ còn thiếu sót, tôi xin nhắc lại những điều kiện mà tôi cần thương nghị:

‘’1 Tự do hành đạo Thiên chúa;

‘’2 Giao nhượng hẳn thành phố Saĩgon và tỉnh Saĩgon;

‘’3 Giao nhượng hẳn thành phố My-thô và toàn vùng lãnh thổ chung quanh;

‘’4 Giao nhượng hẳn thành phố Fou-yen-mot, thuộc tỉnh Bien-hoa;

‘’5 Tự do lưu thông trên các sông ngòi miền tây;

 ‘’6 Người Âu châu tự do đi lại bất cứ nơi nào trên toàn cỏi An nam, với điều kiện là họ  tuân theo luật An nam;

‘’7 Phải giao trả người Âu châu phạm luật cho vị lãnh sự xứ họ tại hải cảng gần nhất;

‘’8 Hai bên chính quyền Pháp và chính quyền Nam kỳ có quyền cử đại diện tại tòa án của mỗi bên;

‘’9 Thiết lập tòa lãnh sự và người Âu châu tự do thương mại tại các hải cảng chính;

‘’10 Ân xá tất cả tội phạm liên hệ đến chiến tranh;

‘’11 Bồi thường bốn triệu đồng bạc [5];

‘’12 Phải để cho sứ thần Tây ban nha dự vào tất cả các thỏa ước trong tương lai.

‘’Cho đến bây giờ Ngài chỉ chấp nhận có hai điều khoản là tự do hành đạo Thiên chúa và sứ thần Tây ban nha dự phần vào các thỏa ước.

‘’Ngài vẫn tiếp tục than phiền về sự quá đáng trong những đòi hỏi của tôi, nhưng tôi vẫn tin rằng Ngài cực lực mong muốn hòa bình, mặc dù thế đến giờ phút này tôi thấy Ngài vẫn tránh né không chấp nhận những điều nhượng bộ mà Ngài phải làm đối với chúng tôi.

‘’Nhiều lần Ngài gợi ý cho biết để đáp lại các điều lợi mà chúng tôi đòi hỏi, chúng tôi không có một điều khoản nào bù đắp lại và việc giao nhượng tỉnh Saĩgon cũng ví như là giao hết các tỉnh miền tây Nam kỳ.

‘’Tôi rât vinh dự trả lời Ngài thêm là hòa bình sẽ cho phép đế quốc An nam thực thi việc buôn bán chắc chắn và có ưu thế hơn; tránh khỏi chúng tôi dùng quân sự để tiếp tục đánh; Ngài có thể tiếp tục liên lạc với các tỉnh miền tây mà hiện nay đã lọt ra khỏi quyền chủ động của Ngài.

‘’Trái lại, nếu chiến tranh tiếp tục, thì tình trang đế quốc An nam chỉ trở nên trầm trọng mà thôi. Chắc chắn Ngài cũng đã thấy điều đó.’’

Trong khi danh từ hòa bình được hai bên trao đôi, tất cả nỗ lực của vị chỉ huy trưởng Pháp dồn vào việc bình định và tổ chức lãnh thỗ vừa xâm chiếm._Tù chiến tranh giao về làng của họ và bắt phải ghi danh. Ai chỉ chỗ chôn dấu khí giới tại các tỉnh thì được thưởng. Vị chỉ huy trưởng tìm cách đánh lạc hướng quần chúng không cho họ nghĩ đến chiến tranh, ông duy trì các lời hứa trước đây khi ông khởi động chiến dịch, miễn thuế một năm cho dân chúng. Ông tiếp đón tử tế những người dân đòi nhà, họ thú thật rằng vì lúc đầu quá sợ hãi họ phải bỏ nhà mà trốn. Ông cho kiểm kê đất đai nhà cửa, ra hạn định phải thiết lập chủ quyền và muốn bán phải có phép của chính quyền người Pháp. Ông ra lịnh giữ nguyên ranh giới lãnh vực hành chính trong tỉnh My-thô cũng như ông đã giữ nguyên tại tỉnh Saĩgon, như thế để tránh không gây thêm rắc rối sau những rúng động cực kỳ mãnh liệt vừa qua.

 Không được giết trâu, tuy quân viễn chinh có thiếu thịt tươi nhưng cứu vãn được việc canh nông. Gạo lúa trong kho My-thô chưa cháy hết, người nào vớt vát được thì cho; không áp dụng với họ sự trừng phạt theo luật hàng hải liên quan đến tàu bè bị bể và bị đắm, biện pháp này đã tạo một ảnh hưởng tốt từ lúc ta mới nắm việc đô hộ. Ðồng tiền kẻm phải tồn kho và bảo vệ chống lại những tổ chức đầu cơ, bọn này chỉ cần đi từ Saĩgon xuống My-thô và từ My-thô lên Saĩgon để chuyển tiền, ứng tiền cho vay nặng lãi mà thủ lợi.

Biên giới phía nam do một biệt đội canh giữ, thêm một hải đội gồm các tàu Prégent, Sham-Rock, pháo hạm số 27, pháo hạm số 22 và chiếc xà-lan Soledad của Tay ban nha giao cho lính thủy Pháp sử dụng. Hải đội này do đại úy Devaux chỉ huy để thăm dò các đường sông ngòi và để chống lại ghe tàu của bọn cướp bóc. Tàu Sham-Rock và hai pháo hạm bằng sắt ngược nhánh tây nam (27 tháng năm, 13 tháng sáu) của sông Cambodge trên suốt bốn mươi dặm đến tận tỉnh Chau-doc, nơi đây là cửa kinh Can-cao đổ vào sông Cambodge. Kinh này vừa hẹp lại nhiều cỏ mọc, chỉ sâu từ bốn đến năm chân, đi ghe phải mất bốn ngày mới đến cảng Ha-tien: con kinh này vắng vẻ vì có nhiều bọn cướp vặt người Cao miên rình rập.

Việc phong tỏa Cao miên đã công bố như đã nói trước đây, tức ngày 23 tháng 4 năm 1861, làm cho thương mại phải chuyển khỏi Mỹ-thô để đổ dồn về Saĩgon. Quân đội ta đã khống chế và bảo vệ an ninh hoàn toàn vùng biên giới; ta làm chủ được hết các đường sông rạch trên phần thuộc địa đã chiếm và đang chuẩn bị để khai thác trong hòa bình tất cả những tài nguyên phong phú của vùng đất đai này. Càng ngày ta càng tin rằng người An nam sẽ không còn để ý đến vấn đề độc lập quốc gia nữa. Khi lúa đã cấy thì mọi việc sẽ thay đổi hết.

Diễn biến của tình thế cho ta nghĩ rằng lúc đầu vì không ngờ ta đòi giao vĩnh viễn quyền lãnh thổ nên người An nam rất thành thực khi đưa ra những đề nghị hòa bình. Nhưng khi biết rõ ý đồ của ta thì nỗ lực thương thuyết của họ, kể từ tháng năm, chỉ để đánh lừa ta mà làm kế hoãn binh, họ tìm cách làm ta nản lòng vì tình trạng cướp phá phách trên sông ngòi.

Các hành vi cướp bóc và đạo tặc xảy ra trước và tiếp theo là các cuộc khởi nghĩa: đó là mối lo của ta. Quan tâm lúc đầu tìm kiếm một giải pháp tốt nhất để thống trị người An nam thì nay không phải là điều quan trọng và cấp bách nữa. Hiện nay điều làm ta bối rối, ngoài đạo tặc và cướp bóc, là sức kháng cự của người An nam, nhiều nơi có tánh cách rõ rệt là những cuộc khởi nghĩa vũ trang.

Chẳng hạn ngày 22 tháng sáu 1861, tại Go-cung, người An nam biểu dương một thái độ chống đối mãnh liệt.

Go-cung là một thị xã nằm vào trung tâm tứ giác, gồm sông Cambodge, biển Tàu, kinh Bưu điện và sông Vaĩ-co. Ðối với người An nam đây là một vùng đất thánh. Nơi sinh của ông ngoại hoàng đế Tu-duc, tức quan-quê[6] ở Go-cung. Trong thị xã có ba mươi gia đình kết nghĩa với hoàng đế An nam. Ngôi chùa thờ tổ đặt tại đây, có nhiều nghi thức hành lễ đặc biệt.

Chung quanh Go-cung là đồng ruộng phì nhiêu, có thể nói là phì nhiêu bậc nhất của cả Nam kỳ miền dưới, trong xứ người ta vẫn thường nói với nhau là một hột lúa gieo ở Biên-hòa cho sáu hột, đem gieo ở Go-cung cho tới chín mươi hột. Về phía biển, từ đông bắc xuống đông nam của tỉnh ta thấy làng mạc nối tiếp nhau san sát: một số là đồn điền của quân đội, một số là nông trại của dân thường; họ sinh sống lẫn lộn với nhau, nhưng tổ chức của họ không thông minh chút nào. Việc phân chia đất đai cắt toàn vùng thành từng mảnh đất nhỏ: nhiều thôn ấp chỉ có mười bếp lửa là thường [7]

Về phía hữu của Go-cung, có một con kinh đổ vào sông Cambodge và một con kinh nữa là kinh Rach-la đổ vào sông Vaĩ-co. Chiến thuyền Amphitrite được đưa tới kinh này và nắm giữ vị trí chỉ cách thị xã chỉ ba dặm, trước mặt là một ngôi làng thật lớn có tên là Tan-hoa. Tại đây ta có một tỉnh trưởng, quyền uy dựa vào một đội thủy quân đánh bộ 25 người do một chuẩn úy điều khiển. Thị xã cũng giống như tất cả các thị xã khác của người An nam, gồm một khu đất lớn dùng làm chợ; các đường phố khá nhỏ hẹp dẫn từ chợ về các thôn làng; một ngôi chùa, nhưng chùa ta đã chiếm và làm đồn vũ trang.

Ðó là tình trạng vào tháng 6 năm 1861, trong lúc ấy vị toàn quyền của hoàng triều Huế đang chuyển cho tổng hành dinh của Pháp bản công hàm thứ tư, và cũng vào lúc đó có một người An nam rất cương quyết và hào hùng, tên là Dinh, trình diện trước vị tổng trấn Bien-hoa cho biết sẽ dấy loạn khởi nghĩa trong toàn xứ. Người này được phong chức vin-teut [8] (tức con quan), và lãnh ấn đúng theo chức vị này, với chức vị được phong ông có đủ tư cách đề cử những người lãnh đạo các nhóm quân khởi nghĩa. Cha của vị này là một người rất được trọng vọng của đế quốc An nam; ông ngự ở triều đình Huế có chức là Thiey-ve-sam; cấp bực của ông ngang hàng với một đại tướng sư đoàn của ta tại Pháp. Hai bộ hạ của Dinh là hai đại úy đã đến Bien-hòa từ tháng ba; hai người vợ của hai đại úy này đều là người Go-cung. Cuộc khởi nghĩa tại đây được tổ chức nhanh chóng, chỉ trong vài ngày, vị vin-teut đã quy tụ được 600 người vũ trang. Ðạo quân này gồm 200 dân quân, còn gọi là Don-dien[9], 200 quân chính qui của trung đoàn đóng trong thành Kì hòa rơi rớt lại, 200 nghĩa quân địa phương kết nạp trong số họ hàng của hoàng đế và bạn hữu của họ.

Vài mật thám cho quân ta biết họ sẽ sớm tấn công trong những ngày gần đây. Một toán nhỏ quân ta gồm có sĩ quan và lính thủy, tất cả 27 người, canh phòng cẩn mật thức suốt đêm 21 đến rạng ngày 22 tháng sáu. Tiếng chiêng và tiếng trống vang lừng báo hiệu địch sắp tấn công. Vị tỉnh trưởng của ta là một trung úy hải quân, tên là Vial, liền huy động quân sĩ dưới quyền. Ông đặt vài người canh giữ cổng chính của chùa và dặn các người này phải chiến đấu đến cùng; sau đó ông dẫn số quân lính còn lại đổ ra đồng để thăm dò thực lực của địch. Vừa đi hết đường cái, ông đã gặp ngay quân An nam chia ra làm ba toán mỗi toán 200 người từ ruộng đang tiến lên. Họ đi rất oai nghiêm và liều lĩnh: đúng là phải liều lĩnh lắm mới dám tiến lên giữa đồng trống trong tay chỉ có súng ngắn, trong khi ta dùng súng cac-bin nòng dài. Người tên Dinh chỉ huy toán nghĩa quân địa phương. Quân Pháp chống trả hiệu quả vì khoảng cách không xa. Nhưng ngay lúc đó thì vị trung úy hải quân của ta được thông báo là ta đang bị đánh lạc hướng. Ông liền đặt hai người lính ở lại canh tại một đầu đường và hối hả dẫn số lính còn lại quay về quảng trường của thành phố. Vừa tới nơi thì cũng đúng lúc quân địch xuất hiện. Quân An nam nào tiến lên trước đều bị giết sạch, xác làm nghẽn cả lối đi; nhưng phía sau lại tiến lên. Họ cầm lao đứng sát vào tường, ta chỉ có việc bắn như bắn những tấm bia người thế thôi. Quân Pháp cứ bắn từ từ, sau đó thì tiến lên nhả hết đạn và xông vào quân An nam. Tức thời có một người lính thủy đánh bộ, trong số được giữ lại gác chùa, thấy quân ta đang đánh xáp lá cà liền nghĩ rằng phải tiếp tay với họ, liền bỏ chùa tiến ra. Anh lính này vừa xông ra nơi đánh nhau, thấy vị trung úy hải quân đang đối đầu với quân thù rất đông, đang bị thương ở cạnh sườn, anh liền lấy thân che cho vị trung úy và anh bị trúng ngay một phát đạn chết tức khắc. Cây súng các-bin vẫn còn nguyên đạn chưa bắn phát nào: xác anh ngã xuống bị đâm thêm nhiều nhát lao nữa vào lưng. Trong mấy giây liền sau đó, vì không có người che nên vị trung úy hải quân bị bắn lủng đùi, đồng thời bị đâm trúng cánh tay, trúng chân và bị phỏng ở một mắt vì pháo của địch, sáng hôm đó quân An nam dùng pháo buộc ở đầu lao để bắn đi.

Nhũng người chỉ huy ba cánh quân địch bị giết gần hết, vì họ tiến lên hàng đầu, địch quân không còn ai hỗ trợ nên yếu thế và đánh tháo lui. Vị trung úy hải quân của ta liền lên chiến thuyền, nhìn thấy quân địch còn đang rút đi trên ruộng, ông cho lịnh bắn theo vài quả đại pháo, có thể là không trúng địch vì họ rút đi theo hàng một, nhưng cũng làm cho họ rút nhanh hơn. Lúc đầu ta cứ tưởng nội trong ngày họ sẽ quay lại đánh nữa; nhưng chẳn thấy tên nghĩa quân, tên chính quy hay tên don-dien nào tập hợp và mang khí giới đến gần Quân ta chỉ có một người chết và một bị thương nhưng ảnh hưởng trong vùng này còn mạnh mẻ hơn hàng trăm người chết trong một trận đánh lớn. Một số dân quân trình diện xin ghi tên vào danh sách của làng và nói rằng họ không muốn làm don-dien nữa. Ta cho ghi tên hầu hết trong số những người xin.

Những người cầm đầu địch quân vừa chết vừa bị thương còn nằm la liệt ở quảng trường. Một xác chết được nhìn chính là Dinh, tức người đã tổ chức và hướng dẫn cuộc khởi nghĩa; nhưng thật ra người này không bị ta bắn trúng; sau đó được hoàng đế phong chức quan và tiếp tục lây lất chiến đấu chống chính quyền của Pháp trong vùng tứ giác phía đông. Một người cầm đầu khác cũng còn sống; mặc dù là kẻ chiến bại, bị thương không còn chiến đấu được nữa, ông này vẫn giữ vẻ mặt trầm lặng vượt lên trên nghịch cảnh. Ta kéo ông từ nơi bị thương cho đến nơi xử bắn, mặc dù thương tích, ông vẫn luôn luôn bộc lộ khí tiết ngang nhiên của một chiến sĩ bị bắt làm tù binh: người nào thấy cũng đều thuật lại rằng ông vô cùng hãnh diện khi hay tin quyết định của ta đem ông xử bắn,thay vì treo cổ [10] Ông đã chết giống như những người mọi da đỏ mà lịch sử đã ghi chép một cách kính nể: khốn đốn nhưng vô cùng cao cả, không phải ông chết mà linh hồn của một quốc gia đã chiến đấu với ông và thở hơi thở cuối cùng với ông.

Ngay ngày hôm sau trận Go-cung, hộ tống hạm Duchayla đến thả neo trên sông Vaĩ-co, tại cửa kinh Rach-la, ta bắt đầu cuộc chiến tranh trừng trị. Nếu dấy loạn dám tái diễn trong vòng lãnh thổ tứ giác phía đông thì còn phải chờ một thời gian lâu; nhưng hình như kháng chiến lại chuyển sang vùng tứ giác phía tây mà trên bản đồ đều có ghi rõ là vùng do quân đội Pháp chiếm giữ. Các tàu Duchayla, Mitraille, Dragonne thay nhau tuần tiểu trên kinh Bưu điện. Chính con kinh này trước đây dùng làm đường vận chuyển cho đạo quân viễn chinh đánh chiếm My-thô.

Ðể chống lại ta quân An nam không thấy đưa ra chiến thuật gì gọi là sáng tạo. Nghệ thuật muôn thuở của họ là dựng các chướng ngại phụ thuộc để phòng thủ, điều này cho ta nghĩ rằng chính ta đến đây gây chiến và đánh nhau với họ để dần dần dạy cho họ cách đánh nhau với ta [11] Trong thế hệ họ, còn thiếu một người để dạy họ biết chiến đấu: quả thật ta phải nêu rằng trong hàng ngũ quân Âu châu gần như không có ai đào ngũ. Các pháo hạm bằng sắt liều lĩnh tiến đến cuối Rach-gam, rạch Caĩ-baĩ, nhưng không bao giờ lo sợ bị tấn công phía sau. Ðịa thế hiểm trở của các nơi này đúng ra là phải dạy cho quân An nam cách thức làm sao để chống lại các pháo hạm có những phần cơ khí mỏng manh của ta. Sau khi tàu ta đi qua, họ chỉ cần hạ cây thật nhiều chắn ngang sông rạch chận phía sau là sẽ làm cho ta cực kỳ bối rối. Trái lại họ chỉ chặt cây để chắn đường phía trước mặt mà thôi, không bao giờ họ chận phía sau. Trong thời gian nghỉ mùa mưa, thủy quân chiến đấu, vài đại đội của tiểu đoàn xung kích 101, thủy quân bộ chiến và cả toán biệt phái Tây ban nha đều phải xung vào việc dọn dẹp, khai thông sông rạch bị địch ngăn chận bằng các loại chướng ngại. Thật là một công việc nặng nhọc và nguy hiểm, hơn cả khi bị địch bắn; nhiều khi có người chết.

Hình như địch cũng chọn một chiến thuật mới: luôn luôn lẫn tránh. Trước đây, trên đường tiến đánh My-thô, cũng chính hai bên bờ Rach-run-ngu địch đã giàn trận chống cự thật gay go với ta, và chỉ thụt lui từng bước một. Nay thì không cách gì túm được họ, trừ một vài tên chỉ huy tầm thường của các toán khởi nghĩa nhỏ mà thôi. Chiến thuật chính của người An nam là ngăn cản nỗ lực cai trị của ta: dùng ảnh hưởng của quan quân ngày xưa chống lại uy quyền của quan lại người Pháp. Các quan phou và quan huyen ngày xưa chờ đêm lại lần về làng, về tỉnh, về quận mà họ cai quản lúc trước. Họ vừa hăm dọa lại vừa hứa hẹn với dân chúng. Họ nói cùng một thứ tiếng, người dân thì vẫn nhớ đến những gì trước kia quan chức của họ đã từng giúp đỡ họ, ngoài ra lại còn mối tình cảm phụ tử giữa quan và dân, họ nỗ lực tranh dành ảnh hưởng với ta. Không có một người An nam nào lại không coi những người lính địa phương hay những người xã trưởng theo ta là một thứ giết cha, giết mẹ [12] Tóm lại, dân xem sự hiện diện của ta cũng chỉ tạm thời mà thôi. Họ nghe nói chúng ta có một quê hương giàu có và phồn thịnh, trong đầu họ nghĩ rằng rồi một ngày nào đó ta cũng trở về xứ sở ta mà thôi. Khi ta vặn hỏi người An nam chọn trong số những người không cong lưng và khúm núm trước mặt ta thì họ đều trả lời rằng: ‘’ Chúng tôi đâu có thể bỏ xứ mà đi, có bỏ thì cũng chỉ bỏ làng. Chúng tôi chờ mà xem. Chẳng qua cũng là ý trời.’’ Nhưng trong số những biện luận của triều đình Hué do mật sứ loan truyền trong dân gian thì có điều này là chính yếu nhất: ‘’Một nước hùng mạnh gây chiến với ta, gây cho ta nhiều khó khăn bắt buộc ta phải bỏ Nam kỳ miền dưới.’’ Ta cũng chỉ hy vọng điều đó, chẳng qua cũng do những chiến thắng của ta ở Touranne và Saĩgon mà ra.

Việc chiếm giữ hai vị trí Saĩgon và My-thô chưa đủ làm nao núng trong toàn xứ; từ lúc ta biết được các xã trưởng do ta đưa ra đều nhận được thư do mật sứ của triều đình Huế cho biết họ phải trung thành hoặc là phải chết, thì ta bắt buộc phải tỏ cho địch biết là ta quyết tâm chiếm giữ thật sự và vĩnh viễn xứ này, nếu không thì chỉ có danh mà không có thực. Muốn tỏ thực quyền ta phải dựng đồn bót: lúc đầu ta chỉ có năm, sau tăng lên đến bảy.

Chắc chắn phân chia lực lượng là điều tai hại. Nhưng chẳng có quy tắc nào tốt mà lại không có ngoại lệ, vậy ta phải tìm một hình thức dung hòa giữa phân tán tối đa và tập trung cố thủ, tập trung tối đa thì ta đang gặp khó khăn trong hoàn cảnh hiện nay. Các cuộc chiến tranh chinh phạt rầm rộ đều giống nhau, sau những trận đánh lớn làm tan rã guồng máy quân sự của địch, thì phải đương đầu với một trận chiến thường trực mà mỗi người dân là một người lính đơn độc; có thể phương pháp hay nhất để thống trị là đặt một người lính bên cạnh một người dân bại trận để canh chừng. Ðó cũng là chuyện người Mông cổ đã thực hiện ở phần đất Á châu này, khi họ xâm chiếm nước Tàu vào giữa thế kỷ mười bốn. Mỗi người dân Tàu phải chứa trong nhà một người lính; nhưng chính sự phân tán tối đa đã tạo ra thế suy yếu của quân Mông cổ, chỉ trong một đêm tất cả quân chiến thắng đều bị tàn sát. Bản tính của ta và số quân quá ít không cho phép ta thực hiện phương pháp này để củng cố việc chinh phạt: ta đành chọn một giải pháp dung hòa là lập đồn.

Các toán vũ trang có tổ chức quy củ bất thần tấn công Go-cung làm tất cả mọi người ngạc nhiên không ngờ trước được. Ta vẫn tưởng người An nam còn chìm ngập trong nỗi kinh hoàng, ta từng thấy những đám người An nam khúm núm, sợ sệt khi gặp mặt người Pháp tại Saĩgon, họ giống như những thứ hèn hạ bỏ đi không tỏ ra điều gì dám kháng cự ta. Nhưng sự thật đã chứng tỏ rõ ràng, như ta đã thấy. Người An nam có tinh thần độc lập quốc gia rõ rệt, ta đã xem họ và vẫn còn xem họ như những người vô giác không phân biệt ai là chủ nhân ông của mình, như những người sẵn sàng chấp nhận bất cứ ai quản lý chỉ cần cho phép họ cày ruộng và gặt lúa là được. Ta vẫn nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần sai lầm lúc ban đầu của ta là coi mọi tác động trổi dậy của người An nam là đạo tặc và cướp bóc. Sai lầm này thời nào cũng có, khi người La mã chiếm xứ Gaule [13] và nếu ta cứ tin theo lời họ thì những ai chống lại người La mã đều là bọn bất lương phạm pháp.
 Từ trước đến nay Nam kỳ miền dưới vẫn đầy kẻ trộm; nhưng con số tăng lên gấp bội chỉ trong vòng hai tháng sau khi thành Kì hòa và thành My-thô bị ta đánh chiếm: nhiều quân lính tan rã hàng ngũ quay ra cướp bóc; vì đó là nguồn sinh sống duy nhất của họ. Nhưng vào độ tháng sáu và hai tháng tiếp theo dân quân Don-dien, quân chính quy và nghĩa quân lại được các người chỉ huy cũ của họ tập họp trở lại. Vì không biết ngôn ngữ, vì bị lừa gạt, vì lo sợ mà tự vệ, vì bắt chước truyền thống của người Anh, vì bản chất hung bạo nổi dậy trong một số người của ta giống như sự hung bạo thúc đẩy người Tây ban nha diệt chủng người da đỏ, tất cả là những lý do làm ta không còn phân biệt được những người An nam không phải là trộm cướp đã nổi lên kháng chiến chống lại ta. Biết bao nhiêu những kẻ mà ta coi là cướp bóc thật ra là những chiến sĩ tay không chẳng được trang bị khí giới mà thôi!

Thật quả là một quyết định cực đoan khi giao cho hai mươi đại biểu của ta toàn quyền sinh sát. Dù cho lương thiện và cương quyết đến đâu thì những người lãnh đạo này cũng chẳng thay đổi được những nhược điểm của bản tính mình. Những lệnh ban xuống trong trận chiến tranh khủng bố đang diễn ra tại hai vùng tứ giác thật vô cùng khủng khiếp: thật là nhẫn tâm chưa hề có. Tuy nhiên’’ Các ông không được khủng bố người dân hiền lành’’ ( Ðó là lời huấn thị cho các chỉ huy trưởng các đạo quân lưu động.)

Không có cảnh tượng nào âu sầu, buồn tẻ và khổ sở hơn là khi thấy người Pháp phải chạy ngược chạy xuôi trong ruộng trên sông trong suốt mùa mưa. Trò chinh phạt như thế này thật không có gì thích thú: cứ thấy được tên địch này thì tên địch kia chạy trốn, toàn xứ thì sông ngòi chằng chịt làm cho hành quân giống như cảnh sát đuổi bắt kẻ trộm cắp trên sông. Chẳng hạn như địch chiếm một số vị trí về phía kinh Bưu điện và Rach-kison, nhưng ta chẳng biết các vị trí địch ở đâu; có những biến động giống như địch đang hành quân: tiền quân ta chẳng thấy gì hết. Chận thuyền bè tra xét chỉ tập cho quân ta thái độ khinh miệt đời sống con người: thế thôi. Quân địch nhất định lẩn trốn làm ta hành quân giống như đánh vào không khí, trong trò đánh nhau thì phải có hai bên, nhưng rốt lại chỉ có một bên tự ra tay đánh một mình. Tuy nhiên ta biết chắc có nhiều lực lượng tiếp tay khởi nghĩa, ta biết cả tên tuổi của vài người cầm đầu và hướng dẫn nổi dậy. Ðến đây nên tiếp tục tìm hiểu những người này, họ có liên hệ với dòng họ hoàng đế An nam, họ là linh hồn của các phong trào nổi dậy [14]

Hoàng đế Tu-duc có vóc người khá cao lớn, hơn tầm trung bình của người An nam. Dáng hơi khòm. Hai vai xệ xuống, đây là dựa theo lối nói của dân trong xứ dùng ám chỉ những người già trước tuổi vì ham ăn chơi [15] Nước da của ông mét và đều: nét mặt trầm lặng, không tỏ lộ, không xao động lo âu như cái nhìn giống như mắt mèo của người An nam. Tuy nhiên ông vẫn mang tất cả những cá tính của giống dân An nam, người Pháp nào đã được thấy quan quân An nam ở cấp bực cao đều có thể hình dung được cử chỉ, dáng điệu, vẻ mặt của hoàng đế Tu-duc. Răng của ông nhuộm đen; tóc cột lại thành một búi tó có kim bằng vàng xuyên ngang. Người Pháp ta xem ông và vẫn còn coi ông như một con thú giữ thô bạo và khát máu: nhưng đây chỉ là phương pháp của những kẻ tầm thường khinh miệt kẻ thù của mình rồi những kẻ xua nịnh bắt chước theo. Ðối với người An nam ông là một hoàng thân cứng rắn nhưng vô cùng nhân đạo. Sự thật thì ông tỏ ra có bản tính rất ôn hòa và thái độ thật hòa nhã, ngay từ ngày còn nhỏ tính tình hòa nhã của ông đã làm cho vua cha là hoàng đế Treui-trĩ [16] phải chú ý tới và đặc biệt chăm sóc đến ông. Trái lại hoàng đế Treui-trĩ quyết gạt bỏ người con trai cả vì người con này rất hung giữ và độc đoán. Một người An nam sống trong triều đình Huế biết tiếng la tinh đã cho ta biết các chi tiết vừa kể trên, vào thời đó tiếng la tinh là ngôn ngữ thông dụng. Ông còn nói với ta là người An nam cho hoàng đế của họ là: pertinax và tenax, có nghĩa là sáng suốt và kiên trì.

  Hoàng đế Tu-duc sinh năm 1830. Vào dịp ông lên ngôi, mẹ ông cho thêm một tuổi, viện bô lão cho ông thêm một tuổi nữa và người dân cũng tăng thêm cho ông một tuổi: vì thế đối với Âu châu ông ba mươi ba tuổi, nhưng đối với người An nam ông ba mươi sáu tuổi. Việc lên ngôi của ông biến chuyển như trò ảo thuật, chuyện xảy ra cứ tưởng như chuyện ở cung điện Nga hoàng hay Thổ nhĩ kỳ.

Khi hoàng đế Treui-trĩ cảm thấy suy yếu và biết mình sắp chết, ông dàn xếp mọi việc để đưa người con trai út lên ngôi. Mỗi lần người con trưởng là Hoang-bao[17] muốn vào phòng thăm hoàng đế Treui-trĩ đều bị người lương y của hoàng đế ngăn cản, bằng cách nói với ông rằng hoàng đế đã khoẻ sắp đi đứng được. Trong khi dằng co như thế thì trong phòng bên cạnh di chúc của hoàng đế đang được soạn thảo. Khi hoàng đế vừa qua đời thì hội đồng hoàng triều được triệu tập, bản di chúc đem ra trình cho hai anh em trước mặt đông đủ hoàng gia. Người con cả bị tác động mạnh đến nổi đã quỳ gối và úp mặt xuống đất tỏ ra hết sức bối rối, mọi hy vọng của ông đã tiêu tan hết. Khi hoàng đế Tu-duc lên ngôi, người anh tìm cách mưu phản nhưng không kết quả gì. Các âm mưu của người anh mất ngôi đều bị khám phá; chẳng những âm mưu không thành, ông lại còn bị nhốt vào một lâu đài tại Huế. Ông bị quản thúc yên ở đó đã sáu năm. Nhưng bỗng có một biến cố xảy ra: sứ thần của vua Xiêm gởi đi bị quân triều đình bắt tại biên giới giữa Cao miên và Nam kỳ tức là Tay-ninh, mật xứ mang theo phù hiệu vương quyền để dâng lên người con cả của hoàng đế Treui-trĩ. Theo sự đồn đại trong dân chúng thì vị hoàng thân này đã hối lỗi vì nghỉ rằng việc bất thành là do ý trời không muốn cho ông trị vì, và ông đã thắt cổ tự tử sau đó. Nhưng có lẽ ông bị thắt cổ thì đúng hơn. Ba ngày sau, con trai của ông cũng chết một cách tương tợ[18] Giòng họ vô phước này chỉ còn một người cháu trai và một bà mẹ: cả hai đã dùng ghe mà trốn thoát. Kể từ khi đó không ai biết thật sự số mạng của họ ra sao. Vào năm 1861, người An nam cho rằng hai người sống ẩn nấp ở Nam kỳ miền dưới.

Hoàng đế Tu-duc cũng không được hoàn toàn bình an thụ hưởng ngôi báu mà vua cha đã xếp đặt. Trước hết ông phải chống lại chiến tranh nội bộ tranh dành vương quyền, sau là chiến tranh xâm lược của người ngoại quốc. Khi nhìn thấy nước Ấn độ cạnh bên bị người Anh xâm chiếm ông cũng phải choáng váng. Trong thâm tâm, ông e rằng rồi đây tất cả sẽ đổ vỡ, một khi đã giao nhượng một tỉnh tức là khởi đầu cho sự suy sụp của toàn lãnh thổ. Chắc chắn trong tháng 7 năm 1861 lịnh cấm gạo trên toàn vùng bờ biển Nam kỳ do ta ban ra bắt đầu có hiệu quả mạnh, bốn mươi vị quan uy thế nhất trong nước, mà ta thường dùng một danh từ có nghĩa thật xấu thuộc loại thổ ngữ pha trộn sabir của người Bồ đào nha để gọi đám quan này [19], đã tấu trình lên hoàng đế cảnh tai họa của dân tình và khuyên hoàng đế hãy thương thuyết với người Pháp. Tu-duc đã trách cứ họ là yếu hèn, và nói với họ rằng: ‘’Các ông nên chuẩn bị chiến đấu hơn là lo thương thuyết; ta thà chịu rút vào núi non với người Mọi, người Chàm còn hơn là chịu nhượng bộ.’’ Tuy thế sau này ông cũng phải chịu thương thuyết.

Vị hoàng thân chết thảm ở Huế và hoàng đế của người An nam hiện nay là hai anh em khác mẹ, mỗi người đều có một ông ngoại khác nhau. Ông ngoại của hoàng đế Tu-duc tên là Truong-dang-quê. Ông sinh trưởng ở Go-cung, thị xã nằm giữa Cao miên và bờ biển Tàu. Ông Quê đã bẩy mươi tư tuổi: là kẻ thù không thể tha thứ của người Âu châu trong việc xâm chiếm thuộc địa. Chính ông đã đưa vào sắc chỉ của hoàng triều ký năm 1833 lệnh ngược đãi tín đồ thiên chúa.

Ông ngoại của hoàng thân bị thắt cổ ở Huế tên là Tri-phương[20] Ông sáu mươi lăm tuổi, là một cưu nhân viên thư lại, ông đạt được danh vọng lớn không hề phải trải qua thi cử. Ðây là người An nam được kể như có trí thông minh hiếm có, rất kiên trì, nhiều sáng tạo, khả năng phong phú. Ông là người sáng lập các nộng trại quân đội cho dân Don-dien, chính họ đã giữ một vai trò tích cực trong cuộc nổi dậy ở Go-cung; những nhóm dân định cư này phù hợp một cách tuyệt vời với nền luật pháp và thiên tài của người An nam, đồng thời cũng cực kỳ thích nghi với tình trạng đặc biệt của Nam kỳ miền duới. Có người cho rằng Nguyen Tri-phuong tổ chức các dân quân để sau này, chờ khi vua Xiêm nhúng tay vào hậu thuẩn, sẽ nổi lên chống lại hoàng đế Tu-duc. Nhưng chắc chắn là sau các biến cố năm 1858, Truong-dang-quê và Try-phuong đồng lòng hợp tác với nhau chống lại sự xâm lược của Pháp. Vị thế của hai ông trong nước, cũng như tuổi tác của hai ông đã tạo ra ảnh hưởng lớn lao trong toàn xứ Hai ông thiết kế, đào hào đắp lũy, lập căn cứ chống cự; dựa vào uy thế và nhất là nhờ tính khí và nghị lực mà hai ông đi đến đâu là khơi động việc nổi dậy đến đó, giống như chính hoàng đế Tu-duc tự thân hành đốc xúc dân chúng trong hai tỉnh Gia-dinh và My-thô.

Dưới hiệu linh của hai vị này, các xã trưởng cũ và tàng tích của nền hành chánh An nam trước đây đứng ra tổ chức và hướng dẫn kháng chiến; đôi khi trong số người đứng lên cũng có những người mới, trẻ tuổi, không có chức tước gì trong quân đội trước đây, nhưng giàu có và nhiệt tình. Ta biết được tên của vài người trong số những đầu đảng của các nhóm kháng chiến.

Le Quan-dinh là một trong số những người nhiều nghị lực nhất. Anh ta đánh lừa là đã chết trong trận Go-cung, nhưng sau đó lại xuất hiện và chiến đấu trong hết mùa mưa tuy không có kết quả gì. Mãi về sau này, khi ta đã chiếm Bien-hòa, tên Le Quan-dinh tung hoành tàn phá hết hai vùng tứ giác của ta.

Tên Phou-cop còn gọi là phou-cao rất nổi tiếng. Trước đây hắn là tỉnh trưởng[21] một vùng lãnh thổ hình tròn giáp ranh với kinh Thương mại. Hắn là tên trùm trong vùng tứ giác do quân ta chiếm giữ, có khi những toán quân của hắn dám tiến sát vào gần ngay My-thô. Nhưng chúng đều bị ta ruợt đuổi và phải phân tán ở Mi- cui [22]. Tên hắn có nghĩa là quan cọp. Thuộc hạ của hắn gán cho tên đó vì hắn rất hung giữ.

Tên Quan-tou là một cựu đại tá Don-dien nổi danh vì tính khí hào hùng. Trước đây hắn chỉ huy một trung đoàn dân quân tức Don-dien trong thành Kì hòa. Sau khi thành Kì hòa bị mất, hắn lại xuất hiện ở các tiền đồn chống giữ thành My-thô. Hắn chỉ huy đồn mà trong đó đại pháo đã bắn ra giết chết đại úy hải quân Bourdais. Sau khi ta nã pháo bắn nát đồn, hắn buộc lòng phải dẫn quân lính tháo lui, quân lính của hắn vẫn gồm dân quân Don-dien, hắn rút vào vùng tứ giác phía tây; ta cho tàu Sham-Rock truy nã ở Kui-duc, đốt nhà hắn và phá tan tành gia sản của hắn làm hắn phải bỏ trốn qua phía Cao miên trong vùng ngang với ba tỉnh phía nam.

Tên Quan-suan thì nổi tiếng vì rất giỏi về hành chính Hắn đóng ở phía tây kinh Thương mại trong suốt mùa mưa và ít khi xâm lấn vào lãnh thổ của ta. Tên hắn có nghĩa là mùa xuân. Người An nam thỉnh thoảng mang tên này, tên có gốc từ miền bắc, vì ở đây không có nghĩa gì hết vì không có mùa xuân.

Những người cầm đầu kể trên tập hợp binh mã, vừa là lính chính quy gom góp trở lại, vừa là dân quân Don-dien, vừa là nghĩa quân địa phương. Trong vài trường hợp, nhất là ở Go-cung, trên bờ rạch Run-ngu và rạch Mi-cui, quân chính qui, Don-dien và nghĩa quân hợp chung với nhau mà đánh. Tóm lại, kháng chiến của người An nam chống lại người Pháp đã bắt đầu nẩy sinh và có tính cách rất khác biệt tùy theo địa phương, phía đông hay phía tây kinh Bưu điện. Trong vùng tứ giác phía đông, tức vùng đã nằm gọn trong lãnh thổ Pháp, các cuộc nổi dậy gần như có tính cách bộc phát mà thôi. Những người chỉ huy đánh liều mạng, các cuộc nổi dậy giống như vọt lên từ trong đất. Trái lại, trong vùng tứ giác phía tây, người An nam có nhiều làng mạc nằm dọc theo mép kinh Thương mại tiếp tay, những làng này không thần phục ta. Các tỉnh phía nam chuyển lên cho họ thuốc súng, súng, đại pháo và cả gạo nữa. Chính quyền Biên-hòa gởi cho họ mệnh lệnh, chứng từ, ấn dấu; vị quan phó vương sáu tỉnh[23], khi thì đóng trong lều tranh đổ nát lúc thì lập tổng hành dinh nơi đồn lũy kiên cố, lúc nào ông cũng khuyến khích và cổ võ các nhóm kháng chiến. Sức kiên trì của người An nam đem lại sinh khí cho các tỉnh Ha-tien, Vinh-luong và An-gian. Ðiều này chứng tỏ cho biết sau này dù ta có chiếm hết ba tỉnh phía bắc Nam kỳ miền dưới tức My-tho, Saĩgon và Bien hòa, cũng sẽ khó lòng bình định khi ba tỉnh cực nam vẫn còn áng ngữ trước mặt.’’Nếu tôi có thêm một ngàn quân nữa, tôi sẽ lấy hết ba tỉnh đó; nhưng rồi tôi sẽ có đủ người để giữ những tỉnh ấy hay không? Uy danh của chúng ta tùy thuộc vào đó.’’ (trích lời của phó thủy sư đề đốc chỉ huy trưởng gởi lên bộ trưởng hải quân).

Kháng chiến của người An nam trong vùng tứ giác phía tây là do tên Phou-cao cầm đầu, biệt danh hắn là quan-cọp. Có lúc ta nghĩ rằng quân An nam rút về sào huyệt kiên cố để chống lại các đạo quân lưu động của ta xuất phát từ My-thô, mượn hệ thống kinh rạch đổ thẳng vào sông Cambodge để di chuyển, vì thế ta phải nỗ lực đánh tan chiến thuật này của địch, không cho thiết lập đồn lũy cố thủ như trước. Ta bèn lấy quyết định gởi một đạo quân chinh phạt [24] đi đánh phá Mi-cui.

Cuộc hành quân của ta không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch; địch quân tiếp tục tháo lui như thường lệ, nhưng từ xa vẫn bắn loạn lên bằng súng nhẹ. Mùa mưa lại bắt đầu trở lại, thật là khốc liệt, làm quân sĩ di chuyển hết sức cực nhọc và nguy hiểm chết người.

Go-cung và Mi-cui là những địa danh mà ta biết để kể ra đây làm điển hình cho một thứ chiến tranh mà kẻ thù hoàn toàn vô hình.

Nếu ta chỉ dựa vào sức cố gắng và kiên trì của địch khấy rối trong mùa mưa để đánh giá tình hình thật sự của hai tỉnh vừa chiếm thì hoàn toàn sai. Không có chút gì tương xứng giữa tổ chức trong bóng tối của địch so với những tai hại nặng nề mà ta đang phải gánh chịu.

 Một vài hành động kháng cự trong một chiến trường giới hạn thật không đáng kể gì hết khi đem so với một trận chiến khác đang dai dẳng: tức là trộm cướp. Chính sứ thần An nam cũng than phiền về việc cướp bóc đã tăng lên gấp đôi từ khi có loạn. Các đề nghị hòa bình vẫn tiếp tục được trao đổi giữa sứ thần An nam và vị chỉ huy trưởng của ta. Nhưng những cuộc thương thảo này vụt ngưng vào tháng tám, sau khi ta tức dận bắt được gần Tram-bam bản tuyên cáo của triều đình Huế. Hoàng đế Tu-duc treo giá đầu của chúng ta và trách dân không biết tận dụng nghị lực và tiềm năng của mình để tìm phương cách đánh đuổi ngoại xâm. Sau đây là lời lẽ của bản tuyên cáo:

               Ngày thứ 3 trong tuần trăng thứ 3 (tức ngày 1 tháng 3, năm 1861)

‘’Từ ba năm nay người Pháp đến quấy rối ta tại Gia-dinh; nơi đây họ đã phá thành, giết hại và đánh đuổi quân sĩ phòng thủ của ta. Tất cả thần dân có thấy phẩn nộ hay không, tôi tưởng rằng toàn dân nhất là những ai ở Nam kỳ miền dưới sẽ sẵn sàng hợp tác với quân sĩ để trả thù cho những nơi bị địch đánh bại. Người Pháp không phải cùng một giống dân với ta, họ áp bức chúng ta, hãm hiếp phụ nữ ta [25]. Tất cả những ai bất nhẫn vì những việc này hãy quay về hợp tác với tôi.

‘’Trong số các ngươi có ai muốn thờ họ và theo đuôi họ không?

‘’Trước đây, tôi đã đưa ra một bản tuyên cáo cho chính quyền sáu tỉnh, trong đó tôi đã báo rằng:

‘’Tất cả công bộc phải tuân lịnh tôi; phải lo kêu gọi dân chúng nổi lên để tổ chức nghĩa quân theo những thể thức như sau:

‘’Ai kết nạp được 10 người thì được phong chức ba-bô;

‘’Ai kết nạp được 50 người thì được phong chức chanh-luc-pham-suat-doi (đại úy). Ðược lãnh khẩu phần của nhà nước và được cấp khí giới để tập luyện.

‘’Ai kết nạp được 100 người sẽ được phong pho-ve.

‘’Ai kết nạp được từ 200 đến 400, sẽ được phong chức tương xứng với số người kết nạp.

‘’Ai kết nạp đưọc một đạo quân 500 người sẽ được phong làm chanh-nguyen-pham-co (đại tá).

‘’Nếu ai bắt được một người Pháp, sẽ được thưởng bốn lượng bạc.

‘’Nếu ai giết được một người Pháp, sẽ được thưởng hai lượng bạc.

‘’Nếu ai giết được một người An nam theo Pháp sẽ được thưởng một lượng bạc.’’

‘’Hứa hẹn như thế, tức chúng tôi muốn huy động toàn dân chống lại người Pháp. Tại Gia-dinh đã có 308 người can trường theo về với quân đội của chúng ta; ở Vinh-long đã có 140 người Chưa kể năm tiểu đoàn chính quy và một trung đoàn nghĩa quân trước kia ở Saĩgon nay đã quy tụ về Bien-hoa, ngoài ra còn có năm trung đoàn nghĩa quân đang được bí mật thành lập.

‘’Chẳng lẽ vận hạn của ta cứ đeo đẳng ta mãi hay sao?

‘’Hôm nay chúng ta hiểu rằng những khó khăn lớn nhất là ở Gia-dinh và Dinh-thuong, chúng ta đã mất hai thị xã của hai tỉnh này. Chúng tôi nghĩ rằng những ai đã quay về trong lòng gia đình họ là điều phải; nhưng đã đến lúc cần đồng loạt đứng lên theo về với tôi; tôi sẽ hân hoan đón rước để cùng nhau đánh đuổi người Pháp ra khỏi các tỉnh của ta. Sau này, khi chiến thắng, sẽ được thăng thưởng xứng đáng để an hưởng trong hòa bình.

                                                                           ‘’Hoàng đế Tu-duc’’

Sứ thần An nam đã lừa gạt ta rõ ràng. Có nhiều người trong chúng ta coi đó là một chuyện đáng bất nhẫn hơn là hợp lý. Người An nam nói hòa bình nhưng lại chuẩn bị chiến tranh với ta. Chuyện dối gạt này chỉ có thể xảy ra với các dân tộc văn minh mà thôi và ta cũng phải thú nhận rằng giữa họ và ta chưa hề có cuộc đình chiến nào chính thức được công bố? Sau hết, khi họ đưa ra lý do bảo vệ lãnh thổ của họ tức đủ để bào chữa tất cả; một khi việc xâm lược của ta chưa kết thúc, dân chúng chưa bị dẹp yên bằng vũ lực, thì bất cứ một cuộc nổi dậy vũ trang nào cũng có thể gọi là chiến tranh dành độc lập được. Nói chung ý thức đó giống như rễ cây ăn sâu vào lòng đất đã nằm sẵn  trong lương tâm của con người; ý thức như vậy rất đúng, đúng cả với những người nông dân thiếu cả vũ khí và chỉ biết trồng lúa mà thôi. Biện pháp ra giá đầu của chúng ta rõ ràng là một hành động bỉ ổi và khích động hành vi ám sát. Thật quả là một chuyện đáng buồn khi ta không tìm thấy ở những dân tộc mà ta gọi là man rợ những hành vi mềm dẽo hơn như ta đã thấy trong các trận giặc ở Ðức và Ý. Nhưng chúng ta cũng phải chú ý tới ảnh hưởng của phong tục, tập quán của một xứ quá xa và quá khác biệt với Âu châu. Giữa một giai đoạn suy xụp của giáo điều, của nguyên tắc, của tư tưởng và giữa nhưng gì hôm nay ta gọi là bậc thánh, ngay mai sẽ trở thành kẻ sát nhân, chẳng cò gì để tôn trong nữa, thì đương nhiên phần ta, ta cũng có quyền tự vệ. Trong lúc việc thương thảo gián đoạn ta cứ xử dụng quyền tự vệ của ta. Tuy nhiên tỉnh Gia-dinh vẫn hoàn toàn yên tỉnh. Vùng tứ giác phía đông vẫn bình yên, dân chúng chỉ nổi dậy lẻ tẻ ở vùng tứ giác phía tây.

Tình trạng yên ổn này chứng minh một sự kiện rõ ràng: trong thâm tâm người An nam không bao giờ mất lòng tin. Họ vẫn mong đợi một biến cố nào đó làm chúng ta mệt mỏi và phải nới tay không bóp nghẹt họ nữa. Tuy rằng lòng tin có còn, nhưng thực tế không chối cải được là sau khi bại trân họ đã phải đưa đầu vào gông nô lệ. Ta chỉ hy vọng bất cứ đâu, từ những nơi xa Saĩgon và My-thô dù cho hẻo lánh hay cách trở, khi một người An nam nhìn thấy ta tức họ phải hiểu ngay sự trừng phạt có thể giáng xuống đầu họ tức thời. Ta cũng hy vọng thêm là hệ thống hành chánh mà ta hứa hẹn với họ sẽ tương xứng và thích nghi với cái tôn giáo có nhiều an ủi của họ, tâm trạng của họ rồi cũng sẽ thay đổi với thời gian. Về phần ta, ta cũng sẽ hy vọng gặt hái những kết quả do sự phấn đấu, lòng quả cảm, sức chịu đựng mọi thiếu thốn của ta, và nhất là sự hy sinh khiếp đảm nhất cho Thần Chết từ năm năm nay.

 Những nhận xét mà ta vừa trình bày trên đây chỉ để áp dụng cho việc thành lập thuộc địa của ta mà thôi, không thể dùng cho người sau, khi lật lại lịch sử [26]. Trong vòng mùa mưa năm 1861, vì khuynh hướng cướp bóc của người An nam, thêm cảnh các tàu chở lương thực và than bắt mang về nhiều người có thói hung bạo, ta còn phải chận đứng việc buôn bán lén lút súng đạn với Singapour vì thế ta phải đưa ra nhiều biện pháp đặc biệt; hoàn cảnh khắt khe này thật sự không thích hợp chút nào để ta tìm kiếm giải pháp dung hòa giữa sự thống trị của người Pháp và dân chúng An nam. Dù sao thuộc địa vẫn được thành lập. Trước kia Saĩgon không có tòa án và quan tòa, ngay cả các vùng ta thiết lập cũng vậy. Hoàn cảnh chiến tranh không cho phép để thực hiện. Vào giữa tháng tư, một anh lính thủy người Mỹ bị một người đồng hương của mình giết chết trong một cuộc ẩu đã. Chính quyền Pháp hoàn toàn bất lực trước những loại tội phạm như vậy. Tóm lại một bộ luật dành cho người An nam sẽ phải được soạn thảo trong tương lai; các người Pháp ta đưa về làm tỉnh trưởng, quận trưởng chỉ được quyền xử phạt những tội phạm nhẹ, không quan trọng mà thôi. Vị chỉ huy trưởng xin chính phủ Pháp phải gấp rút thiết lập tại Saĩgon một tòa án; nhưng trong khi chờ đợi, toàn thể lãnh thổ do ta chinh phạt được phải đặt trong tình trạng giới nghiêm bằng một bản tuyên cáo ghi ngày 19 tháng năm, bản tuyên cáo có nội dung như sau:

 ‘’Phó đề đốc hải quân, chỉ huy trưởng các lực lượng hải quân Pháp trên các vùng biển Tàu, các lực lượng bộ binh cũng như thủy binh tại Nam kỳ;

‘’Nhận thấy rằng:

‘’Trong khi chờ đợi thiết lập tòa án có dủ thẩm quyền xét xử trọng tội và thường phạm, thì ngay bây giờ phải trừng trị cấp bách các tội phạm đó;

 ‘’Ngoài ra còn phải kể đến tình trạng chiến tranh giữa chính phủ của Hoàng đế nước ta và chính quyền Hué;

 ‘’Tuyên cáo như sau:

‘’Chiếu theo luật ngày 9 đến 11 tháng 8 năm 1849, điều khoảng 5, chương II, các tỉnh Saĩgon, My-thô và tất cả các vùng lãnh thổ do ta chiếm phải đặt trong tình trạng giới nghiêm.

‘’Tuy nhiên, chiếu theo điều khoản 7, chương III của bộ luật trên, chánh quyền dân sự vẫn tiếp tục như trước đây để thực thi quyền hạn của mình, và khi nào quyền hạn đó xét thấy thiếu sót thì lực lượng quân sự sẽ tiếp tay nếu có hiệu lịnh của vị chỉ huy trưởng truyền xuống.

‘’Vị chỉ huy trưởng toàn bộ đạo quân viễn chinh và các chỉ huy trưởng đặc trách hai tỉnh Saĩgon và My-thô được giao phó dùng tất cả mọi phương tiện để phổ biến bản tuyên cáo này.’’

Hành động đó chứng tỏ uy lực và quyết tâm của nước Pháp chiếm giữ vĩnh viễn không nhân nhượng vùng lãnh thổ Saĩgon và My-thô. Trong dịp này, đại tá don Carlos Palanca Gutierrez, chỉ huy các lực lượng Tây ban nha và cũng là đại diện toàn quyền của vương triều Tây ban nha, tự thấy phải phản đối và dành quyền phản ứng của nước Tây ban nha trước sự việc này. Vị toàn quyền Pháp ghi nhận sự phản kháng của phía Tây ban nha, nhưng ông vẫn giữ nguyên quyết định của mình. Thái độ của vị chỉ huy trưởng Pháp trong sự tranh chấp này phản ảnh thật sự bản tính của ông nhưng đồng thời cũng phù hợp với các chỉ thị do chính phủ của Hoàng đế nước Pháp chuyển xuống cho ông. Chỉ thị này như sau: ’’Trình bày cho ông biết rằng ông đã nhận được lịnh đánh chiếm Saĩgon, chinh phục và tổ chức một phần lãnh thổ tại đây, và nhắc cho ông biết Tây ban nha chỉ được đền bồi cho sự hy sinh vẻ vang của mình tại một địa điểm khác ở Nam kỳ mà thôi’’. Vấn đề này thật ra chỉ có thể giải quyết một cách toàn vẹn giữa hai chính phủ. Quả đúng đã được giải quyết như vậy, nhưng mãi về sau mà thôi: hiện nay vấn đề này gây ra bất đồng chính kiến giữa hai vị toàn quyền, mặc dù sự liên hệ cá nhân giữa hai người không bị sứt mẻ gì vì chuyện này; tranh chấp cũng không phải là một chuyện xấu xa đối với lịch sử, nếu ta cứ nhìn lại hai thế kỷ trước đây, cơ đồ của một đại quốc gia hùng mạnh đã đi đến chỗ đổ nát chỉ vì sự bất hòa giữa hai vị chỉ huy quân sự [27]Các biện pháp cực đoan của tình trạng giới nghiêm đem lại cho ta kết quả tốt, nhưng đồng thời cũng gây ra những hậu quả xấu là những hành động tàn bạo không thể tránh do giới nghiêm mà ra, chẳng hạn như hành động xúc phạm quá sâu vào đời sống cá nhân và riêng tư của người An nam trong xã hội của họ. Nhưng chính biện pháp này lại làm gia tăng quyền uy của người Pháp, giúp cho vị phó đề đốc của ta rảnh tay tận dụng quân lực để chuẩn bị cho việc chinh phục thêm những vùng đất mới.

Tình trạng thuộc địa của ta khi mưa lũ chấm dứt và khi đồng ruộng khô cứng trở lại thật hết sức là huy hoàng. Uy quyền của người Pháp trong các tỉnh đã chiếm không hẳn chỉ là uy quyền trên danh nghĩa. Từ Saĩgon đến My-thô, uy danh của ta thật sáng ngời. Chỗ nào ta cũng thấy người Pháp, từ Go-cung đến Tay-ninh, từ bờ biển Tàu đến biên giới Cao miên. Các đoàn tàu buôn thật tấp nập nối liền Saĩgon và My-thô, có khi lên đến 200 chiếc một lúc. Giao thương ở thành phố Tàu tăng lên mười lần hơn trước, bằng cớ là giấy tờ thương mãi của thời này chứng minh rõ rệt. Hành động chống đối từ phía Bien-hoa thu hẹp chỉ còn vài trận đụng độ lẻ tẻ, các thắng lợi lớn của người An nam chẳng qua là những vụ đánh cắp trâu bò mà thôi. Có một số quân chính quy An nam đóng trên một vùng cao nguyên là Mi-hoa, giữa Fou-yen-mot và Bien-hoa, nhưng không gây áp lực gì đến hoạt động của ta. Một vài vụ kháng cự còn xảy ra về phía kinh Thương mãi, nhưng ta đã quan tâm và chú ý, nên chỉ cần đưa ra vài biện pháp đàn áp, trừng trị là xong.

Cái bản tính thông thường của trí tuệ con người là ghê tởm những gì không chính xác, rõ rệt và công thức. Ta muốn tìm một lý do chính giải thích sự xuất hiện của những nhóm kháng chiến rình rập chung quanh các đạo quân của ta trong mùa mưa; họ xuất hiện phía sau khi ta tiến lên phía trước, ta lại thấy họ phía trước khi ta quay lại điểm xuất phát lúc buổi sáng. Giống như họ từ dưới đất chui lên. Phải moi óc để tìm ra địa điểm trung tâm xuất phát của họ, từ đâu họ lấy lương thực để ăn, từ đâu họ lấy khí giới để đánh. Vì vậy mà ta phải nghĩ tới Bien-hoa. Sau Bien-hòa ta lại cho là Vinh-long. Sự thật thì trung tâm xuất phát các cuộc đề kháng ở khắp nơi, chia cắt ra cho tới con số vô cực, con số này tăng lên cho tới khi nào bằng với con số người dân An nam[28] Nói một cách đúng hơn, thì phải xem mỗi một nông dân đang bó một bó lúa trong ruộng là một trung tâm kháng chiến. Ðiểm bất lợi cho cuộc chiến đấu của ta trên một vùng địa thế mà địch vẫn thản nhiên sinh sống và trốn lánh dễ dàng,_ chiến tranh mang dần tính cách cá nhân, thay đổi mục tiêu và danh nghĩa, trở thành một thứ chiến tranh đàn áp. Ta thấy thật rõ ràng từ ngày thất thủ Kì hòa và My-thô người An nam chỉ tìm cách làm ta hao mòn mà không thiết lập chắc chắn một chỗ nào nhất định để thách đấu với ta. Bắt đầu từ giờ phút này, mỗi khi đem quân tấn công họ thì ta biết trước chắc chắn họ sẽ nhường bước và tháo lui, rồi lại tiếp tục thiết lập sào huyệt phía sau hoăc phía trưóc địa điểm ta dự đînh tấn công. Tuy nhiên đã đến lúc mà ta phải đánh chiếm Bien-hoa, vì thị xã của tỉnh Bien-hoa đã nằm trong danh sách các mục tiêu bành trướng thuộc địa của ta, gồm trong vùng đất kéo dài tới sát ranh giới dãy núi Fan-thiet.

Chiến thắng Kì hòa và My-thô đã chuẩn bị sẵn  cho việc đánh chiếm Bien-hoa, công tác này sẽ do người thay thế phó thủy sư đề đốc Charner thực hiện. Khi chiến dịch năm 1861 chấm dứt, vị chỉ huy trưởng cho rằng sức mạnh quân sự của người An nam đã bị đánh tan và việc chinh phạt bước vào tình trạng giống như lúc đầu khi ta đánh chiếm Algérie. Công trình này còn đòi hỏi thời gian và cố gắng của nhiều sĩ quan cao cấp khác nữa, không phải chỉ nằm trong xứ mạng đã giao phó cho ông, phần ông đã làm tròn trách nhiệm. Chuẩn đề đốc hải quân Bonard được chỉ định, bằng nghị định ký ngày 8 tháng 8 năm 1861, giữ chức toàn quyền và làm chỉ huy trưởng các lực lượng Pháp tại Nam kỳ. Nhưng thật sự ông chỉ đến Saĩgon ngày 27 tháng 11, vì chuyến vận hành của ông quá lâu và khó khăn. Chỉ trong vòng ba ngày là phó thủy sư đề đốc Charner đã giao xong quyền hành cho chuẩn đề đốc Bonard. Ngày 30 tháng 11, đúng chín giờ sáng, tất cả các trưởng sở đều tụ tập tại ngôi chùa, nay mang tên ta đặt là Công sự Mới. Vị cựu chỉ huy trưởng ngỏ lời với các sĩ quan bộ binh và hải quân đang vây quanh ông nhưng không còn dưới quyền ông nữa. Tóm tắt những lời của ông như sau ’’rằng ông xin từ biệt họ, trong suốt sự nghiệp lâu dài của ông từ thời đệ nhất đế chế[29], ông chưa từng thấy lần nào có cuộc tụ họp từ sĩ quan hải quân đến sĩ quan bộ binh đông đảo như thế này, tất cả lại vô cùng hứng khởi vì được thúc đẩy bởi một tham vọng cao cả, cái tham vọng đó đã giúp cho mỗi người làm tròn bổn phận của mình’’.

Ðạo quân Nam kỳ của ta đều hiểu rõ cái giá trị mà họ phải trả trước đây để được nghe những lời tán dương như thế.

[1] Trong nguyên văn là : avait trop mangé le peuple. Tác giả không nêu tên vị quan đi thương thảo với người Pháp. Có thể tác giả vì đã cho biết người này ăn hối lộ và từng bị giáng cấp nên không muốn chỉ đích danh, hoặc tác giả không muốn nêu tên một người đi thương thảo với tư cách một kẻ chiến bại (?). Dù sao đi nữa tôi cũng rất khâm phục sự kính trọng con người nơi tác giả, (ghi chú của người dịch).

[2] Câu này cho thấy là hai bên họp trên tàu Primauguet, không phải trên tàu Imperatrice-Eugénie, tổng hành dinh của phó thủy sư đề đốc Charner. Trên phương diện ngoại giao cũng hợp lý, (ghi chú của người dịch).

[3] Câu này có ẩn ý rất ngạo mạn: nếu khôn ngoan thì phải chấp nhận. Nguyên văn là : à la sagesse du Nguyen. Cách dùng chữ rất lắc léo vì chữ này có nhiều nghĩa trong tiếng Pháp, người đọc có thể tự hiểu theo ý mình. Ðoạn này tác giả tóm tắt công hàm của dề đốc Charner trả lời phía An nam, (ghi chú của người dịch).

[4] Phía Pháp ngưng thương thuyết vì bắt được tuyên cáo của triều đình Huế kêu gọi dân chúng do hai đứa trẻ mang vào Tram Ban, tác giả có nói ở chương trước, (ghi chú của người dịch).

[5] Trong nguyên bản là : ‘’piastres’’; tạm dịch là đồng bạc, giá trị một đồng bạc lúc đó đối với vàng như thế nào thì không được rõ, (ghi chú của người dịch).

[6] Tôi nghĩ chữ này là ‘’quê quán’’, có lẽ tác giả viết ngược thành ra là ‘’quan-quê’’ ? (ghi chú của người dịch).

[7] Mỗi bếp lửa là một gia đình. Còn chuyện phân chia ruộng vườn thành từng miếng nhỏ theo tác giả là không thông minh. Tôi mạn phép được nghĩ khác hơn, việc canh tác vẫn còn dùng sức người, phân chia ruộng vườn ra từng mãnh nhỏ là tận dụng tối đa sức làm việc của từng gia đình trên mãnh đất của mình, năng xuất sẽ cao hơn là làm tập thể hay có tính cách quy mô, (ghi chú của người dịch).

[8] Người được phong chức này có nhiều ưu đãi đặc biệt. Người vin-teut được hưởng trợ cấp và có quyền làm quan không cần thi cử, (ghi chú của tác giả).

‘’Vin-teut’’ phiên âm ngược ra chữ hán có lẽ là ‘’vinh tước’’ ?, vinh là vinh quang, vinh dự , tước là tước phong, không có nghĩa gì là con quan, (ghi chú của người dịch).

[9] Dân quân gồm những người nghèo hoặc lang thang trong vùng, đông nhất là sau thời kỳ giặc giã năm 1835. Hoàng đế tại triều đình giúp đỡ họ đinh cư trong vài tháng đầu. Họ không làm sở hữu chủ đất đai, chỉ hưởng huê lợi trên mãnh đất họ làm. Ngoài việc đồng áng, lúc rảnh thì họ tập luyện với khí giới thật cổ lỗ. Khi có chiến tranh thì được tập trung để chiến đấu. Các người chỉ huy là những người nổi danh can trường hoặc những người giỏi trước kia từng giữ những chức vụ hành chánh. Dân quân trong sáu tỉnh, tức là những người Don-dien, gồm cả thảy hai mươi bốn trung đoàn, tính theo số lượng là mười ngàn người vũ trang ; khi lịnh tập họp ban ra thì chính quyền có ngay một lực lượng rất chặt chẻ. Xem thêm ghi chú ở chương VII, (ghi chú của tác giả).

[10] Theo tôi hiểu xử bắn là một vinh dự của người chiến sĩ, treo cổ là dành riêng cho kẻ phạm pháp, (ghi chú của người dịch).

[11] Ðúng vậy, chưa đầy một trăm năm sau thì người Pháp ký hiệp định Genève, xin người đọc cũng chú ý đoạn tiếp theo bên dưới, tác giả viết :’’Hình như địch cũng chọn một chiến thuật mới...’’ (ghi chú của người dịch).

[12] Xin cám ơn tác giả, (ghi chú của người dịch).

[13] Là một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm nưóc Pháp, nước Bỉ, Thụy sĩ, và một phần nước Ðức mà người La mã xâm chiếm và đô hộ từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ IV, (ghi chú của người dịch).

[14] Tin tình báo này do chính miệng của một người An nam biết rất rõ triều đình Hué, người này là con trai của vị phụ tá tay trái ( Ta-tham-tri ) tức bộ trưởng Try-phy-hien.

[15] Ta thì lại nói khác, ví dụ để chỉ những người hút thuốc phiện thì ta nói là hai vai rút lên. Người Tàu thì có thành ngữ như sau :’’Nó có hai vai rút lên ngang hàng với hai lổ tai’’,(ghi chú của tác giả).

Người dịch xin ghi chú thêm : đây là cách viết cực kỳ kín đáo của tác giả, có lẽ tác giả muốn ám chỉ hoàng đế Tự-Ðức có hút thuốc phiện nhưng không nói ra, chỉ giải thích một chuyện bâng quơ không dính dấp vào đâu cả, lại đặt riêng vào một hàng ghi chú cuối trang sách. Theo tài liệu ghi chép của quan tổng đốc Thân trọng Huề thì vua Tự Ðức hút thuốc lào (không phải là thuốc phiện), bên cạnh lúc nào cũng có một người lính hầu dể châm đóm,(ghi chú của người dịch).

[16] Thiệu-trị (ghi chú của người dịch).

[17] Hoang bao = Hồng Bảo, (ghi chú của người dịch).

[18] Theo quyển sử của Trần trong Kim, thì Hồng Bảo ‘’đồ mưu với một nước ngoại quốc tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Con ông ấy thì được tha mà phải đổi tên là Ðinh Ðạo’’. Theo một tác giả Mỹ Stanley Karnow (S. Karnow, Viêtnam, WGBH, 1983) thì Hồng Bảo bị một số người An nam theo đạo xúi dục và âm mưu, (ghi chú của người dịch).

[19] Ðây là một tiếng lóng mà tác giả không muốn viết thẳng ra, thật là khó đoán sau gần 150 năm. Tác giả có lối viết lắc léo, mập mờ, lắm khi làm cho người dịch cũng bực mình, vì nếu giữ nguyên cái ’’kín đáo’’ của tác giả thì bản dịch sẽ trở thành quái dị và tối om, không hiểu nổi. Còn nếu như bật mí thì mất đi cái ‘’cố tình lắc léo’’ của tác giả. Chẳng hạn như đoạn trẻ con An nam chửi lính Tây, hoặc hệ trọng hơn như việc Charner nhúng tay vào việc nổi loạn cướp ngôi ở Cao miên. Còn tiếng lóng mà quân viễn chinh dùng với nhau để chửi các quan triều đình Huế thì phải chịu, đoán không nổi, (ghi chú của người dịch).

[20] Một người bạn, cháu năm đời của cụ Nguyễn Tri Phương, cho tôi biết điều này không đúng. Người này là cháu cố của phò mã Nguyễn Lâm, Nguyễn Lâm là con của cụ Nguyễn Tri Phương. Phò mã Nguyễn Lâm là chồng của công chúa Ðồng Xuân, còn gọi là công chúa Phúc Lễ, em khác mẹ với vua Tự Ðức. Vậy cụ Nguyễn Tri Phương không thể nào là ông ngoại của Hồng Bào được; ông ngoại của Hồng Bào phải thuộc vào một thế hệ trên nữa. Thân phụ của người bạn vừa kể là cháu nội của phò mã Nguyễn Lâm, đã lớn tuổi, hiện sống ở Mỹ, cũng xác nhận điều này, (ghi chú của người dịch).

[21] Tức là phủ, nên người này có biệt danh là Phủ cọp, phủ tạm xem như tương đương với tỉnh (préfecture) trên đất Pháp, (ghi chú của người dịch).

[22] Có lẽ là làng Mỹ- Quý, gần Mỹ tho ? (ghi chú của người dịch).

[23] Tức vị quan trấn thủ thành My-thô trước đây, (ghi chú của người dịch).

[24] Ðạo quân viễn chinh này gồm một phần quân lính đóng ở thành My-thô (đai úy Brière de l’Isle, trung úy Champanhet, ba mươi người của đại đội 32 thuộc trung đoàn 3 thủy binh bộ chiến; trung úy Chériner và hai mươi lăm người của đại đội 30, tăng cường thêm hai mưoi lăm thủy binh chiến đấu); đại đội của tàu Duperré do trung úy hải quân Carrade chỉ huy; một đạo thủy binh chiến đấu do trung úy hải quân Hanès chỉ huy; trung úy hải quân Noẽl điều khiển một ca-nô lớn của chiến hạm Prégent và chiếc sa-lúp Soledad. Ðại úy hải quân Devaux nắm quyền thống lãnh toàn bộ đạo quân này; sĩ quan hành chính Tây ban nha là Olabe giữ chức chỉ huy tổng hành dinh.

[25] 2 Người dịch không có tài liệu bằng tiếng nôm của bản tuyên cáo này, chỉ xin dịch lại từ tiếng Pháp trong sách. Từ tiếng nôm dịch sang tiếng Pháp, từ tiếng Pháp lại chuyển sang tiếngViệt nam, tránh sao cho khỏi những sai lầm, xin tạ lỗi đến những nhà viết sử. Nguyên văn trong sách tác giả dịch là : ‘’faire violence à nos femmes’’, chữ violence trong tiếng Pháp xưa có nghĩa là hãm hiếp. Từ thượng cổ, hành động đầu tiên của một đạo quân xâm lược sau khi thắng trận là hãm hiếp phụ nữ, nhưng tuyệt nhiên không thấy tác giả nhắc đến chuyện này trong sách. Dù sao, lúc nào tôi cũng cám ơn tác giả đã viết nhiều đoạn rất thành thực và khá khách quan, tôi không dám đòi hỏi hơn, (ghi chú của người dịch).

[26] Thêm một lần nữa người dịch xin ngã nón trước thái độ rất ý thức và khá khách quan của tác giả và cũng xin tạ lỗi đã mạn phép lật lại một vài trang sử nhỏ mà tác giả đã ghi chép. Mặc dù một thế kỷ rưõi cách nhau, nhưng trên phương diện con người ta có đủ sức hiểu nhau và tha thứ lẫn cho nhau hay không? (ghi chú của người dịch).

[27] Người dịch cũng chẳng hiểu tác giả muốn ám chỉ quốc gia nào, các vị tướng lãnh nào và trong trường hợp nào, quả thật người dịch dốt đặc về lịch sử, (ghi chú của người dịch).

[28] Tôi mạn phép không đồng ý lắm, vì nghĩ rằng ta phải trừ ra một số người vì lý do này hay lý do khác không phải là một trung tâm kháng chiến. Dù sao tôi cũng xin cám ơn con tính quá rộng rãi của tác giả và biết ơn tác giả với tư cách một nhân chứng trước lòng thương nước của tổ tiên tôi, những người nông dân đang bó lúa trên những thửa ruộng sình lầy. Gần đây khi phát xít Ðức xâm chiếm nước Pháp không biết có bao nhiêu trung tâm kháng chiến nổi lên, chỉ nghe nói nhiều đến chính phủ Vichy. 

[29] Ðệ nhất đế chế là chế độ chính trị của Pháp từ tháng năm 1804 đến tháng tư 1814, Nã phá luân đệ nhất làm hoàng đế. Ðệ nhị đế chế : từ tháng mười hai 1852 đến tháng chín 1870, Nã phá luân đệ tam làm hoàng đế. Như vậy là sự nghiệp binh bị của Charner bắt đầu dưới thời Nã phá luân đệ nhất, (ghi chú của người dịch).

  Kết luận

(một vài cảm nghĩ của người dịch)

Tôi ngồi im rất lâu trước khi viết được những dòng này. Thật nhiều xúc cảm dâng lên trong tôi, vui buồn lẫn lộn, có lúc lâng lâng trong thương nhớ, có lúc đớn đau và chua xót. Tôi cố len lỏi giữa những xúc cảm, tìm lại một chút ánh sáng của lý trí để tóm tắt bản dịch vừa làm xong.

Tôi chia kết luận ra làm nhiều phần:

                           Phần 1: Vài nhận xét về tác giả và tác phẩm                             

                           Phần 2: Quân đội viễn chinh và quân đội An nam

                           Phần 3: Con người và Xã hội An nam

                           Phần 4: Một vài cảm nghỉ về lịch sử



Phần 1: Vài nhận xét về tác giả và tác phẩm 
             

Một quyển sách, nhân chứng của một người, hay kết quả suốt một đời nghiên cứu của một sử gia cũng chỉ là một giọt nước trong đại dương mênh mông của lịch sử mà thôi Ta chỉ nên đánh giá tác giả như một con người, một quyển sách là một tác phẩm, một bộ sử cũng chỉ là những góp nhặt thiếu sót và méo mó xuyên qua cá tính của một người hay của một nhóm người viết sử.

Xuyên qua tác phẩm vừa dịch tôi tìm thấy Léopold Pallu. Tác giả có lúc khách sáo, có lúc thành thực, có lúc bồng bột và hời hợt nhưng cũng có lúc rung động và sâu sắc Tôi kính trọng tác giả trên phương diện con người, tôi biết ơn tác giả trên phương diện một nhân chứng trong một giai đoạn lịch sử của quê hương tôi.

Vậy thì tác giả là ai? Trên đất Pháp ta có thể tìm cách phăng lần lên gốc gác của một nhân vật trong quá khứ, nhưng cũng phải khó khăn và mất rất nhiều ngày giờ, nhưng để làm gì và có ích lợi gì? Trong chương một của quyển sách, tôi thấy tác giả có viết một câu: từ trên đỉnh cột cờ của chiến hạm Impératrice-Eugénie ta có thể nhìn thấy thành phố Thượng hải. Câu này giúp ta đoán tác giả đã từng có mặt trên chiến hạm của phó đề đốc Charner. Tìm trong phần phụ lục và trong danh sách các sĩ quan trên tàu Impératrice -Eugénie, tôi thấy có một người mang tên Pallu, trung úy hải quân đại chiến hạm (lieutenant de vaisseau) thuộc ban tham mưu của tàu này.

Tác giả rất chính xác trong cách mô tả và kể chuyện các trận đánh. Chắc hẳn là tác giả đã chép lại từ nhật ký của mình. Tác giả đưa ra nhiều chi tiết về đoàn quân viễn chinh, các kế hoạch hành quân và những dọ dẫm của người Pháp tìm kiếm một phương pháp cai trị người An nam. Biết rõ các chuyện này hẳn tác giả là một người bên cạnh phó đề đốc Charner. Ta cũng thấy tác giả ghi lại các lời chỉ thị của Charner cho các sĩ quan dưới quyền, nhất là cách cử xử của hai sĩ quan lần lượt thống lĩnh đạo quân viễn chinh đi đánh Mỹ tho, họ phải đối xử như thế nào khi gặp phó vương An nam thống giữ thành Mỹ tho. Nhưng thật ra trận đánh cũng không xảy ra, mà chuyện hội kiến với phó vương An nam cũng không cóTác giả cũng kể cho ta nghe lời Charner chỉ bảo người sĩ quan đặc trách chính trị tại Trảng bàng về đường hướng chính trị của Pháp đối với Cao miên và cách đối xử với người Cao miên sinh sống trên phần đất Nam kỳ. Tất cả những huấn thị, dặn dò tác giả đã ghi lại từ lời nói miệng của Charner. Vì vậy khó có một tài liệu lịch sử nào để chứng minh. Tác giả là một nhân chứng quí báu là vì vậy.

Tác giả mô tả trận tấn công thành Kì hòa, cảnh phá cừ cọc trên đường đánh Mỹ tho, cảnh lạc đường, quân lính cãi nhau...thật là chi tiết. Phải chú ý lắm mới thấy sự hiện diện của tác giả trong các hoàn cảnh đó, ông hoàn toàn xóa bỏ cái tôi của mình, tránh không bao giờ nói đến bản thân mình. Từ trang đầu cho đến trang cuối cuốn sách, tác giả không bao giờ dùng chữ tôi. Quả thật khéo léo và đáng kính phục. Tác giả mô tả chân dung, dáng dấp, thái độ của vua Tự Ðức làm cho tôi nghĩ rằng chính ông đã yết kiến vua Tự Ðức. Tháng 2 năm 1863 toàn quyền Pháp là Bonard và toàn quyền Tây ban nha là Palanca Gutierrez có yết kiến vua Tự Ðức, có lẽ tác giả thuộc thành phần của phái đoàn này. Tác giả cũng tỏ sự ngưỡng mộ của ông đối với vua Tự Ðức, trong khi hầu hết người Pháp trong đoàn quân viễn chinh và cả người Pháp ở mẫu quốc lại khinh thường và coi Tự Ðức như một tên khát máu vì ảnh hưởng của những chiến dịch do báo chí và một số người phát động để hợp thức hóa cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Quả tác giả là một người can đảm và ngay thẳng.

Nói về cách hành văn và diễn đạt tư tưởng, tác giả viết rất kín đáo, thích cách nói một nữa, còn một nữa để cho người đọc tự tìm hiểu lấy. Ví dụ như khi ông muốn ám chỉ bàn tay của Charner trong vụ cướp ngôi ở Cao miên, trợ cấp của hoàng đế Tự Ðức, hoàng đế Tự Ðức có hút thuốc phiện... (mặc dù không biết có đúng hay không), nhưng nếu ta không chú ý ta sẽ không hiểu được và thấy hết cái tinh vi của tác giả. Ông tả cảnh một đàn gà chạy quanh đang bới đất ở sân chùa làm người lính thấy mà thèm, trong chùa trên chiếc bàn của sĩ quan có vài chai rượu absinthe và vermouth. Tác giả nói đến cái bất công trong quân ngũ một cách giản dị, hồn nhiên như đàn gà đang bới đất.

Ông không bao giờ nói đến tên tuổi kẻ địch của mình, tức là quan quân, tướng lãnh trong thành Kì hòa và Mỹ tho. Thật là một sự tế nhị đáng kính nể. Ngay cả vị phó vương trấn giữ thành Mỹ tho mà tác giả rất kính phục, ông cũng không nêu tên. Vị phó vương trước khi bỏ thành đã trả tự do cho người thiên chúa giáo, một hành vi nhân đạo mà tác giả cho rằng ngay cả người Pháp sau này cũng không ai làm nổi. Trong khi đó, trước khi thành Mỹ tho bị chiếm, người thiên chúa giáo đã nổi lên đối xử với người ngoại đạo như một thứ nô lệ. Kính trọng kẻ địch, không nêu tên tuổi những người bại trận, thật anh hùng và cao quý biết bao nhiêu.

Tuy vậy tôi cũng hơi thất vọng khi tác giả ca ngợi đoàn quân viễn chinh bằng những lời tán dương quá kêu, khách sáo và rỗng tuếch Có thể thời đó là thông thường, cần thiết cho đời sống quân ngũ? Dù sao thì lòng chân thật và lương thiện của tác giả cũng bị một chút tì vết khi viết những đoạn quá công thức và rẻ tiền.

 Tác giả là một người khá bộc lộ, nhạy cảm và rung động. Ði đánh nhau nhưng vẫn cảm thấy cái thích thú khi bước trên rêu. Cùng một cảnh Saigon nhưng có khi vui nhộn tưng bừng, có khi thấy buồn nản chẳng có gì xem; cảnh đồng ruộng của Nam kỳ cũng thế, có khi xinh tươi và khả ái, có khi buồn tẻ như một vùng đất Phật chẳng có gì để bám níu. Ông để lòng mình trào ra theo nét bút.

Ông cũng hay dùng những hình ảnh tương phản để diễn đạt ý tưởng của mình. Chẳng hạn những pho tượng trong chùa với vẻ mặt trầm lặng và nụ cười nhân bản hơn là nhạo báng trước cảnh nhộn nhịp ồn ào của quân sĩ đang chuẩn bị đánh nhau Trong cảnh chém giết sắt máu của trận chiến Kì hòa, ông vẫn nhìn thấy một bầu trời thản nhiên và vô tình...

Tôi có hơi dài dòng, không phải để tìm cách khen ngợi hay chỉ trích tác giả, điều này chẳng lợi ích gì, vì tác giả hẳn phải nằm xuống với lịch sử từ lâu. Mục đích của tôi là trình bày cái chủ quan trong một quyển sách, dù quyển sách đó là một quyển sách lịch sử. Một quyển sách là một tác phẩm của một tác giả, dù tác giả là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử cũng vậy. Lời nói của một nhân chứng cũng giống như tiếng đánh nhịp tích tắc của chiếc đồng hồ giữa cái thời gian vô tận của lịch sử mà thôi. Tiếng tích tắc đâu phải là thời gian.

Tác phẩm của L. Pallu, dồi dào về dữ kiện, linh động về chi tiết, quả là một tài liệu góp thêm cho những người viết sử. Cái nhìn của một người ngoại quốc về chủng tộc, văn hoá, hành chính và luật pháp của xã hội Nam kỳ vào giữa thế kỷ mười chín, tuy có phiến diện và hời hợt, nhưng cũng có một chút giá trị nào đó cho các nhà xã hội học Một cái nhìn thật quý báu cho mỗi người trong chúng ta dựa vào đó để tìm thấy một chút cội nguồn của tâm hồn và bản tánh mình.

Trải qua một trăm năm đô hộ và sau đó là giặc giã tiếp nối triền miên, tránh sao khỏi những mất mát. Nhưng ngày nay ta vẫn còn tìm thấy trong xã hội Việt nam một chút rơi rớt của quá khứ, giúp cho gia đình và xã hội không tan rã, tuy rằng xã hội Việt nam đang lâm vào những khó khăn khác, phải tiếp tục chiến đấu một cách khác, để bảo tồn những gì gọi là nguồn gốc của tổ tiên.

Lắm khi ta phải can đảm và trầm tĩnh đứng về phía kẻ địch để nhìn lại ta. Cái nhìn dù có đau đớn và nhục nhã ta cũng không lấy đó làm một sự phẩn uất, ta hãy để cho lòng lắng xuống, nhìn thật kỷ những ưu điểm và khuyết điểm. Tuy rằng tác phẩm của L.Pallu chỉ là một giọt nước của quá khứ, nhưng ta cố tìm trong giọt nước đó cái gương can đảm của những người nằm xuống, cái trong sáng của tâm hồn một dân tộc, mặc dù giọt nước đó giống như một giọt máu của tổ tiên.

   Phần 2:    Quân đội viễn chinh và quân đội An nam

Tôi rất do dự khi thêm phần này vào kết luận, vì sợ là một chuyện thừa. Quân đội viễn chinh là một đạo quân nhà nghề, từng đi đánh chiếm thuộc địa khắp nơi. Quân của triều đình An nam lúc bấy giờ chỉ để canh giữ biên thùy chống lại giặc Cao miên và giặc Xiêm la mà thôi.

Có một chi tiết cần nêu lên là theo tác giả tổng số quân đoàn viễn chinh là 8 000 người, trong khi ấy các sách về sử của ta ước tính chỉ 3 000 hay 3 500 như Viêt Nam sử lược (Trần Trọng Kim), Việt sử toàn thư (Phạm văn Son) v.v.

Âu châu ở thế kỷ 19 đã hết sức tiến bộ về kỷ nghệ, cần nguyên liệu thiên nhiên và thị trường để tiêu thụ sản phẩm. Xã hội Âu châu bị nạn nhân mãn trầm trọng, dân quê đổ về thành thị tìm công ăn việc làm. Thất nghiệp lan tràn. Các nước Âu châu phải cấp bách tranh đua nhau đánh chiếm thêm thuộc địa. Ta cũng để ý trong sách tác giả cho biết lính viễn chinh hầu hết là những người tình nguyện, nhiều người học tiếng An nam để ở lại vĩnh viễn không trở về mẫu quốc nữa, một số chỉ biết đọc qua loa không đủ sức dùng quyển tự điển có tiếng la tinh và tiếng An nam duy nhất lúc bấy giờ.

Súng ống của người Âu châu đã cực kỳ tối tân, nòng súng có khía bên trong để hướng dẫn đường đạn chính xác hơn, xa hơn, xuyên phá mạnh hơn. Ðạn đại pháo là những viên đạn bộc phá, thuôn dài chứa thuốc nổ. Trong khi ấy đại pháo của quân đội An nam vẫn còn dùng đạn tròn và đặc, đúc bằng gang hay sắt, đạn nạp từ đầu súng để bắn ra. Súng cá nhân thì quân đội viễn chinh đã có loại súng cac-bin trong khi ấy quân An nam còn dùng súng hỏa mai.

Về chiến thuật thì từ trước ta chỉ biết xây thành đắp lũy để chống với giặc Cao miên và Xiêm la, chưa biết cách trải rộng sức phòng thủ trong dân chúng. Nhưng theo sách của L.Pallu, thì chiến thuật du kích đã phát sinh rất sớm từ năm 1861, tức chỉ vài tháng sau khi thành Kì hòa và thành Mỹ tho bị mất. Ðịch quân thì cũng đánh bừa nhờ vào sức mạnh của súng đạn. Ðịch đóng quân ở hậu tuyến thành Kì hòa, dựa vào bìa rừng, chưa kịp dựng lều nấu ăn đã bị phục kích. Mặc dù chưa hề đi đánh nhau với ai, nhưng tôi nghĩ quân An nam quen thuộc địa thế chờ giữa đêm xông vào mà đánh, cướp lấy súng đạn có lẽ hay hơn. Hai bên cứ ngủ yên lấy sức hôm sau sẽ hay, tác giả quyển sách có nói là suốt đêm thật yên tĩnh không có một tiếng súng. Nếu trong thành ta cứ bắn ra đồm độp sáng đêm, địch ngủ không được có lẽ sáng hôm sau cũng bớt hăng?

Ðề đốc Charner chọn một căn nhà trống trong ngôi làng bỏ hoang cạnh ngay thành địch để lập tổng hành dinh có lẽ cũng không thuộc sách lược nhà binh cho lắm, nên bị ngay một quả đạn xuyên qua mái nhà. Ðạo quân đi đánh Hốc môn cũng vậy, chọn miếng đất cao ráo mát mẻ cạnh bìa rừng để cắm quân mà nghỉ. Cũng may quân An nam đã bỏ chạy hết rồi. Suốt ngày lính viễn chinh hành quân cực khổ, bị nắng như thiêu như đốt, ngã lăn bất tỉnh phải nhờ nông dân giúp tay khiêng những quân lính đi không được, chọn một nơi mát mẻ mà nghỉ ngơi là hợp lý.

Trận khởi nghĩa đầu tiên của người An nam xảy ra tại Gò công. Sáng sớm, quân An nam từ dưới ruộng đánh trống đánh chiêng vang lừng, dùng giáo, mác, súng ngắn cầm tay, xông vào sân chợ ở giữa tỉnh mà đánh. Ðầu cây lao có cột thêm một cái pháo thăng thiên để bắn. Xông lên thì hăng, nhưng rồi chỉ biết cầm giáo đứng nép vào tường chung quanh chợ để cho quân Pháp cứ từ từ mà bắn, như chơi trò bắn bia.

Nhưng thôi, nếu ta cứ lấy cái lạnh lợi xảo trá ngày nay, rút tỉa từ kinh nghiệm xương máu, để đánh giá người xưa qua cái hào hùng và ngay thẳng của họ thì thật là sai. Nhưng trong những đống xác người tắc nghẽn đường phố Gò công, ta vẫn thấy hình như có phảng phất linh hồn của một quốc gia. Trong đống xác người có một vị lãnh đạo bị thương nhưng chưa chết, vẻ mặt vẫn trầm tỉnh, rắn rõi và ngang nhiên. Tây kéo đem đi sử bắn. Tiếc rằng tác giả không cho biết tên người này, chỉ nói rằng linh hồn của một quốc gia trong ông đã thở hơi cuối cùng với ông. Tôi không tin lắm, vì hình như cái linh hồn đó vẫn còn thoi thóp trong tôi.

   Phần 3:    Con người và Xã hội An nam

Vóc dáng, tập quán, phong tục của người An nam, tác giả trình bày trong sách, chắc cũng có nhiều đìều đúng, nhiều điều thiếu sót. Tác giả đến Nam kỳ để đánh nhau vào năm 1861. Sách xuất bản năm 1864. Thời đó đường xá xa xôi, ông Bonard đến thay ông Charner cũng phải mất mấy tháng để đi từ Pháp sang xứ An nam. Sách còn phải đưa cho nhà xuất bản đọc và ưng thuận,lại phải xếp từng chữ để in, đâu có mau lẹ như bây giờ. Trong sổ tang ở cuối sách tác giả ghi tất cả những người Pháp đã ngã gục ở Nam kỳ đến hết năm 1862. Tôi nghĩ rằng tác giả viết xong quyển sách này trong khoảng thời gian 1863. Vì thời gian khá ngắn như thế, ta cũng không nên đòi hỏi tác giả nhiều hơn.

Phần tôi là cháu chít cũng chẳng biết gì để phê phán phong tục, tập quán của ông bà mình ngày xưa. Chỉ xin đề cập đến vài vấn đề hành chính và luật pháp mà tác giả trình bày khá chi tiết trong sách.

Hành chánh nhà nước áp đặt chỉ đến cấp huyện. Quan huyện do triều đình tuyển chọn bằng thi cử. Từ cấp huyện trở xuống hoàn toàn tự trị. Làng xã hoàn toàn do dân quản lý bằng bầu cử Cả một hệ thống liên đới chịu trách nhiệm với nhau: từ ông cai tổng, ông xã, ông lý trưởng, ông phó lý, ông cả, ông hương thanh, ông hương hào, ông cai đinh, ông hương gióng, ---cho đến anh áp. Ðây là một cách phân quyền hết sức rộng rãi, ngay cả huyện cũng không bắt buộc thường xuyên nhận lịnh và phúc trình với phủ. Họ tự quản lý lẫn nhau.

Việc cai trị dựa vào đạo đức và răn dạy. Hình phạt chỉ tượng trưng để cho dân sợ mà thôi. Hòa giải nhiều hơn xử phạt. Tác giả quyển sách, tuy có nêu lên nhưng không hiểu hết ảnh hưởng các điều này nên đánh giá quan quân An nam là nhu nhược, bộ luật An nam (thời Gia Long) có nhiều điểm ‘’thật thà’’. Tác giả cũng công nhận là nền hành chánh và pháp lý từ hạ tầng cơ sở cho đến các cấp quan quân của triều đình bổ nhiệm gần như hoàn hảo không tìm thấy chỗ sơ hở. Trước khi người Pháp đến, cả Nam kỳ miền dưới chưa có quá ba vụ án mạng trong một năm. Người Pháp đến xử tử nhiều lắm, nhưng toàn là tội chính trị. Quân cướp An nam chỉ lột sạch nạn nhân nhưng không giết người như ở Âu châu theo tác giả kể trong sách.

Tác giả có viết là căn nhà lợp lá dừa lùn của người nông dân được triệt để tôn trọng, nếu quan quân nào bước khỏi ngưỡng cửa là người đàn bà đánh liền. Khi người đàn bà nông dân ẳm con lên tìm quan phủ hay quan huyện thì không ai cản nổi. Ảnh hưởng của người phụ nữ An nam trong gia đình và xã hội làm cho tác giả phải ngạc nhiên.

Tác giả cũng công nhận người nông dân An nam biết luật lệ, quyền lợi, tranh luận, kiện thưa, hơn hẳn người nông dân Âu châu. Người An nam còn có quyền đưa đơn khiếu nại trực tiếp lên hoàng đế, không cần qua bất cứ một cấp bực hành chính hay pháp lý nào.

Tôi không hiểu tổ chức các nhà tù như thế ra sao, chưa nghe ai nói, hay phần lớn chỉ phạt theo luật rồi thả về hoặc là đày đi xa nếu là tội nặng? Ðiều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là tác giả cho biết trong hệ thống tư pháp và hành chính An nam không bao giờ có bóng dáng một người lính. Như vậy là một tổ chức như cảnh sát ngày nay không có trong xã hội An nam ngày xưa?

Khi ta nhìn thấy chế độ quản lý hạ tầng ngày nay bằng tổ trưởng, đại diện khu phố, phường, quận, công an tổ, công an khu vực, công an phường v.v. và v.v. ta thấy đau đớn cho xã hội Việt nam biết bao nhiêu.

Nếu ta không đề cập tới vấn đề tín ngưỡng, thì có thể là một thiếu sót hay chỉ là một cách tránh né thiếu can đảm và lương thiện, vì điều khoản số 1 người Pháp đưa ra cho triều đình Huế là phải cho tự do hành đạo Thiên Chúa giáo. Mặc dù thế vấn đề này không phải là thắc mắc của cuốn sách, tác giả chỉ nêu lên một vài sự kiện có liên hệ thế thôi, chẳng hạn như vài người bị chặt đầu vì tín ngưỡng, vị phó vương trấn giữ thành Mỹ tho trả tự do cho những người theo đạo Thiên Chúa và bảo các người này hãy đi theo các người bạn Pháp của họ. Theo tác giả hành vi của vị phó vương thật nhân đạo, những người An nam sau này không ai làm nổi kể cả những kẻ thù của họ là người Pháp. Ta cũng không quên kể đoạn tác giả nói bóng gió những người truyền giáo trách đám quân viễn chinh là mưu mẹo, lạm quyền..., quân viễn chinh mở trường dạy tiếng An nam đào tạo thông ngôn để tránh khỏi phải nhờ vả vào các người truyền giáo (xem chương VII).

Tôi chỉ xin đưa ra một vài sự kiện làm đề tài suy nghĩ về những đổi thay của lịch sử. Thật sự thì tín ngưỡng phật giáo đã xâm nhập vào Âu châu rõ rệt nhất từ giữa thế kỷ thứ 19, tức vào thời kỳ Pháp bành trướng thuộc địa tại An nam. Ngày nay trên nước Pháp có 11% dân trên 15 tuổi, tức khoảng 5.000.000 người ‘’cảm tình’’ (sympathisants) với phật giáo (thống kê ngày 24-25 tháng 9 năm 1999) Trong số này có nhiều người ‘’gần’’ (proches) với phật giáo và lui tới chùa chiền. Một số hành đạo tại gia, một số đi tu hẳn. Có hơn 200 chùa và trung tâm ngồi thiền (dojo) tại Pháp. Kết quả thống kê thăm dò 903 người tới lui các chùa chiền ( 648 người thuộc chùa tây tạng, 255 người thuộc chùa phái thiền học) cho thấy trình độ học vấn (một trong các kết quả thăm dò) gồm có 5,9 % cấp trung học đệ nhất cấp, 8,7 % trung học đệ nhị cấp, 20.0 % trình độ tú tài, 23,1 % trình độ tú tài + 2 năm đại học, 36,4 % tú tài + 4 năm đại học hay cao hơn nữa, 5,9 % linh tinh. Tính chung 79,5 % là những người trí thức. Nếu suy rộng ra trên con số 5 000 000 người thì ta cũng có thể ước chừng được là bao nhiêu người trí thức trong tổng số chưa đến 60 000 000 dân.

Có những quyển sách về phật giáo xuất bản gần đây, bán được 200 000 đến 250 000 số mỗi quyển. Có một quyển sách bán đến 1 000 000 số sau nhiều lần tái bản. Trong 80 tác phẩm của ông Thích nhất Hạnh, hai mươi quyển đã được dịch ra tiếng Pháp. Ðài truyền hình số 2 của chính phủ Pháp mỗi sáng chúa nhật đều có chương trình về phật giáo.[30]

Quả thật lịch sử đã dành cho ta nhiều trớ trêu và bất ngờ. Người An nam không đưa ra bất cứ một điều khoản nào bắt người Pháp phải thực thi.

  Phần 4: Một vài cảm nghĩ về lịch sử

Tôi có nói qua ở lời tựa là ngày nhỏ tôi không thích lịch sử chút nào, ngay bây giờ cũng thế. Ðối với tôi lịch sử luôn luôn bị méo mó vì người viết sử, chính một sự kiện cũng trở nên méo mó qua nhân chứng. Những năm tháng đánh dấu lịch sử cũng chỉ dựa vào một mốc thời gian nào đó để tính ra thành năm, thành tháng. Ta không thể nào biết quá khứ một cách đầy đủ. Cũng dễ hiểu, vì ta không thể nào đem toàn vẹn quá khứ đặt vào hiện tại để quan sát và nghiên cứu; giản dị là hiện tại không đủ chỗ. Vì vậy lịch sử không thật sự là một khoa học theo định nghĩa thông thường của nó. Mặc dù không gian hiện tại trống rỗng, ta cũng không thể đem cái không gian quá khứ đặt vào đó vì tự nó đã trống rỗng rồi. Hoặc nói ngược lại, không gian hiện tại đã đầy ắp, không gian quá khứ cũng còn nguyên vẹn và đầy ắp. Ví dụ như một chén nước đầy, nếu ta cố thêm một giọt cũng làm cho nước trào ra ngoài, làm thế nào để mang quá khứ về hiện tại? Khoa học ngày nay, từ thuyết tương đối của Einstein, cơ học lượng tử (mécanique quantique) đến vật lý thiên văn (astrophysique) cho ta thấy thời gian chỉ vỏn vẹn là một kích thước thứ tư của không gian Quá khứ, hiện tại hay tương lai cũng chỉ nằm gọn trong một không gian, mặc dù không gian có thể cong (ảnh hưởng từ tính), teo nhỏ (trou noir), hay trương nở (big bang); khoa học đã chứng minh như vậy. Cứ nhìn hiện tại ta thấy quá khứ, hay ngược lại. Ðối với tương lai cũng thế, nếu ta đủ trầm tĩnh và sáng suốt để nhìn vào hiện tại ta cũng có thể thấy thoang thoáng một chút tương lai.

Quyển sách của L.Pallu cũng như một giọt nước có thể làm tràn bát nước, nhưng bát nước vẫn là một bát nước. Nếu bát nước trong veo, biết đâu khi nhìn vào đó ta cũng thấy được thoang thoáng hình bóng ta sau này, mặc dù bát nước đã đầy ta không thể nào thêm vào đó một giọt nước của tương lại.

Những cảm nghĩ của tác giả với tư cách một nhân chứng, tuy méo mó và chủ quan, cũng đã gây cho tôi nhiều xúc cảm Chính xúc cảm mới có thể vượt qua không gian và kích thước thứ tư của nó là thời gian, để len lén chen vào tim ta và tâm hồn ta Hiện tại không có chỗ cho quá khứ mà chỉ có chỗ cho xúc cảm mà thôi.

Vì vậy tôi xin trả cho quá khứ những gì thuộc quá khứ, tôi xin trả những gì thuộc lịch sử cho lịch sử. Tôi xin cám ơn và trả lại quyển sách này cho Léopold Pallu. Tôi cám ơn ông đã cho tôi những xúc cảm thật trong sáng và thanh cao. Tôi biết ơn tổ tiên tôi, nhưng tôi vẫn trả lại những gì của tổ tiên tôi Tôi xin bỏ tất cả, tôi xin quên tất cả, từ oán hận cho đến thương yêu, từ ước vọng cho đến kỷ niệm của một ngày xưa lịch sử. Tôi chỉ xin giữ lại một chút hơi ấm của xúc cảm trong tim, cái hơi ấm bốc lên từ những thửa ruộng sình lầy, từ xương thịt của tổ tiên xưa.

Lắm khi một tiếng tích tắc của thời gian cũng đủ làm vang lên trong lòng ta một bản hùng ca của giống nòi. Một giọt quá khứ rơi vào tâm hồn cũng làm tim ta rạt rào muôn ngàn ngọn sóng của đại dương lịch sử mênh mông.

 
Bures-Sur-Yvette, 12.03.01
Hết

Không có nhận xét nào: