Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

Đất núi Mường Khương - Trần Hữu Tòng

Người anh em cùng dòng họ

Trời nhá nhem. Đường vảo bản mờ mờ sương bay, rừng núi bốn bên mờ mờ sương phủ. Lạnh. Hơi lạnh trong sương, hơi lạnh từ các chòm cỏ ngải, hơi lạnh từ lớp lá ẩm và hơi lạnh như cả trong ánh sáng mờ yếu ớt còn sót lại giữa cánh rừng thưa lan ra. Những cây lê đầu bản Thải Giàng Sán khẳng khiu trụi lá nom như những bó chông nhọn nhô cao trong bầu trời xám xỉn.

Một người đàn ông nép mình trong đám cỏ rậm sát đường biên giới. Hắn ta mặc áo đen, xắc vải đen quàng chéo qua vai. Hắn nhìn ngó bốn bên. Hai con mắt của hắn như hai vết chém trên khuôn mặt dày nung núc thịt, trúng triếng. Thấy bốn bên vắng lặng, hắn nhỏm dậy. Theo con đường mòn, hắn đi nhanh vào bản.

Bản H’mông Thải Giàng Sán, tiếng H'mông có nghĩa là bản Mặt Trời Mọc. Bản ở trên sườn núi phía đông. Phía mà mỗi buổi sớm khi hừng đông thức dậy thì hắt lên trời những rẻ quạt lớn như báo cho dân bản biết hôm nay trời nắng ấm và như bàn tay khổng lồ vẫy gọi dân bản đi làm nương, đi phát rẫy. Mỗi buổi sáng bà con người H’mông các bản xung quanh thường có thói quen nhìn về phía đó. Phía đó nắng đến sớm hơn. Khi mà các bản ở lũng núi chưa nhìn thấy mặt trời thì bản Thải Giàng Sán đã rực rỡ nắng vàng. Có được cảnh đẹp núi quấn mây trời và chan hoà ánh nắng, mùa xuân lê, táo, mận nở tắng mái đồi như bản Mặt Trời Mọc ở trên dãy núi Hoàng Liên già nùa này là điều hiếm hoi. Theo các nhà địa chất thì dãy núi Hoàng Liên thuộc vào loại núi già. Nó có cách đây hơn hai ngàn triệu năm. Các ngọn núi bị gió, mưa, bão, tuyết bào mòn nên đỉnh núi còn trơ đá. Và có độ cao nhỏ, trông như các mũi chông nhọn khổng lồ. Các lũng núi rộng và cạn bởi bị lấp dần những vật liệu vụn lở từ đỉnh núi nát ra nuớc mưa dồn xuống. Bởi vậy sườn núi thoải hơn, cây cối thường cằn cỗi. “Đá ngồi, đá nằm” xếp trơ trọi trên lớp sỏi cơm nguội và đất đỏ ba dan.

Giờ đây bản H'mông chìm trong lớp mây chiều. Rồi ánh lửa các bếp lọt qua kẽ lớp ván gỗ thông, qua tường đất dày hắt ra bìa rừng những tia sáng đứng như kẻ dọc. Người đàn ông đã quen thuộc các lối đi lại và biết rõ từng nhà trong bản, hắn đi thẳng đến nhà ông Giàng Tả Páo. Hắn ghé mắt qua khe cua nhìn vào. Bếp lửa rực cháy. Những thanh củi gỗ thông sa mu thông bắt lửa, nổ lép bép. Bên bếp, ông Giàng Tả Páo đang ngồi hút thuốc. Đứa con trai nhỏ của ông là Giàng Tả Hoà đang chơi với con chim cứ cư (như gà gô) nhốt trong chiếc lồng tre. Trên dàn bếp treo lơ lửng những xúc thịt lợn, chân lợn đã ướp muối và rắc lớp bột thảo quả. Điều đó chứng tỏ nhà ông Giàng Tả Páo đã mổ lợn và mùa làm khách (mùa ăn tết) của bản H'mông đã đến. Thỉnh thoảng mỡ từ các súc thịt rỏ vào bếp lửa đang cháy làm cho ngọn lửa reo bùng lên phát ra tiếng nổ lách tách. Người đàn ông gõ cửa, ông Giàng Tả Páo nhìn ra.

-Ai đó, vào nhà đi mà!

Người đàn ông xô cánh cửa bước vào. Một luồng gió lạnh lùa cả mùi phân trâu, phân ngựa vào theo.

-Ông Páo à. Ông có nhớ tôi nữa không! Người anh em cùng họ Giàng ta cả đây mà-Người đàn ông cười toét miệng đi vào phia bếp lửa.

Theo thói quen của người H'mông, mới gặp nhau mà đã tự nhận cùng họ với nhau là quí lắm, là đã co như dòng máu trong người đã cùng chung một ông tổ, là anh em thân thiết rồi. Ông Páo đứng dậy đón người anh em ngồi xuống ghế để bên bếp lửa. Ông Páo nhìn kỹ người lạ mặt. Qua ánh lửa ông ngờ ngợ đã quen, đã gặp người này ở đâu rồi. Đâu từ hồi ông còn trẻ thì phải. Bởi ông Páo nhớ nhất ở hắn có cái mặt đầy núng núc những thịt và hai con mắt thì nhỏ và hum húp. Ông Páo cười thểu thả:

-Ôi, mày đi lâu lắm rồi, mày có như con nai quên mùa măng sớm không mà mày quên lối rừng này không tới.

-Họ Giàng ta thường hẹn gặp nhau cuối tháng trâu, đầu tháng hổ (cuối tháng 11 đầu tháng chạp, mùa người H'mông ăn tết) tìm về với nhau là điều lành đó ông Páo à.

-Mày ngồi đây uống chung bát rượu với tao. Họ Giàng ta to lắm! Người nhiều như cây thông sa mu trên núi cao, như trời đông nhiều mây, trời tây nhiều sao là mừng vui lắm. Ta đi khắp chân trời vàng, khắp chân trời xanh vẫn còn gặp người họ Giàng đó.

Ông Páo rót rượu đầy bát đưa cho người anh em cùng họ uống trước.

Hắn bưng bát rượu từ tay ông Páo. Hắn nói câu thề:

-Ngày ta hẹn đã mòn, tháng ta chờ đã cạn. Ta đã gặp nhau rồi. Ông tổ họ Giàng ta vững như cây lim đầu bến nước, đã là anh em ngày vui phải tìm đến nhau, lúc khốn khó phải giúp nhau. Nếu phản nhau thì chết đen như ngón, chết bầm như vang, chết vàng như nghệ! Hắn uống ừng ực.

Ông Páo để ý nhìn hắn. Hắn bưng bát rượu nhưng con mắt đen ngòm của hắn cứ quằm quặm nhìn ông, nhìn ra xung quanh. Trong giây lát đó lớp tro nguội của thời gian như được gạt đi, đốm than hồng cháy rực lại. Ông Páo đã nhớ ra hắn rồi. Đúng là hắn rồi. Đúng hắn là đứa giết người một trăm đã băm người một nghìn rồi. Năm ấy, năm thằng phỉ chột mắt Chấu Quang Lồ nổi lên ở đất Pha Long này. Người H'mông đã nói “một thằng chột bằng mười một thằng ác” thì thằng này dân gọi hắn bằng cái tên gớm ghiếc là “thằng mõm dài, tai rộng” đã cầm súng đi bắt người. Ngày đó hắn mặc quần áo vàng, quấn xà cạp vàng, đeo súng pạc-hoọc bên hông. Hắn và thằng Chấu Quang Lồ nốc rượu xèo ngâm tắc kè. Cái mặt chúng đỏ gay như mào gà sống chọi, hắn treo ngược người H'mông, người Kinh, người Nùng… lên cành lê đầu bản Thải Giàng Sán này, thi nhau bắn. Cây lê đầu bản năm năm sau vẫn còn héo hon. Mưa tháng ba, tuyết tháng chạp không trôi hết vết máu thâm bầm ở cành, ở gốc. Bảy năm sau cành lê mới ra được lộc. Tám năm sau càng lê mới đơm hoa và “bói” lại quả mùa đầu… Rồi việc giết người ở bản Nàn Tử nữa. Bọn chúng bắt người H'mông, người Kinh, người Nùng về đó giết. Bọn chúng lập ổ phỉ đón rừng, ngăn suối ở đó. Những người đã đến đó ít ai sống sót. Từ đó người H'mông ở Pha Long này đặt tên con suối là Nàn Tử Hồ (tức là con suối chết, đi dến đó không có về). Ngày bộ đội cụ Hồ vào diệt phỉ hắn bỏ chạy về bên Sẻo Thầu Trung Quốc. Biền biệt từ đó, ông cứ tưởng hắn đã chết thối lúa, chết úa cỏ ra rồi. Ai ngờ nay hắn lại trở về đây. Mà hình như ông Páo mang máng nhớ rằng hắn là người Hán chứ có phải người H'mông, có phải người cùng họ Giàng với ta đâu, hắn ngồi uống rượu với ông Páo. Hắn nói chuyện với ông nhưng mắt hắn vẫn liếc nhìn con chim cứ cư nhảy nhót trong chiếc lồng tre và để ý đến Giàng Tả Hoà đang chơi với nó. Trong con mắt đen ngòm nhìn quằm quặm của hắn như vừa loé lên một ý thâm hiểm.

Ông Páo hỏi hắn là từ đâu về bản Thải Giàng Sán này. Hắn không dấu diếm, hắn nói với ông là hắn ở bên kia biên giới, ở Mã Quan. Ở Xeo Pà Chư sang. Hắn sang tìm gặp ông Páo bàn việc trọng với ông. Theo hắn nói thì việc này hệ trọng lắm, việc có thể làm cho máu người bản trên chảy, đầu người bản dưới rơi, việc mà tay không còn vắt đá ra ngô được, không còn nặn ruột ra con được nữa. Hắn bảo hắn chỉ bàn với ông Páo thôi vì ông Páo là người già ở bản này. Ông nói, dân bản đều nghe. Hắn nhìn thẳng và mặt Páo. Hắn nói với ông, giọng hắn, ông Páo có cảm tưởng nghe êm ngọt như hạt ngô ngậm sữa nhưng lại độc như có lá ngón vàng ở trong.

Ông Páo à, ông có nhớ người H'mông ta từ đâu đến ở trên đất núi Hoàng Liên này không? Người H'mông ta, ông Páo à khi chết còn chôn đầu quay về phương Bắc đó, tức là quay về nơi cội nguồn của người H'mông mà! Ta không phải là người Việt Nam. Ta là người của nước “Trung Hoa vĩ đại”. Người H'mông ta có vua. Người H'mông ta không chung vua với người Kinh được. Ông Páo có nghe không, mùa sấm mới vừa rồi vua ta mới hiện ở phương bắc đó. Vua H'mông hiện cùng với vua Giáy nữa mà. Vua gọi người H'mông về với “tổ quốc vĩ đại” giúp “tổ quốc vĩ đại”. Và ở nơi nào có người ở, nơi đó là đất của vua, đất của “tổ quốc Trung Hoa vĩ đại” đó, ông Páo à…

Ông Páo ngồi im. Ông nhìn ngọn lửa bên thanh củi gỗ thông. Giọng người anh em cùng họ vẫn đều đều:

-Vua sẽ phái quân chinh phạt để giết hết những người không về theo vua. Người H'mông sẽ phải rán mỡ lên nếu cầm súng Việt Nam chống lại “đại quân” của vua.

Hắn nói với ông Páo nghĩ gì về những lời hắn nói. Hắn hỏi ông Páo về những người hắn quen trước nay ở đâu. Hắn hỏi Vàng Seo Hồng mãn hạn tù được về có phải ở bản Lao Táo không.

Ông Páo cầm que cời để ngọn lửa đỏ thêm. Ông nói chậm rãi:

-Nước chảy được thì cứ chảy, núi không chảy được thì núi đứng. Nước đừng bắt núi chảy theo mà!

Hắn nhìn ông Páo gườm gườm. Nói một tiếng con mắt đen ngòm của hắn gườm ông một lần, nói hai tiếng con mắt hắn trợn trừng nhìn ông hai lần:

-Ông Páo à, cùng họ Giàng cả, ta gắn bó với nhau như ong chung một tổ, như chuối chung một buồng mà. Tôi nói để ông biết, người H'mông chống lại vua thì chỉ như lấy cỏ dại chống trời, như đưa tàn lửa mong đun nước cả sông Na Hờ mà thôi! Ta có như con ve đâu mà lột được xác. Ở Sa Pa, ở Bát Xát, ở Mường Khương, Y Tý, Xín Mã Cái… Người H'mông đã nghe lời vua cả rồi đó-Hắn cười gằn.

Ông Páo nghĩ, thế là hắn đã đổ nước ớt, tát nước kiệu vào tai ông rồi. Ông suy nghĩ đi nát gan, ông nghĩ lại đứt sức. Đêm đã khuya: Đôi chim chóp chóp kêu gióng giả ngoài rừng. Gà đầu bản gáy canh ba mời hai tiếng, giục canh tư mười tám lượt. Ông Páo bảo hắn ngủ đi mai ăn thị gà rồi “tính xương gà” (như người Kinh xem bói) và bàn nữa. Hắn nói với ông Páo:

-Tai tôi, tai người họ Giàng ta không muốn nghe những lời của người anh em chung dòng máu nhạt như nước mía non đâu ông Páo à!

Nằm bên cạnh bếp, mùi củi thông cháy, mùi thịt lợn ướp, mùi thảo quả ấm cúng và quen thuộc, nhưng ông Páo vẫn không ngủ. Ông Páo cứ nghĩa: Người H'mông đã có câu: com chim nồng chay hót hay ở lành, núi H'mông nhuộm cho nó màu lông xanh vằn vằng, quả rừng sơn cho nó cái mỏ đỏ chót (loài chim ăn quả sơn) để người H'mông ngồi nghe nó hót. Còn con cáo vẫn ác độc thì phải cắt lưỡi nó đi… Ôi rừng Hoàng Liên cho người H'mông nhìn bề ngoài để biết được củ ấu rừng khác củ bạch truật mà sao lại không để dấu vết gì bề ngoài để ta phân biệt được kẻ xấu với người tốt. Người H'mông ở đất Hoàng Liên này đã một thời khổ như kiếp châu chấu, dế mèn rúc trong chòm cỏ ngải. Ấy là lúc phỉ Chấu Quang Lồ nổi lên, phỉ Hản Xừ Lùng nổi lên. Chúng coi người như cái chổi cùn vun quén cho nhà chúng nó, như cành thông có gai rào quanh nương nhà nó. Chúng cướp ngựa dân đang cưỡi, cướp lợn trong chuồng, cướp vợ người ta trong chăm ấm. Người H'mông nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Cụ Hồ làm ăn với nhau vui như đàn ong chung xây từng mật ngọt. Chúng lại về phá. Người H'mông ngàn năm nay đã nặng thù vơi Hán ác độc, tham lam. Ông Páo đã nghe kể về chúng. Chúng luôn muốn cho vườn nhà chúng to ra, bản của chúng lớn hơn, nước của chúng rộng hơn. Chúng đi ăn cướp! Chúng đã cướp của người H'mông, đuổi người đến vùng đất núi phía Nam này. Nghĩ tới lời ông bà kể cứ như có hòn đá to đè trên ngực. Chúng nó đã đuổi người H'mông, bỏ đất tổ tiên mang túi lanh chạy chân đất vượt khe nhịn đói say nắng lên tận trên núi cao nghi ngút này. Giờ đây hàng năm bản H'mông còn giữ tục “cấm cửa” để nhớ lấy mối thù đó. Ngày đó, dân giết lợn cùng những người đã bị người Hán ác độc đuổi đòi giết chết. Ngày đó cả bản không ai được nói tiếng Hán, ngày đó những người con gái, người đã giữ nòi giống người H'mông không được bước qua cửa đi ra ngoài. Người H'mông phải đi đòi xương của cha, đòi máu của mẹ. Mối thù ấy máu đã nhập tim rừng lim cũng nhỏ! Giờ chúng lại nói vua hiện bên ấy. Người H'mông phải về bên ấy, phải làm theo đúng lời vua, phải chống lại Việt Nam thì có khác nào con cáo dỗ bầy gà con ra rừng cho ăn hoa cỏ! Người H'mông mình không phải là loại người ăn cá quăng cơm, ăn chim bỏ nỏ. Người H'mông là người Việt Nam, là anh em với người Kinh, người Nùng, người Giáy… Ơn Đảng, ơn của Cụ Hồ đối với người H'mông như hương thảo quả của bốn mùa thơm lừng đất núi, như cây thông sa mu xanh tươi trên đất Hoàng Liên này. Gỗ cây thông dù ở trên đầu núi, dù ngâm dưới dưới suối sâu hay đưa về làm cột nhà, lòng gỗ vẫn hồng tươi, cũng như lòng người H'mông dù ở đâu, dù lúc khốn khó nào cũng hướng về Đảngg, cũng nghĩ đến cụ Hồ..! Người “anh em cùng họ” vẫn thức. Hắn nằm im. Hắn nghĩ đến thằng bé con ông Páo, thằng bé có cái mũi thẳng, đôi mắt sáng và cái trán vát, với con chim cứu cư (com chim giống con gà gô) hót hay kia. Hắn nghĩ tới bà chủ Trịnh Bảo Ngọc phán bảo: “Con sâu khôn chỉ tìm ăn mầm, nó không ăn lá già. Và, người đi săn giỏi phải biết dùng con chó của mình. Con chó già thì bắt mùi nhạy, sủa vang, cắn xé và gặm xương giỏi nhưng không còn sống lâu, sức đã gần đứt chạy một khắc lên dốc, lông đã ướt đẫm mồ hôi! Nên ta phải tìm, phải biết luyện những con chó non. Nó sắc răng và hăng hơn, sống lâu hơn, dễ dạy được nhiều trò hơn! Ai nắm được người H'mông ở vùng núi Hoàng Liên này thì người ấy sẽ thắng cuộc (!) Muốn đạt được mục tiêu lâu dài đó, ta phải chọn nhiều, tìm nhiều chó H'mông non để huấn luyện cho giỏi!”. Thằng bé kia có phải một con chó non không? Còn ông già Páo này nửa cứ ỡm ờ như một con ốc rờ râm bò đi không biết bò lại. Điều đó đã có cái này… Hắn sờ vào túi vải đen đeo chặt trong người, Khẩu K54 cồm cộm đã lên đạn. Cái cành lê năm xưa ở Pha Long đang còn đó. Con suối Nàn Tử Hồ đang còn đó… lão đi đâu…

Sáng sớm, ông Páo sách cái bẫy đi ra bìa rừng. Ông dặn người anh em cùng họ:

-Buổi sớm miệng ta nói điều gì cũng lành, tay ta làm điều gì cũng khéo. Ta sẽ đi bắt cho được con gà to nhất rừng Thải Giàng Sán này về đãi người anh em mới thoả. Hắn nhìn theo ông Páo. Biết ông Páo đi ra phía rừng biên giới không đi về phía Pha Long, nơi có đồn biên phòng, hắn yên bụng lắm!

Bên bếp lửa, hắn ngồi nói chuyện với Giàng Tả Hoà. Hoà vẫn đùa với con chim cứ cư. Con chim có lông màu xám biếc pha đốm vàng, cái mỏ hồng tươi và tiếng kêu rủ rỉ ngọt ngào như quả đào chín bói. Hoà yêu nó. Đêm lạnh, em đưa nó vào sưởi ấm bên bếp lửa. Ngày Hoà treo ở cành lê trước nhà để nó ngắm bản H'mông dang mùa hoa lê nở đẹp. Khong phải chỉ có Hoà mà người cả bản đều yêu con chim cứ cư. Vì nó là tượng trưng cho mọi điều lành. Tiếng nó kêu là báo tin vui cho mọi người. Bởi nghe con chim cứ cư kêu là dân bản biết mùa ngô, mùa lúa, mùa xèo năm nay được lớn. Bản H'mông sẽno ấm và “mua làm khách” lại vui. Con cứ cư của Hoà mỗi buổi sáng không biết nó ngửi được hơi sương của buổi bình minh sắp dậy hoặc nó nghe được tiếng muôn loài từ phía mặt trời dậy sớm mà nó cất tiếng hót trong trẻo, vang vọng. Lập tức những con chim cứ cư ở các ngả rừng đều hướng về phía nó hót rền vang cả bản Mặt Trời Mọc này. Người các bản dậy mà dao lên rẫy.

Hoà kể chuyện về con chim cứ cư của em cho lão ta nghe. Lão cười gằn. Con mắt lão gườm gườm nhìn con chim. Lão tỉ tê với Hoà nhiều chuyện. Lão rủ Hoà về bên “tổ quốc vĩ đại” cùng lão. Về bên ấy Hoà sẽ được sung sướng rồi sẽ được làm to, rồi sẽ được thay người lớn nhất, người cầm đầu họ Giàng này. Còn com chim cứ cư, lão bảo giết nó đi. Nó ăn hat gắm, hạt xèo ở rừng Việt Nam này không tốt. Sang bên ấy, Hoà muốn gì cũng có. Lão sẽ mua cho Hoà một con kêu hay hơn, đẹp hơn, chắc Hoà thích lắm. Hoà hỏi hắn con gì. Lão gườm gườm con mắt. Lão cười gằn:

-Con khỉ con!

-Ở đâu. Mắt Hoà sáng lên. Hoà hỏi lại.

-Ở Bắc Kinh. Ở bên Bắc Kinh nhiều khỉ lắm, khỉ giỏi làm trò lắm, giỏi bắt chước người hơn. Con khỉ biết làm giả như thật, làm xấu như tốt. Nó biết khóc, biết cười, nó trọc đầu hay lắm mày à! Bên ấy thiếu gì khỉ, khỉ lớn khỉ bé, khỉ mặt xanh, khỉ đỏ đít như gà què, chó ghẻ ở bàn này thôi….

-Ông! Khỉ đánh nhau có “máu” không?

-O! Tính nó hung hăng, nó thích đánh nhau lắm…

Hoà nghĩ, giá như được một con chiều dắt nó ra chân núi cao xanh, chân rừng thắm biếc này để nó đánh nhau thì thích biết mấy.

-Ừ, nhưng thương những com chim đang ở ngoài rừng vì mỗi buổi sáng, chúg lại nhớ tiếng hót của com chim này mà!

Hắn nhìn Hoà và nhìn con chim bằng đôi mắt ti hí màu chì, hắn chăm chú. Có lẽ những con vật tàn bạo và ngu ngốc mới có cái nhìn ăn tươi nuốt sống như thế. Hắn lại cười gằn:

-Ồ cho cả loài chim ấy chết đi, để loài khỉ tràn sang cánh rừng này thì mày có mất hạt ngô, hạt xèo nào đâu. Mày lo chi chuyện mất nủa sải, được cả với chứ.

Câu chuyện áy chỉ có Giàng Xeo Xay chị gái của Hoà biết. Bởi lúc đó Giàng Xeo Xay đang ngồi trên gác. Cô đang lấy sáp ong vê vào tấm vải mới để nhuộm thành hoa may váy, may áo cho mùa ăn tết. Xay đã lắng nghe và biết ngọn ngành câu chuyện.

Ông Páo xách cả một đôi gà rừng về. Ông mổ thị rót rượu uống. Ông đãi người "anh em cùng họ" cùng chung dòng máu của ông tổ, bát rượu xèo. Loại rượu trong men có hạt thảo quả, có quế và cả rễ ngón. Bát rượu trong vắt sủi tăm lên, uống say lịm. Ông Páo có ý chặt thịt gà thành miếng to. Ông thai lòng để lẫn trong thịt. Ông để ý người anh em cùng họ ăn. Hắn nốc rượu, hắn nhai thịt gà rau ráu như hỏ vằn ăn rở. Ông tiếp thịt, tiếp lòng và tiếp luôn cả hai quả tim của hai con gà vào bát cho hắn. Hắn ăn sạch. Ông Páo nhìn hắn. Ông đã hiểu rõ rồi. Bởi vì người H'mông họ Giàng không bao giờ ăn tim loài vật. Mỗi khi mổ lợn, mổ trâu… họ đều cho người các họ khác quả tim. Cái đó có nguồn gốc sâu xa. Chuyện ông bà truyền lại rằng, xưa tất cả các học về dự chung ngày hội gàu tào (hội mùa xuân của bản H'mông) khi mổ con lợn to làm cơm và dọn ra thì mất hai quả tim. Mọi người đều nói người họ Giàng làm bếp đã ăn vụng. Người họ Giàng oan ức nhưng không biết nói thế làm sao… Và từ ấy về sau, những người họ Giàng không bao giờ ăn quả tim của một loài vật như để thanh minh cho ông tổ họ Giàng không ăn vụng! Ngày nay, người H'mông họ Giang thường thử nhau để nhận họ bằng cách mời nhau ăn quả tim.


Ông Páo nghĩ: “Cái thằng này dẫm phải nước bọt con rắn độc nào mà dẫn xác tới đây nói lời độc như con sói đen kêu trên rẫy thế! Hắn không phải người họ Giàng và chắn chắn không phải người H'mông. Ta không nhận hắn!”.

Ông Páo rót rượu cho hắn uống để hơi men giữ chân hắn lại. Ông rút con dao phát nương sáng loáng giắt vào lưng rồi đi về phía đồn biên phòng. Bước chân ông xăm xăm, chắc nịch đạp trên đất núi. Dáng ông đi chao đều như rừng thông có cơn gió lướt.

Đồng chí Khánh đồn trưởng Quyết Thắng và chính trị viên Trần Ngọc tiếp ông. Ông Páo kẻ rõ về hình dáng của người lạ mặt cho chính trị viên đồn biên phòng nghe. Trần Ngọc giở tập hồ sơ của những tên phản cách mạng, được bên ấy nuôi dưỡng, chúng đang vượt biên giới về quấy phá. Và giờ đây chúng đã nhen nhóm để gây phản loạn. Trần Ngọc đưa tấm ảnh dán ở tập hồ sơ dầy cộm cho ông Páo xem. Tấm ảnh của một tên lính Tưởng đội mũ lưỡi trai mặc áo cổ đứng, lưng đeo khẩu pạc hoọc. Mắt ông Páo sáng lên. Ông đã nhận ngay ra hắn.

-Đúng gắn rồi mà. Giờ hắn mặc quần áo đen. Nhưng hắn béo hơn, mặt dầy thịt hơn. Tôi đã mang máng nhứ ra hắn từ khi hắn mới đến nhà.

Trần Ngọc đọc cho ông Páo nghe một đoạn trong tập hồ sơ của hắn: “Tên hắn là Phù Chẩn Dìu, dân tộc Hán, quê ở Mã Quan, chức vụ tiểu đoàn trưởng quốc dân Đảng. Năm 1950 hắn sang vùng Mường Khương, Pha Long. Năm 1952 cùng với Chấu Quang Lồ gây phỉ. Hắn là phó cho tên Lồ. Hắn là một trong những thủ phạm giết người H'mông, người Kinh, người Nùng… ở Pha Long, ở dốc Chín Quai, ở bản Chân Cáo. Khi bộ đội ta vào giải phóng, hắn chạy sang ẩn nấp bên Trung Quốc. Ở bên đó hắn tập hợp bọn phỉ cũ, bọn người Hoa có thù hằn với ta, bọn côn đồ, lưu manh mới trở vể nước, bọn lính nguỵ của Mỹ-Thiệu bỏ chạy sau năm 1975, có cả bọn lính Campuchia phản động theo sang Trung Quốc. Hắn lập thành đảng quốc dân, lập thành những tiểu đoàn đặc nhiệm, những toán biệt kích. Hắn đã nhiều lần vượt biên giới sang ta móc nối với đồng bọn… Hắn có chân trong tổ chức “xứ Mường Khương tự trị”. Hắn đã bàn mưu nổi dậy khi bọn Trung Quốc xâm lược tràn tới…”

Bụng ông Páo cồn cào như thác xoáy. Ông dằn giọng: “Hắn chỉ như lóng ngọn cây tre ải ta đan sọt đựng phân thôi mà. Lời hắn nói như ngọn cỏ ấy đâm không đau gót chân ta đâu”. Ông Páo giắt con dao vào lưng rồi cùng với Trần Ngọc và hai chiến sĩ biên phòng đi nhanh về bản.

… Giàng Xeo Xay đi lấy măng bên suối, hái hoa chuối trên đồi về thì cơ sự đã xảy ra rồi. Cô hớt hải chạy ra đầu dốc núi. Cô nói như đứt hơi với ông Páo, với Trần Ngọc:

-Hắn đã bắt mất Giàng Tả Hoà đi rồi. Hắn giết com chim cứ cư đi rồi. Hắn biết bố đi lên đồn biên phòng mà.

-Hắn đi đường nào?

-Xem dấu chân thì biết thôi, hắn đi theo đường dân sớm lên rẫy, chiều đi bẫy chim đấy.

Ông Páo cùng các chiến sĩ biên phòng truy đuổi ngay theo dấu vết. Dọc đường biên giới dân quân và ác chiến sĩ đã chốt chặt, tên Phù Chẩn Dìu bắt em bé Giàng Tả Hoà đi theo không có lối vượt sang bên kia. Hắn loanh quanh lẫn trong khu rừng rậm rồi ra nằm ở đồi cỏ tranh. Hắn không dám vào nhà đồng bọn để ẩn nấp. Hắn giữ Giàng Tả Hoà không cho rời nửa bước. Hắn biết để sổng Hoà sẽ lộ nơi lẩn trốn. Nơi đó là một hang đá. Cái hang ấy ngày trước, ngày năm 1952 khi bộ đội ta truy lùng hắn đã lẩn trốn. Ở cửa hang và nhiều nơi trong quả núi này, xác đồng bọn của hắn đang vùi rải rác quanh đây. Sang ngày thứ hai, hắn đói. Hắn và Giàng Tả Hoà đi đào củ mài ở vùng đất ngoài cửa hang. Hoà cầm con dao găm của hắn, em đào lần theo một dây mài ăn sâu trong mô đất bên hẻm đá. Bỗng Hoà đào thấy xương người, xương chân, xương tay, xương đầu. Hoà thấy cả những ống sắt gỉ hình khẩu súng pạc-hoọc gẫy hai, gẫy ba. Em thấy cả những viên đạn rỉ nữa. Mu bàn tay Hoà bị va vào đá xước da chảy máu. Lấy được củ mài về nướng ăn xong thì Hoà lên cơn sốt dữ dội. Em nằm co quắp, hai tay ôm lấy đầu run rẩy trong hang đá.

Ông Páo, Trần Ngọc và các chiến sĩ biên phòng, cả Giàng Xeo Xay đã truy tìm đến nơi. Tên Phù Chẩn Dìu đã luồn sang một hang đá khác. Hắn bắn lén. Viên đạn K54 đi xước trên mái đầu bạc của ông Páo. Ngọc và hai chiến sĩ vây lấy hang đá, quyết bắt sống hắn. Giàng Xeo Xay gọi hắn: “Tên Phù Chẩn Dìu mày đã bị vây rồi. Mày ra hàng sẽ sống”. Hắn bắn lại. Giàng Xeo Xay vẫn gọi. Hắn lại bắn về phía cô. Xay gọi Hoà: “Giàng Tả Hoà ơi, em ở đâu! Giàng Tả Hoà ơi em ở đâu!”.

Hoà vẫn nằm co quắp trong hang đá lạnh. Mắt em nhắm ngiền. Cái linh tính có tiếng người ruột thịt gọi như thức tỉnh em hơn là thính giác của em nghe rõ tiếng. Hoà mở mắt nhìn rồi chân tay em quờ quạng bò về phía cửa hang. Tên Phù Chẩn Dìu vẫn bắn về phía gốc cây có Giàng Xeo Xay đang gọi… ”Hoà ơi…”.

Hắn nấp sau một mô đá.

Trần Ngọc và một chiến sĩ bò lên phía sau mái núi.

Anh vòng lại. Bất ngờ từ phía sau, anh xông tới. Anh đánh mạnh, khẩu súng trong tay tên Diu văng đi.

Giàng Tả Hoà nằm ú ớ cửa hang. Đôi mắt em đờ đẫn, bạc phếch. Người em nóng như cục than lăn trên lớp đá lạnh. Giàng Xeo Xay cõng em xuống. Ông Páo khóc nấc ôm lấy em. Chân tay em lạnh dần và bắt đầu co quắp. Miệng em sủi bọt trắng. Người em cong dần lại.

Chiều, ông Páo, các chiến sĩ biên phòng đưa em về đến bản Mặt Trời Mọc. Ông Páo đặt em nằm bên bếp lửa, nơi em thường ngồi chơi với con chim cứ cư hót ngọt ngào, thì em tắt thở. Người em lạnh cứng, cong lên như một tấm ván gỗ thông non phơi nắng to.

Đồng chí quân y ở đồn biên phòng nói, em đã nhiễm phải vi trùng uốn ván ở xương cốt tên giặc năm xưa, đồng bọn với tên Phù Chẩn Dìu.

Trần Ngọc đứng lặng. Ông Páo đau đớn đứng lặng. Giàng Xeo Xay lăn khóc bên xác đứa em. Một ý nghĩ đến với mọi người:

“Thằng giặc khi sống sang đất nước ta cướp nước giết người, khi chết, xương hắn vùi xuống đất núi Mường Khương này rồi cũng vẫn còn gieo cái chết chóc. Con vi trùng ở hắn, cái nọc độc ở xương cốt hắn vẫn, còn giai giẳng và lúc có cơ hội thì còn giết được người. Nay những thằng giặc đó lại dẫn xác sang cướp nước giết người nữa. Bà con ơi, bản H'mông đừng ai quên những thằng giặc ấy!”.

Ông Páo đứng lặng. Tay ông cần chắc chuôi dao. Ông không khóc. Mắt ông nhìn rực lên như chớp lửa. Ông muốn nói với đám con trai bản Mặt Trời Mọc đứng quanh đây: “Con trai H'mông ơi! Người H'mông ta đẻ bên cửa bếp, chết trên cửa trời, nay rừng đang có sói tràn đến dây nỏ đừng chùng, mũi dao phải sắc. Các con ơi phải giữ lấy nương xôi, suối mật của đất núi Hoàng Liên thấm máu người H'mông ta”.

Người câm và đồng tiền biết nói

Tên Trung Quốc xâm nhập biên giới ta đã bị dân quân bản Mặt Trời Mọc bắt. Hắn đứng im, hai tay giơ lên trời. Cô dân quân Giàng Xeo Xay hỏi hắn bằng tiếng H'mông, hắn ú ớ lắc đầu; hỏi hắn bằng tiếng Hán, hắn ú ớ lắc đầu; hỏi hắn bằng tiếng Kinh, tiếng Nùng, tiếng Giáy, hắn cũng lắc đầu và chỉ vào cái mồm ngoác rộng, xung quanh mép lởm chởm những râu. Cô dân quân đã hiểu: hắn bị câm. Một tên Trung Quốc câm! Xay và xã đội trưởng Ly Xeo Sáng đưa ngay hắn vào đồn biên phòng Quyết Thắng.

Trần Ngọc và đồn trưởng Khánh nhìn hắn. Người hắn lùn tịt, tóc húi cua để trơ cái đầu béo múp thịt, chân tay hắn to, lồng ngực nở. Trong tập hồ sơ những tên phỉ cũ và những tên thám báo biệt kích Trung Quốc lén lút vượt biên sang vùng này để phá hoại để móc nối cơ sở phản động, các anh chưa thấy có bóng dáng tên này.

Cô dân quân Giàng Xeo Xay kể cho Trần Ngọc và Khánh nghe về chỗ nó xâm nhập. Cô gái H'mông có đứa em trai bị tên giặc giết hại hôm trước dựng cây súng CKC vào tường, cô nói, nơi nó vượt sang ta là gần một khu rừng cấm. Nơi đó tiếp giáp địa phận hai bản H'mông Con Dao Sắc và Mặt Trời Mọc nên rất ít người qua lại. Và, hắn sang vào lúc tinh mơ sương chưa kịp trốn nắng. Hôm đó lại đúng vào phiên chợ Pha Long. Theo con đường đó, hắn đã nhập vào những đoàn người đi xuống chợ. Trong người hắn không có giấy tờ gì, không có dấu vết gì chứng minh rằng hắn là ai, tên hắn là gì, ở đâu đến. Duy ở đầu dải rút quần của hắn chỉ có một đồng tiền rất cũ đúc bằng đồng của Trung Quốc. Mặt đồng tiền đó bằng giá trị năm đồng tiền nhỏ. Cô dân quân đưa đồng tiền cho Trần Ngọc xem rồi cô nói tiếp. Cô kể lúc hắn xin ăn, xin uống đều dùng tay ra hiệu, chỉ trỏ còn miệng thì ú ớ như tiếng chim, như tiếng thú. Mỗi lần được ăn, được uống hắn cười và gật đầu cảm ơn. Đặc biệt thằng câm này đi đường gặp cái gì cũng nhìn, hắn nhìn rất kỹ, và gặp ai hắn cũng cười chào. Cô Giàng Xeo Xay nói cô chỉ nghĩ một điều là cô đã gặp vài người câm nhưng hễ ai không biết nói thì thường là không biết nghe. Vì họ không nghe được tiếng mẹ họ dạy nói khi còn nhỏ. Đằng này, thằng câm lại rất thính tai. Xay nhìn đi nơi khác và hỏi hắn có biết uống rượu Xèo không. Hắn gật cái đầu trọc lia lịa, cười toét cả môi rồi khoanh tròn nắm tay lại ngửa cổ đổ vào miệng ra hiệu xin được uống.

Trần Ngọc lật đi lật lại đồng tiền, anh nhìn kỹ từng nét chữ, từng con số, anh nói:

-Thế đó, thằng này câm nhưng có lẽ đồng tiền này biết nói…

Lát sau tên câm ngồi trước Trần Ngọc. Hắn khoanh tay trước ngực. Cái đầu húi cua cúi xuống làm cho hai má hắn xệ dài ra.

-Anh nghe đây-Trần Ngọc nhìn thẳng vào mặt hắn. Giọng anh nghiêm khắc-Anh sang đất Việt Nam chúng tôi làm gì? Ai phái anh sang?

Hắn lắng tai nghe rồi chỉ ngón tay vài cái miệng há hốc ú ớ như bị tắc từ cuống họng.

-Chúng tôi biết rằng anh không phải là người câm mà chính bọn giặc Bắc Kinh bành trướng đã bóp cổ họng anh lại. Anh nghĩ sao? Anh hãy tự cứu lấy bản thân anh khi đang còn thì giờ làm việc đó. Anh khai báo rõ ràng đi, sẽ được đối xử tốt.

Hắn vẫn ú ớ xua tay về phía trước. Hắn muốn nói, rằng không phải hắn giả câm. Rồi hắn chỉ tay lên trời chỉ tay xuống đất làm động tác thề…!

-Anh có phải là người H'mông không?

Hắn chỉ tay sang phía núi bên kia.

-Tôi muốn nói với anh câu tục ngữ của người H'mông ở đất núi Mường Khương này: “Chúng tôi sống để yêu thương, chứ không phải sống để thù ghét. Sao khôg có gió, các anh lại muốn thành bão, không có nước các anh lại muốn thành lụt”. Những kẻ muốn người Việt Nam chúng tôi sống như con sên chúng sẽ thành con vắt. Anh hiểu không?

Hắn lắng nghe rồi lại xua tay. Cái miệng méo xệch của hắn lại ú ớ. Trần Ngọc đứng dậy. Anh đứng trước mặt hắn.

-Nghe đây-Trần Ngọc nhìn xoáy vào khuôn mặt dầy thịt của hắn-Chúng tôi không có nhiều thì giờ để nói chuyện với anh. Chúng tôi đã để cho anh tự cứu lấy mình nhưng anh tỏ ra không biết điều, anh tỏ ra là kẻ ngoan cố. Giờ đây chúng tôi đối xử với anh như đối xử với những tên giặc Bắc Kinh sang cướp nước, giết người Việt Nam chúng tôi. Anh đứng dậy-Ngọc xách cổ áo tên câm dựng hắn lên-Theo pháp luật của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, những kẻ vượt biên giới xâm nhập đất nước Việt Nam gây tội ác hoặc có mưu đồ gây tội ác sẽ bị xử bắn. Anh thuộc vào loại đó. Anh sẽ bị xử bắn-Giọng Trần Ngọc sang sảng, rành rọt như giọng một vị chánh án tuyên án để kết thúc phiên toà. Miệng tên câm há hốc. Hắn tròn xoe mắt bàng hoàng nhìn Trần Ngọc.

-Các đồng chí-ba chiến sĩ biên phòng xách súng bước ra-Chúng ta những chiến sĩ bảo vệ biên giới của Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta sẽ thi hành bản án xử bắn tên giặc Bắc Kinh đã xâm nhập biên giới có mưu đồ phá hoại Tổ quốc chúng ta. Chúng ta đã thực hiện chính sách nhân đạo, nhưng tên giặc vẫn ngoan cố.

Lời Trần Ngọc như sét quật vào mặt tên giặc. Hắn hoảng hốt. Mặt hắn nhăm nhúm. Hắn run rẩy như người lên cơn sốt rét. Trần Ngọc khoát tay ra hiệu. Một chiến sĩ biên phòng bước tới lấy mảnh vải đen bịt mắt hắn lại. Một chiến sĩ khác trói gập tay hắn về phía sau. Mặt hắn bỗng tái nhợt. Cổ hắn rụt xuống. Nhưng miệng hắn vẫn ú ớ rồi rú lên như con chó dại lên cơn. Hắn mếu. Hắn rên rỉ. Hắn khóc.

Các chiến sĩ biên phòng trói chặt hắn vào gốc cây sa mu rồi lùi ra. Trần Ngọc hạ lệnh:

-Mỗi đồng chí bắn ba phát. Lên đạn!

Những viên đạn được đẩy vào bầu nòng phát ra tiếng kêu lách cách. Bỗng tên câm run rẩy. Hắn rũ xuống như cây chuối rừng thối gốc. Hắn khóc oà lên. Rồi bất ngờ, cái điều bất ngờ mà các chiến sĩ biên phòng đang chờ đợi-Hắn kêu lên thành tiếng:

-Xin các ông đừng giết tôi, các ông đừng bắn tôi. Tôi sẽ nói hết, nói hết…

-Các đồng chí tạm mở trói cho hắn để xem hắn muốn nói gì-Trần Ngọc nhìn tên giặc Trung Quốc xâm lược bằng cặp mắt mỉa mai “Ra thế, cái tổ quốc “vĩ đại” của mày bắt mày không được nói tiếng người, phải kêu như tiếng chó nhưng trước cái chết, mày đã trở lại tiếng người!”.

Hắn ngồi đó, trong một cái phòng con. Hắn vẫn cúi gầm mặt xuống. Cái đầu húi cua, khoanh cổ nung núc thịt và cả lưng áo hắn đều uớt sũng mồ hôi. Trần Ngọc nói với hắn:

-Anh phải nói đúng. Những điều anh nói sẽ cứu anh, nó quyết định số phận của anh.

-Xin ông, tôi sẽ nói hết!

-Tên anh là gì?

-Tên tôi là Mìn A Dùng, người Hán. Nhà tôi ở Mã Quan. Tôi được bà Trịnh Bảo Ngọc, trung tá tình báo phái sang dò xem tại sao ông Phù Chẩn Dìu sang Việt Nam mà không thấy về. Nếu ông bị bắt thì Việt Nam giam ông ấy ở đâu?

-Anh nói tiếp, Phù Chẩn Dìu ở bên ấy làm gì và hắn vượt biên sang đất chúng tôi có mục đích gì?

-Thưa ông, Phù Chẩn Dìu là người của đảng Quốc dân, ông ấy đang tập trung những người H'mông để lập “Xứ Mường Khương tự trị”, ông mấy sang tìm một người bạn cũ của ông ta. Người đó nghe nói Việt Nam vừa thả ở trong tù ra. Ông ấy muốn tuyển chọn những thanh niên, thiếu niên người H'mông sang Mã Quan, Lao Kha, Tiểu Bà Mế để lập đội quân áo đen của “Xứ Mường Khương tự trị”.

-Anh nói rõ về đội quân ấy có bao nhiều người?

-Thưa ông, hiện giờ đã có những người Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn… mới về nước; người Dao, người Giáy theo về cùng nhập vào. Trong đó có cả những sỹ quan, bính lính của Sài Gòn cũ nữa, có cả lính Campuchia dân chủ theo sang Trung Hoa nữa. Họ đã lập thành các tiểu đoàn. Họ mặc quần áo đen, quấn xà cạp đen, đội mũ đen. Họ được huấn luyện riêng và có chế độ cung cấp cao lắm. Họ gọi đó là những ”tiểu đoàn lính áo đen đặc nhiệm”.

-Đội quân ấy ở đâu?

-Thưa ông, họ hiện ở Côn Minh rồi về Hà Khẩu, về Lao Kha… Họ thường sang đất Việt Nam phục kích bắt người về điều tra tình hình…

-Anh sang đây có những nhiệm vụ gì nữa?

-Thưa ông, tôi còn được bà trung tá Trịnh Bảo Ngọc giao cho dò xem các tuyến bố phòng của bộ đội Việt Nam mới thiết lập, của công an biên phòng, dò xem Việt Nam có vũ khí gì mới chuyển lên, và có quân hoặc cố vấn Liên Xô không. Nếu tôi phát hiện được một trong ba yêu cầu đó thì được thưởng ba trăm đồng nhân dân tệ.

-Anh nói rõ, anh đã được huấn luyện như thế nào? Anh nên biết rằng những điều này không phải chỉ có mình anh nói với chúng tôi. Anh chịu trách nhiệm vè những lời khai báo đó.

-Thưa ông, rôi sẽ nói đúng nhưng…-đôi mắt hum húp của hắn nhìn Trần Ngọc. Một cái nhìn van xin.
-Sao?-Xin ông đừng công bố lời tôi nói. Vì tôi sẽ bị tru di tam tộc. Khi sang đây, tôi đã làm bản cam đoan nếu phản nước Trung Hoa vĩ đại thì gia đình, họ hàng tôi phải gánh chịu lấy tội vạ đó-Hắn khóc nấc lên và chắp hai tay lậy lục Trần Ngọc.

Trần Ngọc đứng dậy, anh gạt tay hắn ra:

-Chúng tôi chấp nhận lời yêu cầu của anh, nhưng anh phải khai báo đúng sự thật. Chúng tôi không bao giờ bạc đãi kẻ thù đã ngã ngựa qui hàng.

-Thưa ông, tôi được học bốn năm trong trường huấn luyện đặc biệt ở Côn Minh. Ở đó năm nay có thêm nhiều “nạn kiều” ở Việt Nam về nữa. Người ta dạy cho tôi nói sáu thứ tiếng: H'mông, Việt, Giáy, Phù Lá, Dao, Nùng. Tôi nói tiếng Việt Nam như thế này là được học ở đó. Tôi được người ta dạy cho lái ô tô, xe máy, bắn các loại súng, sử dụng máy truyền tin, chụp ảnh, vẽ bản đồ… Chúng tôi còn học cả những tập quán phong tục của người Việt Nam nữa. Thưa ông ở đó, người ta nói với chúng tôi rằng miền đất Bắc bộ của Việt Nam là đất của “Trung Hoa vĩ đại” Việt Nam có tập đoàn phản bội cầm quyền, đã vôn ơn đối với Trung Quốc. Người ta bảo chúng tôi phải đi giải phóng Việt Nam, thu phục Việt Nam về. Trên mảnh đất đó, chúng tôi chỉ cần mười đến mười lăm triệu người Việt Nam để xây dựng những bến cảng vững chắc cho các đoàn tàu của Trung Quốc vĩ đại tiến xuống vùng biển phía Nam. Thưa ông, ở đó người ta dạy cho chúng tôi cả những môn nghệ thuật giả làm câm, giả làm điếc, giả làm què, giả làm ngọng, giả làm điên… Tôi được học ở bộ môn nghệ thuật giả làm câm bốn năm nay.

Trần Ngọc giơ đồng tiền đã buộc đầu dải rút của hắn ra trước mặt hắn. Anh nói:

-Anh hãy nói về bí mật của đồng tiền này. Tôi nhắc lại, anh phải nói đúng, nói hết-Người chỉ huy đồn biên phòng gọi một chiến sĩ rót cho hắn cốc nước và anh trao cho hắn cả bao thuốc lá Tam Đảo-Anh uống nước và hút thuốc lá đi. Trước khi sang đây chắc anh đọc lịch sử Việt Nam. Người Việt Nam chúng tôi đã từng chiến đấu, chiến thắng và rất nhân đạo với tổ tiên các anh. Những kẻ cướp nước khi thua phải đầu hàng như quân nhà Nguyên, nhà Minh lúc rút về nước, chúng tôi đều cho lương thảo, cho ngựa, thuyền ra đi. Ngay cả hàng trăm tên trong số 60 vạn quân hồi năm 1979 sang tàn phá đất nước chúng tôi. Khi chúng đầu hàng, chúng tôi đã cho về. Bọn giặc Mỹ cũng vậy, chúng ném bom xuống đất nước chúng tôi, giết hại nhân dân chúng tôi khi chúng chịu thua rút quân về nước, những tên bị bắt đã được đối xử tử tế và cũng được thả cho về. Thế nhưng những kẻ ngoan cố, tráo trở, rắp tâm gây tội ác, chúng tôi quyết trừng trị. Anh nói đi.

-Thưa ông-mặt hắn vẫn chỉ sập xuống-đồng tiền này là mật hiệu để chúng tôi nhận nhau trên đất Việt Nam.

-Anh nói rõ hơn.

-Thưa ông, khi sang Việt Nam định liên lạc với một người nào, tôi đưa đồng tiền này ra. Thưa ông, đây là đồng tiền ăn năm đồng lẻ, những người đó nói là ăn bảy thì đúng là người tôi cần liên lạc. Nếu không có đồng tiền này, tôi dùng tờ giấy bạc cũ của Tưởng Giới Thạch cũng được. Người ta nói với chúng tôi vùng núi Việt Nam còn nhiều loại giấy bạc ấy trong dân các bản. Cứ tờ năm mười đồng mà nói bảy mươi đồng là đúng người mình cần gặp. Nghĩa là phải cộng thêm hai. Thưa ông về đồng tiền thì nói đã nói hết. Tôi cam đoan lời tôi nói là đúng.

-Anh sang đây dùng đồng tiền này để gặp ai?

Hắn ngồi im. Hắn ngần ngừ một lát rồi nói:

-Thưa ông, bà Trịnh Bảo Ngọc giao cho tôi sang tìm gặp một người H'mông làm thầy thuốc và thầy địa lý ở Mường Khương. Rồi tôi cùng người này đi tìm tung tích ông Phù Chẩn Dìu. Thưa ông, bà Trịnh Bảo Ngọc đã nói nếu mất ông Diu coi như bà ta mất một cánh tay.

-Anh có biết sắp tới đây những ai sẽ vượt biên giới sang đất chúng tôi?

-Thưa ông, tôi không biết đích xác nhưng có người sẽ sang tìm gặp một người mà các ông mới thả trong tù ra-Nói xong hắn ôm mặt khóc rưng rức rồi hắn nằm phủ phục. Hắn vật vã trên nền nhà. Trần Ngọc vỗ vai hắn và nói: “Anh đừng lo rồi cả vùng này sẽ biết tin anh đã bị bắn chết khi vừa sang biên giới”.

Trần Ngọc bước ra sân đồn, trời biên giới đã tối hẳn. Ở chân núi phía tây đỉnh Hoàng Liên còn lại đám mây đỏ rực hắt lên bầu trời một màu hồg nhạt. Miền đất núi Mường Khương sương đã phủ trắng…

Đôi bạn vàng

Seo Hồng được trở về là nhà ở bản Lao Táo. Thông tri trên gửi về đã nói rõ: “Sau hai mươi năm ở trại cải tạo. Vàng Seo Hồng đã được hưởng mọi quyền làm người công dân. Vàng Seo Hồng phải làm ăn lương thiện không để tái phạm lỗi lầm một lần nữa. Nhưng Vàng Seo Hồng không được về ở bản cũ mà phải về ở bản Lao Táo…”.

Mọi người đều biểu anh không được về ở bản cũ là phải. Vì bản đó ở sát đường biên giới và bọn phản động Trung Quốc thường lẻn sang quấy phá. Hai mươi năm trôi qua, hai đời thông sa mu trên núi Hoàng Liên dựng được nhà mới, lớp trẻ ở các bản H'mông trên đất núi Mường Khương này đẻ bên cửa bếp đã cầm được con dao sắc ra “cửa trời” tìm cho cha cành quế thơm, chọn cho mẹ bó củi tốt, nên ít người biết Vàng Seo Hồng. Hồng lại về ở một bản xa. Một bản có người Nùng, người Thù Lao, Pa Dí, người H'mông ở xen kẽ, nên anh càng xa lạ với tất cả. Những người cùng lứa với anh hoặc là không còn, hoặc đã tản mát trong dạo tháng 2 năm 79 đã dời nhà sang các vùng khác trong dẫy Hoàng Liên nên ít người gặp anh. Mà anh cũng không hay xuống chợ. Thỉnh thoảng anh mới về cửa hàng mậu dịch mua muối mua vải. Hoạ hoằn lắm mới có người nhớ tên anh. Điều đó cũng là đặc điểm riêng của những người vùng nhiều núi cao xanh, nhiều rừng thẳm biếc. Chả thế mà bà con đã từng nói “ở đây ít nhìn thấy mặt trời mọc, ít nhìn thấy mặt trăng tỏ nên người H'mông ít nhớ, nhiều quên”.

Còn con người Vàng Seo Hồng thì đã đổi thay nhiều lắm. Mới bốn mươi tám tuổi, tóc anh đã bạc như xơ cây móc rắng trong rừng. Da anh đen giòn và cái trán vát cao. Hồng ít nói và ít làm quen với dân bản. Hồng chỉ ở một mình. Sớm anh mang lù cở (dỏ đeo sau lưng), cầm dao lên nương. Hồng đi hái ớt, nhổ kiệu, đi căt xèo, hái pà. Tối về, Hồng cứ thui thủi một mình bên bếp lửa. Hồng buồn. Anh sống thầm lặng và kín đáo như vị thuốc Hoàng Liên nép trong rừng cây đầu dốc núi. Người ở bản Lao Táo (có nghĩa là bản Con Dao Sắc) ít ai biết về quá khứ của anh. Biết chăng họ chỉ truyền miệng với nhau rằng: anh là một tên phỉ từng có mưu đồ cướp đồn biên phòng Pha Long ở Mường Khương này năm 1959. Anh đã giết chiến sĩ biên phòng nên bị bắt giam. Đáng lẽ Hồng phải giam hai mươi lăm năm, nhưng anh cải tạo tốt nên được về sớm năm năm. Với tấm lòng quí người của bà con sống ở đất núi Mường Khương này, cả bản Con Dáo Sắc ai cũng xem anh như xem nhà có thêm chống càng tốt, có thêm cột càng bền, bản có thêm tiếng cười, càng vui. Thực tình ra nếu như biết cũng chẳng ai muốn nhắc về một quá khứ độc địa của anh, của một tên phỉ ác đến nỗi như con lợn rừng giết người không sợ đôi nanh thấm máu. Hồng vốn là một tên phỉ đàn em của Chấu Quang Lồ. Phỉ tan, Hồng về nằm im, giấu mặt. Hồng mở quán bán thán cố ở chân đồi đồn biên phòng. Rồi đồng bọn với anh ẩn nấp ở đất Trung Quốc lẻn sang xúi giục anh, bày mưu phục thù cho anh. Hồng bắt mối mua chuộc được một chiến sĩ biên phòng người H'mông hay ra quán ăn thán cố, uống rượu. Có nội phản rồi, đêm Hồng và đồng bọn xông vào bắn giết, cướp đồn. Hồng và một tên đầu sỏ nữa bị bắt. Nhưng hắn là người Hán, hắn được bọn công an Trung Quốc xin về nói rằng đưa về để trị tội (!), còn Hồng nhận hai mươi lăm năm tù giam.

Đêm khuya. Lạnh. Vùng núi Pha Long tuyết rơi lất phất trên ngọn lau. Con chim chớ chúa nhớ bạn kêu ràu rầu trong hang đá. Có người đến gõ cửa nhà Seo Hồng. Seo Hồng chưa ngủ. Anh cời to bếp lửa lên rồi cầm con dao phát đi ra. Một bóng người đen ngòm như con gấu ngựa xồ vào:

-Vàng Seo Hồng à! Tao sang tìm mày đây mà!

Hồng lùi lại bột một bước.

-Ôi, ông là ai? Ông là ai mà vào nhà ta lúc nửa đêm, gõ cửa nhà ta lúc trời tôi.

-Tao! Cáo Chẩn Phủ đây!

Vàng Seo Hồng lưỡng lự như suy tính một lát rồi kêu lên:

-Ôi đã bao mùa rẫy rồi ông lại sang đây.

-Ừ, tao như con hổ vằn hổ hoa, miền rừng non nào có mồi ngon có hoẵng non, nai tơ là tao tìm đến. Mày đưa tao vào nhà đi!

Thực ra, Seo Hồng đã chuẩn bị đón hắn. Vì nhiều nguồn tin đã cho Seo Hồng biết sẽ có người sang tìm. Hồng đoán nhất định là hắn. Tuy vậy sự việc xảy ra bất ngờ trong đêm khuya, Seo Hồng hồi hộp. Hồng khép cổ áo để ngọn gió đêm lùa vào đỡ lạnh.

Hồng trấn tĩnh lấy lại thăng bằng “Thế là nước cờ đã vào thế rồi đó”.

Seo Hồng nhớ lại. Rõ ràng anh chỉ gặp thằng này có vài lần thôi. Lúc đó hắn ở nhà tạm giam khi ta mới bắt về. Hồi đó, hắn có một nốt ruồi to đen sì ở dưới cằm và cái trán láng bóng như quang dầu. Ở mấy tuần với Vàng Seo Hồng, khai thác kỹ nó, anh đã biết thêm những chi tiết về tính nết, về con người của tên phỉ này. Tên phỉ này rất thich uống rượu xèo ngâm củ tam thất rừng, củ bạch truật rừng, rượu vừa cay vừa đắng. Mà càng cay, đắng hắn càng thích thú. Hắn lại có vợ là người H'mông. Vợ hắn là Chấu Seo Phỏng, cháu của Chấu Quang Lồ. Chính Seo Hồng đã dắt Phỏng đến cho hắn. Khi hắn được bọn công an Trung Quốc xin về, vợ hắn cũng về theo.


Seo Hồng đưa Cáo Chẩn Phù vào nhà. Bếp lửa được đốt to lên. Hai người nhìn nhau. Cáo Chẩn Phù tròn mắt nhìn. Seo Hồng ôm lấy cánh tay Cáo Chẩn Phù:

-Ông Cáo Chẩn Phù, ông còn nhớ tôi. Tôi như hạt xèo rơi, như củ kiệu thối, ông còn tìm đến nhặt. Dù rừng lở, dù đất sụt, dù cho cây ở đất núi Mường Khương này ai phát bằng như gấu áo, tôi cũng không quên ông. Ông Phù, Chấu Seo Phỏng ở đâu, có khỏe không?

Phù cười tủm tỉm: “Ôi mày còn nhớ đến, hỏi đến con vợ của tao”. Phút ngờ ngự ban đầu đã qua đi khi nghe Seo Hồng hỏi đến vợ của hắn.

Bếp lửa cháy to, sáng rực. Hồng nhìn rõ cái nốt ruồi ở cằm hắn bây giờ to ra lan gần đến môi trông như một cục thịt thừa đen thui. Ở đó lại mọc lên hai ba cái lông đen. Và, cái trán của hắn càng lóng bóng. Một thứ láng bóng của sự ăn uống đầy đủ, dư thừa.

-Nếu gặp ngoài rừng, tao không còn nhận ra mày nữa. Mày già đi, trông mày như cái cày còn sót lại trong mùa đốt rẫy.

-Hai mươi mùa nương rồi, chim rừng, cá suối, thú béo ở đất núi này tôi phải lìa nó-Seo Hồng phân trần, nước mắt anh rơm rớm-Tôi nay đã mỏi tay chặt, đã yếu chân đi rồi. Tôi đã chịu bao mũi tên đâm vào tai, bao gai nhọn cào vào mặt rồi. Ông Phù ơ! Ông xem hai cánh tay tôi đây-Seo Hồng xắn cao tay áo-đã bầm vết trói. Ông xem hai cái vai tôi đây đã lằn vết đánh. Bọn Kinh nó làm khổ, tôi có bao giờ quên. Nước mắt tôi đã chảy nhiều hơn cơn mưa tháng tám. Ông phù ơi…

Vừa nói, Hồng vừa nhìn Cáo Chẩn Phù. Những cái nhìn như kêu van, như chờ cứu vớt.

-Ông Phù, từ ngày chúng ta như lóng nứa chặt đôi, như dây mây cắt nửa, ông về bên đó…

-Tao sương. Tao ăn cơm nằm trong đĩa hoa, cơm ngồi trong bát sứ, tao uống rượu Mao Đài, tao chơi gái Thượng Hải, tao vẫn nhớ mày đang bị bọn Kinh đày đọa.

Cáo Chẩn Phù về Trung Quốc cũng từ hai mươi năm trước. Năm đó sau khi không thành đạt trong mưu toan cướp đồn biên phòng, cả hai đứa đều bị bắt. Trước ngày đưa ra xử án, chính quyền Trung Quốc bên Mã Quan cử người sang xin tên Phù. Chúng nói với ta tên này là người Hán, là đặc vụ nguy hiểm của giặc Tưởng (!). Tên này đã phạm tội đại gian đại ác, có nhiều nợ máu với dân nên xin hắn về để dân bên đó đấu tố, để đào tận gốc, để trốc tận rễ (!). Nể “bạn”, ta trao tên Cáo Chẩn Phù cho Trung Quốc. Đã hai mươi năm rồi bọn phản động bành trướng nuôi dưỡng hắn như giữ một hạt giống độc chờ mùa gieo. Mùa gieo đã đến. Hắn sang tìm Vàng Seo Hồng. Vàng Seo Hồng mở lọ rót cho hắn một bát rượu ngâm củ tam thất cay nồng, đắng nghét. Hăn bưng bát rượu uống ừng ực. Mắt hắn sáng lên.

-Ôi! Seo Hồng ơi, mày vẫn nhớ cái thứ rượu tao thích uống này. Bà chủ Trịnh Bảo Ngọc dặn tao phải thử kỹ mày đã, vì xa hai mươi năm rồi. Nhưng ta có phải con chim xanh lạ núi đâu mà thử lòng thật dối. Tao chỉ xem mày giờ có hèn như con sâu cuốn chiếu không! Mày có mặc váy, đeo vạt của bọn con gái không. Mày có như cái sọt đan tre ải để người H'mông đựng nấm, đựng măng không. Mày có như con nai ỉa cứt rơi phải khoeo chân cũng sợ không. Mày có còn là thằng Vàng Seo Hồng cầm pạc-hoọc xông vào đồn biên phòng như năm xưa nữa không? Tao nhớ bát thán cố của mày đêm hôn đó Vàng Seo Hồng ạ.

Cáo Chẩn Phù nhắc đến kỷ niệm đêm hôm ấy. Cái đêm chúng ngồi uống rượu xèo, ăn thán cố để chờ có ánh lửa của tên phản phúc đang gác ở cổng đồn biên phòng làm hiệu tiến công.

-Ông Cáo Chẩn Phù ơi, mật khoai  rừng dù đổ chung với nước sông trong ống cũng không hoà lẫn. Máu của người H'mông thì bao giờ cũng đỏ, nước sông của người Kinh bao giờ cũng xanh không hoà lẫn được.

Cáo Chẩn Phù nhìn Seo Hồng gật đầu:

-Thế là tao biết rõ lòng mày như biết nước trong lòng ống tre non thì ngọt Seo Hồng ạ.

Đêm đó, bên bếp lửa, Cáo Chẩn Phù và Seo Hồng nằm trên cái giường gỗ thông. Seo Hồng kể cho Phù nghe về trăm điều “cơ cực” của hai mươi năm bị tù tội. Nỗi cơ cực đó đã như cây tre nối dài thêm nhiều đốt, có bao giờ quên, có bao giờ nguôi. Seo Hồng thổ lộ điều anh ươc ao làm sao trả được mối thù đó. Seo Hồng cũng ước ao làm sao cho đất núi Mường Khương này là của người H'mông; cây trái vùng này người H'mông ăn, của người H'mông tất cả. Tất cả đất núi Hoàng Liên này…

Phù quay mặt về phía Hồng:

-Mày à, việc đó thì không khó. Mày có muốn làm thống lý vùng Pha Long này không? Mày có muốn làm người cầm đầu các dòng họ như ông Chấu Quang Lồ ngày trước không? Mày có muốn lập “xứ Mường Khương tự trị” không? Đất núi Hoàng Liên bao la ngựa chạy đi trăm ngày không hết, mắt nhìn lại trăm tầm nối không vơi này là của mày. Những cô gái xinh như con ong chúa, đẹp rờ rợ như cành lê nhiều quả chín đầu mùa đều là vợ mày. Ừ, thế thì phải dựa vào “đại quốc” mày ạ. Gốc của tổ tiên người H'mông là ở bên “đại quốc” mà. “Đại quốc” sẽ giúp người H'mông mày lập nên một “xứ Mường Khương tự trị” ở Pha Long, Mường Khương, Xín Mã Cái này. Rồi có quân đội, có súng đạn tốt, có tiền bạc riêng của vùng này. “Đại quốc” có quân uy, có quốc uy lừng lẫy sẽ giúp ta. Nếu bọn Kinh kéo lên, ta có sức mạnh “vĩ đại” của “đại quốc” tràn sang giúp. Nay chỉ chờ ta gây dựng được để nổi lên, “đại quốc” sẽ kéo vào, quân “đại quốc” sẽ đổ vào, tất cả đã sẵn sàng bên kia biên giới rồi. Seo Hồng, mày thấy không? Rừng cao nghi ngút này chỉ có cây thông sa mu tượng trưng cho người H'mông sống được, chỉ có cây tống quá sủ tượng trưng cho người Dao sống được. Còn có cây nào, có người dân tộc nào lên đây sống nổi đâu. Mày ngẫm nghĩ kỹ lời tao nói đi, Seo Hồng ạ, mày thấy không, thuốc quí trong rừng này cũng chuyển về xuôi. Người Kinh còn đưa người, đưa con trai, con gái lên phá núi của người H'mông để mở nông trường, lập làng, lập bản. Chúng cướp rừng, chúng giết người. Người H'mông sẽ tiệt giống. Giờ người H'mông có “đại quốc” rồi, có vua hiện ở phương bắc là Ma Cổ Phúng rồi. Mày hãy to tiếng lên gọi đám con trai đi. Mày gọi rằng: “Có súng dao thì cầm súng dao, không có súng dao thì cầm chầy giã gạo, chưa giết hết bọn Kinh thì không gác dao bỏ rừng…” Seo Hồng à, mày truyền câu ấy đi. Seo Hồng nằm lặng im nghe lời Cáo Chẩn Phù nói. Hắn nó về “đại quốc” xây dựng “bốn hiện đại”; hắn nói về “đại quốc” có quân đông. Hắn nói giống như tiếng loa bên đó chõ sang nói ba thứ tiếng Kinh, Hán, H'mông ra rả suốt ngày đêm: là Việt Nam phản bội, Việt Nam quấy rối biên cương nên phải trừng trị, phải chủ động cho Việt Nam bài học thứ hai; là Việt Nam cắn lại chủ, cắn lại bạn bè của chủ… Tiếng loa dội vào đá núi nghe cứ như sói đói mồi gào, như gấu ngựa nhá phải củ ráy ngứa lưỡi rống. Tiếng loa làm cho gà thức giấc vỗ cánh, làm cho lợn giật mình rùng cổ, còn chó khoang chó đen của bản H'mông thì chúng không sợ bởi chúng đã quen săn hổ, chúng hướng về phía đó sủa vang rừng.

Thế là Vàng Seo Hồng đã rõ tất cả. Seo Hồng hỏi hắn từ ngày trở về Trung Quốc làm những việc gì. Hắn nói, hắn được thu nạp vào học tại trường huấn luyện đặc biệt ở Côn Minh, rồi về Bắc Kinh tham quan, rồi trở lại Mã Quan, Hà Khẩu làm việc với bà Trịnh Bảo Ngọc. Việc của hắn đại loại là lập cho được cái khung người H'mông cầm quyền ở “xứ Mường Khương tự trị” này. Seo Hồng hỏi về Trịnh Bảo Ngọc. Há nói đó là một người đàn bà “đại quốc” đẹp và nhiều mưu kế. Bề ngoài bà ta chỉ là một phiên dịch của đồn công an biên phòng ở cửa khẩu Hồ Kiều. Bà ta làm ở đó từ hai mươi lăm năm nay. Bà ta có quyền hành to lắm. Bà là trung tá chỉ huy mọi đầu mối liên lạc ở vùng này. Bà sẽ là cố vấn cho chính quyền “xứ Mường Khương tự trị” của ta nay mai.

Seo Hồng nằm im nghe. Anh mỉm cười. Vì anh còn lạ gì con mẹ đó nữa. Anh đã nhìn thấy nó, Trần Ngọc đã nói về nó cho anh nghe. Đó là con mẹ hay đeo cặp kính trắng trễ xuống sống mũi. Mặt trông đầy thịt như cái đĩa Giang Tây. Con mẹ có vẻ mặt kẻ cả, khinh khỉnh. Hắn đóng vai phiên dịch từ cái ngày ta sang bên đó làm việc, và bên đó sang ta (hồi hai bên còn có quan hệ đi lại). Nhưng kỳ thực hắn là bà chủ, là đạo diễn. Hắn uốn những lời của bọn đàn em nói với ta cho đúng bài bản, ý đồ qua lời dịch của hắn. Có lần hắn đã ra mặt khống chế không cho thằng đồn trưởng uống rượu trong một buổi tiệc ta mời. Rượu “Lúa mới” ta rót ra rồi, thằng đồn trưởng đã chìa tay ra bưng lấy chén, mụ Bảo Ngọc đã chẹn cổ thẳng thừng: “Ấy! Đồng chí cán bộ đồn chúng tôi còn trẻ lắm, lại mới ra trường không biêt uống rượu đâu, xin lỗi các anh”. Tên đồn trưởng mặt tái mét vội vàng đặt chén rượu. Và từ đó không còn thấy tên đồn trưởng xuất hiện nữa. Mỗi lần gặp ta, mụ mất lịch sự đến phát tởm, Mụ đứng ưỡn bụng ra, một tay đút túi quần chỉ đưa một tay ra bắt. Bàn tay mụ hững hờ, lạnh lẽo. Mụ lại cười nửa miệng, cái cười thể hiện rõ sự nham hiểm độc ác trong lòng mụ. Ngày mới tới cửa khẩu này, mụ còn là một chuẩn uý, một tình báo viên, nay mụ đã là tình báo cỡ bà chủ. Chính mụ đã gài con Mỹ Cầm người Hoa sinh ở Hà Nội về Trung Quốc hồi tháng tám năm 1978 trở lại đất ta trong ngày chúng tràn sang xâm lược. Đã giao cho con đàn em xinh đẹp này phải tạo cho được cái vỏ bọc dày để làm trạm thông tin, móc nối các cơ sở chúng cài cắm từ những ngày tàn quân Tưởng tràn sang, chúng trà trộn được; và những “hạt giống đỏ” chúng gieo cấy trong bọn “lánh nạn” cách mạng văn hóa sang cư trú bên ta trong những năm sáu mươi. Và nữa: trong một thời gian ngắn nhất, Mỹ Cầm phải vồ cho được các đầu mối: một chiến sĩ biên phòng người H'mông; một lái xe hay đi sang vùng bắc Lại Châu; một anh chiến sĩ pháo binh ở Mường Khương; một chiến sĩ công an đồn Đầu Cầu. Nếu là sĩ quan chỉ huy thì càng tốt. Mụ đã trao cho Mỹ Cầm một gói thuốc. Mụ dặn “Tổ quốc Trung hoa vĩ đại giao cho em”. Gói thuốc đó Mỹ Cầm phải uống hai viên trước khi gặp những người đàn ông mình muốn… moi tin tức tình báo!

Nay qua lời Chẩn phù, Seo Hồng lại càng biết rõ con cáo cái này hơn!

Lúc con chim cứ cư ngoài núi hót tiếng đầu tiên báo trời sắp sáng, Cáo Chẩn Phù ngồi dậy, hắn nói với Seo Hồng:

-Tao về bên ấy! Nếu lần sau tao không sang được, mày thấy có người tìm đến mà đưa cái giấy này thì mày nghe theo lời nó. Nó là người của tao. Phù rút trong túi áo trên ra một cái giấy đưa cho Seo Hồng đọc để nhận mặt giấy làm tin. Cầm tờ giấy đã cũ, đã nhàu nát và thấm mồ hôi, các đường gấp đã rách, Seo Hồng biết ngay đó là cái giấy chứng nhận của tên trùm phỉ Chấu Quang Lồ cách đây đã ba mươi năm cấp cho bọn phỉ đi lại trong vùng này. Cái giấy ấy, Vàng Seo Hồng cũng có và y đã nói rất rõ về nó với anh. Seo Hồng đã đưa cái giấy ấy cho anh xem. Nó cũng giống như cái giấy này:

“Xứ Mèo tự trị! Đoàn trưởng thống lý Chấu Quang Lồ, cấp giấy chứng nhận này cho Cáo Chẩn Phù. Chức vụ: Ngũ trưởng chiến đấu. Được đi lại tự do trong vùng: Mường Khương, Pha Long, Xín Mã Cái, Ý Tý, Bát Xát…

Các trưởng bản, các già bản phải có phận sự cung phụng vật chất nuôi sống người cầm giấy và phục tùng người cầm giấy.

Đoàn trưởng thống lý Chấu Quang Lồ

Bản Lao Pháo Chải-Pha Long

Ngày 13-01-1949”

Cáo Chẩn Phù gấp tờ giấy lại rồi xé đôi ra. Hắn đưa cho Seo Hồng một nửa tờ rồi nói:

-Mày giữ lấy nửa cái giấy này, nếu có người cầm đến nửa này nữa, mày ghép vào mà khớp thì đúng là người của tao!

Chờ đến sáng, Vàng Seo Hồng mang lù cở cầm ao đi ra khu rừng cấm. Anh đi qua cái rẫy lúa chín vàng rực, ngô ngâm nửa bông, đỏ màu hoa xèo, vàng tàn hoa cải. Trần Ngọc chờ anh ở đó. Anh kể lại cho Trần Ngọc ngọc chuyện thằng Cáo Chẩn Phù đã tìm tới anh đêm qua. Trần Ngọc cắn vành môi suy nghĩ: “Thú đã vào bẫy rồi!”. Ngọc tin tưởng ở người cán bộ trinh sát lâu năm này lắm. Anh là Mùa A Pếnh, cũng người dân tộc H'mông. Pếnh đã đến ở với Vàng Seo Hồng nhiều ngày. Pếnh có thuận lợi là người cùng dân tộc, cùng tiếng nói. Căm thù lũ phản động Trung Quốc đối với Pếnh đã được nhân lên hai lần so với người khác. Bởi ngoài mối thù chung của dân tộc Việt Nam đối với chúng, anh còn có mối thù riêng của dân tộc anh, của người H'mông đối với chúng nữa, chúng đang lừa phỉnh, lôi kéo người dân tộc của anh. Chúng muốn tách người H'mông của anh ra ngoài khối đoàn kết của dân tộc Việt Nam để phục vụ cho âm mưu xâm chiếm đất nước ta của chúng. Nhưng Pếnh nghĩ: “Lòng người H'mông của anh đối với Đảng, với Bác Hồ đã vững như cây tre lên măng, đã bền như cây tre bén rễ rồi, dù chúng có nói gì, có làm gì thì cũng chỉ như sức con bướm non ngo ngoe trong ruộng mạ mà thôi. Tội ác của chúng gây ra ở các làng bản vùng biên giới này, người H'mông đã thấy rõ…”.

Trần Ngọc nói với Pếnh: ”Ta phải dự tính đến khả năng xấu nhất. Nếu có người sang rủ đồng chí về bên kia biên giới thì khoan hãy đi. Đồng chí nói với nó là đồn biên phòng đang theo dõi, chưa đi được. Bởi vì sang bên ấy khó bảo vệ đồng chí. Còn nếu nó gọi đi đâu trong vùng biên giới thì cứ đi. Đồng chí nhớ nếu chúng nó có bàn làm việc gì hại đến người và của cải của dân, thì tìm cách chặn lại. Đồng chí bảo với nó làm như thế là manh động sẽ bị lộ, muốn lấy cả rẫy ngô thì đừng sờ đến một bông lép…”

Hai người bàn tính với nhau đến trưa. Bản Lao Táo trước mặt họ như một hòn đảo nổi bồng bềnh giữa biển mây sớm. Hoa lê nở trong gió mới về, trong nắng mới tới. Và những cây thông sa mu trên ngọn bọc chóp trắng mây sương thẳng vút lên trời cao nom như những ngọn dáo, những lười mác H'mông mới mài nhô lên trong vòm trời biên giới…

Thang thuốc… bách bệnh

Đồn trưởng Khánh nắm chặt tay chiến sĩ trinh sát Vi Viết Sài:

-Đồng chí nhớ từ nay tên đồng chí là Mìn A Dùng đấy nhé. Sài cười. Đồn trưởng nói tiếp:

-Đồng chí bắt đầu xung trận rồi đấy. “Danh sách và âm mưu”, hai tay đồng chí nắm cho được hai thắng lợi ấy. Sài mặc bộ quần áo đen ngắn cũng cỡn. Tóc húi cua để trơ cái đầu trọc lóc. Sài nhìn lại đồng tiền buộc dải rút. Anh đi về phía chợ. Chợ đang đông người. Ở vùng Pha Long chợ họp vào ngày chủ nhật. Ngày đó từ các bản H'mông, bản Tày, bản Thù Lao, La Chí… trong lũng núi dọc miền biên giới bà con đều đổ dồn xuống chợ. Con trai con gái, người già, người trẻ đều mặc áo đẹp, họ đi mua đi bán. Họ bán ống mật ong, giỏ nấm hương, xâu măng, hạt ý dĩ, con tác kè… Họ đi đổi cho được con ngựa ô họ ưng, con lợn nái họ thích. Họ nếm thử các thứ rượu xèo, rượu ngô, ăn bánh dầy nếp của người Nùng, ăn cây mía to như cây tre của chị người H'mông. Và nữa, họ đi ăn món đặc biệt của vùng chợ Pha Long này: món thán cố. Thế nhưng không khỏi có những kẻ hẹn nhau về phiên chợ để gặp nhau, để bàn với nhau những điều ác độc…

Mìn A Dùng đi vào chợ. Anh đi đến góc chợ ở phía giáp dẫy thông sa mu, nơi đó, các chảo thán cố đang sôi, khói toả nghi ngút. Trong những cái chảo lớn bằng cái nong phơi thóc: thịt chó, thịt ngựa, thịt trâu, thịt lợn và cả lòng dê, lòng bò… đã chín đang độ thơm ngậy. Theo tiếng địa phương thán cố là nồi nấu một món. Cạnh đó những tấm gỗ dẻ, gỗ thông bầy ra. Những cái dù hoa trương lên che nắng. Những đôi vợ chồng, những cặp bạn bè ngồi ăn. Họ trò chuyện. Họ uống rượu. Mỗi người vác đi một ống rượu dài đến một đầu một với. Bát ăn của họ là những ống mai to cưa ngắn, đũa là những thanh mai chỉ vót sơ cạnh. Để khi say là họ quăng, họ đập vô tội vạ, bởi rừng H'mông này thiếu gì mai. Và khi phiên chợ tàn, người bán chỉ việc quẩy một cái chảo và con dao về, còn “đũa bát” lại chặt mai rừng làm đợt khác.

Mìn A Dùng đến nguồi xuống ở dẫy thán cố cuối cùng. Anh ăn, anh uống rượu, anh nhìn ra xung quanh để nhận những bộ mặt lạ. Anh lắng nghe người Hán, người H'mông, người Nùng nói về thời cuộc. Họ nói về Trung Quốc giúp người H'mông. Người H'mông sẽ có “xứ Mường Khương tự trị”; người H'mông đã có vua. Và đặc biệt anh lắng nghe họ nói về ông thầy thuốc, thầy địa lý tìm đất chôn người đều quay đầu về phía bắc; phía gốc tổ. Ông có thuốc tốt. Ông chữa đựợc bách bệnh. Nhà ông ở Mường Khương. Tên ông là Cư Chín Sài. Người đàn ông dân tộc H'mông ngồi cạnh anh, anh ta ăn một miếng thịt, húp một ngụm rượu lại khen ông Cư Chín Sài một câu. Người trong chợ cứ như đàn ong trong rẫy hoa xèo. Nhóm ăn uống nào, nhóm mua bán nào, ở đâu anh cũng nghe người ta nói về ông, người ta khen ông. Ai có vị thuốc quí mới tìm được dù có người mua đắt họ cũng không bán mà đưa về cho ông. Ai có con tắc kè to cũng nhốt trong ống tre nuôi sống đưa về cho ông. Có mật con trăn, mật con gấu… người ta cũng đưa đến nhà ông. Ông Cư Chín Sài trở thành trung tâm sự quí mến của người H'mông vùng này. Người H'mông ở các bản đều vui lòng, nhìn nhau là thấy nụ cười bởi có ông thầy thuốc giỏi là người dân tộc mình… Ông lại thương yêu hết mọi người H'mông. Trong nhà Cư Chín Sài không có vị thuốc quí nào ở vùng núi Hoàng Liên này mà ông không có. Thuốc chữa đau khớp, đau xương có; cao hổ, mật gấu có; rượu rắn mồng năm, bộ tam xà, bộ ngũ xà có; sâm nam, sâm bắc đều có… Ông Sài còn có cả loại thuốc chống thụ thai. Đó là một bộ phận của một loại con vật hiếm ông bắt được ở rừng. Ông còn giữ bí mật nhà nghề không truyền cho ai biết cả. Ông Cư Chín Sài chữa bệnh cho dân cả vùng. Bất kỳ ai tìm đến, ông cũng tận tình chữa. Bệnh gì ông cũng chữa. Người xã ở bản nào dù ở dốc núi Tả Ngải Chồ, Tả Lùng Thắng, hay tận Lồ Cô Chin ông cũng tìm đến chữa giúp. Mà trong số những người uống thuốc của ông cũng có người khỏi bệnh thật. Tiền công, tiền thuốc ông chỉ lấy phải chăng. Ai trả bao nhiêu ông cũng ừ, cũng nhận. Ai nghèo quá ông chỉ nói: “Người H'mông ta vất vả quá làm ăn siêng năng tay trên nương, chân ngoài rẫy, cứ như con nhện sớm giăng tơ trên núi, chiều thu tơ dưới lũng mà vẫn cứ khốn khó. Ở đất Mường Khương này chắc xèo chịu được pà (kê) không sống được rồi. Đất này không ở thì bỏ, bản này không ở thì phá. Ta phải nhìn về phía bắc. Gốc của người H'mông là ở bên đó”. Nếu ai có bệnh nặng ông không chữa được, họ chết thì ông làm thầy địa lý cho luôn. Ông lấy hướng đúng mạch phát. Hướng đó đầu đều quay về phía bắc. Phía “đại quốc”, phía mà ông lầm rầm khấn vái sẽ xuất hiện chín mươi chín mặt trời sáng, sẽ xuất hiện chín mươi chín mặt trăng tỏ soi sáng cho hồn người H'mông về với vua bên “đại quốc”. Đó là nói về người H'mông ở các bản, còn chữa bệnh cho cán bộ huyện, cán bộ xã, cho chiến sĩ đồn biên phòng thì ông lại dùng nhiều thứ thuốc quí. Thỉnh thoảng ông còn đến tận cơ quan, đơn vị hỏi xem người ông đã chữa khỏi bệnh nay có đau lại không, có khỏe hơn lúc chưa chữa không. Sài con hỏi ở quê bố mẹ, vợ con, cả hàng xóm có ai đau khớp, đau xương không. Sài cho thuốc đem vè hoặc mời lên ở tại nhà ông chữa giúp. Trong nhà Sài treo đủ loại thuốc, cán bộ vào chơi ai thích vị gì, Sài tặng luôn. Cư Chín Sài còn mời ăn một bữa cơm gạo nương hay nếp cẩm với thịt gà thiến và uống tạm chén rượu bổ sâm. Trước nhà Sái ngày nào cũng vậy, Sài treo lá cờ đỏ sao vàng. Trong nhà trên chỗ Sài ngồi cắt thuốc có ảnh Bác Hồ lồng trong khung kính và dòng chữ vàng viết trên giấy đỏ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Thế đó. Đó là chân dung Cư Chín Sài. Một người H'mông có cái trán hói cao, hai cái ria dài đen nhanh và đôi mắt sâu kín đáo…

Chợ tan. Mìn A Dùng đi theo đoàn người H'mông đã ngà ngà say dắt ngựa trở vè các bản, Mìn A Dùng đi vào nhà ông Cư Chín Sài. Anh lân la ngoai cửa. Rồi anh đi vài chỗ ông ngồi cắt thuốc. Giờ này chỉ có mọt mình ông, Mìn A Dùng ngắm nhìn Sài. Dùng có cảm tưởng nét mặt Sài choắt hai lông mày rậm, mắt sâu hoắm như thế quả là nét mẳt của một người thâm hiểm. Dùng thầm nghĩ: “Thảo hèn nào, lão đã tạo được một vỏ bọc dầy. Lão tung ra được một màn khói làm cay, làm mờ mắt nhiều người. Nên không ai còn nghĩ rằng lào đang sốg một cuộc sống đầy tội lỗi, Mìn A Dùng cởi đồng tiền ở đầu dải rút ra. Anh cầm ở tay. Anh đi thẳng vào. Dùng nhìn thẳng vào mặt Sài, nói nhỏ, gọn:

-Thưa ông Cư Chín Sài, tôi cầm đồng tiền này có mua được vị thuốc Hoàng Liên không?

Cư Chín Sài ngẩng đầu lên nhìn Dùng từ đầu đến chân. Một cái nhìn thăm dò, xét đoán. Mặt Sài sửng sốt càng choắt lại. Sài thong thả nói:

-Đồng tiền của anh ăn mấy đó?

-Ăn năm mà!

-Anh đưa tôi xem đã-A Dùng đi vào một bước trao đồng tièn cho Sài.

-Không phải, đồng tiền của anh ăn bảy đây mà!

Dùng nhoẻn cười nhìn Sài.

Cư Chín Sài gật đầu. Khuôn mặt choắt của lão dãn ra. Hai cái ria đen rung rung như ria con dán đánh được hoi mỡ. Sài khoát tay ra hiệu cho Dùng vào nhà trong.

Mìn A Dùng đi vào ngồi xuống mép giường gỗ thông. Sài đi ra khép cánh cổng lại rồi lão vào ngồi xuống cạnh Dùng.

-Anh mới sang?

-Vâng, bà chủ Trịnh Bảo Ngọc và bí thư huyện Mã Quan, Giàng Xín Mìn gửi lời thăm ông. Bà chủ vẫn coi ông là “hạt giống đỏ” của tổ quốc “Trung Hoa vĩ đại”, đặt ở đây. Nghe vậy, mặt Sài hơn hớn. Miệng lão giành ra nở nụ cười mãn nguyện.

-Bà chủ và ông bí thư dặn tôi nói để ông yên lòng, vợ ông ở nhà, công xã vẫn cho nhận đủ tiền lương của ông mỗi tháng tám trăm đồng và mười tám ký gạo như hồi ông làm chức phó bí thư Đảng ở công xã. Ông Sài, ông hãy nói cho tôi biết rõ tình hình vùng Mường Khương này rồi tôi truyền đạt nhiệm vụ mới của ông. Tôi tự giới thiệu, tôi là Mìn A Dùng phụ trách đường dây liên lạc trực tiếp giữa ông và bà chủ. Tất cả ký hiệu, ám hiệu chỉ có hiệu lực một lần và hoạt động theo đơn tuyến. Ông nhớ điều ấy. Bởi tình hình bây giờ rất khó khăn. Các ngả đường biên giới bộ đội biên phòng và dân quân Việt Nam đã canh gác nghiêm mật, mìn chúng rải dày hơn, các trận địa, hầm hào chúng cũng bố phòng chặt hơn. Các bản H'mông sát biên giới đều có các đội mà Việt Nam gọi là đội công tác tăng cường về, ta đi lại khó khăn, ông phải giữ mình.

-Vâng, tôi đã biết điều đó. Mấy phiên rồi không thấy ai bên ta sang chợ.

-Tôi nói để ông biết thêm từ nay ta đang chủ động cho Việt Nam bài học nữa. Các đồn biên phòng của đã sẵng sàng thế trận rồi. Đường mòn xuyên núi đều gài mìn. Không có người qua lại nữa. Như vậy ta không có người sang ăn chợ nữa. Vì người của ta sang được, thì người Việt Nam cũng sang ta được. Mà bên ta đang mở thêm đường đưa thêm xe tăng, đưa thêm đại xa phía bắc xuống. Ta đã chuẩn bị cho đại quân trừng phạt Việt Nam lần thứ hai. Ông chú ý bất kỳ ai đến liên lạc, ông cũng phải cẩn mật. Ngoài tôi ra, bà chủ không cử một người nào nữa. Ông nói rõ tình hình vùng đất, ta đang đặt nhiều hy vọng lập “xứ Mường Khương tự trị này”.

Cư Chín Sài im lặng một tý như điểm lại mọi việc rồi lão nói:

-Vùng Mường Khương-Pha Long này ta định lập “xứ Mường Khương tự trị”, tình hình khả quan hơn năm 1979 nhiều. Người H'mông ở các bản đang chờ đợi sự giúp đỡ của “Đại quốc chúng ta”, để họ nổi dậy chống Việt Nam. Cụ thể các bản từ Tả Lùng Thắng, Lồ Cô Chín, Xứ Ma Tùng, Lao Táo… đều đã có người của ta nằm im trong chính quyền của Việt Nam chờ đợi. Ta có thể để họ nổi lên trước rồi lấy cớ cho “đại quân” tiến sang; hoặc “đại quân” tiến sang để hỗ trợ cho họ nổi lên cũng đều được. Tôi đã có dự định lập chính quyền của người H'mông ở các bản. Tôi đã sắp xếp người giữ các chữa vụ và tổ chức bộ máy của “xứ Mường Khương tự trị” này.

-Ông có kéo được ai là người H'mông trong hàng ngũ chính quyền ở huyện, ở các bản không? Có biến được chính quyền của nó thành hai mặt không? Điều đó quan trọng lắm ông Sài ạ. Bà chủ muốn biết rõ điều đó và khuyên ông sớm làm được điều đó, làm được điều đó công ông lớn lắm. Vì ông biết đấy một mũi lên, một viên đạn, thậm chí một quả đại pháo ông chỉ hạ được một cán bộ, một du kích Việt Nam. Chứ dùng mưu kéo được một cán bộ chủ chốt về mình là ông đã hạ được cả một bản, một vùng, một đồn biên phòng rồi đấy.

Cư Chín Sài hí hửng, hắn nói hết để mong người ta chân đắc lực của bà chủ tâu trình công lao của lão lên bà. Sài kể những người là cán bộ trong vùng đấ sa sút, phạm kỷ luật, Sài đã khéo léo lôi kéo được. Sài kể đến những tên phỉ cũ từng nằm lỳ giấu mặt, nhưng dân quân, công an xã bị hắn mua chuộc đang làm việc cho cả hai bên. Hắn kể đến tên những người hắn dự định sắp xếp vào chính quyền bản, xã, “xứ Mường Khương tự trị”. Hắn đặt ra chức vụ và chọn những tên xếp vào đội quân lính áo đen. Hắn nói chắc rằng khi có đại quân của ”tổ quốc vĩ đại” kéo sang, “xứ Mường Khương tự trị” của hắn sẽ ra mắt. Trên đỉnh núi Cô Tiên cao nhất vùng Mường Khương này cờ “cách mạng” sẽ bay cao; cổng chào đón đại quân sẽ dựng lên ở phố Mường Khương, bản Phiệt.

Mìn A Dùng ngồi nghe, anh nói với Sài:

-Ông ghi tên tất cả những người mà ông đã tổ chức được để tôi đưa về báo cáo với bên ấy. Viêc này phải làm rất nhanh để khi”đại quân” ta tiến sang không sát hại nhầm họ. Đại quân ta phải bảo vệ họ.

-Vâng, tôi làm ngay.

-Ông đừng viết vào giấy. Ông nên đề phòng rằng tôi bị Việt Nam bắt. Ông có cách nào bí mật tốt nhất ghi hết tên không-A Dùng nhìn thẳng vào mặt Sài. Anh muốn tìm xem bọn chúng có những thủ đoạn gì trong việc liên lạc bằng thư từ cho nhau không.

-Vâng tôi sẽ…-Sài nghĩ một tý như đã tìm ra cách tốt nhất. Hắn nói với giọng đắc chí-tôi sẽ viết bằng cách hay nhất, Việt Nam mắt có như sao đỉnh trời cũng đừng hòng tìm ra.

-Cách nào?

-Tôi viết tên những người đó… vào các mặt lá thuốc trong một thang thuốc. Tôi gói lại để anh xách đi. Nếu không may anh bị bắt thì bọn lính biên phòng Việt Nam cũng không thể nào tìm ra.

-Ông dùng gì để viết?

-Tôi viết bằng mũi kim nhọn. Anh đừng lo. Nét nhỏ không ai để ý.

Mìn A Dùng nhìn Sài. Giờ đây anh càng thấy hết sự ranh ma của hắn, một tên tình báo của bọn bành trướng Bắc Kinh. Hắn vốn là một tên tiểu đoàn trưởng công binh ở công xã Seo Thầu. Hắn đã giải ngũ về làm phó bí thư công xã. Năm 1966 hắn đã dẫn lính sang ta mở đường “hữu nghị“ số 7, số 8 trong vùng này. Hắn biết rõ từng làng bản, từng bờ khe, ngọn suối ở đây. Sau khi về bên ấy, hắn đi học ở trường huấn luyện đặc biệt. Và ở đó, hắn học cả nghề làm thầy thuốc, thầy địa lý. Hắn mong rằng với nghề đó, một nghề bà con các dân tộc miền núi rất kính nể làm vỏ bọc. Năm 1974 hắn lang thang chữa bệnh cho một số người ở các bản H'mông trong vùng này. Rồi hắn nhận làm anh em với một người H'mông là cán bộ xã ở đó. Hai người uống rượu cắt máu ăn thề rồi từ “anh em kết nghĩa”, hắn dấn lên nhận anh em cùng dòng họ, cùng máu mủ-Anh em cùng bố khác mẹ. Hắn kể một chuyện thương tâm, vì loạn phỉ Hán Xử Lùng năm xưa, hắn phải phiêu bạt, phải ăn cơm thóc lép, phải mặc áo rách xơ. Mạt trời mọc theo mặt trời mà khóc, mặt trăng lặn theo mặt trăng mà than ở bên ấy. Nhưng gà mẹ chết để cho gà con cặp đùi, hắn tìm về bản H'mông để nhận anh em. Hắn nói với người anh rằng là vùng này khó làm ăn nên hắn xin chuyển sang vùng Mường Khương. Nơi đó rừng nhiều cây thuốc tiện cho nghề nghiệp của hắn. Người anh xin giấy cho hắn chuyển vùng. Thế là từ một kể lang thang hắn trở thành một người H'mông có gốc rễ. Hắn có giấy hợp lệ đầy đủ chuyển sang đây làm ăn sinh sống. Hắn nghiễm nhiên trở thành một người H'mông Việt Nam hẳn hoi. Hắn yên lòng. Cả chủ hắn: bọn phản động Bắc Kinh cũng hí hửng coi hắn là “hạt giống đỏ” đã ươm được ở vùng biên giới xung yếu: vùng đất Mường Khương.

Mìn A Dùng nói với hắn:

-Ngay bây giờ ông phải làm đủ bản danh sách cho tôi. Ông gói cẩn thận để bất kỳ lúc nào tôi cầm đi cũng được. Bây giờ ông nghe tôi nói về nhiệm vụ của bà chủ giao cho ông trong tình hình mới. Ông không được ghi chép. Nước “Trung Hoa vĩ đại” sớm muộn sẽ đánh Việt Nam, sẽ cho Việt Nam một bài học thứ hai nữa để Việt Nam thấy rõ sức mạnh vô địch của Trung Hoa. Điều đó đã rõ ràng. Vị tổng tham mưu trưởng của ta đã có chỉ thị mật giải thích điều đó. Ta đánh nhanh, giành thắng lợi nhanh để đạt tới mục đích triệt phá kinh tế, phá hạ tầng cơ sở của Việt Nam. Nếu thuận lợi, ta giữ một vùng đất làm căn cứ cho cách mạng Việt Nam. Lãnh tụ cách mạng Việt Nam sẽ về đó. Ta dồn Việt Nam vào chân tường, buộc Việt Nam phải kéo quân từ Campuchia dân chủ trở về. Ta sẽ giúp người H'mông ở đây lập một “xứ Mường Khương tự trị” chống Việt Nam đó là tiền đề là căn cứ tạo điều kiện cho phong trào cách mạng Việt Nam. Điều sau cùng là trách nhiệm của ông. Ông phải nhanh chóng tìm người lập Đảng Quốc Dân, lập khung chính quyền, lập đội quân để khi đại quân tiến vào vùng đất này họ sẽ đứng vững, sẽ làm hậu thuẫn cho đại quân. Và ví như vì điều kiện chính trị quốc tế, đại quân chưa kéo vào được họ có thể tự nổi dậy rồi làm cớ hợp pháp để rước đại quân tiến vào. Đó, nhiệm vụ của ông có vậy. Ông hãy bàn với tôi ngay về kế hoach thực hiện, vì tình hình đã rất khẩn trương. Trong những ngày cuối mùa khô này, đại quân ta đã tiến về sát biên giới rồi.

Cư Chín Sài lắng nghe như muốn nuốt lấy những lời huấn thị của bà chủ qua cửa miệng Mìn A Dùng.

Thực ra lúc ban đầu Sài thấy Mìn A Dùng tuổi như con dê non trong sừng còn máu lại ăn mặc bẩn, cái áo ba người khiêng không nổi, cái quần năm người giặt không sạch. Trông như một anh H'mông hủi, hắn có ý xem thường. Khi nghe Dùng nói anh ta là người tin cẩn của bà chủ, người của bí thư Giàng Xín Mìn, là cấp trên của hắn, hắn đã hơi nể mặt. Nhưng giờ đây nghe Dùng nói năng lưu loát, hắn thấy đã tin con người của bà chủ phái sang lắm. Hắn lấy quần áo cho Dùng thay, dọn cơm nếp cẩm, mổ thịt gà thiến, rót rượu ngâm nhung nai tiếp Dùng. Dùng nằm trong nhà. Sài tất tả đi thái thuốc. Hắn chọn những vị thuốc là dây leo to, là củ mập thái thật dầy. Đó là thang thuốc quí. Hắn lọc tên những đứa là H'mông gian, người Hoa người Hán giấu mặt đổi tên họ, là cán bộ xã, là phỉ cũ hắn đã tổ chức được viết tên vào những lát thuốc ấy. Còn những củ sâm đại hành để nguyên thì hắn viết tên những đứa hắn đã chọn lọc dự kiến lập đội quân áo đen của “xứ Mường Khương tự trị”.

Hắn gói thang thuốc bách bệnh vào trong lá chuối khô. Đó là bản báo cáo đầy đủ nhất của hắn về nước kể từ ngày hắn được cài cắm ở đây. Hắn thầm nghĩ, với bản báo cáo đó hắn sẽ được bí thư Giàng Xín Mìn cấp thêm gạo, thêm tiền cho vợ con hắn; được bà chủ trọng thưởng. Chẳng là ngày tiễn hắn sang đây, bí thư Giàng Xín Mìn đã nói: “Anh là người Đảng viên cộng sản của nước Trung Hoa vĩ đại. Anh đi đến đâu cột mốc biên giới tổ quốc ta sẽ kéo dài đến đó. Chúng tối sẽ cấp tiêu chuẩn của anh cho vợ con anh như lúc anh còn ở công xã. Cư Chín Sài ạ! Anh là “hạt giống đỏ của tổ quốc Trung Hoa vĩ đại!”.

Tối, Cư Chín Sài đóng chặt cửa. Hắn vào nhà trong bàn với Mìn A Dùng kế hoạh hành động cần kíp để thực hiện ý đồ của bà chủ. Theo Mìn A Dùng gợi ý, Cư Chín Sài đã định mở cuộc họp ở nơi hắn dự kiến sẽ là căn cứ: Xoáng Pá Tủng hoặc là một bản ở sát biên giới. Cuộc họp đó Sài sẽ chính thức thành lập Đảng Quốc Dân và soát lại số người, số súng đạn hiện có một lần chót…

Mìn A Dùng kéo Cư Chín Sài ngồi sát vào. Dùng ghé tai Sài dặn nhỏ: phải rất nghiêm mật, việc này chỉ có hắn và Dùng biết thôi. Ngày họp và nơi hợp phải để đến phút cuối cùng mới được quyết định. Và Sài phải trực tiếp nói với từng người!

Cư Chín Sài nhìn Mìn A Dùng với ánh mắt đầy kính trọng và tin tưởng…

Kế hoạch “Hoa Lê Nở”… đã tàn

Những ngày giáp tết đồn biên phòng Quyết Thắng đã xuất trận. “Thang thuốc bách bệnh” được bày rộng ra trên bàn. Chính trị viên Trần Ngọc, đồn trưởng Khánh ngồi trước tấm bản đồ. Mìn A Dùng lật từng nhát thổ phục linh, hoàng liên, hoài sơn, tam thất, bạch truật… và cầm từng củ sâm để đọc tên những đứa H'mông gian trong tổ chức Đảng Quốc Dân và “xứ Mường Khương tự trị”, đồng chí trinh sát ghi lại rõ ràng. Một bản danh sách đầy đủ tên những đứa có âm mưu phản loạn ở vùng này, được lập nên. Đối chiếu với tập hồ sơ các chuyên án của đồn biên phòng đã lập, bọn này đều đã có tên.

Trần Ngọc nhìn Mìn A Dùng, anh khen ngợi người chiến sĩ trinh sát trong chiến công đầu. Là một chiến sĩ đã từng có mặt trên các tuyến biên phòng xung yếu, Ngọc đã giáp mặt với các bọn gián điệp biệt kích của các loại giặc. Anh đã từng chốt giữ trên những cao điểm phía Tây Nam ở Bắc Đai, ở Tĩnh Biên, ở Phú Hữu… trong những ngày ác liệt. Anh đã từng vượt rừng dài, vượt suối lạnh lần theo dấu vết bọn biệt kích Mỹ-nguỵ ẩn nấp để bắt chúng. Anh đã từng chạm trán  với bọn “Mỹ lết”, “Mỹ lê”, với bọn Phượng Hoàng, Thiên Nga. Anh đã từng chứng kiến những thủ đoạn gian giảo của bọn chúng. Ngọc nhìn những nhát thuốc của “thang thuốc bách bệnh”, anh mỉm cười:

-Bọn này tuy thâm hiểm nhưng thô thiển. Các cậu ạ! Nói tóm lại, theo mình chúng là một bọn hoạt động theo lối thổ phỉ, thô sơ nhưng tàn ác. Tuy vậy, chính những cái thô sơ lại lắm lúc làm cho ta mất cảnh giác coi thường chúng. Mà mất cảnh giác và coi thường đều là thất bại. Các cậu thấy đó đã có lắm bài toán dễ mà người học giỏi lại làm sai, đã có lắm mục tiêu gần mà người thiện xạ bắn không trúng. Điều đó nhắc ta phải chú ý. Còn bây giờ thì đã rõ ràng. Những con bài đã lật ngửa được cả rồi. Danh sách bọn phản loạn ta đã nắm trong tay. Hãy bắt gọn, bắt nhanh bọn chúng trước dịp tết này là điều ta cần bàn kỹ.

-Phải bắt hổ tại hang mới gọn-đồn trưởng Khánh nói-Vì các bản ở xa nhau lại sát đường biên giới. Rút dây sẽ động rừng, rồi bắt cáo đằng đuôi sẽ rất khó.

Đồn trưởng Khánh gợi lên một phương án phải bắt cả lũ một lần mới gọn. Phương án đó có cơ sở thực tế vì để chúng đánh hơi được, chúng sẽ chạy sang bên kia. Ngọc và các chiến sĩ trinh sát suy nghĩ. Bàn. Rồi kế hoạch gom hổ về hang được đặt ra. Nhiều tình huống bất trắc nhất được dự kiến tới. Điều cốt yếu trong kế hoạch là sự móc nối các đầu mối không được hở. Và phải bảo vệ các đồng chí trinh sát đang hoạt động trong hàng ngũ bọn chúng. Cuối cùng, đồn biên phòng Quyết Thắng đã nhất trí kế hoạch đó và hạ quyết tâm giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất: trước ngày tết. Cuộc họp xong, phía Thải Giàng Sán hừng đông đã đỏ dậy. Con chim cứ cư đã cất tiếng hót ngọt ngào chào buổi bình minh. Trần Ngọc ra ngay khu rừng cấm đầu bản Lao Táo để gặp Vàng Seo Hồng. Mìn A Dùng chuẩn bị “vượt biên” để truyền đạt kế hoạch hoạch mới cho Cư Chín Sài. Đồn trưởng Khánh duyệt phương án bảo vệ, chốt chặn các đường biên giới. Các đội công tác cơ sở, đội tuần tra, phục kích, ngăn chặn đường mòn đi về các bản sát biên.

Lại một đêm khuya. Tuyết nhẹ rơi trên đất núi Mường Khương. Một người đàn ông từ phía bên kia vượt sang. Người đàn ông gõ cửa nhà Vàng Seo Hồng. Seo Hồng ra mở cửa. Cũng như những người đã sang trước, người đàn ông nhìn Hồng rồi chìa ra cửa mảnh giấy. Hồng đưa người đàn ông vào nhà, anh rút trong túi áo ra một nửa ghép vào. Khớp. Seo Hồng cầm chặt tay người lạ mặt.

-Tôi là người của quan Cáo Chẩn Phù mà-Người lạ nói.

-Tôi đã hiểu. Ông có thể lại trở về ngay bên ấy báo báo với ông Phù cái tin dữ này. Người của bà chủ phái sang Việt Nam đã bị lính biên phòng Việt Nam bắn chết khi anh mới vào biên giới. Còn ông Phù Chẩn Dìu đã bị bắt. Ồng đã tự sát bằng lá ngón. Ông Cáo Chẩn Phù phải sang ngay để truyền đạt những nhiệm vụ mà bà chủ giao cho Cư Chín Sài.

Tên vượt biên giật mình tiếng kêu nghẽn lại trong cổ họng hắn. Hắn trố mắt nhìn vào bóng đêm cơ hồ như một sự lo sợ bao trùm lấy hắn. Hắn lo cho số phận hắn. Hắn nghĩ về cái mảnh đất này, mảnh đất rừng Mường Khương của Việt Nam khó dung tha cho bọn hắn.

Đúng hẹn, đêm sau Cáo Chẩn Phù mò sang. Vàng Seo Hồng đã đứng ở cửa chờ. Seo Hồng đưa hắn vào nhà. Hắn ngồi xuống vừa hơ đôi tay giá cóng lên ngọn lửa vừa nói. Giọng rầu rầu:

-Hại quá, ta lại mất thêm những “hạt giống đỏ”. Tình hình đại gấp Seo Hồng ơi!

-Thưa ông Chẩn Phù, Mìn A Dùng chết ngay trên con đường mòn…

-Tổn thất lớn, tổn thất lớn Seo Hồng ạ! Tôi phải sang này mà. Lệnh chủ truyền khẩn cấp lắm. Đại quân ta đã sẵn sàng rồi mà cơ sở để dựng ngọn cờ cho cách mạng Việt Nam ta chưa lập được.

Seo Hồng rót một bát rượu ngâm với củ tam thất trao cho Phù rồi nói:

-Thưa ông Phù, bên đại quốc làm gì mà súng nổ đêm không ngừng, ngày không nghỉ thế.

-Tả, tả mà!-Phù giơ tay đấm vào màn đêm đen kịt.

-Quân “đại quốc” sang đây cho Việt Nam bài học thứ hai nữa à?

-Đúng, “đại quân của tổ quốc vĩ đại” sẽ lại cho Việt Nam biết thế nào sức mạnh, sẽ tiến sang. Đại quân ta đã về đóng chặt đất Xeo Pà Chư, Lao Kha, Seo Thầu, Hà Khẩu, Mã Quan, Tiểu Pà Mế. Đại pháo, xe tăng nhiều như đá núi… Tiếng nổ nhiều như sấm dậy đất đó là ta nổ mìn mở đường mới phá núi cho xe tiến sang. Hiện giờ các bao truyền đơn đã chất đầy bên biên giới chỉ chờ người sang chuyển về. Súng đạn, áo quần, mũ đen trang cấp cho đội quân “xứ Mường Khương tự trị” đã chở về các cửa khẩu, ta cần tập hợp người để sang nhận. Bốn năm vạn người H'mông dùng cũng đủ mà. Nhiều người Hoa ở Việt Nam trở về tổ quốc cũng đã sửa soạn trở lại. Cả người Dao, người H'mông ở các công xã cũng sẽ dời sang nữa. Ta sẽ lập ngay lên ở vùng này những công xã nhân dân thay cho các hợp tác xã của Việt Nam. Ta sẽ xây nhà ở đây theo kiểu nhà của tổ quốc Trung Hoa. Và những hàng hoá đẹp của tổ quốc như vải, bát, phích, nồi xoong… sẽ tràn ngập vùng Mường Khương, Pha Long này. Bà chủ, ông bí thư Mã Quan đã nhắc đến ta, nhắc anh nói ngay với người H'mông bên này rằng: “Tổ quốc Trung Hoa xin lỗi người H'mông. Người H'mông là người con rất yêu quí của tổ quốc. Người Hoa, Hán ngày xưa có lỗi với ngườì H'mông, gây thù hằn với người H'mông là sai. Tổ quốc thành thật xin lỗi. Nay ai có lòng về với tổ quốc thì đưa tấm lòng đó giúp “đại quân“ tiến sang một lần nữa, làm hậu thuẫn cho “đại quân” xây dựng cho được “xứ Mường Khương tự trị” để chống tiểu bá Việt Nam phản bội. Người H'mông vốn dũng cảm và thông minh, đó là huyết thống của tổ quốc truyền cho. Con cái nghèo đói và lạc hậu là do Việt Nam gây nên. Tội của Việt Nam đối với người H'mông rất lớn. Người H'mông phải chống lại người Việt Nam! Vàng Seo Hồng ạ, bà chủ đã nhắc lại rõ: ai nắm được người H'mông ở vùng này, người đó sẽ thắng. Nhất định tổ quốc vĩ đại ta sẽ thắng, Seo Hồng ạ”.

-Ông Phù, theo ông bây giờ ta phải làm gì, tôi phải làm gi để giúp cho tổ quốc?

-Seo Hồng ạ, chỉ cần mày kêu gọi người H'mông nổi dậy để thực hiện kế hoạch mà tổ quốc đã vạch ra “kế hoạch Hoa lê nở” mày có biết tại sao kế hoạch lại có cái tên đó không, nghĩa là kế hoạch phải được thực hiện giữa mù hoa lê và khắp các bản H'mông ở Mường Khương nổi dậy cùng một lúc như hoa lê nở ấy mà.

-Ông Phù ạ thế thì phải có một cuộc họp mà!

-Ừ, theo tao phải có cuộc họp để lập ra những người đứng đầu “xứ Mường Khương tự trị”, đó là điều cấp thiết Seo Hồng ạ. Lão Cư Chín Sài sẽ là “chủ tịch” mày ạ. Mai tao sẽ đến nhà lão ta. Tao sẽ bàn kỹ với lão về cuộc họp ấy. Mày nhớ kế hoạch “Hoa lên nở” là gấp lắm rồi. Bà chủ bảo phải thực hiện trước dịp tết này mà.

Seo Hồng cầm cái bát không ở tay hắn. Hồng hỏi hắn “có uống rượu ngon nữa không”. Hắn nghĩ Seo Hồng sẽ rót cho hắn một bát nữa. Hắn cuời. Cái nốt ruồi đen như cục thịt thừa ở môi hắn rung rung. Chính câu hỏi của Seo Hồng là một hiệu lệnh. Bỗng đồn trưởng Khánh và một chiến sĩ từ ngoài xông vào. Một chiến sĩ từ gầm giường xông ra:

-Ngồi im.

Cáo Chẩn Phù trợn tròn mắt nhìn quanh. Cặp mắt hắn long lên như muốn cào rách da thịt Seo Hồng. Hắn nhào ra phía cửa. Khánh lao tới. Anh quật hắn ngã sãp uống. Cáo Chẩn Phù nằm sõng soài bên bếp lửa.
Mìn A Dùng lại từ ”đại quốc vượt biên giới” sang gặp “hạt giống đỏ” Cư Chín Sài. A Dùng truyền đạt chỉ thị của bà chủ và kế hoạch “Hoa lên nở” cho Sài. Cư Chín Sài gấp rút tìm người lập tổ chức Quốc Dân đảng và các cấp cai trị “xứ Mường Khương tự trị” xuống đến các bản để kịp ra mắt làm hậu thuẫn đón đại quân tiến sang. Cư Chín Sài suy nghĩ bàn với A Dùng rồi quyết định mở phiên họp lịch sử để lập đảng, lập ban đầu não của “xứ Mường Khương tự trị”. Cư Chín Sài là người chủ trì. Mìn A Dùng, người tin cẩn của bà chủ cử sang giúp sức vạch kế hoạch bảo vệ chu đáo. Theo Dùng bàn để giữ bí mật tuyệt đối thì Cư Chín Sài không báo địa điểm họp chính thức cho những người đến họp mà chỉ báo nơi tập kết. Nơi đó Sài và A Dùng nhận mặt người đến họp rồi mới đưa tới nơi họp. Buổi họp đúng vào hôm phiên chợ Pha Long cuối năm. Lúc đó chợ đang họp đông. Các làng bản người H'mông, người Nùng, người La Chí ai cũng mải xuống chợ mua bán sắm tết không còn ai để ý đến.

Trước đó một hôm Cư Chín Sài cưỡi ngựa trắng đi xuống các bản trong vùng để thăm bệnh, để hái thuôc, và mua cây thuốc đưa về, Sài đi một vòng từ Mường Khương lên Pha Long, lên Tả Lùng Thắng Tả Gia Khâu, về Lao Táo… Chín Sài hẹn với mọi người đêm hôm trước phải có mặt ở Ma Tủng là một bản hẻo lánh, giáp đườg biên. Đêm đó, Sài giết một con chó chửa sắp đẻ, hắn lấy ra bốn con chó con. Khi Sài cầm dao chọc tiết chó thì từng đứa hứng bát rượu vào rồi uống, rồi giơ mũi dao lên thề. Sài nói trước: “Sống chết phải có nhau. Người H'mông phải hướng về phương bắc, nơi đó là tổ quốc của người H'mông. Nơi đó là nước ”Trung Hoa vĩ đại”! Ai một dạ hai lòng, một cây hai lõi phải chết đen như ngón”. Cả bọn nhìn vào mũi dạo nhọn làm chứng thề. Chúng xé thịt chó con nướng tái ăn, để biểu hiện lòng dũng cảm huyết thống của tổ quốc truyền lại cho người H'mông. Rồi Cư Chín Sài chất một đống củi gỗ thông và mỗi đứa cầm một que lửa châm vào. Đống củi cháy rực. Ngọn lửa đó theo chúng là để tượng trưng cho buổi nhen nhóm cái đảng “Quốc dân” của chúng. Và ngọn lửa đó cũng như đảng ấy sẽ lan ra cả “xứ Mường Khương tự trị” này. Xong, chúng tản ra nằm im ở các nhà trong bản.

Sáng sớm, Cư Chín Sài vẫn không cho bọn chúng biết địa điểm họp. Gần đến trưa, Sài và A Dùng mới đi nói nhỏ với từng người. Rồi từng người một lặng lẽ đi về phía hang đá Xoáng Pá Tủng (tiếng H'mông có nghĩa là hang đá ba ngăn). Hang đá gần sát đường biên giới, nằm kín đáo cuối cánh rừng thông sa mu, Mìn A Dùng nói với Sài, Dùng sẽ chọn một người gác cửa. Người đó anh tin tưởng, người đó là Vàng Seo Hồng. Seo Hồng cầm khẩu AK đứng trước cửa hang đá. Sau anh là Cư Chín Sài và Dùng đứng nhận mặt từng người đi vào hang. Bỏ ngăn thứ nhất, từng người đi vào ngăn thứ hai. Bỏ ngăn thứ hai, từng người bò qua lớp nhũ đá lạnh lẽo vào sâu bên trong, đó là ngăn thứ ba. Ngăn trong cùng của hang đá. Từ đó có một cửa thông ra phía sau núi. Trong hang giá lạnh, ẩm mốc. Nhũ đá thõng xuống tua tủa, lấp lánh trước ánh đèn pin. Những con dơi treo cánh vào vách hang đá ngủ suốt mùa đông, thấy động chúng loạng choạng bay trước ánh đèn.

Một đống lửa được nhen lên. Bầy người ngồi xung quanh. Ánh sáng trong hang đá mờ ảo như trong buổi hoàng hôn tắt nắng. Cư Chín Sài điểm mặt hết lượt: gần hai mươi đứa tất cả. Sài rút túi quăng ra mấy bao thuốc lá “Thấp Hông Sơn”, “Đại Trùng Cửu”. Cả bọn nhao nhao tranh nhau hút. Tên ngồi gần Sài là Ma Tả Chấn, Sài định giao cho hắn làm chỉ huy quân sự vùng Pha Long. Cạnh đó là Cháng Sẩu người Hán ở Seo Pà Chư sang ẩn nấp ở bản Lao Táo đã từng viết truyền đơn kêu gọi người H'mông nổi dậy. Sài định giao cho hắn giữ chức tuyên truyền của “xứ Mường Khương tự trị”. Rồi Lù Xảo ở Trung Dung phố từ Mã Quan sang giấu mặt, đó là người tin cẩn, Sài sẽ giao cho chức phó bí thư Đảng Quốc dân. Người ngồi phía bên kia bếp lửa là Giàng Sấn, là Lý Xín những dân quân bản H'mông, Sài đã lôi kéo được. Rồi nữa: Ly Seo Chúng, Giàng Seo Láo, Vừ Quang Phù… Cư Chín Sài thấy đã đủ mặt những người tin cẩn nhất vùng núi Mường Khương này, hắn đứng dậy giới thiệu với mọi người có hai người lạ đến dự buổi họp lịch sử. Đó là My Mộng Hoài ở công xã Seo Thầy là nơi căn cứ ngoại biên đỡ đầu cho “xứ Mường Khương tự trị” sang và Mìn A Dùng là người của thượng cấp bên tổ quốc cử sang dự cuộc họp. Xem ra quan trọng nhất trong buổi họp này đứng về phía chủ là Cư Chín Sài. Về phía khách là Mìn A Dùng. Sài đứng đó, ánh lửa hắt cái bóng hắn đen ngòm lên vách đá ẩm. Sài nói. Giọng hắn ồm ồm vang trong hang đá:

-Anh em người H'mông, người Hán ta ơi! Ta sẽ coi nhau như người cùng một họ, coi nhau như cùng một dòng máu. Bởi chúng ta chung một tổ quốc Trung hoa. Bây giờ ta họp nhau đây để làm theo lời của tổ quốc kêu gọi. Mỗi người ta phải như mỗi que củi thông này đốt cho đống lửa cháy to lên, cháy cả rừng thông, cháy cả đất núi Pha Long này. Đống lửa rừng H'mông sẽ thiêu đốt hết bọn người Kinh. Hôm nay ta họp để lập đảng của người H'mông ta. Ta lập một ban đứng đầu “xứ Mường Khương tự trị” này. Ta lập một đội quân người H'mông áo đen. Các anh em người H'mông, người Hán ạ, xứ Mường Khương ta sẽ vĩnh viễn không phải là của Việt Nam nữa. Ta sẽ thực hiện ngay “kế hoạch Hoa lên nở” ở trong vùng Mường Khương-Pha Long này. Nghĩa là dân các bản nổi lên như mùa hoa lê đang nở để diệt người Kinh, để đón “đại quân của tổ quốc” sang một lần nữa “Đại quân” sẽ giúp ta. Súng đạn đã sẵn sàng chở sang chỉ một đêm sẽ tràn ngập đất Mường Khương.

Sài lớn tiếng nói, tiếng hắn dội vào hang sâu. Bóng hắn chập chờn trên vách đá rên xám xỉn:

-Ở các vùng Na Hờ, bản Mế, Xín Mã Cái, Sa Pa, đã có tổ chức các đội quân rồi-Họ đang chờ ta anh em ạ. Khi ta lật chính quyền của người Kinh đi, ta sẽ lập công xã nhân dân. Ta sẽ có người anh em bên kia sang nữa. Đất núi Hoàng Liên này là của người H'mông ta. Con cầy hương có hoá thành con ngựa lang thì người Kinh cũng không chiếm được đất núi này của ta…-Sài đứng im một lát rồi hắn lấy giọng, nói tiếp:

-Để gấp rút thực hiện “kế hoạch Hoa lê nở” tôi thấy vùng Cao Sơn phải có một tiểu đoàn, Xín Mã Cái một tiểu đoàn, Pha Long, Mường Khương mỗi nơi ta phải có một tiểu đoàn. Anh Chấn-hắn nhìn tên thổ phỉ lâu nay giấu mặt-phải lôi kéo cho được chủ tịch, xã đội Thải Giàng Sán để lấy vũ khí của dân quân rồi tiến xuống chiếm Pha Long. Anh Cháng Pả bắt mối ngay với ba người H'mông trong đồn biên phòng làm nội ứng. Những người đó sẽ cướp súng hoặc bỏ đất vào nòng súng rồi hẹn giờ, làm ám hiệu cho ta vào cướp đồn biên phòng. Ta sẽ lấy ngựa, ta sẽ gọi người ở các bản sang chở ba ngàn khẩu súng tốt ở Lao Kha về. Ta phải chặn con đường từ suối Nàn Tử Hồ lại, chặn đường từ Lào Cai lên để bắt diệt hết số người Kinh ở đây. Các anh em người H'mông ta ơi! Trong việc này ta phải chọn những người tốt. Những người có nhiều thù với người Kinh để lập ban đứng đầu “xứ Mường Khương tự trị”. Anh Mìn A Dùng đây sẽ thay mặt thượng cấp chứng kiến những việc bàn này. Anh em ơ! “tổ quốc Trung Hoa vĩ đại” đang chờ ta đó.

Mìn A Dùng đã thấy rõ âm mưu, đã biết hết mặt bọn chúng, anh đứng dậy. Anh cầm khẩu súng đi ra phía cửa hang đá. A Dùng đi vòng quanh cửa hang một vòng như để kiểm tra, như để tuần phòng. Dùng đứng ở cửa hang anh bật lửa hút thuốc. Lửa tắt, anh bật lần thứ hai. Đúng ám hiệu. Vàng Seo Hồng khoát tay về phía rừng thông. Trần Ngọc dẫn mũi xung kích chính diện tấn công. Các chiến sĩ biên phòng nhẹ nhàng xông vào chiếm tất cả các ngách hang đá. Mũi thứ hai của đồn trưởng Khánh dẫn đầu tiến vào bịt lối ra và soi đèn pin vào đám người ngồi quanh đống lửa. Các đơn vị dân quân ở các bản H'mông chốt vòng ngoài do Giàng Xeo Xay chỉ huy đã khép chặp vòng vây. Cả hang đá và cả khu rừng biên giới đã nằm trong màng lưới. Ông Giàng Tả Páo cầm con dao phát nương đi theo đội dân quân. Ông đi đến để nhận mặt những thằng là phỉ cũ, những thằng ở bên kia biên giới hay lẻn sang…

-Cư Chín Sài và đồng bọn hãy ngồi. Chúng mày đã bị vây chặt-Tiếng nói của đồn trưởng Khánh chưa dứt, ánh đèn pin sáng xanh soi thẳng vào mặt cả lũ. Chúng sửng sốt. Chúng bàng hoàng. Chúng ngồi im như đá. Tên Sài sau một phút hoảng hốt đã trấn tĩnh lại. hắn nhảy tới định dập tắt đống lửa. Nhưng ánh đen pin dọi thẳng vào mặt hắn.

-Đứng im! Giơ tay lên. Anh chỉ mũi súng vào mặt tên Sài quát. Cư Chín Sài đứng sững sờ. Hắn trố mắt nhìn Dùng. Hắn ”a” lên một tiếng như đã hiểu ra tất cả!

Cả lũ giơ tay, rồi lốc nhốc kéo ra của hang đá. Chúng đứng thành một hàng dọc. Đầu chúng cúi gầm xuống. Trông chúng thảm thại như hàng cột bia trên các nấm mồ ở nghĩa địa. Cư Chín Sài mặt tím bầm, đôi mắt sụp xuống, cằm bạnh ra vì uất ức. Hắn lấm lét nhìn quanh. Một lần nữa, hắn lại tròn mắt khi nhìn thấy Vàng Seo Hồng con người mà hắn tin cẩm đã cầm khẩu súng đứng gác cửa hang cho bọn chúng họp, lại đang đứng trong hàng ngũ các chiến sĩ biên phòng. Hắn nhìn ra xung quanh. Có lẽ hắn có ý tìm ngọn lá ngón nhưng tay hắn đã bị trói gập cánh khuỷu.

…Mây núi trên con đường mòn mà chúng đi về đồn biên phòng đã tan, như kế hoạch “Hoa lên nở” của “tổ quốc vĩ đại” giao cho chúng đã tan. Trước cửa hang đá Xoáng Pá Tủng, bên những cây thông sa mu cao vút như ngọn mác nhô cao giữa bầu trời xanh biên giới, toả hương thơm kín đáo, chính trị viên đồn biên phòng Trần Ngọc ôm chặt Mùa A Pếnh, ôm chặt Vi Viết Sài vào lòng. Ba chiến sĩ biên phòng là người ba dân tộc anh em Kinh, H'mông, Tày từng gắn bó với đất núi Mường Khương ôm nhau cười rạng rỡ. Trước mặt họ bản Thải Giàng Sán nắng vàng rực trải trên cánh rừng lê.

Kẻ phản bội

Quả lựu đạn từ đâu ném tới

-Ta phải nói cho bà con biết rõ sự độc ác của bọn giặc Bắc Kinh. Chúng đang gây một cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với ta. Chúng làm cho ta như con người thường xuyên bị chảy máu, suy yếu đến kiệt sức để chúng xâm chiếm. Ở vùng Tà Chải, chúng lan truyền tin đồn nhảm, gây hoang mang àm rối loạn an ninh chính trị vùng biên giới, để bọn thám báo gián điệp…


Một ánh lửa xanh loé lên cắt ngang lời anh tham mưu huyện đội. Ánh lửa loằng ngoằng xé màn đêm biên giới lạnh, sương dầy và mưa bụi. Lập tức mùi khét thuốc nổ lan đẫm ra trong bầu không khí ẩm ướt. Một vật nặng từ ngoài cánh cửa ván đang hé mở bay vào rơi bịch xuống giữa đám đông, cạnh anh tham mưu huyện đội, anh chủ tịch và đồn trưởng biên phòng. Bếp than hồng sưởi ấm tung toé lên. Ánh đèn dầu vụt tắt. “Lựu đạn, lựu đạn. Nằm xuống, nằm xuống”. Chu Phà, xã đội trưởng Tà Chải kêu lên thất thanh. Lửa xanh từ ngòi nổ của quả lựu đạn vẫn toé lên. Tiếng xì xì dồn dập. Bỗng Chu Phà vươn nhoài người về phía quả lựu đạn. Anh nằm đè lên nó. Động tác anh nhanh và dứt khoát. Ngòi chuyền nổ vẫn cháy xé xé. Tàn lửa loé ra như những que diêm đánh bị xịt dưới bụng Chu Phà. Lửa cháy áo Chu Phà. Mọi người nín thở. Nhưng rồi tàn lửa tắt. Tiếng xé xé cũng câm bặt.

-Xịt rồi!-Chu Phà kêu lên. Giọng anh ấm, vang.

Hơn hai mươi người thở phào. Những người nằm đã ngồi dậy. Những người trú vào góc tường đất đi ra. Ánh đèn pin chiếu sáng xanh loang loáng. Đèn được đặt thắp lên. Chu Phà ngồi dậy. Anh bình tĩnh đến thản nhiên. Tay anh cầm quả lựu đạn dài cổ vỏ nóng bỏng giơ cao lên. Anh đi nhanh ra ngoài sân. Một tay anh ôm bụng, bởi một mảng da bụng anh bị bỏng và vạt áo trước bị lửa cháy.

-Chúng định giết ta. Chúng định phá cuộc họp này. Nhưng may quá, lựu đạn không nổ. Các anh xem đúng là kiểu lựu đạn của bọn giặc Bắc Kinh rồi-Chu Phà nói ríu lưỡi trong sự mừng vui. Anh đứng trước bếp lửa vừa được nhen lên. Mùi củi thông sa mu thơm nhẹ. Ánh lửa nhảy nhót viền một vừng sáng hồng quanh khuôn mặt nhỏ, hơi gầy, có sống mũi cao của anh. Cái trán vát và đôi mắt sâu của Phà lúc này như cũng rạng rỡ lên. Nom anh lanh lợi và tháo vát. Đôi chân hơi vòng kiềng của anh đôi chân của người vì đeo lù cở (như cái dỏ cái hai quai đeo sau lưng) nặng, vì leo núi sớm hoặc vì cưỡi ngựa nhiều từ bé, lúc này cũng như nhún nhẩy trước bếp lửa theo niềm vui trong giọng nói của anh. Giọng anh nói to và âm vang. Đồng chí đồn trưởng đồn biên phòng đến cạnh Chu Phà. Anh soi đèn pin để nhìn kỹ qủa lựu đạn. Anh cầm nó để vào một góc sân. Rồi anh đi nhanh về phía cửa ván đang hé mở để như xác định hướng của lựu đạn từ đâu ném tới. Đêm biên giới tối như nhìn vào hang đá. Sương dầy. Trời lại mưa nặng hạt. Anh nói nhỏ một mình vẻ thất vọng. Vì anh biết thời tiết như thế thì phương tiện truy lùng của anh: con chó “Ánh chớp” dù có giỏi đến đâu cũng không thể làm việc được. Và hơn nữa quả lựu đạn đã đẫm hơi của Chu Phà. Dấu vết cũng bị lẫn lộn, bì xoá mờ trong mưa, trong vết chân nhiều người đi tới. Các nhà trong bản Tà Chải nghe tiếng lao xao, họ biết chuyện, họ truyền cho nhau tin bọn thám báo bên kia biên giới lẻn sang ném lựu đạn vào cuộc họp. Xã đội trưởng Chu Phà đã lấy thân mình che để cứu sống mọi người. Nhưng may quá, lựu đạn bị xịt. Bà con đã đốt đuốc từ các ngả kéo đến. Hai hồi tù và nổi lên. Dân quân được báo động. Hoàng Dìn tiểu đội trưởng đã dẫn cả tiểu đội trang bị đầy đủ đứng trước san để chờ lệnh của Chu Phà. Chu Phà nói với Dìn:

-Anh chia làm ba tổ đi tuần tra ngay trên đường biên giới và báo cho điểm tựa trực chiến biết sự việc nghiêm trọng này. Dìn chấp hành ngay lệnh của Chu Phà. Anh cho tiểu đội dân quân lên đường ngay. Chu Phà xoa thuốc vào vết bỏng rồi anh cũng định mang súng đi tuần tra với dân quân. Nhưng người cả bản đã đổ tới vây quanh lấy Phà. Họ đốt đuốc thêm cho sáng hơn để soi rõ tà áo trước của Phà bị cháy, để soi mảng da bụng của Phà bị bỏng. Cô y tá Xuân Kiều từ trạm xá đã tất tả sách túi thuôc chạy tới. Các ông già đưa mật gấu cho Chu Phà xoa, đưa mỡ trắn cho Chu Phà bôi vào chỗ bỏng. Các bà mẹ đưa mật ong lấy giữa mùa thuốc phiện cho Chu Phà dùng để mau kéo da non. Người cả bản hoan hô Phà, trầm trồ khen ngợi Phà. Cả bản Tà Chải đêm nay xem Phà như một vị anh hùng, như một người con trai đầu bản xưa nay chưa từng có. Phà khiêm nhường nói với mọi người rằng, anh làm như vậy để mong cứu sống được nhiều người đang họp mà ở đó toàn là cán bộ huyện, cán bộ các xã về bàn nhiều điều quan trọng để bảo vệ bản làng: rằng nếu như có bị thiệt mạng thì chỉ có một mình anh chịu thôi. Anh sẵn sàng nhận cái chết cho mọi người sống để làm được nhiều việc cho dân; rằng anh làm như vậy để mong nêu được một tấm gương tốt cho thanh niên Tà Chải noi theo mà dũng cảm đánh giặc giữ làng bản cho dân, nếu như có bọn giặc Bắc Kinh tràn sang… Nghe anh nói, bà con đều cảm động, thêm thương yêu kính trọng anh. Nhiều ông già đã nói phải chặt cây sa mu to nhất, lâu năm nhất trong “rừng cấm” làm nhà năm gian đẹp nhất cho Chu Phà ở; phải lấy con ngựa trắng đẹp nhất bản để Chu Phà đi. Có người còn nói Tà Chải nên mở hội Xây Xán (hội chơi núi mới) sớm hơm mọi năm, trồng cây nêu cao hơn mọi năm để chúc mừng Chu Phà mới xứng tấm lòng tốt của Phà…

Hôm sau, cuộc họp tiếp tục. Đại biểu dân quân các bản làng vùng biên giới, huyện đội, các đơn vị phòng thủ tuyến một bàn tiếp việc bảo vệ vùng xung yếu này và chống chiến tranh tâm lý của giặc. Trong cuộc họp từ tham mưu huyện đội đến đồn trưởng biên phòng đã ôm chặt lấy Chu Phà, khen ngợi hành động đó đã cứu sống được nhiều người trong cuộc họp nếu như quả lựu đạn nổ, mà có ai đoán được trước là nó nổ hay không, và đó cũng là một bằng chứng chứng minh âm mưu bọn giặc đang phá hoại an ninh vùng biên giới. Đó là việc làm táo tợn chúng định ám hại những cán bộ chủ chốt của dân quân ở các xã về họp. Xã đội trưởng Chu Phà được cả hội nghị nhất trí đề nghị lên trên khen thưởng thật xứng đáng. Chu Phà vui vẻ nói với mọi người. Giọng anh ấm, âm vang như con chim gáy tróng, gù buổi sáng trong rừng sa mu:

-Tôi làm được việc đó là nhờ cán bộ huyện, cán bộ đồn biên phòng dạy cho, nhờ học được sự hy sinh của anh em bộ đội trên điểm tựa để cho xứng với người con trai H'mông “đẻ bên cửa bếp, chết trên cửa trời, và sống thì phải như cây sam mu trên đỉnh núi”. Qua lời khiêm nhường đó, cả bản Tà Chải thật sự đã xem Chu Phà như một ngôi sao sáng đẹp trên khóm trúc vàng, trên khóm mai xanh ở đầu núi: như một cây thông sa mu lâu năm vòng gốc ba người ôm không xuể, năm người quàng tay không hết ở trên đỉnh núi Hoàng Liên này.  Đồng chí đồn trưởng đồn biên phòng hỏi Chu Phà cất quả lựu đạn ở đâu, vì hiện vật đó có thể góp phần cho anh tìm ra manh mối kẻ địch. Chu Phà cười:

-Tôi đã vứt nó xuống suối. Tôi sợ trẻ em tò mò tháo lấy thuốc nhồi đạn súng săn nguy hiểm đến tính mạng. Nó cũng giống như một quả lựu đạn của bọn giặc Trung Quốc mà ta bắt được hồi chúng đánh sang đây thôi mà. Có đáng gì đâu mà đồng chí để tâm. Phà cười vui vẻ.

-Chết, anh vứt xuống đoạn nào, người đi làm cá lại gặp nguy hiểm, đáng lý phải chôn đi chứ.

-Tôi vứt xuống vực Xanh, vực sâu lắm, có ai làm gì ở đấy đâu.

Đồn trưởng biên phòng nhìn ra phía khu vực Xanh. Trong khoé mắt anh ngưng đọng lại một điều gì, điều anh suy nghĩ về quả lựu đạn không nổ ấy.

Tiếng lành đồn xa, tiếng thơm toả rộng, xã đội trưởng Chu Phà được cả bản Tà Chải, cả vùng H'mông này quí mến. Chu Phà đi đâu cũng được trẻ con, người lớn vây lấy anh. Họ bắt anh kể lại sự việc đêm ấy. Họ hỏi anh đã tìm ra ai ném quả lựu đạn vào định ám hại cán bộ đang họp chưa. Trong phiên chợ ở chân núi Nàn, người ăn ở các bàn thán cố đều râm ran bàn nhau về chiến công của Phà. Mọi người đã uống thêm bát rượu để chúc mừng Phà, để vui mừng với nhau rằng con trai H'mông có người gan dạ đến thế. Từ đó xã đội trưởng Chu Phà trở thành hình tượng tiêu biểu của người H'mông ở đây. Chu Phà nói dân nghe. Chu Phà làm, dân Tà Chải và cả các vùng quanh quanh đều là theo. Dân tin Chu Phà lắm. Từ trước tới giờ ở Tà Chải này có chủ tịch Páo dân vốn đã tin nhiều. Người Tà Chải nói với nhau họ đã từng biết rõ lòng người trong bản như từng biết mặt đá trong rừng Hoàng Liên này, như từng biết rõ thớ gỗ của các loài cây trên ngọn núi này để quyết định tin ai, nghe ai. Họ từng nói với nhau phải biết rõ người như biết rõ đá trắng thì đục làm cối giã gạo; đá xanh cứng thì đục làm cối xay ngô; đá mềm xếp nung vôi; đá có quặng đun lấy sắt đúc lưỡi cày, làm chảo gang, làm nồi nấu; đá trộn với đất thì giã nhỏ nặn thành bát đĩa… Trước đây có chủ tịch Páo dân yêu nhiều, tin nhiều nhưng giờ đây họ càng biết rõ Phà như biết rõ hòn đá hoa cương sáng chói ở vùng H'mông nên dân đã quý Phà nhiều hơn chủ tịch Páo rồi đấy. Chủ tịch Páo cũng táo bạo, năm bảy chín anh đã từng bám đất bản dùng súng bắn tỉa bọn giặc sơn cước, chặn đường chúng vào bản. Anh đã nêu được gương tốt trong những ngày đánh giặc Trung Quốc. Chủ tịch Páo làm cái gì dân cũng tin, cũng nghe theo như việc rào quanh bản, việc tuần tra bắt kẻ gian, việc thu hàng chiến tranh tâm lý của giặc thả. Nhưng rồi việc làm tốt của xã đội trưởng Chu Phà giống như tiếng sấm đầu mùa rung động cả đất núi Hoàng Liên, dân đã hướng về Chu Phà nhiều hơn. Thâm tâm có người không nói ra, nhưng có nhiều người đã nói ở Tà Chải, Chu Phà đã cao hơn chủ tịch Páo một đầu một với. Chu Phà có công, có lòng tốt nhiều hơn chủ tịch Páo. Phà sẵn sàng chịu chết, Phà dám nằm lên quả lựu đạn để mong cứu sống nhiều cán bộ thì đã rõ, còn Páo có dám làm như thế không thì chưa ai biết. Sự so sánh giữa chủ tịch Páo và xã đội trưởng Chu Phà cứ thế lan rộng ra khắp Tà Chải, lan tới các bản xung quanh, lan ra cả vùng người H'mông ở đất núi Hoàng Liên này. Cán bộ người H'mông ở các bản cứ rầm rập, rầm rập cưỡi ngựa lang, ngựa trắng che dù đen, dù hoa đến Tà Chải, đến nhà Chu Phà để uống rượu chung với anh ba bát rượu chua, bat bát rượu mặn.

Lưỡi người bằng mười nọc rắn

“Nhà có nhiều chống càng tốt, vách có nhiều cột càng bền”. bBà con ở Tà Chải nói như vậy, và họ càng thêm yêu, thêm quí anh xã đội trưởng Chu Phà. Chu Phà đã vượt qua phong tục cũ của người H'mông là con trai không được đi xa nhà vì khi đẻ bên bếp lửa, mẹ đã cắt rau chôn ở chân cột cái rồi. Nhưng Chu Phà đã rời bản những năm, sáu năm làm chiến sĩ biên phòng ở tận đồn tiền tiêu Xì Lở Lầu bên Lai Châu. Anh về bản là được huyện giao cho ngay chức vụ xã đội trưởng. Huyện xem anh về như được tăng cường thêm sức mạnh, tăng thêm một chiến sĩ đã được rèn luyện cho chính quyền một xã xung yếu sát đường biên giới. Và khi anh có hành động dũng cảm tuyệt vời đó thì ai cũng xem anh là người nhất bản. Anh nói gì dân cũng nghe theo. Anh làm gì dân cũng làm theo. Tập tục của người H'mông là thế. Như câu hát của họ “Áo đẹp thì nhìn thấy ngay, nhưng lòng dạ tốt xấu thì phải qua việc làm mới biết được”. Còn chủ tịch Páo từ lâu cũng như cây thông sa mu to lâu năm nhất trong rừng cấm nhưng nay có Chu Phà xuất hiện rực rỡ như có cây thông to mơn mởn vừa lớn vượt lên che trùm bóng lá. Bà con đều xem Chu Phà hơn chủ tịch Páo. Chu Phà cưỡi ngựa đi thăm hết các nhà trong bản. Thấy ai yếu đau, hay cảm sốt, Chu Phà báo ngay để cô y tá xã là Xuân Kiều đến tận nhà khám bệnh cho thuốc. Nhà nào muốn dựng nhà mới, Chu Phà đồng ý cho vào rừng cấm chặt cây thông, cây giẻ to về làm cột. Số cây thuốc cả bản trồng như tam thất, bạch truật, dương qui để bán cho Nhà nước, Chu Phà nói đã xin cấp trên về chia hết cho dân, chia hết cho ông già bà lão bồi dưỡng. Chu Phà khác với chủ tịch Páo là anh cho các nhà nấu rượu ngô, rượu xèo để uống mà không hạn chế nấu rượu để tiết kiệm lương thực như Páo. Chu Phà còn thông cảm với dân H'mông hơn chủ tịch Páo là anh cho các nhà dùng chút ít hàng của Trung Quốc đưa sang như vải, mỳ chính, xoong nồi để giảm bớt phần khó khăn dưới xuôi chưa chuyển lên kịp. Bởi vậy dân Tà Chải rất quí xã đội trưởng Chu Phà. Xem Chu Phà miệng như con chim chớ chúa nói hay như con chim chớ chỉ. Ở bản H'mông ngót 80 nhà, nhà nào, thậm chí người nào từ trẻ nhỏ như con gà mới tập kêu tập gáy, đến cụ già như bóng tâm ngả dần bên lũng núi đều cảm thấy mình có mang ơn Chu Phà, có được hưởng ân nghĩa của Chu Phà. Họ nghĩ mình phải gắn bó với Chu Phà như cây tre gắn với đất Tà Chải để lên măng, như cây mai gắn với đất Hoàng Liên để bén rễ. Và dần dần người Tà Chải xa dần với chủ tịch Páo. Họ cho Páo quá khe khắt với dân, không biết thương dân. Rồi suy đi nửa với, nghĩ lại một sải, họ càng thấy công lao của chủ tịch Páo mà mọi người lâu nay khen, lâu nay thấy ngọt thơm như quả lê chín bói thì nay chỉ đáng căn phải quả đào non trái vụ. Trung đội dân quân của Tà Chải thì Chu Phà nắm rất chắc. Chu Phà vốn là một chiến sĩ biên phòng nên anh có kinh nghiệm, anh tổ chức lại cho chặt chẽ. Anh giao cho Hoàng Dìn làm trung đội phó. Anh giao cho Dìn giữ khẩu AK tốt nhất. Cô y tá Xuân Kiều được anh giao cho làm y tá trung đội dân quân. Cô thường xuyên đi với anh lên điểm tựa, lên các trạm gác để chăm sóc sức khỏe cho anh em. Phà đặt ra chế độ huấn luyện rõ ràng, dân quân tập bắn nhiều loại súng… Phà đặt trạm gác ở đầu bản, ở cuối bản; đặt đài quan sát trên núi cao giáp biên giới để hàng ngày nắm được hành động của bọn địch khiêu khích. Phà đặt các tổ phục kích, chốt chặn các đường mòn để bắt bọn thám báo, bọn đưa hàng tâm lý hoặc truyền đơn sang. Nghĩa là tất cả các biện pháp đánh địch để giữ an ninh biên giới của một chiến sĩ biên phòng mà anh đã được học, anh đã được làm thì đều áp dụng đầy đủ cho đội dân quân Tà Chải. Ban ngày và cả ban đêm. Phà cưỡi ngựa đến kiểm tra các chốt, kiểm tra đường biên giới. Đến nơi nào, Phà cũng nói với anh em dân quân cái câu anh học được hồi anh còn là chiến sĩ biên phòng: “Ta đã thắng bọn giặc Trung Quốc một trận rồi, nhưng ta đừng coi thường chúng nó. Nếu coi thường một kẻ thù dù là nó yếu đi nữa cũng giống như người coi thường không chịu dập tắt một đốm lửa nhỏ để rồi nó cháy lan ra, cháy mất cả rừng thông sa mu ta trồng, cháy hết cả bản H'mông của ta đi đấy”. Các chiến sĩ da kính nể anh và tin trọn vẹn vào anh. Họ nghe anh rồi cùng với anh lấy máu đầu ngón tay dỏ vào bát rượu uống để ăn thề, để viết vào vách đá thành hào, vọng gác những câu dân ca hay hát:

Để giặc đến đây
Còn đâu nước ta dùng
Còn đâu bắp ta ăn
Mình chết hay nó chết!
Để nó sống mình phải chết!
Giết nó chết, mình mới sống…”


Thế rồi xã đội trưởng Chu Phà và cô y tá Xuân Kiều đã lập được chiến công. Đó là lần anh và Xuân Kiều đi lên với các chiến sĩ dân quân ở trên chốt Tà Ngải. Vào một buổi sớm rừng thông sa mu đang đằm sương, đằm khói, các cây cao đều như bọc chóp trắng và sương muối thì rải đầy làm héo quắt ngọn cỏ, lá cây. Chu Phà đi trước, Xuân Kiều vai mang súng, vai mang túi thuốc đi sau. Đến đoạn đường giáp biên giới, bỗng Phà nhìn thấy những vệt cỏ lướt qua con đường mòn. Vết lướt từ phía biên giới đi vào phần đất ta. Phà đi theo vết lướt thi anh nhìn thấy rõ hai dấu giầy ướt in rõ trên hiến đá. Phà quay lại nói với Xuân Kiều. Giọng anh khẳng định:

-Có thám báo lẻn sang đất ta. Chúng vừa vượt qua đây. Theo tôi có thể hai tên, vì hai dấu giầy cùng chân phải in lại trên đá.

Phà phân công cho Xuân Kiều ngồi lại phiến đá lớn đẻ cảnh giới. Còn anh truy ngay theo vết dầy. Vượt qua mái đồi cỏ vào đến đầu khu rừng thông sa mu thì Phà nhìn thấy hau bóng người thấp thoáng trong sương lạnh và mây dầy. Cả hai tên đều mặc áo mầu chàm. Chúng đang rẽ cành thông sa mu đầy gai để tiến về phía đầu nguồn con suối. Phà chạy nhanh và anh đuổi kịp. Chúng bỏ chạy. Phà nổ súng ngay. Một tên ngã gục tại chỗ. Một tên run rẩy quì xuống giơ hai tay lên trời xin hàng. Phà ấn cò tiếp, anh định bắn chết luôn nó. Anh ấn hai lần, súng vẫn không nổ, vì băng đạn đã hết. Cả hai tên thám báo đều có dao găm và chúng mang đầy hai túi truyền đơn chưa kịp rải. Một trong hai tên có mang một túi thuốc độc. Tên sống sót run rẩy khai với Phà rằng, chúng được phái sang rải truyền đơn và thả túi thuốc độc vào đầu dòng suối mà đồn biên phòng và dân các bản H'mông, bản Dao, bản Nùng phía dưới ăn nước.

Chiến công diệt thám báo đó làm cho xã đội trưởng Chu Phà thêm rực rỡ. Đội dân quân Tà Chải và cả cơ quan quân sự huyện đã đề nghị lên cấp trên khen thưởng thật xứng đáng Chu Phà, khen thưởng cả cô y tá Xuân Kiều nữa.

Cả bản Tà Chải đã thật sự xem xã đội trưởng Chu Phà là hình tượng là linh hồn của người H'mông. Trung đội phó Hoàng Dìn đã nhiều lần kể câu chuyện cổ: người H'mông xưa có ông tổ dẫn đầu dân đánh giặc Hán ác độc để giữ cõi bờ và Dìn đã xem Phà như quân của ông tổ ngày xa xưa đó đã hiện về. Chuyện rằng: Ngày xưa người H'mông có ông tổ chung. Lúc đó giặc Hán tràn sang cướp đất rừng, phá xóm bản, xâm lấn cõi bờ. Ông tổ nói: bản rừng có giặc, mọi người H'mông bất kỳ dòng họ nào cũng phải hợp sức lại mà đánh giặc. Vì mọi dòng họ cùng sống chung mảnh đất rừng, nếu để mất đất rừng thì không còn dòng họ sống được, người H'mông ta phải xem đất rừng Hoàng Liên to hơn tất cả mọi dòng họ. Nghe lời nói đúng đó, các dòng họ đã góp nồi đồng, giao phát, chảo gang lưỡi lưỡi cuốc lại đúc cho ông một con ngựa, rèn cho ông một lưỡi gươm sắc. Ông cưỡi ngựa, cầm gươm dẫn đầu quân đi đánh giặc Hán. Người hơn 20 dòng họ là quân của ông. Ông vung lưỡi gươm các dòng họ đúc cho chém chết rất nhiều giặc Hán. Bọn giặc xin hàng, xin rút hết quân chạy về phương bắc. Những đứa bị bắt, ông cho về sống với vợ con. Sau đưa đi cuối cùng, ông chém một nhát gươm xuống đất. Núi vỡ. Vết chém đó thành dòng suối. Ông bảo phía bắc suối là đất của giặc. Phía nam suối là đất nước ta. Vết chém đó để cho giặc Hán nhớ đời đừng bao giờ bén bảng tới. Giặc tan. Tất cả các cành hoa lê ở đất Hoàng Liên kết lại thành vầng mây trắng. Vầng mây đó nâng cả ông và con ngựa sắt lên đầu núi. Còn lưỡi gươm sắc ông cắm xuống đất. Ở chỗ đó mọc thành cây lê hoa thơm quả ngon ngọt đủ năm mùi, ngon nhất vùng núi Hoàng Liên này. Đến mùa lê chín, người H'mông ăn lê, lại nhớ đến chiến công đánh giặc Hán… (Con suối đó nay là dòng suối Na. Ngọn núi ông bay lên là núi hoa cương Lũng Phúng ngăn hai biên giới).

Dìn và cả bản Tà Chải đều nói Chu Phà như quân của ông tổ xa xưa đó hiện về cùng với dân đánh giặc bành trướng. Mọi người xem tiếng nói của Phà như tiếng sấm mới báo mùa vui, mùa lúa chín, mùa xèo ra hoa, mùa ngô chắc hạt. Không ít người đã nghĩ rằng dù có ai đem dao phát cây rừng bằng như gấu áo cũng không tách được dân Tà Chải ra khỏi Chu Phà. Những ông già người H'mông đã nói: “lông mày mọc trước, cái râu mọc sau, nhưng râu đã dài hơn lông mày là thế đấy”. Ý nói Phà là lớp sau mà đã giỏi hơn, tốt hơn, có uý tín với dân hơn Páo.

Thế rồi chỉ hơn tháng sau, xã đội trưởng Chu Phà đã nói cho bà con Tà Chải biết một điều rất mới, rất lạ. Phà nói rằng “Áo rách thì thấy được ngay, còn lòng dạ rách xấu thì nhìn việc làm mới thấy rõ”. Phà nói: “Chủ tịch Páo là người như thế đấy. Chính chủ tịch Páo là người đưa truyền đơn của giặc Trung Quốc về qua suối Na. Páo nói với dân một đường thế nhưng chính Páo lại làm một nẻo. Páo dùng chăn hoa, dùng phích nước, dùng nồi, xoong của Trung Quốc, Páo có anh em họ hàng xa ở bên ấy. Cơ chừng Páo đã móc nối với giặc rồi. Có lẽ Páo đã thực hiện âm mưu của giặc làm việc cho cả hai bên. Và, có lẽ Páo là nội phản. Hoàng Dìn còn nói thêm với mọi người là dân quân có lần đã bắt được súc vải hoa con công, từng túi đèn pin, bút máy Kim Tinh trong nương kiệu, nương gừng của Páo trên núi…

…Páo đi họp ở huyện về thì cả vùng Tà Chải đã lan truyền tin đó. Không ai biết rõ, không ai xác minh rằng những chuyện đó có thật hay không, có đến mức nào, nhưng người lớn trẻ con rồi người cả phiên chơn Nàn đã lan truyền, đã biết chủ tịch Páo là con người xấu như thế, xấu đến thế.

Rồi đùng một cái, cô y tá Xuân Kiều viết đơn lên huyện, gửi lên chính quyền Tà Chải. Trong đơn cô nói rằng: “… Chủ tịch Páo là người rất xấu. Chủ tịch Páo lâu nay giống như con sói đen trên rẫy vờ kêu tiếng con nai nhưng để lừa tai dân. Páo đã nhiều lần lợi dụng quyền hành chủ tịch để ép buộc tôi phải đưa thuốc tốt của trạm xá cho Páo để Páo đưa về nhà cho vợ con. Bởi vậy nhiều lần dân quân ta bị thương vì địch bên kia biên giới bắn sang, trạm y tế xã đã thiếu thuốc tốt để cứu chữa. Páo còn có những việc làm xấu lắm. Việc làm xấu của Páo lấy dây bằng da ngựa trắng, dây bằng da trâu đen trói lại mới đúng. Nhiều đêm Páo đã vào trạm y tế dỗ dành tôi, sỗ sàng với tôi để hòng giở trò xấu. Bị tôi chống lại. Páo đã đưa cho tôi chăn hoa, phích, mỳ chính để mua chuộc tôi. Páo bảo tôi cần bao nhiêu cũng có cần gì cũng có chỉ có điều tôi đừng nói cho ai biết việc xấu của Páo làm. Bây giờ tôi xin nói hết sự thật về Páo cho mọi người biết. Tôi xin nạp lại cho chính quyền những thứ Páo đã dùng mua chuộc, dụ dỗ tôi để làm chứng. Tôi nói lên mọi sự thật đó để bà con bản ta, để chính quyền thấy rõ Páo là người chỉ tốt giả bề ngoài thôi. Páo không xứng là cán bộ của dân nữa đâu. Tội của Páo đáng lý phải chết thối lúa, chết úa cỏ ra mới trả hết…”.

Páo về đến Tà Chải thì trận mưa sấm chen trận mưa gió. Rừng H'mông đen ngòm, núi Tà Chải u mờ lạnh ngắt. Nghe vợ con nói lại sự tình như thế. Páo đắng miệng như cắn phải quả bồ hòn. Páo ngồi tựa cột mắt gườm gườm tức giận nhìn bếp lửa. Vợ Páo cũng cay đắng, chị hỏi:

-Ôi, con gà thức giấc còn biết vỗ cánh, con lợn thức giấc còn biết rùng cổ, anh bảo rằng, anh bị chúng vu oan mà lại không biết làm sao à?

-Tao từng lấy rừng Hoàng Liên làm anh, núi Tà Chải làm em, lấy đất H'mông làm nhà. Tao không sợ ai hết-Páo cầm chặt chuôi con dao phát sáng loáng. Páo ở bản Tà Chải này kể từ ngày mẹ anh ăn một miếng phải nhả hai miếng để nuôi, để mớm cho anh. Rồi Páo đã từng ăn quả dâu xanh, ăn quả đũm vàng ở đất Tà Chải mà lớn lên. Páo đã từng ăn rau chần, rau ngải, ăn măng mai, măng sắt ở Tà Chải mà làm ra ngô nương làm ra lúa rẫy. Con hổ hoa, hổ vằn táo tợn có tiếng cũng kiềng nể mũi tên, cái bẫy của Páo. Từ năm 11 tuổi, Páo đã từng rủ bản vào rừng nhìn con ong bắt sống gấu ngựa khi nó ăn mật say. Lần muốn ăn thịt dê đen nhà hàng xóm, Páo đã ra núi ăn ba ngọn lá vàng say để bạn bè phải bắt dê cạo lông đốt lấy tro và mổ bụng dê lấy gan làm thuốc chữa cho anh. Rồi khi hết say thì cả bọn cùng nhau chén thịt dể. Bởi cái tính táo tợn đó của anh mà mẹ anh đã đặt tên cho anh là Páo (Páo, tiếng H'mông là con hổ lớn). Páo là người đảng viên cộng sản đầu tiên ở bản Tà Chải, Páo đã được bầu làm chủ tịch Tà Chải 6 năm liền. Cũng như các ông già ở Tà Chải, Páo đã truyền lại cho con, cái câu của tổ tiên người H'mông từng giặn: “Đừng kết bạn với người Hán, vì họ hay tráo trở và ác độc”. Các ông già người Dáy thì đã cầm con dao thề của dòng họ chém ba nhát vào cột cái của nhà mình mà dặn đứa cháu đích tôn rằng: “Hạc sà, Hạc sà, Hạc độc, Hạc tù” (Hán chết tôi, Hán hủi, Hán độc, Hán ác). Những ngày giặc Trung Quốc tràn đến, Páo đã đưa dân vào núi ẩn tránh, rồi anh cùng với đội dân quân luồn rừng phục kích, bắn tỉa ngăn bước tiến của bọn sơn cước, Páo đã vận động bà con làm chông làm bẫy, đào hào để đánh giặc, hồi đó Páo đã nói với người H'mông ở Tà Chải: “Còn người H'mông thì rừng núi Hoàng Liên này còn. Còn người H'mông thì rừng biên giới không mất. Giặc Hán muốn chiếm bản ta, đánh nhau với ta thì trước hết chúng phải đánh nhau với đất núi, với cây rừng của ta đã…”. Giặc rút chạy, Páo được về dự hội mừng công ở tỉnh, và Páo đã được cấp bằng khen. Sau ngày đó, chủ tịch Páo đã gặp một tai họa: Vào một buổi trưa trời hanh khô, dân đi làm nương hết, vợ chồng Páo cũng ở lại trên nương, thì nhà của Páo bốc cháy ngùn ngụt, lúa ngô vừa thu về xếp lên chạn cháy hết, áo quần cháy hết, chảo nồi vỡ tung. Vợ chồng Páo không còn một bữa ngô mà ăn, không còn một bộ quần áo để thay. Bà con Tà Chải đã suy nghĩ: “một miếng cũng là tình, lưng thồ cũng là nghĩa” và đã góp từ cái bát, đến bắp ngô để đùm bọc Páo. Bà con lại chặt tre, cắt tranh làm nhà cho gia đình anh ở. Vụ cháy đó không tìm ra thủ phạm. Nhưng nhiều người đã mong manh biết rằng có bọnngười Hoa ở đây nắm trước chạy về bên kia đã lẻn sang, châm lửa đốt nhà của Páo. Rồi những cái loa từ bên La Xỉ chõ sang ta nói rằng: “Phải bắt Páo đền tội. Phải lấy mỡ của Páo rán mình Páo lên, bởi Páo đã phản lại nòi giống H'mông từ Quí Châu sang. Páo phản lại tổ quốc Trung Hoa. Vậy thế mà từ ngày có Chu Phà về giữ chức xã đội trưởng thì Páo những tưởng tình nghĩa hai người sẽ nồng đậm như rượu nung lâu trong vò càng ngày càng ngấu. Nhưng Páo không ngờ anh đã mất dần lòng bè bạn, xấu bụng họ hàng và anh lu mờ dần đi như mùa gừng tàn lá rồi chuốc lấy nỗi cay đắng này. Páo nói với vợ mà hai tròng mắt anh đỏ ngầu. Giọng anh tức giận như muốn gầm lên:

-Hư, rừng lau không phải nơi cho trâu mộng cọ sừng. Lanh già không ra quả xèo, kiệu già không ra quả ké. Cây gạo già thì ruột xốp xáp đi, vỏ mọc chông gai lên, chứ còn người H'mông sống lâu năm, lòng không mọc gai lên như thế. Cái con gà mái đi khắp nơi đẻ nhiều con không có chồng lại nói tôi như thế à!

Nghĩ đi nát gan, nghĩ về đứt sức, Páo nhìn vợ: Đôi mắt của chị không còn nhìn anh như ngày nào cùng ngồi bên bếp lửa ấm. Ngày ấy đôi mắt chị đẹp, và hàng lông mày cong như trăng đầu tháng. Chị nói với anh: Em như cây tre non chưa qua cơn giót lướt. Em làm ăn như con nhện ngày nắng dâng tơ trên đồi, ngày mưa thu tơ dưới lũng. Anh vững lòng tin em, yêu em, anh đừng có lúc nhặt lúc khoan như hút gió vuốt ve cánh bướm hoa xèo giữa mà sấm mới. Đu anh đi xa đến chín rộc núi, mười đèo dài, em vẫn tìm anh, nhìn thấy cá dấu chân anh trong con suối đục… Lúc ấy Páo nhìn đôi mắt vợ mà cứ tưởng bát nước lã uống chung cũng ngọt như bát mật ong trong rừng, mật khoái trong núi. Còn giờ đây đôi mắt vợ anh nhìn anh gườm gườm chất đầy ngờ vực trước những lời đồn đại về việc cô y tá Xuân Kiều tố cáo anh. Biết ý vợ, Páo cười gằn. Anh thở hắt ra. Anh đứng dậy nói bâng quơ:

-Nếu tôi là cây lanh, tôi sẽ trút lớp vỏ ra cho mọi người thấy ruột. Nếu tôi là cây tre non thì tôi sẽ tách đôi ra cho mọi người biết nước trong lòng ngọt hay đắng. Nhưng tôi là tôi. Tôi là thằng Páo. Nếu tôi đúng như thế tôi sẽ thành kiếp trâu để cầy nương. Tôi phải làm kiếp ngựa để thồ người, tôi sẽ làm kiếp lợn để người giết thịt, làm kiếp chó để người đánh. Rồi xem…

Páo không ăn cơm. Anh xách khẩu AK và cầm con dao phát sáng loáng. Anh xô mạnh cánh cửa đi ra. Ánh lửa từ bếp hắt ra dọi theo bước chân đi hối hả của anh. Anh uất ức như muốn kêu to lên: “Lưỡi người ác độc bằng mười con rắn cạp nong, độc bằng trăm nọc ong có đốm là thế đó”. Đêm biên giới sau cơn mưa thì giá lạnh ập đến, sương dầy. Rừng H'mông đầy những mây cùng khói. Trước mặt Páo đất chỗ lõm, chỗ lồi. Những đỉnh núi lô nhô hệt như nếp gấp đều của váy, của áo. Anh định chạy bổ đến cuối bản. Anh định rẽ vào nhà Chu Phà để hỏi cho ra nhẽ.

Bỗng hai loạt súng AK nổ giòn ở cuối bản Tà Chải, Chu Phà Hoàng Dìn và đội dân quân rồi cả bản đốt đuốc chạy đến nơi có súng nổ. Tất cả đã thấy Páo nằm gục trong vũng máu. Sáu viên đạn AK đã xé nát bộ ngực vạm vỡ của anh. Xã đội trưởng Chu Phà xem xét những vết đạn xuyên ngực Páo, xem xét nơi Páo ngã, xem khẩu súng AK của Páo nòng còn nóng bỏng đang khét lẹt mùi thuốc. Phà quay ra nói to với mọi người. Giọng anh quả quyết:

-Có lẽ Páo đã tự bắn vào ngực mình để không bị cấp trên xử phạt về tội của Páo nói ba ngày không xong, kể bảy ngày không vơi.


Mọi người ở Tà Chải đều tin như thế. Hoàng Dìn trung đội phó dân quân và cô y tá Xuân Kiều truyền cho những ai không có mặt ở đó nghe lời nói của Chu Phà.


Trần Thường đồn trưởng đồn biên phòng đến nơi thì hiện trường không còn nữa. Chị vợ của Páo đã cõng xác anh về nhà rồi. Khẩu súng AK cũng được đưa đi theo rồi. Nghe xã đội trưởng Chu Phà kể lại rành rọt, Trần Thường đứng im. Anh suy nghĩ. Rồi anh hỏi lại:

-Đồng chí thấy đủ sáu cái vỏ đạn chứ?

-Có. Đều văng ra ở gần. Và đạn đều ở trong băng lắp ở súng của Páo. Đúng là Páo tự bắn chứ không phải thám báo phục kích mà.

-Bắn hai loạt?

-Đúng là hai loạt. Người cả bản đều nghe mà.

-Thế là mỗi loạt ba viên-Trần Thường nói chậm rãi. Anh không nói rõ nhưng anh đã có suy nghĩ về cái chết của chủ tịch Páo…

Người vượt viên giới trong đêm

Nó bị bắt lúc vừa vượt qua đường biên giới. Trong người nó không có vật gì ngoài tờ giấy viết bằng hai thứ chữ: Trung Quốc và Việt Nam: “Vì phản đối bọn cầm quyền phản động cấu kết với đế quốc Mỹ. Chúng đã bién bạn thành thù. Biên giới Việt-Trung sông liền sông, núi liền núi, nhân dân Việt-Trung là anh em thân thiết thế mà bọn chúng lại xâm lược Việt Nam. Chúng đã trở thành kẻ thù của Việt Nam và của nhân dân Trung Quốc. Tôi đứng về phía chính nghĩa của Việt Nam. Tôi từ bỏ công xã sang đây xin ở lại Việt Nam để chống bọn phản động Bắc Kinh. Xin các đồng chí Việt Nam chấp nhận…”

Khi gặp dân quân ta, nó chủ động đưa ngay tờ giấy đó. Nó khai rằng nó là người ở công xã La Xỉ, là xã viên thường. Tên nó là Lưu Quí. Nó không biết gì thêm tình hình quân sự, chính trị ở bên đó. Cái giấy đó nó viết chữ Trung Quốc và nhờ một người Việt Nam dịch lại để khi sang bên Việt Nam đưa cho ta. Trông nó có vẻ hơi khù khờ. Đội tuần tra của nhân dân bản Lao Táo đưa Lưu Quí về đồn biên phòng và nói những điều biết về nó với đồn trưởng Trần Thường.


Trần Thường ngồi im. Anh đã chán ngấy cái trò chuyện cũ lặp lại này của bọn giặc Bắc Kinh rồi. Chúng đã lắp đi, lắp lại nhiều lần cái trog hề “bỏ cả thúng thóc mong được một mầm mạ thế đấy” (Tức là thí ngàn mạng điện viên mong lọt được một tên). Trần Thường nói với các chiến sĩ trinh sát biên phòng: “Không nên tin những lời nịnh hót của bè bạn thì lại càng không nên tin những lời tâng bốc của kẻ thù. Và chớ có thương hại, xem thường sự yếu đuối, khờ khạo như thế của kẻ thù. Bởi nó sẽ không thương hại sự nông cạn và sơ hở của ta đâu”-Anh khoát một cử chỉ dứt khoát: ”Tống ngay nó vào nhà giam”. Tên Lưu Quí kêu khóc. Nó mếu máo:

-Xin các đồng chí Việt Nam xét cho, thông cảm cho đừng nhầm tôi với bọn phản động Bắc Kinh đã xâm lược Việt Nam.

Các chiến sĩ biên phòng nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của Trần Thường. Đồn trưởng Trần Thường không xáp mặt tên Lưu Quí, nhưng anh đã nhiều lần đứng rất lâu ngoài nhà giam nhìn qua lỗ kiểm tra để quan sát kỹ tên này. Hàng ngày gặp chiến sĩ ta, nó có bộ mặt vay mượn sự ủ ê, héo hon. Nhưng khi nó ngồi một mình thì mới rõ cái thần sắc của nó. Cái trán dô, quai hàm bạnh, hai gò má cao, đôi mắt sùm sụp, có cái nhìn ngang ranh mãnh, đã nói lên điều đó. Ở bên trái nó lại có một nốt ruồi to bằng hạt ngô đỏ như cái mụn đang ương mủ và hai ba cái lông đen chổng lên lơ phơ. Nom nó có nét gian xảo và tráo trở rất rõ. Tóm lại bộ mặt Lưu Quí là bộ mặt của một con người hãm tài bẩn tướng, lật lọng không đáng tin cậy, Trần Thường có nhận xét ở tên Lưu Quí này còn có một nét riêng khác những tên thám báo, gián điệp sang nước ta đã bị bắt. Nó có thói quen ngủ ngày nhưng thức hầu như suốt đêm. Nhiều đêm anh đã thấy nó ngồi bó gối trong góc nhà, hai con mắt trắng giã nhìn vào ngọn đèn dầu không chớp. Nó cứ ngồi thế trắng đêm. Nhưng đến gần sáng, khi con chim cứ cư gióng giả hót trên đầu núi thì nó lại lăn ra ngủ ngáy gừ gừ như con mèo hen. Hai bên mép nó sùi ra hai cục nước bọt trắng xoá. Cái thói quen thức đêm, ngủ ngày đó là thói quen của loài thú dữ man rợ. Loài thú có nanh dài, vuốt nhọn thích cắn xe ăn thịt sống. Trần Thường nói với các chiến sĩ biên phòng điều mà anh nhận xét về tên Lưu Quí rồi anh khẳng định: “Chúng ta phải tính đến chuyện chặn con sông ngay từ chỗ nó còn là mạch suối. Nếu ta để nó chảy xa quá thì khó có thể ngăn được đấy. Tôi cho rằng tên Lưu Quí này chính mà một mạch suối độc”. Trần Thường cho lệnh gọi nó lên.

Nó khóc. Bộ mặt ủ ê, héo hon vay mượn của nó cúi xuống. Cái nốt ruồi đỏ ửng lên. Nó kêu van trước Trần Thường. Nó xin các bạn Việt Nam thấu hiểu cho nó. Nó là xã viên ở công xã; là bạn chân chính của Việt Nam. Đồn trưởng biên phòng chỉ ghế cho nó ngồi xuống. Nó ngồi cúi mặt. Hai tay khoanh lại ấp trước ngực. Hai quai hàm nó hơi bạnh ra. Nó liếc trộm rất nhanh Trần Thường như để dò xét thái độ của anh.

-Anh tên là Lưu Quí-Giọng Trần Thường hỏi dứt khoát nhưng không tỏ ra gay gắt.

-Thưa đồng chí chỉ huy, vâng.

-Anh là xã viên của công xã nào?

-Ở công xã La Xỉ ạ.

-Anh Lưu Quí này, tôi khuyên anh hãy khai thật đi. Và rồi trước sau anh cũng phải khai thật. Anh được giao nhiệm vụ sang đây làm gì. Anh định móc nối với những ai ở bên đất chúng tôi. Anh thành thật nói sớm đi, tội anh sẽ được giảm.

-Không, thưa đồng chí chỉ huy. Tôi chỉ là người xã viên, tôi thù ghét bọn phản động…

-Thôi. Đủ rồi đấy! Tôi nói cho anh biết rằng người Việt Nam tốt và rất nhân đạo. Nhưng anh đừng mong chúng tôi tốt đến mức để cho những con chó sói trở nên táo tợn hơn đâu!

-Thưa đồng chí chỉ huy, tôi không dám nghĩ thế-nó đáp với giọn thiểu não-Tôi mong rằng sự hiểu lầm giữa các đồng chí Việt Nam với tôi mau chóng sẽ được sáng tỏ.

-Anh nghe đây. Tên anh không phải là Lưu Quí. Anh phải khai tên thật của anh. Anh nên biết rằng thầy thuốc thì thường có thái độ phớt lạnh trước mọi lời khai của con bệnh, dù là bệnh hiểm nghèo. Còn tôi thì không phải là thầy thuốc, tôi phải chú ý tới những chi tiết nhỏ trong lời nói của anh. Tại sao anh lại khai tên là Lưu Quí.

Nó thở dài và ngước mắt nhìn Trần Thường. Cái nhìn như không ngạc nhiên về câu hỏi đó.

-Thưa đồng chí chỉ huy, tôi chính là người của dòng họ Lưu, họ của chủ tịch nước Trung Hoa. Bên ấy, tôi và nhiều người nữa cứ nghĩ rằng các đồng chí Việt Nam còn giữ được cảm tình tốt với Lưu Chủ tịch, vì Lưu Chỉ tịch đã ủng hộ Việt Nam. Lưu Chủ tịch khác những người Trung Hoa đã chống Việt Nam nên tôi sang đây sẽ được các bạn Việt Nam đối xử tốt. Tôi xin cam đoan tên thật của tôi là Lưu Quí.

-Thôi được rồi. Đã có gần chục tên thám báo sang đây nhận họ Lưu như anh đấy. Anh hãy trả lời câu hỏi của tôi lúc đầu đi. Với tôi, anh nói dối chẳng ích gì cho anh đâu. Anh nên thành thật với chính bản thân mình từ đầu đến cuối. Điều đó có ý nghĩa quyết định đến số phận của anh, sự sống và cái chết của anh. Nếu không, anh hối hận không kịp.

-Thưa đồng chí chỉ huy, tôi là người thù ghét bọn phản động cầm quyền ở Bắc Kinh mà sang đây với các bạn Việt Nam. Tôi không làm gì ngoài ý định tốt đẹp đó.

-Tôi ghi nhận lời nói của anh. Vì chỉ có anh mà không có ai khác ngoài anh mới có thể biết hết những việc anh định làm. Nhưng anh sẽ phải trả một giá đắt những việc làm phản phúc của anh-Trần Thường nhìn thẳng vào mắt nó.

-Thưa đồng chí chỉ huy, tôi xin chịu trách nhiệm toàn bộ tội lỗi-nó nói tiếp-Tôi và những người Trung Quốc bạn chân chính của Việt Nam sẽ rất đau lòng nếu như tôi gây ra một tội lỗi gì dù là rất nhỏ đối với nhân dân Việt Nam. Vì thưa đồng chí chỉ huy, những người Trung Quốc chí tình và tốt với Việt Nam muốn sang đây không phải là dễ.

-Vì sao?

-Thưa đồng chí chỉ huy, vì bọn lính phòng thủ vùng biên giới nghiêm ngặt lắm. Người tốt khó lọt sang được.

-Anh nói rõ hơn vài nét về sự canh giữ đó.

Lưu Quí ngồi khoanh tay để lên bàn. Anh ta kể rành rọt cho Trần Thường nghe về sự canh phòng của bọn lính Trung Quốc ở vùng biên giới… Anh ta nói cả tuyến phòng thủ biên giới của chúng sâu tới 60 ki-lô-mét được phong toả rất nghiêm mật và chia làm ba phân tuyến a, b, c rõ ràng.

Tuyến a trong cùng giáp với đường biên giới có bộ đội biên phòng, lính bộ binh lính sơn cước, lính ao đen là “quân của Hoàng Văn Hoan”, dân binh xung kích… Tuyến b, có các đơn vị pháo binh, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực, bộ đội xe tăng… Tuyến c, ở sâu trong nội địa có các quân đoàn của các đại quân khu kéo lên đóng, có kho tàng, có các cơ quan phục vụ chiến đấu và dân sự. Người ở trong tuyến c phải có giấy từ của các đơn vị quân sự, các công xã giáp biên cho phép mới được vào. Người ở tuyến b cách biên giới từ 40-20 ki-lô-mét muốn vào tuyến a, càng nghiêm ngặt hơn. Ai muốn vào phải có người dẫn đường, có công an mật vụ đi theo. Rồi lại phải có hai người, một ở nơi giới thiệu đi, một người nữa ở nơi đến bảo đảm mới được vào. Giấy phép vào ba tuyến biên giới đó làm bàng ba loại giấy in ba màu khác nhau để kiểm tra người trà trộn. Mầu giấy nào được đi tới đâu, nhất thiết chỉ được ở đó…

-Chứng tỏ rằng anh biết khá nhiều về tuyến phòng thủ bên ấy. Còn bây giờ anh sẽ là con người như thế nào, thái độ chúng tôi đối xử với anh ra sao thì tuỳ chỗ anh đến với chúng tôi như một người bạn hay như một kẻ thù, quyết định. Anh nên biết rằng, chúng tôi hiểu rất rõ những tên ăn cắp, làm thám báo, làm gián điệp biệt kích, phá hoại thì không thể là con người trung thực, không thể tin được lời nói của chúng. Tôi khuyên anh, anh nên tỏ ra khôn ngoan hơn. Người Việt Nam chúng tôi có câu: “Vải thưa không thể che được mắt thánh!”. Vả chăng, anh không nói ra anh, cố tình che giấu thì người khác, nơi khác sẽ nói ra. Tôi nhắc lại, anh là bạn hay thù của chúng tôi. Việc đó tuỳ anh quyết định. Sự giảo hoạt không có lợi gì cho anh đâu.
Lưu Quí nhìn đi nơi khác rồi cúi gằm xuống. Anh ta cố tình lảng tránh ánh mắt sắc, cái nhìn trấn áp của Trần Thường, Lưu Quí nuốt nước bọt tắc nghẹn ở cổ họng và nuốt cả tiếng thở dài.

-Đồng chí chỉ huy hãy tin tôi. Tôi là người bạn chân chính-Cái nốt ruồi đỏ ửng lên làm cho sắc mặt của hắn thêm xám ngoét.

Hai chiến sĩ biên phòng đưa Lưu Quí về nhà giam. Trần Thường ngồi lại rất lâu với các chiến sĩ trinh sát. Trần Thường nói với các chiến sĩ rằng: “Đây là một trường hợp vô cùng khó khai thác, vì trong tay ta không hề có tang vật, không có chứng cứ, không có đầu mối để xác minh nó là ai, ở đâu tới. Và ở trên người nó cũng không hề cho biết một dấu vết gì để làm mốc mà truy hỏi. Đây là một cuộc “hỏi khan” “truy khan” để nhằm dò dẫm, để lần tìm đầu mối, tìm mâu thuẫn, tìm kẽ hở trong từng lời khai của nó. Mà nó thì lại thường là rất ranh mãnh, chuẩn bị kỹ càng, bịt kín các kẽ hở. Những cuộc truy hỏi như thế này thật là khó, phải đòi hỏi sự thông minh, mưu trí, nhạy bén của chúng ta rất nhiều… Nhưng dù sao, ta vẫn nhất trí khẳng định được nó là một tên thám báo. Về phía ta rõ ràng kỷ luật không bao giờ cho phép ta đánh đập, tra tấn, dùng các cực hình để lấy lời cung khai. Ta đối với kẻ bị bắt phải thuyết phục, phải cảm hoá, giác ngộ họ để họ khai báo ra. Ta đấu tranh trong từng lời khai để tìm ra sự thật. Đó là biện pháp hay nhất của ta.

Lai một đêm đen nữa. Trần Thường và lần này thì có thêm một chiến sĩ trinh sát đứng im nhìn qua lỗ kiểm tra để quan sát tên Lưu Quí. Anh đang ở một đồn biên phòng xa thì được điều cấp tốc về đây để tăng cường cho đồn trưởng Trần Thường. Anh chiến sĩ trinh sát này từ năm 1978 đến nay đã từng giáp mặt, từng đấu tranh khai thác với nhiều tên thám báo, gián điệp biệt kích của giặc bành trướng. Anh đã biết rõ nhiều thủ đoạn của chúng. Chúng đã khai với anh nhiều điều trong cái quốc sách gián điệp của bọn giặc Bắc Kinh. Hầu hết bọn chúng đã được học, được nhồi nhét nhiều kiểu chiến tranh tâm lý gián điệp trước khi sang ta. Bọn chúng được họ quan điểm trong các sách vở của các chuyên gia chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp Âu, Mỹ… Có đứa học Lai-nơ-bo-giơ, chuyên gia về chiến tranh tâm lý Mỹ: “Chiến tranh tâm lý là sử dụng công tác tuyên truyền để chống lại kẻ thù. Những phương tiện về quân sự, về kinh tế, chính đều là những phương pháp cần thiết kết hợp bổ sung đắc lực trong công tác tuyên truyền, nhằm gây ảnh hưởng đến quan điểm, xúc cảm, hành vi của kẻ thù, của những người trung lập, của bạn bè. Làm cho họ hoang mang, nghi ngờ lẫn lộn trắng đen, họ đấu đá lẫn nhau, đánh chác lẫn nhau, nội rối bộ tung rồi ngả theo mình.


Có đứa trong bọn chúng học Pôn Scôt cũng là một chuyên gia chiến tranh tâm lý: “… Đó là vũ khí tiêu diệt kẻ thù bằng cách thực hiện những thủ đoạn ngoại giao bằng nước bọt, bằng hàng rẻ tiền và bằng trí tuệ, phải dùng thông tin xuyên tạc, khiêu khích, dọa dẫm, phá hoại và khủng bố để răn đe đồng thời cô lập đối phương với bạn bè, với chiến hữu, gây nên nghi ngờ bạn thù lẫn lộn để lôi kéo họ về phía mình. Hầu hết bọn chúng đã nghiên cứu kỹ tạp chí: “Chính sách đối ngoại” của Cộng hoà liên bang Đức từ số ra tháng 12 năm 1962”… Phải triệt để khai thác, sử dụng sự khác biệt, mâu thuẫn thù hằn giữa các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số; phải tận dụng những thành kiến tôn giáo, phải khoét sâu những điểm yếu của các nhân vật cầm đầu như tính ba hoa, hiếu danh, hiếu thắng, tham lam, xu hướng muốn khoái lạc, ăn chơi, phe cánh, nịnh bợ… Đối với những ai khó bảo không nên tặng cho anh ta viên đạn mà phải mua chuộc anh ta bằng dục vọng, bằng tiền. Phải nhớ rằng không ai dễ mua chuộc bằng diễn viên, ca sĩ, nhà văn, nghệ sĩ, các cầu thủ ngôi sao và những tên lưu manh ăn cắp, phải biết khéo léo thả mồi, mua chuộc họ, mơn trớn mớm lời cho họ. Họ là lớp người có những hình thức tố cáo hay nhất, tốt nhất, tinh tế nhất, nhanh nhất và lan truyền rộng rãi nhất. Họ làm lợi cho ta nhiều nhất. Đối với những người trung thực, có uy tín trong dân thì làm cho họ phát triển tính thờ ơ lãnh đạm, tạo điều kiện tốt nhất để họ sa đọa về đạo đức, rồi khéo léo truyền bá rộng những điều đó nhằm không ai xác minh được chuyện đó có thật hay không nhưng ai cũng đã biết rộng rãi rằng: nó hình như có chuyện như thế, là thắng lợi rồi, nhằm kích động dân chúng”.

Có đứa trong bọn chúng còn học quan điểm của một chuyên gia chiến tranh tâm lý Pháp: “Có những nơi, những cùng chiến tranh tâm lý sẽ có thể thay thế cho chiến tranh quân sự cổ điển, và thay thế cho chiến tranh nguyên tử nữa. Điều cốt yếu không phải là huỷ diệt một dân tộc mà là làm tê liệt, làm yếu đuối, làm cho dân tộc ấy mất lòng tin đi, rối ren lên, mù mịt về tương lai, nghi ngờ về quá khứ, để rồi thu phục lấy”. Chúng ca ngợi những quan điểm của bọn chuyên gia chiến tranh tâm lý Đài Loan, và Nhật Bản: “Chiến tranh tâm lý là một thành phần tối quan trọng trong lục đại chiến: mưu lược chiến, tư tưởng chiến, tổ chức chiến, tình báo chiến, quần chúng chiến. Tâm lý chiến tranh mang tính chất lâu dài, liên tục có trăm nghìn cách thực hiện cả trước, trong và sau cuộc chiến tranh… Chiến tranh gián điệp đã thực sự trở thành quốc sách của bọn giặc. Chúng mong dùng tổng hợp các mánh khóe nhà nghề, các thủ đoạn nham hiểm nhất trong chiến tranh gián điệp Âu, Á… để phá hoại  đất nước ta. Nơi nào có người của chúng cài cắm vào đứng chân, cả những nơi chưa có người của chúng chăng nữa, chúng cũng thực hiện mạnh mẽ cái loại chiến tranh đó.
Anh chiến sĩ trinh sát nói với đồn trưởng Trần Thường:

-Tôi đã khai thác, đã hỏi cung nhiều tên ta bắt được trong đợt này, nhưng không thấy tên nào nhắc đến cái tên Lưu Quí. Và cũng không thấy tên nào nói đến có một tên sắp sang ta có bộ mặt có dáng dấp như thế này, hoặc chúng sẽ đánh một tên như thế sang nước ta bằng thủ đoạn này.

-Cậu có biết không ở vùng núi Hoàng Liên này con rắn ác độc nhất chỉ ra khỏi hang khi nhập nhoạng tối; con tu hú ranh mãnh nhất chỉ chờ lúc rạng sáng mới lần đến tổ con chim khác ăn trứng của nó đi rồi đẻ trứng mình vào để lừa nó ấp nở ra con tu hú con. Nên những đứa giấu mặt, giấu tên, ta càng phải thận trọng. Cậu nắm được các ám hiệu, mật khẩu của chúng liên lạc nhận nhau chứ.

-Vâng, chúng có cái riêng của từng vùng, từng bộ phận, nhưng chũng vẫn có cái chung để liên lạc với nhau, nhận nhau là gián điệp thám báo của Trung Quốc.

-Đúng… Vì chúng đã coi chiến tranh gián điệp là quốc sách. Bọn nào ở đối diện với ta là có gián điệp riêng của bọn ấy. Đã có hiện tượng tất cả các lực lượng của chúng bố trí đối diện với ta đều phái gián điệp, thám báo riêng sang, và đã có lần chính chúng lại dẫm lên đầu nhau. Bọn trinh sát của quân giải phóng, bọn tình báo lính áo đen, rồi bọn thám báo của lính sơn cước, trinh sát của pháo binh, rồi của bộ đội biên phòng, cả của công xã nhân dân nữa cũng làm công tác tình báo phái người sang dò la, móc nối bên ta. Còn cái vụ này tôi khẳng định nó là một tên thám báo. Nhưng của bọn nào thì chưa rõ. Rất có thể nó là bọn tình báo Hoa Nam. Vì cái bọn ấy hay lặp lại cái trò như thế. Theo giác quan thứ sau của một chiến sĩ biên phòng, tôi cứ suy nghĩ rằng giữa quả lựu đạn không nổ tối hôm nào, cái chết của Páo, và chuyện tên thám báo ngoan cố này như có gì liên quan đến nhau.

-Quả lựu đạn ấy hiện ở đâu-Chiến sĩ trinh sát hỏi.

-Ở đáy vực Xanh. Ta có sơ hở đấy. Còn cái chết bằng tự sát của Páo, tôi cứ phân vân rằng: người dí mũi súng vào chính ngực mình để bóp cò, không bao giờ chủ động và tỉnh táo bóp được hai loạt rành rọt, mỗi loạt ba viên.

-Anh chiến sĩ trinh sát ngồi im. Anh suy nghĩ một lát rồi nói với giọng thong thả, tự tin:

-Đúng. Họ có thể bóp cò nổ súng một loạt dài, hoặc một loạt ngắn thì đã ngã vật xuống. Ngón tay họ không thể chủ động bóp liên tiếp loạt thứ hai…

-Hai việc ấy cứ ám ảnh tôi từ ngày xảy ra. Tôi cứ day dứt như một học sinh không giải được hai bài toán mà xét ra sức mình có thể giải được. Tôi đã ghi rõ hai điều đó vào hồ sơ sự việc nghi vấn xảy ra trong khu biên phòng xung yếu này.

-Ta nên làm sáng tỏ, hoặc ít ra cũng có đấu mối để tạo thuận lợi cho việc thứ ba. Đồng chí đồn trưởng ạ, trong công việc của ta thường là việc lớn nào cũng phải bắt đầu từ cái nhỏ nhất.

-Đúng!-Trần Thường gật đầu-Nhưng với phương châm hàng đầu là chính xác, bí mật, không đánh động kẻ gian. Không để sót kẻ gian, nhưng không làm oan người ngay. Vì kẻ địch đang rình rập ở quanh ta.

Mấy hôm sau, đồn biên phòng mở hội thao: thi leo núi, thi chạy vũ trang vượt dốc, thi bơi thác và thi lặn xa trên vực Xanh. Từ sáng sớm các chiến sĩ đã leo núi, đã hành quân mang vác nặng vượt dốc. Khi bản H'mông Thải Giàng Sán (bản Mặt Trời Mọc), nhuộm nắng vàng thì trên vực Xanh từng đoàn chiến sĩ đã bơi vũ trang vượt thác nước chảy xiết. Cuộc thi cuốn hút thanh niên bản H'mông, bản Nùng, bản Dao xuống tham gia. Tiếng trống tiếng kèn, tiếng tù và cổ vũ vang dội một vùng núi Hoàng Liên. Rồi môn thi lặn bắt đầu. Các chiến sĩ lặn giỏi ở những đơn vị biên phòng xa cũng đã về tham gia thi để giật giải. Từ trưa đến chiều, trên vực Xanh và cả thác nước phía duới luôn cuộn sóng của những đội bơi, đội lặn. Đến tối sương xuống mây tời đã về núi, nước thác đã lạnh buốt, cuộc thi lặn vẫn chưa kết thúc. Bởi lý do chưa chọn được một đội giỏi để dự ngày hội thao của bộ đội biên phòng. Trưa hôm sau cuộc thi lặn xa lặn lâu được tiếp tục…


Ngay tối hôm ấy đồn trưởng Trần Thường và các chiến sĩ biên phòng nhóm họp, quả lựu đạn được đặt trên bàn. Nó đã được các chiến sĩ lau sạch lớp rêu bám ngoài. Đồng chí chiến sĩ quân khí đưa một quả lựu đạn tiến công cùng kiểu do Trung Quốc sản xuất cùng một năm đến để so sánh. Đồn trưởng Trần Thường và các chiến sĩ trinh sát biên phòng đã xác nhận rằng: hai quả lựu đạn giống hệt nhau về kích thước và giống nhau cả về những chi tiết kết cấu. Đồng chí quân khi đã cân lên. Hai quả lựu đạn cũng xấp xỉ nặng gần 400 gam như nhau.

-Đồng chí hãy tháo mỏ quả lựu đạn nhặt ở vực Xanh về. Đồng chí quân khí chấp hành lệnh của đồn trưởng, quả lựu đạn được tháo mở ra ngay. Một điều rất bất ngờ đã xảy ra là: quả lựu đạn ấy không có thuốc nổ, không có kíp nổ. Phần trong cán gỗ chỉ có một lỗ rỗng để vừa đoạn dây cháy chậm chuyền ngòi nổ như ngòi pháo. Từ cái dây đó đã phát ra ánh lửa xanh, khói và tiếng xè xè.

-Một quả lựu đạn sản xuất không có trong công thức sách vở và cấu tạo của vũ khí. Tôi chưa được học và chưa từng được nhìn thấy loại lựu đạn như thế này.

-Một quả lựu đạn được sản xuất để phục vụ một ý đồ riêng-Đồn trưởng Trần Thường nói tiếp lời chiến sĩ quân khí.

Con kỳ nhông phương bắc

Cửa nhà giam mở. Một tên thám báo nữa được nhốt chung với Lưu Quí. Tên này cũng vừa mới xâm nhập đất ta thì bị bắt. Nó vừa ngang ngược vừa ngoan cố. Nó đã dùng võ “tầu phù” đánh lại mấy chiến sĩ dân quân để hòng tháo chạy. Nhưng nó đã không thoát. Các chiến sĩ dân quân đã tẩn cho nó một trận và trói quặt tay nó về sau lưng. Anh chiến sĩ dân quân bị nó đánh trộm đã quá tức giận, bạt tai cho nó mấy cái nên mặt nó thâm bầm và nhìn còn rõ dấu bàn tay. Anh chiến sĩ biên phòng lúc đẩy nó vào nhà giam mở dây trói cho nó, nó còn quay lại trương mắt, ngoác mồm gào to:

-Quân tiểu bá không có lương tâm.

Anh chiến sĩ biên phòng quát thẳng vào mặt nó:

-Im đi. Lương tâm ư. Không nói đến điều đó. Bọn giặc bành trướng chúng mày đã đánh mất điều đó lâu rồi. Người Việt Nam không nói đến điều đó với bọn bá quyền cướp nước.

Nó “hừ” một tiếng như gầm lên ròi tỏ thái độ hỗn láo nhỏ nước bọt xuống góc nhà.

Cửa nhà giam đóng sầm lại. Tên thám báo bước loạng choạng vào góc nhà, mồm nó lầu bầu chửi bới nhưng nghe không rõ. Nó nằm vật xuống sàn nhà. Hai mắt trắng giã nhìn ra cửa. Tên Lưu Quí ngồi im nhìn, không nói. Rồi nó cầm cái chăn đắp đến đưua cho tên thám báo mới này.

Tên này ném cái chăn đi và quắc mắt quát Lưu Quí:

-Anh là ai? Chăn của bọn tiểu bá phản bộ tôi không thèm.

Lưu Quí không trả lời, vẫn ngồi im. Nó nhìn tên này với ánh mắt dò xét.

Chiều. Chiến sĩ biên phòng đưa cơm vào cho cả hai đứa. Chỉ có một mình Lưu Quí ăn. Tên mới bị bắt vẫn nằm im không ngoảnh mặt lại.

-Này, người anh em, ăn đi lấy sức chứ. Ta ăn là vì Tổ quốc vĩ đại mà.

-Cơm của bọn tiểu bá, tôi không ăn. Tôi đã được trang bị tư tưởng Mao Chủ tịch. Tư tưởng đó là sức mạnh kỳ diệu, tạo ra tinh thần hy sinh, tạo ra sức mạnh vật chất giúp tôi-Tên thám báo mới bị bắt vẫn ngoảnh mặt đi. Hai tay nó xoa xoa trên má nơi có vết tím bầm. Lưu Quí xới cho nó một bát cơm và nói như dỗ giành:

-Ăn đi-Ta còn nhiều việc phải làm. Người anh em từ đâu đến đây?

Tên mới bị bắt trợn mắt nhìn Lưu Quí:

-Anh là ai. Tôi muốn biết anh là ai đã?

Lưu Quí ngập ngừng:

-Rồi khắc biết người anh em ạ! Anh bị chúng đánh à. Có đau không. Anh để tôi đánh gió, bấm huyệt và tẩm quất cho. Tôi đã được học các môn ấy. Tôi làm cho anh lại sức nhé-Lưu Quí đến đấm lưng, xoa gáy bấm vào hai bên cột sống, bấm ở những đốt xương sống cuối cùng, rồi ấn vào huyệt thái dương, huyệt hợp cốc, rồi dứt tóc, bóp trán cho tàn. Lưng nó kêu răng rắc. Nó khen Lưu Quí. Nó cảm ơn Lưu Quí. Nhưng tuyệt nhiên nó không trả lời câu hỏi của Lưu Quí về tên tuổi của nó, về nơi nó sang và nhiệm vụ sang để làm gì…. Hai đứa vẫn cứ giữ kẽ, giữ miếng với nhau. Chúng tuy nói chuyện với nhau nhưng cứ nhìn nhau bằng con mắt xa lạ, dò hỏi, ngờ vực. Hai ngày trôi qua qua. Mỗi ngày mỗi đứa phải một lần lên gặp cán bộ đồn biên phòng. Lần nào trở về, tên thám báo vừa bị bắt cũng bực tức. Nó đi một bước lại chửi tiểu bá phản bội một câu. Lần thứ hai về, nó ngồi cúi gầm mặt.

-Sao người anh em hôm nay có thái độ khác thế?

-Chúng bảo chúng sẽ xử bắn tôi. Chúng coi tôi như kẻ thù sang phá đất nước chúng.

-Người anh em phải biết vận dụng tư tưởng của Mao Chủ tịch vĩ đại chứ. Bất kỳ ở đâu, ta cũng biết cách làm tư tưởng Mao Chủ tịch toả sáng soi đường mà. Phải kiên trì, phải mềm, phải biết dùng chữ “hảo hảo” đúng lúc. Có thế ta mới dùng phép ”tầm gửi bên cành” được chứ…

-Tôi là chiến sĩ quân giải phong. Chính trị là thống soái, tư tưởng dẫn đầu. Bọn tiểu bá vô ơn, bội nghĩa tôi căm lắm. Tôi phải “tả, tả”. Tôi không mềm, không “hảo” được.

-Người anh em bị bắt từ hôm này.

-Tôi vừa sang bên suối, đến đất bản Thẩn thì bị con mẹ người Tày đi cắt tranh bắt. Không biết bọn tiểu bá nhồi sọ, mua chuộc bằng cách nào mà đến con mẹ Tày già cũng căm ghét chúng ta đến thế-Mặt nó sa sầm xuống-Bao nhiêu vải, thuốc, hàng đẹp của ta đưa sang đã ngót chục triệu đồng, bao nhiêu biện pháp chiến tranh tâm lý của ta đã làm để mong lấy được lòng bọn Tày, bọn Dao đều vô ích. Bọn tình báo Hoa Nam là quân ăn hại, ăn hại tất, nói láo hết-Nó gầm lên. Nó đấm nắm tay xuống sàn.

-Người anh em là trinh sát của đơn vị nào?

-Im lặng.

-Tên thám báo mới bị bắt nhìn Lưu Quí thay cho câu trả lời.

-Tôi sẽ ủng hộ anh, người anh em ạ.

-Anh định hỏi cung tôi chăng?-Nó trừng mắt.

-Không phải thế.

-Tôi có thể không trả lời!

-Anh phải trả lời chứ!

-Nếu tôi từ chối.

-Đừng thế, chúng ta phải sống, phải giúp nhau để cùng nhau làm việc cho tổ quốc.

-Tôi có thể nghe anh. Mọi chi tiết ta sẽ bàn sau. Điều quan trọng là chúng ta phải hiểu nhau đã.

-Nhưng lấy gì để bảo đảm cơ chứ!

Lưu Quí nhìn tên thám báo mới bị bắt vẻ ngập ngừng rồi im lặng. Sự im lặng như muốn nói lên: “Trong số hai người chúng ta ai là kẻ phần sự liều lĩnh trước!”. Câu hỏi đó làm cho nó phân vân. Nó nhìn thẳng vào mắt tên thám báo mới bị bắt một lần nữa như đắn đo, như thăm dò. Rồi nó nhìn ra phía cửa nhà giam nói nhỏ, gẫy gọn. Tiếng nói chỉ lọt qua hai kẽ răng cửa:

-“Cờ hồng”

-“Trung Nam Hải”-Tên thám báo mới vừa vào nhà giam nhìn thẳng vào mặt Lưu Quí, trả lời. Rồi nó nói tiếp:

-“Trừng phạt”

-“Nam man”!

Hai đứa ôm chặt lấy nhau. Ôm một cách thân thiết quá mức và rất lâu. Không đứa nào dám bỏ ra trước. Chúng e rằng làm như vậy tỏ ra mình nhạt nhẽo và kém phần thân thiện chăng. Chúng chẳng khác nào hai đô vật ôm lấy nhau rình miếng. Đúng là một cuộc đánh vật, thách đố về tình cảm.

Tên thám báo mới vào nhà giam cười rạng rỡ. Mặt mày nó hớn hở.

-Rủi quá! Tôi vừa sang. Tên tôi là Vương Xuấn, là thiếu uý trinh sát pháo binh của quân đoàn 42. Tôi được sang để xác định toạ độ một số mục tiêu nghi vấn mà các đội trinh sát sư đoàn không xác minh được và phát hiện thêm những mục tiêu quân sự Việt Nam mới cấu trúc. Tôi không khai với bọn Việt Nam điều này.

-Thế là tốt. Thế là người anh em rất tốt, rất xứng đáng là đồ đệ tư tưởng của người cầm lái vĩ đại.

Tên Lưu Quí vuốt ve mơn trớn Vương Xuấn. Đôi mi mắt súm sụp của nó chơm chớp. Mấy sợi lông trên chiếc nốt ruồi đỏ ửng ở má nó động đậy như những cái râu con gián, trông mặt nó lúc này vừa có vẻ hơn hớn, vừa có vẻ nhơn nhơn như ra điều phỉnh nịnh, như mặt một ông chủ.

-Đồng chí Vương Xuấn. Tôi là Lưu Quí. Từ giờ chúng ta gọi nhau bằng đồng chí. Chúng ta phải làm cho bất cứ nơi nào tư tưởng của người cầm lái cũng toả sáng như mặt trời. Chúng ta phải sống, phải chiến đấu với bon tiểu bá, Vương Xuấn ạ.

-Đồng chí bị chúng bắt đã lâu…

-Mới thôi. Cũng đã đủ vừa sức chịu-Nó cười khẩy. Hai quai hàm bạnh ra.

-Đồng chí, mình cam chịu ở đây ư? Trong những chuyến đi xa, tôi thường nhớ câu dặn dò cuối cùng hơn cả. Câu cuối cùng của đồng chí chỉ huy trinh sát quân đoàn đã dặn tôi rằng: “Nếu như bị thua cuộc phải biết thua cuộc như thế nào cho xứng đáng”. Và bây giờ sự thật ta đã thua cuộc đồng chí Lưu Quí ạ!
Lưu Quí cười khẩy. Cái cười khẩy của nó thay cho sự kín đáo và thận trọng.

Mãi đến hai hôm sau, Lưu Quí thẩm tra lại mật khẩu một lần nữa của Vương Xuấn; thẩm tra lại cả những chi tiết nghi ngờ về phiên hiệu đơn vị, về người chỉ huy ở quân đoàn 42 để nó quyết định nối lại liên với Vương Xuấn. Chờ khi Vương Xuấn ngủ say, Lưu Quí đã bí mật thẩm tra lại cái dấu hiệu cốt yếu nhất của bất kỳ một tên nào mà bọn trinh sát tình báo Trung Quốc sang Việt Nam phải có, đề phòng khi nguy kịch mất liên lạc thì chúng nhận ra nhau, cứu nhau. Lưu Quí vạch móng tay cái trên bàn tay phải của Vương Xuấn ra xem. Bỗng đôi mắt nó sáng lên. Đầu nó gật hai ba cái. Vì nó đã nhìn thấy cái đường kẻ đỉ dọc theo móng tay rất rõ (đường kẻ đó là để khi xin thuốc, xin lửa, khi bắt tay nhau, khi mở khuy áo thì dễ cho nhau xem để nhận nhau). Khi Vương Xuấn thức dậy, Lưu Quí chủ động chìa móng tay ra cho Vương Xuấn xem gạch đỏ và nói ngay:

-Chúng ta sẽ bàn tính nghiêm chỉnh mọi khả năng đồng chí Vương Xuấn ạ-Nó đi ra ghé mắt vào lỗ kiểm tra nhìn ra bên ngoài. Thấy không có ai theo dõi, nó trở vào ngồi sát bên Vương Xuấn-Tôi vừa sang qua đường biên giới thì cũng bị bắt ngay. Mọi thủ đoạn đã bố trí từ Mã Quan đều không qua mắt được bọn biên phòng Việt Nam-Lưu Quí hạ giọng xuống thì thầm vào tai Vương Xuấn. Nó nói rằng việc của Xuấn có hệ trọngthật nhưng chưa làm được cũng chưa gây thất thiệt lớn cho Tổ quốc. Còn việc của nó chưa làm được thì không nối được một mắt xích trong đường dây liên lạc hệ trọng và cấp thiết.

Vương Xuấn xoay người lại trố mắt nhìn Lưu Quí và lắng tai nghe chăm chú. Lưu Quí nói rằng nó sang tìm gặp một người để trao một kế hoạch hành động mới. Người đó, dễ gặp thôi. Người đó có thể bảo đảm cuộc sống và sự có mặt của nó ở vùng này. Nhưng tiếc rằng chặng đường đi đến với người đó đã không lọt. Và rất không may là nó gặp dân quân và cả bộ đội biên phòng, nếu như nó chỉ gặp dân quân thôi chắc đã không xảy ra cơ sự này.

-Việc của tôi khác đồng chí. Tôi không có cơ sở bên này, không định móc nối với ai. Tôi sang nhằm xác định tọa độ các mục tiêu và tìm thêm mục tiêu quân sự nghi là có vũ khí mới của Liên Xô rồi đánh dấu vào bản đồ chuẩn bị hướng tiến công cho pháo binh quân đoàn. Tôi có thể giúp được gì cho đồng chí. Tôi đã hiểu việc của đồng chí có tầm quan trọng đối với tổ quốc.

-Đây là việc tôi muốn bàn. Đồng chí có biết ai là xã đội trưởng Tà Chải, nơi mà đồng chí vừa sang không?

-Có! Tôi được phổ biến từ bên ấy tên những cán bộ chính quyền Việt Nam ở vùng này.

-Ai?

-Chu Phà.

-Đấy. Tôi muốn tìm người đó.

-Nó là cán bộ chủ chốt của bọn tiểu bá ở đây-Vương Xuấn trố mắt.

-Không. Nó là người của ta. Ta đã dọn đường cho nó lên để nó làm việc cho ta.

-Ta đã dọn đường…

-Đúng!

-Tôi được nghe rằng nó là bộ đội biên phòng về. Nó là đảng viên của tiểu bá. Nó đã táo tợn và được Việt Nam khen về việc nằm che quả lựu đạn trong một cuộc họp những đứa chủ chốt ở các xã.

-Dù nó là ai đi nữa, nó không phải là kẻ thù của ta. Nó là người của ta. Nó đang làm việc cho ta. Tầm ném của quả lựu đạn ngắn, nhưng ta đã nối được bước đi dài cho nó để tạo thuận lợi, chỗ đững và uy tín cho nó.

-Có nghĩa là ta đã bố trí vụ lựu đạn đó.

-Đồng chí hiểu như thế là đúng. Và còn hơn nữa ta đã có cách bẩy hòn đá cản đường cho Phà đi.

-Tôi chưa hiểu hết lời đồng chí nói.

-Ta đã thanh toán được người cản trở Phà…

-Là Páo!

-Đúng thế!

-Ôi!-Vương Xuấn ôm lấy vai Lưu Quí. Nó cười khoái trá. Tôi có thể giúp gì cho đồng chí?

-Tôi đang suy nghĩ đến điều đó.

-Thưa đồng chí Lưu Quí, tôi sẽ giúp đồng chí. Đồng chí hãy coi tôi như một người cộng tác thân cận. Tôi sẽ làm hết sức mình. Tôi đã hiểu rõ việc của đồng chí làm là việc hệ trọng của tổ quốc.

Lưu Quí và Vương Xuấn trùm kín chăn ôm nhau nằm nói chuyện rì rầm.

-Đồng chí có cách nào báo tin cho Chu Phà biết phải chạy sang biên giới ngay. Tốt hơn hết, Phà mang theo cả vợ con để tránh sự bắt bớ của Việt Nam.

-Tại sao, Phà đã lộ đâu?

-Trước sau rồi Việt Nam cũng dò ra đầu mối. Và khi Chu Phà biết tin chạy thoát, ở đây tôi dù có khai ra cũng không có ích gì cho Việt Nam nữa.

-Thế còn kế hoạch hệ trọng đồng chí định truyền đạt thì sao?

Lưu Quí im lặng. Nó thở dài thất vọng:

-Không còn con đường nào khác!

-Tôi có thể giúp đồng chí việc gì. Tôi sẵn sàng trả một giá đắt cho việc đó.

Lưu Quí ôm chặt Vương Xuấn vào lòng.

-Hay đồng chí bàn kế để tôi trốn về Tổ quốc!

-Bọn tiểu bá không ngây ngô như đồng chí tưởng đâu, Vương Xuấn ạ! Công việc của chúng ta buộc chúng ta phải như “con kỳ nhông” hễ bò đến chỗ nào là phải may chóng biến đổi màu da cho hợp với mầu cây lá mầu đất ở đó, mới sống được. Công việc của tôi thành công, cũng có thể dẫn đến thất bại.-Lưu Quí nàm im thở dài thườn thượt-Tôi sang định bàn với Chu Phà làm sao tìm cách đưa được nhiều em bé Việt Nam sang bên ta. Các em bé người dân tộc thiểu số, người Kinh ở các nơi, nếu có được người ở Hà Nội, có được con em cán bộ cao cấp Việt Nam thì càng tốt. Ở bên ta trong các căn cứ giúp cách mạng Việt Nam đã mở trường đào tạo chúng nó. Chúng nó sẽ thành những cán bộ sau này cho đội quân của Hoàng đồng chí. Năm, bảy năm sau, lớp trẻ đó sẽ là những người tiên phong cầm cờ làm lại cuộc cách mạng lần thứ hai cho Việt Nam. Chúng sẽ thành cán bộ của Đảng Việt Nam chân chính, của đoàn thanh niên Hoàng Văn Hoan mà ta đang xúc tiến thành lập. Đồng chí Vương Xuấn ạ, chúng ta phải lấy người từ Việt Nam sang, mới làm tốt được việc hệ trọng đó. Mà lấy được lớp trẻ sang đào tạo chu đáo thì càng tốt về mặt lâu dài. Ta đã cân nhắc kỹ, nếu lấy Việt kiều sống ở bên này hoặc lấy người Hoa mới trở về cũng không thể bằng được lớp trẻ từ Việt Nam sang. Việc này ta đã có kinh nghiệm xương máu về vấn đề giải phóng Đài Loan năm xưa.

-Thưa đồng chí Lưu Quí, tôi là giải phóng quân thế mà cũng không được biết hết những vấn đề đó. Đồng chí là người có suy nghĩ sâu sắc.

Lưu Quí cười. Nụ cười nở trên môi nó có vẻ ngạo mạn và khinh bạc:

-Việc ấy là thế đấy. Ngày ta muốn mở rộng thắng lợi tới các hòn đảo ngoài khơi bờ biển  phía nam. Nhưng gặp hòn đảo Kim Môn nằm ngang qua cảng Hạ Môn của Phúc Kiến là đặc biệt khó giải quyết. Giải phóng quân ta tiến ra đổ bộ lên đã bị quân phòng thủ của tướng Hồ Liêu tiêu diệt gần hết. Sau đó ta đưa những đơn vị được lựa chọn để đánh vùng đảo này tham gia một chương trình huấn luyện: tập đổ bộ, tập bơi lội trên các sông hồ Phúc Kiến. Nhưng ta đã gặp thảm hại không ngờ. Số quân của các đơn vị này đã bị bệnh sán lá gan rất nhiều và trở nên tàn phế. Sau ta mới biết loại sán này có rất nhiều trong sông nước mà các đơn vị này huấn luyện. Nếu ta có được một đội quân người ở các vùng đảo ấy thì đâu có xảy ra thảm họa đó. Bài học để áp dụng bàp Việt Nam là như thế đó đồng chí Vương Xuấn ạ. Một việc khác nữa là phải “Tả khoái” những tên phản bội to mồm chửi ta, gây tâm lý hằn thù giữa Việt Nam với ta: “Tả khoái” vào những nơi có các công cụ tuyên truyền của bọn phản bội kích động dân chúng gây thù hằn với ta. Đặt kế hoạch tiêu huỷ các cơ sở kinh tế của ta đã xây giúp cho bọn phản bội những năm trước và của bọn xét lại Liên Xô đang xây dựng. Ta phải đánh Vào những nốic bọn xét lại ở; nơi có vũ khí của chúng; nơi các căn cứ quân sự của chúng đặt sát vùng biên giới này. Cái trước mắt là lập cho được đườn dây an toàn đón người sang để liên lạc với người của ta ở khu “Hoa Kiều!” mà bọn phản bội Việt Nam đã giam lỏng họ. Ta phải tính toán trong thời gian ngắn nhất để chuyển đủ lượng thuốc nổ phá sập đạp thuỷ điện B và chiếc cầu chúng vừa xây bắc qua ngọn sông Hồng nối con đường sắt đến một vùng mỏ quan trọng. Những việc hệ trọng thế đấy, tất nhiên Chu Phà chỉ là cái “cửa sổ” biên giới của chúng ta.


Nói xong câu đó, nó cảm thấy một cảm giác lạ lùng ùa đến xâm chiếm lòng nó. Cảm giác về sự bất lực. Hệt như một đêm đông đen tối vây bọc lấy nó không biết làm thế nào để lọt ra khỏi cảnh đen tối đó. Trong giây phút ấy, Lưu Quí trầm ngầm nhớ lại cuốn sách nó đã từng thích thú, nó đã từng coi là sách gối đầu giường và ít khi rời tay. Nó tự hào một cách hão huyền rằng cuốn sách nó thích thú cũng từng được nhà ngoại giao tình báo Hoa Kỳ A-len Đa-let thích thú, rồi được nhà trùm tình báo chỉ huy lưới gián điệp, Khang Sinh một thời làm trưởng ban bảo vệ Đảng, bộ trưởng bộ công an thích thú. Cuốn sách đó là của một người Trung Quốc viết: cuốn nghệ thuật chiến tranh gián điệp của Tôn Tử. Trong tác phẩm ấy nhà lý luận Trung Quốc trình bày các nguyên tắc hoạt động gián điệp từng tồn tại ở Trung Quốc từ năm 400 trước công nguyên. Nó đã học thuộc những chương sách Tôn Tử đã dạy các hậu thế Đại Hàn xâm lược biết về những điệp viên nào có giá trị nhất trong hoạt động tình báo. Theo Tôn Tử trong chiến tranh gián điệp, Trung Quốc từng chia điệp viên ra làm năm loại: Điệp viên địa phương; điệp viên nội địa; điệp viên kép; điệp viên bất hồi và điệp viên sống. Theo nó hiểu thì điệp viên địa phương, điệp viên nội địa mà Tôn Tử nói xưa là tương ứng với loại điệp viên tại chỗ (nói theo cách của nhà trùm tình báo Trung Quốc hiện đại Khang Sinh). Còn điệp viên kép nó hiểu là điệp viên của kẻ địch bị chúng bắt làm tù binh rồi được chúng khống chế phải làm việc cho chúng và phái ngược lại hàng ngũ địch, với tư cách là điệp viên của chúng. Điệp viên bất hồi, y hiểu Tôn Tử đã diễn đạt tinh tế rằng những điệp viên đem những tin tức giả, tin tức trái ngược tới cho kẻ thù để đánh lừa kẻ thù. Tôn Tử gọi họ là điệp viên bất hồi bởi vì hoàn toàn rõ ràng rằng khi kẻ thù biết đó là tin tức giả, nhất định chúng sẽ giết. Còn loại điệp viên sống, nó hiểu là họ được cử đi hoạt động bí mật ở nước đối phương mà sau đó trở về tổ quốc an toàn. Trong cuốn sách đó, Tôn Tử khẳng định với các thế hệ Đại Hán xâm lược rằng: “Người tình báo thực thụ phải đồng thời có cả năm loại điệp viên ấy trong tay”. Tôn Tử còn dạy: ”Người trùm tình báo có được đủ năm loại điệp viên ấy sẽ làm chủ được một mạng lưới kiểu như “thiên la địa võng”, hoặc một thứ lưới bắt cá đan bằng trăm ngàn sợi dây bền chắc nhưng vô hình”. Tôn Tử còn di chúc lại cho con cháu Đại Hán rằng: “Về hoạt động phản gián; về chiến tranh tâm lý; về chiến thuật an toàn đối với các điệp viên-Tôn Tử rất thực dụng hoạt động tình báo không thể dựa vài quỉ thần, hay thượng đế được. Trong hoạt động tình báo truyền thống của Trung Quốc là phải dựa vào con người, dựa vào người ở bên phía kẻ thù và bè bạn mà thôi…“. Nó nhẩm lại loại điệp viên như nó là điệp viên sống.


…Hôm sau cửa nhà giam mở. Hai chiến sĩ biên phòng bước vào, Vương Xuấn bị còng chặt tay và bị đưa đi… Từ đó Lưu Quí không thấy Vương Xuấn trở về với nó nữa…

Cõng rắn cắn gà nhà

-Chuyện đã quá rõ ràng rồi. Chúng là bọn “Cõng rắn cắn gà nhà”. Ta phải bắt ngay Chu Phà, Hoàng Dìn và Xuân Kiều thôi. Xin đồng chí duyệt “phương án tối ưu” này. Chiến sĩ trinh sát đưa tập hồ sơ và nói với Trần Thường.

-Để làm gì?

-Để cắt đầu mối, chặn bàn tay phá hoại.

-Không được-Trần Thường đẩy tập hồ sơ ra một bên-Không được, phải bàn kỹ đã. Không nên nóng vội như thế. Muốn rèn dao sắc có lúc phải đổ nước nguội vào, chứ không chỉ có nung thép đỏ lên thôi. Có phải thế không đồng chí. Rừng có yên lặng thú dữ mới về. Nước có yên lặng, cá lớn mới sủi tăm! Tôi còn nghĩ đến phương án ta sẽ thả tất cả ra. Ta phải quyết định một nước cờ táo bạo. Và chúng ta cũng đừng ngóc nghếch vội tin ngay vào lời tên giặc. Chúng ta sẽ đề phòng khả năng nó đánh lừa ta. Nó làm cho ta tự đánh vào nội bộ, tự tay phải cầm dao, chém tay trái. Phải thẩm tra kỹ. Tôi sẽ trực tiép gặp Chu Phà.

Chu Phà được gọi đến gặp đồn trưởng biên phòng.

-Anh ngồi xuống đây. Có người nói với chúng tôi rằng anh đã móc nối làm tay sai cho bọn giặc bên kia biên giới. Ý kiến anh thế nào về những lời đó?

Chu Phà vừa ngồi xuống đã đứng phắt dậy. Anh ta choáng váng như bị nhát búa bất ngờ đánh trúng đầu và phản ứng mạnh mẽ. Mặt anh ta đỏ gay. Đôi mắt nhỏ sâu trên khuôn mặt choắt quắc lên:

-Đó là những lời bịa đặt hoàn toàn. Nếu không nhầm lẫn thì những người đó có ý làm hại tôi.

-Anh không nên để sau này phải hối hận với những lời nói của mình. Bởi anh Phà ạ, sự dối trá nhỏ sẽ đẻ ra thái độ thiếu tin cậy lớn đấy.

-Tôi không có gì phải hối hận vì khi tôi bảo vệ danh dự của tôi.

-Che giấu tội lỗi không phải là một cách để bảo vệ danh dự.

-À, tôi làm gì có tội. Tôi sẽ khiếu tố trước pháp luật về việc vô cớ các anh đã gán ghép tội lỗi cho tôi.

-Đó là quyền của anh, và nếu anh thấy cần, đồn biên phòng chúng tối sẽ giúp anh thực hiện quyền chính đáng đó của người công dân. Nhưng liệu anh có dám làm việc đó không, khi thực tế anh đang móc nối, đang cam tâm làm tay sai cho giặc phá hoại đất nước.

-Các anh bắt ong bò vẽ bỏ vào cổ áo tôi đấy à. Các anh vô cớ lợi dụng quyền hành xông vào cuộc sống riêng tư của một người dân tộc thiểu số đấy à.

-Ah cứ nghĩ, nếu như xông vào cuộc sống của một người nào đó để bảo vệ cuộc sống chân chính cho họ và của những người khác thì liệu anh thấy công việc đó có cần thiết không? Trần Thường vẫn giữ thái độ bình tĩnh, nói nhẹ nhàng và gẫy gọn.

Trần Thường mở ngăn kéo. Anh lấy ra quả lựu đạn mà Chu Phà đã vứt xuống vực và anh lấy luôn ra cả sáu cái vỏ đạn AK trong vụ chủ tịch Páo chết, để lên bàn. Phà như bị sương muối trút xuống đầu. Mặt nó biến sắc đi xám ngoét như tro bếp để nguội. Miệng Phà như sắp mếu xệch. Khuôn mặt y càng choắt lại.

-Anh nhìn kỹ đi. Đây là những tang vật biết nói.

Quả lựu đạn không có thuốc nổ-Trần Thường mở ra cho Phà xem-và sáu vỏ đạn đây nữa. Chúng tôi khẳng định rằng không phải anh Páo tự bắn vào ngực mình.

Phà ngồi xuống, mắt y lấm lét nhìn quả lựu đạn.

-Anh hãy suy nghĩ đi để nhớ lại mọi việc làm rồi trả lời tôi-Trần Thường rót cho Phà một chén nước. Anh đứng dậy đi ra khỏi phòng. Lát sau, Trần Thường đi vào:

-Chúng tôi không bao giờ bắt người hoặc vấn hỏi ai nếu như không có chứng cớ rõ ràng. Đó là phát luật, đó là nguyên tắc. Còn đối với anh-Trần Thường nhìn tang vật trên bàn-Vậy là chúng tôi đã đủ chứng có cụ thể. Bây giờ anh có lời bào hữa nào đủ cho chúng tôi tin được không? Khuôn mặt choắt nhỏ nom dóc dáy của Chu Phà cúi sập xuống. Cả giọng nói vốn âm vang của y cũng nhỏ đi, rẽ ra. Một sự xuống nước trông thấy:

-Anh Thường. Anh thông cảm cho.

-Tôi khuyên anh nên nói hết sự thật đi. Chính sự thất anh nói ra sớm và đầy đủ sẽ cứu anh. Còn bây giờ không ai thông cảm với anh, cứu anh bằng những sự thật đó. Nào, tôi nghe đây. Tôi nhắc lại, anh nói dối chẳng có ích gì đâu và cũng chẳng được với chúng tôi đâu.

Phà thở dài:

-Các anh đã biết hết rồi. Và các anh chọn cách xử lý tàn nhẫn đối với tôi-bất giác Phà khóc nấc lên.

-Bây giờ tôi hỏi từng việc. Anh sẽ trả lời theo câu hỏi của tôi. Anh nên nhớ rằng sự dối trá nhỏ sẽ đẻ ra thấi độ thiếu tin cậy lớn đấy. hãy trả lời đi. Ai đã trao cho anh quả lựu đạn này. Và bầy ra cái trò đó cho anh.

-Thưa anh. Tôi không phải là người chủ mưu bày ra việc này. Anh biết cho.

-Việc đó tôi biết. Nhưng anh hãy trả lời đúng câu hỏi của tôi.

-Tôi, tối sẽ chịu toàn bộ tội lỗi-Phà nói tiếp. Đầu y cúi gầm xuống giọng kéo dài vẻ thiểu não-Tôi đã thấy, tôi rất đau lòng với những tội lỗi đó.

-Anh nghe rõ lời tôi nói rồi chứ. Không loanh quanh như thế.

-Thưa anh, một người Trung Quốc đưa sang cho tôi… Nhưng anh thương cho-Phà vùi đầu vào vòng tay khóc nấc lên-Anh thương cho. Anh thương tôi. Anh thương cả vợ con tôi nữa.

-À ra thế. Tôi hiểu rồi. Anh sợ bọn chúng trả thù chứ gì. Được. Nếu anh muốn, tôi sẽ giấu kín hoàn toàn việc này. Những lời anh nói chỉ có tôi ới anh nghe và không lọt ra ngoài gian phòng nhỏ bé này. Tôi sẽ có cách để anh chuộc tội. Nhưng anh phải thành thật. Điều đó quyết định cho cuộc sống của anh và cả gia đình anh.

-Vâng. Anh có bảo đảm lời nói ấy không?

-Bảo đảm hay không là tuỳ thuộc thái độ thật thà của anh.

-Vâng. Người Trung Quốc ấy vượt biên sang và đưa cho tôi vào một buổi tối tại nhà tôi. Người đó, tôi mới gặp hắn lần đầu. Nó tự xưng là người chỉ huy đội quân của Hoàng Văn Hoan và trong ban dân tộc bên ấy mới thành lập. Tên nó là Nông Quáng. Nó đã từng là cán bộ huyện của ta mới chạy sang bên ấy cuối năm 1978. Nó đưa cho tôi quả lựu đạn rồi bàn với tôi cách làm như thế. Nó nói có làm được như thế uy tín của tôi mới tăng lên. Cán bộ trên huyện, trên tỉnh và dân H'mông mới tín nhiệm tôi nhiều. Tôi mới làm được thêm những việc khác. Theo lời Nông Quáng nói, thì tôi mới lên lên bậc cao hơn, chui được sâu hơn vào hàng ngũ cán bộ ở vùng này. Tôi bảo sợ lựu đạn nổ thì mất mạng. Nó bảo không nổ. Có thuốc nổ đâu mà nổ. Nó vặn cổ lựu đạn ra cho tôi nhìn rõ, tôi mới tin. Nó bảo chọn một người tin cậy đã theo tôi, giao cho người đó ném. Tôi đã chọn thằng Hoàng Dìn tiểu đội trưởng dân quân. Nó bảo với tôi trong phiên họp đó phải chọn Hoàng Dìn gác ở cửa vào để dễ thực hiện kế hoạch…

-Anh đã làm theo lời nó chứ?

-Vâng! Tôi đã chọn Hoàng Dìn và chính ta đã ném lựu đạn.

-Tại sao Nông Quáng biết bên ta có cuộc họp ấy?

-Tôi báo sang.

-Trung đội dân quân Tà Chải có những ai đã theo anh như Hoàng Dìn.

-Cô y tá Xuân Kiều.

-Anh phục viên về bản vào năm 1979?

-Vâng! Tháng 8-1979.

-Anh kể rõ, anh đã liên lạc với bên ấy từ bao giờ và bằng cách nào? Anh Phà. Chúng tôi đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại. Chuyện dân gian H'mông ta cũng đã nói rất hay về điều đó. Chắc anh đã nghe. Người Việt Nam ta, dân tộc nào cũng sống rất nhân đạo với nhau như thế đấy. Bây giờ anh nói đi.

-Thưa anh-Phà thở dài vẻ khổ sở-Tôi về, được xã giao cho làm xã đội trưởng. Tôi hay đi làm những đám nương giáp đường biên giới. Những ngày đó, người bên ấy sang tìm tôi, cùng ở lại trên nương với tôi, cùng đưa cơm ra cho tôi ăn, đưa thuốc lá ngon cho tôi hút. Tôi thiếu diêm nhen lửa, họ cho máy lửa tốt, đá lửa nhiều. Tôi canh nương rét, họ đưa cho tôi chăn bông hoa, áo len, khăn len. Rồi một người cùng nhận họ với tôi. Người ấy đưa gà ra làm thịt cắt máu uống rượu ăn thề làm anh em với tôi. Họ gửi hàng kí lô mỳ chính cho vợ tôi, gửi áo đẹp cho con tôi, gửi xoong, phích, pin để vợ tôi bán lấy tiền. Ngày nào tôi cũng nhận được hàng đó. Để che mắt dân bản, tôi về rất tối. Đến phiên chợ Nàn, vợ tôi đưa ra bán. Những ngày tôi không lên nương, người bên ấy cứ đưa vải đẹp, đưa hàng ra nương cho tôi. Hôm sau, tôi lên lấy. Có một lần người đó đưa cả máy ảnh cho tôi nữa. Hàng đó nhiều quá tôi cho Hoàng Dìn, cho cả Xuân Kiều nữa, nên hai người theo tôi, nghe lời tôi giấu mọi việc tôi làm. Vào cuối năm ngoái cũng ở đám nương đó có hai người sang tìm tôi. Họ nói với tôi, từ năm 1979 tới nay Trung Quốc đã thương anh, đã cho anh nhiều hàng. Họ đưa cái giấy ra đọc cho tôi nghe. Thì ra tôi đã lấy của họ 780 mét vải hoa, 95 cái phích, 500 đèn pin, 150 kg mỳ chính, 15 kg đá lửa… Tôi sợ quá. Nhưng họ nói đúng và ghi rõ ngày tháng ai đưa, lấy ở chỗ nào nên tôi ngồi im. Họ nói tiếp: “Anh ăn nhiều rồi đấy, nhưng anh chưa làm được gì để giúp chúng tôi cả, mà không phải chúng tôi, chính là giúp người Việt Nam anh đấy. Giúp đồng chí Hoàn Văn Hoàn, người mà sớm muộn sẽ về cầm quyền bên đất nước anh. Bây giờ, anh làm đi. Chúng tôi sẽ bầy việc cho anh làm. Anh làm từ việc nhỏ trở lên!”. Tôio sợ quá. Tôi ngồi im và run rẩy-Chu Phà ngừng một tý uống một hơi cạn chén nước, rồi y kể tiếp-Một người trong bọn họ nói tiếp: Chu Phà. Chuyện không đơn giản là chỉ có ngồi mà được ăn như anh tưởng đâu. Ăn thì phải làm chứ. Anh ký vào đây. Anh đã nhận từng này hàng. Một đứa đọc lại bản liệt kê tên hàng cho tôi nghe và nó rút bút ra ấn vào tay tôi bắt ký. Bây giờ anh phải làm. Nếu không, anh phải trả món nợ đó.

Chu Phà hỏi lại tên đó:

-Trả bằng tiền?

-Không đơn giản thế, không dễ dàng thế. Mọi việc hoàn toàn không như thế. Anh phải trả bằng máu. Máu của anh của vợ con anh nữa vẫn còn rẻ cơ đấy.

-Chu Phà mếu xệch mồm rồi nức nở. Phà kể rằng: Tên đó nói tiếp với Phà:

-Nhà anh ở gần biên giới. Nghĩa là gần chúng tôi, việc đó làm rất dễ. Chúng tôi còn in bằng truyền đơn bản kê tên hàng anh đã nhận và chữ ký của anh nữa, lại cả ảnh của anh đây đang tươi cười nhận hàng đây nữa chứ-Nó đưa ảnh cho Chu Phà xem. Chúng tôi sẽ đưa sang thả xuống dọc cả vùng biên giới này cho mọi người biết, liệu anh có sống được với họ không? Vợ con anh có sống được không? Bọn tiểu bá Việt Nam chúng sẽ rán mỡ anh và vợ con anh lên. Anh lại là xã đội trưởng. Anh đi đâu cho thoát? Chứ chưa đến tay chúng tôi bắt anh phải trả nợ máu đâu-Tên đang nói có bộ mặt to bè, thô lỗ cười gằn:

-Anh trả lời đi.

-Phà cúi gầm mặt ngồi lặng câm như cá.

-Tôi phải làm gì?

-Việc dễ thôi. Anh có thể làm được, anh vẫn tiếp tục được nhận hàng tốt và nhiều hơn. Mỗi ngày đi làm, anh cung cấp cho một tin về bộ đội biên phòng, về công an, về tuyến phòng thủ ở bên ấy. Rồi anh mang về một gói truyền đơn. Bắt đầu bằng những việc ấy. Dù anh về tối cũng không ai nghi ngờ gì anh. Bởi anh là xã đội trưởng.

… Chu Phà đã câm lặng và cúi đầu làm theo lời bọn giặc như thế. Chu Phà đã có thêm nhiều vải, có thêm nhiều hàng đẹp. Bên ta không ai nghi ngờ gì Phà vì anh là một cán bộ chủ chốt tin cẩn của Tà Chải. Rồi đâm lao phải theo lao. Một buổi tối, Chu Phà ngủ lại trên nương.

Khuya. Bọn lính áo đen bên kia đã sang gặp Chu Phà. Chúng vào lều cạnh nương dựng Chu Phà dậy. Chúng đốt lửa lên và trải rộng tấm bản đồ vùng biên giới này ra trước mặt Phà. Chúng hỏi Phà các con đường phía trước, phía sau đi lên điểm tựa “Vách đá lớn”, chúng hỏi Phà vê bộ đội trên ấy. Vì đã cùng với dân quân lên đó diễn tập chiến đấu chung với bộ đội nên Phà nắm được, Phà đã kể hết cho bọn chúng. Phà đánh dấu đường sá, hầm hào lên bản đồ cho chúng, Rồi bọn chúng bắt Phà dẫn đường để chúng lên đó đánh úp diệt điểm tựa này. Chúng sẽ đào cột mốc biên giới ở đó dời xuống chân núi để chiếm giữ điểm cao trên sống núi chạy dọc biên giới có lợi thế về quân sự. Nửa đêm, Phà dẫn chúng đi. Bọn chúng có lính áo đen mang AK báng gập, có “lính đặc công Hoàng Văn Hoan”, có liính vác quốc thuổng đào cột mốc. Đi sau, có lính công binh lên làm lại  công sự cho chắc chắn. Và sau nữa có bọn lính biên phòng vác súng máy, súng cối 82 mi-li-mét, súng B41, mang nhiều lương thực, mang nhiều thùng nước lên chốt giữ. Chu Phà đi trước. Phà dẫn bọn chúng lần mò đi tắt qua những mái đồi cây dại, đi qua các bãi cỏ tranh đến chân điểm tựa “Vách đá lớn”. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ đã xảy ra. Một tên lính áo đen đi chệch đường sa vào hố chông của dân quân ta giăng. Những mũi chông bằng tre lâu năm được đốt lửa cứng như thép xuyên thủng bàn chân đi giầy vải của nó. Nó kêu rống lên như lợn bị chọc tiết. Bộ đội ta chốt giữ trên điểm tựa, ban đêm đã tỏa xuống các đầu mối đường mòn để phục kích đã phát hiện ra bọn chúng. Lập tức các tổ khép lại thành thế bao vây rào kín biên giới. Bọn giặc hoảng loạn. Chúng chạy lung tung xéo vào bãi mìn, đạp phải các hố chông. Bộ đội và dân quân ta giết gần hết.


Phà chạy thoát, vì Phà thông tỏ đường nên lẩn trốn được. Vây là Phà đã như đòn sóc hai đầu! Vẫn được cả hai bên tin dùng. Sau hôm đó, để che mắt ta và để giữ cho Phà chui sâu leo cao hơn, chúng bảo Chu Phà tuyệt đối không đi làm nương nữa, không ra đường biên giới nữa. Nếu cần lấy hàng của bên kia chuyển sang thì vợ Phà hoặc Hoàng Dìn hay Xuân Kiều đi với lý do: tìm cây thuốc. Còn Phà, phải say sưa với công việc xã đội hơn. Những kế hoạch tập luyện học hành, kiểm tra, canh gác ở các chốt của dân quân mà Phà vạch và anh hăng hái làm theo đều là sự sắp xếp của bên kia. Và bên áy cần liên lạc hoặc có chỉ thị gì cho Phà thì có người sang tận nhà gặp, có mật khẩu và ám hiệu để nhận nhau. Rồi để cho Phà được tín nhiệm hơn tạo được vỏ bọc dầy hơn, chúng đã sang tận nhà Phà bố trí vụ nằm che lựu đạn đó…

-Tôi ghi nhận lời khai của anh. Bây giờ anh hãy trả lời: ai đã bắn chủ tịch Páo?

Phà tung đôi vai mảnh giẻ, cái lưng ngắn của y động đậy như run lên trước cơn gió mạnh. Phà đưa mắt sắc, giảo hoạt nhìn Trần Thường. Cái nhìn dò hỏi: anh đã biết hết, chuyện đã vỡ lở đến mức ấy rồi ư?

-Lại còn chuyện ấy nữa. Ôi, tôi biết nói thế nào. Tôi không ngờ chuyên lại đến nông nỗi thế.

-Ừ thế đấy. Chúng tôi đã biết rằng người tự sát không bao giờ đủ minh mẫn và chủ động bắn được hai loạt nhịp nhàng như thế đâu.

-Thưa anh, tôi đã nhận mọi tỗi lỗi rồi!

-Anh không nên trả lời xô bồ chung chung và có thái độ né tránh như thế. Anh phải nói rõ ràng, ai đã giết anh Páo. Người đó có phải chính là anh không? Và vì sao lại giết anh ta.

-Thưa anh. Anh thương cho, sự tình là thế đấy.

-Anh cứ nói.

-Từ sau ngày Trung Quốc rút hết quân. Bên chúng ta khen thưởng những người có công, trong đó có anh Páo, thì bên kia đã nhiều lần định giết anh ta. Bên ấy coi Páo là một tên đại gian ác chống lại sự trừng phạt. Họ giết Páo để đe nẹt những ai làm cán bộ cho ta chống lại Trung Quốc. Nhưng ý định đó không đạt được vì Páo rất đề phòng. Páo chưa biết tôi làm việc cho bên ấy, nhưng Páo là người tốt, thẳng thắn và được dân tin. Bên ấy họ nói với tôi rằng nêu cứ để Páo làm chủ tịch thì trước sau rồi Páo cũng phát hiện ra tôi. Và dù tôi có muốn nắm cả vùng Tà Chải này chăng nữa thì anh Páo là một trở ngại lớn tôi khó lòng vượt qua anh ta. Phải tìm cách thanh toán anh Páo, tôi mới vững chân bước, mới rộng tay làm. Bên ấy họ sang bàn và sắp xếp cho tôi những lời nói xấu Páo, sắp xếp cho cô y tá Xuân Kiều vu cáo Páo cưỡng hiếp, Páo lấy thuốc tốt của dân. Và thưa anh đã đến nước này, tôi không còn giấu làm gì nữa, tôi sẽ nói hết. Nếu Xuân Kiều có bị chửa, bên kia cũng đã sắp xếp cho cô ta đổ tội cho Páo. Nhưng không phải thế đâu… Còn vải chăn, phích, hàng, Xuân Kiều nói là chứng cớ của Páo đưa cho để đừng tố cáo… đều là của tôi nhận từ bên ấy về. Tôi còn bàn với Dìn để Dìn vu cáo Páo trữ hàng chiến tranh tâm lý để hạ uy tín của Páo. Và họ nói giữa thời điểm này nếu để người bên ấy sang giết Páo thì Việt Nam có cớ để tuyên truyền kích động dân H’mông thêm căm thù Trung Quốc. Nên họ bàn tạo ra cớ để cho Páo tự sát đi. Nếu không đạt được như thế, tốt nhất là tìm cách giết Páo rồi tạo ra hiện trường như Páo đã tự sát. Nghĩa là phải tránh đi đừng để đồn đại là những người Trung Quốc sang giết Páo.

-Thế có phải chính anh giết chủ tịch Páo không?

-Thưa ưnh, tôi là người bị xúi giục tạo ra vụ đó.

-Tức là chính anh đã dùng súng của Páo để bắn bào ngực anh ta.

-Không phải tôi!

-Thế thì ai?

-Người bên kia bắn!

-Sao, anh nói rõ thêm?

-Đúng, tối hôm ấy có hai người sang tìm tôi. Chúng tôi đang đi trên đường vào bản thì gặp páo hớt hải chạy về phía cuối. Tôi đoán Páo đế nhà tôi vì Páo vừa đi họp về chiều ấy. Tôi chặn Páo lại để hỏi chuyện. Một người bên kia bất ngờ đấm vào gáy Páo. Páo ngã gục.  Người khác xông vào vồ lấy súng AK của Páo và bắn vào ngực Páo. Rồi họ dựng lên hiện trường như Páo tự sát. Họ bảo tôi phải nói với dân, nói với đồn biên phòng như thế.

-Việc anh bắn chết tên thám báo và bắt sống một tên có nghĩa là bên kia đã bố trí cho anh?

-Vâng! Đúng thế-Chu Phà cúi đầu.

-Anh kể rõ chuyện này.

-Thưa anh! Người bên ấy sang nói với tôi rằng: họ muốn làm một việc để nhằm nâng thêm uy tín với dân cho tôi, và để cho tôi chiếm được trọn sự tín nhiệm, tin cẩn của cán bộ trên huyện, trên tỉnh bên ta. Họ sẽ cho hai người san và họ bảo tôi phải bắn chết cả hai. Nhưng khi đuổi kịp nó tôi thấy nó đã xin hàng và kêu khóc thảm thiết quá, tôi không nỡ lắp tiếp băng đạn mới vào súng để bắn chết nó. Nó còn sống. Theo người phía bên ấy nói với tôi về hai tên này, chúng là hai phạm nhân đang bị giam trong nhà tù ở Côn Minh. Một tên vì tội đánh bạc và một tên vì tội cướp của giết người. Bên ấy sử dụng chúng sang ta chỉ làm hai việc: thả truyền đơn, thả thuốc độc xuống suối rồi chết! Nhưng như lời khai của tên còn sống thì bên ấy đã lừa phỉnh chúng, đã nói với chúng rằng: Nếu sang Việt Nam thả xong truyền đơn và đặt được túi thuốc độc vào đầu dòng suối rồi trở về trót lọt sẽ được tha ra khỏi nhà giam. Vì chúng đã lập được một công lớn cho Tổ quốc Trung Hoa để chuộc tội. Nên bọn chúng đã hăng hái làm theo. Bọn chúng có biết đầu phía bên ấy đã dã man biến chúng thành con tốt và chơi nước cờ “thí tốt”. Người bên ấy đã nói rõ với tôi giờ chúng sang, chỗ chúng vượt biên giới và yêu cầu tôi nhất thiết phải giết chết cả hai tên để bịt đầu mối.

-Thế đấy, bọn giặc dã man lừa phỉnh cả chính với anh nữa. Chúng đã biến anh thành vật hy sinh rẻ tiền của sự phản bội Tổ quốc, thành kẻ hai mặt. Bây giờ anh mới sáng mắt ra ư! Người bên ấy hẹn bao lâu sang gặp anh một lần?

-Cứ phiên chợ Nàn họ sang từ sáng sớm trà trộn trong số người đi chợ rồi khi tan chợ tôi đưa họ về nhà. Tôi là xã đội trưởng nên không hề có ai nghi ngờ.

-Ngoài những lời anh đã khai, họ còn bàn thêm với anh những việc gì sẽ làm tiếp. Anh có cần suy nghĩ để nhớ lại không?

-Thưa anh, tôi vẫn nhớ cả. Họ nói với tôi rằng, họ đã và đang dùng cả năm lực lượng tổng hợp sức mạnh lại để đánh thắng Việt Nam.

-Anh nói tỉ mỉ hơn.

-Đó là quân giải phóng, dân binh, công an biên phòng, chính quyền công xã, ban dân tộc mới thành lập mà người sang gặp tôi tự nhận là của ban ấy. Họ đã thành lập Đảng cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Hoàng Văn Hoan, đội quân Hoàng Văn Hoan để vận động làm lại cuộc cách mạng lần thứ hai cho Việt Nam. Họ bảo họ sẽ nêu ra khẩu hiệu: chống xét lại Liên Xô, chống bá quyền Trung Quốc, chống tập đoàn phản bội phá hoại đất nước. Họ cứ gọi là Việt Nam dân chủ cộng hoà và lấy cờ của ta viền thêm mầu nâu xung quanh.

-Chúng đã giao cho anh làm những việc cụ thể gì để giúp chúng thực hiện những âm mưu đó.

-Thưa anh, tôi biết nói với anh thế nào. Rồi số phận tôi sẽ ra sao-Chu Phà ôm mặt khóc.

-Số phận anh ra sao là còn tuỳ thuộc thái độ của anh như thế nào. Tôi nhắc lại anh muốn trở thành một người biết hối hận, muốn lập công chuộc tội, hay anh muốn đứng về phía kẻ thù chống lại nhân dân. Tôi hứa với anh, những điều anh nói chỉ có chúng ta biết.

-Thưa anh-Chu Phà ngắc ngứ như tắc nghẹn cổ họng, y nuốt nước bọt hai ba lần mới nhả ra được tiếng để họ chuyển được một ít thuốc nổ sang ta. Họ bảo số thuốc đó sẽ chuyển về để đánh nhà máy thuỷ điện B và chiếc cầu ta mới xây qua sông Hồng.

-Đã chuyển được bao nhiêu. Hiện giấu ở đâu?

-Tất cả còn để trong ba ngách đá của Hang Na. Ba thồ đầy.

-Tên sang gặp anh lần cuối cùng cách đây mấy hôm.

-Nó bắt đầu chuyển thuốc nổ sang từ phiên chợ trước.

-Chúng có báo cho anh biết tên sắp sang gặp anh vào ngày nào không?

-Không! Nhưng thường là những phiên chợ thì có người lẻn sang tìm tôi.

-Anh Phà. Anh thấy không, tội anh rất nặng. Tôi phản Tổ quốc. Tội cõng rắn cắn gà nhà. Tội theo giặc giết đồng chí. Anh nghĩ thế nào về những tội lỗi ấy.

Mặt Phà tím tái đi như rêu đá. Giọng của Phà như thều thào.

-Thưa anh. Tôi xin chịu hoàn toàn tội lỗi gây ra, anh thương cho.  Anh đã nói sẽ tạo điều kiện cho tôi lập công chuộc tội.

-Tôi biết nói thế nào với anh nhỉ. Bởi tôi không ngờ chuyện nó lại đến như thế-Trần Thường nhìn nét mặt thảm hại của Phà rồi anh nhìn ra phía rừng biên giới. Xa xa trước mặt anh bản Xín Hồ, bản Ngải Phản, Ngải Chồ, bản Xín Chéng… Những bản H'mông những bản Nùng, bản Dao đáng ra được sống yên vui và đầm ấm. Nhưng không khí chiến tranh đã trùm lên mọi sinh hoạt hàng ngày của họ. Mà sự yên tĩnh lại có vẻ nguy hiểm như vẫn giấu giếm một cái gì đó đang rình rập còn đáng sợ hơn cả một trận pháo kích của bọn giặc bên kia bắn tới. Những xóm bản đó lúc này đang phải chịu đựng những cơn gió lạnh hun hút từ phía Bắc thổi sang luồn theo các hẻm núi đưa theo mây và giá buốt. Trong cái giá buốt độc hại của thiên nhiên đó còn có sự độc hại ghê gớm đáng nguyền rủa như chuyện này đây. Nó cũng từ phía Bắc đến. Nó cũng theo các lũng núi len lỏi tới. Và Phà đang ngồi trước mặt anh đây là nạn nhân là vật hy sinh của sự phản bội. Giờ đây giết một con người có tội lỗi thì dễ nhưng làm cho họ trở lại thành một con người có ích biết giúp sức cho mình là khó. Nhưng người cầm súng phải kiễn nhẫn, phải chọn và phải ngắm đúng mục tiêu. Vì viên đạn bay đi sẽ không quay về được nữa. Trần Thường nhìn thẳng vào đôi mắt bạc phếch hết sinh khí của Phà, anh suy nghĩ rồi nói chậm rãi:

-Anh nói đi. Anh nghĩ gì về những tội ấy.

-Thưa anh. Tôi mù quáng và ngu xuẩn quá rồi. Người H'mông thường nói: nước mát nên nhiều người chết vì nước, lửa nóng nên ít người chết vì lửa. Tôi đã chết vì nước. Tôi muốn được sống. Sống một cách bình thường như những người H'mông khác-Chu Phà gục xuống khóc rống lên. Phà đau đớn thực sự:

-Thực ra đây là vùng mặt trận, vùng hàng ngày giáp mặt với kẻ thù. Tội của anh đã vượt quá tội xử bắn. Nhưng anh biết điều và tỏ ra khôn ngoan thì anh vẫn được sống…

Chu Phà ngước mắt nhìn Trần Thường. Mồm Phà há ra như chờ đợi nuốt từng lời, Thường nói:

-… Một cuộc sống bình thường như hiện nay. Và chúng tôi vẫn để anh làm xã đội trưởng Tà Chải này. Nghĩa là mọi chức vụ anh vẫn giữ như hiện nay, anh vẫn làm mọi việc như hiện nay…

-À, à…-Chu Phà ngạc nhiên tròn mắt…

Bất giác Trần Thường quay lại nhìn Chu Phà.

Anh đã bắt được thần sắc thật của Phà. Đôi mắt nhỏ, sắc loé lên nét giảo hoạt, cái mặt choắt và cái cằm hơi lẹm của Phà làm cho Trần Thường nghĩ tới phải đề phòng sự tráo trở, phản phúc nấp sau bộ mặt ấy. Trần Thường gõ ngòi bút chì xuống bàn: “Mình sẽ chơi trò này không chút úp mở. Nhưng như thế có quá táo bạo và mạo hiểm không nhỉ? Trách nhiệm và công việc cụ thể này có cho phép mình như đánh một ván cờ, một là mất hết hai là được trọn vẹn không? Không bao giờ như thế. Kinh nghiệm hơn mười năm đã chỉ huy nhiều trận đấu mưu trí, đấu sức lực và lòng dũng cảm với kẻ thù ở vùng biên giới xung yếu này đã dạy cho mình bài học: “Đôi khi một sự ngờ vực quá mức nếu không muốn nói là cảnh giác lại thấy ít nguy hiểm hơn là một sự thành thực có thừa. Nếu không muốn nói là quá thật thà đến mức ngốc nghếch”.

-Thế đấy. Anh phải làm việc. Làm bằng cách nào, anh chưa cần biết vội. Nhưng dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chúng tôi. Anh phải thực sự làm để chuộc lại tội lỗi của mình. Sự làm việc thật thà và hết mình đó sẽ đổi cho cái chết vì những tội lỗi nặng nề của anh đã gây ra. Và như thế bọn bên kia gb cũng không có cớ gì để đòi món nợ của anh.

-Vâng. Tôi xin hứa. Anh thương cho…

-Anh vẫn làm xã đội trưởng, vẫn chỉ huy dân quân nhưng anh làm việc gì, làm như thế nào la theo sự xếp đặt của chúng tôi. Có điều rằng nhất thiết anh không được nói gì cho Hoàng Dìn, cho Xuân Kiều biết về những việc này. Anh phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Anh hiểu chưa. Tôi nhắc anh rằng, anh đừng để mình là vật hy sinh rẻ tiền của sự dối trá và phản phúc.

-Vâng!

-Anh vẫn tiếp những người bên ấy sang gặp, hàng bên ấy chuyển cho anh bằng con đường đi làm trên nương, chúng tôi cho phép vợ anh lên nhận bình thường. Việc anh gặp gỡ với người bên kia sang, chúng tôi có cách kiểm tra và anh phải báo cáo đúng. Nghĩa là anh không được làm gì để cho bên kia nghi ngờ, anh không được tỏ thái độ gì để cho những người xung quanh biết anh đang àm việc có sự giàn xếp và kiểm tra của chúng tôi. Anh thấy thế nào?

-Vâng. Tôi sẽ làm được-Phà ngồi hai tay buông xuôi thẳng.

-Những điều đó là cái giá để đổi mạng sống cho anh và cho cuộc sống bình thường của gia đình anh.. Chu Phà ngồi cúi đầu. Mặt Phà xám ngoét. Phà cảm thấy một sự ngao ngán, một vị đắng cay, chua chát đã thấm thía, khác nào vị đắng cay của cây ngải cứu ở vùng nđất núi Hoàng Liên này đã tràn ngập trong lòng Phà và cả xung quanh Phà nữa…

Trừng Phạt

Con dao và cây ngón

Ông Xín đi từ rừng về bản Củi Pao Pin. Một bản H'mông có cái tên đẹp: bản Hương Quế. Ông đeo con dao bên hông. Cái vỏ con dao làm bằng hai mảnh gỗ thông ghép lại đập cành cạch vào bắp đùi như đếm từng bước ông đi. Các cây quế to ở bìa rừng, ở quanh bản không còn nữa. Nó đã bị bật gốc đổ nghiêng rồi, nó đã cháy cành rồi. Lửa của đạn pháo lớn, của đạn tên lửa H12 đã táp đen lớp vỏ rồi. Ông Xín chép miệng cay đắng: “Rồi không biết bao nhiêu năm nữa dân bản H'mông này mới lại nhìn hướng mặt trời để chọn mảnh vỏ quế thơm về làm hương thắp tết, làm men rượu, làm thuốc đau xương cho người già…”. Con chim lẩu chinh (chim cu núi) hiền lành, mắt khuyên vàng, đeo vòng cườm quanh cổ, có tiếng hót ngọt như búp măng giang đầu mùa cũng đã quyến nhau lảng đến miền núi cao nào rồi. Bản Hương Quế của ông giờ đây khét lẹt mùi tro than, mùi ngô lúa bị đốt cháy, mùi thịt lợn, thịt ngựa, thịt ngỗng chết xông nồng hoà trong mùi ngai ngái của rừng chiều.

Ông Xín đưa mắt nhìn về phía núi xa xanh có những hang đá lớn, có những đám mây trắng bảng lảng vướng vít trên ngọn thông sa mu. Nơi đó bà con bản Hương Quế tránh bọn giặc tràn sang. “Bao trăm năm rồi… người H'mông ta lại phải tránh bọn người Hán ác độc đến cướp bản, đến phá nhà…” Lời ông bà ta nói đúng thật: Gần chó thì bị cắn, gần người Hán ác độc thì bị cú đấm là thế. Ông chép miệng. Bỗng lúc này, ông nhớ đến Dín, đứa con trai của ông đang ở trên ấy. Nó đang ở với anh Sơn. Anh Sơn dạy nó bắn súng, dạy nó làm những việc lành, việc tốt để giữ đất núi này, để đánh lại bọn giặc Bắc Kinh tàn ác. Anh Sơn chỉ huy bộ đội biên phòng, ông Xín biết rõ anh như biết rõ trong lòng cây mai non thì có ngụm nước ngọt. Ngay từ ngày đầu anh Sơn lên đây, người H'mông nhìn những việc có lợi anh làm, nghe những lời phải anh trái anh nói, ai cũng đã hiểu anh, nhận anh là người tốt của bản H'mông này, như bầy chim của đất núi Hồng Lếch nhận con chim lông xanh, mỏ đỏ hai mắt khuyên vàng nhập vào bầy mà không cần phải dò lời, thử tiếng.

Ông Xín và bà con bản H'mông biết quê anh ở bản Kinh tận “Mường Sơn”, “Hương Sơn” gì xa lắm. Anh phải đi hết năm tuần trăng trong, bảy tuần trăng khuyết mới tới nơi. Anh nói với bà con rằng quê anh cũng có lũng thấp, đồi cao thế này. Người đi thăm nhau cũng phải lấy núi đồi làm thang bắc lên xóm bản. Ở đó cũng có khóm trúc vàng, khóm tre xanh biết hát như ở bản H'mông Hương Quế này. Bà con biết quê anh ở nơi ấy, nơi “Mường Sơn” đó được gần với quê Bác Hồ. Anh Sơn hẹn với ông Xín rằng, ngày nào ông và bà con được vào thăm quê Bác như mọi người từng ước mong, anh sẽ mời ông đến thăm nhà anh. Anh Sơn xem ông Xín, xem người H'mông ở đây như bố mẹ như người ruột thị của mình. Anh ăn ở với mọi người lòng đầy như bát rượu chua, ba bát rượu mặn mà người H'mông quí nhau mời nhau trong ngày hội Gầu Táo (hội đầu năm). Người H'mông trong bản nói với anh Sơn rằng ai cũng xem anh là người anh, vì anh ở dưới ấy thì nhìn thấy mặt trời mọc trước người H'mông. Anh là người của bản H'mông! Nhưng anh Sơn thì không bằng lòng nói thế. Anh nói: Ai tuổi nhiều là anh, ai làm ít mùa lúa là em. Anh Sơn là con là em của bản H'mông Hương Quế. Anh học tiếng H'mông. Anh ăn mì mén (bột ngô) thức ăn của người H'mông  thay bữa cơm. Anh hát câu hát của người H'mông vui với đám con trai, con gái trong ngày hội Xây Xán (hội chơi núi mới). Gốc quế ở trong lòng, hương toả thơm đất núi. Hỡi cây lê hoa trắng, hỡi cây đào hoa hồng. Bởi đất nay thấm máu ông bà ta. Bởi núi này thấm mồ hôi bố mẹ ta. Ngày ngắn ta giữ ngắn, ngày dài ta giữ dài. Giữ từng cánh hoa, từng hạt đất…” Anh Sơn dạy đám trẻ bản H'mông hát thuộc bài hát về quê anh, bằng tiếng Kinh: “Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh… nhớ biển rộng bao la, nhớ cánh đồng muối trắng… tình sâu nghĩa nặng…”. Bản H'mông trên đỉnh núi Hoàng Liên vốn rất hiếm muối nên đám trẻ kể cả thằng Dín con trai ông cũng muốn được đến quê anh, nơi ấy tình nghĩa con người đối với nhau sâu nặng để nhìn đồng muối trắng.

Giờ đây, thằng Dín đang ở với anh trên phía núi xa xanh ấy…

Ông Xín đứng lại, ông nhìn cái đống đất mới ở bên đường. Cái đống đất mà dân bản H'mông đã đắp lên để vùi đi cái xác thối rữa của tên lính Trung Quốc. Chính tên lính đó đã vào đốt phá cướp của, giết người ở bản H'mông này. Hắn đã chết gục bên đường. Không biết hắn trúng phát đạn của anh chiến sĩ biên phòng, trúng phát súng kíp của anh dân quân hay là trúng mũi tên tẩm thuốc độc của người H'mông. Xác hắn chương phềnh như con bò thui bên dốc núi. Rồi mùa sấm mới gọi cơn mưa về, gọi ròi bọ về. Trong mồm, trong hốc mắt hắn ròi bọc lúc nhúc. Cái bụng hắn to bằng năm cái lù cở (giỏ đeo sau lưng) của người H'mông. Dưới nắng trưa cái bụng ấy nổ bục một tiếng. Mùi thối loang ra cả bản H'mông, loang ra cả rừng H'mông. Dân làng vội đốt sáp ong, vội thắp hương làm bằng vỏ quế cho đỡ thối. Rồi dân bản kéo nhau ra xúc đất lấp xác tên giặc đi. Dân bản H'mông lấp đi cho đỡ thối và đắp cho hắn một nấm mồ. Nay một điều bất ngờ xảy đến. Trên đống đất vùi xác tên giặc đó mọc lên một cây ngón đen. Cây ngón ấy mới lên đã bò, đã vươn dài như con rắn đốt măng. Cái ngọn nó nhọn hoắt rung rinh như nọc con rắn sắp vồ mồi. Ông Xín đi đến. Ông cúi xuống nhìn cây ngón. Ông thầm nghĩ: “Tên giặc lúc sống cướp của giết người. Hắn bị chết rồi sự độc ác trong xác hắn trong nắm xương tàn của hắn còn mọc lên cái cây độc hại để gieo sự chết chóc lâu dài trên đất ta”. Tay ông Xín cầm chắc chuôi dao. Ông rút con dai ra khỏi vỏ. Lưỡi dao loáng ánh mặt trời. Đúng rồi, cây ngón đen độc hại lắm. Con trâu mộng chỉ ăn năm lá, con trâu chết. Con ngựa khỏe chỉ ăn bốn lá, con ngựa chết, con người ăn phải đứt ruột, nát gan, da tím đen như lá mục. Ông Xín bỗng nhớ lại chuyện tổ tiên ngươi H'mông đã lưu truyền. Cây ngón vốn nó không mọc ở đất núi, ở bản H'mông, không mọc ở đất nước ta. Nó là loại dây leo. Nó đã bò qua núi, qua đồi như con rắn độc bò, như con trăn đất trườn. Nhiều năm trôi qua nó bò, nhiều đời trôi qua rồi nó trườn, nó bò, nó trườn từ phương Bắc xuống. Nó bò tờ vùng núi lạnh lẽo, mù sương đầy tuyết xuống. Nó bò dần xuống phía Nam, phía đất nước ta, một vùng đất tốt tươi, ấm ấp có mặt trời đến sớm, có ngọn gió mát lành. Nó bò mãi, bò mãi. Nó len lỏi trong ngách đá, trong bụi rậm, trong những nơi tối tăm sang. Nó đưa cái độc ác, cái chết chóc sang. Từ đó đất núi vùng H'mông mới có giống cây ngón. Còn đất H'mông ta từ xa xưa chỉ mọc lên những cây quế thơm, chỉ mọc lên cây sến vàng, cây lim đỏ mà thôi. Cây ngón đó có khác nào những mưu đen ác độc, có khác nào lòng tham lam lấn mở bờ cõi của con người bên xứ đó bao đời nay. Ông Xín bặm môi. Ông vung mạnh con dao. Lưỡi dao ánh lên lớp thép xanh. Con dao ông đã tự tay rèn lấy. Ông đã năm lần tôi, bảy lần nung nó trong than củi gỗ cây giẻ, gỗ cây và của rừng H'mông. Con dao ông khi chặt cây lỡ tay chém vào đá ong đá toé lửa như sao bay đá mẻ lưỡi dao vẫn còn nguyên. Con dao ông đã dùng để dựng nhà cho con cái, đã xẻ gỗ làm thùng, làm súng, làm nỏ, làm bàn chông. Con dao của ông đã thay cưa, thay bào, thay đục, con dao đã cạo tóc, cạo râu… Con dao đó ngày tết, ngày giỗ tổ tiên, ông Xín đã đặt lên bàn thờ bên cây súng kíp để tượng trưng cho sức mạnh của người H'mông. Ông Xín đã đeo con dao ấy bên người gần hai mươi năm nay. Chuôi con dao ấy bóng loáng mồ hôi và cả máu của ông. Ông Xín cũng đã dùng nó chém con rắn độc, chặt con trăn gió, cắt bỏ cái gốc cây cỏ độc… Ông đã vung nó đuổi con hổ vằn, hổ hoa về bản, đuổi con sói đói trên nương. Ông đã từng nói như người H'mông: “Con dao người H'mông đã thấm mồ hôi và máu người H'mông thì lưỡi nó phải đẫm máu kẻ nào muốn hại người H'mông”. Giờ đây, ông Xín vung con dao chặt đứt ngang cây ngón đen. Ông băm nát gốc nó ta. Ông nói một mình: “Đất núi H'mông này con người ở với nhau như nắm xôi nhuyễn chặt. Một vóc với nhau là tình, lưng thồ với nhau là nghĩa. Đất núi H'mông này ơn đền ơn, trả nghĩa. Đất này không dung cái độc hại này…”

Ma cà rồng hiện hình

Ông Xín vẫn ngồi điềm nhiên trước cửa. Ông đeo chiếc lù cở. Tay ông cầm cái nan trúc đã chuốt nhẵn gài vào nhau. Những cạnh nan sắc cọ vào các ngón tay, cọ vào bàn tay sần sùi chai dạn như lớp vỏ cây thông samu già của ông bật lên tiếng kêu sột soạt.

Những tên lính Trung Quốc xâm lược vẫn tiếp tục cái công việc hôm qua, hôm kia của chúng: chúng sục sạo các nhà trong bản và các ngõ ngách, các hẻm núi quanh bản. Một toán lính mang AK báng gấp đi vào nhà ông. Mặt đứa nào cũng lầm lầm, hum húp. Trông chúng như những hòn đá lấm bụi bẩn lát đường đi ở dốc núi vào bản. Một tên trong bọn đứng trước mặt ông. Hắn dùng chân đá vào cái lù cở ông đang đan dở:

-Lão H'mông, chào Quân giải phóng của đại quốc đi chứ!

Ông Xín vẫn điềm nhiên gài lóng mốt đan trúc. Tên giặc chột dạ. Hắn cúi xuống cầm con dao sắc của ông thường vót nan, để cạnh ông. Hắn lùi ra một bước. Hắn nói tiếp:

-Lão già H'mông đứng dậy chào Quân giải phóng của đại quốc đi. Co trai các bản đã về nộp súng. Con gái các bản đã xếp hành đón Quân giải phóng của đại quốc rồi. Sao lão cứ ngồi im như đá!

Ông Xín ngước mắt nhìn cả bọn. Đôi mắt già nua của ông hai bên khoé mép đầy nếp gấp như tàu cọ non bỗng dãn ra. Bọn giặc đứng vây lấy ông vội lùi lại.

-Tao già rồi. Tao như cây quế to nhất đầu bản này. Dân bản này bao lần vào rừng bóc vỏ quế thì tao bấy nhiêu tuổi. Tao không biết chào những đứa tuổi như con dê non trong sừng còn máu-giọng ông Xín thách thức. Bọn giặc nhìn nhau. Ông Xín nói tiếp. Những ngày Quân giải phóng sang làm đường, Mã đoàn trưởng còn phải gọi tao bằng bố, Mã đoàn trưởng phải rót rượu hai tay nâng lên mời tao…

Cả lũ giặc nhìn nhau. Chúng sững sỡ, bởi cái giọng thách thức của ông Xín nhắc đến tên Mã đoàn trưởng là người chỉ huy của chúng. Chúng đứng câm lặng. Bỗng một tên lính trẻ, đầu trọc lóc từ ngoài cửa xồng xộc bước vào. Hắn xấn xổ đến trước mặt ông Xín. Hắn quát:

-Đây là Quân giải phóng của nước Trung Hoa vĩ đại sang trừng trị bọn Việt Nam phản bội, dạy cho Việt Nam một bài học. Lão già đứng dậy-mồm hắn vãn nhấm nháp miếng vỏ quế. Hắn chửi tục một câu và toan đá cái nan trúc ông Xín đang cầm. Tên lính già tuổi hơn đưa mắt lườm hắn, kéo hắn lại.


Ông Xín đứng dậy. Ông chống hai bàn tay vào hông. Ông quắc mắt. Mắt ông sáng như chớp trời đầu mùa sấm mới, nhìn cả lũ.

-Có phải Mã đoàn trưởng dạy chúng mày như vậy không? Chúng mà có phải lính Mã đoàn trưởng không? Mã đoàn trưởng chỉ huy đội quân làm đường “Hữu Nghị” qua bản này đã ngồi uống rượu với tao. Nay tao biết Mã đoàn trưởng lại chỉ huy quân sang, tao sẽ gặp Mã đoàn trưởng.


Ông Xín nhắc đến cái tên tiểu đoàn trưởng công binh Trung Quốc Mã Diu Nần sang làm đường. Tên giặc ấy đã từng sục hết các làng bản, khe suối, hẻm núi vùng này. Chính hắn đã nói với ông ở hang Leng có ma cà rồng dân H'mông đừng lui tới. Ông Xín đã từng đưa quà, đưa thịt, rượu cho của bản H'mông xuống uý lạo chúng. Hắn đã bắt tay ông, ngồi uống rượu với ông. Nay hắn là trung đoàn trưởng của một trung đoàn trong quân đoàn 50. Hắn đang dẫn lính đáng sang vùng này. Xe tăng, lính bộ, lừa ngựa của hắn đã tiến theo con đường hắn mở năm trước. Bọn lính Trung Quốc nhìn nhau ra vẻ chột dạ. Bởi chúng thấy ông già người H'mông này nhắc đến cái tên người chỉ huy và quen biết đến nỗi cùng ngồi uống rượu với người chỉ huy của mình. Chắc là ông già này có quan hệ mật thiết với người chỉ huy trung đoàn của mình! Tên lớn tuổi hơn trong bọn trở giọng đấu dịu:

-Thưa ông, chúng tôi là Quân giải phóng Trung Quốc. Chúng tôi xin chào ông-Hắn trả con dao ban nãy hắn cầm cho ông-Quân giải phóng làm theo lời dạy của Mao Chủ tịch giữ kỷ luật với dân.

-Ừ! Ông Xín nhìn hắn. Ông trả lời bằng giọng mũi. Hắn vội bóc bao thuốc lá “Hoa Hồng” rút một điếu mời ông Xín. Ông lắc đầu:

-Tao quen hút thuốc H'mông của tao!

-Thưa ông! Chúng tôi được biết ông tên là Xín.

-Ừ! Tao là Xín, Ma Quang Xín. Tao già nhất bản này. Cây quế trên núi H'mông Củi Pao Pun có bao nhiêu vòng trong ruột, dân lấy bao mùa vỏ lá tao bấy nhiêu tuổi.

-Thưa ông Xín, Quân giải phóng xin hỏi ông: bản H'mông nmày! Việt Nam đã cấp bao nhiêu khẩu súng và những người H'mông nào giữ súng! Ông Xín ạ chúng tôi theo lệnh của Đặng đồng chí tiến sang quật Việt Nam một đòn để giữ vững biên cương. Quân giải phóng sang trừng trị tập đoàn phản động và thu súng của Trung Quốc đã chuyển sang giúp Việt Nam thời đánh Mỹ. Nay Việt Nam đang dùng súng đó đánh lại Trung Quốc. Ông hãy giúp Quân giải phóng, giúp Mã đoàn trưởng chúng tôi. Ông gọi người H'mông về nộp hết súng đi, gọi người H'mông về hợp sức với Quân giải phóng. Chúng tôi sẽ báo cáo với Mã thủ trưởng là có ông đã từng quen biết Mã thủ trưởng này lại đang giúp Quân giải phóng.

Ông Xín ngồi xuống, ông lại điềm nhiên gài nan trúc. Ông cười.

-Ừ! Tao chỉ biết bản H'mông này nhà nào cũng có súng. Súng của huyện, súng của bộ đội biên phòng cấp, súng kíp người H'mông tự khoan nòng năm ngày, bảy ngày mới được. Bởi vùng rừng có lắm hổ vằn, hổ hoa, có lắm rắn đốt măng nhọn lưỡi, ong đốm có dài nọc. Không có súng người H'mông không sống nổi đâu. Giờ chúng nó chạy lên rừng hết rồi. Tao già như con ốc rờ rậm bò đi, không biết đường bò lại-Ông cười thản nhiên-tao lại có phải con chim lẩu chinh (chim cu núi) trong rừng quế biết hót để vang xa đâu mà gọi chúng về được…

Một tên lính lấy que găm xong tờ khẩu hiệu đỏ loét ở vách đất nhà ông Xín. Hắn đọc to lên để ông Xín nghe: “Quân giải phóng Trung Quốc sang bảo vệ người Hoa; bạn chí thiết với người H'mông, người Dao, người Dáy; đoàn kết với người Nùng; đánh người Tày, diệt Kinh”.

Ông là người H'mông, là bạn chí thiết rồi. Ông là bạn cũ của Mã đoàn trưởng nữa. Ông hãy cộng tác với Quân giải phóng đi. Ông là người già nhất bản. Ông nói dân bản sẽ nghe. Ông gọi dân bản về nộp súng đi, ông Xín.

Ông Xín vẫn ngồi điềm nhiên gài nan trúc.

-Ừ!-Ông trả lời hắn.

-Thưa ông Xín! Quân giải phóng biết chắc rằng ông có một người con trai giữ một khẩu súng CKC của Trung Quốc giúp Việt Nam. Nay Quân giải phóng yêu cầu ông gọi con trai về nộp súng.

Ông Xín ngồi im. Ông không tỏ ra ngạc nhiên. Ông biết bọn người Hoa ở đây chạy về đã nói với chúng, đã đưa cả danh sách người H'mông giữ súng cho chúng rồi.

-Nó vào rừng rồi-Ông nói thủng thẳng.

-Ông gọi anh Mã Quang Dìn về đi, mang súng về nữa. Quân giải phóng không bắt. Ông gọi dân bản về làm nương, nếu không sang năm sẽ đói (!). Ai về đây, Quân giải phóng sẽ cấp gạo, vải, dầu, đá lửa… và trao quà từ Bắc Kinh gửi cho. Ông nói với dân rằng: Quân giải phóng đánh tập đoàn phản động, không đánh bộ đội cụ Hồ, không đánh dân cụ Hồ (!). Và ai không về nạp súng, Quân giải phóng sẽ đốt nhà, giết vợ con. Quân giải phóng sẽ lấy mỡ người H'mông rán người H'mông nào chống lại nước Trung Hoa.

Ông Xín ngồi im nghe tên lính Trung Quốc nói lải nhải. Ở khắp bản Củi Pao Pin tiếng gà kêu nháo nhác, tiếng lợn hét, tiếng lính gọi nhau í ới đi sục sạo. Chúng đi qua cửa nhà ông, đứa thì xách một xâu thịt ướp muối, ướp hạt thảo quả của dân treo ở gác bếp; đứa thì xách lọ rượu ngâm tắc kè, ngâm tam thất; đứa thì vơ một ôm vải lanh con gái H'mông đang lấy sáp ong vẽ hoa dở… Chúng cười nói nhí nhố. Bọn lính ban nãy đứng quanh ông đã tản đi sục sạo các nhà. Chỉ còn lại một tên. Hắn ngồi với ông. Hắn nói những điều kỷ luật của Mao dạy Quân giải phóng để ông yên lòng, ông đừng lo sợ bọn chúng. Bỗng hắn nhìn thấy đôi ngỗng Bắc Kinh béo núng nính của ông bị bọn lính đuổi bắt chạy kêu quang quác qua nhà. Mắt tên lính sáng lên. Mồm hắn tắc lẻm, nuốt nước bọt. Hắn ầm ừ rồi ngỏ ý xin mua của ông làm bữa rượu. Ông Xín hỏi hắn sẽ trả ông bằng gì. Hắn nói, hắn sẽ viết giấy biên nhận chịu nợ cho ông. Và bao giờ chính quyền mới của người H'mông, của khu tự trị được lập thì ông cầm giấy ra nhận tiền H'mông. Ông Xín cười nhạt. Ông thầm nghĩ: “Thế thì bảo tao vào rừng tìm con gấu ngựa mà đổi mật ong còn dễ nghe hơn!”.


Ông Xín ngừng tay đan. Ông nói với tên lính Trung Quốc rằng, ông phải gặp cho được Mã đoàn trưởng. Ông mới tin lời hắn nói, mới làm những việc hắn yêu cầu ông làm. Ông Xín nói với hắn là Mã đoàn trưởng đã quen biết ông, đã từng uống rượu ngâm con bìm bịp với ông năm xưa…


Mã Diu Nần ngồi ngẫm nghĩ việc tên lính ở bản Củi Pao Pin về tâu trình. Có một ông già người H'mông muốn gặp hắn. Ông ta từng ngồi uống rượu ngâm con bìm bịp với hắn. Hắn nhớ lại, mười hai năm trước là một tiểu đoàn trưởng công binh Mã đã dẫn lính sang làm đường “Hữu Nghị” này. Con đường rải đá, tráng nhựa chạy đến thị xã Lào Cai, về tận thị xã Yên Bái. Ngày đó biết bao đoàn cán bộ, nhân dân Việt Nam hàng tuần, hàng tháng đến thăm hỏi liên han với đơn vị hắn. Mùa lê dân cho hắn lê, mùa mận, mùa dưa dân cho dưa, cho mận. Ngày lễ của Việt Nam, đơn vị hắn có thịt lợn, thịt bò ăn. Ngày tết của Việt Nam, binh lính hắn được ăn bánh chưng, chè kho là những món truyền thống của người Việt Nam. Rồi lại các ngày lễ, ngày tết của Trung Quốc, lính hắn cũng lại được ăn uống đầy đủ không thiếu một thứ gì, đủ hơn bên nước. Quả là dân Việt Nam, người dân tộc nào cũng tốt, cũng ân tình. Và đúng, đúng rồi, hắn đã nhớ ra có một ông già người H'mông, ông ta người thấp nhỏ, cái trán hói cao. Đôi mắt sáng. Ông đã mời hắn uống, rồi ông tặng hắn một lọ đưa về nước. Có lần, ông già người H'mông ấy đã nói về thứ rượu ngâm con bìm bịp của ông. Ông nói đó là món thuốc gia truyền hay lắm. Ông kể cho Mã nghe, ông tổ dòng họ H'mông của ông đã truyền lại cho ông món thuốc đó. Ông tổ đã có lần phải ra nằm ngoài núi gần tổ con chim bìm bịp. Rồi ông bẻ gãy chân con chim mới nở đi để rình xem con chim mẹ lấy lá cây gì về làm thuốc chữa cho con chim con được lành chân. Ông còn rình xem con bìm bịp hay ăn lá cây gì, hay ăn quả cây gì mà nước bọt nó tốt vậy. Rồi ông bắt nó về ngâm rượu thuốc chưa đau xương, nhức gối cho người H'mông. Môn thuốc đó trở thành món thuốc quí gia truyền của ông. Ông tặng hắn. Hắn uống, hắn thấy chứng nhức xương, mỏi tay đều khỏi. Mã mê môn thuốc đó lắm. Có lẽ là ông già đó! Còn vùng rừng này, các khe suối nơi này, các hang đá lớn nhỏ ở đây có nơi nào lại không in dấu chân Mã. Mã biết hết. Mã biết cả từng vùng núi có cây gì, từng hang đá thuộc lại đá gì, đá vôi, hay đá thạch anh. Trong từng hang đá có độ ẩm cao thấp? Quả đồi cao bao nhiêu, đứng trên ngọn nhìn thấy tận đâu Mã đã khảo sát thông tỏ. Mã cười nửa miệng, Mã đã nhớ ra chính mồm Mã đã nói với người H'mông, người Dao ở vùng này là hang Leng có ma cà rồng, đừng ai lui tới. Thế mà dân cũng tin… Người Việt Nam đâu có biết đến những việc đó. Việc ngoài dự tính của mọi người Việt Nam! Mã thầm khen, thầm phục Mao Chủ tịch anh minh người cầm lái vĩ đại và các vị trong Trung Nam Hải ngày đó đã nhìn xa trông rộng, đã lường được, đã tính đến những con đường như những lưỡi dao nhọn thọc vào các đất Việt Nam: và đã nghĩ ra việc bí mật để lại các kho súng, các kho lương ngầm cho lính của Mã ngày nay. Bây giờ Mã đã là trung đoàn trưởng. Mã đang sử dụng những điều hiểu biết về đất nước Việt Nam ở vùng này. Những hang Leng, Mã bịt cửa; những ta-luy đường, Mã trám miệng; những mả thật mả giả của lính đã chôn những gì trong đó… Mã đều nhớ. Mã khẳng định có lẽ chỉ là ông già đó thôi. Mã cười găn, ở trên đất này có những người thật thà đến ngở ngẩn họ đâu có biết hết việc của Mã làm, cái gì Mã đã để lại trong đất Việt Nam này, cái ấy còn quí hơn nhiều lần con đường chạy bên sườn núi mắt ai cũng nhìn thấy… Mã Diu Nần điệu về đồn biên phòng Xín Tiển báo cáo việc có một ông già người H'mông ở bản Củi Pao Pin xin gặp đích danh hắn, vì ông đã biết hắn từ ngày hắn sang làm đường. Cấp trên trực tiếp của Mã là người chỉ đóng vai đồn trưởng, tên là Vương Thiệu Khuân. Thực ra hắn là cấp trên của mã. Nhưng Vương từ Bắc Kinh mới đến đây để chỉ huy lưới tình báo ở vùng biên giới này. Vương chỉ huy việc cài cắm người sang đất Việt Nam và chuẩn bị khung của vùng “H'mông tự trị”, để đưa một “ngọn cờ” về. Còn thực tế về vùng đất Việt Nam thì Vương không biết bằng Mã. Vườn trả lời mã “ông già H'mông đó, ở bản đó, tôi chưa nắm được. Chưa ai báo cáo với tôi về ông ta. Nhưng người H'mông thì ta có thể tin dùng được. Tôi đồng ý Mã đồng chí gặp, nhưng phải thận trọng. Phải tìm nơi được bảo vệ chu đáo và thăm dò lão ta để đặt thêm nhân mối lâu dài”.

Mã Diu Nần sai lính bí mật vây đoạn khe cạn ở cuối bản Củi Pao Pin. Rồi hắn gặp tên lính đã đưa con ngỗng béo quay vàng rộm cho hắn hôm trước và bảo tên lính mời ông Xín ra đó.

Ông Xín đi ra đến dốc núi. Ông quay lại nhìn bản H'mông Hương Quế của ông. Bản H'mông đã từng có con khướu về hót mùa xuân, con chào mào về kêu rối rít mùa hè, con chích choè rúc rích ăn quả chín đầu mùa thu và con chim xanh từng rủ nhau đến làm tổ trên cành cây quế thơm mùa đông. Ông Xín nắm chắc chuôi con dao. Ông đi nhanh xuống núi. Mã cười giòn giã. Mã nói lúng búng như ngậm gì đầy mồm “hảo hảo’. Mã giơ hai tay đón ông Xín. Ông Xín nhìn Mã. Ông đã nhớ ngay ra. Đúng cái thằng cha mặt choắt có đôi lông mày chổi xể đặt trên hai con mắt him như hai vết lưỡi dao chém chếch. Trông Mã hãm tài bẩn tướng như thằng nghiện. Chính Mã đã ngồi uống ba bát rượu chua, ba bát rượu mặn với ông trong dịp tết Mậu Thân 1968 để chúc mừng chiến thắng của ta ở miền Nam. Ông Xín nhớ chính cái thằng mặt choắt này trông như thằng trộm trâu, cướp ngựa đã chỉ vào rừng H'mông đen ngòm, rừng Dao u mờ lạnh lẽ nói với dân bản Củi Pao Pin, dân bản Tả Lùng Thán, Ma nói với người H'mông, với người Dao rằng chính mắt Mã đã nhìn thấy những đoàn ma cà rồng dắt díu nhau đi vào hang Leng, đi xung quanh chỗ chôn bọn lính làm đường ốm hoặc sập đá vì mìn nổ chết. Mã khuyên người H'mông đừng ai bén mảng đến những vùng đó. Vì ở đó, lính Trung Quốc đang yểm ma cà rồng. Bà con người H'mông vốn đã kinh tởm loài ma đó. Loài ma mừ từ xa xưa ông bà đã lưu truyền lại là ác độc nhất. Loài ma hai mắt xanh lè như mắt mèo, rằng nhọn hoắt, lưỡi đỏ hỏn dài đến rốn… Chúng thường tìm đến những người sinh đẻ để hút, để ăn những thứ dơ bẩn, hay tìm về bẻ cổ, rút ruột những trẻ em trong các bản vắng. Loài ma đó phải trừ yểm kỹ lắm. Người H'mông đã từng phải đẽo bảy con dao găm bằng gỗ thông treo ở cửa ra vào để trừ nó. Nay Mã đoàn trưởng nói với dân, hang Leng có ma, chỗ chôn lính chết có ma, dọc đường Hữu nghị, đoạn có những hang đá to có ma. Có lần Mã đoàn trưởng đã gọi dân bản H'mông tới nhìn tận mắt những tên lính và cả chó của chúng bị ma cà rồng bóp cổ chết. Đó là ba xác lính và xác một con chó đen tuyền chúng vừa đưa trong hang đá về. Ba xác lính làm đường đứa nào da mặt, da tay cũng xám ngoét, mắt trợn ngược bạc trắng đồng tử dãn rộng, cổ vươn dài ra, mồm há rộng. Có đứa mồm mũi ộc máu tươi. Mã nói với dân khi bọn lính đến cửa hang thì trông thấy đứa ma làm khuỵu chân xuống, tựa vào vách đá; đứa thì ma bắt nằm phủ phục hai tay ôm lấy ngực. Còn con chó đen tuyền thi ma cà rồng vật bằng cách mắt trợn ngược lên, mồm há rộng ra. Ma cà rồng còn có phù phép thả ra mùi hắc, vị chua, người thở không được, đốt lửa không cháy. Dân bản H'mông  sợ hãi. Họ nhìn nhau lắc đầu, run rẩy. Họ có biết đâu ở miền núi trong những thung lũng sâu và hẹp, sự đối lưu của khí quyển không bình thường. Và khi bọn lính đi dò dẫm vào các hang đá để tìm chỗ giấu súng bị chết vì khí cacbonic thì chúng lại lợi dụng việc đó để lừa bịp dân H'mông.

Từ đó người H'mông không ai còn dám đến, không ai còn dám đi qua vùng hang đá Leng nữa. Nếu phải qua đó, thì họ tìm đường luồn núi đi vòng để tránh. Vả lại xung quanh vùng đó bọn lính làm đường đã canh phòng cẩn mật lắm. Chúng chặn hai đầu. Chúng chặn cả đường tắt. Chúng lập những chòi canh cao để nhìn ra bốn phía. Một hôm ông Xín đi săn đuổi con nai nhung chạy gần tới hang Leng thì hai tên lính xông ra ngăn ông lại. Ông Xín định cú đuổi theo đến nơi để xem thử có thấy ma cà rồng không. Nếu ma cà rồng bóp cổ con nai chạy trước chết thì ông lui ra. Vả chăng gần bảy mươi năm sống ở đất H'mông rồi ông Xín đã đi qua mười rộc núi, chín đèo dài, ông đã đi những con đường qua ba mùa trăng tròn, bảy mùa trăng khuyết, ông đã đi tám con đường rừng cao, bảy con đường suối cuốn. Ông đã ăn mấy chục mùa rau chần, rau ngải, mấy chục mùa măng sớm, ngô muộn ở đất từng H'mông này rồi. Tai ông chỉ nghe nói có ma chứ mắt ông chưa hề nhìn thấy con ma. Nay Mã đoàn trưởng nói với dân ma từng bầy dắt díu nhau đi. Ông cũng muốn tận mắt nhìn thấy cho biết. Nếu có chết ông cũng già rồi. Nhưng hai tên lính ngắn ông lại. Ông trở ra. Ông nấp trong bụi ngải rậm nhìn về phía hang Leng. Ông thấy cửa vào hang đã mở to. Xe ôtô chạy vào nhiều. Lính khiêng hòm xiểng nặng vào. Lính chở đá, chở cửa sắt vào. Ông Xín cũng chỉ nghĩ rằng lính đang yểm ma cà rồng để giúp dân như lời Mã nói. Đến lúc tối sầm, sấm ran ran chớp nhoáng nhoàng, ông trở về bản. Giờ đây ra gặp mặt Mã, ông Xín đoán tên Mã Diu Nần trăm phần không nhận ra ông. Nhưng thoạt nhìn ông, thằng mắt him đã nhận ra ông rồi. Mã bắt tay ông:

-Chào ông bạn H'mông. Tôi nhớ ông rồi. Nhờ chén rượu bìm bịp của ông mà tôi thôi chứng đau xương.

-Ôi, Mã đoàn trưởng còn nhớ tôi.

-Có bao giờ lại quên dân được-hắn kéo ông Xín ngồi xuống. Hắn hỏi ông. Hắn thăm dò mọi chuyện trong xóm bản. Ông Xín cầm tay hắn. Ông nói:

-Ôi, Mã đoàn trưởng lại sang ở bản H'mông chúng tôi. Mã đoàn trưởng đã mở đường cho dân đi, đã trừ ma cà rồng cho dân yên. Tôi già như cây thông sa mu ngoài vỏ xù xì gai nhọn, nhưng trong lòng gỗ vẫn đỏ thơm, Mã đoàn trưởng ạ. Tôi có bao giờ quên điều đó. Mã đoàn trưởng ơi, tình ta như rượu ngấu nung trong vò mà.

-Hảo, hảo, hảo-mã cầm tay ông Xín.

-Tôi tìm đến Mã đoàn trưởng, tôi thay dân bản H'mông, xin lỗi Mã đoàn trưởng một câu. Mã đoàn trưởng sang gặp nấm dữ không gặp nấm lành. Tôi có thằng con trai vào từng, cả dân bản vào rừng nay gọi nó về nó có được sống yên không?

Mã Diu Nần cười. Tay hắn phác một cử chỉ ra điệu hào hiệp. Hắn nói với ông Xín nào là chính sách nhân đạo của quân Giải phóng Trung Quốc: nào là những điều kỷ luật của Mao đã răn dạy: nào là người về sẽ được phát vải, phát dầu… Nếu cộng tác với Quân giải phóng thì những người H'mông còn được trọng vọng, sung sướng, lại còn được làm cấp cao. Vùng H'mông rồi sẽ có chính quyền của người H'mông không thuộc vào chính quyền của tập đoàn phản động cai quản. Vùng H'mông sẽ có tiền riêng, có cờ riêng của người H'mông. Ông Xín ngồi nghe. Ông nhìn tên Mã Diu Nần với ánh mắt: “Ôi ông còn lạ gì nữa. Ông đã hiểu tất cả về hắn rồi, hiểu hết về những con người từ bên ấy rồi”. Con người mà ông đã từng kể cho con ông, kể cho dân bản nghe câu chuyện của tổ tiên người H'mông lưu truyền lại. Người H'mông xưa cũng có một vùng đất nước riêng. Vùng đất nước đó ở giáp với đất của người Hán. Người Hán ranh ma quỉ quyệt và tham lam. Chúng làm mốc biên giới của chúng bằng những tảng đá to. Miệng chúng lại luôn “hảo, hảo” với người H'mông. Còn người H'mông thì thật thà chỉ chăm lo làm nương, làm rẫy. Người H'mông ở với nhau một vốc cũng tình, lưng thồ cũng nghĩa nê người H'mông chỉ làm mốc biên giới của mình bằng những con bù nhìn bện rơm, bện cỏ đứng canh. Thế rồi người Hán tìm kế lấn dần đất. Mỗi ngày chúng xích con bù nhìn bện cỏ về phía đất của người H'mông một ít. Xích đến đâu, người Hán lại xếp đá tăng lên làm mốc của họ tới đó. Họ lấn dần, lấn dần, lấn đến đám đất màu mỡ nhất của người H'mông thì lòng tham lam của họ làm cho họ mờ mắt đi. Họ đốt cháy hết bù nhìn canh biên giới của người H'mông, rồi chiếm hết mảnh đất đó. Người H'mông mất đất nước. Những người Hán tham lam ác độc bắt người H'mông ở lại làm kiếp ngựa thồ hàng, ở lại làm kiếp trâu cày ruộng, làm kiếp chó giữ nhà. Người H'mông không chịu. Người H'mông kéo nhau chạy về phía Nam. Phía đó có đất lành có cây nuôi sống người. Gốc cây có củ to, thân có nhiều bắp nhiều hạt. Ngọn trổ bông lúa bông kê, hạt xèo. Trên trời xanh có chim ăn ngon. Dưới đáy suối có cá thơm thịt. Và ở phía Nam đó có những con người ân tình ở với nhau như năm xôi nhuyễn chặt. Họ đùm bọc người H'mông. Họ giúp người H'mông lúc hoạn nạn. Ơn họ lớn tựa rừng. Nghĩa họ cao tựa núi. Người H'mông lập xóm bản và coi đó là đất của tổ quốc mình. Người H'mông có bao giờ quên sự độc địa quỷ quyệt của người Hán. Giờ đây, con sói có lúc kêu “giác, giác” giống tiếng con nai nhung trong mùa măng sớm. Nhưng con sói vẫn là con sói dài nanh nhọn vuốt. Nên dù cái ống tre khô vác nước có nảy lộc, lên mầm, người H'mông càng không quên, cũng không nguôi.

Tên Mã Diu Nần mày rậm mắt him, mặt choắt như lưỡi cày người H'mông xới đất ba mùa nương, miệng nhăn nhở đó có khác gì những tên đã đốt bù nhìn của người H'mông xưa. Mã Diu Nần ngọt lạt nói với ông Xín. Mã bảo ông Xín gọi con về, gọi người trong bản về nộp súng. Mã sẽ cấp cho một cái giấy để yên ổn làm ăn và đi lại tự do trong cả vùng này. Cuối cùng Mã cười nhăn nhở. Mã nói với ông Xín: “Vùng đất núi này ông có biết không, vùng Lao Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn này máu của người Trung Quốc, của Quân giải phóng Trung Quốc còn thấm đậm. Người Trung Quốc đã sang giải phóng cho Việt Nam từ thời chống Pháp, rồi giúp Việt Nam, rồi làm đường cho Việt Nam rồi chuyển súng cho Việt Nam chống Mỹ. Giờ Việt Nam vô ơn bội nghĩa. Quân Trung Quốc tràn sang Việt Nam là để tự vệ, là để quật lại Việt Nam để giữ vùng biên cương, và để thu súng về lập cho người H'mông một vùng tự trị riêng. Một tấc đất của Việt Nam, Trung Quốc không cần. Một tỷ dân Trung Quốc không có một người lính đóng ở nước ngoài… Ông cứ gọi con về. Ông cứ gọi dân bản về ông Xín ạ”-Hắn cầm tay ông lắc mạnh rồi lại nói tiếp-Tôi chờ ông. Tôi chờ con ông về. Chúng ta cùng nắm tay nhau đi trên những con đường “Hữu nghị” Trung Quốc đã mở trên đất Việt Nam.

Ông Xín đi vào núi Pao Pin. Sơn, chỉ huy trưởng biên phòng ngồi trong cái lán nhỏ ở cửa hang đá. Tháng hai, hương quế đầu mùa thoảng thơm. Những cánh hoa trắng tinh khiết bay trong gió, rơi trên mái lán, rắc trước của hang. Sơn cầm bi đống rót bát nước chè xanh mời ông Xín, Sơn lên sống với bản H'mông Hương Quế đã mấy năm rồi nhưng anh vẫn giữ nguyên vẹn cái nề nếp quê nhà. Anh rất thích uống nước chè xanh đặc chát và thường mời khách, và mời bạn bát nước chè xanh lúc mở đầu câu chuyện. Những lúc đó anh còn nói vui: “Nếu ở quê nhà thì còn mờ cả kẹo Cuđơ nữa đấy” (kẹo lạc kẹp giữa hai lớp bánh đa). Hàng ngày vào những buổi sáng sớm, dù bận bịu, anh vẫn tranh thủ ra rừng hái lá chè sương đem còn đậu trắng, ở những cây chè tuyết cao như cây cổ thụ đem về hãm vào bi-đông. Theo anh thì chè còn sương ướt đẫm như thế là nước ngon lắm. Cái thói quen đó có trong anh từ ngày anh còn là một chiến sĩ biên phòng. Năm ấy, năm anh trong mười bảy tuổi, anh nhập ngũ rồi cùng đơn vị ngược dòng Ngàn Phố lên Nước Sốt, lên cầu Treo, lên bờ suối Nậm Tuồng, lên đỉnh núi Bà Mụ… trấn giữ một vùng đất biên cương miền tây Nghệ Tĩnh. Những năm tháng đó, tuổi trẻ các anh đã được nếp sống của một chiến sĩ trinh sát biên phòng rèn luyện. Anh từng ăn sắn sục, rau dún, củ mài, măng lồ-ô chát đắng… thay cơm trong những chuyến tuần tra, truy tìm biệt kích. Cuộc đời chiến sĩ biên phòng của anh, những kỷ niệm khắc nghiệt về “ruồi vàng, bọ chó, gió Cầu Treo”, về “Nắng Na Pê, mưa Nậm Tuồng” đã dày dạn trong những cơn sốt rừng phải buộc người vào thành giường mà run. Phải nằm ngửa đếm rui nhà mong qua cơn rét. Anh đã từng gan góc bắt sống trăn đất ở rừng ẩm Rào Qua, từng đuổi voi ngà ăn cây chuối rào rào hai bên đường số Tám, từng quần nhau với gấu rừng và trói con gấu ngựa hung dữ say mật, từng bắn con hổ vằn, hổ hoa thọt chân ở Kim Cương để cứu dân.

Những đêm trăng sáng trên núi biên phòng năm ấy, anh nhìn theo ngọn gió rừng đưa đám mây trắng bay về xuôi mà thích thú đọc vần thơ nhớ vùng đất Hương Sơn nuôi hươu sao, nhớ dòng Ngàn Phố ngan ngát màu xanh quê anh… Giờ đây trên một vùng biên giới xa xôi phía Bắc, trên đất Hoàng Liên này, Sơn đã trở thành người chỉ huy một đơn vị biên phòng, cùng với bà con người H'mông giữ từng tấc đất của Tổ quốc. Cuộc sống chiến đấu chống giắc bành trướng có gian khổ, có thiếu thốn, có hy sinh mất mát, nhưng Sơn vẫn giữ được nét trẻ trung như những kỷ niệm đẹp đẽ của một chiến sĩ biên phòng. Những lúc uống bát nước chè xanh, những đêm trăng sáng trên rừng trúc, rừng quế của đất núi Hoàng Liên thế này, anh lại nhìn về phía quê hương và đọc câu thơ như đã ngấm vào da thịt của anh từ cái thời nồng nàn trai trẻ.
Nhớ chiều lộng gió trăng lên
Con hươu sao nhỏ và tên một người”

Ông Xín uống bát nước chè rồi thong thả kể cho anh nghe mọi điều xảy ra trong bản. Giọng ông rành rọt. Nghe xong, Sơn ngồi yên lặng, trán anh hằn lên những nếp nhìn suy nghĩ. Đôi mắt anh sáng rực nét thông minh và từng trải. Anh ghé vài tai ông Xín nói nhỏ. Hai người bàn kỹ với nhau. Ông Xín gật đầu. Ông nhìn về phía Dín, đứa con trai của ông ngồi lau khẩu súng CKC dưới gốc quế… Lúc sau, ông dẫn Ma Quang Dín về bản.

Dín mang cả khẩu súng CKC mất báng về nữa. Về theo anh Dín, còn có một người con trai dân tộc Dao tên anh là Vần. Anh ta cũng mang khẩu súng kíp về theo. Ông Xín dẫn đứa con trai và cả anh người Dao, xuống núi. Ba người xuống gặp Mã Diu Nần. Ông Xín đi trước. Đi qua khu rừng ngải thơm, qua bãi cỏ phao, cỏ xẹ ở cuối bản. Bỗng ông Xín đứng lại. Ông bải hai người đi sau đứng lại. Ông lắng tai nghe. Có tiếng gì kêu gừ gừ đều đều trong bụi cỏ xẽ. Tiếng kêu giống tiếng ngáy của con hổ vằn no mồi ngủ say. Lại giống tiếng gừ của con gấu đang ăn tổ ong khoái ở gốc cây. Ông Xín ngồi xuống. Ông lắng tai nghe. Tiếng gừ gừ tắt. Rồi tiếng gừ gừ lại nổi lên. Lại to hơn. Có lúc kéo dài ra như tiếng người rên. Ông Xín rút con dao đeo bên hông. Ông leo lén bò vào. Ông nhẹ nhàng vạch cây lá để nhin. Mắt ông Xín tròn ra. Một tên lính Trung Quốc nằm rên. Hắn nhắm cả hai mắt. Ở chân hắn máu đầm đìa. Ông gọi Vần, gọi Dìn vào. Thằng giặc mở đôi mắt đã dại ra nhìn lơ mơ. Hắn thấy hai người có súng. Hắn vội nhắm mắt lại. Da mặt hắn bạc phếch. Vành môi hắn khô rốp nứt nẻ. Cái mũ vải của hắn vứt ra bên cạnh. Cả cái mũ gài sao có chữ “Bát nhất” đến vấy máu đen bầm. Hắn quờ quạng rồi chắp tay lại lạy ba người. Xong hắn chỉ tay vào miệng ra hiệu xin uống nước. Vần cúi xuống nhìn ở chân hắn. Kìa, có cả bàn chông bằng gỗ thông, xuyên qua bàn chân hắn. Hắn không thể nào rút ra được. Hắn lê vào đây nằm. Và cái chân hắn đã sưng to lên. Sưng đến nối nứt đế chiếc dày vải cũ ra. Và đã có mùi thối. Ông Xín cúi xuống nhìn cái bàn chông. Hai mắt ông sáng lên. Miệng ông mấp máy như muốn nói ra điều gì. À, phải rồi. Ông Xín đã nhận ra cái bàn chông ấy là của ông làm. Đấy, nhát đẽo trên cái bàn gỗ thông, mảnh gỗ ông làm bằng báng súng kíp còn thừa, và những mũi chông ấy chính là chính tay ông rèn lấy. Cái ngạnh dài và sắc ấy, ông phải rèn đi rèn lại đến mấy lần mới được. Ông không ngờ cái bàn chông làm hôm ấy, ông đặt ở ngã ba đường cuối bản lại đâm thủng chân thằng giặc này. Hôm giặc vào sục sạo đuổi gà, bắt trâu, cướp thóc của hợp tác xã đông như bầy ong có đốm. Ông ra nhìn cái hố chông ông đặt thì chỉ thấy máu thấm đất. Ông cứ tưởng rằng, chúng nó tháo chạy đã mang theo tên giặc bị sụt hố này đi rồi. Ông không ngờ chúng nó chạy bỏ tên lính này lại đây. Nếu hắn chết thì đống đất đó lại mọc thành cây lá han như trong chuyện ông bà truyền lại con yêu tinh bị người H'mông giết biến thành cái cây có nhiều mũi kim nhọn phủ khắp mặt lá để đâm vào da thịt người đau nhức nhối như sự độc ác của hắn. Ông Xín cầm chặt chuôi dao. Vần liền khoát tay ra hiệu để ông tra dao vào vỏ. Vần nói nhỏ với ông Dín điều gì, rồi hai người đều gật gật. Ông Dín ờ, ờ vài tiếng. Ông suy nghĩ. Vần cúi xuống nói to với tên giặc.

-Chúng tôi là người H'mông, người Dao chúng tôi là bạn chí thiết với Quân giải phóng của tổ quốc sang. Chúng tôi sẽ cứu anh. Anh đừng lo. Tên lính Trung Quốc mở mắt ra. Trong ánh mắt đờ dại của hắn loé lên tia vui mừng. Hắn ậm ừ vài tiếng trong cổ họng. Hắn gật đầu. Rồi hắn lại chắp tay lạy ba người. Hắn lại chỉ vào cái mồm có làn môi khô nứt nẻ.

-Chúng tôi sẽ đưa anh đến chỗ Quân giải phóng ở chỗ đoàn trưởng Mã Diu Nần ở.

Tên giặc mở to mắt ra. Sự vui sướng hiện rõ trên nét mặt hắn. Hắn gật đầu. Vần xé ngay cái thân áo chàm anh đang mặc. Anh quấn bàn chân, quấn cả chiếc giày. Anh buột chặt cả bàn chông vào cẳng chân hắn, anh xốc hắn lên vai. Anh cõng hắn đi. Dín đi sau đỡ bàn chông, đỡ cái chân sưng to của hắn. Ông Xín mang súng cho hai người.

Vần đặt tên lính trước mặt Mã. Ông Xín kể lại mọi việc cho Mã nghe. Mã trố mắt nhìn Vần, nhìn Dín. Mã bắt tay Vần, bắt tay Dín. Mã cúi xuống hỏi thằng lính vài điều rồi hắn quay lại nói chuyện với hai anh. Hắn ôm chặt hai người: “Người anh em chí thiết, người anh em chí thiết đã cứu được một người con của Tổ quốc”. Mã rút thuốc mời hai anh hút. Sự thân tình đã có ngay trong buổi đầu giáp mặt. Rồi Mã hỏi ông Xín về Vần. Ông Xín nói với Mã: “Người Dao này tên là Tẩn Quang Vần, ở bản Dao lên mua thuốc phiện gặp ngày buồn tháng dữ phải chạy theo người H'mông vào rừng. Nay hắn ngeh lời tôi cũng mang súng về. Hắn về với Mã đoàn trưởng đó. Người H'mông nói thật. Mã đoàn trưởng cứ tin. Người H'mông không biết nói năm phân không thật, nói năm sải không thẳng đâu mà. Một mình hắn cõng người lính bị thương này đó.

Mã nhìn người con trai dân tộc Dao. Nhưng trong đôi mắt him của hắn vẫn còn loé lên những tia ngờ vực. Miệng Mã cười nhăn nhở:

-Họ Tẩn tiếng Việt Nam goi là Đặng có phải không? Ờ đúng rồi, cùng họ với Đặng đồng chí đó mà, tốt lắm. Người H'mông, người Dao, người Hán… cùng chung một tổ quốc Trung Hoa cả mà,-Mã Diu Nần hỏi Tẩn Quang Vần về làng bản, về gia đình. Hắn hỏi nhẹ nhàng, giọng ngọt ngào, nhưng thực ra là một cuộc tra hỏi chu đáo, cặn kẽ. Mã hỏi nhát gừng, hỏi lộn xộn về các vấn đề. Mã hỏi từ việc này, bắt qua việc khác. Lời mã hỏi thật nhiều nút, buộc nhiều đoạn. Mã muốn tìm sự mâu thuẫn lúng túng trong những câu trả lời của Vần. Và nếu Vần có giấu giếm điều gì cũng phải lộ ra. Vần trả lời xuôi chảy, từ tốn. Mã hỏi Vần những câu cuối cùng, những câu mà Vần đoán thế nào nó cũng hỏi để khẳng định xem Vần có phải là người Dao hay không.

-Tết của người Dao (chả là vừa ăn tết xong thì nó đánh sang mà) có  khác nhiều với tết của người H'mông không?

Vần cười:

-Người Dao ăn tết ngày nào là đón ông cha đi đánh giặc về ngày đó. Ngày đó, giờ đó người Dao sẽ truyền lại mặt cho con cháu hàng trăm năm sau sẽ ăn tết đúng giờ đó. Mổ lợn đúng giờ đó đẻ lấy tiết chào đón ông cha về.

Mã Diu Nần gật đầu cười:

-Thế anh Vần có biết ăn thịt chó không?

-Ôi, Mã đoàn trưởng ạ, cả ba ngành người Dao chúng tôi không biết ăn thịt chó đâu mà. Mã đoàn trưởng đã sang đất Việt Nam ở lâu, có nghe câu chuyện cũ của người Dao không. Thế này nhá! Xưa dân tộc Dao chũng tôi bị một tên vua độc ác đàn áp. Một lần, có một ông già trong bản nói: ai lấy được đầu tên vua đó để trừ hoạ cho dân thì ông gả người con gái xinh đẹp cho. Có một chàng trai tên gọi là Pan Hau (tiếng Dao là con chó dữ) tình nguyện đi. Anh này trừ được tên vua ác. Ông già giữ lời hứa gả cô con gái cho Pan Hau. Vợ chồng sinh được ba đứa con trai đặt tên con cả là Kim Yến (người Dao đội khăn đỏ ấy mà) ở vùng núi cao. Con thứ hai là Hải Yến giữ vùng giữa, (tức là người Dao tuyển chúng tôi ngày nay ấy mà) mặc quần áo đen, phụ nữ có hai tua đẹp treo hai bên khăn. Con thứ ba là Hoàng Yến (là người Dao quần trắng ấy mà). Họ ở vùng thấp ngăn giữ bờ cõi không cho giặc xâm phạm vùng đất, núi của tổ tiên. Mã đoàn trưởng ạ vì thế mà cả ba ngành Dao chúng tôi không ăn thịt chó là vậy đó. Tôi là người Dao tuyển mà. Tôi đã nghe lời ông Xín. Tôi sẽ giúp Mã đoàn trưởng.

Mã Diu Nần bắt tay Vần. Rồi mã rút bút viết cho ba người ba mảnh giấy: “Đã nộp súng cho Quân giải phóng Trung Quốc… được đi lại, ra vào tự do trong vùng đại quân đóng giữ”. Mã Diu Nần báo cáo về cho Vương Thiệu Khuân biết cuộc gặp gỡ bố con ông già người H'mông và anh con trai người Dao diễn ra rất tốt đẹp. Mã yêu cầu Khuân khuyên một vòng đỏ trên bản đồ ở bản Hương Quế đánh dấu nơi sẽ đặt một cơ sở mới.

Ong trong tay áo, cáo trong nhà

Châu Xéo Mìn được ngồi trên xe tăng “Bát nhất” của giặc. Hai tên lính đội mũ đeo sao “Bát nhất” cầm súng AK đứng hai bên. Châu Xéo Mìn cầm loa pin. Hắn trương cổ, bạnh cằm gào to: “Quân giải phóng của tổ quốc Trung Hoa đại thắng rồi. Cán bộ, công an về hàng nộp trả súng, đại quân sẽ không giết, sẽ được tự do làm ăn. Nước Trung Hoa vĩ đại là Tổ quốc của người H'mông, người Dao…” Châu Xéo Mìn đọc vanh vách tên những dân quân các bản giữ súng, kiểu súng gì, có bao nhiêu viên đạn. Châu Xéo Mìn goi tên chủ tịch, gọi tên bí thư đảng uỷ, gọi tên các cán bộ trong xã, trong hợp tác xã, hắn gọi cả những nơi họ đang ở, nơi hậu cứ sơ tán. Mìn dọa dẫm, Mìn gọi họ về hàng. Mìn dẫn giặc đến phá cửa hàng bách hóa, bắt trâu hợp tác xã về mổ đón giặc đến ăn. Mìn phá kho lương thực, phá nhà ngân hàng, phá trại chăn nuôi… Mìn được giặc cho tự do khuân của cải về nhà, tự do bắn giết. Hắn được quyền chọn các cô gái đẹp ởbản H'mông, các cô công nhân lâm trường, cơ quan sơ tá chưa kịp bắt về nhốt trong nhà rồi rước giặc về hãm hiếp.

Châu Xéo Mìn còn đeo mặt nạ hình mặt con hổ vằn, hình mặt con gấu ngựa đứng bên cầu, đứng ở ngã ba đường nhìn người qua lại ai là cán bộ, bộ đội dù đã cải trang thì Mìn cũng gật đầu làm hiệu cho giặc bắt. Giặc phá nhà cơ quan, trường học, phá cửa hàng, bệnh viện. Mìn gọi xe đến chở gạch ngói về xây nhà cho hắn. Và hắn cho xây lại nhà những người trong bản bị đạn giặc phá đổ. Nhà náo không xây kịp, thì Mìn cho để hai ngàn viên ngói trước cửa. Mìn noi: “Đấy, Quân giải phóng nhân đạo đền bù cho dân”. Châu Xéo Mìn được giặc cho làm chủ tịch lâm thời vùng H'mông. Ông Xín người già nhất bản H'mông Củi Pao Pin tìm đến nhà Châu Xéo Mìn. Ông nói nhỏ với Mìn:

Người H'mông đã từng chịu khổ, từng chịu lau nước mắt ra máu rồi. Con hổ vằn dù dai răng, sắc lưỡi nhưng nó cũng không ăn thịt con. Ta đừng làm mất lòng xóm bản sai bụng họ hàng, rồi mình đi đâu, mình có hải kiếp ve sầu đâu mà lột xác, Mìn ạ. Huống gì mày trước đã có thời làm cán bộ của dân.

Châu Xéo Mìn trừng mắt nhìn ông Xín. Mắt hắn vằn tia lên như mắt con chim củi cầu tưởng châm được đốm lửa đốt cháy rừng lau bãi sậy.

-Giết, giết. Chúng đã đối với tao như rắn độc. Giết, giết. Tao cắt tình với nó như cắt sợi dây rừng-Mìn nói mép sùi bọt như con gấu gầm gừ bạ con nào cũng vả-thù với chúng như máu đã thấm vào vạt, thấm vào áo không phai.

Ông Xín chép miệng:

-Thôi Mìn ạ, người ác đến đâu chặt cây cũng còn chừa đoạn giữa. Thổi lửa ai lại thổi hết đèn, tắt bếp cũng phải để hòn than đỏ chứ. Nếu không dân bản lại bảo mày là ong trong tay áo, là cáo ở trong nhà. Máu nào lại không thắm thịt ấy. Mìn cũng là người H'mông ta cả. Con ong có đốm ác vậy mà cũng chỉ đốt được một lần rồi mất nọc mà chết. Thôi Mìn ạ, mày nghĩ lại đi.

Mìn cười gằn.

-Tao chỉ có nửa dòng máu của người H'mông thôi. Bố tao là người Hán, người của tổ quốc Trung Hoa.

Cả bản H'mông đã hầu như quên điều ấy đi. Nay Mìn nhắc đến, ông Xín mới sực nhớ ra. Bố Mìn là người Hán, là lính Tưởng Giới Thạch chạy sang đây, lấy mẹ hắn ở bản H'mông rồi sinh hắn ra và ở lại đây. Mìn đã có thời làm chủ tịch bản H'mông, làm bí thư chi bộ Đảng ở bàn H'mông. Mìn đã nhiều lần rủ người về nhà đánh bạc. Bị thua lụn bại, Mìn trộm trâu, trộm ngựa của hợp tác xã sang bán bên công xã Seo Thầu năm bảy lần. Mìn bị chi bộ nhất trí đuổi ra khỏi đảng, bị dân bản truất chức cán bộ. Mìn trở thành tên buôn thuốc phiện và trộm cướp ở vùng H'mông. Bị dân quân đuổi bắt quả tang Mìn dùng súng kíp bắn lại, Mìn phải đi cải tạo hai năm. Trở về bản, Mìn trở thành một tên sống lầm lì cục cằn, đi một bước chửỉ một tiếng. Mắt nhìn ai cũng như lưỡi dao đam, lười dao cắt thịt người ta. Có lần, Mìn đã nói muốn đốt cháy hết cả bản H'mông. Muốn hổ vể ăn thịt hết người H'mông. Hắn thù ghét tất cả. Hắn hậm hực với tất cả. Mìn đã đào xương cốt bố hắn bỏ vào bao tải, rồi cho ngựa thồ về Seo Thầu. Nhưng sang đến đồn biên phòng Xín Tiển hắn ở lại. Hắn gặp Vương Thiệu Khuân. Hắn ăn ở với Khuân. Rồi không biết tên đồn trưởng này đã nói gì với hắn. Hắn lại chở xương cốt bố hắn quay về Việt Nam và chôn xuống đất bản H'mông. Từ đó trong những ngày tết vừa qua, Mìn thậm thụt mấy lần sang bên ấy. Hắn nói là đi thăm anh em họ hàng. Ta rộng lượng cho đi. Nhưng hắn đều đến ở với tên Vương Thiệu Khuân. Nay tự tay hắn viết tên cửa nhà hắn dòng chữ đỏ loét: “Mặt trời đã chiếu sáng. Chỉ có đại quân Trung Hoa mới đưa lại hạnh phúc cho người H'mông”. Mìn nghĩ đã có dịp trả thù. Nhà hắn mổ gà thiến, mổ lợn khoang, trâu tơ của hợp tác xã, nấu rượu xéo, nấu xôi nếp cẩm. Hắn đưa chăn hoa, chăn lanh, ô tia, dù xanh ra đầu bản rước giặc vào. Mìn chạy lăng xăng, hí hửng như con chó vẫy đuôi khi gặp chủ.

Nói với hắn không chuyển, ông Xín để Ma Quang Dín, con trai ông xuống bản hắn, đi với hắn. Dìn giúp việc cho hắn. Dìn được Mã Diu Nần cấp cho khẩu AK và những dấu hiệu mật: buộc tua len đỏ trên quai súng. Ống quần bỏ trong bít tất trắng. Cổ bít tất nhô cao. Dìn và cả Tẩn Quang Vần được đi lại trong vùng H'mông trong vùng quân giặc Trung Quốc ở. Châu Xéo Mìn chỉ tay vào ngôi nhà. Hắn bảo Dín:

-Đốt nhà thằng chủ tịch. Giết hết bọn Kinh.

Đó là những nữ công nhân lâm trường bị giặc bắt giam ở bản. Mìn trói chặt mỗi người vào một cột nhà. Mìn quát vào tai Dín.

-Đốt.

Vần và Dín chần chừ. Hai anh bàn với nhau: giết thế thì bản H'mông khét lắm, không ai sống nổi đâu. Mã đoàn trưởng ở gần đấy cũng không chịu nổi. Ông chủ tịch à. Ông để chúng tôi dắt chúng ra dốc núi bắn làm mồi cho hổ vằn, hổ hoa thôi.

Nghe nói Mã đoàn trưởng không chịu nổi. Mìn chột dạ. Hắn gật đầu. Dín và Vần đưa bốn cô công nhân ra dốc núi. Vần nhìn bốn người, anh rơm rớm nước mắt. Anh quay mặt đi. Anh không dám nhìn họ. Mới ngày nào đó đi qua lâm trường, chị em còn nói cười ríu rít như bầy chim giàng tông (chim khách báo Tây Nguyên vui). Chị em mời Vần và các chiến sĩ và nhà uống nước, mời ăn quả dứa chín thơm đầu mùa. Giờ đây chị em bị bọn giặc bắt dày vò nhìn ai cũng như ngọn lá héo. Bốn cô công nhân không ai nhận ra Vần vì anh mặc bộ quần áo người dân tộc Dao. Vì Vần lại ở trong hàng ngũ giặc. Cả bốn người chửi bới xỉ vả Vần, xỉ vả Dín. Hai anh cúi mặt xuống câm lặng, nhẫn nhục. Các anh đứa chị em đi. Ra đến dốc núi cuối bản, Dín bảo bốn chị em đứng lại. Dín cảnh giới phía trên Vần đi đến, anh cởi trói cho một người. Rồi anh bảo họ cởi trói cho nhau. Nhanh. những cô gái lâm trường ngạc nhiên. Họ nhìn Dín và Vần. Họ nhìn nhau dò hỏi.

-Các chị đi nhanh về phía bản Sen, ở đó có bộ đội ta.

Các cô gái nhìn nhau. Họ nhìn Vần “Thôi đừng nói gì, đừng hỏi vì sao, sau sẽ hiểu, đi nhanh”. Vần nói với họ. Những cô gái công nhân chạy xuống dốc núi. Vần bắn một loạt AK. Dín bắn một loạt AK vào rừng cây. Hai anh trở về. Tối ấy tên Mìn uống rượu rồi hắn châm lửa đốt nhà đồng chí chủ tịch bản. Trong ánh lửa chấp chới, Mìn nói với Dín, với Vần. Hắn nói như phun men rượu vào mặt hai người.

-Tao là thằng chủ tịch, thằng Pò Xiềng, thằng Xần Khái là phó chủ tịch. Thằng Xiềng là người Dáy. Ông Vương Thiệu Khuân nói phải làm như vậy mới đoàn kết được người H'mông, người Dao, người Dáy mà. Ta sẽ lập một khu tự trị ở vùng H'mông. Ta sẽ lập một đội hồng quân ở vùng H'mông. Ta sẽ giết hết bọn Kinh, bọn H'mông theo người Kinh. Ta sẽ đón ông Lù Văn Đức là người H'mông bên Mã Quan về làm chủ tịch cả vùng tự trị-Thấy Vần và Dín trố mắt nhìn, Mìn lên mặt nói tiếp-bọn bay không biết ông Lù Văn Đức à-Ông ấy nhà ở Suối Thàng, trước là phó tỉnh trưởng tỉnh Lao Cai. Ông ấy ở Mỹ mới về Mã Quan hồi cuối năm. Ông Khuân có nói với tao, ta đã có rất nhiều người trong vùng H'mông này và ở bên tổ quốc vĩ đại ủng hộ. Ta có cả những người lái xe cho bọn Kinh. Ta có cả những người giữ máy thông tin ở trong núi. Nghĩa là ta có sức lớn, có lực nhiều. Người H'mông, người Dáy, người Dao cùng nhau đứng lên đông như lá, nhiều như cỏ. Ông Vương Thiệu Khuân có nói với tao nhiều nữa. Súng đạn ta đã có nhiều kho giấu ở các nơi, ngay trong vùng H'mông ta. Lúc cần ta sẽ lấy được ngay. Tao sẽ còn cho chúng mày biết nhiều điều nữa…

Châu Xéo Mìn nói. Dáng bộ hắn hung hăng. Hắn chồm lên, cúi xuống trong ánh lửa chập chờn. Trông hắn như con nhọ mặt (con hổ) bị phát đạn bắn trượt.

Sáng sớm, Mã Diu Nần ngồi trên chiếc xe Bắc Kinh vải bạt còn mới tinh. Mã đón Mìn đi. Mìn bảo đón Dín và Vần cũng đi nữa. Mã ngồi cầm tấm bản đồ. Mã cúi gằm xuống nhìn. Tân lái xe bẻ tay lái. Chiếc xe rẽ quặt vào phía hang Leng. Hang đá trước có ma cà rồng, Mã phải cho quân trừ yểm! Ở nói đó một trận kịch chiến vừa chấm dứt hôm qua giữa bộ đội ta với quân của quân đoàn 50 và cả sư đoàn sơn cước của giặc Trung Quốc. Giặc đã cố sống cố chết dồn hết quân sự bị của quân đoàn đánh đến đây để đạt cho được mục đích: chiếc xe của Mã đoàn trưởng hôm nay đến được đây. Xe của Mã Diu Nần dừng lại một lúc, thì một xe tải chở đầy lính công binh mang những khối bộc phá và cuốc xẻng đến. Mã xuống xe. Hắn nhìn ngó bản đồ, nhìn ngó thực địa để xác định cửa hang. Đó là một vách đá mà đá tảng được xếp lân và xây chắc phủ lớp rêu xanh. Mười hai năm rồi cây dại và cây tế đã leo, đã trùm lên vách đá. Phía bên ngoài, cây dại mọc lên gốc đã to bằng bắp chân. Những nơi vách đá lọ ra thì rêu của rừng già xám xỉn đắp lên một lớp áo dày. Mã Diu Nần lách cây lá. Hắn cầm dùi sắt vạch dây leo và khơi lớp rêu núi, cặp lông mày chổi sể của Mã giương lên. Khuôn mặt lưỡi cày của hắn rạng ra. Hắn nhoẻn cười. Hắn quay ra phía đồng bọn nhả ra tiếng “đúng rồi”. Mã vẫy tay mừng rỡ. Bọn công binh xô vào. Mã đọc hàng chữ chỉ dẫn trong bản đồ rồi hạ lệnh cho bọn công binh đánh một khối lượng bộc phá có tính toán kỹ để đủ sức phá sập bức tường mà không rung chuyển hang đá. Tiếng nỏ dứt. Ánh sáng ùa vào. Phía trong cái hang lộ ra hai tấm cửa sắt đặt trên khung sắt chắc chắn. Mã đi vào mở khóa. Hang Leng rộng mở. Xung quanh hang được xây lót lớp xi xăng chu đáo. Trong hang biết cơ màn nào là hòm xiểng được xếp hàng cẩn thận như một cái kho. Hòm sắt, hòm gỗ, bọc giấy chống ẩm và có nhiều gói thuốc chống ẩm để xung quanh. Bọn lính công binh ùa vào khệ nệ khiêng ra. Châu Xéo Mìn tong tả vào khiêng. Rồi Dín và Vần cũng vào khiêng. Mã khu thử một hòm. Trong hòm là đạn, là súng còn nguyên lớp mỡ. Những hòm lương khô còn thơm phức. Mã cười. Hắn giơ tay ra trước mặt: “Mười hai năm vẫn như mới xuất xưởng”.

Những đơn vị vừa bị đánh đau lục tục đến nhận những thứ đó. Mã lại cúi gằm xuống bản đồ. Mã nói với những tên vừa đến: “Đến ngay K2 nhận. Ở cột số 9 đường Hữu Nghị. Ở đó là nghĩa địa của lính làm đường bên chân núi. Sư đoàn quân sơn cước đã chiếm giữ tối qua. Dưới mộ số 7 hàng thứ hai và số 11 hàng thứ ba phía trên mộ đề tên Lưu Châu, Hoà Ngọc thì đào lên mà lấy. Ở đó có đạn và lương khô”.

Mã Diu Nần trao tấm bản đồ cho tên lính đứng nghe hắn nói. Rồi hắn chỉ vào dòng chữ đánh dấu đen ven đường đó là nghĩa địa, là K3, Mã dặn tên lính: “Nhớ rằng phải cẩn thận, phải rất cẩn thận, dưới các tấm bia đều có hai quả mìn. Phải dò mìn trước. Nhớ là hai quả”.

Mã Diu Nần nói nhỏ với tên lái xe rồi ra hiệu cho hắn lái về phía đồn biên phòng Xín Tiển. Cả Châu Xéo Mìn, cả Dín và Vần cũng ở bên đó. Vần cũng về bên đó.

Chiếc xe phanh kít lại ở giữa sân đồn, dưới chân cây cột cờ khẳng khiu. Trên ngọn cột cờ đỏ năm sao bay vật vờ ủ rũ ướt đẫm sương lạnh. Rồi một hút gió thổi đến lá cờ quấn vào cây cột. Trông cây cột hệt như con rắn cạp nong. Vẫn đưa mắt nhìn ra xung quanh. Anh nhìn cái đồn biên phòng của Trung Quốc nằm sát trên đường biên giới này. Thực sự nó đã trở thành nơi xuất phát tiến công của đội quân xâm lược. Những xe tăng, những đơn vị pháo nòng dài, nòng ngắn, tên lửa H12 nằm san sát dọc bên đường dưới chân đồi, rồi ngựa, rồi lừa, rồi dân binh vai gánh, lưng thồ hỗn độn. Rồi những lính che nhà bạt, che mái ny lông, làm lán ở tạm chen chúc nhau trong bìa rừng. Và xe tải, xe hồng thập tự từ Mường Khương về. Những xe chở xác lính chết, chúng đóng róng như xếp hành thùng cà la thầu. Gió thổi bay tấm bạt phủ sau xe. Vần nhìn rõ xác chết xếp chồng lên nhau. Máu me nhây nhớt chảy rắc dọc con đường, chảy thành vũng nơi xe đỗ lại. Rồi từng đàn ngựa trên lưng mỗi con có hai xác lính chết buộc vào nhau trở về. Rồi từ cái trạm cấp cứu mặt trận ở chân đồn tiếng kêu tiếng khóc, tiếng chửi bới hỗn loạn của bọn lính bị nạn. Và nữa, xe chở các đồ cướp được theo con đường Hữu Nghị kìn kìn chạy về, Vần đứng nhìn theo. Trong các xe có thóc lúa, có vải súc của các cửa hàng, có giường, tủ, xe đạp, xe máy của các gia đình, có chăn chiếu, nồi xoong, có từng lồng gà, lồng vịt đầy ắp. Có những chiếc xe tải chở cả một bầy lợn không biết chúng bắt được của hợp tác xã nào. Có xe chở đá hoa, tôn tấm, khung cửa sổ, ỗng dẫn nước, cột điện chúng dỡ từ các công sở. Vần đoán có lẽ là của bệnh viện, của các trường học. Có xe chở chín mười con bò béo mầm. Và biết cơ man nào là của cải nhân dân, của Nhà nước ta chúng cướp về đây, chúng để la liệt hết cả cánh rừng quanh cái đồn biên phòng này. Lính biên phòng ở cái đồn này đã trở thành lính giữ hàng hoá ăn cướp chuyển từ Việt Nam về. Còn bọn lính trọc đầu ngồi trên các xe, bọn lính đứng ở vỉa đường, bọn dân binh thồ ngựa, đuổi lừa, thì chúng chia nhau kẹo Lao Cai, chia nhau thuốc lá chúng cướp được trong các cửa hàng. Chúng tranh giành nhau từng quả dứa chín vừa lấy ở xưởng chế biến hoa quả bên Việt Nam chở về. Chúng nhí nhố, hí hửng khoe mẽ với nhau những thứ chúng vơ vét được. Rồi nữa. Vần và Dín đau lòng lắm khi nhìn thấy từng đoàn người Việt Nam đàn ông đều bị bịt mắt, bị nhét giẻ đầy mồm hai tay trói treo quặt lên cổ. Chị em phụ nữ thì thảm hại hơn. Các chị khóc lóc, mặt nhoè nước mắt, mặt bị thâm bầm bị đánh đập, quần áo nhàu nát. Người địu con, người bế con. Có chị bụng đã to vượt mặt. Các chị, các bà thất thểu đi trước mũi súng lũ giặc. Vần cau mày. Ruột anh quặn đau. Anh cúi mặt xuống không dám nhìn. Còn Dín thì quay mặt đi. Dín vờ đưa ống áo lên quẹt mồ hôi nhưng là để chùi nước mắt.

Mã Diu Nần nhảy ra xe, Mã nói với Dín, Vần:

Quân giải phóng đưa các anh sang đây dự lớp học ngàn ngày. Lớp học mở cấp tốc nhằm đào tạo cán bộ cho khu tự trị vùng H'mông bên ấy. Anh Mìn đã quen biết, đã coi đây như ở nhà bên ấy. Còn hai anh sang đây lần đầu, tôi mong hai anh mưu quen biết ở đây như anh Mìn.

Mã dẫn ba người vào nhà khách của đồn Xín Tiển. Ở đó Vần đã thấy Xần Khái môi thâm xì vì ngậm tẩu thuốc phiện ngồi chễm chệ trong ghế bành. Tên ngồi cạnh Khái, Vần không biết nhưng Dín đã ghé tai nói nhỏ với Vần hắn là thằng Pò Xiềng người Dáy. Vần nhớ ra cái tên Mìn đã nói rồi, hắn sẽ là phó chủ tịch đấy. Trong phòng còn có một số người H'mông, người Dao, người Dáy nữa, chúng ở các bản, Vần, Dín không biết hết tên chúng. Nhưng Dín đã nhận được trong số người lạ đó có vài khuôn mặt đã từng xuất hiện ở chợ Mường Khương, chợ Pha Long. Chúng thường lân la bên bàn thắng cố, bên thúng thuốc lá. Đặc biệt trong số đó Dín thấy có một người lớn tuổi chỉ đứng nép ở góc cửa sổ nhìn trộm đám đông để nhận mặt từng người, còn hắn thì không ra mặt. Dín để ý. Hình như người này, người có cái mũi to sần đỏ có chân trong một cơ quan của huyện bên Việt Nam. Người đó nhìn và khi đã nhận mặt tất cả thì hắn biến mất…

Mã tiếp mọi người bằng thứ thuốc lá hảo hạng: thuốc Trung Hoa Bài. Cái thứ thuốc ở vùng biên giới này chả ai lạ gì nữa. Trong mùi thơm của nó có hương vị ở bản Củi Pao Pin của anh. Có chút it hương quế. Nó nóng và mùi thơm lan xa. Khác hẳn với thuốc lá H'mông, dù nặng nhất cũng không có mùi quế. Mã lại tiếp mọi người bằng rượu Mao Đài. Vá hắn cho tất cả ăn một bữa ngon đủ các món xào nấu, có thịt lợn, thịt bò, thịt ngỗng… Những thư sđó Vần biết chắc được chúng vừa cướp bên Việt Nam đưa về. Vần nhìn những con ngỗng quay béo ngậy chặt ra, Mã Diu Nần, Châu Xéo Mìn, Pò Xiềng, Xần Khái… mồm cắn, tay xé ăn rau ráu, Vần biết ngay là giống ngỗng Bắc Kinh ở bản Củi Pao Pin chúng cướp sang. Ăn xong, Mã đưa Dín và Vần vào gặp một người có dáng gầy, cao dong dỏng. Da dẻ hắn trắng trẻo, đen lánh như mắt mèo. Hắn nhìn hai anh bằng đôi mắt thăm dò, đắn đo. Mìn giới thiệu với Vần và Dín đó là chủ của đồn biên phòng này: Đồn trưởng Vương Thiệu Khuân. Vương lịch lãm bắt tay hai người, cười nhạt!

-Chào những người anh em mới. Những người anh em từ xứ H'mông tự do tìm đến.

Mã giới thiệu từng người cho Vương biết. Vương hỏi về Dín. Thái độ hắn thận trọng ra mặt. Mã nói đó là con ông già H'mông đã quen biết hắn từ ngày hắn sang làm đường Hữu Nghị. Ông già đã nghe lời hắn gọi con trai nạp súng qui hàng Quân giải phóng. Vương gật đầu. Vương nhìn sang Vần và có ý hỏi về anh này. Mã nói tiếp giọng hắn tự tin:

-Người Dao. Tên là Tẩn Quang Vần. Hai anh này đã cứu được một thương binh của ta, đã cõng người thương binh từ rừng về cho tôi-Mã kể cho Vương nghe chuyện hai người đưa tên lính bị chông xuyên qua bàn chân về. Vương gật đầu. Hắn bắt tay hai người.

Tôi đã kiểm tra chu đáo. Anh này là người Dao, anh biết nhiều chuyện về gốc tích của người Dao tuyển ở vùng này. Anh ta lên bản H'mông mua thuốc phiện. Ta đánh sáng anh theo dân chạy vào núi. Ông già H'mông đã gọi anh ra nộp súng qui hàng Quân giải phóng cùng với con trai của ông.

Vương có con mắt nhìn kẻ cả. Hắn nhìn Vần. Ánh mắt hắn xoi mói. Hình như Vương nghĩ nhiều đến những bài học thất bại đau xót ở vùng này. Bài học mới đây nhất làm cho hắn cảnh tỉnh. Bài học mà người đồng nghiệp Trịnh Bảo Ngọc đã nêu ra. Trịnh Bảo Ngọc đã dốc túi vốn liếng ba mươi năm trong nghề, và dốc túi lòng tin trong nhiều ngày để xây dựng một cái khung cán bộ vùng H'mông tự trị. Và thực hiện một kế hoạch dựng ngọn cờ trong vùng H'mông để hỗ trợ cho cuộc tiến công này. Trịnh đã tự chọn người, tự tay tung “át chủ bài”, tung người tin cẩn sang, móc nối mong dựng được vùng H'mông tự trị. Đã tưởng như cờ đến tay. Nhưng sụp đổ, sụp đổ! Đáng buồn! Tất cả những người Trịnh tin cẩn lại là người của Việt Nam gài vào. Trịnh đã mắc bẫy. Tất cả đã sa lưới trước ngày Quân giải phóng tiến công một tuần. Thất bại đó Trịnh đã buồn phiền, toan uống thuốc độc tự vẫn. Nên vùng H'mông này, vùng biên giới hiểm trở này đối với chúng ta (Trung Quốc) là vùng trắng, vùng biên giới trắng. Không thể dựng được một cờ người H'mông, người Dao này. Không có lực lượng trong tay. Không có người tin cẩn. Mặc dù ta có một số vũ khí ngầm và có những vùng phỉ cũ. Điều chua cay đó còn nóng hôi hổi, còn như bày ra trước mắt Vương. Bắc Kinh phái Vương tới đây giao cho Vương làm chủ trò thay Trịnh Bảo Ngọc. Giờ đây, mọi việc như nhắc Vương phải thận trọng, nhắc Vương phải thẩm tra chu đáo từng người ở đất Việt Nam sang. Bởi bên ấy là một cõi đất dễ nhìn thấy nhưng khó biết rõ!

-Anh bạn-Vương đến vỗ vai Vần-anh bạn mới, tổ quốc vĩ đại khen các anh, cảm ơn các anh đã cứu sống được một người con-ngừng một tý Vương nói tiếp-Anh có hiểu gì về cuộc Quân giải phóng trừng phạt Việt Nam, dạy cho bọn phản bội một bài học không? Vần xoa tay lên nòng khẩu súng AK. Anh vuốt những tua len đỏ buộc ở quai súng. Giọng anh ngập ngừng.

-Thưa Vương đồn trưởng, Quân giải phóng của ta sang thu súng về. Quân giải phóng muốn cho người H'mông, người Dao, người Dáy được tự do ạ!

-Ừ, anh thấy Quân giải phóng đối với người Việt Nam có tốt không?

-Thưa Vương đồn trưởng, những người tôi gặp thì… thì tốt ạ.

-Anh có muốn người Dao của anh ở bên đất Việt Nam được sung sướng như người bên tổ quốc Trung Hoa này không?

-Thưa Vương đồn trưởng. Đời người Dao khổ lắm từng ăn cơm qua nước vo, ăn canh qua nước rửa, muốn cho sung sướng, muốn cho xóm bản cùng sung sướng đó là điều người Dao chúng tôi mong muốn mà không biết làm sao cho được.

-Quân giải phóng Trung Quốc sẽ giúp anh, sẽ giúp người dao của anh đạt được điều đó!

Vương ngồi xích lại gần Vần, Vương hỏi riêng Vần về một số điều. Hắn hỏi lộn xộn các câu hỏi gài vào nhau như người nó chuyện làm quen với nhau, nhưng cốt để xem điều đó có khớp với Mã đã nói với hắn về người Dao này không. Vần bình tĩnh. Anh chậm rãi lắng nghe. Anh trả lời rành rọt. Anh nói với Mã những gì anh nhớ lắm. Giờ đây anh nói với Vương đúng như thế. Anh trả lời khớp những câu: Anh có làm dân quân không? Anh bắn đạn thật mấy lần rồi? Ăn chia trong hợp tác xã ra sao? Anh đánh bạn với những người nào? Anh có hay về huyện không? Nếu về thì vào những đâu?… Những điều sơ đẳng đó Vần đã chuẩn bị. Anh nói trơn tru, anh nói có lý, có lối, có tình.

Vương bắt tay Vần, Vương mời Vần hút thuốc lá.

Lớp học cấp tốc cho cán bộ chủ trì của khu tự trị được mở trong mấy ngày. Học viên có hai mươi người chẵn. Vần và Dín nhớ kỹ tên, nhìn rõ mặt từng người, để biết chúng ở bản nào, đã nhận chức vụ gì. Mấy ngày đó Vương, Mã thay nhau nhồi nhét cho hai mươi người một mớ “lý luận cơ bản”.

Buổi tối lạnh lẽo. Sương muối đầu năm phủ trắng núi đồi vùng Xín Tiển. Bữa đại tiệc bày ra nào ngỗng quay, gà tần, chim rán, nào rượu Mao Đài. Rồi quà cáp từ Bắc Kinh chuyển tới, bày ra. Mỗi người nhận một bó truyền đơn, một cái đài Xiêng Mao để nghe tiếng nói của tổ quốc; một gói quà tổ quốc biếu gia đình vợ con, bố mẹ; chiếc bút máy Kim Tinh, mỳ chính, diêm, thuốc chữa bệnh, pin đèn, áo quần, vải tốt… Vương Thiệu Khuân chúc tựng thắm thiết, đặt hy vọng vô biên. Mã Diu Nần nhắc nhở, chào mừng, bắt tay ôm hôn từng đứa… Rồi chiếc xe bịt kín mui chở tất cả sang đất Việt Nam để chúng tản về các bản thực hiện kế hoạch cấp tốc.

Chiếc xe dừng lại đầu bản Phùng. Đó là nơi cuối cùng của một đơn vị quân Trung Quốc đóng. Tất cả xuống xe ngồi nghỉ để toả về các bản. Vần kéo Dín đi xa đám đông. Hai người đứng lại sau một tảng đá. Vần hỏi Dín:

-Có bao nhiêu đạn?

-200 viên và 4 quả lựu đạn.

-Được rồi! Anh nghe lời tôi, ta phải làm ngay. Bọn này là rắn độc. Ta phải thịt chúng đi. Để chúng bò được về các bản thì bà con ta còn phải chết, cán bộ ta còn chết vì tay chúng.

-Ừ!

-Ta quay lại. Tôi ném hai quả. Anh ném hai quả vào chỗ chúng ngồi. Anh nhớ rút chốt thật mạnh rồi hãy ném nhé.

Vần và Dín rút lựu đạn, lên đạn rồi hai người đi len lén tới. Cả bọn 18 đứa nằm, ngồi lổm ngổm. Vì chúng ních no rượu Mao Đài và cơm thịt trong bữa tiệc chúng say tuý luý. Có đứa đã nôn mửa ra cả xe. Bây giờ chúng mệt. Nhiều đứa ho khù khụ. Duy chỉ có tên Pò Xiềng đã ôm bụng lê về, vì bản hắn ở gần đó. Bỗng 4 quả lựu đạn nổ giữa đám đông, Vần kéo hết cả băng AK, Dín bắn cả băng AK. Tiếng nổ ran núi. Chúng kêu, chúng khóc như tiếng thú bị thương. Vần kéo Dín chạy nhanh vào khu rừng tối. Vần và Dín không về bản Hương Quế. Hai anh chạy qua đồi cỏ phao, cỏ xẹ rồi đi qua khu rừng cây lê đến bản Cao.

Đồng chí chỉ huy trưởng khu biên phòng tươi cười bắt chặt tay hai anh. Cả ba người cúi xuống tấm bản đồ khu biên phòng trải rộng trên sàn nứa. Tóc đồng chí chỉ huy đã có sợi bạc. Ánh đèn đêm hắt lên làm cho nét mặt đồng chí thêm khắc khổ. Những đường nhăn sâu thêm. Đồng chí chỉ huy trưởng Sơn mấy hôm nay già đi nhiều. Anh già đi trước tuổi của anh… Ngót hai mươi lăm năm nay, Sơn gắn bó với nhiều vùng biên giới hiểm trở. Anh đã hiểu những thời kỳ biên giới còn hữu nghị “Hảo”, “Hảo” ngoài miệng, biên giới chiến tranh lạnh. Và giờ đây biên giới thực sự trở thành thù địch quyết liệt như thế này. Anh từ một chiến sĩ trinh sát của đội trinh sát biên phòng trở thành một chỉ huy trưởng khu biên phòng; nên anh thông cảm với mọi việc làm của chiến sĩ. Anh hiểu chiến sĩ đến nỗi nhìn gương mặt của chiến sĩ anh có thể đoán được tấm lòng và việc làm của họ ra sao. Anh lắng nghe Tẩn Quang Vần báo cáo. Anh nghe Dín, người dân quân H'mông báo cáo. Sự lắng nghe say sưa và chăm chú của anh đã nói lên lòng tôn trọng và sự tin tưởng của anh đối với các chiến sĩ. Thái độ đó của anh của người chỉ huy trưởng đã làm cho Vần, cho Dín ấm lòng, thân thiết, ở gần Sơn, có nhiều đêm Dín và Vần được nghe Sơn kể truyện “Thần rú bể”, chuyện kể ở nơi có nước mặn làm ra hạt muối trắng thơm, chuyện, “Người thợ mộc tài hoa”, chuyện ”Viên ngọc ếch”… Riêng Dín, Dín thích nhất, thuộc nhất là chuyện “Sự tích núi Bù Hôm”. Nó cũng gần giống như truyện của người H'mông bản Hương Quế.

… Xưa, trên một ngọn núi cao phía Bắc có con hổ dữ, hổ đã ăn thịt nhiều người nên đã thành tinh. Nó biết tiếng người. Nó biết hóa thành một thằng lùn, trọc đầu, bụng to, xệ má, rụt cổ… Người trong vùng đến làm rẫy quanh núi đều phải sợ. Họ phải dựng chòi cao canh ngô, canh lúa. Xung quanh chòi có hàng rào tre vạc nhọn. Hổ không làm gì được, bèn tìm cách lừa để bắt người. Đêm khuya, hổ thường hoá thành thằng lùn đầu trọc đứng ngoài hàng rào, giả giọng người quen gọi: “Anh ơi, con anh ốm, vợ anh nhờ tôi đến gọi. Anh phải về mau”. Nghe tiếng gọi, người trên chòi hốt hoảng xuống. Khi họ ra khỏi hàng rào, hổ vồ, tha về rừng ăn thịt. Mỗi người hổ bịa ra một cớ để gọi đánh lừa. Năm ấy, giữa mùa rẫy chín, anh thợ săn đi lên chòi canh. Vợ anh nắm áo, bảo: “Em sắp chuyển đẻ, hay anh ở nhà đêm nay”. Thế nhưng, nếu vắng người canh rẫy thì con nai, con lợn phá hết lúa chín. Người chồng phải đi. Anh dặn vợ: “Nếu đêm nay chuyển đẻ thì em nhờ người lên gọi anh về”. Tinh hổ nghe được chuyện đó. Đêm ấy, anh thợ săn đang trằn trọc lo lắng về việc vợ sắp sinh thì có tiếng người quen gọi: “Anh ơi, chị ấy sắp đẻ rồi, anh về ngay, anh à”. Anh thợ săn thắp đuốc soi ra. Anh nhìn thấy một người lùn, đầu trọc lóc, hai má xệ như má lợn xề. Nhưng sao người ấy lại thắp những hai ngọn đuốc và lửa đuốc sao lại xanh lè thế kia. Kinh nghiệm người đi săn nhắc bảo anh đề phòng. Anh mang súng xuống thang chòi. Khi ra khỏi bờ rào, anh đã nhận ra người lùn ấy đã hoá thành con hổ thu mình lại chực chồm lên vồ mồi. Anh hoa đuốc, xông tới dụi thẳng vào mắt nó. Con hổ hốt hoảng gầm lên rồi bỏ chạy về núi cao sương lạnh phía Bắc. Từ đó người bản ấy gọi núi đó là “núi Bù Hôm”, (tiếng địa phương là “núi Lừa Dối”). Kể đến đó, Sơn vỗ vai Dín, anh nói thêm rằng: Giờ đây, những tên giặc phía Bắc lại tràn tới. Chúng cũng giống như những con hổ dữ hóa thành bầy giặc đầu trọc. Những lời nó nói ngon ngọt, đều là những lời phỉnh nịnh, lừa dối cả, cũng như lời con hổ dữ giả tiếng người thôi. Nó cũng ở núi “Lừa Dối” phía Bắc tràn xuống. Ta phải nhắc nhau đừng có mắc mưu nó, xem nó như tinh con dữ. Con trai H'mông ta “đẻ bên cửa bếp, chết trên cửa trời”, ta phải cảnh giác, phải giỏi như người đi săn canh nương kia mới được Dín ạ!”. Đối với Tẩn Quang Vần, đây là lần xuất trận đầu tiên của anh, một chiến sĩ trinh sát người dân tộc Dao. Một chiến sĩ mà trên cánh tay còn xăm năm đầu con hổ bằng chàm, giống tờ giấy tổ tiên anh đã vẽ đặt trên bàn thờ ở nhà. Ngày nhập ngũ, Vần còn mang theo cái nỏ, mang theo cái bẫy chim. Giờ rỗi là Vần ra núi tìm chon chim công phấn để bắn (chim lông xanh đầu đỏ, ăn quả đa, khoét cây mục làm tổ). Ngày ở nhà, Vần đã biết đắp lò, đốt than và tìm cuốc cùn, dao gẫy rèn bẫy kẹp có vòng răng cưa, Vần đặt bẫy ở đầu bản để bắt báo về ăn lợn, ăn chó, bắt con gấu về trộm tổ mật ong, bắt con nai ra phá mùa lúa chín, Vần biết đẽo gỗ sến vàng, xẻ gỗ lim đỏ để làm bẫy sập bắt con nhím, con chồn, Vần biết uốn thanh tre già làm bẫy bắt con sóc, bắt con chim cứ cư, bắt con chim chớ chúa. Vần đánh bẫy tài, cần bãy nhậy, dây bẫy bện bằng da trâu vừa bền vừa chắc. Vần vào loại giỏi nhất trong bọn con trai ở bản Nhung. Có lần Vần đã đánh bẫy bắt được hổ vằn. Con hổ phải treo cổ lủng lẳng suốt một ngày cho dân bản kéo đến xem. Ấy là lần bản Nhưng có một con hổ đói về bắt bò trong chuồng, bắt người trên rẫy. Một hôm hổ vào vồ con bé con của một nhà ở đầu bản mang vào rừng ăn. Vần đi tìm rồi vác đầu bé về. Vần làm bẫy bên khóm tre gai và đặt cái đầu con bé lên. Bẫy Vần làm là một cây tre già uốn cong ngọn xuống. Một sợi dây da trâu buộc thành thòng lọng gài quanh cái đầu con bé. Đêm hổ tìm về. Hổ vồ đầu bé. Cần gài bật. Cây tre bật lên. Đầu con hổ treo trong thòng lọng và nó bị treo lủng lẳng trên khóm tre. Càng gầm gào, giãy giụa, con hổ càng kẹp vào trong những lớp gai nhọn ken dầy… Vần được tuyển chọn đi học nghề nghiệp. Vần được bộ đội biên phòng trang bị cho tri thức, cho kỹ thuật. Rồi anh được về bảo vệ vùng biên giới, vùng làng bản của người Dao. Anh say sưa hơn cả việc cầm cái nỏ đi bắn chim, làm cái bẫy để bắt hổ. Đây là lần xuất trận đầu tiên của anh. Lần đầu tiên anh gài một cái bẫy lớn: cái bẫy để diệt kẻ thù. Vần báo cáo tỉ mỉ. Anh chỉ những điểm mà anh nói lên tấm bản đồ. Đồng chí chỉ huy nghe anh, rồi cũng như thói quen làm việc với cấp dưới, với những người mà anh khẳng định rằng họ có thực tế nhiều hơn, họ biết nhiều chi tiết sống mà cương vị anh không thể biết hết được. Anh còn cần học các chiến sĩ của anh ở điều ấy. Anh hỏi Vần: “Đồng chí đề xuất một kế hoạch đánh địch đi”. Vần nhìn đồng chí chỉ huy, anh nói gãy gọn những điều theo ý anh. Sơn cười, anh tỏ ý khen Vần. Anh nhắc lại nho nhỏ những ý kiến của người chiến sĩ trinh sát. Đôi mắt anh nhìn mơ hồ ra bóng đêm. Cái nhìn đầy suy nghĩ: Phải tìm cho ra những nơi địch giấu vũ khí như ở hang Leng và ở nghĩa địa, phải hiểu thêm về Lù Văn Đức vì đó là một đầu mối mới; cần xác minh ngay tên giấu mặt ở nhà khách đồn Xín Tiển, hình như hắn là cán bộ của ta chạy sang; lần đầu tiên chính mồm kẻ địch nói có máy truyền tin của chúng ở trong cánh rừng. Ta phải suy nghĩ điều này. Phải diệt ngay những tên mà địch định dựng lên làm chủ tịch, phó chủ tịch bản để phá vỡ tổ chức địch nhen nhóm.

Sơn nhìn Vần. Cái nhìn của anh như có hàm ý, những chiến sĩ người dân tộc của chúng ta cần cù, thật thà lắm, tận tuỵ lắm. Một khi được trang bị trí thức, nghề nghiệp chu đáo thì họ sẽ làm được những việc phi thường. Đáng quý lắm!

-Những ngày các đồng chí sang bên ấy, bác Xín đã đến gặp tôi. Bác đã nói rõ một số điểm về những hoạt động của địch. Giờ đây qua báo cáo của các đồng chí tôi càng biết rõ hơn-Sơn nói với Vần-tôi chấp nhận ý kiến hay của đồng chí đề xuất và bổ sung ngay vào kế hoạch đánh địch của chúng ta. Riêng ý kiến diệt bọn ác ôn thì ta phải tiến hành ngay lập tức. Nhưng phải xem chúng còn sống sót những tên nào. Đứa nào ta nên diệt. Đứa nào ta nên để bọn chúng diệt lẫn nhau. Đứa nào ta “đơm lại”. Ta phải cân nhắc kỹ. Còn tên Lù Văn Đức thì ta đã biết rồi. Tôi nói rõ tên này để hai đồng chí biết.

Sơn vặn ngọn đèn to thêm. Anh rót thêm nước chè xanh cho hai người uống. Giọng anh chậm rãi. Anh kể về tên bù nhìn này. Hắn là người H'mông, họ Lù. Năm nay hắn dã 65 tuổi. Hắn từng làm phó tỉnh trưởng Lào Cai cũ. Giặc Pháp thất bại. Đức chạy sang Pháp. Năm 1954 Mỹ đưa hắn về nuôi. Và cuối năm ngoái ngày Đặng Tiểu Bình đi Mỹ, Đặng đã rước hắn về, hiện Lù Văn Đức ở bên Mã Quan. Đức đã nhắn họ Lù trong dịp tết này sang Xeo Pả Chư gặp hắn. Hắn đã dò hỏi trong họ hàng, con cháu của tên trùm phỉ Chấu Quang Lồ để móc nối. Ta đã bắt được một số người H'mông họ Lù lén lút vượt biên giới sang gặp hắn. Hắn đã hứa có lương thực, có quần áo, có vũ khí đang để bên kia biên giới. Hắn chỉ thị cho người H'mông họ Lù phải giúp quân Trung Quốc khi chúng tiến sang. Bọn phản động Trung Quốc đang định dựng xác ma này dậy để làm bù nhìn ở vùng tự trị này đây.

Sơn cười. Ngọn gió đêm rung sàn nứa. Bếp lửa của ông già người Tày bùng lên, sáng rực. Giọng Sơn vui:

-Tên Lù Văn Đức làm được đến chức phó tỉnh trưởng bù nhìn là như thế này đây các cậu à. Hắn đã làm một việc nổi tiếng vùng Lào Cai này là treo lên vách nhà một bức ảnh. Bức ảnh chỉ có mỗi một bàn chân đi ủng (!). Chỉ nhờ có việc đó mà hắn được khâm sứ Pháp cất nhắc từ chức cai quản một châu H'mông lên phó tỉnh trưởng. Vốn khi làm thống lý vùng H'mông, hắn rất thích chụp ảnh. Rồi hắn tập chụp ảnh. Hắn đưa 12 con ngựa, một ống thuốc phiện đầy xuống chợ đổi lấy một cái máy ảnh tồng tộc về. Hắn tập chụp, tập làm ảnh với ý định bắt hết con gái H'mông đẹp về nhà để chụp. Rồi cái thằng quan Tây về thăm vùng H'mông, hắn hí hửng chạy ngược, chạy xuôi. Hắn quỳ bò, nằm sấp, nằm nghiêng để chụp. Hắn bấm tý tách liên hồi. Hắn chụp thằng giặc cưỡi ngựa, chụp thằng giặc uống rượu, chụp thằng giặc tập thổi kèn, ý éo ve vãn con gái H'mông. Gần một lù cở phim, hắn đưa ra Lao Cai thuê một người thợ ảnh in tráng. Nhưng ôi thôi, cả đống phim đó chỉ được mỗi một kiểu: cái chân thằng Tây đi ủng từ đầu gối trở xuống. Cái chân ấy đang dẫm nát nương xèo ra hoa đẹp của người H'mông. Lù Văn Đức bảo ông thợ phóng to cái ảnh đó lên rồi đem treo giữa nhà. Với việc làm đó, tên khâm sứ gật gũ và Lù Văn Đức được nhận ngay chức phó tỉnh trưởng bù nhìn. Con đường công danh của vị bù nhìn là như thế đó.

Vần cười, Dín cười rung rinh cả sàn nữa.


… Tám đứa chết tại chỗ. Chúng nằm gục trên vũng máu. Bốn đứa bị thương. Thăngc Châu Xéo Mìn và thằng Xần Khái sống sót. Mìn chạy về nhà, hai ngày sau chưa lại hồn. Mìn không dám ló mặt ra khỏi cửa. Hắn cũng không biết vì sao, không biết từ đâu đạn lại dội vào chỗ bọn hắn ngồi. Hắn chỉ nghĩ là lọt vào ổ phục kích của dân quân. Chập choạng chiều thứ ba, một toán lính Trung Quốc kéo đến nhà hắn. Bọn lính bàn với hắn việc ngày mai sẽ tập trung dân bản H'mông lại. Chúng sẽ tổ chức lễ nhận quà của Bắc Kinh gửi sang. Chúng sẽ chia diêm, đá lửa, thuốc lấy ở cửa hàng mậu dịch huyện cho dân. Chúng sẽ bắt dân bản H'mông xếp thành hai hàng bên đường rồi vẫy áo, vẫy khăn mừng quân Trung Quốc sang giải phóng (!) Ngày ấy sẽ có đoàn quay phim đến ghi nhận hình ảnh hữu nghị đó đưa về Bắc Kinh. Cùng ngày đó, chủ tịch lâm thời bản H'mông Châu Xéo Mìn sẽ trịnh trọng ra mắt. Mìn sẽ nói làm cảm ơn quân Trung Quốc! Mìn sẽ nói Trung Hoa là tổ quốc vĩ đại của người H'mông! Mìn sai vợ con mổ gà mái hoa, nấu xôi nếp cẩm cho bọn lính Trung Quốc ăn. Chúng hỉ hả ăn uống. Chúng cười nhí nhố như bầy khoái, bầy ong hút nguỵ trong vườn hoa xèo. Nghe lời bọn lính Trung Quốc nói, nghe việc bọn chúng bàn, Mìn thấy sướng lắm. Mìn không ngờ cuộc đời hắn, cuộc đời bị tù đầy tưởng như con cá không quẫy khỏi bùn, không nhảy khỏi nước, như con châu chấu dế mèn núp trong cỏ ngải lại có được bước rạng mặt, nở mày này. Mình hình dung lại, ngày mai trướ dân xóm bản thằng Mìn này, thằng từng bị bọn Kinh bắt giam, từng bị đuổi khỏi Đảng, từng bị truất chức cán bộ sẽ đứng lên trước mọi người. Mìn sẽ nói cho mười phương, tám hướng biết. Quân giải phóng vĩ đại đã sang cứu người H'mông. Người H'mông sẽ giết chết bọn Kinh, sẽ giét chết hết bọn theo người Kinh. Người H'mông như con lợn đã thức giấc phải biết mài nanh, như con gà đã thức giấc phải biết vỗ cánh. Núi H'mông này chỉ có quả pừ xeng nở (quả nhỏ có mùi thơm như hạt tiêu, người H'mông làm thuốc chữa đau bụng) không thể có hạt tiêu mọc được. Châu Xéo Mìn tự kích động mình. Mặt hắn nóng bừng bừng. Hắn co chân đập tay xuống giường. Hắn cứ tưởng như đang đứng nói trước dân bản. Sáng sớm hắn nốc rượu rồi vác súng đi ra, Mìn định đến từng nhà trong bản. Hắn ra đến cửa bỗng một tiếng nổ vang lên rung đất núi, rung bản H'mông. Châu Xéo Mìn bị cụt hai chân. Hắn nằm chết gục trong vũng máu.

Tẩn Quang Vần, Ma Quang Dín mang súng, đi bít tất chỉnh tề. Vần buộc lại cái tua len đỏ ở quai súng mình xoè ra để nom hơn. Rồi anh kéo cổ đôi bít tất trắng ở chân Dìn lên cao hơn, cho đúng với ám hiệu. Hai anh chạy nhanh về phía Mường. Nơi đó Mã đoàn trưởng ở. Nói đó bọn lính Trung Quốc đóng. Nơi đó xe cộ, lừa ngựa, lính pháo, lính bộ, dân binh của giặc đi lại nhan nhản trên quãng đường Hữu Nghị. Những tên lính ở trạm gác, ở trạm kiểm soát nhìn quai súng, nhìn cổ bít tất hai người, chúng gật đầu để các anh đi. Đến nơi. Mã đoàn trưởng đưa ngay hai anh vào phòng làm việc của hắn. Đó là phòng quản lý của trại nuôi lợn của một nông trường chúng chiếm làm chỗ đóng quân. Tẩn Quang Vần hớt hải nói với Mã Diu Nần:

-Thưa Mã đoàn trưởng, hỏng hết rồi, chết hết rồi. Lớp học về chưa đến bản đã bị bắn chết mất tám người. Ông chủ tịch Châu Xéo Mìn cũng bị chết tại nhà. Ông chết sáng nay vì mìn gài trước cửa.

Mặt Mã thâm bầm. Hai mắt him của hắn bỗng rực lên những tia căm uất, man dại. Đôi lông mày chổi xể của Mã nhíu lại.

-Vì sao. Anh có hiểu vì sao người của ta lại chết nhiều thế không?

-Thưa Mã đoàn trưởng, chúng tôi đoán là Pò Xiềng đã làm phản. Pò Xiềng là người của Việt Nam gài vào. Bởi tối ấy tất cả chúng tôi ngồi nghỉ thì một mình Pò Xiềng ra về. Sau đó một lúc, chúng tôi bị bắn. Có lẽ Pò Xiềng đã báo cho bộ đội Việt Nam đến. May lắm, lúc đó chúng tôi đang ngồi nghe tiếng nói của tổ quốc với Chấu chủ tịch nên thoát. Rồi sáng nay Chấu chủ tịch bị giết. Chúng tôi đoán chỉ có Pò Xiềng giết.


Mã Diu Nần ngồi im. Mặt Mã vẫn xám ngoét. Mắt hắn nhìn ra xa. Nhưng kỳ thực hắn không trông thấy gì hết. Núi rừng biên giới Việt Nam mờ nhoà loang loáng trước tầm mắt hắn. Hắn đang nghĩ đến tên Pò Xiềng. Hắn đang nghĩ đến tên người Dáy mà hắn rất tin cẩn. Chính hắn đã đề nghị với Vương Thiệu Khuân chọn Xiềng làm phó chủ tịch lâm thời. Pò Xiềng đã đón và dẫn đường cho quân đoàn 50 tiến sang. Nên lính của quân đoàn đã tránh được những bãi mìn dày đặc của Việt Nam gài. Xiềng đã dẫn một mũi lính sơn cước luồn theo đường núi, vòng phía sau thị trấn đánh trúng vào các trận địa hoả lực của bộ đội Việt Nam. Xiềng làm xã đội của bản Dáy. Xiềng đã nộp danh sách dân quân bản Dáy giữ súng và kêu gọi họ nộp súng cho Quân giải phóng. Xiềng đã vào xí nghiệp gạch bên sông bắt trâu, bắt lợn giao cho hậu cần quân đoàn 50. Xiềng đã được chính tay Mã cấp cho cái giấy đặc biệt màu vàng để tự do đi lại trong các vùng quân Trung Quốc lưu đóng.

Thế mà tên người Dáy này lại phản bội ta. Quả là lời Vương nói đúng: “Mảnh đất và con người ở đây dễ nhìn thấy nhưng khó hiểu nổi!”.

Mã quay sang hỏi Vần, hỏi Dín:

-Các anh có chắc rằng Pò Xiềng làm phản không?

-Thưa Mã đoàn trưởng, người H'mông chúng tôi có câu, áo rách thì dễ nhìn thấy, còn lòng người tốt xấu thì khó lắm. Khi gặp cơn gió xoáy, gặp cơn gió buốt mới hiểu nổi mà. Vợ con Pò Xiềng đã chạy hết vào rừng rồi. Chúng đi với bộ đội Việt Nam mà. Chỉ có Xiềng ở lại thôi. Chính nó làm phản thôi.

-Thưa Mã đoàn trưởng, nếu còn Pò Xiềng thì chúng tôi đây và những người của chúng ta khó an toàn. Lo lắm mà. Không vững bụng chút nào cả mà!

Mã Diu Nần vẫn ngồi im. Mã gật đầu nhè nhẹ. Đôi mắt him của Mã hấp háy. Vẻ tàn bạo lộ rõ trong ánh mắt xám chì của hắn. Một quyết định gì đến với hắn. Hắn nhả ra mấy tiếng ầm ừ:

-Nhầm còn hơn sót. Vùng Dáy này còn có thể chọn được nhiều người.

Chiều hôm đó, một toán lính Trung Quốc sục vào bản Dáy. Chúng vào thẳng nhà Pò Xiềng. Nhiều đứa vò mũ lưỡi trai bỏ túi. Chúng để lộ cái đầu trọc lóc, gáy nhẵn thín. Chúng không nói không rằng. Mặt đứa nào cũng lầm lầm như hòn sỏi lót lối đi. Pò Xiềng đang say rượu nằm khật khừ trên giường tre. Hai tên lính xô tới. Chúng xốc nách Xiềng dậy. Chúng lôi tuột Xiềng ra sân. Chúng thi nhau bắn nát người Xiềng, rồi chúng chầm lửa đốt nhà Xiềng, đốt luôn xác Xiềng. Mùi khét lẹt, tanh lợm theo gió bắc loang ra khắp bản. Cả bản Dáy kinh hồn. Chúng đúng là đá sỏi, chúng không phải đá vách như mồm chúng nói với dân đâu mà (đá vách ở trên cao sạch, đá sỏi ở lối đi lấm bẩn. ý nói rằng lính Trung Quốc bần tiện, tàn ác lắm).

Đêm ấy, một đêm cuối tháng hai, trăng mới ló đỏ như mật mía canh. Gió rét. Sương muối đậu trắng ngọn mai. Bà con bản Dáy dắt díu nhưu đuổi cả đàn ngựa thồ, đàn trâu kéo chạy về phía bản Vi, phía phòng tuyến của bộ đội ta.

Hạt giong độc này mầm

Hoàng hôn tàn. Trời mù loãng. Gió lạnh. Con nai “giác” vội vã ngoài đồi. Con hươu kêu “loong roong” hoảng hốt trong rừng măng, bởi súng đạn đã xua chúng đi. Chúng thèm lắm. Chúng nhớ rừng măng. Nhưng chúng phải bỏ mùa măng sớm ngọt ngào này.


Mã Diu Nần hấp tấp đi xuống bản Củi Pao Pin. Da mặt bì bì của mã thâm bầm như đá núi phủ rêu lạnh. Dáng đi lòng khòng của Mã dốc xuống gẫy gập như sắp bổ nhào xuống. Mã uất ức. Mã đau đớn. Bởi những hạt giống Mã vừa mới ươm ra đã bị vặt cắt rễ. Mã sắp mất hết tất cả. Một sự lặp lại, lặp lại trăm phần trắm! Vết xe của người đồng nghiệp họ Trịnh đã đổ này Mã sắp lăn xuống theo. Mã đưa bàn tay lên bấm từng đốt. Mồm hắm lẩm nhẩm; Châu Xéo Mìn, con chủ bài trong ván cờ, chết; Pò Xiềng phản trắc, chết; 8 đứa nữa đã chết, Xần Khái sống sót lo sợ xin chạy sang biên giới. Mấy thằng nữa què cụt, đui mù đang nằm ở trại cấp cứu của quân đoàn 50. Biết bao giờ chúng mới làm được việc. Thế là hết. Trong tay mình đây, Mà nắm bàn tay lại. Trời đầu năm sương muối giá lạnh, ngón tay hắn cứng không sao co lại được. Vùng địa bàn này Mã chỉ còn có ông già H'mông với hai thanh niên có thể tin được. Mã chép miệng cay đắng: phải nắm chắc lại, phải coi như ta đã cài cắm được một cơ sở! Ta sẽ báo với Vườn đồng chí. Ừ, ta sẽ tìm cách cấy thêm người.

Mã Diu Nần gặp ông Xín, Mã gặp Dín, gặp Vần đều ở trong nhà ông Xín. Mã cho lính sơn cước bủa vây ngoài rừng, lính quân đoàn vây quanh bản. Ông Xín mời Mã ngồi vài cái ghế cao nhất, đẹp nhất ở phía bên trong bếp. Ghế đó chỉ dành riêng cho chủ nhà ngồi. Cái lý của người H'mông đã dạy thế. Mã biết rõ điều đó. Giờ đây ông già H'mông nhường cái ghế đó cho Mã. Mã đã hiểu rõ rằng ông Xín kính trọng Mã lắm mới có việc làm ấy. Mã mời ông Xín hút thuốc. Ông Xín mời Mã uống bát rượu H'mông. Thấy Mã nhìn bát rượu, ông Xín san đôi uống để Mã yên lòng. Sự thân ái chan hoà, ấm cúng lan toả bên bếp lửa. Mã nói với ba người. Giọng Mã trầm đượm vẻ buồn. Có lúc tiếng nói của Mã chỉ lọt ra giữa hai hàm răng sít. Có lúc cặp lông mày chổi xể của Mã nhíu lại. Khuôn mặt lưỡi cày của Mã càng quắt nhọn thêm.

-Đại quân của Trung Hoa vĩ đại sẽ rút về. Bởi đã đạt được mục tiêu quan trọng trong cuộc phản công tự vệ này. Đại quân đã trừng trị đích đáng tập đoàn phản bội ở Việt Nam, đã dạy cho tiểu bá khu vực một bài học, đã cho chúng biết thế nào quốc uy, là quân uy của một nghìn triệu người nước Trung Hoa vĩ đại. Mã nuốt nước bọt rồi nói tiếp. Cái cổ cò của Mã, các ngấn xương cứ trồi lên trật xuống theo từng tiếng nói-đạo quân của ta rút về trên đường biên giới và sẽ giành quyền bất cứ lúc nào cũng lại dạy cho tiểu bá Việt Nam một bài học nữa. Nghĩa là Quân giải phóng sẽ tiến sáng một ngày không xa. Ông Xín và hai anh là hạt giống đỏ rất quý của tổ quốc vĩ đại ươm lại đây…

Mã nói với ông Xín, nói với hai người rằng tổ quốc Trung Hoã sẽ ghi công trạng cho họ: rằng sẽ có người sang đừa quà quí của tổ quốc cho họ; rằng họ sẽ trở thành một trạm đón khách của tổ quốc ở đây. Mã hứa hẹn, Mã giao ước, Mã qui định ám hiệt để đón những người sang liên lạc. Và để ba người có thể sang biên giới gặp Mã, gặp Vương Thiệu Khuân bất kỳ lúc nào, bằng đường rừng bí mật và bằng đường hợp pháp sang ăn chợ, mua hàng. Vì mã cho biết rồi đây cửa biên giới có thể sẽ mở lại. Tổ quốc vĩ đại có thể sẽ cho người Việt Nam sang mua bán, sang thăm viếng bà con. Nên việc đi lại để liên lạc càng dễ dàng. Mã bầy cho ông Xín và hai người các mánh khóe để che mắt bộ đội Việt Nam khi họ tiến vào bản. Mã mở xắc cốt đưa cho ông Xín tấm ảnh Bác Hồ và lá cờ đỏ sao vàng. Mã bảo ông Xín khi đại quân rút thì treo cờ và ảnh lên để đón bộ đội Việt Nam vào, viết khẩu hiệu lên vách đất để chào mừng bộ đội Việt Nam. Mã bảo bọn lính để lại cho ông Xín năm khẩu súng cũ và ít đạn để ông nộp cho bộ đội Việt Nam. Mã dặn ông Xín nói với bộ đội là cướp được của quân Trung Quốc và đem giấu trong núi. Mã nói thêm với ông Xín là Xần Khái muốn theo đại quân sang nhưng Mã không cho. Xần Khái phải ở lại, phải làm những việc Mã giao, phải giúp tổ quốc vĩ đại nhiều hơn. Đó là con đường sống của Xần Khái, Vần biết Mã nói việc của Xần Khái ra là để nhằm đe dọa Vần, khống chế Vần, buộc ba người phải làm việc cho Mã. Vần nhìn Mã với ánh mắt ái ngại. Anh nói ngập ngừng.

-Thưa, Mã đoàn trưởng, mong tổ quốc vĩ đại đừng bỏ rơi chúng tôi, đừng để cho người Dao, người H'mông, giọt máu của tổ quốc ở lại phải cầm dao đi lang thang vượt qua rừng cao, băng qua suối cuốn để tìm đất. Người Dao lại phải đưa hạt ớt đi rắc khắp các lũng núi để hàng năm đến đó xem nơi nào cây ớt mọc tốt, nhiều quả, hạt cay thì dân giắt díu nhau rời bản đến đó để làm nương.

Vần hạ thấp giọng, nói tiếp vẻ xúc động:

-Mã đoàn trưởng ơi! Chúng tôi sẽ làm theo lời Mã đoàn trưởng dặn. Việc làm nào có lợi cho tổ quốc Trung Hoa vĩ đại, thì chúng thôi không từ. Đó cũng là ơn đền ơn, nghĩa trả nghĩa cho tổ quốc.

Mã Diu Nần cảm kích lời nói của Vần. Mã lấp lánh đôi mắt him nhìn Vần. Mã bắt tay ba người thật chặt Mã rút túi ra trao cho ông Xín, cho Vần, cho Dín mỗi người một gói. Mã nói đó là quà của tổ quốc tặng ba người. Mã mong ba người lập công lớn. Ba người sẽ là cán bộ chủ chốt của vùng tự trị này. Ông Xín mở ra xem. Trong ba gói quà đó đều là thuốc phiện.

Một ngọn gó xoáy, ngọn gió buốt thổi đến bản H'mông Hoa Xư Pan. Chị Thào Xeo Pàng đã chết. Cháu gái năm tuổi con chị cũng chết theo. Cả bản H'mông Hoa Xư Pan (bản hoa đẹp đón nắng ban mai, có nước chảy trên bàn đá) khóc thương chị. Mới sáng qua chị còn đi tập bắn súng, đêm qua chị còn mang súng đi tuần khắp trên đồi dưới lũng với chị em dân quân. Thế mà sáng nay chị và đứa con gái của chị lăn đùng ra chết, sau khi mẹ con chị ăn mỳ mén với canh rau cải. Khi chồng chị, anh Voòng Kim Phù ở trên nương về thấy vậy, anh kêu khóc, anh gào thét. Dân bản H'mông chạy đến, các chiến sĩ biên phòng chạy đến, thì thấy mồm, mũi chị sùi bọt trắng ra như bọt xà phòng. Da thịt chị thâm bầm, mắt chị mở to trắng dã. Bụng chị cứng chương to. Cháu gái con chị Pàng cũng giống triệu chứng như mẹ. Nhưng cháu vật vã nhiều hơn. Váy áo cháu rách nát. Da thịt mặt mày chân tay cháu bị xây xát nhiều. Nhìn mẹ con chị Pàng, các cụ già bản H'mông Hoa Xư Pan đều đoán rằng mẹ con chị đã chết vì ngộ độc ngón vàng. Các cụ già liền đổ ngay chảo canh rau cải còn lại cho con lợn ăn. Ăn xong, con lợn lăn vật ra chết. Điều dự đoán được khẳng định. Các chiến sĩ biên phòng chưa theo bài thuốc công hiệu nhất của người H'mông là đốt lông dê rồi hoà lấy nước đổ vào miệng cho mẹ con chị, đẽo vỏ cay hồng giã nhỏ lọc nước cũng đổ vào miệng cho mẹ con chị. Nhưng không thể nào cứu được nữa. Mẹ con chị Pàng đã chết. Dân bản xót xa khóc thương chị. Các chiến sĩ biên phòng thương xót mẹ con chị.

Một câu hỏi đặt ra cho Sơn, chỉ huy trưởng khu biên phòng: “Vì sao mẹ con chị Pàng chết đột ngột? Ai đã hái lá ngón về nấu lẫn trong rau cho mẹ con chị ăn. Và chồng chị, anh Voòng Kim Phù là ai.Tại sao lúc ấy anh không có ở nhà. Cái chết của chị lên quan gì với những việc rắc rối liên tiếp xẩy ra trong vùng biên giới xung yếu này, nhất là sau khi quân Trung Quốc rút”. Chỉ huy trưởng Sơn, các chiến sĩ trinh sát biên phòng chắp nối các đầu mối lại, lọc tìm các sự liên quan trong các nguồn tin mới thu về. Và thử xem cái lõi, các câu chuyện đồn đại về Phù lâu nay. Ở vùng giáp với kẻ thù xảo quyệt này có khi cái tưởng là thật thì lại chính là giả; mà cái tưởng là giả trăm phần thì lại chính là thật. Như cái hoa của rừng H'mông này ấy mà. Chùm hoa kim ngân màu vàng, chùm hoa ngón cũng nở vàng. Hoa kim ngân là vị thuốc quý giải độc cho người. Còn chùm hoa ngón vàng thì giết người. Đến con ong, con khoái cũng không giám lấy nhuỵ, lấy phấn nó. Nhìn bề ngoài dễ nhầm thế đấy. Sônní với các chiến sĩ cái điều tâm huyết của anh 25 năm gắn bó với đất rừng biên giới này. Những mắt xích rời về Voòng Kim Phù được chiến sĩ trinh sát chắp nối lại thành một chuỗi. Ngày bọn người Hoa phản động dọa dẫm anh, bắt anh phải về nước, Phù đã từng nói với anh sẽ ở lại góp sức xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phù xin sống mãi với bản H'mông này. Phù coi Việt Nam là tổ quốc thứ hai yêu quý nhất của anh. Phù sẵn sàng hiến dâng giòng máu của mình để bảo vệ đất nước Việt Nam. Ơn Việt Nam đối với anh to bằng núi, nghĩa Việt Nam đối với anh lớn bằng rừng. Phù phải ơn đền ơn, nghĩa trả nghĩa chứ! Phù được bản H'mông tin giao cho anh chỉ huy tiểu đội dân quân: giao cho anh giữ cây súng AK duy nhất trên cấp cho dân quân bản H'mông. Ngày Phù lên nương gác, đêm Phù đi tuần các ngả rừng. Kế hoạch gài mìn, đặt chông, rào các hẻm núi, các đường mòn là do Phù vạch. Phù rủ trai bản H'mông dựng lò rèn khoan nòng súng kíp, đúc thêm đạn, làm thêm chông. Phù nói với dân bản: Bọn cầm quyền ở Bắc Kinh đã đi theo đế quốc Mỹ rồi. Chúng không tốt nữa. Chúng đã làm sai ý của một nghìn triệu người Trung Quốc. Chúng phá bỏ thành quả cách mạng của Trung Quốc rồi, chúng đánh Việt Nam là xâm lược. Phù sẽ cùng nhân dân Việt Nam đánh lại chúng. Ở đây anh cũng đánh, nếu về nước. Phù sẽ nói với anh em, và con ở bên ấy biết rõ lòng tốt, biết rõ sự đúng đắn của nhân dân Việt Nam để chống lại bọn phản động. Bà con bản H'mông yêu mến Phù, tin Phù. Trong nhà Phù có ảnh Bác Hồ, có khẩu hiệu chống bọn bành trướng Trung Quốc xâm lược. Vợ anh là chị Pàng, là dân quân cũng làm nương, cũng đi tuần tra giữ bản. Rồi chiến công chói lọi của Phù vừa lập được. Ngày giáp tết vừa qua một mình Phù ở trên nương đã lập mưu bắt được một tên thám báo Trung Quốc vượt biên giới sang. Ta khai thác tên đó, đúng hắn là tên thám báo con thôi. Một tên tù do bọn công an Trung Quốc đánh sang. Hôm đó Phù đang thu ngô trên nương thì có người từ bờ sông lên hỏi anh và nhận anh là người Hoa, Phù nhận đưa nó về nhà cho ăn ở và giấu trong bản. Nhưng về đến nơi, vợ chồng anh đã cho hắn uống rượu say rồi trói lại, đưa lên nộp cho đồn biên phòng. Chính Sơn đã khai thác hỏi cung hắn. Hắn là một tên bị tù, bởi trộm cắp của công xã. Hắn bị kết án 7 năm tù ngồi. Bọn công an Trung Quốc đã lôi hắn từ trong tù ra, dạy cho hắn những mánh khóe lượm tin, rồi chúng đẩy hắn sang biên giới ta để thực hiện một giao kèo. Nếu hắn điều tra được ở vùng này có vũ khí pháo binh, có chuyên gia quân sự của Liên Xô thì về sẽ xoá án tù. Nhưng hắn vừa sang biên giới thì bị bắt. Chiến công đó của Voòng Kim Phù đã được cấp trên khen thưởng. Sự khen thưởng đầu tiên là giao cho anh giữ khẩu súng AK mới. Và anh từ tiểu đội trưởng dân quân được giữ chức xã đội trưởng thay cho một người Hoa giữ chức vụ đó đã về bên kia, Phù là thế đó, ai nỡ nghi anh là người xấu.

Mười tám năm trước đây, Voòng Kim Phù lúc đó mới 18 tuổi, Phù vượt biên giới sang Việt Nam cùng với hàng trăm người Hán. Phù đến khu biên phòng anh khai rằng, anh từ Côn Minh lặn lội đến vùng biên giới và chạy sang đây xin cư trú để tránh nạn đại loạn cách mạng văn hóa. Phù nói, anh đang bị truy bắt, Phù khóc. Ông già bản H'mông Hoa Xư Pan là bố co Pàng bây giờ nhìn thấy Phù trai trẻ, sức vóc như con nghé tơ. Ông cười thầm “con nghé tơ này rồi sẽ thành con trâu mộng mài sừng lở núi H'mông đây”. Ông đưa Phù về ở trong nhà. Ông quí Phù lắm. Bởi Phù vừa đẹp trai vừa khỏe mạnh. Mặt Phù tròn, da hồng tươi như màu da quả đùm đụm chín. Phù có đôi mắt nhỏ, sắc và lanh lợi. Cái sống mũi thẳng nom thông minh gần giống mũi của anh con trai H'mông. Phù biết làm nhiều việc. Phù vẽ hoa bằng sáp ong vào vải để cho Pàng nhuộm mầu. Phù làm xa cho Pàng quay lanh dệt váy. Phù mở lò rèn giúp ông rèn cuóc rèn dao. Phù rèn lại cho ông, cho người trong bản H'mông những con dao mua từ cửa hàng mậu dịch về. Phù rèn lại để dao sắc hơn, tôi lại cho thép dao già hơn. Phù rèn đẹp và tốt, lỗ chuôi dao tra cán vuông vắn, hai mé vòng cuốn mím chặt. Nên khi tra cán không phải chốt qua, dao chặt cây to cũng không bao giờ tuột. Đó là điều ông và cả bản H'mông này thích thú nhất. Phù lại có kỹ thuật mài dao mới lạ, là không đưa lưỡi dao chạy ngang mà cho chạy dọc theo phiến đá. Nên con dao Phù mài mỏng đều từ đầu mũi đến tận gần chuôi. Dao ánh lên nước thép xanh, dao dùng để cạo tóc, cạo râu đều được. Đối với người H'mông, con dao là dụng cụ vạn năng trong gia đình, là vũ khí, và còn tạo ra nhiều vũ khí khác nữa. Người H'mông càng quí con dao tốt thì càng yêu mến Phù, đùm bọc Phù.

Ông già H'mông yêu Phù như con. Cô gái đẹp nhất bản H'mông, đẹp như trăng mười rằm phải lòng Phù. Pàng đã nói với Phù: “Đám cây này chưa ai phát dọn rừng măng này chưa có ai coi. Anh là hút gió lành từ rừng nào thổi đến làm cho cây biết lay, làm cho lá biết lướt. Anh là giọt nước lành ở suối nào chảy về làm cho nồi xôi thơm, làm cho canh ngọt. Anh sẽ là sợi chỉ em sẽ là cái kim. Em thêu cho bản H'mông ta thêm bông hoa đẹp”. Phù thế thốt với Pàng: “Chém cây sợ cây khô, chém núi e núi lở, nói bằng lời sợ quên, cắt ngón tay cùng uống máu để nhớ”, lời Phù tỏ tình sao cứ xoắn bện trong lòng Pàng. Pàng càng thương Phù vì Phù có tài hoa vì Phù đẹp trai, cô còn thương Phù bơ vơ như cây măng không bụi tre che gió, như cây si xéng không có rễ bám đất rừng. Pàng càng thương Phù không biết Phù có biết người mẹ từng ăn một miếng phải nhả hai miếng để nuôi Phù khôn lớn nay ở đâu, có biết Phù bơ vơ không. Con trai các bản lấy núi đồi làm thang lên Hoa Xư Pan đều thẫn thờ như con ong hết mùa khoa. Bởi họ thấy Phù và Pàng đã gắn bó với nhau như nan trúc đan lóng đôi khó gỡ. Bản Hoa Xư Pan từ đó đêm tắt tiếng đàn môi tỏ tình, ngày tắt tiếng kèn lá lững lờ bên bờ suối gọi bạn. Đám con trai H'mông ghen tức với Phù đã nói với ông già H'mông “Đầu non, sinh lá chuối xoè, cuối non e có con hổ vằn trú ngụ đấy” (ý nói bản H'mông có cô con gái đẹp che ô như tàu lá chuối xoè nhưng có gái đẹp thì nguy lắm, bởi có người hiền đến có cả người ác đến theo). Ông già H'mông chỉ cười. Ông nhìn Phù: “Nhà lắm chống càng tốt, nhà lắm cột càng bền. Bản H'mông ta có thêm người tốt đến càng vui. Không biết con chim giàng tống đã báo tin lành cho ta từ lúc nào”.

Thế rồi ông già H'mông làm lễ cưới cho con gái. Ông không ăn thịt gà để tính xương gà chọn ngày. Ông chọn đúng ngày thần đất, thần nước về gặp nhau nghỉ ngơi mở tiệc ăn mừng sau một năm mệt nhọc (ngày cốc vụ 9-5 hàng năm). Ông bỏ hết tục lệ xưa của người h. Ông không mổ lợn, không cần có bốn ông mối, không cần tiếp học nhà xuân (họ nhà gái). Cả bản Hoa Xư Pan đến nhà ông vui chơi, tay vỗ chân nhảy hát vang núi vang rừng. Rồi ông và cả bản H'mông làm cho Pàng một nếp nhà bằng gỗ thông. Trên mái lợp vỏ thông, có lớp cỏ dầy. Ông rắc lên đó nắm hạt sâm để đến ngày ông có cháu ngoại, bó nó nhổ củ sâm hầm với con gà con cho mẹ nó ăn để có nhiều sữa cho con bú. Voòng Kim Phù và Thào Xep Pàng ở với nhau êm ấm. Xuống núi ăn phiên chợ hàng tuần, Phù nhường cho vợ cưỡi ngựa tía che dù xanh. Còn Phù thì nắm đuôi ngựa chạy theo, đúng tục con trai H'mông yêu chiều vợ. 12 năm nay, Phù vẫn giữ nếp sống như thế. Trước đây, hàng tháng Phù sang bên kia biên giới một vài lầng đúng phiên chợ. Phù mua vải, mua sắm đồ dùng trong nhà. Phù mua áo đẹp cho con, mua chỉ thêu, vòng tay cho vợ, Phù có một đám nưởng bìa rừng. Phù trồng ngô, trồng kiệu, trồng thảo quả. Ngày nào Phù cũng lên nương trông coi. Ở đó, Phù có một cái lán nhỏ kề bên cái hang đá kín đáo. Và ba năm gần đây, Phù tậu thêm một bầy trâu 10 con. Bầy trâu của Phù ăn tản tác các đồi cỏ dọc dải đồi sát đường biên giới, Phù mang súng AK đi tìm từng con. Phù gặp bộ đội, Phù đi qua các trận địa pháo, đi qua các điểm tựa của dân quân, của bộ đội biên phòng bố trí. Đến đâu, Phù cũng sà vào chuyện trò, Phù tự giới thiệu tên mình, kể chuyện mình bắt được tên thám báo. Các đơn vị đã được thông báo chiến công của Phù, nên khi nghe tên Phù, anh em càng quí, càng tin Phù. Các chiến sĩ bày đường cho Phù đi để tránh các bãi mìn đã gài, tránh chỗ các hẻm núi có chông có bẫy, tránh chỗ ta đặt súng lớn, tránh các kho đạn v.v… Và các chiến sĩ cũng dặn Phù cho trâu tránh xa các khu vực xét ra có nguy hiểm cho trâu. Trong những ngày Trung Quốc xâm lươc, vợ con Phù sơ tán với dân, Phù ở lại bám bản, bám nương chiến đấu. Giặc rút chạy bản H'mông bị chúng cướp phá, đốt cháy trụi. Phù từ trong rừng ra. Tay Phù cầm tấm ảnh Bác Hồ, lá cờ Đảng, lá cờ đỏ sao vàng trong tấm áo chàm, Phù nói như phân bua với dân bản H'mông: “Tôi cất giữ những thứ thiêng liêng này. Bà con hãy chứng kiến cho lòng trung thành của tôi đối với tổ quốc Việt Nam, với Bác Hồ vĩ đại. Dù có chết, tôi cũng không để mất những bảo vật này”. Bà con bản H'mông cảm động, quý tấm lòng của Voòng Kim Phù. Các đơn vị bộ đội mới tiến vào nghe vậy càng quý trọng, càng tin tưởng người xã đội trưởng kiên cường đã chỉ huy dân quân bản H'mông chiến đấu. Ròi, Phù lại mang súng đi tìm bầy trâu dọc đường biên giới, Phù lại vào các trận địa, các chỗ đóng quân, các kho tàng của bộ đội. Phù lại được các chiến sĩ dẫn đường tránh các vùng có bãi mìn, các cạm đá, bẫy chông. Phù đuổi trâu đến tặng đơn vị pháo binh một con, tặng bộ đội biên phòng một con. Phù để dành con béo nhất tặng sư đoàn bộ binh vừa về phòng thủ cách đó mấy quả đồi. Và gần đây trong cuộc sống gia đình của Phù, Phù lại tỏ ra yêu thương, tỏ ra chiều chuộng vợ con hơn. Đối với bà con trong bản H'mông Hoa Xư Pan, Phù càng thân thiết, càng hoà ái hơn. Mọi người cứ nghĩ: có lẽ sự tàn ác của bọn giặc Trung Quốc đối với bản H'mông, đối với đất nước Việt Nam đã làm cho Phù càng yêu thương càng gắn bó với bà con Việt Nam. Mọi người càng hiểu rằng Phù không giống bọn Trung Quốc phản động sang xâm lược Việt Nam. Phù là con người Trung Quốc chân chính, người Trung Quốc đáng quý là bạn của Việt Nam. Bức chân dung 12 năm trời đã vẽ nên một Voòng Kim Phù như thế. Các hồ sơ về Phù, các bản thành tích của Phù và lời bà con bản H'mông Hoa Xư Pan nói hộ Phù là đúng như thế!

Sơn, chỉ huy trưởng khu biên phòng ngồi im. Anh nhìn xuống tập hồ sơ dầy để trước mặt. Những tờ giấy đều im lìm, lãnh lẽo nhưng đối với anh nó nóng bỏng, nó sôi động biết chừng nào. Anh nghĩ đến câu chuyện dân gian lưu truyền trong người H'mông, câu chuyện về con rắn độc. Người H'mông kể rằng, những con rắn độc nhất, ác nhất ở rừng H'mông này mỗi năm nó chỉ bò ra ngoài có ba tháng. Và trong những tháng kể là nó bò ra ngoài, mỗi ngày nó chỉ bò ra một khắc để bắt mồi. Khi đã bắt được mồi rồi, rắn độc lại về giấu mặt giấu tung tích trong hang sâu!

Sơn ngoảnh lại hỏi một chiến sĩ trinh sát:

-Đồng chí nói lại câu chuyện của cô dân quân Thào Xeo Xay đã kể sáng qua.

Chiến sĩ trinh sát đã kể lại rành rọt câu chuyện đó. Sau khi mẹ con chị Pàng chết. Thào Xeo Xay là bạn thân nhất của Pàng, cùng trong một tiểu đội dân quân đã kể lại rằng: Một hôm trên đường tuần tra về, Xay nói cho Pàng nghe một câu chuyện xẩy ra ở bên Xi Ma Cai. Ở đó có một cô gái người Việt lấy chồng người Hoa. Ngày Trung Quốc bày ra trò gọi người Hoa về nước. Người chồng về. Anh đã dụ dỗ vợ con về theo. Vợ con không chịu về. Chị ta bảo không thể bỏ Tổ quốc đi theo giặc. Chồng bỏ về một mình. Hắn ta được giặc đưa đi huấn luyện để trở thành biệt kích thám báo. Hắn quen đường, quen núi nên giặc cho quay trở lại rình mò bắt cóc dân quân bộ đội. Ngày giặc đánh sang ta, hắn dẫn đường cho giặc vào đánh các trận địa của bộ đội ta. Giặc rút, hắn lại mò sang để dò la. Bộ đội biên phòng ta đã bắt được hắn… Nghe kể đến đó, mặt cô Pàng rất buồn. Cô rớm khóc. Cô hạ giọng hỏi lại Xay: “Giá như mình mà gặp tai hoạ có người chồng như thế thì nghĩ thế nào Xay nhỉ?”.

-Phụ nữ rất dễ mủi lòng và họ hay lấy chuyện của người khác để liên hệ tới chuyện của mình. Các đồng chí hãy lưu ý đến chi tiết đó.

-Ai hái rau cải ở rừng về. Ai nấu canh cho mẹ con chị Pàng ăn.

Anh chiến sĩ trinh sát trả lời câu hỏi của Sơn:

-Theo bố chị Pàng kể thì Voòng Kim Phù từ sáng sớm lên nương hái rau về nấu canh. Trong lúc đó cháu bé đang ngủ. Chị Pàng đi tuần tra chưa về. Nấu xong, Phù đi lên nương. Chị Pàng về dọn cơm rồi hai mẹ con cùng ăn.

-Sau khi vợ chết, thái độ của Phù thế nào?

-Ông bố cô Pàng nói Phù buồn, mồm chẳng buồn ăn, bếp không đỏ lửa. ông phải gọi sang ăn, hoặc đưa cơm sang cho. Nhưng Phù không hôm nào bỏ lên chăm nương kiệu, và chăm bầy trâu còn lại.

-Các đồng chí có biết rõ mảnh nương của anhta, có biết cái lán của anh ta không?

-Chúng tôi đều đã đi qua, có vào lán một lần. Cô Xay biết rõ hơn.

-Theo tôi-Sơn đứng dậy. Dáng người thấp đậm. Nét mặt từng trải và khắc khổ nhưng đôi mắt anh rực lên ánh thông minh, anh giơ tay ra phía trước khoát một cử chỉ kiên quyết-ngay lập tức, đội trinh sát phải bí mật vây chặt mảnh nương, cái lều và hang đá cạnh lều Phù. Có thể cái chốt của vấn đề ở đó. Điều động cô dân quân Xay cùng đi. Bí mật vây chặt, kiểm tra chu đáo. Hai mươi bốn trên hai mươi bốn…

Mệnh lệnh của đồng chí chỉ huy trưởng được thi hành ngay. Tối. Gió rét. Mây sà xuống phủ trắng ngọn mai. Hương kiệu nồng say bay ra từ nương vắng. Lúc Phù đi về bản, hai chiến sĩ trinh sát và cô Xay đã bí mật tiến nhập vị trí. Một chiến sĩ đội cỏ nằm bên lều. Một chiến sĩ bọc rêu nằm ở cửa hang. Thào Xeo Xay ngồi thu mình trong bụi lách…

Sáng sớm, Voòng Kim Phù mang súng, cầm dao đi lên nương. Phù đi vào luống kiệu. Phù đứng. Hắn nhìn ngang, nhìn ngược không thấy ai. Hắn nhìn trước, nhìn sau không thấy ai. Hắn nhìn cây, nhìn đá không thấy gì động tĩnh chỉ có túp lều im lìm, và miệng hang đá đen ngò thăm thẳm. Hắn đi vào hang. Trong hang đá phát ra tiếng động nhè nhẹ. Tiếng mở dây nylon sột soạt. Phù đi ra. Tay hắn xách một chiếc máy thông tin. Hắn đi thẳng lên đồi. Hắn mở máy. Tiếng xè xè đều đều của chiếc máy thông tin bắt đầu làm việc. Tiếng Phù nói. Hắn nói nhỏ, gọn. Chiến sĩ trinh sát mở mảng rêu trùm đầu. Anh lắng tai nghe rành rọt tiếng Phù từ trên đồi vọng xuống. Anh ra hiệu cho chiến sĩ nằm cạnh đớ cứ im lặng, chờ đợi. Anh ra hiệu cho Thào Xeo Xay cứ ngồi im. Bởi anh đoán thế nào Phù cũng trở về cất máy trong hang đá. Và thời cơ bắt Phù là lúc hắn đã làm xong phiên liên lạc. Tiếng Phù từ trên đồi vẫn đều đều. Phù nói bằng tiếng quan hoả. ”A lô. A lô. Hoàng Liên báo về Nam Hải. Hoàng Liên báo về Nam Hải. Hạt giống đỏ báo tin về. Một đơn vị pháo cao xạ 57 ly vừa di chuyển đến đồi 270, đang làm trận địa. Đơn vị bộ đội A đang di chuyển về phía đông. Bộ đội biên phòng đã lùi hét về dải đồi xanh phía sau. Lòng sông có bùn phải nâng cấp lên, ”trâu” nặng mới qua được. Người H'mông đã trở về bản. Việt Nam đang truy rà những người ta để lại. Hạt giống đỏ đã thực hiện chỉ thị dập tắt tàn lửa. Hẹn phiên chiều. Hẹn phiên chiều…”.

Xong, Phù lại nhìn xung quanh. Phù lại nhìn trước nhìn sau, không thấy ai. Mặt trời đã nhô lên trên núi Hoa Xư Pan. Mù tan dần. Phù xách máy đi xuống đồi. Hắn đi vào hang đá.

Chiến sĩ trinh sát vùng mảnh rêu xám. Anh đứng dậy. Anh chắn cửa hang. Nòng súng AK trong tay anh chĩa vào ngực Phù. Thào Xeo Xay từ trong bụi lách xông đến. Chiến sĩ trinh sát tung cỏ vùng lên. Phù đứng như trời trồng. Mặt hắn thâm tái như rêu đá mùa lạnh.

-Đứng im!

Chiến sĩ trinh sát từ phía sau tiến lên tước cái máy thông tin trong tay hắn, lột khẩu súng AK trên vai hắn, rút con dai bên hông hắn. Anh rút cuộn dây, trói quặt hai tay hắn về phía sau. Miệng Phù như cứng lại. Hắn ú ớ, nói không ra tiếng.

-Chắc anh đã biết rõ vì sao anh bị bắt. Cho phép anh được vào ngồi trong lán-chiến sĩ trinh sát nó với hắn.

Cô dân quân Thào Xeo Xay chạy băng rừng về bản. Lát sau, Sơn và đội tuần tra biên phòng phi ngựa đến. Sơn làm đúng như kế hoạch đã vạch. “Phải rèn dao khi thép đang còn đỏ”, để phục vụ cho cuộc chiến đấu. Bởi máy truyền tin có quy định giờ liên lạc!

Tên Phù ngồi trên khúc gỗ mục trước mặt Sơn. Theo lệnh Sơn, hắn được mở trói. Sơn nhìn hắn, giọng anh chậm rãi:

-Anh liên lạc về bên ấy với ai?

Voòng Kim Phù ngồi cúi mặt xuống. Hắn nói lúng búng.

-Chuyện đã rõ ràng. Anh nói đúng sự thật đi. Lời anh khai sẽ có quyết định tới cuộc sống của anh sau này.

-Thưa ông… tôi liên lạc về đồn biên phòng Xín Tiển.

-Ai chỉ huy anh, và nhận báo cáo của anh chuyển về?

-Thưa ông, thưa ông… đồn trưởng Vương Thiệu Khuân ạ!

-Mỗi ngày anh liên lạc về bên ấy mấy lần?

-Thưa ông, hai lần,

-Hai lần! Vào những lúc nào? Anh không có đồng hồ?

-Thưa ông tôi nhìn cây xấu hổ ở cửa hang. Lúc lá nó xoè ra một lần, và lúc lá nó cụp vào một lần-Hắn đưa mắt nhìn bụi cây xấu hổ đang xoè lá trong nắng trưa ở cửa hang.

Sơn gật đầu-tức là lúc có ánh mặt trời, và lúc hoàng hôn sương bắt đầu xuống?

-Vâng!

-Anh nhận chiếc máy này và liên lạc về bên ấy từ năm nào, trong 12 năm anh ở trên đất nước chúng tôi?

-Thưa ông, từ năm 1975 ạ. Từ ngày 1 tháng 10 năm đó. Ngày ấy tôi về Trung Quốc. Tôi vào đồn biên phòng Xín Tiển và công xã nhân dân để dự lễ quốc khánh. Đồn trưởng Vương Thiệu Khuân giao cho tôi chiếc máy này. Tôi học sử dụng ba ngày tại đó.

-Từ đó tới nay anh liên lạc đến với bên ấy?

-Vâng! Hàng tháng tôi đi chợ và ghé vào đồn Xín Tiển lấy pin báo cáo tình hình máy móc, nhận tiền thưởng và nhận nhiệm vụ cụ thể từng thời gian.

-Nhiệm vụ cụ thể từng thời gian là thế nào. Anh nói rõ thêm.

-Thưa ông, đồn trưởng Vương Thiệu Khuân từng tháng giao cho tôi từng việc. Ví dụ tháng này phải điều tra bờ sông đất đá thế nào, xe tăng có lên được không. Tháng khác giao cho tôi theo dõi hoạt động của bộ đội biên phòng Việt Nam. Tháng sau tôi phái báo cáo cụ thể tình hình dân các bản H'mông. Tháng nữa tôi phải nắm cho được sự di chuyển của các đơn vị bộ đội Việt Nam, các trận địa phòng thủ, các hậu cứ Việt Nam sẽ sơ tán.

-Anh Phù. Anh nghĩ gì về những việc anh làm. Những tội ác anh gây ra trên đất nước đã nuôi sống anh?-Sơn để mạnh cái bút chì xuống cuốn sổ. Thái độ giận dữ.

-Thưa ông-Phù ngước mắt lên nhìn Sơn-tôi là người Trung Quốc. Tôi mang dòng máu của tổ quốc tôi. Xin ông biết cho…

-Thế thì tại sao anh lại bắt tên thám báo người Hán chính cống giao cho chúng tôi.

-Thưa ông, tổ quốc chỉ thị cho tôi phải làm việc đó. Ông Vương đã đẩy nó sang cho tôi bắt. Thưa ông! Đó là việc thí con tốt đen trong ván cờ. Việc đó đã tạo cho tôi có thêm thuận lợi để tôi chiếm được lòng tin của phía Việt Nam!

-Anh Phù, tại sao anh giết mẹ con chị Pàng? Anh có thấy đó là một tội ác không thể dung tha không? Giọng chỉ huy trưởng Sơn đanh lại. Sơn nhìn xoáy vào mặt hắn.

-Thưa ông… Thưa ông-Phù ấp úng. Mặt hắn nhợt tái như vỏ trứng ung-tôi rât yêu vợ tôi. Tôi rất thương con tôi-Hắn khóc, hắn giơ ống áo lên quệt ngang nước mắt!-Nhưng… Nhưng sao các ông lại buộc tội cho tôi đã giết vợ con tôi.

Hắn vừa nói, vừa khóc nức nở, y như vì Sơn đã khởi lại nỗi đau mắt không bao giờ dám nhắc lại-Chắc rằng các ông cũng có vợ, có con. Các ông yêu quý vợ con các ông thế nào thì tôi cũng thế.-Hắn như nói với chính mình-Trời, tôi lại giết vợ con tôi sao-Hắn rũ xuống như tàu lá héo. Hắn khóc nức nở. Khóc thành tiếng.

-Các ông bắn tôi đi. Tôi cũng không thiết sống nữa. Bắn tôi đi-Phù phanh ngực áo ra. Hắn lê bằng hai đâu gối đến gần Sơn hơn. Giọng hắn van lơn-Các ông bắn tôi đi.

-Anh muốn chết! Điều đó dễ thôi. Dù có chết một nghìn lần, anh cũng không chuộc lại được những tội ác anh đã gây ra. Anh nói rằng vợ anh rất yêu thương anh, điều đó đúng. Không riêng chị Pàng mà tất cả bà con bản Hoa Xư Pan đều quý mến anh. Bởi vì anh đã tạo ra một cái mặt nạ đáng yêu thế đấy. Sơn chỉ vào chiếc máy truyền tin. Anh nói to-Bây giờ không ai còn lạ gì khi thấy anh tốt đến mức đem cả trâu tặng bộ đội. Anh nói rằng, anh ở lại để xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, anh xây dựng bằng cách như thế này đây! Vai kịch anh đóng là rất khéo-Sơn dằn giọng. Bây giờ thì anh nói đi. Đừng bẻm mép nữa. Anh phải nói cho thật đúng. Một khi anh đã thực sự khai hết thì không những anh được sống mà còn được làm việc để lấy công chuộc tội.

Nghe Sơn nói, tên Phù giật mình. Hắn lấm lét hết nhìn Sơn lại nhìn xuống đất như muốn chui xuống để khỏi tự mình khai hết những việc làm phản phúc của mình. Hắn nhìn ra xung quanh. Hai chiến sĩ và cô Thào Xeo Xay súng lăm lăm trong tay. Đôi mắt người nào cũng sáng quắc nhìn chằm chằm vào hắn. Hắn cúi xuống. Hắn cảm thấy đôi mắt của Xay nhìn hắn như muốn thiêu cháy con người hắn. Bất giác hắn nhìn lên. Khi nhìn lại đôi mắt to tròn đầy căm giận của Xay thì hắn ngồi bệt xuống. Hắn lùi dần, lùi dần về phía sau như muốn chạy trốn đôi mắt của cô gái H'mông-Người bạn gái rất thân của vợ hắn trước đây. Như đọc được những suy nghĩ của hắn, Thào Xeo Xay thét lên:

-Voòng Kim Phù, mày phải khai đi. Mày là thằng ăn quả chặt cây, uống rượu đập ống. Tại sao mày giết mẹ con Pàng. Có phải mẹ con Pàng đã biết việc mày làm phản phúc nên mày giết đi để bịt đầu mối phải không?-Xay nói, nước mắt cô trào ra vì căm tức tên phản bội: vì thương người bạn gái xinh đẹp, xấu số.

-Nhưng… thưa ông-Phù ngước mắt nhìn Sơn-Dựa trên cơ sở nào mà ông và mọi người lại buộc tội cho tôi giết vợ con. Tôi yêu vợ con biết chừng nào-Hắn lại khóc rống lên-Không, không, chuyện này thì quả các ông đã vu khống cho tôi.


Sơn vẫn kiên trì. Anh chờ tên Phù tự khai ra những việc làm đen tối của hắn. Nhưng hắn đã tỏ ra xảo trá hơn. Sơn đứng phắt dậy. Sự cương trực và kiên quyết là đức tính của người xứ Nghệ hiện rõ trên khuôn mặt anh. Tay trái anh cầm cổ áo tên Phù xốc hắn đứng dậy, tay phải anh tát luôn hai cái thạt mạnh vào bộ mặt ghê tởm của hắn. Đôi mắt anh đổ ngầu căm giận: “Này vu khống. Này vu khống”. Nhưng rồi anh lại trấn tĩnh được ngay. Anh đẩy hắn ngồi xuống đất: “Mày biết rằng, lòng kiên trì của người ta cũng chỉ có giới hạn. Mày phải trả lời đây. Buổi sáng trước khi mẹ con chị Pàng chết, ai lên nương hái rau?”

-Thưa ông, tôi!

-Ai nấu cháo canh rau cải?

-Thưa ông, vì vợ tôi đi tuần tra chưa về, nên tôi nấu rồi lên nương. Khi tôi về thì đã thấy cảnh đau thương ấy xảy ra.

Xay xông tới. Cô chỉ vào mặt Phù, thét lên:

-Chính mày đã bỏ lá ngón vào chảo canh để giết mẹ con Pàng.

Miệng Phù há hốc. Mặt hắn tái đi như người bị điểm trúng huyệt.

Hắn lại ngã khuỵu xuống. Sơn đến nắm cổ áo hắn kéo xốc hắn dậy:

-Mày báo về bên kia: “Đã dập tắt tàn lửa”… có phải là tàn lửa tắt là việc mày đã giết mẹ con chị Pàng không?


Tên Phù cúi gằm xuống như người chịu tội. Hắn lúc lắc cái đầu, khoát một cử chỉ khuất phục! Sơn dịu giọng nói với hắn.

-Khai hết đi! Người Việt Nam chúng tôi rất nhân đạo. Những tên giặc sang cướp của giết người, đốt phá làng bản của chúng tôi, nhưng khi chúng đã nhận ra là chúng bị lừa gạt, bị đẩy đi gây tội ác để phục vụ quyền lợi cho bọn phản động cầm quyền ở Bắc Kinh, chúng xin được tha tội, xin được ở lại đất nước chúng tôi làm ăn, chúng tôi sẵn sàng cho ở, và bảo đảm cho cuộc sống. Như tên Lưu Ngọc chẳng hạn. Anh khai đi.
Phù nằm phủ phục. Hắn khóc:

-Nhưng thưa ông! Tôi rất yêu vợ con tôi. Nhưng… nhưn vợ tôi đã ngăn cản việc làm của tôi. Nhiều lần cô ta còn dọa sẽ báo với bộ đội biên phòng những việc tôi làm. Thưa ông! Xin ông hiểu cho, việc đau đớn này hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi-Hắn rên rỉ.

-Thế thì ai giết. Ai đã giết mẹ con chị Pàng?

Phù mếu máo, rồi hắn khóc. Hắn khóc thật sự. Những câu hỏi dồn, những câu căn vặn của Sơn đã buộc hắn phải kể lại cái tội ác ghê tởm hắn đã gây ra:

…Vào một buổi chiều sương đã trắng ngọn mai. Tiếng con chim gâu đã kêu gióng giả, nỉ non ở góc núi. Thào Xeo Pàng thấy chồng về bản muộn hơn mọi ngày, cô vội chạy lên nương tìm chồng. Bởi chiều đó, bố cô cho miếng thịt nai vừa săn được. Pàng đã nấu xong. Pàng đợi chồng về ăn. Và nữa, sương lạnh đã xuống rồi. Bên bếp lửa cái ghế chồng ngồi uống rượu còn để trống: nơi dệt vải thêu hoa của Pàng ở cuối nhà chưa ai buộc dây. Tình vợ chồng trẻ người H'mông thơm như nắm xôi nếp cẩm. Pàng lên nương không thấy chồng. Pàng đến lều cạnh cũng không thấy chồng. Bốn góc rừng đã mờ tối. Bốn góc trời sương đã bay. Pàng nhìn lên đồi cao thấy chồng đang lúi húi trên đó. Pàng chạy lên. Phù đang nói vào chiếc máy thông tin để liên lạc với bên kia. Pàng bàng hoàng, cô không hỏi thêm Phù điều gì nhưng cô đã hiểu ra tất cả. Biết không thể giấu được vợ, Phù xuống đồi giấu máy vào hang đá rồi cùng vợ đi về… Phù đã nói hết với vợ công việc làm của hắn. Phù nói trắng ra rằng 12 năm hắn sang đất Việt Nam là để làm việc này đây. Bởi Phù biết rừng, Pàng rất yêu hắn, đã có con với hắn. Hắn biết rằng có người vợ nào lại đang tâm báo cho bộ đội đến bắt chồng mình đưa đi. Và như hắn bị bắt thì Pàng cũng chả sung sướng gì. Pàng đau đớn, Pàng căm tức, Pàng buồn quay guồng tơ, guồng tơ như khóc. Đạp khung cửi, khung cửi cũng như than với người Pàng nén tức giận, cô khuyên chồng từ bỏ việc làm tội lỗi đó đi, để tình nghĩa vợ chồng được trọn vẹn. Pàng khuyên Phù hai lẽ, một là huỷ chiếc máy đi, cắt hẳn quan hệ với bên ấy, hai là đưa máy ra nộp rồi nhận hết lỗi lầm với bộ đội biên phòng thì chắc sẽ được an toàn tính mạng. Pàng tỷ tê với Phù: “Anh đừng như con chim chìa vôi uống nước rồi lắc mỏ, vỗ cánh bay đi; anh đừng bạc nghĩa với đất này như thế, với bản H'mông, với tình thương yêu của vợ con anh như thế. Làm như thế, anh sẽ là người không tốt đâu”.

Hai tay hắn nắm chặt. Hắn tròn mắt nhìn vợ:

-Thì ra cô khuyên tôi đầu hàng, phản lại tổ quốc tôi sao-Phù hạ giọng-vả lại nếu làm như thế, người bên ấy họ không để tôi sống. Cô muốn giết tôi sao? Bao năm nay nhà ta có cuộc sống đầy đủ, có nhiều tiền, có đàn trâu, có quần áo đẹp là do tiền của bên ấy thưởng cho tôi làm những công việc này.

Phù khuyên Pàng bế con chạy sang bên kia biên giới để lánh đi rồi hắn sẽ thu xếp chạy sang sau. Pàng nói với hắn, giọng cô cay đắng:

-Thì ra bao năm nay anh đã nuôi mẹ con tôi bằng đồng tiền tội lỗi, đồng tiền bán rẻ đất bản H'mông của tôi.
Pàng đã nói thẳng với Phù, rằng cô không bỏ đất nước này không bỏ bản H'mông này. Nếu cô chết cũng chết ở đây để hoá thành cán cuốc cho mẹ cha làm cỏ nương ngô, rẫy lúa.

Những lần thấy Phù từ trên nương về muộn, Pàng biết hắn lại tiếp tục làm cái việc tội lỗi đó. Cô đã định đi đến đồn biên phòng. Phù cầm tay Pàng giữ lại. Phù dùng những lời êm dịu để dụ giỗ Pàng. Những lúc ấy, Pàng đã nói thẳng với hắn. Nếu hắn không từ bỏ, sớm muộn cô cũng sẽ đi báo cáo với các chiến sĩ biên phòng.

Ngay sáng hôm sau, Phù báo về cho đồn trưởng Vương Thiệu Khuân biết cơ sự đã lộ. Vương chỉ thị cho Phù phải diệt ngay Pàng để bịt đầu mối. Và nếu bố mẹ của Pàng biết cũng tìm cách diệt!


Nhận được chỉ thị đó, Phù có suy nghĩ, Phù băn khoăn nhất là khi nhìn thấy Pàng buồn, người cô gầy vọp đi: nhìn thấy đứa con gái ríu rít bên mẹ. Song vì quyền lợi của tổ quốc Trung Hoa vĩ đại, và Phù sang đây không phải để hưởng cảnh sống hạnh phúc này… Phù đã giết chết vợ con bằng cách hái lá ngón nấu canh lẫn với rau cải cho vợ con ăn.


…Kể xong, Voòng Kim Phù gục xuống bên khúc gỗ mục. Hắn khóc. Hắn quỳ, hai tay Phù chắp lại trước mặt Sơn:

-Thưa ông, chuyện là thế. Thực tình tôi không muốn giết vợ con tôi. Tôi chỉ làm theo lời của người bên tổ quốc tôi chỉ thị.

-Tội của anh đáng chết. Tội làm gián điệp phá hoại đất nước chúng tôi. Tội giết hai mạng người Việt Nam chúng tôi. Anh thấy đấy. Bây giờ anh nghĩ như thế nào. Cho anh tự liệu lấy cuộc đời còn lại của anh.

-Thưa ông, thưa ông! Tội của tôi thật nặng. Nhưng thưa ông…

-Anh có muốn sống nữa không?

-Thưa ông-Phù ngước mắt nhìn Sơn, trả lời nhanh-Nếu các ông cho chọn giữa cái sống với cái chết, tôi xin được chọn cái sống.

-Anh muốn sống thì với điều kiện anh phải làm mọi việc theo yêu cầu của chúng tôi.

-Vâng! Nhưng ông thương cho, còn bố mẹ tôi bên ấy.

-Việc này chỉ có chúng tôi biết. Nhưng anh phải thật thà. Nếu tráo trở, anh sẽ bị chết. Và chúng tôi sẽ báo cho bên kia biết anh đang cộng tác với chúng tôi.

-Ông thương cho!

-Anh nói đi. Bên ấy người chỉ huy anh theo anh nói là Vương Thiệu Khuân có ghi âm lại tiếng nói của anh báo về qua máy không?

Phù ngước mắt nhìn Sơn khâm phục. Không ngờ các ông lại biết cả đến việc tưởng như chỉ có một mình nó biết. Phù cúi mặt xuống.

-Có, ông Vương có ghi âm nhiều lần. Tháng nào tôi sang đi chợ ghé vào đồn, ông cũng quay máy ghi lại lời tôi để đối chiếu với tiếng nói của tôi báo về hàng ngày.

Sơn gật đầu.

-Trong câu nói của anh báo về bên ấy hàng ngày, chỉ huy của anh có quy định ám hiệu riêng để nhận tiếng nói của anh không, hoặc phân biệt giữa anh và người khác nói không?

-Thưa ông, có.

-Anh nói rõ điều này.

-Thưa ông. Vương đồn trưởng có dặn tôi rằng, nhất thiết mỗi câu nói trong máy báo tin tức về phải có tiếng “a” ở trước, ở giữa và ở sau câu.

-Ví dụ câu: “Bộ đội Việt Nam đánh thắng giặc Trung Quốc xâm lược”, nếu gọi máy báo về, anh nói như thế nào cho đúng quy định?

-Thưa ông, tôi sẽ nói rằng: “A bộ đội Việt Nam, a đánh thắng giặc Trung Quốc xâm lược a”.

-Mỗi câu phải có ba tiếng a?

-Thưa ông, vâng!



…Chiều hôm ấy, khi sương chiều xuống, cây xấu hổ cụp lá, từ bản H'mông Hoa Xư Pan, Phù lại gọi về đồn biên phòng Xín Tiển bức điện: “Tình hình chưa có gì mới thêm. Hạt giống đỏ vẫn an toàn. Xin chờ phiên sáng mai”…

Rung cây rừng tìm thú dữ

Tàu dừng lại ở ga cuối cùng. Đó là một thị trấn sát vùng biên giới. Nhà cửa của thị trấn đã bị giặc Trung Quốc đốt cháy trụi. Những cái tốt, chúng đã giỡ sườn lấy gỗ, cậy đá hoa mang về nước. Trong thị trấn bây giờ toàn là nhà mái lá cột tre của người đi sơn tán về dựng tạm. Ngay cả nhà ga cũng che bằng mái lá trên các bức tường nham nhở vết đạn. Một cô bộ đội ăn mặc chỉnh tề, đội chiếc mũ mềm bằng dạ. Cô đeo quân hàm thiếu uý quân y đi ra sân ga. Đôi quân hàm của cô đeo đỏ tươi mầu nỉ mới, dấu hiệu quân y bóng mạ nhôm. Tay cô xách túi du lịch. Nhìn cô thiếu uý, mọi người đều đoán được ngay cô là bác sĩ mới ra trường.
Cô thiếu uý quân y gặp một chiến sĩ đeo quân hàm xanh cấp hạ sĩ biên phòng. Cô quân y xách túi đi về phía anh. Cô tươi cười nhìn anh như đã quen biết anh từ lâu. Cô nói, giọng thân tình:

-Chào đồng chí! Đồng chí chiến sĩ biên phòng đi về đâu đấy?

Anh chiến sĩ nhìn cô quân y vẻ ngờ ngợ, vui vui. Cái vui của một người con trai trẻ được cô gái đẹp vồn vã săn đón. Mà đáng lý ra cái vồn vã ấy phải dành về phía anh. Nhưng rồi anh hơi ngường ngượng khi anh đưa mắt liếc cái quân hàm cô đeo lại là thiếu uý. Còn anh chỉ mới một sao bám chắc trên cái gạch vàng. Anh trả lời hững hờ:

-Tôi về Mường.

-A, may quá. Tôi cũng đi về mạn ấy. Đồng chí chỉ đường cho tôi với nhé. Chả giấu gì đồng chí, tôi cùng đội quân y lên làm công tác tẩy uế chiến trường tiện đường lên thăm ông anh ở trên ấy mà.

Thấy cô gái đẹp thân mật tỏ ý muốn làm quen, anh chiến sĩ biên phòng tưởng như đã rút ngắn sự cách biệt:

-Mai ta đi xe. Phải đi một chuyến xe nữa mới tới. Giờ xe hết chuyến rồi mà.

-Không sao đồng chí ạ, như thế cũng được. Tôi đang còn dài ngày. Mà đồng chí về thăm nhà, hay đi công tác trở về đơn vị đấy. Chà tình hình này, chiến sĩ biên phòng các anh vất vả lắm-Cô quân y cười nhìn anh chiến sĩ-thế là chúng ta đã làm quen được với nhau rồi nhé-cô quân y nhanh nhẩu bộc lộ ngay cái tính vui vẻ, cởi mở và rất tin người.

Anh chiến sĩ biên phòng liếc mắt nhìn cô. Anh thấy tự hào được đi bên một cô gái đẹp. Anh thấy thích thú, thấy có cảm giác là lạ của người con trai chưa vợ. Anh cười, giọng vui vẻ trả lời cô:

-Vâng, tôi đi công tác trở về đơn vị.

Cô thiếu uý đưa anh chiến sĩ vào quán nước. Cô kéo ghế cho anh ngồi. Cô gọi hai cốc nước, mua bốn quả chuối, kẹo lạc mời anh. Anh chiến sĩ biên phòng ngượng. Bởi anh ít quen với cảnh ngồi hàng quán thế này. Cô quân y tủm tỉm cười nhìn anh. Cô nhẹ nhàng hất đuôi tóc dài óng mượt về trước, hai tay vân vê, cô nũng nịu:

-Ăn đi anh, tự nhiên mà-cô nói nhỏ. Rồi giọng cô hạ xuống trở nên nhõng nhẽo. Ở đây tôi là cấp trên. Tôi chỉ thị anh ăn kẹo đi-cô đẩy nhẹ một cái vào lòng anh. Nhưng cô lại ngầm dúi mạnh cái móng tay dài vào đúng lườn anh. Anh chiến sĩ giật mình… sự quá thân mật đến mức lả lơi. Anh chiến sĩ vừa uống nước vừa nhìn ngắm cô. Cố co khuôn mặt trong đầy đặn. Hai gò má hơi nhô cao. Đôi mắt đen láy, sắc sảo. Đặc biệt cô có nước da đẹp. Nước da trắng hồng, mịn màng. Rồi anh mất hẳn vẻ tự nhiên vốn có của người chiến sĩ. Cô gái mở túi trả tiền cho bà chủ quán rồi hai người sóng đôi đi ra. Bà chủ quán nhìn theo. Bà mỉm cười, bà nói nhỏ nhưng cố ý cho hai người nghe được: “Đất sỏi mà có chạch vàng, ở nơi này mà có người đẹp đáo để”. Nghe bà chủ quán nói vậy, hai người nhìn nhau mỉm cười. Bỗng nanh chiến sĩ biên phòng thấy mình hãnh diện đi bên cô gái đẹp. Anh nghĩ rằng giá như mình mà giúp đỡ cô được việc gì đó thì cũng là một điều tự hào lắm chứ! Vai anh mang ba lô đã nặng, anh vẫn cố giành xách cái túi du lịch cho cô quân y. Anh giúp một cách tự nguyện vui vẻ và lấy làm thích thú. Cô quân y cùng anh đi sóng đôi trên con đường sát bờ sông. Cô bắt đầu “điều tra cơ bản” anh chàng dễ tính này. Cô buông lời cợt nhả.Mắt đưa đẩy nhìn anh:

-Trông anh còn trẻ lắm, năm nay anh bao nhiêu tuổi?

-Sang tuổi hai tư rồi!

-A, thế ra tôi còn ít tuổi hơn anh hai tuổi đấy. Người ít tuổi hơn gọi người nhiều tuổi hơn bằng anh chứ nhỉ. Ta xác định đúng vị trí nhé. Em gọi anh bằng anh! Ta bỏ qua sự cách biệt không cần thiết anh nhỉ. Trong cuộc sống có sự may rủi, gặp thời chứ anh. Những năm các anh chiến đấu gian khổ để bảo vệ Tổ quốc, bây giờ lại bảo vệ biên cương là để cho chúng em được học hành đến đầu đến đũa. Tóm lại, em mang ơn các anh lắm. Em phải đền ơn này mới đúng chứ lị. Anh chiến sĩ biên phòng ở trên rừng cao xanh bao năm nay được nghe những lời ngọt ngào, thái độ mềm mỏng êm ái của cô gái đẹp vuốt ve, anh, thấy mát lòng, mát dạ làm sao.

-Thế tên anh là gì nhỉ. Em phải biết để gọi chứ. Chả lẽ lại cứ anh, anh hoài, ngượng chết!

-Là Bình, Thanh Bình!

-A, tên anh đẹp quá. Em là Phương Lâm nhá.

Cô đưa tay sờ cái quân hàm Bình đeo trên ve áo.

-Màu quân hàm chiến sĩ biên phòng đẹp quá anh nhỉ. Có phải màu xanh này là màu xanh biên giới, màu xanh rừng núi, màu xanh non xanh nước biếc phải không anh Thanh Bình. Đeo màu xanh này nom người càng trẻ ra anh nhỉ-Cô cười ngặt ngoẽo…

… Sáng sớm hôm sau, Bình được mua hai chiếc vé ưu tiên, trước nhất trong diện người lên tuyến một-tuyến biên phòng. Mua vé rồi, cô quân y ghé tai Bình nói nhỏ:

-Anh Bình ơi, hôm nay là ngày bảy nhỉ. Ngày lẻ rồi, có thể dễ gặp điều không may. Ta đi ngày bảy mà. Ngày năm ngày bảy ngày ba, đi chơi cũng lỗ nữa là đi thăm chứ anh. Nếu lên đây em không gặp được người anh, thì anh Bình phải giúp đỡ em, anh Bình nhé. Em lạ nước lạ cái, rồi thân gái dặm trường chứ anh.

Bình nhìn cô quân y:

-Được thôi! Cô lên biên giới là lên quê tôi rồi đấy. Lính biên phòng chúng tôi gọi biên giới là quê hương mà.

-Thế chứ. Nhưng giá như lúc em gặp khó khăn, rồi anh có dám giúp em, đưa em vào chiêu đãi sở của đơn vị không nào-Mắt cô liếc Bình đưa đẩy cho câu nói-Anh có dám nhận em là, giả thử em gái con bà cô chẳng hạn, không nào. Ờ, mà anh Bình của em quê ở đâu nhỉ?

-Ở Vĩnh Phú.

-Vĩnh Phú à… Đúng rồi-Cô quân y ngẫm nghĩ một tý-thế này nhé. Anh nói em cùng với đội quân y lên đây tẩy uế chiến trường tiện xe ghé thăm anh chẳng hạn. Mà biết đâu thăm anh thật thì sao nào.

Giọng nói của cô ngọt lừ, không chút ngượng ngập. Rồi cô chủ động, cầm lấy tay Bình-Nào, bắt tay em đi nào. Bắt tay để chứng tỏ anh sẵn sàng giúp em đi nào.

Bình và cô quân y ngồi ghế đầu của chiếc xe khách. Đường rừng. Xe xóc. Cô quân y gục đầu vào vai Bình. Mắt cô lơ mơ nhìn cảnh núi non mây khói vùng biên giới. Cô nói với Bình về rừng núi ta là kho thuốc có nhiều loại thuốc quí lắm. Nhất là vùng núi Hoàng Liên này. Cô nói về kiến thức đông y, tây y, về cách chữa các loại bệnh. Xe đến bến. Phiên chợ tan. Người các dân tộc H'mông, Dao đứng vây quanh chiếc xe để đón người quen. Cô quân y nhìn ra xung quanh. Đối với cô đây là một vùng núi non lạ.

-Anh Bình ơi! Đường về bản Mía Ngọt ngả nào nhỉ. Em trông xung quanh cứ rờn rợn thế nào ấy. Đúng là đi đâu tránh ngày lẻ anh nhỉ. Đơn vị anh ở chỗ nào?

Bình chỉ về phía khu nhà lá mới ở phía chân đồi. Mái nhà ẩn hiện trong mây chiều xuống núi. Và những cây thông sa mu, mây sương bọc trắng nom như cây nến trắng.

-Ở kìa-Bình chỉ về phía đó.

-Ôi đẹp quá. Chố ở của các anh nom như trong tranh như cảnh thần tiên anh Bình nhỉ.

-Còn bản Mía Ngọt thì đi theo con đường này, qua rừng lê, rừng mận về phía quả đồi sau kia.

-Ôi, trời sắp tối rồi. Vắng quá anh Bình ạ. Ta thực hiện phương án anh em mình đã bàn đi anh Bình.

Bình đứng lại, anh ngần ngừ một chút: “Cố Lâm cùng về thì thích thật đấy. Nhưng rồi mình sẽ nói thế nào cho xuôi nhỉ. Rồi bạn bè chạy ra xem. Rồi ban chỉ huy hỏi. Rồi, rồi… trăm thứ bà dằn, ngượng chết. Nhưng cô ấy là quân y, là bộ đội, mình lại nhận là anh em con cô con cậu thì có sao. Ai về tận quê mình mà tra nã. Thôi, đã thế thì cứ thế.

-Anh Bình! Sao anh đứng ngẩn ra suy nghĩ gì thế. Nếu anh thấy phiền thì em đi vậy-Đôi mắt cô nhìn Bình vẻ đắm đuối, nhưng giọng nói ra điều hờn dỗi.

-Không sao, không sao!

Hai người đi về phía nhà chiêu đãi sở. Chiều ở đây mát mẻ. Trong gió có mùi thơm của phấn thông sa mu…

Tối đến. Bình hỏi Lâm đưa giấy công tác để báo cáo với đơn vị. Cô quân y kéo Bình vào phòng riêng ghé tai nó nhỏ:

-Anh Bình ơi. Em giấu anh một điều mà giờ em mới dám nói. Em đi tàu hoả, kẻ cắp lấy tất cả ba lô, giấy tờ của em. Em chỉ có mỗi cái túi xách này. Em phải vào công an, phải nói đến phát khóc lên, họ mới chứng nhận cho và cấp cho em cái giấy này. Đây, anh xem. Anh nói giúp với đơn vị hộ em với. Trong thời chiến này, chắc các thủ trưởng cũng thông cảm!

Phương Lâm đưa cho Bình cái giấy viết tay: “Chứng nhận bác sĩ Phương Lâm, cấp hàm thiếu uý, đi lên vùng mới xảy ra chiến sự để làm công tác tẩy uế. Trong khi đi tàu, đồng chí Phương Lâm đã bị kẻ cắp lấy hết đồ đạc giấy tờ. Chúng tôi tạm cấp giấy này làm bằng chứng để đồng chí Lâm được đi lại dễ dàng khi trở về đơn vị…”.

Phương Lâm ở lại chiêu đãi sở một ngày, hai ngày Bình đưa cô đi chơi xem rừng thông, đi xuống bản thăm chợ phiên, xem cửa hàng, Bình đưa Phương Lâm đi đến đâu cũng được bà con dân bản, anh em bạn bè, những người qua đường dù cưỡi ngựa cũng ghìm cương lại, ngắm nhìn Lâm. Ai cũng trầm trồ, cũng khen cô bộ đội đẹp lạ. Nên Bình càng cảm thấy tự hào, anh cũng không muốn nhắc Lâm về chuyện lên bản Mía Ngọt thăm người anh nữa. Còn Lâm thì cũng dễ dàng biết được Bình rất hãnh diện về mình.

Hôm sau Phương Lâm nói với Bình:

-Em lên đây là để tìm một người ở bản Mía Ngọt. Người đó có công giúp đỡ anh trai của em bị thương trong trận chiến đấu vừa qua.

-Lâm muốn tìm người nào ở bản ấy?

-Anh có biết ông Mầu không? Ông Xì Xám Mầu ấy mà.

-À, à, có biết. Bản Mía Ngọt gần biên giới lắm. Lâm cứ ở chơi ít ngày rồi tôi sẽ đưa đi. Vùng này bản nào mà tôi lại chả biết.

-Có phải ông Mầu là cán bộ huyện không anh?

-Đúng rồi. Ông ấy giúp anh cô à?

-Phải đấy anh Bình ạ.

Rồi cô quân y hỏi anh chiến sĩ biên phòng những chuyện về vùng biên giới này.

Mấy hôm được sống gần một cô gái đẹp, lại được cô mớn trớn, nói năng ngọt ngào, mắt, môi đưa đẩy, anh chiến sĩ biên phòng chưa từng trải yêu đương có vẻ say. Nhưng rồi khi nghe cô ta hỏi nhiều đến những chuyện bí mật ở vùng biên giới, cô lại không có giấy tờ gì của quân đội cấp ngoài một tờ giấy chứng nhận viết tay… Bình bắt đầu suy nghĩ. Mà nữa, sáng nay khi Bình vào phòng cô quân y thì vô tình anh mới biết mớ tóc dài óng mượt cô hay vuốt ve đó là mớ tóc giả. Bởi lúc đó, cô đang gỡ ra chải. Còn mái tóc thật của cô thì chỉ ngắn cũn cỡn ngang vai. Thấy Bình đã biết được điều đó, Phương Lâm lúng túng. Mặt cô hơi biến sắc. Nhưng cô trấn tĩnh lại. Cô tươi cười nói với Bình:

-Anh Bình, anh đưa em đi chợ xem chợ nhé.

Trong buổi xem chợ đó, Bình lại phát hiện được thêm ở cô quân y một điều mới lạ nữa. Cô nói chuyện được với cả người Hoa. Như đoán được điều thắc mắc của Bình, Phương Lâm tươi cười nói với anh:

-Anh Bình ạ, em biết nói đôi chút tiếng Hoa là vì hồi còn học phổ thông, em có học Trung văn.

Bình bắt đầu lo. Nhưng chuyện đã lỡ rồi bây giờ biết giải quyết thế nào đây để đừng vỡ lở ra và chỉ một mình biết thôi. Bình muốn dồn Lâm đi để đỡ rắc rối. Nhưng cô quân y chưa chịu đi. Cô ta cứ bám lấy Bình. Vì cô thừa biết rằng bây giờ Bình cũng không dám nói ra sự thật với ai nữa. Và rồi đến một lúc nào đó, hắn ta sẽ phải giúp mình, che chở cho mình trót lọt. Bởi vì mình trót lọt là hắn mới trót lọt.

Còn anh em thì lại cứ không buông tha Bình. Thấy Bình ở đâu họ cứ đùa, cứ nhấm nháy Bình: “Này, trông em cũng đẹp đấy chứ. Anh làm mối cô em gái cho em nhé…”.

Bình đắn đo. Rồi Bình quyết định: sai thì phải sửa. Anh sẽ nói riêng chuyện này với ban chỉ huy, với các đồng chí trinh sát. Chỉ huy trưởng Sơn đã biết sự việc. Anh gọi Bình lên, Bình kể lại mọi diễn biến của câu chuyện cho Sơn nghe. Xong. Bình ân hận nói:

-Báo cáo đồng chí chỉ huy trưởng! Tôi đã nhẹ dạ. Tôi đã phạm khuyết điểm. Tôi xin nhận mọi hình thức kỷ luật.

Sơn cười. Anh nhìn người chiến sĩ trẻ. Anh vỗ vai Bình:

-Yên tâm. Thế là tốt. Chỉ sợ đồng chí không thấy được vấn đề thôi. Ngày con trẻ, tôi cũng mê gái đẹp. Tuổi trẻ mà. Nhưng Bình ạ, biết đâu trong khuyết điểm của đồng chí lại ló ra một đầu mối để lập nên chiến công. Nếu nó đúng là người Hoa, đúng là kẻ gian thật thì đồng chí đã có công câu được một con cá đưa về để nhốt vào chậu rồi đấy. Tôi phải gửi đồng chí đi học trinh sát, đồng chí sẽ không phạm phải sai lầm này nữa! Còn bây giờ thì chúng ta bắt tay vào việc nhé…

Bình về chiêu đãi sở gặp Phương Lâm, anh vẫn vui vẻ chuyện trò với cô. Anh lại đưa cô đi xem bản, xem rừng. Anh coi như không có chuyện gì xảy ra. Thấy thái độ của Bình như thế Phương Lâm lại càng vững dạ.
Chỉ huy trưởng Sơn ngồi im. Anh suy nghĩ: “Hãy khoan tìm biết nó. Ta hãy tìm xem người nó muốn đến gặp là ai, khắc biết ró nó là ai”. Sơn gọi các đồng chí chiến sĩ trinh sát đến báo cáo với anh về Xì Xám Mầu.

Mầu chạy sang bản H'mông Mía Ngọt này từ năm 1962. Năm ấy bên Trung Quốc đang chống Liên Xô mạnh mẽ nhất. Mầu đưa cả vợ con chạy sang. Mầu vừa mếu vừa khóc. Mầu nói với các chiến sĩ biên phòng rằng chỉ vì anh ta đeo chiếc đồng hồ của Liên Xô nên anh bị truy đuổi, bị coi là theo xét lại… Bà con bản H'mông thương tình cho Mầu làm nhà, cho Mầu phát nương làm ăn sinh sống. Mười bảy năm qua, Xì Xám Mầu làm nương, trồng rau, nuôi gà. Rồi cũng như những người dân biên giới, thỉnh thoảng Mầu sang bên ấy ăn chợ, sang thăm bà con. Và mỗi năm đôi lần, người bên ấy sang bên này thăm Mầu. Họ cho Mầu quà cáp, Mầu hiền lành, ít nói, hay cười. Mầu sống được lòng mọi người. Ai thiếu gì, Mầu cũng sẵn sàng giúp. Anh biết nhiều bài thuốc chữa bệnh bằng cây rừng vùng H'mông này. Ai đau gì anh cũng đi hái thuốc cho. Mầu có cái đài thu thanh Xiêng Mao nghe tin tức nhiều nước. Tối tối bên bếp lửa, Mầu thường nói lại tình hình nước ta, Trung Quốc, tình hình các nước xa gần cho bà con nghe. Mầu làm ăn biết tính toán, có kế hoạch. Anh ta nuôi gà, gà đẻ nhiều trứng, mùa sương muối không bị chết toi; nuôi lợn, lợn béo. Anh ta biết làm, biết nấu nhiều món ăn rất ngon. Người H’mông thích lắm. Nhà nào có đám ma, đám cưới đều mời Mầu đến giúp. Đàn ngựa thồ của Mầu con nào cũng béo mượt lông, bằng lưng bởi Mầu biết cách hàng tháng nấu cháo gạo nếp với chó mới đẻ cho ngựa ăn nên ngựa khỏe, dai sức, thồ được nhiều hàng. Bà con bản H’mông bầu Mầu làm chủ nhiệm hợp tác xã. Rồi Mầu được làm việc ở Ban mặt trận huyện. Mầu nói không những được người H’mông, người Hoa, người Nùng mà còn được dân tộc anh em tin và nghe theo. Mầu luôn mồm ca ngợi đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là sáng suốt là đúng đắn. Hôm giặc Trung Quốc đánh sang, Mầu đưa vợ con đi sơ tán với dân. Giặc đánh đến bản Thàng, Mầu lại đưa dân chuyển lên bản Sơn. Giặc đánh đến đâu, Mầu đã đưa dân ở đó đi trước rồi, đưa kho tàng của Nhà nước chuyển đi rồi. Dân biết ơn Mầu nhiều lắm. Giặc rút chạy. Mầu lại đưa dân trở về bản Mía Ngọt. Mầu bàn với dân phải đi làm nương ngay, phải tra ngô, đúc lúa ngay, kẻo chậm thời vụ, năm sau sẽ đói. Tóm lại, Xì Xám Mầu là một người Hoa tốt. Mầu sống tốt, sống chí tình với bà con bản H’mông Việt Nam.

Đại loại lời đồng chí trinh sát báo cáo về Xì Xám Mầu là như vậy, chỉ huy trưởng Sơn cười:

-Có khi lại “thủng lưới” bởi cái tốt, cái sống chí tình của thằng này đây. Các cậu có biết không, cây lúa quá tốt thường lại là cây lúa xấu nhất.

Sau khi ra chiêu đãi sở thăm cô quân y, em chiến sĩ Bình về, Sơn thống nhất nhận định với các chiến sĩ trinh sát:

-Ta loại trừ khả năng Phương Lâm lên tìm người đã cứu anh nó. Bởi vì suốt những ngày chiến đấu, Mầu không hề cứu chữa ai, không tiếp xúc với một đơn vị bộ đội nào.

-Thưa đồng chí chỉ huy trưởng thế thì tại sao Phương Lâm không mò lên bản Mía Ngọt để gặp ngay Xì Xám Mầu?

Nếu tôi là nó thì tôi cũng không vội vào ngay. Theo tôi bây giờ ta thử “rung” để xem nó có “động” không. Bởi cây rừng có động, thú dữ ẩn nấp mới lộ mặt ra.

Thực hiện ý đồ đó vào một buổi sáng trước phiên chợ, chiến sĩ Bình kéo cô em gái vào phòng riêng. Anh nói nhỏ, vẻ quan trọng lắm:

-Phương Lâm ạ. Thật đáng buồn, em không gặp may rồi…

-Anh nói sao-Cô gái trố mắt nhìn Bình.

-Người em cần tìm gặp đã bị bắt rồi!

-Anh nói sao, ai bị bắt?

-Xì Xám Mầu. Anh nghe nói hắn ta đâu là gián điệp của Trung Quốc cài sang. Hắn giả làm người tốt để giấu mặt… Bình nói như vô tình. Thái độ anh hờ hững.


Nét mặt Phương Lâm đang hồng tươi, hớn hở bỗng tái đi. Đôi mắt sắc sảo của cô sập xuống, vẻ lúng túng lộ rõ trên nét mặt. Nhưng cô trấn tĩnh lại và nở một nụ cười mơ hồ:

-Thế à anh!

-Nghe nói, Mầu đã khai ra là hắn có liên hệ với những ai ở tận đâu đâu nữa cơ. Tôi nghe nói nó giữ địa vị quan trọng trong đám gián điệp của Trung Quốc đấy-Nói xong Bình đi ra.

Cô gái nhìn theo. Rồi cô nhìn ra con đường mòn như sợi chỉ vàng vắt qua dốc núi. Đôi môi cô mím chặt. Nét mặt cô rắn danh lại như muốn hạ một quyết định táo bạo.

Phiên chợ tan, từng đoàn người H’mông, người Dao, người Pa Dí… đuổi ngựa thồ hàng tản về các ngả núi.
Rồi giờ ăn cơm đến, ở nhà chiêu đãi sở không thấy có thiếu uý Phương Lâm xuất hiện nữa. Cô bỏ lại cái túi du lịch giả da. Trong túi có bộ quân phục, cái mớ tóc giả, đôi quân hàm và giấy chứng nhận là thiếu uý quân y bị mất cắp ba lô!


Tối mịt, đội tuần tra báo tin về khu biên phòng: đã bắt được Phương Lâm mặc bộ quần áo người Hoa. Trong lúc đang tìm đường vượt biên giới sang bên kia, trong người có một khẩu súng K54.

Chỉ huy trưởng Sơn ra lệnh cho đội tuần tra đưa ngay cô gái về khu biên phòng.

Cô gái được đưa vào một phòng rộng, Sơn đã ngồi chờ từ lâu. Anh chỉ chiếc ghế gỗ thông.

-Chị tên là gì? Chị ở đâu tới đây?

-Thưa anh-Cô gái nhoẻn miệng cười, và mở to cặp mắt đẹp nhìn Sơn.

-Không! Chị phải gọi tôi bằng ông. Chị là kẻ có tội. Chị phải khai hết đi. Đó là lời khuyên thật lòng của tôi. Bởi vì, dù chị có giấu quanh cũng không thể được. Vì người chị muốn gặp đã bị bắt và đã khai nhiều điều với chúng tôi.

-Thưa ông, tên tôi là Tú Anh. Tôi từ H. lên.

-Chị là người Hoa?

-Thưa, vâng tôi là người Hoa.

-Chị lên đây làm gì?

-Thưa ông, tôi định… tôi định lêm tìm gặp một người Hoa ở đây.

-Tên người Hoa chị cần gặp là gì?

-Thưa ông, đó là ông Mầu, Xì Xám Mầu ạ!

-Thế tại sao chị lại bỏ chạy sang bên kia biên giới.

-Thưa ông, nghe nói các ông đã bắt ông đó, tôi sợ bị lộ.

-Chị gặp ông Mầu để làm gì?

-Thưa ông chỉ huy! Ở dưới đó có người sai tôi lên đây tìm ông Mầu để yêu cầu ông báo về bên kia là những người Hoa từ Chợ Lớn theo lệnh của sứ quán Trung Quốc ra Hà Nội để phối hợp hành động chống chính quyền Việt Nam đã bị bắt gần hết. Mọi việc bị tan vỡ cả. Các đường liên lạc về bên ấy bị đứt, và không vào được sứ quán nữa. Họ muốn yêu cầu ông Mầu là cấp trên của họ nằm lại đây giúp họ chạy về nước hoặc xin chỉ thị hành động của chủ tịch Uỷ ban trung ương kiều uỷ bên ấy truyền cho họ.

-Được rồi. Tôi ghi nhận lời khai của chị. Chị hãy viết lại rõ ràng những lời khai đó. Chị viết tên tuổi những ai đã sai lên đây. Hiện họ ở đâu? Theo chị biết thì còn bao nhiêu người từ Chợ Lớn ra đang lẩn trốn. Chúng trốn ở đâu?

Sơn đưa cho Tú Anh cả xếp giấy và cái bút.

Khách quý của Vương đồn trưởng

Trên đầu núi Pao Pin đã tờ mờ. Vầng sáng màu mỡ gà mới bằng cái nón.

Tẩn Quang Vần và Ma Quang Dín đi về phía biên giới. Sáng rõ, Vần đứng lại. Vần nhìn cổ đôi bít tất trắng, nhìn cán chiếc ô, nhìn sợ chỉ đen cột ở cổ tay phải của mình. Anh quay sang nhìn những thứ đó của Dín. Tay Dín xách thêm cái túi vải lanh. Trong túi đựng một cái lọ. Đó là quà của ông Xín gửi đến cho Mã đoàn trưởng. Từ sáng hôm qua, nghe con trai và Vần bàn nhau sẽ sang bên ấy thực hiện kế hoạch của chỉ huy trưởng Sơn, ông Xín đã đi bẫy được một con bìm bịp. Ông đưa về ngâm rượu H’mông. Ông Xín nói “thằng Mã mê cái món rượy này lắm. Ngày hắn sang làm đường, hắn đã ngồi uống thứ rượu này với ông. Hắn còn nhớ. Và cũng chính nhờ cái ấy mà đã tạo ra được thuận lợi này đây”. Ông Xín hạ giọng. Ông nói với Dín: “Mình mất một vốc nước, được cả một suối đầy, cứ đưa cho hắn để hắn tin”.

Hai người luồn khe núi đi thẳng.

Bọn lính Trung Quốc dàn trận trên các mỏm đồi chúng còn lấn chiếm sang đất ta. Chúng chiếu ống dòm nhìn sang. Chúng đã nhìn thấy hai người dân đi về phía chúng. Chúng đứng lố nhố bên bờ hào. Những mũi súng của chúng đều chĩa về phía hai người. Vần và Dín vẫn đi thẳng. Rồi hai người bắt đầu trương ô lên. Đến chân đồi, tổ phục kích của chúng xông ra hét:

-Chản chồ, chản chồ (đứng lại, đứng lại), Vần và Dín đứng lại. Hai người giơ cao cán ô lên cho chúng nhìn. Chúng nhận rõ ở cán ô có ba viền vàng. Và viền ở giữa không khít vòng trong của cán. Chúng nhìn xuống cổ bít tất của hai người. Cổ trắng nhô cao ra ngoài ống quần. Và tay trái hai người có vòng chỉ đen buộc. Chúng cười với nhau. Chúng cười với hai người “Hảo, hảo”. Bọn lính bắt tay hai người rồi dẫn họ lên đồi. Theo yêu cầu của Vần và Dín, bọn lính đưa ngay hai anh về đồn biên phòng Xín Tiển. Trong phòng khách nơi mà Vần và Dín được tiếp hôm sang học đẻ làm cán bộ cơ sở của khu tự trị, Mã Dín Nần tiếp hai người. Vần và Dín ngồi vào ghế bành. Thuốc lá Trung Hoa Bài, rượu Mao Đài được bày ra. Vần nhìn Mã vẻ kính trọng;

-Thưa Mã đoàn trưởng, ông Ma Quang Xín gửi quà đến biếu Mã đoàn trưởng-Vần trao lọ rượu cho Mã. Mã nhìn thấy con bìm bịp đỏ tươi, lưỡi le dài, hai mắt trợn trừng như nhìn Mã, đôi mắt Mã cũng sáng lên Mã cười nhăn nhở:

-Ôi, ông già H’mông tốt quá. Ông có khỏe không?

-Bố tôi vẫn đi làm nương đều Vẫn còn sáng đôi mắt để hàng ngày nhìn về tổ quốc-Dín nói tiếp-Thưa Mã đoàn trưởng những bản làng bên ấy người H’mông, người Dao, người Dáy đều hướng về phía tổ quốc, đều hướng về phía đại quân ta!

-Hảo, hảo-Mã ra hiệu cho Dín nói tiếp.

-Những việc mà Mã đoàn trưởng giao, chúng tôi đã làm tốt. Hiện nay ở bên ấy các tuyến bố phòng của bộ đội Việt Nam đã dồn lên dầy đặc hơn trước nhiều. Mã trố mắt nhìn Dín rồi hắn đập nhẹ tay xuống cạnh bàn ra hiệu cho Dín ngừng lời. Mã lật đật chạy vào nhà trong. Lát sau Vương Thiệu Khuân cùng đi ra. Vương bắt tay chào hai người ra hiệu cho Dín nói tiếp. Dín nói chậm rãi, tự tin:

-Bộ đội Việt Nam đang đi vào các bản để nắm dân. Bởi vậy, theo chúng tôi nghĩ, ta phải lọc những người Hoa còn ở lại bên ấy. Tức là những người không nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc về bên này. Những người ấy đã theo Việt Nam. Họ đã giúp Việt Nam chống lại đại quân, chống lại Tổ quốc, trong lần đại quân tiến sang quật Việt Nam để giữ vững biên cương vừa qua. Những người ấy ta phải trừ khử để trừ hậu họa.
Vương và Mã ngồi nghe, cả hai đứa cùng gật đầu.

-Các bạn có biết chắc tên, người và việc của họ làm phản lại Tổ quốc không?

-Có, có biết chắc, chúng tôi mới nói vậy.

-Các bạn nói rõ hơn đi.

-Như tên Xì Xám Mầu chẳng hạn. Hắn làm cán bộ huyện cho Việt Nam. Trong lúc quân của Tổ quốc tiến sang, Mầu đã dẫn dân bản Mía Ngọt chạy tránh quân của Tổ quốc. Mầu giúp Việt Nam chuyển các kho tàng sơ tán vào rừng. Mầu đưa bầy gầ, bầy lợn của hắn đã nuôi cho bộ đội Việt Nam ăn. Mầu còn ra lời kêu gọi dân H’mông, Dao… đoàn kết giúp bộ đội Việt Nam đánh lại quân của Tổ quốc. Hiện Mầu đã về bản Mía Ngọt. Mầu dẫn dân bản về theo. Mầu kêu gọi dân làm nương, làm rẫy kêu gọi dân đào hầm, khoan súng, làm nỏ, tập luyện để sẵn sàng chống quân của Tổ quốc sang dạy cho Việt Nam bài học thứ hai. Mầu còn vạch tội ác của Quân giải phóng ta… Tôi và anh Vần đây đã định khử tên Xì Xám Mầu phản bội Tổ quốc-Dín dằn giọng như để trút hết sự căm giận của mình.

Mã liếc nhìn Vương. Cả hai đứa mỉm cười.

-Tổ quốc hoan nghênh và khen ngợi tấm lòng vì nước Trung Hoa vĩ đại của hai anh. Nhưng, nhưng Vương ngần ngừ. Hắn dập tàn thuốc lá trong hai ngón tay ám khói vàng khè như phân vân, như đắn đo có nên nói một điều gì cho hai người biết. Rồi Vương mỉm cười hạ giọng nói với hai người:

-Đáng lý tôi chưa được phép nói điều này ra. Vì đó thuộc về quyền của cấp trên, tôi phải xin chỉ thị đã-Hắn hất hàm về phía Bắc Kinh-nhưng nếu không nói ra, hoặc chậm nói ra cho các bạn biết sẽ dễ xẩy ra điều nguy hại đến việc lớn cho Tổ quốc. Bởi thế tôi buộc phải nói-Hắn cười nhạt. Hắn vứt cả điếu thuốc lá đang cháy dở vào gạt tàn, rồi thong thả đánh diêm châm điếu khác. Hắn hít một hơi dài và ngửa mặt nhả ra từng vòng khói. Sự im lặng chờ đợi bao trùm lên không khí trong gian phòng như tăng thêm vẻ quan trọng.

-Ông Xì Xám Mầu là người của ta. Nhưng, nói đúng hơn là người-Hắn lại hất hàm về phía Bắc Kinh như muốn nói tên Mầu ấy là người của phía đó-là cấp trên của các anh sau này. Giờ thì các anh biết ông ta là thế nào rồi chứ. Các anh chỉ có trách nhiệm bảo vệ ông ta. Việc này các anh chỉ nên biết đến thế thôi. Nếu để người thứ ba biết nữa, hai anh phải gánh chịu trách nhiệm. Hắn nắm tay đập mạnh xuống bàn vẻ đe dọa.
Vần gật đầu. Dín gật đầu. Cả hai đều cười rạng rỡ: “May quá, nếu ông không cho biết sớm, chúng tôi giết mất ông Mầu. Thật là may!”.

Vương rót rượu mời hai anh uống. Vần bưng chén rượu anh thầm nghĩ “Thế là một con bài đã lật ngửa rồi. Một tên nguy hiểm chúng cài cắm lại lâu nay ở vùng biên giới này đã lộ mặt. Miếng võ hiểm của chỉ huy trưởng Sơn “rút dây thử xem rừng có động” quả là hay!”…

-Còn một việc nữa, việc này các anh có thể biết được, để giúp sức. ta có một người bên ấy. Anh ta là lái xe, là người Hoa. Nhưng anh nhận là người Tày. Anh đó đang lái xe cho một cơ quan ở Việt Nam. Anh đó có trách nhiệm phải bắt cóc cho được một người Việt Nam mà bên này đã chỉ định. Anh đó đã có sẵn một cái còng khóa tay và một khẩu súng K59. Nếu anh đó bắt được người Việt Nam sẽ liên lạc ngay với các anh. Các anh phải có trách nhiệm giúp đỡ anh ta đưa ngay người Việt Nam đó về bên này.

-Thưa Vương đồn trưởng! Chúng tôi sẽ làm trong nhiệm vụ. Thưa hai thủ trưởng. Còn việc lập đội Hồng Quân, chúng tôi xin báo cáo. Ở bản Hương Quế của anh Dín và bản Nhung người Dao của tôi, chúng tôi đã lập được một đội gồm 30 người. Họ đều một lòng tha thiết hướng về Tổ quốc là mặt trời chiếu sáng. Họ đợi chờ quân của Tổ quốc tiến sang. Và chỉ có đại quân mới đem lại hạnh phúc cho người H’mông, người Dao. Nhưng thưa hai thủ trưởng, chúng tôi hiện nay không có đủ súng.

Mã nhìn Vương, hai đứa như muốn hỏi nhau nên thế nào đây? Rồi Mã hỏi Vần một câu tưởng như không ăn nhập vào đâu cả:

-Từ bản Nhung của anh đến bản Ngam đi mất bao lâu?

-Người Dao chung tôi rẽ cây, lách núi chỉ đi hết nửa buổi thôi.

-Hai anh uống rượu hút thuốc đi!

Dín ít nói. Từ nãy tới giờ anh ngồi im. Bây giờ anh nhìn Mã, anh nói với Mã:

-Ở bản H’mông tôi nhiều người đã bằng lòng vào đội Hồng Quân với chúng tôi. Nhà nào có người vào Hồng Quân, khi tổ quốc tiến sang, họ sẽ có một mảnh vải lanh trắng treo phía trên cửa ra vào đấy. Nhưng họ muốn có khẩu súng tốt của Tổ quốc, họ mới tin. Còn súng kíp, họ làm được đấy nhưng họ không thích đâu mà.

-Được rồi-Mã vung hai tay khoát một cử chỉ phóng túng-Tổ quốc Trung Hoa của chúng ta không thiếu súng. Hai anh nhìn xuống đây.

Mã trải tấm bản đồ vùng biên giới ra trên bàn. Hắn cúi xuống. Hắn dùng ngón tay chỉ vị trí bản Củi Pao Pin của Dín, chỉ bản Nhung của Vần. Rồi Mã lướt ngón tay qua chỗ tô mầu xanh lục, đó là vùng rừng rậm nối tới bản Ngam. Một bản gần con đường “Hữu Nghị”. Ngón tay vàng khè khói thuốc lá của Mã đứng lại ở nơi có đánh dấu đen ngòm hình tam giác. Mã ấn mạnh ngón tay xuống đó rồi nói với giọng kẻ cả:

-Ở đây trước là hang Ngam, hai anh nhìn kỹ hang đá đó sát bên đường. Khi làm đường, công binh chúng ta đã lấp cửa hang lại, đã xây một bức tường bằng đá giống như vách núi rồi phủ lên, thả dây leo lên nữa để ngăn đất lở đổ xuống mặt đường. Các anh về bẩy đá lên mở cửa hang ra mà lấy súng đạn. Ở đó có cả lương khô. Súng ở đó có ba mười khẩu bọc lớp mỡ dầy. Các anh lau kỹ mới bắn được. Hôm sang bên ấy, chúng ta có tới thăm chỗ này. Bức tường đá vẫn còn nguyên. Cá anh về chuyển lời của chúng tôi hỏi anh em ta trong đội “Hồng Quân tiên phong” của vùng tự trị. Chúng tôi sẽ báo cáo lên trên việc làm quan trọng này. Các anh sẽ đón kế hoạch hoạt động cụ thể sau. Chúng tôi sẽ trực tiếp cho người chuyển sang.

Tai Vần nghe, nhưng mắt anh để ý nhìn trên tấm bản đồ của Mã trải rộng. Vần thấy còn nhiều chỗ đánh dấu đen hình tam giác như thế. Vương Thiệu Khuân cuốn nhanh tấm bản đồ lại. Hắn nói với hai người giọng mơn trớn:

-Đội Hồng Quân của các anh sẽ có vinh dự là đội quân tiên phong làm chủ cả vùng H’mông đấy. Các anh sẽ là những vị chỉ huy.

-Ôi con chim gâu, con chim lẩu chinh ở vùng H’mông này bay cao lên được đều là nhờ đôi cánh rộng, hạ xuống được đều nhờ bộ đuôi dài. Đuôi và cánh của đội Hồng Quân chúng tôi là Mã đoàn trưởng và Vương đồn trưởng đấy!


Mã cười, Vương cười. Cả hai đứa đều cười đắc chí trước lời nói đúng lúc của Dín. Vần cũng không ngờ lâu nay Dìn ít nói mà hôm nay anh nói được một câu hay và đúng lúc thế.

Mã và Vương lại sai lính trong đòn làm một bữa cơm thịnh soạn thết hai người khách. Chúng đưa cho hai người quà cáp. Chúng cho họ đèn pin, mỳ chính, đá lửa… Mã gửi cho ông Xín một bộ quần áo và chiếc máy thu thanh Xiêng mao để ông nghe tiếng nói của Tổ quốc. Bữa tiệc lại có rượu Mao Đài, có ngỗng Bắc Kinh, vịt tần hạt sen, thịt bò, thịt lợn quay…

Tối mịt. Sương đầm hai mái tóc. Rồi trăng giữa tuần ló lên đỏ như mật mía canh. Mã và Vương mới để cho hai người khách quí sang bên kia biên giới.

… Chỉ huy trưởng Sơn ngồi tỏng cái lều nương bên suối. Trước mặt anh dòng nước đầu mùa mưa đã xoáy lộn cuộn đỏ phù sa. Sơn chăm chú lắng nghe Vần và Dín nói. Hai người thuật lại tỉ mỉ chuyện đi gặp Mã và Vương về Sơn bắt tay khen ngợi người chiến sĩ trinh sát trẻ. Sơn bắt tay khen ngợi người chiến sĩ dân quân H’mông. Xẩm tối. Người các bản đi làm nương đã về hết. Rừng vắng lặng. Mù mỏng như mưa nhẹ bay. Vần và Dín cầm dao đi về bản H’mông, Sơn đi xuống chân núi.

Một cuộc họp khẩn cấp giữa các ban tham mưu, trinh sát biên phòng được triệu tập ngay. Kế hoạch chiến đấu được vạch gấp. Cuối buổi họp, chỉ huy trưởng Sơn đứng lên. Giọng anh đanh, gọn, cái giọng biểu lộ nét cứng cỏi và kiên nghị của con người xứ Nghệ. Anh hạ lệnh:

-Trong ngày mai, đội trinh sát phải truy bắt ngay tên lái xe. Tên Xì Xám Mầu ở bản Mía Ngọt thì ta được rõ. Giặc nhằm cái cắm lâu dài tên này nằm lì ở vùng biên giới xung yếu. Tên này đã tạo được một vỏ bọc dày. Theo tôi nó rất có thể dùng tên Mầu phúc tra, theo dõi những đứa, những cơ sở của nó cài cắm trong vùng đất của ta. Tên này nguy hiểm, nhưng nó chưa lộ mặt. Ta phải cao tay. Ta phải bí mật bao vây nó, “đơm” nó đấy, nhằm biến nó thành con mồi trong lưới. Cũng trong ngày mai một tiểu đội của đội cơ động biên phòng cải trang thành dân quân H’mông, Dao đến khui hang đá ở bản Ngam để thu súng…

Một người vượt ngục trở về

Chiều. Nắng hơn. Nắng chiếu long loáng ngọn sóng nước đỏ. Một con trâu bơi nhanh từ bờ sông phía Trung Quốc sang Việt Nam. Đài quan sát của dân quân Dáy bản Xan đã nhìn thấy. Anh chị em cũng đã thấy trên lưng trâu một người đàn ông cúi rạp mình. Một tay anh ta cầm đuôi trâu. Một tay nữa anh cầm roi vụt tới tấp vào lưng trâu. Rồi súng nổ. Súng AK, súng trung liên từ các ngọn đồi có quân Trung Quốc đóng chớp lửa bay rào rào xuống mặt sông. Đạn toé nước phía trái, phía phải, đạn bắn đuổi theo con trâu. Đạn bay vun vút qua đầu trâu. Đạn bay sang chạm vào vách đá bờ Nam toé lửa. Người đàn ông vẫn cúi rạp mình trên lưng trâu. Anh vấn thúc con trâu bơi nhanh sang, sang đến bờ Nam rồi, anh không cho con trâu lên bờ. Anh vụt mạnh vào lưng trâu để bắt nó bơi trở lại bờ Bắc. Xong, anh nằm vật xuống bờ sông. Đội dân quân bản Dáy chạy xuống. Mọi người đã nhận ra ngay, người đàn ông đó là Hoàng A Pản, xã đội phó bản Xan này. Pản mặc cái quần dài rách nát và cái áo lanh có hàng cúc vải của người Hoa. Cổ tay phải Pản buộc một sợi chỉ đen. Pản ôm lấy mọi người. Anh khóc nức nở. Pản giơ hai cánh tay thâm bầm lên, Pản giơ lưng đầy lằn roi ra. Và rõ ràng nhất là những vết thừng trói ở cổ tay Pản. Hai cổ chân Pản vẫn cùm còn rớm máu. Pản mếu máo, Pản giơ nắm tay chỉ về phía bên kia. Mắt anh đỏ ngầu. Anh nghiến răng lại:

-Tôi phải trả thù-Pản quay lại nói với mọi người-Nó đánh tôi, nó cùm tôi… Anh em nó độc ác lắm. Nó đang còn giam nhiều người Dáy ta. Nó giết nhiều người Dáy ta rồi. Bà con bản Dáy ơi, nếu con rắn xanh biết gẩy đàn, con cá bống biết thổi kèn thì cũng đừng ai nghe lời bọn giặc Trung Quốc.

Mọi người nhìn Pản thương hại. Ai cũng mủi lòng. Đội dân quân dìu Pản về bản. Chị em chặt cây mía mòi (loạ mía ngọt ăn giòn) cho Pản ăn để mau lại sức. Nhà Pản từ mấy tháng nay không có người ở. Ngày bọn giặc Trung Quốc đánh sang, chúng vào phá phách tanh bành. Khi chúng rút chạy, đội dân quân bản Dáy lại sừa chữa cho Pản, anh em lợp cho Pản cái mái, đan cho Pản cái phên trúc, sửa cho Pản cái sàn che phía trước, cái cửa gỗ phía sau.

Vợ và hai đứa con của Pản đã sang bên ấy từ giữa năm ngoái. Ngày đó, Pản không sang. Bởi Pản là người Dáy. Vợ Pản là người Hoa. Pản làm xã đội phó của bản Xan này. Pản không bỏ bản Dáy theo vợ. Pản đã từng khuyên vợ ở lại.

Hôm Pản lên nương, vợ Pản ở nhà vơ vét hết áo quần, lúa gạo, lợn gà rồi kéo cả hai đứa con trai xuống bè về bên kia sông. Bên ấy, mụ ta có ông chú là phó chủ tịch công xã.

Pản về chỉ còn có cái nhà trống. Pản lặng khóc. Nước mắt anh giàn giụa như cơn mưa tháng tám. Pản chỉ còn như thở nửa hơi. Anh buồn như tiếng guồng quay buổi tối. Buồn như tiếng nước tràn phai đêm mưa. Những đêm trăng xuống núi, sương phủ trắng ngọn mai. Tiếng con chim Sroong ló kêu âu sầu rên rỉ trong rừng xa (người Dáy gọi chim Sroong ló là chim ân hận cho cuộc sống buồn tẻ), lại càng làm cho Pản nhớ vợ nhớ con. Lòng Pản như thắt thêm nhiều nút, buộc thêm nhiều đoạn. Rồi Pản thường ra đứng lặng lẽ ở bờ sông để nhìn sang. Nắng vô tư chiếu ghềnh nước chảy. Nắng toả ngọn sông sâu. Chỉ có bầy cá lao xao vào bến…

Thế rồi những ngày sau, bờ sông bên kia có bóng người: Một người đàn bà với hai đứa con nhỏ. Đó là vợ và hai đứa con của Pản. Hai đứa con anh cũng đã nhận ra anh. Nó vừa khóc vừa gọi bố. Vợ anh vẫy tay gọi anh sang. Vợ anh tung cái khăn lanh, cái khăn ngày cưới nhau cho anh nhìn. Vợ anh mặc cái áo xanh viền đen bên nách, cái áo ngày cưới nhau cho anh nhận. Pản vẫn im lặng. Hôm sau, từ lúc chân trời tỏ mờ cho đến lúc mây chiều sà dốc núi, Pản vẫn đứng bên sông, Pản gục xuống. Anh không về ăn. Anh không về nghỉ. Anh khóc. Anh gọi tên hai đứa con đến khàn cả cổ. Anh vẫy áo trả lời vợ đến mỏi cả tay. Anh muốn chống mặt trời lại cho lâu lặn để được đứng bên sông nhìn thấy vợ, thấy con. Đến khi tối nhọ mặt người, bên kia sông tối mịt, anh mới về. Anh lại nằm vật xuống giường trong gian nhà trống trải. Đêm khuya, con chim Sroong ló lại kêu nỉ non, con cuốc kêu khắc khoải bờ khe. Đêm. Lại đêm. Tiếp đêm, Pản vẫn sống cảnh ấy, Pản chỉ chờ nhìn rõ gờ đất bờ sông bên kia, nhìn rõ chòm sậy trắng, rõ khóm mai non là anh lại ra bờ sông. Phía bên ấy vợ và hai con anh lại đang gọi anh, lại đang vẫy anh sang. Tiếng con anh lại khóc thảm thiết. Tiếng vợ anh lại gọi ân tình. Nó gợi cho anh cảnh sống đầm ấm trong gian nhà những năm tháng qua. Nó thức dậy trong anh. Nó cào cấu lòng anh. Pản như phát điên lên. Rồi anh không cưỡng lại được nữa. Pản từ bỏ tất cả. Pản ôm cây chuối bơi sang bên kia với vợ con…

Nay Pản cưỡi trâu vượt sông, vượt làn đạn trở về bản Xan. Nhìn người Pản đầy vết thâm bầm như thế ai cũng thương anh. Càng thương anh, mọi người lại càng căm ghét bọn giặc Trung Quốc gây nên cảnh tan nát cửa nhà.

Pản nói với xã đội, nói với anh em dân quân, Pản muốn gặp ngay bộ đội biên phòng để báo cáo với anh em những việc quan trọng ở bên ấy. Chỉ huy trưởng khu biên phòng suy nghĩ về việc Pản vượt sông. Anh giao việc đó cho Hoàng Mai, một chiến sĩ trinh sát đã nhiều năm sống với bà con dân tộc Dáy. Sơn gọi Mai lên. Anh dự đoán các tình huống có thể xảy ra. Anh nói đến các nước đi quen thuộc trong những ván cờ gần đây mà kẻ thù hay lặp lại. Sơn dặn Mai: “Phải biết lỏng ngoài nhưng lại rất chặt bên trong. Bởi cái lạt có dẻo buộc mới chặt. Và nước có lặng cá mới sủi tăm”. Sơn bảo Hoàng Mai mang theo quà cáp, thuốc men, quần áo cho Pản dùng.

Hoàng Mai đến gặp Pản ở ngay tại bản Xan. Pản ôm lấy Hoàng Mai khóc nức nở. Nước mắt anh thấm ướt ngực áo Hoàng Mai. Mai đỡ Pản ngồi xuống. Pản chỉ vào các vết thâm tín trên tay, trên mình cho Mai xem. Pản nói:

-Chỉ vì tôi không biết nghe lời các anh khuyên. Tôi nỡ bứt lá bưởi, nữ cắt dây bầu. Tôi bỏ bản Dáy nên mới đến nông nỗi này. Anh Mai ơi! Sang bên ấy tôi như chim mắc bẫy không gỡ ra được. Tôi bị bắt, tôi bị giam, phải chịu đánh đập. Chúng bảo tôi là người của các anh phải sang dò la. Tôi phải trốn ngục của nó mà về. May lắm, tý nữa tôi bỏ xác trên ghềnh nước đỏ.

-Ang Pản à! Giờ anh về đây là điều rất mừng. Tôi thay mặt cho đơn vị biên phòng đến thăm anh. Chúng tôi coi anh như người đã chiến thắng, đã lập công trở về. Tôi mang quà của đơn vị, mang thuốc men đến cho anh-Mai vừa nói, vừa mở túi lấy quà ra trao cho Pản-Đơn vị biên phòng và hợp tác xã sẽ chuyển tới anh số gạo để anh ăn cho đến ngày mùa. Rồi sẽ mời anh đến đơn vị để đồng chí bác sĩ kiểm tra sức khỏe cho anh. Nếu cần, chúng tôi sẽ đưa anh đi chữa bệnh. Anh Pản cứ yên lòng. Xóm bản Dáy và chúng tôi sẽ giúp đỡ, đùm bọc anh như những ngày anh chưa sang bên ấy.

Pản ngồi im. Pản lắng nghe Mai nói. Pản chăm chú lọc hết từng lời, từng ý để mong dò biết thái độ của Mai. Những ngày đó Hoàng Mai ở lại cùng ăn ở với Pản để Pản đỡ trống trải trong gian nhà vắng. Pản đã kể cho Hoàng Mai biết về những ngày Pản ở bên ấy, những ngày Pản bị tù đầy. Giọng Pản đều đều, buồn buồn như tiếng guồng nước quay đêm khuya. Pản nói, hiện anh không biết vợ con ở đâu, sống chết ra sao. Những ngày anh mới sang, vợ anh đưa anh về ở trong nhà ông chú. Ông ấy là phó chủ tịch công xã. Anh chỉ ở với vợ con được năm ngày rồi công an Trung Quốc đến bắt anh đi. Anh kể chúng đánh anh, chúng treo anh lên xà nhà-Chúng giam anh ở chung trại với một số người chúng bắt ở bên này đưa về. Ở đó, Pản thấy có một anh chiến sĩ biên phòng tên là Xền (Xền là một chiến sĩ trinh sát bị Trung Quốc lẻn sang bắt cóc). Pản kể nhiều về sự kiên cường của Xền. Xền đã ra hiệu cho Pản phảo bền gan chịu đựng và đừng khai báo gì. Pản còn kể nhiều về tình hình bố phòng của địch ở bên ấy. Pản nói những trận địa pháo lớn đang chĩa nòng sang phía ta. Pản nói thấy xe tăng, thấy bộ đội Trung Quốc đang dồn lên Biên Hoà. Pản kể chuyện dân Trung Quốc phải ăn cháo. Mắt Pản đã nhìn thấy lính Trung Quốc chết nhiều, chúng phải chất đống trong rừng rồi tưới xăng đốt. Pản còn kể rằng dọc bờ sông bên kia nhiều cầu phao của giặc đã để sẵn. Chúng đang đổ móng, đổ bến phà… Ròng mấy tháng, Pản bị giam trong ngục. Một hôm Pản đi ra lấy cơm nhìn thấy một người Dáy làm bếp. Pản đến làm quen. Vì cùng dân tộc, người Dáy rất thương Pản nhưng không dám giúp Pản vượt ngục. Người Dáy đó chỉ nói với Pản anh ta sẽ dựng cho một cái thang ở đầu nhà rồi đêm cứ đó mà trèo ra bờ sông. Pản ngồi trong bụi sậy. Mãi đến trưa chờ lúc nắng, trâu của công xã xuống sông đầm, Pản xông ra cưỡi lên lưng một con rồi bơi về. Mai hỏi Pản tại sao phải đuổi trâu về phía bên ấy, Pản nói là sợ vợ con của Pản đang còn sống ở công xã đó bị liên luỵ, phải đền con trâu, Pản kể lại mọi việc rất trơn tru, chặt chẽ. Và ai đến thăm, ai hỏi, Pản cũng kể giống như thế, không có mấy chi tiết sai lệnh nhau. Và dù có sai chút đỉnh đi nữa, cũng không có gì mâu thuẫn nhau cả. Hoàng Mai nói với Pản là anh rất cảm ơn Pản đã cung cấp cho những tin quan trọng về tình hình địch; tin tức về đồng chí Xền. Mai sẽ báo ngay những tin đó lên cấp trên.

Những lúc xoa bóp cho Pản, Mai để ý nhiều đến những vết thâm tím vì đánh đập, vì cùm kẹp. Mai thấy tuy bị địch đánh, hành hạ như Pản nói nhưng người Pản không gầy còm, mầu da không tỏ ra là người ốm yếu. Mai thấy nhiều vết thâm tím trên người Pản rất chóng khỏi. Có vết chỉ xoa bóp một hai lần là tan biến. Mà sao, Pản lại rất lười tắm. Hoàng Mai nhắc nhở đến việc tắm là Pản cứ lần lữa, rồi vờ ớn rét, ớn nóng. Mai nấu nước nóng cho Pản tắm. Mai đến kỳ hộ lưng Pản không cho, Pản bảo phong tục của người Dáy chỉ có vợ mới kỳ lưng hộ chồng, cha mới tắm cho con. Thế nhưng sau lần tắm xà phòng đó. Mai thấy nhiều vết bầm tím trên người Pản đã mất hẳn đi…

Năm ngày sau, bọn giặc Trung Quốc thả ba người Dáy và một người Dao về. Chúng đẩy cả bốn người xuống một cái mảng để sang sông. Bốn người này có hai ông già ngoài 70 tuổi, một em bé 10 tuổi và một bà già ngoài 60 tuổi. Cả bốn người đều nói họ bị nhốt chung trại với Hoàng A Pản, người Dáy ở bản Xan. Chính mắt họ đã nhìn thấy bọn lính Trung Quốc đánh Pản. Chúng trói Pản, chúng tra khảo Pản. Trước hôm Pản trốn khỏi tù mấy ngày, chúng còn lôi Pản ra giữa sân trại. Chúng dí mũi súng vào ngực anh ta dọa bắn. Chúng bảo Pản là thằng tiểu bá Việt Nam. Pản là người Dáy, người gốc từ Trung Hoa nhưng đã phản bội Tổ quốc. Chúng sẽ giết Pản để làm gương…

Chiến sĩ trinh sát Hoàng Mai báo cáo đầy đủ mọi chi tiết với Sơn về tình hình người vượt ngục trở về này. Sơn hỏi lại Mai về sợi chỉ buộc ở cổ tay Pản. Mai trả lời sợi chỉ cùng mầu, cùng buộc ở cổ tay phải giống như sợi chỉ của Dín và Vần, Mai nói nói tiếp:

-Ta hãy chờ, có lẽ đây là mưu “nhục nhân kế” của địch. Bởi trong thực tế đã dạy rằng người khôn ngoan quá mức, kín đáo quá mức, việc làm trọn vẹn và đầy đủ quá mức cần thiết cũng có thể làm cho ta nghi vấn!
Nghe Hoàng Mai nói xong, chỉ huy trưởng Sơn gật đầu. Anh chỉ thị ngay cho đội trinh sát ở bên bản Mía Ngọt chuẩn bị lời lẽ cho “hạt giống đỏ” Vòng Kim Phù. Ra lệnh cho Phù dùng máy thông tin trong phiên chiều nay hỏi về bên ấy để thảm tra lại tên này. Trưa hôm sau, một chiến sĩ trinh sát phi ngựa cấp tốc về sở chỉ huy khu biên phòng. Anh chuyển biên bản lời gọi đi và lời nhận được từ bên ấy của phiên làm việc chiều qua và sáng nay của máy thông tin. Sơn cầm tờ giấy đọc nhanh: “Gọi đi: Xin Vương đồn trưởng cho biết rõ người cưỡi trâu vượt sông để bênnay “hạt giống đỏ” bảo vệ và phối hợp hành động! Nhận về: (vẻn vẹn có mấy chữ) “cây chung gốc, ngựa chung đàn. Vương đồn trưởng”. Sơn đọc lại một lần nữa rồi anh thở phào một cái nhẹ nhõm. Anh gọi Mai tới:

-Thế là đã rõ ràng nhé.

-Cứ để hắn bộc lộ hết thủ đoạn chứ anh! Từ thái độ ban đầu Pản lo lắng, giữ kẽ, đến những ngày sau thấy không có gì đáng ngại. Pản đã nói cười ra vẻ bình thường lắm. Pản bắt đầu đi thăm các nhà trong bản. Pản kể những chuyện Pản biết ở bên ấy cho mọi người nghe. Pản đi đến những nhà ở gần, rồi những ngày sau, Pản lẩn đến những nhà ở xa. Những ngày sau nữa, Pản đi rộng ra những bản khác. Pản đi đến những bản Dáy chặng đường chỉ hút hết điếu thuốc. Rồi đi lên bản Dao xa hơn, chặng đường non buổi. Pản đi một đoạn lại ngoái cổ nhìn lại xem có ai đi theo không. Hết một ngày, tối về nhà. Pản ngồi điểm lại xem thử có ai để ý đến việc mình sang các bản khác không. Có cái gì đáng ghi trên chặng đường mình đi không.

Giặc chạy rồi, lúa má chúng vét hết. Bà con trở về ai cũng chăm lo đến cái nương, cái rẫy, lại đang thời vụ gieo trồng nữa, có mấy người ngồi nhà mà để ý đến việc Pản đi đâu, đến đâu. Pản yên bụng, Pản bắt đầu sắm cái ô đen. Pản ngồi cặm cụi cắt đồng, đánh bóng làm ba cái viền vàng gắn vào cái ô. Rồi Pản cầm ô đi lên bản H’mông Củi Pao Pin. Ngày đầy, Pảo cũng chỉ lần đến những nhà ngoài rìa bản để hỏi mua thuốc, mua men rượu. Rồi Pản đi xích vào dần. Pản xắn cao ống áo để lòi cái vòng chỉ ở cổ tay. Pản đi vào nhà ông già người H’mông: Ông Ma Quang Xín.

Pản chào ông Xín, Pản hỏi anh Dìn, anh Vần đang ngồi bên bếp lửa:

-Tôi đi mua con trâu đực khoang cổ. Nhà ta có bán không?

Vần vừa tra thuốc vào nõ điếu vừa nói:

-Nhà tôi chỉ có bầy nghé tơ thôi!

-Cũng được, tôi chọn vậy!

Đúng mật hiệu nhận nhau. Pản toét miệng ra cười. Hắn giơ cái ô đen ở cán có ba viền vàng ra. Dín đứng ngay dậy. Anh kéo chiếc ô đen treo ở sừng con hươu đóng bên cột nhà xuống. Rồi anh cũng giơ cái cán có ba viền vàng ra.

Đúng ám hiệu, mật hiệu. Vần kéo ghế cho Pản cùng ngồi bên bếp lửa. Ông Xín biết ý. Ông cầm dao đi ra. Ông ngồi ngoài sân chẻ nốt nắm nan trúc.

-Anh bên ấy vừa sang-Vần hỏi

-Tám ngày rồi!

-Người bên ấy có nhắn gì chúng tôi không?

-Tôi tìm đến các anh để giao kế hoạch. Quan trọng lắm mà.

-Anh giỏi lắm, tìm được lên đây.

-Ôi vùng này,tôi có thể tìm được dấu chân các anh lẫn trong con suối nước đục nữa đó.

-Anh là xã đội dưới bản Xan. Trước tôi đã thấy mà-Dín hỏi.

Pản cười:

-Ừ, ừ, nhưng giờ thì khác rồi. Nếu là lạt thì đã ải rồi, nếu là lá đã nát rồi. Nhưng đây là lá khảo thả xuống hồ không chìm, là gỗ thả xuống sông không mục mà. Người Dáy chúng tôi ví những người vững lòng như thế đấy. Dín và Vần rót rượu ra bát mời Pản uống. Nếu xôi nếp cẩm, mổ gà, làm cơm cho Pản ăn. Vần hỏi Pản về những ngày sống ở bên ấy. Vần nói với Pản rằng giờ Pản là người chỉ huy cao  nhất ở đây. Pản sẽ thay Chấu Xéo Mìn để làm chủ tịch vùng này. Pản sẽ là vị chỉ huy cao nhất của đội “Hồng Quân tiên phong”. Pản cười ha hả. Hắn nốc một hơi cạn bát rượu đầy. Hoàng A Pản bắt đầu tuôn hết chuỗi tâm sự. Pản nói rằng hắn sang bên ấy được công an Trung Quốc đưa xe chở đi Côn Minh. Ở đó, Pản học trong trường huấn luyện đặc biệt. Rồi Pản về học ở Hà Khẩu, rồi qua lại biên giới vùng Mường Khương, Pha Long, Nậm Chảy… để thực tập các khoa mục bắt cóc người, dùng thủ đoạn để khai thác, đột nhập, lấy tin tình báo, phá hoại. Xong, Pản về trại giam mấy ngày ở chung với những người Việt Nam bị bắt sang. Ở đó bọn tình báo Trung Quốc đã đạo diễn một vở kịch dài. Pản là vai chích. Chúng dùng thuốc để tạo nên những vết bầm tím hợp lý trên khắp người Pản, Pản khen nức nở bọn công an Trung Quốc làm được mọi việc giả giống như thật. Lừa được mọi người. Người bên Tổ quốc thật là tài về món này. Pản phun ra những lời cay độc như nhiều mũi tên tẩm lá cơi, ngâm rễ dướng (thuốc độc) như lời những tên giặc nói về đất nước mẹ Pản đã nhai một miếng nhả hai miếng nuôi sống Pản lớn khôn. Pản nói ở bên Việt Nam người Dáy chỉ như dây xíp xáng (dây sắn) sống vật vờ bên suối nước. Pản nói hắn về bên ấy sung sướng, tối được rửa chân bằng nước nóng trong chậu đồng. Đời người như bóng râm ngả bên đồi, có dài là bao mà không tìm về Tổ quốc cho sung sướng.

Dín nén căm, nghe Pản nói, nhìn Pản cười nhăn nhở. Dín thầm nghĩ: “sao con rắn độc không cắn mày đi, con trăng gió không nuốt mày đi, con gấu không vả mày, con ma sừng nhọn không đâm mày, con hổ vằn vàng dài nanh không ăn thịt mày đi để mày sống trở thành phản phúc như thế”.

Pản vẫn nói bô bô. Người bên Tổ quốc nói với Pản rằng, bọn tiểu bá Việt Nam chỉ thấy gốc tre to bằng ống khèn tưởng đa cao đến trời; chỉ thấy gốc nứa to bằng đầu đũa tưởng đã cao vượt mây. Pản sang bên ấy mới thấy sức mạnh của một nghìn triệu người của Tổ quốc vĩ đại. Pản tấm tắc, Pản gật gù về người bên Tổ quốc ai cũng vậy, họ nói cứ như thuở sớm, miệng nói điều gì cũng dẻo, nói cái gì cũng khéo, cũng hay.
An no, uống say, Vần cài cửa, Vần gọi Dín đưa Pản lên gác nơi để lúa, để ngôi để Pản chuyền đạt về cái công việc quan trọng mà Vương đồn trưởng giao cho.


Hoàng A Pản ngồi khoanh tròn trên đống ngô bắp, Pản nói với hai người. Tiếng to, tiếng nhỏ ra điều quan trọng lắm:

-Vương đồn trưởng yêu cầu ta việc cấp bách thứ nhất là phải lập cho được một tiểu đoàn Hồng quân lấy tên là đội “Hồng Quân tiên phong” của khu tực trị, để lấy đó làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang khi Quân giải phóng đánh sang. Ta thành lập xong, báo cáo về bên ấy để vị tiểu đoàn trưởng sang chỉ huy hành động, thành lập hoàn chỉnh khu tự trị của người H’mông, người Dao, người Dáy ở vùng biên giới này. Rồi hàng hóa, gạo, vải từ bên Tổ quốc sẽ đổ sang như lá rụng chứ không phải như với bọn Việt Nam trồng chuổia nguốn (chuối rừng) trồng khoai ra củ ráy này đâu.

Pản ngừng nói. Hắn lại tu một hơi nữa hết nhẵn cả bát rượu đầy. Hắn nói tiếp:

Khi ta lập xong tiểu đoàn Hồng Quân thì tôi ra bờ sông bấm đèn hiệu ba lần sang bên ấy và đốt một đống lửa hình chữ A ở trên đồi Bồ Đề. Nhận được hiệu đó, bên Tổ quốc phát lệnh cho đội quân đặc nhiệm áo đen khiêu khích ở vùng đồi trọc dọc biên giới phía đông vùng Pha Long, Mường Khương. Để Việt Nam dàn quân đối phó phía ấy. Lúc đó vùng rừng cây rậm ở phía tây ngọn sông nước đỏ này bên kia bấm hai lần đèn và vị tiểu đoàn trưởng sẽ sang. Tôi sẽ ra đón. Vương đồn trưởng dặn tất cả phải dùng máy thông tin để liên lạc. Ta không đi qua biên giới nữa. Vì nếu bị lính biên phòng Việt Nam bắt sẽ lộ tất cả kế hoạch…

-Anh Pản! Chín người anh vừa kể muốn tìm tới họ, ta phải biết được ám hiệu để nhận nhau chứ.

-Có, có. Vương đồn trưởng đã qui định ám hiệu cho những anh này trước khi Quân giải phóng rút lui là cán dao đen bên người có buộc tua vải trắng. Tua vải lanh của người H’mông dệt ấy.

Vần và Dín nhắc lại tên chín đứa giặc cài lại, tên các bản chúng ở một lần nữa để nhớ cho chắc hơn.

Chiều, vần và Dín đưa Hoàng A Pản xuống chân núi Pao Pin để Pản đi về bản Dáy.

Tối ấy ông Xín ngồi chẻ nan trúc. Ông vừa chặt bỏ cái mắt bị kiến đục vừa nói với Dín và Vần:

-Thằng Pản trước đã có thời làm xã đội, làm cán bộ của dân mà nay nó trở tay, lật mặt như thế đấy. Nó giống như con chó điên ấy mà. Khi phát cơn điên dại lên, người đầu tiên nó cắn lại là người đã từng chăn nuôi nó. Rồi nước miếng độc của nó chảy ra vung vãi trên mảnh đất nó đã tứng mà. Nhưng chúng mày à, ở rừng H’mông này con hổ dù nhọn nanh sắc vuốt nhất cũng chỉ chết về cái bẫy, chết vì viên đạn nhỏ. Con trăn khỏe nhất có thêm cái mật ở đuôi nữa cũng chỉ chết vì cái dây sắn mà thôi. Huống gì thằng Pản…

Đọ sức

Chỉ huy trưởng Sơn, các sĩ quan tham mưu, các chiến sĩ trinh sát biên phòng ngồi vây quanh tấm bản đồ vùng biên giới. Sơn chỉ lên vùng núi H’mông Củi Pao Pin, vùng núi H’mông Mía Ngọt. Anh chỉ lên đầu nguồn dòng sông nước đỏ. Anh chỉ lên bản làng của người Dáy bên sông. Giọng anh nói nhỏ, chậm rãi, tự tin. Giọng nói của anh giống như dáng người nhỏ nhắn, giống như cử chỉ nhẹ nhàng thấn ái của anh thường ngày.

-Đây là một âm mưu quỷ quyệt của bọn giặc Trung Quốc. Chúng định nhen nhóm lên một tổ chức vũ trang. Định gây mầm mống bạo loạn, định lập một đội thám báo chỉ đường cho chúng khi chúng  đánh sang. Chúng tung bọn phản động trở về và định đưa người của chúng sang móc nối với những tên đã cài cắm sẵn trên đất nước ta… Tất cả mưu đen ấy ta đã nắm chắc. Tôi quyết định chúng ta phải hành động ngay, phải đập nát ngay đầu rắn.

Cái que ở tay Sơn lướt tới đầu dòng sông đỏ. Nơi đó bản làng của người Dáy ở san sát dưới chân đồi. Trên bản làng người Dáy đó mỗi tia nắng ấm áp, từng khoảnh trăng vàng như mỡ gà, mỗi nhành lúa nương ngô, mỗi búp măng bùi, quả mận chín ngọt đều chan hoà câu dân ca ân tình và lắng đọng yêu thương… Đất nước của ta đó, từng tấc nơi biên cương này kẻ thù đang nhòm ngó, đang muốn phá phách, đang ươm giống cỏ độc để hòng xâm chiếm lâu dài. Giọng Sơn bỗng cao lên, trở nên đĩnh đạc:

-Phải bắt ngay, bắt gọn những tên giặc ấy. Phải đưa chúng vào diện “bắt trong tình trạng khẩn cấp” bởi chúng đã làm tay sai cho giặc. Chúng còn đang giấu mặt ngấm ngầm tiếp tay cho giặc một lần nữa. Nếu chúng đánh hơi được, chúng sẽ chạy sang với giặc. Đúng 12 giờ 15 phút đêm nay quả mìn ở gần bản Xan nổ. Sáng sớm mai loan rộng tin cho dân biết. Tối mai “hạt giống đỏ” báo sang bên ấy…

Chập choạng tối, Hoàng A Pản đi gặp Xần Khái về, Pản đi đến gần bản Xan thì hắn sững lại. Hoàng Mai và hai chiến sĩ trinh sát đã đứng chặn đường hắn:

-Đứng im, anh đã bị bắt.

Pản nhìn mọi người, hắn đã hiểu ra. Ánh mắt Pản phơi trần hết tâm ý. Hắn định chống cự. Hắn đưa tay xuống định rút con dao bên hông. Nhưng một cú đấm đã nện đúng quai hàm hắn. Hắn chuệnh choạng. Hắn còn chực chạy vào rừng. Mai đã dùng miếng võ quật ngã xuống rồi khóa tay hắn lại. Tối mịt, Mai đưa hắn về khu biên phòng. Đúng kế hoạch 12 giờ 15 phút, một chớp lửa màu da cam loé lên ở vùng núi đầu bản Xan. Kèm theo là một tiếng nổ rung đất núi. Sớm hôm sau cả vùng bản Xan, cả vùng Củi Pao Pin, cả vùng H’mông biên giới, bà con đều chuyền nhau cái tin dữ: Hoàng A Pản đi đâu về giữa đêm khuya đã đạp trúng mìn của bộ đội biên phòng gài. Pản đã chết tan xác.

Ngày hai phiên, buổi sớm, khi cây xấu hổ xoè lá và buổi chiều khi lá nó cụp lại “hạt giống đỏ” chuyền tin đều đặn về địa phương Xín Tiển. Trong bản tin báo về tối ấy có dài hơn. Bởi kế hoạch bên này đã triển khai hoàn hảo: “Đã tìm đủ người ở các bản để lập tiểu đoàn “Hồng Quân tiên phong”. Khi bên này có ánh đèn, đúng ám hiệu, xin mời vị chỉ huy sang. Đã lập đủ ba nhóm chỉ đường. Hoàng A Pản đạp trúng mìn chết ngay. Các kế hoạch chỉ thị của Vương đồn trưởng Pản đã chuyển xong. Đã triển khai tốt. Chúng tôi cử anh Dín người bản Củi Pao Pin ra bến sông đón vị chỉ huy. Hẹn phiên sáng mai”.

Chỉ huy trưởng Sơn xem xong tờ biên bản của bức điện, anh chỉ mỉm cười: “Thế là chặt chẽ. Chúng cũng yên lòng mà ta cũng không phải lo. Chúng yên vì Pản đã chết, mọi bí mật đã theo hắn xuống đất đen, không còn sợ bị lộ. Còn ta nếu không bắt hắn sớm hắn ngửi thấy nguy hiểm, bỏ chạy sang bên kia thì hỏng tất cả kế hoạch”.

Thào Xeo Xay cùng ba chiến sĩ trinh sát đi đến các bản H’mông phía đông. Ba chiến sĩ đeo con dao bên hông. Trên chuôi dao của các anh đều có buộc những tua vải lanh trắng. Cô dân quân Xay đi trước, bởi cô thạo đường. Cô lại biết rõ nhà, rõ mặt những tên trong diện phải “bắt trong tình trạng khẩn cấp” ở các bản H’mông.

Ông Ma Quang Xín dẫn Hoàng Mai và những chiến sĩ trinh sát đi đến những bản Dáy trên ngọn con sông nước đỏ. Bởi ông Xín cũng biết rõ mặt, biết hết nhà những tên người Dáy, người Dao ta cần tìm. Các chiến sĩ trinh sát cũng mặc quần áo của con trai Dáy, con trai Dao. Trên những con dao các anh đeo bên hông những tua vải lanh mầu trắng bay phơ phất. Ông Xín đi qua đống đất dân bản đắp lấp xác thằng giặc hồi đầu nằm. Ông ghé vào nhìn. Dây ngón đen ông băm vằm ngày nào đã khô, lá nát tơi trong đất ẩm. Nhưng lạ thay, từ các gốc sâu trong lòng đất nơi xương cốt tên giặc lại nhú lên một cái mầm nữa. Cái mầm mới, nhú lên mặt dất ngọn nó lại nhọn hoắt, lại rung rinh trong gió như lưỡi con rắn độc lo le chực cắn. Mầm cây ngón đen đó lại cứ thế, cứ hướng về phía nam phía có nắng ấm, gió mát, phía có đất tốt lành, phía có những con người sống ân tình. Ông Xín lại rút con dao sáng loáng đeo bên hông ra. Ông bậm môi lại. Ông lại chém nát cái mầm cây ngón đen độc ác ấy đi.

Đến cái khe Cạn, cái khe mà thằng giặc Mã Dín Nần đã gọi ông ra gặp hôm nào, ông Xín bảo các chiến sĩ ngồi nghỉ chân. Ông Xín cười. Rồi ông kể cho các chiến sĩ nghe câu chuyện tổ tiên người H’mông, người Dao, người Dáy cùng chung sức đánh yêu tinh giữ nương, giữ bản. Câu chuyện đó đã lưu truyền ở vùng biên giới này. Ông Xín vừa gẩy ngón tay vào lưỡi dao vừa nói… Ngày ấy một xóm bản người Dao, người H’mông đang sống yên vui, con trai khoan súng, làm đạn săn bắn được nhiều thú rừng. Con gái tước vỏ lanh xe chỉ dệt áo. Con gái H’mông nhuộm váy đẹp như cánh bướm hoa xèo. Con gái Dao làm khăn đẹp như mầu bẩy sắc cầu vồng. Ngày đêm tiếng hát ở các xóm bản cứ dài như cánh chim hoa lượn trên năm đồi, bảy lũng. Rồi có ngọn gió rét, có ngọn gió xoáy từ ngọn núi phía Bắc thổi đến. Có một con yêu tính béo lùn như cối giã ngô, đầu hói, mặt tròn như đáy chảo. Hắn dẫn một bày con từ núi phương Bắc tràn sang xông vào bản cướp của, ăn thịt người. Hắn chiếm luôn nhà cửa của người H’mông, người Dao để ở. Từ đó, hoạ yêu tinh phương Bắc trùm lên xóm bản. Trong xóm bản không lúc nào ngớt tiếng khóc, tiếng kêu cứu, không khi nào tắt ngọn lửa cháy nhà. Có một ông già người H’mông chạy ra khỏi bản mài dao ở hòn đá trên đầu suối. Chú Thớt đi qua, anh Khăn mặt đi qua, chị Ớt bản H’mông đi qua hỏi ông mài dao làm gì. Ông già trả lời: “Tôi đi giết yêu tình phương Bắc để cứu dân bản. Ba người xin theo ông già. Bốn người đi được một đoạn thì gặp bác Hùm, chú Cáo,anh Dúi,cậy Cá ở bản Dao sang xin nhập bọn. Ông già dẫn cả bọn đi được một chặng đường thì gặp Hai mắt dê, Dùi sắc nhọn, Rêu đá từ bản Dáy rủ nhau kéo lên xin góp sức. Đến trước nhà lũ yêu tinh phương Bắc ở, ông già bàn kế, Thớt, Khăn mặt và chị Ớt đứng sẵn ở cửa buồng. Hùm, Cáo nấp kín. Kèn, Hai mắt dê vào bếp chờ. Dùi sắt đứng cạnh cầu thang. Rêu đã nắm phục ở bậc xuống. Ông già ra hiệu tiến công. Con yêu tinh lùn, đầu hói hốt hoảng nhảy bổ xuống bậc thang. Hắn dẫm phải Rêu đá trơn. Hắn ngã nhào xuống. Dùi sắt nhọn đâm thủng đầu, hắn chết tươi, bảy yêu tinh còn lại xô nhau chạy ra liền bị Thớt treo lủng lẳng ở cửa đập vào mặt. Chúng kêu rú lên xô nhau chạy vào bếp. Một đứa định cầm ống thổi để nhen lửa. Hắn cầm phải cái kèn. Kèn kêu ý e ý e. Rồi từ trong bếp, Hai mắt dê sáng quắc, Cá phục kích trong đống tro vùng dậy đập đuôi tứtung. Tro bắn vào đầy mắt chúng. Chúng vội đi mò khăn để lau. Nhưng chúng cầm phải Khăn có ớt. Đứa nào cũng đui mù, khóc thét. Bầy yêu tinh la hét hỗn loạn. Ông già H’mông hạ lệnh cho Hùm, Cáo vào xé xác chúng ra. Dúi vào gậm nát những bàn tay cầm súng, cầm gươm của bọn chúng. Ông Xín nhìn Mai người chiến sĩ dân tộc Tày, nhin Vần dân tộc Dao. Ông nhìn các chiến sĩ trinh sát người dân tộc Kinh. Ông cười rộng mở:

-Ở cái đất núi này nó thế đấy. Núi H’mông ngày càng nhọn thêm vì mữa tuyết bào mòn. Nhưng còn gan người H’mông thì nó đã sắt đanh lại như ruột cây sến vàng, như lồi cây lim đỏ. Bởi người H’mông muốn sống, không muốn chết, muốn giàu có không muốn nghèo. Khi có bọn giặc cướp nước đến thì từ hòn đá, cành cây, chim muông đều hợp sức với người đánh lại, đều không dung tha chúng mà.

Ông Xín đứng dậy. Ông đeo lại con dao vào hông cho chắc hơn. Ông lại dẫn đầu. Ông đưa các chiến sĩ đi xuống bản Dáy, bản Dao.

… Đúng 20 giờ 5 phút, chỉ huy trưởng Sơn đứng ở khóm lau bên bờ sông, Sơn hạ lệnh cho anh Dín bấm ba chớp đèn màu xanh, chiếu sang phía bên kia sông. Rồi Dín lên châm lửa vào đống củi khô đã xếp sẵn trên mái núi Bồ Đề. Lửa bén, đống củi cháy rừng rực theo đúng hình chữ A.

Ở bên kia, Vương Thiệu Khuân, Mã Dín Nần và cả lũ đã nhận rõ ánh đèn xanh chiếu sang. Nhìn đúng đống lửa hình chữ A cháy sáng, đúng ám hiệu an toàn, chúng vỗ vai nhau cười nhăn nhở. Vương chạy bổ vào đồn. Hắn vớ lấy chiếc máy điện thoại. Hắn quay hấp tấp rồi cầm ống nói. Vương hét lớn: “Xin gặp đồn Lao Kha, xin gặp đồn Lao Kha. Lao Kha đâu? Đông Pả Xa đâu? Đồn Xín Án Pờ đâu? Trạm Pạc Chi đâu? Vương đây, Vương đây. Tất cả hành động theo kế hoạch. Hành động ngay… hỗ trợ ngay…”.

Dẫy đồi trọc mạn Đông, núi rừng đang yên tĩnh bỗng từng loạt đạn súng cối 82 milimét, từng loạt đạn súng M79 từ bên đất Trung Quốc phóng sang nổ ùng oàng tới tấp. Tiểu đoàn lính đặc nhiệm áo đen của Trung Quốc đã sát biên giới từ lâu. Chúng chia làm từng mũi nhỏ len theo hẻm núi sang đất ta. Chúng bắn AK, bắn trung liên vào các bản, vào các trạm gác của bộ đội biên phòng ta. Chúng khiêu khích, chúng hò hét. Chúng bắc loa gọi to “dạy cho Việt Nam bài học thứ hai nữa”.

Một giờ căng thẳng trôi qua. Đúng 21 giờ 15 phút, Vương Thiệu Khuân nhìn Mã Dín Nần như muốn hỏi: “Được chưa?”. Mã xua tay, im lặng. Cái xua tay của Mã như muốn nói rằng: “Hãy thắt chặt thêm một nút nữa để dò thái độ bên kia”.

Súng cối và súng AK ở mạn núi phía Đông vẫn nổ. Rồi im đột ngột. Núi rừng biên giới lại trở nên yên lặng chìm trong màn sương mù dày đặc mênh mông. Sơn chăm chú nhìn xuống dòng sông. Anh không thấy gì xuất hiện: “Chúng chơi khăm mình chăng!”. Cả trên tuyến phòng thủ tăng cường ở vùng biên giới mạn Tây này đều báo về: “Không có người xâm nhập!”.

Không có hiện tượng gì, không có tín hiệu, ám hiệu gì xuất hiện ở phía Bắc. Tại sao? Tại sao? Sơn hỏi Dín, hỏi Vần. Anh hỏi các chiến sĩ trinh sát. Tất cả đều trả lời rằng không có một khâu nào lộ hoặc khả nghi có hở mối. Máy thông tin của “hạt giống đỏ” cũng đã liên lạc thông suốt với bên ấy, đã hiệp đồng kế hoạch rồi. Rà lại các đối tượng phải “bắt trong tình trạng khẩn cấp”. Sơn khẳng định tất cả đều đã bắt gọn trước thời gian quy định. Không một tên này chạy thoát sang bên kia biên giới, không một tên nào liên lạc được với nhau.

Tên Xì Xám Mầu đã bị bao vây chặt và “đơm” ở đó không có gì biến động. Có phải Mầu là người được giặc cài cắm, nằm lỳ để chui sâu leo cao, để thẩm tra cả mạng lưới này không? Có đầu mối nào, có mắt xích nào, có khâu nào đã bật ra? Tại sao lại có tình huống này. Sơn đứng im. Anh nhìn dòng sông chảy lạng lẽ trong đêm.

22 giờ, 24 giờ. Rồi 1 giờ sáng. Trên sông và cả bờ bên kia vẫn im lặng, không có một chấm đen nào xuất hiện. Cả chiếc kính quan sát trong đêm cũng không hề phát hiện ra một điều gì.

Sơn gọi Dín đến. Anh chém mạnh bàn tay vào màn đêm, khoát một cử chỉ kiên quyết:

-Phải ám hiệu dự bị và đốt đống lửa dự bị lên!

Ba chớp đèn pin lại được chiếu sang bên kia. Và đống lửa hình chữ A được đốt lên ở sườn núi Bồ Đề.
Súng cối, súng AK… lại rộ lên ở mạn đồi trọc phía Đông. Những hành động khiêu khích của bọn lính Trung Quốc vào các trận địa phòng thủ biên giới của ta lại bắt đầu!

Rồi trên ngọn dòng sông nước đỏ một chấm đen đã xuất hiện. Chấm đen động đậy và to dần từ bờ phía Bắc bơi sang. Chấm đen đã trở thành khối đen lù lù áp vào bờ. Đó là một chiếc mảng ghép bằng cây chuối. Một, hai, ba, bốn bóng đen nhảy lên đất. Rồi chúng quay lại tháo mảng để các cây chuối rời ra. Chúng đẩy ra cho nó trôi theo dòng nước để mất dấu vết xâm nhập.

Sơn bám mạnh vào vai Dín ra hiệu. Dín đi xuống bờ sông. Anh chiếu đèn pin xuống đất đúng ám hiệu Pản đã nói. Cả lũ lặng lẽ theo lên bờ…

Sáng sớm. Mặt trời lên. Ánh nắng mỏng tang như màu mật ong dầu mùa chiếu qua lớp sương mù. Ánh nắng trải vàng trên bản H’mông Mía Ngọt. Những lá cây xấu hổ mở xoè ra đón nắng. “Hạt giống đỏ” lại hối hả báo tin về bên ấy: “Tất cả sang an toàn và êm đẹp. Hẹn phiên chiều nay…”.

Sơn đứng gần đó, anh phóng tầm mắt quan sát-rộng sang phía bờ Bắc dòng sông. Bên ấy máy lạnh, sương mờ và bầu trời xám xỉn. Tất cả lặng lẽ, im lìm như chết.

Phía sau anh, những mái núi của dẫy Hoàng Liên hùng vĩ nắng đã nhuộm vàng. Những đỉnh cao chót vót nhô lên trong mấy trắng như những kỷ niệm về cuộc chiến đấu của người chiến sĩ biên phòng cuộn trào lên trong ký ức của anh. Anh nhắc chiếc bi đông đeo bên mình lên và rót nước chè xanh đậm chát vừa hãm sáng nay ra bát. Hương chè thơm… Anh nhìn về phía Nam, phía quê nhà. Anh bồi hồi nhớ tới dòng sông Ngàn Phố trong xanh đang êm ả chảy trong tâm hồn và ký ức của anh. Anh nhớ tới dải đất Hương Sơn trù phú, dải đất mà chỉ thầm nhắc tới những cái tên: Choi, Gôi, Nầm, Phố Châu, Thịnh Văn, Hữu Bằng… đã ấm lòng những đứa con đang chiến đấu nơi xa. Và mỗi chiến công của những đứa con đó xin nguyện làm một nét son nhỏ tô thắm thêm truyền thống rực rỡ của quê nhà…

Không có nhận xét nào: