Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Kế sách giữ nước thời Lý - Trần

CHƯƠNG 1
NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ-TRẦN

I. LÃNH THỔ QUỐC GIA, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ QUÂN SỰ

Nước Đại Việt thời Lý-Trần là một quốc gia dân tộc độc lập có chủ quyền. Lãnh thổ Đại Việt về đại thể là vùng Bắc Bộ và một phấn Trung Bộ ngày nay. Phía đông có biển và các hải đảo; phía bắc cùng biên giới với Trung Quốc ở vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), lúc đó thuộc nhà Tống và nhà Nguyên đồng thời giáp với vương quốc Nam Chiếu (Đại Lý) ở vùng Vân Nam; phía tây giáp lãnh thổ các bộ tộc Lão Qua, Chân Lạp; phía nam giáp vương quốc Chăm Pa (Chiêm Thành). Từ khi giành được độc lập vào đầu thế kỷ X cho đến cuối thế kỷ XIV nhân dân Đại Việt đã trải qua một quá trình lâu dài, gian khổ của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sau hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, qua nhiều lần chia cắt, tách nhập, từ Nam Việt của Triệu Đà, đến Giao Chỉ bộ thời Hán, An Nam đô hộ phủ thời Đường, một phần lãnh thổ ở phía bắc nước ta bị phong kiến ngoại bang, bấy giờ là nhà Nam Hán, chiếm giữ. Từ khi Khúc Thừa Dụ nổi dậy năm 905, quyền tự chủ của dân tộc được lập lại trên phạm vi hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, tức vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ ngày nay. Các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê kế tiếp nhau củng cố nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Kinh đô nước ta thời Ngô là Cổ Loa (Đông Anh - ngoại thành Hà Nội). Thời Đinh, Lê, tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô ở Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình). Đinh Bộ Lĩnh chia nước thành 12 đạo hành chính, Lê Hoàn đổi đạo thành bộ và cho các hoàng tử, thân vương trấn trị ở các vùng. Dưới triều Tiến Lê, phía bắc, Lê Hoàn đánh tan quân Tống, phía nam, đánh bại quân Chiêm giữ yên bờ cõi. Cơ đồ nhà Tiền Lê được xây dựng vững vàng trên toàn bộ đất nước, bấy giờ chủ yếu là vùng trung du, đổng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Các vùng rừng núi xa xôi còn ràng buộc lỏng lẻo, giao cho thổ tù, châu mục bản địa coi giữ, dưới sự quản lý của triều đình. Tuy nhiên, biên giới phía đông bắc đất nước đã khá rõ ràng, vùng biên giới từ Vĩnh An (Móng Cái) đến Khâm Châu và từ Quan Lang (Ôn Châu) đến Ung Châu đã được hai bên Tống, Việt kiểm soát. Cương vực phía nam Đại Cồ Việt là Hoành Sơn (Kỳ Anh, Hà Tĩnh).

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập nên vương triều Lý. Thấy Hoa Lư chật hẹp không phù hợp với kinh đô của một quốc gia độc lập đang trên đà phát triển, năm 1010, Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dời đô ra thành Đại La và đổi tên là Thăng Long, để “mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau” (Chiếu dời đô). Từ đấy Thăng Long là kinh đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt, một lần nữa khẳng định sự trưởng thành của quốc gia độc lập tự chủ.

Nhà Lý rất quan tâm bảo vệ non sông gấm vóc toàn vẹn lãnh thổ và độc lập, tự chủ của dân tộc. Cuộc đấu  tranh vì chủ quyền lãnh thổ diễn ra dài lâu và liên tục. Phía bắc, nhà Tống thường xuyên mưu toan mở rộng lãnh thổ, nhiều lần cho quân xâm lấn và phát động chiến tranh xâm lược. Trong thời kì nhà Tống âm mưu chiếm giữ đất Quảng Nguyên (Cao Bằng), nhà Lý đã kiên trì đấu tranh, cho nên sau cuộc xâm lăng 1076-1077 hai năm, nhà Tống buộc phải trả lại Quảng Nguyên cho ta. Cương vực Đại Việt ở phía bắc từng bước ổn định. Biên giới từ Cao Bằng về phía đông lúc đó đã rõ ràng, gồm các châu Tây Bình, Lộc Bình và huyện An Viễn. So với ngày nay phía gần biển, lãnh thổ Đại Việt còn ăn sâu vào tỉnh Quảng Đông đến gần vịnh Khâm Châu1; còn phía tây Cao Bằng, cư dân Đại Việt sống thành từng động, sự ràng buộc của triều đình chưa chặt chẽ.

Thời nhà Trần, về cơ bản cương vực phía bắc Đại Việt không thay đổi. Sau những lần bị giặc Nguyên - Mông xâm lược, nhà Trần chú ý nhiều đến biên giới; việc kiểm soát các châu, động phía bắc và đông bắc càng chặt chẽ hơn thời Lý.

Ở phía nam, vương quốc Chiêm Thành thường đem binh thuyền quấy phả vùng biên giới và ven biển của ta. Các vua Lý, vua Trần đã nhiều lần phải động binh đánh dẹp. Trong đợt tiến công năm 1069, vua Chế Củ bị bắt, Chiêm Thành xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh. Đến đời Lý Thái Tông (1028 - 1054), lãnh thổ phía nam Đại Việt đã gồm cả nửa phần tỉnh Quảng Trị bây giờ. Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Tể tướng Lý Thường Kiệt đi kinh lý vùng đất mới, vẽ bản đồ hình thể núi sông, rồi đổi châu Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh. Cư dân phía bắc được phép vào khai khẩn ruộng hoang và lập các trang hộ2. Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân (con vua Nhân Tông) cho vua Chiêm là Chế Mân. Chế Mân đem hai châu Ô và Lý dâng Đại Việt để làm lễ vật dẫn cưới.

Vua Anh Tông sai Hành khiển Đoàn Nhử Hài vào Ô, Lý để hiểu dụ đặt quan cai trị, cấp ruộng cho dân và thu thuế, đồng thời đổi tên hai châu đó thành Thuận Châu và Hóa Châu. Như vậy lãnh thổ Đại Việt vào đầu thế kỷ XIV đã vươn tới tỉnh Thừa Thiên ngày nay.

Xu hướng khai phá đất hoang để tăng diện tích cư trú và canh tác ra vùng biển vẫn được tiến hành liên tục. Vùng đất phù sa sông Hổng và các sông lớn khác dẩn dần trở thành đồng bằng và làng xóm của người Đại Việt. Chẳng hạn, vùng Bố Hải Khẩu đầu thế kỷ X hãy còn là đất biển, đến đầu thế kỷ XI, đã trở thành đồng ruộng trù phú. Năm 1038, Lý Thái Tông đã tới đây cày tịch điền. Đó là thị xã Thái Bình ngày nay. Dưới triều Lý - Trần, công cuộc khẩn hoang, trị thủy được tiến hành quy mô, đất canh tác ngày càng mở rộng, dân cư ngày một đông đúc. Điều này được phản ánh ở nhiều sử sách trong và ngoài nước.

Sách An Nam chí nguyên của Trung Quốc chép: “Xứ Giao Chỉ dân cư trù mật, đất không đủ cày cho nên người trước đắp đê cao ở hai bên sông ngòi để phòng nước lụt. Đất ở ven biển bị nước mặn lấn vào, bọn quý tộc thế gia muốn chiếm riêng đất đó, đều tự ý đắp đê để ngăn nước mặn rồi gieo trồng cày cấy bên trong, như thế là để yên dân và khai thác hết mối lợi của đất đai... Đê cao ba thước rộng năm trượng, đặt hà đê chánh và phó sứ để trông coi... Từ đó thủy tai không còn nữa mà đời sống dân được sung sướng, đất không bỏ sót nguồn lợi nào”3.

Chính vì thế lưu vực của các con sông lớn ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã trở thành địa bàn cư trú chủ yếu của cư dân thuở ấy. Nước Đại Việt vốn từ xưa đã bao gồm một cộng đồng dân tộc nhiều tộc người, trung tâm là người Việt. Ở vùng trung du và nhất là vùng núi là địa bàn sinh sống của các tộc khác như Mường, Tày, Thái, Mèo, Nùng, Dao, v.v.. Thời Lý, cư dân vùng rừng núi gần biên giới phía bắc là người Tày, Mán, Nùng... sinh sống. Họ cư trú thành từng động, bản do các tộc trưởng có uy tín đứng đầu. Bấy giờ, các dòng họ có thế lực như Tôn, Hoàng. Thân, Vi, Nùng. . . đã từng làm chủ các châu động. Triều đình Lý vừa dùng đức vừa dùng uy để vỗ về phủ dụ các tộc trưởng địa phương. Chính nhờ vậy mà họ đã có đóng góp lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược hồi thế kỷ XI. Như vậy từ thời Lý, Đại Việt đã là một quốc gia đa tộc có đa số, có thiểu số, phân bố khắp lãnh thổ gồm miền núi, trung du và đồng bằng. Tuy trình độ phát triển có khác nhau, nhưng từ sớm họ đã cố kết, đùm bọc, chung lưng, đấu cật cùng nhau dựng nước và giữ nước.

Sách Đảo di chí lược của Trung Quốc đời Nguyên có ghi: “Nước Đại Việt... đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêu”4. Sách An Nam chí lược cũng phản ánh: Nước Đại Việt có “dân cư đông đúc”. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời Lý thiên hạ chia thành 24 lộ; Hành khiển dâng số hộ gồm 3.300.100 đinh. Đời Trần chia nước thành 12 xứ; viện quan dâng số vàng, hạng đại nam và trung nam có 4.900.000 đinh, hạng hoàng nam có 2.104.300 đinh5. Như vậy, theo Nguyễn Trãi, thời Trần Đại Việt.đã có trên 7 triệu đinh nam (?) Bấy giờ, do nhu cầu cần nắm vững nhân đinh để tuyển quân, bắt phu và thu thuế, Nhà nước Lý - Trần quản lý chặt chẽ số người bằng phương pháp lập sổ hộ tịch. Phan Huy Chú cho biết, “buổi đầu đời Trần làm sổ hộ tịch, cứ hằng năm lại làm kế tiếp, phép làm rất rõ và kỹ vì noi theo phép cũ của nhà Lý nên như vậy”6. Tuy rằng sử sách xưa không ghi chép cụ thể dân số Đại Việt là bao nhiêu, nhưng chúng ta có thể đoán rằng dân số nước ta thời Lý - Trần khoảng từ 5 đến 7 triệu.

Theo sử cũ, Đại Việt là một xứ sở phồn thịnh. Đó là một nước, như Cao Hùng Trưng viết, ruộng đất màu mỡ, cấy lúa, trồng dâu và chăn nuôi đều thích nghi cả... Muối thì trắng sạch như tuyết. Cánh chim trả thì đỏ tía, đẹp mắt. Vàng thì sẵn ở các châu Phú Lương và Quảng Uyên. Hạt trai thì sáng, sẵn ở các xứ Tĩnh An và Vân Đồn. Còn san hô và đồi mồi thì sẵn ở trong biển”7. Sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết, “nước Đại Việt là nơi đô hội ở phương Nam, ruộng cấy lúa tốt, đất trồng dâu tốt, núi sẵn vàng bạc, biển sẵn châu ngọc, người ở đâu đến làm ăn buôn bán cũng làm giàu được cả”8.

Đất nước Đại Việt đông dân và giàu có, lại nằm ở một vị trí địa lý quan trọng, trên đường giao lưu từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, từ đất liền ra biển cả… đã lọt vào cặp mắt dòm ngó, đầy tham vọng của các thế lực xâm lược láng giềng hết thế kỷ này đến thế kỷ khác. Lịch sử đã để lại những bài học quý giá về mặt này. Phan Huy Chú viết: “Cái tiếng phong phú ấy đồn đi xa, nên Trung Quốc lúc nào cũng nghĩ cách chiếm đất nước mình, đặt làm quận huyện để cai trị đã từ lâu rồi. Lúc chưa lấy được thì nghĩ cách để lấy; lúc đã lấy được rồi thì không chịu bỏ ra nữa”9. Từ thế kỷ X, nước ta đã giành được độc lập, nhưng vẫn thường xuyên bị các thế lực phong kiến phương Bắc tìm cơ hội để thôn tính, đặt quyền cai trị và mở đường tiến xuống phía nam. Tham vọng biến Đại Việt thành các quận huyện nội thuộc vẫn chưa dứt trong tư tưởng của nhiều triều đại phong kiến thống trị ở Trung Quốc.

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, các triều đại Nam Hán, Tống và Nguyên đã bảy lần gây binh lửa xâm lược Đại Việt: nhà Nam Hán hai lần (các năm 931 và 938), nhà Tống hai lần (các năm 981 và 1075 - 1077), nhà Nguyên - Mông ba lần (các năm 1258, 1285 và 1288). Triều đại này bị đánh bại nhiều lần mới chịu thôi, thì triều đại sau trong các thế kỷ sau, lại nuôi tham vọng xâm lược mới. Nhà Nam Hán rồi nhà Tống thất bại, buộc vua Tống phải thốt lên: “Đừng thấy Giao Chỉ nhỏ mà xem thường” và đã có lúc chán chường: “Nước Giao Chỉ nhỏ, thủy thổ độc dữ, dân chúng gan lý liều chết, có lấy được cũng vô ích” (Tống sử), thế nhưng đến nhà Nguyên tham vọng bành trướng lại trỗi dậy, liên tục gây ra ba cuộc chiến tranh. Kết quả cả ba lần đều thất bại để rồi “việc Nam chinh luôn luôn như ngứa ngáy trong tim” Hốt Tất Liệt.

Ở mỗi cuộc chiến tranh, hoàn cảnh của kẻ thù một khác. Giặc Tống gây chiến tranh với Đại Việt trong lúc nội tình đang đầy rẫy khó khăn, muốn thông qua chiến tranh để ổn định nội trị. Giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta trong giai đoạn vó ngựa của chúng đã tung hoành khắp các lục địa Âu - Á. Dẫu trong hoàn cảnh nào, kẻ thù dân tộc luôn luôn là những thế lực xâm lược lớn mạnh gấp ta nhiều lần. Nhà Tống huy động 30 vạn quân cho chiến tranh, trong khi quân đội nhà Lý có hơn 10 vạn. Trong cuộc xâm lăng năm 1285, quân Nguyên đông hơn nửa triệu, còn triều đình nhà Trần lúc động viên cao nhất cũng chỉ có 30 vạn quân. Tuy nhiên, trong các cuộc chiến tranh nói trên, nhân dân ta đều giành thắng lợi, đó là kết quả của sự nỗ lực phi thường của cả dân tộc, không chỉ trong giai đoạn chiến tranh mà cả trong giai đoạn xây dựng đất nước. Trần Quốc Tuấn khái quát quy luật của cuộc kháng chiến chống Nguyên rằng: tóm lại, giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp”10.

Cùng với nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, nước Đại Việt còn thường xuyên bị các thế lực phía nam quấy nhiễu, cướp phá. Thời Lý, năm 1069, quân Chiêm Thành quấy phá biên giới; năm 1128, Chân Lạp đem 2 vạn quân vào cướp Nghệ An; năm 1132, Chân Lạp và Chiêm Thành đánh phía nam, tiến đến tận Nghệ An... Thời Trần, quân Chiêm Thành liên tục trong các năm 1353, 1361, 1365, 1367, 1380, 1383, 1389 đã xâm lấn Hóa Châu, Lâm Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Oai. Đặc biệt nghiêm trọng dưới triều vua Chế Bồng Nga, quân Chiêm ba lần cướp phá kỉnh thành Thăng Long vào các trăm 1371, 1377 và 1378.

Tình hình đất nước và kẻ thù trên đây đòi hỏi dân tộc ta trong tiến trình xây dựng đất nước phải thường xuyên cảnh giác trước các thế lực xâm lược; lo sao cho đất nước luôn luôn có sẵn phương lược và đủ sức mạnh để bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
____________________________________________
1. Tây Bình là vùng thị xã Lạng Sơn, Lộc Châu, tức Lộc Bình ngày nay. Theo Quảng Đông chí, ở Khâm Châu có con sông mang tên gọi cửa người “An Nam”. Sử cũ ghi rằng, Mạc Đăng Dung đem các động Tư Lẫm, Cổ Sum, Liễu Cát, La Phù, Kim Lặc thuộc hai đô Như Tích và Chiêm Lãng hiến cho nhà Minh. Sách Khâm Châu chí chép, mấy châu ấy đời Tống là đất của họ Hạng người Việt. Đời Minh Tuyên Đức, đất ấy thuộc triều Lê, sau đó, Mạc Đăng Dung hiến cho vua Minh để cầu phong.
2. Châu Địa lý, đồi thành Lâm Bình, đời Trần Duệ Tông là Tân Bình, thời Lê Trung Hưng là Tiên Bình, gồm đất phủ Quảng Ninh và Lệ Thủy (Quảng Bình). Châu Bố Chính thời thuộc Minh, đổi là Trấn Bình, đời Lê chia thành hai châu Nội Bộ Chính và Ngoại Bố Chính thuộc Quảng Trạch, Bố Trạch và Tuyên Hóa (Quảng Bình). Châu Minh Linh đến đời Lê vẫn là Minh Linh, sau là đất Vĩnh Linh, Do Linh (Quảng Trị).
3. Cao Hùng Trưng An Nam chí nguyên, tài liệu dịch của Viện Lịch sử quân sự (VLSQS.).
4. Uông Đại Uyên: Đảo di chí lược, tri phục trai toàn thư, tr.3.
5. Nguyễn Trãi Toàn tập. Nxh Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr 189.
6. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà Nội, 1957, t.IV, tr.49.
7. Cao Hùng Trưng: An Nam chí nguyên, bản dịch, tư liệu VLSQS.
8. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà Nội. 1961, t.I, tr.33.
9. Sđd. tr. 35.
10. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Sử học, Hà Nội, 1967, t.II, tr. 80.

II. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

Sau chiến công lớn trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng vương và xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ. Từ đây một bộ máy chính quyền nhà nước trung ương được thiết lập và từng bước kiện toàn trên đất nước ta. Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân, xây dựng một nhà nước thống nhất. Từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV là một giai đoạn lịch sử quan trọng, trong đó nước Đại Việt đã có những bước tiến đáng kể trên lĩnh vực xây dựng hệ thống bộ máy nhà nước và củng cố cơ cấu xã hội - chính trị của nó.

Nhà nước phong kiến tập quyền Đại Việt gồm một hệ thống chính quyền các cấp từ triều đình đến tận các làng, xã. Triều đình trung ương là cơ quan tập trung quyền lực cao nhất trên mọi mặt hoạt động của đất nước, kiểm soát các địa phương trông qua hệ thống chính quyền các cấp.

Kế thừa sự nghiệp nhà Tiền Lê, nhà Lý xây dựng chính quyền theo lối chính quy. Đứng đầu là Vua, tiếp đến các đại thần văn, võ trong triều chia thành chín bậc1. Bộ máy hành chính địa phương gồm các phủ, lộ, huyện và các hương, giáp. Ở vùng xa có các châu, trại. Lý Thái Tổ chia nước thành 24 lộ và hai trại.

Sang thời Trần, nhà nước trung ương tập quyền được khôi phục và phát triển trên mọi phương diện. Các cơ quan hành chính và chuyên môn sớm được thiết lập, mở rộng và quản lý chặt chẽ hơn trước. Theo thể chế nhà Trần, bên cạnh kinh đô Thăng Long còn có phủ Thiên Trường, được xây dựng và bảo vệ gần như một kinh đô thứ hai. Đó là quê hương, là nơi ở của thượng hoàng. Nhà Trần thực hiện cải tổ hành chính, chia cả nước thành 12 lộ, hai trại và đặt thêm năm phủ, sáu châu. Ở các địa phương, những người nhiệm chức đến cấp xã đều nằm trong bộ máy chính quyền nhà nước2.

Hệ thống chính quyền nhà nước Lý - Trần về hình thức được mô phỏng theo mô hình Đường - Tống, nghĩa là theo mô hình một bộ máy quan liêu đông đảo từ trên xuống dưới, gồm hai bộ phận: quan lại trung ương (quan trong) và quan lại địa phương (quan ngoài). Tuy nhiên, sự mô phỏng đó cũng chi theo một chừng mực nhất định, chẳng hạn ở tên gọi các tước hiệu, phẩm hàm hay phẩm phục quan chức... còn việc tổ chức, tuyển mộ, sắp đặt và sử dụng quan lại của Đại Việt có nhiều điểm khác biệt. Tính độc lập, tự chủ ở lĩnh vực này thể hiện trên quan điểm của triều đình cũng như trên thực tế. Sử gia Ngô Sĩ Liên viết rằng: “Triều thần đời Minh Tông là Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh có ý muốn thay đổi chế độ quan lại. Vua nói: Nhà nước đã có phép tắc nhất định, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe theo kế của kẻ học trò mặt trắng trên đường tiến thân thì sinh loạn ngay”3. Hoặc như vua Trần Nghệ Tông nói: “Triều trước dựng nước đã có pháp độ, không nên theo chế độ nhà Tống vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không phải noi nhau”4.

Nhà nước phong kiến Lý - Trần là nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Đứng đầu là vua, bên cạnh vua là một bộ máy quan lại gồm tầng lớp quý tộc quan lại văn, võ làm việc trong các cơ quan hành chính và chuyên môn.

Vua đứng đầu triều đình, có quyền lực tối cao trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự của đất nước.

Ở nước ta, cũng như nhiều nước phương Dông khác, vua là “thiên tử” (con trời), là người “thế thiên hành đạo” (thay trời trị nước). Trên danh nghĩa vua là đại diện của thượng đế trước nhân dân, đồng thời cũng là người đại diện của nhân dân trước thượng đế. Vua có uy quyền tuyệt đối trên các hoạt động xã hội, có quyền phong thần cho những người có công với nước, nhất là đối với những anh hùng giữ nước được nhân dân thờ phụng. Đó chính là một đặc điểm phương Đông, là sự kết hợp giữa vương quyền với thần quyền, giữa chính trị và tôn giáo.

Một quyền hạn to lớn, đồng thời cũng là một chức năng nặng nể của các vua thời Lý - Trần là chức năng quân sự. Ở lĩnh vực này các vua thường giữ vai trò là thủ lĩnh quân sự của cộng đồng dân tộc, là người có quyền quyết định trong việc tổ chức và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong nước đánh giặc. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng” cầm quân. Nhiều vị vua thời Lý - Trần đã thân chinh chỉ huy các đạo quân đi đánh Chiêm Thành quấy phá biên giới, hoặc thực hiện các cuộc hành quân lớn đánh dẹp các thế lực chống đối. Thậm chí, có những vị vua đã bỏ mình nơi trận mạc, như Trần Duệ Tòng hy sinh trên đất Chiêm năm 1377. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, chống Nguyên - Mông, các hoàng tử nhà Lý, hoặc các vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đã từng chỉ huy một cánh quân lớn đánh giặc. Vua Trần Anh Tông không ngại tuổi già đã thân cầm quân đi dẹp giặc Ngưu Hống. Vua muốn thực hiện chức năng và quyền uy của mình, đồng thời cũng để làm gương trước các quần thẩn, tướng sĩ trong việc trị nước và giữ nước. Ngay trong lúc đất nước thanh bình, các vua thời Lý - Trần vẫn thường xuyên xuống chiếu nhắc nhở các tướng sĩ không được lơ là việc phòng thủ, phải chăm lo luyện rèn binh sĩ, đóng chiến thuyền và rèn đúc vũ khí. Lý Nhân Tông, vị vua anh hùng đã kinh qua cuộc kháng chiến chống Tống, trước khi mất không quên dặn dò các đại thần: “nên sửa sang giáo mác để đề phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh lệnh ta dù nhắm mắt cũng không di hận”5. Vua Lý Anh Tông trước khi về già, cũng đã căn dặn thái tử thay mình trị vì đất nước: “Nước ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng, châu ngọc bảo bối không cái gì không có, nước khác không thể nào ví được. Con hãy nên giữ gìn cẩn thận”6. Vua Trần Anh Tông khi biết tin Trần Quốc Tuấn bị bệnh nặng khó qua khỏi, đã đến bên giường bệnh lo lắng hỏi: “Chẳng may thượng phụ không qua khỏi, giặc phương Bắc lại sang, thì kế sách làm sao?”7. Các vị minh quân thời bấy giờ thường quan tâm nhiều đến việc lực chọn nhân tài, bạt dụng lương tướng, lập giảng võ đường không quên xuống chiếu cho các quý tộc tôn thất, các tướng lĩnh cao cấp phải năng nghiên cứu và học tập binh thư, binh pháp. Chính đích thân các vua Lý, vua Trần đã cùng các hoàng tử chuyên tập binh pháp, học cưỡi ngựa và bắn tên ở xạ đình để rèn luyện và nêu gương mình kể cả trong lúc hòa bình hoặc khi sắp có chiến tranh. Những điều trên đã chứng tỏ nhà nước Lý - Trần mà người đại diện là vua vẫn thường xuyên quan tâm và chăm lo đến nhiệm vụ giữ nước.

Sau vua là khối quý tộc, quan lại - tầng lớp thượng lưu trong bậc thang xã hội, trong đó, đại đa số là giới quý tộc tôn thất, nắm giữ tất cả những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.

Dưới triều Lý, các hoàng tử, thân vương và công chúa được phong nhiều chức tước cao và được giao những trọng trách, nhất là trong lĩnh vực quân sự, như các chức đô thống, đại nguyên soái, đại tướng chỉ huy các đạo quân viễn chinh, phụ trách cấm binh bảo vệ kinh thành, có quyền xét xừ các vụ trọng án hoặc đi trấn trị ở các địa phương quan trọng. Các vương hầu được phái đi trấn trị, kiểm soát các châu, lộ chủ yếu, bảo đảm sụ trung thành về mặt chính trị của các địa phương đối với triều đình trung ương. Đối với các châu miền núi xa xôi, kể cả các vùng có các tộc người thiểu số, nhà Lý đã dùng chính sách “nhu viễn”, ràng buộc về hôn nhân, gả các công chúa (như Khâm Thánh, Thiên Dung, Bình Dương, Chiêu Thành, Trường Minh... ) rồi phong tước cho các tù trưởng địa phương. Những phò mã này đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp vua bảo vệ vùng biên giới. Phò mã Thân Cảnh Phúc có công lớn trong cuộc chiến tranh chống xâm lược Tống lần thứ hai.
_______________________________________
1. Từ nhất phẩm đến cửu phẩm, gồm chín bậc, có “chánh” và “tòng”, ví dụ chánh nhất phẩm, tòng nhất phẩm xuống đến chánh cửu phẩm tòng cửu phẩm.
2. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1242 “các xã, sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã, từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người kiêm 3, 4 xã; cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan” Sđd, t.II, tr. 18-19.
3. Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Sử học, Hà Nội, 1967, t.I, tr. 145.
4. Sđd, t.I, tr. 158.
5. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd t.I, tr. 257
6. Việt sử lược. Nxb Văn-Sử-Địa, Hà Nội. 1960. tr. 152.
7. Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, t.II, tr. 81

Dưới triều Trần, bộ máy quan lại được tổ chức quy củ và có hệ thống hơn triều Lý, gồm hai bộ phận quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương). Tầng lớp quý tộc, tôn thất phát triển hơn và thể hiện rõ vai trò của mình trong sự nghiệp giúp vua giữ nước. Các vương hầu nhà Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vụ chủ chốt ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các vùng trọng yếu. Vương hầu có quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Họ còn được phân phong thái ấp có phủ đệ và được tồ chức đội quân riêng. Lúc bình thường họ sống ở phủ đệ, lúc hữu sự họ về kinh đô. Sử thần Ngô Sĩ Liên chép: chế độ nhà Trần, vương hầu đều ở phủ đệ riêng tại các hương, khi có triều yết thì về kinh, xong việc lại trở về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Hải Hưng), Thủ Độ ở Quắc Hương (Mỹ Lộc, Nam Hà), Quốc Chẩn ở Chí Linh (Hải Hưng)... Đến lúc vào triều làm tể tướng mới thống lĩnh tất cả việc thiên hạ...”1.

Các vương hầu quý tộc thời Lý - Trần được quyền trấn trị ở các địa phương, có thái ấp, điền trang và quân đội riêng. Yếu tố phân tán còn tồn tại trong xã hội phong kiến thời Lý - Trấn, nhưng nó luôn luôn bị hạn chế bởi tính chất xã hội cùng với những chính sách ràng buộc của nhà nước tập quyền. Vương hầu có quyển thừa ấm, tức kế tiếp được phong tước, nhưng không được tập chức. Họ không được quyền kế thừa thái ấp. Về nguyên tắc, ruộng đất ở thái ấp là quốc hữu, do nhà nước mà đại diện là vua quản lý. Trong nước, đại bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, giao cho làng xã quản lý, sử dụng, có nhiệm vụ nộp tô thuế. Như vậy xu hướng tập quyền là xu hướng chủ đạo, mạnh mẽ trong xã hội thời Lý - Trấn.

Chế độ phong kiến Lý - Trần mang đậm tính dân tộc chịu ảnh hưởng của lễ nghi phong kiến phương Bắc, nhưng tính chuyên chế chưa cao, khoảng cách giữa vua và tôi, giữa quý tộc và bình dân chưa thật lớn. Lối sống trong sinh hoạt chốn triều đình còn thể hiện tính dân chủ của cộng đồng. Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, tôn thất xong buổi chẩu vào trong cung điện và lan đình, cùng nhau ăn uống; hoặc khi tối trời không về thì đặt gối dài, chăn rộng cùng nghỉ liền giường với nhau, để tỏ tình thân ái; chỉ khi có lễ lớn, tân khách hay yến tiệc, mới phân biệt ngôi thứ.... Hoặc như Trần Quốc Tuấn đã từng nói với các tướng sĩ: “Lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười”. Điểu đó chứng tỏ sự đổng tâm, hòa thuận trong nội bộ chính quyền, làm tăng thêm sức mạnh của vương triều tạo điều kiện cố kết nhân tâm trong cả nước, nhất là khi cần huy động quân đội của các vương hầu quý tộc Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm Nguyên  Phong (đời Trần Thái Tông), giặc Nguyên sang cướp, vương hầu đều đem gia hầu và hương bỉnh, thổ hào sung vào đội quân cần vương; việc biến năm Đại Định2, vương hầu lại đem dân thôn trang sắm sửa nghi trượng để đón vua mới. Như thế, chế độ nhà Trần cũng làm tăng thêm được sức mạnh của cái thế “duy thành”, bảo vệ nhà nước”3.

Nhìn chung, tầng lớp quý tộc thời Lý - Trần là một đẳng cấp xã hội trẻ, đang độ phát triển. Xu hướng cát cứ của quý tộc chưa phải là hiện tượng phổ biến. Sự đối lập trong nội bộ chính quyền hoặc sự đối kháng giai cấp lúc đó chưa cao. Đặc điểm này đã tạo nên một không khí chính trị lành mạnh trong giới cầm quyền và trong cả nước nói chung, tạo nên thế mạnh cho chính quyền, cho cả nước trong mối quan hệ đối nội cũng như trước những thử thách ngặt nghèo cửa ngoại xâm.

Trong cấu trúc xã hội thời Lý - Trần, hệ thống cộng đổng làng xã đã đóng góp một vai trò rất quan trọng. Có thể coi đây là nền tảng là cơ sở của cả cấu trúc, trong đó bao gồm đông đảo những người nông dân và các thợ thủ công, tức thành phần chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, là nơi cung cấp nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng sức mạnh phòng vệ đất nước.

Mỗi làng xã Đại Việt là một tế bào xã hội. Ở đó, những hộ nông dân sống quần tụ, gắn bó trong mối quan hệ vừa là thân tộc vừa là láng giềng. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa chưa phát triển mạnh, các làng xã nông nghiệp còn tương đối khép kín, tự cung tự cấp. Ở đây bên cạnh một hệ thống chính quyền cấp xã mang tính chất nhà nước gồm các “quản giáp”, các xã trưởng, các đại hoặc tiểu tư xã - những người đại diện của chính quyền nhà nước, còn tồn tại song song một hệ thống quyền lực mang tính chất công xã cổ truyền do dân cử, gồm các bô lão, những già làng, những tộc trưởng có uy tín cùng tham gia quản lý làng, xã.

Khi đất nước thanh bình, khi nhà nước phong kiến còn thể hiện vai trò tích cực thì những người nông dân vẫn sống thuần hậu, chất phác và cần mẫn với việc đồng áng, họ tham gia các nghĩa vụ đối với nhà nước như đóng tô thuế, lao dịch và binh dịch. Một bộ phận tham gia các đội tuần đinh, dân binh làng xã. Họ là lực lượng vũ trang cơ sở, tồn tại dưới hình thức “tĩnh vi nông, động vi binh” (lúc yên là nông dân, lúc động là binh lính). Khi đất nước có chiến tranh, nông dân là lực lượng đông đảo nhất tham gia quân đội của nhà nước, hoặc các đội dân binh đánh giặc tại chỗ, với ý thức “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, cùng đánh giặc giữ làng giữ nước. Dĩ nhiên, tầng lớp binh dân - những người nông dân và thợ thủ công là đối tượng bóc lột, thống trị của giới quý tộc phong kiến, vì thế, khi chính quyền nhà nước kém hiệu lực, khi quý tộc quan lại trở lên tham nhũng hà khắc, thì chính họ, những người bình dân lại là lực lượng chủ yếu tham gia các cuộc “nổi loạn” của quần chúng. Trường hợp này đã diễn ra vào giai đoạn cuối thời Lý và cuối thời Trần.

Dưới cùng của bậc thang xã hội Đại Việt là tầng lớp nông nô, nô tỳ. Đây là di sản của xã hội cổ xưa. Đến thời Lý - Trần, nông nô, nô tỳ phát triển tương đối mạnh về số lượng. Lúc đó, tầng lớp quý tộc địa chủ đang là lực lượng quan trọng ủng hộ chính quyền và đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội, họ được nhà nước cho phép nuôi người phục dịch, chiêu mộ dân nghèo, người lưu tán khai phá đất hoang lập các trang trại. Hình thức kinh doanh nông nghiệp đó đã tạo ra tầng lớp lao động có địa vị thấp kém, bị phụ thuộc hoàn toàn về thân phận đối với chủ của mình. Nông nô, nô tỳ là lực lượng sản xuất trong các trang trại, nhưng khi cần họ trở thành lực lượng quân sự của các vương hầu quý tộc, họ tham gia bảo vệ trị an và đánh giặc giữ nước. Trong kháng chiến chống Nguyên, lực lượng gia nô, nông nô đã có những đóng góp đáng kể; nhiều chiến công của họ đã được lịch sử ghi nhận.

Trên đây là cấu trúc xã hội Đại Việt thời Lý - Trần. Cơ chế chính quyền nhà nước thời kỳ này được xây dựng và vận hành trên cơ sở cấu trúc xã hội đó.

Cùng với sự phát triển của chính quyền về mặt hành chính là quá trình kiện toàn chức năng lập pháp và hành pháp của nó. Ởnước ta, đến thời Lý - Trần, các hoạt động lập pháp của nhà nước đã xuất hiện và phát triển. Năm 1042, Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Sang thời Trần, bên cạnh bộ Quốc triều thống chế gồm 20 quyển, xác định các quy chế chính quyền, nhà nước còn tổ chức biên soạn và nhiều lần sửa đổi bổ sung bộ Hình thư của mình. Các bộ luật này đã thất truyền. Tuy nhiên, căn cứ vào các lệnh dụ của nhà vua, các việc làm cụ thể được sử sách ghi chép, có thể nghĩ rằng luật pháp thời Lý - Trần đã đề cấp đến nhiều lĩnh vực, trong đó có những chế định về quyền hạn và trách nhiệm của mỗi thành viên đối với xã hội, về nghĩa vụ binh dịch của các đinh tráng, về nghĩa vụ đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước, về chức năng của các loại quân trong việc bảo vệ chính quyền và biên giới Tổ quốc. Các hoạt động lập pháp ngày càng quy củ đó chứng tỏ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời Lý - Trần ngày một ổn định, và hoàn bị để thực hiện tốt các chức năng của nó.

Công cuộc xây dựng đất nước thời Lý - Trần tiến hành trong hoàn cảnh nạn ngoại xâm luôn luôn là nguy cơ trực tiếp và thường xuyên. Trong giai đoạn này, đã diễn ra liên tục bốn cuộc chiến tranh giữ nước lớn. Đó là chưa kể đến những lần triều đình phải động binh xử lý các vụ xâm phạm biên giới của các lực lượng phàn lộng phía tây và nam Tổ quốc. Do đó, để củng cố nền thống trị của nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ và đồng thời để tăng cường lực lượng quốc phòng sẵn sàng ứng phó với nguy cơ xâm lược của nước ngoài, chính quyền Lý - Trần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang của mình. Lực lượng vũ trang đó gồm có quân chính quy của triều đình, quân địa phương của các lộ, phủ, giả binh của vương hầu và dân binh, hương binh ở làng xã. Cấm quân là lực lượng quân đội thường trực nòng cốt của trung ương, được coi trọng phát triển và thường xuyên túc trực bảo vệ kinh đô. Quân đội nhà nước Đại Việt là quân đội chính quy, đã đạt đến một trình độ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy tốt. Các lực lượng vũ trang thời Lý - Trần đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền và đã lập nhiều chiến công rực rỡ trong công cuộc đánh giặc giữ nước.
___________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, t. II, tr. 32.
2. Năm 1369, Dương Nhật Lễ cướp ngôi vua Trần, tôn thất nhà Trần đem quân đón Trần Phủ ở Đà Giang về giết Nhật Lễ, lập vua Trần Nghệ Tông.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.156.

III. NHỮNG THÀNH TỰU KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI

Trải qua hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc thống trị, các mặt kinh tế, văn hóa dân tộc bị kìm hãm, thậm chí nhiều bộ phận bị xói mòn và bị hủy hoại. Thế kỷ thứ X là thế kỷ giành độc lập, là thời kỳ phục hưng dân tộc. Từ thế kỷ XI, công cuộc xây dựng đất nước bắt đầu bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển dân tộc và quốc gia phong kiến dân tộc. Nước Đại Việt thời Lý - Trần đã trở thành một quốc gia văn minh, thịnh vượng nối tiếng trong vùng Đông Nam Á.

Trong xã hội Lý - Trần, nền kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo và là cơ sở của mọi hoạt động trong nước. Chính quyển phong kiến coi trọng nghề nông và đề ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp. Sức lao động và sức kéo trong nông nghiệp được nhà nước bảo vệ. Nông dân có ruộng cày, xóm làng ồn định. Quân lính được thay phiên nhau về tham gia sản xuất theo chính sách Ngụ binh ư nông.

Các công trình khẩn hoang và thủy lợi được tiến hành hằng năm, quy mô ngày một lớn. Thời Lý, nhiều đoạn đê quan trọng dọc theo những sông lớn, nhất là đê Cơ Xá (đê sông Hồng) được đắp. Năm 1248, triều Trần ra lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bờ biển gọi là đê quai vạc. Đến đời Trần, hệ thống đê sông Hồng và các sông lớn ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ đã hoàn chỉnh. Chức hà đê chánh và phó sứ được đặt để quản lý và trông coi đê điều. Nhiều kênh ngòi được đào và khơi sâu thêm. Những công trình đó đã tạo ra những điều kiện tốt cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp. Sứ thần nhà Nguyên là Trần Phu đã ghi lại rằng: “Ở Đại Việt lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt”1.

Từ thời Trần: nhà nước khuyến khích khai phá đất hoang lập thành các trang trại lớn. Các khu định cư và các vùng đất canh tác mới xuất hiện. Ở các lộ có đặt chức đồn điền chánh và phó sứ để quản lý, đôn đốc việc khẩn hoang. Năm 1266, vua xuống chiếu cho phép các vương, công chúa, phò mã, cung phi chiêu tập dân nghèo không có đất làm nô tỳ, đi khai hoang ven biển lập các điền trang. Thời kỳ này xuất hiện một loại hình kinh tế mới, đó là kinh tế điền trang.

Sự phát triển của kinh tế điền trang thái ấp cùng với việc cho phép các vương hầu quý tộc xây dựng phủ đệ và lực lượng vũ trang riêng vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa quân sự, càng tăng thêm thế nước, chính quyền có thêm lực lượng vật chất để bảo vệ vương quyền và phòng giữ đất nước.

Dưới thời Lý - Trần, các nghề thủ công trong nước được tạo điều kiện phát triển. Đó là những nghề truyền thống như dệt, gốm sứ, luyện kim, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc đổng, v.v... Trong nông thôn Đại Việt xuất hiện những làng thủ công chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống của mình, như nghề dệt lĩnh ở Trích Sài (Hà Nội); nghề dâu ở Nghi Tàm (Hà Nội); nghề dệt ở Từ Sơn (Hà Bắc); nghề làm nón ở Ma Lôi (Hải Hưng)… Kinh thành Thăng Long có 61 phường, mỗi phường làm một nghề thủ công, phố xá buôn bán các sản phẩm ngày một sầm uất. Từ thời Lý, nhà nước đã áp dụng những biện pháp tạo điều kiện cho các nghề thủ công trong nước phát triển. Chẳng hạn, mở lớp dạy dệt gấm cho các cung nữ và khuyến khích dùng những sản phẩm thủ công nội địa. Năm 1040, Lý Thái Tông đã ra lệnh phát gấm vóc trong kho để may lễ phục cho vua quan, cấm mua gấm vóc của nhà Tống. Nghề dệt lụa của Đại Việt vì thế mà đã trở thành nổi tiếng trong vùng với đủ các thứ vải, lụa, gấm vóc, the đoạn... có nhiều màu sắc và họa tiết trang trí đặc sắc. Nhu cầu vải mặc và một số trang bị khác cho quân đội đã được nghề dệt trong nước cung cấp.

Nghề gốm sứ có truyền thống từ lâu đời, đến thời Lý đã tiến thêm một bước dài, cung cấp nhiều vật dụng cho cung đình và nhu cầu ở các làng xã. Nghệ thuật gốm sứ thời Lý - Trần mang đậm sắc thái dân tộc, có trình độ thẩm mỹ cao và đạt tới đỉnh cao trong lịch sử phát triển của nó.

Nghề khai mỏ và luyện kim, chủ yếu là đồng và sắt, đã cung cấp thỏa mãn nguyên vật liệu cho nhà nước đúc tiền, đúc chuông, tượng, các nông cụ cũng như các thứ binh khí, chiến cụ trang bị cho quân đội.

Đường giao thông thủy, bộ trong nước được mở mang và phát triển đồng thời với các phương tiện vận chuyển như các loại thuyền lớn, nhỏ, tạo điều kiện tốt không chỉ đối với sự phát triển giao lưu kinh tế mà còn cho công cuộc phòng giữ đất nước, là cơ sở tốt để nhà nước huy động, sử dụng khi có chiến tranh.

Một số trung tâm thương nghiệp xuất hiện như Tư Phố (Thanh Hóa), Long Biên (Hà Nội), Luy Lâu (Hà Bắc), Phố Hiến (Hải Hưng), Thăng Long - Kẻ Chợ, v.v... nhiều làng quê đã xuất hiện chợ búa. Nền kinh tế hàng hóa phát triển góp phần đẩy lùi yếu tố phân tán trong xã hội. Quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với các nước khác như Trung Quốc, Chiêm Thành, Java (Inđônêxia), Chân Lạp, Xiêm, Hồi Hột (vùng Tân Cương), v.v… được thực hiện chủ yếu qua đường biển và qua một số thương cảng lớn như Vân Đồn (Quảng Ninh) và một số cửa biển ở miền Trung. Sứ giả đời Nguyên, Trần Phu chép trong An Nam tức sự rằng: “Phủ Thanh Hóa... cách thành Giao Chỉ hơn 200 dặm, các phiên thuyền ở hải ngoại tụ tập ở đây, họp chợ ngay trên thuyền rất đông... Thật là một thị trấn lớn”2. Đường biên giới đối với các quốc gia láng giềng cũng được mở, tạo điều kiện giao lưu buôn bán thuận tiện. Trên biên giới Tống - Lý đã xuất hiện các bạc dịch trường (chợ biên giới). Sách Trung Quốc Đảo di chỉ lược chép: “Đất Giao Chỉ nhiều vàng bạc, đồng, chì, thiếc, ngà voi, lông chim trả, nhục quế cau. Hàng trao đổi thì dùng các thứ như the, lĩnh các màu, lụa, vải thanh bố, lược ngà, giấy, đồng, sắt... Lưu thông sử dụng tiền đồng”. Nhà nước Lý - Trần không hạn chế ngoại thương, nhưng luôn luôn có những biện pháp quản lý rất chặt chẽ để đề phòng âm mưu do thám của người nước ngoài, nhằm bào vệ an ninh trong nước.

Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những cơ sở vật chất vững vàng cho sự tồn tại quốc gia độc lập tự chủ và mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc.

Trong xã hội thời Lý - Trần. người nông dân công xã vẫn bảo lưu những phong tục tập quán cổ truyền, vẫn duy trì quan hệ cộng đồng chặt chẽ, sớm kết hợp ý thức tình làng nghĩa xóm với ý thức quốc gia dân tộc, nước gắn liền với làng.

Yêu cầu của công cuộc giữ nước trong giai đoạn này đã thúc đẩy nền văn hóa phát triển mang đậm ý thức dân tộc. Thơ Nam quốc sơn hàLộ bố văn của Lý Thường Kiệt cùng với các sáng tác thời Trần như Hịch tướng sỹ của Trần Quốc Tuấn, các áng văn thơ của Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, v.v…, thể hiện sinh động chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và niềm kiêu hãnh với sự nghiệp giữ nước oai hùng của dân tộc.
__________________________________________
1, 2. Trần Phu: An Nam tức sự, cương trung thi tập , q.2.

Nền giáo dục Đại Việt đã có những thành tựu đáng kể. Năm 1070, nhà Lý xây dựng Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám ở kinh thành làm nơi học tập cho con em các quý tộc quan lại. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên và từ đó những nhân tài đất nước từng bước được tuyển chọn qua thi cử để sung vào đội ngũ quan lại quản lý các cơ quan chuyên môn. Trong xã hội xuất hiện dần một từng lớp nho sĩ. Nhưng chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo mới chỉ bắt đầu. Thời Lý, Phật giáo vẫn chiếm ưu thế và các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị. Tuy nhiên, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo đồng thời phát triển pha trộn nhau, kết hợp với những tín ngưỡng dân gian và tất cả đều bị chi phối bởi yêu cầu đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sang thời Trần, chế độ học tập và thi cử ngày càng chính quy hơn. Tại Thăng Long, Quốc học viện lúc đầu chỉ dành riêng cho con em quý tộc, quan lại, sau mở rộng cho giới nho sĩ vào học. Các địa phương đã có chức học quan, trường tư xuất hiện. Các thể lệ thi cử được điển chế hóa. Vì vậy, nho sĩ xuất hiện ngày càng đông, đẩy lùi dần địa vị của tầng lớp tăng lữ trên lĩnh vực chính trị và tư tưởng. Trong nước, xuất hiện nhiều nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, nhà quân sự...

Đỉnh cao của nền văn hóa thời Lý - Trần được thể hiện trong các giai -đoạn có chiến tranh giữ nước. Một nền khoa học và nghệ thuật quân sự tiến bộ nẩy sinh và vận dụng trong các cuộc kháng chiến chống Tống và chống Nguyên - Mông.

Các mặt khác như văn học nôm, nghệ thuật ca múa, nghệ thuật kiến trúc, tạo hình, có những bước phát triển đáng kể, đậm đà tính cách dân tộc và dân gian. Bên cạnh nền văn hóa cung đình còn tồn tại một nền văn hóa dân gian rất đa dạng và phong phú, phục vụ đời sống tinh thần của tầng lớp lao động. Ở các địa phương, các lễ hội truyền thống thể hiện tinh thần thượng võ như bơi thuyền, đánh vật, đấu gậy, cướp cù... rất thịnh hành. Các lễ hội thường gắn liền với việc nêu cao truyền thống đánh giặc giữ nước và suy tôn các vị anh hừng dân tộc, những người đã hy sinh vì sự nghiệp chống ngoại xâm.

Tóm lại, cũng như kinh tế, văn hóa thời Lý - Trấn cũng đạt đến một giai đoạn phát triển rực rỡ. Nhân dân Đại Việt đã phát huy những tinh hoa và giá trị của nền văn hóa cổ truyền, tiếp thu có sáng tạo những yếu tố tích cực của bên ngoài để xây dựng lên một nền văn hóa tiến bộ, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là nền văn hóa Thăng Long, nền văn hóa Lý - Trần bắt đầu phục hưng từ thế kỷ X và tiếp tục phát triển cho đến thế kỷ XV.


IV. NƯỚC ĐẠI VIỆT TRONG BỐI CẢNH CHUNG ĐÔNG NAM Á

So với các nước trong vùng, Đại Việt là một nước lớn về lãnh thổ và dân cư, một quốc gia thịnh vượng và có uy tín ở Đông Nam Á.

Bấy giờ Đại Việt có biên giới chung với Trung Quốc trong thời kỳ nhà Tống, nhà Nguyên (ở phía bắc), với Nam Chiếu (ở phía tây bắc); với Chiêm Thành (phía nam) và Lão Qua (Lào), Chân Lạp (ở phía tây); lại có biển Đông dài và rộng, có khả năng thuận tiện trong việc giao lưu với các nước lục địa và hải đảo trong khu vực.

Có quan hệ và ảnh hưởng lớn nhất với Đại Việt là nước Tống (960 1279), tiếp đó là Nguyên (1260 - 1368). Sau hơn 1000 năm vừa có đô hộ vừa có chống đô hộ, cuối cùng phong kiến Trung Hoa buộc phải chấp nhận nền độc lập của nước ta. Ngay từ buổi đầu giành lại độc lập nhà Đinh và nhà Tiền Lê đã khôn khéo tìm cách quan hệ giao hiếu với nhà Tống ở phương Bắc nhằm giữ yên nền độc lập tự chủ.

Nhà Lý xây dựng đất nước trong lúc nhà Tống đang gặp khó khăn về nội trị cũng như giặc giã ở phía bắc. Đến đời Tống Thần Tông cùng với Tể tướng Vương An Thạch, nhà Tống có ý đánh xuống phương Nam vừa để mở rộng lãnh thổ vừa để gây uy tín chính trị với hai nước Liêu và Tây Hạ. Chính vì thế triều đình Lý luôn luôn phải cảnh giác với nguy cơ bị xâm lược từ phía bắc. Nhà Lý thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, chủ động cử sứ giả sang Tống, hằng năm vẫn triều cống và chấp nhận là phiên thần. Ngoài việc bang giao chính thức bằng các sứ bộ. hai nước Tống và Lý còn có sự giao dịch hằng ngày ở biên thùy.0020Trên những đường thông lộ lớn qua biên giới, sự buôn bán trao đồi giữa hai nước khá thịnh vượng và có tổ chức. Tuy vẫn coi Đại Việt là nhỏ mọn, nhưng sau thất bại năm 981, nhà Tống không còn coi thường nữa. Cả hai bên đều cảnh giác, sợ người ngoài lợi dụng sự buôn bán ở các bạc dịch trường để do thám lẫn nhau.

Từ 1075, Tống Thần Tông và Vương An Thạch chủ trương gây chiến tranh xâm lược Đại Việt. Kết quả Tống đã hai lần bị đại bại: ở Ung Khâm Liêm (năm 1075) và ở bắc sông Như Nguyệt (1077). Từ đó đối với Đại Việt, Tống có vẻ kính nể, không dám gây sự nữa. Còn nhà Lý vẫn chủ trương tiếp tục giao hiếu, cử các phái bộ sang cầu phong, xin kinh Đại Tạng và cống phương vật. Quan hệ Tống - Lý trở lại bình thường.

Bấy giờ, Đại Việt còn có quan hệ với các nước khác như Nam Chiếu ở Vân Nam, nước Liêu, Tây Hạ và Kim ở phía bắc. Lúc đó Tống rất sợ Liêu và Tây Hạ liên minh với Đại Việt. Do đó đã có lần sứ bộ của cả Liêu và Tống cùng đến, triều đình Lý phải cho họ ở cách biệt, tiếp đãi riêng, không cho người Tống biết.

Nhà Trần thay thế nhà Lý đúng dịp ở phương Bắc có họa người Tác Ta. Trung Quốc bị Mông Cổ xâm lược và triều Nguyên thành lập (1260). Chiếm được Trung Quốc, đế quốc Nguyên muốn tiến xuống phương Nam. Mặc dù quân xâm lược Mông Cổ đã thất bại vào năm 1258, quân Nguyên liên tiếp trong các năm 1285 và 1288 đã hai lần xâm lược Đại Việt, nhưng đều bị thất bại. Triều Trần đã thực hiện một chính sách đối ngoại vừa kiên quyết vừa khôn khéo, mềm dẻo trên lập trường bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đại Việt nhún nhường nhận làm phiên thuộc và triều cống để giữ gìn độc lập. Lúc đó, Đại Việt đã thành công trong đấu tranh quân sự và ngoại giao, buộc vua Nguyên phải bãi binh và từ bỏ ý chí xâm lược.

Sau những trận binh lửa, quan hệ giữa hai nước được thiết lập bình thường, việc thông thương trên đường biên giới được tự do. Độc lập dân tộc được giữ vững, nhưng nhà Trần luôn luôn cảnh giác và quan tâm nhiều đến vùng biên giới phía bắc và đông bắc Tổ quốc.

Đối với Chiêm Thành, Chân Lạp, ta vẫn giữ thái độ hòa hảo, nhưng khi biên cương bị xâm lấn thì kiên quyết trừng phạt để giữ vững bờ cõi.

Thế kỷ XI - XIII, nền kinh tế, chính trị Đại Việt ổn định và phát triển thịnh vượng. Nhiều nước khác trong vùng đã đến đặt quan hệ như Chân Lạp, Xiêm, Java, Malaixia... Một số nước xa như Hồi Hột cũng tìm đến. Thương gia nhiều nước đã đến buôn bán với ta. Triều đình Đại Việt luôn luôn cảnh giác và có những biện pháp quản lý chặt chẽ an ninh, nhưng vẫn tạo điều kiện cho thương nhân và khách thập phương buôn bán, đi lại thuận lợi. Đại Việt vẫn chủ trương giữ quan hệ hòa hiếu với tất cả các nước trong vùng.

Như vậy, nước Đại Việt thời Lý - Trần là một quốc gia độc lập, có thể chế chính trị ổn định, có nền kinh tế văn hóa phát triển. Sự phát triển đó khẳng định và củng cố những thành quả của dựng nước và giữ nước của dân tộc. So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đại Việt là một quốc gia hùng cường. Địa vị và uy tín của nước nhà được nâng cao. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vựcc đã làm tăng thêm sức mạnh cho nền quốc phòng, là tiền đề vật chất để nhà Lý và nhà Trần đề ra và thực hiện thành công những kế sách giữ nước của mình.

CHƯƠNG II
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN VỮNG MẠNH, THỰC HIỆN GIANG SƠN MỘT MỐI, VUA TÔI ĐỒNG LÒNG, CẢ NƯỚC GÓP SỨC

Vương triều Lý nói riêng, bộ máy nhà nước thời Lý - Trần nói chung, xuất hiện trên vũ đài lịch sử vào tháng 10 năm Kỷ Dậu ( 1009) bằng việc Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn tự lập ngôi vua tại kinh đô Hoa Lư.

Nhìn lại lịch sử hình thành tổ chức bộ máy nhà nước từ sau khi giành lại được nền độc lập tự chủ, vào đầu thế kỷ X, nếu như nhà nước thời Đinh ra đời trong dẹp loạn sứ quân, khôi phục nền thống nhất đất nước, thì nhà nước Tiền Lê (Lê Hoàn) ra đời từ chiến thắng quân xâm lược Tống lần thứ nhất. Như vậy, ngay từ thế kỷ đầu của kỷ nguyên mới nước Đại Cồ Việt đã vượt qua được những thử thách nghiêm trọng. Các nhà nước Đinh, Tiền Lê đã nối tiếp nhau tốn tại, phát triển, thực hiện chức năng quản lý xã hội, bảo vệ độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân.

Còn gì nguy hiểm cho bằng đối với một quốc gia là chia rẽ, phân tán từ bên trong và giặc ngoài rắp tâm xâm lấn. Một đất nước dù có truyền thống dựng nước lâu dài, giữ nước kiên cường đến đâu, nhưng một khi đã lâm vào tình trạng “vô chủ” thì khó bể bảo vệ được nền độc lập quốc gia. “Chủ” ở đây là bộ máy nhà nước, đại diện cho dân, chịu trách nhiệm trước dân, trước lịch sử về sự tồn vong và phát triển của quốc gia dân tộc.

Vương triều Lý xuất hiện, thay thế nhà Tiền Lê, đã thừa hưởng được một gia tài to lớn về phương diện tổ chức bộ máy nhà nước. Nhà nước thời Lý - Trần ra đời hoàn toàn không phải với hai bàn tay trắng như họ Khúc, họ Dương, họ Ngô. Đến lượt mình, các vua Lý vua Trần đã từng bước tiến hành những cải tổ quan trọng để xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh, xứng đáng với tầm vóc của thời đại. Nhà nước thời Lý - Trần không chỉ xây dựng nên nước Đại Việt với nền văn hóa Thăng Long rực rỡ, mà quan trọng hơn là chiến thắng thù trong, giặc ngoài bảo vệ độc lập dân tộc, yên bình xã hội, mở mang bờ cõi, tạo thế đứng vững chãi, hùng mạnh cho đất nước trong bối cảnh khu vực còn đầy biến động.

I. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ TRUNG ƯƠNG TẬP QUYỀN VỮNG MẠNH

Để có được một nhà nước mạnh, trong bối cảnh phát triển chậm chạp của xã hội trung đại, không thể là công việc của một thời gian ngắn tính bằng năm tháng, mà phải tính bằng thế kỷ. Đó là một quá trình phát triển từng bước, từ nhận thức lý thuyết đến hoạt động thực tiễn: trải dài qua bốn thế kỷ - từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV.

Nhà nước quân chủ ở nước ta hồi thế kỷ X tuy còn thô phác, đơn giản nhưng đã hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình. Đến lúc này, nhà nước đó đã tỏ ra bất cập trước yêu cầu mới của xã hội. Sau khi Lê Hoàn mất, nhà nước Tiền Lê thời Long Việt, Long Dĩnh lâm vào tình trạng chao đảo do nội bộ bất hòa, người kế nghiệp hèn yếu, ít tài, kém đức. Mầm loạn lạc phân tán phát sinh, do việc Lê Hoàn chia các con đi trấn trị ở các địa phương. tạo ra cảnh tranh giành ngôi báu sau khi nhà vua qua đời. Mầm phân liệt vừa xuất hiện đã kịp thời bị dập tắt khi Long Đĩnh giết Long Việt lên ngôi trong cùng năm 905. Công bằng mà nói, ông vua cuối cùng của vương triều Tiền Lê có làm được nhiều việc như dẹp nội loạn, đặt lại quan chế, giao hảo với nhà Tống, đào sông, mở mang đường sá vào vùng Châu Ái (Thanh Hóa), Châu Hoan (Nghệ - Tĩnh), đặt quan hệ buôn bán với nước ngoài (Trung Quốc). Lê Long Đĩnh tuy có nhiều cố gắng nhưng đã tỏ ra lúng túng trong việc tìm kiếm một đường hướng để hoàn thiện bộ máy nhà nước quân chủ do ông đứng đầu. Cuối cùng Lê Long Dĩnh đã chọn kiểu nhà nước phong kiến Trung Hoa, lấy vương triều Tống làm mẫu mực: “Đổi lại quan chế và triều phục của các quan văn, võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tống” vào năm 10061. Một năm sau, vào năm 1007, lại sai người “đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh (chín kinh của nhà Nho) và kinh sách Đại Tạng (kinh sách nhà Phật). Nhà Tống ưng cho cả”2. Như vậy việc chủ động lựa chọn, tiếp thu mô hình tổ chức nhà nước phong kiến quân chủ trung ương tập quyền kiểu phương Đông không chỉ dừng lại ở sự sắp đặt về hình thức tổ chức, mà quan trọng hơn là ở lí thuyết cơ bản, đó là Nho giáo. Việc làm của Lê Long Đĩnh biểu thị một tinh thần tự giác đón nhận, tiếp thu thành tựu văn hóa văn minh của nhân loại trong tổ chức quản lý xã hội qua con đường giao lưu giữa các quốc gia trong khu vực vì mục đích xây dựng đất nước vững mạnh.

Lý Thái Tổ lên ngôi thay nhà Tiền Lê, chuyển đô từ Hoa Lư ra Thăng Long lập nên vương triều Lý tiếp theo là nhà Trần đã kiến thiết, xây dựng kinh đô mới, sắp đặt bộ máy nhà nước quân chủ theo hướng đã lựa chọn từ thời Lê Long Đĩnh.

Đó là một bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền từng bước đi vào quỹ đạo của học thuyết Nho giáo gồm một hệ thống tổ chức quản lý hành chính từ triều đình trung ương cho đến các lộ-châu-trấn, phủ-huyện, hương-giáp-xã.

Nhà nước thời Đinh, Tiền Lê với một hệ thống chính quyền đơn giản, qua nguồn tài liệu khan hiếm có thể nghĩ rằng chỉ gồm ba cấp: trung ương - đạo - giáp xã. Sự đơn giản đó còn thể hiện ở tổ chức bộ máy triều đình với một đội ngũ quan lại ít ỏi, buổi đầu có phân ban văn võ, phân nhiệm, nhưng chưa triệt để. Quan lại ở cấp đạo (10 đạo) có thể do nhà nước cắt cử, tuyển lựa từ đám thổ hào. Ở cấp hương - giáp, có lệnh trưởng, giáp trưởng đứng đầu giữ việc hộ tịch, đôn đốc các nghĩa vụ thu thuế và binh dịch mà mỗi thành viên phải đóng góp theo kiểu cống nạp. Một bộ máy nhà nước như vậy đã tỏ ra không còn phù hợp khi cơ sở xã hội công xã đã bước vào quá trình giải thể với sự xuất hiện của chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân - một yếu tố khá năng động, góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử. Từ thế kỷ XI, sự phân hóa xã hội đã làm nẩy sinh những lợi ích của nhiều tầng lớp khác nhau mà nguyên tắc bình quân vốn có của công xã nông thôn không còn phù hợp. Nhà nước thô sơ hồi thế kỷ X không đủ khả năng và hiệu lực điều hòa lợi ích, giải quyết mâu thuẫn của một xã hội đang phát triển. Từ đó dẫn đến khả năng phân tán nhằm thiết lập những vùng thế lực làm suy yếu đất nước. Mặt khác, chiến tướng giặc Tống lần thứ nhất vào năm 980-981 diễn ra vào lúc nhà Tống mới thiết lập, còn đang trong quá trình đánh dẹp các thế lực cát cứ - tàn dư của cái gọi là “năm đời mười nước”. Đặc biệt nhà Tống còn tập trung đối phó với Liêu, Khiết Đan ở phía tây, Hạ ở phía bắc triền miên gần một thế kỷ. Cuộc kháng chiến chống giặc Tống lần thứ hai vào năm 1075 - 1077 dưới triều Lý diễn ra trong bối cảnh khác trước. Nhà Tống, thời Tống Thân Tông đã được củng cố, phát triển về mọi mặt với cuộc cải cách của Tể tướng Vương An Thạch. Trong hoàn cảnh đó, mặc dù tinh thẩn yêu nước, kiên quyết chống giặc ngoại xâm vốn là truyền thống quý báu của nhân dân ta, nhưng tồ chức nhà nước cỏn đơn giản, thô phác, quản lý lỏng lẻo của thời Đinh, Tiền Lê không đủ khả năng đánh thắng giặc ngoại xâm.

Nhà Lý với Lý Công Uẩn - người mở đầu thời đại Lý - Trần thoát thai từ cửa Phật, từng được học hành, “ham thích kinh sử”, thông qua sự giáo dục của nhà chùa. Từ một chức quan võ cỡ lớn: Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ dưới thời Lê Long Đĩnh, Lý Công Uẩn lên ngôi vua vào lúc 36 tuổi đời (tuổi Ất)3. Như vậy. người đứng đầu bộ máy nhà nước quân chủ mở đẩu thời đại mới đã tích hợp trong mình những yếu tố đặc trưng của thời đại: tắm mình trong cái nôi của Phật giáo, hấp thụ tri thức của học thuyết Nho giáo, trưởng thành từ nghiệp võ. Trong khi đó, những người cầm đầu nhà  nước hối thế kỷ X có chăng chỉ xuất thân từ nghiệp võ. Vị trí, vai trò của cá nhân người đứng đầu nhà nước bất kỳ ở đâu, vào thời nào cũng cực kỳ quan trọng, tác động không nhỏ - nếu không muốn nói là quyết định, đối với sự phát triển của đất nước. Ở trường hợp Lý Công Uẩn, nếu như thời đại đã hun đúc nên ông thì đến lượt mình, khi lên ngôi vua, ông đã tác động theo hướng tích cực, khẳng định sự lựa chọn đường hướng phát triển của lịch sử làm cho thời đại tỏa sáng với bản sắc độc đáo của đất nước và con người Đại Việt.
___________________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 1983, t.I, tr. 232.
2. Việt sử thông giám cương mục - Nxb Văn-Sử-Địa, Hà Nội, 1957: t.III tr.33. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, tr. 233 chép chỉ “xin kinh Đại Tạng”
3. Lý Công Uẩn (974-1028). Việt sử lược, Đại Việl sử kí toàn thư, Việt sử thông giám cương mục đều chép người Cổ Pháp, Bắc Giang, nay là Đình Bảng, Hà Bắc, mẹ là Phạm Thị. Riêng Đại Việt sử kí toàn thưViệt sử thông giám cương mục chép thêm bà Phạm Thị đi chơi chùa Tiên Sơn gặp thần nhân giao cấu sinh ra. Lên ba tuổi Lý Công Uẩn được nhà sư Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp nhận làm con nuôi. Việt sử lược không chép điều này. Ba sách trần đều chép ông theo học ở chùa Lục Tổ (chùa Cổ Pháp ở Đình Bảng ) với nhà sư Vạn Hạnh.
      Trần Quốc Vượng dịch và chú thích sách Việt sử lược, dẫn sách Mộng Khê bút đàm của Thẩm Hoạt đời Tống, cho rằng có thể Lý Công Uẩn người đất Mân, gia quyến ông chạy sang nước ta sau khi đất Mân bị nhà Tống chinh phục (971) (Chú thích số 2, tr. 64 - Việt sử lược, NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1960).

Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời Lý-Trần, từ góc nhìn đã xác định, sẽ được đề cập đến ở hai mặt chủ yếu dưới đây:

1. Một bộ máy nhà nước tập quyền từ trung ương đến cơ sở được xây dựng từng bước và ngày càng vững mạnh.

Nhìn chung thời Lý-Trần, trải gần bốn thế kỷ, bộ máy quản lý đất nước từng bước được hoàn thiện về mặt tổ chức, bao quát khắp mọi cấp, mọi lĩnh vực, theo đó là một đội ngũ quan lại văn, võ từ không đến có được đào tạo với tước hiệu, chức vụ tương đối rõ ràng.

Về hệ thống tổ chức ở cấp trung ương, triều đình do nhà vua đứng đầu có phụ quốc thái sư (tương đương tể tướng), thái phó. Từ Trần Nhân Tông (1279-1293), đổi lại, gọi là tả hữu tướng quốc, trực tiếp giúp việc dân; còn việc quân có thái úy, thiếu úy. Dưới tướng quốc, có tả hữu tham tư chính sự, tri mật viện sư. Tổ chức sáu bộ đã dần dần hình thành. Dõi theo sử sách, thời Lý đã có bộ binh, bộ lễ; thời Trần có thêm bộ lại, bộ hình, đều do thượng thư, thị lang đứng đầu1. Cùng với các bộ có tổ chức viện, đài, sảnh, quán, các, ví như Nội mật viện (như Cơ mật viện sau này), hàn lâm viện (Viện từ hàn), Ngự sử đài (can gián, đàn hặc), Văn minh điện, Chiêu văn quán (Việc học tập.), Đăng văn viện (khám xét, tra hỏi), Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Bí thư các (cất giữ sách vở, giấy tờ), Tôn chính phủ (coi giữ hoàng tộc), Thái y viện (thuốc men, chữa bệnh), Thái chúc ty (tế tự), Quốc sử viện (chép sử)...

Về quan chức ở triều đình trong các tổ chức trên, Phan Huy Chú cho biết: Triều Lý đại lược văn võ đều có chín phẩm. Lấy ba chức thái (thái sư, thái phó, thái bảo), ba chức thiếu (thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo) cùng thái úy, thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm hiệu bình chương sự, đều làm chức trọng yếu của văn võ đại thần. Ban văn có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ, vệ đại phu, thư gia các hỏa, thừa trực lang, thừa tín lang, đều là các chức quan trọng. Về võ có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ, chỉ huy sứ, vũ vệ hỏa đầu cùng sáu binh tào vũ tiệp, vũ lâm.

Thời Trần cũng lấy ba chức thái, ba chức thiếu, thái úy, tư đồ, tư mã, tư không làm trọng chức của các đại thần văn võ. Về văn giai có những chức lục bộ thượng thư, tả hữu bộc xạ, tả hữu ty lang trung, tả hữu gián nghị đại phu, tri mật viện sự, khu mật tham chính, thiêm tri mật viện sự và các chức thị lang, lang trung, tham nghị ngự sử, đại phu, đại học sĩ, học sĩ... Về võ ban có các chức phiêu kỵ thượng tướng quân, kim ngô vệ đại tướng quân, vũ vệ đại tướng quân, phủ quân phó đô tướng quân, thân vệ tướng quân, điện soái đô áp nha, quản quân tiền độ sứ, đô thống chế2.

Dưới trung ương là cấp lộ, trấn, phủ, huyện, châu, do tri phủ, phán phủ, tri châu (thời Lý); an phủ, trấn phủ chánh phó, thông phán, thiêm phán, lệnh úy, chủ bạ (thời Trần) coi quản việc quân dân.

Cấp cơ sở là xã có tổ chức xã quan3 gồm: đại tư xã (ở xã lớn.), tiểu tư xã (ở xã nhỏ): đại toát. và xã trưởng, xã sử, xã giám.

Về nguyên tắc phân cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước với các chức vụ như trên thì lộ trấn trực thuộc triều đình trung ương và thống thuộc phủ, phủ thống thuộc huyện, châu và cấp cơ sở là hương - giáp - xã. Tuy nhiên trong thực tế theo dõi danh sách 24 đơn vị trực thuộc trung ương, ngay từ năm đầu thời Lý, sử chép Lý Thái Tổ đã “đổi 10 đạo thành 24 lộ”4. Có lẽ con số 24 lộ không hẳn đã có ngay từ đầu. Mặt khác, cấp thứ hai trong hệ thống ngay từ thời Lý không chỉ mang tên gọi là “lộ” mà còn có “phủ” như phủ Phú Lương, phủ Trường Yên, phủ Nghệ An... “châu” như châu Phong, châu Chân Dăng, châu Lâm Bình, châu Bố Chính, châu Minh Linh, “đạo” như đạo Lâm Tây. Sang thời Trần cũng giữ 24 đơn vị ở thời Lý nhưng đã có sự thay đổi, tách nhập nhiều. Bên cạnh 9 lộ, 5 phủ, lại thấy xuất hiện tên gọi “trấn” như các trấn Quảng Oai, trấn Thiên Hưng, trấn Thái Nguyên, trấn Lạng Sơn, trấn Tuyên Quang, trấn Thanh Đô (Thanh Hóa), trấn Vọng Giang (Diễn Châu - Nghệ An ngày nay). Tên gọi “châu” không còn giữ ở cấp này.

Từ thực tế trên cho phép đi đến một nhận định tổng quát ở thời Lý - Trần trong quá trình xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước, ở cấp lộ, trấn có nhiều biến động, thay đồi. Cho dù có mang nhiều tên gọi giữa các cấp lộ, trấn và phủ, huyện, châu đến cuối đời Trần tên gọi phủ, huyện, châu dành cho cấp thứ ba, trong đó có khả năng phủ là một cấp trung gian vừa tồn .tại độc lập vừa kiêm nhiệm một số huyện, như sau này thường thấy, và cấp châu có lẽ tương đương cấp huyện dành cho các địa phương vùng biên viễn.

Bỏ qua những biến thiên trong sắp đặt theo hướng củng cố, mở rộng bộ máy nhà nước qua hai vương triều Lý - Trần, tóm lược từ những nét lớn, có thể dựng một sơ đồ bao quát về hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời Lý - Trần như sau:
Triều đình
Nhà vua
Phụ quốc thái sư, thái phó, tả hữu tướng quốc (văn ban)    Thái úy, thiếu úy (võ ban)



Bộ - đài - điện - quán - các - sảnh - viện - cục
Tam thái, tam thiếu, tư đồ, tư mã, thượng thư, hành khiển, thị lang, ngự sử, lang trung, học vĩ, kiểm úy, thượng tướng quân, đại tướng quân, tướng quân


Lộ - Trấn.
An phủ, trấn phủ chánh phó


Phủ - Huyện – Châu
Tri phủ, phán phủ, lệnh úy, chủ bạ


Hương - Giáp - Xã.
Đại tiều tư xã, đại toát xã trưởng, xã sử, xã giám.

Sơ đồ trên phản ánh hệ thống bộ máy nhà nước thời Lý - Trần, gồm bốn cấp từ trung ương đến địa phương đã hoàn chỉnh, chặt chẽ. Đây là một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử.

Cần đặc biệt lưu ý vào thời Trần, xã quan có một bộ phận nằm trong hệ thống quan chức của nhà nước. Điều đó phản ánh nhà nước thời này đã đặc biệt quan tâm trực tiếp với tay quản lý đến cấp cơ sở gồm hương- giáp - xã thoát thai từ công xã nông thôn đang cần đưa vào nền nếp, khuôn khổ, vận hành theo qũy đạo chung của quốc gia phong kiến quân chủ trung ương tập quyền. Việc làm này hẳn không ngoài mục đích quản lý có hiệu lực vì lợi ích của đội ngũ cầm quyền đồng thời còn để sát dân, gần dân, động viên huy động toàn dân dựng nước, giữ nước có kết quả. Vai trò của hương, giáp, xã trong kháng chiến chống giặc Tống vào thế kỷ XI và ba lần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII đã chứng minh rõ điều đó.
________________________________________
1. Theo ghi chép của biên niên sử, thời Lý-Trần chưa thấy chép đến bộ hộ, bộ công. Không hiểu Phan Huy Chú căn cứ vào đâu để chép đời Trần đã có sáu bộ.
2. Xem Phan Huv Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Quan chức chí”. NXB Khoa học xã hột Hà Nội, 1962 t.I, tr. 443 - 446.
3. Cấp xã quan đặt từ năm 1242 thời Trần Thái Tông, đến năm 1397 thời Trần Thuận Tông thì bãi bỏ, chỉ giữ lại quản giáp, có lẽ như xã trưởng, xã giám, không thuộc hệ thống quan chức của triều đình.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II tr.243. Việt sử thông giám cương mục, sđd, t.III. tr.43.

2. Chế độ tuyển lựa và yêu cầu phẩm chất đối với đội ngũ quan lại

Quá trình phát triển của bộ máy nhà nước thời Lý - Trần tất yếu kéo theo yêu cầu tuyển lựa, đào tạo đội ngũ quan lại các cấp.

Ít nhất trong 65 năm đầu thời Lý (từ 1010 đến 1075) có thi cử tuyển học vị minh kinh bác học và thi nho học. Chế độ nhiệm tử, bảo cử vẫn được áp dụng theo truyền thống từ trước. Nếu như chế độ bảo cử dựa vào tiêu chuẩn tuổi tác, tài năng và đức độ, thì chế độ nhiệm tử phải là con cái quan lại, chủ yếu ở hàng ngũ tông thất, công thần. Từ 1075 đến hàng thế kỷ tiếp theo khoa cử tuy đã xuất hiện, nhưng chưa đủ khả năng và cũng không dễ thay thế hoàn toàn chế độ bảo cử và nhiệm tử đã thành phương thức tuyển chọn quan lại truyền thống.

Vả lại học thuyết đạo trị Nho và tín điều tôn giáo Phật, Đạo, (chủ yếu là Phật) từ hai nguồn văn minh sông Hoàng (Trung Quốc) và văn minh sông Hằng (Ấn Độ) đã du nhập vào nước ta muộn nhất từ thế kỉ II sau công nguyên. Tuy nhiên, trong buổi đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ thì Phật chứ không phải Nho giữ vị trí then chốt trong đời sống tinh thần của xã hội bao gồm cả đội ngũ cầm quyền và các tầng lớp thứ dân.

Câu chuyện Lý Công Uẩn thuở nhỏ học Nho tại chùa Lục Tổ cho phép nghĩ rằng nhà chùa với đội ngũ sư tăng, từ thế kỷ X là cái nôi phổ biến học thuyết Nho, bên cạnh Phật là chủ yếu. Nói một cách khác, trước khi khoa cử xuất hiện đã có một đội ngũ trí thức - tinh hoa của dân tộc, được đào tạo rèn luyện từ cửa phật, và đã giữ một vị trí quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước. Phật giáo in khá đậm trong tồ chức quản lỹ cũng như trong đời sống tâm linh xã hội, đó là nét đặc biệt trong sinh hoạt tinh thần của Đại Việt thời Lý - Trần.

Các vua Lý sùng Phật đã đành, sang thời Trần, các vua Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông đều là đệ tử của nhà Phật. Trần Nhân Tông từng xuất gia tu hành ở núi Yên Tử là đệ nhất tổ của thiền phái Trúc Lâm vào thế kỷ III.

Sùng Phật, trọng Phật hơn Nho đó là thực trạng của xã hội Đại Việt thời Lý-Trần. Không phải chỉ có nhà nước Lý-Trần sùng Phật, mà cả xã hội Đại Việt đã phục hưng, vận hành hài hòa trên cơ sở tư tưởng từ bi, bác ái, hỉ xả của đạo Phật. Tiếp thu Nho giáo để đào tạo đội ngũ quan lại, sắp đặt chính trị, xây dựng củng cố bộ máy nhà nước trung ương tập quyền thời Lý Trần biểu thị một bước tiến bộ, thức thời, phù hợp với bước tiến của lịch sử. Nhưng họ cũng khá sáng suốt, khôn ngoan, không vì tiếp thu cái mới mà phủ định, hoặc quay lưng lại với văn hóa, văn minh truyền thống vốn thấm đượm tinh thần nhân bản, được bổ sung thêm từ nguồn Phật giáo đang ngự trị trong đời sống tâm linh xã hội.

Việc tuyển chọn quan lại qua khoa cử được bất đầu từ năm 1076 thời Lý Nhân Tông, sử chép “Cất nhắc những người hiền lương có tài văn, võ cho quản quân dân”1. Lê Văn Thịnh người đõ đầu khoa minh kinh bác học năm 1075 được chọn chầu vua học tập, giữ chức thị lang bộ binh và 10 năm sau giữ chức thái sư, vào năm 1085. Bên cạnh thi Nho học, nhà nước thời Lý - Trần còn tổ chức thi tam giáo: Nho, Phật, Đạo vào các năm 1195 (thời Lý), 1227, 1247 (thời Trần), ai đỗ được tuyển vào đội ngũ quan lại. Về sự kiện này, sử gia Phan Huy Chú có nhận xét: “Đời Lý - Trần, đều tôn chuộng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy chọn người muốn được thông cả hai giáo ấy, dù là chính đạo hay dị đoan, đều tôn chuộng không phân biệt, mà học trò đi thi khoa ấy, nếu không học rộng biết nhiều thì cũng không thể đỗ được”2.

Hơn một thế kỷ sau khi mở khoa thi, vào năm 1179, thời Lý Cao Tông sử chép việc khảo xét công trạng các quan chia làm ba loại:

1 - Siêng năng, tài cán nhưng không thông chữ nghĩa
2 - Có chữ nghĩa , tài cán
3 - Tuổi cao hạnh thuần, biết rõ việc xưa nay.

“Cứ theo thứ tự mà trao cho chức vụ trị dân, coi quân”3.

Điều này cũng dễ hiểu. Dầu sao thời Lý cũng chỉ mới mở có sáu khoa thi. Sang thời Trần các khoa thi mở nhiều hơn và có quy củ hơn. Ngay buồi đầu thời Trần, đã mở khoa thi Thái học sinh (tiến sĩ) vào năm 1232 và đã chọn tam khôi với học vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa vào năm 1247. Tuyển lựa quan lại qua khoa cử có phát triển, nhưng cho đến thế kỷ XIII -XIV vẫn còn những nho sinh chưa đậu đạt nhưng có tài cán cũng được tham dự quan trường. Phan Huy Chú cho biết: “Về dòng tôn thất có người do công lao danh vọng vào làm tướng, về phái nho học có người do văn chương, học vấn lên chúc tể, chỉ có tài là được cất đặt, không câu nệ về tu cách4. Cho nên bấy giờ các bậc đức tốt, tài cao đều được đưa dùng"5.

Như vậy tiêu chuẩn của đám quan lại trong bộ máy nhà nước thời Lý - Trần sau hàng thế kỷ củng cố, phát triển nổi lên hai điểm chủ yếu: tài cán - có đậu đạt hoặc chưa đậu đạt, và đạo đức - tuổi cao hạnh thuần giàu kinh nghiệm.

Để thanh lọc đội ngũ quan lại, thời Lý - Trần đã đặt ra phép khảo khóa. Năm 1051, Lý Thái Tông “định cho các quan văn võ làm việc mà không có tội lỗi được thăng chức tước theo thứ bậc khác nhau”6. Hơn một nửa thế kỷ sau, vào năm 1162 thời Lý Anh Tông, sử chép: “Khảo khóa các quan văn võ, người nào đủ niên hạn khảo mà không có lỗi thì thăng trật, định làm phép thường, cứ chín năm là một kỳ khảo”7. Sử còn chép việc khảo khóa vào các năm 1179, 1193 thời Lý. Thời Trần, sử chép một lần vào năm 1246 đời Trần Thái Tông: “xét duyệt các quan văn võ trong ngoài. Cứ 15 năm một lần xét duyệt, 10 năm thăng tước một cấp, 15 năm thăng chức một bậc. Chức quan nào khuyết thì chức chánh kiêm chức phó. Chánh phó đều khuyết thì lấy quan khác tạm giữ, đợi đủ hạn xét duyệt thì bổ chức ấy”8.

Để hiểu thêm về yêu cầu của nhà nước đối với các thành viên trong bộ máy quản lý quốc gia, không thể không lưu ý đến hội thề ở miếu thờ thần Đồng Cổ đã thành thường lệ hàng năm thời Lý - Trần, xuất hiện lần đầu từ năm 1028, niên hiệu Thuận Thiên thứ 19 (năm cuối đời Lý Thái Tổ), đồng thời cũng là năm Thiên Thành thứ nhất đời Lý Thái Tông. Theo sử sách: tháng 3 âm lịch, Lý Thái Tổ băng hà, Lý Phật Mã kế vị, tức Lý Thái Tông. Lập tức ba người em của Phật Mã là Vũ Đức Vương, Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương nổi loạn. Họ đã bị Lê Phụng Hiểu đánh dẹp. Trước khi ba vương làm phản, nhân việc nhà vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ9 báo cho biết để kịp thời dẹp loạn. Sự việc diễn ra đúng như trong mộng, nhà vua cho là linh nghiệm, bèn dựng miếu thờ bên hữu thành Đại La sau Chùa Thánh Thọ10, và các quan phải có mặt đầy đủ, cùng nhà vua uống máu ăn thề. Nội dung lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”11. Từ đó lấy ngày 4 tháng 4 hàng năm làm thành thường lệ. Việc làm này còn được tiếp tục ở triều Trần, bắt đầu từ năm 1227, nhưng nội dung lời thề có thay đổi: “Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này thần minh giết chết”12. Trung là hạt nhân cơ bản của lời thề, đổng thời cũng là nội dung quan trọng của học thuyết Nho giáo. Đi đôi với trunghiếu. Thời Lý, lời thề xuất hiện trong bối cảnh sau vụ loạn ba vương chống lại việc làm của vua cha nên nhấn mạnh đến chữ hiếu. Sang thời Trần hội thề diễn ra trong một bối cảnh khác, yêu cầu xây dựng một nhà nước vững mạnh do một vương triều xuất thân từ dân chài ven biển cầm quyền. Yêu cầu về phầm chất của quan lại được thể hiện ở mối quan hệ với nhà vua - đối tượng phải phụng thờ, và với dân - đối tượng “chăn dắt”, cai quản. Các vua Trần, cụ thể là Trần Thái Tông tức Trần Cảnh có thể ít chữ nghĩa, và Trần Thủ Độ lại càng ít chữ nghĩa hơn, do đó không biết và cũng chưa quan tâm đến cặp đôi trung - hiếu đứng đầu trong tam cương của Nho giáo, đó là quân - thần, phụ - tử. Họ quan tâm đến họ (đòi hỏi lòng trung thành) và dân (đòi hỏi sự thanh liêm) hơn. Điều đặc biệt là nội dung lời thề này xuất hiện ngay từ buổi đầu thời Trần, nghĩa là vào lúc vương triều vừa mới thiết lập còn đang trong sáng với hàng loạt vua tài giỏi nối nhau cầm quyền, không phải đợi đến lúc suy thoái, cùng với sự tha hóa của vua quan. Nhìn chúng, nội dung thề Đồng Cổ hiện ra như một tuyên ngôn về yêu cầu của việc trị nước, quản dân của nhà nước thời Lý - Trần – một yêu cầu đúng, có giá trị lâu bền, nhằm xây dựng một quốc gia hùng cường thông qua một bộ máy quản lý vững mạnh.
______________________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.292.
2. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Khoa mục chí” Sđd, t.II, tr.152.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd , t.I, tr.350, 278, 345.
4. “tư cách” ở đây dùng để chi quy tắc bổ dụng, ví dụ xuất thân từ khoa cử, hay do hiền tài được bổ dụng.
5. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Nhân vật chí”. t.I, tr.232.
6, 7. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd , t.I, tr. 278, 345.
8. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd t.II tr. 19.
9. Núi Đồng Cổ nay thuộc xã Đan Nê, huyện Thiệu Yên, Thanh Hóa, có đền thờ thần Đồng Cổ.
10. Đền Đồng Cổ hiện nay là di tích lịch sử xếp hạng, thuộc quận Ba Đình, cạnh Hồ Tây, giữa đường Hoàng Hoa Thám và đường Thụy Khuê.
11. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.I, tr. 255
12. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd t. II, tr. 8.

II. ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI

Nhiều tộc người cộng cư trên vùng lãnh thổ quốc gia Đại Việt. Trong đó, khối cư dân Việt - Mường chiếm tuyệt đại đa số ở những vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam và các thung lũng, nương đồi thuộc vùng rừng núi với trung tâm là Hòa Bình ngày nay, phía nam lan sang thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và phía bắc đến Vĩnh Phú. Ở biên thùy phía bắc là địa bàn cư trú chủ yếu của khối cư dân Tày - Nùng có cùng chung cội nguồn với người Tây Âu (Tây Việt) ở Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc ngày nay. Vùng tây - bắc là địa bàn của người Thái cổ, tiếp đến lớp người Thái sau này di cư đến muộn, kéo dài từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIV thuộc thời Lý-Trần. Khối Việt - Mường vốn chung cội nguồn, nhưng đo tác động của nhiều yếu tố, chủ yếu là môi trường sinh thái và chế độ chính trị kéo dài hàng chục thế kỷ sau công nguyên, kể cả từ thế kỷ X, đã dẫn đến sự chia tách về tên gọi. Khối Tày - Nùng với trung tâm là Cao Bằng, bắc Lạng Sơn ngày nay đã có lịch sử chung sức với người Lạc Việt dựng nên nước Âu Lạc, do Thục An Dương Vương - người Tày, làm vua, đóng đô ở Cổ Loa từ thế kỷ III trước công nguyên.

Từ thời Bắc thuộc, bọn thống trị đô hộ Hán - Đường đã dần dẩn thiết lập bộ máy cai trị đến quận huyện ở vùng đồng bằng châu thổ, còn ở vùng núi xa xôi của các tộc ít người vẫn áp dụng chính sách “cơ mi” (ràng buộc lỏng lẻo) giao cho tù trưởng trông coi. Sau khi giành lại được độc lập tự chủ, nhà nước thời Đinh, Tiền Lê cũng chưa đề ra được chính sách mới để quản lý vùng đất “cơ mi”. Phải đợi đến vương triều Lý trở đi, vấn đề quản lý, liên kết cộng đồng các tộc người trên lãnh thổ quốc gia Đại Việt mới được đặt ra một cách cấp thiết.

Bộ máy nhà nước triều Lý chỉ mới trực tiếp quản lý được vùng đồng bằng châu thổ, miền trung du và một phần thượng du. Ở các vùng biên viễn, núi rừng xa xôi triều Lý vẫn áp đụng chính sách “cơ mi” qua những biện pháp mềm dẻo và hình thức linh hoạt. Đối với các tộc ít người ở vùng thượng du, nhà nước cho quyền tự quản, do tù trưởng trông coi. Để thắt chặt mối quan hệ liên kết bên cạnh việc trao chức tước quyền hạn, nhà nước còn dùng quan hệ hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng, qua vai trò của họ tập hợp cư dân thành một khối chung quanh nhà nước quân chủ trung ương tập quyền. Đây là chính sách đặc biệt của vương triều Lý. Sử chép từ năm 1036 thời Lý Thái Tông cho đến năm 1167 thời Lý Anh Tông, ít nhất có chín trường hợp gả công chúa cho tù trưởng các châu thuộc vùng trung - thượng du Bắc Bộ ngày nay. Đó là các trường hợp:

1. Năm 1029, Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục châu Lạng (vùng Lạng Sơn và một phần Bắc Giang) là Thân Thiệu Thái.

2. Năm 1036, Lý Thái Tông gả công chúa Kim Thành cho Lê Tông Thuận châu mục châu Phong (Vĩnh Phú).

3. Cùng năm trên gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai (?) là Hà Thiện Lãm.

4. …Ngọc Kiều cho châu mục họ Lê ở châu Chân Đăng (bắc Phú Thọ - Tuyên Quang)1.

5. Năm 1066, Lý Thánh Tông gả công chúa Thiên Thành cho Thân Đạo Nguyên2 châu Lạng (Lạng Sơn và một phần Bắc Giang)

6. Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long (Chiêm Hóa, Tuyên Quang) là Hà Di Khánh.

7. Năm 1127, Lý Nhân Tông gả công chúa Diên Bình cho thủ lĩnh phủ Phú Lương (Thái Nguyên) là Dương Tự Minh.

8. Năm 1144, Lý Anh Tông gả công chúa Thiều Dung cho Dương Tự Minh3.

9. Năm 1167, Lý Anh Tông gả công chúa Thiên Cực cho châu mục châu Lạng là Hoài Trung Hấu.

Một khi đã lấy công chúa, các tù trưởng địa phương có quan hệ mật thiết với nhà vua như cha con. Như vậy, lãnh thổ và cư dân trong thực tế nhà vua giao cho con rể quản giữ.

Gả công chúa chỉ áp dụng ở một số trường hợp đặc biệt, phổ biến hơn là phong quan tước và giao cho quyền quản đất chăn dân. Có thể kể trường hợp điển hình của họ Nùng. Anh em Nùng Tồn Phúc, Tồn Lộc và em vợ là Dương Đạo đều thủ lĩnh các châu Thảng Do, Vạn Nhai, Vũ Lặc ở vùng Quảng Nguyên, Cao Bằng ngày nay, hàng năm họ có nhiệm vụ nộp đồ tiến cống bằng sản vật địa phương. Tồn Phúc giết các em, chiếm đất, xưng hoàng đế, lập vương quốc riêng. Năm 1039 Lý Thái Tông đem quân đánh dẹp, bắt được Tồn Phúc đem về Thăng Long. Nhà vua hạ chiếu: “Trẫm có thiên hạ, khắp trên đất, đâu đấy đều là tôi con, các phiên thần đều dâng lễ cống. Thế mà Tồn Phúc ở châu Thảng Do dám tự tôn tự đại, dựng nước riêng, tiếm xưng tôn hiệu, khuấy rối dân lành ở nơi biên giới...”, rồi truyền lệnh chém đầu ở chợ kinh đô4. Năm 1041, Trí Cao, con Tồn Phúc, lại nổi dậy, bị quân triều đình bắt về kinh đô. Lý Thái Tông tha tội, cho giữ đất cũ và cắt thêm các động Lôi Hỏa, Tư Lang, trao giữ chức châu mục. Năm 1043, vua lại gia phong cho Trí Cao hàm thái bảo - một tước vị lớn trong triều. Ân uy là vậy nhưng Trí Cao vẫn không từ bỏ ý định cát cứ, còn đánh sang đất Tống và bị người Tống đánh đuổi, chết ở Đại Lý vào năm 1053. Tuy nhiên, chính sách quản lý mền dẻo của nhà nước quân chủ thời Lý đã có tác dụng rất lớn trong việc giữ gìn an ninh, bảo vệ lãnh thổ nơi biên cương. Hai cha con phò mã Thân Thiệu Thái, Thân Đạo Nguyên đã xứng đáng với vai trò làm phên giậu, quản giữ vùng đất biên cương xung yếu ở Lạng Sơn ngày nay. Các châu mục, tù trưởng Nùng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An, Lý Kế Nguyên có những đóng góp tích cực, huy động quân dân các tộc ít người sát vai cùng triều đình đánh giặc Tống vào năm 1076.
____________________________________________
1. Trường hợp này sử không ghi chép rõ năm gả, chỉ chép vào năm 1113 đời Lý Nhân Tông: Mùa hạ, tháng 6, phu nhân của châu mục châu Chân Đăng là công chúa họ Lý mất, thọ 72 tuổi. Bà tên là Ngọc Kiều con gái lớn của Phụng Càn Vương Nhật Trung (con Lý Thái Tông), được Thánh Tông nuôi ở trong cung, lớn lên phong làm công chúa, gả cho châu mục châu Chân Đăng (Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.I, tr.300). Chúng tôi ước đoán bà lấy chồng khoảng 19 – 20 tuổi, tức là khoảng năm 1060 (TG)
2. Thân Đạo Nguyên là con Thân Thiệu Thái và công chúa Bình Dương.
3. Trường hợp Dương Tự Minh như vậy được làm phò mã của hai triều Lý Nhân Tông và Lý Anh Tông.
4. Việt sử thông giám cương mục, NXB Văn-Sử-Địa, Hà Nội, 1957, t.III, tr.65.


Sử cũ ghi chép có thể chưa đầy đủ, nhưng cũng đã phản ánh nét nổi bật ở các thế kỷ XI XIII, về hiệu lực quản lý của nhà nước; đối với các vùng núi xa xôi ở phía tây, tây - bắc, phía nam (Hoan Ái) còn gặp nhiều trở ngại. Có khá nhiều cuộc nổi dậy của thổ tù, thủ lĩnh, châu mục buộc nhà vua, vương hầu hoặc đại quan phải đi đánh dẹp. Ít nhất vùng Hà Tuyên: 3 cuộc vào các năm 1013, 1015, 1024; vùng Châu Phong (Vĩnh Phú): 2 cuộc vào năm 1024, 1199; vùng Lâm Tây (Tây Bắc): 2 cuộc vào các năm 1037, 1154; Cao Bằng: 3 cuộc vào các năm 1038, 1050, 1125; vùng Hòa Bình: 3 cuộc vào các năm 1088, 1119, 1184; vùng Lạng Sơn: 4 cuộc vào các năm 1027, 1042, 1043, 1139-1141; vùng châu Ái (Thanh Hóa): 7 cuộc vào các năm 1011, 1029. 1035, 1043, 1050, 1061, 1188; vùng Hoan Diễn (Nghệ Tĩnh): có 6 cuộc vào các năm 1026, 1031, 1103, 1161, 1198, 12081. Ngoài những vụ nổi dậy đã trình bày trên đây còn phải kể đến các vụ điển hình như vụ “loạn ba vương” sau cái chết của Lý Thái Tổ vào năm 1028 tại Thăng Long, vụ cát cứ của họ Nùng ở Cao Bằng vào các năm 1038-1052; vụ Thân Lợi ở Châu Lạng vào các năm 1139-1141 thời Lý; vụ Ngô Bệ ở vùng núi Yên Phụ (Hải Hưng) vào các năm 1344 -1360; vụ Dương Nhật Lễ ở Thăng long sau cái chết của Trần Dụ Tông vào năm 1364 - 1370... thời Trần. Hiện tượng này không thấy diễn ra ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ngày nay, và hầu như rất hiếm thấy tái diễn dưới triều Trần, từ thế kỉ XIII trở đi.

Thực tế trên phản ánh sự lớn mạnh không chỉ về tổ chức, về hiệu lực quản lý đất nước của nhà nước quân chủ thời Lý - Trần, mà còn biểu thị sự đoàn kết, tập hợp của cả cộng đồng các dân tộc xung quanh triều đình trung ương để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chính sách “cơ mi” đối với vùng các dân tộc ít người của nhà nước quân chủ còn kéo dài đến thời Trần, nhưng với một hình thức khác. Nhà nước thời Trần không dùng quan hệ hôn nhân, mà đã cắt đặt đơn vị hành chính cấp trấn, lộ bao khắp vùng ở lãnh thổ thượng du, biên viễn. Đó là các lộ Lạng Giang, lộ Tam Giang, trấn Thiên Quan, trấn Thiên Hưng, trấn Thái Nguyên, trấn Lạng Sơn, trấn Tuyên Quang, do các chức an phủ, trấn thủ đứng đầu như các trấn lộ khác. Tuy nhiên do đặc điểm địa hình và dân cư, ở các vùng này, nhà nước cũng chỉ nắm giữ đến cấp trấn, lộ, còn cấp châu, phủ vẫn tuyển chọn từ các thổ tù, tù trưởng, giao cho họ quản giữ. Nhìn chung, nhằm mục tiêu xây dựng bộ máy quản lý đất nước, các vương triều Lý - Trần bằng những biện pháp quản lý mềm dẻo đã đạt được một bước phát triển đáng kể góp phần đoàn kết khối đại gia đình các dân tộc, tạo sức mạnh vô địch trong chống giặc giữ nước như lịch sử đã ghi nhận. Ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông ở thế kỷ XIII là một thử thách lớn đối với hiệu lực tổ chức, quản lý của nhà nước quân chủ và với khối đoàn kết toàn dân. Nhìn chung ba cuộc kháng chiến, trong vòng 30 năm (1258, 1285, 1287 - 1288) đặc biệt là cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), mọi miền của đất nước đều có giặc và cả nước đều tập hợp chung quanh triều đình để đánh thắng giặc.

Để có được sức mạnh vượt qua những thử thách lớn lao đó, bên cạnh việc quan tâm sử dụng các biện pháp mềm dẻo để đoàn kết các tộc ít người miền thượng du, biên viễn, nhà nước còn giao cho quý tộc vương hầu trấn trị những vùng đất trọng yếu. Nếu như thời Lý trong buổi đầu có Khai Quốc vương Bồ trấn trị phủ Trường Yên, Uy Minh hầu Nhật Quang giữ Nghệ An, Lý Thường Kiệt (nguyên họ Ngô được ban họ nhà vua) giữ Thanh Hóa, Lý Đạo Thành giữ Nghệ An thì đầu thời Trần có Trần Thủ Độ, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật từng quản giữ Thanh Hóa, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang quản giữ Diễn Châu (Nghệ An). Ngoài việc làm trên, nhà nước Trần còn tiến thêm một bước, cho vương hầu quý tộc được hưởng thái ấp, có phủ đệ ở các địa phương trọng yếu, chỉ về kinh đô dự triều hội. Như:

Yên Sinh Vương Trần Liễu ở Đông Triều, Yên Hưng (Quảng Ninh)
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Chí Linh - Hải Hưng)
Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Tức Mạc - Nam Hà)
Trần Quốc Chẩn ở Chí Linh (Hải Hưng)
Trần Nhật Hao ở xã Dương Xá (huyện Hưng Hà - Thái Bình )
Trần Quang Khải ở xã Cao Đài (huyện Mỹ Lộc - Nam Hà)
Trần Quốc Tảng ở Tỉnh Bang (huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng )
Trần Khát Chân ở Cổ Mai (huyện Thanh Trì - Hà Nội)
Trần Khánh Dư ở Dưỡng Hòa (huyện Duy Tiên - Nam Hà ).
Trưởng công chúa quản ở Bạch Hạc (Vĩnh Phú).

Chính sách ưu đãi đặc quyền, đặc lợi cho vương hầu qúy tộc đặc biệt ở thời Trần kết hợp với chủ trương tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước phản ánh phương châm “tông tử duy thành” (dùng con cháu tông thất làm thành lũy) mang đặc trưng của nhà nước quân chủ qúy tộc thời kỳ này.

Nhà vua thời Lý - Trần đặc biệt quan tâm đến củng cố đoàn kết nhất trí trong nội bộ vương triều, xem như hạt nhân quan trọng của khối đoàn kết toàn dân, tạo nên thế cả nước đồng lòng. Vua - tôi, nhà nước - toàn dân cố kết thành một khối là điều kiện quyết để các vương triều Lý - Trần, từ cảnh giác đề phòng đến kiên quyết đánh thắng giặc từ phía bắc, đẩy lùi kẻ thù phía nam. Cũng nhờ có sự đoàn kết nhất trí đó mà nhà nước còn đập tan được nhiều vụ phản loạn, gây rối từ bên trong.

Nếu như kẻ thù xâm lăng từ bên ngoài, phản loạn từ bên trong là những hiểm họa nhất thời đối với sự mất còn của đất nước thì việc bị xâm phạm, gây rối nơi biên cương, đặc biệt ở phía tây và phía nam vẫn thường xuyên diễn ra buộc nhà nước thời Lý-Trần phải quan tâm.

Bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, biên giới phía nam của nước ta đến Hoành Sơn, giáp với Chăm Pa (Chiêm Thành). Phía tây là địa bàn của các tộc Lão Qua và người Chân Lạp đang trong quá trình biến động trước làn sóng di cư của người 'Thái từ phía bắc tràn xuống, gây nên nhiều xáo trộn trong khu vực. Các bộ tộc người Lão Qua (Lào) sau hàng thế kỷ bị người Chân Lạp (Khơ Me) tiếp đến người Thái (vương quốc Sukhôthai, vương quốc Ayuthaya) thống trị, đến giữa thế kỷ XIV, Phạ Ngừm mới đuổi được bọn đô hộ, lập nên quốc gia Lạng Xạng (nước Lào), đẩy lùi vương quốc Chân Lạp về phía nam. Trong bối cảnh lịch sử đó, ở phía nam, vùng đất Hoan Diễn (Nghệ Tĩnh ngày nay) và ven biển phía đông nam là đối tượng thường xuyên bị cướp phá, vi phạm của người Chiêm Thành; ở phía tây, vùng tây bắc (Đà Giang) thượng du Thanh Hóa (đầu nguồn sông Mã), Nghệ An (vùng Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông) lại thường xuyên bị người Chân Lạp, Ngưu Hống, người Lão xâm nhập. Nhận thức được mối hiểm họa từ phía nam, tây nam này, nhà nước thời Lý - Trấn đã nhiều lần cất quân đánh dẹp. Không kể nhiều lần nhà vua, hoặc thượng hoàng trực tiếp cầm quân, ta thấy còn có nhiều gương mặt có tên tuổi, như Lý Thường Kiệt (1069, 1074), Dương Anh Nhĩ (1132), Tô Hiến Thành (1167), Phạm Ngũ Lão (1291, 1301, 1311), Trần Khánh Dư, Trần Quốc Chấn, Đoàn Nhữ Hài (1311), Nguyễn Trung Ngạn (1334), Đỗ Tử Bình, Hồ Quý Ly (1377, 1380, 1382, 1383 ...), Trần Khát Chân (1389 - 1390) đã phải xuất quân giữ yên bờ cõi.

Tóm lại, nhà nước quân chủ thời Lý - Trần , nhờ củng cố được khối đoàn kết các dân tộc miền xuôi, miền ngược, đoàn kết toàn dân bằng nhiều biện pháp linh hoạt mềm dẻo, đã chiến thắng kẻ thù xâm lược ồ ạt từ phía bắc, ổn định biên thùy phía tây, đẩy lùi nguy cơ xâm lược của người Chiêm Thành, mở rộng lãnh thổ, đặt thêm hai lộ Tân Bình (từ Hoành Sơn đến bắc sông Thạch Hãn) và Thuận Hóa (nam sông Thạch Hãn đến phía nam Hải Vân), tạo thế vững mạnh cho đất nước.
______________________________________
1. Các số liệu được rút ra từ Đại Việt sử kí toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử lược.

III. VUA TÔI ĐỒNG LÒNG, CẢ NƯỚC CHUNG SỨC

Thời Lý - Trần , với gần bốn thế kỷ tồn tại đã làm nên nhiều chiến công rực rỡ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thế nhưng lượng thời gian phải tiến hành chiến tranh giữ nước lại không nhiều. Chỉ riêng chống giặc phương Bắc chỉ mất khoảng 15 tháng1. Để dành được thắng lợi qua nhiều đợt thử thách hiểm nghèo nhưng ngắn ngủi đó là do sức mạnh, tiềm lực vật chất và tinh thần được bồi đắp, vun trồng và tích lũy trong những năm tháng thanh bình.

Trong thời đại Lý-Trần khoa học kỹ thuật ở nước ta chưa phát triển, kinh tế nông, công, thương nghiệp còn trong tình trạng vận động chậm chạp của thời trung cổ. Tuy vậy, quốc gia Đại Việt lại phải đương đẩu với một kẻ thù xâm lược lớn mạnh: đất rộng, người đông, giàu tiềm lực, lại là một bộ máy nhà nước có lịch sử xây dựng lâu đời, với nhiều kinh nghiệm, từ học thuyết cho đến kết cấu tổ chức chính trị, quân sự, trải hàng thiên niên kỷ từ Tần, Hán đến Đường, Tống, Nguyên. Trong khi đó, nhà nước Lý - Trần, vì hoàn cảnh tồn tại phát triển đặc biệt của đất nước lại đang bước vào thời kỳ củng cố, hoàn chỉnh. Vấn đề đồng lòng, chung sức trong bất kỳ lĩnh vực nào và bao giờ cũng quan trọng, nhưng trong bối cảnh lịch sử - xã hội Đại Việt các thế kỷ XI - XIV lại cực kỳ quan trọng, nếu không muốn nói là yếu tố quyết định. Hơn ai hết, đương thời Trấn Quốc Tuấn đã rút ra điều này khi trả lời vua Trần Anh Tông về kế chống giặc. Theo ông, thời Đinh Lê “dùng được người tài giỏi” “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa” còn thời Trần thì “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức”2. Vị tướng lĩnh tài ba kiệt xuất, người anh hùng dân tộc thời Trần đã phát hiện cực kỳ chính xác điểu cốt lõi của vấn đề. Tuy nhiên do giới hạn trong tư duy của thời đại, ông quan niệm: “đó là trời xui nên vậy”3.

Đồng lòng, chung sức trong sự nghiệp giữ nước là thực tế trong lịch sử Đại Việt thời Lý - Trần. Để có được thứ vũ khí vô địch này, tất nhiên đòi hỏi một quá trình, do tác động của nhiều yếu tố và có sự tự giác của mọi tầng lớp xã hội, nhưng trước hết và quyết định là ở đội ngũ cầm quyền. Điều đó phải được biểu hiện ở ý thức và hành động cụ thể trong quan hệ nội bộ quý tộc chấp chính, gắn liền với quan hệ giữa nhà nước quân chủ và nhân dân thông qua các chủ trương, đường lối và chính sách cai trị.

Điểm lại lịch sử, về mặt này không thể không nhấn mạnh đến tính chất trẻ trung của một bộ máy nhà nước với một hệ thống tồ chức còn đang độ triển khai trên cơ sở hương, giáp, xã từ công xã nông thôn đã và đang nhanh chóng giải thể. Nhà nước quý tộc Lý-Trần còn mang nhiều yếu tố gần dân, hoặc “thân dân” như nhiều người thường nhắc tới. Gần dân, thân dân ở đây không chỉ trong tác phong sinh hoạt, thái độ ứng xử, mà có lẽ quan trọng hơn, trong tư tưởng, trong tâm linh.

Trước hết, trong khuôn khổ chế độ phong kiến kiểu phương Đông, đội ngũ quý tộc Lý - Trần không phải là quý tộc bẩm sinh. Lý Công Uẩn, Trần Cảnh - các vua đầu của hai vương triều Lý - Trần có nguồn gốc từ cửa Phật, hoặc từ dân chài. Tất nhiên một khi đã lên ngôi vua thì lập tức họ dành ưu tiên đặc quyền, đặc lợi cho con cháu họ hàng, từ phẩm tước, chức vị đến bổng lộc theo trật tự gần xa trong quan hệ huyết tộc. Phải chăng ở đây là phiên bản được phóng đại của quan niệm “trong họ, ngoài làng” bền vững trong làng xã, ít nhất cho đến trước Cách mạng Tháng Tám? Mặt khác, họ cũng không phải là tầng lớp khép kín. Trên lý thuyết, tước vương, hầu và chức quan cao cấp chỉ dành riêng cho con cháu hoàng tộc. Nhưng trong thực tế, đội ngũ quý tộc quan lại được tuyển dụng, bên cạnh chế độ nhiệm tử, còn có chế độ bảo cử (chọn người hiền tài), chế độ khoa cử (chọn nhân tài) mở rộng cửa cho mọi người. Như vậy, đội ngũ quý tộc Lý - Trần bao gồm tông thất, quan lại thường xuyên được tăng bổ bằng nguồn thoát thai từ “trăm họ”. Sử sách có chép vua Trần Thánh Tông từng nói với tông thất: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ... lo thì cùng lo, vui thì cùng vui…”4, và nhà vua còn “xuống chiếu cho các vương hầu tông thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình, vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào tối trời không về được thì xếp gối dài, chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau”5.

Sử còn cho biết thêm chính Trần Thái Tông từng “ban yến ở nội điện, các quan (không chỉ có tông thất - TG nhấn mạnh) đều dự. Đến khi say mọi người đứng cả dậy dang ta mà hát” và “sau này trong yến tiệc, có người đội mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh”6.

Và vào năm 1282, trước nguy cơ xâm lược của giặc Nguyên, vua Trần Nhân Tông tổ chức hội nghị Bình Than “họp vương hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu”7.

Lịch sử đã chứng minh nhà nước thời Lý - Trần song song với việc vun đắp khối đồng tâm nhất trí trong nội bộ tông thất, còn đặc biệt quan tâm củng cố khối đoàn kết thống nhất trong đội ngũ cầm quân từ trung ương đến cơ sở. Đối với các vùng lãnh thổ xa xôi hẻo lánh của cư dân các tộc ít người, nhà nước có chính sách, biện pháp mềm dẻo thu hút, tập hợp các tù trưởng, thủ lĩnh thành bầy tôi của triều đình. Mối quan hệ vua tôi được gắn bó bằng quan hệ hôn nhân, bằng quyền và lợi trên cơ sở vì lợi ích chung của cả nước. Chính họ là người quản giữ dân, bảo vệ từng tấc đất vùng lãnh thổ rừng núi biên viễn, là tai mắt của triều đình, huy động quân dân bản địa chặn chân giặc từ biên giới, khóa đuôi và truy đuổi giặc trên đường tháo chạy.

Ở miền xuôi, trong các chức vụ quan trọng ở triều đình, từ chỗ do vương hầu tông thất nắm giữ, dần dần được bổ sung thay thế bằng những người có tài cán, đỗ đạt hoặc không đỗ đạt ngoài đám tông thất. Thời Lý đã có những gương mặt nổi tiếng như Lê Phụng Hiểu từng lập công lớn được phong tước hầu, được ban cấp ruộng đất hậu gọi là “thác đao điền”; Lý Thường Kiệt, vốn không phải là tông thất, từng được trao trọng trách chức thái úy; Lê Văn Thịnh do khoa cử xuất thân từng được ban chức thái sư; Mạc Hiển Tích do khoa cử xuất thân được bổ làm hàn lâm viện học sĩ; Tô Hiến Thành làm nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự, tước vương, quyền nhiếp chính giúp Lý Cao Tông khi lên ngôi lúc ba tuổi... Sang thời Trần, quan trường càng mở rộng cửa cho người có tài năng, do đó người “bách tính” gia nhập quan trường càng nhiều. Điểm các gương mặt nồi tiếng thời Trần, đội ngũ những người ngoài tông thất không kể xiết. Họ có mặt ở khắp mọi lĩnh vực, giữ chức vụ quan trọng trong triều đình cũng như ngoài trấn, lộ, phủ.
_____________________________________________
1. Kháng chiến chống giặc Tống lần thứ hai gồm ba tháng (cuối 1076 đến tháng 3-1077); chống Nguyên Mông lần thứ nhất: hơn một tháng (cuối tháng 12-1257 đến tháng 1-1258); lần thứ hai: sáu tháng (tháng 1 đến tháng 6-1285); lần thứ ba: 5 tháng (từ tháng 12-1287 đến đầu tháng 4-1288).
2, 3. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.II, tr.77.
4, 5, 6, 7. Đại Việt sử kí toàn thư, sđd. t.II, tr35, 38, 45.

Chế độ đãi ngộ thưởng phạt công minh giữ một vai trò rất lớn trọng củng cố khối đồng tâm nhất trí của vua tôi. Tiếc rằng sử cũ không cho biết gì hơn về lương bổng ngoài một số việc rời rạc. Thời Lý, vào năm 1067 đời Lý Thánh Tông cấp bổng cho quan đô hộ phủ sĩ sư (quan coi hình phạt) mỗi người hàng năm 50 quan tiền, 100 bó lúa và các thứ cá muối, v.v..., ngục lại mỗi người 20 quan tiền, 100 bó lúa để nuôi đức liêm khiết của họ1. Đến thời Trần, năm 1230 đời Trần Thái Tông mới “định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong ngoài và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền thuế, ban cấp theo thứ bậc”2; năm 1244 lại “quy định lương bổng cho các quan làm việc trong ngoài và các quan túc vệ”3; thời Minh Tông, năm 1316, “xét định các quan văn võ cấp cho hộ khẩu theo thứ bậc khác nhau”4. Nhà sử học Phan Huy Chú từng dẫn lời Ngô Ngọ Phong: “Thời Lý các quan trong ngoài đều không cấp bổng. Quan trong thì bất thần vua thưởng cho; quan ngoài thì giao cho dân một miền để đặt người thuộc viên thu thuế đất, hồ ao đánh vào dân cày, dân cá mà lấy lợi...”5. Về lương bổng đời Trần, Phan Huy Chú cũng chỉ đoán định: “Có lẽ lấy ở thuế công, định làm lệ thường, cũng như ngụ lộc ở đời gần đây chăng?”6.

Nếu như vế lương bổng ta chưa có đủ tài liệu để làm sáng tỏ thì về thưởng phạt có thể nắm bắt được tương đối rõ nét hơn. Ngoài việc khảo khóa như đã trình bày để phân loại, sắp xếp thăng thưởng, giáng, bãi miễn, sử còn chép việc quy định nhiều trường hợp xử tội những đội ngũ quan chức, kể cả vương hầu, một khi phạm tội. Thời Lý, năm 1129, đời Lý Thần Tông, hạ chiếu: “nô tỳ của vương hầu và các quan không được cậy thế đánh đập quan quân và bách tính, kẻ nào phạm thì gia chủ phải tội đồ, kẻ nô sung làm quan nô”7. Năm 1174 đời Lý Anh Tông, thái từ Long Xưởng có tội, bị phế làm thứ nhân và bắt giam8. Thời Trần, Trần Di Ái (chú họ của vua) đi sứ, nhận chức tước của giặc khi về nước bị đổi là Trần Ái, đưa xuống làm khao giáp binh phủ Thiên Trường9, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư có công được phong làm phiêu kỵ đại tướng quân, thăng đến hàm thượng vị hầu, phạm tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy, bị đánh trượng, sau đó tước hết chức tước, tịch thu gia sản, phải về Chí Linh làm nghề bán than, đến năm 1282 mới được cho dự bàn việc chống giặc10. Năm 1283 thượng vị hầu Trần Lão phạm tội viết thư nặc danh phỉ báng nhà nước phải nộp tiền chuộc tội 1.000 quan, đưa xuống làm lính11. Trong xem xét khen thưởng công lao đánh giặc, không chỉ quan quân mà cả vương hầu một khi đầu hàng giặc đều bị tội nặng, dấu bản thân vương hầu đang ở triều đình giặc cũng bị kết án vắng mặt; trong đó có Chương Hiến hầu Trần Kiện (con Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang) bị đổi làm Mai Kiện, Trần Ích Tắc (con trai Trần Thái Tông) gọi là Á Trần; thượng vị Văn Chiêu hầu Trần Lộng bị đổi làm Mai Lộng...12

Trong công cuộc chống giặc ngoại xâm cũng như đánh dẹp nội loại thời Lý-Trần, dường như đã thành lệ, nhà vua, có khi thượng hoàng, hoàng tử, vương hầu thường trực tiếp cầm quân, và không ít người đã hy sinh anh dũng. Điều này không chỉ có tác dụng động viên, cổ vũ quân dân mà còn biểu thị tinh thần đồng lòng chung sức, gắn bó giữa đội ngũ quý tộc cầm quyền với “trăm họ” trước nạn nước. Thời bình, vương hầu quý tộc được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi, thời chiến hoặc thời loạn, chính họ cũng là người đã xông pha trận mạc đối diện với quân thù. Dường như bên cạnh tinh thần thượng võ, ở đây còn có ý thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ trong đám vương hầu quý tộc - hạt nhân của bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến quý tộc thời Trần. Điều này hẳn đã góp phần cố kết đội ngũ trong bộ máy nhà nước thành một khối đồng lòng, chung sức.

Tuy nhiên, nhà nước thời Lý - Trần cho dù có đồng tâm nhất trí, kiên quyết chống giặc, cũng không thể giữ được nước một khi thiếu sự hưởng ứng tham gia đóng góp sức người, sức của của quân dân khắp mọi miền. “Cả nước chung sức” mới là yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định trong công cuộc giữ nước thời Lý-Trần. Nếu như trong cuộc chống giặc Tống dưới thời Lý, chiến tranh chỉ diễn ra chủ yếu ở vùng bắc sông Đuống, phòng tuyến sông Cầu đến Lạng Sơn, Cao Bằng thì trong ba cuộc chống giặc Nguyên - Mông dưới thời Trần, đặc biệt là cuộc kháng chiến lần thứ hai, cả nước đều có giặc. Ba lần giặc đến, ba lần triều đình đều bỏ Thăng Long, rút về hạ lưu dựa vào dân để bảo toàn lực lượng, tạo thời cơ, tăng cường sức lực phản công giành thắng lợi cuối cùng. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, cả các vùng ven biển, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam đều lao vào cuộc chiến đấu sinh tử với quân thù. Trong khi đó, vùng rừng núi tây bắc, bắc, đông bắc ít nhất cũng một lần chặn giặc đến, truy quét giặc trên đường tháo chạy. Tất cả đều được huy động vào công cuộc chống giặc theo lệnh của triều đình.

Trong lịch sử chống xâm lăng, không phải lúc nào chúng ta cũng thắng lợi. Không kể đến chống Tần của Thục Phán, chống Mã Viện của Hai Bà Trưng, chống quân Lương của Lý Nam Đế, chỉ kể sau nhà Trần, có Hồ Quý Ly, các vua Hậu Trần đều tổ chức chống giặc Minh, nhưng đành chịu thất bại mặc dù chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; nhà Nguyễn trong chống giặc Pháp vào giữa thế kỷ XIX phải nhượng bộ từng bước để đi đến đầu hàng.

Điều kỳ diệu trong công cuộc phá giặc Tống, thắng giặc Nguyên-Mông, bình Chiêm Thành thời Lý-Trần là ở chỗ “cả nước góp sức”. Tinh thần yêu nước, quyết tâm giữ nước vốn là truyền thống quý báu của nhân dân ta, nhưng để phát huy được truyền thống, tạo nên được thế “cả nước góp sức” hoàn toàn không đơn giản. Đó không thể là kết quả của năm, của tháng càng không chỉ đợi đến khi có giặc mới phát lời kêu gọi. Trần Quốc Tuấn có viết “Hịch tướng sĩ”, vua Trần Nhân Tông có triệu tập Hội nghị Diên Hồng, có truyền lệnh cho cả nước phải chống giặc ở bất cứ nơi nào có giặc đến cũng chỉ nhằm thổi bùng lên ngọn lửa quyết tâm cả nước chung sức mà nhà nước thời Lý - Trần đã vun trồng, tạo dựng từ những năm tháng thanh bình. Hẳn rằng hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn có đủ tư cách và thẩm quyền để từ thực tiễn cuộc đời cầm quân chống giặc của mình rút ra bài học “cả nước góp sức”.
_______________________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.I, tr. 284, 320, 347, 348.
2, 3. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.II, tr. 12, 17.
4, 5, 6. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, phần “Quan chức chí”. t.I, tr. 451-452.
7, 8. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.I, tr. 284, 320, 347, 348.
9. Trần Di Ái Đại Việt sử kí toàn thư chép là nhà Nguyên cho làm Lão hầu, An Nam Chí lược chép là phong An nam quốc vương.
10, 11, 12. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.II, tr. 46, tr. 63.

Trở lại với lịch sử, nhà nước Lý - Trần trên con đường xây dựng, củng cố đã thực sự bước vào kiểu nhà nước phong kiến phương Đông theo mô hình Trung Hoa với hệ tư tưởng Nho giáo. Thế nhưng không phải không có lý do để sau gần ba thế kỷ (từ năm 1075 đến giữa thế kỷ XIV) nho sĩ đại thần Lê Quát còn phải thừa nhận một sự thực: “… Trên từ công vương, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc Phật thì dẫu hết tiền của cũng không tiếc... Cho nên trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho tới thôn cùng ngõ hẻm, không mệnh lệnh mà người ta vẫn theo, không thế thốt mà người ta vẫn tin...” và than phiền: “Ta thuở trẻ đọc sách, để tâm khảo xét xưa nay, cũng hiểu sơ sơ đạo của thánh nhân để giáo hóa dân chúng mà rốt cuộc vẫn chưa được một hương tin theo”1. Sử gia Lê Văn Hưu cũng phê phán Lý Thái Tổ quá sùng Phật: “Xây tháp ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thời Phật lộng lẫy hơn cung vua”2. Nhóm sử gia thời Lê cũng chê Trần Thánh Tông “Ưu du cõi tam muội, tìm dấu đạo nhất thừa thì không phải là phép trị nước hay của đế vương”3, chê Trần Nhân Tông: “để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thành nhân”4. Ở đây có vấn đề đời sống tâm linh của dân tộc mà các vua Lý - Trần là người đại diện. Về vấn đề này, Phan Huy Chú tỏ ra sắc sảo thoáng đạt và đã nắm bắt được điều cốt lõi của thời đại khi ông viết: “Đời Lý Trần đều tôn chuộng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buồi ấy... dù là chính đạo hay dị đoan, đều tôn chuộng không phân biệt... Những người thi đỗ không phải ai cũng là chân Nho, mà những nhà nho chỉ chăm chăm về chương cú thì e không thể trông cậy ở họ giúp nên công việc bình trị được. Tôi trộm nghĩ: cách chọn người nên lấy đức hạnh làm gốc, nếu người có bàn lĩnh tốt thì dẫu kiêm thông cả cửu lưu tam giáo5, cũng chẳng hại gì...”6.

Để có được sức mạnh của “cả nước góp sức”, trước hết nhà nước Lý - Trần quan tâm đến đời sống vật chất của dân, làm cho dân giàu nước mạnh bằng cách mở mang nông nghiệp, giao thông thủy lợi, miễn giảm tô thuế khi có hiện tượng thiên tai loạn lạc (sẽ trình bày ở chương sau). Tuy nhiên, điều không kém phần quan trọng là nhà nước còn quan tâm đến đời sống tinh thần của dân - một sực mạnh vô hình trong dựng nước thời bình cũng như trong chống giặc thời chiến. Sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng vì các vua Lý - Trần phần đông đều là tín đồ của đạo Phật nên dân cũng sùng phật. Trong thực tế, Phật giáo đã ăn sâu bén rễ vào xã hội Việt từ khá sớm, đã có một vai trò tích cực trong đời sống xã hội, cũng như trong bộ máy nhà nước trước Lý - Trần. Nhà nước tiếp thu Nho giáo, sử dụng Nho giáo như một công cụ đào tạo quan lại, quản lý đất  nước cai trị nhân dân, tạo thêm sức mạnh cho nhà nước, nhưng lúc bấy giờ Nho giáo chưa thật ăn sâu, bén rễ vào nước ta. Như vậy, nhà nước Lý - Trần vẫn rất tôn trọng đạo Phật. Các vua Lý- Trần còn muốn tạo nên một thiền phái riêng của Đại Việt - phái Thảo Đường thời Lý Thánh Tông, phái Trúc Lâm thời Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Tiếp thu thành tựu văn minh của nhân loại vì nhu cầu phát triển xã hội, xây dựng đất nước gắn liền với nuôi dưỡng, vun đắp gia tài văn hóa của dân tộc, trong đó có tôn giáo, tín ngưỡng, trong thời bình các vua Lý- Trần đã gắn bó với dân, quan tâm đến đời sống tâm linh của dân như của chính bản thân mình. Nhà vua, triều đình tôn thờ, sùng bái cái mà nhân dân sùng bái, tôn thờ. Phải chăng ở đâycó một mối liên kết chặt chẽ về mặt tinh thần, nhiều khi còn bền vững hơn về vật chất, và do đó đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh “cả nước góp sức” trong thời chiến? Không mấy khó hiểu khi có những Nhà vua - Phật - chiến sĩ tập hợp một dân tộc - đệ tử Phật - chiến sĩ sẵn sàng vũ trang đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giữ nước, giữ nhà.

Nhà nước quân chủ mạnh không phải là đặc điểm riêng của thời Lý-Trần, điều đó cũng được biểu hiện ở nhà nước Lê sơ (thế kỷ XV) thời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX). Điểm khác biệt là sức mạnh của nhà nước Lý - Trần không dựa trên bạo lực chuyên chế, mà thực sự dựa vào lòng dân. Cho đến nay, chúng ta có quá ít tài liệu để làm sáng tỏ phương châm “trị nước chăn dân” của nhà nước Lý - Trần. Nhà bác học Phan Huy Chú từng nhận xét “hình pháp các đời Lý - Trần không thể biết rõ từng điều tỉ mỉ kỹ càng. Buổi đầu định ra luật cách, tưởng cũng đã dùng theo chế độ của các đời Đường, Tống, song trong khoảng rộng nghiêm, nhiều lúc có châm chước. Nay lục ra những điều đã thấy trong sử, lần lượt chép ra để có thể biết được đại khái”7.

Quả vậy nếu như thời Lê có Luật Hồng Đức, thời Nguyễn có Luật Gia Long làm cơ sở để khảo cứu, thì thời Lý - Trần mọi văn bản về pháp luật đều đã thất truyền. Nhưng qua ghi chép của biên niên sử, ta biết thời Lý-Trần đã quan tâm đến luật pháp. Đó là bộ Hình thư được soạn vào năm 1042 đời Lý Thái Tông, bộ Quốc triều thường lễ, vào năm 1230 đời Trần Thái Tông, bộ Hoàng triều đại điển, bộ Hình thư do Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn biên soạn theo lệnh vua Trần Dụ Tông vào năm 1341. Nhà nước Lý-Trần quản lý đất nước theo luật pháp là điều có thể khẳng định, nhưng luật lệ ra sao còn phải bỏ ngỏ. Về bộ Hình thư ra đời vào đầu triều Lý, sử cho biết: “Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót sai trung thư san định luật lệnh, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, đề cho người xem dễ hiểu, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện”8. Qua đoạn ghi chép ngắn ngủi, duy nhất, về luật pháp thời này của sử cũ ta thấy Hình thư - bộ sách luật mở đầu của thời này, nổi lên mấy điểm cốt yếu:

1. Khắc phục tình trạng phiền nhiễu, khắc nghiệt, oan uổng do người chịu trách nhiệm cầm cân công lý đã gây nên cho dân.
2. Giữ phép nước trên tinh thần nhân ái, yêu thương con người.
3. Phổ biến rộng rãi cho dân dễ hiểu, tạo điều kiện thuận tiện cho dân tuân theo pháp luật.

Từ trị nước theo luật tục do người đứng đầu nhà nước Đinh, Tiền Lê điều hành vận dụng, đến cai trị theo luật pháp, nhà nước thời Lý - Trần đã đánh dấu một bước tiến dài trên con đường văn minh. Cũng theo sử chép, thời Lý - Trần, ngoài những hình phạt thông thường như đánh bằng roi, gậy, tù, đầy, chém, còn có những hình phạt thảm khốc như róc thịt, phanh thây “thương mộc mã”... Điều đó không lấy gì làm lạ đối với thời trung cổ. Điều đáng ngạc nhiên là hình phạt có khi thảm khốc như vậy nhưng chính vua Lý lại không hài lòng với chuyện “khắc nghiệt”, thương xót những người “bị oan uổng quá đáng”, hoặc những người bị giam cầm “ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét”, “chết không đáng tội”, đặc biệt đối với người dân vì “không hiếu biết mà mắc vào hình pháp”9. Rất có thể cái nhân từ của Lý Thánh Tông chưa đủ để khái quát nâng lên thành quan điểm chung của nhà nước thời Lý - Trần, nhưng ít nhất điều ghi chép cá biệt này đã hàm chứa một nét chung nhất, đó là tinh thần nhân ái, thân dân, của thời đại mà tư tưởng Phật còn bao trùm trong toàn xã hội từ cung đình cho đến dân gian. Quản lý đất nước, cai trị dân, lập pháp và hành pháp đều xuất phát từ chữ “nhân”; nhưng ở thời Lý - Trần, có lẽ chưa phải là chữ “nhân” mang nội dung giai cấp sâu sắc của Nho giáo, mà là chữ “nhân” theo quan điểm “từ bi bác ái”, “cứu nhân độ thế” của nhà Phật - điều mà các sử gia sau này khó chấp nhận, thường phê phán. Nhưng chính ở điểm này, trong bối cảnh lịch sử - xã hội thế kỷ XI - XIV lại biểu thị sự gần gũi, cảm thông, sự thống nhất giữa đội ngũ cầm quyền - nhà nước, và người bị cai trị - trăm họ, ít nhất ở đời sống tâm linh - một mặt sinh hoạt rất quan trọng không thể xem thường đối với sự tồn tại của từng con người cũng như của cả cộng đồng dân tộc. Sự gặp gỡ, gần gũi này đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh “cả nước góp sức” trong chống giặc giữ nước thời Lý - Trần.

*
*   *

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và suy tàn. Nhà nước thời Lý - Trần nói chung, thời Lý, thời Trần nói riêng, cũng không ngoài quy luật đó.

Nói đến nhà nước mạnh của thời Lý - Trần không có nghĩa là không có lúc nhà nước này bộc lộ những mặt yếu kém, không tự thân điều chỉnh, cải tổ được, dẫn đến suy yếu và bị sụp đổ. Nhà Trần thay nhà Lý vào năm 1226. Đến lượt mình, nhà Trần từ nửa cuối thế kỷ XIV đã tỏ ra bất lực, không đáp ứng yêu cầu quản lý một xã hội đã và đang vận động mạnh mẽ đòi hỏi những cải cách phù hợp. Quyền lực quản lý đất nước chuyển sang tay nhà Hồ vào năm cuối cùng của thế kỷ XIV (1400). Tuy nhiên, vượt lên trên những biến thiên, thăng trầm đó, với một nhìn nhận bao quát từ góc độ chống giặc giữ nước, ta dễ thấy trong lịch sử trung đại không có một nhà nước quân chủ nào điều hành, tổ chức chống giặc với thắng lợi liên tiếp, vẻ vang như nhà nước thời Lý - Trần. Cho đến nửa cuối thế kỷ XIV mặc dù đã bước vào chặng tàn, nhà nước Trần thời Trần Nghệ Tông vẫn chèo lái, đối phó được với những đe dọa, uy hiếp của nhà Minh. Mặt khác, và quan trọng hơn, nhà nước còn tổ chức đánh tan nhiều hành động khuấy rối, vi phạm lãnh thổ, tấn công xâm lược từ phía Nam của giặc Chiêm Thành10, dập tắt mối nguy “hai đầu đều có địch” vì mục đích bảo vệ Tổ quốc.

Những chiến công trong chống giặc giữ nước thời Lý - Trần mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, và còn vang dội đến muôn đời. Vinh quang đó thuộc về các thế hệ tiền nhân sống, lao động và chiến đấu trong các thế kỷ XI - XIV, bao gồm nhà nước và cộng đồng các dân tộc sống trên lãnh thổ quốc gia Đại Việt.

Một bộ máy quản lý nhà nước mạnh, dựa vào dân, quan tâm đến mọi mặt đời sống của dân, gắn bó cả nước thành một khối “đồng tâm nhất trí” “cả nước góp sức” trong chống giặc giữ nước, giữ nhà là bài học vô giá mà nhà nước Lý - Trần - người chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh của Tổ quốc, đã để lại cho các thế hệ mai sau.

______________________________________________
1, 3, 4. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.II, tr. 153, 28, 42.
2. Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, t.I, tr. 134.
5. Cửu lưu là chín học phái thời Xuân Thu Chiến quốc. Tam giáo: Nho, Phật, Đạo.
6. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.II, tr. 152.
7. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.II, tr. 291.
8. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. t.I. tr. 271.
9. Lời Lý Thánh Tông nói với các quan tả hữu, các quan coi ngục. Xem Đại Việt sử kí toàn thư. Sđd, t.I, tr. 282, 284 .
10. Căn cứ vào các sách sử biên niên của ta. chúng tôi thống kê được từ giữa thế kỷ XIV có 16 lần Chiêm Thành quấy rối, tấn công Đại Việt trong đó có 3 lần xâm phạm đến kinh đô Thăng Long vào các năm 1371, 1377 và 1383. Trong lần xâm lược năm 1389 - 1390 chúa Chiêm là Chế Bồng Nga bị chết tại trận ở Hải Triều (Nam Hà). Mối hiểm họa bị xâm lược từ phía nam chấm dứt.

CHƯƠNG III
XÂY DỰNG KINH TẾ LÀM CHO DÂN GIÀU NƯỚC MẠNH, “QUỐC PHÚ BINH CƯỜNG”

Đánh thắng quân xâm lược, bảo vệ được nền độc lập tự chủ, trước hết là thành tựu của võ công, sức mạnh của quân đội. Tuy nhiên, thắng lợi trên chiến trường còn phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh tổng hợp của hậu phương về mọi mặt, kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, trong đó yếu tố kinh tế giữ vai trò hết sức quan trọng.

Nước Đại Việt thời Lý - Trần ở vào thế luôn luôn bị đe dọa xâm lược: quấy nhiễu từ hai đầu biên cương nam và bắc. Trong tình thế đó, nhà nước cùng với việc sắp đặt tổ chức, rèn luyện một lực lượng vũ trang mạnh còn đặc biệt quan tâm mở mang kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, bảo đảm “thực túc binh cường”. Ở đây có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa dựng nước và giữ nước - hai phạm trù riêng biệt nhưng là điều kiện của nhau: có dựng nước mới giữ được nước và ngược lại.

Xây dựng đất nước vững mạnh bao gồm nhiều mặt. Trong chương này chỉ đề cập đến mặt kinh tế.

Là một quốc gia nông nghiệp, nước Đại Việt vào các thế kỷ XI- XIV trải trên một vùng lãnh thổ không phải là rộng lớn lắm, giới hạn từ giải cao nguyên và núi non Hà Giang - Cao Bằng đến Móng Cái ngày nay ở phía bắc và bên trong về phía nam Hải Vân1. Tuyệt đại bộ phận lãnh thổ là rừng núi và đồi trung du không thuận tiện cho nông nghiệp lúa nước. Để bù lại sự thiệt thòi đó lại có đồng bằng châu thổ mầu mỡ của sông Hồng, sông Mã và sông Lam mà cư dân Việt đã bắt đầu tràn xuống định cư và khai thác từ thời sơ sử. Tuy nhiên, bước vào thời Lý - Trần với cư dân ước khoảng từ 5 triệu đến 7 triệu2 các vùng đồng bằng châu thổ trên chưa phải đã được khai thác hết. Chưa nói đến khu ngập mặn ven biển Bắc Bộ mà vùng thị xã Thái Bình vào thế kỷ X còn là cửa biển với tên gọi cửa Bố (Bố Hải khẩu); ở Thiên Trường, Trường Yên thuộc Nam Hà, Ninh Bình ngày nay mãi cho đến năm 1471 đê Hồng Đức mới được xây dựng; một số xã ven biển thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa mới hình thành sau này. Trong khi đó, trên bề mặt châu thổ sông Hồng, sông Mã còn loang lổ nhiều đầm hồ, ô trũng và rừng núi. Cảnh quan Thăng Long thời Lý - Trần với một loạt hồ lớn như hồ Lục Thủy (Hồ Gươm), Hồ Dâm Đàm (Hồ Tây), hồ Chu Tước (Hồ Bẩy Mẫu) còn thông nhau với những vùng trũng, khu rừng rú ở phía tây, khu lầy lội ở phía đông nam cho ta một hình ảnh cụ thể. Ở Dâm Đàm còn có voi rừng để cho vua Lý Thái Tông tổ chức săn bắt vào năm 10443.

Châu thổ màu mỡ nhưng thiên nhiên lại vô cùng khắc nghiệt, lũ lụt, hạn hán xảy ra thường năm theo chu kỳ hai mùa mưa nắng. Thiên nhiên đã mở ra một chân trời rộng lớn, nhiều hứa hẹn và hấp dẫn với người dân Đại Việt, nhưng cũng đòi hỏi nhiều công sức, nhiều thử thách mà sức con người đơn độc, một địa phương nhỏ hẹp không giải quyết nổi. Ở đây đòi hỏi một hợp lực có sự điều hành của bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.

Để tìm hiểu về xây dựng kinh tế nhằm đạt mục tiêu “quốc phú binh cường” trong kế sách giữ nước thời Lý - Trần, chúng ta lần lượt đề cập đến các mặt nông nghiệp, công thương nghiệp và giao thông vận tải.

I. PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

Dường như đã thành một nhìn nhận quen thuộc, có thể là sáo mòn, khi nói đến cái gọi là “trọng nông ức thương” trong chính sách kinh tế nhằm xây dựng đất nước của các nhà nước quân chủ nước ta thời trung đại “ức thương” hay không còn phải bàn, còn “trọng nông” là điều đã khẳng định.

Trong lịch sử dân tộc ta, nhà nước thời nào cũng vậy, kể cả ngày nay, không thể không “trọng nông”. Có chăng sự khác nhau là ở chỗ trọng nông theo kiểu nào, bằng cách nào, ở mức độ nào trong mối tương quan với các mặt hoạt động kinh tế khác. Điều này còn tùy thuộc vào yếu tố khách quan - giới hạn của thời đại, và yếu tố chủ quan - khả năng và nhận thức của nhà nước quy định.

Thời Lý - Trần, nhà nước đã có cách giải quyết khá độc đáo vấn đề nông nghiệp.

Trước hết, trong quan điểm người đứng đầu nhà nước đã rất coi trọng công việc nặng nhọc của người lao động trên đồng ruộng. Việc nhà vua cày tịch điền ở nước ta đã được thực hiện từ thời Lê Hoàn vào năm 987. Việc làm này được vua Lý Thái Tông lặp lại vào các năm 1030 ở Điểu Lộ (Hưng Yên cũ?), năm 1032 ở Đỗ Động Giang (Hà Tây ngày này). Cũng ông vua này vào năm 1038 đã đến cửa Bố cày ruộng. Sau khi sai đắp đàn làm lễ tế thần nông, nhà vua tự thân cầm cày. Có viên nịnh thần nào đó đã can: “Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế”. Nhà vua nói: “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo”4. Dẫu chỉ là cày tượng trưng, có tính chất “động viên”, nhưng ít nhất việc làm và lời nói của nhà vua cũng biểu thị một tinh thần tôn trọng, khuyến khích công việc sản xuất nông nghiệp.
___________________________________________
1. Về biên giới phía nam: thế kỷ X đến Hoành sơn: thời Lý vào năm 1069 đến bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị ngày nay; thời Trần vào năm 1306 đến bắc Quảng Nam ngày nay.
2. Theo Nguyễn Trãi, trong Dư địa chí cho biết thời Ngô có 3.100.000 đinh, thời Lý có 3.300.000 đinh. Số liệu này có điều bất hợp lý. Ở đây chúng ta sử dụng con số ước đoán đã được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận (TG).
3. Đại Việt sử toàn thư. Sđd. t.I. tr. 276.
4. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.I, tr. 266.

Chung quanh vấn đề phát triển nông nghiệp thời Lý - Trần, chúng ta lần lượt tìm hiểu những điểm sau đây:

1. Sự phát triển của sở hữu tư nhân về ruộng đất.

Nông nghiệp, bản thân nó bao gồm hai nhân tố cơ bản: người cày ruộng với tư cách là chủ thể lao động sáng tạo và ruộng đất với tư cách là khách thể, đối tượng khai thác. Thiếu một trong hai nhân tố đó không có nông nghiệp.

Nông nghiệp ở nước ta đã xuất hiện từ rất sớm: “Lạc dân” cùng “Lạc điền” đã xuất hiện từ buổi đầu lịch sử. Bước vào thời Lý - Trần, sở hữu ruộng đất đã thành vấn đề lớn của xã hội. Hẳn rằng thời kỳ ruộng đất trên danh nghĩa là của nhà vua (chỉ kể từ khi giành được độc lập tự chủ), trong thực tế giao cho các công xã nông thôn quản lý, các thành viên chia nhau cày cấy và làm nghĩa vụ tô thuế theo một phương thức nào đó, mà tài liệu chưa cho phép làm sáng tỏ không còn phù hợp nữa. Sự không phù hợp này có thể do phương thức tổ chức quản lý canh tác, do nhu cầu dân sinh đòi hỏi phải nâng cao hiệu suất nông nghiệp, do phân hóa xã hội, dẫn đến sự giải thể của các công xã nông thôn. Và đi liền với nó là sự xuất hiện của sở hữu tư nhân các loại, ghi dấu một bước phát triển của xã hội. Hàng loạt hiện tượng tranh chấp chung quanh việc mua bán ruộng đất đã diễn ra buộc nhà nước Lý - Trần phải can thiệp, đưa vào luật lệ, hoặc chiếu lệnh. Lần đầu tiên sử chép vào năm 1135 đời Lý Thần Tông: “Xuống chiếu những người đã bán ruộng ao không được trả tăng tiền mà chuộc lại, làm trái thì phải tội”1.

Có lẽ cần nhắc lại rằng không phải đến thế kỷ XII sở hữu tư nhân về ruộng đất mới xuất hiện. Ngay từ những năm trước thế kỷ X, dưới chế độ đô hộ của ngoại bang, điền trang đã xuất hiện. Khi giành lại được độc lập tự chủ, cùng với việc xóa bỏ ách đô hộ, các điền trang của bọn thống trị ngoại tộc bị thủ tiêu. Tuy nhiên cũng còn những điền trang của người Việt tồn tại. Ta có thể kể đến các trường hợp Lê Lương, Dương Đình Nghệ ở Châu Ái (Thanh Hóa) làm ví dụ. Nhưng nhìn chung trên đại thể, công xã nông thôn với chế độ sở hữu công cộng về ruộng đất vẫn thống trị trong kết cấu ruộng đất hồi thế kỉ X. Trong quá trình vận động phát triển của xã hội, sở hữu tư nhân về ruộng đất xuất hiện từ cá biệt đến phổ biến và thành vấn đề ở thế kỷ XII, buộc nhà nước thời Lý phải can thiệp như đã dẫn trình.

Từ đây, nhà nước Lý - Trần không những không ngăn chặn mà còn tạo điều kiện để sở hữu tư nhân về ruộng đất phát triển bằng nhiều cách: cho phép mua, bán, chuộc theo luật lệ, quy định việc tranh chấp, bán ruộng công cho dân, cho phép vương hầu, quý tộc, phò mã, cung tần lập điền trang. Có thể dẫn ra một số trường lợp cụ thể: tháng chạp năm Nhâm Tuất (1142) vua Lý Anh Tông xuống chiếu: “Những người cầm đợ ruộng thục trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại, việc tranh chấp ruộng đất trong vòng năm năm hay 10 năm thì còn được tâu kiện; ai có ruộng đất bỏ hoang bị người khác cầy cấy trồng trọt trong vòng một năm thì được kiện mà nhận, quá hạn ấy thì cấm. Làm trái thì xử 80 trượng”2. Cùng năm này nhà vua lại xuống chiếu: “Những người tranh nhau ruộng ao của cải không được nhờ cậy nhà quyền thế, làm trái thì đánh 80 trượng xử tội đồ”3. Thời Trần Thái Tông, vào năm Mậu Thân (1248) tổ chức đắp đê “chỗ nào đắp thì đo xem mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo thời giá trả lại tiền”4. Năm Giáp Dần (1254) “bán ruộng công, mỗi diện (mẫu) là 5 quan tiền, cho phép dân mua làm ruộng tư”5. Thời Trần Thánh Tông, năm Bính Dần (1266) “xuống chiếu cho vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán, không sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng bỏ hoang, lập thành điền trang”6.

Rõ ràng trên lý thuyết, ruộng đất là của nhà vua: “đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt”, nhưng trong thực tế người dân có quyền sở hữu bao gồm các quyền: sử dụng, hưởng hoa lợi, mua bán, cầm nhượng, thừa kế được nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Đây là điều độc đáo và cơ bản trong chính sách ruộng đất của nhà nước Lý - Trần. Độc đáo ở chỗ mở đầu và còn có chính sách không thấy được lặp lại ở các vương triều sau như đặc quyền lập điền trang của vương hầu chẳng hạn. Cơ bản ở chỗ tạo nên một sự gắn bó chặt chẽ giữa chủ thể canh tác và khách thể được khai thác. Với chính sách này, người nông dân là chủ nhân phần ruộng đất của mình, tất nhiên giới hạn ở khu vực ruộng tư. Nhưng tấm huân chương nào cũng có mặt trái của nó. Chúng tôi muốn nói đến sự phân hóa xã hội dẫn đến một bộ phận nông dân biến thành nô tỳ, sự thu hẹp của ruộng công do làng xã quản lý - chỗ dựa về kinh tế của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền. Nhưng trên đại thể, mặc dù không có số liệu cụ thể, bằng suy luận ta thấy chính sách này mang nội dung tích cực tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp: mở rộng diện tích canh tác, năng suất ruộng đất cao hơn và do đó sản lượng nông nghiệp toàn xã hội tăng. Hệ quả tất nhiên dẫn đến cuộc sống no đủ - một đòn bẩy không nhỏ tạo nên thế mạnh “thực túc binh cường” ở thời Lý - Trần.
____________________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư. Sđd, t.I: tr. 326.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr. 333.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr. 334.
4, 5, 6. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr. 19, 23, 34.

2. Tổ chức khai hoang, mở rộng diện tích canh tác

Như đã trình bày, vùng châu thổ mầu mỡ thời này chưa phải đã được khai thác hết, còn nhiều nơi hoang rậm, lầy thụt. Hẳn rằng không phải đợi đến nhà nước tác động, mà bản thân cư dân thời kỳ này cũng tiếp tục khẩn hoang theo kinh nghiệm cổ truyền từ xa xưa, khi tiến xuống chiếm lĩnh trung du và đồng bằng. Họ đã tự tổ chức khai phá, mở rộng không gian sinh tồn, tạo nên những vùng sinh thái nhỏ hẹp, lập nhiều tụ điểm dân cư mới. Nhưng đó chỉ là việc khai hoang tự phát như một sinh hoạt lao động mang tính tự nhiên trước hết vì nhu cầu ăn ở hàng ngày. Về phía tác động của nhà nước, ở thời kỳ này sử chép khá tản mạn và rất hiếm hoi.

Trước hết, chúng ta không hề thấy một chủ trương ngăn cấm, mà chỉ thấy những biểu hiện khuyến khích, hoặc nhà nước tồ chức khai hoang. Câu chuyện tương truyền về một người có tên là Hoàng Lệ Mật người làng Lệ Mật (huyện Gia Lâm) có công mò được xác một công chúa thời Lý bị chết đuối, được nhà vua cho đem dân nghèo ở Lệ Mật đến khai hoang lập làng ở phía tây thành Thăng Long1, hiện còn di tích đền thờ gắn với khu “thập tam trại”2 là một ví dụ về thời Lý. Sang thời Trần, vua Trần Nhân Tông còn cho phép một đối tượng hạn hẹp chiêu tập dân nghèo, không sản nghiệp, khai khẩn ruộng hoang lập điền trang vào năm 1266. Do tác động của chủ trương này, một loạt điền trang xuất hiện. Có thể dẫn ra điền trang của thượng tướng Trần Phó Duyệt (cha Trần Khánh Dư) ở ven sông Kinh Thầy (Chí Linh, Hải Hưng), điền trang của An Sinh vương Trần Liễu (cha Trần Hưng Đạo) ở An Lạc (xã Bảo Lộc, huyện Mỹ Lộc - Nam Định cũ), điền trang của công chúa Trần Khắc Hãn ở An Nội và Cổ Nhuế (Từ Liêm - Hà Nội), điền trang của Trần Khánh Dư ở Linh Giang... Vua Trần Nhân Tông khai hoang lập nên các trang ấp ở Hạ Hào, Hữu Cáo, Sơn Dựng ở Thanh Hà, Hải Hưng; một vùng rộng lớn ở Văn Lâm, Ninh Hải (Gia Khánh - Ninh Bình) do thượng hoàng Trần Thái Tông mộ dân về khai khẩn3. Ta còn biết thêm điền trang của Trần Thủ Độ ở ấp Ngừ, làng Khuối. làng Khống (xã Liên Hiệp và Thái Thụy, huyện Hưng Hà), điền trang của tướng quốc Thái úy Trần Nhật Hạo ở Dưỡng Xá (xã Tiên Đức, huyện Hưng Hà), điền trang của Bảo Anh phu nhân ở Phất Lộc (xã Thái Giang - Thái Thụy), ở Thương Liệt (xã Đông Tân, Đông Hưng), điền trang của Bà Chúa Muối - vợ Trần Anh Tông ở Quang Lang (Thụy Hải, Thái Thụy), đều thuộc tỉnh Thái Bình ngày này4. Cho đến cuối thời Trần, hoàng hậu Bạch Ngọc - vợ của Trần Duệ Tông (làm vua từ 1373 - 1377), người huyện Hương Khê đã đưa 172 người về khẩn hoang ở vùng đất giáp hai huyện Can Lộc và Đức Thọ ngày nay, về sau lập thành bốn điền trang mới: Lai Sơn, Hằng Nga, Ngũ Khê, Tùng Chính với tồng diện tích đến 3985 mẫu5.

Chủ trương khuyến khích khẩn hoang, cho phép một đối tượng hạn hẹp có đặc quyền lập điền trang còn được phản ánh gián tiếp qua ghi chép ngắn ngủi của sử sách. Năm 1371, Thái hậu Chiêu Từ lập phép cắt chân bãi bồi (sa châu tiệt cước), sử có chép: “Trước đây các nhà vương hầu, công chúa lập điền trang ở ven sông thì đất phù sa mới bồi đều thuộc về người chủ”6. Năm 1397, nhân việc hạn danh điền (ruộng có chủ đúng tên) theo chủ trương của Hồ Qúy Ly, sử lại chép: “Trước kia các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bối ở bờ biển để ngăn nước mặn, sau hai ba năm khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều ruộng đất tư trang”7.

Trong tổ chức khai hoang thời kỳ này, bên cạnh những hình thức đã kể trên, nhà nước còn sử dụng một lực lượng đông đảo tù binh Chiêm Thành, phân bổ sắp đặt cho họ cư trú và khai khẩn ở các vùng thượng du hoặc ven biển. Sử cho biết vào năm 1044, vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành, bắt được hơn 5.000 tù binh, xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ thuộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang (nay thuộc Tương Dương, Nghệ An) đến Đăng Châu (nay thuộc Yên Bái), đạt hương ấp phỏng theo tên gọi cũ của Chiêm Thành8. Cho đến nay, mọi dấu vết cư trú và khai khẩn của người Chiêm thời này hầu như đã mờ xóa. Trường hợp thôn Đa Gia Ly, sau đổi thành thôn Bà Già, điểm cư trú của người Chiêm gần Thăng Long mà Trần Nhật Duật thường cưỡi voi đến chơi 3-4 ngày mới về9, nay là thôn Phú Gia, huyện Từ Liêm, không hề còn vết cũ, cả tên họ của cư dân cũ10. Tuy nhiên, rất hiếm hoi, còn tìm thấy đôi nét mờ nhạt về người Chiêm thuộc vùng ven biển thời đó ở Bát Đụn Trang, nay thuộc các xã Thụy Hồng, Thụy Dũng huyện Thái Thụy, Thái Bình11.

Từ những thông tin tản mạn, khan hiếm chắt lọc từ sử sách hoặc thu lượm qua khảo sát điền dã ta biết được nhà nước thời Lý - Trần đã có chủ trương khuyến khích khẩn hoang bằng nhiều hình thức, sử dụng nhiều lực lượng khác nhau. Với chủ trương đó, diện tích canh tác không ngừng mở rộng. Từ những bãi bồi ven sông cho đến các vùng thượng du, đặc biệt vùng ven biển, đều ghi nhận thành tựu khai khẩn của thời Lý - Trần.
__________________________________________
1. Theo Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. phần “dư địa chí”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 1992, t.I, tr.111.
2. Mười ba trại: Vĩnh Phúc, Liễu Giai, Đại Yên, Cống Yên, Cống Vị; Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Vạn Phúc, Giảng Võ, Ngọc Khánh, Thủ Lệ, Yên Biểu, Kim Mã. nay đều thuộc Hà Nội. Có ý kiến cho “thập tam trại” trên xuất hiện về sau này vào thế kỷ XVIII - XIX . Xem Nguyễn Quang Ngọc bài Góp thêm ý kiến về hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần và lịch sử “Thập tam trại”. Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 1(226) - 1986.
3. Tham khảo Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam. NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1982. t.I
4. Nhiều tác giả: Ngàn năm đất và người Thái Bình, Sở Văn hóa thông tin Thái Bình, 1989, tr. 166 - 167.
5. Tham khảo Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1982, t.I.
6, 7. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr. 154, 193.
8. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.I, tr. 276.
9. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.II, tr. 118.
10. Tham khảo Nguyễn Vinh Phúc Những phát hiện khảo cổ học 1976, bài “Tìm ra thôn Bà Già”
11. Xem Nguyễn Thị Thảo: Bước đầu khảo sát Bát Đun. Trang thời Trần, Thái Bình với sự nghiệp dựng nước thời Trần, Ban nghiên cứu lịch sử Thái Bình, 1986. tr . 206 - 207.

3. Tổ chức trị thủy, thủy lợi

Trị thủy đã trở thành vấn đề từ xa xưa với cư dân Việt sinh sống trên vùng đất thường niên bị lũ lụt, cư dân nông nghiệp trồng lúa nước được hưởng một nguồn lợi tự nhiên do độ phì của phù sa lắng đọng, nhưng cũng phải, chịu đựng sự tàn phá khủng khiếp của thủy tai. Những kinh nghiệm cổ truyền trong thủy lợi của thời kỳ cư dân còn quần tụ ở thung lũng nhỏ hẹp, đồng bằng chân núi, cạnh sông suối với hệ thống “mương, phai, lái, lịn” (mương, đập, guồng, máng) còn tồn tại phổ biến ở vùng người Mường, người Thái ngày nay, không còn phù hợp, đúng ra không đáp ứng nổi trong môi trường địa lý, sinh thái vùng đồng bằng châu thổ. Có lẽ tầm quan trọng hàng đầu với cư dân vùng châu thổ là chống lũ lụt. Do đó, đê điều đã xuất hiện từ rất sớm. Đến thời Lý - Trần, sử chép lần đầu tiên vào năm 1077 thời Lý Nhân Tông “đắp đê ở sông Như Nguyệt dài 67.380 bộ (khoảng 134 km)”. Cũng dưới thời Lý Nhân Tông vào năm 1108 có đắp đê ở phường Cơ Xá.

Sang thời Trần, vào năm 1248 đời Trần Thái Tông, việc đắp đê đã trở thành một chủ trương chính sách lớn của nhà nước. Sử chép “tháng 3 (âm lịch), lệnh cho các lộ đắp đê phòng lụt, gọi là đê quai vạc, từ đầu nguồn đến bờ biển để ngăn nước lũ trần ngập. Đặt chức hà đê chánh phó sứ để quản đốc”... Đắp đê quai vạc (đỉnh nhĩ) là bắt đầu từ đó. Có lẽ chủ trương này được thực hiện tích cực ở vùng châu thổ Bắc Bộ, trong khi đó ở Thanh Hóa hệ thống đê còn chưa hoàn thiện cho nên vào năm 1255 vua Trần Thái Tông lại “sai Lưu Miền bồi đắp đê sông ở các xứ Thanh Hóa” và “chọn tản quan làm hà đê chánh phó sứ ở các lộ. Khi việc làm ruộng nhàn rỗi thì đốc thúc quân lính đắp đê đập đào mương ngòi để phòng lụt, hạn”. Cho đến cuối thời Trần, vào năm 1390 đời Trần Thuận Tông còn “khơi sông Thiên Đức” (sông Đuống).

Nguồn thông tin hạn hẹp trên đã cho ta nhận thức về vai trò của nhà nước thời Lý - Trần trong trị thủy - một nhiệm vụ khá quan trọng của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Việc trị thủy trong vùng châu thổ do phù sa của các dòng sông không mấy hiền hòa bồi đắp không thể là công việc của một nhà, một địa phương nhỏ hẹp. Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời Lý - Trần nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh, đã quan niệm việc trị thủy như một quốc sách, một mặt quan trọng trong hoạt động của nhà nước từ trung ương cho đến các lộ, có bộ máy điều hành nằm trong hệ thống quan chức của nhà nước.

Nếu như việc đắp đê, khơi dựng sông nhằm mục tiêu tiêu úng trị thủy chống lũ lụt thì việc phòng hạn mà sử có chép vào năm 1255 lại đòi hỏi một hệ thống mương máng. Cho đến nay ta không có tài liệu dù qua khảo sát thực địa, để khôi phục lại hệ thống này vào thời Lý - Trần. Có thể nghĩ rằng việc tưới nước chống hạn nhằm đảm bảo nguồn nước canh tác lại tùy thuộc vào từng địa phương nhỏ hẹp với vị trí địa lý của nó trong tổng thể châu thổ có bình độ không đồng đểu. Do đó, tập quán canh tác với hệ thống mương phai cổ truyền được cải tiến và áp dụng tùy từng địa phương mà nhà nước các thời đều quan tâm đôn đốc. Mặt khác, do phù sa bồi đắp thường niên cùng với tác động của con người, bộ mặt thiên nhiên của châu thổ ngày một hoàn chỉnh. Điều đó có nghĩa là bề mặt châu thổ không ngừng biến đổi theo thời gian kéo theo những biến đổi trong hệ thống mương máng, vì vậy, khôi phục lại bộ mặt mương máng thời kỳ này dù chỉ ở những nét lớn, là ảo tưởng. Ở đây, ta lưu ý đến chi tiết nhà nước đã huy động cả lực lượng quân lính và giám sinh tham gia việc đắp đê, đào mương ngòi để phòng lụt, hạn. Phòng lụt, chống hạn là công việc của toàn dân được nhà nước điều hành, đôn đốc.

Sử chép năm 1315, đời Trần Minh Tông, vào tháng 6 (âm lịch) nước sông lên to, nhà vua đích thân đi xem đắp đê. Quan ngự sử tâu: “Bệ hạ nên chăm lo sửa đức chính, xem làm gì việc đáp đê nhỏ nhặt”. Hành khiển Trần Khắc Chung nói: “Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa đức chính không gì lớn hơn việc đó, cần gì phải ngồi thinh, tư lự rồi bảo là sửa đức chính”1. Vua Trần đã hành động đúng, biểu thị thái độ quan tâm đến đắp đê chống lụt. Viên quan ngự sử nào đó vừa nịnh trên lại vừa phô bày kiến thức rởm; còn hành khiển Trần Khắc Chung đã nói lên được điều cốt lõi của đức chính là quan tâm đến đời sống của dân - một đặc điểm nổi bật của nhà nước thời Lý - Trần: thân dân, chăm lo cho dân được sống no đủ, yên lành, nền tảng của “thực túc, binh cường”.

4. Bảo vệ sức kéo

Trong sản xuất nông nghiệp, nếu như đê điều, mương máng là biểu hiện tác động chủ quan của con người nhằm hạn chế tác hại và lợi dụng thuận lợi của thiên nhiên thì sức kéo lại là nguồn hỗ trợ, tạo nên sức mạnh hợp lực và hiệu quả của lao động cơ bắp. Đã từ lâu, từ thời sơ sử, tổ tiên ta đã biết thuần dưỡng trâu bò, để sử dụng trong cày bừa, chuyên chở. Cũng từ ngày đó, trâu bò đã trở thành người bạn thân thiết, chia sẻ đói no với người dân cày cho đến khi có nền nông nghiệp cơ khí xuất hiện thay thế. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, có thể nói đây là chân lý rút ra từ nhận thức kinh nghiệm truyền đời của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Nhà nước thời Lý - Trần quan tâm đến nông nghiệp không thể không quan tâm đến bảo vệ sức kéo.

Sử chép vào thời Lý Thái Tông, năm 1042, nhà vua xuống chiếu “kẻ nào ăn trộm trâu của công xử phạt 100 trượng, một con phạt thành hai con”2. Có thể nghĩ rằng vào đầu thời Lý, ruộng tư tuy đã xuất hiện, nhưng phổ biến vẫn là ruộng công, do đó, trâu bò trên đại thể còn là vật sở hữu của nhà nước hoặc do cộng đồng hương, giáp, xã quản giữ. Do đó, nhà nước quan tâm đến bảo vệ sức kéo “của công”. Sang thế kỷ XII, khi ruộng đất tư đã phổ biến, theo đó sức kéo là trâu bò cũng trở thành của tư nhân. Là của riêng nhưng chúng lại có tác động đến đời sống toàn xã hội như ruộng đất vậy. Hẳn rằng nhận thức được điều này cho nên nhà Lý đã từng hạ chiếu khuyến nông, khai khẩn ruộng hoang hóa, bảo vệ sở hữu ruộng đất tư, đồng thời cũng bảo vệ sức kéo của toàn xã hội. Sử chép, năm 1117 thời Lý Nhân Tông “tháng hai (âm lịch) định rõ lệnh cấm giết trộm trâu”. Hoàng Thái hậu (Ỷ Lan) nói: “Gần đây ở kinh thành, hương ấp có nhiều người trốn tránh lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp, trăm họ cùng quẫn, mấy nhà cày chung một con trâu. Trước đây ta đã từng nói đến việc ấy, nhà nước đã có lệnh cấm. Nay giết trâu lại càng nhiều hơn trước. Bây giờ vua xuống chiếu kẻ nào mổ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp (phục dịch trong quân), vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ (làm việc ở nhà chăm tằm) và bồi thường trâu, láng giềng biết mà không tố cáo phạt 80 trượng”3.

Ngăn cấm việc mổ trộm trâu với những hình phạt nặng nề là vậy, nhưng dường như chưa mấy tác dụng. Năm 1123, vua Lý Nhân Tông lại xuống chiếu: “trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy, làm lợi cho người không ít. Từ nay về sau ba nhà làm một bảo, không được giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì trị tội theo hình luật”4. Năm 1143 vua Lý Anh Tông lại xuống chiếu “thiên hạ từ nay về sau cứ ba nhà làm một bảo, không được mổ riêng bò trâu, nếu có việc cúng tế phải tâu xin được chỉ rồi mới cho mổ, kẻ làm trái thì trị tội nặng, láng giềng không cáo giác cũng xử cùng tội”5.

Trâu bò là nguồn sức kéo quan trọng, đồng thời còn là nguồn thực phẩm và là đồ tế vật. Nhà nước thời này hiểu rõ điều đó, nhưng vẫn đặt yêu cầu của sức kéo lên hàng đầu vì mục đích mở mang nông nghiệp. Do đó, nhà nước đã quản lý việc mổ trâu bò vì những mục đích khác. Qua ghi chép ngắn ngủi của sử cũ, ta còn phát hiện được số lượng trâu bò ở thời này không ít, có phổ biến ở các hộ nông dân. Cảnh “mấy nhà cày chung một con trâu” đã là tai họa cho nông nghiệp, buộc nhà nước phải can thiệp, dùng đến hình thức “tam gia liên bảo” để giám sát lẫn nhau, bảo vệ trâu bò.
_____________________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. t.II. tr. 100. Ngự sử - chức quan trông giữ phong hóa, pháp độ, có nhiệm vụ giám sát, can gián; hành khiển - một chức quan đứng sau hàng tể tướng, thời Lý và đầu thời Trần chuyên dùng hoạn quan. Từ Trần Thánh Tông trở đi dần dần dùng văn quan giữ chức hành khiền. Đến đời Lê Thành Tông mới bãi bỏ chức quan này.
2, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.271, 302
4, 5. Đại Việt sử  ký toàn thư. Sđd, t.I tr. 307, 333 - 334.

5. Chính sách nông-binh, quan hệ giữa kinh tế và quân sự.

Tìm hiểu về chủ trương phát triển nông nghiệp nhằm mục tiêu “quốc phú, binh cường” thời Lý - Trần không thể không đề cập đến “ngụ binh ư nông” được nhìn nhận từ góc độ kinh tế.

Theo ghi chép cửa sử sách vào năm 1128 đời Lý Thần Tông. nhà vua chủ trương “cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng theo chế độ xưa”1. Nhà sử học Phan Huy Chú khảo về “lương lộc” của quân lính cho hay về thời Lý “ngoại binh không có lương, cứ luân phiên đến hết phiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý (...) binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng, cho đỡ tốn lương”2. Phan Huy Chú còn dẫn lời Ngô Thì Sĩ nói rõ hơn về thời Lý: ngoài quân cấm vệ “lại có chín quân như sương quân: để sai khiến làm mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ, tự cấp lấy chứ không được cấp lương. Khi có chiến tranh thì cho gọi ra lệ thuộc vào các tướng. Nếu số quân này không đủ thì chiểu sổ dân ra tòng ngũ. Xong việc lại cho về làm ruộng. Đó là đúng với nghĩa “ngụ binh ư nông”3.

Nhiệm vụ tham gia sản xuất nông nghiệp, có lẽ đối với loại gia binh và dân binh khỏi phải bàn vì hai loại này, tuy là binh, nhưng thời bình họ không phải tập trung, chỉ tham gia sản xuất ở hương ấp hoặc các điền trang, thái ấp của vương hầu. Riêng với loại quân thường trực (chính binh) thuộc các “vệ” thời Lý, các “quân”, “đô” thời Trần lại bao gồm hai loại: cấm quân và sương quân còn gọi là ngoại binh (quân canh giữ cổng thành, phục vụ bên ngoài) ở thời Lý; thời Trần gọi là quân túc vệ và quân các đạo (như ngoại binh thời Lý).

Theo sử sách, ta lại biết nhà nước thời Lý chỉ cấp lương bổng cho quân cấm vệ hoặc quân túc vệ. Đối với loại quân này: theo Phan Huy Chú được cấp 10 bó lúa mỗi năm làm lương bổng. Nhà Trần cấp cho bao nhiêu không rõ4. Nguồn lương thực nuôi quân không ngoài tô thuế thu của dân. Năm 1092 đời Lý Nhân Tông “định sổ ruộng, thu tô mỗi mẫu ba thăng5 để cấp lương cho quân”6.

Về số lượng loại quân này sử chỉ cho biết thời Lý năm 1028 đặt 10 vệ cấm quân, đến năm 1059 tăng lên 16 vệ, thích vào trán ba chữ “thiên tử quân”7, ước khoảng 3.200 người. Số sương quân và quân các đạo (ngoại binh) có nhiệm vụ thay phiên nhau cày ruộng tự túc lương thực, hẳn là với số lượng đông hơn nhiều mà tài liệu chưa cho phép xác định, dù chỉ ước đoán. Điều đó có nghĩa là việc xây dựng một đội quân đông đảo không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Với chính sách “ngụ binh ư nông”, không những nông dân không phải trích ra một lượng sản phẩm lớn đề nuôi quân, mà nông nghiệp không mất đi một nguồn lao động quan trọng (tráng đinh). Hẳn rằng đây cũng là một biện pháp quan trọng của nhà nước Lý - Trần nhằm duy trì một nền nông nghiệp không ngừng phát triển.

Khi nghiên cứu chủ trương “ngụ binh ư nông” của nhà nước thời này cũng cần đề cập đến thái ấp, nơi cung cấp, nuôi dưỡng nguồn “gia binh” của vương hầu, đặc biệt ở thời Trần.

Ta biết về thời Trần, bên cạnh điền trang là sở hữu riêng của vương hầu quý tộc, nhà nước còn có chế độ ban cấp thái ấp cho họ. Xét về mặt sản xuất nông nghiệp, thái ấp không góp phần tăng diện tích canh tác và về mặt sở hữu vẫn là ruộng đất công. Người được ban cấp chỉ được quyền hưởng tô thuế và huy động nhân lực trong phạm vi thái ấp, giới hạn trong một đời. Sau khi người được ban cấp qua đời, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước trực tiếp quản lý hoặc trả lại cho hương ấp quản lý. Tại đây, gia binh của vương hầu làm nhiệm vụ sản xuất và phục dịch lúc thời bình theo chủ trương “ngụ binh ư nông”. Điều cần quan tâm thêm là sự kết hợp giữa thái ấp với quốc phòng. Sự kết hợp này được thể hiện ở hai điểm.

Trước hết, dường như khi phong cấp thái ấp, nhà nước phong kiến quý tộc Trần có ý thức giao cho vương hầu tông thất nhiệm vụ trấn giữ những vùng quan yếu của đất nước. Điều này hoàn toàn khác với chế độ phân phong của nhà nước phong kiến phân quyền. Cho đến nay chúng ta chưa có tài liệu để khôi phục diện mạo đầy đủ của thái ấp thời Trần về mọi phương diện. Tuy nhiên qua sự phân bố các thái ấp, ta có thể nắm bắt được ý đồ của nhà nước Trần. Có thể kể các thái ấp8: Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Hưng) của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn; Quắc Hương (Vụ Bản, Bình Lục, Nam Hà) của Thái sư Trần Thủ Độ; Cao Đài (Mỹ Lộc, Nam Hà) của thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải; Tĩnh Bang (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng; Cổ Mai (Thanh Trì, Hà Nội) của Thượng tướng Trần Khát Chân; Dương Xá (Hưng Hà, Thái Bình) của Thái úy Trần Nhật Hạo; Dưỡng Hòa (Duy Tiên, Nam Hà) của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư; Văn Trinh (Quảng Xương, Thanh Hóa) của Thái úy quốc công Trần Nhật Duật; Diễn Châu (Nghệ An) của Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang.

Qua sự phân bố các thái ấp, ta thấy nổi lên các vùng chiến lược trọng yếu: vùng biên cương phía bắc (Chí Linh, Đông Triều - Quảng Ninh); vùng cửa ngõ đông bắc (Hải Phòng, Thái Bình); vùng phên giậu phía nam (Thanh Hóa, Nghệ An); vùng bản bộ và phụ cận của quê hương nhà Trần (Nam Hà).

Mặt khác, cùng với ban cấp thái ấp, nhà Trần cho vương hầu, quý tộc có quyền tập hợp và điều khiển gia binh, hương binh trong phạm vi thái ấp của mình khi quốc gia hữu sự. Về điều này sử gia Ngô Sĩ Liên nói: “Năm Nguyên Phong (niên hiệu thời Trần Nhân Tông từ 1251 đến 1258, chỉ cuộc kháng chiến lấn thứ nhất- TG) giặc Nguyên sang lấn cướp, các vương hầu đem gia đống và hương binh thổ hào làm quân cần vương”9. Phan Huy Chú viết: “Năm thiệu Bảo thứ 6 (1284), quân Nguyên xâm lược, vua sai các vương hầu và tông thất đều mộ binh và thống lĩnh binh của mình”10. Cần nói rõ thêm, nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thời này không cho phép vương hầu tông thất có quân đội riêng. Chỉ khi cần thiết như chống ngoại xâm, loạn lạc, để bảo vệ đất nước và nhà vua, vương hầu mới được quyền tập hợp gia nô, tráng đinh trong phạm vi thái ấp và khu vực ảnh hưởng của mình lập thành những đội quân ứng nghĩa. Xong việc, đám quân này lại giải tán trở về làm công việc sản xuất hoặc phục dịch của mình. Điều này cũng giống như hương binh, chỉ khác là hương binh hoặc do người đứng đầu hương ấp điều khiển hoặc cho phụ thuộc vào các tướng làm nhiệm vụ chiến đấu. Qua hai đặc điểm trên, ta có thể rút ra từ chính sách ban cấp thái ấp của nhà Trần một sự kết hợp chặt chẽ giữa ba mặt chính trị (chế độ quân chủ quý tộc), kinh tế (nông nghiệp) và quốc phòng (chốt ở những vùng chiến lược quan trọng).

Đã thành một khâu liên hoàn trong chủ trương chính sách về nông nghiệp của nhà nước thời Lý Trần: phát triển sở hữu tư nhân về ruộng đất, tổ chức khai hoang, trị thủy thủy lợi, bảo vệ sức kéo, ngụ binh ư nông, ban cấp thái ấp. Những chủ trương chính sách trên không ngoài mục đích mở mang nông nghiệp, làm cho dân giàu nước mạnh, bảo đảm “thực túc binh cường” với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu giữ nước.
_____________________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. tI tr. 324.
2, 3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, t.III, tr. 31, 7-8
4. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.III, tr.31.
5. Thăng: đơn vị đo lường cổ, tương đương với 2 lít và 2,9 kg.
6, 7. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I. tr. 296, 257, 283.
8. Theo Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam. Sđd. t.I: tr. 104-120.
9. Đại Việt sử kí toàn thư. Sđd: t.II. tr. 30.
10. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.I, tr .

II. MỞ MANG CÔNG, THƯƠNG NGHIỆP

Đề cập đến công, thương nghiệp thời Lý - Trần người ta thường nhắc đến các làng chuyên dệt vải, lụa giấy quanh Hồ Tây như Nghi Tàm, Trích Sài, Trúc Bạch; các làng Ma Lôi (Hải Hưng) chuyên làm nón, làng Bát Tràng (Gia Lâm), Phúc Lãng (Hà Bắc), Hương Canh (Vĩnh Phúc) chuyên sản xuất đồ gốm, sành, sứ; cục bách tác của triều đình ở kinh thành Thăng Long. Về thương nghiệp, phải kể đến các chợ trong nội địa có mặt ở hầu khắp các địa phương đến trung tâm Thăng Long 61 phố phường và phố Hiến đã manh nha từ thế kỷ XIV. Ngoài ra còn các tụ điểm ngoại thương ở biên giới phía bắc gọi là “bạc dịch trường”, trang Vân Đồn ở biển Quảng Ninh. Và cũng còn phải kể đến việc lưu hành tiền tệ, bên cạnh tiền Trung Hoa còn có mười loại tiền đồng đúc vào thời Lý và năm loại tiền đúc vào thời Trần, tất cả những điều trên đã nói lên một cách khái quát những nét cơ bản về sự phát triền của công thương nghiệp thời Lý - Trần.

Yêu cầu của sách chuyên đề này không phải khảo cứu về công, thương nghiệp thời Lý - Trần trong quá trình phát triển của nó, mà hướng về một nền công, thương nghiệp vì mục đích phục vụ dân sinh kết hợp với quốc phòng. Để làm sáng tỏ vấn đề, chúng ta sẽ tìm hiểu về chính sách của nhà nước với công thương nghiệp đối với dựng nước và giữ nước.

Như đã trình bày ở phần trên, nhà nước thời Lý - Trần rất “trọng nông”. Về mặt công, thương nghiệp, ta chưa thấy hoặc không thấy một biểu hiện “ức thương” của nhà nước thời này. Sử sách không hề chép một lần nhà nước cấm chợ, ngăn sông, cấm buôn bán hoặc cấm các nghề thủ công hoạt động. Mặt khác, cũng phải thừa nhận nhà nước cũng không có một văn bản hoặc chiếu lệnh của nhà vua động viên, khuyến khích công, thương như đã từng nhiều lần khuyến nông. Một số sự kiện được sử sách ghi chép vào thời Lý như:

Năm 1097 cấm nhân dân không được xây nhà ngói, đóng thuyền lớn.

Năm 1099 cấm phụ nữ trong thành không được ăn mặc theo kiểu cung nữ.

Năm 1145 cấm thợ bách tác (các cục thủ công của nhà nước không được sản xuất đồ dùng theo kiểu của nhà nước để bán cho nhân dân).

Năm 1179 cấm không được đem nắm muối và đồ sắt lên bán đổi ở đầu nguồn1.

Như vậy hẳn chưa đủ cơ sở đề nhận định rằng nhà nước không khuyến khích sản xuất và buôn bán các mặt hàng thủ công nghiệp. Các chủ trương trên nhằm giải quyết, xử lý những vấn đề xã hội; tuyệt nhiên, theo chúng tôi, không thuộc lĩnh vực kinh tế. Cho đến năm cuối cùng của thế kỷ XIV - năm 1400, Hồ Hán Thương bắt đánh thuế thuyền buôn. Sự kiện này phản ánh một sự thực: cho đến cuối Trần, buôn bán đường thủy đã khá phổ biến mà nhà nước không đánh thuế. Điều này càng chứng minh thêm nhà nước thời Lý- Trần không cản trở việc buôn bán, không “ức thương”.

Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu về thủ công nghiệp thời Lý - Trần đã phục vụ đời sống xã hội, kết hợp với quốc phòng như thế nào?

Cứ cho rằng nhà nước thời này tổ chức cục bách tác, cho cung nữ dệt gấm vóc (năm 1040), tổ chức khai thác ngọc trai ở châu Vĩnh An (năm 1033), sai người khai mỏ vàng ở Vũ Kiên (Cao Bằng), Hạ Liên (Bắc Cạn), đãi vàng ở các xứ Như Cá (?) (năm 1143) nhằm phục vụ cho cuộc sống nơi cung đình gồm một bộ phận nhỏ so với toàn xã hội. Vậy còn việc xây dựng thành quách, công sự và dụng cụ quốc phòng, kiến trúc tôn giáo các loại hẳn vì lợi ích của một đối tượng rộng khắp - toàn dân.

Chỉ riêng việc kiến trúc tôn giáo ta thấy chùa tháp, đền quán, đúc chuông, tô tượng khắp nơi từ kinh thành cho đến lộ, phủ được sử sách ghi chép dày đặc vào thời Lý - Trần và được dân chúng hưởng ứng tham gia nhiệt liệt. Sự phát triển của chùa chiền đến mức vào cuối thế kỷ XIV, đời Trần Nghệ Tông còn có tình trạng: “Chỗ nào có người ở tất có chùa Phật, bỏ rồi lại xây, hỏng rồi lại sửa, chuông, trống, lâu đài chiếm đến nửa phần so với dân cư”2 thì không thể không có một nền sản xuất thủ công nghiệp rộng khắp, phong phú về sản phẩm, đa dạng về chất liệu và tinh xào về kỹ thuật được. Ngay từ đầu thời Lý, tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp đã xuất hiện. Sử chép vào năm 1031 vua Lý Thái Tông “xuống chiếu phát tiền thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả 150 chỗ”3. Thành tựu kiến trúc, mỹ thuật thời Lý - Trần đã được giới khoa học khảo cứu, giới thiệu và quen biết với mọi người.

Sử gia đương thời - Lê Văn Hưu (1280 - 1322) - phê phán Lý Thái Tổ: “tiêu phí của cải, sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể” để “đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ phật lộng lẫy hơn cung vua”4 cũng có cái đúng. Tuy nhiên, với quan điểm Nho giáo độc tôn, ông không nhìn nhận được đây là một mặt rất quan trọng trong đời sống của nhân dân - đời sống tâm linh - mà nhà nước đã nắm bắt, đúng ra là đã hòa nhập được và đã quan tâm đặc biệt. Trong giới hạn của thời đại, với việc làm này, nhà nước thời Lý - Trần đã tạo nên một sắc thái độc đáo cho buổi bình minh của nền văn minh Đại Việt. Thủ công nghiệp thời Lý - Trần không chỉ phục vụ cái mặc, cái ở và tiện nghi sinh hoạt thường ngày nơi hương ấp mà còn thỏa mãn tình cảm, ước mơ của nhân dân trong sinh hoạt tinh thẩn lúc thái bình thịnh trị.

Nhưng thời kỳ Lý - Trần đâu chỉ hòa bình để dựng nhà, dựng nước, tạo nên một cuộc sống giàu có êm ả. Nạn xâm lăng nhiều phen xảy đến từ hai đầu nam bắc của Tổ quốc đã là hiện thực. Nhà nước thời Lý - Trần nhận thức rõ được điều này và luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng huy động toàn dân cầm vũ khí chống giặc.

Việc đóng thuyền nhiều kiểu loại: du thuyền, thuyền vận tải, đặc biệt là thuyền chiến với một số lượng không phải là ít, cùng các loại vũ khí đáp ứng nhu cầu quốc phòng, nhiều lần đánh thắng giặc hẳn là phải đòi hỏi một nền thủ công nghiệp phát triển. Còn phải kể đến việc xây dựng theo hướng mở rộng và nhiều lần tái thiết kinh đô Thăng Long, xây dựng 50 kho sở ở Nghệ An (năm 1037), kho của nhà vua (năm 1038), dựng hành cung Tức Mạc (1229), sáu hành cung ở Thanh Hóa (1240), thành Tây Giai ở Thanh Hóa (năm 1397) các công trình xây dựng, kiến trúc, tu tạo trên đều có liên quan mật thiết đến quốc phòng.

Tiếp theo thủ công nghiệp là thương nghiệp. Thủ công nghiệp xuất hiện từ rất sớm. Tuy nhiên sản phẩm thủ công nghiệp chỉ trở thành hàng hóa một khi nó được giao lưu, trao đổi thị trường và thương nghiệp xuất hiện. Không còn nghi ngờ về sự có mặt của hoạt động thương nghiệp vào thời Lý - Trần. Vấn đề là thương nghiệp thời này phát triển đến mức nào? Chính sách của nhà nước đối với thương nghiệp và mối quan hệ của thương nghiệp với quốc phòng ra sao?

Ở đây ta cũng không thấy có được một văn bản của nhà nước đối với thương nghiệp, chỉ có những biểu hiện của hoạt động thương nghiệp được sử sách ghi chép.

Cùng với việc dời đô ra Thăng Long, ngay từ đầu đã hình thành một trung tâm buôn bán với chợ Cửa Đông nổi tiếng, khu phố thường được gọi là Hà Nội cổ bao gồm các phố Hàng Buồm, Hàng Ngang, Hàng Đào, Nguyễn Siêu, chợ Đồng Xuân, Hàng Lược, Hàng Mã, Hàng Cân ngày nay5. Năm 1035, lại thấy sử chép “mở chợ Tây Nhai có hành lang dài”6. Cùng với việc mở mang công nghiệp, phát triển thủ công nghiệp, nhu cầu trao đổi thông qua thị trường ngày càng tăng. Ở Thăng Long, ngoài khu cấm thành, hoàng thành còn có một khu dân cư hoạt động công thương sầm uất vào đầu đời Trần (năm 1230) đã đạt tới 61 phố phường7. Ngoài kinh đô, ở các địa phương đều có chợ. Trần Cương Trung - sứ giả Trung Hoa có mặt ở nước ta thời Trần có nói đến chợ: “hai tháng họp một kỳ, trăm thứ hàng hóa tụ tập tại đây. Cứ năm dặm thì dựng một cái nhà bốn mặt đều đặt chõng làm nơi họp chợ”8.

Việc buôn bán không chỉ đóng khung trong thị trường nội địa. Quan hệ buôn bán với nước ngoài đã mở mang, hình thành những tụ điểm buôn bán lớn. Các bạc dịch trường - một thứ chợ biên giới phía bắc đã xuất hiện từ thời Lý. Có thể kể đến Vĩnh Bình, Cổ Vạn phía Lạng Sơn, Hoành Sơn phía Cao Bằng và Vĩnh An phía Quảng Ninh ngày nay. Trong đó Vĩnh An giáp với châu Khâm là địa điểm giao lưu thương mại với Trung Hoa thuận tiện và lớn nhất vào thời Lý - Trần. Việc buôn bán lớn nơi đây “phải có viên coi châu Vĩnh An ở nước ta thông điệp cho viên coi châu Khâm trước, rồi kẻ phú thương mới được đem hàng hóa vào. Cũng có lúc nhà nước sai sứ sang châu Khâm buôn bán. Các hàng của ta có vàng, bạc, tiền đồng, trầm hương, thục hương, sinh hương, trân châu, ngà voi, sừng tê. Về nhà Tống, các đại thương ở vùng Thục (Tứ Xuyên) mỗi năm tới một lần đem gấm Thục đổi lấy hương chở về Thục. Buôn như vậy rất to, mỗi lần trao đổi kể có hàng ngàn quan tiền”9. Quan hệ buôn bán còn mở rộng với các nước Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Sử chép vào năm 1149, đời Lý Anh Tông, “thuyền buôn ba nước Trảo Ơa (Java - Indônêxia), Lộ Lạc, Xiêm La (đều thuộc vùng Thái Lan) vào Hải Đông xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương”10. Cũng từ thời Lý, ngoài trang Vân Đồn ở phía bắc, vùng Thanh Hóa, Nghệ An còn có Cửa Chào (Lạch Trường), Cửa Tha (Cửa Thoi), Cửa Viên (Cửa Cờn) là nơi giao lưu tiếp xúc với thuyền buôn nước ngoài.

Dường như thương nhân nước ngoài không chỉ được phép đến buôn bán, tiếp xúc ở hải đảo, cửa sông. Ít nhất sử còn phép vào năm 1274 người Tống ở Giang Nam tránh giặc Nguyên đã đem 30 thuyền biển chở vợ con, của cải sang lánh nạn. Nhà nước cho dẫn họ về Thăng Long ở phường Nhai Tuân (?) được bày hàng mở chợ buôn bán riêng11. Ngoài ra còn có mặt thương nhân Hồi Hột (vùng Tân Cương) để đến năm 1267 Hốt Tất Liệt đòi vua Trần nộp với ý đồ khai thác nội tình Đại Việt12, và thương nhân người Hoa ở tụ điểm phố Hiến trong buổi đầu manh nha vào thế kỷ XIV.

Từ những biểu hiện trên, có thể hình dung được nhà nước thời Lý - Trần, một mặt cảnh giác trước sự dòm ngó của nước ngoài, nhưng không “bế quan tỏa cảng”, nếu không muốn nói là sẵn sàng đặt quan hệ với thương nhân các nước láng giềng. Khỏi phải nói về tác động tích cực qua lại giữa nội thương và ngoại thương. Chúng ta lưu ý đến chủ trương mở mang công, thương nghiệp của nhà nước Lý - Trần trong quan hệ với nông nghiệp. Hẳn rằng vào thời Lý - Trần, cùng với việc mở mang nông nghiệp, và trên cơ sở nông nghiệp, công thương nghiệp đã đạt một bước tiến bộ đáng kể, góp phần kích thích sản xuất nông nghiệp tạo nên sức mạnh kinh tế nói chung của đất nước. Và hệ quả tất yếu của nó là thỏa mãn nhu cầu dân sinh và quốc phòng, không chỉ nhiều lần đánh thắng giặc mạnh mà còn nhanh chóng hàn gắn, khôi phục đất nước sau nhiêu lần bị tàn phá vì chiến tranh và thiên tai nghiêm trọng.
_________________________________________
1. Theo Đại Việt sử ký toàn thưViệt sử lược.
2. Lời Văn bia của Lê Quát: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. t.II, tr.153.
3, 4. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.I, tr. 260, 242.
5. Tham khảo thêm Trần Quốc Vuợng - Vũ Tuấn San: Hà Nội ngàn xưa, Sở Văn hóa Hà Nội, 1975.
6, 7. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II. tr.264, 10.
8. Dẫn theo Hà Văn Tấn - Trần Quốc Vượng: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. NXB Giáo dục. Hà Nội, 1968. t.I, tr.290.
9. Theo Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, trích theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt. NXB Sông Nhị. Hà Nội, 1949, tr.106.
10. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd: t.I. tr.337-338.
11. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. t.IV, tr.37.
12. Nguyên sử, dẫn theo Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968.

III. MỞ MANG MÀNG LƯỚI GIAO THÔNG

Cho đến nay, chúng ta không có tài liệu để khôi phục lại hệ thống giao thông thời Lý - Trần, có chăng chỉ hình dung được những nét lớn. Ví dụ hệ thống đường nối liền với Trung Hoa, rõ hơn là các con đường từ Trung Hoa đến Thăng Long, chỉ có thể căn cứ vào các cuộc hành quân xâm lược của giặc Tống, giặc Nguyên - Mông để xem xét. Đó là con đường bộ ven biển Quảng Ninh qua Uông Bí, Đông Triều, Phả Lại đến Thuận Thành (Hà Bắc) vào Thăng Long, song song với đường thủy ven biển vào cửa sông Bạch Đằng hoặc cửa sông Thái Bình. Con đường này đã xuất hiện từ các thế kỷ trước sau công nguyên, quen gọi là “đường xâm lược”. Ngoài ra còn có các con đường từ Quảng Tây vào ở phía Cao Bằng, Lạng Sơn và từ Vân Nam đến dọc theo phía tả ngạn sông Hồng. Nối liền với Chiêm Thành ở phía nam, chủ yếu còn là đường biển, đường bộ chưa hoàn chỉnh, còn chắp nối nhiều đoạn với đường sông.

Trong khi đó giao thông nội địa, ngoài đường sông khá thuận lợi, thông dụng, còn có. một hệ thống đường bộ ven theo các dòng sông thuộc phạm vi từng vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Nối liền châu thổ sông Hồng với Hoan Ái (Thanh - Nghệ - Tĩnh) có thể đoán đó là con đường thiên lý (còn gọi là đường thượng đạo) còn khá thông dụng vào thời Lê sơ. Đường này từ Thăng Long qua Chương Mỹ (Hà Đông cũ) vào Nho Quan - Rịa đi Cẩm Thủy, Thạch Thành hoặc từ Rịa đi Tam Điệp vào làng Ràng (Đông Sơn), Duy Tinh (Hậu Lộc) thủ phủ của Thanh Hóa thời Lý - Trần.

Từ Thanh Hóa đi về phía nam có nhiều sông ngòi ngăn cách, vì vậy, ngay từ thế kỷ X, Lê Hoàn đã tiến hành đào sông từ Đông Cổ (Yên Định cũ, nay thuộc Thiệu Yên) đến Bà Hòa (Tĩnh Gia) vì “đường núi hiểm trở khó đi, người ngựa mỏi mệt, đường biển thì sóng to khó đi lại”1. Năm 992, Lê Hoàn lại cho mở đường bộ từ của biển Nam Giới (cửa Sót) Hà Tĩnh đến châu Địa Lý (Quảng Bình).

Trên đây là những trục đường chính nối liền các khu vực rộng lớn của cả nước. Ngoài ra, hẳn còn có những con đường liên châu - lộ - phủ - huyện và đường liên hương - giáp, nối liền các đơn vị hành chính thời này.

Hoàn toàn có cơ sở để nghĩ rằng thời Lý - Trần, trong giao thông nội địa, đường thủy vẫn giữ một vị trí khá quan trọng. Với tập quán quen sông nước và kỹ thuật, nguyên vật liệu đóng thuyền bè phong phú, cư dân thời Lý - Trần thừa kinh nghiệm lợi dụng hệ thống sông ngòi dày đặc để thông thương thời bình cũng như tổ chức chống giặc trong thời chiến. Đường bộ đã có từ trước, còn đang trong quá trình hoàn thiện. Nhà nước thời này hẳn đã có ý thức đặc biệt quan tâm mở mang màng lưới giao thông thủy bộ phục vụ dân sinh và quốc phòng.

Sử chép, vào năm 1042, Lý Thánh Tông đã “xuống chiếu cho Khu mật viện là Nguyễn Châu hạ lệnh cho những người trốn tránh ở các lộ đều phải nhận lấy các cầu đường ở địa phương, đắp thành ụ mốc, trên cắm biển gỗ để tiện chỉ hướng đi về các nơi”2. Cũng vào năm này Việt sử lược còn chép: “xuống chiếu cho các lộ, mỗi lộ đều đặt trạm gác để tiện coi xét bốn phương”3. Việc làm này của ông vua thứ hai thời Lý biểu thị ý thức kết hợp giữa dân sinh và an ninh quốc phòng trong chủ trương hoàn thiện giao thông đường bộ. Cũng còn có ông vua đã “đi tuần các hải đảo, quan sát hình thế núi sông, xem xét dân tình và đường đi xa gần”. Đó là việc làm của Lý Anh Tông vào năm 11714. Một năm sau, Lý Anh Tông lại đi tuần hải đảo và địa giới nam, bắc, cho vẽ bản đồ và ghi chép phương vật.

Sử sách còn mách bảo từ thời Lý, trên các tuyến đường bộ đã có đình trạm để cho người đi đường nghỉ chân. Sang thời Trần, ở các đình trạm này đều có đắp tượng Phật để thờ. Sử chép, vào năm 1231 “Thượng hoàng (Trần Thừa) xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ. Trước đây (chỉ thời Lý), tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình trạm. Thượng hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở đó”5, năm 1248, thời Trần, cùng với việc đào sông, đục núi về trấn yểm “vượng khí” ở Thanh Hóa, nhà nước “còn lấp các khe kênh, mở đường ngang dọc thì nhiều không kể xiết”(2).

Cho đến cuối thời Trần, vào năm 1375, Trần Duệ Tông còn “sai Đào Lực Đinh và Hà Tư Công đốc suất người Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình đắp sửa đường sá từ Cửu Chân (Thanh Hóa) đến Hà Hoa (nam Hà Tĩnh, giáp Hoành Sơn) ba tháng thì xong”(3). Việc dựng đình trạm ven đường còn được sử chép thêm vào năm 1399 “dọc rừng rậm và đồng hoang dựng các quán xá, từ cầu Đại Tân (?) đến bến Đàm Xá (?) để tiện cho quân dân qua lại nghỉ ngơi”(4).

Nếu như về đường bộ sử chép ít, thì về việc sửa sang đường thủy ta thấy được chép nhiều hơn. Ngoài việc đào sông, đắp đê phòng chống lũ lụt, sử chép nhiều lần sửa sang mở mang giao thông đường thủy như các năm:

Thời Lý:

Năm 1051 đào kênh Lẫm (Yên Mô-Ninh Bình, đường thủy vào Thanh Hóa)
Năm 1081 đào ngòi Lãnh Kinh (Thị Cầu - Hà Bắc)
Năm 1192 khơi sông Tô Lịch (giao thông đường thủy ở Thăng Long).

Thời Trần:

Năm 1231 đào vét kênh Trầm, kênh Hào (Tĩnh Gia Thanh Hóa, đường thủy nối với sông Hoàng Mai)
Năm 1256 đào vét sông Tô Lịch
Năm 1374 Quân dân Thanh Hóa Nghệ An đào kênh đến cửa biển Hà Hoa (Kỳ Anh - Hà Tĩnh).
Năm 1382 Quân dân Nghệ An, Diễn Châu đào kênh Hải Tây.
Năm 1390 Khơi sông Thiên Đức (sông Đống)
Nam 1399 bắt người tội đày phải làm lính khơi mương, khơi các kênh Vi, kênh Trầm, kênh Hào đến Hà Hoa6.

Căn cứ vào những ghi chép vắn tắt của sử biên niên ta biết được nhà nước thời này đặc biệt quan tâm đến giao thông đường thủy ở bốn khu vực quan trọng: tuyến vào Thăng Long (sông Tô Lịch, sông Thiên Đức); tuyến vùng Phả Lại, Hà Bắc (sông Lãnh Kinh, sông Thiên Đức); tuyến đường thủy vào Thanh Hóa (Lẫm Cảng) và tuyến đường từ Thanh Hóa vào Hoành Sơn (kênh Vi, kênh Trầm, kênh Hào, kênh Hải Tây).

Như đã trình bày, giao thông đường bộ trong nội địa từ vùng châu thổ sông Hồng vào đến Hoành Sơn gặp nhiều trở ngại do sông núi cắt ngang. Khai thác lợi thế của sông ngòi, nhà nước Lý - Trần đã đặc biệt chú ý đến đào sông, kênh. Ta có thể hình dung tuyến đường thủy từ sông Đáy qua sông Vân Sàng đến Lẫm Cảng, qua Thần Phù vào sông Hoạt, sông Báo Văn nối với sông Đại Lại (sông Lèn) hoặc sông Ấu để vào trung tâm Thanh Hóa thời bầy giờ ở làng Ràng (Đông Sơn.) hoặc Duy Tính (Hậu Lộc). Từ đây qua các sông Bố Vệ, sông Lý, sông Yên, kênh Trầm, kênh Hào nối với sông Hoàng Mai tiếp nối đến sông Lam ngày nay để đi về phía nam theo đường biển. Như vậy, về đường thủy trong nội địa, nhà nước thời Lý - Trần đã hoàn chỉnh tuyến giao thông nối liền kinh đô Thăng Long với Thanh Hóa, Nghệ An được coi là phên giậu phía nam của đất nước thời này. Với việc làm này, nhà nước đã tạo điều kiện mở mang giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các khu vực với trung tâm Thăng Long thời bấy giờ.

Mặt khác, các khu vực trọng điểm kể trên cũng chính là những chốt quan trọng trên con đường hành quân chống giặc và thường là chiến trường ác liệt trong chống Nguyên Mông cũng như chống giặc Chiêm Thành. Thanh Hóa, Nghệ An có một thời gian ngắn nhà nước Trần xếp vào loại “trại”, đã trở thành hậu phương vững chắc trong chống giặc Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và từng nhiều lần là địa bàn cản phá giặc Chiên Thành.

Tóm lại, nhà nước thời Lý - Trần đã quan tâm phát triển giao thông thủy bộ nhằm mở mang đất nước, phát triển kinh tế, cải thiện sinh hoạt cho nhân dân và thực sự đem lại những thuận lợi lớn cho công cuộc chống giặc giữ nước, tạo nên nhiều chiến công oanh liệt.

*
*   *


Lịch sử đã ghi nhận một sự phát triển kinh tế mạnh mẽ vào thời Lý - Trần.

Nông nghiệp, công thương nghiệp, giao thông là những lĩnh vực riêng biệt nhưng có quan hệ tương tác và gắn bó chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Đúng rằng sự phát triển của kinh tế có quy luật khách quan của nó như tự nhiên vậy, nhưng không thể tách rời vai trò và tác động chủ quan của con người, trong đó, đặc biệt là vai trò của nhà nước. Cần thiết phải mở mang kinh tế, nhà nước nào cũng nhận thức được điều đó. Nhưng làm thế nào để phát triển và phát triển như thế nào trong một quốc gia cụ thể với hoàn cảnh cụ thể của nó là điều không đơn giản.

Lịch sử đã đặt nhà nước và nhân dân ta thời Lý - Trần một nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải kế tục các nhà nước Ngô, Đinh, Tiền Lê bảo vệ nền độc lập tự chủ vừa mới giành lại được, nhanh chóng phục hưng để đất nước trường tồn và phát triển. Đối với quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần, nguy cơ xâm lược của Tống, Nguyên ở phía bắc và Chiêm Thành ở phía nam gần như là mối lo thường trực. Sự thực này đã chi phối mọi hoạt động của nhà nước. Trong lĩnh vực kinh tế, việc mở mang mọi mặt làm cho dân giàu nước mạnh gắn chặt với mục tiêu quốc phòng.

Với một quốc gia nông nghiệp, một dân tộc có truyền thống làm nông nghiệp lúa nước, nhà nước thời Lý - Trần đặc biệt khuyến nông bằng nhiều biện pháp nhưng không xem nhẹ công, thương nghiệp. Ở trình độ phát triển của xã hội vào các thế kỷ XI - XIV, nhu cầu của dân không chỉ có ăn và quân lính không chỉ ăn no đã đủ để thắng giặc. Yêu cầu dựng nước và giữ nước còn đòi hỏi nhiều thứ mà nông nghiệp không thể thỏa mãn. Điều đó đòi hỏi ở công, thương và giao thông vận tải. Mặt khác, nhu cầu thường trực chống giặc giữ nước đòi hỏi phải có một đội quân đông đảo. Nhưng đây lại là lực lượng chủ chốt trong lao động dựng nước. Nhà nước đã giải quyết mâu thuẫn này bằng chính sách “ngụ binh ư nông”.

Trong tổ chức khai hoang, chủ trương cho lập điền trang, ban cấp thái ấp, mở mang giao thông, nhà nước Lý - Trần đều kết hợp xây dựng kinh tế với tăng cường sức mạnh quốc phòng và đặc biệt chú ý đến những trọng điểm có vị trí chiến lược trong giữ nước.

Tóm lại, quan tâm khuyến khích nông nghiệp, phát triển công thương, mở mang giao thông vận tải đều kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, hướng về quốc phòng, đã trở thành một chủ trương lớn mang tính chiến lược trong kế sách giữ nước thời Lý - Trần.
_____________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd: t.I: tr.219.
2, 4. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. t.I. tr.272, 347.
3. Việt sử lược, Sđd. tr.85
5. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. t.II. tr.11, 20, 158, 198.
6. Theo Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Sđd.

CHƯƠNG IV

XÂY DỰNG MỘT HỆ THỐNG NGẠCH QUÂN HOÀN CHỈNH. QUÂN CỐT TINH KHÔNG CỐT NHIỀU, NGỤ BINH Ư NÔNG, TOÀN DÂN LÀ LÍNH

Thời Lý - Trần cũng như nhiều giai đoạn khác trong lịch sử dân tộc, vấn đề củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập tự chủ luôn luôn được nhà nước và nhân dân ta quan tâm đặc biệt. Gần như thông lệ sau khi củng cố được địa vị thống trị của mình, các triều đại phong kiến phương Bắc lại tìm cơ hội đưa quân sang xâm lược nước ta. Kẻ thù dân tộc ta lúc đó là các thế lực bành trướng nhà Tống, nhà Nguyên - Mông rất lớn mạnh: nước lớn, đông dân lương nhiều, quân đông, đã từng nổi tiếng thế giới đương thời về những đạo bộ binh, kỵ binh tinh nhuệ, các hạm thuyền lớn vượt biển... Trong khi quân thù to lớn và tàn bạo thì trái lại, nước Đại Việt nhỏ bé chỉ có chừng 5 đến 7 triệu dân, quân đội thường trực lúc hòa bình chỉ khoảng 5 đến 10 vạn. Để đánh thắng giặc, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc thì nhiệm vụ xây dựng quân đội như thế nào là một phương lược lớn của tổ tiên ta thuở ấy.

Bấy giờ hoàn cảnh đặt ra hai nhu cầu cấp thiết: vừa phải xây dựng nước nhà giàu mạnh, vừa phải tăng cường khả năng quốc phòng, sẵn sàng đối phó với nguy cơ xâm lược. Trước yêu cầu lịch sử đó, triều Lý và triều Trần đã không ngừng củng cố nhà nước tập quyền, tăng cường khối đoàn kết thống nhất, thực hiện khoan thư sức dân, xây dựng quân đội chính quy.... Thời đó, một hệ thống ngạch quân được tổ chức hoàn chỉnh với đủ các thành phần, trong đó, quân đội thường trực quốc gia là lực lượng nòng cốt được xây dựng theo phương thức “cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”. Chính sách “ngụ binh ư nông” đã trở thành quốc sách, bảo đảm chất lượng và số lượng quân đội khi hoà binh cũng như lúc chiến tranh. Phương lược đó đã đáp ứng tốt mục tiêu của các triều đại Lý, Trần là xây dựng chính quyền quân chủ tập trung vững mạnh làm cho quốc gia thịnh vượng, “quốc phú binh cường”.

I. XÂY DỰNG MỘT HỆ THỐNG NGẠCH QUÂN HOÀN CHỈNH

Đầu thế kỷ X, sau khi đánh tan giặc ngoại xâm, Ngô Quyền xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ. Tổ chức quân đội lúc đó còn thô sơ, biên chế chưa được phân định rõ rệt. Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn các sứ quân, bắt tay xây dựng nhà nước thống nhất và có dụng tâm tổ chức một quân đội mạnh. Năm Thái Bình thứ nhất (974), nhà Đinh định ngạch quân 10 đạo, mỗi đạo có 10 quân, mỗi quân có 10 lữ, mỗi lữ có 10 tốt, mỗi tốt có 10 ngũ, mỗi ngũ có 10 người. Quân đội do Thập đạo tướng quân Lê Hoàn chỉ huy. Nếu tính ra số quân triều Đinh có 100 vạn; chắc đó chỉ là ngạch quân biên sổ, đặt sẵn về mặt tổ chức biên chế, còn binh lính chủ yếu ở nhà sản xuất, khi có việc luyện tập, canh phòng hoặc chiến đấu mới gọi ra lệ thuộc các tướng. Vua Đinh đã để lại cho đời sau một di sản quý báu. Nhờ đó, năm 981, Lê Hoàn kế vị đã đem Thập đạo quân đánh tan quân xâm lược Tống. Năm Thiên Phúc thứ 7 (986), Lê Hoàn cho điểm dân làm lính, lấy người khỏe mạnh sung vào quân Túc vệ, mỗi người lính được thích vào trán ba chữ “Thiên tử quân”. Tiếp đó, vua Lê lại kiểm duyệt quân đội phân phối đi các đạo, phủ, tổ chức các đội ngũ, cho làm cung nỏ, rèn giáo mác và đóng chiến thuyền; chia tướng làm hai ban, chế mũ đầu mâu màu bạc phát cho quân lính, v.v… Như vậy trước thời Lý, Đại Việt đã có tổ chức quân đội chính quy. Thời Đinh - Lê đã quy định khung biên chế, nhiều lần cải cách tổ chức quân đội. bước đấu có những quy chế thống nhất về tổ chức và trang bị.

Nhà Lý rồi nhà Trần kế tiếp nhau thừa hưởng thành quả của các triều đại trước trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tổ chức quân đội, và đều đạt được những thành tựu mới trên lĩnh vực này.

Trên cơ sở tổ chức quân sự quốc phòng đạt được từ thế kỷ X, nhà nước Lý - Trần đã xây dựng hệ thống ngạch quân của mình. Đó là một hệ thống tổ chức quân sự từ trung ương đến tận làng xã, động bản. Lực lượng quân sự thời Lý - Trần bao gồm các thành phần sau đây:

1 - Quân chủ lực của triều đình.
2 - Quân của lộ, phủ, châu.
3 - Quân của quý tộc, tông thất (quân vương hầu)..
4 - Lực lượng dân binh (hương binh) trong làng xã, động bản.

Thành phần chủ yếu của lực lượng quân sự thời Lý - Trần là những đơn vị quân đội thuộc quyền quản lý trực tiếp của triều đình trung ương. Đây là lực lượng quân chủ lực của nhà nước, gồm có Cấm quân và Sương quân.

Cấm quân bao giờ cũng là lực lượng nòng cốt, thường được gọi là Thân quân hay quân trong kinh. Lúc hòa bình Cấm quân đóng ở kinh thành, có nhiệm vụ bảo vệ vua và triều đình, khi có chiến tranh là chủ lực quân đánh giặc giữ nước.

Trong xã hội phong kiến, kinh đô luôn luôn là mục tiêu bảo vệ quan trọng nhất. Kinh đô Thăng Long, nơi đầu não của đất nước, trông đó có vua, hoàng tộc và cả triều đình ở và làm việc, thường xuyên được bảo vệ cẩn mật. Nhiệm vụ này được nhà nước giao cho Cấm quân. Vì thế thời kỳ nào, triều đại nào, Cấm quân cũng được chú ý xây dựng và phát triển.

Năm 1028, Lý Thái Tông đặt 10 vệ điện tiền Cấm quân, gồm tả và hữu các vệ: Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật, Phủng Nhật và Trừng Hải. Sử thần Ngô Thì Sỹ chép: “Đặt ra Cấm quân trước điện vua gọi là các vệ Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Phủng Nhật và Trừng Hải, mỗi vệ chia ra tả và hữu trực; trại quân đóng cả trong cấm thành để bảo vệ, tổng cộng là 10 vệ”1. Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên các đô quân Khuông Thánh của Thần Vệ thành Củng Thánh, Quảng Đức thành Trung Vũ, Quảng Vũ thành Chiêu Vũ; đồng thời đặt thêm tả, hữu Long Dực đô, mỗi đô 100 người. Năm 1059, nhà vua lại chia quân thành tám hiệu: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thắng, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp; mỗi hiệu quân đều chia làm tả, hữu, tiền, hậu, bốn bộ hợp thành 100 đội, trong đó có cả lính kỵ mã và lính bắn đá, mỗi người thích lên trán ba chữ “thiên tử quân”. Đến đời Lý Nhân Tông, năm 1104, duyệt binh Hưng Nam, Vũ Tiệp tả và hữu, đổi làm đô Ngọc Giai, binh Ngự Long đổi thành đô Hưng Thánh, Quảng Vũ; những người thuộc họ lớn trong dân cho làm binh Vũ Thắng, đồng thời đổi điền nhi làm binh Thiết Lâm. Năm 1118 nhà vua cho tuyển 350 con trai hạng hoàng đại nam khỏe mạnh để sung vào làm binh các đô Ngọc Giai, Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long. Năm sau, vua sai duyệt sáu binh Vũ Tiệp, Vũ Lâm, v.v…, hạng khỏe giỏi cho làm hỏa đầu (đội trưởng) ở các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thánh, Vũ Đô, v.v…, hạng dưới cho làm lính các độ đó. Sử chép: “Binh chế buổi đầu đời Lý... lấy thân quân làm trọng gọi là Cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người, đều có tả hữu; phải túc trực thường xuyên”2.
___________________________________
1. Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án. Văn hóa, Á châu xuất bản. Sài Gòn 1960, tr.61.
2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. NXB Sử học. Hà Nội. 1961 t.IV, tr.5.

Tuy mang danh hiệu là “Thiên tử quân” như quân dưới thời Đinh - Lê nhưng Cấm quân thời Lý phát triển hoàn chỉnh hơn. Quân đội thời Lý được chia thành từng tướng hiệu, quân hiệu, các vệ quân, đô quân, các đội, ngũ hoặc giáp để thay nhau phụng trực hoặc tuần tra canh gác.

Cũng như triều Lý, triều Trần tổ chức Cấm quân theo nguyên tắc Thân quân, quân của vua, của triều đình thuộc giòng họ thống trị. Nhưng khác với triều Lý, triều Trần ngoài kinh đô Thăng Long cần được bảo vệ cẩn mật nhất, còn có phủ Thiên Trường, nơi quê hương của họ Trần và là nơi ở của các Thượng hoàng, được coi gần như một kinh đô thứ hai cần được bảo vệ. Do vậy, Cấm quân nhà Trần được mở rộng phát triển hơn để đảm nhận thêm nhiệm vụ mới, bảo vệ Thượng hoàng, bảo vệ phủ Thiên Trường (Nam Định).

Năm 1246, Trần Thái Tông định danh hiệu quân đội chọn người khỏe mạnh sung làm quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Người ở các lộ Thiên Trường và Long Hưng, sung làm quân Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần; người các lộ Hồng và Khoái sung làm quân tả Thánh Dực và hữu Thánh Dực; người các lộ Trường Yên, Kiến Xương sung làm quân Thánh Dực và Thần Sách. Người tuyển từ các lộ khác thì sung vào các vệ cấm quân hoặc sung làm trạo nhi (lính chèo thuyền, khiêng võng) và các phong đội. Có thể hiểu Tứ Thiên, Tứ Thánh và Tứ Thần ở đây là quân Túc vệ gồm có tả, hữu Thiên Thuộc và tả, hữu Thiên Cương; tả, hữu Chương Thánh và tả, hữu Thánh Dực; tả, hữu Củng Thần và tả, hữu Thần Sách; tổng cộng là 12 vệ quân. Nhà Trần khởi lên từ lộ Thiên Trường, cho nên đã lấy quân ở bản lộ và những lộ phụ cận làm quân Túc vệ để bảo vệ Thượng hoàng và nhà vua.

Năm Thiên Hưng thứ 16 (1298), Trần Anh Tông đặt các quân hiệu Chân Thượng đô, Thủy Dạ Soa đô và Chân Kim đô. Năm 1311, nhà vua đặt thêm quân hiệu Toàn Kim Cương. quân lính đều được thích tên quân hiệu lên trán; đồng thời chia quân Thiên Thuộc ra làm hai đô Thượng Phù đô và Hạ Phù đô. Sau hai năm, Anh Tông lại đổi quân Vũ Tiệp làm quân Thiết Ngạch và cử Vũ vệ đại tướng quân quản lĩnh.

Đời Minh Tông, năm 1315, đặt Phù Liễn đô gọi là Long vệ tướng và sau đổi làm Khấu Mã quân. Các đời vua sau đặt thêm các quân hiệu mới. Chẳng hạn năm 1378, Cấm quân có các hiệu như: Thần Dực, Thiên Uy, Thánh Dực, Hoa gạch, Thị Vệ, Thiên Trường, Thần Vũ, v v , tất cả có chức giám quân. Sau đó lại đặt thêm quân Thiết Thương, Thiết Giáp, Thiết Lâm, Thiết Hổ, Ô Đồ và chọn các võ tướng làm chức quản quân.

Cấm quân thời Trần là sự kế thừa tổ chức Cấm quân thời Lý. Đến đời Trần Thái Tông thực hiện cải cách quân sự, chính quy hóa tổ chức. Năm 1267, triều đình ban bố lệnh tổ chức các đơn vị quân và đô. Mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người.

Theo biên chế đời Trần Thái Tông, chỉ tính riêng 12 vệ quân Tứ Thiên, Tứ Thánh và Tứ Thần đã có 28.800 người. Các đời vua tiếp sau, quân Cấm vệ mở rộng hơn. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: “Số quân buổi đầu nhà Trần, mỗi quân 2400 người. Các quân Cấm vệ và các lộ đại ước không đầy 10 vạn”1.

Trong tổ chức Cấm quân thời Lý - Trần, có một bộ phận gọi là quân Túc vệ, tức quân hầu cận, những người lính theo hầu xe vua, bảo vệ và phục dịch nhà vua hoặc Thượng hoàng khi ở trong kinh hoặc lúc xuất giá. Thời Lý, số quân này gọi là Tùy Long quân nội ngoại hay Tả hữu túc xa. Vừa lên ngôi, Lý Thái Tổ đem 500 quân Tùy Long vào làm lính Túc vệ ở cạnh mình. Năm 1054 Lý Thánh Tông đặt thêm tả, hữu Long Dực đô, mỗi đô 100 người. Dưới thời Trần, quân Túc vệ cũng là lính hạng nhất, trai tráng tuyển từ các lộ Thiên Trường, Long Hưng và các lộ bản bộ của nhà Trần, đều được sung vào quân Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần. Số quân này túc trực bảo vệ trong cấm thành nơi vua ở và làm việc, một bộ phận trông nom hành cung Thiên Trường.

Như vậy: nhu cầu bảo vệ chính quyền trung ương và bảo vệ đất nước đã thúc đẩy các triều đại Lý, Trần không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức, biên chế quân đội. Càng ngày Cấm quân càng được tổ chức chính quy, đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ kinh đô và đánh giặc, đều được huấn luyện tinh nhuệ. Đúng như nhận xét của Phan Huy Chú: “Đến đời nhà Lý và nhà Trần đặt quân hiệu có phần kỹ càng hơn... Trong thành vua có quân Túc vệ đội ngũ đông nghiêm”2.

Thời Lý - Trần, Cấm quân là lực lượng thường trực chuyên nghiệp. Là loại lính hạng nhất, họ được coi trong, được ưu đãi hơn các loại quân khác.

Lực lượng quân thường trực của trung ương còn có một bộ phận gọi là Sương quân. Đây là một lực lượng quân sự khá đông đảo, thuộc diện quản lý của triều đình, bao gồm những trai tráng làm nghĩa vụ binh dịch, nhập ngũ theo yêu cầu và thực hiện chia phiên ở lại canh phòng luyện tập và phục dịch hoặc trở về sản xuất theo quy định của chính sách “ngụ binh ư nông”. Trên danh nghĩa, Sương quân là lính dùng để sai khiến, phục dịch hoặc canh cổng... thực chất là lính bán chuyên nghiệp, lúc hòa bình thay phiên phục dịch, khi chiến tranh là những chiến binh. Chu Khứ Phi, một quan lại triều Tống đã mô tả rằng: “Nhà Lý có tám quân, như Ngự Long quân, Vũ Thắng quân, v.v., đều chia làm tả, hữu; mỗi quân có 200 người thích ngang trên trán ba chữ “Thiên tử quân”. Ngoài ra còn có 9 quân khác như Hùng Lực, Dũng, Kiện, v.v., dùng để sai khiến; binh cứ hàng tháng đổi một lần, lúc nhàn hạ thì cấy trồng để tự túc”3. Sử gia Ngô Thì Sỹ cũng chép: “Binh chế bước đầu nhà Lý... Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân 200 người đều có tả, hữu, phải thường xuyên túc trực. Lại có 9 quân như Sương quân để sai khiến mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ tự cấp lấy chứ không được cấp lương4.

Thời Trần, có khi người ta gọi một bộ phận Sương quân là Lao thành binh, vì họ là lính phục dịch như đắp thành, canh cửa thành, xây dựng, cắt cỏ, v.v… Năm 1230 triều Trần quy định: “Ai phải đi đày làm lính lao thành thì thích bốn chữ vào trán, làm việc phát cỏ rậm và cho họ lệ thuộc vào bốn đội Sương quân”5. Sương quân thời Trần cũng là lính hạng nhì (sau Cấm quân), họ là lực lượng bán chuyên nghiệp... Lê Trắc ghi chép về Sương quân trong An nam chí lược như sau: “Việc lấy quân không có số nhất định, chỉ chọn dân đinh nào khỏe mạnh thì lấy. Cứ năm người là một ngũ, 10 ngũ một đô, chọn hai người nhanh giỏi dạy tập võ nghệ. Khi nào có việc điều động thì gọi ra, không có việc thì trở về nhà làm ruộng"6.

Nếu như những đơn vị quân đội của triều đình trung ương là thành phần chủ yếu thì quân địa phương là lực lượng đông đảo nhất trong hệ thống quân thường trực của quốc gia Đại Việt. Đó là tổ chức quân sự do các đạo, lộ, phủ, châu tổ chức, quản lý và chỉ huy theo quy chế chung của nhà nước. Thời Lý, khi Lý Công Uẩn lên ngôi, chia nước thành 24 lộ và hai trại. Đến năm 1242, đời Trần Thái Tông đổi 24 lộ làm 12 lộ, hai trại; sau đặt thêm năm phủ, sáu châu. Trong mỗi lộ chia thành các phủ, châu; dưới các phủ châu là các huyện, hương, xã. Nhà Lý cho phép các lộ chỉ được tuyển đinh tráng và cai quản binh trong lộ mình. Lý Cao Tông đã cho “tuyển đinh nam, lấy những người khỏe mạnh sung vào quân đội đặt dưới quyền cai quản của các lộ để đi đánh dẹp”7.
___________________________________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. phần Binh chế chí, t.IV, tr.5.
2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí: Sđd. t.IV, tr.20.
3. Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp. Tư liệu khoa sử, Trường đại học Tổng hợp, Hà Nội.
4. Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiên án. Sđd, tr. 127.
5. Việt sử thông giám cương mục, sđd, t.V, tr.9.
6. Lê Trắc: An Nam chí lược.
7. Lê Trắc: An Nam chí lược, Sđd. tr.111


Thời Trần có lúc gọi quân các lộ là “phong quân” “phong đoàn”. Năm 1261, nhà nước chính thức tổ chức “phong quân” ở các địa phương hay các “đội tuyển phong” ở các phủ, huyện. Mỗi lộ đặt 12 đô phong đoàn. Nếu tính theo cơ cấu tổ chức hành chính thời Trần thì ta có thể thấy được lực lượng quân các lộ là rất đáng kể. Tuy nhiên cũng như triều Lý quân giữa các lộ thời Trần không đều nhau về số lượng, tùy thuộc vào vị trí quân sự và điều kiện dân cư từng địa phương. Như Phan Huy Chú đã viết: “Binh ở mấy lộ buổi đầu nhà Trần chỉ đặt ở mấy đạo đông, nam, bắc; từ Hoan Ái (Nghệ An và Thanh Hóa) trở vào còn xem là đất xa có việc mới gọi, ngày thường chưa đặt thành vệ. Từ đời Long Hưng, Đại Khánh (1293 - 1323) về sau, bờ cõi phía nam khai thác rộng thêm, bấy giờ binh ở Thanh Nghệ và Thuận Hóa mới liệt vào quân hiệu”1.

Là lực lượng quân sự đông đảo nhất trong hệ thống tổ chức quân đội của nhà nước Đại Việt, quân địa phương có nhiệm vụ canh phòng và đánh giặc tại địa phận mình là chính, lúc cả nước có chiến tranh, quân các lộ có thể được triều đình điều động đi đánh giặc ở những vùng khác. Vì thế quân địa phương thời Lý - Trần thực sự là một lực lượng quốc phòng quan trọng ở khắp mọi miền đất nước, họ đã góp phần đáng kể trong các cuộc chiến tranh giữ nước hồi thế kỷ XI và thế kỷ XIII.

Lực lượng quân sự các địa phương được chia phiên thay nhau ở tại ngũ hay về sản xuất tự túc, khi cần họ được gọi ra nhập ngũ tham gia đánh giặc. Cả triều Lý và triều Trần đều thực hiện chính sách ngụ binh ư nông đối với quân địa phương. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, “nhà Trần theo phép nhà Lý, binh Túc vệ được cấp bổng hàng năm... có binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng” (2).

Thời Lý - Trần, nhà nước ban cấp thái ấp cho các vương hầu, quý tộc hoặc cho phép họ chiêu mộ dân nghèo, những người lưu tán khai khẩn đất hoang lập thành các điền trang. Nhà vua cũng thừa nhận quyền trấn trị của các vương hầu quý tộc ở một số địa phương. Như thời Trần, Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp. Trần Quốc Chẩn ở Chí Linh, Trần Quốc Khang ở Diễn Châu, Trần Nhật Duật ở Thanh Hóa, Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Thái Bình), Trần Khánh Dư ở Dưỡng Hòa (Nam Hà), v.v… Tại các phủ đệ của các vương (con vua) thời Lý đều có lực lượng quân sự riêng mà sử thường gọi đó là phủ binh, như quân của Đông Chinh vương, Dực Thánh vương, Vũ Đức vương hay của Khai Quốc vương ở Trường Yên, v.v… Dưới thời Trần các vương hầu quý tộc khi có chiến tranh cũng được quyền huy động tổ chức lực lượng quân sự riêng ở những vùng có thái ấp điền trang. Chính vì thế phương thức ban cấp thái ấp và quyền thành lập các đại điền trang thời Lý - Trần bao hàm ý nghĩa cả kinh tế và quốc phòng.

Trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, thường xuất hiện những đạo quân của các vương hầu quý tộc. Trong chiến tranh chống Tống năm 1077, có quân của các hoàng tử Hoàng Chân, Chiêu Văn mà lực lượng nòng cốt là những “con nuôi” của họ. Thời Trần có các đạo quân “gia nô” hay “vương hầu gia đồng” tham gia kháng chiến chống Nguyên - Mông, như đạo quân hơn 1000 người gồm các gia nô và thân thuộc của Trần Quốc Toản, v.v… Sách An Nam chí lược chép: “Thời Trần có ba đô vương hầu gia đồng là Sơn Lao đô, Dược Đồng đô và Toàn Hầu đô”. Ngô Sĩ Liên và Phan Huy Chú đều chép về việc triều đình nhà Trần đều hạ lệnh cho các vương hầu, tông thất mộ binh và thống lĩnh binh của mình giúp vua chống giặc.

Dưới triều Trần, ở một mức độ nhất định và vào lúc cần thiết, các vương hầu quý tộc được phép tổ chức lực lượng vũ trang riêng. Tuy nhiên, loại quân này không đối lập với triều đình trung ương như các đạo quân lãnh chúa ở châu Âu đương thời. Việc mộ quân, luyện quân của họ xuất phát từ yêu cẩu chống ngoại xâm hay bảo vệ quyền thống trị của giòng họ và theo lệnh của nhà nước. Thời bình, lực lượng quân sự này không đáng kể, chủ yếu họ là một số gia nô của các vương hầu quý tộc vừa sản xuất hay phục dịch vừa luyện tập quân sự và vũ trang ở mức độ nhất định để canh phòng trang trại. Khi đất nước có chiến tranh, các vương hầu quý tộc được quyền “mộ binh và thống lĩnh binh của mình”. Trong đó không chỉ có gia nô mà cả trai tráng ở các làng, xã lân cận, tổ chức thành các đạo quân cứu nước, đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của trung ương. Vai trò của quân vương hầu được phản ánh nhiều ở trong chính sử, chẳng hạn sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm Nguyên Phong (đời Trần Thái Tông) giặc Nguyên sang cướp, vương hầu đem gia thần và hương binh, thổ hào sung vào đội quân cần vương. Việc biến năm Đại Định (1369) các vương hầu cũng đem dân thôn trang sắm sửa nghi trượng đón vua mới”2.

Như vậy, quân vương hầu thời Lý - Trần đã đóng một vai trò nhất định trong việc bảo vệ chính quyền và bảo vệ đất nước.

Một nét độc đáo trong cơ cấu lực lượng vũ trang Đại Việt là vai trò chiến lược của các tổ chức dân binh - lực lượng vũ trang các làng xã, thôn ấp, động bản. Tình cảm Làng - Nước, Nước - Nhà, “nước mất nhà tan”, đã thôi thúc những người dân hương, xã, bản làng đứng lên tự vũ trang, thành lập đội ngũ chiến đấu để giữ làng giữ nước.

Tổ chức dân binh bao gồm các đinh nam trong các làng bản. Những trai tráng đã được ghi tên trong “sổ quân” mà chưa được nhập ngũ hoặc những dân binh đã hoàn thành binh dịch, là lực lượng nòng cốt của dân binh. Đối với họ “tĩnh vi nông động vi binh”, lúc vô sự là dân lúc có giặc là binh. Thời bình, dân binh vừa sản xuất vừa bảo vệ an ninh trong vùng. Khi có chiến tranh, họ là lực lượng đánh giặc giữ làng giữ nước. Phạm vi hoạt động của dân binh chủ yếu trong làng xã mình, nhưng nếu cần thiết họ mở rộng địa bàn hoạt động ra cả phủ, lộ. Dưới thời Lý, đặc biệt là thời Trần, mỗi khi có xâm lăng, làng xã đều trở thành “làng chiến đấu”, mọi người dân đều tham gia đánh giặc. Họ tự trang bị vũ khí và gia nhập tổ chức dân binh. Lực lượng dân binh tham gia cuộc kháng chiến chống Tống thật đông đảo, như Tể tướng Vương An Thạch và vua Tống Thần Tông đã thú nhận: “Dân Man kéo hết cả nhà theo”, “cả nước Giao Chỉ, nhà có sáu người thì năm người tòng quân, còn một người không đi được phải ở lại”3. Sứ giả nhà Nguyên, Trần Phu, đã ghi chép lại trong chuyến đi sang Đại Việt năm 1293 rằng: “Mỗi khi có biến động... là trai tráng khắp xứ đều kéo ra ngay, khí giới đều do họ tự trang bị lấy... có người còn vác cả chiếc gậy trơn” (Sứ Giao Châu cảo) Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, ở nông thôn Đại Việt “toàn dân sắm sửa vũ khí” và nhiệt tình gia nhập các tổ chức dân binh, thực hiện kế “tiểu dân thanh dã” và đáp lời kêu gọi của triều đình: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh; nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng địch”4.

Tổng kết trong ba lần kháng chiến chống Nguyên - Mông, cả nước Đại Việt chỉ có hai hương Bàng Hà và Ba Điểm hàng giặc (trong kháng chiến lần thứ ba), nên đã bị nhà vua xử tội đồ các quân dân hai làng này làm binh thang mộc, không được làm quan, và cấp cho các tể thần làm hoành nô sai khiến. Còn hầu hết các làng xã, nơi có giặc đến đều anh dũng chiến đấu, chặn đứng nhiều cuộc hành quân cướp phá của chúng. Nổi bật là dân binh các làng xã ở huyện Phù Ninh (Vĩnh Phú), dân binh làng Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức), trong các năm 1258 và 1288, hoặc như dân binh làng Yên Duyên (Quảng Xương, Thanh Hóa) dưới sự lãnh đạo của viên đại toát (xã trưởng) họ Lê, chặn đánh giặc Nguyên ở bến Cổ Bút, buộc chúng phải tháo chạy vào năm 1285, v.v...

Chúng ta có thể hình dung hệ thống ngạch binh của thời Lý - Trần như cấu trúc của một hình chóp nón. Phía trên là quân triều đình, phía dưới là quân địa phương và dân binh. Quan triều đình trung ương được tổ chức gọn nhẹ, quân thường trực tại ngũ (tức lực lượng thoát ly sản xuất) có số lượng vừa phải... nhưng có chất lượng cao. Đó là lực lượng quân đội nòng cốt, chính quy. Còn quân địa phương và đặc biệt là dân binh ở các làng bản có số lượng đông đảo. Đó là lực lượng quân sự canh phòng và chiến đấu tại chỗ ở khắp mọi nơi. Khi cần thiết, lực lượng quân sự địa phương và dân binh có thể được điều động đi chiến đấu cùng với quân trung ương, thực hiện cuộc chiến tranh toàn dân, cả nước đánh giặc.

Bốn thành phần trên của lực lượng vũ trang thời Lý - Trần tạo thành một hệ thống tổ chức quân sự không độc lập, riêng lẻ, mà tồn tại và phát huy tác dụng trong một chỉnh thể từ trung ương đến cơ sở. Sự kết hợp đó đã phát huy được ưu thế riêng của từng loại quân và sức mạnh thống nhất của cả hệ thống lực lượng vũ trang dân tộc. Giai cấp phong kiến thời Lý - Trần, vào giai đoạn tiến bộ, đã có phương thức tổ chức đúng, xây được một “ngạch quân” hoàn chỉnh. thống nhất, tạo nên một binh thế mạnh trong sự nghiệp quốc phòng Đại Việt.
_______________________________________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, t.IV, tr.7, 20.
2. Năm 1369 Dương Nhật Lễ cướp ngôi, tông thất nhà Trần đem quân của mình đón Trần Hức con Minh Tông về lập làm vua, tức Trần Nghệ Tông. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II. tr.166.
3. Lý Đào: Tục tự trị thông giám trường biên, q.275. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt. Viện đại học Vạn Hạnh ấn hành, Sài Gòn 1966. tr.209.
4. Tống Liêm: Nguyên sử. Bản sức ấn bách nạp, thương vụ thư quán, q.209, t.76a.

II. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI “CỐT TINH KHÔNG CỐT NHIỀU”

Từ thế kỷ XI, nước Đại Việt đã có quân đội chính quy, biểu hiện trên các mặt tổ chức, chỉ huy, trang bị, huấn luyện và sức chiến đấu. Triều đình nhà Lý thường xuyên chú ý xây dựng quân đội mạnh như mong muốn của vua Lý Nhân Tông: “nên sửa sang võ bị đề phòng việc bất ngờ”. Đến thế kỷ XIII, để chống lại các thế lực ngoại xâm lớn mạnh, nhà Trần càng chăm lo củng cố tiềm lực đất nước, trong đó chú trọng nâng cao sức chiến đấu của quân đột quốc gia. Đầu năm 1287 đất nước chuẩn bị bước vào cuộc đọ sức quyết liệt lần thứ ba với quân Nguyên - Mông, trong triều đình nhà Trần có một số đại thần xin tăng quân số để chống giặc, Trần Quốc Tuấn lúc đó là Quốc công tiết chế - tổng chỉ huy quân đội - đã bác lời đề nghị trên và nói rằng: “Quân cốt tinh không cốt nhiều, dù đến như Bồ Kiên có một trăm vạn quân có làm được gì đâu1. Nhà vua và cả triều đình đã chấp thuận ý kiến của ông. Quan điểm “quân cốt tinh” là một quan điểm chiến lược được đúc kết từ thực tiễn lịch sử đất nước, từ quá trình xây dựng lực lượng và tiến hành chiến tranh giữ nước trong các thế kỷ trước, cũng như trong thế kỷ XIII, khi Trần Quốc Tuấn trực tiếp lãnh đạo quân đội nhà Trần xây dựng và chiến đấu chống ngoại xâm.

Tại sao tổ tiên ta từ sớm đã có quan điểm “quân cốt tinh” và thực tế lịch sử đã thể hiện như thế nào?

Sau hơn 10 thế kỷ đấu tranh, đến năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, nhân dân ta đã đánh tan đạo quân xâm lược của nhà Nam Hán, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên Đại Việt, độc lập tự chủ. Nhưng đến đây chưa phải đã kết thúc cuộc đụng đầu giữa dân tộc ta với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Chiến tranh xâm lược từ phương Bắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Các đế chế phong kiến phương Bắc thường xuyên dòm ngó và mưu toan tìm cơ hội thôn tính đất Việt. Tình hình đó đòi hỏi những người lãnh đạo quốc gia phải có phương lược thích hợp nhằm xây dựng thế nước, chú ý quốc phòng, coi việc giữ nước luôn luôn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu nhất.

Tuy nhiên, trong điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, cách đánh của tổ tiên ta ngay từ đầu là lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều. Vì vậy bên cạnh yêu cầu có một nghệ thuật quân sự giỏi, nghệ thuật quân sự của chiến tranh toàn dân, còn yêu cầu chất lượng cao trong tổ chức quân đội, trong từng đơn vị và ở mỗi một người lính. Mặt khác, ở nước ta công cuộc dựng nước và giữ nước luôn luôn đi đôi với nhau. Cùng với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, còn có nhiệm vụ xây dựng quân đội sao cho đỡ phần chi phí tốn kém, ít ảnh hưởng đến sản xuất. Chính vì vậy, bớt phần số lượng, nâng cao chất lượng quân đội là một yêu cầu quan trọng. Nhưng cả hai yếu tố số lượng và chất lượng đều cần để tạo nên sức mạnh quân đội trong chiến tranh. Cho nên ở hoàn cảnh nước ta, phải có phương thức xây dựng quân đội làm sao lúc hòa bình, quân thường trực có số lượng vừa đủ mà chất lượng cao, lại có quân dự bị hùng hậu, được huấn luyện tốt, để khi chiến tranh xảy ra, nhà nước có thể nhanh chóng huy động được số quân đông, đủ sức đánh thắng quân thù. Đó là bài toán chiến lược, những lý do mà cha ông ta từ sớm đã thường xuyên quan tâm xây dựng quân đội có chất lượng tốt.

Sức mạnh quân đội trước hết biểu hiện trên lĩnh vực tổ chức. Thời Lý - Trần, tổ tiên ta không ngừng kiện toàn cơ cấu tổ chức quân đội, chú trọng xây dựng quân thường trực chính quy có biên chế tổ chức hợp lý, gọn nhẹ.

Về tổ chức, đã phân định rõ quân triều đình và quân các lộ, phủ (tức quân trung ương và quân địa phương). Ở trung ương có Cấm quân bảo vệ vua, triều đình và kinh đô Thăng Long; có Sương quân canh giữ các cửa thành và là lực lượng cơ động. Ở địa phương có quân các lộ, phủ canh giữ bảo vệ các nẻo miền đất nước. Khi có chiến tranh tất cả chịu sự điều động và chỉ huy thống nhất của triều đình. Nhà nước đã quy định tổ chức biên chế quân ngũ thành các đơn vị như tướng,vệ quân, đô, đội, ngũ, v.v… Chẳng hạn thời Lý, Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân 200 người; thời Trần Thái Tông biên chế “mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người”, v.v…

Quân đội quốc gia từng bước được chuyên hóa thành các binh và quân, như lục quân và thủy quân. Trong lục quân có bộ binh, kỵ binh và tượng binh. Nhưng do đặc điểm đất nước, tổ chức quân đội Đại Việt có những nét khác với quân đội các nước khác đương thời. Lúc đó ở châu Âu, người ta đua nhau hiệp sĩ hóa, kỵ sĩ hóa quân đội. Họ thành lập những đạo kỵ binh nặng, những đạo quân “giam mình trong vỏ thép”2. Một số nước ở châu Á như Mông Cổ lại chủ yếu phát triển “khinh kỵ binh” tức là kỵ binh nhẹ. Còn bộ binh hầu như bị lãng quên, “người ta coi bộ binh là một thứ hàng kém phẩm chất, cố gắng bố trí nó ở xa nơi chiến đấu và chỉ sử dụng nó để đồn trú mà thôi”3. Ở trung Quốc, cùng với việc phát triển kỵ binh vẫn duy trì phát triển bộ binh với chủ trương lấy mười bộ binh để chống lại một kỵ binh địch.

Trái lại, Ở Đại Việt không coi kỵ binh là binh chủng chủ yếu như ở châu Âu hay Mông Cổ, không chủ trương phát triển kỵ binh để chống lại kỵ binh giặc như quan điểm của một số nhà quân sự thế giới đương thời. Tổ tiên ta vẫn coi bộ binh là loại binh chủ yếu, đổng thời phát huy truyền thống anh hùng của nó trong giáp chiến, phục kích, tập kích và tạo thời lập thế đánh giặc. Bên cạnh bộ binh có tượng binh và kỵ binh, tuy bấy giờ chưa được chuyên hóa, phát triển thành binh chủng độc lập, song những đội kỵ binh và voi chiến phối thuộc bao giờ cũng chiến đấu hợp đồng có hiệu quả với bộ binh. Voi chiến, với ưu thế của nó, trở thành nỗi kinh hoàng của quân xâm lược mỗi lần gặp phải. Thời Lý, đã sử dụng voi đánh công thành Ung Châu, đánh chặn quân Tống ở ải Quyết Lý (Lạng Sơn) và nhiều nơi khác. Thời Trần, voi chiến đã tham gia các trận Bình Lệ Nguyên, Nội Bàng, Vạn Kiếp, v.v… Voi uy hiếp, giẫm nát bộ binh và chặn phá quân kỵ mã của giặc. Kỵ binh của Đại Việt tuy chưa nhiều, nhưng thường sử dụng bất ngờ trong chiến đấu hiệp đồng hay khi truy kích quân địch.

Đặc biệt, thủy binh Đại Việt là loại quân tinh nhuệ với truyền thống thạo nghề sông nước, giỏi thủy chiến. Vốn đã nổi tiếng từ thời Ngô - Đinh - Lê, trong những chiến công đánh tan thủy binh Nam Hán (938) và Tống (981), thủy binh càng được quan tâm phát triển dưới thời Lý - Trần. Từ thế kỷ XI, quan niệm về thủy quân và vai trò của nó trong sự nghiệp bào vệ chủ quyền quốc gia ngày một rõ ràng. Cùng với ý thức quan tâm bảo vệ và khai thác các nguồn lợi trên sông biển, nhà nước đã tăng cường về tổ chức và trang bị cho thủy quân. Vua Lý nhiều lần ra lệnh “sắm sửa vũ khí và đóng chiến thuyền”. Năm 1043, Lý Thái Tông xuống chiếu đóng vài trăm chiến thuyền; năm 1068 nhà vua lại ra lệnh đóng chiến hạm. Vua Lý Thần Tông (1106) sai đóng loại thuyền Mông đồng để trang bị cho quân đội và sau đó cho đóng các loại thuyền chỉ huy gọi là Cảnh Hưng và Thanh Lan. Bấy giờ, trang bị cho quân đội chủ yếu là thuyền Mông đồng vừa và nhỏ, an toàn và cơ động, đồng thời đã xuất hiện loại lớn chở được vài trăm quân cùng vũ khí, lương thảo và có khả năng vượt biền xa hàng ngàn kilômét. Vốn xuất thân từ vùng ven biển, lại ưa chuộng nghề võ, nhà Trần càng ý thức được vai trò của sông biển và thủy quân. Lê Phụ Trần (tức Lê Tần), một võ quan cao cấp của triều đình do có công lao lớn trong cuộc kháng chiến năm 1258 đã được phong chức Thủy quân đại tướng quân. Trần Khánh Dư, phó tướng của Trần Quốc Tuấn được giao trọng trách trấn giữ ở Vân Đồn, xây dựng căn cứ hải quân và tổ chức đơn vị hải quân độc lập đầu tiên - đội quân Bình Hải. Những điều đó chứng tỏ quy mô tổ chức và vị trí, vai trò quan trọng của thủy quân thời ấy. Chiến thuyền thời Trần lớn nhỏ gồm nhiều loại, trong đó có loại hiện đại nhất thời bấy giờ như thuyền Châu Kiều, thuyền Đinh Sắt, Trung tàu tải lương hay Cổ lâu thuyền với hàng trăm tay chèo có khả năng vượt biển xa và trang bị tốt. Thủy thủ gọi là các đoàn đội “trạo nhi”, xuất thân từ những người dân vốn quen sông nước, do đó rất giỏi bơi lội và thủy chiến. Trong kháng chiến chống Nguyên có những đạo quân đã được trang bị hàng ngàn chiếc thuyền, trong đó có cả thuyền chiến và thuyền vận tài, như đạo quân của Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp hay đạo quân do hai vua Trần chỉ huy...

Không phải riêng ta mà người nước ngoài cũng đã từng thừa nhận tài thủy chiến của quân Đại Việt. Thế kỷ XI, người Tống truyền tụng rằng: người Giao Chỉ giỏi thủy chiến. Từ xưa đã truyền lại, người Việt lặn xuống biển đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói, “họ có người đi ngầm dưới đáy biển 500 dặm mà không thở. Nay “thuyền buôn” đi biển thường bị họ lặn xuống nước đục thủng” (Việt kiệu thư). Trong ba lần gây chiến tranh xâm lược Đại Việt, giặc Nguyên - Mông buộc phải thú nhận rằng, quân đội của chúng “không thi thố được tài năng” khi đụng phải thủy quân Đại Việt.

Bên cạnh tổ chức tốt, các triều Lý và Trần còn rất lưu tâm luyện rèn quân sĩ. Thời Lý có Điện giảng võ và Xạ đình, thời Trần có Giảng võ đường và Trường đua. Đó là những trường học quân sự cấp cao đầu tiên của nước ta. Ở đó, vua cùng với các vương hầu tướng lĩnh được học binh thư, binh pháp, học cách bày trận và phá trận. Thời Lý huấn luyện tướng lĩnh theo một binh pháp thống nhất mà người Tống thường gọi là An Nam hành quân pháp. Vua Tống khi đọc được binh pháp nhà Lý đã khen ngợi mãi và ra lệnh phỏng theo đó mà thi hành ngay trong quân đội Tống. Thời Trần, có Binh thư yếu lượcVạn Kiếp tông bí truyền thư. Đó là những binh thư mà Trần Quốc Tuấn đã dày công nghiên cứu, biên soạn. Việc học tập và giảng dạy quân sự có lúc đã theo phương pháp mới và có thể gọi là khoa học, như lời dặn của Trần Quốc Tuấn: “con cháu và bồi thần của ta có theo bí thuật này thì hãy lấy lòng sáng suốt mà thi hành bày xếp, không nên lấy ngu tối mà dạy truyền; trái thế thì không chỉ phải chịu tai ương mà còn vạ lây đến con cháu đời sau”4. Như vậy theo Trần Quốc Tuấn, học binh pháp của ta hay của nước ngoài đều phải sáng tạo, linh hoạt, chứ không rập khuôn máy móc. Việc học binh thư, binh pháp là điều bắt buộc đối với vua, thái tử, với vương hầu và tướng lĩnh. Bởi vì bấy giờ vua là chỉ huy tối cao của quân đội, vua thường “tự làm tướng” đi đánh giặc, thái tử là người kế vị, còn các vương hầu, tướng lĩnh đều là những người trực tiếp chỉ huy các đạo quân. Trần Quốc Tuấn đỏi hỏi các tướng soái phải dày công nghiên cứu binh pháp, nhất là bộ Binh thư yếu lược. Ông nói: “Các người biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng kinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù”. Hơn nữa, tuyển chọn tướng cầm quân phải gồm đủ các tiêu chuẩn đức và tài. Người tướng phải có lòng trung, phải công minh chính trực, phải có tình cảm “phụ tử” với binh si. Đặc biệt đối với những kẻ thù xảo quyệt, khi xâm lược “nó tiến chậm như tằm ăn, không cần của dân, không cầu được chóng” thì như Trần Quốc Tuấn dặn, phải “bạt dụng lương tướng”, “phải chọn dùng tướng giỏi và quyền biến như đánh cờ”. Vua Trần ra lệnh: “Chọn trong các quan viên, người nào có tài năng luyện tập nghề võ, tinh thông thao lược thì không kể tông thất đều cho làm tướng coi quân”. Đó là những biện pháp để nâng cao chất lượng người cầm quân.
______________________________________
1. Bồ Kiên, vua Tiền Tần đời Tấn có 100 vạn quân mà bị thua nhà Tấn ít quân hơn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sđd. t.II, tr.59.
2, 3. Ph. Ăngghen: Tuyển tập luận văn quân sự. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1978, t.II, tr.109, 166.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. t.II. tr. 84, 85.

Do có phương pháp đúng về tuyển chọn và đào luyện tướng sĩ, cho nên trong giới quý tộc Trần đã xuất hiện nhiều tướng lĩnh lỗi lạc, mà đại diện tiêu biểu là Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật... Phạm Ngũ Lão vốn là một người bình dân trưởng thành trong chiến đấu và được Trần Quốc Tuấn tin yêu, tuyển lựa và bồi dưỡng đã trở thành một tướng giỏi ông chỉ huy một đạo quân “phụ tử”, đi đến đâu là giặc ở đấy không địch nổi. Các sử thần triều Lê đã không ngớt lời ca ngợi các tướng lĩnh nhà Trần: “giao cầm quân thì cùng nhau sống chết”, “dụng binh tinh diệu, chiến tất phải thắng, đánh tất phải được” và “khi đối địch với giặc thì tự mình xông pha lên phía trước quân sĩ, giặc trông thấy phải tránh lui, không kẻ nào địch nổi”1.

Vua Lý Nhân Tông và Lý Anh Tông căn dặn: hãy thường xuyên chăm lo quân bị, sửa sang giáo mác rèn tập võ nghệ. Trong lời hịch, Trần Quốc Tuấn nhắc nhở các tướng: “luyện rèn quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”2. Thời Lý rất chú trọng huấn luyện binh .sĩ, điều này thể hiện qua lời chiếu của vua Tống gửi Quách Quỳ trước khi sang đánh Đại Việt (1076): “hiện ở Giao Chỉ, Lý Thường Kiệt ngày ngày sai tụ tập binh lính, nhóm họp voi ngựa, tập dượt phép chạy và phép xung phong”3. Trong đội quân của Hoàng tử Hoàng Chân chi huy tham gia trận Như Nguyệt có 500 quân đặc biệt, cấm mọi thị dục; dạy cho trận pháp, người nào cũng có một cái kim bài để làm hiệu riêng. Đội quân ấy rất giỏi, hiệu lệnh rất nghiêm. Trong những giai đoạn chuẩn bị cho kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông, không khí học tập binh pháp và luyện tập võ thuật sôi nổi. Các vua Trần, các quý tộc tông thất và nhất là đội ngũ tướng lĩnh trong triều đình ngày đêm học phép hành trận và phá trận, tập cưỡi ngựa và sử dụng cung, kiếm. Nhà nước khuyến khích mở lò luyện võ và cho phép các vương hầu, tông thất đôn đốc luyện tập quân nơi mình trấn trị. Quân lính cũng được rèn luyện kỹ thuật cưỡi ngựa, bắn cung nỏ, múa kiếm, sử dụng lao, giáo và học cách đánh trận.

Hình thức tập trận lớn, thao diễn quân đội được coi trọng và thường do nhà vua hoặc Quốc công tiết chế đích thân chỉ huy. Trước khi bước vào kháng chiến, Trần Quốc Tuấn được lệnh điều thủy, bộ và quân đội các vương hầu đến Đông Bộ Đầu tổ chức các cuộc tổng duyệt binh, sau đó chia quân đi đóng giữ ở những nơi xung yếu ở phía bắc và đông bắc Tổ Quốc. Các thân vương được lệnh thống suất quân đội địa phương nơi mình trấn trị, đôn đốc binh sĩ ngày đêm trau dồi kỹ thuật chiến đấu. Năm 1262, vua Trần Nhân Tông hạ lệnh cho các đạo quân sắm sửa binh khí, đóng thêm thuyền chiến và tổ chức tập trận ở bải phù sa sông Bạch Hạc (Vĩnh Phú). Sau hội nghị “bàn kế đánh phòng” ở Bình Than, các cuộc duyệt binh và diễn tập đã được tổ chức ở Thăng Long và ở những địa bàn chiến lược. Năm 1283, vua Trần Nhân Tông đích thân chỉ huy các vương hầu, tướng lĩnh thao diễn chiến trận. Ngay từ khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai vừa thắng lợi, năm 1286, vua Trần Nhân Tông đã hạ lệnh cho Trần Quốc Tuấn cùng các vương hầu, tông thất và các võ quan “kiểm duyệt quân đội, làm đồ binh khí, đóng thêm chiến thuyền, rồi mở cuộc tập trận”4. Một năm sau, trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh mới, triều đình nhà Trần đã triệu tập các tướng quân, tổ chức diễn tập và triển khai lực lượng phòng vệ, chuẩn bị sẵn sàng đánh tan quân cướp nước. Những sự kiện trên đây chứng tỏ rằng, các vua Trần cũng như các tướng chỉ huy cao cấp trong quân đội không chỉ lo luyện rèn quân sĩ về võ nghệ cho từng người, mà còn thường xuyên tổ chức tập trận lớn, luyện cho các tướng sĩ và quân lính quen với chiến trận và địa hình, biết hiệp đồng chiến đấu giữa các đơn vị, các loại quân; đồng thời cũng để nâng cao sĩ khí quân đội trước khi bước vào cuộc sống mái với quân giặc. Chính nhờ thế mà chất lượng quân đội ngày một nâng cao và cũng nhờ những biện pháp trên mà sự đối phó với giặc cũng chủ động hơn, như trước cuộc kháng chiến lần thứ ba, Trần Quốc Tuấn đã trả lời vua Trần Nhân Tông rằng: “Năm nay đánh giặc nhàn”.

Tổ tiên ta thời Lý - Trần đặc biệt coi trọng giáo dục tướng sĩ và binh lính lòng yêu nước, thương dân, tinh thần đoàn kết chiến đấu, lòng tự hào dân tộc và lòng căng thù giặc. Trần Quốc Tuấn căn dặn: “phải xây quân đội như cha con một nhà thì mới dùng được”. Vua Trần Nhân Tông những khi ngự chơi ngoài hành cung gặp các gia đồng của các vương hầu, thường gọi họ lại thăm hỏi và răn dạy vệ sĩ của mình không được thét đuổi họ; bởi theo nhà vua, ngày thường họ là những người phục dịch bình thường, nhưng khi có chiến tranh họ là những người lính dũng cảm nhất. Các vua Lý - Trần thường tổ chức khao thưởng quân đội, nhất là sau các đợt hành quân hoặc vào những kỳ lễ, Tết. Lý Thường Kiệt có bài thơ Nam quốc sơn hà, Trần Quốc Tuấn có Hịch tướng sĩ, các vua thường ra các chiếu, dụ gửi tướng hiệu và quân sĩ. Tất cả nhằm mục đích động viên, khích lệ lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống và chí căm thù; quyết tâm đánh giặc giữ nước. Vì thế, quân nhà Lý tập kích vào Ung Khâm Liêm “như vào chỗ không người, đánh tan giặc như mặt trời đốt giá”5; nhà Trần có đạo quân “Sát Thát”, quyết sống mái với giặc Nguyên với tinh thần “phá cường tặc báo hoàng ân”, “thề với thần dân dốc lòng báo đền ơn nước”. Các tướng lĩnh thì đồng tâm hiệp lực, vì nước vì vua mà từ bỏ mọi hiềm khích; khi lâm trận thì dũng cảm mưu trí, tự mình xông lên phía trước khiến quân thù phải khiếp phục như Lê Phụ Trần, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản.... Đó là kết quả của xây dựng, rèn luyện tố chất tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội.

Trong lịch sử dân tộc, có những thời kỳ có quân đội đông, vũ khí tốt, thành hào kiên cố, vậy mà nhanh chóng tan rã trước cuộc tiến công xâm lược của quân thù, bởi các nhà lãnh đạo lúc đó chưa quan tâm cố kết nhân tâm, xây dựng khối đoàn kết nội bộ, chưa rèn luyện ý chí chiến đấu xả thân vì nước trong quân sĩ. Hiện tượng này xảy ra ở thời An Dương Vương chống Triệu Đà hay thời Hồ Quý Ly chống giặc Minh. Điều đó chứng tỏ nhân tố chính trị - tinh thần trong quân đội quan trọng đến mức nào. Đúng như lời Nguyễn Trãi: “họ Hồ chính là sự phiền hà” nên “quân nhà Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng” không thể thắng giặc; hoặc như điều mô tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã lo lắng: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng người không theo mà thôi"

Kỷ luật nghiêm, thưởng phạt công minh, cũng là một yêu cầu quan trọng xây dựng quân đội. Thời Lý Thái Tông quy định các quan võ ai bỏ trốn một năm thì phạt 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và bị tội đồ; quân sĩ ai bỏ trốn vào rừng và đồng nội cướp của dân thì xử 100 trượng, thích 30 chữ, ai hối lỗi thì tha cho về tiếp tục làm lính. Khi vua xuất giá mà không theo hầu xe cũng xử 100 trượng, thích 10 chữ. Kẻ nào có công thì được vua úy lạo, ban thưởng cho tiền và lụa theo thứ bậc. Lê Phụng Hiểu có công dẹp “loạn ba vương” và đánh giặc Chiêm Thành được nhà vua ban thưởng và phong cho đất Ái Châu, Lý Bất Nhiễm có công đánh quân Chiêm và Chân Lạp xâm lấn Nghệ An đã được thưởng tước hầu và ăn thực ấp 7500 hộ. Lý Thường Kiệt được phong tước Việt quốc công, ăn thực ấp ở Việt Thường và thực phong 4000 hộ. Sau kháng chiến chống Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông xét công trạng, người trong hoàng tộc thì được tiến phong, người ngoài mà có công to được ban quốc tính (họ nhà vua). Các tướng đều được ban thưởng theo thứ bậc, như Đỗ Khắc Chung được mang họ Trần và làm đại hành khiển, Nguyễn Khoái được gia phong làm liệt hầu, cho quận Khoái Lộ làm thang mộc ấp. Người có công lớn dũng cảm lên trước phá giặc thì được chép vào tập Trung hưng thực lục và sai vẽ tượng. Ngược lại, những kẻ phản bội hàng giặc thì xử tội lưu hoặc tử, điền sản bị tịch thu, đổi thành họ Mai hoặc gọi là Ả Trần vì cho là kẻ hèn nhát. Nhà Trần xử phạt nghiêm khắc đối với quân lính bỏ trốn. Sử chép: “pháp chế đời Trần, người trốn lính bị chặt ngón chân, rồi cho người đó làm gì thì làm, hoặc cho voi giày để giết”6.

Quân đội của tướng Hoàng Chân, Chiêu Văn thời Lý, đạo quân vương hầu của Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, đội quân “phụ tử chi binh” của Phạm Ngũ Lão, v v đều nổi tiếng giữ nghiêm kỷ luật và thiện chiến. Hoàng Chân có 500 quân đặc biệt, võ nghệ cao cường, hiệu lệnh rất nghiêm; khi chiến đấu trên sông Như Nguyệt, bị đắm thuyền ai cũng cầm vững kim bài mà chết không đầu hàng giặc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép về Phạm Ngũ Lão như sau: “ông coi quân có kỷ luật, đối đãi với tướng hiệu như người nhà, cùng quân lính chia ngọt sẻ đắng, cho nên đánh đâu không ai địch nổi. Phàm đánh dẹp lấy được gì đều bỏ vào việc chi dùng cho quân lính, coi của cải như không; là danh tướng giỏi một thời”7. Đó là những nhân tố quan trọng đưa quân đội Đại Việt trở nên tinh nhuệ, có sức chiến đấu cao, có khả năng đánh thắng quân xâm lược.

Trên đây là một số biện pháp mà tổ tiên ta thời Lý - Trần đã vận dụng để nâng cao chất lượng quân đội. Sau những lần gây chiến tranh xâm lược Đại Việt vua Tống Nhân Tông phải công nhận “quân Giao Chỉ mạnh, gan lì liều chết”. Vua Nguyên Hốt Tất Liệt cũng phải dặn Thoát Hoan trước khi đưa quân sang: không được cho Giao Chỉ là nhỏ mọn mà khinh thường”. Thực tế, qua ba lần gây chiến, bộ binh và kỵ binh Nguyên Mông “không thể thi thố được tài năng” trước quân đội nhà Trần. Nhận xét về quân đội Đại Việt, sử gia Phan Huy Chú viết: “quân đội thời Lý Trần nổi tiếng là hùng mạnh”, “cái chiến công dẹp quân Chiêm phá quân Tống, cái oai hùng của hai lần đại phá quân Nguyên, chứng tỏ binh thế hai đời đó mạnh như thế nào”8
_______________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.111.
2. Hịch tướng sĩ, theo Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd; t.II, tr.83.
3. “Tục tự trị thông giám trường biên”; theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. t.II. tr. 58.
5. Văn bia chùa Linh Xứng.
6. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđđ. t. IV, tr.27.
7. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.II. tr.110.
8. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd. t.IV. tr.6.

III. NGỤ BINH Ư NÔNG, TOÀN DÂN LÀ LÍNH

Việc binh là việc cốt yếu của mỗi một quốc gia. Nhà nước nào cũng phải xây dựng quân đội mạnh để phòng bị lúc hòa bình, chiến đấu lúc có giặc. Trong chiến tranh, sức mạnh quân đội được tạo nên trước hết do hai yếu tố số lượng và chất lượng. Ở một đất nước mà hai nhiệm vụ dựng nước và giữ nước luôn luôn gắn liền với nhau thì điều quan trọng là làm sao vừa phải đảm bảo nguồn của cải và sức lực để xây dựng đất nước, không thể duy trì số quân đông nhưng vẫn phải nâng cao chất lượng quân đội, vừa có một lực lượng dự bị hùng hậu đã được rèn luyện tốt sẵn sàng được huy động lúc cần thiết. Tổ tiên ta thời Lý - Trần đã giải quyết vấn đề trên một cánh vô cùng sáng tạo và linh hoạt với chính sách “ngụ binh ư nông”.

Ngụ binh ư nông” là gửi binh ở nông. “Binh” có nghĩa là binh lính, là quân sự, là chiến tranh. “Nông” có nghĩa là nông dân, là nông thôn, là nông nghiệp. Đây là chính sách lớn, một quốc sách về xây dựng lực lượng vũ trang thời bình chuẩn bị cho thời chiến, một phương thức xây dựng lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước. Chính sách ngụ binh ư nông gồm những quy chế về quân biên sổ và quân chia phiên.

Nhà nước tiến hành lập sổ hộ tịch để quản lý nhân đinh. Những đinh nam khỏe mạnh đến tuổi trưởng thành đều có nghĩa vụ quân dịch, được ghi tên vào cuốn sổ bìa vàng mà thời Lý gọi là Sổ hoàng nam, thời Trần gọi là Sổ quân. Hàng năm, chính quyền “chiếu sổ chọn những đinh tráng sung vào quân ngũ” theo yêu cầu, số còn lại ở nhà sản xuất, tham gia dân binh, sẵn sàng nhập ngũ khi cần thiết.

Đối với quân thường trực, nhà nước quy định chế độ “chia phiên”. Khi đất nước không có giặc uy hiếp, thì trừ Cấm quân phải thường xuyên túc trực để bảo vệ kinh đô, bảo vệ vua và triều đình, còn các quân khác như Sương quân và quân các lộ được chia thành nhiều phiên, theo định kỳ một bộ phận thường trực tại ngũ, luyện tập và canh phòng, một bộ phận trở về sản xuất tự túc thời hạn tùy theo từng thời kỳ. Khi có chiến tranh tất cả trở lại quân ngũ theo đơn vị đã định và lệ thuộc vào các tướng.

Xét về mặt xây dựng lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước, việc lập hộ tịch và kiểm kê nhân đinh là một cơ sở để nhà nước định quân hạng. Theo lệ, hằng năm vào mùa xuân, các xã lập sổ hộ xã mình, kê khai số dân chia thành nhiều hạng: tông thất (người họ hàng nhà vua), các quan (gồm quan văn, quan võ và quan theo hầu), quân nhân, tăng đạo, hoàng nam (từ 18 tuổi đến 60 tuổi), long não (người già yếu), bất cụ (người tàn tật), người xiêu tán, v.v... Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Buổi đầu nhà Trần làm sổ hộ cứ hằng năm làm kế tiếp, phép làm rất rõ và kỹ, vì là noi theo phép cũ của nhà Lý nên như vậy”1.

Tất cả đinh nam khỏe mạnh đến tuổi trưởng thành được ghi vào sổ, phân thành hai hạng: hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi) và đại nam (từ 20 tuổi trở lên). Đó là nguồn nhân lực trong các địa phương để huy động sai dịch và quân dịch.

Bằng biện pháp này, nhà nước đã đặt tất cả các đinh tráng vào diện chịu binh dịch và dựa vào đó để tiến hành tuyển quân thời bình, động viên thời chiến. Tuy nhiên, lúc hòa bình, nhà nước chỉ tuyển chọn một số đinh tráng nhất định sung vào quân ngũ, số còn lại vẫn được ghi tên trong sổ hoàng nam hoặc số quân.

Năm 1083, Lý Nhân Tông duyệt hoàng nam, định làm ba bậc, rồi cho tuyển những hoàng nam khỏe mạnh làm lính. Năm 1146, Lý Anh Tông lệnh cho các quan. các quản giáp và chủ đô, khi tuyển quân phải chọn người ở hộ đông người, không lấy con nhà cô độc. Theo Phan Huy Chú, “đại ước người trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn, lâu chóng có lẽ không nhất định”2.

Sang thế kỷ XIII, nhà Trần kế thừa quy chế tuyển lính nhà Lý. Triều đình quy định: “Người có quan tước, con cháu được thừa ấn mới được vào làm quan, người khỏe mạnh mà không có quan tước thì sung quân, đời đời làm lính”3. Tháng 2 năm Bính Ngọ (1246) vua Trần Thái Tông định quân ngũ, chọn người khỏe mạnh làm Cấm quân. Tháng 2-1261, Trần Thánh Tông cho chọn dân đinh khỏe mạnh ở các lộ sung làm lính triều đình, thứ đến sung làm quân sắc dịch ở các sảnh viện và quân ở các lộ... Theo sách An Nam chí lược: “Việc lấy quân không có số nhất định; chỉ chọn dân đinh nào khỏe mạnh thì lấy”4.

Theo quy chế thời Lý, trong quân thường trực, trừ Cấm quân phải thường xuyên túc trực bảo vệ kinh thành và được cấp lương, còn các loại quân khác như lính canh gác các cổng thành, quân tạp dịch và quân các lộ đều thay phiên tái ngũ hay về sản xuất. Trong sách Việt sử tiêu án, sau khi dẫn sự kiện vua Lý Thánh Tông định quân hiệu, Ngô Thì Sỹ viết: “Chế độ binh lính của nhà Lý... mỗi tháng lên cơ ngũ một lần gọi là đi canh, hết hạn canh lại về làm ruộng, quân không phải cấp lương... không có phí tổn nuôi lính mà có công hiệu dùng sức lính: cũng là một chế độ hay”5. Ông lại viết trong sách Đại Việt sử ký như sau: “Binh chế buổi đầu nhà Lý… Lấy Thân quân làm trọng gọi là Cấm quân... Ngoài ra có 9 quân như Sương quân, để sai khiến mọi việc; mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày cấy, làm công nghệ tự cấp, không được cấp lương. Khi chinh phạt sẽ được gọi ra cho lệ thuộc vào các tướng. Nếu quân này không đủ thì chiếu sổ gọi ra tòng ngũ. Xong việc lại cho về làm ruộng... Điều cốt yếu của việc kháng Tống bình Chiêm, chinh phạt thắng lợi là do từ binh chế này. Nuôi binh không tốn kém, dụng binh có hiệu quả, đó cũng là chế độ hay của một đời”6. Khi nghiên cứu về binh chế thời Lý, Phan Huy Chú viết: “Đời Lý, Cấm quân mỗi năm cấp 10 bó lúa, mồng 7 tháng Giêng, khai hạ, cấp mỗi người ba tiền và vải một tấm... Còn ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp”7.

Nhà Trần tiếp tục duy trì chế độ chia phiên cho quân lính về làm ruộng như thời Lý. Sách Lịch triều hiến chương loại chí cho rằng: “Nhà Trần theo phép nhà Lý, binh túc vệ đều cấp bổng hàng năm, số bổng bao nhiêu không rõ. Còn binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương”8. Các sử thần thời Lê có ghi lại câu hát trong trò múa rối đời Trần Thái Tông: “Chóng đến ngày mồng 1 thay phiên”9. Chắc đó là ngày thay phiên hàng tháng của quân lính.

Những sử liệu trên phản ánh dưới thời Lý Trần với chính sách “ngụ binh ư nông”, nhà nước đã có quy chế cho một bộ phận quân thường trực được phép thay nhau về tại ngũ hay về nhà sản xuất. Người tại ngũ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, kẻ về nhà làm ruộng, hết tháng lại đổi phiên, gọi là “đi phiên” hoặc “thay phiên”.

Chính sách “ngụ binh ư nông” là một quốc sách nhằm giải quyết nhiệm vụ xây dựng đất nước và củng cố lực lượng quân sự, kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng, đã đưa lại một hiệu lực quốc phòng mạnh mẽ. Có thể rút ra những hiệu quả của nó như sau:

- Quản lý tốt nhân đinh: tất cả đinh nam từ 18 tuổi trở lên, khỏe mạnh, đều được ghi tên trong sổ, đều phải thi hành nghĩa vụ binh dịch.

- Các đinh tráng đều được huấn luyện quân sự, hiểu biết những kiến thức tối thiểu về võ nghệ. Phát huy truyền thống thượng võ của người Việt.

- Thời bình, một bộ phận nhất định thường trực tại ngũ, còn phần lớn đinh tráng là quân dự bị, khi cần có thể huy động ngay và ai nấy đều đã biết rõ quân ngũ của mình.

- Thay phiên về làm ruộng, thực hiện bình đẳng về nghĩa vụ quân dịch, lại giảm bớt được chi phí quốc phòng, thực hiện cân đối giữa lực lượng sản xuất và lực lượng quân sự. Sản xuất nông nghiệp và công nghệ được bảo đảm, sức lao động không bị thiếu, lại bảo đảm bình thường hóa sinh hoạt vợ chồng, sinh hoạt của những gia đình tiểu nông - tế bào của xã hội.

Cùng với việc thực hiện một ngạch quân nhiều thành phần, chính sách “ngụ binh ư nông” đã giúp nhà nước đảm bảo cân đổi giữa quân thường trực và quân dự bị; khi hòa bình vẫn đủ sức canh phòng, thời chiến huy động được đông đảo quân đội, thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân là lính.

Bình thường nhà Lý có 3 đến 5 vạn quân, một bộ phận được luân phiên về sản xuất nhưng khi chiến tranh, nhà nước đã huy động được trên 10 vạn. Thời nhà Trần lúc hòa bình như Phan Huy Chú nói “quân số chưa đầy 10 vạn”, nhưng trong kháng chiến chống Nguyên Mông đã có lúc triều đình đã huy động được 20-30 vạn quân đánh giặc. “Đại để lúc vô sự thì phục binh ở nơi thuận tiện, khi có nạn thì đều hết sức chống cự. Thế là đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh”10. “Đó là chính sách tốt, chế độ hay của thời cận cổ”. Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú hoặc Ngô Thì Sỹ đều có nhận xét rằng: “binh thế Đại Việt rất thịnh”; “lúc nông nhàn thì luyện tập, lúc vô sự thì làm ruộng, khi có động thì chiêu sổ gọi ra”, cho nên “binh vẫn đủ mà không phải chi phí nhiều, càng thêm hăng hái chống giặc, “thế nước càng thêm vững mạnh là nhờ vậy”.

Tóm lại, tổ tiên ta thời Lý - Trần đã luôn luôn coi “việc quân là việc thiết yếu của quốc gia”, “quân đội là thiết bị giữ nước không thể thiếu được”11.  Xây dựng quân đội là nhiệm vụ thường xuyên của triều đình, của quốc gia và được nhà vua coi trọng. Nhà Lý và nhà Trần đều chăm lo xây dựng quân đội có số lượng hợp lý nhưng tinh nhuệ, có lực lượng dự bị đông đảo..., coi đó là một trong những kế sách giữ nước quan trọng của nhà nước. Kế sách đó đã được thực hiện ngay từ khi còn hòa bình, đúng như lời của Trần Quang Khải: Thái Bình mà gắng sức thì non nước giữ được nghìn thu.
__________________________________________
1, 2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, t.IV, tr. 49, 16.
3. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tập II, tr. 9.
4. An Nam chí lược. Sđd, tr. 177.
5. Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án, Sđd, tr. 127.
6. Ngô Thì Sỹ: Đại Việt sử ký, Sđd
7, 8. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t. IV, tr.20.
9. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập II. Tr. 44.
10, 11. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđđ, t. IV. Tr. 5, 3

CHƯƠNG V

KHOAN THƯ SỨC DÂN - THƯỢNG SÁCH GIỮ NƯỚC


Dựa vào dân, động viên toàn dân tham gia đánh giặc giữ nước là một ưu điểm nổi bật của các vương triều Lý và Trần.

Trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với các thế lực ngoại xâm lớn mạnh hơn bội phần, tồ tiên ta không chỉ dựa vào sức mạnh của nhà nước, của quân đội mà phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của cả nước. Vậy làm sao để động viên được đông đảo nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước, làm sao thực hiện được “toàn dân vi binh”, “cử quốc nghênh địch”? Bí quyết thành công của triều đại Lý - Trần là “dựa vào dân” và chính sách “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”.

Khoan thư sức dân” đã trở thành một quốc sách, một kế sách giữ nước quan trọng của nhà nước Đại Việt.

I. QUAN ĐIỂM VỀ DÂN THỜI LÝ - TRẦN

Trong lịch sử, dù ở thời kỳ nào, triều đại nào, dù đối với một thể chế chính trị nào, vai trò của nhân dân vẫn là quyết định. Vì vậy, giai cấp thống trị bao giờ cũng tìm mọi cách khai thác nguồn sức mạnh này để phục vụ quyền lợi của mình.

Các nhà tư tưởng phong kiến đã sớm nêu lên những quan điểm về dân trong các tác phẩm kinh điển của họ. Khổng Tử nói: “Dân vi bang bản” (dân là gốc của nước). Mạnh Tử cho rằng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, (dân là quý, thứ đến là quốc gia, còn vua thì xem nhẹ). Lý tưởng “thân dân” được coi như một nguyên lý tiến bộ của Nho giáo khởi thủy. Trong thiên “Thái tuệ” của sách Kinh thư có câu: “dân chi sở dục, thiên tất tòng chi” (cái mà dân muốn tức trời muốn), hoặc trong sách Đại học: “Tại minh minh đức, thân dân, chi ư chí thiện” (điều chí thiện là ở chỗ đức sáng, thân dân), v.v…

Ở nước ta, tư tưởng “dân”, “dựa vào dân” đã từng có trong lịch sử lâu đời, nó xuất phát từ truyền thống gắn bó giữa thủ lĩnh và quần chúng, từ nền móng của những quan hệ cộng đồng công xã xa xưa. Đến thời Lý - Trần, quan điểm thân dân của các vua và giới quý tộc được phát triển bởi sự kết hợp giữa truyền thống lịch sử đó với tinh thần từ bi, bác ái, nhân từ của Phật giáo và tư tưởng “dân” tiến bộ của Nho giáo.

Những đại biểu về tư tưởng của các tập đoàn phong kiến đương quyền ở nước ta thời Lý - Trần thường coi “ý dân”, “lòng dân”, việc “khoan thư sức dân” là điều đáng quan tâm bậc nhất trong sự nghiệp chính trị. Đối với họ, “lòng dân” cùng với “ý trời” là cơ sở đề thiết lập vương quyền; hoặc là căn cứ của những chính sách lớn, những hoạt động chính trị của triều đình như việc dời đô; kế vị ngôi báu, phát động chiến tranh, v.v..

Trong xã hội phong kiến nói chung và thời Lý - Trần nói riêng, sự thay đổi một triều đại hay sự thay đổi ngôi vua thường được giải thích theo ý nghĩa đó.

Sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi thiên tử thay thế vị trí của Ngọa triều hoàng đế được coi là “thuận lẽ trời, hợp lòng dân”. Đào Cam Mộc, một đại thần trong triều đã nói với Công Uẩn rằng: “Thân vệ sao chẳng nhân lúc này, theo dấu Thang Võ ngày xưa, noi gương Dương Lê mới rồi, trên thuận lòng trời, dưới thuận dân mong mà cứ khư khư giữ cái tiểu tiết hay sao?”. Nay trăm họ mỏi mệt, dân không chịu nổi mệnh lệnh. Nếu Thân vệ lấy ân đức mà vỗ về, tất trăm họ sẽ vui vẻ mà nghe theo, cũng như nước chảy chỗ trũng, ai mà ngăn chặn được”1. Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) trong “Chiếu dời đô” đã khẳng định: “Trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân, thấy tiện lợi thì đổi dời vận nước lâu dài phong tục giàu thịnh"2. Những cuộc hành quân chinh phạt, những cuộc thanh trừng nội bộ thường được các nhà vua hoặc giới quý tộc lấy nguyên nhân “lòng dân” làm chỗ dựa. Chẳng hạn, cuối thời Lý, Trần Tự Khánh đã tiến hành một đợt thanh trừng lớn để chuẩn bị lực lượng cho thế lực họ Trần đã nói với vua Lý Huệ Tông rằng: “Thần thấy bọn tiểu nhân ở bên cạnh bệ hạ lấn át người trung lương, bưng tai bịt mắt bệ hạ; dân tình uất ức không thấu được lên trên, cho nên nhân lòng giận dữ của người trong nước, thần khởi binh dẹp lũ đó, cắt trừ gốc họa để yên lòng dân mà thôi”3. Như vậy yếu tố “dân” đã được các thế lực chính tựi lợi dụng.

Đối với nhà vua “ý trời lòng dân” trở thành lý do, định vị, tuy nhiên một khi đã lên ngôi thì quyền lực của nhà vua là toàn năng và tối thượng, vua lại được coi là “Thiên tử” (con trời) “thế thiên hành đạo” (thay trời cai trị) và là cha mẹ của muôn dân. Lý Thái Tông thì yêu dân như con; Lý Thánh Tông đã từng nói: “Ta yêu con ta như lòng ta làm cha mẹ dân”. Vua Trần Anh Tông có lần khẳng định: “Trẫm là cha mẹ dân, nếu thấy dân lầm than thì phải cứu giúp ngay, há nên so đo khó dễ lợi hại”4. Trong “Lộ bố văn”, Lý Thường Kiệt khẳng định: “Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”5. Như vậy, với quan niệm lúc đó, vua tuy là tối thượng nhưng lại có quan hệ và trách nhiệm của mình đối với dân chúng. Có khi nhà vua coi đó là một tiêu chuẩn chính trị để tự răn mình. Năm 1207, Lý Cao Tông đã hạ chiếu rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây oán với kẻ dưới. Dân dã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai; nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới”6. Các nhà vua thường tự coi mình là trung tâm cố kết của cộng đồng quốc gia, dân tộc, là người che chở trực tiếp của muôn dân. Điều đó đã trở thành lý thuyết của các bậc vua quan phong kiến.

Trên thực tế. sự tham gia của nhân dân vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước càng khẳng định lòng tin của giới quý tộc về vai trò quyết định của dân chúng. Nhân dân được coi là cơ sở để tiến hành các cuộc chiến tranh giữ nước. Chính vì lẽ đó mà Trần Quốc Tuấn đã đề nghị vua Trần Nhân Tông nên thực hiện “chúng chí thành thành”, xây bức thành kiên cố bằng ý chí của nhân dân, và ông đã tổng kết kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc, rằng: “ ... Đến đời Đinh - Lê dùng được người hiền lương đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi sung yếu, trên dưới cùng lòng, lòng dân không chia, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống đó là một thì... mới rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi cùng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc tự bị bắt... Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước”7. Như vậy là, Trần Quốc Tuấn- nhà chính trị, quân sự nổi tiếng thế kỷ XIII, người anh hùng vĩ đại của dân tộc, người có công lao lớn nhất trong cả ba lần kháng chiến chống Nguyên - Mông đã nhận thức một cách sâu sắc vai trò của nhân dân đối với công cuộc giữ nước. Ông luôn khẳng định rằng cố kết lòng dân là bức thành trì kiên cố nhất, việc tăng cường sức dân, tranh thủ sự đồng lòng của nhân dân là “kế sâu rễ bền gốc” là điều kiện tiên quyết để chiến thắng quân thù, giữ gìn độc lập.

Vai trò quyết định của nhân dân đối với sự sống còn của một dân tộc là một chân lý mà những người có đầu óc sáng suốt đương thời không thể thấy được. Và cũng chính vì thế mà các quý tộc quan lại thời Lý - Trần đều vững lòng tin vào sự nghiệp đánh giặc mỗi khi phát động được toàn dân tham gia. Trước sự hăm dọa láo xược của vua Nguyên rằng, sẽ tiếp tục một lần nữa tiến công đập nát thành Thăng Long, sứ thần Đại Việt lúc đó là Đào Tử Kỳ đã hiên ngang nói: “Thành Thăng Long kia chỉ là vật nhỏ mọn đề phòng kẻ trộm cướp vặt, phá tan nó có khó gì. Còn như để chống lại kẻ thù từ bên ngoài đến chực ăn cướp nước chúng tôi thì chúng tôi đã có một tòa thành vững vàng như núi không kẻ nào phá được, đó là sức mạnh của nhân dân chúng tôi”8.

Như vậy là, trên vũ đài tư tưởng thời Lý - Trần, nhân dân được nhìn nhận như một lực lượng xã hội quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Quan điểm “dân” thời bấy giờ chứa đựng nhiều yếu tố tích cực, tiến bộ. Và chính nhờ những yếu tố tích cực đó mà nhà nước Lý - Trần đã thu được những thành quả lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, quan điểm và chính sách thân dân ấy dẫu có tiến bộ cũng không ngoài khuôn khổ ý thức hệ phong kiến.

Dẫu sao tác dụng quan trọng của những quan điểm tư tưởng hay những chính sách thân dân thời Lý - Trần vẫn là điều chủ yếu. Nó đem lại sự hòa hoãn mâu thuẫn giai cấp vốn tồn tại thường xuyên trong xã hội phong kiến. Đặc biệt trong giai đoạn mà chế độ phong kiến đang hình thành và phát triển như thời Lý - Trần, khi mà quyền lợi của giới quý tộc còn gắn liền với quyền lợi của toàn dân tộc, từ những quan điểm “dân” tiến bộ đó có tác dụng củng cố khối đoàn kết chung nhằm ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa làm cho nước nhà giàu thịnh và để đất nước tăng thêm thế mạnh, có đủ sức đánh thắng ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc.

Tóm lại, những nhà lãnh đạo đất nước nói riêng cũng như giới quý tộc ở giai đoạn phát triển thời Lý - Trần đã có những quan điểm tư tưởng tiến bộ về dân, nhận thức đúng và đánh giá cao vai trò của sức dân trong sự nghiệp chung của cả nước. Vì thế, nhà nước Đại Việt thời Lý - Trần đã thực hiện những chính sách “khoan thư sức dân” nhằm động viên nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước hòa bình và đánh giặc lúc có chiến tranh.
_________________________________________
1. Việt sử lược, sđd, tr.66, 68.
2. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, t.II, tr. 64.
3, 5. Việt sử lược, sđd, tr. 198, 174.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, t.II, tr. 134.
6. Thơ văn Lý - Trần. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội: 1977. t. 1, tr.320.
7. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd: t.II, tr. 88.
8. “Long thành giật sử” - Dẫn theo Phạm Ngọc Phụng: Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb Quân giải phóng, Sài Gòn, 1975, tr. 175.

II. NHỮNG CHÍNH SÁCH “DĨ DÂN VI BẢN”, “KHOAN THƯ SỨC DÂN” THỜI LÝ - TRẦN

Quan điểm thân dân của nhà nước và giới quý tộc thời Lý - Trần không dừng lại trên lý thuyết mà nó đã được thể hiện trên thực tiễn trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước.

Ở nước ta thời phong kiến, đặc biệt từ thời Lý - Trần, kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Mặc dù đã xuất hiện một số đô thị, những trung tâm thương mại lớn, song hấu hết cư dân vẫn sống ở các làng xã. Trong cấu trúc xã hội thời đó, hệ thống cộng đồng các làng xã đã đóng một vai trò rất quan trọng. Có thể coi đây là những tế bào cơ sở nuôi dưỡng cả cơ thể dân tộc, đã được phát huy cao độ trong những dịp thử thách, trở thành lực lượng quan trọng đánh tan giặc ngoài. Nông nghiệp, nông thôn và nông dân vì thế được coi là những nhân tố cơ bản, chủ yếu trong đời sống xã hội. Dân giàu nước mạnh lúc đó vẫn dựa trên cơ sở nông nghiệp phát triển, mùa màng phong đăng, lương thực nhiều, cuộc sống nhân dân no đủ. Vì vậy, để động viên được nhiều nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, để có được sức mạnh “cả nước góp sức”, các triều đại phong kiến đều phải dựa vào nông thôn và nông dân. Thực hiện điều đó, triều Lý và triều Trần đã chăm lo sức dân, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân bằng nhiều biện pháp, trước hết là tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp phát triển, coi “việc nông là gốc rễ của nước nhà”.

Để tỏ rõ sự quan tâm với việc nông trang, triều đình Lý - Trần đã vận dụng các hình thức như: ra chiếu khuyến nông, nhà vua thân cày ruộng tịch điền, đi xem gặt hay tổ chức tế lễ thần nông. Năm 1056, trong chiếu, vua Lý Thánh Tông khẳng định: “Việc nông là việc trọng đại của nước nhà”, vua động viên nhắc nhở nông dân phải chăm lo việc cấy trồng, không để lỡ thời vụ. Sử gia Ngô Sĩ Liên có lời bình về sự kiện Lý Thái Tông về Bố Hải Khẩu sai đắp đàn, làm lễ tế thần nông và tự cầm cày khởi đầu nông vụ rằng: “Thái Tông làm lại lễ cổ, thân cày ruộng tịch điền xướng suất thiên hạ, trên để cúng tông miếu, dưới để nuôi muôn dân. Công hiệu trị vì khiến cho của giàu người nhiều là đúng lắm”1. Việc làm có ý nghĩa nêu gương và khích lệ, tỏ rõ sự quan tâm của nhà vua và triều đình đối với nghề nông trên đây được khởi đầu từ năm 987, khi vua Lê (Lê Hoàn) tổ chức lễ cày tịch điền ở Đại Sơn và được các vua đời sau như Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Trần Minh Tông... tiếp tục thực hiện.

Vua Lý và vua Trần đều có những biện pháp tích cực và kiên quyết ngăn chặn nạn giết trộm trâu bò, nhằm bảo vệ sức kéo nông nghiệp.

Đặc biệt nhà nước Lý - Trần rất quan tâm đến khai hoang mở rộng diện tích canh tác, đắp đê phòng lụt, khắc phục tình trạng dân xiêu tán nhằm ồn định dân cư phát triển nông nghiệp, củng cố cơ sở vật chất và cơ sở xã hội cho chính quyền phong kiến, đồng thời có tác dụng nâng cao đời sống dân sinh, làm cho dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường (xem mục Phát triển nông nghiệp ở chương II). Sử gia Ngô Thì Sỹ có nhận xét: “Đại để, chính sự triều Lý cốt chăm nghề nông, làm cho nước nhà giàu có”. Còn bia chùa Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn ca ngợi công đức của Lý Thường Kiệt như sau: “... Thái úy làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Thái úy biết lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng cả đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được an thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc của nước, cái thuật yên dân; sự tốt đẹp đều ở đấy cả”2.

Về mặt kinh tế, cùng với việc mở mang nông nghiệp, chính sách “khoan thư sức dân” còn biểu hiện trên lĩnh vực địa tô và thuế khóa. Nhà nước Lý - Trần thường vận dụng một chế độ thuế khóa không quá nặng nề. Mức tô thuế của nhà nước hay của quý tộc tông thất được ban cấp ruộng đất đối với nông dân thường mỗi mẫu 100 thăng thóc. Nếu so với tô ruộng quốc khố do tội nhân cày cấy mỗi mẫu ruộng hạng nhất nộp 680 thăng, hạng nhì 400 thăng hay hạng ba 100 thăng... thì mức thuế nói trên là nhẹ. Triều Trần còn quy định, ai có ruộng đất nếu là 1-2 mẫu thì nộp 1 quan, nếu là 3-4 mẫu nộp 2 quan; 5 mẫu trở lên nộp 3 quan tiền. Bài minh trên chuông Thông Thánh Quán ở Bạch Hạc (Vĩnh Phú) thời Trần ghi lại công đức của trưởng công chúa Thiên Chân (con Trần Anh Tông) được phong thang mộc ấp ở Bạch Hạc rằng: "công chúa thu thuế nhẹ, giảm lao dịch, giúp người nghèo khổ, yêu kẻ cô quả, sinh linh cả một hương không ai không bái tạ”3. Thần tích Trần Nhật Hạo thì ghi: “Tướng quốc thu thuế nhẹ nhân dân đều cảm phục, biết ơn”.

Chế độ thuế khóa nói trên đã tạo nên một không khí chính trị lành mạnh, góp phần hòa hoãn mâu thuẫn xã hội, tạo điều kiện cho chính quyền phong kiến huy động nhân lực, vật lực cho công cuộc dựng nước và giữ nước. Lý Thái Tông có quan điểm rằng: “Nếu nhân dân đã no đủ thì trẫm còn thiếu với ai?”. Vì thế đã ra lệnh xá thuế. Một ưu điểm của nhà Trần là luôn biết động viên nhân dân không phải chỉ trong thời kỳ đất nước có chiến tranh mà cả trong thời bình và ngay từ khi chiến tranh vừa kết thúc. Sau khi chiến thắng quân xâm lược Nguyên, vua Trần Nhân Tông định xây lại thành Thăng Long cho nguy nga lộng lẫy, Trần Quốc Tuấn đã can vua và nói rằng: “Việc sửa chữa thành không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay không chậm trễ được là úy lao nhân dân. Hơn bốn năm qua, giặc sang đánh phá; từ nơi rừng núi đến ruộng đồng bị tàn phá hầu hết. Vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài xuất lực, đi lính đóng thuế, làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống nhau với giặc. Nay nhà vua trở về yên ổn việc phải làm trước hết là phải chú ý ngay đến những nơi nào bị tàn phá. Tùy tình hình nặng nhẹ mà cứu tế, những nơi bị tàn phá nặng có thể miễn thuế trong mấy năm, có như thế nhân dân mới nức lòng, càng quy hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa nói “chúng chí thành thành” ý chí của quần chúng là bức thành kiên cố, đó mới là cái cần sửa chữa ngay. Xin nhà vua xét kỹ”4. Vua Trần Nhân Tông cho là phải, đã tạm đình chỉ xây thành Thăng Long và ra lệnh miễn tô thuế cho dân trong ba năm.
__________________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, t.I, tr.214
2. Thơ văn Lý - Trần, sđd, xem phần “Văn bia chùa Linh Xứng”.
3. Theo Bạch Hạc Thông Thánh Quán bi ký .
4. “Long thành dật sử”, dẫn theo Phạm Ngọc Phụng: Tổ tiên ta đánh giặc. Nxb Quân Giải phóng, Sài Gòn, 1975, tr. 295.

Nói đến “khoan thư sức dân”, bên cạnh việc dè dặt huy động thuế khóa còn phải kể đến chính sách xã hội, biểu thị sự quan tâm đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp lao động mà sử chép là dân nghèo.

Trước hết dân nghèo ở đây nhằm chỉ một bộ phận khá đông đảo trong xã hội nông nghiệp. Họ được quyền sử dụng phần ruộng công của nhà nước giao cho làng xã quản lý, hoặc có thể có chút ít ruộng tư, nhưng không đủ sống phải bán sức lao động cho người khác (vương hầu, quý tộc, người giàu có...). Họ chưa phải là nô tỳ nhưng rất dễ rơi vào thân phận nô tỳ khi mất mùa, đói kém, công nợ. Họ là sản phẩm của quá trình phân hóa xã hội, đồng thời là nạn nhân của mọi bất công xã hội. Nhưng chính họ là lực lượng nòng cốt trong lao động dựng nước cũng như trong chiến đấu giữ nước.

Qua một số thông tin từ biên niên sử, ta biết nhà nước Lý - Trần rất có ý thức ngăn chặn, không để họ bị rơi vào thân phận nô tỳ bằng hai biện pháp: cứu trợ xã hội và ngăn cấm bán hoàng nam.

Về cứu trợ xã hội, ta gặp rất nhiều dịp nhà vua “đại xá” như khi vua mới lên ngôi, sinh hoàng tử, khánh thành chùa quán, thắng giặc, mất mùa đói kém... và thường với một diện rất rộng “cả thiên hạ”. Điều đó có nghĩa không chỉ dân nghèo, mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân đều được hưởng xá thuế tô, xá nợ, xá tội. v.v.. Tất nhiên trong cái “thiên hạ” bao la này, dân nghèo chiếm đa số. Sau đây là một số trường hợp đại xá, cứu tế xã hội mà đối tượng dân nghèo được nhấn mạnh1:

- Năm 1010, khánh thành cung Thúy Hoa, vua Lý Thái Tổ đại xá cho thiên hạ trong 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha cả

- Năm 1070, đời Lý Thánh Tông, đại hạn, phát thóc và tiền, lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo.

- Năm 1103, thời Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan phát tiền ở kho nội phủ để chuộc những người con gái nhà nghèo phải bán mình đi ở đợ, đem gả cho người góa vợ.

- Năm 1200, đời Lý Cao Tông, gặp đói to, phát thóc chẩn cấp cho dân nghèo.

- Năm 1242, Trần Thái Tông miễn thuế thân đánh cho người không có ruộng đất, hạn hán, miễn một nửa tô ruộng.

- Năm 1288, Trần Nhân Tông, sau thắng Nguyên lần thứ ba, đại xá thiên hạ, những nơi bị binh hỏa cướp phá nhiều, thì miễn toàn phần tô, dịch, các nơi khác thì miễn giảm theo mức độ khác nhau.

- Năm 1290, đời Trần Anh Tông, gặp đói to, nhiều người bán ruộng, đất, con trai, con gái làm nô tỳ, xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo, miễn thuế nhân đinh.

- Năm 1303, Thượng hoàng Nhân Tông mở hội Vô lượng phép (một hình thức sinh hoạt của Phật giáo) bố thí vàng bạc tiền, lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước.

- Năm 1343 đời Trần Dụ Tông, hạn hán, xuống chiếu giảm một nửa thuế nhân đinh.

- Năm 1354 đời Trần Dụ Tông, sâu cắn lúa, giảm một nửa tô ruộng.

- Năm 1358, đời Trần Dụ Tông, hạn hán, sâu cắn lúa xuống chiếu khuyến khích nhà giàu ở các bộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo

- Năm 1362, đời Trần Dụ Tông, đói to, xuống chiếu cho nhà giàu dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo, bàn tính theo thứ bậc khác nhau.

- Năm 1375, đời Trần Duệ Tông, xuống chiếu cho những người giàu ở các lộ đem dâng thóc, được ban tước theo thứ bậc khác nhau.

Qua sử sách ghi chép, ta biết nhà nước thời Lý - Trần trong khoan thư sức dân nói chung có đặc biệt quan tâm cứu trợ xã hội cho dân nghèo bằng một trong ba biện pháp:

1. Tha tô, thuế (toàn phần hoặc một nửa) cả năm, nhiều nhất là ba năm.

2. Phát tiền, thóc, vải trong kho để chẩn cấp.

3. Khuyến khích nhà giàu dâng thóc lúa hỗ trợ nhà nước thực hiện việc chẩn cấp khi cần thiết.

Vào thời Lý - Trần, sự xuất hiện ngày càng đông tầng lớp sở hữu lớn về ruộng đất các loại (vương hầu, tông thất, quý tộc quan lại, người giàu không quan tước), tất nhiên dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội, tầng lớp dân nghèo khá phổ biến. Nhưng chính họ lại là nguồn nhân lực chính trong lao động sản xuất, binh dịch, phu phen. Vì vậy, nhà nước có ý thức “khoan thư”, “cứu trợ” nhằm ngăn chặn nạn nghèo đói dẫn đến dân nghèo phải bán mình làm nô tỳ. Một khi trở thành nô tỳ (bộ phận tư nô) họ tuột khỏi sự huy động của nhà nước, trở thành sở hữu của chủ, thuộc quyền sai khiến của chủ. Ngay từ buổi đầu triều Lý, vào năm 1043, vua Lý Thái Tông đã xuống chiếu cấm bán hoàng nam trong dân làm gia nô, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích 20 chữ vào mặt, chưa bán mà đã làm việc cho người ta thì cũng đánh 100 trượng, thích 10 chữ, người biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc2. Năm 1292, thời Trần Nhân Tông, trước nạn đói kém nghiêm trọng vào các năm 1290, 1291, dân nghèo phải bán mình làm nô tỳ, nhà vua hạ chiếu những người dân lương thiện làm nô tỳ phải cho chuộc lại3. Hậu quả của nạn đói, dân phải bán ruộng, bán mình đã diễn ra khá nghiêm trọng, cho nên vào năm 1299, vua Trần Anh Tông còn xuống chiếu nhắc lại việc cho chuộc đó4.

Thời Lý - Trần, nhà nước đã tạo điều kiện cho ruộng tư phát triển. Tuy nhiên, về cơ bản ruộng đất ở nông thôn vẫn là ruộng đất công của làng, xã do các công xã nông nghiệp quản lý. Chế độ công điền, công thổ vẫn tồn tại phổ biến. Xét về góc độ thuần túy kinh tế thì chế độ sở hữu đó là sự trì trệ lịch sử ở phương Đông so với phương Tây phong kiến. Nhưng xét trên yêu câu khoan thư sức dân để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và tăng cường khối đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước thì duy trì ruộng đất công, việc các công xã phân chia ruộng đất cho nông dân cày cấy theo mức tô thuế và lao dịch vừa phải là một điếu cần thiết, một chính sự tốt của một giai đoạn lịch sử.
__________________________________________
1. Dẫn theo Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, sđd.
2. Đại Việt sử ký toàn thư; sđd, t. I, tr. 273.
3, 4. Đại Việt sử ký toàn thư; sđd, t. II, tr. 66, 76.


Chế độ phong kiến thời Lý - Trần là chế độ phong kiến tập quyền theo thể chế quân chủ. Tuy khuynh hướng chuyên chế ít nhiều đã xuất hiện, nhưng nhìn chung các vương triều lúc tiến bộ đều tìm cách thực hiện chính sách “thân dân”, “khoan thư sức dân” về mặt chính trị.

Với tinh thần ấy, năm 1052, Lý Thái Tông cho đúc chuông lớn đặt ở Long Trì để dân “Ai có oan ức không bày tỏ được thì đánh chuông ấy để tâu lên”1. Năm 1158, Lý Thần Tông lại cho đặt hòm đống ở giữa sân chầu để ai cần nói việc riêng thì bỏ thư vào đó. Những hình thức nới rộng dân chủ như vậy đã có tác dụng tạo ra một không khi hòa dịu trong xã hội. Vua Lý Thái Tổ còn dựng cung Long Đức ở ngoài hoàng thành, trong khu vực phố phường đông đúc cho Thái tử Phật Mã ở để có điều kiện “gần dân và xem xét việc dân”, “hiểu biết thêm những chuyện dân gian”. Vì thế đến khi hoàng Thái tử nối ngôi (tức Lý Thái Tông) đã kế thừa được đức tính “khoan từ nhân thứ và thương dân” của vua cha, thường đi kinh lý bốn phương, biết được nỗi khổ của dân chúng. Sử chép: Năm 1028, Lý Thái Tông thân đi đánh dẹp ở Trường Yên. Vua lệnh: ai dám cướp bóc của dân thì chém. Quân sĩ đều nghiêm lệnh, không xâm phạm mảy may. Đại quân vào thành, dân chúng tranh nhau dâng trâu rượu đầy đường2. Lý Thái Tổ là bậc minh quân, có công đức lớn với dân với nước. Cho nên sử thần Ngô Sĩ Liên đã có lời bình rằng: “Lý Tổ (Lý Thái Tồ) dấy lên, tự trời báo điềm tốt... có đức tốt có ngôi tốt, bởi vì lòng dân quy phụ. Ngọa triều hoang dâm bạo ngược mà Lý Tổ thì nổi tiếng khoan nhân, trời tìm người làm chủ dân, dân theo về người có đức, trừ Lý Tổ ra còn ai hơn nữa”3.

Chế độ phong kiến quân chủ tập quyền thời Lý - Trần còn ở giai đoạn trẻ trung nên khoảng cách giữa “Thiến tử” và “thần dân”, giữa vua và tôi, giữa quý tộc và bình dân chưa lớn lắm. Các vua Lý, vua Trần chưa phải là “những kẻ chuyên chính náu mình trong cung điện”, vẫn giữ được mối liên hệ nhất định với cộng đồng, với dân chúng.

Nhà vua và những người cầm quyền trong triều nhiều khi đã tỏ ra thông cảm với nỗi khổ đau, cực nhọc của thường dân. Tháng 10-1055, vua Lý Thánh Tông nhân lúc tiết trời giá lạnh mà cảm thương đến cả “những kẻ bị giam trong ngục xiềng khổ sở”. Vua nói với quần thần: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu mà còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, ăn lại không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát cơm”4. Cũng như vua Thái Tông trước đây, vua Lý Thánh Tông còn ra lệnh cấm quan coi ngục không được sai người tù làm việc riêng cho mình, ai phạm thì xử 80 trượng, thích chữ vào mặt và đày đi xa. Một lần nhà vua ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa bảo ngục lại (quan coi ngục) rằng: “Ta yêu con ta, như lòng ta làm cha mẹ dân; nhân dân không biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm thương. Từ nay về sau, không cứ tội nặng hay nhẹ, đều nhất luật khoan giảm”5... Như trên mà xét thì Lý Thánh Tông quả là một vị vua anh minh, nhân hậu. Các sứ thần nhà Lê đã chép về vua Thánh Tông như sau: vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về người xa, yên ủi người gần..., sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh. Có thể gọi là bậc vua tốt”6.

Những cử chỉ “gần dân” để “hiểu dân” thấy xuất hiện nhiều trong lịch sửthời bấy giờ. Các nhà vua thường tự thân mình hay phái các quan đại thần đi kinh lý ở vùng xa để hiểu dân và biết rõ tình hình đất nước. Lý Thường Kiệt thường nhiều lần được cử đến các vùng đất xa ở phía nam Tổ quốc. Vua Lý ... đã từng đi kinh lý ở các miền rừng núi, ven biển và hải đảo để tìm hiểu phong tục nhân dân, ghi chép về sản vật, địa giới và nắm chắc tình hình bố phòng đất nước. Vua Trần Thái Tông hay tổ chức những chuyến lên rừng núi hay vào các vùng quê. Đã có lần nhà vua nói với các quần thần rằng: “Trẫm muốn ra ngoài chơi để được nghe tiếng nói của dân và xem xét lòng dân, cho biết tình trạng khó khăn của dân”7.

Ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn về quê ở châu Cổ Pháp, đã cho các bô lão trong hương tiền và lụa theo thứ bậc khác nhau. Cũng như vậy, năm 1231, vừa lên ngôi, Trần Thái Tông đã ngự về hành cung Tức Mặc, ban yến cho các bô lão trong vùng và ban áo lụa theo thứ bậc. Năm 1262, Thượng hoàng lại về đây mở tiệc lớn, các hương lão từ 60 tuổi trở lên cho tước mỗi người hai tư, đàn bà cho hai tấm lụa. Các phủ lộ được lệnh lập kho chứa thóc, dự trữ lương thực để phòng khi gặp thiên tai, mất mùa, đói kém. Nhà nước dựa vào nguồn lương thực đó để chẩn cấp cho dân nghèo và những người gặp nạn. Nói chung, quan tâm úy lạo, cứu trợ dân nghèo là biểu hiện tư tưởng tiến bộ của các bậc minh quân thuở ấy.

Sự kiện có ý nghĩa nhất mà sử sách thường nhắc đến là hội nghị Diên Hồng năm 1284 cùng với tiếng hô đồng thanh “quyết đánh” của đại biểu các bô lão từ các làng xã trong toàn quốc, biểu hiện tinh thần dân chủ, sự quan tâm của triều đình đối với nhân dân và vai trò quan trọng của nhân dân các địa phương mà đại diện là những người cao tuổi trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước của dân tộc. Thời Trần, trong nông thôn bên cạnh hệ thống chính quyền địa phương gồm các đại tư xã, tiểu tư xã, nhà nước vẫn duy trì và tôn trọng hệ thống già làng có uy tín trong nhân dân.

Bấy giờ bình dân làng xã là tầng lớp đông đảo nhất tạo nên bề mặt đáy của cấu trúc hình chóp xã hội Đại Việt. Quan tâm đến nông dân là quan tâm đến lớp người có khả năng đóng góp nhiều nhất về nhân lực và vật lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chính sách “an dân” thời Lý - Trần còn thể hiện trên phương diện lập pháp và hành pháp Bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta được ban hành vào thời Lý, năm 1042. Sang thời Trần, năm 1230, nhà nước ban hành sách Quốc triều thông chế gồm 20 quyển. Sau đó lại ban hành sách Quốc triều hình luật. Đến đời Trấn Dụ Tông, nhà vua sai Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên định bộ Hình thư để ban hành. Rất tiếc rằng các bộ luật thời Lý - Trần đã thất truyền, ta không có cơ sở để so sánh về các bộ luật sau này như luật Hồng Đức (thời Lê), luật Gia Long (thời Nguyễn). Song có thể nghĩ rằng ở giai đoạn mà giai cấp phong kiến dân tộc đang độ phát triển thì luật pháp của họ còn bao hàm tính chất dân chủ nhất định. Sử cũ ta chép về việc ban hành bộ luật đầu tiên như sau: “Nhâm Ngọ, năm thứ tư (1042) xuống chiếu đổi niên hiệu làm Minh Đạo năm thứ nhất, ban sách Hình thư. Trước kia trong nước việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng, vua lấy làm thương xót, sai trung thư sửa định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách hình luật của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử hình thản nhiên rõ ràng”8. Vua Lý là người trực tiếp xét xử ở điện Thiên Khánh. Để việc xử án được công minh, nhà vua có thể nghe được nỗi oan trái của dân, triều đình cho đạt chuông lớn ở sân điện ai còn có oan ức gì cứ việc đánh chuông kêu lên. Sang thời Trần, bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn, công việc xét kiện được chuyển giao cho cơ quan chuyên trách với một quyền hạn độc lập nhất định. Tuy nhiên, để bảo đảm sự xét xử công bằng, nhà nước còn đặt thêm cơ quan kiểm pháp. Do đó, việc xét xử đảm bảo nghiêm túc và khách quan. Pháp luật thời Lý thì rộng rãi khoan dung, pháp luật thời Trần có phần nghiêm minh, hà khắc hơn; nhưng nhìn chung cả giai đoạn Lý - Trần, pháp luật nhà nước còn phần nào quan tâm và chiếu cố đến quyền lợi của dân chúng.

Sinh ra trong một xã hội cởi mở, mâu thuẫn giai cấp chưa thật gay gắt, pháp luật thời Lý - Trần có phần khoan rộng, nhân ái và thân dân cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, đối với một số tội trạng như mưu phản, trộm cướp (nhất là trộm trâu bò), quan thuế nhũng nhiễu và ăn của đút lót, tham ô, v.v… thì luật pháp lại có những hình phạt nặng nề. Chẳng hạn, tội trộm, giết trâu bò xử 80 trượng rồi đày làm khao giáp. Vợ người đó cũng bị xử 80 trượng và bắt đi ở nuôi tằm. Người thu thuế quá lệ cũng bị xử như tội ăn trộm. Có thể nói pháp luật thời Lý - Trần có nhiều điều tiến bộ, hợp lòng dân. Câu nói của Trần Nhật Duật rằng: “ … Ở đâu cũng có phép nước”, chứng tỏ tính chất lành mạnh, quy củ trong xã hội thời bấy giờ - một xã hội mà giai cấp thống trị đang trên đường phát triển của nó.
_____________________________________
1, 2. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, t.I. tr.204, 226.
3, 4. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, t.I. tr.206, 229.
5, 6. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, t. I, tr.232, 232.
7. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, .sđd, t.II, tr. 64
8. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t.I, tr. 219. Việt sử lược, Lịch triều hiến chương loại chí cũng chép tương tự.

III. TÁC DỤNG CỦA “KHOAN THƯ SỨC DÂN” TRONG SỰ NGHIỆP GIỮ NƯỚC

Trong xã hội phong kiến, giai cấp quý tộc vốn bản chất là bóc lột, có mâu thuẫn đối kháng với nhân dân mà đông đảo là nông dân. Tuy nhiên thời Lý - Trần, giai cấp quý tộc phong kiến nước ta còn ở giai đoạn trẻ trung, chưa phát triển đến mức xơ cứng, tính chuyên chế trong xã hội chưa cao, khoảng cách vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội giữa quan lại và bình dân chưa lớn, chưa trở thành quá xa lạ và cách biệt; mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến và nông dân còn được hòa hoãn. Chính vì vậy, vào thời kỳ phát triển đi lên của các vương triều đó, mối quan hệ hai chiều giữa quý tộc và bình dân, mà chủ yếu giữa tầng lớp quý tộc phong kiến và nông dân công xã đang được củng cố và được phát huy tốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Giai cấp phong kiến buổi đầu thời Lý, thời Trần đã làm trọn nghĩa vụ của mình trong vai trò lãnh đạo đất nước, gần gũi và quan tâm đến đời sống của nhân dân. Với những chính sách tiến bộ của mình, trong đó có chính sách an dân, khoan thư sức dân, các vương triều Lý - Trần đã làm hòa dịu mâu thuẫn xã hội, bảo đảm kết hợp giữa quyền lợi giai cấp và quyền lợi dân tộc.

Kế sách khoan thư sức dân trên đây đã góp phần tạo nên một không khí chính trị lành mạnh có lợi cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đối với giai cấp quý tộc nhờ vậy mà họ bảo vệ được vương quyền thống trị trên cơ sở hòa hoãn giai cấp và độc lập dân tộc. Với những chính sách cởi mở của mình, nhà nước phong kiến đã cố kết được dân tộc, đoàn kết toàn dân, tập hợp được đông đảo nhân lực, vật lực cho sự nghiệp chung, đặc biệt khi đất nước có họa xâm lược.

Làng xã nông nghiệp là cơ sở của xã hội Đại Việt, là chỗ dựa của chính quyền phong kiến nước ta. Nếu như người nông dân không ủng hộ thì sự nghiệp đánh giặc giữ nước sẽ không thể thắng lợi. Nỗi lo lắng của vua Lý Cao Tông rằng: “dân đã oán thì trẫm biết dựa vào ai”, cũng xuất phát từ ý nghĩ ấy. Do đó, những chính sách an dân tiến bộ thời Lý - Trần có tác dụng tích cực, củng cố vững chắc thêm nền tảng, xã hội. Tầng lớp bình dân, giảm bớt đói nghèo, khổ đau; cuộc sống nơi thôn dã thêm phần vui vè, họ càng nhận thức trách nhiệm của mình mỗi khi quốc gia hữu sự. Mối quan hệ cộng đồng ấy càng tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ chống thiên tai và giặc giã. Nông dân làng xã đóng vai trò quan trọng và thường xuyên trong công cuộc trị thủy - thủy lợi. Thời Lý, nhà nước chủ trương đắp đê quai vạc lấn biển và một số đoạn đê quan trọng như đê Cơ Xá (sông Hồng). Thời Trần ra lệnh đắp đê từ đầu nguồn đến bãi biển để chống thiên tai, lũ lụt và mở thêm diện tích canh tác. Hệ thống đê điều quy mô cùng với hệ thống sông ngòi, ao hồ, kênh rạch chằng chịt trên đồng bằng châu thổ đã hình thành từ thời Lý - Trần chứng tỏ sự đóng góp lớn lao của nhân dân, trong đó lực lượng nông dân làng xã là đông đảo nhất. Nếu chính quyền không động viên được sức dân thì những công trình công cộng lớn đó không thể tiến hành và không hoàn thiện được.

Cư dân thời Lý - Trần chủ yếu là cư dân nông nghiệp sống trong các làng xã, động bản. Cuộc sống cộng đồng làng xã là cơ sở của cộng đồng quốc gia dân tộc. “Tình làng nghĩa nước”, “nước mất nhà tan”, “nước nhà chung sức” là nếp suy nghĩ chung của mọi người. Cho nên, ngay từ xưa, người nông dân đã có ý thức sâu sắc rằng, nếu để kẻ thù cướp nước, dày xéo quê hương thì mọi người mất cả tổ tiên, mất gia đình, mất cả nền văn hóa dân tộc, phải chịu cảnh sống nô lệ, lầm than tủi nhục. Vì vậy, “quốc gia hữu sự, thất phu hữu trách”, mỗi khi có xâm lăng thì giữ nước là nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người dân sống trên lãnh thồ này “muôn người như một xem việc nước như việc nhà, coi việc bảo vệ độc lập là công việc cửa bản thân mình. Đó chính là động cơ thúc đẩy mọi người dân Việt chiến đấu hy sinh; và cũng chính là cơ sở tinh thần - chính trị của xã hội Đại Việt mà nhà nước phong kiến thời Lý - Trần đã biết động viên, phát huy mạnh mẽ trong chiến tranh bằng những chính sách an dân thích hợp của mình.

Ở Đại Việt, lực lượng vũ trang nhiều thứ quân: quân triều đình, quân địa phương, dân binh là hệ thống tổ chức quân sự hoàn chỉnh được đông đảo nhân dân tham gia và trở thành lực lượng nòng cốt của toàn dân đánh giặc. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét rằng: “Đại để lúc vô sự thì phục binh ở nơi thuận tiện, khi có nạn thì hết sức chống cự. Thế là thời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh”1.

Sự tham gia đánh giặc giữ nước của nhân dân các địa phương thể hiện rõ nét ở vai trò chiến lược của làng xã, mà nòng cốt của nó là lực lượng dân binh. Đó là tổ chức quân sự mang tính chất truyền thống, tự nguyện và bán vũ trang ở các làng, xã, động bản đã được nhà nước Lý - Trần công nhận và thể chế hóa. Với tổ chức quân sự này “trăm họ, muôn dân” đều có thể trực tiếp hay gián tiếp đóng góp vào sự nghiệp quốc phòng trong thời bình cũng như thời chiến.

Thời Lý - Trấn, trước khi bước vào các cuộc chiến tranh giữ nước, không chỉ ở kinh thành Thăng Long mà ngay cả ở mỗi phủ đệ vương hầu, đặc biệt từ các hương ấp, làng bản đã diễn ra không khí náo nức chuẩn bị đánh giặc. Nhiều làng, xã đã mở lò luyện võ, “toàn dân sắm sửa vũ khí và đóng thuyền chiến”, tự vũ trang và sẵn sàng ra nhập đội quân cứu nước. Khi chiến tranh xảy ra, nhân dân khắp nơi sôi nổi, nhiệt tình gia nhập các tồ chức dân binh, sẵn sàng thực hiện “tiểu dân thanh tra dã” (nhân dân làm vườn không nhà trống) và đáp lời kêu gọi của triều đình: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng giặc”2.

Thời Lý, năm 1075, trong 10 vạn quân tiến sang đất Tống thực hành cuộc tập kích chiến lược “tiên phát chế  nhân”, phá tan các căn cứ xuất phát xâm lược của quân giặc đã có hàng vạn thổ binh vùng biên giới phía bắc nước ta, dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh địa phương, các tù trưởng yêu nước như Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc, Hoàng Kim Mãn, Lưu Kỷ, Vi Thủ An, v.v.. Các đạo thổ binh đó từ các châu động, các bản làng tạo thành các mũi tiến công quan trọng sang triệt phá các đồn trại giặc ở dọc biên giới, rồi phối hợp với đạo quân chủ lực do Lý Thường Kiệt chỉ huy, tiến lên bao vây, công phá thành Ung Châu của giặc Tống.

Đến cuối năm 1076, đầu năm 1077 một lần nữa quân của các châu, động phía bắc lại có mặt trong các mũi đánh chặn, tiêu hao quân xâm lược khi chúng vượt biên giới tiến công xâm lược nước ta. Đội quân của Thân Cảnh Phúc cùng nhân dân địa phương đã dùng cả voi chặn đánh quyết liệt cánh quân Tống ở ải Quyết Lý (Chi Lăng - Lạng Sơn) và sau đó thường xuyên tổ chức các trận đánh nhỏ, tập kích và phục kích phía sau lưng địch, tiêu hao và quấy phá quân Tống khi chúng đóng ở bờ bắc sông Như Nguyệt. Nhân dân tham gia cuộc kháng chiến chống Tống thật đông đảo, nhiệt tình như lời thú nhận của Tể tướng Vương An Thạch trước vua Tống rằng: “Dân Man (chỉ người Đại Việt - TG) kéo hết cả nhà theo” và “cả nước Giao Chỉ nhà có 6 người thì 5 người tòng quân, còn một người không đi được nên phải ở lại”3. Sức mạnh của đoàn kết dân tộc mà biểu hiện cụ thể ở sự tham gia chiến đấu của toàn dân là nguồn gốc tạo nên chiến thắng vang dội, trong cuộc kháng chiến chống 30 vạn quân xâm lược Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy.

Sang thế kỷ XIII, dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần, cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Bấy giờ tầng lớp quý tộc còn tập hợp được đông đảo dân chúng quanh mình để đánh giặc. Quân đội Nguyên - Mông đã giành thắng lợi ở nhiều nơi, nhưng khi tiến vào nước ta chúng đã gặp phải một cuộc chiến tranh hoàn toàn khác. Chiến lược của quân Nguyên - Mông là tiến đánh như chớp giật, đi đến đâu chúng cướp của cải và lương ăn,  bắt người bản xứ phục vụ mình; nhưng điều đó chúng không thể thực hiện được ở Đại Việt. Trái lại, ở đây chúng không chỉ phải đọ sức với quân đội nhà Trần, mà còn phải đương đầu với cả toàn thể nhân dân, với cả một dân tộc không chịu khuất phục. Do lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân cả nước đã thực hiện nghiêm mệnh lệnh kháng chiến của triều đình: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh...”. Những nơi có giặc đi qua, nhân dân đã cất giấu lương thực, làm vườn không nhà trống. Việc đó đã gây cho địch nhiều khó khăn. Trong cả ba lần chiến tranh, quân Nguyên - Mông đều khốn đốn vì thiếu lương ăn, không những thuyền lương bị quân nhà Trần đánh tan mà còn vì chúng không tài nào cướp được lương thực trong nhân dân.
_______________________________________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tIV, tr.6.
2. Tống Liêm: Nguyên sử, Thương vụ ấn thư quán, q. 209.
3. Lý Đào: “Tục tự trị thông giám trường biên”, q.275. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd.

Nguyên sử cũng phải thừa nhận rằng, khi quân Nguyên - Mông tiến vào nước ta thì “người Giao Chỉ bèn bỏ nước trống không, chạy trốn bằng đường biển”, hoặc “người Giao Chỉ giấu hết thóc gạo rồi trốn đi...” khiến chủ tướng Thoát Hoan “... đem quân vào sâu (đất Việt - TG) mà không thấy một người nào...”. Đó là do nhân dân các làng xã thực hiện kế “thanh dã”, “bất hợp tác” với kẻ thù. Vì thế, quân giặc đã lâm vào cảnh “không có lương ăn”, buộc phải tổ chức các cuộc hành quân “tìm lương” trong các làng xã. Nhân dân ở khắp nơi đã liều chết chống lại các cuộc hành quân cướp bóc của quân Nguyên - Mông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư khi tổng kết cả ba lần kháng chiến cho biết cả nước chỉ trừ có hai hương Bàng Hà và Ba Điểm hàng giặc, còn hầu hết làng xã Đại Việt đều dựa vào lũy tre làng, anh dũng chiến đấu, chặn đứng và làm thất bại các cuộc hành quân của quân thù. Điển hình là dân làng Cổ Sở (xã Yên Sở) trong các năm 1258 và 1288, đã hai lần đánh bại sự cướp phá của quân Nguyên - Mông, bảo vệ làng xóm mình. Văn bia chùa Hương Phúc (1324) cũng phản ánh cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân làng Uyên Duyên (Thanh Hóa) do viên đại toát (xã trưởng) Lê Mạnh chỉ huy đã đánh tan một đội quân của Toa Đô khi chúng tiến qua địa phận xã mình trong giai đoạn cuộc kháng chiến lần thứ hai. Mùa xuân năm 1285, nhân dân làng Xối Đông (xã Trung Đông, huyện Nam Ninh, Nam Hà) đã tổ chức ba đồn binh để đánh giặc và đã đánh tan một cánh quân của Ô Mã Nhi ở cầu Vô Tình khi chúng sang sông cướp phá. Năm 1288, nông dân tại Yên Hưng (Quảng Ninh) đã phối hợp với quân triều đình chống lại cuộc hành quân cướp lương của tướng Ô Mã Nhi sau khi đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị tiêu diệt. Dân làng Phả Lễ, Phục Lễ đã phục kích, tiêu diệt một đội quân của Ô Mã Nhi khi chúng vào cướp lương thực, gà vịt đem xuống thuyền. Nhân dân các địa phương đã hợp tác với quân triều đình để tiêu diệt từng bộ phận và phá tan âm mưu cướp lương thực tại chỗ của quân giặc. Trong tập Sử biên niên của Ba Tư, Rasít Utđin (1247 - 1318) đã viết về phong trào toàn dân chống quân giặc cướp bóc (1288) ở Đại Việt như sau: “... Bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi xuất hiện những đội quân nước đó (chỉ Đại Việt - TG) đánh tan đạo quân của Tu Gan (Thoát Hoan) đang lao vào cướp bóc...”.

Trong khi đó, nhân dân lại tích cực giúp đỡ quân đội triều đình về mọi mặt. Đền thờ Vua Bà ở gần sông Bạch Đằng là đền thờ một phụ nữ đã mang lương thực ủng hộ quân đội và mách cho Hưng Đạo Vương ngày con nước của sông này. Có những thanh niên như Võ Nguyên ở làng Do Lễ (Tam Hưng, Thủy Nguyên, Hải Phòng) đang cày ruộng gặp đạo quân Trần đi qua đã xin phép mẹ già đi theo Hưng Dạo Vương đánh giặc, lập công...

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, nhân dân các dân tộc nước ta đều kề vai sát cánh chiến đấu bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ?

Hoạt động chiến đấu của nhân dân ở khắp nơi đã làm quân địch khiếp sợ. Những dội dân binh thời Trần đã đóng vai trò chiến lược của nó trong chiến tranh, những đội quân đó có mặt ở khắp các địa phương từ miền ngược đến miền xuôi, ngay trong lòng địch, phối hợp với quân triều đình trong quá trình chiến tranh, từng bước tiêu hao, làm suy yếu rồi phản công tiêu diệt và quét sạch quân thù. Các đội dân binh tiêu biểu như của Trần Thông, Nguyễn Lạp, Nguyễn Tuyền, Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh, Lương Uất, Hà Tất Năng, Hà Đặc, Hà Chương, v.v. đã được lịch sử dân tộc mãi mãi ghi nhớ công lao của họ trong sự nghiệp đánh giặc giữ làng, giữ nước. Sự đóng góp lớn lao của nhân dân các làng xã là cơ sở của chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích, nguồn gốc sức mạnh của các cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông.

Tính nhân dân trong cuộc chiến tranh chống xâm lược thế kỷ XIII còn thể hiện ở sự tham gia của tất cả các tầng lớp xã hội vào cuộc chiến đấu vì sống còn của dân tộc. Lực lượng chủ yếu tất nhiên là những người nông dân tự do ở các làng xã hay là những người nông dân lệ thuộc trong các thái ấp: nông nô và nô tỳ - đẳng cấp có địa vị thấp nhất xã hội bấy giờ đã có những cống hiến lớn lao vào cuộc kháng chiến. Những đội quân vương hầu mà lực lượng chủ yếu là nô tỳ cũng có tác dụng rất quan trọng. Phạm Ngũ Lão từ một gia nhân của Trần Quốc Tuấn đã có công lớn, trưởng thành trong chiến đấu và trở thành một vị tướng tài ba. Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô là những gia nô của Trần Quốc Tuấn đã lập chiến công xuất sắc. Nguyễn Địa Lô, một tay cung giỏi đã bắt chết tên Việt gian Trần Kiện trên đường chạy sang Trung Quốc. Yết Kiêu, Dã Tượng trung thành và dũng cảm khiến Trần Quốc Tuấn cảm động nói: “Ôi, chim hồng hộc có thể bay cao được tất phải nhờ vào sáu trụ cánh, nếu không có thì cũng như chim thường thôi”. Vua Trần Nhân Tông mỗi lần ngự chơi ngoại thành gặp bọn nô tỳ đứng xem thì cho gọi họ lại hỏi: “mày là gia nô nhà ai?”. Khi về vua thường dặn các vệ sĩ của mình không được thét đuổi họ, vua nói: “Ngày thường thì bao nhiêu người hầu hạ xung quanh, đến khi nước nhà gặp hoạn nạn thì chỉ thấy có bọn ấy thôi”. Đó cũng là sự đánh giá của vua Trần Nhân Tông và Trần Quốc Tuấn về vai trò, công lao của tầng lớp nông nô, nô tỳ trong cuộc kháng chiến.

Chiến thắng của cuộc chiến tranh nhân dân Đại Việt chống xâm lược hồi thế kỷ XIII là sự trả lời đanh thép trước câu hỏi đầy hách dịch của viên tướng Nguyên Ô Mã Nhi Bạt Đô năm 1285 với Đỗ Khắc Chung: “Bọ ngựa giám chống xe, liệu sẽ ra sao?”. Bản thân Ô Mã Nhi cùng với toàn bộ đoàn thuyền chiến hùng mạnh của nhà Nguyên đã vĩnh viễn không bao giờ trở về sau trận Bạch Đằng năm 1288.

Vấn đề là tại sao một kẻ chinh phục hùng mạnh như đế quốc Nguyên - Mông đã từng chiến thắng ở khắp nơi lại bị thất bại thảm hại cả ba lần ở Đại Việt? Bởi vì khác với các nước ở Bắc Á và Đông Âu, khi đến Đại Việt, giặc Nguyên - Mông đã vấp phải một cuộc kháng chiến hoàn toàn khác lạ. Đó là một cuộc kháng chiến toàn diện, toàn dân đánh giặc dưới sự lãnh đạo tài tình của một bộ tham mưu thống nhất nhiều mưu lược.

Vương quốc Khômexmơ ở Trung Á, nước Nga cũng như các nước Đông Âu khác, bán đảo Triều Tiên hay nước Kim và Nam Tống ở Trung Quốc đều lần lượt bị người Mông Cổ chinh phục. Không phải vì nhân dân ở các nước đó không anh dũng chiến đấu mà chủ yếu do những người đứng đầu các nhà nước phong kiến đều bất lực, không tập hợp và động viên được sức mạnh nhân dân. Ở Khômexmơ, vua Muhamét trước đó đã đi ngược lại nguyện vọng của dân chúng. Chế độ phong kiến ở Nga và Đông Á đang trong giai đoạn phân quyền, không có khả năng lãnh đạo nhân dân; nền thống trị ở nước Kim và Nam Tống đang lúc suy thoái, bị nhân dân chống đối liên tục. Những điều đó hoàn toàn khác với ở Đại Việt, lúc chế độ phong kiến tập quyền đang phát triển, giai cấp phong kiến thời Trần đang đóng vai trò lịch sử và đã có những biện pháp thích hợp nhằm động viên và đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc.

Sức mạnh của toàn dân đoàn kết là cội nguồn thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông. Sau chiến tranh, Trần Quốc Tuấn đã tổng kết rằng: “mới rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi cùng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc tự bị bắt” và “hơn bốn năm qua, giặc sang đánh phá, từ nơi rừng núi đến ruộng đồng bị tàn phá hầu hết. Vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài xuất lực, đi lính đóng thuế, làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống giặc”. Chính ví thế ông đã đề nghị vua Trần Nhân Tông nới nhẹ sức dân, cứu tế và miễn thuế cho dân, nhất là đối với những nơi bị giặc tàn phá. Và cũng vì thế ông đã nhắc vua Trần Anh Tông “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.

Trên đây là những biểu hiện cụ thể về kết quả của những chính sách an dân tiến bộ thời Lý - Trần. Dương nhiên, với bản chất của nhà nước phong kiến, những tư tưởng tiến bộ trong kế sách “khoan thư sức dân” khó lòng mà thực hiện đẩy đủ. Khi giai cấp phong kiến đang đóng vai trò tích cực thì mối quan hệ giữa vua và tôi, giữa quý tộc và bình dân được duy trì tốt và phát huy tác dụng trong sự nghiệp giữ nước. Ngược lại, vào các giai đoạn cuối của mỗi triều đại, giai cấp thống trị sống xa rời dân chúng, đi ngược lại những tư tưởng tiến bộ trên. Đó chính là lúc vương triều đã suy đồi, đối lập với nhân dân và hậu quả là thế nước suy yếu. Cuối cùng hoặc họ bị nhân dân đấu tranh lật đổ hoặc bị thất bại trước họa xâm lăng. Điều này thể hiện rõ vào giai đoạn cuối thời Lý và cuối thời Trần. Trong phần tư nửa đầu thế kỷ XIII, vương triều Lý suy yếu. Kinh thành Thăng Long mấy lần bị đốt phá, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Chính quyền nhà Lý mất chỗ dựa từ dân. Đó là thời cơ để thế lực phong kiến họ Trần khống chế quyền chính rồi giành ngôi báu từ tay họ Lý. Đến cuối thế kỷ XIV, từ đời vua Trần Dụ Tông, triều Trần trở nên suy yếu. Nhân dân chống lại triều đình và tầng lớp quý tộc phong kiến. Chính quyền bất lực không đoàn kết được nhân dân chống lại các cuộc xâm lăng cướp phá của Chiêm Thành. Nền độc lập dân tộc bị đe dọa. Sự bất lực của vương triều lúc đó đã dẫn tới kết quả tất yếu là nhà Trần mất quyền lãnh đạo, triều Hồ thay thế triều Trần.

Tóm lại, muốn ổn định đất nước, muốn cho thế nước được mạnh, đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc thì giai cấp thống trị làm sao giữ được lòng dân, đoàn kết được toàn dân trên cơ sở những chính sách tiến bộ của mình. Khoan thư sức dân luôn luôn là thượng sách giữ nước. Tư tưởng và kế sách “khoan thư sức dân” thời Lý - Trần đã góp phần tăng cường thế mạnh đất nước, là cơ sở để nhà nước phong kiến huy động sức dân, tạo nên thắng lợi trong các cuộc phạt Tống, bình Chiêm và chống Nguyên - Mông xâm lược.

CHƯƠNG VI.

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔN KHÉO NHẰM NGĂN NGỪA CHIẾN TRANH, GIỮ YÊN BIÊN THÙY, KIẾN TẠO HÒA BÌNH, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC.


Từ thế kỷ X, với bộ máy quản lý đất nước thời tiết độ sứ họ Khúc, họ Dương đến các vương triều Ngô, Đinh, tiền Lê, hoạt động đối ngoại đã từng bước được triển khai, dần dần vào nền nếp giành được những thành tựu quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là bài học kinh nghiệm về chính sách đối ngoại trong thời chiến, cũng như thời bình vì mục tiêu giữ nước và dựng nước của một thế kỷ đầy biến động.

Vào các thế kỷ XI - XIV, trên con đường phục hưng, phát triển toàn diện của quốc gia Đại Việt, các nhà nước quân chủ trung ương tập quyền Lý - Trần đã thừa hưởng kinh nghiệm, kế tục hoạt động đối ngoại từ thế kỷ trước, nâng lên thành quốc sách với đường lối chính sách khôn khéo có hiệu quả trong bối cảnh lịch sử mới.

Để nhận thức về hoạt động đối ngoại thời Lý - Trần chúng ta sẽ lần lượt đề cập đến những vấn đề sau đây:

I. ĐẶC ĐIỂM VỀ QUAN HỆ VÀ TƯƠNG QUAN CỦA ĐẠI VIỆT TRONG KHU VỰC.

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước cho đến thế kỷ XI chứng minh khá rõ ràng quốc gia Đại Việt đã tồn tại và phát triển trong mối quan hệ phức tạp không mấy thuận lợi, với các nước láng giềng.

Cho dù có ai đó vô tình hay cố ý từ nghi ngờ đi đến phủ định quốc gia Văn Lang - Âu Lạc thời sơ sử từng tồn tại độc lập trên vùng lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam từ thiên niên kỷ I trước công nguyên, thì thực tế lịch sử, không chỉ qua truyền thuyết, huyền thoại được cố định thành văn bản, mà qua các tài liệu sử học, khảo cổ học, dân tộc học, nhân chủng học, địa lý lịch sử... đã khẳng định ngược lại. Cho dù sự phát triển của quốc gia đó có trải qua những bước thăng trầm, không bình thường, thì Văn Lang - Âu Lạc - Vạn Xuân - Đại Cồ Việt - Đại Việt vẫn hiện ra như một dòng chảy, quanh co, gấp khúc, nhưng mãnh liệt và liên tục trong không gian, thời gian lịch sử đã được xác định.

Tách ra từ khối Bách Việt, người Lạc Việt và một bộ phận người Tây Âu (còn gọi là người Tây Việt), đã dựng nên nước Văn Lang - Âu Lạc độc lập, tự chủ trong khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa cổ đại với nền văn minh sông Hoàng - một nền văn minh lớn của nhân loại ở phương Đông cổ đại. Thế nhưng sức hấp dẫn, lôi cuốn của văn minh sông Hoàng không diễn ra trong hòa bình êm ả. Nó được thể hiện bằng con đường áp đặt, chinh phục của các nhà nước quân chủ cầm quyền, theo đó là một bộ máy đô hộ. Kinh đô Cổ Loa, với hàng vạn mũi tên đồng đã được khai quật, nhiều vết tích của hệ thống thành hào cùng với những địa danh, nhân danh gắn liền với nhân vật lịch sử Thục An Dương Vương của quốc gia Âu Lạc đâu phải chỉ là chuyện huyền thoại? Cũng như quốc gia đó bị rơi vào ách đô hộ ngoại bang qua các vương triều Tần, Hán, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường trên một ngàn năm là chuyện của quả khứ lịch sử rõ ràng. Nếu như các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giữ nước của Hai Bà Trưng (40 – 43), Bà Triệu (248), Lý Nam Đế với nước Vạn Xuân (từ 544 đến 605), Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế - 722), Bố cái đại vương Phùng Hưng (791) chưa giành được thắng lợi, thì đến đầu thế kỷ X từ mở đầu của họ Khúc (905) đến Ngô Quyền với chiến thằng Bạch Đằng (938) đã “kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn ngàn năm. Dân tộc ta đã giành lại được quyền làm chủ đất nước. Một thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc bắt đầu”1.

Thế nhưng sau loạn “năm đời mười nước”, nhà Tống lên cầm quyền ở Trung Hoa, giấc mộng chiếm lại quốc gia của người Việt ở phía nam vẫn chưa dứt đối với họ. Hai lần xâm lược của nhà Tống vào thời Tiền Lê (cuối năm 980 đầu 981) và thời Lý (1077) đã chứng minh điều đó. Khi Trung Hoa bị người Mông Cổ chinh phục dẫn đến nền thống trị của nhà Nguyên (từ năm 1271 đến năm 1368), lại một phen quốc gia Đại Việt phải chịu đựng ba lần xâm lược các năm 1257 - 1258, 1285, 1287 - 1288. Nhà Minh thay thế nhà Nguyên năm 1368, nguy cơ bị xâm lược lại đến gần với Đại Việt, đã thành hiện thực năm 1406 dưới thời nhà Hồ.

Từ những sự kiện lịch sử nói trên, dù không muốn cũng phải thừa nhận một sự thực: quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần đất không rộng, người không đông, vừa mới giành lại được độc lập tự chủ vẫn nằm trong mưu đồ thôn tính, lập lại ách đô hộ của các vương triều Trung Hoa. Tình thế đó đặt các vương triều Lý- Trần ở một thế ứng xử, quan hệ rất khó khăn, phức tạp để đất nước được tồn tại và tiếp tục phát triển. Các vương triều Tống, Nguyên, Minh không nhìn nhận Đại Việt như một quốc gia độc lập có chủ quyền. Trong con mắt của họ, Đại Việt chỉ là một nước nhỏ, một chư hầu của mình.

Ở phía tây - bắc, vào thế kỷ XI, Đại Việt giáp với nước Đại Lý (Nam Chiếu cũ), một quốc gia của người Di, người Thái thành lập vào nửa đầu thế kỷ VIII, trung tâm là Đại Lý (Côn Minh - Trung Quốc). Đó là một quốc gia mạnh, giáp Ấn Độ ở phía tây, Thổ Phồn (Tây Tạng) ở phía bắc, còn phía đông nam giáp Đại Việt. Từ nửa sau thế kỷ VIII nhà Đường suy yếu, Nam Chiếu nhiều lần đánh phá Giao Châu. Năm 863, Nam Chiếu từng đánh chiếm phủ Tống Bình - lỵ sở của An Nam đô hộ phủ (Hà Nội ngày nay), chia quân đóng giữ Giao Chỉ cho đến năm 865 mới bị Cao Điền- một viên tướng của nhà Đường đánh lui. Nước Đại Lý bị người Mông Cổ đánh chiếm vào các năm 1253 – 1256, để sau đó bị chia thành phủ huyện, sáp nhập vào bản đồ Trung Hoa bắt đầu từ vương triều Nguyên.

Về phía tây, Đại Việt có quan hệ với các bộ tộc người Môn-khme mà sử cũ thường chép là Lão Qua. Ai Lao lúc này đang trong tình trạng xáo động trước làn sóng di cư của người Thái tràn xuống phía Nam: vì sự xâu xé lẫn nhau giữa các quốc gia tự trị, dẫn đến bị thống trị của vương quốc Chân Lạp (khme) từ thế kỷ XIII, của vương quốc Xukhôthai thế kỷ XIV. Cho đến giữa thế kỷ XIV, năm 1353 với cuộc đấu tranh của Phạ Ngừm, họ mới được giải phóng, lập nên quốc gia Lạng Xạng (nước Lào ngày nay).

Về mặt nam, sau dãy Hoành Sơn (đèo Ngang), là nước Champa (Chiêm Thành) của người Chăm chiếm giữ dải đất hẹp ven biển miền Trung và nam Trung Bộ ngày nay. Người Chăm từng bị ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa, vốn là quận Nhật Nam dưới thời đô hộ của nhà Hán. Vào cuối thế kỷ thứ II, Khu Liên cầm đầu người Chăm nổi dậy đánh phá quận huyện, giết bọn quan lại đô hộ lập nên nước Lâm Ấp, kinh đô là Trà Kiệu (Quảng Nam), tức là Chiêm Thành sau này. Dưới thời Bắc thuộc, Lâm Ấp nhiều lần đem quân cướp phá Cửu Chân, Giao Châu vào các năm 353, 399, 415, 431, buộc quan quân đô hộ phải đánh đuổi. Vào giữa thế kỷ VI ở Giao Châu, Lý Nam Đế nổi dậy đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư, lập nên nước Vạn Xuân năm 544, thì một năm trước - năm 543 Lâm Ấp đem quân sang xâm lấn. Lý Nam Đế phải sai Phạm Tu đi đánh. Như vậy, Lâm ấp (Chiêm Thành) với Đại Việt bước vào thời độc lập tự chủ lâu dài đã có một di sản quan hệ trong quá khứ không thuận chiều. Tình trạng này sẽ còn tiếp diễn trong nhiều thế kỷ sau. Chép về nước Chăm Pa xưa Rênê Gruxê (Réné Grousset) viết: “Người Chăm đã từng chiến đấu chống người Khme cùng nền văn minh Ấn Độ ở phía tây, vì người Khme như đã biết, từng nhiều phen tìm cách chinh phục họ vào thế kỷ XII. Về phía bắc, người Chăm không ngừng gây chiến tranh chống người An Nam thuộc khu vực văn minh Trung Hoa”2.

Từ những nét khái quát nói trên có thể nhận thấy từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, nhà nước Lý - Trần, trong quan hệ với các nước láng giềng, có nổi lên vấn đề quan trọng sống còn là đối phó với hành động xâm lược, quấy rối chủ yếu của Chiêm Thành từ phía nam và hành động tấn công, thôn tính của các vương triều phong kiến Trung Hoa từ phía bắc. Vấn đề này hầu như trở thành nguy cơ thường trực. Trong thực tế, mối đe dọa đó còn nguy hiểm hơn khi Chiêm Thành có quan hệ thần phục Trung Hoa, và ngược lại, Trung Hoa có biểu hiện liên kết với Chiêm Thành, hoặc biến Chiêm Thành thành địa bàn chiến lược nhằm gây sức ép, tấn công, thủ tiêu nền độc lập của quốc gia Đại Việt.

Trong bối cảnh lịch sử mang đặc điểm quan hệ láng giềng và tương quan lực lượng đó, tất yếu buộc các nhà nước thời Lý - Trần phải có hoạt động đối ngoại như thế nào nhằm tạo thế cho đất nước không chỉ tồn tại mà còn phát triển vững mạnh.
________________________________________
1. Lịch sử Việt Nam. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, t.I, tr.141
2. Réné Grousset: Histoire de L Asie. Presses Universitaires de France, Paris 1947. p. 111

II. MỀM DẺO NHƯNG KIÊN QUYẾT TRONG QUAN HỆ VỚI PHƯƠNG BẮC

Trong hoạt động đối ngoại của các nhà nước phong kiến Việt Nam thời trung đại nói chung, thời Lý - Trần nói riêng, quan hệ với Trung Hoa ở phía Bắc nổi lên hàng đầu và là mối quan tâm bậc nhất. Lý do khá rõ ràng. Trong suy nghĩ và hành động của các nhà nước phong kiến Trung Hoa cho đến cận đại - nhà Thanh, bao giờ họ cũng nhìn nhận Đại Việt - Việt Nam (quốc hiệu từ năm 1804 thời Gia Long) như một nước chư hầu, phiên thuộc, phải thần phục. Dường như sau hơn 1000 năm đô hộ, với tư thế là một quốc gia lớn mạnh, có quan hệ liền kề về không gian, lãnh thổ, có nhiều nét tương đồng về văn hóa, văn minh, các tập đoàn phong kiến cầm đầu đế chế Trung Hoa tự cho mình quyền “che chở”, “định đoạt” của “Thiên triều” đối với một nước nhỏ ở phía nam, mặc dù ách đô hộ đã thực sự chấm dứt từ đầu thế kỷ X. Hiệp ước Thiên Tân ký ngày 9-6-1885 giữa Pháp và nhà Thanh nhằm phân chia quyền lợi của họ ở Việt Nam là một bằng chứng.

Từ thế kỷ XI, các nhà nước thời Lý - Trần hẳn đã nhận thức được điều đó. Tuy nhiên, tranh thủ sự hỗ trợ, ủng hộ của quốc gia láng giềng trong tinh thần hòa hiếu tôn trọng lẫn nhau, cùng tồn tại là cần thiết, không có cách nào khác tốt hơn điều đó trong quan hệ đối ngoại bất kỳ ở đâu và lúc nào. Đặc biệt quốc gia Đại Việt trong tương quan với Trung Hoa, một quốc gia có lịch sử dựng nước lâu đời, rộng lớn, với một nền văn minh rực rỡ, đầy hấp dẫn của phương Đông cổ trung đại, thì sự tranh thủ đó lại càng cần thiết.

Dường như lịch sử đã tạo điều kiện và tiền đề cho mối quan hệ đó tiếp diễn với những nét đặc biệt. Tuy nhiên, quan hệ đối ngoại và hệ quả của nó bao giờ cũng tùy thuộc vào cả hai bên hữu quan. Ở đây, mưu đồ lập lại nền đô hộ trên đất Đại Việt vẫn thường trực ở phía Tống, Nguyên, Minh, nhưng giữ vững quyền tự chủ quốc gia Đại Việt do người Việt làm chủ, là điều bất di bất dịch, không thể nhân nhượng của nhà nước Lý - Trần. Tinh thần này được biểu hiện mạnh mẽ như một tuyên ngôn đanh thép trong thơ Lý Thường Kiệt - người anh hùng dân tộc đã tổ chức, điều hành chiến tranh giữ nước thắng lợi đầu năm 1077: “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư…”

Tuy nhiên, hoàn toàn không phải vô cớ, từ thế kỷ X, với họ Khúc, đến các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, sau khi lên cầm quyền đều “xin mệnh” và nhận tước phong của Nam Hán, Lương, Tống. Không chỉ nhận tước phong mà còn thường xuyên phái sứ giả sang triều cống, tỏ ý thần phục. Với hình thức đó, các nhà nước thời này đã tranh thủ sự “công nhận”, khẳng định tính hợp thức trong quan hệ bang giao giữa hai nước cùng song song tồn tại. Nhưng một khi vượt quá giới hạn đó, thì dù là tiểu vương quốc Nam Hán ở ven biển đông Nam Trung Hoa, hoặc Đại Tống hùng mạnh làm chủ toàn Trung Hoa, uy hiếp độc lập dân tộc xâm lược lãnh thổ Đại Việt là lập tức bị giáng trả đích đáng, buộc phải rút quân về nước. Bài học và kinh nghiệm lịch sử trong quan hệ đối ngoại với phương Bắc từ thế kỷ X được các nhà nước Lý - Trần kế thừa, ứng dụng và nâng lên tầm cao mới.

Ngay sau khi lên ngôi, đầu năm 1010, Lý Thái Tổ đã cử viên ngoại bang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nhà Tống biếu sản vật vật địa phương nhằm kết nối giao hảo1. Không phải không có căn nguyên khiến Tống Chân Tông không theo ý muốn từ chối của quần thần khi ông ta nói: “Họ Lê thay nhà Đinh, họ Lý cũng bắt chước làm theo. Ta đối với Lê hay Lý nào có khác gì”2 và nhận lễ sính. Liền cuối năm đó, nhà Tống cử sứ giả sang phong Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) làm Giao Chỉ quận vương, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ3. Hẳn rằng bài học thất bại cay đắng trong chiến tranh xâm lược vào cuối năm 980 đầu 981 thời Tống Thái Tông trên chiến trường Đại Cồ Việt còn thấm đậm trong đầu vị vua kế nghiệp - Tống Chân Tông, mặc dù 30 năm đã trôi qua. Mặt khác, về phía Tống, mối họa nước Liêu, Khiết Đan ở phía bắc cùng hòa ước Thiều Châu ký năm 1004 với Khiết Đan còn chưa ráo mực kèm theo gánh nặng cắt đất, cống nạp cho Khiết Đan mỗi năm 10 vạn lạng bạc và 20 vạn tấn lụa không cho phép vua Tống có thái độ khác đối với Đại Việt, ngoài việc kết mối hòa hiếu.

Để tranh thủ sự đồng tình, công nhận, kết mối giao hảo, giao lưu với Trung Hoa, vua Lý Thái Tổ cử sứ giả sang Tống đáp lễ vào năm 1011 và kết hảo năm 1012. Tiếp đó, tuy chưa thành lệ định kỳ, nhưng nhà Lý thường cử sứ giả sang Tống báo tin thắng trận trong đánh dẹp hoặc biếu, cống nạp ngựa, voi, tê ngưu, cũng có khi kèm theo vàng bạc (năm 1126). Đã thành thường lệ, mỗi khi vua Đại Việt mất, nhà Tống cử sứ gỉa sang phúng viếng và tiếp tục sách phong vua mới lên ngôi. Đó là các trường hợp: Lý Thái Tông năm 1029, Lý Thánh Tông năm 1055, Lý Nhân Tông năm 1073, Lý Thần Tông năm 1132, Lý Anh Tông năm 1139, đều sách phong Giao Chỉ quận vương.

Như vậy, cho đến giữa thế kỷ XII, mặc dù đã có sự đụng độ lớn với nhà Tống trong chiến tranh vệ quốc trên chiến trường Như Nguyệt vào thế kỷ trước, nhưng bằng biện pháp mềm dẻo về quan hệ giao hảo, các vua nhà Lý đã tranh thủ được sự công nhận quyền tự chủ của đất nước Đại Việt. Sau thất bại, nhà Tống buộc phải công nhận quốc gia Đại Việt nhưng vẫn cố níu lấy quyền lực của một thời đã qua, dù chỉ là hư quyền, quyền phong vương cho chư hầu. Các vua nhà Lý trong quan hệ đối ngoại không lấy đó làm quan trọng. Điều quan trọng hơn là “sông núi nước Nam vua nước Nam ở” đã thực sự trở thành hiện thực. Lịch sử lại được chứng kiến trong khi Đại Việt ngày một phát triển, mở mang, thì vương triều Tống ngày một suy yếu. Từ sau khi nước Kim chia quân tấn công đất Tống vào năm 1125, diệt Bắc Tống vào năm 1127, tiếp đến nhà Nam Tống (từ năm 1127 đến 1279) trượt dài trên con đường đầu hàng nước Kim, để rồi cả hai cùng chung số phận chịu bại vong trước vó ngựa của người Mông Cổ, nhường cho nhà Nguyên quyền thống trị Trung Hoa. Trong bối cảnh suy vong đó, năm 1164, Tống Hiếu Tông - vua thứ hai của Nam Tống sau khi lên ngôi, để biểu thị quyền lực của mình, đồng thời tranh thủ Đại Việt, đã lập lại việc làm của nhà Bắc Tống phong vương cho Lý Anh Tông, nhưng không phải là Giao Chỉ quận vương mà là An Nam quốc vương. Từ đây, Giao Chỉ quận được thay bằng An Nam quốc. Các nhà nước phong kiến Trung Hoa đã từ bỏ quan niệm Đại Việt như một quận phiên thuộc của họ, mà phải thừa nhận là một quốc gia đường hoàng.

Tuy nhiên, danh hiệu An Nam quốc vương, theo sử sách, cũng chỉ được nhà Tống sử dụng phong cho Lý Cao Tông năm 1186, Trần Thái Tông năm 1229. Nhà Nguyên lên cầm quyền năm 1260, theo thói thường, để thông báo và biểu thị uy quyển của mình, lại phong cho Trần Thái Tông năm 1261 như nhà Nam Tống đã làm. Từ đây, danh hiệu “An Nam quốc vương” chỉ còn được nhà Nguyên lặp lại trong hai trường hợp kỳ quặc. Đó là phong cho Trần Di Ái vào năm 12814 và Trần Ích Tắc vào năm 12865.
_________________________________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983 tr.241.
2. Việt sử thông giám cương mục, Nxb Văn - Sử - Địa , Hà Nội, 1957. t.III. tr.41.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd. tr. 243, Việt sử thông giám cương mục, Sđd, tr.43.
4. Trần Di Ái là chú họ của Trần Nhân Tông. Nhà vua từ chối không sang chầu Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, cử Di Ái cùng với Lê Mục, Lê Tuân đi sứ. Nhân dịp này, Hốt Tất Liệt thừa cơ phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, lập chính quyền bù nhìn từ Trung Hoa đưa về chiếm Đại Việt vào năm 1282. Bị đánh chặn ngay từ biên giới Trần Di Ái sợ trốn về nước, bị trị tội đổi tên là Trần Ái, đồ làm khao giáp binh phủ Thiên Trường - Theo Đại Việt sử kí toàn thư. Sđd. t. II, tr. 30
5. Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc là con Trần Thái Tông, hàng quân Nguyên trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, năm 1285.

Điều cần lưu ý là các vua nhà Trần trong quan hệ bang giao với Tống, Nguyên, Minh vẫn giữ lễ thường qua lại thăm viếng, chúc tụng, cống nạp phương vật như các triều trước, nhưng khi lên ngôi không dâng biểu cầu phong. Việc nhà Tống, nhà Nguyên phong vương cho Trần Thái Tông chỉ là hành động đơn phương của họ. Sử gia Phan Huy Chú có nhận xét về tình hình phong vương thời Trần như sau: “Các vua Trần được nhường ngôi, chưa từng cầu phong ở Trung Quốc (...). Vì nhà Nguyên rất bất bình với nhà Trần, cho nên, về sau dù có sính sứ đi lại, mà lễ sách phong suốt đời nhà Nguyên không thi hành nữa”1.

Minh Thành Tổ lên ngôi ở Kim Lăng năm 1368, sai Địch Tế Dân sang “thăm” Đại Việt hẳn là để thông báo quyền lực của nhà Minh ở Trung Hoa. Vua Trần Dụ Tông sai Lễ bộ thị lang Đào Văn Đích sang cũng chỉ với mục đích đáp lễ2. Năm 1370, Nghệ Tông lên ngôi, vua Minh sai Diêm Nguyên Phục, đạo sĩ cùng Triều Thiên đem lễ trâu và lụa sang tế thần núi Tản Viên và các thủy thẩn sông Lô. Diêm Phục vào Thăng Long làm lễ tế xong còn khắc bài văn tế do chính vua Minh viết vào bia đá trước khi về nước3. Hành động ngang ngược trịch thượng đó của Minh Thành Tổ báo hiệu một tương lai không tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước. Việc giao hảo hòa bình hữu nghị chấm dứt, mở đầu một thời kỳ chiến tranh lạnh giữa nhà Minh có tham vọng chinh phục Đại Việt với nhà Trần đang chèo lái trên bước đường suy yếu vào cuối thế kỷ XIV.

Trong quan hệ đối ngoại với phương bắc, qua các việc làm như nhận sắc phong (chủ yếu là thời Lý) cống nạp dưới dạng “biếu”, “tặng”, cử sứ giả thăm viếng chúc tụng, các nhà nước thời Lý - Trần đã tỏ ra mềm dẻo, nhún nhường. Mặt khác, họ cũng hiểu rõ đối tượng - những nhà nước thay nhau cầm quyền ở một quốc gia lớn mạnh, rất có ý thức về bá quyền của mình đối với lân bang. Nhưng các nhà nước đó không phải lúc nào cũng mạnh. Chính vì vậy, đối sách mềm dẻo, tỏ thái độ thần phục là cần thiết để có được hòa hiếu, tôn trọng lẫn nhau cùng tồn tại hòa bình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là để mất chủ quyền. Một khi họ tỏ thái độ không thiện chí với mục đích xâm lược, các nhà nước Lý - Trần đã dùng biện pháp cứng rắn để giữ quốc thể, tranh thử hòa hoãn nhằm xây dựng lực lượng, huy động toàn quân, toàn dân cầm vũ khí bảo vệ Tổ quốc.

Tình hình này biểu hiện rõ rệt nhất ở những năm trước chiến tranh vệ quốc thời Trần, đặc biệt là thời gian giữa cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, lần thứ nhất và lần thứ hai. Sau đó là từ năm 1369 trở đi với vương triều Minh thay nhà Nguyên cầm quyền ở Trung Hoa.

Vào thế kỷ XIII nhân loại đã chứng kiến hành động xâm lăng bành trướng của đế quốc Mông Cổ từng gây chấn động kèm theo bao nỗi kinh hoàng đối với nhiều quốc gia Âu - Á từ Hắc Hải đến bờ Thái Bình Dương. Vó ngựa của Mông Cồ đã tràn xuống châu Á với mục tiêu đầu tiên là nam Trung Hoa của nhà Tống. Năm 1253: Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Nam Chiếu) để uy hiếp mặt tây nam Trung Hoa. Ba năm sau (năm 1256), Đại Lý mất. Tiếp đó, quân Mông Cổ nhằm vào Đại Việt hòng biến Đại Việt thành địa bàn tiến công Trung Hoa từ phía nam.

Mở đầu việc xâm lược Đại Việt, viên tướng Mông Cổ Ngột Lương Hợp Thai nhiều lần sai sứ sang dụ hàng vua Trần Thái Tông4. Vua Trần không những không trả lời, còn bắt giam sứ giả và tích cực chuẩn bị chống giặc. Việc làm này của vua Trần, nhìn từ góc độ đối ngoại, một mặt tỏ thái độ kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền của Đại Việt, mặt khác, vẫn giữ thiện chí với Trung Hoa do nhà Nam Tống cầm quyền. Tinh thần đó còn thể hiện ở việc sau khi đánh đuổi quân xâm lược Mông Cổ tháng 8 năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần vẫn tiếp tục sai sứ sang thông hiếu với nhà Tống. Nhưng khốn thay, nhà Nam Tống lại tỏ ra quá yếu đuối trước sức tấn công của quân Mông Cổ. Cuối cùng chính quyền Hán tộc bị xóa sổ với việc Lục Phú Tư ôm Tống Đế Bính nhảy xuống eo biển Nhai Sơn (Quảng Dông) tự tử năm 1279.

Như vậy, trong khoảng thời gian từ 1257 đến 1279, trong việc đối ngoại với Trung Hoa, nhà nước Đại Việt đứng trước hai tình thế: đế quốc Mông Cổ đang bành trướng, thôn tính, làm bá chủ Trung Hoa, và nhà Tống từ suy yếu, tan rã, một bộ phận đẩu hàng, đi đến thất bại hoàn toàn. Cũng trong thời gian này, nguy cơ xâm lược Đại Việt của quân Mông Cổ đã thành sự thực vào năm 1257 và sẽ còn tiếp tục, một khi họ chiếm được Trung Hoa. Trước tình thế đó, để hòa hoãn, thăm dò và chuẩn bị đối phó, Trần Thái Tông đã thực hiện đồng thời việc đặt quan hệ thông hiếu với Mông Cổ. Sử chép cũng vào tháng 8 năm Mậu Ngọ (1258) vua Trần “sai Lê Phụ Trần, Chu Bác Lãm sang Nguyên (đúng ra là gặp chúa Mông Cổ vì đến năm 1271, Hốt Tất Liệt mới đổi tên nước là Nguyên - TG). Lúc này sứ Nguyên sang đòi lễ vật hàng năm, đòi tăng thêm tiền cống, vua sai Lê Phụ Trần đi sứ, lấy Bác Lãm làm phó. Cuối cùng quy định ba năm một lần tiến cống coi là thường lệ”5. Cùng với từng bước thôn tính Trung Hoa, chúa Mông Cổ Hốt Tất Liệt, qua con đường ngoại giao, nhiều lần cho sứ giả sang từ “chiêu an”, “vỗ về”, phong vương cho Trần Thái Tông (năm 1261)6, đến đòi vua Trần “phải thân sang chầu, con em phải làm con tin, lại phải kê số dân, chịu quân dịch, nộp thuế má và vẫn có đặt quan đạt lỗ hoa xích để thống trị. Cứ mấy việc ấy là để tỏ lòng thành thực thần phục”7. Rõ ràng chúa Mông Cổ tính chuyện hòa bình nô dịch, thôn tính Đại Việt. Nhận thức điều đó, vua Trần khôn khéo, một mặt không cự tuyệt dứt khoát, mặt khác tìm mọi cách thoái thác trì hoãn để tránh mọi đụng độ vào lúc công việc chuẩn bị chiến tranh chưa đủ. Về chức đạt lỗ hoa xích là chức quan mà Mông Cổ đặt ở các nước bị chiếm để kiểm soát, vua Trần chịu chấp nhận nhưng tìm mọi cách mua chuộc, vô hiệu hóa. Vua Trần thác bệnh không sang chầu, không cho con em làm con tin, nhận chiếu thư không lạy, còn các thứ cống nạp, chỉ chiếu lệ ba năm một lần. Về phía Mông Cổ, sau khi đã chinh phục toàn bộ Trung Hoa, Hốt Tất Liệt tỏ thái độ quyết liệt hơn. Ý đồ chuyển từ đối đầu bằng ngoại giao sang đối đầu bằng quân sự ngày càng lộ rõ. Hốt Tất Liệt xuống chiếu đe dọa: “Nếu quả thật không tự vào ra mắt được thì lấy vàng thay thân, hai hạt châu thay mắt, thêm vào đó, lấy hiền sĩ, phương kỹ, con trai, con gái, thợ thuyền, mỗi loại hai người để thay cho sĩ nhân. Nếu không thì hãy tu sửa thành trì mà đợi xét sử”8. Những lời đe dọa đó không làm cho vua Trần nao núng. Nhưng, để kéo dài thêm thời gian chuẩn bị, vua Trần Nhân Tông thác bệnh, cử chú họ là Trần Di Ái thay mình dẫn đầu đoàn sứ giả sang Nguyên vào năm 1281. Nhân cơ hội này Hốt Tất Liệt trắng trợn thực hiện hành động xâm lược, mở đầu bằng việc lập chính quyền bù nhìn, phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và “hạ chiếu” cho Trần Nhân Tông: “Ngươi đã cáo bệnh không vào chầu, nay cho ngươi được nghỉ mà thuốc thang điều dưỡng, ta đã lập chú ngươi là Di Ái thay ngươi làm vua nước An Nam, coi trị dân chúng của ngươi...”9. Năm 1282 Hốt Tất Liệt cho quân hộ tống Trần Di Ái sang, bị quân dân Đại Việt đón đánh tan ở biên giới. Trần Di Ái sợ trốn về nước, phải chịu tội đổi tên, đồ làm khao giáp binh.
____________________________________________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Viện sử học, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, ph. Bang giao chí, tr.90.
2, 3. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, t. II, tr. 145.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.25, chép vào tháng 8 năm Nguyên phong thứ 7 (1257) có sứ Nguyên sang. Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, thế kỷ XIII. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, đã tham khảo các sách của Trung Quốc xác định sứ Nguyên sang ba lần vào các tháng 8, 9, 11 năm Đinh Tỵ (1257), chú thích 2, tr.63-64
5, 6. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, t.II, tr.27, tr 30.
7. “Chiếu chế Đại Nguyên” năm 1260, trích theo An Nam chí lược của Lê Tắc. q.II, tư liệu đánh máy của Viện Sử học.
8. Chiếu của Hốt Tất Liệt năm 1279, dẫn theo Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, thế kỷ XIII. Sđd. tr. 110.
9. Chế chiếu Đại Nguyên năm 1281 dẫn theo An Nam chí lược, Sđd.

Sau thất bại đó, năm 1283 Hốt Tất Liệt đòi nhà Trần giúp binh lương cho chúng đánh Chiêm Thành. Vua Trần cự tuyệt. Nguy cơ xâm lăng tới gần và đã trở thành hiện thực vào đẩu năm 1285.

Hơn một phần tư thế kỷ (từ 1258 đến 1284.) hòa bình có được bằng con đường đối ngoại khôn khéo, nhà nước thời Trần đã tranh thủ thời gian hàn gắn vết thương chiến tranh năm 1257, xây dựng củng cố lực lượng, huy động toàn quân, toàn dân sẵn sàng chiến đấu, và đã chiến thắng quân Nguyên trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc liên tiếp xảy ra vào các năm 1285, 1287 - 1288, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng. Năm 1293, nhà Nguyên lại mượn cớ vua Trần Nhân Tông không vào chầu để chuẩn bị đánh chiếm Đại Việt. Nhưng đầu năm 1294 Nguyên Thế tổ Hốt Tắt Liệt chết, Nguyên Thành Tông lên ngôi, xuống chiếu bãi binh. Từ đây, quan hệ đối ngoại giữa nhà Nguyên với nhà nước Trần trở lại với nghi thức bang giao thời bình theo truyền thống.

Bước vào giữa thế kỷ XIV, Trung Hoa lại lâm vào loạn lạc. Nhà Nguyên suy yếu trước các cuộc nổi dậy ở nhiều nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân (Khăn vàng) của Lưu Phúc Thông ở Hoa Trung với khẩu hiệu tiêu diệt nhà Nguyên, khôi phục nhà Tống. Một trong những người cầm đầu lực lượng Hoàng Cân ở An Huy là tướng Chu Nguyên Chương, xuất thân từ nông dân nghèo, nổi lên như một nhân vật chủ chốt cầm đầu nghĩa quân từ năm 1355. Sau hơn 10 năm chiến đấu, Chu Nguyên Chương đánh đuổi nhà Nguyên khỏi Đại Đô (Bắc Kinh) năm 1368 thâu tóm toàn Trung Hoa, lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Minh, hiệu là Minh Thành Tổ.

Minh Thành Tổ giữ ngôi từ năm 1368 đến 1399 là một ông vua giỏi, đem lại cho Trung Hoa một bước phát triển mới trên con đường xây dựng quốc gia phong kiến trung ương tập quyền. Nhưng Minh Thành Tổ cũng là người tích cực thực hiện chính sách bành trướng thế lực với phương châm: “viễn giao, cận công”, “dĩ Di trị Di”. Với tinh thần đó, một năm sau khi lên ngôi, năm 1369, Minh Thành Tổ sai Ngưu Lượng, Trương Dĩ Minh sang tặng vua Trần Dụ Tông ấn vàng và sắc rồng - một hình thức bố cáo ân uy, ràng buộc, vỗ về của thiên tử đối với chư hầu. Năm 1370, Minh Thành Tổ tự làm chúc văn sai sứ thần sang tế thần sông núi Đại Việt. Nhà Minh vừa lên cầm quyền đã “liếc mắt” về phía Đại Việt. Trong khi đó ở Đại Việt, sau cái chết của Dụ Tông (năm 1369) xảy ra vụ Dương Nhật Lễ1. Năm 1370, người con thứ ba Trần Minh Tông được vương hầu họp ở sông Đại Lại (sông Lèn, Thanh Hóa) dẫn quân về Thăng Long giành lại ngôi vua (tức Trần Nghệ Tông). Tuy nhiên, lúc này nhà Minh còn lo ổn định tình hình ở Trung Nguyên và bình định vùng Vân Nam, chưa trực tiếp với tay đến Đại Việt. Hơn 10 năm sau, năm 1384, vua Minh sai bọn Dương Bàn, Hóa Nguyên mang tờ sớ của bộ Hộ sang Đại Việt đòi lương để cấp cho quân lính Minh đóng ở Lâm An (Vân Nam). Hai tháng sau, vua Trần mới đáp: “Đã sai hành khiển ty Trần Nghiêu Du đôn đốc chuyển vận sứ ty các lộ vận chuyển lương thực tới địa đầu huyện Thủy Vĩ giao nộp rồi”2. Năm sau nhà Minh lại sai sứ sang đòi nộp 20 tăng nhân. Năm 1386, sai Lâm Bột sang đòi các giống cây cam, vải, mít, nhãn; lại sai Lý Anh sang mượn đường đánh Chiêm Thành, đòi 50 con voi, đặt các dịch trạm từ phủ Nghệ An cung cấp cỏ, thức ăn, đưa voi đến Vân Nam3. Những yêu sách của nhà Minh hẳn đã gợi cho triều đình Trần nhớ lại chuyện hơn 100 năm trước (năm 1281), quân Nguyên đã hạch sách, đòi mượn đường đi đánh Chiêm Thành, để sau đó xâm lược Đại Việt. Lại một lần nữa phải thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng đối phó. Vua Trần cho người đem các giống cây sang nhưng vì không chịu được rét đến nửa đường cây đều chết khô cả; còn yêu sách đòi cho mượn đường không thấy sử chép vua Trần phản ứng ra sao. Có thể nghĩ rằng nhà vua tìm cớ thoái thác. Năm 1395, Nhà Minh bình định vùng Quảng Tây, lại sai người sang đòi năm vạn quân, 50 thót voi, 50 vạn thạch lương, đưa đến biên giới để họ dùng vào việc quân4. Cũng vào năm này họ đòi nộp nhà sư, phụ nữ xoa bóp, người bị thiến. Vua Trần Thuận Tông, thực quyền trong tay thượng hoàng Trần Nghệ Tông và Hồ Qúy Ly, chỉ nộp chiếu lệ. Vua Trần không cấp voi và quân lính, cho đem một ít lương thực đến Đồng Đăng và nộp các loại người, mỗi thứ một ít.

Mặc dù vào buổi cuối Trần, đất nước Đại Việt đang gặp nhiều khó khăn: nội bộ vương triều lục đục, xã hội có nhiều biến động, quan hệ Việt - Chiêm căng thẳng, nhưng Trần Nghệ Tông, người đã từng nói: “Triều đình dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế nhà Tống là vì Nam - Bắc, nước nào làm chủ nước đó ...” và Hồ Qúy Ly - người có hoài bão: “Làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc” hẳn đã không chịu bán rẻ chủ quyền đất nước cho nhà Minh. Họ cũng đã khôn khéo ứng biến trong quan hệ đối ngoại, nhằm tránh những căng thẳng dẫn đến chiến tranh trong tình thế còn nhiều bất lợi, và chưa chuẩn bị được lực lượng. Nhưng sự việc xảy ra sẽ xảy ra. Quân Minh xâm lược Đại Việt năm 1406. Đó là việc của Vương triều Hồ. Chỉ biết rằng nhà Trần, bằng đường lối đối ngoại hợp lý, ít nhất cũng hòa hoãn được tình thế trước một đối thủ mới, đầy tham vọng xâm lược từ mặt bắc, để có được rảnh tay đối phó, dẹp yên mặt nam trong suốt gần 40 năm cuối thế kỷ XIV.
____________________________________________
1. Nhập Lễ: con người làm trò tên là Dương Khương. Vợ Dương Khương có mang, vào cung diễn trò “Vương mẫu hiến bàn đào”. Cung Túc vương Nguyên Dục là con trưởng của Dụ Tông thấy nàng đẹp, lấy làm vợ. Khi sinh ra Nhật Lễ, Dục nhận làm con mình. Dục chết vào năm 1364. Đến khi Trần Dụ Tông mất. Nhật Lễ được hoàng thái hậu đón về đưa lên ngôi.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd , t.II. tr.170. Thủy Vĩ thuộc vùng Lào Cai.
3, 4. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.172, 189.

III. LINH HOẠT NHƯNG KIÊN QUYẾT VỚI PHƯƠNG NAM

Trong quan hệ đối ngoại với các quốc gia phía nam vào thời Lý -Trần chủ yếu là quan hệ với Chiêm Thành. Như đã trình bày trong phần trên, ở mặt nam, tây nam, quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần, ngoài Chiêm Thành còn có các tộc Lão Qua (sử còn chép là Ai Lao) và Chân Lạp. Vào thời này Lão Qua, Chân Lạp từng có quan hệ giao hảo với Đại Việt dưới dạng cống nạp. Tuy nhiên, cũng có lúc không mấy êm ả vì hành động quấy rối cướp phá vùng biên địa khiến nhà nước Lý - Trần phải đem quân đánh dẹp. Nhưng các biểu hiện trên xuất hiện không nhiều, không phải là mối quan tâm chính của nhà nước thời này. Về phía nam, nhà nước Lý - Trần đặc biệt quan tâm đến Chiêm Thành. Điều đó có lý do và nguồn gốc lịch sử của nó.

Chiêm Thành và Đại Việt, mặc dù có lịch sử lập nước sớm, muộn khác nhau, có cội nguồn văn hóa văn minh khác nhau, nhưng đều là quốc gia nhỏ bé trong khu vực ở vào đường giáp ranh của hai nền văn minh lớn của phương Đông cổ đại. Thế nhưng từ khi lập nước (thế kỷ II) trên dải đất hẹp ven biển phía đông Trường Sơn, từ Đèo Ngang trở vào với các tên gọi Lâm Ấp (các thế kỷ II - VII), Hoàn Vương (các thế kỷ VIII - IX) rồi Chiêm Thành (Chăm Pa từ thế kỷ IX) họ vẫn thường xuyên cướp phá, tiến công bên ngoài dãy Hoành Sơn. Là cư dân nông nghiệp nương rẫy, kết hợp với ít nhiều lúa nước trải dọc ven biển, người Chiêm đồng thời rất thiện nghề biển. Họ thường tổ chức đánh phá Đại Việt bằng đường biển.

Bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ, thời quốc gia Đại Cồ Việt, năm 979 chúa Chiêm huy động đoàn chiến thuyền đưa Ngô Nhật Khánh, cựu sứ quân, Phò mã của vua Đinh, vì thù riêng đã chạy sang Chiêm Thành - theo đường biển vào vùng cửa sông Đáy ngày nay nhằm tấn công kinh đô Hoa Lư. Gặp bão tố, thuyền chiến bị đắm hết, chỉ có thuyền của chúa Chiêm thoát được về nước1. Sử còn chép vào năm 982 thời tiền Lê, Lê Hoàn đã cử Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ, bị Chiêm Thành bắt giữ. Đó là nguyên nhân khiến cùng năm Lê Hoàn tự làm tướng đi đánh, tiến công đến tận kinh đô Đồng Dương (Indrapura - Quảng Nam)2 “san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu”3. Cuộc chinh phạt kéo dài đến một năm trời. Mười nam sau, nhà nước Đại Cồ Việt thả hơn 360 người Chiêm bị bắt về nước.

Bước sang thời Lý - Trần, quan hệ Việt - Chiêm có thể nói là nhộn nhịp, nhưng ấm lạnh thất thường. Nếu như sự đe dọa cướp phá từ phía nam của Chiêm Thành là hiện tượng bề nổi tạo nên nỗi nhức nhối của nhà nước Lý - Trần, thì còn mối lo khác nặng nề hơn ở dạng tiềm ẩn. Đó là kẻ thù xâm lược phương Bắc rất có ý thức liên kết hoặc sử dụng đất Chiêm Thành để tấn công Đại Việt.

Trong cuộc xâm lược năm 1076, giặc Tống đã “ước hẹn với các nước Chiêm Thành và Chân Lạp cùng sang lấn cướp”. Sang thế kỷ XIII, trong các lần xâm lược của Nguyên Mông, Chiêm Thành từng có lúc là mục tiêu của chúng nhằm biến nước này thành địa bàn tiến công Đại Việt từ phía nam. Trong cuộc xâm lăng lần thứ hai, giặc Nguyên đã đánh Chiêm Thành từ năm 1282, tạo nên một gọng kìm thứ hai khá nguy hiểm do Toa Đô cầm đầu tiến vào Đại Việt năm 1285.

Từ những dẫn liệu trên, ta lưu ý đến mối quan hệ tay ba: Trung Hoa - Đại Việt - Chiêm Thành. Trước hết, Chiêm Thành và Đại Việt đều là đối tượng chinh phục, buộc phải thần phục của Tống, Nguyên, Minh. Trong mối quan hệ tay ba đó, Đại Việt rơi vào thế hai đầu đều bị uy hiếp, tạo nên tình trạng biên cương bắc- nam không yên ổn.

Cho đến cuối thời Lý, sử chép năm lần người Chiêm Thành quấy rối, cướp phá Nghệ An vào các năm 1132, 1166, 1177, 1203, 1218. Trong các lần quấy rối trên, có lẽ vụ xảy ra vào năm 1166 đời Lý Anh Tông, khi sứ Chiêm đến Ô, Lý, dùng quân phong thủy vượt biển cướp bóc vùng ven biển dẫn đến việc hành binh của Tô Hiến Thành năm 1167. Về vụ này, Việt sử thông giám cương mục chép rõ: “Hiến Thành đem quân đến nước Chiêm, đưa thư cho chúa Chiêm, quở trách vế việc không giữ lễ phiên thần, lại bày tỏ sự lợi hại để chiêu dụ. Chúa Chiêm sợ sai sứ sang dâng châu báu và những sản vật địa phương để xin hòa. Nhà vua y cho, hạ chiếu bảo Hiến Thành đem quân về”4. Toàn thư chép thêm “Từ đấy Chiêm Thành giữ lễ phiên thần, dâng cống không thiếu”5.

Đến đây, hơn hai thế kỷ quan hệ đối ngoại với Chiêm Thành, nhà nước thời Lý, bằng biện pháp cứng rắn là chủ yếu, đã đẩy lùi được Chiêm Thành, buộc chúa Chiêm phải cắt đất, thần phục, cống nạp. Chính sách đối ngoại với phương Nam của nhà Lý được các vua Trần kế tục mạnh mẽ, có chăng khác biệt ở biện pháp linh hoạt hơn. Thời Trần, Chiêm Thành thực hiện “nghĩa vụ phiên thần” dưới dạng cống nạp có phần đều đặn hơn, tuy không định kỳ. Tính đến đầu thế kỷ XIV, sử chép chín lần Chiêm Thành cống nạp vào các năm 1228, 1241, 1262, 1266, 1267, 1269, 1270, 1282, 1301. Ý nghĩa kinh tế của việc cống nạp này không đáng kể, chủ yếu về mặt chính trị: khẳng định uy thế của Đại Việt. Điều này chưa có được ở thời Lý. Sử cũ có cho biết từ khi nhà Lý suy yếu, người Chiêm Thành thường đến cướp bóc ven biển. Vua Trần Thái Tông sai sứ sang dụ. Chiêm Thành tuy có sang cống nạp nhưng muốn đòi lại đất cũ và có ý “nhòm ngó” Đại Việt, dẫn đến việc Trần Thái Tông thân chinh vào năm 1252, bắt được vợ chúa Chiêm, nhiều thần thiếp và người Chiêm6. Tiếp theo lần tiến đánh này, với ba lần đánh thắng giặc Nguyên -Mông dưới triều Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, chúa Chiêm sợ uy, chịu thần phục Đại Việt cũng là điều dễ hiểu. Với uy thế đã có, năm 1301 thượng hoàng Trần Nhân Tông (đã nhường ngôi cho Trần Anh Tông từ năm 1293) tổ chức cuộc vãn du nhiều nơi, có sang Chiêm Thành. Quan hệ giao hảo này dẫn đến cuộc hôn nhân lịch sử giữa công chúa Huyền Trân và chúa Chiêm là Chế Mân vào năm 1306. Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý làm sinh lễ. Một năm sau vào năm 1307, Trần Anh Tông đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận, châu Hóa (miền đất nam Quảng Trị, Thừa Thiên và bắc Quảng Nam ngày nay).

Nhưng lịch sử có những bất ngờ khôn lường. Cùng năm 1307, Chế Mân chết. Vua Trần sai Trần Khắc Chung sang Chiêm Thành lập mưu đưa Huyền Trân và thế tử Đa Da về nước, thoát khỏi tục lệ khắc nghiệt của vương quốc Chiêm, không bị lên giàn thiêu chết theo chồng. Từ đây, mối quan hệ Việt - Chiêm trở nên căng thẳng, có thể nói kéo dài hầu như suốt thế kỷ XIV. Miền đất Ô, Lý trở thành vùng tranh chấp.

Năm 1311, chúa Chiêm kế vị là Chế Chí có hành động chống Đại Việt. Trần Anh Tông xuất binh tiến vào kinh đô Chà Bàn bắt Chế Chí đem về, phong em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm là Á hầu, cho quyền giữ nước7.

Việc làm trên biểu thị quyết tâm của nhà Trần đẩy lùi Chiêm Thành, mở đầu một chặng mới trong quan hệ đối ngoại. Chúa Chiêm cũng tỏ ra không nhượng bộ. Thừa buổi suy yếu của vương triều Trần, đã nhiều lần Chiêm Thành tấn công Đại Việt vào các năm 1353, 1361, 1362, 1365, 1366 với mục đích đòi lại vùng đất hai châu Ô, Lý. Đặc biệt từ sau vụ Dương Nhật Lễ, Nghệ Tông lên cầm quyền (từ năm 1370) quan hệ Việt - Chiêm trở nên hết sức căng thẳng. Thời kỳ chiến tranh triền miên bắt đầu.

Vào thời gian này, như đã trình bày, về phương Bắc, Chu Nguyên Chương lên cầm quyền ở Trung Hoa, lập nên nhà Minh đã nhòm ngó, yêu sách Đại Việt. Trong khi đó, Chiêm Thành nhiều lần tấn công Đại Việt vào các năm 1371, 1376, 1377, 1380, 1382, 1383, 1389, 1390. Đã ba lần quân Chiêm vào tận Thăng Long (1371, 1377, 1378) khiến vua Trần phải lánh nạn, và một lần tiến đến kinh đô vào năm 1383. Hẳn rằng nhận thức được mối hiểm họa khó lường từ phía nam, các vua Trần đã tổ chức đánh trả quyết liệt. Trong cuộc chiến, nhiều lần người đứng đầu hai nước trực tiếp cầm quân và cũng đã có người bỏ mạng ở chiến trường. Đó là trường hợp vua Trần Duệ Tông bị phục binh Chiêm giết trong trận tiến công kinh đô Chà Bàn vào năm 1377 và chúa Chiêm là Chế Bồng Nga bị trúng tên chết ở Hải Triều (Nam Hà ngày nay) trong lần tấn công Đại Việt năm 1390.

Sau cái chết của Chế Bồng Nga, tình hình vương triều Vijaya không ổn định, nội bộ bất hòa, dẫn đến suy yếu. Trong khi đó, nhà nước buổi cuối Trần mà thực quyền trong tay Hồ Qúy Ly đã tích cực dùng biện pháp quyết liệt nhằm chấm dứt hiểm họa Chiêm Thành để rảnh tay chuẩn bị đối phó với họa xâm lăng của nhà Minh từ phía bắc. Cuộc hành quân của Hồ Hán Thương- con trai Hồ Qúy Ly và là vua thứ hai vương triều Hồ, vào năm 1402 buộc chúa Chiêm là Ba Đích phải dâng đất Chiêm Động, Cổ Lũy, đổi thành Thăng, Hoa, Tư Nghĩa, đưa biên giới phía nam của Đại Việt đến vùng Đức Phổ, Quảng Ngãi (bắc Nghĩa Bình ngày nay) đã chứng minh điều này.
_________________________________________
1, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I. tr. 211, 219; Việt sử thông giám cương mục. Sđd. t.III. tr. 11, 17.
2. Năm 999. Kinh đô Chiêm Thành chuyển về Chà Bàn (Vigaya - Bình Định).
4. Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.IV
5. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr. 346.
6. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II. tr. 84.
7. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr. 96.

IV. KẾT HỢP NGOẠI GIAO VỚI BIỆN PHÁP QUÂN SỰ NHẰM KẾT THÚC CHIẾN TRANH, BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG

Công cuộc phục hưng đất nước thời Lý - Trần đặt ra cho những người cầm đầu Đại Việt một yêu cầu bức thiết: chung sống hòa bình với các lân bang. Thế nhưng có được hòa bình hay không, không chỉ tùy thuộc vào nguyện vọng của Đại Việt. Mặt khác, đối với một dân tộc kiên cường, từng nhiều phen chống ách đô hộ của ngoại bang và cuối cùng đã giành được độc lập, tự chủ sau hơn một ngàn năm bị mất nước, thì không phải là hòa bình trong danh dự mà là hòa bình với độc lập tự chủ và lãnh thồ toàn vẹn.

Như đã trình bày, từ khởi nguyên lịch sử đã đặt quốc gia Văn Lang - Âu Lạc rồi Đại Cồ Việt - Đại Việt vào một vị trí địa lý khá đặc biệt. Vùng châu thổ không mấy rộng lớn nhưng màu mỡ, đồng thời là tụ điểm giao lưu trong khu vực từ bốn phía bắc, nam, tây, đông, cả đường biển lẫn trên đất liền. Với vị trí địa lý đó, người Đại Việt thời Lý - Trần có điều kiện tiếp xúc, hấp thụ những tinh hoa của các nguồn văn hóa, văn minh của nhân loại. Đó là một thuận lợi lớn. Nhưng với vị trí địa lý đó, trong quá trình hình thành, phát triển hoặc suy vong của các quốc gia thời cổ trung đại theo quy luật “mạnh được yếu thua”, nước Đại Việt lại trở thành mục tiêu nhòm ngó, thôn tính của các nước láng giềng. Chính vì vậy mà nhà nước thời Lý - Trần đã buộc phải nhiều lần huy động cả nước cầm vũ khí, và quân dân Đại Việt trở thành thiện chiến. Tuy nhiên, bên cạnh việc tổ chức chiến tranh giữ nước khi có ngoại xâm, còn một vấn đề không kém quan trọng là bảo vệ vùng biên cương, ngăn chặn những hành vi “gặm nhấm” diễn ra trong thời bình, chủ yếu ở mặt bắc. Ở mặt nam, tây nam, tuy có thường xuyên bị Chiêm Thành, Chân Lạp, Lão Qua quấy rối, lấn cướp1, nhưng nhà nước Lý - Trần đã ra quân đánh dẹp và giành được thắng lợi. Trong khi đó ở mặt bắc, nhà nước Lý - Trần phải đương đầu với một quốc gia mạnh do các vương triều Tống, Nguyên, Minh cầm đầu.

Quan hệ đối ngoại với Trung Hoa, từ đầu thời Lý cho đến khi nổ ra cuộc xâm lăng của nhà Tống, qua các hình thức cầu phong, thăm viếng, cống nạp..., ngoài mục đích giao hảo, cùng tồn tại hòa bình, còn hàm chứa một mục tiêu sâu xa do lịch sử để lại. Đó là việc xác định chủ quyền của Đại Việt ở vùng đất biên cương còn chưa được hoạch định rõ ràng, do các thổ tù, châu mục bản địa quản giữ và nhà nước thời Lý chưa quản lý được chặt chẽ. Hơn nữa, cư dân ở đây lại là các tộc thiểu số cùng sinh sống trên địa bàn thuộc vùng lãnh thổ biên cương của hai quốc gia Đại Việt và Trung Hoa. Về cư dân này, nhà sử học Đào Duy Anh đã có nhận định chính xác: “Đặt ở hai phía biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Móng Cái, tuy đã thuộc vào bản đồ của hai nước, nhưng cư dân đều là dân tộc thiểu số - quan trọng nhất là người Tày và người Nùng (xưa là Choang) - một bên thì chịu sự ky mi2 của chính trị và văn hóa Trung Quốc, một bên thì chịu sự ky mi chính trị và ảnh hưởng văn hóa của Việt Nam”3. Nhìn nhận từ góc độ khác về vùng biên cương phía bắc, tác giả Nguyễn Thế Anh viết: “Hiển nhiên, các thủ lĩnh địa phương đó không thừa nhận những quy phạm và giá trị của chế độ quan liêu khổng giáo. Họ dễ mua chuộc và chia rẽ cũng như khó khuất phục và hợp nhất. Từ đó, họ tạo thành yếu tố rối động cho hai chính quyền Việt Nam và Trung Hoa, những hành động không hợp thời của họ (đột kích, xâm phạm biên giới) có thể là nguyên nhân xung đột (giữa hai nước)”4.

Trước tình hình phức tạp của vùng đất biên cương phía bắc như vậy, nhà nước Lý - Trần, về đối nội, đã kết hợp biện pháp mềm dẻo (trao quyền tự quản, gả công chúa cho thổ tù, châu mục - chủ yếu ở thời Lý) với biện pháp cứng rắn, hành quân đánh dẹp khi cần thiết để thực hiện quyền quản lý của nhà nước. Về phía đối ngoại đã tỏ thiện chí, phối hợp hành động, hoặc kịp thời dẹp yên để tránh những xung đột đáng tiếc nhằm giữ yên biên cương.

Điển hình cho vụ rắc rối biên cương vào thời này có lẽ là vụ Nùng Trí Cao xảy ra từ năm 1041, bắt đầu bằng việc giữ động Lôi Hỏa, Thảng Do (đều thuộc Cao Bằng ngày nay) lập nên nước Đại Lịch. Tất nhiên Nùng Trí Cao bị chính quyền nhà Lý (thời Lý Thái Tông) đánh dẹp. Trí Cao bị bắt, nhưng được vua Lý tha, lại cho thêm đất để tự quản. Phục tùng nhà nước thời Lý được bảy năm, đến năm 1048, Trí Cao lại giữ động Vật Ác (tây bắc Cao Bằng) chống lại triều đình. Bị nhà Lý đánh, Trí Cao phải hàng. Năm 1049 Trí Cao đem quân vào đất Tống, cướp phá Ung Châu. Năm 1050 Trí Cao giữ động Vật Dương lập nước Nam Thiên. Năm 1052, Trí Cao xưng Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam, xin quy phụ nhà Tống. Không được chấp nhận, Trí Cao đánh đất Tống, bị nhà Tống đánh bại, bị giết ở Đại Lý (Vân Nam) vào năm 10535. Trong khi đánh dẹp Trí Cao, nhà Tống sai Lương Châu sang Đại Việt xin binh. Lý Thái Tông xuống chiếu cho Điện tiền chỉ huy sứ Vũ Nhĩ làm chiêu thảo sứ tiếp viện cho nhà Tống, nhưng Tống Địch Thanh can vua Tống, liên minh không thành6.

Tuy nhiên, biên cương phía bắc không phải lúc nào cũng giải quyết được thuận lợi dễ dàng, đặc biệt khi hành động xâm lược đã thành hiện thực và chiến tranh vệ quốc không tránh khỏi với Đại Việt. Nếu như trong ba lần chống giặc Nguyên - Mông thời Trần, quân dân Đại Việt đã quét sạch giặc, thu hồi toàn bộ đất đai, thì ở thời Lý, trong cuộc kháng chiến chống Tống, vấn đề phức tạp hơn nhiều. Sử sách cho biết tháng 1 - 1077 quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết cầm đầu, theo hai đường thủy, bộ tiến vào Đại Việt, hẹn với Chiêm Thành, Chân Lạp cùng sang xâm lấn. Âm mưu lôi kéo Chiêm Thành, Chân Lạp không thành; giặc Tống bị quân dân Đại Việt, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, chặn đứng và tiêu diệt nặng ở Như Nguyệt (sông Cầu). Sau khi đẩy giặc vào thế cùng, tiến thoái đều khó khăn, Lý Thường Kiệt chuyển sang kế đuổi giặc và thu hồi đất đai bằng biện pháp “dùng biện sĩ để bàn hòa. Không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu mủ mà bảo an được tông miếu”7. Sứ giả của Lý Thường Kiệt là Kiều Văn Úng đến quân doanh Quách Quỳ hẹn với nhà Tống: “xin hạ chiếu rút đại binh về thì sẽ lập tức sai sứ sang tạ tội và triều cống”8 chấp nhận “chỗ nào quân Tống đã chiếm được là của đất Tống”9... Đề nghị bàn hòa của Lý Thường Kiệt đã mở lối thoát cho Quách Quỳ và Triệu Tiết. Tháng 3 - 1077, quân Tống rút về nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, với Lý Thường Kiệt xuất hiện sự phối hợp “vừa đánh vừa đàm” để giành thắng lợi trong giữ nước. Tuy nhiên, sau khi giặc rút quân, các vùng đất Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Mậu, Môn, Quang Lang (thuộc Cao Bằng, Bắc Lạng Sơn ngày này) tạm thời do nhà Tống chiếm giữ lập tức được đặt ra với người cầm đầu nhà nước Đại Việt. Đồng thời với việc rút quân của giặc, quân ta chiếm lại các đất Quang Lang. Tư Lang10, Môn và phao tin sẽ chiếm lại Quảng Nguyên, Tô Mậu, dọn đường cho hoạt động đối ngoại giành lại phần lãnh thổ còn bị giặc chiếm giữ.
______________________________________
1. Lão Qua, tức Ai Lao đã nhiều lần quấy rối, lấn cướp vừng Tây Bắc, tây Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay vào các năm 1297, 1301, 1329, 1334, 1346 đều bị Đại Việt đẩy lùi.
2. Ràng buộc lỏng lẻo.
3. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, tr. 188.
4. Nguyễn Thế Anh: “La frontière Sino - Vietnamiene du xième au XVII ème Seiècle” trong Les frontiènes du Việt Nam, nhiều tác giả, Nxb L’ Harmatan, Paris, 1989, t.69.
5. Tham khảo Việt sử lược, tr. 84 - 92. Tống sử “Liệt truyện” Địch Thanh và phần “Giao Chỉ”, tài liệu đã dẫn. Đại Việt sử ký toàn thư, t.I, tr. 270, 273, 277, 279, 280.
6. Tham khảo Việt sử lược, Sđd, tr. 84 - 92; Tống sử “Liệt truyện” Địch Thanh và phần “Giao chỉ”. tài liệu đã dẫn, Đại Việt sử ký toàn thư, t.I, tr. 270, 273, 277, 279, 280.
7. “Bia chùa Linh Xứng” – Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, q.2, tr. 293.
8, 9. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt. q.II, tr. 293 - 294.
10. Theo Tống sử Thần Tông, chép “Năm Hy Ninh thứ 10 (1077) tháng 2 quần thần dâng biếu về việc lấy lại được những châu Quảng Nguyên và Tô Râu, đổi Quảng Nguyên thành Thuận Châu”.

Liền sau khi giặc rút quân, vua Lý Nhân Tông cử Lý Kế Nguyên đến biên giới bàn việc dâng biểu đòi lại đất. Trong biểu có phạm húy nhà Tống, Triệu Tiết lúc này vẫn lưu giữ Quế Châu và sung chức An phủ sứ Quảng Tây không nhận, đề nghị chữa lại và tâu về triều với gợi ý: “Người Giao sai tụi Lý Kế Nguyên tới biên giới cùng với quân ta bàn việc. Tôi muốn bảo quân ta lấy ấn tín triều đình mà hiểu dụ Càn Đức, ra lệnh cho y trả lại những nhân khẩu đã cướp, rồi triều đình sẽ cấp đất cho”1. Vua Tống bằng lòng.

Đầu năm 1078, Vua Lý “sai Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tống năm con voi và xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và những người các châu ấy bị bắt”2.

Để đổi lại. vua Tống đòi tha số người bị bắt giữ trước đây. Năm 1079 vua Lý trả cho nhà Tống 221 người về nước bằng đường biển3. Nhà Tống trả lại đất Thuận Châu (tức là đất Quảng Nguyên)4.

Để tiếp tục giành lại các vùng đất chưa đòi được, nhà Lý một mặt, cử sứ giả sang nhà Tống năm 1082 cống hai con voi, 100 chiếc sừng tê, ngà voi để xin đất5, mặt khác, năm 1083 lại cho quân tập trung dọc biên thùy gần châu Quy Hóa mà Tống sử chép “lấy cớ đi tầm nã Nùng Trí Cao”6. Năm 1084, vua Lý sai thị lang bộ binh Lê Văn Thịnh - người đỗ đầu khoa minh kinh bác học đầu tiên vào năm 1075 - tới trại Vĩnh Bình (Quảng Tây) cùng với Tả giang tuần kiểm ty nhà Tống là Thành Trạc hội bàn về việc cương giới7. Phái viên của nhà Tống chỉ trả lại đất đã chiếm giữ trong cuộc hành binh năm 1077. Những đất do tù trưởng dâng nộp từ trước không thuộc diện bàn trả. Lê Văn Thịnh đã biện luận: “Đất thì có chủ. Các viên coi giữ đất mang nộp và trốn đi thì đất ấy trở thành vật của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép. Huống chi nay chúng lại mang đất trộm dâng để làm nhơ bẩn sử sách của nhà vua”8. Lê Văn Thịnh còn tỏ thái độ khiêm nhường, ông nói: “Kẻ bồi thần này không dám tranh giành”9. Tinh thần đó của phái bộ Đại Việt còn toát lên trong thư Văn Thịnh gửi cho Hùng Bản, một nho thần xuất thân tiến sĩ, coi giữ Quế Châu như sau: “Thành Trạc đã nói sẽ vạch địa giới ở phía nam 18 xứ sau này: Thương Điện, Hạ Lôi, Ôn Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật Ác, Kế Thành, Cống, Lục, Tần, Nhân, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện và nói những xứ ấy đất thuộc Trung Quốc. Bồi thần tiểu tử này chỉ biết nghe mệnh, không dám cãi lại. Nhưng những đất ấy, mà họ Nùng đã nộp đều thuộc Quảng Nguyên. Nay may gặp thánh triều ban bố hàng vạn chính lệnh khoan hồng, sao lại chuộng những miếng đất đấy sỏi đá, lam chướng này mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại thần”10. Qua thương nghị ở Vĩnh Bình, nhà Tống trả lại cho Đại Việt “6 huyện 3 động”11. Đời Lý Nhân Tông đã nhiều lần đòi đất Vật Dương, Vật Ác nhưng nhà Tống không nghe12.

Như vậy, trong buổi đầu phục hưng, nước Đại Việt đã phải đương đầu với đội quân xâm lược của nhà Tống. Nhà nước thời Lý đã kết hợp cả quân sự và ngoại giao để sớm chấm dứt chiến tranh, kiến tạo hòa bình. Tiếp theo sức mạnh vũ khí ở chiến trường là hoạt động đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo để bảo toàn lãnh thổ biên cương. Tuy nhiên, vẫn còn phần đất mà các thổ tù đã nộp cho nhà Tống từ trước không đòi lại được.

Nhà Trần thay nhà Lý cầm quyền từ năm 1225. Với ngót hai thế kỷ hòa bình xây dựng (từ năm 1077 đến năm 1258), quốc gia Đại Việt đã đủ sức đánh tan ba cuộc xâm lược Nguyên Mông xảy ra trong vòng 30 năm trời (từ 1258 đến 1288). Lúc này, cho dù quân Nguyên Mông có mạnh nhưng thế và lực của Đại Việt đã vững vàng, do đó, không chỉ đuổi được giặc mà còn giữ vững được biên cương.

Sử có cho biết vào năm 1345 đời Trần Dụ Tông, nhà Nguyên đã sai sứ giả Vương Sĩ Thành sang hỏi về cột đồng. Vua Trần sai Phạm Sư Mạnh đi biện bạch rồi cũng yên chuyện13. Chắc hẳn nhà nước thời Trần không quên việc tương tự đã xảy ra hơn 70 năm trước (năm 1272): Hốt Tất Liệt sai người sang hỏi về cột đồng Mã Viện, vua Trần Nhân Tông sai viên ngoại lang Lê Kính Phu đi hội khám, trả lời: “dựng lâu năm đã bị mai một, không còn tung tích gì nữa”14. Bấy giờ nhà Nguyên còn đang ở thế mạnh, giờ đây nhà Nguyên đã bước vào giai đoạn suy yếu, do đó, biên cương của Đại Việt cũng yên ổn.

*
*   *


Hoạt động đối ngoại của bất cứ một nhà nước nào, xét cho cùng đều thông qua mối quan hệ với các quốc gia hữu quan nhằm thực hiện có hiệu quả công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước của mình. Để thực thi hoạt động đối ngoại có hiệu lực, trước hết tùy thuộc vào sự sáng suốt của nhà nước. Đó là “biết mình, biết người” là nhận thức đúng đắn các mối tương quan lực lượng, xác định lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của dân tộc để đề ra được đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn đối với từng đối tượng trong từng trường hợp và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Chính sách đó được thể hiện thông qua biện pháp cụ thể với những hình thức linh hoạt, phong phú và đa dạng.

Từ thế kỷ XI, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các nhà nước thời Lý - Trần đã khá rõ ràng. Đó là giữ vững nền độc lập dân tộc, khôi phục, xây dựng đất nước, tạo thế đứng cho quốc gia phát triển thịnh vượng.

Vào các thế kỷ XI - XIV khu vực Động Nam Á lục địa đã trải qua nhiều biến động trước làn sóng thiên di của người Thái tràn về phía nam, trước sự tranh giành, phân chia lãnh thổ giữa các bộ tộc, các quốc gia đã và đang trên con đường xác lập. Trong bối cảnh đó, có quốc gia hưng thịnh, oanh liệt một thời để nhanh chóng rơi vào cảnh suy tàn như Chân Lạp - đế quốc Ăng Co, hoặc trải qua nhiều sóng gió để đi đến lập nước như Lạng Xạng (Lào), Sukhôthai (Thái) hoặc bị thôn tính, sáp nhập hoàn toàn như Đại Lý ... Trong khi đó quốc gia Đại Việt có lịch sử dựng nước lâu đời, từng trải qua thăng trầm, đang bước vào thời ky phục hưng trong thế bị kẹp vào giữa hai quốc gia mạnh yếu. rộng hẹp khác nhau, nhưng đều có lịch sử dựng nước từ một đến nhiều thiên niên kỷ trước và có quan hệ không mấy êm đẹp.

Trước tình thế bất lợi của nhà Trần, vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XIV, Trần Nguyên Đán khuyên vua nhường để mong được yên15.

Trong mối quan hệ khu vực, láng giềng như trên, các nhà nước Lý - Trần không chỉ biết mình mà còn biết khá rõ về người, do đó tỏ ra sáng suốt, linh hoạt trong đối ngoại.

Lịch sử đã chứng minh trong suốt bốn thế kỷ, nhà nước Lý - Trần đã động viên nhân dân cầm vũ khí chiến đấu anh dũng đánh thắng mọi cuộc xâm lăng từ hai phía bắc, nam để đất nước Đại Việt tồn tại vững mạnh trong khu vực. Trên cơ sở sức mạnh kiên cường đó, nhà nước thời Lý - Trần có một chính sách đối ngoại khôn ngoan đối với từng đối tượng: mềm dẻo, nhún nhường có điều kiện và kiên quyết đối với Trung Hoa, vừa linh hoạt vừa cứng rắn với Chiêm Thành. Sự kết hợp giữa sức mạnh của vũ khí với chính sách đối ngoại đó đã bảo đảm thế chủ động của Đại Việt trong cuộc cạnh tranh mất còn theo quy luật “mạnh được yếu thua” giữa các quốc gia đang diễn ra trong khu vực trong thời đại phong kiến.

Bảo vệ được độc lập tự chủ, giữ vững biên cương phía bắc, đẩy lùi Chiêm Thành về phía nam là sức mạnh của Đại Việt thời Lý - Trần, trong đó, hoạt động đối ngoại góp phần không nhỏ. Thời đại đặt ra những vấn đề và được giải quyết theo những quy luật của thời đại đó, hoạt động đối ngoại của nhà nước Lý - Trần là sản phẩm lịch sử chịu sự chi phối và quy định của lịch sử.
____________________________________________
1. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, tr. 314.
2. Đại Việt sử ký toàn thư. t.I, tr. 293
3, 4. Việt sử thông giám cương mục, t.III. tr. 95-96.
5. Tống sử, tài liệu đã dẫn - việc này sử cũ của ta không chép.
6. Theo Tống sử, tài liệu đã dẫn. Thực ra Nùng Trí Cao đã chết từ năm 1053, có lẽ tầm nã dư đảng của Nùng Trí Cao thì đúng hơn.
7. Theo Việt sử lược, Sđd, tr. 115; Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. t.I: tr. 294; Việt sử thông giám cương mục. t.III, tr. 97, vỉệc này, Tống sử phần “Giao Chi”, chép vào năm 1083.
8. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, sđd, tr. 337.
9. Việt sử thông giám cương mục. t.III. tr. 97.
10. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 338.
11. Việt sử thông giám cương mục, theo Danh tiết lục của Trần Kỳ Đằng chép rõ 6 huyện Bảo Lạc và 6 động Túc Tang. Tống sử, tài liệu đã dẫn: chép “6 huyện Bắc Lạc và hai động Túc Tang”. Toàn thư chỉ chép “6 huyện 3 động”. Các tác giả Việt sử thông giám cương mục trong lời cẩn án, nghi ngờ địa danh Bảo Lạc và Túc Tang vì Tống chưa hề chiếm đất này và cho rằng có thể 6 huyện ở động này là đất Quang Lang, Tư Lang mà nhà Tống đã nhập vào Quảng Nguyên, đổi thành Thuận Châu. Ban đầu (năm 1079) nhà Tống trả phần Quảng Nguyên (một phần của Thuận Châu) đến đây, định biên giới thì trả lại hết, Sđd, t.III. tr. 97, 98.
12. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.129. Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời, đất Vật Ác do Tông Đản và con nộp cho Tống vào năm 1062, Tống đổi thành Thuận An. Vật Dương là đất Nùng Trí Hội đem nộp, Tống đổi là Quy Hóa, có thể là khoảng châu Quy Thuận (Quảng Tây) giáp tây bắc Cao Bằng ngày nay, tr.190.
13. Đại Việt sử ký toàn thư, t.II: tr.129.
14. Đại Việt sử ký toàn thư, t.II: tr.37.
15. Đại Việt sử ký toàn thư, t.II: tr.181.

KẾT LUẬN

Lịch sử trung đại nước ta từng trải qua một thời cực kỳ oanh liệt với những thành tựu lớn lao trong lao động dựng nước và chiến đấu giữ nước. Đó là thời kỳ Lý - Trần trải qua bốn thế kỷ, từ thế kỷ XI đến hết thế kỷ XIV.

Dựng nước và giữ nước, hai nhiệm vụ khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ, là tiền đề, đồng thời là điều kiện của nhau. Dựng nước để giữ nước và ngược lại. Thời Lý - Trần với nền văn hóa Thăng Long rực rỡ, với những chiến thắng vang dội chống mọi thế lực xâm lược lớn nhỏ, bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc, mở ra kỷ nguyên Đại Việt huy hoàng là bằng chứng hùng hồn về sức sống của dân tộc ta.

Từ một cái nhìn bao quát, đặt vấn đề chiến đấu giữ nước trong quá trình vận động và phát triển lịch sử từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, ta có thể thấy “chìa khóa” của vấn đề giữ nước cũng là kế sách giữ nước thời Lý- Trần.

Xây dựng được một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh gắn bó với nhân dân, một tổ chức quân đội tinh nhuệ, thiện chiến, nòng cốt của lực lượng vũ trang rộng khắp, một khối đoàn kết toàn dân, với quyết tâm tất cả vì độc lập, tự chủ và giàu mạnh của đất nước, một đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt, trên tinh thần hòa hiếu, là những bộ phận hợp thành cơ bản nhất trong kế sách giữ nước của thời kỳ này.

Nhà nước trung ương tập quyển thời Lý - Trần, trong giới hạn của thời đại, không thể nào khác ngoài nhà nước quân chủ phong kiến phương Đông, theo mô hình Đường, Tống, được định hướng từ thế kỷ X - sản phẩm của quan hệ giao lưu văn hóa trong khu vực, đặc biệt là ảnh hưởng của văn hóa văn minh Trung Hoa.

Kế tục sự nghiệp của các nhà nước thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, nhà nước Lý - Trần phát triển một mức cao hơn nhiều trong củng cố bộ máy quản lý đất nước từ trung ương (triều đình) cho đến cơ sở (hương - giáp - xã). Việc đặt cấp xã quan vào năm 1242, thời Trần Thánh Tông là một cột mốc quan trọng. Việc xây dựng hệ thống chính quyền quân chủ tập trung thực chất là sự tiến công, thu hẹp nhưng không bãi bỏ quyền tự quản của địa phương, nhất là làng xã và ở vùng các dân tộc thiểu số. Điều đó cũng có nghĩa là, với một bộ máy hành chính tập quyền mạnh, nhà nước quân chủ Lý - Trần đã trực tiếp quản lý có hiệu lực lãnh thổ và cư dân đến tận cơ sở. Riêng ở miền rừng núi biên viễn, địa bàn cư trú của các tộc ít người thì quản lý bằng cách giao cho thổ tù, châu mục người bản địa coi giữ, có sự ràng buộc, giám sát của nhà nước.

Với một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh, có thể dẫn đến hai hệ quả trái ngược. Một là tạo nên một chế độ chuyên chế hà khắc, lấy lợi ích của vương triều làm mục đích, coi dân như cỏ rác, nhà nước trở thành cừu thù của dân, là tai họa cho đất nước, cho dân tộc trước nạn xâm lăng của giặc ngoài. Nhà nước quân chủ Nguyễn thế kỷ XIX là một thí dụ điển hình. Hai là gắn bó với dân, xứng đáng tiêu biểu cho nguyện vọng và ý chí của dân, do đó nhà nước đủ uy tín tập hợp sức mạnh các tầng lớp nhân dân, xây dựng sự phồn vinh của đất nước, cuộc sống yên ổn lạc nghiệp của nhân dân, tạo thành sức mạnh vô địch của dân tộc. Đây là trường hợp của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền Lý - Trần. Điều này được biểu hiện không chỉ ở ý thức dân tộc mạnh mẽ, ở tính cách nhân từ, khoan dung của các vua, đặc biệt ở buổi đầu vương triều như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông mà còn ở toàn bộ chính sách của nhà nước bao quát các lĩnh vực mở mang kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định xã hội. Những chính sách trên, nói chung, nhằm vun trồng, nuôi dưỡng, khoan thư sức dân, tạo nên một xã hội văn minh, ổn định và phát triển hài hòa. Đặc biệt trong công cuộc chống giặc giữ nước, hoàng đế, vương hầu, quý tộc - bộ phận đầu não của bộ máy nhà nước - tỏ ra là những người kiên quyết nhất, gương mẫu nhất; tên tuổi vâ công tích của họ được lịch sử mãi mãi ghi nhớ. Chính vì vậy, trước nạn ngoại xâm, nhà nước Lý - Trần có khả năng và đã thực sự huy động được tiềm lực của toàn dân, tập hợp được cả nước chống giặc, giữ vững sự toàn vẹn lãnh thồ của đất nước.

Nói rõ hơn, đó là một nhà nước trung ương tập quyền mạnh mà không chuyên quyền cực đoan, thân dân, biết đặt lợi ích của vương triều trong lợi ích của dân tộc, gắn vận mệnh của vương triều với vận mệnh của Tổ quốc. Với đặc điểm ưu việt đó, nhà nước thời Lý - Trầncó uy tín và sức mạnh tập hợp trí tuệ, huy động nhân lực, tài lực, vật lực của mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến nô tỳ, đề ra đúng đắn chiến lược, chiến thuật chiến tranh giữ nước, vượt qua mọi khó khăn, gian nguy giành thắng lợi cuối cùng.

Tuy nhiên, nói đến chiến tranh, đặc biệt ở thời trung đại dù dưới bất cứ loại hình nào, cũng chủ yếu là sự đọ sức trực tiếp của lực lượng vũ trang trên chiến trường. Trong cuộc đọ sức này số lượng, chất lượng, quyết tâm chiến đấu của quân đội, tài thao lược của đội ngũ tướng lĩnh, là những yếu tố mang tính quyết định.

Thời Lý - Trần, sau bước dò dẫm, thử thách ban đầu vào thế kỷ X, việc phục hưng và xây dựng đất nước giàu mạnh, có thể nói được đặt ra như một mệnh lệnh của lịch sử. Thế nhưng, trong bối cảnh chính trị ở khu vực còn nhiều biến động, đặc biệt trong quan hệ với các lân bang, tham vọng xâm lược, tái nô dịch của Tống, Nguyên; lấn chiếm, quấy phá, cướp bóc của Chiêm Thành đã thực sự là nguy cơ thường trực. Vì vậy, để bảo vệ nền độc lập tự chủ, bảo đảm hòa bình cho sự nghiệp xây dựng đất nước, việc xây dựng một lực lượng vũ trang quốc phòng mạnh, sẵn sàng đập mọi kẻ thù xâm lược lớn nhỏ luôn luôn được đặt ra cấp bách, đồng thời với công cuộc phục hưng đất nước.

Từ thành tựu trong xây dựng lực lượng vũ trang thời Ngô - Đinh - tiền Lê, nhà nước quân chủ Lý - Trần đã có ý thức phát triển một lực lượng quân sự mạnh mẽ gồm nhiều thứ quân: quân chính quy của triều đình gồm Cấm quân và Sương quân; quân địa phương ở các lộ, phủ, châu; quân vương hầu và hương binh với lực lượng dân quân ở hương, giáp, xã. Nếu như trong quân chính quy, Cấm quân bảo vệ kinh đô và triều đình, Sương quân cùng quân các lộ chia nhau canh giữ nơi hiểm yếu và các trung tâm lộ phủ, thì gia binh của vương hầu gắn liền với chính sách ban cấp thái ấp, được phân bố ở những vùng trọng điểm của đất nước. Trong khi đó dân binh, hương binh từ nguồn tráng đinh lại có mặt ở khắp mọi miền theo đơn vị hành chính cấp cơ sở.

Từ một nhìn nhận bề ngoài, điểm các loại binh ta thấy hiện ra một lực lượng vũ trang khá đông đảo. Có thể nói mỗi tráng đinh là một người lính, mỗi thôn xã là một pháo đài có thể độc lập tác chiến. Mặt khác, ta cũng dễ dàng nhận thấy đây là nguồn nhân lực chủ chốt trong lao động sản xuất dựng nước. Để giải quyết mâu thuẫn về nhân lực đặt ra trong hai nhiệm vụ chiến đấu giữ nước và lao động dựng nước, nhà nước đã thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. Trong lực lượng chính quy, trừ Cấm binh, còn lại đều thay phiên nhau về làm ruộng. Riêng gia binh và hương binh có nhiệm vụ phục dịch, sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, được luyện tập chiến đấu bảo vệ hương, giáp, xã, trang ấp. Đây là nguồn hậu bị lớn lao, được huy động sung vào các đội quân của vương hầu hoặc giao cho các tướng lĩnh điều khiển khi có chiến tranh. Với chính sách “ngụ binh ư nông” nhà nước Lý - Trần luôn luôn sẵn sàng có một số lượng các loại quân hậu bị đông đảo, mà không ảnh hưởng đến sản xuất, đồng thời giảm đến mức tối đa gánh nặng nuôi quân. Cũng từ đó, nhà nước tạo nên được tình trạng ổn định trong việc phân bố lao động lúc thời bình và kịp thời động viên thời chiến.

Quân đội thời Lý - Trần được rèn luyện và trang bị chu đáo. Ở Thăng Long có điện Giảng võ hay Giảng Võ đường, được quan niệm như một trung tâm huấn luyện, đào tạo tri thức quân sự, kỹ năng kỹ thuật chiến đấu cho người cầm quân. Còn tại các địa phương, các binh chủng, quân lính đến phiên tại ngũ được thường xuyên luyện tập. Chính vì thế, quân đội thời Lý - Trần càng nổi tiếng hùng mạnh và lập được nhiều chiến công lừng lẫy.

Trong các binh chủng đủ loại, triệt đề lợi dụng ưu thế địa hình nhiều sông ngòi và truyền thống sông nước của nhân dân, thủy binh được đặc biệt coi trọng. Cũng như việc chế tạo vũ khí chiến cụ, chiến thuyền hầu như đã trở thành một công nghệ được chú ý đầu tư xây dựng. Trong chiến đấu đẩy lùi giặc Bắc, dẹp yên mặt nam, thủy binh đã tỏ ra có ưu thế và hiệu quả nổi bật. Cùng với thủy binh, hương binh giữ một vị trí trọng yếu trong lực lượng vũ trang thời Trần, với ý nghĩa chiến đấu tại chỗ bảo vệ xóm làng và bổ sung kịp thời cho chính binh theo yêu cầu khẩn cấp của chiến đấu giữ nước. Trên cơ sở đội quân hương binh này mà vua Trần đã phát lệnh cho cả nước nơi nào có giặc thì phải ra sức tiêu diệt giặc, hình thành thế cả nước chống giặc và đã xuất hiện những “làng chiến đấu” với vết tích còn lại đến ngày nay. Cũng vì vậy mà có lực lượng hậu bị to lớn: “Hoan, Diễn, do tồn thập vạn binh”.

Một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh biết gắn bó và quan tâm đến đời sống của nhân dân, có hiệu lực trong huy động và tổ chức cả nước chống giặc, một lực lượng quân đội hùng mạnh, đông đảo với chính sách “ngụ binh ư nông” là hai yếu tố cực kỳ trọng yếu trong kế sách giữ nước thời Lý - Trần. Cực kỳ quan trọng bởi vì thiếu một trong hai yếu tố đó thì sẽ không tiến hành được công cuộc chống giặc, giữ nước. Tuy những điều này rất quan trọng, nhưng chưa đủ để bảo đảm chống giặc thắng lợi. Những yếu tố đó chỉ phát huy được hiệu lực trên cơ sở khối đoàn kết toàn dân, tạo được thế vua tôi đồng lòng, cả nước góp sức, “chúng chí thành thành”.

Vẫn hay rằng trước quốc nạn, những mâu thuẫn trong nội bộ thường được gác lại nhằm tập trung sức chống giặc giữ nước. Nhưng lịch sử đã diễn ra không hẳn thời nào cũng như vậy. Trường hợp vương triều Hồ chống giặc Minh vào đầu thế kỷ XV bị thất bại là một ví dụ. Để có được khối đoàn kết toàn dân vững chắc không thể là kết quả của năm, của tháng; càng không thể đợi đến khi có giặc mới xây dựng. Ở đây có vai trò của nhà nước, mặc dù đoàn kết, yêu thương, đùm bọc vốn là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Một nhà nước quan liêu chuyên chế, đối lập với lợi ích của nhân dân tuyệt nhiên không thể tập hợp được dân chúng. Cụ thể hơn, nhà nước trung ương tập quyền một khi trở thành quan liêu chuyên chế, lấy lợi ích của vương triều làm mục đích cai trị, thì nhà nước đó không có khả năng đề ra và ban hành những chính sách có hiệu quả để thu phục lòng người, gắn bó các tầng lớp xã hội khác nhau về vị trí, lợi ích và nguyện vọng thành một khối như nhà nước quân chủ Nguyễn sau này.

Thời Lý -Trần, do tính chất tiến bộ trong thời kỳ đi lên của nó, nhà nước quân chủ trung ương tập quyền đã tạo nên được một xã hội phát triển với các mối quan hệ gần gũi, chan hòa từ trong cung đình cho đến hương, giáp, xã. Sự cách biệt giữa vua - tôi, giữa các đẳng cấp xã hội từng xuất hiện nhưng chưa sâu sắc, đặc biệt từ giữa thế kỷ XIV về trước. Nho giáo được nhà nước tiếp thụ có chọn lọc và chưa chiếm vị trí độc tôn. Những người đứng đầu nhà nước chủ trương sử dụng Nho giáo như một học thuyết trị nước, đào tạo quan lại, nhưng lại là đệ tử của Phật. Họ còn lập ra thiền phái riêng của nước Đại Việt. Đó là phái Thảo Đường (nhà cỏ) thời Lý, phái Trúc Lâm (rừng tre) thời Trần đề cao phương châm nhập thế, thuyết tại tâm. Chính vì vậy, Phật giáo đạt đến cực thịnh ở thời Lý, còn khá mạnh mẽ ở thời Trần và được quan niệm như quốc giáo. Qua hiện tượng này ta biết được hệ tư tưởng bao trùm trong xã hội thời Lý - Trần là từ bi, bác ái của nhà Phật. Phật giáo ở thời kỳ này kết hợp hài hòa với những tín ngưỡng dân gian bản địa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước đã thực sự là chất men kích thích và kết dính mọi thành viên xã hội trong cuộc sống đời thường cũng như trong chiến đấu giữ nước. Phật giáo có ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân. ảnh hưởng của nho giáo có hạn. Đây là đặc trưng của thời Lý - Trần , khác với thời Lê Sơ - thế kỷ XV về sau. Đặc trưng này đã chi phối đường lối, chính sách quản lý của nhà nước phong kiến quân chủ trung ương tập quyền Lý - Trần, hướng về nhân ái, khoan dung, phù hợp với tâm tư tình cảm và lợi ích của các tầng lớp xã hội. Thời Lý - Trần, sự phân hóa xã hội đã rõ nét được vận hành theo nguyên lý đó và trên đại thể đã tạo nên được mối liên kết chặt chẽ trong thời bình cũng như thời chiến. Đó là khối đồng tâm nhất trí toàn dân, bao gồm từ hoàng đế, vương hầu quý tộc đến tầng lớp tận cùng xã hội là nô tỳ. Trên cơ sở này việc tổ chức, điều hành công cuộc chống xâm lược của nhà nước, sức mạnh của lực lượng vũ trang phát huy hiệu lực to lớn và giành được nhiều chiến công oanh liệt.

Một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh gắn bó với dân, một tổ chức quân đội tinh nhuệ thiện chiến, một khối đoàn kết toàn dân trên dưới một lòng là ba nhân tố cơ bản nhất của kế sách giữ nước thời Lý - Trần. Từ đó các mặt xây dựng kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, đường lối ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo trên cơ sở bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc được nhà nước Đại Việt coi trọng và phát huy tác dụng.

Trong mối quan hệ quốc tế, trước hết là đối với các lân bang, nhà nước Lý - Trần không chỉ tỏ ra biết mình mà còn biết người, hiểu thời và biết thế, do đó, đã thực hành đường lối đối ngoại sáng suốt, linh hoạt. Trải qua bốn thế kỷ, nước Đại Việt đã tồn tại vững mạnh, có uy tín. Trên cơ sớ sức mạnh chính trị, kinh tế và quân sự, nhà nước Lý - Trần có một chính sách đối ngoại đúng đắn đối với từng đối tượng: kiên quyết, mềm dẻo, nhún nhường có điều kiện với nước lớn; khoan hòa linh hoạt nhưng nghiêm khắc với nước nhỏ ... Sự kết hợp giữa các sức mạnh nội tại với đường lối ngoại giao khôn khéo đã đem lại hiệu quả to lớn: bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, giữ vững hòa bình để xây dựng đất nước.

Một lần đánh thắng Tống, ba lần đánh thắng Nguyên - Mông, bảo vệ biên cương phía Bắc. Nhiều lần đánh thắng Chiếm Thành, đẩy lùi hiểm họa phía Nam, tạo cho đất nước một thế đứng vững chãi chứng minh hùng hồn cho kế sách giữ nước đúng đắn sáng tạo của tổ tiên ta.

Trên sáu thế kỷ đã trôi qua, kế sách giữ nước thời Lý - Trần vẫn tỏa ánh sáng đến thời đại chúng ta, còn như rất mới mẻ. Những chiến công hiển hách của toàn quân, toàn dân ta gắn liền với tên tuổi các vị tướng lĩnh kiệt xuất tiêu biểu như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo trong chiến đấu giữ nước mãi mãi còn tươi thắm như hoa thơm trái ngọt với hương sắc vĩnh hằng. Tuy nhiên quá khứ không thay thế cho hiện thực, mà chỉ để lại những di sản quý báu và bài học phong phú để các thế hệ tiếp theo kế thừa, vững tin trong quá trình tác động và cải tạo hiện thực nhằm xây dựng và bảo vệ đất nước phát triển phồn vinh

PHỤ LỤC

THÁI ÚY, VIỆT QUỐC CÔNG
LÝ THƯỜNG KIỆT (1019-1103)

Thời trẻ ông có tên là Ngô Tuấn, ở làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội) con của Sùng tiết tướng Ngô An Ngữ, sau theo gia đình sang sinh sống tại phường Thái Hòa (Hà Nội).

Bình sinh Ngô Tuấn rất khôi ngô, tuấn tú, thông minh, linh lợi; là người có chí, thích nghề võ, ban ngày thường luyện tập cung kiếm, bày trận đồ, ban đêm chong đèn đọc binh thư. Ông chóng thành tài và liên tiếp được thăng chức: 20 tuổi, đã được vua yêu, đưa vào giúp việc trong cung, 22 tuổi giữ chức Hoàng môn chi hậu trong quân Túc vệ, luôn ở cạnh bên vua.

Khi Lý Thái Tông lên ngôi, Ngô Tuấn được đưa ra giúp việc triều chính. Ông được phong thái bảo, cầm “tiết việt” đi thanh tra quan lại ở vùng Thanh - Nghệ. Năm 1069, khi Lý Thái Tông thân đi đánh Chiêm Thành để ổn định biên giới phía nam, ông được cử làm tướng tiên phong, lập nên công lớn, được vua phong Thái úy, tước khai quốc công và ban tứ tính (họ vua). Từ đó, ông mang tên Lý Thường Kiệt.

Năm 1075, nhà Tống chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Lúc triều đình Lý hội đàm về kế sách đánh giác, ông đề ra chủ trương: ngồi yên đợi giặc sao bằng đem quân đánh trước đề chặn mũi nhọn của chúng. Đó là cơ sở chiến lược tiên phát chế nhân mà ông là người đầu tiên đề xuất.

Là người nhìn xa trông rộng, ông chủ trương xây dựng khối đoàn kết trong triều, củng cố thế nước, chủ động đề nghị Linh Nhâm thái hậu cho gọi Lý Đạo Thành về giữ chức Thái phó để cùng bàn việc giữ nước.

Trong khi hành quân, ông nghiêm quân lệnh, chỉ thị cho quân sĩ không được tơ hào của dân và ban hành Lộ bố văn, nói rõ mục đích chiến đấu.

Biết chắc quân Tống sẽ tiến công, ông chủ trương xây dựng phòng tuyến lớn ở sông Như Nguyệt. Năm 1077, 30 vạn quân Tống do tướng Quách Quỳ chỉ huy tràn sang, ông trực tiếp lãnh đạo quân dân cả nước kháng chiến. Lúc quân Tống bị chặn ở Như Nguyệt, thủy quân Tống bị đánh tan ở Đông Kênh (Quảng Ninh). Nhiều trận quyết chiến diễn ra ác liệt, khiến quân Tống không còn tiến công được, đành phải “án binh” chờ viện.

Khi thời cơ đến, ông tổ chức phản công chiến lược, thực hành trận quyết chiến đánh thẳng vào trại quân của tướng giặc, khiến quân Tống bị bất ngờ, không kịp trở tay, không chống đỡ nổi. Lúc giặc đã “10 phần chết 8”, ông cho biện sĩ sang hòa nghị, mở đường thoát cho chúng. Quách Quỳ chấp thuận rút quân về.

Trong chiến công lớn của quân dân Đại Việt có phần đóng góp lớn lao của Thái úy Lý Thường Kiệt, vị tổng chỉ huy toàn quân lúc đó.

Sau chiến thắng ngoại xâm, Lý Thường Kiệt lo việc nội trị và ngoại giao. Ông có nhiều công lao xây dựng triều chính, phát triển kinh tế - văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân. Vua Lý Thánh Tông nhận ông làm em nuôi và cử ông đi coi châu Ái, một địa bàn chiến lược phía nam đất nước. Văn bia chùa Linh Xứng ghi lại công đức của ông như sau: “làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ quần chúng, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng... Thái úy biết dân lấy no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên, không để lỡ thời vụ... Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp đều ở đấy cả”.

Mặc dầu khi tuổi đã cao ông vẫn lo lắng việc nước. Năm ông đã 83 - 84 tuổi mà vẫn chỉ huy hai cuộc hành quân lớn, dẹp quân phiến loạn Lý Giác ở Diễn Châu và đánh tan quân Chiêm Thành quấy phá ở Bố Chính. Ông có công trong việc sửa định binh chế, đổi mới bộ máy quân đội, tổ chức các đơn vị từ Cấm quân đến dân binh.

Với những công lao đó, cả triều đình nhà Lý đều quý trọng ông. Ngay khi ông còn sống, vua Lý Nhân Tông đã cho làm bài ca để tán dương công trạng. Ông được lịch sử gọi là anh hùng kiệt xuất, một con người hiến dâng cả tâm hồn, sức lực cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Ông là một nhà tư tưởng, nhà chính trị, quân sự tài giỏi. Binh pháp của ông đánh đâu thắng đấy.

Khi ông mất, cả nước thương tiếc, nhân dân tưởng nhớ lập đền thờ ở làng An Xá. Công lao và sự nghiệp của ông sống mãi với non sông đất nước.

QUỐC CÔNG TIẾT CHẾ, HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN
(1228 - 1300)

Trần Quốc Tuấn quê ở phủ Thiên Trường (Nam Hà), sinh năm 1228, khi họ Trần vừa thay thế họ Lý làm vua trong một đất nước đầy biến động. Lúc đó vua Trần Cảnh (Trần Thái Tông) mới 11 tuổi là chồng Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh do xếp đặt của Trần Thủ Độ nên không tránh khỏi sự dị nghị của hàng ngũ tông thất nhà Lý. Bấy giờ câ triều đình mới đều mong mỏi Trần Thái Tông sớm có hoàng tử để thế ngôi. Công chúa Thuận Thiên, vợ Trần Liễu, anh vua, đang có mang. Trần Thủ Độ bắt ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để vua sớm có người kế vị. Trần Liễu túc giận dấy binh nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan, nhưng tha chết cho Liễu. Tuy vậy, Trần Liễu mang nặng hận thù, kén thầy giỏi dạy cho con trai thành bậc văn võ toàn tài và ký thác vào con mình mối thù riêng sâu nặng ấy. Trước khi mất Liễu cầm tay con nói: “Con mà không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Người con ấy của Trần Liễu chính là Trần Quốc Tuấn.

Từ nhỏ, Quốc Tuấn đã có tướng mạo oai hùng, tỏ ra thông minh hơn người, ai cũng khen Quốc Tuấn kỳ tài, ngày sau có thể kinh bang tế thế. Lớn lên, Quốc Tuấn càng thông minh xuất chúng, đọc rộng biết nhiều, tài kiêm văn võ. Trần Liễu thấy vậy càng mừng vì cho là con mình sẽ thực hiện được ước vọng riêng tư.

Cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn, nhưng ông luôn luôn tỏ ra là một bậc hiền lương, anh hùng, Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi của dân nước, xã tắc. Ông dẹp thù riêng để vun trồng cho mối đoàn kết trong tông tộc, trong triều đình, khiến cho nó trở thành cuội nguồn của mọi chiến thắng. Quốc Tuấn để lời cha dặn trong lòng, nhưng không cho là phải. Khi đã có quyền cao chức trọng, ông đem lời cha dặn thử hỏi gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Cả hai người đều can ông: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời, nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chăng đã phú quý rồi sao? Chúng tôi xin thề chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu...” . Quốc Tuấn nghe vậy cảm phục đến khóc khen ngợi hai người. Ông lại đem chuyện riêng vờ hỏi con mình. Hưng Vũ Vương trả lời ngay: “Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là một họ”. Quốc Tuấn nhìn con mà vui trong lòng. Còn Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng lại nói: “Tống Thái Tổ vốn là một người làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ”; tức là có ý khích việc cướp ngôi. Quốc Tuấn giận lắm, tuốt gươm kể tội Quốc Tảng nói rằng: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra” và toan chém Quốc Tảng, may nhờ có Hưng Vũ Vương xin cho. Quốc Tuấn dặn Vũ Vương: “Khi ta chết, hãy đậy nắp quan tài rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”.

Trần Quốc Tuần và Trần Quang Khải là hai đại thần trong triều, nhưng hai người lại là đại diện hai chi họ Trần vốn có hiềm khích. Một người là con Trần Cảnh, một người là con Trần Liễu, là hai anh em dối đầu của thế hệ trước. Khi quân Nguyên sắp sang xâm lược, trước cảnh xã tắc lâm nguy, Trần Quốc Tuấn vì lợi ích chung mà xóa thù nhà, chủ động hòa giải với Trần Quang Khải. Sử chép, tại bến Đông, Quốc Tuấn mời Thái sư sang thuyền mình chơi cờ, trò chuyện và sai nấu nước thơm, rồi tự mình tắm cho Quang Khải, làm cho Quang Khải càng cảm kích. Sự hòa hợp đó chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều, củng cố thêm sức mạnh đánh giặc. Trong chiến tranh, ông luôn luôn hộ giá bên vua. Tuy ông chỉ cầm chiến gậy bịt sắt thế mà vẫn có người dị nghị, gờm mắt vì sợ ông giết vua. Biết ý ông liền vứt bỏ đầu sắt nhọn, chỉ chống gậy trơn khi ở gần vua. Sự nghị kỵ cũng chấm dứt.

Giỏi tâm lý, yên lòng quân để giữ lòng dân, đoàn kết nội bộ vì nghĩa lớn quốc gia, quả Trần Quốc Tuấn đã có tấm lòng trung trinh, son sắt vì vua vì nước. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp”. Ông tuy ngôi cao chức trọng mà vẫn giữ tiết nhã nhặn, lòng trung trong sáng, được mọi người tôn quý vì tin yêu.

Trần Quốc Tuấn dùng người hiền lương và thường tiến cử những người tài giúp nước. Môn khách của ông có nhiều người sau trở nên anh hùng, văn chương chính sự đều có tiếng trên đời như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, v.v… Ông đánh giá cao những người bên mình, cho rằng: “Chim hồng hộc bay cao được nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không thì chỉ là chim thường thôi”. Trần Quốc Tuấn rất thương yêu binh lính, họ cũng rất trung thành với ông, đội quân cha con ấy đã trở thành một đội quân bách thắng.

Trần Quốc Tuấn là bậc tướng cột đá chống trời, rường cột của quốc gia. Ông là nhà quân sự đại tài, được vua giao quyền tiết chế, thống đốc tất cả vương hầu, tông thất, điều động binh nhung, khí giời... Ông có công lao đệ nhất trong ba lần đại phá Nguyên - Mông. Là vị thống soái luôn luôn chủ động linh hoạt, biết mình biết người, biết rút lui, phòng ngự và tiến công đúng lúc. Khi đại quân rút, ông vẫn giữ vững được lòng dân, lòng quân. Cái tài giỏi của ông là biết chuyển từ thế hiểm nghèo thành điều kiện thuận lợi, tạo nên thời cơ lớn; khi chuyền sang phản công - tiến công, ông biết chọn đúng hướng, đánh những trận quyết định khiến kẻ thù không kịp trở tay, trong chốc lát đã bị đánh bại. Ông “xem xét quyền biến, tùy thời mà làm” Tài năng quân sự của ông dựa trên cơ sở sức mạnh quyết chiến của quân và dân, với mềm tin sắt đá và năng lực chỉ huy của các tướng. Câu nói bất hủ “năm nay đánh giặc nhàn”, khi hàng chục vạn quân Nguyên sắp sang xâm lược (1288) càng chứng tỏ tầm nhìn biết rõ địch, ta, tinh thần làm chủ chiến trận của ông. Tư tưởng quân sự tiên tiến của Trần Quốc Tuấn nảy sinh và phát huy trong thực tiễn chiến tranh giữ nước của dân tộc. Từ lời hịch kêu gọi tướng sĩ đầy khí phách hiên ngang đến bản di chúc lịch sử đều khẳng định cái cốt cách của tư tưởng quân sự Trần Quốc Tuấn là “dĩ đoản chế trường”, “chúng chí thành thành” cả nước chung sức quyết tâm chiến đấu, vua tôi đồng tâm, quân với tướng như cha con một nhà...

Trần Quốc Tuấn là nhà lý luận quân sự nổi tiếng. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lượcVạn Kiếp tông bí truyền thư là sách gia truyền, để dạy các tướng lĩnh cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời khen: đó là sách “năm hành cảm ứng với nhau, chín cung cân nhắc với nhau, cương và nhu phối hợp với nhau, chẵn và lẻ quanh vòng với nhau, không lẫn âm với dương, thần với sát ...”.

Trần Quốc Tuấn là bậc tướng giỏi gồm đủ tài đức trọn vẹn. Là tướng Nhân, ông hết lòng thương yêu quân dân, chỉ cho mọi người con đường sống. Là tướng Nghĩa, ông luôn coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng Trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng Dũng, ông sẵn sàng xông pha vào chiến trận dẫu lúc nguy nan nhất để đánh giặc, lập công; cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông vậy. Là tướng Tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông sẽ được gì, trái lời ông sẽ bị gì. Bởi vậy, ba lần kháng chiến chống Nguyên - Mông, ông đã lập công lớn, được vua tin dùng, gia phong Thượng Quốc công, cho quyền muốn phong tước cho ai cũng được.

Khi Trần Quốc Tuấn lâm bệnh nặng, vua Trần Anh Tông đến thăm, hỏi về kế đánh phòng; ông khuyên vua: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Đó là lời trăng trối cuối cùng, lời căn dặn thấm thía và sâu sắc của ông đối với các thế hệ con cháu, cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước.

Mùa thu, năm Canh Tý (20-8 âm lịch 1300), Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại nguyên soái, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời. Theo lời dặn, thi hài ông được hỏa táng, thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh ở miền Đông Bắc.

Sau khi ông mất, vua phong tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình và nhân dân lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Bảo Lộc và nhiều nơi khác. Công lao và sự nghiệp của ông ít ai so sánh được. Vua coi ông là bậc thượng phụ (ông nội), trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo Đại Vương, hoặc là Đức Thánh Trần.
LĐS


HỊCH TƯỚNG SĨ

Trần Quốc Tuấn

“Ta từng nghe, Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu giơ lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ1; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước2; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung3; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc4. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình, thì cũng chết uổng nơi xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, để cùng bất hủ với đất trời?

Các người vốn nòi võ tướng không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy, nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước, hãy tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Thát5 mà nói: Vương Công Kiên6 là người thế nào; tỳ tướng của ông là Nguyễn Văn Lập (có thuyết cho là Sơn Lập) lại là người thế nào mà lấy thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu chống lại quân Mông Kha đông hàng trăm vạn, khiến cho sinh linh bên Tống đến nay còn đội ơn sâu. Cốt Đãi Ngột Lang7 là người thế nào, tỳ tướng của ông là Cân Ty Tư8 lại là người thế nào, mà xông pha lam chướng trên đường muôn dặm, phá quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay vẫn còn lưu tiếng tốt9.

Huống chi ta cùng các người, sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc, ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, ỷ cái thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. Thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham khôn cùng, giả hiệu Vân Nam vương10 mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau:

Ta từng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, chỉ giận không được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù, dẫu trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, người không có áo, ta cho áo mặc, kẻ không có ăn, ta cấp cơm ăn. Quan thấp thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, khi ở nhà thi cùng nhau vui cười, nếu so với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi kẻ hụ tá, cũng chẳng kém gì.

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường thết yên sứ ngụy mà không biết căm, hoặc lấy chọi gà làm vui, hoặc lấy đánh bạc làm thú, hoặc chăm chút vườn ruộng để nuôi gia đình, hoặc quyến luyến vợ con chỉ vì ích kỷ, hoặc lo làm giàu mà quên việc quân việc nước, hoặc ham săn bắn mà bỏ việc đánh việc phòng, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, vườn ruộng giàu không thể chuộc được tấm thân ngàn vàng, vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu nhiều, khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe, khôn đuổi được quân thù. Chén rượu ngon không đầu độc được quân thù, tiếng hát hay không chọc thủng được tai giặc. Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết dường nào; chẳng những thái ấp của ta bị tước, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị người khác bắt đi, chẳng những xã tắc tổ tông của ta bị người khác giày xéo, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị người khác bới đào, chẳng những thân ta kiếp này bị nhục, dẫu trăm đời sau, tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu mãi còn, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là viên bại tướng. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi có muốn thỏa lòng vui thú, phỏng có được không?

Nay ta bảo rõ các ngươi: nên nhớ chuyện “đặt mồi lửa vào dưới đống củi”11 làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”12 làm răn sợ. Hãy huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông13, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, để có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, phơi xác Vân Nam Vương ở Cảo Nhai14. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền, mà bổng lộc các ngươi cùng đời đời được hưởng, chẳng những gia quyến của ta được yên ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão, chẳng những tông miếu của ta được muôn đời tế lễ, mà ông cha các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà các ngươi trăm năm về sau tiếng thơm vẫn còn. Chẳng những danh hiệu ta lưu truyền mãi mãi, mà họ tên các ngươi cùng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui thú phỏng có được không?

Nay ta chọn binh pháp các nhà, soạn thành một quyển, gọi là Binh thư yếu lược. Các ngươi nên biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo, thì trọn đời là cừu thù.

Vì sao vậy? Vì giặc Mông Thát là kẻ thù không đội trời chung mà các ngươi cứ điềm nhiên không nghĩ rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, thế là quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc, khiến cho sau khi dẹp giặc, muôn đời để nhơ, thì còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở nữa ? Cho nên, ta viết bài hịch này để các ngươi biết rõ lòng ta”




Trích Đại Việt sử ký toàn thư, t.II,. Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 81 - 84.
________________________________________
1. Dư Nhượng: là già thần của Trí Bá nước Tấn thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương tử giết, Dự Nhượng đã nuốt than cho khác giọng, giả làm hành khất mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
2. Thân Khoái: là viên quân giữ ao cá cho Tề Trang Công đời Xuân thu. Khi Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái cũng chết theo.
3. Kính Đức tức Uất Trì Cung là tướng cửa Đường Thái Tông (lúc ấy còn là Tần Vương Lý Thế Dân). Khi Thái Tông bị Vương Thế Sung vây đánh. Kính Đức xông lên chém tướng giặc, hộ vệ Thái Tông thoát khỏi vòng vây.
4. Nhan Cảo Khanh làm thái thú Thương Sơn, khi An Lộc Sơn nổi loạn đánh đuổi Đường Huyền Tông. Nhan Cảo Khanh dấy quân đánh lại An Lộc Sơn, sau bị bắt, Cảo Khanh luôn miệng chửi An Lộc Sơn, bị Lộc Sơn cắt lưỡi.
5. Thát: lức Thái Đát, chỉ Mông Cổ.
6. Vương Công Kiên tức Vương Kiên, tri châu Hợp Châu (Tứ Xuyên) đã huy động nhân dân anh dũng chiến đấu ở núi Điếu Ngư, cầm cự với đạo quân Mông Cổ do vua Nguyên-Mông Ke chỉ huy trong bốn tháng trời, cho đến khi Mông Ke ốm chết dưới thành Điếu Ngư, quân Mông Cổ phải rút.
7. Tức Uryang khađai (Uriyangqadai) tên tướng Mông Cổ đã đánh chiếm vùng Vân Nam và tiến quân vào nước ta năm 1258. Tên của Uryang khađai ở các thư tịch có nhiều cách phiên âm: Ngột Lương Hợp Đãi, Ngột Lương Hợp Thai, Ngột Lương Cáp Đãi, Ô Đắc Lý Cáp Đạt, Ô Lan Cáp Đạt-
8. Bản Hoàng Việt văn tuyển chép là Xích Tu Tư.
9. Năm 1253, Hốt Tất Liệt và tướng Urvang Khađai vượt sông Kim Sa đánh chiếm thủ đô nước Đại Lý. Chỉ trong vài tuần, nước Đại Lý bị chinh phục, vua Đại Lý là Đoàn Hưng Trí bị bắt và đầu hàng. Nam Chiếu nói đến trong bài hịch là chỉ nước Đại Lý bấy giờ, ở vùng Vân Nam Trung Quốc.
10. Vân Nam Vương: tên là Hốt Kha Xích (Hugodi) con trai của Hốt Tất Liệt. Cuối năm 1267. Hốt Tất Liệt phong Hốt Kha Xích làm Vân Nam vương, đem quân đóng giữ nước Đại Lý ở Vân Nam.
11. Câu trong sách Hán thư: “Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên”
12. Câu ở Sở Từ: “kẻ sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội”.
13. Bàng Mông, Hậu nghệ: là hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
14. Vốn là nơi trú ngụ của các vua “man di” khi vào chầu vua Hán ở Trường An. Ở đây chỉ nơi dành cho các sứ bộ nhà Nguyên lưu trú trong kinh thành bấy giờ.

DI CHÚC CỦA HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN

Canh Tý, (Long Hưng) năm thứ 8 (1300), tháng 6.

Hưng Đạo Đại vương ốm. Vua (Trần Anh Tông) ngự tới nhà thăm hỏi rằng:

- “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”

Vương trả lời:

- “Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế “thanh dã”1, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ2 mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh3 là vì có thế.

Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dũng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”.


Trích Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. TII, tr. 79.
______________________________________________
1. Thanh dã: làm vườn không nhà trống, khiến quân xâm lược tới không có một nguồn hậu cần tại chỗ nào.
2. Thành Bình Lỗ: chưa biết là ở đâu? Nhưng có lẽ là nằm trong vùng hương Bình Lỗ hay quận Bình Lỗ đời Lê Đại Hành, tức khu vực nằm giữa sông Cầu và sông Cà Lồ, gần Phú Lỗ, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
3. Đèo Mai Lĩnh: tức đèo Đại Dũ, phía nam huyện Đại Dũ, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

BÀI TỰA CỦA TRẦN KHÁNH DƯ CHO CUỐN “VẠN KIẾP TÔNG BÍ TRUYỀN THƯ” CỦA TRẦN QUỐC TUẤN

Hưng Đạo Vương lại chép nhặt binh pháp các nhà làm “đồ Bát quái của cung” gọi là Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Nhân Huệ Vương Khánh Dư làm bài tựa rằng: “Phàm người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bầy trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết. Ngày xưa Cao Dao làm sĩ sư mà người ta không dám trái mệnh, vua Vũ Thành nhà Chu1 làm văn vũ sư, ngấm ngầm sửa đức để lật đổ nhà Thương mà dấy nghiệp vương, thế là người giỏi cầm quân, không cần phải bầy trận vậy, vua Thuấn múa mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự phải đến, và Tôn Vũ nước Ngô đem mĩ nhân trong cung thử lập trận2 mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc làm sợ nước Tần, nước Tần nổi tiếng với chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập nước Tấn theo đồ bát trận, chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thu Cô - năng mà lấy lại Lương Châu3, thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy. Cho nên “trận” nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa Hiên Hoàng đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá ong để làm đồ bát trận, Vệ Công4 sửa lại làm trận Lục Hoa. Hoàn On đặt trận Xà thế, có đồ bày ra thứ tự, thành pháp rành rành. Nhưng người đương thì ít người hiểu được, muôn đầu nghìn mối, chỉ thấy rối ren, chưa từng biến đổi, như Lý Thuyên5 định phép mà suy, đời sau không ai hiểu nghĩa là gì. Cho nên Quốc Công ta mới so sánh đồ bản và phương pháp của các nhà, chép thành một tập. Tuy chép cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dừng thì nên bỏ bớt chỗ rờm, lược lấy chất thực, rồi lấy năm hành cảm ứng với nhau, chín cung cân nhắc với nhau, cương và nhu phối hợp với nhau, chẵn và lẻ quanh vòng với nhau, không lẫn âm với dương, thần với sát, phương lợi sao tốt, thần hung tướng ác, ba cát năm hung, đều rõ rệt cả, thâm bớt ba đời, thắng cả trăm trận, cho nên dương thì có thể phía bắc làm Hung Nô phải sợ phía tây làm Lâm Ấp phải kinh. Mới lấy sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có câu dặn lại rằng: “Sau này con cháu và bồi thần của ta có học được bí thuật này, thì nên lấy lòng sáng suốt mà thi hành bày xếp, không nên lấy ngu tối mà dạy truyền, trái thế thì mình phải chịu tai ương mà vạ lây đến cả con cháu. Thế gọi là tiết lộ cơ trời vậy”.




Trích Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd.

______________________________________________
1. Tức là Vũ Vương và Thành Vương nhà Chu.
2. Thời Xuân Thu, Tôn Vũ người nước Tề làm tướng cho Ngô Vương Hạp Lư, lấy 80 người cung nhân của Hạp Lư chia làm hai đội, đặt ra đội trưởng để diễn tập giả cho Hạp Lư xem.
3. Tân Thư, Việt truyện, q.27 chép là Mã Long, chứ không phải là Mã Ngập.
4. Vệ Công tức là Lý Tĩnh đời Đường Thái Tôn, phỏng theo bát trận đồ của Gia Cát Lượng làm ra trận Lục Hoa, trận lớn học trận nhỏ, doanh lớn bọc doanh nhỏ, gọi là Lý Vệ Công binh pháp.
5. Lý Thuyên: Người đời Đường làm sách “Thái bạch âm kinh” nói về mưu chước hành quân.

NIÊN BIỂU CÁC ĐỜI VUA THỜI LÝ - TRẦN

THỜI LÝ

1. Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn): 1009 - 1028
2. Lý Thái Tông (Lý Phật Mã): 1028 - 1054.
3. Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tông): 1054 - 1072. 
4. Lý Nhân Tông (LÝ Càn Đức): 1072 - 1128
5. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán): 1128 - 1137
6. Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ): 1137 - 1175
7. Lý Cao Tông (Lý Long Trát): 1175 - 1210
8. Lý Huệ Tông (Lý Hảo Sảm): 1210 - 1224
9. Lý Chiêu Hoàng (Lý Chiêu Thánh): 1224 - 1226


THỜI TRẦN
1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh): 1226 - 1258
2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng): 1258 - 1278
3. Trần Nhân Tông (Trần Khẩm): 1278 - 1293
4. Trần Anh Tông (Trần Thuyến): 1293 - 1314
5. Trần Minh Tông (Trần Mạnh): 1314 - 1329
6. Trần Hiến Tông (Trần Vượng): 1329 - 1341
7. Trần Dụ Tông (Trần Hạo): 1341 - 1369
8. Trần Nghệ Tông (Trần Phủ): 1370 - 1372
9. Trần Duệ Tông (Trần Kính): 1372 - 1377
10. Trần Phế Đế (Trần Nghiễn): 1377 - 1388
11. Trần Thuận Tông (Trần Ngung): 1388- 1398
12. Trần Thiếu Đế (Trần An): 1398 - 1400

Không có nhận xét nào: