Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

Gia Định thành thông chí - Trịnh Hoài Đức

Giới thiệu tác giả

Trịnh Hoài Đức (1765(<1><1>) -1825) có tên gọi khác là An, tên tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai; tổ tiên gốc người huyện Trường Lạc, Phúc Kiến (Trung Quốc). Đầu đời nhà Thanh, ông nội là Trịnh Hội (hiệu Sư Khổng) di cư qua Việt Nam, ngụ tại Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay).

Cha Trịnh Hoài Đức là Trịnh Khánh, đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) được bổ làm Cai thu, sau được thăng Cai đội. Khi cha mất, Trịnh Hoài Đức mới 10 tuổi, sau theo mẹ dời vào Phiên Trấn (Gia Định - TP. Hồ Chí Minh ngày nay). Tại đây, ông theo học Xử sĩ Võ Trường Toản.

Năm Mậu Thân (1788), khi Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, Trịnh Hoài Đức cùng nhóm Lê Quang Định ra ứng cử, được bổ làm Hàn lâm viện Chế cáo. Năm 1789, ông nhậm chức Điền Tuấn sứ huyện Tân Bình. Sau đó, ông đổi qua bộ Hình, kế nhiệm chức Thị giảng Đông cung. Năm 1794 ông được bổ làm Ký lục dinh Trấn Định (Mỹ Tho ngày nay). Năm 1801, Trịnh Hoài Đức làm Tham tri bộ Hộ.

Năm 1802, Trịnh Hoài Đức được thăng Thượng thư bộ Hộ, làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Năm 1804, ông hộ giá Gia Long về Phú Xuân, vẫn đảm nhiệm chức Thượng thư bộ Hộ.

Năm 1802, Trịnh Hoài Đức được cử làm Hiệp Lưu trấn Gia Định. Năm 1808, Gia Định trấn được đổi thành Gia Định thành, Trịnh Hoài Đức được bổ làm Hiệp Tổng trấn.

Năm 1812, ông được triệu về kinh, cải nhiệm Thượng thư bộ Lễ, kiêm quản Khâm Thiên giám. Năm sau (1813), ông được chuyển sang làm Thượng thư bộ Lại. Đến năm 1816, ông lại được nhiệm chức Hiệp Tổng trấn Gia Định thành.

Năm 1820, thời Minh Mạng, ông tạm lãnh chức Tổng trấn Gia Định thành, sau đó được triệu về kinh, lãnh chức Thượng thư bộ Lại.

Năm 1821, Minh Mạng thăng cho Trịnh Hoài Đức hàm Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Lại kiêm Thượng thư bộ Binh, trở thành nguyên lão của triều đình.

Tháng 3 năm 1822, ông được sung làm Chánh Chủ khảo trường thi Hội; tháng 11, ông kiêm lãnh Thượng thư bộ Lễ. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tháng 7 năm 1823, Trịnh Hoài Đức xin về Gia Định nghỉ vì sức khỏe. Đến tháng 9 cùng năm, ông trở lại kinh lãnh chức Thượng thư bộ Lại và bộ Lễ. Tháng 10 cùng năm, ông trở về Gia Định liệu việc nhà. Tháng 3 năm 1824 trở ra kinh, lãnh chức Thượng thư bộ Lại kiêm quản Lễ bộ sự vụ. Tháng 7 cùng năm, ông được sung chức Tổng tài và quyền lãnh công việc ở ty Thương Bạc. Chẳng bao lâu, do bệnh nặng, tuổi cao, ông từ trần tại Quỳ Viên (3 1825), thọ 61 tuổi.

Khi ông mất, triều đình cho bãi triều ba ngày, truy tặng ông làm Thái bảo, Cần Chánh điện Đại học sĩ (hàm Chánh nhất phẩm), đặt tên thụy là Văn Khác. Thi hài ông được đưa về chôn tại quê nhà: làng Bình Trước, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long (nay là phường Trung Dũng, TP. Biên Hòa).

Tác phẩm của Trịnh Hoài Đức gồm có:

- Cấn Trai thi tập gồm 3 tập: Thối thực truy biên tập, Quan quang tập, Khả dĩ tập.

- Gia Định Thành thông chí.

- Bắc sứ thi tập (có ý kiến cho rằng Bắc sứ thi tập chính là Quan quang tập trong Cấn Trai thi tập.

- Lịch đại kỷ nguyên.

- Khang tế lục.

- Gia Định tam gia thi tập: chung với Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh.

Đương thời, ông cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh được mọi người tôn làm Gia Định tam gia.

1. Tĩnh Dã Chí (Về các ngôi sao)

Trời gắn sao ở trên, đất cắm núi ở dưới, loài người được nuôi dưỡng phát triển tốt đẹp ở giữa; tam tài lưu thông, nên mọi vật được thành tựu.

Nước Việt ta, cơ đồ dựng ở Viêm Thiên (<2><1>) như rồng uốn quanh Quế Hải (<3><2>)¬¬¬, thánh thần kế truyền, dân ấm no, vật thịnh vượng. Vàng tốt có ở phủ Thăng Hoa, phủ Điện Bàn, kỳ nam sinh ở Khánh Hòa, Yên Quảng sản xuất ngọc trai, Thanh Hoa (Thanh Hóa) sản xuất nhục quế. Của quý trong đất đai, vật tốt nơi núi biển, của cải phong phú như vậy là do sự ngưng tụ khí thiêng của trời đất, hòa hợp gom góp mà sinh ra vậy.

Nay xét sách Xuân thu, chương Nguyên mạng bao (<4><3>) nói: Sao Khiên Ngưu (<5><4>) đóng ở địa phận Dương Châu, phân làm nước Việt. Chu lễ sớ <1b> nói về vị trí của Ngô, Việt và Dương Châu rằng: Nam Đẩu (<6><5>) ở hạ lưu sông Ngân Hà, đóng vào khoản Hoài Hải (<7><6>) là phần của nước Ngô; sao Khiên Ngưu xa sông Thiên Hà (<8><7>), từ Dự Chương (<9><8>) đến Cối Kê (<10><9>), về phía nam vượt quá Ngũ Lãnh (Lĩnh) phần của nước Việt. Lại nói thêm: Các châu ở Nam thuộc phía đông thượng nguồn sông Ngân Hà, thuộc sao Thuần Hỏa (<11><10>) mà các sao Liễu, sao Tinh, sao Trương (<12><11>) đều đóng ở trung châu, không phụ liền với đất miền biển, cho nên Nam Việt thuộc sao Thuần Vĩ (<13><12>).
Chương Địa lý chí - Tiền Hán thư (<14><13>) chép rằng: Việt Nam ở vào phần sao Khiên Ngưu và sao Vụ Nữ (<15><14>). Theo sách Tinh kinh (<16><15>) sao Khiên Ngưu có 6 ngôi thì ngôi thứ 1 và thứ 2 là chủ về Nam Việt, 2 sao ấy sáng tỏ thì vương đạo vượng tốt. Hoài Nam tử trong Thiên Văn huấn Tinh bộ địa danh nói: Nước Ngô, nước Việt thuộc sao Ngưu, sao Tu Nữ (<17><16>). Thẩm Hoài Viễn (<18><17>) trong Nam Việt chí (<19><18>) nói: Đất Nam Việt thuộc phần sao Ngưu, sao Nữ, Đường thư - Thiên văn chí (<20><19>) chép: Sao Nam Đẩu là phần nước Ngô, <2a> sao Khiên Ngưu là phần nước Việt. Sách Sơn đường khảo sách (<21><20>) lại nói: sao Ngưu, sao Nữ, là phần nước Việt. Xét: Thuở đời Đường có người đi đến Quỳnh Hải (<22><21>) vừa lúc tháng 8, thấy dưới sao Lão Nhân ở Nam Cực có vô số sao lớn mà thời xưa chưa đặt tên. Sách Sử ký - Thiên quan thư (<23><22>) chép: Sao Hồ Thỉ (<24><23>) hướng thẳng vào sao Thiên Lang (<25><24>). Dưới sao Thiên Lang gần đất có sao lớn, gọi tên là Nam Cực Lão Nhân. Sao Lão Nhân (<26><25>) xuất hiện thì nước được yên, thường đến tiết thu phân thì trông thấy ở hướng Nam. Tinh kinh chép sao Hà Mậu có 6 ngôi giáp sao Đông Tỉnh (<27><26>) ở hai hà Nam Bắc, mỗi hà có ba sao. Ba sao ở Nam Hà gọi là sao Nam Thú, sao ấy gần sao Lão Nhân, chủ về cửa ngõ nước Việt. Muốn xem sao xứ Việt Nam thì xem sao Nam Thú, và muốn xem sao Nam Thú thì xem sao Nam Đẩu. Xét 6 sao Nam Đẩu, trong có sao thứ 3 phía tây cách cực 1190 là chủ xứ Nam Việt. Vậy thì đất Gia Định gần giới hạn sao Ngưu, là sao thứ nhất ở phía nam của chùm sao Nam Thú, là sao thứ hai đóng ở sao Nam Cực Lão Nhân, gần bên phần sao Tỉnh <2b> mà không thuộc phần của sao Tỉnh. Như vậy, đất Gia Định tuy ở phía nam mà lại có thế tiến tới hướng Đông vậy. Vả lại sao Lão Nhân thường đến tiết thu phân trời trong tạnh thì thấy xuất hiện ở vị trí Bính Đinh (phương Nam), gần nơi Nam Cực, cho nên gọi là sao Nam Cực Lão Nhân, không phải ở ngay nơi Nam Cực; cũng như sao Bắc Đẩu không phải ở ngay chỗ Bắc Cực. Qua khỏi khoảng đó, Nam Cực lên cao dần, Bắc Cực xuống thấp dần, những sao ngoài phạm vi cực ấy thì trong sách Tinh kinh phần nhiều không thấy chép. Ở đất Gia Định đến ngày Mang Hiện (Tua Rua Hiện) hàng năm người ta thường xem sao để gieo mạ. Ví như thấy sao Lê Vĩ (sao Chuôi Cày) xuất hiện thì mạ chết, thấy sao Trư Vĩ (Đuôi Heo) xuất hiện thì mạ vàng, 2 sao ấy đều ở dưới sao Lão Nhân mà từ xưa cũng chưa đặt tên là sao gì.

XEM KHÍ HẬU (Phụ)

Phương Nam thuộc quẻ Ly, Ly là tượng mặt trời, thuộc hỏa. Người Gia Định ở vùng gần biển, thường thấy trước mặt trời mới mọc, hình thể to lớn <3a> bởi vì biển Nam cách nơi mặt trời mọc không xa, cho nên trông thấy mặt trời lớn (<28><27>). Vả lại thấy trọn cả phần ngoài của mặt trời cho nên hình nó lớn. Vành ngoài có lớp ánh sáng, vành trong chiếu tia sáng, khi đầu mới mọc thấy phần ngoài trước mà chưa thấy phần chói sáng ở trong. Phần ngoài thuộc âm khí, chưa phải là dương khí, rồi lại bị khí núi rừng sông đầm bốc lên che lấp, nên thấy nó lớn mà lại mát mẻ.

Khí hậu Gia Định thường ấm, cứ vào quí xuân (tháng 3) mới bắt đầu mưa, mùa hạ là mùa mưa chính, mùa thu thì mưa rào, mỗi khi mưa to chẳng khác nghiêng vò mà đổ, nhưng chỉ trong 1, 2 giờ rồi tạnh nắng. Cũng có đôi khi mưa dầm dề 1, 2 ngày, nhưng không có khi nào khổ vì mưa cả tuần cả tháng. Tuy 4 mùa đều có mưa nhưng chỉ tiết đông chí mới hơi lạnh. Khí hậu không thường nên 4 mùa hoa đều đua nở tỏa ngát hương thơm, khi trời mát trăng trong tức là Trung thu, không cần phải lấy tháng ngày mà xét đoán. Tô Thức ký (<29><28>) có câu: Tứ thời câu thị hạ, Nhất vũ tiện thành thu (bốn mùa đều nóng như mùa hạ, một trận mưa trở thành mùa thu). Lại có câu: Lãnh (Lĩnh) Nam vạn vật giai xuân sắc <3b> (muôn vật ở Lãnh (Lĩnh) Nam đều có sắc xuân). Khí hậu Gia Định giống như thế.

Khí trời Nam Việt nóng mà đất lại ẩm thấp do âm hỏa hun đúc, khí biển tác động thành ra sấm, cho nên mỗi khi mưa thì đồng thời có sấm sét. Chất đất ở nơi bờ biển lại thưa mỏng, không đủ chứa hỏa khí cho bền chặt, nên lúc dương khí quá mạnh, gặp âm khí xông lên, chúng chạm nhau hóa ra đường lửa chớp, gặp những vật đứng cao như cột buồm hay cây cối ngăn trở, khí ác đó bèn bị ép mà nổ tung vào, vậy thì người hay vật bị sét đánh chết là bởi gặp rủi ro bất chợt thôi (<30><29>), còn mùa đông mà có sấm sét là sự thường.

Gia Định ở về phương Ly (<31><30>), âm ít mà dương nhiều, thường có nhiều gió nam. Vì mặt trời ở phương Nam mà gió cũng từ phương Nam đến, nên có nhiều gió nam thổi mạnh, nhưng không lo có gió bão, bởi gió bão là gió tập hợp đủ cả 4 phương lại <4a>. Gió khởi đầu ở phía đông bắc, tức từ phía bắc thổi qua tây, khởi đầu ở phía tây bắc, tức từ phía bắc thổi qua đông, nhưng đều đến phía nam thì ngừng. Vả gió ở Gia Định lấy phía nam làm hướng chính, phàm gió bão ắt phải quay về phía nam rồi ngừng, cho nên Gia Định không có gió bão.

Gia Định núi chằm thông thoáng, lại nhiều gió thổi, không tụ được khí lam chướng, mà lại ở ngoài Ngũ Lãnh (Lĩnh) (<32><31>) nên không có băng tuyết. Vả móc là khí thuần kim, phương Nam thì hỏa thạnh (thịnh) kim suy, đến tiết cuối thu khí trời vẫn còn nóng, khí kim không đọng thành giọt được nên ít có móc, ít móc nên không kết tụ thành sương, cho đến mùa đông thấy lá úa vàng rụng mới biết có sương rơi chút ít mà thôi.

Khí núi chằm khi mới bốc lên thành khói mù, lên giữa trời làm ra mây, cuối cùng làm ra mưa, mưa ấy do mây mà ra, mây từ trong núi bay ra thì gây u ám, từ biển bay vào thì gây mưa. Ở Gia Định thường có nhiều mây đỏ, ấy là do Ly hỏa phát sanh, có mây <4b> từ trong đất liền bốc lên mù mịt đen tối tỏa rộng đến 1, 2 dặm, ẩn hiện như đầu rồng hoặc như đuôi rồng, đến khi gặp gió cuộn lại thì nước phun lên làm cho sông cạn đầm khô, nhà cửa cây cối bay tốc, khí mù đen xoáy tròn từ dưới đất xoáy lên rồi bỗng nhiên mưa lớn, tục gọi là rồng lấy nước nhưng hiện tượng ấy cũng ít thấy.

Nước là mạch máu của đất, tùy theo khí đưa đẩy mà làm ra ngọn triều, buổi sáng lên gọi là triều, buổi chiều xuống gọi là tịch, nhưng gọi chung là thủy triều. Triều cùng mặt trăng hưởng ứng với nhau, hoạt động của âm dương không sai với thời tiết, nên gọi triều tín. Ta thường thấy khi nước vừa lớn thì có gió; khi nước đứng thì gió lặng; sau ngày mùng một, ngày rằm 2 - 3 ngày nước bắt đầu lên, gió cũng thổi mạnh; sau các ngày thượng huyền (ngày 8 và ngày 9) và hạ huyền (ngày 22, 23) 2, 3 ngày nước rút dần xuống thì gió cũng dịu dần, bởi vì gió là mẹ của nước, nên mới nói nước sinh ra bởi gió là vậy. Thủy triều ở Gia Định có khác so với các nơi, mỗi tháng có 2, 3 ngày nước ươn (không có lớn, ròng) mùa đông thì tới 3, 4 ngày. Tháng 8 tháng 9 (<33><32>) <5a> thủy triều lớn khác thường, tiết hạ chí lớn vào ban ngày, tiết đông chí lớn vào ban đêm; ngày 25, 26 nước bắt đầu lên, đến mùng một đã mạnh, qua mùng 3 lại mạnh hơn nữa, rồi sau dần dần nhỏ lại. Đến ngày 11, 12 thì nước lại lên, đến ngày rằm đã mạnh, qua ngày 18 (<34><33>) mạnh hơn nữa, sau lại nhỏ dần. Ấy là do xem theo mặt trăng đầy vơi làm chừng. Tục thường lấy khi nước lớn làm thủy đầu, tục gọi đầu con nước cũng gọi nước rong, nước sát xuống làm thủy vĩ tục gọi cuối con nước, cũng gọi nước kém. Dân đánh cá thường xem buổi nước lớn nước ròng mà hành nghề đánh bắt, khi đầu con nước thì nhiều cá, khi cuối con nước thì ít cá. Khi giao thời giữa mùa hạ và mùa thu, con nước lớn buổi mai chưa xuống, mà con nước ròng buổi chiều đã nối tiếp, thêm có gió đông nam kế tiếp đẩy mạnh nên nước biển dâng lên, ấy gọi là đạp triều (tục gọi là nước ươn rong) (<35><34>). Ấy là do triều tịch biến chuyển mà nước không ứng kịp theo tiết nhịp vậy. Gia Định giáp bờ biển, dưới thềm biển có nhiều dòng nước chảy ngầm trong lòng biển, nên thủy triều dâng mạnh, mau tràn ngập bờ bến. Vả lại, địa thế phía tây bắc rất cao <5b>, phía đông nam lại rất thấp, cho nên khi nước rút lại chảy cuồn cuộn về phía đông, làm cho bãi sông khô cạn. Người ta đo được mực nước rút lui sâu xuống đến 13 thước ta (<36><35>).

Vùng các huyện, đạo (<37><36>) nằm dọc theo bờ biển Gia Định, đất đai thường ẩm thấp, khí dương thường tiết ra, khí âm thấp thường nung nấu; khí dương tiết ra, nên thân người đoạn trên úng trệ, sớ thịt thưa khô, nhiều mồ hôi ướt thấm lưng, mùa hạ ưa uống nước mát, đến mùa thu, mùa đông thường phát bệnh sốt rét, bởi vì hàn khí nhiễm vào tỳ, mà tỳ là thuộc thổ, chủ tín (đúng hẹn), cho nên cữ sốt rét thường phát vào khoảng thời gian nhất định trong ngày chẳng sai chạy. Gia Định là nơi chứa khí Khiên dương (<38><37>), tích tụ khí thấp nhiều, trong 1 năm gió mưa lạnh ấm, ít khi theo đúng thời tiết, cho nên có nhiều luồng gió nghịch mùa, mà con người thì sớ thịt thưa hở, dễ bị ngoại tà cảm mạo, bởi bệnh phát thường từ gió, rồi gió độc ấy nhiễm sâu vào trong, thành ra bệnh phong. Xem trong chữ phong có chữ Phong (gió) thì biết nguyên nhân của bệnh ấy (<39><38>).

------------------------------------------

Chú thích:

(<1><1>) Có tài liệu nói ông sinh năm 1764.

(<2><1>) Viêm Thiên (
炎天): Sách Lã thị Xuân thu ghi: Phương Nam gọi là Viêm Thiên. Chú: "Nam phương
tháng năm kiến ngọ, là trung tâm của lửa. Lửa đứng đầu nóng bức, cho nên mới gọi là Viêm Thiên".

(<3><2>) Quế Hải (
桂海): Biển Nam Hải có nhiều quế nên gọi là Quế Hải. Thơ "Viên Thái úy thúc tùng giá" của Giang Yêm: Văn Chẩn bạt Quế Hải, Thanh giáo chúc băng thiên.

(<4><3>) Nguyên mạng bao (
元命苞): Cũng viết 元命包 là một loại sách sấm kí coi về âm dương của Xuân thu. Sách này đã thất lạc.

(<5><4>) Khiên Ngưu (
牽牛): Tên ngôi sao. Thời xưa lấy Khiên Ngưu làm biệt danh của Ngưu Tú, nay đều
cho là tên riêng của Hà Cổ. Ngưu Tú là một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, là ngôi sao thứ hai của chùm sao Huyền Võ, có 6 sao, đều thuộc tòa Ma Yết.

(<6><5>) Nam Đẩu (
南斗): Còn gọi là Đẩu Tú, là tên một ngôi sao. Sách Tinh kinh chép: "Năm ngôi Đẩu Tú ở về phía tây Nam của Hoạn tinh, chủ về cân đong, đo lường".

(<7><6>) Hoài Hải: (chưa tra cứu được).

(<8><7>) Thiên Hà (
天河): Còn gọi là Ngân Hà, Tinh Hà, Minh Hà, Giáng Hà, Trường Hà, Thu Hà, Ngân Hoàng, Ngân Hán, Thiên Hán, Vân Hán, Hà Hán, Tinh Hán, Thiên Hàng, Thiên Tân, chỉ dãy ngôi sao tập hợp thành một chuỗi dài vô cùng, màu mây trắng rất dễ nhìn thấy.

(<9><8>) Dự Chương (
豫章): Tên đất xưa, là vùng đất Hán Đông, Giang Bắc, tức tại Giang Bắc, Hoài Nam, Trung Quốc ngày nay.

(<10><9>) Cối Kê (
會稽): Tên quận do nhà Tần thiết lập, nay ở phía đông Nam tỉnh Giang Tô và tỉnh Chiết Giang. Đời Tống đổi làm phủ Thiệu Hưng.

(<11><10>) Thuần Hỏa (
鶉火): Tên sao, còn gọi là Tâm Tú, Liễu Tú, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ năm trong bảy ngôi sao Thương Long, thuộc Yết Tòa. Tâm Tú còn được gọi là Thương tinh.

(<12><11>) Liễu - Tinh - Trương (
- - ): Đây là ba ngôi sao thuộc phương Nam trong Nhị thập bát tú. Sao Liễu tức sao Thuần Hỏa (xem chú thích chữ Thuần Hỏa bên trên). Sao Tinh là một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ hai trong chòm sao bảy ngôi Chu Điểu. Sao Tinh có bảy ngôi, 6 ngôi thuộc Trường Xà tòa, chỉ riêng sao Tinh là một tòa chiếu sáng lẻ loi. Sao Trương là sao Thuần Vĩ ( xem chú thích sao Thuần Vĩ bên dưới).

(<13><12>) Thuần Vĩ (
鶉尾): Tên sao còn gọi là Trương Tú, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ năm trong chòm sao Chu Điểu, có 6 ngôi tất cả, đều thuộc Trường Xà tòa.

(<14><13>) Tiền Hán thư - Địa lý chí (
前漢書地理志): Tiền Hán tức thời kỳ đầu nhà Hán tính từ Hán Cao Tổ Lưu Bang sáng nghiệp cho đến Nhụ Tử Anh. Hậu Hán tính từ Hán Quang Vũ cho đến Hiến Đế. Tiền Hán thư - Địa lý chí có lẽ là sách địa lý trong Hán thư thời Tiền Hán.

(<15><14>) Vụ Nữ (務女): Tên ngôi sao, tức là Nữ Tú, Tu Nữ, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi sao thứ ba trong chòm sao Huyền Vũ bảy ngôi. Sách Nhĩ nhã chép: "Vụ Nữ tức sao Tu Nữ". Sách Bát nhã cũng viết: "Tu Nữ là sao Vụ Nữ".

(<16><15>) Tinh kinh (
星經): Tên sách thiên văn xưa. Tống sử Nghệ văn chí có "Cam Thạch vu hàm thị Tinh kinh" một quyển, "Lưu Biểu Tinh kinh" một quyển.

(<17><16>) Tu Nữ (
須女): Tu Nữ tức sao Vụ Nữ bên trên.

(<18><17>) Thẩm Hoài Viễn (
沈懷遠): (Tra chưa ra).

(<19><18>) Nam Việt chí (
南越志): Có lẽ là sách viết về nước Nam Việt bên Trung Quốc. Xưa Hán Cao Tổ
phong Triệu Đà làm Nam Việt vương. Sau khi Triệu Đà mất, đến đời Ai vương, Thái hậu họ Cù vốn người Hán muốn dâng nước cho nhà Hán bị Tể tướng Lữ Gia giết, tôn lập Kiến Đức làm vua (tức Thuật Dương vương). Sau Hán cử Lộ Bác Đức sang đánh bắt được Lữ Gia, Nam Việt diệt vong.

(<20><19>) Đường thư, Thiên văn chí (
唐書天文志): Sách thiên văn trong bộ Đường thư. Đường thư chia ra Tân Đường thư và Cựu Đường thư. Tân Đường thư do Âu Dương Tu và Tống Kì đời Tống soạn gồm 225 quyển. Cựu Đường thư gồm 200 quyển do Lưu Hú đời Hậu Tấn phụng sắc soạn.

(<21><20>) Sơn đường khảo sách (
山堂考索): Tên sách do Chương Dư Ngu đời Tống soạn, tiền tập 60 quyển, hậu tập 65 quyển, tục tập 56 quyển, biệt tập 25 quyển. Tiền tập chia ra làm 30 loại, hậu tập chia ra làm 7 loại, tục tập 15 loại, biệt tập 11 loại, đề mục đều khác nhau, nhưng đại để phần nọ bổ sung cho phần kia nên thể thức rất phức tạp, tuy nhiên dẫn cứ sâu sắc, khảo biện tinh tường, là một quyển sách tốt thời Nam Tống.

(<22><21>) Quỳnh Hải (
瓊海): Còn gọi là Quỳnh Châu, Quỳnh Châu đảo, tức đảo Hải Nam ngày nay, ở phía nam huyện Quỳnh Sơn, tỉnh Sơn Đông.

(<23><22>) Sử ký, Thiên quan thư (
史記 - 天官書): là sách Thiên quan trong bộ Sử ký, tức sách thiên văn thời xưa. Thiên quan là từ chỉ tinh quan trong môn thiên văn, bởi tinh tòa có thứ bậc cao thấp cũng giống như tôn ti trong quan chức triều đình, cho nên mới gọi là Thiên quan.

(<24><23>) Hồ (
): tức sao Hồ Thỉ (弧矢). Theo sách thiên văn Sử ký Thiên quan thư thì ở dưới sao Thiên Lang có bốn ngôi sao gọi là Hồ hướng thẳng vào sao Thiên Lang (Chính nghĩa): Chín ngôi sao Hồ ở đông nam sao Lang, là cây cung của trời. Hồ Thỉ hướng thẳng về sao Lang. Sách Tống sử Thiên văn chí cũng chép: "Chín ngôi sao Hồ Thỉ tại đông nam là sao Lang, là cây cung của bầu trời".

(<25><24>) Lang (
): Tức sao Thiên Lang (天狼). Theo sách Sử ký, Thiên quan thư: "Phía đông có một ngôi sao lớn gọi là Thiên Lang". Sách Tấn thư, Thiên văn chí: "Sao Thiên Lang ở về phía đông nam của sao Đông Tỉnh". Lang là sao man dã, chủ xâm lược. Xét sao Thiên Lang thuộc tòa Đại Khuyển, sắc xanh trắng, sáng nhất trong nhóm các hành tinh.

(<26><25>) Lão Nhân (
老人): Tức sao Nam Cực Lão Nhân (南極老人) Theo sách Sử ký, Thiên quan thư thì dưới sao Lang gần mặt đất có một ngôi sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân. Tấn Chước chú "Lang tỉ địa" là chỗ sao Lang gần đất nhất". (Chính nghĩa: "Ngôi sao Lão Nhân ở tại phía nam của sao Hồ gọi là Nam Cực). Sách Quan tượng ngoạn chiêm: "Ngôi sao Lão Nhân ở phía nam Hồ Thỉ còn gọi là sao Nam Cực Lão Nhân, chủ thọ khảo, cho nên còn gọi là Thọ tinh". Xét sao Lão Nhân thuộc tòa Long Cốt, tên Tây là Canopus, màu xanh trắng lợt, cách phía nam Thiên Lang ước 360, chỉ tháng hai mới xuất hiện chếch ở phụ cận Nam thiên địa bình, cho nên ít ai thấy được ngôi Thọ tinh này. 12.000 năm sau khi sao Chức Nữ ở cương vị Bắc Cực tinh thì sao Lão Nhân thành sao Nam Cực.

(<27><26>) Đông Tỉnh (
東井): Tên sao, tức Tỉnh Tú, là một trong Nhị thập bát tú, cũng là ngôi sao đầu trong chòm sao Chu Điểu 7 ngôi gồm tám vì sao thuộc tòa Song Tử.

(<28><27>) Đây là quan niệm thiên văn thời 200 năm trước.

(<29><28>) Tô Thức người Mi Sơn đời Tống, con Tô Tuân, anh Tô Triệt, tự Tử Chiêm, đỗ Tiến sĩ năm Gia Hựu, sung sử quán. Vì dâng sớ lên Thần Tông can việc thi hành tân pháp của Vương An Thạch nên bị đày đi Hàng Châu, Hồ Châu, Hoàng Châu, Huệ Châu, Quỳnh Châu. Lúc ở Hoàng Châu, xây nhà triền núi phía đông (Đông Pha) nên xưng là "Đông Pha cư sĩ". Đến đời Triết Tông gọi về làm quan trải nhiều chức, đến Đoan Minh điện Thị độc học sĩ, khi mất được thụy là Văn Trung.

(<30><29>) Đây là cách lý giải gần với khoa học của Trịnh Hoài Đức. Thuở đó dân gian cho rằng người bị sét đánh là do ăn ở ác đức bị trời phạt.

(<31><30>) Ly phương (
離方): Quẻ Ly thuộc phương Nam, vậy Ly phương là phương Nam. Quẻ này (Ly thượng, Ly hạ) thuộc tượng hỏa, nhựt điện, trung nữ.

(<32><31>) Ngũ Lãnh (Lĩnh) (
五嶺): Chữ Lĩnh, Tiền Hán thư và Hậu Hán thư đều viết là . Hán thư, Trương Nhĩ truyện: Nam hữu Ngũ Lĩnh chi thú. Phục Kiền chú: "Sơn Lĩnh có năm ngọn, cho nên gọi là Ngũ Lĩnh. Địa giới xứ Giao Chỉ và Hợp Phố có các ngọn núi đó". Xét lời chú giải của Sư Cổ: "Lời giải thích của Phục Kiền là nhầm. Lĩnh là phía tây, là Nam Hoàng Sơn, Đông cùng ở biển, là giới hạn của một ngọn núi, nhưng gọi tiêu chí chung là Ngũ Lĩnh". Sách Quảng Châu ký của Bùi Thị thì Ngũ Lĩnh là "Đại Dữu, Thỉ An, Lâm Hạ, Quế Dương, Yết Dương (tức Đô Bàng)". Còn Nam Khang ký của Đặng Đức Minh thì cho Ngũ Lĩnh là: Đại Dữu Lĩnh, Quế Dương Kỵ Điền Lĩnh, Cửu Chân Đô Bàng Lĩnh, Lâm Hạ Mạnh Chữ Lĩnh, Thỉ An Thành Việt Lĩnh. Còn theo sách Độc sử Phương Dự kỷ yếu thì Ngũ Lĩnh là 5 con đường nhập lĩnh: Một là đường từ Phước Kiến vào Quảng Đông Tuần Mai, hai là đường từ Nam An Giang Tây vào Nam Hùng Quảng Đông, ba là đường từ Hồ Nam vào Liên huyện Quảng Đông, bốn là từ Đạo Châu Hồ Nam vào Quảng Tây, năm là từ Toàn Châu Hồ Nam vào Tịnh Giang Quảng Tây.

(<33><32>) Người làm nghề hạ bạc rất chú trọng tới con nước. Trong thực tế, tháng 10 âm lịch là cường
triều to nhất.

(<34><33>) Cũng theo thực tế, ngày 17 âm lịch nước rong cao nhất vì có câu tục ngữ Nước mười bảy nhảy bờ.

(<35><34>) Nước ươn rong là do nước lớn chưa dứt thì tới cữ nước ròng, nước ròng chưa kịp rút thì gió đạp nước biển vào nên nước ròng phải dừng lại, do đó nước cứ lình bình một thời gian không ròng rồi lớn lại.

(<36><35>) Theo Histoire du Viet Nam của Lê Thành Khôi, 1 thước ta bằng 0,425 m. Năm 1900, triều đình Huế định lại một thước ta bằng 0,4 m. Còn một thước Trung Quốc bằng 0,325 m.

(<37><36>) Huyện, đạo tức quận và hạt đạo. Nhiều huyện thành một đạo, nhiều đạo thành một trấn. Nếu hiểu đạo là "đạo binh" là nhầm, tỉ như "Long Xuyên đạo" là hạt đạo Long Xuyên (Cà Mau) thuộc trấn Hà Tiên, chớ không phải "Đạo binh tỉnh Long Xuyên".

(<38><37>) Khiên dương (
愆陽): là ánh dương quang nhiều quá. Sách Tả truyện, Đông vô Khiên dương chú: Khiên () nghĩa là "nhiều quá". Dương () nghĩa là "ánh nắng mặt trời".

(<39><38>) Suy chữ phong (
) vừa có nghĩa là bịnh phong điên vừa bịnh phong hủi, nhưng trong ngữ cảnh này có lẽ nghĩa "phong hủi" thích hợp hơn, vì đoạn văn đang tả bịnh từ da. Nhưng cũng có thể hiểu là bịnh phong thấp, phong hàn cũng được vì không có chi tiết nào xác định tác giả muốn nói về bịnh phong nào!

2. Sơn Xuyên Chí (Về núi sông)

Núi non là xương của đất, sông nước là máu của đất, núi sông ấp ủ sinh dưỡng lưu thông, mà tạo nên đất đai một phương vậy. Những bậc anh hùng hào kiệt, trung thần liệt nữ cũng nhân đó mà sản sinh ra. Cũng ở đó sinh ra nhiều vật quý phát triển và bao của cải sinh sôi không gì là không đầy đủ. Tuy sách vở trong ngoài (<1><1>) có chỗ chép chỗ không, tên gọi xưa nay cũng khác, ấy là tùy vào từng thời đại, tùy từng vùng đất mà cách gọi có chỗ không giống nhau.

Sách Quản tử (<2><2>) chép: Trong thiên hạ có 5.370 ngọn núi có tiếng. Hoài Nam tử nói: Núi ở Nam Cực gọi là Thử Môn (<3><3>). Sử ký (<4><4>) chép: Trong thiên hạ có 8 ngọn núi lớn, 3 ngọn ở ngoài, còn Trung Quốc có 5 ngọn. Sách Thập châu ký (<5><5>) chép: nhà Phật bảo trên đỉnh núi Tu Di có 4 ngọn núi đứng cao vút lên, mỗi ngọn đều cao 700 nhận (<6><6>), mỗi ngọn chủ một phương trong thiên hạ.
Nam thiên hạ gọi là châu Diêm Phù Đề (<7><7>). Địa lý thư chép: Núi Thái Tổ là ngọn núi cao nhất, là nơi phát tích xưa cũ của một phương <1b>, các long mạch đều xuất phát từ đó. Nguyên trung ký chép: Trong thiên hạ nước là vật nhiều hơn cả; nâng trời, đỡ đất, chỗ cao chỗ thấp không đâu là không đến, muôn vật đều được thấm nhuần. Vật luận chép: Cái thành lập ra trời đất là nước, nước là gốc của trời đất, việc nhả ra nguyên khí, phát ra nhật nguyệt, giăng bày tinh tú, tất cả đều do nước mà hình thành, ngoài 9 châu ra (<8><8>) đều là nước cả. Nay xem lại các sách thì trong khoảng trời đất, núi sông chiếm phần lớn; người xưa đều ước lược lấy lý mà bàn một cách tổng quát chưa thể khảo cứu đến cùng để định ra tên gọi của nước, chỉ biết mỗi phương có trưởng một phương, tùy theo núi cao sông lớn của phương đó mà phân làm thân chính tổ tông rồi chia ra ngành dòng con cháu dẫy đầy ra mà tiếp tục nhau, đại để là theo người ở tại địa phương đó xưng hô mà đặt ra tên tuổi mà thôi, không cần câu nệ rằng núi sông ấy từ đâu dẫn đến, mà đắm chìm vào những điều nghe biết cũ trong sách xưa chép ra mà làm gì!

2a. Trấn Biên Hòa

LONG ẨN SƠN (NÚI LONG ẨN)

Ở về phía tây, cách trấn (<9><9>) 4 dặm rưỡi, đất đá cao chót vót, cây cối tốt tươi, nó làm bình phong sau cho Văn Miếu, thế núi quanh co đẹp đẽ, ở dưới có đá thủy tinh.

BỬU PHONG SƠN (NÚI LÒ GỐM) (<10><10>)

Ở phía tây trấn cách 4 dặm, phía tây nam trông xuống sông lớn, làm tấm che đằng sau của núi Long Ẩn. Suối bàu tẩm nhuận, dẫn tưới ruộng đồng. Trên núi có chùa Bửu Phong, phía trái có đá đầu rồng đứng sững, phía phải có nhiều đá phẳng mặt như thiền sàng (<11><11>), khói mây man mác, cây cối um tùm, văn nhân nghiêng chén vịnh mùa đẹp, mỹ nữ nối gót kẻ hành hương, thật là thắng cảnh hạng nhất của trấn thành.

QUY DỰ (HÒN RÙA)

Hòn nằm giữa dòng sông Phước Long (<12><12>), cách phía tây trấn đến 9 dặm (<13><13>). Hòn dài 3 dặm, ở đó có dân cư cày cấy, dưới có <2b> sông dài uốn khúc quấn quanh, thuyền buồm ra vào, sóng xao khói lượn, khi ẩn khi hiện như hình con rùa thần tắm sóng, đẹp nhất là cảnh mưa rơi.

BẠCH THẠCH SƠN (NÚI ĐÁ TRẮNG)

Ở về phía tây, cách trấn 10 dặm. Núi rừng quanh co, nước suối róc rách, các loài tê giác, voi, nai, hươu, ra
vào từng bầy. Chân núi gối lên sườn cỏ, phía nam trông xuống chợ Ngư Tân (chợ Bến Cá).

THẠCH HỎA SƠN (HÒN ĐÁ LỬA)

Ở địa phận thôn Bình Thạnh, tổng Phước Vinh. Gò đá từng khối lởm chởm, có nhiều khối đá lửa. Khi trời
nóng nắng gắt thì đá nẩy lửa bắn ra bốn phía, trông như sao sa.

ĐÀO CANG (HÒN GÒ ĐÀO)

Tục gọi là núi Lò Gốm, ở về phía đông, cách trấn 4 dặm. Đá dựng chập chồng, sóng nước lao xao, thuở xưa đây là chỗ nung sành ngói, cảnh trí rất u nhã.

CHIÊU THÁI SƠN (HỆ (<14><14>) NÚI CHIÊU THÁI) (NAY GỌI LÀ CHÂU THỚI)

Ở phía nam cách trấn 11 dặm rưỡi. Từng núi cao vót xanh lơ, cổ thụ rậm tốt, làm tấm bình phong chầu về trấn thành, hình núi cao thấp khuất khúc, uốn lượn qua hướng đông, giáp hạ lưu sông Phước Giang (<15><15>) rồi đến gò Khổng Tước (Gò Công) thì dứt. Ở đoạn giữa tại mặt bắc nơi thôn Long Thành, giữa đồng bằng trải ra một gò cao như vách dựng, sau lưng gò ấy là chỗ bà ni Lượng tu hành, có dựng am Vân Tĩnh (tục gọi là chùa Vãi Lượng) trông rất u nhã. Về sau quân Tây Sơn đập bỏ chùa Phật, nhưng nay nền cũ hoang phế vẫn còn.

Ở cuối hòn núi nầy về phía bắc tại ngã ba chẻ ra một nhánh chạy đến địa phận thôn Long Tuy thì dừng rồi
bỗng nổi thành gò cao bằng phẳng rộng rãi; ở bên núi có hang hố và khe suối, dân núi ở ven quanh, trên đó có chùa Hội Sơn là chỗ thiền sư Khánh Long dựng gậy tu hành (<16><16>), núi trông xuống sông lớn, hành khách leo lên thăm, có cảm tưởng như tiêu sái thoát tục.

THẦN QUY SƠN (HỆ)

Tục gọi là núi Ba Ba, có suối trong núi chảy ra, là mạch phát nguyên của sông Phước Long (tục gọi ngọn sông Đồng Nai). Suối ấy có hòn đá lớn dáng như con rùa <3b> cuộn chân, đầu thường ngó lên hướng tây, thì năm ấy mưa lụt bình thường, nếu quay mình theo dòng suối ngó về hướng đông, thì năm ấy ắt có lụt lớn. Ấy là vật thần tự nhiên, không phải là do sức người sắp xếp nổi. Người dân núi ở đây thường xem đó để biết mưa lụt lớn nhỏ trong năm, cho nên gọi là núi Thần Quy (Rùa thần), lại cũng gọi là Thọ Sơn. Núi làm giới hạn cuối cùng cho phía tây của trấn, cách trấn về phía tây bắc hơn 445 dặm (<17><17>), nguồn xa xưa phát từ hướng chính bắc, sườn núi nguy nga, hang động huyền ảo, làm hang ổ, sóc cho các bộ lạc
man, lào chia vùng mà ở rải rác khắp nơi.

Sóng chính của núi khí lực hùng vĩ, từ trong ấy chạy đến rồi nổi lên núi Quy Sơn cao ngất, vị trí ở về hướng tây bắc (<18><18>). Khởi thỉ (thủy) là ngọn núi Hỏa Tinh cao nhọn (<19><19>) làm núi tổ cho một phương. Lại còn có nhiều hòn núi chạy giăng, trùng trùng điệp điệp, mở ra như màn trướng theo hai bên tả hữu, vây quanh phía bắc đến phía đông, đồ sộ liên tiếp, đất đá lẫn lộn, tức là núi Bàu Chiêng, núi Chứa Chan, núi Lai (Lây), núi Nục, núi Liên, núi Tiều Nghiêu và các núi Mô Xoài (<20><20>), núi Bà Địa (<21><21>), núi Thùy Vân (<22><22>) giáp biển mới hết.

<4a> Phía bắc núi Liên Sơn là trấn Thuận Thành là địa giới người man, phía nam là trấn Biên Hòa cũng là địa giới man đã thuần thuộc. Nhánh bên phải quanh lên phía tây rồi qua phía nam là núi Cố, núi Bà Rá, núi Lấp Vò, gò đống trồi thụt, qua hẻm băng ruộng, có chỗ hình trảng bằng, có chỗ hình xâu chuỗi, có nhiều tên gọi và hình trạng khác nhau, lại có núi Bà Đinh (<23><23>), núi Lò Yêm đến sông lớn nước Cao Miên mới dứt.

THIẾT KHÂU SƠN

Tục gọi là núi Lò Thổi, ở phía bắc Phước Giang, phía đông cách trấn 19 dặm, do sông Đồng Chân đi quanh qua phía bắc 3 dặm rưỡi là chợ Lò Sắt (<24><24>), ở đây gò đống lồi lõm, rừng rú xanh rậm, người làm sắt tụ họp thành chợ, mở lò nung, cung nạp thuế sắt, quặng sắt rất thịnh vượng. Năm Tân Mùi (1811) niên hiệu Gia Long thứ 10, có người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Kinh Tú và Lâm Húc Tam xin trưng thuế, mở lò chế tạo rất tinh xảo, được nhiều sắt tốt, đúc làm nồi chảo, thu nhiều lợi, rồi sau đem hết của cải về quê ở đất Mân (thuộc tỉnh Phúc Kiến). Ấy là chỗ trời đất ân huệ giúp cho dân nghèo kiếm sống vậy.
<4b> KÝ SƠN (NÚI KÝ - CÒN GỌI NÚI HỎA PHÁT)

Tục gọi là núi Bà Ký, ấy là lấy theo tên người (sau đây cũng có nhiều chỗ phỏng theo như thế..)
Ở về phía đông cách trấn 91 dặm, có đất đá, suối nước ngọt, cây cối rậm rạp, chim muông tụ tập, người bốn phương kéo đến ở, họ chuyên nghề săn bắn và đẵn gỗ để sinh nhai.

NỮ TĂNG SƠN (<25><25>) (NÚI BÀ VÃI) (NAY GỌI LÀ NÚI THỊ VẢI)

Tục gọi là núi Bà Vãi, ở địa phận huyện Long Thành. Xưa có người con gái họ Lê, gia tư giàu có, nhưng do kén chọn lỡ thì, sau khi cha mẹ mất rồi mới có chồng nhưng không được bao lâu chồng cũng chết, bà thề không tái giá, nhưng bị kẻ cường hào cậy mai mối thường đến quấy nhiễu, bà bèn trốn đời xuống tóc, lập am ở đỉnh núi, tự làm bà thầy cả, kẻ ăn người ở làm đồ đệ, giữ lòng tu tập, sau thành chánh quả, do đó người đời lấy từ bà vãi mà đặt tên núi.

Núi nầy cách phía đông trấn 120 dặm, đất đá lởm chởm, cây cối to lớn um tùm. Nếu đứng ở thành Gia Định mà trông thì nó giống như viên ngọc màu xanh vàng bày ra nét đẹp. Dân núi ở đó lấy khai thác thổ sản ở núi để sinh sống, như cây gỗ, nhựa cây, than củi và muông thú.

<5a> LÀNG GIAO SƠN (NÚI LÀNG GIAO) (<26><26>)

Ở địa phận huyện Long Thành, về phía đông bắc cách trấn 132 dặm rưỡi. Có đất đá, khe suối, cây cối um
tùm, trại sách của các dân tộc man đã thuần thuộc nương theo chân núi cùng sống với hùm, beo, tê, voi.
TRẤN BIÊN SƠN (NÚI TRẤN BIÊN)

Tục gọi là núi Mô Xoài ở về phía đông cách trấn 145 dặm. Hình núi cao ngất, cổ kính, có nhiều hang nai, đồi thông, mây phủ, thác suối, cảnh trí tịch mịch, chầu về thành Gia Định từ xa, cảnh núi trải ra đẹp đẽ. Lưng chừng sườn núi có động đá sâu, quanh co chật hẹp chưa ai đi vào cho hết được. Có nhà sư tịch cốc tên là Ngộ Chân, dựng chùa Đức Vân nơi cửa động để tu hành, hằng ngày chỉ ăn rau quả để tụng niệm Phật hiệu, thuần phục được cả hùm beo, lại giỏi vẽ bùa chữa bệnh, thâu được lễ tạ của người thì đem cấp cho người nghèo khổ, khốn cùng. Ấy cũng là một vị cao tăng đắc đạo vậy.

BÀ ĐỊA SƠN (NÚI BÀ RỊA)

Ở về phía đông bắc cách trấn 176 dặm rưỡi. Núi đá lởm chởm, cây cối xanh tốt, núi trông xuống chợ Long Thạnh, chắn ngang giữa đại lộ; dân ở đó đào mở đường giữa sườn núi để xe ngựa đi qua, hai bên đường tường đứng cao như vách, tợ như dũng đạo vậy (<27><27>).

SA TRÚC SƠN (NÚI SA TRÚC)

Tục gọi là núi Nứa, cách phía đông trấn 185 dặm (<28><28>), trên núi có nứa, dưới núi có chằm
(<29><29>) lớn, người tụ tập làm nghề đánh cá.

THÙY VÂN SƠN (NÚI THÙY VÂN)
Ở về phía đông cách thành 194 dặm. Thế núi đứng dựa nơi bờ biển, cao lớn đẹp lạ thường, đỉnh chọc thẳng lên trời, nhìn thấy có mây từ trên núi tỏa xuống, cho nên mới có tên ấy. Trên núi có chùa Hải Nhật, là chỗ trông ra biển để đo bóng mặt trời. Phía bắc chân núi, cây cối xanh tươi, đó là hang lợn rừng về nghỉ ngơi, ở chân núi còn có đầm to từ biển thông vào, gọi là Sơn Trư Úc (tục gọi là bãi Heo), khi gió nam thổi mạnh, tàu thuyền thường vào đậu đấy để tránh.

THÁT KY SƠN

Tục gọi là núi Gành Rái, cách phía đông trấn 243 dặm rưỡi. Phía bắc từ trong chằm lớn băng qua khe <6a> rạch, tụ họp cát đá, chạy về hướng đông mà mọc ra, quanh vòng qua hướng tây, uốn lượn dáng như con rồng xanh tắm biển, rồi nổi lên 3 ngọn núi đá đứng sững như chân đỉnh ở giữa biển; dựng làm bãi neo cột nêu giữa biển, để chỉ rõ bờ bến cho thuyền nam bắc qua lại và ngăn sóng lớn dậy cuộn suốt ngày. Đầu núi làm cửa phải cho Tắc Ký (<30><30>), đuôi núi làm bình phong che ngoài cho Cần Giờ, phía trong có vũng lớn làm chỗ cho ghe thuyền neo đậu nghỉ ngơi. Trên núi có suối nước ngọt phun ra, dưới có dân chài sinh sống, thật là một cửa bể có phong cảnh đẹp nhất. Ở đầu gành thường có rái cá xuất hiện, nên mới có tên là núi Gành Rái.

THẦN MẪU SƠN

Tục gọi là mũi Bà Kéc (<31><31>), làm ranh giới phía bắc của trấn, cách trấn 249 dặm; có những đá đứng dọc theo bờ biển, dưới có nhiều rạn đá, trên có nhiều động cát, hay nổi gió to sóng dữ bất thường, người đi thuyền đến đây luôn cẩn thận. Trong động có miếu linh thờ Thần Nữ ở núi, mặt tiền miếu trông ra đường cái quan, hành khách chiêm lễ thường phải thành kính cúng bái và thả gà sống, <6b> treo giấy tiền để cầu thần phù hộ.

PHƯỚC LONG GIANG

Tục gọi là sông Đồng Nai, là một sông lớn ở phủ Phước Long, nên lấy tên phủ đặt tên sông (sau phần đông phỏng theo như thế).

Phát nguyên của sông này rất sâu xa, suối vực sâu rộng, xuất phát từ núi Thần Quy chảy ra, do nước đọng trong các núi, muôn hốc thông thương họp lại nên dòng nước mênh mông, chảy xuống hướng đông cho đến Tiểu Giang (sông Bé), xóm Sa Tân (Bến Cát), một hướng chảy về thác đá lởm chởm, nước chảy hung hãn hiểm ác, nên ghe thuyền không lưu thông được; nước thủy triều chỉ lên đến đây là dừng, thuyền buôn cũng đậu tại đây rồi lên trạm thuế giao dịch với người Thượng.

Từ đây trở xuống, sông rộng nước sâu, nước ngọt trong veo là thứ nước có tiếng tốt nhất thành Gia Định để dùng gội đầu hay pha trà, dù nước suối Trung Linh ở Kim Sơn (<32><32>) hay Bạch Hạc ở Ba Lăng (<33><33>) (Trung Quốc) cũng không hơn được. Chảy xuống một quãng nữa thì cùng sông Tân Bình hợp lưu thành ra sông Phước Bình, rồi chảy xuống hướng đông ra cửa biển lớn Cần Giờ. Thường đến tháng 8 hàng năm nước lụt đổ xuống, rửa sạch bao xú uế, <7a> lan tỏa khắp ruộng nương, tuy lụt có lớn nhỏ nhưng không sợ nạn tràn ngập mênh mông, người chết, nhà trôi, bởi vì sông này có nhiều nhánh rút chảy ra biển rất nhanh.

ĐẠI PHỐ CHÂU

Tục gọi là Cù Lao Phố, một tên gọi khác là Đông Phố (Giản Phố) (<34><34>) cũng còn gọi là Cù Châu, bởi địa thế cù lao uốn mình khoanh duỗi hình như con cù bông giỡn nước, nên có tên như vậy. Cù lao nầy cách phía đông trấn độ 3 dặm, dài hơn 7 dặm, rộng bằng 2 phần 3 bề dài, như con kim ngư trấn nơi thủy khẩu, cây trụ đá ngăn sóng lớn cho trấn thành.

Phước Giang (sông Đồng Nai) quanh phía nam, sông Sa Hà (Rạch Cát) vòng phía bắc, thuở trước có chiếc cầu ván bắc qua sông rộng rãi bằng phẳng, thông đến trấn lỵ.

Hồi tháng giêng năm Đinh Mão (1747) đời vua Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế thứ 10 Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8; Đại Thanh Càn Long thứ 12) (<35><35>) có khách buôn xứ xa người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Văn Quang đến khách ngụ ở Đại Phố, thấy cảnh thái bình, võ bị lơ là, lòng mừng thầm, bèn lén lút kết bè đảng <7b> hơn 300 người tự xưng là Đông Phố (Giản Phố) đại vương, dùng Hà Huy làm ngụy Quân sư, Tạ Tam làm ngụy Tả đô đốc, Tạ Tứ làm ngụy Hữu đô đốc, âm thầm tính chuyện xằng bậy, định đánh úp dinh Trấn Biên, nhưng chỉ sợ Khâm sai Cai đội Cẩn Thận hầu Nguyễn Cư Cẩn là người có võ nghệ cao cường, nên chúng bàn mưu trước tiên phải giết ông Cẩn thì việc sẽ dễ thành như trở bàn tay. Nhân ngày tết Nguyên đán, chúng bèn phục binh ở trong phố, rồi đem hơn 50 tên dũng cảm bày y phục theo kiểu đi mừng lễ ngày xuân, đến mừng tuổi tại dinh Cẩn Thận hầu, thừa lúc ngài vô ý cử sự, cùng rút đoản đao trong tay áo chém Cẩn Thận hầu bị thương. Cẩn Thận hầu lăn xuống vọt chạy chụp lấy ngọn phốc đao trên giá binh khí ở vách, giết được 5, 6 tên giặc, chúng bèn rút lui, chạy ùa vào trại quân đoạt được một số thương dài, rồi từ hai phía đông tây đánh ép. Lúc ấy Cẩn Thận hầu đã bị trọng thương đuối sức, kéo đao đánh bước giật lùi, không ngờ cán đao bị vướng hàng rào cây khiến ông vấp ngã, <8a> liền bị giặc đâm chết. Thế rồi thuộc binh của ông liền đến tiếp ứng, quân giặc chạy về tụ tập chận cầu để chống cự. Quan Lưu thủ Cường Oai hầu họ Nguyễn điều lính thủy bộ của dinh dàn trận ở bờ bắc, đốt phá cầu ván để cứ thủ, không dám tiến qua đánh dẹp, rồi đưa hịch báo cáo cho Cai cơ Đại Thắng hầu Tống Phước (<36><36>) Đại ở đạo Mô Xoài để cùng hiệp binh đánh dẹp. Quan quân bắt được bọn Lý Văn Quang cùng bọn đầu sỏ hung ác 57 tên. Nhưng nghĩ chúng nó là người của Thiên triều (Thanh triều) không nên giết vội, bèn giam chúng vào ngục rồi đem việc ấy tâu lên.

Mùa đông năm Ất Hợi (1755), nhân có bộ hạ của Tổng đốc Mân Chiết (Trung Quốc) là Thiên tổng Lê Huy Đức, Bá tổng (<37><37>) Thẫm Thần Lang, Hồ Đình Phụng đi tuần thú Đài Loan, thuyền bị gió bão bạt đến nước ta, nhân đó phối hợp cùng tàu buôn để đưa họ về nước, tiện thể tháng 7 mùa thu năm Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long thứ 21) soạn công văn và bản án kể rõ tội trạng của tặc đảng. Bọn tù phạm trừ những kẻ đã thọ thương bị bệnh chết, hiện còn đám Lý Văn Quang, <8b> Hà Huy, Tạ Tứ cộng 16 người, giao cả cho đoàn Lê Huy Đức lãnh giải về tỉnh Mân, trình lên quan Tổng đốc xét xử trị tội.

Từ đó cầu bị phá bỏ rồi dần dà cho đến khi Tây Sơn nổi loạn vẫn không sửa lại được, nay phải dùng đò đưa người qua lại. Đầu phía nam cũng có bến đò đưa ngang qua chợ Bình Tiên (tục gọi là chợ Lò Giấy, khi quân Tây Sơn vào cướp phá đóng ở đấy lại gọi chợ Đồn, thuộc đất thôn Bình Tiên), từ đó do đường bộ đến thành Gia Định.

THẠCH NGHÊ (CỒN CON NGHÊ)

Ở về phía đông cách trấn 3 dặm rưỡi, nằm dưới dòng phía nam sông Phước Giang, hình dạng hòn đá giống con nghê, đầu sừng lộ ra rất rõ, dài chừng 10 trượng (<38><38>), bề ngang bằng quá nửa bề dài (<39><39>), đứng ngược dòng nước, mặt chầu về cửa thành, khi nước ròng sát trông thấy rất rõ.

CỰ TÍCH THẠCH

Còn gọi là Thạch Than (Thác đá) ở giữa Phước Giang, về phía nam cù lao Phố, cách trấn chừng 4 dặm <9a> nằm thiên về phía bắc; mô đá gồ ghề, lớn nhỏ chồng chất, làm cho thế nước chảy xiết, sóng gió vỗ ầm ầm, người đi thuyền phải hết sức cẩn thận. Dưới có con cá chép đen, mình lớn 6, 7 thước ta, mắt sáng như điện, vảy óng ánh như sao, mỗi khi đêm vắng canh khuya, nó thường đến trước miếu Chưởng cơ Lễ Thành hầu, nhảy qua thác, vượt qua sóng, bơi lội lên xuống, hình như thể vái lạy vậy.

Phía bắc thác đá có vực rất sâu, là nơi tàu bể các nước đến núp đậu. Từ trước thuyền buôn đến đây thả neo xong thì lên bờ thuê phố ở, đến nhà chủ mua hàng kê khai toàn bộ hàng hóa có trong thuyền trình sở thuế; chủ mua hàng định giá mua tất cả hàng hóa xấu tốt không sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về, gọi là hồi Đường (<40><40>), nếu chủ thuyền muốn mua thứ gì thì cứ kê khai trước, người chủ vựa theo đơn đặt hàng mua dùm, hai bên chủ khách đều tiện, thanh toán hóa đơn rõ ràng rồi, khách cứ đàn hát vui chơi, đã được nước ngọt sạch sẽ, lại không có lo trùng hà ăn thủng ván thuyền, chỉ đợi tới ngày lui thuyền, chở hàng đầy khoang mà về xứ.

Từ khi Tây Sơn dấy loạn (<41><41>), quan quân về cả ở trấn Phiên An, thuyền buôn cũng dời theo đậu ở sông Tân Bình, nên đến nay tình thế đã thay đổi, thuyền cập bến không có chủ lớn mua mão bao trữ, nên phải gánh đến các chợ bán lẻ linh tinh, khi muốn mua thổ sản đem về, thì phải đi tìm đông, hỏi tây, rất nhọc nhằn. Lại có bọn côn đồ địa phương khéo giả dạng làm người ân cần thành thật, dối gạt mua xong lấy hàng rồi tìm nơi buồm (<42><42>) mất, nếu chủ thuyền mất một ít số vốn thì còn gắng chịu mà về, nhưng nếu mất vốn quá nhiều thì phải đậu thuyền qua mùa đông (phàm thuyền buôn người Tàu đến mùa xuân, thuận theo gió đông bắc mà đến, qua mùa hạ lại thuận theo gió nam mà về, nếu cuốn buồm đậu lâu quá, thu sang đông gọi là lưu đông, hay áp đông) để truy tầm bọn ấy khắp nơi, việc ấy làm cho người buôn đường xa ngày càng cực khổ.

NGÔ CHÂU (CÙ LAO NGÔ)

Ở về phía bắc lưu của Phước Giang, dài hơn 1 dặm, rộng bằng 1 phần 4 bề dài, cách phía tây trấn 19 dặm rưỡi. Nguyên trước liền với cù lao Tân Triều, năm Giáp Tý (1744), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 vì có lũ lớn, bị xói lở chia làm 2, phía đông thành cù lao Ngô <9b> phía tây thành cù lao Tân Triều, ở giữa có một sông nhỏ vừa cạn vừa hẹp chia ranh giới, nhiều cát sỏi nên chỉ ghe nhỏ đi chầm chậm thì mới qua lại được.

TÂN TRIỀU CHÂU (CÙ LAO TÂN TRIỀU) (<43><43>)

Nằm ở trung lưu Phước Giang, cách phía tây trấn 21 dặm, dài 10 dặm, rộng 2 dặm rưỡi, dân ở đây chuyên việc làm vườn, nhưng chủ yếu trồng trầu vì trầu ở đây nhiều lá mà tốt, mùi vị lại thơm ngon, cho nên chỉ có trầu ở Tân Triều là nổi tiếng hơn hết.

TÂN CHÁNH CHÂU (CÙ LAO TÂN CHÁNH) (<44><44>)

Nằm về phía nam lưu (<45><45>) Phước Giang, cùng nằm tiếp liền với cù lao Tân Triều và cù lao Ngô bày thành 3 cù lao giăng hàng mà cù lao nầy thì lớn hơn hết, bề dài 20 dặm, rộng 5 dặm rưỡi, cách trấn về phía tây 20 dặm, đất ở đây tốt, thích hợp với cây dâu và mía, nên ở đây sản xuất nhiều đường cát.

BỒNG GIANG (SÔNG LÁ BUÔNG)

Ở về phía tây cách trấn 11 dặm rưỡi, phía trên tiếp với 3 cù lao Tân Chánh, Tân Triều và Ngô, hợp lưu chảy xuống tới giữa rồi tạo ra Kính Hồ sâu rộng trong xanh, trấn áp vùng thượng du của hòn Rùa, khói sóng chờn vờn, núi sông tươi đẹp, huyền ảo như bồng lai tiên cảnh. Ở đây gồm thâu nhiều cảnh đẹp như viễn phố quy phàm (buồm về bến xa), bình sa lạc nhạn (nhạn đáp bãi cát bằng), và tình nham dạ vũ (núi tạnh, đêm mưa) <10b> khiến cho người có cảm hứng phong cảnh Tiêu Tương, vẽ thành tranh vậy.

KIÊN GIANG (<46><46>) (RẠCH VẮP)

Ở phía nam thượng lưu Phước Giang, cách trấn về phía tây nam 21 dặm rưỡi, sông từ phía bắc chảy qua nam, có rừng sâu khe đứt, giáp giới một chằm cạn, khi mưa lụt có thể thông đến dòng Cái Cát Hạ, chảy xuống ngã ba Bàng Giang (gọi là ngã ba Cái Con) rồi chảy vào sông lớn Băng Bột. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

ĐÔNG GIANG (RẠCH ĐÔNG)

Ở phía bắc thượng lưu Phước Giang, cách tây bắc trấn 52 dặm rưỡi. Ngược dòng lên đầu nguồn về phía bắc 32 dặm rưỡi đến Thâm Tuyền, rừng rú hoang vu, thác đá nguy hiểm, ghe thuyền khó đi lại được. Từ đấy trở lên đều thuộc đất của người Thượng hung dữ.

TIỂU GIANG (<47><47>)

Tục gọi là Sông Bé ở tổng Phước Vinh, phía nam Phước Giang, cách trấn về phía tây 109 dặm rưỡi, phát
nguyên <10b> từ 2 sách (<48><48>) sơn man Võ Tam và Võ Viên (<49><49>) quanh co chảy xuống hướng Đông 53 dặm đến thủ sở Tham Linh, bị thác gành ngăn cản, rồi chuyển quặt ra phía bắc 242 dặm tạo thành cửa Tiểu Giang hợp lưu với Phước Giang.

LA NHA GIANG (SÔNG LA NGÀ)

Ở phía bắc thượng lưu Phước Giang, sông này phát nguyên từ núi Phố Chiêm thuộc trấn Thuận Thành chảy về nam. Lại từ núi Phố Chiêm chảy ra phía bắc gọi là sông Dã Dương rồi vòng quanh núi Cộp Cộp (<50><50>) (nước sông chảy xiết cọ vào đá, tiếng kêu cộp cộp nên còn gọi là núi Sông Bập (<51><51>)) chảy xuống đông rồi hợp lưu với nguồn Bàn Thạch ở trấn Phú Yên.

SA HÀ (RẠCH CÁT)

Tục gọi là Rạch Cát, ấy là bắc lưu của Phước Giang, cách phía đông trấn 3 dặm rưỡi. Sông này chảy quanh cù lao Đại Phố. Lại có tên là Hậu Giang (<52><52>), đầu phía tây nhiều khúc cạn, khi nước ròng thì lội bộ qua được.

AN HÒA GIANG (SÔNG AN HÒA)

Ở về phía bắc Phước Giang, cách trấn về phía đông 19 dặm. Ngoài cửa sông là sông Đồng Chân, chảy ra bắc nửa dặm <11a> đến chợ thôn An Hòa, trước kia đây là bến để gỗ, cho nên còn gọi là Bến Gỗ, qua hướng đông bắc nửa dặm đến cửa sông Thiết Tràng (<53><53>) (tục gọi là rạch Lò Thổi (<54><54>), về hướng tây bắc 3 dặm rưỡi nữa đến chợ Lò Thổi là cùng nguồn) rồi chảy 4 dặm nữa hợp lưu cùng sông Bối Diệp (sông Lá Buông).

KÍNH CHÂU

Tục gọi là cù lao Cái Tắt (<55><55>), ở hạ lưu Phước Giang, cách phía đông nam trấn 21 dặm rưỡi. Cù lao dài 13 dặm, rộng 7 dặm, có ruộng nương nhà cửa của dân ở đó. Phía trái cù lao là Đông Giang, rộng lớn mênh mông, sóng gió chập chùng; phía bên đông Đông Giang thông với 3 đường sông Bối Diệp (sông Lá Buông), Thanh Thủy và Đồng Môn. Phía hữu là Tây Giang, tuy có hẹp nhỏ phần nào nhưng lại đường tắt gió lặng, ghe thuyền lớn nhỏ qua lại đều đi đường đó. Chỗ đuôi cù lao, hai sông Đông Giang và Tây Giang hợp lưu, gọi là sông Lan Ô (<56><56>) (sông Chàng Hảng), sông rộng nước sâu, nước bùn đục của các sông chảy đến đây đều được lắng lọc trở nên trong sạch. Khúc sông này lại có cù lao lớn chặn hai đầu trên xuống dưới, nên chỗ ấy có nhiều gió cuộn, lại do nhiều dòng nước chảy xiết va chạm nhau <11b> thành sóng lớn, dao động bất thường. Phía đông hạ lưu sông Lan Ô có cù lao Văn Manh (cù lao Muỗi Mòng), cù lao này dài 4 dặm rưỡi, rộng 4 dặm, che lấp cửa sông Mao Đằng (tục danh Rạch Choại (<57><57>) - thổ sản có dây chại); cỏ cây ở đây rậm rạp, sinh nhiều giống muỗi mòng nên có tên ấy. Đoạn sông này chảy tán loạn ra nhiều ngả, sau mới chảy gộp về chỗ cuối cùng, đó cũng là cửa sông Tam Giang - Nhà Bè (<58><58>).

BỐI DIỆP GIANG (SÔNG LÁ BUÔNG)

Tục gọi là rạch Lá Buông, ở đấy có nhiều cư dân sinh sống bằng cách lấy lá buông dệt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu đem bán sinh nhai, nên mới gọi tên như thế. Sông nầy ở hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách trấn 30 dặm, sông nhỏ mà dài, ngược về nguồn 10 dặm đến thượng khẩu Nguyệt Giang, lại thêm 10 dặm rưỡi nữa đến thượng khẩu sông Đồng Chân (<59><59>), 23 dặm nữa đến cầu ngang đường cái quan, 10 dặm đến phân thủ Bối Diệp (<60><60>), 27 dặm đến phần sông Ngã Ba; nơi đây nước chia 2 nhánh đông tây; nhánh phía đông chảy quanh qua bắc 50 dặm đến Thâm Tuyền (Suối Sâu), là cùng nguồn rồi chảy vào chân núi Làng Giao. Nhánh phía tây chảy quanh qua bắc hơn 24 dặm đến thác Xung tục gọi Hàn Kiết (<61><61>), đá thác chẹn cứng, trên đấy là nơi chợ trao đổi hàng hóa của các dân thuộc man (<62><62>). <12a> Ghe thuyền đi đến đây là tận cùng, còn như gốc nguồn của nó thì ở trong núi sâu xứ Cao Miên, nước thường chảy róc rách từ đó ra.

ĐỒNG MÔN GIANG (SÔNG ĐỒNG MÔN) (ĐỒNG MUN) (<63><63>)

Ở hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách trấn hơn 35 dặm; cửa sông rộng 8 trượng, sâu 1 trượng, chảy về hướng đông bắc 21 dặm đến miệng suối Tông (tục gọi là suối Uổng) (<64><64>), ở bờ tây chảy về hướng tây 5 dặm rưỡi đến cầu Thanh Thủy ở đường cái quan rồi hợp với thượng lưu sông Thanh Thủy, 3 dặm nữa đến miệng suối Quán Thủ (suối ở bờ bắc), đi ngược theo hướng tây bắc 6 dặm rưỡi đến cầu ngang Quán Thủ, 20 dặm nữa đến nơi cùng nguồn. Bờ nam có đóng năm đồn đất, nửa dặm đến cầu ngang, đầu cầu phía bắc đi 1 dặm rưỡi đến thủ sở Đồng Môn (Mun) ra đường cái quan. Đầu cầu phía nam đi 13 dặm rưỡi đến chợ sông Mao Đằng (sông Choại), từ đây chảy thêm một dặm rưỡi nữa là đến cùng suối. Đến cách chợ Đồng Môn (Mun) một dặm, đi về phía đông nửa dặm đến sông Trảo Trảo, chảy hẹp lại phía đông bắc 2 dặm đến cửa suối Đồng Hươu, từ cửa suối ngược lên phía tây 3 dặm đến cầu ngang Đồng Hươu, hiệp với đường cái quan, lại chảy 31 dặm đến Án Tuyền (suối Án) là nơi cùng nguồn vậy. Từ miệng suối Đồng Hươu chảy về hướng đông 13 dặm rưỡi rồi hiệp lưu với sông Ký.

<13a> KÍ GIANG (SÔNG BÀ KÍ)

Ở về phía đông cách trấn 91 dặm; sông này chảy từ Nam lên Bắc, dài 12 dặm rưỡi, đến Đại Tuyền (suối Lớn) là nơi cùng nguồn thì dừng lại. Giữa có đường cái quan, có cầu ngang để thông qua lại, cửa sông chảy về đông hợp với sông Đảo Thủy (<65><65>) (tục gọi là Nước Lộn), rồi chảy ra cửa sông lớn Mô Xoài. Sông chảy về tây hợp với sông Đồng Hươu, qua sông Đồng Môn (Mun) rồi chảy ra sông lớn Phước Long.

PHÙ GIA TAM GIANG KHẨU (CỬA TAM GIANG NHÀ BÈ - NGÃ BA NHÀ BÈ)

Nước ngọt sông Phước Long từ bắc chảy đến, nước lợ sông Tân Bình từ nam chảy lại, hợp lưu chảy xuống đông tạo thành sông Phước Bình, ấy là cửa Tam Giang, nước toàn mặn cả. Cách phía đông nam trấn 73 dặm rưỡi, từ đấy trở xuống hướng nam bắc có nhiều sông nhánh, duy một dải sông lớn chảy xuống đông, đổ ra cửa biển Cần Giờ. Xưa khi mới đặt 2 dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, mà đường bộ Bình Đồng chưa mở, hành khách đi lại phải đáp đò dọc. Đầu bến đò phía bắc ở bến Sa Hà (Rạch Cát) thuộc dinh Trấn Biên, <13b> đầu bến đò phía nam ở đầu cầu đò tổng Tân Long (tục danh Cầu Đò, ở địa phận thôn Tân Hương, nay vẫn còn). Phàm người đi thuyền khởi hành từ Trấn Biên, phải đợi khi nước ròng thuận dòng mới cho thuyền đến cửa Tam Giang, đến sông Tân Bình, đến đây lại gặp nước ngược phải cắm thuyền đợi khi nước lên thì mới thuận dòng đi tiếp. Còn kẻ khởi hành ở bến đò phía nam cũng phải lựa thế đi như vậy. Thuở ấy, dân cư còn thưa thớt, ghe đò hẹp nhỏ, hành khách thổi cơm, đun trà rất khổ, vì vậy có người phú hộ ở tổng Tân Chánh là Võ Thủ Hoằng (<66><66>) kết tre lại làm bè, trên che lợp phòng ốc, sắm đủ bếp núc, gạo, củi, và đồ ăn để dưới bè cho hành khách tùy ý dùng mà không bắt phải trả tiền. Sau đó khách buôn cũng kết bè nổi bán đồ ăn nhiều đến 20, 30 chiếc, nhóm thành chợ trên sông, nên mới gọi xứ ấy là Nhà Bè. Sau này đường thủy, đường bộ lưu thông, dân cư đông đúc, người qua lại đều dùng ghe nhà nên đò dọc phải dẹp bỏ. Trải qua cuộc loạn Tây Sơn, Nhà Bè tan rã, đến nay cũng không làm lại.

<14a> BĂNG BỘT GIANG (SÔNG BĂNG BỘT) (<67><67>)

Ở nơi cuối cùng ranh giới phía tây bắc trấn. Phát nguyên từ chằm Đồng Nhai (chằm tròn rộng sâu trong, cây cối rậm rạp là chỗ ở của bộ lạc man dã Đồng Nhai) chảy quanh qua hướng đông, nước ngọt đầy tràn qua đến địa đầu trấn Phiên An làm thành sông Tân Bình, thì nước lại lợ.

NGŨ CÔNG THAN (THÁC NĂM ÔNG)

Ở tại nguồn Trọc Thủy (Nước Đục) trên phía tây sông Băng Bột là ranh giới cuối cùng phía tây nam của
trấn. Từ nguồn của nó là cửa sông Tân ở trước miếu Ngũ Công đi về hướng nam có thác đá chênh vênh gồ ghề lồi lõm, nước tung sóng vỗ, chảy mạnh qua gồ đá cao, chỉ dân chuyên nghiệp dùng thuyền độc mộc nhỏ mới dám liều đi qua. Những tay sào (<68><68>) chống đỡ trước sau, giữ gìn hết sức lực, nếu chỉ một chút sai sót liền bị lật chìm, bể nát.

Ngược dòng lên hơn 215 dặm đến thác Tà Môn (<69><69>), 30 dặm nữa đến thác Hóp (Hớp, Ngáp) (<70><70>), nửa dặm đến thác Lớn, 1 dặm đến thác Tà Má, 17 dặm đến <14b> thác Chế Yêm, 2 dặm rưỡi đến thác đá Tà Nông, 54 dặm (<71><71>) đến ngã ba sông Tràm, ở đây nước chia ra 2 nhánh, nhánh chảy hướng tây nam tục gọi là sông Tràm. Ngược dòng lên 18 dặm đến thác đá Tà Vẹt, nơi đây nước chảy cạn có đá nhô ra, rặt thú dữ và dân man núi ở, đầu nguồn còn xa gần thế nào thì không thể rõ được. Nhánh tây bắc gọi là sông Dụ, đi thêm 13 dặm đến thác đá Tà Khuông, cửa đá lấp đóng, thâm lâm cùng cốc, nơi dân mọi dữ (<72><72>) chiếm cứ, nếu muốn đi đến cùng đầu nguồn cũng không được.

LÃO TỐ CƯƠNG (GIỒNG ÔNG TỐ) (<73><73>)

Ở tổng An Thủy, huyện Bình An, làm giới hạn phía nam của trấn; có gò nổi cao, bằng phẳng quanh co, nơi địa khí hội tụ, cây cối tốt tươi, gò dài 7 dặm rưỡi, rộng 3, 4 dặm, có sông nhỏ từ phía bắc chảy vào nam, bao quanh phía trước. Đây là gò đất bằng phẳng của hệ núi Chiêu Thái (Châu Thới).

CẨM ĐÀM

Tục gọi là vũng Gấm, ở tổng An Phú, huyện Phước An. Vũng này sâu rộng do các dòng chảy đến họp lại, có khi mặt trời chiếu từ xa <15a> ráng chiều phản chiếu xuống, sắc cây xanh tốt, sóng nước long lanh, xa trông rất rực rỡ, nên mới đặt tên Gấm là như vậy. Trong vùng có nhiều cá sấu thường bắt người ăn thịt, người qua lại phải hết sức cẩn thận, nên mới có ngạn ngữ: Hung ác như cá sấu vũng Gấm.

TOÁI ĐÀM

Tục gọi là Đầm Nát, ở địa phận huyện Phước An. Đầm do các sông hợp lại, thông khắp các nẻo; cồn bãi trùng điệp, ngành nhánh quanh co, ngang dọc chằng chịt họp rồi tan, rừng chằm rậm rạp, trước sau trông không thấy nhau. Thuyền đi khi thuận khi nghịch, đang đi phía trái bỗng chuyển phía phải. Nếu chỉ quên một chút, ắt phải lạc đường, cho nên người ta phải hết sức cẩn thận. Nơi đây không có dân cư làng mạc, cho nên tuy người đã quen đường mà đi một mình đến đây cũng phải ngờ ngợ mà tạm dừng lại, đợi khi họp được nhiều thuyền cùng nhau hỏi han, sau đó mới kết đoàn mà đi. Lại còn có bọn trộm cướp ẩn núp ở đây, người buôn bán thường hay bị chúng hại. Năm Gia Long thứ 12 (1813) có chia đặt trạm sông, mỗi trạm đều có lính trạm trú đóng, không những việc chuyển công văn được mau lẹ mà nạn trộm cướp do đó cũng được dẹp tan, nhân dân nơi đó được nhờ.

<15b> THẤT KỲ GIANG

Tục gọi là Ngã Bảy, ở về phía đông sông Phước Bình, phía nam có ngã ba, phía bắc có ngã tư hình chữ thập, nên gộp lại mới có tên là Ngã Bảy. Nhưng ở đây có nhiều ngã ba và nhiều ngã tư hình chữ thập mà tên ấy không thể chỉ định ở một chỗ nào. Bởi vì hệ thống sông này chằng chịt xiên xỏ rất phức tạp, xuyên qua nhau mà chảy, đáng đặt tên là sông Hỗn Đồng (trộn lộn) chứ chẳng nên câu nệ bởi cái tên Thất Kỳ.

DƯƠNG ÚC (VŨNG DƯƠNG) (CÒN GỌI VŨNG DANG)

Nơi đây gần bãi biển ở phía đông của trấn, dân cư tụ tập, đồng mặn ngàn khoảnh, đều là ruộng muối. Dân
ở đây lấy việc phơi muối làm nghề chính.

HƯƠNG PHƯỚC GIANG

(Tức là sông Mô Xoài, là nơi 2 thôn Long Hương và Phước Lễ cùng đài thọ lính trạm). Ngược dòng lên phía bắc chuyển qua phía tây đến suối Châu Phê (<74><74>) gặp suối Giao Kèo, qua Thâm Tuyền (suối Sâu) đến đầu nguồn sông Mông Giang, tục gọi là sông Xoài, dài 15 dặm, chảy qua nam độ 4 dặm là cửa sông lớn
Hương Phước rồi hợp lưu cùng các sông khác.

<16a> TẮC KÝ (CỬA LẤP HAY GIẾNG BỌNG) (<75><75>)

Cách trấn về phía đông 210 dặm. Lòng cảng có cồn cát dời đổi bất thường. Cửa cảng bề ngang rộng 90 tầm (<76><76>), khi nước lên cảng sâu từ 13 thước ta trở lên, 17 thước ta trở xuống. Dân miền biển nhóm đến đây làm nghề chài lưới câu cá, là nơi sản xuất cá muối của trấn này.

THUYỀN ÚC

Tục gọi là Vũng Tàu (<77><77>), ở về phía đông cách trấn 234 dặm rưỡi. Lưỡi đất phòi ra ngoài biển, càng ra xa càng lớn. Phía bắc bao lấy cửa Tắc Ký, phía nam dựa vào Thát Sơn (núi Gành Rái), che khuất cửa biển Cần Giờ. Thế đất trông rất sung mãn, mặt vũng hướng về tây, lòng vũng to rộng là nơi thu kết các dòng nước nhỏ của các sông đầm và các ngòi rạch chảy về biển, làm nơi ghe thuyền đến đậu rất yên ổn.

XÍCH THỔ (ĐẤT ĐỎ)

Là đất gồm 7 xã thôn phường: Phước Hòa, Phước An Trung, Phước Lộc Thượng, Phú Thạnh, Long Thới, Long Hòa và Thới Thạnh thuộc tổng Phước Hưng, huyện Phước An. Vùng nầy trồng dâu, mè, bắp, khoai, đậu, xanh tốt sai đẹp. Cách Nục Giang nửa ngày đường <16b> có dân trấn Thuận Thành sống chung ở đó. Đất nơi đây sắc đỏ vàng nên người ở đây có nước da vàng ủng, áo quần vật dụng tuy cất kín trong rương tủ, nhưng sắc cũng biến thành màu vàng, vì khí đất nhiễm vào.

XÍCH RAM GIANG (SÔNG XÍCH RAM)

Ở về phía đông bắc cách trấn 209 dặm, có cầu ván bắc ngang. Sông dài 173 tầm, là nơi đường bộ đi ngang qua, nước sâu 5 thước ta. Phía hạ lưu của cầu chuyển quanh vào nam 3 dặm là cảng biển Xích Ram (<78><78>), khi thủy triều lên sâu 10 thước ta, rộng 33 trượng (<79><79>) rưỡi, cảng dời đổi, thông kẹt bất thường. Từ cầu ngược lên phía tây 28 dặm rưỡi đến cầu Thạch Than, ở đây thác đá trùng điệp, ghe thuyền khó đi, lại ngược dòng quanh co 30 dặm đến Lai Giang rồi quanh qua tây nam đi 92 dặm rưỡi đến suối Dạ Lao Hạ. Lại quay về nam 46 dặm đến suối Dạ Lao Thượng rồi đến địa hạt đồn Đồng Môn, một đường mà núi rừng sầm uất, buôn sóc của các dân man đã thuần chia nhau sinh sống, họ đều nạp thuế và đi phu dịch.

<17a> HẢI ĐỘNG HỒ

Tục gọi là Hồ Tràm, cách trấn về phía đông bắc 227 dặm rưỡi. Nơi đây, động cát nối liền, cỏ cây xanh tốt, trong có hồ lớn xanh trong, nước đều ngọt cả, không khi nào khô, mọi người đều nhờ nước ấy.

RỪNG SÁC

(Sách Phong tục thông chú giải nghĩa: Chữ tẩu (chằm lớn) nghĩa là hậu, vì có cỏ, cây, cá mắm để nuôi nấng con người).

Từ Tam Giang Nhà Bè, xuống phía đông đến cửa Cần Giờ, phía bắc đến cửa Tắc Ký, phía tây đến Ký Giang, trong khoảng ấy có đến trăm ngàn cồn bãi, các bãi ấy đều có rừng chằm cả. Cây ở đó gọi là cây dà, đước, sú, vẹt (<80><80>) và những cây tạp khác, rừng xanh cây rậm, tán nhánh giao nhau, che kín mặt trời. Người ta dùng những cây ấy để làm nhà cửa, rào giậu, cột cọc, than củi, không ngày nào ngớt. Còn hải sản như cá, tôm, cua, sam và ốc len (<81><81>) thì bắt dùng không hết mà cũng không ai ngăn cấm. Ấy là chỗ chí công vô cùng của trời đất ban cho để nuôi dưỡng người dân Gia Định vậy.

<17b> PHỤ CHÉP LỜI KHẨU THUYẾT

Đồng Nai (仝狔) là tên duy nhất của trấn Biên Hòa, mà chợ Đồng Nai lại ở phía nam hạ lưu sông Phước Giang cách trấn độ 8 dặm ngoài. Do ban đầu là cánh đồng cho nai hươu ở, cho nên mới gọi là Đồng Nai, tên chữ là Lộc Dã, còn gọi là Lộc Động.

Đất Gia Định có 5 trấn riêng biệt: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Trong đó tên đất cũng nhiều, nhưng theo cư dân ở đây thường nói thì chỉ gọi đất Biên Hòa là Đồng Nai, Bà Rịa; đất Phiên An là Bến Nghé, Sài Gòn; đất Định Tường là Vũng Gù, Mỹ Tho; đất Vĩnh Thanh là Long Hồ, Sa Đéc; đất Hà Tiên là Cà Mau (<82><82>), Rạch Giá. Ấy là tên chỗ lỵ sở hoặc chỗ địa đầu, hoặc chỗ quần tụ cư dân đông đúc, ấy là nói tổng quát mà không phải kê cứu mô tả kỹ lưỡng vụn vặt một cách phiền phức.

<18a> Còn như Gia Định mà gọi là Đồng Nai tất nhiên cũng có cơ sở. Nguyên Gia Định khi bắt đầu khai thác thì từ chỗ Đồng Nai trước cho nên người đời trước có ý như dùng cái gốc để tóm cái ngọn, lấy chỗ đầu để kéo được cả đuôi, bèn gọi chung là Đồng Nai. Ngày nay, cứ noi theo mà không xét cho rõ. Người bản xứ đã gọi bừa là Đồng Nai, thì người nơi hạt khác cũng cứ nghe theo là Đồng Nai, chẳng tìm hiểu cho rõ. Khi gặp việc phải làm, hoặc khi bàn luận, hay tìm thăm bà con thì ngờ nghệch chẳng biết tông tích của xứ sở nằm ở đâu, phần nhiều là như vậy.

Trải từ lúc Tây Sơn dấy loạn, Thế Tổ Cao Hoàng đế ta đem quân Đồng Nai lấy lại kinh thành Phú Xuân, bình định Bắc Hà, quét sạch giặc biển, dẹp 3 kẻ thù lớn, lúc đó danh tiếng Đồng Nai mới lan tận Trung Quốc. Vì mùa thu năm Nhâm Tuất (1802) niên hiệu Gia Long năm đầu, nước ta qua nạp cống nhà Đại Thanh thì đã thấy sử sách Trung Quốc chép người Đồng Nai là người Nông Nại, tức cái tên ấy đã được cả thiên hạ biết tới. Tuy tên gọi ấy xưa nay có khác, nhưng nguyên ủy sự sửa đổi (<83><83>) dị đồng thì không thể không biết cho rõ được.

BÀ RỊA

Bà Rịa (Bà Địa) là vùng đất có tiếng đầu biên giới của trấn Biên Hòa, cho nên các phủ ở phía bắc (<84><84>) có câu ngạn ngữ: Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang (<85><85>). Ấy là lấy xứ Đồng Nai và Bà Rịa (Bà Địa) làm tên đầu để gọi cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ vào trong đó.

Đất này dựa lưng vào núi, mặt trông ra biển, rừng rậm, tre dầy, trên có sở tuần để vẫy gọi dân man mọi đến đổi chác, vùng dưới có trạm cửa bể để xem xét thuyền bè lúc đi ra biển, đường trạm thủy bộ giao tiếp. Việc cung nộp sơn, lâm, thổ sản, chế ngự Đê, man, bắt giữ phòng ngừa đạo tặc, đã có đặt huyện, nha, đạo, thủ, chia giữ nhiệm vụ, chính là nơi xung yếu, bận rộn, khó nhọc bậc nhất. Có nhiều cửa quan hiểm yếu, di chỉ của các thành trì xưa đến nay hãy còn để lại, khác gì quốc đô của các vương giả.
<19a> Bà Rịa (Bà Địa) là đất Lục Chân Lạp xưa, xét Tân Đường thư chép: "Nước Bà Lịa (婆利) ở ngay phía đông nam Chiêm Thành, từ Giao Châu đi thuyền theo ven biển qua các nước Xích Thổ, Đan Đan là đến. Xứ ấy đất rộng, đảo nhiều, còn gọi là Mã Lễ, đây có tục xâu tai đeo hoa, dùng một khúc vải cát bối quấn ngang lưng. Phía Nam miền ấy có nước Thù Nại, sau niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường (651-655) thì bị Chân Lạp thôn tính." Cứ theo như lời nói ấy mà suy thì các tục ấy giống như phong tục của Cao Miên và Đê, man ngày nay, mà địa điểm đất đai cũng thế. Tra theo Chính vận thư thì chữ "lợi" (利) được phiên âm là "lực địa thiết" tức "lịa", vậy nghi chữ "Bà Rịa" (Bà Rịa) tức là nước "Bà Lịa" xưa. (<86><86>)

Còn chữ Thù Nại so với Đồng Nai và Nông Nại thanh âm không sai lắm, có thể cũng là đất Sài Gòn ngày nay, tạm chép phụ như vậy, chờ sự khảo biện sau nầy.

-------------------------------------------------------------------------------

Chú thích:

(<1><1>) Nguyên văn viết trung ngoại (
中外). Trung () chỉ ở trong nước, tức Trung Quốc. Ngoại () chỉ ở ngoài nước Trung Quốc, tức tứ di.

(<2><2>) Quản tử (
管子): Tên sách gồm 24 quyển. Bản cũ đề "Quản Trọng đời Chu soạn", nhưng nội dung sách phần nhiều chép những việc sau khi Quản Trọng đã qua đời, điều đó chứng tỏ sách đã được người sau thêm vô nhiều điều. Nguyên bổn (bản) gồm 86 thiên, nay thất lạc 10 thiên. Chú của sách nầy xưa ghi do Phòng Huyền Linh soạn. Theo Triều thị độc thư chí thì sách nầy chính do Duẫn Tri Chương chú. Chữ tử chỉ là chữ đệm, Quản tử tức Quản Trọng, Tướng quốc của Tề Hoàn công.

(<3><3>) Thử Môn: (
暑門): Sách Trụy hình của Hoài Nam Tử chép: "Nam Phương là núi của Nam Cực, là Thử Môn (Cửa Nóng)". Phương Nam thạnh dương, chứa ẩm nơi đó, cho nên mới gọi là Cửa Nóng.

(<4><4>) Sử ký (
史記): Sách gồm 130 quyển do Tư Mã Thiên đời Hán tiếp tục công trình của cha là Đàm mà soạn thành, chép sự việc từ đời Hoàng Đế cho đến Hán Quang Vũ gồm 12 thiên Bản kỷ để tự thuật các đế vương, 10 thiên Biểu để quán nhật nguyệt, 30 thiên Thế gia để tập thuật công hầu, 70 thiên Liệt truyện để chép chuyện sĩ thứ, 8 thiên Thư. Tổng cộng 130 thiên.

(<5><5>) Thập châu ký (
十洲記): Chỉ một quyển, gọi đủ là Hải nội Thập châu ký. Bản xưa đề là "Đông Phương Sóc đời Hán soạn". Thập châu là: Tổ, Doanh, Huyện, Viêm, Trường, Nguyên, Lưu, Sanh, Phụng Lân, Tựu Quật các châu. Về sau thêm vô mấy châu nữa là: Thương Hải Đảo, Phương Trượng Châu, Phù Tang, Bồng Khâu, Côn Luân.

(<6><6>) Nhận: (
): Theo Từ Hải (bộ từ điển do Thư Tân Thành chủ biên - chú của Bt), một nhận bằng tám thước đời Chu, tức bằng 6,48 m. Nhưng cũng có sách nói một nhận bằng một tầm. Thường nhận là một đơn vị chung chung dùng để đo phỏng chiều cao một cách đại khái như Sơn cao thiên nhận, ý nói núi cao lắm.

(<7><7>) Nam thiên hạ diêm phù đề: (
南天下閻扶提): Kinh Phật cho rằng trong bốn bể quanh Tu Di Sơn có bốn châu lớn gọi là Tứ đại Bộ châu. Đó là: Đông Thắng Thần châu, do thân hình châu nầy rất thù thắng địa hình như bán nguyệt, mặt người cũng thế. Nam Thiệm Bộ châu tức Nam Diêm Phù Đề; Thiệm là tên một thứ cây, châu nầy do tên cây mà thành, địa hình như thùng xe, mặt người cũng thế. Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu Lư châu. Cõi Nam thiên hạ diêm phù đề hiểu theo nghĩa hẹp là đất Ấn Độ theo vũ trụ quan thời cổ đại.

(<8><8>) Cửu châu (
九洲): Thời xưa Trung Quốc phân thiên hạ ra làm chín châu. Có ba cách phân cửu châu khác nhau là: Vũ Cống cửu châu, Nhĩ Nhã cửu châu và Chu Lễ cửu châu. Vũ Cống cửu châu đời Hạ: Duyện, Ký, Từ, Thanh, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương. Nhĩ Nhã cửu châu đời Thương: Ký, Dự, Từ, Ung, Kinh, Dương, Duyên, U, Dinh. Chu Lễ cửu châu đời Chu: Dương, Dinh, Dự, Thanh, Duyên, Ung, U, Ký, Tính.

(<9><9>) Trấn: Nên hiểu đây là trấn lỵ (Bt).

(<10><10>) Theo cuốn Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine (PCGBC) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875 thì Bửu Phong sơn là núi Lò Gốm, bởi khi xưa đây là nơi làm gạch làm gốm, còn gọi là Đào Lư, Đào Cang (Gò Đào). Tiếng Khơ me là Phnom Dan Dàv.

(<11><11>) Thiền sàng: Đá bằng phẳng, các thiền sư dùng nơi đây làm giường, làm sập nằm nghỉ, như thiền sàng trong chùa.

(<12><12>) Sông Phước Long tức là sông Đồng Nai. Sông nầy cũng còn gọi là Phước Giang, bắt nguồn rất xa từ núi Thần Qui vùng cao nguyên Tây Bắc của Trấn Biên nơi vùng dân tộc ít người (Cao nguyên Langbiang - Lâm Đồng). Khi chảy xuống gần biển lại thành sông Tân Bình, Phước Bình.

(<13><13>) Dặm là dịch chữ Lý (
) ở nguyên văn. Một lý, tức dặm bằng 576 m (mètres) (xem thêm chữ Xích ở phần từ vựng). Theo Histoire du Việt Nam của Lê Thành Khôi, 1 dặm ta = 720 m. Đơn vị đo chiều dài của ta xưa qui ra mét (mètre) theo Tây phương không thống nhất.

(<14><14>) Chúng tôi dịch hệ vì trong thực tế, núi Châu Thới nằm trơ trọi một mình không có dính liền với các núi tả trong đoạn vốn nằm rất xa núi cái Châu Thới. Núi Thần Qui cũng vậy, vì tác giả miêu tả cả một hệ núi theo đường chéo nam bắc, tây đông, lấy núi Thần Qui làm giao điểm. Các núi liên hệ này nằm rất xa núi Thần Qui, như núi Bà Đen ở tận Tây Ninh, núi Thùy Vân ở tận bãi biển Vũng Tàu, trong khi núi Thần Qui ở cực tây giáp với trấn Bình Thuận.

(<15><15>) Phước giang: Tên gọi tắt của sông Phước Long giang tức sông Đồng Nai hiện nay.

(<16><16>) Nguyên văn viết Phần tu chi địa (
焚須之地) Phần tu có nghĩa đốt hương (phần hương) để tu hành. Chữ "Phần tu" này thoát ý từ chữ "Huân tu" (薰須) là tiếng nhà Phật. Huân có nghĩa là xông hơi cho đượm thấm, tu là tu hành, tức lấy đức tu thân, như lấy hương thơm xông ủ áo quần, cho nên gọi là huân tu. Phần tu chi địa có nghĩa là "chỗ tu hành".

(<17><17>) Theo Từ Nguyên, 1 dặm = 576m Þ 445 dặm = 257 km.

(<18><18>) Nguyên văn viết Vị cư Hợi Long (
亥竜) tức long mạch ở về ngôi hợi, tức vị trí tây bắc.

(<19><19>) Hỏa tinh (
火星) theo sách Phong thủy, núi cao nhọn gọi là hỏa tinh, nhưng đây cũng có thể là tên núi.

(<20><20>) Nguyên văn viết chữ Nôm (
}) là Mọi Xoài, nhưng người địa phương gọi là Mô Xoài, chúng tôi xin dịch Mô Xoài, tức vùng Đồng Xoài Bà Rịa ngày nay. Hai chữ Nôm } đã có nhiều cách đọc khác nhau: Mỗi Xu, Mũ Xuy, Mũi Xuy, Mũi Xoài. Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam quấc âm tự vị dịch Mọi Xoài là đúng với âm của hai chữ Nôm trên. Trương Vĩnh Ký chịu khó tìm hiểu tận địa phương thì nhân dân ở đây gọi là núi Mô Xoài. Do đó ông chép trong sách PCGBC là Mô Xoài.

(<21><21>) Bà Địa: Tức Bà Rịa.

(<22><22>) Núi Thùy Vân: Ở bãi Sau Vũng Tàu.

(<23><23>) Tức núi Bà Đen ở Tây Ninh.

(<24><24>) Dân địa phương chỉ gọi tắt là Chợ Lò, nay là ấp Thiết Tượng (
鐵匠) có nghĩa là Lò Thợ Rèn, nhưng có nhà khảo cổ viết sách giải thích "Thiết Tượng" là "mỏ sắt to bằng con tượng", hoặc có một số người cho rằng "Thiết Tượng" là con voi sắt, (có lẽ do nhầm chữ tượng () vốn có nghĩa là thợ với chữ tượng () là con Voi). Ấp này ở xóm Cầu Ván, xã An Hòa, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

(<25><25>) Theo quyển sáu, trang 5718 hạ sách Phật Quang đại từ điển chú thì Tăng hay gọi đủ là Tăng Già, tiếng Phạn là Sạm - gha, tiếng Pali đồng, là từ chỉ chung Tì Khâu hay Tì Khâu Ni, nhưng về sau Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam lại phân biệt Tỳ Khâu Ni là ni, còn Tì Khâu (Kheo) là tăng, vậy dùng từ "Nữ tăng" để chỉ tì kheo ni, hay ni cô, bà vãi gì đều được cả.

(<26><26>) Có người địa phương cho biết đây là núi Lang Giao. Thật ra chữ
nếu đọc theo chữ Hán là lang, còn đọc theo chữ Nôm là làng. Văn bản của Trịnh Hoài Đức không làm dấu nên chưa rõ chữ này là Hán hay Nôm. Chúng tôi theo sách PCGBC của Trương Vĩnh Ký phiên âm là Làng Giao.

(<27><27>) Dũng đạo (
甬道): Lối giữa. Ngày xưa quan đi đắp đường cao hơn hai bên gọi là dũng đạo.

(<28><28>) Nguyên văn in kèm bản dịch Viện Sử học do Nhà xuất bản Giáo dục in năm 1998 (xin viết tắt là VSH) chép 185 dặm, nguyên văn do Viện Hán Nôm lưu trữ (xin viết tắt là VHN) cũng chép 185 dặm, chỉ có nguyên văn in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép 80 dặm. Có thể 80 dặm là nhầm, vì núi Sa Trúc, tức núi Nứa Nhỏ vùng Long Thành gần núi Giồng Dài, núi Bà Vãi Lượng, mới gần Trấn Biên hơn núi Bà Rịa nhiều, tức cách làng An Hòa chừng 10 dặm, cách trấn chừng 30 dặm, còn đây là núi Nứa Lớn ở vùng Bà Rịa cách xa trấn hơn Bà Rịa. Vậy xin chọn cách trấn 185 dặm.

(<29><29>) Chằm: Vùng đất thấp bỏ hoang, thường bị ngập nước (Bt).

(<30><30>) Theo Trương Vĩnh Ký, Tắc Ký còn có tên Nôm là Cửa Lấp hay Giếng Bộng.

(<31><31>) Nguyên văn viết $
% tức "Mũi Bà Khịt". Chữ Nôm % nầy Thượng Tân Thị dịch là "Hét", bản
dịch của VSH dịch là "Khế". Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Tự điển chữ Nôm của tác giả người Nhật Yonosuke Takeuchi đều phiên âm là Khịt nhưng viết là . Tuy nhiên, Trương Vĩnh Ký, trong PCGBC cho núi này có tên cũ đọc theo tiếng Khơ me là Phnom Sek, có nghĩa "núi Kec" (Tự điển Khơ me - Pháp của T. B. Bernard dịch Sek là perroquet: có nghĩa là con kéc). Có thể núi này có tên trong thư tịch là "Bà Khịt" và được người địa phương gọi theo tên cũ của Khơ me là Bà Kéc? Bản đồ của Taberd in năm 1838 cũng ghi mũi này là "Mũi Bà Kéc". Ngoài ra nguyên văn in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo lại chép là
và dịch giả Tu Trai đọc là "Khiết".

(<32><32>) Kim Sơn - Trung Linh (
金山中冷): Suối Trung Linh ở Kim Sơn, nước rất ngon ngọt, nay ở phía tây bắc huyện Trấn Giang, tỉnh Giang Tô. Sách Trung triều cố sự chép: Lúc Lý Đức Dũ ở triều đình, có người thân vâng mệnh vua đi sứ Kinh Khẩu. Lý căn dặn người đó: "Ngày trở lại hãy mang về cho tôi một bầu nước suối Trung Linh ở núi Kim Sơn vùng sông Dương Tử nhé". Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<33><33>) Ba Lăng - Bạch Hạc (
巴陵白鶴): Suối Bạch Hạc ở Ba Lăng vùng Tây Bắc huyện thành Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, nước trong ngọt nổi tiếng, nấu trà rất ngon.

(<34><34>) Giản Phố (
柬埔): Cù lao nầy nguyên có tên là Giản Phố châu, nhưng do chữ giản () và chữ đông () tự dạng trông rất dễ lầm nên có lẽ đã bị đọc lầm.

(<35><35>) Chú thêm của dịch giả về niên hiệu các đời vua tương ứng (Bt).

(<36><36>) Bản VHN chép Tống Văn (
) Đại.

(<37><37>) Thiên tổng (
千總), Bá tổng (百總) là chức quan võ ở tam đại doanh có từ đời nhà Minh, do các quan có công to đảm nhiệm, nhưng về sau thì quyền chức dần dần bị xem nhẹ, đến đời Mãn Thanh thì chỉ là chức quan võ cấp thấp, lục quân và hải quân đều có cả, như Doanh thiên tổng.

(<38><38>) Một trượng (
) bằng 10 xích (- thước) tức bằng 3,2 m, hoặc 4 m tùy lúc, tùy nơi.

(<39><39>) Nguyên văn viết: Đại bán chi (
大半之) có nghĩa "bề to bằng nửa bề dài", dịch thoát cho dễ hiểu là "bề ngang bằng nửa bề dài".

(<40><40>) Đường (
) là một triều đại văn trị, võ công rạng rỡ của Trung Quốc, nên người Trung Quốc tự xưng mình là Đường nhân, nước Trung Quốc là Đường Sơn hay Đường. Vì khách buôn là người Trung Quốc, nên hồi Đường là trở về Trung Quốc.

(<41><41>) Tây Sơn dấy loạn: Do Trịnh Hoài Đức là đại thần nhà Nguyễn nên gọi Tây Sơn là "dấy loạn". Xin phiên dịch đúng theo ngôn phong của tác giả.

(<42><42>) Trốn, chuồn (Bt).

(<43><43>) Cù lao Tân Triều ngoài tiếng tăm về trầu còn vang danh về bưởi. Bưởi Biên Hòa, nhất là Tân
Triều, vỏ mềm, ruột to, múi mọng nước, lại rất ngọt.

(<44><44>) Cù lao Tân Chánh theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC còn gọi là Đồng Sứ, và theo di cảo của ông có tên tiếng Khơ me cũ là Kòh Krec.

(<45><45>) Bắc lưu, trung lưu, nam lưu là tính các đoạn sông theo chiều bắc nam. Nếu tính theo chiều
ngọn ra vàm thì gọi là thượng lưu, trung lưu, hạ lưu.

(<46><46>) Kiên Giang đây là sông Kiên Giang của Biên Hòa, không phải Kiên Giang, Rạch Giá.

(<47><47>) Sông Bé gọi là Tiểu Giang, cũng còn gọi cách khác là Tiểu Thủy.

(<48><48>) Sách hay sóc là buôn sóc của người Khơ me.

(<49><49>) Theo Vương Hồng Sển trong cuốn Tự Vị tiếng Việt miền Nam thì Võ Tam và Võ Viên có thể là Dõ Tam và Dõ Viên. Dõ có nghĩa là chốn canh phòng giặc, nghĩa như là đồn, tương tự tên các địa phương khác có chữ Võ như Võ Sa, Võ Đắc, cũng chính là Dõ Sa, Dõ Đắc.

(<50><50>) Nguyên văn viết:
吸吸. Hai chữ này nếu đọc theo âm Hán Việt là Cấp cấp, nếu đọc theo âm Nôm là hấp hấp hay cộp cộp đều là tượng âm tiếng nước sông chảy xiết va vào vách núi mà phát ra. Chỗ này, xin dịch là núi "Cộp Cộp" (hay Hấp Hấp)

(<51><51>) Nguyên văn chép núi x. Chữ x nầy là chữ Nôm, trong cả hai tự điển tiếng Nôm của Vũ Văn Kính và của Yonosuke Takeuchi đều ghi phát âm hai cách là mép và bập. Xin chọn chữ "Bập" (vì sông này khi nước chảy tuôn cọ vào đá phát ra tiếng kêu "Bập bập, cộp cộp"), và dịch là núi Sông Bập.

(<52><52>) Không nên lầm với Hậu Giang của hệ sông Cửu Long miền Tây.

(<53><53>) Thiết Tràng (
鐵場) có lẽ là con sông Bùng Binh ngày nay nối sông An Hòa, Bến Gỗ với sông Lá Buông. Thiết tràng có nghĩa là "nơi nấu sắt" khi xưa.

(<54><54>) Rạch Lò Thổi chảy qua xóm Thiết Tượng (
鐵匠) tức xóm Lò Rèn, nay là xóm Cầu Ván, xã An Hòa.

(<55><55>) Nguyên văn viết cái ('). Chữ ' này cả hai cuốn tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Yonosuke Takeuchi đều âm là dứt, nhưng chúng tôi xin chọn "Cái Tắt" theo Trương Vĩnh Ký. (Xem thêm chú thích "Cái Tắt Cầu Sơn" ở sau).

(<56><56>) Nguyên văn viết:
攔污. Lan () có nghĩa là "ngăn chặn" hàm ý "gạn lọc". Ô () có nghĩa là cặn cáu, tức con sông gạn đục làm trong nước các con sông khác chảy về đây. Trương Vĩnh Ký gọi theo người địa phương là sông Chàng Hảng, tức hình thế hợp lưu này như người đứng chàng hảng (đứng dạng chân ra).

(<57><57>) Người Nam Bộ đọc là chại.

(<58><58>) Tam Giang - Nhà Bè (xin xem chú thích ở chữ nầy).

(<59><59>) Đồng Chân: Nguyên văn viết Đồng Chân (
同真), các sách khác viết Đồng Chơn, Đồng Tuyên, nhưng trong di cảo của TVK lại căn cứ theo tên Khơ me cũ: Péam prêk tranchick Kran mà ghi là Đồng Tranh. Aubaret trong dịch bản Gia đinh Thung chi cũng dịch là "Don Tranh" tức Đồng Tranh vậy.

(<60><60>) Phân thủ (
分守) là đồn thủ ngự phụ cho đồn thủ ngự chánh.

(<61><61>) Nguyên văn viết:
翰戛, tra tự điển Nôm không thấy, chúng tôi đành đọc theo âm Hán Việt là Hàn Kiết (xin được chỉ giáo).

(<62><62>) Thuộc man (
屬蠻) là dân tộc ít người đã "thuộc hóa", "thuần hóa" sống hiền lành gần người Kinh. Ngược lại với thuộc man là "ác man" tức người dân tộc còn hoang dã sống trong rừng sâu (theo cách gọi xưa).

(<63><63>) Di cảo Trương Vĩnh Ký chép Đồng Mun tức cánh Đồng Đen (Mun) do tiếng Khơ me Kompon là cánh đồng, Khmau là đen, mun.

(<64><64>) Nguyên văn viết: (
tức suối Uổng, nhưng nguyên văn bản dịch của VSH lại chép là suối Đỗ ((). Aubaret cũng dịch là suối Uổng (Giadinh Thungchi P. 166: "Ton thuyen (Tôn Tuyền) vulgairement appellé Xuoi uong").

(<65><65>) Đảo Thủy giang (
倒水江) tức sông Nước Lộn. Tên chữ của "sông Nước Lộn" nầy có sách chép là "Đảo Thủy giang" có sách chép là "Hỗn Thủy giang" nhưng theo Trương Vĩnh Ký thì chính là Hiệp Thủy giang. "Đảo Thủy", "Hỗn Thủy" và "Hiệp Thủy" đều có nghĩa là "nước lộn" như nhau.

(<66><66>) Vì kỵ húy tên vua Hoằng Lịch (Càn Long) nhà Đại Thanh nên phải đọc trại đi là Võ Thủ Huồng. Cầu Thủ Huồng giữa Tân Vạn và chợ Đồn (Biên Hòa) tương truyền do Võ Thủ Huồng xây dựng đến nay vẫn còn.

(<67><67>) Băng Bột giang (
冰渤江): Nguyên văn ở cả GĐTTC và Đại Nam nhất thống chí đều chép 冰渤 tức Băng Bột. Thượng Tân Thị dịch là Thủy Bột, Nguyễn Tạo dịch là Băng Bột, nhóm dịch giả VSH dịch là Băng Bọt, Trương Vĩnh Ký cho là Thủy Vọt. Có lẽ Thượng Tân Thị nhầm chữ Băng () thành Thủy (). Nhóm dịch giả VSH nhầm Bột () thành Bọt (). Trương Vĩnh Ký nếu dịch chữ Băng Bột (冰渤) thành Thủy Vọt ()) cũng nhầm.

Trong thực tế sông Băng Bột hay Thủy Vọt không ai biết là sông gì, ở đâu, chỉ căn cứ theo điều Trịnh Hoài Đức tả thì đoán nó chính là phần ngọn con sông Sài Gòn, chảy gần tới Thủ Dầu Một gọi là sông Thị Tín, chảy ngang tòa bố Thủ Dầu Một gọi là sông Thủ Dầu Một, và chảy xuống tới đầu Sài Gòn thành sông Tân Bình.

(<68><68>) Nguyên văn sào sư (
篙師) chỉ có nghĩa là kẻ chống cây sào đẩy ghe chớ không phải "bậc sư" về đi ghe.

(<69><69>) Tà là tiếng Khơ me có nghĩa là "ông" dùng gọi người lớn tuổi.

(<70><70>) Nguyên văn chữ Nôm
cả hai cuốn Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Yonosuke Takeuchi người Nhật đều đọc là Hóp, Hớp, hoặc Ngáp. Xin chọn cả ba vì không thể xác định được.

(<71><71>) Nguyên văn bản VSH chép 14 dặm, nguyên văn in kèm bản Nguyễn Tạo chép 20 dặm, nguyên văn VHN lưu trữ chép 54 dặm.

(<72><72>) Nguyên văn "ác man" (
惡蠻), cần dịch là "Mọi dữ", phân biệt với "thuần man".

(<73><73>) Chữ "Giồng" ở đây có nghĩa là một chuỗi dài gò nỗng. Nguyên văn chép "Lão Tố Cương" (
老素岡) cũng có nghĩa là "gò Lão Tố", nhưng người địa phương quen gọi đất ấy là "Giồng Ông Tố" (nay thuộc quận 9, thành phố Hồ Chí Minh).

(<74><74>) Nguyên văn viết *+ không phải Châu Tì, Châu Phê, Thù Thì. Đã tra nhiều từ điển chữ Nôm nhưng không thấy, xin tạm dịch "Châu Phê".

(<75><75>) Nguyên văn viết
,, đọc là Tắc Ký. Trương Vĩnh Ký trong PCGBC cũng chép là Tắc Kí, tên Nôm là Cửa Lấp hay Giếng Bọng. (Tên Cửa Lấp này được ghi rất rõ trong bản đồ An Nam đại quốc của Taberd, ấn hành năm 1838.)

(<76><76>) Một tầm (
) bằng 8 thước ta, tức 3,2 m (mètre).

(<77><77>) Vũng Tàu: Tiếng Pháp gọi là Cap Saint Jacques, cũng còn gọi là Ô Cấp, Thuyền Úc.

(<78><78>) Nguyên văn đoạn nầy viết:
赤藍 phải đọc là Xích Lam. Trương Vĩnh Ký trong PCGBC lại viết là Xích Ram. Ram chữ Nôm viết là - tức chữ Lam có bộ hỏa bàng. Mà đúng là Xích Ram vì ở câu đầu phần toàn thành Cương vực: Gia Định vị cổ, Chân Lạp chi địa, Đông Nam tế hải hữu Xích Ram Cần Giờ... Tác giả viết chữ Ram có bộ Hỏa (-) hẳn hoi.

(<79><79>) Trượng (
) bằng 10 thước ta = 4 mét.

(<80><80>) Dà, đước, sú, vẹt, cây mắm là những cây vùng rừng ngập mặn ở diên (duyên) hải.

(<81><81>) Thương loa (
蒼螺): Ốc xanh, là con ốc len vỏ màu xanh, thịt có gân màu xanh đeo ở cây mắm, cây vẹt vùng rừng ngập mặn ngoài bãi biển.

(<82><82>) Cà Mau còn gọi là đạo Long Xuyên. Đạo Long Xuyên này hoàn toàn không phải tỉnh Long Xuyên (thuộc An Giang) sau này. Thời Trịnh Hoài Đức chưa có tỉnh Long Xuyên.

(<83><83>) Nguyên văn diên cách (
沿革) có nghĩa là theo thể chế cũ mà sửa mới lại, vậy nên dịch là "sửa đổi".

(<84><84>) Các phủ phía bắc: tức các phủ Bình Thuận, Thái Khang (Khánh Hòa), Bình Định....

(<85><85>) Ý nói hai nơi Phan Rang, Phan Rí có nhiều cá ngon; Đồng Nai, Bà Rịa có nhiều gạo tốt.

(<86><86>) Thiết âm là cách mượn âm hai chữ để phiên âm, tức lấy phụ âm chữ đầu ráp với nguyên âm hay khuôn âm chữ sau để phát âm, như "Lực địa thiết" thì dùng phụ âm Lờ (L) của chữ Lực + với khuôn âm "ịa" của chữ Địa để đọc thành Lịa.

Vì người Hoa phát âm chữ R không được nên tất cả âm R họ đều viết thành âm L như Phan Rí thành Phan Lý, Phan Rang thành Phan Lang, Pari (Paris) thành Ba Lê. Vậy âm Bà Rịa được viết thành Bà Lịa (
婆利). Về điểm này có thể Trịnh Hoài Đức đã nhầm khi cho rằng Bà Rịa (Bà Địa) của dinh Trấn Biên (Biên Hòa) là xứ Bà Lịa (婆利) mà sách Tân Đường thư đã miêu tả. Xứ Bà Lịa mà sách Tân Đường thư miêu tả là xứ Bornéo, hoặc xứ Kalimantan, hay đúng nhứt có lẽ là xứ Bali của Indonésia. Theo quyển Từ Hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ấn hành năm 1989 thì Bà Lịa là tên nước xưa, đất xưa, hoặc có người cho rằng ngày nay là đảo Kalimantan của Indonésia, hoặc đảo Bali của Indonésia, mà sách Tùy thư, Nam man liệt truyện, cùng sách Đường thư, Nam man liệt truyện đều có kể đến nước Bà Lịa ấy cũng còn gọi là Mã Lễ (Bà Lịa giả, cổ quốc danh, cổ địa hoặc dĩ vi tại kim Ấn Độ Nê Tây Á Gia Lý Man Đan Đảo (...) hoặc dĩ vi tại kim Ấn Độ Nê Tây Á Ba Ly (...) đảo. Tùy thư Nam Man liệt truyện hòa Đường thư Nam Man liệt truyện hữu chuyên ký thuật. Diệc viết Mã Lễ). Thời Trịnh Hoài Đức, kiến thức địa lý hải ngoại của người Việt rất hạn hẹp mà sách vở của Trung Quốc thời đó lại không có chữ La Tinh như ngày nay nên khó đoán định là chuyện thường.

2b. Trấn Phiên An

BÀ ĐINH SƠN (NÚI BÀ ĐINH) (BÀ ĐEN - ĐIỆN BÀ) (<1><87>)

Cả trấn đều kính ngưỡng, ở cách trấn về phía tây 261 dặm rưỡi. Núi này đất đá lởm chởm cao, cây cối xanh tốt, có suối nước ngọt, đất đai màu mỡ, <19b> trên có chùa Vân Sơn, dưới có chằm hồ, cảnh trí thực là u nhã, rừng rú, hang hố sâu thẳm, có thôn xóm của người Thổ và người Việt ở la liệt, nhân dân đều nhờ món lợi của núi rừng. Ở đây, người ta thường đào được các vật xưa bằng vàng ngọc, tương truyền có khi trông thấy cả chiêng vàng ở trong hồ, cũng giống như việc cái khánh nổi ở bến sông Tứ hay chuông tìm được ở sông Trường Giang vậy, nhưng đến gần thì biến mất. Có đêm trời quang mây tạnh lại thấy có thuyền rồng bềnh bồng, hát múa du dương, hoặc có khi thấy con rùa vàng lớn hơn 1 trượng, ẩn hiện bất thường, là do linh khí tụ lại, chứ không phải việc quái đản.

MAI KHÂU (GÒ CÂY MAI)

Ở về phía nam cách trấn thành 13 dặm rưỡi, gò đất nổi cao, có nhiều cây nam mai thân cỗi nghiêng ngang, nhưng khi trổ hoa nở không bung xòe trắng tinh rạng rỡ, cánh hoa vẫn còn úp túm giữ mùi thơm. Thứ hoa này vốn bẩm linh khí mà sinh ra, không thể dời trồng ở nơi khác được. Trên có chùa Ân Tông, đêm tụng kinh, chiều giộng chuông, âm thanh tản mạn trong mây khói, giống như đang ở giữa thế giới núi Linh Thứu của Phật. Lại có suối trong chảy quanh chân núi, các du nữ chiều mát quẫy mạnh mái chèo đi hái sen; gặp khi trời đẹp, văn nhân thi sĩ <20a> mang bầu rượu leo từng bậc cấp lên đây ngâm vịnh dưới gốc hoa ở đầu gò, câu chữ nồng nàn, thật là một thắng cảnh cho người du lãm.

Nơi đây, ngày xưa là chỗ chùa tháp đất Phật của nước Cao Miên, nền móng xưa còn thấy rõ. Năm Bính Tý (1816) niên hiệu Gia Long thứ 15, có nhà sư sửa sang lại chùa và đã đào lấy được nhiều gạch lớn, ngói xưa, và cả 2 miếng vàng lá hình vuông, mỗi bề hơn 3 phân, mỗi miếng nặng 3 đồng cân, trên mặt chạm hình cổ Phật kỵ tượng (Phật cưỡi voi), có thể đây là cái vật của Hồ tăng (<2><88>) dùng để trấn tháp đó chăng ?

TÂN BÌNH GIANG (<3><89>) (SÔNG BẾN NGHÉ)

Ở phủ Tân Bình, trước thành Gia Định, tục gọi là sông Bến Nghé, rộng 142 tầm, sâu 10 tầm, khi nước lên sâu 13 thước ta, sông này vừa rộng lớn vừa trong sâu, những tàu buôn và ghe thuyền sông biển trong và ngoài nước ra vào không ngớt, trông thấy đầu tàu nối liền, đuôi cột buồm chi chít, đủ biết đó là nơi đô hội. Từ bến đò trước thành, uốn quanh lên phía tây đến sông Bình Đồng (tục gọi là sông Đồng Cháy) qua sông Băng Bột (Thủy Vọt), ngược lên thủ sở Tầm Phong Tích rồi đến thác lớn Bưng Đàm (Nhồm) là chỗ cuối nguồn, tất cả là <20b> 462 dặm. Từ bến đò trước thành quanh ra phía bắc uốn qua đông xuống cửa Tam Giang Nhà Bè, hợp làm sông Phước Bình đổ ra cửa lớn Cần Giờ là 142 dặm rưỡi. Hai bên sông có nhiều sông nhánh, phía tây nam sông thuộc địa giới trấn Phiên An, phía đông bắc thuộc địa giới trấn Biên Hòa.

CẦN GIỜ (CỬA CẦN GIỜ)

Cửa cảng rộng 5 dặm, khi nước lên cảng sâu 12 tầm, nước ròng sâu 9 tầm, ở về phía đông cách trấn 142 dặm rưỡi, có thủ ngự đạo Cần Giờ, phố chợ rất đông đúc, dân ở đây đều theo nghề đánh cá. Trong cảng nước sâu rộng và rất yên lặng, thường ngày có thuyền buôn ra vào, là nơi hội tụ ghe thuyền đông đúc của thành Gia Định, không đâu sánh được. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

ĐỒNG TRANH HẢI CẢNG (HẢI CẢNG ĐỒNG TRANH)

Cửa cảng rộng 14 dặm rưỡi, khi nước lên sâu 5 tầm, nước ròng sâu 2 tầm, ở về đông nam cách trấn 126 dặm rưỡi, có đồn canh biển chống giữ. Bờ biển bùn lầy, lòng cảng nước cạn, nên không tiện cho thuyền lớn ra vào, <21b> có lạch nhỏ nước sâu, ở đây có trồng cột tiêu để chỉ lối cho đường thủy. Nhưng do bị gió sóng mưa lụt, nên cảng dời đổi sâu cạn, cong thẳng rất bất thường, phải cần dân ở đó dẫn lối mới đi yên ổn được. Nhưng do nguồn lợi nghề đánh bắt cá bằng lưới đáy (<4><90>), bằng nò rạo (<5><91>) ngoài biển, nên dân ở đây đổ xô đến ở nhiều. Trong cảng có nhiều đường thông nhau rất phức tạp, nay chỉ tạm nói những con đường mà dân chúng thường đi: một đường do sông nhỏ Ốc Len đi về phía bắc ra cửa sông Động Đình, xuống hải cảng Cần Giờ; một đường do sông nhỏ Lò Rèn đi về phía tây bắc ra cửa sông Lôi Giáng đến sông lớn Phước Bình. Còn như dân ở đây khi về bến thì bằng nhiều đường không thể kể xiết.

LÔI LẠP HẢI CẢNG (HẢI CẢNG LÔI LẠP) (<6><92>)

Cửa cảng rộng 4 dặm rưỡi, khi nước lên sâu 4 tầm, nước ròng sâu 2 tầm, cách phía đông nam trấn 62 dặm. Cảng này bùn lầy, nước cạn, dân cư làm nghề chài lưới, câu cá. Phía nam cảng có một đường từ Thảo Giang (Vàm Cỏ) đi về tây nam, trải qua sông Xá Hương xuống đến sông Bảo Định; ở giữa có một đường từ sông Xá Hương đi về phía tây xuống sông Thuận An; phía bắc một đường từ cửa sông Phước Lộc <21b> đi lên hướng tây bắc đến Sa Giang (Rạch Cát) xuống đến sông An Thông. Trong ấy còn nhiều đường tắt quanh co chằng chịt không thể kể hết.

BÌNH TRỊ GIANG

Tục gọi là Rạch Bà Nghè (Thị Nghè) ở địa phận tổng Bình Trị về phía bắc của trấn, từ sông Tân Bình quanh ngả sau trấn lỵ qua khỏi cầu ngang, ngược dòng lên phía tây 4 dặm rưỡi đến cầu Cao Miên; từ cầu chảy về hướng tây bắc chừng 2 dặm đến cầu Chợ Chiểu (Bà Chiểu), chảy về phía nam chừng 4 dặm đến cầu Phú Nhuận (tục danh Xóm Kiệu), 6 dặm rưỡi nữa đến Cầu Huệ là cuối nguồn, nơi đây đầy dẫy những ao vũng.

Bà Nghè là con gái đầu của Khâm sai Chánh thống Vân Trường hầu, tên bà là Nguyễn Thị Khánh, có chồng là thư ký mỗ (<7><93>), người đương thời gọi là Bà Nghè mà không gọi tên thật. Nhân vì khi đầu bà khai chiếm đất ở, bắc cầu ngang qua sông để tiện đi lại, nên dân quen gọi là cầu Bà Nghè (cầu Thị Nghè), cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè (sông Thị Nghè) (<8><94>).

TẤT KIỀU KINH KHẨU

Tục gọi là Cái Tắt (<9><95>) Cầu Sơn, cách phía bắc trấn 7 dặm rưỡi. Từ phía tây bắc Bình Giang ngược dòng qua quan lộ chỗ Cầu Sơn <22a> rồi chuyển về hướng bắc 8 dặm thì đổ ra sông lớn Bình Đồng.

LÃO ĐỐNG (<10><96>) TRẠCH (CHẰM LÃO ĐỐNG)

Cách trấn về phía tây 62 dặm rưỡi, có bến đò Sưu ở đó. Chằm rộng 8 dặm rưỡi, sâu 4, 5 thước ta, bốn mùa nước đều trong vắt bát ngát, từ đầu bến đò chuyển qua nam rồi sang đông chảy ngang đường cái cầu Tham Lương; lại từ đầu bến đò chảy ra bắc đến cửa chằm Nhu Nê (tục gọi là Bến Ngập (<11><97>)) chảy ra Tra Giang (<12><98>) rồi hợp lưu với thượng lưu sông Tân Bình.

TẦM LONG TÂN (BẾN TẦM LUÔNG)

Nguyên trước là đất của Cao Miên (người Cao Miên gọi sang sông là Tầm Long (<13><99>), nay cũng dùng nguyên tên ấy). Chỗ này thuộc địa giới huyện Thuận An, cách tây nam trấn 207 dặm, tiếp giáp với phủ Tầm Đôn của Cao Miên, đây là đường của người Cao Miên đem voi sang cống, có nhiều thuộc Cao Miên (người Cao Miên ở thuộc hạt nước ta mà đóng thuế xong thì gọi là thuộc) cùng người Việt ở lẫn lộn với nhau, rừng rú rậm rạp, những chỗ đã được khai khẩn đều thành ra những cánh đồng trồng dâu, trồng mía.

BÌNH DƯƠNG GIANG <22b>

Tục gọi là vàm Bến Nghé, thuộc đất huyện Bình Dương, ở về phía nam trấn; dòng sông chảy rất mạnh, thuyền lớn đều lưu thông được, cứ khi nước lên thì đi vào nam, thuận nước ròng đi ra bắc, qua lại không dứt. Giới hạn của sông này đến sông Rạch Ong Nhỏ rồi vào sông Sài Gòn và cùng hợp lưu với sông An Thông.

ĐẠI PHONG GIANG (RẠCH ONG LỚN)

Ở về phía đông sông Bình Dương cách trấn 6 dặm về phía nam. Dòng sông uốn khúc quanh co, hai bên bờ có nhiều cây thủy liễu, tục gọi cây bần, ô lô (<14><100>), thủy vi, tục gọi là rau ráng (<15><101>). Chảy xuống hướng đông 4 dặm rưỡi thì chia làm 2 nhánh, nhánh bên phải chảy vào nam 4 dặm rưỡi hợp với sông Tiểu Phong (rạch Ong Nhỏ); nhánh bên trái chảy sang đông bắc 1 dặm rưỡi đến Phổ Giang, 5 dặm rưỡi nữa chảy ra bắc đổ ra sông Thủy Vi, (tục gọi là Khúc Ráng) rồi hợp với sông lớn Phước Bình.

TIỂU PHONG GIANG (RẠCH ONG NHỎ)

Sông này gối đầu vào giáp giới của 2 con sông Bình Dương và An Thông, cách phía nam trấn 6 dặm rưỡi, chảy ra bắc rồi hợp với sông Đại Phong (rạch Ong Lớn).

AN THÔNG HÀ (<16><102>)

Tục gọi là sông Sài Gòn ở về phía tây nam của trấn. Sông cũ từ cầu Thị Thông đi qua Sài Gòn đến sông Lao, chảy quanh co mà nhỏ hẹp, khuất khúc, nước cạn. Mùa xuân năm Kỷ Mão (1819) niên hiệu Gia Long thứ 18, vua sai Phó Tổng trấn thành Gia Định là <23a> Thị trung Tả Thống chế Lý Chính hầu Hoàng Công Lý (cha vợ vua) giám đốc dân phu trấn Phiên An hơn 11.460 suất chia làm 3 phiên, quan trấn cấp tiền gạo, để đổi đường sông cũ, đào mở kinh mới. Bắt đầu từ cầu Thị Thông (Bà Thuồng) thẳng đến sông Mã Trường (kinh Ruột Ngựa) dài 2129 tầm 1 thước, kể tương đương 9 dặm rưỡi (kém số cũ 997 tầm), bề ngang 15 tầm sâu 9 thước ta, 2 bên để đất trống đều rộng 8 tầm (<17><103>), đến đường quan bề ngang 6 tầm. Khởi đào vào ngày 23 tháng giêng đến ngày 23 tháng tư thì xong. Vua ban tên gọi là sông An Thông; dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, tùy theo con nước lên xuống mà đi lại, cùng nhau chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, là chỗ lưu thông đô hội rất là tiện lợi.

MÃ TRƯỜNG GIANG (KINH RUỘT NGỰA) (<18><104>)

Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát qua phía bắc đến Lò Ngói có một đường nước đọng trâu đi, ghe thuyền không đi lại được. <23b> Mùa thu Nhâm Thìn (1772), Đốc chiến Đàm Ân hầu (con thứ 5 của Chính thống Vân Trường hầu) sau khi đi dẹp Cao Miên về, cho đào con kinh thẳng như ruột ngựa, nên mới đặt tên ấy, nhưng nó hãy còn cạn hẹp, nên thuyền đi đến đây phải tạm dừng để đợi nước lên mới đi tiếp qua được. Đến nay đã đào thêm khá sâu rộng. Nhân dân đều cho là rất tiện lợi.

SA GIANG (RẠCH CÁT)

Ở về phía đông nam thượng lưu sông Tân Long, cách trấn về phía tây nam 22 dặm. Nước sông chảy vào hướng nam, quặt quẹo qua đông 29 dặm rưỡi đến sông Phước Lộc, 61 dặm chảy ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp). Hai bên là ruộng nương, bờ ruộng chạy ngang dọc chằng chịt.

TÂN LONG GIANG (SÔNG CHỢ ĐỆM - NGÃ TƯ BA CỤM)

(Phía trên từ cửa trên sông Sa Giang (Rạch Cát), dưới đến sông lớn Thuận An, sông này làm giới hạn cho huyện Tân Long). Cách trấn về phía tây nam 22 dặm, chảy về tây nam 5 dặm rưỡi đến chợ Bình An (tục gọi là Ngã Tư, thuộc đất thôn Bình An). Dọc theo sông, phố xá trù mật, bán các thứ như xuồng <24a> gỗ than, dầu rái, bao cà ròn và buồm chiếu. Quá 12 dặm rưỡi đến quán Tam Dong (ba cây Đa) (<19><105>) (tục gọi là xóm Ba Cụm) (<20><106>) có miếu cổ ba cây Đa. Nước sông có phèn và mặn, có nhiều thứ cây cỏ hẹ và tu xà; 11 dặm rưỡi nữa đến cửa Trúc Giang, 8 dặm rưỡi đến sông lớn Thuận An (tục gọi vàm Bến Lức). Trước khi đi đến sông Thuận An nửa dặm có chợ Phước Tú (tục gọi là chợ Bến Lức) thuộc thôn Phước Tú. Ở bờ phía nam sông ấy, quán xá trù mật, thuyền bè qua lại tạm dừng để đợi nước lên sẽ đi tiếp vào nam hay ra bắc. Sau chợ là sở huyện nha.

THUẬN AN GIANG

Tục gọi là sông Bến Lức, thuộc địa phận huyện Thuận An (Nay là Tân An), cách trấn về phía tây nam 67 dặm; sông rộng nửa dặm, sâu 5 tầm, mùa đông, mùa xuân nước trong mà mặn, mùa thu, mùa hạ nước đục mà lợ. Đối diện cửa sông Tân Long ngược lên tây bắc 93 dặm rưỡi đến thủ sở đạo Quang Hóa (<21><107>). Đối diện cửa sông Tân Long xuống đông nam chảy 42 dặm đến <24b> sông Xá Hương.

SONG MA GIANG (SÔNG ĐÔI MA)

Cũng gọi là sông Tình Trinh ở bờ bắc hạ lưu sông Thuận An, cách phía nam trấn 90 dặm. Tương truyền xưa có người con gái nhà giàu họ Phạm, tuổi vừa cập kê, đem lòng yêu phong cách cậu học sinh họ Nguyễn nọ nhưng hổ thẹn về việc tự ước hẹn (<22><108>), còn cậu học sinh thì vì nhà nghèo hèn, không dám nhờ mai mối cầu hôn; cô gái sinh ra tương tư u buồn rồi chết, cha mẹ cô thương tiếc không nỡ vội chôn, bèn làm lều sau vườn tạm để khơi quan tài ở đấy, cậu học sinh nghe tin cô gái vì mình mà chết cũng đến thắt cổ tự tử (<23><109>) chết bên cạnh cô, nhân đó người ta quàn 2 quan tài cạnh nhau, do âm khí kết tụ, lâu ngày thành ma phá phách. Ban đầu còn nương hồng tựa lục, hiện bóng dật dờ trong canh khuya, đêm vắng! Sau lại loan nghiêng phụng ngửa, ngả ngớn hiện hình trong lúc ban ngày, ban mặt ở chỗ đông người, nhưng khi ấy cũng chưa làm hại đến ai. Mãi sau cha mẹ cô chết, nhà cửa suy tàn <25a>, 2 cái quan tài ấy rốt lại không ai chôn cất, lùm buội mọc phủ lên thành gò, vong hồn ấy có khi hóa làm du nữ đi lừa ghẹo người ta, hoặc giả bóng thuyền buôn bỡn người qua lại, dân ở đấy rất phiền khổ nên gọi tên chỗ ấy là Song Ma (Đôi Ma) để biết mà tránh. Khi Tây Sơn vào chiếm, đi qua chỗ nầy, ghét nghe chuyện ma quỷ ấy bèn xả súng lớn bắn liền vào mấy phát rồi đốt lều để quan tài ấy, từ đó ma quái mới diệt hẳn (<24><110>).

CHÂU PHÊ GIANG (SÔNG CHÂU PHÊ)

Ở bờ phía bắc sông Bảo Định, cách trấn về phía tây nam 97 dặm rưỡi. Nguyên xưa sông này thuộc đất Cao Miên, từ khi Chiêu trùy Yêm (cũng gọi là Keo hoa (<25><111>)), từ Gia Định về Cao Miên để thọ phong vương vị cho đến sau bị người em là Nặc Thâm ngầm tranh gây loạn, bị dân chống lại, Thâm và em út là Nặc Tân cùng chạy qua Xiêm La xin quân trợ chiến, Nặc Ong Yêm (<26><112>) chạy qua Gia Định để xin viện binh với triều đình ta <25b>. Năm Ất Dậu đời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế thứ 15 Tộ Quốc công Nguyễn Phúc Chu (1705) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh năm đầu, Thanh Khang Hy thứ 44), sai Chính thống Vân Trường hầu Nguyễn Phước Vân thống lãnh quân thủy bộ đánh tan quân Xiêm. Nặc Ong Yêm trở về yên vị tại đất cũ La Vách (<27><113>), Vân Trường hầu lập đồn điền ở Vũng Gù làm người mở đầu việc khai khẩn cho quân dân. Sau Vân Trường hầu về kinh bái yết, Khâm ban cho con trưởng của hầu là Phó tướng Triêm Ân hầu trấn thủ dinh Trấn Biên. Năm Ất Mùi thứ 25 (1715) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, Thanh Khang Hy thứ 54), (Trấn thần đem việc đồn điền tâu lên), vua châu phê (<28><114>) chuẩn cho 2 sở ruộng hạng 2 và hạng 3 làm quan điền biệt thực, nên gọi ruộng ấy là ruộng Châu Phê và người ta cũng gọi sông này là sông Châu Phê. Hiện nay ruộng ấy ở địa phận 3 thôn: Bình Khuê, Bình Trung và Bình Tuyên (nay đổi là Phú Thạnh) thuộc tổng Bình Cách, 2 sở ruộng nầy qua các đời đều chuẩn làm tự điền cho Nguyễn Công.

XÁ HƯƠNG GIANG (SÔNG XÁ HƯƠNG)

Sông này ở bờ bắc hạ lưu sông lớn Hưng Hòa, cách phía nam trấn 109 dặm. Khi chưa mở 2 kinh Ruột Ngựa <26a> và Vũng Gù thì đi thuyền phải từ sông Bình Dương vào sông Đại Phong (rạch Ong Lớn), xuống hạ khẩu Sa Giang (Rạch Cát), qua sông Phước Lộc, lên sông Xá Hương, đến Tra Giang, tới sông Kỳ (Cà) Hôn, rồi ra sông lớn Mỹ Tho. Lúc ấy vua nước Cao Miên là Nặc Ong Yêm bị em là Nặc Thâm viện quân Xiêm La về đánh; Yêm chạy qua Gia Định cầu cứu, quan quân đem viện binh đánh Nặc Thâm ở Rạch Gầm, đại binh đi trước, Xá sai ty của dinh Phiên Trấn là Mai Công Hương làm quan chuyển vận lương thực đi sau; khi đến chỗ nầy bị kỳ binh (<29><115>) Cao Miên chận đánh ngang mạn sườn. Đội quân chuyển vận vì ít nên không dám đánh trả, phải bỏ chạy trốn. Xá Hương bèn đục thuyền làm chìm lương thực rồi nhảy xuống sông tự trầm, quân Cao Miên không cướp được gì. Sau khi bình định xong, kể công trạng tâu lên, triều đình bàn bạc thưởng phong cho Xá Hương làm Vị quốc tử nghĩa thần quan, cho lập đền thờ tại nơi ấy và ghi vào tự điển. Người địa phương cầu khấn điều gì đều được linh ứng, đến nay hương hỏa vẫn còn.

BÁT TÂN GIANG (VÀM BÁT TÂN)

Ở phía bờ nam sông Thuận An, cách hạ khẩu sông Tân Long một dặm rưỡi, cửa sông này rộng 12 tầm, khi nước lên sâu 16 thước ta, nước ròng sâu 9 thước ta, đi càng xa thì lòng sông càng hẹp quanh co. Về phía nam 9 dặm đến cửa sông nhỏ Thủ Huấn, sông nhỏ chảy về phía tây bắc 4 dặm thì đến cầu ngang Cai Đao, năm dặm rưỡi đến cửa sông nhỏ Cai Đao, tới bến Thủ Đoàn, 5 dặm rưỡi đến ngã ba giới hạn sông, chảy xuống ngách đông nam, 5 dặm đến cầu ngang Trùm Tự, 5 dặm nữa đến ngã ba Nước Mặn, ngách phía đông chảy ra cửa sông Chanh, hợp với hạ lưu sông Thuận An; ngách phía nam 9 dặm rưỡi đến cầu ngang Lão Hồng (Ông Hồng), hơn 3 dặm nữa ra sông lớn Hưng Hòa, 7 dặm rưỡi đến cầu ngang Xã Hưng, phía đông cầu có chợ búa, xóm nhà đông đúc, một dặm rưỡi nữa đến ngã ba sông nhỏ Cai Tài, nước rộng 5 tầm, nước lớn sâu 5 thước ta, nước ròng sâu 3 thước ta (sông nhỏ chảy về phía tây bắc 2 dặm rưỡi đến cầu ngang Bình Nghị trên đường bộ, 2 dặm rưỡi đến ngã ba, ngách phía bắc 4 dặm rưỡi thì ra cửa sông nhỏ Lão Viên (Ông Viên) tới bến Thủ Đoàn, ngách phía tây hơn 5 dặm đến sông nhỏ Trâm Mộc (Thủy ?) tới cửa dưới sông Tà Cú chảy ra sông lớn Hưng Hòa) 2 dặm rưỡi đến cầu ngang Cai Tài, bờ phía tây có chợ nhỏ Bình Cang, quán xá thưa thớt, 7 dặm rưỡi nữa thì đến sông lớn Hưng Hòa, đường ấy rất khó đi, cho nên phần đông người ta theo đường Tà Cú để đi qua.

TÀ CÚ KINH

Ở bờ phía tây sông Thuận An, phía đông cách cửa sông Tân Long 6 dặm rưỡi. Cửa kinh gọi là bến Thủ Đoàn nước chảy quanh queo, cây cối 2 bên bờ vắt ngang trên mặt sông, nhưng cũng khá sâu rộng đi được, nên thuyền lớn vẫn đi qua được. Qua chợ Bo Bo (<30><116>) 22 dặm, rồi ra sông lớn Hưng Hòa (<31><117>).

QUANG HÓA GIANG (SÔNG QUANG HÓA) <27a>

Ở thượng lưu sông Thuận An (Bến Lức), cách trấn về phía tây 160 dặm rưỡi. Thủ sở ở bờ phía bắc sông lớn nầy, có người nước ta, người Tàu và người Cao Miên ở chung làm ăn với nhau, có tuần ty coi việc thâu thuế cước và phòng giữ biên giới. Từ đây chảy 24 dặm rưỡi đến cửa sông Khê Lăng (<32><118>), 91 dặm rưỡi đến thủ sở Quang Phong giáp ranh giới Cao Miên. Đây là đường mà sứ thần Cao Miên sang cống phải đi qua. Dọc theo sông ruộng đất mới vỡ, còn nhiều rừng rú; ngược lên hướng tây sông chia làm 2 nhánh: nhánh phía bắc (tục gọi là Cái Bát) (<33><119>) đi hơn 100 dặm đến cuối nguồn nhập rừng Quang Hóa, nhánh phía tây (tục danh Cái Cạy (Cậy) (<34><120>) đi hướng tây hơn 150 dặm cũng đến cuối nguồn. Tới đây đều là rừng núi Quang Hóa liền nhau.

KHÊ LĂNG GIANG (SÔNG KHE RĂNG)

Ở bờ phía bắc sông Quang Hóa, cách phía tây trấn 185 dặm rưỡi. Từ cửa sông ngược dòng theo sông nhỏ <27b> lên phía bắc 61 dặm đến thủ sở Thuận Thành. Nguồn sông phát từ ao chằm núi Bà Đinh (Đen), róc rách chảy xuống, nhân dân khai thác nguồn lợi từ núi rừng chằm ao, đi về không dứt.

QUANG HÓA LÂM (RỪNG QUANG HÓA)

Ở địa giới cùng tột phía tây của trấn. Ở đây gò đống trùng điệp, rừng rậm liên tiếp, cây gỗ cao lớn đứng chọc trời, che kín mặt trời, um tùm chừng vài trăm dặm. Ở đây có gỗ đóng ghe, đóng thuyền, nên thợ rừng, thợ mộc cất lều trại để đốn gỗ, làm than củi, lấy dầu rái, mây cứng, mây nước (song) và săn bắn những loài tê, voi, hươu, nai, ngựa rừng, trâu rừng, chim, muông để lấy nanh, sừng, lông thú, lông chim, phơi khô thịt và da rồi đem bán kiếm rất nhiều lợi.

PHÙ LÂU VIÊN (VƯỜN TRẦU)

Ở về phía tây cách trấn 52 dặm rưỡi. Địa thế xung yếu, nằm ngay trên đường bộ thông suốt vào Cao Miên, đặt đạo Quang Oai ở đấy để canh giữ. Khi trước có 18 thôn phụ giữ nơi ấy, dân cư ở đây rất đông đúc, tạo thành một chợ lớn ở miền núi <28a>. Dân nơi đây đều có sản nghiệp, phần nhiều là vườn trầu, họ thường gánh trầu đi bộ từng nhóm 3, 4 mươi người xuống bán ở hai chợ Sài Gòn và Bến Nghé. Nơi đây còn nhiều rừng rậm, cọp dữ thường hay bắt người ăn thịt nên có câu: Hung dữ như cọp Vườn Trầu.

Mùa xuân tháng 3 năm Nhâm Dần, đời vua Thế Tổ Cao hoàng đế năm thứ (5) (1782) quân giặc Tây Sơn (<35><121>) do Nguyễn Văn Nhạc đem binh thủy bộ vào cướp phá, Gia Định thất thủ. Tháng 4 thì bộ binh Tây Sơn từ trấn Biên Hòa do thượng đạo đến trấn Phiên An. Lúc ấy quan binh là Tiết chế Hữu chưởng dinh Dụ Quận công Nguyễn điều biệt tướng ở Bắc Hà là Tự Thuật hầu và tướng quân đạo Hòa Nghĩa là Chương Mỹ hầu Trần Công Chương về toan khôi phục. Khi gặp toán tiền quân giặc Tây Sơn vừa đến vùng Vườn Trầu, bèn phục binh trong rừng đánh úp quân Tây Sơn, hai hầu Tự và Chương giết được đại tướng Tây Sơn là ngụy Hộ giá tên Ngạn, chẳng ngờ lúc ấy đại binh ngụy Tây Sơn kéo đến, quan quân phải rút lui. Ngụy Nhạc được báo tin, rất thương tiếc cái chết của Ngạn, mất Ngạn như mất cả hai cánh tay mặt, trái. Sau biết quân Hòa Nghĩa đều là người Tàu, Nhạc bèn giận lây, nên phàm người Tàu không kể mới cũ, binh lính hay thương buôn <28b>, đều bị giết tất cả hơn 10.000 người, từ Bến Nghé đến Sài Gòn, thây nằm chồng chất ngổn ngang, xác quăng xuống sông làm nước nghẽn không chảy được nữa! Trải qua 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông này. Còn hàng hóa của Tàu như sa, lụa, trà, thuốc, hương, giấy (nói chung bất cứ vật gì của người Tàu), ai có trong nhà cũng đều đem quăng ra đường, mà chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán đến 1 mạch (<36><122>), còn các hàng hóa khác cũng đều cao giá, nhân dân đều khổ theo.

CÔN LÔN ĐẢO (ĐẢO CÔN NÔN) (<37><123>)

Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng Cần Giờ chạy thuyền ra biển theo hướng đông mặt trời mọc 2 ngày mới đến. Đảo lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu, nhưng cũng không nhiều, nên thường phải mua gạo ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở đây là ngựa và trâu, núi không có cọp beo. Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam ba đội, trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ gìn đất ấy phòng quân cướp hung dữ Đồ Bà (<38><124>), không cần kêu gọi chỗ khác đến giúp. Dân lính ở đấy thường lấy yến sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai tượng, rồi theo mùa mà dâng nộp; còn lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống. Quả cau ở đây to, vỏ màu hồng, vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa xuân, lúc cau ở Gia Định chưa kết quả, thì cau ở đây đã dùng được, người ta chở vào bán với giá rất cao.

BA GIẾNG TỐT TRẤN PHIÊN AN

Cái thứ nhất ở sông nhỏ Trúc (?) (<39><125>) ở Bến Nghé, gọi là giếng Tấn. Giữa dòng nước đục mặn trào lên cái suối nước ngọt, ban đầu dân ở đó lấy ống tre đặt vào miệng suối, nước phun lên, rồi dùng vò hứng lấy, giếng phun không bao giờ dứt. Sau đó người ta xây đá đắp đất cho liền với chỗ đất bằng, nước rất tốt, người người đều đến lấy dùng.

Một cái khác ở bến nước bờ bắc sông Bình Dương, thuộc địa phận xóm phía tây thôn Tân An, gọi là giếng Danh (tức giếng Tiếng, còn gọi là giếng Bá Đa Lộc).

Một cái nữa ở bờ Tây sông cũ Tân Long thuộc địa phận thôn Tân Phú Hội, gọi là giếng Nhuận.

<29b> Cả ba giếng nầy, người ở gần xa đều đem thuyền đến chở hoặc đến gánh bộ, tranh nhau múc liên tiếp không lúc nào vắng người.

TẨU (RỪNG SÁC)

Từ Tam Giang Nhà Bè đến Cần Giờ, Đồng Tranh, Lôi Lạp (Soi Rạp) đều có những vật sản có lợi như củi cây, tôm cá và hải sản cũng giống như ở trấn Biên Hòa vậy.

---------------------------------------------------

Chú thích:

(<1><87>) Núi Bà Đinh tức Bà Đen cũng còn gọi là Chơn Bà Đen hay Chiêng Bà Đen. Di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi theo tên cũ của Khơ me là Phnom Cơn Bà Đèn. Người dân địa phương cũng như khách hành hương đều thành kính gọi kiêng húy là núi Bà Thâm!

(<2><88>) Hồ tăng là tăng nhân người Ấn Độ.

(<3><89>) Đối chiếu đoạn tả sông Băng Bột (Thủy Vọt) và sông Tân Bình nầy, sẽ thấy sông Băng Bột là khúc trên của Tân Bình, sông Tân Bình là đoạn dưới của Băng Bột, thực tế hai sông là một.

(<4><90>) Hải để võng (
海底網) là miệng đáy đặt ngoài biển, cách thức cũng như đáy sông nhưng to rộng hơn.

(<5><91>) Nò rạo: Là một hình thức đăng lớn ở biển để bắt cá lớn.

(<6><92>) Hải Cảng Lôi Lạp, còn đọc là Lôi Rạp, Soi Rạp, Soai Rạp. Xin chọn đọc là Soi Rạp.

(<7><93>) Nguyên văn Qui phu thư ký mỗ (
歸夫書記某) nghĩa là "về với chồng là thư ký nọ". Chữ mỗ () chỉ một người không rõ họ tên, ta quen dịch là nọ. Ban đầu đọc đoạn văn nầy dễ thắc mắc: tại sao gọi bà Khánh là bà Nghè, tức vợ ông Nghè, là vợ ông Tiến sĩ trong khi chồng bà Khánh chỉ là một viên thư ký (không phải chức vụ của một ông Tiến sĩ)? Thường các ông Tú tài được sung vào chức thư ký biên chép ở các nha huyện thời đó. Tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi ở trang 358 ghi rõ chữ Nôm nghè () có hai nghĩa:

- Nghĩa thứ nhất là ông Nghè, tức ông Tiến sĩ thời xưa.

- Nghĩa thứ hai là ông thư ký, ông nhân viên văn phòng để các quan lớn sai phái mà ông Yonosuke Takeuchi đã chú bằng chữ Hán là Vương triều thời đại dịch nhân nghĩa là "kẻ để sai phái thời vua chúa" (
翁儀:王朝時代役人). Như vậy bà Nghè chỉ có nghĩa là bà vợ một ông thư ký thường như Trịnh Hoài Đức đã nói rõ trong đoạn văn tả sông Bình Trị.

(<8><94>) Sông Bà Nghè hay Thị Nghè, người Pháp gọi là Arroyo de l'Avalanche.

(<9><95>) Nguyên văn viết
'橋山 tức phải đọc theo chữ Nôm là Cái Dứt Cầu Sơn, vì chữ ' nầy ở cả hai cuốn Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Yonosuke Takeuchi đều đọc là Dứt, còn chữ Tắt có nghĩa (đường) tắt, thì chỉ sách Takeuchi có và viếtchớ không phải '. Tuy nhiên, toàn bộ quyển GĐTTC, thấy chữ Tắt đều được khắc in là '. Vậy nơi đây xin đọc là Cái Tắt Cầu Sơn cho hợp với tên địa phương, và Kính Châu ở trước cũng xin đọc là cù lao Cái Tắt, cũng như Tắt Cây Sung ở phần sau.

(<10><96>) Nguyên văn viết
y. Chữ y nầy tra tự điển Nôm chưa thấy! Thượng Tân Thị phiên là Đuôn e chưa đúng vì con đuôn phải viết là /. Nhóm dịch giả VSH đọc Dong cũng chưa đúng vì Dong phải viết là . Di cảo của Trương Vĩnh Ký ghi là đầm Lão Đống hợp với tên gọi của người địa phương, chính là đầm Gò Vấp ở Gia Định giáp với Hốc Môn hiện nay.

(<11><97>) Nguyên văn viết {. Chữ { tra tự điển chưa thấy. Bản dịch của nhóm dịch giả VSH ghi là "Bến Lầy" có lẽ chưa chính xác vì chữ lầy phải viết là
, 1 ,2. Nguyên văn đính kèm bản dịch của Nguyễn Tạo viết lànên ông ghi là bến. Nguyên văn bản lưu trữ của VHN viết là 34 tức đò (4). Tra cứu văn Nôm và tục danh Nam Bộ, thường thấy có chữđọc là ngập, tự dạng rất giống chữtrong nguyên văn, mà nghĩa cũng hợp với nội dung vì chằm Nhu Nê (濡泥) có nghĩa là chằm Thấm Ướt Bùn Sình, tức hàm ý ngập nước quanh năm. Vậy xin tạm chọn chữ nầy vì e rằng thợ khắc thiếu một nét khiến cập () thành nãi () từ đó dẫn tới chữ { tìm không thấy thay vì là chữ ngập ().

(<12><98>) Xem chú thích ở đoạn nói về Tra Giang.

(<13><99>) Tầm Long
尋竜. Người Khơ me miền dưới ở các vùng Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc, Việt Nam gọi sang sông là Chhlâng, cũng đọc Chhlon, tiếng Khơ me Krọms (Khơ me miền dưới) đọc trại thành Tầm Lon, người Việt đọc nhại theo thành Tầm Long; chuyển âm Nam Bộ thành Tầm Luông.

(<14><100>) Tức ô rô, vì chữ Hán không diễn âm R được, nên thay bằng âm L, nên rô viết thành lô.

(<15><101>) Nguyên văn viết là 5. Chữ Nôm 5 có thể đọc là trầu hay rau, nhưng chúng tôi chọn "rau" vì đây là thứ cây mọc thành lùm ở bờ sông nước mặn cạnh ô rô, cóc kèn, đọt non có thể bẻ chấm mắm chưng ăn rất ngon, cọng già chặt phơi khô bó thành chổi ráng, là thứ chổi tiện dụng ở Nam Bộ, tên chữ Hán là Thủy vi (tức cây lau nước).

(<16><102>) An Thông Hà (
安通河) là khúc sông Sài Gòn từ rạch Ong Nhỏ vô Chợ Lớn.

(<17><103>) 1 tầm = 3,2 m. Vậy 2129 tầm bằng (3,2 x 2129) = 6.812 m.

1 dặm = 720 m. Vậy 9,5 dặm = (720 m x 9,5) = 6812 m. Vậy 2.129 tầm tương đương 9 dặm rưỡi.

(<18><104>) Tiếng Nam Bộ không gọi con sông đào là kênh mà gọi là kinh như "kinh Xáng", "kinh Tàu Hũ" "cầu Kinh" chẳng hạn." Kinh Ruột Ngựa" là tên dân gian quen gọi từ lâu.

(<19><105>) Nguyên văn viết:
三榕. Chữ có thể đọc Dung hay Dong và có nghĩa là cây Đa, hay cây Si.

(<20><106>) Chữ Nôm viết là 6, đọc khóm như nhóm dịch giả VSH là không chính xác. Chữ Nôm 6 đọc là cụm; tên gọi Ba Cụm hiện còn thông dụng trong nhân dân.

(<21><107>) Quang Hóa nay là Trảng Bàng ở Tây Ninh.

(<22><108>) Nguyên văn sỉ tư ước (
恥私約) có nghĩa là thẹn chuyện tự ước hẹn với nhau không đợi lịnh mẹ cha chớ không phải thẹn chuyện hẹn hò gặp gỡ riêng tư.

(<23><109>) Nguyên văn là trĩ kinh (
雉經) có nghĩa là dùng thòng lọng thắt cổ tự tử, đồng nghĩa như tự ải.

(<24><110>) Cám cảnh chuyện tình Đôi Ma, năm 1896 một người Trung Quốc chủ nhơn hiệu thuốc bắc Nhơn Ái Đường ở Mỹ Tho và ông Thượng Tân Thị hồi năm 1907 mỗi người làm một bài thơ vịnh. Nay xin chép ra: (Trích Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển).

Bài của ông chủ Nhơn Ái Đường: Bài của Thượng Tân Thị:

Vực thẳm cây cao chiếm một tòa Trải qua Rạch Kiến ác chinh chinh

Sống không lẻ cặp chết đôi ma Nghe nói đôi ma bắt lạnh mình

Hồn hoa đem gởi chòm mây bạc Thảm nỗi con nhà sanh bất hiếu

Phách quế nương theo bóng nguyệt tà Ngán cho giọt nước khéo vô tình

Con nước chảy ròng rồi kế lớn Sống thề chưa vẹn duyên kim cải

Tấm lòng có bậu lại cùng qua Thác nguyện cùng theo chốn thủy tinh

Căn duyên ai khiến xui cho đấy Ai hỏi hồn thiêng như có biết

Tiếng để ngàn thu cũng cũng là. Tiếng đời lượn sóng nỗi linh đinh.

(<25><111>) Chiêu trùy hay Keo hoa là tên chức quan rất to của Khơ me, tương đương chức Phụ chính đại thần và thường do các hoàng thân đảm nhiệm.

(<26><112>) Nặc Ong Yêm tức Neac ang Eng, con của Nặc Ong Non (Neac ang Non).

(<27><113>) Thành La Vách trên đất Khơ me là thành Lovek ở Oudong.

(<28><114>) Châu phê: Chữ vua phê dùng màu son đỏ, nên về sau cái gì vua ban cũng gọi là châu phê như ruộng châu phê tức ruộng do vua ban thưởng.

(<29><115>) Kỳ binh (奇兵) tức quân phục kích thừa lúc địch bất ý đề phòng mà ùa ra đánh.

(<30><116>) Nguyên văn viết 甫甫 tức Phủ Phủ, có lẽ là bản gỗ khắc nhầm, vì thực tế tại địa phương vùng Trà Cú có chợ Bo Bo mà chữ Nôm phải viết là 脯脯. Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì kinh này gọi là Tà Cú, Trà Cú hay Lợi Tế Hà. Có lẽ từ tiếng Khơ me Thkó đọc trại ra là Tà Cú, Trà Cú!

(<31><117>) Sông Hưng Hòa (興和江) tức sông Vàm Cỏ Tây, Pháp gọi là Vaico Occidental, chảy từ Tân An tới Miếu Ông, khi chảy qua làng Hưng Hòa có tên là Hưng Hòa giang.

(<32><118>) Sông Khê Lăng (溪陵江): Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì sông Khê Lăng tức rạch Khe Răng thuộc vùng Sài Gòn là không phải sông Khê Lăng ở sông Quang Hóa vùng Tây Ninh. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<33><119>) Cái Bát, nguyên văn VHN lưu trữ viết 丐扒, chữ Nôm 扒 đúng ra phải đọc là bớt, nhưng trong ngữ cảnh nầy phải đọc là bát. Nguyên văn bản VSH viết đúng Cái Bát (丐撥).

(<34><120>) Cái Cậy (Cạy): Nguyên văn viết 丐7, chữ Nôm 7 đúng ra phải đọc là cậy, nhưng trong ngữ cảnh nầy phải đọc là cạy. Trong Nam đi ghe ban đêm thấy ghe đi ngược chiều hô bát là lấy mũi qua phải, thì ghe kia cũng phải hô bát là lấy mũi qua phải cho khỏi đụng. Khi nào vào bến muốn quẹo trái mới được hô cạy.

(<35><121>) Theo quan điểm đương thời của Trịnh Hoài Đức.

(<36><122>) Mạch (陌): Xưa dùng như chữ bách (百) là một trăm gián, tương đương 60 hoặc 70 đồng kẽm, là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất. Còn tiền là đơn vị lớn hơn nhiều, 60 tiền bằng một quan.

(<37><123>) Côn Lôn (崑侖) còn gọi là Côn Nôn, Côn Sơn, Sondun, Poulo Kondur, đảo Bầu Bí, là quần đảo gồm 14 hòn ở cách cửa sông Bassac 84 km, dài 15 km, bề ngang chỗ rộng nhất là 9 km, chỗ hẹp nhất là 3 km, diện tích 7.728 ha, có 70 mẫu ruộng đã thuộc, Pháp gọi là Poulo condore, và dùng làm nơi đày tù khổ sai, chủ yếu là tù chính trị.

(<38><124>) Đồ Bà (闍|) tức từ người Việt mình dùng để gọi người Chà Và như Chà Và Châu Giang, Chà Và Mã Lai, Chà Và Nam Dương nhưng không phải người Chà Ấn Độ. Ở phần cuối sách Trịnh Hoài Đức có chú thích và qua đó ta biết đây là người Chà ở đảo Malacca (Mãn Lạt Gia hay Ma Lục Giáp).

(<39><125>) Nguyên văn viết 竹9. Chữ này Vương Hồng Sển ghi là Trúc Bài hay Trúc Bè. Nhóm dịch giả VSH dịch thành ra là Bè Tre. Có lẽ các tác giả đã phỏng đoán vì chữ này tra tự điển Hán Nôm đều không thấy.

2c. Trấn Định Tường

KIẾN ĐỊNH GIỒNG (GIỒNG KIẾN ĐỊNH) (<1><126>)

Ngày xưa đây là lỵ sở, nay đã chuyển đi nơi khác. Chỗ nầy có gò đất nổi cao, bốn phía đều bằng phẳng rộng rãi, là nơi trọng yếu của đường bộ, xưa nay từng là nơi chiến địa. Khi nhà Nguyễn mới Trung hưng (đời Thế tổ Cao hoàng đế 1778), từng đóng đồn ở chỗ hiểm yếu ấy, sau khi đại định không tu bổ nữa, nhưng nền cũ vẫn còn nên nay đặt làm huyện lỵ. Xuống phía đông 18 dặm đến giồng Yến (giồng Cánh Én), phía tây có giồng Kỳ Lân <30a>, giồng Trảo Trảo và giồng Dự (<2><127>), 3 giồng cao thấp lên xuống tiếp tục nhau, cách tây nam 25 dặm đến giồng Lữ (<3><128>), lại cách phía tây 4 dặm đến giồng Trà Luật (Trà Luộc), 28 dặm đến giồng Sao (<4><129>), 6 dặm đến giồng Triệu. Các giồng này tuy lớn nhỏ không đều nhưng đều trồng bông vải, dâu, gai, dưa, đậu, khoai, thuốc lá, bắp, dân đều lấy đó làm sản nghiệp.

TAM GIỒNG (BA GIỒNG)

Ở địa phận trấn Định Tường, đất nầy gò đống lồi lõm, cây cối um tùm liền nhau xuyên qua giữa 2 huyện Kiến Đăng và Kiến Hưng. Phía trước có sông dài ngăn lại, ở sau dựa theo bưng biền, đây là chỗ cứ hiểm tụ nghĩa của đảng Đông Sơn (đảng của Đỗ Thanh Nhơn). Năm Bính Thân (1776) có binh biến, Ngoại hữu Phương Quận công dùng quân nghĩa lữ Đông Sơn để thu phục Gia Định. Nhưng sau đó Đỗ Thanh Nhơn có sự bất hòa với tướng quân Lý Tài của đạo Hòa Nghĩa nên Lý Tài nghĩ Hữu phủ Kính Quốc công đã mất, không còn chỗ nương tựa, trong bụng lấy làm nguy, nên mới chiếm lấy núi Châu Thới mà làm phản <30b>. Quân Đông Sơn đánh mãi không thắng, nên phải đắp đồn dọc theo sông từ Bến Nghé đến Bến Than để phòng giữ. Ngày 8 tháng 10, Mục vương (Nguyễn Phúc Dương) từ phủ Quy Nhơn là căn cứ sở của ngụy Nhạc do đường biển lẻn vào Gia Định, sai Tham mưu Khoáng Điển hầu họ Nguyễn truyền dụ cho Lý Tài biết vua trở về. Về Lý tướng quân nầy, sự việc như sau: Nguyên tháng 4 năm Ất Mùi (1775), Mục vương vào Quảng Nam đánh quân Tây Sơn, thua trận nên bị bè đảng của giặc Hòa Trung đạo Tập Đình hầu và Hòa Nghĩa đạo Lý Tướng quân bắt từ Hà Lạc về. Tập Đình hầu nhiều lần muốn giết Mục vương, may có Lý tướng quân bảo vệ mới được an toàn. Sau Tập Đình hầu bạo ngược lại phản Tây Sơn làm loạn (<5><130>), rốt lại dong thuyền chạy về Quảng Đông nhưng cũng bị quan Tổng đốc bắt, chiếu luật giết đi. Riêng Lý Tài luôn phò tá kính cẩn có ý muốn tôn lập Mục vương, vì họ đã tin hiểu nhau từ lúc còn đang bị Tây Sơn lung lạc chế ngự. Nay Lý tiếp được tin thật bèn sai 4 thuộc tướng là Tân, Hổ, Hiền, Nam, đem cả bổn bộ binh mã thẳng xuống Bến Nghé để bái nghinh Mục vương về đồn Dầu Miệt (Một) (<6><131>). Khi ấy binh tướng Đông Sơn không đánh mà tự bỏ chạy về Ba Giồng đồn trú, chỉ có vài mươi quan triều bảo vệ Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế (Nguyễn Phúc Thuần) nơi hành tại Bến Nghé mà thôi. Ngày 4 tháng 11, Lý tướng quân lại hộ vệ Mục vương xuống Bến Nghé chịu mệnh của Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế nhường ngôi ở chùa Kim Chương, Mục vương cử Lý Tài làm quan bảo giá. Trong lúc đó đạo quân Hòa Nghĩa rất hung hãn tàn bạo, dân không chịu nổi. Trước đó, Thế Tổ Cao hoàng đế đã dự đoán sẽ có sinh biến, nên đã qua trước Ba Giồng để chiêu phủ Đông Sơn chờ khi dùng đến.

Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), quân giặc Tây Sơn do Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ đem binh thủy bộ vào đánh. Binh triều Nguyễn cùng binh Hòa Nghĩa chung sức chống trả, đối trận với thủy binh Tây Sơn ở sông Bến Nghé. Hai bên đang ghìm nhau như thế cò trai thì bộ binh Tây Sơn do thượng đạo Trấn Biên tiến xuống Hốc Môn, liền bị Hổ tướng quân của đạo Hòa Nghĩa chận đánh và giết được viên tướng ngụy là Tuần sát tên Tuyên <32a>, quân Tây Sơn phải rút về bến Than, gặp lúc Chưởng cơ binh triều là Văn Đức hầu Trương Phúc Thận đem quân từ Cần Giuộc tiến lên Sài Gòn tiếp viện, đạo Hòa Nghĩa lại nghi là quân thù Đông Sơn đến đánh tập hậu, bèn bỏ Hốc Môn về giữ Bến Nghé. Thế là quân Tây Sơn thừa thế đuổi theo, quân thủy, quân bộ cùng tấn công, binh của Hòa Nghĩa phải bỏ chạy, bọn người Tàu Lý Tài chạy đến đâu cũng đều bị quân Đông Sơn ngăn chặn giết cho đã nư thù. Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế chạy qua Long xuyên, Mục vương thì qua Ba Vát nhưng đều bị quân Tây Sơn vây ngặt bắt đem về Bến Nghé, rồi sau đều bị giết cả.

Tháng 9, ngụy Nhạc và ngụy Huệ về Quy Nhơn, để bộ binh do Tổng đốc Châu, Hổ tướng quân Hãn, thủy binh do ngụy Tư khấu Oai và ngụy Điều khiển Hòa ở lại giữ Gia Định.

Tháng 10, Thế Tổ Cao hoàng đế khởi binh từ đạo Long Xuyên, cử Tiền quân Dũng Quận công Nguyễn Quân trước đánh chiếm cứ Ba Giồng. Phương Quận công đem nghĩa binh Đông Sơn cần vương nên <32b> bốn mặt nghĩa binh tiếp ứng, tất cả đều treo cờ trắng và đội khăn trắng (<7><132>). Tháng tư năm Mậu Tuất (1778) lấy được Gia Định, liền gia phong cho Phương Quận công chức Phụ chánh Thượng tướng, nhưng về sau ngài cậy có công lớn, trở nên kiêu căng thất lễ, có ý hai lòng, nên đêm 23 tháng 3 năm Tân Sửu (1780) bị vua giết chết, rồi sai Chưởng thủy dinh Thăng Nhật hầu lãnh bộ binh, Nội tả Thiêm Quận công lãnh thủy binh, và chia quân Đông Sơn ra làm 4 đạo: Dũng Quận công lãnh tiền quân, Triêm Quận công Võ Doãn Triêm lãnh hữu quân, Nội hữu Lương Quận công Tống lãnh tả quân, Chưởng cơ Trương Văn Bác lãnh hậu quân. Trước hết, vua sai Dụ Quận công Nguyễn lãnh trung quân ra cứ Bình Thuận để điều khiển bộ binh, chọn tháng 5 năm ấy ra đánh ngụy tặc ở Quy Nhơn. Lúc ấy tướng sĩ Đông Sơn có lòng oán hận, tất cả đều bỏ trốn về Ba Giồng để chống lại vua. Triều đình sai Ngoại tả Thuyên Quận công Tống Phước Thuyên và Lương Quận công đến đánh và đã giết tiệt cả chính tướng, tỳ tướng của quân càn bậy ấy, còn đạo quân Bình Thuận <32b> tiến đến Bình Hòa liền hiệp với quân của Tiếp Quận công đối lũy với địch, trong lúc ấy hậu binh Gia Định không chịu xuất chinh cho nên Dụ Quận công phải kéo quân về, còn Tiếp Quận công thì ở lại sơn đồn Trà Rang để cứ thủ.

Danh tích lai lịch của Ba Giồng là như thế, cho nên ngẫm việc đời mới nhận thấy rằng, hình thành tên tuổi của Đông Sơn là ở Ba Giồng mà bại diệt tên tuổi của Đông Sơn cũng ở Ba Giồng, nên mới gọi chung tên người với tên đất là như thế, ấy là lấy cái thỉ chung giữa đất đai và con người vậy, mà hầu như không biết đất được cách núi ngăn sông, dân giàu, của đủ, là để giúp người ra cứu đời, dẹp loạn, thành toàn sự nghiệp mình, lại an dân, lưu danh trong sử sách, ấy là thiên lý vậy. Nhược bằng trái với đạo trời, nghịch mạng vua, kết bè lũ hung ác hại dân, ấy là tự người làm ra, tuy có vững chắc như ải Hào Hàm (<8><133>), hiểm trở như sông Ngô (<9><134>), lợi hại như rắn Thường Sơn ở Kiếm Các quan (<10><135>), mạnh tợn như cọp dữ dựa góc núi ở Lương Sơn Bạc (<11><136>), há có thể trông cậy được sao mà lại ỷ vào bề thế một nhúm đất để gây phiền rối!

LÃO TRỰC GIỒNG (GIỒNG LÃO TRỰC) <33b> KEO GIỒNG (GIỒNG KEO)
Ở Đại Tiểu Hải Châu; ở đây người ta trồng bông vải và khoai, nhà cửa nhân dân rất thưa thớt.

NHẬT BẢN GIỒNG, TỔNG ĐỖ GIỒNG, DUNG GIỒNG
Ở cồn Nhật Bản: Trồng bông vải, khoai lang, khoai nước. Nhà cửa ẩn hiện trong bóng tre trúc, cổ thụ um tùm.

ĐẠO TÂN GIỒNG, DU TÁN GIỒNG, TỈNH GIỒNG
Ở miền biển Ba Lai: trồng bông vải, khoai lang, dâu, gai; ở đây có thôn xóm của cư dân.

CÁI VANG GIỒNG (GIỒNG CÁI VINH)
Ở sông nhỏ Cái Vinh: trồng khoai lang, khoai nước.

THỦY MAI GIỒNG (GIỒNG MÙ U)
Có nhiều cây thủy mai, tục gọi là cây mù u.

BỘ TÂN GIỒNG (GIỒNG BỘ TÂN)
Có dân cư chuyên trồng bông vải, khoai, đậu.

CHIÊU GIỒNG - LÃO NGÂN GIỒNG (GIỒNG CHIÊU, GIỒNG LÃO NGÂN)

Ở trên bãi biển Ba Lai.

GIỒNG HOA, GIỒNG TOÁN, GIỒNG THÀNH, GIỒNG CHÂN BIỀU (CHƯN BẦU), GIỒNG CHÓ (<12><137>), GIỒNG KẾT (<13><138>)

Đều ở địa phận Kỳ (Cà) Hôn: trồng khoai lang, dưa, rau cỏ; đều có nhà cửa của dân cư.

<34a> GIỒNG TRÚC, GIỒNG BẦU NAO, GIỒNG TRÂM, GIỒNG CANG

Đều ở Gò Công: ở đây có nhiều thôn xóm của cư dân, trồng bông vải, khoai, đậu, rau, dưa.

GIỒNG THÀNH, GIỒNG CHUYÊN (GẠCH), GIỒNG TRƯỜNG (DÀI), GIỒNG NĂN, GIỒNG XA LUÂN (BÁNH XE)

Đều ở bờ sông Cần Lộc: trồng khoai lang, khoai nước.

GIỒNG THÁP, GIỒNG ME, GIỒNG TÁO

Ở bờ sông Cái Tháp, đều trồng bông vải, khoai.

MỸ THO GIANG (SÔNG LỚN)

Ở trước mặt trấn, là một con sông lớn trong trấn. Sông phát nguyên từ sông Cửu Long, tận nội địa tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy cuồn cuộn từ phía bắc qua phía tây đến Lào qua địa phận sông Nam Vang của Cao Miên, rồi chia làm 2 sông Tiền Giang và Hậu Giang chảy xuống hướng đông. Sông Tiền Giang chảy qua trấn Vĩnh Thanh rồi chuyển vào nam vòng quanh trước trấn Định Tường rồi chảy ra cửa biển Đại, Tiểu Ba Lai, không biết sông dài bao nhiêu ngàn vạn dặm, sông chảy không dứt, đã sâu lại rộng, nước trong và ngọt, cá tôm bắt dùng không hết; tuy ở thượng lưu của nó thường có nước lụt, nhưng khi chảy đến Tiền Giang, Hậu Giang thì tuôn thông ra sông nhánh hai bên bờ, khi đến các cửa biển, thế nước giảm dần <34b>, nên từ Cao Miên trở lên thì có nạn nước lụt, còn từ trấn Vĩnh Thanh trở xuống, thì khi mùa lụt chỉ như nước rong lớn dâng lên mà thôi, rốt lại không có nỗi lo tràn ngập gò nỗng.

HƯNG HÒA GIANG

Tục gọi là Vũng Gù, ở phía đông cửa sông Bảo Định, cách trấn về phía đông 47 dặm rưỡi. Ngược lên phía bắc 32 dặm đến cửa sông Bát Đông, 118 dặm (<14><139>) đến đồn cũ Phong Ca Khơ me. (Thủ sở ở bờ đông sông nầy, có con sông nhỏ, xuống phía đông độ 3 dặm, thông với sóc (<15><140>) Cao Miên. Ở đây có người Việt (<16><141>), người Hoa và người Cao Miên chung sống, là vùng địa giới trấn Phiên An, nhưng phân thủ thì thuộc về đạo Tuyên Oai, thuộc quyền trông coi của trấn Định Tường, để kiểm soát việc cấm đi vào nước Cao Miên). Từ đoạn sông nầy trở lên là sông Bát Chiên, ở phía đông cửa sông Bảo Định, thuận dòng chảy về hướng nam 168 dặm rưỡi đổ ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp).

THUỘC LÃNG GIANG (SÔNG THUỘC LÃNG)

Ở bờ phía tây hạ lưu sông Hưng Hòa, cách trấn về phía đông nam 97 dặm. Cửa sông rộng 35 tầm, sâu 3 tầm, cách phía tây nam 90 dặm rưỡi đến ngã ba, nơi hợp lưu của 2 sông Tra Giang và sông Cà (<17><142>) Hôn.

TRA GIANG (SÔNG TRA)

Ở bờ tây hạ lưu sông Hưng Hòa. Cửa sông rộng 57 tầm, sâu 31 thước ta. Bờ phía bắc cửa sông, năm Mậu Thân (1788), khi nhà Nguyễn mới Trung hưng có đắp đồn bằng đất để giữ nơi hiểm yếu, nay dấu cũ vẫn còn, cách trấn về phía đông nam 125 dặm. Sông này theo hướng tây bắc 3 dặm rưỡi đến ngã ba nguồn sông Gò Công (từ miệng ngã ba sông đi lên phía tây 34 dặm đến chợ Gò Công thông với Rạch Dịch (?) (<18><143>)), rồi chảy ra cửa Tiểu, hơn 8 dặm đến ngã ba sông Chà Diệp (từ nhánh cửa sông phía nam đi thêm 40 dặm đến chợ sông Chà Diệp) hơn 14 dặm nữa hiệp lưu với ngã ba sông Thuộc Lãng và sông Kỳ Hôn (Cà Hôn).

KHỔNG TƯỚC CANG (GÒ KHỔNG TƯỚC)

Tục gọi Gò Công, cách trấn về phía nam 90 dặm rưỡi. Vùng này ruộng tốt, đất phì nhiêu, lúa gạo phong phú, có nhiều gò đống, <35b> khe ngòi. Năm Đinh Mùi (1787), Khâm sai Chưởng hậu quân Tánh Quốc công chiếm cứ địa lợi nơi nầy, chiêu mộ dân làm lính, dựng cờ nghĩa, nhiều lần đánh với quân giặc Tây Sơn, cất tiếng cho việc Trung hưng. Dân nơi đây phần nhiều là người trung nghĩa nên dùng nơi đây làm đất dụng võ.

KÌ HÔN GIANG (SÔNG CÀ HÔN - TRÀ HÔN)

Ở bờ phía đông sông Mỹ Tho, cách trấn về phía nam 7 dặm rưỡi. Đi về phía đông 10 dặm rưỡi đến chợ Kỳ Hôn (Cà Hôn), nơi đây dân cư đông đúc; 2 dặm đến chợ Lương Quán; 50 dặm rưỡi hợp lưu với ngã ba của sông Tra Giang và sông Thuộc Lãng.

TIỂU HẢI MÔN (CỬA TIỂU)

Cửa rộng 1 dặm rưỡi, khi nước lên cửa sâu 28 thước ta, nước ròng sâu 23 thước ta. Phía đông ngoài cửa biển có nổi cồn cát ngầm, tục gọi là cồn Mông. Bãi biển này lắm bùn lầy, lòng cảng vừa hẹp vừa cong. Cách phía nam trấn 93 dặm rưỡi, đi ngược lên 12 dặm nữa đến đồn phòng bị (Sở thủ ngự).

ĐẠI HẢI MÔN (CỬA ĐẠI)

Cách trấn về phía nam 87 dặm; cửa biển rộng hơn 7 dặm, khi nước lên sâu 27 thước ta, nước ròng sâu 22 thước ta. <36a>, cửa biển nhiều bùn lầy, lòng cảng hẹp và cong, nên thuyền bè ít ra vào. Phía tây cảng có cồn Nhật Bản, trên cồn có trạm đồn trú, trước mặt nổi cồn cát ngầm, tục gọi là cồn Tàu. Phía đông cảng có cồn lớn gọi là cồn Tiểu Hải, nằm ở giữa dòng để ngăn khóa cửa sông, lớn và dài, đầu phía nam là bờ đông bờ tây Cửa Đại và Cửa Tiểu. Đầu phía bắc chia làm 3 nhánh, nhánh phía bắc ngược lên đến Kỳ (Cà) Hôn rồi lên sông Mỹ Tho; nhánh phía đông vào nam làm Cửa Tiểu; nhánh phía tây cũng vào nam làm Cửa Đại, cả ba nhánh ấy đều chảy ra biển.

LONG CHÂU

Tục gọi là cù lao Rồng (<19><144>). Cù lao này ở ngay trước trấn, làm cái án gần của trấn. Khi trước cửa sông Mỹ Tho sâu rộng, có cặm bảy miệng đáy (<20><145>), thuyền buôn qua lại phải đậu nghỉ ở đây để hóng mát xem trăng, đợi nước thuận mới đi lên hoặc xuống. Từ năm Mậu Thân (1788) trở lại đây, phù sa bồi lấp ngày càng cao lớn, hình thế như con rồng nằm, vì vậy Thế Tổ Cao hoàng đế mới ban cho tên là Long Châu. <36b> Cồn dài gần 2 dặm, làm la tinh cho cửa sông, che kín trấn sở, ngăn chặn sóng dữ, nghiễm nhiên là chỗ danh thắng. Nhà địa lý nói: Cửa sông mà có cồn cát nổi lên cao, đất ấy ắt sẽ thịnh vượng. Chỗ này đúng là được như vậy.

BA LAI NAM GIANG (SÔNG BA LAI NAM) (<21><146>)

Cách trấn về phía tây nam 12 dặm, dòng sông sâu rộng, bốn mùa nước đều trong, chỉ giữa mùa hạ nắng gắt nước mới mặn, sông này lấy 2 bờ nam bắc để chia làm ranh giới của 2 trấn Định Tường và Vĩnh Thanh.

BA LAI HẢI MÔN (CỬA BIỂN BA LAI)

Cách trấn về phía nam 84 dặm rưỡi; cửa rộng 1 dặm rưỡi, khi nước lên cửa sâu 26 thước ta, nước ròng sâu 21 thước ta. Vì đường đi rậm rạp hoang vu, nên thuyền bè ít khi qua cửa nầy.

ĐĂNG GIANG TÂN KINH (KINH MỚI RẠCH CHANH)

Ở phía tây bắc của trấn. Ngày trước con kinh nhỏ Sông Chanh ở phía đông, nguồn cùng Ba Lai ở phía tây, khoảng giữa ấy bùn lầy ẩm ướt, cỏ lác hoang bẩn, kéo dài hơn 57 dặm rưỡi, ở đây phía nam thì <37a> nhiều giồng gò, ruộng vườn, phía bắc thì nhiều rừng sâu và chằm to lan rộng đến 5, 6 trăm dặm, đây là chỗ Đông Sơn tụ nghĩa rồi tiến chiếm Ba Giồng, lợi dụng thế hiểm để hoành hành các nơi, khi lùi tựa theo rừng sác, bưng chằm, thật như cọp vào rừng sâu, rồng về biển cả, chẳng ai biết tung tích đâu là đâu. Giặc Tây Sơn đã bao phen bị họ làm cho khốn đốn mà cũng chẳng biết phải làm sao. Năm Ất Tỵ (1785), Đô úy Trấn của ngụy Tây Sơn nhân có ngòi nhỏ ở hai đầu bèn đào nối mở một con sông ngang để cắt đứt chỗ hiểm yếu, tạo thành một đường kinh đi tắt, rất tiện lợi, về sau người ta hay đi đường này.

TRA THẬP GIANG (RẠCH XOÀI MÚT) (<22><147>)

Ở phía bắc sông lớn Mỹ Tho, cách trấn về phía tây 2 dặm. Ngày xưa khi gió đông nam nổi lên, thì thế nước rất dữ, sóng gió cuồn cuộn, thuyền bè qua lại luôn bị nguy hiểm. Năm Mậu Thân (1788) thời Trung hưng trở lại đây, có bãi rồng (Long Châu) nổi lên, ngăn giữ sóng gió, thuyền bè qua lại rất tiện lợi. Có bài vịnh: "Trừng Giang như luyện" nghĩa là sông phẳng lặng như tấm lụa, nay hung dữ nguy hiểm đã tiêu tan mà thành con đường thủy rất phẳng lặng.

<37b> SẦM (<23><148>) GIANG (SÔNG RẠCH GẦM)

Ở về phía bắc hạ lưu sông Tiền Giang, cách trấn về phía tây 28 dặm rưỡi. Bờ đông, bờ tây làm ranh giới cho 2 huyện Kiến Đăng và huyện Kiến Hưng. Bờ phía tây có chợ nhỏ, ngược lên hướng đông bắc 7 dặm rưỡi, bờ phía nam có chợ Thung, quán xá đông đúc; 2 dặm rưỡi nữa đến ngã ba: ngả phía tây chảy 17 dặm rưỡi hợp với sông Rau Răm rồi chảy xuống hạ lưu sông Tiền Giang; ngả phía bắc chảy 24 dặm đến cùng nguồn Giồng Lữ có chợ Thuộc Nhiêu, ruộng vườn mầu mỡ, nhân dân chuyên nghề trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm.

BA LAI BẮC GIANG (SÔNG BA LAI BẮC)

Ở về hạ lưu sông Tiền Giang, cách trấn về phía tây 60 dặm rưỡi. Cửa sông sâu rộng, bờ phía tây có chợ quán đông đúc, dân cư đa phần chuyên nghề cày ruộng dệt cửi. Từ khi có Tây Sơn dấy loạn, nhiều phen đây thường là nơi chiến trường, hầu như trở thành chỗ đất bỏ hoang. Nay được yên ổn, nhân dân mới trở lại. Đi 33 dặm về phía đông tới chợ Thanh Sơn tục gọi chợ Cai Lậy (<24><149>), thuộc đất hai thôn Hữu Hòa và Thanh Sơn, quán phố san sát, thuyền bè tới lui liên tục, trở thành sầm uất. Đi về hướng đông 64 dặm rưỡi nữa thì đến cửa kinh mới Rạch Chanh rồi chảy ra sông lớn Hưng Hòa.

<38b> HIỆP ĐỨC GIANG (SÔNG CÁI LÁ)

Ở địa phận 2 thôn Tân Hiệp và Tân Đức, tục gọi là rạch Cái Lá ở về bờ phía bắc hạ lưu Tiền Giang, cách phía tây trấn 62 dặm rưỡi. Dân cư ở có ruộng vườn, hằng sản, nhiều người chuyên nghề dệt cửi, sản xuất nam sô sa, nam trừu lãnh, dệt cửi đúng phép, hoa văn tinh xảo, vốn đã nổi tiếng từ lâu, nhưng đường tơ đem sánh với hàng người Hoa thì hơi kém phần trắng trơn mà thôi.

AN BÌNH GIANG

Tục gọi là sông Cái Bè, ở địa phận đông, tây thôn An Bình, cách trấn về phía tây 67 dặm rưỡi. Đi vào sông độ 1 dặm có chợ quán đông đúc, nhiều nhà giàu có mua trữ cau để chuyển bán cho người buôn ở Sài Gòn; nhiều người làm ghe lán so với ghe bản lồng thì vừa to vừa dài hơn, trên đậy mui dài từ đầu đến đuôi ghe, dưới gá sàn dùng chở bông vải, vỏ cây, cá khô và những thổ sản thô tạp của Cao Miên, dùng toàn những người chống sào đứng trên mui ghe chống đi, gọi là ghe láng để đi buôn bán ở Cao Miên.

CẦN LỐ GIANG (SÔNG CẦN LỐ) (<25><150>)

Ở bờ phía bắc sông Tiền Giang, sông rộng 32 tầm, khi nước lên sâu 21 thước ta, nước ròng sâu 16 thước ta <38b> cách phía tây trấn 164 dặm. Vào cửa sông về phía bắc 25 dặm thì cụt dòng. Dân cư ở đây thưa thớt, tre xanh rậm rạp liền nhau tạo thành rừng, có nhiều cây bách bì (cây tràm) (loại cây nầy có cả trăm lớp vỏ, lột lấy vỏ để làm vật lợp nhà, xảm thuyền, đậy điệm đồ đạc, còn thân cây thì làm củi) và lác thì dùng làm chiếu, bao cà ròn, và buồm thuyền. Dân ở đây muối cá đồng làm mắm, chặt tre cây kết bè, theo dòng nước xuôi xuống bán ở các vùng chợ búa.

BẠCH NGƯU GIANG (SÔNG TRÂU TRẮNG)

Ở bờ phía bắc Tiền Giang, cách trấn về phía tây 206 dặm rưỡi. Cửa sông rộng 23 tầm, khi nước lên sâu 14 thước ta, nước ròng sâu 9 thước ta. Từ cửa sông đi về hướng bắc 40 dặm đến vùng bưng biền (<26><151>) dân cư rất thưa thớt. Đất ở đây phía trước giáp sông lớn, có nhiều gò đất cao trồng bông vải, dâu, mè, bí rợ, bí đao, bắp, khoai lang, thuốc lá, đậu nành, đậu trắng, đậu đen. Phía sau là vùng đất thấp ướt, bưng biền có nhiều tôm cá (<27><152>), tre và các thứ cây tạp rậm rạp tạo thành rừng, là vùng đất có nhiều địa lợi nhưng chưa khai khẩn hết. Cách 19 dặm đến hạ lưu sông Đốc Vạn, 3 dặm nữa đến thượng lưu sông Đốc Vạn, 20 tầm <39a> đến đồn cũ Hùng Ngự (Hồng Ngự), 68 dặm đến sông Hiệp Ân và đồn mới Hùng Ngự (Hồng Ngự).

BẢO ĐỊNH HÀ

Tục gọi là kinh Vũng Gù. Cửa sông này gối vào sông Hưng Hòa, cách phía đông bắc trấn 47 dặm rưỡi. Ngày xưa phía đông bắc, sông nhỏ Vũng Gù chảy đến xóm Thị Cai là hết, phía tây sông nhỏ Mỹ Tho cũng xuống đông đến chợ Lương Phú tục gọi là Bến Tranh thuộc đất thôn Lương Phú là hết, khoảng giữa là ruộng đất liên tiếp từ nam đến bắc. Năm Ất Dậu (1705) đời vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế thứ 15, sai Chính thống Vân Trường hầu qua đánh Cao Miên. Bọn địch thường xuất hiện ở chỗ nầy quấy nhiễu quân dân ta, sau Vân Trường hầu bèn đắp lũy dài từ xóm Thị Cai đến chợ Lương Phú, rồi cho đào từ hai đầu chỗ cùng của sông Vũng Gù và sông Mỹ Tho, dẫn nước chảy quanh, làm hào lũy ngoài để củng cố thế phòng ngự. Sau nhân đường nước lưu thông, lại đào sâu thêm, thành ra con kinh ghe thuyền đều đi được. Nhưng đường sông từ đông đến tây xa cách, nên đến chỗ Vọng Thê (tục gọi là Thang Trông, là chỗ trước đó dựng thang cao để đứng nhắm đo đạc địa thế, nhân đó gọi thành tên đất), <39b> đây là nơi nước thủy triều gặp nhau làm chỗ giáp nước, nước lờ đờ khi lên khi xuống, thế nước chẳng chảy mạnh, tuôn mau, lại nhiều chỗ quanh co hẹp nhỏ, nên bùn cỏ tích tụ, ngày càng bị cạn lấp, nên thuyền lớn đi đến đây phải đợi nước lên đầy mới đi được. Năm Kỷ Mão niên hiệu Gia Long thứ 8 (1819), vua có chỉ dụ sai đo thẳng từ chỗ Thang Trông đến Hóc Đồng dài 14 dặm rưỡi, sai Trấn thủ Định Tường là Bửu Thiện hầu Nguyễn Văn Phong điều 9.679 dân trong trấn, cấp cho mỗi người một tháng là một quan tiền và một phương gạo (<28><153>) chia làm 3 phiên thay nhau đào mở, bề ngang 15 tầm, sâu 9 thước ta, 2 bên có đường cái quan rộng 6 tầm, hoặc theo đường sông cũ mà uốn nắn đào cho sâu rộng thêm, hoặc mở kinh mới để nối liền nhau, tùy sự tiện lợi mà làm. Khởi công từ ngày 28 tháng giêng đến ngày 4 tháng 4 nhuận thì xong. Vua ban tên là Bảo Định hà, ai nấy đều cho là rất thuận tiện.

BÁT ĐÔNG GIANG (RẠCH BÁT ĐÔNG) <40a>

Ở bờ phía tây thượng lưu sông Hưng Hòa. Cửa sông rộng 9 tầm, khi nước lên sâu 7 thước ta (<29><154>), nước ròng sâu 2 thước ta. Từ cửa sông đi nửa dặm có xóm nhỏ (<30><155>), dân cư ở đây thưa thớt, làm ruộng theo lối đao canh hỏa thực, tức đốn cây đốt thành than tro, suốt năm cần cù. Xuống phía nam 17 dặm đến cửa sông Rạch Chanh, 14 dặm rưỡi đến cửa sông Bảo Định, chảy ra bắc 118 (<31><156>) dặm đến đồn cũ Phong Ca Khơ me làm thành một phần sông Bát Chiên.

BÁT CHIÊN GIANG (RẠCH BÁT CHIÊN)

Ở thượng lưu sông Hưng Hòa, là giới hạn cuối cùng phía bắc của trấn này. Bờ phía tây là nơi đồn đạo Tuyên Oai trú đóng. Phía trước đạo xuống phía nam 37 dặm đến đồn cũ Phong Ca Khơ me, là giới hạn cuối cùng hạ lưu sông Bát Chiên. Ở trước đạo cách nửa dặm là nơi người Việt (<32><157>), người Hoa, người Cao Miên chung sống, họ trao đổi nhau những thổ sản của núi rừng chằm ao, ở đó có sở tuần ty coi việc thuế khóa và cước phí, cứ 10 phần thâu 1 phần. Lại cách 100 dặm đến đồn cũ Thông Bình, 74 dặm đến sông Vàm Gia (Vàm Dừa) là địa đầu thượng lưu sông Bát Chiên.

Sông nầy nước ngọt mà đục, dòng nước quanh co, cỏ cây rậm rạp <40b>, có nhiều sóc của dân Cao Miên. Là nơi bùn lầy nước đọng, đến lúc mưa lụt, nước dâng đầy tràn, trên đất có thể đi thuyền được, cho nên khách buôn thường lén chở hàng hóa theo sông Bát Chiên qua sông Vàm Gia, đến Cầu Nôm rồi tới Nam Vang để trốn thuế. Đạo thủ Tuyên Oai quản lý cả 2 chi thủ Phong Ca Khơ me và Thông Bình, chia giữ chỗ hiểm yếu để kiểm soát các việc vượt biên trái phép và tuần phòng nơi biên giới, ấy là vùng địa đầu quan trọng.

VÀM GIA (SÔNG VÀM DỪA) (<33><158>)

Ở thượng lưu sông Bát Chiên, là giới hạn cuối cùng về phía tây của trấn nầy. Ngày xưa khi mới khai thác, nhân dân ở đây hãy còn ít ỏi nên đồn Phong Ca Khơ me đặt ở chỗ nầy để làm giới hạn cho người Việt và người Thổ; nay nhân dân sinh sống ngày càng đông, đất ruộng được mở mang ra tới phía trên đạo Tuyên Oai nhưng cư dân khi đi về thường bị xét hỏi rất bất tiện, nên tháng 4 năm Gia Long thứ 18 (1819), vua có chỉ chuẩn dời đồn Phong Ca Khơ me sang chỗ đồn Thông Bình, dời đồn Thông Bình sang xứ Vàm Gia <41a> sát biên giới Cao Miên, tương ứng từ xa với các đạo Tiền Giang và Tân Châu, ấy là để khi hữu sự tiện bề thông báo cho nhau. Sông ở trước đồn chia làm 2 nhánh: nhánh hướng tây chảy qua Ba Cầu Nôm rồi chảy ra Tiền Giang, đến thượng du đạo Tân Châu, ngược lên tới Nam Vang đến thành của quốc vương Cao Miên; nhánh hướng nam chảy xuống sông Hiệp Ân ra Tiền Giang, 70 dặm nữa đến đồn mới Hùng Ngự (Hồng Ngự).

ĐẠI TIỂU HẢI CHÂU (CÙ LAO ĐẠI TIỂU)

Dài 35 dặm, bề ngang 8 dặm, nổi lên giữa lòng cảng, chia ra làm hai cửa tả hữu Đại Hải, Tiểu Hải, còn gọi là Trấn Hải châu, ở đây cây cối rậm tốt, dân cư có 5 thôn: Phú Thạnh Đông, Tân Phong, Long Thới, Long Hòa, Thỉ Lập (<34><159>) chia nhau để ở, xóm làng ruộng đất trồng trọt chăn nuôi, cùng nhau sống yên ổn. Ở giữa nổi lên gò cao, có nước ngọt chảy ra, người ở đó làm xong nông vụ, lại đi biển đánh bắt, không để phí sức thừa, có thể gọi là dân biển và làm ruộng (<35><160>).

QUỚI SƠN CHÂU (CÙ LAO CỒN TÀU)

Cù lao nằm ở phía tây ngã ba cửa biển lớn, chu vi 8 dặm, thế đất uốn khúc quanh co như hình con rồng <41b>. Có cù lao đất che kín phía bắc con sông ; nằm xiên phía đông dòng sông Bạc Sa (tục gọi là cồn Tàu nằm phụ ở phía tây bắc Hải Châu), nằm đối xiên đông lưu sông. Cù lao nầy đứng một mình giữa sóng gió, thế núi khí hùng (<36><161>), cuộc đất sức mạnh (<37><162>), bến bờ vững chắc, có thể hình thành được bề thế to lớn, cây cối sum sê, đất đai phì nhiêu, có sinh khí thịnh vượng, có hai thôn Hoàng Long và Quới Sơn ở đây.

THỚI SƠN CHÂU (CÙ LAO THỚI SƠN)

Cù lao nằm ở phía tây sông lớn Mỹ Tho, chu vi 5 dặm, cồn Tôn (tục gọi cù lao Họ) (<38><163>) phụ vào phía nam, lấy cây cao làm tinh phong (<39><164>) che chắn, ở đây đất bồi khí vượng, dân thôn Thới Sơn sống ở cù lao ấy.

PHÚ AN CHÂU (CÙ LAO PHÚ AN)

Tục gọi là cù lao Bãi Đắm (<40><165>), ở phía tây sông lớn Mỹ Tho, chu vi 8 dặm, ruộng vườn rất tốt, có dân 2 thôn Phú An Tây và Phú An Lộc ở đó. Cù lao có sông rộng, nước trong, bóng nước tiếp chân trời, trông xa vạn khoảnh, đúng là một cảnh tiên vậy.

KIẾN LỢI CHÂU

Tục gọi là cù lao Trà Luật (Trà Luộc) (<41><166>) ở tổng Kiến Lợi nằm về phía bắc hạ lưu Tiền Giang, làm tinh biểu cho sông Trà Luật (Luộc) (Sông rộng 29 tầm, nước lớn sâu 21 thước ta, nước ròng sâu 16 thước ta, bờ phía tây có chợ Trà Luật (Trà Luộc) cách trấn lỵ về phía tây 55 dặm, về phía bắc 8 dặm rưỡi đến ngã ba sông. Ngả đông bắc cách 4 dặm đến sông Ba Lai, ngả bắc 26 dặm rưỡi đến giồng Trà Luật (Trà Luộc), có chợ thôn quê, cuối dòng sông đầy bùn cỏ gọi là chằm Khoai.) Giồng này dài hơn 5 dặm, có dân năm thôn Long Phú, Phú Hòa, An Tân, Giao Long, An Thủy Đông cư ngụ. Ở đây ruộng vườn xanh tốt.

THI HÀN CHÂU (CÙ LAO CÁI THIA)

Ở phía bắc sông Tiền, thuộc tổng Kiến Phong, dài 42 dặm. Sông Thi (tục gọi là vàm Cái Thia, rộng 70 tầm, sâu 6 tầm. Đi về bờ phía bắc nửa dặm có chợ, tục gọi là chợ Cái Thia, phía đông thuộc thôn Mỹ Đức Đông, phía tây thuộc thôn Mỹ Đức Tây, còn chợ thì ở giữa tên là chợ Mỹ Đức, nhưng thôn Mỹ Đức Đông lại là đất xây dựng huyện trị (lỵ). Đi 45 tầm đến ngã ba sông. Dòng sông lớn phía tây là sông Đại Hội, tục gọi là sông Cái Cối (<42><167>), do các con sông nhỏ chạy dọc theo một số thôn xóm đều tụ hội lại đó nên mới gọi là sông Đại Hội. Đi 27 dặm ngoài đến xóm nhỏ Tam Tự, rồi chảy ra sông Hàn, tới nhánh Bắc Tiền Giang thành sông Đức Lương. Phía đông là thôn Mỹ Đức Tây, còn phía tây là thôn Mỹ Lương. Mười một dặm đến ngã ba Vàng Nhứ, từ ngã ba đi về bắc 17 dặm ngoài tới chằm cùng. Từ ngã ba đi 5 dặm rưỡi về phía nam đến sông Mỹ Luông tục gọi là Rạch Miễu, là giới hạn của sông Đại Hội, nước lớn đầy ghe thuyền mới tới lui được) phía đông ôm nắm sông Hàn (tục gọi là Vàm Hàn), phía tây ôm hợp lưu của hai sông Thi và sông Hàn mà cù lao nhô ở giữa nên mới gọi là cù lao Thi Hàn. Lại vì cù lao ấy nổi lên sáu đầu nhọn bày hàng kế tiếp nên còn gọi là Lục Châu Đầu. Đầu phía đông cồn thứ nhất là đất của hai thôn Mỹ Lương và Hòa Lộc, cồn thứ hai là đất của thôn Mỹ Hưng, cồn nhỏ thứ ba làm trụ đá (để trụ) (<43><168>) cho ngã ba sông Cổ Lịch. (Sông rộng 28 tầm, sâu 12 thước ta chảy về bắc 2 dặm rưỡi đến ngã ba. Từ ngã ba chảy về đông bắc 7 dặm, nhập vào sông Đại Hội, chảy về phía tây bắc 10 dặm lại cũng nhập vào sông Đại Hội). Cồn thứ tư là đất của thôn Mỹ Thuận. Cồn thứ năm là đất của thôn Mỹ An Đông. Cồn thứ sáu là đất của hai thôn Thanh Hưng và Mỹ Long (Luông) (<44><169>), cây cối cao lớn khác thường, ruộng vườn phì nhiêu, nhân dân theo nghề làm ruộng, đánh cá.

LONG ẨN CHÂU (CÙ LAO LONG ẨN)

Cù lao nầy làm trụ biểu cho sông Long Ẩn, (rộng 38 tầm, sâu 2 tầm, cách phía tây trấn 124 dặm chảy vào phía bắc 6 dặm đến ngã ba sông. Nhánh bắc chảy vào chằm cùng. Nhánh tây nam chảy 9 dặm ra sông lớn). Cù lao nầy dài 3 dặm ở phía bắc lưu Tiền Giang, có thôn Mỹ Xương đầy ruộng vườn dân cư, phía đông nhìn sang sông Bình Giang (rộng 72 tầm, sâu 11 thước ta cách phía tây trấn 118 dặm. Đi về phía bắc 6 dặm đến ngã ba. Nhánh bắc chảy 3 dặm rưỡi là vào chằm cùng, có ruộng vườn dân cư. Nhánh tây nam chảy 5 dặm rưỡi hiệp lưu với sông Long Ẩn).

Phía tây trông về sông Cần Lố (rộng 32 tầm, sâu 21 thước ta, cách phía tây trấn 141 dặm rưỡi, chảy về bắc chừng 25 dặm là cùng nguồn). Sông quanh co vắng vẻ, có nơi như vực sâu, giữa nổi một cồn hình trạng có bờm và đuôi ngoắc nguẩy yêu kiều giữa sông lớn mênh mông, giống như con giao long giỡn nước, nhưng đầu sừng còn chưa lộ rõ. Cồn nhỏ cây thấp, lại giống con giao long ẩn nấp giữa vực sâu, nên gọi là Long Ẩn (Rồng núp).

Ô CHÂU (CÙ LAO QUẠ)

Ở phía bắc lưu Tiền Giang, phía nam của cù lao Long Ẩn, làm bình phong ngoài cho sông Long Ẩn. Nơi đây vườn cau sum sê, cây cối xanh tươi, bến bờ sâu thẳm, có nhiều hang ổ cá tôm, bầy quạ thường tụ tập ở đấy để bắt tôm cá, nên mới gọi là cù lao Quạ. Cù lao nầy dài hơn 7 dặm, có dân thôn Nhân Hậu Đông ở đấy.

BA LĂNG CHÂU (CÙ LAO BA LĂNG)

Ở phía bắc thượng lưu Tiền Giang, nằm bổ thẳng vào sóng cả của sông dài, nên gọi là Ba Lăng. Cù lao dài 5 dặm, có tre và cây cối rậm rạp, ruộng cao, đất tốt thích hợp với cây bông vải, thuốc lá, chè, dưa, các thứ cây ăn quả, mè, đậu, mới lập thôn Tân An ở đấy.

<43a> VIÊN (VƯỜN RẪY)
Ở hụyện Kiến Đăng và Kiến Hưng, vườn cau ở đây sum sê. Cau tươi, cau sấy và cau khô nhà nào cũng có, người ta chất đống ngoài sân, dựa trong lẫm để bán đi các nơi xa gần.

LÂM TẨU (RỪNG SÁC)

- Ở Cần Lộc (tại nhánh tây cửa Lôi Lạp (Soi Rạp) thông với cửa Tiểu), có cây dà, cây đước.

- Ở sông Tra, Gò Công, sông Lá Dừa, cảng Ba Lai thì có lá dừa nước.

- Ở Rạch Chanh, Bát Chiên thì có cây tràm và không tâm bồ (tục gọi là cỏ bàng). (<45><170>)

- Ở Bạch Ngưu, Đốc Vạn và Hồng Ngự thì có rừng tre, tất cả đều là vật có lợi.

CHẰM AO

Huyện Kiến Đăng từ đông sang tây tiếp giáp vùng biên giới Cao Miên có nhiều bưng biền, chằm, ao, cá tôm dùng ăn không hết. Cứ đến tháng 4, 5, khi mưa xuống nước tràn thì cá sinh trưởng đầy dẫy kiếm ăn ở trong ruộng, trong đầm. Phàm những nơi có nước và có cỏ dù sâu chỉ độ hơn tấc ta cũng có cá ở; từ tháng 10 trở đi hết mùa mưa, nước rút, cá xuống (<46><171>) sông cho nên lệ có thu thuế cá <43b>, gọi là thuế dư cấp, ai bỏ tiền đấu được thầu mới được hành nghề. Ở thượng lưu sông, người ta đắp đập chắn ngang, khiến cho cá không bơi ngược dòng lên bờ được; ở giữa sông dựng tấm đăng bằng tre chận dòng nước kỹ lại để giữ cá rồi bắt đem bán cho người buôn, dùng sọt mà đong đổ vào ghe lớn, đổ nước ngọt vào và thường phải dùng gàu thay nước, cá được thay nước sạch, có nhiều nhớt nên sức chịu đựng lâu dễ sống, chủ cá thu được mối lợi lớn. Lại có một dãy địa phương như kinh mới Rạch Chanh, Bắc Giang, tuy đóng thuế điền, nhưng nghề nghiệp chính lại là đào ao nuôi cá bán để nạp thuế (<47><172>). Ấy là nguồn lợi sông chằm thật là vô cùng.

---------------------------------------

Chú thích:

(<1><126>) Nguyên văn bản in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép "Kiến Định (
) giồng". Nguyên văn VHN lưu trữ cũng chép Kiến Định. Nhưng nguyên văn in kèm bản dịch của nhóm dịch giả VSH thì lại chép "Kiến An () giồng" Thật ra cả ba bản nguyên văn nêu trên chỉ là bản sao chép viết tay mà sai sót rõ nét thì rất nhiều, nhưng dị bản này thật khó xác định mà bản in khắc gỗ thì không còn nên đành lấy theo số đông "Kiến Định".

(<2><127>) Dự (
), tức Thự dự (薯蕷) là củ mài, ăn và làm thuốc được, còn gọi là Hoài sơn (懷山)

(<3><128>) Giồng Lữ (
呂墥). Theo người dân địa phương Cai Lậy, Đồng Tháp thì đây là giồng Lũy, gò Lũy, tức tên giồng mà ngày xưa quan binh đã đắp lũy, đóng đồn (壘墥).

(<4><129>) Giồng Sao: Nguyên văn viết
:. Chữ : nầy tra trong tự điển Nôm không thấy.

(<5><130>) Tập Đình hầu là người khách Quảng Đông tính rất hung bạo, nhiều lần Nguyễn Nhạc muốn giết đi. Tập Đình biết ý phản lại Tây Sơn làm loạn, sau đó chạy về Quảng Đông và bị Tổng đốc nhà Thanh bắt giết.

(<6><131>) Tức Thủ Dầu Một, nay là thị xã tỉnh lỵ Bình Dương.

(<7><132>) Ý chịu tang cho Thái Thượng vương Duệ Tông và Tân Chánh vương (Mục vương) bị Tây Sơn giết.

(<8><133>) Hào Hàm (
崤函): Chữ Hào () cũng viết là B. Hào Sơn cũng viết là Hào Cốc (崤谷) là góc phía đông của ải Hàm Cốc, cho nên ải Hàm Cốc cũng gọi là Hào Hàm. Hàm Cốc quan là một cửa ải rất vững chắc của nhà Tần (Trung Quốc), nay thuộc vùng Hà Nam.

(<9><134>) Ngô giang (
吳江): Là tên tắt của Ngô Tùng giang (吳淞江) ở cảnh địa tỉnh Giang Tô, xưa gọi là Lạp Trạch, cũng gọi là Tùng giang (松江), Nam giang, Tùng Lăng giang, Ngô Thục giang, tục gọi là Giang Châu hà, cửa sông gọi là Ngô Tùng khẩu. Sông này chặn ngay yết hầu của Trường Giang, là một cửa sông cực kỳ quan yếu của miền Nam Trung Quốc.

(<10><135>) Thường Sơn xà (
常山蛇) Tức rắn Thường Sơn ở Cối Kê rất lợi hại, cắn mổ được đủ hướng. Ai vô ý nắm bắt phía đầu thì đuôi nó ngoặt về trước chích nọc độc ngay. Ai nắm đuôi để bắt thì bị đầu nó quay lại cắn. Còn ai đè nó ở giữa lưng thì đầu đuôi cùng quay lại cắn chích, còn gọi là Suất Nhiên. Nhân rắn độc dữ chống đỡ được nhiều phía tấn công nên Tôn Võ Tử có đặt ra một trận pháp gọi là Thường Sơn Xà trận, trận thế ứng đối mọi phía như thân con rắn Thường Sơn. Cửa ải Kiếm Các vùng Thiểm Tây có rất nhiều loại rắn nầy gián tiếp ngăn chặn quân địch tấn công ải.

(<11><136>) Phụ ngung hổ (
負嵎虎): Ta thường đọc là phụ ngung hổ tức cọp tựa góc núi ăn thua đủ. Loài cọp khi bị săn đuổi túng thế đổ quạu trụ lại dựa lưng vào góc núi chống cự là rất nguy hiểm. Sách Mạnh Tử nói: "Có đám đông rượt hổ. Hổ trụ lại dựa lưng góc núi chống cự, chẳng ai dám tới gần". (Hữu chúng trục hổ, hổ phụ ngung,vô cảm xanh). Lương Sơn Bạc là cái chằm, nơi cát cứ của 108 tay hảo hán do Tống Giang cầm đầu hồi đời Tống chống lại triều đình. Danh tiếng anh hùng Lương Sơn Bạc được miêu tả sinh động trong truyện Thủy Hử.

(<12><137>) Nguyên văn viết chữ Nôm chó (C) hơi mờ nhòe trông giống như chữ Hán vãng (
) nên có sách đọc là giồng Vãng (chờ chỉ giáo).

(<13><138>) Nguyên văn viết
tức Kết, nhưng người địa phương gọi đây là giồng Két.

(<14><139>) Bản nguyên văn do VHN lưu trữ chép 88 dặm (
八十八里).

(<15><140>) Súc (
): tức là vùng cư dân của một bộ lạc, tiếng Nôm đọc là sóc. Ngày nay, ở miền Tây Nam bộ có rất nhiều sóc của người Khơ me, cũng như ở Tây Nguyên có nhiều "buôn" của người dân tộc. Thật ra sóc là âm của tiếng Khơ me Srok chỉ một làng xóm.

(<16><141>) Nguyên văn "Hoa dân", chữ Hoa (
) có nghĩa là tinh hoa, vàng son rạng rỡ, văn minh. Người Trung Quốc tự xưng mình là Trung Hoa, còn chung quanh đều là "man di, mọi rợ". Người Việt xưa cũng bắt chước tự xưng mình là "Hoa nhân", để phân biệt với các "man di" xung quanh là Thượng, Lào, Miên (Campuchia), Tiêm La (Thái Lan). Ai cũng có tinh thần tự tôn dân tộc quá đáng.

(<17><142>) Nguyên văn viết
奇婚 tức Kỳ Hôn nhưng còn gọi theo tên ngoài là Trà Hôn hay Cà Hôn.

(<18><143>) Chữ này nguyên văn có bản chép
, có bản chépnhưng đều tra không ra, tạm đọc theo tiếng Hán là Dịch.

(<19><144>) Thời Pháp thuộc, cù lao Rồng là nơi an trí các người mắc bịnh Hansen (bịnh cùi, hủi) do các dì phước đạo Thiên Chúa coi sóc.

(<20><145>) Mỗi miệng đáy mắc vào hai cây cọc cắm sâu xuống lòng sông. Miệng đáy bằng lưới hình phễu, mép miệng trên ngang mặt nước, mép miệng dưới sát đáy sông kéo lên kéo xuống nhờ cặp nài. Do nước chảy mạnh, bao nhiêu tôm cá trôi vô miệng tuôn vào đuôi miệng đáy gọi là cái đụt. Tùy theo cá tép chạy nhiều hay ít mà thời gian đổ đụt lâu hay mau.

(<21><146>) Nguyên văn viết波淶, chữ Nôm có thể đọc lai, rai, rài nhưng nhân dân Nam Bộ gọi đây là cửa Ba Lai, sông Ba Lai, còn sông Tân Thới thì mới gọi là vàm Rài ().

(<22><147>) Trong PCGBC, Trương Vĩnh Ký chép sông này còn gọi là rạch Bà Bèo.

(<23><148>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép là Gằm Giang.

(<24><149>) Nguyên văn viết
該礼. Chữ âm Hán Việt đọc lễ có nghĩa là lạy. Chữ Nôm: lạy phải viết đủ là D hoặc E. Đây có lẽ tác giả viết chữ Lạy theo ý. Từ lạy đọc thành lậy. Cai Lậy là chợ trên Quốc lộ 4, có đường quẹo vô Mộc Hóa.

(<25><150>) Nguyên văn viết
芹露. Chữ đọc theo Hán Việt là lộ, đọc theo Nôm là lố. Đọc Cần Lố là đúng theo cách gọi của địa phương.

(<26><151>) Nguyên văn pha trạch
陂澤 dịch là bưng biền, là nơi quanh năm đất sình lầy lấp xấp nước, mọc đầy năn lác.

(<27><152>) Nguyên văn viết
魚虌 tức ngư miết là cá và con ba ba. Trong GĐTTC魚虌 để chỉ thủy sản nói chung, Trịnh Hoài Đức thường dùng chữ Ngư miết này. Nếu dịch "cá rùa" thì không hợp với phương ngữ miền Nam. Hai chữ này miền Nam thường dịch là "cá tôm" hay "cá mắm", tức ngoài Bắc dịch là "cá mú".

(<28><153>) Từ đo lường phương (
) không thấy trong tự điển Hán Việt. Căn cứ vào cách tính của Lê Thành Khôi trong cuốn Histoire du Vietnam, thì 1 phương gạo bằng 30 lít gạo.

(<29><154>) Thời Trịnh Hoài Đức chỉ sử dụng thước ta hay Trung Quốc. Từ 1890, một (1) thước ta tương đương 0,4 m (4 dm). Thước Trung Quốc tương đương 0,32 m.

(<30><155>) Chữ tiểu quán (
小舘) với nghĩa là "xóm nhỏ" được tác giả dùng ở đoạn nói về "Bảo Định hà". "Bát Đông giang" và "Thi Hàn châu".

(<31><156>) Nguyên văn bản VHN lưu trữ chép bách bát thập lý (
百八十里) tức 180 dặm. Bản VSH và bản Nguyễn Tạo đều chép bách thập bát lý tức 118 dặm.

(<32><157>) Trong toàn bộ sách này, Hoa nhân chỉ người Việt, Đường nhân chỉ người Hoa. Di phần nhiều chỉ người Khơ me.

(<33><158>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép Vàm Gia giang gọi là Vàm Gia mà không dịch là Vàm Dừa. Điều này có thể đúng vì nhiều địa phương chỉ gọi bằng tên chữ Hán.

(<34><159>) Hai chữ Thỉ Lập (
始立) không phải tên thôn mà có nghĩa là "mới thành lập". Nhưng như vậy thì chỉ tính được có 4 thôn, thiếu một thôn. Vậy tạm dịch theo nghĩa tên thôn cho đủ 5.

(<35><160>) Nguyên văn Ngư mục chi dân (
魚牧之民). Trịnh Hoài Đức thường dùng chữ mục () để chỉ người làm ruộng như trong bài thơ "Chu thổ sừ vân" trong Cấn Trai thi tập ông viết: Phá hiểu sừ vân mục tử trù, nghĩa là "Vừa tưng bửng sáng nông dân đã làm đồng". Nếu hiểu "mục tử" là kẻ chăn trâu là lạc xa ý tác giả.

(<36><161>) Nguyên văn Sơn long khí hùng (
山竜氣雄). Sơn long là từ phong thủy chỉ thế núi.

(<37><162>) Nguyên văn Khôn mã lực kiện (
坤馬力健). Khôn mã là từ khoa phong thủy chỉ "Cuộc đất".

(<38><163>) Nguyên văn chép
. Chữ này âm Hán Việt là hộ, nhưng âm theo chữ Nôm là họ. Vậy đây là cù lao Họ. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<39><164>) Nguyên văn tinh phong (
星峰) là từ khoa phong thủy chỉ cái cồn nổi chắn ngang cửa sông.

(<40><165>) Nguyên văn chép
罷耽, tức bãi Đắm. Vương Hồng Sển đọc theo Trương Vĩnh Ký là bãi Đám có khi nhầm, do lỗi morasse vì chữ đám Nôm viết là. Nhóm dịch giả VSH ghi là bãi Doãn cũng chưa đúng.

(<41><166>) Nguyên văn viết Trà Luật (
茶律) nhưng Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép là cù lao Trà Luộc, tên chữ là Kiến Lợi châu.

(<42><167>) Tuy chữ Nôm cối thường được viết chữ hội (
- ) và bộ mộc () bàng, tức làhay, nhưng Trịnh Hoài Đức viết chữ cối với chữ cữu (cựu) đầu () tức cái Cối Xay, và chữ hội (- ) thì theo ý chúng tôi sự chỉ ý càng rõ nét hơn khi viết với Mộc bàng, vậy tục danh sông Đại Hội chính là Cái Cối vậy!

(<43><168>) Để trụ (
砥柱) nguyên chỉ núi. Sách Thủy kinh hà thủy chú: "Khi xưa vua Vũ trị nạn lụt, phàm gò núi nào cản nước thì đục bỏ, vì cần phá núi, thông sông. Sông bao quanh núi rẽ nhánh mà chảy. Nhìn ngọn núi trong dòng sông như cây trụ cho nên mới nói là trụ đá, tức để trụ".

(<44><169>) Mặc dù miếu hiệu vua Gia Long viết chữ (
), còn thôn Mỹ Long viết chữ () nhưng khi phát âm cũng trùng là long nên phải kỵ húy đọc trại là luông.

(<45><170>) Không tâm bồ (
空心蒲) tức cỏ bàng dùng để dệt đệm, bao cà ròn.

(<46><171>) Từ đặc biệt miền Nam để gọi cá lên xuống theo mùa mưa. Đầu sa mưa, cá từ sông theo đường nước mưa chảy xuống sông lội ngược lên đồng gọi là cá lên . Giữa tháng 10, trời dứt mưa, cá theo nước chảy ra sông gọi là cá xuống.

(<47><172>) Thuế điền nộp nhẹ hơn các ngành nghề khác. Người dân tiếng là đóng thuế điền làm ruộng, nhưng thật là đào liếp nuôi cá lợi nhiều mà đóng thuế ít.

2d. Trấn Vĩnh Thanh (1)

THOẠI SƠN (<1><173>)

Tục gọi là núi Sập, ở huyện Vĩnh Định, bờ phía đông sông Thoại Sơn (tục gọi rạch Ba Rách), phía bắc cách cửa Thoại Hà hơn 69 dặm. <44a> Từ sông lớn quanh phía bắc sang đông, đến trấn thành 283 dặm. Núi cao 20 trượng, chu vi 11 dặm rưỡi, đỉnh núi nguy nga, cây cao bóng cả, đẹp đẽ trang nghiêm tợ như cái lọng đẹp ở biên giới phía tây. Có Hương Tuyền (suối Thơm) chảy về tây 50 tầm đến đường sông mà bề sâu thuyền có thể đi được. Phía tây nam chân núi có Bửu Sơn (tục gọi là núi Cậu), xanh tốt cao 7 trượng, chu vi 1 dặm rưỡi, suối ngọt, đất tốt, cỏ cây tươi mượt, sơn dân ở vây quanh. Vì vùng gần Cao Miên, hoang vu mút mắt, nếu dùng đường thủy thì phải do đường Kiên Giang; mà con sông này đầy cỏ lác, bùn lầy ứ đọng, chỉ lúc mưa lụt ghe thuyền mới qua lại được. Tháng 4 năm Mậu Dần, niên hiệu Gia Long thứ 17 (1818), vua sai Trấn thủ Vĩnh Thanh là Thống chế Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại kinh lý đường sông, việc hoàn thành, vua ban cho tên núi là Thoại Sơn để nêu danh tốt thần núi và cũng để ghi thành tích công lao của bậc nhân thần. Lại lệnh cấm dân chợ, dân Thổ đốn chặt cây cối để giữ lấy sinh khí, nhìn thấy non xanh mây phủ, suối đá ngọc ôm, thần <44b> sông nhượng đức, mẹ đất chứa linh, trấn giữ miền hiểm yếu, nêu sức mạnh để củng cố cõi Nam ta mà dâng thọ. Ôi! Hùng tráng lắm thay!

BA THÊ SƠN (NÚI BA THÊ) (<2><174>)

Cao 30 trượng, chu vi 13 dặm, cách phía tây bến Thoại Hà 18 dặm rưỡi, ba ngọn vươn xanh chập chùng cổ thụ tươi mát, cấm dân không được chặt. Mặt trước giáp với bưng biền, cỏ rậm bùn lầy. Thoại Ngọc hầu nhân đó đào cho thông ra, rộng 20 tầm để cho thuyền bè đi lại. Người Cao Miên ở theo triền núi và đường rừng, họ vừa sống bằng nghề săn bắn ở núi, lại còn câu cá ở ao chằm, thu được 2 mối lợi.

TÀ CHIẾU SƠN (NÚI TÀ CHIẾU) (<3><175>)

Cao 12 trượng, chu vi 5 dặm, ở cách phía bắc núi Ba Thê 2 dặm. Nơi đây núi non hiểm hóc, đứng giữa vũng lớn trông như hạt ngọc linh châu vừa lấy ra khỏi hộp; ngắm xem màu cây xanh lam cùng sắc nước trắng ngời, ráng chiều rọi xuống như gấm vóc chấp chới, cảnh trí có thể vẽ thành bức tranh đẹp.

TRÀ NGHINH SƠN (NÚI TRÀ NGHINH)

Cao 10 trượng, chu vi 5 dặm, ở cách phía đông bắc núi Tà Chiếu 1 dặm rưỡi, đỉnh núi chênh vênh tròn trịa, sườn cong, suối trong mát, tre cây tươi tốt, có nhiều cầm thú đậu ở.

TƯỢNG SƠN (NÚI VOI)

Cao hơn 8 trượng, chu vi 3 dặm, sườn núi lởm chởm, đầu lưng sừng sững như khi xưa Tử Kiều lên chơi núi Hà Sơn hóa đá, để lại vật cũ. Núi này ở phía nam cách đồn Châu Đốc hơn 9 dặm, cách bờ phía đông nam thượng lưu sông Vĩnh Tế 2 dặm, cây rừng xanh tốt, ở đó có đá thủy tinh.

CA ÂM SƠN (NÚI CA ÂM)

Cao 10 trượng, chu vi 7 dặm quanh co mà dài, cách phía đông nam chỗ đầu láng bùn 3 dặm, ngọn đứng cao chơ vơ hình như cây lọng dựa vách núi treo ngậm mây, suối cong nhả ngọc. Có các loại cây giáng hương, tốc hương, <45b> cây cối xanh tốt, cầm thú béo tốt. Phía đông hướng xuống ruộng phẳng, phía tây nhìn hồ chằm, người Việt, người Thổ cày cấy chăn nuôi, và câu cá chài lưới ở dưới chân núi.

NAM SƯ SƠN (NÚI NAM SƯ)

Cao 8 trượng, chu vi 2 dặm, cách phía đông nam náo khẩu (láng bùn) 3 dặm rưỡi. Ở về phía nam núi Ca Âm, núi tròn trịa như đống vàng giữa hồ nước, hình thế đoan trang thanh tú.

KHÊ LẠP SƠN (NÚI KHÊ LẠP) (<4><176>)

Cao 3 trượng, chu vi 3 dặm, cách về phía đông láng bùn 5 dặm. Núi này chịu lép vế núi Ca Âm mà lui về đông nam, ngọn cao lêu nghêu, bóng cây tùng trúc giao nhau, nai hươu thường nằm nghỉ dưới bóng mát. Lại có ruộng cày, có chằm đánh cá, dân đi tìm sanh lợi thường đến nương náu chỗ này.

CHÚT SƠN (NÚI CHÚT) (<5><177>)

Cao 6 trượng, chu vi 1 dặm, ở đầu phía bắc núi Tà Biệt (Béc), cách láng bùn về phía đông nam 1 dặm rưỡi; thế núi cong tròn, cây cối tốt tươi.

TÀ BEC SƠN (<6><178>)

Cao 20 trượng, chu vi 6 dặm, ngọn chòm rải rác, mặt quay đông, lưng hướng tây, không đứng cùng dãy với các núi khác mà chỉ ở lệch riêng một bên láng bùn <46a> nên mới gọi là Tà Biệt. Núi nhỏ mà có vẻ tự cường, thấp thỏi mà bất khuất, có khí tượng rất lỗi lạc.

NÚI BA XÙI (XUÔI - XUI) (<7><179>)

Cao 40 trượng, chu vi 12 dặm, hình trạng như đóa hoa phù dung đẫm sương xanh tốt vậy. Ở về phía bắc núi Ất Giùm, cách bờ phía đông nam trung lưu sông Vĩnh Tế 15 dặm; chóp núi cao ngất, núi động huyền ảo, cây cối cao to, cầm thú béo tốt ra vào từng đàn, cây mã vĩ hương mọc trên đỉnh núi, súc sa mật (<8><180>) mọc ở dưới chân đồi, cửa que (củi) nhà tranh, quây quần thành thôn xóm mà ở.

ẤT GIÙM SƠN (NÚI ẤT GIÙM) (<9><181>)

Cao 40 trượng, chu vi 13 dặm, hình núi quanh co mà dài, xòe cánh ngẩng đầu như loan bay nhạn liệng, cùng núi Ba Xùi đối diện vươn lên cách bờ phía đông nam trung lưu sông Vĩnh Tế 13 dặm; nhìn xuống ao hồ, ngoảnh mặt đồng ruộng, giữa nổi núi cao, trên núi có trầm hương, trong hang có sa nhân, giáng hương, cây sao, cây bời lời, cây huỷnh <47a>, cây cối rậm rạp, cành lá xen nhau. Lại có suối nước vắt ngang lưng núi cuồn cuộn chảy ra, nhân dân sống dựa theo chân núi, tạo thành thôn xóm, đúng là vùng chợ búa đông đúc ở miền núi.

NAM VI SƠN (NÚI NAM VI) (<10><182>)

Cao 30 trượng, chu vi hơn 8 dặm, cách cửa láng bùn về nam 28 dặm, ở sau núi Ba Xùi làm thành bình phong phía nam che chằm bùn lầy để giữ linh khí. Núi cao lớn, hút nhả khí mây mù, có các loài cây sao, cây bời lời, cây huỷnh cành nhánh ken nhau. Có lệnh cấm dân không được đốn chặt. Lại có các thứ trầm hương, sa nhân. Hùm, beo, nai, hươu, ung dung ra vào gò cỏ béo mượt bên suối ngọt. Những dân miền núi và những kẻ ẩn dật dựng nhà, cất chòi, cày cấy dưới chân núi.

ĐÀI TỐN SƠN (NÚI ĐÀI TỐN) (<11><183>)

Cao 50 trượng, chu vi hơn 20 dặm, ở phía đông nam sông Vĩnh Tế, phía tây bắc Thoại Hà. Hình núi như cái đài cao sừng sững hướng thìn tỵ, nên mới gọi tên là Đài Tốn. Cách phía đông núi Ất Giùm hơn 10 dặm, đứng cao chất ngất, trội hẳn các núi khác, thác tuôn treo vải, động nhả khói sương. Núi có cây trầm hương, tốc hương, sa nhân, cây sao, giáng hương, sam (thông), trúc sum sê xanh tốt, đường tắt quanh co, có dấu người qua lại. Gần có ruộng đồng, <47b> xa có chằm ao, kẻ cày ruộng, người đánh cá, ở theo từng nghề. Thỉnh thoảng nghe gà gáy trăng dưới núi, chó sủa xuân trong động, thật là một cảnh hướng yên hà ngoài thế tục.

CHƠN GIÙM SƠN (NÚI CHƠN GIÙM) (<12><184>)

Ở địa phận phủ Chơn Giùm (<13><185>) Cao Miên, cách bờ phía tây bắc trung lưu sông Vĩnh Tế 10 dặm; hình núi như hoa sen cặm trên mặt đất, đỉnh núi cao nhọn, hang hố gồ ghề, mây trắng thường bay mịt mờ, ấy là khí từ mỏ bạc nghi ngút bốc lên. Thổ sản có các vật quý hiếm như cây giáng hương, bạch mộc hương, sa nhân, sao. Người Việt, người Tàu và người Cao Miên cất nhà sát nhau để ở, kết thành thôn xóm chợ búa, nương theo nguồn lợi chằm rừng, sông núi mà sống.

SÂM ĐĂNG SƠN (NÚI SÂM ĐĂNG) (<14><186>)

Ở phía đông núi Chơn Giùm, cách phía tây mạt lưu láng bùn độ 1 dặm. Đất đá chồng chất, cây cối um tùm, phía dưới có nhiều đá lởm chởm rải rác.

ĐẠI BÀ ĐÊ SƠN (NÚI ĐẠI BÀ ĐÊ) (<15><187>)

Ở về phía đông nam núi Chơn Giùm, cách bờ phía tây bắc trung lưu sông Vĩnh Tế 1 dặm. Núi cao hang hiểm, thông đỏ tre xanh, cây cối tươi tốt, dân miền núi cất nhà ở đấy.

TIỂU BÀ ĐÊ SƠN (NÚI TIỂU BÀ ĐÊ) <48a>

Núi cao mà nhỏ, cong mà dài, ở phía tây núi Đại Bà Đê, cách bờ phía tây bắc trung lưu sông Vĩnh Tế 1 dặm rưỡi.

LONG HỒ GIANG (SÔNG LONG HỒ) (<16><188>)

Sông này chảy đến quanh co, chảy đi vòng vèo, dòng ngang uốn lượn, nước đọng trong ngần, bốn mùa ngon ngọt; cồn cát cao thấp xa gần, thôn xóm la liệt khắp đông tây ẩn hiện như rừng, như động, như vực, như đầm, nên mới gọi là Long Hồ (Hồ Rồng). (Sông) Chảy bao quanh phía bắc trấn thành rồi hợp lưu với Tiền Giang, mở thành một cách hùng vĩ cái hào thiên tạo, rộng 49 tầm, sâu 11 tầm. Phía đông nam có dòng sông nhỏ chảy đều rồi mạnh, nhanh dần qua phía đông 30 dặm rưỡi đến ngã ba đồn Kiên Thắng ở sông Ba Kè (<17><189>). Nhánh phía hữu chảy vào nam 26 dặm rưỡi đến sông Trà Ôn hợp lưu với Hậu Giang. Nhánh phía tả chảy qua đông 85 dặm đến đồn Tân Thắng ở Mân Thít lại hợp cùng hạ lưu Tiền Giang rồi đổ ra biển; thật nơi tiện lợi cho việc lưu thông của thuyền bè.

TIỀN GIANG (SÔNG TRƯỚC)

Ở phía tây trấn, nguồn sông nầy ở phía bắc từ Ai Lao xuống Cao Miên đến Nam Vang, theo hướng đông chảy đến Cầu Nôm Tân Châu <48b> qua sông Đại Tuần trước trấn Vĩnh Thanh đến Ba Lai Mỹ Tho rồi chảy về nam ra hai cửa biển Đại, Tiểu, ấy là dòng chính của sông lớn ban đầu. Ở sông Đại Tuần chảy xuống bến bờ chia ra 3 nhánh: một nhánh qua phía đông trấn làm sông lớn Long Hồ, xuống phía nam ra cửa biển Cổ Chiên; một nhánh là sông lớn Hàm Luông, về phía nam đến hai cửa biển Băng Côn và Ngao Châu; một nhánh qua sông dưới Ba Lai đến Tiên Thủy, xuống phía nam ra cửa biển Ba Lai. Thế nước ôm quanh cồn nọ, dựa vào bãi kia, có tới tám ngã ba sông, nhiều nhánh đan xuyên qua Hậu Giang, trông xuống trấn Vĩnh Thanh như là một biển sao, các ngôi sao đan ken nhau. Sông ngòi nhiều nên dân xứ ấy giỏi nghề sông nước, ở đây không ghe thuyền thì không đi lại được. Nước ngọt tươm ướp, khi làm lúa thì chỉ làm cỏ và cấy mạ, mà lúa gặt thì gấp trăm. Còn trong vườn thì có nhiều trầu cau, dưa quả, dâu, mè; mương ngòi thì đầy cả cá - tôm - rùa - lươn; ai nấy tự của nhà dùng đủ, chẳng cần mua sắm ở chợ. Dân cư thì trước vườn, sau ruộng, tất cả đều có sản nghiệp làm ăn, mọi người được cho là giàu có.

<<49a> HẬU GIANG (SÔNG SAU)> (<18><190>)

Ở phía tây nam trấn. Thượng lưu sông từ phía đông thành Nam Vang Cao Miên, chảy xuống Châu Đốc, qua Mạt Cần Đăng (<19><191>); nam đổ xuống đồn Cường Oai ở Lấp Vò rồi qua đồn thủ Trấn Giang Cần Thơ, đến đạo Trấn Di, ra cửa biển Ba Thắc (<20><192>); nước dầm thấm khắp cả ruộng vườn, bao hàm cả cồn bãi bờ bến, là nguồn thủy lợi rất lớn, lúa gạo cá tôm dùng ăn không hết.

ĐẠI TUẦN GIANG (SÔNG VÀM TUẦN) (<21><193>)

(Xưa có Tuần ty ở đấy, tục gọi là Tuần cái, nay đã dời bỏ). Sông này cách phía bắc trấn hơn 9 dặm, phía nam thông đến trước trấn, phía tây thông với Sa Đéc, phía đông chảy xuống hai cửa biển Ngao Châu và Ba Lai. Dọc sông có cây bần rậm tốt, sóng vàng lấp lánh, rộng 9 dặm, sâu 28 tầm. Bờ phía bắc là địa giới trấn Định Tường. Sông Thi Hàn là đường trạm sông đi ngang qua để tiếp xúc các nơi khác.

HÀM LUÔNG GIANG (SÔNG HÀM LUÔNG) (<22><194>)

Cách trấn về phía đông 83 dặm rưỡi. Sông rộng 5 dặm, sâu 49 tầm, như là vực rồng, hang giao, ở đó thường có cá to, sấu lớn trồi lên hụp xuống. Bờ phía đông là địa giới huyện Tân An, bờ tây là địa giới huyện Vĩnh Bình. Nước chia ra 3 ngả: một ngả chảy xuống phía đông Tiền Giang 59 dặm <49b> đổ ra cửa biển Ba Lai; một ngả chảy vào nam Tiền Giang 84 dặm rưỡi, rồi đổ ra cửa biển Ngao Châu. Nước thường trong ngọt, sóng gió dập dình, có cái hứng nhìn một cái trông rõ mênh mông vạn khoảnh.

SÔNG TIÊN THỦY (TỤC GỌI LÀ SÓC SÃI HẠ) (<23><195>)

Ở về phía đông sông Hàm Luông, cách trấn về phía đông 96 dặm. Sông rộng 4 tầm, sâu 1 tầm, làng xóm chợ búa rất đông đúc, ghe thuyền tụ tập. Nước chia làm 2 nhánh. Nhánh phía nam nước trong veo, nhánh phía bắc bùn đục ngầu, giống như sự phân chia đục trong của sông Kinh, sông Vị (<24><196>), nhưng vị nước đều ngon ngọt, pha trà có mùi thơm ngon, nếu dùng để tắm thì được trơn sạch nên gọi là Tiên Thủy (nước Tiên). Ngoài cửa sông lớn có nhiều cá sấu, có con to bằng chiếc xuồng, tính rất hung dữ, người đi qua phải coi chừng. Dân trong vùng phàm có những ngòi nhỏ, dùng chở gạo củi, hay tưới rửa, thì ở miệng ngòi phải trồng cọc dày kín, để ngăn dòng nước cho khỏi nạn cá sấu.

MỸ LỒNG GIANG (SÔNG MỸ LỒNG) (<25><197>)

Ở phía đông sông Hàm Luông, cách phía đông trấn 103 dặm rưỡi, rộng 18 tầm, sâu 11 thước <50a> ta. Vào sông nầy đi xuống hướng đông 3 dặm, nơi bờ phía bắc là chợ Bến Tre (Trúc Tân), quán xá dày đặc; 3 dặm rưỡi bên bờ nam là chợ Mỹ Lồng, phố xá liền nhau, buôn bán đông đúc. Có những vườn cau rậm như rừng, quả lớn lại sai, nên cau Mỹ Lồng rất nổi tiếng. Xuống phía đông 5 dặm chảy ra cửa sông Phước Thạnh (tục gọi là Cái Sậy (<26><198>), thuộc địa phận thôn Phước Thạnh) cửa sông rộng 3 tầm, sâu 2 tầm, vào nam chảy ra biển Ba Lai.

BÌNH PHỤNG GIANG THƯỢNG KHẨU (THƯỢNG KHẨU SÔNG BÌNH PHỤNG)

(Tục gọi là thượng vàm Cái Muối (<27><199>), ở địa phận thôn Bình Phụng), ở phía tây sông lớn Long Hồ, rộng 6 tầm, sâu 3 tầm, cách trấn về phía đông 7 dặm rưỡi. Chảy đi 23 dặm thì đến ngã ba sông; nhánh phía tây nam chảy 1 dặm rưỡi đến Kinh Bố (Vải) (<28><200>), rồi ra sông lớn. Hướng nam đổ ra hải cảng Cổ Chiên, nhánh đông nam chảy 1 dặm rưỡi đổ vào phía nam sông Bình Phụng rồi chảy xuống hải cảng Ngao Châu.

CẦN THAY THƯỢNG GIANG (SÔNG CẦN THAY THƯỢNG) (<29><201>)

Ở bờ phía đông sông lớn Long Hồ, cách phía đông trấn 38 dặm, theo sông lớn chảy về nam rồi ra cửa biển Cổ Chiên. Từ cửa sông nầy đi về phía đông 2 dặm đến ngã ba sông. Nhánh phía bắc thông với sông Phú Sơn tục gọi là Cái Ớt ở địa phận thôn Phú Sơn, <50b> chảy 25 dặm rưỡi nữa đến chợ Bình Định là tên thôn tục gọi là chợ Cần Thay, nơi đây chợ búa đông đúc, buôn bán tụ hội tấp nập; chảy hơn 4 dặm nữa ra hạ khẩu sông Cần Thay, rồi đổ ra cửa biển Ngao Châu.

THƯỢNG THẦM GIANG (<30><202>)

Tục gọi là Cái Dâu Thượng, ở bờ phía tây sông Hàm Luông, cách trấn về phía đông 38 dặm rưỡi. Sông rộng 3 tầm, sâu 2 tầm, chỗ cuối nguồn có ruộng vườn dân cư, chạy dọc theo sông lớn xuống phía nam 4 dặm rưỡi đến sông Trung Thầm; sông nầy rộng 3 tầm, sâu 2 tầm; chảy 5 dặm rưỡi đến sông Hạ Thầm, khúc sông nầy rộng 3 tầm, sâu 2 tầm, đều là cùng nguồn, ở đó cũng có ruộng vườn dân cư, họ sống bằng nghề nông và trồng dâu nuôi tằm.

AN VĨNH GIANG (<31><203>)

Là tên thôn, tục gọi là Cái Mơng Lớn, ở bờ phía tây sông Hàm Luông, cách phía đông trấn hơn 86 dặm, rộng 25 tầm, sâu 14 tầm. Cách phía tây 10 dặm đến sông nhỏ Lan Sái. Sông nầy ở bờ phía bắc, 14 dặm <51a> nữa đến chỗ ngã ba cửa kinh; ngả kinh phía tây chảy ra sông nhỏ, quanh về hướng nam đổ ra cửa biển Cổ Chiên; ngả phía nam chảy 1 dặm rưỡi đến chợ Ba Vát (<32><204>). Chợ nầy ở bờ phía đông, ở đây phố xá liền nhau, ghe thuyền đậu san sát, đó là huyện lỵ Tân An. Đi 15 dặm rưỡi nữa đến sông nhỏ Lê Đầu (<33><205>) (tục gọi là sông Mỏ Cày), ở bờ phía tây rộng 4 tầm, sâu 1 tầm, quán xá đông đúc. Chảy thêm 4 dặm ra sông Thanh Thủy (sông Nước Trong), rồi chảy về nam thông ra cửa biển Băng Côn.

BA LA GIANG (<34><206>)

Tục gọi là Cái Mít, ở phía đông hạ lưu sông lớn Hàm Luông, rộng 26 thước ta, sâu 8 thước ta, cách phía đông trấn hơn 128 dặm. Trước cửa sông có nổi lên cái cồn nhỏ, từ cồn ấy có lạch nhỏ chảy xuống phía nam hơn 9 dặm đến sông nhỏ Sơn Đốc, ở đây có dân cư, rồi chảy ra cửa biển Ngao Châu.

VĨNH ĐỨC GIANG (<35><207>)

Vĩnh Đức là tên thôn, tục gọi là Ba Tri Ớt, ở phía đông cuối sông Hàm Luông, rộng 8 tầm, sâu 2 tầm <51b>, cách phía đông trấn 165 dặm rưỡi ở cuối nguồn có quán xá đông đúc, nhiều người theo nghề biển.

CHÂU THỚI GIANG (<36><208>)

Châu Thới là tên thôn, tục gọi là Ba Tri Cá; ở phía tây hạ lưu sông Ba Lai; rộng 4 tầm, sâu hai tầm, cách phía đông trấn 112 dặm rưỡi, chảy theo hướng tây rồi quanh vào nam 9 dặm rưỡi đến ngã ba sông có chợ Giồng Trôm, nhánh sông phía đông chảy 45 dặm đổ ra sông Châu Bình (tên thôn, tục danh Ba Tri Chàm) (<37><209>) rộng 4 tầm, sâu 2 tầm, chảy vào nam rồi đổ ra cửa biển Ba Lai. Nhánh phía nam chảy 45 dặm đổ ra sông Mỹ Ân, rộng 5 tầm, sâu 3 tầm, rồi chảy ra cửa biển Ba Lai. Hai bên bờ sông là rừng sác, dân miền biển ở đây hãy còn thưa thớt.

MÂN THÍT GIANG (SÔNG MÂN THÍT) (<38><210>)

Ở bờ tây hạ lưu sông lớn Long Hồ của Tiền Giang, cách trấn về phía nam 55 dặm rưỡi. Bờ phía bắc có đồn thủ ngự Tân Thắng, chợ búa đông đúc, là trị sở huyện Vĩnh Bình <52a>. Cửa sông rộng 7 tầm, sâu 5 tầm. Về phía tây đi 34 dặm rưỡi đến ngã ba Cái Nhum (<39><211>); ngả phía bắc chảy 12 dặm rưỡi đến sông Song Tông (tục danh Kè Đôi) (<40><212>) ở địa phận hai thôn Tân Điền và Định Thới, lại có tên là sông Thới Điền, nằm ngang với cửa sông Cần Thay Thượng, cửa sông rộng 6 tầm, sâu 5 tầm, phía bắc đến trấn 45 dặm. Ngả sông phía tây chảy 50 dặm đến ngã ba sông Kiên Thắng.

KIÊN THẮNG GIANG (<41><213>)

Tục gọi là Ba Kè, đó là đồn thủ ngự Kiên Thắng, rộng 12 tầm, sâu 6 tầm, cách trấn về phía tây nam 30 dặm. Sông chia 3 ngả: ngả phía đông chảy 85 dặm rưỡi đến sông Mân Thít; ngả phía tây 26 dặm rưỡi đến sông Trà Ôn. Ruộng vườn ở đây mới khai phá, cây cỏ hãy còn rậm rạp, là một con đường thủy giao thông quan trọng.

AN PHÚ GIANG

An Phú là tên thôn, tục gọi là Vũng Liêm. Sông rộng 18 tầm, sâu 8 tầm, ở bờ phía tây sông lớn Long Hồ. Chảy qua hướng tây bắc 2 dặm có chợ nhỏ; 36 dặm đến ngã ba Khu Ân rồi hiệp lưu với sông Kiên Thắng. Nơi đây, người Việt và người Thổ chung sống với nhau, họ <52b> chuyên nghề làm ruộng, phát cỏ cấy mạ và đắp đập bắt cá, dùng sức ít mà được lợi nhiều, làm lụng, nghỉ ngơi tùy lúc nhưng không ăn chơi, rảnh rỗi. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

LÁNG THÉ GIANG (SÔNG LÁNG THÉ) (<42><214>)

Rộng 30 tầm, sâu 27 thước, ở bờ phía tây sông lớn Long Hồ, cách trấn về phía nam 85 dặm rưỡi. Trước cửa sông có cồn nhỏ, cây cỏ rậm rạp, lên phía tây 20 dặm rưỡi đến sông nhỏ Cần Chông (<43><215>) rồi ăn thông với sông lớn Hậu Giang, nhưng sông nầy hẹp nhỏ lại bị lấp cạn, thuyền bè khó đi; đất còn hoang vu chưa khai khẩn hết.

TRÀ VANG GIANG (SÔNG TRÀ VINH) (<44><216>)

Rộng 13 tầm, sâu 5 tầm, ở phía tây sông Cổ Chiên. Nơi đây có đồn thủ ngự Quang Phục, người Việt và người Thổ ở chung nhau, chợ phố liên tiếp, thuyền buôn tụ hội, tạo thành một doi biển đông đảo nhất ở miền biển. Thuở trước nơi đây là vùng đất thuộc Cao Miên, năm Canh Tý thứ 3 (1780), vì có việc cần phải trưng dụng dân phu quân lính mà tù trưởng Trà Vinh lúc ấy là <53a> Ốc nha (<45><217>) Suốt ương ngạnh không chịu phụng mạng. Triều đình sai quan chinh thảo, nhưng vì xứ ấy đầy rừng rậm chằm lớn, hoang vu rậm rạp, chúng chiếm cứ chỗ rừng bụi hiểm trở, lấy tài bắn nỏ làm sở trường, thường dùng trận phục ngưu dò xét quân ta sơ hở thì cưỡi trâu dài chân lớn móng, bày đội ra xung kích, bầy trâu vừa đạp vừa húc chọi, nên quân ta không thắng được.Ngoài tháng 4, Ngoại hữu Thượng tướng quân Phương Quận công tự cầm quân tinh nhuệ, dùng khiên da, súng lớn, bắn tiến vào rừng sâu và cho đốn cây cối thật quang đãng, rồi vây chặt sào huyệt của chúng. Chúng mất thế hiểm yếu, thế cùng, quân ta một trận bắt hết, giết bọn đầu đảng cừ khôi, còn dư đảng đều được phủ dụ, cảm hóa thành dân lương thiện. Năm Đinh Mùi (1787), khi mới Trung hưng đã dùng dân ấy làm binh lính đồn Oai Viễn; họ từng theo chinh thảo có công trạng, nay có lệnh: phàm sự việc thuộc người Việt ta thì do Tri huyện Vĩnh Bình xử lý, còn dân Cao Miên thì thuộc đồn Oai Viễn xử lý; nếu như người Việt, người Thổ liên can nhau, thì 2 nha phải cùng nhau xem xét, xử lý <53b>. Nhờ sự sắp đặt tổ chức rõ ràng như vậy, nên người người đều an cư lạc nghiệp, phân nửa những gò hoang đất trống đều được khai khẩn thành ruộng vườn để trồng trọt.

TÂN HỘI GIANG

Tân Hội là tên thôn, tục gọi là Cái Tàu Hạ, ở bờ phía nam Tiền Giang, rộng 20 tầm, sâu 3 tầm, cách trấn về phía tây hơn 30 dặm. Phía đông nam xuống đến ngã ba Cái Ngang; nhánh phía bắc thông với sông Long Hồ, rồi chuyển về nam 60 dặm đến ngã ba sông Kiên Thắng; theo hướng đông chảy ra sông An Phú và sông Láng Thé rồi hiệp với Tiền Giang; chảy hướng tây ra sông Trà Ôn rồi gặp sông Hậu Giang, đó là đường giao thông được cả bốn phía.

NHA MÂN GIANG (SÔNG NHA MÂN) (<46><218>)

Ở bờ phía nam Tiền Giang, cách trấn về phía tây 35 dặm, rộng 29 tầm, sâu 13 thước ta. Theo hướng nam chuyển lên tây 175 dặm, qua các ngòi nhỏ Tam Miếu (Ba Miếu), Giồng Sao, Trà Cát (<47><219>), Đồ Bà (Chà Và), Cam Phù Ly, đến sông Cái Vồn rồi đổ ra sông lớn Hậu Giang. Nơi đây có nhiều người Việt mới đến khai khẩn ruộng vườn.

THƯỢNG CẦN THƠ GIANG KHẨU (CỬA SÔNG THƯỢNG CẦN THƠ <54a>)

Ở bờ phía nam Tiền Giang, cách trấn về phía tây 52 dặm rưỡi; rộng 37 tầm, sâu 13 thước ta; chuyển từ đông sang nam 37 dặm thì dòng sông hẹp dần, đến ngã ba Sơn Chiết, nhánh phía tây đến thượng khẩu Thâm Khê (Ngòi Sâu) rồi ra Bàu Hốt, thông với Hậu Giang; nhánh phía nam đến Du Khê, ra Trà Mơng rồi cũng thông với Hậu Giang. Sông nầy đối bờ với đường sông ở trấn Cần Thơ, suốt đường sông nầy cây tre 2 bên bờ ngọn ngả ra giao nhau, làm trở ngại thuyền bè đi lại; ruộng vườn ở đây còn thưa trống, vì người ta mới đến lập nghiệp.

SA ĐÉC GIANG (SÔNG SA ĐÉC) (<48><220>)

Ở bờ phía nam Tiền Giang, rộng 42 tầm, sâu 28 thước ta, cách trấn về phía tây 56 dặm rưỡi. (Trước chỗ này cách 4 dặm ở bờ phía nam có sông nhỏ Cái Sơn, rộng 9 tầm, sâu 10 thước ta, có cầu ngang thông với chợ Sa Đéc); về phía tây nam 7 dặm rưỡi đến ngã ba mương Nàng Hai (Nhị Nương), ở đây dân đều làm nhà sàn trên sông để ở. Sông ở đây hẹp, quanh co um tùm, thuyền bè khó đi lại. Nước sông trong ngọt, vườn ruộng rất tốt, nhân dân đông đúc giàu có, có đạo Đông Khẩu đóng ở phía nam, chợ phố liền nhau, thuyền bè đông đúc, là chỗ đại đô hội của trấn nầy. Phía trái có xóm Tiên Phổ (thuộc Tân Quy Đông, cát trắng ngăn đục như cái mõm nhô môi ra, gió mát, sông lặng, người ta thường đậu thuyền nơi đây, không hề có ruồi muỗi quấy nhiễu, nên mới gọi là Tiên). <55b>. Phía phải có cồn Phụng Nga như bức la thành hộ vệ, núi sông hiểm yếu, bờ cõi vững bền. Chảy qua tây nam 33 dặm có Rạch Dầu (Du Câu) ở bờ phía tây, rạch Nàng Hai ở bờ phía đông, rạch Sa Nhân ở bờ phía tây, rồi đến ngã ba Nước Xoáy, mạch đất như cuốn bó lại nguồn xa của dòng nước, để giữ lấy vượng khí.

HỒI LUÂN THỦY TAM KỲ (NGÃ BA NƯỚC XOÁY) (<49><221>)

Tục gọi là Nước Xoáy, ở địa phận thôn Tân Long. Phía tây có ngòi nhỏ thông với sông Thủ Ô, cạn hẹp khó đi; nhánh phía bắc đi 33 dặm đến sông Sa Đéc; nhánh phía nam đi hơn 71 dặm qua kinh Cường Oai (tục gọi là Cái Tắt Lai Vung) (<50><222>), đến Kỳ Can (Cán Cờ), Thung Dung, rồi đến sông Cường Oai ra sông Hậu Giang; nhánh phía tây chảy 18 dặm cũng qua kinh Cường Oai chuyển theo ngòi Lưu Thủy đến sông Thủ Ô rồi đến ngã ba sông: nhánh phía bắc đi 6 dặm đến sông Hội An, rồi chảy ra Tiền Giang; nhánh phía tây chảy hơn 71 dặm xuống sông Cường Oai rồi ra Hậu Giang, chỗ nầy nước chảy xoáy quanh, là đường thông suốt bốn hướng từ nơi giao hợp của Tiền Giang, Hậu Giang <56a>. Năm Đinh Mùi (1787), lúc mới Trung hưng, Thế Tổ tạm đồn trú ở đây để hiệu lịnh binh tướng các lộ, giữ lấy thế chính giữa chặn lấy nơi hiểm yếu, thu được nhiều công lớn (<51><223>), ấy là một vùng đất có hình thắng vậy.

LONG PHỤNG GIANG (SÔNG LONG PHỤNG) (<52><224>)

Ở bờ phía nam Tiền Giang, cách đạo Đông Khẩu về phía tây 2 dặm rưỡi; rộng 10 thước ta, sâu 7 thước ta, khi nước lên đi qua Du Câu (Rạch Dầu), rồi hợp với sông Sa Đéc, hai bên bờ sông ruộng vườn rất tươi tốt.

TÂN ĐÔNG GIANG (<53><225>)

Tân Đông là tên thôn, tục gọi là Cái Bè Cạn, ở bờ phía nam Tiền Giang; rộng 26 tầm, sâu 9 thước ta, cách đạo Đông Khẩu về phía tây hơn 8 dặm. Nơi đây ruộng nhiều, dân đông, trước mặt có bãi bùn ngầm mới nổi, làm thành cái cồn chắn trước cửa sông. Bãi dài 4 dặm, bề ngang bằng nửa bề dài, khi nước lên thuyền bè không biết đi lầm vào (<54><226>) đều bị mắc cạn, nên gọi tên là Cạn. Từ cửa sông chảy vào nam 25 dặm đến ngã ba sông: Nhánh phía bắc chảy 14 dặm rưỡi đến ngòi Tân Khai (tục gọi là Mương Đào) (<55><227>), rộng 7 tầm, sâu 9 thước ta) <56>, rồi chảy ra Tiền Giang; nhánh phía đông đến rạch Sa Nhơn (Nhiên) (<56><228>) rồi hợp lưu với sông Sa Đéc.

MỸ AN GIANG (<57><229>)

Mỹ An là tên thôn, tục gọi là Đất Sét, ở bờ phía nam Tiền Giang; rộng 5 tầm, sâu 1 tầm. Trước cửa sông có cồn nổi, đất cát màu mỡ, thích hợp với việc trồng các loại dưa, quả; cách đạo Đông Khẩu về phía tây 56 dặm rưỡi. Về phía nam 8 dặm đến cùng nguồn. Nơi đây gò đất rất màu mỡ, thổ nhưỡng ở đây hợp các loại bí rợ, bắp, khoai, đậu, thuốc lá.

HỘI AN GIANG (<58><230>)

Hội An là tên thôn, tục gọi là Cái Tàu Thượng, ở bờ phía nam Tiền Giang, rộng 1 dặm rưỡi, sâu 19 thước ta, cách đạo Đông Khẩu về phía tây 60 dặm. Cửa sông đối diện với cù lao Tòng Sơn, cù lao Trâu (<59><231>) và cù lao Tinh (<60><232>), làm ứng tinh hộ vệ phía ngoài để ngăn cơn gió, tạt chân ngọn nước xói, đấy là một chỗ đất rất tốt. Từ đấy chảy về nam 55 dặm rưỡi đến ngã ba sông: nhánh phía nam chảy 24 dặm rưỡi đến sông Cường Thành rồi đổ ra Hậu Giang, nhánh phía bắc chảy 70 dặm rưỡi xuống sông Sa Đéc rồi đổ ra Tiền Giang.

CỰU CHIẾN SAI THỦ SỞ <57a> (THỦ SỞ CŨ CHIẾN SAI) (<61><233>)

Ở phía tây sông Trà Thôn 80 tầm (sông nầy ở bờ phía nam Tiền Giang, sông rộng 4 tầm, sâu 3 thước ta, chảy qua phía tây nam thông với sông Lễ Công, dọc bờ sông có ruộng vườn và dân cư, phía sau đó còn có rừng rậm - sông nầy mùa thu, đông vẫn đi được, đến mùa xuân, hạ nước lại cạn, nhiều người đắp đê để bắt cá tôm) cách phía tây đạo Đông Khẩu 80 dặm, nay thủ sở ấy đã dời đi nơi khác.

LỄ CÔNG GIANG THƯỢNG KHẨU (<62><234>)

Tục gọi là vàm Ông Chưởng; cửa sông nầy rộng 8 tầm, sâu 8 thước ta. Trước cửa sông có cù lao nhỏ và nhân tên sông mà gọi tên cù lao ấy (cù lao Ông Chưởng), ở cách phía tây đạo Đông Khẩu 90 dặm rưỡi. Sông chảy vào nam 60 dặm rưỡi đến hạ khẩu rồi hợp lưu với Hậu Giang. Bờ phía tây có sở thủ ngự Hùng Sai (<63><235>), bờ phía tây thượng khẩu có miếu thờ Khâm sai Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn (Nguyễn Hữu Cảnh) (<64><236>) vì dân ở đấy cho rằng ông có công dẹp yên Cao Miên, khai thác đất này, nên nhân dân nhớ công đức mà lập miếu thờ, cũng có ý giống như chuyện dân không nỡ chặt cây cam đường để nhớ Thiệu Bá (<65><237>), lập đền Phục Ba ở Việt Đông (<66><238>), lập miếu Võ Hầu ở Vân Nam (<67><239>). Việc lấy tên của ông đem đặt <57> tên sông là muốn người sau muôn đời không quên ơn đức của ông vậy. Đến như huân nghiệp rực rỡ của ông đã được ghi rõ trên lá cờ đặt ở đền thờ chính ở Biên Hòa. Nơi đền chính này đều có lễ cúng cấp quốc gia xuân thu hai lần và lễ này đã được ghi vào Hội điển (<68><240>) của triều đình.

VÀM NAO (<69><241>)

Tục gọi cửa sông là vàm, âm gần với chữ phàm. Theo sách Thủy Kinh Chú chép thì nhà Ngụy sai Hạ Hầu Uyên cùng Trương Hấp đem quân đến Ba Thục (Tây Thục). Lưu Bị đưa quân ra phiếm khẩu (<70><242>), tức là nơi cửa sông.

Chữ nầy thiết âm là phù phạm hay phù phong tùy theo dùng bằng hay trắc, nhưng nghĩa thì đồng nhau. Tục viết là Vàm Nao (汎B), nhưng chữ B nầy ít khi được dùng nên nay sửa lại viết là洨.

Thượng khẩu vàm nầy ở phía nam Tiền Giang, rộng 8 tầm, sâu 2 tầm. Chảy vào phía nam 75 dặm rưỡi đến hạ khẩu, rồi nhập vào Hậu Giang. Ở phía tây có sở thủ ngự, dọc theo bờ sông người Việt lập ruộng vườn, nhà đất, phía sau có rừng, là nơi có sóc của các tộc người Miên.

ƯU ĐÀM GIANG (<71><243>)

Tục gọi là Tắt Cây Sung, rộng 7 tầm, sâu 2 tầm ở phía nam Tiền Giang, cách đạo Đông Khẩu về phía tây 94 dặm. Chảy về nam hơn 76 dặm đến sông Đàm Giang rồi hợp lưu với Hậu Giang. Dọc theo bờ sông là ruộng vườn nhà cửa của người Việt, phía sau là rừng, nơi người Cao Miên ở chen lộn.

<55a> TÂN GIANG (<72><244>)

Tục gọi là Cái Mới, rộng 12 tầm, sâu 2 tầm, ở về phía nam bờ Tiền Giang, cách đạo Đông Khẩu về phía tây 143 dặm, cách trấn 200 dặm. Đây là chỗ giáp giới giữa trấn Vĩnh Thanh và phủ Nam Vang của Cao Miên. Chảy về nam 2 dặm rưỡi đến ngã ba sông: Nhánh phía đông 59 tầm, nhánh phía tây 38 tầm, đều vào chằm cùng, ở đây có dân Việt và dân Cao Miên sinh sống chen lộn. Chỗ cắt ngang Tiền Giang rộng 830 tầm 2 thước ta, chảy ngược lên Nam Vang của Cao Miên. Khoảng trung lưu có 3 cù lao là Cổ Cà (<73><245>), Cần Thay và Cổ Cang (<74><246>). Lên xa nữa là Cổ Điệp, ở đó có thủ sở của Cao Miên.

CHÂU ĐỐC GIANG (SÔNG CHÂU ĐỐC)

Ở phía tây thượng lưu Hậu Giang, rộng 70 tầm, sâu 9 tầm, cách trấn về phía tây 327 dặm, thủ sở Châu Giang ở bờ đông Hậu Giang. Đồn Châu Đốc ở bờ phía tây sông Châu Đốc, thủ phủ Mật Luật (<75><247>) nước Cao Miên ở bờ phía đông sông Châu Đốc, đó là địa giới quan ải của trấn Vĩnh Thanh và nước Cao Miên. Phía bắc đi 25 dặm về phía tây sông nầy có sông Phong Cần Thăng, <56b> đi về phía tây 60 dặm qua đường cũ của Cao Miên đến láng (bưng) bùn Ca Âm (<76><248>), chỉ mùa mưa mới đi được, còn mùa nắng thì khô cạn và bùn lầy, ở đây mọc nhiều cây cỏ lúa, cách 10 dặm về phía tây sông nầy có sông Cam La Ngư chảy vào chằm cùng, cách 3 dặm về phía đông sông nầy có kinh Lăng Lý, tục gọi là Tắt Nục, lúc nước lụt có thể đi qua sông rộng rãi Bình Thiên rồi ra Hậu Giang; cách 10 dặm là sông Lò Khù Ngư, đến đây thì đầm ao khắp nơi rồi cùng. Ngoài cửa sông Châu Đốc theo dòng Hậu Giang chảy về nam, sông rộng 300 tầm, sâu 10 tầm, nước lớn ròng gì cũng ở mức ấy thôi, cách 6 dặm rưỡi đến sông Tham Lung, sông nầy rộng 6 tầm, sâu 10 thước ta, cùng nguồn.

VĨNH TẾ HÀ (KINH VĨNH TẾ)

Ở về phía tây đồn Châu Đốc. Năm Kỷ Mão (1819) niên hiệu Gia Long thứ 18, đo thẳng từ hào sau phía phải đồn Châu Đốc lên phía tây, qua láng (bưng) bùn Ca Âm đến Kỳ Thọ (tục gọi là Cây Kè) dài 44.412 tầm <57a> thành ra 205 dặm rưỡi (mỗi dặm bằng 1.700 thước nam), đặt tên là sông Vĩnh Tế. Vua ban dụ cho Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Thống chế Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại, Hữu quân Hữu bảo vệ Vệ úy, Chưởng cơ Tuyên Quang hầu Phan Văn Tuyên đôn đốc dân phu trấn Vĩnh Thanh mỗi phiên 5.000 người, lính thú đồn Oai Viễn 500 người, Chiêu trùy Tôn La Ha Toàn Phù người Cao Miên đem quân dân mỗi phiên 5000, ngày 15 tháng 12 khởi công. Trừ đoạn láng bùn 4.075 tầm không đào đến, còn thật sự đào là 26.279 tầm, cân nhắc chỗ đào khó dễ, nhân lực nặng nhẹ, bắt đầu từ miệng hào đến láng bùn đất khô cứng có 7.575 tầm là phần việc của người Việt, còn đất bùn nhão có 18.704 tầm là phần việc của dân Cao Miên. Đào bề ngang 15 tầm, sâu 6 thước ta, quan cấp mỗi tháng cho mỗi người là 6 quan tiền và 1 phương gạo (<77><249>) <57b>. Đến ngày 15 tháng 3 năm đầu thời Minh Mạng (1820) thì xong việc, cộng thành sông mới, bề dài 140 dặm, nối tiếp sông cũ đến cửa biển Hà Tiên, tổng cộng dài 205 dặm rưỡi mà đường sông đi lại rất thông. Từ đó kế hoạch quốc gia về biên giới cũng như sự buôn bán của nhân dân cùng hưởng sự tiện lợi vô cùng.

CA ÂM NÁO KHẨU (BƯNG BÙN CA ÂM) (<78><250>)

Ở khoảng giữa sông Vĩnh Tế; dài hơn 18 dặm rưỡi, bề rộng bằng nửa bề dài, sâu khoảng 5 thước ta, hình bầu dục, có mỏm như hoa sen, hoa phù dung nghiêng soi; phía nam gối núi Ca Âm, nên mới gọi tên ấy. Dãy Ất Giùm ở phía đông, dãy Chơn Giùm (Chan Sum) uốn quanh ở phía tây; gió kín khí tụ, nước trong sóng gợn, hoa sen nở rộ, mùi thơm bay xa trăm dặm, cá tôm rất nhiều, bắt dùng không hết.

ĐẦM GIANG (<79><251>) (SÔNG ĐẦM)

Ở bờ phía đông Hậu Giang, rộng 6 tầm, sâu 8 thước ta, phía đông thông với sông Ưu Đàm phần thuộc về Tiền Giang, cách phía tây trấn 220 dặm. Ngược lên phía bắc, nước chia làm 2 nhánh: 9 dặm qua Du Giang, cửa sông ở bờ tây <60a> rộng 3 tầm, sâu 8 thước ta, tới cùng nguồn; cách 3 dặm qua sông Bà Đê, sông nầy ở phía bờ đông rộng 5 tầm, sâu 2 tầm đến cùng nguồn, 4 dặm rưỡi qua sông Chông Cần Trang, sông nầy ở bờ tây, rộng 2 tầm, sâu 8 thước ta, đến cùng nguồn, đến đây lại hiệp làm một dòng, vì giữa sông lớn có 2 cù lao lớn Cần Trang và Bà Dơm (<80><252>) nằm ngăn ở giữa, 2 bên bờ sông rừng tre um tùm, cây cối ven sông xiên ngang che lấy mặt sông, người Việt và người Thổ cùng ở xen nhau. Ruộng tốt mới khai khẩn, dân nuôi bắt cá đồng bán tươi, làm mắm, làm khô, muối măng chua, đốn tre kiếm sống.

MẠT CẦN ĐĂNG GIANG (SÔNG MẠT CẦN ĐĂNG)

Ở bờ phía tây Hậu Giang, rộng 6 tầm, sâu 2 tầm, chảy về phía tây nam 17 dặm hợp lưu với Thoại Hà, người Việt, người Thổ ở xen nhau, có rừng sác liền nhau.

THOẠI HÀ (<81><253>)

Tục gọi là Ba Rách, rộng 8 tầm, sâu 14 thước ta, cách trấn về phía tây 214 dặm. Ở bờ phía tây 4 dặm rưỡi <60b> đến ngã ba sông, hợp với sông Cần Đăng; qua tây nam 59 dặm đến cửa sông Lạc Dục; từ đấy đi về nam 57 dặm rưỡi đến ngòi nhỏ Song Giang, bùn ứ, cây cỏ ngăn lấp, thuyền bè không đi được. Tháng 11 niên hiệu Gia Long thứ 16 (1817), vua sai Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc hầu điều dân Việt và dân Thổ 1.500 người, cấp cho gạo tiền để đốn chặt cây cối, đào vét cho thông, bề ngang sông là 12 tầm, sâu 4 thước ta, trong 1 tháng thì xong, ăn thông với thủy đạo Kiên Giang, nhân dân Việt, Thổ đi lại đều tiện lợi. Vua ban tên là Thoại Hà để ghi nhớ công của người bề tôi.

TIỀN TRÀNG GIANG (SÔNG TRƯỜNG TIỀN) (<82><254>)

Ở bờ phía đông Hậu Giang, rộng 3 tầm, sâu 1 tầm. Nguyên ngày trước có xưởng quan đúc tiền Ba Thắc ở đấy nên mới gọi tên ấy. Chảy xuống đông hơn 1 dặm có nhánh chảy về nam thông với Qua Giang (tục gọi là Cái Bí) rồi chảy ra sông lớn, nhánh chảy xuống đông hơn 1 dặm hợp lưu với sông Cường Thành.

CƯỜNG THÀNH GIANG

Tục gọi là sông Lấp Vò, ở bờ phía đông sông Hậu Giang, rộng 12 tầm, sâu 18 thước ta, cách trấn về phía nam 178 dặm rưỡi <61a>. Bờ phía nam có Du Giang, chảy ra sông lớn; cách bờ nam nửa dặm đến thủ sở Cường Thành, ở đây có chợ búa đông đúc. Lại 50 tầm đến ngã ba sông: nhánh phía bắc thông với sông Qua Giang, sông Trường Tiền, rồi chảy ra sông lớn; nhánh phía đông 70 dặm đến ngã ba nữa; nhánh phía bắc thông với sông Hội An rồi ra Tiền Giang, nhánh phía đông qua sông Thủ Ô, sông Hồi Luân, ra sông Sa Đéc, rồi cũng thông với Tiền Giang. Hai bên bờ sông đều có ruộng vườn, dân cư.

CƯỜNG OAI GIANG

Tục gọi Lai Vung, ở bờ phía đông Hậu Giang, rộng 15 tầm, sâu 18 thước ta. Thủ sở Cường Oai ở phía bờ bắc, ở đây chợ quán đông đúc, cách phía nam trấn 160 dặm rưỡi, chảy xuống hướng đông 71 dặm đến mương nhỏ rồi nhập vào sông Hồi Luân, thông với sông Sa Đéc rồi chảy ra Tiền Giang.
BÀU HỐT GIANG (<83><255>)

Ở bờ phía đông Hậu Giang, rộng 3 tầm, sâu 1 tầm; chảy về phía đông 1 dặm đến ngã ba: Nhánh phía bắc 1 dặm rưỡi chảy ra cửa Thâm Câu (Ngòi Sâu) rồi nhập vào sông lớn; nhánh xuống phía đông 1 dặm rưỡi đến ngã ba sông, chia nhánh phía bắc thông với thượng khẩu sông Cần Thơ rồi chảy ra Tiền Giang; nhánh phía nam chảy hơn 2 dặm qua Du Khê, ra Trà Mơng rồi nhập vào sông lớn, đối mặt với đạo Trấn Giang, Cần Thơ.

CẦN THƠ GIANG (<61b> SÔNG CẦN THƠ)

Ở bờ phía tây Hậu Giang, rộng 8 tầm, sâu 5 tầm, cách trấn về phía nam 210 dặm rưỡi. Bên bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn Giang, ở đây chợ phố đông đúc, buôn bán rất sầm uất. Từ sông lớn chảy vào nam 121 dặm rưỡi ra cửa biển Ba Thắc; từ cửa sông đi lên hướng tây 8 dặm rưỡi đến ngã ba sông: nhánh phía bắc chuyển qua hướng đông 1 dặm rưỡi, thông với sông Bình Thủy rồi ra Hậu Giang (trước đó nửa dặm chảy về Bắc, rồi chuyển qua hướng đông 1 dặm, chảy ra Ô Môn (<84><256>) thông với Hậu Giang); nhánh phía tây chảy 78 dặm rưỡi đến Nê Trạch (tục gọi là Ba Láng), 165 dặm rưỡi nữa ra cửa Cảng Nhỏ đạo Kiên Giang (tục gọi Cửa Bé). Đường đi qua chỗ Nê Trạch, từ cuối đông qua xuân nước cạn, bùn nhão cạn lấp; từ hạ qua đông, nước mưa tràn ngập cả bến bờ, ghe thuyền cưỡi lên cỏ, lướt trên lục bình mà đi, chọn đường tới lui, cứ trông theo rừng rậm 2 bên nhận chừng nhớ dấu đường mà đi. Ở đây vắng ngắt không có dân cư, lại có nhiều ruồi muỗi và đỉa khiến người qua lại rất khổ.

VỒN GIANG (SÔNG CÁI VỒN) (<85><257>)

Ở bờ phía đông Hậu Giang, rộng 32 tầm, sâu 5 tầm, cách trấn về phía nam 72 dặm rưỡi. Chảy về phía đông bắc 3 dặm rưỡi đến sông Đông Thành (tục gọi Cái Tràm thuộc đất thôn Đông Thành Trung), rồi ra sông lớn; lại chảy thêm hơn 171 dặm rưỡi thì thông với sông Nha Mân, Tiền Giang.

TRÀ ÔN GIANG (SÔNG TRÀ ÔN) (<86><258>)

Ở phía đông hạ lưu Hậu Giang, rộng 14 tầm, sâu 7 tầm, cách trấn về phía nam 57 dặm. Phía bắc lên sông Cần Thơ 26 dặm, thuộc huyện Vĩnh Bình, bờ phía tây là tổng Vĩnh Trường, bờ phía đông là tổng Bình Chánh (<87><259>), có đồn Oai Viễn và đồn điền của lính thú Cao Miên đóng. Ở đây chợ phố đông đúc, là nơi người Việt, người Tàu và người Cao Miên tụ tập đông đảo. Qua phía đông 26 dặm rưỡi đến ngã ba La Vách (<88><260>), đi qua 2 sông nhỏ Trà Côn và Sa Cô rồi đến ngã ba Kiên Thắng: nhánh phía đông chảy 85 dặm rưỡi đến sông Mân Thít rồi hợp lưu với sông lớn Long Hồ; nhánh phía tây chảy hơn 30 dặm thì đến trấn thành, đều là nhà cửa ruộng vườn của dân cư, gà gáy chó sủa văng vẳng, là đất đã khai khẩn hết.

BA THẮC GIANG (<62> SÔNG BA THẮC) (<89><261>)

Ở phía nam hạ lưu Hậu Giang, cách trấn về phía nam 117 dặm, rộng 30 tầm, sâu 7 thước ta (?), có thủ sở đạo Trấn Di (<90><262>) đóng ở bờ phía bắc, cù lao Hổ (tục gọi là cù lao Dung) nổi lên phía nam, chảy 36 dặm đến cửa biển Ba Thắc. Từ cửa sông đi về hướng tây 60 dặm đến Tàu Trường, đây là nơi đậu của tàu buôn đường biển, người Việt, người Tàu và người Cao Miên ở chung với nhau, đường phố chợ búa nối dài liên tiếp. Cách 66 dặm đến ngã ba Nguyệt Giang (tục gọi Sóc Trăng); nhánh phía bắc 23 dặm đến sông Phủ Đầu (tục gọi là Bố Thảo, là âm tiếng Tàu của từ Phủ Đầu) (<91><263>), ngược dòng lên tây bắc 165 dặm rưỡi qua Ba Dinh (Ba Rinh), Tầm Vu, Cái Tàu, Cái Cao, Thầy Quang rồi đến cảng lớn đạo Kiên Giang (tục gọi là cửa Lớn): nhánh phía tây (Sóc Trăng) chảy 8 dặm rưỡi đến chợ Bãi Xàu (<92><264>) (Mỹ Xuyên), ở đây có phố xá liền nhau, người Việt và người Thổ ở xen nhau, họ chuyên phơi muối đỏ (dân địa phương gọi là muối đen) đem bán để kiếm sống. Lại cách 25 dặm rưỡi đến ngã ba Lộ Cảnh (Cổ Cò - do sông này dài mà cong nên mới gọi là Cổ Cò); nhánh phía nam chảy 17 dặm rưỡi ra cửa biển Mỹ Thanh; từ cửa biển đi về phía bắc, tới Bãi Xàu, qua chằm bùn, mé đông là địa giới trấn Vĩnh Thanh, nhánh phía tây chảy <63a> 231 dặm rưỡi qua Trà Nô (Trà Nho) (<93><265>), Cái Tràm rồi đến đạo Long Xuyên (Cà Mau).

AN THỚI GIANG

Tục gọi là Vàm Rài, ở thôn An Thới Trung, nằm về bờ phía đông hạ lưu Hậu Giang, rộng 12 tầm, sâu 3 tầm, có sở thủ ngự ở đấy, người Việt và người Cao Miên ở xen nhau.

NGAO CHÂU HẢI MÔN (CỬA BIỂN BÃI NGAO)

Cách trấn về phía nam 168 dặm, rộng 2 dặm, khi nước lên sâu 5 tầm, nước ròng sâu 2 tầm. Bờ phía đông cách hơn 2 dặm đến sông Mộc Miên (Cây Gòn) (rộng 5 tầm, sâu 2 tầm đến cùng nguồn), 2 dặm nữa đến Tinh Giang (rộng 2 tầm, sâu 1 tầm đến cùng nguồn), 13 dặm đến sông Vĩnh Đức, 2 dặm rưỡi đến cảng Bãi Ngao (<94><266>) chảy ra biển, phía ngoài có thủ sở phụ đóng giữ. Ngang cảng có sông Long Tân (rộng 5 tầm, sâu 3 tầm đến cùng nguồn), 18 dặm rưỡi đến Ngư Giang (rộng 2 tầm, sâu 2 tầm đến cùng nguồn), 12 dặm đến sông Cổ Miếu (rộng 3 tầm, sâu 2 tầm đến cùng nguồn), 11 dặm đến Giá giang (<95><267>) (rộng 4 tầm, sâu 2 tầm đến cùng nguồn), hai bên bờ sông nầy <63b> có ruộng vườn nhà cửa dân cư, giữa sông đùn lên hai cù lao Cát và Đất, phía đông là cù lao Đất (Thổ Châu) dài hơn 2 dặm, phía tây là cù lao Cát (Sa Châu) dài hơn 5 dặm, sở thủ ngự đóng ở phía nam cù lao, có dân cư của 2 thôn Giao Long và An Thạnh. Nơi đây gò đất phì nhiêu, cây cối xanh tốt, làm hai con cá trấn giữ cửa biển, khóa thủy khẩu, khống chế hải quan. Phía đông là cửa cảng Bãi Ngao, phía tây là cửa cảng Băng Côn, rộng 50 tầm, khi nước lên sâu 9 thước ta, nước ròng sâu 2 thước ta. Phía ngoài cửa cảng bờ tây cách Giá giang 22 dặm rưỡi đến sông Giao Thạnh (tục gọi rạch Xuôi Trối (<96><268>), nơi đây mới lập thôn Giao Thạnh, rộng 3 tầm, sâu 1 tầm, cùng nguồn) thủ sở Băng Côn đóng xa về phía tây; phía đông có cù lao Thủy Liễu (cù lao Bần), phía tây có cù lao Lộc (cù lao Nai), đều đứng trước mé biển, cây cối xanh tốt.

CỔ CHIÊN HẢI MÔN (CỬA BIỂN CỔ CHIÊN)

Rộng 11 dặm rưỡi, khi nước lên sâu 32 thước ta, nước ròng sâu 18 thước ta, cách phía nam trấn 143 dặm rưỡi, 2 bên trổ nhiều sông nhỏ, đều có mọc nhiều cây dừa nước, dân ở đây cắt lá bện thành tấm (<97><269>) <64a> khổ dài rộng hơn các nơi khác, rồi chở bè đem bán được lợi rất lớn. Trong cảng có cù lao Cổ Chiên, đầu cù lao đối diện với sông Tầm Vu, đuôi cù lao chận giữ sông Long Toàn (tục gọi là rạch Thâu Râu thuộc đất thôn Long Toàn) dài 45 dặm, bề ngang độ 10 dặm, có dân cư của 3 thôn Phước Hòa, Phú Thạch và Phước Long, sở thủ ngự đóng ở phía nam. Cách phía nam ngoài vùng biển ấy 2 dặm rưỡi có cù lao Phù Châu, rừng cây rậm rạp. Phía đông nam ngoài biển cách 33 dặm rưỡi đến cù lao Đại Châu dài 12 dặm rưỡi, bề ngang bằng nửa bề dài, đầu phía bắc gọi là Ngao Chử (tục gọi cồn Ngao), đầu phía nam gọi là Noãn Chử (cồn Trứng), có sở thủ ngự đóng để tuần phòng giặc biển, có dân cư 2 thôn Trường Lộc và Thới Hòa ở đây. Nơi đây đất đai phì nhiêu, phía nam có cù lao Tam Động dài 4 dặm, ở đó có dân biển sinh sống, họ đều trồng thuốc lá, khoai lang và làm nghề chài lưới, cây cối ở đó rất xanh tốt.

BA RÀI (LAI) HẢI MÔN (CỬA BIỂN BA RÀI (LAI))

Rộng hơn 9 dặm, khi nước lên sâu 7 tầm, nước ròng sâu 10 thước ta, ở về cuối sông Hậu Giang, <64b> ngược dòng lên phía tây bắc 60 dặm đến đạo Trấn Di. Dọc theo ven sông, ven biển cây cỏ rậm rạp, trong đều là gò đất, người Tàu và người Cao Miên đều trồng thuốc lá, củ cải, dưa quả rất to mà ngon. Theo biển nầy lên phía tây thì liền tiếp với cửa biển Mỹ Thanh; ngoài cảng có cồn Lợi, cồn Tổ nhưng chỉ có cù lao Trứng (cồn Nóc) (Noãn châu) là lớn hơn, ngư dân ở đây chuyên nghề chài lưới và câu cá.

2d. Trấn Vĩnh Thanh (2)

MỸ THANH HẢI MÔN (CỬA BIỂN MỸ THANH)

Rộng 10 dặm, khi nước lên sâu 12 thước ta, nước ròng sâu 4 thước ta. Bờ phía tây có thủ sở, người Việt, người Tàu, người Cao Miên đến sinh sống ở đó, quán xá đông đúc; thổ sản ở đây là thuốc lá, dưa quả và phơi tôm khô (<98><270>). Ngoài cảng về phía đông có cồn cát ngầm, dài chừng 5 dặm, ghe thuyền phải lo tránh.

BÍCH TRÂN CHÂU (CÙ LAO BÁT TÂN) (<99><271>)

Ở phía bắc trấn thành, chu vi 12 dặm, sắc cây xanh biếc, ánh nước long lanh như ngọc bích. Lại có tên là Bát Tân, ý nói bến nước thông cả tám hướng. Nơi này làm cồn cát bảo vệ cho sông Long Hồ, <65a> hai bên khép lại như cái vạt áo, quanh vòng ôm lấy hai thôn Bình Lương và An Thành. Bên bờ có những ngư dân phơi lưới, treo tơi, ẩn hiện nơi ngọn rừng, gốc cây. Sông thu thuyền câu giỡn nguyệt, hát hò dưới rặng bần, lênh đênh bên cồn cát trắng, bập bềnh qua lại, tạo nên lạc thú của dân chài.

VĨNH TÙNG CHÂU (CÙ LAO VĨNH TÙNG) (<100><272>)

Ở phía tây cù lao Bích Trân, dài 4 dặm, cây cau, dây trầu ở đây rất xanh tốt, quít bưởi rung rinh, có dân cư thôn Vĩnh Tùng ở đấy, cảnh trí thâm u thanh tĩnh.

TÂN CÙ CHÂU (CÙ LAO TÂN CÙ) (<101><273>)

Ở phía bắc sông Hàm Luông, cù lao uốn khúc, nổi lên giữa mặt kính hồ, như một vành cong nét vẽ chân mày nằm vắt ngang. Cành trúc rủ la đà quét mặt sóng, ngọn cau dựng đứng khều tầng mây, ở đó có dân cư của 2 thôn Tân Cù và thôn Bình An sinh sống. Cảnh vật khác hẳn nơi chợ búa ồn ào.

TRƯỜNG CHÂU (CÙ LAO DÀI)

Ở hạ lưu sông lớn Long Hồ, chu vi 30 dặm, ở đó có dân cư của 5 thôn Phú Thới, Phước Khánh, Thới Bình, Thanh Lương và Bình Thạnh. Nơi đây ruộng vườn ngăn nắp sạch sẽ, phong thủy thanh tú, có những cây thủy mai (mù u) đơm ngọc, hương toán (<102><274>) (xoài) đeo vàng, đáng gọi là nơi sung túc nhàn tĩnh.

PHỤ LONG CHÂU (CÙ LAO PHỤ LONG)

Cù lao nầy nằm phụ cận theo sông Hàm Luông nên gọi là Phụ Long (Luông). Có lũy tre xanh uốn khúc bao quanh vũng nước của thôn Phụ Long <65a>. Đồng bằng cò đậu, cây ban tối quạ về, đượm cảnh trí tự nhiên của làng mạc cạnh sông nước.

THANH SƠN CHÂU

Tục gọi là cù lao Cái Cấm, cù lao này nằm giữa sông Hàm Luông, dân của 3 thôn Thanh Sơn, Thanh Xuân và Tân Thông sống ở đó, trông giống dãy núi xanh chống giữa khoảng không, sóng bạc vỗ bên bờ, như là bóng dải đất giữa mặt trăng (<103><275>), là cảnh giới thần tiên vậy.

PHỤNG NGA CHÂU (CÙ LAO PHỤNG NGA) (<104><276>)

Ở bờ phía bắc sông Sa Đéc, vừa cong vừa dài 10 dặm. Phía đông là cù lao Phụng (tục gọi là cù lao Tân Phụng), phía tây là cù lao Nga (tục gọi là cù lao Cái Nga), có dân của 4 thôn Tân Phụng, Sùng Văn, Tân Lâm và An Tịch sinh sống ở đó. Đất nầy chỉ thuộc một khu nhưng có ngòi nhỏ ở giữa nên chia ra làm hai, như hai nửa viên ngọc bích ghép lại vậy. Ở đấy vườn xanh rậm, tàu cau rủ đuôi chim phụng, bến sông tắm đàn nga, đó là nguyên nhân ban đầu đưa đến gọi tên là Phụng Nga. Nơi đây tuy là nhà cửa chốn lâm tuyền nhưng lại gần thành thị. Kẻ ưa nhàn tĩnh thì đến bến phía bắc thả thuyền qua Tiền Giang để giặt dải mũ ở sông Thương Lang (<105><277>) <66a>. Người ưa phồn hoa thì đến bến phía nam đưa chân xuống Sa Đéc vui chơi thú chợ Lạc Dương (<106><278>). Có ruộng để cày nên làm nông phu cũng tốt, có sông để câu nên làm ngư phủ cũng hay, đủ cả thú vui cho mọi giới, đáng gọi là một cù lao giàu có đầy đủ vậy.

DINH CHÂU (<107><279>)

Tục gọi là cù lao Giêng, ở thượng lưu Tiền Giang, cách trấn về phía tây 117 dặm. Trước kia là đất thuộc đạo Tân Châu, ở đây có dân cư của 4 thôn: Toàn Đức, Mỹ Hưng, Toàn Đức Đông và Phú Hưng.

Phía tây nam có cù lao nhỏ dân cư của 3 thôn: Tân Phước, Phú An và Tân Tịch ở đấy.

Phía đông nam có cù lao nhỏ dân cư của thôn Tân Thới ở đó.

Ba cù lao này đứng sóng vai nhau, bốn phía đều sóng nước, nghiễm nhiên trở thành dáng dấp ba đảo tiên Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu vậy. Từ đấy lên phía bắc có rừng tre xanh um, thân tre cao lớn khác thường, cành rễ quấn nhau rậm rịt khắp phía. Bên trong lắm hồ ao, cá đồng chen chúc, dân bắt cá kéo đến từng nhóm 5, 10 người, họ sục bùn, vạch cỏ tìm bắt cá đem ướp mắm hoặc phơi khô, rồi chặt tre kết bè chở bán khắp các ngả, cùng nhau cậy nhờ mối lợi của thiên nhiên.

NGƯU CHÂU (CÙ LAO TRÂU)Ở thượng lưu Tiền Giang, có 2 thôn Tân Hòa, Tân Thuận ở đây. Đất thích hợp các loại thổ sản là thuốc lá, bông vải và dưa quả.

TÒNG SƠN CHÂU (CÙ LAO TÒNG SƠN)Nằm về phía đông sông Mỹ Luông ở Tiền Giang, có thôn Tòng Sơn ở đấy. Bốn bề đều là sóng to, trông như đám lục bình nổi trên mặt sông; mặt trời chiếu dọi cá nược (<108><280>), ngọn gió đung đưa hạc nước, thật đầy đủ cảnh trí vùng sông nước !

TÊ CHÂU (CÙ LAO TÂY) (<109><281>)

Ở thượng lưu Tiền Giang, có thôn Tân Hưng ở đấy. Cù lao Lộc (Nai) ở phía đông, cù lao Ngãi ở phía tây, cù lao Trư (Heo) ở phía bắc, cù lao Hỏa Đao (Dao Lửa) (<110><282>) ở phía nam; như hình dáng hoa mai vậy. Nơi đây có tre xanh tốt, là hang vực, lùm bụi để loài thú ẩn nấp.

LONG SƠN CHÂU (<111><283>)

Tục gọi là cù lao Cái Vừng, ở thượng lưu Tiền Giang, dài hơn 47 dặm, lồi lõm góc cạnh giống như đầu rồng, phía đông cách đạo thủ mới Tân Châu 5 dặm rưỡi, cách trấn về phía tây 174 dặm rưỡi, xóm Tân Phú Lâm ở đấy; <67a> kế tiếp phía đông có cù lao Tản Dù, cũng phía đông ấy còn có cù lao Đồ Bà (Chà Và) (<112><284>), tất cả giăng thành hình chữ nhất mà có lớn nhỏ thứ tự khác nhau. Nơi đây rừng tre um tùm, đường sông thông nhau, bờ phía tây là đồn mới Tân Châu, bờ phía đông là đồn mới Chiến Sai, bờ phía bắc là đồn mới Hùng Ngự (Hồng Ngự), có địa thế là một ải quan hùng mạnh chặn giữ chỗ hiểm yếu.

NĂNG GÙ CHÂU (CÙ LAO NĂNG GÙ) (<113><285>)

Ở phía trước hạ khẩu vàm Nao (<114><286>) thuộc Hậu Giang dài 9 dặm, có thôn Bình Lâm ở đấy. Ở đây rừng tre um tùm, đầy dẫy ao cá, phàm dân ở vùng thượng lưu Hậu Giang khai thác tre cây, cá tôm làm nghề sinh nhai hàng ngày, thứ nữa họ còn trồng bông kéo sợi, rồi sau nữa mới làm ra lúa gạo

QUA CHÂU (<115><287>)

Tục gọi là cù lao Bí, ở phía tây sông Cường Thành, thuộc hạ lưu Hậu Giang. Trên giáp cù lao Châm Pha đồng thời làm ruộng vườn thôn An Hòa, dưới giáp cù lao Thủy Liễu (Cù lao Bần), đó là phía bờ tây Du Giang, hình thế xuyên xỏ tới lui <67b> như sao Tam Thai, thổ sản ở đây có dưa, bí, thuốc lá. Người dân chuyên dùng sức lực làm lụng mà ăn.

SA CHÂU (CÙ LAO CÁT (<116><288>))

Ở hạ lưu sông Cường Oai thuộc Hậu Giang, có thôn Tân Lộc ở đấy. Đường đi đầy lau lách, chim biển và cò quen dạn bóng người, đây là vùng hoang vắng.

HOẰNG TRẤN CHÂU (CÙ LAO HOẰNG TRẤN) (<117><289>)

Tục gọi là bãi Bà Lúa, lại có tên là cù lao Tân Din, dài 30 dặm, bề ngang bằng nửa bề dài, cách trấn về phía nam 130 dặm rưỡi. Nơi đây dòng sông ngoằn ngoèo hiệp nhau, gò đất cao rộng, vì bấy giờ có đề nghị cho rằng địa thế Hậu Giang rộng lớn, rừng chằm um tùm, vùng Ba Thắc, Cần Thơ, Trà Vinh có nhiều sóc của người Cao Miên mà lại cách xa dinh Long Hồ, nên cần đặt một trấn lớn để khống chế, vả lại cũng cần khai mộ dân nhằm khẩn ruộng đất nơi đây, nên vua Thế Tổ Cao hoàng đế vào năm thứ 2 (Kỷ Hợi - 1779) dời dinh Long Hồ đến đây, đổi tên là dinh Hoằng Trấn. Nguyên trước đây vua Cao Miên Nặc Ong Ton (<118><290>) (Neac Ang Ton) được triều đình ta lập nên làm vua nước phiên thuộc. Đến khi Tây Sơn vào cướp chiếm, 2 dinh Trấn Biên và Phiên Trấn từng bị quân giặc <68a> quấy nhiễu nhiều lần, trong nước không yên, Xiêm La thừa cơ hộ tống phản thần Cao Miên là Nặc Ong Non về đánh Cao Miên nhưng không thành. Sau Nặc Ong Ton nhường ngôi cho em là Nặc Ong Vinh (tục xưng vua Trị) làm Chính vương, còn Ton tự giáng làm Nhị vương, em thứ là Nặc Ong Thâm làm Tam vương. Khi ấy Nặc Ong Vinh từng trái mệnh nhiều lần nhưng triều đình ta chưa rỗi rảnh để hỏi tội ngay. Năm Đinh Dậu (1777), Nặc Ong Vinh mưu giết Nặc Ong Thâm và bức tử Nặc Ong Ton ( khi ấy Ton đang bệnh, nghe có biến, bực tức nên thổ huyết mà chết). Nặc Ong Vinh cai trị tàn bạo, nên mùa xuân năm Kỷ Hợi (1779), Chiêu trùy Mô, Đê đô Luyện và Ốc nha Liên Đồng Trùy (<119><291>) chiếm cứ phủ Phong Xoài để chống lại. Nặc Ong Vinh đem binh tới đánh nhau. Vị Bôn Sưu chiếm La Vách để tiếp ứng cho Chiêu trùy Mô. Vinh đem quân trở lại đánh Sưu rất gấp. Tháng 4, Sưu cấp báo với dinh Hoằng Trấn xin viện binh, nhưng đường sá xa xôi cách trở, đi lại chậm trễ, đến tháng 6 mới có lệnh sai Đông Sơn<68b> Thượng tướng Phương Quận công (<120><292>) tiến đánh, bắt giết Nặc Ong Vinh rồi lập con Nặc Ong Ton là Nặc Ong In (<121><293>) làm Quốc vương Cao Miên, lúc đó trong nước nầy mới yên. Năm thứ 3 Canh Tý (1780) chuẩn nghị rằng: dinh Hoằng Trấn ở vùng riêng lẻ hẻo lánh, nếu Cao Miên hữu sự thì rất khó tiếp ứng chế ngự, nên bỏ dinh mới mà đem về chỗ cũ Long Hồ, đến nay vẫn còn ở đấy. Còn đất ấy thì để cho dân ở. Bờ phía đông của cù lao có con sông, cũng gọi sông Tân Din, rộng 6 tầm, sâu 1 tầm, cùng nguồn, ở bờ phía tây đối diện với sông Cái Sách (<122><294>).

HUỲNH DUNG CHÂU

Tục gọi là cù lao Dung (<123><295>), ở phía tây hạ lưu Hậu Giang. Phía bắc từ sông Thong Đăng (Tham Đăng), phía nam đến sông Ngang Đô, dài 35 dặm, làm bình phong cho sông Ba Thắc. Nơi đây có nhiều dừa nước. Dân ở đây làm nghề bện lá dừa thành từng tấm đem bán. Cù lao nầy có nhiều cọp, nên còn có tên là cù lao Hổ. Có 2 thôn An Thạnh Nhứt, An Thạnh Nhì ở đấy.

---------------------------------------

Chú thích:

(<1><173>) Thoại Sơn: Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì núi này còn có tên là Toại Sơn. Trên núi có đền thờ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại xây năm 1882.

(<2><174>) Nguyên văn Ba Thê viết là
葩梯. Ba có nghĩa là tinh hoa đẹp đẽ, thê () là cái thang. Vậy Ba Thê có nghĩa núi cao vút đẹp đẽ như "cây thang huê dạng".

(<3><175>) Núi Tà Chiếu (
斜照山). Tà Chiếu có nghĩa là "Bóng xế tà", chớ không phải nghĩa theo tiếng Khơ me là ông Chiếu (tà là ông). Trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký lại chép là Tà Chiêu.

(<4><176>) Núi Khê Lạp (
溪臘). Chữ này đọc là lạp. Vương Hồng Sển khi đọc PCGBC của Trương Vĩnh Ký đã ghi là Khê Lập theo ông Ký, có thể do lỗi morasse nên chép lạp thành lập. Theo di cảo của TVK thì núi này có tên cũ bằng tiếng Khơ me là Phnom crack Cơn Kan.

(<5><177>) Núi Chút Sơn (
崪山). ChữNôm còn đọc là tụy. Nhóm dịch giả VSH đọc là thốt có lẽ nhầm lẫn vì chữ Nôm thốt phải viết là. Nhưng theo chỗ chúng tôi tâm đắc khi nghiên cứu cách viết chữ Nôm của cụ Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC thì đây là chữ Tốt () đọc là Chốt trong môn cờ Tướng, thêmbàng để chỉ thuộc tên núi mà thôi và đọc trại là chút. Vậy xin đọc là núi Chút. Trương Vĩnh Ký trong PCGBC cũng ghi là núi Chút.

(<6><178>) Núi Tà Biệt (
斜別山) chữ Nôm còn đọc là bẹt, bét, béc nhưng qua nội dung đoạn nói về núi này, tác giả có giải thích vì nó không đứng chung hệ, cùng dãy với các núi khác nên gọi là biệt. Vậy xin gọi là Tà Biệt. Di cảo của Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép tên núi này là Tà Béc.

(<7><179>) Núi Ba Xùi (
J). Chữ J tra nhiều tự điển Nôm không thấy, chỉ có chữcó thể đọc là xùi, xui, xuôi. Như chúng tôi phát hiện đây là chữthôi, còn thêm Sơn đầu là để chỉ núi theo cách viết của Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC. Núi này trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký đọc là núi Bà Xôi.

(<8><180>) Súc sa mật (
縮砂蔤) gọi tắt là súc sa, thân cọng cao chừng một mét ngoài, lá nhỏ mà dài, trổ hoa lúc giao mùa xuân hạ. Trái có vỏ cứng màu vàng đỏ sậm, trong chứa chừng 10 hạt, ngoài màu dà (nâu đỏ), trong trắng, có hương vị cay như hạt bạch đậu khấu, tục gọi sa nhân.

(<9><181>) Núi Ất Giùm (M
森山): Núi này nhiều người đọc là Ngất Sâm, Ngất Sum, Ngật Sum. Trương Vĩnh Ký trong di cảo ghi là Ất Giùm. Chữ M theo cách viết tên Nôm của núi sông, cây cối, chim muông trong GĐTTC, tức là chữ(Ất), còn thêm bộ Sơn () trên đầu là để chỉ thuộc núi thôi. Vậy chữ này phải đọc ất () chớ không thể đọc ngật. Chữ đọc theo Hán là sum, sâm, nhưng đọc theo Nôm là giụm, hay giùm, viết đủ là N. Tuy nhiên trong PCGBC Trương Vĩnh Ký lại chép tên núi này là Ác Giùm.

(<10><182>) Núi Nam Vi (
南圍山). Chữ Nôm có thể đọc vầy, vây. Theo di cảo Trương Vĩnh Ký thì tên núi này đọc theo tiếng Khơ me là Phnom pi. Có lẽ, Nam Vi là do đọc trại theo âm tiếng Khơ me Phnom pi. Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký cũng ghi là Nam Vi sơn.

(<11><183>) Núi Đài Tốn (
臺巽山). Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì núi này là Đài Tố sơn. Theo cách giải thích của tác giả, trong đoạn này thì có lẽ tên gọi là Đài Tốn, vì núi như cái đài cao hướng thìn tỵ, tức hướng đông nam thuộc cung Tốn.

(<12><184>) Núi Chơn Giùm (
真森山). Trương Vĩnh Ký trong PCGBC gọi núi này là Chơn Giùm sơn. Chữ đọc theo Hán là sum hay sâm nhưng nếu đọc theo chữ Nôm là giùm hay giụm, viết đủ là N.

(<13><185>) Phủ Chơn Giùm (
真森府). Là một trong 5 phủ ở Tây Bắc Hà Tiên mà vua Khơ me đã hiến cho Tổng binh Mạc Thiên Tứ để đền ơn an định ngôi vua. Đó là: Sài Mạt (Ban tay Mas); Vũng Thơm (Kompong Som); Cần Vọt (Kampot); Linh Quỳnh (Hà Dương); Chơn Giùm (Chan Sum).

(<14><186>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép tên núi này là Thong Đăng sơn.

(<15><187>) Núi Đại Bà Đê (
大碆底山). Chữ Nôm tra tự điển chữ Nôm không thấy, chỉ có chữtrong Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính, phiên âm ba mà không chua nghĩa là gì. Xin đoán chữnầy có lẽ chỉ là chữba được thêm bộ Thạch dưới để chỉ thuộc về tên núi theo cách viết Nôm của Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC, vậy chữ này nên ghi là ba và tên núi này là Đại Ba Đê sơn.

(<16><188>) Sông Long Hồ (
竜湖江). Trương Vĩnh Ký trong PCGBC gọi sông nầy là Long Hồ giang.

(<17><189>) Sông Ba Kè (
波棋江). Trương Vĩnh Ký ở PCGBC gọi sông nầy là Kiên Thắng giang. Thượng Tân Thị năm 1910 có làm bài thơ tức cảnh sông nầy như sau: (Trích Nam kỳ Lục tỉnh Địa dư chí ( NKLTĐDC) của Duy Minh Thị - Thượng Tân Thị dịch):

Gần tối ra chơi đứng giữa cầu Dựa bãi leo heo đèn xóm lưới

Chim bay cá liệng biết về đâu Ngay dòng lững đững bóng thuyền câu

Ngược xuôi nước chảy chia ba ngã. Thân nầy đây khách mười năm trọn

Lui tới mây tuôn dạng một mầu Biết lấy chi chi gởi mối sầu.

(<18><190>) Hậu Giang (
後江). Còn gọi là sông Hậu, sông Bassac. Miền Hậu Giang được tính từ bờ Nam bắc Mỹ Thuận (nay là cầu Mỹ Thuận), người Pháp gọi là Le trans bassac. Tiền Giang tính từ bờ Bắc cầu Mỹ Thuận và tiếng Pháp gọi là Le Cisbassac.

(<19><191>) Mạt Cần Đăng (
末芹O). Đây là một địa danh gồm ba chữ mà nhóm dịch giả VSH lại dịch là "đăng Vị Cần" thì e là vừa đọc nhầm mặt chữ mạt () thành vị () vừa không đúng tên gọi của người địa phương. Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì tên chữ của Mạt Cần Đăng là Hiến Cần Đà, và ông gọi sông này là Mặc Cần Đăng hay Mật Cần Dưng.Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<20><192>) Cửa biển Ba Thắc (
波忒海門): Tức cửa sông Hậu trổ ra Nam Hải, 2 bên là cửa Trấn Di và cửa Định An.

(<21><193>) Đại Tuần giang (
大巡江). Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC sông này gọi là sông Vàm Tuần.

(<22><194>) Hàm Long (Luông) giang (
含龍江). Nguyên văn là Hàm Long nhưng vì kỵ húy tên vua Gia Long (mặc dù miếu hiệu vua với chữ Long () là đầy đủ, nhưng đọc âm hai chữ đều là Long nên phải đọc trại đi là Luông). Di cảo của Trương Vĩnh Ký chép tên tiếng Khơ me sông này là Tonlé prek kompong luon.

(<23><195>) Sông Tiên Thủy (
仙水). Vì vùng này có nhiều Sãi Khơ me nên tên Nôm gọi là Sóc Sãi Hạ.

(<24><196>) Sông Kinh trong, sông Vị đục. Sách Chu truyền ký chép: "Sông Kinh từ Kê Đầu sơn chảy tới Cao Lăng thì nhập với sông Vị. Nước sông Kinh trong, nước sông Vị đục. Nhưng khi sông Kinh chưa nhập vào sông Vị thì nước sông Vị tuy đục nhưng ta không thấy rõ lắm, chừng hai sông nhập làm một thì sự trong đục phân rất rõ". Về sau muốn chỉ trong đục khác nhau người ta thường lấy thành ngữ Kinh thanh Vị trọc làm thí dụ, như thơ Tô Thức: Hung trung Kinh Vị phân nghĩa là "trong lòng phân trong đục".

(<25><197>) Sông Mỹ Lồng (
美籠江). ChữNôm đọc là lồng, không phải viết lung hay long mà phải đọc theo tiếng miền Nam là lồng như Vương Hồng Sển đã viết trong cuốn Tự vị tiếng Việt miền Nam.

(<26><198>) Cái Sậy (
R). Nguyên văn chữ Nôm viếtR phải đọc là Cái Sậy. Đọc Cái Chẻ là nhầm vì "chẻ" chữ Nôm phải viết làhay U. Có người đọc Cái Sẻ e cũng lầm vì chữ sẻ chữ Nôm viết là S hay T.

(<27><199>) Bình Phụng giang (
平鳳江). Tục danh sông Cái Muối. Nguyên văn viếtV, dịch Cái Múi là không đúng. PCGBC của Trương Vĩnh Ký chép Bình Phụng Giang. Nam kỳ lục tỉnh Dư địa chí có chép bài thơ Vịnh sông Cái Muối của Thượng Tân Thị rất hay, xin ghi lại đọc chơi:

Muối thì mặn chát lẽ nào không. Bần đơm cao nghệu không ngăn gió.

Mà muối đây là một cái sông. Cát nổi vun chùn dễ đón dông.

Sóng vỗ vòi lên màu trắng trắng. Ngó lại trong vàm xa thẳm thẳm.

Trời soi mặt xuống dạng hồng hồng. Người ta nhà cửa cũng đông đông.

(<28><200>) Nguyên văn bản Nguyễn Tạo chép là Thị Kinh (
市涇) tức kinh Chợ.

(<29><201>) Cần Thay Thượng (
芹台上). Nguyên văn viết芹台. Chữ nếu chữ Hán phải đọc là thai như Thiên thai chẳng hạn. Ở đây chữ này là chữ Nôm phải đọc là Thay có nghĩa là thay đổi. PCGBC của Trương Vĩnh Ký cũng ghi là Cần Thay.

(<30><202>) Thượng Thầm giang (
上椹江). PCGBC của Trương Vĩnh Ký chép Thượng Thầm giang, tức Cái Dâu Thượng.

(<31><203>) An Vĩnh giang (
安永江). PCGB của Trương Vĩnh Ký chép An Vĩnh giang, tục gọi Cái Mơng (Mơn) Lớn. Nguyên văn viết丐茫, tức mượn âm của chữ Hán Mang () nên chuyển sang âm Nôm Mơng phải viết có chữ (g).

(<32><204>) Ba Vát thị (
波越市). Nguyên văn viết Ba Vát 波越như người địa phương gọi nơi này là Ba Vát. Theo ông Vương Hồng Sển, Ba Vát là một địa danh lịch sử quan trọng vì nơi đây xưa kia được một vua Cao Miên đến trú ẩn và đây cũng là nơi Tân Chính vương bị quân Tây Sơn bắt. Chữ Nôm đọc là vát, chớ không phải viết Ba Việt (波越).

Ý nghĩa chữ Ba Vát được giải thích nhiều cách. Theo Đại đức mekon (chủ tịch Hội đồng sư sãi toàn tỉnh của đồng bào người Việt gốc Khơ me Vĩnh Bình), thì Ba Vát là đọc trại âm chữ Preas - Watt là chùa Phật, nhưng chùa Phật thì đâu mà chẳng có nên luận lý không được thuyết phục. Theo Vương Hồng Sển thì âm Ba Vát khá gần âm tiếng Khơ me Posvêk là rắn hổ, vì xứ này có nhiều rắn, cũng như xứ Cần Đước có nhiều cua đinh, cần đước vậy.

(<33><205>) Lê Đầu giang (
犁頭江). Lê (hay ) là cây cày. Đầu () là cái đầu, tức phần đầu, dịch thoát là mỏ, cũng là phần đầu của con vật. Vậy Lê Đầu dịch là Mỏ Cày như nhân dân địa phương thường gọi.

(<34><206>) Ba La giang (波羅江). Vì Ba La hay Ba La Mật là cây mít nên Ba La giang gọi là rạch hay xẻo Cái Mít. Rạch này ở làng Hiệp Hưng, tổng Bảo Phước (cũ), tỉnh Bến Tre.

(<35><207>) Vĩnh Đức giang (
永德江). Tên Nôm là Ba Tri Ớt. Tên Khơ me sông này theo di cảo của Trương Vĩnh Ký là Prêk bà ti camkà motés. Prêk là sông rạch. Bà Ti nói trại thành Ba Tri. Camkà: Chamca, Chamcar = vườn rau; motés = ớt. Vậy Prêk bàti camkà motés là sông rạch có vườn trồng ớt = Ba Tri Ớt.

(<36><208>) Châu Thới giang (
周泰江). Là sông Ba Tri Cá, tên tiếng Khơ me trong di cảo của Trương Vĩnh Ký là Prêk bàti phsar trei. Prêk = sông rạch. Bàti = Batri; phsar = chợ. Trei (Khơ me Krọms đọc tẹi) là con cá. Vậy Prêk bàti phsar trei là sông Ba Tri có chợ bán cá, tức Ba Tri Cá.

(<37><209>) Châu Bình giang (
周平江). Tục gọi Ba Tri Chàm. Nguyên văn viếtlà chữ Nôm đọc là Chàm. Theo Vương Hồng Sển thì xứ này là Ba Tri Rơm, nhưng chữ Nôm Rơm phải viết làhoặc A; Hay do tên sông này như di cảo của Trương Vĩnh Ký chép là Prêk bàti barei nên có thể Ba Tri Rơm là do đọc trại âm từ Bàti barei?

(<38><210>) Mân Thít giang (
斌沏江).

(<39><211>) Ngã ba Cái Nhum (
W): Cái Nhum nằm ở khoảng Cái Mơng và Chợ Lách. Từ Cái Mơng đi 3km tới Cái Ga, đi 3km nữa tới Cái Nhum, đi 6km nữa tới Chợ Lách.

(<40><212>) Song Tông giang (
雙棕江): PCGBC của Trương Vĩnh Ký gọi sông này là Song Tòng giang. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me sông này là Prêk ponà ku trong đó chữ Ku có nghĩa là "đôi" tức "song".

(<41><213>) Kiên Thắng giang (
堅勝江). Tục gọi sông Ba Kè. Xem chú thích "sông Bà Kè" ở trước.

(<42><214>) Láng Thé giang (
浪涕江): Hai chữ浪涕nếu đọc theo chữ Hán là Lãng Đế, nhưng đây là chữ Nôm phải đọc là Láng Thé. Đây là địa phương nổi tiếng ở Trà Vinh với câu chuyện bà hiền phụ của ông Bùi Hữu Nghĩa đội trạng ra tận triều đình Huế minh oan cho chồng là ông huyện Láng Thé bị vu cáo xúi dân làm loạn. Trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký tên sông này là Láng Thé giang. Rạch Láng Thé chảy qua tổng Bình Khánh Hạ, Bình Hóa và một phần Ngãi Long Thượng, nối Cổ Chiên qua rạch Cái Hợp bằng con rạch Dừa Đỏ và nối Cổ Chiên qua Hậu Giang bằng kinh Luro, kinh Venturini và rạch Cần Chông. Ở Trà Vinh tỉnh Vĩnh Long (cũ) không có con sông nào là sông Láng Đế. Nhóm dịch giả VSH dịch là sông Lãng Đế chưa chính xác. Bản dịch của Nguyễn Tạo và Aubaret cũng vậy.

(<43><215>) Cần Chông tiểu giang (
芹苳小江): Tức rạch Cần Chông, di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi sông này bằng tên tiếng Khơ me là Srok Kancon.

(<44><216>) Trà Vang giang (XY
): Tên gọi theo tiếng Khơ me là Prêk préah trapéang, có nghĩa là sông tìm được một vị Phật (Préah) bằng đá giữa ao nước.

(<45><217>) Ốc nha (
屋牙). Ốc nha là tên một chức quan của Khơ me ngày xưa tùy theo chữ đi liền mà có địa vị cao thấp, thí dụ Ốc nha Cao la hâm là vị quan mặc áo đỏ chức vụ tương đương Bộ trưởng Hải quân. Thường Ốc nha cai quản một hạt hay đạo. Ốc nha là đọc âm tiếng Oknà hay Oknha. (Có người dịch Oknha là Công tước - Bt). Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<46><218>) Nha Mân giang (
牙斌江). Nha Mân giang theo di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi là Prêk oknà mẵn. Vậy có lẽ Nha Mân có nghĩa là vị quan (Oknà) tên Mân (Mẵn)?

(<47><219>) Trà Cát: Nguyên văn viết
茶吉. Trong NKLTDĐC, Thượng Tân Thị dịch là Trà Ket (Kiết), nhưng chữ Nôm ket phải viết làhay. Vậy, chưa biết ket, hay cát chữ nào đúng.

(<48><220>) Sa Đéc giang (
Z). Di cảo của Trương Vĩnh Ký chép tiếng Khơ me sông này là Tonlé phsar dèk.

(<49><221>) Hồi Luân Thủy tam kỳ (
回輪水三岐): Tức ngã ba Nước Xoáy. Di cảo của Trương Vĩnh Ký cho biết tên tiếng Khơ me của sông nầy là Prêk tưk vil. Prêk là sông, tưk là nước, vil là chóng mặt (tức xoáy mòng mòng). Vậy sông Nước Xoáy (Hồi Luân Thủy) là dịch theo ý tiếng Khơ me vậy.

(<50><222>) Cái Tắt Lai Vung (
'\): Ở trang 605 sách Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển viết "...Nguyễn Tạo không rành tiếng địa phương và cứ coi theo sách dịch ra, nên Cái Tắt Lai Vung ông dịch Cái Dắt Lai Phong, không ai hiểu là gì..."

Về nghĩa, tắt có nghĩa là lối đi tắt, để đi từ con sông nầy qua con sông kia theo lối gần nhất. Thí dụ Tắt Cậu là khúc sông thật ngắn chừng 800 m làm ngã tắt nối liền hai con sông Cái Bé và Cái Lớn ở xã Bình An, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Gọi là Tắt Cậu vì đầu tắt có miếu Bà Cậu. Khoảng giữa tắt gọi là lòng tắt. Cuối lòng tắt nhìn qua bên kia bờ sông Cái Lớn là Xẻo Rô. Tàu biển vào sông Cái Lớn, quẹo lòng tắt qua Cái Bé, quẹo trái vào chợ Rạch Giá.

(<51><223>) Nguyên văn viết phu công (
膚功). Phu () có nhiều nghĩa, trong ngữ cảnh này có nghĩa là lớn. Vậy "phu công" là công trận lớn.

(<52><224>) Long Phụng giang (
竜鳳江): Sông Long Phụng nay thuộc tỉnh An Giang, tức khi xưa thuộc đạo Đông Khẩu.

(<53><225>) Tân Đông giang (
新東江): Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký sắp sông này thuộc tỉnh An Giang cũ, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp (Sa Đéc).

(<54><226>) Nguyên văn: Thủy triều ngộ kinh
水潮誤經: Tức khi nước ròng thì bãi bùn này lồi lên ghe thấy tránh chỗ khác không bị cạn, nhưng khi nước lớn thì nước phủ bãi đủ che mắt người không nhìn thấy. Ghe lạ không biết lỡ đi vào đó là mắc cạn. Ngộ kinh (誤經) có nghĩa là "lầm đi ngang qua".

(<55><227>) Mương Đào: Nguyên văn viết Mương Đào
茫陶, nhưng có người viết là Mương Điều là vì tránh gọi tên Đào, là tiếng gọi đào hát bội không được kính trọng. Di cảo của Trương Vĩnh Ký cũng chép là Mương Đào.

(<56><228>) Rạch Sa Nhiên: Nguyên văn viết Sa Nhơn (Nhân)
砂仁, nhưng đọc Sa Nhiên vì kỵ húy tên tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn đời Gia Long có mộ chôn ở Sa Đéc.

(<57><229>) Mỹ An giang (
美安江), tục gọi sông Đất Sét. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me của sông này là Pàm prêk dei kraham, chữ dei có nghĩa là đất; Kraham, Krâhâm có nghĩa là màu đỏ sậm, đúng là màu đất sét.

(<58><230>) Hội An giang (會安江): Sông Hội An còn gọi là Cái Tàu Thượng. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me của sông này là Pàm prêk sampou lơ. Sampou là hải thuyền, tức tàu, hay cái tàu. Lơ là trên, tức thượng.

(<59><231>) Nguyên văn VHN lưu trữ và nguyên văn in kèm bản dịch Nguyễn Tạo chép Ngọ Châu (
午洲) còn nguyên văn bản của VSH chép Ngưu Châu (牛洲). Di cảo của Trương Vĩnh Ký chép tên Khơ me là Koh krabei. Krabei là con trâu, vậy xin dịch "cù lao Trâu" tức chọn từ "Ngưu châu".

(<60><232>) Nguyên văn bản VHN và bản của VSH đều chép là Doanh Châu (
瀛洲).

(<61><233>) Cựu Chiến Sai thủ sở (
舊戰差守所). Thủ sở, thủ ngự sở, gọi trại thành thủ ngự là nơi đóng đồn trên bộ để phòng giặc kiêm luôn thu thuế khóa như Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn, Thủ Dầu Một, Thủ Thừa v.v... trong khi tấn là đồn đóng ở cửa sông cửa biển để chống hải khấu như vàm Tấn ở Sóc Trăng. Liên quan đến thủ Chiến Sai có câu hát ví rất hay:

Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn,

Anh phải lòng nàng tại thủ Chiến Sai!

(<62><234>) Lễ Công giang (
礼公江). Tức vàm Ông Chưởng, là nơi nhân dân lập miếu thờ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, ngoài Bắc gọi là Kính.

(<63><235>) Hùng Sai thủ ngự sở:
雄差守禦所. Có lẽ do Hùng Sai thủ ngự đọc tắt gọn lại là Hùng Ngự, tức nay là Hồng Ngự?

(<64><236>) Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh:
掌奇禮成侯阮有鏡. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phía nam. Tại đây, với tài ba và đức độ, Nguyễn Hữu Cảnh đã di dân khai khẩn đất hoang, thành lập huyện Phước Long xứ Đồng Nai, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, an định người Hoa chống Mãn Thanh bỏ xứ sang Gia Định. Về võ công, ông có công bình định Cao Miên nhiều lần. Cù lao Ông Chưởng chính là nơi ông đồn binh khi đi bình Cao Miên về và cũng chính tại đây ông bị nhuốm bịnh rồi sớm qua đời (cũng có sách nói ông cùng tử trận với Đốc binh Vàng). Về địa lý kinh tế, vàm Ông Chưởng có rất nhiều tôm cá nên dân gian có câu:

Bao phen quạ nói với diều

Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.

(<65><237>) Ông Thiệu Công tên là Thích, con thứ Chu Văn vương làm chức Phương bá nên thường gọi là Thiệu Bá, khi mất thụy là Khang. Ông đi tuần hành ở phía nam, thường ở dưới cây cam đường để bàn chính sự, về sau người ta nhớ ông nên không nỡ chặt cây cam đường. Ông là người có đức chính, là Tam Công đời Thành vương. Thiên Thiệu nam ở Kinh thi có chép thơ Cam Đường để khen Thiệu Bá.

(<66><238>) Mã Viện, đời vua Hán Vũ đế được phong làm Phục Ba tướng quân, sau có đền thờ ở Việt Đông. Nguyên văn ba bản đều chép Việt Tây.

(<67><239>) Gia Cát Lượng, đời Tam Quốc, đi đánh Mạnh Hoạch ở Vân Nam, sau có miếu thờ ở đây. Gia Cát Lượng được phong là Vũ (Võ) Hương hầu, tên miếu là Vũ Mục vương.

(<68><240>) Hội điển là sách biên chép tất cả tên tuổi các thần được cúng kiếng của nhà nước thời phong kiến. Phải là bậc đại quan có công với đất nước mới được tế lễ theo cấp bậc quốc gia, như quốc táng là lễ đám ma cấp bậc nhà nước, dành cho người có đại công với nước nhà. Quốc gia tế lễ này được ghi vào Hội điển của triều đình. Lễ các phúc thần không được ghi vào Hội điển.

(<69><241>) Chữ
汎洨 này, nếu đọc theo chữ Hán thì là phiếm Hào (chữ Hán phiếm cũng có nghĩa là vàm sông), nếu đọc theo chữ Nôm là vàm Nao. Người tại địa phương nầy gọi đây là vàm Nao, vậy phải đọc theo tên Nôm là vàm Nao. Theo tác giả Trịnh Hoài Đức chú thêm ở đoạn nầy chữ nao vốn viết là: B nhưng nay thông dụng viết là . Thật ra chữ Nôm Nao chỉ cần viết C là đủ, nhưng Trịnh Hoài Đức thêm bộ thủy () bàng là chỉ chữ này là tên sông rạch. Đây là lối viết riêng của cụ Trịnh trong GĐTTC, nên chữ không có trong các tự điển chữ Nôm.

(<70><242>) Phiếm khẩu (
汎口) là cửa sông, cũng còn viết là _. Vậy chữ Háncũng có nghĩa là cái vàm còn chữ Nômđọc là vàm, có nghĩa ngoài cửa sông. Vàm Nao hiện nay ở An Giang, nối liền Tiền Giang và Hậu Giang theo hướng đông bắc - tây nam, một bên sông là Hòa Hảo, bên kia là Chợ Mới. Ngày xưa sông này hẹp, theo người cố cựu kể lại thì phu dịch đào sông Vĩnh Tế trốn về khi qua sông này chỉ cần đu ngọn tre là qua bờ bên kia. Nhờ ghe tàu chạy nhiều nay thành sâu rộng.

(<71><243>) Ưu Đàm giang (
優曇江): Trương Vĩnh Ký trong PCGBC cũng gọi tên Nôm sông nầy là Tắt Cây Sung như Trịnh Hoài Đức viết trong GĐTTC.

(<72><244>) Tân Giang (
新江): Sông Cái Mới. Khác với rạch Cái Mới là một con rạch nhỏ ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

(<73><245>) Cổ Cà (
`): Chữ Nôm ` đọc là cà, không phải đọc là Kha như nhóm dịch giả VSH.

(<74><246>) Cổ Cang (
古棡): Chữ Nôm . Đã tra các tự điển chữ Nôm của người Việt cũng như của người Nhật Yonosuke Takeuchi nhưng chưa thấy. Có thể là chữ Nôm cangTrịnh Hoài Đức thêm bộbàng cốt ý để chỉ đây là gò cây cối như lối viết chữ Nôm thường thấy của ông trong GĐTTC.

(<75><247>) Mật Luật (
密律): Theo Vương Hồng Sển, Mật Luật là âm đọc trại của tiếng Khơ me Meát Chruk tức xứ Miệng Heo (Châu Đốc).

(<76><248>) Ca Âm náo khẩu (
歌音淖口): Chữ náo khẩu (淖口) Trịnh Hoài Đức đã chú thích rất rõ ràng, nhưng một nhà nghiên cứu đã hiểu nhầm. Phiên âm nguyên văn đoạn: "Ca Âm sơn cao thập trượng, chu thất lý, khúc tiểu nhi trường, cự náo khẩu đầu nam tam lý" theo định nghĩa của cụ Trịnh Hoài Đức ở đoạn nói về náo khẩu Ca Âm: Nê đồ nhu thậm viết náo, nghĩa là "Bùn lầy nhão nhoẹt gọi là náo". Như vậy, câu trên có nghĩa là "Núi Ca Âm cao 10 trượng chu vi 7 dặm, gấp khúc cao vót mà dài, cách đầu phía nam láng bùn (bưng bùn) 3 dặm". Náo khẩu đúng ra cũng không có nghĩa "Cửa bùn hay vàm bùn" mà là một đoạn, một vùng đất sình lầy có khi rất dài như láng bùn Ca Âm tả trong đoạn nói về sông Vĩnh Tế. Chữ náo còn được dùng chung Náo Môn, Náo Pha, trong đoạn nói về núi Nam Vi, ý muốn nói chữ náo có thể đi với bất cứ danh từ nào để chỉ nơi có tính chất bùn sình nhão nhoẹt, chứ không phải chỉ có đi chung với chữ khẩu. Ngoài ra về địa lý hình thể, náo khẩu Ca Âm tức đoạn láng bùn, bưng bùn Ca Âm nằm khoảng giữa sông Vĩnh Tế, còn địa phương Vàm Nao ở vùng Chợ Mới, Hòa Hảo phía nam Tiền Giang, cách nhau rất xa không thể là một nơi. Xin hiểu náo khẩu là láng bùn hay bưng bùn.

(<77><249>) Tương đương 30 lít.

(<78><250>) Chữ 淖 thiết âm "Nô giáo" tức náo, lại cũng thiết âm "Xích ước" tức xước - bùn sình nhão nhoẹt gọi là náo.

(<79><251>) Đầm giang (潭江): Chữ Nôm潭 đọc là Đầm, hợp với cách gọi Cái Đầm.

(<80><252>) Bà Dơm (婆a): Nguyên văn chữ Nôm bản VHN lưu trữ viết a đọc là Dơm. Nguyên văn in kèm bản dịch nhóm VSH viết冘 đọc là Dăm, De, nhưng đọc là Nhũng e là chưa đúng, vì chữ Nôm Nhũng phải viết là冗.

(<81><253>) Thoại Hà (瑞河): Tục gọi là Ba Rách (巴b). Trong PCGBC, Trương Vĩnh Ký còn gọi sông nầy là Toại Hà, gọi tên Nôm là Ba Rạch hay Ba Lạch. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký sông nầy đúng ra là kinh Rạch Giá nhưng nay ta vẫn gọi nôm na là sông Long Xuyên.

(<82><254>) Tiền Tràng giang (錢場江). Tiền Tràng (錢場) là chỗ đúc tiền, tức lò đúc tiền vậy. Chữ 場 nầy có thể đọc trường hay tràng nhưng thường người ta hay đọc là tràng, tuy nhiên nhân dân địa phương lại gọi là sông Trường Tiền, tức cái trường, nơi đúc tiền.

(<83><255>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép đây là sông Bò Ót, tên chữ Hán là Bầu Ót.

(<84><256>) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép Ô Môn giang có tên Nôm là Tắt Ông Thục.

(<85><257>) Vồn giang (湓江). Chữ Nôm湓tra không có trong các tự điển chữ Nôm, chỉ có chữ盆đọc vồn. Vậy chữ vồn được viết với chữ vồn盆thêm bộ Thủy氵bàng để chỉ thuộc về sông. Đây là lối viết Nôm riêng của Trịnh Hoài Đức trong GĐTTC như đã trình bày. Vậy湓đọc là Vồn giang, tức sông Cái Vồn, Cần Thơ.

(<86><258>) Trà Ôn giang (茶溫江). Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký tên sông Trà Ôn do đọc trại theo tên Khơ me Traòn.

(<87><259>) Bản của VSH chép Vĩnh Chánh tổng (永正總)

(<88><260>) La Vách (羅壁). Đây là La Vách Trà Ôn, không phải thành La Vách (Lovek) phía bắc Oudong trên đất Campuchia.

(<89><261>) Ba Thắc giang (波忒江). Tiếng Pháp gọi là Bassac. Từ Bassac có ba nghĩa:

a) Chỉ vùng đất hướng đông tây từ mé Hậu Giang trải dài đến vịnh Thái Lan, hướng bắc nam từ Châu Đốc xuống tới Bạc Liêu, Khơ me gọi là Srok Bassac, Pháp gọi là Trans Bassac. Ngày nay trong Bãi Xàu cũ Sóc Trăng còn ngôi cổ miếu thờ ông Ba Thắc tức Neak Tà Bà Săt.

b) Tên một nhánh của Cửu Long giang, gọi là sông Hậu, là tên trong đoạn sông Ba Thắc này, từ biên giới Campuchia chảy ra Nam Hải qua An Giang, Vĩnh Long, Phong Dinh, Vĩnh Bình, Ba Xuyên (Long Xuyên, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng).

c) Tên của một trong ba cửa của Hậu Giang. Đó là:

- Cửa Định An ở vùng Trà Vinh.

- Cửa Bassac

- Cửa Trấn Di mà sách Pháp viết lầm là cửa Tranh Đế hay Tranh Đề.

(<90><262>) Trấn di là chặn quân Cao Miên (quân man ri (di) theo cách gọi phân biệt của chế độ phong kiến).

(<91><263>) Chợ Bố Thảo thuộc huyện Thuận Hòa tỉnh Sóc Trăng. Nơi đây có chùa Ông Bổn rất linh ứng. Có tài liệu ghi Búa Thảo là sai tên thực tế địa phương.

(<92><264>) Tương truyền ở Bãi Xàu (罷D) xưa, nhóm người Khơ me nổi dậy chống lại triều đình do Xà Na Téa, Xà Na Coln lãnh đạo. Bị quân triều đình rượt đuổi, chạy đến nơi nầy tạm dừng đào lỗ nấu cơm ăn thì quân triều đình lại rượt tới khiến họ phải vội vã chạy tiếp và than thở bày chau (bày là cơm, chau là chưa chín) là cơm chưa chín. Người địa phương đọc trại âm tiếng nầy thành Bãi Xàu như ngày nay.

(<93><265>) Trà Nô (茶奴). Cũng gọi là Trà Nho, tức huyện Vĩnh Châu, tỉnh Bạc Liêu. Xưa đường bộ Bạc Liêu đi xuống đến Vĩnh Châu là đụng biển hết đường. Thật ra chữ Nôm奴phải đọc là nua, viết đủ là孥Trà Nua tức đọc trại âm tiếng Khơ me Chụi Nìua.

(<94><266>) Ngao Châu hải môn (螯洲海門): Theo Vương Hồng Sển trong Tự vị tiếng Việt miền Nam thì Bãi Ngao này trong sách Géographie của Alinot chép là Cone - gao, conne - gao, rồi người Việt mình đọc trại đi thành Cung Hầu hay Cung Hậu. Luận cứ nầy khá thuyết phục vì trong PCGBC của Trương Vĩnh Ký, cũng như trong di cảo của Trương Vĩnh Ký chép và ngay cả trong GĐTTC của Trịnh Hoài Đức đều không thấy ở bất cứ chỗ nào có nhắc đến tên cửa Cung Hầu hay Cung Hậu. Vậy đây đúng là cửa Bãi Ngao quê hương ông Phan Thanh Giản-đại thần của triều Nguyễn.

(<95><267>) Giá giang (架江): Đây không phải Rạch Giá ở Kiên Giang vì sông nầy ở Vĩnh Long rất xa Rạch Giá. Có người nói sông nầy là sông Dừa vì chữ 椰đọc theo Nôm là Dừa, đọc theo Hán Việt là Gia cũng có nghĩa cây dừa.

(<96><268>) Rạch Xuôi Trối (瀝d±): Nguyên văn chữ Nôm viết d± đọc là Xuôi Trối. Có người nói rạch nầy là rạch Ốc Lồi, nhưng chữ Nôm ốc (con ốc) phải viết沃hoặc e, còn lồi phải viết耒hoặc f. Hoặc giả, dân địa phương còn gọi nơi nầy là Ốc Lồi?

(<97><269>) Nguyên văn viết: Tiễn diệp biên phiến (剪葉編片) nghĩa là: cắt lá bện thành tấm. Có hai loại lá tấm: nếu để nguyên các miếng lá lấy dây cà bắp xỏ bện lại bề ngang chừng một mét thì gọi là lá chầm. Nếu chẻ cọng lá làm nòng rồi bẻ gập miếng lá làm đôi cặp vào nòng ấy rồi cũng dùng dây cà bắp kết lại dài khoảng 2 m thì gọi là lá cần đóp.

(<98><270>) Nguyên văn viết 乾g: Chữ g đồng nghĩa chữ 蝦chỉ tôm tép. Vậy乾g can hà có nghĩa là tôm khô.

(<99><271>) Bích Trân châu (碧珍州): Cũng gọi là cù lao Bát Tân.

(<100><272>) Vĩnh Tùng châu (永松洲): Có người gọi là cù lao Vĩnh Tòng e không đúng, vì tuy chữ 松có thể phiên âm là tùng hay tòng nhưng Petrus Ký trong PCGBC chép rõ đây là cù lao Vĩnh Tùng.

(<101><273>) Tân Cù châu (新虬洲): Có người gọi là cù lao Tân Gù, nhưng chúng tôi thấy trong PCGBC, Trương Vĩnh Ký gọi là Tân Cù châu, vậy xin dịch theo là cù lao Tân Cù.

(<102><274>) Hương toán: Cây cao, quả như trứng ngỗng (?), da khi chín màu vàng, thịt cũng vàng, ăn bùi miệng, ngon ngọt (theo Từ Nguyên). Đó chính là cây xoài, nhưng trái thì hình thể đa dạng, không phải chỉ như trứng ngỗng.

(<103><275>) Ý tác giả muốn nói ảnh chú Cuội và cây đa trên mặt trăng.

(<104><276>) Phụng Nga châu (
i): Gồm cù lao Nga và cù lao Phụng.

(<105><277>) Lấy ý ở sách Mạnh tử: Thương Lang chi thủy thanh hề khả dĩ trạc ngô anh, nghĩa là "Nước sông Thương Lang mà trong thì ta dùng giặt dải mũ..."

(<106><278>) Lạc Dương (
洛陽): Thuộc tỉnh Hà Nam, là đất hiểm yếu, khi xưa trải nhiều triều Trung Quốc đều là nơi đặt đô, sinh hoạt phồn hoa náo nhiệt.

(<107><279>) Dinh châu (
瀛州): Tục gọi cù lao Diên. Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC còn gọi là cù lao Giêng, Gieng, cù lao Đầu Nước.

(<108><280>) Nguyên văn là giang đồn (
江豚) theo Từ Nguyên còn gọi là thủy trư, ngực có vú, đầu phun nước, tức con cá nược. Loại cá nầy ngày xưa ở các con sông lớn như sông Cần Thơ, Cái Côn.., người chèo ghe thường gọi to "Ông Nược ơi lên đua chơi" là chúng nổi lên cả bầy bơi tranh cùng ghe khiến người chèo vui mà bớt mệt.

(<109><281>) Tê châu (
犀洲): Còn gọi là cù lao Tây. Tê tức con tê ngưu, tê giác.

(<110><282>) Cù lao Dao Lửa: Tên chữ Hỏa Đao (
火刀). Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me cù lao nầy là Koh phlơn, hay phloeng có nghĩa là lửa. Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký chép là Giao Lửa e nhầm chính tả chữ Dao.

(<111><283>) Long Sơn châu (
竜山洲): Tục gọi là cù lao Cái Vừng (chữ Nôm viết mấy cách như,j, k,l). Chữnếu là chữ Hán đọc Vựng, nhưng chữ Nôm phải đọc Vừng.

(<112><284>) Đồ Bà châu (
|): Tục gọi cù lao Chà Và. Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tiếng Khơ me của cù lao nầy là Koh cva. Cva là tiếng Khơ me để gọi người Chà Và (Đồ Bà) vậy.

(<113><285>) Năng Gù châu:
能衢洲. Chữnếu chữ Hán âm Cù, nếu chữ Nôm âm Gù, còn viết là E. Người địa phương gọi nơi nầy là Năng Gù. PCGBC của Trương Vĩnh Ký cũng chép là Năng Gù châu.

(<114><286>) Vàm Nao (viết
Bhay汎洨) ở phía nam sông Hậu không phải là náo khẩu Ca Âm (歌音淖口), tức láng bùn hay bưng bùn Ca Âm ở khoảng giữa sông Vĩnh Tế, tức khoảng giữa đồn Châu Đốc và phía bắc biển Hà Tiên: Bưng bùn nầy dài hơn 18 dặm. Không phải chỗ nào cũng là vàm Nao như một số người nhận định.

(<115><287>) Qua châu (
瓜洲): Tục danh cù lao Bí ().

(<116><288>) Sa châu (
沙洲): Trong PCGBC Trương Vĩnh Ký gọi là cù lao Cát, tức dịch chữ Sa châu vậy.

(<117><289>) Hoằng Trấn châu (
弘鎮洲): Còn gọi là cù lao Tân Dinh, tục gọi bãi Bà Lúa. Nguyên văn viết chữ Nômđọc là Lúa. Nếu ghi bãi Bà Lụa e là không chính xác. Về cù lao Tân Dinh, theo di cảo của Trương Vĩnh Ký thì tên tiếng Khơ me của cù lao nầy là Kòh tin. Chữ tin tức kting ta dịch là Din. Theo Huỳnh Tịnh Của là tên một giống bò rừng hay trâu rừng nhỏ con, tính hay ăn rắn nên sừng nó là một vị thuốc mát, trị được ban trái, đồng thời để trong nhà tránh được hỏa hoạn, vì sừng Din kỵ lửa. Ngày nay trên thị trường thuốc bắc, bọn gian lấy sừng bò thường hơ uốn giả làm sừng Din bán mắc tiền. Còn ngay cả sừng Din thật làm thuốc có hiệu nghiệm không, và có thật kỵ hỏa hoạn không còn là vấn đề phải nghiên cứu. Vậy xin dịch là cù lao Tân Din.

(<118><290>) Nặc Ong Ton (
匿翁噂): Chữ Ton nguyên văn viết là, chữ Nôm nầy phải đọc là Ton chứ không phải Tôn, Nặc Ong Ton tiếng Khơ me là Neac Ang Ton, là vị vua được sách GĐTTC nhắc đến ở nhiều chỗ, trong đoạn nầy có câu: "Nguyên trước đây vua Cao Miên là Nặc Ong Ton được triều đình ta lập nên là vua nước phiên thuộc". Câu nầy có liên quan đến chuyện hoàn cảnh vua Nặc Ong Ton mà Trịnh Hoài Đức chép lại tỉ mỉ như sau: Năm Đinh Sửu (1755), ở Nam Vang có loạn, vua Cao Miên là Nặc Ong Ton chạy về Hà Tiên làm con nuôi Mạc Thiên Tứ. Mạc hầu tâu lên chúa Nguyễn xin lập Nặc Ong Ton làm vua Cao Miên và được triều đình chấp thuận. Để trả ơn, Nặc Ong Ton đã đem năm phủ Khơ me ở phía bắc Hà Tiên là Vũng Thơm (Kompong som) cũng còn gọi là Hương Úc, Chơn Giùm (Rùm) tức Chan Sum, Sài Mạt (Bantay mas), Cần Vọt (Kampot) và Lình Quình (Raung veng), còn gọi là Hà Dương dâng cho Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ tâu trình với triều đình và được chúa Nguyễn cho sáp nhập vào đất Hà Tiên của Thiên Tứ. Vùng đất nầy còn gọi là Tầm Phong Long, trải dài từ Châu Đốc qua Sa Đéc xuống tận bãi biển Bạc Liêu.

(<119><291>) Cả đoạn Chiêu trùy Mô, Đê đô Luyện, Ốc nha Liên Đồng Trùy gồm vừa chức vụ và tên đọc theo tiếng Khơ me rất khó xác định. Vậy xin tạm diễn đạt như trên.

(<120><292>) Đông Sơn Phương Quận công (
東山芳郡公): Tức Đỗ Thanh Nhơn, chúa quân nghĩa dũng Đông Sơn Đồng Tháp Mười.

(<121><293>) Nặc Ong In (
匿翁印): Nguyên văn viết chữ. Chữ nầy nếu là Hán đọc là Ấn, nếu là Nôm đọc là In. Trong GĐTTC tên người Khơ me, người Xiêm, tên thú cầm, hoa thọ, đất đai hầu như đều viết bằng chữ Nôm. Vả chăng chữ nầy Trịnh Hoài Đức có chưa thiết âm Ân Tín nên chắc chắn phải đọc là In. Nặc Ong In tiếng Khơ me là Neac Ang Eng.

(<122><294>) Cái Sách (
丐柵): Nay thuộc huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Cái Sách là đọc trại từ Kế Sách ra vậy.

(<123><295>) Huỳnh Dung châu (
黃容洲): Tục gọi cù lao Dung thuộc vùng Sóc Trăng, cũng gọi là cù lao Hổ. Cù lao nầy có nhiều lá dừa nước. Tục bện lá thành tấm có ở đây từ năm 1863. Để nguyên tấm lá kết lại thì gọi là lá chằm. Bẻ đôi lá gập theo cọng nòng bằng sóng lá thì gọi là lá cần đóp. Xé đôi tàu lá theo chiều dọc, chặp hai mặt âm dương lại lợp thì gọi là lá buôn hay lá hét.

2e. Trấn Hà Tiên

BÌNH SƠN (NÚI BÌNH)

Ở về phía tây của trấn lỵ độ 1 dặm, dài 2 dặm, cao hơn 5 trượng, các ngọn chồng chất, khoanh cuộn nối góc bể. Thế núi chon von, vòng quanh làm bình phong mặt sau cho trấn. Ngoài có suối sâu chảy bao quanh về hướng nam rồi đổ ra biển. Phía bắc giáp Mương Sâu nối liền với suối Bạch Tháp rồi chảy ra Đông Hồ, làm hào của trấn thành. Bình Sơn (San) điệp thúy (núi Bình trùng biếc) là một trong 10 cảnh đẹp ở Hà Tiên.

NGŨ HỔ SƠN (NÚI NGŨ HỔ)

Ở về phía bắc trấn thủ chừng nửa dặm. Thế núi vai khum, đầu cúi, giống như cọp co mình tựa vào góc gò, là dãy núi hộ vệ cho trấn thành, có thể gần mà không thể khinh nhờn được.

PHÙ DUNG SƠN (NÚI PHÙ DUNG)

Cách trấn thự về phía tây bắc hơn 1 dặm. Ở đây hang hố xanh rậm lâu đời; chùa Phù Dung ở phía tây nam <69b> chân núi, tiếng chuông mõ pha trộn, tiếng kệ kinh lẫn tiếng ồn ào của phố thị, thật là cảnh nửa tăng nửa tục.

LỘC TRĨ (MŨI NAI)

Cách trấn về phía tây 43 dặm. Cây cối lửng lơ lưng núi, ngọn núi nhọn đứng chọc trời cao, vượt qua đất bằng mà gối đầu bờ biển. Suối ngọt, đất tốt, nhà cửa nhân dân ở vây quanh dưới bóng núi. Trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên thì Lộc Trĩ thôn cư (xóm quê Mũi Nai) là một cảnh vậy.

DIẾU SƠN (HÒN NÚC)

Ở về phía tây của trấn, cách thôn cư Lộc Trĩ về phía tây 2 dặm rưỡi, núi bao quanh vũng biển, có 3 ngọn đứng thẳng thế chân vạc. Cây cối rậm rạp, những nhà dân chài ở quanh bến nước, những sóc của người Thổ ở phía bìa rừng, riêng có lạc thú của miền sơn hải.

ĐỊA TẠNG SƠN (NÚI ĐỊA TẠNG)

Ở về phía bắc của trấn, cách núi Phù Dung 5 dặm. Trên núi có chùa Địa Tạng, vì vậy nên có tên là núi Địa Tạng <70a>. Chùa nầy công đức trang nghiêm, ai vào cửa chùa bỗng thấy tắt hẳn tục niệm tham sân, thật là cảnh giới làm bậc thang để đến non Thứu. Đây là cảnh Tiêu tự thần chung (chuông mai chùa vắng) là một trong số 10 cảnh đẹp của Hà Tiên.

VÂN SƠN (HÒN MÂY)

Cách núi Địa Tạng về phía bắc 1 dặm rưỡi. Trong núi có dựng chùa Bạch Vân, quang cảnh ở đây vắng vẻ, lối tre thông ngõ vắng, phòng tăng hoa cây im, nham động trên đỉnh chon von, sớm chiều hút nhả khói mây xa mờ. Trong 10 cảnh Hà Tiên thì đây là cảnh Thạch động thôn vân (động đá nuốt mây) vậy.

BẠCH THÁP SƠN (HÒN BẠCH THÁP)

Ở cách phía bắc Vân Sơn 5 dặm. Thế núi quanh co, cỏ cây xanh tốt, có nhà sư ở Quy Nhơn (Bình Định) là đại hòa thượng Hoàng Long vân du dừng gậy trụ lại đó. Đến đời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế năm thứ 13 là năm Đinh Tỵ (1737), (Năm thứ ba niên hiệu Vĩnh Hựu đời Ý Tông nhà Lê; Năm thứ hai đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), hòa thượng viên tịch, đồ đệ của ông dựng tháp 7 cấp để trân tàng xá lợi; mỗi khi đến tiết Tam nguyên và Phật đản thì sáng có <70b> con hạc đen đến chầu, con vượn xanh cúng quả, lưu luyến bồi hồi như có ý muốn tham thiền nghe pháp; đáng gọi là cõi tịnh độ tiêu sái của vườn Kỳ viên vậy. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

TÔ CHÂU SƠN (HÒN TÔ CHÂU)

Ở bờ phía đông con sông, làm tinh biểu chầu trấn thành. Rặng núi chon von đẹp đẽ, cây cối um tùm, có thôn xóm Đồ Bà (Chà Và) ở phía bắc, đất Lão Cử trải dài ở phía nam, dưới núi có bến đò thông qua. Trước trấn, lúc sắp rạng đông nhìn thấy cảnh: cận quách loạn sơn hoành cổ độ, dã trang kiều mộc đới tân yên. (Nghĩa là: gần thành núi non vắt ngang đò cũ, thôn trang cây lớn cuộn vấn khói mai.)


LINH QUỲNH SƠN (NÚI LINH QUỲNH)

Cách trấn về phía bắc 120 dặm. Núi đẹp đẽ thanh cao, um tùm vắng vẻ, có suối chảy cuồn cuộn. Phía tây bắc có nhiều gò rừng, phía đông nam nhiều chằm ruộng; người Việt, người Tàu và người Cao Miên ở xen nhau lo cày cấy, cũng gọi là vùng đất phì nhiêu vậy.


SÀI MẠT SƠN (NÚI SÀI MẠT)

Ở phía bắc trấn lỵ. Sườn gò quanh co lồi lõm, cây tốt, suối trong, người Việt, người Thổ ở chung <71a> nhau rất đông đúc. Ngày xưa là đất của Cao Miên do người họ Mạc chiếm ở, nên người Cao Miên oán ghét, thường đến gây sự tranh giành. Đời vua Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế (Võ vương Nguyễn Phúc Khoát), năm thứ 2 (Kỷ Mùi - 1739), (Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Hựu đời Lê Ý Tông. Năm thứ 4 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh) Nặc Bồn của Cao Miên cử binh đến xâm chiếm Hà Tiên. Mạc Tông đánh đuổi chạy đến phủ Sài Mạt, ngày đêm quyết đánh, người người bỏ cả việc ăn uống. Lúc ấy vợ Mạc hầu là Nguyễn thị tập hợp vợ lính lo việc nấu cơm cung cấp cho họ. Quân sĩ ăn no đủ, đều hiệp lực đánh phá binh của Nặc Bồn. Tin thắng trận tâu lên, triều đình khen thưởng đặc biệt tiến phong cho Mạc Tông chức Đô đốc tướng quân và ban cho đủ cả bộ áo hồng bào cùng mũ kim phốc, và phong cho Nguyễn thị hàm Phu nhân. Từ đó, Cao Miên không dám dòm ngó Hà Tiên ở phía nam nữa.

CHÂU (CHU) NHAM

Tục gọi là Bãi Ớt, cách trấn về phía đông 22 dặm rưỡi. Đỉnh núi tròn trịa, sườn đá lởm chởm, chạy thẳng đến bờ biển; có những gành đá chênh vênh, vũng sâu bùn cát, quanh bọc 2 bên tả hữu. Trong đó có đá <71b> tinh quang, ở dưới nhiều sò vằn đỏ. Tương truyền khi Mạc Cửu còn hèn mọn đến dưới Châu Nham nhặt được viên ngọc đường kính gần cả tấc ta (gần 3,3 cm) quý vô giá, ông kính dâng lên chúa. Bên bờ Châu Nham có vực sâu, là nơi hang ổ của cá tôm, chim cò bơi lội kiếm ăn từng bầy. Đây là cảnh Châu Nham lạc lộ (Cò đậu Châu Nham), một trong 10 cảnh ở Hà Tiên.

HỒ LÔ CỐC

Ở phía đông cách trấn 48 dặm, chu vi 2 dặm. Núi cao chót vót, hang hố khô khan mà hiểm trở, chẳng có cỏ cây mọc, dưới có vực biển sâu, gành rạn lởm chởm, thuyền bè không ra vào được. Phía ngoài có nhiều đảo nhỏ, suốt ngày sóng dập, tiếng vỗ như sấm.

KÍCH SƠN

Tục gọi là núi Hòn Chông. Sừng sững cao vút, sừng đá nhọn đứng thẳng như cây kích, chu vi chừng 2 dặm. Phía đông cách hang Hồ Lô 9 dặm. Chạy dài theo bãi biển, chân núi phía đông có phường Bồn Chử, nhân dân tụ tập ở đó khai thác nguồn lợi núi và biển. Gò đầu phía bắc trồng nhiều hồ tiêu, vườn tược thì trồng hoa quả rất tươi tốt.

ĐÔNG THỔ SƠN (HÒN ĐÔNG THỔ)

Ở cách Kích Sơn về phía đông 77 dặm. Núi rải rác có hòn lớn hòn nhỏ, nhô lên chu vi chừng 5 dặm, sỏi sạn gập ghềnh chạy xuôi biển. Khe Vạn Thanh giáp phía đông, suối Dừa giáp ở phía tây, cây cối um tùm. Ở chân núi phía bắc có nhiều thợ săn chuyên sống bằng nghề lấy sáp ong và săn bắt thú rừng.

TÂY THỔ SƠN (HÒN TÂY THỔ)

Cách Diếu Sơn (Táo Sơn?) về phía tây 28 dặm. Ngòi Trư giáp phía đông, sông Phương Thảo giáp phía tây, rừng rú chạy dài liên tiếp, có các sóc dân Cao Miên sống quây quần ở trong khoảng rừng sâu, tre dầy, đất đai còn rất thưa trống.

TIÊN KY CHỦY

Tục gọi là gành Bà, cách núi Tây Thổ về phía tây 30 dặm. Đá núi trải dài, đường dốc cao hiểm; ngó xuống góc biển, sóng vỗ ì ầm, gió xoáy cuồn cuộn, thuyền đi qua thường phải cẩn thận. Từ đó thẳng ra phía bắc, <78b> quanh lên phía tây, núi liên tiếp, khe suối đứt quãng, cây cỏ hoang vu, là vực hang, rừng sác của loài cầm thú.

BẠCH THẠCH NHAM (NÚI ĐÁ TRẮNG)

Hình thế chót vót đứng tựa bờ biển, chu vi chừng 2 dặm, ở cách đạo Long Xuyên (Cà Mau) chừng 20 dặm. Mặt trước giáp biển cạn có nhiều loại sam, cáy, trai, sò, cá.

BẠCH MÃ SƠN (NÚI BẠCH MÃ)

Ở về phía cực tây của trấn, giáp địa giới Xiêm La, Chân Lạp. Núi trải dài quanh co, hoang vu hẻo lánh. Thuở xưa đây là nơi Trần Thái họp đảng cướp. (Việc nầy chép trong Cương vực chí).

ĐẠI KIM DỮ (HÒN KIM DỮ LỚN)

Ở vùng bãi biển phía nam trấn, chu vi 193 trượng 5 thước ta. Đảo nầy ngăn sóng giữ, ấy là hạt ngọc biển của trấn. Nơi bờ có bắc cái cầu ván để thông lối ra vào, phía sau có viện Quan Âm, là chỗ Tống Thị Sương thêu tượng Phật Bà tịnh tu; phía trái có điếu đình, khi có gió mát trăng trong, khách du ngoạn thường buông câu ngâm vịnh <73a>. Phía trước có đặt trại thủ bị, phía tây nam xây lũy đá bao quanh để giữ giặc biển. Đây là cảnh Kim dữ lan đào (đảo Kim(vàng) ngăn sóng), một trong 10 cảnh đẹp ở Hà Tiên.

TIỂU KIM DỮ (HÒN KIM DỮ NHỎ)

Ở ngoài cảng Hà Tiên, chu vi 74 trượng, như con cá Kim Ngao trấn nơi cửa biển, làm trụ tiêu cho thuyền bè ra vào.

NỘI TRÚC DỮ (HÒN TRE TRONG)

Chu vi chừng 5 dặm, ở biển phía nam của trấn thự. Hình đảo to nhỏ vòi vọi, thông, tre ở đây rất xanh tốt.

NGOẠI TRÚC DỮ (HÒN TRE NGOÀI)

Chu vi chừng 7 dặm, làm bình phong ngoài cho trấn. Đây có 2 hòn đảo đứng đối nhau, tre xanh rậm rạp, tiếng suối đá róc rách, đêm vắng lặng nghe giật mình như tiếng rồng kêu núi biển.

CHÂU DỮ

Ở biển phía đông nam của trấn thự, chu vi 10 dặm. Đá núi lởm chởm, nham động lồi lõm, ở đây sản xuất các loại yến sào, đồi mồi và ba ba biển (con vích).

<71B> MÃNH HỎA DỮ (HÒN DẦU RÁI)

Chu vi 50 dặm, ở biển phía đông nam của trấn thự, đi thuyền nửa ngày thì đến. Nơi đây hang hốc sâu thẳm, cây cối xanh tươi, sản xuất các loại yến sào, dầu rái, than củi. Dân miền biển sống quanh chân đảo.

UẤT KIM DỮ (HÒN NGHỆ)

Chu vi 20 dặm, ở về biển phía nam của trấn. Ở đây cây tốt tre cao, động đá tối tăm, sản xuất các loại yến sào, dầu rái và than củi. Dân miền biển dựng lều quanh bờ khe triền núi.

THẠCH HỎA DỮ (HÒN ĐÁ LỬA)

Ở biển phía đông của trấn thự, có 3 hòn đứng chồng nhau đối diện với miệng hang Hồ Lô, chu vi chừng 4 dặm. Nơi đây cỏ cây tiêu điều, có đá dùng nẹt lấy lửa; hang động cao dốc, chim én biển làm tổ trong ấy. Ngày trước có dân Đồ Bà (Chà Và) ở đây, nay đã đi nơi khác.

TRÚC DỮ (HÒN TRE)

Ở biển phía đông nam của trấn, chu vi 20 dặm, làm án ngoài cho hải cảng Kiên Giang. Trên đảo nham động sâu thẳm, <74a> sản xuất yến sào. Trước đây có dân cư, nay đã dời vào đất liền. Bên cạnh đảo có cái động, miệng rộng gần 2 thước ta, lòng rộng hơn 10 trượng, có ánh sáng mặt trời lọt vào khiến vật nhỏ như cây kim sợi chỉ cũng thấy được. Trong có cái vò xưa, bề ngang lưng độ 3 thước ta, là vật không biết của đời nào sót lại, khi xưa do lối nào mà đem vào được.

PHÚ QUỐC ĐẢO (ĐẢO PHÚ QUỐC)

Ở giữa biển, về phía tây nam của trấn, hành trình mất một ngày đêm mới đến. Trên đảo có những ngọn núi lớn, cao chất ngất, dãy núi đều chầu về phía bắc, từ đông sang tây cách chừng 200 dặm(?), từ nam lên bắc cách 100 dặm(?). Đảo này không có cọp beo, chỉ nhiều heo rừng, trâu rừng, nai hươu, yến sào, mây to, gỗ tốt, đồi mồi, hải sâm, quế, mắm; đất đây thích hợp với lúa sớm, các thứ đậu, bắp và dưa quả, ít có nếp dẻo. Trên núi có thứ huyền phách, ấy là tinh quang của đá đen, sáng đẹp như đồ sơn mài, dùng làm ngọc đeo, có thứ lớn đường kính đến 3 tấc ta, có thể khắc chạm làm hộp trầu và cốc đĩa rất quý giá <74b>, thỉnh thoảng cũng tìm được Long diên hương, lại có thứ Mặc ban hương, núi nào cũng có, ngoài vỏ lấm tấm đốm đen như thứ trầm hương non, mà chất nhẹ, vị lạt, lòng cây to rỗng có thể dùng làm ống đựng bút.

Ở phía tây nam có cửa Dương là nơi thuyền bè đến núp đậu. Dân biển ở thành thôn xóm; thật như câu thơ Nam minh thiên ngoại hiệp, Bắc hộ nhật biên khai (Biển phương Nam liền với chân trời, cửa phía bắc gần bên mặt trời mọc). Phía nam có đảo nhỏ Long Cảnh (Cổ Rồng), phía đông nam có đảo Dừa. Thế Tổ Cao hoàng đế ta khi bôn ba đã từng ngự xe rồng ra đảo ấy, dân trên đảo hết sức giúp đỡ và trung thành, họ đi xem xét tận tường tình hình quân địch và cung ứng vật dụng. Sau khi bình định xong, vua gia ơn miễn xâu dịch cho xứ ấy, tuy thuyền bè buôn cá cũng không đánh thuế. Duy đảo ấy nằm riêng ra ngoài biển xa, nên phải phòng bị giặc biển Đồ Bà (Chà Và) thừa cơ cướp bóc, cho nên phải đặt quan thủ ngự, dùng dân làm lính, cho đầy đủ khí giới để cùng nhau tự bảo vệ để giữ bờ cõi nơi đó.

<75A> THỔ CHÂU DỮ <ĐẢO THỔ CHÂU (CHU)>

Ở bờ biển phía đông của trấn thự, chu vi hơn 100 dặm, làm cái án xa cho đạo Long Xuyên và Kiên Giang. Nơi đây cây cối xanh um, nham động u ảo, chim hải yến làm tổ trong đó và các loại đồi mồi, ba ba biển, hải sâm sinh sản ở dưới vực sâu của đảo; đảo có dân cư, họ đều theo nghề chài lưới.

CỔ SON DỮ (HÒN CỔ SON)

Ở biển phía đông nam của trấn, chu vi 30 dặm; cây cối tre nứa tươi tốt, làm chằm vực cho cá mắm ở.

CỔ CÔNG DỮ (HÒN CỔ CÔNG)

Ở biển phía tây của trấn, phía đông cảng Hương Úc, chu vi 60 dặm. Nơi đây có núi đá chớm chở, cây cối um tùm, dưới có vũng sâu, ngoài có bình phong che chắn, thuyền bè qua lại thường ghé đậu nơi đây nghỉ ngơi; có nhiều thứ cá lớn, đồi mồi và hải sâm. Chỗ nầy khi xưa là sào huyệt tụ tập của bọn giặc biển Hoắc Nhiên (chép rõ ở Cương vực chí).

CỔ CỐT DỮ (HÒN CỔ CỐT)

Ở phía tây đảo Cổ Công, cách đảo Dang Khảm trong biển Đại Đồng thuộc địa đầu Xiêm La nửa ngày đường, chu vi hòn đảo 50 dặm, có nhiều gỗ to, dầu rái, than củi, mây, đồi mồi, hải sâm, cá tôm, trai, sò, nhân dân thường đến đây để khai thác nguồn lợi.

BIỂN

Hà Tiên ở về phía tây Gia Định. Thỏi đất Long Xuyên của đất ấy (đất Hà Tiên) phòi ra biển, tụ lại dần rồi chuyển qua hướng nam, lại có hòn Tiểu Thự (hòn Khoai Nhỏ) đứng ngoài để ngăn chặn sóng to và bồi lấp cồn bãi; cùng những đảo lớn nhỏ khác dăng ra la liệt, thẳng lên phía tây tiếp liền với cửa biển Bắc Nôm của nước Xiêm La. Phần giữa có vũng sâu rộng là Dương Trì của Hà Tiên, có những bãi cát, gành, vực, sâu cạn khác nhau, mối lợi ở đây là sản xuất nhiều thứ cá lớn, hải sâm, con vích, đồi mồi, trai, sò, tôm khô, cá mắm, con điệp (hải kính) và ốc tai tượng v.v... Gió nam và gió bắc ở đây là gió nghịch. Người làm chài lưới cứ đến tháng 3 hành nghề, thuyền bè người Quảng Đông, Quỳnh Châu (Hải Nam), thường đến đậu ở các đảo ấy, dùng lưới đánh bắt hải sâm, làm cá khô, cùng xen lẫn với dân ta, thuyền buồm nối nhau. Bọn cướp biển Trảo Oa có khi đến núp trong các đảo chờ cướp của bắt người <74a>, cho nên chỗ ấy đều được trang bị đủ khí giới để tự phòng bị, mỗi khi gió nam đến, thuyền tuần thám của trấn binh đi tuần tiễu rất cẩn mật, nếu chỉ một lúc sơ hở thì thấy nạn cướp bóc xảy ra ngay.

NAM PHỐ

Là lỵ sở Hà Tiên, nằm theo hướng Kiền (Càn) (tây - bắc) ngó về hướng Tốn (đông - nam), mà cuộc đất thì theo hướng Tý (bắc) nhìn đến hướng Ngọ (nam), cho nên các bến ven biển gọi là Nam Phố. Ngày xưa, Quận công Mạc Tông vịnh 10 cảnh ở Hà Tiên trong có cảnh Nam Phố trừng ba (Sóng lặng bến Nam) ấy là chép việc thực vậy.

ĐÔNG HỒ

Ấy là hồ ở trước trấn thự, phía nam khóa thủy khẩu của hải cảng Hà Tiên chặt chẽ để giữ địa khí, bề ngang 5 trượng, sâu 10 thước ta. Phía bắc tiếp với hạ lưu sông Vĩnh Tế. Lòng hồ mênh mông rộng 71 trượng, gọi là hồ Hà Tiên, còn gọi là Đông Hồ, vì hồ ở về phía đông vậy. Giữa hồ có nổi cồn cát non, phía đông và phía tây nước sâu trên dưới 5 thước ta, thuyền bè ở sông ở biển đến đậu chen nhau, người buôn tụ hội đông đảo <74b>. Cảnh trăng nước mênh mang; trong 10 cảnh ở Hà Tiên đây là cảnh Đông Hồ ấn nguyệt (trăng in Đông Hồ).

LƯ KHÊ (RẠCH VƯỢC)

Ở cách trấn về phía đông 7 dặm rưỡi, lại cách về phía đông núi Tô Châu 4 dặm rưỡi. Phía nam thông với biển cả, phía tây có điếu đình (nhà ngồi câu) là di tích của Mạc Quận công khi rảnh đến ngồi câu. Khe rộng 2 trượng rưỡi, sâu 5 thước ta, dài 5 dặm rưỡi, dòng khe uyển chuyển lên bắc chảy quanh ra Đông Hồ. Bờ phía đông có dân cư thôn Tiên Thuận ở đấy. Thỉnh thoảng có người dắt bạn (đêm), chèo thuyền đi dưới bóng cây sạch mát, rượu thịt ê hề, hừng đông tỉnh giấc Tô Tử; canh gỏi tươi ngon, hơi thu động niềm Trương công. Dân địa phương hay khách lạ tạt qua đều vui cảnh ấy, nên trong 10 cảnh ở Hà Tiên, có cảnh Lư Khê nhàn điếu (rảnh câu Lư Khê), ấy là ghi chép một việc lạc thú vậy.

CẦN VỌT CẢNG (CẢNG CẦN VỌT)

Ở về phía tây cách trấn 165 dặm rưỡi, rộng 49 trượng, <75a> sâu 5 thước ta, có sở thủ ngự Đồ Bà ở đấy. Suối từ núi chảy dài, rừng cây xanh tốt, khi trước là đất của Mán bỏ trống, người Việt kéo đến lập thành thôn xóm Tiên Hương; người Tàu, người Cao Miên, người Đồ Bà (Chà Và) hiện nay đến ở rất đông, có cả chợ phố nhỏ. Nơi đầu nguồn có sóc An Phủ Ghê của Cao Miên, ở đó có công quán vùng địa đầu làm chỗ cho sứ Xiêm La, Chân Lạp đến nghỉ.

LŨNG KỲ GIANG (SÔNG LŨNG KỲ)

Ở phía tây trấn sở, có núi xanh đứng che chắn dòng nước trắng xóa nguồn xa. Đây là đất khi Mạc Cửu mới đến phương Nam làm chức Ốc nha (tên chức quan) cho Cao Miên, khai khẩn chiếm cứ, chiêu tập người Việt, người Hoa, người Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) đến ở, lập nên làng xóm chợ búa. Tháng 2 năm Ất Mùi đời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Tô Quốc công Nguyễn Phúc Chu), năm thứ 25 (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, Đại Thanh Khang Hy thứ 54, 1715), Nặc Ong Thâm cầu viện quân Xiêm La về đánh Cao Miên, thủy binh đến cướp phá Hà Tiên, Thống binh Mạc Cửu đánh không lại, chạy qua giữ Lũng Kỳ <77b>, Nặc Ong Thâm cướp phá Hà Tiên rồi đi; qua tháng 4 Mạc Thống binh mới trở về đất ấy.

Trước đó vì Hà Tiên không phòng bị, quân Xiêm kéo đến bất ngờ, Mạc Cửu đánh một trận không thắng nên phải chạy xuống Lũng Kỳ. Người vợ của Mạc Cửu là Bùi Thị Lẫm (người xã Đồng Môn ( Đồng Mun) trấn Biên Hòa) đương có thai, đêm mồng 7 tháng 3 sinh ra Mạc Tông. Đêm ấy, bà đang ở giữa sông bỗng có hào quang chiếu sáng, lần theo dấu tìm thấy tượng Phật vàng cao 7 thước ta, dọi sáng đáy sông, sáng ra toan khiêng lên, nhưng sức cả ngàn quân cũng không khiêng đi xa nổi, bèn cất chùa nơi sông để thờ. Đầy tháng, Mạc Cửu đem Mạc Tông về lại Hà Tiên, lo tăng cường phòng thủ, đắp thành đất, đặt trạm để quan sát nơi xa và đặt các đồn ở các nơi hải đảo và quanh Giang Thành.

Mạc Tông thuở nhỏ thông minh sáng láng, đọc sách chỉ trông qua một lần là thuộc lòng, người đương thời khen là vị Bồ tát giáng thế.

Xét sử Cao Miên, năm Kỷ Sửu (1709), Nặc Ong Thâm trở lại ngôi vua, liền dời dân gây chuyện, sóc Ba Di <76a> của người Lào không phục, bèn cùng Tù trưởng của họ Lạch Trà Xí Thi theo về với người anh của Thâm là Yêm, còn Phiên liêu là Côn Bút cũng đem người Cao Miên ở rừng hoang chạy sang Gia Định. Năm Giáp Ngọ (1714), Nặc Ong Thâm cử binh đánh Yêm, Yêm xin viện binh ở thành Gia Định. Quân ta điều bọn Côn Bút tiến đánh Nặc Ong Thâm ở thành La Vách, vây hãm 3 tháng, Thâm cùng người em là Tân bỏ chạy qua Xiêm, rồi Yêm được lập làm vua. Mùa đông năm Ất Mùi (1715), vua Xiêm sai bọn Phi nhã Bồ Diệt đem 1500 quân đưa Thâm về Cao Miên xin giảng hòa. Yêm không chịu, đem quân chống lại ở phủ Tầm Bôn. Mùa xuân năm Bính Thân (1716), bọn Bồ Diệt kéo nhau về Xiêm, Thâm xin vua Xiêm sai em của y là Tân về trước để chiêu tập binh 2 phủ Tầm Bôn và Vô Lật. Yêm dò biết bèn cùng với quân ta tiến đánh tên Tân ở phủ Vô Lật; vua Yêm bắn trúng <78b> vai của Tân. Tân chạy về núi Sư Sinh dưỡng bệnh. Mùa đông năm Đinh Dậu (1717), Phi nhã Chất Tri ở Xiêm đem 10.000 quân bộ đến đồn trú ở Tầm Bôn. Tháng 2 năm Mậu Tuất (1718), Phi nhã Cù Sa đem 5.000 thủy binh hợp đồng với quân Thâm cướp đường kéo xuống Hà Tiên cướp phá. Mạc Thống binh không địch nổi phải tạm xuống Lũng Kỳ, gặp khi có cơn gió lớn thổi mạnh, thuyền bè của quân Xiêm bị chìm, người chết rất đông, Cù Sa bèn thu tàn quân trở về Xiêm La, chỉ còn Thâm thì chạy đến chỗ binh thứ của Tân ở thủ phủ Bô Bô. Khi ấy một mình Yêm chống với Thâm và lén sai sứ nạp lễ cống cho vua Xiêm. Quân của Chất Tri ở lâu mà không làm được gì, nhân đó mới đem bọn Thâm, Tân cùng về Xiêm La, từ đấy nơi biên cảnh mới yên tĩnh. Xét việc ấy chép cũng có chỗ giống chuyện Lũng Kỳ nầy, chỉ có năm tháng là khác nhau mà thôi. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

HƯƠNG ÚC CẢNG (CỬA HƯƠNG ÚC)

Ở biên giới phía tây trấn, phát nguyên ở núi Ca Ba, Cao Miên, chảy dài từ xa đến, làm <76a> thành hải cảng; nơi đây có người Việt, người Thổ ở thành thôn xóm.

KIÊN GIANG CẢNG (CỬA RẠCH GIÁ)

Cách trấn phía đông hơn 193 dặm. Đạo Kiên Giang ở bờ phía tây trong cảng, ở đây phố chợ đông đúc, thuyền buôn tụ họp đông đảo, phía đông đến đồn Trấn Giang thuộc Hậu Giang cách 303 dặm rưỡi, ở khoảng giữa có bia giới bằng cây ngô đồng. Cảng này lắm bùn lầy nước đọng, cây cỏ um tùm, mùa xuân nước cạn ghe thuyền không đi được, lại có nạn nhiều muỗi mòng và đỉa vắt. Năm Gia Long thứ 16 (1817), đào thông sông Thoại Hà, nước sâu mà đường đi lại gần, nhân dân được nhờ thuận lợi.

ĐẠI MÔN CẢNG (CỬA ĐẠI)

Ở phía đông đạo Kiên Giang 26 dặm, thông với sông Kiên Giang. Bên trong có nhiều mương ngòi, phía đông tiếp giáp sông Ba Thắc, có tôm khô, nước mắm nhỉ (?), mắm cá đồng. Dân làm nghề này tụ họp thành thôn xóm.

THẬP CÂU (MƯỜI NGÒI) - CŨNG GỌI LÀ MIỆT THỨ

Ở phía tây nam đạo Long Xuyên, từ ngòi thứ Nhứt đến ngòi thứ Mười trải dài cân nhau, do nước từ ao chằm, <77b> đồng ruộng chảy thông ra ngoài biển; ở đây sinh nhiều cá, tôm.

ĐỐC HUỲNH CẢNG (CỬA ĐỐC VÀNG) (CỬA SÔNG ÔNG ĐỐC)

Rộng 4 trượng, sâu 10 thước ta, cách đạo Long Xuyên (Cà Mau) về phía tây 107 dặm rưỡi. Trong đạo có quán xá đông đúc, thuyền bè tấp nập. Từ cảng cách 84 dặm đến ngã ba sông Khoa Giang rồi thông ra biển. Năm Đinh Dậu (1777), Tây Sơn vào xâm chiếm, thành Gia Định thất thủ; khi ấy Thế Tổ còn ở tiềm để, cưỡi thuyền buồm nhỏ theo vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) lưu lạc đến đây, đến khi giặc Tây Sơn đánh úp, ngự giá đang tạm trú ở thủ ngự Long Xuyên thì bị quân Tây Sơn bắt giải về mạn bắc, quan binh hộ tống đều bị bắt cả, chỉ có thuyền buồm nhỏ tách riêng đậu ở sông Khoa Giang nên được bình yên. Vua muốn thừa lúc đang đêm chạy ra biển để đi xa nhưng thuyền tới đâu cũng bị cá sấu cản đường không sao chạy được, dù chỉ là gang tấc, trong thuyền ai nấy đều kinh hãi. Sáng ra dân ở đấy bẩm báo rằng đêm qua thuyền giặc vây khắp dọc theo bờ biển, chúng đi tuần tiễu bốn phía <80a> không thấy bóng dáng quan binh đâu cả, đến quá trưa quân địch mới dẫn nhau đi mất. Khi ấy thuyền buồm nhỏ mới chạy ra đảo Thổ Châu (Chu) được yên ổn. Như vậy là trời sắp sinh ra thánh nhân để thành tựu khai sáng nghiệp lớn, Trung hưng như ngày nay nên đưa đến chỗ nguy mà ban phước, cho gặp khó mà bảo toàn, khiến cho có mưu sâu để nhận trách nhiệm to lớn; sông núi giúp linh, loài sấu theo bảo vệ, thật như rồng lên mây thoát khỏi ao tù, có quỷ thần hỗ trợ, ngăn cấm những việc chẳng lành. So với việc Hán Cao Tổ được trận gió lớn ở sông Tuy Thủy, Hán Quang Võ được nước đóng băng ở sông Hô Đà thật chẳng khác nhau vậy.

HÀU KY CẢNG (CỬA CẢNG GÀNH HÀU)

Làm ranh giới tột cùng của phía đông trấn, cách phía đông đạo Long Xuyên (Cà Mau) 120 dặm rưỡi ; phía tây nam hiệp với thượng lưu cửa Bồ Đề, phía tây bắc chảy ra cửa Đốc Huỳnh (sông Ông Đốc), phía đông nam chảy khuất khúc 109 dặm rưỡi đến cảng Ba Thắc. Trong đấy có nhiều mương ngòi đan thông nhau, nguồn lợi lùm chằm dùng không bao giờ hết.

3a.
Cương Vực Chí

Khí trong nổi lên trời, chất đục tụ xuống đất, từ thời Bàn Cổ khai phá khí chất hỗn mang mà thoát ra, từ đó các thứ loài càng phồn thịnh. Khoảng đất giữa chiếm vị trí rộng lớn gọi là trung châu, bốn phía đông, tây, nam, bắc đều tùy nơi mà đặt tên, chứ ban đầu chưa vạch ra cương giới này nọ. Kịp khi khí vận càng mở mang, nhân dân càng đông đúc, vua Hoàng Đế (2697 - 2596 tr. CN) mới vạch ra khu vực, vua Thần Vũ (2205 - 2198 tr. CN) mở rộng đất đai. Sách vở để lại chỉ biết Trung Quốc có 9 châu trong thiên Vũ cống (<1><1>). Nhưng ngoài 9 châu ấy, lại còn 9 châu nữa, ngoài 4 biển lại còn 4 biển nữa; cũng như sách nhà Phật gọi là Bốn đại bộ châu vậy. Như vậy thì ngoài những nước biết ăn gạo, mặc tơ, không biết còn có bao nhiêu châu nữa, kỳ thực chỉ tại sách xưa <1b> thiếu sót mà thôi.

Vậy thì núi sông nhân vật chẳng phải đến ngày nay mới sinh ra đâu, như người Tây Dương bảo có Tân thế giới ấy là thứ kiến thức sâu mùa hạ (<2><2>) ếch ngồi đáy giếng (<3><3>) điều đó không thể hợp lý được.

Từ khi chân con ngao (<4><4>) được dựng, móng chim hồng đã chia (<5><5>) trời mở ra ở chi Tý thì trời Gia Định cũng có từ đấy, đất mở ra ở chi Sửu thì đất Gia Định cũng có từ đấy, người sinh ở chi Dần thì người Gia Định cũng sinh ra từ đấy, nguyên trong ấy không có việc riêng sinh, riêng dưỡng, riêng che, riêng chở gì. Còn như cương thường, thân thể, ăn uống, nói năng, hành động thì người thời ấy cũng bẩm thụ thiên tính như người đời nay. Nếu có khác là khác về ăn mặc, vật dụng, xưng hô, tên gọi, ấy là theo tập tục của người, tùy vào cái văn chất của từng thời mà biến chuyển, ấy là lý đương nhiên thông thường.

Kỳ thật người thời ấy {2a} không biết mình sẽ làm gì, khi đi không biết mình sẽ đi đâu, cả đời cho đến chết không biết qua lại với nhau, trong lúc trời đất thì mênh mông, núi sông lại hiểm trở mà kiến thức con người thì có hạn, ví như kẻ nhìn biển dừng chân bên bờ, ráng hết sức phóng mắt trông ra khơi, chỉ thấy lai láng mịt mù, mặt biển tiếp với chân trời, khựng lại không tiến lên nữa, rồi lấy chỗ mình thấy làm nơi tận cùng của trời đất, thế thì lời nói đó đâu phải do sự thấy, sự biết một cách rõ ràng? Cho nên thời vua Thần Nông, đất phía nam chỉ đến Giao Chỉ (<6><6>), thời Hoàng Đế đến sông Trường Giang (<7><7>), Ngũ đế sắp xếp lại việc hóa dục phương Nam (<8><8>), Hạ Vũ tuần thú phương Nam, cho hội chư hầu ở Đồ Sơn (<9><9>) (Trung Quốc), ấy là căn cứ vào nơi đã có thanh giáo và dấu tích bước chân đến đâu thì ghi chép vào sách vở đến đấy mà thôi. Ngoài ra thế nào tất phải đợi đến người đời sau chứ chưa truy cứu đến cùng được. Do đó xứ Gia Định của nước Việt ta <2b> cũng đại để như vậy. Nếu không phải như vậy thì tại sao đường đường một khu vực lớn chỉ cách tỉnh Hà Nam (<10><10>) (Trung Quốc) là nơi kinh đô của các đế vương xưa có 13.189 dặm, mà đất ấy (Gia Định) lại tiếp giáp bốn biển, các nước đều đã giao thông, các nước nhỏ bé xa xôi không làm sao so sánh nổi, vậy mà từ năm Giáp Thìn đời Đế Nghiêu đến năm Nhâm Tuất niên hiệu Gia Khánh thứ bảy đời Thanh, trải qua 4.164 năm (<11><11>) mà sách vở Trung Quốc chưa từng chép đến? Mãi cho đến năm Gia Khánh ấy khi nước ta bắt đầu có lệ triều cống thì tên Nông Nại (Gia Định tục gọi là Đồng Nai, người Thanh gọi Gia Định là Nông Nại) mới được nêu rõ nơi Sử quán. Ấy là một đoạn thiếu sót lớn của sách vở xưa vậy. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Lại đơn cử thêm một chuyện na ná nữa để nói, như phía bắc Trung Hoa có Mông Cổ (<12><12>), Mãn Châu (<13><13>), phía tây có Tây Dương (<14><14>) Thổ Lỗ (<15><15>), phía đông <3a> có Lưu Cầu (<16><16>), Lữ Tống (<17><17>); những nước ấy đất đai lớn thì hơn vạn dặm, nhỏ thì cũng không dưới vài ngàn dặm, đều có các nước phụ dung lệ thuộc la liệt như sao, sách vở đời sau luôn nêu rõ mồn một trước tai mắt mọi người, vậy chớ nên vì sách vở xưa không ghi chép mà xem thường bỏ ra ngoài. Đó là kẻ thư sinh chỉ theo lời vô căn cứ nhét vào tai chớ chẳng phải là sự học sâu rộng như biển của bậc sư Nho được in đậm trong tâm. Nhưng thời đại cách xa nhau, sự nghiệp lại khác nhau, việc thắt nút dây (<18><18>) để ghi nhớ sự kiện sẽ không ghi chép được xa, chỉ chép được việc gần, chỉ nghị luận mà không sáng tác được, vì thế mà chẳng lạ gì sách Ngoại kỷ của Lưu Đạo Nguyên chỉ nhặt nhạnh toàn những việc kỳ quái. Nay chỉ lấy những gì cốt yếu, có thật để khảo chứng mà ghi chép lại, chẳng những đấy là lý đương nhiên mà còn là việc chẳng làm khác đi được.

Gia Định <3b> xưa nguyên là đất của Chân Lạp (Chenla) (<19><19>) (nay là nước Cao Miên, phân ra làm Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp). Đây là vùng đất đai màu mỡ, địa lợi có đủ ruộng đồng, đầm phá, sông, biển; muối, lúa, đậu rất nhiều. Các tiên hoàng liệt thánh triều ta chưa rảnh để mưu tính việc xa nên tạm để đất này cho Cao Miên ở, đời đời xưng là Nam Phiên, lo việc triều cống không bao giờ dứt. Tháng 9 mùa thu năm thứ 11 Mậu Tuất (1658) (Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Thọ năm đầu, Minh Vĩnh Lịch thứ 12, Đại Thanh Thuận Trị thứ 14) thời Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế (Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) vua Cao Miên là Nặc Ong Chăn (<20><20>) xâm phạm biên giới (Người Cao Miên không có họ, con cháu nhà vua đều xưng là Nặc Ong, Chăn là tên, khi đặt tên thì thích dùng chữ hay, ông cháu cùng tên mà không kiêng, nước ta gửi thư xuống thì xưng là Cao Miên Quốc vương Nặc Ong Mỗ, ấy là lấy tên của vị vương tử mới được phong mà gọi. Lại như vương tước của nước ấy thì dùng đến 11, 12 chữ cho đến 23, 24 chữ tùy theo cách gọi chứ không có định lệ). Khâm mệnh dinh Trấn Biên (thời mới khai thác thì những chỗ đầu biên giới gọi là Trấn Biên, ở đây tức Phú Yên ngày nay), Phó tướng quân Yến Vũ {4a} hầu, Tham mưu Minh Lộc hầu, Tiên phong Cai đội Xuân Thắng hầu đem 3 ngàn quân đi trong 2 tuần đến thành Mô Xoài (<21><21>) của nước Cao Miên, phá thành và bắt vua Nặc Ong Chăn giải về Quảng Bình là nơi hành tại (<22><22>). Vua ra dụ xá tội cho, rồi phong làm Cao Miên quốc vương, luôn phải giữ đạo phiên thần, thường xuyên phải triều cống, không được xâm lấn cư dân ở ngoài biên, rồi sai quan binh hộ tống cho về nước (<23><23>).

Lúc ấy địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai (nay là trấn Biên Hòa) tại hai xứ ấy đã có dân của nước ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng dám tranh chấp điều gì.

Tháng 2 mùa xuân năm thứ 27, Giáp Dần (1674) (Lê Gia Tông, niên hiệu Đức Nguyên năm đầu, Đại Thanh Khang Hy thứ 13) <4b>, Nặc Đài (Neac Ang Dai) nước Cao Miên (<24><24>) (sách Nam Việt chí của Nguyễn Bảng Trung chép là Nặc Ô Đài, sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép là Nặc Đài) đánh đuổi vua nước ấy là Nặc Ong Non; Nặc Ong Non chạy sang ta tránh, vua sai tướng Dương Lâm hầu ở dinh Thái Khang (nay là trấn Bình Hòa) làm Thống suất, Tham mưu Diên Phái hầu làm Hiệp lý biên vụ, đưa quân tiến đánh. Mùa hạ tháng 4 phá được ba lũy: Sài Côn (nay là đất trấn Phiên An), Gò Vách và Nam Vang, Nặc Đài thua chạy rồi chết. Nặc Thu xin lạy hàng (Theo sử nước Cao Miên, ngôi vương có 3 cấp: Chính vương, Nhị vương và Tam vương. Thời Nặc Sô (Neac Sor) làm Chính vương, em là Nặc Tân làm Nhị vương, con trưởng của Nặc Sô là Nặc Xá Phủ Tâm không được làm vua, y bèn giết cha rồi tự lập ngôi. Nặc Tân cùng con người em <5a> là Nặc Non (Neac Ang Non) chạy sang nước ta. Sau đó Nặc Xá Phủ Tâm bị vợ giết chết, con là Nặc Chi (Neac Ang Chei) kế vị. Năm Giáp Dần niên hiệu Thiên Vận (<25><25>) (1594), quan quân tiến đánh, Nặc Chi bỏ chạy rồi chết, quan quân đưa Tân và Non về nước, con thứ của Nặc Sô là Nặc Su xin hàng, Nặc Tân thì chết vì bệnh, triều đình cho lập Nặc Su làm Chính quốc vương, Nặc Non làm Nhị quốc vương, chia nhau mà cai trị. Như vậy tên gọi không giống Nặc Đài mà sự tích cũng hơi khác, nghi rằng hai chữ Su và Thu do tiếng nước ta vốn gần nhau nên có sự nhầm lẫn chăng).

Tháng 6 mùa hạ được tiệp báo (<26><26>), triều đình nghị sự chuẩn cho Nặc Thu là nhánh đích được làm Cao Miên Chính quốc vương, đóng dinh ở thành Vũng Luông; Nặc Non làm Phó quốc vương, đóng dinh ở thành Sài Côn, giữ lệ triều cống như cũ. Lại còn gia phong cho Dương Lâm hầu làm Trấn thủ dinh Thái Khang (Khánh Hòa) lo việc phòng ngự ngoài biên.

<5b> Tháng 4 mùa hạ năm thứ 32, Kỷ Mùi (1679) (Lê Hy Tông niên hiệu Vĩnh Trị thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 18), quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, Phó tướng Trần An Bình dẫn quân và gia nhân hơn 3000 người cùng chiến thuyền hơn 50 chiếc xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng (nay là cửa Hàn thuộc Quảng Nam). Sớ tâu lên rằng số người này tự xưng là người nhà Minh bỏ trốn đi, họ thề quyết tận trung với nước, nhưng nay đã thế cùng lực tận, vận nhà Minh đã dứt, họ không thể thần phục triều Thanh nên chạy sang nước Nam nguyện được làm dân mọn. Lúc ấy ở Bắc Hà đang có biến, vả lại họ ở xa mới đến, hư thực chưa hay, lại y phục ngôn ngữ bất đồng, nhất thời thật khó giải quyết ngay. Nhưng họ đang cùng quẫn mà chạy sang, lại tỏ bày lòng trung thực, về nghĩa cũng không thể từ chối được <6a>; vả lại xứ Đông Phố (<27><27>) (một tên khác của đất Gia Định xưa) của nước Cao Miên, đất đai màu mỡ có đến ngàn dặm, triều đình chưa rỗi để lo liệu, chi bằng tận dụng sức lực của họ, giao cho họ khai hoang đất đai để ở, ấy cũng là một cách làm mà được ba điều lợi. Nghĩ vậy, triều đình mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai thác đất đai. Mặt khác, triều đình còn hạ chỉ dụ cho Quốc vương Cao Miên (Thủy Chân Lạp) biết việc ấy để không xảy ra chuyện ngoài ý muốn.

Được lệnh, các ông Dương, Trần (<28><28>) vào Kinh tạ ơn rồi phụng chỉ lên đường. Bọn tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp và cửa Đại cửa Tiểu (thuộc trấn Định Tường) dừng trú tại xứ Mỹ Tho (nay là trấn lỵ của Định Tường). Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền tiến vào cửa Cần Giờ <6b> rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai (nay là lỵ sở trấn Biên Hòa). Họ lo mở mang đất đai, lập thành phố chợ, giao thông buôn bán. Tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, người Nhật, người Đồ Bà (Chà Và), tụ tập tấp nập, phong hóa Trung Quốc dần dần lan ra thấm đượm cả vùng Đông Phổ (Phố).

Tháng 6 mùa hạ năm thứ 2, Mậu Thìn (1688) đời Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế (Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 9, Đại Thanh Khang Hy thứ 27), Phó tướng Long Môn là Hoàng Tấn sinh lòng kiêu mạn, y cầm quân tấn công giết Dương Ngạn Địch rồi dời đến đóng ở xứ Rạch Năn (thuộc huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường), chiếm cứ vùng hiểm yếu, đóng thuyền chiến, đúc thêm súng lớn, không cho thương nhân qua lại, quấy nhiễu cướp bóc người Cao Miên. Vua Cao Miên là Nặc Ong Thu phải cho đắp lũy đất ở ba xứ Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách, lại kết bè nổi ở sông Cầu Nôm và giăng dây thép <7a> chắn ngang cửa sông để cự thủ. Phó vương Cao Miên là Nặc Non đang đóng giữ Sài Côn vội tâu lên hết mọi chuyện. Tháng 10 mùa đông, triều đình sai Phó tướng dinh Thái Khang là Vạn Long hầu làm Thống suất, Thắng Long hầu và Tân Lễ hầu làm Tả hữu vệ trận, Vị Xuyên hầu làm Tham mưu cầm quân đi chinh phạt Hoàng Tấn, đồng thời ủy cho quyền mưu tính việc mở mang biên cương. Quan quân kéo đến đóng ở Rạch Gầm (thuộc thôn Kim Sơn, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường) rồi nói thác là đi đánh Nặc Thu, giả bộ ra lịnh cho Hoàng Tấn làm tiên phong, dụ Tấn hội ở giữa sông rồi cho phục binh ụp ra bắt và phá hết đồn trại của hắn. Hoàng Tấn thoát chạy rồi bị chết. Quan quân chiêu dụ đội quân Long Môn, những kẻ bị Tấn bắt ép phải theo đều được tha thứ.

Quan quân thừa thế tiến đánh Nặc Thu, ủy cho tướng Cao Lôi Liêm là Thắng Tài hầu kiêm quản tướng sĩ đội quân Long Môn <7b> làm tiên phong, bắt chước như Vương Tuấn đời Tấn (<29><29>) hồi xưa đốt hết dây thép chắn ngang sông, tiến công chiếm được ba lũy Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách. Nặc Thu rút quân lui về Vũng Luông rồi lập mưu sai nữ sứ giả là Chiêm Luật đến xin hàng và đề nghị quan quân rút lui để họ chuẩn bị lễ vật cống hiến. Thực ra ấy là mưu kế để họ kịp mộ binh tiếp viện tính việc chống cự. Vạn Long hầu nhẹ dạ tin theo rồi cho lui quân về đóng ở Bến Nghé (nay là chợ Điều Khiển). Đã hơn một năm trôi qua mà Nặc Thu không chịu tiến cống, lúc ấy lại bỗng xảy ra bệnh dịch, quân sĩ nhiều người bị bệnh và chết, các tướng cùng nhau làm tờ tấu đàn hạch Vạn Long hầu về tội chần chừ làm hỏng quân cơ. Mùa đông năm thứ 3 Kỷ Tỵ (1689) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 10, Đại Thanh Khang Hy thứ 28) <8a>, triều đình sai Cai đội Hào Lương hầu Nguyễn Hữu Hào (<30><30>) (con của Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật) làm thống suất, Hòa Tín hầu làm Tham mưu, Cai đội Thắng Sơn hầu làm Tiên phong, tuyển lựa tinh binh ở các xứ Phú Yên, Thái Khang và Bình Thuận để tiến đánh Cao Miên, rồi cho bắt trói bọn Vạn Long hầu cùm đưa về kinh sư. Sau đó triều đình miễn chức Vạn Long hầu cho về làm thường dân, giáng Vị Xuyên hầu xuống làm tướng thần thuộc lại.

Tháng ba mùa xuân năm thứ 4 Canh Ngọ (1690) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 11, Đại Thanh Khang Hy thứ 29), Hào Lương hầu đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định. Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, <8b> do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham - đích - sá - chiêu - trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm).

Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ 37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) (<31><31>) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch.

3b. Cương Vực Chí

Mùa thu năm thứ 9, Kỷ Mão (1699) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 20, Đại Thanh Khang Hy thứ 38), triều đình <9b> tra xét bắt đạo Hoa Lang (tức đạo Thiên Chúa của người Tây Dương), phàm nhân dân ta ai có đạo thì phải bỏ để trở lại làm dân bình thường, lấy nhà tu làm nhà ở, lại còn đốt sách vở của đạo ấy, còn người phương Tây thì buộc họ phải về nước.

Tháng 8 mùa thu năm thứ 18, Mậu Tý (1708) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 47), triều đình phong cho người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông là Mạc Cửu làm Thống binh Hà Tiên. Mùa xuân năm thứ 8, Nhâm Tý (1732) thời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế (Đĩnh Quốc công Nguyễn Phúc Chú) (Lê Thuần Tông niên hiệu Long Đức năm đầu, Đại Thanh Ung Chính thứ 10), triều đình sai quan Khổn súy (<32><32>) Gia Định phân chia đất ấy để lập ra châu Định Viễn và dinh Long Hồ (lỵ sở nay là thôn An Bình Đông thuộc huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường, tục gọi là dinh Cái Bè).

Năm Bính Thìn (1736) (Lê Ý Tông năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Hựu, năm đầu niên hiệu Càn Long nhà Đại Thanh), phong Mạc Thiên Tứ, tự Sĩ Lân, trưởng tử của Mạc Cửu, làm Đô đốc Tông Đức hầu, kế tập cha (<33><33>).

<10a> Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12, Bính Thìn (1736) (Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4, Đại Thanh Càn Long thứ 3), triều đình định lại quan chế, cải cách sắc phục, thay đổi phong tục, mọi người đều theo lối mới, tránh cái thô lậu của Bắc hà từ trước tới nay (lúc ấy từ sông Linh Giang (1) thuộc châu Bố Chính trở vào Nam gọi là Nam hà, trở ra Bắc gọi là Bắc hà). Miền Nam từ đây rạng rỡ một vùng y quan văn vật.

Mùa đông năm thứ 16, Quý Dậu (1735) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14, Đại Thanh Càn Long thứ 18), triều đình sai Cai đội Thiện Chánh hầu làm Thống suất, Ký lục Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh (2) làm Tham mưu điều khiển tướng sĩ 5 dinh: Bình Khang (Năm thứ 4 Canh Ngọ đổi Thái Khang làm dinh Bình Khang), Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ (Chức Điều khiển được thiết lập từ đây) <10b> đi kinh lược đất Cao Miên, quan quân đồn trú ở xứ Bến Nghé, lập nên dinh trại, gọi tên là Đồn Dinh (nay là chợ Điều Khiển), rồi lo luyện tập quân sĩ, điều độ lương thảo, tính kế mở mang.

Tháng 6 mùa hạ năm thứ 17, Giáp Tuất (1754) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15, Đại Thanh Càn Long thứ 19), chia quân Gia Định ra làm hai đạo, Nghi Biểu hầu đem kỳ binh từ sông Bát Đông tiến phát, quân đến đâu địch thua đến đó, rồi đến Tần Lê Bắc ra sông lớn hội cùng chính binh Tiền Giang của Thiện Chính hầu ở đồn Lò Yêm. Bốn phủ Xoài Lạp (Soi Rạp) (những nơi người Bắc Địch sinh sống, chỗ lớn gọi là bộ, nhỏ gọi là lạc, người Xiêm La và Ai Lao thì gọi mường (<34><34>), người Cao Miên thì gọi là sóc. Sóc Xoài Lạp (Soi Rạp) ban đầu ở bờ biển, tức nay là cửa Lôi Lạp (Soi Rạp) thuộc trấn Định Tường. Vì lúc ấy Cao Miên nhượng đất cho dân ta rồi cả sóc dời <11a> đến xứ Quang Hóa (Trảng Bàng) nay là địa giới trấn Phiên An, tên sóc nay vẫn còn), Tầm Đôn, Cầu Nôm và Nam Vang của Cao Miên đều hàng (sóc lớn cai quản các sóc nhỏ, gọi là phủ và có đặt chức quan An phủ trông coi). Tiếp đó liền sai thuộc tướng Cai đội Chấn Long hầu đến phủ Tầm Phong Tiêm chiêu dụ người Côn Man Thuận Thành (trước gọi là Chiêm Thành, sau đổi lại là Thuận Thành. Tù trưởng bộ lạc ở tại trấn Bình Thuận nhưng cũng có số đông ở đất Cao Miên) để gây thanh thế. Lúc ấy quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên chạy lánh sang phủ Tầm Phong Thu (nay là phủ La Vách) lại gặp trận lụt mùa thu quá lớn, quan quân phải trở về đồn nghỉ ngơi.

Mùa xuân năm thứ 18, Ất Hợi (1755) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16, Đại Thanh Càn Long thứ 20), đại binh của Thiện Chính hầu đã về trước ở đồn Mỹ Tho, rồi lệnh cho người Côn Man Thuận Thành phải bỏ vùng Ca Khâm <11b>, (Kha Khom?) đem hết bộ lạc xe cộ xuống đồn trú ở Bình Thanh (nay là Gò Bắp) (<35><35>), tinh tráng hơn vạn người, khi đến đất Vô Tà Ân liền bị hơn một vạn binh của Cao Miên thừa cơ tập kích, quân Côn Man sức yếu thế cô, liền đem hết xe chất thành lũy và một lòng chống giữ, mặt khác cho quân đi cấp báo. Thiện Chính hầu vì ao đầm ngăn trở nhất thời khó bề cứu viện ngay được, chỉ Nghi Biểu hầu dẫn 5 đội tùy quân đến ứng cứu, quân Cao Miên nghe hơi đã phải rút lui. Nghi Biểu hầu đón hơn 5000 dân Côn Man cả nam lẫn nữ về trú dưới chân núi Bà Đinh (Đen) rồi hạch tấu Thiện Chánh hầu về tội làm hỏng quân cơ, rút quân thiếu kỷ luật, bỏ rơi người mới quy phụ, không cứu viện - để quân giặc bắt đi. Tấu được dâng lên, triều đình cho tra xét rồi giáng Thiện Chánh hầu xuống làm Cai đội, thu quyền Thống suất, ra lệnh cho Cai đội Du chính hầu Trương Phúc Du làm Thống suất <11a>, dùng người Côn Man dẫn đường để tiến đánh Cầu Nôm và Nam Vang và giết được một số Ốc nha. Vua nước ấy quá sợ nên phải chạy sang nương thân vào Đô đốc Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ ở trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ thay lời tâu rằng: Việc ấy do biên tướng Cao Miên là Chiêu trùy Ếch đàn áp người Côn Man, vua nước ấy xin chịu nhận tội.

Năm thứ 19, Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long thứ 21), Quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên xin hiến đất hai phủ Tầm Đôn và Xoài Lạp (Soi Rạp) (<36><36>) để chuộc tội, đồng thời xin cống nạp lễ vật còn thiếu ba năm trước đó. Triều đình trách tội, hạ lệnh phải bắt kẻ cầm đầu cuộc loạn ấy là Chiêu trùy Ếch đóng cũi giải nộp. Nặc Ong Nguyên gọi Chiêu trùy Ếch bằng cậu, vốn tình thân ái mà việc tập kích ấy y ta cũng có dự mưu nên nói dối rằng đã đưa Chiêu trùy Ếch ra xử tội rồi. Triều đình biết Nguyên <12b> không tâu thật, nhưng tạm không vặn hỏi đến cùng, rồi sai phải bắt giải vợ con của Chiêu trùy Ếch đến, Nặc Ong Nguyên lại nói thác rằng chúng hiện còn trốn tránh. Lúc ấy Nghi Biểu hầu tâu xin chuẩn cho lời chuộc tội của Nguyên, và xin lấy đất hai phủ nầy nhập vào châu Định Viễn (<37><37>) để được toàn vẹn một vùng. Triều đình chuẩn y.

Năm thứ 20, Đinh Sửu (1757) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 18, Đại Thanh Càn Long thứ 22), Quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên mất, người chú họ là Nặc Ong Nhuận thay quyền coi việc nước, Khổn thần (<38><38>) Gia Định tâu rằng nhân đấy mà lập cho luôn thể để tỏ rõ ân ý mà cũng để biên thùy thêm bền vững. Vua xuống chiếu rằng phải hiến thêm đất đai hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (<39><39>) mới chuẩn cho lập ngôi. Gặp lúc ấy rể của Nặc Ong Nhuận là Nặc Hinh cướp ngôi, giết Nặc Ong Nhuận, con của Nhuận là Nặc Ong Ton chạy <13a> qua Hà Tiên, Du Chính hầu thừa thế tiến đánh, Hinh chạy đến Tầm Phong Xoài rồi bị phiên liêu là Ốc nha Uông giết chết. Lúc ấy Mạc Thiên Tứ vì Nặc Ong Ton mà dâng tấu, vua sắc phong cho Nặc Ong Ton làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Mạc Thiên Tứ cùng binh tướng 5 dinh đưa Nặc Ong Ton về nước nhưng buộc phải hiến thêm đất Tầm Phong Long (<40><40>). Quan quân khải hoàn về Gia Định, sau đó Du Chính hầu và Nghi Biểu hầu dâng tấu xin dời dinh Long Hồ qua xứ Tầm Bao (<41><41>) (tức địa phận thôn Long Hồ ngày nay). Lại lấy xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng (<42><42>) (tục gọi cồn cát giữa sông là cù lao) ở Tiền Giang đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc ở Hậu Giang làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy <13b>.

Lúc ấy, Nặc Ong Ton lại đem đất 5 phủ là Vũng Thơm, Cần Bột, Chân Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh biếu Mạc Thiên Tứ để đền ơn đã bảo toàn cho. Thiên Tứ đặt xứ Rạch Giá (<43><43>) làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, lại đặt quan trông coi, chiêu mộ cư dân lập nên thôn ấp, do đó mà đất đai xứ Hà Tiên mới rộng lớn ra.

Năm Kỷ Hợi, Thế Tổ Cao hoàng đế năm thứ 2 (1779) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40, Đại Thanh Càn Long thứ 44, ngụy Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc niên hiệu Thái Đức thứ 2), vua lệnh vẽ địa đồ phân chia thêm bớt địa giới 3 dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ cho được liền nhau. Lại lấy yếu địa 3 dinh tọa lạc ở xứ Mỹ Tho lập thành dinh Trường Đồn, đặt lỵ sở ở giồng Cai Yến.

<14a> Đất Nông Nại xưa vốn nhiều đầm ao rừng rú, buổi đầu mới lập ra 3 dinh, mộ dân đến lập nghiệp, phép tắc hãy còn khoan dung giản dị. Có khi đất ở hạt Phiên Trấn mà lập thuế ở hạt Trấn Biên, và ngược lại đất ở hạt Trấn Biên mà trưng thuế ở Phiên Trấn ấy là tùy theo lòng dân, không hề ràng buộc, cốt sao khiến dân khai hoang mở đất cho thành ruộng, lập nên thôn xã mà thôi. Nhiều nơi là đất bùn cỏ mà trưng làm ruộng đóng thuế, hoặc ruộng núi nơi đất gò đống mà trưng làm ruộng cỏ, chuyện đó có thường thôi. Đến như sào, mẫu, khoảng (khoảnh), sở, cũng chỉ dựa vào lời khai mà biên vào sổ bộ chứ không đặt thước xuống đo và phân biệt tốt xấu, còn thuế nhiều hay ít, đấu hộc to hay nhỏ cũng tùy vào lệ cũ từng nơi để phỏng theo mà làm <14b> không giống nhau. Đến lúc này mới châm chước để làm cho đúng, nhưng nếu so với các dinh trấn ở Bắc thì phép tắc ở Gia Định còn rất khoan dung mà thuế lệ cũng còn nhẹ.

Năm thứ 21, Canh Thân (1800) (Ngụy Tây Sơn Nguyễn Quang Toản niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, Đại Thanh Gia Khánh thứ 5), đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định. Ngày 17 tháng 6 mùa hạ năm Ất Sửu (1805), niên hiệu Gia Long thứ 4 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 10), vua sai 5 dinh trấn của Gia Định là Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định, và Hà Tiên phải kê khảo đầy đủ về sự tích, cương vực và thổ sản trong địa hạt, cùng với đường sá xa gần, núi sông chỗ nào bình thường, chỗ nào hiểm yếu, vẽ thành bản đồ, chép thành biên bản, ghi chú rõ ràng để làm thành trình lục.

<15a> Tháng 7 mùa thu năm Đinh Mão (1807), niên hiệu Gia Long thứ 6 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 12). Nước Cao Miên sai sứ là là Ốc nha Bôn Lịch và Ốc nha Lịch Gia Phủ Phủ Rách dâng biểu đến kinh đô Phú Xuân để xin phong vương.

Theo sử Cao Miên, năm Đinh Sửu (1757), Nặc Ong Ton làm vua nước Cao Miên, Nặc Ong Non chạy sang đầu Xiêm La. Năm Kỷ Sửu (1769), vua Xiêm là Phi nhã Tân sai binh đưa Nặc Ong Non về đánh lấy lại Cao Miên nhưng việc không thành, bèn đến phủ Lò Gò Vật đánh cướp rồi trở lui. Năm Tân Mão (1771), quân Xiêm sang tập kích phủ Nam Vang bắt mất dân hơn vạn người, lại gặp lúc đang xảy ra đại dịch bịnh nên xứ này bị tổn thất rất nặng. Năm Ất Mùi (1775), Nặc Ong Ton nhường ngôi cho người em là Nặc Ong Vinh làm Chính vương còn Nặc Ong Ton xuống làm Nhị vương <15b>, Nặc Ong Thâm làm Tam vương. Năm Bính Thân (1766), Nặc Ong Vinh không giữ phận thần chức nên Tiết chế Tuấn Quận công phải đem quân chinh phạt. Năm Đinh Dậu (1777), Cao Miên có nội biến, Nặc Ong Thâm bị giết, Nặc Ong Ton vì uất ức rồi lâm bệnh mà chết. Năm Mậu Tuất (1778), vua Xiêm là Phi nhã Tân sai Phi nhã Chất Tri (<44><44>) và Phi nhã Sô Sĩ đem một vạn binh Xiêm và mượn thêm một vạn binh Cao Miên phân làm hai đạo thủy lục, lấy đường Cao Miên để tấn công Xương Tỉnh, Lao Khổng và Ba Thắc rồi tiến thẳng đến Viên Chăn - Lào, tất cả các nơi đều hàng phục. Lúc ấy, Cao Miên phải chuyên chở lương hướng làm nước nghèo, dân đều xiêu tán. Năm Kỷ Hợi (1779), Nặc Ong Vinh trị nước thất chính lịnh, (<45><45>) anh em Chiêu trùy Mô chiếm phủ Phong Xoài, Vị Bôn Sưu chiếm phủ La Vách rồi xin binh Gia Định đánh giết chết Nặc Ong Vinh và lập con của Nặc Ong Ton là Nặc Ong <16a> In lên làm vua. In mới vừa 8 tuổi nên phải dùng Chiêu trùy Mô làm phụ chính.

Năm Tân Sửu (1781), vua Xiêm là Phi nhã Tân chia quân làm 3 đạo, sai con là Chiêu Nỗi đánh phủ La Vách, Phi nhã Chất Tri đánh phủ Lò Gò Vật, Phi nhã Sô Sĩ đánh lộ Phong Xoài. Cao Miên xin viện binh, triều đình sai quan Điều khiển Thoại Ngọc hầu đi cứu viện. Tháng 3 mùa xuân năm Nhâm Dần (1782), Thoại Ngọc hầu cùng tướng Xiêm giảng hòa rồi cùng phân địa giới nước Xiêm La, Chân Lạp, xong thì đem quân trở về. Năm Quý Mão (1783), cựu thần của Nặc Ong Vinh là Ốc nha Nhum Rạch Bèn từ nước Xiêm trở về giết Chiêu trùy Mô và Tham Đích Sưu, Nhum Rạch Bèn còn tự xưng là Chiêu trùy (<46><46>).

Năm ấy có người Đồ Bà là Toàn Sét Cháu Voi Vuốt khởi loạn, Nặc Ong In và Chiêu trùy Bèn chạy sang Xiêm La, vua Xiêm thấy Nặc Ong In đang tuổi nhỏ, chưa thể kham được việc lớn nên lưu lại nuôi ở Xiêm rồi sai Chiêu <16b> trùy Bèn giữ chức A phi phù biệt trấn thủ đất Cao Miên. Năm Giáp Dần (1794), Chiêu trùy Luyện giết được Toàn Sét, viện binh của Xiêm La quét sạch luôn bè đảng quân Đồ Bà. Năm Ất Tỵ, (1785) ngụy Đô úy Trấn của Tây Sơn đánh cướp phủ Nam Vang (<47><47>). Ngày 27 tháng 5 năm Giáp Dần (1794), quân Xiêm đưa Nặc Ong In về nước khôi phục lại ngôi vua, Chiêu trùy phụ chính, còn quan Phù biệt Bèn về trấn Bắc Tầm Bôn (<48><48>). Năm Bính Thìn (1796), Nặc Ong In chết, con là Nặc Ong Chăn kế vị.

Nước Cao Miên vốn là phiên thần của ta từ rất nhiều đời, họ luôn giữ trọn chức phận chưa hề thất lễ, nhưng từ khi nước ta gặp vận suy vi nửa chừng, Tây Sơn gây rối, nước Cao Miên gặp rất nhiều khó khăn mà ta chưa rảnh rang để cứu giúp. Năm Tân Dậu (1801), quan quân lấy lại đất thần kinh, năm Nhâm Tuất (1802), dẹp hết loạn lạc, đến năm này Nặc Ong <17a} Chăn sai sứ đến xin được kế ngôi. Ngày 2 tháng 9 mùa thu, vua phong cho Nặc Ong Chăn làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Hữu tham tri bộ Binh là Tĩnh Viễn hầu Ngô Nhơn Tĩnh, Ký lục dinh Vĩnh Trấn là Đàn Ngọc hầu Trần Công Đàn làm Chánh phó sứ mang sắc phong và ấn mạ vàng có núm hình lạc đà đến nước Cao Miên, làm lễ sách phong, rồi định ra lệ cống, lấy năm Đinh Mão (1807) làm đầu, sau đó cứ 3 năm một lần, vào các năm Tỵ, Thân, Hợi, Dần, thì dâng cống. Vật cống gồm: 2 thớt voi đực (mỗi con cao trên 5 thước ta), 2 sừng tê, 2 ngà voi, 50 cân đậu khấu, (từ đây trở xuống mỗi thứ thêm 5 cân) 50 cân sa nhân, 50 cân sáp vàng, 50 cân tử ngạnh, 50 cân trần hoàng, 20 vò ô tất. Sứ bộ gồm một Chánh sứ, 1 Phó sứ, 2 thông ngôn, 6 tùy tùng, cộng <17b> lại là 10 người. Đến kỳ dâng biểu và vật cống, vào tháng 4 đoàn sứ phải đến thành Gia Định để trình kiểm phẩm vật, sau khi được xem xét xong thì ủy cho người dẫn theo đường trạm hộ tống đến kinh để nộp, còn những việc cung đốn khoản đãi thì đã có cơ quan bộ Lễ cứ theo lệ mà làm.

Ngày 12 tháng Giêng mùa xuân năm Mậu Thìn (1808), niên hiệu Gia Long thứ 7 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 13), đổi trấn Gia Định ra thành Gia Định, rồi lệnh cho Khâm sai chưởng Chấn võ quân là Nhơn Quận công Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn và Khâm sai Thượng thư bộ Hộ đây là An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức làm Hiệp tổng trấn (Phó tổng trấn), đồng thời ban cho ấn bạc có núm hình sư tử và được dùng mực son. Trấn thành đóng tại huyện Bình Dương thuộc phủ Tân Bình <18a>. Ngày mùng 4 tháng 10 mùa đông năm Canh Ngọ (1810), niên hiệu Gia Long thứ 9 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 15), vua hạ chiếu sai Tả dinh Đô thống chế Thần sách quân là Phong Đăng hầu Lê Văn Phong và Ký lục trấn Định Tường là Minh Đức hầu Bùi Văn Minh lãnh 3000 quân và thuyền chiến đến trấn đóng ở vùng Tân Châu để canh phòng biên ải.

Trước đó, vua Xiêm đưa em của Nặc Ong Chăn là Nặc Ong Nguyên, Nặc Ong Yêm và Nặc Ong Đuông (<49><49>) về Cao Miên rồi lệnh cho Nặc Ong Chăn phải chia đất ấy ra cho Nguyên làm Nhị vương và Yêm làm Tam vương. Nặc Ong Chăn còn chưa chịu thi hành thì vừa gặp lúc tháng 8 niên hiệu Gia Long thứ 8 (1809), vua Xiêm gửi trát nói rằng Xiêm La đang cùng Miến Điện (tục gọi là Ô Đỗ hoặc là Phù Ma) (<50><50>) đánh nhau ở vùng Xa Lãng, một địa <18b> phương trên đất Xiêm, nên phải kêu gọi một vạn binh Cao Miên, nhưng phải có đủ 3000 binh đi trước theo đường biển đến thành Vọng Các (tên cũ của thành vua Xiêm là Mang Cóc, Vọng Các là tên do nước ta gọi) để chờ lệnh sai khiến. Nhưng số lính chưa kịp xuất phát thì vào ngày 13 tháng ấy, Ốc nha Cao la hâm Mang (<51><51>) và Ốc nha Ca tri (<52><52>) Bèn (hai người này vốn phụng mệnh vua Xiêm làm phụ thần cho vua Cao Miên) mưu làm phản, chúng bị Nặc Ong Chăn giết, đồ đảng là Đê Đô Minh chống lại và chiếm lấy phủ Phong Xoài. Quan A phi phù biệt (<53><53>) Bèn lo đắp đồn Tầm Bôn có ý muốn hại Nặc Ong Chăn, do đó việc canh phòng biên ải xa nói trên là một cách gây thanh thế để giúp đỡ Cao Miên vậy.

Ngày mùng 8 tháng 11 mùa đông, vua ra chiếu cho Khâm sai Tổng trấn Chưởng Chấn võ quân Nhơn Quận công (<54><54>) đích thân đem đại binh <19a> đi kinh lược Cao Miên để gây thế bảo hộ cho nước ấy.

Lúc ấy tướng Xiêm là Phi nhã Rồng Mang, Phi nhã Na Trật và Phi nhã Ba Lạc Ân Gò Rạch đem đại binh đến đóng ở Bắc Tầm Bôn. Nặc Ong Chăn xin binh bảo hộ. Ngày mùng 7 tháng 12, Nhơn Quận công tiến quân đến dinh La Vách (chỗ ở của Quốc vương Cao Miên) để trù tính việc ngoài biên, quân Xiêm thấy thế nên đóng yên không dám khinh động. Ngày 14 tháng Giêng niên hiệu Gia Long thứ 10 (1811), Nhơn Quận công đem quân về thành Gia Định.

Ngày 16 tháng 12 mùa đông năm Tân Mùi (1811), niên hiệu Gia Long thứ 10 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 16), Nặc Ong Nguyên đang đêm trốn qua trú ẩn ở phủ Phủ Lật, phần nhiều các tội thần của Cao Miên đang ẩn trốn đều theo về với y. Nặc Ong Chăn sai bọn Rạch Y Giá Thiên lần lượt đến đón, Nặc Ong Nguyên chống lệnh, lại còn bắt giữ bọn Thiên <19b>, mặt khác lo sửa sang binh bị và cho đòi lại đất 3 phủ Ca Gò, Phủ Trông (<55><55>) và Phủ Trong. Nặc Ong Chăn rất lo sợ bèn đem việc ấy khai báo. Thành Gia Định ủy cho trấn thủ Định Tường là Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đem 500 (?) quân đến dinh La Vách giả vờ đốn gỗ, thực ra đó là kế sách bảo hộ Cao Miên. Lúc ấy vua Xiêm sai thêm Phi nhã Nhum Ba Lạc làm Đại tướng quản lĩnh binh tướng của bọn Phi nhã Thái Nam đem quân tiếp đến Bắc Tầm Bôn, khí thế rất hung hăng.

Ngày 24 tháng 3 mùa xuân năm Nhâm Thân (1812), niên hiệu Gia Long thứ 11 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 17), tướng Xiêm Phi nhã Nhum (<56><56>) Ba Lạc chia quân ra làm 2 đạo thủy lục tiến thẳng đến dinh La Vách, Thoại Ngọc hầu đem quân binh ngăn lại khiến chúng không dám xâm phạm. Ngày 28, Nặc Ong Chăn <20a> đưa môn quyến xuống thuyền rồi giục bọn bề tôi chạy xuống đạo Tân Châu, em của Nặc Ong Chăn là Nặc Ong Yêm và Nặc Ong Đuông thì trước đêm 29 đã đầu hàng quân Xiêm, gặp lúc ấy viện binh của Gia Định vừa đến, hộ tống đưa Nặc Ong Chăn về thành (Tân Châu). Thoại Ngọc hầu thống quản đồn Oai Viễn, còn Dung Ngọc hầu Nguyễn Văn Dung thì đóng ở xứ Lò Yêm, trấn thủ Vĩnh Thanh là Tường Quang hầu Lưu Phước Tường đóng ở đạo Châu Đốc để gìn giữ nơi địa đầu. Quân Xiêm đóng tạm tại Vũng Long, niêm phong kho tàng, sửa sang thành lũy, không có ý tiến quân.

3c. Cương Vực Chí

Ngày 15 tháng 4, quan quân bố trí Nặc Ong Chăn ở tại một ngôi dinh thự bên bờ sông cái cạnh phía đông thành (Tân Châu), còn bọn tùy tùng như bề tôi, binh lính, trai gái lớn nhỏ đều được cấp tiền gạo đầy đủ.

<20b> Ngày 15 tháng Giêng mùa xuân năm Quý Dậu (1813), niên hiệu Gia Long thứ 12 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 18), nước Xiêm sai sứ là Phi nhã A Ha Mặc và Phi nhã Lạc Đô Tha Sá Thông Sừ đến thành Gia Định trình quốc thư rồi theo đường trạm đến kinh đô bái kiến. Đại để trong thư viết: Nặc Ong Chăn với Nặc Ong Nguyên vốn tình thân anh em ruột thịt nhưng họ đã không có lòng hiếu hữu. Khi Nặc Ong Nguyên chạy trốn qua phủ Phủ Lật để chỉ xây dựng kế phòng thân, thì Nặc Ong Chăn lại cho quân truy nã rất gắt, gây thành cuộc đánh giết lẫn nhau. Chỉ vì sợ tổn thương tình máu mủ mà lại phụ nghĩa vun bồi của hai nước (Xiêm - Việt) mình, nên nước chúng tôi mới sai trọng thần thân tín đến nơi để hòa giải, ngờ đâu Nặc Ong Chăn bỏ nước mà đi, đành phải niêm phong kho tàng, sửa sang thành lũy để đợi y trở về.

<21a> Ngày 15 tháng 2, vua hạ chiếu cho Tổng trấn thành Gia Định là Chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân Duyệt Quận công Lê Văn Duyệt và Hiệp tổng trấn Thượng thư bộ Công là Tĩnh Viễn hầu Ngô Nhơn Tĩnh rằng: Trong thư của vua Xiêm, lý tình rất thuận hòa đôn hậu, các khanh nên sửa soạn thuyền bè binh bị để cùng sứ nước Xiêm đưa Nặc Ong Chăn về nước.

Ngày mồng 3 tháng 4, Duyệt Quận công và Tĩnh Viễn hầu thống lãnh thuyền chiến và 13.000 quân cùng với sứ nước Xiêm là bọn Phi nhã A Ha Mặc hộ tống Nặc Ong Chăn lên đường. Vua cấp cho tiền đi đường là 5.000 quan, ban lúa kho là 20.000 phương và bạc thỏi trị giá 10.000 quan để chi dùng. Ngày 14, quan quân đến dinh La Vách cùng hội kiến với các tướng Xiêm là Phi nhã Phì Sai Phủ Liên Tra và Phi nhã Phì Phạt Phạt Cô Sả để sửa sang sắp đặt mọi việc.

<21b> Ngày 18 tháng 7, quân ta đắp xong thành Nam Vang rồi rước Quốc vương đến ở, tướng nước Xiêm bàn giao kho tàng thành lũy xong rồi triệt binh về nước. Các em của Quốc vương là Nguyên, Yêm và Đuông thì đã ngầm trốn sang Xiêm La từ trước. Tháng 8, giao Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu cùng 1.500 quân ở lại để bảo hộ nước Cao Miên. Ngày 16, Duyệt Quận công và Tĩnh Viễn hầu dẫn toàn quân khải hoàn. Vậy là nhờ vào oai phúc của triều đình mà Xiêm La phải kính phục, từ đó tình giao hảo láng giềng càng tốt đẹp, nước Cao Miên cũng do đó mà được yên ổn.

Ngày 26 tháng 8, dựng đài An Biên ở xứ Ngỗi Tràng Oa, trên đài dựng nhà Nhu Viễn, đến những ngày lễ như Tết, Trừ tịch, Đoan dương, Vạn thọ, ngày rằm mồng một thì vua tôi nước ấy đến trước tiền đường chiếu theo nghi thức để làm lễ vọng bái.

Ngày 25 tháng 9, vua ban dụ cho Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại và Tham tri bộ Binh là Đàn Ngọc hầu Trần Văn Đàn đóng quân giữ thành Nam Vang để bảo vệ cho nước Cao Miên. Ngày mùng 5 tháng 10, đồn Lò Yêm được xây xong, lấy đó làm nơi chứa tiền và lương thực cho các súc. Ngày mùng 2 tháng 12, vua ban triều phục cho Nặc Ong Chăn như khăn bịt đầu nạm vàng, áo mãng bào màu hồng và đai lưng có đính ngọc.

Ngày mùng 6 tháng 7, mùa thu năm Bính Tý (1816), niên hiệu Gia Long thứ 15 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 21), vua ban quan phục cho các quan văn võ nước Cao Miên. Từ đó y phục, đồ dùng của quan dân nước Cao Miên đều bắt chước theo phong tục Tàu (<57><57>), các man tục như mặc áo xỏ qua đầu, dùng vải vận làm quần (xà rong), quì dài mà lạy, bốc cơm ăn đều đổi bỏ cả.

<22b> CƯƠNG VỰC CỦA TOÀN THÀNH

Gia Định là đất Chân Lạp xưa, phía đông nam giáp với biển, có tất cả 17 hải cảng lớn, đó là: Xích Ram, Tắc Ký, Cần Giờ, Đồng Tranh, Lôi Lạp (Soi Rạp), Cửa Đại, Cửa Tiểu, Ba Lai, Băng Côn (Cung), Ngao Châu, Cổ Chiên, Ba Thắc, Mỹ Thanh, Hào Bàn (Gành Hàu), Long Xuyên, Kiên Giang và Hà Tiên, còn các cửa nhỏ thì nhiều gấp đôi. Tuy vậy các cửa này do bùn cát nên khi mở khi lấp, khi cạn khi sâu, dời đổi bất thường. Ở đây sông ngòi lại chằng chịt như mắc cửi, nếu không phải là thổ nhân quen thuộc thì ắt bị lạc hố, lộn bờ. Duy cảng Cần Giờ phía đông Nam có núi Thát Sơn (tục gọi là núi Gành Rái) che quanh ở ngoài, Thuyền Úc (tục gọi là Vũng Tàu) là vũng lớn ở trong, lòng cảng vừa sâu vừa rộng, bốn mùa tám hướng gió đều yên ổn, không lo nạn cát ẩn và đá ngầm cũng như sóng to gió cả, <23a> các nước đều khen đây là một hải cảng tốt bậc nhất. Phía ngoài biển của núi Thát Sơn có chỗ giới hạn nước quợn tụ, gọi là hải chẩn (<58><58>) (tục gọi là giáp nước), lúc mùa gió nam thì giáp nước dời sang bắc, lúc mùa gió bắc thì giáp nước dời vào nam, thuyền bè đi lại từng biết giới hạn ấy thì sẽ tránh trước, khỏi gặp tai nạn.

Phía tây bắc giáp với vùng sơn man Cao Miên, phía tây từ Lào đến phủ Sơn Bô của Cao Miên toàn núi non trồi hụp, xuyên qua ruộng đồng eo đất, chạy ven Đại Giang của Cao Miên (tục gọi Sông Lớn) từ xa mà đến, rồi giữa đất bằng bỗng nổi lên ngọn núi Bà Đinh (Đen), chằm ao giăng ngang, cỏ tạp bùn sâu, đường lát bằng cây cũng không đi được. Từ đó mà chuyển qua phía bắc thì núi rừng tốt tươi trải dài ngàn dặm, tại đó các động sách của dân man chia nhau để ở và chịu tô thuế.

Phía bắc giáp với núi Thần Mẫu (tục gọi là mũi Bà Kéc) (<59><59>) của trấn Bình Thuận. Từ đông qua bắc núi rừng <23b> trùng điệp kéo dài cả ngàn dặm, ở đó có những sóc, mường, động, sách của các dân tộc man đã thuần thuộc, trong những dãy núi cao ở phía bắc còn có những tộc người mọi rừng chưa được thấm nhuần thanh giáo. Phía nam giáp với Cao Miên, có 4 đạo trấn giữ là Quang Hóa, Tuyên Oai, Tân Châu, và Châu Đốc, lấy sông Tiền, sông Hậu làm hào tự nhiên và kéo dài tiếp với đất 5 phủ của trấn Hà Tiên và Lình Quỳnh, Chơn Giùm, Sài Mạt, Cần Vọt, và Vũng Thơm.

Thành Gia Định này từ đông sang tây cách nhau 352 dặm rưỡi, đi hết 5 ngày đường, từ nam đến bắc cách 742 dặm rưỡi, hết 10 ngày đường. Từ thành lớn Gia Định đến kinh đô (Huế) cách 2340 dặm rưỡi, hết 30 ngày đường, đến biên giới Cao Miên cách 447 dặm, hết 7 ngày đường. Thành có nhiệm vụ trông coi các việc binh dân, thuế dịch, và hình án của năm trấn: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên, đồng thời còn kiêm lãnh đạo từ xa thêm trấn Bình Thuận ở phía bắc. Phàm việc binh thì do thành chỉ huy, còn các việc thuế dịch, hình án khác <24a> thì các trấn tự sắp đặt.

Đất Gia Định là nơi có núi sông hiểm yếu, quân mạnh lương nhiều, dân giỏi nghề chèo thuyền, sai khiến được các man dân, khống chế được cả hai nước Xiêm La và Chân Lạp, đây còn là nơi tụ hội người của các nước nên đã làm thành một miền Nam hùng mạnh của nước Việt ta.

Chú thích:
(<1><1>) 9 châu (xem chú thích Cửu châu ở trước).

(<2><2>) Hạ Trùng: Thiên Trang tử, Thu thủy chép: Hạ trùng bất khả dĩ ngữ vu băng giả đốc ư thời dã, nghĩa là: con sâu cái trùng chỉ sống có mùa hạ không thể nói tới băng tuyết mùa đông, luôn chịu thời gian khống chế.

(<3><3>) Tỉnh oa: Theo Hậu Hán thư: Công Tôn Thuật xưng đế đất Thục, Ngỡi Ngao bảo Mã Viện đến dò xét. Mã Viện nói với Ngỡi Ngao rằng: "Tử Dương (Thuật) là con ếch ngồi đáy giếng, mà cuồng vọng tự tôn tự đại, chi bằng ta quyết ý đi về Đông".

(<4><4>) Ngao túc: Theo Từ Nguyên: Sách Sử ký, bổ Tam Hoàng ký: "Họ Cung Công đánh Chúc Dung thua trận nổi giận húc đầu vào núi Bất Chu làm trụ trời gãy. Bà Nữ Oa phải chặt đứt bốn chân con ngao (một loại rùa) để làm bốn cột chống".

(<5><5>) Hồng trảo: Hồng trảo do câu nói xưa Hồng trảo ấn tuyết nê, tức "móng chim hồng còn in trên tuyết", ý nói việc xưa còn in dấu tích.

(<6><6>) Giao Chỉ (交趾): Thông thường chỉ quận huyện phía nam trong các đời Tần, Hán, Tùy, Tống. Chữ chỉ (趾) đồng nghĩa chữ túc (足), tức cái chân. Sách Trung Quốc nói người Nam Man khi ngủ đầu ló ra ngoài hai chân giấu bên trong và giao lại cho nên mới gọi là Giao Chỉ. Có sách nói người Giao Chỉ khi đi, hai đầu ngón chân cái giao đụng nhau là nhầm lẫn. Từ Giao Chỉ thường chỉ miền Bắc bộ của Việt Nam. Thật ra chữ Giao Chỉ trong đoạn văn nầy của GĐTTC không phải chỉ riêng quận Giao Chỉ của các đời Tần, Hán tức nước Việt Nam thời xa xưa mà theo sách Đường nghiêu, Nam phủ Giao Chỉ thì Giao Chỉ là dãy đất phía nam nằm ngoài Ngũ Lĩnh của Trung Quốc.

(<7><7>) Trường Giang: Nguyên văn chỉ viết trơn chữ Giang (江), vì sông Trường Giang khi xưa gọi một tiếng là Giang (江) hay Giang thủy (江水). Nhân do đời sau gọi chung các sông lớn là giang, sợ có lầm lộn, người ta phải gọi sông Giang là Trường Giang (長江).

(<8><8>) Việc hóa dục phương Nam: Nguyên văn viết Bình sất Nam ngoa (平抶南訛). Chữ ngoa (訛) đồng nghĩa với hóa (化). Bình sất Nam ngoa là "sắp xếp lại việc hóa dục phương Nam". Điển trong Kinh Thi Bình sất nam ngoa. Truyện: "Bình tập Nam phương hóa dục chi sự".

(<9><9>) Đồ Sơn (塗山): Là nơi vua Vũ đi tuần thú phương Nam hội chư hầu, mà cũng là nơi vua Vũ cưới Đồ Sơn nữ. Về vị trí địa lý có ba thuyết: a. Nay thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang; b. Nay thuộc Ba Huyện, tỉnh Tứ Xuyên; c. Nay thuộc huyện Hoài Viễn, tỉnh An Huy. Sách Thanh nhất thống chí cho rằng vua Vũ cưới vợ ở núi Đương, Đồ Thọ Xuân chớ không phải núi Đồ Sơn ở Giang Châu.

(<10><10>) Hà Nam tỉnh (河南省): Ở Trung bộ nước Trung Quốc, đại bộ phận đất đai tỉnh nầy là ở phía nam sông Hoàng Hà cho nên mới gọi là Hà Nam (ở phía nam sông Hoàng Hà). Hà Nam xưa gọi là Dự Châu, gọi tắt là Dự. Vì Dự Châu ở ngay trung tâm của Cửu Châu nên cũng còn gọi là Trung Châu (cũng gọi là Biện Lương).

(<11><11>) Nguyên văn bản in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép 1.164 năm là nhầm; thời khoảng nầy đúng là 4.164 năm.

(<12><12>) Mông Cổ (蒙古): Vị trí ở phía bắc nước Trung Quốc, Đông giáp tỉnh Đông Cửu, Tây giáp Tân Cương, Nam giáp Hà Bắc, Sơn Tây, Lũng Tây, Cam Túc. Bắc giáp vùng băng giá Tây Bá Lợi Á (Sibérie) của nước Nga. Thời mạt Tống, Mông Cổ xưng quốc hiệu là Nguyên, Nam hạ thống nhất nước Trung Quốc, sau bị Châu (Chu) Nguyên Chương đánh bại lập nhà Minh. Kể từ khi nhà Đại Thanh thống nhất nước Trung Quốc, Mông Cổ tùng phục nhà Thanh. Nay Mông Cổ là một quốc gia độc lập (từ năm 1921).

(<13><13>) Mãn Châu (滿洲): Mãn Châu nguyên là tên một bộ tộc, sau gọi luôn thành tên đất. Thật ra bộ tộc nầy ở phía đông của Trường Bạch sơn tại Ngạc Đa Lý Thành, vốn là bộ tộc Nữ Chân của Trung Quốc. Thái Tổ nhà Thanh từng gọi tên nước là Kim, tức Hậu Kim, đến đời Thái Tông mới gọi là Đại Thanh, từ phương bắc vào chiếm Trung Quốc. Nay là một vùng đất của Trung Quốc.

(<14><14>) Tây Dương (西洋): Có hai nghĩa: Một, chỉ chung các nước Thái Tây, tức Âu Mỹ, không phải nghĩa trong ngữ cảnh đoạn nầy; Hai, là chỉ quần đảo Nam Dương (Indonésia). Xét sách Minh sử, Trịnh Hòa truyện, vua sai Trịnh Hòa và Vương Cảnh Hoằng thông sứ với Tây Dương. Xét chuyện Trịnh Hòa 7 lần đi sứ xuống miền Tây Dương thì phần lớn lãnh thổ Tây Dương thuộc Nam Dương quần đảo (Indonésia) ngày nay. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

(<15><15>) Thổ Lỗ (土魯): Tức Thổ Lỗ Phiên (土魯潘) là vùng đất tại Tân Cương mà đời Nguyên hay phong các Thân vương cai trị nơi đó. Đời Minh đặt thành Ngoại Phiên. Thanh sơ đặt thành Nội Phủ. Cuối đời Thanh thuộc Trực Lệ sảnh thuộc Tân Cương. Nay đổi thành huyện trực thuộc Địch Hóa.

(<16><16>) Lưu Cầu (琉球): Vị trí phía nam Nhật Bổn (Bản), đông bắc Đài Loan, bao gồm 50 hòn đảo ở Xung Thằng. Đời Thanh, Lưu Cầu giao thiệp với Trung Quốc. Hoàng đế nhà Thanh từng phong cho Tù trưởng Lưu Cầu làm Trung Sơn vương. Sau toàn thể quần đảo nầy thuộc Nhật Bổn. Đời Quang Tự nhà Thanh, Nhật Bổn chiếm nước nầy đặt thành huyện Xung Thằng. Sau đệ nhị thế chiến, đảo nầy do Mỹ cai quản một thời gian.

(<17><17>) Lữ Tống (呂宋): Tức Luzon, là đảo lớn nhất của quần đảo Philippines, diện tích 106.110 km2. Trong đảo có nhiều núi non, dài theo mé biển đất đai phì nhiêu. Thủ đô là Manila.

(<18><18>) Thời xưa khi chưa có chữ, sử quan thường dùng dây thắt nút làm ký hiệu để chép sự việc, dĩ nhiên từ rất hạn chế, không thể ghi được đầy đủ.

(<19><19>) Chân Lạp (真臘): Chân Lạp (Chenla) là tên người Trung Quốc đời Tùy và đầu đời Hán gọi người Khơme, nhưng thật ra cũng không có gì chính xác. Đời Hán người Trung Quốc gọi Khơme là Phùnam (Funan). Đến đời Nguyên lại gọi Cát Bột Trí hay Cam Bột Trí. Từ niên hiệu Vạn Lịch về sau gọi là Campuchia. Tên nước Chân Lạp lần đầu tiên thấy chép trong truyện Chân Lạp ở sách Tùy thư, ghi ban đầu là thuộc quốc của Phùnam. Còn theo Tân Đường thư ở đoạn Hạ Chân Lạp truyện thì: "Khoảng sau đời Thần Long (705-706) Chân Lạp chia làm hai bộ phận: Phía bắc có nhiều núi non gọi là Lục Chân Lạp. Nửa nước phía nam, men theo bờ biển, đất bùn đầm lầy gọi là Thủy Chân Lạp. Đất đai Thủy Chân Lạp (Chenla of the Water or Lower Chenla) bao gồm đất đai cũ của Phùnam, thủ đô là Vyadhapura, nay là Akơr Bonei. Đất đai của Lục Chân Lạp (Chenla of the Land or Upper Chenla) bao gồm đất Chân Lạp cũ, thủ đô ở Sambhor, bao gồm vùng trung du sông Mêkông và từ núi Dagretk trở về phía bắc."

(<20><20>) Nặc Ong Chăn tức Neac Ang Chan, em của vua Ponhya Nu, đảo chánh năm 1642 giết cả triều thần. Để lấy lòng nhóm Hồi giáo Cham-Malay giúp mình lên ngôi, Chăn đổi tên Ibrahim, cưới một người Mã Lai làm vợ.

(<21><21>) Nặc Ong Chăn là vua của Chân Lạp, khi xâm phạm Việt Nam đã đóng binh tại thành Mô Xoài (Bà Rịa sau nầy). Vùng Thủy Chân Lạp của Cao Miên vào thời khoảng 1658 nầy, phía bắc đất Phù Nam cũ, tức phía nam Chiêm Thành gần tới Khánh Hòa, Phú Yên, rất khớp với lời chú thích của Trịnh Hoài Đức: "Trấn Biên tức ải địa đầu của đàng Trong Nam hà là Phú Yên" chớ chưa phải Biên Hòa. Khớp thứ hai nữa là quân phải đi trong hai tuần tức 20 ngày mới tới thành Mô Xoài (Bà Rịa) đánh bắt Nặc Ong Chăn.

(<22><22>) Hành tại: Chỗ vua chúa đi tuần thú tạm ở gọi là hành tại, cung đang ở gọi là hành cung.

(<23><23>) Hộ tống về nước: Tức đưa về nước Chân Lạp trên Nam Vang.

(<24><24>) Nước Cao Miên: Nước Cao Miên nầy là nước Lục Chân Lạp do vua Nặc Ong Non cai trị.

(<25><25>) Niên hiệu Cao Miên.

(<26><26>) Tiệp văn: Sớ tâu tin thắng trận lên vua.

(<27><27>) Có người cho gọi đủ là Giản bộ Trại, nhưng vì chữ giản柬và chữ đông東tự dạng rất giống nhau nên có nhiều sách đã chép là Đông Phổ hoặc Đông Phố.

(<28><28>) Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài.

(<29><29>) Vương Tuấn đời Tấn dùng bè lửa đốt cháy xích sắt của quân Ngô giăng ngang sông, khiến Ngô chúa Tôn Hạo phải đầu hàng (Tam Quốc Chí).

(<30><30>) Không rõ Nguyễn Hữu Hào sanh năm mấy, chỉ biết ông tạ thế năm 1713.

(<31><31>) Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (禮成候阮有鏡) sanh năm 1650 mất năm 1700; quê làng Giạ Mưu (có sách chép: Gia Miêu), huyện Tống Sơn, Thanh Hóa (có sách nói Quảng Bình).

(<32><32>) Nguyên văn Khổn súy (閫帥). Khổn là cổng thành ngoài. Sách Sử ký có câu: "Khổn dĩ nội quả nhân chế chi, khổn dĩ ngoại tướng quân chế chi", nghĩa là: "Từ cổng thành ngoài trở vào thì quả nhân coi xét, từ cổng thành ngoài trở ra thì tướng quân coi xét". Nay gọi vị quan thống lãnh đại binh ở cõi ngoài, xa kinh đô là Chuyên khổn hay Khổn súy.

(<33><33>) Bởi nhũ danh của Mạc Thiên Tứ là Tông cho nên tước phong cho ông là Tông Đức hầu.

(<34><34>) Chữ Nôm nguyên văn viết茫đọc là mương, còn chữ mường phải viết là q nhưng đọc là "mường" mới hợp nghĩa.

(<35><35>) Nguyên văn chỗ này có bản chép Gò Bắp (r hay s ) có bản chép Gò Chua (墥珠). Nguyễn Tạo ghi là Gò Vấp chưa đúng, gây hiểu nhầm Gò Vấp ở Gia Định, trong khi Gò Bắp ở đây thuộc Tây Ninh ngày nay. Có người chép là Gò Vầu e không ổn, vì không thấy tự điển Nôm nào có chữ Vầu cả. Cả hai cuốn tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi và Vũ Văn Kính đều ghi là bắp, chữ r cũng còn viết là s.

(<36><36>) Tầm Đôn - Soi Rạp: Đất thuộc Thủy Chân Lạp.

(<37><37>) Định Viễn châu (定遠洲): Tên cũ đất Vĩnh Long đời đàng cựu gồm hai huyện Vĩnh Bình tức Long Hồ Trà Vinh và Vĩnh Trị tức Vũng Liêm.

(<38><38>) Như Khổn súy (xem chú thích phần trước).

(<39><39>) Trà Vinh - Ba Thắc: Đất thuộc Thủy Chân Lạp.

(<40><40>) Tầm Phong Long: Đã chú thích ở trước.

(<41><41>) Tầm Bao (尋u): Là vùng đất chạy dài từ Long Hồ qua Sa Đéc lên tận Châu Đốc. Có lẽ Tầm Bôn cũng là đất nầy.

(<42><42>) Cù lao Giêng: Đã chú thích ở trước.

(<43><43>) Rạch Giá (瀝架): Giá đây không phải là cọng giá mà là một loại tràm bông trắng, ong ăn bông nầy cho sáp thật trắng.

(<44><44>) Phi nhã Chất Tri là Phya Chakkri, Đại tướng, sau trở thành vua Xiêm (Phật vương) Rama I. Dòng họ Chakkri làm vua Thái Lan cho tới ngày nay. Các vua đều xưng là Rama I, Rama II v.v...

(<45><45>) Nguyên văn thất chính (失政) là nhà vua trị nước không có chính lịnh, không đúng phép chính trị làm mất lòng dân.

(<46><46>) Chiêu trùy: Là tên gọi một chức quan to của Khơ me như Phụ chính đại thần.

(<47><47>) Đoạn này có thể Trịnh Hoài Đức nhắc lại chuyện cũ (Bt).

(<48><48>) Battambang.

(<49><49>) Nguyên văn viết匿螉墩đọc là Nặc Ong Đuông (chữ墩có nghĩa là con đuông, còn viết là F).

(<50><50>) Ô Đỗ Phù Ma (烏肚扶魔): Tức nước Miến Điện, nay đổi là Myanma, người phương Tây gọi nước nầy là Burma, Barma, Birma, đều là do từ Brahma chuyển âm thành. Nước Phù Ma nầy phía đông bắc giáp với Vân Nam, Tây Tạng của Trung Quốc, phía tây giáp Ấn Độ và Pakixtan, phía đông giáp Thái Lan và Lào, phía nam giáp vịnh Bengal. Thời xưa, Phù Ma và Xiêm thường xảy ra chiến tranh biên giới. Còn Ô Đỗ tức Bụng Đen là do người Miến Điện thích xâm bụng ngực bằng chàm đen các hình tượng thường liên quan đến sự tích Phật giáo.

(<51><51>) Ốc nha Cao la hâm (屋牙高羅歆): Ốc nha Cao la hâm không phải tên vị Ốc nha là Cao La Hâm. Ốc nha Cao la hâm là tên một chức quan to ở triều đình Khơ me được mặc áo đỏ, thường phụ trách bộ hải quân. Cao la hâm là đọc trại tiếng Khơ me Kralahâm có nghĩa là màu đỏ.

(<52><52>) Ốc nha Ca tri (屋牙伽知): Ốc nha Ca tri cũng là tên một chức quan của Cao Miên.

(<53><53>) A phi phù biệt (阿丕扶別): A phi phù biệt cũng là một chức quan to của Cao Miên, tương đương như Nhiếp chính vương.

(<54><54>) Tổng trấn Chưởng chấn võ quân Nhơn Quận công (總鎮掌振武軍仁郡公): Đây không phải Phương Quận công Đỗ Thanh Nhơn, chúa Đông Sơn, mà là Tổng trấn thành Gia Định Nguyễn Văn Nhân, hay đọc theo trong Nam là Nguyễn Văn Nhơn.

(<55><55>) Phủ Trông (府x): Bản lưu trữ ở VHN chép x, còn bản in kèm bản dịch của VSH chép là y và đọc là lùng. Cả hai chữ x và y đều không thấy chép trong các từ điển chữ Nôm. Đọc lùng không đúng vì chữ lùng tức cỏ lùng phải viết là | , đọc trông cũng không đúng vì trông phải viết } ,~ hoặc |. Vậy xin đọc tạm là Trông.

(<56><56>) Nguyên văn viết W tra không thấy ở các tự điển chữ Nôm. Đọc Nhẫm cũng không ổn, vậy xin đọc tạm Nhum.

(<57><57>) Hoa phong (華風): Trong GĐTTC, từ Hoa nhân chỉ người Việt, Đường nhân chỉ người Hoa, nhưng từ Hoa phong lại chỉ phong tục của người Trung Quốc. Ở ngữ cảnh nầy, cách ăn mặc của người Khơ me bắt chước phong hóa người Hoa, tức bắt chước trực tiếp cách ăn mặc của người Việt ta, vì người mình trước đó đã bắt chước ăn vận theo phong hóa Trung Quốc.

(<58><58>) Hải chẩn (海畛): Nguyên văn bản VHN viết ¤ không thấy trong từ điển chữ Hán, chữ Nôm. Nguyên văn in kèm bản dịch của nhóm dịch giả VSH viết ¤ cũng không thấy trong tự điển chữ Hán, chữ Nôm. Theo chúng tôi đây là chữ chẩn畛bị sao chép nhầm. Chữ chẩn (畛) nầy có nghĩa là bờ ruộng, là lằn ranh phân chia các thửa ruộng. Trong ngữ cảnh nầy, chữ chẩn là lằn ranh phân chia các luồng nước. Vậy hải chẩn là lằn ranh phân chia luồng nước trên biển, coi như "bờ nước" trên biển vậy.

(<59><59>) Nguyên văn viết: $婆G tức "Mũi Bà Khịt". Chữ Nôm G nầy Thượng Tân Thị đọc là Hét, Đào Duy Anh đọc là Khế. Chúng tôi tra Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi đều phiên âm là Khịt nhưng viết là H. Tuy nhiên, Trương Vĩnh Ký, trong PCGPC cho núi nầy có tên cũ đọc theo tiếng Miên là Phnom Sek, có nghĩa núi Kéc (tự điển Miên - Pháp của T.B. Bernard dịch Sek là "perroquet" có nghĩa là con Kéc). Như vậy phải chăng núi này có tên trong thư tịch là Bà Khịt và được người địa phương gọi theo tên cũ của Miên là Bà Kéc? Cũng cần nói rõ thêm là bản đồ của Taberd in năm 1838 cũng ghi mũi nầy là mũi Bà Kéc. Ngoài ra, nguyên văn in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo lại chép là潔 và dịch giả Tu Trai đọc là Khiết.

3d. Trấn Phiên An

Trấn Phiên An đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ thông thương. Phía bắc giáp với trấn Biên Hòa, phía trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông Thủ Đức) đến Bình Giang (thuộc huyện Bình Dương, tục gọi là sông Bến Nghé) chuyển rẽ xuống ngã ba cửa Phù Gia (tục gọi là ngã ba sông Nhà Bè) rồi đổ thẳng ra cửa biển Cần Giờ <24b>, bờ nam của sông là địa giới trấn Phiên An. Phía nam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong, về phía tây đến Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, chuyển xuống đông đến Vũng Gù, qua Tra Giang rồi ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp), dùng bờ bắc của sông này làm địa giới trấn Phiên An.

Trấn Phiên An phía đông là biển, phía tây giáp đất Cao Miên, ngăn chặn người man núi, gối vào chằm phá đông tây cách nhau 352 dặm, nam bắc cách nhau 107 dặm. Trấn này buổi đầu mới lập gọi là dinh Phiên Trấn, trông coi 1 huyện 4 tổng, lỵ sở đóng tại thôn Tân Lân, tổng Bình Trị, huyện Bình Dương ngày nay.

Ngày 12 tháng Giêng năm Mậu Thìn (1808), niên hiệu Gia Long thứ 7, đổi thành trấn Phiên An, rồi lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, đó là căn cứ theo thế đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít và địa thế liên lạc mà phân bổ cho đồng đều, lại còn đặt thêm tên các tổng và lập ra giới hạn.

Năm Tân Mùi (1811), niên hiệu Gia Long <25a> thứ 10, dời lỵ sở đến đặt ở chợ Điều Khiển (tức chỗ cũ của Đồn Dinh) tại xóm Tân Mỹ.

Năm Bính Tý (1816), niên hiệu Gia Long thứ 15, lại đổi lỵ sở qua thôn Hòa Mỹ, cặp theo phía bắc thành Gia Định, có nhiệm vụ trông coi 1 phủ, 4 huyện, 8 tổng, danh mục đổi thay của các phủ, huyện, tổng, xã, phường, thôn được liệt kê sau đây (trong bảng kê này chỉ căn cứ vào người ở đó có ruộng đất trong xã thôn mà kê ra, ngoài ra còn hạng người gọi là biệt nạp, biệt tính, có thuế dịch mà không có đất riêng thì gọi là ngụ cư, danh mục hộ khẩu ở đây còn nhiều, chưa gộp hết vào đây). Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

PHỦ TÂN BÌNH (Trước là huyện, nay cải đôn lên làm phủ)

Lãnh 4 huyện, 8 tổng, 460 xã, thôn, phường, xóm, ấp, điếm.

<25b> HUYỆN BÌNH DƯƠNG (Xưa là tổng nay đổi làm huyện)

Lãnh 2 tổng, 150 xã, thôn, phường, lân, ấp. Phía đông giáp với biển Cần Giờ, Soi Rạp; phía tây vượt qua chằm phá tiếp với miền man núi; phía nam giáp với ngã ba Thị Phổ thuộc tổng Tân Phong huyện Tân Long, ngược dòng Rạch Ong Nhỏ đến Cống Môn chợ Tân Kiểng (tục gọi là chợ Quán) cho đến hồ Lão Nhông (Đống) (<1><60>); phía đông nam giáp với tổng Lộc Thành, huyện Phước Lộc (Cần Giuộc); phía tây nam giáp với tổng Bình Cách, huyện Thuận An.

TỔNG BÌNH TRỊ

(Mới đặt. Chữ huyện nguyên là chữ huyền, huyền có quan hệ với chữ phủ. Chữ tổng là tụ họp lại. Làng mạc ở phân tán, phải tập hợp lại và cho thuộc vào huyện)

Tất cả có 76 xã, thôn, phường, lân, ấp. Phía đông giáp với Bình Giang đoạn từ sông trước thành dọc đến kho Gian (Quản) Thảo (Cầu Kho); phía tây giáp <26a> đầu suối Bến Lầy (Nẩy?), đến cầu Tham Lương (Hóc Môn) giáp với đằng đông của tổng Dương Hòa; Nam giáp kho Gian (Quản) Thảo qua miếu Hội Đồng (<2><61>) đến cầu Tham Lương; Bắc giáp trấn Biên Hòa, trên từ Đức Giang (sông Thủ Đức) dưới bờ nam Bình Giang (sông Sài Gòn).

• Thôn Long Hưng. • Lân (<3><62>) Thanh Hoa.

• Phường Tân Phước (<4><63>). • Lân An Hòa.

• Thôn Trọng Hòa (xưa là thôn Tân Cang). • Lân Tây Tự (Lưỡng Tự) (<5><64>).

• Phường Tân Lộc trạm sông (giáp Tây) hoặc phường Tân Lộc (giáp Tây) trạm sông.

• Lân Tây Hòa (Lưỡng Tây Hòa) (<6><65>). • Lân Thanh Phú.

• Lân Tân Thuận. • Lân Tân Thuận Nhì.

• Lân Tân Hội. • Lân Tân Hội Nhì.

• Lân Tân Mỹ. • Lân Tân Mỹ Đông. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

• Lân Tân Khánh. • Lân Tân Hòa.

• Lân Tân Thạnh (<7><66>). • Lân Tân Phú.

• Lân Vĩnh Quới • (26b) • Lân Tân Thới.

• Lân Tân Hưng. • Lân Lưỡng Thạnh.

• Lân Tân An. • Lân Tân Lộc.

• Lân Thanh Bình. • Lân Thái Thành.

• Lân Tân Định. • Thôn Nhơn Hòa.

• Thôn Long Điền. • Thôn Tân Khai.

• Thôn Hòa Mỹ. • Thôn Phú Mỹ.

• Thôn Thạnh Đa. • Thôn Mỹ Hội Tân An.

• Thôn Hạnh Thông (<8><67>). • Thôn Hạnh Thông Tây.

• Thôn An Hội. • Thôn Bình Quới (giáp Tây).

• Thôn Thới Hòa. • Thôn Phú Nhuận.

• Thôn Hạnh Phú • Thôn Tân An (giáp Tây).

• Thôn An Thạnh (giáp Trung). • Thôn Cựu Bình Nhan.

• Thôn Hạnh Thạnh. • Thôn An Lộc.

• Thôn An Lộc Đông (An Lộc Tân) (<9><68>). • Thôn An Thạnh (giáp Trung)

• Thôn Cựu Binh Nhan. • Thôn Bình Lý.

• Thôn Bình Lý Đông (Bình Đia Đông) (<10><69>). • Thôn Tứ chiếng Mỹ Đức.

• Thôn Tân Mỹ Đông. • <27a> • Thôn Thái An.

• Thôn Mỹ Thạnh. • Thôn Tân Đông (giáp Đông).

• Thôn Tân Đông (giáp Trung). • Thôn Tân Đông (giáp Tây)

• Thôn An Phước (xưa là thôn Đông Thuận). • Ấp An Hòa.

• Thôn Bình Hòa (mới lập). • Thôn Tân Thạnh Trung.

• Thôn Hưng Thạnh (mới lập) • Thôn Tân Thạnh An (mới lập).

• Thôn Tân Thạnh (giáp Đông). • Thôn Tân Thạnh (giáp Tây).

• Thôn Đức Thạnh. • Thôn Phú Hòa Đông.

• Thôn Định Hòa. • Thôn Nhuận Đức.

• Thôn An Nhơn (giáp Tây) (<11><70>). • Thôn An Bình (mới lập).

• Lân Thái Hòa. • Lân Vĩnh Khánh.

• Thôn Tân Đức. • Thôn Hoa Đăng.

• Thôn Mộc Khôi Mỹ Thạnh hoặc thôn Mỹ Thạnh than gỗ.

TỔNG DƯƠNG HÒA (Mới đặt)

Gồm 74 thôn phường ấp. Phía đông giáp biển; Tây giáp Cao Miên, đi qua chằm phá rồi tiếp với miền man núi; Nam giáp tổng Tân Phong, huyện Tân Long, từ ngã ba Thị Phổ <27b> dọc theo sông Rạch Ong Nhỏ qua Cống Môn chợ Tân Kiểng đến hồ Lão Đống (Nhông); Bắc giáp với sông lớn Phước Bình, từ cảng Cần Giờ ngược dòng đi qua ngã ba Nhà Bè đến sông trước thành; Đông nam giáp tổng Lộc Thành, huyện Phước Lộc; Tây nam giáp bờ đông nam hồ Lão Đống (Nhông) tổng Tân Phong, huyện Tân Long rồi chạy vòng theo núi Bà Đinh (Đen) qua chằm phá tiếp với miền man núi.

• Thôn Bình Định. • Thôn Hòa Thuận Đông.

• Thôn An Phú. • Thôn Mỹ Hòa.

• Thôn Tân Thuận. • Thôn Bình Sơn.

• Thôn An Định. • Thôn An Sơn.

• Thôn An Sơn Đông.

• Thôn Phú Thuận (trước là thôn An Lợi và Hội An, nay hợp nhứt lại).

• Thôn An Thành. • Thôn An Thành (giáp Tây).

• Thôn An Hòa Trung. • Thôn Thanh Tuyền.

• Thôn Thanh Hòa Trung. • <28a> • Thôn Thuận Kiều.

• Thôn Thanh An. • Thôn Trung Hòa.

• Thôn Tứ chiếng Văn Đức. • Thôn Tân Thới (<12><71>) Bình.

• Thôn Tân Thới Đông. • Thôn Tân Thới Tây.

• Thôn Tân Thới Trung. • Thôn Tân Thới Nhứt.

• Thôn Tân Thới Nhì (<13><72>). • Thôn Tân Thới Tam.

• Thôn Tân Thới Tứ. • Thôn Mỹ Toàn.

• Thôn Tân Thới Nhứt (giáp Tây). • Thôn Tân Thới Nhì Tây.

• Thôn Xuân Thới. • Thôn Xuân Thới Tây.

• Thôn Tân Phú (giáp Tây). • Thôn Tân Thông.

• Thôn Tân Thông (giáp Tây). • Thôn Phước An.

• Thôn Vĩnh An. • Thôn An Thuận Tây.

• Thôn Trung Chánh (<14><73>). • Thôn Trung Chánh Tây.

• Thôn Phước Tường. • Thôn Vĩnh An Tây.

• Thôn Tân Lập Trung. • Thôn Tân Thông Trung.

• Thôn Phước Mỹ. • Thôn Vĩnh Hòa (mới lập).

• Thôn Tân Thông An. • <28b>• Thôn Phú Nghĩa.

• Thôn Long Thạnh. • Thôn An Thạnh Cần Giờ.

• Thôn Phú Mỹ Tây. • Thôn Tân Thuận Đông.

• Thôn Tân Vĩnh. • Thôn Tân Hòa Đồng Tranh.

• Thôn Khánh Hội (trước là thôn Tân Hội) phụ Đình Khao.

• Thôn Bình Ý. • Thôn Vĩnh Khánh.

• Thôn Hòa Trung. • Thôn Tân Thạnh.

• Xóm Tứ chiếng ấp Tứ Xuân. • Xóm Tứ chiếng ấp Bình Thuyên.

• Xóm Tứ chiếng ấp Tân An. • Xóm Tứ chiếng ấp Bình Hòa.

• Phường Bình An. • Thôn Tân Kiểng (<15><74>).

• Ấp Tân Châu (<16><75>) Đông. • Phường Đồng Văn.

• Thôn Tân Chánh (trước là thôn Tân Châu). • Thôn Hòa Dương.

• Thôn Phú Hội. • Thôn An Nhơn.

• Thôn Phước Thạnh. • Thôn Mỹ Xuân.

• Thôn Tân Thông (giáp Đông).

HUYỆN TÂN LONG (Xưa là tổng nay đổi ra huyện)

Lãnh 2 tổng, 150 thôn, phường, ấp, xóm. Phía đông giáp (29a) tổng Dương Hòa huyện Bình Dương; Tây giáp Lão Đống (Nhông); Nam giáp sông cái Thuận An (Vàm Cỏ); Bắc giáp ngã ba Thị Phổ, huyện Bình Dương, đến sông Rạch Ong Nhỏ đi qua cửa Cống Môn, chợ Tân Kiểng cho đến cầu Tham Lương (Hóc Môn).

3e. Trấn Phiên An

TỔNG TÂN PHONG (Mới đặt)

Gồm 76 thôn, xã, phường, ấp, xóm. Phía đông giáp ngã ba Khúc Lãng rồi dọc theo ngã ba sông Biên Bức (Bến Lức) đến hạ lưu sông Sa Hà (Rạch Cát); phía tây giáp hồ Lão Đống (Nhông); Nam giáp ngòi Khiêu ở cửa trên sông Sa Hà tổng Long Hưng cho đến thượng nguồn sông Sa Hà (Rạch Cát); Bắc giáp Cống Môn chợ Tân Kiểng cho đến sông Rạch Ong Nhỏ xuống tận ngã ba Thị Phổ.

• Thôn Khánh Hòa. • Thôn Bình Nghi.

• Thôn Tân Hóa. • Thôn Phú Hưng.

• Thôn Long Vĩnh. • Thôn Bình Long.

• Thôn Cựu Phú An (Cựu An Phú ) (<17><76>). • Thôn Tân Phú Hội.

• Thôn Hiệp Ân (<18><77>). • Thôn Thuận An.

• Thôn Tân Nhuận. • Thôn Tiến Lộc.

• Thôn Bình Tây. • Thôn Bình Tiên.

• <29b>• Thôn Bình Đăng. • Thôn Bình Đông.

• Thôn Quang Phục. • Thôn Ngũ Phước.

• Thôn Tân Thuận. • Thôn Bình Lộc.

• Thôn Long Cảnh. • Thôn Hội Đức (mới lập).

• Thôn Hòa Định. • Thôn Tân Đồn.

• Thôn Phú An (<19><78>). • Thôn Tân Liêm.

• Thôn Tân Lạc (giáp Đông). • Xóm Tứ chiếng Phường Tứ Xuân.

• Thôn Vạn Xuân. • Thôn An Phú.

• Thôn Phước Thạnh. • Xóm Tứ chiếng Phường Tiến Đức.

• Thôn Nhơn Mỹ. • Thôn Bình Đức.

• Thôn Tân Phú. • Thôn Phước Lộc Đông (mới lập).

• Thôn Toàn Lộc. • Thôn Tân Quảng.

• Thôn Phú Vinh. • Thôn Tứ chiếng Thái Lộc.

• Thôn Tân An (giáp Tây). • Thôn Tân An (giáp Đông).

• Thôn Tân Long.

• Thôn Giang Trạm Nhơn Nghĩa hoặc thôn Nhơn Nghĩa trạm sông.

• Thôn Tân An Trung. • Thôn Tân Hương.

• <30a> • Thôn An Thới. • Thôn Tân Phú Thạnh Đông.

• Thôn Tân Hưng. • Thôn Tân Khánh.

• Thôn Tân Phú Điền. • Xã Tân An (giáp Đông).

• Thôn Tân Hội. • Thôn Tân Khơ me.

• Xã Tân Lộc. • Thôn Tân Đức.

• Thôn Tân Thạnh. • Thôn Tân Thành.

• Thôn Phú Hữu. • Thôn Tân Phú Lâm.

• Thôn Tân Định (mới lập). • Thôn Bình Quới.

• Thôn Minh Phụng (<20><79>). • Thôn Cựu Phú Lâm. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

• Thôn Tân Định (mới lập) • Thôn Tân Hòa (giáp Đông).

• Thôn Tân Hòa (giáp Tây). • Thôn Bình Hòa.

• Thôn (Sái Phu) Tân An.

• Thôn Tứ chiếng Tân Hòa (giáp Trung, mới lập).

• Thôn Tân Tạo. • Thôn Bình Trị Đông (mới lập).

• Thôn Tân Lộc. • Ấp An Hòa (mới lập)

• Thôn Tân Hòa. • Thôn Tân Lạc Tây (mới lập).

• Xóm Tân Phú Đông.

<30b> TỔNG LONG HƯNG (mới đặt)

Gồm 74 thôn, phường. Phía đông của tổng giáp hạ khẩu sông Sa Hà (Rạch Cát), dọc theo ngã ba sông Cần Giuộc (<21><80>), chuyển qua chợ Thị Đắc ra đến Rạch Chanh; Tây giáp hồ Lão Đống (Nhông) dọc theo ngòi Miễn Mộ thuộc tổng Bình Cách huyện Thuận An; Nam giáp sông lớn Thuận An (Vàm Cỏ); phía bắc giáp với ngòi Khiêu ở tổng Tân Phong cho đến thượng khẩu Sa Hà (Rạch Cát).

• Thôn Mỹ Thuận. • Thôn Mỹ Thuận Tây.

• Phường An Lạc. • Thôn Trung Hưng.

• Thôn Phú Mỹ. • Thôn Thới Bình (mới lập).

• Thôn Tân Hội Đông. • Thôn Tân Kiên.

• Thôn Long Đức (mới lập). • Thôn Tân Nhật.

• Thôn Tân Tảo. • Thôn Tân Bửu (<22><81>).

• Thôn Tân Phú Tây. • Thôn Lương Hòa Tây.

• Thôn Lương Hòa Đông. • Thôn Tân Sơn (giáp nhì).

•<31a>• Thôn Sơn Hòa. • Thôn Bình Hưng.

• Thôn Bình Hưng Đông. • Thôn Bình Thạnh.

• Thôn Tân Hòa. • Thôn Tân Phước Thiện.

• Thôn Lương Phú (mới lập). • Thôn Tân Tảo Tây.

• Thôn Tân Nguyên. • Thôn Tân Hồ.

• Thôn An Trường. • Thôn Bình Trường.

• Thôn Bình Chánh. • Thôn Long Thạnh (mới lập).

• Thôn Bình Thượng. • Thôn Tân Tú.

• Thôn Thạnh Hòa Đông. • Thôn Bình Định Đông.

• Thôn Tân Hưng Tây. • Thôn Bình An.

• Thôn An Phước Tây. • Thôn An Phú Tây.

• Thôn Đức Hòa. • Thôn An Thạnh.

• Thôn Tân Phú An. • Thôn An Mỹ.

• Thôn Mỹ An. • Thôn Tân Phú An Tây.

• Thôn Mỹ Hòa. • Thôn Mỹ Thạnh.

• Thôn Thanh Tuyền. • Thôn Bình Nghĩa.

• <31b>• Thôn Bình Phước. • Thôn Tân Sơn (giáp nhứt).

• Thôn Tân Kim. • Thôn Tứ chiếng Phước Lộc (mới lập).

• Thôn Tân Mỹ. • Thôn Hưng Long.

• Thôn Bình Giao. • Thôn Châu Thới (<23><82>).

• Thôn Tân Kiều. • Thôn Tân Nhiễu.

• Thôn Tân Thủy. • Thôn Tân Quới.

• Thôn Tân Quới Tây. • Phường Phước Tú.

• Thôn Long Thái Đông. • Thôn Sông Tra Tân Thạnh.

• Thôn Mỹ Hạnh (lập lại). • Thôn Phú Thạnh.

• Thôn Tân Câu Tây. • Thôn Minh Đức (lập lại).

• Thôn Tân Liễu. • Thôn Tân Kính.

• Thôn Tân Phong. • Thôn Bình An Tây.

• Thôn Mỹ Hội Đông. • Thôn Quới Hòa (mới lập).

HUYỆN PHƯỚC LỘC

(Nguyên là tổng, nay đổi thành huyện. Khi xưa là tổng Phước Lộc thuộc địa tịch huyện Phước Long của dinh Trấn Biên, sau địa đồ triều đình khâm định rằng để cho liền nhau (32a) nên cho thuộc vào dinh Phiên Trấn, nay cũng giữ y như vậy).

Huyện lãnh 2 tổng, 95 xã, thôn, phường, lân, ấp, xóm. Phía đông giáp hải cảng Soi Rạp; Tây giáp Rạch Chanh thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long; Nam giáp cửa sông Chanh xã Xá Hương (Vàm Cỏ Đông); Bắc giáp cửa sông Loát Giang thuộc tổng Dương Hòa, huyện Bình Dương vòng qua sông Ô Giang chạy đến sông Biên Bức (sông Bến Lức).

3g. Trấn Phiên An

TỔNG PHƯỚC ĐIỀN (mới đặt)

Gồm 48 xã, thôn, phường, lân, ấp, xóm. Phía đông giáp bến ngã ba sông Xá Hương, tiếp đến là cảng Soi Rạp; Tây giáp chợ Thị Đắc và Rạch Chanh; Nam giáp tổng Thuận Đạo huyện Thuận An; phía bắc giáp tổng Lộc Thành.

• Thôn Phước Cơ. • Thôn Long Thạnh Tây.

• Xóm An Xuân. • Thôn Hòa Nghĩa.

• Thôn Tân An. • Thôn Long Phú Đông.

• Thôn Long Định. • Thôn Phước Bình.

• <32> • Thôn Vĩnh Phước. • Thôn Tân Mỹ.

• Thôn Phước Lý. • Thôn Long Hưng.

• Thôn Phước Quảng. • Thôn Phước Toàn Thượng.

• Thôn Phước Toàn Trung. • Thôn Phước Nghĩa.

• Thôn Long Phú. • Thôn Tiến Long.

• Thôn Phước Tịnh. • Ấp Phú Thạnh Đông.

• Thôn Long Hợp. • Thôn Bảo Hòa.

• Thôn Bình An (mới lập). • Thôn Bình Thiện.

• Thôn Nhơn Lợi (mới lập). • Thôn Phú Lợi (mới lập).

• Thôn Long Hựu. • Phường Phước An Đông.

• Phường Phước An. • Xã Tân An.

• Thôn Nhơn Hòa. • Thôn Tân Lân.

• Thôn Phước Thạnh. • Thôn Phước Mỹ.

• Thôn Phước Tường. • Thôn Long Mỹ.

• Phường Mỹ Lệ. • Phường Vạn Phước.

• Thôn Tân Trạch. • Thôn Long Sơn.

• Phường Thạnh Hòa Trung. • <33a> • Thôn Long Hòa.

• Thôn Long Hòa Đông. • Thôn Phước Hưng.

• Thôn Phước Hưng Đông. • Ấp Tân Hòa Tây.

• Thôn Tân Điền. • Thôn Phú Mỹ (mới lập).

TỔNG LỘC THÀNH (mới đặt)

Gồm 47 thôn phường. Phía đông giáp hải cảng Lôi Lạp (Soi Rạp); Tây giáp sông Hắc Khâu (sông Gò Đen) thuộc tổng Long Hưng, huyện Tân Long; Nam giáp sông Xá Hương thuộc tổng Thuận Đạo, huyện Thuận An và men theo cửa rạch Chanh; Bắc giáp cửa sông Cần Giuộc, ngược dòng Nha Ram (Lam) qua sông Kê Quan (Mồng Gà) cho đến bờ nam cầu ngang ở chợ Thị Đắc.

• Thôn An Thuận. • Thôn Long Cang.

• Thôn Long Định. • Thôn Long Kim.

• Thôn Phước Vân. • Thôn Phước Lộc.

• Thôn Long Khê. • Phường Phước Bửu. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

• Phường Phước Hảo. • Thôn Long Toàn.

• Thôn Long Thanh. • Thôn Long Khánh.

• <33b>• Phường Long Diên. • Thôn Phước Toàn.

• Thôn Mỹ An • Thôn Phước Hoa

• Thôn Long Điền • Thôn Long Đức.

• Thôn Phước Lâm. • Thôn Thuận An.

• Thôn Long An (giáp Tây). • Thôn Long An Cựu.

• Thôn Long An Đông. • Thôn Long Vân.

• Thôn Long Kế. • Thôn Long Kế Tây.

• Phường Thanh Tuyền. • Phường Hòa Thuận.

• Thôn Phước Thành. • Thôn Phước Thọ.

• Thôn Thái Bình. • Thôn Long Phước.

• Thôn Mỹ Đức (mới lập). • Thôn Long Hậu Tây.

• Thôn Long Đức Đông. • Thôn Long Phú An (mới lập).

• Thôn Phước Lại. • Thôn Tân Thanh.

• Thôn Vĩnh Khánh. • Thôn Phước Vĩnh Tây.

• Thôn Phước Vĩnh Đông. • Thôn Phước Khoa.

• Thôn Long Phụng. • Thôn Long Thạnh (giáp Đông).

• Phường Tân Châu Phước. • Thôn Thuận An.

• Thôn Hòa Xuân.

<34a> HUYỆN THUẬN AN (Trước đây là tổng Bình Thuận, nay cải thành huyện)

Phía đông giáp sông Xá Hương (Vàm Cỏ Đông); Tây giáp rừng hoang thuộc nguồn Quang Hóa (Trảng Bàng), phủ Tầm Đuông của Cao Miên; Nam giáp sông cái Hưng Hòa thuộc trấn Định Tường, ngược theo dòng Bát Chiên là đến thủ sở đạo Tuyên Oai; Bắc giáp cửa sông Xá Hương, đi lên là sông Thuận An, ngòi Miễn Mộ rồi giáp chằm lớn ở núi Bà Đinh (Bà Đen).

TỔNG BÌNH CÁCH (mới đặt)

Gồm 33 xã, thôn, phường. Phía đông giáp ngã ba Nước Mặn cửa sông Rạch Chanh của tổng Thuận Đạo; Tây giáp nguồn Quang Hóa, chằm lớn núi Bà Đinh (Đen) và phủ Tầm Đuông của Cao Miên; Nam giáp Thuộc Lãng sông Tra Giang của trấn Định Tường; Bắc giáp sông Đôi Ma (Song Ma) (<24><83>), dọc theo sông Thuận An đến ngòi Miễn Mộ.

• Phường Bình Thuận. • Thôn Bình Đức.

• Thôn Bình Thanh. • Thôn Bình Thạnh.

• Thôn Bình Cảnh. • Thôn Bình Nghị.

• Thôn Bình Trường Tây. • <34a> Thôn Bình Trường Đông.

• Thôn Phú Mỹ Đông. • Thôn Nhơn Hòa.

• Thôn Bình Nhật. • Thôn Bình Tự.

• Thôn Tân Đức. • Thôn Tân An (giáp Đông).

• Phường An Lý. • Phường Bình Dã.

• Thôn Bình Sơn Cựu. • Thôn Hậu Đức.

• Thôn Cẩm Giang Tây. • Thôn Long Tuyền.

• Thôn Thạnh Đức. • Thôn Thái Bình Thượng.

• Thôn Bình Tịnh. • Thôn Thanh Phước.

• Thôn Mỹ An. • Thôn Tân Phú Thượng.

• Thôn Bình Thuận Đông. • Thôn Tân Lợi Thượng.

• Thôn Tân Phước (giáp Tây) • Thôn Bình An.

• Thôn Đới Nhật. • Thôn Tân Bắc (đạo Thuận Thành).

• Thôn Bình Phú (đạo Quang Hóa)

3i.
Trấn Phiên An

TỔNG AN THỦY (mới đặt)

Gồm 69 xã, thôn, phường. Phía đông giáp sông Thị Lộ tổng Thành Tuy thuộc huyện Long Thành, chạy dài đến giồng Ông Tố; Tây giáp sông Gò Trà xứ Ba Đốc thuộc tổng Bình Chánh; <40b> Nam giáp Bình Giang (sông Sài Gòn) thuộc trấn Phiên An; Bắc giáp xứ Ba Đốc vùng núi Châu Thới thuộc tổng Chánh Mỹ, huyện Phước Chánh.

• Xã Tân An (giáp Đông). • Thôn Tân Thạnh (mới lập).

• Thôn Phú Mỹ. • Thôn Tân Long.

• Thôn Lý Nhơn Tây (có thôn Phú Xuân nhập vào).

• Thôn Hạnh Hoa. • Thôn Phước An.

• Thôn An Phú. • Thôn Long Quới.

• Thôn Phước Thọ. • Thôn Đông An Trung.

• Thôn Minh Phụng. • Thôn Đông An.

• Thôn Đông An Tây. • Xã Tân An (giáp Đông).

• Xã Tân An (giáp Tây). • Thôn Bình Trị (<29><88>).

• Thôn Bình Trị Tây. • Thôn Bình Trị (giáp Trung).

• Phường Bình Thung (có thôn Bình Thung Đông nhập vào).

• Thôn Bình Thắng Tây. • Phường Bình Thắng.

• Thôn Hòa Thạnh. • Thôn Tân Nhơn.

• Thôn Xuân Trường (giáp Tây). • Thôn Tân Quới (giáp thượng).

• Thôn An Thạnh (mới lập, có thôn Thạnh Sơn nhập vào).

• <41a> • Thôn Xuân Hòa. • Thôn Linh Chiểu (giáp Tây).

• Thôn Bình Đường. • Thôn Bình Thạnh.

• Thôn Linh Trị (giáp Đông) • Thôn Bình Quới Đông (<30><89>).

• Thôn Bình Lợi Đông. • Thôn Bình Quới Thượng.

• Thôn Bình Quới Hạ. • Thôn Bình Kính.

• Thôn Bình Lợi Tây.

• Thôn Bình Phú Thượng (trước là thôn Bình Đán Thượng).

• Thôn Bình Đán Thượng • Thôn Bình Đán Đông.

• Thôn Tân Lợi. • Thôn Phước Lộc (mới lập).

• Thôn Tân Lộ. • Thôn Bình Đồng (giáp Đông).

• Thôn Bình Đồng Trung (có thôn Bình Đồng Chánh nhập vào).

• Thôn Bình Đồng (giáp Tây). • Thôn Bình Kính Tây.

• Thôn Long Phú Đông. • Thôn Long Đức.

• Thôn Bình Phú. • Thôn Tân Giám.

• Thôn Bình Kính Đông. • Thôn Bình Hòa.

• Thôn Tân Hưng. • Thôn Bình Quan.

• Thôn Long Quới. • Thôn Bình Quới.

• Thôn Bình Xương. • Thôn Bình Tự.

• <41b>• Thôn Tân Mỹ.

• Thôn Bình Phú Trung (có một giáp 4 thôn là Bình Lộc, Chánh Thái Thuận, Bình Phước Đông, Bình Hạnh nhập vào).

• Thôn Bình Thuận Nhứt. • Thôn Bình Hòa Đông.

• Thôn An Tài. • Thôn Bình Quới.

• Thôn An Lợi. • Thôn Bình Lâm.

• Thôn Bình Phước. • Thôn Mỹ An.

HUYỆN LONG THÀNH (Trước là tổng nay cải thành huyện)

Gồm 2 tổng, 63 xã, thôn, phường, ấp. Phía đông giáp tổng An Phú thuộc huyện Phước An, từ núi Nữ Ni (Thị Vải) (<31><90>) đến cửa Thất Kỳ (tục gọi Vàm Ngã Bảy); phía tây giáp núi Lượng Ni (Vải Lượng (2) tổng An Thủy, huyện Bình An; phía nam giáp sông cái Nhà Bè; Bắc giáp xứ Ngư Trì (Ao Cá) tổng Phước Vinh, huyện Phước Chánh.

TỔNG LONG VĨNH (mới đặt)

Gồm 34 xã, thôn, phường, ấp. Phía đông giáp các sách man ở rừng già ruỗi dài đến sông Đồng Môn; Tây giáp núi Lượng Ni (Vải Lượng), tổng An Thủy, huyện Bình An; Nam giáp sông Trảo Trảo tổng An Thủy; Bắc giáp xứ Ao Cá tổng Phước Vinh, huyện Phước Chánh.

• <42a>• Thôn Long Trường. • Thôn Bình Dương.

• Thôn Long An. • Thôn An Hòa.

• Thôn Vĩnh Thọ. • Thôn Vĩnh Hòa.

• Thôn Vĩnh Đông. • Thôn Phước Toàn.

• Thôn Vạn Toàn. • Thôn An Xuân.

• Thôn Phước Châu. • Thôn Phước Tân

• Thôn Phước Khả • Thôn Phước Gia.

• Thôn Phước Miên. • Thôn Phước Trường.

• Thôn Long Hòa. • Thôn Phước Quới.

• Thôn Phước Mỹ. • Xã Phước Trường.

• Thôn Long Thạnh Tây. • Thôn Long Thạnh Đông.

• Thôn Long Phú Đông. • Thôn Phước Thiện.

• Ấp Phước Hậu. • Thôn Phước Thới.

• Thôn Long Đại. • Phường Long Tuy.

• Thôn Phước Hòa. • (42b). Thôn Phước Lợi.

• Thôn Vĩnh Thuận • Thôn Long Thành

• Thôn An Hưng • Thôn Phước Mỹ.

TỔNG THÀNH TUY (mới đặt)

Gồm 29 thôn ấp. Phía đông giáp núi Nữ Ni (Thị Vải) tổng An Phú, huyện Phước An đến cửa sông Ngã Bảy (Thất Kỳ khẩu); Tây giáp sông Trảo Trảo, tổng Long Vĩnh cho đến sông lớn Nhà Bè; Nam giáp Phước Bình Giang (sông Sài Gòn); Bắc giáp các sách man ở rừng già cho đến sông Đồng Môn.

• Thôn Vĩnh An. • Ấp Phước Lộc.

• Thôn Phước Lợi An. • Thôn Vĩnh Xương (mới lập).

• Thôn Phước Thành. • Thôn Phước Kiến.

• Thôn Mỹ Khoan. • Thôn Phú Mỹ An (mới lập).

• Thôn Phước Lai. • Thôn Long Tạo.

• Thôn Long Thuận. • Thôn Phước Hòa Đông.

• <43a> • Thôn Phú An. • Thôn Phú Hòa.

• Thôn Long Hưng. • Thôn Hương Mỹ.

• Thôn Lý Nhơn. • Thôn Vĩnh Hưng.

• Thôn Lương Phước. • Thôn Lương Phước Đông.

• Thôn Phước Thạnh. • Thôn An Thuận (mới lập).

• Thôn An Phú. • Thôn Long Đức.

• Thôn Lương Thạnh. • Thôn Thạnh Hòa.

• Thôn Trường Lộc. • Thôn Mỹ An (mới lập).

• Thôn Long Hiệu.

HUYỆN PHƯỚC AN (Trước là tổng nay đổi thành huyện)

Lãnh 2 tổng, 43 xã, thôn, điếm, phường, ấp. Phía đông giáp với biển lớn; Tây giáp núi Cam La, núi Nữ Ni (Thị Vải) cho đến cửa sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang khẩu); Nam giáp trấn Phiên An dọc theo bờ bắc cảng Cần Giờ; Bắc giáp các sách man ở thủ sở sông Nục.

<43B> TỔNG AN PHÚ (mới đặt)

Gồm 21 xã, thôn, ấp. Phía đông giáp cửa biển lớn; Tây giáp núi Nữ Ni (Thị Vải) cho đến cửa sông Ngã Bảy; Nam giáp sông Phước Bình thuộc trấn Phiên An và dọc theo bờ Bắc của cảng Cần Giờ; Bắc giáp đường cái quan tổng Phước Hưng.

• Xã Long Hòa (xưa là phường Long Nhung). • Thôn Long Hiệp.

• Thôn Long Thắng. • Thôn Phước Đức.

• Thôn Long Lập. • Thôn Long Xuyên.

• Thôn Long Kiên. • Thôn Long Thuận.

• Thôn Phước Thạch. • Thôn An Nhứt.

• Ấp Hắc Lăng. • Thôn Phước Thiện.

• Thôn Long An. • Thôn Long Điền.

• Thôn Long Thạnh. • Thôn Long Hương.

• Thôn Phước Lễ. • Ấp Phú Xuân.

• Thôn Trúc Phong. • Thôn Hưng Long.

• <44a> - Thôn Giếng Bọng kề bên lũy.

TỔNG PHƯỚC HƯNG (mới đặt)

Gồm 22 xã, thôn, phường. Phía đông giáp biển lớn; Tây giáp núi Cam La cho đến núi Nữ Ni (Thị Vải); Nam giáp đường cái quan tổng An Phú; Bắc giáp các sách man ở thủ sở sông Nục.

• Thôn Phước Thái (<32><91>). • Thôn Phước Hưng.

• Thôn Phước Liễu. • Thôn Long Trinh.

• Thôn Long Hưng. • Thôn Phước Hiệp.

• Thôn Thới Thạnh. • Phường Phước Lộc Thượng.

• Xã Phước An Trung. • Thôn Long Hòa.

• Thôn Long Thới. • Thôn Gia Thạnh.

• Thôn Phước Lợi. • Thôn Phú Thạnh.

• Thôn Phước Hòa. • Thôn Long Sơn (đảo Ông Trần)

• Thôn Phước Hải. • Thôn Long Hội Sơn.

• Thôn Long Hải.

• Thôn Long Mỹ Tây (Giang Trạm) hay (trạm sông)

• <44b>- Thôn Hòa Mỹ (Giang Trạm) hay (trạm sông)

• Thôn Tân An (Giang Trạm) hay (trạm sông).

----------------------------------------

Chú thích:

(<1><60>) Lão Đống trì (
y): Hồ Lão Nhông. Tức ao Gò Vấp. Di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi ao nầy bằng tiếng Khơ me là Prêk Kompong Kakoh. Cũng gọi Lão Nhông.

(<2><61>) Nay gần chợ Hòa Bình, quận 1, TP Hồ Chí Minh.

(<3><62>) Lân: Trong thời phong kiến, cứ một khu cư dân chừng 5, 7 nhà thì lập thành 1 lân. Chữ lân hàm ý "gồm các nhà lân cận nhau", tức xóm nhỏ.

(<4><63>) Chữ
có thể đọc phúc hay phước, nhưng Nam Bộ luôn đọc các địa danh là Phước, như tỉnh Phước Long (cũ), huyện Phước Lễ, xã Tam Phước, tỉnh Phước Thành (cũ), v.v...

(<5><64>) Hai bản chép khác.

(<6><65>) Hai bản chép khác.

(<7><66>) Chữ
có thể đọc thịnh hay thạnh, nhưng các địa danh trong Nam Bộ chỉ đọc thạnh như quận Bình Thạnh (TP. Hồ Chí Minh), Thạnh Trị (tên huyện ở Sóc Trăng) v.v...

(<8><67>) Nguyên văn viết Hanh (
) tại địa phương đọc nhầm là Hạnh đã quen, không sửa được.

(<9><68>) Hai bản chép khác.

(<10><69>) Hai bản chép khác.

(<11><70>) Chữ
đọc nhân hay nhơn cũng được, nhưng Nam Bộ đọc nhơn.

(<12><71>) Chữ
đọc thái hay thới nhưng địa danh trong Nam Bộ đọc thới.

(<13><72>) Chữ
đọc là nhị nghĩa là nhì, nhưng địa danh vùng Sài Gòn đọc là nhì.

(<14><73>) Chữ
đọc chánh hay chính, nhưng địa danh Nam Bộ quen đọc chánh.

(<15><74>) Nguyên văn viết
新境đọc Tân Cảnh, nhưng Nam Bộ quen đọc Tân Kiểng.

(<16><75>) Chữ
có thể đọc chu hay châu, nhưng Nam Bộ quen đọc là châu.

(<17><76>) Hai bản chép khác.

(<18><77>) Chữ
có thể đọc hiệp hay hợp, địa danh Nam Bộ quen đọc là hiệp.

(<19><78>) Chữ
có thể đọc an hay yên, địa danh Nam Bộ quen đọc là an.

(<20><79>) Chữ
có thể đọc phụng hay phượng nhưng Nam Bộ quen đọc phụng như đình Minh Phụng, ngã bảy Phụng Hiệp, tuồng Phụng Nghi đình v.v...

(<21><80>) Nguyên văn chép
芹突đọc là Cần Tọt. Chữ Nômcó nghĩa là "Bỏ tọt vô họng". Đọc Cần Giọc nhầm vì các tự điển chữ Nôm không có chữ giọc. Đây chính là Cần Giuộc.

(<22><81>) Chữ
có thể đọc bảo hay bửu, nhưng Nam Bộ các địa danh quen đọc là bửu, như Bửu Hòa, Bửu Phong, Bửu Long...

(<23><82>) Chữ
周泰có thể đọc Chu Thái hay Châu Thới, nhưng địa danh Nam Bộ quen đọc là Châu Thới.

(<24><83>) Sông Đôi Ma là tên tiếng Nôm của Song Ma giang. Sông Đôi Ma chữ Nôm viết là
滝堆魔, còn Song Ma giang chữ Hán viết là雙魔江.

(<25><84>) Chữ
có thể đọc cương hay cang, nhưng Nam Bộ quen đọc cang.

(<26><85>) Vùng Tây Ninh ngày nay.

(<27><86>) Bản lưu trữ VHN chép Phước Thạnh (
福盛).

(<28><87>) Chữ
có thể đọc triều hay trào, nhưng địa phương Đồng Nai đọc là triều: ví dụ như bưởi Tân Triều.

(<29><88>) Bản VSH dịch là Bình Chiểu (Bt).

(<30><89>) Chữ
có thể đọc quý hay quới, nhưng Nam Bộ quen đọc là quới.

(<31><90>) + (2) Xem lại chú giải ở từ Nữ Tăng phía trước. Núi Nữ Ni tức Thị Vải ở Bà Rịa. Núi Lượng Ni tức núi Vải Lượng ở gần xã An Hòa, Long Thành. Đọc Vải Lạng là không đúng tên địa phương.

(<32><91>)
福泰村: Đọc là thôn Phước Thái chớ không đọc Phước Thới. Làng chài này chuyên nấu nước mắm biển.

3j.
Trấn Định Tường

Đất trấn Định Tường khi mới được khai thác, dân ở đó bị phân ra lắm mối, bởi vì đất Nông Nại (<1><92>) quá rộng nên cần mộ dân đến ở. Trước hết là lập ra 2 huyện Phước Long (<2><93>) và Tân Bình (<3><94>), nhưng dân ở cũng chưa hết đất (<4><95>), đất ấy lại cách Biên Hòa và Phiên An hơi xa mà lại hiểm trở. Tình thế ấy chưa thể vội dùng pháp luật để ràng buộc được, cho nên phải tính toán bằng nhiều cách, bèn phải lập ra sổ biệt nạp, biệt đái gồm 9 khố trường là Qui An, Qui Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Rạch, Bả Canh và Tân Thạnh, để cho dân tùy nghi khai hoang lập ấp cho ngày càng rộng ra. Nhưng ở những nơi ven rừng dựa biển, vùng hẻo lánh lẻ tẻ, cũng có <45b> người làm ăn nương lợi chốn núi rừng chằm ao mà không có ai quản lý. Do đó mà phải lập ra trang, trại, man (chỗ cư dân ở liền nhau gọi là man, nghĩa giống như cỏ mọc lan ra tiếp nhau vậy), nậu (nậu là bừa ruộng làm cỏ, tục gọi đám đông là nậu, ý nói họp đông người lại để làm ruộng) để tập hợp dân chúng và tùy vào nghề nghiệp từng người mà nạp thuế má cho có hệ thống, cốt sao để ruộng đồng được mở mang khai khẩn thêm rộng mà thôi. Như vậy tuy là có sự hỗn tạp ngổn ngang nhưng tất cả đều được quy tập thành đầu mối.

Ban đầu ở xứ Mỹ Tho lập ra đạo Trường Đồn rồi dùng chức thư ký để làm việc. Năm Kỷ Hợi (1779) đời Thế Tổ Cao hoàng đế thứ 2, lập địa đồ, vạch ra địa giới của Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, Hà Tiên và bỏ 9 khố trường biệt nạp, trừ các hạt trước đây tùy thuộc vào các nha <46a> thì lấy số dân và số ruộng ấy làm thành huyện Kiến Khang, lập ra dinh Trường Đồn, đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để cai quản, lỵ sở đặt ở giồng Kiến Định (tục gọi chỗ đất bốn phía bằng phẳng mà ở giữa nổi lên cao gọi là giồng), lãnh 1 huyện, 3 tổng.

Tân Sửu (1781) năm thứ tư, đổi thành dinh Trấn Định rồi dời lỵ sở qua chợ Mỹ Tho ở thôn Mỹ Chánh. Tháng Giêng năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ 7, đổi thành trấn Định Tường, lãnh 1 phủ, 3 huyện, 6 tổng. Đây là vùng đất phì nhiêu, đất nước liền bến nhau. Phía đông giáp biển, tây giáp nước Cao Miên, bắt đầu từ Vàm Dừa, Rạch Cỏ, Tuyên Oai, sông Bát Chiên, chuyển quanh qua hướng bắc đến sông Hưng Hòa (tục gọi là sông Vũng Gù, tại địa đầu hai huyện Kiến Hưng và Kiến Hòa), xuống sông Tra Giang, xuôi đông ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp) theo dãy Trường Giang, bờ nam của dãy sông là ranh giới của trấn Định Tường. Phía nam từ thủ sở Hùng Ngự (Hồng Ngự) đạo Tân Châu theo Tiền Giang qua bắc ngoặt qua đông, theo sông Hàm Luông <46b> rồi thẳng đến cửa biển Ba Lai; bờ bắc sông ấy là ranh giới của trấn này. Từ đông sang tây cách 430 dặm rưỡi, từ nam đến bắc cách 348 dặm, từ lỵ sở đến thành Gia Định xa 149 dặm rưỡi. Đây là vùng ao chằm chằng chịt hiểm yếu, sông nguồn thông suốt. Danh mục thay đổi của phủ, huyện, tổng, thôn, ấp kê như sau:

PHỦ KIẾN AN (Trước là huyện, nay nâng lên thành phủ)
Lãnh 3 huyện, 6 tổng, 314 thôn ấp.

HUYỆN KIẾN ĐĂNG (Trước là tổng nay đổi làm huyện)

Gồm 2 tổng, 87 thôn. Phía đông giáp Rạch Chanh, kinh mới Ba Lai thuộc tổng Kiến Xương, huyện Kiến Hưng; Tây giáp phủ Cầu Nôm của nước Cao Miên; Nam lấy sông Tiền Giang, qua cửa sông lớn Hiệp Ân, Cái Sao (có chỗ chép là Cái Tử), Cổ Lịch của trấn Vĩnh Thanh làm giới hạn; Bắc giáp trấn Phiên An, gối đầu với biên giới Cao Miên, vòng qua sông dài Bát Chiên và Bát Đông.

<47a> TỔNG KIẾN HÒA (<5><96>) (mới đặt)

Gồm 44 thôn. Phía đông giáp kinh mới Ba Lai và sông Chanh, tổng Kiến Xương, huyện Kiến Hưng; Tây giáp tổng Kiến Phong, lấy nhánh nhỏ sông Bát Chiên thẳng đến cửa sông Mỹ Lương (tục gọi là Cái Thia ở thôn Mỹ Lương); Nam giáp Tiền Giang, dọc theo sông lớn Mỹ Lương, Ba Lai; Bắc giáp sông Bát Chiên và Bát Đông.

• Thôn Kim Sơn. • Thôn Giao Long.

• Thôn Phú Phong. • Thôn Bình Chánh Trung.

• Thôn Bình Chánh Đông. • Thôn Bình Chánh.

• Thôn Mỹ Đông Chánh. • Thôn Mỹ Hòa.

• Thôn Mỹ Đông Trung. • Thôn Mỹ Đông.

• Thôn An Thủy Đông. • Thôn Long Phú.

• Thôn Phú Hòa An. • Thôn An Thủy Tây.

• Thôn Tân Sơn. • Thôn Long Điền (mới lập)

• Thôn Mỹ Quới. • Thôn Mỹ Ân.

• Thôn Trà Luật (Luộc). • Thôn Mỹ An.

• <47b>. Thôn Phú Long. • Thôn Mỹ Trang.

• Thôn Mỹ Tường. • Thôn Mỹ Trinh.

• Thôn Tân Hội. • Thôn Tân Hòa.

• Thôn Hòa Thuận. • Thôn Hữu Hòa Thanh Sơn.

• Thôn Hội Sơn. • Thôn Xuân Sơn.

• Thôn Cẩm Sơn. • Thôn Phú Thuận Đông.

• Thôn Bình Chánh Tây. • Thôn Phú An.

• Thôn Bình Phú. • Thôn Mỹ Hạnh Đông.

• Thôn Mỹ Hạnh Trung. • Thôn Mỹ Hạnh Tây.

• Thôn Phước An. • Thôn Phú Mỹ.

• Thôn Đông An. • Thôn An Mỹ.

• Thôn Bình Hiệp (mới lập) • Thôn Mỹ Hưng (mới lập)

TỔNG KIẾN PHONG (mới đặt)

Gồm 43 thôn. Phía đông giáp nhánh nhỏ của sông Bát Chiên, tổng Kiến Hòa, thẳng đến cửa sông Mỹ Lương; Tây giáp phủ Cầu Nôm của nước Cao Miên; Nam giáp các sông lớn Tiền Giang, Hiệp Ân <48a>, Cái Sao, Cổ Lịch; Bắc giáp đoạn chảy ngang của sông Bát Chiên tiếp với đất Cao Miên.

• Thôn Tân Đức. • Thôn Tân Hiệp.

• Thôn Tân Phú Sơn. • Thôn An Bình Đông.

• Thôn An Bình Tây. • Thôn An Thành.

• Thôn Mỹ Chánh. • Thôn Mỹ Thạnh.

• Thôn Hòa Mỹ. • Thôn Mỹ Đức Đông.

• Thôn Mỹ Đức Tây. • Thôn Mỹ Thiện (Thiện Mỹ). (<6><97>)

• Thôn Mỹ Lợi. • Thôn Mỹ Lương.

• Thôn An Thới Đông. • Thôn An Thới Trung.

• Thôn An Thới Tây. • Thôn Hòa Lộc.

• Thôn Mỹ Hưng. • Thôn Mỹ Thuận.

• Thôn Mỹ An Đông. • Thôn Thanh Hưng.

• Thôn Mỹ An Tây. • Thôn An Mỹ.

• Thôn Mỹ Long. • Thôn Bình Hàn Tây.

• Thôn Bình Hàn Trung. • Thôn Mỹ Toàn.

<48>• Thôn Mỹ Xương. • Thôn Mỹ Đảo.

• Thôn Mỹ Lộc. • Thôn Mỹ Định (mới lập).

• Thôn Mỹ Trà. • Thôn Mỹ Nghĩa.

• Thôn Tân An. • Thôn An Bình Long (mới lập).

• Thôn Tân Mỹ (mới lập). • Thôn An Long (mới lập).

• Thôn Tân Phú (mới lập) • Thôn Tân Thạnh (mới lập).

• Thôn Tân An (mới lập). • Thôn Tân Khánh (mới lập).

• Thôn Tân Phú Đông (mới lập). • Thôn Tân Khánh (mới lập).

• Thôn Tân Phú Đông (mới lập).

HUYỆN KIẾN HƯNG (Trước là tổng nay đổi thành huyện)

Gồm 2 tổng, 76 thôn. Phía đông giáp sông Bảo Định, chạy ngang đến cửa sông Mỹ Tho, chạy qua bờ đông nửa sông Kinh Đào là giới hạn; Tây giáp sông Rạch Chanh, kinh mới Ba Lai; Nam giáp các sông lớn Tiền Giang, Ba Lai, Mỹ Tho; Bắc giáp với trấn Phiên An và sông Bát Đông, Hưng Hòa.

TỔNG KIẾN THUẬN (mới đặt)

Có 39 thôn. Phía đông giáp sông Bảo Định chạy ngang đến cửa sông Mỹ Tho <49a> qua hạ khẩu Kinh Đào Ba Lai; Tây giáp kinh mới sông Chanh, tổng Hưng Xương dọc theo ngã ba Xã Quảng đến Vu Trạch (chằm Khoai) (tục gọi bưng Môn (<7><98>)); Nam giáp Vu Trạch (chằm Khoai), tổng Hưng Xương cho đến sông An Đức (tục gọi là sông Xoài Mút ở thôn An Đức Chánh); Bắc giáp sông Bát Đông, Hưng Hòa.

• Thôn Thái Sơn. • Thôn Phú An Tây.

• Thôn Phú An Lộc. • Thôn Điều Hòa - Giang Trạm hoặc trạm sông.

• Thôn An Đức Chánh. • Thôn Bình Tạo.

• Thôn An Hòa. • Thôn Trung Lương.

• Thôn Đạo Ngạn. • Thôn An Đức Đông.

• Thôn Long Hội. • Thôn An Vĩnh.

• Thôn Cửu Viễn. • Thôn Nghĩa Hữu.

• Thôn Thân Nhơn (trước là thôn Thân Phụ) • Thôn An Thới.

• Thôn Nhơn Hòa. • Thôn Long Hội Tây.

• Thôn An Thạnh. • Thôn Tân Thạnh Trung.

•<49b> - Thôn An Phước. • Thôn Tân An.

• Thôn Long Thạnh. • Thôn Mỹ Thuận Đông.

• Thôn Mỹ Thuận Tây. • Thôn Bình Thuyên Đông.

• Thôn Vĩnh Kim Đông. • Thôn Long Hưng.

• Thôn Bình Đông. • Thôn Bình Thuyên Tây.

• Thôn Tân Đức Đông. • Thôn Tân Đức Chánh.

• Thôn Hữu Đạo. • Thôn Bình Sơn.

• Thôn Vĩnh Kim Tây. • Thôn Mỹ Điền.

• Thôn Tân Phú • Thôn Phú An.

• Thôn Tân Hưng (mới lập).

TỔNG HƯNG XƯƠNG

Gồm 37 thôn. Phía đông bắc giáp lạch nhỏ Xã Quảng, tổng Kiến Thuận, qua Vu Trạch (chằm môn nước) đến sông An Đức; Tây giáp tổng Kiến Hòa, (<8><99>) huyện Kiến Đăng, lấy lạch kinh mới Xã Quảng, Ba Lai làm giới hạn; Nam giáp Tiền Giang, Ba Lai, quành qua cồn Trà Luật Luộc xuống sông cái An Đức.

• <50a> - Thôn Hòa Mỹ. • Thôn Tân Hiệp (mới lập)

• Thôn Tân Lý Tây. • Thôn Tân Lý Đông.

• Thôn Tân Hương Tây. • Thôn Tân Hương.

• Thôn Nhơn Hậu. • Thôn Tân Hương Trung (mới lập)

• Hai Thôn Nhơn Lợi Lương, Hòa Lương Thạnh. • Thôn Bình Quân.

• Thôn Nhơn Lý Tây (mới lập). • Thôn Bình Định.

• Thôn Nhơn Nhượng. • Thôn Xuân Sanh.

• Thôn Nhơn Hậu Đông (mới lập). • Thôn Bình An.

• Thôn Nghĩa Lợi. • Thôn Dương Hòa.

• Thôn Tân Hội Đông. • Thôn Tân Hội Tây.

• Thôn Vĩnh Hòa (mới lập). • Thôn Phú Mỹ.

• Thôn Vĩnh Hòa Đông (mới lập). • Thôn Mỹ Thạnh (mới lập).

• Thôn Long Định. • Thôn Tường Khánh.

• Thôn Bình An Đông (mới lập). • Thôn Phú Khương.

• Thôn Phú Thượng. • Thôn Thân Hòa.

• Thôn Đông An. • Thôn Mỹ Phước

<50b> - Thôn Tân Đông. • Thôn Chánh Đông Trung.

• Thôn Tân Thạnh (mới lập) • Thôn Tuyên Thạnh (mới lập).

HUYỆN KIẾN HÒA (Trước là tổng, nay đổi thành huyện)

Gồm 2 tổng, 151 thôn ấp. Phía đông giáp cửa Lôi Lạp (Soi Rạp) và Ba Lai (Đại Tiểu); Tây giáp tổng Kiến Thuận, huyện Kiến Hưng, lấy sông Bảo Định ngang qua sông lớn Mỹ Tho đến hạ khẩu sông Ba Lai làm giới hạn; Nam giáp trấn Vĩnh Thanh, lấy các sông Tiền Giang, Mỹ Tho và Ba Lai chảy ra biển làm giới hạn; Bắc giáp trấn Phiên An, lấy sông Hưng Hòa (<9><100>) làm giới hạn.

TỔNG KIẾN THẠNH (mới đặt)

Gồm 65 thôn. Phía đông giáp sông Tra Giang, tổng Hòa Bình, ngang qua các sông lớn Kỳ Hôn (<10><101>), Mỹ Tho, qua hạ khẩu Kinh Đào và sông Ba Lai; Tây giáp kinh Hưng Hòa, ngang qua sông lớn Mỹ Tho đến hạ khẩu sông Ba Lai; Nam giáp sông lớn Mỹ Tho; Bắc giáp sông Hưng Hòa (Hưng Lợi).

• <51a> - Thôn Mỹ Chánh. • Thôn Phú Hội.

• Thôn Mỹ Hóa. • Thôn Bình Hài.

• Thôn Bình Phong (mới lập). • Thôn Long Hòa.

• Thôn Thanh Xuân. • Thôn Bình Hạnh.

• Thôn An Hòa. • Thôn Lương Phú.

• Thôn Phú An. • Thôn Phú Đức.

• Thôn Mỹ Trung. • Thôn Bình Trung Lộc.

• Thôn Bình Phú. • Thôn Bình Trị.

• Thôn Nhơn Ngãi. • Thôn Phú Lộc (mới lập).

• Thôn Bình Cang. • Thôn Bình Nguyên.

• Thôn Bình Tâm. • Thôn Phú Long.

• Thôn Bình Quới. • Thôn Phú Đa (mới lập)

• Thôn Bình Hiệp. • Thôn Bình Định Đông.

• Thôn Bình Công Tây. • Thôn Ái Ngãi.

• Thôn Tân Nho. • Thôn Tân Hòa.

• Thôn Bình Thanh. • Thôn Đông An.

•<51b> - Thôn Tân Xuân. • Thôn Tân Thạnh.

• Thôn Bình An. • Thôn Bình Dương.

• Thôn Nhật Tân. • Thôn An Khương.

• Thôn Phú Hòa. • Thôn Phú Xuân.

• Thôn Bình Phước. • Thôn Tân Long Hưng.

• Thôn Mỹ Hội (mới lập). • Thôn Tân An Tây.

• Thôn Tân Thủy. • Thôn Phú Tây.

• Thôn Bình Thuận. • Thôn Mỹ Đức (mới lập).

• Thôn Thanh Xuân Đông. • Thôn Bình Thới (mới lập).

• Thôn Tân An. • Thôn Tân Giang.

• Thôn Bình Đăng. • Thôn Vĩnh Phước.

• Thôn Tân Mỹ (mới lập). • Thôn Tân Thạnh Lợi.

• Thôn Hưng Ngãi. • Thôn Long Trì.

• Thôn Long Hửu (Hựu). • Thôn Tân Tịnh Đông (mới lập).

• Thôn Tân Tịnh. • Thôn Điền Trang.

• Thôn Bình Thời. • Thôn Mỹ Thuận.

•<52a> - Thôn Tân Hưng (mới lập).

3k. Trấn Định Tường

TỔNG HÒA BÌNH (mới đặt)

Gồm có 86 thôn, phường, ấp, phía đông giáp cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp), Ba Lai (Đại, Tiểu); Tây giáp Tra Giang, ngang đến sông Kỳ (Cà) Hôn, Mỹ Tho, đến hạ khẩu Kinh Đào và sông Ba Lai; Nam giáp sông lớn Ba Lai; Bắc giáp sông Hưng Hòa.

• Thôn Bình Phú Đông. • Thôn Bình Xuân (mới lập).

• Thôn Bình Sơn. • Thôn Bình Hưng.

• Thôn Long Thạnh. • Thôn Bình Phương.

• Thôn Bình Quang. • Thôn Thuận Hòa (mới lập).

• Thôn Tân Hóa. • Thôn Định An.

• Thôn Bình Thạnh. • Thôn Toàn Thạnh.

• Thôn Bình Thủy. • Thôn Bình Phục Nhì.

• Thôn Bình Phục Nhứt • Thôn Bình Phục Nhứt Đông.

• Thôn Tân Nhựt. • Thôn Bình Phú Chánh.

• Thôn Vĩnh Hữu (Hựu). • <52b> • Thôn Vĩnh Lợi (mới lập)

• Thôn Vĩnh An (mới lập). • Thôn Vĩnh Thạnh.

• Thôn Bình Long Tây. • Thôn Bình Long.

• Thôn An Long Đông. • Thôn An Long Tây.

• Thôn Tân Cang. • Thôn Tân Câu Trung.

• Thôn Tân Câu Đông. • Thôn Bình Nghị.

• Thôn Bình Ân. • Hai thôn Tăng Huy, An Hòa.

• Thôn Toàn Phước. • Thôn Tân Niên Đông.

• Thôn Tân Niên Tây. • Thôn Dương Phước - Ấp An Phước.

• Thôn Tân Long. • Thôn Tân Niên Trung.

• Thôn Bình Thạnh Đông. • Thôn Bình Thuận Đông.

• Thôn Bình Thuận Tây. • Thôn Bình Công

Thôn Tân Phước. • Thôn Miếu Ông.

• Thôn Giao Long. • Thôn Phước An Đông.

• Thôn Phước Hòa. • Thôn Tân Thạch An Hồ.

• Thôn Phước Thới. • Thôn Phước Hậu.

• Thôn Phú Vinh. • <53a> - Thôn Hoàng Long Quới Sơn.

• Thôn Phước An Thạnh. • Thôn Phước An Hòa.

• Thôn An Hải. • Thôn Giao Hòa.

• Thôn An Hòa Tân. • Thôn Long Phụng.

• Thôn Phú Thuận. • Hai thôn Thanh Long - Long Thạnh.

• Thôn Phú Mỹ (mới lập) • Thôn Châu Hưng.

• Thôn Thới Long (mới lập). • Thôn Vinh Quới.

• Thôn Lộc Thuận. • Thôn Tân Định.

• Thôn Long Hội (mới lập). (<11><102>) Thôn Phú Hòa (mới lập).

• Thôn Phước Thuận (mới lập) • Thôn Lương Thạnh (mới lập)

• Thôn Bình Đại. • Thôn An Lộc Tân (mới lập)

• Thôn Thới Hòa. • Thôn Vinh Thạnh.

• Thôn Tân Phong. • Thôn Long Thới Long Hòa.

• Thôn Phước Toàn - Thôn Phước Định. • Thôn Phước Hạnh Tây.

• Thôn Phú Thạnh. • Thôn Phú Mỹ (mới lập)

• Thôn Phước Hạnh (mới lập). • Thôn Long Hưng (mới lập)

• <53b> - Thôn Bình Thành Đông (mới lập). • Thôn Phước Hạnh Đông (mới lập).

• Thôn Vĩnh Đức Hòa (mới lập).

TRẤN VĨNH THANH

Trấn Vĩnh Thanh vào buổi đầu lập ra châu Định Viễn và dựng dinh Long Hồ đóng tại xứ Cái Bè, về sau dời qua ấp Long An ở thôn Long Hồ. Lãnh 1 châu, 4 tổng.

Năm Kỷ Hợi (1779) đời Thế Tổ Cao hoàng đế thứ 2, đổi tên gọi là dinh Hoằng Trấn, lỵ sở ở chỗ ngày nay tục gọi là bãi Bà Lúa. Năm Canh Tý (1780) thứ 3, vì nghĩ rằng khi nước Cao Miên hữu sự, ở xa khó bề chế ứng nên phải đem lỵ sở trở lại đất thôn Long Hồ rồi đổi tên là dinh Vĩnh Trấn. Năm Mậu Thân (1788) đầu thời Trung hưng, đem hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang (trước thuộc trấn Hà Tiên) sáp nhập vào quản hạt, còn như phủ Ba Thắc (54a) vốn nơi người Cao Miên sinh sống thì bỏ ra quy vào thuộc địa Cao Miên.

Năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ 7, đổi châu làm phủ, lại đổi tên Vĩnh Trấn ra trấn Vĩnh Thanh. Niên hiệu Gia Long thứ 9 (1810), đưa Long Xuyên và Kiên Giang trở về lại trấn hạt Hà Tiên. Ngày 22 tháng 2 niên hiệu Gia Long thứ 12 (1813), đắp thành trì, dựng công thự trên đất hai ấp Bình An và Trường Xuân thuộc thôn Long Hồ. Đây là vùng có dãy sông lớn ôm quanh, giữ thế quan yếu, đúng là phên giậu vững vàng của thành Gia Định, khống chế Cao Miên, hai con sông lớn (Tiền Giang và Hậu Giang) chẹn chỗ hiểm yếu, giao thông đường thủy hết sức tiện lợi, ruộng vườn cũng rất tốt tươi.

Phía đông giáp huyện Kiến Hòa thuộc trấn Định Tường, lấy chỗ sông lớn Ba Lai đổ ra biển làm giới hạn. Phía tây giáp 3 phủ Nam Vang, Lình Quỳnh và Chơn Giùm (Chan Sum) của nước Cao Miên. Nam giáp hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên thuộc trấn Hà Tiên. Phía đông nam giáp biển lớn Ba Lai, Ngao Châu, Băng Côn (Cung), Ba Thắc và Mỹ Thanh. Phía bắc giáp huyện Kiến Đăng thuộc trấn Định Tường, lấy <54b> sông Tiền Giang làm giới hạn.

Từ đông sang tây cách 200 dặm rưỡi; nam đến bắc cách 350 dặm rưỡi, phía bắc đến thành lớn (<12><103>) là 240 dặm rưỡi. Trấn có nhiệm vụ trông coi 1 phủ, 4 huyện, 6 tổng. Danh mục đổi thay của phủ, huyện, tổng, thôn, phường, ấp kê như sau:

PHỦ ĐỊNH VIỄN (Trước là châu, nay nâng làm phủ)
Lãnh 4 huyện, 6 tổng, 353 thôn, phường, ấp, điếm (xóm), trại.

HUYỆN VĨNH BÌNH (Trước là tổng Bình Dương, nay đổi tên là huyện Vĩnh Bình)

Gồm 2 tổng, 100 thôn, ấp. Phía đông giáp Tiền Giang, lấy cù lao Tân Cù, thượng khẩu sông Hàm Long (Luông), Cần Thay, rồi ven theo nửa sông Cổ Chiên làm giới hạn; Tây lấy Ngư Câu tục gọi Cái Cá đến nửa sông Cái Vồn (<13><104>) làm giới hạn; Nam lấy Hậu Giang, từ Ba Thắc đến nửa sông Cái Vồn làm giới hạn; Bắc từ Ngư Câu (Cái Cá) đến cù lao Tân Cù làm giới hạn.

<55a> TỔNG VĨNH TRƯỜNG (mới đặt)

Gồm 52 thôn, ấp. Đông giáp tổng Tân Minh thuộc huyện Tân An, lấy từ cù lao Tân Cù đến thượng khẩu Cần Thay, xuống Mân Thít, dọc theo nửa sông Trà Ôn làm giới hạn; Tây giáp Ngư Câu (Cái Cá) đến nửa sông Cái Vồn; Nam giáp Hậu Giang lấy từ sông Cái Vồn rồi dọc theo Trà Ôn làm giới hạn; Bắc giáp Tiền Giang, từ Ngư Câu (Cái Cá) cù lao Tân Cù làm giới hạn. Truyện "Gia Định Thành Thông Chí " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

• Thôn Long Hồ. • Ấp Bình An.

• Thôn Trường Xuân. • Thôn Thanh Mỹ.

• Thôn An Thành. • Thôn Bình Lương.

• Ba Thôn Bình An, Bình Thạnh, An Cù. • Thôn Phú Thuận.

• Thôn Phú Hòa. • Thôn Bình Long.

• Thôn Tân Cù, Tân Bình. • Thôn Phước Đức (trước là thôn Tân Hòa)

• Thôn Tân Thới. • Thôn Tân Phú.

• Thôn Bình Phụng (mới đặt, trước là thôn Bình Thạnh)

• Thôn Phước Định. • <55b> - Thôn Phú Hưng.

• Thôn Phú Sơn. • Thôn Phước Lộc (trước là thôn Tân Lộc).

• Thôn Bình Toàn. • Thôn Bình Sơn.

• Thôn Bình Định. • Thôn Mỹ Tường.

• Thôn Mỹ Thạnh. • Thôn Sơn Đông.

• Thôn Hòa Mỹ. • Thôn An Phú Hòa (trước là thôn Lâm An)

• Thôn Xuân Sơn. • Thôn Tân Điền.

• Thôn Định Thới. • Thôn Hòa Phú Đông (trước là thôn Sơn Hòa).

• Thôn Thủy Thuận. • Thôn Tân Hạnh.

• Thôn Tân Mỹ Đông. • Hai Thôn Tân Hợp, Phú An.

• Thôn Tân Hội (thôn Đông). • Thôn Tân Phú Đông.

• Thôn Bình An. • Thôn Phú Lộc.

• Thôn Phú Trường. • Thôn Mỹ Lợi (mới lập)

• Thôn Mỹ Thạnh Trung. • Thôn Mỹ Phú Trung (mới lập).

• Thôn Long Hội. • Thôn Bình Thắng (mới lập)

• Thôn An Hội. • Thôn Tân Phước An (mới lập).

• Thôn Phú Trường Đông. • <56a> - Thôn Long Cù.

• Thôn Hạnh Hoa (mới lập). • Thôn An Thạnh Hòa (mới lập).

• Thôn Long Thạnh (mới lập).

TỔNG BÌNH CHÁNH (mới đặt)

Gồm 48 thôn. Phía đông lấy Láng Thé xuống nửa sông Cổ Chiên làm giới hạn; Tây lấy Ba Kè đến nửa sông Trà Ôn làm giới hạn; Nam lấy Hậu Giang, Trà Ôn đến Ba Thắc, Cổ Chiên làm giới hạn; Bắc lấy Mân Thít đến nửa sông Láng Thé làm giới hạn.

• Thôn Phước Trường. • Thôn Phú Thới.

• Thôn Thới Bình. • Thôn Cựu Phước Khánh.

• Thôn Thanh Lương. • Thôn An Phú.

• Thôn Thái Khánh (trước là thôn Long Cang).

• Thôn Bình Thạnh (<14><105>) (trước là thôn Bình Thủy Thanh Tuyền)

• Thôn Phú Nhuận (trước là thôn Tân Hoan) • Thôn An Toàn.

• Thôn Tân Hưng. • Thôn Bình Thạnh (2) (mới lập).

• Thôn Quang Đức. • Thôn Hiệp Ngãi (mới lập).

• Thôn An Trường (mới lập). • Thôn Phước Toàn (trước là thôn Bình Hòa)

• <56b> - Hai thôn Phú Đức, Bình Mỹ (mới lập) • Thôn Long Thạnh.

• Thôn Tân Phú (trước là thôn Tân Toản) • Thôn Tân Định.

• Thôn Vĩnh Trường. • Thôn Long Hưng.

• Hai thôn Vĩnh Long, Vĩnh An. • Thôn Phước Long.

• Thôn Cựu Phước Hòa. • Thôn Long Tuyền (mới lập).

• Thôn Long Hậu, Mỹ Lý. • Thôn Hoàng Long.

• Thôn Tân An Tây. • Thôn Tường Lộc.

• Thôn Thới Hòa (mới lập). • Thôn Vĩnh Hưng.

• Thôn An Thạnh Mỹ. • Thôn Long An (trước là thôn Tân Thạnh).

• Thôn Long Thới. • Thôn Long Trị (mới lập).

• Thôn Long Phước. • Thôn Hòa Hữu (mới lập).

• Thôn An Thái Trung (mới lập) • Thôn Long Vĩnh.

• Thôn Long Phú. • Thôn Long Khánh.

• Thôn Cựu Long An (mới lập). • Thôn Phước Thọ.

• Thôn Phú An. • Thôn Long Định (mới lập).

• Thôn An Thạnh (mới lập)

• <57a> - Thôn Tứ chiếng Mỹ Hòa (mới lập) - {tục gọi người bốn phương là tứ chiếng (正) Bởi vì quy tập dân lưu tán bốn phương để lập thành thôn chứ không phải do ông cha truyền lại}, (chữ chiếng viết 政 là nhầm).

HUYỆN VĨNH AN (Trước là tổng Bình An, nay đổi làm huyện)

Gồm 2 tổng, 81 thôn, phường. Phía đông giáp huyện Vĩnh Bình, lấy Ngư Câu (tục gọi là Cái Cá) ngang qua ngòi nhỏ Đồ Bà (Chà Và) đến cửa sông Cái Vồn; Tây giáp phủ Nam Vang của Cao Miên, lấy cửa sông Tiền Giang ngang đến thượng khẩu Hậu Giang làm hạn. Nam giáp huyện Vĩnh Định, lấy từ thượng khẩu của Hậu Giang xuống đến cửa sông Cái Vồn làm hạn; Bắc từ thượng khẩu Tiền Giang quanh các cù lao Cái Vừng, Tây, Tân, Trâu, Long Ẩn, Cai Nga, Tân Phụng, Vĩnh Tường đến bờ Nam cửa sông Cái làm hạn.

TỔNG VĨNH TRINH (mới đặt)

Có 29 thôn. Phía đông giáp tổng An Trung, lấy thượng khẩu sông Cái Tàu <57b> thẳng đến thủ Cường Oai (tục gọi là Lấp Vò) làm hạn; Tây giáp phủ Nam Vang của Cao Miên, lấy thượng khẩu hai con sông (Tiền, Hậu) làm giới hạn; Nam giáp huyện Vĩnh Định, lấy thượng khẩu Hậu Giang, qua Châu Đốc đến Cường Oai làm hạn; Bắc từ thượng khẩu Tiền Giang quanh đến các cù lao Cái Vừng, Tây, Tân, Trâu, đến thượng khẩu sông Cái Tàu làm hạn.

• Thôn Tân Phú Lâm. • Thôn Long Sơn (mới lập).

• Thôn Long Khánh (mới lập). • Thôn Mỹ Lương (mới lập).

• Thôn Tân Hưng. • Thôn Tân Điền (trước là thôn Tân Tú).

• Thôn Tân Thuận. • Thôn Nhơn Hòa Trung (mới lập).

• Thôn Tân Hòa. • Thôn Mỹ Hưng.

• Thôn Mỹ Chánh. • Thôn Phú Hưng (mới lập).

• Thôn Phú An Đông. • Thôn Tân Thới.

• Thôn Toàn Đức. • Thôn Toàn Đức Đông.

• <58a> - Thôn Tân Phước (mới lập). • Thôn Tân Tịch.

• Thôn Tùng Sơn. • Thôn Mỹ Long.

• Thôn Mỹ Phú. • Thôn Bình Thành Tây.

• Thôn Bình Thạnh Đông. • Thôn Bình Thạnh Hòa (mới lập).

• Thôn Nhơn Lợi Trung, Tân An (mới lập). • Thôn Tiến An (mới lập).

• Thôn Thái Bình (mới lập). • Thôn Mỹ Khánh (mới lập).

• Thôn Tân Long.

3l.
Trấn Định Tường

TỔNG VĨNH TRUNG (mới đặt)

Gồm 52 thôn, phường. Phía đông giáp tổng Vĩnh Trường, huyện Vĩnh Bình, lấy Tiền Giang, Ngư Câu (Cái Cá) đến ngòi nhỏ Đồ Bà (Chà Và) cho đến cửa sông Cái Vồn; Tây giáp tổng Vĩnh Trinh, từ thượng khẩu sông Cái Tàu đến nửa sông Cường Oai; Nam giáp huyện Vĩnh Định, từ Hậu Giang, Cường Oai đến bờ Bắc sông Cái Vồn làm giới hạn; Bắc từ Tiền Giang, thượng khẩu Cái Tàu, quành <58b> qua các cù lao Long Ẩn, Cai Nga, Tân Phụng, Vĩnh Tùng (Tòng) cho đến Ngư Câu (Cái Cá) làm giới hạn.

• Thôn Mỹ An. • Thôn Cựu Hội An.

• Thôn Tân Mỹ. • Thôn Tân An Trung.

• Thôn Nhơn Quới (mới lập). • Thôn Tân Long.

• Thôn Long Hậu. • Thôn Bình An (trước là thôn Vĩnh Thạnh).

• Thôn Tân Bình. • Thôn Nhơn Hòa (mới lập).

• Thôn Tân Xuân. • Thôn Tân Lâm.

• Thôn An Tịch. • Thôn Tân Phụng.

• Phường Sùng Văn. • Thôn Vĩnh Phước (trước là thôn Tân Quy).

• Thôn Tân Phú Đông. • Thôn Tân Phú Trung.

• Thôn Bình Tiên. • Thôn Long Phụng (trước là thôn Tân Phú Tây).

• Thôn Tân Quy Tây. • Thôn Tân Quy Đông.

• Thôn Tân Đông. • Thôn Tân Khánh.

• Thôn Tân Khánh Tây. • Thôn Tân Triều.

• Thôn Tân Thạnh. • Thôn Định An Phú.

• <59a> - Thôn Định Hòa. • Thôn Tân Lộc Trung.

• Thôn Đông Thành Trung. • Thôn Phú Lộc.

• Thôn Bình Lữ. • Thôn Tân Hoa.

• Thôn Vĩnh Tùng (Tòng). • Thôn Tân Hạnh.

• Thôn Tân Sơn. • Thôn Tân Hội.

• Thôn Phú Hữu (Hựu). • Thôn An Thuận.

• Thôn Tân Nhơn. • Thôn Tân An Đông.

• Thôn Tân Hữu (Hựu) • Thôn An Hòa Đông (mới lập)

• Thôn Phú An. • Thôn Đông Thành.

• Thôn Mỹ Thuận. • Thôn Tân Giai - Giang trạm hay xóm sông.

• Thôn Phú Hội. • Thôn Tân Hòa (mới lập).

• Thôn Tân Lộc. • Thôn Phước Hậu - Giang trạm hay trạm sông.


HUYỆN VĨNH ĐỊNH

(Trước đây huyện này thuộc tổng Bình An. Năm Gia Long thứ 7 (1808), đưa thêm Hậu Giang vào, từ sông nhỏ Tham Lung sang phía tây thuộc về tổng Vĩnh An, huyện Vĩnh Trinh. Từ sông Tham Lung đi về đông đến Cần Thơ thuộc tổng An Trung; từ Cần Thơ đi về đông đến cửa bể Ba Thắc thuộc tổng Bình Chánh, huyện Vĩnh Bình.

Ngày mồng một tháng 5 năm Gia Long thứ 15 (1816), sửa đổi, quy định lại: Phàm từ Hậu Giang đi về đông, từ cửa biển Ba Thắc đi về tây đến phía nam nửa sông Châu Đốc cho đến các cồn bãi và các thôn, xóm trên sông gom lại làm một, đặt thành huyện Vĩnh Định, địa giới tuy rộng nhưng dân còn thưa thớt, nên chưa phân tổng. Nay y như thế)

Phía đông giáp biển; Tây giáp đất ba phủ Nam Vang, Linh Quỳnh và Chơn Giùm của nước Cao Miên; Nam giáp đất Kiên Giang và Long Xuyên (Cà Mau) của trấn Hà Tiên, bắt đầu từ thượng khẩu Hậu Giang, qua hạ khẩu sông mới đào Vĩnh Tế của Châu Đốc, đến hạ khẩu Thoại Hà, cho đến Ba Lãng, Bãi Xàu ra cửa biển Mỹ Thanh làm hạn; Bắc giáp 2 tổng Vĩnh Trinh (<15><106>) và Vĩnh Trường thuộc huyện Vĩnh An, qua tổng Bình Chánh huyện Vĩnh Bình, từ thượng khẩu Hậu Giang đến bờ nam sông ra cửa biển Ba Thắc. Cộng tất cả là 37 thôn, xóm.

• Thôn Bình Thạnh Tây. • Thôn Bình Trung (mới lập).

• Thôn Bình Lâm (mới lập). • Thôn Bình Đức (mới lập).

• Thôn Mỹ Phước (mới lập). • Thôn Mỹ Thạnh.

• Thôn Đại Hữu. • Thôn Thới Thuận (mới lập).

• Thôn Thới Hòa Trung. • Thôn Tân Thuận Đông.

• Thôn Tân Lộc Đông. • Thôn Thới Hưng.

• Thôn Thới An. • Thôn Thới An Đông.

• Thôn Bình Thủy. • Thôn Thới Bình.

• Thôn Tân An. • Thôn Tân Thạnh.

• Thôn Tân Nhơn. • Thôn Tân Phú Đông.

• Thôn Phú Mỹ Đông. • Thôn An Lạc (mới lập).

• Thôn Long Phú (mới lập) • Thôn Tân Thạnh Đông (mới lập)

• Thôn An Thanh Nhứt. • Thôn Đại Hòa.

• Thôn An Thạnh Nhì. • Thôn An Hòa (mới lập).

• Thôn Hòa Mỹ. • Thôn Châu Quới An.

• Thôn Mỹ Hội Đông. • Thôn Long Hưng.

• Thôn Mỹ Đức. • Thôn Tân Lợi.

• Điếm An Thạnh. • Điếm Tân Thạnh.

• Thôn Cựu Vĩnh Thạnh Hậu Giang.

HUYỆN TÂN AN (Trước là tổng, nay đổi thành huyện)

Gồm 2 tổng, 135 thôn, trại. Phía đông giáp biển Ba Lai, Ngao Châu, Băng Côn (Cung), Cổ Chiên; Tây giáp thượng khẩu Cần Thay đến sông lớn Hàm Long (Luông); Nam giáp thượng (60b) khẩu Cần Thay đến nửa sông Cổ Chiên; Bắc giáp những sông Tiền Giang, Hàm Long (Luông), Sốc Sãi, Ba Lai.

TỔNG TÂN MINH (mới đặt)

Gồm 73 thôn. Phía đông giáp các cửa biển Ngao Châu, Băng Côn (Cung), Cổ Chiên; Tây giáp thượng khẩu Cần Thay cho đến Hàm Long (Luông); Nam giáp thượng khẩu Cần Thay cho đến Cổ Chiên; Bắc giáp hạ khẩu Cần Thay xuống đến Ngao Châu.

• Thôn Bình An. • Thôn Bình Thanh.

• Thôn Thanh Tịnh. • Hai thôn Tân Lương - Bình Chánh Nhì.

• Thôn Bình Trung. • Thôn Thanh An.

• Thôn Thanh Hòa. • Thôn Phú Thạnh.

• Thôn Tân Nhuận. • Thôn Tân Quới.

• Thôn Vĩnh Khánh. • Thôn Bình Hợp.

• <61a> - Hai thôn Bình Phụng (mới lập) - Bình Long Nhì.

• Thôn An Lộc. • Thôn Lộc Hòa.

• Thôn Phú Thuận (trước là thôn Tân Hiệp). • Thôn Vĩnh Hội.

• Thôn Vĩnh Hòa. • Thôn Vĩnh Thuận.

• Thôn Tân Phụng. • Thôn Long An.

• Thôn Gia Khánh. • Thôn Tân Nhơn.

• Thôn Nguyên Khánh. • Thôn Long Cù.

• Thôn Đông Thành.

• Thôn Khánh Hòa (mới lập - trước là thôn An Mỹ).

• Thôn Tân Phú Đông. • Thôn Phước Hạnh.

• Thôn Trung Mỹ. • Thôn Phú Mỹ.

• Thôn Mỹ Sơn. • Thôn Mỹ Thạnh (mới lập).

• Thôn Tân Ngãi.

• Thôn Gia Thạnh (mới lập - trước là thôn Tân Thạnh).

• Thôn Thanh Long. • Thôn Tân Thiện.

• Thôn Tân Thông. • Thôn Thanh Xuân.

• Thôn Thanh Sơn. • Thôn Tân Viên.

• Thôn An Hòa. • Thôn Hội An

• Thôn Bình Trạch. • <61a> - Thôn Tân Điền.

• Thôn An Thới. • Thôn Phú Thạch (trước là thôn Thới Thạnh).

• Thôn Cẩm Sơn. • Thôn Thới Hòa (mới lập).

• Thôn Trường Lộc. • Thôn Tân Thanh Tây.

• Thôn Tân Đức. • Thôn Thanh Thủy.

• Thôn Long Thạnh (trước là thôn Long Hóa). • Thôn Tân Thành.

• Thôn Định Phước. • Thôn Tân Hậu. (<16><107>)

Thôn Phước Khánh. • Thôn Phú An Định.

• Thôn Tân Trung. • Thôn Tân Hương.

• Thôn Mỹ Điền. • Thôn Phú Khánh (trước là thôn Tân Hóa).

• Thôn An Quy. • Thôn Long Điền (mới lập).

• Thôn Giao Thạnh (mới lập). • Thôn Toàn Phú Đông (mới lập).

• Thôn Tân Lộc Trung. • Thôn Giao Long (mới lập).

• Thôn An Vĩnh (mới lập). • Thôn An Thạnh.

• Thôn Vĩnh Thành. • Thôn Hòa Thạnh (mới lập).

<62b> TỔNG AN BẢO (mới đặt)

Gồm 63 thôn trại. Phía đông giáp bể Ba Lai, Ngao Châu; Tây giáp thượng khẩu Cần Thay và Hàm Long (Hàm Luông), Bình Thủy (tục gọi Sóc Sãi ở địa phận thôn Bình Thủy); Nam giáp tổng Tân Minh, lấy hạ khẩu sông Cần Thay đến nửa sông Cổ Chiên làm giới hạn; Bắc giáp Bình Thủy đến biển Ba Lai.

• Thôn Hàm Long (Luông). • Thôn Hòa Thủy.

• Thôn Phụ Long. • Thôn Mỹ Phú (mới lập).

• Thôn Tiên Thủy. • Thôn Tiên Thủy Tây.

• Thôn Sơn An. • Thôn Sơn Hòa.

• Thôn Sơn Thuận. • Thôn Mỹ Thành.

• Thôn Phú Lợi. • Thôn Phú An Nhuận Đức.

• Thôn Phú Khương. • Thôn Tân Thành Đông.

• Thôn Phú Tự. • Thôn Phú Hưng.

• Thôn Tân Sơn. • Thôn Tân Điền.

• Thôn Mỹ An. • Thôn Long Thạnh.

• <62b> - Thôn Long Hưng. • Thôn Hưng Thạnh.

• Thôn Tân Hào. • Thôn Tân Hào Đông.

• Thôn Tân Định. • Thôn Tân Thanh Đông.

• Thôn Tân Thanh Trung. • Thôn Cựu Tân Hưng (mới lập).

• Thôn An Toàn (trước là thôn An Lý). • Thôn An Ngãi Tây.

• Thôn An Ngãi Trung. • Thôn An Hòa Đông.

• Thôn Vĩnh Đức Tây. • Thôn Vĩnh Đức Đông.

• Thôn Vĩnh Đức Trung. • Thôn An Bình Đông.

• Thôn An Bình Tây. • Thôn Phú Long Tây.

• Thôn Tân Hòa. • Thôn An Thủy (mới lập).

• Thôn Tân Thuận (mới lập). • Thôn Tân Thủy.

• Hai thôn Bình Thủy Tây, Bình Thủy Đông. • Thôn Phú Quới.

• Thôn Phước Đức. • Thôn Phước Lộc.

• Thôn Phước Tường. • Hai thôn Phước An Trung, Phước An Chánh.

• Thôn Phước An Thạnh. • Thôn Phú An Thuận.

• Thôn Định Hòa (mới lập). • Thôn Châu Thới.

• Thôn Bình Hòa. • Hai thôn Phước Thạnh, Long Thạnh.

• Thôn Châu Bình. • Thôn Mỹ Nhơn.

• Thôn Tân Trang.

• Thôn Bình Định (mới lập, trước là thôn Tân Long).

• Thôn Phước Long. • Thôn Phú Long Đông.

• Thôn Tân Thạnh (mới lập). • Thôn Tân Xuân.

• Trại Giồng Dừa.

-----------------------------------------------------------

Chú thích:

(<1><92>) Nông Nại (
農耐): Chỉ chung Phiên Trấn và Trấn Biên thời trước.

(<2><93>) Phước Long (
福隆): Là huyện thuộc Trấn Biên.

(<3><94>) Tân Bình (
新平): Là huyện thuộc trấn Phiên An

(<4><95>) Đất ấy (Kỳ địa...): Chỉ đất trấn Định Tường, phủ Kiến An.

(<5><96>) Bản in kèm bản dịch của VSH chép Kiến Chế (
建制)

(<6><97>) Hai bản chép khác.

(<7><98>) Nguyên văn viết ©
đọc là bưng Môn, tức bưng có nhiều môn nước. Chữ Nôm môn là khoai môn, viết đủ là, nhưng Trịnh Hoài Đức hay viết bỏ thảo đầu nên còn là.

(<8><99>) Bản in kèm bản dịch của VSH chép Kiến Lợi (
建利).

(<9><100>) Bản VHN lưu trữ chép là Hưng Lợi (
興利)

(<10><101>) Có người âm là Cà Hôn.

(<11><102>) Bản của VSH dịch là thôn Tân Hội (Bt).

(<12><103>) Chỉ thành Gia Định.

(<13><104>) Nằm ở bờ bắc Bắc (phà) Cần Thơ ngày nay. Xưa đây là nơi cát cứ của tướng giáo phái Hòa Hảo Năm Lửa Trần Văn Soái, có chợ Bà tức bà Phàn Lê Huê - biệt danh của vợ tướng Năm Lửa.

(<14><105>) và (2) Hai thôn trùng tên nhau? (Bt)

(<15><106>) Bản in kèm bản của VSH chép là Vĩnh Chân (
永真). Vì chữ chân ( ) và chữ trinh () tự dạng giống nhau.

(<16><107>) Bản dịch của VSH là Tân Khánh (Bt).

Không có nhận xét nào: