Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2013

Hai Bà Trưng và những bí ẩn về Cột đồng Mã Viện

Từ xa xưa mãi cho đến ngày nay, hàng năm toàn dân Việt vẫn tổ chức Đại lễ kỷ niệm “Hai Bà Trưng” với tất cả sự thành kính xen lẫn niềm tự hào về hai Bà, bậc nữ lưu Việt tộc đã lưu lại trang sử oanh liệt hào hùng của dân tộc. Thế nhưng, các sách sử Việt Nam cứ trích dẫn sử Trung Quốc nên cho đến ngày nay, chúng ta vẫn chưa biết gì hơn về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng ngoài những sách sử của Trung Quốc ghi chép lại với luận điệu của “Thiên triều Đại Hán”. Chính vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu xem bối cảnh lịch sử của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và nơi đã xảy ra cuộc chiến đầu tiên của Hai bà với quân xâm lược, chúng ta sẽ thấy toàn bộ vấn đề với ý nghĩa cao đẹp của sự thật lịch sử bị chôn vùi hơn 2 ngàn năm nay.

Hậu Hán thư, Mã Viện truyện của Phạm Việp sử gia triều Hán viết về Hai Bà Trưng như sau:“Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Trắc với em là Trưng Nhị làm phản, đánh chiếm các quận (Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, là vợ người huyện Chu Diên tên là Thi (Sách) rất hùng dũng (1). Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc, Trắc oán giận mà làm phản). Người man di các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp chiếm hơn sáu mươi thành ở Lĩnh Ngoại. Trắc tự lập làm vua. Bấy giờ vua (Hán) cho Viện làm Phục Ba Tướng quân, lấy Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân Đàn Chi đánh Giao Chỉ ở phương Nam. Quân đến Hợp Phố thì bị bệnh chết. Vua chiếu cho Mã Viện kiêm thống suất binh của Chí. Viện bèn dọc theo bờ biển mà tiến, theo núi phát đường hơn nghìn dặm. Năm 18, quân đến Lãng Bạc, đánh phá được giặc, chém hơn nghìn đầu, giặc đầu hàng đến hơn vạn người. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cẩm Khê, đánh thắng nhiều lần giặc tan chạy. Năm sau tháng giêng chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gửi đầu về Lạc Dương.(Chú: Việt chí nói rằng Trưng Trắc khởi binh, đóng đô ở huyện Mê Linh. Khi bị Mã Viện đánh chạy vào suối Kim Khê, 2 năm sau mới bắt được)”.

Hán sử với luận điệu “Thiên triều” cho rằng Tô Định là tên thái thú tham lam tàn bạo nên Hai Bà Trưng mới đứng lên chống lại. Đây chính là luận điểm của Hán tộc cho rằng dân Việt vẫn chịu thuộc Hán nhưng chỉ vì thái thú tham lam tàn bạo nên người Việt mới đứng lên chống lại sự đô hộ của những tên Thái Thú tham lam tàn bạo này mà thôi. Các sử gia Việt Nam, từ Ngô Sĩ Liên tới các sử gia sau này cứ sao chép rập khuôn luận điệu xuyên tạc bóp méo lịch sử của các sử gia “Đại Hán”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết: “Năm Ất Hợi, năm thứ 15 niên hiệu Kiến Vũ, thái thú Giao Chỉ là Tô Định là người tham lam bạo ngược. Trưng Nữ Vương nổi binh để đánh. Năm Canh Tý tháng 2 mùa Xuân, Ngài khổ vì Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc và thù Định giết chồng mình bèn cùng em là Trưng Nhị cử binh đánh lấy các châu trị …”.

Lịch sử chứng minh rằng Bà Trưng đã lãnh đạo các Lạc Tướng cùng với nhân dân đứng lên giành độc lập dân tộc. Sau khi đánh đuổi quân Hán ra khỏi đất nước, các Lạc Hầu Lạc Tướng và toàn dân đã suy tôn Trưng Trắc lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc để tiếp nối sự nghiệp của vua Hùng.

BÀ TRƯNG ĐÁNH ĐUỔI QUÂN HÁN XÂM LƯỢC

Sử Trung Quốc chép rằng sau khi chiếm Nam Việt, Hán triều đổi tên nước là Nam Việt thành Giao Chỉ bộ và chia ra làm 9 quận gồm: Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô (Quảng Tây), Uất Lâm (Quảng Tây), Hợp Phố (Quảng Châu), Giao Chỉ (Bắc Việt Nam), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ An ), Châu Nhai (Đảo Hải Nam) và Đạm Nhĩ (nay là Đam Châu thuộc đảo Hải Nam). Tuy chiếm được Nam Việt nhưng Hán Vũ Đế không dám tiến quân xuống Tây Âu Lạc vì lời khuyên của Lưu An nhắc lại kinh nghiệm thất bại năm xưa của đại quân Tần. Vì thế Lộ Bác Đức đóng quân ở Hợp Phố, chờ 2 viên Điền sứ của Triệu Đà dâng nộp ấn tín sổ sách và một ngàn vò rượu rồi giao cho 2 viên Điền sứ tiếp tục cai trị như xưa. Hậu Hán Thư chép: “Năm 111 TDL, sau khi chiếm được Nam Viêt rồi thì Lộ Bác Đức phải nhờ “Việt Quế Lâm Giám Cư Ông dỗ Âu Lạc thuộc Hán”. Như vậy, các quận Giao Chỉ (Bắc Việt Nam ), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá) và Nhật Nam (Nghệ An) vẫn do 2 viên Điển sứ và các Lạc Tướng cai quản chứ không do Hán triều thống trị trực tiếp.

Trên thực tế, Hán triều vẫn không kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Nam Việt chứ đừng nói tới Âu Lạc. Sau khi Thạch Đái chết, Hán Chiêu Đế cử Chu Chương làm thứ sử Giao Châu. Từ đó đến thời Đông Hán, sử sách Trung Quốc không nhắc gì đến Giao Chỉ cả. Điều này chứng tỏ rằng, nhân dân Hoa Nam đã nổi lên giành quyền tự chủ nên sử Hán không ghi chép gì vào thời kỳ này. Mãi đến khi Vương Mãng lật triều Tây Hán để lập triều đại Tân từ năm 9 đến 23, mà Hán sử chỉ chép vỏn vẹn là “quan châu mục Giao Chỉ là Đặng Nhượng và các quận đều đóng bờ cõi tự phòng trị một thời gian”. Năm 25, Lưu Tú lên ngôi lấy hiệu là Hán Quang Vũ, năm sau Hán triều cử Sầm Bành xuống đánh Kinh Châu. Sầm Bành viết thư cho Đặng Nhượng mãi tới năm 29 thì Giao Chỉ mục mới cử Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và thái thú các quận là nhóm Đỗ Mục mới sai sứ sang cống, tất cả đều được phong làm Liệt Hầu. Sử Hán chép là các quan châu mục tự cai quản nhưng trên thực tế, các thủ lĩnh Quân trưởng Việt đã cùng với nhân dân đứng lên giành lại quyền tự chủ. Sử TQ Hậu Hán thư chép: “Xưa Sầm Bành cùng Giao Chỉ mục Đặng Nhương quen biết thân thiện nên viết thư cho Nhượng trình bày uy đức quốc gia, rồi lại sai Thiên tướng quân Khuất Sung gửi hịch đến Giang Nam ban hành chiếu mạng. Do thế, Nhượng cùng Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Vũ Lăng là Vương Đường, tướng Trường Sa là Hàng Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú Linh Lăng là Điền Hấp, thái thú Thương Ngô Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cùng nhau sai sứ sang cống. Tất cả đều được phong là Liệt Hầu”. Như vậy, chỉ có Thái thú Giao Chỉ lúc này còn ở Hoa Nam mà không nhắc gì đến Cửu Chân(2).

Năm 29, Hán triều mới cử Nhâm Diên sang làm Thái thú Cửu Chân thì đến năm 32, Hán triều đã phải “bãi chức” thái thú Cửu Chân của Nhâm Diên. Hán sử chép là “Năm 31, triệu hồi Thái thú Giao Chỉ Tích Quang về triều” mà không nói gì thêm, điều này có nghĩa là nhân dân Cửu Chân, Giao Chỉ ở Hoa Nam đã giành lại độc lập tự chủ. Mãi đến năm 34, Triều Hán mới cử Tô Định là tên võ quan làm thái thú để đem quân đi đánh chiếm lại những vùng đã thuộc quyền tự chủ của dân ta. Trong khi đó, sách Đại Việt Sử lược không rõ tên tác giả viết vào khoảng đời Trần, dù bị Tiền Hy Tộ sử quan triều Thanh sửa đổi nhưng vẫn không thấy chép gì về Nhâm Diên và Tích Quang. Đại Việt Sử lược chép mục “Quan thủ nhậm qua các thời đại” chỉ ghi là “Thạch Đái thời Vũ Đế (140-86 TDL), Chu Chương đời Chiêu Đế (86-74 TDL0, Nguỵ Lãng Tư Minh đời Tuyên Đế (73-48 TDL) rồi tới Tô Định đời Hán Quang Vũ (34-40)”.

Như vậy rõ ràng là thời kỳ này, ở phần đất Bắc và Trung Việt Nam tuy sử sách gọi là thuộc quận Giao Chỉ và Cửu Chân không có viên thái thú nào trấn nhậm cả. Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh thuộc hàng danh gia vọng tộc nên nuôi dưỡng hoài bão “Nối lại nghiệp xưa vua Hùng”. Trưng Trắc lấy chồng tên là Thi, danh sĩ đất Giao Châu cùng chí hướng, con trai của Lạc tướng Chu Diên là người có chí khí hơn người. Cuộc hôn nhân ngoài tình yêu nam nữ còn là sợi dây liên kết 2 dòng tộc để cùng với toàn dân đứng lên giành lại quyền tự chủ cho dân tộc. Vì thế, năm 39 khi Tô Định đem quân đến Trường Sa, Trưng Trắc đã cử Trưng Nhị cùng các nữ tướng đã chặn đánh tan tành quân Hán ở Trường Sa. Hán sử chép là Tô Định tháo chạy, còn các quan chức thứ sử thái thú chỉ giữ được mạng sống của chúng mà thôi. Sách “An Nam Chí lược” và “Thiên Nam Ngữ lục” chép Tô Định bị giết chết tại trận. Vua Hán phải cử Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân là chức cũ của Lộ Bác Đức thời Hán Vũ Đế đánh Nam Việt. Điều này có nghĩa là nhân dân Nam Việt đã giành lại nền độc lập tự chủ nên vua Hán phải cử Mã Viện tiến đánh Nam Việt như thời Hán Vũ Đế vậy.

BÀ TRƯNG PHỤC QUỐC HÙNG LẠC

Sách sử xưa chép rằng việc liên kết hai dòng họ không qua mắt được quân thù nên khi Tô Định đem quân Hán xâm lược tới phủ trị thì chúng cho quân đến vây bắt hai vợ chồng Trưng Trắc. Thiên Nam Ngữ lục chép: “Khi thấy quân Tô Định thế mạnh, Thi khuyên vợ nên đi đường tắt về Hát Môn. Nhân đấy hai chị em kéo về Hát Môn, lập thành lũy chuẩn bị dụng binh. Thế cô nên Thi không chống cự nổi bị Tô Định giết chết, đốt phá dinh thự. Tin dữ truyền đến Hát Môn, chị em Trưng Trắc quyết chí báo thù, truyền hịch đi khắp thiên hạ dấy nghĩa”. Nhận được hung tin, Hai Bà làm lễ tế cờ rồi truyền hịch đi khắp nơi dấy nghĩa “Giết quân Hán xâm lược để lập lại nghiệp xưa vua Hùng”.

Đầu năm Kỷ Hợi (39DL), Trưng nữ Vương xuất quân đánh ngay vào Trường Sa, trị sở Đô Úy của Hán triều. Trận chiến do Trưng Nhị cùng các nữ tướng Phật Nguyệt, Trần Thiếu Lan, Trần Năng, Lại Thế Cường. Chiến thắng quân Hán ở Đô Uý trị huyện Mê Linh thuộc Trường Sa, giết chết Tô Định, tàn quân Hán tháo chạy về nước. Đây là chiến thắng vang dội mở đầu cho các chiến thắng liên tiếp trên các quận huyện. Trong vòng hơn 1 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì trên khắp Hoa Nam. Quân Hán cuốn vó chạy dài, Hán triều thất điên bát đảo. Nhân dân suy tôn Trưng Trắc lên ngôi vua, lấy hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Trưng Nữ Vương cảm thông nỗi khốn khó của nhân dân nên ban hành chiếu chỉ miễn thuế cho nhân dân 2 năm liền. Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên chép: “Trưng Trắc công phá châu quận, hàng phục được các Lạc Tướng, họ đều suy tôn Trắc làm vua”. Đây chính là truyền thống suy cử quân trưởng Thủ lĩnh để nối nghiệp xưa của vua Hùng được các Lạc Tướng tôn trọng và truyền lưu mãi tới thời Trưng Nữ Vương. Khi lên ngôi, Trưng Vương đặt quốc hiệu là Hùng Lạc để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng và miễn thuế cho nhân dân 2 năm để phục hồi sức dân. Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc:

Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta… (3)

BÀ TRƯNG ĐÁNH TAN QUÂN HÁN Ở HỒ NAM (TQ)

Sách sử xưa chép rằng Trưng Trắc, con gái Lạc tướng Mê Linh lấy con trai Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách bị Tô Định giết chết nên Bà Trưng làm lễ tế cờ rồi xuất quân khởi nghĩa. Đầu thế kỷ thứ 4, Lịch Đạo Nguyên, một người đã từng làm việc ở Giao Chỉ nên rất thông hiểu, lịch sử, địa lý toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc viết trong tác phẩm Thủy Kinh Chú Sớ rằng chồng của bà Trưng tên là Thi chứ không phải Thi Sách vì Hán văn viết liền “Thi sách thê” nghĩa thi là lấy vợ và một sự kiện khác là danh tướng Thi không bị Tô Định giết mà cùng với Trưng Trắc đánh phá các quận, thu phục các Lạc Tướng. Thủy Kinh Chú Sớ chép: “ Con trai Lạc Tướng Chu Diên là Thi lấy con gái Lạc Tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trưng Trắc là người can đảm dũng lược, cùng chồng là Thi đánh phá các quận, thu phục được các Lạc tướng. Trưng Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh…”.

Trước đây các sử gia Việt Nam cứ cho rằng cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng diễn ra ở Mê Linh trong lãnh thổ Bắc Việt Nam . Đây là một sự sai lầm vì chính sách “Lĩnh Nam Trích Quái chép: “Hai Bà Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên Trắc, em tên Nhị người ở huyện Mê Linh đất Phong Châu, con gái quan Hùng tướng đất Giao Châu”. Địa danh Mê Linh ở Trường sa và đất Phong Châu là Phong Châu Thượng ở giữa Vân Nam và Quí Châu chứ không phải Phong Châu Hạ ở Bạch Hạc, Việt Trì Bắc Việt sau này do triều Đường mới đặt tên năm 622. Sách “Cựu Đường thư” của Lưu Hú chép: “Phong Châu ở Tây Bắc An Nam , Sở trị là Gia Ninh. Đời Hán, huyện Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ là đất của Văn Lang Di xưa”. Cựu Đường thư đã ghi rõ là Phong Châu ở hướng Tây Bắc An Nam chứ không phải ở vùng Tây Bắc của nước An Nam . Sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường chép: “Phong Châu là đất Văn Lang xưa, có con sông tên là Văn Lang”. Thuỷ Kinh chú dẫn Lâm Ấp ký” chép: “Phía Nam Chu Ngô có giống người gọi là Văn Lang. Họ không biết xây nhà mà ở trên cây (ở nhà sàn), ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Phía Nam huyện đó có con sông nhỏ tên là Văn Lang Cứu”.

Sự thật lịch sử này đã được Lịch Đạo Nguyên xác nhận trong tác phẩm “Thuỷ Kinh chú” là đến năm 42, Mã Viện tâu trình kế hoạch tiến quân đánh Hai Bà ở Vân Nam như sau:“Năm Kiến Vũ thứ 19 tức năm 42, Phục Ba tướng quân là Mã Viện tâu lên vua rằng: Đi từ Mê Linh ra Bôn Cổ huyện Thuý tỉnh Vân Nam để đánh Ích Châu, thần sẽ đem hơn vạn người Lạc Việt, trong đó có hơn 3 nghìn người từng theo Viện chiến đấu có mang tên tẩm thuốc độc, bắn một lần mấy phát, tên bắn như mưa trúng ai nấy chết. ..”. Mã Viện tiến quân từ mạn Bắc xuống nên nếu Mê Linh là ở Bắc Việt Nam thì làm sao mà đi ra huyện Thúy tỉnh Vân Nam được. Sách Thủy Kinh chú chép về địa danh Mê Linh rõ hơn: “Huyện Tiến Tang là Đô uý trị ở miền Nam quận Tường Kha. Trên sông có cửa quan nên gọi là cửa Tiến Tang. Mã Viện xưa nói rằng theo đường sông Mê Linh ra vương quốc Tiến Tang, đến huyện Bí (Bôn) Cổ thuộc Ích Châu, chuyên chở thuận lợi nên đường binh xa chuyên chở là do đó …”. Như vậy rõ ràng là sông Mê Linh nằm ở cửa Tiến Tang miền Nam huyện Tường Kha tỉnh Hồ Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như các sử gia vẫn chép từ trước đến giờ. Theo Lĩnh Nam trích Quái, Triệu Vũ Đế của Nam Việt cũng là người Chân Định (Trường Sa tỉnh Hồ Nam TQ) là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Đất Mê Linh lúc trước gọi là My Linh thuộc nước Sở, về sau là vùng Trường sa, Phan Hồ tỉnh Hồ Nam, nơi mà Hán Vũ Đế đặt “Đô Uý trị” ở đó năm Nguyên Đĩnh thứ 6 tức năm 111 TDL sau khi đánh thắng Nam Việt. Sự kiện này một lần nữa xác nhận Mê Linh lúc đó là địa danh ở Trường Sa, Tây hồ tỉnh Hồ Nam Trung Quốc.

Sau khi bị Hán tộc xâm lược đẩy lùi dân tộc ta về phương Nam, tiền nhân ta đã mang theo địa danh Mê Linh, Tây hồ xa xưa để đặt tên cho vùng đất mới ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú. Địa danh Phan Hồ còn gọi là Tây Hồ ở vùng Ô Diên tỉnh Hồ Nam thuộc Giang Nam tức phía Nam sông Dương Tử là vùng núi có hình con chim Điêu, chim Ó sau đổi thành Chu Diên quê hương của danh tướng Thi, chính là vùng Hai Bà đã đóng quân chống quân Hán xâm lược. Phan Hồ còn gọi là hồ Tây hay hồ Dâm Đàm là một trong 5 hồ rộng lớn ở Giang Nam, sóng nước mênh mông nên còn gọi là hồ Lãng Bạc. Mùa hè năm 43, Mã Viện hành quân đến Lãng Bạc mà theo Thủy Kinh chú thì: “Ở phía Bắc huyện Phong Khê có con sông chảy về phía Đông qua Lãng Bạc. Mã Viện cho đó là đất cao bèn từ Tây Lý đem quân đến đóng ở đấy. Sông ấy lại chảy về phía Đông qua phía Nam thành cũ huyện Long Uyên”.

Sử gia Đào Duy Anh nói đó là con sông Thiếp. Tây Lý là Tây Vu vì chữ Vu bị chép lầm thành chữ Lý! để cho rằng Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du ở Bắc Ninh bây giờ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên viết rõ rằng con sông này còn gọi là sông Nam. Thực ra đó chính là sông Việt (Việt giang) mà sau này Hán sử cố tình chép đổi lại là Tây giang gồm 2 nhánh Tả giang và Hữu giang bắt nguồn từ Uất Lâm phía Bắc Quảng Tây chảy xuống Đông Nam ra thành cũ huyện Long Uyên ở Quảng Đông Trung Quốc. Mặt khác, chính sử sách chép rằng nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nhất tề hưởng ứng Hai Bà Trưng nên chỉ trong 1 tháng Hai Bà đã đánh chiếm 65 thành trì dễ như trở bàn tay.

Căn cứ vào “Quận quốc chí” của “Hậu Hán thư” thì Nam Hải có 7 thành, Thương Ngô 11 thành, Uất Lâm 11 thành, Hợp Phố 5 thành, Giao Chỉ 12 thành, Cửu Chân 5 thành, Nhật Nam 5 thành, như vậy là 53 thành. Nếu cộng với 12 thành ở Dương Châu và Kinh châu mới đủ 65 thành mới đúng với con số thành mà Hai Bà Trưng đã chiếm được. Điều này chứng tỏ cuộc chiến đã diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc bao gồm các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Kinh Châu và Dương Châu. Sự kiện này đã được xác nhận qua thực tế lịch sử là nhân dân Hoa Nam cho đến nay vẫn tôn thờ sùng kính Hai Bà Trưng mà họ gọi một cách thân thương là vua Bà. Sự tôn sùng thờ kính vua Bà đã trở thành một tôn giáo dân gian gọi là đạo “Thờ Vua Bà”. Nhân dân khắp các tỉnh Hoa Nam từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam có trên một trăm đền thờ, miếu thờ vua Bà và những nữ tướng của Hai Bà.(4)

Trận chiến đầu tiên xảy ra đầu năm kỷ Hợi 39 DL được “Địa phương chí” của sở du lịch Trường Sa Trung Quốc xác nhận như sau: “Miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu Lan ở đầu sông Tương”. Như vậy, trận đánh đầu tiên của Trưng Nhị cùng các tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Trần Thiếu Lan, Lại thế Cường đánh Trường Sa vào đầu năm Kỷ Hợi tức năm 39. Trong trận đánh này, Nữ tướng Trần Thiếu Lan đã hi sinh được quân dân mai táng ở ghềnh sông Thẩm Giang. Thẩm Giang là một đoạn sông ngắn ở phía Bắc tiếp nối với hồ Động Đình. Sự kiện này cũng được ghi trong “Quốc phổ thời Nguyễn” chép rằng các sứ thần nước ta từ các triều Lý, Trần, Lê … khi đi ngang qua đây đều sắm lễ vật đến cung miếu thờ vị liệt nữ anh hùng dân tộc Trần Thiếu Lan. Trong đền có đôi câu đối:

Tích trù Động Đình uy trấn Hán,
Phương lưu thanh sử lực phù Trưng …
Động Đình chiến sử danh trấn Hán,
Sử xanh ghi mãi sức phù Trưng ..!

Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Sĩ thì khi Mã Viện huy động đại quân tiến đánh quân ta, Hai Bà giao cho 3 vị tướng họ Đào là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống và Đào Tam Lang có nhiệm vụ trấn giữ Tượng quận là vùng đất ở giữa Vân Nam và Quảng Tây. Quân số ít oi, ba vị tướng họ Đào đã tử thủ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nhân dân địa phương trân trọng lập đền thờ bên trong có đôi câu đối:

Tượng quận giương uy nhiêu tướng lược,
Bồ Lăng tuẫn tiết tận thần trung … (5)

Các nhà viết sử trước đây cứ sao y bản chánh Hán sử chép rằng Bồ Lăng nay là bến Bồ Đề ở ngoại ô thành Thăng Long. Họ cứ nhắm mắt tin vào cái gọi là “chính sử” mà quên đi một điều là các sử gia Hán đã cố tình bóp méo sự thật, lấy tên cũ đặt cho vùng đất mới để xoá nhoà dấu vết của địa danh xưa cũ thời Văn Lang còn trải rộng khắp Hoa Nam. Trong khi đó “Việt chí” và ”Thiên Nam Ngữ lục” là thiên trường ca lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời hậu Trần gồm 8.136 câu viết theo thể lục bát chép rằng:“Hai Bà Trưng sau khi đánh chiếm được 65 thành thì bị đại quân của Mã Viện tiến đánh. Hai Bà chống cự không nổi phải rút lui dần”. Hai Bà không bị Mã Viện chém đầu mang về Lạc Dương như Hậu Hán thư chép và Hai Bà cũng không nhảy xuống tuẫn tiết trên dòng sông Hát mà Hai Bà vẫn tiếp tục chiến đấu như trong “Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện” chép lại. Mặt khác trong khi sử Trung Quốc “Hậu Hán thư” chép là Hán Quang Vũ hạ chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ sắm sửa thuyền xe, sửa chữa cầu đường, thông miền khe núi, tích trữ lúa gạo từ những năm 40-41 thì thời gian này, Mã Viện còn lo đánh Duy Dĩ ở Hồ Nam và Lý Quảng ở Hoãn Thành tỉnh An Huy TQ bây giờ.

Mãi đến năm 42, Mã Viện mới được phong là Phục Ba tướng quân đem hơn vạn quân các quận tiến đánh Hai Bà Trưng. Trong khi sách sử chép rằng trong vòng 1 tháng, Hai Bà Trưng đã đánh chiếm 65 thành trì khắp 6 quận miền Hoa Nam bao gồm Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải thì làm sao có thể huy động được quân của các vùng này như Hậu Hán thư đã chép. Nếu có thì chỉ huy động được hơn một vạn quân sau khi thắng Lý Quảng ở Hoãn Thành An Huy và Duy Dĩ ở Hồ Nam để đánh Hai bà ở Trường Sa và vùng hồ Động Đình mà thôi.

Sau 3 năm ráo riết chuẩn bị, Hán triều cử Mã Viện đem đại quân tiến đánh Hai bà. Cuộc chiến diễn ra hết sức ác liệt trên toàn cõi Hoa Nam. Trận chiến cam go ác liệt nhất xảy ra ở vùng Lãng Bạc khi Hai Bà đem quân tấn công quân Hán năm 43, Mã Viện phải rút quân lên vùng đất cao để đóng quân cố thủ. Quân Hán không thích hợp với khí hậu mùa hè phương Nam nên bị dịch bệnh chết nhiều. Tướng giặc Bình Lạc Hầu Hàn Vũ bị bệnh chết, quân sĩ hoang mang dao động. Sợ lâm vào tình thế nguy ngập, Mã Viện lợi dụng quân số đông, lại có thuỷ bộ phối hợp nên y dốc toàn lực liều chết phá vòng vây khiến quân ta bị tổn thất nặng. Hai Bà Trưng phải rút về Cẩm Khê huyện Mê Linh để bảo toàn lực lượng. Trong suốt 2 năm, Mã Viện nhiều lần tấn công nhưng đều thất bại. Cuối cùng theo Hậu Hán thư thì “Mã Viện đem quân đuổi theo Trưng Trắc đến Cẩm Khê, hai bên giao chiến nhiều lần. Mã Viện giết được Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về kinh đô Lạc Dương”. Chúng ta phải xét lại những gì Hậu Hán thư chép vì không những mâu thuẫn với Thông sử dân gian mà còn mâu thuẫn ngay với truyện Lưu Long trong Hậu Hán thư. Truyện Lưu Long, phó soái của Mã Viện lại chép rằng Lưu Long đánh đuổi nghĩa quân đến Cẩm Khê, bắt được Trưng Nhị, chém giết hơn ngàn người, bắt đầu hàng hơn vạn người mà không nói gì đến Trưng Trắc.

Hậu Hán thư chép tiếp:“Tháng 11 năm 43, Viện đem lâu thuyền lớn nhỏ hơn 2 ngàn chiếc, chiến sĩ hơn 2 vạn người đánh giặc Đô Dương ở Cửu Chân là dư đảng của Trưng Trắc từ Vô Công đến Cư Phong, chém bắt hơn 5 ngàn người. Lĩnh Nam đều bình định. Viện tâu lên vua rằng Tây Vu có hơn 3 vạn 2 ngàn hộ, vùng xa cách huyện đình hơn ngàn dặm, xin chia làm 2 huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua đồng ý, chỗ Viện đi qua liền vì quận huyện dựng thành quách, đục ngòi tưới tắm để lợi cho dân. Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân. Năm thứ 20 tức năm 44, mùa Thu, Viện thu quân rút về kinh đô. Quân lính trải qua chướng dịch, mười người chết hết 4,5”. Trận chiến ở Cửu Chân diễn ra ác liệt, tướng Đô Dương tử trận. Quận Cửu Chân theo các sách sử Trung Quốc như Thủy Kinh Chú và Thái Bình Hoàn Vũ Ký thì “Ái Châu tức Cửu Chân, phía Nam giáp quận Nhât Nam, phía Tây giáp quận Tường Kha, phía Bắc giáp Ba Thục, phía Đông giáp Uất Lâm” gồm một phần của tỉnh Vân Nam, một phần của tỉnh Quảng Tây TQ bây giờ chứ không phải vùng Thanh Nghệ như sử sách chép từ trước đến giờ…

Theo Hán sử thì Mã Viện bắt hơn 300 Cừ Soái giải về Linh Lăng. Các thủ lĩnh còn lại biết không chống nổi trước thế giặc hung hãn nên rút dần về phương Nam để tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Hán xâm lược. Hậu Hán thư chép như thế trong khi “Nam Việt chí” của Thẩm Hoài Viễn lại chép là: “Trưng Trắc chạy vào miền trong thác Kim Khê, hai năm sau mới bắt được”. Sách “Việt Chí” cũng chép là Kim Khê ở phía Tây Nam huyện Mê Linh, như vậy thuộc Trường Sa, Hồ Nam TQ trong khi sách Thuỷ Kinh chú lại chép là Cấm Khê.

Hậu Hán Thư chép là Mã Viện tâu lên vua Hán là Lĩnh Nam đã bình định. Như vậy là vùng Lĩnh Nam tức phiá Nam rặng núi Ngũ Lĩnh ở bên Trung Quốc chứ không phải ở phần lãnh thổ Việt Nam sau này như các sử gia thời trước đã hiểu sai. Đặc biệt “Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân”. Điều này chứng tỏ nước ta lúc đó còn độc lập tự chủ và xã hội Việt đã văn minh đã thể chế hóa luật Việt hẳn hòi chứ không phải “Man Di mọi rợ” như Hán sử bôi bác xuyên tạc, đồng thời chính Mã Viện phải thương lượng tôn trọng phong tục tập quán cũ của người Việt mà sách sử chép là “cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc, sau đó “Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân !!!”.

Thông sử dân gian được chép trong “Thiên Nam Ngữ lục” thì Hai Bà Trưng rút xuống vùng Vân Nam và lập căn cứ ở nước Nam Chiếu. Về sau Hai Bà bệnh mà chết. Con cháu và các Lạc Hầu Lạc Tướng dẫn dân quân lui xuống phương Nam tiếp tục mở đất từ Tứ Xuyên xuống Việt Tây tức Quảng Tây bây giờ rồi tràn xuống phương Nam dọc theo dãy Trường Sơn thành lập các vương quốc Champa và Phù Nam sau này. Cũng theo Thông sử dân gian thì sau khi quốc gia Nam Việt mất vào tay Hán tộc, con cháu họ Triệu và quân dân Nam Việt theo đường biển từ La Phù, Hợp Phố, ra Chu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) rồi về tới Đồ Sơn. Tiếng địa phương của chi Âu Việt gọi vua là “Chiếu” nên Nam Chiếu có thể hiểu là vua nước Nam. Họ xưng là dân nước Nam Chiếu nên thực hiện chiếu chỉ của vua Nam chống Hán tộc, trong trận thuỷ chiến họ đã giết được viên Thú lệnh của Hán triều. Một số khác trôi dạt ra đảo Hải Nam mà sử sách xưa chép là Hán triều chia ra làm 2 quận Chu Nhai và Đạm Nhĩ.

Theo các công trình nghiên cứu thì dân địa phương trên đảo là người Việt cổ chi tộc Lê nên gọi là Lạc Lê, ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng. Chính vì thế mà quân dân Nam Việt dễ dàng hội nhập vì cùng một nguồn cội. Họ cùng nhau tiếp tục kháng chiến chống quân Hán xâm lược nên năm 81 TDL, Hán triều phải bỏ Đạm Nhĩ rồi đến năm 46 TDL, Hán triều lại phải bỏ Chu Nhai vì chịu thiệt hại nặng nề. Hán sử chép lại sự kiện phải bỏ đảo Hải Nam bằng cách bao biện cho việc rút quân của chúng một cách khôi hài láo xược. Giả Quyên Chi tâu lên vua xin bỏ cuộc chinh phục vì “ dân Lạc Việt ở Chu Nhai vốn còn man rợ, không khác loài cầm thú, cha con tắm cùng sông, quen uống nước bằng mũi nên không đáng để đặt đất này thành quận huyện ..!”. (6)

Thần tích làng Hạ Lôi ở Cẩm Khê Mê Linh chép là Bà Trưng Nhị tử trận còn Trưng Trắc chạy lên núi My Sơn rồi hoá. Tương truyền Hai Bà xây thành giống tổ kén nên gọi là Kiển thành ở vùng Tư Minh, Vân Nam Trung Quốc bây giờ. Theo thông sử dân gian truyền tụng thì ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão tức năm 43, sau khi dốc toàn lực quyết chiến với quân thù, hai Bà sức cùng lực tận đã gieo mình xuống dòng sông Hát (Hát Giang) tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết của bậc anh thư nước Việt. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca chép:

Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế phải liều với sông ..!

Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” gọi sông Hát là sông Chu Diên và “Dư Địa chí” của Nguyễn Trãi cũng chép:“Ở sông Hát có cá Anh Vũ bơi lội tới sông Giang Hán (Dương Tử giang và Hán thuỷ) vì cây Chiên Đàn ở sông Hát cao cả nghìn trượng, rễ lâu năm, gốc dài bám liền tới sông Trường Giang (Dương Tử giang) và sông Hán. Cá Anh Vũ bơi lội thông thương trong hốc đất vì thế ở Hoàng Hạc Lâu có Anh Vũ châu …”. Như vậy, sông Hát ở đây là ở hạ lưu sông Dương Tử khác với sông Hát sau này ở Bắc Việt nay là Ngã ba Hạc, mà theo tương truyền cá Anh Vũ cũng có tại Hoa Lư là gốc rễ Chiên Đàn nói trong truyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Trích quái.

SỐ PHẬN MÃ VIỆN VÀ CỘT ĐỒNG HUYỀNTHOẠI

Mã Viện không chỉ là một danh tướng Hán chuyên đem quân đi xâm lược để bành trướng đế chế Đại Hán, mà y còn là tên quan thống trị hết sức thâm độc. Để dập tắt mầm mống chống đối, Mã Viện đã vô hiệu hoá mọi phương tiện truyền đạt hiệu lệnh khởi nghĩa của các Lạc Hầu Lạc Tướng Việt, đồng thời triệt tiêu trống đồng là vật biểu trưng cho nền văn minh Việt và cũng là biểu tượng quyền uy của giới lãnh đạo thời Hùng Vương. Mã Viện ra lệnh tịch thu tất cả trống đồng của Lạc Việt để đúc “ngựa thép” để dâng lên vua Hán. Sách “Hậu Hán thư” chép: “Viện ưa cưỡi ngựa hay có tiếng nên khi ở Giao Chỉ, lấy được trống đồng Lạc Việt bèn đúc ngựa thép về dâng vua”. Vấn đề không đơn giản như Hậu Hán thư chép vì trống đồng không chỉ là nhạc cụ truyền thống dùng trong các lễ hội mà trống đồng còn là biểu tượng quyền uy tuyệt đối của các Lạc Hầu, Lạc Tướng thủ lĩnh quân trưởng của địa phương nữa. Tiếng trống đồng là hiệu lệnh tập hợp của các thủ lĩnh Quân trưởng Việt. Mỗi khi nghe tiếng trống, người người kéo đến như mây. Chính vì vậy, việc làm của Mã Viện là chủ trương trước sau như một của đế chế Đại Hán bành trướng từ Mã Viện đời Hán đến Gia Cát Lượng đời Tam Quốc, Âu Dương Ngụy đời Lục triều và Lưu Hiển đời Minh. Thời nào Hán tộc cũng tìm cách tịch thu phá huỷ trống đồng Việt cổ, tịch thu tiêu hủy toàn bộ sách sử của nước ta nhằm hủy diệt mầm mống ý chí chống giặc thù của tộc Việt.

Tuy thắng được Hai Bà Trưng nhưng theo Hậu Hán thừ thì quân số đi mười lúc về chết vì dịch bệnh chỉ còn bốn, năm. Hán thư chép xuyên tạc như vậy vì cho rằng quân Hán chỉ chết vì dịch bệnh chứ không phải chết trận. Nếu tính cả số thương vong thì lúc về chỉ còn 1,2 là nhiều chứ đừng nói tới việc để lại bọn mà sách sử Hán gọi là “Mã lưu”. Trước tình trạng quân Hán ngày một chết nhiều vì thương vong và dịch bệnh khiến giặc bị tiêu hao thiệt hại nặng nề nên Mã Viện nại cớ “Thuỷ thổ Giao Chỉ hơi độc bốc lên đến nỗi chim đang bay trên trời cũng phải rũ cánh sa xuống đất mà chết …” để rút quân về. Nhận được sớ của Mã Viện, năm 44 vua Hán hạ chiếu cho Viện rút quân về. Trước khi về nước, Mã Viện cho dựng một cột trụ bằng đồng làm ranh giới cuối cùng Hán Việt. Trên trụ đồng, Mã Viện cho khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” như để răn đe là nếu cột trụ đổ thì Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt.

Sách sử cổ TQ chép về “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” không rõ ràng. Theo Đào Duy Anh thì Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện không hề đề cập tới việc Mã Viện dựng cột đồng. Sách Hậu Hán ký cũng không nói gì đến việc này. Phải đến cuốn Ngô lục của Trương Bột viết vào thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên mới có chép đến cột đồng, nhưng tại vùng Quảng Nam của ta hiện nay chứ không phải bên châu Khâm. Theo “Man thư” (7) đời Đường thì vị trí của cột đồng Mã Viện tại huyện An Ninh tỉnh Vân Nam trong khi Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Tống chép cột đồng đặt tại động Cổ Sâm thuộc Khâm châu.
 
Sử thần Ngô Sĩ Liên trong bộ “Đại Việt Sử ký Toàn thư” đã viết về cột trụ đồng như sau: “Mã Viện đuổi theo đánh các tàn quân là Bà Đô Dương. Tới huyện Cư Phong tất thảy đầu hàng. Viện bèn lập trụ đồng ghi bờ cõi tận cùng của Hán. Đồng trụ tương truyền ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu. Viện có lời nguyền rằng “Đồng trụ bị gãy thì Giao Châu sẽ bị diệt”. Người nước ta đi qua bên dưới thường lấy đá đắp thêm vào, sau thành ngọn núi. Ấy là vì sợ nó gãy! Mã Thống An Nam Đô hộ đời Đường lại dựng hai đồng trụ ở chỗ cũ đời Hán, ghi công đức Mã Viện để tỏ mình là dòng dõi Phục Ba”.(8) Nhà bác học Lê Quí Đôn trong “Vân Đài Loại ngữ” đã viết: “Gọi là phân mao cỏ rẽ vì núi cỏ mọc rẽ làm hai, phía Tây Phân Mao lĩnh là Khâm Châu (Trung Quốc), lưng chừng có cột đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có lẽ là cột đồng do Mã Thống đời Đường dựng mà tương truyền đây là cột trụ đồng của Mã Viện”.

Cho đến nay một số sách sử vẫn chép là có trụ đồng ở Phân Mao Lĩnh do Mã Viện trồng ở động Cổ Lâu thuộc Hồ Nam, phía Tây Phân Mao lĩnh thuộc Khâm Châu. Năm 751, viên quan Đô hộ Hà Lý Quang sau khi đánh Nam Chiếu ở Vân Nam đã dựng lại cột đồng ở chỗ cũ.. Sách sử xưa chép rằng Giao Chỉ thời Chu là Lạc Việt nước Sở vì theo Hậu Hán thư thì khi triều Chu suy, Sở hùng cường xưng Bá thì Bách Việt triều cống Sở nên thời kỳ này không thấy sử sách nhắc gì tời Giao Chỉ là như vậy. Giao Chỉ cuối thời Chiến quốc ở phía Nam nước Sở, đến thời Tần năm 214 TDL, Tần cướp đất Dương Việt lập ra 3 quận Quế Lâm (gồm phía Bắc và Đông Việt Tây tức Quảng Tây, Nam Hải (nguyên là Việt Đông sau này đổi là Quảng Đông và Tượng quận là vùng đất gồm phía Tây Việt Tây và Nam Quí Châu. Đến thời Hán Vũ Đế đánh chiếm Nam Việt thì quận Cửu Chân là vùng đệ tam lĩnh của Ngũ Lĩnh là dãy Đô Bàng ở Cửu Chân. Sang đến thời Tây Hán thì Bách Việt làm chủ lại địa bàn cư trú xưa cũ, Hán sử chép rằng mãi đến năm 29 thời Đông Hán thì các quan châu mục mới sai sứ sang cống, điều này có nghĩa là Hán triều chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà thôi. Năm 43, sau khi thắng Hai Bà thì Mã Viện nếu có dựng trụ đồng thì chỉ dựng ở biên giới cực Nam của Trung quốc ở động Cổ Lâu phía Tây Phân Mao Lĩnh thì biên giới phía Nam Trung quốc mới tới vùng này là Hồ Nam. Chính vì vậy dân gian mới đặt tên là Phân Mao Lĩnh, nơi cỏ mọc rẽ sang hướng Bắc và rẽ sang phương Nam như một biên giới tự nhiên là như vậy.

Một sự thật là các sử quan Hán tộc không phải là không phải là không phân biệt giữa khái niệm địa danh mà họ cố tình mập mờ đánh lận con đen, đem tên vùng này đặt cho vùng khác để xoá nhoà ký ức dân tộc về nước Việt Thường, Xích Qui rồi Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Chính vì vậy các sử gia nước ta từ trước đến nay bị sa vào trận địa hoả mù của Hán tộc. Họ cứ cho rằng cột trụ đồng ở biên giới phía Nam của Lâm Ấp về sau này. Thực ra Lâm Ấp là tên của một chi tộc Việt bao gồm Lâm + Ấp + Môn + Điền (Việt) ở Nam Trung Quốc (Hoa Nam). Chi tộc này về sau xuôi Nam thành lập vương quốc Lin-Y phiên âm sang Hán Việt là Lâm Ấp trải dài từ rặng núi Hoa sơn ở Việt Tây dọc theo Trường Sơn đổ xuống Nam tới tận ven biển Trung Việt. Chính sách “Khâm Định Việt sử” của triều Nguyễn chép rõ là: “Lâm Ấp xưa thuộc nước Việt Thường, trải qua thời kỳ Tần xâm lược thì có tên là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận là phần đất giữa Vân Nam, Quí Châu và Quảng Tây. Đến đời Hán mới đặt tên cho vùng Hà Tĩnh là huyện Tượng Lâm thuộc quân Nhật Nam. Khi Khu Liên khởi nghĩa thành công mới đặt tên nước là Lâm Ấp. Về sau, Phạm Hùng là dòng họ ngoại làm vua truyền tiếp nhiều đời. Lâm Ấp còn có những tên khác như Hồ Tôn, Hoàn Vương, Chiêm Thành”. Một sự thật cần phải ghi nhận là sách “Hậu Hán Thư”, bộ sử chính thức của Hán tộc không chép gì về cột đồng Mã Viện. Hậu Hán Thư trong chương nói về tiểu sử của Mã Viện không hề nhắc đến việc Mã Viện cho dựng những cây trụ đồng ở nước ta. Sự thật lịch sử này đã góp phần làm sáng tỏ cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng xảy ra ở Hoa Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như chúng ta hiểu từ trước tới nay.

Mãi đến thế kỷ thứ tư, một loạt sách sử Trung Quốc chép gần giống nhau như sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường viết: “Phía Nam Lâm Ấp đường thuỷ đường bộ qua 2 nghìn dặm đến Tây Đồ Di là nơi Mã Viện đặt đồng trụ để nêu bờ cõi”. Sách “Tân Đường thư” cũng chép: “Lâm Ấp có châu Bôn Đà Lăng. Bãi lớn phía Nam có 5 đồng trụ do Mã Viện đời Hán trồng. Hình núi như chiếc tàn nghiêng. Phía Tây là là mấy trùng núi, phía Đông là biển cả”. Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” chép: “Mã Viện đánh Lâm Ấp. Từ Nhật Nam đi hơn bốn trăm dặm có nước Tây Đồ Di. Viện đến nước ấy lập 2 đồng trụ ở chỗ biên giới Tượng Lâm giáp với Tây Đồ Di. Đường thủy thì đi từ Nam Hải hơn 3 nghìn dặm tới Lâm Ấp, năm nghìn dặm tới đồng trụ của Giao Châu”. Lịch Đạo Nguyên là một người đã từng làm quan ở nước ta đã biết rõ là trụ đồng không có thật nên tác giả Thủy Kinh Chú viết là “Núi sông dời đổi. Đồng trụ đã chìm vào sông biển ..!”. Đây là một sự hư cấu phục vụ cho chủ trương xâm lược bành trướng của “Đại Hán” mà thôi vì nếu cột đồng Mã Viện có thật thì nó phải ở Khâm Châu vì vào thời điểm đó, bên giới phía Nam của Trung Quốc chỉ tới đó. Sau này, vị trí của cột đồng Mã Viện được sách sử Trung Quốc dời về cực Nam theo thời gian để phù hợp với sử quan Hán tộc. Nhà Hán học nổi tiếng Henri Maspéro trong phần biên khảo về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã không hề nhắc đến những cây cột đồng Mã Viện mà cũng chẳng có lời phủ nhận về sự hiện hữu của chúng. Trên thực tế, vấn đề cột đồng được Trung Quốc sử dụng như một vũ khí ngoại giao mỗi khi Trung Quốc muốn tạo cớ để xâm lấn hay xách nhiễu. Nó được viện dẫn như một cái cớ về việc tranh giành đất đai và “khôi phục” lãnh thổ cũ đời Hán xâm lấn.(9) Cho đến ngày nay, dân gian Việt vẫn xem cột đồng như có thật cũng như thi vị hoá truyện danh tướng Thi bị quân giặc giết chết nên Trưng Trắc phải trả thù chồng. Khi thế cùng lực tận, Bà Trưng đã nhảy xuống dòng sông Hát để đền nợ nước nên hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam sống mãi trong lòng dân tộc.

Chính Hán sử còn ghi rõ là trong ngày vui chiến thắng của quân Hán, mùa xuân năm 43 chính viên danh tướng này hú hồn vừa thoát chết trở về đã ngao ngán thốt lên rằng: “Tùng đệ ta là Thiếu Du thương ta khẳng khái nhiều chí lớn, thường nói với ta là Kẻ sĩ sống một đời chỉ mong áo cơm vừa đủ, cỡi xe qua trằm đi ngưa nước kiệu, làm Duyên Lại quận, giữ mồ mả, làng xóm khen là người tốt. Đó là được rồi, chứ mong cầu dư dả, chỉ tự mình làm khổ mình thôi ..! Khi ta còn ở vùng Lãng Bạc Tây Lý, giặc chưa diệt xong, dưới lầy trên mù, khí độc ngun ngút, ngửng trông diều bay, sà sà rơi xuống nước. Nằm nghĩ lại lời của Thiếu Du lúc bình sinh sao mà thấy đúng quá ! Nay nhờ sức Sỹ Đại phu, được ban ơn lớn, đứng trước các ông, giữ ấn vàng mang đai tía, lòng không khỏi vừa mừng vừa thẹn ..!”. Trước khi xuất quân, Mã Viện biết rằng đi đánh Giao Chỉ là việc hiểm nguy không biết sống chết ra sao nhưng may mắn lại thắng trận trở về. Bà con họ hàng ra nghênh đón trong đó có người tên là Hư Ký ca tụng và ủy lạo công lao cực khổ của Mã Viện, thì viên tướng này lại giương giương tự đắc nói rằng “Làm trai nên chết ở chiến trường, da ngựa bọc thây, đem về quê chôn cất, chứ ai lại ngủ chết trên giuờng để cho con cái đem chôn”. (10)

Về đến kinh đô còn chưa kịp hoàn hồn sau mấy năm trời chinh chiến thì 7 năm sau lại nhận được lệnh đi đánh dẹp “Mọi Năm khe” là vùng đất bộ lạc người Mèo (Chi Hmong-Mien của Bách Việt) là Tương Tây và Nguyên Lăng thì tinh thần đã suy xụp, sức khỏe suy kiệt rồi lâm trọng bệnh mà chết trên đường hành quân. Sau khi chết, Mã Viện lại bị buộc tội là phải chịu trách nhiệm vì không có khả năng chống lại bệnh dịch hoành hành truyền nhiễm khiến quân sĩ chết rất nhiều vì Mã Viện ra lệnh hành quân chống lại các bộ lạc Ô Hoàn và quan trọng hơn là đã chở ngọc trai và sừng tê giác về nhà mà không trình lên triều đình. Vua Hán Quang Vũ đã tin vào các cáo buộc này và đã tước đi thái ấp cũng như tước hầu của Mã Viện. Vợ con không dám đem thi hài đi chôn, bạn bè thân thuộc cũng không dám đi cúng điếu! Về sau, Hán Chương Đế mới truy tặng ông tước Trung Thành hầu (11)

Tự ngàn xưa và mãi mãi ngàn sau, Việt tộc vẫn tự hào về chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng, bậc anh thư Liệt nữ của nước Việt. Hai Bà đã chiến đấu kiên cường để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng, kéo dài thêm thời kỳ tự chủ của dân tộc ta thêm được 4 năm nữa để rồi Việt tộc bước vào thời kỳ vong quốc. Với niềm tự hào dân tộc, không một người Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng trang sử oanh liệt của Hai Bà Trưng được ghi trong “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” ngay từ thời tấm bé:
 
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận quân hung bạo thù chồng chẳng quên …
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ Nương tử thay quyền tướng quân …
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên …
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thuỳ …
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta ..!

Hai Bà Trưng được nhân dân cả nước sùng kính tôn thờ trên khắp các tỉnh thành. Hiện ở xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây và nhiều nơi khác lập đền thờ Hai Bà. Nhân dân các tỉnh Hà Bắc, Vĩnh Phú còn lập đền thờ 35 vị nữ tướng đã cùng Hai Bà lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Ngày mồng 6 tháng 2 hàng năm, nhân dân khắp nơi đổ về dự lễ hội Hai bà đông như trẩy hội. Không những đồng bào trong nước mà cả những đồng bào người Trung Quốc gốc Việt ở Hoa Nam, mặc dù đã bị Hán tộc thống trị cả ngàn năm vẫn còn giữ nhiều truyền thuyết về tiền nhân đã tham dự cuộc khởi nghĩa của Hai bà. Hiện ở vùng Ngũ Lĩnh gần hồ Động Đình vẫn còn địa danh “Động phủ Trưng Trắc” và ở Phiên Ngung, thủ đô của nước Nam Việt cũng có đền thờ Đức Trưng Nữ Vương cùng với những đền thờ, miếu thờ các anh hùng liệt nữ đã vì nước hy sinh. Nhân dân các tỉnh vùng Hoa Nam Trung quốc vẫn tôn kính thờ phượng vị anh thư liệt nữ Trưng Trắc mãi tới ngày nay như một tín ngưỡng dân gian gọi là đạo thờ “Vua Bà”.(12) Ngô Thì Nhậm khi đi sứ sang Tàu đã ngậm ngùi xúc động trước tinh thần cao cả của đồng bào ta tại Trung nguyên, dù bị thống trị cả mấy ngàn năm tuy buộc phải giống như người Hán “đồng” nhưng vẫn không bao giờ “hoá” thành người Tàu được. Đứng trước Động phủ Trưng Trắc ở hồ Động Đình, Ngô Thời Nhậm đã cảm khái:

Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ,
Uý Đà mọt quế động hang sâu …

Đặng Minh Khiêm, cháu 4 đời của Đặng Dung là một nho sĩ yêu nước vào thế kỷ XV đã tôn vinh bậc Nữ lưu của dân tộc qua bốn câu thơ bất hủ:

Vương hầu văn võ thảy đều Hùng,
Mười tám chi vua hiệu vẫn chung …
Đời trải hơn nghìn con cháu tiếp,
Trưng Vương còn giữ nếp Tiên Rồng ..!

Lịch sử danh nhân Việt Nam nói riêng và cả nhân loại nói chung, không có bậc nữ lưu nào có thể sánh ngang với Hai Bà Trưng. Lời hịch xuất quân của Bà Trưng gần 2 ngàn năm về trước đã thể hiện cao độ lòng yêu nước thương nòi kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của tiền nhân cùng với tình thuỷ chung chồng vợ của đạo lý Việt Nam được dân gian thi vị hóa:

Một xin rửa sạch thù nhà,
Hai xin nối lại nghiệp xưa vua Hùng …
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này ..!

Sử gia Lê văn Hưu đời Trần trong “Đại Việt Sử ký” chép: “Trưng Trắc Trưng Nhị là phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và sáu mươi lăm thành trì ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết là hình thế đất Việt ta có thể dựng cơ nghiệp Bá vương !

Từ nợ nước đến thù nhà, biểu trưng tuyệt vời của lòng yêu nước hòa quyện với tiết nghĩa thủy chung của người phụ nữ Việt Nam đã được nữ sĩ Ngân Giang diễn tả qua tâm trạng của Trưng Trắc:

Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa,
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi …
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi ..!

Sau khi Hán tộc xâm lược, Nam Việt tiêu vong năm 111 TDL và sau khi Hai Bà Trưng thất bại năm 43, một lần nữa quân dân Nam Việt phải rời bỏ Giao Chỉ bộ là phần đất cuối cùng ở Hoa Nam để xuống phương Nam. Các chi tộc trong Bách Việt ở Hoa Nam đã hội nhập với cộng đồng Bách Việt định cư từ lâu trên phần đất Việt Nam hiện nay. Tất cả đã tạo thành một sức mạnh tổng lực như một bức tường thành bất khả xâm phạm ngăn chặn Hán tộc xâm lược để Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.
Đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh, Hà Nội

Với lòng yêu nước thương nòi và tấm lòng trung trinh tiết liệt thanh cao vời vợi của người phụ nữ Việt Nam, Hai Bà đã biểu trưng cho khí phách anh hùng của bậc nữ lưu. Giá trị tinh thần này không chỉ riêng cho Việt Nam mà còn là di sản văn hoá của cả nhân loại nữa.


CHÚ THÍCH.
1. Sự thật lịch sử này đánh tan luận điệu tuyên truyền của Hán tộc là Bà Trưng khởi nghĩa vì Thaí thú Tô Định tham lam tàn bạo và vì thù chồng mới nổi lên chống Hán. Chính lòng yêu nước đã thúc đẩy hai vợ chồng Trưng Trắc đứng lên giết giặc cứu nước, sau khi chồng bà bị giết thì thêm mối thù nhà để “vua Bà” làm nên lịch sử và cũng từ đó ý niệm “nước mất nhà tan, nợ nước thù nhà” thấm đậm trong ngôn ngữ văn chương dân gian Việt. Đọc lại đoạn sử xưa chúng ta không khỏi ngậm ngùi xen lẫn phần hãnh diện vì không có dân tộc nào gắn liền lòng yêu nước với tình thương nòi giống như dân tộc Việt. Trải dài suốt dòng lịch sử, trước một kẻ thù Hán tộc xâm lược tàn bạo gây bao cảnh tang tóc thương đau cho dân Việt nên hơn bất cứ dân tộc nào khác, người dân Việt thấm thía cảnh “Nước mất nhà tan ..!” để từ đó ý niệm quốc gia là nước nhà hình thành hòa quyện làm một “Gene yêu nước” truyền thống Việt tự xa xưa.

Từ trước đến nay, sử sách Việt đều ghi là Thi Sách duy chi có sách Thủy Kinh Chú chép chỉ chép là Thi. Theo công trình nghiên cứu gần đây thì nguyên đoạn văn chép trong Hậu Hán thư như sau: “Chu Diên Lạc tướng tử danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê, Trắc vi nhân hữu đảm dũng tương Thi khí tặc, Mã Viện tương binh phạt, Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê”. Sách chữ Hán không có chấm phết, nên chữ sách có nghĩa là hỏi (vợ). Nếu sách là tên riêng như Trắc thì câu sau phải viết là: ..Trắc Sách tẩu nhập Kim Khê, vì không lẽ tên riêng cho vợ (Trắc) rồi lại viết họ Thi của chồng thì hoàn toàn không ổn. Do đó, chồng của Trưng Trắc là Thi mới đúng chứ không phải là Thi Sách như sách sử vẫn viết từ trước đến giờ.

2. Hậu Hán thư chép: “Năm đầu hiệu Kiến Vũ, Nhâm Diên được triệu làm Thái thú Cửu Chân. Tục Cửu Chân không biết cày cấy, thường đong thóc ở Giao Chỉ và thường bị túng thiếu. Diên bèn sai đúc các đồ làm ruộng, dạy cho khai khẩn. Mỗi năm ruộng mở rộng thêm, trăm họ được no đủ. Dân Lạc Việt lại không có lễ phép cưới hỏi, không có giá thú, dâm háo, không rước đón mà vẫn đến với nhau. Không biết tình cha con, đạo vợ chồng. Diên bèn gửi thư đến các thuộc huyện, khiến trai từ 20 đến 50, gái từ 15 đến 40 đều lấy tuổi mình mà lấy nhau. Kẻ nghèo không có lễ rước thì ra lệnh cho Trưởng Lại trở xuống, mỗi người bớt bổng lộc để giúp đỡ họ. Lấy nhau cùng một lúc là hơn 2 ngàn người. Năm ấy mưa thuận gió hòa, lúa đậu được mùa. Họ sinh con mới biết dòng giống họ hàng, đều nói “Khiến ta có con này đều do Nhâm quân nên phần nhiều đặt tên con là Nhâm. Do thế, mọi rợ ngoài biên Dạ Lang mộ nghĩa giữ ải. Diên bèn ngưng bỏ do thám đóng quân…”.

Đọc lại những gì mà Hậu Hán thư chép chúng ta thấy rõ hơn về cái gọi là Hán sử là chính sử (sic) mà các sử gia từ trước tới nay cứ sao chép một cách vô thức. Trước hết, theo Hậu Hán Thư thì Nhâm Diên mới được cử làm Thái thú Cửu Chân năm 29, nếu Nhâm Diên có nhiều công trạng như vậy thì tại sao đến năm 32 triều đình lại bãi chức Thái Thú của y. Những gì Hậu Hán Thư viết bôi bác xuyên tạc về dân Lạc Việt là man di mọi rợ chính là để biện minh cho chủ trương khai hoá của “thiên triều Đại Hán” văn minh tiến bộ trong khi chính Hán Hiến Đế (190-220) đã tuyên dương Giao Chỉ như sau: “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”. Trước đây, chúng ta cho là Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân là phần đất Thanh nghệ VN nhưng chính Hậu Hán Thư đã xác nhận sự thật lịch sử là Cửu Chân lúc đó còn nằm ở phần đất Dạ Lang cao nguyên Quí Châu Ba Thục. Khảo cổ học đã tìm được những lưỡi cày đồng ở phần đất Thanh Hóa Nghệ An thuộc quận Cửu Chân sau này, di chỉ khảo cổ trên chứng tỏ người Cửu Chân đã biết cày cấy từ lâu chứ không phải nhờ Nhâm Diên mới biết cày bừa.

3. Đại Nam Quốc sử Diễn ca của Phạm đình Toái và Lê Ngô Cát xác định Mê Linh ở Trường Sa, Hồ Nam nên mới viết là Lĩnh Nam là từ rặng Ngũ Lĩnh trở về Namphía Nam sông Dương Tử tức là vùng Hoa Nam. Như vậy cuộc kháng chiến diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc. Quê hương của Bà Trưng ở Hồ Nam nguyên là phần đất của nước Văn Lang xưa. Mười tám chi Hùng Vương truyền thừa đến An Dương Vương lập nước Âu Lạc rồi tới Triệu Đà lập nước Nam Việt. Sau khi Hán Vũ Đế thôn tính Nam Việt năm 111 TDL, mặc dù đã chia quận huyện trên giấy tờ nhưng đến thời hai Bà Trưng phần đất này, Hán tộc vẫn chưa kiểm soát được. Đặc biệt là thời đại Hùng Vương đã được chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên ghi rõ trong bộ Sử Ký. Sự thật lịch sử này đã đượcWilliam Watson trong tác phẩm “Cultural Frontiers in Ancient East Asia” viết về những đồ vật đào lên tại Liu-ch’êng-ch’iao Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam trong đó có một cái qua (cây dáo)” còn nguyên vẹn có khắc tên một vị vua tên là Nhược Ngao. Sử Ký Tư Mã Thiên và Xuân Thu Tả Truyện viết rõ là vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch. Điều này chứng tỏ thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử và sự kiện lịch sử Hai Bà Trưng chống quân Hán xâm lược để khôi phục cơ đồ họ Hùng là một sự thật lịch sử.

4. Tại vùng Hồ Động Đình và thủ phủ Trường Sa của tỉnh Hồ Nam, cho đến ngày nay người dân địa phương vẫn còn nhắc nhở trận đánh lẫy lừng của Nữ tướng Phật Nguyệt và đền thờ Ngài. Ngay cửa Thẩm Giang chảy vào Hồ Động Đình, còn miếu thờ Nữ tướng Trần Thiếu Lan, và cả ngàn năm qua, cứ mỗi lần sứ thần nước ta đi ngang qua là đều vào tế lễ Ngài. Hiện nay cũng còn có ngôi mộ tên Ngài. Ngoài ra còn có nhiều di tích của các trận đánh lớn, như trận chiếm giữ thủ phủ Trường Sa của Hồ Nam; trận đánh kinh hồn của Nữ tướng Phật Nguyệt đã chiến thắng Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ở Hồ Động Đình; trận thủy chiến lẫy lừng của Nữ tướng Trần Quốc ở Uất Lâm; trận đánh thần kỳ của Vĩnh Hoa Công Chúa, dẹp tan Đại tướng giặc Ngô Hán ở Độ Khẩu, Vân Nam, Khúc Giang, Hải Nam… Tất cả đều chứng tỏ binh lực của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh Nam, và đã có lúc Đức Trưng Nữ Vương xưng danh Hoàng Đế toàn thể Lĩnh Nam.

5. Hiện ở ngã ba sông Ô giang và Trường giang có bến Bồ Lăng, ở đó có miếu thờ 3 vị thần họ Đào. Ngay trước miếu có đôi câu đối ca tụng công lao của 3 vị tướng họ Đào đã khẳng khái theo phò vua Bà, dù không đánh đuổi được quân thù nhưng thời của “Người” không lâu nên đau lòng phải tự tận, khí tiết thanh cao vút chín tầng mây: “Khẳng khái phò Trưng thời bất lợi, Đoạn trường trục Định tiết can vân !”. Bên trong miếu thờ có đôi câu đối: “Giang thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ Lăng Bách tộc khấp trung thần ..!”Sông Trường giang, tam anh phò nữ chúa Bến Bồ Lăng trăm họ khóc trung thần ..!

6. Hải Nam: Diện tích 33.940 km2, dân số 7.870.000 người tromh đó có thổ dân sắc tộc Lý (1 triệu người), Miêu 50 ngàn ngườiKhu Tự trị ở miền Trung và miền Nam của đảo gồm 5 quận dành cho người Lý, 2 quận chung cho người Lý và Miêu, 4 thị trấn của người họ Lý, 1 Thị trấn chung cho người Lý và Miêu. Vũ hữu San Sđd tr 70. Đại Việt Sử lược đã bị Tiền Hy Tộ sửa đổi chép: “Đời Linh Đế nhà Đông Hán 184, người trong châu họp binh đánh Thứ sử. Vua Linh Đế dùng Giả Tôn làm thứ sử. Giả Tôn đến vỗ về hoà hợp được lòng người, cõi Giao Châu trở về yên ổn. Trăm họ ca ngợi rằng: Cha Giả đến muộn màng, khiến ta trước đánh càn. Thanh bình nay đã thấy, nào dám phản cho đang !?” Trong lịch sử chẳng có tên thái thú nào mà chẳng tàn bạo tham lam bóc lột dân ta và dĩ nhiên, chẳng bao giờ dân bị trị lại đi ca tụng một tên Thái thú cai trị là “cha”!!! Đây chỉ là sự bịa đặt của những tên Thái thú để tự tâng bốc công trạng của họ với triều đình cũng như các sử gia chính thống Hán tộc thêm thắt tô điểm cho “Thiên triều” mà thôi. Lời tâu của Giả Quyên Chi là luận điệu của các tên Thứ Sử, Thái Thú của Hán tộc xâm lược tự nhận là văn minh nên miệt thị dân ta “người dân như cầm thú, đời sống xã hội không biết lớn nhỏ … không có lễ phép cưới hỏi, nền kinh tế không biết cày bừa, lấy săn bắn làm nghề sinh sống”. Mặt khác, nó biểu lộ một thái độ hằn học trước sự chống cự ngoan cường của một dân tộc khát khao tự do đối với Đại Hán bành trướng.

7. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ, q. III, bản dịch Nhượng Tống (Hà Nội: Tân Việt, 1944 chép là dân ta đi ngang ném đá vào vì sợ cột đồng gãy chỉ đúng phần nào vì sợ lời nguyền “Giao Chỉ diệt!” nhưng mặt khác đó chính là biểu lộ lòng yêu nước muốn ném đá vào để lấp đi cái chứng tích của Mã Viện nên ngày nay không còn dấu vết của cột đồng nữa.

8. Man Thư là sách sử của người Man. Trước đây chúng ta cho rằng Hán tộc gọi tộc Việt là Man, man di mọi rợ nhưng công trình nghiên cứu của nhà ngôn ngữ Nguyễn Hy Vọng trích dẫn sách La Civilization de los Origenenes Los hombres de la historia. BuenosAires, Abril de 1977/ Centro editor de Am érica Latina, SA/ Junin 981-Bunos Aires cho chúng ta biết rằng hai chữ Vạn An là phiên âm của Mạn An (người Man). Điều này cho thấy chữ Man là danh từ riêng nên không thể hiểu theo chữ Tàu là man di mọi rợ được.

9. Henri Maspéro: tập XVIII, số 3 năm 1918 của tập san Bulletin de l’EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ),Cuối đời Mã Viện còn ảnh hưởng do “con ngựa thép” mà họ Mã tịch thu trống đồng Lạc Việt để đúc dâng vua Hán. Sử sách Trung Quốc chép rằng: “ Trên đường hành quân trời nắng nóng nên Mã Viện chi đi chậm rãi để dưỡng sức, lại bị 2 Phò mã là Lương Tùng và Đậu Cố và phó tướng Mã Vũ trình lên vua Hán là cố ý hành quân chậm chạp và khi đi đánh Giao Chỉ về đem theo vàng bạc nhưng giấu vua chỉ dâng vua một con ngựa thép mà thôi nên bị Hán Quang Vũ cho thu hồi ấn tín và không cho chôn cất…Vợ Viện lấy rơm buộc 2 con trai và 3 gái đến xin vua gia ân cho được chôn cất. Mãi đến lần thứ 6, vua mới đồng ý để nghe trình bày nỗi oan. Vua cho người đến khám xét nhà chỉ thấy xe đầy ý dĩ (bo bo) để Mã Viện chữa phong thấp mà thôi. Hán Quang Vũ biết Mã Viện bị oan nhưng vẫn không trả lại ấn tín và cũng không cho ghi vào bảng phong thần 28 anh hùng hảo Hán…!. Cuộc đời Mã Viện xét cho cùng thật là thấm thía làm sao ..!?

10. Hán tộc du mục lấy làm hãnh diện về câu nói này nên mới cổ vũ cho cái chết ngoài chiến trường của Nam tử Hán là “Da ngựa bọc thây”. Thanh niên Việt sẵn sàng hy sinh để bảo vệ giang sơn gấm vóc nên xem cái chết nhẹ như lông Hồng là con chim Hồng Hạc. Dân gian thường phân biệt hình ảnh của con ngựa chiến của tộc người du mục phương Bắc và vật biểu Chim của phương Nam để nói lên sự khác biệt giữa cư dân nông nghiệp và dân du mục Hán: “Việt điểu sào Nam chi, Hồ mã tê Bắc phong” nghĩa là con chim Việt thì đậu cành Nam còn con ngựa Hồ thường hí đón gió Bắc 11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã Viện bị gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong đoàn xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt ý dĩ là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng khí, bệnh dịch truyền nhiễm hoành hành. Hạt ý dĩ là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền nam Trung Quốc và miền Bắc VN.
11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã Viện bị gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong đoàn xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt ý dĩ là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng khí, bệnh dịch truyền nhiễm hoành hành. Hạt ý dĩ là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền nam Trung Quốc và miền Bắc VN.

12. Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com). Tại Khúc Giang (Quảng Đông) hiện nay còn đền thờ Nữ tướng của Đức Trưng Nữ Vương, là Đàm Ngọc Nga, tước Nguyệt Điện Công Chúa. Tại đây còn nhiều di tích trong trận chiến long trời lở đất của Bà với quân Mã Viện. Ngoài ra, còn có đền thờ Nữ tướng Trần Thị Phương Châu, tước Nam Hải Công Chúa. Bà tuẫn quốc tại đây vào đầu cuộc khởi nghĩa năm 39 dl. Sử Việt có ghi vào năm 1288 dl, Vua Trần Nhân Tôn đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc Giang trùng tu đền thờ Ngài. Tại Quảng Đông và Quảng Tây có nhiều đền thờ Nữ tướng Nguyễn Thánh Thiên, tước Nam Hải Công Chúa. Và hy sinh tại vùng này vào năm 42 dl. Dọc miền duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo Hải Nam có nhiều đền thờ Nữ tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng Công Chúa. Dân trong vùng này đã tôn Bà là Giao Long Tiên Nữ giáng trần vì Bà rất hiển linh.

Ý NGHĨA CỦA TRỤ ĐỒNG MÃ VIỆN

Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau:

Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu.

Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy. “Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)

“Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279).

Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý.

1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật.

2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy.

3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý.

Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau.

Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp.

1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui.

2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử).

Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn.

Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng.

Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc?

3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng?

Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?

Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.

Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau:

- Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng.

- Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài.

- Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác.

Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách.

Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng.

Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.

Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau:
Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua...

Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... (viethoc.org)
Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy.

Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau:

1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị.

Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao.

2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.

3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn:

Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông.

Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.

Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình)
Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch. Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa.

Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý.

Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau:

- Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ.

- Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?).

- Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.
 
Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây:

- Ðặt đúng huyệt vị.

- Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm.

- Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này.

Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách.


TRUY TÌM CỘT ĐỒNG MÃ VIỆN




Hình vẽ cột đồng Mã Viện
L.T.S: “Trong cuộc tìm hiểu cuộc Nam tiến, việc xác định biên giới Việt – Chiêm trước thời kỳ bành trướng rất cần thiết. Chúng tôi xin đăng bài: “Cột đồng Mã Viện”, nguyên tác Pháp ngữ của Đào Duy Anh, bản dịch của Nhất Thanh, rất quan hệ đối với việc xác định biên giới nói trên”[2].Trong bài viết này, tác giả đã trưng ra nhiều bằng chứng trong các tài liệu (nhất là của Trung Quốc) của các sử gia xưa về vị trí của các cột đồng Mã Viện đã dựng sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 43 sau công nguyên (như là một phong tục, một cách thức ghi nhớ chiến công của viên tướng được mệnh danh là Phục Ba tướng quân. Tương truyền rằng viên tướng tài ba này sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của hai vị nữ lưu anh kiệt của đất Giao chỉ đã dựng lên các cột đồng để ghi nhớ chiến công của ông, và các sách sử cũng ghi lại các cột ấy cũng có tác dụng như cột mốc biên giới giữa Giao chỉ với vùng đất của người Chăm (Chàm) ở phía Nam. Trên trụ đồng, Mã Viện cho khắc dòng chữ: “trụ đồng gãy, giao chỉ diệt”). Sau đó, tác giả minh chứng tính chất bất hợp lý trong một số tài liệu để cuối cùng có thể “khoanh vùng” được vị trí của các cột đồng (nếu nó thực sự tồn tại). Liệu các cột đồng có thể đã được dựng lên ở đâu? Quảng Đông, Thanh Hóa, Nghệ An, Hoành Sơn, hay thậm chí xa xuống phía Nam trên núi Đá Bia, khu vực Phú Yên? Xin mời những ai lưu tâm đến chi tiết lịch sử khá thú vị này cũng như lưu tâm đến một di vật (nếu nó thực sự tồn tại) lịch sử đến với bài viết của học giả Đào Duy Anh:

CỘT ĐỒNG MÃ VIỆN
Bài phân tích của sử gia Đào Duy Anh[1]

 Cột đồng Mã Viện vẫn là chuyện bí ẩn khó mà biết rõ, cho đến nay chưa một nhà sử học nào làm sang tỏ được. Henri Maspéro trứ danh về môn khảo cứu Trung Hoa, trong tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ quyển XVIII  số 3 năm 1918, viết về cuộc viễn chinh của Mã Viện có nói đến những cột đồng kia nhưng chỉ là để bác bỏ, cho là không có. Mới đây, trong tạp chí Tri Tân số 14 ngày 12 tháng 9 năm 1941, Nguyễn Văn Tố, hội viên trợ bút trường VĐBC đã sưu tập một số bài viết xưa chữ nho và chữ Việt nói về những cột đồng sử tích kia, nhưng cũng vẫn không đem lại gì thêm minh bạch cho vấn đề.

Những cột đồng kia có thực sự đã được dựng lên chăng? Nếu chẳng tìm thấy dấu vết gì thì làm sao có thể phỏng đoán được là đã dựng ở đâu? Nay ta thử tìm cách giải đáp hai câu hỏi trên.

Trước hết ta hãy gạt bỏ một bên lời nguyền Mã Viện khắc trên cột đồng. Theo chỗ chúng tôi biết thì sách An Nam Chí Lược của Lê Tắc (đầu thế kỷ XVI) là sách xưa nhất đã nói đến cột đồng. Truyền rằng ngày xưa ở vùng động Cổ Sâm đất Khâm Châu có những cột đồng do Mã Viện dựng với lời nguyền: “Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị tiêu diệt”. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thế kỷ XIX) chép lời nguyền kia có nói rõ đó chỉ là do khẩu truyền mới về sau. Nhưng không một sử sách nào thời xưa thuật lại cuộc viễn chinh của Mã Viện có nói đếnlời nguyền kia. Chúng tôi tán đồng quan điểm của ông Nguyễn Văn Tố coi truyền thuyết kia như chuyện cổ tích.

Nhưng chính những đồng trụ kia thật có chăng? Sách Hậu Hán thư (chương nói về tiểu sử Mã Viện)[3] và cả sách Hậu Hán kỉ đều không nói đến việc dựng đồng trụ, và chính vì vậy mà ông Maspero cho là không có cột đồng.

Nhưng sách Quảng Châu kí (thế kỷ IV hoặc V) có ghi chép là từ xa xưa đã có truyền thuyết Mã Viện dựng đồng trụ. Hơn nữa, trước sách Quảng Châu kí, còn có sách Ngô lục của Trương Bột (đầu thế kỉ IV) cũng đã nói về những cột đồng ấy như sau, mà không nói là do Mã Viện dựng: “Ở Tương Lâm, ngoài biển khơi, có một hòn đảo nhỏ sản xuất nhiều vàng. Đi chừng 30 dặm đường từ phía Bắc xuống thì đến đất Tây thuộc. Dân cư ở đây vẫn tự nhận là dòng dõi Hán tộc. Ở đây, có những cột đồng mà người ta bảo là để phân định ranh giới đất Hán”[4].

Nhưng ở sách Thủy Kinh chú, ta mới thây truyền thuyết kia có vẻ rõ ràng hơn cả, sách này (cuối thế kỷ VI) chép: “Mã Văn Uyên, (bút hiệu của Mã Viện) đã dựng những cột bằng kim khí (kim tiêu) để đánh dấu biên giới phía nam đất Hán”. Lời xác đoán này lại được phụ chú thêm lời giả thuyết của Du Ích Kì và Hàn Khang Bá: “Mã Văn Yueen dựng hai cột đồng trên bắc ngạn Lâm Ấp và để cho ở lại đấy chừng một chục gia đình quân lính không quay trở về, định cư trên nam ngạn Thọ Linh đối diện với những đồng trụ. Bọn họ thuộc tộc Đảng Mã, kết hôn với nhau và ngày nay đông đảo đến khoảng hai trăm gia đình. Người Giao Chỉ coi họ như từ tha phương lưu đày, và gọi họ là bọn Mã lưu.. Ngôn ngữ ẩm thực của họ ngày nay vẫn gòn giống như người Trung Hoa. Tang thương biến đổi, những cột đồng ngày nay thành ra ở ngoài biển khơi, và chỉ còn có bọn Mã  lưu kia để chứng minh dấu tích nơi xưa”[5].

Theo sách Lâm Ấp kí thì những cột đồng ấy là để phân ranh hai lãnh thổ Hán với Tây đô[6].

Vả lại, sử Trung Hoa thường chép những sự việc dựng cột để kỉ công những cuộc viễn chinh. Sau Mã Viện có nhiều tướng Trung Hoa như Hà Lí Trinh, Trương Chu và Mã Tổng đời Đường, Mã Hi đời Hậu Tấn, đã dựng cột đồng ở mấy xứ phương Nam, theo gương viên danh tướng nhà Hán nọ.

Chúng tôi thiết tưởng dù ta không có bằng cớ đích xác không thể chối cãi được về việc Mã Viện dựng cột đồng thì ta cũng vẫn không có lí lẽ chắc chắn để quyết đoán phủ nhận việc ấy. Vậy, chừng nào chưa tìm ra được chứng cứ trái ngược, ta hãy chấp nhận đã có việc dựng cột đồng, và ta thử tìm hiểu xem những cột ấy có thể được dựng ở nơi nào[7].

Thế thì cột đồng dựng ở đâu? Ngày nay còn có vết tích gì không? Về điểm này thì những kiến giải của các nhà trước thuật Trung Hoa và Việt Nam cũng như những truyền thuyết ở Trung Hoa và ở Việt nam đều bất nhất, chẳng tương đồng, hoặc cho rằng cột đồng dựng ở đất Quảng Đông thuộc Trung Hoa, Hoặc cho rằng dựng ở tỉnh Phú Yên thuộc lãnh thổ Chăm Pa xưa. Theo sách Lĩnh Ngoại đại đáp (đời Đường) và sách An Nam Chí Lược kể trên, thì những cột đồng đã được dựng ở Khâm Châu trong vùng động Cổ Sâm. Thực là khó mà dựa vào thuyết này được vì bờ cõi Hán bao gồm cả Giao Chỉ, Cửu Chân, và Nhật Nam, ắt phải rộng xuống nhiều hơn về phí nam. Đó chỉ là chuyện vu vơ, nguyên do vì thời Nguyên Hòa (806-820) đời Đường viên đô hộ sứ Mã Tổng  có dựng ở núi Phân Mao đất Khâm Châu những cột đồng, noi gương tiền nhân (Mã Viện) mà Tổng nhận là dòng dõi. Truyền thuyết này được thêu dệt thêm ra, đã làm cho người ta lầm tưởng những cột đồng này là ở nơi Mã Viện  đã dựng cột từ xưa. Trái lại, sách Tân Đường Thư cũng như dã sử của ta có chép rằng cột Mã Viện dựng ở trên một trái núi tục gọi là núi Đà Bia[8], còn có tên chữ ngà Ngũ đồng trụ sơn, ở phía nam sông Đà Lang (Đà Rằng) tỉnh Phú Yên[9]. Ức thuyết này cũng không thể chấp nhận được, vì cái cột ở đây chỉ là một phiến đá thiên nhiên ở trên núi.

Sách Lĩnh biểu lục dị nói cột đồng Mã Viện dựng ở nơi khác. Sách này chép: Vi Công Cán khi làm thứ sử Ái Châu thấy trong hạt mình cai trị có những cột đồng sinh lòng tham muốn mưu bán. Dân không chịu, đem việc tố cáo với viên đô đốc Hàn Ước. Ông này gửi văn thư khiển trách Công Cán mới tử bỏ ý định[10]. Nói như vậy là cột đồng Mã Viện ở trong khu vực Ái Châu, thì ra điều này cũng ám hợp với những suy luận của H. Maspero về lộ trình của Mã Viện. Dù H. Maspero có nghi hoặc về những cột đồng kia nhưng ông cũng đã biện bạch rằng nơi cuối cùng Mã Viện đã mang quân đến là huyện Cư Phong, ông đã nói rõ vị trí huyện này ở phía nam tỉnh Thanh hóa ngày nay, tức là Ái Châu đời Đường (huyện Cơ Phong thời Tiền Hán và Hậu Hán thuộc Cửu Chân, đất Cửu Chân Thời Lương, Tùy và Đường đổi tên là Ái Châu). Ông còn nói chắc rằng huyện Dư Phong sang thế kỷ III đổi tên là Di Phong, sau thành ra lị sở của Cửu Chân ở trên Lương Giang (tức sông Chu, tỉnh Thanh Hóa ngày nay).

Nếu coi Cư Phong là nơi cuối cùng Mã Viện đem quân đến thì ta chỉ có thể chấp nhận hai định kiến sau đây về vấn đề đồng trụ:

Một là thừa nhận có đồng trụ. Trong trường hợp này thì phải cho là đồng trụ được dựng ở Lương Giang, nhưng ở miền này tuyệt nhiên không có di tích gì, cũng không có truyền thuyết gì về đồng trụ.
Hai là không nhận có đồng trụ như  Henri Maspero đã quyết đoán. Nhưng ta đã nhận thấy, như đã nói ở trên, không có đủ lí lẽ để chối cãi cho rằng không có đồng trụ.

Nhưng ta có thể coi Cư Phong là điểm chót của cuộc viễn chinh Mã Viện chăng? Theo cổ sử thì Mã Viện đuổi đánh quân bà Trưng Trắc, như tì tướng Đô Dương, đến Cư Phong, tại đây quân Bà thua phải hàng. Mã Viện bèn sai dựng cột đồng để đáng dấu ranh giới cùng kiệt lãnh thổ Hán[11]. Nếu hiểu rộng nghĩa câu vừa kể thì ta thấy rằng Cư Phong chỉ là nơi Đô Dương và quân lính ta ra hàng, nhưng có gì cấm đoán ta không được nghĩ rằng Mã Viện đã chẳng tiến quân xuống quá đấy sao? Mà chính thế, sách Thủy Kinh Chú chép rằng sau khi quân bà Trưng ra hang ở Cửu Chân, Mã Viện chia quân của ông ra làm hai đạo, một đạo tiến đến châu Vô Biên, một đạo tiến đến châu Cư Phong[12]. Thời Tiền Hán, Vô Biên là một phần đất Cửu Chân, thời Vương Mãng (9 – 23) gọi là Cửu Chân đình, tức là lị sở của Cửu Chân; thời Đường, Vô Biên là một phần lãnh thổ Long Trì[13] (Phủ Diễn Châu ngày nay). Như vậy là quân Mã Viện đã tiến xuống đến đất Nghệ An ngày nay.

Theo giả thuyết của Du Ích Kì và Hàn Khang Bá trên kia thì Mã Viện đã dựng cột đồng trên bắc ngạn Lâm Ấp. Nhưng hồi ấy Lâm Ấp chưa thành lập như một nước. Hai nhà thuyết giải kia viết như vậy là muốn nói đến bắc ngạn con sông về sau đã dùng làm biên giới giữa Lam Ấp và đất mới quy hàng quân Hán, nghĩa là theo ý họ, con sông qua là Thọ Linh. Nhưng đến đây, ta vấp phải vấn đề rất quan trọng đã tranh luận, là vấn đề ranh giới đất Chăm.

Theo hai nhà thuyết giải trên thì Thọ Linh là ranh giới của Lâm Ấp . Sách Thủy Kinh Chú còn viện dẫn rằng năm Chính Thủy thứ 9 triều Ngụy (247), quân Lâm Ấp xâm chiếm lãnh thổ Thọ Linh và đặt nơi đây làm ranh giới, lại có nõi rõ thêm rằng tên sông Thọ Linh là do tên huyện Thọ Linh mà ra. Nhưng phải xác định vị trí huyện Thọ Linh vào chỗ nào? Vẫn theo sách Thủy Kinh Chú thì vào năm thứ 6 niên hiệu Nguyên Đỉnh (III tcn) vua Hán Vũ Đế đặt lị sở Nhật Nam ở Tây Quyển, và theo sách Tống Châu quận chí thì vào văn thứ 10 niên hiệu Thái Khang, vua Tấn Vũ đế chia cắt đất Tây Quyển lập ra huyện Thọ Linh. Vậy huyện Thọ Linh trước là một phần đất Tây Quyển sau trở thành đất tiếp giáp nhau, và cả hai huyện để ở trong đất Nhật Nam. L. Aurousseau[14] đã đưa ra lập luận bằng cách suy lí ráo tiết tinh vi, dựa theo bằng cứ lịch sử địa dư thiên văn dẫn ở các sách cổ, cho rằng Tây Quyển hẳn là ở vùng lân cận tiếp giáp với Huyế ngày nay, và Thọ Linh chính là con sông đào Phủ Cam (tức sông La-ỉ xưa). Nhưng chúng tôi lấy làm ngờ vực việc xác định vị trí sông Thọ Linh của ông L. Aurousseau là điều ta quan tâm khi cho nó là ranh giới Lâm Ấp.

Theo sách Thủy Kinh chú và những giải thuyết của Du Ích Kì, Hàng Khang Bá thì sông Thọ Linh có lúc đã là biên giới của Lâm Ấp. Nếu vậy thì phải là một con sông lớn chảy từ tây sang đông mới có thể dùng làm biên giới nơi đây được. Và như vậy, Thọ Linh không thể chỉ là một con sông nhỏ ngày nay nhờ có đào vét khơi rộng mới thành con sông đào Phủ Cam, mà dòng nước chảy thì từ bắc xuống nam.

L. Aurousseau đã phỏng định đúng vị trí của sông Lô Dũng nhưng không đúng về sông Thọ Linh; sách Đại Nam nhất thống chí cho rằng sông Thọ Linh với Linh Gianh hay Sông Gianh chỉ là một; mặc dù thống chí chỉ căn cứ vào hai chữ[15] khác nhau mà đồng âm, chúng tôi cũng thấy sự nhận định ấy còn do khả.

Nếu sông Thọ Linh xưa là Linh Giang bây giờ thì ta phải kê cứu xem có phải cột cồng Mã Viện dựng ở phái nam Hoành Sơn trên sông Gianh, cách Đồng Hới 34 cây số về phía Bắc? Như ta đã nhận xét về con sông Lương Giang tỉnh Thanh Hóa, ở vùng này không có một di tích nào cũng không có truyền thuyết gì liên quan đến cột đồng. Thế thì ta phải gạt bỏ ý tưởng cho con sông này là biên giới cũ của Hán, và do không còn có chứng cứ nào để nhận định tìm ra ở vùng này nơi đã có dựng cột đồng.

Vả lại, ta không chắc gì Mã Viện đã tiến quân qua dãy Hoành Sơn[16]. Theo sự nhận xét của chúng tôi, Du Ích Kì và Hàng Khang Bá thấy sử sách xưa có chép về cột đồng đánh dấu biên giới phía nam lãnh thổ Hán, thì nghĩ rằng những cột ấy hẳn là ở biên giới Lâm Ấp. Biết đâu các ông ấy đã chẳng lầm chỉ vì thấy thời Ngụy, nước Lâm Ấp đã chiếm cứ vùng Thọ Linh và đặt ranh giới ở đấy, mà cho rằng cột đồng đã được dựng trên sông Thọ Linh.

Nhưng dù biên gới của Lâm Ấp về thế kỉ IV là dãy Hoành Sơn (biên giới này không thấy được xác nhận trong sử Trung Quốc) người Chăm đã nhiều lần vượt qua tràn lên miền Hà Tĩnh, Nghệ An ngày nay, tàn phá quận Cửu Chân.[17] Hồi Lâm Ấp chưa lập thành nước thì miền đất ở phía nam dãy Hoành Sơn là quận Nhật Nam thuộc Hán, dân cư đây không phải người Việt Nam mà là những bộ lạc giống người Nam Dương cũng như người Mọi ngày nay; một vài bộ lạc ấy về sau đã hỗn đồng với giọng người Mã Lai từ phía nam lên kết thành dân tộc Chăm. Những rợ này trong số có một chủng tộc gọi là Tây Đồ Di[18], đã vợt qua dãy Hoành Sơn vùng Nghệ Tĩnh ngày nay, hồi ấy còn là đất quân Nhật Nam, vào khoảng năm 264 nhà Ngô mới chia cắt lập ra quận Cửu Đức.[19]

Vậy thì, nếu một đàng đất Nhật Nam bao gồm cả miền Nghệ Tĩnh ngày nay, và đàng khác nếu Mã Viện đã không tiến quân qua dãy Hoành Sơn thì ta phải tìm cột đồng ở phía bắc chứ không phải ở phía nam dãy núi này.

Nhưng tại sao sách Ngô Lục chép cột đồng ở Tượng Lâm. Tượng Lâm là một huyện ở phía nam Tương quận đời Tần và quận Nhật Nam đời Hán[20]. Quận Nhật Nam sau bị người Chăm xâm chiếm và lập ra nước Lâm Ấp[21]; Lâm Ấp cũng lại là tên cũ của một huyện mà người Hán gọi là Tượng Lâm[22]; và chính vì vậy mấy nhà trước thuật Trung Hoa đời sau đã lầm lẫn về thời đại, có lúc đã gọi Nhật Nam là Lâm Ấp, là Tượng Lâm. Trương Bột trong sách của ông viết thế kỷ IV nghĩa là vào hồi người Chăm đã kiến lập nước họ, có lẽ đã muốn gọi chung tất cả lãnh thổ Nhật Nam đời Hán bằng tên Tượng Lâm, chứ không riêng gì một huyện Tượng Lâm và L. Aurousseau cho là ở Trà Kiệu tỉnh Quảng Nam ngày nay.

Phần thì ta đã nhận thấy rằng có thể Mã Viện đã tiến quân đến vùng Nghệ An ngày nay, phần thì ta đã ý thức rằng những cột đồng có thể đã được dựng ở phía bắc Hoành Sơn, vậy thì ta chỉ còn phải tìm tòi ở quanh vùng Nghệ Tĩnh  ngày nay. Sự chú mục của ta hẳn là phải dồn cả vào một quả đồi cô lập ở tả ngạn Lam Giang, nơi đường xe lửa vượt qua sông, cách Vinh chừng mười cây số về phía tây nam (quả đồi này ghi độ số cao 169 trên địa đồ). Sách Đại Nam nhất thống chí (đời Thành Thái) gọi đồi này là Hùng Sơn, nhưng tục vẫn gọi là Núi Thành hay núi Lam Thành và còn gọi là núi Đồng trụ. Trên đỉnh đồi còn di tích một thành cũ của tướng Trung Hoa Trương Phụ xây để chống đánh ta hồi cuối đời Trần. Ở trong thành ta còn nhận ra được một đống đá là nơi có lẽ Trương Phụ đã cho dựng cột cờ, nhưng có truyền thuyết trong dân chúng cho rằng đấy là nơi đã dựng cột đồng. Trong sách Nghệ An chí, một nho gia thời Lê mạt và thời Tây Sơn là Bùi Dương Lịch đã căn cứ vào tên cũ của quả đồi và vào truyền thuyết kia, quyết đoán là Mã Viện đã dựng cột đồng ở đấy. Henri Le Breton trong sách Le Vieux An Tịnh[23] ông viết, có lập lại thuyết ấy mà không trưng thêm bằng cứ gì khác. Giờ thì ta hãy xét xem ức thuyết ấy có thể đem khảo cứu được chăng?

Cứ theo một đoạn sách Ngô lục đã kể trên, thì xưa ở vùng Tượng Lâm, ngoài khơi có “một hòn đảo nhỏ sản xuất nhiều vàng. Đi vào chừng 30 dặm từ bắc xuống nam thì đến nước Tây Đồ. Dân cư ở đấy tự nhận là dòng dõi Hán tộc; ở đấy có những cột đồng.”

Suốt dọc ven biển Nghệ Tĩnh chỉ có đảo Hòn Niêu là có thể coi như ám hợp ít nhiều với lời chép đoạn sách trên kia, dù đảo này không sản xuất vàng. Từ Hòn Niêu nếu ta đi theo hướng bắc xuống nam hay hướng đông bắc sang tây nam thì ta đến cửa sông Lam Giang hay cửa Hội, và nếu đi ngược dòng sông ấy ta đến Núi Thành, đường đi như vậy tất cả chừng 35 cây số. Nhưng nếu theo đường thẳng đằm thì đường đi chỉ độ 20 cây số, nghĩa là cũng suýt soát 30 dặm như Trương Bột đã viết trong sách. Núi Thành phải chăng là nơi có cột đồng mà Trương Bột đã nói? Ông gọi miền này là nước Tây đồ. Theo sách Lâm Ấp kí thì chính là để dánh dấu biên giới giữa lãnh thổ Hán và nước Tây đồ mà Mã Viện đã dựng cột đồng. Như chúng tôi đã nói trên kia, nước Tây đồ có thể là một trong những bộ lạc dòng giống Nam Dương ở rải rác đến tận phía bắc dãy Hoành Sơn.

Theo thuyết giải của Du Ích Kì Hàn Khang Bá và theo sách Lâm Ấp kí thì Mã Viện sau khi đã dựng cột đồng, có để lại, như ta đã biết độ một chục gia đình quân lính ở lại trên bờ phía nam sông Thọ Linh, đối diện với những cột đồng.

Ví phỏng việc ấy có thực và những cột đồng được dượng trên Núi Thành thì những người Mã lưa kia có thể đã được để ở lại trong làng Nam Ngạn ngày nay (phủ Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh) trên hữu ngạn Lam Giang. Đất đai những làng Quang Du, Hưng Nghĩa và Hưng Phúc hiện giờ ở bờ sông là do đất phù sa mới nổi nên. Xem địa đồ tỉ lệ xích 1/100000 ta thấy rõ dòng cũ Lam Giang đã chảy qua Nam Ngạn. Chúng tôi không dám quyết đoán tên Nam Ngạn của làng này hẳn có lien quan với hai chữ Ngạn Nam ở đoạn sách kể trên nói về nơi người Mã lưu định cư; nếu chỉ là tình cớ có sự trùng hợp thì thực không khỏi làm cho ta băn khoăn.[24]

Sau hết, điều dẫn ra sau đây trong sách Tùy thư có thể bênh vực cho ức thuyết của chúng tôi: “Tướng Trung Hoa Lưu Phương được cử đi đánh quân Chàm đã đem quân qua nơi có cột đồng Mã Viện và tiến xuống phía Nam, đi tám ngày đường đến kinh đô nước Lâm Ấp”. Kinh đô này là Trà Kiệu, vậy thì không phải là vu vơ khó tin khi cho rằng những cột đồng nói trong đoạn sách vừa kể là ở miền Lam Giang.

Ta đã nhận ra không có lẽ gì để cố chấp mà chối cãi việc Mã Viện có dựng cột đồng, vì một số sử sách xưa đã có nói đến, vì việc dựng cột đồng là một tập tục cựu truyền của các tướng Trung Hoa đem quân viễn chinh xuống các nước phương nam. Nay thì không còn có vấn đề cho rằng cột đồng ở Quảng Đông hay ở Phú Yên nhưng mấy truyền thuyết của Tàu và của ta. Mà cũng khó có thể cho rằng cột đồng ở Thanh Hóa là đất Ái Châu đời Đường, vì ta đã biện minh được Mã Viện đã đem quân xuống đến đất Nghệ An ngày nay. Trái lại, sau khi đã kê cứu ức thuyết của L. Aurousseau về vị trí sông Thọ Linh, và mặt khác sau khi đã nhận xét về giả thuyết của Du Ích Kì Hàn Khang Bá cho là cột đồng ở bắc ngạn sông ấy, và đồng thời ta cũng đã không thể khám phá ra vị trí cột đồng ở phía nam dãy Hoành Sơn, vậy là ta đã thu hẹp lại được phạm vi tìm tòi, và giờ chỉ còn phải giới hạn công việc dõi tìm trong vùng Nghệ Tĩnh. Tại vùng này, chúng ta đã nhận biết Núi Thành chỉ cách Vinh chừng mười cây số về phía tây nam trên tả ngạn Lam giang, là điều gần đúng với lời chỉ dẫn trong sách Ngô Lục và sách Tùy thư về nơi có cột đồng, ý suy định này lại càng thêm vững chắc vì có những truyền thuyết ở địa phương gọi quả đồi này bằng tên rõ, tất có ý nghĩa: la Núi Đồng Trụ.

Không phải là ngụy biện nếu cho rằng sau khi đã dẹp cuộc khởi nghĩa ở mấy châu quận, đích thị ở trên quả đồi này Mã Viện đã dựng cột dồng để “ghi lại mãi mãi về sau” công bình định và đồng thời để đánh dấu biên giới lãnh thổ Hán với đất đai các bộ lạc “man rợ” rộng đến quá hữu ngạn Lam giang ngày nay.

LỜI BÀN CỦA NGƯỜI DỊCH
Sách Anh Nam chí lược chép:
Mã Phục Ba đời Hán dẹp yên Giao Chỉ rồi dựng cột đồng để đánh dấu biên giới lãnh thổ Hán. Đời Đường Mã Tổng làm chức An Nam đô hộ, lại dựng hai cột đồng, vì Tổng là dòng dõi Phục Ba. Xưa truyền rằng ở động Cổ Sâm tại Khâm Châu có cột đồng của Mã Viện, với lời thề rằng; “cột dồng này gãy thì Giao Chỉ tiêu diệt” vì thế người Giao Châu mỗi khi đi ngang qua đều lấy đá ngói ném vào chung quan chân cột, và chẳng bao lâu nơi ấy hóa thành gò đống”.

Thơ Đỗ Phủ có câu: “Vũ lai đồng trụ bắc, ý tẩy Phục Ba quân” (mưa phía bắc đồng trụ, muốn rửa quân Phục ba). 

Nơi ranh giới Chiêm Thành cũng có cột đồng, thơ Mạnh Hạo Nhiên có câu: “đồng tụ Nhật Nam đoan” (cột đồng đứng đầu đất Nhật Nam).

Có lẽ tác giả An Nam chí lược đã viết đoạn trên theo sách Lĩnh ngoại đại đáp (đời Đường). Sách này chép: cột đồng dựng ở Khâm Châu trong vùng động Cổ Sâm. Nhưng ở đoạn dưới lại nói nơi ranh giới nước Chiêm Thành cũng có cột đồng, như vậy nghĩa là có cột đồng khác; và liền tiếp với câu này lại kể thơ Mạnh Hạo Nhiên như để bổ túc cho rõ nghĩa thêm là nơi có cột đồng ở Chiêm Thành là nơi giáp giới Nhật Nam.

Sách Ức Trai di tập (dư địa chí) còn có tên là  Anh Nam Vũ Cống của Nguyễn Trãi chương XXV chép: “Ở về phái tây lộ Hải Đông chừng 300 dặm có núi Phan Mao, lưng chừng núi có cái cột đồng do Mã Viện đời Hán dựng lớn chừng ba thước. Đến giữa niên hiệu Nguyên Hòa (Đường Hiến Tôn 805-820) viên đô hộ Mã Tổng lại dựng cột đồng vào chỗ cũ”. Phân Mao là một quả núi ở đất Khâm Châu thì vẫn là cột đồng ở động Cổ Sâm.

Chắc Nguyễn Trãi đã chép theo mấy tài liệu sử mà Đào Duy Anh đã kể trong bài, không có gì khác.
Ngọ Phong họ Ngô (tức Ngô Thì Sĩ) trong một bài bàn viết ở Ức trai dị tập nói: “theo sách Minh thống chí, cột đồng dựng ở động Cổ Sâm thuộc châu Như Tích nước ta”.

Ở cuối chương XXV sách Ức Trai di tập có phụ chép: Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê, sai sứ giả sang nhà Minh xin quân tiếp viện và tự mình đến Nam Quan dâng sớ quy hàng và dâng hai châu Như Tích, Chiêm Lãng cho thuộc vào Khâm Châu. 

Như vậy, cột đồng ở Khâm Châu được nói đến nhiều
Ngoài ra, lại có bài thơ Đường sau đây của Trương Vị đùa tặng quan thị ngự họ Đỗ dâng đồ cống vua, 2 câu đầu rằng:
Đồng trụ Chu Nhai đạo lộ nan,
Phục Ba Hoành Hải cựu đăng đàn.
(Đường đi tới cột đồng Chu Nhai khó khăn, nơi đây Phục Ba và Hoành Hải từng được phong tướng đi đánh dẹp).

Dưới bài thơ có lời chú giải: “Đồng trụ Mã Viện chinh Giao Chỉ sở lập, kim tại Quảng Đông Liêm Châu Phủ”. (Mã Viện dẹp yên Giao Chỉ rồi dựng cột đồng ở tỉnh Quảng Đông phủ Liêm Châu ngày nay) (xem Đường thi hợp tuyển tường giải Son Ân Lưu Văn Úy).

Lời chú giả kia có lẽ là của người biên tập hoặc của nhà xuất bản sách, chắc không phải của thi nhân. Đành rằng không có giá trị lịch sử đáng tin tưởng, nhưng ta không khỏi thắc mắc khi đọc trong các sách như vậy.

Để kết luận, chúng tôi tán đồng quan điểm của học giả Đào Duy Anh nhận định rằng: Cột đồng Mã Viện có lẽ đã dựng trên một quả đồi tên là Núi Thành hay núi Đồng Trụ các Vinh chừng 10 cây số về phái tây Nam.

Mặc dầu có một hai điểm có thể bàn cãi, thiết tưởng cũng khó mà nhận định khác được. Dù sao, sau này nếu có thể ngẫu nhiên tìm thấy cột đồng ở đất ta, ta vẫn có thể nghĩ rằng có thể có cột đồng khác, vì các tướng Trung Hoa có tục dựng cột đồng để kỉ công chiến thắng, như cột đồng ở phần chú giải bài thơ Trương Vị nói trên nếu có thật thì cũng không chắc gì là của Mã Viện dựng.

[1] Nguyên tác bằng chữ Pháp Les colonnes de bronse de Mã Viện trong Bulletin des Amis du Vieux Huế số 4 tháng 10-11 năm 1942.
[2] Phần lời tựa của người dịch.
[3] H. Maspero, L’espesdition de Ma-Yuan Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême Orient Tome XVIII n0 3-1918.
[4] Như trên.
[5] Xem ở sách của Maspero nhan đề những tác phẩm nói về cột đồng và thư tịch tham khảo.
[6] Lâm Ấp kí: Năm Kiến Vũ thứ hai, Mã Viện dựng hai cột đồng ở biên giới phía nam Tượng Lâm để phân ranh biên giới phía nam lãnh thổ Hán với xứ Tây đồ (mấy câu bỏ sót nơi đây). Thổ dân coi những người này là lưu đầy, gọi là Mã lưu. Họ tự nhận là dòng dõi Hán tộc (sách Thủy Kinh chú cũng chép như trên).
[7] Trong tạp chí Nam Phong số 127 năm thứ 12, ở phần chữ nho có bài viết (tác giả khuyết danh) tán đồng thuyết có cột đồng: “Có mấy người đã căn cứ vào sách Hán Thư và tiểu sử của mã Viện không thấy chép về cột đồng, bèn phủ nhận cho là không có. Luận cứ này không đúng. Mã Viện vốn tính ham thích có công trạng rực rỡ. Người ta biết được vậy do cái mộng viên lão tướng ấp ủ suốt đời là chết da ngựa bọc thây, tuổi già vãn còn hăng say. Được cử đi chinh phạt phương Nam, sau khi đã xâm chiếm được đất đai ở vùng này, Mã Viện chẳng thể không nghĩ đến việc dựng cột đồng để khoa trương những chiến công của mình. Sự tình này hẳn phải coi như không có. Sách Hán thư và tiểu sử Mã Viện không nói đến có thể vì Viện cho việc ấy là một vinh dự riêng không muốn kể để khoe, hoặc vì tác giả mấy sách kia đã quên, bỏ thiếu sót. Thời Tấn không xa cách nhiều thời Đông Hán, mà sách Tấn thư thì đã chép rõ ràng. Vả lại, đời Đường mã Tổng làm đô hộ nước ta đã dựng cột đồng ở chỗ cũ (?) để tưởng niệm cùng để thống hệ với Mã Viện.Vậy người ta có thể quả quyết rằng đã thực sự có cột đồng. Nếu không thì lẽ nào lại có người chơi nghịch bịa ra chuyện để lừa dối đời sau. Chúng tôi tin chắc rằng việc dựng cột đồng không phải là chuyện hoang đường”.
Trái lại, trong sách Việt sử cương mục giám khảo lược của Nguyễn Thông (sách viết tay, của tư gia, thời Tự Đức), Vũ Phạm Khải có phụ biên một đoạn đề xuất ý kiến coi là không có cột đồng.
[8] Bulletin des Amis du Vieux Huế năm 1937 : Bìa của M.Sogny viết về Đá Bia.
[9] Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
[10] H.Maspero, sách đã dẫn; Nguyễn Văn Tố: Cột đồng Mã Viện trong Tạp chí Tri Tân, số 14.
[11] Khâm định Việt sử thông giám cương mục
[12] Thủy Kinh chú.
[13]H.Maspero, sách đã dẫn.
[14] Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême Orient số 9 quyển XIV năm 1914. Notes bibliographiques de L. Aurousseau sur le royaume du Champa bài của G. Maspero.
[15] H. Maspero, sách đã dẫn.
[16] Trong một bài viết riêng về nhận định vị trí quận Nhật Nam chúng tôi sẽ bàn cãi về sự nhận định của L. Aurouseau.
[17] Theo H. Le Breton, nay ở vùng An Tịnh còn có di tích thành trì Chăm trên Lam Giang ở miền hạ lưu, dưới Xa Nam, và cả ở đất Xuân Thủy gần phủ Kì Anh bây giờ. Vả lại, còn có những phiến đá dị hình đặt đứng trước mấy chính tẩm điện tháp, và việc tìm thấy một lò gốm Chăm trong khi lấp đất đắp nền trường Cao đẳng tiểu học Vinh là những chứng tích tỏ rõ xưa có người Chăm ở miền Bắc Trung Việt (Bulletin des Amis du Vieux Huế năm thứ 22, số 2 tháng 4-6 năm 1935: Le vieux An Tịnh (bài nối).
Lại còn vùng bắc Hà Tĩnh ở phía dưới cửa song Lam Giang, cửa song này có tên là Nam giới khẩu tục gọi Cửa Sót, trên nam ngạn, có hòn núi Nam giới son. Những tên cửa song, tên núi kia khiến cho ta nhận ra biên giới phía bắc nước Lâm Ấp có lúc đã mở rộng lên đến tận đấy.
[18] Người Trung Hoa xưa gọi những nước nhỏ ở bờ cõi phương đông là di. Sự thực thì Tây đồ ở tít dưới phía nam nước Trung Hoa (lời chú thích của người dịch).
[19] Tấn thư địa lý chí.
[20] Bulletin de l’Ecole Francaise d’E.O quyển XXIII năm 1923: La premiere conquete des pays annamites, bài của L. Aurousseau.
[21] Khâm định Việt Sử thông giám cương mục.
[22] Thái bình hoàn vũ kí: Nước Lâm Ấp xưa là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng quận đời Tần ; đời Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam. Lời chép quyết chắc như vậy có nghĩa quận Nhật Nam và quận Tượng vẫn là một. Chúng tôi không công nhận thuyết này.
[23] Bulletin des Amis du Vieux Huế 1935 số 2, và 1936 số 2, 3, 4: Le Vieux Anh Tịnh. Bài của H. Le Breron.
[24] Xét vị trí Núi Thành về đường dụng binh và về địa lý thì thấy có thêm ý nghĩa để bênh vực ức thuyết của chúng tôi. Đời Trần Lâm Thành là lỵ sở miền Nghệ Tĩnh, Trương Phụ đóng quân ở Lâm Thành để chống nhau với quân ta ở Lam Giang và ở miền núi. Vị trí Lâm Thành quan trọng ở chỗ phần thì trấn giữ cả khúc song, phần thì là địa đầu của con đường từ miền núi ra, con đường này đã nhiều lần trong lịch sử là nơi dụng binh hiểm yếu. Trịnh Nguyễn giao tranh và chắc hẳn cả trong trận đánh giữa ta và Chăm, Lam Thành thường là tiền đồn của quân phía Bắc. Lê Khôi, đốc bộ Nghệ An đời Lê Thái Tông, đánh bại quân Chăm năm 1434 và Ông Ninh sức Trịnh Toàn, đốc bộ Nghệ An đời Lê Thần Tông, tính danh còn truyền với sử xanh, có hệ trọng với thành này. Ngày nay con đường đi Napé cũng như con đường mới Vinh-Hà Tĩnh đều đi qua gần Núi Thành. Lâm Thành xưa hẳn phải là nơi qua lại tất nhiên cho người Trung Hoa cũng như người Việt Nam tiến xuống đánh miền Nam, và cũng lại là chỗ quân đi chinh phục từ bắc xuống phải dừng lại nghỉ dưỡng sức và tăng cường lực lượng trước khi mạo hiểm tiến xuống xa. Ta có thể tin tưởng rằng Ma đã dừng quân nơi đây và cùng lúc ấy dựng cột đồng để đánh dấu biên giới; có thể Ma đã cho xây đắp thành nơi đây mà ngày nay không còn dấu vết gì cũng như cột đồng.



NHỮNG DIẾN BIẾN CHÍNH CỦA CUỘC CHIẾN CHỐNG LẠI MÃ VIỆN VÀ NGUYÊN NHÂN

Sử quan Việt ghi: 

Canh Tí, niên hiệu Kiến Vũ thứ 16. Mùa Xuân, tháng Hai. Người nữ Giao Chỉ là Trưng Trắc dấy binh chống thái thú Tô Ðịnh, đuổi hắn, tự xưng vua [Canh Tí. Hán Kiến Vũ thập lục niên. Xuân nhị nguyệt. Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc khởi binh công thái thú Tô Ðịnh, trục chi, tự lập vi vương]. (1) 

Lê Tắc, tác giả An Nam Chí Lược [ANCL], thế kỷ XIV, chép theo quan điểm Hán: Người nữ Giao Chỉ là Trưng Trắc làm loạn, Cửu Chân, Nhật Nam hưởng ứng, tấn công các quận ấp, chiếm được 60 thành, tự xưng làm vua [Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc phản, Cửu Chân Nhật Nam giai ứng chi, công duyên quận ấp, lược lục thập thành, tự lập vi vương.] (2) 
Nguyên văn diễn âm đoạn Quảng Châu Ký về Bà Trưng, trong Mã Viện truyện của Hậu Hán Thư, như sau: 

Hậu Chu Diên lạc tướng danh thi sách mê linh, Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê Trắc vi nhân hữu đảm dũng tướng thi khởi tặc công phá châu quận phục chư lạc tướng giai thuộc Trưng Trắc vi vương trị Mê Linh huyện phục Giao Chỉ Cửu Chân nhị quận dân nhị tuế điệu phú.

Hậu Hán khiển Phục Ba tướng quân Mã Viện tương bình thảo Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê cứu tam tuế nãi đắc.

Nhĩ thì Tây Thục tịnh khiển binh cộng thảo Trắc đảng tất định quận huyện vi lệnh trưởng dã” 

[Quảng Châu Ký (III-IV); Tư Mã Trinh, Sử Ký sách ẩn (VII-VIII), dẫn Giao Châu Ký của Diêu Văn Hàm]

Lối viết ngắn gọn, không dấu chia câu hay kết đoạn, không phân biệt tên người, tên đất trong sách cổ khiến văn gia Việt và Hoa đi đến những diễn giải khác nhau.

1. Về thân thế Hai Bà Trưng, Cương Mục Tập LãmThủy Kinh Chú—do nhóm Li Dao-yuan [Lịch hay Lệ Ðạo Nguyên, (ca 466 [472]-527) diễn giải sách cổ Thủy Kinh của Tang Khâm [?], nhưng cũng nguồn tư liệu chính của sử quan Việt và Hoagiải thích Trưng vương nguyên họ Lạc, con gái Lạc tướng huyện Mi [Mê] Linh. Sau khi lên ngôi đổi sang họ Trưng. Ngô Sĩ Liên đặt nghi vấn chi tiết họ Lạc, trong khi sử quan Nguyễn chép “Vương vốn họ Lạc, lại có họ riêng là Trưng” (dựa theo Cương Mục tập lãm). Sử quan Tây Sơn (Ngô Thì Sĩ et al) chỉ ghi họ Trưng.(3) Thực ra, Lạc hay Trưng cũng không đúng hoàn toàn. Ðó chỉ là cách người Việt xướng âm hai chữ Hán “Lạc”“Trưng.” Tên họ hai bà vẫn chưa ai biết.

2. Bà Trưng đã lập gia đình với con trai Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách (theo sử Việt) hay Thi (dã sử Trung Hoa). Trong đoạn “Hậu Chu Diên lạc tướng danh thi sách mê linh lạc tướng nữ danh trưng trắc vi thê,” sử quan Việt đọc hai chữ thi sách thành Thi Sách (họ Thi, tên Sách), nhưng văn gia Hán hiểu chữ “sách”lấy, không phải tên: Như thế, “con trai Lạc tướng Chu Diên tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh tên Trưng Trắc làm vợ.” (4)

3. Sử Việt còn ghi bà Trưng đã dấy binh báo thù chồng bị Tô Ðịnh giết, trong khi dã sử Trung Hoa ghi cả hai vợ chồng cùng nổi lên kháng Hán [Trắc vi nhân hữu đảm dũng tướng Thi khởi tặc công phá châu quận phục chư lạc tướng giai thuộc]. 

4. Ða số sử quan Việt ghi Bà Trưng thu phục được 65 thành ở Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh), tự xưng làm vua. Bảng nhãn Lê Văn Hưu, soạn giả bộ quốc sử đời Trần (1226-1400), nhận định: Hai bà Trưng “hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay.” (5) Bảng Nhãn Lê Quí Ðôn, ghi 65 thành, nhưng chỉ liệt kê được 56 thành theo Ðông Hán Chí [địa dư chí của Hậu Hán thư], với phụ chú: “Ðời xa, sự tích mai một; các thành huyện xưa nay không biết ở những xứ sở nào, dấu cũ không còn mấy;” chỉ còn lại Long Biên và Phong Khê (Yên Lãng).” (6) Lê Tắc ghi 60 thành. Ngô Thì Sĩ ghi 56 thành; có lẽ dựa theo Hậu Hán Thư, rằng thuộc địa Giao Chỉ bộ gồm bảy [7] quận, 56 thànhNam Hải (7 thành), Thương Ngô (11), Uất Lâm (11), Hợp Phố (5), Giao Chỉ (12), Cửu Chân (5), Nhật Nam (5). Nhóm sử quan Tây Sơn và Phan Huy Chú ghi là hơn 50 thành. (7) Nhưng Hai bà Trưng có thể chỉ chiếm được 27 thành ở Giao Chỉ, Cửu Chân và Hợp Phố. Thủy Kinh Chú ghi Trưng Vương thu thuế, hay miễn thuế hai quận Cửu Chân và Giao Chỉ hai năm, tức thực sự cai trị chỉ có 22 thành. (8)

Chúng ta chỉ biết hai bà đã lên ngôi vua, nhưng không rõ tổ chức chính quyền, hay quân đội. Truyền thuyết về các nữ tướng, hay anh hùng dân gian tham dự cuộc dấy binh quá sơ lược. Ngay đến vị tướng bị Mã Viện đả bại ở Cửu Chân và 5,000 người bị thảm sát cũng chịu cảnh liệt sĩ vô danh. Những chi tiết ngắn ngủi dị biệt về Hai Bà Trưng—cùng nhiều tác nhân lịch sử khác—là điều khó tránh. Thứ nhất, văn sử về Bà Trưng chủ yếu dựa trên tài liệu tuyên truyền.

Bắc sử, theo đó cuộc khởi nghĩa được tóm lược như phản loạn, phụ chú bên lề [anecdotes] chính sách tham ô, bạo ngược của Tô Ðịnh (34-39), cùng chiến công của Mã Viện. Thứ hai, truyền khẩu sử khó tránh khỏi yếu tố thần thoại đương thời, rồi thêm thắt chi tiết theo thời gian. Thông tin khả tín, đáng ghi nhớ, là Trưng Vương phất cờ tiên phong khởi nghĩa chống lại ách đô hộ Hán từ năm 40 tới 43. Hai bà là những người đầu tiên, nhưng không phải cuối cùng, đã viết nên lịch sử dân tộc Việt suốt hai nghìn năm luôn luôn bị đe dọa tận diệt hoặc đồng hóa. Tư liệu Trung Hoa khẳng định điều này, và cũng xác nhận Bà Trưng đã xưng vương. 

Vì lý do nào đó—có thể vì hủ tục trọng nam, khinh nữ—sử quan Việt chưa dành cho Hai Bà Trưng vị trí xứng đáng hơn trong quốc sử. Ngọn đuốc kháng Hán đã thắp lên từ hai Bà Trưng—không phải thái thú Sĩ Nhiếp, Giám quân Lý Bôn tự Bí, hay Bố Cái Ðại Vương. Và cũng có thể từ đời Lưu Tú, nhà Hán mới trực trị, khởi sự đồng hóa dân cổ Việt qua giáo dục, tập quán (cưới hỏi) và khai thác kinh tế. Vì thế, sau cuộc khởi nghĩa của hai Bà, suốt thời Ðông Hán, loạn lạc khắp nơi, khác hẳn với sự im lặng khó hiểu và khá dài từ 207 TTL tới đầu thiên kỷ thứ nhất Tây lịch.

5. Vấn đề lãnh thổ vương quốc thời hai Bà Trưng cần những nghiên cứu nghiêm túc mới. Sử sách Trung Hoa hàm ý hai Bà chỉ cai trị được Giao Chỉ và Cửu Chân. Tại những quận huyện khác, Thứ sử và các thái thú chỉ lo tự bảo toàn. [Giao Chỉ thứ sử cập chư thái thú cẩn đắc tự bảo]. (9) Theo Quận Quốc Chí trong Hậu Hán Thư, khoảng năm 110-106 TTL, Lưu Triệt đã chia vương quốc Nam Việt cũ thành chín [9] quận, thuộc Giao Chỉ Bộ, dưới quyền Thạch Ðái. Ngoài hai quận Chu Nhai, Ðam Nhĩ ngoài biển, bảy quận còn lại nằm về góc đông nam Hoa lục. Cho tới năm 264, phần Giao Chỉ Bộ trên đất liền vẫn giữ nguyên tên bảy quận Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Những thay đổi lãnh thổ không được ghi chép. Có thể sử quan Hán tộc kiến thức hời hợt về cõi ngoài hoang vực—gọi chung là xứ mọi rợ, man di—nhưng không thể không nghĩ đến dụng tâm chính trị của vua quan Hán.

Hai vấn đề nổi bật lên trên lãnh vực địa lý. Thứ nhất, không rõ số phận của quận Tượng đời Tần ra sao. Theo Tiền Hán Thư, Lưu Phất Lãng (Hán Chiêu đế, 86-74 TTL) bỏ quận này năm 76 TTL, ghép đất vào Uất Lâm [Yu lin, đông nam Quảng Tây] và Thương Ngô [Tsang ko, tây Quí Châu]. (10) Nhưng khoảng hơn 30 năm trước, tại sao Tượng Quận bỗng biến dạng, hoặc bị bỏ quên trong giai đoạn 110-76 TTL? Nếu Lưu Triệt đã chia Tượng Quận làm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam sau khi diệt Nam Việt, tại sao năm 76 TTL còn mất công xoá tên, và Lưu Phất Lãng lấy đất nào để chia cho Uất Lâm và Thương Ngô? Ngắn và gọn, văn gia đời sau đã tái dựng những việc Tượng Quận, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam hay Lâm Ấp, và mức khả tín là những dấu hỏi lớn. Không chỉ về sử liệu (như gán ghép “Thương Ngô” vào cái chết của cha con Ðiêu Trùng Hoa (Thuấn, 2255-2208 TTL) mà còn dụng tâm chính trị của thời họ. (11)

Thứ hai, từ năm 135 TTL, Lưu Triệt đã xâm lược Dạ Lang (dân Miêu) lập ra quận Tường Kha, và Ðiền (Tien, Lạc, tây Vân Nam), tách khỏi Nam Việt. Cũng có tin Thương Ngô tách ra từ Dạ Lang cũ, lệ thuộc vào Nam Việt trước ngày Lộ Bác Ðức “giết Lã Gia, mở 9 quận.” Thương Ngô vương Triệu Quang (thông gia của Tể tướng Lã Gia và cùng họ với vua Nam Việt) xin hàng ngay khi nghe tin Bác Ðức đến. Trong khi đó, Giám quận Quế Lâm là Cư Ông khuyên dụ Âu, Lạc hàng. (12)

Cách nào đi nữa, Henri Maspéro đã đi quá xa khi qui trách mọi lỗi lầm của Tiền Hán Thư cho sự dốt nát về địa lý của Vi Chiêu, Vương Ẩn, Chu Khứ Phi v.. v.. Họ có lý do riêng khi cung cấp những chi tiết hỗn độn trên. Trong thời gian 675-680, Hoàng Thái tử/Giám quốc Lý Hiền (654-684), con thứ 6 Ðường Cao Tông và Võ Hậu, chẳng hạn, sai Trương Ðại Yên và Lưu Nạp Nguyên chú giải Hậu Hán Thư của Phạm Việp (398-446). Ðỗ Hữu (735-812) là cựu kinh lược Lĩnh Nam, và hoàn tất Thông Ðiển trước khi về triều làm tể tướng năm 803. Hữu liên hệ đến cuộc tấn công Hoàn Vương (Lâm Ấp) vào đầu thế kỷ IX (809), khi tình hình Giao Châu hỗn loạn [nổi dạy của Bố Cái Ðại Vương (791), và rồi cuộc nổi loạn của binh sĩ chống Bùi Thái]. Cũng thời gian này, truyền thuyết Mã Viện phục sinh. Phong trào “kim tiêu”—dựng trụ đồng làm biên giới theo gương Mã Viện—được phát động. Ở kinh đô, Ðỗ Hữu rao giảng thuyết Nhật Nam là Tượng Quận nhà Tần, trong khi tại thực địa vài đô hộ dựng trụ đồng mới “tại chỗ cũ.” (13)

Như một hệ luận, không thể không tự hỏi đâu là thời điểm chính xác Nhật Nam được đặt “vào bản đồ” đế quốc Hán? Có tin đời Triệu lập ra Nhật Nam—bởi thế có sách chép ba đại diện ở cổ Việt, tương ứng với Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đón đường Bác Ðức ở Hợp Phố xin nộp trâu, rượu và sổ bạ dân quận xin hàng. Nhưng sử quan Tây Sơn và Nguyễn bác thuyết này. Lý do đưa ra là trước đó, năm 198 TTL, Triệu Ðà chỉ gửi hai sứ giả qua cai trị Âu Lạc cũ. Từ năm này tới năm 111 TTL, không có tin nào về sự thay đổi quận huyện ở Âu Lạc cũ. Mãi tới năm 110 TTL hay 106 TTL, Lưu Triệt mới tách năm [5] huyện ở phía nam Cửu Chân ra, đặt quận Nhật Nam.

Ngay thời điểm 110-106 TTL cũng cần nghiên cứu thêm. Khoảng hơn một thế kỷ sau, Lưu Trang (Hán Minh đế, 58-75) còn rất mù mờ về Nhật Nam. Mặc dù Hậu Hán Thư ghi tên năm [5] thành Tây Quyển, Chu Ngô [dọc bãi biển], Lư Dung [có bến tìm vàng], Tượng Lâm [sau là Lâm Ấp], Tị Ảnh, với 15,460 hộ và 60,485 nhân khẩu—nhưng Phạm Việp hoàn tất sách vào thế kỷ thứ V, khi “Nhật Nam” đang do Lâm Ấp quản trị (trễ nhất từ năm 242) và quan lại Hán đặt một hành lị sở ở Cửu Chân để chờ ngày tái chiếm. (14) Rất có thể Nhật Nam chỉ tách ra thời Lưu Phất Lãng hay Vương Mãng (8-23), hoặc sau cuộc viễn chinh của Mã Viện. Bởi thế không thể không tra cứu thêm thời điểm cổ Champa tách khỏi đế quốc Hán (năm 100, 137 hay 192?), hoặc—rất có thể—chưa hề dưới quyền trực trị của nhà Hán, mà chỉ bị nhà Ngô [Wu], Tấn [Jin], Tống [Liu Song], Tề [Wei], Lương [Liang], Tùy [Sui] liên tục đánh cướp, chiếm đoạt đất đai? 

Về thực địa, kinh đô Mê Linh vẫn còn là một ẩn số. Ðại Nam Nhất Thống Chí [ÐNNTC] triều Nguyễn cho rằng Mê Linh thuộc Phong Châu, kinh đô triều đại huyền sử Hồng Bàng. Ðịa danh Phong Châu chỉ xuất hiện từ đời Tùy-Ðường, nhưng sử Việt chép nó thuộc Văn Lang (khoảng Bạch Hạc-Sơn Tây), một trong 15 bộ của nhà Hồng Bàng. Chúng ta cũng được biết còn dấu “thành cổ Mê Linh” ở huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, nay là xã Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú. Dấu tích ra sao? Có giống một vòng tròn xếp bằng đá đánh dấu chỗ họp triều đình để chống giặc Bắc trên đền Hùng? (15)

Tài liệu Hán còn lên án hai bà Trưng mang quân quấy nhiễu biên giới, khiến dân tình khổ sở. Lối cáo buộc “xâm phạm biên giới” —phần nào nhằm biện minh cho cuộc viễn chinh của Mã Viện—là chiêu bài quen thuộc khi vua quan Hán muốn cướp bóc, thôn tính lân bang, hay tạo áp lực, dưới thứ chính nghĩa tự nhận là “chinh thảo”. Trước thế kỷ XIX, với vua quan Hán không hề có chiến tranh, mà chỉ có trừng phạt lân bang không thờ kính thiên tử như con với cha theo “sự đại chi lễ” [phép thờ nước lớn], hợp với thiên mệnh [số trời]. (16)

CUỘC TÁI XÂM LĂNG CỦA MÃ VIỆN: 

Tháng 1-2/42 [tháng 12 Tân Sửu], Lưu Tú cho lệnh Hợp Phố, Trường Sa chuẩn bị xe thuyền, sửa sang cầu đường, chứa thóc lương chuẩn bị tái chiếm cổ Việt. Phong Mã Viện làm Phục ba Tướng quân, Lưu Long làm phó tướng, Ðoàn Chi giữ lâu thuyền, chia hai đạo thủy bộ tiến quân. Gặp núi làm đường, vượt qua hơn 1,000 lí [dặm TH].

Theo sử quan Nguyễn, sách Khâm Châu Chí của Chu Xuân Niên ghi Mã Viện đi từ núi Ô Lôi ra biển lớn, rồi tiến về hướng tây, tới phủ Hải Ðông của Giao Chỉ. [Ở đây có đền thờ Viện]. Cố Viêm Vũ đời Minh ghi trong Quận quốc lợi bịnh thư, Mã Viện đi từ nam Khâm Châu ra biển lớn, giương buồm một ngày thì tới Giao Châu trấn Triều Dương]. Tuy nhiên, đây chỉ là sự phỏng đoán của đời sau. Theo truyền thuyết, quân Mã Viện đi qua Quỉ Môn Quan–nơi mười người qua, chín người không trở lại–đưa đến nghi án địa lý về vị trí của cửa ải phân chia Nam-Bắc này. (16 bis)

Tháng 4-5/42, Viện đánh bại Trưng Vương ở Lãng Bạc. Trong chiến dịch này, Viện tâm sự cùng thuộc hạ rằng, dưới đất khí độc bốc lên ngùn ngụt, ngẩng lên trời thấy diều hâu đang bay rơi xuống nước, khiến trạnh lòng muốn bắt chước người em họ Thiếu Du sống thanh thản, an nhàn mà không được.

Cổ sử ghi Lãng Bạc tức Dâm Ðàm, tức Hồ Tây, Hà Nội. Vài tác giả Pháp, như Henri Maspéro và Claude Madrolle, dựa theo Thủy Kinh Chú (đoạn nói về ba nhánh sông bắc Hà Nội) và Hậu Hán Thư (địa lí chí) cho rằng Lãng Bạc thuộc vùng Tiên Du. Một số tác giả Việt nghiêng về lập luận này. Có tác giả cho rằng Lãng Bạc là vùng Phả Lại, trong khoảng năm huyện Yên Dũng, Lục Nam, Quế Võ, Gia Lương và Chí Linh, ngày nay. (17) Việc tìm hiểu về Lãng Bạc vẫn chưa và có thể chẳng bao giờ kết thúc. Lãng Bạc là một tên Hán Việt, do quan tướng Hán đặt ra, khó thể truy tìm nguồn gốc. Ðất đai, sông biển đổi dời không ngừng, phù sa sông Hồng liên tục bồi đắp đất mới. Những truyền thuyết nhân gian về sự tích các thần hoàng hay đền miếu–nguồn gốc hai bộ Lĩnh Nam Chích Quái Việt Ðiện U Linh tập–khiến vấn đề phức tạp hơn. Thông tin khả tín duy nhất có thể rút ra là Hai bà Trưng đã thua to ở phía đông Mê Linh, phải rút về chiến khu Cẩm Khê hay Kim Khê–một địa danh gây nhức đầu khác.

Ngô Sĩ Liên và sử quan Lê ghi theo Hậu Hán Thư, nhưng ước đoán Cẩm Khê ở huyện Chân Lộc, Nghệ An. Tự Ðức và sử quan Nguyễn dựa theo Thủy Kinh Chú bác thuyết này, cho rằng Cẩm Khê (Kim Khê) nằm vào địa phận phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. (18) Lê Tắc ghi tên Kim Khê theo Nam Việt Chí của Thẩm Hoài Viễn. Thủy Kinh Chú dẫn Việt Chí, cho rằng Cẩm Khê hay Kim Khê nằm về phía tây nam Mê Linh. Chi tiết này giúp một tác giả Việt đi tìm Cấm Khê ở hữu ngạn sông Hồng, và đề nghị nhìn nhận thung lũng suối Vàng [Kim khê cứu], chân núi Bà (cao 525 mét) ở góc đông nam dãy núi Tản Viên. Tại đây, có làng Hạ Lôi, huyện Thạch Thất (Sơn Tây), cách Hà Nội 35 km về phía tây nam, 28 km hướng tây Hà Ðông, 20 km nam Sơn Tây. Làng này cổ hơn làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng (Tây Vu cũ). (19)

Tháng 1-2/43, Mã Viện tiến vào Cẩm Khê hay Kim Khê, đả bại Trưng Vương. Truyền thuyết nói ngày 6 tháng 2 Quí Mão [5/3/43], hai chị em nhảy xuống sông Hát tự tử. Dân chúng bí mật lập đền thờ trên bờ sông Hát–tức một nhánh hạ lưu sông Bạch Hạc, ranh giới phủ Quốc Oai, Sơn Tây và huyện Từ Liêm, Hà Nội (đời Nguyễn)–nay là xã Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Tây. (20)

Dã sử Trung Hoa ghi cả hai bà bị bắt. Theo Giao Châu Ngoại Vực ký–một trong bốn tài liệu cơ bản về thời kỳ này, nhưng đã tuyệt bản–Mã Viện tiến đánh vợ chồng Trưng Trắc và Thi Sách ở Kim Khê cứu, ba năm mới thắng [khiển Mã Viện tương binh thảo Trắc Thi, tẩu nhập Kim khê cứu, tam tuế nãi đắc]. Nhiều tác giả, kể cả sử quan Nguyễn, ghi theo Nam Việt Chí là bà Trưng giữ được hang Kim Khê hai năm mới bị bắt [Trưng Trắc tẩu nhập Kinh Khê huyệt trung, nhị tuế nãi đắc chi]. Lê Tắc chép theo Hậu Hán Thư rằng năm 43, Mã Viện giết chết Trưng Nhị [Thập cửu niên, Mã Viện trảm Trưng Nhị yêu tặc (Nhị, tặc muội giả)], (21)

Tháng 11-12/43, Viện mang 8,000 tinh binh, hợp cùng hơn một vạn quân Giao Chỉ, 2,000 lâu thuyền truy đuổi tàn quân của Ðô Dương đến Cửu Chân. Theo Giao Châu ký, Viện phá đá ngầm, sửa chữa và đắp 500 lí đường bộ. Chiếm huyện Võ Công, Dư Phát, chia binh vào Võ Biên, rồi kéo tới huyện Cư Phong. Theo Ðào Duy Anh, Cư Phong sau đổi làm Di Phong tức Diễn Châu, Thanh Hoa (năm 1943). Thủ lĩnh nghĩa quân Việt ở Cư Phong không hàng, Viện chém vài ngàn (có tin hơn 5,000) thủ cấp. (22) Sau đó lập nên huyện Tượng Lâm ở phía nam Nhật Nam, tức nước Lâm Ấp sau này. Rồi sử dụng người Việt theo chính sách cai trị cũ–như Lệnh, cai trị một vạn hộ trở lên; trưởng, một vạn hộ trở xuống. Thấy huyện Tây Vu (33,000 hộ) quá đông, Viện chia làm Phong Khê và Vọng Hải, có lẽ cũng để tăng cường sự kiểm soát và phân tán lực lượng kháng Hán. Tại Phong Khê, Viện xây thành Kiển Giang. Thành tròn như cái kén nên gọi là “Kiển.” Theo truyền thuyết đây là Loa Thành của An Dương Vương. 

Viện còn thu trống đồng đúc thành ngựa dâng lên Lưu Tú. Việc tịch thu trống đồng có thể được nhìn dưới khía cạnh tiêu diệt nền văn hóa cổ truyền–có lẽ theo mẫu hệ–để áp đặt thứ lễ giáo Hoa hạ. Sự việc quân dân hơn 50 thành–hoặc từ 60 tới 65 thành–ngả theo Trưng Vương liên hệ đến chính sách Hán hóa trên. Nhưng nho gia nặng tinh thần “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô,” và tam cương ngũ thường chỉ ghi lại “công ơn” Tích Quang, Nhâm Diên, im lặng về chế độ mẫu hệ thời tiền Hán thuộc, không “cẩn án” hay “phê” trong “quốc sử”. Rất tiếc, không còn lại tư liệu nào để tìm hiểu thêm vấn đề này. Nhưng nên lưu tâm đến sự kiện hai lãnh tụ kháng Hán đầu tiên là bà Trưng và Triệu Ẩu hay Triệu Thị Trinh (248). Và cho tới thế kỷ XI, người Việt từng lập đền thờ hoàng hậu Dương Thị Nga cùng hai chồng là Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn. Hay truyền thuyết hai ông một bà thần bếp. (23)

Theo Thẩm Hoài Viễn, quân Tây Thục [Xi Shu] cũng kéo sang, giúp đánh hai bà Trưng [Nhĩ thì Tây Thục tịnh khiển binh cộng thảo Trắc đảng, tất định quận huyện vi lệnh trưởng dã]. Tuy dẫn Nam Việt Chí về Kim Khê, sử quan Nguyễn bỏ chi tiết Tây Thục. ÐVSKTT và ÐVSKTB đều không ghi. (24)

Năm 44 [Giáp Thìn], Mã Viện về nước. Bảy quận ở Giao Chỉ [bộ] khi đi cống đều phải do đường biển tới huyện Ðông Dã (Phúc Châu) mà nạp lễ vật. (25) Phan Huy Chú ghi trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí là còn dấu tích đền thờ Mã Viện ở Quỉ Môn Quan, Chi Lăng (Lạng Sơn). Nhưng sử quan Nguyễn phủ nhận, vì pho tượng ở đây giống đàn bà–không giống một lão tướng. (26) 


TRỤ ĐỒNG MÃ VIỆN LÀ LỊCH SỬ HAY CHỈ LÀ HUYỀN THOẠI

Cuộc tái xâm lăng cổ Việt năm 42-44 để lại nhiều huyền thoại. Sách sử Trung Hoa chép võ công của Mã Viện như một cuộc chinh thảo, tuân theo mệnh trời, dẹp nội loạn do vợ chồng hoặc chị em bà Trưng khởi xướng–đặt Giao Chỉ trở lại bờ cõi Hán. Trong Trung Quốc thông sử giản biên, Phạm Văn Lan nhận xét rằng xâm lược là sứ mệnh khai hóa của Hán tộc, và Trưng Vương chỉ vì tư thù Tô Ðịnh giết chồng mà dấy binh, không chống sự cướp nước của nhà Hán, giành độc lập. Một tác giả Ðài Loan cũng đưa ra lập luận tương tự. (27) Sử sách Việt, ngược lại, đánh giá cuộc dấy binh của hai bà Trưng như sự tiếp nối quốc thống từ nhà Hồng Bàng–một diễn tập cho phong trào đòi độc lập, tự chủ. (28)

NHỮNG ĐIỀU KHÔNG GHI TRONG HÁN THƯ 

Hậu Hán Thư hoàn toàn im lặng (trong “Mã Viện truyện”). Trụ đồng của “Mã Văn Uyên” [Mã Viện] chỉ được nhắc đến từ thế kỷ IV-VI, trong các dã sử đã tuyệt bản như Quảng Châu Ký, Lâm Ấp Ký, Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ, rồi dẫn lại và bình luận trong Thủy Kinh Chú, Thái Bình Ngự Lãm đời Ðường, v.. v... (29)

Chứng từ của các quan cai trị Hán đương thời–kể cả Lý Cố, sau Mã Viện 100 năm, tác giả thuyết “dĩ man trị Man,” hay Tiết Tông (Kính Văn), phục vụ Sĩ Nhiếp vào cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ III–không nhắc đến trụ đồng. Trong những thông tin về cuộc cướp phá Champa của Nguyễn Phu năm 353, hay Ðàn Hòa Chi năm 436 hoặc 446 đều im lặng, chỉ nói “ấn vua đã ban xuống mà vàng chưa dâng lên;” cách phá tượng trận do Tông Xác phát minh, hay, công bố kết quả thí nghiệm đo bóng mặt trời. (30)

Truyền thuyết trụ đồng được nhắc đến lần đầu trong Tùy thư, đoạn nói về Lưu Phương đi đánh Champa tháng 1-2/605, vì “nước Lâm Ấp có nhiều của báu, nhưng lâu đời không đến chầu.” Tháng 3-4/605, sau khi đả bại Sambhuverman Chumnik [Phạm Chi, 595-629, có mộ bia tên nước Champa], giết hàng vạn người, Phương tiến quân qua trụ đồng của Mã Viện. 8 ngày sau, tới kinh đô Champa, cướp đoạt 18 [12] bài vị bằng vàng, ghi công vào bia đá rồi về. Tuy thắng trận nhưng quân lính chết 3, 4 phần 10, và Phương cũng ốm chết dọc đường. (31)

Thoạt nghe, tưởng chừng thông tin khá đầy đủ. Thực ra, khoảng cách “tám ngày đường” quá mơ hồ. Ðạo quân viễn chinh di chuyển bằng đường bộ được khoảng 20-30 lí mỗi ngày; như thế trụ đồng ở phía bắc kinh đô Champa từ 160 tới 240 lí, hay khoảng trên dưới 100 cây số. Quái ác là không rõ kinh đô Champa ở đâu. Có thuyết nói 8 đời vua Champa cai trị ở Singapura hay Simhapura [Sư tử thành], tại Trà Kiệu [Quảng Nam] đến năm 750. Nhưng không một bia đá nào cho phép khẳng định vị trí Sư Tử Thành, ngoài di tích một thành bị đốt cháy. Trong thập niên 1830, người Bri-tên mua được của tiểu vương Malay một hòn đảo có tên Singapura [Sư Tử Thành], hay đảo hải tặc, nằm trên xích đạo, tức Singapore hiện nay. Tuy nhiên, hai vạn quân viễn chinh của Mã Viện khó có khả năng di chuyển trên 2,000 cây số hay 4,000 lí trong vòng một năm (43-44). Kinh đô Champa có thể là Quảng Bình, Thừa Thiên, hay Quảng Nam, nơi còn dấu tích công trình xây cất của dân Chàm. Thành Vijaya [Ðồ Bàn hay Chà Bàn] ở Bình Ðịnh chỉ trở thành kinh đô Champa từ thế kỷ thứ X.

Dù chẳng biết trụ đồng ở đâu–vì ngay cả kinh đô Champa cũng chỉ suy đoán vu vơvăn gia Hán đời sau vẫn sao đi chép lại sự tích trụ đồng. Khoảng đời Ðường, trụ đồng trở thành ấn chứng hùng hồn của ranh giới phía nam đế quốc Hán. Vài quan lại thực dân “bắt chước Mã Viện.” Trong số này có Hà Lý Quang (năm 751) khi đi đánh Nam Chiếu (Vân Nam); và, Mã Tổng, “khoảng đời” Lý Thuần (Hiến Tông, 806-820), [không rõ cai trị bao lâu ở An Nam], dựng cột đồng “ở chỗ cũ.” Khoảng đầu thế kỷ thứ IX, Liễu Tông Nguyên nhắc đến trụ đồng trong bia mộ Trương Chu, đánh giá võ công Chu to lớn hơn cả Viện. (32)

Qua thế kỷ X, sau khi cổ Việt giành được độc lập, trụ đồng được lịch sử hóa. Tháng 9-10/980, trong chiến thư gửi Lê Hoàn của Triệu Quang Nghĩa (Tống Thái Tông, 977-997) Vương Vũ Xương chính thức nhắc đến cột đồng. Nó được viện dẫn như một cái cớ [pretext] về việc tranh giành đất đai và “khôi phục” lãnh thổ cũ đời Hán–hầu khai thác cái chết đột ngột của cha con Ðinh Tiên Hoàng, xâm lăng “Ðại Cồ Việt” theo kiểu “sét đánh không kịp bịt tai” theo đề nghị của Hầu Nhân Bảo và Lư Ða Tốn:

Ngày xưa về thời Thành Chu [nước ngươi] đã đem dâng chim trĩ trắng. Ðến thời Viêm Hán dựng cột đồng. Ðến đời Lý Ðường từng là đất của TQ. Ngươi không nên nấp vào xó tối [úp mặt vào góc nhà] để ta khó chịu, khiến ta dùng đến kế chặt xác bằm xương, làm cỏ nước người, lúc ấy hối cũng không kịp.

Cho dù biển của ngươi có ngọc ta cũng ném xuống suối. Núi của ngươi có vàng ta cũng quẳng vào bụi. Không phải ta tham của báu của ngươi. Nếu theo thì tha tội, nghịch lại thì ta đánh [hướng hóa ngã kỳ xá, nghịch mạng ngã kỳ phạt]. (33)

Từ đó, trụ đồng biến thành vũ khí ngoại giao mỗi khi Trung Hoa muốn xâm lấn hay xách nhiễu. Năm 1272, sau khi lập nên nhà Nguyên, Qublai Khan [Hốt Tất Liệt] sai người sang hỏi về trụ đồng để xác định biên giới. Nhưng sau nhiều chuyến khảo sát thực địa, không thấy dấu vết nào–dù theo truyền thuyết, vì sợ lời đe dọa của Mã Viện, dân Việt không ngừng ném đá, đất vào chân trụ đồng để nó không bị đổ.  Việc này xảy ra sau khi sứ đoàn Hốt Lăng Hải Nha và Trương Ðình Trăn (Trương Lập Ðạo) đã sang Ðông Kinh cuối năm 1271, đòi Trần Thánh Tông (1258-1278) qua chầu, nhưng vua nêu lý do bị bệnh, từ chối, và cũng không chịu lạy sứ lúc nhận chiếu–vì theo tục lệ Việt Nam chỉ nhận chiếu ở điện chính, sau đó lui về nhà riêng. Qublai Khan đồng ý cho giữ tục lệ, nhưng vẫn đòi phải qua chầu. Vua Trần cả quyết không qua chầu, chấp nhận hai cuộc đại chiến năm 1278 và 1287-1288, và chuẩn bị trận chiến vệ quốc thứ ba vào thập niên 1290–nhưng cái chết của Qublai Khan khiến cả hai nước tránh được cảnh binh đao. Dã sử Trung Hoa cho rằng nhà Trần cuối cùng chấp nhận cống tượng người vàng để đổi hòa bình, nhưng chính sử Hoa và Việt đều im lặng. Thực tế vua Trần còn cho đục thuyền giết chết Ô Mã Nhi khi trao trả tù binh, vì Ô Mã Nhi đã tàn phá lăng tẩm ở Long Hưng (Hải Dương).(34) Tháng 8-9/1345, Thoát Hoan Thiếp Mộc Nhĩ (Nguyên Thuận Ðế, 1333-1368) lại sai Vương Sĩ Hành sang khảo sát vị trí trụ đồng. Trần Dụ Tông (1341-1369) sai Phạm Sư Mạnh đi biện bạch, nhưng không rõ kết quả. (35)

Qua đời nhà Minh, năm 1396, thổ tri phủ Tư Minh (Quảng Tây) là Hoàng Quảng Thành tâu lên Chu Nguyên Chương (Thái Tổ, 1368-1398) rằng Ðồng Ðăng (phía bắc Lạng Sơn 14 cây số) là đất Ðồng trụ. Khi Mông Cổ đánh Tống, An Nam–quốc hiệu này được chính thức ban cho Lý Anh Tông năm 1163 hay 1175–cung cấp quân lương tới trại Vĩnh Bình, cách đồng trụ 100 lí. Cuối đời Nguyên, Giao Chỉ đánh chiếm trại Vĩnh Bình [có lẽ là đầu nguồn sông Kỳ Cùng], vượt qua Ðồng Trụ hơn 200 lí, lấn cướp năm [5] huyện Khâu Ôn, Như Ngao, Khánh Viễn, Uyên và Thoát. Xin sức cho An Nam trả lại đất ấy. Nguyên Chương sai Trần Thành qua bàn thảo, không xong. Năm 1405 Chu Lệ (Thành Tổ, 1403-1424) khai thác việc Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần, sử dụng bọn thái giám đã cống cho Kim Lăng theo đòi hỏi năm 1370 để chuẩn bị cho một cuộc chinh phạt. Nhân cơ hội, Quảng Tây lại đòi trả sáu [6] động đã mất. Tháng 3/1405, “Cát địa sứ” Hoàng Hối Khanh hăng say cắt đất đổi hòa bình đến độ “trả lại” 59 thôn ở Cổ Lâu. Quí Ly phải đầu độc các tân thổ quan do nhà Minh bổ nhiệm. (36)

Sau đó, năm 1407, Chu Lệ lại sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đánh chiếm cả Ðại Việt dưới danh nghĩa phù Trần diệt Hồ, bắt gia đình Quí Ly mang về Kim Lăng. Thay vì đưa con cháu nhà Trần lên ngôi, Trương Phụ cho bọn Mạc Thúy (dòng giõi Mạc Ðĩnh Chi) làm tờ biểu xin vào lại bản đồ đế quốc Minh. Năm 1416, Kim Lăng còn tập trung gần 10,000 quan lại bản xứ, phân phát bằng sắc do triều đình Minh bổ nhiệm, với lời khuyên dụ bọn tả Bố chính sứ Nguyễn Huân, Tham chính Lương Nhữ Hốt, Ðỗ Duy Trung v.. v.. nên cố gắng trung thành, đánh dẹp các nhóm kháng Minh, để con cháu ngàn đời hưởng lộc, danh thơm sử xanh muôn đời. Nhưng đại đa số người Việt khó chấp nhận. Suốt 20 năm Minh xâm chiếm, khoảng 60 cuộc dấy binh nổi lên khắp nơi. Ðế Ngỗi và Lê Lợi chỉ là hai nhân vật kiệt hiệt hơn cả. Sau khi Chu Lệ bị giết tại sông Du Mộc, cháu nội là Chiêm Cơ (Tuyên Tông, 1426-1435), đành gác mộng đặt Ðại Việt vào bản đồ, chấp nhận bãi binh, thu tiền mãi lộ qua hình thức “cống lễ” tượng người vàng, cùng sản vật địa phương để đổi hòa bình. (37)

Suốt triều Lê Lợi (1428-1433), Chiêm Cơ chỉ cho tạm giữ quyền việc nước. Một trong những lý do là Lê Lợi lập Trần Cảo làm vua, rồi nhân danh Cảo xin hòa và cầu phong. Dù Cảo chỉ mạo danh họ Trần, nhưng đủ để gỡ sĩ diện là vẫn trung thành với nguyên tắc diệt Hồ, phù Trần, Chiêm Cơ  cho Cảo [Cao] làm An Nam Quốc Vương. Ngày 23/3/1428, sai bọn Lý Kỳ tới Ðông Kinh phong vương, nhưng hai tháng trước, Lê Lợi bắt Cảo [Cao] uống thuốc độc chết. Trong ba năm 1428-1430, Chiêm Cơ cương quyết đòi tìm con cháu nhà Trần. Lê Lợi dùng vàng bạc sính cống, đồng thời ràng buộc việc sắc phong với vấn đề trao trả tù binh. Có lẽ vì khó áp lực quá đáng, sau khi Lê Lợi hoàn trả hơn 86,000 dân quân, mỗi năm biếu xén khoảng 50,000 lạng vàng/bạc, cùng quà tặng cho cả mẹ, vợ, hay Hoàng tử của Chiêm Cơ, ngày 5/12/1431 Chiêm Cơ phong Lê Lợi làm “Quyền thự An Nam Quốc Sự.” Ngày 19/3/1437, Chu Kỳ Trấn (Anh Tông, 1435-49, 1457-63) mới cho “Lê Lân” [Lê Thái Tông] chức quốc Vương, bình thường hóa quan hệ, dựa theo điều lệ năm 1370 của Nguyên Chương. (38) 

KHÔNG CÒN DẤU TÍCH: 

1. Hiện nay, không còn dấu tích trụ đồng. 

Một sự thực không thể chối cãi là chưa ai tìm được dấu vết trụ đồng. Lối giải thích có vẻ hợp lý là theo thời gian, trụ đồng đã bị mai một. Du Ích Kỳ, từng đến Nhật Nam, cho rằng sau khi dựng hai cột đồng, Mã Viện lưu lại 10 gia đình người Hán, gọi là “Mã Lưu” [người họ Mã bị lưu đầy] ở bờ phía nam Thọ Linh, đối diện trụ đồng, sau này tăng lên đến 200 hộ. Trụ đồng đã chìm trong biển, chỉ dựa vào những người này mới biết vị trí trụ đồng. (39)  

Lâm Ấp Ký, không rõ tác giả và đã tuyệt bản, ghi người bản địa gọi những người lưu lại ở trụ đồng ranh giới nhà Hán với nước Tây Ðồ là Mã lưu. Cựu Ðường chí [Cựu Ðường thư] cũng ghi truyện Mã Lưu. Tân Ðường thư cho rằng người Mã Lưu và núi Trụ đồng ở châu Bôn Ðà Lăng, phía nam Lâm Ấp hai nghìn [2,000] lí. Sơ học ký, 6, dẫn Ngô Lục của Trương Bột, ghi trụ đồng và người Mã lưu ở Tây Ðồ, trên một bãi nhỏ dài 30 dặm, của một đảo phía nam Tượng Lâm. Ðời Tùy lên tới 300 hộ. (40) 

Thoạt nghe có vẻ khả tín, nhưng xét lại, chẳng ai biết chứng nhân “Mã Lưu” ở đâu, còn hay mất. Trụ đồng không thấy, nhân chứng không biết ở đâu. Sự khả tín của thông tin trụ đồng đành phải dựa trên thư tịch hoặc truyền thuyết. 

KHÔNG RÕ MỤC ÐÍCH HAY VỊ TRÍ: 

Những người nghiên cứu về trụ đồng hầu như nhất trí rằng Mã Viện đã dựng trụ đồng để đánh dấu biên giới phía nam đế quốc Hán, nhưng chỉ có thế. Ðịnh nghĩa hay cách diễn giải biên giới phía nam, tức vị trí của cái gọi là trụ đồng trái ngược, thay đổi theo thời điểm và hoàn cảnh, hoặc do sở kiến mỗi cá nhân.

1. Một số người cho rằng Mã Viện dựng trụ đồng để phân định biên giới đế quốc Hán và cổ Việt . 

Những người theo thuyết này đi tìm trụ đồng ở vùng Lạng Sơn hay Quảng Yên.

a. Chu Khứ Phi, tác giả Lĩnh Ngoại Ðại Ðáp, từng làm thông phán ở Quế Lâm (Quảng Tây) đời Tống (960-1279), cho rằng trụ đồng ở khu động Cổ Sâm, Khâm Châu, phía tây châu Khâm khoảng ba [3] lí. (41)
b. Minh Nhất Thống Chí, theo Nhất Thống Chí nhà Nguyên, và Thanh Nhất Thống Chí, theo Chu Khứ Phi, chép trụ đồng Mã Viện ở “Ðèo Phân Mao,” động Cổ Sâm, châu Khâm. Ghi thêm sau khi dựng trụ đồng, Viện có lời thề: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.” (42)
c. Nguyễn Thiên Túng, khi chú thích Dư Ðịa Chí (hay An Nam Vũ Cống) của Nguyễn Trãi, nói Kim Tiêu là Trụ Ðồng, Phân Mao [tại Yên Bang] là “núi Phân Mao.” (43)
d. Lê Quí Ðôn ghi trong Văn [Vân] Ðài Luận Ngữ Mã Viện dựng hai “kim tiêu” ở Quỉ Môn Quan. Quỉ Môn Quan có lẽ là huyện Bắc Lưu, gần châu Tân An [Tiên Yên], trấn Quảng Yên. Tại Phân Mao Lĩnh, cách Khâm Châu 300 lí về phiá nam, có một đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có lẽ do Mã Tổng [Ðổng] dựng lên trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-820). (44)
Như thế, nhà Thanh, giống như nhà Minh, có vẻ tạm thời chấp nhận biên giới hiện hữu giữa hai nước.

2. Một số người khác cho rằng trụ đồng là biên giới Giao Chỉ bộ và Lâm Ấp. 
a. Du Ích Kỳ cả quyết Mã Viện dựng hai cột đồng phía bắc Lâm Ấp. (45)
b. Tùy Thư [Sui shu] ghi trụ đồng cách phía bắc kinh đô Lâm Ấp tám [8] ngày đường. Tư Mã Quang, trong Tư trị Thông giám [đời Tống, 294 quyển], dẫn lại chi tiết trên. (46)
Vị trí trụ đồng, như thế, nằm vào khoảng ranh giới Nghệ An và Quảng Bình, tức đèo Ngang trên Hoành Sơn. (đạo Hà Tĩnh thời Tự Ðức)
c. Các tác giả Ðại Nam Nhất Thống Chí và Ðào Duy Anh ghi ở núi Hùng Sơn, Nghệ An. (47)
d. [Thái Bình] Ngự Lãm 74 dẫn Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ: Mã Viện chất đá làm bờ tới ngách sông Tượng Phố, dựng cột kim tiêu làm biên giới. (48) 

Những người diễn giải trụ đồng dựng lên ở cực nam Giao Chỉ bộ thời Mã Viện–tức quận Nhật Nam–khó thể xác định lãnh thổ Nhật Nam, hay nước Lâm Ấp. Thế kỷ I Tây lịch, hơn một thế kỷ sau khi sử sách TH đặt “quận Nhật Nam” [hay Tượng Lâm] vào bản đồ, nhân ngày Tết, Lưu Trang (Hán Minh đế, 58-75) hỏi Trương Trọng, một tiểu quan từng ở Nhật Nam, là phải chăng nhà ở Nhật Nam đều mở cửa về phía Bắc để ngóng ánh mặt trời [Nhật Nam quận bắc hướng thị nhật da?] (49) 

Khó xác định Lưu Trang có hàm ý gì. Nhưng đọc kỹ chú giải của văn gia đời sau, rõ ràng vua quan Hán tin mặt trời mọc ở phương Bắc của xứ “hoang phục.” Nhan Sư Cổ (581-645), làm việc dưới triều Lý Uyên (Ðường Cao Tổ, 618-626) và Lý Thế Dân (Thái Tông, 627-647) thường chú giải ngũ kinh và Hán Thư của Ban Cố, nói “Nhật Nam là nói về phía nam mặt trời; là bảo mở cửa phía bắc để hướng về [đón ánh] mặt trời.”  Khi nói về việc Ðàn Hòa Chi đánh cướp Lâm Ấp, năm 436 hoặc 447, Vương Sung chép trong Luận Hành: “Quận Nhật Nam cách Lạc Dương ngót muôn dặm, vậy ở phía nam mặt trời.” Như dựng cây nêu tại thành Khu Túc, lị sở huyện Tượng Lâm (Nhật Nam), cây nêu 8 thước bóng của nó ở phía Nam là 8 tấc; dựng nêu ngày 5/5 âm lịch [mùa Hè] cũng thấy bóng ở phía nam cây nêu! (50) 

Khoảng ba thế kỷ sau, đời Lý Long Cơ [Ðường Huyền Tông, 713-755], khi Dương Tư Húc và Nguyên Sở Khách đi đánh Mai Thúc Loan, cũng đo bóng mặt trời ngày Hạ Chí ở Giao Châu, thì khám phá ra bóng của cây nêu ở phía nam ba tấc, ba phân–chẳng khác biệt gì với cuộc đo của Ðàn Hòa Chi. (51) Ðến đời nhà Minh (1368-1644), Ngũ Sùng Diệu [Âu Ðại Nhâm?] tác giả Lĩnh Nam di thư, còn nhắc lại sự cố “Nhật Nam nằm về phía nam mặt trời”. (52)

3. Trụ đồng được dựng lên ở phía nam Lâm Ấp, giáp ranh với nước Tây Ðồ. 

Vài tác giả dời trụ đồng xa hơn nữa về phía nam.
a. Lưu Hân Kỳ, tác giả Giao Châu Ký, đã tuyệt bản, là một trong các tác giả được trích dẫn nhiều nhất. Lịch Ðạo Nguyên có vẻ đồng ý khi dẫn Lưu Hân Kỳ: Mã Văn Uyên [Mã Viện] lập dấu mốc phía nam đất Hán. (53)
b. Lâm Ấp Ký, một tựa sách không rõ tác giả và cũng đã tuyệt bản, chép năm 43, Mã Viện trồng hai trụ đồng ở phía nam Tượng Lâm, làm ranh giới nhà Hán với nước Tây Ðồ. Lịch Ðạo Nguyên cũng dẫn sách này. (54)
c. Trương Bột, tác giả Ngô Lục, nói trụ đồng ở Tượng Lâm, đánh dấu biên giới cực nam của nhà Hán. (55)
d. Trong mục Nam Hải (ch 54) của Lương Thư, Yao Ssu lien (d. 637) cho Mã Viện từ Nhật Nam đi về hướng nam bốn trăm [400] lí mới đến Lâm Ấp; đi thêm về hướng nam hai trăm [200] lí nữa rồi dựng trụ đồng ở biên giới Tượng Lâm và Tây Ðồ. (56)
e. Văn gia Ðường và Tống có vẻ tán thưởng sự khai sinh thực thể “Tây Ðồ” này. Ðỗ Hữu ghi trụ đồng nằm 2,000 lí phía nam Lâm Ấp. Nhạc Sử (990-1007) đời Tống, nói đi từ Nhật Nam bốn trăm [400] lí tới Lâm Ấp, đi hơn hai mươi [20] lí nữa tới nước Tây Ðồ Di. (57) Tân Ðường thư của Âu Dương Tu 1007-1072) và Tống Kỳ (998-1061) cho rằng Lương Thư viết sai, tự động đưa trụ đồng xa hơn về phía Nam: Núi Trụ đồng nằm ở châu Bôn Ðà Lăng; từ Nhật Nam Mã Viện đi bốn trăm [400] lí đến Lâm Ấp; từ Lâm Ấp đi thêm hai nghìn [2,000] lí nữa về hướng Nam mới dựng trụ đồng. Cựu Ðường Chí thêm: Ðường thủy, từ phủ An Nam tới Lâm Ấp 3,000 lí. Từ quận Giao Chỉ tới trụ đồng là 5,000 lí. (58)
Như thế trụ đồng nằm ở khoảng núi Ðá Bia, phía Bắc Ðèo Cả (Phú Yên).
g. Từ phía nam Giao Chỉ theo đường thủy 3,000 lí tới Lâm Ấp. Từ quận Giao Chỉ tới cột đồng 5,000 lí. (59) 

4. Lại có tác giả nói Nhật Nam bao gồm Phù Nam. 

Vậy trụ đồng Mã Viện có thể ở gần Cà Mau hiện nay.

Cố Tổ Vũ, tác giả Ðộc sử phương dư kỷ yếu (đời Thanh), ghi: Phù Nam là một hòn đảo lớn nằm về phía tây Nam Hải, thuộc quận Nhật Nam, bắc cách Nhật Nam 7,000 lí, nằm về hướng tây nam của Lâm Ấp khoảng 3,000 lí; rộng 3,000 lí. (60) Theo Việt Nam Tạp Yếu: Trụ đồng của Mã Viện ở phía nam Quảng Hòa. Nước Tây Ðồ Di là nước Mãn Thích Gia, sau đổi là Ca la phú sa; rồi bị Chiêm Thành diệt. Trải dài tới Vĩnh Long. (61)
Ðiều đáng ghi nhận là trong nỗ lực xác định vị trí của trụ đồng, văn gia TH không ngớt mở rộng biên giới Hoa Hạ khiến vị trí trụ đồng Mã Viện ngày một Nam tiến.

SỐ TRỤ ÐỒNG THAY ÐỔI:

Số trụ đồng do Mã Viện dựng lên trong các truyền thuyết cũng thay đổi, từ một tới năm “kim tiêu.”
1. Văn gia đời Tùy nói có một hay hai trụ đồng [Tùy thư chép Lâm Ấp ở phía nam trụ đồng].
Ðỗ Hữu ghi trong Thông Ðiển phía nam Lâm Ấp 2,000 lí có hai trụ đồng sát biên giới Tây Ðồ Di (núi Ðồng Trụ chu vi 10 lí).
2. Tống Bạch suy đoán có ba [3] cột đồng ở biên giới Tây Ðồ Di và Tượng Lâm, 200 lí phía nam Lâm Ấp. Từ Giao Châu tới trụ đồng là 5,000 lí. (62)
3. Hồ Tam Tỉnh đời Tống đưa lên năm (5) trụ đồng hình như cái lọng ở Ðại Phố, phía nam Lãng Ðà (Lâm Ấp). (63)

Việc tự do hiệu đính hay sửa chữa trên có thể do từ đời Tống, Nguyên, Minh, hay Thanh kiến thức địa lý về phương nam đã khá hơn. Nhưng không thể không nghĩ đến thói quen ghi vào sử sách những biên giới hoang tưởng, chờ ngày “thôn tính” [cướp đoạt]–hay “khôi phục,” nếu muốn. Khi sử dụng sử liệu TH, nếu không cân nhắc kỹ lưỡng yếu tố này, rất dễ bị lạc đường. Và, khó thể tách “trụ đồng Mã Viện” khỏi tham vọng bành trướng–như một cái cớ để đòi trả lại những đất đai hoang tưởng đã mất. Miệng kẻ “sang” [mạnh] có gang có thép, dù cái lưỡi uốn lượn trăm chiều. Nhưng “Quốc sử” đời Hậu Lê và nhà Nguyễn vẫn sao chép huyền thoại trụ đồng, theo kiểu “dĩ nghi, truyền nghi,” sa vào lưới nhện tham vọng bành trướng của Hán tộc.( 64)

Từ đầu thế kỷ XX, những nghiên cứu của Tây phương, đặc biệt là học giả Pháp–áp dụng những phương pháp làm việc khoa học hơn, khảo sát khá kỹ các di vật còn sót trên mặt đất –để tái dựng lại lịch sử nghệ thuật [arts history] của Champa và Kambojas. Ðược chính phủ Bảo hộ Pháp trợ cấp, những người như Louis Finot, Georges Coedès, Partmentier, v.. v. .. đã làm việc trên 250 di chỉ khảo cổ–đặc biệt là các tháp chứa linh vật như Linga, tượng Phật, những tấm bia có khắc chữ Sanskrit hay một loại chữ Chàm biến thái từ Sanskrit, cùng những “hoa văn” điêu khắc (như voi, sư tử đều nhảy múa). Nhiều cổ vật đã bị thời gian, thiên tai, chiến tranh, và những hành vi mọi rợ văn hóa–như tàn phá dấu tích nước bại trận hay trộm cắp (Hán, Việt cũng như Tây phương)–khiến chứng tích sự hiện hữu của một quốc gia hưng vượng trong nhiều thế kỷ ngày một hiếm hoi. Dù còn thiếu sót, những công trình trên giúp đặt xuống những viên đá lót đường đầu tiên cho việc tìm hiểu về dân Chàm nói riêng, và lịch sử Việt Nam nói chung. Dựa trên những mẩu thông tin trái ngược nhau và mức khả tín vô cùng giới hạn trên, người phỏng đoán trụ đồng nằm ở “Phân Mao Lĩnh,” Cổ Sâm, Khâm Châu (theo Lĩnh Ngoại Ðại Ðáp [của Chu Khứ Phi] đời Tống, dẫn trong ANCL,Nhất Thống Chí nhà Minh, nhà Thanh). Người suy đoán ở đèo Ngang, tức Hoành Sơn, ranh giới tự nhiên của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay (theo Lịch Ðạo Nguyên, trong Thủy Kinh Chú; Lưu Hân Kỳ, trong Giao Châu Ký). Có tác giả nghĩ nó ở vùng Huế. (Aurousseau, Claeys) Lại có người cho Mã Viện xuống tới tận núi Ðá Bia (Ðèo Cả), Phú Yên (theo Tân Ðường Thư). Tự điển Từ Hải cũng theo thuyết này, có lẽ do mục tiêu chính trị hơn sự thực sử học. (65) Và khó thể không đồng ý với Maspéro rằng đây chỉ là một huyền thoại. (66) 
 Những chữ viết tắt:
ANCL : An Nam Chí Lược, Lê Tắc, bản dịch Trần Kính Hòa et al. (Huế: Ðại Học Huế, 1961)
CM, TB: Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục [CM], Tiền Biên [TB], bản dịch Trương Bửu Lâm et al., (Sài Gòn: 1965); bản dịch viện Sử học (Hà Nội: NXB Giáo Dục, 1998);
ÐNNTC: Ðại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch Phạm Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, 5 tập (Huế: Thuận Hóa, 1997),
ÐVSKTB: Ðại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch Dương Thị The et al. (Hà Nội: 1997), Ngoại Kỷ;
ÐVSKTT: Ngô Sĩ Liên et al., Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ, q. III, bản dịch Nhượng Tống (Hà Nội: Tân Việt, [1944?]) [sẽ dẫn Nhượng Tống (1944)]; bản dịch Cao Huy Giu (Hà Nội: 1967), [sẽ dẫn Giu (1967)]; bản dịch Ngô Ðức Thọ et al (Hà Nội: 2009) [sẽ dẫn Thọ (2009)];
LTHCLC: Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú, bản dịch Viện Sử học, 3 tập (Hà Nội: 1992)
NCLS: Tập san Nghiên Cứu Lịch Sử (Hà Nội)
TKCS: Thủy Kinh Chú Sớ, Lịch Ðạo Nguyên, et al., bản dịch Nguyễn Bá Mão (Hà Nội: 2004).
VÐLN: Vân [Văn] Ðài Luận Ngữ, Lê Quí Ðôn, bản dịch Phạm Vũ và Lê Hiền (Sài Gòn: 1973?).

Chú:
1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục [CM], Tiền Biên [TB], q.II:9b-10a, [II 9b-15b] bản dịch Trương Bửu Lâm et al., (Sài Gòn: 1965, 1967), II:176-77 [176-201]; bản dịch Viện sử học (Hà Nội: 1998), I:114. Xem thêm Ngô Sĩ Liên et al., Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ, [ÐVSK, NKTT], q. III:1b-4a, bản dịch Nhượng Tống (Hà Nội: Tân Việt, [1944?]) tr. 129-30 [sẽ dẫn Nhượng Tống (1944)]; bản dịch Cao Huy Giu et al. (Hà Nội: 1967), I:90-2 [ghi là năm Kỷ Hợi (13/2/39-1/2/40) [sẽ dẫn Giu (1967)]; bản dịch Ngô Ðức Thọ et al (Hà Nội: 2009), I:183-86 [sẽ dẫn Thọ (2009)]; Ðại Việt Sử Ký Tiền Biên [ÐVSKTB], bản dịch Dương Thị The et al. (Hà Nội: 1997), Ngoại Kỷ, III:4, tr. 72-3;
       2. Lê Tắc, An Nam Chí Lược [ANCL], q. 4, “Tiền triều chinh thảo,” bản dịch Trần Kính Hịa et al. (Huế: Ðại Học Huế, 1961), tr. 92-3 [phần chữ Việt]. Sẽ dẫn: ANCL. Các sử quan Nguyễn viết “công hãm thành ấp, biên quận khổ chi;” [chú 1. supra] chỉ có Lê Tắc dùng chữ “công duyên quận ấp.”
Có người cho rằng “công duyên” phải hiểu là “công trị” vì chữ “trị” [trị sở] chép sai thành duyên [bên lề, lân cận, ven]–tức đánh phá trị sở châu quận, hay “tấn công trừng trị” [?].
A. Công: bộ Phộc, Thiều Chửu 255: đánh, vây đánh [một thành]; Việt-Hán tự điển; Huỳnh Minh Xuân [ HMX], tr. 122-24. Từ điển Thiều Chửu và Huỳnh Minh Xuân chỉ có Công hãm [bộ phụ; TC 737], hay thành hãm; không có chữ công duyên, hay “Công Trị.” KĐVSTGCM chép “công hãm châu trị,” tức công hãm chỗ đặt trị sở cai trị của châu; CMTB, II:9b-10a, Sài Gòn: 1967, II:176-79. Hậu Hán thư chép là “công phá.” [Xem chú 3, infra].
B. “Duyên” [bộ thủy=nước] là lân cận, ven, như duyên biên, duyên giang, duyên [hải], HMX, tr. 221; Thiều Chửu, 338. [e.g., duyên thủy nhi hạ = ven nước mà xuống]
C. “Công duyên:” Khĩ hiểu, và cĩ thể chép sai. Có thể suy đốn rằng đây là thói quen đời Tống và Nguyên, gọi Giao Chỉ thành Diên Chỉ, hay Duyên Hải. Kết luận có thể rút ra là chữ “duyên”—hầu như vô nghĩa hay viết sai ở đây—có thể hiểu là biên giới [biên] hay [duyên hải]. Nếu chữ duyên chép sai từ “trị,” [bộ Thủy, còn có âm là “trì”: sửa] [Thiều Chửu 337] chữ trị có thể hiểu là “trị sở.” [Ðại Việt Sử Ký Tồn Thư, III:2a, Thọ (2009), I:183-84 dịch theo ý này: đánh hãm trị sở ở châu]. Dịch chữ “nguyên” tức “trị” viết sai, với nghĩa thứ hai, “trừng phạt” có vẻ lủng củng, nếu không phải sai ý câu văn. Chúng tôi bỏ chữ “duyên” không dịch. Nên ghi thêm là khi dịch các bản viết ngoại ngữ, đừng tự động thêm hay sửa chữa chữ để hiểu theo ý mình.
3. Li Dao-yuan et al., Shui-ching chu [Thủy Kinh Chú, TKC], q. 37, Diệp Du Hà, tờ 62; Idem., Thủy Kinh Chú Sớ [TKCS] bản dịch Nguyễn Bá Mão (Hà Nội: 2004), ch 37, “Diệp Du Hà,” tr. 424-25; CM, TB II:9, (Sài Gòn: 1967), II:179; (Hà Nội: 1998), I:114; ÐVSK, NKTT, III:2a, Nhượng Tống (1944):129; Giu (1967), I:91; Thọ (2009), I:183; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4, 1997:72.
4. CM, TB II:9, (Hà Nội: 1998), I:114chú 1; Nguyễn Linh, “Bàn về nước Thục của Thục Phán.” NCLS, 124 (7/1969). tr. 48col 1; Henri Maspéro, Etudes d’histoire d’Annam. “Le Royaume de Van Lang;” Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême-Orient [BEFEO], XVIII, 3:4. Sẽ dẫn Maspéro, “Royaume.”
5. ÐVSK, NKTT, III:3a, Nhượng Tống (1944):131; Giu (1967), I:92; Thọ (2009), I:184; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4b-5b, 1997:73-4.
6. Lê Quí Ðôn, Vân [Văn] Ðài Luận Ngữ [VÐLN], bản dịch Phạm Vũ và Lê Hiền (Sài Gòn: 1973?), III: Khu Vũ Loại, số 85, tr. 168-69.
7. ANCL, q. 4, 1961:92 [chữ Việt]; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4b-5b, 1997:73-4; Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí [LTHCLC], bản dịch Viện Sử học, 3 tập (Hà Nội: NXB KHXH, 1992), q. 6, “Nhân Vật Chí,” 1992, 1:167.
8. TKCS, ch 37, “Diệp Du Hà,” Mão, 2004:425; Nguyễn Linh, NCLS, 124 (7/1969). tr. 48n1 [33-5]; TKCS, Mão, 2004:500, chú VI.
9. CMTB, III:10a, (Sài Gòn: 1970), tr. 178-79; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4b-5a, 1997:73.
10. Tiền Hán Thư, q. 7, 4b; dẫn trong Maspéro, “Etudes d’histoire d’Annam. III. La commanderie de Siang;” BEFEO, XVI (1916-1917), p. 52 [49-55]. Sẽ dẫn Maspéro, “Siang.” Từ Hải cũng chép Tượng Quận lập nên năm 214 TTL, bỏ năm 76 TTL; TKCS, Mão, 2004:366n1.
11. CM, TB III:5b-6a; (Sài Gòn 1970), III:22-5; (Hà Nội:1998), I:139; ÐVSKTB, Bản Kỷ [BK], IV:4b-5a, 1997:86-7; ÐVSK, NKTT, IV:2b, Thọ (2009), I:198;
12. “[1b] Thương Ngô vương Triệu Quang dữ Việt đồng tính, văn Hán binh chí [2a] hàng. Việt Quế Lâm giám Cư Ông dụ cáo Âu Lạc giai hàng. . . . Thị thì Việt trung nhị sứ tế ngưu bách đầu, tửu thiên chung, trí Giao Chỉ, Cửu Chân nhị quận [quân] hộ tịch nghinh hàng; Bác Ðức nhân bái [bài] nhị sứ vi Giao Chỉ, Cửu Chân thái thú, trị dân như cố. Ư thị toại thuộc Hán;” CMTB, II:1b-2a, 2b-4b, (Sài Gòn, 1967), II:146-47; (Hà Nội: 1998), I:106, 106n1. Sử Ký, q. 113, tờ 1b-2a; Maspéro, “Siang,” XVI, 1:53-4 [49-55]; Idem., “Van Lang;” XVIII, 3:2. TKCS, ch. 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004: 342-43, 346-349chú 1.
13. Tiền Hán Thư, q. 7, 4b; Ðỗ Hữu (735-812), Thông điển (Shanghai: 1935), q. 184, tờ 4b; Maspéro, “Siang,” 1916, 1:51, 52.
14. ANCL, q. 4, 1961:92; CM, TB, II:2a-4b, (Sài Gòn, 1967), II:146-57; (Hà Nội: 1998), I:106-7;  ÐVSKTB, 1997:67-9. Nhóm phiên dịch CM viện sử học (Hà Nội: 1998) chú thích rằng có lẽ sử quan Nguyễn dùng một bản TKC khác nên có dị biệt: (1) Dẫn Giao Chỉ Thành Ký thay vì Giao Châu Ngoại Vực Ký; và (2) chép “cập nhị quân dân hộ bạ hàng Lộ tướng quân,” thay vì “cập nhị quân dân hộ khẩu bạ nghệ Lộ tướng quân.” (Hà Nội: 1998), I:107n1. Theo Hậu Hán Thư, dân số Giao Chỉ, 92,440 hộ; 746,237 nhân khẩu; Cửu Chân, 35,784/166,013; Nhật Nam, 15,460/60,485; Ai Lao: 51,890/553,711 [năm 69]; Nguyễn Linh, “Thục Phán.” NCLS, 124 (7/1969), tr. 46-7, 48col 1 [33-5].
15. ÐNNTC, q. XXI, “Sơn Tây,” 1997, 4:188, 195-96, 220 [sông Hát], 224-25, 228, 235.
16. ÐVSK, NKTT, III:2b, Nhượng Tống (1944), tr. 130; Giu (1967), I:91; Thọ (2009), I:184; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:5b, 1997:74. CM, TB, II:10b, (Sài Gòn:1967), II:180-81; Vũ Ngự Chiêu, “Ðất đai Việt Nam mất vào tay Trung Hoa;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 105 (5-6/2009), tr. 5-32; Việt Nam Thời Báo (San Jose), số 5103, (Thứ Bảy-Chủ Nhật, 11-12/7/2009), & 5104, (Thứ Ba, 14/7/2009); Xem thêm, LTHCLC, q. 49, “Bang Giao Chí: Việc Biên Cương;” 1992, 3:275-95; Truong Buu Lam, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnam Relations, 1788-1790;” trong John King Fairbank (ed), The Chinese World Order: Traditional Chinese Foreign Relations (Cambridge, Mass: Harvard Univ Press, 1968), tr.165-79.
16 bis. CMTB, IV: 21b, 23a: (Sài Gòn: 1970), III:218-19 [Theo Ðường thư, năm 723 [hoặc 713-714], khi qua đánh Mai Thúc Loan, Tư Húc và Sở Khách tiến binh theo đường cũ của Mã Viện [Mã Viện cố đạo], 224-25.
Tân Ðường Thư, Bản Kỷ [của Âu Dương Tu [1007-1072] và Tống Kỳ (998-1061): Mai Thúc Loan; Cựu Ðường thư [của Lưu Hú, 887-946]: “Dương Tư Húc truyện;” Thông Giám: Mai Thúc Yên; ÐVSK, NKTT, V:4b, Thọ (2009), I:226, chú 1; CMTB, IV:21b: Quang Sở Khách; Hắc đế có 40 vạn quân. (Sài Gòn: 1970), III:218-19; (Hà Nội: 1998), I:187-89 [CM ngờ chi tiết này: Mai Hắc Ðế có thể chỉ giữ một châu, quan tướng Ðường phóng đại lên để lập công; 22a-23b, III:220-23]
17. Hậu Hán Thư, “Mã Viện truyện;” TKCS, Ch 37, “Diệp Du Hà;” Mão, 2004:429; ÐVSKTB, Ngoại kỷ, III: 5-6, 7b, 1997: 74-5, 75n6; Từ Hải, tr. 1500. [ÐVSK, NKTT, III:2b, Thọ (2009), I:184; Nhượng Tống (1944), tr. 130; Giu (1967), I:92; CM, TB II:11; (Sài Gòn 1967), II:183-85; (Hà Nội: 1998), I:115; Maspéro, “L’Expédition de Ma Yuan;” BEFEO, XVIII (1918), tr. 17; Claude Madrolle, Le Tonkin ancien, BEFEO, XXXVII, tr. 272-73, 274-75; Ðinh Văn Nhật, “Vùng Lãng Bạc về thời Hai Bà Trưng;” NCLS, số 155 (3-4/1974), tr. 22, 34 [15-35] [Tiên Du sơn, vùng trũng Bắc Ninh-Bắc Giang], & số 156 (5-6/1974), tr. 54 [44-59]; Idem., “Huyện Mê Linh của Hai Bà Trưng.” NCLS, số 172 (1-2/1977), tr. 24-43; Khổng Ðức Thiêm, “Từ sự tham gia của nhân dân Vũ Ninh vào cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng;” NCLS (Hà Nội), số 161 (3-4/1975), tr. 56-7 [54-9, 71-]
18. ÐVSK, NKTT, III:2b, Thọ (2009), I:184; Nhượng Tống (1944), tr. 130; Giu (1967), I: ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:5-6, 1997:74; CM, TB, II:11; [Sài Gòn 1967], II:183-85; (Hà Nội: 1998), I:115; ÐNNTC, q. XXI, “Sơn Tây,” 1997, 4:195-96, 224-25, 235.
19. ANCL, q. 4, 1961:93; ÐVSK, NKTT, III:2b, Nhượng Tống (1944), tr. 130,132n7; Giu (1967), I:92; Thọ (2009), I:184; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:5-6, 1997:74; CM, TB, II:11; (Sài Gòn 1967), II:183-85; 1998, I:115; ÐNNTC, q. XXI, “Sơn Tây,” 1997, 4:195-96, 224-25, 235; TKCS, ch 37, “Diệp Du Hà,” Mão, 2004: 424-25; Ðinh Văn Nhật, “ Ðất Cấm Khê, căn cứ cuối cùng của Hai Bà Trưng trong cuộc khởi nghĩa Mê-Linh năm 40-43;” NCLS, số 148 (1-2/1973), tr. 26-34, 41, & số 149 (3-4/1973), tr. 31-40 [Tân Xương ở hữu ngạn sông Hồng].
20. ÐVSK, NKTT, III:3, Thọ (2009), I:185; Nhượng Tống (1944), tr. 133; 1967, I:93; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:5-6, 1997:74; CM, TB II:12, 14; [Sài Gòn 1967], II:186-88), (Hà Nội: 1998), I:115-16, 118. ÐNNTC, q. XXI, “Sơn Tây,” 1997, 4:190, 220 [Sông Hát,], 4:235.
21. ANCL, q. 4, 1961:92; TKCS, ch 37, “Diệp Du Hà,” Mão, 2004:434-35; CMTB, II:11b, (Sài Gòn 1967), II:184-85. Thủy Kinh Chú, ch. 37, “Diệp Du Hà;” TKCS, ch. 37, “Diệp Du Hà;” Mão, 2004:425.
22. ANCL q. 4, 1961:92-3; ÐVSK, NKTT, III:3b, Thọ (2009), I:185; Nhượng Tống (1944), tr. 133; Giu (1967), I:93, 319n8;; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:8b, 1997:76; CM, TB II:12a-12b; (Sài Gòn, 1967), II:186-89; (Hà Nội: 1998), I:116; Ðào Duy Anh, “Les colonnnes de Bronze de Mã Viện;” Bulletin des Amis de Vieux Hué [BAVH], XXX, No. 4 (10-11/1943), p. 353 [349-60], [sẽ dẫn: ÐDA, 1943]; TKCS, ch 37, “Diệp Du Hà,” Mão, 2004:418, 420-21.
23. ÐVSKTB, Bản Kỷ, I:21, 31a; 1997:167-68, 177; ÐNNTC, q. XIX, “Bắc Ninh,” 1997, 4:91, 106; q. XXI, “Sơn Tây,” 1997, 4:224-5; CM, TB II:14-15; (Sài Gòn 1965), II:197-201; ÐVSK, NKTT, III:3b, Nhượng Tống (1944), tr. 130, 134; Giu (1967), I:93, 319n10; Thọ (2009), I:185; TKC, ch. 36, “Uất Thủy;” TKCS, ch. 36, “Uất Thủy,” & ch 37, “Diệp Du Hà,” Mão, 2004:362, 426-27, 428-29.
24. TKC, ch. 37, Diệp Du Hà; TKCS, ch 37, “Diệp Du Hà,” Mão, 2004:424-25; CMTB, II:11b, (Sài Gòn: 1967), II:184-85. Nguyễn Linh nghĩ rằng Tây Thục là “Ai Lao Di,” phía tây bắc cổ Việt; “Thục Phán.” NCLS, 124 (7/1969), tr. 46-7, 48col 1 [33-5].
25. ANCL, q.4, 1961:93; TKCS, Ch 37, “Diệp Du Hà;” Mão, 2004:475.
26. ANCL, q. 4, 1961:92-3 [phần chữ Việt]; Hậu Hán thư, “Mã Viện truyện” và “Lưu Long truyện;” LTHCLC, q. IV, Dư Ðịa Chí, 1992, 1:155; ÐNNTC, q. XIX, “Nghệ An,” 1997, 4:394.
27. Tạ Ngọc Liễn, “Chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc của đế quốc Trung Hoa phong kiến, và Chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc của bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh ngày nay;” Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội: 1979), tr. 170-71 [160-80]; Nghiên Cứu Lịch Sử [NCLS], số 2 [221] (1985), tr. 87; LTHCLC, q. VI, “Nhân Vật Chí,” 1992, I:187; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4b; 1997:73.
28. ÐVSK, NKTT, q. III, Nhượng Tống (1944)]; Giu (1967), I:90-2 [ghi là năm Kỷ Hợi (13/2/39-1/2/40); CM, TB, II:9, (Sài Gòn: 1967), II:179; (Hà Nội: 1998), I:144; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4, 1997:72-3; LTHCLC, q. VI, “Nhân Vật Chí,” 1992, 1:167-68.
29. TKC, ch. 36, “Uất Thủy,” tờ 36a; [dẫn Lưu Hân Kỳ, Giao Châu Ký]; Idem., TKCS, ch. 36, Mão, 2004:394-95; tóm lược tiểu sử Mã Viện, tự điển Từ Hải; dẫn trong CMTB, (Sài Gòn: 1967), II:181chú 1; Ðào Duy Anh, 1943: 350 [349-60].
30. ÐVSK, NKTT, III:4b-6a & IV:2b-3b, IV:8; Nhượng Tống (1944), tr. 136-37; Giu (1967), I:104-5, 113-14; Thọ (2009), I:186-88, 197-99, 204-5; ÐVSKTB, NK, IV:14a, IV:5-6a, 18,  1997:93, 96-7; CM, TB III:5-8a, 20a-21b, 27-29a (Sài Gòn: 1970), III:20-33, 108-17; (Hà Nội: 1998), I:139-42, 160-62; ANCL, q. 5, 1961:112-14, 148; q. 4, 1961:94; TKCS, ch 36, Uất Thủy; Mão, 2004:365-66, 384-85;
31. Sui shu [Tùy Thư], q. 53, “Lưu Phương truyện,” q. 82, “Nam Man truyện”]; dẫn trong ANCL, q. 4, 1961:95-6 [12 bài vị]; ÐVSK, NKTT, V:22a, Nhượng Tống (1944), tr. 240; Giu (1967), I:127-28; Thọ (2009), I:220-21; ÐVSKTB, 1997:114­-15; CM, TB, IV:14-16; (Sài Gòn 1970), III:190-97; (Hà Nội: 1998), I:180-82;
32. ANCL, q. IX, 1961:164, 165-66;  ÐVSK, NKTT, V:21b, Nhượng Tống (1944), tr. 271-72n6 [Mã Ðổng]; Giu (1967), I:93; II:39; Thọ (2009), I:222-23; CM, TB, IV: 28-29, 30-31; (Sài Gòn: 1970), III: 246-49, 254-57; (Hà Nội: 1998), I:191-92 [Mã Tổng], 194, 195; LTHCLC, q. I, “Dư Ðịa Chí,” 1992, I:29; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, VI:10-1; Bản Kỷ, V:46b, 1997:124, 353.
33. ANCL, q. 5, 1961:115-16 [trích Tống Sử]; ÐVSK, BKTT, I:10a-12a, Giu (1967), I:162-63; Thọ (2009), I:263-65; ÐVSKTB, Bản Kỷ, I:15, 1997:162-63; LTHCLC, “Bang Giao Chí,” 1992, 3:276; CM, CB I:16, (Hà Nội: 1998), I:250-51. Xem thêm lời phê của Triệu Quang Nghĩa trên tờ trình của Ðặng Tích về việc bãi binh, sau khi quân Tống thua trận. Hầu Nhân Bảo bị giết.
34. ÐVSK, NKTT, III:3b, V:33a, 60a, Giu (1967), I:93, II:39, 68; Thọ (2009), I:185; Lâu (2009), II:47, 83; ÐVSKTB, Bản kỷ, V:46a, 1997:352 [ghi tháng 11 Tân Mùi]; CM, TB, II:12a-14a; VII:14, VIII:17; (Sài Gòn: 1967), II:186-87, 188-95; (Hà Nội: 1998), I:500, 544. LTHCLC, Bang Giao Chí, q. 49, III:280. Xem “Hành lục” của Trương Lập Ðạo; ANCL, q. 3, 1961:71-5 & q. 5, “Ðại Nguyên Danh Thần Vãng Phục Thơ Văn;” 1961:102-3 [101-3]; Vũ Ngự Chiêu, “Nhìn Lại Mùa Xuân Khói Lửa 1789;” Hợp Lưu 112 (1-2/2011), tr. 5-35; website [hopluu.net], tháng 2/2010.
35. ÐVSK, BKTT, VII:13a, Lâu (2009), II:162; Giu (1967), II:136; ÐVSKTB, Bản kỷ, VII:15b, 1997:442; LTHCLC, q. 49, 1992, 3:281; CM, CB, IX:46; (Hà Nội: 1998), I:619)]
36. ÐVSK, BKTT, VIII:47b-48a, Giu (1967), II:219; Hoàng Văn Lâu (2009), II:262; CM, CB XII:7; (Hà Nội:1998), I:720-21; ÐVSKTB, 1997:518. Phan Huy Chú nhận định: “Cái tội bán đất của Hồ Quí Ly dù giết cũng chưa hết tội;” LTHCLC, q. 49, 1992, 3:281. Xem, Vũ Ngự Chiêu, “Nhìn Lại Hoàng Sa;” Hợp Lưu, Xuân Canh Dần, số 108 (1-2/2010), tr. 10-11 [5-27].
37. ÐVSK, BKTT, VIII:50a-54a, 43-61; Lâu (2009), II:265-70, 349-70; Giu (1967), LTHCLC, q. 46-49, “Bang Giao Chí,” 1992, III:222, 224. ÐVSKTB, BK X:32, 51a-56a, 1967:548, 562-64.
38. Thông sử, 1978:69, 71-2, 79, 91-2; LTHCLC, q. 46, 1992, III:192-95 [hai tờ biểu này được tu chỉnh lại theo Quân Trung Tứ Mệnh Tập, in trong Ức Trai Di Tập]; 192n1, 195-97; ÐVSK, BKTT, X:44b-47a, 52a, 57a, XI:35a, 73a, Lâu (2009), 2:351-53, 360, 366, 381-82, 421; ÐVSKTB, BK, X: 51a-52a, 1997:563; CMCB, XIV:22-24, 26; XIV:1, XV:12, 29; (Hà Nội: 1998), I:823-25, 827, 831, 834-35, 843, 862-63 [việc tìm con gái vua đã bị bắt làm đầy tớ không có kết quả. Nhà Minh nói cô gái đã chết vì bệnh đậu mùa].
39. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:394-95 [Mã Lưu].
40. TKC, q. 36, 36a; Ðào Duy Anh, 1943:350 [349-360]; TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395; [Ngô Lục của Trương Bột],
41. Dẫn trong ANCL; Cương Mục TB I:11b, II:13b; (Sài Gòn, 1967), II:50-1 [Chu Khứ Phi],. Maspéro cho rằng Tượng Quận đời Tần nằm trong lãnh thổ Hoa Nam hiện nay.
42. Dẫn trong CM, TB II:12b-14a; (Sài Gòn, 1967), II:188-95 [192-193:“Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.”]; (Hà Nội: 1998), I:116-18. TKCS, Bk 36, “Uất Thủy,” p. 36a; Mão, 2004:394-95]; LTHCLC, “Dư Ðịa Chí,” q. I, 1992, I:29.
43. ÐNNTC, q. XVIII, “Quảng Yên,”1997, 4:8.
44. Lê Quí Ðôn, VÐLN, q. III, “Khu Vũ Loại,” số 62, 1973:145-46; số 52, tr. 135-6. ÐNNTC, q. XXIV, “Lạng Sơn,” 1997, 4:387; LTHCLC, “Dư Ðịa Chí,” q. I,1992, I:29; “Bang Giao Chí,” q. 49, III:291-92; Ðại Nam Thực Lục Chính Biên [ÐNTLCB], I, 3:157-58; Bửu Cầm, tr. 108. Có thuyết cho rằng Quỉ Môn Quan ở xã Quang Lang [Chi Lăng], phía nam Châu Ôn, Lạng Sơn. Theo Lê Quí Ðôn, [Khi tiến đánh hai Bà Trưng, Viện dùng đường biển và đi men theo biển].
45. TKC, q. 36, tr. 36a; ÐDA, 1943:350; TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:394-95. Xem thêm chú 37. (Dẫn ANCL, q. 10; TKCS, ch 36, Mão, 2004:386-87 [đáng nhớ nhất là cây cau].
46. Sui shu [Tùy Thư], q. 82, “Nam Man truyện”; dẫn trong ANCL, q. 4, 1961:95-6; ÐVSK, NKTT, V, Giu (1967), I:127-28; ÐVSKTB, NK, VI:1-2b; 1997:114-15; CM, TB, IV:14-16; (Sài Gòn: 1970), III:190-97; (Hà Nội: 1998), I:180-82 [dẫn Tùy Thư, q. 53, “Lưu Phương truyện”]; ÐNCBLT, q. 33, 1993:608; Claeys, 1934:27; Cadière, 1931: 93.
47. ÐNNTC, q.V, “Nghệ An”, 1997, 2:158; Ðào Duy Anh, 1943:358 [349-60] .
48. Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ; TKCS, ch 36, “Uất Thủy, 2004:363-64, 394-95 [Tuong Pho].
49. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:363-64; ÐVSK, NKTT, III, 1967, I:99-100, 320n22; CM, TB II: 6a, 27, (Sài Gòn, 1967), II: 162-63, 246-49; (Hà Nội: 1998), I:110 [Nhan Sư Cổ], 129-130 [Trương Trọng]. Theo Sử quan Tây Sơn, chuyện này xảy ra vào đời Tư Mã Thiệu (Tấn Minh Ðế, 323-325); ÐVSKTB, NK, III:15b-16a;1997:82 [Phạm Thái (355-428), cha Phạm Việp (398-446), đời Lưu Tống chép truyện Trương Trọng và Lưu Trang, đo bóng mặt trời ở Khu Túc, trong Cổ Kim Thiện Ngôn; TKCS, ch 36, “Uất Thủy, Mão, 2004:363] Theo Thông Ðiển, tháng 5 ở Lâm Ấp, bóng cây nêu ở phía nam là 9 tấc 1 phân. TKCS, ch 36, “Uất Thủy, Mão, 2004:363] ANCL, q. 15
50. Lâm Ấp truyện; dẫn trong Tề thư; TKCS, ch 36, Mão, 2004:363, 373.; CM, TB, II:5b-6a, (Sài Gòn, 1967), II:160-63; (Ha Noi:1998), I:110.
51. Lê Quí Ðôn, VÐLN, q. 2, “Hình tượng loại: số 15 [1-38], số 16 [1-38], 1973:79-81, 81-5 [Ðàn Hòa Chi và Tông Xác, tháng 5 dựng cây nêu, mặt trời ở phía bắc; năm 724, đời Ðường, ở Giao Châu cũng vậy. [Dương Tư Húc và Quang [Nguyên] Sở Khách] đánh Mai Thúc Loan, bóng mặt trời ngày Hạ Chí ở Giao Châu, phía nam cây nêu ba tấc, ba phân]; ÐVSK, NKTT, V:4b & IV:11a, Nhượng Tống (1944), tr. 154, 200-2 [Ðàn Hòa Chi], 244-45 [Dương Tư Húc và Nguyên Sở Khách]; Thọ (2009), I:208 [năm 436, Ðàn Hòa Chi], 226 [năm 722, Tân Ðường Thư, Mai Thúc Loan; Cựu Ðường thư, “Dương Tư Húc truyện,” Mai Lập Thành, Quang Sở Khách; Tư Trị Thông Giám, Mai Thúc Yên]; Giu (1967), I:113-14 [Ðàn Hòa Chi], 130 [Dương Tư Húc và đô hộ Nguyên [Quang] Sở Khách] đánh Mai Thúc Loan; đo bóng mặt trời]; CM, TB, III:27a-29a, IV:21b-23b, (Sài Gòn: 1970), III:108-117 [năm 446, Ðàn Hòa Chi, đạo Ni Kiền, theo Tống Thư [29a], 218-27 [năm 711, Dương Tư Húc và Quang Sở Khách đánh Mai Thúc Loan; đo bóng mặt trời];
52. ÐVSK, TTNK, III, Giu (1967), I:99-100, 320n22); CM, TB II:27; (Sài Gòn, 1967), II:246-49; [Theo Trương Bửu Lâm, Từ Hải chép rằng tác giả Lĩnh Nam di thư là Ngũ Sùng Diệu, không phải Âu Ðại Nhâm. (Ibid., II:47,chú 1)]; TKC, Bk 36, p. 36a; ÐDA, 1943:350; TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:394-95.
53. Ibid.
54. TKC, Bk 36, “Uất Thủy,” p. 36a; ÐDA, 1943:351; TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395.
55. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395; ÐDA, 1943:350;
56. Dẫn trong Ðại Thanh Nhất Thống Chí; CM, TB II:12b-14a; (Sài Gòn, 1967), II:188-95; (Hà Nội: 1998), I:116-18.
57. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395. Chỗ này có thể là núi Ðá Bia [Rocher Stèlé] (Ðèo Cả), phía Nam Ðà Rằng hay Ðà Lang (Tuy Hòa) [50 km], Phú Yên; ÐDA, 1943:352; L. Sogny, “Noutelletes;” BAVH, XXIV, 1937, 71-2 [báo cáo về núi Ðá Bia ở đèo Varella (Ðèo Cả)], 73-7.
53. Ibid.
54. TKC, Bk 36, “Uất Thủy,” p. 36a; ÐDA, 1943:351; TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395.
55. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395; ÐDA, 1943:350;
56. Dẫn trong Ðại Thanh Nhất Thống Chí; CM, TB II:12b-14a; (Sài Gòn, 1967), II:188-95; (Hà Nội: 1998), I:116-18.
57. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395. Chỗ này có thể là núi Ðá Bia [Rocher Stèlé] (Ðèo Cả), phía Nam Ðà Rằng hay Ðà Lang (Tuy Hòa) [50 km], Phú Yên; ÐDA, 1943:352; L. Sogny, “Noutelletes;” BAVH, XXIV, 1937, 71-2 [báo cáo về núi Ðá Bia ở đèo Varella (Ðèo Cả)], 73-7.
58. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395.
58. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395.
59. Ibid.
60. CM, TB I:6-7; (Sài Gòn: 1965), II:31-3.
61. TKCS, ch 36, “Uất Thủy,” Mão, 2004:395-96.
62. Lê Quí Ðôn, VÐLN, III, “Khu Vũ Loại,” số 52, tr. 135-36; CMTB, II:13a, (Sài Gòn: 1967), II:190-91;
63. Tân Ðường Thư; CMTB, II:13a, (Sài Gòn: 1967), II:190-91; Lê Quí Ðôn, VÐLN, III, “Khu Vũ Loại,” số 52, 1973: 135; LTHCLC, q. I, “Dư Ðịa Chí,” 1992, I;29.
64. Ibid.; LTHCLC, q. I, “Dư Ðịa Chí,” 1992, I;29.
65. ÐVSK, NKTT, III:3b, Thọ (2009), I:185; Giu (1967), I:93; CM, TB II:12a-12b; (Sài Gòn, 1967), II:186-89; (Hà Nội: 1998), I:116; ÐNNTC, q.V: “Nghệ An” [núi Hùng Sơn], XVIII, “Quảng Yên,”1997, 2:158; 4:8 [Nguyễn Thiên Túng]).
66. Jean Yves Claeys, “Introduction à l’étude de l’Annam et Champa.” BAVH, XXI, 1-2 (Jan-Juin 1934), p. 27 [1-144] [ở Nham Biều, bờ Nam sông Hương, Huế]; H. Le Breton, “Le Vieux An Tịnh;” (suite) BAVH, XXII, No. 2 (4-6/1935), pp. 195, 204 [191-235].; Cadière, 1931: 93.
67. Maspéro, “L’expédition de Ma Vien;” BEFEO, XVIII, 3 (1918), pp. 25-6.
68. Xem, Nimrod Baranovitch, “Others No More: The Changing Representation of Non-Han Peoples in Chinese History Textbooks, 1951-2003;” Journal of Asian Studies, Vol 69, No. 1 (Feb 2010), pp. 85-112.
69. ANCL, q. II, 1961:64.
70. Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950-1975 [Trung Hoa và những cuộc chiến Việt Nam, 1950-1975] (Chapel Hill: North Carolina Press, 2000). Xem thêm, La Chine et le Monde [Trung Hoa và Thế Giới] (Beijing: Beijing Information, 1982), No. 1, tr. 51-4, 63 [49-78], 115-19 [102-41];
71. CHXHCNVN, Bộ Ngoại Giao, Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà Nội: Sự Thật, 4/10/1979), tr. 24; [Sách Trắng]; S. Yurkov, Asia in Peking’s Plans (Moscow: Politizdat Publishers, 1981) [X. G. Iu-Rơ-Côp, Châu Á trong các kế hoạch của Bắc Kinh (Hà Nội: NXB Sự Thật, 1984)], trong Tủ sách “Chủ Nghĩa Mao–Một Nguy Cơ Với Loài Người];
72. Vũ Ngự Chiêu, “Nhìn Lại Hoàng Sa;” Hợp Lưu Magazine (Fountain Valley, CA), No. 108 (tháng 1-2/2010), tr. 5-25; LTHCLC, q. 49, “Bang Giao Chí: Việc Biên Cương;” 1992, 3:275-95.
73. Trường Chinh, “Nhân Dân Việt Nam kiên quyết đánh bại mọi mưu mô xâm lược của chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc;” “Xã luận” Tạp chí Cộng Sản [TCCS], 3/1982, trích đăng trong Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc (Hà Nội: 1982), tr. 33-55; UBKHXHVN [nhiều tác giả], Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội: KHXH, 1979); Xiaoming Zhang [Trương Tiểu Minh], “China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment;” The China Quarterly, Volume 184, Dec 2005, pp 851-74.


SƯU TẦM

Không có nhận xét nào: