Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Bí ẩn về Lăng Đan Dương của vua Quang Trung

NHỮNG CUỘC TÌM KIẾM CUNG ĐIỆN ĐAN DƯƠNG CỦA VUA QUANG TRUNG

1. NGHIÊN CỨU CỦA ÔNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Cung điện Đan Dương thời Quang Trung

Mỗi độ Xuân về, tâm trí tôi lại bận rộn với những ngày kỷ niệm lịch sử trong năm mới. Năm 2007, đúng 215 năm (1792-2007) vua Quang Trung qua đời tại Huế và tiếp đến 2008, sẽ kỷ niệm 220 năm (1788-2008) Nguyễn Huệ lên ngôi tại Phú Xuân và lấy niên hiệu Quang Trung. Do đó, nhiều bạn bè nghiên cứu ở trong và ngoài nước hối thúc tôi phải làm rõ hơn lời giải đáp cho câu hỏi "Dấu tích lăng mộ vua Quang Trung ở đâu ? " mà tôi đã công bố trong cuốn sách Đi Tìm Lăng Mộ Vua Quang Trung do Viện Sử học Việt Nam xuất bản đúng 15 năm trước (1992).
 
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã khai thác các nguồn tư liệu trong và ngòai nước, tư liệu sử học, văn học cổ, địa lý lịch sử, bút ký lịch sử, thảo mộc học, thuật phong thủy, tư liệu điền dã để hoàn thành công trình trên. Công trình đã được nhiều học giả (như Hòang Xuân Hãn, Lê Thành Khôi, Trần Quốc Vượng, Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Nhã .v.v) đánh giá cao, xem như một giải pháp khả thi nhất so với tất cả những công trình nghiên cứu lăng mộ vua Quang Trung có trước và sau đó. Đầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, Thành phố Huế đã nổ lực đầu tư nghiên cứu với cố gắng chứng minh lăng Ba Vành ở phía sau Tu viện Thiên An là lăng mộ vua Quang Trung và dự định đầu tư để tôn tạo ngôi lăng " lịch sử " nầy để ra mắt đồng bào cả nước vào dịp kỷ niệm 200 năm vua Quang Trung qua đời (1792-1992). May sao, nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh đã kịp thời chứng minh lăng Ba Vành là lăng mộ "Hộ bộ kiêm Binh bộ Lê Quang Đại " thời chúa Nguyễn Phúc Họat (Khóat) và công trình nghiên cứu của tôi chứng minh lăng mộ vua Quang Trung có thể ở ấp Bình An gần chùa Thiền Lâm (78B Điện Biên Phủ, Huế ngày nay) ra đời, việc đầu tư của Thành phố Huế phải dừng lại. Và, từ đó các nhà nghiên cứu không còn quan tâm đến lăng Ba Vành nữa. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của tôi cũng chưa có câu trả lời dứt khóat " lăng mộ vua Quang Trung cụ thể nằm ở tọa độ nào " vì còn phải chờ khai quật khảo cổ học. Các vị trách nhiệm ở Viện Khảo cổ Việt Nam, ở viện Sử học Việt Nam, ở sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên (cũ)... hứa sẽ đưa vào chương trình khai quật ngay sau năm 1992. Nhưng đã 15 năm trôi qua lời hứa đó đã rơi vào quên lãng, nhiều người hứa đã qua đời (GS Trần Quốc Vượng), hay đã hưu trí (GS Hòang Xuân Chinh, Viện Khảo cổ, Nguyễn Minh Hằng - Giám đốc sở VHTT TTH). Đã có nhiều lời giải thích về sự " quên lãng " lịch sử ấy. Trong đó có một vị quan chức nói nhỏ với tôi : "Không ai nói công trình của anh không khả thi cả, nhưng ....anh cứ thử chết đi thì người ta sẽ .....". Vì thế hôm nay, tôi có tái bản cuốn sách của tôi cũng không giải quyết được vấn đề gì khi các cơ quan chức năng chưa vào cuộc, chưa khai quật khảo cổ học địa điểm mà tôi đã chứng minh bằng tư liệu lịch sử và hiện vật điền dã. Cho nên tôi vẫn tiếp tục chờ. Nếu tuổi thọ tôi kém thì các con, các cháu tôi cũng sẽ tiếp tục chờ. Trong loạt bút ký nầy tôi không dám đề cập đến những vấn đề ngoài tầm tay của tôi.

Như các nhà nghiên cứu văn học cổ từng biết Ngô Thì Nhậm là một trọng thần của vua Quang Trung. Bài CẢM HOÀI (Xúc cảm trong lòng) trong tập thơ đi sứ (1793) HOAøNG HOA ĐỒ PHẢ, Ngô Thì Nhậm có một nguyên chú cho biết "Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàn ta" [1].
 

Đây là một thông tin lịch sử quí giá không ai có thể phủ nhận được. Thông tin đó chứng tỏ lăng Đan Dương của vua Quang Trung ở ngay trong cung điện Đan Dương hay nói cách khác Cung điện Đan Dương là nơi táng vua Quang Trung và từ đó nó trở thành lăng Đan Dương/lăng vua Quang Trung, giống như Khiêm Cung của vua Tự Đức sau trở thành Khiêm Lăng vậy. Lăng Đan Dương nằm trong khu vực Cung điện Đan Dương. Có thế ví như cái bu-gi gắn trong ổ máy một chiếc ô-tô. Trong lúc chờ khai quật để biết cái bu-gi (lăng Đan Dương) nằm vào chỗ nào, qua tài liệu và hiện vật điền dã tôi mời độc giả cùng tôi đi tìm chiếc ô-tô (cung điện Đan Dương). Tìm được Cung điện Đan Dương thì cũng đã là tặng vật vô giá cho lịch sử Việt Nam rồi.

Các vua chúa ngày xưa, ngòai cung điện chính ở Kinh đô, luôn có những cung hành tại ngòai Kinh thành. Cũng giống như vua chúa bên phương Tây có các cung điện mùa Hè, cung điện mùa Đông vậy. Vua Quang Trung cũng có những cung hành tại, nhưng rất tiếc sử sách viết về những cung điện ấy đã bị thiêu hủy hết từ đầu triều Nguyễn. Nhưng may sao, các nhà thơ trọng thần của vua Quang Trung như Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm đã để lại cho chúng ta ít nhiều thông tin về những cung điện bên ngòai Đô thành Phú Xuân thời ấy.
 
Lời nguyên dẫn bài thơ Phụng thị ngự doanh khâm ngọan nhãn kính (vào hầu ở ngự doanh vua xem kính đeo mắt, kính ghi), Ngô Thì Nhậm viết: "xa giá về cung hành tại, tôi ngồi chờ ở Phù Bảo viện (nơi giữ ấn tín của vua)"[2]
 
Lời nguyên dẫn cho biết vua Quang Trung có một cung hành tại để "về". Cung hành tại phải lớn thì ở đó mới có một Phù Bảo viện riêng.
 
Vậy thì Cung hành tại ấy của vua Quang Trung tên gì? và ở đâu ?
 
Ngày 29.7 (nhuận) năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung mất. Ngô Thì Nhậm được cử sang Trung Quốc báo tang và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh (Quang Toản). Vì uy tín của vua Quang Trung rất lớn, nhà nước Trung Hoa lúc ấy đã có những nghi lễ đón tiếp trọng thị. Điều đó làm cho Ngô Thì Nhậm càng cảm niệm công ơn to lớn của vua Quang Trung. Trong khi đang xúc động ấy, ông đã viết bài Cảm hoài (xúc động trong lòng) và ghi một lời chú ở dưới bài thơ. Câu 8 bài thơ: "Đan Dương cung điện nhật tam thu" (Trông về điện Đan Dương một ngày coi bằng ba thu). Tác giả chú: "Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hòang ta" như tôi đã dẫn ở trên. Đây là một nguyên chú ở dưới bài thơ chứ không phải là một câu thơ trong một bài thơ. Nguyên chú nầy là một tư liệu lịch sử vô giá.
 
Bài thơ và lời chú cho biết vua Quang Trung có một cung điện tên là Đan Dương, cung điện này ở vùng núi, sau đó được sử dụng làm lăng cho vua Quang Trung, nên gọi là Sơn Lăng.
Không những trong bài Cảm hoài mà trong nhiều bài thơ khác, Ngô Thì Nhậm cũng nhắc đến Đan Dương Lăng, Đan Lăng. Xin trích một số dẫn chứng:
- Bài thơ "Đạo ý" có viết "Vọng Đan Dương" [3]
- Bài "Khâm vãn Đan Dương Lăng" (Kính viếng lăng Đan Dương)
- Bài "Sóc vọng thị tấu nhạc, Thái Tổ miếu, cung ký"[4] (Ngày lễ rằm, mồng một tấu nhạc miếu Thái Tổ, kính ghi) có câu: "Đan Lăng thức mục tử vân thâm" (Chốn Đan Lăng ngước mắt, áng tử vân âm u)
- Bài "Tòng giá bái tảo Đan Lăng, cung ký" (Theo xa giá đi bái tải Đan Lăng, kính ghi) [5].Trong bài thơ này lại có câu: "Sơn Lăng vạn cổ điện Thần kinh" (Sơn Lăng muôn thuở là nơi yên nghỉ tinh thần).
 
Người em rể của Ngô Thì Nhậm là Phan Huy Ích cũng đã nhiều lần đề cập đến Đan Lăng. Trong một bài thơ xướng họa với ông anh vợ đồng triều, Phan Huy Ích tâm sự về nỗi nhớ tiếc cuộc gặp gỡ của hai người với vua Quang Trung, khó lòng tìm được một cuộc gặp gỡ như thế nữa. Trước khi viết bài thơ mang số 282, ông đã viết một nguyên dẫn với câu:
"Khúc Đan Dương ở trước mặt, muôn nỗi cảm hoài ". [6]
Năm 1799, bà Thái Vũ hoàng hậu Lê Ngọc Hân mất, Phan Huy Ích viết hộ cho vua Quang Toản một điếu văn, tác giả đã để lộ cho biết triều Quang Toản đã thỏa mãn nguyện vọng muốn được mãi mãi ở cạnh Quang Trung của bà Ngọc Hân, triều đình đã cho táng bà bên cạnh lăng vua Quang Trung, tức Đan Dương. Điếu văn có đọan:
"Nguyện cũ hẳn nay lọn vẹn
Bên Đan Lăng quanh quất mạch liên châu" [7]
 
Ngoài kinh thành Phú Xuân, không rõ vua Quang Trung có mấy cung hành tại (hành cung); qua thơ văn của Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, chúng ta biết được vua Quang Trung có ở vùng núi một cung điện có tên là Đan Dương. Sau ngày vua Quang Trung mất, cung điện Đan Dương được chuyển làm lăng của vua Quang Trung với cái tên gọi Đan Lăng, Đan Dương Lăng hay Sơn Lăng. Đan Lăng là lăng đỏ. Ngày xưa đặt tên đất theo Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), những di tích phía nam có mang ý nghĩa đỏ (phía bắc màu đen, phía đông màu xanh, phía tây màu trắng và trung tâm màu vàng). Như thế, vị trí của Đan Lăng nằm về phía nam của Kinh đô Phú Xuân lúc ấy.
Hai chữ Sơn Lăng cũng gợi lên hình ảnh cái lăng ở vùng núi. (Trong thực tế, vùng đồng bằng xứ Huế hay bị ngập lụt, lăng mộ của vua chúa thường nằm trên vùng núi cả). Đan Lăng tọa lạc ở vùng núi nào ?
 
Đứng trước câu hỏi nầy tôi bổng nhớ đến chuyện ông Heinrich Schliemann - một thương gia Đức đã dựa vào hai bộ sử thi Illiade và Odyssée của Homère để khai quật (1870) di chỉ Thành Troie bị vùi sâu trong lòng đất hơn 2000 năm trước và tìm thấy "Kho báu Priam" ở phía Đông Bắc bán đảo Xiasia.
 
Heinrich Schliemann
Sơ đồ Thành Troie.
Heinrich Schliemann là người Đức, đi khai quật một di chỉ được biết đến trong chuyện thần thọai ở Thổ Nhĩ Kỳ hơn hai ngàn năm trước mà thành công. Chúng ta có đến hàng chục câu thơ và nguyên chú của các trọng thần thời Quang Trung và nhiều tài liệu khác nữa về lăng Đan Dương, và chỉ cách chúng ta mới hơn hai trăm năm (1/10 thời gian của Thành Troie với Heinrich Schliemann) ở ngay trên đất Huế, vô lẽ chúng ta không trả lời câu hỏi nầy được sao ?
Khát vọng trả lời câu hỏi nầy cháy bỏng trong tôi gần 1/4 thế kỷ qua.
Chú thích Kỳ (I)
[1]Ngô Thì Nhậm Tác Phẩm tập II, Nxb Văn Học & TTNC Quốc Học, HN. 2001, tr.369-370
[2]Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Nxb KHXH, H. 1978, t.I, tr.213-214
[3]Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, tr.228
[4]Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, tr.230
[5]Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, tr.230
[6]Thơ văn Phan Huy Ích, t.III, Dụ Am ngâm lục, KHXH, H. 1978, tr.43
[7] Hoàng Thúc Trâm, Quốc văn đời Tây Sơn, Vĩnh Bảo, Sg. 1950, tr.40.
  
Lăng Đan Dương cùng ở phía nam Kinh thành Huế và gần chùa Thiền Lâm
 
1. Lăng Đan Dương ở bờ nam sông Hương
Lăng mộ vua Quang Trung / Đan Lăng / Đan Dương Lăng/ CĐĐD đã bị quan quân nhà Nguyễn quật phá ngay khi họ vừa về đến Phú Xuân vào tháng 11 năm Tân Dậu (1801). Vụ trả thù nầy đã được ghi rõ trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên (xem A.004):
 

A.004.- QSQ Triều Nguyễn, ĐNTL CB Đệ nhất kỷ, Q.XV, tr. 26a cho biết: Tháng 11 Tân dậu, Nguyễn Vương cho "phá hủy mộ giặc Tây Son Nguyễn Văn Huệ bổ săng (hòm), phơi thây, bêu đầu ở chợ". Bình luận: Chứng tỏ lăng mộ vua Quang Trung chỉ còn dấu tích, không còn hòm, không còn xương cốt, đầu lâu.
Nhưng Thực Lục không cho biết địa điểm ấy ở đâu. Đối với chúng ta thì đó là một bí ẩn nên tôi tạm mã hóa là X. Phải đợi đến hơn 50 năm sau (1801- 1852), Nguyễn Trọng Hợp và các sử thần ngồi ở Quốc sử quán trong Kinh thành viết bộ Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện (sơ tập), trong Quyển XXX "Ngụy Tây" mới hé cho biết cho biết rằng lăng mộ vua Quang Trung (mã hóa là X) đã được "táng vu Hương Giang chi nam" (táng ở bờ nam sông Hương) (Xem A.008)
 

A.008.- QSQ triều Nguyễn, ĐNCB Liệt Truyện (sơ tập), Quyển XXX "Ngụy, tr. 43a cho biết lăng mộ vua Quang Trung đã được "táng vu Hương Giang chi nam" (táng ở bờ nam sông Hương)
 
Cái thông tin mộ vua Quang Trung "táng vu Hương Giang chi nam" có thể xem là thông tin độc nhất mà sử sách triều Nguyễn dành cho X. Cái thông tin đó ấn định một vùng "Hương Giang chi nam" khá rộng và cũng hơi mông lung. Bởi thế mà hơn nửa thế kỷ qua, dấu tích X vẫn còn là một bí ẩn. Tuy nhiên, xét cho kỹ thì cụm từ "táng vu Hương Giang chi nam" cũng cho chúng ta được ba điều quan trọng:
 
- 1/ Khẳng định X táng ở Huế (chứ không phải như dư luận là táng ở Linh Đường (Hà Nội); Bình Thuận hay bất cứ một nơi nào khác;
- 2/ Lấy sông Hương làm chuẩn nên có thể nghĩ X tọa lạc gần bờ sông (chứ không phải trên vùng núi sau Tu viện Thiên An có lăng Ba Vành của Hộ bộ kiêm Binh bộ Lê Quang Đại);
- 3/ Phía nam sông Hương là một vùng rộng lớn, nhưng dù sao khu vực ở nam sông Hương có độ cao tương đối để có thể táng được lăng mộ của vua chúa không đến nỗi rộng lớn lắm.
 
2. Phương pháp khảo sát
Ngày xưa các sử thần viết sử ngắn, gọn và dùng từ rất chính xác. Muốn hiểu khi nào các sử thần triều Nguyễn dùng chữ "nam" như "nam sông Hương", "phía nam Kinh Thành", các từ ấy giống nhau và khác nhau như thế nào tôi đã phải đọc kỹ bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (tập Kinh sư và Thừa Thiên Phủ) của Quốc sử quán triều Nguyễn. Qua thống kê, so sánh, tôi thấy:
 
a) Địa điểm thuộc thì lấy huyện lỵ làm gốc: Sông Thọ Lộc (Đập Đá qua Phường Vỹ Dạ ngày nay) ở phía Bắc huyện 17 dặm; cửa sông ở bờ phía nam Hương Giang thuộc xã Thiên Lộc [1] ; Gò Thiên Mụ ở phía tây nam huyện Hương Trà độ 5 dặm [2];
 
b) Địa điểm các huyện thì lấy phủ lỵ (Thừa Thiên) làm gốc: Huyện Phú Vang ở phía đông bắc phủ 14 dặm... [3] ; Huyện Quảng Điền ở phía đông bắc phủ 14 dặm... [4]
 
c) Địa điểm thuộc Kinh thành Huế lấy Kinh thành làm gốc: Chùa Diệu Đế ở ấp Xuân Lộc ngoài Kinh thành [5]; Thuyền xưởng ở bờ phía nam Hương Giang ngoài Kinh thành [6].
 
Qua bản khảo sát, tôi rút ra được nguyên tắc: định phương hướng của một địa danh căn cứ vào một trong ba địa điểm gốc: huyện lỵ, phủ lỵ, và Kinh thành.
Bờ nam sông Hương rất dài, nhưng nó được cắt ra thành nhiều đoạn để phụ thuộc vào Kinh thành hay huyện lỵ quản lý nó về phương diện hành chính. Vậy:
- Những di tích thuộc Kinh thành nằm phía nam sông Hương cũng gần với "hướng phía nam Kinh thành". Ngồi trong Kinh thành viết "phía nam sông Hương" cũng có thể hiểu "phía nam Kinh thành". X nằm ở hướng chính nam Kinh Thành.
 
Thế cùng nằm ở hướng chính Nam Kinh thành, có những di tích nào thuộc Kinh thành ?
Nghiên cứu thư tịch và khảo sát trên thực địa, chúng tôi thấy các sử thần triều Nguyễn dùng từ "phía nam" đối với Kinh thành trong những trường hợp cụ thể như sau:
- Phu Văn Lâu: ở chính trung quách phía nam ngoài Kinh thành [7]
- Thuyền xưởng (bờ sông từ nhà bia trước Quốc Học đến Hotel 5 Lê Lợi ngày nay). Theo L. Cadiere, (BAVH, 1-6/1933, p.130), ở bờ phía nam Hương giang ngoài Kinh Thành [8] .
- Miếu lịch Đại đế vương, ở xã Dương Xuân (?) phía nam ngoài Kinh Thành [9]
- Đàn Nam Giao, ở xã An Cựu, phía nam ngoài Kinh Thành... [10]
Khảo sát trên thực địa, nhận thấy tất cả những địa điểm trước Kinh Thành được xếp ở phía chính nam ngoài Kinh thành đều nằm trên hoặc hai bên đường trục nối liền hai điểm Phu Văn Lâu và đàn Nam Giao.
 
Vì thế mà hai cồn Giã Viên (bãi Dương Xuân xưa) và Cồn Hến (Phú Xuân xưa) tuy ở phía trước hai bên Kinh thành nhưng Đại Nam Nhất Thống Chí lại xếp vào vị trí "phía tây nam trước Kinh thành" (Dương Xuân/Cồn Dã Viên) và "đông nam trước Kinh thành (Phú Xuân/Cồn Hến)" [11]
X nằm ở vị trí "phía nam sông Hương", cũng có thể xem gần với hướng "phía nam Kinh thành" - Vì thế tôi đặt giả thiết (xin nhấn mạnh là giả thiết) X cũng nằm gần trục Phu Văn Lâu - đàn Nam Giao. .
Dọc hai bên đường thẳng từ Phu Văn Lâu lên đàn Nam Giao có nhiều di tích cổ, đặc biệt nhất là chùa Thiền Lâm. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết: "Khi trước Thái sư Tây Sơn là Bùi Đắc Tuyến chiếm (chùa Thiền Lâm) ở..." [12] Lúc bấy giờ dưới trướng của Bùi có Phan Huy Ích. Phan Huy Ích đã cho biết cụ thể hơn về sự kiện này trong lời Nguyên dẫn và bài thơ Mùa Xuân Ở Công Quán Ghi Việc sau đây:
Dịch nghĩa: Mùa Xuân Ở Công Quán Ghi Việc [13]
(Nguyên dẫn: Nhà của quan Thái sư (Bùi Đắc Tuyên) là chùa Thiền Lâm cũ nằm phía nam sông Hương nha thuộc cũng theo đến ở chung quanh chùa. Giữa tháng ba, tôi tới nhà trọ Kinh đô, cũng gần nơi ông ở. Chỗ này vườn tược rộng rãi, cây cối xanh um, bốn bề những núi cùng mây, mắt nhìn lòng nghĩ cũng khá thoải mái, trừ những đêm họp bàn việc công ra, còn thì tha hồ ngâm thơ uống rượu, kể cũng thú, duy nỗi lòng thương nhớ người nhà vẫn không nguôi):
"Trời mở ra dinh tòa ở chốn đồng quê
Xe ngựa tụ họp đến sân ngôi chùa cũ.
Trên tòa đêm khuya, cuộc họp bàn chưa giải tán,
Chỗ trọ nơi nhà chùa, giấc ngủ quá trưa mới tỉnh". (A)
 
NGUYÊN CHÚ:
(A) "Quan Thái sư vì việc quan, đêm thường ra ngoài tòa làm việc, canh tư mới tan, đã thành lệ, những người giúp việc ứng trực cũng đã quen". (Xem A.009)
Sử đã cho biết, Bùi Đắc Tuyên được làm Thái Sư cho vua Quang Toản từ năm 1792 (sau ngày vua Quang Trung mất), Phan Huy Ích làm việc với Bùi Đắc Tuyên ở Phú Xuân trong ba năm (1792 - 1794). Phan đã ghi chép được nhiều chuyện "thời sự" lúc bấy giờ.
 

Qua bài thơ tâm sự của Phan Huy Ích, chúng ta có
thể tách ra được những thông tin sau:
1. (So với Đô thành Phú Xuân), chùa Thiền Lâm "nằm ở phía nam sông Hương";
2. Thời Bùi Đắc Tuyên làm Thái sư, "nha thuộc" của triều Quang Toản "cũng đến ở chung quanh chùa", "xe ngựa (của các đại thần) tụ họp đến sân ngôi chùa (Thiền Lâm) cũ". Điều ấy có nghĩa chùa Thiền Lâm là cơ quan đầu não buổi đầu triều Quang Toản;
3. Bùi có thói quen làm việc ban đêm, ban ngày ngủ, những người giúp việc cho Bùi cũng phải thích nghi với tập quán ấy;
4. Phan Huy Ích từ ngoài Bắc vào ở trọ trong một ngôi chùa cũ đã biến thành "nhà trọ Kinh đô"
5. Dinh của Bùi Thái sư là chùa Thiền Lâm, nơi làm việc của Phan Huy Ích cũng là một ngôi chùa gần Thiền Lâm, chứng tỏ những kiến trúc chủ yếu của các nha thuộc bên cạnh Bùi là các chùa. (Chùa Bảo Quốc ở gần đó qua Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết Tây Sơn dùng làm kho chứa thuốc súng, phù hợp với tình hình chung quanh chùa Thiền Lâm lúc ấy).
 
Phan Huy Ích cho biết chùa Thiền Lâm "nằm ở phía nam sông Hương" và trên thực địa chùa Thiền Lâm đang tồn tại hiện nay (số 78B Điện Biên Phủ) nằm đúng trên trục Phu Văn Lâu - đàn Nam Giao. Điều ấy chứng tỏ giả thuyết X nằm trên trục Phu Văn Lâu - đàn Nam Giao cùng với chùa Thiền Lâm là có cơ sở thực tế (chùa Thiền Lâm và X (Đan Dương Lăng) đều ở về phía nam sông Hương) chứ không còn là giả thiết nữa. (xem A.010).
 


A.010.- Huế và vùng Phụ cận, trích trong Annuaire Général
de Indo-chine năm 1907, trích lại từ BAVH 1-6/1935. Chùa Thiền Lâm nằm gần ấp Bình An ngay trên trục Phu Văn Lâu -đàn Nam Giao
Nhờ thông tin điền dã và thơ văn Phan Huy Ích mà tôi có thể định hướng được X nằm ở bờ nam sông Hương trên đường trục Phu Văn Lâu -đàn Nam Giao. Thế thì Phan Huy Ích còn có thông tin nào để lại liên quan đến vấn đề nầy nữa không ?
 
Tôi lại nghiền ngẫm đọc từng câu từng chữ tập Dật thi lược toản [14]. Và, trời ơi, tôi có cảm giác như Phan Huy Ích đã gởi lại cho tôi một thông tin vô giá khác, ông hạ bút ghi thêm "nguyên chú" dưới bài thơ không đề có số thứ tự 266 sau đây:
Bản dịch:
"Bỏ trốn, trốn danh, tự coi mình kẻ bất tài,
Đồi nương nơi làm quan xa như gọi cảnh nhàn đến.
Lầu sớm nắng hoe, mây khói lượn quanh,
Gió thu mát mẻ, cửa ngõ rộng mở.
Rảnh việc, đầy tớ lười ngủ dưới bóng cây,
Đa tiønh người khách thân cùng ta nâng chén, (*)
Ra vào nơi cơ mật, thẹn mình không có công trạng,
May nhờ ông biết cho, chỉ rỏ ràng ta muốn về. (**)"
 
NGUYÊN CHÚ:
(*) "Lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu";
(Xem A.028)
Câu 5 và 6 của bài thơ nói đến tập quán ngủ ngày của những người phục vụ Bùi Đắc Tuyên. Riêng Phan Huy Ích thì ngủ không được, ông thường ngồi uống rượu giải buồn với "những khách thân". Sợ người đọc không hiểu "người khách thân" của ông đó là ai, ông đã cẩn thận ghi thêm một ghi chú "lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu".
 



Phan Huy Ích viết bài thơ này trong thời gian ông làm quan dưới trướng Bùi Đắc Tuyên (1792 - 1794). Lúc ấy, lăng của ai mà có đủ tiêu chuẩn để cử tiểu giám đến giữ, nếu đó không phải là lăng vua Quang Trung ? Lăng mà bọn tiểu giám giữ ấy ở đâu ? Nếu ở xa thiø chúng có thể "thường đến hầu rượu" Phan Huy Ích ở trong một ngôi chùa gần Thiền Lâm được không ? Chắc chắn là không.
Vậy ta lại có thêm một nhận định:
Lăng Đan Dương tọa lạc gần chùa Thiền Lâm.
 
Chú thích:
QSQ triều Nguyễn, ĐNNTC, t.Thừa Thiên phủ , Nguyễn Tạo dịch, Nha VH bộ QGGĐ Sg 1961, tr.63,
[2]Như [1], tr.66,
[3] Như [1] tr.25.;
[4] QSQ triều Nguyễn, ĐNNTC, t. Kinh sư, Sg.1960, tr. 87;
[5]Như [4], tr.86;
[6]Như [4] tr.66
[7] Như [4], tr.86
[8]Như [4], tr.86,
[9]Như [4],tr.35
[10]Như [4], tr.32
[11] Như [4], tr.77;
[12] Quốc sử quán triều Nguyễn,... tập Kinh sư, SG.1960, tr.88
[13] Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Ban Hán Nôm: Thơ văn Phan Huy Ích, t.II, Dụ Am Ngâm Lục, KHXH, H.1978, tr.86-87
[14] ỦBKHXH Việt Nam - Ban Hán Nôm: Thơ văn Phan Huy Ích, t.II, Dụ Am Ngâm Lục, KHXH, H.1978, tr.124.


Chùa Thiền Lâm chồng chất những bí ẩn
1. Thiền Lâm, ngôi chùa lịch sử
Chùa Thiền Lâm thuộc hệ phái Tào Động, khai sơn vào cuối thế kỷ XVII. Theo các bài vị còn thờ ở chùa Thiền Lâm và bia tháp còn tìm thấy thì chùa do Hòa thượng Khắc Huyền hiệu là Như Tư (viên tịch vào năm 1706) khai sơn. Vị tổ thứ hai là Hòa thượng Hưng Liên hiệu là Quả Hoằng là quốc sư của chúa Nguyễn Phúc Chu [1]. Lúc đầu chùa chỉ là một thảo am dành riêng cho người thân trong gia đình các chúa tụng niệm mỗi lần họ lên trú đông ở Phủ Dương Xuân.
 
Chùa Thiền Lâm lúc đầu thuộc Phủ chúa, vì thế khoảng năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu mời Hòa thượng Đại Sán từ Quảng Đông sang, Chúa mời Hòa thượng về trú ở chùa Thiền Lâm. Về sau, trong bút ký Hải Ngọai Kỷ Sự, Thích Đại Sán cho biết chùa chỉ có: "ba gian lợp bạch mao" [2] với vị trí: "dựng ở đầu cao chất ngất, xuyên ngang gò núi một đường thông" với: "đôi dòng nước biếc tưới ven biền" [3]. Vì thế Thích Đại Sán than phiền với chúa Nguyễn Phúc Chu là chùa: "chật hẹp không được khoan khoái " [4] Chúa Nguyễn Phúc Chu liền cho vừa lính vừa thợ chừng một ngàn người làm việc trong ba ngày thì hoàn thành: "một tòa phương trượng 5 gian, 32 cột, bốn phía có hành lang, vách tường, rầm thượng, rầm hạ đều bằng ván, và một nhà hậu liêu 5 gian, 20 cột" [5] . Từ đó Thiền Lâm trở thành một ngôi đại tự. Chùa có thể chứa hàng ngàn tăng chúng đến thọ giới.
 
Chân dung Thích Đại Sán
Gần năm mươi năm sau, thời chúa Nguyễn Phúc Hoạt/Khoát chùa Thiền Lâm lại được đại trùng tu. Lần đại trùng tu nầy không được sử sách nhà Nguyễn viết, chúng ta chỉ có thể biết được qua thơ văn của Phan Huy Ích. Mở đầu bài thơ Kinh Thiền Lâm phế tự cảm tác, Phan Huy Ích viết: "Tự tại Dương Xuân xã sơn, thử ư cựu Võ Hiếu Vương thời, viện vũ cao xưởng..." (Chùa ở núi thuộc xã Dương Xuân, bắt đầu dựng từ đời Võ Hiếu Vương, nhà cửa cao to) [6]. (xem A.011).

Sau năm 1786, Phong trào Tây Sơn chiếm được Phú Xuân, Bùi Đắc Tuyên - cậu ruột của của vua Quang Tỏan lại chiếm chùa Thiền Lâm làm dinh Thái sư. Năm 1795, Bùi bị "đảo chính" bắt giết, chùa Thiền Lâm rơi vào hoang phế tạm dùng làm kho than.
 
Thời Gia Long, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu quyên tiền trùng tu. Đến cuối thế kỷ XIX (khoảng năm 1897-1898), kỷ sư Kiều lộ Sali thực hiện chủ trương của Thực dân Pháp mở Nam Giao Tân Lộ (nay là đường Điện Biên Phủ) [7], con đường mới xuyên qua khu vực xây dựng chùa, chùa bị dời qua phía Tây [8] (số 78B Điện Biên Phủ hiện nay. (Xem A.012A và A.012B), một số lăng mộ, bia tháp các vị tổ cũng bị dời. Thuở khai sáng Thiền Lâm được các chúa chăm sóc, giøn giữ, nhưng gần hai trăm năm qua Thiền Lâm xuống cấp đến nỗi không mấy ai ở Huế biết đến. Cho mãi đến năm 1987, công sức của Tỳ kheo Thích Chơn Trí và đệ tử của ông gây dựng mới có cơ ngơi ngày hôm nay.
 
2. Những bí ẩn trong sử sách vở
Như trên đã đề cập, chùa Thiền Lâm thuở khai sơn tọa lạc trên đất xã Dương Xuân. Vùng đất dựng chùa Thiền Lâm và chùa Từ Đàm ở phía sau, theo tấm bia Sa Thạch dựng năm 1746 trước chùa Thiền Tôn ghi "công hạnh tu chứng và đạo của Tổ Liễu Quán" cho biết đó là vùng núi "Long Sơn"[9]. Theo địa bạ làng Phú Xuân, đặc biệt là địa bạ và bản đồ giải thửa ấp Bình An (nơi Thiền Lâm tọa lạc ngày nay) không nói rõ tên, nhưng gọi chung vùng đó là lâm lộc (chân núi). Đầu thế kỷ thứ XIX, vua Gia Long xây dựng Kinh thành, dân làng Phú Xuân nhường đất trong làng cho vua, đổi lại, vua cho phép dân Phú Xuân được đi lập làng các nơi, làng mới ở bất cứ nơi đâu vẫn trực thuộc xã Phú Xuân huyện Hương Trà như cũ. Một số dân Phú Xuân đã lên lập nghiệp ở phía nam sông Hương thuộc đất xã Dương Xuân. Số dân này lập ra ba ấp Trường Giang, Trường Cửu(hay gọi là Cởi) và Bình An. Phần đất còn lại của Dương Xuân chia làm hai xã Dương Xuân Thượng và Dương Xuân Hạ. Thời Tự Đức, viết Đại Nam Nhất Thống Chí, các sử thần triều Nguyễn ghi địa chỉ chùa Thiền Lâm và các di tích chung quanh theo địa chỉ mới một cách thống nhất là "ấp hoặc gò Bình An" thuộc xã Phú Xuân [10]. Ta cũng biết huyện Hương Thủy ra đời từ năm Minh Mạng 16 (1835) và từ đó hai xã Dương Xuân Thượng, Dương Xuân Hạ và xã Phú Xuân (với 3 ấp Bình An, Trường Cởi, Trường Giang) đều trực thuộc về Hương Thủy.
 
Căn căn cứ trên bản đồ giải thữa ấp Bình An lập năm Thành Thái thứ 19 (1907) - trước khi Đại Nam Nhất Thống Chí thời Duy Tân ấn hành 6 năm (1907-1913)- trong Bản đồ giải thữa ấp Bình An (Xem A.013), cho thấy khuôn viên đất chùa Thiền Lâm bị Nam Giao Tân Lộ cắt làm ngang, phía đông giáp với Điønh ấp Bình An, phía tây gần giáp với đất nhà họ Nguyễn Hữu (nhà ông Oánh sau nầy) và một cụm ba chùa Tịnh Độ, Phổ Phúc (chùa Vạn Phước sau nầy) và chùa Tuệ Lâm.
 

Khuôn viên chùa Thiền Lâm sát bên Điønh ấp Bình An bị Nam Giao Tân Lộ cắt ngang
Theo bản đồ giải thữa ấp Biønh An lập năm Thành Thái XIX-1907,
trích trong Địa bộ ấp Bình An do Võ Văn Sơn ( người địa phương) cung cấp.
Tài liệu lịch sử, tư liệu bản đồ và thực địa rõ ràng đến như thế nhưng chúng tôi phải mất nhiều năm mới tìm được đích xác nơi toạ lạc chùa Thiền Lâm. Bởi vì chúng tôi đã bị Sách Đại Nam Nhất Thống Chí in thời Duy Tân "ghi nhầm địa chỉ".
 
Để có thể thấy sự "nhầm" khó hiểu đó xin xem bản kê địa chỉ các chùa chung quanh chùa Thiền Lâm sau:
Bình luận: Ấp Bình An là một trong ba ấp nối liền nhau Trường Giang, Bình An, Trường Cửu (Cởi) mới thành lập từ sau ngay vua Gia Long xây dựng Kinh Thành Huế (1804) trên đất của xã Dương Xuân (thuộc huyện Hương Trà) và 3 ấp không thuộc xã Dương Xuân mà trực thuộc xã Phú Xuân có Đình làng tại làng Phú Xuân cũ (nay thuộc Phường Tây lộc ở phía Tây bắc Kinh thành Huế). Thời Minh Mạng (1835) thành lập huyện Hương Thủy, 3 ấp của xã Phú Xuân nầy thuộc huyện Hương Thủy.
 
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí soạn thời Tự Đức viết 5 ngôi chùa Kim Tiên, Tuệ Lâm, Từ Đàm, Viên Giác Thiền Lâm đều ở ấp Bình An;
 
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí soạn thời Tự Đức được biên soạn lại và chính thức xuất bản đời Duy Tân, 4 chùa ở chung quanh chùa Thiền Lâm là Kim Tiên, Tuệ Lâm, Từ Đàm, Viên Giác vẫn giữ nguyên địa chỉ cũ là ấp Bình An, riêng chùa Thiền Lâm cho qua xã An Cựu (Xem A.014C).
 


Vì sao có sự thay đổi như đánh tráo như vậy ? Thực hiện việc thay đổi một cách phi thực tế như thế để làm gì ?

3. Bia lăng mộ tháp các vị tổ chùa Thiền lâm vì sao bị đục phá
Khảo sát thực địa chùa Thiền Lâm hiện nay, chúng tôi phát hiện có một số bia tháp các vị tổ chùa Thiền Lâm đã bị vi phạm như sau:
- Bia tháp hòa thượng Khắc Huyền - vị tổ khai sơn chùa Thiền Lâm dựng năm Chính Hòa thứ 27 (1702) (phía đông vườn nhà 79 Điện Biên Phủ, Huế), phần lạc khoản chung quanh giữ như cũ, phần chính ở giữa bị khắc lại (không rõ vào thời nào) (Xem A.015);
 

- Bia lăng mộ vị hòa thượng nào đó dựng trên cồn Bông sứ (phía tây chùa Thiền Lâm, phía nam chùa Vạn Phước hiện nay, đế bia là một con rùa đá trắng, cùng một thứ đá với tai bia, mặt bia là đá sa thạch) bị mài nhẵn không còn bất cứ một chữ nào. (Hiện nay để trên sân sau chùa Thiền Lâm. (Xem A.016).
 


Đặc biệt, phía trước sân chùa Thiền Lâm có một tấm bia sa thạch nằm úp mặt xuống đất hàng trăm năm qua. Vào khoảng năm 1990 nhà chùa cho dựng dậy mới thấy mặt bia bị đục nát. Những chữ còn có thể đọc được là "Lâm Tế chánh tông [...] bổn sư ...Hoằng lão hòa thượng chi tháp" (Bia cao 8 tấc, rộng 6 tấc). Phải chăng đó là bia tháp của HT Quả Hoằng - vị tổ thứ hai của chùa Thiền Lâm...? (Đến nay, bia đã bị thất lạc, nhà chùa nghi đang bị vùi lấp sau cái am sau chùa). (Xem H.017).
Chùa Thiền Lâm và các vị tổ phạm tội gì mà bị trừng phạt như thế ?
 
Nghiên cứu sách Đại Nam Thực Lục CB, chúng tôi thấy triều Minh Mạng đã lệnh cho bộ Công triệt bỏ bia chùa Trấn Vũ (Hà Nội) do chúa Trịnh dựng lên, phải: "mài đục chữ đi, cái biển đề thơ cũng đốt". Và, những ở Hà Nội, mà ở khắp miền Bắc từ Hà Tĩnh trở ra): "phàm các đền, từ nếu có bia, biển của họ Trịnh làm ra" cũng làm như thế [11]. Đối với những di tích có liên quan đến chúa Trịnh, nhà Nguyễn cho "mài đục" hết các bia biển. Những bia biển ở chùa Thiền Lâm Huế thuộc các chúa Nguyễn không liên quan gì đến chúa Trịnh, vì lý do gì cũng bị "mài đục" như thế ?
 
Chùa Thiền Lâm có được cơ ngơi như ngày hôm nay là nhờ công sức của thầy trò Tỳ kheo Thích Chơn Trí. Tỳ kheo là người có công phát hiện những bí ẩn dưới lòng đất sân vườn chùa Thiền Lâm. Vì thế chúng tôi đã thực hiện một cuộc phỏng vấn về nhiều vấn đề có liên quan đên lịch sử chùa Thiền Lâm. Xin trích một đoạn:
NĐX.- NĐX.- Kính nhờ thầy nói rõ cho hoàn cảnh của thầy và các đệ tử lúc đó (Lúc Tỳ kheo Thích Chơn Trí và đệ tử từ Tổ điønh Tường Vân ra tiếp nhận chùa Thiền Lâm năm 1987 !
 
Tỳ kheo Thích Chơn Trí.- Khi thầy trò tôi ra đây thì chùa chỉ có một chánh điện và một điện thờ mẫu mục nát. Không có nơi ăn ở, không đủ lương thực để ăn mà tu, thậm chí rau cũng không có. Thầy trò phải xới đất vườn chùa trồng rau mà ăn. Không ngờ đào ở đâu cũng trúng các hố gạch vồ, đá cổ. Nhân đó thầy trò tận dụng lấy gạch đá dưới lòng đất lên rửa sạch. Gạch lành thì xây tường, gạch bể thì dập ra đúc táp-lô, lấy đá xây hồ nước hay làm đôn để kê các chậu hoa.
 
NĐX.- Lúc đó các thầy có đặt câu hỏi là những gạch đá đủ loại đó của một kiến trúc cổ nào không ? Và vì sao những gạch đá đó tốt như vậy mà người xưa không dùng lại chôn sâu xuống đất ?
Tỳ kheo Thích Chơn Trí.- Trước hiện tượng đó tôi cũng hơi khó hiểu, nhưng rồi cũng không tiøm hiểu làm gì. Chùa nghèo, đào được đá và gạch dưới đất lên thì mừng có vật liệu xây dựng cho có chỗ ăn, chỗ ở để mà tu thôi. Đâu có tiøm hiểu làm gì.
NĐX.- Kính bạch thầy, thầy có nhận xét gì về những gạch đá khai thác dưới lòng đất chùa Thiền Lâm ?
Tỳ kheo Thích Chơn Trí.- Những viên đá táng cột lớn, một số gạch vồ có khuôn dấu, chất gạch, chất đá rất tốt. [...] Gạch, đá đó phải là của những kiến trúc lịch sử quan trọng có liên quan đến vua chúa. Còn dân thường ta ngày xưa làm gì có được những thứ vật liệu tốt rất quý hiếm đó !"
 
Tôi may mắn được chứng kiến hầu hết các hiện vật lấy từ lòng đất sân vườn chùa Thiền Lâm từ năm 1987 đến nhiều năm sau đó. Hằng ngàn viên gạch vồ, hàng mấy chục viên đá táng, hàng chục viên đá khối . Hầu như toàn bộ gạch vồ đã được tận dụng lại để xây chỗ ăn, chỗ ở cho nhà chùa, số gạch vỡ được đập nhỏ đúc táp-lô xây nhà, phần lớn đá táng và đá khối lớn quá không tái sử dụng được nên sau gần 20 năm vẫn nằm trong sân vườn chùa hoặc dùng làm đôn kê các chậu hoa. (Xem từ A.018 đến A.027)
 













Qua những hiện vật phát hiện ở chùa Thiền Lâm chứng tỏ lúc mở đường Nam Giao Tân Lộ (1897-1898), chùa Thiền Lâm cũ đã được dời xây dựng lại về phía tây và dựng trên một khu đất đã từng vùi lấp một kiến trúc nào đó đã bị triệt phá. Và, đúng như nhận định của Tỳ kheo trụ trì chùa Thiền Lâm Thích Chơn Trí: "Gạch, đá đó phải là của những kiến trúc lịch sử quan trọng có liên quan đến vua chúa !"
Thế kiến trúc quan trọng ấy là kiến trúc gì của các triều đại trước ?
 
 
Chú thích:
[1] Trần Đại Vinh-Nguyễn Hữu Thông-Lê Văn Sách , Danh lam xứ Huế, Nxb Hội Nhà văn, HN 1993, tr. 220.
[2] Thích Đại Sán, "Hải ngoại kỳ sự", UB phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế, 1963, tr.42;
[3] Như [2]
[4] Như, tr.41
[5] Như [2] tr.42;
[6] Phan Huy Ích,"Dật thi lược toản", bản chữ Hán (Viện Hán Nôm)
[7] L. Cadière, Les Tombeaux Annamites dans les environs de Hué,
BAVH 1928, tr.22, 27, 40, .
[8] Xem Bản đồ Giải thữa ấp Biønh An H.013B
[9] Từ Đàm, "Thiền sư Liễu Quán chùa Thiền Tôn, Huế", tập san Phật giáo (?), tr.56
[10] ĐNNTC, thời Tự Đức, bản dịch của Viện Sử học, tr.180
[11] Đại Nam Thực Lục Chính Biên, t.XXII, KHXH, H. 1969, tr.159.
Bổ sung :
"Bao giờ Long Thọ hết vôi
Thiền Lâm hết gạch đá thiø tôi mới thôi làm"

Phủ Dương Xuân mất tích  

Nói đến lịch sử chùa Thiền Lâm là phải nói đến Phủ Dương Xuân của các chúa Nguyễn. Bởi vì chùa Thiền Lâm như bài trước đã đề cập là nơi tụng niệm của các chúa và gia đình trong thời gian họ lên trú đông ở đây. Bởi thế, không những chùa Thiền Lâm "chồng chất những bí ẩn", mà Phủ Dương Xuân cũng có lắm điều khó hiểu. 

Từ xưa đến nay, Huế bị "trời hành cơn lụt mỗi năm", dinh phủ của các chúa Nguyễn dựng ở Kim Long, Phú Xuân luôn bị ngập lụt. Ví dụ như tháng 8 năm Canh thân (1680) "gió bão, nước lụt ngập, mặt đất sâu hơn trượng, người và súc vật bị thương và chết nhiều" [1]. Vì thế mà "đầu bản triều khai quốc có dựng phủ ở gò Dương Xuân" [2] (tức là vùng gò đồi Lịch Đợi, Báo Quốc, Vạn Phước, Thiền Lâm hiện nay). Đến đời ông chúa thứ sáu là Nguyễn Phúc Chu, vào năm Canh thìn (1700), Phủ Dương Xuân được trùng tu. Lý do trùng tu được nhà Huế học L.Cadière giải thích rằng:
 

"Năm 1698 ngày thứ hai trong tháng 11, một cơn bão lớn đã xảy ra, kèm theo mưa lớn và lụt. Minh Vương (tức Nguyễn Phúc Chu) cảm thấy nguy nan khi đang ngự trong Cung, đã tìm đến chỗ an tòan trên một ngọn núi nhỏ. Ngọn núi này phải chăng là nơi ở cũ tại Dương Xuân, nơi Võ Vương sau đó đã ở trong những tháng mùa đông, trong một cung điện, mà theo lời của Poivre, được xây dựng trên một cái gò (élévation). Phải chăng vì sự báo động (lũ lụt) trong năm 1698 đã khiến Minh Vương có ý định xây dựng lại Phủ Dương Xuân vào năm 1700" [3]
 
Khi người cháu nội của Minh Vương lên ngôi trị vì, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Họat (cũng có sách viết là Khóat) (1738), ông bỏ dinh phủ cũ ở Phú Xuân (xây dựng từ năm 1687), xây lại Phủ chính ở bên tả phủ cũ [4]. Sử nhà Nguyễn không thấy ghi chuyện Võ Vương trùng tu phủ Dương Xuân, nhưng chúng ta có thể phỏng đóan khi Võ Vương đã bỏ cũ làm mới nhiều cung điện, chắc chắn nếu ông không phá bỏ hết cái Phủ Dương Xuân cũ để làm lại cái mới thì chí ít ông cũng sửa sang lại Phủ Dương Xuân cho đẹp đẽ, khang trang, xứng đáng với những cung điện khác của ông để ông ở vào những tháng mùa đông như L.Cadière vừa nhắc trong đọan trích trên. L. Cadière căn cứ trên Tạp chí Viễn Đông (Revue d�Extrême Orient, tome III, tr.98) để nhắc đến nhà buôn Pháp Pierre Poivre (xem A.029).
 
Nhà buôn Pierre Poivre

Qua tìm hiểu được biết nhà buôn Pháp nầy đã đến xứ Đàng Trong vào cuối năm 1749, sau khi mua hàng hoá ở Hội An xong, ông lên đường ra Huế thì gặp chúa Nguyễn và được chúa Võ Vương tiếp đón tử tế tại cung điện Mùa Đông (tức phủ Dương Xuân) vào ngày 29-11-1749. Nhưng sau vì sự tranh chấp, Pierre Poivre đã bắt cóc một người phiên dịch Việt Nam bỏ lên tàu chở đi. Để trừng trị, chúa Nguyễn cho áp giải giáo sĩ Pháp Lefèbre vào Tourane để đuổi theo P. Poivre và trục xuất hết các giáo sĩ khác, chỉ trừ J. Koffler đang làm y sĩ cho chúa trong Đô thành Phú Xuân. Đến năm 1752, J.Koffler cũng bị trục xuất luôn. Sang đến Bồ Đào Nha, thủ tướng Pombal không ưa dòng Tên nên tống giam ông vào tù. Sống trong ngục thất, J.Koffler viết bộ Sử chí xứĐàng Trong (Description historique de la Cochinchine). Là người sống trong Đô thành Phú Xuân lâu, J.Koffler biết rất rõ các dinh điện, cung thất ở đây. Ông cho biết: "outre cette demeure royale (c�est-à-dire le grand palais), il y a encore trois autre palais... Le second, oui sert au roi de résidence d�hiver, est construit sur la rive opposée du fleuve" [5] (Ngoài chổ ở chính của chúa (có nghĩa là cung điện lớn) còn có ba cung điện khác...Cái thứ hai dùng làm cung điện Mùa Đông, được xây dựng ở bên kia sông.)
 
Theo Pierre Poivre thì cung điện Mùa Đông (tức phủ Dương Xuân) được xây dựng cũng theo qui cách của điện chính (ce palais d� hiver est construit sur le modèle du grand...) [6] Điện chính lúc ấy là Đô thành Phú Xuân (bên trong cửa Thượng Tứ bây giờ). Trong kỷ hành (voyage) của mình, P. Poivre cho biết qui mô và vị trí phủ Dương Xuân so với Điện chính ở Phú Xuân là: "le second palais, qui est plus petit, est bâti sur une élévation un peu éloignée de la rivière et n�a qu�une aile qui regarde du côté de l�eau. Le Roy pense l�hiver ou la saison des pluies qui dure quatre mois" [7]
 

(Cung điện thứ hai nhỏ hơn, được xây dựng trên cái gò hơi xa sông một chút và chỉ có một cánh nhìn ra phía sông. Chúa thường ngự ở đó vào mùa đông hay mùa mưa kéo dài đến bốn tháng.)
Pierre Poivre được chúa Võ Vương tiếp tại Phủ Dương Xuân, ông còn nhớ và ghi lại mấy chi tiết sau (theo BAVH, tháng 7-9, 1925, tr.139):
"Le Roy était descendu dans une petite salle bâtie pour les audiences à la potre du Palais... Le Roy... me prit par la main et me conduitit sur une terrasse élevé à l'extrémité du Palais, vis-à-vis un grand étang... Tandis que J'étais sur la terrasse du Palais avec le Roy, des pauvres misérables se sont prosternés de l�autre côté de l�étang...se sont mis à crier de toutes leurs forces: à l'injustice, à l'injustice".
 

(Ngài bước xuống một căn phòng nhỏ dùng để tiếp tân ở ngay cửa Phủ (Chứng tỏ chỗ ông ở trên cao, cửa Phủ dưới thấp - NĐX). Ông cầm tay tôi (Poivre) và dẫn tôi đến một mô đất nằm ngoài cùng của Phủ, đối diện với một cáiao...Trong lúc tôi đang ngồi trên mô đất... thì ở phía bờ ao bên kia, một đám dân nghèo đáng thương đang rạp người cúi lạy Ngài, rồi ráng sức gào lên: bất công ! bất công !)
 
Pierre Poivre đã kể cho chúng ta biết Phủ Dương Xuân là cung điện thứ hai của chúa Nguyễn Phúc Khóat. Đã là cung điện thứ hai thì chung quanh chúa còn có gia đình vợ con, cha mẹ, văn võ đình thần, và cả bộ máy phục dịch đông đảo. Như vậy Phủ Dương Xuân là một tiểu triều đình, một cung phủ có nhiều kiến trúc phải trải ra trên một diện tích tương đối rộng.
 
Đến đời chúa thứ chín Nguyễn Phúc Thuần, chúa Trịnh từ Đàng Ngòai xua quân vào đánh chiếm Phú Xuân (1774), Phủ Dương Xuân lọt vào tay quân Trịnh. Hơn mười năm sau (1786) Phú Xuân và Phủ Dương Xuân lại chuyền qua tay Phong trào Tây Sơn. Đến đầu triều Nguyễn, Phan Huy Chú tham khảo tài liệu do cụ thân sinh Phan Huy Ích để lại viết cuốn Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí. Sách Dư Địa Chí có một đọan viết về Phủ Dương Xuân và các cung điện ở bờ nam sông Hương rằng:
"Nam ngạn con sông và trên mạng thượng lưu, lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ; ấy là những tòa nhà nguy nga, mái đao rực rỡ, có hành lang bao quanh, tường thành vây bọc; cửa ngõ mở thông ra tứ phía, được chạm trổ và trang sức rất công phu. Các tòa nhà được xây nền bằng gạch đá rất bằng phẳng, trên lát ván gỗ kiền kiền, dưới mái nhà có máng hứng nước từ trên chảy xuống; có cây cối trồng xen cạnh, những gốc sung, xoài, cây mít lớn vừa người ôm. Trong vườn sau có núi non bộ xây với những hòn đá lạ mắt, lại có ao vuông, hồ bán nguyệt với những cây cầu vồng và nhà hóng mát (thủy tạ) cất ở giữa hồ. Những bức tường trong tường ngoài thảy được xây dày đến vài tất, lại có những hình tượng, rồng, hổ, lân, phượng và hoa cỏ đắp tô bằng mảnh sứ và vôi" [8]
 
Ba kiến trúc Phủ Dương Xuân (ở gò Dương Xuân), điện Trường Lạc và Hiên Duyệt Võ (ở cánh đồng phía trước lăng Tuy Lý Vương, Phường Đúc ngày nay) có những nét chung đặc biệt như thế. Cùng thời với Phan Huy Chú, các sử thần triều Nguyễn tác giả Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (khởi thảo 1821, viết xong 1844) cũng viết : "Ở thượng lưu sông Hương lại có Phủ Dương Xuân, Điện Trường Lạc, Hiên Duyệt Võ. Đều chạm vẽhết sức tinh xảo. Ở vườn hậu uyển thì có non bộ, đá lạ, hồ vuông, hào cong, cầu vồng, thủy tạ..." [9]
 
Đến đời Tự Đức soạn Đại Nam Nhất Thống chí, soạn vừa xong thì xảy ra sự kiện thất thủ Kinh đô năm Ất dậu (1885), đời Thành Thái - Duy Tân chỉnh lý lại và khắc in (1913), ở tập Thừa Thiên Phủ (t.Thượng) bộ sách trên đã nhắc đến Phủ Dương Xuân khi viết về Gò Dương Xuân với một thông báo hết sức khó hiểu như sau.
"GÒ DƯƠNG-XUÂN. Ở phía tây bắc huyện (Hương Thủy) 15 dặm; thế gò bằng thẳng rộng rãi, chỗ cao chỗ thấp, la liệt dài dặc độ vài dặm; phíanam gò có đàn Nam-Giao (NĐX nhấn mạnh), phía tây có nhiều danh-lam-cổ-sát, cũng xưng là nơi giai thắng.
Cẩn Án: Lúc đầu bản triều khái-quốc có dựng phủ ở gò Dương-Xuân nầy. Đời vua Hiển-Tôn năm Canh-thìn thứ 9 (1700) trùng tu, cơ Tả-Thủy, đào đất 1 cái ấn đồng có khắc chữ: "Trấn-Lỗ Tướng-Quân chi ấn" là ấn của Trấn Lỗ Tướng-Quân, nhân đó đặt tên phủ là Ấn-phủ. Từ sau khi bị binh hỏa đến nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào" (Tự kinh binh lọan kim thất kỳ xứ) [10].
 


Chiến tranh với Tây Sơn (hoặc họat động trả thù Tây Sơn) đã làm cho nhiều di tích ở vùng Bình An ngày nay bị hư hại nặng, đặc biệt là các chùa. Nhưng chỉ hư hại về kiến trúc chứ địa điểm xây dựng, nền móng của các kiến trúc ấy làm sao có thể hư hại đến mức mất tích được ? Lúc ấy chiến tranh hai bên chưa có vũ khí hủy diệt như bom nguyên tử thả xuống Hirosima và Nagasaki trong Thế chiến hai. Mà bom nguyên tử có hủy diệt người ta cũng định vị được địa điểm những kiến trúc đã có trước đó ở chỗ nào. Sau khi nhất thống được đất nước, triều Nguyễn cho trùng tu, sửa chữa hết các chùa. Vì sao nhà Nguyễn không cho tìm và phục hồi Phủ Dương Xuân ? Hơn một thế kỷ qua chưa một nhà sử học Việt Nam và ngọai quốc nào quan tâm và đặt ra câu hỏi đó cả.

Qua những tư liệu trên ta có thể biết được những đặc điểm của Phủ Dương Xuân như sau:
- Nằm trên gò Dương Xuân, phía Bắc đàn Nam Giao, cùng hướng với Cung điện Đan Dương và chùa Thiền Lâm ;
- Được xây dựng trên cái gò hơi xa sông một chút; và có một cánh nhìn ra phía sông ;
- Địa thế chỗ cao chỗ thấp ;
- Nhỏ hơn cung điện chính ở Phú Xuân nhưng có nhiều kiến trúc cung, thất;
- Trong khu vực phủ có một cái ao (bờ ao bên ngoài phủ dân chúng thời bấy giờ có thể đến bái lạy kêu oan) ;
- Chúa thường ngự ở đó vào mùa đông hay mùa mưa kéo dài đến bốn tháng.
Một dinh phủ quan trọng, to lớn như thế mà có thể mất tích được sao ?
Vậy Phủ Dương Xuân ở đâu trong thực tế Phường Trường An của Thành phố Huế ngày nay ?
Phủ Dương Xuân mất tích có liên quan gì đến phế tích dưới nền móng chùa Thiền Lâm mà thầy Chơn Trí phát lộ đã trình bày trong bài trước không ?

 
Chú thích
[1]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Tiền biên, bản dịch của Viện Sử học, t.1, HN. 1962, tr. 126
[2]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí,
[3] Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH), số tháng 7-9 năm 1925, tr. 143
[4] QSQ triều Nguyễn, ĐNTL Tiền biên, bản dịch Viện Sử học, t.1, HM 1962, tr.2001
[5]Bản dịch của P.Barbier, Revue Indochinoise, t.XV và XVI, 1911
[6] BAVH, số tháng 7-9 năm 1925, tr.138
[7] BAVH.....1925, tr.138
[8]Phan Huy Chú, "Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, t.1 Dư Địa Chí, Nguyễn Thọ Dực dịch, Phủ QVKĐTVH, Sg 1972, tr.346
[9]QSQ triều Nguyễn, ĐNTL Tiền biên, bản dịch của Viện Sử học,. HN.1962, tr.126
[10] QSQ Triều Nguyễn, ĐNNTC, Thừa Thiên Phủ,Tập Thượng, tr.56


Đi tìm dấu tích Phủ Dương Xuân  

Đến đây chúng ta có thể biết được Phủ Dương Xuân nằm trên gò Dương Xuân, phía Bắc đàn Nam Giao, cùng hướng với Cung điện Đan Dương và chùa Thiền Lâm, được xây dựng trên cái gò hơi xa sông một chút, có nhiều kiến trúc, có một cánh nhìn ra phía sông, xây dựng trên một địa thế chỗ cao chỗ thấp; trong khu vực phủ có một cái ao mà bờ ao bên ngoài phủ dân chúng có thể đến kêu kiện với chúa được. 

Những thông tin đó trải qua trên dưới hai thế kỷ rồi. Đã có biết bao vật đổi sao dời. Biết thế nhưng tôi vẫn cố đi tìm trong thực tế. Với tấm bản đồ tỷ lệ 1/2.000 do Bộ Xây Dựng lập năm 1996 tôi đi từ đàn Nam Giao đi về hướng bắc bằng đường Điện Biên Phủ (Nam Giao Tân Lộ trong sơ đồ ấp Biønh An) để tiøm địa điểm phủ Dương Xuân.
 
Bản đồ tỷ lệ 1/2.000 do Bộ Xây Dựng lập năm 1996
(Trích khu vực chung quanh chùa Thiền Lâm)
Con đường bằng phẳng được một đọan rồi tụt dần xuống một cái dốc lài lài. Xuống hết dốc, con đường lại trở nên bằng phẳng, hai bên là suối sâu hay ruộng lúa (sau năm 1992, dân địa phương đã xây nhà nối tiếp nhau kín cả hai bên đường). Đọan đường phẳng này dài khoảng 200 mét do thực dân Pháp đắp qua ruộng qua khe để làm đường "Nam Giao Tân Lộ" (1878-1898) tức Điện Biên Phủ ngày nay. Đọan đường đắp này như một con đê chắn ngang cái thung lũng hẹp nằm theo chiều đông tây. Ở đầu phía bắc đoạn đường đắp có một cái cống, tháo nước ruộng khe chảy từ đông sang tây.
1. Suối Tiên
Khi con nước băng qua khỏi cống liền nhập với dòng suối chảy men theo đường ở phía tây rồi chảy thẳng góc với đường Điện Biên Phủ ra cánh đồng Bầu Vá của làng Dương Xuân hạ. Con suối này mùa mưa lũ nước chảy rất mạnh. Những người lớn tuổi cho biết lúc nhân dân chưa được đến khai phá vùng hai bên bờ cây cối rậm rạp, dòng suối chảy mạnh ngay cả những tháng nắng hạn. Con suối được gọi bằng một cái tên rất đẹp: "Suối Tiên". Không phải vì nó đẹp mà được đặt tên Tiên, sự thực vì ở khúc cuối, dòng suối chảy dưới bóng chùa Kim Tiên. Con suối này cắt ngang "Dương Xuân Hạ đại lộ" (một đọan đường Thiên lý từ bến đò Trường Súng lên đàn Nam Giao - song song với Nam Giao Tân Lộ - Điện Biên Phủ, L. Cadière gọi là Paralèlle Ouest). Chiếc cầu nối hai bờ suối trên "Dương Xuân Hạ đại lộ" mang tên con suối "Cầu Tiên". Tên chữ trong Đại Nam nhất thống chí gọi là "Cầu ván Dương Xuân Hạ" dài 51 thước 5 tấc, ngang 6 thước 4 tấc [1], do một đầu (phía bắc) thuộc địa phận xã Phú Xuân, một đầu (phía nam) thuộc Dương Xuân Hạ [2]
 
2. Hồ bán nguyệt
Mãi đi theo dòng suối tôi bỏ qua những cảnh vật bắt đầu từ chỗ hai con nước gặp nhau ở phía tây đường Điện Biên Phủ. Cảnh vật làm cho tôi chú ý nhất là khoảnh ruộng dáng dấp hình bán nguyệt đầy rau răm. Đường kính của hình bán nguyệt nằm dọc theo suối. Dân địa phương cho biết khoảnh ruộng rau răm ngày xưa là một cái hồ bán nguyệt trồng sen (sau năm 1992 đã bị lấp một đoạn phía đông để làm nhà) (xem A.033, A.034). Ở phần cuối hồ, hồi đầu thế kỷ Phó bảng Nguyễn Điønh Hiến (thầy địa của vua Khải Đinh) bắc một nhịp cầu nối liền hai bên bờ Suối Tiên (Xem A.035) để làm một vườn cảnh. Ở bên bờ nam Suối Tiên là một gò đất cao -nơi hồi đầu thế kỷ XX bà thứ phi của vua Thành Thái (sau xuất gia là Ni sư Diệu Hương) đã xây dựng chùa Diệu Đức.
 




Ở bên kia suối, cách phía tây đường Điện Biên Phủ vài chục mét có một gò đất cao chạy từ đông sang tây, đó là nơi tọa lạc hai ngôi chùa Kiều Đàm và Sư Nữ Diệu Đức ngày nay. [3]
 

Phía bắc hồ bán nguyệt là lưng một cái gò bị khoét lõm vào và chếch về phía tây một chút. Chỗ lõm vào ấy đã dựng lên hàng chục ngôi nhà dân. Trong số nhà cửa đó có hai ngôi của chị em bà Nguyễn Thị Liên và ông Nguyễn Hữu Oánh. Hai chị em bà này xuất thân trong một họ tộc gốc làng Phú Xuân (trong Thành Nội) và đã được vua Gia Long cho lên khai canh vùng đất này. Vì thế, mà dòng họ Nguyễn này cha truyền con nối làm trưởng ấp này. Nhà bà Nguyễn Thị Liên mang số 62/13/12 Điện Biên Phủ) (nay là 10/17 kiệt 120 Điện Biên Phủ), nhà ông Nguyễn Hữu Oánh lùi ra phía tây - bắc một chút, mang số 62/13/12A Điện Biên Phủ (nay là 9/17 kiệt 120 đường Điện Biên Phủ) (Xem A.038 và A.039).
 


3 Gạch đá lạdưới lòng đất nhà vườn ông Nguyễn Hữu Oánh
Khi đào đất làm vườn hay dựng nhà, từ đầu thế kỷ XX, cụ nội và thân sinh ông Oánh đã bắt gặp ở dưới đất hàng ngàn viên gạch vồ, hàng trăm viên đá lát khổ 30 x 30 cm, dày 4 cm. Những gạch đá này, cụ thân sinh ông Oánh đã dùng để xây tường và lát sàn một ngôi nhà to. Đó là ngôi nhà ông Oánh đã ra đời. Nhưng trong gia điønh nhận thấy ở trong ngôi nhà đó không được may mắn, đã có nhiều người "chết bất đắc kỳ tử", nên sau Ngày thống nhất đất nước (30-4-1975), ông Oánh đã phá bỏ nhà cũ, gánh toàn bộ đá lát và gạch vồ tặng cho chùa Vạn Phước ở trên đỉnh gò (xế phía tây bắc một chút so với nhà ông Oánh). Chùa Vạn Phước sử dùng số đá lát đó lát con đường vào nhà trai phía bên phải chùa (Xem A.040A), không hiểu sao vừa rồi nhà chùa bóc hết số đá lát đó đem ra lát một khoảnh vườn nối hành lang dài mới xây dựng với hồ nước sau vườn (Xem A.040B). (một số viên đá lát lại vừa bị lấy đi, chưa rõ đi đâu !)
 


Trước đây dân địa phương còn thu nhặt được trong vùng ấp Bình An một viên đá lạ khác, họ đưa vào để ở hiên chùa Vạn Phước (Xem A.041), nay đã thất lạc.
 

Hiện nay nhà ông Oánh còn giữ một viên đá đào được trong lòng đất vườn nhà, trước kia dùng làm lối đi trước sân nhà, nay di chuyển ra lát ảng nước sau chùa (Xem A.042A& A.042B).

A.042.- Một viên đá đào được trong nhà ông Nguyễn Hữu Óanh
Dùng làm lối đi trước nhà (1988) hiện nay chuyển ra lát ảng nước sau nhà.
Ngòai ra trong khu vực chung quanh nhà bà Nguyễn Thị Liên và ông Nguyễn Hữu Oánh có những hiện vật cổ xưa nay còn chờ lời giải. 

4 Móng thành cũ

Trên con đường nằm giữa "giếng lọan" và nhà bà Nguyễn Thị Liên nổi lên một mố thành vôi dày, hàng năm nước chảy, mố tường lại nhô lên và bị dân địa phương dùng cuốc cúp vạt bằng để người đi lên xuống khỏi vấp ngã.(Xem A.043A & A.044). (Hiện nay móng thành nầy còn một đoạn nằm lấp trong cỏ cây bên đường).



 A.043&A.044.- Mặt đường vôi vữa cổ trên con đường trước mặt nhà bà Liên chứng tỏ ngày xưa đây là chân một công trình kiến trúc hoặc tường thành. Ảnh Thanh Tùng 6-12-1988 

Sau lưng nhà anh Nguyễn Hữu Oánh và sau lưng nhà anh Nguyễn Hữu Oanh (anh chú bác của anh Oánh) ở phía sát với hàng rào chùa Thiền Lâm cũng còn nhiều tảng bê-tông vôi, khi làm vườn gia đình ông Oanh đã nhặt chất lại chung quanh hàng rào (Hiện nay chỉ còn giữ được ảnh chụp từ năm 1988). (Xem A.045)

 5. Đá táng cột lót đường 

Trên con đường nằm giữa nhà anh Oánh và Cồn Bông Sứ chạy từ cuối hồ bán nguyệt lên đỉnh gò Bình An có nhiều viên đá lót đường thu nhặt từ những công trình kiến trúc cũ đã bị chôn vùi xuống đất từ xưa. Đặc biệt ở ngã ba rẽ vô chùa Vạn Phước có hai phiến đá táng cột cỡ 45 x 45 cm, một viên đá Quảng màu trắng (A.046), viên kia đá gra-nít màu xanh (A.047), vòng tròn khắc lõm vào giữa mặt đá để kê chân cột có đường kính 27 cm (viên đá trắng), 22 cm (viên đá xám). Hai viên đá này được chôn sâu xuống cất lát mặt đường. (Ngày nay những viên đá nầy đã bị lấy đi hoặc bị phủ lên một lớp xi-măng trong chương triønh kiên cố hoá đường sá của TP Huế , tôi chưa tìm được). Tại ngã ba nầy có đường rẽ phải vào nhà một người dân cũng có một viên đá táng cột lớn chôn giữa đường đi (Xem A.048), nay bị một lớp bê-tông kiến cố hoá đường xóm che khuất.

Người dân địa phương cho biết ở vùng này trước kia người ta đã đào được hàng trăm viên đá táng cột như thế và trải qua hàng chục năm, họ bán dần hồi cho những người thợ làm bia. Những viên còn lại, thợ làm bia chê xấu không mua mới đem lát đường.


 6. Những đống giải hạ 

Theo con đường ấy chừng vài chục mét thì gặp một ngã ba. Ngã thứ nhất bọc sau lưng chùa Vạn Phước để đi ra phía tây bắc, con đường đó sẽ nhập với đường "Dương Xuân Hạ đại lộ" ngày xưa, trước khi con đường dẫn xuống bến đò Trường Súng, nó đi ngang chùa Viên Giác (bên trái) và xuống một chút nữa là miếu Lịch Đợi (bên phải). Nếu lưu ý một chút sẽ phát hiện nhiều đống giải hạ (gạch, ngói, vôi vữa cũ) được vun thành bờ rào phía sau chùa Vạn Phước và phía trước chùa Tịnh Độ (hai ngôi chùa này mới có hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX). Những đống giải hạ này chứng tỏ nơi đây đã từng có những kiến trúc cổ đã bị triệt hạ. 

7. Bia mộ tổ đời thứ hai chùa Thiền Lâm 
Nếu men theo nhánh đường phía Đông bắc sẽ dẫn ra đường Điện Biên Phủ ở đọan ngang nách chùa Từ Đàm (chùa Ấn Tôn cũ). Mới đi được mươi bước, ta gặp một cái tháp cụt của một vị sư chùa Thiền Lâm. Ngôi tháp này trước kia ở sau chùa Thiền Lâm, khi làm Nam Giao Tân Lộ (do kỷ sư Kiều lộ Sali thực hiện trong khoảng năm 1878-1898) ngôi chùa bị dời qua phía tây đường Nam Giao thì ngôi tháp này cũng bị dời vào chỗ hiện tại. Khi dời vào có mang theo tấm bia cũ ghi "Sắc tứ Thanh Trì Quả Hoàng Quốc sư" (vị tổ thứ hai chùa Thiền Lâm) - quốc sư dưới thời chúa Nguyễn Phước Châu. Đến nửa thế kỷ XX, có ông Nguyễn Thắng Đống - một thợ vàng giàu có ở Huế, bỏ tiền ra xây ngôi tháp cụt (bằng xi - măng) để cầu tự (xem A.049A & A.049B). Hoà thượng Trì Quả Hoàng Quốc sư" là quốc sư dưới thời chúa Nguyễn Phước Châu. Có lẽ vì thế mà bia tháp của Hoà thượng không bị mài đục, sửa chữa viết lại như các bia tháp của các vị tổ khác.


Đối xứng với cái tháp cụt qua con đường mòn là phần mộ của học giả Phạm Quỳnh. Đi quá cái mộ đó chừng mươi mét nếu lưu ý sẽ thấy chân móng của một bức thành dày và dài chạy từ tây sang đông). Một người dân ở gần bức thành đã "khai thác " bức thành này để xây bờ chắn đất làm vườn, làm nền nhà. (Hiện nay vẫn còn nhiều dấu tích). (Xem A.050)

8 Lăng xây bằng đá tận dụng trong khu vực
Chúng ta trở lại chỗ có hai viên đá táng trên và rẽ phía tay trái vào cổng chùa Vạn Phước. Hãy giành nói về những viên đá lạ còn giữ trong chùa Vạn Phước sau, bây giờ hãy đến cồn Bông Sứ ngay trước chùa Vạn Phước. Sở dĩ cái cồn nầy có tên Bông Sứ vì trước đây trên cồn có nhiều gốc Bông Sứ cổ thụ. (Trước năm 1992 tôi còn thấy một gốc Bông sứ cổ. Đến nay (2006), theo ông Nguyễn Hữu Oánh: Gốc bông sứ cổ được người Trung Quốc mua với giá cao nên toàn bộ bông sứ trên cồn đã bị trục đem "xuất khẩu" hết). Theo truyền thống ở Huế, bông sứ chỉ được trồng ở các cung điện, lăng mộ hoặc nơi thờ tự lớn. Cái cồn nầy có nhiều gốc Bông sứ cổ chứng tỏ ở khu vực nầy từng có các cung điện hoặc là lăng mộ hay một nơi thờ cúng quan trọng nào đó ?

Trước năm 1990, đến Cồn Bông Sứ ta thấy môt ngôi lăng với một tấm bia lớn dựng trên lưng một con rùa bằng đá trắng. Tấm bia đá gra-nít đã bị "mài" nhẵn mất hết chữ. (Sau năm 1990, tấm bia được Nhà Bảo tàng Thành phố Huế chở về Nhà Bảo tàng Thành phố cất giữ một thời gian rồi chở lên trả lại cho chùa Thiền Lâm. Hiện tấm bia lớn+ rùa đá còn dựng ở sân sau chùa Thiền Lâm như đã giới thiệu ở bài trước ). (Xem lại A.016).

Ở phía tây nam tấm bia+ rùa đá chừng ba bốn chục mét có một ngôi lăng hướng về phương nam, rộng 3m, dài 4m, tấm bia lăng (1,1m x 1,1m) ghép bằng ba phiến đá mỏng. Phía trước lăng có hai cái trụ đá hiønh chóp thấp, một cái bàn đá nhỏ giống như một cái ghế đá vuông chôn sâu dưới đất (Xem A.051).




Phía sau lăng có hai khối đá khác, một khối 55 x 35cm, chiều cao có hai cấp, cấp thấp khoảng 30cm, cấp cao khoảng 34 cm (Xem A.052); một khối đá táng cột 45 x 45cm, dày 25cm. Viên đá táng cột này rất đặc biệt, phần khoét giữa mặt đá để kê cột có môt hình tròn bị cắt một khúc và đục rộng ra. Chỗ khoét sâu ấy chứng tỏ mặt cắt ngang cây cột kê vào viên đá ấy có một hình tròn và một hình tam giác ghép vào nhau. Ở hai đầu góc nhọn của tam giác có hai đường hoa văn cuốn lên. (Xem A.053).




Cỡ viên đá táng 45 x 45cm, lỗ kê chân cột lớn và có hình khối đặc biệt, chứng tỏ nó có xuất xứ từ một cung điện lớn hiếm có. Người địa phương cho biết ngôi lăng này của bà thân mẫu thượng thư bộ Binh - Tiến sĩ Phạm Liệu. Nhờ quyền thế Thượng thư bộ Binh, ông Tiến sĩ Phạm Liệu mới dám góp nhặt "phế liệu đá" tận dụng trong khu vực nầy để xây dựng lăng cho thân mẫu mình. Vì tận dụng nên có nhiều chỗ không đúng kích cỡ cho nên phải trát thêm vôi vữa, ngược lại một số viên đá quy tập về nhưng không sử dụng hết nên còn để lăn lóc phía sau. Hiện nay (2006) ngôi lăng trên đã được hậu duệ của người quá cố xây tường thành vây bọc chung quanh, viên đá có hình khối đặc biệt được ghép với nhau làm thành một cái bàn thờ thổ thần đặt ngay phía sau ngôi lăng trên). (Xem A.055).

Dân địa phương và các nhà sư trong chùa vạn Phước cho biết những viên đá còn lại nêu trên chỉ là một phần rất nhỏ, phần lớn dân đã đưa đi bán trong nhiều năm. Như vậy những viên đá đó của cung điện nào ? Vì sao nó lại tập trung vào khu vực nầy ?

Trước lăng, Tiến sĩ Phạm Liệu có khắc hai câu đối chữ Nôm: 

Ngay chùa Từ Hiếu soi lòng Phật; 
Lên chốn Bình An mến cảnh Tiên.

Hai câu đối nói lên sự thanh tịnh, khoáng đãng, đẹp đẽ của cồn Bông Sứ ấp Biønh An. Khảo sát khắp khu vực gò Dương Xuân không có một nơi nào có thể sánh với khu vực Cồn Bông Sứ.

9. Lăng hòa thượng Tĩnh Công
Từ lăng bà thân mẫu thượng thư Phạm Liệu hướng về hướng tây, mặt đất cồn Bông Sứ thấp dần, ở chỗ cồn ngoặt ra hướng bắc có mộ tháp của một vị hòa thượng chùa Bảo Quốc táng từ thời Gia Long. Trong bài nghiên cứu Le Quartier der Arènes của L. Cadière đã đề cập đến chương trước, L.Cadière đã viết về ngôi mộ tháp này (tr.127) và có vẽ lại cái bia (Planche LXV) với dòng chữ Hán được phiên âm như sau:
" Sắc tứ Tĩnh Công lão thiền sư chi tháp"
 
10. Nền cũ và giếng cũ chùa Tuệ Lâm
Từ ngôi mộ tháp đi ngược ra phía bắc ở chỗ gần đỉnh cồn Bông Sứ thấy nền cũ của chùa Tuệ Lâm (đã đề cập đến ở chương Bốn). L.Cadière trong bài dẫn trên đã tỏ ra thú vị với vái địa điểm chùa Tuệ Lâm. Ông viết:
"Đi thăm chùa Tuệ Lâm rất thú vị" (Ce temple Tuệ Lâm est intéressant à visiter).
Đặc biệt ở bên cạnh chùa Tuệ Lâm còn dấu tích một cái giếng cổ, lúc L.Cadière đến thăm thiø thấy còn hai cái cột xây dựng để đỡ cái tời kéo nước ngày xưa. Ngày nay không còn những thứ ấy nữa, nhưng giếng còn một độ sâu khá sâu. Ném một viên đá xuống nước, tiếng động vọng lên âm và thanh. Người địa phương cho biết giếng được đục xuyên qua núi đá và được gọi "giếng lọan" (Xem A.056).
 

Nhà Nguyễn xem thời kỳ chiến tranh với Phong trào Tây Sơn là " loạn " như trường hợp nhà Nguyễn viết về chuyện Phủ Dương xuất mất tích " Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ " đã đề cập trong các chương trước. Trong khu vực khảo sát ta đã gặp một " giếng loạn " bên hồ bán nguyệt trước nhà bà Nguyễn Thị Liên và nhà ông Nguyễn Hữu Oánh. Ở đây lại gặp một " giếng loạn " thứ hai. Phải chăng những giếng nước cổ nầy liên hệ đến nơi trú phòng của quan quân nhà Tây Sơn đã bị quân của Nguyễn Ánh đánh bại ?
 
11.Giếng và Ruộng Trường Bia
Lại thêm một điều khó hiểu nữa: L.Cadière rất thích thú vị trí chùa Tuệ Lâm và giếng xưa như thế mà ông cũng không đánh dấu vào bản đồ nêu trên. Trong khi đó thì ông lại đánh dấu số 5 cho cái giếng ở cuối mảnh ruộng (dài khoảng 100m và rộng khỏang 30m) nằm kẹp giữa hai mái gò gọi là Ruộng Trường BiaGiếng Trường Bia. Theo L. Cadière, Ruộng Trường Bia chính là "Champ de tir des canons" (Pháo trường). Dân địa phương cho biết Ruộng Trường Bia là nơi tập bắn súng thần công của nhà nước. Thời Pháp chiếm Huế dùng nơi đó làm nơi tập bắn bia. Vì lý do đặt súng thần công ở đó, cho nên trên gò đối diện với chùa Tuệ Lâm, nhà Nguyễn đã xây cái miếu Hỏa Thần, sau này mảnh ruộng ấy không dùng làm Pháo trường nữa, nhà Nguyễn lại chuyển miếu Hỏa thần cho dân phường Đệ Cửu làm đình làng. L. Cadière đã đánh dấu miếu Hỏa Thần bằng con số 4 trên bản đồ nêu trên.
 
12 "Mả Lọan"
Con đường từ tháp ngài Tĩnh Công đi ngang qua "giếng cổ" (" giếng lọan ") chùa Tuệ Lâm sẽ dẫn nhập vào con đường bao quanh phía Tây Bắc chùa Vạn Phước vừa viết ở đoạn 6 trên. Ở phía trái con đường nầy có nhiều ngôi mộ tập thể, mỗi ngôi vun cao và dài như những vồng khoai lớn. Một số mộ hoang này đã có ở đó từ xưa, một số mới dời vào khi người Pháp làm đường Nam Giao Tân Lộ (Điện Biên Phủ ngày nay). Số mộ này có tên gọi là "Mả Loạn". Chùa Vạn Phước dựng bia cho một số mộ này (một số vẫn chưa có bia) và gọi là Vạn Phước cô mộ. Chùa thường cúng giỗ vào ngày rằm tháng 7 hằng năm. Nếu hiểu chữ loạn ở theo nghĩa loạn của " giếng loạn " trên thì những người được chôn dước các ngôi " mả loạn " vô danh đó là người của Phong trào Tây Sơn.
 
13. Cảnh Tiên
Khu vực khảo sát bên bờ bắc suối Tiên hiện nay đã bị lăng mộ bá tánh chôn kín, trong số đó có nhiều ngôi mộ của gia điønh người họ Nguyễn khai canh vùng này. Tuy vậy, đứng ở cồn Bông Sứ ngay ngôi lăng đá trắng của thân mẫu thượng thư Phạm Liệu nhiøn về phía tây nam, phía đông nam vẫn còn thấy rất đẹp. Ở mút tầm mắt là núi Kim Phụng, ở vùng giữa xanh ngát một màu là vùng chùa Từ Hiếu. Bởi thế Tiến sĩ Phạm Liệu mới ca ngợi cảnh trí này trong đôi câu đối nêu ở đọan 8 trên. Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí sọan thời Tự Đức, khi viết về chùa Tuệ Lâm, cũng từng viết:
"Chùa Tuệ Lâm ở trên gò Bình An, có khe bao quanh, phong cảnh cũng đẹp..." [4]
 
Khe này là Suối Tiên như ta còn thấy ngày nay. Theo lời thuật của ông Nguyễn Hữu Oánh, một số dân địa phương và sư bà Thích nữ Diệu Không (chùa Sư Nữ) ở mô đất nằm trên bờ bắc Suối Tiên) cho biết: khu vực chung quanh hồ bán nguyệt và hai bên bờ suối Tiên cho đến đầu thế kỷ XX rất hoang vu. Sau đó (vào cuối đời Thành Thái), các Phủ Phòng được chia đất Biønh An để làm nghĩa địa riêng. "Ông Hầu Bọc" (?) nhận ở đỉnh gò (chỗ táng hài cốt học giả Phạm Quỳnh hiện nay), ông Phạm Liệu nhận ở đỉnh cồn Bông Sứ (nơi táng hài cốt thân mẫu ông và có ngôi lăng đá trắng tận dụng nêu ở đọan 5.8), ông Thượng Nguyễn Điønh Hòe nhận chỗ am Phổ Phúc (sau đó lập chùa Vạn Phước)... Lúc ấy ông Nguyễn Hữu Thoàn (nội tổ của anh Oánh) từ Cồn Bàng (đồi nằm trên bờ nam Suối Tiên) mới lần về bờ bắc suối Tiên canh tác. Ông Nguyễn Đình Hiến người Quảng Nam, đậu Phó bảng khoa Tân Sửu (1901), thầy địa lý của vua Khải Định đến xây dựng điønh, tạ, bắc cầu, trồng cây cảnh, biến hai bờ suối Tiên (chỗ gần hồ bán nguyệt) thành một nơi giải trí, bàn chuyện thơ văn, tướng số Sau đó không lâu, chính ông thầy địa của vua Khải Định tính toán xem xét kỹ vùng này và có nhận định:
"Đây là nơi hội đủ các thần kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, rất thiêng liêng với cái thế rồng chầu về cửa khuyết" [5]
 
Cái địa cuộc ấy người bá tánh khó ở, ông Hiến tin như thế nên ông đã nhượng lại khu vực ở bờ nam suối Tiên cho bà Ân Phi (của vua Khải Định) để xây dựng chùa. Đó là nơi tọa lạc của hai ngôi chùa Kiều Đàm và Sư Nữ Diệu Đức đã đề cập trên. Phía bắc Suối Tiên (chỗ hồ bán nguyệt) nhân dân làm nhà ở. Cái gò dựng chùa Kiều Đàm và chùa Sư nữ Diệu Đức chạy vào hướng tây đến chùa Kim Tiên ngày xưa được dân địa phương gọi là Cồn Bàng (đối xứng với Cồn Bông Sứ qua Suối Tiên). Đầu triều Nguyễn dân Phú Xuân lên khai canh lập ấp ở đây trước, gần một thế kỷ sau (cuối thế kỷ XIX) mới mon men qua Cồn Bông Sứ. Không rõ cuối thời các chúa Nguyễn, trãi qua thời Trịnh chiếm đóng và thời Tây Sơn Cồn Bàng giữ vai trò gì. Tuy nhiên tìm hiểu Cồn Bàng tôi thấy có hai sự việc bất bình thường. Sau thời Tây Sơn chùa Kim Tiên ở cuối Cồn Bàng bị thiệt hại nặng. Trong khuôn viên nền nhà ông Nguyễn Văn Minh tìm thấy một hố tro cốt biểu hiện đây là chôn tập thể. Ông Minh là cháu ông Nguyễn Hữu Oánh, ông Oánh cho biết:
" Một sự việc tương tự xảy ra trong nhà của Nguyễn Văn Minh - cháu kêu tôi bằng chú ruột. Nhà cháu Minh ở sát chùa Sư nữ, sau lưng chùa Kim Tiên [6]. Nhà nầy có từ lâu đời. Đến mấy năm gần đây nó phá để làm lại thì phát hiện dưới nền nhà có 27 cái đầu lâu chồng chất lên nhau. Nó sợ quá bèn chuyển 27 đầu lâu ra táng ở Cồn Bàng. Không ngờ vừa rồi Cồn Bàng cũng bị qui hoạch, cháu Minh lại phải dời 27 đầu lâu về lại trong vườn nhà của mình.
Đó là những việc vô tình mà phát hiện được. Nếu khai quật vùng nầy thì chắc còn nhiều mộ chôn tập thể nữa. Vì sao có những mộ chôn tập thể như thế ? Chỉ có chiến tranh thôi. Mà chiến tranh chỉ có những người thua trận mới bị chôn tập thế như thế".

Người ta cũng cho biết ngay trong khu vực chùa Diệu Đức cũng tìm thấy nhiều hố tro cốt của nhiều người từng bị dập xuống đó.
Phải chăng đó là hài cốt của quân đội Tây Sơn đã bị quân Nguyễn tàn sát khi Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân hồi đầu thế kỷ XIX ?
 
14." Cát địa"
Về phương diện "cát địa" (đất tốt), lấy địa điểm có đào được hàng trăm viên đá lát làm gốc (tức khu vực nhà anh Oánh và nhà bà Liên làm trung tâm, bác sĩ Dương Văn Sinh - một nhà nghiên cứu dịch học, một thầy địa được nhiều người ở Huế biết tiếng, đo đạc, tính tóan và cho biết khái quát:
- Trục chính ở địa điểm này ở vị thế "tọa càn hướng tốn", nghĩa là kiến trúc được đặt vào hướng tây bắc - đông nam;
- Phía trước có suối Tiên chảy từ trái sang phải, xa hơn nữa (khoảng 3km) có núi Thiên Thai (cũng có tên là núi Hỏa Diệm) làm án;
- Phía bên tay trái là dãy gò đồi bị đường Nam Giao Tân Lộ cắt ngang thuộc hành mộc (dài) - Tay long.
- Phía bên tay phải là cồn Bông Sứ, thuộc hành kim (tròn) - Tay hổ;
- Phía sau là đỉnh gò chạy thẳng xuống bờ sông thuộc hành thủy - Hậu chẩm;
Địa điểm này có đủ yếu tố để xây dựng một cơ sở cho các bậc đế vương.

Những biểu hiện trong thực tế của Phủ Dương Xuân
Ở đầu bài đã nhắc đến những nét chính của phủ Dương Xuân qua sử sách Đông Tây. Những nét chính đó phải chăng đã khẳng định được trong thực tế ?
1. Khu vực khảo sát và tìm thấy được những biểu hiện của một vùng kiến trúc cổ đặc biệt đã bị đổ nát nằm giữa chùa Từ Đàm (Ấn Tôn) và chùa Tuệ Lâm đúng vào vị trí "phía thượng lưu và hơi xa bờ sông Hương một chút" [7];
2. Khu vực nằm trên gò Bình An (một phần cắt của gò Dương Xuân cũ) đúng vào vị trí bắc đàn Nam Giao;
3. Địa thế chỗ cao (đỉnh gò còn móng tường thành đọan) , chỗ thấp (hồ bán nguyệt, suối Tiên);
4. Khu vực có biểu hiện nhiều kiến trúc khác nhau, chỗ nhà ông Oánh với giếng nước gần hồ bán nguyệt; trên đỉnh gò còn sót lại móng chân tường thành; giếng Trường Bia giành cho lính gác và lính bắn súng thần công, đá táng cột cung thất giải hạ rải rác nhiều nơi;
5 Trong khu vực Phủ có một cái ao, đó là hồ bán nguyệt , bờ ao bên ngoài dân chúng có thể bái lạy kêu oan, có thể nghĩ đó là khu vực bên kia Suối Tiên sau lưng chùa Kiều Đàm và trước mặt chùa Sư Nữ hiện nay.

Ngoài năm nét chính trên, cuộc khảo sát còn bổ túc thêm yếu tố cát địa khẳng định cơ sở chính của Phủ có hướng tây bắc - đông nam, phù hợp với tập quán xây dựng cung thất của vua chúa phương Đông.

Đến đây chúng ta có thể yên tâm về địa điểm của Phủ Dương Xuân:
Địa điểm phủ Dương Xuân như vậy cũng không có giø gọi là khó tìm, thế tại sao những người viết Đại Nam Nhất Thống Chí đời Tự Đức cũng như đời Thành Thái - Duy Tân đều không biết ở vào chỗ nào ? (Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ). Phải chăng phủ Dương Xuân mất tích viø có liên quan đến cung điện Đan Dương/Đan Dương Lăng của vua Quang Trung ?
 
 
Chú thích:
[1] Tương đương: dài 12m, rộng 1,5m
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn, "Đại Nam Nhất Thống Chí", Thừa Thiên phủ, t. Thượng, Nguyễn Tạo dịch, Nha VH bộ QGGD, Sg 1961, tr.118-119
[3] Lúc sinh thời Sư bà Diệu Không cho tôi biết hồi đầu thế kỷ XX, vùng Cồn Bông Sứ và Cồn Bàng ở hai bên Suối Tiên là vùng đất đồi hạn chế canh tác. Sư bà Diệu Hương - người sáng lập chùa Diệu Đức vốn là Phi tần của Cựu hoàng Thánh Thái nên mới mua lại được của ông Thượng thư Nguyễn Điønh Hiến để lập chùa Diệu Đức sau nầy. (Xem A.037)
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, "Đại Nam nhất thống chí", bản dịch của Viện Sử học, t.1,tr.180
[5] Xem tấm bia khắc năm 1930 dựng ở gần chùa Sư Nữ hiện nay, người đứng tên khắc là Hiệp tá trí sự Ấn Nam Nguyễn Mạnh Khả. (Theo bản dịch của Lê Nguyễn Lưu).
[6] Nhà Nguyễn Văn Minh, 11 Ngõ 6 Kiệt 184, Điện Biên Phủ, P. Trường An, TP Huế
[7] BAVH số 7-9/1925, tr.138
Kỳ cuối.- Phủ Dương Xuân tiền thân của Cung điện Đan Dương

Phụ Lục

Căn cứ trên tư liệu lịch sử (ĐNLT CB), văn học cổ (Ngô Thiø Nhậm, Phan Huy Ích), Địa lý lịch sử (ĐNNTC. Thừa Thiên phủ), P. Poivre, thực địa, ta có thể lập bảng kê về mối quan hệ lịch sử giữa ba di tích Chùa Thiền Lâm - Cung/ Lăng Đan Dương - phủ Dương Xuân sau đây:
 
Tên Di tích 
Chùa Thiền Lâm (TL)
Cung/ Lăng Đan Dương (X)
Phủ Dương Xuân (Y)
Đối với 
sông Hương
Phía nam sông Hương
(Theo Phan Huy Ích)
Bờ nam sông Hương
(Liệt truyện)
Phía nam sông Hương
(Thực địa)
Đối với 
đàn Nam Giao
Phía bắc đàn Nam Giao
(Thực địa)
Phía bắc đàn Nam Giao
(Vì gần TL, theo Phan Huy Ích)
Phía bắc đàn Nam Giao
(ĐNNTC đời Tự Đức và Duy Tân)
Địa danh gốc
Núi Dương Xuân 
(Phan Huy Ích)
Không ghi rõ ở đâu
Gò Dương Xuân 
(ĐNNTC đời Tự Đức và Duy Tân)
Địa danh thời Nguyễn
Ấp Bình An (Tự Đức) và Xã An Cựu (Duy Tân)
Không ghi rõ ở đâu
Gò Dương Xuân 
(ĐNNTC đời Tự Đức và Duy Tân)
Đối với chùa Thiền Lâm gốc
Di về phía tây
và lùi ra phía Bắc chồng lên một phế tích
Gần chùa Thiền Lâm
(Phan Huy Ích)
Gần chùa Thiền Lâm
(Công trình chính)
Biểu hiện thực địa Một số bia tháp bị mài, đục.Lòng đất sân vườn có nhiều gạch đá cổ, chung quanh có nhiều mồ chôn chồng lên nhau
Chưa rõ 
Nhiều viên đá táng cột lớn, đá lát và nhiều lọai gạch đá khác
Nhận xét, nghi vấn Bình An là đất cũ của xã Dương Xuân, vì sao viết xã An Cựu ? Đại Nam Thực Lục ghi đã "quật mồ, bổ săng..." sao không ghi rõ nơi táng X ? Phủ lớn và quan trọng vì sao có sự mất tích dễ dàng như thế ? Phủ mắc tội gì mà bị đập phá chôn sâu xuống đất ?
Kết luận. TL Lâm phụ thuộc Phủ DX sau thành Cđ Đan Dương. Thiền Lâm bị mài đục bia, tháp, chuyển đổi địa danh để đánh lạc hướng Cđ điện ĐD CĐ Đan Dương đã bị " tận pháp trừng trị..." xóa hết dấu vết trong không gian và sử sách Phủ DX đã được sửa chữa thành Cđ ĐD, Cđ ĐD bị đập phá xóa hết dấu tích, dĩ nhiên Phủ DX phải mất tích. 
 
Theo P. Poivre Phủ Dương Xuân là cung điện thứ hai của các chúa Nguyễn, Phong trào Tây Sơn (PTTS) chiếm hết Đô thành Phú Xuân, chiếm luôn các chùa, đặc biệt là chùa Thiền Lâm để trú đóng, không lý gì PTTS không chiếm Phủ Dương Xuân ? Phủ Dương Xuân và chùa Thiền Lâm quan hệ mật thiết với nhau, Bùi Đắc Tuyên chiếm chùa Thiền Lâm như sử sách đã ghi thì ai có thể chiếm ở tại Phủ Dương Xuân ? Người đó phải là người có quyền hơn Thái sư Bùi Đằc Tuyên tức là Nguyễn Huệ/Quang Trung và sau đó là vua Quang Tỏan. Vì sao Bùi Đắc Tuyên không chiếm chùa Báo Quốc, chùa Ấn Tôn, chùa Quốc Ân để ở mà lại chiếm chùa Thiền Lâm ? Phải chăng vì chùa Thiền Lâm bên cạnh Cung diện/Lăng Đan Dương để được hưởng cái hào quang của Quang Trung ?
Bản đồ giải thữa (trích khu vực khảo sát), cho biết vị trí của các như sau:
 
Hiện trạng khu vực Phủ Dương Xuân/Cung điện Đan Dương ngày xưa
(Theo bản đồ giải thữa của chính quyền hiện nay)

Khảo sát thực địa thực địa chung quanh chùa Thiền Lâm chỉ có khu vực nối các điểm: chùa Tịnh Độ (tây bắc)- Hồ rau muống (đông nam) - chùa Thiền Lâm (đông) và chùa Vạn Phước (tây) - hội đủ các đặc điểm "các địa", có một cánh nhiøn ra sông Hương, có một cái ao (hồ rau muống) ở phía trước và bên kia ao có một mô đất cao (chùa Diệu Đức).
 
Những gạch vồ, đá lát, đá táng cột, đá tảng, đá trang trí ở đầu cột trụ và nhiều lọai đá có hiønh thù khác nhau không có ở bất cứ nơi nào trên vùng "lâm lộc" thuộc xã Dương Xuân xưa, cũng như trên tòan vùng núi đồi xứ Huế, không thể của dân chúng trong bất cứ thời đại vua chúa nào. Tất cả những thứ ấy chỉ có thể của một vùng cung điện của vua chúa mà thôi, ở đây là Phủ Dương Xuân của các chúa Nguyễn.
 
Cung điện Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm, to lớn không thể có một nơi nào khác có thể xây dựng Cung điện Đan Dương. Chỉ có thể lý giải Phủ Dương Xuân của các chúa Nguyễn và Cung điện Đan Dương của vua Quang Trung là một. Nghĩa là vua Quang Trung đã cải tạo Phủ Dương Xuân thành Cung điện Đan Dương. Vì thế quan quân nhà Nguyễn đã quật phá chôn sâu Cung điện Đan Dương xuống đất sâu (cuối 1801), Phủ Dương Xuân phải mất tích.
 
Khu vực cung điện Đan Dương đã rõ ràng, câu hỏi: "Đan Lăng - lăng mộ vua Quang Trung ở đâu ?" Có thể xác định nó nằm trong khu vực Phủ Dương Xuân / Cung điện Đan Dương ấy. Khu vực "thành Troie" của Việt Nam đã xác định được. Nhưng địa điểm cái huyệt mộ táng vua Quang Trung đã bị quật phá cụ thể ở vào chỗ nào trong cái khu vực Cung điện Đan Dương ấy xin dành cho các cơ quan chức năng của ngành khảo cổ học.
 
Tìm được dấu tích Cung điện Đan Dương là tìm được toạ độ Lăng Đan Dương. Cung điện Đan Dương toạ lạc trong khu vực chùa Thiền Lâm hiện nay. Khai quật khu vực Cung điện Đan Dương sẽ tiøm thấy dấu tích lăng Đan Dương.
 
Một khám phá lịch sử như thế nếu không đúng thì sẽ có vô vàn "phát sinh" không thể vượt qua được. Từ khi công bố lần đầu (1990) Cung điện Đan Dương ở khu vực ấp Bình An đến nay (2007) đã 18 năm nhưng tôi chưa hề gặp bất cứ một phát sinh nào, ngược lại càng nghiên cứu, càng tìm tòi, càng thảo luận lại càng có thêm nhiều thông tin, nhiều lời lý giải củng cố thêm cho kết quả nầy. Tôi tin khi công bố lọat bài nầy trên phương tiện truyền thông tôi sẽ nhận được thêm nhiều thông tin, nhiều nhận định thú vị khác nữa. Và, tôi cũng sẵn sàng tiếp tục làm sáng tỏ những gì chưa rõ liên quan đến kết quả nghiên cứu nầy.
 
Đây là công trình nghiên cứu trên 20 năm. Công bố để góp phần kỷ niệm 215 năm (1792-2007) Quang Trung qua đời và kỷ niệm 220 năm (1788-2008) Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu Quang Trung.
 
Phụ lục 
Những biểu hiện của lăng mộ vua Quang Trung bị quật phá
 
Trong quá trình đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương, tôi đã ghi nhận được một số biểu hiện mà theo tôi rất cần cho việc nghiên cứu khai quật huyệt mộ vua Quang Trung. Những biểu hiện nầy còn cần phải tiếp tục nghiên cứu xác minh nhưng nếu không ghi chép lại sẽ mất.
 
1.Những bí ẩn chưa giải thích được mà hấp dẫn.
Gia đình ông Nguyễn Hữu Oánh làm nhà ở khu đất hiện nay mới ba đời. Đời thứ nhất làm lý trưởng, con đông, vợ mất sớm. Lúc ấy có người con gái nói giọng Nghệ An văn hay chữ tốt đến xin làm vợ thứ của ông lý trưởng. Bà không cho biết tông tích quê quán ở đâu. Bà hay nói chuyện thơ văn với ông Nguyễn Đình Hiến (*) lúc ông đến xây dựng khu vực hai bên bờ suối Tiên. Bà có thiết lập một cái am thờ lớn hơn bất cứ am nào trong khu vực. Bà cho biết am thờ người khuất mặt chứ không nói rõ là thờ ai. Cho đến lúc bà qua đời, con cháu vẫn chưa biết quê quán bà ở đâu ? Bà có họ hàng gì với anh em nhà Tây Sơn không ? Phải chăng bà lập am [1] để thờ vua Quang Trung ? (Bà là bà nội của ông Nguyễn Hữu Oánh).
 
2. Những chuyện đang kiểm chứng
2.1. Tấm đá kỳ lạ. Anh Oánh cho biết cụ thân sinh anh có kể, vào khỏang năm 1925, cụ thân sinh đào đất làm vườn đã gặp bốn tấm đá lớn. Cụ đã bán cho dân Phú Cam một tấm, cho một người thân ở Bến Ngự một tấm và tặng chùa Vạn Phước hai tấm.
Chúng tôi đã đi thẩm tra, không tìm được tấm ở Phú Cam và tấm ở Bến Ngự. Hai tấm ở chùa Vạn Phước đã bị vỡ một tấm từ lâu, chỉ còn lại một tấm được dùng làm mặt bàn nhà bếp chùa Vạn Phước. Tấm đá này thuộc lọai đá granít, mặt trên được mài trơn nhẵn, mặt dưới xô xảm còn hằn rõ vết đẽo của một lọai dụng cụ thô sơ. Tấm đá có kích thước lớn: dài 2,72m, rộng 0,67m, dày 0,035m. (Xem A.057A& A.057B) [2]
 

Ở đường mép tấm đá còn bám vôi vữa giống như lọai vôi vữa chúng bắt gặp trong vùng này và những nơi sẽ đề cập đến phần sau. Phải chăng những tấm đá này bọc chung huyệt mộ bảo vệ quan tài vua Quang Trung ? Trong thời gian ấy, cụ thân sinh ông Oánh cũng đào được nhiều tượng đá. Những tượng đá này lại bị chôn xuống sau ngày vỡ mặt trận đầu năm 1947.
 
Khi đào được những thứ này, gia đình ông Oánh tự giải thích là những hiện vật của một ngôi "mộ Chàm" (?). Ngày nay, ông Oánh và chị ông là bà Nguyễn Thị Liên không nhớ gia đình bà đã chôn những tượng ấy ở góc nào trong vườn. Việc xác định vị trí chôn tượng có môt phần khó, vì từ năm 1947 đến nay các ngôi nhà trong vườn đã xê dịch nhiều lần. Có thể những tượng ấy đang nằm dưới nền một ngôi nhà nào đó. (Phải chăng đó là những bức tuợng trang trí trong Đan Dương Lăng ?).
 
2.2. Đường hầm nằm sâu dưới lòng đất. Bà Nguyễn Thị Liên và ông Nguyễn Hữu Oánh kể, trước năm 1945, người Nhật chiếm chùa Thiền Lâm làm doanh trại, sợ máy bay Đồng Minh thả bom chống Nhật, nên dân Bình An ở chung quanh chùa Thiền Lâm đều phải đào hầm tránh bom của máy bay Đồng Minh. Khi đào hầm trú ẩn trong vườn nhà, gia đình bà Liên - ông Oánh gặp một đường hầm bê-tông vôi lấp đầy đất, những tay cuốc mừng rở nổ lực vét hết đất trong hầm và cả nhà hàng mươi người dắt díu nhau xuống núp đề phòng Đồng Minh thả bom.
 
Lúc ấy bà Liên mới 12 tuổi hay bồng em là Nguyễn Hữu Oánh 6 tuổi xuống hầm. Lúc ấy ông Oánh còn quá nhỏ nên bây giờ ông không nhớ đường hầm nằm vào vị trí nào trong vườn nhà ông và nhà bà chị của ông hiện nay. Chúng tôi hỏi bà Liên thì bà tránh trả lời câu hỏi nầy. Chúng tôi đặt nghi vấn: phải chăng cái đường hầm ấy là huyệt mộ của vua Quang Trung mà người ta thường gọi là khuôn tỉnh hay kim tỉnh ?
Hàng trăm câu chuyện (chuyện thật và chuyện huyền bí) chúng tôi ghi chép được có lẽ chuyện cái đường hầm này là đáng quan tâm nhất.
 
3. Khai quật để thám sát con đường hầm bí ẩn.
Chúng tôi biết được những thông tin này trước ngày thành phố Huế tổ chức hội thảo nhân kỷ niệm 200 năm ngày lên ngôi hòang đế của Nguyễn Huệ ở Phú Xuân (22-12-1788-22-12-1988). Không thể chờ đợi được nữa, để kịp công bố trong Hội thảo, chúng tôi đã khẩn trương thu lượm thêm thông tin và quyết định khai quật để thăm dò.
 
Người ủng hộ chúng tôi tích cực nhất lúc ấy là bác sĩ Dương Văn Sinh. Theo cách tính toán của bác sĩ Sinh, nếu có huyệt mộ ở đây thì chỉ có thể có được ở đầu hè phía tây nhà bà Liên. Nghe "ông thầy địa" nói như thế bà Nguyễn Thị Liên (tiểu thương bán gà ở chợ Bến Ngự) không dám giấu điều bí mật mà bà đã cố tình giấu lâu nay, bà công nhận "đường hầm ở khoảng ấy".
 
Ngày 17/12/1988, chúng tôi gồm có Phan Thuận An (chuyên viên Công ty Quản lý di tích lịch sử văn hóa Huế, nay đã hưu trí), Lê Đình Liễn (khoa Sử Đại học Tổng hợp Huế, nay dạy ĐHDL Phú Xuân), Đỗ Bang (chuyên viên về Tây Sơn Đại học tổng hợp Huế nay là Tiến sĩ - Hội trưởng hội Sử học TTH), Phạm Thanh Tùng (Báo Bình Trị Thiên, nay làm Trưởng Đại diện báo Tiền Phong tại miền Trung), Võ Xuân Trang (khoa Văn Cao Đẳng sư phạm Huế, nay đã qua đời), Nguyễn Hữu Oánh (người chủ khu vực khảo sát), Nguyễn Đắc Xuân (chủ đề tài), bác sĩ Dương Văn Sinh ("thầy địa", hiện nay làm trưởng Phòng hồi sứ cấp cứu Bệnh viện TW Huế), ông Nguyễn Hữu Thứ (một tri thức đã từng nghiên cứu lăng Bà Vành, nay đã qua đời), đã tiến hành khai quật để thăm dò ở đầu hè phía tây ngôi nhà 63/13/12 Điện Biên Phủ (nay là số 10/17 kiệt 120 Điện Biên Phủ , phường Trường An, thành phố Huế). (Xem A.058. A.059. A.060)
 


Chúng tôi đào xuống sâu 0,5m gặp một lớp thành dày chạy dọc theo hiên phía tây nhà bà Liên. Mặt trong của thành nằm sâu dưới nền nhà. Chúng tôi đào sâu thêm 1,50m vẫn chưa đến chân thành, đào dọc theo bức thành 3m vẫn chưa giáp với hai đầu bức thành.
 

Bà Liên xác nhận "cái đường hầm nằm dưới nền nhà bà không thể đào sâu thêm được nữa, đào thêm nữa sẽ sập nhà bà !".
Những người có mặt đều rất vui mừng.
Chúng tôi tạm dừng công việc khai quật thám sát ở đó.
Chúng tôi lấy vôi vữa của bức thành xem xét thì thấy vôi vữa này giống vôi vữa còn bám ở tấm đá đang dùng làm mặt bàn trong nhà bếp chùa Vạn Phước và cũng giống với những vôi vữa lộ thiên hay chôn dưới đất còn tìm thấy chung quanh khu vực khảo sát.
 
Tính chất chung của các lọai vôi vữa đó là gì ? đó là một loại vôi vữa trộn bởi nước mật mía, vôi nung từ vỏ sò, vỏ hến và cát. Đặc điểm dễ nhận biết nhất là những vỏ sò, vỏ hến được giã bằng chày nên còn nguyên cái "mày" lấm tấm trong vôi. Trong lúc chờ các nhà khảo cổ học xét nghiệm xác định niên đại, chúng tôi đem những chất liệu này so sánh với những chất liệu tương tự lấy ở Lăng Ba Vành và Lăng bà Chiêu Nghi [3] thì thấy đồng dạng. Điều đó chứng tỏ di tích đưộc chôn sâu ở hiên phía tây nhà bà Liên có trước nhà Nguyễn, khớp với giai đọan lịch sử xuất hiện khu lăng mộ vua Quang Trung.
 
Chúng tôi tạm kết luận: tấm đá lớn còn giữ được và đang làm mặt bàn trong nhà bếp chùa Vạn Phước và bức thành bên ngoài đường hầm (được xem là kim tỉnh hay khuôn tỉnh) ở phía chái tây nhà bà Nguyễn Thị Liên là những dấu hiệu của một cái huyệt mộ đã bị quật phá.


Chú thích : Phụ lục
[1] Am này mới bị triệt hạ trong đợt chống am miếu mê tín dị đoan sau năm 1980.
[2] Sau năm 1992, chùa Vạn Phước đóng một khung gỗ để bảo vệ tấm đá quý, vì thế ảnh chụp không thấy được chiều dày thực của tấm đá.
[3] Vợ thứ của Võ Vương, bà sinh năm 1716 và mất năm 1751. Lăng tọa lạc tại Dương Xuân gần chùa Từ Hiếu ngày nay. Trong chiến dịch đào bới lăng các chúa Nguyễn thực hiện năm 1790, lăng bà Chiêu Nghi không bị tàn phá. Vợ thứ của Võ Vương, bà sinh năm 1716 và mất năm 1751. Lăng tọa lạc tại Dương Xuân gần chùa Từ Hiếu ngày nay. Trong chiến dịch đào bới lăng các chúa Nguyễn thực hiện năm 1790, lăng bà Chiêu Nghi không bị tàn phá.



NGHIÊN CỨU CỦA TRẦN VIẾT ĐIỀN
CÓ PHẢI PHỦ DƯƠNG XUÂN Ở GẦN CHÙA THIỀN LÂM VÀ PHỦ NÀY LÀ ĐAN DƯƠNG LĂNG CỦA VUA QUANG TRUNG?

Chùa Thiền Lâm - Cồn Bông Sứ (xứ Bộ Hóa Thượng) thuộc ấp Bình An trên gò Dương Xuân (Huế) trong những năm qua trở thành điểm nóng của khảo cổ học khi nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đưa ra giả thuyết khoa học hấp dẫn: Ở chùa Thiền Lâm - Cồn Bông Sứ (viết tắt CTL-CBS) từng có phủ Dương Xuân (viết tắt PDX) thời chúa Nguyễn, Tây Sơn biến thành cung điện Đan Dương (viết tắt CĐĐD) để vua Quang Trung sống và làm việc, khi nhà vua băng hà Tây Sơn táng nhà vua ở CĐĐD nên điện trở thành Đan Dương Lăng (viết tắt ĐDL). Đan Dương Lăng bị mất tích nên Phủ Dương Xuân cũng không còn.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã dày công cho giả thuyết trên khi điền dã nhiều lần ở CTL-CBS để thu thập tư liệu khảo cổ, tra cứu thư tịch, xử lý tư liệu, xây dựng giả thuyết công tác, kiểm chứng… rồi công bố trong các hội nghị, hội thảo, sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước. Gần đây, tháng 10-2007, nhà nghiên cứu đã hoàn thành quyển sách “Đi tìm dấu tích cung điện Đan Dương, sơn lăng của hoàng đế Quang Trung” và đã xuất bản qua nhà XBTH. Trong tinh thần khoa học, để tìm hiểu giả thuyết khoa học của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân (xin viết tắt GT NĐX), chúng tôi không những đọc các công trình của ông đã công bố mà còn phải điền dã nhiều đợt ở gò Dương Xuân mới thấy ra một số vấn đề chưa thông trong GTNĐX.
Do nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân kêu gọi sự góp ý của độc giả, trong tinh thần ham hiểu biết, chúng tôi mạo muội trình bày những kiến giải của mình, như một phản biện khoa học đối với GTNĐX.
Sau đây là phản biện khoa học của chúng tôi về GTNĐX, góp phần trả lời những câu hỏi mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã đặt ra trong công trình nghiên cứu lăng mộ vua Quang Trung đáng chú ý nhất trong thời gian gần đây.

A.               GTNĐX dựa trên những cơ sở nào ?

Trước hết nhà nghiên cứu NĐX dựa vào sự kiện quan thái sư Bùi Đắc Tuyên của triều Cảnh Thịnh đã biến chùa Thiền Lâm làm dinh thự và đại thần Phan Huy Ích ở nhà Công Quán (ngôi chùa) gần dinh Thái Sư. Trong phần nguyên chú của bài thơ “Xuân đề kỷ sự”, Phan Huy Ích cho biết khi ở nhà Công Quán ông đã viết bài thơ này và một bài thơ không đề khác có nguyên chú “bọn tiểu giám hộ lăng thường đến hầu rượu” mình, nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã lập luận: tiểu giám giữ lăng “Đan Dương Lăng” mà thường đến hầu rượu Phan Huy Ích, dưới trướng Thái Sư Bùi Đắc Tuyên, thì Đan Dương Lăng phải ở gần chùa Thiền Lâm.

Thứ đến nhà nghiên cứu NĐX cho rằng triều Nguyễn cố tình phá tan thành bình địa Đan Dương Lăng, làm mất dấu vết để người đời sau không biết mộ của “Ngụy Huệ” ở đâu; chỉ cho biết mộ ấy được “táng vu Hương Giang chi nam” và tác giả lập luận để đi đến kết luận: Đan Dương lăng ở gần bờ nam sông Hương, trên trục Phu Văn Lâu –Đàn Nam Giao và tất nhiên phải bị vùi dưới đất.

Tiếp theo, nhà nghiên cứu phát hiện các bản ĐNNTC của Quốc Sử Quán có sai sót khi chép chùa Thiền Lâm thuộc xã Dương Xuân, rồi lại chép chùa này ở xã An Cựu và không biết vị trí của Phủ Dương Xuân ở đâu; nên tác giả nghi rằng các quan làm việc ở quốc sử quán triều Nguyễn có ý đồ che giấu địa điểm phủ Dương Xuân thời chúa Nguyễn cũng như che giấu Đan Dương Lăng. Từ nỗi hoài nghi ấy ông đặt vấn đề táo bạo rằng; Tây Sơn đã biến Phủ Dương Xuân thành cung điện Đan Dương để vua Quang Trung sống và làm việc. Khi nhà vua băng hà, để giữ bí mật triều Tây Sơn đã táng vua ở cung điện Đan Dương và cung điện này trở thành Đan Dương Lăng. Đan Dương Lăng bị chôn vùi thì tất nhiên phủ Dương Xuân cũng bị triều Nguyễn che giấu luôn.

Tiếp theo nữa, nhà nghiên cứu NĐX dựa vào ký ức dân gian ấp Bình An và di vật, di chứng còn lại ở CTL-CBS, với rất nhiều đá táng đủ loại, rất nhiều gạch vồ còn sử dụng được, nhiều đống giải hạ ngỗn ngang để minh họa cho giả thuyết của mình. Đặc biệt có các hiện vật: tấm đá granit dài 2, 7m, rộng 0,57m, dày 0,05m, một mặt khá nhẵn, một mặt xô xảm, do người nhà ông Nguyễn Hữu Oánh đào được trong nhà, đem tặng chùa Vạn Phước. Theo ông Nguyễn Hữu Oánh, còn 3 tấm đá như thế (đã thất lạc), và nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng các tấm đá ấy là quách của mộ Quang Trung (?). Một cái bia của thiền sư bị chôn, một cái bia khác có rùa đá mang trên lưng còn nguyên vẹn nhưng văn khắc đã bị gọt, theo nhà nghiên cứu những hiện vật ấy cũng có liên quan với Đan Dương Lăng bị quật phá.

Phủ hay lăng thường có hồ trước mặt, vì vậy nhà nghiên cứu không thể không có những thao tác khảo cổ học phía trước chùa Vạn Phước. Trước chùa, dưới chân cồn Bông Sứ, có con khe chảy qua, ngang cồn thì phình rộng, hiện nay người ta tận dụng để trồng rau răm. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì hồ ấy là hồ của Phủ Dương Xuân. Khu vực này, nhà nghiên cứu NĐX còn phát hiện “giếng loạn”, “mả loạn”. Theo NNC thì đây là giếng Tây Sơn, mả loạn là mả của quân lính Tây Sơn tử trận khi Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân (1801). Lại thêm có cầu Kim Tiên gần đó, tức cầu ván Dương Xuân Hạ và theo nhà nghiên cứu thì chùa Kim Tiên trước đây là hành cung của Bắc Cung Hoàng Hậu Ngọc Hân, gần Đan Dương Lăng, nên khi viết Ai Tư Vãn, Ngọc Hân đã nhắc đến cầu này khi người viết: “Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non”.

Nhà nghiên cứu cũng nhờ bác sĩ Dương Văn Sinh, địa lý gia ở Huế, xác nhận khu vực nhà ông Oánh, bà Liên (chị ruột của ông Oánh), nằm giữa chùa Thiền Lâm và cồn Bông Sứ, là một “cát địa”, hội đủ các yếu tố của một huyệt mộ đế vương. Và như thế mộ vua Quang Trung “tọa càn hướng tốn” (cùng hướng với kinh thành Phú Xuân). Nhà nghiên cứu đã tổ chức đào hố thám sát và phát lộ một uynh thành, có dấu hiệu của một đường hầm dẫn đến huyệt mộ vua Quang Trung.
Và để tăng thêm sức thuyết phục, trong GTNĐX, tác giả công trình đã nêu lên sự động viên khích lệ của những học giả, tiến sĩ sử học nổi tiếng trong và ngoài nước suốt 21 năm qua.

B.              Những vấn đề cần thảo luận khi tiếp cận GTNĐX:

Một công trình khoa học lớn, có giá trị khi có phản biện khoa học và tác giả đề tài phải giải quyết rốt ráo những nội dung mà người khác phản biện. Để góp phần làm sáng tỏ GTNĐX chúng tôi xin phản biện như sau:
1)       GTNĐX cho rằng “bọn tiểu giám hộ lăng thường đến hầu rượu” Phan Huy Ích, tức là lăng Quang Trung phải ở rất gần nhà Công Quán, tức ở gần chùa Thiền Lâm. Thường đến không nhất thiết phải ở rất gần! Chẳng hạn tiểu giám hộ lăng của bà Tả Cung họ Phạm (thân mẫu của vua Cảnh Thịnh), dù lăng bà ở Núi Kim Phụng (theo PGS Tiến Sĩ Đỗ Bang), chắc chắn có “tiểu giám hộ lăng” và cũng có thể thường đến hầu rượu Phan Huy Ích, mỗi lần được nghỉ về nhà riêng, ghé thăm ông Phan và hầu rượu quan lớn. Theo Phan Huy Ích thì tiểu giám hộ lăng là “người khách thân”, đã là người khách thân thì dù nơi công tác xa cũng có thể thường đến thăm nhau, uống rượu với nhau, hà tất phải ở sát nhà nhau!
2)       GTNĐX cho rằng triều Nguyễn đã phá tan thành bình địa Đan Dương Lăng, thậm chí cố tình che giấu thì tại sao trên mặt cồn Bông Sứ, đã hàng trăm năm vẫn còn những đống giải hạ, quá nhiều đá táng nằm trên mặt đất, chưa phải đào bới? Một số đoạn thành lộ thiên mà trên dưới hai trăm năm vẫn còn. Quanh Đan Dương Lăng có nhiều chùa, tháp cổ, thiện nam tín nữ lui tới làm việc Phật sự… thường xuyên thì làm sao che giấu Đan Dương lăng (phủ Dương Xuân) của Hoàng Đế Quang Trung đầy ấn tượng đối với nhân dân Phú Xuân? Trong công trình nghiên cứu lăng mộ vùng phụ cận Huế của Cadiere, riêng ấp Bình An, năm 1926, Cadière còn phát hiện đến 10 tháp sư của chùa Thiền Lâm và chùa Bảo Quốc, phần lớn được sắc tứ và nhiều mộ cổ của thân nhân của các thân vương hoàng tử nữa. Chưa kể ở ấp Bình An còn có cơ sở của pháo binh… Có xây dựng thì có san lấp để tạo mặt bằng, vì thế một số vật liệu bị vùi dưới đất. Vật liệu xây dựng của những công trình đã đổ nát này phải xử lý về mặt khảo cổ. Không phải khi nào gặp đá, gạch… thì vội cho hiện vật ấy là di vật của Đan Dương Lăng!
3)       Nhà Nguyễn đã cố tình vùi xuống đất, che giấu tất cả… công trình kiến trúc Tây Sơn (theo GTNĐX), thế mà cơ mật viện triều Nguyễn làm ngơ để các quan thượng thư triều Nguyễn đến cồn Bông Sứ mai táng người thân, làm nơi giải trí… tiến hành đào bới ở đây thì bí mật có lộ không? Trong một tờ sớ do phái bộ Hoàng Ngọc Uẩn (chánh sứ) đi sứ Trung Quốc năm 1801, có nội dung Nguyễn Vương tố cáo với Thanh triều việc Tây Sơn đã táng Nguyễn Huệ ở Phú Xuân, lại nói dối với thiên triều đã táng ở Thăng Long; nếu triều Gia Long xóa hết dấu vết lăng mộ Quang Trung, lỡ triều Thanh đặt vấn đề bằng chứng của lời tố cáo thì lấy chi làm bằng về tội khi quân của An Nam Quốc Vương Nguyễn Quang Toản?
4)       Địa bộ làng Phú Xuân, viết xong năm Gia Long thứ 14 (hiện cụ Trương Đình Hạp giữ, bảo tàng Huế có bản sao) khi viết về ruộng vườn ở nam sông An Cựu, thường lấy chùa Thiền Lâm, xứ Bộ Hóa Thượng (ấp Bình An), miếu Lễ Lê Thánh Tông, chùa Thiên Thọ (tức chùa Bảo Quốc) để làm mốc tiếp giáp về phía Tây, Tây Nam. Phủ Dương Xuân được đại trùng tu, gần thời điểm xây dựng đại danh lam Thiền Lâm, thì tại sao trong địa bộ làng không chép Phủ Dương Xuân như một công trình mốc?
5)       Phủ Dương Xuân có một cánh nhìn ra sông, nhưng hơi xa sông một chút… phía trước có hồ bán nguyêt, hơn nữa còn có ao vuông với nhà thủy tạ… Thế thì ở CTL_CBS, ao vuông ở đâu? Đứng trên cồn Bông Sứ, chùa Vạn Phước, thì chỉ thấy khe chứ không thấy sông An Cựu, sông Hương được! Chung quanh Phủ Dương Xuân, ở khu vực nhà ông Oánh, cồn Bông Sứ đã che mặt tây-bắc, chưa kể đại danh lam Thiền Lâm che mặt đông –bắc thì làm sao có một cánh của phủ nhìn ra sông Hương?
6)       Những gì thuộc về Tây Sơn thì gọi là ngụy như sách ngụy, mả ngụy, tiền ngụy, giếng nguy… vì Tây Sơn, theo cách luận tội triều Nguyễn, là tiếm ngôi nhà Lê, chứ không coi là loạn. Trong khi đó ở gò Dương Xuân từng có loạn Đoàn Trưng, Đoàn Trực vào thời Tự Đức(1866). Đoàn Hữu Trưng là rễ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, sau khi triều đình dẹp loạn này thì Tùng Thiện Vương bị thất sũng… Hồ Vĩnh viết bài “Khảo sát Nam Giao Tân Lộ”, được nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xưng in lại trong sách của mình, có trích dẫn bài thơ “Nam khê” của Tùng Thiện Vương:
“Chắn ngang núi loạn một khe sâu,
Nhớ tới năm xưa nghỉ vó câu
Dòng nước tuồng hay người đổi khác,
Tiếng xưa vắng vẻ chảy làu làu”
(sđ d tr220)
Phải chăng “núi loạn” là núi Dương Xuân, nơi xảy ra loạn Đoàn Hữu Trưng? “nhớ tới năm xưa” là nhớ tới năm tháng lao đao của gia đình tác giả khi vướng vào “GIẶC CHÀY VÔI”. Nếu nghĩ đến Tây Sơn chắc Tùng Thiện Vương sẽ viết “núi ngụy”! Trong loạn có nhà sư Nguyễn Văn Quí (trú trì chùa Pháp Vân) và đàn chay giải oan Hồng Bảo có hằng trăm sư sãi các chùa lân cận dự lễ. Và tất nhiên Đoàn Hữu Trưng, Nguyễn Văn Quí… có ém quân ở các chùa ở gò Dương Xuân. Đây là sự kiện giúp hiểu thêm vì sao có “giếng loạn”, “mả loạn” ở vùng gần cầu ván Dương Xuân Hạ.
7)       Khi đã có định kiến thì sự kiện gì cũng gán ghép một cách tư biện, chẳng hạn sư trụ trì chùa Kim Tiên cho biết: “Trước đây có quân chi đó đến ở, sau đó có quân chi chi đó đến đánh phá. Người dân trong ấp nhớ thương người cũ đã than rằng:
“Vì ai nên nỗi sầu này
Chùa Tiên vắng khách, tớ thầy xa nhau”
(sđ d tr 172)
Nhà nghiên cứu dẫu nêu nghi vấn nhưng tự trả lời rằng quân Tây Sơn và bà Ngọc Hân từng ở chùa Kim Tiên. Khi quân Nguyễn Ánh về đánh đuổi nên dân sở tại thương nhớ Ngọc Hân và than như trên. Thế nhà nghiên cứu không nghĩ đến một khả năng gần nhất là loạn Đoàn Trưng Đoàn Trực ở vùng Dương Xuân, làm ảnh hưởng các chùa có liên quan Chùa Khoai? Chưa kể trong một quyển sách khác, với cách khai thác Ai Tư Vãn kiểu ấy, nhà nghiên cứu còn thông báo táo bạo mộ Ngọc Hân được táng cạnh mộ vua Quang Trung! Khi phò mã Trị bị đánh bại ở núi Qui Sơn, cửa Tư Hiền thì Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản đã rút khỏi kinh đô Phú Xuân, quên cả ấn “An Nam Quốc Vương”, không còn đánh lớn ở thành Phú Xuân; vì thế việc nhà nghiên cứu NĐX cho rằng có hỗn chiến ở gò Bình An giữa quân Nguyễn Ánh với quân Tây Sơn là sự kiện cần phải khảo lại.
8)       Những bài thơ của Ngô Thời Nhậm viết thường gọi lăng vua Quang Trung là Đan Dương Lăng, Đan Lăng. Chỉ trong bài Cảm Hoài, viết khi đi sứ, Ngô Thời Nhậm rất xúc động mới gọi Đan Dương Lăng là Đan Dương Cung Điện; một cách gọi cung kính, coi lăng tẩm như cung điện mà tiên đế đang ngự; ông sợ người đọc hiểu nhầm nên mới chú thích “Đan Dương cung điện là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta”. Một cụm từ của Ngô Thời Nhậm viết trong sự xúc động, rồi nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân xúc động suy diễn vua Quang Trung cho dựng cung điện Đan Dương ở gò Dương Xuân qua bài thơ Cảm Hoài thì e rằng quá nóng vội!
9)       Phủ Dương Xuân đã bị quân đội Lê Trịnh phá sạch, nếu Tây Sơn cần chỗ làm việc của vua Quang Trung thì có thể trưng dụng các chùa Ấn Tôn, Tuệ Lâm…, cần chi phải tốn kém để dựng lại phủ Dương Xuân của dòng họ kẻ thù. Còn muốn xây mới thì cần chi phải làm trên một địa cuộc, mà chủ nhân cũ của nó vì “sát địa” này mà gặp quá nhiều tai ương?
10)  Hai công trình kiến trúc cổ, Đan Dương Lăng và Phủ Dương Xuân cùng ở trên một gò Dương Xuân, cùng mất tích thì hai công trình ấy là một. Về mặt logic có thể cho phép suy luận như thế được không?
11)  Đoạn đê được phát lộ ở nhà bà Liên khi nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho đào thám sát dài khoảng 3m. Ngay khi phát lộ một phần của đê chúng tôi đã có mặt ở hiện trường, quan sát thấy rõ đoạn đê này không phải được xây bằng gạch nguyên mà bằng giải hạ trộn vôi, đó là một bờ đê chắn nước của một ngôi mộ nào đó được đem vào chôn như những ngôi mộ khác ở cồn Bông Sứ. Đáng buồn cho hoàng đế Quang Trung khi triều Cảnh Thịnh không có gạch mới để xây kim tỉnh cho tiên đế, phải lấy giải hạ của chùa Thiền Lâm hoặc phủ Dương Xuân để xây ư?
12)  Trong sách đã dẫn, có bài phát biểu “ca ngợi” GTNĐX của tiến sĩ sử học Nguyễn Hồng Trân, tác giả đã vô tình bác bỏ ý kiến của bác sĩ địa lý gia Dương Văn Sinh về huyệt mộ đế vương ở hè nhà chị em ông Nguyễn Hữu Oánh. Thật vậy ông Sinh thì cho mộ vua Quang Trung “tọa càn hướng tốn” (tây bắc-đông nam), ông Trân thì cho “tọa cấn hướng khôn”(đông bắc- tây nam). Với cách tầm long điểm huyệt như thế thì bất cứ chỗ nào ở vùng núi ở Thừa Thiên-Huế đều có huyệt phát đế vương hết! Chừng ấy thôi đã thấy độ tin cậy về mức độ “phong thủy học” của GTNĐX.
13)  Phan Duy Kha, trong sách “NHÌN LẠI LỊCH SỬ” (NXBVHTT, 2003) đã phản biện GTNĐX khi viết: “Thực ra trong giả thuyết của ông Nguyễn Đắc Xuân vẫn có chỗ chưa ổn. Đó là ông căn cứ câu chú thích của Ngô Thì Nhậm “Cung điện Đan Dương là Sơn Lăng phụng chứa bảo y Tiên Hoàng ta”. Trong bài thơ Tòng giá bái tảo Đan Lăng, cung ký (Theo xa giá đi bái tảo Đan Lăng kính ghi). Ngô Thì Nhậm cũng có câu  “Sơn lăng vạn cổ điện Thần kinh”. Thật khó mà tưởng tượng một lăng mộ ngay giữa kinh đô, nhiều đời là cung điện của các vị vua chúa, xung quanh không hề có núi non gì, mà được gọi là sơn lăng!(tr 161). Và Phan Duy Kha cũng công bố bài thơ VỊNH SỬ, viết bằng chữ Hán, thể thất ngôn bát cú, của Ngô Thì Hoàng (em ruột của Ngô Thì Nhậm) trong đó có hai câu:
“Tây Hồ cung lý vân nhưng tỏa,
Ngọc Trản phong đầu thổ vị can”
Phan Duy Kha dịch nghĩa: “Trên cung ở Tây Hồ, mây vẫn phủ kín. Đầu núi Ngọc Trản đất còn chưa khô”. Gò Dương Xuân không thể là “Ngọc Trản phong đầu” được. Không thấy GTNĐX trao đổi phản biện của Phan Duy Kha.
Như vậy GTNĐX chưa ổn về mặt lý luận, cứ mỗi chi tiết nhà nghiên cứu phát hiện một cách tâm đắc, và kiến giải nó thì y như có một cách kiến giải khác kiến giải trong công trình. Vậy chúng tôi nghĩ khó có khả năng phủ Dương Xuân tọa lạc ở xứ Bộ Hóa Thượng. Và Đan Dương Lăng không còn chỗ ở CTL-CBS.
Không dừng lại ở mức phản biện khoa học, chúng tôi xin đưa ra những kiến giải khác về khu vực CTL-CBS và tìm dấu tích Phủ Dương Xuân ở làng Dương Xuân Hạ.

C.              Kiến giải của chúng tôi về CTL-CBS:

a)          Tổng quan Bàu Vá:

Bàu Vá (Bộ Hóa) coi như một thung lũng nhỏ được gò Dương Xuân bao bọc về phía đông, tây, nam, còn mặt bắc có bãi Phú Xuân bên bờ nam sông Hương, với cồn Dã Viên làm án. Phía tây Bàu Vá là xứ Bộ Hóa Thượng (nơi có CBS) cũng thuộc gò Dương Xuân. Bàu Vá và quanh Bàu Vá có nhiều di tích lịch sử; làm thành một quần thể di tích quan trọng. Dĩ nhiên, tính từ khi Ô Lí về Đại Việt[1306] cho đến nay, khoảng 700 năm, biết bao nhiêu biến cố, có nhiều cuộc chiến tranh, rồi các lần thay đổi vương triều, rồi thiên tai, khiến cho những di tích quanh Bàu Vá chẳng còn nguyên vẹn như ban đầu và nơi ấy có nhiều tầng văn hóa chồng lên nhau. Gần đây, Bàu Vá trở thành vùng nóng của khảo cổ học, khi nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đặt vấn đề lăng mộ của vua Quang Trung tồn tại ở phủ Dương Xuân trên gò Dương Xuân.

Sau nhiều lần điền dã quanh Bàu Vá, thu thập một số di vật, di chứng lịch sử cho phép chúng tôi xây dựng một giả thuyết công tác trong việc nghiên cứu lịch sử của một số di tích quanh Bàu Vá, hoàn toàn khác với giả thuyết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân về Phủ Dương Xuân. Để làm sáng tỏ vấn đề lăng mộ vua Quang Trung ở gò Dương Xuân do nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân dày công nghiên cứu và đã công bố trong tháng 10-2007, trong tinh thần khoa học, chúng tôi xin trình bày giả thuyết của chúng tôi về CTL-CBS và Phủ Dương Xuân như sau:

Cuối thế kỷ 15, Vua Chăm Trà Toàn thường đánh phá Hóa Châu, vì lẽ ấy vua Lê Thánh Tông tự cầm quân đánh Chăm. Trước khi đánh vào kinh đô Đồ Bàn, năm 1470 nhà vua cho quân tiên phong, do tướng quân Đinh Liệt, Lê Niệm chỉ huy, vào Hóa Châu, dẹp ngay đám dân nổi loạn; nhà vua chỉ huy đại quân chinh nam vào sau, đóng quân ở Hóa Châu (có hành tại gần cửa Tư Hiền) vài tháng để tích trữ lương thảo, huấn luyện sĩ tốt, cho người qua Chăm vẽ bản đồ… rồi đánh thẳng vào nước địch…Thời Trần, Đổ Tử Bình từng được lệnh đắp thành Hóa Châu ở ngã ba Sình, và thành này là nơi quan Đại tri châu Hóa Châu lập đại bản doanh. Thời Lê có quan Tổng binh sứ cũng đặt đại bản doanh trong thành Hóa Châu, còn Đô ty, Thừa ty, được bố trí trên khoảnh đất từ Sình đến làng Thế Lại. Người Chăm thường đánh phá Hóa Châu với quân thủy bộ; tượng binh thường đi bằng đường thượng đạo và gò Dương Xuân là một trong những nơi bí mật tập kết quân của họ. 

Quân Việt thường cự địch với quân Chiêm ở cánh đồng Bàu Vá, sau này trở thành xứ Bộ Hóa. Một phần của xứ Bộ Hóa ở trên gò Dương Xuân, phía đông Bàu Vá, gọi là xứ Bộ Hóa Thượng. Ở xứ Bộ Hóa có kho lương thảo của chiến dịch, lại có nơi làm việc của Phi Vận tướng quân Nguyễn Phục. Khi đại quân của vua Lê chiến thắng, nhà vua lại giao cho một tướng quân trấn giữ đám tù binh Champa bị cưỡng bức sống tập trung phía nam và tây nam Bàu Vá, dưới chân gò Dương Xuân. Những làng Chăm xưa vẫn do những thổ tù coi sóc. Vì người Việt gốc Chăm thường hay nổi loạn nên thời Lê còn đặt quan tướng chuyên quản lý đám dân này gọi là Trấn Lỗ Tướng quân. Một bằng chứng là gò Dương Xuân có Thành Lồi, miếu quốc vương Chiêm Thành, khai canh làng Dương Xuân là “Đô Tổng Binh Thiêm Sự Lê Quí Công” và chức quan này theo LTHCLC được đặt ra thời vua Lê Thánh Tông.
Hình 1: Toàn cảnh vùng Bàu Vá (xứ Bộ Hóa) với quần thể di tích Điện Trường Lạc-Diễn Mã Trường-Sân bắn -Phủ Dương Xuân chụp từ vệ tinh
Qua khảo sát điền dã quanh Bàu Vá, thu thập sử liệu như ký ức dân gian, di vật, di chứng, thư tịch cổ, xong xử lý tư liệu chúng tôi hình thành một giả thuyết khảo cổ học về một số di tích lịch sử quanh Bàu Vá như sau:

b)            Miếu Lễ Lê Thánh Tông (thời Nguyễn Phúc Tần)và các chúa Nguyễn kế vị:

Hình 2: Chùa Vạn Phước được dựng trên nền cũ của am Phổ Phúc, am này dựng tạm trên nền cũ của miếu Lễ Lê Thánh Tông thời chúa Nguyễn Phúc Tần
Sau khi thân chinh thắng lợi, vua Lê Thánh Tông hồi kinh 1471, quân dân Thuận Hóa về sau đã lập miếu thờ vua Lê Thánh Tông ở xứ Bộ Hóa Thượng. Các cụ già cho biết khi đánh nhau với quân Chăm, thường quân Chăm cố thủ ở Thành Lồi, còn quân ta đóng bản doanh ở xứ Bộ Hóa Thượng, thuộc gò Dương Xuân, phía tây Bàu Vá. Vì thế Bàu Vá, Dương Xuân là nơi còn nhiều dấu tích của hoạt động quân sự thời Lê.Để tiện trình bày giả thuyết, cần điểm lại cuộc hành binh năm 1470: Tháng 8 Trà Toàn đánh Hóa Châu. Tháng 11 nhà vua đã cử ngay tướng Đinh Liệt, Lê Niệm dẫn quân tiên phong chinh nam. Sử không chép nhưng chắc chắn hai bên có đánh nhau ở Hóa Châu vì lúc bấy giờ quân dân Hóa Châu phải cố thủ trong thành Hóa châu dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Hiển. Khi quân Chăm đã rút thì hậu quân do nhà vua trực tiếp chỉ huy cũng vào Hóa châu khoảng tháng giêng năm 1471, dựng hành tại ở gần cửa Tư Dung. Ở Thuận Hóa có nhiều kho lương thảo, gò Dương Xuân sát sông Hương là nơi thuận lợi đặt kho. Tra cứu địa bộ làng Phú Xuân, được viết trong khoảng đầu thế kỷ 19, thấy rằng vùng đồi phía nam sông Hương có rất nhiều ruộng đất công; được tổ chức canh tác, thu hoạch nhập kho lương ở Thọ Khương (trên gò Dương Xuân). Có khả năng quan quân trong đoàn viễn chinh của vua Lê Thánh Tông, trong đó có Phi Vận tướng quân Nguyễn Phục, từng tiền hành vận lương ở xứ Bộ Hóa của làng Dương Xuân. Vì thế về sau quân dân sở tại đã dựng miếu thờ vua Lê Thánh Tông, ở xứ Bộ Hóa Thượng và dựng miếu thờ quan Phi Vận tướng quân Tùng Giang tiến sĩ Nguyễn Phục ở gò nhỏ nhô ra từ gò lớn Dương Xuân.Hiện nay, hai bên bờ sông Hương còn phát hiện bài vị thờ Phi Vận tướng quân. Ban đầu miếu thờ Lê Thánh Tông chỉ là miếu thờ cỡ nhỏ. 

Chúa Nguyễn Phúc Tần từng tôn tạo miếu thờ vua Lê ấy thành một miếu to lớn, gọi là Miếu Lễ Lê Thánh Tông. Do miếu ở trên đồi, người làng Dương Xuân trồng nhiều bông sứ ở trên gò, quanh miếu, để làm đẹp miếu và tỏ lòng cung kính vua Lê. Và dân làng Dương Xuân Hạ có nghề xâu hoa thành chuỗi, bán vào các ngày rằm, mồng một, ngày lễ nên làng Dương Xuân Hạ có khi gọi là XÓM BÔNG. Dân làng đã trồng bông sứ (hoa đại) chung quanh miếu rất nhiều và Bộ Hóa Thượng có cồn Bông Sứ từ ấy. Dân Xóm Bông hái hoa ở cồn Bông Sứ để sản xuất chuỗi hoa. Chúa lại cấp ruộng gần miếu để lấy hoa lợi lo việc tế lễ hằng năm và ruộng ấy dân gian gọi là Ruộng lễ vua Lê Thánh Tông. Đến thời Gia Long, nhà vua cho dựng Miếu Lễ Lê Thánh Tông mới thì ruộng ấy vẫn có chức năng như cũ. Cụ Nguyễn Văn Thuận, 75 tuổi, dân làng Dương Xuân Hạ cho biết cụ từng canh tác ở Ruộng lễ Lê Thánh Tông trước năm 1975. Khi chúa Nguyễn Phúc Chu, có ý định xưng vương, chúa cho trùng tu, tôn tạo đình chùa miếu vũ ở Phú Xuân, thường dựng bia có bài minh ca ngợi công đức của tiền nhân. 

Khi xây dựng đại danh lam Thuyền Lâm (hay Thiền Lâm) thì không thể không đại trùng tu Miếu Lễ Lê Thánh Tông và có khả năng chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng bia tưởng nhớ công đức của vua Lê Thánh Tông trong việc mở mang bờ cõi. Thời quân Lê Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, tiếp đến triều Tây Sơn đóng đô ở đây, miếu này trở thành phế tích. Năm Gia Long thứ 8, nhà vua cho dựng mới Miếu Lễ Lê Thánh Tông (mới) gần chùa Bảo Quốc, bên trái miếu Lịch Đại Đế Vương (vế sau). Địa bộ làng Phú Xuân có ghi rằng làng Phú Xuân phía nam, tây nam giáp xứ LÂM LY (hay LÂM LỘC), CHÙA THUYỀN LÂM, phía tây giáp BỘ HÓA THƯỢNG, MIẾU LỄ LÊ THÁNH TÔNG, CHÙA THIÊN THỌ (Tức chùa Bảo Quốc). Địa bạ làng Phú Xuân lập năm Gia Long thứ 14, mà trong địa bộ đã chép Miếu Lễ Lê Thánh Tông thì miếu này chắc chắn là miếu thời Gia Long. Các cụ già của làng Phú Xuân, sống gần chùa Vạn Phước cho biết chùa Vạn Phước hiện nay là được dựng nơi có Miếu lễ Lê Thánh Tông bị hoang phế. Dĩ nhiên miếu này không phải là Miếu Lễ Lê Thánh Tông được dựng mới vào năm GL8 mà là miếu cũ. Dễ thấy miếu cũ chắc chắn ở Bộ Hóa Thượng, gần chùa Thuyền Lâm. Khi nhà sư Giác Hạnh thuộc chùa Tây Thiên vào lập am Phổ Phúc ở Cồn Bông Sứ năm 1910 thì có miểu cổ bỏ hoang, nhà sư đã quang dọn, tu sửa để ở và tu hành, coi sóc các phần mộ của thân nhân các cụ thượng Nguyễn Đình Hòe, Phạm Liệu…  

Vậy khi dân sở tại phát hiện rất nhiều gạch, đá táng kê cột, đá lát, tấm đá dài làm bệ thờ khá cổ ở khuôn viên chùa Vạn Phước là một bằng chứng về khả năng Miếu Lễ Lê Thánh Tông cũ từng có mặt trên đất xứ Bộ Hóa Thượng.Đại danh lam Thuyền Lâm cũ bị hoang tàn và phải triệt giải khi người Pháp dựng đường Nam Giao tân lộ thì rất nhiều vật liệu, giải hạ, đá táng kê cột, đá lát, bia đá… được dồn vào cồn Bông Sứ, xứ Bộ Hóa Thượng. Chùa Thiền Lâm mới được xây dựng gần cồn Bông Sứ. Về sau khi dựng chùa Vạn Phước, người ta đã dọn dẹp các thứ vật liệu linh tinh của Miếu Lễ Lê Thánh Tông cũ nằm phía trước, phía sau chùa. Trước năm 1926, đoàn nghiên cứu của linh mục Cadière từng tiếp cận ở bình An nhiều tháp sư và mộ cổ, đặc biệt phát hiện cái bia đá bề thế, đặt trên lưng rùa đá, ở một ngôi mộ ngay trước chùa Vạn Phước và họa sĩ Nguyễn Thứ đã vẽ lại bình đồ, phối cảnh ngôi mộ. Trong B.A.V.H (tập XV, 1928) Cadiere viết: “-51. Làng Phú Xuân, thôn Bình An –Đồ bản A. 
Hình 3: Hình vẽ ngôi mộ trước chùa Vạn Phước, với hai bia, không phải tháp sư
Hình 4: Bình đồ ngôi mộ có hai bia
Văn khắc: Sắc tứ Thanh Thận Chiêu Quả Đại Thiền Sư chi tháp.
(Tháp mộ của vị Đại Thiền sư Thanh Thận Chiêu Quả (được sắc phong) do nhà vua ban sắc tứ... Phụ bản VII-I X.A. Nấm tròn; b.Đế đỡ bia, mang dòng văn khắc nói trên.G. Uynh thành, hay viên thành chiều sâu 6m8, rộng 7m; C –Sân bái đình, 2 cấp có 2m chiều sâu vào trong, 9m10 chiều rộng ở trước: có nữ tường bao quanh sân. F-D. Hồ bán nguyệt, 3m80 chiều sâu ;9m10 chiều rộng.Đồ gốm.Bia lớn đứng trên con rùa –văn khắc bị đục xóa”.
Hình 5: Hình vẽ bia sắc tứ của Đại thiền sư Thanh Thận Chiêu Quả.

Chỉ cần để ý hình vẽ ngôi mộ thì thấy không có tháp sư và kiểu thức mộ là mộ của một bà quí tộc hơn là của một vị sư (?). Vậy thì bia có rùa đội, bia sắc tứ và ngôi mộ là 3 cấu kiên của ba kiến trúc cổ khác nhau, được người sau ráp lại khi quang dọn ở nơi cồn Bông Sứ của xứ Bộ Hóa Thượng. Vậy cơ sở nào khi cho rằng gạch, đá táng, mấy tấm đá to bản và dài, bia có rùa đội là di vật di chứng của lăng vua Quang Trung bị quật phá và bị che giấu! Chúng tôi nhận thấy kiểu thức loại bia này rất giống bia mà chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng ở chùa Thiên Mụ. Phải chăng những vật liệu xây dưng như gạch, đá táng kê cột hình quả trám, đá tấm dài trên hai mét, các tấm bia, trong đó có bia đặt lưng rùa là những di vật của Miếu Lễ Lê Thánh Tông thời Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu? Một số hiện vật khác là của đại danh lam Thiền Lâm (hay Thuyền Lâm)? của chùa cổ Tuệ Lâm? Của hằng trăm lăng mộ gia đình các thân vương, quan lớn đưa vào chôn ở CBS ? của kho xưởng pháo binh nhà Nguyễn và quân đội Pháp ?. 

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân luôn đứng trên quan điểm triều Nguyễn xóa sạch các công trình kiến trúc của Tây Sơn, trong đó phủ Dương Xuân là Đan Dương lăng; thế thì tại sao dân sở tại cho biết hằng trăm năm qua họ đã thu thập một khối lượng vật liệu xây dựng khá lớn trên mặt đất và đặc biệt tấm bia dựng trên lưng rùa nói trên, chưa cần phải đào bới? Khoảng 1804 thì dân làng Phú Xuân vào khai phá xứ Bộ Hóa Thượng, tiếp đến các thân vương, quan lớn vào đây mai táng thân nhân …Vật đổi sao dời, về sau dân sở tại san lấp, quang dọn những ngôi tháp, lăng mộ vô chủ (trở thành phế tích), dẫn đến tình trạng có nhiều vật liệu xây dựng bị chôn vùi dưới đất.
Hình 6: Ảnh chụp tấm bia đặt trên lưng rùa (có khả năng là bia dựng ở Miếu Lễ Lê Thánh Tông vào thời chúa Nguyễn Phúc Chu)

Việc đục bia, gọt bia, chôn bia, lấy bia… xảy ra ở CTL-CBS kéo dài cả trăm năm; không phải triều Nguyễn “tận pháp trừng trị” ai đó mà do nơi này hoang phế, có người thấy bia bị phế nên đục cho khỏi “đau lòng” và cũng do ý đồ làm “mất chủ quyền” của người xưa trên phần đất họ chiếm dụng. Năm 1988, khi đến khảo sát tháp sư sau lưng chùa Vạn Phước, chúng tôi còn thấy vắn khắc trên bia rõ ràng, nhưng tuần sau trở lại đã thấy bị gọt một phần (?) (xem hình 7, hình 8). Cadiere cũng gặp hiện tượng ấy khi họa sĩ Nguyễn Thứ, cộng tác viên của Cadiere, đến khảo sát ở CTL-CBS từ 1914 và đã viết:
“Cái di tích nhỏ nhắn kỳ lạ này không biểu thị hình dạng gì hơn là nó đã có những trang vẽ của ông Nguyễn Thứ. Từ khi những tranh vẽ này thực hiện, thì người ta đã làm một viên thành bao quanh ngôi mộ và cái nền bên dưới bị mất hoàn toàn dưới đống đất ấy, một cách tất yếu, là di tích này đã mất đi một phần lớn giá trị của nó. Có lẽ vì bị thúc đẩy bởi nổi lo sợ mang tính tôn giáo và không yên tâm bởi những lượt đi đi lại lại của ông Nguyễn Thứ, mà người ta có quyền sở hữu những điều này đã hành động như vậy.”
(B.A.V.H, tập XV, 1928, dịch giả Hà Xuân Liêm, NXB Thuận Hóa Huế, 2004, tr 69)
Vấn đề đã rõ, vì vậy không phải gặp bia bị đục là vội kết luận triều Nguyễn trị tội Tây Sơn !
Hình 7:Tháp sư được sắc tứ, trên cồn Bông Sứ, phía sau chùa
Vạn Phước, Tịnh Độ.
Hình 8: Bia sắc tứ của tháp sư, sau chùa Vạn Phước, có bia bị gọt khi có người đến khảo sát.

c)             Gò Mả Loạn, Giếng Loạn

Thời vua Champa [Trà Toàn] đánh phá Hóa Châu, người Việt gốc Chăm nổi loạn, theo Trà Toàn rất đông; quân dân Hóa Châu phải rút vào tránh và chống giặc trong thành Hóa Châu (gần Ngã Ba Sình). Khi quân tiên phong của vua Lê Thánh Tông, do Đinh Liệt, Lê Niệm chỉ huy, vào đánh dẹp vào năm 1470 thì chém rất nhiều giặc và gom lại chôn tập thể ở vùng Lâm Lộc, nam sông Phú Xuân, tức gò Bình An hiện nay và gọi là GÒ MẢ LOẠN. Dân xã Dương xuân còn truyền khẩu về những trận đánh nhau giữa quân Chăm với quân Đại Việt trên cánh đồng Bàu Vá (Bộ Hóa). Quân tiên phong của vua Lê Thánh Tông từng đóng quân ở Gò Dương Xuân, xứ Bộ Hóa Thượng, gần kho lương thảo ở xã Thọ Khương, cũng trên gò Long Thọ (gò con của gò lớn Dương Xuân). Vào thời Pháp thuộc, khi xây dựng con đường Nam Giao Tân Lộ, qua GÒ MẢ LOẠN thì người ta đào được rất nhiều hài cốt. Tục người Chăm cổ là hỏa táng và dùng vò gốm đựng tro, chôn xuống đất. 

Ở đây lại là xương cốt, được địa táng tập thể là một bằng chứng về ký ức dân sở tại là có độ tin cao. Thế thì hàng ngàn xương cốt trên GÒ MẢ LOẠN đào được có thể là hài cốt quân dân Chăm nổi loạn bị đại quân vua Lê Thánh Tông chém giết và chôn tập thể. Do vậy “GIẾNG LOẠN”, “MẢ LOẠN”, mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nghi là của Tây Sơn, là di vật di chứng của cuộc thân chinh thắng lợi của vua Lê Thánh Tông vào 1470 trên đất Hóa Châu chăng?. Mà cũng có thể là mả tập thể của quân dân bị giết trong cuộc loạn đời Lê Hiến Tông. ĐVSKTT chép; “Mậu Ngọ, Cảnh Thống năm thứ nhất [1498]… Trong hạt Nghệ An, Thuận Hóa, bọn trộn cướp đều nổi lên, quận bên cạnh đánh dẹp không yên được. Vua ra sắc lệnh cho quan có trách nhiệm, triệt bỏ hết toán lính đi tiểu bắt, chiêu an phủ dụ cho chúng ra thú tội trở lại nghề nghiệp cũ.”(tr9, tập III, sđd). Hoặc “mả loạn” của người Việt gốc Chăm bị giết thời vua Lê Uy Mục. ĐVSKTT chép: “Kỷ Tỵ, [Đoan Khánh] năm thứ 5 [1509]… Sai bọn Đô đốc Bảo Lộc bá Lê Tử Vân và Vũ Cảnh đi kinh lý vùng Quảng Nam.

Trước đây, năm Hồng Đức thứ nhất, Thánh Tông thân hành đi đánh Chiêm Thành bắt được Trà Toại và vợ con nó đem về nước ta an trí ở ngoài cửa Bảo Khánh gần 30 năm. Đến thời Cảnh Thống, con là Trà Phúc mang trộm hài cốt của cha là Trà Toại trốn về nước, để lại một người chị ruột, đến khi có binh hỏa mới chết. Đến nay nô lệ người Chiêm của các nhà thế gia, công thần ở các điền trang cũng bỏ trốn về nước. Vũ Cảnh cho chạy trạm tâu vua là người Chiêm làm loạn. Vua hạ lệnh giết người Chiêm gần đến gần hết, không biết rằng kẻ làm loạn chính là bọn người Chiêm Chế Mạn. Đến sau bắt được bọn người Chiêm Ma Mạt phiêu giạt ngoài biển, giam ở thừa chế, họ lại cung khai rằng năm trước, Trà Phúc đã trở về nước sai con là Ma La sang cầu viện nhà Minh, lại đóng nhiều thuyền, chứa nhiều lương. do đó vua sai bọn Cảnh đi kinh lý... Mùa thu tháng 8, xuống chiếu bắt giết hết những người Chiêm hiện đang bị giam giữ.” (tr46, tập III, sdd). Ngoài ra cũng cần chú ý cuộc LOẠN CHÀY VÔI hay LOẠN ĐOÀN TRƯNG ĐOÀN TRỰC thời Tự Đức (1866), phát xuất từ GÒ DƯƠNG XUÂN; quân lính và các vị chỉ huy đều bị giết và chôn tập thể. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng “MẢ LOẠN”, “GIẾNG LOẠN” ở gần cồn Bông Sứ, ấp Bình An là mả tập thể của quân lính Tây Sơn (?) thì e rằng không đúng. Triều Nguyễn xếp Tây Sơn vào loại NGỤY nên có những cụm từ như “SÁCH NGỤY”, “TIỀN NGỤY”, “MẢ NGỤY”, ”CHUÔNG NGỤY”, “GIẾNG NGỤY”,… vì Tây Sơn đã “TIẾM NGÔI” nhà Lê. Thế thì mả tập thể của quân lính Tây Sơn sẽ được gọi là MẢ NGỤY, giếng Tây Sơn dùng là GIẾNG NGỤY… chứ không thể gọi là MẢ LOẠN, GIẾNG LOẠN được.

d)            Địa điểm đào được ấn “Trấn Lỗ Tướng Quân Chi Ấn” ở đâu thì có lý?

Khi chiến dịch bình Chiêm toàn thắng năm 1471, vua Lê Thánh Tông bắt nhiều tù binh, phân phối nhiều nơi, cho lập làng sinh sống, trong đó có xã Xuân Hóa phía nam và tây nam BÀU VÁ. Triều Lê từng cử quan TRẤN LỖ TƯỚNG QUÂN, trấn giữ tù binh Chăm ở xứ Bộ Hóa và cấp ấn “TRẤN LỖ TƯỚNG QUÂN CHI ẤN”. Như thế chắc chắn nơi đóng đại bản doanh của quan TRẤN LỖ phải là trung tâm của gò Dương Xuân, gần cụm cư dân và có tầm nhìn bao quát vùng trũng BÀU VÁ, để tiện “trấn giữ” người Việt gốc Chăm ở Dương Xuân. Các đời vua Lê lần lượt lên ngôi, đa phần theo khuôn phép thời Hồng Đức. Hóa Châu là miền biên viễn, không được an ninh. Rồi loạn lạc xảy ra, có khi quan TRẤN LỖ phải bỏ bản doanh mà chạy,hoặc bị giết, để lại ấn của mình.Đại Việt Sử Ký Toàn Thư từng chép: “Kỷ Mảo, [Quang Thiệu] năm thứ 4 [1519]… Tháng 6, thổ tù xứ Thuận Hóa đuổi viên Tổng binh sứ Đoan Lương bá Phạm Văn Huấn, cướp lấy cả vợ con, của cải của Huấn. Bấy giờ, Văn Huấn đem nhiều con em đi theo, đổi đặt làm quan các vệ sở, quấy nhiễu dân địa phương, giết ngầm các thổ tù các xã Võ Xá, An Truyền huyện Đan Điền là bọn Hồ Bá Quang 4 người. Vì thế con em của Bá Quang đem hơn bồn nghìn người bản xứ đến vây bức thành trì, đuổi Văn Huấn đi. Văn Huấn bỏ cả vợ con trốn ra vùng Tân Bình. Bọn Thuận Hóa Thừa tuyên sứ Phạm Khiêm Bính, Hiến Sát sứ Ngô Quang Tổ, cùng vợ con của Văn Huấn lên thuyền chạy trốn, dân xứ ấy cướp hết của cải vợ con của Văn Huấn, cố ép thuyền của Khiêm Bính và Quang Tổ quay về trị sở. Hai tháng sau, vua sai Sái Cảnh làm Thừa chính sứ Thuận Hóa thay Khiêm Bính. Bọn Khiêm Bính do vậy mới được trở về.”(sdd, tập III, tr 94). 

Có khả năng quan Trấn Lỗ Tướng Quân bị giết hoặc bỏ trốn trong cuộc loạn này và không kịp mang theo ấn Trấn lổ tướng quân chi ấn. Mà bản doanh của quan Trấn lổ tướng quân phải ở xứ Bộ Hóa trên gò Dương Xuân, có người Việt gốc Chăm ở tập trung. Khai canh của làng Dương xuân là “Đô Tổng Binh Thiêm Sự Lê Quý Công”, chức này theo Lịch triều hiến chương loại chí có từ thời Hống Đức. Xứ Bộ Hóa Thượng, có CTL-CBS sát vùng Lâm Lộc là rừng núi và mộ địa, sau năm 1804 vua Gia Long cho phép một bộ phận con dân làng Phú xuân lên khai phá ở xứ Lâm Lộc, xứ Bộ Hóa Thượng mới lập ra ấp Trường Giang, Trường Cửi, Bình An. Còn xứ Bộ Hóa của làng Dương Xuân mới có người Việt gốc Chăm sinh cơ lập nghiệp với mật độ dân cư cao hơn xứ Bộ Hóa Thượng, sát gần xứ Lâm Lộc, nên dấu tích Chăm khá dày đặc, chẳng hạn ở ấp Hóa Quê, Xuân Hòa… ở gò Dương Xuân người ta từng thu được hiện vật Chăm cổ khá nhiều.Xứ Bộ Hóa Thượng thích hợp cho việc lập chùa, miếu hơn là đại bản doanh của quan Trấn Lỗ Tướng Quân! Khi trùng tu Phủ Dương Xuân, cơ tẢ ThỦY đào đất làm hồ bán nguyệt, làm ao vuông có nhà thủy tạ… mới bắt được ấn nói trên. Hồ bán nguyệt trước chùa Vạn Phước là hồ bán nguyệt của Phủ Dương Xuân (theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân), thế thì dấu vết ao vuông có nhà thủy tạ ở đâu? Chưa kể năm Bính Tý [1696] chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng trường pháo ở phía sau phủ ở Dương Xuân và Canh Thìn (1700), chúa Nguyễn Phúc Chu còn dựng Diễn Mã Trường và có khả năng trường diễn tập kỵ binh này nằm trước hay bên cạnh phủ. Cũng năm này đã cho trùng tu Phủ Dương Xuân. E rằng địa điểm nằm giữa CTL và cồn Bông Sứ khó thích hợp cho một phủ Dương Xuân, từng có bản doanh của quan Trấn Lỗ Tướng Quân!

e)             Kết luận

GTNĐX với cơ sở chưa thuyết phục, chủ yếu dựa vào nguyên chú vài bài thơ cổ, vài câu thơ của Ai Tư Vãn, lời kể của vài người như ông Nguyễn Hữu Oánh, sư trụ trì chùa Kim Tiên. Những viên gạch, những tảng đá… đào được ở nơi từng có hai ngôi chùa cổ, hơn một chục tháp sư, hằng ngôi mộ của thân vương, hoàng tử (một phần trở thành vô chủ), nhà xưởng của pháo binh triều Nguyễn, rồi phế tích Miếu Lễ Lê Thánh Tông đã hoang phế thì chưa đủ để tin rằng ở đây có một cung điện bị vùi lấp… Nhà nghiên cứu chưa giám định về mặt khảo cổ học những hiện vật thu thập được, chỉ xâu chuỗi chúng lại thành một giả thuyết hấp dẫn theo một dịnh kiến ban đầu. Chưa kể vô tình GTNĐX đánh giá thấp vị thế của Tây Sơn trong lịch sử, với động thái xây dựng Đan Dương Lăng một cách kỳ lạ: “ăn đậu ở nhờ” nơi Phủ Dương Xuân của kẻ thù!

Khi đã không tin vào GTNĐX, không dừng lại ở phần kiến giải những hiện vật thu thập được ở CTL-CBS, chúng tôi tổ chức điền dã nhiều lần ở Gò Dương Xuân, thu thập một số tư liệu mới và cho phép hình thành một giả thuyết công tác mới, trong đó chúng tôi chứng minh: tiền thân của Đình Dương Xuân Hạ là Đền Vũ Sư, tiền thân của Đền Vũ Sư là Phủ Dương Xuân (hành cung mùa đông), tiền thân Ruộng Phủ là Diễn Mã Trường, tiền thân của khu vực có mộ gia đình Tuy Lý Vương là Điện Trường Lạc (cung điện mùa hè), tiền thân của Điện Trường Lạc là Phủ Tập Tượng (tả) và tiền thân của Điện Voi Ré là Phủ Tập Tượng (hữu). Giả thuyết mới này chúng tôi sẽ công bố trong phần hai.

D.              Dấu tích Phủ Dương Xuân

Sau khi không thể tin ở cồn Bông Sứ có phủ Dương Xuân, chúng tôi phải trở lại trung tâm của gò Dương Xuân để tìm dấu tích Phủ Dương Xuân.
Chỉ cần chỉ ra phủ Dương Xuân có ở ấp Bình An hay không thì có thể biết giả thuyết khoa học của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đúng hay sai.

Hình9: Đình Dương Xuân Hạ dựng trên nền móng cũ của đền Vũ Sư, có tiền thân là phủ Dương Xuân thời  chúa Nguyễn Phúc Tần và chúa Nguyễn Phúc Chu
Hình10:Ảnh đá kê cột và đá lát của phủ Dương Xuân
Hình11: Phủ Dương Xuân nhìn từ Điện Trường Lạc

1.     Tư liệu thư tịch về Phủ Dương Xuân:

Trước hết phải chắt chiu những tư liệu thư tịch viết về Phủ Dương Xuân, Điện Trường Lạc, Diễn Mã Trường, các phủ Tập Tượng:
a)      Lê Quí Đôn, trong PBTL, từng chép về phủ Dương Xuân: “Ở thượng lưu về bờ nam có phủ Dương Xuân và phủ Cam. Ở trên nữa có phủ Tập Tượng; lại dựng điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ, mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ, mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực. Các nhà đều lát nền bằng đá, trên lát ván kiền kiền, những mảng xối đều làm bằng kẽm để hứng nước; trồng xen cây cối, cây vả cây mít đều to mấy ôm. Vườn sau thì núi giả đá quí, ao vuông hồ quanh, cầu vồng thủy tạ, tường trong tường ngoài đều xây dày mấy thước, lấy vôi và mảnh sứ đắp thành hình rồng phượng, lân hổ, cỏ hoa…”(PBTL, tr112).Tư liệu này không những khẳng định sự tồn tại phủ Dương Xuân ở thượng lưu sông Hương, bờ nam mà còn cho biết sự tồn tại Điện Trường Lạc và phủ Tập Tượng ở phía ấy. Theo chúng tôi Điện Voi Ré còn những di vật, di chứng chứng tỏ tiền thân của điện Voi Ré là một cung phủ, có liên quan cái hồ trước điện. Đây là phủ Tập Tượng trên vậy.
b)      Cũng trong PBTL, Lê Quí Đôn lại chép: “Khi Hiểu Quốc Công xưng vương hiệu, đổi phủ Tập Tượng làm điện Trường Lạc ở bên hữu sông phía thượng lưu thành Phú Xuân. Năm Giáp Tuất, bầy tôi là Trần Thiên Lộc làm bài phú “Vạn thọ vô cương” cùng bài thơ, sai vẽ ở tường, viết thành chữ nổi, chữ nào cũng đẹp, lớn hơn hai tấc, nay điện đã hỏng mà chữ vách hãy còn. Thơ rằng:
Thần tọa cao lâm Nam cực quýnh;
Lô yên bất động ngũ vân khai.
(Ngôi vua cao nhìn xuống nơi Nam cực,
Lò hương in tỏa năm thức mây)

Tối thị thi thần vi sủng ốc.
Minh kha tận hướng phượng trì hồi.
(Nhất là cận thần được vua yêu mến,
Đều sang sảng tiếng ngọc kha (trên mình ngựa) kéo tới chốn phượng trì).
Hoặc:
Phượng liễu sơ hồi tiên lộ bình,
Hổ vi triều điện thự hoa sinh.
(Xe phượng vừa về đường tiên phẳng,
Màn hổ điện chầu đều rực rỡ ánh sáng buổi mai)

Liễu nhiễu vân tinh hoàn bắc cực,
Ân cần thiên ngữ hạ tây thành.
(Những vân tinh quây quần quanh bắc cực,
Lời ân cần ban xuống chốn tây thành)(s đ d,tr302)
Tư liệu này chứng tỏ Điện Trường Lạc là do cải tạo Phủ Tập Tượng mà thành. Như vậy thời các chúa Nguyễn phải có hai phủ Tập Tượng.Những câu thơ của Trần Thiên Lộc cho biết Điện Trường Lạc hướng về nam, trước điện có hồ.
c)      Trong mục VẬT SẢN PHONG TỤC, Lê Quí Đôn lại chép: “Họ Nguyễn có xây dựng thì phần nhiều lấy gỗ ở các phủ Qui Nhơn, Quảng Ngãi và Gia Định. Như năm Canh Thân làm phủ Dương Xuân cùng cửa Nghi Môn, hạ lệnh cho quan công đường Quảng Nam sai xá nhân truyền cho cai trường lấy gỗ súc ở phủ Qui Nhơn một tích 695 cây, gồm cột lớn dài 32 thước, kiến thủy dài 3 thước 3 tấc, kèo lá dong dài 24, cùng các hạng xuyên xà; một tích 813 cây, cũng dài lớn như thế. Đều sai cai xã Tăng Quang lấy thuyền trường đà chở nộp, 24 chiếc chỉ chở được 180 cây….
Dinh Phú Xuân của họ Nguyễn có nhà quan và nhà lính tới mấy vạn nhà. Từ tháng giêng năm Ất Mùi, quan quân đóng đồn, tướng sĩ và binh lính theo làm việc có hơn ba vạn người, mặc ý đi lấy củi, lâu ngày phá dỡ, dân gian nhân đó mà lấy trộm cũng không ngăn cấm, mấy năm đốt cháy, không những gỗ kiền kiền, gỗ sao, đến cả gỗ trắc và gỗ giáng hương chứa đầy một gian để làm củi. Mùa xuân năm Bính Thân mở trường đúc tiền, lại lấy để làm than. Lập dinh trấn thủ, lại lấy để làm phòng ốc cho các cơ đội các quân, dùng hãy còn thừa. Đến tháng năm mới sai các quân đi lấy củi ở núi Hòn Chén, cấm không được dỡ nhà quan cũ nữa. Nhưng trường tiền đốt than một lần đã dỡ đến bốn năm chục gian chưa thôi. Ngói đá gạch chum thì kể có hàng vạn, không thể tính xiết…” (sđ d, tr320).Qua tư liệu này cho thấy đến thời chùa Nguyễn Phúc Chu thì Phủ Dương Xuân đã được tôn tạo và mở rộng. Đặc biệt qua đây đủ thấy phủ Dương Xuân hoàn toàn bị xóa sổ từ khi quân Lê Trịnh chiếm Phú Xuân [1774-1775].
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên chép: “Canh Thìn năm thứ chín [1700], mùa xuân, tháng giêng, mở trường diễn ngựa, các nội ngoại đội trưởng, các văn chức, nội giám và các mã đội tả hữu đều được thao diễn…
Mùa hè, tháng tư…
Lập phép diễn trận voi. Chúa ra thăm diễn trường ở xã Thọ Khang. Sai viên thống lãnh dẫn voi vào trường theo thứ tự mà bày hàng. Nhạc bộ đánh trống ba hồi, rồi gảy đàn thổi sáo hát khúc Thái Bình. Hát xong đánh 3 tiếng chuông. Thống lãnh dẫn voi tới. Chúa đến duyệt. Lại sai quan duyệt xem voi công ở ba đạo Lưu Đồn, Quảng Bình và Bố Chính…(sđ d, tr155).Tư liệu này chứng tỏ thời chúa Nguyễn Phúc Chu từng lập diễn mã trường. Theo ký ức của các cụ già ở Dương Xuân Hạ, con đường từ cống Bà Lan đến đình làng Dương Xuân Hạ  hiện nay, khá thẳng, giữa ruộng Phủ, đắp bằng đất sỏi ba dan, là con đường để diễn phi ngựa ngày xưa. Ở xã Thủy Xuân (Thọ Khang xưa) còn có bãi đất hình chữ nhật khả rộng, đối xứng với Điện Voi Ré qua tâm của Hổ Quyền là nơi diễn trận voi xưa.
Poivre là nhà buôn ngoại quốc, từng được Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát tiếp tai Phủ Dương Xuân vào mùa đông. Poivre từng chép: “Cung điện thứ hai nhỏ hơn, được xây dựng trên một cái gò hơi xa sông một chút và chỉ có một cánh nhìn ra phía sông. Chúa thượng ngự ở đó vào mùa đông hay mùa mưa kéo dài đến bốn tháng” (Nguyễn Đắc Xuân, Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung, VSH Hà Nội, 1992, tr 55). Và Poivre có ghi lại sự kiện ông được Võ Vương tiếp tại phủ Dương Xuân: “Ngài bước xuống một căn phòng nhỏ dùng để tiếp tân ở ngay cửa Phủ… Ông cầm tay tôi và dẫn tôi đến một mô đất nằm ngoài cùng của Phủ, đối diện với một cái ao… Trong lúc tôi đang ngồi trên mô đất… thì ở phía bờ ao bên kia, một đám dân nghèo đáng thương đang rạp người cúi lạy Ngài, rồi ráng sức gào lên: bất công, bất công!”(s đ d, tr 56).
d)    Trong B.A.V.H số tháng 6-9 năm 1925, L.Cadiere giải thích lý do trùng tu phủ Dương Xuân năm canh Thìn [1700] “Năm 1698, ngày thứ hai trong tháng 11, một cơn bão lớn đã xảy ra, kèm theo mưa lớn và lụt. Minh Vương (tức Nguyễn Phúc Chu) cảm thấy nguy nan khi đang ngự trong cung, đã tìm đến chỗ an toàn trên một ngọn núi nhỏ. Ngọn núi này phải chăng là nơi ở cũ tại Dương Xuân, nơi Võ Vương sau đó đã ở trong những tháng mùa đông, trong một cung điện, mà theo lời của Poivre, được xây dựng trên một cái gò. Phải chăng vì sự báo động (lũ lụt) trong năm 1698 đã khiến Minh Vương có ý định xây dựng lại phủ Dương Xuân vào năm 1700?”(sđ d, tr54)
Hình12:Cổng Đình Xuân Giang, tức Miễu Xóm thời Cadier.

e)      Cadiere từng viết: “Bây giờ nếu chúng ta quan sát vị trí của vạt đất, ở đấy, chúng ta chú ý một cái tứ giác cân đối lớn, chiều sâu khoảng 300m, chiều rộng 100m xuất phát từ con đường, chắc chắn ngày xưa là từ bờ sông, để tiến vào những cánh đồng ruộng. Khu vực này được nâng cao lên 40cm, cũng có thể hơn so với đất đai xung quanh, toàn bộ khu vực còn rải rác trên một chiều khá sâu những mảnh vỡ vụn gạch, ngói, những dấu hiệu của những kiến trúc quan trọng xưa. Phía nam vươn ra đều, trên đó có một cái miếu nhỏ với những cây cao lớn bao bọc chung quanh; đó là cái “Miễu Xóm”(..), bên này bên kia có những mảnh tường vỡ bằng vôi vữa truyền thống của người Việt làm cho người ta phải chú ý; ở phía trước miếu còn có hai tảng đá, một trong hai tảng đá ấy được trang trí với một đường viền manh mảnh. Cũng vẫn phía trước ngôi miếu, theo chiều rộng của tứ giác, có đào một cái hố hình chữ nhật, đã bị bồi lắp phân nửa, hai đầu mút hồ có hai mô đất đã từng được sử dụng làm móng của những kiến trúc nhỏ. Tất cả khu vực này có tên là Ruộng Phủ” (sđ d, tr116).
Hình 13: Đình Xuân Giang (tức Miễu Xóm) dựng trên nền Điện Trường Lạc

“Ngôi điện chính, Trường Lạc, nằm ở trung tâm vạt đất được nâng cao, có thể hơi dịch về phía nam, nghĩa là giữa đường Hổ Quyền ngày nay(1925) và cái miếu”
“Hiên Duyệt võ dựng trên mô đất nhô ra ở phía nam của tứ giác. Từ đấy, Võ Vương có ở bên phía phải ông cái “Diễn Mã trường”, và ở bên phía trái ông là trường bắn. Chỗ này là nơi tọa lạc của cái Miễu Xóm và chòm cây ngày nay. Người ta cũng có thể dựng hiên Duyệt Võ trên hai miếng đất trống (ở hai đầu ao), nhưng hồi ấy họ phải dựng lên đó hai cái đình. Đình phía tây để ngồi xem diễn kỵ binh, cái đình phía đông ngồi xem bắn đại bác” (s đ d, tr117).

Thứ đến có thể rút ra một số nhận định ban đầu như sau:
  • Quan điểm của L. Cadiere về qui mô, vị trí của Điện Trường Lạc và Hiên Duyệt Võ là đúng đắn;
  • Quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân; rằng Điện Trường Lạc không thể là Phủ Dương Xuân là chính xác;
  • Cho rằng Phủ Dương Xuân ở áp Bình An, trong khu vực có Thiền Lâm, chùa Vạn Phước thì quá xa sông Hương, không có một cánh của phủ nhìn ra phía sông, không có ao vuông trước hồ bán nguyệt…
  • Ruộng Phủ không thể là nền móng của Phủ Dương Xuân.

2.     Về lịch sử điện Trường Lạc qua khảo sát điền dã;

Có thể dựa vào các tư liệu trên để xác nhận Điện Trường Lạc mà Cadière đã chứng minh là có cơ sở. Thật vậy, tiền thân của Điện Trường Lạc là Phủ Tập Tượng (Tả) của Chính Dinh Kim Long. Phủ Tập Tượng (Hữu) ở phía xã Thọ Khương, sau này biến thành Điện Voi Ré. Và phủ Tập tượng (tả) là thuộc phần đất bờ nam sông Hương, phần nối dài của làng Phú Xuân, tính từ ga Huế đến cống Bà Lan… Khi Lê Quí Đôn viết PBTL thì phủ Tập Tượng (tả)) đã  biến thành Điện Trường Lạc. Như thế Hồ Lấp trước kia rộng hơn, chứa nước ngọt cho voi uống, và gọi là Tréng Voi. Khi chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát biến Phủ Tập Tượng (tả) thành Điện Trường Lạc thì đã thu nhỏ Tréng Voi lại, nghĩa là lấp một phần nên dân gian gọi hồ trước Điện Trường Lạc là Hồ Lấp. Căn cứ trên thực đia thì Điện Trường Lạc gần như tọa cấn hướng khôn, kiêm tí ngọ. Vì thế giữa Hồ Điện và Điện có sân chầu, bái đình đúng như thơ Trần Thiên Lộc đã mô tả. Khoảng thời gian từ 1775 dến 1875, trên dưới 100 năm, đám đất có nền của điện Trường Lạc trở thành phế tích và trở thành bãi tha ma. Sau này gia đình Tuy Lý Vương đã táng Tuy Lý Vương, thân mẫu của vương… tại nền móng cũ của Điện Trường Lạc. Và dĩ nhiên, đất này không phải của làng Dương Xuân nên dân sở tại đã thành lập xóm Xuân Giang và đã dựng Miễu Xóm ở nền Điện Trường Lạc. Đất trước miễu là Ruộng Phủ của làng Dương Xuân Hạ, cho nên đường vào Miễu Xóm, hiện nay gọi là Đinh Xuân Giang, rất kỳ quặc, từ sau ra trước, cửa đình thì ở bên hông phải và biển ghi “ĐÌNH XUÂN GIANG” thì đối diện với hướng đình.
Hình 14: Lăng mộ Tuy Lý Vương trên khu vực có điện Trường Lạc:
Hình 15: Tảng đá trong lòng cây cổ thụ ở Đình Xuân Giang, di vật của điện Trường Lạc.
Hình 16: Tảng đá sau Đình Xuân Giang là di vật của điện Trường Lạc.

Hình 17; Bia thờ thần Hậu Thổ ở khu vực điện Trường Lạc.
Hình 18: Bia Hậu Thổ này tận dụng giải hạ của điện Trường Lạc

Hình 19: Ngôi mộ tổ của một họ nào đó, cùng với mộ Tuy Lý Vương và mẹ được táng ở nền cũ Điện Trường Lạc, sau khi điện  bị quân Lê Trịnh tàn phá và trở thành hoang phế vào thời Tây Sơn

3.     Phủ Tập Tượng mà Lê Quí Đôn nhắc trong PBTL:

Một vấn nạn đối với những nhà nghiên cứu phủ Dương Xuân – Điện Trường Lạc là vị trí của phủ Tập Tượng, được Lê Quí Đôn chép trong PBTL. Xin trở lại tư liệu thư tịch này “Nam ngạn chi thượng lưu hữ Dương Xuân Phủ, Cam Phủ. Hựu kỳ thượng Tập Tượng Phủ…”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân dịch “Ở về mạn thượng lưu bờ nam ngạn, có Phủ Dương Xuân, Phủ Cam. Đi lên phía trên nữa có phủ Tập Tượng…”(sđ d tr 159). Chúng tôi thử kiến giải vấn đề mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã nêu như một thách đố:
Phủ  Tập Tượng là một công trình kiến trúc thời các chúa Nguyễn, liên quan cơ sở nuôi dưỡng và huấn luyện tượng binh mà Lê Quí Đôn có nói đến trong Phủ Biên Tạp Lục. Qua ghi chép của Lê Quí Đôn, có thể biết Phủ Tập Tượng ở về phía thượng lưu sông Hương, xa kinh thành Phú Xuân hơn Phủ Dương Xuân một chút. Phủ Tập Tượng mà Lê Quí Dôn vẫn còn nhắc đến khi đã có Điện Trường Lạc ở đâu?
Để có câu trả lời, cần xem xét vấn đề dưới nhiều góc độ và nếu cần đưa ra nhiều giả thuyết công tác và tìm cách kiểm chứng.
Trong tinh thần ấy chúng tôi xin được nêu một giả thuyết công tác  nhằm tìm hiểu lịch sử Phủ Tập Tượng và cố gắng giải quyết những ngộ nhận lâu nay.

Quan sát ảnh chụp vệ tinh của xã Dương Xuân thì thấy quần thể kiến trúc ĐIỆN VOI RÉ cũng khá bề thế. Bình đồ của điện hình chữ nhật với bề ngang 43m, bề dọc 56,5m với 3 cấp: Cấp trên có bề rộng 25 m, có điện chính, có trục đối xứng là đường thần đạo theo hướng Tây Bắc –Đông Nam, nghiêng bắc 60 độ (tọa càn hướng tốn). Cấp giữa có bề rộng 15m, có hai nhà tả vu và hữu vu có nền hình vuông cạnh 7m, đối xứng nhau qua đường thần đạo, ở giữa có khoảng sân rộng. Cấp dưới có một sân hình chữ nhât với bề rộng 14,5m để trống và có bấc cấp dẫn lên chính điện. Quan sát toàn bộ thì thấy phần trên cùng cổ hơn phần dưới. Hai mảng tường phần dưới, tiền đình do lớp giữa đã bị bóc nên lộ rõ hai loại gạch, dưới gạch vồ, nữa trên gạch mỏng. Loại gạch này giống gạch dựng tường ở Thái Miếu, đồng đại loại gạch Tây Sơn hay sử dụng và triều vua Gia Long cũng thường dùng… Điều chúng tôi quan tâm là cái hồ hình vỏ đậu phụng ở trước điện. Căn cứ vào địa hình và cống thông của hồ với ruộng ở phía phải điện thì hồ này do người ta đào nhằm nơi trữ nước ngọt cho voi uống trong mùa nước sông Hương bị ngấm nước mặn… Một hai chú voi có công trạng, trước khi chết có gầm ré, mà nhà vua dựng điện thờ to lớn bề thế hơn cả THÁI MIẾU, TRIỆU MIẾU, MIẾU LỊCH ĐẠI… thì quả là điều khác thường! Vài chú voi thành thần đi nữa, làm sao vượt các đại công thần tuẫn tiết trong công cuộc trung hưng của vua Gia Long, lại được thờ trang trọng như điện Voi Ré? Từ thắc mắc ấy, chúng tôi nghĩ rằng phải chăng tiền thân của ĐIỆN VOI RÉ chính là PHỦ TẬP TƯỢNG thời các chúa nguyễn. 

Có thể ở đây chính là nơi nuôi dạy voi và huấn luyện tượng quân, triều Nguyễn gọi là sở Kinh Tượng ở xã Dương Xuân. Phủ Tập Tượng chỉ là một hành cung để chúa Nguyễn và tùy tùng duyệt quân tượng. Có thể quân Lê –Trịnh và quân Tây Sơn đều tiếp tục sử dụng như thời các chúa Nguyễn. Nhưng đến thời vua Gia Long, do sự kiện các con voi có công, được nhà vua phong tước hiệu, nên nhà vua biến Phủ Tập Tượng, nơi nhà chúa, nhà vua ngự xem quân tượng tập luyện trước đó, thành điện thờ voi, với tên dân gian “ĐIỆN VOI RÉ”. Thực ra có hai sở Kinh Tượng vào thời chúa Nguyễn. Cả hai nơi đều gọi là phủ Tập Tượng. Phủ Tập tượng Hữu, sau này thành Điện Voi Ré như đã nói ở trên. Phủ Tập Tượng Tả lai ở trên đất của làng Phú Xuân, dưới chân đồi Hàm Long, có chùa Bảo Quốc. Phủ này có chuồng voi ở vào vị trí mà sau này ông chủ Tây Boger đã lập nhà máy rượu bia, và dân gian gọi khu vực này là BẦU GHÈ. Hồ Lấp có tiền thân là Tréng Voi, nơi chứa nước ngọt cho voi uống. Lê Quí Đôn từng cho biết lịch sử của Điện Trường Lạc trong một câu ngắn ở PBTL “Khi Hiểu Quốc Công xưng vương hiệu, đổi phủ Tập Tượng làm Điện Trường Lạc ở bên hữu sông phía thượng lưu thành Phú Xuân.

Hình 20: Điện Voi Ré  và Hổ Quyền  nhìn từ vệ tinh

Nhìn tổng thể Điện Voi Ré, về mặt kiến trúc chúng ta sẽ thấy hai phong cách kiến trúc khác nhau rõ rệt. Phần trên cùng là phong cách thời các chúa Nguyễn: bộ giàn trò thấp, đường kính cột trung bình nhỏ, nên đá táng, đá kê cột nhỏ, hình quả trám thanh mảnh. Phần sân chầu mới cơi nới mở rộng với loại gạch bìa mỏng mà các nhà kiến trúc, các nhà xây dựng cuối thế kỷ 18 (Tây Sơn) và đầu thế kỷ 19 (Nguyễn, Gia Long) hay dùng và đặc biệt hay làm trụ cổng, trụ biểu hau đầu trụ ở cá góc tường vươn cao…

Hình21: Đội tượng binh triều Nguyễn  đang phủ phục trước Tam Tòa

Với những dữ liệu ban đầu, như đã trình bày, chúng tôi đặt giả thuyết rằng tiền thân của ĐIỆN VOI RÉ là PHỦ TẬP TƯỢNG (hữu) thời các Chúa Nguyễn (phần trên cùng), phần cơi nới của Tây Sơn và Gia Long ở cấp 2,3. Thực ra vua Gia Long vẫn không vừa lòng khi một hành cung của tổ tiên mình đã từng bị quân Lê-Trịnh sử dụng, hoặc vua quan ngụy Tây Sơn từng ngự ở dó để lo tượng binh. Phá đi thì tiếc, như Văn Miếu Long Hồ thời chúa Nguyễn Phúc Thuần, Tây Sơn làm Quốc Tử Giám, vua Gia Long không phá nhưng cho chôn tượng của Không Tử và biến văn miếu này thành KHẢI THÁNH TỪ (thờ cha mẹ của KHÔNG TỬ). Bởi vậy khi có “Đại công thần” voi “tuẫn tiết”, nhà vua biến PHỦ TẬP TƯỢNG thành ĐIỆN VOI RÉ để thờ voi, nhưng thực ra hàm ý lưu lại một di tích mà tổ tiên mình đã xây dựng và phát triển binh tượng trong việc giữ vững Đàng Trong chúng tôi tóm tắt giả thuyết công tác, sau đó kiểm chứng trên thực địa.

4.     Miếu Phi Vận Tướng Quân, Đền Vũ Sư, Đình Dương Xuân Hạ:

Phủ Dương Xuân khi được tôn tạo lớn vào năm 1700 thì lính thợ đào được ấn đồng “TRẤN LỖ TƯỚNG QUÂN CHI ẤN” nên Phủ Dương Xuân còn có tên là Phủ Ấn. Một bộ phận binh tướng trong đoàn quân chinh nam của vua Lê Thánh Tông từng đóng quân ở gò Dương Xuân. Có quan Phi Vận Tướng Quân, Tiến Sĩ Tùng Giang Nguyễn Phục, thầy của vua Lê Thánh Tông, có bản doanh ở trên gò nhỏ nhô ra từ gò Dương Xuân lớn, bên Bàu Vá. Khi quan Phi Vận tướng quân bị ghép tội chết, do trễ nãi quân lương, vua Lê Thánh Tông qua cơn nóng giận, rất lấy làm ân hận và dân sở tại đã lập miếu thờ quan Phi Vận Tướng Quân ở địa điểm nêu trên. Triều Lê cử  quan Trấn Lỗ Tướng Quân, chuyên sắp đặt tổ chức cho đám tù binh và dân Champa được tập trung ở chân và trên gò Dương Xuân sinh sống. Quan Trấn Lỗ Tướng Quân cũng lập bản doanh gần miếu Phi Vận Tướng Quân. Đương nhiên quan Phi Vận và quan Trấn Lỗ trở thành thành hoàng, khai canh của làng Dương Xuân Hạ sau này. Miểu của Phi Vận Tướng Quân trở nên linh hiển. Khi chúa Nguyễn Phúc Tần cho xây miếu thờ vua Lê Thánh Tông thì cũng có khả năng cho xây miếu của Tùng Giang Tiến Sí, Phi Vận Tướng Quân.

Hình22: Bình phong Đền Vũ Sư, tức phủ Dương Xuân xưa

Hình23: Cốt rồng chầu của Phủ Dương Xuân, Đền Vũ Sư, giữ lại trên300 năm làm di vật của công trình tiền thân, khi xây dựng đình Dương Xuân Hạ
Do những năm bão to, clụt lớn, các chúa tạm lánh lên gò Dương Xuân, đến ngự gần miếu Tùng Giang, tức miếu Phi Vận Tướng Quân, nhân thể cầu đảo. Để tiện lợi, nhà chúa cho xây dựng hành cung với qui thức giống chính dinh, nhưng nhỏ hơn, để sống và làm việc trong mùa thu-đông, thường có bão tố, mưa lớn và lụt lớn. Vì ở gò này có quan Trấn Lỗ từng đóng bản doanh, để lại ấn đồng do bị tai ương nào đó, nên cơ Tả thủy đào được ấn đồng khi xây dựng phủ Dương Xuân là việc có thật. Sự kiện này chứng tỏ phủ Dương Xuân và miếu Phi Vận Tướng Quân cùng ở trên một gò nhỏ nhô ra từ gò lớn Dương Xuân. Và từ ấy, hiểu được vì sao vua Minh Mạng đã biến miếu Phi Vận Tướng Quân – Phủ Dương Xuân thành đền Vũ Sư vào năm Minh Mạng thứ 7, thay miếu Đại Càn ở An Cựu, để đảo vũ. Rồi triều Nguyễn cũng suy tàn, đền Vũ Sư mất hết chức năng nhiệm vụ, thế là dân sở tại biến đền Vũ Sư (tức miếu Phi Vận tướng quân –Phủ Dương Xuân) thành Đình Dương Xuân Hạ hiện nay

5.     Khảo sát thực địa ở miếu Phi Vận Tướng Quân và Đình Dương xuân Hạ:

Quan sát, kiến trúc xây dưng hiện nay của đình Dương Xuân Hạ thì rõ, đình chính giữa và hai nhà tả vu, hữu vu được dựng lại trên nền cũ của Phủ Dương Xuân nhưng có ép lại một phần. Hai miếu thờ thần thấp hơn và nằm hai bên. Đá ốp nền, đá kê cột gồm hai thời kỳ, một là thời chúa Nguyễn (đá granit), một là thời đền Vũ Sư (đá Thanh). Gạch xây dựng bình phong long mã thuộc loại gạch mỏng thời chúa Nguyễn.
Hình 24 Mặt tiền của đình Dương Xuân Hạ
Hình 25: Bệ thờ có bài vị Võ tướng quân
Hình26: Miếu thờ Lôi Sư (thành miếu thờ Lê Tướng Công)

Bức bình phong long mã với những mô típ trang trí cổ hơn nhiều so với mô típ trang trí đình vào đầu thế kỷ 20. Người xây dựng đình đã chừa lại cốt một con rồng đắp nổi bằng gạch của thời Đền Vũ Sư. Theo cụ Lê Văn Hồi của làng Dương Xuân thì con rồng còn lại trước đình có lịch sử trên 300 năm. Do lớp vữa bị bóc, có thể thấy rõ một nửa được xây bằng gạch thẻ mỏng thời chúa Nguyễn, một nửa được xây bằng gạch vồ thời Minh Mạng. Như thế con rồng này có trước khi dựng đền Vũ Sư!
Hình 27: Đá kê cột của đền Vũ Sư
Hình 28: Đá táng kê cột của đền Vũ Sư
Hình 29: Văn bản thần Cao Các ở đền Vũ Sư
Hình 30: Văn bản về thần Đại Càng Nam Hải, Thiên Y A Na ở đền Vũ Sư

6.     Cánh đồng Bàu Vá có Diễn Mã Trường, sân bắn:

Ngoài ra cũng năm 1700, chúa Nguyễn Phúc Chu cũng cho mở Diễn Mã Trường từ Phủ Tập Tượng (sau này là Điện Trường Lạc) đến phủ Dương Xuân. Bức hoành phi “DIỄN MÃ TRƯỜNG”, chạm nổi chữ Hán kiểu thức hóa, còn treo ở tiền sãnh Đình Dương Xuân Hạ… là những bằng chứng về giả thuyết khoa học của chúng tôi. Theo các cụ già làng Dương Xuân Hạ có từ lâu. Khi các tiền bối tiếp quản Đền Vũ Sư thì đã thấy tấm biển này, được treo ở tiền sãnh. Theo truyền ngôn thì phía phải, trước hồ bán nguyệt, có ao vuông và cạnh ao vuông có một cái đình để quan sát diễn tập kỵ binh. Khi đình này hỏng nặng và lập đền Vũ Sư thì người xưa đã thỉnh biển DIỄN MÃ TRƯỜNG vào đền Vũ Sư để lưu giữ.

Thời Trịnh –Nguyễn phân tranh, Đàng Trong phải lo việc quân sự là việc làm tất nhiên. Về quân đội ngoài bộ binh, thủy binh, tượng binh, còn có kỵ binh nữa. Thời chúa Nguyễn Phúc Tần thường có những cuộc diễn tập kỵ binh từ quán Thanh Kệ đến Vạn Xuân. Còn thời chúa Nguyễn Phúc Chu, nhà chúa lo chấn hưng Đàng Trong, tức là củng cố và phát triển Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ với ý đồ xưng vương rõ rệt. Không những đề phòng mặt bắc mà còn lo những động thái quân sự giúp mở mang bờ cõi ở phương nam. Chúa Nguyễn Phúc Chu gần như biến vùng Bàu Vá và gò Dương Xuân thành một quân trương để huấn luyện các binh chủng. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên chép “Giáp Tuất, năm thứ 3 [1694] mùa xuân… Tháng 2… Thao diễn trận voi. Sai các cơ chia phiên thao diễn trận pháp, mỗi ngày một lượt, thưởng tiền theo thứ bậc. (sdd tr152). Các phủ Tập Tượng có khả năng củng cố và phát triển thời kỳ này. Lại chép: “Canh Thìn năm thứ 9[1700]. Mùa hè tháng 4...

Lập phép diễn trận voi.Chúa ra thăm diễn trường ở xã Thọ Khang. Sai viên thống lãnh dẫn voi vào trường theo thứ tự mà bày hàng. Nhạc bộ đánh trống ba hồi, rồi gảy đàn thổi sáo hát khúc Thái Bình. Hát xong đánh ba tiếng chuông. Thống lĩnh dẫn voi tới. Chúa đến duyệt... (sdd tr155). Và chúa Nguyễn Phúc Chu lại lập trường huấn luyện pháo binh ở vùng Bàu Vá, Ất Hợi, năm thứ 4[1695]... Tháng 3, dựng trường pháo ở phủ sau [ở phía sau một phủ nào đó TVĐIỀN chú ]. Triệu các quan văn võ cùng các đội trưởng, văn chức và tam ty họp nhau diễn tập, bắn trúng thì được thưởng tiền theo thứ bậc, trúng luôn ba lần thì được thưởng một tấm nhiễu hồng. Từ đấy mỗi năm theo làm lệ thường.(sdd tr152). Và chỉ năm tháng sau lại có hoạt động ở trường pháo. Mùa thu tháng 8, sai quân Chính Dinh diễn tập pháo thủ, cho các cai bạ nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu trông nom.(sdd tr 153). Kỵ binh là một binh chủng cơ động, phản ứng nhanh, dễ biến thành kỳ binh trong chiến thuật đánh vu hồi… Vì lẽ đó, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho xây dựng DIỄN MÃ TRƯỜNG ở cánh đồng Bàu Vá, tức là RUỒNG PHỦ hiện nay.

Diễn Mã Trường được xây dựng khi nào, ở đâu, qui mô và cách tổ chức huấn luyện kỵ binh như thế nào?
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên chép: “Canh Thìn năm thứ 9 [1700], mùa xuân, tháng giêng, mở trường diễn ngựa, các nội ngoại đội trưởng, các văn chức, nội giám và mã đội tả hữu đều được thao diễn”(tr155).
Diễn Mã Trường là trường rèn luyện, thao diễn ngựa; tức là vạt đất thấp, khá rộng nối từ phủ Tập Tượng đến phủ Dương Xuân (sát miếu Phi Vận Tướng Quân và miếu Thành Hoàng). Trong Diễn Mã Trường, có đắp con đường bằng đất sỏi badan, phần lớn là thẳng, có vài khúc uốn cong, có cầu vồng (tre, gỗ) bắt qua ao (ao Ấu), có rào chắn thấp bằng đất hoặc bằng tre.

Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu thì cải tạo phủ Tập Tượng (tả) thành điện Trường Lạc. Thật vậy, Lê Quí Đôn chép trong Phủ Biên Tạp Lục: “ Khi Hiểu Quốc Công xưng vương hiệu, đổi phủ Tập Tượng làm Điện Trường Lạc ở bên hữu sông phía thượng lưu thành Phú Xuân…”(tr302). Như vậy Diễn Mã Trường với hai đầu là hai phủ, một đầu là phủ Dương Xuân và một đầu là phủ Tập Tượng (vào thời chúa Nguyễn Phúc Chu), cho nên sau khi suy tàn Diễn Mã Trường trở thành ruộng canh tác và về sau dân sở tại gọi là Ruộng Phủ. Như thế thì Điện Trường Lạc quay về hướng nam, tréng voi của phủ Tập Tượng được cải tạo thành Phượng Trì hay Đan Trì; khi suy tàn thì dân sở tại gọi là HỒ LẤP. Nếu theo hướng bắc –nam, tựa vào điện (bây giờ là Đình Xuân Giang) và nhìn ra Phượng Trì (bây giờ là Ao Lấp) thì Diễn Mã Trường nằm về phía tay phải. Vì thế Hiên Duyệt Võ phía tây là cải tạo nhà Hữu Vu của phủ Tập Tượng và để xem diễn kỵ binh. 

Còn nhà Tả Vu của Phủ Tâp Tượng biến thành Hiên Duyệt Võ phía đông Điện Trường Lạc và để xem pháo binh tập luyện. Có thể pháo binh tập bắn cả vào mùa thu-đông. Vào mùa mưa lụt Bàu Vá trở thành một cái hồ lớn, rất thuận lợi trong việc tập bắn súng các cỡ trong khi di chuyển trên thuyền. Hiên Duyệt Võ phía đông của Điện Trường Lạc và Phủ Dương Xuân trên gò cao là những khán đài lý tưởng giúp quan sát kỵ binh, pháo binh tập trận. Sân bắn ở khu vực Ruộng Phủ vẫn còn dấu tích là những HÒN MÔ mà hiện nay dân sở tại đã đưa thân nhân vào chôn. Thế thì TRƯỜNG BIA ở chân cồn Bông Sứ thuộc xứ Bộ Hóa Thượng là hợp lý. Nếu điện Trường Lạc có Hiên Duyệt Võ thì Phủ Dương Xuân hy vọng có khán đài để xem diễn kỵ binh. Nếu Phủ Dương Xuân ở giữa đại danh lam Thiền Lâm và cồn Bông Sứ thì khó xem diễn tập kỵ binh, pháo binh. Như thế trường bắn ban đầu có thể ở phía sau lưng của Phủ Dương Xuân; từ kho thuốc súng (gần chùa Bảo Quốc) đến Trường Bia (có giếng Trường Bia, bên hông chùa Vạn Phước hiện nay).

Hình 31: Biển chạm gỗ ba chữ hán kiểu thức hóa “DIỄN MÃ TRƯỜNG”, chữ Diễn kiểu thức hóa như hình con ngựa(bộ hành uốn cong một nét).

7.     Kết quả khảo sát điền dã của Cadiere ở gò Dương Xuân:

Kết quả khảo sát thực địa cũng có những điểm phù hợp với việc khảo sát của Cadière ở gò Dương xuân. Trong bài: “Các tác phẩm điêu khắc Chàm ở Xuân Hòa” (B.A.V.H, tập IV, 1917), Cadiere viết: “Trong một cuộc dạo chơi trên một đồi ở gần ga Huế, tình cờ tôi bắt gặp một số điêu khắc Chàm mà cần nêu lên.
Các thứ ấy ở trong xóm Xuân Hòa hay Xuân Huế hay có người lại gọi là Thiên Hóa. Muốn đến đó, phải rời đường Nam Giao, ở giữa vùng cao trước cánh đồng nghĩa địa, người ta sẽ đến chùa Tường Vân và đi theo con đường cạnh chùa ấy, đi mãi sẽ đến một đám đất thấp ở đó có hai bụi cây che hai cái “miểu xóm” hay miếu Bà Dàng. Chính trước một trong hai miếu ấy, miếu Dàng có đá chạm.
Tất cả có 5 cái: Một đỉnh cột… Con sư tử… Hai đầu Makaras… Cái Linga….
Hai cái miếu gần đó có chạm trỗ ấy ngày trước không phải ở vị trí như hiện giờ. Hai miếu ấy nằm cách đây 5 hoặc 6 mét về phía bắc ở chân một chỗ đất lồi lên mà hiện nay là đền chính thức Thần mưa. Vũ Sư đền này, theo Địa Lý Duy Tân được xây dựng niên hiệu Minh Mạng (1826). Người ta cho tôi biết lịch sử đền này là cái miếu phải dời chỗ đi đã 50 năm rồi. Lý do chuyển đi là những tai họa xảy đến cho xóm. Có thể là hai vị thần nhỏ kia. Vị Thần mưa là một thần chính thức nên 2 vị thần kia phải đi tìm chỗ trú ngụ nơi khác ở trên đồi đá như ngày nay ta đã thấy.
Hai vị thần ấy là ai ?
Tên chính thức của vị thần ghi trên bài vị của đền và đọc ở ngày tế lễ là: “Cổ tích dương phi xích nữ trung đẳng thần...
Bây giờ, sang chuyện của vị nữ thần thờ ở miếu kia. Chức vị cũng khá đặc biệt:Kỷ mùi khoa tiến sĩ Phi Vận tướng quân Tùng Giang Văn TrungCadière không biết vị thần này và ông đã nêu thắc mắc trong bài đã dẫn.
Hình 32:  Bệ thờ miếu Phi Vận Tướng Quân
Hình 33: Miếu Phi Vận Tướng Quân
Hình 34: Toàn cảnh đình Dương Xuân Hạ-Đền Vũ Sư-Phủ Dương Xuân nhìn từ vệ tinh
Hình 35: Văn bản về thần Phi Vận Tướng Quân Tùng Giang Tiến Sĩ Nguyễn Phục
Hình 36: Văn bản về thần Xích Mi (nữ thần Chăm)

Miếu Phi Vận Tướng Quân là một miếu cổ ở vị trí cao hơn Đình Dương Xuân Hạ hiện nay, hướng về phía Bắc.Còn đình Dương Xuân Hạ cũng trên gò nhưng phía dưới Miếu Phi Vận, có hướng Tây-Bắc. Đền Vũ Sư mà Cadiere giởi thiệu trong bài viết vừa nêu chính là đình Dương Xuân Hạ hiện nay. Thật vậy, đình Dương Xuân Hạ trước năm 1914 ở vị trí Bệnh viện khu vực 3 hiện nay, gần cầu Kho Rèn. Các cụ cao tuổi của làng Dương Xuân hạ đều xác nhận điều này. Thời Pháp thuộc, nhà nước đền bù giải tỏa và làng thỉnh bài vị các ngài khai canh về đền Vũ Sư (đã thành phế tích), tôn tạo và biến đền Vũ sư thành Đình Dương Xuân Hạ từ 1914 đến nay. Còn miếu Phi Vận tướng quân trở thành miếu Thành hoàng của làng. Miếu Xích Mi vẫn còn, ở phía tay phải của đình. Miếu Xích Mi được dân sở tại gọi là miếu Bà Giành và thay vị trí 3 lần.

8.     Về những vị Thành Hoàng được thờ ở làng Dương xuân Hạ:

Thời chúa Nguyễn Phúc Chu, vào năm 1700 có một cuộc đại trùng tu Phủ Dương Xuân, quân lính đào được ấn đồng TRẤN LỖ TƯỚNG QUÂN CHI ẤN nên Phủ Dương Xuân còn gọi là PHỦ ẤN và có khả năng nhà chúa cũng cho xây dựng miếu thờ quan Trấn Lỗ Tướng Quân như một vị thành hoàng của phủ Dương Xuân. Miếu này dựng trên gò Dương Xuân gần Đình Dương Xuân Hạ, phía sau nhà bác Lê Văn Hồi. Phải chăng miếu thành hoàng này trở thành Miếu Thành Hoàng thờ thành hoàng do nhà nước dựng. ĐNNTC chép: MIẾU THÀNH HOÀNG: Ở xã Dương Xuân, huyện Hương Thủy, thờ thần Thành Hoàng trong cõi, dựng năm Thiệu Trị thứ 6…”. Trong lòng văn tế thần của làng có xướng hai vị nhân thần, có khả năng là Đô Đốc Bảo Lộc Bá Lê Tử Vân và Vũ Cảnh, nhận lệnh vua Lê Uy Mục vào trấn áp người Việt gốc Chăm nổi loạn. Triều Nguyễn phong thần cho hai vị: Đông Nam Sát Hải Lang Lại Nhị Đại Tướng Quân Trứ Phong Vi Trừng Trạm Dực Bảo trung Hưng Chi Thần Gia Tặng Uông Nhuận Trung Đẳng Thần”. Khi Đền Vũ Sư biến thành Đình Dương Xuân Hạ và Miếu Thành Hoàng (dựng năm Thiệu Trị thứ 6) bị đổ nát, làng Dương Xuân biến hai miếu tả hữu Vân Sư, Lôi Sư trong khuôn viên đình, trước hai nhà tả vu hữu vu, thành nơi thờ hai tướng quân họ LÊ và họ VÕ.

9.     Một số tư liệu thư tịch điền dã góp phần xây dựng giả thuyết Phủ Dương Xuân là tiền thân của Đền Vũ Sư:

Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, con trưởng của chúa qua đời sớm, con thứ Nguyễn Phúc Luân được chúa tạo điều kiện để làm thế tử. Và có khả năng khi Chưởng Võ Nguyễn Phúc Luân có gia đình và tiềm để ở phủ Dương Xuân. Người đỡ đầu Nguyễn Phúc Luân là quan nội hữu Ý ĐỨC HẦU Trương Văn Hạnh, thầy dạy là Thị Giảng Lê Cao Kỷ. Chắc chắn sau khi Ý Đức Hầu Trương Văn Hạnh, Thị Giảng Lê Cao Kỷ bị giết, Chưỡng Võ Nguyễn Phúc Luân bị bắt rồi sinh bệnh mà mất thì bà Hiếu Khang Nguyễn Thị Hoàn có cầu đảo ở miếu, chùa như miếu Phi vận Tướng Quân Tùng Giang, miếu Thành Hoàng Dương Xuân, chùa Thiên Hòa gần điện Trường Lạc… Chúng tôi trích dẫn đoạn chép về lăng mộ của thân phụ vua Gia Long trong ĐNNTC để minh họa cho điều nhận định trên: LĂNG CƠ THÁNH: Táng Hưng tổ Hiếu Khang hoàng đế; ở núi Cư Chánh huyện Hương Thủy. Tương truyền năm Kỷ Dậu, Hưng Tổ băng, tạm để tử cung ở nhà riêng tại Dương Xuân, chưa tìm được đất chôn cất, một đêm có người sư già đến hỏi rằng:” Đã tìm được đất chưa?”. Người nhà trả lời chưa”. Người sư già chỉ vào chỗ lõm của núi Cư Chánh mà nói: Đấy là đất táng đấy, tôi đã cắm cây, sáng mai cứ đến đấy nhận phương hướng mà an táng”. Nói xong đi ngay. Sáng sớm hôm sau, người nhà theo lời sư nói đi tìm, quả nhiên thấy cây cắm, theo tìm người sư thì không thấy tông tích đâu cả, bèn đem tử cung táng ở đây…”(sđd, tr40). 

Có khả năng thời chúa Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần, Chưởng Võ Nguyễn Phúc Luân còn ở phủ Dương xuân. Trải qua loạn lạc, nhiều công trình kiến trúc bị tàn phá nhưng chắc chắn nền móng thì còn. Khi Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh trở lại Phú Xuân, bà Hiếu Khang ra sức tôn tạo, trùng tu nhiều đình chùa miếu vũ… Vì vậy có khả năng bà đã nói về sự linh nghiệm trong cầu đảo khi bà còn ở phủ Dương Xuân, gặp gia biến. Và thế là vua Minh Mạng cho lập Đền Vũ Sư trên nền móng cũ của phủ Dương Xuân và vua Thiệu Trị đã nâng miếu Thành Hoàng của làng Dương Xuân thành Miếu Thành Hoàng cho toàn cõi kinh sư.
Hình 37: Hình vẽ ngôi mộ ngài khai canh làng Dương Xuân Hạ ở ấp Phước Quả
Hình 38: Bình đồ mộ ngài khai canh
Hình 39:Văn bản về ngài Đô Tổng Binh Thiêm Sự họ Lê, khai canh làng Dương Xuân.
Trong các bản văn tế của làng Dương Xuân Hạ, thường được xướng tế ở đình, có mỹ hiệu của các thần được triều Nguyễn phong tặng gồm:
-         Thiên thần Xích Mi (có gốc Chăm)(có miếu riêng).
-         Nhân thần Phi Vận Tướng Quân Tiến Sĩ Tùng Giang Nguyễn Phục (Thầy của vua Lê Thánh Tông)(có miếu riêng trên 500 năm).
-         Các thiên thần Cao Các, Tứ Vị Thánh Nương, Tam Cô, Thiên Y A Na… từng được thờ ở Đền Vũ Sư.
-         Các vị Thành Hoàng như Đông Nam Sát Hải Lang Lại Nhị Đại tướng Quân…
-         Bổn thổ khai canh Đô Tổng Binh Thiêm Sự Lê Quí Công và các vị hậu khai khẩn.
Ở trước đình, phía phải, còn giữ bia đá nói về việc các vị chức sắc trong làng từng tranh tụng về phần mộ của ngài khai canh ở Phước Quả và thắng lợi. Trong B.A.V.H (Tập XV, 1928), có đoạn viết về ngôi mộ khai canh làng Dương Xuân, trong đó cadière dựa vào dòng bia của mộ có khắc “Đại Nam Hoàng Triều Cáo Thụ Đại Đô Tổng Binh Kiêm Sự Lê Quí Công Khai Canh trứ phong tặng vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò tôn thần chi mộ” (sđd, tr114), nên Cadière đoán vị Đô Tổng Binh Thiêm Sự thuộc về triều Gia Long. Điều này dẫn đến làng Dương Xuân được thành lập vào đầu thế kỷ 19. Vô lý! Thực ra bia dựng vào năm Thành Thái thứ 17, sau khi thắng kiện, các vị lập bia lại khắc như trên nên có sự nhầm lẫnvừa nêu.

Ngang với các bậc cấp trước cổng đình Dương Xuân Hạ có miếu Âm Hồn, dựng năm 1914, trên nền móng cũ của một công trình cũ. Vị trí này có khả năng là nơi mà chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát tiếp Poivre vào mùa hè như Poivre đã kể.

E.               Kết Luận:

Vậy khu vực CTL-CBS từng có đại danh lam Thiền Lâm, với nhiều tháp sư và mộ cổ, với Miếu Lễ Lê Thánh Tông thời Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu đã bị phế bỏ từ thời Gia Long… nên các hiện vật do nhà Nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân phát hiện, chưa có một tiêu chí để giám định mà vội gán cho vật liệu xây dựng Đan Dương Lăng là phi khoa học! Hơn nữa trong khoảng từ 1804 đến 1910 ràng các quan triều Nguyễn lần lượt đưa thân nhân vào chôn, tận dụng giải hạ để xây uynh mộ hay những bờ đê chắn nước trên cao đổ xuống làm ảnh hưởng mộ phần.

Tất cả những tiêu chí về Phủ Dương Xuân thì quần thể di tích ở Đền Vũ Sư đều thỏa mãn. Vậy theo chúng tôi thì tiền thân của đền Vũ Sư là phủ Dương Xuân, tiền thân của đình Dương Xuân Hạ là đền Vũ sư, tiền thân của Ruộng Phủ là Diễn Mã Trường và sân bắn, tiền thân của điện Trường Lạc là phủ Tập Tượng tả ở xã Phú Xuân, tiền thân của điện Voi Ré là phủ Tập Tượng hữu ở xã Thọ Khương trên gò Dương Xuân.

Khi cho rằng vua Quang Trung trưng dụng Phủ Dương Xuân thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (đã dựng thêm Điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ…) làm cung điện Đan Dương, nơi sinh hoạt và làm việc của vua Quang Trung thì không có một chứng cớ xác tín nào. Không có một sử liệu thư tịch hay ký ức dân gian về phủ Dương Xuân ở gò Bình An gần chùa Từ Đàm. Với giả thuyết táo bạo này, người đưa giả thuyết phải phủ định hoàn toàn ý kiến của nhà Huế học đáng kính L.Cadièrre. Mặc dầu L.Cadièrre trong B.A.V.H đã chứng minh được Điện Trường Lạc thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát là ở khu vực có Miểu Xóm, Ruộng Phủ với những tư liệu khảo cổ học đầy sức thuyết phục. Chỉ chưa thuyết phục khi cho rằng Phủ Dương xuân ở khu vực Ruộng Phủ và nhà nghiên cứu nguyễn Đấc Xuân phủ định là đúng. Thật táo bạo khi cho rằng sau khi vua Quang Trung băng hà, triều Tây Sơn đã táng nhà vua trong cung điện Đan Dương luôn. Với động thái này triều Tây Sơn đã biến dương cơ thành âm phần, trái với phong tục của dân tộc Việt. Triều Tây Sơn với những vị tham mưu như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích… (tiến sĩ triều Lê) khi để vua con Cảnh Thịnh táng cha mình ở dương cơ của kẻ không đội trời chung với họ Nguyễn Tây Sơn mà không có ý kiến gì ư? Mà dương cơ ấy cũng không phải là cát địa, vì bằng chứng là những tên lính Lê Trịnh vào những năm 1775, 1776 đã phá nát phủ Dương Xuân trên cát địa ấy, để khỏi đi lấy củi xa; cứ vài tên lính góp sức mang một cột mít hay lim của phủ Dương Xuân về nộp là đã hoàn thành nhiệm vụ. Trộm biết khi anh em Quang Toản, Quang Duy… sắp bị hành hình, vua Gia Long có cho họ một bữa cơm ân huệ, Quang Toản cầm đũa định ăn thì ông em Quang Duy ngăn “Hoàng huynh, nhà mình thiếu chi mâm son đũa ngà mà phải dùng mâm đũa của người ta!”… Thế thì muốn giữ bí mật việc mai táng vài tháng, cần gì phải chọn cách táng “xưa nay hiếm” như GTNĐX!

Tài liệu tham khảo:
[1]: Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quí Đôn, bản dịch, nxb KHXH, Hà Nội, 1977.
[2]: Đại Nam Nhất Thống Chí, Quốc Sử Quán triều Nguyễn, bản dịch, tập I, NXB Thuận Hóa, Huế, 1992
[3]: Đại Nam Thực Lục (Tiền Biên), bản dịch, tập I, NXB Sử Học, Hà Nội, 1982.
[4]: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản dịch, Tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1993
[5]:Đi tìm dấu tích cung điện Đan Dương, sơn lăng của Hoàng Đế Quang Trung, Nguyễn Đắc Xuân, NXB Thuận Hóa, Huế, 2007.

Không có nhận xét nào: