1.
Thời đại Hùng-Thục-Trưng hay thời
đại văn hóa Đông Sơn, văn minh Việt cổ
Thời đại đầu tiên này của lịch sử văn hóa văn minh dân tộc còn để lại nhiều vết tích, di tích trên nửa phía Bắc đất nước ta, từ biên giới Việt-Trung tới xứ Nghệ. Đó là những đền Hùng, đền Gióng, đền Cổ Loa, đền Cuông, đền Hai Bà Trưng : ở các nơi này nhiều lễ hội lớn đã và đang được tổ chức vào mùa Xuân để chào mừng các anh hùng dựng nước và giữ nước thời Văn Lang-Âu Lạc.
Theo truyền thuyết, 18 vua Hùng là con cháu của vua Rồng xứ Lạc và nàng Tiên xứ Âu. Tiên và Rồng kết hôn với nhau, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm con trai, tổ tiên xa xôi của người Việt : từ đó người Việt thân ái gọi nhau là đồng bào (cùng một bọc).
Theo truyền thuyết, 18 vua Hùng là con cháu của vua Rồng xứ Lạc và nàng Tiên xứ Âu. Tiên và Rồng kết hôn với nhau, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm con trai, tổ tiên xa xôi của người Việt : từ đó người Việt thân ái gọi nhau là đồng bào (cùng một bọc).
Về sau, mẹ Âu chia tay cha Rồng, 50 người con theo mẹ lên vùng núi và trung du ; 50 người con theo cha xuống đồng bằng và vùng biển. Người con cả được tôn làm vua Hùng, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ) truyền ngôi được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Về sau, các nhà sử, nhà văn (trong Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái...) sẽ đưa các vua Hùng của thời huyền thoại này vào chính sử.
Vua Thục tên Phán, hiệu An Dương Vương, ở vùng núi phía Bắc nước Văn Lang, từng xung đột với vua Hùng, cũng từng thắng quân Tần xâm lược, đã lên nối ngôi Hùng Vương và hợp nhất xứ Tây Âu với xứ Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Được Rùa thần cho móng làm lẫy nỏ, bắn trăm phát trăm trúng, vua nhiều lần đánh bại Triệu Đà nhưng vua Triệu đã dùng mưu kế cho con là Trọng Thủy cầu hôn với công chúa Mỵ Châu để ăn cắp nỏ thần, rồi tráo trở đem quân qua đánh sui gia (179 trước Công Nguyên). Vua Thục thua chạy tới vùng Cuông (Nghệ An, nơi có nhiều chim công, thổ ngữ xứ Nghệ gọi là cuông), rồi được Rùa Vàng rước xuống Biển Đông.
Còn Trưng Trắc là một thủ lãnh dòng Lạc tướng, cùng em là Trưng Nhị, đứng lên xưng vương khởi nghĩa chống ách thống trị của quân Đông Hán, cả hai nữ anh hùng đều hy sinh trên sông Hát (năm 43), chấm dứt thời đại độc lập tự do của tổ quốc Văn Lang-Âu Lạc.
Vua Thục tên Phán, hiệu An Dương Vương, ở vùng núi phía Bắc nước Văn Lang, từng xung đột với vua Hùng, cũng từng thắng quân Tần xâm lược, đã lên nối ngôi Hùng Vương và hợp nhất xứ Tây Âu với xứ Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Được Rùa thần cho móng làm lẫy nỏ, bắn trăm phát trăm trúng, vua nhiều lần đánh bại Triệu Đà nhưng vua Triệu đã dùng mưu kế cho con là Trọng Thủy cầu hôn với công chúa Mỵ Châu để ăn cắp nỏ thần, rồi tráo trở đem quân qua đánh sui gia (179 trước Công Nguyên). Vua Thục thua chạy tới vùng Cuông (Nghệ An, nơi có nhiều chim công, thổ ngữ xứ Nghệ gọi là cuông), rồi được Rùa Vàng rước xuống Biển Đông.
Còn Trưng Trắc là một thủ lãnh dòng Lạc tướng, cùng em là Trưng Nhị, đứng lên xưng vương khởi nghĩa chống ách thống trị của quân Đông Hán, cả hai nữ anh hùng đều hy sinh trên sông Hát (năm 43), chấm dứt thời đại độc lập tự do của tổ quốc Văn Lang-Âu Lạc.
Sự
hình thành và hưng khởi của văn hóa Đông Sơn
- Cùng thời với văn hóa văn minh Hy Lạp cổ đại, văn hóa Đông Sơn là một nền văn minh xán lạn, đó là điều cần khẳng định và chứng minh.
rìu bằng đồng .
- Nó có địa bàn rộng lớn trên phần đất phía Bắc của tổ quốc, từ biên giới Việt-Trung tới sông Gianh ;
- Các địa điểm của nó bao gồm những làng xóm (tên cổ là chạ, là kẻ), có ruộng vườn để trồng lúa nước và nhiều loài rau quả, có cả khu mộ địa (mộ huyệt đất, mộ vò, mộ thuyền làm bằng quan tài thân cây khoét rỗng) ;
Chủ nhân của nó có cuộc sống vật chất và tinh thần ở trình độ cao, thể hiện ở bộ đồ dùng, đồ nghề, đồ trang sức, nhạc khí, vũ khí : nào là thố, bình, thạp ... , nào là dáo, dao găm (đẹp nhất là loại có cán hình người, hình động vật ...), nỏ và mũi tên (trong lòng đất thành Cổ Loa đã tìm thấy hơn 10.000 mũi tên đồng), nào là cồng chiêng, chuông nhạc, lục lạc, mõ, sênh phách, khèn, trống da, trống đồng, v.v.
Người Việt cổ còn văn minh ở chỗ họ đã để lại cho đời sau những hình ảnh tốt đẹp của mình qua các pho tượng, các hình chạm khắc trên trồng đồng, thạp đồng... Qua những hiện vật quí hiếm ấy, tổ tiên Việt cổ mách bảo cho ta biết : họ ở nhà sàn, dựng nhà kho, làm thuyền lớn để đi trên sông biển, thích tổ chức hội mùa để vui chơi múa hát, có khi cầm theo cả vũ khí để phô trương lực lượng. Họ chăn nuôi nhiều gia súc : gà, heo, chó, voi... Họ sống hài hòa với chim trời, thú rừng. Họ đã có những tín ngưỡng, tôn giáo như biết chôn cất người chết, có lẽ biết thờ vật tổ, họ tổ chức bơi chải cầu mưa, cho gái trai tự do thương yêu để tác động đến cỏ cây, mùa màng, thời tiết theo tín ngưỡng phồn thực thấy ở nhiều dân tộc khác.
Từ bốn hội nghị khoa học về Hùng Vương tới "Hành trình về thời đại Hùng Vương"
Trong thập niên 1970 của thế kỷ trước, khói lửa của cuộc nội chiến tương tàn nồi da xáo thịt đã ngập tràn. Người Việt ta ở hai miền Nam Bắc, con cháu các vua Hùng, vua Thục, vua Trưng, vua Triệu, vì những lý do ý thức hệ đã say sưa bắn giết nhau bằng vũ khí hiện đại do nước ngoài cung cấp, thật rất đau lòng. Nhưng vào lúc ấy, tôi lại có may mắn được dự liên tiếp bốn hội nghị khoa học về thời đại Hùng Vương, được tổ chức ngay trên mảnh đất trung du, gần đền và mộ vua Hùng. Tôi cũng đã được đến thăm các di chỉ khảo cổ học nổi tiếng : Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, Việt Khê...
Sau đó được sự khuyến khích, giúp đỡ quí báu của một số đồng nghiệp và bạn bè, những Cao Huy Đỉnh, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Lan, Đặng Văn Lung, Nguyễn Hữu Thu... người còn kẻ mất, cũng như của các anh chị ở Sở Văn Hóa Vĩnh Phú và Viện Bảo Tàng Hùng Vương, tôi đã mạnh dạn soạn tập sách Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước cho giới thanh niên, sinh viên, được nhà xuất bản Thanh Niên công bố (1982), rồi tái bản (2000), và mới đây lại được bạn Lại Như Bằng đưa lên website của tạp chí điện tử Chim Việt Cành Nam
Nhờ đó tôi đã có dịp trình bày với đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước gần 20 đề tài tôi quan tâm tìm hiểu :
- Hùng Vương, từ trong mây mù huyền thoại tới hiện thực lịch sử,
- Hành hương về đất tổ trung du : đền Hùng và hội đền Hùng,
- Hùng vương đã khơi nguồn truyền thống thống nhất và văn minh cho dân tộc,
- Đi tìm dấu vết một thời đại trên những di tích khảo cổ,
- Bên bờ sông Hồng, sông Mã, chứng tích của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ,
- Ngắm nghía và suy nghĩ về văn vật kỳ diệu nhất của thời đại dựng nước : trống đồng Đông Sơn,
- Thiên nhiên thời Hùng Vương,
- Thăm lại làng xưa chạ cổ cách nay mấy ngàn năm
- Cuộc sống đầm ấm của gia đình Việt cổ
- Nếp phong tục thuần phác cổ xưa,
- Hội làng, hội mùa thời Hùng Vương,
- Những nghệ sĩ tạo hình Việt cổ tài hoa,
- Thần thoại và truyền thuyết anh hùng Việt cổ,
- Tín ngưỡng và tư duy người xưa,
- Thời đại Hùng Vương đã khơi nguồn truyền thống thượng võ của dân tộc,
- Bản anh hùng ca dựng nước, xây thành, chống Tần, chống Triêïu của vua Thục
- Hai chị em bà Trưng khởi nghĩa chống Hán, lập chiến công oanh liệt ngàn thu.
Nhờ đó tôi đã có dịp trình bày với đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước gần 20 đề tài tôi quan tâm tìm hiểu :
- Hùng Vương, từ trong mây mù huyền thoại tới hiện thực lịch sử,
- Hành hương về đất tổ trung du : đền Hùng và hội đền Hùng,
- Hùng vương đã khơi nguồn truyền thống thống nhất và văn minh cho dân tộc,
- Đi tìm dấu vết một thời đại trên những di tích khảo cổ,
- Bên bờ sông Hồng, sông Mã, chứng tích của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ,
- Ngắm nghía và suy nghĩ về văn vật kỳ diệu nhất của thời đại dựng nước : trống đồng Đông Sơn,
- Thiên nhiên thời Hùng Vương,
- Thăm lại làng xưa chạ cổ cách nay mấy ngàn năm
- Cuộc sống đầm ấm của gia đình Việt cổ
- Nếp phong tục thuần phác cổ xưa,
- Hội làng, hội mùa thời Hùng Vương,
- Những nghệ sĩ tạo hình Việt cổ tài hoa,
- Thần thoại và truyền thuyết anh hùng Việt cổ,
- Tín ngưỡng và tư duy người xưa,
- Thời đại Hùng Vương đã khơi nguồn truyền thống thượng võ của dân tộc,
- Bản anh hùng ca dựng nước, xây thành, chống Tần, chống Triêïu của vua Thục
- Hai chị em bà Trưng khởi nghĩa chống Hán, lập chiến công oanh liệt ngàn thu.
Ngẫm nghĩ về thời đại Hùng-Thục-Trưng và tinh hoa văn minh Việt cổ
Hôm nay, đối với những đồng bào và bầu bạn chưa nắm vững lịch sử văn hóa văn minh của cha ông, khởi đầu từ thời đại Hùng-Thục-Trưng mà lại hờ hững coi thường, hay đánh giá không thỏa đáng, tôi muốn đưa ra vài ngẫm nghĩ:
Trong bản trường ca dựng nước, giữ nước, sáng tạo văn hóa văn minh của dân tộc ta, có một thời đại Văn Lang-Âu lạc lâu đời và tốt đẹp. Tinh thần mở núi phá đá, làm chủ thiên nhiên, dựng nên ruộng vườn, sáng tạo văn hóa, quyết thắng thù trong giặc ngoài của mẹ Âu và cha Rồng, của ông Gióng, ông Tản, của vua Hùng, vua Thục, vua Trưng, vua Triệu, vua Đen... vẫn luôn ngời sáng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, yêu nước thương dân của người Việt Nam trước đây, hôm nay và mai sau.
Vì muốn trả ơn dân đền nợ nước nên người Việt luôn có ý chí giành độc lập cho nước, tự do và hạnh phúc cho dân, với mối tình gắn bó nước với nhà, làng với nước, đồng bào với nhau, cộng với đức tính cần cù, ham học, thông minh, sáng tạo, mềm mỏng nhẫn nại mà không khuất phục trước bất cứ nghịch cảnh nào : tất cả những nét đặc sắc đó của tính cách dân tộc đã xuất hiện nơi con người Việt cổ, những người làm ruộng nước, đúc trống đồng, vui hội mùa và quyết liệt chống giặc.
Phải nhấn mạnh rằng, trên dải đất mà ngày nay hơn 80 triệu đồng bào chúng ta đang lao động vất vả và không ngừng đấu tranh cho dân chủ tự do để đắp xây hạnh phúc cho chính mình và cho muôn đời con cháu, đã xuất hiện trước đây nhiều ngàn năm một nền văn minh Việt cổ, còn gọi là văn minh sông Hồng ở trình độ cao, là một đóng góp đáng kể vào lịch sử văn minh nhân loại, và là niềm tự hào chính đáng của một dân tộc văn hiến lâu đời.
Tìm hiểu sâu sắc thời đại Hùng-Thục-Trưng, các bạn sẽ thấy con người Việt cổ hăng say trong lao động sản xuất và phát huy nghị lực để chế ngự thiên nhiên, chiến thắng giặc giã, cũng là con người nhởn nhơ vui chơi múa hát trong ngày hội mùa, ung dung thư thái thổi khèn, giã trống, giã cối, đánh cồng chiêng, hay nhiệt tình tham gia các cuộc đua thuyền rộn rịp trên sông nước.
Sau những tháng ngày vất vả làm ăn, khẩn trương đánh giặc, người Việt cổ tự ru mình trong giấc mơ thanh bình, trong ước vọng mưa hòa gió thuận, mùa màng bội thu, con đàn cháu đống và cả trong niềm khát khao cái đẹp. Người Việt cổ yêu cái đẹp, cần cái đẹp trong sinh hoạt nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày như một nhu cầu về sự tế nhị hài hòa, tròn trặn, vuông vức, đối xứng, cân phân, gọn mắt, vừa tay, vừa tầm con người.
Từ chiếc thuyền độc mộc thon thả, ngôi nhà sàn mái cong cong đến hình dáng khỏe mà thanh của ngọn giáo, cán dao găm, dáng hình hài hòa cân đối của cổ trống, chiếc thạp... sắc thái dân tộc tỏa ra tươi mát, vừa mềm mại uyển chuyển vừa rắn rỏi vững vàng như muốn phản ánh tâm hồn Việt cổ tao nhã mà hăng say, thành khẩn mà vẫn dung dị.
Mặc dù trình độ trí tuệ đã khá cao, thể hiện qua các khái niệm về hình học, số học, về đối xứng, cân phân, qua những sáng tạo nghệ thuật đáng kể như các pho tượng, các trống, thạp, văn minh Việt cổ đã không sản sinh những nhà hiền triết, nhà bác học, những áng văn lớn như ở Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ cùng thời, không để lại những công trình kiến trúc kỳ vĩ như tháp chữ Kim, khu đền Parthénon, Trường Thành Vạn Lý... Nền văn minh được tượng trưng bằng trống đồng Đông Sơn quả thật khiêm tốn quá, thiếu hẳn cái lộng lẫy, đồ sộ, nguy nga thấy ở các thành tựu khác của một số nền văn minh cổ đại.
Thật ra tiêu chuẩn chân chính của một nền văn minh không phải ở kích thước to lớn, số lượng phong phú. Một nền văn minh thực sự lớn là ở những giá trị tinh thần, những bài học về phẩm chất con người, về chủ nghĩa nhân văn truyền lại cho đời sau. Người Việt cổ thực sự văn minh vì tuy có chú trọng tới vật chất, sản xuất, văn nghệ như làm ruộng nước, tạc tượng, đúc trống, mở hội... nhưng chủ yếu họ hướng vào chiều sâu của tâm hồn, tình cảm, ý chí, và phẩm chất con người. Người Việt cổ không vì hư danh, vì hưởng thụ mà xây dựng những công trình to lớn, hao công tốn của, phải hy sinh nhiều mạng người để chiều theo ước vọng ngông cuồng của bọn bạo chúa. Tổ tiên Việt cổ của chúng ta chỉ muốn phát huy cái thông minh sáng tạo, cái khéo léo tài hoa để phục vụ cuộc sống, phục vụ cộng đồng, phục vụ dân lành mà thôi.
Tinh hoa của nền văn minh Việt cổ, theo tôi nghĩ, chính là tấm lòng yêu nước, mến dân, thương người, vì hạnh phúc của đồng bào và người thân mà lao động hăng say, chiến đấu gan dạ, ước mơ hòa hợp, khao khát thanh bình. Tinh hoa Việt cổ là ở cái tinh vi, tế nhị, hài hòa, tao nhã, tô điểm cho cuộc sống hàng ngày (trống đồng, thạp đồng đã nói lên được điều đó). Tinh hoa Việt cổ bao gồm những giá trị nhân văn thiết thực, gần gũi với con người chứ không phải ở những kỳ tích, những tư tưởng cao xa diệu vợi đối với con người.
Trong bản trường ca dựng nước, giữ nước, sáng tạo văn hóa văn minh của dân tộc ta, có một thời đại Văn Lang-Âu lạc lâu đời và tốt đẹp. Tinh thần mở núi phá đá, làm chủ thiên nhiên, dựng nên ruộng vườn, sáng tạo văn hóa, quyết thắng thù trong giặc ngoài của mẹ Âu và cha Rồng, của ông Gióng, ông Tản, của vua Hùng, vua Thục, vua Trưng, vua Triệu, vua Đen... vẫn luôn ngời sáng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, yêu nước thương dân của người Việt Nam trước đây, hôm nay và mai sau.
Vì muốn trả ơn dân đền nợ nước nên người Việt luôn có ý chí giành độc lập cho nước, tự do và hạnh phúc cho dân, với mối tình gắn bó nước với nhà, làng với nước, đồng bào với nhau, cộng với đức tính cần cù, ham học, thông minh, sáng tạo, mềm mỏng nhẫn nại mà không khuất phục trước bất cứ nghịch cảnh nào : tất cả những nét đặc sắc đó của tính cách dân tộc đã xuất hiện nơi con người Việt cổ, những người làm ruộng nước, đúc trống đồng, vui hội mùa và quyết liệt chống giặc.
Phải nhấn mạnh rằng, trên dải đất mà ngày nay hơn 80 triệu đồng bào chúng ta đang lao động vất vả và không ngừng đấu tranh cho dân chủ tự do để đắp xây hạnh phúc cho chính mình và cho muôn đời con cháu, đã xuất hiện trước đây nhiều ngàn năm một nền văn minh Việt cổ, còn gọi là văn minh sông Hồng ở trình độ cao, là một đóng góp đáng kể vào lịch sử văn minh nhân loại, và là niềm tự hào chính đáng của một dân tộc văn hiến lâu đời.
Tìm hiểu sâu sắc thời đại Hùng-Thục-Trưng, các bạn sẽ thấy con người Việt cổ hăng say trong lao động sản xuất và phát huy nghị lực để chế ngự thiên nhiên, chiến thắng giặc giã, cũng là con người nhởn nhơ vui chơi múa hát trong ngày hội mùa, ung dung thư thái thổi khèn, giã trống, giã cối, đánh cồng chiêng, hay nhiệt tình tham gia các cuộc đua thuyền rộn rịp trên sông nước.
Sau những tháng ngày vất vả làm ăn, khẩn trương đánh giặc, người Việt cổ tự ru mình trong giấc mơ thanh bình, trong ước vọng mưa hòa gió thuận, mùa màng bội thu, con đàn cháu đống và cả trong niềm khát khao cái đẹp. Người Việt cổ yêu cái đẹp, cần cái đẹp trong sinh hoạt nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày như một nhu cầu về sự tế nhị hài hòa, tròn trặn, vuông vức, đối xứng, cân phân, gọn mắt, vừa tay, vừa tầm con người.
Từ chiếc thuyền độc mộc thon thả, ngôi nhà sàn mái cong cong đến hình dáng khỏe mà thanh của ngọn giáo, cán dao găm, dáng hình hài hòa cân đối của cổ trống, chiếc thạp... sắc thái dân tộc tỏa ra tươi mát, vừa mềm mại uyển chuyển vừa rắn rỏi vững vàng như muốn phản ánh tâm hồn Việt cổ tao nhã mà hăng say, thành khẩn mà vẫn dung dị.
Mặc dù trình độ trí tuệ đã khá cao, thể hiện qua các khái niệm về hình học, số học, về đối xứng, cân phân, qua những sáng tạo nghệ thuật đáng kể như các pho tượng, các trống, thạp, văn minh Việt cổ đã không sản sinh những nhà hiền triết, nhà bác học, những áng văn lớn như ở Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ cùng thời, không để lại những công trình kiến trúc kỳ vĩ như tháp chữ Kim, khu đền Parthénon, Trường Thành Vạn Lý... Nền văn minh được tượng trưng bằng trống đồng Đông Sơn quả thật khiêm tốn quá, thiếu hẳn cái lộng lẫy, đồ sộ, nguy nga thấy ở các thành tựu khác của một số nền văn minh cổ đại.
Thật ra tiêu chuẩn chân chính của một nền văn minh không phải ở kích thước to lớn, số lượng phong phú. Một nền văn minh thực sự lớn là ở những giá trị tinh thần, những bài học về phẩm chất con người, về chủ nghĩa nhân văn truyền lại cho đời sau. Người Việt cổ thực sự văn minh vì tuy có chú trọng tới vật chất, sản xuất, văn nghệ như làm ruộng nước, tạc tượng, đúc trống, mở hội... nhưng chủ yếu họ hướng vào chiều sâu của tâm hồn, tình cảm, ý chí, và phẩm chất con người. Người Việt cổ không vì hư danh, vì hưởng thụ mà xây dựng những công trình to lớn, hao công tốn của, phải hy sinh nhiều mạng người để chiều theo ước vọng ngông cuồng của bọn bạo chúa. Tổ tiên Việt cổ của chúng ta chỉ muốn phát huy cái thông minh sáng tạo, cái khéo léo tài hoa để phục vụ cuộc sống, phục vụ cộng đồng, phục vụ dân lành mà thôi.
Tinh hoa của nền văn minh Việt cổ, theo tôi nghĩ, chính là tấm lòng yêu nước, mến dân, thương người, vì hạnh phúc của đồng bào và người thân mà lao động hăng say, chiến đấu gan dạ, ước mơ hòa hợp, khao khát thanh bình. Tinh hoa Việt cổ là ở cái tinh vi, tế nhị, hài hòa, tao nhã, tô điểm cho cuộc sống hàng ngày (trống đồng, thạp đồng đã nói lên được điều đó). Tinh hoa Việt cổ bao gồm những giá trị nhân văn thiết thực, gần gũi với con người chứ không phải ở những kỳ tích, những tư tưởng cao xa diệu vợi đối với con người.
2. Thời Ngô - Ðinh - Tiền Lê
của
văn
hóa Hoa Lư
Sau thời đại Hùng-Thục-Trưng của văn hóa Ðông Sơn, văn minh sông Hồng, lịch sử văn hóa văn minh Việt Nam bước vào thời đại lớn thứ hai của nó là thời đại Ðại Cồ Việt - Ðại Việt - Việt Nam - Ðại Nam, với ba thời kỳ văn hóa dài ngắn khác nhau : văn hóa Hoa Lư, văn hóa Thăng Long và văn hóa Phú Xuân.
Nói cách khác, văn hóa văn minh Việt Nam nếu chỉ tính từ thời trung cận đại tới thời cận hiện đại đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử dài ngắn khác nhau : thời Ngô-Ðinh-Tiền Lê, thời Lý, thời Trần-Hồ, thời Lê sơ, thời Mạc-Trịnh, thời các chúa Nguyễn, thời Tây Sơn-Nguyễn mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét và cố gắng nắm bắt những nét chính yếu về mặt văn hóa học.
Trước khi đi vào thời Ngô-Ðinh-Tiền Lê của văn hóa Hoa Lư phải bàn tới :
Nói cách khác, văn hóa văn minh Việt Nam nếu chỉ tính từ thời trung cận đại tới thời cận hiện đại đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử dài ngắn khác nhau : thời Ngô-Ðinh-Tiền Lê, thời Lý, thời Trần-Hồ, thời Lê sơ, thời Mạc-Trịnh, thời các chúa Nguyễn, thời Tây Sơn-Nguyễn mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét và cố gắng nắm bắt những nét chính yếu về mặt văn hóa học.
Trước khi đi vào thời Ngô-Ðinh-Tiền Lê của văn hóa Hoa Lư phải bàn tới :
Thời kỳ giao lưu tiếp biến văn hóa Việt-Ấn, văn hóa Việt-Trung
Ðứng về mặt lịch sử thì đây là thời kỳ quen gọi là Bắc thuộc, dài tới 900 năm từ sau Hai Bà Trưng tới trước Ngô Quyền, một thời kỳ mà kẻ đô hộ đến từ phương Bắc đã phải chạm trán với bản lĩnh Việt cổ, thể hiện qua tinh thần dũng liệt, bất khuất của những Bà Triệu, Lý Bôn, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Thanh, Khúc Thừa Dụ, Dương Ðình Nghệ... đã cùng với người dân Việt cổ liên tục khởi nghĩa để tập dợt, chuẩn bị cho một đại thắng Bạch Ðằng cuối năm 938, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc sau kỷ nguyên Việt cổ : kỷ nguyên Việt Nam.
Giữa hai kỷ nguyên cũ và mới đã xảy ra một biến cố văn hóa lớn : quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Việt-Ấn và văn hóa Việt-Trung đã làm biến đổi cấu trúc văn hóa văn minh Việt cổ và góp phần quan trọng cho sự hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam từ truyền thống tới cận đại.
Ngót ngàn năm Bắc thuộc đã là một thử thách ghê gớm đối với sự còn mất của dân tộc Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Sau khi nước Văn Lang-Âu Lạc của vua Hùng, vua Thục, vua Trưng bị kẻ thù phương Bắc chiếm đóng, nhiều chính sách nô dịch, bóc lột về vật chất, thủ đoạn đồng hóa về tinh thần đã được liên tục triển khai.
Tướng Mã Viện nhà Hán là người đầu tiên cố gắng áp dụng một âm mưu diệt chủng toàn diện : đàn áp dã man, giết hại vô số dân Việt cổ, trấn áp dữ dội giới quý tộc Văn Lang-Âu Lạc. Họ Mã bắt đày sang Hồ Nam hơn 300 thủ lãnh Việt cổ, những người có uy tín và khả năng đoàn kết dân Việt cổ chống ách áp bức bóc lột. Họ Mã đã cướp đi hàng trăm trống đồng, thạp đồng để đúc thành một con ngựa lớn làm quà biếu dâng công trạng lên vua Hán.
Họ Mã cũng đã thu gom nhiều đồ đồng Việt cổ khác để đúc thành một cái cột mốc khẳng định địa giới nhà Hán trên đất Văn Lang-Âu Lạc cũ với lời nguyền độc địa : "Nếu để cột đồng gãy thì sẽ tiêu diệt hết dân Giao Chỉ" ("Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt"). Họ Mã biết trống và thạp đồng tượng trưng cho uy quyền các vua Việt cổ, các Lạc tướng, Lạc hầu, quan lang, mỵ nương, và được sử dụng trong chiến trận cũng như trong các lễ hội Việt cổ, là những sáng tạo có giá trị lớn về kỹ thuật và nghệ thuật, triệt phá những báu vật đó cũng như giết hại nhân dân đày ải thủ lãnh và quý tộc Việt cổ đều là hành động diệt chủng nằm trong một âm mưu thủ đoạn đồng hóa đại qui mô và lâu dài.
Sau Mã Viện tới những Sĩ Nhiếp, Tôn Tư, Cao Biền, v.v., bằng các thủ đoạn khác nhau đều cố gắng đồng hóa, Hán hóa vĩnh viễn đất nước và văn minh Việt cổ. Nhưng người Việt cổ, chủ nhân của một nền văn hóa Ðông Sơn, văn minh sông Hồng có trình độ khá cao, đã chống lại và làm thất bại mọi âm mưu đồng hóa, diệt chủng của kẻ thù.
Mất nước, người Việt cổ vẫn giữ vững xóm làng sau lũy tre xanh. Trong những làng chạ ấy, văn hóa dân gian, cái cốt lõi của văn minh Việt cổ, vẫn được bảo tồn, tiếng nói Việt cổ vẫn được gìn giữ với những âm tiết và từ ngữ thuần Việt, mặc dầu nó đón nhận thêm ngày càng nhiều những âm tiết và từ ngữ Hán. Sau ngót ngàn năm Bắc thuộc, tiếng Việt vẫn tồn tại như một thứ tiếng khác với Hán ngữ và với bất cứ phương ngữ nào của Trung Quốc. Tiếng Việt là chứng cứ hùng hồn nhất về bản sắc, bản lĩnh của người Việt và văn minh Việt từ nhiều ngàn năm nay.
Về tư tưởng và tín ngưỡng tôn giáo, người Việt đã tiếp thu có chọn lọc Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo tới từ Ấn Ðộ và Trung Quốc mà vẫn giữ vững tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, truyền thống tôn trọng anh hùng, người già và phụ nữ. Còn Nho giáo, tuy có thịnh hành trong một vài thời kỳ lịch sử nhưng với những nguyên lý phi nhân bản như quá đề cao quyền vua, quyền cha, trọng nam khinh nữ, bảo thủ, giáo điều, hư văn... đã chỉ ảnh hưởng nhiều tới các tầng lớp trên của xã hội, trong khi đó Phật giáo của từ bi bác ái và của tư tưởng thiền mới là tôn giáo, đạo lý được ưa thích nhất của đại đa số dân Việt ở mọi thời đại.
Nói tóm lại, sau ngót ngàn năm giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt-Ấn, văn hóa Việt-Trung, người Việt đã có đầy đủ sức sống và sức mạnh để bước vào một thời đại mới độc lập, tự chủ lâu dài mà bắt đầu là thời Ngô-Ðinh-Tiền-Lê của văn hóa Hoa Lư nước Ðại Cồ Việt.
Ðứng về mặt lịch sử thì đây là thời kỳ quen gọi là Bắc thuộc, dài tới 900 năm từ sau Hai Bà Trưng tới trước Ngô Quyền, một thời kỳ mà kẻ đô hộ đến từ phương Bắc đã phải chạm trán với bản lĩnh Việt cổ, thể hiện qua tinh thần dũng liệt, bất khuất của những Bà Triệu, Lý Bôn, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Thanh, Khúc Thừa Dụ, Dương Ðình Nghệ... đã cùng với người dân Việt cổ liên tục khởi nghĩa để tập dợt, chuẩn bị cho một đại thắng Bạch Ðằng cuối năm 938, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc sau kỷ nguyên Việt cổ : kỷ nguyên Việt Nam.
Giữa hai kỷ nguyên cũ và mới đã xảy ra một biến cố văn hóa lớn : quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Việt-Ấn và văn hóa Việt-Trung đã làm biến đổi cấu trúc văn hóa văn minh Việt cổ và góp phần quan trọng cho sự hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam từ truyền thống tới cận đại.
Ngót ngàn năm Bắc thuộc đã là một thử thách ghê gớm đối với sự còn mất của dân tộc Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Sau khi nước Văn Lang-Âu Lạc của vua Hùng, vua Thục, vua Trưng bị kẻ thù phương Bắc chiếm đóng, nhiều chính sách nô dịch, bóc lột về vật chất, thủ đoạn đồng hóa về tinh thần đã được liên tục triển khai.
Tướng Mã Viện nhà Hán là người đầu tiên cố gắng áp dụng một âm mưu diệt chủng toàn diện : đàn áp dã man, giết hại vô số dân Việt cổ, trấn áp dữ dội giới quý tộc Văn Lang-Âu Lạc. Họ Mã bắt đày sang Hồ Nam hơn 300 thủ lãnh Việt cổ, những người có uy tín và khả năng đoàn kết dân Việt cổ chống ách áp bức bóc lột. Họ Mã đã cướp đi hàng trăm trống đồng, thạp đồng để đúc thành một con ngựa lớn làm quà biếu dâng công trạng lên vua Hán.
Họ Mã cũng đã thu gom nhiều đồ đồng Việt cổ khác để đúc thành một cái cột mốc khẳng định địa giới nhà Hán trên đất Văn Lang-Âu Lạc cũ với lời nguyền độc địa : "Nếu để cột đồng gãy thì sẽ tiêu diệt hết dân Giao Chỉ" ("Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt"). Họ Mã biết trống và thạp đồng tượng trưng cho uy quyền các vua Việt cổ, các Lạc tướng, Lạc hầu, quan lang, mỵ nương, và được sử dụng trong chiến trận cũng như trong các lễ hội Việt cổ, là những sáng tạo có giá trị lớn về kỹ thuật và nghệ thuật, triệt phá những báu vật đó cũng như giết hại nhân dân đày ải thủ lãnh và quý tộc Việt cổ đều là hành động diệt chủng nằm trong một âm mưu thủ đoạn đồng hóa đại qui mô và lâu dài.
Sau Mã Viện tới những Sĩ Nhiếp, Tôn Tư, Cao Biền, v.v., bằng các thủ đoạn khác nhau đều cố gắng đồng hóa, Hán hóa vĩnh viễn đất nước và văn minh Việt cổ. Nhưng người Việt cổ, chủ nhân của một nền văn hóa Ðông Sơn, văn minh sông Hồng có trình độ khá cao, đã chống lại và làm thất bại mọi âm mưu đồng hóa, diệt chủng của kẻ thù.
Mất nước, người Việt cổ vẫn giữ vững xóm làng sau lũy tre xanh. Trong những làng chạ ấy, văn hóa dân gian, cái cốt lõi của văn minh Việt cổ, vẫn được bảo tồn, tiếng nói Việt cổ vẫn được gìn giữ với những âm tiết và từ ngữ thuần Việt, mặc dầu nó đón nhận thêm ngày càng nhiều những âm tiết và từ ngữ Hán. Sau ngót ngàn năm Bắc thuộc, tiếng Việt vẫn tồn tại như một thứ tiếng khác với Hán ngữ và với bất cứ phương ngữ nào của Trung Quốc. Tiếng Việt là chứng cứ hùng hồn nhất về bản sắc, bản lĩnh của người Việt và văn minh Việt từ nhiều ngàn năm nay.
Về tư tưởng và tín ngưỡng tôn giáo, người Việt đã tiếp thu có chọn lọc Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo tới từ Ấn Ðộ và Trung Quốc mà vẫn giữ vững tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, truyền thống tôn trọng anh hùng, người già và phụ nữ. Còn Nho giáo, tuy có thịnh hành trong một vài thời kỳ lịch sử nhưng với những nguyên lý phi nhân bản như quá đề cao quyền vua, quyền cha, trọng nam khinh nữ, bảo thủ, giáo điều, hư văn... đã chỉ ảnh hưởng nhiều tới các tầng lớp trên của xã hội, trong khi đó Phật giáo của từ bi bác ái và của tư tưởng thiền mới là tôn giáo, đạo lý được ưa thích nhất của đại đa số dân Việt ở mọi thời đại.
Nói tóm lại, sau ngót ngàn năm giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt-Ấn, văn hóa Việt-Trung, người Việt đã có đầy đủ sức sống và sức mạnh để bước vào một thời đại mới độc lập, tự chủ lâu dài mà bắt đầu là thời Ngô-Ðinh-Tiền-Lê của văn hóa Hoa Lư nước Ðại Cồ Việt.
Về Ðường Lâm thăm quê hương Ngô Quyền, vị tổ trung hưng thứ nhất của dân tộc
Làng Ðường Lâm (tỉnh Hà Tây, cách thị xã Sơn Tây 4 km) là một làng Việt cổ ở vùng trung du miền Bắc. Ðây là quê hương hiển hách của Phùng Hưng và Ngô Quyền, hai vị anh hùng dân tộc đã đánh đuổi kẻ thù phương Bắc ở thế kỷ 8 và thế kỷ 10.
Ngôi làng trung du này có tới 21 đồi gò, 18 rộc (ngòi), nước sâu và dòng sông Tích xanh trong uốn lượn quanh làng. Nơi đây có đình thờ Phùng Hưng, tức Ðại Vương Bố Cái (?-789), vị thủ lãnh Việt cổ đã cùng hai em dựng cờ khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Ðường giành lại đất nước xây dựng nền tự chủ trong 25 năm ngắn ngủi (767-791). Nơi đây còn có lăng và đền thờ Ngô Quyền, chung quanh có đồi Hùm, giếng Ngọc, rặng Duối buộc voi.
Nhà truyền thống Ðường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quí như rìu đá Phùng Nguyên, cọc gỗ Bạch Ðằng, khánh đá, chuông đồng... Cạnh đó có rọc sâu, tương truyền thuở xưa là hồ sen Ngô Quyền cùng bạn bè thiếu niên chơi trò thủy chiến.
Những ai đã từng đi thăm viếng hành hương tới đền Ðô (đền Lý Bát Ðế) thờ 8 vua Lý tại làng Ðình Bảng (Bắc Ninh), tới hai khu thái miếu thờ các vua Trần ở Tức Mạc (Nam Ðịnh) và Long Hưng (Thái Bình), tới đền Kiếp Bạc ở Vạn Kiếp (Hải Dương), tới khu Thái Miếu thờ các vua Lê tại Lam Sơn (Thanh Hóa), hay tới khu thờ các chúa và vua Nguyễn trong Ðại nội Huế, đều không khỏi bồi hồi, bâng khuâng, thắc mắc trước vị thế và qui mô quá khiêm tốn của những di tích đình đền, lăng mộ dành cho Phùng Hưng và Ngô Quyền ở một ngôi làng trung du hẻo lánh : có chăng một cách nào khác để thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với đại vương Bố Cái anh hùng, và nhất là đối với vị tổ trung hưng thứ nhất của dân tộc : Ngô Quyền ?
Về thăm Hoa Lư, kinh đô nước Ðại Cồ Việt thời Ðinh và thời Tiền Lê
Cố đô Hoa Lư của hai triều đại Ðinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009), nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư (Ninh Bình), nằm trong một vùng núi đá vôi có diện tích hơn 300 ha, giữa hai vòng thành : thành ngoại và thành nội, với những địa danh cổ kính : núi Ðầm, núi Chẽ, quèn Dót, núi Mồng Mang, tường Bồ, tường Bìm...
Các nhà khảo cổ học đã đào được một số đoạn tường thành, móng thành, đá tảng, cọc gỗ, nền cung điện với những loại gạch có kích thước to lớn (30x16x4 cm) mang dòng chữ "Giang Tây quân" hay "Ðại Việt quốc quân thành chuyên". Cũng tại khu vực Hoa Lư đã đào được những cột kinh Phật thời Ðinh và Tiền Lê. Ðộng Hoa Lư là căn cứ ban đầu của Ðinh Bộ Lĩnh, mộ vua Ðinh còn trên đỉnh núi Mã Yên, và dưới chân núi là mộ vua Lê Ðại Hành.
Gần cố đô Hoa Lư có hai thắng cảnh là Bích Ðộng và Tam Cốc. Ði vào Bích Ðộng sẽ thấy những vú đá, măng đá đẹp độc đáo mà trí tưởng tượng người đời đã biến thành những tiên ông, tiên cô, tiểu đồng, rồng lượn, rùa bơi, đại bàng vẫy cánh... Từ Bích Ðộng khách du tiếp tục ngồi thuyền đi thăm thắng cảnh Tam Cốc (nghĩa là ba hang : hang Cả, hang Hai, hang Ba). Thuyền vào mỗi hang là vào cả một thế giới vừa mát lạnh, vừa kỳ ảo vì những thạch nhũ rủ xuống nhô lên óng ánh như những khối châu ngọc.
Hai di tích lịch sử - văn hóa quan trọng nhất của vùng Hoa Lư là Ðền vua Ðinh và Ðền vua Lê, chỉ cách nhau 500 m (nên dân gian thường gọi chung là đền Ðinh Lê), hai đối tượng sáng giá của một trong những lễ hội lớn nhất ở Việt Nam : hội Trường Yên.
Hội Trường Yên vang bóng văn hóa Hoa Lư
Ðể vinh danh hai vị vua, người dân Hoa Lư tổ chức một hội lễ tưng bừng kéo dài ba ngày, ngày chính là mồng 10 tháng Ba (trùng ngày với hội đền Hùng).
Ca dao địa phương có câu:
Nào ai con cháu Rồng Tiên
Tháng Ba mở hội Trường Yên thì về
Về thăm đền cũ Ðinh Lê
Non xanh nước biếc bốn bề thênh thang
Hội diễn ra tại khu vực đền vua Ðinh và đền vua Lê, tương truyền là được xây trên nền cung điện cố đô Hoa Lư.
Ðền vua Ðinh ở thôn Yên Thượng nên còn gọi là đền Thượng, xây trên khu đất rộng 5 ha, lấy núi Mã Yên làm tiền án và núi Dù làm hậu tẩm, gồm Bái Ðường (nhà tiền tế), nhà Thiên Hương (thờ bốn vị công thần nhà Ðinh) và Hậu Cung (chính cung) thờ tượng vua Ðinh và ba hoàng tử. Văn vật đáng chú ý nhất của đền vua Ðinh là Sập Rồng (long sàng) khắc nổi hình rồng phượng tinh vi, hai bên sập là hai con nghê đá càng làm tăng vẻ uy nghi của nội thất.
Ðền vua Lê ở thôn Yên Hạ nên gọi là đền Hạ, về kiến trúc đại thể cũng như đền vua Ðinh, nhưng qui mô nhỏ hơn. Trong đền thờ tượng vua Lê Ðại Hành, hoàng hậu Dương Vân Nga, Lê Long Ðĩnh (Lê ngọa triều) và tướng Phạm Cự Lượng. Nơi đây nghệ thuật chạm khắc gỗ dân gian thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo.
So với nhiều lễ hội khác trên đất nước ta, Hội Trường Yên có nhiều trò diễn và hoạt động văn hóa nghệ thuật hơn cả.
Mở đầu là lễ rước nước : đám rước lớn khởi hành từ đền vua Ðinh trong tiếng trống chiêng và nhạc của phường bát âm. Ði tới bến Trường Yên trên sông Hoàng Long rồi về lại đền.
Sau đó diễn ra nghi thức trọng thể nhất của hội là lễ tế, luôn luôn được cử hành về đêm. Ðèn được bật sáng hồng, ánh sáng hòa sắc với đồ tế khí óng ánh rực rỡ, làm cảnh quan càng thêm uy nghi. Ðặc biệt có hai cây nến to như hai cây cột cháy sáng rừng rực từ 6 giờ chiều tới nửa đêm. Trong lễ tế có sự hiện diện của hai ông thượng xướng, hạ xướng, ông chiêng, ông trống và chín ông đọc chín khúc của một bài ca nghi lễ dài ca ngợi công đức vua Ðinh. Sau mỗi khúc có hai nghệ nhân phường nhà trò, nữ hát ả đào, nam đệm đàn đáy, minh họa thêm cho nội dung khúc hát. Trong lúc ấy quần chúng nô nức reo hò trước cây pháo bông dựng trong sân đền.
Sáng ngày 10 tháng Ba (âm lịch), lễ dâng hương được cử hành cùng một lúc tại hai đền thượng và hạ, báo hiệu các trò vui của hội lễ sắp bắt đầu : trò "cờ lau tập trận" diễn ra tại bãi Hang Trâu, phía bên mặt đền vua Ðinh, với sự tham dự của từ 70 đến 100 thiếu niên 15-16 tuổi đóng vai trẻ chăn trâu đánh nhau, một trò chơi biểu lộ khí phách và tài năng của người anh hùng đã dẹp yên loạn 12 sứ quân, dựng lại nền thống nhất của Ðại Cồ Việt.
Sau cờ lau tập trận là trò "kéo chữ" diễn ra bên cạnh đền vua Lê. Một đoàn 32 thiếu niên 15-16 tuổi mặc đồng phục, thắt lưng xanh đỏ, mỗi em cầm một cuộn giấy màu sặc sỡ, xếp hàng một kéo dài cách nhau một mét chuyển động trên thảm cỏ xanh, để xếp thành hai chữ Hán : Thái Bình (niên hiệu triều vua Ðinh). Sau một hiệu trống, đoàn người kéo chữ ngồi đều đặn nhịp nhàng như bông hoa nở trông rất đẹp mắt. Lại một hiệu trống khác, đoàn người đứng dậy xếp thành hai chữ : Thiên Phúc (niên hiệu triều vua Lê). Rồi lại ngồi xuống theo hiệu trống tạo ra một quang cảnh uy nghi khác trong sự reo hò, hoan nghênh của nhiều ngàn người xem thuộc mọi lứa tuổi.
Sau trò kéo chữ, mọi người nghỉ ngơi một lúc rồi lại kéo nhau tới hai bên bờ đoạn sông Hoàng Long chảy qua trước mặt hai ngôi đền để xem trò bơi trải, kỷ niệm những cuộc duyệt quân thủy của vua Ðinh và vua Tiền Lê thuở xưa. Mỗi thôn của xã Trường Yên sắm một thuyền đua, gọi là trải. Trên mỗi trải có 9 trai bơi cường tráng, cởi trần, đóng khố, đầu quấn thủ rìu. Riêng người lái cắm một lá cờ nhỏ trên đầu, mỗi cờ một màu khác nhau. Cuộc đua diễn ra giữa những tiếng trống chiêng và hò hét vang trời.
Sau trò bơi trải mọi người nghỉ một lúc rồi tiếp tục tham gia hay thưởng thức những trò vui khác : múa rồng, đu tiên, đấu vật, chèo... cho tới nửa đêm là lúc Hội Trường Yên kết thúc với một trò vui tuyệt vời : đốt pháo bông. Các nghệ nhân pháo bông tài giỏi nhất của vùng Hoa Lư và cả tỉnh Ninh Bình đã khéo léo sáng tạo được hình ảnh vua Ðinh mặc hoàng bào, cỡi rồng hiện lên rực rỡ giữa không trung, một kỳ công mỹ thuật, mỹ nghệ dân gian không thấy ở các lễ hội khác.
Văn học, tư tưởng và tôn giáo thời kỳ văn hóa Hoa Lư
Thế kỷ 10, khi đất nước Ðại Cồ Việt của các vua Ngô-Ðinh-Tiền Lê bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài, cũng là lúc nảy sinh những mầm mống của một nền văn học dân tộc dưới hình thức chữ Hán và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo.
Nhờ tác phẩm Thiền uyển tập anh (Tập hợp tinh hoa vườn thiền), ghi lại các tông phái thiền Việt Nam, và 68 tiểu truyện các thiền sư nổi tiếng từ cuối thời Bắc thuộc cho đến đầu thời Trần mà chúng ta được biết về một số hoạt động nội chính, ngoại giao và một vài khuôn mặt lớn của văn hóa Hoa Lư.
Ðỗ Pháp Thuận (915-990) là một thiền sư và nhà thơ sống vào thời Ðinh-Tiền Lê. Nhờ kiến thức uyên bác, có tài văn thơ và tích cực tham gia vào việc khuôn phò nhà Tiền Lê thay thế nhà Ðinh nên ông được Lê Ðại Hành phong chức pháp sư. Cùng với các sư Khuông Việt và Vạn Hạnh, ôÂng đã cố vấn cho triều Tiền Lê về chính trị và ngoại giao. Vào năm 987, Lê Ðại Hành nhờ ông giả làm người lái đò đi tiếp sứ giả nhà Tống là Lý Giác. Trên đường đi tình cờ thấy đôi ngỗng bơi trên mặt nước, Lý Giác ngâm :
(tạm dịch)
Ngỗng kìa ngỗng một đôi
Nghểnh cổ nhìn chân trời
Sư Pháp Thuận vừa lái đò vừa ứng khẩu đọc tiếp :
Nước xanh lông trắng phủ
Sóng biếc chân hồng bơi
Bằng tài ứng đối mẫn tiệp, khả năng xướng họa thơ văn và vận dụng tri thức cổ học nhanh nhạy, ông đã làm cho Lý Giác khâm phục nên trước khi về Trung Quốc, sứ giả nhà Tống đã làm thơ để lại tặng ông. Khi Lê Ðại Hành hỏi ông về vận nước, ông trả lời vua bằng bài thơ vừa thắm đượm tinh thần thiền vừa phản ánh tinh thần hiếu hòa Việt Nam :
(tạm dịch)
Trả lời nhà vua hỏi về vận nước
Vận nước như mây quyện
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện gác
Chốn chốn dứt đao binh
Ngô Chân Lưu (933-1011), tên quen gọi là đại sư Khuông Việt, sống ở thời Ðinh và Tiền Lê. Vì nổi tiếng tinh thông thiền học nên ở tuổi 40 ông được Ðinh Tiên Hoàng mời về Hoa Lư phong chức tăng thống. Sau khi Lê Ðại Hành lên ngôi, ông lại càng được trọng đãi trong chức vụ cố vấn của triều đình. Cùng với sư Pháp Thuận, ông được cử đi đón tiếp Lý Giác, sứ giả nhà Tống. Khi Lý Giác sắp về nước, Lê Ðại Hành nhờ ông làm bài thơ tiễn, lời lẽ trân trọng, thắm thiết làm sứ giả xúc động khâm phục và có lẽ đã hiểu rằng tuy là áng văn chương thù tạc ngoại giao với lời lẽ nhún nhường nhưng vẫn chứa đựng cả một tinh thần tự cường, tự trọng của vua tôi nhà Tiền Lê :
(tạm dịch)
Chàng Vương trở về
Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương
Ngóng vị thần tiên lai đế hương
Non nước ngàn trùng vượt đại dương
Trời xa bao dặm trường
Tình thắm thiết, chén đưa đường
Vin xe sứ giả lòng vấn vương
Dám nhờ tâu rõ cùng thánh thượng
Lưu ý chốn biên cương
Vạn Hạnh (?-1018) là nhà sư và nhà thơ nổi tiếng thông minh từ nhỏ, tinh thông Phật, Lão và Nho, mặc dầu tu hành nhưng vẫn quan tâm tới các biến cố chính trị, xã hội, từng vào triều bàn bạc, cố vấn cho Lê Ðại Hành trong công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Ðến cuối thời Tiền Lê, ông đã tham gia vạch kế hoạch khuông phò Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra nhà Lý nên được Lý Thái Tổ trọng vọng tôn làm quốc sư.
Sư Vạn Hạnh sáng tác những gì và số lượng bao nhiêu chưa rõ nhưng trong số thơ văn còn lại của ông nổi tiếng nhất là bài thơ Bảo học trò làm trước lúc mất, bàn giải về lẽ xoay vần tự nhiên giữa sống và chết, và khuyên bảo đồ đệ hãy có cái nhìn tỉnh táo, triết lý, tiếp nhận cái chết một cách điềm nhiên, không sợ sệt :
(tạm dịch)
Bảo học trò
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
Qua thơ Vạn Hạnh có thể thấy được một sự hòa quyện sâu đậm giữa tín ngưỡng dân gian với tư tưởng Phật giáo.
3. Thời Lý (1009-1225) Hai thế kỷ hưng khởi đầu tiên của văn hóa Thăng Long
"Trong thơ thiền thời Lý có cả một chủ nghĩa nhân văn Việt Nam mãnh liệt, điều thật bất ngờ mà rất đáng tự hào"
Sau 70 năm thời Ngô-Đinh-Tiền Lê đặt nền tảng trung hưng cho dân tộc, xóa đi cơn ác mộng ngàn năm Bắc thuộc, thời Lý là một bước mới rất quan trọng của tiến trình dựng nước và giữ nước, xứng đáng với mỹ từ "Việt Nam văn hiến ngàn năm", và chúng ta có đầy đủ chứng cớ để khẳng định :
Sau 70 năm thời Ngô-Đinh-Tiền Lê đặt nền tảng trung hưng cho dân tộc, xóa đi cơn ác mộng ngàn năm Bắc thuộc, thời Lý là một bước mới rất quan trọng của tiến trình dựng nước và giữ nước, xứng đáng với mỹ từ "Việt Nam văn hiến ngàn năm", và chúng ta có đầy đủ chứng cớ để khẳng định :
Thời Lý, một thời kỳ vẻ vang của lịch sử dân tộc
Vương triều trải qua 8 đời vua này có công lớn khi lấy một quyết định chiến lược là dời đô từ Hoa Lư hẻo lánh hiểm trở ra Đại La, điểm trung tâm của đất nước, rồi mượn hình tượng rồng bay để đặt tên cho kinh đô mới Thăng Long, như muốn xác định một lần nữa người Việt là con Rồng cháu Tiên. Sau đó đổi tên nước Đại Cồ Việt thành quốc hiệu Đại Việt, trang trọng và kiêu hãnh, cũng là một cách tự khẳng định đất nước này ở phương Nam không có gì phải kiêng dè, e sợ những kẻ xấc xược hợm mình ở phương Bắc, từng tự xưng là Đại Tần, Đại Hán, Đại Đường, Đại Tống, cho nước mình là trung tâm thiên hạ, còn những dân, những nước láng giềng chung quanh là mọi rợ, man di.
Dưới vương triều Lý, nhiều cung điện, lầu gác đã được xây dựng trong hoàng thành và cấm thành Thăng Long. La Thành được đắp lại, đê Cơ Xá được củng cố và đắp cao, bảo vệ kinh đô trước đe dọa của lũ lụt sông Hồng. Sau nhiều thế kỷ của văn hóa Đông Sơn xán lạn, hơn 200 năm triều Lý đáng được xem là thời kỳ phục hưng dân tộc đầu tiên.
Nội thất Văn Miếu |
Các vua và hoàng hậu nhà Lý cho xây dựng một số lớn chùa tháp, đền miếu khắp đất nước. Mỗi vua đều rất chú trọng nghề nông nên đã đích thân cày "tịch điền" (ruộng của vua) như một tập quán khuyến nông trang trọng trước sự chứng kiến của đông đảo dân cày. Để củng cố khối đoàn kết dân tộc và tạo quan hệ hòa hiếu giữa miền xuôi với mạn ngược, các vua không ngần ngại gả các công chúa cho những tù trưởng các sắc tộc thiểu số.
Nhà Lý đã xây dựng quân đội hùng mạnh và đã thành công đè bẹp sự đe dọa, uy hiếp của nhà Tống và Champa, giữ vững biên giới phía Bắc, mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam.
Khí phách Đại Việt qua ba áng thơ văn đầy khí vị anh hùng ca
Thế kỷ đầu tiên của thời Lý đã để lại trong di sản tinh thần của dân tộc ba áng thơ văn cô đúc mà gây được một ấn tượng phi thường : đó là tờ Chiếu dời đô (214 chữ), bài văn Lộ Bố (148 chữ) và bài thơ Nam Quốc Sơn Hà vỏn vẹn bốn câu, 28 chữ.
Chiếu dời đô (1010) nổi tiếng trong ngàn năm qua vì ý nghĩa và tác dụng lớn của nó. Tờ chiếu khẳng định việc dời đô là điều vô cùng nghiêm trọng vì gắn với yêu cầu xây dựng một địa điểm trung tâm, tiêu biểu cho sự phồn vinh lâu dài của đất nước, phù hợp với ý dân và mệnh trời. Nó chỉ ra được ưu thế địa lý của kinh đô mới, vừa là "nơi tụ hội của bốn phương đất nước" vừa là "nơi tượng trưng cho đế vương muôn đời". Lý Thái Tổ, vị vua vừa sáng suốt lại vừa khiêm tốn đã kết thúc Chiếu dời đô bằng một hình thức trưng cầu ý dân : "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào ?".
Sáu thập niên sau "Chiếu dời đô", bài văn bố cáo rõ việc xuất quân đánh Tống (1075) của Lý Thường Kiệt được lưu hành trước khi quân nhà Lý vượt biên giới tiến lên các châu Ung, Khâm, Liêm, nhằm đánh một đòn phủ đầu bất ngờ để giành thế chủ động, cốt làm nản lòng kẻ thù trong âm mưu xâm lược Đại Việt. Bài Văn Lộ Bố này nói lên khí thế của người có chính nghĩa, vừa khinh miệt "vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân (…) khiến trăm họ mệt nhọc lầm than", vừa đề cao lý tưởng lấy dân làm trọng và sử dụng một sách lược tâm lý chiến khéo léo để trấn an dân Tàu ở các địa phương mà quân Lý sẽ đánh tới : "Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân (…) cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm". Sau cuộc tập kích chớp nhoáng đó vào đất Tống, quân nhà Lý đã hoàn toàn thắng lợi trở về.
Hai năm sau (1077), khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống bắt đầu, Lý thường Kiệt cho loan tin hai vị thần của Đại Việt là anh em Trương Hống, Trương Hát đã hiện ra trong mộng, trao cho ông bài thơ thần khẳng định sự tồn tại thiêng liêng của nước Nam và cảnh cáo những kẻ nào dám xúc phạm tới cái điều trời định ấy :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
[Sông núi nước nam vua Nam ở
Sách trời kia đã định rành rành
Cớ sao giặc dám hoành hành
Tất nhiên bây sẽ tan tành, tả tơi]
Chắc chắn bài thơ đã góp phần lớn vào chiến thắng Như Nguyệt, đánh tan quân Tống, giữ vững độc lập dân tộc. Đây là một trong những bản tuyên ngôn hào hùng nhất, bên cạnh Hịch Tướng Sĩ, Đại Cáo Bình Ngô, Hịch Quang Trung…
Lễ hội ở Đền Đô (Đình Bảng) |
Đình Bảng, nôm na gọi là làng Báng, xưa nay là một làng rất trù phú của châu thổ sông Hồng. Trước đây làng này đã từng được cả vùng biết tiếng, vì mỗi năm cử hành tới 80 lễ hội lớn nhỏ, với tiệc tùng mâm cao cỗ đầy nhưng điều đáng nói nhất : Đình Bảng là quê hương nhà Lý.
Hiện nay, đây là một xã lớn thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, với 13 thôn và hai di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng là đình Đình Bảng, còn gọi là Đình Báng, ngôi đình lớn nhất và vào loại đẹp nhất đất nước và đền Đô, còn gọi là đền Lý Bát Đế, thờ 8 vua Lý.
Đền Đô được xây dựng từ thế kỷ 11, gồm hơn 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ, tất cả đều được xây dựng công phu, chạm khắc tinh xảo được công nhận là di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia.
Nơi đây từ nhiều thế kỷ qua đã diễn ra Hội Đền Đô, một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất vinh danh triều Lý. Hội diễn ra từ 15 đến 18 tháng Ba âm lịch, với lễ tế hiến sinh (mổ cả thảy 12 con trâu mộng), rồi một đám rước khổng lồ dài khoảng 3 km. Sau khi 8 cỗ kiệu vua trang hoàng lộng lẫy được rước từ đền tới chùa, rồi về lại đền, nhiều trò chơi hấp dẫn là đấu vật, chọi gà, múa rồng, hát chèo, diễn tuồng, đánh cờ người… diễn ra trong suốt bốn ngày.
Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích |
Nói tới văn hóa nghệ thuật thời Lý trước hết phải nhắc tới bốn văn vật lớn vang bóng một thời, dưới tên gọi tứ đại khí, đó là tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên (dựng năm 1057) gồm 12 tầng, chuông Qui Điền (đúc năm 1101) và vạc Phổ Minh (được đúc vào thời Trần). Các văn vật ấy nay đều không còn.
Cùng với những cung điện của Đại Nội Thăng Long, Đại Việt thời ấy có hàng trăm ngôi chùa lớn, hàng trăm pho tượng đẹp mà ngày nay chỉ còn lại một số rất ít, nhưng cũng đủ để nói lên sức sáng tạo nghệ thuật rực rỡ của một thời văn hóa Phật giáo huy hoàng.
Vĩ đại nhất trong các chùa thời Lý là chùa Dạm, tức chùa Đại Lãm Thần Quang do nguyên phi Ỷ Lan cho xây dựng tại núi Dạm, ở Bắc Ninh, vào những năm 1086-1094. Bị phá hủy hoàn toàn năm 1947, qui mô đồ sộ của chùa còn thấy được ở bốn lớp nền dài tới 120 m, rộng 65 m, mỗi lớp chênh nhau từ 6 tới 8 m, với 25 bậc để lên xuống.
Chùa Một Cột, tức chùa Diên Hựu, dựng vào năm 1049, là một quần thể kiến trúc to lớn gấp vài chục lần chùa Một Cột ngày nay. Văn bia chùa Đọi ở Hà Nam viết về chùa ấy như sau : "Đào hồ thơm Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đóa sen ngàn cánh, trên đó dựng một tòa điện đỏ sẫm, trong điện đặt pho tượng Phật bằng vàng, quanh hồ có hành lang bao bọc, ngoài hành lang có ao Bích Trì, có cầu vồng bắc qua, phía sân trước cầu hai bên tả hữu có bảo tháp lưu ly".
Một trong những ngôi chùa đẹp nhất thời Lý là chùa Phật Tích, tức chùa Vạn Phúc, dựng năm 1057 trên núi Lạng Kha (Bắc Ninh), một quần thể kiến trúc trải dài trên ba lớp nền (60x40m), mỗi cấp chênh nhau khoảng 4-5 m, có bậc đá lên xuống. Bị phá hủy vào năm 1947, di tích còn lại là một số tác phẩm điêu khắc trên đá : tượng thú, tượng kim cương, tượng thần nửa người nửa chim, tảng đá kê chân cột… Đặc biệt chùa còn giữ được một kiệt tác bất hủ của nền mỹ thuật Việt Nam, đó là tượng A Di Đà, tạc bằng đá hoa cương xanh cao 1,87 m, tính cả bệ là 2,77 m : dáng Phật thanh tú, khoác áo cà sa, hai bàn tay để ngửa trong lòng, ngồi xếp bằng tham thiền nhập định ; tất cả tỏa ra một vẻ đẹp dịu dàng đầy nữ tính.
Hoa văn bệ đá ở chùa Phật Tích |
Cách nay bảy thập niên nhà khảo cổ học Louis Bezacier đã phát hiện những tảng đá vuông kê chân cột ở chùa Phật Tích, mỗi cạnh dài 0,72 m, chiều cao 0,21 m, trên đó có chạm khắc cả một dàn nhạc vui tươi và sống động, gồm mười nhân vật : tám nhạc công và hai vũ nữ, chia thành hai nhóm nghệ sĩ hát múa và đánh đàn từ hai bên, hướng vào một chiếc lá bồ đề lớn tượng trưng cho Phật giáo. Những tảng đá kê chân cột quí báu này cho ta biết là ở thời Lý đã có đại nhạc của cung đình và tiểu nhạc của quần chúng với những nhạc cụ như trống to, trống cơm, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn 7 dây, đàn tỳ bà, tiêu, sáo ngang và phách. Điều đó sẽ được xác nhận thêm trong một tác phẩm của thời Trần là An Nam chí lược.
Bên cạnh bệ chân cột chùa Phật Tích, thời Lý còn để lại cho chúng ta một văn vật quí báu khác là văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, được gọi nôm na là bia tháp chùa Đọi, do Nguyễn Công Bật viết năm 1121 để ca ngợi vua Lý Nhân Tông. Đây là một tấm bia có văn chương già dặn, giàu hình ảnh, bút pháp khoa trương, pha ít nhiều màu sắc huyền thoại.
Nhờ các tài liệu bi ký và tài liệu sử ký biên niên mà chúng ta biết ở thời Lý đã có nhiều lễ hội : hội cung đình, hội đền, hội chùa. Vào đời Lý Thái Tổ (trị vì 1009-1028), triều đình tổ chức lễ ăn mừng sinh nhật vua rất lớn : "Lấy tre kết làm núi Vạn Thọ Nam Sơn ở ngoài cửa Quang Phục, trên núi làm hình chim bay thú chạy với muôn vẻ kỳ lạ, lại sai người nhại tiếng chim muông làm vui" (Đại Việt sử ký toàn thư). Đó là một lễ hội cung đình có sử dụng trò múa rối cạn.
Vào mùa thu, các vua Lý thường tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở các cửa thành của kinh đô và các hội đua thuyền trên sông Hồng. Vua ngự ra điện Linh Quang xem đua thuyền, rồi thưởng lãm nghệ thuật múa rối. Văn bia tháp chùa Đọi cho biết trước mặt vua "ngàn thuyền như chớp giật giữa dòng, muôn trống như sấm vang dậy nước". Sau đua thuyền là biểu diễn múa rối.
Trong các tiết mục múa rối cạn, vua đặc biệt thưởng thức tiết mục Nhà Sư Thỉnh Chuông khá tinh xảo : "Có hai tòa lầu hoa treo chuông vàng, có tượng nhà sư mặc áo người làm ruộng, vặn máy kín thì giơ dùi đánh như thật, nghe tiếng vỗ gươm thì đứng nghiêm trang, trông thấy nhà vua thì khom mình cúi đầu, đều do mẹo mực làm cho sư cử động mềm mại tự nhiên".
Đến tiết mục múa rối nước Rùa Vàng Phun Nước, tài năng các nghệ nhân rối lại càng cao siêu hơn : "Giữa làn sóng lung linh, rùa vàng lớn nổi lên đội ba ngọn núi trên mặt nước, lừ lừ lộ mai, giơ bốn chân, chuyển động con ngươi nhìn vào bờ, há miệng phun nước. Ngữa trông dải mũ nhà vua, cúi đầu dưới trời lồng lộng. Dàn nhạc tấu khúc Vân Thiều. Các cửa động trên ba ngọn núi cùng mở, các vị thần tiên lần lượt hiện ra, lộng lẫy như cầu vồng trên trời, khác với nét đẹp chốn trần gian, vẫy tay mềm hát bài Gió Về, nhíu mày xanh ca khúc Vận Tốt. Rồi chim quí dàn đội bay lượn nhịp nhàng, hươu lành họp bầy xênh xang nhảy nhót". Qua những mô tả trên đây, của văn bia chùa Đọi có thể nhận biết là múa rối đã phát triển cao từ thời Lý.
Đền thờ Ỷ Lan |
Lý Thái Tổ (974-1028) có công lớn trong việc dời đô ra Thăng Long (1010), đích thân tổ chức xây dựng kinh thành, cung điện, lập phố xá, xuất vàng bạc của triều đình dựng nên nhiều chùa tháp, đền miếu, chăm lo phát triển văn hóa dân tộc, kiện toàn bộ máy nhà nước, đặt nền móng vững chãi cho một triều đại tồn tại vẻ vang trên 200 năm.
Lý Thái Tông (1000-1059) trị vì 26 năm, tinh thông Phật học, tăng cường tổ chức quân đội, quan tâm củng cố nhà nước pháp quyền nên đã ban bố Hình Thư, bộ luật thành văn đầu tiên của thời đại quân chủ.
Lý Thánh Tông (1023-1072) ở ngôi 18 năm, làm được nhiều việc ích nước lợi dân, lập Văn Miếu, xây tháp Báo Thiên, khuyến khích nông nghiệp, có lòng thương dân, có công mở rộng bờ cõi. Chính vị vua này đã đổi tên nước Đại Cồ Việt thành Đại Việt.
Lý Nhân Tông (1066-1128) trị vì suốt 52 năm, lập được nhiều công trạng, sống cần kiệm, ham chuộng văn hóa, tổ chức khoa cử, sáng lập trường đại học để tuyển mộ, đào tạo nhân tài. Là nhà thơ, ông đề cao cả Phật giáo lẫn Lão giáo ; là nhạc sĩ, ông tiếp thu tinh hoa âm nhạc Champa để làm phong phú thêm âm nhạc Việt.
Nhân vật nổi tiếng nhất thời Lý là Lý Thường Kiệt (1019-1105). Ham học và tinh thông võ nghệ, được Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông tin dùng. Từ 1069 đến 1076 ông đã đánh tan quân Champa và quân Tống, góp phần lớn vào sự nghiệp bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt. Hiện nay Lý Thường Kiệt có đền thờ ở Thanh Hóa và Hà Nam. Đặc biệt ở Hà Nam, vùng Thi Sơn, Kim Bảng, nhân dân còn lưu hành điệu hát dậm và múa dậm Quyển Sơn, là những điệu dân ca, dân vũ nổi tiếng được biểu diễn hàng năm tại hội đền Quyển Sơn để vinh danh ông.
Hai người phụ nữ làm rạng danh thời Lý là Ỷ Lan và Lý Ngọc Kiều.
Lý Ngọc Kiều (1041-1113), pháp hiệu Diệu Nhân, là cháu nội của Lý Thái Tông. Góa bụa vào tuổi 21, bà xuống tóc qui y, thọ giới thiền sư Chân Không. Nhờ tinh thông Phật học, bà trở thành vị nữ thiền sư nổi tiếng điều khiển ni viện Hương Hải. Sau đó, bà trở thành người đứng đầu thế hệ thứ 17 của dòng Thiền phương Nam.
Ỷ Lan (?-1117), quê ở hương Thổ Lỗi, lộ Bắc Giang. Từ một có gái hái dâu chăn tằm, nhờ thông minh, tài sắc, nết na, được Lý Thánh Tông đón về cung lập làm nguyên phi Ỷ lan, về sau sẽ làm mẹ của Lý Nhân Tông và được tôn là thái hậu Linh Nhân. Bà đã góp phần cai quản việc nước, thu phục nhân tâm, tạo điều kiện cho Lý Thánh Tông đánh thắng Champa năm 1069. Sau đó bà góp phần cùng Lý Thường Kiệt tổ chức đánh thắng giặc Tống xâm lược năm 1076. Cuối đời bà đi tu, làm việc thiện.
Chùa Một Cột qua một tranh cổ |
Hai thời Lý và Trần, thơ văn phát triển khá rầm rộ, có tới vài trăm tác giả, nhưng các cuộc chiến tranh do Trung Quốc và Champa gây ra đã tàn phá một phần lớn sách vở của ta.
Về thơ văn thời Lý, rất may là còn giữ được một số văn bia các chùa, và nhất là tập sách Thiền Uyển tập anh, ghi lại hành trạng của 68 vị thiền sư, cùng 77 bài thơ, bài kệ.
Qua thơ và kệ thời Lý, có thể thấy một hiện tượng văn hóa độc đáo : nhiều bài thơ rất ít khí vị tôn giáo, mà lại nồng nhiệt đề cao thiên nhiên và con người, lại có cả những bài coi thường Phật pháp nữa. Dưới ngòi bút của những vị thiền sư chính cống, thật khó tưởng tượng nổi.
Thiền sư Viên Chiếu (999-1091) xem việc đời và tuổi già không quan trọng bằng một cành mai nở. Kệ "Có bệnh bảo mọi người" (tạm dịch) :
Xuân đi trăm hoa tàn
Xuân tới trăm hoa nở
Việc đời ruổi qua trước mắt
Tuổi già hiện trên mái đầu
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai
Nữ thiền sư Lý Ngọc Kiều (1041-1113) coi thường Phật và thiền, và đề cao sự im lặng. Kệ "Sinh lão bệnh tử" (tạm dịch) :
Sinh lão bệnh tử là lẽ thường xưa nay
Muốn cầu siêu thoát càng bị trói buộc thêm
Vì mê muội mới cầu Phật, vì lầm lẫn mới cầu thiền !
Chớ nên cầu thiền cầu Phật làm chi
Mà nên mím miệng không nói là hơn
Thiền sư Không Lộ (?-1119) đề cao tình yêu thiên nhiên nơi thôn dã và sức mạnh con người trong vũ trụ. Kệ "Trả lời học trò" (tạm dịch):
Chọn được kiểu đất rồng rắn thật đắc ý
Tình quê vui suốt ngày không chán
Có khi lên thẳng đỉnh núi chơ vơ
Kêu to một tiếng lạnh cả bầu trời !
Thiền sư Bảo Giám (?-1173) đề cao ưu việt của trí tuệ và chỉ ra sự hạn chế của tu hành. Kệ "Cảm hoài" (tạm dịch)
Đạt được chính giác ít khi nhờ vào tu hành
Vì tu hành chỉ là giam cầm cái ưu việt của trí tuệ
Trí tuệ như trăng soi sáng giữa trời
Trí tuệ như cây cỏ sum suê trên ngọn núi phủ khói chiều
Thiền sư Quảng Nghiêm (1121-1190) có lẽ là nhà tu hành thấy rõ nhất khả năng vô hạn của con người vượt xa những ràng buộc của Phật pháp. Kệ "Đừng theo bước Như Lai" (tạm dịch) :
Thoát được tịch diệt rồi hãy bàn chuyện tịch diệt
Vào được cõi vô sinh hãy nói tới vô sinh
Làm trai tự mình có cái chí tung trời
Đừng đi theo bước đi của Như Lai
Chừng ấy tiếng nói thể hiện qua thơ và kệ thời Lý cho thấy tư duy thiền luận đã không ngăn cản các thiền sư ý thức được những điều họ cho là quan trọng nhất : tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, niềm tin vào khả năng vô hạn của trí tuệ và ý chí, của sức mạnh tự thân con người trước những ràng buộc của siêu hình huyền hoặc nhân danh tôn giáo. Phải chăng họ đã trực cảm được chân lý này : con người mới là người chủ thực sự của vũ trụ ?
Trong thơ thiền thời Lý có cả một chủ nghĩa nhân văn Việt Nam mãnh liệt, điều thật bất ngờ mà rất đáng tự hào.
4. Thời
Trần (1225-1400)
- 175
năm tiếp tục phát triển văn hóa Thăng Long
"Phái thiền Trúc Lâm đã làm cho tôn giáo và văn hóa Việt Nam phong phú thêm nhờ một số tác phẩm bất hủ "
Nực cười châu chấu Đại Việt đá xe Mông Cổ
Thay nhà Lý, triều đại Trần tồn tại 175 năm, từ đầu thế kỷ 13 tới hết thế kỷ 14. Cũng vào đầu thế kỷ 13, Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan) thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ rồi xây dựng một đế chế rộng lớn, bành trướng bằng chiến tranh sang đế chế Ba Tư, rồi sang châu Âu, đánh chiếm nhiều nước, nô dịch nhiều dân tộc, đánh chiếm luôn cả Trung Quốc thời nhà Tống.
Gengis Khan lập nên triều đại nhà Nguyên, tồn tại trong bốn thế kỷ như là một nỗi kinh hoàng khiếp đảm và một đại họa đẫm máu của nhân loại đương thời, đến nỗi một nhà thơ Arménie sống ở thế kỷ 13 đã phải thống thiết ta thán :
Không còn một dòng suối, một con sông nào
Không tràn đầy nước mắt của chúng ta
Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào
Không bị quân Tartar dày xéo...
Riêng Đại Việt thời Trần - một cái gai trước mắt Đại hãn Hốt Tất Liệt, vì dám chặn đường bành trướng của đế chế Mông Cổ xuống miền Đông Nam Á - đã bị vó ngựa kỵ binh Mông Cổ dày xéo đến ba lần : 1258, 1285, 1287-1288. Và cả ba lần quân Mông Cổ đã thất bại. Để chống lại các đội quân khét tiếng thiện chiến và hung ác ấy, nhà Trần đã xây dựng được một quân đội hùng mạnh với nhiều tướng tài (đứng đầu là Trần Quốc Tuấn), nhiều vua giỏi (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông). Tại hội nghị Bình Than, vua và các vương hầu đã nêu cao quyết tâm "sát Thát" (diệt Mông Cổ). Rồi tại hội nghị Diên Hồng (1285) đông đảo các bô lão Đại Việt, đại diện cho toàn dân đã đồng thanh hô "Quyết đánh !".
Thế là từ 1258 đến 1288 quân và dân nhà Trần (kể các các sắc tộc ít người vùng rừng núi) đã làm nên những Bình Lệ Nguyên, Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Vân Đồn, và nhất là đại thắng Bạch Đằng, làm cho quân đội Mông Cổ hoàn toàn tan tác, và hầu hết các tướng chỉ huy (Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ Ngọc...) đều bị bắt sống. Sông Bạch Đằng đã đi vào thơ văn Việt Nam như một hình tượng bất tử. Dân gian thì chỉ nói đơn giản bằng ca dao :
"Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng châu chấu ngã ai dè xe nghiêng"
"Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước vững muôn thu".
Năm địa danh của một thời kỳ quang vinh
Nói tới thời Trần, trong ký ức tập thể Việt Nam ngân vang 5 địa danh : Tức Mặc, Côn Sơn, Kiếp Bạc, Quỳnh Lâm, Yên Tử. Tức Mặc là quê hương gốc của các vua Trần, xưa gọi là hương Tức Mặc, được nhà Trần tôn lên thành phủ Thiên Trường vì đã là một trung tâm chính trị và văn hóa quan trọng trong ngót hai thế kỷ. Nơi đây, nhiều cung điện đã được dựng lên : cung Trùng Quang, Trùng Hoa, cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, v.v. làm cho Thiên Trường lộng lẫy đến nỗi Trần Thánh Tông (trị vì 1258-1278) đã phải ngợi ca : "Trong 12 cõi tiên thì chốn này là cõi thứ nhất".
Làng Tức Mặc ngày nay cách thành phố Nam Định 3 km, chỉ còn giữ được một ít dấu tích thời Trần và một vài di tích lịch sử - văn hóa : chùa Phổ Minh với 96 chân cột đá tảng chạm hoa sen, hai đôi rồng đá, và đặc biệt còn nguyên vẹn là tháp Phổ Minh (1305). Gần chùa có đền Trần, gồm hai ngôi đền Thiên Trường và Cổ Trạch thờ 14 vị vua Trần và Trần Quốc Tuấn (đại vương Hưng Đạo).
Địa danh thứ hai là Côn Sơn, một trong ba trung tâm Phật giáo lớn thời Trần (cùng với Quỳnh Lâm và Yên Tử), đã từng tiếp đón ba vị tổ sáng lập phái thiền Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.
Địa danh thứ năm là Yên Tử mà ca dao đã đề cao :
"Trăm năm tích đức tu hành,
Chưa đi Yên Tử chưa thành quả tu".
Đây là một hệ thống chùa tháp cổ kính gắn với sự sáng tạo phái thiền Trúc Lâm đặc sắc Việt Nam. Từ chân núi đến đỉnh núi (cao 1068 m) có gần 20 di tích, kể cả tượng tổ Trúc Lâm thứ nhất Trần Nhân Tông. Trong lịch sử Phật giáo cũng như trong lịch sử văn hóa Việt Nam có lẽ không có một khu di tích nào vừa hùng vĩ vừa trữ tình nên thơ mà lại đầy khí vị linh thiêng như Yên Tử, với một hội chùa kéo dài từ mồng 9 tháng Giêng đến hết tháng Ba, rộn rã và nồng nhiệt hơn cả hội Chùa Hương, lôi cuốn được nhiều vạn tín đồ và du khách.
Một hội lễ lớn vinh danh Đức Thánh Trần
Bên cạnh nhiều hội lễ liên quan đến thời Trần có lẽ không có sinh hoạt tôn giáo nào nổi đình nổi đám bằng hội Đền Kiếp Bạc. Khu đền nằm trong một thung lũng trù phú của châu thổ sông Hồng, chung quanh có dãy núi Rồng bao bọc, tạo cho Kiếp Bạc một vẻ đẹp vừa kín đáo thơ mộng lại vừa tràn đầy khí vị hùng tráng của một thời hiển hách. Vào thế kỷ 13, Kiếp Bạc vốn là nơi đặt tổng hành dinh và phủ đệ của Trần Hưng Đạo, vị tổng chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mông Cổ. Sau khi mất (1300), ông được nhân dân tôn lên là Đức Thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi khắp miền Bắc tới tận Sài Gòn.
Trẩy hội Đền Kiếp Bạc để tưởng nhớ và vinh danh Đức Thánh Trần là một tập quán tốt đẹp của dân gian từ nhiều thế kỷ qua. Tuy ngày 20 tháng Tám âm lịch mới là chính hội nhưng từ mồng 10 vô số khách thập phương đã kìn kìn kéo tới Kiếp Bạc bằng đường bộ và đường thủy, kể cả bà con các sắc tộc ít người ở miền núi miền biển, từ Hòa Bình tới Quảng Ninh. Ngày xưa tới dự hội người ta thích lên đồng hầu bóng vì cho là Đức Thánh Trần rất linh thiêng, cầu chi được nấy. Ngày nay đông đảo người đến dự hội là để vãn cảnh, tưởng niệm, dâng hương, tế, rước và chiêm ngưỡng các pho tượng đẹp quí thờ trong đền.
Đám rước của hội đền với các đội múa rồng múa lân, các đoàn thuyền rồng trang hoàng rực rỡ là một đám rước hoành tráng giữa tiếng pháo nổ, tiếng loa vang, tiếng chiêng trống tù và âm vang trên một chặng đường thủy bộ dài hơn 2 km.
Mỹ thuật thời Trần, một nét son của mỹ thuật Việt Nam
Sau thời Lý, hai thế kỷ 13-14 đã chứng kiến sự phát triển của mỹ thuật thời Trần. Bất chấp những tàn phá của khí hậu và của chiến tranh vẫn còn tồn tại một vài công trình có giá trị lớn. Tháp Bình Sơn (tháp Then) ở Phú Thọ gồm 11 tầng, cao 15 m, xây toàn bằng đất nung. Toàn bộ mặt ngoài tháp được phủ kín các hình trang trí : rồng, sư tử, hoa sen, lá đề.
Tháp Phổ Minh ở Nam Định, gồm 14 tầng, cao đến 21 m. Tầng dưới xây đá, các tầng trên xây gạch nung, đơn giản mà thanh thoát, là nơi cất giữ xá lợi của tổ thứ nhất phái thiền Trúc Lâm Trần Nhân Tông.
Vài ngôi chùa thời Trần còn giữ lại được là chùa Phổ Minh, chùa Bối Khê (Hà Tây) và nhất là chùa Thái Lạc (Hải Dương) với những mảng chạm khắc gỗ tuyệt tác : những nhạc công đánh đàn, tiên nữ dâng hoa, nữ thần nửa người nửa chim (kinnari) giữa rồng bay phượng múa...
Bên cạnh các tháp và chùa, phải nhắc tới khu lăng tẩm các vua Trần (Quảng Ninh), lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình), với một số tượng thú đẹp, nổi tiếng là tượng cọp dài 1,40 m tạc từ một khối đá tĩnh lặng nhưng tiềm tàng sức mạnh.
Đồ gốm thời Trần, điển hình là gốm hoa nâu, cũng đáng chú ý vì những thành tựu của nó, là những sản phẩm có kích thước lớn như chậu, thạp, liễng, vò, chân đèn, lư hương... Nhờ các sản phẩm ấy mà chúng ta thấy được voi, cọp, chim, tôm, cá, bông sen, bông cúc... và cả hình tượng hiên ngang của chiến binh thời Trần đã làm cho các đội quân Mông Cổ thiện chiến lắm phen thất điên bát đảo !
Khoa học, văn học và tôn giáo thời Trần
Hơn hẳn thời Lý, khoa học nhân văn thời Trần đã có những thành tựu đáng khen ngợi.
Đặng Lộ (không rõ năm sinh, năm mất) là một nhà thiên văn và lịch pháp học đã chế tạo được dụng cụ khí tượng học lung linh nghi, được Đại Việt sử ký toàn thư nhắc tới như là một khí cụ dùng để "khảo nghiệm các hiện tượng thiên văn, không việc gì là không đúng".
Cùng với Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán (1326-1390) cũng là một nhà thiên văn và lịch pháp học có tiếng ở thời Trần. Tuy giữ chức đại phu ở đài ngự sử nhưng ông lại say mê tìm hiểu thiên văn và lịch pháp, rồi biên soạn cuốn Bách thế thông kỷ thư với một cách nhìn thiên nhiên, vũ trụ và thời gian theo chiều hướng khoa học chớ không bằng cảm tính.
Về y học, danh nho Chu Văn An (1292-1370), nhà thơ kiêm nhà giáo, đã có một đóng góp quan trọng là cuốn Y học yếu giải tập chú di biên, có lẽ là công trình đầu tiên về y học ra đời trên đất nước ta.
Hai lãnh vực mà thời Trần đã có những đóng góp xuất sắc nhất là quân sự học và sử học.
Trần Quốc Tuấn (1232-1300) vừa là anh hùng dân tộc lỗi lạc vừa là nhà văn lớn, tác giả Hịch tướng sĩ văn, kiêm nhà khoa học quân sự lớn, đã viết Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn gọi là Bát quái cửu cung đồ, với một lời tựa của danh tướng Trần Khánh Dư.
Những công trình sử học quí báu có tính chất tiên phong ở thời Trần là :
- Đại Việt sử lược, cuốn sử biên niên (viết bằng chữ Hán) của một tác gia khuyết danh chép từ Triệu Đà đến hết thời Lý là bộ sử xưa nhất còn lưu truyền đến nay;
- Đại Việt sử ký là tên gọi hai bộ quốc sử của Lê Văn Hưu thời Trần và Phan Phu Tiên thời Lê. Tuy cuốn của Lê Văn Hưu đã thất truyền nhưng những lời bình của ông vẫn được các sử gia đời sau trân trọng giữ lại ;
- An Nam chí lược của Lê Tắc ghi chép về lịch sử, địa lý, phong tục và một số sự kiện văn hóa từ đầu đến cuối thời Trần. Đây là sưu tập vào loại sớm nhất của ngành Việt học có giá trị văn hóa học.
Nói tới văn học thời Trần trước hết phải nhấn mạnh tới sự xuất hiện của chữ Nôm, được tạo ra theo nguyên tắc và trên cơ sở chữ Hán, nhưng ghi được tiếng nói của người Việt và đã được dùng ngay để sáng tác văn học. Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Trần Nhân Tông, Chu Văn An... là những tác giả đầu tiên đã làm thơ phú bằng chữ Nôm, đặt cở sở cho nền văn học tiếng Việt.
Sông Bạch Đằng
thơ Nguyễn Sưởng
(tạm dịch)
Mồ chôn quân thù cao như núi, cây cỏ xanh tươi
Nước triều ngoài biển ầm ầm, đá núi lởm chởm
Mấy ai biết sự nghiệp muôn thuở đời Trùng Hưng
Một nửa nhờ sông núi, một nửa do con người
Đứng về mặt tâm linh, thời Trần đã có một sáng tạo mới mẻ đó là phái thiền Trúc Lâm, do Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang lập ra.
Thiền, gọi đầy đủ là thiền na (tĩnh tâm để suy nghĩ) là một dòng tư tưởng lớn của Phật giáo. Người tu thiền nhắm mục đích định tâm, dùng phương tiện thở và chế ngự hơi thở để tâm trở nên tỉnh táo, cảm thấy yên vui, từ đó đi sâu vào tư duy, không còn nghi hoặc, oán giận, hối tiếc hay bị phân tán, để hiểu cho được các chân lý chủ đạo như thế nào là khổ, vô thường, vô ngã, trầm luân, niết bàn...
Với phái thiền Trúc Lâm, người tu thiền không dựa trên kinh kệ, truyền dạy không theo giáo lý, đi thẳng vào tâm con người, thấy cho được tính Phật mà giác ngộ. Nói tóm lại phải đạt tới chân lý : "Phật tại tâm", "Phật ấy là lòng".
Phái thiền Trúc Lâm đã làm cho tôn giáo và văn hóa Việt Nam phong phú thêm nhờ một số tác phẩm bất hủ : Khóa hư lục, Tam tổ thực lục, Thượng sĩ ngữ lục, Thuyền uyển tập anh ngữ lục...
Danh nhân thời Trần : nhiều tướng giỏi, vua hiền, trí thức lớn và một công chúa vĩ đại.
Nói tới danh nhân thời Trần, trước hết phải nhắc tới những danh tướng đã ba lần quét sạch quân xâm lược Mông Cổ ra khỏi bờ cõi Đại Việt, đó là những Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản... và không thể quên hai gia nô Yết Kiêu và Dã Tượng rất trung tín với đại vương Hưng Đạo, đã được vị tổng tư lệnh đề cao với lời lẽ như sau : "Chim hồng, chim hộc bay được là nhờ vào sáu trụ xương cánh, nếu không cũng chỉ là chim thường".
Danh tướng lỗi lạc nhất trong các danh tướng là Trần Hưng Đạo, vị đại vương cả một đời vì dân vì nước, đã viết nên kiệt tác hịch Tướng sĩ góp phần nâng cao tinh thần quyết đánh quyết thắng của toàn dân Đại Việt. Năm 1300 khi ông dau nặng, Trần Anh Tông tới thăm và hỏi kế giữ nước, nhà tư tưởng Trần Hưng Đạo đã có câu nói vô cùng sâu sắc :
"...Vì vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức nên giặc đã đại bại. Nên khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc đó là thượng sách giữ nước".
Nhà Trần có nhiều tướng giỏi lại lắm vua hiền.
- Trần Thái Tông (1218-1277), vị vua đầu tiên của nhà Trần đã từng trực tiếp xông pha trận mạc. Sau chiến thắng đã nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông để làm thơ và nghiên cứu Phật giáo rồi viết ra Thái hư lục và Thiền tông chỉ nam. Qua thơ văn ông, người đời sau thấy được tâm sự một vị vua khoan hậu, tuy chưa hề xuất gia nhưng vẫn tha thiết với Phật pháp và mơ ước một cuộc sống thanh tĩnh, an nhiên, coi thường quyền lực và phú quí.
- Trần Thánh Tông (1240-1290), con của Thái Tông. Hai cha con đã triệu tập hội nghị Diên Hồng phát động được lòng yêu nước của toàn dân. Vừa thích nghiên cứu đạo Phật vừa giỏi văn học và biết tôn trọng hiền tài, Thánh Tông đã để lại cho đời sau một số bài thơ hay ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên bằng lời lẽ đạm bạc trang nhã và lạc quan.
- Trần Nhân Tông (1258-1308), con của Thánh Tông, có lẽ là vị vua lỗi lạc nhất của thời Trần. Cùng vua cha và các tướng lãnh kiệt xuất, đứng đầu là Trần Quốc Tuấn, ông đã tham gia tổ chức toàn dân kháng chiến và hai lần đánh thắng giặc Mông Cổ. Gần 60 tuổi, ông lên Yên Tử tu hành, toàn tâm toàn ý nghiên cứu thiền học và lập phái thiền Trúc Lâm với tư cách là vị tổ thứ nhất. Các tập sách thiền ông viết và các tập thơ ông làm hầu hết đã mất, nhưng thật may mắn là vẫn còn bài phú Nôm : Ở giữa cõi trần vui đạo, và 25 bài thơ tả ngày xuân, ánh trăng, cánh đồng lúc chiều hôm... cho ta thấy một tâm hồn nghệ sĩ tuy đã tu hành nhưng vẫn không khước từ hơi ấm của cuộc đời và niềm vui sống đạm bạc mà rất mực thanh khiết.
Giữa các danh nhân thời Trần có một người phụ nữ rất đáng được đề cao, đó là Huyền Trân. Cho đến nay vẫn chưa được biết năm sinh năm mất của bà công chúa này. Chỉ biết rằng vào năm 1306, tuân lệnh vua cha (Nhân Tông) và vua anh (Anh Tông), bà đã sang Champa kết hôn với vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân) và trở thành hoàng hậu Paramevan. Năm sau vua Chăm mất, triều Trần cử thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung sang Champa đón bà về Đại Việt.
Với thời gian, hình tượng Huyền Trân hiện lên lồng lộng trong văn hóa dân gian, âm nhạc và văn học Việt Nam. Nhờ sự hy sinh cao cả của bà, muốn thay thế bạo lực và chiến tranh bằng hòa bình và hữu nghị giữa hai dân tộc, nên đã có được một đám cưới vương giả tốt đẹp mà sính lễ là dải đất dài rộng từ nam Quảng Trị tới bắc Quảng Nam, kể cả ngọn đèo chiến lược là Hải Vân, thì xét ra công lao của Trần Huyền Trân đối với tổ quốc cũng xứng đáng cho phép chúng ta gọi bà là một công chúa Việt Nam vĩ đại.
5.
Thời Hồ (1400-1407)
- 7
năm ngắn ngủi mà độc đáo của văn hóa Tây Đô
"bậc thầy kiến trúc Nguyễn An (1381-khoảng 1460)
mà người Trung Quốc biết rõ hơn người Việt Nam ta !"
Triều đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam
Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, nhà Hồ đã lập được ít nhất được một kỷ lục : so với các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Mạc, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, Tây Sơn và vua Nguyễn, triều Hồ đã chết yểu sau 7 năm cầm quyền ngắn ngủi. Tại Thăng Long vào năm 1397 Hồ Quí Ly đã ép vua Trần Thuận Tông phải dời về kinh đô mới dựng ở Thanh Hóa, gọi là Tây Đô. Năm sau bắt vua phải nhường ngôi cho thái tử mới lên 3 tuổi, sau đó mưu giết Thuận Tông, rồi năm 1400 đã truất ngôi vua Trần tí hon 6 tuổi và giết hại một lúc 370 quí tộc và quan lại nhà Trần sau khi họ đã thất bại trong âm mưu ám sát Hồ Quí Ly.
Diệt xong những kẻ chống đối, Quí Ly tự xưng hoàng đế (1400), năm sau lại nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và tự xưng là thái thượng hoàng, chính thức thành lập triều Hồ. Chỉ trong thời gian 7 năm triều đình này đề ra và cố gắng thực hiện một loạt cải cách kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa.
Nhưng những cải cách đó chưa thực hiện được bao nhiêu đã bị gián đoạn bởi cuộc xâm lược qui mô lớn của quân nhà Minh. Từ cuối năm 1406 tới mùa hè 1407, mặc dù kháng cự kịch liệt, quân đội nhà Hồ đã liên tiếp bại trận và rút lui, cuối cùng ba cha con Hồ Quí Ly cùng nhiều tướng lãnh, quan lại, thân thuộc đều bị bắt đưa về Trung Quốc.
Vương triều Hồ kết thúc thảm hại như thế đó để cho quan quân nhà Minh chiếm đóng đất nước, nô dịch nhân dân và tàn phá văn hóa Đại Việt trong 20 năm. Phải chờ cho đến lúc xuất hiện những người anh hùng của đất Lam Sơn để đánh đuổi chúng chạy về phương Bắc.
Về Thanh Hóa thăm lại thành nhà Hồ
Tuy chỉ cầm quyền có 7 năm nhưng triều Hồ đã để lại cho dân tộc một công trình kiến trúc quân sự độc đáo : Thành nhà Hồ - còn gọi là thành Tây Đô - ở trên phần đất xã Tây Giai, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, được xây vào năm 1397 ở trên một thế đất khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa. Sử sách cổ ghi lại rằng Hồ Quí Ly hạ lệnh xây thành và sau 3 tháng thì xây xong. Đây cũng là một kỷ lục khác của triều Hồ.
Thành nhà Hồ (Thanh Hóa) |
Ngoài bốn bức thành đá, Thành nhà Hồ còn có vòng la thành vững chắc bằng tre gai. Ở phía Nam và phía Đông - vùng đồng bằng trống trải - Hồ Quí Ly còn cho đắp một lũy đất cao chạy dài suốt hai mặt thành.
Thành có bốn cửa : Đông, Tây, Bắc và chính Nam ; mỗi cửa đều mở ở chính giữa các mặt thành và đều được xây kiểu vòm cuốn bằng đá khối lớn. Ba cửa Bắc, Đông và Tây đều có một vòm cuốn ; riêng cửa chính Nam có tới ba vòm cuốn, cửa giữa to và hai cửa bên nhỏ hơn.
Cửa chính Nam thành nhà Hồ rộng tới 38 mét, cao hơn 10 mét, xây nhô ra ngoài tường thành 4 mét, ba vòng cuốn đều rộng gần 6 mét, vòm giữa cao 8,5 mét, hai vòm hai bên cao 7,8 mét tạo nên một ấn tượng đồ sộ hoành tráng hiếm thấy. Quanh bốn mặt tường thành phía ngoài đều có hào sâu rộng tới 50 mét.
Toàn bộ thành nhà Hồ đã bị phá hủy từ lâu, di tích còn lại chỉ là 4 cổng thành bằng đá và một thành bậc ở chính điện chạm một đôi rồng đá đẹp dài 3,7 mét. Điều đáng nói là giới kiến trúc sư Việt Nam và thế giới, hôm qua và hôm nay, đã công nhận thành nhà Hồ thể hiện một trình độ cao về kỹ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Và mặc dù nó chỉ bảo vệ quốc đô của triều Hồ trong một thời gian quá ngắn ngủi, thành nhà Hồ, tức thành Tây Đô, mãi mãi là một công trình kiến trúc quân sự cổ kính vào loại to lớn nhất và có giá trị nhất của đất nước ta thời trung đại.
Khoa học, kỹ thuật và văn học thời Hồ
Phải có trình độ khoa học kỹ thuật cao tới một mức nào đó thì mới có thể tạo nên được một tòa thành đồ sộ, kiên cố là thành nhà Hồ như ta vừa thấy. Thời Hồ cũng đã thực hiện được một số sáng tạo khoa học kỹ thuật quân sự đáng ghi nhận : thuyền Cổ Lâu và súng Thần Cơ mà tác giả của chúng là Hồ Nguyên Trừng.
Một nhà khoa học tài năng khác trong lãnh vực xây dựng là kiến trúc sư Nguyễn An (1381-khoảng 1480) mà triều Hồ chưa kịp trọng dụng thì đã bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc. Tên tuổi của Nguyễn An sau này sẽ gắn liền với việc xây dựng Cố cung ở Bắc Kinh.
Trong lĩnh vực văn học tuy thời Hồ chỉ có 7 năm ngắn ngủi mà vẫn đếm được một vài nhà văn, nhà thơ đáng kể.
Người đầu tiên phải nói tới là Hồ Quí Ly, một con người có đầu óc mạnh dạn về tư tưởng và văn hóa. Ông viết sách Minh đạo (Làm sáng tỏ đạo) năm 1392 để xét lại Nho giáo : xếp Chu Công lên trên Khổng Tử, phê phán Mạnh Tử, Hàn Dũ, Trình Chu và các nhà Tống nho khác, nêu ra những điểm đáng ngờ trong sách Luận ngữ, v.v.
Hồ Quí Ly còn dịch chương Vô dật trong Kinh Thư ra tiếng Việt (chữ Nôm) để dạy vua vào năm 1395.
Một điểm đáng khen là chỉ có ông - và sau ông là Nguyễn Huệ Quang Trung - là hai vị vua đã chủ trương dùng chữ Nôm thay chữ Hán trong công văn chiếu sắc của triều Hồ và triều Tây Sơn. Đó là một chủ trương mới mẻ giàu tinh thần dân tộc và ý chí khẳng định đất nước tự cường về văn hóa, muốn cho người Việt có một học phong mang bản sắc riêng mà chữ nôm vừa là biểu tượng vừa là công cụ hoàn toàn có khả năng thay thế chữ Hán của phương Bắc. Phần thơ văn của Hồ Quý Ly hầu như đã mất hết, chỉ còn có 5 bài thơ, tuy quá ít ỏi nhưng cũng đủ cho ta thấy ở ông vua này một tấm lòng gắn bó với văn hóa dân tộc, một niềm tự hào về phong vị riêng của đất nước và con người Việt như được biểu lộ qua bài thơ "Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục" (tạm dịch):
Đáp lại người phương Bắc hỏi về phong tục nước Nam
Nước Nam phong tục vốn thuần hậu
Áo mũ không khác chi nhà Đường
Lễ nhạc tương tự như nhà Hán
Bình ngọc rót rượu mới cất ngát thơm
Dao vàng mổ cá ngon nhỏ vảy
Hàng năm vào khoảng tháng Hai tháng Ba
Hoa đào hoa mận nở tràn vườn xuân
Nước Nam phong tục vốn thuần hậu
Áo mũ không khác chi nhà Đường
Lễ nhạc tương tự như nhà Hán
Bình ngọc rót rượu mới cất ngát thơm
Dao vàng mổ cá ngon nhỏ vảy
Hàng năm vào khoảng tháng Hai tháng Ba
Hoa đào hoa mận nở tràn vườn xuân
Hồ Nguyên Trừng là nhà sáng chế khoa học kỹ thuật quân sự mà cũng là một nhà văn. Bị giữ lại bên Trung Quốc và buộc phải chế súng Thần Cơ cho nhà Minh, trong đáy lòng sâu kín của ông vẫn không ngừng le lói một tâm sự nhớ nước thương nhà, thể hiện trong cuốn "Chép lại những giấc mộng của ông già nước Nam" (Nam Ông mộng lục) viết năm 1442, nói về nhà Trần và nhà Hồ đã mất và quê cha đất tổ xa vời. Tuy sách viết bằng chữ Hán, được in và lưu hành bên Tàu, nhưng ta không hề thấy ở Hồ Nguyên Trừng một mặc cảm tự ti nào, một ý đồ đen tối nào, kể cả ý muốn đề cao kẻ thù dân tộc. Trái lại, qua Nam Ông mộng lục, Nguyên Trừng đã muốn gởi gắm một ý tưởng xuyên suốt tập hồi ký : nước Nam của tác giả cũng có những con người tốt đẹp, từ nhà vua tới nhà nho, nhà thơ, thầy tu, đạo sĩ, thầy thuốc, tướng sĩ... là những con người tiêu biểu cho nhân phẩm, đạo đức và tài năng có thể đem ra làm gương cho người phương Bắc cùng soi như Chu Văn An, Lê Phụng Hiểu, sư Không Lộ, Trần Nghệ Tông, Trần Minh Tông...
Hồ Nguyên Trừng cũng để lại trong Nam Ông mộng lục một số lời bình luận thi ca khá tinh tế của một người biết chú ý tới những tác động của điều kiện xã hội và môi trường thẩm mỹ đối với tác phẩm. Vì những lý do đó Nam Ông mộng lục được giới nghiên cứu đánh giá là tập hồi ký (viết bằng chữ Hán) có sớm nhất và có giá trị của nền văn học Việt Nam.
Ải Nam Quan |
Chơi núi Côn Sơn
(tạm dịch)
[...] Sau cơn mưa nghe suối chảy ì ầm
Trời đã tạnh sạch làu làu lam chướng
Cuộc phù thế trăm năm đời người như giấc mộng
Được nửa buổi thanh nhàn ta tưởng mình là Tiên
Ba danh nhân thời Hồ
Trước hết hãy trở lại nhân vật Hồ Quí Ly, đây là một con người rất thức thời và đầy tài năng. Trong mấy thập niên cuối cùng của thế kỷ 14, nhà Trần ngày càng suy đồi, Hồ Quí Ly (1336-?), rể vua Trần Nghệ Tông, từng là khu mật đại sứ, đồng bình chương sự và phụ chính thái sư, tước đại vương. Cảm thấy mình có đầy đủ khả năng cứu vãn tình thế bằng những cải cách kinh tế, xã hội và văn hóa cho nên năm 1400 Hồ Quí Ly đã truất ngôi vua Trần đứng ra thành lập triều Hồ.
Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi (1400-1407), vua rồi thái thượng hoàng Hồ Quí Ly đã tiến hành một loạt cải cách khá táo bạo :
- Ban hành chính sách hạn chế ruộng đất và nô tì nhằm hạn chế quyền lực tầng lớp quí tộc nhà Trần đã phát triển kinh tế điền trang quá mức cần thiết ;
- Cho đào vét lại một số cảng, kê khai lại số lượng hộ khẩu của toàn dân để tăng cường biên chế quân đội ;
- Định lại chế độ thuế khóa cho công bằng hơn ; thống nhất hệ thống đo lường, ban hành tiền giấy ;
- Lập nhà thương cho dân (quảng tế thự) và cho xây kho lúa phòng chống đói (thường bình) ;
- Mở khoa thi chọn hiền tài ;
- Chủ trương dùng chữ Nôm thay chữ Hán trong sinh hoạt hành chính, v.v.
Thần công đời Chúa Nguyễn hậu duệ của thần cơ đời Hồ |
Danh nhân thứ hai mà chúng ta vừa mới kể tên là Hồ Nguyên Trừng (không rõ năm sanh và năm mất). Là con trai cả của Hồ Quí Ly, ông không làm vua mà là tả tướng quốc của triều Hồ, và ở cương vị đó ông còn là một tài năng lớn trong lãnh vực khoa học và kỹ thuật quân sự. Là người có đầu óc phát minh, sáng chế và khả năng trí tuệ phi thường, ông đã cung cấp cho nhà Hồ thuyền Cổ Lâu và súng Thần Cơ.
Thuyền Cổ Lâu là loại thuyền chiến lớn, đóng đinh sắt, có hai tầng và hàng chục tay chèo, hai người chèo một mái và được xem là đã tạo ra một tốc độ lớn khi có thủy chiến. Còn súng Thần Cơ, một sáng tạo khác của Hồ Nguyên Trừng là một loại hỏa pháo cải tiến hiệu nghiệm hơn tất cả các loại đại bác đương thời, điều này triều Minh đã thấy được, có thể trước khi xâm lăng, và đã tuyển lựa để bắt giữ rồi áp tải ông vế Bắc Kinh. Nhà Minh sau đó tận dụng tài năng của Nguyên Trừng với chức vụ tả thị lang bộ Công.
Thuyền cổ lâu |
Danh nhân thứ ba ở thời Hồ cần nhắc tới là bậc thầy kiến trúc Nguyễn An (1381-khoảng 1460) mà người Trung Quốc biết rõ hơn người Việt Nam ta ! Quả thật, về nhân vật lỗi lạc này chỉ thấy Lê Quí Đôn nhắc tới qua hơn 10 dòng trong cuốn Kiến văn tiểu lục. Còn ở Trung Quốc thì Nguyễn An được nhắc tới trong nhiều thư tịch từ thời trung đại tới thời hiện đại. Ví dụ : từ những cuốn Hoàng Minh thông kỷ, Anh Tông chính thống thực lục... của thời Minh tới cuốn Trung - Việt quan hệ sử luận văn tập của nhà sử học Trương Tú Dân xuất bản tại Đài Bắc (Đài Loan) năm 1992.
Trong công trình nghiên cứu quan trọng về giao lưu tiếp biến văn hóa Việt Nam - Trung Quốc này, Trương Tú Dân đã dành tới 4 chương viết về Nguyễn An. Trương Tú Dân đã làm việc nhiều năm tại Thư Viện Quốc Gia Bắc Kinh và là người nghiên cứu kỹ lưỡng nhất về Nguyễn An. Ông đã cung cấp cho chúng ta nhiều tài liệu quí báu và những đánh giá khách quan như sau :
"...Nguyễn An, tức A Lưu, đến Trung Quốc vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), là một trong số những thanh niên Giao Chỉ đẹp trai và thông minh do Trương Phụ bắt đưa về Nam Kinh để hoạn sau khi bình Giao Nam.
Cố cung tại Bắc Kinh |
Điều đó chứng tỏ Nguyễn An có tài bẩm sinh về suy xét, tính toán, há chẳng phải là thiên tài trong lịch sử kiến trúc đó sao ! Đến nỗi các quan bộ Công cũng như những đốc công trông coi mọi công việc qui hoạch và các xưởng xây dựng bao thầu đều làm việc theo lệnh của Nguyễn An mà thôi.
Minh Anh Tông (trị vì 1437-1445) lên ngôi khi thiên hạ thái bình, hòa cốc phong đăng, nhà đủ người đông, thế là lại khởi công lớn về thổ mộc, thực hiện chí của Minh Thành Tổ chưa thành. Công việc đầu tiên là xây dựng lầu thành 9 cửa... Vua liền sai Nguyễn An đảm nhận công việc, khởi công xây dựng năm Chính thống thứ hai (1438) đến tháng 4 (1440) xây dựng xong lầu chính, lầu vọng nguyệt, thành, hào, cầu ở 9 cửa... Công trình cần đến 180.000 người, Nguyễn An chỉ dùng có 10.000. Binh sĩ được An ưu đãi nên công trình đã sớm hoàn thành.
Ba điện đã xây dựng xong năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) trước đó chưa đầy nửa năm đã bị hỏa hoạn. Tháng 3 năm Chính Thống (1441) vua mới sai Nguyễn An xây lại, lực lượng xây dựng là 70.000 người. Năm thứ 6 (1442) hai cung Càn Thành, Khôn Ninh, ba cung Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân xây xong, đó là tiền thân của ba điện lớn Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa ngày nay (trong Cố Cung ở Bắc Kinh). Xong việc Nguyễn An được vua thưởng 50 lượng vàng, 100 lượng bạc, 10.000 quan tiền.
Năm thứ 10 (1446) Nguyễn An lại được lệnh sửa tường thành kinh đô... Như vậy là ở thời nhà Minh, việc xây dựng Bắc Kinh đời Vĩnh Lạc là thời kỳ mở mang đến đời Chính Thống là thời kỳ hoàn thành. Trước sau chủ trì công việc từ đầu đến cuối đều là Nguyễn An, người cống hiến trọn đời cho Bắc Kinh... Nguyễn An hết lòng vì việc công, thanh bạch, liêm khiết, khắc khổ, khi lâm chung không còn một nén vàng trong túi. Đó là một con người cao thượng đã để lại công đầu ở Bắc Kinh...".
Cám ơn nhà sử học TrươngTú Dân đã cho chúng ta biết cách nay sáu thế kỷ kiến trúc sư Nguyễn An cùng với nhà khoa học quân sự Hồ Nguyên Trừng là hai người Việt đã đem chuông đi đánh xứ người và đã có những đóng góp đáng kể vào lịch sử văn hóa nhân loại.
5. Thời Lê Sơ (1420 - 1527) - 100 năm ưu việt văn hóa Đông Đô
Thời Lê Sơ : 100 năm ánh sáng và bóng tối
Trong lịch sử dân tộc ta, có thể nói thời Lê Sơ là một thời kỳ xán lạn. Sau năm thế kỷ độc lập và văn hiến nhờ những tướng tài, vua giỏi, và trí thức lớn của các đời từ Ngô tới Trần, nhà Hồ có tội để mất nước (1407) vào tay nhà Minh. Nhưng rồi khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ (1418) đưa tới những chiến thắng vang dội khiến quan quân Minh phải rút về Tàu; nền độc lập dân tộc được phục hồi, một triều đâi mới được thành lập. Ánh sáng của tự chủ tự do đã lại trở về với Đại Việt, với kinh đô cũ Thăng Long được triều Lê Sơ cho một tên gọi mới là Đông Đô để phân biệt với Lam Kinh ở Thanh Hóa, còn gọi là Tây Đô hay Tây Kinh.
Ánh sáng bừng lên từ Lam Sơn rồi tỏa chiếu trên toàn cõi đất nước cũng là ánh sáng của 100 năm văn hiến nhờ sự nghiệp của những Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lương Thế Vinh, Phan Phu Tiên ... , nhờ những thành tựu văn hóa đẹp đẽ như Hội Tao Đàn, bản đồ Hồng Đức, luật Hồng Đức ...
Nhưng lại phải nói thêm: thời kỳ 100 năm ấy đã bị hoen ố bởi những bóng tối đậm đặc , những bi kịch thảm khốc. Rất đáng buồn là vào thời Lê Sơ, một hình phạt thuộc loại man rợ nhất mà con người có thể nghĩ ra, gọi là tru di tam tộc, đã từ bên Tàu đột nhập nước ta như một vết nhơ khó gột rửa. Một số vua Lê Sơ hẹp lượng vô nghì, bạc nghĩa, đã sát hại nhiều công thần khai quốc, tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Lê Sát, Trần Nguyên Hãn ... để đến khi những vị này được các vua đời sau như vua Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông minh oan và phục hồi danh dự cho họ, đền bồi cho con cháu thì đã quá muộn màng.
Sau đời minh quân Lê Thánh Tông, một vài vua Lê khác đã là những hôn quân bạo chúa, hoang dâm vô độ (khi say rượu thì giết cả cung phi) cho nên vào năm 1527 quyền thần Mạc Đăng Dung đã nhanh chóng xóa bỏ triều Lê Sơ lập ra vương triều Mạc.
Nho giáo, một học thuyết chính trị - luân lý rất khắc nghiệt và đầy bất công ra đời bên Tàu đã ảnh hưởng nhiều tới tư tưởng và xã hội của Trung Quốc cùng một số nước phương Đông khác, trong đó có Việt Nam. Vào thời Lê Sơ, Tống Nho được vua quan nước ta tôn sùng đã tác động rất tiêu cực trên đời sống xã hội và tinh thần.
Cũng may là nhờ Phật giáo, nhờ nhân dân và trí thức thời Lê Sơ đã có những phản ứng sáng suốt và kịp thời để ngăn chặn bớt những ảnh hưởng xấu của Nho giáo.
Về Lam Sơn thăm quê hương Lê Lợi và dự Hội đền vua Lê
Khu di tích Lam Sơn thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 55 km : đây là quê hương Lê Lợi và là cái nôi của cuộc khởi nghĩa hiển hách như đã thấy. Sau khi Lê Lợi trở thành Lê Thái Tổ, các vua triều Lê Sơ vẫn tiếp tục xây dựng chốn này thành một kinh đô thứ hai sau Đông Đô, nên Lam Sơn trở thành Lam Kinh, tức Tây Đô. Ngoài các cung điện ( Quảng Đức, Sùng Hiếu ... ) Lam Kinh thuở xưa còn nhiều đền miếu, lăng tẩm như Thái Miếu (thờ tổ tiên các vua Lê), Vĩnh Lăng (lăng mộ Lê Thái Tổ), Chiêu Lăng (Lê Thánh Tông) ... Cung điện thời Lê Sơ nay không còn gì, chỉ sót lại các bậc thềm đá chạm rồng và các bia đá to vinh danh các vua.
Lớn và đẹp nhất là bia Vĩnh Lăng, dựng năm 1433, cao gần 3 m, rộng gần 2 m và dầy 27 cm, đặt trên lưng một con rùa khổng lồ, ghi lại tiểu sử và sự nghiệp Lê Thái Tổ do Nguyễn Trãi chấp bút, làm nên một áng văn đẹp đẽ, một tài liệu lịch sử chan chứa khí vị anh hùng ca.
Không xa khu Lam Kinh có thể dự Hội đền vua Lê vào xuân thu hai kỳ. Đến tiết xuân hàng năm, dân làng Vệ Yên, nay thuộc thành phố Thanh Hóa, mở Hội trận đền vua Lê từ mồng 5 đến mồng 8 tháng Giêng (lịch âm) để tưởng nhớ Lê Lợi, anh hùng dân tộc kiêm thần thành hoàng làng. Sau lễ tế là phần biểu diễn múa roi, múa kiếm, đi quyền, đấu vật trình thần. Tiếp theo là các trò chạy chữ, diễn trận (quâïn ta đánh quân Minh thắng lợi), rồi trò tung cầu kết thúc hội trận thu hút nhiều ngàn người.
Hội đền vua Lê mùa thu có qui mô lớn hơn nhiều. Cứ ba năm một lần, vào ngày giỗ Lê Lợi (22-8 lịch âm), hội diễn ra tại khu vực Lam Kinh, chung quanh ngôi đền thờ vua Lê Thái Tổ và một số vị khác như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông ... Hội lễ năm xưa bắt đầu bằng điệu múa hát rí ren cổ kính, rồi tới hát ca công và hát huê tình, múa Bình Ngô phá trận và múa Chư hầu lai triều. Đặc biệt có tục lệ đánh trống đồng uy nghi hùng tráng, thu hút nhiều vạn khách hành hương.
Ngoài đông đảo người Việt vùng đồng bằng chung quanh tỉnh Thanh Hóa, người dân những sắc tộc miền núi (Mường, Thái ... ), các tỉnh lân cận cũng nô nức về dự hội. Họ đem theo các lâm sản như mật ong rừng, nhung hươu nai, mật gấu, xương cọp, trầm, quế, cây thuốc ... rồi tạo nên một chợ phiên trao đổi nhộn nhịp giữa miền xuôi với mạn ngược, làm cho Hội đền vua Lê mùa thu trở thành một festival Kinh Thượng hoành tráng.
Nguyễn Trãi Vinh quang và thảm kịch của một bậc thiên tài
Chắc nhiều người trong chúng ta còn nhớ vào năm 1980, một hội nghị quốc tế lớn tập họp đông đảo các nhà Đông phương học và Việt Nam học của nhiều nước đã được tổ chức tại Hà Nội để kỷ niệm trọng thể 600 năm sinh Nguyễn Trãi (1390-1442). Toàn thể hội nghị rất phấn khởi khi được biết hai tổ chức văn hóa lớn là UNESCO và Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới đã đồng thanh tuyên dương Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới, một vinh dự mà 15 năm trước đó (1965) giới văn hóa quốc tế cũng đã trao cho Nguyễn Du nhân kỷ niệm trọng thể 200 năm sinh của thi hào (1765-1820). Riêng về Nguyễn Trãi, có thể công nhận rằng 45 dòng dành cho thiên tài này trong Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, tập 3, N-S, ( NXB Từ Điển Bách Khoa , Hà Nội, 2003, tr. 187) đã chứa đựng những thông tin và đánh giá xác đáng. Chúng ta biết ông đã sớm vào Lam Sơn cùng với chủ tướng Bình Định Vương Lê Lợi tham gia cuộc kháng chiến chống Minh - đặc biệt công lao ông rất lớn trong lãnh vực ngoại giao.
Về tài ngoại giao tuyệt trần của Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn ở cuối thế kỷ 18 đã đánh giá : "Nguyễn Trãi viết văn, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời đại ", còn Phan huy Chú ở đầu thế kỷ 19 thì khẳng định "Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi có sức mạnh của 10 vạn quân".
Là một thiên tài văn hóa, Nguyễn Trãi đã viết rất nhiều và rất hay từ hơn 350 bài thơ vừa Nôm vừa Hán cho tới các kiệt tác Đại Cáo Bình Ngô và Dư Địa Chí ...
Sau kháng chiến thắng lợi, ông được coi là đệ nhất công thần, được liệt vào hàng đại phu, giữ nhiều chức vụ lớn đầu triều, nhưng lại bị nhiều gian thần ganh ghét, dèm pha nên đã cáo quan về Côn Sơn ẩn dật giữa suối rừng. Năm 1439, Lê Thái Tông triệu ông trở lại triều đình để cùng chăm lo việc nước. Ba năm sau (1442), thảm kịch sảy ra.
Ông có người vợ thứ ba xinh đẹp và hay chữ là Nguyễn Thị Lộ. Chẳng may Lê Thái Tông đã chết đột ngột tại vườn Lệ Chi khi bà Lộ đang có mặt bên vua . Thế là những kẻ thù trong triều đình đã ghép cả đại gia đình ông vào hình phạt tru di ba họ (họ cha, họ mẹ, và họ vợ). Một nỗi oan tày trời ! Đằng đẵng 23 năm sau (1465), Nguyễn Trãi mới được Lê Thành Tông trịnh trọng minh oan.
Ba nhà văn hóa xuất sắc: Lê Thánh Tông, Phan Phu Tiên, Lương Thế Vinh
Nhân tài thời Lê Sơ thật đông đảo. Tổng tập văn học Việt Nam, bộ hợp tuyển thơ văn đổ sộ và tương đối đầy đủ từ trước tới nay (42 tập, hơn 30 000 trang in), xuất bản năm 2000 - trong tập 4 nói về văn học thời Lê Sơ - đã dành hơn một ngàn trang để giới thiệu và trích dẫn nhiều trăm tác phẩm của hơn 50 tác giả. Trong cái rừng văn sầm uất ấy nổi bật lên tên tuổi và tài năng của Nguyễn Trãi, bên cạnh ba nhà văn hóa lớn : một ông vua và hai nhà bác học.
Lê Thánh Tông (1442-1497) lên ngôi năm 19 tuổi, rồi trị vì suốt 38 năm và chỉ thọ 56 tuổi, nhưng đã để lại cho đời một sự nghiệp văn hóa to tát hiếm thấy:
- đã chủ trì biên soạn bộ luật Hồng Đức, cùng nhiều bộ sách quí báu như bộ Thiên Nam dự hạ tập (hàng trăm quyển), bộ Đại Việt sử ký toàn thư (24 quyển) là hai bộ sách lớn đầu tiên trong kho tàng thư tịch cổ Việt Nam;
- đã quan tâm nhiều đến giáo dục và thi cử nên cho tổ chức cả thảy 12 khoa thi hội, chọn được 501 tiến sĩ, trong đó có 9 trạng nguyên;
- đã nghĩ ra nhiều thuần phong mỹ tục văn hóa như dựng bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, đặt lệ xướng danh, tổ chức lễ vinh qui bái tổ đưa những vị tân khoa về quê hương mình đều là những biện pháp tốt đẹp đề cao người hiền tài
- đã khuyến khích dùng văn Nôm, cổ xúy thơ Nôm, thành lập tổ chức văn học - văn hóa lớn đầu tiên của thời đại quân chủ là Hội Tao Đàn do chính vua làm chủ soái;
- đã sáng tác rất dồi dào và quan tâm tới nhiều thể loại ; thơ văn của vua có mặt trong nhiều công trình tập thể lớn như Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Lê triều danh nhân thi tập;
- trong sự nghiệp của vua, đáng chú ý hơn cả là bài phú Lam Sơn lương thủy và tập truyện ký Thánh Tông di thảo (chữ Hán), bài văn Nôm Mười giới cô hồn và nhiều áng thơ Nôm khác thắm đượm tình tự dân tộc.
Nhà văn hóa Phan Phu Tiên là một nhà bác học thực thụ. Chưa rõ năm sinh năm mất, chỉ biết ông hai lần đậu tiến sĩ: vào thời Trần (1396) rồi vào đời Lê Thái Tổ (1429). Làm việc ở Quốc Tử Giám và Quốc Sử Viện từ 1445, 10 năm sau ông trở thành tổng tài (chủ biên), phụ trách việc biên soạn Đại Việt sử ký tục biên.
Nhà sử học Phan Phu Tiên cũng có một cống hiến lớn về nghiên cứu văn học, do đã biên soạn Việt âm thi tập, bộ hợp tuyển thơ văn đầu tiên ở nước ta. Ông còn quan tâm tới thực vật học và y dược học nên đã viết Bản thảo thực vật toản yếu.
Thơ của Phan Phu Tiên chỉ còn lại ba bài chép trong Toàn Việt thi lục: một bài đề tặng Nguyễn Trãi mà ông gọi là "bậc tiên tri tiên giác", bài thứ hai khuyên thanh niên hãy dốc sức học tập vì học vấn xưa nay vẫn là " bậc cấp để bước lên ngôi nhà lớn của đời người ", bài thứ ba nói lên chí hướng cao đẹp của nhà nho Phan Phu Tiên chỉ nghĩ tới trách nhiệm và nghĩa vụ, không hề nghĩ tới cá nhân.
Nhà văn hóa Lương Thế Vinh cũng xứng đáng được gọi là nhà bác học. Sinh năm 1442 (chưa rõ năm mất), từng nổi tiếng là thần đồng, ông đậu trạng nguyên năm 21 tuổi, rồi làm việc tại Viện Hàn Lâm, chuyên soạn các công văn bang giao với triều Minh. Việc làm này của ông đã có tiếng vang ra tận cõi ngoài. Lê Quí Đôn từng khen ông là "con người tài hoa, danh vọng tột bực", còn Phan Huy Chú cho biết "ông ham đọc sách, học vấn rộng rãi, từng là sái phu của Hội Tao Đàn".
Sự nghiệp của ông gồøm chủ yếu những bài thơ đoạn văn xướng họa với vua quan trong triều và những trước tác thuộc nhiều lãnh vực như Đại thành toán pháp (phép toán tổng hợp), Thiền môn giáo khoa (sách giảng dạy đạo Phật dùng nơi cửa Thiền) ... Đặc biệt đáng khen là Hí phường phả lục (ghi chép phả ký của phường trò) viết năm 1501, là công trình nghiên cứu lý luận sớm nhất ở nước ta về hát chèo, một nghệ thuật sân khấu dân gian quí báu của dân tộc mà đương thời triều đình sính Tống Nho có thái độ kỳ thị, coi rẻ, còn ông thì can đảm trọng thị và đề cao .
Ba thành tựu nổi bật của thời Lê Sơ: Hội Tao Đàn , bản đồ Hồng Đức và luật Hồng Đức
Hội nhà thơ cung đình đầu tiên của Việt Nam là Hội Tao Đàn, được sáng lập vào mùa đông 1495, đời Lê Thánh Tông: vua thấy hai năm liền thời tiết thuận hòa, nhân dân được mùa bèn làm 9 bài thơ ca ngợi điềm tốt, mở đầu cho tập Quỳnh Uyển cửu ca (9 khúc ca vườn Quỳnh). Đây là tác phẩm khai trương hội Tao Đàn: vua viết lời tựa, rồi tự xưng là nguyên soái của Tao Đàn, tập hợp 28 quan văn có năng khiếu, gọi là 28 ngôi sao của Tao Đàn, và đề nghị họ theo vần 9 bài thơ xướng của vua mà họa lại. Tổng cộng Quỳnh Uyển cửu ca có tới 261 bài. Hội hoạt động trong hơn hai năm (1495-1497), với tư cách một viện hàn lâm văn học và văn hóa. Sau khi Lê Thánh Tông mất (1497) không nghe nói tới hội nữa. Tuy nhiên sự có mặt ngắn ngủi của hội vẫn cho phép đời sau tập hợp được một loạt tác phẩm có giá trị từ Quỳnh Uyển cửu ca tới Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức quốc âm thi tập. Qua những áng thơ văn xướng họa thù tạc của 29 ngôi sao Tao Đàn (kể cả vua) vẫn toát ra nhiều điều tốt đẹp của vua tôi thời Lê Sơ: tinh thần trách nhiệm đối với lịch sử và dân tộc, niềm tự hào về đất nước thịnh trị và văn hiến, sự quan tâm của triều đình tới cuộc sống yên vui ấm no của trăm họ.
Tập bản đồ Hồng Đức là tập bản đồ chính thức đầu tiên của quốc gia thời quân chủ, hoàn thành vào năm 1490, do Lê Thánh Tông chủ trương và đề xướng từ rất sớm. Vào năm 1467 các thừa tuyên được lệnh vẽ bản đồ của địa phương mình. Hai năm sau đã có được một tập bản đồ bước đầu chưa đầy đủ, các thừa tuyên lại phải bổ sung, chỉnh đốn cho đến khi có khá đầy đủ một bản đồ chung của cả nước, một bản đồ Đông Đô và các bản đồ của 13 thừa tuyên gồm 52 phủ 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 665 xã, v.v... Nhờ tập bản đồ rất chi tiết này mà ngày nay chúng ta còn có được một hình ảnh sinh động và cụ thể về tổ quốc cách nay hơn 500 năm.
Bộ luật Hồng Đức, tức Quốc triều hình luật hay Lê triều hình luật, là bộ luật chính thống được xây dựng hoàn chỉnh cũng vào đời Lê Thánh Tông, gồm 6 quyển, chứa đựng tổng cộng 722 điều luật, chia thành 15 chương: bảo vệ hoàng gia, xây dựng quân đội, ruộng đất và nhà cửa, gia đình và hôn nhân, quan hệ tình dục bất chính, trộm cướp, kiện cáo, gian dối lường gạt, truy nã tội phạm, xử án, ... Các nội dung này cho thấy về thực chất đây không chỉ là luật hình mà là cả một bộ luật tổng hợp và toàn diện có tính chất tiến bộ nhất trong thời đại quân chủ khi ta đem so sánh nó với bộ luật Gia Long, tức Hoàng triều luật lệ thời Nguyễn đấu thế kỷ 19, là một bước lùi lớn so với bộ luật Hồng Đức vì các nhà làm luật 300 năm sau đã sao chép thụ động bộ luật nhà Thanh (Trung Quốc) một cách vô tội vạ.
Một nét son rực rỡ của thời Lê Sơ: nhân quyền và nữ quyền được bảo vệ, đề cao
Theo thiển ý, nên xem pháp luật nhà nước thời Lê Sơ là một trong những thành tựu lớn của lịch sử văn hóa văn minh ở Việt Nam và cả ở toàn châu Á thời trung đại. Quả thật bộ luật Hồng Đức có những đặc điểm làm chúng ta đi từ kinh ngạc tới thán phục. Điểm đặc sắc lớn đầu tiên là bộ luật cổ kính này đã bảo vệ và đề cao nhân quyền trong hai lãnh vực: các quyền bình đẳng và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của mọi người dân đương thời. Trong các quyền bình đẳng, đáng chú ý là quyền bình đẳng giữa đàn bà và đàn ông, giữa vợ và chồng, giữa các sắc tộc trên toàn cõi Đại Việt. Mọi người dân có quyền hưởng cơ hội đồng đều về giáo dục, quyền tự do mở trường dạy học, tự do chọn trường và chọn thầy, phụ huynh có thể mời thầy về nhà dạy con mình từ vỡ lòng tới lúc chuẩn bị đi thi tiến sĩ, v.v...
Điểm đặc sắc lớn thứ hai mà có lẽ ưu tú nhất là bộ luật Hồng Đức bảo vệ và đề cao nữ quyền, một điều hiếm thấy trong pháp luật và văn hóa Á Đông suốt thời trung đại:
- Bộ luật qui định quyền thuận tình kết hôn và thành lập một gia đình giữa đàn bà và đàn ông, quyền người mẹ và trẻ em được săn sóc và bảo vệ.
- Khi qui định quyền bình đẳng dân sự giữa vợ và chồng, luật Hồng Đức nêu rõ : nếu người chồng chểnh mảng hay bỏ bê vợ vì si mê một người đàn bà khác thì sẽ bị trừng phạt nếu vợ cáo giác trước cửa quan.
- Bộ luật qui định vợ chồng hoàn toàn bình đẳng về hôn sản: lúc hai người còn sống chung, vợ chồng đều bình quyền trong việc quản trị tài sản gia đình. Khi vợ hay chồng mất thì người còn sống, bất luận là vợ hay chồng, có quyền thu hồi đầy đủ quyền sở hữu toàn bộ bất động sản xuất phát từ gia đình bố mẹ mình, đồng thời có quyền thu hồi một nửa phần bất động sản do hai vợ chồng tạo mãi trong thời kỳ sống chung.
Khi bảo vệ va đề cao nữ quyền như đã thấy trên đây, bộ luật Hồng Đức đã xác nhận truyền thống chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam lâu đời, và đã cho chủ nghĩa Tống Nho một bài học đích đáng.
Năm 1987, giới Đông phương học và giới văn hóa đã ghi nhận một sự kiện đặc sắc: nhà xuất bản Đại học Ohio (Hoa Kỳ) công bố công trình nghiên cứu, kèm theo bản dịch tiếng Anh của toàn văn bộ luật Hồng Đức nhan đề Lê's Code : Law in traditionnal Vietnam của ba giáo sư Tạ Văn Tài, Nguyễn Ngọc Huy và Trần Văn Liêm.
" Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ ở vùng đại Đông Á truyền thống [ ... ] Chúng ta thấy triều Lê vào những thế kỷ đặc sắc của mình đã nỗ lực xây dựng một quốc gia vững mạnh như thế nào để bảo vệ những quyền hợp pháp của con người thông qua một hệ thống pháp luật tiến bộ, trong đó có nhiều điều đã có thể sánh ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật phương Tây cận hiện đại ".
Một phán đoán hoàn toàn công minh và xác đáng !
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông (1442 - 1497) là vị vua mà tên tuổi và sự nghiệp vẻ vang đã gắn liền với giai đoạn cường thịnh của Việt Nam nửa cuối thế kỷ 15. Trong gần 40 năm làm vua, ông đã tiến hành nhiều cải cách về chính trị, quân sự, kinh tế; khởi xướng bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của Việt Nam; đề cao những giá trị văn hóa dân tộc. Bản thân ông là một nhà thơ lớn, để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Tên tuổi và sự nghiệp Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn cường thịnh của Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 15.
Lê Thánh Tông tên là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn Hà Nội ngày nay, mất ngày 30 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1497).
Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng, văn hóa.
Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là "vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược".
Về phương diện văn học, Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm, hiện còn được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...
* Nhà cải tổ và xây dựng đầy nhiệt huyết. Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 12 đạo (tức 12 thừa tuyên). Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế... Dưới thời Lê Thánh Tông, lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cường hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
*Người khởi xướng bộ luật Hồng Đức. Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam hồi thế kỷ 15. Lê Thánh Tông, người khởi xướng luật Hồng Đức, là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo".
* Người phát triển những giá trị văn hóa dân tộc. Về phương diện văn hóa Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn. Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái.Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ... là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông.Nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông hủy án minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu hủy sau vụ án "Lệ Chi viên". Chính Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" (Tấm lòng ức Trai sáng tựa sao Khuê).
* Một nhà thơ hào tráng. Đứng đầu hội văn học Tao Đàn, Lê Thánh Tông cũng dẫn đầu phong trào sáng tác. Thơ Lê Thánh Tông để lại khá nhiều và có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Qua thơ ông, chúng ta không chỉ hiểu sâu hơn nhân cách, tâm hồn ông, một tâm hồn gắn bó mật thiết với non sông, đất nước, với nhân dân, với những truyền thống anh hùng của dân tộc, của Tổ tông, mà còn thấy được khí phách cả một thời đang vươn lên, đầy hào tráng:
Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ,
Khí thế ba quân át cày cáo.
Phương Đông Mặt trời mọc, áng mây nhẹ trôi,
Phóng mắt ngắm núi sông muôn dặm.
(Buổi sớm từ sông Cấm đi tuần biển Đông)
Lê Thánh Tông làm vua lúc 19 tuổi. Một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Đó là tiếng nói của một ý chí tự cường dân tộc, động lực mãnh liệt đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hồi thế kỷ 15.
Tên tuổi và sự nghiệp Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn cường thịnh của Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 15.
Lê Thánh Tông tên là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn Hà Nội ngày nay, mất ngày 30 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1497).
Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng, văn hóa.
Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là "vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược".
Về phương diện văn học, Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm, hiện còn được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...
* Nhà cải tổ và xây dựng đầy nhiệt huyết. Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 12 đạo (tức 12 thừa tuyên). Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế... Dưới thời Lê Thánh Tông, lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cường hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
*Người khởi xướng bộ luật Hồng Đức. Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam hồi thế kỷ 15. Lê Thánh Tông, người khởi xướng luật Hồng Đức, là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo".
* Người phát triển những giá trị văn hóa dân tộc. Về phương diện văn hóa Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn. Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái.Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ... là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông.Nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông hủy án minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu hủy sau vụ án "Lệ Chi viên". Chính Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" (Tấm lòng ức Trai sáng tựa sao Khuê).
* Một nhà thơ hào tráng. Đứng đầu hội văn học Tao Đàn, Lê Thánh Tông cũng dẫn đầu phong trào sáng tác. Thơ Lê Thánh Tông để lại khá nhiều và có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Qua thơ ông, chúng ta không chỉ hiểu sâu hơn nhân cách, tâm hồn ông, một tâm hồn gắn bó mật thiết với non sông, đất nước, với nhân dân, với những truyền thống anh hùng của dân tộc, của Tổ tông, mà còn thấy được khí phách cả một thời đang vươn lên, đầy hào tráng:
Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ,
Khí thế ba quân át cày cáo.
Phương Đông Mặt trời mọc, áng mây nhẹ trôi,
Phóng mắt ngắm núi sông muôn dặm.
(Buổi sớm từ sông Cấm đi tuần biển Đông)
Lê Thánh Tông làm vua lúc 19 tuổi. Một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Đó là tiếng nói của một ý chí tự cường dân tộc, động lực mãnh liệt đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hồi thế kỷ 15.
Nguyễn Trãi
- Nguyễn Trãi (1380-1442) tên tự là Ức Trai, sống vào giai đoạn lịch sử sôi động từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ, thời đấu tranh chống ách xâm lược Minh cho tới đầu đời Lê. Ông là người anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng, danh nhân văn hoá thế giới. Năm 1406, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đánh bại nhà Hồ, áp bức muôn dân, bắt cha Nguyễn Trãi đưa về Trung Quốc. Nợ nước, thù nhà, Nguyễn Trãi đã tìm đến với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi và trở thành nhà soạn thảo và thực thi những quyết sách đúng đắn, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Minh đến thắng lợi hoàn toàn.
Nguyễn Trãi sinh ở Thăng Long, ông ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long (còn gọi là Nguyễn Phi Khanh), mẹ là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với ông ngoại Trần Nguyên Đán. Năm 1385, Trần Nguyên Đán về Côn Sơn, đem Nguyễn Trãi theo cùng. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu ông ngoại cũng mất. Ông đã về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, cũng là năm mở khoa thi đầu tiên của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra làm quan, giữ chức Quốc tử giám tư nghiệp. Nguyễn Trãi cũng được vời làm Ngự sử đài chính chưởng.
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ đem quân chống cự nhưng không thành. Cha con Hồ Quý Ly cùng một số triều thần bị bắt đưa về Trung Quốc trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi muốn tròn đạo hiếu với cha đã cùng em là Nguyễn Phi Hùng đi theo cha. Trên đường đi, Nguyễn Phi Khanh đã nói với Nguyễn Trãi: “ Con là người có học có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, báo thù cho cha. Như thế mới là đạo hiếu”. Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc cứu nước. Rồi Nguyễn Trãi bị giặc Minh bắt, giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội). Một thời gian sau, ông trốn khỏi Đông Quan tìm đường theo Lê Lợi. Ông đã giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, Nguyễn Trãi đã nhân danh Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức thư đó có tính chiến đấu mạnh mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần quân địch. Nguyễn Trãi luôn chú trọng tìm người tài đức, người hiền tài ra giúp nước. Năm 1429, ông thay vua viết “Chiếu cầu hiền tài”; Năm 1430, viết “Chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam, lười biếng”...
Năm 1427, cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” nổi tiếng. Năm đó, Lê Lợi lên ngôi vua, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong làm Triều Liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, Tước quan phục hầu. Nếu trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước thì khi đã đánh thắng giặc, ông vẫn luôn để tâm tới nhân dân, cho rằng phải lo đến dân thì mới xây dựng được đất nước. Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều phải làm trước hết là chăm lo cho nhân dân: “Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi nhân dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được gốc của nhạc vậy”. Tấm lòng ông luôn canh cánh tâm niệm một điều vì nhân dân, ông quan niệm phải luôn lo trước điều thiên hạ lo, vui sau cái vui của thiên hạ.
Sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Trãi đã để lại cho đời những kiệt tác còn sống mãi với thời gian. Tác phẩm của Nguyễn Trãi đã bị thất nhiều sau vụ án Lệ Chi viên. Bình Ngô đại cáo là một “thiên cổ hùng văn” bất hủ của dân tộc; Quân trung từ mệnh tập là một tập văn chính luận thư từ địch vận (Có hơn 70 bức thư, trong đó đa số các bức thư gửi cho tướng tá nhà Minh, phần còn lại là những thư từ viết gửi cho quân ta). Tác phẩm Dư địa chí soạn năm 1435 là kết quả của nhiều năm đi khắp nơi trong đất nước, tham gia phong trào của nhân dân. Về thơ, ông có tác phẩm Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán, Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ Nôm. Các tác phẩm của Nguyễn Trãi là những áng văn, dòng thơ bình dị, đề tài gần gũi mà nghĩa lại sâu xa, nói chuyện đời mà bộc lộ ý chí, bộc lộ tính tình. Những tác phẩm đã thể hiện lòng yêu thiên nhiên, lòng thương dân nước và cách nhìn năm tháng đời người một cách sâu sắc của một nhà thơ tràn đầy nghĩa khí.
Cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời chiến đấu không ngừng nghỉ, chiến đấu chống bạo lực xâm lược và chống gian tà. Tư tưởng nhân nghĩa là đỉnh cao chói sáng trong thơ ông. Quan điểm xem văn chương là vũ khí chiến đấu thể hiện rõ trí tuệ sáng suốt của một thiên tài và bản lĩnh của một chiến sĩ dũng cảm. Cuộc đời Nguyễn Trãi cho chúng ta bài học quý báu về tinh thần nhân đạo, nhiệt tình chiến đấu, quan điểm mạnh dạn đổi mới, sáng tạo. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".
Lương Thế Vinh
Trạng nguyên Lương Thế Vinh là người chế ra bàn tính gẩy đầu tiên ở nước ta. Ông quê ở thôn Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Ðịnh).Năm 23 tuổi, ông đỗ Ðệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận 4 (1463) (*) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị giảng, Chưởng viện sự, Nhập thị kinh diên, Tri Sùng văn quán. Phàm các văn thơ, từ lệnh bang giao với nhà Minh đều do ông soạn thảo. Tiếng tăm lừng lẫy Trung nguyên. Sinh thời, không sách nào ông không đọc.
Từ bé, Lương Thế Vinh nổi tiếng thần đồng, Vinh học rất mau thuộc, mau hiểu, mà chơi cũng rất tài tình. Cậu thích thả diều, câu cá, bẫy chim cùng với lũ trẻ chăn trâu. Diều của Vinh thường lên cao hơn, hình dáng cũng rất lạ, vừa giống "cánh thoi" lại vừa giống "cánh tiên", Vinh làm hẳn một bộ sáo diều to nhỏ bốn chiếc, khi diều thả lên, tiếng trầm xen lẫn tiếng bổng rất du dương vui tai, người lớn trẻ em cũng say mê lắng nghe.
Dân chúng ca ngợi Trạng nguyên Lương Thế Vinh và gọi ông là Trạng Lường vì ông không chỉ giỏi về văn học mà còn giỏi toán, ông đã có nhiều phát minh khoa học ứng dụng vào đời sống. Ông đã soạn cuốn "Ðại thành toán pháp". Mở đầu cuốn sách Lương Thế Vinh đề bài thơ khuyên mọi người học toán:
Trước thời biết cách thương lường,
Tính toán bình phân ở Cửu chương,
Thông hay mọi nhẽ điều vinh hiển,
Học lấy cho tinh giúp thánh vương!
Ông còn chế ra bàn tính gẩy, lúc đầu bằng đất rồi bằng trúc, sau làm bằng gỗ, sơn mầu khác nhau vừa đẹp, vừa dễ tính, dễ nhớ.
Một lần sứ nhà Minh là Chu Hy sang nước ta. Vua Lê Thánh Tông sai Lương Thế Vinh ra tiếp. Chu Hy nghe đồn nước Nam có ông trạng đã nổi tiếng văn chương, âm nhạc, mà còn tinh thông cả toán học nên có lần mới hỏi Lương Thế Vinh:
- Có phải ông làm ra sách "Ðại thành toán pháp", định thước đo ruộng đất, chế ra bàn tính của nước Nam đó không?
- Lương Thế Vinh đáp:
-- Dạ, đúng thế.
- Nhân có con voi rất to đang kéo gỗ trên sông. Chu Hy hỏi:
-- Trạng thử cân xem con voi kia nặng bao nhiêu!
-- Xin được!
Dứt lời, Vinh xăm xăm cầm cân đi cân con voi.
-- Tôi e chiếc cầu của ông quá nhỏ so với con voi đấy! - Chu Hy cười nói.
-- Thì chia nhỏ voi ra - Vinh thản nhiên trả lời.
-- Ông định mổ thịt voi à? Cho tôi xin miếng gan nhé!
Lương Thế Vinh tỉnh khô không đáp. Ðến bên sông, Trạng chỉ chiếc thuyền bỏ không, sai lính dắt voi xuống. Trạng cho lính lội xuống đánh dấu mép nước bên thuyền rồi dắt voi lên.
Kế đó, Trạng ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền. Thuyền lại dằm xuống dần cho tới đúng dấu cũ thì ngừng đổ đá.
Thế rồi Trạng bắc cân lên cân đá. Trạng cho bảo sứ nhà Minh:
- Ông ra mà xem cân voi !
Sứ nhà Minh vẫn còn thử tài tiếp:
- Ông cũng giỏi đấy chứ! Tiếng đồn quả không ngoa! Ông đã cân được voi to, vậy ông có thể đo được tờ giấy này dày bao nhiêu không?
Sứ nói rồi xé một tờ giấy bản rất mỏng từ một cuốn sách dày đưa cho Lương Thế Vinh, Hy lại đưa luôn một chiếc thước.
Giấy thì mỏng mà ly chia ở thước lại quá thưa.
Vinh nói:
- Ngài cho tôi mượn cuốn sách!
Sứ nhà Minh đưa ngay cuốn sách và hỏi kháy:
- Ông nghĩ sách có dạy cách đo chăng?
Lương Thế Vinh lấy thước đo bề dày cuốn sách, tính nhẩm một lát, rồi nói bề dày tờ giấy. Kết quả rất khớp với con số của sứ nhà Minh ghi sẵn ở nhà.
Nhưng sứ nhà Minh nói:
- Ông đoán mò cũng giỏi đấy!
- Thưa không. Việc đo này rất dễ, ta chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách, rồi chia đều cho số tờ. Việc đó có khó gì đâu!
Sứ nhà Minh ngửa mặt lên trời than:
- Nước Nam quả lắm người tài !
Thời ông sống người ta thường coi những người hát xướng là "xướng ca vô loài". Vậy mà Lương Thế Vinh làm quan to lại rất thích hát tuồng chèo, thi ca nhạc. Ông sáng tác nhiều mà còn trực tiếp biểu diễn nữa. Ông đã viết bộ sách "Hý phường phả lục". Ông cũng được vua Lê Thánh Tông giao cho cùng Thân Nhân Trung, Ðỗ Nhuận chế định ra các lễ nhạc của triều đình.Lúc về trí sĩ, ông vẫn thích la cà nơi thôn dã, thích hát ca.
(*) Khoa thi Quý Mùi (1463) lấy đỗ 44 Tiến sĩ.
Phan Phù Tiên
Phan Phu Tiên là nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học và là nhà giáo nổi tiếng. Ông là người có công biên soạn cuốn Việt âm thi tập là hợp tuyển thi ca đầu tiên của Việt Nam. Ngày nay ở làng Đông Ngạc vẫn còn đền thờ Phan Phu Tiên.
Phan Phu Tiên người làng Vẽ (Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), một làng trù phú nổi tiếng về nghề song, mây đan lát cổ truyền. Ông tên chữ là Tín Thần, tên hiệu là Mặc Hiên. Tại khoa thi cuối cùng của nhà Trần tổ chức ở Thăng Long vào năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái thứ 9 đời Trần Thuận Tông (1396), ông đã đỗ Thái học sinh. Ông là nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học và nhà giáo nổi tiếng, người có công lớn trong việc soạn thảo quốc sử đầu thời Lê, đồng thời cũng là người khởi đầu việc biên soạn bộ hợp tuyển thơ ca đầu tiên của Việt Nam.
Sau khi thi đỗ, Phan Phu Tiên được vào làm việc ở Quốc sử viện và Quốc Tử Giám, hai cơ quan nghiên cứu học thuật và đào tạo nhân tài quan trọng bậc nhất đương thời. Sau suốt một thời gian dài tới trên 1/4 thế kỷ, kể từ cuối những năm 90 thế kỷ 14 cho tới năm 1429, ông mới lại dự thi khoa Minh Kinh dưới thời Lê Thái Tổ; sau đấy không thấy sách vở, tài liệu nào ghi chép gì thêm về người danh sĩ họ Phan này.
Tình hình đất Việt lúc đó đang trải qua những cơn biến động dữ dội. Trong thời gian giữ chức Đồng tu sử ở Quốc sử viện, ông bắt tay vào biên soạn bộ Việt âm thi tập - công trình mở đầu việc nghiên cứu, giới thiệu thơ ca các đời ở Việt Nam. Niềm tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc, lòng trân trọng đối với di sản tinh thần của tiền nhân và những nhận thức sâu sắc về vai trò của văn chương nghệ thuật đã thúc đẩy ông vượt qua mọi khó khăn, ra sức hoàn thành công trình có ý nghĩa lớn lao này.
Mùa thu năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 đời Lê Thái Tổ (1433), bộ hợp tuyển Việt âm thi tập về căn bản đã hoàn thành. Phan Phu Tiên viết lời tựa với những lời tâm huyết như sau: "Trong lòng có chí hướng ắt sẽ thể hiện thành lời. Vì vậy, thơ là để nói lên cái chí của mình... Các bậc đế vương, công khanh, sĩ đại phu mấy đời gần đây, chẳng ai không quan tâm đến học thuật, vẫn thường sớm tối ngâm vịnh, diễn tả nỗi lòng sâu kín, đều có thi tập lưu hành ở đời nhưng do binh lửa nên đã thất truyền, tiếc thay!... Các bậc quân tử sau này có lòng sưu tầm rộng khắp, rồi xếp đặt thành quyển, thành tập, mới mong khỏi phải thở than vì bỏ sót mất hạt châu trong biển cả".
Sách chưa kịp khắc in thì Phan Phu Tiên được cử giữ chức An Phủ sứ ở tỉnh ngoài (Thiên Trường, Hoan Châu). Việt âm thi tập được Thị ngự sử Chu Xa vâng lệnh triều đình biên soạn tiếp. Sau hơn 10 năm sưu tầm, chỉnh lý, sắp xếp, bản thảo Tân tuyển Việt âm thi tập do Chu Xa biên tập đã hoàn thành vào năm 1459, được Hàn Lâm học sĩ Lý Tử Tấn hiệu chỉnh, rồi cho khắc in. Theo bài tựa của Lý Tử Tấn thì Tân tuyển Việt âm thi tập thu thập được hơn 700 bài thơ (sắp xếp thành 7 quyển). Bản in lần đầu đã thất tán từ lâu. Hiện nay chỉ còn được thấy ba quyển đầu của lần tái bản năm 1729.
Sau một thời gian làm quan ở tỉnh ngoài, năm 1448, Phan Phu Tiên lại được triệu về kinh, sung chức Quốc Tử Giám bác sĩ tri Quốc sử viện, vừa giảng dạy ở Quốc Tử Giám lại vừa trông coi công viện của Viện quốc sử. Năm ất Hợi, niên hiệu Diên Minh thứ hai đời Lê Nhân Tông (1455), vâng lệnh nhà vua, ông bắt tay vào biên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên (nối tiếp theo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu), chép việc từ đời Trần Thái Tông cho đến khi quân Minh rút về nước (từ năm 1226 cho tới năm 1427), gồm 10 quyển. Đại Việt sử ký tục biên nay đã thất truyền, nhưng Ngô Sĩ Liên đã dựa vào bộ sử này để biên soạn những phần có liên quan trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Ngoài Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký tục biên, tương truyền ông còn viết Quốc triều luật lệnh, Bản thảo thực vật toản yếu, cũng đều thất truyền. Toàn Việt thi lục do Lê Quý Đôn biên soạn có chép ba bài thơ của ông: Vi nhân cầu giáo (Làm người cần phải học tập), Hạ gián nghị đại phu Nguyễn Ức Trai và Đương đạo Lương Phán quan nhậm mãn (Tặng ông phán quan họ Lương hết hạn nhậm chức), lời thơ bình dị nhưng chứa đựng nhiều ý tưởng khá sâu sắc, nêu cao truyền thống hiếu học, trọng nghĩa tình, chăm lo việc dân, việc nước của nho sĩ Việt Nam.
Hiện nay ở làng Đông Ngạc (huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) có nhà thờ Phan Phu Tiên với bức hoành phi mang ba chữ Khai Tất Tiêu, nhắc nhở tới vinh dự của người đỗ đại khoa đầu tiên ở làng này.
Ngô Sỹ Liên
Với ngòi bút tài hoa, lòng yêu nước và ý thức vươn tới sự hoàn thiện, Ngô Sĩ Liên đã góp phần công sức chủ yếu trong việc soạn thảo Đại Việt sử ký toàn thư - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Bộ sử đồ sộ này được khắc in vào cuối thế kỷ 17 và còn lại nguyên vẹn tới ngày nay, là cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên vào kho tàng văn hóa dân tộc.
Ngô Sĩ Liên người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Là sử thần đời Lê, ông đã góp phần công sức chủ yếu trong việc soạn thảo Đại Việt sử ký toàn thư - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam được khắc in vào cuối thế kỷ 17 và còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay.
Theo các tài liệu mới được công bố gần đây, Ngô Sĩ Liên tham gia khởi nghĩa Lam Sơn khá sớm, cùng với Nguyễn Nhữ Soạn (em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi) giữ chức vụ thư ký trong nghĩa quân, nhiều lần được Lê Lợi cử đi giao thiệp với quân Minh trong những thời kỳ đôi bên tạm hòa hoãn để củng cố lực lượng.
Rất đáng tiếc, về năm sinh và năm mất của ông, hiện nay vẫn chưa được biết thật đích xác, nhưng theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì ông thọ tới 98 tuổi, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời Lê Thái Tông (1434 - 1442). Đây là khoa thi đầu tiên được triều đình tổ chức lễ xướng danh, yết bảng; các vị tiến sĩ tân khoa được vua ban mũ áo, vào cung dự yến, được ban ngựa quý để đi dạo chơi thăm phố xá kinh kỳ, được "ân tứ vinh quy" với lễ đón rước rất trọng thể. Và sau này, theo lệnh vua Lê Thánh Tông, họ tên lại được khắc vào bia đá, đặt ở Văn Miếu, để "làm gương sáng cho muôn đời".
Sau khi thi đỗ, Ngô Sĩ Liên đã từng giữ các chức Đô ngự sử dưới triều Lê Nhân Tông, Lễ bộ Hữu thị lang, Triều liệt đại phu kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp, kiêm Sử quan tu soạn dưới triều Lê Thánh Tông. Đóng góp to lớn mà Ngô Sĩ Liên còn để lại cho đời sau chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư mà ông đã biên soạn theo lệnh nhà vua và đã hoàn thành vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 đời Lê Thánh Tông, gồm 15 quyển, chia thành hai phần:
Phần một (ngoại kỷ), gồm 5 quyển, chép từ thời Hồng Bàng đến hết thời Bắc thuộc (năm 938). Phần hai (bản kỷ) gồm 10 quyển, chép từ thời Ngô Quyền dựng nước (năm 938) đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428).
Bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư cũng do Ngô Sĩ Liên viết, có đoạn nêu rõ: "Trộm nghĩ: may gặp buổi thịnh trị, tự thẹn không chút báo đền, nên không tự nghĩ sức học kém cỏi, lấy hai bộ sách của các bậc tiên hiền làm trước đây, sửa sang lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, gồm một số quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư. Trong bộ sách này, về sự việc, có việc nào trước kia quên sót thì bổ sung vào; về thể lệ có lệ nào chưa thật đúng thì chỉnh lý lại; về văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi thay đi; thảng hoặc có việc nào hay việc nào dở có thể làm gương khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê kệch ở dưới... Tuy những lời khen chê ấy chưa có thể làm công luận cho muôn đời về sau nhưng may ra cũng có thể giúp ích phần nào cho việc tra cứu tìm hiểu...". Qua những đoạn trích trên đây cũng có thể thấy được đôi nét tổng quát về quan niệm, bút pháp sử học... của Ngô Sĩ Liên.
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư hiện đang lưu hành, tuy do Ngô Sĩ Liên khởi thảo (hoàn thành vào năm 1479), nhưng đã được các sử thần các đời khác như: Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ, Lê Hy... hiệu chỉnh bổ sung thêm. Phần đóng góp chủ yếu của tiến sĩ họ Ngô vào bộ quốc sử lớn này là: đặt tên cho bộ sách là Đại Việt sử ký toàn thư, được triều đình và các đời sau chính thức công nhận. Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã dựa vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên. Ông viết thêm một quyển thuộc Ngoại kỷ, trình bày lại tiến trình lịch sử của Việt Nam từ họ Hồng Bàng cho tới khi quân xâm lược Minh bị đánh đuổi về nước; viết Tam triều bản kỷ, sau này được đưa vào phần Bản kỷ toàn thư và Bản kỷ thực lục; viết bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư, phần Phàm lệ Đại Việt sử ký toàn thư; viết những lời bình luận (hiện còn thấy 166 đoạn) có ghi rõ "sử thần Ngô Sĩ Liên viết"... Khác với phần lớn các lời bình của Lê Văn Hưu hoặc Phan Phu Tiên, những đoạn bình luận lịch sử của Ngô Sĩ Liên thường dài hơn, do đó cũng thường cặn kẽ hơn, sinh động hơn; nhiều đoạn có thể coi như lời tổng kết cả một giai đoạn lịch sử. Những dòng ca tụng các bậc trung thần nghĩa sĩ vì nước quên thân; những lời chỉ trích các hành động tham bạo của kẻ gian tà, những lời tố cáo vạch trần những âm mưu quỷ kế của kẻ thù được viết với ngọn bút tài hoa của Ngô Sĩ Liên vốn là người học sâu biết rộng, có ý thức vươn tới sự hoàn thiện như Sử Mã (Sử ký của Tư Mã Thiên), Lâm kinh (Kinh Xuân Thu do Khổng Tử san định), thực sự đã làm cho biết bao thế hệ người đọc đời sau cảm phục sâu sắc.
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư là một cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên vào kho tàng văn hóa dân tộc.
Ngô Sĩ Liên người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Là sử thần đời Lê, ông đã góp phần công sức chủ yếu trong việc soạn thảo Đại Việt sử ký toàn thư - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam được khắc in vào cuối thế kỷ 17 và còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay.
Theo các tài liệu mới được công bố gần đây, Ngô Sĩ Liên tham gia khởi nghĩa Lam Sơn khá sớm, cùng với Nguyễn Nhữ Soạn (em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi) giữ chức vụ thư ký trong nghĩa quân, nhiều lần được Lê Lợi cử đi giao thiệp với quân Minh trong những thời kỳ đôi bên tạm hòa hoãn để củng cố lực lượng.
Rất đáng tiếc, về năm sinh và năm mất của ông, hiện nay vẫn chưa được biết thật đích xác, nhưng theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì ông thọ tới 98 tuổi, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời Lê Thái Tông (1434 - 1442). Đây là khoa thi đầu tiên được triều đình tổ chức lễ xướng danh, yết bảng; các vị tiến sĩ tân khoa được vua ban mũ áo, vào cung dự yến, được ban ngựa quý để đi dạo chơi thăm phố xá kinh kỳ, được "ân tứ vinh quy" với lễ đón rước rất trọng thể. Và sau này, theo lệnh vua Lê Thánh Tông, họ tên lại được khắc vào bia đá, đặt ở Văn Miếu, để "làm gương sáng cho muôn đời".
Sau khi thi đỗ, Ngô Sĩ Liên đã từng giữ các chức Đô ngự sử dưới triều Lê Nhân Tông, Lễ bộ Hữu thị lang, Triều liệt đại phu kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp, kiêm Sử quan tu soạn dưới triều Lê Thánh Tông. Đóng góp to lớn mà Ngô Sĩ Liên còn để lại cho đời sau chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư mà ông đã biên soạn theo lệnh nhà vua và đã hoàn thành vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 đời Lê Thánh Tông, gồm 15 quyển, chia thành hai phần:
Phần một (ngoại kỷ), gồm 5 quyển, chép từ thời Hồng Bàng đến hết thời Bắc thuộc (năm 938). Phần hai (bản kỷ) gồm 10 quyển, chép từ thời Ngô Quyền dựng nước (năm 938) đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428).
Bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư cũng do Ngô Sĩ Liên viết, có đoạn nêu rõ: "Trộm nghĩ: may gặp buổi thịnh trị, tự thẹn không chút báo đền, nên không tự nghĩ sức học kém cỏi, lấy hai bộ sách của các bậc tiên hiền làm trước đây, sửa sang lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, gồm một số quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư. Trong bộ sách này, về sự việc, có việc nào trước kia quên sót thì bổ sung vào; về thể lệ có lệ nào chưa thật đúng thì chỉnh lý lại; về văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi thay đi; thảng hoặc có việc nào hay việc nào dở có thể làm gương khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê kệch ở dưới... Tuy những lời khen chê ấy chưa có thể làm công luận cho muôn đời về sau nhưng may ra cũng có thể giúp ích phần nào cho việc tra cứu tìm hiểu...". Qua những đoạn trích trên đây cũng có thể thấy được đôi nét tổng quát về quan niệm, bút pháp sử học... của Ngô Sĩ Liên.
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư hiện đang lưu hành, tuy do Ngô Sĩ Liên khởi thảo (hoàn thành vào năm 1479), nhưng đã được các sử thần các đời khác như: Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ, Lê Hy... hiệu chỉnh bổ sung thêm. Phần đóng góp chủ yếu của tiến sĩ họ Ngô vào bộ quốc sử lớn này là: đặt tên cho bộ sách là Đại Việt sử ký toàn thư, được triều đình và các đời sau chính thức công nhận. Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã dựa vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên. Ông viết thêm một quyển thuộc Ngoại kỷ, trình bày lại tiến trình lịch sử của Việt Nam từ họ Hồng Bàng cho tới khi quân xâm lược Minh bị đánh đuổi về nước; viết Tam triều bản kỷ, sau này được đưa vào phần Bản kỷ toàn thư và Bản kỷ thực lục; viết bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư, phần Phàm lệ Đại Việt sử ký toàn thư; viết những lời bình luận (hiện còn thấy 166 đoạn) có ghi rõ "sử thần Ngô Sĩ Liên viết"... Khác với phần lớn các lời bình của Lê Văn Hưu hoặc Phan Phu Tiên, những đoạn bình luận lịch sử của Ngô Sĩ Liên thường dài hơn, do đó cũng thường cặn kẽ hơn, sinh động hơn; nhiều đoạn có thể coi như lời tổng kết cả một giai đoạn lịch sử. Những dòng ca tụng các bậc trung thần nghĩa sĩ vì nước quên thân; những lời chỉ trích các hành động tham bạo của kẻ gian tà, những lời tố cáo vạch trần những âm mưu quỷ kế của kẻ thù được viết với ngọn bút tài hoa của Ngô Sĩ Liên vốn là người học sâu biết rộng, có ý thức vươn tới sự hoàn thiện như Sử Mã (Sử ký của Tư Mã Thiên), Lâm kinh (Kinh Xuân Thu do Khổng Tử san định), thực sự đã làm cho biết bao thế hệ người đọc đời sau cảm phục sâu sắc.
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư là một cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên vào kho tàng văn hóa dân tộc.
7.Thời
Mạc (1527-1592) - hay
65 năm phục hưng văn hóa dân gian Đại Việt
"...
Đăng Dung đã xúc phạm tới điều thiêng liêng nhất đối
với người Việt là độc lập dân tộc, thanh danh tổ quốc.
Từ đó nhà Mạc bị cô lập, suy yếu dần, và cuối cùng
đã tan rã (1592)..."
Vương triều Mạc từ Thăng Long tới Cao Bằng : 65 năm vinh nhục
Thế kỷ 15 là thời thịnh trị của triều đại Lê Sơ, nhưng sau khi Lê Thánh Tông mất (1497), sự thịnh vượng của triều đại không còn nữa, bóng vang của một thời "văn trị võ công" phai nhạt dần. Với những vua hung ác, xa hoa, đồi trụy như Uy Mục, Tương Dực hay yếu hèn như Chiêu Tông, với một triều đình chia năm xẻ bảy tranh giành hỗn loạn, Mạc Đăng Dung, một tướng võ tài giỏi cháu bảy đời của danh nhân Mạc Đĩnh Chi thời Trần, đã để mười năm để loại trừ dần các phe phái đối lập, chấm dứt triều Lê Sơ không mấy khó khăn và lên ngôi vua (1527), chính thức lập ra triều Mạc trên đất nước Đại Việt. Thật ra nhà Mạc - được gọi là Bắc triều - chỉ cai quản phần lãnh thổ của Đàng Ngoài từ vùng Sơn Nam trở ra, còn các quan tướng cũ của nhà Lê Sơ (Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm...) đứng đầu Nam triều, cai quản vùng đất từ phía nam Sơn Nam tới Thuận Hóa, với trung tâm là miền Thanh Hóa, và liên tục đánh nhau với Bắc triều tới năm 1592 thì con cháu nhà Mạc phải rút lui lên ẩn náu tại vùng rừng núi Cao Bằng cho tới năm 1677 mới bị họ Trịnh đánh bại hoàn toàn.
Trong 65 năm trị vì trên một phần lớn lãnh thổ Đàng Ngoài, 5 vua Mạc từ Đăng Dung (1527-1529) tới Hậu Hợp (1562-1592) đã làm được một số việc tích cực như :
- Xây dựng được một lực lượng quân đội mạnh, thường xuyên có trên 10 vạn người ;
- Chú trọng tổ chức khoa cử : mở 22 khoa thi Hội, lấy đậu 484 tiến sĩ (11 trạng nguyên), nhiều người trong số đó đã có những đóng góp cho văn học và văn hóa thời Mạc;
- Làm cho kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp khá phát triển, kể cả ngoại thương ;
- Không đề cao Tống nho như thời Lê Sơ, trái lại cố gắng phục hồi Phật giáo, cùng lúc khuyến khích sự thăng tiến của văn hóa dân gian, cụ thể là khuyến khích nghệ thuật gốm sứ xuất khẩu ;
- Giúp dân trùng tu hay xây dựng nhiều đình miếu, chùa quán, làm giàu cho văn hóa dân gian Đại Việt.
Tuy nhiên bên cạnh một số công lao và với ít nhiều vinh quang như thế, nhà Mạc đã để lại một gương xấu trong lịch sử dân tộc : năm 1537 vua nhà Minh điều quân xuống miền Lưỡng Quảng rồi viết hịch kể tội cha con Mạc Đăng Dung và ra lệnh "nếu biết tự trói mình nhận tội thì sẽ được tha tội chết". Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Mạc Đăng Dung đã lên biên giới tự trói mình làm lễ đầu hàng và cắt đất 5 động dâng nộp cho nhà Minh. Sau cử chỉ nhục nhã này vua Minh phong cho Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ và thôi không tiến quân xâm lược Đại Việt nữa.
Chính sách đối ngoại bạc nhược và hèn hạ của nhà Mạc đã gây bất bình, phẫn nộ trong nhân dân, kể cả quan lại sĩ phu : Đăng Dung đã xúc phạm tới điều thiêng liêng nhất đối với người Việt là độc lập dân tộc, thanh danh tổ quốc. Từ đó nhà Mạc bị cô lập, suy yếu dần, và cuối cùng đã tan rã sau khi bị quan quân Lê Trung hưng đánh đuổi chạy lên cố thủ tại vùng rừng núi Cao Bằng hiểm trở.
Văn hóa dân gian là nền tảng của văn hóa dân tộc. Trước thời Mạc là năm thế kỷ văn hóa dân gian Việt Nam phong phú. Người Việt đã có một nền thần thoại lâu đời với những hình tượng đẹp đẽ : Ông Trời, Bà Trời, mười hai Bà Mụ, Nàng Bân, Chú Cuội v.v...
Cùng với thần thoại, nền truyền thuyết của người Việt cũng rất lâu đời và làm nên niềm kiêu hãnh của chúng ta xưa nay với những truyện về họ Hồng Bàng, Âu Cơ - Lạc Long, các Vua Hùng, Ông Gióng, Rùa Vàng giúp vua Thục xây thành Cổ Loa. Rồi những truyện hấp dẫn về các vị anh hùng dân tộc từ Bà Trưng, Bà Triệu tới Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lợi.
Ra đời muộn hơn thần thoại và truyền thuyết, những cổ tích quen thuộc nhất của người Việt như Tấm Cám, Trương Chi - Mỵ Nương, Thạch Sanh, Cây Khế, Sọ Dừa... chắc chắn đã có trong folklor Việt từ thời Lý-Trần.
Các làn điệu dân ca cổ kính nhất như hát xoan, hát ghẹo, trống quân (còn gọi là hát trống giăng), hát quan họ, hát cửa đình (cội nguồn của hát ả đào) hay hát ví, hát đúm, hát dậm, có lẽ đã xuất hiện từ thời Lý-Trần, bên cạnh những hình thức cổ kính của chèo bội. Múa rối nước cua nguoi Viet được nhắc tới trong văn bia chùa Đọi (khắc năm 1121, thời Lý Nhân Tông). Thể thơ lục bát có lẽ cũng đã xuất hiện từ thời Trần cùng với sự hình thành chữ Nôm từ thế kỷ 13 để sau này trở thành thể thơ ưu việt của ca dao dân ca Việt.
Vào thời Lê Sơ, vua quan và nhà nho vì sính Nho giáo và Tống nho nên đã coi rẻ nền văn hóa dân gian Việt. Quan lại mà thương yêu và cưới xin con gái các gia đình làm nghề xướng ca thì bị trừng phạt. Chèo bội và dân ca không được biểu diễn ở chốn cung đình. Con trai các gia đình hát xướng không được đi thi.
Ở thời Mạc trái lại, triều đình không đề cao Nho giáo mà lại có khuynh hướng tôn trọng và phục hồi Phật giáo đã bị thất sủng từ cuối Trần tới cuối Lê Sơ.
Có nhiều bằng chứng cụ thể về sự bước đầu phục hưng văn hóa dân gian ở thời Mạc.
Khi khuyến khích sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp , nhà Mạc đã tạo điều kiện cho sự thịnh vượng của nghệ thuật gốm sứ nhất là ở các cơ sở gốm sứ cổ truyền nổi tiếng như Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà, Hương Canh ở trung du và đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trong các thế kỷ từ 15 tới 18, gốm sứ Việt Nam đã chu du từ châu Á (nhiều nhất là ở Nhật Bản) tới tận châu Âu và Trung Cận Đông, kể cả Thổ Nhĩ Kỳ.
Trái với thói quen khiêm tốn của các nghệ nhân dân gian truyền thống vài nghệ nhân gốm sứ Việt đã cao hứng ký tên nới tác phẩm của mình như Đặng Huyền Thông (và 4 người khác sẽ nói rõ thêm dưới đây).
Trong lãnh vực kiến trúc, điêu khắc, đồ họa và âm nhạc dân gian, có một số sự việc đáng chú ý.
Hiện nay vẫn chưa khẳng định được thật chính xác thời gian ra đời của tranh dân gian truyền thống. Nhưng Hoàng Sĩ Khải sinh vào khoảng những năm 1510-1520 và mất khoảng cuối thế kỷ 16, một thượng thư kiêm tế tửu Quốc tử giám triều Mạc, đã viết Tứ thời khúc vịnh, một bài thơ Nôm dài 336 câu, diễn tả cảnh đổi thay bốn mùa, trong đó có câu : "Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm". Qua đó ta thấy dân gian đương thời đã treo tranh gà để trừ tà ma.
Sau Hoàng Sĩ Khải, Lê Đức Mao (1462-1529) sống vào cuối thời Lê Sơ đầu thời Mạc, đã viết bài thơ Nôm dài 128 câu theo thể song thất lục bát nhan đề : Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào, được xem là lời của bài ca trù cổ nhất hiện còn. Tác phẩm này cho thấy điệu hát cửa đình - tiền thân của ca trù - được các ả đào hát trong lễ hội mùa xuân tế thần cầu phúc ở làng quê đã có mặt trong âm nhạc dân gian vào khoảng từ thời Lê Sơ sang thời Mạc.
Nhiều đền chùa đình quán đã được xây dựng hay trùng tu trong thời Mạc mang đậm sắc thái dân gian. Nhờ tài liệu văn bia mà ta biết vào năm 1543, sau khi từ quan về làng ẩn dật, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xây một ngôi quán, gọi là quán Trung Tân để khách qua đường có chỗ dừng chân nghỉ ngơi. Những ngôi đình cổ nhất còn lại tới nay đều mang niên đại thời Mạc : đình Lỗ Hạnh (1576), Tây Đằng (1583), Phù Lưu (cuối thế kỷ 16)...
Tại Đình Lỗ Hạnh (tỉnh Bắc Giang) còn thấy được nhiều tác phẩm điêu khắc dân gian trên gỗ về các đề tài mây, hoa cúc, rồng, phượng, nai, cọp, cô tiên đánh đàn... Thêm vào đó là hai bức tranh cổ vẽ 4 nữ nhạc sĩ đang chơi những nhạc khí quen thuộc như đàn nhị, tỳ bà...
Tại Đình Tây Đằng (tỉnh Hà Tây) có các hình chạm khắc rất phong phú : hoa lá, voi hươu, tiên nữ bên cạnh những hình người đẽo cày, đá cầu, gánh con, chèo thuyền với phong cách nghệ thuật Mạc, khỏe thoáng, mộc mạc, hồn nhiên.
Tại đình Phù Lưu (tỉnh Bắc Ninh) lại thấy được những tác phẩm điêu khắc dân gian như tiên nữ ngồi trên đầu sư tử hay ngồi trên mình rồng chầu mặt trăng, những nhóm người đánh đàn, đấu vật, bơi trải...
Ai cũng biết gốm sứ là một nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng của đất nước ta xưa nay, từ những lò gốm như Bát Tràng, Chu Đậu... ngoài Bắc tới Lái Thiêu, Chợ Lớn trong Nam. Điều đáng nói là gốm sứ thời Mạc đáng được xem như một đỉnh cao của nghệ thuật và kỹ thuật gốm sứ Việt, với những kiệt tác gốm hoa lam mà uy tín quốc gia và quốc tế không thua kém những gốm men ngọc, gốm hoa nâu thời Lý Trần. Đặc biệt gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu các thời Lê Sơ, Mạc rồi Trịnh hiện được lưu giữ và trưng bày ở 30 bảo tàng lớn của các nước Á, Âu, Mỹ, Úc.
Trong 65 năm trị vì trên một phần lớn lãnh thổ Đàng Ngoài, 5 vua Mạc từ Đăng Dung (1527-1529) tới Hậu Hợp (1562-1592) đã làm được một số việc tích cực như :
- Xây dựng được một lực lượng quân đội mạnh, thường xuyên có trên 10 vạn người ;
- Chú trọng tổ chức khoa cử : mở 22 khoa thi Hội, lấy đậu 484 tiến sĩ (11 trạng nguyên), nhiều người trong số đó đã có những đóng góp cho văn học và văn hóa thời Mạc;
- Làm cho kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp khá phát triển, kể cả ngoại thương ;
- Không đề cao Tống nho như thời Lê Sơ, trái lại cố gắng phục hồi Phật giáo, cùng lúc khuyến khích sự thăng tiến của văn hóa dân gian, cụ thể là khuyến khích nghệ thuật gốm sứ xuất khẩu ;
- Giúp dân trùng tu hay xây dựng nhiều đình miếu, chùa quán, làm giàu cho văn hóa dân gian Đại Việt.
Tuy nhiên bên cạnh một số công lao và với ít nhiều vinh quang như thế, nhà Mạc đã để lại một gương xấu trong lịch sử dân tộc : năm 1537 vua nhà Minh điều quân xuống miền Lưỡng Quảng rồi viết hịch kể tội cha con Mạc Đăng Dung và ra lệnh "nếu biết tự trói mình nhận tội thì sẽ được tha tội chết". Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Mạc Đăng Dung đã lên biên giới tự trói mình làm lễ đầu hàng và cắt đất 5 động dâng nộp cho nhà Minh. Sau cử chỉ nhục nhã này vua Minh phong cho Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ và thôi không tiến quân xâm lược Đại Việt nữa.
Chính sách đối ngoại bạc nhược và hèn hạ của nhà Mạc đã gây bất bình, phẫn nộ trong nhân dân, kể cả quan lại sĩ phu : Đăng Dung đã xúc phạm tới điều thiêng liêng nhất đối với người Việt là độc lập dân tộc, thanh danh tổ quốc. Từ đó nhà Mạc bị cô lập, suy yếu dần, và cuối cùng đã tan rã sau khi bị quan quân Lê Trung hưng đánh đuổi chạy lên cố thủ tại vùng rừng núi Cao Bằng hiểm trở.
Thời Mạc là một thời kỳ phục hưng văn hóa dân gian Đại Việt
Văn hóa dân gian là nền tảng của văn hóa dân tộc. Trước thời Mạc là năm thế kỷ văn hóa dân gian Việt Nam phong phú. Người Việt đã có một nền thần thoại lâu đời với những hình tượng đẹp đẽ : Ông Trời, Bà Trời, mười hai Bà Mụ, Nàng Bân, Chú Cuội v.v...
Cùng với thần thoại, nền truyền thuyết của người Việt cũng rất lâu đời và làm nên niềm kiêu hãnh của chúng ta xưa nay với những truyện về họ Hồng Bàng, Âu Cơ - Lạc Long, các Vua Hùng, Ông Gióng, Rùa Vàng giúp vua Thục xây thành Cổ Loa. Rồi những truyện hấp dẫn về các vị anh hùng dân tộc từ Bà Trưng, Bà Triệu tới Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lợi.
Ra đời muộn hơn thần thoại và truyền thuyết, những cổ tích quen thuộc nhất của người Việt như Tấm Cám, Trương Chi - Mỵ Nương, Thạch Sanh, Cây Khế, Sọ Dừa... chắc chắn đã có trong folklor Việt từ thời Lý-Trần.
Các làn điệu dân ca cổ kính nhất như hát xoan, hát ghẹo, trống quân (còn gọi là hát trống giăng), hát quan họ, hát cửa đình (cội nguồn của hát ả đào) hay hát ví, hát đúm, hát dậm, có lẽ đã xuất hiện từ thời Lý-Trần, bên cạnh những hình thức cổ kính của chèo bội. Múa rối nước cua nguoi Viet được nhắc tới trong văn bia chùa Đọi (khắc năm 1121, thời Lý Nhân Tông). Thể thơ lục bát có lẽ cũng đã xuất hiện từ thời Trần cùng với sự hình thành chữ Nôm từ thế kỷ 13 để sau này trở thành thể thơ ưu việt của ca dao dân ca Việt.
Vào thời Lê Sơ, vua quan và nhà nho vì sính Nho giáo và Tống nho nên đã coi rẻ nền văn hóa dân gian Việt. Quan lại mà thương yêu và cưới xin con gái các gia đình làm nghề xướng ca thì bị trừng phạt. Chèo bội và dân ca không được biểu diễn ở chốn cung đình. Con trai các gia đình hát xướng không được đi thi.
Ở thời Mạc trái lại, triều đình không đề cao Nho giáo mà lại có khuynh hướng tôn trọng và phục hồi Phật giáo đã bị thất sủng từ cuối Trần tới cuối Lê Sơ.
Có nhiều bằng chứng cụ thể về sự bước đầu phục hưng văn hóa dân gian ở thời Mạc.
Khi khuyến khích sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp , nhà Mạc đã tạo điều kiện cho sự thịnh vượng của nghệ thuật gốm sứ nhất là ở các cơ sở gốm sứ cổ truyền nổi tiếng như Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà, Hương Canh ở trung du và đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trong các thế kỷ từ 15 tới 18, gốm sứ Việt Nam đã chu du từ châu Á (nhiều nhất là ở Nhật Bản) tới tận châu Âu và Trung Cận Đông, kể cả Thổ Nhĩ Kỳ.
Trái với thói quen khiêm tốn của các nghệ nhân dân gian truyền thống vài nghệ nhân gốm sứ Việt đã cao hứng ký tên nới tác phẩm của mình như Đặng Huyền Thông (và 4 người khác sẽ nói rõ thêm dưới đây).
Trong lãnh vực kiến trúc, điêu khắc, đồ họa và âm nhạc dân gian, có một số sự việc đáng chú ý.
Hiện nay vẫn chưa khẳng định được thật chính xác thời gian ra đời của tranh dân gian truyền thống. Nhưng Hoàng Sĩ Khải sinh vào khoảng những năm 1510-1520 và mất khoảng cuối thế kỷ 16, một thượng thư kiêm tế tửu Quốc tử giám triều Mạc, đã viết Tứ thời khúc vịnh, một bài thơ Nôm dài 336 câu, diễn tả cảnh đổi thay bốn mùa, trong đó có câu : "Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm". Qua đó ta thấy dân gian đương thời đã treo tranh gà để trừ tà ma.
Sau Hoàng Sĩ Khải, Lê Đức Mao (1462-1529) sống vào cuối thời Lê Sơ đầu thời Mạc, đã viết bài thơ Nôm dài 128 câu theo thể song thất lục bát nhan đề : Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào, được xem là lời của bài ca trù cổ nhất hiện còn. Tác phẩm này cho thấy điệu hát cửa đình - tiền thân của ca trù - được các ả đào hát trong lễ hội mùa xuân tế thần cầu phúc ở làng quê đã có mặt trong âm nhạc dân gian vào khoảng từ thời Lê Sơ sang thời Mạc.
Nhiều đền chùa đình quán đã được xây dựng hay trùng tu trong thời Mạc mang đậm sắc thái dân gian. Nhờ tài liệu văn bia mà ta biết vào năm 1543, sau khi từ quan về làng ẩn dật, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xây một ngôi quán, gọi là quán Trung Tân để khách qua đường có chỗ dừng chân nghỉ ngơi. Những ngôi đình cổ nhất còn lại tới nay đều mang niên đại thời Mạc : đình Lỗ Hạnh (1576), Tây Đằng (1583), Phù Lưu (cuối thế kỷ 16)...
Tại Đình Lỗ Hạnh (tỉnh Bắc Giang) còn thấy được nhiều tác phẩm điêu khắc dân gian trên gỗ về các đề tài mây, hoa cúc, rồng, phượng, nai, cọp, cô tiên đánh đàn... Thêm vào đó là hai bức tranh cổ vẽ 4 nữ nhạc sĩ đang chơi những nhạc khí quen thuộc như đàn nhị, tỳ bà...
Tại Đình Tây Đằng (tỉnh Hà Tây) có các hình chạm khắc rất phong phú : hoa lá, voi hươu, tiên nữ bên cạnh những hình người đẽo cày, đá cầu, gánh con, chèo thuyền với phong cách nghệ thuật Mạc, khỏe thoáng, mộc mạc, hồn nhiên.
Tại đình Phù Lưu (tỉnh Bắc Ninh) lại thấy được những tác phẩm điêu khắc dân gian như tiên nữ ngồi trên đầu sư tử hay ngồi trên mình rồng chầu mặt trăng, những nhóm người đánh đàn, đấu vật, bơi trải...
Ai cũng biết gốm sứ là một nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng của đất nước ta xưa nay, từ những lò gốm như Bát Tràng, Chu Đậu... ngoài Bắc tới Lái Thiêu, Chợ Lớn trong Nam. Điều đáng nói là gốm sứ thời Mạc đáng được xem như một đỉnh cao của nghệ thuật và kỹ thuật gốm sứ Việt, với những kiệt tác gốm hoa lam mà uy tín quốc gia và quốc tế không thua kém những gốm men ngọc, gốm hoa nâu thời Lý Trần. Đặc biệt gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu các thời Lê Sơ, Mạc rồi Trịnh hiện được lưu giữ và trưng bày ở 30 bảo tàng lớn của các nước Á, Âu, Mỹ, Úc.
Đình Tây Đằng (1583)
Khoa cử và văn học thời Mạc
Tuy phải ở trong một tình trạng chiến tranh do phải chống lại các cuộc tấn công của quan quân Lê Trung hưng, triều Mạc vẫn chú trọng tổ chức khoa cử đều đặn nên trong 65 năm cầm quyền tại Thăng Long đã mở cả thảy 22 khoa thi hội (ba năm một khoa) lấy đậu 484 tiến sĩ (trong đó có 11 trạng nguyên) mà nổi tiếng nhất là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Một điều kỳ lạ nữa là Văn học của một thời loân lạc như thời Mạc cũng thật là phong phú: Ở tập 5 của Bộ Tổng tập Văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập) xuất bản năm 2000 đã thống khê được cả thảy 19 tác giả. Đó là chưa kể một vài nhà văn nhà thơ khác được bộ sách xếp vào phần "Tác giả cuối triều Lê Sơ đầu triều Mạc". Tổng cộng hơn một trăm tác phẩm thơ văn lớn nhỏ.
Tất cả các hoạt động văn học phong phú này không khỏi làm chúng ta nhớ tới thời Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn. Mặc dù các sử quan từ thế kỷ 17 tới cuối tk 19 đã luôn luôn đánh giá thấp triều Mạc theo những tiêu chuẩn đạo đức chính trị kiểu Nho giáo, ta vẫn không thể không đặt câu hỏi: Tại sao một bậc phu tử , nhà văn hóa lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã là đại thần của triều Mạc trong 8 năm, rồi sau khi dâng sớ xin chém 18 lộng thần mà không được vua nghe ông đã xin về ở ẩn , nhưng rồi muốn tác động tới thời cuộc ông đã trở lại tham gia triều chính trên cương vị một cố vấn, và mãi cho tới 70 tuổi ông mới thực sự treo mũ từ quan ? Rồi tại sao khi nhà Mạc sắp bị đánh đuổi ra khỏi Thăng Long ông lại bày mưu tính kế giúp Mạc rút lui lên cố thủ ở "nước non Cao Bằng" để vớt vát cái hư danh vương nghiệp trong một xó xủnh rừng núi thêm 85 năm nữa mới bị chúa Trịnh đánh bại hoàn toàn (1677) ?
Ba danh nhân thời Mạc : Nguyễn Bỉnh Khiêm, Dương Văn An, Đặng Huyền Thông
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1575), quê ở Hải Dương (nay là Hải Phòng), từ nhỏ tỏ ra thông minh hiếu học, được mẹ đem kinh truyện, thơ Nôm, ca dao, tục ngữ ra dạy cho. Lớn lên được thầy là bảng nhãn Lương Đức Bằng truyền thụ lý học, kinh Dịch và kinh Thái Ất. Sau khi Mạc thay Lê Sơ, tình hình xã hội tương đối ổn định, ông mới đi thi vào tuổi 45, đậu trạng nguyên rồi làm quan cho nhà Mạc. Ở triều chỉ có 8 năm, ông đã chán ngán cáo bệnh về quê ở ẩn.
Nhưng rồi tiếng là ẩn dật, ông vẫn ở vị thế "làm quan tại nhà", vẫn được triều Mạc trọng vọng như một đại thần cố cựu thường tới hỏi kế sách, hoặc mời lên kinh đô bàn chính sự. Tương truyền Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng đã xin ý kiến ông trước khi lấy những quyết định hệ trọng. Chính ông đã bày mưu kế cho Nguyễn Hoàng bằng một lời khuyên chiến lược có tính cách khuyến dụ mở cõi : "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân", có thể xem là câu nói mở đầu cho sự nghiệp Nam tiến vĩ đại hơn 200 năm của các chúa Nguyễn ở phương Nam.
Còn nhân dân thì tôn Nguyễn Bỉnh Khiêm là bậc tiên tri, tiên giác, trân trọng gọi ông là trạng Trình và lưu truyền chung quanh ông nhiều sấm trạng, giai thoại và truyền thuyết ít nhiều mang tính siêu nhiên. Trong những năm ở ẩn tại quê nhà, ông đã cho xây một số chùa miếu, dựng am Bạch Vân, quán Trung Tân làm chỗ đàm đạo với người già, bàn bạc đạo đức và thế sự với quan khách gần xa.
Vẻ vang hơn nữa ông đã mở trường dạy học bên bờ sông Tuyết, thu hút đông đảo học trò, trong đó nhiều người sẽ trở nên nổi tiếng như Nguyễn Dữ, tác giả Truyền kỳ mạn lục được người đời đánh giá là "thiên cổ kỳ bút", hay Phùng Khắc Khoan, tức trạng Bùng, người có công đưa về Đại Việt một số bí quyết của nghề dệt lụa của Trung Quốc và nhiều giống cây lương thực quý của vùng Hoa Nam để thúc đẩy quốc kế dân sinh, v.v.
Là tác giả hai bài văn xuôi, hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm và nhiều tập sấm ký được phổ biến qua nhiều thế hệ như những truyền ngôn của một bậc tiên tri, Nguyễn Bỉnh Khiêm trước hết là một nhà thơ triết học và đạo đức lớn, vì đã kết hợp kinh Dịch và lý học với thực tiễn thời đại để giải thích những biến động chính trị, xã hội và để cảnh cáo vua quan về lẽ biến dịch của tạo vật và thời cuộc để cho họ biết thế nào là thiện, ác, hưng, vong.
Dương Văn An sinh năm 1513 (chưa rõ năm mất), vốn người làng Tuy Lộc, huyện Lệ Thủy trên đất châu Ô cũ nay là tỉnh Quảng Bình, đã di cư ra làng Phù Diễn, huyện Từ Liêm nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Học giỏi, hiểu nhiều, biết rộng, đậu tiến sĩ năm 1547 đời Mạc Phúc Nguyên, làm quan tới chức thượng thư.
Là một nhà khoa học nhân văn thông thái kiêm nhà văn xuất sắc, ông đã mượn chữ Hán để lại cho đời một cuốn địa phương chí tuyệt tác : Ô châu cận lục.
Về thăm quê cũ năm 1553 và tình cờ được đọc hai bản thảo của hai môn sinh cùng làng viết về hai phủ Tân Bình và Triệu Phong, ông nhiệt tình dành hai năm bổ sung tài liệu, mở rộng địa bàn quan sát ra toàn vùng Thuận Hóa.
Kết quả là ông đã cống hiến cho quê hương và cho đời một tác phẩm nói về xứ Thuận Hóa vừa có giá trị khoa học vừa rất thành công về văn học. Tác phẩm này gồm 6 quyển, mô tả cụ thể và sống động núi rừng, sông biển, sản vật, hoa trái, cầm thú, phong tục tập quán của xứ Thuận Hóa ; kèm theo danh mục đầy đủ các phủ, huyện, châu, xã là những mô tả về thành quách, chợ búa, trang trại, bến đò, danh lam thắng cảnh, cùng với tiểu sử của hơn 100 nhân vật từ thời Lê Sơ đến giữa thế kỷ 16 : công thần, quan lại, những người đỗ đạt, sư tăng chân tu, phụ nữ tiết hạnh...
Điều hấp dẫn nhất trong Ô châu cận lục là Dương Văn An khi biên soạn tập sách đầy ắp tài liệu địa lý học , sử học và dân tộc học của một vùng đất giàu đẹp ở phương Nam tổ quốc, đã có cảm hứng của dùng thể loại văn xuôi biền ngẫu giàu chất thơ trữ tình mà trang trọng để nói về quê hương mình, nơi mà :
"Thổ dân làng La Giang còn nói tiếng Chàm, con gái làng Thuy Ban vẫn mặc áo Chàm (...) Đàn ông khá kiên cường, đàn bà hơi mềm mại; trai trọng đức dũng cảm hiền lương, gái quý nết đoan trang cần kiệm (...) Xuân sang mở hội đua thuyền với nhiều trai thanh gái lịch, hè tới bày cuộc viếng thăm với nhiều chốn múa nơi ca. Lễ an táng thì chôn cất rất nhanh, không có lệ cúng sớm cúng chiều, dịp cúng quải thì bày cỗ bàn linh đình tốn kém. Làm ma chay trong nhà có múa hát trước quan tài gọi là hò đưa linh, dịp giỗ đầu cúng tế lúc gà gáy gọi là giờ cúng trộm. Lễ cưới dùng tiền mắt ngỗng để làm quà giá thú, cúng bái có cỗ xôi gà kèm cuộc hát hầu văn", v.v.
Chỉ với một kiệt tác địa phương chí như thế, Dương Văn An vẫn xứng đáng được xem là một danh nhân văn hóa thời Mạc. Một danh nhân khác cùng thời, ít được người đời biết tới, đó là Đặng Huyền Thông. Cho tới nay vẫn chưa biết năm sinh năm mất của anh tú tài kiêm thợ gốm này. Chỉ biết rằng các viện bảo tàng Việt Nam cùng 30 viện bảo tàng ở khắp thế giới đang tàng trữ và trưng bày nhiều tác phẩm gốm sứ của Đặng Huyền Thông : những bình, lọ, bát hương, lư hương, chân đèn được tạo tác vào những năm 1558-1590 thời Mạc Hậu Hợp.
Trong bộ sưu tập gốm sứ cổ trưng bày tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam (Hà Nội), có một số tác phẩm đáng lưu ý, đó là nhóm gốm men hoa lam ghi rõ người tạo tác là Đặng Huyền Thông qua dòng chữ Hán : "Nam Sách phủ, Thanh Lâm huyện, Hùng Thắng xã, Đặng Huyền Thông tạo".
Không biết nghệ nhân họ Đặng này đã làm ra bao nhiêu sản phẩm nhưng nếu căn cứ vào số hiện vật gốm được trưng bày tại Việt Nam và trên thế giới thì có thể khẳng định rằng Đặng Huyền Thông là một người thợ gốm ưu việt, có bàn tay rất mực tài hoa, có khả năng chế ngự được ngọn lửa lò nung, làm chủ được chất liệu xương gốm và men màu.
Loại men mà ông sử dụng cách đây hơn 400 năm là loại men lam xám nhạt, có độ trong và bóng gần gũi với men ngọc thời Lý-Trần. Trên các tác phẩm của mình, ông còn trổ tài thêm vào những chủ đề trang trí thật đẹp đẽ, độc đáo : hình rồng, cánh bướm, cánh sen, vòng tròn, đường vạch đứng song song... Tất cả đều là dấu ấn của một nghệ nhân thiên tài trong lịch sử nghệ thuật gốm sứ nước nhà.
8. Thời Trịnh - Lê Mạt (1592-1788) - hay Hai thế kỷ rực rỡ của văn hóa Thăng Long
"...
thời Trịnh – Lê Mạt đã chứng kiến hai thế kỷ phát triển
rực rỡ của văn hóa Thăng Long ..."
Thời chúa Trịnh vua Lê đã đạt tới đỉnh cao của văn hóa Thăng Long
Cuộc chiến tranh phù Lê diệt Mạc chấm dứt cuối năm 1592 sau khi con cháu triều Mạc chạy lên ẩn náu tại Cao Bằng. Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, cai trị toàn cõi Đàng Ngoài, đặt phủ chúa với hệ thống quan lại riêng, định chế độ cha truyền con nối, thu tóm mọi quyền hành bên cạnh triều đình vua Lê bù nhìn.
Chúa Trịnh, một mặt phát động chiến tranh chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong (đánh lớn từ 1527 tới 1572) và đánh dẹp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đàng ngoài , mặt khác ra sức ổn định tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa và ngoại giao, biến Thăng Long thành một kinh đô giàu có và văn hiến. Có thể khẳng định thời Trịnh - Lê Mạt đã chứng kiến hai thế kỷ phát triển rực rỡ của văn hóa Thăng Long.
Hai thế kỷ xán lạn của văn hóa dân gian Đại Việt
Tất cả các lãnh vực văn hóa dân gian đều có những sáng tạo đẹp đẽ, những thành công vượt bực chưa từng thấy. Trước hết đây là thời kỳ phát triển phong phú của nhiều trào lưu tranh dân gian ở nông thôn lẫn thành đô. Dựa trên gia phả các nghệ nhân làng Hồ, có thể biết được là tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) đã ra đời cách nay trên dưới 500 năm. Sau đó lại xuất hiện tranh Kim Hoàng (Hà Tây) và trễ hơn một chút là tranh Hàng Trống (Thăng Long). Đây cũng là thời kỳ vàng son của kiến trúc, điêu khắc và trang trí dân gian với sự xuất hiện của hàng chục ngôi chùa Phật và ngôi đình làng mà một số khá nhiều đã bị khí hậu và chiến tranh hủy hoại. May mắn là một số chùa đình lớn đẹp vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay.
Trước hết phải nhắc tới chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), khởi dựng từ thời Trần nhưng được trùng tu lớn (1646-1647) để trở thành một quần thể hoàn chỉnh trên một trục dài hơn 100 mét. Phía bên phải chùa có tháp Bút (Báo Nghiêm) bằng đá xanh năm tầng, cao trên 13 mét, là một tháp đẹp quí hiếm. Kiệt tác thứ hai tô điểm cho chùa là tượng gỗ Phật Bà Quan Âm ngàn mắt ngàn tay, cao tới 3,70 mét (1656). Thứ ba là một tập hợp 91 bức chạm đá trên lan can bao quanh tòa thượng điện với những đề tài đa dạng (động vật, cỏ cây, mây nước...).
Tiêu biểu cho nghệ thuật Phật giáo thế kỷ 18 ở Đàng Ngoài là kiệt tác chùa Keo (Thái Bình), khởi dựng từ thời Lý rồi được di chuyển, trùng tu và mở rộng để trở thành ngôi chùa lớn nhất đất nước tọa lạc trên khu đất rộng 57.000 m2, với bố cục nhiều tầng, nhiều lớp từ ngoài vào trong, từ thấp tới cao. Chung quanh chùa là dãy hành lang 70 gian, ở giữa là 21 tòa nhà gồm 154 gian toàn bằng gỗ lim chạm khắc tinh vi. Đẹp nhất ở chùa Keo là tòa gác chuông tuy chỉ cao ngót 12 mét nhưng lại gây được ấn tượng hoành tráng nhờ sự kết hợp hài hòa với thiên nhiên.
Ngôi đình đẹp nhất của Đàng Ngoài ở thế kỷ 17 là đình Chu Quyến (Hà Tây), dài 30 mét, với bộ khung gồm sáu hàng cột lim thật lớn và một sàn gỗ rất rộng, cao cách mặt đất 0,8 mét như kiểu nhà sàn Việt cổ thời đại Đông Sơn. Nội thất đình còn giữ được nhiều hình chạm khắc gỗ đẹp độc đáo như các cảnh chọi gà, gảy đàn, hát múa, phượng mẹ giữa đàn phượng con...
Nổi tiếng hơn cả giữa các ngôi đình Việt cổ xưa là đình Đình Bảng (Bắc Ninh), được xây trong hơn 30 năm trời mới xong (1700-1736). Đây là ngôi đình lớn nhất nước, dài 40 mét, rộng 15 mét, 7 gian, 2 chái với sáu hàng cột lim đồ sộ, đường kính từ 0,55 mét tới 0,65 mét, với nhiều bức chạm khắc gỗ đẹp sống động trên hầu khắp toàn bộ khung nhà : những hình rồng, phượng, lân, cảnh 8 ngựa cùng phi ...
Bên cạnh các thành tựu xuất sắc của mỹ thuật dân gian, văn học dân gian thế kỷ 17-18 đã không chịu nhường bước. Đây là thời kỳ xuất hiện của nhiều loại truyện cổ tích : cổ tích loài vật với "Châu chấu đá voi", "Con cóc là cậu ông trời"... ; cổ tích thế sự với "Vợ chàng Trương", "Cây tre trăm đốt"... ; cổ tích thần kỳ như "Hòn vọng phu", "Tú Uyên", "Từ Thức", ...
Truyện ngụ ngôn ra đời làm chứng cho sự trưởng thành của trí tuệ dân gian : "Trí khôn tao đây", "Thả mồi bắt bóng", "Giết chó dạy chồng"...
Trong không khí loạn lạc bất an, khi dân không còn sợ vua quan, cường hào ác bá nữa thì truyện cười, truyện Trạng nảy nở mạnh mẽ dồi dào. Những nhân vật quyền thế, danh giá nhất trong xã hội đều trở nên thảm hại, làm trò cười cho dân gian như nhà nho trong Thầy đồ nói liều, như nhà sư trong Nam mô boong, và nhất là vua chúa trong hai hệ thống truyện Trạng Quỳnh và truyện Trạng Lợn.
Thế kỷ 17-18 cũng là thời kỳ nở rộ của tục ngữ, ca dao, dân ca, vè và truyện nôm khuyết danh, đánh dấu vị trí ưu việt của thể thơ lục bát thắm đượm nghĩa tình dân gian:
... Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Bên cạnh một số ít truyện nôm có tên tác giả là những nhà nho, đã xuất hiện hàng loạt truyện nôm khuyết danh: những Quan Âm Thị Kính, Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn... ở đó người bình dân đã gởi gắm nhiều ý tình bức xúc và nỗi niềm thân phận.
Y học, văn học và khoa học nhân văn qua bốn gương mặt danh nhân tiêu biểu
Trong những lãnh vực vừa kể, các danh nhân thế kỷ 17-18 thật là đông đảo đếm được hàng chục người (xem Tổng tập văn học Việt Nam, 2000 ; Tự điển văn học Việt Nam, bộ mới, 2005). Nếu phải lựa chọn những gương mặt tiêu biểu thì cần phải nói tới hai đại danh y, một nhà thơ nữ lỗi lạc và một nhà bác học. Thời Trịnh - Lê Mạt có nhiều thầy thuốc giỏi, nhưng đáng gọi là danh y đã nổi lên hai tên tuổi.
Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu Tuệ Tĩnh (không rõ năm sinh, năm mất), quê ở Hải Dương. Trước đây có sự lầm lẫn ông là người thời Trần nhưng những nghiên cứu mới nhất cho thấy ông sống ở thế kỷ 17 và đã viết hai bộ sách Nam dược thần hiệu và Thập tam phương gia giảm, được xem là nền móng của y dược học cổ truyền dân tộc. Điều đáng khen ngợi là vị đại danh y đã chủ ý viết bằng chữ Nôm theo lối thơ phú cho nên tác phẩm của ông được phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Vừa bước vào nghề cứu nhân độ thế, ông đã nêu ra phương châm rất độc đáo và thiết thực: "dùng thuốc Nam chữa bệnh người Nam", vì vậy ông được nhân dân tôn vinh là vị thánh thuốc Nam. Nam dược thần hiệu giới thiệu 630 vị thuốc liên quan tới 10 khoa, chữa được 184 chứng bệnh cho người và cho cả gia súc nữa. Sau nhiều năm hành nghề, ông viết thêm bộ Thập tam phương gia giảm giới thiệu bổ sung 200 vị thuốc, kèm theo một chương lý luận đề cập tới các vấn đề âm dương, ngũ hành, tạng phủ, kinh lạc...
Cần nói rõ thêm vị đại danh y này cũng là một thiền sư, người đã xây dựng hoặc tu bổ tổng cộng 24 ngôi chùa, trong số đó có chùa Giám ở Hải Dương là nơi thiền sư đào tạo tăng ni thành thầy thuốc, biến trai phòng thành nơi bào chế, biến vườn chùa thành vườn trồng các cây thuốc thu thập từ bốn phương.
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông (1724-1791), cũng quê ở Hải Dương, xuất thân từ một gia đình thế gia vọng tộc, đã từ bỏ công danh phú quí, rời hẳn Thăng Long về sống ở quê mẹ (Hương Sơn, Hà Tĩnh) và cống hiến trọn đời cho nghề thầy thuốc. Ông đã tự hứa với mình "làm hết mọi việc có thể làm và trước thuật thật sâu rộng để cắm ngọn cờ đào trong y giới". Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh (66 quyển), được biên soạn trong ngót 40 năm, và mãi đến 75 năm sau khi ông mất sách mới được in ra toàn bộ. Đây là một công trình đại qui mô kế thừa có phê phán và sáng tạo những trước tác y học của nhiều thế hệ ở Trung Quốc và Việt Nam. Nó đáng được coi là bộ bách khoa thư y học của thế kỷ 18, mà cũng bộ sách y dược hoàn hảo nhất trong thời đại quân chủ.
Lê Hữu Trác đã đúc kết kinh nghiệm của mình, so sánh với thành tựu những người đi trước với thái độ độc lập suy nghĩ và quyết tâm đi tìm chân lý bằng bản lĩnh đầy tự tin của riêng mình : "Thà đắc tội với các bậc tiền bối chớ quyết không phụ rẫy sở học của tôi". Ông đã chủ trương một cái học xuất phát từ điểm gốc "lấy đó làm cương lĩnh rồi theo loại mà suy rộng mãi ra để rồi học một biết mười, biết trăm".
Ông còn là một nhà văn xuất sắc, sau khi được mời lên kinh đô chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh, ông sáng tác Thượng kinh ký sự (1782) là tập bút ký của một ngọn bút tài hoa.
Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu Nữ Sĩ Hồng Hà, quê ở Chương Dương (Hà Tây ngày nay), là một nhà văn, nhà thơ uyên bác, đã từng mở trường dạy học tại quê nhà với đông đảo học trò trong đó nhiều người sẽ thành đạt. Tiếp thu kinh nghiệm Nguyễn Dữ, tác giả nổi tiếng của Truyền kỳ mạn lục, bà đã dùng chữ Hán viết Truyền kỳ tân phả, một tập truyện dân gian đề cao nhiều nhân vật nữ với những mối tình nồng nàn, niềm khát khao hạnh phúc và phẩm chất trong sáng. Nhưng bà được người đời tôn sùng, chủ yếu vì đã diễn Nôm Khúc ngâm chinh phụ, nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn (không rõ năm sinh, năm mất). Từ lâu mọi người đều nhất trí như vậy, nhưng từ năm 1926 có giả thuyết nói bản dịch ấy là của Phan Huy Ích. Hiện nay đã tìm ra sáu bản dịch khác nhau nhưng chưa có lập luận nào bác bỏ được một cách thuyết phục Đoàn Thị Điểm là người diễn Nôm Khúc ngâm tuyệt tác này.
Tuy nhiên, dù bản dịch là của bà hay của ai khác (hiện nay chưa có kết luận dứt khoát), chúng ta vẫn có thể khẳng định: qua hình tượng cao quí và sừng sững như núi Vọng Phu của người phụ nữ Việt, nạn nhân đằng đẳng của chiến tranh đến nỗi:
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không !
thì bản diễn Nôm hiện hành của Khúc ngâm vẫn là áng văn tuyệt đẹp, được mến mộ và phổ biến sâu rộng không nhường Truyện Kiều.
Lê Quý Đôn (1726-1784), quê ở Thái Bình, xứng đáng được gọi là nhà bác học bách khoa vì sự nghiệp văn hóa to lớn thể hiện qua 40 bộ sách, bao gồm nhiều lãnh vực : sử học, triết học, văn thơ và khảo cứu khoa học nhân văn. Ông có tinh thần và phương pháp làm việc khoa học hơn những kẻ khác. Là người Việt đầu tiên biết tới học thuyết trái đất tròn, trên thế giới có bốn đại châu Á, Âu, Phi, Mỹ, ông cũng là người đầu tiên chú ý tới những vấn đề của khoa học tự nhiên (sinh vật học, thực vật học...), ví dụ ông đã khảo tả chi tiết tất cả các giống lúa trên đất nước ta với những đặc tính cụ thể về chủng loại.
Tuy nhiên, vì quan tâm nhiều hơn tới khoa học nhân văn, ông đã chuyên tâm duyệt lại lịch sử các triều đại và lịch sử triết học phương Đông. Từ những thành bại của quá khứ soi rọi vào thực tế hiện tại, ông chủ trương : trị nước ngoài phương pháp đức trị phải coi trọng pháp trị, phải trọng người hiền tài, không được câu nệ đẳng cấp xã hội.
Điều đáng khâm phục nhất là niềm tự hào sâu sắc của ông về nền văn hiến lâu đời của dân tộc, kèm theo ý thức và nổ lực giữ gìn những thành quả mà dân tộc đã tạo dựng được suốt mấy ngàn năm dựng nước. Cụ thể là với Toàn việt thi lục và Hoàng Việt văn hải, ông đã sưu tầm khảo sát được thơ văn của 175 tác giả và 21 tác phẩm khuyết danh từ thời Lý tới thời Trịnh.
Nhờ những cố gắng sưu khảo lớn lao của ông, ta có được một cái nhìn khái quát về vốn văn hóa, văn minh đáng kể của cha ông qua những kiệt tác như Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, và nhất là Vân đài loại ngữ là những công trình văn hóa quan trọng của Lê Quý Đôn ở cuối thế kỷ 18 báo hiệu cho sự ra đời bộ sách bách khoa lớn của Phan Huy Chú đầu thế kỷ 19: Lịch triều hiến chương loại chí.
Có lẽ không có gì quá đáng khi khẳng định Lê Quý Đôn là một trong vài nhân vật văn hóa lớn nhất của thời đại quân chủ Việt Nam ngàn năm.
Cuộc chiến tranh phù Lê diệt Mạc chấm dứt cuối năm 1592 sau khi con cháu triều Mạc chạy lên ẩn náu tại Cao Bằng. Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, cai trị toàn cõi Đàng Ngoài, đặt phủ chúa với hệ thống quan lại riêng, định chế độ cha truyền con nối, thu tóm mọi quyền hành bên cạnh triều đình vua Lê bù nhìn.
Chúa Trịnh, một mặt phát động chiến tranh chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong (đánh lớn từ 1527 tới 1572) và đánh dẹp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đàng ngoài , mặt khác ra sức ổn định tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa và ngoại giao, biến Thăng Long thành một kinh đô giàu có và văn hiến. Có thể khẳng định thời Trịnh - Lê Mạt đã chứng kiến hai thế kỷ phát triển rực rỡ của văn hóa Thăng Long.
Hai thế kỷ xán lạn của văn hóa dân gian Đại Việt
Tất cả các lãnh vực văn hóa dân gian đều có những sáng tạo đẹp đẽ, những thành công vượt bực chưa từng thấy. Trước hết đây là thời kỳ phát triển phong phú của nhiều trào lưu tranh dân gian ở nông thôn lẫn thành đô. Dựa trên gia phả các nghệ nhân làng Hồ, có thể biết được là tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) đã ra đời cách nay trên dưới 500 năm. Sau đó lại xuất hiện tranh Kim Hoàng (Hà Tây) và trễ hơn một chút là tranh Hàng Trống (Thăng Long). Đây cũng là thời kỳ vàng son của kiến trúc, điêu khắc và trang trí dân gian với sự xuất hiện của hàng chục ngôi chùa Phật và ngôi đình làng mà một số khá nhiều đã bị khí hậu và chiến tranh hủy hoại. May mắn là một số chùa đình lớn đẹp vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay.
Trước hết phải nhắc tới chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), khởi dựng từ thời Trần nhưng được trùng tu lớn (1646-1647) để trở thành một quần thể hoàn chỉnh trên một trục dài hơn 100 mét. Phía bên phải chùa có tháp Bút (Báo Nghiêm) bằng đá xanh năm tầng, cao trên 13 mét, là một tháp đẹp quí hiếm. Kiệt tác thứ hai tô điểm cho chùa là tượng gỗ Phật Bà Quan Âm ngàn mắt ngàn tay, cao tới 3,70 mét (1656). Thứ ba là một tập hợp 91 bức chạm đá trên lan can bao quanh tòa thượng điện với những đề tài đa dạng (động vật, cỏ cây, mây nước...).
Tiêu biểu cho nghệ thuật Phật giáo thế kỷ 18 ở Đàng Ngoài là kiệt tác chùa Keo (Thái Bình), khởi dựng từ thời Lý rồi được di chuyển, trùng tu và mở rộng để trở thành ngôi chùa lớn nhất đất nước tọa lạc trên khu đất rộng 57.000 m2, với bố cục nhiều tầng, nhiều lớp từ ngoài vào trong, từ thấp tới cao. Chung quanh chùa là dãy hành lang 70 gian, ở giữa là 21 tòa nhà gồm 154 gian toàn bằng gỗ lim chạm khắc tinh vi. Đẹp nhất ở chùa Keo là tòa gác chuông tuy chỉ cao ngót 12 mét nhưng lại gây được ấn tượng hoành tráng nhờ sự kết hợp hài hòa với thiên nhiên.
Ngôi đình đẹp nhất của Đàng Ngoài ở thế kỷ 17 là đình Chu Quyến (Hà Tây), dài 30 mét, với bộ khung gồm sáu hàng cột lim thật lớn và một sàn gỗ rất rộng, cao cách mặt đất 0,8 mét như kiểu nhà sàn Việt cổ thời đại Đông Sơn. Nội thất đình còn giữ được nhiều hình chạm khắc gỗ đẹp độc đáo như các cảnh chọi gà, gảy đàn, hát múa, phượng mẹ giữa đàn phượng con...
Nổi tiếng hơn cả giữa các ngôi đình Việt cổ xưa là đình Đình Bảng (Bắc Ninh), được xây trong hơn 30 năm trời mới xong (1700-1736). Đây là ngôi đình lớn nhất nước, dài 40 mét, rộng 15 mét, 7 gian, 2 chái với sáu hàng cột lim đồ sộ, đường kính từ 0,55 mét tới 0,65 mét, với nhiều bức chạm khắc gỗ đẹp sống động trên hầu khắp toàn bộ khung nhà : những hình rồng, phượng, lân, cảnh 8 ngựa cùng phi ...
Bên cạnh các thành tựu xuất sắc của mỹ thuật dân gian, văn học dân gian thế kỷ 17-18 đã không chịu nhường bước. Đây là thời kỳ xuất hiện của nhiều loại truyện cổ tích : cổ tích loài vật với "Châu chấu đá voi", "Con cóc là cậu ông trời"... ; cổ tích thế sự với "Vợ chàng Trương", "Cây tre trăm đốt"... ; cổ tích thần kỳ như "Hòn vọng phu", "Tú Uyên", "Từ Thức", ...
Truyện ngụ ngôn ra đời làm chứng cho sự trưởng thành của trí tuệ dân gian : "Trí khôn tao đây", "Thả mồi bắt bóng", "Giết chó dạy chồng"...
Trong không khí loạn lạc bất an, khi dân không còn sợ vua quan, cường hào ác bá nữa thì truyện cười, truyện Trạng nảy nở mạnh mẽ dồi dào. Những nhân vật quyền thế, danh giá nhất trong xã hội đều trở nên thảm hại, làm trò cười cho dân gian như nhà nho trong Thầy đồ nói liều, như nhà sư trong Nam mô boong, và nhất là vua chúa trong hai hệ thống truyện Trạng Quỳnh và truyện Trạng Lợn.
Thế kỷ 17-18 cũng là thời kỳ nở rộ của tục ngữ, ca dao, dân ca, vè và truyện nôm khuyết danh, đánh dấu vị trí ưu việt của thể thơ lục bát thắm đượm nghĩa tình dân gian:
... Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Bên cạnh một số ít truyện nôm có tên tác giả là những nhà nho, đã xuất hiện hàng loạt truyện nôm khuyết danh: những Quan Âm Thị Kính, Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn... ở đó người bình dân đã gởi gắm nhiều ý tình bức xúc và nỗi niềm thân phận.
Y học, văn học và khoa học nhân văn qua bốn gương mặt danh nhân tiêu biểu
Trong những lãnh vực vừa kể, các danh nhân thế kỷ 17-18 thật là đông đảo đếm được hàng chục người (xem Tổng tập văn học Việt Nam, 2000 ; Tự điển văn học Việt Nam, bộ mới, 2005). Nếu phải lựa chọn những gương mặt tiêu biểu thì cần phải nói tới hai đại danh y, một nhà thơ nữ lỗi lạc và một nhà bác học. Thời Trịnh - Lê Mạt có nhiều thầy thuốc giỏi, nhưng đáng gọi là danh y đã nổi lên hai tên tuổi.
Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu Tuệ Tĩnh (không rõ năm sinh, năm mất), quê ở Hải Dương. Trước đây có sự lầm lẫn ông là người thời Trần nhưng những nghiên cứu mới nhất cho thấy ông sống ở thế kỷ 17 và đã viết hai bộ sách Nam dược thần hiệu và Thập tam phương gia giảm, được xem là nền móng của y dược học cổ truyền dân tộc. Điều đáng khen ngợi là vị đại danh y đã chủ ý viết bằng chữ Nôm theo lối thơ phú cho nên tác phẩm của ông được phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Vừa bước vào nghề cứu nhân độ thế, ông đã nêu ra phương châm rất độc đáo và thiết thực: "dùng thuốc Nam chữa bệnh người Nam", vì vậy ông được nhân dân tôn vinh là vị thánh thuốc Nam. Nam dược thần hiệu giới thiệu 630 vị thuốc liên quan tới 10 khoa, chữa được 184 chứng bệnh cho người và cho cả gia súc nữa. Sau nhiều năm hành nghề, ông viết thêm bộ Thập tam phương gia giảm giới thiệu bổ sung 200 vị thuốc, kèm theo một chương lý luận đề cập tới các vấn đề âm dương, ngũ hành, tạng phủ, kinh lạc...
Cần nói rõ thêm vị đại danh y này cũng là một thiền sư, người đã xây dựng hoặc tu bổ tổng cộng 24 ngôi chùa, trong số đó có chùa Giám ở Hải Dương là nơi thiền sư đào tạo tăng ni thành thầy thuốc, biến trai phòng thành nơi bào chế, biến vườn chùa thành vườn trồng các cây thuốc thu thập từ bốn phương.
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông (1724-1791), cũng quê ở Hải Dương, xuất thân từ một gia đình thế gia vọng tộc, đã từ bỏ công danh phú quí, rời hẳn Thăng Long về sống ở quê mẹ (Hương Sơn, Hà Tĩnh) và cống hiến trọn đời cho nghề thầy thuốc. Ông đã tự hứa với mình "làm hết mọi việc có thể làm và trước thuật thật sâu rộng để cắm ngọn cờ đào trong y giới". Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh (66 quyển), được biên soạn trong ngót 40 năm, và mãi đến 75 năm sau khi ông mất sách mới được in ra toàn bộ. Đây là một công trình đại qui mô kế thừa có phê phán và sáng tạo những trước tác y học của nhiều thế hệ ở Trung Quốc và Việt Nam. Nó đáng được coi là bộ bách khoa thư y học của thế kỷ 18, mà cũng bộ sách y dược hoàn hảo nhất trong thời đại quân chủ.
Lê Hữu Trác đã đúc kết kinh nghiệm của mình, so sánh với thành tựu những người đi trước với thái độ độc lập suy nghĩ và quyết tâm đi tìm chân lý bằng bản lĩnh đầy tự tin của riêng mình : "Thà đắc tội với các bậc tiền bối chớ quyết không phụ rẫy sở học của tôi". Ông đã chủ trương một cái học xuất phát từ điểm gốc "lấy đó làm cương lĩnh rồi theo loại mà suy rộng mãi ra để rồi học một biết mười, biết trăm".
Ông còn là một nhà văn xuất sắc, sau khi được mời lên kinh đô chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh, ông sáng tác Thượng kinh ký sự (1782) là tập bút ký của một ngọn bút tài hoa.
Tuy nhiên, dù bản dịch là của bà hay của ai khác (hiện nay chưa có kết luận dứt khoát), chúng ta vẫn có thể khẳng định: qua hình tượng cao quí và sừng sững như núi Vọng Phu của người phụ nữ Việt, nạn nhân đằng đẳng của chiến tranh đến nỗi:
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không !
thì bản diễn Nôm hiện hành của Khúc ngâm vẫn là áng văn tuyệt đẹp, được mến mộ và phổ biến sâu rộng không nhường Truyện Kiều.
Lê Quý Đôn (1726-1784), quê ở Thái Bình, xứng đáng được gọi là nhà bác học bách khoa vì sự nghiệp văn hóa to lớn thể hiện qua 40 bộ sách, bao gồm nhiều lãnh vực : sử học, triết học, văn thơ và khảo cứu khoa học nhân văn. Ông có tinh thần và phương pháp làm việc khoa học hơn những kẻ khác. Là người Việt đầu tiên biết tới học thuyết trái đất tròn, trên thế giới có bốn đại châu Á, Âu, Phi, Mỹ, ông cũng là người đầu tiên chú ý tới những vấn đề của khoa học tự nhiên (sinh vật học, thực vật học...), ví dụ ông đã khảo tả chi tiết tất cả các giống lúa trên đất nước ta với những đặc tính cụ thể về chủng loại.
Tuy nhiên, vì quan tâm nhiều hơn tới khoa học nhân văn, ông đã chuyên tâm duyệt lại lịch sử các triều đại và lịch sử triết học phương Đông. Từ những thành bại của quá khứ soi rọi vào thực tế hiện tại, ông chủ trương : trị nước ngoài phương pháp đức trị phải coi trọng pháp trị, phải trọng người hiền tài, không được câu nệ đẳng cấp xã hội.
Điều đáng khâm phục nhất là niềm tự hào sâu sắc của ông về nền văn hiến lâu đời của dân tộc, kèm theo ý thức và nổ lực giữ gìn những thành quả mà dân tộc đã tạo dựng được suốt mấy ngàn năm dựng nước. Cụ thể là với Toàn việt thi lục và Hoàng Việt văn hải, ông đã sưu tầm khảo sát được thơ văn của 175 tác giả và 21 tác phẩm khuyết danh từ thời Lý tới thời Trịnh.
Nhờ những cố gắng sưu khảo lớn lao của ông, ta có được một cái nhìn khái quát về vốn văn hóa, văn minh đáng kể của cha ông qua những kiệt tác như Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, và nhất là Vân đài loại ngữ là những công trình văn hóa quan trọng của Lê Quý Đôn ở cuối thế kỷ 18 báo hiệu cho sự ra đời bộ sách bách khoa lớn của Phan Huy Chú đầu thế kỷ 19: Lịch triều hiến chương loại chí.
Có lẽ không có gì quá đáng khi khẳng định Lê Quý Đôn là một trong vài nhân vật văn hóa lớn nhất của thời đại quân chủ Việt Nam ngàn năm.
9.
Thời Tiền Nguyễn (1558-1777)
- hay
Hai thế kỉ hình thành
và
bước đầu hưng khởi của văn hóa Phú Xuân
"..."Sau
dải Núi Ngang là nơi dung thân muôn đời".
Nguyễn Hoàng (trị vị Đàng Trong 1558-1613) đã thấu hiểu điều đó ..."
Nguyễn Hoàng (trị vị Đàng Trong 1558-1613) đã thấu hiểu điều đó ..."
Cuộc mở cõi lớn lao tiến về Nam
Sự nghiệp mở cõi của các chúa Nguyễn bắt đầu với lời tiên tri của Trạng Trình : "Sau dải Núi Ngang là nơi dung thân muôn đời". Nguyễn Hoàng (trị vị Đàng Trong 1558-1613) đã thấu hiểu điều đó. Vào trấn giữ Thuận Hóa rồi kiêm lãnh Quảng Nam, ông cùng con cháu củng cố vùng đất mới, đánh lùi các cuộc tiến công tới từ phía Bắc và mở rộng dần lãnh thổ về phương Nam tới tận mũi Cà Mau.
Phải nói rõ là nhờ các chúa Nguyễn mà lãnh thổ Đại Việt đã được nhân đôi trong thời khoảng một thế kỉ : 1611-1714.
1611 : Nguyễn Hoàng vượt đèo Cù Mông mở đầu bước chân Nam Tiến, Đàng Trong có thêm dinh Trấn Biên.
1653 : Nguyễn Phúc Tần tiến tới tận vùng Phan Rang-Phan Rí, lập trấn Thuận Thành, rồi dinh Bình Khang.
1698 : Nguyễn Hữu Cảnh vào cai quản đất Gia Định, rồi làm chủ toàn vùng Đông và Tây Nam Bộ.
1714 : Mạc Cửu, cựu tướng nhà Minh, có công khai thác đất Hà Tiên rồi xin chúa Nguyễn Phúc Chu cho sáp nhập vào phủ Gia Định ; chúa chấp nhận sự thần phục của Mạc Cửu. Niên đại đầu thế kỉ 18 này là một dấu son trong lịch sử dân tộc với ý nghĩa chuyến đi dài mở cõi của ông cha ta đã mỹ mãn thành công.
Từ hệ thống Lũy Thầy tới Hỗ Trướng Khu Cơ
Năm 1627 Nguyễn Phúc Nguyên tri ngộ và trọng dụng Đào Duy Từ, gọi người hiền tài này là Thầy. Và họ Đào tỏ ra là bậc quân sư kiệt xuất, toàn tài văn võ, vừa làm thơ và viết binh thư, vừa đôn đốc xây thành đắp lũy giúp chúa biến Đàng Trong thành miền đất không thể xâm phạm. Trong gần nửa thế kỉ giao tranh dữ dội với chúa Trịnh (1627-1672), chúa Nguyễn đã giữ vững cơ đồ và liên tục tiến về Nam, phần lớn nhờ vào một công trình phòng ngự vô địch và một bộ binh thư bất hủ.
Lũy Nhật Lệ (còn gọi là lũy Đồng Hới) dài 12 km, cao 6 m, phía ngoài kè gỗ lim, mặt trong đắp đất, voi ngựa có thể đi bên trên, lại có thêm nhiều pháo đài đặt "súng quả sơn" (loại pháo cổ bắn cầu vồng). Cách đó 20 km về phía Nam là lũy Trường Dục, dài tới 20 km, cao 3 m, chân lũy rộng từ 6 đến 8 m.
Hai trăm năm sau Đào Duy Từ, vua Thiệu Trị hành hương qua hệ thống Lũy Thầy hùng vĩ này đã xúc động đặt thêm cho nó cái tên mới "Định Bắc trường thành" để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam.
Cùng với thành lũy, có một công trình lớn lao khác của Thầy là cuốn Hỗ Trướng Khu Cơ (Bàn về những vấn đề then chốt trong công việc làm tướng), tiếp nối truyền thống Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo. Với bộ binh thư mới này, Đào Duy Từ đã tiến xa hơn người xưa nhiều với sự phân tích bốn phương pháp đánh giặc rất lợi hại : phép dùng hoả công, phép đánh dưới nước, phép đánh trên bộ, phép giữ thành trì.
Một ví dụ cụ thể : khi bàn về hoả công, Thầy đã dạy cho quân đội chúa Nguyễn những cách làm diều lửa đốt trại giặc, làm trái phá (hoả cầu), chế quả mù (để ngụy trang và nghi binh), chế đạn lửa bằng đồng, chế tên lửa (hoả tiễn) kể cả tên lửa chứa thuốc độc, v.v. Vì những sáng tạo kỳ lạ đó, Hỗ Trướng Khu Cơ cũng đáng được coi là một bức trường thành thời mở cõi.
Đầu thế kỉ 17-cuối thế kỉ 18, văn hóa Phú Xuân hình thành và bước đầu hưng khởi
Lúc đầu dinh phủ các chúa còn ở vùng Bắc Thuận Hóa. Năm 1636, Nguyễn Phúc Lan dời phủ về Kim Long (ngoại ô Huế). Năm 1687, Nguyễn Phúc Thái dời phủ từ Kim Long về Phú Xuân (thành phố Huế ngày nay).
Như vậy là vào đầu thế kỉ 17 văn hóa Phú Xuân hình thành. Từ 1687 tới 1777 (đời các chúa thứ 5, 6, 7, 8, 9), văn hóa Phú Xuân bắt đầu hưng khởi và sẵn sàng chờ đợi được lọt vào mắt xanh một người anh hùng "áo vải cờ đào". Và cũng từ đó, song song với văn hóa Thăng Long, dân tộc Việt Nam có thêm văn hóa Phú Xuân.
Trong lãnh vực văn học cổ điển, có thể ghi nhớ ghi nhớ nhiều tên tuổi :
- Đào Duy Từ (1572-1634) với hai bài vãn Ngọa Long Cương, Tư Dung và tuồng Sơn Hậu.
- Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) với truyện thơ Nôm Sãi Vãi và tập thơ chữ Hán Đạm Am.
- Hoàng Quang (không rõ năm sinh, năm mất) với Hoài Nam ca khúc (Khúc ca tưởng nhớ phương Nam), một áng văn Nôm ca ngợi sự nghiệp các chúa từ Nguyễn Hoàng tới Nguyễn Phúc Khoát.
Trong khi truyện Nôm xuất hiện dồi dào ở Đàng Ngoài thì Đàng Trong cũng có hai tác phẩm Nôm rất bình dân: truyện Song Tinh Bất Dạ và vè Chàng Lía.
- Tác giả truyện thơ Nôm Song Tinh Bất Dạ, dài 2216 câu lục bát, là Nguyễn Hữu Hào (?-1713). Đọc được cuốn tiểu thuyết Tàu nhan đề "Những người có tình gắn bó", ông đã tái tạo nguyên tác thành câu chuyện tình say đắm và chung thủy của một đôi trai gái Việt. Chủ đề Song Tinh Bất Dạ thật ra không đặc sắc gì lắm nhưng nó đáp ứng trào lưu nhân đạo chủ nghĩa ở thế kỉ 18 và phản ánh được khát vọng giải phóng tình cảm, tự do luyến ái vượt ra khỏi những trói buộc của lễ giáo Khổng Mạnh khắt khe.
- Bình dân hơn Song Tinh Bất Dạ và được phổ biến rộng rãi khắp Đàng Trong là áng vè Chàng Lía hoành tráng, gồm 1.500 câu thơ lục bát rất lôi cuốn:
Truyện Lía nay kể như y
Góp vui cô bác những khi việc rồi
Cảm động thay hình tượng chú Lía sớm mồ côi cha, đi ở đợ, giữ trâu, mới 16 tuổi đã giỏi võ nghệ, lấy của kẻ giàu chia cho người nghèo, quyết định đem quân đánh thẳng vào phủ chúa rồi anh dũng hi sinh để lại cho quần chúng niềm tiếc thương vô hạn.
- Có một nhà thơ lớn thời Tiền Nguyễn là Ngô Thế Lân, sống ở thế kỉ 18 (không rõ năm sinh, năm mất), tác giả Phong Trúc tập (Gió lùa trong khóm trúc) đã được Lê Quý Đôn rồi Phan Huy Chú khen ngợi vì những vần thơ súc tích, giàu cảm xúc và giá trị hiện thực: thơ Ngô Thế Lân nói nhiều tới các loại ruồi, muỗi, cọp, sói, kình, ngạc, là những giống "thích ăn thịt người" trong một xã hội tàn bạo, đầy bất công.
Đàng Trong không có một tác phẩm qui mô lớn mang âm hưởng anh hùng ca như Hoàng Lê nhất thống chí của Đàng Ngoài, nhưng văn hóa Phú Xuân đã để lại cho chúng ta một công trình văn sử quan trọng bằng chữ Hán là cuốn Nam Triều công nghiệp diễn chí (Truyện chí diễn giải công trạng và sự nghiệp của Nam Triều) của Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1736) viết vào năm 1719 mà mãi tới năm 1990 mới được dịch và in lần đầu dưới nhan đề Mộng bá vương.
Một hội tao đàn ở phương Nam : Chiêu Anh Các
Đây là một tổ chức văn học-văn hóa do Mạc Thiên Tích (1706-1780) sáng lập năm 1736 tại Hà Tiên, tập hợp được 32 thành viên. Sáng tác của Chiêu Anh Các gồm khoảng mươi tác phẩm mà nổi tiếng nhất là Hà Tiên quốc âm thập vịnh (gồm 320 bài thơ Nôm vịnh mười cảnh đẹp Hà Tiên của 32 tác giả) in năm 1737.
Hai thành tựu mỹ thuật của văn hóa Phú Xuân
Trước khi có đỉnh đồng của các vua Nguyễn vào đầu thế kỉ 19, các chúa Nguyễn đã cho đúc vạc đồng vào giữa thế kỉ 17.
Trong và ngoài thành phố Huế ngày nay còn lại 10 chiếc vạc thời các chúa, đặc biệt là ở Tả Vu và Hữu Vu điện Cần Chánh, ta thấy hai chiếc vạc lớn nhất với đường kính miệng 2,20 m, cao 1,30 m, nặng hơn một tấn, có ghi niên đại 1660 và 1662 (đời Nguyễn Phúc Tần).
Nếu Đàng Ngoài có tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng, v.v. thì Đàng Trong có tranh Sình, tức là dòng tranh do nghệ nhân làng Sình (ngoại ô Huế) sáng tác.
Tranh Sình gồm hai loại : tranh thờ và tranh thế sự. Những tranh thờ nổi tiếng là tranh Mẫu Thoải (thủy cung), Mẫu Thượng Ngàn cưỡi voi, v.v. Tranh thế sự gồm những bức tranh có giá trị thưởng ngoạn thẩm mỹ như tranh Tố nữ, tranh các nhạc công của dàn nhạc Bát Âm, v.v.
Năm danh nhân thời Tiền Nguyễn
Danh nhân văn hóa ưu việt nhất của Đàng Trong đầu thế kỉ 17 là Đào Duy Từ. Chúng ta đã thấy ông góp phần to lớn vào việc xây dựng cơ đồ chúa Nguyễn và sự hưng khởi bước đầu của văn hóa Phú Xuân, cần nói thêm rằng vì đã có công phát triển hát bội ở vùng Bình Định và dạy ca múa nhạc trong phủ chúa nên họ Đào đã được thờ như một trong những tổ sư của nghệ thuật sân khấu và âm nhạc truyền thống tại đền Thanh Bình ở Phú Xuân-Huế xưa nay.
Một trong vài chúa Nguyễn tài giỏi là Nguyễn Phúc Chu (trị vì 1691-1725) ngoài công lao mở cõi như đã nói trên, ông còn có những hoạt động văn hóa và tôn giáo đáng kể như sửa chùa Thúy Vân, chùa Thiền Lâm, tôn tạo chùa Thiên Mụ, mời danh sư Thích Đại Sán của Trung Quốc sang thăm Phú Xuân… Những việc ấy đã góp phần vào công cuộc phục hưng Phật giáo Đàng Trong.
Đóng góp nhiều nhất cho văn hóa Phú Xuân có lẽ là Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765), còn gọi là Võ Vương, cho đúc ấn Quốc Vương (1744), tiến hành thay đổi phong hóa và trang phục Đàng Trong cho khác với Đàng Ngoài (cấm phụ nữ không được mặc váy yếm, phải thay bằng quần dài, áo dài, v.v.), đổi chính dinh Phú Xuân ra đô thành Phú Xuân, xây dựng thêm hai bên bờ sông Hương nhiều cung điện lầu gác, biến phủ chúa thành một triều đình qui mô đồ sộ mà Lê Quý Đôn đã mô tả lại phong phú trong Phủ biên tạp lục.
Chúa còn trọng dụng nhiều người nước ngoài, nhất là các giáo sĩ, ở cương vị ngự y, cố vấn như Jean Koffler, Charles Slamenski… và vui vẻ đón tiếp những doanh nhân nước ngoài năng động như Pierre Poivre, v.v.
Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) có công rất lớn trong sự nghiệp khai mở các vùng đất phương Nam. Năm 1698, được đề bạt làm thống suất kinh lược sứ để cai quản xứ Gia Định và chỉ sau một năm nhậm chức ông đã chiếm lãnh toàn vùng Nam Bộä, thiết lập đầy đủ các đơn vị xã huyện, chăm lo cho dân an cư lạc nghiệp. Sau khi ông mất, nhân dân nhiều nơi ở phủ Gia Định và đồng bằng sông Cửu Long đã tôn thờ Nguyễn Hữu Cảnh là thành hoàng.
Một danh nhân khác có địa vị xã hội khiêm tốn, đó là Nguyễn Văn Tú, người thợ rất mực tài hoa, sống vào cuối thế kỉ 17, đầu thế kỉ 18. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục cho chúng ta biết : thời trẻ, Nguyễn Văn Tú đã chu du Hòa Lan và học thành thạo nghề làm đồng hồ và kính thiên văn. Năm 1716, Nguyễn Phúc Chu triệu ông vào phủ chúa để sửa đồng hồ. Ông khéo léo trổ tài làm chúa hài lòng rồi nhiệt tình nâng đỡ cho nên sau đó ông đã chế tạo thành công đồng hồ báo giờ báo ngày và được nhà chúa phong tặng chức danh vẻ vang "thủ hợp chiêu tài Nam" (một người Nam có bàn tay làm ra nhiều của cải).
10.
Thời Tây Sơn (1771-1802) - và
15 năm văn hóa Phú Xuân
"...Trong
vài năm ngắn ngủi (1789-1792), Quang Trung đã ra sức phát triển
văn hóa dân tộc ..."
Quang Trung Nguyễn Huệ, một ánh sao băng trên bầu trời lịch sử Việt Nam
Sự nghiệp oanh liệt mà chớp nhoáng của Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792) như kỳ công xóa bỏ nạn phân tranh Trịnh-Nguyễn, rồi võ công bình Xiêm (1786) diệt Thanh (1789) thì người Việt nào cũng biết, nhưng tính giản dị khiêm tốn, lòng nhân đạo, đức hiếu sinh và ý chí tôn trọng người hiến tài của người anh hùng áo vải này thì không phải ai cũng am tường. Vậy Quang Trung Nguyễn Huệ đã nói những gì và làm những gì ?
" [...] Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn mong được vua hiền cứu đời yên dân nên trẫm đã tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi, đi xe cỏ, cốt quét sạch loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa [...].
Hỡi muôn dân trăm họ, nhân nghĩa trung chính là đạo lớn của người ... Trẫm năm nay có cả thiên hạ, sẽ dìu dắt dân và đạo lớn, đưa dân lên đài xuân".
Sau đại thắng Đống Đa (30-1-1789), Quang Trung không hề tự đắc tự mãn mà lại muốn bày tỏ lòng nhân đạo và tinh thần hiếu hòa của mình nên đã ra lệnh đối xử tử tế với tất cả tù binh, hàng binh trước khi tha họ về Trung Quốc, lại cho thu nhặt hài cốt giặc trên chiến trường, chôn thành 12 gò đống và lập đàn cúng tế. Nhân dịp này, Quang Trung mượn lời bài văn tế nói lên tấm lòng khoan dung độ lượng của người chiến thắng :
" [...] Nay ta cho thu nhặt xương cốt chôn vùi. Bảo lập đàn bên sông cúng tế.
Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc. Xuất của kho đắp điếm đống xương khô. Hồn các ngươi đừng vất vưởng dưới trời Nam. Hãy lên đường quay về nơi hương chỉ ".
Chỉ trong vòng nửa năm sau Đống Đa, nước Đại Việt của Quang Trung đã lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh để dân ta được sống trong độc lập và hòa bình.
Cũng sau Đống Đa, Quang Trung ban chiếu hiểu dụ các quan văn võ triều cũ, cũng là dịp vua bày tỏ ý chí trân trọng người tài, lòng nhân đạo và đức hiếu sinh :
" Trẫm một lòng yêu mến nhân tài nên ban đặc ân xá hết tội lỗi cho các ngươi, tất cả những ai bị giam cầm trẫm đều tha hết, những kẻ trốn tránh trẫm không truy nã để tỏ lượng khoan hồng ".
Mượn lời bài chiếu cầu hiền tài, Quang Trung còn muốn nhấn mạnh hơn nữa :
" Trẫm nghĩ rằng sức một cây gỗ không chống nổi tòa nhà lớn, mưu lược một kẻ sĩ không dựng được cuộc thái bình. Vậy ban chiếu xuống quan liêu lớn nhỏ và chúng dân trăm họ ai có tài năng, mưu kế hay giúp ích cho đời, cho phép các quan văn võ được tiến cử, lại cho dẫn tới yết kiến tùy tài bổ dụng. [...] Nay trời đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp gỡ gió mây. Những ai tài đức đều nên gắng lên để được rỡ ràng chốn vương đình ".
Rõ ràng là những văn kiện quan trọng như chiếu Lên ngôi, chiếu Cầu người hiền tái, chiếu Cầu lời nói thẳng, chiếu Mở rộng ân đức, chiếu Lập học, chiếu Khuyến nông... đều đánh dấu một thời thái bình thịnh trị và văn hiến.
15 năm ưu việt của văn hóa Phú Xuân thời Tây Sơn
Vào cuối thế kỷ 18, văn học Tây Sơn ra đời để khẳng định sự nghiệp lớn lao của vua Quang Trung và nhà Tây Sơn trong chiến đấu chống ngoại xâm cũng như trong hòa bình xây dựng. Những nhà văn, nhà thơ đã thể hiện tinh thần của thời Tây Sơn trong tác phẩm của mình là :
- Lê Ngọc Hân với Vãn ai tư và Văn tế vua Quang Trung ;
- Cao Huy Diệu với tập thơ Hồng quế hiên ;
- Ngô Ngọc Du với bài thơ Long thành quang phục kỷ thực ;
- Ninh Tốn với tập thơ Tuyết Sơn ;
- Đoàn nguyên Tuấn với tập thơ Hải Ông ;
- Phan Huy Ích với Dụ am ngâm lục và Dụ am văn tập ;
- Hồ Xuân Hương với Thơ Nôm và tập Lưu hương ký (chữ Hán);
- Ngô Thời Nhiệm với nhiều tác phẩm đã đưa ông lên hàng nhà thơ kiêm nhà văn hóa lớn nhất thời Tây Sơn.
Tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học Tây Sơn là Hoàng Lê nhất thống chí viết về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và sự nghiệp Quang Trung phong phú, sinh động hơn tất cả các tác phẩm khác, đặc biệt hồi thứ 14 và 15 đã tập trung mô tả chiến thắng Đống Đa oanh liệt qua những trang sách chứa chan hào khí và niềm tự hào dân tộc, tràn trề khí phách anh hùng ca. Hình tượng Quang Trung, lãnh tụ phong trào nông dân và anh hùng ca dân tộc, đã được thể hiện đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Hoàng Lê nhất thống chí đáng được xem là cuốn ký sự lịch sử tuyệt tác phản ánh sâu sắc nhiều mặt của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 18.
Một khía cạnh đáng chú ý của văn học Tây Sơn là sự phát triển rực rỡ của văn học chính luận với hàng chục tác phẩm được tập hợp lại trong hai cuốn Bang giao hảo thoại và Đại Việt quốc thư nói lên chính nghĩa của triều đại Tây Sơn và tiếp nối truyền thống ưu tú của văn học chính luận thời Lê Lợi-Nguyễn Trãi.
Trong vài năm ngắn ngủi (1789-1792), Quang Trung đã ra sức phát triển văn hóa dân tộc : việc học được mở rộng, chế độ thi cử được chấn chỉnh, đặc biệt vua rất coi trọng tiếng nói của dân tộc và đã đưa chữ Nôm lên địa vị chữ viết chính thức của triều đại.
Hai cơ quan học thuật lớn của Tây Sơn là Viện Sùng Chính ở Nghệ An và Quán Quốc Sử ở Phú Xuân. Dưới sự điều khiển của viện trưởng Nguyễn Thiếp, Viện Sùng Chính đã dịch nhiều sách chữ Hán ra chữ Nôm để dùng dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm đã dịch xong các sách Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi và hiện nay còn giữ được hai công trình lớn của viện là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa.
Ngô Thì Nhậm là tổng tài Quốc Sử Quán và trong hơn 10 năm hoạt động đã cho xuất bản ba công trình lớn: Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Việt sử ký tục biên và Đại Việt sử ký tiệp lục tổng tự. Đây là những bộ sử có giá trị với nhiều lời bình luận xác đáng, thấm nhuần tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Từ năm 1788, Quang Trung đã chủ trương biên soạn một bộ luật cho triều đại mới nhưng vì công việc quá bề bộn và thời gian trị vì quá ngắn ngủi nên chưa có dịp thực hiện. Đến đời Cảnh Thịnh, thượng thư bộ Hình Lê Công Miễn mới biên soạn xong Bộ hình thư trên cơ sở tham khảo kỹ lưỡng bộ luật Hồng Đức thời Lê Sơ. Có thể xem Bộ hình thư mới này là một thành tựu lập pháp của thời Tây Sơn.
Y học thời này đã kế thừa thành tựu của nền y học dân tộc các thời trước. Lãnh đạo ngành y tế của triều đình dưới thời Quang Trung là Nguyễn Hoành, tác giả bộ Nam dược trình bày 500 vị thuốc ; lãnh đạo Viện Thái Y là Nguyễn Quang Tuân, soạn bộ La Khê phương dược và danh y quan trọng nhất thời ấy là Nguyễn Gia Phan, thượng thư bộ Lại thời Cảnh Thịnh mà cũng là tác giả của các sách về nhi khoa, phụ khoa và khoa truyền nhiễm.
Bình Định vốn là một trong những cái nôi của nghệ thuật hát bội nhờ công lao đầu tiên của Đào Duy Từ. Đến thời Tây Sơn, hát bội lại rất thịnh hành. Bên cạnh vè Chàng Lía đã có thêm vở tuồng hát bội Văn Lía và có những thầy tuồng nổi tiếng như Ông Nhưng Huy. Vào năm 1790 niên hiệu Quang Trung thứ ba, nhà du lịch người Anh John Barrow (1764-1849) đã đến thăm nước ta và sau đó xuất bản cuốn Những cuộc du hành ở Nam Phi và Đàng Trong (Voyages dans le Sud de l’Afrique et à la Cochinchine) kèm theo một bức tranh màu vẽ một cảnh hát bội.
Phú Xuân vốn là cái nôi của ca nhạc Huế từ thời các chúa Nguyễn. Đến cuối thế kỷ 18, nhân dịp lễ thượng thọ 80 tuổi của hoàng đế Càn Long, vua Quang Trung đã gởi sang Bắc Kinh một đoàn ca múa nhạc gồm 6 ca công và 6 nhạc công dưới sự dìu dắt của Phan Huy Ích. Theo Đại Việt quốc thư, đoàn văn nghệ này đã biểu diễn thành công 10 bài bản ca nhạc Huế ("Nhạc phủ từ khúc thập điệu").
Khi nói tới mỹ thuật thời Tây Sơn, người ta thường nghĩ tới bộ tượng 16 vị tổ được thờ tại chùa Tây Phương (Hà Tây) sáng tác từ cuối thế kỷ 18 mà giới nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam cũng như những nhà mỹ học nước ngoài đánh giá là một đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo Việt Nam.
Võ thuật thời Tây Sơn là loại võ đạo phổ biến trong quân đội của Quang Trung. Đây là một bước tiến mới của võ Bình Định truyền thống. Bên cạnh võ thuật Tây Sơn lại có nhạc võ Tây Sơn để nâng thêm khí thế trong chiến đấu. Khi đánh trống võ Tây Sơn không ngồi mà phải đứng, hai tay vừa múa võ vừa đánh trống, có lúc nhanh đến mức tưởng chừng như cả 12 trống được gõ cùng một lúc bởi một nghệ nhân duy nhất. Ngoài ra còn có thêm trống cái và bộ chiêng để tạo nên một bầu khí hào hùng.
Sáu danh nhân thời Tây Sơn
- Lê Ngọc Hân kết hôn với Nguyễn Huệ năm 16 tuổi (1786), trở thành Bắc cung hoàng hậu, rồi góa bụa năm 22 tuổi và mất khi chưa đầy 30 tuổi (1799), để lại cho văn học Việt Nam hai áng văn nổi tiếng là Vãn ai tư và Văn tế vua Quang Trung.
Vãn ai tư có lẽ là tác phẩm nói lên đầy đủ nhất con người và sự nghiệp của Quang Trung cũng như mối tình tuyệt đẹp giữa một công chúa và một tướng quân:
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình
Kiếp này chưa trọn chữ duyên
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương
- Bùi Thị Xuân (?-1802) đã cùng chồng là Trần Quang Diệu tham gia khởi nghĩa Tây Sơn từ buổi đầu để trở thành một vị nữ tướng tài ba dũng liệt, tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu tới cùng của nghĩa quân. Một giáo sĩ phương Tây, sau khi chứng kiến cuộc hành hình toàn thể gia đình bà, đã nói lên trong tập hồi ký của mình lòng khâm phục sâu sắc khi gợi lại hình tượng người nữ tướng hiên ngang tiến thẳng tới con voi sắp dày xéo mình. Sau khi bà mất, dân gian đã sáng tác nhiều thơ ca, giai thoại và câu đối đề cao tài năng và khí tiết của bà, cụ thể là áng vè Bà thiếu phó (chức tước của bà Bùi Thị Xuân) và truyện thơ Nôm Cân quắc anh hùng truyện được sáng tác 3/4 thế kỷ sau khi bà mất, đó là áng anh hùng ca của nhà Nho Nguyễn Bá Huân tuyên dương vị nữ anh hùng lỗi lạc.
- Nguyễn Thiếp (1723-1704) thường được tôn xưng là La Sơn Phu Tử. Ra làm quan cho vua Lê chúa Trịnh ít lâu thì xin cáo về ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn để đóc sách và nghiên cứu y lý, để rồi nổi tiếng là người đạo hạnh thanh cao. Khi vua Quang Trung trọng vọng mời Nguyễn Thiấp, ông đã nhận lời hợp tác. Là viện trưởng Viện Sùnh Chính, ông đã đề suất với Quang Trung nhiều vấn đề cải cách giáo dục và thi cử. Trong tập Hạnh am thi cảo ( chữ Hán ), ông đã sáng tác những bài thơ bày tỏ niềm thông cảm sâu sắc với nỗi khổ đau của nhân dân thời loạn.
- Ngô Thời Nhiệm (1746-1803) đã được Nguyễn Huệ trọng dụng từ năm 1788, với các chức tước đại học sĩ, thị lang bộ Lại, rồi thượng thư bộ Binh. Hai lần làm chánh sứ sang Trung Quốc, ông đã tỏ ra là một nhà tư tưởng chiến lược kiêm nhà ngoại giao tài giỏi nên đã đóng góp rất nhiều trong việc chuyển quan hệ ngoại giao giữa hai nước từ đối kháng sang hòa hảo. Ông đã để lại cho đời sau nhiều tác phẩm văn, sử, triết học, tôn giáo và chính trị. Sau khi sáng tác bộ sách Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, ông đã được tôn vinh là tổ thứ tư của thiền phái Trúc Lâm.
- Phan Huy Ích (1751-1822) đã hết lòng đi theo chính nghĩa Tây Sơn với chức thị lang bộ Hộ, rồi thượng thư bộ Lễ. Sau khi Quang Trung mất, ông trở về quê hương Sài Sơn sống ẩn dật, dạy học và gom góp lại các sáng tác của mình thành hai công trình qui mô lớn: Dụ am ngâm lục (600 bài thơ), Dụ am văn tập (khoảng 400 bài văn), trong đó đáng chú ý nhất là 5 bài văn tế chữ Nôm sáng tác khi hoàng hậu Lê Ngọc Hân mất (1799) để bày tỏ lòng biết ơn và sự khâm phục của mình đối với vua Quang Trung mà ông gọi là "con người tài năng hơn ngàn đời trước".
- Nguyễn Gia Phan (1748-1817) là vị danh y cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho nối đời làm thuốc. Từ năm 24 tuổi ông đã đi sâu vào nghề y và bắt đầu soạn một số sách về nhi khoa và phụ khoa. Ông thường được mời về Thăng Long chữa bệnh cho Trịnh Sâm và nhiều người trong phủ chúa. Ông đã có công chế thuốc chống ôn dịch để cứu dân vùng Sơn Tây. Được Quang Trung triệu về làm việc ở Thái Y Viện, ông đã xin về hưu để chữa bệnh cứu dân và hoàn thành các công trình y học lớn của mình để lại cho đời sau : Liệu dịch phương pháp toàn tập (chuyên về chữa trị các bệnh truyền nhiễm), Lý âm phương pháp thông lục (chuyên về phụ khoa và sản khoa), Hộ nhi phương pháp tổng lục (chuyên về nhi khoa), Y gia phương pháp tổng lục (chuyên về y lý trị liệu). Ông còn là một nhà thơ và nhà văn. Trước khi mất, ông đã hoàn thành cuốn Thiệp lý sự trạng ghi lại những công việc cứu nhân độ thế trong đời mình.
11.
Thời Nguyễn Sơ (1802-1883)
với
80
năm rực rỡ của văn hóa Phú Xuân
"...
Thời kỳ Nguyễn Sơ đã chứng kiến sự phát triển rực rỡ
của
80 năm văn hóa Phú Xuân trong nhiều lãnh vực ..."
80 năm văn hóa Phú Xuân trong nhiều lãnh vực ..."
Triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc
Triều Nguyễn (1802-1945) là vương triều cuối cùng của thời đại quân chủ Việt Nam.
Với tất cả 13 đời vua, khởi đầu từ Gia Long và kết thúc với Bảo Đại, thời Nguyễn có thể chia ra làm hai giai đoạn : thời Nguyễn Sơ (1802-1883) và thời Nguyễn Mạt - thuộc Pháp (1885-1945).
Sau khi đánh bại triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi, niên hiệu Gia Long, vẫn đặt kinh đô tại Phú Xuân (thành phố Huế ngày nay), đặt quốc hiệu là Việt Nam (1804-1838) rồi Đại Nam (1838-1945). Cương vực nước ta thời Nguyễn tương đương với phần lớn lãnh thổ Việt Nam ngày nay.
Thời kỳ Nguyễn Sơ đã chứng kiến sự phát triển rực rỡ của 80 năm văn hóa Phú Xuân trong nhiều lãnh vực.
Sông Hương, người tình muôn thuở của Phú Xuân-Huế
Quả thật, sông Hương rất diễm lệ. Tự bao đời Hương vẫn lững lờ trôi qua những xóm làng, những nhà vườn xinh tươi, từ làng Nguyệt Biều tới cửa Thuận An. Hương là bản giao hưởng xanh giữa trời và nước, điểm xuyết bằng mảng đỏ hoa phượng, mảng trắng nón bài thơ và tà áo dài nữ học sinh dập dìu trên những nẻo đường, nhịp cầu, bến nước.
Kinh thành Phú Xuân-Huế, chốn "thần kinh"
Đại Nam nhất thống chí đã dành những lời đẹp đẽ và trang trọng để nói về kinh thành Huế:
"Đây là nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng cân phân giữa miền Nam miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng, đường thủy có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ có đèo Ngang với ải Hải Vân chặn ngăn, sông lớn giăng phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuộn, hổ ngồi, hình thế vững chãi, ấy là do trời đất xếp đặt thật xứng là thượng đô của nhà vua".
Các cụm kiến trúc chính trên địa bàn kinh thành là Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, khu Lục Bộ, Khâm Thiên Giám, viện Thương Bạc, lầu Phu Văn, đình Nghinh Lương…
Trung tâm của kinh thành là khu Đại Nội với gần 140 công trình kiến trúc, được xây dựng và trang trí độc đáo : cửa Ngọ Môn, điện Thái Hòa, cung Diên Thọ, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, Triệu Miếu, thư viện Thái Bình Ngự Lãm, nhà hát Duyệt Thị…
Nằm ngoài kinh thành là đàn Nam Giao, Hổ Quyền, Văn Miếu, Võ Miếu, điện Hòn Chén và hàng chục ngôi chùa cổ kính mà nổi tiếng nhất là chùa Thiên Mụ được xây dựng từ 1061.
Xa xa ở phía Nam sông Hương là quần thể các lăng tẫm của sáu vua Nguyễn từ Gia Long tới Khải Định, một thành tựu rực rỡ của nền kiến trúc truyền thống Việt Nam.
Giữa thế kỷ 19, vua Thiệu Trị (1841-1847) đã từng gọi Phú Xuân là chốn Thần Kinh, sau đó người Pháp đã dịch ra là La Merveilleuse Capitale.
Khoa học nhân văn thời Nguyễn Sơ
Nói tới khoa học nhân văn thời này chủ yếu là nói về một nhà bác học bách khoa và hai cơ quan học thuật lớn của triều Nguyễn.
- Phan Huy Chú (1782-1840) là nhà bác học lớn ở thế kỷ 19. Đời làm quan của ông lắm lúc thăng trầm nên ông chán nãn đã xin từ quan về làng dạy học và viết sách. Cống hiến chủ yếu của Phan Huy Chú là công trình biên khảo đồ sộ Lịch triều hiến chương loại chí.
Bộ sách này gồm 49 quyển, chia thành 10 bộ môn: địa lý thiên nhiên và địa lý lịch sử Việt Nam; tiểu sử của các vua chúa, công thần, tướng lãnh và các nhà trí thức danh tiếng trong lịch sử đất nước; chế độ quan chức và guồng máy hành chính; lễ nghi và phẩm phục; chế độ khoa cử; chế độ thuế khóa; luật lệ; cách tổ chức và luyện tập quân đội; thư mục các sách Hán Nôm; chính sách và quan hệ ngoại giao. Lãnh vực nào Phan Huy Chú cũng tập hợp được tài liệu khá đầy đủ và sắp xếp có hệ thống. Đây là bộ bách khoa toàn thư lớn của thời đại quân chủ.
Cơ quan khoa học nhân văn quan trọng nhất thời Nguyễn là Quốc Sử Quán, được thành lập từ 1821, với những công trình quan trọng hàng đầu là :
- Đại Nam thực lục, 560 quyển ;
- Đại Nam liệt truyện, 85 quyển ;
- Đại Nam nhất thống chí, 45 quyển ;
- Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, 53 quyển, trên 4.000 trang, v.v.
Tổng cộng số sách do Quốc Sử Quán khắc in và xuất bản lên tới 68 bộ. Do giá trị khoa học của khối lượng xuất bản phẩm này, Quốc Sử Quán đáng được xem như là viện hàn lâm một thuở.
Cơ quan khoa học nhân văn quan trọng thứ hai của triều Nguyễn là Nội Các, được thành lập năm 1829. Đây là nơi vừa lưu trữ văn thư, vừa tổ chức biên soạn, khắc in và phát hành một số sách của triều Nguyễn.
Công trình đồ sộ nhất của Nội Các là Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, một bộ sách tổng hợp về lịch sử, chính trị và điển chế thời Nguyễn, gồm 262 quyển, khoảng 8.000 trang, được biên soạn từ năm 1843 và hoàn thành năm 1851. Đây là nguồn tư liệu gốc ghi chép khá đầy đủ và tường tận các chiếu chỉ, tấu sớ, chỉ dụ của triều đình liên quan tới Lục Bộ và nhiều cơ quan khác.
Văn học thời Nguyễn Sơ
Văn học thời này gồm hàng chục tác giả, nhưng theo thiển ý có bốn gương mặt lớn tiêu biểu.
- Nguyễn Du (1765-1820) vừa là nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, vừa là danh nhân văn hóa thế giới. Khi Gia Long lên ngôi, ông ra làm quan đến chức Tham Tri bộ Lễ và từng đi sứ Trung Quốc. Là tác giả ba tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du được biết nhiều nhất vì đã viết ba áng văn Nôm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và nhất là Truyện Kiều bất hủ.
Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du ký thác nhiều tâm sự. Ông than thở mình có tài mà phải chịu sống lận đận, từ đó ông cảm thương cho tất cả những con người vì miếng cơm manh áo mà phải vất vả long đong, những con người tài hoa mà bạc mệnh, nhất là những kiếp hồng nhan đa truân.
Truyện Kiều đã nhấn mạnh trên hai chủ đề lớn : tài và mệnh vốn ghen ghét nhau ; phận đàn bà bao giờ cũng đáng thương. Do trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện của tác giả, truyện Kiều đã trở thành áng văn kiệt tác hàng đầu của văn học Việt Nam.
- Cao Bá Quát (1809-1854) vừa là nhà thơ, vừa là thủ lĩnh nông dân. Năm 1853 ông từ bỏ chức quan giáo thụ (dạy học) để về Mỹ Lương (Hà Tây) chiêu tập nông dân nổi lên khởi nghĩa chống triều Nguyễn rồi bị bắn chết tại trận.
Thơ văn của ông tuy thất lạc nhiều nhưng vẫn còn khoảng trên một ngàn bài, phần lớn là thơ chữ Hán. Về chữ Nôm ông đã viết bài phú Tài tử đa cùng nổi tiếng và nhiều bài hát nói tuyệt tác. Cao Bá Quát là con người phóng khoáng, bất khuất, không chịu ép mình vào khuôn phép, lại hay băn khoăn về cuộc sống đau khổ của nhiều hạng người nên ông có hoài bão lớn là lật đổ chế độ chuyên chính đương thời.
Cao Bá Quát sử dụng tiếng Việt một cách độc đáo, tài tình với nhiều hình ảnh mới lạ cho nên mặc dù đã từng khởi nghĩa chống triều đình ông vẫn được Tự Đức đánh giá cao về tài văn chương.
- Miên Thẩm (1819-1870), tước Tùng Thiện Vương, vừa là con vua Minh Mạng vừa là cha vợ của Đoàn Hữu Trưng, thủ lãnh cuộc khởi nghĩa Chày Vôi (1866) đưa dân phu đột nhập vào hoàng cung định giết Tự Đức. Ông sáng tác rất nhiều thơ chữ Hán, tập thơ Thương Sơn gồm 2.000 bài, trong đó ông hoàng này đã nhiều lần phản ánh đời sống lầm than của người dân bị tầng lớp quan lại, phú hộ và cường hào áp bức, bóc lột triền miên.
Sống vào giai đoạn đất nước ta bị Pháp xâm lược, ông đã sáng tác một số bài thơ yêu nước mà cảm động nhất là bài Đọc văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
- Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) là một người theo đạo Công giáo đã từng chu du nhiều nơi trên thế giới như Hongkong, Singapore, Roma, Paris và học được nhiều điều hay của nền văn minh và công nghệ tiên tiến thế giới. Về nước, ông làm phiên dịch tiếng Pháp cho vua Tự Đức. Với tầm nhìn xa trông rộng và nhận thức sâu sắc tình trạng lạc hậu của nước ta, ông đã viết bản điều trần Tám điều cấp cứu nổi tiếng gởi triều đình đề nghị nhanh chóng duy tân đất nước, mở rộng quan hệ ngoại giao với phương Tây và cử người đi học khoa học kỹ thuật để có thể trở nên tự lập, tự cường, nhưng vua quan quá thủ cựu mù quáng đã khước từ tất cả. Sau đó ông còn gởi thêm cho vua bản điều trần đề nghị cải cách, chấn hưng kinh tế, cũng vẫn là tiếng nói trong sa mạc.
Trong kho tàng văn chương chính luận Việt Nam, các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ là những kiệt tác nói lên nhãn quan sáng suốt và tinh thần thực tiễn của một nhà tư tưởng lớn trước các vấn đề của đất nước và thời đại.
Cửu Đỉnh, một đỉnh cao của mỹ thuật Việt Nam
Nói tới mỹ thuật thời này là phải nói tới các di tích lịch sử, văn hóa Huế được UNESCO thừa nhận là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại : các chùa chiền, các lăng tẫm, Hổ Quyền, cầu ngói Thanh Toàn..., trong đó Cửu Đỉnh là kiệt tác mỹ thuật lớn nhất.
Được đúc trong những năm 1835-1837 đời Minh Mạng, đó là những văn vật đã làm kinh ngạc nhiều khách du lịch và nhà văn hóa nước ngoài đến thăm Huế, kể cả những vị khách đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn.
Trong chín cái đỉnh ấy, lớn nhất là đỉnh Cao : cao 2,2 m, đường kính miệng : 1,15 m, đường kính bụng : 1,65 m, nặng : 2.755 kg. Đỉnh Huyền nhỏ nhất cũng cao 1,9 m, đường kính miệng : 1,12 m, đường kính bụng : 1,61 m, nặng 2.017 kg. Nghệ nhân phường đúc ở Huế cùng với nhiều nghệ nhân tài giỏi khác trong cả nước đã sử dụng hơn 20 tấn đồng thau để hoàn thành Cửu Đỉnh, mỗi đỉnh là một công trình tinh xảo với 18 bức chạm nổi tinh vi.
Âm nhạc và múa cung đình thời Nguyễn Sơ
Âm nhạc Phú Xuân gồm âm nhạc cổ điển, âm nhạc dân gian và âm nhạc cung đình.
Âm nhạc cổ điển Phú Xuân gồm ca Huế và đờn Huế, với khoảng 50 tác phẩm cơ bản, chia ra thành hai điệu thức lớn là điệu Bắc và điệu Nam. Điệu Bắc có những bài bản quen thuộc như Cổ Bản, Lộng Điệp, Long Ngâm… Điệu Nam có các bài bản như Nam Ai, Nam Bình, Tương Tư Khúc, Tứ Đại Cảnh...
Trong khi các nữ nghệ nhân ca Huế có những cách nhấn nhá, láy luyến, lấy hơi, đưa hơi điêu luyện thì các nam nhạc công nhạc Huế có những ngón đàn tế nhị tinh vi. Một nghệ nhân tài hoa có thể sử dụng trên đàn tì bà những ngón chày, hưởng, vả, mổ, bấm, bịt, day, chớp, búng, phi, rải...
Nhạc cung đình ngày nay chỉ còn tồn tại ở Huế. Đây là một bộ môn âm nhạc đã được Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ đề cao, gồm có Đại Nhạc và Tiểu Nhạc. Dàn Đại Nhạc gồm kèn, trống, bộ gõ và nhiều cây đàn; dàn Tiểu Nhạc gồm sáo, đàn nguyệt, đàn nhị, tì bà. Nổi tiếng nhất là các bản Phẩm tiết, Nguyên tiêu, Hồ Quảng, Liên hoàn, Bình báng, Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã…
Do tính chất phong phú điêu luyện của nó, nhạc cung đình Phú Xuân-Huế đã được UNESCO công nhận là một bộ phận di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2003.
Bên cạnh nhạc cung đình là múa cung đình với những vũ khúc độc đáo như Bát dật, Lục cúng, Tam tinh chúc thọ, Bát tiên hiến thọ, Trình tường tập khánh, Nữ tướng xuất quân, Tứ linh, Vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng...
Nghệ thuật ẩm thực cung đình và dân gian Huế
Huế là vùng đất không rộng nhưng có đủ các yếu tố rừng núi, đồng bằng, sông biển và đầm phá nên rất đa dạng và phong phú về nguồn thực phẩm trong thiên nhiên suốt cả bốn mùa. Huế cũng là nơi kinh kỳ phồn hoa đô hội trong nhiều thế kỷ cho nên nhu cầu ẩm thực được nâng cao để rồi biến thành nghệ thuật ẩm thực cung đình và dân gian của xứ Huế.
Món ăn quý tộc gồm những cao lương mỹ vị mà thuở xưa chỉ có trong cung đình và giới thượng lưu mới được hưởng thụ. Còn món ăn bình dân tuy chất liệu thông dụng, giản dị nhưng do chế biến tinh tế đã trở thành những món ăn đặc sắc, đậm đà hương vị. Trong khoảng gần một ngàn món ăn Huế, có 300 món mặn, 125 món chay, 120 món chè, cháo, bánh, mứt, 60 món dưa, mắm, muối, nước chấm, nhiều loại gia vị và nhiều loại rau sống, v.v.
Cách trình bày món ăn Huế phải thể hiện dưới hình thức đẹp đẽ, trang nhã, rực rỡ như bức tranh hài hòa, nhiều màu sắc làm tăng phần ngon miệng cho người ăn.
Tinh hoa của nghệ thuật ẩm thực Huế là do sự kết hợp giữa chất liệu phong phú và thao tác chế biến tinh tế cầu kỳ do bàn tay khéo léo của người nấu ăn là những phụ nữ Huế tài hoa đã biến những món ăn thanh đạm bình thường vượt khỏi mức giản dị đơn sơ để vươn lên trở thành những món ăn tuyệt ngon và đậm đà phong cách Huế.
12.
Thời Nguyễn Mạt - thuộc Pháp (1885-1945)
với
60
năm phong phú của văn hóa Việt Nam cận hiện đại
"...
do tác động của chính sách khai thác thuộc địa và ảnh
hưởng của văn hóa, văn minh Pháp và phương Tây, nền kinh
tế, văn hóa và xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến lớn
theo hướng hiện đại hóa ..."
Thời Nguyễn Mạt - thuộc Pháp trong lịch sử
Thời này kéo dài 60 năm, từ khi kinh đô Phú Xuân - Huế thất thủ (1885) tới lúc Bảo Đại thoái vị (tháng 8-1945), gồm ba vua chính thức : Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đều bị Pháp đày qua Algérie và đảo Réunion, còn lại là ba vua bù nhìn do Pháp đặt để : Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại.
Tác dụng quan trọng của thời này là, do tác động của chính sách khai thác thuộc địa và ảnh hưởng của văn hóa, văn minh Pháp và phương Tây, nền kinh tế, văn hóa và xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến lớn theo hướng hiện đại hóa.
Đặc biệt thời này cũng là 60 năm phong phú của văn hóa Việt Nam cận hiện đại trong nhiều lãnh vực khác nhau.
Sự ra đời và bước đầu phát triển của nền báo chí Việt Nam (1865-1945)
Tờ đầu tiên là Gia Định báo, ra ngày 1-2-1865 tại Sài Gòn, do Trương Vĩnh Ký phụ trách. Tờ thứ hai là Phan Yên báo, do Diệp Văn Can phụ trách. Tờ thứ ba là Nông Cổ Mín Đàm. Đến năm 1919 xuất hiện tờ Lục Tỉnh tân văn, do Nguyễn Háo Vĩnh làm chủ bút. Đây là tờ báo ra hàng ngày và viết toàn bằng chữ quốc ngữ. Ở miền Bắc, tờ báo đầu tiên bằng quốc ngữ kèm chữ Hán là tờ Đại Việt tân báo, do Đào Nguyên Phổ làm chủ bút. Sau đó là các tờ Đăng Cổ tùng báo(1908 do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút), Đông Dương tạp chí (1913, do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ nhiệm), Nam Phong tạp chí (1917 do Phạm Quỳnh làm chủ bút.
Ở miền Trung, Huỳnh Thúc Kháng ra tờ Tiếng Dân (1927-1943).
Trước 1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng có hai tờ báo Khúc Tiêu Sầu và Con Đường Chính. Về mặt khoa học nhân văn, quan trọng nhất là hai tạp chí Thanh Nghị và Tri Tân (1941-1945).
Văn học dân gian, văn học cổ điển và văn học chống Pháp
Sau 1885, nhiều tác phẩm dân gian xuất hiện, đặc sắc nhất là Vè thất thủ kinh đô là áng vè lịch sử bằng chữ Nôm dài khoảng 2.000 câu, một tác phẩm của dân chúng Thừa Thiên-Huế.
Văn học cổ điển rất phong phú, gồm hơn 50 tác giả. Nguyễn Đình Chiểu (1822-1880) là tác giả truyện nôm Lục Vân Tiên (1862) dài 2.076 câu lục bát. Kế là Nguyễn Khuyến (1835-1909) và Tú Xương (tức Trần Tế Xương, 1870-1907) là hai nhà thơ trào phúng tài tình nhất cuối thế kỷ 19. Nguyễn Khuyến còn là nhà thơ hàng đầu viết về thiên nhiên và nông thôn Việt Nam. Tàn Đà (Nguyễn Khắc Hiếu, 1888-1939) được xem như dấu nối giữa lớp các nhà thơ cổ điển và lớp các nhà thơ mới trước 1945. Trần Tuấn Khải (1895-1983) viết được một số bài thơ trữ tình sâu sắc.
Văn học chống Pháp thời này đã có những tên tuổi như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926), Nguyễn An Ninh (1899-1943), Phan Văn Hùm (1902-1945), Tạ Thu Thâu (1905-1945).
Hai hiện tượng văn học lớn : Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới
Tự Lực Văn Đoàn ra đời năm 1932 và hoạt động cho tới mùa thu 1945, do hai nhà văn Nhất Linh và Khái Hưng sáng lập, gồm Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, Xuân Diệu, Trần Tiêu…
Văn đoàn chủ trương tuyên truyền cải tạo xã hội, đòi bãi bỏ hủ tục ở nông thôn, giải phóng phụ nữ, cổ võ tự do yêu đương và tự do hôn nhân. Văn đoàn đã thành công khi phê phán lễ giáo cũ, đả kích chế độ gia trưởng, mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng và cảm thông với những người nghèo khổ nhất trong xã hội.
Văn đoàn đã tặng giải thưởng cho nhiều nhà văn, nhà thơ lớn đương thời và xuất bản nhiều tác phẩm hay, đi sâu vào tâm hồn nhân vật, đề cao những truyền thống tốt đẹp của gia đình và xã hội với lời văn thanh thoát, nhẹ nhàng và trong sáng.
Thơ Mới ra đời trong thập niên 1930. Tình Già của Phan Khôi là bài thơ mới đầu tiên đăng trên Phụ Nữ Tân Văn ngày 10-3-1932 ; tiếp đó một loạt nhà thơ trẻ xuất hiện, viết báo ca tụng thơ mới, đả kích thơ cũ và công bố những bài thơ mới hấp dẫn. Về hình thức, thơ mới không hạn chế số câu số chữ, không có niêm luật, không có phép đối. Về nội dung thơ mới khác thơ cũ chủ yếu về tâm tư tình cảm. Mỗi nhà thơ một vẻ, họ ca ngợi phong cảnh thiên nhiên, say sưa với sắc đẹp và tình yêu lãng mạn, hoặc đi tìm cuộc sống giang hồ phiêu lãng trong mơ mộng, hay gởi hồn vào trong những trầm tư triết học và tôn giáo.
Nhà thơ mới nào cũng muốn phô bày những cảm nghĩ chân thực nhất. Những nhà thơ mới được biết tới nhiều là Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Xuân Diêu, Huy Cận, Huy Thông, Tế Hanh, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Nhược Pháp… Họ đã để lại cho nền văn học Việt Nam những áng thơ bất hủ rất mới mẻ cả về xúc cảm lẫn phong cách và ngôn ngữ.
Khoa học nhân văn thời Nguyễn Mạt
Huình Tịnh Của (1834-1907) là người đầu tiên giới thiệu văn hóa Việt Nam bằng chữ quốc ngữ, ông là tác giả của Truyện giải buồn, Tục ngữ cổ ngữ gia ngôn, Sách gia lễ, Sách quan chế, Phép toán, Phép đo…, phiên âm một loạt truyện nôm từ Thoại Khanh - Châu Tuấn tới Chinh Phụ Ngâm, quan trọng nhất là Đại Nam quốc âm tự vị (1895-1896) cuốn tự điển tiếng Việt bằng quốc ngữ đầu tiên cắt nghĩa các từ bằng tiếng Việt.
Trương Vĩnh Ký (1837-1894) đã để lại một sự nghiệp văn hóa lớn: 118 tác phẩm lớn nhỏ, cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Biết vững vàng 11 ngôn ngữ châu Á, 15 sinh ngữ và tử ngữ phương Tây, ông đã soạn nhiều tự điển, kể cả Tự điển danh nhân An Nam, cùng với Sử ký An Nam, Chuyện khôi hài, Chuyện đời xưa, Hát, Lý, Hò An Nam, Phép lịch sự An Nam... Nói tóm lại, ông đã đóng góp phần thật to lớn cho sự phát triển văn chương quốc ngữ và bảo tồn di sản văn hóa nước nhà trong thời kỳ thành lập nền quốc văn mới cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), chủ bút của nhiều tờ báo tiếng Việt và tiếng Pháp, đã xây dựng tủ sách Âu Tây tư tưởng, đã dịch ra tiếng Việt nhiều tác phẩm lớn của nền văn học Pháp, từ Molière, La Fontaine tới Victor Hugo, Honoré de Balzac... Văn dịch thuật của ông thông thoát và giản dị, đã ảnh hưởng nhiều tới nền quốc văn đương thời. Ông còn là người đầu tiên dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp.
Phạm Quỳnh (1892-1945) đã cho ra đời một khối lượng công trình biên khảo đồ sộ, được tập hợp lại trong hai bộ Nam Phong tùng thư và Thượng Chi văn tập. Ông đã có công giới thiệu và dịch thuật nhiều tác giả văn học, triết học Pháp. Công trình lớn lao nhất là tạp chí Nam Phong (1917-1934) đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần ở nước ta đầu thế kỷ 20 trong việc phổ biến tư tưởng và văn hóa Á-Âu.
Trần Trọng Kim (1887-1953) là một học giả uyên bác, tác giả của Nho giáo, Lão giáo, Phật lục, Vũ trụ đại quan, Đường thi, Việt thi, Việt Nam văn phạm (viết chung với Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm)... Công trình có giá trị và được phổ biến rộng rãi là cuốn Việt Nam sử lược.
Đào Duy Anh (1904-1988) là nhà nghiên cứu văn hóa đã để lại cho chúng ta Đất nước Việt Nam qua các đời, Nguyễn Trãi toàn tập, Tự điển truyện Kiều, Chữ Nôm nguồn gốc cấu trúc và diễn biến…
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) là tác giả của những cuốn Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu Tử, Chinh phụ ngâm bị khảo…
Trần Văn Giáp (1902-1973) đã viết Phật giáo Việt Nam, Tìm hiểu kho sách Hán-Nôm, Luợc truyện các tác giả Việt Nam…
Nguyễn Văn Huyên (1908-1975), nhà dân tộc lớn nửa đầu thế kỷ 20, đã để lại nhiều công trình nghiên cứu đặc sắc như Hát đối đáp của thanh niên thiếu nữ tại Việt Nam, Hội đền Phù Đổng, Thành Hoàng Lý Phục Man…
Mỹ thuật
Có ba công trình kiến trúc lớn phải nhắc tới :
- Nhà thờ Phát Diệm là một quần thể gồm 5 nhà thờ, mỗi ngôi mỗi kiểu cách, dung hòa hai truyền thống mỹ thuật Đông và Tây. Tạo ra công trình này là linh mục Sáu, người đã lãnh đạo công cuộc xây dựng trong suốt 23 năm (1876-1899). Nhà thờ này đẹp ở sự quí trọng và đề cao truyền thống kiến trúc của dân tộc nên nó rất giống một ngôi đình Việt Nam qui mô lớn.
- Lăng Khải Định được xây dựng từ 1920 tới 1931 mới xong. Từ dưới đi lên lăng phải trèo 109 bậc để tới ba lớp mặt lăng. Lớp thứ nhất có hai điện, lớp thứ hai có bái đình và hai tượng chầu, nhà bia và bia đá. Từ bái đình phải leo thêm 47 bậc mới tới điện Thiên Định thờ vua.
- Gác Khuê Văn được xây dựng năm 1805 trong khuôn viên Văn miếu-Quốc tử giám. Tuy không to lớn lắm nhưng có tỷ lệ hài hòa, đây là một công trình nhẹ nhàng và thông thoáng, hòa hợp hoàn hảo với phong cảnh thiên nhiên chung quanh…
Cũng cần phải nói tới Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (1925-1945) là một trường đại học gồm ba ban hội họa, điêu khắc và kiến trúc. Victor Tardieu, giám đốc đầu tiên của trường, là người biết tôn trọng truyền thống mỹ thuật Việt Nam : ôÂng đã tích cực đề cao và khuyến khích môn vẽ tranh lụa. Một giáo sư Pháp khác là Inguimberty, giảng dạy hai môn sơn dầu và trang trí, đã góp phần cùng với các giáo sư và sinh viên của trường vào công cuộc sáng tạo nghệ thuật sơn mài Việt Nam.
Nghệ thuật sân khấu
Ba thành tựu lớn của ngành này là sự phát triển của hát bội và sự ra đời của nghệ thuật cải lương và kịch nói.
Nghệ thuật hát bội thời Nguyễn Mạt đã phát triển mạnh nhờ hai nghệ sĩ tên tuổi :
- Đào Tấn (1845-1907), người đã chỉnh lý các tuồng cổ như Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương và sáng tác nhiều vở tuồng mới như Diễn võ đình, Trầm hương các... ;
- Nguyễn Hiển Dĩnh (1853-1926) vừa là nghệ nhân vừa là tác giả nhiều vở tuồng nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Võ Hùng Vương (tức là vở Ngoại tổ dâng đầu)… và vở tuồng hài Trương Đồ Nhục với lời văn nôm na gần với văn học dân gian nên rất được quần chúng ái mộ.
Sân khấu cải lương ra đời vào thập niên 1920, gắn liền với tên tuổi những nghệ sĩ lớn như Cao Văn Lầu, Năm Châu, Năm Phỉ, Phùng Há, Ba Du, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Tám Danh, Út Trà Ôn, Uùt Bạch Lan, Nhị Kiều, Bảy Bá (tức Viễn Châu)… với những vở diễn nổi tiếng như Phụng Nghi Đình, Tô Ánh Nguyệt, Nửa Đời Hương Phấn, Lan và Điệp…
Khoảng mươi năm sau khi cải lương ra đời ở miền Nam thì nghệ thuật kịch nói xuất hiện ở Hà Nội trong thời khoảng 1932-1945, do ảnh hưởng của nền kịch nghệ Pháp với những bậc thầy như Alfred de Musset, Sacha Guitry... Những nhà soạn kịch Việt Nam đầu tiên như Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ… đều nhận mình là học trò của họ. Từ những năm 1932-1935 đã xuất hiện những vở kịch rất ăn khách như Nghệ sĩ hồn, Mơ hoa, Gái không chồng, Cuối mùa… của hai nghệ sĩ nói trên. Đến 1936 Thế Lữ và một số nghệ sĩ khác đã thành lập ban kịch Tinh Hoa. Rồi hàng loạt kịch thơ ra đời mở đầu là Tiếng địch sông Ô của Huy Thông.
Sự ra đời của tân nhạc (1935-1945)
Sự ra đời của tân nhạc gồm hai giai đoạn : thời kỳ mở lối (1935-1938) và thời kỳ phát triển (1938-1945).
Trong thời gian đầu, các nhạc sĩ dùng các điệu nhạc, bài ca thời thượng của nhạc ngoại, đặt lời Việt phổ biến, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Trong số đó, có bài Hà nhật quân tái lai, ca khúc Trung Hoa, Shina No Yoru, ca khúc Nhật, nhiều bài ca Pháp như J'ai deux amours, các sáng tác của Vincent Scotto do Tino Rossi trình diễn trong phim và trên sân khấu. Cũng có lời ca Việt cho một số nhạc phẩm cổ điển như Dạ khúc (Shubert), Trở về mái nhà xưa (Retour à Soriento)...
Tiếp đến là sự ra đời của vài bản nhạc ngắn thuần Việt còn thô kém như Thu trên đảo Kinh Châu ; mấy bài đó nhanh chóng chìm vào quên lãng trước các sáng tác tài danh của Đặng Thế Phong, Tô Vũ, Văn Cao, Phạm Duy, Lê Thương, Doãn Mẫn, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Hoàng Trọng... Mở đầu những bản hùng ca có Hoàng Quý, Lê Hữu Mục, Hùng Lân ; rồi những bản nhạc kích thích tinh thần dân tộc do Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Điểu... Một tuyên ngôn về nhạc mới đã cổ xúy cho phong trào tân nhạc do ba người ký : Lưu Hữu Phướùc, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn. Phạm Duy là nhạc sĩ hát rong nổi tiếng ở khắp ba kỳ. Tất cả đã xây dựng nền móng vững chắc cho tân nhạc Việt Nam.
Thời này kéo dài 60 năm, từ khi kinh đô Phú Xuân - Huế thất thủ (1885) tới lúc Bảo Đại thoái vị (tháng 8-1945), gồm ba vua chính thức : Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đều bị Pháp đày qua Algérie và đảo Réunion, còn lại là ba vua bù nhìn do Pháp đặt để : Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại.
Tác dụng quan trọng của thời này là, do tác động của chính sách khai thác thuộc địa và ảnh hưởng của văn hóa, văn minh Pháp và phương Tây, nền kinh tế, văn hóa và xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến lớn theo hướng hiện đại hóa.
Đặc biệt thời này cũng là 60 năm phong phú của văn hóa Việt Nam cận hiện đại trong nhiều lãnh vực khác nhau.
Sự ra đời và bước đầu phát triển của nền báo chí Việt Nam (1865-1945)
Tờ đầu tiên là Gia Định báo, ra ngày 1-2-1865 tại Sài Gòn, do Trương Vĩnh Ký phụ trách. Tờ thứ hai là Phan Yên báo, do Diệp Văn Can phụ trách. Tờ thứ ba là Nông Cổ Mín Đàm. Đến năm 1919 xuất hiện tờ Lục Tỉnh tân văn, do Nguyễn Háo Vĩnh làm chủ bút. Đây là tờ báo ra hàng ngày và viết toàn bằng chữ quốc ngữ. Ở miền Bắc, tờ báo đầu tiên bằng quốc ngữ kèm chữ Hán là tờ Đại Việt tân báo, do Đào Nguyên Phổ làm chủ bút. Sau đó là các tờ Đăng Cổ tùng báo(1908 do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút), Đông Dương tạp chí (1913, do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ nhiệm), Nam Phong tạp chí (1917 do Phạm Quỳnh làm chủ bút.
Ở miền Trung, Huỳnh Thúc Kháng ra tờ Tiếng Dân (1927-1943).
Trước 1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng có hai tờ báo Khúc Tiêu Sầu và Con Đường Chính. Về mặt khoa học nhân văn, quan trọng nhất là hai tạp chí Thanh Nghị và Tri Tân (1941-1945).
Văn học dân gian, văn học cổ điển và văn học chống Pháp
Sau 1885, nhiều tác phẩm dân gian xuất hiện, đặc sắc nhất là Vè thất thủ kinh đô là áng vè lịch sử bằng chữ Nôm dài khoảng 2.000 câu, một tác phẩm của dân chúng Thừa Thiên-Huế.
Văn học cổ điển rất phong phú, gồm hơn 50 tác giả. Nguyễn Đình Chiểu (1822-1880) là tác giả truyện nôm Lục Vân Tiên (1862) dài 2.076 câu lục bát. Kế là Nguyễn Khuyến (1835-1909) và Tú Xương (tức Trần Tế Xương, 1870-1907) là hai nhà thơ trào phúng tài tình nhất cuối thế kỷ 19. Nguyễn Khuyến còn là nhà thơ hàng đầu viết về thiên nhiên và nông thôn Việt Nam. Tàn Đà (Nguyễn Khắc Hiếu, 1888-1939) được xem như dấu nối giữa lớp các nhà thơ cổ điển và lớp các nhà thơ mới trước 1945. Trần Tuấn Khải (1895-1983) viết được một số bài thơ trữ tình sâu sắc.
Văn học chống Pháp thời này đã có những tên tuổi như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926), Nguyễn An Ninh (1899-1943), Phan Văn Hùm (1902-1945), Tạ Thu Thâu (1905-1945).
Hai hiện tượng văn học lớn : Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới
Tự Lực Văn Đoàn ra đời năm 1932 và hoạt động cho tới mùa thu 1945, do hai nhà văn Nhất Linh và Khái Hưng sáng lập, gồm Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, Xuân Diệu, Trần Tiêu…
Văn đoàn chủ trương tuyên truyền cải tạo xã hội, đòi bãi bỏ hủ tục ở nông thôn, giải phóng phụ nữ, cổ võ tự do yêu đương và tự do hôn nhân. Văn đoàn đã thành công khi phê phán lễ giáo cũ, đả kích chế độ gia trưởng, mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng và cảm thông với những người nghèo khổ nhất trong xã hội.
Văn đoàn đã tặng giải thưởng cho nhiều nhà văn, nhà thơ lớn đương thời và xuất bản nhiều tác phẩm hay, đi sâu vào tâm hồn nhân vật, đề cao những truyền thống tốt đẹp của gia đình và xã hội với lời văn thanh thoát, nhẹ nhàng và trong sáng.
Thơ Mới ra đời trong thập niên 1930. Tình Già của Phan Khôi là bài thơ mới đầu tiên đăng trên Phụ Nữ Tân Văn ngày 10-3-1932 ; tiếp đó một loạt nhà thơ trẻ xuất hiện, viết báo ca tụng thơ mới, đả kích thơ cũ và công bố những bài thơ mới hấp dẫn. Về hình thức, thơ mới không hạn chế số câu số chữ, không có niêm luật, không có phép đối. Về nội dung thơ mới khác thơ cũ chủ yếu về tâm tư tình cảm. Mỗi nhà thơ một vẻ, họ ca ngợi phong cảnh thiên nhiên, say sưa với sắc đẹp và tình yêu lãng mạn, hoặc đi tìm cuộc sống giang hồ phiêu lãng trong mơ mộng, hay gởi hồn vào trong những trầm tư triết học và tôn giáo.
Nhà thơ mới nào cũng muốn phô bày những cảm nghĩ chân thực nhất. Những nhà thơ mới được biết tới nhiều là Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Xuân Diêu, Huy Cận, Huy Thông, Tế Hanh, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Nhược Pháp… Họ đã để lại cho nền văn học Việt Nam những áng thơ bất hủ rất mới mẻ cả về xúc cảm lẫn phong cách và ngôn ngữ.
Khoa học nhân văn thời Nguyễn Mạt
Huình Tịnh Của (1834-1907) là người đầu tiên giới thiệu văn hóa Việt Nam bằng chữ quốc ngữ, ông là tác giả của Truyện giải buồn, Tục ngữ cổ ngữ gia ngôn, Sách gia lễ, Sách quan chế, Phép toán, Phép đo…, phiên âm một loạt truyện nôm từ Thoại Khanh - Châu Tuấn tới Chinh Phụ Ngâm, quan trọng nhất là Đại Nam quốc âm tự vị (1895-1896) cuốn tự điển tiếng Việt bằng quốc ngữ đầu tiên cắt nghĩa các từ bằng tiếng Việt.
Trương Vĩnh Ký (1837-1894) đã để lại một sự nghiệp văn hóa lớn: 118 tác phẩm lớn nhỏ, cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Biết vững vàng 11 ngôn ngữ châu Á, 15 sinh ngữ và tử ngữ phương Tây, ông đã soạn nhiều tự điển, kể cả Tự điển danh nhân An Nam, cùng với Sử ký An Nam, Chuyện khôi hài, Chuyện đời xưa, Hát, Lý, Hò An Nam, Phép lịch sự An Nam... Nói tóm lại, ông đã đóng góp phần thật to lớn cho sự phát triển văn chương quốc ngữ và bảo tồn di sản văn hóa nước nhà trong thời kỳ thành lập nền quốc văn mới cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), chủ bút của nhiều tờ báo tiếng Việt và tiếng Pháp, đã xây dựng tủ sách Âu Tây tư tưởng, đã dịch ra tiếng Việt nhiều tác phẩm lớn của nền văn học Pháp, từ Molière, La Fontaine tới Victor Hugo, Honoré de Balzac... Văn dịch thuật của ông thông thoát và giản dị, đã ảnh hưởng nhiều tới nền quốc văn đương thời. Ông còn là người đầu tiên dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp.
Phạm Quỳnh (1892-1945) đã cho ra đời một khối lượng công trình biên khảo đồ sộ, được tập hợp lại trong hai bộ Nam Phong tùng thư và Thượng Chi văn tập. Ông đã có công giới thiệu và dịch thuật nhiều tác giả văn học, triết học Pháp. Công trình lớn lao nhất là tạp chí Nam Phong (1917-1934) đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần ở nước ta đầu thế kỷ 20 trong việc phổ biến tư tưởng và văn hóa Á-Âu.
Trần Trọng Kim (1887-1953) là một học giả uyên bác, tác giả của Nho giáo, Lão giáo, Phật lục, Vũ trụ đại quan, Đường thi, Việt thi, Việt Nam văn phạm (viết chung với Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm)... Công trình có giá trị và được phổ biến rộng rãi là cuốn Việt Nam sử lược.
Đào Duy Anh (1904-1988) là nhà nghiên cứu văn hóa đã để lại cho chúng ta Đất nước Việt Nam qua các đời, Nguyễn Trãi toàn tập, Tự điển truyện Kiều, Chữ Nôm nguồn gốc cấu trúc và diễn biến…
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) là tác giả của những cuốn Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu Tử, Chinh phụ ngâm bị khảo…
Trần Văn Giáp (1902-1973) đã viết Phật giáo Việt Nam, Tìm hiểu kho sách Hán-Nôm, Luợc truyện các tác giả Việt Nam…
Nguyễn Văn Huyên (1908-1975), nhà dân tộc lớn nửa đầu thế kỷ 20, đã để lại nhiều công trình nghiên cứu đặc sắc như Hát đối đáp của thanh niên thiếu nữ tại Việt Nam, Hội đền Phù Đổng, Thành Hoàng Lý Phục Man…
Mỹ thuật
Có ba công trình kiến trúc lớn phải nhắc tới :
- Nhà thờ Phát Diệm là một quần thể gồm 5 nhà thờ, mỗi ngôi mỗi kiểu cách, dung hòa hai truyền thống mỹ thuật Đông và Tây. Tạo ra công trình này là linh mục Sáu, người đã lãnh đạo công cuộc xây dựng trong suốt 23 năm (1876-1899). Nhà thờ này đẹp ở sự quí trọng và đề cao truyền thống kiến trúc của dân tộc nên nó rất giống một ngôi đình Việt Nam qui mô lớn.
- Lăng Khải Định được xây dựng từ 1920 tới 1931 mới xong. Từ dưới đi lên lăng phải trèo 109 bậc để tới ba lớp mặt lăng. Lớp thứ nhất có hai điện, lớp thứ hai có bái đình và hai tượng chầu, nhà bia và bia đá. Từ bái đình phải leo thêm 47 bậc mới tới điện Thiên Định thờ vua.
- Gác Khuê Văn được xây dựng năm 1805 trong khuôn viên Văn miếu-Quốc tử giám. Tuy không to lớn lắm nhưng có tỷ lệ hài hòa, đây là một công trình nhẹ nhàng và thông thoáng, hòa hợp hoàn hảo với phong cảnh thiên nhiên chung quanh…
Cũng cần phải nói tới Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (1925-1945) là một trường đại học gồm ba ban hội họa, điêu khắc và kiến trúc. Victor Tardieu, giám đốc đầu tiên của trường, là người biết tôn trọng truyền thống mỹ thuật Việt Nam : ôÂng đã tích cực đề cao và khuyến khích môn vẽ tranh lụa. Một giáo sư Pháp khác là Inguimberty, giảng dạy hai môn sơn dầu và trang trí, đã góp phần cùng với các giáo sư và sinh viên của trường vào công cuộc sáng tạo nghệ thuật sơn mài Việt Nam.
Nghệ thuật sân khấu
Ba thành tựu lớn của ngành này là sự phát triển của hát bội và sự ra đời của nghệ thuật cải lương và kịch nói.
Nghệ thuật hát bội thời Nguyễn Mạt đã phát triển mạnh nhờ hai nghệ sĩ tên tuổi :
- Đào Tấn (1845-1907), người đã chỉnh lý các tuồng cổ như Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương và sáng tác nhiều vở tuồng mới như Diễn võ đình, Trầm hương các... ;
- Nguyễn Hiển Dĩnh (1853-1926) vừa là nghệ nhân vừa là tác giả nhiều vở tuồng nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Võ Hùng Vương (tức là vở Ngoại tổ dâng đầu)… và vở tuồng hài Trương Đồ Nhục với lời văn nôm na gần với văn học dân gian nên rất được quần chúng ái mộ.
Sân khấu cải lương ra đời vào thập niên 1920, gắn liền với tên tuổi những nghệ sĩ lớn như Cao Văn Lầu, Năm Châu, Năm Phỉ, Phùng Há, Ba Du, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Tám Danh, Út Trà Ôn, Uùt Bạch Lan, Nhị Kiều, Bảy Bá (tức Viễn Châu)… với những vở diễn nổi tiếng như Phụng Nghi Đình, Tô Ánh Nguyệt, Nửa Đời Hương Phấn, Lan và Điệp…
Khoảng mươi năm sau khi cải lương ra đời ở miền Nam thì nghệ thuật kịch nói xuất hiện ở Hà Nội trong thời khoảng 1932-1945, do ảnh hưởng của nền kịch nghệ Pháp với những bậc thầy như Alfred de Musset, Sacha Guitry... Những nhà soạn kịch Việt Nam đầu tiên như Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ… đều nhận mình là học trò của họ. Từ những năm 1932-1935 đã xuất hiện những vở kịch rất ăn khách như Nghệ sĩ hồn, Mơ hoa, Gái không chồng, Cuối mùa… của hai nghệ sĩ nói trên. Đến 1936 Thế Lữ và một số nghệ sĩ khác đã thành lập ban kịch Tinh Hoa. Rồi hàng loạt kịch thơ ra đời mở đầu là Tiếng địch sông Ô của Huy Thông.
Sự ra đời của tân nhạc (1935-1945)
Sự ra đời của tân nhạc gồm hai giai đoạn : thời kỳ mở lối (1935-1938) và thời kỳ phát triển (1938-1945).
Trong thời gian đầu, các nhạc sĩ dùng các điệu nhạc, bài ca thời thượng của nhạc ngoại, đặt lời Việt phổ biến, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Trong số đó, có bài Hà nhật quân tái lai, ca khúc Trung Hoa, Shina No Yoru, ca khúc Nhật, nhiều bài ca Pháp như J'ai deux amours, các sáng tác của Vincent Scotto do Tino Rossi trình diễn trong phim và trên sân khấu. Cũng có lời ca Việt cho một số nhạc phẩm cổ điển như Dạ khúc (Shubert), Trở về mái nhà xưa (Retour à Soriento)...
Tiếp đến là sự ra đời của vài bản nhạc ngắn thuần Việt còn thô kém như Thu trên đảo Kinh Châu ; mấy bài đó nhanh chóng chìm vào quên lãng trước các sáng tác tài danh của Đặng Thế Phong, Tô Vũ, Văn Cao, Phạm Duy, Lê Thương, Doãn Mẫn, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Hoàng Trọng... Mở đầu những bản hùng ca có Hoàng Quý, Lê Hữu Mục, Hùng Lân ; rồi những bản nhạc kích thích tinh thần dân tộc do Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Điểu... Một tuyên ngôn về nhạc mới đã cổ xúy cho phong trào tân nhạc do ba người ký : Lưu Hữu Phướùc, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn. Phạm Duy là nhạc sĩ hát rong nổi tiếng ở khắp ba kỳ. Tất cả đã xây dựng nền móng vững chắc cho tân nhạc Việt Nam.
Sưu tầm: Nguồn ông Lê Văn Hảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét