Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Hành trình trở về thời đại Hùng Vương dựng nước

MỞ ĐẦU

THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG: NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ TỰ HÀO DÂN TỘC

Từ 1959 đến nay, nghiên cứu thời đại Hùng Vương dựng nước là một công trình khoa học lớn:
- Đã phát hiện, thăm dò, khai quật phân tích hơn 200 di chỉ khảo cổ .
- Đã tổ chức 4 hội nghị khoa học chuyên đề (1969-1971). Đã xuất bản:
- Thời đại Hùng Vương (nhiều tác giả), nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971 (tái bản 1975), 271 trang. Giải thưởng Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (đã in lại tại Pháp, Nhật, Ca-na-đa).
- Hùng Vương dựng nước (nhiều tác giả), nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 4 tập, 1970-1974, 1460 trang. Giải thưởng Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam.
- Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam (nhiều tác giả),viện bảo tàng lịch sử xuất bản, Hà Nội, 1975 v.v...
- Đã triển khai các cuộc triển lãm lớn: "Thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên" tại viện Bảo tàng lịch sử và tại nhà Bảo tàng Đền Hùng, triển lãm lưu động về thời đại Hùng Vương tại thành phố Hồ Chí Minh, Huế và nhiều tỉnh, thành phố, thị xã khác trong cả nước.

Những thành tựu đấu tiên của khảo cổ học ở các tỉnh phía Nam ở các di chỉ nổi tiếng như Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Dốc Chùa (Sông Bé)... đang góp phần thôi thúc các nhà nghiên cứu trở lại một lần nữa, ra sức tìm hiểu văn minh và lịch sử thời các vua Hùng. Đúng là mọi vấn đề của cuộc sống đến lúc chín muồi thì tự nó đòi hỏi phải được đặt ra, được giải quyết, và có sẵn điều kiện để giải quyết. Giới khoa học lịch sử Việt Nam hiện nay chủ trương một lần nữa tập trung lực lượng đẩy mạnh công tác nghiên cứu tìm hiểu sâu sắc thêm thời đại lịch sử các vua Hùng dựng nước là đáp ứng một yêu cầu phát triển khoa học nội tại.
Lê Văn Hảo
Nguyên hội viên Hội Á Châu Paris
CHƯƠNG I  
TỪ TRONG MÂY MÙ HUYỀN THOẠI ĐẾN HIỆN THỰC LỊCH SỬ

Liên tiếp trong mấy chục năm ròng, giới khoa học lịch sử Việt Nam, đã tập trung nhiều cố gắng để xem xét lại hàng loạt vấn đề về thời đại Hùng Vương bấy lâu nay chưa sáng rõ. Hàng trăm công trường khảo cổ đã được mở ra trên khắp mọi miền đắt nước.

Chỉ riêng miền Trung du và phía bắc châu thổ sông Hồng - nơi mà sử cũ và truyền thuyết gọi là đất Văn Lang hay Phong Châu - địa bàn của các vua Hùng, đã phát hiện được hàng trăm di tích, địa điểm cư trú, mộ táng, "công xưởng", nơi chôn dấu tài sản, cùng hàng vạn di vật của tổ tiên. Hàng nghìn di tích tín ngưỡng và phong tục cổ liên quan đến thời Hùng Vương cũng đã được kiểm kê, sưu tầm để gắng xuyên qua hư ảo mà nhận diện hiện thực của quá khứ. Hàng nghìn trang văn trong kho sử cũ cũng được lật lại, soi rọi bằng những cách nhìn mới. Hàng trăm sáng tác dân gian về thời Hùng Vương cũng được ghi chép thêm, phân tích lại để tìm cái lõi cốt của sự thực lịch sử náu mình sau mây mù huyền thoại.

Tiếng nói và tên gọi con người, sự việc, đất đai, sông núi ... được bảo lưu trong ngôn ngữ cận hiện đại hoặc trong tư liệu cổ cũng được huy động, tìm tòi để khôi phục lại những âm thanh, ngôn từ của tổ tiên cùng ý nghĩa, giá trị của nó.

Hàng trăm bộ xương, đầu sọ của người cổ được lòng đất gìn giữ cũng đã được khai quật, đo, tính, để tìm lại hình hài, loài giống của tổ tiên. Sau cùng, nhiều ngành khoa học tự nhiên, nghiên cứu từ đất đai, cây cỏ đến động vật, cũng tham gia đóng góp những đường nét cho bối cảnh của đời sống người xưa.

Tất cả những ngành và liên ngành khoa học đó, sử dụng những phương pháp chuyên môn của mình, đã tạo ra những luồng sáng khác nhau từ nhiều chiều hướng cùng rọi chiếu vào một điểm, để cuối cùng, dưới ánh sáng của một năng lượng nghiên cứu tổng hợp, đã thấy dần dần hiện ra, lung linh, rỡ ràng cả một thời mơ màng chìm đắm xa xưa...

Từ những chấm sáng như thế, vô vàn, liên kết lại, hình ảnh của cả một thời đại bộc lộ dần. Đây là một thời đại kéo dài từ hai đến bốn nghìn năm trước - đúng như truyền ngôn "mấy nghìn năm lịch sử" của chúng ta. Đấy là một thời đại xao động những biến cố hệ trọng: chuyển mình từ xã hội nguyên thủy sang xã hội giai cấp, xây dựng những thể chế đầu tiên của quốc gia và dân tộc, tiến hành chiến tranh để thống nhất và bảo vệ cộng đồng ... đúng như cách mệnh danh " THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC ĐẦU TIÊN"

Đấy còn là một thời đại bồi đắp và định hình nền văn minh đầu tiên mang bản lĩnh dân tộc với một loạt thành tựu đặc sắc trong đời sống vật chất, xã hội và tinh thần - từ ngôi nhà sàn mái cong đến con thuyền đuôi én, từ những truyện kể kỳ thú đến chiếc trống đồng kỳ diệu... vừa tỏa rộng ảnh hưởng đến những miền đất đai xa xôi đương thời, vừa in dài dấu vết trong những thời đại lịch sử tiếp theo đúng như niềm tự hào mà Nguyễn Trãi xưa đã khẳng định: " Nước Đại Việt ta vốn xây nền văn hiến đã lâu " ...

Đấy chính là thời đại Hùng Vương dựng nước mà từ bao đời nay, với nếp quen phụng thờ và tưởng nhớ tổ tiên, nhân dân ta vẫn giữ trọn niềm tin yêu sắt đá và hình tượng hoá thành các nhân vật tiêu biểu: VUA HÙNG

Khoa học hôm nay đã mở rộng khái niệm, củng cố độ bền và trả lại chiều sâu cho những sự kiện và con người hằng được quan niệm theo tư duy cảm tính để cho hợp và đúng hơn với phong cách và yêu cầu của thời đại mới.

Đồng thời, bên cạnh việc nghiên cứu khái quát và tổng hợp, vẫn tìm tòi chi tiết cụ thể, chẳng hạn về chính những vua Hùng, gần đây đã xuất hiện những dấu hiệu trực tiếp của một vùng "kinh đô" mà huyền thoại đã xây dựng kèm những lầu son gác tía, tiếng hát Trương Chi và nước mắt Mị Nương... hy vọng có thể sẽ tiến tới chỗ tìm được mộ táng của những vua Hùng ấy. Khi đó sẽ còn xuất hiện những cứ liệu tốt hơn nữa cho việc tìm hiểu và vẽ lại chân dung thời đại. Huyền thoại bây giờ đang trở thành lịch sử. Chúng ta hãy đốt nén hương lòng, kính cẩn hướng về những anh hùng dựng nước, hãy hành trình, hành hương vào chiều sâu lịch sử thiêng liêng của Tổ quốc ngàn năm...

CHƯƠNG II
HÀNH HƯƠNG VỀ ĐẤT TỔ

Xuất phát từ Thủ đô theo đường sắt, khởi hành từ ga Hà Nội đi ngược lên phía bắc theo tuyến Yên Bái - Lào Cai. Cũng có thể theo đường nhựa vượt cầu Long Biên sang Đông Anh đi trên quốc lộ số 2 theo tuyến Tuyên Quang - Hà Giang.

Tám chín mươi cây số hành trình, con đường sắt và đường nhựa ấy quấn quýt lấy nhau mà trườn từ đồng bằng cò bay thẳng cánh lên trung du múa lượn đồi gò và đầu tiên chập vào nhau ở cạnh dấu tích toà thành Cổ Loa vĩ đại, thủ đô của đất nước từ thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, nơi đang ngày ngày mọc lên san sát những công trình mới của một vùng công nghiệp phía bắc Thủ đô hiện đại, nơi mà các nhà địa lý - địa mạo coi là đỉnh thứ hai của tam giác châu thổ sông Hồng, thuận lợi lắm cho một vùng cư dân trù mật, xưa cũng như nay.

Vượt qua đất Yên Lãng với dấu vết tòa thành Hạ Lôi (Mê Linh) - tục truyền là nơi đóng đô xưa của Hai Bà Trưng, hai con đường sắt và đường nhựa chập vào nhau ở trên khu công nghiệp Việt Trì lô nhô những ống khói soi bóng trên dòng sông Lô trong xanh, dòng sông Hồng đỏ thắm và xa xa là sông Đà. Đỉnh thứ nhất của tam giác châu thổ sông Hồng là đây. Cũng là đây, nơi đóng đô của đất nước thuở khai nguyên...
Ngọn núi Hùng xanh như một trái tim
Từ cửa ngõ của miền "Đất tổ" này nhìn lên, đã thấy xa xa xanh thẳm ngọn núi Hùng mà nhân dân còn gọi bằng nhiều cái tên khác: Cổ Tích, Hy Cương, Nghĩa Lĩnh.
Ngọn núi Hùng xanh như một trái tim
Đập suốt bốn nghìn mùa xuân sinh nở...
Hình tượng thơ "trái tim xanh" này lạ mà đúng. Ngọn núi cao 175 mét cao vượt lên trên một vùng đồi gò nhấp nhô như sóng cuộn đến chân trời, um tùm rậm rạm cây cối tự nhiên và người trồng. Nhà nghiên cứu cây rừng đã thống kê được ở đây 150 loài cây khiến cho từ ga Tiên Kiên trên đường sắt, hoặc từ Bá Hàng trên đường nhựa còn phải theo một con đường đất đỏ như son, lên xuống uốn lượn giữa các triền đồi cọ và ruộng bãi mà đi vào ba, bốn kilômét nữa thì tới được chân núi, nhưng ai cũng thấy như núi đã sừng sững ở ngay trước mặt.

Và đây, dưới bóng hàng thông đại thụ ở chân núi phía tây vòm cổng đồ sộ của khu đền thờ tổ tiên xa xưa của toàn dân tộc đã hiện ra với đôi câu đối cổ (nguyên văn chữ hán):
Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông quy một mối
Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con.
Không thể không ngẫm nghĩ về ý tứ bao quát mà thấu đáo của người xưa, trong khi vẫn vọng mãi bên tai âm hưởng mời gọi mà mô tả thật đúng hình thể núi, đền ba đợt dâng cao trong câu hát dân gian:
Này lên - này lên - này lên
Lên non Cổ Tích, lên đền Hùng Vương...
Khách hành hương bắt đầu đặt chân lên nấc đầu tiên của 95 bậc thềm vắt vẻo trườn qua cây rừng và dốc núi. Thế giới của lòng sùng kính anh hùng và niềm tự hào dân tộc mở dần ra, tạo nên một chất men hào hứng, say sưa, nồng nàn khắp núi rừng, trời mây và lòng người.
Có thể đi ngay đến đền Giếng ở phía sau núi, nơi có chiếc giếng Ngọc trong vắt giữa lòng ngôi đền nho nhỏ thờ hai con gái của vua Hùng, mị nương Tiên Dung và mị nương Ngọc Hoa - những thiếu nữ đẹp và dũng cảm mà truyền thuyết kể rằng xưa kia hằng ngày vẫn đến soi bóng trên bờ nước, chải mớ tóc dài... Nhưng cũng có thể dành lại ngôi đền này đến cuối cuộc hành hương, mà trước hết hãy vượt 225 bậc thềm, lên thẳng đền Hạ. Ở bãi đất bằng trên sườn núi này, cùng với ngôi đền còn có gian chùa cùng gác chuông và tam quan. Tương truyền đây chính là nơi Mẹ Âu (Âu Cơ) đẻ ra chiếc bọc trăm trứng nở thành một trăm chàng trai tuấn tú, tổ tiên của dân tộc Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước.
 
Từ sau nơi sinh hạ của tổ tiên này, đi lên 168 bậc thềm nữa thì gặp đền Trung - ngôi đền được xây cất đầu tiên trong hệ thống miếu đền trên núi, với ý nghĩa ghi lại dấu tích của nơi các vua Hùng xưa đã thường ngồi bàn việc nước cùng các lạc hầu, lạc tướng. Qua vòm lá cành của cây cỏ quanh đền, từ nơi cao xa này đã thấy lồng lộng đất trời bên ngoài núi, nhưng hãy cùng nhau đi tiếp lên cao đợt nữa.
Một trăm lẻ hai bậc thềm cuối cùng là dẫn tới đỉnh núi với ngôi đền Thượng. Tương truyền, nguyên là ngôi miếu do chính vua Hùng đời thứ 6 dựng lên thờ ông Dóng, người anh hùng đã cùng với nhân dân chiến thắng giặc Ân xâm lược, xứng đáng lưu danh trong toà miếu mà nhân dân gọi là "ngôi điện giữa 9 từng mây". Từ miếu ấy, bây giờ là một ngôi đền thờ chính vua Hùng, mái chìm trong mây. Và cũng là làn mây núi này sà thấp ấp ủ cho một công trình xinh nhỏ - trái tim nhỏ của trái tim "Đất tổ" - trang nghiêm im lặng nằm chếch bên đền: Lăng Hùng Vương.

Bên cạnh đền còn có cột đá thề tương truyền do vua Thục dựng lên để thề với vua Hùng thứ 18 rằng muôn đời sẽ cúng tế nhà Hùng, tiếp tục sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Từ những công trình kiến trúc tượng trưng ấy, nghĩ suy về đất nước và lịch sử, nghĩ suy về cuộc hành trình mà xuất phát từ chính nơi đây dân tộc ta đã đi dài suốt mấy nghìn năm để tới ngày nay, hãy phóng tầm mắt mà nhìn mãi ra xa.
 
Dưới bầu trời xanh bao la là một cảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ: Khắp nơi đều có những ngọn đồi lô nhô to nhỏ thấp cao với hình thể hổ phục, voi chầu phượng múa, rồng bay... Trước mắt, dải lụa sông Hồng mịn màng uốn khúc, và xa xa, trong ánh nắng mai, nắng chiều nhạt mờ, hay giữa giờ khắc trong sáng chói chang của nắng trưa, dải lụa trắng sông Đà, sông Lô trải dài trên những cánh đồng xanh rờn chảy xuống nhập với sông Hồng chan hòa giữa ngã ba Hạc mênh mông. Đồi cây, ruộng đồng trải rộng tít tắp chen với những chấm đỏ của mái ngói và màu sẫm của những cột điện cao thế, những ống khói của khu công nghiệp Việt Trì.

Đấy là nơi các vua Hùng đã từng phóng ngựa đi săn, dạy dân trồng lúa, làm thuỷ lợi, xây dựng kinh thành. Rặng Tam Đảo hiểm trở nhô cao cột tháp vô tuyến truyền hình, nổi lên trên nền xanh trù phú ấy, ở phía bên trái nối xuống hòn Sóc Sơn, nơi ông Dóng (Thánh Dóng) vứt bay lên trời sau trận thắng giặc Ân. Và bên phải sừng sững ngọn Ba Vì hùng vĩ đang xanh tốt những nông trường trồng dứa và tung tăng những đàn bò, nơi ông Tản (Sơn Tinh) để lại kỳ tích thắng giặc lũ lụt.

Tất cả như chầu về miền Đất tổ này - một miền cao quí của cả xứ sở nghìn đời lao động và chiến đấu, dựng nước và giữ nước, với trái tim yêu nước nồng nàn.

Ở đây cũng như ở nhiều miền quê hương Tổ quốc chúng ta, mặt đất san sát những dấu chân, dấu chân người sau đặt lên dấu chân người trước. Không mệt mỏi. Và, hướng tới tương lai...

CHƯƠNG III
KHƠI NGUỒN TRUYỀN THỐNG THỐNG NHẤT VÀ VĂN MINH

Phía tây chân núi Hùng, ở cổng chính dẫn lên đền Hùng, khách hành hương đứng trước câu đối giàu ý nghĩa:
Thái thuỷ khai cơ, tứ cố sơn hà quy bản tịch
Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tử thi tôn.
(Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông quy một mối
Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con)
Sự nghiệp của tổ tiên ta ở thời đại Hùng Vương, càng suy ngẫm càng thấy lạ, thấy hay, thấy nhiều màu vẻ, mà càng lùi xa nhìn ngắm từ vị trí của thế hệ mấy nghìn năm con cháu bây giờ, càng thấy trong đó nổi lên kỳ vĩ công trạng "mở lối, đắp nền, bốn mặt non sông quy về một mối" đúng như nhận thức mà người trước đã truyền ghi ngay ở trước đền Hùng để nhắc nhở người sau. Trước buổi bình minh của lịch sử dân tộc.

Bởi đã qua rồi những nghìn, những chục nghìn năm tổ tiên nguyên thủy, từng thị tộc, vài chục người, trú náu trong các hang động Hòa Bình, Bắc Sơn, ghè đẽo qua loa những mảnh cuội suối, cuội sông làm đồ dùng, nhặt từng hạt, củ, bắt từng con ốc để nuôi mình, và ngoài việc kiếm sống ấy, chẳng còn là bao công sức, thời gian và tâm trí để đóng góp cho đời sống văn minh đích thực của con người.

Đã đến lúc những bộ lạc người Việt cổ, ngoài việc chiếm lĩnh khắp miền núi rừng Đông Bắc, Tây Bắc, dọc Trường Sơn, còn đủ thế và lực để tràn ra khai phá từ miền biển Đông nước mặn đến đồi gò trung du và cả miền đồng bằng đầm lầy, với nền kỹ thuật đã được suốt một thời đại đồ đá dài dặc đưa tới đỉnh cao cuối cùng.

Văn minh có điều kiện để xây đắp nhiều hơn và lẽ ra phải có được một đài cao thành tựu và biểu hiện với quy mô lớn lao tương xứng. Thế nhưng, gạn lọc từ những văn hóa khảo cổ thời đá mới muộn với những đặc trưng gần gũi và có tuổi trên dưới bốn nghìn năm - từ văn hoá hang động ở rừng núi đến văn hoá sông nước ven biển hoặc văn hoá đồi gò trung du và đồi đất đồng bằng - lại thấy phổ biến một quy mô tản mạn và một tình trạng phân tán. Rõ ràng là còn sự rời rạc bộ lạc - chỉ trên một miền đất nước mà sử cũ đã nhắc tới con số 15 bộ lạc - thì quy mô và tình trạng kém văn minh này còn ngự trị.

Trong khi đó đã hiện ra nguy cơ có thể thủ tiêu ngay chính nền văn minh còn đang độ manh nha ấy từ những thế lực bành trướng khổng lồ ở các phương trời xa đã tập hợp xong các sức mạnh đen tối của nó.
Một quá trình diễn biếnvăn minh kỳ lạ:
Từ Văn hoá Phùng Nguyên đến Văn hoá Đông Sơn rực rỡ
Chính vào lúc này, theo dõi những hiện tượng khảo cổ học trong khoảng thời gian từ ba đến bốn nghìn năm trước ở đất nước ta, bổng thấy xuất hiện một quá trình diễn biến văn minh kỳ lạ. Từ địa bàn quanh đỉnh tam giác châu của đồng bằng phù sa sông Hồng, nền văn hoá khảo cổ Phùng 

Nguyên vừa khởi sắc, vừa toả ra những ảnh hưởng của mình để rồi từ đấy hình thành và phát triển nền văn hoá khảo cổ Đông Sơn rực rỡ, trùm lên trên và thay thế tất cả các văn hoá khảo cổ khác trong kỷ nghìn năm cuối cùng trước Công nguyên.

Giở lại những trang sử cũ ghi chép về thời đại này, chúng ta lại gặp những dòng chữ cô đọng nói về nhân vật Hùng Vương, được xưng tụng là "người kỳ lạ" Phong Châu - đều là tên gọi xưa của vùng "Đất tổ" quanh nơi hội lưu của các dòng sông, sông Hồng, Đà, Lô - thu phục được các bộ lạc mà thành lập một cộng đồng lớn mạnh hơn và dựng  nước Văn Lang với kinh đô Phong Châu.

Trong khi đó, bằng những hình tượng và tình tiết tráng lệ, truyền thuyết dân gian cũng khơi ra một dòng truyện kể tràn đầy sức hấp dẫn về cội nguồn các vua Hùng là từ sự giao hoà giữa Bố Rồng (Lạc Long), tiêu biểu cho các tập đoàn người Việt Cổ vùng văn hoá sông nước ven biển, và Mẹ Âu (Âu Cơ), tượng hình của các cộng đồng cư dân miền văn hoá núi đồi ở Việt Trì - Bạch Hạc; về vua Hùng cùng các tướng tá, các con gái, con trai, con rể... chiến thắng giặc ngoại xâm, điều khiển kỳ công trấn ngự giặc lũ lụt, tìm ra dưa hấu, và làm bánh chưng, bánh giầy, dạy dân gian điểm và múa hát, khai phá đảo hoang và đầm lầy, mở rộng đất đai cương vực...

Tất cả các nguồn thông tin khác nhau như thế không có gì khác hơn là sự phát sáng hay ánh xạ của một tiến trình lịch sử vĩ đại "mở lối đắp nền, bốn mặt non sông qui một mối" ở thời đại các vua Hùng.
Kết thúc được sự phân tán, tản mạt như vậy chính là sự vượt lên của văn minh. Văn minh được bảo vệ cũng chính là nhờ đó. Và cũng chính là vì thế mà tạo ra được sự phát triển mạnh mẽ hơn của văn minh. Những quan hệ biện chứng ấy của phạm trù văn minh đều chằng chéo qua một hạt nhân cơ bản: Thống nhất.

Chính sự thống nhất đất nước được thực hiện lần đầu tiên ở thời đại các vua Hùng là một tiền đề quan trọng để nở rộ nền văn minh rực rỡ thứ nhất của dân tộc: Nền văn minh sông Hồng.

Sự thống nhất ấy đã xoá bỏ được những ranh giới từ lớn như cả một vùng đèo Ngang hay Tam Điệp, đến nhỏ như một khúc sông hay vạt rừng, từng chia cách các bộ lạc, đặng chuyển hoá không phải chỉ theo cấp số cộng những số dân, năng lực và tài nguyên của liên minh bộ lạc, mà là theo cấp số nhân, để thành cả một sức mạnh tổng hợp của một khối cộng đồng gắn bó, gồm khoảng một triệu người - một số dân có ý nghĩa rất đáng kể vào thời điểm bấy giờ - ở trên một địa vực liền khoảng rộng lớn và giàu có từ phía nam đèo Hải Vân tới mãi vùng rừng núi xa ở phía bắc: Địa bàn nước Văn Lang của người Việt Cổ.

Trong lịch sử, đây là lần thứ nhất xuất hiện một sức mạnh với một chất lượng mới lạ như vậy. Cho nên nguồn đất nguyên khai màu mỡ ấy mới thúc nở được cả một mùa màng văn minh rực rỡ, với sắc màu vàng óng của lúa nếp và đồng thau, với những âm thanh hùng tráng của trống đồng, cồng chiêng, cùng tiếng khèn dặt dìu, tiếng chuông nhạc thánh thót và tiếng sênh phách giòn giã; với bóng hình đồ sộ mà duyên dáng của những ngôi nhà sàn mái cong và những con thuyền vọng lâu đi biển; với sức nóng của các lò luyện kim và vòng xoay nhanh của những bàn nặn chuốt gốm, tiện khoan đá; với đường nét hoa văn đối xứng hài hoà và tinh vi trang trí trên khắp các vật phẩm; với sự chăm nom ân cần và hợp thức cho những lứa trẻ sơ sinh, những đôi gái trai và những người lìa đời: với những vua Hùng cùng lạc hầu, lạc tướng và dân làng chạ gắn bó trong một thể chế chững chạc mà khoan hoà...

Chính những vùng đất mãi xa ngoài đảo khơi hoặc nằm sâu trong đất liền, từng tiếp nhận sâu sắc những ảnh hưởng của nền văn minh sông Hồng, làm chứng về sức chiếu sáng của nền văn minh ấy ở Đông Nam Á đương thời. Cũng như sự bất lực của cả một nghìn năm xâm lược, thống trị và đồng hoá của bọn phong kiến phương Bắc, cùng với hiệu quả của những truyền thống xã hội và văn hoá trong suốt một nghìn năm sau đấy nữa, đã thừa nhận sức ăn sâu của nền văn minh này vào chiều dài lịch sử Việt Nam.

Mối quan hệ giữa Thống nhất và Văn minh đã một lần xác lập và được chứng minh ở thời đại các vua Hùng, sẽ được tái hiện và phát triển ở các thời đại sau.
Nói văn minh là nói đến sự kết tụ: kết tụ của sự phát triển kỹ thuật sản suất, kết tụ của sức sáng tạo nhân dân, kết tụ của tâm hồn dân tộc. Bốn mươi thế kỷ trôi qua, cho đến hôm nay, chúng ta càng thấy rõ: Tất cả sức mạnh, tinh hoa, bản sắc, tâm hồn và truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành trong lịch sử, đều có mầm mống đầu tiên từ một ngọn nguồn là nền văn minh Việc cổ của thời đại của các vua Hùng dựng nước.
 
CHƯƠNG IV 
ĐI TÌM DẤU VẾT MỘT THỜI ĐẠI TRÊN NHỮNG DI TÍCH KHẢO CỔ
Như thế là, bằng những phương pháp khoa học hiện đại, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh: Thời đại Hùng Vương dựng nước là một hiện thực lịch sử. Đến lượt chúng ta, chúng ta hãy làm quen một cách cụ thể với thời đại đó, qua những hiện vật có thể sờ mó được, quan sát được ngay tại những di tích khảo cổ, tức là nơi ăn chốn ở, nơi sống và chỗ chết của người xưa.

ĐẾN THĂM DI CHỈ PHÙNG NGUYÊN (PHÚ THỌ)
Trước hết ta hãy đến thăm Phùng Nguyên (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) là di chỉ được phát hiện đầu tiên tiêu biểu cho giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, giai đoạn mở đầu của thời đại dựng nước.

Cũng thuộc giai đoạn Phùng Nguyên còn có hơn 30 di chỉ khác phần lớn tập trung ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Nội như: Lũng Hòa, Gò Bông, Xóm Rền, Văn Điển, Tràng Kênh v.v... Phùng Nguyên và các di chỉ đồng dạng kể trên thường phân bố ở miền trước núi, dưới chân gò đồi, ven sông suối ở vùng trung du hoặc trên những thềm sông, trên những gò đồi cao nằm rải rác ở vùng đồng bằng và miền ven biển. Diện tích của mỗi di chỉ rộng hàng vạn mét vuông (có khi đến hàng chục vạn mét vuông) bởi vì đây là những làng chạ định cư khá lớn, tập trung đông đúc dân cư. Khu mộ táng thường nằm ngay trong di chỉ và cùng thời với địa điểm cư trú, đó là những ngôi mộ huyệt đất, đơn táng, thường chôn theo công cụ và đồ trang sức bằng đá, gốm.

Ở một số nơi cu trú khác của người xưa, còn thấy dấu vết chứng tỏ sự tồn tại của những "công xưởng" chế tác đá, chuyên sản xuất đồ nghề, đồ dùng, đồ trang sức, ví dụ như ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng)
Phùng Nguyên và các di chỉ thuộc văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên đã cho chúng ta những hình ảnh cụ thể, sinh động về cuộc sống của người xưa qua những hiện vật họ để lại.
Người Phùng Nguyên đã chế tác được rất nhiều hiện vật thuộc các loại đồ đá, đồ gốm, đồ xương và một ít đồ đồng. Hiện vật bằng đá của họ rất phong phú về loại hình và số lượng: nào là rìu, đục, giáo, lao, qua, mũi tên, mũi nhọn, mũi khoan, chì lưới, bàn mài, bàn dập gốm. Rìu bốn Phùng Nguyên loại lớn dài đến 10 cm, loại nhỏ có cái chỉ dài 1,3 cm, có loại hình thang, có loại hình chữ nhật (rìu tứ giác), có loại có vai, có nấc, có loại vừa có vai vừa có nấc. Đục cũng gồm nhiều loại: Đục lưỡi thẳng, đục vũm... Bàn mài đã phát triển thành nhiều kiểu: Bàn mài ráp, bàn mài mịn, bàn mài vũm, bàn mài rãnh, kiểu "dấu Bắc Sơn", kiểu "dấu Hạ Long"... Người Phùng Nguyên trang sức bằng vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi, hạt cườm, những mãnh đá mỏng có lỗ để đeo, có hình đuôi cá, hình đồng xu hoặc không có hình thù nhất định. Người Phùng Nguyên đã là nghệ sĩ tạc tượng: ví dụ như tượng người đàn ông ở Văn Điển.

Họ cũng là những người thợ gốm tài tình và điêu luyện đã chế ra được nhiều loại đồ nấu, đồ đựng có kích thước khá lớn: những nồi, chõ, vò, bình, bát, chậu, mâm bồng... Tỷ lệ hài hoà giữa chiều cao và độ phình của đồ gốm Phùng Nguyên khiến cho chúng vừa chững chạc vừa linh hoạt. Hoa văn trang trí trên gốm đã có giá trị mỹ thuật; bằng các chi tiết kết cấu gồm có những chấm đủ các loại, những đường hình dọc đơn giản (như vạch thẳng, gấp khúc, đường cong, lượn sóng...), những kết cấu đơn giản hoặc phức tạp (như hình tam giác, hình tròn, hình mặt nguyệt, hình chữ S); và sử dụng thành thạo nhịp điệu của bố cục cũng như vận dụng khéo léo các chi tiết, người Phùng Nguyên đã tạo nên những dải đồ án hoa văn mang tính chất đối xứng, cân phân, nghiêm túc mà vô cùng linh hoạt.

Người Phùng Nguyên đã bắt đầu làm chủ vùng trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, đưa nông nghiệp lên thành ngành sản xuất chủ yếu. Họ sống tập trung, định cư trên những khu vực lớn. Họ đã trồng được lúa, dùng cuốc đá để vỡ đất, dao đá để gặt hái, dùng các công cụ gỗ để khai thác lớp phù sa do lụt lội mang đến hàng năm. Sử sách xưa chép: Dân Lạc theo nước triều lên xuống để khẩn ruộng mà làm ăn, ruộng ấy gọi là ruộng Lạc. Hai nhà ngôn ngữ học Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã đưa ra giả thuyết đáng chú ý: ruộng Lạc có nghĩa là ruộng nước. Ruộng Lạc cũng làm cho chúng ta liên tưởng tới những từ như ruộng rặc, ruộng rộc hiện còn trong tiếng địa phương ở một số vùng trung du, hay từ rác trong tiếng Mường (có nghĩa là nước).

Bên cạnh nghề trồng lúa, nghề trồng rau củ và cây ăn quả vẫn phát triển. Tại di chỉ Tràng Kênh, qua phân tích bào tử phấn hoa, người ta đã tìm thấy hạt phấn của các loài rau đậu bên cạnh hạt phấn của lúa.

Người Phùng Nguyên cũng coi trọng nghề chăn nuôi như mọi dân cư nông nghiệp khác ở những vùng các sông lớn. Chó, trâu đã có từ thời trước; ở giai đoạn này người ta thuần dưỡng và chăn nuôi thêm: gà, bò, lợn. Tượng gà nhà đã được nặn bằng đất nung. Đất Cổ Loa (ngoại thành Hà Nội) khi chưa xuất hiện cung thành của vua Thục còn mang cái tên giản dị là Xóm Gà. Sử cũ ghi: Người Lạc Việt giỏi thuật bói toán bằng chân gà. Nghề nuôi lợn đã trở thành phổ biến. Trong nhiều ngôi mộ cổ có xương hàm lợn chôn theo. Việc thuần dưỡng trâu bò đã được chứng minh qua các xương cốt và tượng nghệ thuật : Tượng trâu bò đã tìm thấy ở nhiều nơi tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nội... Ắt hẳn trâu bò đã được dùng kéo cày hay được lùa xuống giẫm cho lúa đất để dễ cấy, như người Mường trước đây còn làm như thế. Chăn nuôi gắn bó chặt chẽ với trồng trọt: đó là một đặc điểm mang tính quy luật trong lịch sử kinh tế nông nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh kinh tế sản xuất, vẫn còn tồn tại kinh tế hái lượm ở vị trí thứ yếu. Hạt trám thường thấy trong các di chỉ. Dấu vết săn bắn cũng được chứng thực qua những xương cốt thú rừng tìm thấy trong các tầng văn hóa: Lợn rừng, hươu nai, hổ, dím, khỉ... Lợn rừng và hươu nai là những thú rừng thường phá hoại hoa màu nên đã trở thành đối tượng săn bắn chủ yếu của người xưa; ở di chỉ Tràng Kênh, xương lợn rừng chiếm 47,5%; ở Đình Chàng, xương hươu nai chiếm 40,3%, lợn rừng 15%; ở Đông Lâm, xương hươu nai chiếm tới 67,1%.

Nghề đánh cá phát triển tùy theo từng khu vực. Ở địa điểm Phùng Nguyên cạnh sông Hồng chưa thấy dấu vết của nghề đánh cá, trái lại ở địa điểm Đồng Vông bên sông Ngũ Huyện Khê (thuộc Đông Anh, Hà Nội) lại có nhiều chì lưới bằng đá và đất nung.
Các nghề thủ công ở giai đoạn Phùng Nguyên đã phát triển mạnh mẽ trong đó những nghề như: chế tác đá, làm gốm, luyện kim, đã trở thành những ngành thủ công quan trọng. Kỹ thuật chế tác đá đã đạt trình độ hoàn thiện: Người Phùng Nguyên đã áp dụng thành thạo tất cả các kỹ thuật chủ yếu của nghề đá: kỹ thuật ghè đẽo, kỹ thuật mài, kỹ thuật cưa, kỹ thuật khoan, kỹ thuật tiện, và kỹ thuật tu chỉnh ép. Trình độ cao của kỹ thuật chế tác đá còn được thể hiện qua các việc chọn màu đá và chất liệu đá thích ứng với nhu cầu sử dụng. Sự tồn tại của những "công xưởng" chế tác đá thể hiện rõ tính chất chuyên môn của công việc sản xuất đồ đá, cũng như sự phân công chế tạo giữa các "công xưởng" này đã phản ảnh trình độ tổ chức chuyên môn của người thợ thủ công Phùng Nguyên.
Sản xuất đồ gốm là một ngành thủ công quan trọng với sự phát hiện và phát triển kỹ thuật bàn xoay. Người Phùng Nguyên, thợ thủ công và nghệ sĩ, đã dồn tất cả tài năng, và khiếu thẩm mỹ của mình vào việc tạo dáng gốm và trang trí hoa văn trên gốm.

Nghề đúc đồng đã ra đời ở giai đoạn Phùng Nguyên và ngày càng chiếm địa vị chủ đạo. Một số cục đồng phát hiện ở di chỉ Gò Bông được phân tích bằng quang phổ cho thấy đó là một hợp kim đồng thau gồm có đồng, thiếc và vết bạc. Việc tồn tại những xi đồng tìm thấy ở nhiều di chỉ cho thấy nghề luyện kim ở thời đại Hùng Vương là một kỹ thuật bản địa.

Nghề dệt ở giai đoạn Phùng Nguyên cũng đã có một bước phát triển nhất định qua sự tồn tại đều khắp một khối lượng lớn dọi xe chỉ. Sau một thời kỳ "dùng vỏ cây làm áo", đã đến thời kỳ trồng gai đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải, dệt lụa. Tằm là một loài sâu nhiệt đới được tổ tiên ta chăn nuôi từ sớm. Truyền thuyết cũng nói: Thời Hùng Vương dân Lạc chăm việc nông tang. Vết tích vải còn lại qua các cuộc khai quật (dấu vải in trên đồ gốm) cho biết đó là một loại sợi nhỏ, mịn và săn.

Nghề đan lát được người Phùng Nguyên ưa thích, họ để lại cho chúng ta dấu vết những kiểu hoa văn đan trên gốm, dấu vết đồ đan trong các ngôi mộ, trong các tầng văn hoá với những kỹ thuật đan lát khá tinh vi: lóng mốt, lóng đôi, lóng thúng, lóng nia...

Số lượng tài sản khác nhau chôn theo trong các ngôi mộ cổ giai đoạn Phùng Nguyên cho chúng ta biết về sự phân hoá tài sản trong xã hội thời đó. Những mảnh trang sức hình đuôi cá, tượng đàn ông Văn Điển có thể đã phản ánh sự xác lập của chế độ quyền cha, dòng cha. Những hình tượng hoa văn trang trí trên đồ gốm những dáng hình của vòng trang sức có thể phản ánh sự tồn tại của tục thờ thần mặt trời. Tục chôn theo xương hàm lợn trong mộ cũng thường thấy ở nhiều nơi từ thời đại đồ đá mới. Nghệ thuật trang trí đồ gốm Phùng Nguyên còn giúp chúng ta khám phá những biểu hiện khá phong phú của tư duy thẫm mỹ và tư duy khoa học của người Phùng Nguyên. Nhà khảo cổ học Hà Văn Tấn sau khi phát hiện các kiểu đối xứng trên những hoa văn trang trí gốm Phùng Nguyên: kiểu đối xứng gương (đối xứng lưỡng trắc); kiểu đối xứng trục (đối xứng quay), kiểu đối xứng tịnh tiến, đã kết luận: Người Phùng Nguyên có khả năng tư duy trừu tượng, tư duy mỹ học, tư duy khoa học ở trình độ cao, thể hiện bằng nhiều hình vẽ đẹp và kỳ lạ, nhiều đồ án được tính toán rất chính xác.

Các địa điểm khảo cổ thuộc giai đoạn Phùng Nguyên có những đặc trưng văn hoá không hoàn toàn giống nhau. Người Phùng Nguyên ở lèn Hai Vai (Nghệ Tĩnh) có khác người Phùng Nguyên ở Xóm Rền (Phú Thọ), người Phùng Nguyên ở Văn Điển (Hà Nội) lại khác người Phùng Nguyên ở Tràng Kênh (Hải Phòng).
Đó là tính cánh nhiều màu vẻ của nền văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên ở buổi đầu thời đại dựng nước.
TÌM HIỂU GIAI ĐOẠN VĂN HÓA ĐỒNG ĐẬU TRÊN DI CHỈ ĐỒNG ĐẬU (VĨNH PHÚC) 

Rời di chỉ Phùng Nguyên và các di chỉ đồng dạng với nó ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, bắc Trung Bộ, chúng ta hãy đến thăm di chỉ Đồng Đậu (huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) và khoảng một chục di chỉ đồng dạng phân bố trên một địa bàn khá rộng về cơ bản trùng hợp với phạm vi phân bố các địa điểm khảo cổ thuộc giai đoạn Phùng Nguyên. Đó là những địa điểm khảo cổ thuộc giai đoạn Đồng Đậu, giai đoạn thứ hai của thời đại Hùng Vương dựng nước.

Cũng như người ở giai doạn trước, người Đồng Đậu sống định cư lâu dài trên những đồi gò cao nổi lên giữa vùng trung du và đồng bằng với một quy mô rộng lớn.

Hiện vật khảo cổ thuộc giai đoạn Đồng Đậu phần nhiều còn bảo toàn được nguyên vẹn, đa dạng về loại hình, phong phú về số lượng và ổn định về chất lượng. Ở giai đoạn này đã phát hiện được các muỗng đúc, các khuôn đúc rìu, mũi tên bằng đá và bằng gốm phản ảnh trình độ phát triển cao của kỹ thuật đúc đồng Việt cổ. Người Đồng Đậu sử dụng rìu, giáo, dao, dao phạng, dao khắc, đục, giũa, mũi nhọn, mũi tên lưỡi câu, kim, dây...

Rìu có nhiều kiểu: rìu hình chữ nhật, rìu hình xoè cân, rìu hình lưỡi lệch. Mũi giáo hình lá có họng tra cán hình bầu dục. Mũi tên có dạng hình lá, hình cánh én. Lưỡi câu đủ kiểu, có dạng hoàn thiện như lưỡi câu ngày nay. Trong tác phẩm Kinh tế thời Nguyên thủy ở Việt Nam, nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế Đặng Phong đã phát hiện rằng, ngoài lưỡi câu thông thường Việt cổ đã sáng tạo một loại lưỡi câu rất độc đáo là lưỡi câu chuôi cong, chuôi gục về phía mũi nhọn có ưu điểm làm cho lưỡi câu vững hơn khi giật dây mũi nhọn móc ngang vào hàm con cá. Cho đến nay ngư dân các tỉnh Thanh Hóa, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây, Hòa Bình... và đồng bào các dân tộc Thái, Mường... dọc sông Đà vẫn sử dụng lưỡi câu chuôi cong này để câu những con cá lớn ở sông.

Giũa, một trong những hiện vật độc đáo nhất của thời đại đồng thau và thời đại đồ sắt sớm ở nước ta, đến giai đoạn này mới thấy xuất hiện với thân hình chữ nhật, hai cạnh dài hơi bóp vào, trên mặt có những hàng đinh nhọn, chuôi dẹt và thẳng. Đồng thau ở giai đoạn Đồng Đậu qua phân tích quang phổ, là một hợp kim tốt: tỷ lệ đồng là trên dưới 80%, và thiếc trên dưới 15%.

Nghề gốm vẫn là một ngành thủ công quan trọng. Gốm Đồng Đậu rắn chắc hơn gốm Phùng Nguyên vì đã được nung ở một nhiệt độ cao hơn. Không còn xốp bở như trước, xương gốm được pha nhiều cát mịn, thành gốm dày, nặng. Màu sắc gốm có thể là đỏ, nâu đen, vàng nâu, nhưng phổ biến là xám mốc. Kỹ thuật bàn xoay đã đạt đến trình độ hoàn thiện.

Lần đầu tiên, ở giai đoạn này, xuất hiện một loại hình gốm đặc biệt: đó là những chiếc vò, kích thước lớn, thành gốm dày, miệng cao và đứng, bên ngoài có trang trí những đồ án hoa văn phức tạp.

Hoa văn trên gốm được khắc vạch bằng một dụng cụ có nhiều răng (có khi đến 10 răng) tạo nên những nét khắc cạnh hẹp, song song, cách đều nhau làm chúng ta liên tưởng đến bút kẻ khuông nhạc: Người Đồng Đậu đã sáng tạo nên những hoa văn "khuông nhạc".Hoa văn này trang trí phần cổ và miệng gốm, nhất là mặt trong hay trên miệng.

Người Đồng Đậu không ưa những hình đóng kín gò bó, những dải hoa văn cân xứng chặt chẽ mà thích trang trí theo lối phối hợp nhiều kiểu hoa văn tạo nên một lối bố cục độc đáo, phóng khoáng. Những đồ án kết cấu theo hình nan hoa bắt đầu thấy xuất hiện cùng với những vòng trang trí theo hình dây thừng bện, hình sóng nước... Đó là sự khác biệt về phong cách so với giai đoạn Phùng Nguyên.

Những tác phẩm nghệ thuật của giai đoạn Đồng Đậu cũng được phát hiện nhiều hơn trước gồm những tượng hình đầu người, trâu, bò, chim...

Thành tựu của nghề gốm đã được sử dụng để phục vụ cho nghề luyện kim đồng thau. Ở giai đoạn này, đã phát hiện ra những thìa rót đồng, những khuôn đúc đồng. Đất làm khuôn được chọn lọc kỹ, rất mịn, mặt giáp, khuôn nhẵn và khít. Khuôn đúc mũi nhọn ở di chỉ Đồng Đậu một lần có thể đúc hai, ba hiện vật.
Đồ đá vẫn được dùng trong sản xuất và sinh hoạt. Công cụ, vũ khí bằng đá vẫn nhiều về số lượng và phong phú về loại hình. Những bàn mài Đồng Đậu vừa có mối liên quan vơi kỹ thuật chế tác đá vừa có mối liên hệ với thuật luyện kim. Đã xuất hiện loại bàn mài có quai.

Đồ trang sức bằng đá Đồng Đậu đã hoàn thiện về hình dáng. Loại vòng có kích thước lớn và nặng được chế tạo một cách hoàn mỹ. Loại hoa tai 4 mấu phát triển. Loại hình vòng mới xuất hiện là loại vòng có khe hở tròn nhưng to, dày, trau chuốt, tinh vi. Loại hình hạt chuỗi mới là loại hình ống, hai đầu to, giữa cong lõm có khe hở: đó là loại hạt chuỗi hình gối gục. Ngoài ra còn có những đồ trang sức hình trụ tròn hay móng dẹt, có khắc hoặc có lỗ để đeo.

Nghề đá cũng được sử dụng để phục vụ cho nghề luyện kim. Khuôn đúc bằng đá được phát hiện ở nhiều nơi. Ở di chỉ Đồng Dền thấy có một khuôn đúc rìu còn nguyên vẹn cả 2 mang. Ở di chỉ Đồng Đậu phát hiện được một khuôn mỗi lần có thể đúc được 2 đầu mũi tên. Vũ khí gồm các loại mũi lao có một hoặc hai ngạnh, mũi nhọn có một hay hai đầu. Đồ trang sức có các loại vòng, vật có xuyên lỗ để đeo. Giai đoạn Đồng Đậu là một bước phát triển tất yếu trên cơ sở giai đoạn Phùng Nguyên. Nét nổi bật khiến giai đoạn này khác biệt hẳn giai đoạn trước là sự phá triển của kỹ thuật luyện kim đồng thau.

Hiện vật bằng đồng thau trong giai đoạn Đồng Đậu chiếm tỷ lệ trên dưới 20% tổng số công cụ và vũ khí. Ngoài kỹ thuật đúc, người Đồng Đậu còn sử dụng kỹ thuật rèn để làm các hiện vật đồng thau như lưỡi câu, mũi nhọn...

Nghề trồng lúa tiếp tục phát triển, nghề chăn nuôi trâu bò lợn gà được coi trọng. Công cụ và vũ khí bằng đồng thau được sử dụng phục vụ cho các nghề đánh cá, săn bắn. Đã tìm thấy xương và răng voi trong nhiều địa điểm khảo cổ. Người Đồng Đậu dùng lưỡi câu đồng, câu được những con cá trắm dài gần 1 mét, nặng hàng mấy ki-lô-gam. Người Đồng Đậu đã săn được từ trâu, bò rừng, lợn rừng, voi, khỉ cho đến rùa, chuột... Đặc biệt hươu nai, hoẵng ở di chỉ Đồng Đậu chiếm tỷ lệ gần 70% trong số các thú rừng, chúng là đối tượng săn bắn của người thời này.
THĂM DI CHỈ GÒ MUN VÀ TÌM HIỂU GIAI ĐOẠN VĂN HOÁ GÒ MUN

Rời Đồng Đậu và các di chỉ đồng dạng, chúng ta hãy đi thăm Gò Mun cùng với hơn 10 địa điểm khảo cổ khác thuộc giai đoạn văn hóa Gò Mun được phân bố trên một địa bàn về cơ bản phù hợp với địa bàn các địa điểm thuộc những giai đoạn trước. Đó là Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm... thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nội.

Người Gò Mun cũng thích ở trên những gò đồi cao nổi lên giữa vùng đồng bằng và trung du; họ bắt đầu thích tập trung ở những vùng chân gò, những vùng gò thấp ven các sông Hồng, Cầu, Đáy, Cà Lồ... Cuộc sống định cư lâu dài của họ đã để lại những tầng văn hóa khá dày.
 
Đến giai đoạn Gò Mun, công cụ và vũ khí đồng thau đã chiếm tỷ lệ trên 50% tổng số công cụ và vũ khí, với các loại mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, dao, giáo, dây, kim, giũa, dùi, đục. Loại rìu lưỡi xéo đã xuất hiện dưới dạng hoàn chỉnh với mũi rìu hơi chúc và lưỡi hơi cong. Đồ đồng thau Gò Mun đã được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp: những lưỡi hái đã được phát hiện; những chiếc rìu cũng đã được sử dụng như những nông cụ.

Đồng thau cũng được dùng làm đồ trang sức: vòng tay được uốn bằng những dây đồng.

Đồ gốm Gò Mun có độ dày rất đều, độ nung cao (khoảng 900C); có mảnh được nung gần thành sành. Gốm có màu xám xanh, xám mốc. Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đã có từ giai đoạn Đồng Đậu. Các miệng gốm Gò Mun thường được bẻ loe ra, nằm ngang, rộng bản, góc tạo thành giữa cổ và thân thường là góc nhọn. Những loại hình thường gặp là các loại nồi, các loại vò, bình cổ cao, chậu, âu, bát đĩa, cốc. Chân đế có xu hướng thấp dần, loại đáy bằng xuất hiện, hình dáng ổn định, thanh thoát. Ngoài ra còn có các loại bi, dọi xe chỉ, chì lưới.

Loại hoa văn độc đáo và phổ biến của gốm Đồng Đậu là hoa văn nan chiếu, và hoa văn khắc vạch: những đường nét này được phối trí hài hòa với những vòng tròn nhỏ tạo nên những đồ án sinh động kết thành một dải quây vòng phủ kín miệng gốm, làm thành đặc trưng chủ yếu của hoa văn gốm Gò Mun.

Kỹ thuật chế tác đá đang ở trên bước đường suy thoái. Đó là do sự phong phú và sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau. Những cái hái bằng đồng thau phát hiện được ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nông nghiệp trồng lúa. Hợp kim đồng thau để đúc hái có 89% đồng và 0,1% thiếc với những vết chì. Trong số những công cụ bằng đồng thau dùng để thu hoạch hoa màu của người xưa ở vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, loại hái Gò Mun lưỡi cong, có gờ ở giữa, họng tra cán hình chóp cụt là có hình dáng hoàn thiện và tiến bộ hơn cả.

Lần đầu tiên những mũi tên đồng thau xuất hiện, với loại hình đa dạng và số lượng nhiều, đòi hỏi những tiến bộ về kỹ thuật và cũng đòi hỏi phải có một khối lượng nguyên liệu lớn để đáp ứng đủ nhu cầu, vì mũi tên một lần bắn đi là mất "một đi không trở lại". Truyền thống giỏi cung nỏ của người Việt cổ khiến quân thù xâm lược ở buổi đầu công nguyên phải khiếp sợ và khâm phục, vốn đã có một gốc rễ lâu bền từ giai đoạn Gò Mun này.

Sự phát triển của nghề thủ công luyện kim đã có ảnh hưởng lớn không những đến sự phát triển của nông nghiệp mà còn thúc đẩy sự hoàn thiện của các nghề thủ công khác - trừ nghề làm đồ đá.
Những mũi giáo gỗ phát hiện được ở giai đoạn Gò Mun cho chúng ta biết rằng nghề làm đồ gỗ - một nghề cũng có truyền thống xa xưa như nghề làm đồ đá - vẫn tiếp tục tồn tại và cải tiến.

Người Gò Mun sống bằng nghề làm ruộng trồng lúa nước là chính, đồng thời họ cũng là những người chăn nuôi, săn bắn, đánh cá. Đây là một cung cách làm ăn tiến bộ, cũng là cách làm ăn của mọi dân cư ở những vùng trung tâm nông nghiệp của thế giới cổ đại.

Hiện vật khảo cổ cho thấy rõ: giai đoạn Gò Mun được phát triển trực tiếp lên từ giai đoạn Đồng Đậu và có mối liên hệ chặt chẽ với các giai đoạn phát triển trước đó. Đồng thời giai đoạn Gò Mun cũng chứa đựng những tiền đề vật chất cho sự phát triển của một giai đoạn cao hơn vào cuối thời đại đồng thau và đầu thời đại đồ sắt ở nước ta: giai đoạn văn hoá Đông Sơn.

Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun: 3 giai đoạn lớn của thời đại đồng thau trong đó cư dân nông nghiệp Việt cổ, người Phùng Nguyên, người Đồng Đậu, người Gò Mun ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, bắc Trung Bộ, đã từng bước chế ngự thiên nhiên, làm ruộng lúa, phát huy được tính ưu việt của nền kinh tế nông nghiệp, bước vào chế độ dòng cha, làm chủ vùng tam giác châu sông Hồng, mở đường cho một giai đoạn văn hoá rực rở, đỉnh cao thời đại dựng nước: giai đoạn Đông Sơn.

CHƯƠNG V  
BÊN BỜ SÔNG HỒNG, SÔNG MÃ CHỨNG TÍCH CỦA NỀN VH ĐÔNG SƠN RỰC RỠ

HƠN MỘT TRĂM DI TÍCH KHẢO CỔ TẬP TRUNG BÊN BỜ SÔNG HỒNG SÔNG Mà

Từ đầu thế kỷ 20, giới khảo cổ học thế giới đã làm quen với những hiện vật đồng thau độc đáo của nước ta thời cổ, trong đó có những chiếc trống đồng nổi tiếng, nhất là từ sau năm 1924 khi địa điểm khảo cổ Đông Sơn được phát hiện ở bên phải sông Mã (Thanh Hóa). Tham gia vào công cuộc khai quật nghiên cứu khảo cổ học ở nước ta thời đó có đủ các hạng người: từ quan lại thực dân, võ quan, Tây đoan đến học giả tư sản Pháp và một số nước phương Tây khác, nhiều người trong bọn họ tuy mang danh là nhà khảo cổ song kỳ thực là bọn đi phá hoại các di tích khảo cổ, đi ăn cướp các hiện vật khảo cổ . Sau năm 1930, một số nhà nghiên cứu đã đề nghị đặt tên văn hóa thời đại đồ đồng thau ở miền Bắc Việt Nam là "Văn hóa Đông Sơn". Thật ra văn hóa Đông Sơn là văn hóa của giai đoạn cuối cùng, giai đoạn phát triển cao nhất của thời đại Hùng Vương dựng nước, sau 3 giai đoạn kể trên.

Những địa điểm khảo cổ thuộc giai đoạn Đông Sơn được phân bố rộng khắp trên miền Bắc nước ta. Cho đến nay, chúng ta đã thống kê được hơn 100 di tích, phần lớn tập trung theo lưu vực sông Hồng và sông Mã.
Đông Sơn và các di chỉ đồng dạng được phân bố ở vùng ven chân núi, gần sông suối, vùng gò đồi cao miền đồng bằng. Người Đông Sơn sống tập trung quây quần trên một diện tích hàng vạn mét vuông, kế thừa truyền thống của giai đoạn trước và là cơ sở cho sự định cư lâu dài của những thế hệ kế tiếp sau.

Đông Sơn bên bờ sông Mã là một di tích khảo cổ điển hình gồm cả khu cư trú và khu mộ táng. Người Đồng Đậu cũng còn có những khu đất mộ ở tách biệt hẳn với khu cư trú, được bố trí ở vùng ven chân núi, trên các gò đồi cao ở vùng trung du và đồng bằng, ở trên núi hay ở trong các hang động. Họ thường chôn theo trong mộ nhiều vật tuỳ táng. Ở ngôi mộ cổ phát hiện tại di tích Việt Khê (Hải Phòng) có hơn 100 hiện vật tuỳ táng, trong đó có đến 97 hiện vật bằng đồng thau các loại.

Hiện vật đá thuộc giai đoạn Đông Sơn chỉ chiếm một số lượng ít ỏi, phần lớn là đồ trang sức như hạt chuỗi, hạt cườm, vòng tay, khuyên tai ... Những hiện vật đá khác lần đầu tiên xuất hiện là những quả cân, những cây mài hình bầu dục (có lẽ dùng để liếc gươm).

Gốm Đông Sơn kế thừa truyền thống của gốm Gò Mun về mặt hình dáng và kỹ thuật. Một số đồ án hoa văn thuộc giai đoạn Phùng Nguyên được phục hồi trở lại với một phong cách độc đáo trên miệng gốm. Ngoài ra, thấy xuất hiện lần đầu những hoa văn vẽ các hình chim, cá...
NGHỀ LUYỆN KIM ĐỒNG THAU PHÁT TRIỂN ĐẾN ĐỈNH CAO

Miền Bắc nước ta từ nghìn xưa vốn có nhiều mỏ kim loại như các mỏ vàng, bạc, chì, sắt, đồng... Các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hoá... có hàng chục mỏ đồng. Những mỏ này thường nhỏ, nông và lộ thiên, thuận tiện cho cách khai thác giản đơn. Đó là điều kiện đầu tiên để có thể phát triển một nền văn hoá đồng thau rực rỡ.

Đến giai đoạn văn hoá Đông Sơn, giai đoạn cực thịnh của thời đại Hùng Vương thì chúng ta thấy trong thành phần hợp kim đồng thau, tỷ lệ đồng và thiếc giảm xuống và tỷ lệ chì tăng lên.

Việc sáng tạo ra loại hợp kim mới này không phải là ngẫu nhiên mà là xuất phát từ những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật của cả một thời kỳ lịch sử. Trong các giai đoạn trước Đông Sơn hợp kim đồng thau chủ yếu dùng để chế tạo các đồ nghề, đòi hỏi có tính năng kỹ thuật sắc bén, bền chắc. Đến giai đoạn Đông Sơn, đồng thau chuyển mạnh vào lĩnh vực đồ dùng hằng ngày; các loại thạp, thố, trống đồng đòi hỏi sản xuất nhiều. Những đồ vật này lại cần phải trang trí đẹp, phức tạp và như vậy cần hợp kim dẻo hơn là rắn để dễ dàng tạo nên các chi tiết trong khi đúc. Vì vậy mà người Việt cổ sử dụng hợp kim đồng - thiếc - chì.

Mặt khác, có lẽ hợp kim mới với 3 thành phần chính có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn, do đó giảm bớt những khó khăn trong việc nấu và đúc, và như vậy, người Việt cổ lúc đó đã bước đầu biết đến mối quan hệ giữa thành phần và tính chất của hợp kim.

Chúng ta còn nhận thấy rằng ở giai đoạn Đông Sơn, thành phần của các kim loại trong hợp kim đồng - thiếc - chì (hay đồng - chì - kẽm) lại thay đổi theo chức năng của từng loại đồ nghề, đồ dùng hay vũ khí.
Ví dụ: mũi tên đồng ở Cổ Loa có thành phần:
Đồng: 95%; Chì: 3,4 - 4,2%, kẽm:1 - 1,1%
Tỷ lệ này đảm bảo sức xuyên và độ bay xa của mũi tên.
Lưỡi giáo Thiệu dương có thành phần:
Đồng: 73,3%; Thiếc: 13,21%; Chì:5,95% đảm bảo cho vũ khí vừa dẻo vừa bền.
Rìu xoè cân Thiệu Dương có thành phần:
Đồng: 82,2%, Thiếc: 10,92%, Chì: 0,8% và rìu lưỡi xéo Thiệu Dương có thành phần:
Đồng:82,2%; Thiếc:6,8%; Chì:1,4%, nhờ vậy có thể chặt, cắt tốt.

Về phương pháp chế tác các công cụ đồng, chúng ta nhận thấy ngoài một số ít công cụ cỡ nhỏ như lưỡi câu, mũi nhọn... mang dấu vết của kỹ thuật rèn, còn hầu hết các di vật đồng thau là sản phẩm đúc. Cho đến nay đã tìm thấy hơn 30 loại khuôn đúc giáo, dao găm, rìu, mũi dùi, mũi tên... Những khuôn đúc này hoặc bằng đất hoặc bằng đá và sa thạch

Khuôn đúc bằng đất tìm thấy ở Đồng Đậu, Cam Thượng, đất sét làm khuôn được phát hiện ở nhiều địa điểm trong các tỉnh Cao Lạng, Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Hà Nội, Bình Trị Thiên. Các khuôn đá tìm thấy đều là khuôn có hai mang (ví dụ các khuôn đúc rìu), mặt giáp hai mang rất nhẵn và kín, nếu úp mặt 2 mang rồi soi lên, chúng ta không thấy có chút ánh sáng nào lọt qua, chứng tỏ trình độ chuẩn xác cao của những người thợ làm khuôn.

Chúng ta cũng đã gặp những khuôn đúc đồng thời đúc được nhiều dụng cụ một lúc, ví dụ khuôn đất đúc 3 mũi dùi, khuôn đá đúc 2 mũi tên cùng một lúc ở Đồng Đậu.Việc tìm thấy những chiếc dao găm có chuôi hình người tìm thấy ở Tràng Kênh (Hải Phòng) là sống mũi của người nằm trên cùng một đường thẳng với lưỡi dao, hình người ở chuôi có cấu tạo phức tạp nên rất khó đúc.

Công cụ sản xuất nông nghiệp Đông Sơn có các loại: lưỡi cày, thuổng, rìu, cuốc, mai, vời...Công cụ sản xuất thủ công có các loại đục (đục bẹt, đục vũm, đục một), nạo, dùi, giũa, dao, dao khắc, rìu, kim, dây...

Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng về loại hình, độc đáo về hình dáng và phong phú về số lượng. Điều này gắn liền với các thần thoại và truyền thuyết về truyền thống chống giặc ngoại xâm, giữ nước của dân tộc ta, ví dụ như câu chuyện nỏ thần của vua Dục An Vương bắn mỗi phát ra hàng loạt mũi tên đồng làm cho tướng xâm lược Triệu Đà phải khiếp vía kinh hồn. Những cuộc khai quật ở thành Cổ Loa (huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) đã phát hiện ra kho chứa hàng vạn mũi tên đồng. Mũi tên Cỗ Loa có các loại hình cánh én, hình lao có họng hay có chuôi, loại 3 cánh có chuôi dài. Ngoài ra còn có giáo, lao, dao găm, kiếm, qua, rìu chiến... Rìu chiến có đến gần 10 loại: các loại rìu xéo (hình dao xéo, hình thuyền, hình hia, hình bàn chân) rìu lưỡi xoè cân, rìu hình chữ nhật, rìu hình dao phạng. Dao găm có các loại lưỡi hình lá tre đốc củ hành, đốc bầu dục hay có chuôi là một tượng hình người, có loại dao găm lưỡi hình tam giác, cán dẹt hay tròn. Các tấm che ngực có hình vuông hay hình chữ nhật, có hoa văn trang trí đúc nỗi. Ở Hà Nam Ninh còn tìm thấy cả giáp che ngực và mũ chiến bằng đồng.

Đồ dùng Đông Sơn gồm có các loại thạp, có nắp hay không nắp, với những đồ án hoa văn trang trí phức tạp, những thổ hình lẵng hoa có chân đế và vành rộng, các loại gùi, vò, ấm, lọ, chậu...Người Đông Sơn trang sức bằng các loại vòng tay, vòng ống ghép, nhãn, hoa tai, móc đai lưng, bao tay, bao chân, ví dụ như bao tay và bao chân tìm thấy ở di tích Làng Vạc, Nghệ Tĩnh. Nghệ sĩ tạc tượng Đông Sơn để lại cho chúng ta nhiều loại tượng người, tượng thú vật như cóc, chim, gà, chó, hổ, voi...

Nhạc sĩ Đông Sơn đã diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng. Số lượng trống đồng Đông Sơn tìm được trên đất nước Việt Nam đã hơn con số 100, chiếm già nữa số lượng trống loại này hiện đã biết ở Đông Nam Á.

Về mặt kỹ thuật, đặc trưng hợp kim đồng thau của giai đoạn Đông Sơn là hàm lượng chì cao, có khi đến 20%. Các nhà khảo cổ học cho rằng hợp kim đồng - thiếc - chì là một sáng tạo của kỹ thuật luyện đồng của người Đông Sơn ở nước ta. Vào cuối giai đoạn Đông Sơn, công cụ sắt đã tương đối phổ biến: đó là các loại cuốc, mai, búa, đục, dao, giáo, kiếm...

Cũng ở giai đoạn này, đã phát hiện được nhiều hiện vật liên quan đến sự phát triển của các nghề dệt, nghề mộc, nghề da, nghề sơn, nghề làm đồ xương, đồ trai ốc.
SỰ PHÁT TRIỂN RỰC RỞ CỦA MỘT NỀN VĂN HOÁ NÔNG NGHIỆP Ở GIAI ĐOẠN CUỐI THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC. 

Người Đông Sơn đã là những nông dân thuần thục. Nông nghiệp dùng chày đã phổ biến qua sự phát triển một khối lượng lớn các loại lưỡi cày bằng đồng thau, là những lưỡi cày tiến bộ nhất trước khi xuất hiện lưỡi cày sắt vào khoảng những thế kỷ trước sau Công nguyên.

Người Đông Sơn đã biết chế biến lương thực. Trên mặt các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà... có khắc hình những đôi trai gái dùng cối và chày tay giã gạo. Trong lịch sử khoa học kỹ thuật, trước khi phát minh ra cối xay và cối giã theo nguyên tắc đòn bẩy thì đây là phương pháp gia công có năng xuất cao vào thời bấy giờ.

Hình ảnh những vụ mùa thắng lợi còn được thể hiện qua những hình kho lúa, với chim chóc vây quanh, chim đậu, chim bay rộn ràng, người đi lại nhộn nhịp khắc họa trên mặt các trống đồng.Hình ảnh cây lúa được đưa lên thành một chủ đề trang trí trên rìu đồng hay là thành những vòng hoa văn quây lấy mặt trống đồng. Một số nhà nghiên cứu đoán định rằng người Đông Sơn đã biết làm một năm hai vụ lúa. Chăn nuôi trâu bò đã phát triển, bảo đảm sức kéo cho nông nghiệp. Trên các trống đồng Đôi Ro, Làng Vạc có hoa văn hình bò rất đẹp. Ở nhiều di chỉ đã phát hiện được những tượng đầu gà bằng đồng thau. Việc thuần phục và thuần dưỡng voi đã được phổ biến: xương voi tìm thấy trong nhiều di chỉ, tượng voi bằng đồng có bành tìm thấy ở Làng Vạc.

Săn bắn và đánh cá vẫn là một hình thái kinh tế phụ cần thiết: hình chó săn hươu được khắc trên rìu đồng; hình cá được phát hiện trên đồ gốm.

Người Đông Sơn là những nhà kiến trúc giỏi: họ sống trong những ngôi nhà sàn lớn, hai mái hay bốn mái cong hình thuyền, có cầu thang ở giữa. Bên cạnh nhà ở là nhà kho chứa thóc lúa. Vết tích cụ thể của những ngôi nhà sàn này, có cột to và lỗ mộng tinh tế, đã phát hiện được ở di chỉ Đông Sơn. Ngôi nhà mái cong Đông Sơn đã khánh thành một truyền thống kiến trúc độc đáo lâu đời và còn để lại hình ảnh khá đậm đà ở những ngôi đình trong các làng mạc miền đồng bằng ở Việt Nam.

Cách ăn mặc của người Đông Sơn đã phức tạp hơn với nhiều kiểu khố, váy, như chúng ta có thể thấy qua việc quan sát các tượng nghệ thuật và các hình hoa văn khắc chạm trên đồ đồng. Các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy vết tích của tơ lụa, của các loại vải mịn, vải thô còn in dấu trên đồ gốm, trên đồ đồng thau.Vải chắc được làm từ các loại đay,gai. Ngành dệt chắc đã được chuyên môn hóa.

Nhưng nói đến văn hoá của giai đoạn Đông Sơn chủ yếu là nói đến kỹ thuật đồng thau đã đạt tới một đích cao rực rỡ. Số lượng hiện vật đồng thau tăng vọt, loại hình vô cùng đa dạng, nhiều hiện vật to lớn và đẹp đẽ được đúc ra như trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà... thạp đồng Đào Thịnh, đã trở thành niềm tự hào của văn hoá Việt Nam.
 
Thạp Đào Thịnh (Yên Bái) cao 81cm, đường kính miệng 61cm, bụng phình to nhất 70cm, nắp thạp cao 15,5cm, đường kính 64cm đậy lên miệng thạp khít theo đường gờ cao 1,5cm. Chính giữa nắp thạp có hình ngôi sao 12 tia tượng trưng cho mặt trời, những hoa văn hình học, những hình chim nối đuôi nhau bay ngược chiều kim đồng hồ và 4 khối tượng gái trai tượng trưng cho sự phồn vinh và phì nhiêu. Trên thân thạp, ngoài những hoa văn hình học, hình chim còn có những hoa văn khắc chìm hình thuyền khác kiểu nhau, những hình người hóa trang thú 4 chân. Khi chủ nhân chết đi, những chiếc thạp đẹp đẽ hiếm quý này trở thành những quan tài đặc biệt.

Trống Ngọc Lũ (Hà Nam) là một trong những chiếc trống cổ nhất, to nhất và đẹp nhất trong số những chiếc trống đồng Đông Sơn được biết đến. Trống cao 63cm, đường kính mặt 79cm, đường kính chân trống 80cm, tang trống chỗ rộng nhất có đường kính 85cm. Bốn đôi quai kép gắn vào tang và phần giữa thân trống. Trên khắp mặt trống, tang trống và thân trống đều có hoa văn trang trí.

Trên cơ sở của kinh tế luyện đồng, kỹ thuật luyện sắt đã nảy sinh và tạo điều kiện để cho kỹ thuật luyện đồng được hoàn thiện và phát triển đến đỉnh cao và tiến đến sự thay thế bởi kỹ thuật luyện sắt. Người Đông Sơn đã biết luyện sắt bằng lò. Ngoài phương pháp luyện sắt tinh, sắt chín, họ còn biết phương pháp đúc nữa. Nhiều hiện vật sắt phát hiện ở di chỉ Đông Sơn được đúc trong khuôn hai mang.
Người Đông Sơn đã biết sử dụng những ưu điểm của đồng và sắt để tạo ra những loại vũ khí mới: lưỡi bằng sắt bảo đảm yêu cầu cứng, sắc, cán bằng đồng bảo đảm yêu cầu bền, đẹp; vừa thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ lại vừa rất lợi hại. Ví dụ cây dao găm lưỡi sắt cán đồng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn.
Vào cuối giai đoạn Đông Sơn, khi kỹ thuật luyện sắt đá được hoàn thiện, đồng thau biến dần thành một thứ hợp kim quý hiếm được sử dụng để đúc các loại đồ trang sức, các tác phẩm nghệ thuật (như trống đồng), các loại dụng cụ đặc biệt (như tháp đồng) phục vụ cho yêu cầu mỹ thuật, xa hoa, phô trương.
Nền văn hoá Đông Sơn này nở trong giai đoạn cuối cùng của thời đại dựng nước đã toả ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhiều miền đất đai Đông Nam Á và để lại dấu vết sâu sắc trong nhiều thời kỳ phát triển tiếp theo của lịch sử Việt Nam.
Những di vật tiêu biểu, những kỹ thuật đúc đồng luyện sắt tinh vi đã cho thấy sự phát triển rực rỡ và độc đáo của văn hóa Đông Sơn. Chủ nhân nền văn hoá này, người Đông Sơn - con cháu của người Phùng Nguyên, ngươi Đồng Đậu, người Gò Mun - là những người Việt cổ, tổ tiên trực tiếp của nhiều dân tộc ở Việt Nam ngày nay.
Người Việt cổ ở thời đại Hùng Vương dựng nước, giỏi nghề trồng lúa nước, quen sinh hoạt trên đồng bằng và sông biển, thạo việc quân sự và rất giỏi nghề thủ công, (đúc đồng, luyện sắt...), đã tạo ra được một thể chế quốc gia sơ khai trên cơ sở một xã hội sớm phân hoá nhưng vẫn bảo lưu nhiều truyền thống nguyên thủy, và đã xây dựng được một đời sống vật chất, xã hội, tinh thần phong phú độc đáo.
Văn vật tiêu biểu nhất của văn hoá Đông Sơn và của cả nền văn minh sông Hồng thời đại dựng nước là những chiếc trống đồng Đông Sơn, những chiếc trống đồng Việt cổ. Trống đồng vô cùng qúy báu, một trong những niềm tự hào sâu sắc của văn minh Việt Nam, nói với chúng ta rất nhiều điều, hoặc sáng tỏ hoặc còn đầy bí ẩn, về thiên tài, cuộc sống và tâm hồn của tổ tiên ta. 

CHƯƠNG VI
NGẮM NGHÍA VÀ SUY NGHĨ VỀ VĂN VẬT KỲ DIỆU CỦA THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC: NHỮNG CHIẾC TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.

NHÌN NGẮM TRỐNG ĐỒNG VĂN VẬT CỔ KÍNH KỲ DIỆU CỦA TỔ TIÊN TA 

Tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam ở thủ đô Hà Nội, bên bờ sông Hồng, ở vị trí trung tâm của phòng trưng bày đầu tiên dành cho thời đại Hùng Vương dựng nước, khách tham quan thấy có hai chiếc trống đồng lớn: trống Ngọc Lũ và trống Hoàng Hạ là hai trong những chiếc trống cổ nhất, lớn nhất, và đẹp nhất, hai văn vật nổi tiếng trong bộ văn vật tiêu biểu cho nền văn minh Việt cổ thời đại dựng nước: bộ trống đồng Đông Sơn. Viện bảo tàng lịch sử lại tổ chức thêm một Phòng trưng bày chuyên đề trống đồng Đông Sơn. Mặc dầu diện tích trưng bày chuyên đề này, với hơn 100 hiện vật quý báu, với những biểu hiện bước đầu về trống đồng cũng đã giúp chúng ta hiểu thêm được khá nhiều về nguồn gốc, quê hương, chức năng, công dụng, đặc điểm tính chất... của trống đồng, và thông qua những hoa văn trang trí trên trống, hình dung được một cách sinh động hiện thực xã hội, hiện thực văn hoá vật chất và tinh thần của thời đại dựng nước.
 
Ở vị trí trang trọng trong  phòng trưng bày chuyên đề trống đồng Đông Sơn thấy có chiếc Ngọc Lũ I được coi là chiếc trống có kích thước to lớn, hình dáng cổ kính, tập trung hoa văn phong phú nhất và đã thu hút được sự chú ý của nhiều người xem cũng như của nhiều nhà nghiên cứu.

Vào năm 1903, người ta thấy chiếc trống lớn và đẹp này tại chùa Đọi (Long Đội Sơn) thuộc làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Trống do một cụ già tìm được khi đắp đê sông Hồng và đưa về để ở chùa làng. Từ đó chiếc trống đồng Ngọc Lũ được cả thế giới biết tiếng và trở thành một trong những di vật đồng thau tiêu biểu nhất.

Trống được bảo quản tương đối nguyên vẹn, được phủ ngoài một lớp pa-tin màu xanh ngả sang xám. Trống có hình dáng cân đối gồm 3 phần hài hoà: tang phình, thân thon, đế choãi. Mặt trống hơi tràn ra ngoài tang một ít tạo thành đường gờ nổi giữa mặt và tang trống. Gắn vào tang và phân giữa thân trống là 4 chiếc quai chia thành hai cặp ở hai phía, trang trí văn bện thừng.
Ở mặt trống cũng như tang trống và thân trống đều có trang trí hoa văn chia thành hai loại: một loại là hoa văn hình học, một loại là những hình khắc người, động vật và cảnh vật.
 

Trên mặt trống ở chính giữa là một mặt trời với 14 tia chiếu ra chung quanh, sau đó là 16 vòng hoa văn. Nội dung các hoa văn phong phú, sinh động: đó là những người hoá trang hình chim cầm lao, giáo, khèn... một giàn cồng chiêng có người đánh, người giã gạo chày đứng, hình chim bay, nhà sàn mái hình thuyền có chim, gà đậu trên nóc và người ở bên trong, cảnh người đang đánh trống đồng. Vòng hoa văn thứ 8 là những con hươu đang thong thả bước và chim đang bay. Vòng thứ 10 là những con chim mỏ dài, đuôi dài đang bay và những con chim mỏ ngắn đang đậu. Trên tang trống có 10 vòng hoa văn trong đó có khắc hình những chiếc thuyền cong có sàn có lái mũi đang chở những người cầm rìu, giáo, cung tên cùng với chó, chim, trống đồng, bình đồng. Thân trống có 6 khung, hoa văn, mỗi khung là hình hai người hoá trang thành chim cầm rìu và mộc. Chân trống không trang trí.

Trống Ngọc Lũ là chiếc trống đồng phải nói là đẹp nhất, có hình dáng hài hoà, có hoa văn phong phú nhất trong số những chiếc trống đã tìm thấy ởû Việt Nam, ở Đông Nam Á và trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà kỹ thuật và nghệ sĩ của thời đại dựng nước xưa kia đã dồn công sức để chế tạo những chiếc trống đồng tuyệt diệu như chiếc trống đồng Ngọc Lũ này, và các chiếc trốâng khác như trống Hoàng Hạ, Sông Đà, Bản Thơm, Quảng Xương, Miếu Môn, Vũ Bị, Đồi Ro, Làng Vạc, Pha Long, Phú Xuyên, Hòa Bình, Hữu Chung.

Những chiếc trống này trong suốt hàng nghìn năm đã là văn vật tượng trưng cho tinh hoa văn hoá cũng như ý chí quật cường của dân tộc ta. Trong những nghi lễ trang nghiêm cũng như dịp hội hè vui vẻ, tiếng trống đồng trầm hùng vang vọng tạo ra một không khí uy nghi, làm tăng lòng tự hào dân tộc và làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
QUÊ HƯƠNG CỦA TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN: VIỆT NAM 

Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã khẳng định: quê hương của trống đồng Đông Sơn là miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn đã tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên đến thế kỷ 6 sau Công Nguyên. Chủ nhân của chúng là những người Việt cổ, cư dân của nước Văn Lang - Âu Lạc thời đại Hùng Vương dựng nước. Chúng là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp phát triển. Việc phát hiện ra những lưỡi cày đồng phổ biến ở nhiều nơi, cùng với những hình bò khắc trên thân các trống Đồi Ro và Làng Vạc, tượng đầu trâu ở Đình Chàng... chứng tỏ rằng người thời kỳ này đã biết xử dụng sức kéo của động vật vào canh tác nông nghiệp. Phát triển song song với nghề nông còn có các nghề đánh cá, săn bắn và chăn nuôi gia súc. Chứng cớ là những thuyền, hình cá bơi dưới thuyền, hình người bắn cung, hình chó săn, hình chim gà, bò... trang trí các trống đồng. Nghề thủ công quan trọng nhất thời bấy giờ ắt hẳn là nghề đúc đồng: 4 chiếc trống đồng lớn nhất, cổ nhất và đẹp nhất: trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hà, trống sông Đà, trống Khai Hoá giống nhau về hình dáng, kích thước, về bố cục trang trí của những hình khắc và hoa văn: những hình này được chế tác với phong cách ổn định và đạt tới mức tiêu chuẩn hóa, như thế là nghề thủ công đã đạt tới trình độ phát triển thuần thục. Những địa điểm phát hiện được trống đồng và công cụ bằng đồng cho thấy phần lớn các hiện vật này phân bố dọc theo triền những con sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
 
TỤC SÙNG BÁI MẶT TRỜI VÀ CHIM VẬT TỔ

Ngôi sao trên mặt trống đồng là biểu trưng cho mặt trời mà tục thờ mặt trời là một hình thức của đạo sùng bái tự nhiên được phản ảnh rộng rãi trong phong tục tập quán cổ truyền của người Việt. Những hình người hoá trang thành chim trên trống đồng mang ý nghĩa tín ngưỡng vật tổ, mà vật tổ đây là một loài chim. Trong truyền thuyết của người Việt, người Mường có câu chuyện trăm trứng mang ý nghĩa vật tổ.Cuộc hôn nhân Bố Rồng(Lạc Long)-Mẹ Âu (Âu Cơ) phản ánh sự liên kết của hai bộ lạc thờ Rồng và thờ Chim thần. Theo dõi những hình người khắc trên trống đồng, chúng ta thấy những nhân vật chiếm vị trí trung tâm trong các sinh hoạt và nghi lễ thường được hoá trang thành chim, họ tự trang sức mình bằng những chiếc mũ hình chim, hoặc bộ quần áo lông chim, thậm chí những vũ khí, công cụ sản xuất, mũi thuyền, nóc nhà cũng làm theo hình chim, được trang trí hình chim, được trang sức lông chim. Hình ảnh người - chim Việt cổ chẳng những thể hiện một cách có hệ thống trên các trống đồng mà còn thấy trên nhiều thạp đồng, rìu đồng nữa. Chính loài chim bay, có mào, cổ và chân dài, có mặt trên hầu khắp các trống Đông Sơn từ chiếc sớm nhất đến chiếc muộn nhất, giống chim nước gần với loài cò, sếu, vạc ấy là chim vật tổ của người Việt cổ.

Hình ảnh vật tổ Rồng (giao long) giống vật thần thoại kết hợp trong mình nó những nét của cá sấu, rắn nước... thấy khắc trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), trên rìu đồng Đông Sơn, trên mảnh áo giáp đồng tìm thấy ở Hà Nam. Vật tổ hươu (người Mường gọi hươu là mẹ, cá là cha) thấy khắc trên mặt nhiều trống đồng, trên thạp Việt Khê và trên rìu Đông Sơn - Vật tổ cóc (dân gian ta suy tôn cóc là cậu ông trời) cũng thấy trên nhiều trống đồng (Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Phú Phương, Nông Cống, Thôn Bùi, Chợ Bờ, Đắc Giao, Thôn Mông...) Trong số những con vật thiêng này tách ra một cặp quan trọng đó là cặp Rồng - Chim phản ánh sự kết hợp giữa hai bộ lạc lớn thờ Rồng và thờ Chim, sự hình thành liên minh bộ lạc người Việt cổ lấy tổ hợp bộ lạc Rồng - Chim làm nồng cốt. Cảnh đua thuyền, cảnh hiến tế, cảnh đánh trống, đánh chiêng, giã gạo, múa nhảy thấy trên trống đồng đều là những nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp, có thể xem đó là cảnh lễ cầu mùa, hội mừng mùa, những ngày hội lễ tiêu biểu của nền văn minh nông nghiệp Việt cổ.

Trống đồng Đông Sơn còn cho chúng ta những hình ảnh cụ thể về trang phục, về nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc, trang trí, nghệ thuật ca múa nhạc của người Việt cổ.
CON SỐ 18 KỲ LẠ, DẤU ẤN CỦA TRIỀU ĐẠI HÙNG VƯƠNG TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN 

Trống đồng Đông Sơn làm chúng ta liên tưởng đén truyền thuyết người Việt và người Mường. Truyền thuyết "trăm trứng" của người Việt kể rằng Bố Rồng và Mẹ Âu chia làm đôi số 100 người con của mình: 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ lên núi (tức là địa bàn Phong Châu), cử người con trưởng làm vua lấy hiệu là Hùng, đặt tên nước làVăn Lang, truyền được 18 đời đều gọi là vua Hùng. Truyền thuyết "Trăm Trứng" của người Mường (kể lại trong sử thi "Đẻ Đất Đẻ Nước" ) nói: 50 người con về miền đồng bằng trở thành tổ tiên người Việt; 47 người đi lên miền núi, họ là tổ tiên của các dân tộc miền núi, còn lại 3 người sinh ra từ những trứng đầu tiên: Tá Cài, Tá Cần, và Dạ Kịt. Sau khi anh cả là Tá Cài bị rắn cắn chết, các mường mời Tá Cần lên ngôi vua. Tá Cần lấy bà Chu Bà Chương sinh được 18 con: 9 con trai và 9 con gái. Họ trở thành lang (thủ lĩnh) và chia nhau đi coi giữ các bản Mường. Qua hai truyền thuyết trên, chúng ta lưu ý đến con số 18. Các sách sử cổ của ta như Việt Nam thế chí, Đại Việt Sử lược, Đại Việt Sử ký Toàn thư...và ngọc phả Hùng Vương hiện lưu trử tại đền Hùng đều nói đến con số 18 đời vua Hùng. Truyền thuyết và phong tục cổ truyền của dân gian ta nhiều lần nhắc tới con số 18: Truyện Bánh chưng bánh giầy kể rằng vào cuối đời vua Hùng thứ 6, vua đã truyền ngôi, khônng phải cho con cả mà là cho con trai thứ 18, tên là Lang Chiêu, người đã làm được và đem dâng vua hai thứ bánh ngon lành và ngụ nhiều ý nghĩa.

Truyện Ông Dóng ghi lại chi tiết: người anh hùng làng Dóng bảo sứ giả của vua Hùng đúc cho ngựa sắt cao 18 thước, với ngựa này Dóng sẽ đi dẹp giặc. Truyền thuyết về vua Thục An Dương và thành Cổ Loa cho biết vòng trong cùng của thành có 18 u hoả hồi. Trong tục rước nõn nường phổ biến ở khá nhiều địa phương vùng trung du và miền đồng bằng Bắc Bộ, dân gian xưa mang đi trong đám rước 18 cái nõn và 18 nường (là những vật tượng trưng có ý nghĩa phồn thực). Con số 18 được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau chắc có một vị trí quan trọng trong thế giới quan của người Việt cổ.

Tìm hiểu các trống đồng Đông Sơn, lại thấy thêm một điểm đặc sắc. Đếm kỹ số lượng chim trong các vành chim bay - loại chim được nhiều nhà nghiên cứu xem là vật tổ của người Việt cổ - thì mỗi vành có đúng 18 chim! Một điều rất lý thú nữa là: ở vành chim trên mặt trống sông Đà tìm được trong một bản Mường thuộc tỉnh Hoà Bình, lúc đầu nghệ nhân sơ ý nên chỉ chia vành ra 17 cung bằng nhau, khi khắc trên khuôn đúc đến hình chim thứ 16 thì chỉ còn lại có một đoạn, vì vậy bắt buộc nghệ nhân phải khắc hai hình chim vào đoạn cuối cùng này cho đủ số 18 chim (nếu không làm như vậy thì vành chỉ đủ chỗ cho 17 chim thôi).

Điều này một lần nữa cho thấy ý nghĩa rất quan trọng, rất cơ bản của con số 18 trong đời sống tinh thần người Việt cổ. Phải chăng con số 18 đời các vua Hùng là 18 dòng họ đầu tiên kết hợp với nhau trong liên minh bộ lạc Văn Lang, lấy tổ hợp bộ lạc chim - Rồng làm nồng cốt? Bản thân con số 18 có mặt trên trống đồng, sự hiện diện của 18 chim vật tổ trên các trống đồng cổ nhất, to nhất, đẹp nhất của trống Ngọc Lũ, trống Sông Đà, trống Khai Hoá... phải chăng đó là dấu ấn cụ thể của triều đại 18 vua Hùng, là căn cứ vật chất xác nhận sự tồn tại của thời đại Hùng Vương dựng nước?
ĐÚC TRỐNG ĐỒNG: MỘT KỲ CÔNG KỸ THUẬT CỦA NGƯỜI XƯA 

Trống đồng là một hiện vật khảo cổ học to lớn. Những chiếc trống đồng cỡ lớn như trống Đông Hiếu (Nghệ An), Hữu Chung (Hải Dương), Mật Sơn, Ngọc Lũ (Hà Nam), Hoàng Hạ (Hà Tây), Sông Đà (Hòa Bình) có đường kính mặt trống xấp xỉ 90cm, chiều cao trên dưới 70cm, nặng gần 100 kilôgam, hình dáng phức tạp; tang trống phần trên phình ra hình nón cụt, giữa thắt lại hình trụ tròn, phần chân loe ra hình phểu. Đúc một hiện vật như vậy không phải là một việc đơn giản. Nghiên cứu những đường chỉ trên thân trống, chúng ta biết trống được đúc bằng khuôn hai mang, rìu mặt trống còn để lại những dấu vết cách đều, đó là dấu vết con kê để thoát hơi trên khuôn đúc. Dựa theo kết quả của việc nghiên cứu phục chế trống Ngọc Lũ vào những năm 1964-1966 rồi 1975 tại viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam, chúng ta biết rằng: để đúc thành công một chiếc trống, người thợ đúc phải đạt cho được hàng loạt yêu cầu về kỹ thuật, phải có tay nghề rất thành thạo.

Năm 1964, lần đầu tiên viện Bảo tàng lịch sử phối hợp với viện Bảo tàng mỹ thuật đã tiến hành đúc lại một số hiện vật đồng thau gồm các trống, thạp, thổ, bình, rìu, giáo, lao, qua, kiếm, dao găm, muôi, giũa, lẫy nỏ, tượng người... Phụ trách chuyên môn của những cuộc đúc thử này là nghệ nhân lão thành Nguyễn Huy Hạt, giúp vào qúa trình đúc có nhiều thợ đúc giàu kinh nghiệm và một số kỹ sư của Hội đúc đồng Trung ương và Hội đúc đồng Hà Nội. Việc đúc lại các hiện vật có kích thước nhỏ đạt kết qủa tốt. Riêng chiếc trống Ngọc Lũ qua nhiều lần đúc lại vẫn chưa thành công: những trống đúc ra hoặc rỗ chỗ này hoặc hỏng chỗ khác, chưa thực hoàn chỉnh và giống như trống mẫu.

Năm 1975, viện Bảo tàng lịch sử lại cho thử đúc lại trống Ngọc Lũ bằng phương pháp truyền thống của lò đúc Ngũ Xã. Hợp tác xã đúc Trúc Sơn ở Ngũ Xã (quận Ba Đình Hà Nội) cử một tổ thợ đúc lành nghề do nghệ nhân lão thành Dương Văn Túp phụ trách chuyên môn. Lần thử đúc này coi như thành công, căn bản do đã áp dụng những kinh nghiệm thu được trong những lần đúc trước cách đây trên dưới 10 năm. Kết quả là chúng ta có được một phiên bản trống Ngọc Lũ mới, khá hoàn chỉnh, giống trống mẫu đến 95%, âm thanh vang tốt.

Quan sát các khuôn đúc chúng ta nhận thấy người thợ thủ công Việt cổ đã nắm được nhiều tri thức về kim loại học và kỹ thuật đúc. Trước hết là người xưa đã hiểu rất rõ tính chất co giãn thể tích kim loại theo nhiệt độ, vì thế trên các khuôn người ta chú ý tạo ra các dậu ngót để chứa một lượng nước đồng bổ sung, phòng khi đồng nguội co lại sản phẩm đúc không bị khuyết.

Việc đúc các hiện vật lớn như trống đồng, thạp đồng còn đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao hơn về nhiều mặt: chuẩn bị đất làm khuôn (sử dụng nhiều loại đất: đất giấy, đất rơm, đất thao, đất giáp nối, đất gan gà); làm khuôn và làm vật mẫu, cách nấu chảy đồng và kỹ thuật tạo nhiệt độ cao trong lò (nghĩa là vấn đề cấu tạo lò), kỹ thuật rót, trình độ tính toán phối liệu và tổ chức lao độâng của một tập thể thợ thủ công.

Muốn đúc được trống đồng phải có những khuôn đúc lớn, chính xác với nhiều chi tiết tinh tế, phức tạp. Trong điều kiện như vậy vật mẫu và khuôn đúc phải chế tạo từ vật liệu gì? Cho đến nay còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng người thợ thủ công Việt cổ làm vật mẫu bằng đất hay gỗ và khuôn làm bằng đất sét, các hoa văn trên vật mẫu có thể nặn bằng sáp rồi gắn vào hay chạm trổ ngay trên vật mẫu. Nhưng cũng có người cho rằng người xưa đã dùng sáp ong làm vật mẫu và sau đó chế tạo khuôn bằng đất. Khuôn đúc trống đồng chắc chắn phải gồm nhiều mang ghép vào nhau, có thể tang trống và thân trống gồm hai hay ba mang ghép lại, và mặt trống cần một mang riêng.

Một khó khăn khác trong việc làm khuôn trống đồng là phải có khuôn trong và khuôn ngoài, và phải bố trí sao cho khoảng cách giữa hai khuôn ở mọi chỗ cách đều nhau, có thế mới bảo đảm trống có âm thanh tốt. Từ đó người t a phải bố trí con kê khuôn cho chắc chắn và khéo léo.

Khuôn làm xong được nung nong lên tới nhiệt độ cần thiết để khỏi bị co giãn và nứt nẻ khi đổ đồng nóng chảy vào, và tránh sự xuất hiện các vết rỗ do chất khí từ khuôn bốc ra. Sau khi ghép khuôn và nung nóng khuôn, người thợ đúc bắt đầu rót đồng nóng chảy vào khuôn. Người ta cho rằng đồng nóng chảy được rót từ chân trống xuống mặt trống (mặt khuôn hướng xuống phía dưới). Các đậu rót, đậu ngót và lỗ thông hơi đều đặt ở phía chân. Các lỗ thông hơi phải bố trí sao cho không khí có thể thoát ra hết khỏi có khuyết tật trên trống.

Trống đúc xong được tháo ra để sửa chữa: cắt bỏ các loại đậu rót, đậu ngót, các lỗ thông hơi, hàn lại các lỗ con kê hoặc những chỗ bị khuyết, chải bỏ các lớp váng đồng phủ ngoài mặt trống.

Tất nhiên, ngoài các yêu cầu kỹ thuật nói trên, việc đúc trống đồng còn đòi hỏi người thợ thủ công những hiểu biết về nhiều mặt khác nữa. Để đúc những vậât đơn giản như dùi, mũi tên... thì nhiệt độ của đồng lỏng không cần cao lắm mà chỉ cần cao hơn nhiệt độ nóng chảy của đồng (1100 độ C) một ít là được. Nhưng muốn đúc những vật lớn như trống, thạp thì nhiệt độ của đồng lỏng phải khá cao, từ 1200 độ C đến 1250 độ C để cho độ nhớt giảm xuống và đồng có thể chảy đầy vào mọi chi tiết của khuôn. Khi đó lò nấu phải chịu đựng được nhiệt độ khoảng 1400 độ C. Phải dùng than đốt và phải thổi gió vào đến giữa lò sao cho than cháy mạnh và đều. Đồng được nấu trong nồi đất và chuyển dần ra để đổ vào khuôn. Vì kích thước của lò thời Hùng Vương chưa lớn nên nồi có lẽ chỉ nấu được khoảng 30kg đồng mỗi mẽ, và như vậy để đúc được một trống đồng thời có nhiều lò cùng hoạt động, và phải có người thợ cả khéo léo chỉ huy quá trình đúc.

Tất nhiên còn một khâu cơ bản nữa là việc luyện hợp kim đồng thau với chất lượng định trước. Việc này đòi hỏi phải biết tìm kiếm và khai thác không những quặng đồng mà cả các quặng chì và thiếc, rồi luyện các thứ quặng đó và pha chế các kim loại thành hợp kim hoặc luyện trực tiếp hỗn hợp quặng thành hợp kim. Người xưa đã tiến hành công việc này như thế nào còn là một vấn đề hiện nay vẫn chưa sáng rõ.
THỜI THỦ CÔNG VIỆT CỔ: NHỮNG NGƯỜI THỜI ĐÚC TRÁC TUYỆT

Tóm lại quá trình đúc lại trống đồng là cả một quá trình kỹ thuật phức tạp, bản thân những người thợ đúc lành nghề ngày nay cũng còn nhiều lần đúc hỏng mới có thể đạt được tương đối hoàn chỉnh kết quả của người xưa. Ấy thế mà người thợ thủ công Việt cổ đã tìm ra được chất chịu nóng để làm khuôn đúc, đã thực hiện được nhiệt độ cao (trên 1200 độ C để nung chảy hợp kim đồng, đã nắm vững tính năng hoá - lý mỗi thành phần kim loại trong hợp kim đồng thau, đã thực hiện chu đáo tất cả cac khâu trong chuỗi dây chuyền kỹ thuật.

Quan sát những trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà... to lớn, đẹp đẽ, âm vang, với hệ thống hoa văn dày đặc và rất tinh mỹ trên mặt, trên tang và thân trống, chúng ta nói được rằng xã hội Việt cổ cách đây mấy nghìn năm đã có những người thợ đúc trác tuyệt.

CHƯƠNG VII
THIÊN NHIÊN THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC

Địa bàn phân bố của các trống đồng Đông Sơn cùng tất cả các tài liệu khác: tài liệu khảo cổ học, sử học, ngôn ngữ học, dân tộc học và truyền thuyết dân gian... đều hoàn toàn nhất trí cho chúùng ta biết: nơi sinh tụ chủ yếu của tổ tiên ta thời đại dựng nước, quê hương buổi đầu của dân tộc ta là miền đất bao gồm đồng bằng và trung du Bắc Bộ, đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên ngày nay. Cương vực nước ta thời Hùng Vương, trong giai đoạn cực thịnh, về phía bắc vươn lên đến những miền giáp ranh với các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc); về phía nam, tới đèo Hải Vân; về phía tây bao gồm cả vùng Tây Bắc hiện nay dọc xuống miền tây đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên; về phía đông giáp biển Đông bao gồm những hải đảo.
THIÊN NHIÊN NƯỚC TA Ở BUỔI ĐẦU CỦA DÂN TỘC

Tổ tiên ta đã khéo chọn cho mình một miền đất độc đáo ở vào vị trí tiếp xúc của nhiều hệ thống địa lý:nước Văn Lang nằm trong vòng đai nhiệt đới mà lại không đơn thuần là một nước nhiệt đới. Từ ngàn xưa, gió mùa đã ảnh hưởng sâu sắc đến thiên nhiên nước ta, một thiên nhiên muôn màu muôn vẻ với nhiều rừng rậm núi cao, sông dài biển rộng, với vùng cao, vùng trung du và miền đồng bằng. Ngày nay rừng rậm đã lùi dần lên vùng cao về phía tây, sau một quá trình đấu tranh dài hàng nghìn năm giữa con người với thiên nhiên, nhưng ở thời đại dựng nước, rừng còn lan khắp vùng trung du và cả một phần lớn đồng bằng. Nhiều vùng gò đồi trọc hiện nay xưa kia đã phủ rừng dày đặc. Ngay tại đồng bằng còn giữ được nhiều di tích của rừng: mỏ than bùn thấy ở nhiều nơi như Thạch Thất (Hà Tây), Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội); rừng gỗ tứ thiết ở Sặt (Tráng Liệt, Bắc Giang), rừng Báng (Đình Bảng, Bắc Ninh), đồi Lim, làng Lim, phà Rừng... Trong các di tích khảo cổ ở đồng bằng, đã tìm thấy xương cốt nhiều loại thú rừng. Cư dân nước Văn Lang sống tập trung trên những đồng bằng ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ; quá trình kiến tạo đồng bằng chưa hoàn thành thì bàn tay con người đã sớm dựng lên những công trình thủy lợi để khai thác trồng trọt trong những điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp với nghề trồng lúa nước. Chiến thắng của Sơn Tinh chính là chiến thắng lũ lụt của những người Việt cổ trị thủy tài giỏi, đã gây dựng nên những cánh đồng màu mỡ ven những dòng sông lớn.

Nhìn chung, mọi người đều nhất trí là tổ tiên ta đã dựng nước trong một khung cảnh thiên nhiên thích hợp, thuận lợi, trên một dải đất nhiều núi rừng, nhiều sông ngòi, hồ ao, đường giao thông thuận tiện, giàu khoáng sản, lâm sản, hải sản, trên những đồng bằng màu mỡ thích hợp với nghề nông. Những yếu tố thiên nhiên tích cực này đã góp phần đẩy mạnh quá trình tiến bộ kinh tế và văn hoá, đưa đến việc dựng nước Văn Lang, một nước có đủ sức chống ngoại xâm, có nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á cổ đại.
THẾ GIỚI THỰC VẬT THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC 

Nghề trồng trọt đã giữ một địa vị quan trọng trong đời sống kinh tế của cư dân Việt cổ từ buổi đầu dựng nước. Di tích thực vật thu thập được từ các địa điểm khảo cổ tuy chưa được nhiều lắm như cũng đủ cho thấy sự phát triển của nghề trồng trọt. Con người thời đó đã quen với những loại cây dương xỉ, tùngbách...Trên nương rẫy, vườn ruộng của họ đã có mặt những loại cây thiết thân với các cư dân nông nghiệp cổ đại. Đó là những cây na, cây trám, cây đậu, cây dâu tằm, cây bầu, cây bí, cây cải cúc, cây tre, và nhất là cây lúa.

Ở di chỉ Đồng Đu, đã tìm thấy những hạt thóc đã cháy thành than cách đây trên dưới 3300 năm. Ở di chỉ Gò Mun đã phát hiện được cả một hầm chứa ngũ cốc. Ở di chỉ Gò Chiền, dấu vết của những vỏ trấu, than trấu còn thấy khá rõ. Đặc biệt ở di chỉ Hoàng Ngô còn tìm thấy một hạt đậu nguyên vẹn. Người Việt cổ còn biết trồng khoai, trồng bông, trồng dưa, trồng trầu và cau. Các sách cổ của Trung Quốcnhư Nam Phương thảo mộc trạng, Giao châu ký, Tam đô phủ, Thuỷ kinh chú, Tề dân yếu thuật, Ngô lục địa lý chí...đều có ghi chép về việc người Lạc Việt biết trồng khoai, đậu, dưa, bông, trồng dâu nuôi tằm, mặc dù sách ghi chép những sự việc trong thời Bắc thuộc nhưng chắc chắn những loại cây trồng này đã có từ trước.

Truyền thuyết của nhân dân ta về thời đại Hùng Vương có nói đến một vài loại cây trồng như cây lúa trong truyện Bánh chưng bánh giầy, cây cau trong truyện Trầu cau, cây dưa dấu trong truyện An Tiêm. Hình ảnh sống động của cây lúa còn thấy ở nhiều truyền thuyết, cổ tích của các dân tộc anh em như truyện Nàng tiên trứng của đồng bào Tày, truyện Khả Sắc Sia của đồng bào Thái, truyện Nam A-lách của đồng bào Gia-rai, truyện Đum Đú với nàng tiên của đồng bào Ê-đê, truyện Cô gái thứ mười của đồng bào Hơ-rê, truyện Phu-man của đồng bào Ba-na...

Nông nghiệp thời đại Hùng Vương là nông nghiệp trồng lúa trong đó việc trồng lúa nước chiếm vị trí chủ đạo. Nghề trồng lúa xuất hiện ở nước ta khá sớm và có thể coi đó là một truyền thống cuả dân tộc ta. Cho đến nay nguồn gốc cây lúa còn là một vấn đề đang được tranh luận sôi nổi trên thế giới. Ý kiến của các nhà nghiên cứu rất khác nhau, trong đó có một số người cho cây lúa có nguồn gốc từ Việt Nam, ví dụ như Cô-xven (Liên Xô) trong tác phẩm Sơ yếu lịch sử văn hoá nguyên thuỷ hay như Tùng Vinh Hiếu Linh (Trung Quốc) trong công trình Nghiên cứu tổng hợp về cây lúa.

Các sách cổ của Trung Quốc và của ta đã nói đến nhiều giống lúa có ở Việt Nam. Đặc biệt là nhà bác học Lê Quý Đôn ở thế kỷ 18, trong bộ bách khoa toàn thư Vân đài loại ngữ đã kê ra hơn 100 giống lúa tẻ và lúa nếp, đồng thời ông đã mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa, những kinh nghiệm gieo trồng và năng suất. Không phải ngẫu nhiên mà có thể kể ra một số lượng phong phú các giống lúa và đặc tính của giống lúa như thế. Bởi vậy, rất có khả năng là từ thời Hùng Vương đã có một số giống lúa khác nhau. Điều này đã được phản ánh trong phong tục tập quán cổ ở vùng đất Tổ: Tại Đền Hùng, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều mầu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau đã trồâng được ở thời đấy, đánh dấu những tiến bộ vượt bực của nền nông nghiệp Việt cổ.

Sách cổ của ta đều thống nhất ghi lại sự kiện trồng lúa hai vụ từ xưa ở nước ta: "Lúa ở Giao Chỉ chín hai mùa". Dựa vào địa bàn phân bố của những nơi cư trú thời Hùng Vương, có thể nói cư dân thời này trồng lúa chủ yếu trên 3 loại ruộng: ruộng phù sa ven sông, ruộng trũng quanh các đầm hồ, ruộng rộc trên các gò đồi miền trung du. Kinh tế nông nghiệp đã trở thành một truyền thống của dân tộc ta. Chính truyền thống ấy đã ảnh hưởng và chi phối mọi hình thái ý thức, và ngay cả tâm tư tình cảm của dân tộc ta và đã là cơ sở cho sự phát triển của nông nghiệp sau này. Để trở thành những người nông dân trồng lúa giỏi, tổ tiên ta đã phải khai sơn phá thạch, đấu tranh gian khổ với cái thiên nhiên vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đã được hình tượng hoá trong câu chuyện Sơn Tinh-Thuỷ Tinh. Trong cuộc đấu tranh đó, phần thắng đã về phía tổ tiên ta.
THẾ GIỚI ĐỘNG VẬT THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC 

Trong các di chỉ khảo cổ thuộc thời đại dựng nước, chúng ta đã tìm thấy di tích của vài loại động vật không xương sống như cua đồng, ốc vặn, và của hàng chục loài động vật có xương sống từ những con cá chép, cá quả, rùa vàng, ba ba, những con gia súc bạn thân của người như gà, lợn, chó, trâu, bò, đến những thú rừng như: hươu, hươu sao, nai, hoẵng, khỉ, tê giác, voi, hổ, lợn rừng, nhím, cầy hương, rái cá... và nhiều loại chim (1) Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn chúng ta còn thấy hình ảnh của cóc, ếch, nhái, thằn lằn, cá sấu, cá nhám, cáo, sóc, hươu, bò u, voi, chó săn...

Trong giới động vật phong phú của thời đại dựng nước nổi bật lên các loài chim mà hình ảnh đã trở nên rất phổ biến trên các trống đồng, thạp đồng, những văn vật tiêu biểu cho văn minh thời đại. Ví dụ như:
Trên mặt và thân trống Ngọc Lũ có đến 50 hình chim.
"Trống Hoàng Hạ (Phú Xuyên, Hà Tây) 34"
"Trống Sông Đà (Khai Hóa, Hòa Bình) 24"
"Trống Miếu Môn (Mĩ Đức, Hà Tây) 32"
"Trống Vũ Bị (Bình Lục, Hà Nam) 22"
"Trống Pha Long (Mười Khương, Lào Cai) 19"
"Trống Duy Tiên (Hà Nam) 18" v.v...

Những con số trên đây nói lên sự quen thuộc của các loài chim đối với thế giới quan của người Việt cổ. Hình ảnh của chim trong thiên nhiên đã được nhào nặn qua tư duy mỹ thuật và trí tưởng tượng của ngưởi xưa và được thể hiện với những nét cách điệu cao. Từ những hình nét cách điệu đó chúng ta vẫn có thể tìm lại được bóng dáng hiện thực của các loài chim.

Dạng phổ biến nhất là những con chim bay có mỏ dài, nhọn, chân dài, cổ thanh và nhỏ, đầu có mào, lông xuôi về phía sau. Đây là những con chim thuộc loài cò, vạc, diệc...
Trên trống đồng, chúng ta còn gặp một dạng chim giống như loài cò thìa, đang đứng tư lự, chân cao, đôi cánh khép lại, chiếc mỏ dài mềm mại hơi cong xuống phía dưới và bè ra ở phần cuối mỏ thành một hình thoi. Loài cò thìa này ngày nay vẫn thấy ở một số vùng đồng bằng và trung du miền Bắc nước ta.

Một dạng chim khác cũng thường được trang trí trên trống đồng là loài bồ nông mỏ rất to, chân ngắn, đang trong tư thế bắt một con cá từ dưới nước lên. Những con chim bơi theo thuyền trên thạp Đào Thịnh là loài xít, mỏ tù, thân tròn, trên thân có điểm các chấm nhỏ, khi bơi chỉ thấy phần đầu và thân nổi lên mặt nước, loài này hiện nay vẫn thường sống ở những vùng đồng lầy và cửa sông.

Trên mái nhà sàn ở trống Ngọc Lũ và Hoàng Hạ thấy khắc những con gà lôi mỏ ngắn, mào nhỏ, chân ngắn, trên thân có những vạch nhỏ, ngắn; những con gà lôi lớn thì có bộ lông đuôi to và dài, đó là những con trống, còn con nhỏ trong mỗi đôi là con mái. Riêng trên mái nhà kho (nhà cầu mùa) ở trống Hoàng Hạ lại có một đôi gà: một trống một mái đang quay đầu vào nhau.

Trên trống Ngọc Lũ có một dạng chim khá đặc biệt đó là loài công, mỏ tù, dạng mỏ của loài ăn hạt, trên đầu có hai mào, lông khá lớn dựng đứng, đuôi dài, chân cao. Công là một loài chim quý có khắp nơi ở nước ta trước đây. Đền vua Thục An Dương Vương ở Diễn Châu (Nghệ An) được xây dựng cạnh một khu rừng có nhiều công gọi là rừng Cuông (tiếng địa phương đọc trại công thành cuông) và đền vua Thục quen được gọi là đền Cuông. Trên trống Ngọc Lũ còn có hình đôi chim công lớn nhỏ đang cõng nhau.
Trên một cán dao găm đồng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn có hình một con chim gõ kiến có mỏ to, chân đang bám chắc vào thân cây ở tư thế đặc biệt của những loài chim thuộc họ gõ kiến.

Trong những hình thú vật thể hiện trên trống đồng và đồ đồng, phổ biến hơn cả là hình hươu. Những đặc điểm của loài hươu được thể hiện khá đầy đủ ở những con đi đầu đàn trên mặt trống đồng với cặp sừng mỗi bên 4 nhánh và những đốm nhỏ rải rác trên thân. Đó là những con hươu sao đực. Trong đàn hươu đang thong thả nhịp bước, người nghệ sĩ Việt cổ đã cố ý sắp thanh từng cặp: một đực một cái, và hươu cái cũng có cặp sừng như hươu đực. Như chúng ta đã biết, trong họ hươu chỉ có những con đực mới có sừng, những con cái không có, phải chăng nghệ sĩ xưa đã cho mỗi con hươu cái thêm một cặp sừng để làm tăng thêm vẻ đẹp trang trí của tác phẩm?

Thêm các trống đồng Đồi Ro, Làng Vạc có hình những con bò nhà thuộc loại bò u (hay bò Ấn Độ) với thân hình cân đối, cặp sừng cong vút khỏe, cổ có yếm mỏng, trên lưng có một bướu nhô lên ở phần vai khá rõ. Loài bò u này có mặt ở Việt Nam từ 2000 đến 3000 năm trước đây.

Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn có khắc nhiều dạng chó ở những tư thế và trạng thái khác nhau: đó là loài chó nhà, con thì đang đuổi theo con mồi (chó săn hươu, nai...), con thì đang cùng người vượt qua muôn trùng sóng gió trên những con thuyền lớn (như trên trống Ngọc Lũ). Trên nắp thạp Vạn Thắng (Chí Linh, Hải Dương), trên lưỡi đồng Sơn Tây, ta thấy hình hổ và báo trong tư thế đang vồ mồi. Ở một lưỡi qua đồng khác, dễ dàng nhận ra hình dáng một con voi với thân hình to khỏe, đặc biệt là chiếc vòi dài thả xuống phía dưới, đầu vòi cuộn tròn lại. Ở một lưỡi giáo đồng Đông Sơn có khắc hình hai con cáo đối xứng nhau, mõm dài, tai to, đuôi dài và cuộn tròn lại, toàn thân và 4 chân đều có vẻ hình rất linh hoạt. Trên thạp đồng Đào Thịnh có hai con cá sấu đang giao nhau.
NHỮNG KIẾN THỨC ĐẦU TIÊN VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ
 
Nhìn ngắm những hình thú, hình chim khác nhau khắc trên đồ đồng Đông Sơn, chúng ta hẳn phải ngạc nhiên trước tài mô tả hiện thực của người xưa. Ví dụ, chim luôn luôn được thể hiện với nhiều hình dạng và tư thế khác nhau. Những con chim đang nối nhau lượn vòng trên mặt trống, trên thân thạp gợi cho ta cảm giác về đàn cò trắng đang thẳng cánh bay về những phương trời xa thẳm. Trên hình thuyền trang trí ở thạp Đào Thịnh có cả một bầy chim đang bay lượn: con đang lao vút từ mặt nước lên, con đang vùn vụt bay về phía trước, con đang đập cánh chơi vơi trên không, con đang từ từ đỗ nhẹ nhàng xuống khoang thuyền... chỉ trong một khoảng không gian nhỏ bé giới hạn trong một khoang thuyền mà chúng ta đã chứng kiến một cách đầy đủ những dáng bay cơ bản của loài chim. Những dạng chim đậu cũng được thể hiện công phu: con đang co ro chăm chú rình mồi dưới nước, con đậu trên nóc nhà, có chỗ thành từng đôi chụm đầu vào nhau như đôi bạn tri kỷ, con đậu trước mũi thuyền đang bập bềnh trên sóng nước. Chim còn được thể hiện linh hoạt trong lúc đang bắt mồi hay đang ghép đôi (2).

Chim được thể hiện ở nhiều nơi, nhiều chỗ trên bầu trời, trên mặt nước, chim sà vào đậu trên nóc nhà, đậu xuống khoang thuyền hay bay lượn bên người đang giã gạo, đánh chiêng... Chim và người, người và chim, cùng với nhiều sinh vật quen thuộc khác: chó, hươu, bò, voi, cóc, ếch nhái... nói lên cuộc sống gần gũi, hài hoà, gắn bó với thiên nhiên của tổ tiên ta. Hiểu biết được tự nhiên chính là nguồn sức mạnh to lớn khiến con người có thể chinh phục và tiến tới làm chủ tự nhiên. Người Việt cổ đã ghi lại sự hiểu biết về tự nhiên của mình một cách cụ thể sinh động và sự khái quát hoá nhận thức của mình bằng những hình tượng nghệ thuật tài tình. Tác phẩm nghệ thuật của người xưa giúp chúng ta sống lại với thiên nhiên từ buổi đầu dựng nước, một thiên nhiên giàu có và tươi đẹp trong đó thiên nhiên với con người, con người với thiên nhiên chan hoà làm một. Những kiến thức phong phú của tổ tiên ta về thiên nhiên, về giới thực vật và động vật là một phần trong toàn bộ kho tàng nhận thức về tự nhiên mà tổ tiên đã có được và đã tạo nên sức mạnh vĩ đại khiến người xưa viết nên những trang sử văn minh rực rỡ đầu tiên mà ngày nay chúng ta còn thắm thiết tự hào.
(1) Vũ Thế Long và Trịnh Cao Tưởng, Tìm hiểu những di tích động vật và thực vật thuộc thời kỳ Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước tập IV. tr. 169-71.
(2) Vũ Thế Long , Hình và tượng động vật trên trống và các đồ đồng Đông Sơn, tạp chí Khảo cổ học, số 14 (1974) tr. 9-17.

CHƯƠNG VIII
THĂM LẠI LÀNG XƯA CHẠ CỔ CÁCH ĐÂY HÀNG NGHÌN NĂM

ĐI TÌM NHỮNG TÊN GỌI XA XƯA CỦA XÓM LÀNG VIỆT CỔ

Trước khi tìm thăm lại những làng xưa xóm cổ được lập lên từ cách đây hàng nghìn năm, chúng ta thử tìm hiểu những tên gọi xa xưa của những xóm làng ấy.

Ở Việt Nam ngày nay còn sót lại hai từ cổ để chỉ làng xóm ở miền đồng bằng: đó là kẻ và chạ.
Ví dụ ta có Kẻ Sét, (tên nôm của làng Thịnh Liệt), Kẻ Mơ (Hoàng Mai), Kẻ Trầu (Phù Lưu), Kẻ Báng (Đình Bảng), Kẻ Vẽ (Đông Ngạc) v.v... đó là tên gọi có từ rất lâu đời và gần gũi với từ kuel trong tiếng Mường dùng để chỉ bản Mường.

Còn chạ, có lẽ xưa hơn cả kẻ, cũng là từ cổ dùng để chỉ một cộng đồng cư dân thấp hơn kẻ.
Trong tiếng Việt hiện đại, chạ chỉ còn xuất hiện trong một vài từ kép, thành ngữ và địa danh như chung chạ, lăng chạ, ăn chung ở chạ, nằm lang ngủ chạ; chùa Ba chạ là ngôi chùa vốn là của ba làng Xép, Sằn và Mạch Tràng (ở huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội).
Môt vài trò hát chèo được Lương Thế Vinh ở thế kỷ XV ghi lại trong cuốn Hí phường phủ lục:
Trình làng trình chạ
Thượng hạ tây đông
Tư cảnh hoà trung
Nghe tôi giáo trống...
Trong các bài giáo trò cổ của nghệ thuật múa rối có trước đây nhiều thế kỷ cũng có câu:"Cầu cho chạ bằng an, được mùa". Các cụ già ở Cổ Loa cũng còn gọi làng mình bằng cái tên cổ xưa nhất: chạ Chủ. Như vậy làng chạ cũng tức là làng xóm, và chung chạ, lang chạ, ăn chung ở chạ v.v... là những tàn dư ngôn ngữ cổ xưa để chỉ phương thức sinh hoạt chủ yếu của nhân dân Việt cổ thời đại dựng nước: sinh hoạt cộng đồng, tập thể trong khung cảnh làng chạ. Cùng với từ kẻ gần với kuel trong tiếng Mường, chạ và làng chạ cho ta thấy sự gần gũi với những yếu tố văn hóa Việt - Mường qua một loạt từ ngữ đồng dạng: lang, làng, quan lang, nhà lang, nhà làng, ăn chung ở chạ, sống ở làng, sang ở nước...

Cộng đồng, tập thể thân quen nhất của người dân Việt cổ là làng chạ. Thuở ấy con ngươéi cá thể chưa xuất hiện rõ nét, trong khi đó, lối tụ cư, phong tục, hội hè, văn học, nghệ thuật, tư duy ở thời đại dựng nước đã được tạo ra, tồn tại chủ yếu ở làng, theo làng và nói về làng.
 

Sau khi đã tìm hiểu thiên nhiên Việt cổ, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước bằng một chuyến viếng thăm làng xưa chạ cổ cách đây hàng nghìn năm. Trong khung cảnh đó, chúng ta sẽ tìm xem người Việt cổ tổ tiên ta đã ở và ăn ra sao, mặc và dùng những gì, gặp gỡ tụ hội giao thiệp với nhau theo những lề lối, phong tục nào, trình diễn cùng thưởng thức nhạc, múa, hát ra sao, sáng tạo hình chim, dáng nhà, kiểu thuyền, tượng người, truyện thần... với những ý nghĩ gì?
CHẠ CỔ SAU LŨY TRE XANH 

Nền khảo cổ học trẻ trung đầy sức sống của chúng ta sau hơn 15 năm nhiệt tình lao động đã đào hoặc tìm được khoảng 200 làng chạ cổ trên một địa bàn rộng lớn từ Phú Thọ đến Bình-Trị-Thiên.

Đây là những ngôi làng đã mọc lên ở thời Hùng Vương, vừa là đơn vị xã hội vừa là tổ chức đời sống của xã hội, có một thời gian tồn tại lâu dài hàng trăm năm, cả đến hàng nghìn năm, như những ngôi làng đã đào được ở Minh Tân, Phùng Nguyên (Phú Thọ), Vinh Quang, Cam Thượng (Hà Tây), Đông Sơn, Thiệu Dương (Thanh Hoá)...

Nơi cắm đất xây làng là sườn đồi, chân núi, doi đất để được cao ráo, mát mẻ, tránh ẩm tháp, lụt lội, là ven sông suối, đầm hồ để tiện việc lấy nước dùng hằng ngày, việc đánh cá, đi lại bằng thuyền mảng, hay là gần những nơi có thể khai thác thành ruộng rẫy và nằm trên những đầu mối, trục giao thông để tiện đi lại làm ăn bảo vệ hoa màu.

Quy mô của làng trung bình khoảng một hai vạn mét vuông, ngang với quy mô một xóm hiện đại có 200, 300 nhân khẩu, có nơi như ở Đông Sơn, Thiệu Dương thì rộng hơn, bằng những thôn lớn hiện đại. Tất nhiên có làng lớn, chạ bé; vào cuối thời Hùng Vương, trên đất đai Văn Lang có khoảng 2000 nơi cư trú như thế rải ra khắp nơi, chủ yếu là nằm dọc các dòng sông. Các gia đình đều sống tập trung trên cùng một khu vực như kiểu buôn làng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chứ không lẻ tẻ thành từng chòm 5, 3 nhà như ở đồng bào các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc ngày nay.

Lý do sống tập trung chủ yếu là vấn đề phòng thủ và truyền thống giúp đỡ lẫn nhau.
Để tự vệ chống lại kẻ thù bốn chân và hai chân, quanh làng có trồng những hàng rào cọc gỗ như trong chuyện Bánh chưng bánh giầy có gợi đến (1) hoặc trồng tre, hay đắp luỹ có trồng thêm tre, như ở các làng thời phong kiến. Tài liệu cổ của Trung Quốc có nói đến một đặc điểm của làng xóm phương Nam khác với ấp lý phương Bắc là loại ấp lý có thành quách:" Nước Việt Nam không phải là nơi ấp lý có thành quách, họ ở gần khe suối, ở giữa rừng tre" (2). Lũy tre đối với xóm làng Việt Nam ngày xưa rất quan trọng về mặt phòng thủ chống cướp, chống giặc.

Làng, nơi người sống gắn bó giúp đỡ nhau, cũng là nơi người sống và người chết gần gũi nhau: bên cạnh khu đất ở là khu đất mộ, như thấy ở Đông Sơn, Thiệu Dương, Luỹ Hoà, Thanh Đình... (3)
SỐNG LÂU LÊN LÃO LÀNG 

Người Việt cổ coi trọng người sáng lập ra làng, truyền thống đó sẽ tồn tại lâu dài ở nhiều dân tộc sống trên đất nước Việt Nam: Thời phong kiến "ông khai canh", "ông khai khẩn" sẽ được thờ làm thần thánh hoàng ở nhiều làng vùng đồng bằng. Ở Tây Nguyên, người có công lao, hay người đứng đầu nhóm lập buôn làng được gọi là "gốc làng", một danh hiệu cha truyền con nối. Gốc làng sẽ cùng với các lão làng lập thành một hội đồng. Hội đồng này giải quyết mọi công việc, kể cả việc xử kiện; nếu có chiến tranh, lũ làng bầu thêm một "trai xung phong", làm thủ lĩnh quân sự của làng buôn.

Quyền lực của người già (quyền trưởng lão) là một thực tế phổ biến ở các dân tộc thời đại. Trong thời Hùng Vương, cơ quan quyền lực cao nhất của làng chạ cũng là hội đồng bô lão gồm những ông bà già có uy tín trong dân chạ, uy tín ấy được xây dựng bằng những thành tích chiến đấu thời trẻ, bằng những hoạt động quan tâm đến tập thể, bằng số lượng của cải (đồ đồng, trâu bò...).

Hội đồng bô lão sẽ quyết định mọi việc lớn nhỏ, quyết định dời làng đi tìm vùng đất mới phì nhiêu hơn, quyết định chiến hay hoà, giải quyết những vụ giao thiệp hay tranh chấp, phân xử những vụ vi phạm tục lệ, quy định mức phạt vạ. Trong hội đồng có một người đứng đầu có uy tín hơn cả: đó là "trưởng lão"(4).
Người dân nào làm trái với tục lệ làng chạ sẽ bị phạt vạ nặng hay nhẹ; mỗi quyết định của hội đồng bô lão đều được mọi người tuân theo. Thời phong kiến, ở nông thôn ta còn có tục phạt vạ, và thường thường người bị xử trí bằng sư cô lập (không ai chịu ngồi với trong các cuộc hội họp) mà quan trên cũng không thể can thiệp được. Tập tục có sức mạnh này phải có nguồn gốc từ khá xưa; ngày ấy, nếu có một kẻ nào đó chống lại quyết nghị của hội đồng bô lão thì có nguy cơ hoặc bị giết hoặc bị thải trừ ra khỏi tập thể (5). Nói chung chế độ lão quyền là phổ biến ở thời Hùng Vương và là nguồn gốc của truyền thống tôn trọng tuổi Hồng, tục yến lão(6), lễ thượng thọ, và những câu tục ngữ quen thuộc: "Sống lâu lên lão làng", "kính già, già để tuổi cho, "kính lão đắc thọ"...

TỪ NGÔI NHÀ LÀNG VIỆT CỔ ĐẾN NGÔI ĐÌNH VÀ NHÀ RÔNG TRUYỀN THỐNG

Ở thời Hùng Vương mỗi làng chạ đều có một ngôi nhà chung của cộng đồng với kiểu kiến trúc đặc biệt hơn các nhà ở thường. Những hậu thân của ngôi nhà đặc biệt này là: ngôi đình làng của người Việt (7) với những hàng cột lim, với cái mái ngói đồ sộ, với những đầu đao cong vút, ngôi nhà làng ở vùng Mường hay là ngôi nhà làng (nhà rông, nhà ual, nhà gỡn) ở số đông các dân tộc Tây nguyên, với chiếc mái tranh dày đặc, cao ngất và uốn cong (8).

Trên mặt các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ đã ghi lại hình ảnh rực rỡ và chính xác của ngôi nhà làng này với cái mái hình thuyền có trang trí bằng hình chim hay sừng trâu, rất giống những ngôi nhà làng của các dân tộc thiểu số Inđônêxia ngày nay.

Ngôi nhà làng thời Hùng Vương là nơi thờ thần, đồng thời là nơi hội hè, nơi tiếp khách lạ, nơi ngủ của "trai xung phong" và trai làng với khí giới sẵn sàng xuất kích khi có lệnh báo động ban đêm (9). Tất cả những chức năng xã hội - văn hóa của nhà làng cổ xưa sẽ được duy trì trong ngôi đình làng Việt Nam cận đại. Quây quần chung quanh ngôi nhà làng là nhà ở của các gia đình dựng theo kiểu túp lều hay kiểu nhà sàn.

Trên một số trống đồng thấy khắc họa hình ảnh những chiếc lều có hai mái úp thẳng gần sát đất; trong một số di chỉ khảo cổ lại thấy những nền nhà thường có màu vàng quy mô nhỏ dễ dàng phân biệt với màu đất nâu xám. Những nền nhà trát đất cá thể này và những hố rác bếp trong nhiều di chỉ cho thấy rằng nhà phải được che trùm bởi những hình thức kiến trúc đơn sơ tương tự như lều, túp.

Một kiểu nhà rất thích hợp với điều kiện ở trên nền đất dốc, sống giữa cây rừng, nước lội của người thời Hùng Vương là nhà sàn. Nói về nhà cửa thời ấy, sách Lĩnh Nam chích quái chép : "(Dân Việt cổ) bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói".

Cùng với công dụng chống thú dữ, cái thế cư trú theo sườn dốc của đồi gò, núi non cũng đòi hỏi đồng bào các dân tộc ở vùng Mường, vùng Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên hiện nay phải ở nhà sàn.

Sử thi Đẻ đất đẻ nước của đồng bào Mường kể về thời kỳ vua Dịt Dàng - tương đương với thời Hùng Vương (10) - cũng nhiều lần nói đến nhà sàn: có những nhà sàn của chúa Mường rất to lớn, quý giá.
Một sự tích rất hay của dân tộc Mường về nguồn gốc nhà sàn gắn liền với con rùa, con vật thiên thương gặp trong tín ngưỡng và thần thoại của nhiều dân tộc Việt Nam, kể rằng:

"... Tá Cần được nhân dân tin cậy mời ra cầm đầu bản Mường. Đã có người cầm đầu thì phải có nhà cho ông ta ở. Nhưng cả cộng đồng chưa ai biết cách làm nhà. Việc này phải nhờ người thợ săn Chi Bù Dút đi vào rừng gặp Rùa Vàng vui lòng bày cách cho dân bản Mường làm nhà: nhìn 4 chân rùa làm nên 4 cột cái, nhìn mai rùa làm nên mái nhà, nhìn xương sống, xương sườn dài, xương sườn cụt của rùa làm đòn nóc, làm rui, nhìn đuôi rùa mà làm chái, nhìn mắt rùa làm cửa sổ... Thế là dựng nên nhà nên cửa, nên bản nên mường" (11)
_______________________
(1) - Các buôn làng Tây Nguyên ngày nay cũng thường làm như thế
(2) - Thư của Hoài Nam Vương gtửi Hán Vũ Đế (thế kỷ 2 trước CN). Nam Việt đây là chỉ nước của Triệu Đà trong đó có Giao Chỉ.
(3) - Ở một số buôn làng Tây Nguyên ngày nay cũng thấy hiện tượng tương tự.
(4) - Theo Mã Đoan Lâm, tác giả sách Văn hiến thông khảo; Triệu Đà khi viết thư cho vua Hán có lần tự xưng mình là "Man di đại trưởng lão"
(5) - Ở nhiều dân tộc Tây Nguyên thời cận hiện đại cũng có tập tục tương tự.
(6) - Tức là làng nước mở tiệc khoảng đãi các cụ già lên 50,60,70 tuổi.
(7) - Ở một số đình làng còn thấy di tích kiến trúc theo lối nhà sàn cổ xưa: đình Tây Đằng, đình Chu Quyến ở Hà Tây, đình Đình Bảng ở Bắc Ninh v.v...
(8) - Hầu hết tất cả các dân tộc thiểu số ở Đông Nam Á từ Miến Điện, Thái Lan cho đến Inđônêxia và Nam Đảo đều có ngôi nhà làng này.
(9) - Như phong tục nhiều dân tộc ở Tây Nguyên ngày nay.
(10) - Nhà sử học Trần Quốc Vượng đã chứng minh rằng vua Dịt Dàng (hay Yịt Yang, Gịt Giang) là một dạng cổ của Việt Vương theo Quách Điêu, tác giả cuốn Hoà Bình quan lang sử lược, người Mường thường hay đồng nhất vua Dịt Dàng với vua Hùng, vua Thục.
(11) - Xem Đẻ đất đẻ nước , sử thi dân tộc Mường, Ty Văn hóa Thông tin Thanh Hoá xuất bản, 1976 trang 64-71

CHƯƠNG IX
CUỘC SỐNG ĐẦM ẤM CỦA GIA ĐÌNH VIỆT CỔ

Từ làng chạ Việt cổ là đơn vị xã hội, chúng ta chuyển sang tìm hiểu gia đình nhỏ Việt cổ là tế bào của xã hội thời Hùng Vương. Mỗi gia đình nhỏ có cuộc sống đầm ấm của mình trong một ngôi nhà sàn, giữa sự săn sóc giúp đỡ của cộng đồng làng chạ.

Căn cứ vào những hình chạm khắc trang trí trên trống đồng thì nhà sàn của nhân dân Việt cổ là kiểu nhà sàn chưa có vách, sàn thấp, mái cong hình thuyền đuôi mái gối sát nhà sàn, thang lên nhà đặt ở mặt trước.
Cạnh nhà ở có cả nhà kho cũng xây theo kiểu nhà sàn thấp, tròn, mái hình mui thuyền, nhỏ hơn nhà ở. Dấu vết của những ngôi nhà sàn lớn có cột gỗ to, dài đến 4 hay 5 mét với những lỗ mộng đục tinh tế, cùng với những gióng tre, những mảnh phên đan đã đào tìm được ở lớp đất dưới cùng di chỉ Đông Sơn (Thanh Hóa).

Gia đình nhỏ thời Hùng Vương là tế bào của xã hội. Gia đình nhỏ bao gồm vợ chồng và những đứa con, đứa cháu lúc này đã xuất hiện và phát triển bên cạnh những gia đình lớn đang trên quá trình suy tàn và sau khi những công xã thị tộc dòng mẹ bắt đầu tan rã, nhường chỗ cho chế độ quyền cha và gia đình dòng cha. Trước kia nông nghiệp dùng cuốc đá thô sơ làm cho người đàn bà thời nguyên thủy giữ vai trò trọng yếu trong sản xuất. Trồng trọt đã có nhưng chưa bảo đảm, chỉ có hái lượm mới cung cấp tương đối đầy đủ nhu cầu thực phẩm cho con người. Đến thời Hùng Vương, công cụ sản xuất, nhất là nông cụ bằng đồng, ngày càng sắc bén tiện lợi, làm cho nghề trồng trọt được đẩy mạnh. Lúa khoai sản xuất được bảo đảm phần lớn thức ăn của con người.
Lưỡi rìu, lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi hái bằng đồng đã đưa người đàn ông từ săn bắn về với nông nghiệp. Việc trao đổi thịnh hành, thúc đẩy sự phát triển các ngành sản xuất khác, chiến tranh tự vệ và bành trướng lãnh thổ làm cho người đàn ông giành lấy địa vị quan trong trong sản xuất, trong xã hội cũng như trong gia đình. Có một sự thay đổi ngôi từ chế độ quyền mẹ và dòng mẹ sang chế độ quyền cha, dòng cha, nhưng không đi đến cực đoan và nhanh chóng như ở xã hội và gia đình người Hán cùng thời.

Một tinh thần bình đẳng ngự trị trong quan hệ cũng như trong vị trí xã hội của người đàn ông và người đàn bà, người đàn ông tuy đã vươn lên nhưng chưa giành cho mình được ưu thế tuyệt đối; chế độ quyền mẹ, gia đình giòng mẹ còn để lại nhiều tàn dư sinh hoạt, trong phong tục và trong văn hoá tinh thần con người thời Hùng Vương cũng như thời phong kiến sau này.

Với những công cụ sản xuất sắc bén tiện lợi, mỗi gia đình nhỏ đã có khả năng sản xuất tự cấp tự túc và tất nhiên còn phải nhờ vả vào tập thể về nhiều mặt. Lãnh đạo gia đình là người chồng, đồng thời ý kiến của người vợ cũng có tác dụng quyết định. Cả hai vợ chồng cùng lao động nông nghiệp và trong những lúc rảnh rỗi, vợ có thể đi hái lượm, chồng săn bắn và đánh cá để cải thiện sinh hoạt như cách nói ngày nay. Với dải đất phì nhiêu nhiều rừng rú, sông ngòi đầm hồ và bờ biển thì sản phẩm thiên nhiên vẫn là nguồn bổ sung thức ăn phong phú và quý báu cho người dân Việt cổ, chủ nhân của những thửa ruộng nước ("ruộng Lạc") đầu tiên.
Ruộng đất hồi ấy chưa phải là của riêng. Chưa có tình hình:
Trống làng ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng
như ở thời phong kiến sau này. Quan niệm để của cho con chỉ nhằm vào con trâu, cái cày, lưỡi rìu, thúng thóc mà chưa nhằm vào ruộng đất. Giữa con gái con trai, việc kế thừa trong gia đình mang tính chất bình đẳng (1).
 CỞI TRẦN, ĐÓNG KHỐ, MẶC VÁY YẾM 

Sống trong làng chạ, trong các gia đình nhỏ ấy, nam giới thường là đóng khố, cởi trần. Có kiểu khố dây, đuôi thả vừa chấm mông. Có kiểu khố quấn hai vòng quanh bụng thả múi phía trước và cả phía sau. Có kiểu khố chỉ thả đuôi dài ở phía sau (2).

Nữ giới thì mặc váy, cởi trần như các dân tộc ở Tây Nguyên, Ba-Li (Inđônêxia) và nhiều vùng rừng núi Đông Nam Á ngày nay. Có kiểu váy kín (váy chui), lại có kiểu váy mở (váy quấn), cả hai kiểu đều mặc ngắn đến đầu gối. Nhiều phụ nữ mặc thêm chiếc đệm váy có trang trí thả ở trước bụng và sau mông (3).
Nguyên liệu để làm khố, váy là vải dệt, có nhiều mẫu vải dệt tương đối mịn, đẹp, trên vải có trang trí bằng thêu, vẽ.

Ngày hội, ngày lễ, dân Việt cổ mặc những chiếc váy xòa làm bằng lông chim hay bằng lá cây kết lại, đội những chiếc mũ cũng làm bằng lông chim cắm cao trên đầu phía trước cài thêm những bông lau (4)
Truyền thống dùng lông chim và bông lau làm trang phục ngày hội còn được bảo lưu lâu dài về sau ở nhiều làng người Việt, người Mường, người Tây Nguyên.

Phụ nữ thuộc cấp bậc trên mặc đủ bộ xống áo trông rất sang trọng: ngoài chiếc khăn trùm vắt thành chóp nhọn trên đầu còn mặc yếm kín ngực ở trong, áo cánh xẻ ngực ở ngoài, thắt lưng có trang trí quấn ngang bụng, liền đó chiếc váy kín cũng có trang trí, buông chùng đến gót chân, chiếc đệm váy hình chữ nhật thả ở trước bụng và sau mông (5). Ðây là tiền thân kiểu áo yếm váy quen thuộc của người phụ nữ Việt cổ truyền, và gần như là kiểu mẫu của y phục phụ nữ Mường cận hiện đại.

Thủ lĩnh quân sự thời Hùng Vương có tấm đồng che ngực hình chữ nhật hay hình vuông có trang trí, có đai lưng với khóa đồng to bản có trang trí và đính thêm những chiếc nhạc đồng nhỏ.

Người thời Hùng Vương ưa dùng đồ trang sức. Nam cũng như nữ đều đeo vòng tai (6), đeo nhẫn, hạt chuỗi và phổ biến nhất là vòng tay.
Kiểu trang sức thật là nhiều mầu vẻ: vòng tai hình tròn, hình vành khăn; hạt chuỗi hình tròn, hình trụ, hình trái soan; nhẫn có tiết diện hình tròn, hình thừng bện; vòng tay có tiết diện hình tròn, hình bán nguyệt, hình chữ nhật, hình vuông, hình thang...

Hầu hết đồ trang sức làm bằng đá hiếm (màu vàng, màu xanh, nhiều màu), bằng đồng thau. Thỉnh thoảng có cả ngọc. Nhờ sự chăm chú gia công và khiếu thẩm mỹ tinh tế, kỹ thuật chế tác tinh xảo, người thợ khéo đã tạo ra những vật làm đẹp cho con người có giá trị lớn trong lịch sử nghệ thuật trang sức.
 
Người thời Hùng Vương có nhiều kiểu đầu tóc khác nhau. Phổ biến là lối cắt tóc ngắn và búi tóc. Sách Lĩnh Nam chích quái chép : (Dân Việt cổ) cắt tóc ngắn đề đi rừng cho tiện. Nam giới lẫn nữ giới cắt tóc ngang vai rồi để xõa, không tết buộc gì. Lõi búi tóc phổ biến cũng chung cho nam lẫn nữ là búi tròn sau gáy, thỉnh thoảng có người búi cao trên đỉnh đầu (7). Phụ nữ quý tộc - các mị nương (mệ nàng) - trùm khăn vắt thành chóp nhọn, ở ngoài búi tóc. Cũng có khi cả nam lẫn nữ kèm với búi tóc còn chít một dải khăn nhỏ ở giữa trán và chân tóc, thả đuôi khăn ra phía sau, hay không có đuôi khăn(8). 
Phụ nữ thỉnh thoảng kết tóc thành một đuôi sam thả dài sau lưng, chít thêm một vành khăn nhỏ không thả múi (9)

Ðầu tóc, xống áo, đồ trang sức: đó là bộ trang phục của người thời Hùng Vương, qua đó thể hiện sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ và phân hóa xã hội, trình độ tiến triển của tư duy và khiếu năng thẩm mỹ. Qua đó cũng thấy rõ một số đặc trưng về tộc hệ khác nhau mà về sau những tộc người khác nhau vẫn còn bảo lưu bên cạnh người Việt: người Thái, người Mường, người Mèo, người Dao ... trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
NGUỒN THỨC ĂN PHONG PHÚ THỜI HÙNG VƯƠNG

Nguồn thức ăn chủ yếu của nhân dân Việt cổ là thóc gạo. Lĩnh Nam chích quái chép : (Ruộng Lạc) sản xuất được nhiều gạo nếp. Gạo nếp nay vẫn đang còn là nguồn thức ăn quan trọng của dân tộc Mường, Tày, Thái,  Lào ...

Ở người Việt, trong cúng giỗ hội hè - với thực chất và ý nghĩa là gợi lại và bảo lưu truyền thống sinh hoạt cổ xưa - nhất thiết phải dùng gạo nếp (xôi, oản), điều này cho thấy thoạt đầu, thuở xưa, nếp là thức ăn quan trọng. Truyền thuyết dân gian nói nhiều về việc ăn và chế biến nếp ở thời Hùng Vương. Khảo cổ học cũng đã phát hiện được những chiếc chõ đồ xôi thời Hùng Vương.

Cùng ăn với thóc gạo còn có một số quả, hạt, rau, củ khác như bầu, bí, đậu, trám, na, cà, cau, củ kiệu, dưa hấu, bột báng, rau muống ... Quả bầu là mô-típ của những thần thoại vào loại cổ nhất của nhiều dân tộc ở Việt Nam và Ðông Nam Á. Truyền thuyết dân gian về vua Hùng, về ông Dóng đã nhắc đến củ kiệu, quả cà. Bà mẹ và dân chạ đã dọn cho Dóng những bữa cơm cà đồ sộ; trước khi lên đường ra trận, Dóng ăn liền một lúc hết :
Bảy nong cơm, ba nong cà.
Lĩnh Nam chích quái chép truyện hai anh em Tân và Lang, truyện Mai An Tiêm đã nói đến trầu cau, dưa hấu và bột báng. Dân gian xưa đã có câu nói quen thuộc: "Giã ơn ông Búng bà Bang, dân chúng đói khát thiếu ăn, mong được gánh nặng đem về". Thức ăn có cá, gà, vịt, chim, chó, lợn rừng, lợn nhà, trâu rừng, trâu nhà, hươu nai, cầy cáo, nhím, rùa, ba ba, hổ, voi, rái cá, tê giác mà răng và xương vụn đã tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ, hay hình ảnh thấy trên các trống đồng, tượng đồng, tượng đất đào được trong các di chỉ. Sách sử cổ cũng nhắc đến dê, rắn. Ngoài ra cua, ốc là một nguồn thức ăn đáng kể. Người xưa đã từng nặn tượng ốc (10)  bên cạnh tượng gà, tượng chim, tượng bò, tượng chó, tượng cóc, tượng rùa. Xác cua đồng đã tìm thấy ở một vài di chỉ.

Người thời Hùng Vương đã biết dùng nhiều loại hương liệu, gia vị và thức uống đặc biệt. Ðó là rượu, gừng, muối, trầu cau, đất hun ...
Lĩnh Nam chích quái chép : (Người Việt cổ) lấy cốt gạo làm rượu. Sử sách và truyền thuyết nói Hùng Vương say rượu để mất nước; vào thế kỷ 2 trước Công nguyên bọn vua quan nhà Triệu ở nước Nam Việt đã dâng nộp hàng ngàn vò rượu cho nhà Hán. Truyền thuyết về trầu cau gắn liền với sự tích thời Hùng Vương. Ăn trầu cau là tục lệ cổ truyền ở Việt Nam; và "miếng trầu là đầu câu chuyện". Còn đất hun, dân gian gọi là "bánh ngói", món đất sét tinh được nung đốt bằng những cây cỏ khói thơm là một "món ăn" kỳ lạ nhưng được sản xuất và tiêu thụ ở nhiều vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ cho đến trước ngày cách mạng tháng Tám. Ở người Xá Tây Bắc, ở người Tây Nguyên và ở một số nơi ở Ðông Nam Á cũng có tục ăn đất hun . Lĩnh Nam chích quái chép : Việc hôn nhân giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu. Có thể thứ "bánh ngói" này đã là một món quà cưới quan trọng thời Hùng Vương. Nhà dân tộc học Lê Thị Nhâm Tuyết đã chứng minh tục ăn đất và tục chế biến đất là một tục rất cổ của người Việt mà ý nghĩa thực chất của nó là thưởng thức hương liệu. "Bánh ngói" là một hòn đất chứa đựng chất khói thơm: ăn đất hun cũng tương tự như hút thuốc.

Các nguồn thức ăn được chế biến theo nhiều cách. Cách ăn tươi, ăn sống và thui nướng trên lửa, trên than đã có từ thời Nguyên Thủy, bây giờ vẫn tồn tại. Nhưng chắc chắn phần lớn thức ăn đã được chế biến với trình độ khá cao: nấu, luộc, hấp. Cũng theo ghi chép của Lĩnh Nam chích quái, người thời Hùng Vương thường ăn canh cá.

Khảo cổ học đã phát hiện nhiều nồi gốm các kiểu và cỡ khác nhau, còn nguyên lớp nhọ nồi cùng với những hố bếp. Ngày hai bữa, người xưa đã từng thổi chín cơm gạo bằng cách nấu trong nồi, đồ trong chõ hay lam trong ống tre. Lĩnh Nam chích quái chép: Họ lấy ống tre mà thổi cơm. Ở Vĩnh Phú đã tìm được chõ gốm. Cũng sách vừa dẫn cho biết họ lấy cầm thú, ba ba, cá làm mắm. Như vậy người xưa đã biết chế biến mắm, một hình thức chế biến cổ truyền và phổ cập ở khắp Việt Nam và Ðông Nam Á. Sử liệu Trung Quốc cho biết : Người Nam làm dưa muối, lấy gạo nếp giã thành bột hòa với nước vừng và muối rồi nén cho chín. Dưa đã ngon lại dẻo, nước lại chua, dễ ăn (11) .  Truyền thuyết và phong tục còn cho thấy người thời Hùng Vương đã biết chế biến một số bánh trái và lương khô như bánh chưng, bánh giầy, bánh ót, bánh ít, bánh uôi, bánh dằng, bánh lẳng, bánh tây, bánh mật, bánh bỏng, chè lam ... Truyền thuyết và phong tục về bánh chưng, bánh giầy phổ biến cả ở người Việt lẫn người Mường từ thời gian rất xa xưa.
Thời Hùng Vương, việc dùng bát, đĩa, lon, chậu, mâm bồng đựng thức ăn, dùng gáo, bình, ống đựng nước, rượu, dùng lá để gói hay để lót cơm, bột, bánh ... đã phổ biến. Thức ăn, đồ uống, cách chế biến và cách dựng cất, dọn bày như vậy là đã ổn định thành phong cách ăn uống của một cư dân nông nghiệp nhiệt đới. hành phần chính của bữa cơm là gạo, một khối lượng thức ăn phong phú, một số cách chế biến phát triển, bên cạnh một số cách chế biến còn thô sơ, cho thấy đời sống con người thời Hùng Vương đã chuyển sang giai đoạn đầu của xã hội văn minh nhưng vẫn còn mang ít nhiều dánh dấp của đời sống cổ sơ.

Ðặc biệt một số phong tục về ăn uống đã hình thành và ổn định vào thời ấy (bánh chưng, bánh giầy, cơm lam, mắm, trầu cau ... ) vẫn còn được giữ gìn vững bền về sau này như những yếu tố đặc trưng của một phong cách dân tộc về mặt sinh hoạt.
BỘ ÐỒ DÙNG HỮU ÍCH VÀ THẨM MỸ

Ðồ dùng trong đời sống hàng ngày phần lớn là đồ đựng. Có loại đồ đựng làm bằng đất nung: nồi, chõ, vò, bình, lon, chậu, bát, đĩa, mâm các cỡ nhỏ lớn. Nhiều đồ đựng làm bằng đồng thau: lọ, bình, âu, ấm thố, thạp được chế tạo công phu, nhiều chiếc có quy mô lớn như thạp Ðào Thịnh.

Ngoài những đồ đựng bằng đất nung và đồng thau còn có những đồ đựng đan bằng tre nứa, cói, mây: gùi, sọt, bao, bồ, rổ, rá còn để lại tàn tích trong các di chỉ khảo cổ. Một số đồ đựng khác ít phổ biến hơn làm bằng gỗ, bằng da : tráp, rương, hòm, ngoài ra cũng đã tìm thấy vết tích của phên, liếp, chiếu, dây buộc (12) .

Gỗ là nguyên liệu quan trọng để chế tạo những đồ dùng lớn : cối giã chày tay hình trụ tròn, hình lòng máng mà hình ảnh đã được khắc họa rõ ràng trên những chiếc trống đồng cổ; quan tài hình thuyền có nắp, có chiếc rộng gần 1 m, dài tới hơn 4 m (13) ; và đặc biệt là những chiếc thuyền.

Người thời Hùng Vương biết chế tạo nhiều kiểu thuyền khác nhau: thuyền độc mộc mũi cong, đuôi én bơi bằng    giầm (14) , thuyền đi sông, đi biển cỡ lớn có lầu, sạp, bánh lái ở mũi và ở đuôi, chạy bằng bơi chèo và buồm(15) . Thuyền chắc chắn là phương thiện đi lại, chuyên chở chính của người thời Hùng Vương, con người của những làng chạ sống gần sông nước.

Trong những dịp hội, lễ , tang ma, xuất hiện những chiếc trống đồng, hiện vật tiêu biểu cho nền nghệ thuật và nền văn hóa của cả một thời đại. Hàng trăm trống đồng đã tìm thấy trong lòng đất từ Yên Bái, Phú Thọ đến Bình-Trị-Thiên chưa kể hàng ngàn trống khác bị tên tướng Mã Viện tịch thu để đúc ngựa dâng cho vua Hán, cho thấy trống đồng đã giữ vai trò trọng yếu trong đời sống xã hội và tinh thần của nhân dân Việt cổ.
Ðồ dùng của người thời Hùng Vương phong phú và đa dạng nhiều thứ được chế tạo với một kỹ thuật tinh xảo, nghệ thuật tinh vi như trống đồng, chứng tỏ trình độ sinh hoạt và nhu cầu của xã hội đã phát triển đến một mức độ cao. Bộ đồ dùng gồm có nhiều đồ đựng, đồ gốm, đồ đồng lớn phản ánh rất rõ lối sống nông nghiệp định cư định canh. Không có nhiều đồ dùng chông chênh mà chỉ thấy những thứ có thể đặt đứng chắc chắn, điều đó phản ánh lối sống ở trên nhà sàn.

Ở bộ đồ dùng thời hùng vương, thấy rõ thị hiếu, sở thích của người xưa là ưa kết hợp thực dụng và thẩm mỹ : đồ gốm, đồ đồng đều luôn luôn được chú ý gia công và trang trí. Ở đó cũng thấy rõ sự phân hóa các thân phận xã hội: phân hóa giữa chủ nhân những đồ quý (trống, thạp) với chủ nhân những đồ dùng bình thường. Cùng với phong cách chung trong ăn ở, ăn uống, ăn mặc, phong cách chung của các đồ dùng thể hiện ở nguyên liệu, loại hình, kiểu dáng, công dụng và cách trang trí, tìm thấy ở khắp nơi từ các cương vực Bắc, Nam, Ðông, Tây của nước Văn Lang cho chúng ta thấy một sự thống nhất khá chặt chẽ về nhiều mặt của cộng đồng cư dân sống đầm ấm trong các làng chạ Việt cổ.
_______________________
(1) - Theo sự nghiên cứu của Nguyễn Đổng Chi, quyền trưởng nam chỉ mới bắt đầu thấy xuất hiện ở đời Lý.
(2) - Theo hình ảnh những pho tượng người tìm thấy ở Yên Bái, Hải Phòng, Thanh Hóa.
(3) - Theo hình ảnh những pho tượng người tìm thấy ở Hà Tây, Hải Phòng, Thanh Hóa, Yên Bái.
(4) - Theo hình ảnh khắc họa trên nhiều trống, rìu, thạp đồng.
(5) - Theo hình ảnh pho tượng người tìm thấy ở.
(6) - Giống như tục căng tai bằng vòng ở nhiều dân tộc Tây Nguyên.
(7) - Như ở phụ nữ Thái đã có chồng.
(8) - Theo hình ảnh những pho tượng người tìm thấy ở Yên Bái, Hòa Bình, Hà Nam, Hải Phòng, Thanh Hóa.
(9) - Tượng người tìm thấy ở Hà Tây, Hải Phòng, Thanh Hóa.
(10) - Tìm thấy ở Thanh Hóa.
(11) - Theo sách Kinh sử tuế thời ký.
(12) - Trong một số di chỉ ở Hải Phòng, Thanh Hóa ...
(13) - Các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều chiếc quan tài còn nguyên vẹn ở Hải Phòng, Hải Hưng.
(14) - Giống như những con thuyền đuôi én của dân tộc Thái ngày nay trên sông Ðà.
(15) - Theo hình ảnh được khắc trên các trống đồng cổ.

CHƯƠNG X
NẾP PHONG TỤC THUẦN PHÁC CỔ XƯA

Trong những làng xưa chạ cổ cách đây hàng nghìn năm, chúng ta đã quan sát người Việt cổ qua cách ăn ở, ăn mặc, ăn uống nhiều màu vẻ của họ, chứng tỏ trình độ sinh hoạt và nhu cầu của xã hội Việt cổ đã phát triển đến một mức nhất định. Phong tục tập quán của người Việt cổ, thuần phát nhưng không kém phần đa dạng, những tập tục về sinh đẻ, cưới xin, tang ma, về giao tiếp cộng đồng, cũng cho chúng ta nhiều hình ảnh sinh động về một đời sống xã hội phong phú, hài hoà. 

ĐÁM HỎI, ĐÁM CƯỚI Ở THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG

Qua truyền thuyết dân gian và tư liệu dân tộc học so sánh, ví dụ truyền thuyết về đám cưới Mị Nương - Sơn Tinh ( quen gọi là Ông Tản, người anh hùng núi Tản ) con gái và con rể vua Hùng, tư liệu về đám cưới truyền thống của người Mường v.v... ta có thể hình dung được phần nào đám cưới và những phong tục cưới xin hàng nghìn năm trước đây; Sơn Tinh và Mị Nương có thể là hình ảnh của những chú rể và cô dâu ở thời đại Hùng Vương. Hôn nhân thời ấy đã là chế độ hôn nhân một vợ một chồng đánh dấu sự hình thành những gia đình cá thể, những lứa đôi gắn bó với nhau một cách ổn định, khác với những hình thức hôn nhân lỏng lẻo, tùy tiện và chế độ quân hôn hỗn tạp ở thời nguyên thủy.

Mị Nương, giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, chỉ chọn lấy Sơn Tinh, cũng như trong những lứa đôi khác ở thời Hùng Vương: Tiên Dung một cô con gái khác của vua Hùng chỉ lấy chàng trai nghèo Chử Đồng Tử; người con gái họ Lưu, trong truyện Trầu Cau, chỉ lấy một trong hai anh em Tân và Lang.

Trong những cuộc hôn nhân một chồng một vợ đó, người con gái về nhà chồng : Mị Nương theo Sơn Tinh về núi Ba Vì ( Tản Viên ). Trái với phong tục chàng rể phải về ở với gia tộc bên vợ như ở thời kỳ chế độ quyền mẹ ( mẫu quyền ), tục con gái về nhà chồng đánh dấu sự thắng lợi bước đầu của tổ chức gia đình và xã hội quyền cha ( phụ quyền ).

Nghi lễ cưới xin đã phát triển đến mức độ đáng kể thể hiện qua một số phong tục khác có ý nghĩa đặc sắc.
Trước hết đó là tục thách cưới : Khi Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng đến xin vua Hùng gả con cho thì vua Hùng đã thách hai người phải đem nộp " voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao... ".
Thời kỳ mẫu hệ không có tục thách cưới. Tục lệ mới phản ánh sự giảm sút trong thân phận và giá trị người phụ nữ : họ bắt đầu trở thành món hàng để trả giá, bán mua.

Trong nghi lễ hôn nhân Việt cổ đầu tiên có lễ dạm. Vật phẩm dùng trong lễ này là gói đất. Sách Lĩnh Nam chích quái chép : Ở thời Hùng Vương " việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu ". Vị trí của đất thật là quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của nhiều tộc người cổ đại. Ở người Việt cũng như nhiều dân tộc như Khmú, Kháng, Mảng, Laha, Xinh - mun... ( vốn có nhiều nét gần gũi với người Việt ), đất là một vật chất và hình tượng cao quý, thiêng liệng. Bởi lẽ đất là nguồn sống tuyệt đối của những cư dân nông nghiệp ruộng rẫy; ở những tộc người mà trình độ phát triển càng cao phải dựa nhiều vào đất. Ý nghĩa tượng trưng của đất dùng trong nghi lễ hôn nhân cũng là điều tự nhiên. Nhưng phong tục cưới xin này hình như còn gắn bó với một tục rất cổ khác của người Việt là tục ăn đất và chế biến đất ăn : Tục này thấy ở người Kháng ( Tây Bắc ), người Bana ( Tây Nguyên ) cũng như ở người Việt cổ truyền các vùng Thái Bình, Hà Nam, Hà Tây, Phú Thọ. Đất ăn được hun bằng cỏ tế và cây sim trở thành một thứ hương liệu được gọi là " ngói " hay " đá non " và được nhân dân những vùng có tục ăn đất rất ưa thích : người ta mua về làm quà cho nhau, hay đem ra mời khách như mời nhau điếu thuốc miếng trầu. Ở Vĩnh Phú vùng đất tổ Hùng Vương còn tục con gái sau khi cưới còn ở lại nhà cha mẹ đẻ một thời gian và khi về ở hẳn nhà chồng thì bố mẹ cho vừa bò, vừa lúa, vừa nghề làm đất ăn : gian nhà đất, giếng đất và cả dụng cụ làm " ngói ".

Nếu như trầu cau " miếng trầu là đầu câu chuyện " là lễ vật cổ truyền không thể thiếu của đám cưới, thì miếng ngói một thứ hương liệu ( đất thơm ) cũng được xem như món quà quý trong lễ dạm, có lẽ đó là giá trị và ý nghĩ thực tiễn của gói đất đặc biệt mà Lĩnh Nam chích quái đã nói đến (1).

Ở những vùng núi và trung du hiếm muối ăn thì " Việc hôn nhân lấy gói muối làm đầu " (2). Có thễ dễ dàng thấy ý nghĩa vừa tượng trưng vừa thực tiễn của muối : rất cần cho đời sống, thứ gia vị và thực phẩm này có khi là thứ của hiếm và quý; nó biểu hiện sự mặn mà đằm thắm rất hợp với tinh thần của hôn nhân.
Sau lễ dạm thì đến ngày lễ cưới. Truyền thuyết và sử sách cổ tả lại đám cưới của Sơn Tinh - Mị Nương đều đồng nhất lễ hỏi và lễ cưới. Nghi lễ hôn nhân chỉ gồm có hai bước ( dạm và cưới là một nét độc đáo của phong tục Việt cổ ) khác với phong tục hôn nhân của các tộc người ở phương Bắc, và điều này còn được bảo lưu về sau ở nhiều tộc người ở phương nam quanh người Việt cũng ở ngay trong người Việt : nhiều đám cưới người Mường, người Tây Nguyên, người nông dân Việt ( ở các vùng ít chịu ảnh hưởng lễ giáo phong kiến ) ở thời đại vẫn còn giữ tục lệ đồng nhất lễ hỏi và lễ cưới.

Sử sách cổ Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh sự khác biệt về chế độ phong tục hôn nhân giữa người Việt và người Hán đầu công nguyên. Bọn xâm lược thống trị phong kiến nhà Hán, trong âm mưu đồng hoá người Việt đã từng đặt cả một chức quan coi về hôn lễ, làm mối gọi là " mối quan ", với ý đồ thủ tiêu phong tục hôn nhân từ thời Hùng Vương để truyền bá điển lễ hôn nhân phong kiến Hán tộc.

Nghi thức hôn lễ Việt cổ có kèm những trò vui : người dự dám cưới lấy bùn, đất, hoa quả ném vào chàng rể. Nhiều hội làng cổ truyền vùng Phú Thọ nhắc lại sự tích tống diễn chàng rể Sơn Tinh trong đám cưới Mị Nương, cũng như nhiều đám cưới Mường thời cận đại vẫn còn giữ nguyên phong tục cổ kính độc đáo này.

Lĩnh Nam chích quái còn cho biết thêm : trong đám cưới, người ta giết trâu, dê làm đồ lễ, nấu cơm nếp để cô dâu chú rễ nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Tục cùng ăn cơm chung trước khi đôi gái trai chính thức thành vợ chồng, cũng là một nghi lễ quen thuộc trong nhiều đám cưới Mường và Tây Nguyên thời cận hiện đại.

Bên cạnh những phong tục hôn nhân đánh dấu bước phát triển lịch sử xã hội theo hướng quyền cha, vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của chế độ quyền mẹ. Người phụ nữ trong các cuộc hôn nhân thời Hùng Vương tỏ ra có một vai trò chủ động : nàng Tiên Dung chủ động lấy anh chàng họ Chử ; cô con gái họ Lưu chủ động thử thách và chọn lấy người anh trong cặp anh em Tân, Lang. Sách sử Trung quốc chép Mị Châu con gái vua Thục chủ động yêu Trọng Thủy. Như vậy là người phụ nữ còn tương đối tự do phóng khoáng, không chỉ trong hôn nhân mà cả trong việc gái trai yêu đương. Truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian vùng đất Tổ ( Phú Thọ, Hà Tây, Bắc Giang ) cho biết có những người phụ nữ Việt cổ đã thụ thai " một cách thần bí " ( giẫm vào một dấu chân khổng lồ, nhìn thấy cầu vồng, gặp rắn, rồng... ), khiến cho con cái chỉ biết mẹ mà không biết đến cha. Sử sách Trung Quốc và Việt Nam cho biết vào đầu Công nguyên nhiều làng chạ Việt cổ vẫn giữ tục lệ cũ cho gái trai được tự do gắn bó vào mùa thu, vốn là mùa cưới xin, mùa hồng cốm... Và mãi cho đến đời Trần, ở những gia đình nghèo, trai gái vẫn tự do lấy nhau : vào những ngày cuối năm, trước tết Nguyên đán, có tục lễ tháo khoán cho gái trai tự do lấy nhau không cần theo điển lễ phong kiến.

Ở thời Hùng Vương còn có tục con gái lấy chồng rồi lại quay về nhà mẹ đẻ ở một thời gian, sau vài mùa cau, mùa lúa mới về ở hẳn bên chồng. Truyền thuyết vùng đất tổ kể rằng Ngọc Hoa con gái vua Hùng ở miền này đi lấy chồng là Sơn Tinh ở núi Tản Viên, cưới xong nàng lại trở về quê cha, lâu không trở lại núi với chồng, thành ra Sơn Tinh phải tới đón về; rời quê cha, lòng Ngọc Hoa buồn rười rượi, nhân dân các làng chạ làm trò vui cho Ngọc Hoa khuây khoả và để tiễn đưa hai vợ chồng. Đó là nguồn gốc của tục lệ rước Chúa Ông Chúa Bà và trò Bách nghệ khôi hài ở một số làng quanh vùng núi Hi Cương, nơi có ngôi đền Hùng : hàng năm khi mở hội " vào đám " nhân dân chọn lấy hai thanh niên gái và trai đóng vai Ngọc Hoa và Sơn Tinh cho ngồi trên kiệu rước đi, trước kiệu là một đoàn người ăn mặc sặc sỡ cầm các vật tượng trưng cho gia súc, cờ quạt, lúa, ngô,... vừa đi vừa nhảy múa làm trò vui. Sử sách cho biết Trưng Trắc và Thi Sách sau khi lấy nhau vẫn ở riêng mỗi người tại đất bản bộ ( Mê Linh và Chu Diên ) của mình. Nhiều làng ở Phú Thọ, Hà Tây, Bắc Giang, cho mãi đến trước Cách Mạng Tháng Tám, vẫn giữ tục lệ con gái lấy chồng rồi quay về nhà cha mẹ đẻ một thời gian. Ở một số làng thuộc huyện Đan Phượng ( Hà Tây ) các đám cưới cổ truyền được tiến hành theo những nghi thức khá đặc biệt : Ngay vào ngày cưới, cô dâu chỉ về nhà chồng ở lại đấy có một đêm rồi sau đấy lại trở về nhà cha mẹ đẻ. Đêm ở nhà chồng ấy, cô dâu thường có họ hàng hoặc bạn bè của mình ngủ chung gọi là " ngủ bạn ". Sớm hôm sau, ngay từ gà gáy tinh mơ, cô dâu trở về nhà mình. Ngày hôm ấy và mấy ngày hôm sau nữa, nhà trai tiếp tục cho người đi đón cô dâu, và cô dâu cũng chỉ về nhà chồng vào buổi tối, còn ban ngày thì trở về nhà mình. Sau đấy nhà trai tạm ngừng việc đưa đón và cô dâu ở lại hẳn bên nhà mẹ. Sau một thời gian, có thể là từ năm ba tháng đến vài ba năm, nhà trai tổ chức lễ xin về với đầy đủ các nghi thức như dẫn lễ, ăn uống ( có khi còn to hơn lễ cưới ). Từ đấy, cô dâu về ở hẳn nhà chồng. Đến đây nghi lễ hôn nhân mới thực sự kết thúc. Sơn Tinh thuở xưa cũng đã tổ chức lễ xin về và sau đó nhân dân địa phương cử hành cuộc rước tiễn " Chúa Ông Chúa Bà "

Cho đến gần thế kỷ XV, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết ở một số nơi " tập tục cưới gả phần nhiều không theo nghi lễ, có khi lễ cưới xong còn để đến ba bốn năm mới cho rước dâu ".

Như vậy, phong tục hôn nhân thời Hùng Vương với chế độ một vợ một chồng, con gái về nhà chồng, với tục thách cưới và lễ tiết đạm và hỏi cưới đồng nhất là phong tục hôn nhân của xã hội quyền cha, nhưng vẫn còn trộn lẫn vào một số tàn dư của phong tục hôn nhân ở thời kỳ quyền mẹ. Ở hệ thống phong tục ấy đã thấy được những biểu hiện sớm về một phong cách dân tộc được kế thừa và bảo lưu lâu dài về sau trong nhiều dân tộc ở Việt Nam.
ĐÁM MA THỜI HÙNG VƯƠNG
Khi có người lìa đời, tục lệ đầu tiên của người Việt cổ là giã cối. Sách Lĩnh Nam chích quái ghi rõ : Có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Tiếng chày cối va chạm ở đây coi như những tín hiệu thông tin cho làng chạ biết. Ở người Mường và ở một số vùng người Việt như Phú Thọ, 

Hà Tây, ngoại thành Hà Nội, tục lệ cổ kính này vẫn còn bảo lưu cho mãi đến gần đây.
Trước khi đem chôn xác chết, một số nghi lễ được cử hành, phản ánh quan niệm và thái độ của người Việt cổ về cõi chết và cõi sống, sự chết và sự sống. Người ta cầu cúng, tưởng nhớ, tiếc thương người chết bằng khóc than vỗ về khuyên nhủ, nhắc nhở người chết về nguồn gốc, bổn phận và cách sống ở thế giới bên kia bằng những bài hát cầu hồn.

Một nhân vật quan trọng trong lễ tang với vai trò tương tự như thầy mo trong các đám ma Mường cận hiện đại, hát lên những bài mo cầu hồn, tiễn hồn dưới hình thức ví von vần vè của sử thi, vừa hát vừa làm những cử chỉ bộ điệu tương ứng với nội dung bài mo. Nhân vật thầy mo được coi như có khả năng giao tiếp với thần linh và với linh hồn người chết, đứng ra làm môi giới giữa người sống và hồn ma, dẫn dắt hồn ma đến nơi đến chốn trong cuộc hành trình về cõi chết, cõi bên kia.

Sau khi thầy mo đã hát múa cầu hồn, tiễn hồn xong người ta chia của cho người chết để mang sang thế giới bên kia : đó là những vật quý, đồ trang sức, vũ khí, công cụ, đồ dùng hằng ngày dưới dạng vật thật hay vật tượng trưng ( làm thu nhỏ lại, cũng bằng chất liệu và với hình dáng vật thật ). Trong chiếc quan tài ở ngôi mộ Việt Khê có chôn theo đến 107 hiện vật gồm đồ đồng, đồ đá, đồ gỗ, đồ đan, vải sơn ( không có đồ gốm ): bình, thạp, thố, đỉnh, khay, chuông, trống đồng, hộp sơn bằng gỗ, giáo cán dài, dao găm, kiếm và cả một cái bơi chèo bằng gỗ. Đây ắt hẳn là mộ của một nhân vật quyền quý, giàu sang.
Sau bước chia của đến bước chôn cất thì ở đây phong tục tang ma của người Việt cổ đã phát triển rất đa dạng phong phú.

Ở đầu thời Hùng Vương đã có tục chôn người dưới huyệt đất : nhiều huyệt đất được đào công phu thành tầng cấp sâu rộng; đến thiên niên kỷ I trước Công nguyên phổ biến những huyệt hình hộp chữ nhật như ngày nay. Ở thời đó, cũng có nơi người ta chôn xác chết trong tiểu gốm ở nghĩa địa sát địa điểm cư trú. Ở nơi khác xác chết được chôn trong những chiếc quan tài bằng thân cây khoét rỗng hình thuyền độc mộc ở xa nơi cư trú, như phong tục của người Mường cận đại. Xác chết có lót hoặc bao chiếu cói đặt nằm giữa quan tài và xung quanh là những của cải mang theo. Ở nơi khác nữa, có tục hoả táng : người chết được đốt cùng với thứ mặc và đồ trang sức trên người, sau đó than tro và xương răng cháy vụn được bỏ vào những đồ đựng lớn và quý như thạp đồng, trống đồng ( lật ngửa ) cùng với tài sản được chia rồi đem chôn sâu ở nơi xa nơi cư trú, như phong tục người Thái, người Tày - Nùng cổ cận đại. Cũng có trường hợp vật tuỳ táng được đặt ở bên ngoài, xung quanh đồ đựng than tro của người chết. Có một vài hình thức chôn cất khá lạ : chôn người - chủ yếu là trẻ con - trong những đôi nồi lớn úp miệng; chôn đầu người trong những đồ đựng bằng đồng nhỏ như thạp nhỏ và thố.

Qua hệ thống phong tục tang ma, qua quan niệm và thái độ đối với người chết, sự chết và cõi chết, có thể thấy được phần nào sự phát triển lịch sử - xã hội và tình cảm - tư duy. Sự săn sóc, ân cần chu đáo thể hiện qua khóc than, hát mo, chia của, chôn cất, xuất phát từ tình người là chủ yếu chứ không phải là vì lo ngại, sợ hãi như ở thời nguyên thủy. Cũng có thể người Việt cổ quan niệm rằng người chết vẫn còn tiếp tục tham gia vào sinh hoạt của người sống, hoặc làm lợi hoặc làm hại cho họ bằng những phương tiện thần bí, do đó họ có thể hiện lòng kính trọng và sự quan tâm săn sóc của mình đối với người thân đã khuất bằng những nghi lễ chôn cất có tính chất ma thuật nhằm bảo đảm cho mình được nhiều ảnh hưởng tốt, ngăn ngừa những ảnh hưởng có hại. Chắc chắn là người Việt cổ quan niệm người chết vẫn rất gần gũi với người sống, hơn nữa họ muốn tạo ra sự gần gũi đó bằng cách chôn người thân sát địa điểm cư trú, những trường hợp đem chôn sâu ở xa nơi cư trú không phải là phổ biến. Người sống hi vọng rằng người thân đã chết sẽ còn lẫn quất đâu đó và phù hộ cho mình.

Qua những nghi thức chôn cất cũng thấy rõ sự phân hoá của cải và địa vị xã hội được phản ánh qua quy mô và mức độ giàu có chênh lệch rõ ràng giữa các ngôi mộ, nhất là trong khoảng thiên niên kỷ I : có ngôi mộ chôn theo hơn 100 hiện vật ( có thể là mộ của thủ lĩnh bộ lạc ), có ngôi mộ không có hiện vật nào ( mộ của người nô lệ ? ).

Sự bảo lưu kế thừa các phong tục chôn cất nhiều màu vẻ của thời Hùng vương ở những dân tộc khác nhau về sau này, chẳng hạn như bảo lưu hình thức chôn người dưới huyệt đất hay trong tiểu gốm ở người Việt, hình thức chôn người trong quan tài bằng thân cây khoét rỗng ở người Mường, hình thức hoả táng ở người Thái, người Tày - Nùng, cho thấy rằng đó là dấu hiệu của những đặc trưng dân tộc ở các thành phần cư dân khác nhau thời Hùng Vương cùng sống xen kẽ và hoà hợp trong thời đại dựng nước.
 
Từ khi sanh ra đến khi trưởng thành, " thành đinh ", chắn chắn người thời Hùng Vương có những phong tục phong phú độc đáo mà chúng ta chưa biết hết.

Tuy nhiên, căn cứ vào Lĩnh Nam chích quái có thể thấy ít nhất là một tục lệ áp dụng cho trẻ sơ sinh là lót ổ bằng lá chuối cho nằm. Sách nói trên chép : Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm. Đồng bào Mường gần đây vẫn còn giữ tục lệ đẻ con xong đem đặt lên trên một cái mẹt - tiếng Mường gọi là " cúm " - lót một tàu lá chuối tươi; bà đỡ hát nựng đứa bé và cử hành một số nghi lễ tượng trưng thần bí nhằm cầu phúc cho nó rồi mới ẵm dậy.
TRƯỚC NGƯỠNG CỬA TUỔI TRƯỞNG THÀNH : THỬ THÁCH VÀ CÔNG NHẬN
Khi cậu thiếu niên Việt cổ bước vào tuổi lao động có hiệu qủa, và sắp trở nên một thành viên trẻ trưởng thành của làng chạ, cậu phải trải qua một hệ thống thủ tục gọi là lễ công nhận, còn gọi là lễ thành đinh hay lễ gia nhập. Đó là những nghi lễ thử thách, thi tài mà những thanh niên mới vào đời phải trình diễn trước công chúng, chứng tỏ là đã có tập luyện công phu. Trong các xã hội quyền cha đã ổn định sau thời Hùng Vương, chỉ đối với con trai đến tuổi 15, 16 hoặc 18, tuỳ nơi, mới cần dự lễ này, và thường là theo cách giản dị, chỉ cần một thủ tục có tính chất trình diện. Nhưng ở thời Hùng Vương, thời kỳ chế độ quyền mẹ quá độ sang chế độ quyền cha, những thủ tục của lễ thành đinh khá phức tạp và áp dụng cho cả gái lẫn trai, bao gồm đủ các tính chất : rèn luyện, thử thách, kiểm tra, công nhận. Đó là những cuộc thi long trọng để cá nhân biểu diễn tài sản xuất và chiến đấu, tỏ ra am hiểu tục lệ làng chạ và lịch sử nòi giống, đồng thời bày tỏ lòng dũng cảm, tài tháo vát, sự mưu trí... Sau đó người ta xăm mình cho các thanh niên hay thanh niên tự xăm mình làm dấu hiệu chứng nhận đã thông qua lễ thành đinh. Dấu hiệu được xăm là hình chim hay hình thuồng luồng, hình rùa hay hình gà, di tích vật tổ xưa của cộng đồng bộ lạc. Trong xã hội cổ đại nói chung, người ta quan tâm đến việc giáo dục tập luyện cho thế hệ trẻ mà làng chạ hay bộ lạc có trách nhiệm trực tiếp. Lễ thành đinh có thể được tổ chức trong khuôn khổ của hội làng mùa thu. Lễ thành đinh thời Hùng Vương đã để lại tàn dư, biến tướng khá rõ nét trong các dân tộc ở Việt Nam các thời kỳ về sau. Ở các làng xã người Việt thời cận đại, trong những ngày hội mùa xuân, hội mùa thu, người ta thường tổ chức những cuộc thi vật, thi chạy, đánh phết, đua thuyền, thi hát ( hát quan họ, hát trống quân ...) v.v... Ngoài ra còn có thi kéo lửa nấu cơm, thi dệt vải, làm bánh, dọn cỗ, thi cày, cấy, thi chọi gà, chọi chim v.v... Sự khác nhau ở hội làng người Việt sau này và lễ thành đinh Việt cổ là ở chỗ ngày xưa người ta tổ chức những cuộc thi cho những thành viên trẻ của làng chạ phải dự một lần trong đời để được xã hội công nhận còn sau này thì mở hội cho mọi người cùng dự để củng cố tinh thần tập thể cộng đồng, nuôi dưỡng truyền thống thượng võ, rèn luyện kỹ năng, khuyến khích sự tháo vát, nhanh nhẹn, tài trí... và để mua vui cho dân địa phương. Hội đâm trâu ở các dân tộc Tây Nguyên, hội mùa xuân ở các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc như hội gầu tào ( Mèo ), hội lồng tồng, hội múa sư tử ( Tày - Nùng ), lễ xiên cha ( Thái, Xá ) v.v... cũng là những tàn dư của lễ thành đinh cổ xưa.

Tục xăm mình, vốn là một nghi thức của lễ thành đinh, một tập tục phổ biến ở người Việt cổ, vẫn còn tồn tại trong xã hội Việt Nam trung đại đến thế kỷ thứ XIII. Thời cận đại ở Lào, ai xâm mình thì được coi là người can đảm, được vào ở chùa.

KẾT CHẠ ĂN THỀ ĐỜI ĐỜI GẮN BÓ VỚI NHAU

Giữa các làng chạ với nhau, nhất là đối với các chạ mà sự phát triển lớn mạnh đã dẫn tới việc tách ra làm hai, chắn chắn là có những phong tục xung quanh việc hợp tác tương trợ, việc liên kết cộng đồng và tình cảm. Truyền thống hợp tác tương tợ giữa các thành viên cùng làng chạ hay giữa hai chạ (" chạ anh, chạ em ") là một truyền thống được gìn giữ lâu dài cho đến sau này. Giữa hai chạ người ta tổ chức lễ kết nghĩa ăn thề, quy định thành tục lệ những trách nhiệm, nghĩa vụ giữa các chạ anh, chạ em, làng anh, làng em như sau này trong tục " đi nước nghĩa " của các làng người Việt vùng Phú Thọ, tục kết chạ, ăn giải của các làng vùng Bắc Ninh, đời đời giao hiếu gắn bó với nhau.

Trong làng hay giữa các làng, trong các công việc làm ăn, kết bạn có những phong tục chung quanh việc gặp gỡ, trao đổi, giao thiệp. Người ta mời nhau ăn trầu: " Miếng trầu là đầu câu chuyện ", người ta trao đổi tặng phẩm... Gần với tục ăn trầu có tục nhuộm răng cũng là một tập tục cổ còn giữ lại trong xã hội người Việt đến đầu thế kỷ 20. Trong những ngày hội đón khách buôn, khách đến thăm, khách hát múa của các làng miền xuôi, miền núi như hội Lim ở tỉnh Bắc Ninh, hội hoa ban ở Tây Bắc, hội hai, hội lồng tồng ở Việt Bắc... còn có thể thấy được hình ảnh đậm nhạt của sinh hoạt giao du, vui chơi, hội hè ở thời Hùng Vương.
 
_______________________
(1) - Lê Thị Nhâm Tuyết, Về chế độ và phong tục hôn nhân thời Hùng Vương dựng nước tập III, trang 267-71
(2) - Một số di bản của Lĩnh Nam chích quái là gói muối thay cho gói đất. Đinh Gia Khánh khi làm chú giải sách này có gợi ý "Kể ra hai cách đều có thể được cả".

CHƯƠNG XI
HỘI LÀNG THỜI HÙNG VƯƠNG

Tài liệu thư tịch cổ đã ghi : người Lạc Việt hàng năm mở hội vào mùa thu. Đó là những ngày hội hè của làng chạ Việt cổ diễn ra trong không khí ấm áp, lúc thời vụ rảnh rang, những đêm giữa thu, trăng thanh gió mát, rất thích hợp cho những sinh hoạt tập thể, cộng đồng tưng bừng rộn rịp trang trọng. Trống đồng Đông Sơn đã khắc vẽ nhiều hình ảnh hiện thực và sinh động về những ngày, những đêm hội mùa thu xa xưa ấy.

ÂM THANH HÙNG VĨ CỦA TRỐNG ĐỒNG VIỆT CỔ
Chung quanh ngôi nhà làng mái cong đồ sộ trang trí hình chim, hình gà, hình sừng trâu...gái trai già trẻ tụ họp đông đảo, tiếng trống đồng vang lên. Những âm thanh hùng vĩ ấy là âm thanh tiêu biểu cho hội làng Việt cổ. Hàng nghìn năm về sau khi các bản Mường, làng Việt mở hội, "vào đám", tuyệt đối không thể thiếu trống đồng.

Trống đồng không đánh từng chiếc đơn độc mà được hoà tấu từng đôi hoặc cả dàn một lúc. Trống được để trên đế, trên giàn, người đánh trống cả nam lẫn nữ đều hoá trang trong bộ lễ phục hình chim, ngồi hoặc đứng "giã" trống theo kiểu giã cối chày tay.

Cùng với tiếng trống, cồng chiêng cũng được đánh liên hồi. Đánh trống là để cầu được mưa hay cầu dứt mưa, còn đánh cồng chiêng là để cầu được mùa, cầu sinh sôi nảy nở, thịnh vượng phồn vinh. Cồng chiêng cũng được hòa tấu cả bộ 7 hay 8 chiếc treo thành dàn trong ngôi "nhà cầu mùa" là chiếc nhà sàn mái tròn thấy trên trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ.
 
Trong những ngày hội làng mùa thu ấy cũng vang lên tiếng chày giã cối thân quen. Từng đôi gái trai cầm chày dài có trang trí lông chim đứng giã những chiếc cối rỗng, vuông, vốn là dụng cụ nông nghiệp đồng thời là nhạc cụ và là vật tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở.

Giã cối chày tay với nhịp điệu đều đặn và những tiếng trầm bổng vang ra từ lòng cối và thành cối (những tiếng "khắc" cối) ở nhiều vùng Mường, Thái là một sinh hoạt phong tục và sinh hoạt âm nhạc cổ truyền khá phổ biến. Đó là tục đâm đuống hay giã cối luống. Giã cối đệm cho tiếng hát đối đáp vừa là hình thức biểu diễn và thưởng thức văn nghệ vừa là trò chơi giao duyên mang ý nghĩa cầu mong sinh sản thịnh vượng. Mãi về sau, ở nhiều vùng người Việt, tục nam nữ vừa giã cối vừa hát đối đáp vẫn còn rất phổ biến, tiêu biểu là tục hò giã gạo ở miền Trung.

Một trong những trò vui quen thuộc khác của hội làng Việt cổ là trò chồng nụ chồng hoa (còn gọi là cài hoa kết hoa) : ngồi trong nhà làng, ngôi nhà sàn đồ sộ mái cong hình thuyền, từng đôi gái trai, mặt đối mặt, lồng chân giao tay với nhau mà hát, bên cạnh có người đánh trống khẩu đệm nhịp. Đây là một hình thức giao duyên bằng trò chơi và bằng văn nghệ hàm ý cầu sinh sôi nảy nở. Mãi đến thế kỷ XV vẫn còn tục lệ gái trai người Việt vừa hát đối đáp vừa kết tay giao chân mà sách Đại Việt sử ký toàn thư gọi là hát rí ren hay hát lý liên. Ở nhiều hình thức hát đối đáp giao duyên cổ truyền như hát đúm, hát ghẹo, hát quan họ, hát ví....gái trai cũng giữ lại tục cầm tay nhau mà hát.
Trong những ngày hội làng mùa thu ấy cũng vang lên tiếng chày giã cối thân quen. Từng đôi gái trai cầm chày dài có trang trí lông chim đứng giã những chiếc cối rỗng, vuông, vốn là dụng cụ nông nghiệp đồng thời là nhạc cụ và là vật tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Giã cối chày tay với nhịp điệu đều đặn và những tiếng trầm bổng vang ra từ lòng cối và thành cối (những tiếng "khắc" cối) ở nhiều vùng Mường, Thái là một sinh hoạt phong tục và sinh hoạt âm nhạc cổ truyền khá phổ biến. Đó là tục đâm đuống hay giã cối luống. Giã cối đệm cho tiếng hát đối đáp vừa là hình thức biểu diễn và thưởng thức văn nghệ vừa là trò chơi giao duyên mang ý nghĩa cầu mong sinh sản thịnh vượng. Mãi về sau, ở nhiều vùng người Việt, tục nam nữ vừa giã cối vừa hát đối đáp vẫn còn rất phổ biến, tiêu biểu là tục hò giã gạo ở miền Trung.

Một trong những trò vui quen thuộc khác của hội làng Việt cổ là trò chồng nụ chồng hoa (còn gọi là cài hoa kết hoa) : ngồi trong nhà làng, ngôi nhà sàn đồ sộ mái cong hình thuyền, từng đôi gái trai, mặt đối mặt, lồng chân giao tay với nhau mà hát, bên cạnh có người đánh trống khẩu đệm nhịp. Đây là một hình thức giao duyên bằng trò chơi và bằng văn nghệ hàm ý cầu sinh sôi nảy nở. Mãi đến thế kỷ XV vẫn còn tục lệ gái trai người Việt vừa hát đối đáp vừa kết tay giao chân mà sách Đại Việt sử ký toàn thư gọi là hát rí ren hay hát lý liên. Ở nhiều hình thức hát đối đáp giao duyên cổ truyền như hát đúm, hát ghẹo, hát quan họ, hát ví....gái trai cũng giữ lại tục cầm tay nhau mà hát.
HỘI NƯỚC VÀ TỤC BƠI CHẢI CẦU MƯA 

Phổ biến trong hội làng Việt cổ là tục bơi thuyền và những hoạt động trên sông nước. Nhằm nhiều mục đích : cầu mưa, rèn luyện kỹ năng bơi thuyền, thuỷ chiến, trau dồi tinh thần thượng võ có trò chơi thể thao mang tính chất nghi lễ là trò đua thuyền mà người Việt quen gọi là bơi chải, thi chải.

Trống đồng, thạp đồng đã ghi lại hình ảnh những con thuyền độc mộc mũi cong, đuôi én, mình thon dài - thuỷ tổ của những chiếc thuyền đuôi én Thái, Mường ngày nay đang xuôi ngược như thoi đưa trên các dòng sông Đà, sông Mã - trên thuyền có nhiều người ngồi, đứng, có người hoá trang thành chim, người này cầm vũ khí, người kia cầm giầm bơi, người nọ cầm nhạc cụ hay đang diễn tấu nhạc cụ, tất cả đều trong tư thế linh hoạt, khẩn trương, đó là hình ảnh những cuộc bơi chải Việt cổ tưng bừng, náo nhiệt, huy động nhiều thuyền dự đua.

Tục bơi chải là một tiết mục chủ yếu mà nhiều hội hè cận hiện đại đã tiếp thu từ hội hè thời Hùng Vương : hội đua thuyền của người Thái, người Mường trên sông Đà, sông Mã, hội đua thuyền của người Việt từ trên sông Hồng đến trên sông Cửu Long, sông Đồng Nai : hội làng Đăm (Hà Nội) vào mùa xuân, hội làng Nọ (Thừa Thiên Huế) vào mùa hè, hội chùa Keo (Thái Bình) vào mùa thu v.v...

Một nghi lễ quan trọng của hội làng Việt cổ là nghi lễ hiến tế, cầu cúng thần Nước : trên những chiếc thuyền lớn có sàn cao, chở trống đồng cầu mưa, bình đồng đựng nước thiêng tượng trưng cho mưa, có những người chèo lái hoá trang và vũ trang, người đánh trống, người cầm cung tên, người cầm giáo lao, có cả chó canh giữ một người bị trói và sắp bị hi sinh làm vật hiến tế cho thần Nước.

Đua thuyền cúng tế thần Nước là hình thức hội nước hội cầu mưa sẽ được duy trì lâu dài và phổ biến ở nhiều làng người Việt ven những dòng sông lớn trong suốt thời phong kiến.
NGƯỜI GIÀ, THẦY MO VIỆT CỔ KỂ CHUYỆN KHAN, CHUYỆN ANH HÙNG ; NHÂN DÂN LAO ĐỘNG HÒ HÁT NHẢY MÚA, VUI CHƠI.

Trong ngày hội có một tiết mục rất hào hứng, hấp dẫn là kể chuyện dân gian. Người kể chuyện là những cụ già vừa là nghệ nhân dân gian vừa là người phụ trách việc cầu cúng trong làng chạ Việt cổ. Nhân vật này bao giờ cũng hóa trang cho đồng dạng với thần linh, tổ tiên. Đây là nhân vật trung gian thể hiện khả năng giao tiếp giữa người và thần.
 
Người kể chuyện mặc trang phục nghi lễ ngày hội, hoá trang thành chim bởi vì tổ tiên người Việt cổ vốn là nòi chim, vừa kể chuyện vừa làm động tác minh hoạ như một diễn viên sân khấu. Công chúng xúm quanh đông đảo để xem, nghe con người có tài gợi lại nguồn gốc tổ tiên, giống nòi, nguồn gốc các sự vật trong thiên nhiên và cuộc sống, kỳ tích những người anh hùng khổng lồ. Hình thức kể chuyện ngày hội như thế về sau vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn ở nhiều vùng, tiêu biểu là hình thức kể vè của người Việt, hát mo (sử thi) ở vùng Mường, kể khan (trường ca) ở Tây Nguyên. Ở các vùng người Ê-đê, Gia-rai, Ba-na...những lão nghệ nhân đầu cài lông chim, mặc lễ phục sang trọng kể khan Đan San, khan Dăm Di, khan Xinh Nhã, khan Khinh Dú cho nhân dân các buôn làng nghe đêm này qua đêm khác, vừa kể vừa làm động tác rất say mê nồng nhiệt.

Nghệ thuật hò hát chắc chắn đã phát triển ở thời Hùng Vương. Hình ảnh của tục hát đối đáp giữa gái trai đã được khắc họa trên trống đồng.

Hát đối đáp là một trò vui giao duyên không thể thiếu trong ngày hội làng : hát trong khi chơi cài hoa kết hoa, hát theo nhịp chày giã cối.

Cùng với tục thi bơi thuyền, bơi chải có hò đua thuyền. Ở trò chơi thể thao khẩn trương này chỉ cần một giầm bơi sai nhịp là không những thuyền không tiến được mà còn có thể bị đắm. Bởi vậy, ở những chiếc chải bơi thi đang lao nhanh trên sóng nước mà trống đồng đã ghi lại hình ảnh, nếu không thấy có những người cầm nhạc cụ gõ (trống, mõ, sênh phách...) thì chắc chắn phải có người lên tiếng hò để bắt nhịp hoặc ra hiệu lệnh, thống nhất động tác, điều hoà nhịp thở như thấy phổ biến ở các hội bơi chải sau này.

Trong hội làng Việt cổ, các điệu hát hò có khi kèm theo múa như về sau, thời phong kiến, còn thấy ở các hình thức âm nhạc dân gian có phong cách rất cổ như hát múa Xoan ở Phú Thọ, hát múa Dậm, hát múa Lải Lê ở Hà Nam, hát múa Rô ở Hoà Bình, hát múa Xuân Phả ở Thanh Hoá, hát múa Ải Lao ở ngoại thành Hà Nội, hát chầu văn phụ hoạ cho múa lên đồng trong đạo đồng bóng, hát múa Ả đào, v.v...(ở vùng đồng bằng Bắc Bộ).

Hát hò và nhảy múa sôi nổi hào hứng trong hội hè, người Việt cổ cũng hát hò vui vẻ hồ hởi trong lao động. Những điệu hát hò lao động cổ sơ nhất đã có từ thời nguyên thuỷ. Với trình độ văn hoá vật chất và tinh thần khá cao, người thời Hùng Vương đã phát triển nhiều hình thức dân ca lao động, dân ca sinh hoạt : hát ru con, hát đưa ma (ngày nay quen gọi là hò đưa linh), hò chèo thuyền, hò hát khi đi rừng săn bắn hay đốn củi, hò hát khi đánh cá, khi cày cấy, gặt hái, xay lúa, giã gạo...

Những tiếng đệm, tiếng đưa hơi, tiếng láy luyến trong nhiều điệu hát hò còn giữ đưọc trong kho tàng dân ca truyền thống đều là những từ rất cổ, có khả năng xuất hiện trong sinh hoạt ca hát thời cổ. Ví dụ ở điệu hò sông Mã chúng ta nghe những dô là í ta dô ta hay ê dô khoan dô khoan dô huầy ; ở điệu hát Xoan Phú Thọ tềnh là tềnh tanh tềnh tang tềnh, hay ức cừ là la y a, hoặc vông vông tầm vông vông tập tầm vông ; ở điệu hát Rô, huậy đô huậy dô bái hù hù là huậy dô huầy hay tôi dạ hề liên tôi dạ lại liền tôi dạ liền dạ ; ở điệu hát dậm Hà Nam là hồi la lết la lết lê la là ái hồi la v.v...
Nhảy múa cũng là một hình thức sinh hoạt hội hè, sinh hoạt nghệ thuật phổ biến ở thời Hùng Vương. Gắn liền với tín ngưỡng vật tổ là điệu múa hoá trang hình chim của người Việt cổ. Nghệ sĩ múa, như thấy chạm khắc trên mặt trống đồng, đội mũ lông chim có cài bông lau, mặc váy xoè bằng lông chim hoặc bằng lá cây bước chân nhún nhảy, bàn tay xoè uốn, cánh tay dang rộng như đôi cánh chim bay chập chờn, với dáng điệu say sưa phấn khởi, tự đồng hoá mình với chim tổ. Phải chăng điệu múa hoá trang chim ấy là nguồn gốc xa xôi nhất của nhiều điệu múa cổ truyền lấy hình tượng chim làm chủ đề : múa công của người Thái đen, múa hạc, múa chim én của người Tày, múa chim phượng hoàng của người Dao, múa chim gâu của người Cao Lan, múa chim grứ của người Ê-đê.
 
Để thể hiện tinh thần thượng võ, người Việt cổ thích múa vũ trang ; người múa tay cầm giáo tay gõ nhịp phách, hoặc tay cầm rìu chiến tay cầm khiên mộc ; những người múa khác cầm nỏ hay cung vận động bên cạnh những người thổi khèn, lắc chuông nhạc và đánh trống đệm cho múa. Nhìn những người múa tràn trề hùng khí ấy được khắc chạm trên mặt trống đồng, thân trống đồng, không thể không liên tưởng đến những điệu múa giáo, múa khiên của người Ê-đê, múa thắng trận của người Ba-na, múa gậy tiền, múa xuất binh hồi binh của người Dao, múa nỏ của các tộc người ở Tây Bắc, múa gậy múa rìu múa gươm, múa mã tấu, múa roi trung bình tiên của người Việt. Trong những ngày hội đền Dóng, để tưởng nhớ ông Dóng người anh hùng Việt cổ chiến thắng ngoại xâm, phường Ải Lao biểu diễn nhiều điệu múa hào hùng múa cờ lệnh, múa chiêng trống, múa cung nỏ.

Múa với nhạc khí cũng là những điệu múa tiêu biểu của người Việt cổ. Trống đồng, thạp đồng cho thấy nhiều nguời múa, với nhiều loại nhạc khí khác nhau. Có người múa với sênh phách, có người vừa múa vừa rung chuông nhạc, có người vừa múa vừa thổi khèn, hoặc vừa múa vừa rung lên một nhạc khí giống như chiếc sáo. Phải chăng đó là tiền thân của điệu múa chuông ở người Dao tiền, múa chuông nhạc ở người Tày, người Thái, múa khèn ở người Mèo, múa hươn mậy, múa tăng bu tăng bẳng ở các tộc người ở Tây Bắc, múa trắng, múa sênh phách, múa sênh mõ ở người Việt.

Điệu múa khèn Việt cổ tạo nên cả một bầu không khí say sưa phấn khởi cho một đoàn người vận động theo một đội hình nhiều màu vẻ, lại có cả những người cõng nhau múa khèn trông rất vui nhộn, tinh nghịch, những điệu múa hát trên thuyền ở thời xa xưa ấy không thể nào không để lại những nét dáng, những dư vang quen thuộc khó phai mờ ở một số điệu múa hát cổ truyền đặc sắc của người Việt như hát múa Bá trạo, hát múa Rô, hát múa Dậm, hát múa Lải Lê, hát múa Chèo chải, hát múa Chèo chải hê là những điệu hát múa liên quan đến hình tượng con thuyền và động tác chèo thuyền.

Người Việt cổ múa với tư thế thường là hơi ngả về phía sau, mặt hướng cao, ngực ưỡn với dáng hiên ngang, khoẻ khoắn, chân sau nhún nhẹ như đang bước về phía trước ; những hình ảnh đó làm ta nghĩ đến dáng dấp quen thuộc của một số động tác múa Tây Nguyên, đặc biệt hình ảnh đôi cánh tay uyển chuyển, bàn tay uốn cong mềm mại của người múa Việt cổ sẽ được ghi lại trung thành trong truyền thống múa dân gian và múa cung đình ở người Việt, nhất là trong múa của hát chèo, của hát ả đào và múa hoa đăng.
NỀN ÂM NHẠC VIỆT CỔ PHONG PHÚ

Đệm cho những lời ca tiếng hát điệu múa Việt cổ nhiều màu vẻ ấy có tiếng khèn, tiếng phách, có dàn nhạc trống, dàn nhạc cồng chiêng và nhiều nhạc khí đã khá phong phú của thời Hùng Vương.
Hiện vật khảo cổ học cho thấy người Việt cổ đã sáng tạo được một số nhạc khí đặc sắc thuộc bộ gõ và bộ hơi. Nhạc khí gõ gồm các loại trống, cồng chiêng, sênh phách...Nhạc khí hơi gồm các loại khèn, sáo...
Quan trọng nhất và có lẽ được ưa chuộng nhất là trống đồng, nhạc khí Việt cổ tiêu biểu và điển hình về nhiều mặt : tiêu biểu cho trình độ kỹ thuật, cho tình hình xã hội, cho tư duy thẩm mỹ của con nguời văn minh thời ấy. Trống đồng quả thật là một nhạc khí độc đáo mà đặc trưng là khai thác âm vang của kim loại. Mặt và tang trống phình ra thành một vòm chứa đựng âm thanh, cộng hưởng và chuyền qua thân trống hình trụ thon lại và cuối cùng oà ra ngoài từ chân trống loe rộng như một miệng loa. Với cấu tạo như thế, cái thùng cộng hưởng to lớn này - có những trống đồng cao 70 cm, đường kính mặt trống 90 cm - có chức năng chính là tạo nên những âm thanh hùng vĩ, gây ra sự âm vang náo động. Đó cũng chính là vai trò của trống cầu mưa (trống sấm), trống hội, trống trận (trống chiến). Theo những nghiên cứu thực nghiệm của các nhà âm nhạc học, khi đánh trống đồng Ngọc Lũ nếu đánh ở giữa mặt trống thì tiếng trầm và ấm, đánh ở ngoài thì tiếng thanh hơn nhưng không êm tai bằng. Đánh vào vành 1-3 của mặt trống thì được nốt si giáng (si bémol), đánh vào vành 4 nốt mi, vành 5 nốt fa, vành 7 cũng nốt si giáng, từ vành 9 trở ra lại trở lại nốt mi (1).

Ở thời cận hiện đại, nhiều tộc người ở Việt Nam như người Mường, người Thái, người Khmú còn sử dụng trống đồng, đặc biệt là người Mường vẫn đánh trống đồng theo kiểu cách của người Việt cổ : đặt trống thành dàn 2 hoặc 4 chiếc rồi cầm gậy như cầm chày đứng dộng thẳng xuống mặt trống như kiểu giã cối gạo.

Trống da được đặt trên nhà sàn hay trên thuyền chiếnViệt cổ cạnh trống đồng, trông giống như trống bản hay trống khẩu truyền thống. So sánh tỷ lệ nggười đánh trống được khắc hoạ ở ngay cạnh trống thì thấy kích thước các loại trống da là khoảng 20cm đường kính mặt trống, và 30cm chiều cao, trống được đặt nằm và đánh ngang vào một mặt, đệm cho những điệu hát nghi lễ, những điệu hát giao duyên trong nhà làng, hoặc làm hiệu lệnh cho thuyền trong các cuộc đua chải.

Cồng chiêng Việt cổ đuợc sử dụng cả bộ treo thành dàn trong những ngôi nhà sàn nhỏ thấp mái tròn (nhà kho hay nhà cầu mùa), mỗi ngôi nhà có hai dàn cồng chiêng ở hai bên, mỗi dàn 8 chiếc, đứng giữa là một người dùng dùi đánh cả hai dàn cùng một lúc.

Ở người Việt hiện đại, cồng chiêng chỉ được dùng đơn chiếc, đi kèm với trống đại như là nhạc cụ điểm nhịp trong hội hè đình đám nhưng ở nhiều tộc người khác, đặc biệt là ở vùng người Mường và ở Tây Nguyên cồng chiêng vẫn thường đã sử dụng cả bộ từ 5 chiếc trở lên, có bộ dùng để đánh đệm, có bộ dùng để đánh giai điệu từ trầm đến bổng. Ở nhiều dàn cồng Mường hiện đại, đáng chú ý là bộ cồng vẫn còn giữ số lượng 8 chiếc như bộ cồng thời Hùng Vương.

Chuông nhạc Việt cổ đã được tìm thấy khá nhiều trong các di chỉ và mộ táng. Có những chiếc cỡ nhỏ dài từ 5 đến 15cm có quả lắc ở trong đi với nhau thành một chùm từ hai đến năm chiếc xâu vào các vòng đồng. Có những chiếc cỡ lớn dài từ 25 đến 35cm, miệng hình bầu dục không có quả lắc. Trong ngày hội làng, người thời Hùng Vương vừa múa vừa rung lắc hoặc gõ vào chuông nhạc. Người Dao hiện đại còn giữ điệu múa chuông nhạc rất sinh động.

Sênh phách một nhạc cụ chủ yếu dùng để đánh nhịp cho các điệu hát cũng được người xưa sử dụng trong múa. Chiếc sênh Việt cổ rất giống nhạc cụ hươn mậy của người Xá Tây Bắc : đó là những ống nứa vạt nhọn một đầu, phần tay cầm có dùi thêm một lỗ nhỏ để điều chỉnh âm thanh, khi múa, người Xá đập hươn mậy vào tay, vào đùi, âm thanh phát ra gần như tiếng ve kêu. Đó là điệu múa hươn mậy. Trống đồng cũng ghi lại hình ảnh những người vừa múa vừa cầm hai thanh tre dài bằng nhau khoảng từ 20 đến 30cm, đó là cặp phách. Truyền thống vừa múa vừa gõ phách còn được bảo lưu trong hát múa ả đào. Phách cũng được sử dụng phổ biến trong ca nhạc Huế.
Người Việt cổ rất ưa thích thổi khèn và múa khèn. Thời Hùng Vương đã có hai loại khèn khác nhau ; khèn loại bầu dài giống như khèn Mèo hiện đại, loại bầu ngắn giống như khèn Thái hiện đại. Vật liệu làm khèn là những thứ rất dễ tìm : quả bầu, ống trúc, lá mía bằng đồng hoặc lá cây. Từ những chất liệu đơn sơ này, người xưa đã khéo léo gắn bó chúng lại với nhau thành một nhạc khí độc đáo có thể phát ra một chùm âm thanh vừa có phần giai điệu vừa có phần đệm, tất nhiên là với mức độ đơn giảm nhưng nghe khá êm tai. Người Việt cổ đã biết sử dụng khèn trong nhiều trường hợp khác nhau : độc tấu, đệm cho múa, hoặc vừa thổi khèn vừa múa nhảy...Và cho đến ngày nay, khèn vẫn là một nhạc cụ rất quen thuộc đối với nhiều tộc người : Mèo, Thái, Mường, Tây Nguyên và được sử dụng phổ biến trong tế lễ, hội hè, trong các cuộc gặp gỡ tình tự của gái trai. Múa khèn là một trong những điệu múa đặc sắc của người Mèo.

Nhiều nhạc cụ thô sơ khác có từ thời nguyên thuỷ và còn tồn tại đến ngày nay chắc cũng đã được sử dụng ở thời Hùng Vương : đó là những chiếc cọng rơm, ống đu đủ, kèn lá, tù và, sáo trúc, những chiếc đàn đá, đàn đất, đàn gỗ.

Cây sáo đã xuất hiện từ cuối thời đại đá cũ. Xét cấu trúc của chiếc khèn (gồm nhiều ống tương tự như ống sáo ghép lại) thì thấy sáo đã có khả năng tồn tại trước hay song song với khèn. Dàn đàn đá (phát hiện được ở Tây Nguyên) có từ thời văn hoá Bắc Sơn là tổ tiên của những chiếc đàn gỗ, đàn tre nứa kiểu đàn tơ-rưng. Đàn tơ-rưng ngày nay vẫn giữ một địa vị trọng yếu trong âm nhạc các tộc người Tây Nguyên.
Chiếc đàn đất Việt cổ mà sau này người Việt quen gọi là trống đất hay trống quân đã được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc khẳng định là một trong những nhạc khí rất cổ của miền Đông Nam Á. Đó là một thứ đàn dây thô sơ, được tạo âm thanh bằng cách dùng que đánh vào một sợi dây mây căng trên một thùng cộng hưởng đào ngay dưới đất (xem hình vẽ 7) :

Nghệ thuật hát, múa, nhạc rõ ràng có vị trí quan trọng trong hội hè, trong đời sống tình cảm và thẩm mỹ, trong văn hoá tinh thần của người xưa.

Xã hội Việt cổ đã là một xã hội văn hiến, vừa náo động những âm thanh mạnh mẽ trầm hùng của trống chiêng, vừa dìu dặt những âm thanh dịu dàng, réo rắt của sáo, khèn, vừa uyển chuyển rộn rịp những động tác múa thượng võ hay trữ tình.

Trong ngày hội làng Việt cổ, bên những âm điệu hùng tráng được phóng đại mãi lên của những dàn trống đồng thi sức với những tiếng sấm sét "bí ẩn" của trời đất, là tiếng khèn êm ái, tiếng chuông thánh thót, tiếng sênh phách giòn giã, tiếng chày giã cối nhịp nhàng.

Một đặc điểm lớn của nền âm nhạc Việt cổ phục vụ cho những ngày hội làng xa xưa ấy là sự phát triển của những nhạc khí thuộc bộ gõ và tầm quan trọng của tiết tấu.

Trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, bộ gõ vẫn luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu. Chỉ với một chiếc trống da, người nhạc công Việt Nam đánh vào giữa mặt trống, vào cạnh mặt trống, vào tang trống, bịt tay lên mặt trống để đánh, đánh một dùi, đánh hai dùi, khi rung khi điểm...tạo nên những tiết điệu và âm sắc phong phú, độc đáo. Tiếng trống tuồng, trống chèo, trống ả đào, trống nhạc lễ của ta cũng đã có hàng chục điệu khác nhau. Có thể nghĩ rằng ngay từ thời Hùng Vương, truyền thống đầu tiên của bộ nhạc khí gõ và của tiết tấu trong âm nhạc Việt Nam đã được ổn định và trở thành một đặc trưng bền vững (2).

Trong ngày hội làng, người nhạc sĩ Việt cổ không diễn tấu đơn độc mà đã biết hoà tấu, hợp tấu.
Qua dàn trống đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng chiêng từ 8 đến 16 chiếc hay bộ chuông nhạc từ 2 đến 5 chiếc hợp tấu, người xưa đã đạt tới sự hài hoà của nhiều âm thanh, đã biết tạo giai điệu bằng những chùm âm thanh. Tư duy âm nhạc thời Hùng Vương đã phát triển đến mức người nhạc sĩ Việt cổ đã biết sử dụng cùng một lúc nhiều nhạc cụ khác nhau tạo ra nhiều âm thanh, âm vực, âm sắc và âm lượng khác nhau. Đó là những kinh nghiệm phối âm, phối khí đầu tiên và là cội nguồn xa xưa nhất của các dàn nhạc dân tộc ở Việt Nam.

Trống đồng Đông Sơn của tổ tiên ta không biết nói, nhưng qua hình ảnh chạm khắc trên trống, chúng ta nghe được rất nhiều : trong khung cảnh chung của hội làng xưa cũ chúng ta nghe vang lên cùng một lúc những âm điệu xiết bao phong phú của cả trống đồng, trống da, cồng chiêng, chuông nhạc, sênh phách lẫn khèn sáo và tiếng hát của người dân Việt cổ, tạo nên bản giao hưởng hội làng, bản giao hưởng mừng mùa hay mừng công, bản giao hưởng thôn dã hồ hởi tưng bừng của thời dựng nước.

Truyền thống hội hè, truyền thống âm nhạc bắt nguồn từ thưở xa xưa ấy, cho đến nay vẫn còn gần gũi thân thương xiết bao qua tiếng trống đồng, tiếng cồng chiêng, tiếng khèn, sáo, tiếng đàn tơ-rưng, tiếng trống quân, điệu múa chèo, và hàng trăm làng điệu dân ca, hàng trăm làng điệu dân vũ cổ kính, với những hội mùa xuân, hội mùa thu trung du và đồng bằng : hội Lim, hội Dóng, hội Đền Hùng...vang bóng văn hoá Việt cổ và hồn nước Việt cổ.
_______________________
(1) - Xem thêm, Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn. Lịch sử chế độ Cộng sản nguyên thuỷ ở Việt Nam - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1960, trang 141.
(2) - Nguyễn Hữu Thu và Lê Văn Lan. Bàn về âm nhạc thời Hùng Vương trong Hùng Vương dựng nước, tập IV, trang 339-46.

CHƯƠNG XII
NHỮNG NGƯỜI NGHỆ SĨ TẠO HÌNH TÀI HOA

Thành tựu mỹ thuật của người Việt cổ thời đại dựng nước qua những tác phẩm đồ gốm, đồ trang sức, đồ đồng, qua những hoạt động về tạo dáng, vẽ hình, chạm khắc, tạo tượng...là bằng chứng rõ rệt về tài năng, khiếu thẩm mỹ của một cộng đồng người sống chan hoà với thiên nhiên và sống khăng khít với nhau trong các làng chạ. Nền mỹ thuật Việt cổ nhiều màu vẻ có những nét đẹp bình dị, chững chạc, hài hoà, một nội dung hiện thực, chân chất, phản ánh khá đầy đủ tư duy, tình cảm và cuộc sống con người thời đó. Đồ gốm giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên làm bằng bàn xoay. Đó là những đồ đựng, đồ nấu có kích thước khá lớn với những loại hình đa dạng. Kiểu đặc trưng nhất là loại đồ đựng chia làm 3 phần : phần trên loe rộng (để đựng) hay thon thuỗn (để uống), phần giữa thót lại để dễ cầm nắm, phần đế hình nón cụt. Tỷ lệ hợp lý giữa chiều cao của 3 phần, độ phình, độ thót vừa phải, tính chững chạc kết hợp với tính sinh động của lối tạo dáng nồi, vò, bình, bát, cốc, chậu...là những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật gốm Phùng Nguyên.

Đến giai đoạn văn hoá Đông Sơn, kiểu dáng đồ gốm được kế thừa và nâng cao đến mức hoàn thiện trong đồ đồng. Nổi tiếng như trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, thạp Đào Thịnh, Việt Khê...là những di vật quí báu, ở đấy nghệ sĩ dân gian Việt cổ thể hiện toàn diện tài năng sáng tạo của mình.

Trước hết về mặt tạo dáng. Kiểu dáng trống đồng, thạp đồng mang những đặc điểm có tính thẩm mỹ cao. Do kế thừa kiểu dáng gốm Phùng Nguyên, kết cấu trống đồng cũng chia làm 3 phần : tang trống phình vừa phải, thân trống là một hình viên trụ thót dần về phía dưới, chân trống hình nón cụt hơi choãi ra về phía đáy. Dáng trống chững chạc, cân xứng, hài hoà, gọn một cách giản đơn. Cái đẹp ở đây là sự ổn định về tỷ lệ giữa 3 phần của chiếc trống, độ phình của tang trống, độ thót của thân trống vừa phải, độ choãi của chân trống nhẹ nhàng.

Còn kết cấu hình khối của một chiếc thạp, loại có nắp, thì nằm gọn trong một hình bầu dục. Phần trên của thạp và phần dưới hơi thót vào, đoạn giữa phình vừa phải. Dáng thạp nghiêm túc, dịu dàng.

Kết cấu 3 phần của đồ gốm, của trống và thạp đồng là kết quả của sự phát triển tư duy thẩm mỹ trong quá trình tìm tòi nhằm tạo ra những sản phẩm cân đối, vững vàng mà hài hoà, thanh thoát. Dao găm có cán hình người, rìu đồng lưỡi xéo các kiểu, đẹp một cách độc đáo, là những thí dụ tiêu biểu khác của thành tựu tạo dáng trong nền mỹ thuật Việt cổ.

NGHỆ THUẬT VẼ HÌNH TRÊN GỖ, TRÊN DA

Thời gian và khí hậu đã huỷ hoại mất phần lớn những hình vẽ trên các chất liệu không bền chắc.

Người Việt cổ có tục xăm mình : Đứng về góc độ mỹ thuật mà nhìn, tục lệ này là một hình thức vẽ màu đặc biệt trên da thịt. Một số mảnh gỗ và da thú có vẽ sơn còn sót lại đến nay với nước sơn còn bóng, màu sơn còn tươi đẹp, như các di vật tìm thấy trong chiếc quan tài ở ngôi mộ Việt Khê, cũng chứng tỏ rằng ở thời đại dựng nước đã phổ biến hình thức vẽ bằng màu, và ít nhất cũng có hình thức vẽ phẩm và vẽ sơn. Những màu sắc đã được sử dụng gồm có : vàng, đỏ gạch, xám, nâu, cánh gián, đen cùng những màu sắc của các màu ấy. Đề tài vẽ màu trên gỗ, trên da mà người Việt cổ ưa thích là các hoa văn hình học và các hình động vật : những vòng tròn đồng tâm, hình thoi, hình tam giác, hình hoa lá, hình rồng rắn.

Các loại hoa văn hình học phức tạp hơn, các hình vẽ khéo léo hơn, hiện thực hơn về người, động vật, phong cảnh là đề tài của nghệ thuật vẽ hình trên đồ gốm và đồ đồng.

Đó là những hoa văn khắc chìm trang trí các đồ gốm, những hoa văn khắc chìm và chạm nổi trang trí trên đồ đồng : người xưa đã vẽ trên đất rồi đem nung hoặc đổ khuôn.
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC TRÊN ĐỒ GỐM, ĐỒ ĐỒNG

Do chất liệu tương đối bền vững, đồ gốm và đồ đồng đã trở thành những bằng cứ phong phú và quí báu của nghệ thuật khắc hoạ thời đại dựng nước còn để lại dấu vết cho tới nay.

Đồ gốm được trang trí hoa văn bằng cách : vạch, chải, in, đập, ấn, ghép. Sáu cách tạo hoa văn ấy chứng tỏ rằng kỹ thuật trang trí đồ gốm đã tinh vi, trình độ nghệ thuật của người thợ gốm đã khá cao.
Từ những yếu tố hình học giản đơn như đuờng thẳng, đường cong, chấm tròn và vòng tròn, rồi những đường song song chạy thẳng hoặc uốn lượn, những hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác...đến những mảnh trang trí hình răng lược, hình sóng nước, hình mắt lưới, hình nhài quạt...nghệ sĩ Việt cổ đã phối hợp các yếu tố hình học giản đơn thành những đồ án hoa văn kỷ hà phong phú, phức tạp, đặc sắc, vừa mang tính chất trang trí, vừa có ý nghĩa tượng trưng. Hoa văn sóng nước có lẽ biểu hiện sông, suối ; hoa văn vạch thẳng song song biểu hiện mưa ; hoa văn tam giác biểu hiện núi, các loại hoa văn cuốn chữ S biểu hiện mây, chớp ; hoa văn vòng tròn đơn, kép, liên kết hoặc không liên kết thành dải có lẽ thể hiện những khái niệm ước lệ rất đơn giản về trời đất, sinh vật. Hoa văn thường được bố cục theo từng dải tròn chạy chung quanh bề mặt tròn của đồ đựng và thường bị chi phối bởi những nguyên tắc của luật đối xứng.


Người thời Hùng Vương ưa trang trí đồ gốm của mình bằng các dải hoa văn có kết cấu phức tạp gồm những tiết liên tục (nối liền nhau) hay rời. Các họa tiết đóng kín, rời hay nối nhau đó thường đối xứng với nhau theo nguyên tắc đối xứng gương, đối xứng trục hay đối xứng tịnh tiến. Như vậy là người thời Hùng Vương đã có ý niệm rõ ràng về đối xứng và đã biết đến 3 kiểu đối xứng khác nhau từ đơn giản đến phức tạp. Đặc biệt quen thuộc là các đồ án đối xứng trục bậc 2. Như vậy đối với người thời xa xưa ấy cũng như đối với chúng ta ngày nay, sự đối xứng là một yếu tố của cái đẹp : những đồ án có đối xứng gương thường gây một cảm giác tĩnh, vững chắc, nghiêm trang, còn những đồ án có đối xứng trục thì trái lại, gây một cảm giác động, rộn ràng, linh hoạt. Trong nhiều bố cục ở nghệ thuật trang trí đồ gốm, nghệ sĩ thời đại Hùng Vương đã kết hợp tài tình cả hai kiểu đối xứng động và tĩnh ấy làm cho đồ án vững chắc mà không cứng nhắc, linh hoạt mà không giảm phần trang trọng (1).

Tính đối xứng và tính hài hoà của những hoa văn trang trí trên gốm đã được tôn trọng và phát triển như những nguyên tắc quan trọng của nghệ thuật Việt cổ.

Trên đồ đồng, lối chạm khắc chìm và chạm nổi được kết hợp để tạo ra những bố cục trang trí hoàn hảo : các bố cục hoa văn phù hợp một cách hữu cơ với những bề mặt bên ngoài của trống đồng, thạp đồng : các diềm trang trí được phân bố đều đặn giữa những đường tròn đồng tâm trên mặt trống, nắp thạp ; các dải hoa văn chạy tròn chung quanh tang trống, thân thạp, các băng hoa văn thể hiện theo chiều thẳng đứng của thân trống...tất cả những kết cấu hài hoà, có thể nói là khoa học đó, chứng tỏ một trình độ thẩùm mỹ cao của nghệ sĩ dân gian thời Hùng Vương.

Các kết cấu hoa văn mang tính cân đối và tính nhịp điệu thật là đặc sắc, bút pháp trang trí bao gồm kỹ thuật khắc vạch bằng đường nét chuẩn xác, thuần thục, khái quát một cách sinh động các đối tượng miêu tả.
Ở chính giữa mặt trống và nắp thạp luôn luôn có hình mặt trời được biểu hiện ước lệ bằng hình ngôi sao nhiều cánh, từ 8 đến 16 cánh. Rồi những vành hoa văn hình học vây xung quanh mặt trời ; rồi những vành hoa văn miêu tả sinh hoạt thực tiễn của con người, miêu tả thiên nhiên, cầm thú. Mặt trống đồng Ngọc Lũ giống như một cuốn phim hào hứng làm hiện ra trước mắt chúng ta khung cảnh sinh hoạt, quang cảnh hội hè của làng xưa chạ cổ ; trong 4 ngôi nhà sàn (2 nhà mái cong, 2 nhà mái tròn) có những người đánh chiêng đánh cồng, những đôi gái trai vừa hát đối đáp vừa chơi trò chồng nụ chồng hoa, bên cạnh nhà là 2 giàn trống với những người đang đứng ngồi giã trống, với những đôi gái trai đứng giã gạo chày tay, với những nhóm người (hay đám rước) vừa đi vừa múa sênh phách, thổi khèn, đánh chuông nhạc, quần tụ chung quanh con người đang mở hội cầu mùa, mừng công...là cả một thế giới động vật thân quen : gà (đứng trên mái nhà sàn), những đàn hươu nai đang đi, xen kẽ với những bầy chim đang bay hay đang đậu đủ loại, mỏ dài, đuôi dài, chân dài, cổ dài, đuôi ngắn, hoặc cổ ngắn đuôi ngắn : cò vạc, bồ nông, xít, giang, sếu, công, trĩ, phượng hoàng đất, bói cá, cun cút...mỗi con mỗi vẻ.

Ở tang trống Ngọc Lũ, 6 chiếc thuyền lớn đang rong ruổi, trên thuyền có người bẻ lái, nguời đánh trống, người cầm lao, người bắn cung, lại có những nạn nhân thân phận bé nhỏ ( nô lệ hay tù binh) bị trói giật khuỷu tay, bị túm tóc, bị dọa giết. Ở thân trống, những vũ sĩ cầm lao, cầm rìu chiến.
Ở trên các trống đồng và đồ đồng khác, hiện ra cảnh đua thuyền, đi thuyền đánh cá, cảnh đi săn, cảnh những người vũ trang sẵn sàng chiến đấu, những hình ảnh động vật quen thuộc với con người đương thời : chó, gà, cóc, nhái, cầy cáo, cá sấu...

Một chủ nghĩa hiện thực hồn nhiên, sinh động có pha cách điệu và ước lệ nhưng vẫn rất gần gũi với cuộc sống, bao trùm toàn bộ hình thức diễn đạt của mảng nghệ thuật trang trí này. Nghệ sĩ dân gian ưa dùng những đường thẳng, đường gãy khúc và đường cong lớn, mà ít dùng sự tỉa tót, uốn lượn của những đường cong nhỏ, để mô tả các đối tượng (người, cảnh vật, sinh vật, đồ vật) ở mặt cạnh, mặt nghiêng theo lối bổ cắt, hoàn toàn tôn trọng sự thực đến từng chi tiết và sắp đặt trong một bố cục đầy dặn, hài hoà. Người, chim, thuyền, hươu...không bao giờ thấy có mặt nhìn thẳng mà chỉ thấy có nhìn từ một bên. Qua lần mái nhà, có thể thấy cảnh trong nhà, qua lần váy xoè có thể thấy đôi chân. Nghệ sĩ dân gian chú ý dùng những ký hiệu để phân biệt, trong cả một toàn cảnh lớn, từng lối để tóc búi hay cắt tóc ngắn của người, giống đực hay giống cái của hươu nai.

Với kỹ thuật chạm khắc bằng những đường nét cô đọng, chính xác một cách thuần thục điêu luyện, với tài quan sát thiên nhiên và hoạt động thực tiễn của con người một cách nhạy bén, nghệ sĩ dân gian thời đại Hùng Vương đã sáng tạo những bức tranh sinh hoạt của con người Việt cổ, chân thật, khái quát, chọn lọc và thể hiện chủ đề khá rõ ràng.
NGHỆ THUẬT TẠO TƯỢNG 

Dòng máu chân thực của cuộc sống cũng rõ nét trong nghệ thuật tạo tượng. Những bức tượng còn để lại tới ngày nay phần lớn là tượng nhỏ và tượng tròn. Chất liệu để làm tượng là đá, đất nung, đồng thau và những thủ pháp kỹ thuật chính là nặn tay, đúc, rèn, mài gọt.

Đề tài chính của tượng vẫn là con người, phần nhiều là ở trạng thái động : nhảy múa, thổi khèn, yêu đương....Đó là những nhóm tượng ; một số khác là tượng chân dung và hầu hết đều là chân dung phụ nữ.
Tượng người bằng đá ở Văn Điển (Hà Nội) với dấu hiệu nam tính rõ ràng được tạo ra bằng kỹ thuật chế tác đá tổng hợp và tinh tế theo một ước lệ có cân nhắc kỹ càng và được khái quát hoá cao. Tính chất nghiêm túc cứng cỏi khắc khổ của pho tượng cho thấy có lẽ nghệ sĩ bị chi phối bởi ý thức tôn giáo. Tượng người ngồi xổm thổi khèn (trên cán muôi đồng Việt Khê, Hải Phòng) diễn tả sinh động sắc thái bình dị ung dung của con người gắn với một nội tâm rạo rực, say sưa. Khối tượng hai người cõng nhau múa nhảy và thổi khèn ở Đông Sơn (Thanh Hoá) trông thật dí dỏm, lạc quan, cả hai đều như đang nhún nhảy theo nhịp khèn rộn rịp. Nhóm tượng cặp gái trai gắn bó trên nắp thạp Đào Thịnh (Yên Bái) có hình khối tròn lẳn diễn tả cái mộc mạc bình dị hồn nhiên của những ước mơ phồn thực : con người sinh sôi, đất đai phì nhiêu, mùa màng bội thu. Những chuôi dao găm làm thành tượng người phụ nữ ở Hoà Bình, Hải Phòng, Thanh Hoá, Nghệ An - Hà Tĩnh...cho thấy tính nghệ thuật, mặc dù phải phục vụ tính thực dụng vẫn phản ánh khá rõ nét lối trang sức của chị em thời ấy, toát ra vẻ đẹp riêng của nữ giới. 

Tính hiện thực đã nâng cao giá trị của các pho tượng vừa có ý nghĩa trang trí vừa có ý nghĩa thực tiễn này : lối vấn tóc hay tết tóc, lối mặc váy dài thắt chẽn ở hông, lối trang sức bằng vòng tay, hoa tai...là những chi tiết mà nghệ sĩ dân gian chú ý diễn tả. Trên chiếc ấm đồng Đông Sơn có hình dáng một con chim cổ dài mỏ dài, nghệ sĩ miêu tả 4 người phụ nữ ngồi trên voi ấm hình cổ con chim cùng với những nét hiện thực khá rõ, nhất là chi tiết về lối búi tóc ra đằng sau.
 
Cùng với tượng người, tượng súc vật cũng được diễn tả sinh động. Tượng đầu gà trống, tượng chim, tượng bò tìm được ở Vĩnh Phú đều nặn bằng đất sét nung đều lửa, trông rất thật thà, phản ánh một nền kinh tế chăn nuôi gia đình đã ổn định. Tượng gà bằng đồng ở Hoà Bình được khái quát cô đọng mà thật duyên dáng, với một phong cách hiện thực vững vàng. Trong số hàng chục tượng động vật đã tìm được : tượng cóc, sóc, rùa, chó, hổ, ốc...có những nhóm tượng mô tả con vật ở trạng thái động như chó đón hươu, hổ vồ mồi. Ở những chiếc dao găm có chuôi đẹp mới tìm thấy tại di chỉ Làng Vạc (Nghệ Tĩnh), có chiếc chuôi được kết thúc bằng một tượng hình chó đứng được cách điệu hoá, lại có chiếc chuôi là hình hai con rắn một con có mào, một con không có mào, quấn lấy nhau, đầu ngẩng cao, miệng ngậm hai chân trước và hai chân sau một con voi có bành ở trên lưng; một chiếc dao găm khác cũng cùng một phong cách ấy nhưng voi lại được thay thế băèg chó. Voi, chó cùng với rắn kết hợp một cách khéo léo thành các cán dao găm vừa thanh thoát và duyên đáng mà không kém phần chắc chắn (2). Nghệ sĩ dân gian đã kết hợp một cách tài tình giữa trang trí và thực dụng.
 
Cũng như trong lĩnh vực chạm khắc, một chủ nghĩa hiện thực hồn nhiên và sinh động đã để lại dấu ấn sâu sắc trong phương pháp và phong cách tạo tượng. Trên mỗi tác phẩm nhỏ nhắn xinh xắn ấy, từ những chiếc vòng tay và hoa tai, những đường nét trang trí trên xống áo, vẻ say sưa, nghiêm trang hay ngộ nghĩnh, hóm hỉnh của con người...đến cái dáng nhún mình của con chó, thế vặn mình của con hổ, nét khái quát thanh tao của con gà...đều được chú ý diễn tả đúng đắn và kỹ lưỡng.
Cốt cách và chủ đề của con người hay con vật được nghệ sĩ chú ý nhận chân. Miêu tả người, nghệ sĩ dân gian cũng chú ý diễn đạt cả những sắc thái nội tâm, tính tình. Người thổi khèn ở Việt Khê bình dị, ung dung mà vẫn toát ra một vẻ say sưa nhiệt tình, hai người cõng nhau thổi khèn nhảy múa trông rất lạc quan yêu đời mà đượm vẻ hóm hỉnh tinh nghịch. Phong cách nghệ thuật phóng khoáng ấy phản ánh được phần nào tâm hồn phóng khoáng, sôi nổi của con người thời đại.

Phần lớn những pho tượng đều là tượng trang trí hoặc giúp vào việc trang trí : được gắn vào các đồ dùng hay trở thành một bộ phận hữu cơ của đồ dùng như vòi ấm, chuôi kiếm, chuôi dao, cán muôi. Một số ít là tượng mang tính chất tôn giáo, phục vụ cho tín ngưỡng tôn giáo tự nhiên, tín ngưỡng vật, tổ tín ngưỡng phồn thực. 
MỸ THUẬT THỰC DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Sản phẩm nghệ thuật Việt cổ có một bộ phận quan trọng là những đồ nghề, đồ dùng hàng ngày. Đưa thẩm mỹ vào thực dụng, hay nói cách khác, từ cuộc sống bình thường mà phát triễn thành mỹ thuật, là một khuynh hướng dễ nhận thấy của người thời đại Hùng Vương.
 
Nhiều vật dụng bình thường cũng đồng thời là sản phẩm nghệ thuật. Từ những chiếc nồi, bình, mâm bồng bằng gốm giản đơn cho đến những chiếc trống đồng quí giá, tất cả đều được chú ý trong quá trình tạo dáng. Kết cấu 3 phần của chúng ta là một kết quả quan trọng trên con đường tìm tòi suy nghĩ nhằm tạo ra những sản phẩm cân đối, vững vàng mà thanh thoát, uyển chuyển. Những chiếc rìu đồng có lưỡi xéo các kiểu, đẹp một cách độc đáo, là một ví dụ tiêu biểu khác của thành tựu tạo dáng cho các vật dụng hàng ngày.

Nghệ thuật vẽ hình, chạm khắc và tạo tượng mang một chức năng trang trí phong phú và đặc sắc. Những đoản kiếm và dao găm đồng thau có chuôi làm bằng những tượng phụ nữ là một trường hợp điển hình của thành tựu trang trí cho các đồ dùng hàng ngày, kết hợp nhuần nhị sản phẩm thực dụng với sản phẩm thẩm mỹ, và trống đồng là đỉnh cao của sự thành công tổng hợp về nghệ thuật tạo dáng, chạm khắc, trang trí và nghệ thuật âm nhạc, một văn vật tiêu biểu cho cả một thời đại văn minh.
Những đồ trang sức phát triển rất phong phú là một thành tựu đặc sắc của mỹ nghệ thời Hùng Vương : vòng tay, hoa tai, nhẫn, hạt chuỗi bằng đá quí, đồng thau được gia công bằng một kỹ thuật chế tác tinh xảo, với một khiếu năng thẩm mỹ tinh tế để làm đẹp cho con người.

Các nghề thêu, nạm, cẩn làm tôn giá trị thẩm mỹ của quần áo và của các đồ dùng, đồ đựng bằng gỗ, bằng da còn để lại cho đến ngày nay những sản phẩm hoặc hình ảnh cụ thể : đồ da sơn có nạm cẩn những hình kỷ hà bằng kim loại đã tìm được ở Việt Khê (Hải Phòng) ; nhiều mẫu quần áo có trang trí đẹp của nhiều pho tượng phụ nữ cũng tìm được ở nhiều nơi : Thanh Hoá, Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái...

Các công trình xây dựng : nhà làng, nhà ở, nhà kho (mà ngôi nhà làng vùng Mường, ngôi nhà rông Tây Nguyên và ngôi đình miền xuôi ngày nay còn phảng phất dáng dấp) đã có kiểu hay, dáng đẹp, cấu trúc độc đáo, lại được trang trí thêm những hình chim, hình gà...càng tăng thêm giá trị thẩm mỹ thực dụng. Những con thuyền đi sông, đi biển, thuyền chiến, thuyền đua, cũng có nhiều kiểu dáng đẹp : mũi cong, đuôi én, thân thuyền được trang trí những hình kỷ hà quen thuộc như chấm tròn, vòng tròn có tiếp tuyến, đoạn thẳng song song, đường gãy khúc.
MỘT NỀN NGHỆ THUẬT BÌNH DỊ HIỆN THỰC VÀ PHÓNG KHOÁNG

Như vậy là mỹ thuật thời Hùng Vương trong mọi lãnh vực : vẽ tranh, chạm khắc, tạo tượng, và mỹ nghệ đều bắt nguồn từ cuộc sống thực tiễn của con người và trở lại hoà lẫn trong cuộc sống đó. Nội dung phản ánh của nó là những con người Việt cổ bình dị, gắn bó với cộng đồng làng chạ và những sinh hoạt bình thường, những con vật phần lớn hiền hoà, những chủ đề trang trí dịu dàng, duyên dáng tế nhị. Đó là nền mỹ thuật của một xã hội nông thôn mà vai trò của quần chúng là rất quan trọng. Tính chất dân chủ trong làng chạ đưa đến tính chất dân chủ trong nghệ thuật được biểu hiện ở những kích thước đều nhau của các đối tượng : hình người thường theo những tỷ lệ vừa phải, những khuôn mẫu giống nhau. Trong mỹ thuật thời đại Hùng Vương chưa thấy xuất hiện những hình tượng quái đản, những cảnh tượng dữ dội, những nhân vật quyền uy (thần, vua...) như trong nghệ thuật một số quốc gia phương Đông cổ đại như ở Ấn Độ, Ai Cập, Lưỡng Hà, cũng chưa thấy xuất hiện những hình mẫu mang tính chất thần thoại, huyền bí lối thao thiết như trong nghệ thuật thời đại đồ đồng ở Trung Quốc. Ở nền nghệ thuật thời đại dựng nước, luôn luôn nổi bật tính chất bình dị, hiện thực phóng khoáng về cuộc sống dân chủ bình đẳng của cộng đồng làng chạ Việt cổ.
 
Nền nghệ thuật ấy mang mục đích trang trí rất rõ và nhiều khi mang chức năng thực dụng, do đó trở nên phổ biến. Mặt khác nó phản ánh trung thành thực tiễn xã hội và tình cảm, tư duy con người, nói lên được bản chất cần cù say sưa trong lao động tập thể (đi thuyền, đánh cá, giã gạo...), bản chất hồn hậu, lạc quan yêu đời, yêu nghệ thuật, yêu cuộc sống cộng đồng (hội hè múa hát tập thể...) nó phản ánh những ước mơ về con đàn cháu lũ, mùa màng bội thu, những khái niệm về vũ trụ, những thực trạng xã hội, tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, ý chí quyết thắng bảo vệ lãnh thổ, giống nòi.

Nền nghệ thuật mang nội dung hiện thực ấy đã ghi lại truyền thống vừa sản xuất vừa đánh giặc của tổ tiên mà ngày nay chúng ta đang phát huy lên đỉnh cao.

Tính hiện thực sâu sắc đi đôi với nét cách điệu khéo léo, phong cách hồn nhiên trong sáng, phóng khoáng, kỹ thuật phát triển, với những tỷ lệ chuẩn xác, kết cấu hài hoà, cân xứng, vững chắc...tất cả đều chứng minh cho năng khiếu và trình độ thẩm mỹ cao của người Việt cổ. Vì thế mà nền nghệ thuật thời đại Hùng Vương đã có những ảnh hưởng lâu dài và xa rộng ở nhiều miền của Đông Nam Á.

Ngay trên đất nước ta, truyền thống nghệ thuật cổ xưa ấy vẫn được giữ gìn một cách bền bỉ : trống đồng vẫn được chế tạo trong thời bà Trưng, bà Triệu, Lý Bí, thời Lý - Trần, thời Tây - Sơn (3); dân tộc Mường anh em vẫn giữ tục lệ đúc trống đồng cho đến đầu thế kỷ thứ 19. Tài năng của những nghệ sĩ dân gian đầu tiên với những thành tựu độc đáo của một nền văn hoá nhân dân rực rỡ cách đây nhiều nghìn năm đã trở thành niềm tự hào sâu xa trong tư tưởng và tình cảm của dân tộc ta.
 
_______________________
(1) - Hà Văn Tấn. Người Phùng Nguyên và dối xứng, tạp chí Khảo cổ học, số 3-4 (1969), tr 16-27.
(2) - Minh Hiên, Di sản văn hoá Đông Sơn mới tìm được, tạp chí Văn hoá Nghệ Thuật, số 34, tháng 10/1973
(3)  - Chiếc trống đồng đúc thời Tây Sơn hiện trưng bày tại Viện bảo tàng lịch sử.

CHƯƠNG XIII
THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT ANH HÙNG VIỆT CỔ

Trong tư duy buổi đầu của con người nguyên thuỷ chưa có sự phân biệt những hiện tượng vũ trụ. Tất cả đều là một mớ bòng bong hỗn mang : trời đất, gió mưa, sấm sét, lũ lụt, nắng hạn, cây cỏ, thú vật và cả con người nữa đều là những điều khó hiểu đối với con người. Đó là thời đại nguyên thuỷ, hồng hoang hay "hồng bàng". Đến khi người Việt cổ bắt đầu sống định cư và trồng trọt, họ dần dần cảm thấy sức mạnh của mình tác động đến tự nhiên, muôn loài, muôn thú. Thuần dưỡng được thú rừng thành thú nhà, buộc cây dại trở thành cây trồng, đó là một niềm vinh dự lớn mà con người cảm thấy sâu sắc và tìm cách giải thích. Đó chính là thần thoại được nhân dân các làng chạ sáng tác, gìn giữ và lưu truyền qua các thế hệ, dưới hình thức truyện kể dân gian. Trong những ngày hội, đám cưới, đám tang...thần thoại Việt cổ được diễn xướng trọng thể như ngày nay người Mường, người Thái, người Tây Nguyên diễn xướng sử thi hay trường ca của họ.

BUỔI KHAI MẠC CỦA VŨ TRỤ : TỪ THẦN TRỤ TRỜI ĐẾN CHÚ CUỘI CUNG TRĂNG

Quan tâm đến thế giới tự nhiên để đấu tranh, khai thác và lợi dụng tự nhiên, con người thời Hùng Vương nhắc lại và kể thêm vào những truyện mà các thế hệ trước đó đã truyền lại. Đó là những truyện về nguồn gốc trời đất và muôn loài, về buổi khai mạc của vũ trụ : truyện về thần trụ trời, thần xây núi, thần trồng cây, thần đào sông, thần làm sao, thần tát biển...như câu hát còn ghi lại :
...Ông Đếm cát / Ông Tát bể
Ông Kể sao / Ông Đào sông
Ông Trồng cây / Ông Xây núi
Ông Túi trời / Ông Cời cua
Ông Lùa chim / Ông Tìm sâu
Ông Xâu cá....

Rồi đến những câu chuyện : Thần Biển đội lốt một con rùa khổng lồ, chuyện ông Đực bà Cái (hay ông Đùng bà Đá, ông Cồ bà Cộc) đào sông xây núi, làm ra đất nước, chuyện mười hai Bà Mụ nặn ra giống người, chuyện nữ thần Mặt trời và Mặt trăng cho loài người ánh sáng ban ngày và ban đêm, chuyện tu bổ lại các giống vật, chuyện chế tạo ra lúa và bông để cho loài người có cái ăn cái mặc, chuyện Nàng Bân và cơn rét tháng ba, chuyện ả Chức chàng Ngưu và những sợi tơ trời, chuyện chú Cuội ngồi gốc cây đa ở cung trăng...
GIA PHẢ HỌ NHÀ THẦN

Trong "gia phả" của họ nhà thần Việt cổ, có những câu chuyện về thần Sét, thần Nước, thần Gió, thần Mưa, thần Đất, thần Núi, thần Rắn, thần Lúa, thần Bếp, nữ thần Lửa (Bà Hoả), nữ thần nghề Mộc, những câu chuyện về anh Cường Bạo (tức là anh Na Á) gây sự với trời, chuyện Cóc kiện trời, chuyện Cá gáy hoá rồng, chuyện Nhện làm bộ hạ cho thần Bếp, chuyện thần Đất bị nguời đánh, chuyện con của thần Nước bị người đốt nhà, chuyện con gái của thần Nước lấy người đánh cá...

Những chủ đề có sẵn tự thời nguyên thuỷ xa xôi truyền đến thời Hùng Vương được trí tuệ, tình cảm và cuộc sống con người lúc này đã phát triển cao hơn, tô điểm và tái tạo, làm cho bớt vẻ thô thiển mà trở thành những thần thoại về nguồn gốc giống nòi, tổ tiên, về kỳ tích văn hoá và anh hùng văn hoá.

Hình ảnh và vai trò của con người ngày càng rõ nét. Đã đến lúc con người tìm cách giải thích sự nghiệp sáng tạo khai phá của chính mình và những vấn đề liên quan đến sự nghiệp ấy. Con người ca ngợi sức lao động cải tạo thiên nhiên của mình bằng cách tưởng tượng ra một hình tượng người khổng lồ có sức đào sông xây núi, dời non lấp biển. Bà Khổng lồ và ông Khổng lồ làm ra đất (núi) và nước (sông). Đất nước ấy có Chim và Thuồng luồng ở. Rồi Chim và Thuồng Luồng, vật tổ của người Việt cổ, được nhân cách hoá thành Mẹ Âu (Âu Cơ) và Bố Rồng (Lạc Long), đôi vợ chồng khổng lồ đã khai sáng lịch sử dân tộc, đẻ ra trăm trứng trong cùng một bọc nở thành trăm chàng trai khổng lồ xinh đẹp. Mẹ và Bố chia đều con đi ở miền núi, miền biển, thành ra đồng bào Thượng và Kinh bây giờ.

BỐ RỒNG VÀ MẸ ÂU. NHỮNG ANH HÙNG KHAI SÁNG VĂN HOÁ 

Mẹ Âu dạy các con làm nương rẫy, trồng lúa ở ven núi, trồng mía trồng dâu ở ven sông, đào giếng, dệt vải, ép mật, thổi cơm, làm bánh. Bày cách làm ăn, truyền nghề khéo cho các con, mẹ Âu là mẹ của giống nòi, của đất nước và văn hoá Việt cổ.

Bố Rồng tiêu diệt những con quái vật Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh để cho nhân dân được yên ổn làm ăn. Bố là tượng trưng cho sức mạnh của cộng đồng Việt cổ đã chinh phục thiên nhiên và dựng nước trên miền trung du và đồng bằng, tượng trưng cho tinh thần dũng cảm và ý thức làm chủ đất nước của người Việt cổ. Mỗi khi gặp khó khăn họ gọi :"Bố ơi, về với chúng con !".

Người Thái có Ải Lậc Cậc, người Tày có Pú Lương Quân cũng là những anh hùng khổng lồ khai sáng đất nước và văn hoá. Đặc biệt người Mường còn giữ được áng sử thi Đẻ đất Đẻ nước gồm hơn một vạn câu tả lại nguồn gốc của đất, nước, con người và bản mường với một hệ thống thần thoại tương tự với hệ thống thần thoại Mẹ Âu, Bố Rồng (1).
 VUA HÙNG DỰNG NƯỚC VĂN LANG

Mười tám thế hệ thủ lĩnh bộ lạc Việt cổ, các vua Hùng cùng các mị (con gái), các lang (con trai) và các con rể đã cùng nhau cai quản đất Văn Lang gồm nhiều bộ lạc liên minh lại.

Truyền thuyết vùng đất tổ (Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình) đã kể lại cho chúng ta những câu chuyện đẹp đẽ về Chử Đồng, Mị Nương, Lang Liêu, An Tiêm...là những nhân vật có ý chí tự lực cao, tính tình hồn nhiên, tâm hồn phóng khoáng, thơ mộng, những người đã sáng tạo ra của cải làm giàu cho nền văn hoá Việt cổ : lúa nếp, dưa đỏ, bánh chưng, bánh giầy, bánh ót...

Cầm đầu liên minh các bộ lạc Việt cổ là vua Hùng, những người đã chuyển dần xã hội từ quyền mẹ sang quyền cha, những người đã cùng nhân dân giành được những chiến thắng lớn trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Chung quanh vùng đền Hùng thờ 18 thế hệ thủ lĩnh tối cao, người già còn kể cho chúng ta nghe những chuyện : vua Hùng chọn đất đóng đô, vua Hùng ra lệnh cho công chúa Bầu chém đầu con voi bất nghĩa, vua Hùng dạy dân cấy lúa, trồng kê, trồng khoai lang, rau kiệu, trầu cau, vua Hùng dạy dân săn bằng lưới, khuyến khích các mị nấu cơm thi, các lang làm bánh trái...Đó là hệ thống truyền thuyết về các vua Hùng (2). 

Những kỳ tích chống lũ lụt để bảo vệ mùa màng và sinh mạng của nhân dân, kỳ tích chống ngoại xâm để bảo vệ địa bàn sinh tụ và đời sống độc lập của dân tộc thời dựng nước được kể lại trong hai hệ thống truyền thuyết khác chung quanh những hình tượng hào hùng, đẹp đẽ về ông Tản thắng giặc Nước và ông Dóng giết giặc Ân (3).

BẢN ANH HÙNG CA TRỊ THUỶ CỦA ÔNG TẢN (SƠN TINH)

Ông Tản qua trí tưởng tượng phóng đại của nhân dân, mang bóng dáng và tầm vóc của Ông Khổng lồ đào sông xây núi, đứng sừng sững trên đất nước trung du và đồng bằng mênh mông, bưng ngang những dòng lũ lớn từ Tây Bắc đổ xuống và ném đi cả những trái núi to nhất từ vùng Hoà Bình, Hà Tây đến Vĩnh Phúc, Phú Thọ, buộc sông Đà và sông Hồng ngoan ngoãn chảy về xuôi.

 Trong bản anh hùng ca trị thuỷ đó, sức người, cọc gỗ, lưới sắt cùng tất cả những kết quả lao động và sáng tạo của con người Việt cổ đều chiến thắng thiên nhiên. Ông Tản, tượng trưng cho sức mạnh và tài trị thuỷ của nhân dân, đã quảy núi ngăn dòng, chặn đứng mũi tiến công ác liệt của thần Nước. Ông đã nâng cao mặt đất, cao lên dần, cao lên mãi luôn luôn ở trên mức nước. Ông hướng dẫn nhân dân gánh đất đắp đê, đan phên cạp bờ, bỏ đá làm kè, thả rong ven sông để chống lại sức công phá của nước. Nước đánh vỗ vào mặt trước, đánh úp vào mặt sau, từ sông Đà tới, từ sông Tích lên, từ sông Lô xuống, từ sông Thao về, nhưng ông Tản, với các bộ tướng : Tuấn Cương, Quế Hoa, Hiển và Sùng...cùng với nhân dân không mảy may nao núng, ai nấy đều dũng cảm và quyết chiến. Cuối cùng sau hàng tháng vật lộn, thần nước đã phải tháo chạy để lại xác chết của nhiều tên bộ hạ gian ác.

Trong việc trị thuỷ của ông Tản không những là sức mạnh chống lũ lụt mà còn là sức mạnh chống hạn hán, ông dạy dân đào ao, giếng, khơi mương, ngòi, tuới rau, nuôi cá, thả bèo ; ông còn chữa bệnh cứu dân, dạy dân làm ruộng, đi săn, đánh cá, làm lửa, làm nhà, đào giếng. Vợ ông là mị nương Ngọc Hoa thì giúp dân trồng dâu chăn tằm, dạy dân ươm tơ dệt lụa , tổ chức ngày hội rước những tấm lụa the đẹp nhất để hiến dâng vua Hùng.

Câu chuyện tranh chấp tình duyên giữa ông Tản (Sơn Tinh), Thuỷ Tinh, cũng là câu chuyện về những cuộc đua tài, đọ sức, thi sản phẩm quí : "voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao", thực chất là những cuộc trao đổi văn hoá giữa các bộ lạc đang tự nguyện gia nhập vào cộng đồng Việt cổ. Từ đó ông Tản đồng nhất với Sơn Tinh, một thần tượng tổng hợp sức mạnh của đất và núi mà người nguyên thuỷ đã hằng tín ngưỡng ở nhiều nơi. Ông Tản cũng tham gia vào công cuộc chống quân Thục để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Văn Lang, bảo vệ công cuộc thiên di của những bộ tộc đi từ miền sông biển đến định cư chung quanh núi Ba Vì (Tản Viên) đối diện với Tam Đảo, 2 ngọn núi tượng trưng cho hùng khí thiêng liêng của lãnh thổ Việt cổ đang mở rộng về phía tây nam. Trong vùng đất oanh liệt chiến thắng giặc nước ấy, người Mường, người Thái, người Việt sống đoàn kết với nhau và cùng thờ chung ông Tản (4).

Ông Tản vừa là anh hùng xây dựng đất nước, vừa là anh hùng bảo vệ đất nước, với tầm vóc vũ trụ, với khí phách ngất trời, một hình tượng biểu hiện sắc nét bản lĩnh của dân tộc ta, cuộc sống và chiến đấu quyết liệt và lạc quan của nhân dân ta. Sức mạnh và niềm tin của Ông Tản chính là sức mạnh và niềm tin của người Việt cổ đã tạc vào sông núi.
NGƯỜI ANH HÙNG LÀNG DÓNG VÀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN

Bên cạnh hình tượng Mẹ Aâu, Bố Rồng, vua Hùng, Ông Tản, hình tượng Ông Dóng cũng mang tính chất kỳ vĩ nổi bật trong một hệ thống truyền thuyết về chiến tranh và những anh hùng trận mạc của thời kỳ dựng nước. Việc đoàn kết với nhau để chống lại một kẻ thù xâm lược chung lớn gấp bội, một đế quốc phong kiến mạnh nhất châu Á thời ấy đã trở thành vấn đề sống còn của nước Văn Lang. Phải đoàn kết thành một khối, phải lớn mạnh vượt bực để tiêu diệt quân thù.

Truyện Ông Dóng ban đầu vốn là câu chuyện về một anh hùng bộ lạc, về sau phát triển thành truyện anh hùng dân tộc. Người anh hùng làng Dóng, đứa con của một người đàn bà nghèo khổ và cô đơn, cũng là đứa con khổng lồ của nhân dân, mới 3 tuổi đã vụt lớn lên hơn mười trượng, tập trung sức mạnh và ý chí của nước Văn Lang quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược để bảo vệ quyền sống độc lập tự do của giống nòi, của dân tộc. Tất cả mọi người, từ mẹ Dóng đến dân làng, từ làng chạ đến liên minh bộ tộc, những người làm ruộng, đánh cá, đi săn, thợ rèn, những em bé chăn trâu, các bô lão, các dũng sĩ nổi tiếng từ khắp mọi vùng của đất nước đều nghe theo tiếng nói đầu tiên của em bé Dóng : tiếng gọi thiêng liêng quyết tâm giết giặc cứu nước. Mọi sản phẩm của làng chạ và bộ tộc, từ mâm cơm nong cà đến bụi tre, khối sắt đều được đem ra đánh giặc. Phải sản xuất để phục vụ chiến đấu và chiến đấu chính là để bảo vệ sản xuất, bảo vệ những của cải quí báu đã có được sau bao nhiêu năm tháng vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt lũ lụt, hạn hán, rừng rậm, đầm lầy, thú dữ. Mọi địa điểm của miền trung du và đồng bằng, từ ruộng đồng, sông nước, đồi gò, cầu quán, con đường, cây đa, giếng nước, hồ ao, rừng tre, bãi cát, phiến đá...đều ghi dấu những bước đi của người anh hùng dân tộc và những kỳ tích của cuộc chiến tranh nhân dân. Và đỉnh núi Sóc liền dãy với Tam Đảo cao sánh đôi với Tản Viên (Ba Vì) - quê hương của ông Tản - đã trở thành bàn đạp để ông Dóng cưỡi ngựa sắt lấy đà bay vào cõi vô tận (5).

So với những Đam San, Xinh Nhã, chàng Trăng, nàng Han...trong kho tàng truyền thuyết anh hùng và trường ca anh hùng của các dân dộc miền núi anh em, truyện Ông Dóng thực sự là một bản anh hùng ca trong sáng tác văn hoá dân gian Việt cổ. Cậu bé khổng lồ giết giặc cứu nước đã được đồng hoá với Mưa Bão và Sấm Sét. Ông Đổng, Ông Dóng, Ông Đùng, Cơn Dông, Kẻ Đồng, cái Trống, Dóng trống, Tông beng (trống chiêng) ...đều liên quan với nhau cũng như sau này hội Dóng liên quan đến lễ cầu mưa, tết mưa dông. Làng Dóng (Phù Đổng) quê hương của anh hùng bộ lạc, xưa có thể là một trung tâm thờ sấm sét, mưa bão, thờ rồng, thờ trống sấm. Trống có quan hệ với sấm sét, dông bão ở trong lễ cầu mưa, có quan hệ với khí thế anh hùng của quần chúng và uy lực của thủ lĩnh trong lễ tục xuất trận của bộ lạc. Quan hệ ấy phản ánh quan hệ hiện thực giữa con người với tự nhiên ở trong sản xuất, cùng với lý tưởng chinh phục tự nhiên của con người, và quan hệ hiện thực của xã hội ở trong chiến tranh bộ lạc với ý chí bảo vệ bộ lạc của người Việt cổ (5).

HỆ THỐNG THẦN THOẠI VÀ SỬ CA VIỆT CỔ : NHỮNG TRANG ĐẦU TIÊN CỦA BẢN ANH HÙNG CA DÂN TỘC

Qua hệ thống thần thoại truyền thuyết từ Mẹ Âu, Bố Rồng đến Ông Tản, Ông Dóng, chúng ta thấy sáng tác dân gian đã phản ánh và đúc kết lịch sử cụ thể thành những hình tượng, biểu tượng rực rỡ, kỳ vĩ. Đó là một thứ "lịch sử thẩm mỹ" của thời dựng nước, một thứ lịch sử anh hùng ca bổ sung cho những trang sử sống động được khắc ghi lại trên trống đồng, thạp đồng.

Cũng như người Mường hiện nay còn diễn xướng các bản mo, người Tây Nguyên các bản khan, người Việt cổ đã diễn xướng các truyện kể và trường ca của mình dưới dạng một hệ thống thần thoại truyền thuyết mạch lạc, lấy quan hệ đất nước, giống nòi và bộ tộc làm trục cơ bản, lấy những nhân vật anh hùng khai sáng văn hoá và bảo vệ cộng đồng Việt cổ làm biểu tượng, lấy ý thức đoàn kết đấu tranh làm nội dung chính. Sau đây là bản giản lược hệ thống thần thoại và sử ca ấy :
Hệ thống thần thoại và truyền thuyết anh hùng ấy, hơn 1000 năm Bắc thuộc đã không xoá mờ nổi, đánh dấu một trình độ văn hoá tinh thần đã phát triển cao và ghi lại một chủ nghĩa nhân văn Việt cổ đặc sắc bao gồm tinh thần đoàn kết hợp quần, ý chí cần cù lao động sáng tạo và đấu tranh dũng cảm bất khuất, làm nên sức mạnh của ý thức dân tộc và tự hào dân tộc, một sức mạnh vĩ đại mà các thế hệ sau sẽ kế thừa và phát huy mãi lên đến những đỉnh cao vòi vọi trong bản anh hùng ca mấy nghìn năm chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Việt Nam.
________________________
(1)  Theo những nghiên cứu của Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Linh, Cao Huy Đỉnh, Phan Đăng Nhật...
(2)Truyền thuyết Hùng Vương, Nguyễn Khắc Xương, biên soạn, Chi Hội văn nghệ dân gian Vĩnh Phú xuất bản 1972.
(3)Truyền thuyết Sơn Tinh, Hà Kỉnh và Đoàn Công Hoạt biên soạn, Ty Văn hoá thông tin Hà Tây xuất bản 1973 ; Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Dóng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 1969.
(4) Theo những nghiên cứu của Cao Huy Đỉnh, Đinh Gia Khanh.
(5) Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Dóng, sách đã dẫn.

CHƯƠNG XIV
TÍN NGƯỠNG VÀ TƯ DUY NGƯỜI XƯA

CỘI NGUỒN CỦA NIỀM TỰ HÀO "CON RỒNG CHÁU TIÊN" 

Hình ngôi sao - mặt trời giữa mặt trống đồng, hình chim, hươu, cóc, cá sấu...trên trống, trên thạp đồng và trên những hiện vật khảo cổ khác là những biểu tượng của một thứ tôn giáo tự nhiên đã có từ thời nguyên thuỷ, kết hợp với tôn giáo nông nghiệp của người Việt cổ trồng lúa nước thời Hùng Vương.
 
Trong tư duy tôn giáo Việt cổ còn đọng lại tín ngưỡng vật tổ có từ rất xa xưa, thưở con người còn sống gần gũi, gắn bó với giới thực vật và động vật và chưa đủ sức mạnh để tách hẳn ra khỏi nó để ngự trị nó. Do đó có những thị tộc, rồi những bộ lạc nhìn nhận một động vật hay một thực vật nào đó là cùng dòng dõi của mình, là tỏ tiên hay họ hàng thân thích của mình.

Chim, cá sấu, hươu nai, trâu , gà, cóc hay cây dâu, cây trầu, cây đậu...đã từng là vật tổ của người nguyên thuỷ rồi của người Việt cổ.

Người Việt cổ ngày nay vẫn tự hào một cách bóng bẩy, đầy ý nghĩa hình tượng rằng mình là "con Rồng cháu Tiên". Đó là một niềm tự hào bắt nguồn từ tín ngưỡng vật tổ xa xưa. Một gống chim từ lâu đời được tôn thờ là tổ tiên của một cộng đồng người ở miền núi rừng và trung du mà con cháu về sau phát triển thành bộ lạc Văn Lang - cũng tức là Mê Linh, mà Văn Lang hay Mê Linh chỉ là dạng Việt - Hán của những từ cổ là Mling, Mlang, Kling, Klang, Bling, Blang trong các ngôn ngữ Đông Nam Á đều có nghĩa là chim, ví dụ chim h�ràng của người Khmú, chim kláng của người Mường...Một giống thuồng luồng, trước khi được nhập với cá sấu, rắn nước, rái cá và một số giống vật khác để được huyền thoại hoá thành con rồng, đã là vật tổ của một cộng đồng vốn cư trú ở miền sông biển trước khi hoà hợp vào trong khối liên minh bộ tộc Văn Lang.
Hai hình tượng chim và rồng mang ý nghĩa tín ngưỡng vật tổ này gắn liền với hệ thống thần thoại xoay quanh cái trục đất (núi) - nước (sông) đã tồn tại khá phổ biến ở các dân tộc miền Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương. Riêng ở Việt Nam, người Mường và các dân tộc người ở Tây Nguyên sống ở các vùng trung du, cao nguyên và rừng núi còn giữ truyền thuyết và tín ngưỡng về chim tổ đậm nét hơn, còn người Việt sống ở các miền đồng bằng ven sông ven biển thì nhấn mạnh nhiều hơn đến những truyền thuyết và tín ngưỡng về rắn, rồng, thuồng luồng, giao long. Và như thế, từ một hệ thống lưỡng hợp Chim - Rồng đã phân lập ra 2 bộ tộc lớn : một bên là bộ tộc gắn với Mặt Trời - Tiên - Núi - Chim - mà sản phẩm tiêu biểu là trống đồng Ngọc Lũ, truyện Ông Tản và những truyền thuyết về Chim Tổ, bên kia là bộ tộc gắn với Nước - Rồng rắn - Sông biển mà sản phẩm tiêu biểu là thuyền chiến, thuyền đua, hội nước và những truyền thuyết về Rồng, Rùa.
 
Trong những hình thức tôn giáo tự nhiên có tục thờ mặt trời là một tín ngưỡng rất cổ còn được bảo lưu ở thời Hùng Vương. Hình ngôi sao mặt trời được chạm khắc phổ biến trên mặt trống đồng, trên nắp thạp đồng. Những hình người và động vật (hươu nai, chim chóc...) trên mặt các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà...đều đi, nhảy, chạy, bay chung quanh hình mặt trời ngược chiều kim đồng hồ. Trống nào cũng vậy, rõ ràng không phải là ngẫu nhiên. Hình ảnh mặt trời đã để lại dấu ấn sâu sắc trong cuộc sống của người Việt cổ trồng lúa nước đến mức họ đã luôn khắc họa nó ở vị trí trung tâm của trống đồng, văn vật tiêu biểu của nền văn minh Việt cổ.
Cùng với mặt trời, đất và nước là hai thực thể khác có ý nghĩa thiết thân đối với nghề nông và đã được thần thánh hoá từ lâu đời. Đất có thần Đất, thần Bếp, thần thành hoàng làng coi giữ. Việc thờ thần Nước và mở hội nước lại càng quan trọng và phổ biến hơn. Phần lớn các làng chạ ven sông, ven biển đều thờ thần Nước và mở hội rước nước, đua thuyền, đánh trống cầu mưa. Tục thờ thần Nước và mở hội nước sẽ tồn tại lâu dài suốt thời phong kiến ở tất cả các vùng đồng bằng ven sông ven biển từ Bắc dến Nam.
NHỮNG VỊ THẦN - NGƯỜI ĐẦU TIÊN : VUA TỔ HÙNG VƯƠNG

Trình độ văn hoá tinh thần ngày một cao giúp cho con người dần dần tách rời khỏi giới động vật và thực vật, đồng thời khẳng định sức mạnh của chính mình trước những hiện tượng thiên nhiên. Những sức mạnh thiên nhiên không còn là đối tượng sùng bái duy nhất nữa.

Ý thức về giống nòi và tập thể cộng đồng đã dẫn người Việt cổ đến việc sùng bái trước hết là tổ tiên và những người đứng đầu cộng đồng của mình, từ làng chạ đến liên minh bộ tộc, và vị thần - người lớn nhất bấy giờ hiển nhiên là thủ lĩnh tối cao của các miền đất đai và các tộc người của nước Văn Lang : vua Hùng. Việc sùng bái vị thủ lĩnh đã có công thành lập liên minh bộ tộc, hình thức nhà nước sơ khai đầu tiên, đã khơi nguồn cho một trong những truyền thống có ý nghĩa hay và đẹp nhất của dân tộc Việt Nam : truyền thống tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước.

Đặc biệt là cho đến nay "trải qua mấy nghìn năm, biết bao thế hệ, biết bao biến đổi mà người Việt Nam ta vẫn tưởng nhớ vua Hùng với tất cả tình yêu và lòng tin... thì sự tưởng nhớ đó phải có sức mạnh lạ thường, phải có gốc rễ rất vững chắc" : "Sự tưởng nhớ ấy là biểu hiện của sức sống mãnh liệt, một biểu hiện của niềm tự hào dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, ý chí kiên cường bất khuất đã thể hiện trong cuộc đấu tranh không ngừng và vô cùng ác liệt chống ngoại xâm và thiên nhiên... (1).

Sự sùng kính đối với những nhân vật cụ thể là các vua Hùng dần dần đưa người Việt cổ đến chỗ đồng nhất các anh hùng dựng nước này với hệ thống các thần linh có từ trước, các vật tổ chim và rồng được nhân cách hoá thành Mẹ Âu và Bố Rồng. Vua Hùng trở thành những người con của hai vị anh hùng thần thoại đã có công khai sáng lịch sử và văn hoá dân tộc, và bản thân vua Hùng, anh hùng dựng nước, cũng đứng trong hàng ngũ của những anh hùng khai sáng văn hoá : vua Hùng dạy dân săn bắn, cấy lúa, trồng khoai, ăn trầu...

Từ tín ngưỡng về một tổ tiên chung là các vua Hùng, người Việt cổ đã hướng dần đến sùng bái những tổ tiên của những đơn vị hẹp hơn : làng chạ, dòng họ, gia đình. Tín ngưỡng về thần thánh hoàng làng, về ông khai canh (người lập làng) và đạo thờ tổ tiên gia đình, gia tộc của người Việt, người Mường...thời cận hiện đại đã phát triển trên nền tảng ấy.

Cùng với tổ tiên của dân tộc, của làng chạ và của dòng họ, tất cả những anh hùng văn hoá và anh hùng chống ngoại xâm đều được tôn thờ. Ông Tản, Ông Dóng cùng với những anh hùng cùng thời, và trước đó hay sau đó : những Cao Sơn, Quý Minh, Cốt Tung, Úùt Soi, Tuấn Cương, Mộc Xanh, Ông Cận, Ông Đống, Đinh Thiên Tích, Lư Cao Sơn...đều được thần thoại hoá vì công lao đánh giặc, trị thuỷ, truyền nghề...của họ. Hàng nghìn ngôi miếu, đình, đền cùng trí nhớ và lòng biết ơn của nhân dân đã ghi lại kỷ niệm của họ qua các thời đại.

NHỮNG VỊ NỮ THẦN TRONG VĂN MINH NÔNG NGHIỆP THỜI DỰNG NƯỚC

Đặc biệt là hàng loạt nữ thần, tự mẹ Âu Cơ, người mẹ thần thoại của giống nòi, rồi bà mẹ người anh hùng làng Dóng, đến các bà Dâu, Đậu, Giàn, Nành...những nữ anh hùng lao động nông nghiệp đầu tiên của thời dựng nước, được tôn thờ ở khắp nơi, trong những ngôi chùa cổ nhất không mang tên Phật mà lại mang tên các Bà (Chùa Bà Dâu, Chùa Bà Đậu...) qua đó nhân dân ta ưu tiên đề cao những thần linh bản địa cổ xưa của mình sánh với những tín ngưỡng, tôn giáo, thần linh du nhập về sau vào đất nước ta.

Những nữ thần cổ xưa ấy có lẽ xuất hiện từ thời đại dòng mẹ và còn tồn tại ở thời đại Hùng Vương, thời đại quá độ sang chế độ dòng chạ, quyền cha. Mặt trời và Mặt trăng là hai nữ thần và là hai chị em. Thần lửa là một bà già thường được gọi là bà Hoả chuyên giữ một thứ lửa nhiệm mầu. Thân nghề Mộc cũng là nữ thần dạy cho loài người cách chế ra công cụ, cách làm nhà, đóng thuyền. Một nhóm nữ thần trông nom việc sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ : đó là mười hai Bà Mụ. Trong một số làng người Việt, thành hoàng là nữ thần.

Đến khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, khoảng đầu Công Nguyên, nó phải kết hợp pha trộn với các tín ngưỡng bản địa. Do đó mà nhiều chùa Phật lại mang tên các nữ thần bản địa. Ở Hà Bắc, Hà Nội, Hà Nam...có những chùa Bà Dâu, chùa Bà Đậu chùa Bà Nành, chùa Bà Giàn, chùa Bà Tướng, chùa Bà Ngô, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh... ; trong chùa, ngoài tượng Phật có tượng của các Bà ấy. Tại chùa Dâu (Bắc Ninh) một người con gái địa phương nhà nghèo tên là Man Nương có công giúp dân trị thuỷ đã được tôn làm Phật Mẫu và ngày mất của cô gái ấy được tế lễ như là ngày sinh của Phật. Đạo Tam Phủ trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam thời phong kiến cũng thờ một loạt nữ thần vốn là thần linh của tôn giáo tự nhiên cổ xưa, đó là những Mẫu Thượng ngàn (nữ thần rừng núi), Mẫu Thiên phủ (nữ thần trên trời), Mẫu Thoải (hay Mẫu Thoải Cung, nữ thần dưới nước) (2).

Việc sùng bái nữ thần phản ánh vai trò quan trọng của người phụ nữ Việt cổ trong sinh hoạt kinh tế, xã hội và văn hoá thời dựng nước.
 TƯ DUY THẦN THOẠI NGƯỜI VIỆT CỔ 

Nhìn lại thần thoại, truyền thống, tín ngưỡng thời Hùng Vương, chúng ta thấy tư duy người xưa bị bao trùm dày đặc trong một chủ nghĩa thần linh phổ biến. Trong thế giới tự nhiên đâu đâu cũng có thần và sự can thiệp của thần. Vì chưa giải thích được các sự vật, các hiện tượng một các khoa học, người xưa đã gán cho chúng một sức mạnh siêu nhiên, một nguồn gốc thần bí, đã giải thích chúng một cách siêu hình.
Trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, người Việt cổ đã sớm nhận thức được một số đặc điểm của các hiện tượng và cố gắng giải thích theo những tri giác mộc mạc, cảm tính của mình. Ví dụ, thấy rằng hễ trước khi có gió to thì cây ngải thường cuốn bông cuốn lá lại, trước khi có những trận mưa lớn thì cóc nghiến răng, nguời xưa đã nghĩ ra chuyện Cóc kiện trời đòi mưa, truyện Thần Gió có đứa con nghịch ngợm bị Trời bắt hoá thành cây ngải báo tin gió cho thiên hạ biết bằng cách cuốn bông cuốn lá lại. Mặc dầu chưa giải thích được mưa là do nước ở hồ, ao, sông biển bốc hơi lên cao gặp lạnh đọng lại rơi xuống thành mưa, người xưa cũng đã thấy được rằng mưa không phải do Ông Trời hoá phép ra, cũng không phải là nước mắt của Ả Chức, Chàng Ngưu mà chính là nước đi từ sông biển rồi lại trở về sông biển, do đó mà nghĩ ra truyện thần Mưa thường xuống hạ giới hút nước sông biển rồi phun nước cho thế gian. Quan sát những trận lốc cuốn mây lại thành một cột lớn hút nước ở một khúc sông nào đấy lên trời, người xưa hình dung thần Mưa có hình rồng xuống hút nước, và có nhiều lúc nhầm lẫn : sông biển không hút lại nhè đồng ruộng hoặc nhà cửa mà hút làm hư hỏng rất nhiều của cải thiên hạ, điều này được nghĩ ra sau khi thấy những tác hại của cơn lốc trong thực tế. Quan sát thời tiết liên quan đến lũ lụt, người xưa kể truyện thần Nước mỗi năm vào tháng tám dâng nước một lần để lấy gỗ về xây dựng cung điện, hay truyện Thuỷ Tinh hàng năm vào tháng tám dâng nước một lần đánh báo thù Sơn Tinh. Rõ ràng là tuy chưa biết khí tượng và thuỷ văn là gì và chưa giải thích được hiện tượng lũ lụt theo quan điểm khoa học, người xưa đã nắm được tính lặp đi lặp lại của hiện tượng : nước lũ xảy ra hàng năm vào tháng tám. Ở đây thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo xuất hiện như là những cội nguồn xa xưa nhất của khoa học. Thần thoại đã dùng hình tượng văn học, hư cấu nghệ thuật để nói lên phần nào tính qui luật của một số hiện tượng mà người xưa bắt đầu nhận thức được.

Theo đà phát triển của tri giác cảm tính thành nhận thức lý tính, người Việt cổ dần dần thấy được phần nào bản chất và sự tồn tại khách quan của thế giới, tiến tới những ý niệm sơ khai về nguồn gốc và toàn bộ thế giới dựa trên sự tổng hợp những nhận xét bề ngoài đối với các sự vật, các hiện tượng. Trời đất ban đầu là đám hỗn độn , sau đó xuất hiện thần Trụ trời lấy đầu đội trời xây dựng vũ trụ. Như thế nghĩa là cõi tự nhiên đã có một cái gì rồi chứ không phải sinh ra từ hư vô, và thần Trụ trời chỉ làm công việc thay đổi hình thù của thế giới mà thôi, chứ không đóng vai trò một Thượng đế, một đấng sáng tạo huyễn hoặc nào đó. Thần Trụ trời chỉ biết dùng sức đội trời lên cao và sử dụng những thứ có sẵn trong thiên nhiên như đất, đá đắp cột chống trời chứ không phải thần dùng phép mầu nhiệm để tạo ra vũ trụ : thần đã phải dùng sức lao động của mình hì hục đào đất đá như những nông dân Việt cổ trong sự nghiệp khai sơn phá thạch đầu tiên để làm nên ruộng rẫy. Truyện cũng kể rằng núi đồi, sông biển đều là những chỗ đất đá được đắp cao hay đào sâu mà có chứ không phải sinh ra từ hư vô hay từ một ý chí siêu nhiên, nhiệm mầu nào.

Quan niệm có tính chất hiện thực chấc phác về vũ trụ cũng đã được thể hiện trong tư tưởng người Việt cổ cho rằng trời tròn và sâu như cái bát úp, đất phẳng như cái mâm vuông, chỗ tiếp giáp giữa trời và đất là chân trời. Có lẽ kinh nghiệm dựng nhà bằng cột gỗ và có mái cong trên những mảnh đất bằng phẳng đã đưa người xưa đến quan niệm trời tròn đất vuông, được thể hiện trong một truyền thống khác là truyện Bánh chưng bánh giầy.

Về hiện tượng sấm sét và rét nàng Bân, người xưa cũng đã phần nào cảm giác thấy tính qui luật của chúng : đó là truyện thần Sét thường ngủ vào mùa đông, tháng hai tháng ba mới dậy làm việc, truyện nàng Bân may áo cho chồng, may ba tháng ròng mới được cổ tay.

Đáng chú ý hơn nữa là những kiến giải có tính chất hiện thực về nguồn gốc con người và các giống loài. Khi tạo ra loài nguời cũng như các động vật khác, ông Trời đều phải dùng đến vật liệu sẵn có của mình. Ngay cả việc tu bổ các giống vật cũng vậy, khi hết "vật liệu" thần đành chịu không có cách nào khác ngoài cách mượn tạm chân ghế, chân hương để táp chân cho chó, cho vịt, cho chim chiền chiện. Rõ ràng là cách giải thích này bắt nguồn từ kinh nghiệm lao động : người xưa đã thấy được vai trò quyết định của công cụ và vật liệu : săn thú thì phải có gậy gộc, cung nỏ, làm ruộng thì phải có cày cuốc, nặn đồ gốm thì phải có đất thô, v.v...Nếu không có những vật liệu sẵn có thì "thần" hay người cũng phải bó tay. Bàn tay Mười hai Bà mụ có nhiệm vụ nặn lại cơ thể cho một người nào đó có khác gì với những bàn tay nhào đất, nặn gốm, mài đá, đúc đồng của người Việt cổ. Các bà cũng chỉ làm việc cải biến, thay đổ hình dáng các sự vật cụ thể chứ không hề hay không thể thêm hay bớt "chất căn bản" hay "chất tinh tuý" trong trời đất được.

Qua những hình tượng chứa đựng trong thần thoại, tín ngưỡng cổ, ta thấy có phảng phất bóng dáng của tư tưởng cho rằng vạn vật luôn luôn thay đổi và biến chuyển nhưng trong đó vật chất không bao giờ mất đi mà cũng không bao giờ được sáng tạo ra.

Đối với vấn đề sống chết của con người, tổ tiên chúng ta cũng đã giải thích theo xu hướng thừa nhận sự tồn tại khách quan của quy luật tự nhiên. Truyện Rắn già rắn lột, người già người chui tuột vào săng kể rằng con người khi già chỉ việc lột xác là được trẻ lại như xưa, duy chỉ có rắn là hễ già là phải chết, nhưng về sau vị thần do Trời sai xuống thi hành lệnh đó đã bị rắn vây bắt rồi trả lại cho trời và từ đó người già phải chết. Tư tưởng của Trời muốn cho loài người không chết chính là sự phản ánh ý muốn sống lâu, sống mãi của con người, nhưng người xưa đã nhận thức được rằng ước mong ấy không thể thực hiện được, cho nên dù tin ở Trời, người xưa cũng thấy Trời không thể dùng phép mầu nhiệm gì để chi phối sự sống chết của con người. Trong tư duy người xưa đã bắt đầu có ý niệm mặc dầu còn mờ nhạt về quy luật khách quan. Việc sống chết cũng như sự phát sinh, phát triển và tiêu diệt của mọi sự vật , hiện tượng đều nằm trong phạm vi tác động của quy luật tự nhiên. YÙ muốn Trời cũng như ước vọng của con người không thể uốn lệch quá trình khách quan của thế giới (3)!
TỪ KHÁI NIỆM ĐẤT - TRỜI, ĐẤT - NƯỚC ĐẾN MẦM MỐNG ĐẦU TIÊN CỦA LÒNG YÊU NƯỚC VÀ Ý THỨC DÂN TỘC 

Thế nhưng khi tầm nhận thức ngày càng được nâng cao, phạm vi tác động vào tự nhiên và xã hội ngày càng mở rộng, người xưa bắt đầu có ý thức về vai trò và về năng lực sáng tạo của mình. Họ đã nghĩ ra hình tượng ông Khổng lồ, bà Khổng lồ đào sông xây núi, một kiểu anh hùng khai sáng văn hoá có tính chất nửa thần nửa người, thực chất là hình ảnh phóng đại của đôi vợ chồng nông dân cải tạo thiên nhiên, chiếm lĩnh thiên nhiên bằng sức lao động của mình.

Ở thời nguyên thuỷ, có lẽ con người đã nghĩ rằng ngày là sự sống, đêm là sự nghỉ ngơi, thì đến giai đoạn của nền văn minh nông nghiệp, người ta thấy thêm đất là mẹ, là giống cái vì đất ủ hạt thành cây ra quả như lòng mẹ thai nghén. Cây nảy mầm đơm hoa kết quả nhờ nước từ trên trời đổ xuống. Thế là xuất hiện ý nghĩ trời là cha, là giống đực. Quan hệ đực - cái và giao phối đã được gán cho cả thiên nhiên vũ trụ để lý giải sự sinh sôi nảy nở của tạo vật. Có lẽ từ đó mà có khái niệm cha trời mẹ đất. Đất Trời là nhận thức khái quát về thiên nhiên. Đực Cái là nhận thức về sinh sản. Với sự phát triển của nông nghiệp và sự hình thành cộng đồng liên minh bộ tộc, tư duy thần thoại của con người hướng về khái niệm Đất và Nước, Đất - Nước về phương diện vật chất đã trở thành nguồn sống của cư dân nông ngiệp thì về phương diện tinh thần dã trở thành tình cảm quê hương sứ xở, ý thức về lãnh thổ của bộ tộc. Hẹp là một con sông, một vùng đồi, vùng bãi, là làng chạ. Rộng hơn là một vùng được phân ranh giới bằng những dãy núi, dòng sông ở trong vùng đó, tập thể cư dân Việt cổ chiếm lĩnh và tồn tại. Vùng đó chính là vùng đất tổ, vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Đất nước trở thành biểu tượng chung cho địa vực cư trú và hoàn cảnh thiên nhiên của người Việt cổ.
YÙ niệm về đất nước do Mẹ Âu, Bố Rồng, Vua Hùng khai sáng và tạo dựng sẽ mở rộng dần thành ý niệm về lãnh thổ và giống nòi, thành tình cảm dân tộc đoàn kết nhiều nhóm người lại với nhau như anh em ruột thịt. Hình tượng "sinh ra trong cùng một bọc" là cội nguồn của ý niệm về "đồng bào", một trong những ý niệm đẹp nhất trong tư duy Việt Nam.

Phản ánh nhu cầu của con người gắn bó với môi trường thiên nhiên, ra sức tìm hiểu, cải tạo mở rộng và bảo vệ nó để sinh sống ổn định và lâu bền, phản ánh tình cảm và ý thức đối với giống nòi, tổ tiên, lòng sùng bái và tin tưởng sâu sắc đối với các thế hệ anh hùng đã có những kỳ tích khai sáng lịch sử, văn hoá dân tộc, bảo vệ cuộc sống của tập thể cộng đồng. Tư duy Việt cổ đã chứa đựng cái cốt lõi bền vững của lòng yêu nước và tinh thần dân tộc ngày càng phát triển và củng cố theo đà mở rộng của quốc gia và sức mạnh của dân tộc sau này (4) .
 
ÓC THIẾT THỰC, TƯ DUY THẨM MỸ VÀ TƯ DUY KHOA HỌC CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ 

Sáng tạo ra được những hình tượng : Ông Bà Khổng lồ đào sông xây núi, Đất Nước, Chim Rồng, Mẹ Âu Bố Rồng, Vua Hùng, Ông Tản, Ông Dóng, người Việt cổ đã hiểu biết chắc chắn về địa vực cư trú của mình, đã nghiền ngẫm về những vấn đề giống nòi chống xâm lược, phát triển địa bàn, chinh phục thiên nhiên...là những vấn đề xã hội và kinh tế hoàn toàn thiết thực.

Tư duy người Việt cổ hoàn toàn xa lạ với những phạm trù tôn giáo trừu tượng : Sáng tạo, Phá hoại, Bảo vệ, với những nhân vật, động vật thần linh như trong tư duy Aán Độ cổ, cũng xa lạ với những phạm trù triết học duy lý, những quan niệm trừu tượng về Công lý, về cái Đẹp, cái Đúng, cái Thực như trong tư duy Hi Lạp cổ. Trái lại nó hướng vào những ý niệm giống nòi, tổ tiên, đất nước, gắn liền với những vấn đề thực tiễn như làm ăn, sinh sống, đoàn kết, đánh giặc.

Tư duy người Việt cổ chủ yếu hướng vào thực tiễn. Trên mặt trống đồng, người, chim, hươu nhảy chạy bay vây quanh mặt trời theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, điều đó chứng tỏ người Việt cổ đã phần nào nắm được tính chu kỳ, qui luật tuần hoàn của bốn mùa, của vũ trụ. Hình khối cân xứng, hài hoà của trống đồng, sự phân bố đều đặn các điểm trang trí giữa các đường tròn đồng tâm trên mặt trống tuân theo chặt chẽ những luật đối xứng : những điều đó cho phép chúng ta khẳng định rằng chủ nhân trống đồng đã có những khái niệm về hình học và số học ở một trình độ nhất định (5).

Ngay ở trên những đồ gốm ra đời hàng nghìn năm trước trống đồng, đã thấy thể hiện một cách khéo léo ý niệm về đối xứng. Người thời Hùng Vương đã biết đến ít nhất là ba kiểu đối xứng khác nhau : đối xứng gương, đối xứng trục quay, và đối xứng tịnh tiến. Các nhà khảo cổ học cũng cho rằngï họ đã biết dùng thước quay (com-pa), thước đo và những loại "máy" khoan, tiện đơn giản để chế tạo ra những vật phẩm của họ.

Như vậy là ý niệm về đối xứng, từ đơn giản đến phức tạp đã có trong tư duy thẩm mỹ của họ ; những khái niệm về hình học, số học đã có trong tư duy khoa học của họ và cho chúng ta thấy tư duy ấy có khả năng vươn tới cái trừu tượng, cái khái quát.

Ở thời Hùng Vương, cuộc sống tinh thần phong phú của con người Việt cổ đã thể hiện ở sự phát triển của tư duy thẩm mỹ và tư duy khoa học song song với sự trưởng thành của ý thức dân tộc, ý thức về lòng yêu nước, về chủ nghĩa anh hùng. Cuộc sống tinh thần phong phú ấy đã được cụ thể hoá trong tất cả những sáng tạo văn nghệ và kỹ thuật của nền văn minh Việt cổ mà chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu. Và cho đến nay, vẫn còn nhiều điều bí ẩn mà chúng ta chưa lý giải được về thiên tài của người xưa.
_______________________
(1)  Bài Nhân ngày giỗ tổ vua Hùng, báo Nhân dân số ra ngày 29-4-1972.
(2) Lê Thị Nhâm Tuyết - Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại (in lần thứ hai) Nxb Khoa học xã hội - 1975.
(3) Nguyễn Đổng Chi, Lược khảo về thần thoại Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa 1957.
Phúc Khánh, Thử tìm hiểu tư tưởng triết học trong thần thoại Việt Nam, Nxb Sự thật 1961.
(4) Cao Huy Đỉnh và Đặng Nghiêm Vạn, Quá trình hệ thống hoá thần thoại Việt Nam về nguồn gốc dân tộc, tạp chí Khảo cổ học số 9-10 / tháng 6-1971.
(5)  Theo nghiên cứu của Hà Văn Tấn
 Theo những nghiên cứu của Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Linh, Cao Huy Đỉnh, Phan Đăng Nhật...

CHƯƠNG XV
KHƠI NGUỒN TRUYỀN THỐNG THƯỢNG VÕ CỦA DÂN TỘC

CHIẾN TRANH, HIỆN TƯỢNG THƯỜNG XUYÊN TRONG THỜI DỰNG NƯỚC
 
Có những nhà nghiên cứu cổ sử học, khảo cổ học cho rằng ở thời Hùng Vương, ngành quân sự có lẽ được phát triễn hơn các ngành khác. Vua Hùng vốn là một thủ lĩnh thiện chiến của bộ lạc Văn Lang (hay Mê Linhà), ngự trị trên vùng đất nằm vắt ngang hai bên bờ sông Thao từ chân núi Ba Vì đến sườn núi Tam Đảo. Ngoài bộ lạc Văn Lang còn có 14 bộ lạc khác : bộ lạc Dâu, bộ lạc Nành, bộ lạc Trâu, bộ lạc Rồng... Giữa các bộ lạc bắt đầu có nhiều cuộc xung đột võ trang để giành quyền thống trị. Chiến tranh trở thành hiện tượng thường xuyên trong xã hội thời Hùng Vương ; đào ở đâu cũng thấy nhiều vũ khí : giáo, lao, dao găm, kiếm, qua, rìu chiến, mũi tên, mảnh giáp bằng đồng...Trên trống đồng ghi lại hình ảnh những người vũ trang, những thuyền chiến, cảnh chiến tranh, giết tù binh...

Sau một thời gian, vua Hùng chiến thắng được tất cả các bộ lạc lập thành một liên minh bộ tộc tức là nước Văn Lang. Quân đội của nhà nước sơ khai đầu tiên này trong lịch sử dân tộc chắc hẳn là một lực lượng tương đối có tổ chức, có bộ phận thường trực, có những đơn vị thân binh để hộ vệ vua Hùng, các Lạc hầu, Lạc tướng và làm chủ lực trong các cuộc chiến tranh. Tuy nhiên lực lượng quân sự lúc ấy chưa nhiều. Mỗi lần có chiến tranh, nhà nước có truyền thống dựa vào các lực lượng chiến đấu và hậu cần trong nhân dân các làng chạ. 

Nông dân các làng chạ khi bình thường thì lao động sản xuất, khi biến động thì sẵn sàng chiến đấu theo lệnh của thủ lĩnh quân sự. Ở các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên thời cận đại đều như thế. Nhà nước các triều đại phong kiến sau này vẫn dùng chính sách " ngụ binh ư nông ", và vẫn còn sử dụng hương binh (hay dân binh) trong một chừng mực nhất định.
VŨ KHÍ THÔ SƠ VÀ VŨ KHÍ HIỆN ĐẠI 

Việc trang bị cho quân đội thường trực thời Hùng Vương cũng đã thành vấn đề. Các loại vũ khí thô sơ mà mỗi người có thể tự túc dễ dàng dần dần nhường bước trước vũ khí hiện đại bằng kim loại. Từ khi kim loại tham gia vào chiến tranh, các cộng đồng lớn phải mở những xưởng thủ công chuyên chế tạo vũ khí vì cá nhân hay cộng đồng nhỏ không có đủ khả năng. Các xưởng này sản xuất ra rìu, giáo, lao, dao găm các loại...và các quân trang, quân dụng khác như áo giáp, tấm đồng che ngực, trống đồng, thuyền đồng...

Ở miền Đông Nam Á cổ đại, trống đồng có giá trị như là chiếc gậy chỉ huy ở các dân tộc khác trên thế giới. Chủ nhân của trống là những kẻ có quyền lực lớn nhất trong cộng đồng. Sách sử cổ của Trung Quốc có ghi : " Người Di Lão ở phía nam Ngũ Lĩnh muốn đánh nhau thì đánh trống (đồng) lên, dân chúng kéo đến ùn ùn như mây. Người có trống được gọi là Đô Lão, được dân chúng suy tôn và phục tùng " (1).
TÀI BƠI LỘI, ĐI THUYỀN VÀ THUỶ CHIẾN CỦA TỔ TIÊN TA

Người Việt cổ là một cư dân làm ruộng nước, đánh cá, cắt tóc, xăm mình, sống gần sông nước nên giỏi bơi lặn, thạo chèo thuyền vượt biển. Hàng năm trong dịp hội làng, nhân dân tổ chức đua thuyền để cầu nước, để vui chơi mà cũng để ôn luyện thuỷ chiến. Thuyền chiến thời Hùng Vương, như thấy chạm khắc trên trống đồng, chở những thuỷ thủ vũ trang bằng giáo mác, khiên, rìu chiến, cung tên trong tư thế sẵn sàng chiến đấu; thuyền có bánh lái, cột buồm, đằng lái có lầu canh. Theo sử sách Trung Quốc cổ, miền đất Văn Lang là " xứ sở của những người sống được dưới mặt nước " (ý nói bơi lặn giỏi) ; ở đất Việt cổ " việc trên cạn ít, việc dưới nước nhiều " ; " dân quen ở nước " ; " Vua Thang vua Vũ là thánh chúa cũng không thể cùng người Việt chèo thuyền trôi nổi trên sông nước " ; " Người Việt thạo thuỷ chiến, giỏi dùng thuyền ". Hàng nghìn năm trước Ngô Quyền và Trần Hưng Đạo con cháu của bố Rồng, tổ tiên thần thoại thống lĩnh vùng sông nước đã khơi nguồn truyền thống Bạch Đằng một truyền thống vẻ vang trong lịch sử thượng võ của dân tộc Việt Nam.
KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LĂNG VÀ NGHỆ THUẬT CHIẾN TRANH, KỸ THUẬT QUÂN
SỰ THỜI DỰNG NƯỚC 
Chiến tranh đã trở thành một hiện tượng xảy ra tương đối thường xuyên, trong đó chủ yếu là những cuộc chiến tranh chống ngoại tộc xâm lược. Qua nhiều truyền thống, thần tích vùng trung du, vùng đồng bằng Bắc Bộ, chúng ta thấy hầu hết các tướng tá của vua Hùng đều luôn luôn phải mang quân đi đánh dẹp các cuộc xâm lăng của ngoại tộc từ nhiều phía. Đó là những bọn giặc Ân, giặc Tây Thục, Ai Lao, Hồ Tôn, Ô Lư, Xích Tỵ v.v...Trong số các ngoại tộc mà truyền thuyết và thần tích nhắc đến, có thể xác minh được một số : ví dụ Hồ Tôn là người Lâm Ấp ở phía nam Cửu Chân, Ai Lao và Tây Thục là người Bộc ở vùng Quý Châu và Quảng Tây phía bắc Văn Lang. Các bộ tộc và các tộc người tranh nhau quyền làm bá chủ hay đấu tranh giữ vững lãnh thổ và đời sống độc lập của mình.

Xem xét những vũ khí thời Hùng Vương để lại, rất giàu về số lượng, phong phú về loại hình (nhiều loại giáo, lao, nhiều kiểu dao găm, hơn 10 kiểu mũi tên đồng...) tìm thấy ở nhiều nơi từ Việt Bắc đến Nghệ Tĩnh, có thể thấy rằng  ý chí chiến đấu của người Việt cổ đã được thể hiện tới một trình độ nhất định. Chiến tranh đã là hiện tượng xã hội không tránh được thì cần phải tạo ra những phương tiện thích hợp để tiến hành chiến tranh.

Sự cân nhắc, tính toán, tập trung chú ý của người xưa vào hiện tượng chiến tranh thể hiện ở việc họ đã chế tạo nhiều loại vũ khí với những tính năng lợi hại khác nhau. Như rìu chiến có thứ lưỡi phát triển lệch về một phía để chém cho khỏe, lại có thứ lưỡi xòe rộng, chém bổ xuống xuống rồi hất ngược lên, mỗi lần vung tay là chém được hai đòn. Qua một chi tiết như thế, có thể thấy óc tìm tòi sáng tạo của người xưa trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Trong suốt quá trình phát triển của thời đại đồ đồng, vũ khí được liên tục cải tiến. Sự tìm tòi sáng tạo ấy là một đặc trưng của tinh thần biết mình biết người trong khoa học và nghệ thuật chiến tranh.

Vũ khí thời Hùng Vương thường nhỏ, nhẹ, ngắn, gọn khác với vũ khí của nhiều miền khác, ở cùng thời hay khác thời, thường là to, nặng, dài, cồng kềnh. Cách trang bị cho các chiến sĩ Việt cổ cũng gọn nhẹ một cách thích hợp : chỉ dùng tấm đồng che ngực mà không dùng áo giáp, mũ đồng, chỉ đi chân đất không có giày. Vũ khí và trang bị của những người tham gia chiến đấu ở thời Hùng Vương như vậy là đã có một phong cách riêng thích hợp với điều kiện thiên nhiên, kinh tế, số dân và thể chất của người Việt cổ.
NHỮNG NGỌN NGUỒN CỦA TRUYỀN THỐNG THƯỢNG VÕ VÀ CỦA CHỦ NGHĨA ANH HÙNG VIỆT NAM 

Trong những điều kiện như thế, tinh thần dũng cảm ngoan cường của họ là một yếu tố quan trọng. Về mặt vũ khí, biểu hiện cụ thể của tinh thần ấy là sự phổ biến và tính phong phú của các loại vũ khí đánh gần, đánh giáp lá cà : giáo, lao, qua, rìu và nhất là dao găm. Dao găm có rất nhiều loại : loại có chắn tay, loại không có chắn tay, loại chuôi tròn, không kể loại lấy tượng người làm chuôi, loại lưỡi rộng bản để khoét rộng vết thương, loại lưỡi nhỏ mà dài để xuyên sâu địch thủ. Ở những mũi giáo có một lỗ hay hai lỗ nhỏ ở thân có thể dùng để buộc các mồi lửa để tăng thêm hiệu lực tiêu diệt địch. Người Việt cổ còn phát huy sở trường chiến đấu của mình bằng cách phát triển lối đánh bằng thuyền, đánh bằng cung nỏ. Những hình thuyền chiến phổ biến trên trống đồng, số lượng của hàng chục kiểu đầu mũi tên đồng, của hàng vạn mũi tên đồng đào được ở khắp nơi đã chứng minh cho sở trường thuỷ chiến sở trường xử dụng cung nỏ mà sử sách cổ của Trung Quốc cũng đã phải thừa nhận.

Tính tổ chức, óc kỷ luật, tinh thần bất khuất của quần chúng nhân dân, nhờ được rèn luyện luôn luôn trong các cuộc chiến đấu, đã trở thành một đặc điểm của truyền thống thượng võ Việt Nam. Ở thời Hùng Vương, đoàn kết chiến đấu chống ngoại xâm đã là vấn đề nổi bật lên hàng đầu. Chiến tranh nhân dân, truyền thống cả nhà đánh giặc, cả làng đánh giặc, toàn dân ra trận, thực sự đã hình thành từ thời ấy. Hình tượng Ông Dóng chính là sự kết tinh của ý chí chiến đấu và chiến thắng của nhân dân các làng chạ và liên minh bộ tộc Việt cổ.
_______________________
(1)  - Theo Văn hiến thông khảocủa Mã Đoan Lâm

CHƯƠNG XVI
BẢN ANH HÙNH CA DỰNG NƯỚC XÂY THÀNH CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA VUA THỤC AN DƯƠNG

VỀ THĂM LẠI MẢNH ĐẤT CỔ LOA XƯA CŨ

Cách thủ đô Hà Nội không đầy 20 ki-lô-mét, mảnh đất Cổ Loa lịch sử hiện ra trước mắt ta với những ruộng lúa xanh rờn, những dải đồi đất màu son nhạt trồng trám, trẩu, mít, cau, chè, những khúc thành cổ bị thời gian phá huỷ, mưa nắng xói mòn, với cỏ dại, cây hoang thấp bé bao phủ.

Qua cầu Sa và ngôi miếu nhỏ thờ thần Rùa Vàng là đến chợ Sa họp một tháng sáu phiên đông vui rộn rịp. Quá cửa thành phía Nam và xóm Chợ là xóm Chùa. Không khí cổ kính bao trùm toàn bộ khu di tích lịch sử với mái đình Cổ Loa cong vút và am Mị Châu con gái vua Thục. Trong am thờ một hòn đá na ná như pho tượng cụt đầu, cách am không xa là đền Thượng thờ vua Thục xây dựng trên một gò đất, nhìn ra phía trước đền thấy hồ sâu hình bán nguyệt, giữa hồ là giếng Ngọc, nơi Trọng Thuỷ đã trầm mình vì đau khổ không tìm thấy Mị Châu và thấy sự giả dối của mình đã giết chết người vợ yêu.

Nhân dân Cổ Loa mở hội đền vào mồng 6 tháng giêng để tỏ lòng tôn kính vị anh hùng dựng nước Âu Lạc. Tục ngữ địa phương có câu : " Chết bỏ con cháu, sống không bỏ mồng sáu tháng giêng ". Ngày xưa hội đền kéo dài từ mồng 6 đến 18 tháng giêng với sự tham gia của 7 xã quanh vùng. Nay hội đền không còn tấp nập như xưa nhưng khách tham quan Cổ Loa hầu như không ngày nào vắng. Từ già đến trẻ, từ em học sinh đến nhà nghiên cứu, từ khách trong nước đến khách nước ngoài ai ai cũng thích thú hành hương về mảnh đất cổ kính gợi lại những kỷ niệm bi đát mà hào hùng về một giai đoạn lịch sử đầy biến động, kỷ niệm về bi kịch mất nước đầu tiên của nhân dân Việt cổ, một trong những bi kịch mất nước xưa nhất trong lịch sử loài người.

Các cụ già ở Cổ Loa gọi làng mình bằng cái tên cổ kính của nó là chạ Chủ, gọi cánh đồng Cổ Loa là cánh đồng Chủ, thành Cổ Loa là thành Chủ, vua Thục An Dương là vua Chủ, đền Thượng thờ vua là đền Chủ và ngày hội mồng 6 tháng giêng là hội đền Chủ. Cám ơn các vị bô lão ấy đã giúp chúng ta tìm ra được từ nguyên của địa danh Cổ Loa . Dựa trên phương pháp của ngữ âm học lịch sử, chúng ta biết rằng Chủ xưa đọc là Trủ, mà trước thế kỷ XVIII, âm tr trong tiếng Việt cũng đọc là bl hay kl. Vậy Chủ hay Trủ đã được đọc là Blủ hay Klủ, từ đó nó được phiên âm chữ Hán là Khả Lũ, rồi được đổi thành Kim Lũ, được đọc là Kẻ Chủ, Kẻ Lủ và cuối cùng là Cổ Loa (2) .

Cách đây khoảng hơn hai nghìn năm, khi nước Văn Lang còn đang cường thịnh ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ thì ở phía đông bắc nước đó nổi lên một liên minh bộ lạc của người Âu Việt mà điểm trung tâm là miền đồng bằng phì nhiêu Cao Bằng (tỉnh Cao Bằng ngày nay). Nếu người Lạc Việt của nước Văn Lang là tổ tiên của nguời Việt, người Mường thì người Âu Việt chính là tổ tiên người Tày, người Nùng ngày nay. Vào buổi bình minh của lịch sử, sự phân hoá các tộc người còn chưa thật rành rẽ, và sự hợp nhất giữa các bộ tộc gần nhau về địa vực, dòng máu, trình độ phát triển văn hoá vật chất và tinh thần là một nhu cầu tất yếu, nhất là trước nguy cơ bành trướng và xâm lược đến từ phương Bắc. Đó là cơ sở của sự hợp nhất giữa hai liên minh bộ lạc Lạc Việt, Âu Việt và sự ra đời của nước Âu Lạc.

Âu và Lạc đều cùng nòi giống Việt, lãnh thổ của hai bộ tộc nằm cạnh nhau.Truyền thuyết Việt về bố Rồng ở miền biển cưới mẹ Âu ở miền núi hay truyền thuyết Mường về chàng cá lấy nàng hươu sao phản ảnh sự tiếp xúc và mối quan hệ gắn bó lâu đời giữa người Lạc Việt với người Âu Việt. Âu giữ rừng vàng, Lạc coi bể bạc. Lạc giúp Âu sản phẩm miền xuôi : lúa, gạo, cá mú, ngọc trai, muối...Âu đổi cho Lạc sản phẩm của núi rừng : kim loại, ngà voi, sừng tê, gỗ quí...Âu cũng chế tạo đồ đồng thau, cũng canh tác nông nghiệp, cũng có tục cắt tóc, xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu như Lạc. Giữa hai bộ tộc có giao lưu kinh tế, văn hoá, hôn nhân nhưng cũng không tránh khỏi xung đột, lấn át nhau. Vào nửa đầu thế kỷ III trước Công nguyên, Thục Phán được cử làm thủ lĩnh liên minh bộ tộc Âu Việt ở vùng Việt Bắc và tìm cách phát triển thế lực xuống miền nam và đông nam thuộc địa bàn thống trị của vua Hùng.

Việc Thục Phán cầu hôn với con gái vua Hùng thứ 18 có thể là một mưu mẹo để sát nhập nước Văn Lang vào địa bàn Âu Việt nhân sự suy yếu của vua Hùng. Cuối cùng, người thủ lĩnh trẻ tuổi và tài giỏi là Thục Phán đã phái nhiều đạo quân tiến đánh kinh đô nước Văn Lang, đánh đổ triều Hùng, dựng lên nước mới là Âu Lạc gồm đất đai người Âu ở phía Bắc và đất đai người Lạc ở phía Nam rồi dời đô từ vùng đồi núi xuống miền đồng bằng Cổ Loa, khẳng định ý chí, niềm tin và quyết tâm của nhân dân Âu Lạc giữ vững nền độc lập của mình.

Sự thống nhất giữa hai lãnh thổ và hai bộ tộc đã làm nên sức mạnh mới, đã nâng cao ý thức dân tộc của người Việt cổ. Âu Lạc ra đời là sự kế tục và phát triển trên một mức cao hơn quốc gia Việt Nam đầu tiên.
THÀNH CỔ LOA, MỘT KỲ CÔNG KỸ THUẬT QUỐC PHÒNG CỦA NHÂN DÂN ÂU LẠC
Truyền thuyết dân gian Cổ Loa kể rằng ban dầu vua Thục định đóng đô ở chạ Tó, nay là xã Uy Nỗ cách Cổ Loa một quả gò gọi là gò Vua. Nhưng bầy chó săn của vua cứ chạy mãi sang phần đất chạ Chủ, vua sang bên ấy thấy cả một phong cảnh kỳ thú hiện ra trước mắt : dòng Hoàng Giang uốn lượn, mạch đất cao ráo với nhiều sống đất tựa như những con rồng uốn khúc đổ dồn xuống trung tâm chạ Chủ. Vua bàn bạc với tướng Cao Lỗ rồi quyết định dời đô về chạ Chủ.

Ý đồ của vua là xây dựng nên một nơi đô hội giữa trung tâm đất nước, đồng thời là một pháo đài phòng ngự, một thành luỹ chống ngoại xâm. Quan sát nghiên cứu thành Chủ, người ta có thể khẳng định đây là một công trình kiến trúc quân sự vĩ đại, được thiết kế và qui hoạch rất chu đáo, hợp lý và sáng tạo trên cơ sở triệt để lợi dụng thế đất, đồi gò, sông đầm...Có lẽ hàng vạn dân công đã được huy động để xây thành.
Theo lời kể của dân gian, đền Thượng Cổ Loa được xây dựng ngay trên nền cung điện cũ của vua Thục, đình được xây dựng trên điện ngự triều, bên cạnh cung cấm có vườn thượng uyển và hồ sen, nay là khu vực xóm Lan Trì. Bao bọc khu cung cấm là một toà thành được gọi là thành nội cao 5 m, mặt trên rộng từ 6 đến 12 m, chân choãi rộng từ 20 đến 30 m, chung quanh có đào hào sâu và rộng cho thuyền lớn đi lại được. Ở bốn góc thành và rải rác trên mặt thành đắp những ụ hỏa hồi, từ đấy quân của vua Thục bắn xuống bọn giặc ngoại xâm.

Bên ngoài khu vực của vua và hoàng hậu là khu vực của các quan văn võ. Vua cho đắp một toà thành trung dài hơn 6 km. Quan lại và quân đội đóng trong khu đất giữa thành nội và thành trung, quanh thành cũng đào hào sâu rộng khơi nước Hoàng Giang và đầm Cỏ chảy vào. Ở xóm Vang ngày nay còn có một khu vực gọi là Vườn thuyền.

Ngoài thành trung là thành ngoại dài 8 km mở ra 4 cửa : cửa nam, cửa bắc, cửa tây nam và cửa đông. Trên 3 vòng thành khép kín có cả thảy 72 ụ hỏa hồi, những nơi vừa dùng để đốt lửa báo hiệu có giặc, vừa dùng để bắn tỉa. Truyền thuyết dân gian cho biết ban đầu có tiên giúp vua xây thành : đêm đêm khi bốn bề yên tĩnh, từ trên không trung xuất hiện hàng vạn nàng tiên đẹp như hoa, thướt tha như liễu tới tụ họp trên cánh đồng làng Tiên Hội cạnh kinh đô để cùng nhau gánh đất xây thành giúp vua. Nhung rồi tinh lợn sề, tinh gà trắng cứ quấy phá mãi, thành đắp rồi lại đổ, cứ thế trong 18 năm ròng.

Giữa lúc ấy thần Rùa Vàng xuất hiện giúp vua xây thành vững chắc, lại tặng vua chiếc móng kỳ diệu để chế chiếc nõ thần trăm phát trăm trúng. Thần thật ra là một người anh hùng văn hoá Việt cổ đã sáng suốt chỉ ra nguyên nhân thực sự của tai nạn đổ thành và cách thức để chấm dứt nó. Người Âu Lạc lần đầu tiên xây thành ở đồng bằng chưa có kinh nghiệm, thành đắp càng cao sức lún càng nhiều, vào mùa mưa lũ càng dễ sụt lở. Và thần Rùa Vàng chẳng qua là sự thần thánh hoá óc thông minh sáng tạo của con người lao động. Qua thực tế đắp thành, trải bao lần thất bại, người Âu Lạc phát hiện được rằng đắp thành trên nền đất úng lầy thì phải kè đá tảng mới chống được sụt lở. Vấn đề kỹ thuật xây thành đã được giải quyết, một kỹ thuật kiến trúc mới đã được phát minh (2). Đá tảng được đánh đống to như núi, đổ xuống các chân thành, rải thành hàng thành lớp, tạo nên những kè đá vững chắc dưới chân thành, kể cả những mảnh gạch, mảnh ngói, đầu ngói vỡ, mảnh khuôn giếng, phế phẩm của những lò gạch ngói, lò bát cũng được tận dụng để rải dưới chân thành và kè vào giữa các lớp đất đắp thành.

Cuối cùng thành đắp thành công, cao chót vót, đứng sừng sững hiên ngang trước giông tố bão lụt, thể hiện tài năng sáng tạo của người Âu Lạc về kỹ thuật quốc phòng, về khoa học và nghệ thuật quân sự. Thành là một công trình phòng ngự kiên cố, vừa là căn cứ bộ binh lợi hại vừa là căn cứ thuỷ quân quan trọng chung đúc hai truyền thống lớn về tài năng quân sự Việt cổ : truyền thống thạo cung nỏ, giỏi xây thành của người Âu Việt và truyền thống thạo thuỷ chiến, giỏi dùng thuyền của người Lạc Việt.

Truyền thuyết dân gian đã phần nào đồng hoá thần Rùa Vàng với tướng quân Cao Lỗ, một tướng giỏi, một công thần khai quốc của vua Thục. Dân gian kể rằng chính ông đã khuyên An Dương dời đô từ vùng trung du về xuôi, chính ông đã giúp vua chọn đất làng Chủ làm kinh đô, chính ông đã cùng vua thiết kế qui hoạch xây dựng thành Cổ Loa. Ông được vua tín nhiệm cử giữ cửa thành phía Bắc, nơi xung yếu vào bậc nhất của Cổ Loa. Cũng chính ông đã phát minh ra nỏ liên thanh bắn một lần hàng chục phát, ông đã sai dựng gò Đống bắn, gò Pháo đài dạy cho một vạn quân sĩ tập bắn nỏ. Vua An Dương thường đứng trên đài Ngự Xạ (góc đông bắc ngoài thành nội) xem Cao Lỗ huấn luyện quân sĩ bắn nỏ. Vua còn cử Lạc Hầu trấn giữ cửa Đông, chỉ huy đoàn thuyền chiến thường xuyên đậu trong khu vực Đầm Cả và Vườn Thuyền, từ đó có thể toả ra vận động khắp 3 vòng hào của thành nội, thành trung và thành ngoại phối hợp với quân sĩ đóng trên luỹ thành mà đánh địch. So sánh với những thành quách ở Đông Tây đương thời, thành vua Chủ thật là lợi hại vào bậc nhất, bố trí thật chu đáo và khoa học, niềm tự hào của lịch sử kiến trúc quân sự Việt Nam (3) .
CUỘC KHÁNG CHIẾN VĨ ĐẠI CHỐNG TẦN, CHỐNG TRIỆU CỦA NHÂN DÂN ÂU LẠC

Nhà Tần, đứng đầu là Tần Thuỷ Hoàng, con người " cứng rắn, khắc bạc, tự đắc " (4) , đầy tham vọng bành trướng đế quốc chủ nghĩa, sau khi đã thống nhất toàn Trung Quốc (năm 221 trước công nguyên) đã phát nửa triệu quân xâm lược phương Nam trong đó có nước Âu Lạc.

Cuộc xâm lược qui mô lớn của nhà Tần, và tiếp ngay sau đó cuộc xâm lược của nhà Triệu mà nhân dân Việt cổ đã anh dũng chống lại, cho thấy rằng sự xâm lược của phong kiến phương Bắc là có hệ thống.
Quân Tần tiến công ồ ạt, dần dần chiếm lấy hầu hết đất đai của các tộc Bách Việt ở phía nam sông Dương Tử (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu). Nhưng đến khi chúng đi sâu vào đất nước Âu Lạc thì bị chống cự mãnh liệt. Người Việt cổ, cùng nhân dân các tộc khác, tạm rút vào rừng, tổ chức lực lượng kháng chiến, cử người tài giỏi lên làm tướng và tiến hành đánh du kích ban đêm. Một trong những người tài giỏi đó chính là vua Thục An Dương, theo lời kể của truyền thuyết dân gian. Cuộc kháng chiến của người Việt cổ kéo dài hàng chục năm và đã làm tiêu hao hàng chục vạn quân Tần. Chủ tướng của giặc là Đồ Thư cũng phải đền tội ác. Chính nhà sử học Trung Quốc nổi tiếng Tư Mã Thiên cũng đã thừa nhận sự thất bại ê chề của quân xâm lược Tần :
" Lúc bấy giờ nhà Tần ở phía bắc thì mắc họa với người Hồ, ở phía nam thì mắc họa với người Việt. Đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong. Trải hơn 10 năm, đàn ông phải mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi, người ta thắt cổ tự tử trên cây dọc đường, người chết trông nhau. Kịp khi Tần Thuỷ Hoàng mất thì cả thiên hạ nổi lên chống " (4)

Vào năm 207 trước công nguyên, một viên quan lại của Nhà Tần là Triệu Đà chiếm ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng, lập nước Nam Việt, xưng vương rồi nhiều lần phát quân xâm lược hòng thôn tính nước Âu Lạc. Sử cũ cho biết, trong các cuộc xâm lược đầu tiên của Triệu Đà, toàn bộ những mũi tiến quân của y đến núi Tiên Du, đến vùng Vũ Ninh (nay thuộc các huyện Tiên Sơn, Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) đều bị bẻ gãy.

Truyền thuyết dân gian kể chi tiết hơn : Trước hoạ xâm lăng, hàng vạn tráng sĩ Âu Lạc dưới sự chỉ huy tài giỏi của các tướng Cao Lỗ, Nồi Hầu, ông Đống và ông Vực (con của Nồi Hầu), tiến về phía núi Tiên Du nghênh chiến với quân xâm lược Triệu bằng cung nỏ khoẻ, tên đồng sắc tẩm thuốc độc, tên bắn ra như mưa, giặc chết lăn như rạ. Quân Triệu thua to và tên vua nước Nam Việt xảo trá quỉ quyệt là Triệu Đà biết không thể thắng nổi Âu Lạc bằng hành động quân sự nên giả vờ cầu hoà với vua Thục, và An Dương chủ quan nhẹ dạ đã chấp thuận lời cầu hoà của hắn. Người đời nay lấy làm khó hiểu tại sao vua Thục đã không phát huy chiến thắng và quét sạnh quân thù ra khỏi bờ cõi Âu Lạc mà lại tin tưởng một cách vội vã vào những lời lẽ hoà bình của Triệu Đà, cho phép y đóng quân ở lại vùng Vũ Ninh và nhường cho y một phần đất nước từ Vũ Ninh trở lên phía bắc. Ý chí xâm lược của Triệu Đà chưa bị bẻ gãy, tham vọng bành trướng của y sẽ không ngừng lại ở biên giới tạm thời đó. Sơ hở đầu tiên của vua Thục là ở tính hiếu hoà và sự khoan nhượng dễ dãi mà hậu quả khốc hại sẽ không thể nào lường nổi
BI KỊCH MẤT NƯỚC VÀ BI KỊCH TÌNH YÊU

Lợi dụng sơ hở của vua Thục, Triệu Đà sai con trai là Trọng Thuỷ sang hàng phục An Dương, An Dương thiếu cảnh giác gả con gái là Mị Châu cho Thuỷ, được ở rể bên nước Âu Lạc, theo phong tục của người Việt cổ. Theo truyền thuyết dân gian, tướng quân Cao Lỗ đã khẳng khái can ngăn vua Thục không nên gả con gái cho con trai kẻ thù. Cao Lỗ đã sáng suốt chỉ cho vua thấy Triệu Đà chỉ mượn cớ cầu hôn để dò xét tình hình, học cho được nghề cung nỏ của dân ta rồi thừa cơ hội cướp nước ta thôi. Nồi Hầu và hai con trai cũng khuyên can vua nhưng An Dương không nghe. Nồi Hầu bỏ về ở ẩn. Còn Cao Lỗ ngày càng bị vua đối xử bạc bẽo. Nghe lời đường mật xúc xiểm của Trọng Thuỷ, Mị Châu xin cha đuổi Cao Lỗ ra khỏi kinh thành. Người công thần, vị tướng tài giỏi bậc nhất của triều đình Âu Lạc bỏ đi, nhắn lại vua :
- Giữ được nỏ thần thì giữ được thiên hạ, mất nỏ thần thì mất thiên hạ.

Mị Châu bị ảo tưởng tình yêu, bị sự lừa phỉnh làm cho mù quáng. Nàng đã nhẹ dạ đến vô ý thức, đã tiết lộ bí mật quốc gia về vũ khí, hệ thống phòng thủ của thành Cổ Loa cho Trọng Thuỷ. Một vài lạc tướng ở các địa phương bị y mua chuộc. Trước khi trốn về nước, y còn lợi dụng tình cảm chân thật mà quá đổi ngây thơ của Mị Châu, đánh lừa nàng một lần nữa :

Tình vợ chồng không thể quên nhau, nghĩa cha con cũng không nở bỏ. Tôi về thăm cha me,ï nếu hai nước có thất hảo khiến bắc nam cách biệt, tôi sang tìm nàng thì dùng vật gì làm tín hiệu

Mị Châu đáp :
- Thiếp là đàn bà, gặp cảnh chia ly, tình khôn kể xiết. Thiếp có áo lông ngỗng thường mặc trên mình. Đến lúc bấy giờ sẽ rắc lông ngỗng ở ngã ba đường đánh dấu những chỗ thiếp qua.
Trốn được về Nam Việt, Trọng Thuỷ báo cáo tình hình Âu Lạc cho Triệu Đà biết. Y dạy cho quân sĩ Nam Việt phép chế nỏ tài tình của Âu Lạc. Như thế là ưu thế kỹ thuật quân sự của Âu Lạc đã mất. Các tướng tài giỏi của Âu Lạc đã bỏ đi hay bị truất. Vua An Dương đã già yếu lại còn chủ quan, ỷ vào thành cao, nỏ quí.

Mùa xuân năm 179, quân Triệu ồ ạt tiến công Âu Lạc, bẻ gãy các mũi chống cự của quân Thục và cuối cùng chiếm được thành Chủ. Vua An Dương để Mị Châu ngồi sau mình ngựa cùng chạy về phía nam. Trọng Thuỷ nhận ra dấu lông ngỗng Mị Châu rắc trên đường, đuổi theo ráo riết. Vua chạy đến bờ biển vùng Diễn Châu (Nghệ An) thì cùng đường. Tiếng nói của nhân dân, qua sự phản ánh hư ảo của lời thần Rùa Vàng, như quát vào tai vua :
- Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy !
Vua quay lại thấy Mị Châu vẫn đang ngây thơ bứt lông ngỗng ở áo rắc xuống đường. Vua tuốt gươm toan chém. Mị Châu chỉ kịp nói :
- Vì nhẹ dạ cả tin, bị người đánh lừa chứ con không có lòng phản hại cha. Nếu có tội, chết đi, con sẽ biến thành tro bụi, nếu sau trước vẫn một lòng trung kính với cha thì con sẽ hoá đá, hoá ngọc để rửa sạch mối nhục thù !

Vua chém đầu Mị Châu. Rồi Rùa Vàng rẽ nước đưa vua xuống biển Đông. Cơ đồ nhà Thục đã " đắm biển sâu "  Ở Diễn Châu ngày nay, cạnh đường quốc lộ số một, một ngôi đền lớn thờ vua An Dương vẫn còn trên núi Mộ Dạ, xưa vốn là một khu rừng đầy chim công. Đó là đền Cuông (thổ ngữ vùng Nghệ An đọc côngthành cuông). Tương truyền đấy là nơi An Dương đi vào biển. Máu Mị Châu chảy xuống biển, trai sò ăn đều biến thành hạt châu. Quân Triệu kéo đến không thấy bóng vết gì, chỉ còn lại xác Mị Châu mà thôi.
Ý NGHĨA CỦA TRUYỀN THUYẾT AN DƯƠNG - MỊ CHÂU

Qua truyền thuyết, nhân dân ta muốn ghi lại một giai đoạn oanh liệt, những kỳ công rực rỡ vào cuối thời dựng nước, muốn ca ngợi sức mạnh của tổ tiên, của non sông đất nước Việt cổ hào hùng bất khuất, ca ngợi những người dân Âu Lạc đã xây thành chế nỏ, anh dũng chống ngoại xâm. Và cũng qua truyền thuyết, nhân dân ta giải thích sự bại trận và lí do mất nước. Vua An Dương thất bại, cơ đồ nhà Thục chìm đáy biển không phải vì quân địch mạnh, có vũ khí lợi hại hơn ta ; An Dương thua chỉ vì nhẹ dạ, chủ quan, tự mãn.

An Dương và Mị Châu để lại cho đời sau một bài học lịch sử đau xót nhưng không bi luỵ. Để xây dựng nước nhà, đoàn kết nội bộ, chống ngoại xâm thắng lợi, không nên ỷ vào vũ khí, vào phòng ngự, dù là nỏ quí thành cao, mà phải luôn luôn cảnh giác với kẻ thù, phải nghe theo ý dân, lòng dân (mà tướng Cao Lỗ là tiêu biểu). An Dương đã mắc mưu kẻ địch vì quá hiếu hoà, cầu an. Ông đã không dựa vào dân, đã lấy thiên hạ làm của riêng, đã đặt tình gia đình và lợi ích dòng phái lên trên nghĩa quốc gia, lên trên lợi ích dân tộc, gây nên thảm cảnh nước mất nhà tan !

Cái chết của Mị Châu là một hình thức phê phán nghiêm khắc của nhân dân về tội lỗi tầy trời của nàng đối với Tổ quốc, với dân tộc, nhưng nhân dân dành cho Mị Châu lòng thương cảm sâu xa đối với bản chất ngây thơ, trong trắng, với những khát vọng yêu thương chính đáng của người con gái Việt cổ đã lỡ lầm...
Còn vua Thục vì chủ quan, mất cảnh giác nên thất bại, nhưng trước sau vua vẫn là một vị anh hùng dân tộc đã từng lãnh đạo nhân dân Việt cổ đánh Tần đuổi Triệu, lập nên những chiến công oanh liệt. Và trong quan niệm nhân dân, người anh hùng dân tộc không bao giờ chết ; Rùa Vàng đã rẽ nước đưa vua Thục xuống biển Đông nơi mà Bố Rồng, tổ tiên huyền thoại của dân tộc đã đến trước tự nghìn xưa...
_______________________
(1)  Theo Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Lâm
(2) Theo sự nghiên cứu của nhà sử học Trần Quốc Vượng
(3) Trần Quốc Vượng, Trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử, sở Văn hoá thông tin Hà Nội xb, 1970, trang 43 � 65
(4) Theo Tư Mã Thiên, Sử Ký

CHƯƠNG XVII
BÀ TRƯNG KHỞI NGHĨA, LẬP CHIẾN CÔNG OANH LIỆT NGÀN THU

NHỮNG CON CHÁU VUA HÙNG TRÊN ĐẤT MÊ LINH 

Vào đầu Công nguyên, hai thế kỷ sau Thục An Dương, ở Mê Linh, thuộc vùng đất tổ Hùng Vương có hai người con gái, hai Bà Trưng, đã lãnh đạo toàn dân nước Âu Lạc cũ vùng dậy lật đổ nền đô hộ tàn bạo của phong kiến phương Bắc, giành lại tự do độc lập cho dân tộc, xây dựng một nhà nước do phụ nữ nắm chính quyền và tiến hành một cuộc kháng chiến chống xâm lăng, quyết liệt. Hai Bà Trưng là ngọn cờ giải phóng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những nữ anh hùng dân tộc đầu tiên làm rạng rỡ giống nòi Rồng Tiên.

Sự nghiệp của Hai Bà thật lớn lao, chiến công của nhân dân Việt cổ thời Hai Bà thật oanh liệt, những bài học Hai Bà để lại thật vô cùng quí giá. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn và sự nghiệp hai vị nữ anh hùng.

Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em, con gái lạc tướng Mê Linh, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Quê hương của Hai Bà là trang Cổ Lai, nay là xã Mê Linh, thuộc huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.
Mẹ của Hai Bà là bà Man Thiện, cháu bên ngoại Hùng Vương, goá chồng từ sớm, đảm đang việc nuôi dạy hai con gái theo tinh thần yêu nước và thượng võ. Bà Man Thiện đã giúp đỡ các con rất nhiều trong việc tổ chức lực lượng khởi nghĩa chống ngoại xâm. Hiện nay ở làng Nam Nguyễn, huyện Ba Vì thuộc vùng Sơn Tây cũ còn ngôi mộ của bà Man Thiện, dân gian gọi là mả Dạ (Dạlà tiếng Việt cồ chỉ một bà già được kính trọng).

Theo truyền thuyết vùng Mê Linh, hai Bà Trưng sinh vào năm 14 đầu Công nguyên, được cha mẹ đặt tên cho là nàng Chắc, nàng Nhì, theo tên gọi của hai lứa kén tằm, kén chắc kén nhì, vùng Mê Linh vốn là một vùng có truyền thống tằm tơ. Thời đó nhà Hán đô hộ nước ta. Vua Hán cử Tô Định làm thái thú quận Giao Chỉ là bộ phận trung tâm của nước Âu Lạc cũ. Tô Định là một tên thái thú tham lam, tàn bạo nổi tiếng đã gây nên bao căm thù uất hận trong lòng nhân dân ta. Vài năm 31 đầu Công nguyên, lúc đó nàng Chắc và nàng Nhì mới ở tuổi mười bảy mười tám ; một hôm hai chị em đang ôn luyện võ nghệ chợt nghe tiếng la ó ngoài trang. Trưng Trắc bảo em chạy ra xem có chuyện gì xảy ra. Nhân dân cho biết Tô Định sai tên thuộc hạ Nguỵ Húc đến bắt dân cống nạp ngà voi, sừng tê giác và lông chim trả, dân không có nộp vì mất mùa, đói kém không đi săn được, hắn cho lính đánh đập dã man nhiều người bị đòn đau đến chết ngất. Trưng Nhị, lòng dạ đau xót như cào, về nói lại cho chị biết. Trưng Trắc bảo em :
- Trong cảnh nước mất nhà tan, giặc Hán đã và đang gieo rắc bao nỗi đau thương tang tóc cho dân ta. Chị chỉ muốn đập tan ngay mọi nỗi bất bằng, diệt hết loài giặc Hán để cứu lấy muôn dân ra khỏi cảnh lầm than chứ chị không thể ngồi yên chốn phòng the được.
Nghe chị nói, Trưng Nhị cũng bày tỏ ý chí của mình :
- Chị em ta cùng chung một giọt máu mẹ cha, nhìn thấy non sông nghiêng ngả, giống nòi đang phải chịu bao nỗi lầm than, lòng em cũng vô cùng căm giận, chí em cũng muốn đập tan tành những nỗi bất công tàn ác, đem vui sướng về với muôn dân.

Nói xong, hai chị em cùng đi đến chỗ Nguỵ Húc và tận mắt trông thấy nó cho quân lính đánh đập dân ta. Trưng Trắc liền chỉ thẳng vào mặt Nguỵ Húc thét mắng. Hắn thấy hai người con gái đều nhan sắc đẹp đẽ, bèn giở giọng giễu cợt. Trưng Nhị căm tức rút những mũi tiêu đeo bên mình lao bay qua đầu hắn. Nguỵ Húc mặt tái xanh van xin được tha tội. Trưng Trắc can em : " Hãy tha tội chết cho nó vì nó chỉ là một tên tiểu tốt vô danh. Cho nó về nói lại với Tô Định phải ngừng tay gây tội ác, nếu tên thái thú ấy vẫn giữ lòng lang sói thì tội chúng sẽ bị trừng trị cũng không muộn ". Nghe lời can của chị, Trưng Nhị ngừng tay nhưng lòng căm giận vẫn bừng lên nét mặt và khoé mắt. Nguỵ Húc thì cuối đầu kéo quân chạy về Luy Lâu để tâu báo với Tô Định.

Định nổi giận quát mắng Nguỵ Húc sai quân đem chéùm đầu Húc cho hả cơn thịnh nộ, rồi sai Tích Lâm đem 300 quân đến vùng Phong Châu bắt dân chúng phải nộp đủ lễ vật, nếu thiếu, Tích Lâm được phép chém đầu. Nó cũng ra lệnh cho Lâm bắt hai người con gái đất Mê Linh về thành Luy Lâu trừng trị.

Tích Lâm vâng lệnh đem quân ra đi nhưng lòng rất e sợ bởi những lời kể lại của Nguỵ Húc về hai người con gái vùng Phong Châu. Đến nơi Tích Lâm giương oai bắt một số dân đến đánh đập hỏi việc cống nạp lễ vật, nhân dân vẫn kêu khất xin nộp dần, hắn nổi giận ra lệnh chém đầu một số người để thị uy. Dân làng hoảng sợ, một số chạy thoát nơi nguy hiểm kia về báo cho hai chị em Bà Trưng biết sự việc thảm khốc đang xảy ra. Nghe xong, nét mặt hai chị em bừng bừng căm giận, liền nai nịt gọn gàng cùng một đoàn tuỳ tùng gồm vài trăm người khoẻ mạnh mang vũ khí đi thẳng đến chỗ tên tướng giặc Tích Lâm đang gây tội ác. Tích Lâm nhìn thấy hai chị em Bà Trưng xinh đẹp cho là phụ nữ yếu ớt không làm gì nổi liền buông lời chọc ghẹo láo xược. Trưng Trắc thét lớn vào mặt Tích Lâm : " Quân khốn nạn ! Bay sẽ phải đền tội trước nhân dân ta ! " rồi đưa mắt ra hiệu cho em và đoàn tuỳ tùng nhằm vào lũ quân của Tích Lâm mà đánh, còn Tích Lâm thì trong nháy mắt đã bị Trưng Trắc chém chết. Quân lính Hán sống sót cố tìm đường chạy thoát thân. Mọi người kính chào, biết ơn và vui mừng vô hạn trước hành động anh dũng của hai chị em Bà Trưng. Tiếng tăm hai chị em bay xa đến huyện Chu Diên.

Thi Sách, con trai lạc tướng Chu Diên (vùng Hà Tây ngày nay) cũng là một người yêu nước và có ý chí quật cường. Thấy nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ cực, Thi Sách đi chu du khắp các vùng của đất nước Âu Lạc cũ tìm bạn hào kiệt để mưu sự cứu nước. Đến trang Cổ Lai thuộc huyện Mê Linh, được nghe kể về sự tàn ác của Tô Định và tài ba cùng lòng dũng cảm của hai người con gái của quan Lạc tướng Mê Linh, Thi Sách rất khâm phục. Hai chị em Bà Trưng vốn đã biết ít nhiều về Thi Sách đón tiếp chàng niềm nở long trọng và mời chàng dự một cuộc đi săn để diệt trừ một con hổ dữ trong rừng Thanh lâm đã từng bắt mất nhiều súc vật và ăn thịt nhiều người trong vùng. Đến tận sào huyệt con thú dữ, Thi Sách xông vào đánh nhau ác liệt với nó; lừa lúc hổ mải vờn Thi Sách đang mệt lử, Trưng Trắc nhanh tay bắn một mũi tên xuyên nát một bên mắt cọp. Chúa rừng vừa khựng lại giữa đà nhảy dữ dội của nó thì Thi Sách bồi tiếp luôn cho nó hai mũi lao hiểm. Nhưng Trưng Trắc chạy tới bên thú dữ trước tiên và kín đáo nhổ biến ngay mũi tên lợi hại của mình giữa lúc con vật khổng lồ còn đang vật vã giãy giụa...Tin Thi Sách giết được con hổ dữ rừng Thanh Lâm làm cho uy tín chàng thêm lừng lẫy.

Năm 39, Trưng Trắc và Thi Sách kết nghĩa vợ chồng. Hôn lễ vẫn theo như lệ cũ của người Việt : vợ chồng tuy đã thành thân, nhưng người nào vẫn ở lại đất của người ấy. Nhưng cuộc hôn nhân giữa con gái Lạc tướng Mê Linh và con trai Lạc tướng Chu Diên, mỗi người làm chủ một phương, thì liên kết được thế lực hai miền đất lớn của nguời Việt cổ và nhân lên gấp bội sức mạnh chống ách đô hộ hà khắc của ngoại bang, bão táp sẽ từ đây bùng ra (5).

Giữa lúc hai gia đình Lạc tướng, với sự ủng hộ của nhân dân đang cùng nhau mưu toan sự nghiệp lớn thìTô Định mời Thi Sách đến toà Thái thú dự yến tiệc. Thiếu cảnh giác truớc âm mưu điệu hổ ly sơn của kẻ thù, Thi Sách đã bị ám hại.

Hành vi bạo ngược hèn nhát của Tô Định không làm Trưng Trắc sờn lòng, trái lại chí căm thù của Bà càng bốc cao như lửa, và quyết tâm đền nợ nước trả thù nhà của hai chị em Bà càng thêm sắt đá.
CUỘC KHỞI NGHĨA RUNG TRỜI CHUYỂN ĐẤT TƯØ CỬA SÔNG HÁT

Trưng Trắc đặt nợ nước lên trên thù chồng. Trước giờ khởi nghĩa, trong đám cừ suý có người xin nữ chủ tướng cử tang Thi Sách và mặc tang phục. Trưng Trắc nói :
- Việc chiến trận phải quyền biến. Nếu ta tự làm tiều tuỵ thì nhuệ khí ắt tan theo. Ta sẽ mặc giáp phục đẹp đẽ uy nghi để dân trông thấy thì phấn khích, mà giặc trông thấy thì kinh hoàng. (Đại Việt Sử Ký toàn thư, ngoại kỷ, quyển 3).

Đúng như lời Trưng Trắc nói, dân Mê Linh thấy Trưng Trắc Trưng Nhị xuất hiện nhanh nhẹn, lộng lẫy, đầy khí thế hùng dũng bước lên mình voi chiến thì tất cả mọi người reo hò rung trời chuyển đất.

Đó là vào một ngày đẹp trời tháng 3, mùa xuân năm 40, Trưng Trắc lúc ấy mới 26 tuổi, hạ lệnh phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát. Hịch khởi nghĩa được thảo ra kể tội ác giặc Hán, nổi thống khổ của nhân dân ta và hô hào nhân dân, nghĩa sĩ các nơi mau mau đứng dậy cùng Hai Bà đuổi giặc cứu nước. Lời hiệu triệu đưa ra chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân yêu nước ở khắp nơi đã rầm rập kéo về tụ nghĩa ở Mê Linh.

Từ Mê Linh nghĩa quân tiến về xuôi, tấn công Luy Lâu (thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) thủ phủ của chính quyền Đông Hán ở Giao Chỉ. Sau đó nhiều cuộc khởi nghĩa khác liên tiếp nổ ra hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, ở khắp 4 quận : Giao Chỉ (Bắc Bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung Bộ) và Hợp Phố (nay thuộc Quảng Đông, Trung Quốc).

Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, tất cả các cuộc khởi nghĩa địa phương đó được thống nhất lại thành một phong trào đồng khởi giải phóng dân tộc rộng khắp quần chúng, từ miền núi đến miền xuôi của nước Âu Lạc cũ. Trong hàng tướng lĩnh của Hai Bà, đa số là tướng nữ như :
- Bà Thánh Thiên, chỉ huy miền Hải Đông
- Bà Lê Chân, nữ tướng vùng An Biên
- Bà Bát Nàn, chỉ huy đội tiền quân
- Bà Thiều Hoa, tướng tiên phong
- Bà Phật Nguyệt, chỉ huy thuỷ quân
- Bà Lê Ngọc Trinh, đại tướng v.v... (6) .

Vùng Vĩnh Phúc, Phú Thọ ngày nay thờ 35 tướng nữ, vùng Hà Tây, Hoà Bình, vùng Bắc Ninh thờ hơn 30 tướng nữ...Và cả nhân dân Tày Nùng ở Việt Bắc, nhân dân Choang ở Quảng Tây (Trung Quốc) cũng còn giữ nhiều truyền thuyết và kỷ niệm về tổ tiên xưa tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
BÀ TRƯNG XƯNG VƯƠNG, HIÊN NGANG PHỦ ĐỊNH UY QUYỀN CỦA ĐẾ CHẾ HÁN

Cuộc khởi nghĩa dấy lên như vũ bảo, Tô Định và bọn quan quân đô hộ chạy tháo thân về nước một cách nhục nhã. Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng và nhân dân Việt cổ đã thu hồi 65 huyện, thành nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Âu Lạc cũ. Nền độc lập dân tộc lại được phục hồi. Bà Trưng Trắc được nhân dân suy tôn làm vua lấy hiệu là Vua Trưngđóng đô ở ngay đất Mê Linh, Bà Trưng Nhị được phong làm công chúa Bình Khôi, phó quốc vương nội chính. Trưng nữ vương xá thuế cho nhân dân hai năm liền và chia các tướng đi giữ các vùng hiểm yếu. Bà Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng mạn bắc, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân, phòng mặt nam, bà Lê Chân phụ trách " chưởng quản binh quyền nội bộ ", còn bà Trưng Nhị thì trấn giữ thành Đền, một vị trí quân sự xung yếu được xây dựng từ những ngày chuẩn bị khởi nghĩa của Hai Bà, phối hợp với thành Mê Linh, nơi Trưng Vương đóng đô, thành một hệ thống phòng ngự rất kiên cố.

Cuộc khởi nghĩa thắng lợi của Hai Bà Trưng là một trang sử bất diệt của dân tộc ta vào đầu Công nguyên trong lúc đế chế Hán đang bước vào thời kỳ thịnh đạt của nó. Thắng lợi của nhân dân Việt cổ, với việc Trưng Trắc lên làm vua nước Âu Lạc cũ đã hiên ngang phủ định cái uy quyền " bình thiên hạ " của đế chế Hán, đế chế mạnh nhất ở phương Đông, sánh với đế chế La Mã mạnh nhất ở phương Tây thời đó. Phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc của Hai Bà là sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc Việt cổ, là sự nổi dậy bất khuất của toàn dân Việt cổ vừa qui tụ vào cuộc khởi nghĩa Mê Linh, vừa toả rộng trên toàn lãnh thổ nước Âu Lạc cũ. Hai Bà Trưng cùng toàn dân giữ vững độc lập, tự chủ trong 3 năm (40 - 43) : đó là chiến thắng của một dân tộc vốn có nền văn hoá lâu dài, có đất nước riêng, có lịch sử anh dũng bất khuất, có khả năng đánh bại mưu đồ thôn tính và đồng hoá của đế chế Hán lớnnhất châu Á trong thời kỳ đang hưng thịnh của nó.

" Đứng đầu khởi nghĩa là phụ nữ. Rất quang vinh cho phụ nữ Việt Nam mà phẩm chất cao quý tương xứng với câu chuyện truyền thuyết về dòng giống Tiên Rồng mà ngày nay loài người tiến bộ ví khí phách ấy với chim phượng hoàng bay trên đỉnh núi cao ngất " (7) .

Bà Trưng Trắc lên ngôi vua chưa đầy hai năm thì nền độc lập của đất nước lại bị đe doạ. Tháng 4 năm 42, Hán Quang Vũ phong Mã Viện, tên tướng già đã từng đàn áp đẫm máu nhiều dân tộc thiểu số và nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân ở Trung Quốc, làm tổng chỉ huy, đem 2 vạn quân và 2 nghìn thuyền xe sang xâm lược nước ta.

Trên đường từ biên giới vào, Mã Viện đã vấp phải sự đánh trả quyết liệt của các nữ tướng : Thánh Thiên, Bát Nàn, Lê Chân...Đến đất Lãng Bạc, (huyện Yên Phong, Hà Bắc) gặp Trưng Vương cùng các tướng lĩnh Việt cổ phát quân từ Mê Linh xuống, Mã Viện phải đánh nhau dai dẳng nhiều trận và hao tổn rất nhiều quân, phải xin thêm viện binh : Hán Quang Vũ cấp tốc gửi thêm cho Mã hai vạn quân thiện chiến. Quân Trưng Vương chiến đấu rất dũng cảm nhưng vì lực lượng chênh lệch nên sau trận đánh lớn ở Lãng Bạc đã rút về Cấm Khê, vùng Suối Vàng và núi Vua Bà (thuộc huyện Thạch Thất, Ba Vì, tỉnh Hà Tây ngày nay). Sau một thời gian anh dũng chống địch ở Cấm Khê, Trưng Vương và quân ta rút lui về giữ thành Mê Linh, Trưng Nhị về giữ thành Dền. Mã Viện đem quân đuổi nhưng đã vấp phải sự chống cự quyết liệt của các nữ tướng Bát Nàn, Thánh Thiên, Hồ Đề...trong nhiều trận đánh ác liệt, còn để lại âm vang trong nhiều tên đất của vùng Mê Linh.
NHỮNG CÁNH ĐÒNG MANG TÊN CHIẾN CÔNG 

Quân Mã Viện vây thành Mê Linh bị quân của Trưng Vương từ trong thành và các đạo quân chung quanh xông ra đánh rất dữ, làm cho giặc Hán chết nhiều phải lui quân ra xa. Nhưng ít lâu sau, giặc lại kéo vào vây thành kéo dài hàng mấy tháng giằng co dai dẳng, hai bên đều thiệt hại mà không phân thắng bại. Nơi đó sau này, nhân dân địa phương gọi lên là cánh đồng Dai.

Có một trận đánh, quân ta đào hố sâu giữa cánh đồng và lợi dụng đêm tối, rút từ trong thành ra nấp kín dưới hố rồi một số quân nhỏ đến gần nơi đóng quân của giặc khiêu chiến. Thấy quân ta ít, giặc liền cho số quân đông gấp bội đuổi theo định bắt sống. Quân ta giả vờ thua chạy về phía cánh đồng bố trí sẵn, giặc bị rơi vào đúng vòng vây, từ dưới hầm kín quân ta xông lên đánh bất ngờ, giặc hoảng hốt chạy đổ xô nhau bị ta chém chết, xác chất cao thành đống. Nơi diễn ra trận đánh đó sau này được đặt tên là cánh đồng Đống.
Lại một trận khác. Mã Viện dùng mưu lừa quân ta ra khỏi thành để đánh, nó cũng cho đào hố và dùng các bụi cây cho quân nấp kín nguỵ trang đánh lừa quân ta. Trưng Vương biết trước mưu giặc liền mật báo cho các đạo quân bên ngoài bố trí đánh theo kế " dùng mưu giặc quật lại giặc ". Đạo quân của nữ tướng Hùng Lự Nương bí mật đến sau lưng địch, mặt trước trận địa quân ta từ trong thành Mê Linh cũng ra ứng chiến vờ như không biết gì, giặc tưởng ta trúng kế liền cho quân toả ra vây bắt. Lập tức quân của Hùng Lự Nương đánh tập hậu rất hăng một cách bất ngờ, giặc bị đánh mạnh cả hai mặt, lúng túng, bỏ chạy tán loạn, hàng ngũ chúng bị tan vỡ, rất nhiều tên phải đền tội ác. Nơi xảy ra trận đánh, sau này được đặt tên là cánh đồng Vỡ.

Sau trận này, bà Trưng Nhị được tin Mã Viện tiếp tục vây hãm thành Mê Linh, liền ra lệnh cho các tướng Lũ Luỹ và Hùng Thiên Bảo đưa quân về đánh giải vây. Trưng Nhị cũng chia đường tiến quân theo các đạo và hẹn nơi hội quân. Quân ta từ ba phía thẳng tiến về thành Mê Linh ; đạo quân của tướng Lũ Luỹ từ đồn Văn Lôi tiến về, đạo quân của Trưng Nhị từ thành Dền kéo đến theo đường chính lộ. Cả ba đạo quân dưới quyền chỉ huy của Trưng Nhị kéo đến gần thành Mê Linh thì được tin giặc Hán đã bị quân của Trưng Vương từ trong thành đánh ra và quân của nữ tướng Hùng Lự Nương đánh từ sau lưng, giặc thua to và đã chạy xa. Bà Trưng Nhị liền hội quân ngay giữa cánh đồng để cho quân nghỉ ngơi rồi cùng hai tướng Lũ Luỹ và Hùng Thiên Bảo và một số tướng lĩnh khác vào thành Mê Linh bái yết Trưng Vương. Trưng Vương mở đại tiệc mừng khoản đãi em và các tướng rồi ra lệnh cho họ rút quân trở về trấn giữ đồn trại cũ. Thế là ba đạo quân nói trên không đánh mà giặc đã tan. Nơi đóng quân nghỉ lại đó sau này được đặt tên là cánh đồng Đỗi (nghĩa là bị đỗi, không được đánh) (5).

Giữ thành Mê Linh đến tháng 5 năm 43, quân ta thua trận. Trưng Vương cùng em về Hát Môn rồi tuẫn tiết giữa dòng sông Hát. Đến đây cuộc kháng chiến do Hai Bà Trưng lãnh đạo về cơ bản đã thất bại, nhưng ở nhiều nơi, nghĩa quân và nhân dân Việt cổ vẫn tiếp tục chống giặc. Bà Thánh Thiên chiến đấu ở vùng Việt bắc, bà Bát Nàn đem quân chặn các cửa rừng hóc núi, bà Lê Chân ra sức lấp suối ngăn sông chặn đánh thuỷ binh địch. Lực tuy kém nhưng tinh thần chiến đấu của nhân dân và các nữ tướng không kém bề hăng hái. Đến tháng 11 năm 43, Mã Viện mới tiến quân được vào đến Cửu Chân, nơi tướng Dô Dương vẫn cầm cự. Các thủ lĩnh địa phương và nhân dân Cửu Chân tiếp tục chiến đấu, Mã Viện tàn sát hàng nghìn nghĩa quân, hàng trăm tướng lĩnh của ta, hơn 300 thủ lĩnh bị bắt và bị đày sang Trung Quốc. Sau gần 20 tháng chiến đấu anh dũng từ tháng 4 năm 42 đến tháng 11 năm 43, cuộc kháng chiến chống giặc Hán và Mã Viện của nhân dân ta mới tạm chấm dứt. Đất nước ta lại mất quyền độc lập.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40 của Công nguyên đã mở đầu cho truyền thống xuân chiến đấu và chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Mùa xuân năm 40 sẽ sống lại với những mùa xuân, oanh liệt vẻ vang khác của dân tộc : xuân năm 248 Triệu Thị Trinh chiến thắng giặc Ngô, xuân năm 542 Lý Bí chiến thắng giặc Lương, dựng nước Vạn Xuân độc lập, xuân 939 Ngô Quyền, người anh hùng của chiến thắng Bạch Đằng thứ nhất xưng vương, dựng nền độc lập lâu dài sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, xuân 981, Lê Hoàn chiến thắng giặc Tống, tái tạo một Bạch Đằng thứ hai, xuân 1077 Lý Thường Kiệt lại chiến thắng giặc Tống trên bờ Như Nguyệt, xuân năm 1288, Trần Hưng Đạo làm nên đại thắng Bạch Đằng lần nữa. Xuân 1789, Quang Trung đại phá giặc Thanh...lịch sử cứ lặp đi lặp lại như một quy luật đối với truyền thống Xuân Việt Nam chiến thắng, khởi đầu từ Hai Bà Trưng. Bản anh hùng ca của Hai Bà Trưng tuy ngắn ngủi nhưng tiếng vang của nó đời đời bất diệt, tiêu biểu cho ý chí vươn lên và tinh thần quyết thắng của dân tộc Việt Nam.
_______________________
(1) Theo Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Lâm
(2) Theo sự nghiên cứu của nhà sử học Trần Quốc Vượng
(3) Trần Quốc Vượng, Trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử, sở Văn hoá thông tin Hà Nội xb, 1970, trang 43 - 65
(4) Theo Tư Mã Thiên, Sử Ký
(5)  Truyền thuyết Trưng Vương, 1975, tr. 10 - 17
(6) Nguyễn Khắc Xương, Nữ tướng thời Trưng Vương, 1976
(7) Lịch sử Việt Nam, 1971, tr. 83

LỜI TẠM KẾT


Chúng ta vừa cùng nhau vẽ phác bức tranh tổng quát về thời bình minh của lịch sử dân tộc. Từ sương mù của quá khứ xa thẳm đã bắt đầu hiện lên một số nét chủ yếu nhất của cuộc sống Việt cổ, hiện lên diện mạo cơ bản của văn minh nước ta thời dựng nước đầu tiên. Về cơ bản, chúng ta đã chứng minh được, với cơ sở khoa học cần thiết, rằng có một thời đại Hùng Vương trong lịch sử, khi đó tổ tiên ta, ước triệu con người quần tụ quanh đất Phong Châu, chuyển mình thành dân tộc, dựng nước. Tổ tiên ta đã đi từ giai đoạn Phùng Nguyên, thời gian mà văn minh Việt cổ mới chớm nụ đã xứng đáng được biểu dương cái hay cái đẹp cái độc đáo, chứng minh dân tộc ta quả là danh bất hư truyền có hàng nghìn năm văn hiến, đến giai đoạn Đông Sơn, thời gian mà văn minh Việt cổ tiến đến đỉnh cao và biểu lộ những sắc thái địa phương đa dạng trong cùng một phong cách : đây là quá trình phát triển sinh động của một nền văn minh sắc sảo, của tộc người Việt cổ đầy sức sống và sức sáng tạo.

Chúng ta đã tiến hành có kết quả một đợt nghiên cứu khoa học đầu tiên về sự nghiệp dựng nước đầu tiên của dân tộc. Nhưng thật ra văn minh Việt cổ cao đẹp tràn đầy sức sống Phùng Nguyên - Đông Sơn, từ xưa vẫn để lại trong lòng những thế hệ Việt Nam một luồng ánh sáng không lúc nào phai mờ : đó là kỷ niệm da diết về truyền thống văn hiến mấy nghìn năm, về sự tạo tác thành công một nền văn minh độc đáo của nòi giống Tiên � Rồng ở ngọn nguồn lịch sử dân tộc

Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu thời đại Hùng Vương bởi vì lúc này đúng là lúc có những kẻ muốn gieo hoang mang, vẫn cứ lặp lại mãi những luận điệu sai trái đã vừa bị khoa học bác bỏ. Họ không phủ nhận được nữa rằngb trên đất nước ta đã từng nảy nở, ở thời gian hàng nghìn năm trước Công nguyên, một nền văn hoá đặc sắc, phát triển cao, sinh ra từ bản địa thì xoay sang đặt câu hỏi : " những tên gọi đối với ta xiết mấy thân thương : " vua Hùng " " dân Lạc ", " nước Văn Lang " thật ra có ý nghĩa chân thực nào không ? Hoặc họ đặt câu hỏi khác : văn minh Đông Sơn rực rỡ thật đấy, nảy nở từ lưu vực sông Hồng thật đấy, thế nhưng trong chừng mực nào người Việt Nam ngày nay là con cháu cư dân đất nước các vua Hùng xưa ? Nước Sở bên hai bờ sông Dương Tử cũng có vua mang hiệu là Hùng...phải chăng là có sự lẫn lộn giữa tên Văn Lang và tên một nước khác là Dạ Lang ? Hoặc họ đặt câu hỏi : Phải chăng chỉ có người Mường là di duệ thật sự của người Việt cổ ? Còn dân tộc Việt, người nước Đại Cồ Việt - Đại Việt tổ tiên trực tiếp của chúng ta, phải chăng chỉ mới xuất hiện dần từ thế kỷ X song song với quá trình dựng nước lúc bấy giờ mà sử sách đã có ghi chép ? Vả lại nói đến " dân tộc " lúc này phải chăng cũng đã là gượng ép : đã có thể nói đến dân tộc được chăng ở những ngày kinh tế nông nghiệp tận dụng tàn dư của tổ chức công xã nguyên thuỷ, vả gần 10 thế kỷ vừa qua ? vân vân và vân vân....

Không phải ngẫu nhiên mà, song song với niềm vui trong nước, ngoài nước trước thành tựu của khoa học lịch sử Việt Nam, nghiên cứu về những trang mở đầu lịch sử dân tộc ta, đồng thời góp được phần soi sáng quá khứ anh em chung của cư dân cả một vùng Đông Nam Á này, thì lại cũng nổi lên đây đó những ý kiến bàn qua bàn lại ngang trái, không có cơ sở khoa học về nguồn gốc dân tộc Việt Nam ta.
Công cuộc nghiên cứu của chúng ta sẽ gạt bỏ dứt khoát hơn nữa những luận điệu hồ đồ, xuyên tạc. Đó là đẩy mạnh khoa học tiến tới khai thác sâu thêm vốn di sản tinh thần của dân tộc.

Trong bản anh hùng ca dựng nước và giữ nước trường kỳ, vĩ đại - thời đại Hùng Vương, thời đại của con người Việt cổ, văn minh Việt cổ là chương đầu tiên mà vô cùng quan trọng.

Những truyền thống tinh thần lớn lao nhất của dân tộc đã bắt đầu từ đấy và được phát huy lên mãi, những phẩm chất cao quý nhất của con người đã hình thành từ đấy và tiếp tục nảy nở qua thử thách của thời gian, của lịch sử.

Tinh thần khai sơn phá thạch, chế ngự thiên nhiên, sáng tạo văn hoá, quyết thắng kẻ thù của Mẹ Âu Bố Rồng, Ông Dóng, Ông Tản, Vua Hùng, Vua Thục, Bà Trưng vẫn luôn ngời sáng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta trước đây, ngày nay và mai sau.

Ý chí đoàn kết quật khởi trong đấu tranh chống thiên tai địch hoạ, mối tình trung với nước, hiếu với dân, đại nghĩa trả ơn dân đền nợ nước, giành độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, mối tình gắn bó nước với nhà, làng với nước, đức tính cần cù thông minh sáng tạo mềm mỏng mà quật cường, bất khuất trước bất cứ nghịch cảnh nào. Tất cả những nét đặc sắc đó đã xuất hiện nơi con người Việt cổ, những người làm ruộng nước, đúc trống đồng và chống ngoại xâm quyết liệt.

Chính nhờ đó mà cách đây hàng nghìn năm, ngay trên giải đất ngày nay chúng ta đang lao động, chiến đấu để gìn giữ, điểm tô cho thêm đẹp giàu và vững mạnh, đã xuất hiện nền văn minh Việt cổ, nền văn minh sông Hồng ở trình độ khá cao, một đóng góp đáng kể vào nền văn minh xa xưa của loài người, một niềm tự hào chính đáng của dân tộc Việt nam văn hiến.

Nền văn minh ấy nói lên thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt cổ chống thiên nhiên và ngoại xâm, ổn định nếp sống của mình, nói lên thành quả tốt đẹp của lao động và tư duy sáng tạo ở một cộng đồng người đã khá đông biết đoàn kết lại với nhau trong một gia đình lớn gồm nhiều thành phần dân tôc, cùng là người của đất Việt, cùng chung một sự nghiệp, một Tổ quốc thiêng liêng. Khi chúng ta khẳng định : " Đồng bào Kinh hay Tày, Mường hay Dao, Gia Rai hay Ê-Đê, Xê-đăng hay Ba-na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt...sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau " thì đó chính là tiếng nói của Tổ quốc thiêng liêng từ ngàn xưa vọng lại. Tính đa dạng muôn màu muôn vẻ của nền văn minh Việt cổ được phản ánh lại ít nhiều trong mỗi một nền văn hoá của các dân tộc anh em đang sống trên đất nước Việt Nam ngày nay là một bằng chứng hùng hồn về truyền thống đoàn kết thống nhất vĩ đại của nhân dân Việt Nam bắt nguồn từ nền văn minh Việt cổ ấy.

Tinh thần dân tộc, ý thức dân tộc đã hình thành và nảy nở rất sớm trong hoàn cảnh chung lưng đấu cật, chia ngọt sẻ bùi, chan hoà với nhau giữa người Việt cổ, cùng nhau trưởng thành nhanh chóng vượt bậc trước gian lao, thử thách. Tình yêu nước và chủ nghĩa anh hùng là sản phẩm tất yếu của tinh thần đoàn kết, tập thể, cộng đồng được hun đúc trong cuộc sống tương thân tương ái giữa các làng chạ, bộ tộc Việt cổ trên mảnh đất quê hương giàu đẹp, khắc nghiệt và quật cường.

Con người Việt cổ khẩn trương trong sản xuất và chiến đấu, sử dụng nhiều nghị lực để chiến thắng thiên nhiên và giặc giã, cũng là con người nhởn nhơ, vui chơi múa hát trong ngày hội mùa, ung dung thư thái ngồi thổi khèn, hay phấn chấn nhiệt tình ngồi tham gia vào cuộc đua thuyền rộn rịp trên sông nước bao la. Sau những tháng ngày vất vả làm ăn và đánh giặc, người Việt cổ tự ru mình trong giấc mơ thanh bình, trong ước vọng gió thuận mưa hoà, con đàn cháu đống, trong niềm khát khao về cái đẹp. NgườiViệt cổ yêu cái đẹp, cần cái đẹp trong nghệ thuật và ngay trong cuộc sống hàng ngày, như là một yêu cầu về sự hài hoà, tế nhị, về sự tròn trặn, vuông vức, cân phân, đối xứng, gọn mắt, vừa tay, vừa tầm con người. Từ cái đuôi thuyền, cái mái nhà sàn cong cong đến dáng hình khỏe mà thanh của ngọn giáo, mũi dao, dáng hình hài hoà cân đối của chiếc trống, chiếc thạp...sắc thái dântộc toả ra tươi mát, vừa mềm mại uyển chuyển lại vừa rắn rỏi, vững vàng, như muốn phản ánh tâm hồn Việt cổ tao nhã mà hăng say, thành khẩn mà thong dong, bình dị.

Người đời sau ngạc nhiên về trình độ tư duy của những con người đã sáng tạo ra nền văn minh Việt cổ : một tư duy thiết thực cụ thể, biết chủ động hướng vào những vấn đề thực tiễn nhất như làm ăn sinh sống, yêu nước thương nòi, hoà hợp bộ tộc, đoàn kết dân tộc, đồng thời cũng là một tư duy khoa học, một tư duy thẩm mỹ hướng về trừu tượng đã quen thuộc với những khái niệm về đối xứng và cách điệu, những hình tượng thần thoại và anh hùng ca hào hùng, mỹ lệ, những đồ án nghệ thuật tạo hình hiện thực, cô đúc, gãy gọn và sống động.

Qua tiến bộ kỹ thuật và sáng tạo văn nghệ, qua phong tục tập quán, tín ngưỡng và tư duy, con người thời đại dựng nước quả đã đạt đến một trình độ văn minh cao đẹp với tất cả những gì là lành mạnh, tươi mát, hồn hậu, tế nhị, lạc quan phơi phới.

Hai nghìn năm văn hiến đầu tiên ấy đã xây dựng cho dân tộc Việt nam một nền tảng vật chất và tinh thần vững chắc, kiên cố. Những cuộc chạm trán ác liệt giữa ý chí độc lập tự do Việt Nam và chủ nghĩa bành trướng đế quốc, thực dân chỉ làm cho dân tộc Việt Nam khẳng định lại bản lĩnh và phong cách của mình, đồng thời tiếp thu một số ảnh hưởng bên ngoài làm giàu thêm bản lĩnh và phong cách ấy. Đó là một qui luật lớn của lịch sử Việt Nam từ thời đại các vua Hùng đến ngày nay.

Đành rằng văn minh Việt cổ không để lại những nhà hiền triết, những nhà bác học, những áng văn lớn, như ở Hi Lạp, Ai cập, Trung Quốc, Ấn Độ cùng thời, không để lại những công trình kiến trúc vĩ đại như Tháp Chữ Kim, Trường thành Vạn Lý, Đế Thiên Đế Thích...Nền văn minh được tiêu biểu bằng những chiếc trống đồng hình như có vẻ khiêm tốn quá, thiếu hẳn mặt lộng lẫy đồ sộ nguy nga so với các thành tựu to lớn mà một số nền văn minh cổ đại thế giới đã để lại.

Phải chăng chúng ta có một lịch sử chống ngoại xâm thành công bên cạnh một nền văn hoá thanh nhã nhưng không lấy gì làm to lớn lắm ?

Phải chăng vì nước ta không rộng, dân ta không đông, từ xưa vốn nghèo lại luôn luôn bị chiến tranh tàn phá, hay là vì dân ta không cần cù, dân ta thiếu tài năng để xây dựng những công trình bề thế vĩ đại ?

Thực ra tiêu chuẩn chân chính của một nền văn minh không phải ở kích thước to lớn, khối lượng nhiều, vật chất phong phú thừa thãi. Một nền văn minh thật sự lớn là ở những giá trị tinh thần, ở những bài học về phẩm chất con người, ở chủ nghĩa nhân văn truyền lại cho đời sau.

Chủ nghĩa nhân văn thời dựng nước đã để lại cho chúng ta nhưng bài học tốt đẹp về ý nghĩa cuộc sống về giá trị con người ở chỗ nền văn minh mà tổ tiên ta xây dựng nên trong trường kỳ chống thiên nhiên, chống ngoại xâm, chống áp bức, là một nền văn minh có chú trọng đến vật chất, đến sản xuất nhưng chủ yếu đi vào chiều sâu của tâm hồn, tình cảm, ý chí và phẩm chất con người. Tổ tiên ta không vì hư danh, vì hưởng thụ mà xây dựng nên những công trình tốn công tốn của đến nỗi phải hy sinh nhiều tính mạng người để chiều theo ước vọng ngông cuồng của những tên bạo chúa. Tổ tiên ta chỉ muốn phát huy cái thông minh, sáng tạo, cái khéo léo, tài hoa để phục vụ cuộc sống phục vụ cộng đồng.

Tinh hoa của nền văn minh Việt cổ chính là tấm lòng yêu nước thương dân, vì hạnh phúc con người mà lao động hăng say, mà chiến đấu anh dũng, mà mơ tưởng hoà hợp, thanh bình. Tinh hoa ấy là ở những nét tinh vi, tế nhị, hài hoà, tao nhã tô điểm cho cuộc sống hàng ngày, là ở những giá trị nhân văn thiết thực gần gũi con người chứ không phải những ý tưởng cao xa, diệu vợi đối với con người.

  

u tầm: Nguồn ông Lê Văn Hảo

Không có nhận xét nào: