LỜI NÓI ĐẦU
Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân xâm lược lên đất Nam kỳ, chúng đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân ở vùng đất mới này. Hai căn cứ nghĩa quân làm chúng quan ngại nhiều nhất là căn cứ Tân Hòa của Trương Định và căn cứ Đồng Tháp Mười của Võ Duy Dương.
Hơn 100 năm trôi qua, kể từ lúc căn cứ Đồng Tháp Mười bị đàn áp và Võ Duy Dương qua đời. Để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc mà tên tuổi của Người đã gắn liền với địa danh Đồng Tháp Mười, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp đã chủ trì thực hiện đề tài "Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười".
Đề tài này trước nay đã được nhiều tác giả người Việt kể cả người Pháp đề cập đến. Thế nhưng, ngoài những ghi chép rời rạc, những nhận xét từng mặt cho đến nay vẫn còn thiếu một công trình nghiên cứu toàn bộ về hoạt động kháng chiến chống thực dân Pháp của Võ Duy Dương.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, Ban Tuyên giáo Tỉnh Đồng Tháp đã thực hiện các chuyến đi thực địa ở huyện An Nhơn (tỉnh Bình Định), ở tất cả các huyện trên địa bàn Đồng Tháp Mười thuộc ba tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp và một số nơi khác ở Nam bộ. Sau đó, tiếp tục sưu tầm, đối chiếu, xác minh các tư liệu thành văn ở Thư viện KHXH, Thư viện Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Lưu trữ Trung ương II... Qua đó, đã phát hiện và thu thập được một lượng tư liệu khá phong phú và đa dạng: các hiện vật, các truyện dân gian, tư liệu Hán Nôm (châu bản, gia phả, văn tự chia gia tài...) tư liệu Pháp văn (các báo cáo, sách, báo...) liên quan đến Võ Duy Dương và công cuộc kháng chiến của ông.
Trên cơ sở khai thác nguồn tư liệu thư tịch, kế thừa công trình của người đi trước, kết hợp với các tư liệu thu thập được trong các chuyến đi thực địa, với tinh thần khoa học nghiêm túc, chúng tôi cố gắng trình bày toàn bộ diễn tiến của công cuộc kháng chiến Võ Duy Dương đồng thời cũng đề xuất và lý giải một số vấn đề chủ yếu liên quan đến tiểu sử và công cuộc kháng chiến của ông, với mục đích góp phần vào việc phác họa lại bức tranh phản kháng của nhân dân Nam kỳ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung trước sự xâm lược của thực dân Pháp.
Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Tỉnh ủy, UBND Tỉnh Đồng Tháp, Viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, khoa Sử trường ĐHTH thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm lưu trữ Trung ương II, Thư viện KHXH, Thư viện Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bình Định, ủy ban nhân dân huyện An Nhơn, cụ Võ Quế và gia tộc họ Võ tại xã Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định), Ban Tuyên giáo Tỉnh Long An, huyện ủy và Ban Tuyên giáo các huyện Mộc Hóa, Tân Thạnh, Cần Giuộc, Cần Giuộc (tỉnh Long An), Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo (tỉnh Tiền Giang), Cao Lãnh, Tam Nông, Hồng Ngự, Tân Hồng (tỉnh Đồng Tháp), đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho chúng tôi đi lại khai thác tư liệu lưu trữ, nhân chứng vào khảo sát thực địa.
Chúng tôi chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Trẻ, Tạp chí Xưa & Nay đã đóng góp nhiều ý kiến quan trọng để chất lượng bản thảo được tốt hơn và tạo điều kiện cho quyển sách được tái bản lần thứ nhất.
Nhóm Biên soạn
LỜI GIỚI THIỆU
Võ Duy Dương với cuộc kháng chiến Đồng Tháp Mười là một công trình biên khảo của Tổ nghiên cứu Lịch sử Dân Tộc (thuộc ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp).
Bằng những cứ liệu khoa học, tư liệu dân gian có kế thừa các công trình nghiên cứu của người đi trước, với phong cách làm việc khoa học nghiêm túc, tập thể tác giả đã cố gắng tái tạo khá chi tiết công cuộc kháng chiến của Võ Duy Dương trong bối cảnh lịch sử Việt Nam ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Qua đó, tập thể tác giả đưa ra một số phát hiện mới về quê hương, dòng dõi, năm sanh, năm mất, cái chết của người anh hùng dân tộc mà tên tuổi đã gắn liền với địa danh Đồng Tháp Mười; đồng thời các vấn đề: mối quan hệ giữa Võ Duy Dương với triều đình Huế, thái độ của triều đình đối với kẻ xâm lược... cũng được đề cập đền với luận cứ đầy tính thuyết phục. Tất nhiên, thuận lợi của người đi sau là được sống và đi lại trong một đất nước thống nhất, độc lập và hơn nữa đang chuyển mình đổi mới, nên nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh của diễn biến lịch sử thời đó được giải bày một cách khách quan để người đọc có thể hiểu được tình cảnh của nước ta trong buổi đầu chống thực dân Pháp xâm lược.
Công trình "Võ Duy Dương với cuộc kháng chiến Đồng Tháp Mười" đã được hội đồng nghiệm thu với sự tham gia của nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu của Viện KHXH, trường ĐHTH thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo một số tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long- đánh giá cao...
Bối cảnh xã hội
Việt Nam và nét đặc trưng của Nam kỳ trước khi thực
dân Pháp xâm lược
Trong quá trình thực hiện chủ trương bành trướng thuộc địa để thỏa mãn yêu cầu phát triển chủ nghĩa tư bản, thực dân Pháp đã chú ý đến vùng Đông Nam Á mà trong đó Việt Nam là một mục tiêu không thể bỏ qua được, do vị trí và tiềm năng kinh tế của nó.
Qua một số cố đạo trong Hội truyền giáo hải ngoại, thực dân Pháp ngày càng tập trung nhiều lượng thông tin về Việt Nam làm cơ sở cho họ đi đến quyết định xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, còn có một vài cố đạo như Pellerin, Retord và nhứt là Legrand de la Liraye (cố Trường) chẳng những cố thuyết phục Pháp hoàng dùng võ lực để thiết lập một vùng nhượng địa ở Việt Nam, mà còn trực tiếp can thiệp vào nội tình nước ta bằng cách tài trợ, xúi giục một vài phần tử phản động phiêu lưu nổi dậy chống lại triều đình.
Tìm hiểu thực trạng xã hội Việt Nam nói chung, Nam kỳ nói riêng là góp phần lý giải nguyên nhân thúc giục thực dân Pháp xâm lược Việt Nam; đồng thời cho thấy sức đề kháng của nhân dân ta và lý do thất bại của cuộc đề kháng đó trước bão táp của chủ nghĩa tư bản Pháp.
1. Bối cảnh xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược
Một điều không ai có thể phản bác được là hơn nửa thế kỷ (1802-1859) trị vì, vua quan nhà Nguyễn đã để lại cho dân tộc Việt Nam một đất nước suy nhược, một chánh quyền phong kiến mục ruỗng, một xã hội đầy rẫy loạn lạc bạo động và cơ cực lầm than.
Chỉ với chừng ấy thời gian mà vua quan nhà Nguyễn đã phải chứng kiến và đàn áp trên dưới 450 cuộc nổi dậy lớn nhỏ.
Dưới triều Gia Long (1802-1819) có tất cả 73 cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là cuộc nổi dậy của Thủ lãnh Trấn ở Thanh Hóa (1805), Cao Văn Dung ở Hải Dương (1805), Cả Tổng và Nguyễn Trọng Phan ở Hải Dương (1807)..
Triều Minh Mạng (1820-1840), chỉ trong 20 năm trị vì, Minh Mạng phải đối phó với con số vụ nổi dậy kỷ lục, 234 vụ; lớn nhứt là các cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở Nam Định (1821), Lý Khai Bá ở Hưng Yên (1823) Lê Duy Lương ở Ninh Bình, Thanh Hóa (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833), Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (1836).. .
Triều Thiệu Trị (1841-1847) với 7 năm cai trị đã có 5 cuộc nổi dậy, tiêu biểu là cuộc nổi dậy của Dinh Tuân ở Tây Ninh (1841); Nguyễn Vi và Lâm Sum (Xâm) ở Trà Vinh (1841) Nguyễn Văn Nhàn ở Sơn Tây (1844), Nguyễn Hữu Chính ở Ninh Thái (1847).
Triều Tự Đức, chỉ kể từ lúc ông lên ngôi (1847) đến khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ (1862) cũng đã có gần 100 cuộc nổi loạn, đáng kể nhứt là cuộc nổi dậy của Cao Bá Quát - Lê Duy Cự, Nguyễn Văn Thịnh ở Bắc Ninh (1854-1855), Tạ Văn Phụng...
Đó là chưa kể đến các vụ cướp phá của bọn giặc biển; những cuộc nổi dậy lẻ tẻ mà quan lại địa phương không dám báo cáo sợ triều đình khiển trách.
Hầu hết các cuộc nổi dậy đều bị đàn áp, nhưng các cuộc nổi dậy đó chẳng những không ngừng làm cho chế độ phong kiến nhà Nguyễn ngày một suy yếu, đất nước ngày một điêu tàn, kinh tế ngày một sa sút mà còn phản ánh sự mất lòng dân ngày một gia tăng đối với triều đình. Triều đình không hề có chủ trương thay đổi chính sách mà chỉ biết tập trung vũ lực để trấn áp.
Xây dựng trên cơ chế phong kiến quan liêu, bảo thủ lạc hậu, rập khuôn từ khuôn mẫu của Trung Quốc, xã hội Việt Nam dưới triều các vua Nguyễn là một xã hội phong kiến điển hình châu Á với các đặc trưng mà trong đó mức độ lầm than cơ cực trong đởi sống của tầng lớp bị trị là nét nổi bật nhứt.
Vua quan nhà Nguyễn bám chặt vào ý thức hệ phong kiến, dùng nó làm vũ khí bảo vệ địa vị xã hội của mình; đã khước từ, bác bỏ mọi đề án canh tân cải cách. Thái độ này đã kìm hãm sức vươn lên của dân tộc, dìm đất nước vào vòng nghèo nàn lạc hậu.
Kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nhân dân mà đại bộ
phận là nông dân, nhưng ruộng đất lại tập trung vào
tay quan lại, địa chủ. Người nông dân đầu tắt mặt
tối trên mảnh ruộng thuê, nhưng vẫn không đủ cái ăn
cái mặc. Nào sưu, nào thuế, nào phu phen tạp dịch... nào
hạn hán lụt lội; người nông dân không thể sống nổi,
phải bỏ làng mạc phiêu tán xứ khác kiếm ăn.
"Dân tình buồn
bực
Nưa sợ nửa lo.
Vay mượn nhà giàu không cho.
Cầm tiền mua thì không bán (...).
Vợ con thôi nheo nhóc.
Chồng lại phải phu phen.
Muốn vạch cả trời lên
Kêu gào cho hả dạ.
Cơm thời nỏ (không) có.
Rau cháo cũng không (...)
Còn bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày.
Rồi xó chợ lùm cây.
Quạ kêu vang bốn phía.
Xác đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu.
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói rét
Dân nghèo cùng kiệt
Kẻ lưu lạc tha phương
Người chết chợ chết đường.
Trừ bọn lòng lang dạ thú không thương
Ai ai thấy nỏ đau lòng xót dạ
Sẵn bút đây ta tả
Đế ghi lại vài câu.
Cho ngàn vạn năm sau.
Biết cảnh tình cơ cực
Là cái đời Tự Đức
Nưa sợ nửa lo.
Vay mượn nhà giàu không cho.
Cầm tiền mua thì không bán (...).
Vợ con thôi nheo nhóc.
Chồng lại phải phu phen.
Muốn vạch cả trời lên
Kêu gào cho hả dạ.
Cơm thời nỏ (không) có.
Rau cháo cũng không (...)
Còn bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày.
Rồi xó chợ lùm cây.
Quạ kêu vang bốn phía.
Xác đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu.
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói rét
Dân nghèo cùng kiệt
Kẻ lưu lạc tha phương
Người chết chợ chết đường.
Trừ bọn lòng lang dạ thú không thương
Ai ai thấy nỏ đau lòng xót dạ
Sẵn bút đây ta tả
Đế ghi lại vài câu.
Cho ngàn vạn năm sau.
Biết cảnh tình cơ cực
Là cái đời Tự Đức
(Chú thích: Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao - Hát giặm Nghệ Tĩnh - Tập II).
Đời người nông dân là thế. Còn lính thì lương cũng không đủ ăn, thợ mỏ giỏi nhứt cũng chỉ có 3 quan tiền và một phương gạo mỗi tháng. Trong khi đó "mỗi vua đều có hàng trăm bà vợ, chia làm 9 bậc: bậc nhứt mỗi năm được hưởng 1.000 quan tiền, 300 phương gạo, 60 tấm lụa, 48 bộ quần áo; bậc thấp nhứt cũng có 180 quan tiền, 286 phương gạo, 12 tấm lụa. Hoàng thái hậu lương mỗi năm 10.000 quan, 300 phương gạo, 60 tấm lụa, gặp thượng thọ thì tiến cung thêm 5 vạn, thượng thọ vua thì tiến cung thêm 2 vạn. Lương, thái tử 1.000 quan, 360 phương gạo, hoàng tử 500 quan, 360 phương gạo, công chúa 360 quan, 360 phương gạo. Tất cả những người trong tôn nhân phủ đều hưởng lương cao. Thỉnh thoảng lại có thưởng riêng (Chú thích: Đại Nam Thực lục).
Khi đương chức đương quyền ông vua nào cũng lo xây cái “hậu sự" cho mình thật nguy nga đồ sộ gọi là "nền nhà muôn thuở" (vạn niên cơ) hao tổn không biết bao nhiêu sức người sức của, gây nên bao nhiêu khổ cực cho trăm họ.
Song, so với đời sống của các vua chúa châu Âu cùng thời, sự xa hoa sang giàu của các vua quan triều Nguyễn cũng không có gì là ghê gớm lắm. Hơn nữa, thực tế lịch sử cho thấy phần lớn những kẻ có chức có quyền ở đâu và thời nào cũng đều có khuynh hướng bòn rút của dân bằng cách này hay cách khác để vun đắp cho cuộc sống của riêng mình và dòng họ. Nhưng điều đáng nói ở đây là cuộc sống của vua quan nhà Nguyễn góp phần làm cho đất nước càng ngày càng nghèo đi và nhân dân ngày thêm cơ cực.
Tự Đức lên ngôi năm 1847, thừa
hường cái “di sản" mục ruỗng do hậu quả của
chính sách cai trị của các triều đại trước. Vua quan
nhà Nguyễn củng cố quyền lực của mình từ nhãn quan
về thế giới và từ đường lối tổ chức chánh trị
theo kiểu Trung Quốc. Trung Quốc vừa được xem như là
một kẻ thù chính, nhưng cơ chế xã hội Trung Quốc cũng
được coi là mẫu mực cần tham khảo đối chiếu. Chính
cơ chế này với hệ thống tư tưởng, học thuật, quan
chế, pháp luật... lỗi thời, lạc hậu đã gậm nhấm
tiềm năng, sức sống dân tộc Việt Nam. Mặt khác chính
bản thân Tự Đức cũng góp phần thúc đẩy sự khủng
hoảng của triều đại nhà Nguyễn ngày càng trầm trọng
hơn không gì cứu vãn được. Ý thức được tình hình
bi đát của triều đại mình, Tự Đức đã nhiều lần
xuống chiếu “tìm người hiền và cầu lời nói thẳng",
nhưng thực tế nhiều đề án cải cách canh tân đều bị
vua quan nhà Nguyễn xếp vào ngăn kéo.
Oằn vai vì "gánh nặng di sản", vua Tự Đức thường lúng túng trong việc đối phó với nhiều vấn đề. Trong đó, kinh tế là vấn đề nổi cộm. Nguồn tài chính của triều đình chủ yếu chỉ dựa vào thuế thân và thuế ruộng đất, còn tiểu thủ công và ngoại thương thì không đáng kể, nhưng ngoại thương phần lớn đều nằm trong tay người Hoa. Giao thương với các nước phương Tây thì e ngại vô tình tạo điều kiện cho sự xâm nhập của đạo Gia tô. Có lúc Nam kỳ bán một số lúa gạo cho Philippine, Mã Lai, Campuchia thì nặng về chánh trị hơn là thương mại. Chánh sách bế quan tỏa cảng cũng góp phần không nhỏ trong việc kìm hãm đối với sự phát triển của các nghề tiểu thủ công. Chánh sách bế quan tỏa cảng và chánh sách “trọng nông ức thương" của triều đình nhà Nguyễn đã làm sức dân ngày một hao mòn cùng kiệt. Ngay khi Tự Đức lên ngôi, Trương Quốc Dụng đã tâu: "Tài lực của nhân dân không bằng năm sáu phần mười năm trước ". Và mười ba năm sau khi bắt đầu chống lại quân xâm lược Pháp, Nguyễn Tri Phương đã phải than rằng: "Quân và dân ta của đã hết, sức đã yếu".
Rõ ràng là do cố duy trì một cơ chế xã hội đã lỗi thời kìm hãm sức sống của dân tộc trong nghèo nàn lạc hậu, thêm vào đó là thiên tai, là sự xa hoa của triều đình, người dân chỉ còn mỗi con đường là đứng lên chống đối; đất nước vốn đã nghèo lại càng nghèo hơn, triều đình không còn hơi sức chống đỡ khi bị ngoại xâm. Nên Tự Đức tỏ ra lúng túng đối phó với thực dân Pháp khi chúng tấn công chiếm Nam kỳ là lẽ đương nhiên.
II. Về nét đặc trưng của Nam kỳ trước lúc Pháp xâm lược
Bên cạnh thực trạng chung của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, Nam kỳ có những nét riêng đáng lưu ý. Nam kỳ là vùng đất mới khai phá, màu mỡ, thưa dân. Đây vừa là nơi dung thân lý tưởng của đám lưu dân từ miền Bắc, miền Trung vào - khi thấy không thể sống nổi ở quê nhà vừa là nơi có khả năng cung cấp lúa gạo cho cả nước. Sau hàng loạt các cuộc di dân tự phát, triều đình nhà Nguyễn mới tổ chức những đợt di dân, cơ chế đưa binh lính, tù phạm tổ chức thành đội ngũ vào, với mục đích "giữ giặc, yên dân"; nhằm khai phá vùng đất "hoang nhàn" này để giải quyết những mâu thuẫn xã hội đã nêu trên.
Xuất phát trên cơ sở đó, chánh sách đơn điền ở Nam kỳ hình thành do động cơ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất, đã nhanh chóng biến thành sở hữu lớn của điền chủ và các quan cai quản đồn điền. Từ đó, chế độ tư hữu ruộng đất ở Nam kỳ có nhiều điểm dị biệt so với miền Trung và Bắc. Một bộ phận khá đông lưu dân đến vùng đất mới không đủ sức tự khai phá, họ phải dựa vào thế lực của người giàu có, của sở đơn điền. Do đó, họ nhanh chóng trở thành tá điền. Đành rằng chánh sách khẩn hoang mà thực tế là tăng cường thế lực kinh tế cho tầng lớp điền chủ giàu có, kéo theo đó, là nạn bao chiếm ruộng đất... nhưng về mặt xã hội đất hoang được khai phá, sản lượng lương thực Nam kỳ sung túc, đời sống nông dân ở đây có khá hơn miền Trung và miền Bắc.
Từ những năm cuối thế kỷ thứ 18, lúc Nguyễn Ánh còn chiếm giữ Gia Định, việc phát triển nông nghiệp được chú ý bằng chính sách khai hoang lập ấp và sau có thêm chính sách khai hoang lập đồn điền.
Có hai loại đồn điền: một loại đồn điền được Nhà nước phong kiến cấp sở phí và phương tiện canh tác cho quân lính đi khai hoang. Một loại đồn điền khác cũng được Nhà nước phong kiến trợ cấp các hình thức như thế nhưng dân mộ được tổ chức thành đội ngũ. Cả hai đất thuộc về Nhà nước phong kiến. Nhưng điểm khác nhau là đồn điền loại một thì Nhà nước phong kiến quản lý toàn bộ sản lượng, còn đồn điền loại hai thì người canh tác được chia một phần sản lượng của mình làm ra.
Năm 1802, khi lên ngôi, Gia Long đã chú ý khai thác vùng đất phương Nam cho lập đồn điền ở Phước Long (Biên Hòa), Tân Bình (Gia Định), Kiến An (Định Tường); và Định Viễn (Vĩnh Long). Bấy giờ không những quân đội lập đồn điền mà tư nhân cũng được phép lập đồn điền. Nhưng nhìn chung triều Gia Long thích phát triển đồn điền loại một. Còn loại hai, nhà nước phong kiến tuy có đổi mới bằng chủ trương giảm sưu thuế, nhưng dần dần bị quân sự hóa, nghĩa là cũng bị ép phải theo loại một.
Oằn vai vì "gánh nặng di sản", vua Tự Đức thường lúng túng trong việc đối phó với nhiều vấn đề. Trong đó, kinh tế là vấn đề nổi cộm. Nguồn tài chính của triều đình chủ yếu chỉ dựa vào thuế thân và thuế ruộng đất, còn tiểu thủ công và ngoại thương thì không đáng kể, nhưng ngoại thương phần lớn đều nằm trong tay người Hoa. Giao thương với các nước phương Tây thì e ngại vô tình tạo điều kiện cho sự xâm nhập của đạo Gia tô. Có lúc Nam kỳ bán một số lúa gạo cho Philippine, Mã Lai, Campuchia thì nặng về chánh trị hơn là thương mại. Chánh sách bế quan tỏa cảng cũng góp phần không nhỏ trong việc kìm hãm đối với sự phát triển của các nghề tiểu thủ công. Chánh sách bế quan tỏa cảng và chánh sách “trọng nông ức thương" của triều đình nhà Nguyễn đã làm sức dân ngày một hao mòn cùng kiệt. Ngay khi Tự Đức lên ngôi, Trương Quốc Dụng đã tâu: "Tài lực của nhân dân không bằng năm sáu phần mười năm trước ". Và mười ba năm sau khi bắt đầu chống lại quân xâm lược Pháp, Nguyễn Tri Phương đã phải than rằng: "Quân và dân ta của đã hết, sức đã yếu".
Rõ ràng là do cố duy trì một cơ chế xã hội đã lỗi thời kìm hãm sức sống của dân tộc trong nghèo nàn lạc hậu, thêm vào đó là thiên tai, là sự xa hoa của triều đình, người dân chỉ còn mỗi con đường là đứng lên chống đối; đất nước vốn đã nghèo lại càng nghèo hơn, triều đình không còn hơi sức chống đỡ khi bị ngoại xâm. Nên Tự Đức tỏ ra lúng túng đối phó với thực dân Pháp khi chúng tấn công chiếm Nam kỳ là lẽ đương nhiên.
II. Về nét đặc trưng của Nam kỳ trước lúc Pháp xâm lược
Bên cạnh thực trạng chung của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, Nam kỳ có những nét riêng đáng lưu ý. Nam kỳ là vùng đất mới khai phá, màu mỡ, thưa dân. Đây vừa là nơi dung thân lý tưởng của đám lưu dân từ miền Bắc, miền Trung vào - khi thấy không thể sống nổi ở quê nhà vừa là nơi có khả năng cung cấp lúa gạo cho cả nước. Sau hàng loạt các cuộc di dân tự phát, triều đình nhà Nguyễn mới tổ chức những đợt di dân, cơ chế đưa binh lính, tù phạm tổ chức thành đội ngũ vào, với mục đích "giữ giặc, yên dân"; nhằm khai phá vùng đất "hoang nhàn" này để giải quyết những mâu thuẫn xã hội đã nêu trên.
Xuất phát trên cơ sở đó, chánh sách đơn điền ở Nam kỳ hình thành do động cơ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất, đã nhanh chóng biến thành sở hữu lớn của điền chủ và các quan cai quản đồn điền. Từ đó, chế độ tư hữu ruộng đất ở Nam kỳ có nhiều điểm dị biệt so với miền Trung và Bắc. Một bộ phận khá đông lưu dân đến vùng đất mới không đủ sức tự khai phá, họ phải dựa vào thế lực của người giàu có, của sở đơn điền. Do đó, họ nhanh chóng trở thành tá điền. Đành rằng chánh sách khẩn hoang mà thực tế là tăng cường thế lực kinh tế cho tầng lớp điền chủ giàu có, kéo theo đó, là nạn bao chiếm ruộng đất... nhưng về mặt xã hội đất hoang được khai phá, sản lượng lương thực Nam kỳ sung túc, đời sống nông dân ở đây có khá hơn miền Trung và miền Bắc.
Từ những năm cuối thế kỷ thứ 18, lúc Nguyễn Ánh còn chiếm giữ Gia Định, việc phát triển nông nghiệp được chú ý bằng chính sách khai hoang lập ấp và sau có thêm chính sách khai hoang lập đồn điền.
Có hai loại đồn điền: một loại đồn điền được Nhà nước phong kiến cấp sở phí và phương tiện canh tác cho quân lính đi khai hoang. Một loại đồn điền khác cũng được Nhà nước phong kiến trợ cấp các hình thức như thế nhưng dân mộ được tổ chức thành đội ngũ. Cả hai đất thuộc về Nhà nước phong kiến. Nhưng điểm khác nhau là đồn điền loại một thì Nhà nước phong kiến quản lý toàn bộ sản lượng, còn đồn điền loại hai thì người canh tác được chia một phần sản lượng của mình làm ra.
Năm 1802, khi lên ngôi, Gia Long đã chú ý khai thác vùng đất phương Nam cho lập đồn điền ở Phước Long (Biên Hòa), Tân Bình (Gia Định), Kiến An (Định Tường); và Định Viễn (Vĩnh Long). Bấy giờ không những quân đội lập đồn điền mà tư nhân cũng được phép lập đồn điền. Nhưng nhìn chung triều Gia Long thích phát triển đồn điền loại một. Còn loại hai, nhà nước phong kiến tuy có đổi mới bằng chủ trương giảm sưu thuế, nhưng dần dần bị quân sự hóa, nghĩa là cũng bị ép phải theo loại một.
Triều Minh Mạng tiếp tục chính
sách đồn điền của triều Gia Long. Thời kỳ này đồn
điền được quân sự hóa toàn bộ và được phát triển
đến tận Côn Đảo, Hà Tiên với mục đích bảo vệ an
ninh biên giới. Minh Mạng lại táo bạo hơn vua cha là cho
phép sử dụng lực lượng tù phạm để khai phá đất
hoang. Nếu trước kia đồn điền được gọi theo tên đơn
vị hành chánh địa phương thì từ năm 1822 trở về sau
được mang tên theo phiên hiệu quân đội:
Đồn điền ở Phước Long mang tên Gia Phước.
Đồn điền ở Định Viễn mang tên Gia Viễn
Đồn điền ở Tân Bình mang tên Gia Bình
Đồn điền ở Kiến An mang tên Gia An (Chú thích: Đại Nam Thực lục chính biên, quyển 17, đệ nhị kỷ.)
Cuối đời Minh Mạng, năm 1840, để tăng nguồn thuế triều đình chủ trương lấy đất đồn điền cấp cho nông dân. Lúc mới thành lập đồn điền chắc chắn có nhiều trường hợp xâm phạm địa giới đất đai tư nhân. Nay giải thể chắc có những "nông dân" lợi dụng quyền thế chiếm hữu những mảnh đất màu mỡ mà không tốn công sức. Việc xáo trộn đất đai này sinh nhiều bất công uất ức nên đã là một trong những nguyên nhân khiến một vài nơi nổi loạn.
Năm sau, Thiệu Trị lên ngôi thấy tình hình diễn biến càng khó khăn nên lật đật giải tán toàn bộ đồn điền ở Nam kỳ. Từ đó, triều đình chỉ cho phép nông dân khai hoang lập ấp theo hình thức dân sự.
* Cuộc vận động khôi phục chính sách đồn điền được diễn ra từ năm 1850 đến 1852:
Tháng Giêng năm Canh Tuất (1850), Nguyễn Tri Phương được cử làm Kinh Lược sứ Nam kỳ thì sáu tháng sau ông đã dâng sớ trình bày 13 việc, mà việc đầu tiên là "họp dân lập đồn điền để giúp sinh kế". Tháng 11 năm ấy ông lại xin sửa sang hai việc ở Lục tỉnh, trong đó có việc “họp dân nghèo túng lại lập đồn điền để giúp kế sinh sống" (Chú thích: Đại Nam Thực lục chính biên, quyển 27, đệ tứ kỷ.). Ngoài ra Nguyễn Tri Phương còn đề nghị nhiều biện pháp táo bạo để khuyến khích người mộ và ứng mộ. Trong ý kiến đề nghị của Nguyễn Tri Phương tuy không nói cụ thể nhưng rõ ràng đây là ý kiến đồn điền loại hai. Triều thần Tự Đức có đem ra bàn bạc, nhưng có lẽ chưa hiểu hết ý đồ của Nguyễn Tri Phương, và cũng có lẽ ngần ngại hao tốn mà chỉ đạt ý đồ “yên dân" nên kết luận “việc họp dân chúng làm đồn điền có điều bất tiện" (Chú thích: Quốc triều chính biên.)
Chính sách đồn điền bị quên lãng ba năm. Nhờ Kinh Lược phó sứ Phan Thanh Giản (bổ sung từ năm 1851) đồng tình với Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương, thấy mục đích “yên dân" không đủ sức thuyết phục nên đã bổ sung thêm mục đích "giữ giặc" nữa. Kết quả hai mục đích này đã thuyết phục được triều thần, nhất là bản thân vua Tự Đức, nên đầu năm Quí Sửu (1853), đề nghị của Nguyễn Tri Phương được chấp thuận, “đất Nam kỳ liền với Cao Miên, dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về, đôn đốc việc khai khẩn, nuôi dân ăn, thiệt là một cách quan yếu để giữ giặc và yên dân” (Chú thích: Quốc triều chính biên). Nguyễn Tri Phương lãnh nhiệm vụ thực hiện chương trình của mình đề ra.
* Thế là chính sách đồn điền của Nguyễn Tri Phương được thực hiện từ năm 1853 đến năm 1859:
So với các triều đại trước, triều Tự Đức không chủ trương trực tiếp đứng ra mộ dân mà giao cho những người tình nguyện. Những người tình nguyện đứng ra chiêu mộ hoặc tình nguyện ứng mộ có thể là người ở Nam kỳ, người miền Trung, kể cả người Thanh, người Minh Hương, người Khơ Me (Chú thích: Vùng đồn điền Xoài Tư (cũ) có rất nhiều người gốc hoa mang họ Từ, Âu... Ở đây có một tôn giáo là đạo Minh sư hay đạo Phật đường còn đậm nét văn hóa người Hoa.). Đầu tiên, đồn điền được khôi phục ở An Giang, Hà Tiên... ưu tiên cho vùng biên giới. Nhưng sau đó, có lẽ, Nguyễn Tri Phương tiên đoán bọn tư bản Tây phương sẽ thôn tính Nam bộ nên đề nghị được phép mở rộng ra khắp sáu tỉnh Nam kỳ.
Sau một năm vất vả, Nguyễn Tri Phương đạt được kết quả: mộ được 32 ấp ở Gia Định, 60 ấp ở Vĩnh Long, 23 ấp ở An Giang, 9 ấp ở Định Tường, tổng cộng 124 ấp. Ngoài ra Nguyễn Tri Phương còn mộ dân lập được 7 cơ đồn điền ở Vĩnh Long mang phiên hiệu Long Hùng, Long Dũng, Long Tự, Long Hựu, Long Minh, Long Vinh, Long Nghĩa. Lập hai cơ ở An Giang, phiên hiệu An Vũ, An Dũng, lập 2 cơ ở Hà Tiên: phiên hiệu Hà Kiên, Hà Nghĩa, lập 1 cơ ở Biên Hòa là Biên Dũng, lập 6 cơ ở Gia Định: phiên hiệu Gia Trung, Gia Thuận. Gia Hùng, Gia Nhuệ, Gia Tráng, Gia Tiệp. Lập 3 cơ ở Định Tường là Tường Kiến, Tường Nhuệ, Tường Uy. Tổng cộng 21 cơ.
Đồn điền ở Phước Long mang tên Gia Phước.
Đồn điền ở Định Viễn mang tên Gia Viễn
Đồn điền ở Tân Bình mang tên Gia Bình
Đồn điền ở Kiến An mang tên Gia An (Chú thích: Đại Nam Thực lục chính biên, quyển 17, đệ nhị kỷ.)
Cuối đời Minh Mạng, năm 1840, để tăng nguồn thuế triều đình chủ trương lấy đất đồn điền cấp cho nông dân. Lúc mới thành lập đồn điền chắc chắn có nhiều trường hợp xâm phạm địa giới đất đai tư nhân. Nay giải thể chắc có những "nông dân" lợi dụng quyền thế chiếm hữu những mảnh đất màu mỡ mà không tốn công sức. Việc xáo trộn đất đai này sinh nhiều bất công uất ức nên đã là một trong những nguyên nhân khiến một vài nơi nổi loạn.
Năm sau, Thiệu Trị lên ngôi thấy tình hình diễn biến càng khó khăn nên lật đật giải tán toàn bộ đồn điền ở Nam kỳ. Từ đó, triều đình chỉ cho phép nông dân khai hoang lập ấp theo hình thức dân sự.
* Cuộc vận động khôi phục chính sách đồn điền được diễn ra từ năm 1850 đến 1852:
Tháng Giêng năm Canh Tuất (1850), Nguyễn Tri Phương được cử làm Kinh Lược sứ Nam kỳ thì sáu tháng sau ông đã dâng sớ trình bày 13 việc, mà việc đầu tiên là "họp dân lập đồn điền để giúp sinh kế". Tháng 11 năm ấy ông lại xin sửa sang hai việc ở Lục tỉnh, trong đó có việc “họp dân nghèo túng lại lập đồn điền để giúp kế sinh sống" (Chú thích: Đại Nam Thực lục chính biên, quyển 27, đệ tứ kỷ.). Ngoài ra Nguyễn Tri Phương còn đề nghị nhiều biện pháp táo bạo để khuyến khích người mộ và ứng mộ. Trong ý kiến đề nghị của Nguyễn Tri Phương tuy không nói cụ thể nhưng rõ ràng đây là ý kiến đồn điền loại hai. Triều thần Tự Đức có đem ra bàn bạc, nhưng có lẽ chưa hiểu hết ý đồ của Nguyễn Tri Phương, và cũng có lẽ ngần ngại hao tốn mà chỉ đạt ý đồ “yên dân" nên kết luận “việc họp dân chúng làm đồn điền có điều bất tiện" (Chú thích: Quốc triều chính biên.)
Chính sách đồn điền bị quên lãng ba năm. Nhờ Kinh Lược phó sứ Phan Thanh Giản (bổ sung từ năm 1851) đồng tình với Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương, thấy mục đích “yên dân" không đủ sức thuyết phục nên đã bổ sung thêm mục đích "giữ giặc" nữa. Kết quả hai mục đích này đã thuyết phục được triều thần, nhất là bản thân vua Tự Đức, nên đầu năm Quí Sửu (1853), đề nghị của Nguyễn Tri Phương được chấp thuận, “đất Nam kỳ liền với Cao Miên, dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về, đôn đốc việc khai khẩn, nuôi dân ăn, thiệt là một cách quan yếu để giữ giặc và yên dân” (Chú thích: Quốc triều chính biên). Nguyễn Tri Phương lãnh nhiệm vụ thực hiện chương trình của mình đề ra.
* Thế là chính sách đồn điền của Nguyễn Tri Phương được thực hiện từ năm 1853 đến năm 1859:
So với các triều đại trước, triều Tự Đức không chủ trương trực tiếp đứng ra mộ dân mà giao cho những người tình nguyện. Những người tình nguyện đứng ra chiêu mộ hoặc tình nguyện ứng mộ có thể là người ở Nam kỳ, người miền Trung, kể cả người Thanh, người Minh Hương, người Khơ Me (Chú thích: Vùng đồn điền Xoài Tư (cũ) có rất nhiều người gốc hoa mang họ Từ, Âu... Ở đây có một tôn giáo là đạo Minh sư hay đạo Phật đường còn đậm nét văn hóa người Hoa.). Đầu tiên, đồn điền được khôi phục ở An Giang, Hà Tiên... ưu tiên cho vùng biên giới. Nhưng sau đó, có lẽ, Nguyễn Tri Phương tiên đoán bọn tư bản Tây phương sẽ thôn tính Nam bộ nên đề nghị được phép mở rộng ra khắp sáu tỉnh Nam kỳ.
Sau một năm vất vả, Nguyễn Tri Phương đạt được kết quả: mộ được 32 ấp ở Gia Định, 60 ấp ở Vĩnh Long, 23 ấp ở An Giang, 9 ấp ở Định Tường, tổng cộng 124 ấp. Ngoài ra Nguyễn Tri Phương còn mộ dân lập được 7 cơ đồn điền ở Vĩnh Long mang phiên hiệu Long Hùng, Long Dũng, Long Tự, Long Hựu, Long Minh, Long Vinh, Long Nghĩa. Lập hai cơ ở An Giang, phiên hiệu An Vũ, An Dũng, lập 2 cơ ở Hà Tiên: phiên hiệu Hà Kiên, Hà Nghĩa, lập 1 cơ ở Biên Hòa là Biên Dũng, lập 6 cơ ở Gia Định: phiên hiệu Gia Trung, Gia Thuận. Gia Hùng, Gia Nhuệ, Gia Tráng, Gia Tiệp. Lập 3 cơ ở Định Tường là Tường Kiến, Tường Nhuệ, Tường Uy. Tổng cộng 21 cơ.
Riêng những ấp đã khai hoang có
hiệu quả ở vùng biên giới, nay vì mục đích bảo vệ
an ninh, trong năm 1854 phải dồn lại thành lập 2 cơ đồn
điền mang tên Ninh Biên nhất và nhị. Năm sau tiếp tục
dồn lại lập cơ tam và cơ tứ (Chú thích: Đại Nam Thực
lục chính biên, quyển 11, đệ tứ kỷ.).
Đó là những con số do Nguyễn Tri Phương báo cáo khoảng giữa năm 1854. Trong thực tế những con số này thường xuyên biến động. George Durwell trong Bulletin de la Société des études Indochinoises số 36 năm 1898 cho biết lúc Pháp mới xâm chiếm thì ở Nam kỳ có 24 cơ đồn điền, chia ra như sau: Vĩnh Long có 5 cơ, An Giang có 2 cơ, Biên Hòa 4 cơ, Gia Định 7 cơ và Định Tường 6 cơ.
Nếu so sánh hai bản thống kê chúng ta thấy ở những vùng xa xôi như Vĩnh Long, Hà Tiên có tình trạng đồn điền bị dồn lại vì dân phiêu tán. Trái lại ở vùng đất hẹp người đông như Biên Hòa, Gia Định, Định Tường dễ chiêu mộ nên số lượng càng ngày càng phát triển. Đồng thời. thực hiện triệt để với mục đích “giữ giặc", "yên dân", nên bất cứ giá nào nhà Nguyễn cũng duy trì đồn điền ở biên giới.
Một tư liệu cụ thể nữa là trong bia kỷ niệm Tiền Hiền Nguyễn Tú lập năm 1876 tại làng Mỹ Trà (Cao Lãnh) cho biết, Phạm Văn Khanh vốn là tên quân đồn điền về sau đã phản bội Võ Duy Dương đã tự nhận mình trước kia từng làm Ban biện suất đội, đội Một của cơ Tường Võ thứ tám. Căn cứ vào việc đặt phiên hiệu, chúng ta biết cơ đồn điền này thuộc tỉnh Định Tường, lập sau thời điểm Nguyễn Tri Phương báo cáo và cũng có thể sau khi Goerge Durwell thống kê. Để đạt được kết quả vừa kể nhìn chung chính sách đồn điền triều đình Tự Đức có nhiều điểm khá rộng rãi:
Thứ nhất: là việc sử dụng nhân sự: Theo qui chế khai hoang lập ấp thì chỉ cần có 10 dân đinh bảo đảm số sưu thuế khoán. Tất nhiên với lực lượng lao động như thế không thể nào tấn công vào thiên nhiên được mà phải dung nạp thêm một số dân lậu. Triều đình qui định như thế tức là chấp nhận dân lậu, khuyến khích những người giàu có đi khai hoang cũng là nhằm mục đích để họ phải bỏ tiền ra đóng thay số thuế cho những người dân lậu.
Qui chế mộ dân lập đồn điền còn linh động hơn nữa. Ngoài việc chấp nhận dân lậu triều đình còn cho phép sử dụng cả lực lượng tù phạm, nếu tội phạm nào có khả năng chiêu mộ, được hương lý và thân thích bảo lãnh thì tạm tha cho đi mộ. Mộ đủ số thì tha tội (Chú thích: Đại Nam Thực lục chính biên. quyển 10, đệ tứ kỷ: Dân An Giang có tên Bùi Văn Chiếu khổ vì khó tìm cách sinh sống, bèn trình lý trưởng rồi họp bọn với Bùi Văn Uyển và 4 tên nữa để đi ăn chộm hai lần. Chiếu đến cửa cổng thú tội. Tỉnh thần bàn nên phạt Chiếu 100 trượng, còn các tên khác 80 trượng và bắt chúng nhập vào đồn điền để khai thác). Trong khi chỉ đạo thực hiện, dù Nguyễn Tri Phương có nhiều cố gắng nhưng không sao tránh khỏi những bất công áp bức, nhất là. nạn cho vay nặng lãi. Năm 1850, ngay khi nhận chức Kinh Lược sứ, Nguyễn Tri Phương đã .nhận thấy điều đó nên nhắc lại qui định của triều đình, chỉ cho vay một vốn một lời, mỗi tháng không quá 3 phần. Địa chủ phải giảm tô cho tá điền vào những năm mất mùa. Nhưng chắc chắn những lời kêu gọi suông của Nguyễn Tri Phương không đạt kết quả vì những người đi khai hoang đợt này vốn đã nghèo khổ mà không được chánh quyền giúp đỡ, họ chỉ biết trông dựa vào những người giàu có gần gũi họ thôi.
Việc sử dụng dân không căn cước, sử dụng lực lượng tù phạm mà không có biện pháp tích cực giúp họ về tinh thần cũng như vật chất nên khi bị quẫn bách, họ chỉ có hai con đường: hoặc trở lại con đường cũ hoặc bỏ trốn mà sinh ra tình trạng xáo trộn hộ khẩu (Chú thích: + Đại Nam Thực lục chính biên. tập 13: Binh đội đồn điền ở Định Tường tên Nguyễn Văn Đình họp bọn với cướp. + Đại Nam Thực Lục chính biên tập 10 và tập 15 cho biết giữa năm 1854, án sát Gia Định là Lê Văn Nhượng đã đề nghị xóa sổ đinh bỏ hơn 20.000 tên. Gần cuối năm 1856 Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển lại đề nghị xóa 13.800 tên nữa.).
Đó là những con số do Nguyễn Tri Phương báo cáo khoảng giữa năm 1854. Trong thực tế những con số này thường xuyên biến động. George Durwell trong Bulletin de la Société des études Indochinoises số 36 năm 1898 cho biết lúc Pháp mới xâm chiếm thì ở Nam kỳ có 24 cơ đồn điền, chia ra như sau: Vĩnh Long có 5 cơ, An Giang có 2 cơ, Biên Hòa 4 cơ, Gia Định 7 cơ và Định Tường 6 cơ.
Nếu so sánh hai bản thống kê chúng ta thấy ở những vùng xa xôi như Vĩnh Long, Hà Tiên có tình trạng đồn điền bị dồn lại vì dân phiêu tán. Trái lại ở vùng đất hẹp người đông như Biên Hòa, Gia Định, Định Tường dễ chiêu mộ nên số lượng càng ngày càng phát triển. Đồng thời. thực hiện triệt để với mục đích “giữ giặc", "yên dân", nên bất cứ giá nào nhà Nguyễn cũng duy trì đồn điền ở biên giới.
Một tư liệu cụ thể nữa là trong bia kỷ niệm Tiền Hiền Nguyễn Tú lập năm 1876 tại làng Mỹ Trà (Cao Lãnh) cho biết, Phạm Văn Khanh vốn là tên quân đồn điền về sau đã phản bội Võ Duy Dương đã tự nhận mình trước kia từng làm Ban biện suất đội, đội Một của cơ Tường Võ thứ tám. Căn cứ vào việc đặt phiên hiệu, chúng ta biết cơ đồn điền này thuộc tỉnh Định Tường, lập sau thời điểm Nguyễn Tri Phương báo cáo và cũng có thể sau khi Goerge Durwell thống kê. Để đạt được kết quả vừa kể nhìn chung chính sách đồn điền triều đình Tự Đức có nhiều điểm khá rộng rãi:
Thứ nhất: là việc sử dụng nhân sự: Theo qui chế khai hoang lập ấp thì chỉ cần có 10 dân đinh bảo đảm số sưu thuế khoán. Tất nhiên với lực lượng lao động như thế không thể nào tấn công vào thiên nhiên được mà phải dung nạp thêm một số dân lậu. Triều đình qui định như thế tức là chấp nhận dân lậu, khuyến khích những người giàu có đi khai hoang cũng là nhằm mục đích để họ phải bỏ tiền ra đóng thay số thuế cho những người dân lậu.
Qui chế mộ dân lập đồn điền còn linh động hơn nữa. Ngoài việc chấp nhận dân lậu triều đình còn cho phép sử dụng cả lực lượng tù phạm, nếu tội phạm nào có khả năng chiêu mộ, được hương lý và thân thích bảo lãnh thì tạm tha cho đi mộ. Mộ đủ số thì tha tội (Chú thích: Đại Nam Thực lục chính biên. quyển 10, đệ tứ kỷ: Dân An Giang có tên Bùi Văn Chiếu khổ vì khó tìm cách sinh sống, bèn trình lý trưởng rồi họp bọn với Bùi Văn Uyển và 4 tên nữa để đi ăn chộm hai lần. Chiếu đến cửa cổng thú tội. Tỉnh thần bàn nên phạt Chiếu 100 trượng, còn các tên khác 80 trượng và bắt chúng nhập vào đồn điền để khai thác). Trong khi chỉ đạo thực hiện, dù Nguyễn Tri Phương có nhiều cố gắng nhưng không sao tránh khỏi những bất công áp bức, nhất là. nạn cho vay nặng lãi. Năm 1850, ngay khi nhận chức Kinh Lược sứ, Nguyễn Tri Phương đã .nhận thấy điều đó nên nhắc lại qui định của triều đình, chỉ cho vay một vốn một lời, mỗi tháng không quá 3 phần. Địa chủ phải giảm tô cho tá điền vào những năm mất mùa. Nhưng chắc chắn những lời kêu gọi suông của Nguyễn Tri Phương không đạt kết quả vì những người đi khai hoang đợt này vốn đã nghèo khổ mà không được chánh quyền giúp đỡ, họ chỉ biết trông dựa vào những người giàu có gần gũi họ thôi.
Việc sử dụng dân không căn cước, sử dụng lực lượng tù phạm mà không có biện pháp tích cực giúp họ về tinh thần cũng như vật chất nên khi bị quẫn bách, họ chỉ có hai con đường: hoặc trở lại con đường cũ hoặc bỏ trốn mà sinh ra tình trạng xáo trộn hộ khẩu (Chú thích: + Đại Nam Thực lục chính biên. tập 13: Binh đội đồn điền ở Định Tường tên Nguyễn Văn Đình họp bọn với cướp. + Đại Nam Thực Lục chính biên tập 10 và tập 15 cho biết giữa năm 1854, án sát Gia Định là Lê Văn Nhượng đã đề nghị xóa sổ đinh bỏ hơn 20.000 tên. Gần cuối năm 1856 Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển lại đề nghị xóa 13.800 tên nữa.).
Thứ nhì: Trong giai đoạn
đầu khai hoang lập đồn điền, lập ấp triều đình
chấp nhận khai man diện tích đất đai và giảm thuế
khóa để thu hút dân chiêu mộ.
Buổi đầu, Nguyễn Tri Phương đề nghị để người ứng mộ đồn điền tự do khai khẩn đất hoang. Ba năm, công việc thành khoảnh mới khai báo để tiến hành lập bộ sổ. Nông dân khai hoang lập ấp cũng được ân huệ đó. Sau 3 năm mới đóng thuế tượng trưng, và sau 10 năm mới đóng thuế theo ngạch ruộng tư. Những qui định này giúp nông dân nhận thấy nếu lỡ thất bại có thể còn lối xoay trở nên dễ bị thu hút vào.
Về biểu thuế, năm 1854, Nguyễn Tri Phương đề nghị mỗi người dân đồn điền đồng niên nộp sưu 2 hộc, người dân lập ấp nộp 3 hộc. Nhưng Tự Đức thấy biểu thuế như thế sợ quá cao nên chỉ cho áp dụng thí điểm một vài nơi; sau ba bốn năm sẽ quyết định. Cuối cùng, sau ba năm, quyết định mỗi mẫu đồng niên nộp một hộc rưỡi mà mỗi người chỉ được khai khẩn tối đa 4 mẫu (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên lập 16, đệ tứ kỷ). Ở Nam kỳ thời bấy giờ bất kỳ ruộng công hay tư đồng niên mỗi mẫu ruộng tốt (thảo điền) nộp 26 thăng và 3 tiền, mỗi mẫu ruộng gò (sơn điền) nộp 23 thăng và 3 tiền (Chú thích: Đại Nam hội điển. quyển 37). Nếu tính theo đơn vị đo lường nhà Nguyễn mỗi hộc bằng 26 thăng, chúng ta thấy hai biểu thuế tương đương. Như thế tại sao nông dân bị việc khai hoang thu hút vào? Thực tế nông dân thời đó bị một cổ đôi tròng. Ở những vùng đông dân đất hẹp nông dân phải đóng tô cho địa chủ rất nặng nên lúc nào họ cũng có khuynh hướng tìm đất mới. Biểu thuế như thế vừa lợi ngân quỹ, vừa thu hút nông dân.
Một điểm đáng lưu ý là Tự Đức đã thấy những phức tạp sắp xảy ra nên chỉ cho mỗi người khai khẩn tối đa 4 mẫu. Quy định này nhằm hạn chế những kẻ có thế lực chiếm cứ nhiều, làm trung gian trục lợi, mà không thực tâm khai phá. Nhưng chắc chắn qui định này không được thực thi triệt để vì trong thực tế có những người quyền thế đã chiếm hữu khá nhiều ruộng đất (Chú thích: Ở Mộc Bài (Hậu Mỹ-Cái Bè, Tiền Giang) có lãnh binh Trần Đăng Trạch chiếm hữu rất nhiều ruộng đất (không rõ số lượng cụ thể) chỉ biết ông đã chia cho cháu nội là Trần Văn Tâm tu tại chùa Minh Sư (Cai Lậy-Tiền Giang) 100 mẫu.).
Đặc điểm nữa là triều đình đã nghiên cứu và đưa ra "qui chế thi đua " thật cụ thể. Người mộ được một đội đồn điền được bổ nhiệm Chánh đội hưởng suất đội (Chánh thất phẩm) người mộ được một cơ được bổ nhiệm Cai cơ thí sai Phó Quản Cơ (Chánh lục phẩm). Một khi khai hoang cày cấy có kết quả thì cơ chế đồn điền được chuyển sang cơ chế hành chánh. Đội được chuyển thành ấp, cơ chuyển thành tổng. Các viên suất đội, Phó Quản Cơ được chuyển qua làm ấp trưởng, Tổng trưởng; ở hình thức khai hoang lập ấp cũng qui định khen thưởng rõ ràng như thế. Người đứng ra chiêu mộ không được các chức tước, mà chỉ được các chức hàm dân sự, thấp hơn hai bậc. Người mộ được 30 người thì được tha thuế thân và tha sai dịch suốt đời. Mộ được 50 người thì được thưởng hàm chánh cửu phẩm bá hộ. Được 100 người thì được thưởng hàm chánh bát phẩm bá hộ. Và vẫn được bổ nhiệm các chức vụ tổng lý (cai tổng, lý trưởng).
Hình thức mộ dân khai hoang lập ấp, hoàn toàn giao khoán cho tư nhân. Chắc chắn ít khi họ thất bại vì trước khi bỏ vốn ra họ phải suy tính kỹ lưỡng. Mà dù có thất bại thì cũng chỉ thiệt thòi cá nhân, không ảnh hưởng đến triều đình. Thế nên ở lĩnh vực này triều đình chỉ cần khen thưởng, không cần răn phạt. Trái lại, ở hình thức mộ dân lập đồn điền việc răn phạt đi đôi với khen thưởng. Nếu người ứng mộ đã cày cấy được 2 mẫu trở lên (tức được phân nửa qui định) thì người chiêu mộ mới được khen thưởng. Nếu cày cấy chưa được 2 mẫu thì gia hạn cho một năm. Hết gia hạn mà vẫn chưa được 7/10 qui định thì chủ mộ sẽ bị răn phạt (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên, tập 27. đệ tứ kỷ). Điều này chứng tỏ triều đình đặt hình thức mộ dân lập đồn điền lên hàng đầu nên có nhiều biện pháp cứng rắn hơn.
Song, nhằm mục đích thúc đẩy các địa phương thi đua thiết lập đồn điền, năm Tự Đức thứ 7 (1854) triều đình cũng qui định khen thưởng và răn phạt các quan lại địa phương: Chương trình thành lập đồn điền dự tính trong ba năm. Năm 1854 là năm đầu, các địa phương phải đôn đốc mộ dân khai khẩn 4/10 kế hoạch, năm 1855 và 1856 mỗi năm thực hiện 3/10. Địa phương nào trong năm đầu đôn đốc mộ dân khẩn ruộng làm nhà hoàn thành kế hoạch năm ấy, thì theo thứ hạng được khen thưởng:
Hạng nhất quan địa phương được gia 1 cấp.
Hạng nhì quan địa phương được thưởng kỷ lục 2 thứ.
Hạng ba quan địa phương được thưởng kỷ lục 1 thứ.
Hạng tư quan địa phương được thưởng 3 tháng tiền lương.
Nếu trong 4/10 kế hoạch toàn bộ mà năm đầu:
Thiếu 1/10 thì quan địa phương bị phạt 6 tháng lương.
Thiếu 2/10 thì bị giáng một cấp nhưng được lưu nhiệm.
Buổi đầu, Nguyễn Tri Phương đề nghị để người ứng mộ đồn điền tự do khai khẩn đất hoang. Ba năm, công việc thành khoảnh mới khai báo để tiến hành lập bộ sổ. Nông dân khai hoang lập ấp cũng được ân huệ đó. Sau 3 năm mới đóng thuế tượng trưng, và sau 10 năm mới đóng thuế theo ngạch ruộng tư. Những qui định này giúp nông dân nhận thấy nếu lỡ thất bại có thể còn lối xoay trở nên dễ bị thu hút vào.
Về biểu thuế, năm 1854, Nguyễn Tri Phương đề nghị mỗi người dân đồn điền đồng niên nộp sưu 2 hộc, người dân lập ấp nộp 3 hộc. Nhưng Tự Đức thấy biểu thuế như thế sợ quá cao nên chỉ cho áp dụng thí điểm một vài nơi; sau ba bốn năm sẽ quyết định. Cuối cùng, sau ba năm, quyết định mỗi mẫu đồng niên nộp một hộc rưỡi mà mỗi người chỉ được khai khẩn tối đa 4 mẫu (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên lập 16, đệ tứ kỷ). Ở Nam kỳ thời bấy giờ bất kỳ ruộng công hay tư đồng niên mỗi mẫu ruộng tốt (thảo điền) nộp 26 thăng và 3 tiền, mỗi mẫu ruộng gò (sơn điền) nộp 23 thăng và 3 tiền (Chú thích: Đại Nam hội điển. quyển 37). Nếu tính theo đơn vị đo lường nhà Nguyễn mỗi hộc bằng 26 thăng, chúng ta thấy hai biểu thuế tương đương. Như thế tại sao nông dân bị việc khai hoang thu hút vào? Thực tế nông dân thời đó bị một cổ đôi tròng. Ở những vùng đông dân đất hẹp nông dân phải đóng tô cho địa chủ rất nặng nên lúc nào họ cũng có khuynh hướng tìm đất mới. Biểu thuế như thế vừa lợi ngân quỹ, vừa thu hút nông dân.
Một điểm đáng lưu ý là Tự Đức đã thấy những phức tạp sắp xảy ra nên chỉ cho mỗi người khai khẩn tối đa 4 mẫu. Quy định này nhằm hạn chế những kẻ có thế lực chiếm cứ nhiều, làm trung gian trục lợi, mà không thực tâm khai phá. Nhưng chắc chắn qui định này không được thực thi triệt để vì trong thực tế có những người quyền thế đã chiếm hữu khá nhiều ruộng đất (Chú thích: Ở Mộc Bài (Hậu Mỹ-Cái Bè, Tiền Giang) có lãnh binh Trần Đăng Trạch chiếm hữu rất nhiều ruộng đất (không rõ số lượng cụ thể) chỉ biết ông đã chia cho cháu nội là Trần Văn Tâm tu tại chùa Minh Sư (Cai Lậy-Tiền Giang) 100 mẫu.).
Đặc điểm nữa là triều đình đã nghiên cứu và đưa ra "qui chế thi đua " thật cụ thể. Người mộ được một đội đồn điền được bổ nhiệm Chánh đội hưởng suất đội (Chánh thất phẩm) người mộ được một cơ được bổ nhiệm Cai cơ thí sai Phó Quản Cơ (Chánh lục phẩm). Một khi khai hoang cày cấy có kết quả thì cơ chế đồn điền được chuyển sang cơ chế hành chánh. Đội được chuyển thành ấp, cơ chuyển thành tổng. Các viên suất đội, Phó Quản Cơ được chuyển qua làm ấp trưởng, Tổng trưởng; ở hình thức khai hoang lập ấp cũng qui định khen thưởng rõ ràng như thế. Người đứng ra chiêu mộ không được các chức tước, mà chỉ được các chức hàm dân sự, thấp hơn hai bậc. Người mộ được 30 người thì được tha thuế thân và tha sai dịch suốt đời. Mộ được 50 người thì được thưởng hàm chánh cửu phẩm bá hộ. Được 100 người thì được thưởng hàm chánh bát phẩm bá hộ. Và vẫn được bổ nhiệm các chức vụ tổng lý (cai tổng, lý trưởng).
Hình thức mộ dân khai hoang lập ấp, hoàn toàn giao khoán cho tư nhân. Chắc chắn ít khi họ thất bại vì trước khi bỏ vốn ra họ phải suy tính kỹ lưỡng. Mà dù có thất bại thì cũng chỉ thiệt thòi cá nhân, không ảnh hưởng đến triều đình. Thế nên ở lĩnh vực này triều đình chỉ cần khen thưởng, không cần răn phạt. Trái lại, ở hình thức mộ dân lập đồn điền việc răn phạt đi đôi với khen thưởng. Nếu người ứng mộ đã cày cấy được 2 mẫu trở lên (tức được phân nửa qui định) thì người chiêu mộ mới được khen thưởng. Nếu cày cấy chưa được 2 mẫu thì gia hạn cho một năm. Hết gia hạn mà vẫn chưa được 7/10 qui định thì chủ mộ sẽ bị răn phạt (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên, tập 27. đệ tứ kỷ). Điều này chứng tỏ triều đình đặt hình thức mộ dân lập đồn điền lên hàng đầu nên có nhiều biện pháp cứng rắn hơn.
Song, nhằm mục đích thúc đẩy các địa phương thi đua thiết lập đồn điền, năm Tự Đức thứ 7 (1854) triều đình cũng qui định khen thưởng và răn phạt các quan lại địa phương: Chương trình thành lập đồn điền dự tính trong ba năm. Năm 1854 là năm đầu, các địa phương phải đôn đốc mộ dân khai khẩn 4/10 kế hoạch, năm 1855 và 1856 mỗi năm thực hiện 3/10. Địa phương nào trong năm đầu đôn đốc mộ dân khẩn ruộng làm nhà hoàn thành kế hoạch năm ấy, thì theo thứ hạng được khen thưởng:
Hạng nhất quan địa phương được gia 1 cấp.
Hạng nhì quan địa phương được thưởng kỷ lục 2 thứ.
Hạng ba quan địa phương được thưởng kỷ lục 1 thứ.
Hạng tư quan địa phương được thưởng 3 tháng tiền lương.
Nếu trong 4/10 kế hoạch toàn bộ mà năm đầu:
Thiếu 1/10 thì quan địa phương bị phạt 6 tháng lương.
Thiếu 2/10 thì bị giáng một cấp nhưng được lưu nhiệm.
Qui định khen thưởng hai
năm sau giống như năm đầu. Tự Đức giao cho tỉnh theo
dõi (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên tập 28, đệ
tứ kỷ).
Tuy thời gian khôi phục và thực hiện chỉ có bảy năm (1853-1859), nhưng nhờ có Nguyễn Tri Phương tích cực và được Tự Đức ủng hộ nên chính sách đồn điền thời bấy giờ đem lại thắng lợi như sau:
- Khai hoang, mở rộng diện tích canh tác nhất là diện tích ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước phong kiến.
- Nhà nước phong kiến thu được một số sản lượng nông nghiệp.
- Nhà nước phong kiến giảm được lương tiền cấp cho quân đội và tù phạm.
- Cuối cùng, chính sách đồn điền đã góp phần bảo đảm trị an, bảo vệ được vùng biên giới, sau này trở thành một trong những cơ sở cung cấp sức người sức của cho các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam kỳ.
* Tuy vậy, chính sách đồn điền không phải đã dễ dàng thành công
Lập đồn điền là một kế sách mà Nguyễn Tri Phương đặt nhiều tâm huyết với mục đích "giữ giặc, yên dân". Nó gần giống như "Tân Pháp" của Vương An Thạch, đem nhiều ích lợi thiết thực nên được đông đảo quần chúng ủng hộ, nhưng kế sách này không phải xuôi chèo mát mái ngay từ đầu. Nó bị nhiều lực cản từ các phía.
Nguyễn Tri Phương đã thấy các lực cản đó và nhận xét như sau: ''tôi xét thấy việc lập đồn điền vẫn lợi nước lợi dân mà không lợi cho tổng lý cho nên tổng lý đặt điều để phỉnh dân. Những người nói bất tiện đó chẳng qua chúng phỉnh mà thôi (Chú thích: Quốc triều chình biên).
Tại sao bọn tổng lý ở địa phương ngăn cản bước phất triển đồn điền?
Theo họ, vì nếu cho lập đồn điền thì dân trong địa phương họ quản lý có thể bỏ sang địa phương khác làm ăn nếu thấy vùng đất này màu mỡ hơn và như thế địa phương họ sẽ thiếu sưu thiếu thuế. Cũng có trường hợp lập đồn điền thì lưu dân sẽ chiếm những phần đất hoang dự trữ của họ mà họ không thể phản đối. Và một điều chắc chắn là khi lập đồn điền ở địa phương họ thì tình hình an ninh trật tự ở địa phương họ đổi khác. Có khi họ phải vất vả hơn.
Năm 1854, sau khi thực hiện chính sách đồn điền được một năm thì có nhiều ý kiến phản đối của các quan lại địa phương. Đầu tiên Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Bằng cho rằng: “người nào có vật lực phần nhiều không chịu ứng mộ, sợ khó mộ đủ..." (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên, quyển 11. đệ tứ kỷ.). Nhận xét đó rất đúng. Ở các tỉnh biên giới xa xôi như An Giang, Hà Tiên. Do bản chất ngại khó thì có mấy nhà giàu có ở vùng ngoài, ngay cả những vùng Gia Định-Định Tường lặn lội đến đây khẩn đất. Trong khi đó ở những tỉnh đất hẹp người đông thì các nhà giàu có lại thích nhảy vào để chiếm hữu nhiều hơn nữa. Tuần phủ Nguyễn Cửu Trường tỉnh Biên Hòa nhận xét “phần nhiều người nói phóng đại lên một số hão huyền để chiếm trưng những thực điền ruộng đất) (Đại Nam Thực Lục chính biên, quyển 11, đệ tứ kỷ). Tư liệu dân gian cho biết Trương Định đã cưới Trần Thị Sanh, Võ Duy Dương cưới Trần Thị Vàng được gia đình bên vợ ủng hộ lập đồn điền và sau này tiếp tục ủng hộ kháng chiến (Chú thích: Trần Thị Sanh góa phụ Bá hộ Dương Tấn Bổn ở Gò Công. Bà Sanh làm thiếp Trương Định nên đương thời gọi là “bà hầu". Bà “hầu" Trần Thị Sanh rất giàu. Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong có câu “...Gò Công bốn tổng đông giàu. Mà riêng có một bà Hầu giàu to..." Gia phả họ Trần cho biết Trần Thị Sanh đã đưa tiền cho chồng lập đồn điền ở Gia Thuận và cũng đưa tiền cho chồng mua gạo chuyển về Huế cứu đói lúc thực dân Pháp phong tỏa kinh tế. Trần Thị Vàng, con gái bá hộ Trần Văn Học (sui gia với Thủ Khoa Huân) ở Bình Cách.. Trần Thị Vàng làm thiếp Võ Duy Dương. Chưa có dấu hiệu Trần Thị Vàng giúp đỡ chồng tích cực, vì lúc đó bà còn nhỏ chưa có tài sản riêng. Nhưng Thủ Khoa Huân và Thiên Hộ Dương đã được Bá hộ Học giúp đỡ tích cực, ông rất giàu có, có 464 mẫu đất tốt hàng năm hoa lợi thu gần 7.000 giạ lúa. Chính Bá hộ Học bán ruộng đất mua súng đạn giúp nghĩa quân và dùng nhà mình làm bản doanh khởi nghĩa.).
Một số nhà giàu có khác cũng tích cực ủng hộ như Võ Văn Khoáng ở Tân Hòa (Gò Công) đã hiến 1 vạn quan tiền để góp quỹ xây dựng đồn điền. Nhưng Tự Đức sợ những người này có ý đồ cầu danh lợi nên không nhận.
Tự Đức nhận thấy xây dựng đồn điền có khó khăn và có nhiều ý kiến phản đối. Cuối cùng vào tháng 7, năm Tự Đức thứ 7 (1854) nhà vua quyết định "Lời Nguyễn Tri Phương nói khẩn thiết quả quyết tự đảm đang lấy trách nhiệm, sao nỡ không nghe theo để cho thi thố hết uẩn súc trong lòng”. Nhà vua dứt khoát: "Từ nay chẳng cần bàn tới lợi hại của chính sách đồn điền nữa cho khỏi nghi ngại..."
Tuy thời gian khôi phục và thực hiện chỉ có bảy năm (1853-1859), nhưng nhờ có Nguyễn Tri Phương tích cực và được Tự Đức ủng hộ nên chính sách đồn điền thời bấy giờ đem lại thắng lợi như sau:
- Khai hoang, mở rộng diện tích canh tác nhất là diện tích ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước phong kiến.
- Nhà nước phong kiến thu được một số sản lượng nông nghiệp.
- Nhà nước phong kiến giảm được lương tiền cấp cho quân đội và tù phạm.
- Cuối cùng, chính sách đồn điền đã góp phần bảo đảm trị an, bảo vệ được vùng biên giới, sau này trở thành một trong những cơ sở cung cấp sức người sức của cho các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam kỳ.
* Tuy vậy, chính sách đồn điền không phải đã dễ dàng thành công
Lập đồn điền là một kế sách mà Nguyễn Tri Phương đặt nhiều tâm huyết với mục đích "giữ giặc, yên dân". Nó gần giống như "Tân Pháp" của Vương An Thạch, đem nhiều ích lợi thiết thực nên được đông đảo quần chúng ủng hộ, nhưng kế sách này không phải xuôi chèo mát mái ngay từ đầu. Nó bị nhiều lực cản từ các phía.
Nguyễn Tri Phương đã thấy các lực cản đó và nhận xét như sau: ''tôi xét thấy việc lập đồn điền vẫn lợi nước lợi dân mà không lợi cho tổng lý cho nên tổng lý đặt điều để phỉnh dân. Những người nói bất tiện đó chẳng qua chúng phỉnh mà thôi (Chú thích: Quốc triều chình biên).
Tại sao bọn tổng lý ở địa phương ngăn cản bước phất triển đồn điền?
Theo họ, vì nếu cho lập đồn điền thì dân trong địa phương họ quản lý có thể bỏ sang địa phương khác làm ăn nếu thấy vùng đất này màu mỡ hơn và như thế địa phương họ sẽ thiếu sưu thiếu thuế. Cũng có trường hợp lập đồn điền thì lưu dân sẽ chiếm những phần đất hoang dự trữ của họ mà họ không thể phản đối. Và một điều chắc chắn là khi lập đồn điền ở địa phương họ thì tình hình an ninh trật tự ở địa phương họ đổi khác. Có khi họ phải vất vả hơn.
Năm 1854, sau khi thực hiện chính sách đồn điền được một năm thì có nhiều ý kiến phản đối của các quan lại địa phương. Đầu tiên Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Bằng cho rằng: “người nào có vật lực phần nhiều không chịu ứng mộ, sợ khó mộ đủ..." (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên, quyển 11. đệ tứ kỷ.). Nhận xét đó rất đúng. Ở các tỉnh biên giới xa xôi như An Giang, Hà Tiên. Do bản chất ngại khó thì có mấy nhà giàu có ở vùng ngoài, ngay cả những vùng Gia Định-Định Tường lặn lội đến đây khẩn đất. Trong khi đó ở những tỉnh đất hẹp người đông thì các nhà giàu có lại thích nhảy vào để chiếm hữu nhiều hơn nữa. Tuần phủ Nguyễn Cửu Trường tỉnh Biên Hòa nhận xét “phần nhiều người nói phóng đại lên một số hão huyền để chiếm trưng những thực điền ruộng đất) (Đại Nam Thực Lục chính biên, quyển 11, đệ tứ kỷ). Tư liệu dân gian cho biết Trương Định đã cưới Trần Thị Sanh, Võ Duy Dương cưới Trần Thị Vàng được gia đình bên vợ ủng hộ lập đồn điền và sau này tiếp tục ủng hộ kháng chiến (Chú thích: Trần Thị Sanh góa phụ Bá hộ Dương Tấn Bổn ở Gò Công. Bà Sanh làm thiếp Trương Định nên đương thời gọi là “bà hầu". Bà “hầu" Trần Thị Sanh rất giàu. Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong có câu “...Gò Công bốn tổng đông giàu. Mà riêng có một bà Hầu giàu to..." Gia phả họ Trần cho biết Trần Thị Sanh đã đưa tiền cho chồng lập đồn điền ở Gia Thuận và cũng đưa tiền cho chồng mua gạo chuyển về Huế cứu đói lúc thực dân Pháp phong tỏa kinh tế. Trần Thị Vàng, con gái bá hộ Trần Văn Học (sui gia với Thủ Khoa Huân) ở Bình Cách.. Trần Thị Vàng làm thiếp Võ Duy Dương. Chưa có dấu hiệu Trần Thị Vàng giúp đỡ chồng tích cực, vì lúc đó bà còn nhỏ chưa có tài sản riêng. Nhưng Thủ Khoa Huân và Thiên Hộ Dương đã được Bá hộ Học giúp đỡ tích cực, ông rất giàu có, có 464 mẫu đất tốt hàng năm hoa lợi thu gần 7.000 giạ lúa. Chính Bá hộ Học bán ruộng đất mua súng đạn giúp nghĩa quân và dùng nhà mình làm bản doanh khởi nghĩa.).
Một số nhà giàu có khác cũng tích cực ủng hộ như Võ Văn Khoáng ở Tân Hòa (Gò Công) đã hiến 1 vạn quan tiền để góp quỹ xây dựng đồn điền. Nhưng Tự Đức sợ những người này có ý đồ cầu danh lợi nên không nhận.
Tự Đức nhận thấy xây dựng đồn điền có khó khăn và có nhiều ý kiến phản đối. Cuối cùng vào tháng 7, năm Tự Đức thứ 7 (1854) nhà vua quyết định "Lời Nguyễn Tri Phương nói khẩn thiết quả quyết tự đảm đang lấy trách nhiệm, sao nỡ không nghe theo để cho thi thố hết uẩn súc trong lòng”. Nhà vua dứt khoát: "Từ nay chẳng cần bàn tới lợi hại của chính sách đồn điền nữa cho khỏi nghi ngại..."
Nhưng rồi vẫn có ý kiến chỉ
trích. Khoảng tháng 4 năm Tự Đức thứ 9 (1856) án sát
Định Tường là Vương Sĩ Kiệt dâng sớ phê bình ba điểm
tồn tại trong việc thực hiện chương trình đồn điền.
- Chiêu mộ dân nghèo đi khai hoang để chúng tập hợp lại cướp bóc.
- Đem tù phạm ghép với người chiêu mộ nên vừa ghép vào chúng có cơ hội bỏ trốn.
- Đồn điền chưa thành hình đã làm sổ đinh, sổ điền dễ làm hại cho dân (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên, tập11, đệ tứ kỷ.)
Vương Sĩ Kiệt chĩa mũi nhọn vào những người đề xướng và thực hiện chính sách đồn điền, phê bình Kinh Lược sứ Nguyễn Tri Phương là khư khư bảo thủ nên chẳng dám có ý kiến. Phê bình Tham biện Phạm Thế Hiển xuôi tay áo ngồi nhìn, trên bảo sao đều nghe vậy.
Cuộc tranh luận bùng nổ.
Bộ Hộ binh vực Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển cho rằng hai ông đều hết lòng bàn bạc để mong công việc thành công tốt đẹp. Bộ nhận xét rằng Vương Sĩ Kiệt cố tình vạch một hai điểm là mong được tiếng cương trực. Đề nghị không nên bàn cãi nữa.
Tự Đức cũng có ý binh vực Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển nên giao nguyên tập sớ của Vương Sĩ Kiệt cho Nguyễn Tri Phương nghiên cứu. Nhưng Tự Đức cũng muốn tránh tiếng thiên vị, giao cho bộ Lại gặp Vương Sĩ Kiệt tìm hiểu vấn đề cụ thể hơn nữa để giải quyết hai bên thỏa đáng.
Ngự sử Nguyễn Ích Khiêm thừa dịp đề nghị giảm bớt số lượng đồn điền để số lượng quân đội tăng thì biên giới sẽ vững chắc hơn nữa. Nguyễn Ích Khiêm đề nghị 6 tỉnh nên giữ 6 cơ đồn điền, cắt bỏ 15 cơ. Tự Đức cũng giao cho Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển nghiên cứu ý kiến của Nguyễn Ích Khiêm.
Nguyễn Tri Phương nghiên cứu hai ý kiến thấy không thể thực hiện được. Nhưng ông nhìn nhận có sự sai sót nên đề nghị hai biện pháp cứu chữa:
- Xin gia hạn sau ba năm nữa đồn điền có kết quả mới tiến hành đo đạc và làm địa bạ.
- Xin giúp đỡ quân đồn điền hai cơ tam và tứ Hướng Thiện đóng ở Vĩnh Tế mỗi người mỗi tháng 1 phương gạo. Sau ba năm không trợ cấp nữa.
Vua cho rằng đây là việc to, không nên kể hao phí nhỏ, chuẩn y lời Nguyễn Tri Phương.
Vương Sĩ Kiệt tiêu biểu cho đám quan lại triều Nguyễn. Họ xuất thân Khoa bảng, theo lối học từ chương. Trái lại Nguyễn Tri Phương xuất thân từ ngạch thư lại rồi do thực tài mà được trọng dụng nên bị nhiều người ghen ghét.
Nguyên Vương Sĩ Kiệt làm án sát Định Tường được một năm thì trong địa phương đã xảy ra 8 vụ án cướp bóc. Trời hạn hán. Thời bấy giờ quan niệm ở địa phương việc hình án không thỏa đáng nên bị trời phạt. Kiệt dâng sớ về kinh đợi tội. Tự Đức giao nhiệm vụ cho Nguyễn Tri Phương tìm người thay thế, nhưng rồi chưa tìm người xứng đáng hơn nên để Kiệt ở chức vụ cũ. Vương Sĩ Kiệt chỉ trích chương trình đồn điền của Nguyễn Tri Phương là phản ứng trả thù.
Nhưng rồi Vương Sĩ Kiệt vẫn còn thuộc quyền Nguyễn Tri Phương quản lý, sợ Nguyễn Tri Phương cố chấp, nên lấy cớ trước kia có lần giải quyết 2 vụ án không thỏa đáng, nay tuổi già học kém lại bươi móc Nguyễn Tri Phương sợ không đảm đang được chức vụ cũ.
Tự Đức cho rằng Vương Sĩ Kiệt thấy Nguyễn Tri Phương làm việc không chu đáo lại hay bảo lưu ý kiến. Kiệt vì chức vụ thấp hơn nên không dám nói, từ đó mới bất mãn. Trước khi chỉ trích kế sách đồn điền của Nguyễn Tri Phương, Vương Sĩ Kiệt đã có ý rút lui. Bây giờ sợ Nguyễn Tri Phương không tha thứ nên lấy cớ trốn tránh. Tự Đức vốn ủng hộ việc làm của Nguyễn Tri Phương nên khen Vương Sĩ Kiệt lấy lệ rồi rút Kiệt về kinh đô cho bộ lại xét nghị, để Nguyễn Tri Phương rảnh tay thi hành chương trình của mình.
Qua đó chúng ta thấy chánh sách đồn điền không phải thực hiện được một cách dễ dàng. Song, công cuộc khẩn hoang ở Nam kỳ trước khi Pháp xâm lược, nhờ công sức của đám lưu dân nói chung và điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đã biến Nam kỳ thành nơi chẳng những sản xuất lương thực đủ ăn mà còn cung cấp một phần lúa gạo cho các nơi khác và có khi còn xuất qua các cửa khẩu: Cù lao Phố, Bến Nghé, Bãi Xào và Hà Tiên. Nhưng với số lượng rất hạn chế vì chánh sách bế quan tỏa cảng và xuất khẩu vì lý do chánh trị hơn là thương mại. Chính chánh sách này cũng đã kiềm hãm không ít nền sản xuất đang lên của vùng đất mới khai phá này.
- Chiêu mộ dân nghèo đi khai hoang để chúng tập hợp lại cướp bóc.
- Đem tù phạm ghép với người chiêu mộ nên vừa ghép vào chúng có cơ hội bỏ trốn.
- Đồn điền chưa thành hình đã làm sổ đinh, sổ điền dễ làm hại cho dân (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chính biên, tập11, đệ tứ kỷ.)
Vương Sĩ Kiệt chĩa mũi nhọn vào những người đề xướng và thực hiện chính sách đồn điền, phê bình Kinh Lược sứ Nguyễn Tri Phương là khư khư bảo thủ nên chẳng dám có ý kiến. Phê bình Tham biện Phạm Thế Hiển xuôi tay áo ngồi nhìn, trên bảo sao đều nghe vậy.
Cuộc tranh luận bùng nổ.
Bộ Hộ binh vực Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển cho rằng hai ông đều hết lòng bàn bạc để mong công việc thành công tốt đẹp. Bộ nhận xét rằng Vương Sĩ Kiệt cố tình vạch một hai điểm là mong được tiếng cương trực. Đề nghị không nên bàn cãi nữa.
Tự Đức cũng có ý binh vực Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển nên giao nguyên tập sớ của Vương Sĩ Kiệt cho Nguyễn Tri Phương nghiên cứu. Nhưng Tự Đức cũng muốn tránh tiếng thiên vị, giao cho bộ Lại gặp Vương Sĩ Kiệt tìm hiểu vấn đề cụ thể hơn nữa để giải quyết hai bên thỏa đáng.
Ngự sử Nguyễn Ích Khiêm thừa dịp đề nghị giảm bớt số lượng đồn điền để số lượng quân đội tăng thì biên giới sẽ vững chắc hơn nữa. Nguyễn Ích Khiêm đề nghị 6 tỉnh nên giữ 6 cơ đồn điền, cắt bỏ 15 cơ. Tự Đức cũng giao cho Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển nghiên cứu ý kiến của Nguyễn Ích Khiêm.
Nguyễn Tri Phương nghiên cứu hai ý kiến thấy không thể thực hiện được. Nhưng ông nhìn nhận có sự sai sót nên đề nghị hai biện pháp cứu chữa:
- Xin gia hạn sau ba năm nữa đồn điền có kết quả mới tiến hành đo đạc và làm địa bạ.
- Xin giúp đỡ quân đồn điền hai cơ tam và tứ Hướng Thiện đóng ở Vĩnh Tế mỗi người mỗi tháng 1 phương gạo. Sau ba năm không trợ cấp nữa.
Vua cho rằng đây là việc to, không nên kể hao phí nhỏ, chuẩn y lời Nguyễn Tri Phương.
Vương Sĩ Kiệt tiêu biểu cho đám quan lại triều Nguyễn. Họ xuất thân Khoa bảng, theo lối học từ chương. Trái lại Nguyễn Tri Phương xuất thân từ ngạch thư lại rồi do thực tài mà được trọng dụng nên bị nhiều người ghen ghét.
Nguyên Vương Sĩ Kiệt làm án sát Định Tường được một năm thì trong địa phương đã xảy ra 8 vụ án cướp bóc. Trời hạn hán. Thời bấy giờ quan niệm ở địa phương việc hình án không thỏa đáng nên bị trời phạt. Kiệt dâng sớ về kinh đợi tội. Tự Đức giao nhiệm vụ cho Nguyễn Tri Phương tìm người thay thế, nhưng rồi chưa tìm người xứng đáng hơn nên để Kiệt ở chức vụ cũ. Vương Sĩ Kiệt chỉ trích chương trình đồn điền của Nguyễn Tri Phương là phản ứng trả thù.
Nhưng rồi Vương Sĩ Kiệt vẫn còn thuộc quyền Nguyễn Tri Phương quản lý, sợ Nguyễn Tri Phương cố chấp, nên lấy cớ trước kia có lần giải quyết 2 vụ án không thỏa đáng, nay tuổi già học kém lại bươi móc Nguyễn Tri Phương sợ không đảm đang được chức vụ cũ.
Tự Đức cho rằng Vương Sĩ Kiệt thấy Nguyễn Tri Phương làm việc không chu đáo lại hay bảo lưu ý kiến. Kiệt vì chức vụ thấp hơn nên không dám nói, từ đó mới bất mãn. Trước khi chỉ trích kế sách đồn điền của Nguyễn Tri Phương, Vương Sĩ Kiệt đã có ý rút lui. Bây giờ sợ Nguyễn Tri Phương không tha thứ nên lấy cớ trốn tránh. Tự Đức vốn ủng hộ việc làm của Nguyễn Tri Phương nên khen Vương Sĩ Kiệt lấy lệ rồi rút Kiệt về kinh đô cho bộ lại xét nghị, để Nguyễn Tri Phương rảnh tay thi hành chương trình của mình.
Qua đó chúng ta thấy chánh sách đồn điền không phải thực hiện được một cách dễ dàng. Song, công cuộc khẩn hoang ở Nam kỳ trước khi Pháp xâm lược, nhờ công sức của đám lưu dân nói chung và điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đã biến Nam kỳ thành nơi chẳng những sản xuất lương thực đủ ăn mà còn cung cấp một phần lúa gạo cho các nơi khác và có khi còn xuất qua các cửa khẩu: Cù lao Phố, Bến Nghé, Bãi Xào và Hà Tiên. Nhưng với số lượng rất hạn chế vì chánh sách bế quan tỏa cảng và xuất khẩu vì lý do chánh trị hơn là thương mại. Chính chánh sách này cũng đã kiềm hãm không ít nền sản xuất đang lên của vùng đất mới khai phá này.
Trước khi đánh chiếm Nam kỳ
(2/1859) đô đốc Rigault de Genouilly đã báo cáo về Pháp:
“Khí hậu các tỉnh này rất tốt, đất màu mỡ, nuôi được dân địa phương và sản xuất có thừa để bán đi Trung Quốc... sông rạch chằng chịt và sự lưu thông thương mại dễ dàng.
Sài Gòn cũng là vựa lúa cung cấp một phần lương thực cho Huế, cho quân đội An Nam, mỗi năm tháng ba phải chở lúa ra Bắc” (Chú thích: Dẫn lại theo cuốn Lịch sử cận đại Việt Nam, Tập II của Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự. NXB Giáo Dục Hà Nội 1959, trang 72.)
Chiếm được thành Gia Định ngày 18/2/1859 thì ngày 23/2/1859, thực dân Pháp đã ra lịnh giảm 50% thuế quan cho tàu thuyền nước ngoài ra vào tự do buôn bán. Chính sách đó đã khơi nguồn cho sản xuất và xuất khẩu lúa gạo tăng vọt lên vì đã tìm được một thị trường tiêu thụ ổn định.
Được như thế là nhờ mồ hôi, nước mắt có khi cả xương máu của những người đi “khai cương thác địa". Họ đã gian khổ khắc phục những khó khăn ở vùng đất mới hoang vu đầy rừng rậm thú dữ:
Ra đi dao bảy giắt lưng;
Ngó sông, sông rộng ngó rừng, rừng cao...
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn.
Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma
Biết bao người đi khai hoang, người dân đồn điền đã ngã xuống trong rừng sâu nước độc, và bao nhiêu người khác nữa cũng đã vĩnh viễn không trở về vì kiệt sức trong lúc đào kinh khơi nguồn nước ngọt vào đồng ruộng, hay đã mất xác vì cá sấu, cọp beo:
U Minh, Rạch Giá, Thị Quá, Sơn Trường
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.
Họ, những người đi khai hoang, những người dân đồn điền, những người đi tiên phong trong công cuộc khai phá miền Nam, những chiến sĩ nghĩa quân chống Pháp; ngày nay họ chỉ còn được biết qua hình ảnh của các vị tiền hiền lập làng lập ấp trong các chuyện dân gian mà thôi.
Chân dung của họ như thế nào?
Tổ chức đồn điền là tổ chức bán quân sự. Theo qui định cứ 50 người biên chế thành một đội, có một viên chánh đội trưởng suất đội và một Ban biện suất đội chỉ huy. Đội được mang số thứ tự từ một đến mười. Mười đội, tức 500 người họp thành một cơ, do một Quản cơ, Phó Quản cơ hiệp quản, Điển ty và mười Đội trưởng chỉ huy. Cơ đồn điền có phiên hiệu, theo từng tỉnh. Khi khai hoang thành khoảnh thì có thể chuyển từ cơ chế đồn điền sang cơ chế dân sự. Đồn điền trở thành làng, cơ trở thành tổng.
Song song với hình thức khai hoang lập đồn điền còn có hình thức khai hoang lập ấp. Đây là tổ chức dân sự, không bị nhiều câu thúc. Chỉ cần đủ 10 người dân hợp pháp để lập sổ đinh và bảo đảm sổ sưu thuế khoán của đơn vị họ. Họ được tự do khai phá, cày cấy. Khi thành khoảnh thì một ấp hoặc vài ba ấp họp lại thành làng. Dân đồn điền sinh hoạt theo nội qui quân đội. Họ phải sống tập trung, Pallu de la Bamègre trong Histoire de l’expédition de Cochinchine en 1861 (mà A. Schreiner trích dẫn trong Les lnstitutions annamites en Basse Cochinchine avant la conquête Fransaise -1900) đã mô tả khu doanh trại đồn điền như sau: “Ngôi nhà của viên quản đồn điền ở giữa, có một chiếc cổng, một chiếc trống không có chiến lũy bao quanh... ". Có chiếc trống hiệu lệnh chứng tỏ rằng thời gian sinh hoạt của dân đồn điền chặt chẽ. Có thể họ ra đồng hoặc xong việc trở về nhà theo trống lệnh. Cũng có thể họ tập hợp để luyện tập võ nghệ, hoặc sinh hoạt khác theo các điệu trống khác nhau.
Ngoài thời gian đồng áng, những lúc rảnh rỗi người dân đồn điền phải luyện tập võ nghệ và canh gác. Điểm canh thường đặt ở các vàm sông rạch, nơi có ghe thuyền qua lại " (Des chasseaux, đã dẫn chứng ở đoạn trước) cho biết: "Việc canh gác cũng như việc ra trận khi có chiến tranh là những bắt buộc quân sự duy nhất đối với đồn điền".
Theo tài liệu điều tra của Pháp lúc chúng mới đặt chân đến Nam kỳ thì đầu mỗi năm dân đồn điền phải tập hợp về tỉnh duyệt binh và ba năm có cuộc thi võ nghệ múa gươm và bắn súng để thăng cấp.
“Khí hậu các tỉnh này rất tốt, đất màu mỡ, nuôi được dân địa phương và sản xuất có thừa để bán đi Trung Quốc... sông rạch chằng chịt và sự lưu thông thương mại dễ dàng.
Sài Gòn cũng là vựa lúa cung cấp một phần lương thực cho Huế, cho quân đội An Nam, mỗi năm tháng ba phải chở lúa ra Bắc” (Chú thích: Dẫn lại theo cuốn Lịch sử cận đại Việt Nam, Tập II của Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự. NXB Giáo Dục Hà Nội 1959, trang 72.)
Chiếm được thành Gia Định ngày 18/2/1859 thì ngày 23/2/1859, thực dân Pháp đã ra lịnh giảm 50% thuế quan cho tàu thuyền nước ngoài ra vào tự do buôn bán. Chính sách đó đã khơi nguồn cho sản xuất và xuất khẩu lúa gạo tăng vọt lên vì đã tìm được một thị trường tiêu thụ ổn định.
Được như thế là nhờ mồ hôi, nước mắt có khi cả xương máu của những người đi “khai cương thác địa". Họ đã gian khổ khắc phục những khó khăn ở vùng đất mới hoang vu đầy rừng rậm thú dữ:
Ra đi dao bảy giắt lưng;
Ngó sông, sông rộng ngó rừng, rừng cao...
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn.
Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma
Biết bao người đi khai hoang, người dân đồn điền đã ngã xuống trong rừng sâu nước độc, và bao nhiêu người khác nữa cũng đã vĩnh viễn không trở về vì kiệt sức trong lúc đào kinh khơi nguồn nước ngọt vào đồng ruộng, hay đã mất xác vì cá sấu, cọp beo:
U Minh, Rạch Giá, Thị Quá, Sơn Trường
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.
Họ, những người đi khai hoang, những người dân đồn điền, những người đi tiên phong trong công cuộc khai phá miền Nam, những chiến sĩ nghĩa quân chống Pháp; ngày nay họ chỉ còn được biết qua hình ảnh của các vị tiền hiền lập làng lập ấp trong các chuyện dân gian mà thôi.
Chân dung của họ như thế nào?
Tổ chức đồn điền là tổ chức bán quân sự. Theo qui định cứ 50 người biên chế thành một đội, có một viên chánh đội trưởng suất đội và một Ban biện suất đội chỉ huy. Đội được mang số thứ tự từ một đến mười. Mười đội, tức 500 người họp thành một cơ, do một Quản cơ, Phó Quản cơ hiệp quản, Điển ty và mười Đội trưởng chỉ huy. Cơ đồn điền có phiên hiệu, theo từng tỉnh. Khi khai hoang thành khoảnh thì có thể chuyển từ cơ chế đồn điền sang cơ chế dân sự. Đồn điền trở thành làng, cơ trở thành tổng.
Song song với hình thức khai hoang lập đồn điền còn có hình thức khai hoang lập ấp. Đây là tổ chức dân sự, không bị nhiều câu thúc. Chỉ cần đủ 10 người dân hợp pháp để lập sổ đinh và bảo đảm sổ sưu thuế khoán của đơn vị họ. Họ được tự do khai phá, cày cấy. Khi thành khoảnh thì một ấp hoặc vài ba ấp họp lại thành làng. Dân đồn điền sinh hoạt theo nội qui quân đội. Họ phải sống tập trung, Pallu de la Bamègre trong Histoire de l’expédition de Cochinchine en 1861 (mà A. Schreiner trích dẫn trong Les lnstitutions annamites en Basse Cochinchine avant la conquête Fransaise -1900) đã mô tả khu doanh trại đồn điền như sau: “Ngôi nhà của viên quản đồn điền ở giữa, có một chiếc cổng, một chiếc trống không có chiến lũy bao quanh... ". Có chiếc trống hiệu lệnh chứng tỏ rằng thời gian sinh hoạt của dân đồn điền chặt chẽ. Có thể họ ra đồng hoặc xong việc trở về nhà theo trống lệnh. Cũng có thể họ tập hợp để luyện tập võ nghệ, hoặc sinh hoạt khác theo các điệu trống khác nhau.
Ngoài thời gian đồng áng, những lúc rảnh rỗi người dân đồn điền phải luyện tập võ nghệ và canh gác. Điểm canh thường đặt ở các vàm sông rạch, nơi có ghe thuyền qua lại " (Des chasseaux, đã dẫn chứng ở đoạn trước) cho biết: "Việc canh gác cũng như việc ra trận khi có chiến tranh là những bắt buộc quân sự duy nhất đối với đồn điền".
Theo tài liệu điều tra của Pháp lúc chúng mới đặt chân đến Nam kỳ thì đầu mỗi năm dân đồn điền phải tập hợp về tỉnh duyệt binh và ba năm có cuộc thi võ nghệ múa gươm và bắn súng để thăng cấp.
Mặc dù số lượng chất lượng
vũ khí cấp cho dân đồn điền không đáng kể lắm nhưng
có qui chế bảo quản kỹ lưỡng, mỗi đội có một khẩu
đại bác nhỏ. Khoảng 10 người được cấp súng; Còn
những người khác chỉ có giáo mác..." và chỉ có
"viên quản cơ phân phát vũ khí". Nhưng họ được
phép thay đổi vũ khí và được mang những súng nếu họ
tự cấp được " (Chú thích: Pallu de la Barrière. Tài
liệu đã dẫn.).
Quân đồn điền được cấp quân phục. Đó là loại áo trung khai (áo xẻ giữa bụng) màu đỏ, viền vàng. Quần cũng màu đỏ viền vàng. Họ đi chân trần, nhưng ống quần quấn xà cạp đến gối. Nón gô kết bằng tre sơn đỏ, trên có chóp thau, giống như chiếc nón lá nhưng nhỏ hơn. Y phục của các viên chỉ huy có khác đôi chút. Pallu de la Barrière mô tả chân dung một người dân đồn điền như sau “Họ đội loại nón nhỏ của quân lính An Nam, mặc áo xẻ vạt trước, quần tím hoặc hung đỏ. Những viên chỉ huy đeo một dây băng đen hay tím. Họ đeo cả các huy hiệu trên ngực áo ..." (tài liệu đã dẫn).
Sự thật đó là loại lễ phục của dân đồn điền. Hằng ngày họ phải lao động và canh gác chắc chắn với hoàn cảnh kinh tế thời đó, họ cũng lam lũ thường dân. Ngay như Pallu de Barriègre đã miêu tả cũng có điểm chứng tỏ quân đồn điền không được cấp đồng phục. Việc diễn tập quân sự hàng năm là việc làm tốn kém. Thế nên có năm thực hiện, có năm không còn. Việc canh gác và việc luyện tập quân sự hàng ngày là ích lợi thực tế, chắc chắn không bỏ sót được. Nhưng qui định này có ảnh hưởng đến lao động không? Không mấy ai đến Nam bộ khai hoang lập ấp mà không biết chút ít võ nghệ phòng thân.
Cuối cùng vào năm 1854 theo lời đề nghị của Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Bằng. Tự Đức phán: “việc cấp phát quân phục và lệ diễu hành hàng năm là việc không cần lắm. Tạm hoãn 3 năm " (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chíh biên. tập 11. đệ tứ kỷ.) Có lẽ sau đó tình trạng này vẫn còn tiếp diễn. Thế nên Nguyễn Đình Chiểu đã mô tả.
Vốn chẳng quân cơ, quân vệ; mà theo dòng ở lính diễn binh
Thiệt ròng dân ấp, dân lân; ra ứng nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ chưa kịp tập rèn
Mấy mươi trận binh thơ, không chờ bày bố
Ngoài cật che một manh áo vải; chi đợi bao tấu, bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông; chẳng luận dao tu, nón gõ
(Văn tế dân mộ nghĩa.)
Dân đồn điền là những người tiên phong tiến công vào Đồng Tháp Mười. Họ là người chẳng những cần có tính cần cù của nông dân mà còn phải bao gồm cái tài của một chiến sĩ. Họ là "tiền hiền", nói theo đồng bào Nam bộ, nên hình ảnh họ còn mãi trong lòng người dân địa phương.
Ở vùng Tháp Mười, ruộng sâu thường áp dụng kỹ thuật lúa cấy. Đầu tiên, nông dân dùng mạ non gieo tạm (dâm) trên ruộng cạn. Được một thời gian ngắn thì nhổ hay dùng dao bứng lên tét ra nhiều bụi và cấy xuống ruộng sâu. Bí quyết thành công là nông dân phải chọn đúng thời điểm. Nếu nhổ lúa sớm, lúa non, không thể tét ra được. Nếu nhổ trễ, lúa già. Cấy lần hai vô ích vì mạ già không phát triển được.
Ngày nay, thỉnh thoảng khi đào mương đào kinh đồng bào gặp những cây nọc khổng lồ. Kỹ thuật cấy lúa cấy và loại nọc cấy khổng lồ này không còn nên nhiều người thắc mắc. Người bảo đây là cây nọc cấy của những người “khổng lồ" xa xưa. Người bảo đây là nọc cấy của tổ tiên họ nhưng lại cho rằng lúc tổ tiên họ đến đây mở đất thì có kỹ thuật cấy lúa khác xa bây giờ. Thời đó cấy lúa phải có hai người. Một người đi trước xốc nách hai cây nọc khổng lồ đi cà kheo. Người theo sau nhét mạ vào lỗ nọc, nghe nói lối cấy đi tới này ai ai cũng lắc đầu thán phục.
Nông dân Tháp Mười còn có kỹ thuật phát cỏ gọi là “phát thế". Người biết phát thế được nông dân thán phục, gọi là “đạt đạo". “đạo" trừ cỏ dại. hay trước kia là "đạo" trừ Tây dương (Chú thích: Theo Sơn Nam trong "Hương Rừng Cà Mau ")
Phát cỏ theo "thế" nhanh hơn phát cỏ thông thường cũng khoảng diện tích ấy nhưng biết áp dụng kỹ thuật phát thế thì thời gian chỉ tốn khoảng một phần ba.
Người biết phát thế dành rất nhiều thời gian để mài cây phảng một cách công phu. Có người cặm cụi mài một hai ngày, phảng phát thế dài, nặng hơn cây phảng thường. Khi mài thì mài nghiêng giống như lưỡi đục, không mài liếc hai mặt như lưỡi dao. Người chuyên nghề phát thế rất quí cây phảng, xem như vũ khí riêng, không bao giờ đưa cho người khác sử dụng.
Khi bước xuống ruộng, người phát thế định thần, chân đứng “tấn” cầm phảng đúng “điệu", quơ ào ào như mưa sa bão táp. Muốn chọn “phát thế" phải giỏi võ nghệ và có sức khỏe hơn người.
Quân đồn điền được cấp quân phục. Đó là loại áo trung khai (áo xẻ giữa bụng) màu đỏ, viền vàng. Quần cũng màu đỏ viền vàng. Họ đi chân trần, nhưng ống quần quấn xà cạp đến gối. Nón gô kết bằng tre sơn đỏ, trên có chóp thau, giống như chiếc nón lá nhưng nhỏ hơn. Y phục của các viên chỉ huy có khác đôi chút. Pallu de la Barrière mô tả chân dung một người dân đồn điền như sau “Họ đội loại nón nhỏ của quân lính An Nam, mặc áo xẻ vạt trước, quần tím hoặc hung đỏ. Những viên chỉ huy đeo một dây băng đen hay tím. Họ đeo cả các huy hiệu trên ngực áo ..." (tài liệu đã dẫn).
Sự thật đó là loại lễ phục của dân đồn điền. Hằng ngày họ phải lao động và canh gác chắc chắn với hoàn cảnh kinh tế thời đó, họ cũng lam lũ thường dân. Ngay như Pallu de Barriègre đã miêu tả cũng có điểm chứng tỏ quân đồn điền không được cấp đồng phục. Việc diễn tập quân sự hàng năm là việc làm tốn kém. Thế nên có năm thực hiện, có năm không còn. Việc canh gác và việc luyện tập quân sự hàng ngày là ích lợi thực tế, chắc chắn không bỏ sót được. Nhưng qui định này có ảnh hưởng đến lao động không? Không mấy ai đến Nam bộ khai hoang lập ấp mà không biết chút ít võ nghệ phòng thân.
Cuối cùng vào năm 1854 theo lời đề nghị của Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Bằng. Tự Đức phán: “việc cấp phát quân phục và lệ diễu hành hàng năm là việc không cần lắm. Tạm hoãn 3 năm " (Chú thích: Đại Nam Thực Lục chíh biên. tập 11. đệ tứ kỷ.) Có lẽ sau đó tình trạng này vẫn còn tiếp diễn. Thế nên Nguyễn Đình Chiểu đã mô tả.
Vốn chẳng quân cơ, quân vệ; mà theo dòng ở lính diễn binh
Thiệt ròng dân ấp, dân lân; ra ứng nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ chưa kịp tập rèn
Mấy mươi trận binh thơ, không chờ bày bố
Ngoài cật che một manh áo vải; chi đợi bao tấu, bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông; chẳng luận dao tu, nón gõ
(Văn tế dân mộ nghĩa.)
Dân đồn điền là những người tiên phong tiến công vào Đồng Tháp Mười. Họ là người chẳng những cần có tính cần cù của nông dân mà còn phải bao gồm cái tài của một chiến sĩ. Họ là "tiền hiền", nói theo đồng bào Nam bộ, nên hình ảnh họ còn mãi trong lòng người dân địa phương.
Ở vùng Tháp Mười, ruộng sâu thường áp dụng kỹ thuật lúa cấy. Đầu tiên, nông dân dùng mạ non gieo tạm (dâm) trên ruộng cạn. Được một thời gian ngắn thì nhổ hay dùng dao bứng lên tét ra nhiều bụi và cấy xuống ruộng sâu. Bí quyết thành công là nông dân phải chọn đúng thời điểm. Nếu nhổ lúa sớm, lúa non, không thể tét ra được. Nếu nhổ trễ, lúa già. Cấy lần hai vô ích vì mạ già không phát triển được.
Ngày nay, thỉnh thoảng khi đào mương đào kinh đồng bào gặp những cây nọc khổng lồ. Kỹ thuật cấy lúa cấy và loại nọc cấy khổng lồ này không còn nên nhiều người thắc mắc. Người bảo đây là cây nọc cấy của những người “khổng lồ" xa xưa. Người bảo đây là nọc cấy của tổ tiên họ nhưng lại cho rằng lúc tổ tiên họ đến đây mở đất thì có kỹ thuật cấy lúa khác xa bây giờ. Thời đó cấy lúa phải có hai người. Một người đi trước xốc nách hai cây nọc khổng lồ đi cà kheo. Người theo sau nhét mạ vào lỗ nọc, nghe nói lối cấy đi tới này ai ai cũng lắc đầu thán phục.
Nông dân Tháp Mười còn có kỹ thuật phát cỏ gọi là “phát thế". Người biết phát thế được nông dân thán phục, gọi là “đạt đạo". “đạo" trừ cỏ dại. hay trước kia là "đạo" trừ Tây dương (Chú thích: Theo Sơn Nam trong "Hương Rừng Cà Mau ")
Phát cỏ theo "thế" nhanh hơn phát cỏ thông thường cũng khoảng diện tích ấy nhưng biết áp dụng kỹ thuật phát thế thì thời gian chỉ tốn khoảng một phần ba.
Người biết phát thế dành rất nhiều thời gian để mài cây phảng một cách công phu. Có người cặm cụi mài một hai ngày, phảng phát thế dài, nặng hơn cây phảng thường. Khi mài thì mài nghiêng giống như lưỡi đục, không mài liếc hai mặt như lưỡi dao. Người chuyên nghề phát thế rất quí cây phảng, xem như vũ khí riêng, không bao giờ đưa cho người khác sử dụng.
Khi bước xuống ruộng, người phát thế định thần, chân đứng “tấn” cầm phảng đúng “điệu", quơ ào ào như mưa sa bão táp. Muốn chọn “phát thế" phải giỏi võ nghệ và có sức khỏe hơn người.
Có huyền thoại còn lưu truyền
trong dân gian: Có ông chủ nọ thuê một anh nông dân phát
một đám ruộng khá rộng. Anh nông dân nọ ra đồng từ
lúc nào không ai rõ. Tài nghệ anh nông dân nọ như thế
nào cũng không ai hiểu. Trời vừa sáng, chủ ruộng lặn
lội đem xôi ra đồng cho người làm thuê. Thấy anh nông
dân làm thuê ngồi dựa gốc cây ung dung hút thuốc nhả
khói, ông chủ ruộng tức giận nói:
- Giờ này không chịu lội xuống ruộng, ngồi đó hút thuốc. Chờ tôi mời thỉnh gì nữa?
- Tôi phát rồi từ lâu. Ngồi hút thuốc chờ anh đem xôi ra để mình ăn chung cho vui.
Ông chủ ruộng không tin, bước xuống ruộng thấy đám lác đứt lìa gốc còn dựng đứng không kịp ngã. Trên ngọn lác mấy con chuồn chuồn vẫn bay tự nhiên. Mấy chú chim con vẫn còn kêu chiếp chiếp trong tổ. Lúc ấy ông chủ ruộng mới biết người làm thuê cho mình biết nghề phát cỏ thế.
Thầy Thủ Tọa Giao, tu sĩ ở chùa Thiền Hoa (Rạch Ruộng) là hậu duệ những người đi khai hoang mở đất trước kia có biệt tài phát cỏ thế. Trước năm 1945 nhiều người thảy ông biểu diễn.
- Giờ này không chịu lội xuống ruộng, ngồi đó hút thuốc. Chờ tôi mời thỉnh gì nữa?
- Tôi phát rồi từ lâu. Ngồi hút thuốc chờ anh đem xôi ra để mình ăn chung cho vui.
Ông chủ ruộng không tin, bước xuống ruộng thấy đám lác đứt lìa gốc còn dựng đứng không kịp ngã. Trên ngọn lác mấy con chuồn chuồn vẫn bay tự nhiên. Mấy chú chim con vẫn còn kêu chiếp chiếp trong tổ. Lúc ấy ông chủ ruộng mới biết người làm thuê cho mình biết nghề phát cỏ thế.
Thầy Thủ Tọa Giao, tu sĩ ở chùa Thiền Hoa (Rạch Ruộng) là hậu duệ những người đi khai hoang mở đất trước kia có biệt tài phát cỏ thế. Trước năm 1945 nhiều người thảy ông biểu diễn.
*
* *
* *
Cuộc khẩn hoang vào thời Tự
Đức chủ yếu tập trung vào hai tỉnh An Giang và Hà Tiên.
Tuy nhiên ở Định Tường, vùng Đồng Tháp Mười, ven Ba
Giồng thuộc hai huyện Kiến Đăng và Kiến Phong (Chú
thích: Dưới triều Tự Đức, tỉnh Định Tường có 4
huyện: Kiến Hòa, Kiến Hưng (Phủ Kiến An) Kiến Đăng,
Kiến Phong (thuộc phủ Kiến Tường).) vẫn còn hoang hóa
đã thu hút một lượng khá lớn lưu dân đến khai hoang.
Lưu dân tiến công vào Đồng Tháp Mười từ hai mặt: một
từ Ba Giồng vào và một từ sông Tiền, có thể kể thêm
một canh nữa từ phía sông Vàm Cỏ Tây. nhưng ở mặt
này lưu dân ít tiến sâu vào Đồng Tháp Mười vì sông
rạch thưa thớt hơn hai mặt kia.
Ngay dưới thời Gia Long (1819) do mật độ dân cư, thủ sớ Phong Kha Minh dời đến thủ sở Thông Bình ( thôn Vĩnh Thạnh, nay thuộc huyện Vĩnh Hưng (Long An) và thủ sở Thông Bình đến vùng sông Đa Giang (thuộc Hồng Ngự).
Đến năm 1836, khu vực Cao Lãnh (thuộc khố trường Bả Canh ngày trước xuất hiện nhiều thôn mới như Mỹ Ngãi, Nhị Mỹ, Phú Mỹ, An Long... Những thôn ấp này dần dần trở thành những tụ điểm cư dân quan trọng, đồng thời cũng là các điểm trung chuyển tập kết lưu dân để từ đó mạng lưới sông rạch từ sông Tiền tiến vào Đồng Tháp Mười. Đến năm 1851, chủ trương đưa tù phạm không phải là dân theo đạo Thiên chúa ở Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang vào cư trú ở vùng đất hoang Nam kỳ, được cấp trâu bò, lương thực để làm ruộng (Chú thích: Đại Nam Thực Lục quyển 10- trang 94-95, quyển 23 trang 265, quyển 27, trang 284-285.). Cuối cùng cũng phải kể đến sự nhập cư của người Chân Lạp thời Thiệu Trị (1841-1847); đã có nhiều thổ dân, thổ mục người Khơme đến ngụ cạnh bảo Thông Bình xin ở lại luôn làm ăn chớ không về Chân Lạp. Năm 1853, lại có thêm một số nữa đến sinh sống (Chú thích: Đại Nam Thực Lục quyển 27. trang 384-385. ).
Song do tính chất đất đai, hơn nữa chưa có hệ thống kinh đào để rửa phèn và đi lại nên một số không nhỏ đất đai sau khi khai phá đã phải bỏ hoang. Năm 1850, trong tỉnh Định Tường (cả vùng Đồng Tháp Mười) có tới 87 xã thôn bị "điêu hóa" và số ruộng đất mà chánh quyền buộc phải miễn thuế đến 14.843 mẫu nguyên trước có báo là khai khẩn nhưng sau là bỏ hoang.
Ở mặt Ba Giồng, lưu dân tiến quân vào Đồng Tháp Mười với nhịp độ nhanh hơn, các thôn ấp mới lần lượt xuất hiện theo thứ tự ngoài trước, trong sau; thôn Phú Nhuận (1819), Tân Đức (1820), Lợi Yên (1836), Phú Thuận Đông (1845), Giai Mỹ (1846), An Mỹ (1852), Mỹ Thạnh (1857...(Chú thích: Monographie de la province de My Tho. Tableau VIII. Canton de Lợi Thuận.)
Ngay dưới thời Gia Long (1819) do mật độ dân cư, thủ sớ Phong Kha Minh dời đến thủ sở Thông Bình ( thôn Vĩnh Thạnh, nay thuộc huyện Vĩnh Hưng (Long An) và thủ sở Thông Bình đến vùng sông Đa Giang (thuộc Hồng Ngự).
Đến năm 1836, khu vực Cao Lãnh (thuộc khố trường Bả Canh ngày trước xuất hiện nhiều thôn mới như Mỹ Ngãi, Nhị Mỹ, Phú Mỹ, An Long... Những thôn ấp này dần dần trở thành những tụ điểm cư dân quan trọng, đồng thời cũng là các điểm trung chuyển tập kết lưu dân để từ đó mạng lưới sông rạch từ sông Tiền tiến vào Đồng Tháp Mười. Đến năm 1851, chủ trương đưa tù phạm không phải là dân theo đạo Thiên chúa ở Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang vào cư trú ở vùng đất hoang Nam kỳ, được cấp trâu bò, lương thực để làm ruộng (Chú thích: Đại Nam Thực Lục quyển 10- trang 94-95, quyển 23 trang 265, quyển 27, trang 284-285.). Cuối cùng cũng phải kể đến sự nhập cư của người Chân Lạp thời Thiệu Trị (1841-1847); đã có nhiều thổ dân, thổ mục người Khơme đến ngụ cạnh bảo Thông Bình xin ở lại luôn làm ăn chớ không về Chân Lạp. Năm 1853, lại có thêm một số nữa đến sinh sống (Chú thích: Đại Nam Thực Lục quyển 27. trang 384-385. ).
Song do tính chất đất đai, hơn nữa chưa có hệ thống kinh đào để rửa phèn và đi lại nên một số không nhỏ đất đai sau khi khai phá đã phải bỏ hoang. Năm 1850, trong tỉnh Định Tường (cả vùng Đồng Tháp Mười) có tới 87 xã thôn bị "điêu hóa" và số ruộng đất mà chánh quyền buộc phải miễn thuế đến 14.843 mẫu nguyên trước có báo là khai khẩn nhưng sau là bỏ hoang.
Ở mặt Ba Giồng, lưu dân tiến quân vào Đồng Tháp Mười với nhịp độ nhanh hơn, các thôn ấp mới lần lượt xuất hiện theo thứ tự ngoài trước, trong sau; thôn Phú Nhuận (1819), Tân Đức (1820), Lợi Yên (1836), Phú Thuận Đông (1845), Giai Mỹ (1846), An Mỹ (1852), Mỹ Thạnh (1857...(Chú thích: Monographie de la province de My Tho. Tableau VIII. Canton de Lợi Thuận.)
Năm 1841, một số binh lính cũng
được điều đến tăng cường cho sở đồn điền Thuận
Lợi (có lẽ sau này thành tổng Lợi Thuận).
Trước đó, khoảng giữa thế kỷ 18 có một người tên là Lê Phước Tang được cử làm Chánh quản hướng dẫn một số người miền ngoài vào Nam tìm đất. So với các nhóm khác, nhóm di dân này đi muộn hơn nên bắt buộc phải đi sâu vào các ngọn rạch nhỏ. Họ lập làng Hòa Thuận (nay là ấp Hòa Nhơn, Hòa Trí và Hòa Nghĩa của xã Long Khánh huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Đây là làng hậu bối của làng Hòa Sơn, một làng thành lập trước, làng có chợ Cai Lậy. Hòa Thuận nằm cách rạch Ba Rài khoảng một vài cây số, cách sông Tiền trên mười lăm cây số. Vùng đất này đã khai thác trên hai trăm năm mà hiện nay vào mùa nắng vẫn còn một đôi chỗ mênh mông như biển cả, chứng tỏ rằng xưa kia không phải là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi.
Không biết rõ, nhóm của Lê Phước Tang khai khẩn được bao nhiêu ruộng, nhưng đến khi gia đình ông này bị Nguyễn Ánh bắt tội (1802) và kiếng họ Lê ở làng Hòa Thuận bị tru di (Chú thích: Do hai con trai của ông đã xúc phạm đến Nguyễn Ánh.), tài sản của Lê Phước Tang bị tịch thu, riêng số ruộng đất đến 200 mẫu. Theo địa bạ năm 1836 đời Minh Mạng thị số ruộng đất này ân cấp cho Khâm sai Tôn Thất Hội nên được gọi là "đồng quan". Một vài nơi lân cận như ở Hiệp Hòa (Hiệp Đức-Cai Lậy) và Hòa Khánh (Cái Bè) gia đình Khâm sai Tôn Thất Hội cũng được ân cấp một số ruộng đất khác nhưng chưa rõ nguồn gốc cũ.
Có lẽ việc ân cấp ruộng đất cho gia đình Tôn Thất Hội chỉ tượng trưng trên giấy tờ, hàng năm được lĩnh một phần thuế, chớ không trực tiếp quản lý. Nhiều tư liệu chứng tỏ cánh đồng Hòa Thuận được quản lý theo hình thức đồn điền. Phả ý nhiều dòng họ trong vùng cho biết thời đó có nhiều người làm Đội trưởng (đội trưởng đồn điền) hoặc Đội trưởng kiêm Trùm cả (chức vụ đầu làng vào đời Gia Long). Một dòng họ cố cựu nhất trong làng Hòa Thuận cho biết thủy tổ mình tên Nguyễn Văn Muồng quê ở Mộ Đức (Quảng Ngãi) đi vào. Từ đời này sang đời khác họ Nguyễn làm ruộng "tập thể" theo đội ngũ. Một chi họ Nguyễn khác cũng ở trong làng Hòa Thuận cho biết vào đời Gia Long, ông tổ mình đã chết sau một trận đòn vì tội ẩn dấu diện tích ruộng đất đã khai hoang được. Trên cánh "đồng quan" hiện nay còn nhiều gò đất cao ráo. Theo lời các bô lão thì đây là nền trại ruộng. Đặc điểm làm chúng ta chú ý nhất là làng Hòa Thuận nằm sâu trong đồng, nên sát mé rạch Ba Rài, ngoài ranh làng khoảng ngàn thước, có cất một cái kho chứa lúa. Địa điểm này thuộc làng Hòa Sơn huyện Kiến Đăng, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường. Thời Pháp thuộc làng Hòa Sơn bị tách đôi thuộc làng Thanh Sơn. Hiện nay tên gọi "Bến kho" vẫn còn tại ấp Hòa Hưng, xã Thanh Hòa, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
Có lẽ sở đồn điền ở Hòa Thuận là một phần của phiên hiệu Gia An vừa kể?
Biến cố Lê Văn Khôi,1833-1834, làm các sở đồn điền ở Nam kỳ tan rã. Lúc thế lực triều đình khôi phục có một viên Cai đội Phạm Văn Huy, lúc trước là thuộc hạ Lê Văn Duyệt, đã tập hợp được một số khá đông dân đồn điền cũ biên chế thành quân đội gom về khai thác đồn điền ở Cai Lậy. Theo Deschasseaux trong tạp chí Excursions ét Reconnaissances, tome XI, 1889, thì lúc thực dân mới chiếm, với ý đồ muốn giải tán các sở đồn điền nên chúng có điều tra các bô lão cho biết Phạm Văn Huy và đội quân đồn điền dưới quyền chỉ huy của ông đóng tại làng Thanh Sơn (tức phần đất "Bến Kho" vừa kể). Cũng theo Deschasseaux cho biết đội quân đồn điền này khai thác vùng Đồng Tháp Mười. Nhờ họ mà có chợ Cai Lậy và chợ Vàm Ngựa (Chú thích: Chợ Cai Lậy có từ thế kỷ thứ 18, Gia Định tinh thông chí có nhắc đến. Đúng ra phải nói nhờ đội đồn điền của Phạm Văn Huy mà chợ Cai Lậy phát triển. Có 2 địa danh Vàm Nhựa (Vàm Ngựa?): Rạch Vàm Nhựa ở xã Cẩm Sơn (Cai Lậy - Tiền Giang). Theo các bô lão tại đây có chợ Cái Lúa bị bãi bỏ từ lúc Tây mới qua. Rạch Vàm Nhựa ở xã Mỹ Đức Tây (Cái Bè-Tiền Giang) cả hai đều nằm trong khu vực đồn điền nhưng chưa xác định địa danh nào đúng nhất.).
Trước đó, khoảng giữa thế kỷ 18 có một người tên là Lê Phước Tang được cử làm Chánh quản hướng dẫn một số người miền ngoài vào Nam tìm đất. So với các nhóm khác, nhóm di dân này đi muộn hơn nên bắt buộc phải đi sâu vào các ngọn rạch nhỏ. Họ lập làng Hòa Thuận (nay là ấp Hòa Nhơn, Hòa Trí và Hòa Nghĩa của xã Long Khánh huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Đây là làng hậu bối của làng Hòa Sơn, một làng thành lập trước, làng có chợ Cai Lậy. Hòa Thuận nằm cách rạch Ba Rài khoảng một vài cây số, cách sông Tiền trên mười lăm cây số. Vùng đất này đã khai thác trên hai trăm năm mà hiện nay vào mùa nắng vẫn còn một đôi chỗ mênh mông như biển cả, chứng tỏ rằng xưa kia không phải là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi.
Không biết rõ, nhóm của Lê Phước Tang khai khẩn được bao nhiêu ruộng, nhưng đến khi gia đình ông này bị Nguyễn Ánh bắt tội (1802) và kiếng họ Lê ở làng Hòa Thuận bị tru di (Chú thích: Do hai con trai của ông đã xúc phạm đến Nguyễn Ánh.), tài sản của Lê Phước Tang bị tịch thu, riêng số ruộng đất đến 200 mẫu. Theo địa bạ năm 1836 đời Minh Mạng thị số ruộng đất này ân cấp cho Khâm sai Tôn Thất Hội nên được gọi là "đồng quan". Một vài nơi lân cận như ở Hiệp Hòa (Hiệp Đức-Cai Lậy) và Hòa Khánh (Cái Bè) gia đình Khâm sai Tôn Thất Hội cũng được ân cấp một số ruộng đất khác nhưng chưa rõ nguồn gốc cũ.
Có lẽ việc ân cấp ruộng đất cho gia đình Tôn Thất Hội chỉ tượng trưng trên giấy tờ, hàng năm được lĩnh một phần thuế, chớ không trực tiếp quản lý. Nhiều tư liệu chứng tỏ cánh đồng Hòa Thuận được quản lý theo hình thức đồn điền. Phả ý nhiều dòng họ trong vùng cho biết thời đó có nhiều người làm Đội trưởng (đội trưởng đồn điền) hoặc Đội trưởng kiêm Trùm cả (chức vụ đầu làng vào đời Gia Long). Một dòng họ cố cựu nhất trong làng Hòa Thuận cho biết thủy tổ mình tên Nguyễn Văn Muồng quê ở Mộ Đức (Quảng Ngãi) đi vào. Từ đời này sang đời khác họ Nguyễn làm ruộng "tập thể" theo đội ngũ. Một chi họ Nguyễn khác cũng ở trong làng Hòa Thuận cho biết vào đời Gia Long, ông tổ mình đã chết sau một trận đòn vì tội ẩn dấu diện tích ruộng đất đã khai hoang được. Trên cánh "đồng quan" hiện nay còn nhiều gò đất cao ráo. Theo lời các bô lão thì đây là nền trại ruộng. Đặc điểm làm chúng ta chú ý nhất là làng Hòa Thuận nằm sâu trong đồng, nên sát mé rạch Ba Rài, ngoài ranh làng khoảng ngàn thước, có cất một cái kho chứa lúa. Địa điểm này thuộc làng Hòa Sơn huyện Kiến Đăng, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường. Thời Pháp thuộc làng Hòa Sơn bị tách đôi thuộc làng Thanh Sơn. Hiện nay tên gọi "Bến kho" vẫn còn tại ấp Hòa Hưng, xã Thanh Hòa, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
Có lẽ sở đồn điền ở Hòa Thuận là một phần của phiên hiệu Gia An vừa kể?
Biến cố Lê Văn Khôi,1833-1834, làm các sở đồn điền ở Nam kỳ tan rã. Lúc thế lực triều đình khôi phục có một viên Cai đội Phạm Văn Huy, lúc trước là thuộc hạ Lê Văn Duyệt, đã tập hợp được một số khá đông dân đồn điền cũ biên chế thành quân đội gom về khai thác đồn điền ở Cai Lậy. Theo Deschasseaux trong tạp chí Excursions ét Reconnaissances, tome XI, 1889, thì lúc thực dân mới chiếm, với ý đồ muốn giải tán các sở đồn điền nên chúng có điều tra các bô lão cho biết Phạm Văn Huy và đội quân đồn điền dưới quyền chỉ huy của ông đóng tại làng Thanh Sơn (tức phần đất "Bến Kho" vừa kể). Cũng theo Deschasseaux cho biết đội quân đồn điền này khai thác vùng Đồng Tháp Mười. Nhờ họ mà có chợ Cai Lậy và chợ Vàm Ngựa (Chú thích: Chợ Cai Lậy có từ thế kỷ thứ 18, Gia Định tinh thông chí có nhắc đến. Đúng ra phải nói nhờ đội đồn điền của Phạm Văn Huy mà chợ Cai Lậy phát triển. Có 2 địa danh Vàm Nhựa (Vàm Ngựa?): Rạch Vàm Nhựa ở xã Cẩm Sơn (Cai Lậy - Tiền Giang). Theo các bô lão tại đây có chợ Cái Lúa bị bãi bỏ từ lúc Tây mới qua. Rạch Vàm Nhựa ở xã Mỹ Đức Tây (Cái Bè-Tiền Giang) cả hai đều nằm trong khu vực đồn điền nhưng chưa xác định địa danh nào đúng nhất.).
George Durwell trong tạp chí
Bulletin de la Société des études Indochinoises, số 36. 1898
cũng lập lại toàn bộ chi tiết mà Deschaseaux đã kể và
cho biết thêm một số chi tiết là sau khi Lê Văn Duyệt
mất các đồn điền tan rã. Nhưng chẳng bao lâu đại bộ
phận của họ tập hợp dưới quyền một trong các cấp
chỉ huy cũ của họ tên là Phạm Văn Huy để lập đồn
điền Tân Sơn (Tân Sơn là một trong năm làng trên cù lao
Năm thôn ở Cai Lậy). Đây là một vùng đất được nhân
dân ta khai thác sớm nhưng do vị trí được phù sa lắng
đọng liên tục nên còn nhiều bãi bồi. Chúng ta không
thể tưởng tượng được qui mô khu vực Tân Sơn, nhưng
qua quan sát chúng ta khẳng định không thể so sánh với
khu Hòa Thuận được. Có lẽ đây cũng là một bộ phận
của Gia An?
Theo tờ tấu của Võ Duy Dương dâng lên Tự Đức thì nghĩa quân của ông đã hoạt động ở vùng rạch Cái Gáo, làng Giai Mỹ, Ấp Đại Điền. Rạch Cái Gáo nằm trong ngọn rạch Bà Tôn nay cũng thuộc địa phận Cai Lậy. Tại vàm Cái Gáo có làng Giai Mỹ. Làng Giai Mỹ thành lập đầu thế kỷ 19, là vùng thiên nhiên khắc nghiệt nên đất rộng, người thưa. Ngọn rạch Cái Gáo nối liền với ngọn rạch Cái Bè tại Xoài Tư rồi thông qua ngọn rạch Cái Thia hay rạch Ruộng.
Theo Monographie de la propince de My Tho năm 1937 thì tại làng Mỹ Thiện (nằm trên bờ rạch Cái Thia) có nhiều sở đồn điền. Thế nên khí thực dân Pháp vừa nổ phát súng đầu tiên tại Gia Định thì một cơ sở tôn giáo của triều đình nhà Nguyễn là chùa sắc tứ Kim Chương (tức chùa Phổ Quang hay Thiên Trường) đã lật đật dời về vùng hậu cần của triều đình tại Mỹ Thiện. Và sau này để che mắt địch chùa Kim Chương đã nhận lấy một cái tên mới lạ là chùa Hội Thọ.
Trong địa bạ năm 1836 đời Minh Mạng vùng phân huyện Kiến Đăng (tức xung quanh Đồng Tháp Mười) có ba làng đặc biệt: Tổng Lợi Thạnh là vùng đất mới khai phá nên chỉ có duy nhất một làng là làng Giai Thạnh có 500 mẫu ruộng. Tổng Phong Hòa có làng Long Phúc có 300 mẫu, làng Lương Điền có 427 mẫu. Ba làng này chỉ hoàn toàn là đất công, không có đất tư nhân. Chúng ta hiểu đó là đồn điền do Nhà nước phong kiến quản lý.
Mặc dù chưa có tư liệu thành văn nhưng chúng ta biết chắc chắn làng Giai Thạnh (tổng Lợi Thạnh nay thuộc vùng Cao Lãnh (Đồng Tháp). Còn hai làng Long Phúc và Lương Điền (tổng Phong Hòa) nay nằm trong địa giới các xã Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Trinh và Hậu Mỹ Phú huyện Cái Bè (Tiền Giang). Tại Hậu Mỹ Trinh hiện còn địa danh "Mộc bài " (bài gỗ cắm ranh ruộng) cũng góp một tư liệu nhỏ để chứng minh đây là một khu vực đồn điền. Địa danh "Lương Điền" trong địa bạ 1838 làm chúng la liên tưởng đến địa danh “Đại Điền " trong báo cáo của Võ Duy Dương hay địa danh "Rạch Ruộng " trong dân gian. Phải chăng đây là bộ phận chính của phiên hiệu Gia An?
Võ Duy Dương dựa vào các sở đồn điền xung quanh Tháp Mười để làm cơ sở kháng chiến, tất nhiên trước đó ông phải quen thuộc vùng đất này. Chúng ta cũng có thể kết luận nguồn hậu cần của Võ Duy Dương đã chuẩn bị trước đó khá lâu, từ thời có phiên hiệu Gia An hay trước đó nữa, chớ không phải có từ năm 1853 tức là năm Nguyễn Tri Phương vào Nam xây dựng đồn điền. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò của ông đã củng cố nguồn hậu cần cho cuộc khởi nghĩa do Võ Duy Đương lãnh đạo sau này.
Theo tờ tấu của Võ Duy Dương dâng lên Tự Đức thì nghĩa quân của ông đã hoạt động ở vùng rạch Cái Gáo, làng Giai Mỹ, Ấp Đại Điền. Rạch Cái Gáo nằm trong ngọn rạch Bà Tôn nay cũng thuộc địa phận Cai Lậy. Tại vàm Cái Gáo có làng Giai Mỹ. Làng Giai Mỹ thành lập đầu thế kỷ 19, là vùng thiên nhiên khắc nghiệt nên đất rộng, người thưa. Ngọn rạch Cái Gáo nối liền với ngọn rạch Cái Bè tại Xoài Tư rồi thông qua ngọn rạch Cái Thia hay rạch Ruộng.
Theo Monographie de la propince de My Tho năm 1937 thì tại làng Mỹ Thiện (nằm trên bờ rạch Cái Thia) có nhiều sở đồn điền. Thế nên khí thực dân Pháp vừa nổ phát súng đầu tiên tại Gia Định thì một cơ sở tôn giáo của triều đình nhà Nguyễn là chùa sắc tứ Kim Chương (tức chùa Phổ Quang hay Thiên Trường) đã lật đật dời về vùng hậu cần của triều đình tại Mỹ Thiện. Và sau này để che mắt địch chùa Kim Chương đã nhận lấy một cái tên mới lạ là chùa Hội Thọ.
Trong địa bạ năm 1836 đời Minh Mạng vùng phân huyện Kiến Đăng (tức xung quanh Đồng Tháp Mười) có ba làng đặc biệt: Tổng Lợi Thạnh là vùng đất mới khai phá nên chỉ có duy nhất một làng là làng Giai Thạnh có 500 mẫu ruộng. Tổng Phong Hòa có làng Long Phúc có 300 mẫu, làng Lương Điền có 427 mẫu. Ba làng này chỉ hoàn toàn là đất công, không có đất tư nhân. Chúng ta hiểu đó là đồn điền do Nhà nước phong kiến quản lý.
Mặc dù chưa có tư liệu thành văn nhưng chúng ta biết chắc chắn làng Giai Thạnh (tổng Lợi Thạnh nay thuộc vùng Cao Lãnh (Đồng Tháp). Còn hai làng Long Phúc và Lương Điền (tổng Phong Hòa) nay nằm trong địa giới các xã Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Trinh và Hậu Mỹ Phú huyện Cái Bè (Tiền Giang). Tại Hậu Mỹ Trinh hiện còn địa danh "Mộc bài " (bài gỗ cắm ranh ruộng) cũng góp một tư liệu nhỏ để chứng minh đây là một khu vực đồn điền. Địa danh "Lương Điền" trong địa bạ 1838 làm chúng la liên tưởng đến địa danh “Đại Điền " trong báo cáo của Võ Duy Dương hay địa danh "Rạch Ruộng " trong dân gian. Phải chăng đây là bộ phận chính của phiên hiệu Gia An?
Võ Duy Dương dựa vào các sở đồn điền xung quanh Tháp Mười để làm cơ sở kháng chiến, tất nhiên trước đó ông phải quen thuộc vùng đất này. Chúng ta cũng có thể kết luận nguồn hậu cần của Võ Duy Dương đã chuẩn bị trước đó khá lâu, từ thời có phiên hiệu Gia An hay trước đó nữa, chớ không phải có từ năm 1853 tức là năm Nguyễn Tri Phương vào Nam xây dựng đồn điền. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò của ông đã củng cố nguồn hậu cần cho cuộc khởi nghĩa do Võ Duy Đương lãnh đạo sau này.
Chung quanh vấn đề
tiểu sử Võ Duy Dương
Võ Duy Dương là một trong các lãnh tụ kháng chiến chống thực dân Pháp đầu tiên ở Việt Nam. Trong những năm đầu của cuộc đề kháng, lực lượng của ông đặt dưới quyền chỉ huy chung của Trương Định. Nghĩa quân dưới quyền trực tiếp do Võ Duy Dương và người trợ thủ đắc lực là Nguyễn Hữu Huân chỉ huy đã chịu trách nhiệm trên một địa bàn rất rộng và hết sức sung yếu. Đó là giải đất Ba Giồng (gọi theo địa danh cũ) chạy dài từ phía Nam sông Vàm Cỏ Tây qua gò Cai Én đến Bình Cách, gò Trấn Định rồi gò Cai Lữ, Thuộc Nhiêu... kéo đến tận Cái Thia, Cái Bè; ngăn chặn sự xâm nhập của thực dân Pháp vào sâu trong nội địa tỉnh Định Tường. Đến khi Trương Định anh dũng hy sinh (24/8/1864) ở Kiểng Phước (Gò Công) Nguyễn Hữu Huân bị Phan Khắc Thận hèn nhát giao cho Pháp, nghĩa quân Võ Duy Dương trở thành trung tâm thu hút các lực lượng yêu nước ở Nam Kỳ và địa bàn hoạt động lan rộng khắp Định Tường, Vĩnh Long: An Giang, Hà Tiên, biên giới Việt - Campuchia. Và đáng nói hơn hết là Võ Duy Dương đã sử dụng Đồng Tháp Mười - một địa thế sình lầy đầy lau sậy, đỉa, muỗi, không có đường giao thông - làm lợi thế chiến lược gây cho thực dân Pháp nhiều phen kinh hoàng, đồng thời để lại cho các thế hệ sau nhiều kinh nghiệm quí báu trong quá trình chống giặc giữ nước.
Ấy thế, mà đến nay tiểu sử người anh hùng Đồng Tháp Mười vẫn còn nhiều mảng trắng, còn nhiều nghi vấn.
Thân thế, quê quán, năm sinh, năm mất, nơi mất, năm vào Nam. Về chức danh Thiên Hộ và mối quan hệ giữa ông với Nguyễn Hữu Huân là những vấn đề quan trọng cần thương xác.
I. Quê quán và thân thế Võ Duy Dương
Do điều kiện tài liệu, nên hầu hết các tác phẩm viết về Võ Duy Dương trước đây chưa trình bày đầy đủ về thân thế và quê quán của ông. Về vấn đề này, có thể chia các tác phẩm trước đây ra 4 khuynh hướng khác nhau:
- Không đề cập tới lai lịch và dòng dõi của Võ Duy Dương: là các quyển Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức (Chú thích: Khai Trí XB, Sài Còn 1970), Lịch sử Việt Nam (1858-cuối thế kỷ XIX) quyển 3, tập I, phần 1 (Chú thích: NXB Giáo dục 1979.), Lịch sử Việt Nam tập II- của ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (Chú thích: NXB Khoa học xã hội Việt Nam).
- Xác định là không rõ quê quán và năm sinh của Võ Duy Dương: là các tác phẩm “Việt sử Tân Biên" (Việt Nam kháng Pháp sử của Phạm Văn Sơn) quyển V, tập Thượng (Chú thích: Sài Gòn 1962). "Đồng Tháp Mười và cuộc kháng chiến của Thiên Hộ Dương" của Võ Bá Hài (Chú thích: Tạp chí Phổ thông số 63 năm 1960 trang 10-16), “Bốn vị anh hùng kháng chiến miền Nam" của Thái Bạch (Chú thích: Sống Mới. Sài Gòn 1957).
- Cho rằng Võ Duy Dương là người miền Nam, là các bài viết về Thiên Hộ Dương của Nguyễn Văn Hầu (Chú thích: Bản chép tay của Trần Văn Thông cháu ngoại của Thủ Khoa Huân, gợi vợ của Võ Duy Dương bằng cô ruột).
- Xác đinh cụ thể quê quán của Võ Duy Dương ở Bình Định duy nhất là quyển Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân Tiểu truyện (Chú thích: Văn hóa nguyệt san số50, 52-1960 Sg).
Thời gian qua, chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề này, nên đã bỏ nhiều công sức để truy tầm.
Trong chuyến đi thực địa từ ngày 10 đến ngày 14/11/1989 tại Bình Định với sự kết hợp của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bình Định, chúng tôi (Chú thích: Tổ NCLS Dân tộc Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp.) đã may mắn xác định được quê quán của Võ Duy Dương.
Đó là thôn Cù Lâm Nam, nay là Nam Tượng xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn (Bình Định). Hiện nay Nam Tượng là một thôn nhỏ độ mươi nóc gia nằm dưới chân núi Thơm (bên tay phải đường 19 từ Qui Nhơn đi lên) cách sông Côn 4 km về phía Nam, cách làng Kiên Mỹ (quê hương Nguyễn Huệ) 12 km.
Theo bản đồ Hồng Đức (năm Hồng Đức thứ 21, 1490)
thì Bình Định lúc bấy giờ mang tên phủ Hoài Nhơn gồm
ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly (Phù Cát) và Tuy Viễn (Tuy
Phước). Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi thành phủ Qui Nhơn.
Trong những năm 1771 - 1799, Qui Nhơn là cái nôi của phong
trào nông dân Tây Sơn, với người anh hùng dân tộc kiệt
xuất Nguyễn Huệ - Quang Trung. Năm 1799 Nguyễn Ánh chiếm
được thành Hoàng Đế đổi Qui Nhơn ra Bình Định.
Trước năm 1945, Bình Định có bốn phủ: Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, Phù Mỹ và ba huyện: Phù Cát, Hoài Ân và thành phố Qui Nhơn. Năm 1947 lập thêm ba huyện miền núi: An Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh.
Địa hình tự nhiên Bình Định rất đa dạng, có đủ rừng núi, đồng bằng và ven biển. Đồi núi chiếm 4/5 diện tích, núi không cao lắm nhưng rất hiểm trở. Đồng bằng tuy nhỏ hẹp (chỉ chiếm 17,5% diện tích) song là cánh đồng lớn ở Trung bộ sau Thanh Hóa và Nghệ An. Bờ biển dài ngót 140 km, với nhiều cửa sông, đầm sâu, cảng lớn.
Bình Định nằm ở một vị trí địa lý quan trọng có tầm chiến lược, là tụ điểm của nhiều đường giao thông thủy bộ. Đường thiên lý Bắc Nam, đường từ biển lên Tây nguyên qua Đông Bắc Campuchia - Hạ Lào gặp nhau ở đây. Do vậy, Bình Định đã từng là nơi diễn ra những cuộc đụng đầu lịch sử: Việt Nam - Champa với Nguyên Mông, Tây Sơn với Nguyễn Ánh...
Bình Định là địa bàn cư ngụ của các dân bản địa lâu đời: Bana, Radhé, Champa... đó là các sắc dân tha thiết với cuộc sống tự do, bản chất kiên cường chân thật. Lớp người Kinh (Việt) định cư đầu tiên ở đây vốn là lưu dân, là dân mộ, là tội đồ, là tù phạm, tù binh... tức là những lớp người dưới đáy của xã hội phong kiến. Tổ tiên anh em của Nguyễn Huệ vốn là "tù binh" của chúa Nguyễn trong những trận đánh nhau với chúa Trịnh trong các năm (1653 - l658). Những lớp người mất tự do và khốn cùng đó, cả Kinh lẫn Thượng sớm biết đoàn kết lại, không tiếc mồ hôi, xương máu biến vùng đất hoang dã ở vùng phiên trấn (Chú thích: Từ 1470 - 1611 dãy núi Cù Mông là biên giới giữa Đại Việt và Champa.) thành những làng xóm đông đúc trù phú
Để có sức mạnh đương đầu với cuộc sống hằng ngày của vùng phiên trấn, người Bình Định phải thường xuyên trau dồi võ thuật, từ đó Bình Định trở thành một vùng nổi tiếng về bộ môn này, nhất là dòng võ Tây Sơn độc đáo. Võ thuật đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, cha truyền con nối. Hai câu ca dao :
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cầm roi, đi quyền
đã nói lên tính phổ biến của loại hình sinh hoạt này trong dân gian. Suốt một thời gian dài trên 200 năm (1667 - 1884) ở Bình Định đều có tổ chức các kỳ thi võ thu hút sĩ tử cả một vùng từ Nam Ngãi đến Phú Khánh.
Chính những điều kiện kình tế - xã hội và hoàn cảnh lịch sử đã tạo cho cư dân Bình Định vừa có những phẩm chất cao quí chung của người Việt (như cần cù và sáng tạo, nhân ái, kiên cường) vừa có bản sắc riêng: đó là tính khẳng khái, hào hiệp, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn.
Võ Duy Dương sinh ra và lớn lên ở một thôn nhỏ, được bao quanh bởi những dãy đồi núi chập chùng, sau lưng là núi Thơm, trước mặt là núi Hòn Giang, bên trái là núi An Tượng, bên phải là sông Côn, xa xa về phía trước mặt là núi Chàng Lía.
Tổ sáu đời của Võ Duy Dương từ miền Bắc (Chú thích: Họ Võ có gia phả, nhưng đã bị thiêu hủy vào năm 1972.) là Võ Hữu Man vào Cù Lâm Nam (Nam Tượng, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn) lập nghiệp đến nay con cháu vẫn còn nhiều người cư ngụ tại thôn này. Các thế hệ tiếp theo sau là Võ Văn Thạnh, Võ Văn Tín, Võ Hữu Sự và Võ Hữu Đức.
Võ Hữu Đức có tất cả là bảy người con, nhưng còn sống đến khi trưởng thành có 5 người, ba trai, hai gái: Võ Hứa Biểu, Võ Duy Tân, Võ Duy Đương, Võ Thị Viết và Võ Thị Bảy.
Đến đời Võ Hữu Đức, gia đình họ Võ vẫn chuyên nghề làm ruộng dù không mấy khá giả, nhưng ông vẫn cố gắng cho con học một ít chữ nho với thầy đồ ở trong thôn.
Trước năm 1945, Bình Định có bốn phủ: Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, Phù Mỹ và ba huyện: Phù Cát, Hoài Ân và thành phố Qui Nhơn. Năm 1947 lập thêm ba huyện miền núi: An Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh.
Địa hình tự nhiên Bình Định rất đa dạng, có đủ rừng núi, đồng bằng và ven biển. Đồi núi chiếm 4/5 diện tích, núi không cao lắm nhưng rất hiểm trở. Đồng bằng tuy nhỏ hẹp (chỉ chiếm 17,5% diện tích) song là cánh đồng lớn ở Trung bộ sau Thanh Hóa và Nghệ An. Bờ biển dài ngót 140 km, với nhiều cửa sông, đầm sâu, cảng lớn.
Bình Định nằm ở một vị trí địa lý quan trọng có tầm chiến lược, là tụ điểm của nhiều đường giao thông thủy bộ. Đường thiên lý Bắc Nam, đường từ biển lên Tây nguyên qua Đông Bắc Campuchia - Hạ Lào gặp nhau ở đây. Do vậy, Bình Định đã từng là nơi diễn ra những cuộc đụng đầu lịch sử: Việt Nam - Champa với Nguyên Mông, Tây Sơn với Nguyễn Ánh...
Bình Định là địa bàn cư ngụ của các dân bản địa lâu đời: Bana, Radhé, Champa... đó là các sắc dân tha thiết với cuộc sống tự do, bản chất kiên cường chân thật. Lớp người Kinh (Việt) định cư đầu tiên ở đây vốn là lưu dân, là dân mộ, là tội đồ, là tù phạm, tù binh... tức là những lớp người dưới đáy của xã hội phong kiến. Tổ tiên anh em của Nguyễn Huệ vốn là "tù binh" của chúa Nguyễn trong những trận đánh nhau với chúa Trịnh trong các năm (1653 - l658). Những lớp người mất tự do và khốn cùng đó, cả Kinh lẫn Thượng sớm biết đoàn kết lại, không tiếc mồ hôi, xương máu biến vùng đất hoang dã ở vùng phiên trấn (Chú thích: Từ 1470 - 1611 dãy núi Cù Mông là biên giới giữa Đại Việt và Champa.) thành những làng xóm đông đúc trù phú
Để có sức mạnh đương đầu với cuộc sống hằng ngày của vùng phiên trấn, người Bình Định phải thường xuyên trau dồi võ thuật, từ đó Bình Định trở thành một vùng nổi tiếng về bộ môn này, nhất là dòng võ Tây Sơn độc đáo. Võ thuật đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, cha truyền con nối. Hai câu ca dao :
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cầm roi, đi quyền
đã nói lên tính phổ biến của loại hình sinh hoạt này trong dân gian. Suốt một thời gian dài trên 200 năm (1667 - 1884) ở Bình Định đều có tổ chức các kỳ thi võ thu hút sĩ tử cả một vùng từ Nam Ngãi đến Phú Khánh.
Chính những điều kiện kình tế - xã hội và hoàn cảnh lịch sử đã tạo cho cư dân Bình Định vừa có những phẩm chất cao quí chung của người Việt (như cần cù và sáng tạo, nhân ái, kiên cường) vừa có bản sắc riêng: đó là tính khẳng khái, hào hiệp, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn.
Võ Duy Dương sinh ra và lớn lên ở một thôn nhỏ, được bao quanh bởi những dãy đồi núi chập chùng, sau lưng là núi Thơm, trước mặt là núi Hòn Giang, bên trái là núi An Tượng, bên phải là sông Côn, xa xa về phía trước mặt là núi Chàng Lía.
Tổ sáu đời của Võ Duy Dương từ miền Bắc (Chú thích: Họ Võ có gia phả, nhưng đã bị thiêu hủy vào năm 1972.) là Võ Hữu Man vào Cù Lâm Nam (Nam Tượng, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn) lập nghiệp đến nay con cháu vẫn còn nhiều người cư ngụ tại thôn này. Các thế hệ tiếp theo sau là Võ Văn Thạnh, Võ Văn Tín, Võ Hữu Sự và Võ Hữu Đức.
Võ Hữu Đức có tất cả là bảy người con, nhưng còn sống đến khi trưởng thành có 5 người, ba trai, hai gái: Võ Hứa Biểu, Võ Duy Tân, Võ Duy Đương, Võ Thị Viết và Võ Thị Bảy.
Đến đời Võ Hữu Đức, gia đình họ Võ vẫn chuyên nghề làm ruộng dù không mấy khá giả, nhưng ông vẫn cố gắng cho con học một ít chữ nho với thầy đồ ở trong thôn.
Theo lời kể của cụ Võ Quế
(Chú thích: Cụ Võ Quế, 85 tuổi (1989) cháu nội của Võ
Duy Dương.) lúc thiếu thời Võ Duy Dương đã có tiếng là
khỏe mạnh và giỏi võ nghệ và đặc biệt là ông ăn
rất khỏe. Khi cha qua đời, gia đình sa sút, ông phải đi
ở chăn trâu để sinh sống. Sinh ra và lớn lên trong
truyền thống thượng võ, lại có sức mạnh hơn người,
nên ngay từ nhỏ Võ Duy Dương thường tụ tập bè bạn
chia phe đánh trận giả. Một hôm ông lỡ mạnh tay làm
chết một người bạn. May nhờ một vị quan sở tại cảm
thông hoàn cảnh gia đình và ái mộ võ nghệ của ông,
không buộc tội và còn nhận làm con nuôi. Có điều kiện
học tập, võ nghệ của ông ngày một tinh thông. Trong một
kỳ thi võ, ông cử được một lúc 5 trái linh (mỗi trái
60 cân) (Chú thích: (Hai tay xách hai trái, hai nách kẹp hai
trái, miệng cắn một trái.) nên từ đó mọi người gọi
ông là Ngũ Linh Dương (Chú thích: Dưới triều Tự Đức
(1847 - 1885) ở Bình Định thường xuyên tổ chức các kỳ
thi võ. Đến nay chưa phát hiện được tư liệu nào nói
Võ Duy Dương có tham dự thi võ ở Bình Định.).
Lúc trưởng thành, ông lấy bà Phạm Thị Liệu, người thôn Tráng Long cùng huyện (Chú thích: Nay cũng thuộc xã Nhơn Tân) và đến 1855, bà Liệu hạ sinh người con trai đầu. Tiếp theo vài năm sau đó bà sinh người con trai thứ hai trong lúc ông lên đường vào Nam.
Cũng theo lời tường thuật của cụ Võ Quế trong thời gian ở Nam Kỳ, Võ Duy Dương có lấy vợ hai và đã sinh được hai người con trai tên là Võ Châu và Võ Phong. (Điều này đã được các bô lão ở Bắc Chiêng (Mộc Hóa, Long An) xác nhận là khi ở trong Nam Võ Duy Dương đã được một ông hương cả gả con gái cho). Nhưng tên tuổi và quê quán bà này chưa xác nhận được. Sau khi Võ Duy Dương qua đời, có một người đàn bà ở trong Nam ra Huế tâu với triều đình về hoạt động chống Pháp và gia đình của Võ Duy Dương ở trong Nam. Sau đó bà tìm đến gia đình của Võ Duy Dương ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định), rồi sống chung với gia đình một thời gian và qua đời tại đây. Hiện nay mộ của bà này nằm chung trong khu mộ gia đình họ Võ dưới chân núi Thơm (Chú thích: Cụm khu mộ này có 4 mộ: một là của vợ Võ Hữu Đức, hai là của bà Phạm Thị Liệu, ba là của bà Đồng Nai. cụm khu mộ phía bên kia đường 19 là mộ của ông Võ Hữu Đức... Tất cả đều là mộ đất, nấm đuôi cá, không mộ bia.) cách ngôi mộ của bà Phạm Thị Liệu (vợ lớn của Võ Duy Dương không xa mấy) và ngôi mộ này được gọi là mộ của bà Đồng Nai.
Một điều làm cho chúng tôi hết sức thắc mắc là chính cụ Võ Quế cũng không xác định người đàn bà được gọi là bà Đồng Nai có phải là vợ thứ của Võ Duy Dương hay không, ông chỉ giải thích là khi ông mười tuổi bà này vẫn còn sống ở trong nhà và ai cũng gọi là bà Đồng Nai (vì bà này ở xứ Đồng Nai tức miền Nam).
Vấn đề bà Đồng Nai có phải là vợ hai của Võ Duy Dương hay không là vấn đề khác. Còn việc Võ Duy Dương có vợ hai trong Nam thì quá rõ. Gần đây, chúng tôi phát hiện ở Trung tâm Lưu Trữ II tại thành phố Hồ Chí Minh, một tư liệu rất quan trọng (Chú thích: Dưới ký hiệu SL.4522 - Tài liệu này trước đây (có thể là trước 1975) đã ghi chú là thất lạc.), có nhiều điểm liên quan đến tiểu sử của Võ Duy Dương. Trong tập tư liệu này có một số giấy tờ liên quan đến người vợ thứ của Võ Duy Dương :
- Tờ bẩm của Trần Văn Học xin cho con gái của Trần Thị Vàng, vợ thứ của Võ Duy Dương, ra đầu thú (bằng chữ Hán) ngày 10/10 Kỷ Tỵ (tức 14/11/1869).
- Tờ bẩm của Trần Văn Học với nội dung như trên viết bằng chữ quốc ngữ (không đề ngày).
- Bản dịch ra tiếng Pháp tờ bẩm bằng chữ quốc ngữ của Trần Văn Học (đề ngày 24/9/1869).
- Điện của Giám đốc Nội vụ (Đổng lý dinh Thượng Thơ) gởi Tham biện Mỹ Tho số 9626 (ngày 26/9/1869).
- Điện tín của Tham biện Mỹ Tho gởi Giám đốc Nội vụ Sài Gòn (Đổng lý dinh Thượng Thơ) số 5024 ngày 26/9/1 869 lúc 10 giờ 40 sáng.
Lúc trưởng thành, ông lấy bà Phạm Thị Liệu, người thôn Tráng Long cùng huyện (Chú thích: Nay cũng thuộc xã Nhơn Tân) và đến 1855, bà Liệu hạ sinh người con trai đầu. Tiếp theo vài năm sau đó bà sinh người con trai thứ hai trong lúc ông lên đường vào Nam.
Cũng theo lời tường thuật của cụ Võ Quế trong thời gian ở Nam Kỳ, Võ Duy Dương có lấy vợ hai và đã sinh được hai người con trai tên là Võ Châu và Võ Phong. (Điều này đã được các bô lão ở Bắc Chiêng (Mộc Hóa, Long An) xác nhận là khi ở trong Nam Võ Duy Dương đã được một ông hương cả gả con gái cho). Nhưng tên tuổi và quê quán bà này chưa xác nhận được. Sau khi Võ Duy Dương qua đời, có một người đàn bà ở trong Nam ra Huế tâu với triều đình về hoạt động chống Pháp và gia đình của Võ Duy Dương ở trong Nam. Sau đó bà tìm đến gia đình của Võ Duy Dương ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định), rồi sống chung với gia đình một thời gian và qua đời tại đây. Hiện nay mộ của bà này nằm chung trong khu mộ gia đình họ Võ dưới chân núi Thơm (Chú thích: Cụm khu mộ này có 4 mộ: một là của vợ Võ Hữu Đức, hai là của bà Phạm Thị Liệu, ba là của bà Đồng Nai. cụm khu mộ phía bên kia đường 19 là mộ của ông Võ Hữu Đức... Tất cả đều là mộ đất, nấm đuôi cá, không mộ bia.) cách ngôi mộ của bà Phạm Thị Liệu (vợ lớn của Võ Duy Dương không xa mấy) và ngôi mộ này được gọi là mộ của bà Đồng Nai.
Một điều làm cho chúng tôi hết sức thắc mắc là chính cụ Võ Quế cũng không xác định người đàn bà được gọi là bà Đồng Nai có phải là vợ thứ của Võ Duy Dương hay không, ông chỉ giải thích là khi ông mười tuổi bà này vẫn còn sống ở trong nhà và ai cũng gọi là bà Đồng Nai (vì bà này ở xứ Đồng Nai tức miền Nam).
Vấn đề bà Đồng Nai có phải là vợ hai của Võ Duy Dương hay không là vấn đề khác. Còn việc Võ Duy Dương có vợ hai trong Nam thì quá rõ. Gần đây, chúng tôi phát hiện ở Trung tâm Lưu Trữ II tại thành phố Hồ Chí Minh, một tư liệu rất quan trọng (Chú thích: Dưới ký hiệu SL.4522 - Tài liệu này trước đây (có thể là trước 1975) đã ghi chú là thất lạc.), có nhiều điểm liên quan đến tiểu sử của Võ Duy Dương. Trong tập tư liệu này có một số giấy tờ liên quan đến người vợ thứ của Võ Duy Dương :
- Tờ bẩm của Trần Văn Học xin cho con gái của Trần Thị Vàng, vợ thứ của Võ Duy Dương, ra đầu thú (bằng chữ Hán) ngày 10/10 Kỷ Tỵ (tức 14/11/1869).
- Tờ bẩm của Trần Văn Học với nội dung như trên viết bằng chữ quốc ngữ (không đề ngày).
- Bản dịch ra tiếng Pháp tờ bẩm bằng chữ quốc ngữ của Trần Văn Học (đề ngày 24/9/1869).
- Điện của Giám đốc Nội vụ (Đổng lý dinh Thượng Thơ) gởi Tham biện Mỹ Tho số 9626 (ngày 26/9/1869).
- Điện tín của Tham biện Mỹ Tho gởi Giám đốc Nội vụ Sài Gòn (Đổng lý dinh Thượng Thơ) số 5024 ngày 26/9/1 869 lúc 10 giờ 40 sáng.
Qua 5 văn bản trên, chúng tôi
thấy rằng Võ Duy Dương trong thời gian ở Nam Kỳ ngoài
người vợ thứ có hai người con trai (Võ Châu, Võ Phong)
như đã đề cập ở phần trên, còn có một người vợ
thứ nữa, bà này tên Trần Thị Vàng con của bá hộ Trần
Văn Học người làng Bình Cách, tổng Thạnh Quận, huyện
Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là xã Tân Thạnh, huyện
Chợ Gạo, Tiền Giang). Bà Trần Thị Vàng đã có một đưa
con gái với Võ Duy Dương. Nguyên văn tờ bẩm, bằng chữ
quốc ngữ như sau :
"Bẩm lạy,
"Quan lớn Lại Bộ Thượng Thơ xin thứ tội cho con gái chúng tôi. Tôi tên là Trần Văn Học ở làng Bình Cách, tổng Thạnh Quận, huyện Kiến Hòa bây giờ thuộc về Sở Tham Biện Mỹ Tho. Năm trước Thiên Hộ Dương làm ngụy thì có bắt hiếp con gái tôi tà Thị Vàng làm vợ lẽ có đẻ ra một đứa con gái, rồi Thiên Hộ Dương trốn chết đi, thì con gái tôi cũng sợ mà trốn biệt đi. Đến hôm nay tôi ra đầu thú với quan Tham biện mà về an nghiệp, rồi thì tôi mới kiếm được con gái tôi và nó ở với Thiên Hộ Dương có sinh một đứa con gái thì tôi sợ có tội, nên tôi phải ra thú thật với quan lớn rộng dung cho phép mẹ con chúng nó được về an nghiệp thì tôi mới dám nuôi mẹ con chúng nó sum hiệp một nhà, chúng tôi sẽ cám ơn quan lớn không cùng.
Nay bẩm "
Trần Văn Học
(Chú thích: Nguyên bản tờ bẩm không có chấm, phẩy.)
Một chi tiết đáng lưu ý trong tờ bẩm của Trần Văn Học là: "Thiên Hộ Dương làm ngụy có bắt hiếp con gái tôi là Thị Vàng..."
Sự thật như thế nào?
Đây tờ bẩm xin cho con gái ra qui thuận, dĩ nhiên Trần Văn Học phải trình bày việc con gái ông (Trần Thị Vàng) trở thành vợ thứ của Võ Duy Dương là do sự ép buộc của Võ Duy Dương chớ không do sự ưng thuận của Trần Thị Vàng và ông.
Dù hiện nay không có tư liệu gì về cuộc hôn nhân này, nhưng chúng ta có quyền suy luận: một người giàu có như bá hộ Trần Văn Học, lại nhiệt tình yêu nước quyết chống giặc ngoại xâm: đã ủng hộ quan quân triều đình tiền của để đánh giặc (Chú thích: Đại Nam Thực Lục. Tập XX/X, trang 26, chép: "Dân hạt Định Tường (Trần Văn Ngọ, Nguyễn Văn Cẩm, Trần Văn Học, Từ Thi Đế..) tự nguyện đem quyên sắt sống (8000 cân) tiền (2.700 quan) gạo (200 phương), để) giúp quân nhu. Quan tỉnh đem việc ấy tâu lên, vua ban khen thưởng cho biển ngạch, áo lụa màu, ngân tiền có thứ bậc khác nhau) rồi lại ủng hộ phong trào Võ Duy Dương mà không đồng ý cho con gái mình se duyên với người cầm đầu của phong trào hay sao và chính Trần Văn Học lại là thông gia với Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân (Chú thích: Con Trần Văn Học là Trần Văn Thạnh cưới con gái Thủ khoa Huân là Nguyễn Thị Vạn).
Hơn nữa, sau khi thực dân Pháp chiếm Định Tường, các nhà giàu, viên chức của triều đình phần lớn bỏ đi nơi khác hoặc yêu cầu được sự che chở của một lực lượng võ trang đề phòng giặc Pháp tấn công. Điều này đã được ghi trong báo cáo của Võ Duy Dương “Những quan binh và những nhà phú hộ van nài (Võ Duy Dương) đừng xa rời họ mà tiếp tục chống giặc, họ sẽ lập một đơn vị quân sự, hứa giúp đỡ và tiếp tế”(Chú thích: Gustave Janneau - Tài liệu đd.), Sự thể này cũng đã được De Grammont xác nhận: mùa hè năm 1861, hầu hết các quan phủ, huyện cũ trong các tỉnh bị chiếm, cũng như các viên chức hội tề giàu có đều chạy trốn, người về Biên Hòa, người về Vĩnh Long, tất cả ngoài vùng Đồng Nai hay vùng sông lớn (sông Tiền) được quân chính qui đã tập hợp tại đây che chở. Chính ở những địa điểm này, các quan lớn nhận được lệnh của kinh đô (Huế) và quyết định lập lại uy quyền của nhà vua trong tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, tung ra khắp các địa phận của ta những tên mật thám và những bản thông báo nảy lửa khuyến khích đó đây đối phó và ám sát" (Chú thích: De Grammont "Onze Moi de sous-préfecture en Basse Cochinchine"- Challamel Ainé, Paris 1863.)
Hai xác nhận này cộng với việc ra qui thuận của Trần Văn Học đã gián tiếp khẳng định sự ủng hộ của ông ta đối với Võ Duy Dương. Đồng thời điều này cũng giúp cho ta thấy được thực chất của việc Trần Thị Vàng, con Trần Văn Học, trở thành vợ thứ của Võ Duy Dương.
"Bẩm lạy,
"Quan lớn Lại Bộ Thượng Thơ xin thứ tội cho con gái chúng tôi. Tôi tên là Trần Văn Học ở làng Bình Cách, tổng Thạnh Quận, huyện Kiến Hòa bây giờ thuộc về Sở Tham Biện Mỹ Tho. Năm trước Thiên Hộ Dương làm ngụy thì có bắt hiếp con gái tôi tà Thị Vàng làm vợ lẽ có đẻ ra một đứa con gái, rồi Thiên Hộ Dương trốn chết đi, thì con gái tôi cũng sợ mà trốn biệt đi. Đến hôm nay tôi ra đầu thú với quan Tham biện mà về an nghiệp, rồi thì tôi mới kiếm được con gái tôi và nó ở với Thiên Hộ Dương có sinh một đứa con gái thì tôi sợ có tội, nên tôi phải ra thú thật với quan lớn rộng dung cho phép mẹ con chúng nó được về an nghiệp thì tôi mới dám nuôi mẹ con chúng nó sum hiệp một nhà, chúng tôi sẽ cám ơn quan lớn không cùng.
Nay bẩm "
Trần Văn Học
(Chú thích: Nguyên bản tờ bẩm không có chấm, phẩy.)
Một chi tiết đáng lưu ý trong tờ bẩm của Trần Văn Học là: "Thiên Hộ Dương làm ngụy có bắt hiếp con gái tôi là Thị Vàng..."
Sự thật như thế nào?
Đây tờ bẩm xin cho con gái ra qui thuận, dĩ nhiên Trần Văn Học phải trình bày việc con gái ông (Trần Thị Vàng) trở thành vợ thứ của Võ Duy Dương là do sự ép buộc của Võ Duy Dương chớ không do sự ưng thuận của Trần Thị Vàng và ông.
Dù hiện nay không có tư liệu gì về cuộc hôn nhân này, nhưng chúng ta có quyền suy luận: một người giàu có như bá hộ Trần Văn Học, lại nhiệt tình yêu nước quyết chống giặc ngoại xâm: đã ủng hộ quan quân triều đình tiền của để đánh giặc (Chú thích: Đại Nam Thực Lục. Tập XX/X, trang 26, chép: "Dân hạt Định Tường (Trần Văn Ngọ, Nguyễn Văn Cẩm, Trần Văn Học, Từ Thi Đế..) tự nguyện đem quyên sắt sống (8000 cân) tiền (2.700 quan) gạo (200 phương), để) giúp quân nhu. Quan tỉnh đem việc ấy tâu lên, vua ban khen thưởng cho biển ngạch, áo lụa màu, ngân tiền có thứ bậc khác nhau) rồi lại ủng hộ phong trào Võ Duy Dương mà không đồng ý cho con gái mình se duyên với người cầm đầu của phong trào hay sao và chính Trần Văn Học lại là thông gia với Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân (Chú thích: Con Trần Văn Học là Trần Văn Thạnh cưới con gái Thủ khoa Huân là Nguyễn Thị Vạn).
Hơn nữa, sau khi thực dân Pháp chiếm Định Tường, các nhà giàu, viên chức của triều đình phần lớn bỏ đi nơi khác hoặc yêu cầu được sự che chở của một lực lượng võ trang đề phòng giặc Pháp tấn công. Điều này đã được ghi trong báo cáo của Võ Duy Dương “Những quan binh và những nhà phú hộ van nài (Võ Duy Dương) đừng xa rời họ mà tiếp tục chống giặc, họ sẽ lập một đơn vị quân sự, hứa giúp đỡ và tiếp tế”(Chú thích: Gustave Janneau - Tài liệu đd.), Sự thể này cũng đã được De Grammont xác nhận: mùa hè năm 1861, hầu hết các quan phủ, huyện cũ trong các tỉnh bị chiếm, cũng như các viên chức hội tề giàu có đều chạy trốn, người về Biên Hòa, người về Vĩnh Long, tất cả ngoài vùng Đồng Nai hay vùng sông lớn (sông Tiền) được quân chính qui đã tập hợp tại đây che chở. Chính ở những địa điểm này, các quan lớn nhận được lệnh của kinh đô (Huế) và quyết định lập lại uy quyền của nhà vua trong tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, tung ra khắp các địa phận của ta những tên mật thám và những bản thông báo nảy lửa khuyến khích đó đây đối phó và ám sát" (Chú thích: De Grammont "Onze Moi de sous-préfecture en Basse Cochinchine"- Challamel Ainé, Paris 1863.)
Hai xác nhận này cộng với việc ra qui thuận của Trần Văn Học đã gián tiếp khẳng định sự ủng hộ của ông ta đối với Võ Duy Dương. Đồng thời điều này cũng giúp cho ta thấy được thực chất của việc Trần Thị Vàng, con Trần Văn Học, trở thành vợ thứ của Võ Duy Dương.
Tưởng cũng nên nhắc tới, hiện nay trong dân gian vùng
Bình Cách còn lưu truyền câu chuyện “ông Năm Linh Bà
Bảy Vàng". Chuyện kể rằng : “ông Năm Linh (Chú
thích: Tức ông Ngũ Linh.) người miền Trung, võ nghệ cao
cường, tánh tình cương trực hay làm việc nghĩa giao du
rộng... vào Nam lập nghiệp. Lúc Tây xâm lược Nam Kỳ,
ông đứng ra chiêu mộ nghĩa dõng, quyên góp lúa gạo mua
súng đạn đánh Tây, được nhiều người hưởng ứng.
Bá hộ Học là điền chủ giàu có nhất nhì trong vùng
chẳng những ủng hộ lúa gạo mà còn bán ruộng lấy
tiền bạc mua súng đạn ủng hộ nghĩa quân. Để khích
lệ người anh hùng, có chí lớn, bá hộ Học đem “đưa"
con gái duy nhất là bà Bảy Vàng cho ông Năm Linh. Từ khi
về với ông Năm Linh, dù là “gái đưa" chứ không
phải là vợ chính thức có cưới hỏi, nhưng bà Bảy
Vàng chẳng những một lòng chung thủy thờ chồng mà còn
giúp chồng nhiều việc trong công cuộc quốc sự. Khi ông
Năm Linh cùng nghĩa quân rút vào Đồng Tháp Mười bà cũng
theo chồng để lo việc tiếp tế lương thực nuôi quân.
Đến khi đại đồn Tháp Mười thất thủ, ông Năm Linh
theo ghe bầu về Huế cầu viện, bà ở lại nuôi con chờ
chồng. Nhưng ông Năm Linh bị chết ngoài biển, bà buồn
rầu mà mất".
Điều này càng làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa Trần Thị Vàng với Võ Duy Dương. Lại thêm một vấn đề nữa cần phải làm sáng tỏ. Trần Văn Học khai rằng Trần Thị Vàng đã có một con gái với Võ Duy Dương. Như vậy, ở trong Nam Võ Duy Dương có tới hai vợ thứ:
- Bà thứ nhất là mẹ của Võ Châu và Võ Phong.
- Bà thứ hai là Trần Thị Vàng.
Nhưng cũng có khả năng hai bà này chỉ là một. Trần Văn Học khai Trần Thị Vàng có một đứa con gái với Võ Duy Dương phải chăng để đánh lừa thực dân Pháp cốt để đảm bảo sự an toàn cho Võ Châu và Võ Phong?
II. Về năm sanh, năm mất và nơi mất của Võ Duy Dương
Về năm sinh của Võ Duy Dương trước đây không thấy sử cũ nói đến.
Theo nguồn cung cấp của gia đình họ Võ ở Nhơn Tân ( An Nhơn, Bình Định) thì Võ Duy Dương sinh vào năm Bính Tuất tức năm Minh Mạng thứ 8 (1827) ông là con thứ ba trong gia đình, sau Võ Hữu Biểu và Võ Duy Tân.
Theo tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bình Định, thì Võ Duy Tân anh Võ Duy Dương có tham gia phong trào chống Pháp ở Bình Định do Mai Xuân Thưởng chỉ huy, ông có mặt trong trận đánh Bàu Sấu (Hương Sơn, Lai Nghi) vào tháng 2 năm 1887. Sau khi Mai Xuân Thưởng đền nợ nước, ông lại tham gia phong trào do Võ Trứ chỉ huy và đã bị thực dân Pháp bắt. Chúng chém ông với nhiều nghĩa quân khác tại Gò Chàm (Bình Định) ngày 13/9 năm Đinh Dậu (tức ngày 9/10/1898). Năm đó Võ Duy Tân thọ 73 tuổi. Như vậy là Võ Duy Tân sinh năm 1825.
Võ Duy Dương là em, nhỏ hơn anh hai tuổi, sinh năm 1827 là hợp lý và cũng trùng khớp với nguồn tư liệu của gia đình.
Còn về năm mất và nơi mất của ông, dù đã có nhiều nỗ lực tìm kiếm xác minh, nhưng đến nay tư liệu vẫn còn nhiều mâu thuẫn.
Trong quyển Định Tường Thủ Khoa Huân tiểu truyện” ở hồi thứ tư có đoạn chép : "Hai người nghe tin ấy (Chú thích: Pháp đòi quan tỉnh An Giang bắt Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân nộp cho chúng.), duy có một mình Thiên Hộ Dương trở về Định Tường đắp đồn đắp bảo ở Tháp Mười, chiêu tập binh ứng nghĩa. Được một năm, Tháp Mười thất thủ, Thiên Hộ Dương bèn về Trung Kỳ ẩn cư ở Hương Giang rồi qua đời".
Ở quyển Nam Kỳ Phong tục nhân vật diễn ca (Chú thích: Nguyễn Liên Phong - Nam Kỳ Nhân loạt phong tục diễn ca. NXB Phát Toán - Sài Gòn 1909, tr.67.), Nguyễn Liên Phong viết :
Điều này càng làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa Trần Thị Vàng với Võ Duy Dương. Lại thêm một vấn đề nữa cần phải làm sáng tỏ. Trần Văn Học khai rằng Trần Thị Vàng đã có một con gái với Võ Duy Dương. Như vậy, ở trong Nam Võ Duy Dương có tới hai vợ thứ:
- Bà thứ nhất là mẹ của Võ Châu và Võ Phong.
- Bà thứ hai là Trần Thị Vàng.
Nhưng cũng có khả năng hai bà này chỉ là một. Trần Văn Học khai Trần Thị Vàng có một đứa con gái với Võ Duy Dương phải chăng để đánh lừa thực dân Pháp cốt để đảm bảo sự an toàn cho Võ Châu và Võ Phong?
II. Về năm sanh, năm mất và nơi mất của Võ Duy Dương
Về năm sinh của Võ Duy Dương trước đây không thấy sử cũ nói đến.
Theo nguồn cung cấp của gia đình họ Võ ở Nhơn Tân ( An Nhơn, Bình Định) thì Võ Duy Dương sinh vào năm Bính Tuất tức năm Minh Mạng thứ 8 (1827) ông là con thứ ba trong gia đình, sau Võ Hữu Biểu và Võ Duy Tân.
Theo tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bình Định, thì Võ Duy Tân anh Võ Duy Dương có tham gia phong trào chống Pháp ở Bình Định do Mai Xuân Thưởng chỉ huy, ông có mặt trong trận đánh Bàu Sấu (Hương Sơn, Lai Nghi) vào tháng 2 năm 1887. Sau khi Mai Xuân Thưởng đền nợ nước, ông lại tham gia phong trào do Võ Trứ chỉ huy và đã bị thực dân Pháp bắt. Chúng chém ông với nhiều nghĩa quân khác tại Gò Chàm (Bình Định) ngày 13/9 năm Đinh Dậu (tức ngày 9/10/1898). Năm đó Võ Duy Tân thọ 73 tuổi. Như vậy là Võ Duy Tân sinh năm 1825.
Võ Duy Dương là em, nhỏ hơn anh hai tuổi, sinh năm 1827 là hợp lý và cũng trùng khớp với nguồn tư liệu của gia đình.
Còn về năm mất và nơi mất của ông, dù đã có nhiều nỗ lực tìm kiếm xác minh, nhưng đến nay tư liệu vẫn còn nhiều mâu thuẫn.
Trong quyển Định Tường Thủ Khoa Huân tiểu truyện” ở hồi thứ tư có đoạn chép : "Hai người nghe tin ấy (Chú thích: Pháp đòi quan tỉnh An Giang bắt Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân nộp cho chúng.), duy có một mình Thiên Hộ Dương trở về Định Tường đắp đồn đắp bảo ở Tháp Mười, chiêu tập binh ứng nghĩa. Được một năm, Tháp Mười thất thủ, Thiên Hộ Dương bèn về Trung Kỳ ẩn cư ở Hương Giang rồi qua đời".
Ở quyển Nam Kỳ Phong tục nhân vật diễn ca (Chú thích: Nguyễn Liên Phong - Nam Kỳ Nhân loạt phong tục diễn ca. NXB Phát Toán - Sài Gòn 1909, tr.67.), Nguyễn Liên Phong viết :
"Thoát thân về
với ghe bầu,
Khỏi nơi Cần Hải tiền xu đoán thoàn.
Giấc nồng đêm dậy nhảy khan,
Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cần "
Khỏi nơi Cần Hải tiền xu đoán thoàn.
Giấc nồng đêm dậy nhảy khan,
Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cần "
Như vậy có nghĩa là Võ Duy Dương chết ở cửa biển Cần Giờ.
Trong khi đó, cuốn Binh địa Định
Tường (Chú thích: Binh địa Định Tường (tr.36.), lại
chép: ..."Sau, ông bệnh thương hàn và mất. Dân chúng
có lập ngôi chùa kế mộ ông để ghi nhớ công ơn tại
tọa độ 48 PXS, 093537, ấp Hậu Trinh, thuộc xã Hậu Mỹ
quận Cái Bè”.
Tác giả Thái Bạch trong quyển "Bốn vị anh hùng kháng chiến miền Nam" thì cho rằng: Võ Duy Dương chết vì bệnh kiết lỵ (Chú thích: Sống mới, XB.Sai gon. 1957.).
Trong dân gian cũng có nhiều nguồn tư liệu đáng lưu ý :
- Theo các bô lão ở Bắc Chiêng (Mộc Hóa, Long An) thì Võ Duy Dương bị bệnh lỵ (kiết lỵ) chết tại Bắc Chiêng và đem về an táng ở xã Thiên Hộ (nay là xã Hậu Mỹ Bắc, Cái Bè, Tiền Giang).
- Còn dư luận dân gian ở xã Mỹ Thọ huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp thì sau khi thất thủ ở Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương rút qua An Giang, Rạch Giá bị cướp biển chặn đánh và chết ở cửa biển Rạch Giá.
Các nguồn tư liệu trên đều qui về hai hướng: một là Võ Duy Dương chết vì bệnh ở Đồng Tháp Mười, hai là chết vì bị đắm thuyền hay bị cướp, nhưng địa điểm lại khác nhau.
Đối với hướng thứ nhất, phần lớn các nguồn tư liệu thiếu chứng cứ Nếu Võ Duy Dương bệnh chết ở Đồng Tháp Mười thì sẽ có mộ của ông ở khu vực này. Chỉ có quyển Binh địa Định Tường nêu rõ mộ Võ Duy Dương ở ấp Hậu Trinh xã Hậu Mỹ (Cái Bè, Tiền Giang) nay là xã Hậu Mỹ Trinh (Cái Bè, Tiền Giang). Tư liệu này còn cung cấp cả tọa độ của ngôi mộ. Nhưng khi tiến hành xác minh tại địa điểm này (Chú thích: Chúng tôi đã dè dặt xác minh luôn 4 xã Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Trinh, Mỹ Thành Bắc, Mỹ Thành Nam (khu vực giáp ranh hai huyện Cái Bè, Cai Lậy của Tiền Giang). Nơi có định danh cổ là Xoài Tư, vùng mà Võ Duy Dương thường xuyên tới lui hoạt động trước khi rút vào Gò Tháp. Riêng tại tọa độ 48PXS. 093537 là chùa Mộc Bài, có nhiều mộ cổ, nhưng tất cả đều có mộ bia xác minh cụ thể tên tuổi người quá cố.) thì ngay cả những người già nhất ở địa phương cũng nói là từ xưa đến nay không hề nghe nói có mộ Võ Duy Dương ở đây.
Ở hướng thứ hai, ngoài các tư liệu trình bày trên, trong Đại Nam thực lục (Chú thích: Đệ Tứ Kỷ. Q XXXI trang 65.) có đoạn chép "Tháng 9... Thiên Hộ Dương ủy người về dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt phải hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa. Rồi được quan Thuận Khánh báo rằng Võ Duy Dương đi thuyền về Bình Thuận đầu thú gặp gió bị đắm ở phần biển Thần Mẫu, sai tìm xác, chi đồ vật chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5 quan tiền, một phương gạo".
So với tài liệu trên, tài liệu của Đại Nam Thực Lục đáng tin cậy hơn. Theo đó. Thiên hộ Võ Duy Dương mất vào tháng 9 Tự Đức thứ XIX tức là vào tháng 10 năm 1866, lúc ấy ông mới 39 tuổi.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên trong tài liệu vừa phát hiện được ở Trung tâm Lưu Trữ II (Thành phố Hồ Chí Minh) (Chú thích: Ký hiệu SL 4522 (tài liệu đã dẫn).) ngoài các văn bản liên quan đến người vợ thứ của Võ Duy Dương còn bốn văn bản khác liên quan đến cái chết của ông:
Qua nội dung các văn bản, ta biết được hồ sơ này được mật thám Pháp lập vào khoảng 1881, vì lúc bấy giờ có một số cuộc nổi dậy ở Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Mỏ Cày... mà người cầm đầu xưng là Thiên Hộ, nên thực dân Pháp mới tung mật thám đi xác minh xem Thiên Hộ đây có phải là Võ Duy Dương hay không. Và chúng cũng đã kết luận rằng người tự xưng là Thiên Hộ ở đây không phải là Võ Duy Dương vì Võ Duy Dương đã chết. Tài liệu đã cung cấp 3 chi tiết rất quan trọng về cái chết, năm chết và nơi an táng của Võ Duy Dương hoàn toàn khác với các tư liệu trước đây.
Về cái chết của Võ Duy Dương, trong báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh gởi cho Chánh sở Mật thám, Hạnh viết:
"Tôi có vinh dự để cung cấp cho ông những tin tức về Thiên Hộ. Người này tên là Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp Mười bị chiếm, ông ta lên một chiếc ghe cửa để đi Bình Thuận, trước khi đến xứ này, ông đã bị tên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển tấn công, Lý Sen đi trên một chiếc thuyền mành mà người ta gọi là “Thiền du" đã cho liệng xuống biển tất cả những người An Nam đi trên chiếc ghe cửa này. Lý Sen lấy tất cả đồ đạc trong ghe và sau đó nhận chìm ghe. Lý Sen lục lọi trong một chiếc rương lớn lấy tất cả áo quần, các cấp bằng và mũ miện của Thiên Hộ Nguyên soái tên là Võ Duy Dương".
Tác giả Thái Bạch trong quyển "Bốn vị anh hùng kháng chiến miền Nam" thì cho rằng: Võ Duy Dương chết vì bệnh kiết lỵ (Chú thích: Sống mới, XB.Sai gon. 1957.).
Trong dân gian cũng có nhiều nguồn tư liệu đáng lưu ý :
- Theo các bô lão ở Bắc Chiêng (Mộc Hóa, Long An) thì Võ Duy Dương bị bệnh lỵ (kiết lỵ) chết tại Bắc Chiêng và đem về an táng ở xã Thiên Hộ (nay là xã Hậu Mỹ Bắc, Cái Bè, Tiền Giang).
- Còn dư luận dân gian ở xã Mỹ Thọ huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp thì sau khi thất thủ ở Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương rút qua An Giang, Rạch Giá bị cướp biển chặn đánh và chết ở cửa biển Rạch Giá.
Các nguồn tư liệu trên đều qui về hai hướng: một là Võ Duy Dương chết vì bệnh ở Đồng Tháp Mười, hai là chết vì bị đắm thuyền hay bị cướp, nhưng địa điểm lại khác nhau.
Đối với hướng thứ nhất, phần lớn các nguồn tư liệu thiếu chứng cứ Nếu Võ Duy Dương bệnh chết ở Đồng Tháp Mười thì sẽ có mộ của ông ở khu vực này. Chỉ có quyển Binh địa Định Tường nêu rõ mộ Võ Duy Dương ở ấp Hậu Trinh xã Hậu Mỹ (Cái Bè, Tiền Giang) nay là xã Hậu Mỹ Trinh (Cái Bè, Tiền Giang). Tư liệu này còn cung cấp cả tọa độ của ngôi mộ. Nhưng khi tiến hành xác minh tại địa điểm này (Chú thích: Chúng tôi đã dè dặt xác minh luôn 4 xã Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Trinh, Mỹ Thành Bắc, Mỹ Thành Nam (khu vực giáp ranh hai huyện Cái Bè, Cai Lậy của Tiền Giang). Nơi có định danh cổ là Xoài Tư, vùng mà Võ Duy Dương thường xuyên tới lui hoạt động trước khi rút vào Gò Tháp. Riêng tại tọa độ 48PXS. 093537 là chùa Mộc Bài, có nhiều mộ cổ, nhưng tất cả đều có mộ bia xác minh cụ thể tên tuổi người quá cố.) thì ngay cả những người già nhất ở địa phương cũng nói là từ xưa đến nay không hề nghe nói có mộ Võ Duy Dương ở đây.
Ở hướng thứ hai, ngoài các tư liệu trình bày trên, trong Đại Nam thực lục (Chú thích: Đệ Tứ Kỷ. Q XXXI trang 65.) có đoạn chép "Tháng 9... Thiên Hộ Dương ủy người về dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt phải hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa. Rồi được quan Thuận Khánh báo rằng Võ Duy Dương đi thuyền về Bình Thuận đầu thú gặp gió bị đắm ở phần biển Thần Mẫu, sai tìm xác, chi đồ vật chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5 quan tiền, một phương gạo".
So với tài liệu trên, tài liệu của Đại Nam Thực Lục đáng tin cậy hơn. Theo đó. Thiên hộ Võ Duy Dương mất vào tháng 9 Tự Đức thứ XIX tức là vào tháng 10 năm 1866, lúc ấy ông mới 39 tuổi.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên trong tài liệu vừa phát hiện được ở Trung tâm Lưu Trữ II (Thành phố Hồ Chí Minh) (Chú thích: Ký hiệu SL 4522 (tài liệu đã dẫn).) ngoài các văn bản liên quan đến người vợ thứ của Võ Duy Dương còn bốn văn bản khác liên quan đến cái chết của ông:
Qua nội dung các văn bản, ta biết được hồ sơ này được mật thám Pháp lập vào khoảng 1881, vì lúc bấy giờ có một số cuộc nổi dậy ở Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Mỏ Cày... mà người cầm đầu xưng là Thiên Hộ, nên thực dân Pháp mới tung mật thám đi xác minh xem Thiên Hộ đây có phải là Võ Duy Dương hay không. Và chúng cũng đã kết luận rằng người tự xưng là Thiên Hộ ở đây không phải là Võ Duy Dương vì Võ Duy Dương đã chết. Tài liệu đã cung cấp 3 chi tiết rất quan trọng về cái chết, năm chết và nơi an táng của Võ Duy Dương hoàn toàn khác với các tư liệu trước đây.
Về cái chết của Võ Duy Dương, trong báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh gởi cho Chánh sở Mật thám, Hạnh viết:
"Tôi có vinh dự để cung cấp cho ông những tin tức về Thiên Hộ. Người này tên là Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp Mười bị chiếm, ông ta lên một chiếc ghe cửa để đi Bình Thuận, trước khi đến xứ này, ông đã bị tên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển tấn công, Lý Sen đi trên một chiếc thuyền mành mà người ta gọi là “Thiền du" đã cho liệng xuống biển tất cả những người An Nam đi trên chiếc ghe cửa này. Lý Sen lấy tất cả đồ đạc trong ghe và sau đó nhận chìm ghe. Lý Sen lục lọi trong một chiếc rương lớn lấy tất cả áo quần, các cấp bằng và mũ miện của Thiên Hộ Nguyên soái tên là Võ Duy Dương".
Nguyễn Đức Hạnh còn cung cấp thêm sau đó Lý Sen bị
bắt vì bị Hai Sĩ tố cáo y đã cướp bóc nhiều ghe
biển. Lý Sen cắn lưỡi chết trong ngục.
Về năm mất của Võ Duy Dương, trong một báo cáo không đề ngày có đoạn ghi :
“Các giấy tờ theo đây có lẽ cho ta thấy là tên này (Võ Duy Dương Tg) đã chết vào năm 1 869. Cách duy nhất để tin chắc có lẽ nên viết về Mỹ Tho để biết coi người vợ thứ của ông ta vẫn ở Bình Cách (Mỹ Tho)”
Trong công văn số 307 ngày 23/2/1881, có đoạn ghi:
“Những giấy tờ mà Nha chỉ huy có, cho thấy tên này (Võ Duy Dương - Tg) coi như đã chết năm 1869. Để tin chắc tốt nhất về việc này, ông có thể viết cho quan cai trị Mỹ Tho nhắc lại những sự kiện sau đây :
Người vợ thứ của Thiên Hộ, con gái của Trần Văn Học, tên là Trần Thị Vàng đã qui thuận cuối năm 1869 và ở tại làng Bình Cách (Mỹ Tho)”
Rất tiếc là trong báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh không có ghi rõ ngày tháng Võ Duy Dương bị cướp sát hại. Trong báo cáo đề ngày 21/2/1881, ghi rằng Võ Duy Dương đã chết từ 10 hoặc 12 năm qua, tức là Võ Duy Dương mất năm 1871 hoặc 1869. Còn trong hai báo cáo khác, một không đề ngày và một đề ngày 23/2/1881 đều ghi là Võ Duy Dương mất năm 1869, đồng thời cả hai đều bộc lộ sự dè dặt về thông tin này, nên đề nghị nơi nhận viết công văn về "quan Tham biện Mỹ Tho", nơi có người vợ thứ của Võ Duy Dương đã ra qui thuận vào năm 1869 đang ở làng Bình Cách (Mỹ Tho).
Như vậy, nguồn tin mà hai báo cáo này cung cấp đều dựa vào nội dung tờ bẩm của Trần Văn Học xin cho còn gái là Thị Vàng (vợ thứ của Võ Duy Dương) ra qui thuận.
Trở lại tờ bẩm của Trần Văn Học. Chắc chắn là, sau khi được tin Võ Duy Dương chết, Trần Văn học mới xin cho con gái ra qui thuận. Có lẽ, lúc đầu ông viết tờ bẩm bằng quốc ngữ, tờ bẩm này không có đề ngày; đến Nha Nội vụ J.Potteaux dịch sang tiếng Pháp ngày 24/9/1869. Sau đó Trần Văn Học lại gởi tiếp một tờ bẩm bằng chữ Hán, nội dung cũng như tờ bẩm bằng chữ quốc ngữ, đề ngày 10/10 năm Kỷ Tỵ (tức 14/1l/1869).
Trong bản chữ Hán cũng như bản chữ quốc ngữ, Trần Văn Học đều viết “Thiên Hộ Dương trốn chết đi thì con gái tôi là Thị Vàng cũng sợ mà trốn đi biệt"... chớ không tiết lộ Võ Duy Dương chết lúc nào. Dứt khoát khi nắm được tin tức này, thực dân Pháp mà cụ thể là Nha Nội vụ Sài Gòn sẽ tiến hành điều tra xác minh để biết xem con người đã từng làm cho chúng phải chật vật đối phó gần 1 năm trời trên một địa bàn rộng lớn sống chết như thế nào. Chúng đã thành công trong việc xác minh và thật sự vui mừng khi biết đích xác kẻ dám bất chấp lệnh của triều đình chống lại việc thống trị của chúng trên ba tỉnh miền Đông không còn nữa. Trong công văn số 307 đề Sài Gòn 23/2/1881 của Nha Nội vụ gởi cho quan cai trị Sóc Trăng: có đoạn viết: “Những giasy tờ mà Nha Chỉ huy có, cho thấy tên này (Võ Duy Dương - Tg) coi như đã hết năm 1869". Điều đáng lưu ý tư liệu chúng ta có được là bản chính đồng thời là bản nháp, trên đó có nhiều chữ bị xóa và viết lại. Riêng về năm chết của Võ Duy Dương thì viết "Etair mort en 1869" rồi lại có dòng chữ “ou passanr pour mort" viết xen vào. Điều này chứng tỏ bản thân Nha Nội vụ Sài Gòn cũng dè dặt khi xác nhận rằng Thiên Hộ Dương chết năm 1869.
Thế nên, theo chúng tôi, Võ Duy Dương chết năm 1869 là vấn đề cần nghiên cứu thêm. Còn vấn đề Võ Duy Dương chết như thế nào cũng là vấn đề cần làm sáng tỏ.
Về năm mất của Võ Duy Dương, trong một báo cáo không đề ngày có đoạn ghi :
“Các giấy tờ theo đây có lẽ cho ta thấy là tên này (Võ Duy Dương Tg) đã chết vào năm 1 869. Cách duy nhất để tin chắc có lẽ nên viết về Mỹ Tho để biết coi người vợ thứ của ông ta vẫn ở Bình Cách (Mỹ Tho)”
Trong công văn số 307 ngày 23/2/1881, có đoạn ghi:
“Những giấy tờ mà Nha chỉ huy có, cho thấy tên này (Võ Duy Dương - Tg) coi như đã chết năm 1869. Để tin chắc tốt nhất về việc này, ông có thể viết cho quan cai trị Mỹ Tho nhắc lại những sự kiện sau đây :
Người vợ thứ của Thiên Hộ, con gái của Trần Văn Học, tên là Trần Thị Vàng đã qui thuận cuối năm 1869 và ở tại làng Bình Cách (Mỹ Tho)”
Rất tiếc là trong báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh không có ghi rõ ngày tháng Võ Duy Dương bị cướp sát hại. Trong báo cáo đề ngày 21/2/1881, ghi rằng Võ Duy Dương đã chết từ 10 hoặc 12 năm qua, tức là Võ Duy Dương mất năm 1871 hoặc 1869. Còn trong hai báo cáo khác, một không đề ngày và một đề ngày 23/2/1881 đều ghi là Võ Duy Dương mất năm 1869, đồng thời cả hai đều bộc lộ sự dè dặt về thông tin này, nên đề nghị nơi nhận viết công văn về "quan Tham biện Mỹ Tho", nơi có người vợ thứ của Võ Duy Dương đã ra qui thuận vào năm 1869 đang ở làng Bình Cách (Mỹ Tho).
Như vậy, nguồn tin mà hai báo cáo này cung cấp đều dựa vào nội dung tờ bẩm của Trần Văn Học xin cho còn gái là Thị Vàng (vợ thứ của Võ Duy Dương) ra qui thuận.
Trở lại tờ bẩm của Trần Văn Học. Chắc chắn là, sau khi được tin Võ Duy Dương chết, Trần Văn học mới xin cho con gái ra qui thuận. Có lẽ, lúc đầu ông viết tờ bẩm bằng quốc ngữ, tờ bẩm này không có đề ngày; đến Nha Nội vụ J.Potteaux dịch sang tiếng Pháp ngày 24/9/1869. Sau đó Trần Văn Học lại gởi tiếp một tờ bẩm bằng chữ Hán, nội dung cũng như tờ bẩm bằng chữ quốc ngữ, đề ngày 10/10 năm Kỷ Tỵ (tức 14/1l/1869).
Trong bản chữ Hán cũng như bản chữ quốc ngữ, Trần Văn Học đều viết “Thiên Hộ Dương trốn chết đi thì con gái tôi là Thị Vàng cũng sợ mà trốn đi biệt"... chớ không tiết lộ Võ Duy Dương chết lúc nào. Dứt khoát khi nắm được tin tức này, thực dân Pháp mà cụ thể là Nha Nội vụ Sài Gòn sẽ tiến hành điều tra xác minh để biết xem con người đã từng làm cho chúng phải chật vật đối phó gần 1 năm trời trên một địa bàn rộng lớn sống chết như thế nào. Chúng đã thành công trong việc xác minh và thật sự vui mừng khi biết đích xác kẻ dám bất chấp lệnh của triều đình chống lại việc thống trị của chúng trên ba tỉnh miền Đông không còn nữa. Trong công văn số 307 đề Sài Gòn 23/2/1881 của Nha Nội vụ gởi cho quan cai trị Sóc Trăng: có đoạn viết: “Những giasy tờ mà Nha Chỉ huy có, cho thấy tên này (Võ Duy Dương - Tg) coi như đã hết năm 1869". Điều đáng lưu ý tư liệu chúng ta có được là bản chính đồng thời là bản nháp, trên đó có nhiều chữ bị xóa và viết lại. Riêng về năm chết của Võ Duy Dương thì viết "Etair mort en 1869" rồi lại có dòng chữ “ou passanr pour mort" viết xen vào. Điều này chứng tỏ bản thân Nha Nội vụ Sài Gòn cũng dè dặt khi xác nhận rằng Thiên Hộ Dương chết năm 1869.
Thế nên, theo chúng tôi, Võ Duy Dương chết năm 1869 là vấn đề cần nghiên cứu thêm. Còn vấn đề Võ Duy Dương chết như thế nào cũng là vấn đề cần làm sáng tỏ.
Cho đến nay, có 3 giả thuyết về
cái chết của Võ Duy Dương.
- Giả thuyết thứ nhất: chết vì bệnh
- Giả thuyết thứ hai: chết vì bị đắm thuyền
- Giả thuyết thứ ba: chết vì bị cướp.
Giả thuyết thứ nhất của các tác giả : Thái Bạch, "Binh Địa Định Tường "... thiếu tính thuyết phục vì thiếu cơ sở.
Giả thuyết thứ hai của Quốc sử Quán, Nguyễn Liên Phong. trước đây xem như đáng tin cậy hơn hết. Song, khi phát hiện được tài liệu số SL 45~2 ( 1 ' ở Trung tâm Lưu trữ II, thì giả thuyết trong dân gian ở xã Mỹ Thọ (Cao Lãnh, Đồng Tháp), cho rằng Võ Duy Dương chết vì do bị cướp được củng cố ? Trong báo cáo của mình gởi cho Nha Nội vụ Sài Gòn tên mật thám Nguyễn Đứ( Hạnh đã mô tả tỉ mỉ việc Võ Duy Dương bị cướp đoạt áo quần mũ miện cấp bằng và Võ Duy Dương cùng những người đi trên chim( ghe bị ném xuống biển. Sau đó, tên cướp Lý Sen bị tên Hai Sĩ tốcáo về tội cướp biển nên y đã bị bắt giam, sau cùng Lý Sen cắn lưỡi chết. Bên lề của báo cáo này có hai ghi chú về Thiên Hộ. xác nhận cái chết của người chiến sĩ xấu số này ".
Như vậy, rõ ràng Võ Duy Dương chết là do bị cướp. Schreiner cũng xác nhận tin này :
"Về chuyện khác, người ta nghe tin ông Thiên Hộ Dương mới chết chìm tại phía mũi Đinh (Padaran) là nơi ông đánh với ba chiếc ghe tàu ô của đảng ăn cướp, quân ấy hạ hết người trên hai ghe" (Chú thích: Schreiner - Đại Nam Quốc sử - (Nguyễn Văn Nhàn dịch) Saigon. 1905 tr.490. ).
Đành rằng vậy, nhưng hình ảnh một Ngũ Linh Thiên hộ Võ Duy Dương trí dũng có thừa, đã từng thoát hiểm biết bao lần giữa trùng vây của quân Pháp với đầy đủ khí giới, lại bị Lý Sen, một tên cướp bắt ném xuống biển Cần Giờ làm cho chúng ta đau xót suy nghĩ!
Phải chăng tên cướp Lý Sen cũng là tay sai của thực dân Pháp hay cụ thể hơn là tay sai của tên Việt gian khét tiếng gian ác quỉ quyệt nhất ở Nam Kỳ lúc bấy giờ là Trần Bá Lộc. Trần Bá Lộc muốn qua bàn tay của Lý Sen để vừa có thể hạ sát được Võ Duy Dương điều mà với đại quần chúng không thể làm được - vừa hạ được uy danh của người anh hùng họ Võ đang được nhân dân cả Nam Kỳ mến mộ và hết lòng ủng hộ.
III. Niên đại Võ Duy Dương vào Nam
Năm Võ Duy Dương vào Nam là một trong những vấn đề then chốt trong toàn bộ tiểu sử của ông. Vì bản thân vấn đề liên quan đến một số vấn đề quan trọng khác.
Xác minh được niên đại này, chúng ta thấy được động cơ nào thúc đẩy ông vào Nam, nếu ông vào trước tháng 2/1859 (tức lúc thực dân Pháp tấn công thành Gia Định) thì thời gian trước khi tham gia công cuộc chống giặc ngoại xâm ông đã có những hoạt động gì, vì sao ông mệnh danh Thiên Hộ? và từ lúc nào?
Rất tiếc là đến nay, chưa có tư liệu nào làm rõ vấn đề này.
Có lẽ điều mà Đại Nam Thực lục chép : "Khoảng tháng 4 năm Tân Dậu (tức tháng 5/1861) Khâm Phái Quân Vụ Đỗ Thúc Tịnh đem theo các tùy phái Trương Minh Lượng, Phan Chánh (Phan Trung) chánh bát phẩm Thiên hộ Vũ Duy Dương... vào Nam mộ nghĩa quân ở các tỉnh Long, Tường, An, Hà " (Chú thích: Q xxlx - trang 248.), là tư liệu sớm nhất về thời điểm vào Nam của Võ Duy Dương. Ngoài ra không có tư liệu nào khác.
- Giả thuyết thứ nhất: chết vì bệnh
- Giả thuyết thứ hai: chết vì bị đắm thuyền
- Giả thuyết thứ ba: chết vì bị cướp.
Giả thuyết thứ nhất của các tác giả : Thái Bạch, "Binh Địa Định Tường "... thiếu tính thuyết phục vì thiếu cơ sở.
Giả thuyết thứ hai của Quốc sử Quán, Nguyễn Liên Phong. trước đây xem như đáng tin cậy hơn hết. Song, khi phát hiện được tài liệu số SL 45~2 ( 1 ' ở Trung tâm Lưu trữ II, thì giả thuyết trong dân gian ở xã Mỹ Thọ (Cao Lãnh, Đồng Tháp), cho rằng Võ Duy Dương chết vì do bị cướp được củng cố ? Trong báo cáo của mình gởi cho Nha Nội vụ Sài Gòn tên mật thám Nguyễn Đứ( Hạnh đã mô tả tỉ mỉ việc Võ Duy Dương bị cướp đoạt áo quần mũ miện cấp bằng và Võ Duy Dương cùng những người đi trên chim( ghe bị ném xuống biển. Sau đó, tên cướp Lý Sen bị tên Hai Sĩ tốcáo về tội cướp biển nên y đã bị bắt giam, sau cùng Lý Sen cắn lưỡi chết. Bên lề của báo cáo này có hai ghi chú về Thiên Hộ. xác nhận cái chết của người chiến sĩ xấu số này ".
Như vậy, rõ ràng Võ Duy Dương chết là do bị cướp. Schreiner cũng xác nhận tin này :
"Về chuyện khác, người ta nghe tin ông Thiên Hộ Dương mới chết chìm tại phía mũi Đinh (Padaran) là nơi ông đánh với ba chiếc ghe tàu ô của đảng ăn cướp, quân ấy hạ hết người trên hai ghe" (Chú thích: Schreiner - Đại Nam Quốc sử - (Nguyễn Văn Nhàn dịch) Saigon. 1905 tr.490. ).
Đành rằng vậy, nhưng hình ảnh một Ngũ Linh Thiên hộ Võ Duy Dương trí dũng có thừa, đã từng thoát hiểm biết bao lần giữa trùng vây của quân Pháp với đầy đủ khí giới, lại bị Lý Sen, một tên cướp bắt ném xuống biển Cần Giờ làm cho chúng ta đau xót suy nghĩ!
Phải chăng tên cướp Lý Sen cũng là tay sai của thực dân Pháp hay cụ thể hơn là tay sai của tên Việt gian khét tiếng gian ác quỉ quyệt nhất ở Nam Kỳ lúc bấy giờ là Trần Bá Lộc. Trần Bá Lộc muốn qua bàn tay của Lý Sen để vừa có thể hạ sát được Võ Duy Dương điều mà với đại quần chúng không thể làm được - vừa hạ được uy danh của người anh hùng họ Võ đang được nhân dân cả Nam Kỳ mến mộ và hết lòng ủng hộ.
III. Niên đại Võ Duy Dương vào Nam
Năm Võ Duy Dương vào Nam là một trong những vấn đề then chốt trong toàn bộ tiểu sử của ông. Vì bản thân vấn đề liên quan đến một số vấn đề quan trọng khác.
Xác minh được niên đại này, chúng ta thấy được động cơ nào thúc đẩy ông vào Nam, nếu ông vào trước tháng 2/1859 (tức lúc thực dân Pháp tấn công thành Gia Định) thì thời gian trước khi tham gia công cuộc chống giặc ngoại xâm ông đã có những hoạt động gì, vì sao ông mệnh danh Thiên Hộ? và từ lúc nào?
Rất tiếc là đến nay, chưa có tư liệu nào làm rõ vấn đề này.
Có lẽ điều mà Đại Nam Thực lục chép : "Khoảng tháng 4 năm Tân Dậu (tức tháng 5/1861) Khâm Phái Quân Vụ Đỗ Thúc Tịnh đem theo các tùy phái Trương Minh Lượng, Phan Chánh (Phan Trung) chánh bát phẩm Thiên hộ Vũ Duy Dương... vào Nam mộ nghĩa quân ở các tỉnh Long, Tường, An, Hà " (Chú thích: Q xxlx - trang 248.), là tư liệu sớm nhất về thời điểm vào Nam của Võ Duy Dương. Ngoài ra không có tư liệu nào khác.
Tuy vậy, hiện nay cũng đã phát
hiện ra nhiều yếu tố khác giúp ta suy nghĩ rằng ông có
thể vào Nam sớm hơn.
Một trong hai tờ tấu trình ông gởi vua Tự Đức mà có lẽ bọn Pháp đã tịch thu được trong khi chúng tấn công vào Đồng Tháp Mười (tháng 4 năm 1866) (Chú thích: Gustave Janneau - Deux rapports Militaires du Général Võ Di Dương. Revue lndochinoise, số2 (1914)), có đoạn ghi: “năm Tự Đức thứ 14, tháng 4 Võ Duy Dương tuân lệnh nhà vua theo Khâm phái Đỗ Thúc Tịnh di chuyển về Vĩnh Long, An Giang, Định Tường và Hà Tiên để nhận nhiệm vụ. Tháng tám năm ấy, Khâm phái trao cho Dương bằng quản cơ chỉ huy võ sanh, võ sĩ".
Điều làm chúng ta thắc mắc: nếu Võ Duy Dương chỉ có mặt ở Định Tường từ tháng 4 năm Tự Đức thứ 14 (tức tháng 5 năm 1861 ) mà đến tháng 8 (tức là tháng 9 năm l861). Như vậy, chỉ trong vòng hơn ba tháng kể từ ngày Võ Duy Dương đặt chân lên đất Định Tường mà ông đã mộ được 1000 nghĩa dõng để được phong bằng quản cơ (Chú thích: Theo qui chế qui định mức thưởng dành cho người mộ nghĩa dõng chống Pháp (3/1861) bằng quản cơ dành cho ai mộ được khoảng 1000 người.). Điều này ít có khả năng thuyết phục, có thể Võ Duy Dương đã có mặt trong một thời gian nào trước đó, ông mới có đủ điều kiện về uy tín và thời gian giúp công việc chiêu mộ đạt kết quả như vậy.
Mặt khác, có nhiều tác giả: Trần Văn Thông (Chú thích: Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiếu truyện - Sđd.), Ca Văn Thỉnh (Chú thích: Nguyễn Hữu Huân, thân thế và sự nghiệp". Kỷ yếu khoa học. Ban văn học Viện KHXH miền Nam (số4/1976).)... đều cho rằng Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân cùng được cử, một người làm Chánh quản đạo và một người làm Phó quản đạo. Nhưng không nói rõ là vào lúc nào. Trong khi đó các tác giả Phạm Thiều, Cao Tự Thanh và Lê Minh Đức trong quyển "Nguyễn Hữu Huân - Nhà yêu nước kiên cường - Nhà thơ bất khuất" (Chú thích: NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 1986, trang 14 - 17) lập luận cho rằng: Nguyễn Hữu Huân được sung chức Phó quản đạo vào cuối tháng 5 năm 1859. Như vậy, có nghĩa là Võ Duy Dương cũng được phong Chánh quản đạo (Chú thích: Theo quan chế triều Nguyễn thì hai chức Phó quản đạo (trật chánh ngũ phẩm) và Chánh quản đạo (trật tòng tứ phẩm) đều thuộc hệ văn giai.) vào thời điểm tháng 5 năm 1859.
Nếu thực tế lịch sử khẳng định điều này, thì thời điểm vào Nam của Võ Duy Dương lại lùi sớm hơn nữa.
Hiện nay nhiều bô lão ở Đồng Tháp Mười còn kể rằng: ông cố, ông nội mình gốc người Quảng Nam, Bình Định theo Võ Duy Dương vào Nam khai hoang lập ấp rồi sau đó tham gia chống thực dân Pháp dưới cờ nghĩa của ông Thiên hộ.
Ở ấp Bắc Chang I, xã Tuyên Thạnh (Mộc Hóa, Long An) có nhánh họ Võ, tổ là Võ Văn Lộn, người Bình Định vào Nam ngụ ở xã Vĩnh Công (Châu Thành, Long An) đến đời con là Võ Văn Lên, Võ Văn Sanh bỏ Vĩnh Công vào Đồng Tháp Mười khai hoang, rồi gia nhập nghĩa quân Thiên Hộ Dương. Ở đây còn có nhánh họ Nguyễn, tổ là Nguyễn Văn Long, người miền Nam khai hoang lập nghiệp ở Mộc Hóa, sau gia nhập nghĩa quân Thiên Hộ Dương phụ trách việc đào kinh Cái Cỏ, phục vụ tiếp tế, mất 1865.
Ở vùng Xoài Tư (khu vực đồn điền cũ có chùa Trường Tháp) nay thuộc các xã Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Trinh (huyện Cái Bè) Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc (huyện Cai Lậy, Tiền Giang) có các nhánh họ Lê, họ Võ, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Trần, họ Huỳnh. Tổ các họ này là người Quảng Nam và Bình Định vào lập nghiệp ở đất Ba Giồng (Tiền Giang): họ Trần ở Bưng Môn (Tân Phú, Cai Lậy), họ Phạm ở Tân Hội (Cái Bè), họ Nguyễn, họ Huỳnh ở Nhị Quí (Cai Lậy). Sau đó lại theo Võ Duy Dương vào vùng Xoài Tư khai hoang lập ấp, được ông truyền dạy võ nghệ, kịp khi Pháp tấn công Gia Định mọi người đều theo Võ Duy Dương chống giặc.
Theo nguồn tư liệu dân gian này, thì Võ Duy Dương vào Nam trước khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định (tháng 2/1859). Điều này trùng hợp với tư liệu do gia đình Võ Duy Dương cung cấp. Theo cụ Võ Quế cho biết Võ Duy Dương vào Nam độ vài tháng thì bà Phạm Thị Liệu (vợ lớn) sinh người con thứ hai (tên là Võ Duy Phụng). Bà Phạm Thị Liệu có hai người con là Võ Duy Cung và Võ Duy Phụng. Võ Duy Cung sinh năm 1855. Còn Võ Duy Phụng mất lúc 10 tuổi, nên nay không ai nhớ ông sanh vào lúc nào.
Một trong hai tờ tấu trình ông gởi vua Tự Đức mà có lẽ bọn Pháp đã tịch thu được trong khi chúng tấn công vào Đồng Tháp Mười (tháng 4 năm 1866) (Chú thích: Gustave Janneau - Deux rapports Militaires du Général Võ Di Dương. Revue lndochinoise, số2 (1914)), có đoạn ghi: “năm Tự Đức thứ 14, tháng 4 Võ Duy Dương tuân lệnh nhà vua theo Khâm phái Đỗ Thúc Tịnh di chuyển về Vĩnh Long, An Giang, Định Tường và Hà Tiên để nhận nhiệm vụ. Tháng tám năm ấy, Khâm phái trao cho Dương bằng quản cơ chỉ huy võ sanh, võ sĩ".
Điều làm chúng ta thắc mắc: nếu Võ Duy Dương chỉ có mặt ở Định Tường từ tháng 4 năm Tự Đức thứ 14 (tức tháng 5 năm 1861 ) mà đến tháng 8 (tức là tháng 9 năm l861). Như vậy, chỉ trong vòng hơn ba tháng kể từ ngày Võ Duy Dương đặt chân lên đất Định Tường mà ông đã mộ được 1000 nghĩa dõng để được phong bằng quản cơ (Chú thích: Theo qui chế qui định mức thưởng dành cho người mộ nghĩa dõng chống Pháp (3/1861) bằng quản cơ dành cho ai mộ được khoảng 1000 người.). Điều này ít có khả năng thuyết phục, có thể Võ Duy Dương đã có mặt trong một thời gian nào trước đó, ông mới có đủ điều kiện về uy tín và thời gian giúp công việc chiêu mộ đạt kết quả như vậy.
Mặt khác, có nhiều tác giả: Trần Văn Thông (Chú thích: Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiếu truyện - Sđd.), Ca Văn Thỉnh (Chú thích: Nguyễn Hữu Huân, thân thế và sự nghiệp". Kỷ yếu khoa học. Ban văn học Viện KHXH miền Nam (số4/1976).)... đều cho rằng Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân cùng được cử, một người làm Chánh quản đạo và một người làm Phó quản đạo. Nhưng không nói rõ là vào lúc nào. Trong khi đó các tác giả Phạm Thiều, Cao Tự Thanh và Lê Minh Đức trong quyển "Nguyễn Hữu Huân - Nhà yêu nước kiên cường - Nhà thơ bất khuất" (Chú thích: NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 1986, trang 14 - 17) lập luận cho rằng: Nguyễn Hữu Huân được sung chức Phó quản đạo vào cuối tháng 5 năm 1859. Như vậy, có nghĩa là Võ Duy Dương cũng được phong Chánh quản đạo (Chú thích: Theo quan chế triều Nguyễn thì hai chức Phó quản đạo (trật chánh ngũ phẩm) và Chánh quản đạo (trật tòng tứ phẩm) đều thuộc hệ văn giai.) vào thời điểm tháng 5 năm 1859.
Nếu thực tế lịch sử khẳng định điều này, thì thời điểm vào Nam của Võ Duy Dương lại lùi sớm hơn nữa.
Hiện nay nhiều bô lão ở Đồng Tháp Mười còn kể rằng: ông cố, ông nội mình gốc người Quảng Nam, Bình Định theo Võ Duy Dương vào Nam khai hoang lập ấp rồi sau đó tham gia chống thực dân Pháp dưới cờ nghĩa của ông Thiên hộ.
Ở ấp Bắc Chang I, xã Tuyên Thạnh (Mộc Hóa, Long An) có nhánh họ Võ, tổ là Võ Văn Lộn, người Bình Định vào Nam ngụ ở xã Vĩnh Công (Châu Thành, Long An) đến đời con là Võ Văn Lên, Võ Văn Sanh bỏ Vĩnh Công vào Đồng Tháp Mười khai hoang, rồi gia nhập nghĩa quân Thiên Hộ Dương. Ở đây còn có nhánh họ Nguyễn, tổ là Nguyễn Văn Long, người miền Nam khai hoang lập nghiệp ở Mộc Hóa, sau gia nhập nghĩa quân Thiên Hộ Dương phụ trách việc đào kinh Cái Cỏ, phục vụ tiếp tế, mất 1865.
Ở vùng Xoài Tư (khu vực đồn điền cũ có chùa Trường Tháp) nay thuộc các xã Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Trinh (huyện Cái Bè) Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc (huyện Cai Lậy, Tiền Giang) có các nhánh họ Lê, họ Võ, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Trần, họ Huỳnh. Tổ các họ này là người Quảng Nam và Bình Định vào lập nghiệp ở đất Ba Giồng (Tiền Giang): họ Trần ở Bưng Môn (Tân Phú, Cai Lậy), họ Phạm ở Tân Hội (Cái Bè), họ Nguyễn, họ Huỳnh ở Nhị Quí (Cai Lậy). Sau đó lại theo Võ Duy Dương vào vùng Xoài Tư khai hoang lập ấp, được ông truyền dạy võ nghệ, kịp khi Pháp tấn công Gia Định mọi người đều theo Võ Duy Dương chống giặc.
Theo nguồn tư liệu dân gian này, thì Võ Duy Dương vào Nam trước khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định (tháng 2/1859). Điều này trùng hợp với tư liệu do gia đình Võ Duy Dương cung cấp. Theo cụ Võ Quế cho biết Võ Duy Dương vào Nam độ vài tháng thì bà Phạm Thị Liệu (vợ lớn) sinh người con thứ hai (tên là Võ Duy Phụng). Bà Phạm Thị Liệu có hai người con là Võ Duy Cung và Võ Duy Phụng. Võ Duy Cung sinh năm 1855. Còn Võ Duy Phụng mất lúc 10 tuổi, nên nay không ai nhớ ông sanh vào lúc nào.
Cứ theo lời cụ Võ Quế. thì
năm sinh của Võ Duy Phụng cũng là năm Võ Duy Dương lên
đường vào Nam. Theo lẽ thường mà suy, thì Võ Duy Phụng
có thể sinh vào một trong các năm 1856, 1857 và 1858.
Như vậy, có khả năng Võ Duy Dương vào Nam trong khoảng từ 1857 đến 1858. Từ thời điểm này đến lúc được sung chức Chánh quản đạo vì đã chiêu mộ được nhiều nghĩa dõng chống thực dân Pháp, Võ Duy Dương có những hoạt động gì? Đó là vấn đề cần nghiên cứu để qua đó góp phần tìm kiếm thêm về con người Võ Duy Dương.
Sinh ra và lớn lên trên một vùng quê hương có truyền thống đấu tranh của các phong trào nông dân vào cuối thế kỷ trước; với các địa danh, di tích ấp Tây Sơn, hòn ông Bình, bến Trường Trầu (Tây Sơn) thành Hoàng Đế (An Nhơn), tân phủ Càn Dương (Phù Cát)... ít nhiều Võ Duy Dương cũng chịu ảnh hưởng truyền thống bất khuất của quê hương. Núi chàng Lía sừng sững trước mặt thôn Cù Lâm Nam (Nam Tượng) như nhắc nhở tấm gương đấu tranh chống bất công áp bức.
Sau khi đàn áp được phong trào Tây Sơn, nhà Nguyễn tìm mọi cách xóa vết tích của anh em Tây Sơn, triệt hạ ấp Tây Sơn, san bằng thành Hoàng Đế, gán cho các địa danh lịch sử đó những cái tên mới có tính chất phỉ báng (Bình Định, An Tây, An Khê rồi Nam An, Bắc Thuận) (Chú thích: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930 - 1945) tập 1.). Bọn địa chủ quan lại nhân cơ hội đó cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Năm 1838, ruộng đất công ở Bình Định chỉ còn 6000 mẫu trong lúc ruộng tư lên đến trên 10.000 mẫu, phần lớn tập trung vào tay địa chủ. Năm 1839, triều đình thi hành chính sách quân điền bằng cách tịch thu phân nửa số ruộng tư làm thành ruộng đất công để chia cho nông dân (Chú thích: Lịch sử VN tập 1, NXB KHXH 1971). Nhưng sau 13 năm thi hành chính sách quân điền, năm 1852, Hiệp biện Đặng Văn Thiêm sau khi đi kinh lý vùng Bình Định đã tâu vua Tự Đức: “trước kia trong việc quân cấp cứ 10 mẫu ruộng thì một nửa chia làm công điền, một nửa làm tư điền. Nhưng về ruộng công chỗ nào màu mỡ thì cường hào giành hết, còn thì bọn hương lý bao chiếm. Dân nghèo chỉ được những chỗ xương xấu". Kết quả của hành động cướp ruộng đất, bóc lột nghiệt ngã của bọn cường hào phong kiến đã gây ra những biến động sâu sắc, để lại nhiều hậu quả về tư tường tình cảm và tâm lý qua nhiều thế hệ cư dân ở Bình Định.
Phản kháng thụ động là trạng thái phổ biến. Nhiều vùng cư dân ở Bình Định rời quê hương phiêu bạt kiếm sống. Từ năm 1822, ấp Chánh Thuận (nay thuộc Cát Hanh) và 2 ấp khác đã có nhiều đợt dân phiêu tán. Những năm 1824, 1860, 1863... nhiều làng dân bỏ đi nơi khác kiếm sống (Chú thích: ĐNTL chính biên (Đệ tứ kỷ) Bản chữ Hán, Q.207. dẫn lại lời dẫn của LSVN T.1.). Đó là những cuộc phiêu tán lớn, không kể những chuyến đi lẻ tẻ
Có lẽ Võ Duy Dương, con một nông dân nghèo ở đất An Nhơn (Bình Định) cũng lên đường phiêu tán trong hoàn cảnh này. Nhưng không như những lưu dân khác, chỉ lo giải quyết cuộc sống của riêng mình, Võ Duy Dương đứng ra chiêu mộ người đồng cảnh ngộ hưởng ứng chính sách khai hoang lập ấp do Nguyễn Tri Phương đề ra và đã được vua Tự Đức chấp thuận (Chú thích: Nguyễn Thế Anh - Kinh tế và cơ hội VN dưới các triều vua Nguyễn S.G 1971.).
Cuộc khai hoang thời này, chủ yếu là vùng An Giang, Hà Tiên, cụ thể là vùng Vĩnh Tế, Tịnh Biên, Ba Xuyên nhằm mục đích ổn định tình hình an ninh biên giới. Tuy vậy, nhiều vùng hoang hóa khác trên địa bàn Nam Kỳ, cũng xuất hiện nhiều khu đồn điền mới, như Gia Thuận (phủ Tân An) của Trương Định, đặc biệt vùng chằm Mãng Trạch (tức Đồng Tháp Mười), ven vùng đất Ba Giồng (Định Tường) cũng hấp dẫn một lượng khá lớn lưu dân.
Song do tính chất đất đai, địa thế trũng thấp, đường đi lại khó khăn, nên đến 1850, ở Định Tường (cả vùng Đồng Tháp Mười) có lối 87 xã bị “điêu hóa" và số ruộng mà chính quyền buộc phải miễn thuế lên đến 14.843 mẫu, nguyên trước báo là đã khai khẩn, nhưng sau lại bỏ hoang. Võ Duy Dương tìm đến đất Ba Giồng trong hoàn cảnh đó.
Ông tiến hành chiêu mộ lưu dân để khai hoang dưới hình thức nào, qui dân lập ấp lập làng hay lập đồn điền (Chú thích: Lúc bấy giờ ở Định Tường có các đội đồn điền: Tường Kiên, Tường Nhuệ, Tường Uy, Tường Võ. Tường Võ ở khu vực Cao Lãnh ngày nay. Phạm Văn Khanh làm phụ trách Tường Võ nhập cơ nhất đội Ban biện suất đội.) ở đâu và được bao nhiêu người, hiện nay không thấy tài liệu nào nói đến và chức danh Chánh bát phẩm Thiên hộ là vấn đề cần phải làm sáng tỏ.
Như vậy, có khả năng Võ Duy Dương vào Nam trong khoảng từ 1857 đến 1858. Từ thời điểm này đến lúc được sung chức Chánh quản đạo vì đã chiêu mộ được nhiều nghĩa dõng chống thực dân Pháp, Võ Duy Dương có những hoạt động gì? Đó là vấn đề cần nghiên cứu để qua đó góp phần tìm kiếm thêm về con người Võ Duy Dương.
Sinh ra và lớn lên trên một vùng quê hương có truyền thống đấu tranh của các phong trào nông dân vào cuối thế kỷ trước; với các địa danh, di tích ấp Tây Sơn, hòn ông Bình, bến Trường Trầu (Tây Sơn) thành Hoàng Đế (An Nhơn), tân phủ Càn Dương (Phù Cát)... ít nhiều Võ Duy Dương cũng chịu ảnh hưởng truyền thống bất khuất của quê hương. Núi chàng Lía sừng sững trước mặt thôn Cù Lâm Nam (Nam Tượng) như nhắc nhở tấm gương đấu tranh chống bất công áp bức.
Sau khi đàn áp được phong trào Tây Sơn, nhà Nguyễn tìm mọi cách xóa vết tích của anh em Tây Sơn, triệt hạ ấp Tây Sơn, san bằng thành Hoàng Đế, gán cho các địa danh lịch sử đó những cái tên mới có tính chất phỉ báng (Bình Định, An Tây, An Khê rồi Nam An, Bắc Thuận) (Chú thích: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930 - 1945) tập 1.). Bọn địa chủ quan lại nhân cơ hội đó cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Năm 1838, ruộng đất công ở Bình Định chỉ còn 6000 mẫu trong lúc ruộng tư lên đến trên 10.000 mẫu, phần lớn tập trung vào tay địa chủ. Năm 1839, triều đình thi hành chính sách quân điền bằng cách tịch thu phân nửa số ruộng tư làm thành ruộng đất công để chia cho nông dân (Chú thích: Lịch sử VN tập 1, NXB KHXH 1971). Nhưng sau 13 năm thi hành chính sách quân điền, năm 1852, Hiệp biện Đặng Văn Thiêm sau khi đi kinh lý vùng Bình Định đã tâu vua Tự Đức: “trước kia trong việc quân cấp cứ 10 mẫu ruộng thì một nửa chia làm công điền, một nửa làm tư điền. Nhưng về ruộng công chỗ nào màu mỡ thì cường hào giành hết, còn thì bọn hương lý bao chiếm. Dân nghèo chỉ được những chỗ xương xấu". Kết quả của hành động cướp ruộng đất, bóc lột nghiệt ngã của bọn cường hào phong kiến đã gây ra những biến động sâu sắc, để lại nhiều hậu quả về tư tường tình cảm và tâm lý qua nhiều thế hệ cư dân ở Bình Định.
Phản kháng thụ động là trạng thái phổ biến. Nhiều vùng cư dân ở Bình Định rời quê hương phiêu bạt kiếm sống. Từ năm 1822, ấp Chánh Thuận (nay thuộc Cát Hanh) và 2 ấp khác đã có nhiều đợt dân phiêu tán. Những năm 1824, 1860, 1863... nhiều làng dân bỏ đi nơi khác kiếm sống (Chú thích: ĐNTL chính biên (Đệ tứ kỷ) Bản chữ Hán, Q.207. dẫn lại lời dẫn của LSVN T.1.). Đó là những cuộc phiêu tán lớn, không kể những chuyến đi lẻ tẻ
Có lẽ Võ Duy Dương, con một nông dân nghèo ở đất An Nhơn (Bình Định) cũng lên đường phiêu tán trong hoàn cảnh này. Nhưng không như những lưu dân khác, chỉ lo giải quyết cuộc sống của riêng mình, Võ Duy Dương đứng ra chiêu mộ người đồng cảnh ngộ hưởng ứng chính sách khai hoang lập ấp do Nguyễn Tri Phương đề ra và đã được vua Tự Đức chấp thuận (Chú thích: Nguyễn Thế Anh - Kinh tế và cơ hội VN dưới các triều vua Nguyễn S.G 1971.).
Cuộc khai hoang thời này, chủ yếu là vùng An Giang, Hà Tiên, cụ thể là vùng Vĩnh Tế, Tịnh Biên, Ba Xuyên nhằm mục đích ổn định tình hình an ninh biên giới. Tuy vậy, nhiều vùng hoang hóa khác trên địa bàn Nam Kỳ, cũng xuất hiện nhiều khu đồn điền mới, như Gia Thuận (phủ Tân An) của Trương Định, đặc biệt vùng chằm Mãng Trạch (tức Đồng Tháp Mười), ven vùng đất Ba Giồng (Định Tường) cũng hấp dẫn một lượng khá lớn lưu dân.
Song do tính chất đất đai, địa thế trũng thấp, đường đi lại khó khăn, nên đến 1850, ở Định Tường (cả vùng Đồng Tháp Mười) có lối 87 xã bị “điêu hóa" và số ruộng mà chính quyền buộc phải miễn thuế lên đến 14.843 mẫu, nguyên trước báo là đã khai khẩn, nhưng sau lại bỏ hoang. Võ Duy Dương tìm đến đất Ba Giồng trong hoàn cảnh đó.
Ông tiến hành chiêu mộ lưu dân để khai hoang dưới hình thức nào, qui dân lập ấp lập làng hay lập đồn điền (Chú thích: Lúc bấy giờ ở Định Tường có các đội đồn điền: Tường Kiên, Tường Nhuệ, Tường Uy, Tường Võ. Tường Võ ở khu vực Cao Lãnh ngày nay. Phạm Văn Khanh làm phụ trách Tường Võ nhập cơ nhất đội Ban biện suất đội.) ở đâu và được bao nhiêu người, hiện nay không thấy tài liệu nào nói đến và chức danh Chánh bát phẩm Thiên hộ là vấn đề cần phải làm sáng tỏ.
Một điều chắc chắn rằng, số
lưu dân mà Võ Duy Dương chiêu mộ được không nhiều
bằng Trương Định. Vì Trương Định có nhiều ưu thế
hơn: chẳng những là con quan (Chú thích: cha Trương Định
là Trương Cầm, lãnh binh tỉnh Gia Định (có nơi chép là
Thủy vệ úy tỉnh Gia Định)) đương nhiên có thế lực,
gia sản và sau đó lại có bà vợ hai là Trần Thị Sanh,
bà Sanh là con gái Phạm Thị Phụng (cô ruột của Thái
hậu Từ Dũ - mẹ Tự Đức), nên thế lực Trương Định
vốn đã có lại được nâng lên. Hơn nữa Trương Định
đã bắt tay vào cuộc chiêu dân lập đồn điền từ năm
1854, tức là ngay sau khi chính sách đồn điền được ban
hành, và có lẽ ông đã mộ được khoảng 500 người,
nên đã được phong chức Phó quản cơ.
Cần nói thêm: khi mới lập đồn điền, Trương Định chỉ giữ chức Phó quản cơ. Mãi đến giữa năm 1861, Trương Định mới được thăng chức Quản cơ. Điều này đã được ghi trong Đại Nam Thực Lục: Tháng 8 âm lịch (1861) do phó quản cơ Gia Định có công chiêu mộ những thổ dũng, có nhiều người đi theo, thường cùng quân Tây Dương chống đánh nhau đắc lực nên “thự tuần phủ Đỗ Quang đem việc tâu lên, vua cất nhắc cho làm Quản cơ, rồi lãnh chức Phó lãnh binh" (Chú thích: Đại Nam Thực lục, tập XXX. trang 239.).
Ở đây có điều ta cần phân biệt rõ chức phó quản cơ và quản cơ của Trương Định được chi phối bởi hai văn bản lập qui khác nhau. Chức phó quản cơ bị qui định bởi qui chế đồn điền 1853, còn chức quản cơ của Trương Định là theo qui định của mức thưởng dành cho những người mộ nghĩa dõng chống Pháp (3/1861).
Qui chế đồn điền 1853, qui định:
- Mộ được 50 người thì tổ chức thành một đội, người đứng mộ được quyền chỉ huy, gọi suất đội. Khi canh tác có kết quả thì khu vực ấy trở thành một ấp, viên suất đội sẽ là ấp trưởng, theo qui chế dân sự.
- Mộ được 500 người, tổ chức thành một cơ (10 đội) người đứng mộ lãnh chức vụ chánh đội thí sai phó quản cơ. Khi đất sinh huê lợi, phó quản cơ mặc nhiên là cai tổng, theo qui chế dân sự (Chú thích: Đại Nam Thực lục, tập XXVII, trang 372).
Qui chế qui định mức thưởng cho người mộ quân chống Pháp (3/1861) qui định:
Mộ đủ 50 người thưởng thụ suất đội trật tòng ngũ phẩm; mộ đủ 500 người thường thụ quản cơ trật chánh tứ phẩm. Trường hợp số quân mộ được 2, 3 cơ (tức 1000 hay 1500 người) thì đợi chỉ của vua cất lên bậc cao.
Ngoài ra, qui chế này còn qui định nếu đem 10 người thân thuộc trong gia đình gia nhập quân đội sẽ được cấp bằng cửu phẩm bá hộ, 20 người trở lên sẽ được cấp bằng tòng bát phẩm bá hộ, 30 người trở lên sẽ được cấp bằng đội trưởng tòng thất phẩm bá hộ (Chú thích: Đại Nam Thực lục, tập XXIX, trang 190).
Đối chiếu hai qui chế trên, ta thấy trường hợp của Trương Định khá rõ: trong khi lập đồn điền, Trương Định mộ được khoảng 500 người nên được cấp bằng phó quản cơ (hệ dân sự). Đến khi Pháp tấn công thành Gia Định, mang quân đồn điền ra chống giặc được cất nhắc lên quản cơ (hệ quân sự).
Còn, trường hợp của Võ Duy Dương: chức danh phẩm hàm “chánh bát phẩm Thiên hộ" của ông gợi cho chúng ta ít nhiều thắc mắc; vì trong qui chế đồn điền chỉ ghi: "Người đứng lập ấp mà mộ đủ 30 người, thì tha thuế thân, sai dịch suốt đời; mộ được 50 người thì thưởng thụ chánh cửu phẩm bá hộ; được 100 người, thưởng thụ chánh bát phẩm bá hộ vẫn lãnh làm tổng lý (3 năm thì làm sổ, chiếu lệ đồn điền thi hành). Còn ruộng đất đã được khai khẩn và thuế thân của nhân đinh đều khoảng hạn (10 năm) mới bắt đầu thu để tỏ sự khuyến khích" chớ không có khoảng nào qui định được thưởng thụ chánh bát phẩm thiên hộ. Cũng như vậy, trong qui định mức thưởng dành cho người mộ nghĩa chống Pháp cũng không có ấn định phẩm hàm này.
Cần nói thêm: khi mới lập đồn điền, Trương Định chỉ giữ chức Phó quản cơ. Mãi đến giữa năm 1861, Trương Định mới được thăng chức Quản cơ. Điều này đã được ghi trong Đại Nam Thực Lục: Tháng 8 âm lịch (1861) do phó quản cơ Gia Định có công chiêu mộ những thổ dũng, có nhiều người đi theo, thường cùng quân Tây Dương chống đánh nhau đắc lực nên “thự tuần phủ Đỗ Quang đem việc tâu lên, vua cất nhắc cho làm Quản cơ, rồi lãnh chức Phó lãnh binh" (Chú thích: Đại Nam Thực lục, tập XXX. trang 239.).
Ở đây có điều ta cần phân biệt rõ chức phó quản cơ và quản cơ của Trương Định được chi phối bởi hai văn bản lập qui khác nhau. Chức phó quản cơ bị qui định bởi qui chế đồn điền 1853, còn chức quản cơ của Trương Định là theo qui định của mức thưởng dành cho những người mộ nghĩa dõng chống Pháp (3/1861).
Qui chế đồn điền 1853, qui định:
- Mộ được 50 người thì tổ chức thành một đội, người đứng mộ được quyền chỉ huy, gọi suất đội. Khi canh tác có kết quả thì khu vực ấy trở thành một ấp, viên suất đội sẽ là ấp trưởng, theo qui chế dân sự.
- Mộ được 500 người, tổ chức thành một cơ (10 đội) người đứng mộ lãnh chức vụ chánh đội thí sai phó quản cơ. Khi đất sinh huê lợi, phó quản cơ mặc nhiên là cai tổng, theo qui chế dân sự (Chú thích: Đại Nam Thực lục, tập XXVII, trang 372).
Qui chế qui định mức thưởng cho người mộ quân chống Pháp (3/1861) qui định:
Mộ đủ 50 người thưởng thụ suất đội trật tòng ngũ phẩm; mộ đủ 500 người thường thụ quản cơ trật chánh tứ phẩm. Trường hợp số quân mộ được 2, 3 cơ (tức 1000 hay 1500 người) thì đợi chỉ của vua cất lên bậc cao.
Ngoài ra, qui chế này còn qui định nếu đem 10 người thân thuộc trong gia đình gia nhập quân đội sẽ được cấp bằng cửu phẩm bá hộ, 20 người trở lên sẽ được cấp bằng tòng bát phẩm bá hộ, 30 người trở lên sẽ được cấp bằng đội trưởng tòng thất phẩm bá hộ (Chú thích: Đại Nam Thực lục, tập XXIX, trang 190).
Đối chiếu hai qui chế trên, ta thấy trường hợp của Trương Định khá rõ: trong khi lập đồn điền, Trương Định mộ được khoảng 500 người nên được cấp bằng phó quản cơ (hệ dân sự). Đến khi Pháp tấn công thành Gia Định, mang quân đồn điền ra chống giặc được cất nhắc lên quản cơ (hệ quân sự).
Còn, trường hợp của Võ Duy Dương: chức danh phẩm hàm “chánh bát phẩm Thiên hộ" của ông gợi cho chúng ta ít nhiều thắc mắc; vì trong qui chế đồn điền chỉ ghi: "Người đứng lập ấp mà mộ đủ 30 người, thì tha thuế thân, sai dịch suốt đời; mộ được 50 người thì thưởng thụ chánh cửu phẩm bá hộ; được 100 người, thưởng thụ chánh bát phẩm bá hộ vẫn lãnh làm tổng lý (3 năm thì làm sổ, chiếu lệ đồn điền thi hành). Còn ruộng đất đã được khai khẩn và thuế thân của nhân đinh đều khoảng hạn (10 năm) mới bắt đầu thu để tỏ sự khuyến khích" chớ không có khoảng nào qui định được thưởng thụ chánh bát phẩm thiên hộ. Cũng như vậy, trong qui định mức thưởng dành cho người mộ nghĩa chống Pháp cũng không có ấn định phẩm hàm này.
Tuy nhiên trong qui chế đồn điền
1853, có điều đáng cho ta lưu ý "mộ được 100
người, thưởng thụ chánh bát phẩm bá bộ, vẫn lãnh
làm tổng lý (3 năm thì làm sổ, chiếu lệ đồn điền
thi hành). Điều này giúp ta suy luận: Võ Duy Dương lúc
vào Nam chiêu mộ lưu dân không sung vào các đội đồn
điền, mà đứng ra lập làng lập ấp. Số người mà ông
qui mộ đã vượt quá con số 100 (có lẽ gần 1000) nên
ông được thưởng thụ hàm chánh bát phẩm (trật cao
nhất theo qui định cho người đứng lập ấp) còn chức
danh không phải là bách (bá) hộ mà là Thiên hộ (vì đã
mộ được gần 1000 người). Lẽ ra, theo qui định, ông
phải đợi đến 3 năm sau, triều đình mới chiếu theo lệ
đồn điền thưởng thụ cho ông. Nhưng điều đó không
xảy ra vì tháng 2/1859 Pháp đã chiếm thành Gia Định, rồi
sau đó hạ đồn Chí Hòa (2/1861), chiếm Định Tường
(4/1861) và chính sách đồn điền ngưng không thực hiện
nữa.
Có lẽ dựa vào lập luận tương tự như trên, nên đã có nhiều tác giả cho rằng chức danh Thiên hộ của Võ Duy Dương xuất phát từ hoạt động chiêu dân lập ấp.
Song cũng có tác giả khác lại cho rằng sở dĩ Võ Duy Dương mang chức danh Thiên hộ vì ông là người giàu có (ở trong Nam những điền chủ giàu có thường mua chức hàm bá hộ hay Thiên hộ) và cũng có tác giả cho rằng vì ông đã mộ được 1000 nghĩa dõng tham gia chống Pháp nên được phong chức Thiên hộ.
Nhưng theo quan chế triều đình nhà Nguyễn thì chức Thiên hộ là một chức quan võ (hệ võ giai) nằm trong trật tòng thất chánh phẩm, dưới chức này là chánh bát phẩm bá hộ (Chú thích: Trần Trọng Kim - Việt Nam sử lược. Tân Việt - Sài Gòn, 1975 trang 431). Như vậy, chức danh chánh bát phẩm Thiên hộ của Võ Duy Dương là chức danh đặc cách, nghĩa là chức làm Thiên hộ nhưng vẫn phải hưởng lương theo trật chánh bát phẩm (là 20 quan tiền, 18 phương gạo, 5 quan tiền xuân phục) chớ chưa ăn lương theo trật tòng thất phẩm (25 quan tiền, 20 phương gạo, 5 quan tiền xuân phục) đúng với chức danh. Có lẽ, Võ Duy Dương là một võ quan cấp thấp chức bá hộ (trật chánh bát phẩm) song có công trạng nên được đặc cách mang chức Thiên hộ nhưng vẫn còn hưởng lương theo trật cũ (chánh bát phẩm), nên từ đó có chức danh Thiên hộ.
Đến nay, không rõ Võ Duy Dương được thưởng thụ chánh bát phẩm Thiên hộ vào lúc nào, mà chỉ thấy chức danh và phẩm hàm chánh bát phẩm Thiên hộ Võ Duy Dương xuất hiện trong Đại Nam Thực lục sớm nhất là vào tháng 8 năm Tự Đức thứ 14 (tức tháng 9/1861) ông lại nhận được bằng quản cơ (Chú thích: Gustave Janneau - Tài liệu đã dẫn) do Khâm phái Đỗ Thúc Tịnh trao. Như vậy ông nhận được bằng quản cơ một lúc với Trương Định. Cũng như trường hợp Trương Định, bằng quản cơ của Võ Duy Dương được phong theo định lệ mức thưởng cho người mộ nghĩa dũng chống Pháp chớ không theo qui chế đốn điền.
Theo các bô lão ở Cái Bè, Cai Lậy (đất Ba Giồng) nơi Võ Duy Dương hoạt động chiêu dân lập ấp trước đây, thì sau khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định (tháng 2/1859) ông cùng một số thuộc hạ thân tín vượt biển ra kinh đô Huế hiến kế đánh giặc với triều đình. Song lúc bấy giờ (1859 - 1860) ở Quãng Ngãi có giặc biển hoành hành, quan quân địa phương không trị nổi. Triều đình ủy thác cho Võ Duy Dương đánh dẹp, ông hoàn thành nhiệm vụ được vua khen ngợi và ban cho chức Thiên hộ.
Sự kiện này hoàn toàn khớp với điều ghi chép trong Đại Nam Thực lục “Nguyên phái đi bắt giặc ở Quảng Ngãi là chánh bát phẩm Thiên hộ Võ Duy Dương, khi ấy (tháng 5/1861) cũng ở trong bọn tùy phái" (Chú thích: ĐNTL - Đệ Tứ Kỷ Quyển XXIX. trang 248)
Như vậy, có khả năng Võ Duy Dương được phong Chánh bát phẩm Thiên hộ trong năm 1860.
Có lẽ dựa vào lập luận tương tự như trên, nên đã có nhiều tác giả cho rằng chức danh Thiên hộ của Võ Duy Dương xuất phát từ hoạt động chiêu dân lập ấp.
Song cũng có tác giả khác lại cho rằng sở dĩ Võ Duy Dương mang chức danh Thiên hộ vì ông là người giàu có (ở trong Nam những điền chủ giàu có thường mua chức hàm bá hộ hay Thiên hộ) và cũng có tác giả cho rằng vì ông đã mộ được 1000 nghĩa dõng tham gia chống Pháp nên được phong chức Thiên hộ.
Nhưng theo quan chế triều đình nhà Nguyễn thì chức Thiên hộ là một chức quan võ (hệ võ giai) nằm trong trật tòng thất chánh phẩm, dưới chức này là chánh bát phẩm bá hộ (Chú thích: Trần Trọng Kim - Việt Nam sử lược. Tân Việt - Sài Gòn, 1975 trang 431). Như vậy, chức danh chánh bát phẩm Thiên hộ của Võ Duy Dương là chức danh đặc cách, nghĩa là chức làm Thiên hộ nhưng vẫn phải hưởng lương theo trật chánh bát phẩm (là 20 quan tiền, 18 phương gạo, 5 quan tiền xuân phục) chớ chưa ăn lương theo trật tòng thất phẩm (25 quan tiền, 20 phương gạo, 5 quan tiền xuân phục) đúng với chức danh. Có lẽ, Võ Duy Dương là một võ quan cấp thấp chức bá hộ (trật chánh bát phẩm) song có công trạng nên được đặc cách mang chức Thiên hộ nhưng vẫn còn hưởng lương theo trật cũ (chánh bát phẩm), nên từ đó có chức danh Thiên hộ.
Đến nay, không rõ Võ Duy Dương được thưởng thụ chánh bát phẩm Thiên hộ vào lúc nào, mà chỉ thấy chức danh và phẩm hàm chánh bát phẩm Thiên hộ Võ Duy Dương xuất hiện trong Đại Nam Thực lục sớm nhất là vào tháng 8 năm Tự Đức thứ 14 (tức tháng 9/1861) ông lại nhận được bằng quản cơ (Chú thích: Gustave Janneau - Tài liệu đã dẫn) do Khâm phái Đỗ Thúc Tịnh trao. Như vậy ông nhận được bằng quản cơ một lúc với Trương Định. Cũng như trường hợp Trương Định, bằng quản cơ của Võ Duy Dương được phong theo định lệ mức thưởng cho người mộ nghĩa dũng chống Pháp chớ không theo qui chế đốn điền.
Theo các bô lão ở Cái Bè, Cai Lậy (đất Ba Giồng) nơi Võ Duy Dương hoạt động chiêu dân lập ấp trước đây, thì sau khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định (tháng 2/1859) ông cùng một số thuộc hạ thân tín vượt biển ra kinh đô Huế hiến kế đánh giặc với triều đình. Song lúc bấy giờ (1859 - 1860) ở Quãng Ngãi có giặc biển hoành hành, quan quân địa phương không trị nổi. Triều đình ủy thác cho Võ Duy Dương đánh dẹp, ông hoàn thành nhiệm vụ được vua khen ngợi và ban cho chức Thiên hộ.
Sự kiện này hoàn toàn khớp với điều ghi chép trong Đại Nam Thực lục “Nguyên phái đi bắt giặc ở Quảng Ngãi là chánh bát phẩm Thiên hộ Võ Duy Dương, khi ấy (tháng 5/1861) cũng ở trong bọn tùy phái" (Chú thích: ĐNTL - Đệ Tứ Kỷ Quyển XXIX. trang 248)
Như vậy, có khả năng Võ Duy Dương được phong Chánh bát phẩm Thiên hộ trong năm 1860.
Hai giai đoạn kháng
chiến của Võ Duy Dương
A- TRUNG TÂM KHÁNG CHIẾN BA GIỒNG (TÂY BẮC ĐỊNH TƯỜNG) HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG SONG SONG VỚI TRUNG TÂM TÂN HÒA (GÒ CÔNG) (1861 - 1864)
I. Giai đoạn trước Hòa ước Sài Gòn (1862)
Trước đây có nhiều tác giả cho rằng cuộc khởi nghĩa của Võ Duy Dương chủ yếu chỉ gắn chặt trên địa bàn Đồng Tháp Mười. Tuy nhiên với tư liệu mới phát hiện gần đây cho thấy, trước khi lấy Đồng Tháp Mười làm tổng hành dinh, Võ Duy Dương đã có một thời gian dài cùng với Nguyễn Hữu Huân vận động nhân dân tổ chức tác chiến đánh thực dân Pháp trên khu vực đất Ba Giồng ở phía Tây tỉnh Định Tường.
Địa danh "Ba Giồng" chỉ một vạt đất đai đầy gò nổng chạy dài từ Nam sông Vàm Cỏ Tây, dọc theo kinh Bảo Định rồi cập theo sông Tiền đến tận Cái Bè Cái Thia, gồm một hệ thống với ba cụm giồng:
Cụm 1: Gò Cánh Én, gò Trâm Bầu, gò Trao Trảo (Qua Qua), giồng Dứa, giồng Trấn Định (Tân Hiệp) theo hướng Bắc Nam.
Cụm 2: Gò Lũy, giồng Cai Lữ, giồng Thuộc Nhiêu (gò ông Hoài) ở Nhị Bình Điềm Hy, gò Trà Luộc Điềm Hy, Hữu Đạo Nhị Quý, (Phú Quý thuộc Cai Lậy) theo hướng Đông Bắc Tây Nam.
Cụm 3: Gò Mồ Côi, gò Lâm Vồ (xã Tân Hội, giồng Cai Lậy, giồng Bà Trà, thị trấn Cai Lậy), gò Bù Lu (xã Nhị Mỹ), giồng Tre, gò Sung (xã Bình Chú), gò Triệu (xã An Cư huyện Cái Bè) chạy song song với cụm thứ 2.
Đây là địa giới của bờ biển cũ bao quanh mặt Đông Nam của Đồng Tháp Mười.Vùng Ba Giồng có vị trí chiến lược quan trọng ; là cửa ngõ xâm nhập vào Định Tường, một tỉnh đông dân và trù phú nhất Nam Kỳ và cũng là cửa ngõ vào Tây Nam của miệt lục tỉnh. Ngay từ xưa, Đại Nam nhân Thống chí đã mô tả :
“Gò Tam Phụ (Ba Giồng) tục danh là Ba Đổng (hay đống) địa phận hai huyện Kiến Đăng và Kiến Hưng, gồm các gò: gò Yến, gò Kỳ Lân, gò Qua Qua. Gò đống rộng lớn, cây cối xum xuê, chỗ khởi lên, chỗ phục xuống, tiếp tục nối liền, trước có đại giang (sông Tiền-tg) ngăn trở, sau tựa vào chằm Mãng Trạch (vùng Đồng Tháp Mười-tg) là nơi tụ nghĩa của Đỗ Thành Nhân vậy "(Chú thích: ĐNNTC Lục Tỉnh Nam Việt - Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo. Trang 9)
Đất này, khi xưa nguyên là của Vương quốc Phù Nam.
Từ thế kỷ XVI, XVII, đã có một bộ phận lưu dân người Việt vào cư ngụ. Năm 1623, chúa Nguyễn lập ra hai đồn thu thuế của Prei-Nokor ( Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đến năm 1698, được lệnh chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam làm kinh lược, lấy đất Nông Nại, lập ra Gia Định Phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn (Sài Gòn) làm huyện Tân Bình dựng thành Phiên Trấn.
Song hai huyện Phước Long và Tân Bình không đủ sức quản lý hết các vùng chung quanh, nên vùng đất sau này là Định Tường được lập sổ sách biệt nạp với 9 khổ trường: Qui An, Qui Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp (Chú thích: ĐNNTC, Lục tỉnh Nam Việt chép: Yên Mụ, Quản Tác, Hoàng Tích thay vì Thiên Mụ. Gian Thảo, Hoàng Lạp), Tam Lịch, Bả Canh, Tân Thạnh cho dân khai khẩn lập ấp làm ăn. Đến năm 1772, lập đạo Trường Đồn trên đất này, năm 1779 lập huyện Kiến Thương, lỵ sở đóng tại gò Kiến Định Tân Hiệp (Châu Thành, Tiền Giang). Qua năm 1781, cải thành dinh Trấn Định. Năm Gia Long thứ 5 huyện Kiến Khương đổi thành Kiến An (1806). Hai năm sau (1808) dinh Trấn Định cải thành trấn Định Tường trực thuộc Gia Định Thành, và huyện Kiến An nâng lên thành phủ và 3 tổng: Kiến Hưng, Kiến Hòa và Kiến Đăng trở thành 3 huyện. Đến 1831, đổi thành tỉnh Định Tường, chia đất Kiến Hòa lập thêm huyện Tân Hòa. Từ 1841, tỉnh Định Tường có 2 phủ: Kiến An, Kiến Tường với 4 huyện: Kiến Hòa, Kiến Hưng, Kiến Phong và Kiến Đăng, huyện Tân Hòa thuộc về tỉnh Gia Định.
Do địa thế cao ráo với nhiều
gò cát cao, nên đường thiên lý đoạn chạy qua tỉnh
Định Tường đều nằm trên giải đất Ba Giồng.
“...Quan lộ phía hữu, gặp chỗ nào cong queo, giăng dây để uốn thẳng lại bắt đầu từ Tân Thuận qua chùa Kim Chương do phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò Tuyên Tự đến bến Thủ Đoàn (Thủ Thừa ngày nay-tg) qua sông Hưng Hòa (tức sông Vàm Cỏ Tây đoạn chảy qua thị xã Tân An ngày nay - Tg) trải qua gò Trấn Định (Thị trấn Tân Hiệp ngày nay) rồi đến gò Triệu (thuộc huyện Cái Bè), con đường rộng 5 tầm, hai bên trồng cây mù u, cây mít là thứ cây thổ nghi. Cầu cống thuyền đò, nơi nào, lúc nào cũng gia tăng tu bổ. Đường rộng thẳng như tấm đá mài, gọi đó là “đường Thiên Lý của miền Nam” (Chú thích: GĐTTC tập hạ, mục Thành (trì) chí. tr.75).
Vùng Ba Giồng được giới hạn về phía đông bởi rạch Bảo Định, về phía Nam là sông Tiền. Rạch Bảo Định nối liền sông Tiền với sông Vàm Cỏ Tây. Địa hình Ba Giồng bị một số con rạch chia cắt. Hệ thống sông rạch ở Ba Giồng có hai hướng đều có tác dụng thoát nước cho Đồng Tháp Mười.
1- Hướng Tây Bắc Đông Nam đổ vào rạch Bảo Định có các rạch Tân Hương, rạch Trấn Định (Tân Hiệp) và rạch Chùa. Hầu hết các rạch này đều chảy qua các gò: Cánh Én, Trâm Bầu, Trao Trảo, gò Dứa, Trấn Định.
2- Hướng Bắc Nam: từ Tây sang Đông, có:
- Rạch Cái Thia chảy qua hai tổng Phong Phú và Phong Hòa (Cái Bè) chia làm ba nhánh:
* Rạch Cái Cối, dài 21 km.
* Rạch Cái Thia dài 12 km.
* Rạch Mỹ Thiện dài trên 10 km.
- Rạch Trà Lọt dài khoảng 18 km cũng chảy qua tổng Phong Hòa.
- Rạch Cái Bè, chia ra hai chi lưu: nhánh phía Tây vẫn còn chảy trong địa phận Tổng Phong Hòa; nhánh phía đông chảy qua Tổng Lợi Thuận. Hai nhánh này gặp nhau tại chợ Cái Bè (làng An Bình Đông) tạo thành một vàm sông lớn trước khi đổ vào sông Tiền. Một nhánh nhỏ là rạch Cái Gáo (Cây Gáo) chảy vào tận Giai Mỹ, Xoài Tư.
- Rạch Ba Rài dài 22 km chảy qua địa phận hai tổng Lợi Trinh và Lợi Thuận (Cai Lậy).
- Rạch Trà Tân chảy qua Tổng Lợi Mỹ gồm cả rạch Trà Luộc chảy qua các tổng Lợi Trinh, Lợi Trường và Lợi Mỹ.
- Rạch Gầm chảy qua hai tổng Thuận Bình và Lợi Trường, dài 11 km.
- Rạch Kỳ Hôn chảy qua tổng Hòa Hảo.
Ngoài ra, còn có một con kinh đào, được khởi công dưới triều Minh Mạng, đó là kinh Tranh Giàng (Hay kinh Thương Mại) (Chú thích: Trong một số bản đồ cổ của người Pháp ghi nhằm là Đằng Giang.), được kéo dài đến tận sông lớn bởi rạch Bà Bèo và rạch Cái Bè. Nó làm cho lưu vực của sông Tiền thông thương với Vàm Cỏ Tây xuyên qua mạn Đông Nam của Đồng Tháp Mười.
Hệ thống sông rạch ở Ba Giồng đã phân chia các gò nổng trong vùng thành ba hệ thống như đã nói ở trên.
Nếu Định Tường là tỉnh giàu có nhất Nam kỳ thì Ba Giồng chẳng những là vùng trù phú trong tỉnh về mặt kinh tế mà còn có một vị trí chiến lược rất quan trọng về mặt quân sự. Nó kết hợp với Đồng Tháp Mười để tạo nên thế liên hoàn giữa thế công và thế thủ (Phải chăng đây là điều khiến Võ Duy Dương quyết định chọn Ba Giồng và Đồng Tháp Mười làm địa bàn hoạt động.)
“...Quan lộ phía hữu, gặp chỗ nào cong queo, giăng dây để uốn thẳng lại bắt đầu từ Tân Thuận qua chùa Kim Chương do phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò Tuyên Tự đến bến Thủ Đoàn (Thủ Thừa ngày nay-tg) qua sông Hưng Hòa (tức sông Vàm Cỏ Tây đoạn chảy qua thị xã Tân An ngày nay - Tg) trải qua gò Trấn Định (Thị trấn Tân Hiệp ngày nay) rồi đến gò Triệu (thuộc huyện Cái Bè), con đường rộng 5 tầm, hai bên trồng cây mù u, cây mít là thứ cây thổ nghi. Cầu cống thuyền đò, nơi nào, lúc nào cũng gia tăng tu bổ. Đường rộng thẳng như tấm đá mài, gọi đó là “đường Thiên Lý của miền Nam” (Chú thích: GĐTTC tập hạ, mục Thành (trì) chí. tr.75).
Vùng Ba Giồng được giới hạn về phía đông bởi rạch Bảo Định, về phía Nam là sông Tiền. Rạch Bảo Định nối liền sông Tiền với sông Vàm Cỏ Tây. Địa hình Ba Giồng bị một số con rạch chia cắt. Hệ thống sông rạch ở Ba Giồng có hai hướng đều có tác dụng thoát nước cho Đồng Tháp Mười.
1- Hướng Tây Bắc Đông Nam đổ vào rạch Bảo Định có các rạch Tân Hương, rạch Trấn Định (Tân Hiệp) và rạch Chùa. Hầu hết các rạch này đều chảy qua các gò: Cánh Én, Trâm Bầu, Trao Trảo, gò Dứa, Trấn Định.
2- Hướng Bắc Nam: từ Tây sang Đông, có:
- Rạch Cái Thia chảy qua hai tổng Phong Phú và Phong Hòa (Cái Bè) chia làm ba nhánh:
* Rạch Cái Cối, dài 21 km.
* Rạch Cái Thia dài 12 km.
* Rạch Mỹ Thiện dài trên 10 km.
- Rạch Trà Lọt dài khoảng 18 km cũng chảy qua tổng Phong Hòa.
- Rạch Cái Bè, chia ra hai chi lưu: nhánh phía Tây vẫn còn chảy trong địa phận Tổng Phong Hòa; nhánh phía đông chảy qua Tổng Lợi Thuận. Hai nhánh này gặp nhau tại chợ Cái Bè (làng An Bình Đông) tạo thành một vàm sông lớn trước khi đổ vào sông Tiền. Một nhánh nhỏ là rạch Cái Gáo (Cây Gáo) chảy vào tận Giai Mỹ, Xoài Tư.
- Rạch Ba Rài dài 22 km chảy qua địa phận hai tổng Lợi Trinh và Lợi Thuận (Cai Lậy).
- Rạch Trà Tân chảy qua Tổng Lợi Mỹ gồm cả rạch Trà Luộc chảy qua các tổng Lợi Trinh, Lợi Trường và Lợi Mỹ.
- Rạch Gầm chảy qua hai tổng Thuận Bình và Lợi Trường, dài 11 km.
- Rạch Kỳ Hôn chảy qua tổng Hòa Hảo.
Ngoài ra, còn có một con kinh đào, được khởi công dưới triều Minh Mạng, đó là kinh Tranh Giàng (Hay kinh Thương Mại) (Chú thích: Trong một số bản đồ cổ của người Pháp ghi nhằm là Đằng Giang.), được kéo dài đến tận sông lớn bởi rạch Bà Bèo và rạch Cái Bè. Nó làm cho lưu vực của sông Tiền thông thương với Vàm Cỏ Tây xuyên qua mạn Đông Nam của Đồng Tháp Mười.
Hệ thống sông rạch ở Ba Giồng đã phân chia các gò nổng trong vùng thành ba hệ thống như đã nói ở trên.
Nếu Định Tường là tỉnh giàu có nhất Nam kỳ thì Ba Giồng chẳng những là vùng trù phú trong tỉnh về mặt kinh tế mà còn có một vị trí chiến lược rất quan trọng về mặt quân sự. Nó kết hợp với Đồng Tháp Mười để tạo nên thế liên hoàn giữa thế công và thế thủ (Phải chăng đây là điều khiến Võ Duy Dương quyết định chọn Ba Giồng và Đồng Tháp Mười làm địa bàn hoạt động.)
Sau khi chiếm được thành Mỹ
Tho (tháng 4 năm 1861) thực dân Pháp kéo đại quân về Sài
Gòn, để lại 400 quân do trung tá Desvaux chỉ huy cố giữ
phần đất vừa chiếm được.
"Phó đô đốc Charner hay tin chiếm được Mỹ Tho, đến thẳng tận nơi giải quyết mọi việc, ông ta sắp xếp việc hành chánh, chánh trị và lo việc giữ thành. Pháp cho một đoàn quân 400 người đóng lại với đại bác và pháo hạm, còn bao nhiêu rút về Sài Gòn. Chợ Lớn "(Chú thích: Alfred Schreiner - Đại Nam Quốc Lược sử - Nguyễn Văn Nhàn dịch.).
Pháp rải quân ra trú đóng ở các vị trí xung yếu trên địa bàn Định Tường. Trên bộ có các đồn chủ yếu: đồn Rạch Gầm, đồn Bourdais, đồn Trấn Định, đồn Trung Lương, đồn Cai Lậy (do Chasseriau đóng), đồn Cái Bè (do Bottet và Gonon đóng) đồn Kỳ Hôn (do Thouroude đóng), đồn Chợ cũ Mỹ Tho, đồn Gia Thạnh (do Robinet và Pineau) đồn Gò Công (do D'arieuille đóng) đồn Tân Hòa, đồn Chợ Gạo hòng bóp chết tại chỗ các cuộc nổi dậy và bảo vệ thành Mỹ Tho. Trên sông rạch để bảo đảm lưu thông liền mạch với Sài Gòn chúng cho vét kinh Bảo Định nối liền Mỹ Tho-Tân An, tàu tuần liên tục trên các sông rạch như những pháo đài lưu động. Chiếc Solevad án ngữ ở Rạch Gầm, pháo thuyền Gougelard kiểm tra vàm Cái Thia, Cái Cối, chiếc Sham-river canh phòng Cửa Tiểu, Mỹ Tho.
Cũng như trên địa bàn tỉnh Gia Định, song song với mặt bố phòng về quân sự, chúng tập hợp một số Việt gian để hình thành bộ máy tay sai ở cấp xã, cấp tổng, tiến hành các công việc hành chánh, thuế vụ nhưng nhân dân Định Tường và Gia Định nhứt định không để chúng tự do hành động mặc dù quan quân của triều đình đã rút lui.
Về phía quan quân triều đình sau khi rút chạy không tìm được kế sách gì để giành lại phần đất chịu trách nhiệm cai quản đã mất, chỉ ngồi chờ triều đình trị tội và đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Nguyễn Hữu Thành (lãnh Tuần phủ) chạy đến trạm Biên Long, dâng tờ sớ đợi tội (nói kèm việc Công Nhàn (Nguyễn Công Nhàn: lãnh Tổng đốc) thừa cơ trốn trước). Công Nhàn sau khi đến huyện Kiến Đăng (Cai Lậy) cùng làm tờ tấu xin nhận tội, nói việc Hữu Thành không cùng nhau bàn tính công việc. Bọn Duy Quang, Tuấn (Nguyễn Duy Quang, Tôn Thất Tuấn: là án sát và lãnh binh do Tổng đốc Long Tường Trương Văn Uyển phái sang.) thấy không giữ thành được cùng đem bản bộ về Vĩnh Long " (Chú thích: ĐNTL, Đệ Tứ kỷ. Quyển XIX. tr.201 KHXH. Hà Nội.1974.).
Còn triều đình Huế, từ khi mất Gia Định đến giờ, bản thân vua Tự Đức và đình thần cũng chưa tìm ra một sách lược cụ thể giữa đánh và hòa. Quan mỗi người mỗi ý; Vua thì chưa định ra lẽ nào!.
"Nguyễn Bá Nghi tự khi mới đến quân thứ cho rằng việc đánh hay giữ đều chưa tiện. Đã xin cho người giảng hòa làm kế hoãn binh. Đến bây giờ sự trạng hiện làm (đưa thư đi lại với Tây Dương) làm tập tâu lên. Vua đem tờ tâu đưa cho Trương Đăng Quế xem, bảo cứ ý nghĩa mà bày tâu".
'Trương Đăng Quế dâng sớ nói: người Tây Dương ý muốn chiếm Gia Định, lại muốn cắt lấy tỉnh Tường, tỉnh Biên, yêu cầu như thế, sợ hòa cục không thành. Trừ việc chiến việc thủ không có kế hoạch gì khác” (Chú thích: ĐNTL. Đệ Tứ Kỷ Q.xxlx, tr. 208)
Tự Đức cũng không hề nghĩ đến việc cầu cứu Trung Hoa để chống thực dân Pháp mà cố gắng tự giải quyết lấy (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi trong “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Quốc" tr. 132 có đoạn viết: "Theo kết quả chúng tôi khai thác trong chính sử Thực lục và những tài liệu gốc từ các bản thảo của lãnh sự Pháp ở Huế thì Tự Đức cố gắng tự lực giải quyết vấn đề này cho đến năm 1882" (Bản dịch của Nguyễn Đình Đầu)). Một mặt nhà vua sai Nguyễn Bá Nghi viết thư tiếp tục quan hệ với Pháp để xem họ trả lởi như thế nào; một mặt ra lệnh cho ba tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa và Bình Định mỗi tỉnh suất 500 quân kéo đến Biên Hòa hiệp cùng quân thứ ở đây chống giặc. Trương Văn Uyển, Phan Khắc Thận đốc thần của Vĩnh Long, An Giang hiệp nhau hỗ trợ cho Định Tường, các quan bại trận ở Định Tường phải về nhiệm sở cũ đoái công, chuộc tội.
Cùng lúc ấy, Đỗ Thúc Tịnh (đang là Biên lý Bộ binh) Nguyễn Túc Trưng (đang là Thủ phủ Thừa Thiên) tự nguyện xin vào Nam đánh giặc nên được sung chức Khâm phái quân vụ được lịnh vào Nam chiêu mộ dân dũng sung làm quân chiến tâm cùng nhau chống giặc cứu nước. Đoàn Khâm phái quân vụ còn được bổ sung thêm nhiều nhân vật yêu nước nữa như Trương Minh Lượng, Nguyễn Nhã, Phan Trung (Chánh), Chánh bát phẩm Thiên hộ Võ Duy Dương...(Chú thích: ĐNTL. QXXIX. Sđd.)
Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên thì lúc bấy giờ Võ Duy Dương đang thi hành nhiệm vụ dẹp giặc ở Quảng Ngãi (Chú thích: ĐNTL. Sđd) cũng được sung vào phái đoàn Khâm phái quân vụ của Đỗ Thúc Tịnh lên đường vào Long Tường An - Hà (Định Tường, Vĩnh Long-An Giang Hà Tiên).
"Phó đô đốc Charner hay tin chiếm được Mỹ Tho, đến thẳng tận nơi giải quyết mọi việc, ông ta sắp xếp việc hành chánh, chánh trị và lo việc giữ thành. Pháp cho một đoàn quân 400 người đóng lại với đại bác và pháo hạm, còn bao nhiêu rút về Sài Gòn. Chợ Lớn "(Chú thích: Alfred Schreiner - Đại Nam Quốc Lược sử - Nguyễn Văn Nhàn dịch.).
Pháp rải quân ra trú đóng ở các vị trí xung yếu trên địa bàn Định Tường. Trên bộ có các đồn chủ yếu: đồn Rạch Gầm, đồn Bourdais, đồn Trấn Định, đồn Trung Lương, đồn Cai Lậy (do Chasseriau đóng), đồn Cái Bè (do Bottet và Gonon đóng) đồn Kỳ Hôn (do Thouroude đóng), đồn Chợ cũ Mỹ Tho, đồn Gia Thạnh (do Robinet và Pineau) đồn Gò Công (do D'arieuille đóng) đồn Tân Hòa, đồn Chợ Gạo hòng bóp chết tại chỗ các cuộc nổi dậy và bảo vệ thành Mỹ Tho. Trên sông rạch để bảo đảm lưu thông liền mạch với Sài Gòn chúng cho vét kinh Bảo Định nối liền Mỹ Tho-Tân An, tàu tuần liên tục trên các sông rạch như những pháo đài lưu động. Chiếc Solevad án ngữ ở Rạch Gầm, pháo thuyền Gougelard kiểm tra vàm Cái Thia, Cái Cối, chiếc Sham-river canh phòng Cửa Tiểu, Mỹ Tho.
Cũng như trên địa bàn tỉnh Gia Định, song song với mặt bố phòng về quân sự, chúng tập hợp một số Việt gian để hình thành bộ máy tay sai ở cấp xã, cấp tổng, tiến hành các công việc hành chánh, thuế vụ nhưng nhân dân Định Tường và Gia Định nhứt định không để chúng tự do hành động mặc dù quan quân của triều đình đã rút lui.
Về phía quan quân triều đình sau khi rút chạy không tìm được kế sách gì để giành lại phần đất chịu trách nhiệm cai quản đã mất, chỉ ngồi chờ triều đình trị tội và đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Nguyễn Hữu Thành (lãnh Tuần phủ) chạy đến trạm Biên Long, dâng tờ sớ đợi tội (nói kèm việc Công Nhàn (Nguyễn Công Nhàn: lãnh Tổng đốc) thừa cơ trốn trước). Công Nhàn sau khi đến huyện Kiến Đăng (Cai Lậy) cùng làm tờ tấu xin nhận tội, nói việc Hữu Thành không cùng nhau bàn tính công việc. Bọn Duy Quang, Tuấn (Nguyễn Duy Quang, Tôn Thất Tuấn: là án sát và lãnh binh do Tổng đốc Long Tường Trương Văn Uyển phái sang.) thấy không giữ thành được cùng đem bản bộ về Vĩnh Long " (Chú thích: ĐNTL, Đệ Tứ kỷ. Quyển XIX. tr.201 KHXH. Hà Nội.1974.).
Còn triều đình Huế, từ khi mất Gia Định đến giờ, bản thân vua Tự Đức và đình thần cũng chưa tìm ra một sách lược cụ thể giữa đánh và hòa. Quan mỗi người mỗi ý; Vua thì chưa định ra lẽ nào!.
"Nguyễn Bá Nghi tự khi mới đến quân thứ cho rằng việc đánh hay giữ đều chưa tiện. Đã xin cho người giảng hòa làm kế hoãn binh. Đến bây giờ sự trạng hiện làm (đưa thư đi lại với Tây Dương) làm tập tâu lên. Vua đem tờ tâu đưa cho Trương Đăng Quế xem, bảo cứ ý nghĩa mà bày tâu".
'Trương Đăng Quế dâng sớ nói: người Tây Dương ý muốn chiếm Gia Định, lại muốn cắt lấy tỉnh Tường, tỉnh Biên, yêu cầu như thế, sợ hòa cục không thành. Trừ việc chiến việc thủ không có kế hoạch gì khác” (Chú thích: ĐNTL. Đệ Tứ Kỷ Q.xxlx, tr. 208)
Tự Đức cũng không hề nghĩ đến việc cầu cứu Trung Hoa để chống thực dân Pháp mà cố gắng tự giải quyết lấy (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi trong “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Quốc" tr. 132 có đoạn viết: "Theo kết quả chúng tôi khai thác trong chính sử Thực lục và những tài liệu gốc từ các bản thảo của lãnh sự Pháp ở Huế thì Tự Đức cố gắng tự lực giải quyết vấn đề này cho đến năm 1882" (Bản dịch của Nguyễn Đình Đầu)). Một mặt nhà vua sai Nguyễn Bá Nghi viết thư tiếp tục quan hệ với Pháp để xem họ trả lởi như thế nào; một mặt ra lệnh cho ba tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa và Bình Định mỗi tỉnh suất 500 quân kéo đến Biên Hòa hiệp cùng quân thứ ở đây chống giặc. Trương Văn Uyển, Phan Khắc Thận đốc thần của Vĩnh Long, An Giang hiệp nhau hỗ trợ cho Định Tường, các quan bại trận ở Định Tường phải về nhiệm sở cũ đoái công, chuộc tội.
Cùng lúc ấy, Đỗ Thúc Tịnh (đang là Biên lý Bộ binh) Nguyễn Túc Trưng (đang là Thủ phủ Thừa Thiên) tự nguyện xin vào Nam đánh giặc nên được sung chức Khâm phái quân vụ được lịnh vào Nam chiêu mộ dân dũng sung làm quân chiến tâm cùng nhau chống giặc cứu nước. Đoàn Khâm phái quân vụ còn được bổ sung thêm nhiều nhân vật yêu nước nữa như Trương Minh Lượng, Nguyễn Nhã, Phan Trung (Chánh), Chánh bát phẩm Thiên hộ Võ Duy Dương...(Chú thích: ĐNTL. QXXIX. Sđd.)
Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên thì lúc bấy giờ Võ Duy Dương đang thi hành nhiệm vụ dẹp giặc ở Quảng Ngãi (Chú thích: ĐNTL. Sđd) cũng được sung vào phái đoàn Khâm phái quân vụ của Đỗ Thúc Tịnh lên đường vào Long Tường An - Hà (Định Tường, Vĩnh Long-An Giang Hà Tiên).
Trên đất Ba Giồng, cũng như
khắp nơi trong 2 tỉnh vừa bị Pháp chiếm đóng dân chúng
đều sôi sục khí thế đầu quân chống giặc. Võ Duy
Dương trở lại địa bàn cũ, nơi ông đã có nhiều quan
hệ thân hữu gắn bó trong thời kỳ mộ dân khẩn hoang
và nhiều đồng chí đồng tâm khi mộ nghĩa dõng ứng cứu
thành Gia Định. Cũng chính nơi đây ông đã được phong
Chánh quản đạo cùng với người bạn chiến đấu thân
thiết là Nguyễn Hữu Huân vốn là giáo thụ phủ Kiến
An được phong Phó quản đạo.
Do những yếu tố thuận lợi đó, nên chỉ một thời gian ngắn vận động dân dũng đầu quân chống giặc, ông đã qui tụ cả ngàn người, đủ mọi thành phần trong xã hội. Trong bài phân tách khai báo cáo quân sự của Võ Duy Dương ", Gustave Janneau viết:
“Ông đã đi mộ được khoảng 1.000 người đáng chú ý về nhiệm vụ mà họ gánh vác trước kia, hoặc vì gia sản sự thế của họ, các vị được bổ các ngạch trật hoặc được nâng cao các phẩm hàm" (Chú thích: Gustave Janneau-tlđd)
Những người ông qui tụ được chẳng những là dân đồn điền, nông dân yêu nước mà có cả khoa bảng, phú hào điền chủ giàu có. Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, với tư cách là Phó quản đạo đã trở thành một trợ lý đắc lực của ông. Tháng 9/1861, ông nhận được chức Quản cơ cùng lúc với Trương Định, đặc trách chỉ huy võ sinh và võ sĩ (Gustave Janneau Tlđd).
Xác định được thế mạnh của ông ở đất Ba Giồng, các viên Khâm phái cho ông lập căn cứ ở Bình Cách, thuộc tổng Thạnh Quơn (Quan) huyện Kiến Hòa (nay thuộc ấp Bình Cách, xã Tân Bình Thạnh. Chợ Gạo, Tiền Giang). Địa bàn hoạt động của nghĩa quân dưới quyền rất rộng, lan ra khắp đôi Ba Giồng. Trên danh nghĩa là ông hoạt động dưới sự chi phối và điều động của án sát và Thương Biện Quân vụ Định Tường là Nguyễn Nhã và Trương Minh Lượng nhưng thực tế do uy tín đối với địa phương và tài thao lược nên ông và Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân hầu như nắm vai trò chủ động trong mọi việc từ chiêu mộ nghĩa dõng, điều động bố trí binh đến đề bạt khen thưởng những người có công trong công cuộc kháng chiến.
Ngay trong buổi đầu kháng chiến ông đã có mối quan hệ chặt chẽ với Trương Định ở Tân Hòa (Gò Công) với Trần Xuân Hòa (tức phủ Cậu ở Thuộc Nhiêu, Cai Lậy) Bùi Quang Diệu (tức quản Là ở Cần Giuộc), và các thủ lãnh nghĩa ứng khác để tương trợ nhau và hợp đồng chiến đấu. Đồng thời ông cũng tranh thủ được sự ủng hộ của các điền chủ, bá hộ giàu có (Chú thích: Tổng hành dinh của căn cứ Bình Cách là nhà của Đỗ Tường Kiên, một loại nhà cổ có tất cả 36 cửa kiên cố được bao bọc với 3 lũy tre và hào rộng.) trong đó có bá hộ Trần Văn Học tự Minh ở Bình Cách.
Trần Xuân Hòa, người Quảng Trị, đỗ cử nhân, con quan bố chánh Trần Tuyên, ông làm quan tri phủ, vì bị bịnh phong (cùi) nên thôi việc. Con quan ở Nam kỳ thường được gọi bằng "cậu", đã là tri phủ lại là con quan nên ông được dân chúng gọi là Phủ Cậu. Sau khi Pháp chiếm Định Tường, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa dõng chống Pháp ở vùng Mỹ Quí, Thuộc Nhiêu (Cai Lậy).
- Bùi Quang Diệu, người Cần Giuộc, đứng lên tụ họp dân chúng tự võ trang chống Pháp ở vùng Cần Đước hạ (Mỹ Lệ, Mỹ Long, Vạn Phước) cùng với Cai tổng Lộc Thành Trung. Cuối năm 1861, ông bất thần chỉ huy nghĩa quân tấn công Pháp ở Cần Giuộc, gây cho chúng nhiều thiệt hại, ông được phong chức đốc binh.
- Trần Kỳ Phong, nhà nho, quê ở xã Tân Lân (Cần Đước, Long An), sau khi Pháp chiếm thành Gia Định ông mộ nghĩa dõng theo quân triều đình chống giặc được phong làm Thư Lại cơ ứng nghĩa. Theo quân triều đình rút về Biên Hòa, tháng 9/1861 ông trở về hoạt động ở Cần Đước, mộ được hơn 300 nghĩa dõng, được phong chức quản cơ. Sau trận Cần Giuộc (12/1861) ông được thăng Thương biện quân vụ đạo Phước Lộc (Cần Giuộc), cùng Huỳnh Khắc Nhượng (Bộ Nhượng) Phạm Tiến hoạt động mạnh ở tổng Lộc Thành Trung.
Vừa xây dựng lực lượng, vừa đánh địch để tiêu hao binh lực chúng và ngăn chặn chúng mở rộng vùng chiếm đóng đồng thời cũng thỏa mãn yêu cầu diệt giặc sôi nổi của đồng bào lúc bấy giờ.
Do những yếu tố thuận lợi đó, nên chỉ một thời gian ngắn vận động dân dũng đầu quân chống giặc, ông đã qui tụ cả ngàn người, đủ mọi thành phần trong xã hội. Trong bài phân tách khai báo cáo quân sự của Võ Duy Dương ", Gustave Janneau viết:
“Ông đã đi mộ được khoảng 1.000 người đáng chú ý về nhiệm vụ mà họ gánh vác trước kia, hoặc vì gia sản sự thế của họ, các vị được bổ các ngạch trật hoặc được nâng cao các phẩm hàm" (Chú thích: Gustave Janneau-tlđd)
Những người ông qui tụ được chẳng những là dân đồn điền, nông dân yêu nước mà có cả khoa bảng, phú hào điền chủ giàu có. Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, với tư cách là Phó quản đạo đã trở thành một trợ lý đắc lực của ông. Tháng 9/1861, ông nhận được chức Quản cơ cùng lúc với Trương Định, đặc trách chỉ huy võ sinh và võ sĩ (Gustave Janneau Tlđd).
Xác định được thế mạnh của ông ở đất Ba Giồng, các viên Khâm phái cho ông lập căn cứ ở Bình Cách, thuộc tổng Thạnh Quơn (Quan) huyện Kiến Hòa (nay thuộc ấp Bình Cách, xã Tân Bình Thạnh. Chợ Gạo, Tiền Giang). Địa bàn hoạt động của nghĩa quân dưới quyền rất rộng, lan ra khắp đôi Ba Giồng. Trên danh nghĩa là ông hoạt động dưới sự chi phối và điều động của án sát và Thương Biện Quân vụ Định Tường là Nguyễn Nhã và Trương Minh Lượng nhưng thực tế do uy tín đối với địa phương và tài thao lược nên ông và Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân hầu như nắm vai trò chủ động trong mọi việc từ chiêu mộ nghĩa dõng, điều động bố trí binh đến đề bạt khen thưởng những người có công trong công cuộc kháng chiến.
Ngay trong buổi đầu kháng chiến ông đã có mối quan hệ chặt chẽ với Trương Định ở Tân Hòa (Gò Công) với Trần Xuân Hòa (tức phủ Cậu ở Thuộc Nhiêu, Cai Lậy) Bùi Quang Diệu (tức quản Là ở Cần Giuộc), và các thủ lãnh nghĩa ứng khác để tương trợ nhau và hợp đồng chiến đấu. Đồng thời ông cũng tranh thủ được sự ủng hộ của các điền chủ, bá hộ giàu có (Chú thích: Tổng hành dinh của căn cứ Bình Cách là nhà của Đỗ Tường Kiên, một loại nhà cổ có tất cả 36 cửa kiên cố được bao bọc với 3 lũy tre và hào rộng.) trong đó có bá hộ Trần Văn Học tự Minh ở Bình Cách.
Trần Xuân Hòa, người Quảng Trị, đỗ cử nhân, con quan bố chánh Trần Tuyên, ông làm quan tri phủ, vì bị bịnh phong (cùi) nên thôi việc. Con quan ở Nam kỳ thường được gọi bằng "cậu", đã là tri phủ lại là con quan nên ông được dân chúng gọi là Phủ Cậu. Sau khi Pháp chiếm Định Tường, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa dõng chống Pháp ở vùng Mỹ Quí, Thuộc Nhiêu (Cai Lậy).
- Bùi Quang Diệu, người Cần Giuộc, đứng lên tụ họp dân chúng tự võ trang chống Pháp ở vùng Cần Đước hạ (Mỹ Lệ, Mỹ Long, Vạn Phước) cùng với Cai tổng Lộc Thành Trung. Cuối năm 1861, ông bất thần chỉ huy nghĩa quân tấn công Pháp ở Cần Giuộc, gây cho chúng nhiều thiệt hại, ông được phong chức đốc binh.
- Trần Kỳ Phong, nhà nho, quê ở xã Tân Lân (Cần Đước, Long An), sau khi Pháp chiếm thành Gia Định ông mộ nghĩa dõng theo quân triều đình chống giặc được phong làm Thư Lại cơ ứng nghĩa. Theo quân triều đình rút về Biên Hòa, tháng 9/1861 ông trở về hoạt động ở Cần Đước, mộ được hơn 300 nghĩa dõng, được phong chức quản cơ. Sau trận Cần Giuộc (12/1861) ông được thăng Thương biện quân vụ đạo Phước Lộc (Cần Giuộc), cùng Huỳnh Khắc Nhượng (Bộ Nhượng) Phạm Tiến hoạt động mạnh ở tổng Lộc Thành Trung.
Vừa xây dựng lực lượng, vừa đánh địch để tiêu hao binh lực chúng và ngăn chặn chúng mở rộng vùng chiếm đóng đồng thời cũng thỏa mãn yêu cầu diệt giặc sôi nổi của đồng bào lúc bấy giờ.
Ngày 4/9/1961, Võ Duy Dương cho
nghĩa quân tập kích đồn Bourdais (Chú thích: Đây vốn là
đồn thứ 5 của ta trên tuyến phòng thủ rạch Bảo Định.
chúng đã chiếm được ngày 10/4/1861, nhưng ta đã giết
được tên Trung tá Bourdais. Chúng lấy tên viên trung tá
đặt tên cho đồn.) đồn nằm trên rạch Bảo Định,
cách Mỹ Tho 3 dặm nhằm bảo đảm sự liên lạc đường
thủy của chúng giữa Mỹ Tho và Tân An. Chúng phải đưa
tên trung tá hải quân Mac-Dermot đến tăng viện.
Trong khi đó Trần Xuân Hòa hoạt động mạnh ở vùng Thuộc Nhiêu, Mỹ Quý, Cai Lậy thu hút sự chú ý của bọn Pháp. Ngày 29/8 rồi ngày 15/9 Trần Xuân Hòa liên tiếp tấn công Cai Lậy (lỵ sở cũ của huyện Kiến Đăng) làm trở ngại công cuộc bình định của chúng ở khu vực này. Viên chỉ huy quân sự Pháp ở Định Tường, trung tá Desvaux phải tăng cường hỗ trợ cho Chasseriau (chỉ huy đồn Cai Lậy), bằng cách đích thân hắn ta trực tiếp hành quân ở “khu bốn công sự" (khu vực nằm giữa Cai Lậy và Mỹ Tho), đưa thêm chiếc Norsagaray vào trợ chiến. Ngày 23/9, chúng phá hủy các cản hàn trên rạch Gầm mở đường tấn công Thuộc Nhiêu, cách ngày sau (25/9) chúng tấn công Mỹ Quý, không tiêu diệt được Trần Xuân Hòa, chúng trả thù bằng cách bắn chết thân mẫu ông (Chú thích: có nơi chép là Pháp giết cha ông để trả thù. Nhưng sự thật, cha ông là Trần Tuyên đã bị giặc Miên giết chết dưới thời Thiệu Trị).
Để làm nhẹ bớt áp lực của giặc đối với Trần Xuân Hòa đồng thời để xây dựng một địa bàn làm đầu cầu liên lạc nhận tiếp tế lương thực, vũ khí từ Vĩnh Long. Ngày 14/10/1861, Võ Duy Dương cùng án sát Định Tường tổ chức đánh một trận lớn ở khu Cái Thia, Cái Bè. Tại Cái Bè, bọn Pháp đã tuyển người theo đạo Thiên chúa lập những đội lính mã tà, đóng đồn và dùng 2 tàu chiến cùng với pháo thuyền Gougeard tuần tiễu trên sông Tiền. Ngày 5/9 chúng đã tịch thu một ghe mành chở đầy súng của ta. Kết quả ta đã đánh chìm 2 tàu của bọn mã tà, giết chết 50 tên gồm lính Pháp và mã tà đồng thời tấn công pháo thuyền Gougeard.
Trước những cuộc tấn công tới tấp của nghĩa quân, thực dân Pháp có nhận xét:
“Tại Mỹ Tho, có phủ Cậu (Trần Xuân Hòa) thống lĩnh nghĩa quân. ông lão này là người có quyền thế, hùng tâm; nhưng mắc phải bịnh phong, ba phần thân thể đều bất toại, song vẫn lo việc nước thật đáng khen; ông điều binh ra trận rất tài tình và rất lạ, suốt một năm trời chỉ đến khi bị bắt (theo P. Của: ông làm quan trước khi Pháp đến, có lẽ là sau khi làm quan mới bị bịnh).
Có một người chánh đảng khác đáng kể ra đây là ông Thiên Hộ Dương, cũng có đánh phá trong tỉnh Mỹ Tho nữa. Sau hết một ít tay đầu đảng nhỏ, đi rảo trong xứ cùng thu thế.. . " (Chú thích: Schreiner (Alfred) sđd.)
Chiến thắng có tầm cỡ chiến lược này đã cổ vũ phong trào nhân dân nổi dậy giết giặc cứu nước. Ngay ngày hôm sau (15/10) nghĩa quân tấn công mạnh vào đồn Cai Lậy; chợ và một số doanh trại giặc pháp bị đốt. Pháp trả đũa bằng cách đốt một số nhà thường dân. Ngày 22 nghĩa quân tấn công đồn Kỳ Hôn. Ngày 30/10 và 31/11 liên tiếp tấn công đồn Rạch Gầm làm một số lính tập bị thương lên đến 36 tên. Phát huy thế mạnh của mình, sau đó nghĩa quân đánh phá quấy rối giặc khắp nơi chặn đường phục kích giết bọn Pháp, ngày 17/10 ám sát một viên đội ở đồn Cai Lậy (Chú thích: De Grammont (L) Sđd, tt 490)
Mỹ Quí, một vị trí xung yếu trên địa bàn Ba Giồng, nối liền với Thuộc Nhiêu trở thành tuyến phòng thủ ngăn chặn giặc xâm nhập vào địa phận huyện Kiến Đăng (Cai Lậy) đồng thời nó còn có vai trò chia cắt và cô lập đồn tiền tiêu của giặc đóng ở Cai Lậy (lỵ sở cũ của huyện Kiến Đăng).
“Trên một nền đồn cũ, (nay thuộc ấp Quí Thành xã Nhị Quý) chung quanh có sẵn lũy tre dày bao bọc, Võ Duy Dương cho huy động nhân dân và nghĩa quân gấp rút xây dựng một đồn mới với đầy đủ các công trình phụ thuộc phục vụ chiến đấu: nhà kho, bến vựa, ao nước... Là một đồn mới xây dựng sau thành Chí Hòa nên được đồng bào gọi là Tân Thành Mỹ Quí (Chú thích: Đến nay vết tích “Tân Thành Mỹ Quí " còn lại là cột phường, nền vựa kho lúa, nền vựa kho tiền, ao, hào thành. Cách thành 500 mét có lũy tre bao bọc, đường ra Mỹ Lòng có cổng thành).
Trong khi đó Trần Xuân Hòa hoạt động mạnh ở vùng Thuộc Nhiêu, Mỹ Quý, Cai Lậy thu hút sự chú ý của bọn Pháp. Ngày 29/8 rồi ngày 15/9 Trần Xuân Hòa liên tiếp tấn công Cai Lậy (lỵ sở cũ của huyện Kiến Đăng) làm trở ngại công cuộc bình định của chúng ở khu vực này. Viên chỉ huy quân sự Pháp ở Định Tường, trung tá Desvaux phải tăng cường hỗ trợ cho Chasseriau (chỉ huy đồn Cai Lậy), bằng cách đích thân hắn ta trực tiếp hành quân ở “khu bốn công sự" (khu vực nằm giữa Cai Lậy và Mỹ Tho), đưa thêm chiếc Norsagaray vào trợ chiến. Ngày 23/9, chúng phá hủy các cản hàn trên rạch Gầm mở đường tấn công Thuộc Nhiêu, cách ngày sau (25/9) chúng tấn công Mỹ Quý, không tiêu diệt được Trần Xuân Hòa, chúng trả thù bằng cách bắn chết thân mẫu ông (Chú thích: có nơi chép là Pháp giết cha ông để trả thù. Nhưng sự thật, cha ông là Trần Tuyên đã bị giặc Miên giết chết dưới thời Thiệu Trị).
Để làm nhẹ bớt áp lực của giặc đối với Trần Xuân Hòa đồng thời để xây dựng một địa bàn làm đầu cầu liên lạc nhận tiếp tế lương thực, vũ khí từ Vĩnh Long. Ngày 14/10/1861, Võ Duy Dương cùng án sát Định Tường tổ chức đánh một trận lớn ở khu Cái Thia, Cái Bè. Tại Cái Bè, bọn Pháp đã tuyển người theo đạo Thiên chúa lập những đội lính mã tà, đóng đồn và dùng 2 tàu chiến cùng với pháo thuyền Gougeard tuần tiễu trên sông Tiền. Ngày 5/9 chúng đã tịch thu một ghe mành chở đầy súng của ta. Kết quả ta đã đánh chìm 2 tàu của bọn mã tà, giết chết 50 tên gồm lính Pháp và mã tà đồng thời tấn công pháo thuyền Gougeard.
Trước những cuộc tấn công tới tấp của nghĩa quân, thực dân Pháp có nhận xét:
“Tại Mỹ Tho, có phủ Cậu (Trần Xuân Hòa) thống lĩnh nghĩa quân. ông lão này là người có quyền thế, hùng tâm; nhưng mắc phải bịnh phong, ba phần thân thể đều bất toại, song vẫn lo việc nước thật đáng khen; ông điều binh ra trận rất tài tình và rất lạ, suốt một năm trời chỉ đến khi bị bắt (theo P. Của: ông làm quan trước khi Pháp đến, có lẽ là sau khi làm quan mới bị bịnh).
Có một người chánh đảng khác đáng kể ra đây là ông Thiên Hộ Dương, cũng có đánh phá trong tỉnh Mỹ Tho nữa. Sau hết một ít tay đầu đảng nhỏ, đi rảo trong xứ cùng thu thế.. . " (Chú thích: Schreiner (Alfred) sđd.)
Chiến thắng có tầm cỡ chiến lược này đã cổ vũ phong trào nhân dân nổi dậy giết giặc cứu nước. Ngay ngày hôm sau (15/10) nghĩa quân tấn công mạnh vào đồn Cai Lậy; chợ và một số doanh trại giặc pháp bị đốt. Pháp trả đũa bằng cách đốt một số nhà thường dân. Ngày 22 nghĩa quân tấn công đồn Kỳ Hôn. Ngày 30/10 và 31/11 liên tiếp tấn công đồn Rạch Gầm làm một số lính tập bị thương lên đến 36 tên. Phát huy thế mạnh của mình, sau đó nghĩa quân đánh phá quấy rối giặc khắp nơi chặn đường phục kích giết bọn Pháp, ngày 17/10 ám sát một viên đội ở đồn Cai Lậy (Chú thích: De Grammont (L) Sđd, tt 490)
Mỹ Quí, một vị trí xung yếu trên địa bàn Ba Giồng, nối liền với Thuộc Nhiêu trở thành tuyến phòng thủ ngăn chặn giặc xâm nhập vào địa phận huyện Kiến Đăng (Cai Lậy) đồng thời nó còn có vai trò chia cắt và cô lập đồn tiền tiêu của giặc đóng ở Cai Lậy (lỵ sở cũ của huyện Kiến Đăng).
“Trên một nền đồn cũ, (nay thuộc ấp Quí Thành xã Nhị Quý) chung quanh có sẵn lũy tre dày bao bọc, Võ Duy Dương cho huy động nhân dân và nghĩa quân gấp rút xây dựng một đồn mới với đầy đủ các công trình phụ thuộc phục vụ chiến đấu: nhà kho, bến vựa, ao nước... Là một đồn mới xây dựng sau thành Chí Hòa nên được đồng bào gọi là Tân Thành Mỹ Quí (Chú thích: Đến nay vết tích “Tân Thành Mỹ Quí " còn lại là cột phường, nền vựa kho lúa, nền vựa kho tiền, ao, hào thành. Cách thành 500 mét có lũy tre bao bọc, đường ra Mỹ Lòng có cổng thành).
Bên cạnh các hoạt động quân
sự, Võ Duy Dương còn động viên ra lệnh dân chúng phong
tỏa, bao vây kinh tế địch:
“Trong khi người An Nam được lệnh phá hủy mùa màng trong nước hoặc giấu (lương thực) không cho chúng ta thấy, trong khi các làng ở gần nhứt có nhiệm vụ quấy rối các vùng phụ cận đồn bót chúng ta hoặc siết chặt dần chúng ta ở đó bằng cách đập chắn được tăng thêm và những đường chông đến gần ngoài phạm vi phòng thủ của chúng ta, thì những kẻ phản nghịch được tự do ở trung tâm lãnh thổ... "(Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tí 285.).
Để trừng trị những kẻ cam tâm làm tay sai cho giặc, Võ Duy Dương ra lịnh trừng trị những người ra cộng tác nhận chức tước của thực dân Pháp. Chỉ nội trong các ngày 22, 23, 27/11 nghĩa quân đã ám sát trưởng các xã Mỹ Quí, Trung Lương, Tân Lý và Cai tổng Lệ (ở xã Mỹ An) do thực dân mới bổ nhiệm. Điều này làm cho bọn Việt gian hết sức hoang mang, hoảng sợ, phải xin từ chức.
Ngày 30/11/1861, Bonard đến Sài Gòn thay thế cho Charner.
"Liền ngay sau khi đến, Phó đô đốc Bonard nhận định phải gấp rút chiếm ngay Biên Hòa, nhưng việc chuẩn bị đã làm chậm lại, phải đến 15/12 mới khởi sự".
Nắm được ý đồ của giặc, nghĩa quân như có hiệp đồng tác chiến, đồng nổi dậy đánh địch khắp nơi buộc chúng phải rải quân ra đối phó, cố giữ phần đất đã chiếm, khiến chúng phải chật vật chống đỡ. Chính Lucien de Grammont, lúc ấy là Đốc Lý Bổn Quốc Sự vụ đã phải thú nhận:
"Vả lại được biết dự định của Tổng tư lệnh, họ (nghĩa quân) quyết định hành động trước dự định này, nếu có thể và cứu vị trí này (Biên Hòa) bằng cách nghi binh lớn thực hiện đồng thời trên nhiều điểm lãnh thổ của chúng ta.
Lần này, các cuộc chuyển quân của họ phối hợp tốt hơn diễn ra trong một thời gian ngắn, và hầu như tất cả các đồn bót của chúng ta đều bị tấn công mạnh mẽ từ ngày 14 đến 30 tháng 12" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd tr 291)
Dù chúng ta “đã đẩy lùi được những người tấn công (nghĩa quân) nhưng chịu tổn thất rất lớn" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd tr 291)
Sau khi chiếm được Biên Hòa, thực dân Pháp cho rằng đã giải tỏa được áp lực của nghĩa quân ở phía Đông nên phải tập trung quân bình định phía Tây.
Chiếm được Biên Hòa, tức là đã đoạt được chỗ dựa của bọn nghĩa ứng. Khi ấy chỉ còn Vĩnh Long, các cuộc phá phách đều tập trung về phía Tây, mạnh nhứt là Mỹ Tho. Ngày 4/1/1862 tất cả các đồn ở phía Tây đều bị bao vây, ta phải giải vây nó" (Chú thích: Đinh Xuân Lâm - Anh hùng Trương Định - NXB Giáo Dục 1976)
Tưởng cũng nên nhắc lại, trên địa bàn Ba Giồng, thực dân Pháp phải đối phó với hai lực lượng nghĩa quân lớn: Võ Duy Dương và Trần Xuân Hòa.
Trần Xuân Hòa lập căn cứ Thuộc Nhiêu, Võ Duy Dương đồn trú ở Mỹ Quí, chiếm một vị trí nằm giữa thành Mỹ Tho và đồn tiền tiêu Cai Lậy của Pháp. Đây là một khu có nhiều gò cát cao nằm trong hệ thống giồng thứ hai của đất Ba Giồng. Từ đây Võ Duy Dượng hiệp đồng với Trần Xuân Hòa tung nghĩa quân đánh phá Cai Lậy, Cái Bè. Rạch Gầm, Kỳ Hôn... .. Thực dân Pháp phải nhiều lần tập trung quân do chính tên trung tá Desveaux -Chỉ huy quân sự Pháp ở Định Tường lúc bấy giờ - chỉ huy đàn áp, nhưng không kết quả.
Thuộc Nhiêu, Mỹ Quí trở thành cái gai trước mắt giặc.
Ngày 6/1/1862, tên đại úy hải quân Rieuner bất thần mang quân bao vây vùng nằm giữa Cai Lậy và Cái Bè. Trần Xuân Hòa chỉ huy nghĩa quân chống cự quyết liệt, chẳng may bị bắt. Thực dân Pháp giải ông về Mỹ Tho tra tấn hết sức dã man.
Ông cắn lưỡi chết để bảo tồn khí tiết (vào ngày 7/1/1862) giặc Pháp điên cuồng chém và bêu đầu ông cùng với sáu nghĩa quân giữa chợ hòng uy hiếp tinh thần nghĩa quân và nhân dân. Nhưng vô ích, chúng phải công nhận rằng “cái gương đáng khiếp sợ đã không ngăn nổi phong trào khởi nghĩa” (Chú thích: Đinh Xuân Lâm: Anh hùng Trương Định - NXB Giáo dục 1976)
"Tưởng rằng tình hình viên quan bị phong (cùi) như vậy làm cho bọn An Nam theo ta vững lòng xem ra nếu có xử bằng cách khác cũng vậy thôi - cũng không làm phe nghịch nao núng, Phủ Cậu không thiếu chi tay hậu kế, lại càng đánh phá dữ dội hơn" (Chú thích: Schreiner - Alfred - Sđd. tr 386)
“Trong khi người An Nam được lệnh phá hủy mùa màng trong nước hoặc giấu (lương thực) không cho chúng ta thấy, trong khi các làng ở gần nhứt có nhiệm vụ quấy rối các vùng phụ cận đồn bót chúng ta hoặc siết chặt dần chúng ta ở đó bằng cách đập chắn được tăng thêm và những đường chông đến gần ngoài phạm vi phòng thủ của chúng ta, thì những kẻ phản nghịch được tự do ở trung tâm lãnh thổ... "(Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tí 285.).
Để trừng trị những kẻ cam tâm làm tay sai cho giặc, Võ Duy Dương ra lịnh trừng trị những người ra cộng tác nhận chức tước của thực dân Pháp. Chỉ nội trong các ngày 22, 23, 27/11 nghĩa quân đã ám sát trưởng các xã Mỹ Quí, Trung Lương, Tân Lý và Cai tổng Lệ (ở xã Mỹ An) do thực dân mới bổ nhiệm. Điều này làm cho bọn Việt gian hết sức hoang mang, hoảng sợ, phải xin từ chức.
Ngày 30/11/1861, Bonard đến Sài Gòn thay thế cho Charner.
"Liền ngay sau khi đến, Phó đô đốc Bonard nhận định phải gấp rút chiếm ngay Biên Hòa, nhưng việc chuẩn bị đã làm chậm lại, phải đến 15/12 mới khởi sự".
Nắm được ý đồ của giặc, nghĩa quân như có hiệp đồng tác chiến, đồng nổi dậy đánh địch khắp nơi buộc chúng phải rải quân ra đối phó, cố giữ phần đất đã chiếm, khiến chúng phải chật vật chống đỡ. Chính Lucien de Grammont, lúc ấy là Đốc Lý Bổn Quốc Sự vụ đã phải thú nhận:
"Vả lại được biết dự định của Tổng tư lệnh, họ (nghĩa quân) quyết định hành động trước dự định này, nếu có thể và cứu vị trí này (Biên Hòa) bằng cách nghi binh lớn thực hiện đồng thời trên nhiều điểm lãnh thổ của chúng ta.
Lần này, các cuộc chuyển quân của họ phối hợp tốt hơn diễn ra trong một thời gian ngắn, và hầu như tất cả các đồn bót của chúng ta đều bị tấn công mạnh mẽ từ ngày 14 đến 30 tháng 12" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd tr 291)
Dù chúng ta “đã đẩy lùi được những người tấn công (nghĩa quân) nhưng chịu tổn thất rất lớn" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd tr 291)
Sau khi chiếm được Biên Hòa, thực dân Pháp cho rằng đã giải tỏa được áp lực của nghĩa quân ở phía Đông nên phải tập trung quân bình định phía Tây.
Chiếm được Biên Hòa, tức là đã đoạt được chỗ dựa của bọn nghĩa ứng. Khi ấy chỉ còn Vĩnh Long, các cuộc phá phách đều tập trung về phía Tây, mạnh nhứt là Mỹ Tho. Ngày 4/1/1862 tất cả các đồn ở phía Tây đều bị bao vây, ta phải giải vây nó" (Chú thích: Đinh Xuân Lâm - Anh hùng Trương Định - NXB Giáo Dục 1976)
Tưởng cũng nên nhắc lại, trên địa bàn Ba Giồng, thực dân Pháp phải đối phó với hai lực lượng nghĩa quân lớn: Võ Duy Dương và Trần Xuân Hòa.
Trần Xuân Hòa lập căn cứ Thuộc Nhiêu, Võ Duy Dương đồn trú ở Mỹ Quí, chiếm một vị trí nằm giữa thành Mỹ Tho và đồn tiền tiêu Cai Lậy của Pháp. Đây là một khu có nhiều gò cát cao nằm trong hệ thống giồng thứ hai của đất Ba Giồng. Từ đây Võ Duy Dượng hiệp đồng với Trần Xuân Hòa tung nghĩa quân đánh phá Cai Lậy, Cái Bè. Rạch Gầm, Kỳ Hôn... .. Thực dân Pháp phải nhiều lần tập trung quân do chính tên trung tá Desveaux -Chỉ huy quân sự Pháp ở Định Tường lúc bấy giờ - chỉ huy đàn áp, nhưng không kết quả.
Thuộc Nhiêu, Mỹ Quí trở thành cái gai trước mắt giặc.
Ngày 6/1/1862, tên đại úy hải quân Rieuner bất thần mang quân bao vây vùng nằm giữa Cai Lậy và Cái Bè. Trần Xuân Hòa chỉ huy nghĩa quân chống cự quyết liệt, chẳng may bị bắt. Thực dân Pháp giải ông về Mỹ Tho tra tấn hết sức dã man.
Ông cắn lưỡi chết để bảo tồn khí tiết (vào ngày 7/1/1862) giặc Pháp điên cuồng chém và bêu đầu ông cùng với sáu nghĩa quân giữa chợ hòng uy hiếp tinh thần nghĩa quân và nhân dân. Nhưng vô ích, chúng phải công nhận rằng “cái gương đáng khiếp sợ đã không ngăn nổi phong trào khởi nghĩa” (Chú thích: Đinh Xuân Lâm: Anh hùng Trương Định - NXB Giáo dục 1976)
"Tưởng rằng tình hình viên quan bị phong (cùi) như vậy làm cho bọn An Nam theo ta vững lòng xem ra nếu có xử bằng cách khác cũng vậy thôi - cũng không làm phe nghịch nao núng, Phủ Cậu không thiếu chi tay hậu kế, lại càng đánh phá dữ dội hơn" (Chú thích: Schreiner - Alfred - Sđd. tr 386)
Quả thật vậy, chỉ hai ngày sau
thôi, nghĩa quân đã bao vây đồn Gia Thạnh và mang 10
chiến thuyền tấn công đồn Rạch Gầm, khiến viên trung
úy Rolz de Couzalaz - chỉ huy đồn Rạch Gầm - phải chống
trả đến viên đạn cuối cùng.
Liền sau đó, với tư cách là Chánh quản đạo, Võ Duy Dương, phân công phó quản đạo Nguyễn Hữu Quân đến Thuộc Nhiêu để ổn định tinh thần nghĩa quân đồng thời chiêu mộ nghĩa dõng bảo vệ căn cứ Thuộc Nhiêu.
Từ đây, dù chiến đấu dưới sự chỉ huy chung của Trương Định, nhưng Võ Duy Dương đã chỉ huy nghĩa quân dưới quyền hoạt động trên một địa bàn rộng lớn có tầm quan trọng nhất định về chiến lược. Võ Duy Dương đã thống nhứt lực lượng nghĩa quân trên đất Ba Giồng từ Bình Cách qua Thuộc Nhiêu Mỹ Quí đến Cái Bè. Cái Thia. Ba Giồng thật sự là một trung tâm kháng chiến ở phía Tây Bắc tỉnh Định Tường kết hợp với trung tâm Tân Hòa (Gò Công) của Trương Định đã đưa quân xâm lược Pháp vào tình trạng lúng túng về chiến lược giữa tập trung và phân tán binh lực.
Võ Duy Dương và Trương Định thường xuyên hợp đồng tác chiến, liên tục tập kích tấn công địch trên một tuyến đài từ Gò Công qua Gia Thạnh đến Bình Cách - Thuộc Nhiêu - Mỹ Quí - Cai Lậy - Cái Bè. Ngày 22/1, nghĩa quân đốt phá khu vực đồn rạch Kỳ Hôn; ngày 23 tấn công đồn Rạch Gầm; đến ngày 28, tiến đánh một lúc 4 đồn Cái Bè, Cai Lậy, Thuộc Nhiêu, Rạch Gầm và mưu toan đốt chiếc Shamrock... Càng lúc công cuộc bình định của thực dân Pháp càng trở nên khó khăn. Lucien de Grammont, đã phải viết:
“Vào cùng thời này (cuối 1861 đến 1862) tình hình tại Mỹ Tho chỉ xấu thêm. Viên chỉ huy quân sự được thúc đẩy bởi một nghị lực không mệt mỏi, chống cự bằng những lực lượng hết sức thiếu hụt với làn sóng vẫn gia tăng lên của các đám nổi dậy (nghĩa quân)... ở giữa trung tâm của khu bốn công sự, vụ Thuộc Nhiêu bị người bản xứ chiếm lại đã đẩy lùi chúng ta về các đường sông bên ngoài, và ở đây nữa, giao thông liên lạc đã hầu như bị ngăn chặn bởi đập chắn và vật cản đủ thứ dưới chân chúng ta" (Chú thích: De Grammont (l) Sđd. tr. 296)
Từ đầu năm 1862, Võ Duy Dương, đương nhiên trở thành lãnh tụ nghĩa quân cao nhứt ở Ba Giồng. Có lẽ, sau gần một năm quần nhau với giặc trên địa bàn này, các vị khâm phái và Võ Duy Dương đã thấy được tầm quan trọng của vị trí Mỹ Quí đối với cả vùng. Chính bọn Pháp cũng đánh giá như vậy:
Đồn Rạch Gầm ở vị trí thật trung tâm hơn, nhưng vì ít quan trọng, nên nó không có hiệu quả lớn. Khi nghĩ đến những gì đã xảy ra từ đó, phải chăng tốt hơn nên lập ngay từ đầu ở Mỹ Quí một vị trí quân sự mạnh để khống chế cả vùng xung quanh" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd, tr 285)
- Do tầm quan trọng của vị trí Mỹ Quí, nên phía nghĩa quân cố giữ cho kỳ được, còn giặc Pháp cũng quyết lấy cho được. Vào tháng 4, tức là sau khi đồn xây dựng chưa được bao lâu, bọn Pháp tập trung quân tấn công. Thành vỡ, Võ Duy Dương lui về Bình Cách.
Về trận Mỹ Quí (tháng 4/1862), hiện nay có nhiều tư liệu trái ngược nhau, chúng tôi xin nêu ra để tiện tham khảo:
- Trong "Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiểu truyện" "Lập đồn chính ở thôn Mỹ Quí, cầm cự với đại tướng của Lang sa 57 ngày, không may quân Nam bị thua, Đỗ Thúc Tịnh tử trận..." (Chú thích: Của Trần Văn Thông Sđd)
- Trong: "Histoire de la Cochinchine Francaise des origines au 1883" (Lịch sử Nam kỳ thuộc Pháp từ nguyên sơ đến l883): những toán quân Y Pha Nho và Pháp chiếm ngay thành này không mấy khó khăn" (Chú thích: của Schreiner - Bản dịch của Nguyễn Văn Nhàn - Sđd. Tr. 292)
- Trong: “Đại Nam Quốc lược sử" Đạo quân đó có trung tá Palanca Guttierez và trung tá hải quân Desvaux, chỉ huy tỉnh Mỹ Tho cầm đầu. Bên An Nam bị đuổi ra khỏi các nơi cố thủ xong, thì trung tá Tây Ban Nha trở về Sài Gòn..." (Chú thích: Của Schreiner - Bản dịch của Nguyễn Văn Nhàn - Sđd. Tr. 392)
Trong báo "Ấp Bắc" số đặc biệt (kỷ niệm 110 năm ngày hy sinh và lễ khánh thành tượng Nguyễn Hữu Huân) cũng viết tương tự “Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiểu truyện " là trận đánh diễn ra suốt 57 ngày đêm" và còn cho biết thêm: "đồn do Đỗ Thúc Tịnh, Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân chỉ huy, cuối cùng Đỗ Thúc Tịnh hy sinh. Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân rút về Bình Cách".
Liền sau đó, với tư cách là Chánh quản đạo, Võ Duy Dương, phân công phó quản đạo Nguyễn Hữu Quân đến Thuộc Nhiêu để ổn định tinh thần nghĩa quân đồng thời chiêu mộ nghĩa dõng bảo vệ căn cứ Thuộc Nhiêu.
Từ đây, dù chiến đấu dưới sự chỉ huy chung của Trương Định, nhưng Võ Duy Dương đã chỉ huy nghĩa quân dưới quyền hoạt động trên một địa bàn rộng lớn có tầm quan trọng nhất định về chiến lược. Võ Duy Dương đã thống nhứt lực lượng nghĩa quân trên đất Ba Giồng từ Bình Cách qua Thuộc Nhiêu Mỹ Quí đến Cái Bè. Cái Thia. Ba Giồng thật sự là một trung tâm kháng chiến ở phía Tây Bắc tỉnh Định Tường kết hợp với trung tâm Tân Hòa (Gò Công) của Trương Định đã đưa quân xâm lược Pháp vào tình trạng lúng túng về chiến lược giữa tập trung và phân tán binh lực.
Võ Duy Dương và Trương Định thường xuyên hợp đồng tác chiến, liên tục tập kích tấn công địch trên một tuyến đài từ Gò Công qua Gia Thạnh đến Bình Cách - Thuộc Nhiêu - Mỹ Quí - Cai Lậy - Cái Bè. Ngày 22/1, nghĩa quân đốt phá khu vực đồn rạch Kỳ Hôn; ngày 23 tấn công đồn Rạch Gầm; đến ngày 28, tiến đánh một lúc 4 đồn Cái Bè, Cai Lậy, Thuộc Nhiêu, Rạch Gầm và mưu toan đốt chiếc Shamrock... Càng lúc công cuộc bình định của thực dân Pháp càng trở nên khó khăn. Lucien de Grammont, đã phải viết:
“Vào cùng thời này (cuối 1861 đến 1862) tình hình tại Mỹ Tho chỉ xấu thêm. Viên chỉ huy quân sự được thúc đẩy bởi một nghị lực không mệt mỏi, chống cự bằng những lực lượng hết sức thiếu hụt với làn sóng vẫn gia tăng lên của các đám nổi dậy (nghĩa quân)... ở giữa trung tâm của khu bốn công sự, vụ Thuộc Nhiêu bị người bản xứ chiếm lại đã đẩy lùi chúng ta về các đường sông bên ngoài, và ở đây nữa, giao thông liên lạc đã hầu như bị ngăn chặn bởi đập chắn và vật cản đủ thứ dưới chân chúng ta" (Chú thích: De Grammont (l) Sđd. tr. 296)
Từ đầu năm 1862, Võ Duy Dương, đương nhiên trở thành lãnh tụ nghĩa quân cao nhứt ở Ba Giồng. Có lẽ, sau gần một năm quần nhau với giặc trên địa bàn này, các vị khâm phái và Võ Duy Dương đã thấy được tầm quan trọng của vị trí Mỹ Quí đối với cả vùng. Chính bọn Pháp cũng đánh giá như vậy:
Đồn Rạch Gầm ở vị trí thật trung tâm hơn, nhưng vì ít quan trọng, nên nó không có hiệu quả lớn. Khi nghĩ đến những gì đã xảy ra từ đó, phải chăng tốt hơn nên lập ngay từ đầu ở Mỹ Quí một vị trí quân sự mạnh để khống chế cả vùng xung quanh" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd, tr 285)
- Do tầm quan trọng của vị trí Mỹ Quí, nên phía nghĩa quân cố giữ cho kỳ được, còn giặc Pháp cũng quyết lấy cho được. Vào tháng 4, tức là sau khi đồn xây dựng chưa được bao lâu, bọn Pháp tập trung quân tấn công. Thành vỡ, Võ Duy Dương lui về Bình Cách.
Về trận Mỹ Quí (tháng 4/1862), hiện nay có nhiều tư liệu trái ngược nhau, chúng tôi xin nêu ra để tiện tham khảo:
- Trong "Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiểu truyện" "Lập đồn chính ở thôn Mỹ Quí, cầm cự với đại tướng của Lang sa 57 ngày, không may quân Nam bị thua, Đỗ Thúc Tịnh tử trận..." (Chú thích: Của Trần Văn Thông Sđd)
- Trong: "Histoire de la Cochinchine Francaise des origines au 1883" (Lịch sử Nam kỳ thuộc Pháp từ nguyên sơ đến l883): những toán quân Y Pha Nho và Pháp chiếm ngay thành này không mấy khó khăn" (Chú thích: của Schreiner - Bản dịch của Nguyễn Văn Nhàn - Sđd. Tr. 292)
- Trong: “Đại Nam Quốc lược sử" Đạo quân đó có trung tá Palanca Guttierez và trung tá hải quân Desvaux, chỉ huy tỉnh Mỹ Tho cầm đầu. Bên An Nam bị đuổi ra khỏi các nơi cố thủ xong, thì trung tá Tây Ban Nha trở về Sài Gòn..." (Chú thích: Của Schreiner - Bản dịch của Nguyễn Văn Nhàn - Sđd. Tr. 392)
Trong báo "Ấp Bắc" số đặc biệt (kỷ niệm 110 năm ngày hy sinh và lễ khánh thành tượng Nguyễn Hữu Huân) cũng viết tương tự “Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiểu truyện " là trận đánh diễn ra suốt 57 ngày đêm" và còn cho biết thêm: "đồn do Đỗ Thúc Tịnh, Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân chỉ huy, cuối cùng Đỗ Thúc Tịnh hy sinh. Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân rút về Bình Cách".
Riêng về cái chết của Đỗ
Thúc Tịnh thì Đại Nam Thực lục (Chú thích: Phần Đệ
tứ kỷ, quyển XXIX - tr. 296) ghi: “Mùa hạ, tháng 4 (tức
tháng 5/1862-Tg) lãnh tuần phủ Định Tường là Đỗ Thúc
Tịnh (người Quảng Nam đỗ đồng tiến sĩ) mất, truy
tặng hàm tuần phủ...".
Không ghi chết vì lý do gì.
- Để làm chủ được vị trí xung yếu này, ngay sau khi chiếm được đồn Mỹ Quí, chúng liền tấn công Thuộc Nhiêu, bắt được Nguyễn Hữu Huân và giải ông về Sài Gòn (Chú thích: Về sự kiện này. dù hiện nay chưa có tư liệu xác minh; tuy nhiên trong quá trình kháng chiến của ông (Nguyễn Hữu Huân) với "ba phe chống chọi, mười năm trọn” (1859-1862-1863-1872-1875) cho thấy ông bị bắt lần đầu vào giữa năm 1862, bị đưa về Sài Gòn với sự “bảo lãnh" của Đỗ Hữu Phương. sau đó vào giữa đầu năm 1863, ông trốn thoát về Bình Cách cùng Võ Duy Dương tiếp tục hoạt động.)
Tưởng cũng nên nhấn mạnh thêm, sở dĩ vào thời điểm này, bọn Pháp tập trung quân của lính thủy lẫn bộ, cả Pháp lẫn Tây Ban Nha do hai sĩ quan cấp trung tá một của Pháp một của Tây Ban Nha chỉ huy đánh chiếm cho kỳ được Mỹ Quí và Thuộc Nhiêu là nhằm mục đích bảo vệ Mỹ Tho. Chớ kỳ thực, như trên đã nói đến tháng 3 năm 1862, tình hình của chúng rất bi đát. Chính Lucien de Grammont, đã thú nhận:
“Từ sau trận Chí Hòa (2/1861) tất cả binh sĩ chánh qui (của triều đình Huế) đều đào ngũ"... "Những cuộc thất bại của quân đội An Nam không chút ảnh hưởng gì đến tình hình ứng nghĩa của các vùng đã bị chiếm đóng" De Grammont còn nói rõ thêm: "mọi cơ cấu tổ chức cũ ở phần đất bị Pháp chiếm đóng đều sụp đổ, tất cả chỉ còn là một ‘khoảng trống lớn”.
Còn tên đô đốc Paze ghi trong hồi ký:
"Tôi sống giữa những người bịnh, những kẻ hấp hối, những người chết đủ loại. Một số chết vì dịch tả, số khác chết vì kiết lỵ, thương hàn, bệnh hoại huyết... Chúng tôi đã chết khốn khó không mục đích, không kết quả, bị dồn vào bước đường cùng trong nỗi bất lực... Và trong không khí chết chóc ấy, tôi không thể nào hình dung được sự phá hoại, kế hoạch chiến đấu, tấn công thành lũy và pháo đội của đối phương " (Chú thích: Amiral Paze peint par lui même ". B .S .E. I. 2c Scm. 1937. tr 43)
Bịnh hoạn, chết chóc bất ngờ thường xuyên đe doạ mạng sống của lính viễn chinh Pháp làm cho tinh thần chiến đấu của chúng ngày một suy sụp, nhiều lính Tagals (người Philippin), lính ngụy và cả lính Pháp đào ngũ chạy sang phía nghĩa quân, bán nhiều súng đạn cho ta" (Chú thích: Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm - Nguyễn Văn Sự- Lịch sử cận đại Việt Nam, Tập 1 NXB Giáo dục II. 1960)
Điều cơ bản nhứt mà chúng không giải quyết được để đạt được kết quả tốt trong công cuộc bình định là thiểu số quân - mặc dù chúng đã thành lập nhiều tiểu đoàn lính ngụy - đưa chúng đến tình trạng lúng túng giữa rải quân ra để giữ đất đai đã chiếm được hoặc co cụm lại để tránh thiệt hại. Prud' homme đã bộc lộ tình trạng đó:
“Những toán quân nhỏ bé của chúng ta đóng rải rác, cách xa nhau quá không thể hỗ trợ nhau có hiệu quả, cũng không thể chống cự nhau lâu dài với những hoạt động ngày một gia tăng của quân nổi loạn" (Chú thích: Prud' homme - Souvenir de l'expédition de Cochinchine (1861-1862) Paris, 1865. tr 161-165. Dẫn lại Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phúc Khởi nghĩa Trương Định. NXB TP.HCM 1989)
Do hoạt động của nghĩa quân ngày một mạnh và lan rộng, đồng thời nhiều nơi trong khu vực Pháp chiếm đóng, dân chúng bỏ đi đến nơi khác tỵ địa (Chú thích: ĐNTL. Quyển XXIX. trang 238 chép: "Tháng 8 dân ba huyện Bình An, Nghĩa An: Long Thành (thuộc Biên Thành) ở gần chỗ thuyền Tây Dương đóng bỏ trốn đi đến 74 xã thôn") nên số tiền thuế của chúng thu được ngày một giảm dần đi (Chú thích: Theo Schreiner (Sđd): Năm 1860 Pháp thu thuế được 135.735.36 đồng qua năm 1861 còn thu được 48.994.60 đồng)
Không ghi chết vì lý do gì.
- Để làm chủ được vị trí xung yếu này, ngay sau khi chiếm được đồn Mỹ Quí, chúng liền tấn công Thuộc Nhiêu, bắt được Nguyễn Hữu Huân và giải ông về Sài Gòn (Chú thích: Về sự kiện này. dù hiện nay chưa có tư liệu xác minh; tuy nhiên trong quá trình kháng chiến của ông (Nguyễn Hữu Huân) với "ba phe chống chọi, mười năm trọn” (1859-1862-1863-1872-1875) cho thấy ông bị bắt lần đầu vào giữa năm 1862, bị đưa về Sài Gòn với sự “bảo lãnh" của Đỗ Hữu Phương. sau đó vào giữa đầu năm 1863, ông trốn thoát về Bình Cách cùng Võ Duy Dương tiếp tục hoạt động.)
Tưởng cũng nên nhấn mạnh thêm, sở dĩ vào thời điểm này, bọn Pháp tập trung quân của lính thủy lẫn bộ, cả Pháp lẫn Tây Ban Nha do hai sĩ quan cấp trung tá một của Pháp một của Tây Ban Nha chỉ huy đánh chiếm cho kỳ được Mỹ Quí và Thuộc Nhiêu là nhằm mục đích bảo vệ Mỹ Tho. Chớ kỳ thực, như trên đã nói đến tháng 3 năm 1862, tình hình của chúng rất bi đát. Chính Lucien de Grammont, đã thú nhận:
“Từ sau trận Chí Hòa (2/1861) tất cả binh sĩ chánh qui (của triều đình Huế) đều đào ngũ"... "Những cuộc thất bại của quân đội An Nam không chút ảnh hưởng gì đến tình hình ứng nghĩa của các vùng đã bị chiếm đóng" De Grammont còn nói rõ thêm: "mọi cơ cấu tổ chức cũ ở phần đất bị Pháp chiếm đóng đều sụp đổ, tất cả chỉ còn là một ‘khoảng trống lớn”.
Còn tên đô đốc Paze ghi trong hồi ký:
"Tôi sống giữa những người bịnh, những kẻ hấp hối, những người chết đủ loại. Một số chết vì dịch tả, số khác chết vì kiết lỵ, thương hàn, bệnh hoại huyết... Chúng tôi đã chết khốn khó không mục đích, không kết quả, bị dồn vào bước đường cùng trong nỗi bất lực... Và trong không khí chết chóc ấy, tôi không thể nào hình dung được sự phá hoại, kế hoạch chiến đấu, tấn công thành lũy và pháo đội của đối phương " (Chú thích: Amiral Paze peint par lui même ". B .S .E. I. 2c Scm. 1937. tr 43)
Bịnh hoạn, chết chóc bất ngờ thường xuyên đe doạ mạng sống của lính viễn chinh Pháp làm cho tinh thần chiến đấu của chúng ngày một suy sụp, nhiều lính Tagals (người Philippin), lính ngụy và cả lính Pháp đào ngũ chạy sang phía nghĩa quân, bán nhiều súng đạn cho ta" (Chú thích: Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm - Nguyễn Văn Sự- Lịch sử cận đại Việt Nam, Tập 1 NXB Giáo dục II. 1960)
Điều cơ bản nhứt mà chúng không giải quyết được để đạt được kết quả tốt trong công cuộc bình định là thiểu số quân - mặc dù chúng đã thành lập nhiều tiểu đoàn lính ngụy - đưa chúng đến tình trạng lúng túng giữa rải quân ra để giữ đất đai đã chiếm được hoặc co cụm lại để tránh thiệt hại. Prud' homme đã bộc lộ tình trạng đó:
“Những toán quân nhỏ bé của chúng ta đóng rải rác, cách xa nhau quá không thể hỗ trợ nhau có hiệu quả, cũng không thể chống cự nhau lâu dài với những hoạt động ngày một gia tăng của quân nổi loạn" (Chú thích: Prud' homme - Souvenir de l'expédition de Cochinchine (1861-1862) Paris, 1865. tr 161-165. Dẫn lại Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phúc Khởi nghĩa Trương Định. NXB TP.HCM 1989)
Do hoạt động của nghĩa quân ngày một mạnh và lan rộng, đồng thời nhiều nơi trong khu vực Pháp chiếm đóng, dân chúng bỏ đi đến nơi khác tỵ địa (Chú thích: ĐNTL. Quyển XXIX. trang 238 chép: "Tháng 8 dân ba huyện Bình An, Nghĩa An: Long Thành (thuộc Biên Thành) ở gần chỗ thuyền Tây Dương đóng bỏ trốn đi đến 74 xã thôn") nên số tiền thuế của chúng thu được ngày một giảm dần đi (Chú thích: Theo Schreiner (Sđd): Năm 1860 Pháp thu thuế được 135.735.36 đồng qua năm 1861 còn thu được 48.994.60 đồng)
Trước tình thế ngày càng bất
lợi đó, quân Pháp không còn cách nào khác hơn là phải
rút bớt các đồn lẻ xa căn cứ lớn để bảo tồn lực
lượng:
"Ngày 1/3/1862, hải quân thiếu tướng Bonard truyền cho các đồn Gò Công, Chợ Gạo, Gia Thạnh, Cái Bè, đều rút đi hết và rút các sĩ quan cai trị các huyện Cần Giuộc (Phước Lợi), Tân An, Tân Hòa... Cùng với việc di chuyển khỏi trung tâm này, dưới mắt dân chúng, chúng ta cũng hết luôn quyền hành và pháp luật cũng như trên thực tế” (Chú thích: P. Vial - Les premières années de la Cochinchine T.I. Paris 1874. trang 141.)
Điều cần lưu ý là cuộc lui quân này của thực dân Pháp không hề bao hàm ý nghĩa từ bỏ cuộc xâm lược Nam kỳ mà đây chỉ là cuộc rút lui chiến lược nhằm đối phó với tình hình khó khăn trước mắt chúng. Các cuộc chiến tranh ở Syrie, Mexique và Trung Quốc đã ngốn chúng một lực lượng quân sự quan trọng, đã đưa nền kinh tế tài chính Pháp vào chỗ khủng hoảng thâm thủng nghiêm trọng.
Mặt khác, sau năm năm tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, thực dân Pháp ngày càng hiểu biết thêm một số đặc điểm về nội tình của Việt Nam; đánh nhau với quân đội chánh qui của triều đình, Pháp sẽ thu thắng lợi dễ dàng, nhưng đương đầu với lực lượng kháng chiến thì chúng khó lòng tiêu diệt được. Do đó, thực dân Pháp tìm cách triệt để khai thác những nhược điểm của triều đình Huế để thủ thắng trong giải pháp chánh trị một khi biện pháp quân sự không đạt được kết quả. Việc thực dân Pháp cố gắng chiếm thành Vĩnh Long vào cuối tháng 3/1862, sau cuộc rút chạy hồi đầu tháng, là chúng cố nhằm nắm lấy một vật bảo đảm cho giải pháp chánh trị sau này. Chính De Grammont đã nêu rõ ý đồ đó:
"Thật ra, người ta đã đánh giá quá cao tầm quan trọng của cuộc rút lui này, mà như tôi đã nói, nó không mang lại sự thay đổi rõ rệt trong hệ thống chiếm đóng của chúng ta. Thứ đến, tôi nghĩ nhất là trong chiến tranh cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện. Lấy Vĩnh Long không phải là đúng sao, bởi vì thành này đã trở thành vật bảo đảm quí giá trong tay chúng ta, từ cuộc nổi dậy sau cùng vào tháng 12/1861" (Chú thích: De Grammont. Sđd. tr 298)
Tình hình quân sự Nam kỳ vào cuối năm 1861 và đầu năm 1862 khiến thực dân Pháp phải nghĩ tới một giải pháp chánh trị: “Con bài Tạ Văn Phụng" là một bảo đảm nữa cho giải pháp chánh trị đó, một giải pháp mà trong đó không thiếu bóng dáng của các cố đạo.
Nguyễn Đức Hạnh (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu) - Sđd. tr 250) đã tiết lộ:
“Một người Việt Nam tên Tạ Văn Phụng, nguồn gốc không rõ, nhưng đã được rửa tội và nuôi dưỡng ở trụ sở Giáo hội tại Pinang, năm 1854, hô hào cuộc nổi dậy nhỏ ở Quảng Yên, dưới cái tên là Lê Duy Phụng, tức là đến phiên hắn ta xưng là hậu duệ nhà Lê. Giám mục Retord thuyết phục được Phụng ngưng hoạt động và lui về ẩn trốn ở Hương Cảng"
Phụng lấy cố đạo Trường Legrand de la Liraye (Chú thích: Chính cố đạo này, vào ngày 14/10/1866 đã cùng đi với Paulin Vial với tư cách là thông ngôn ra Huế để bức bách Tự Đức nhượng luôn ba tỉnh miền Tây cho chúng) làm mưu sĩ. Trước đây Phụng có theo giáo sĩ Pháp ra nước ngoài, sau lại gia nhập hàng ngũ của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh Quảng Nam hồi Charner chỉ huy chiến cuộc tại địa phương này" (Chú thích: Phạm Văn Sơn - Việt sử Tân Biên (Việt Nam kháng Pháp sử) Q.V. Tập Thượng. Sai gon. 1962, tr 146.)
Sau cuộc tấn công vào Đà Nẵng của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha, Giám mục Retord muốn đưa ra một ông vua theo đạo Thiên chúa dưới sự bảo trợ của nước Pháp "và nghĩ đến Phụng. Hắn nhận lời trở lại Bắc kỳ vào giữa năm 1861 (Chú thích: Schreiner (Sđd) cho rằng: theo lời hai ông De Grammont và Vial thì thời điểm đó là đầu năm 1862" (tr 407)) và phất cờ nhà Lê (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu) Sđd tr 250) Phụng xuất hiện bất ngờ ở Bắc kỳ. Cuộc nổi dậy mau chóng lan tràn khắp nơi, chỉ trong vài tuần lễ Phụng chiêu mộ được một đạo quân giỏi có hơn 20.000
"Ngày 1/3/1862, hải quân thiếu tướng Bonard truyền cho các đồn Gò Công, Chợ Gạo, Gia Thạnh, Cái Bè, đều rút đi hết và rút các sĩ quan cai trị các huyện Cần Giuộc (Phước Lợi), Tân An, Tân Hòa... Cùng với việc di chuyển khỏi trung tâm này, dưới mắt dân chúng, chúng ta cũng hết luôn quyền hành và pháp luật cũng như trên thực tế” (Chú thích: P. Vial - Les premières années de la Cochinchine T.I. Paris 1874. trang 141.)
Điều cần lưu ý là cuộc lui quân này của thực dân Pháp không hề bao hàm ý nghĩa từ bỏ cuộc xâm lược Nam kỳ mà đây chỉ là cuộc rút lui chiến lược nhằm đối phó với tình hình khó khăn trước mắt chúng. Các cuộc chiến tranh ở Syrie, Mexique và Trung Quốc đã ngốn chúng một lực lượng quân sự quan trọng, đã đưa nền kinh tế tài chính Pháp vào chỗ khủng hoảng thâm thủng nghiêm trọng.
Mặt khác, sau năm năm tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, thực dân Pháp ngày càng hiểu biết thêm một số đặc điểm về nội tình của Việt Nam; đánh nhau với quân đội chánh qui của triều đình, Pháp sẽ thu thắng lợi dễ dàng, nhưng đương đầu với lực lượng kháng chiến thì chúng khó lòng tiêu diệt được. Do đó, thực dân Pháp tìm cách triệt để khai thác những nhược điểm của triều đình Huế để thủ thắng trong giải pháp chánh trị một khi biện pháp quân sự không đạt được kết quả. Việc thực dân Pháp cố gắng chiếm thành Vĩnh Long vào cuối tháng 3/1862, sau cuộc rút chạy hồi đầu tháng, là chúng cố nhằm nắm lấy một vật bảo đảm cho giải pháp chánh trị sau này. Chính De Grammont đã nêu rõ ý đồ đó:
"Thật ra, người ta đã đánh giá quá cao tầm quan trọng của cuộc rút lui này, mà như tôi đã nói, nó không mang lại sự thay đổi rõ rệt trong hệ thống chiếm đóng của chúng ta. Thứ đến, tôi nghĩ nhất là trong chiến tranh cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện. Lấy Vĩnh Long không phải là đúng sao, bởi vì thành này đã trở thành vật bảo đảm quí giá trong tay chúng ta, từ cuộc nổi dậy sau cùng vào tháng 12/1861" (Chú thích: De Grammont. Sđd. tr 298)
Tình hình quân sự Nam kỳ vào cuối năm 1861 và đầu năm 1862 khiến thực dân Pháp phải nghĩ tới một giải pháp chánh trị: “Con bài Tạ Văn Phụng" là một bảo đảm nữa cho giải pháp chánh trị đó, một giải pháp mà trong đó không thiếu bóng dáng của các cố đạo.
Nguyễn Đức Hạnh (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu) - Sđd. tr 250) đã tiết lộ:
“Một người Việt Nam tên Tạ Văn Phụng, nguồn gốc không rõ, nhưng đã được rửa tội và nuôi dưỡng ở trụ sở Giáo hội tại Pinang, năm 1854, hô hào cuộc nổi dậy nhỏ ở Quảng Yên, dưới cái tên là Lê Duy Phụng, tức là đến phiên hắn ta xưng là hậu duệ nhà Lê. Giám mục Retord thuyết phục được Phụng ngưng hoạt động và lui về ẩn trốn ở Hương Cảng"
Phụng lấy cố đạo Trường Legrand de la Liraye (Chú thích: Chính cố đạo này, vào ngày 14/10/1866 đã cùng đi với Paulin Vial với tư cách là thông ngôn ra Huế để bức bách Tự Đức nhượng luôn ba tỉnh miền Tây cho chúng) làm mưu sĩ. Trước đây Phụng có theo giáo sĩ Pháp ra nước ngoài, sau lại gia nhập hàng ngũ của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh Quảng Nam hồi Charner chỉ huy chiến cuộc tại địa phương này" (Chú thích: Phạm Văn Sơn - Việt sử Tân Biên (Việt Nam kháng Pháp sử) Q.V. Tập Thượng. Sai gon. 1962, tr 146.)
Sau cuộc tấn công vào Đà Nẵng của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha, Giám mục Retord muốn đưa ra một ông vua theo đạo Thiên chúa dưới sự bảo trợ của nước Pháp "và nghĩ đến Phụng. Hắn nhận lời trở lại Bắc kỳ vào giữa năm 1861 (Chú thích: Schreiner (Sđd) cho rằng: theo lời hai ông De Grammont và Vial thì thời điểm đó là đầu năm 1862" (tr 407)) và phất cờ nhà Lê (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu) Sđd tr 250) Phụng xuất hiện bất ngờ ở Bắc kỳ. Cuộc nổi dậy mau chóng lan tràn khắp nơi, chỉ trong vài tuần lễ Phụng chiêu mộ được một đạo quân giỏi có hơn 20.000
Charles Duval.
Trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc kỳ vào đầu năm 1862 và tiếp xúc với Phụng nhằm mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến để gây áp lực với Tự Đức, với sự giúp đỡ của Duval. Phụng tung ra nhiều cuộc tấn công trong nhiều tỉnh ở Bắc kỳ, liên kết với những bọn giặc cướp. Những cuộc bạo động ở Bắc kỳ ngày càng trầm trọng; triều đình Huế rốt cuộc đành phải nhận ký hòa ước đình chiến với người Pháp và Tây Ban Nha ngày 5/6/1862" (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu). tr 251)
Đến đây số phận của "con bài Tạ Văn Phụng" được kết thúc, vì thực dân Pháp đã đạt được thắng lợi trong giải pháp chính trị.
Tự Đức sai Nguyễn Tri Phương dẹp loạn ở miền Bắc. Về phần Ch. Duval, bất kể tương lai cá nhân của Phụng và hài lòng về sự thành công của sứ mạng mình, đã rời Bắc kỳ ngày 17/7/1863. Việc ra đi này nguy hại cho cuộc nổi dậy của Phụng.
Trong năm 1864 đồng đảng của Phụng nơi này, nơi khác bị quân đội Nguyễn Tri Phương đánh tan, bị bắt và bị giết ở Huế" (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu). tr 251)
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng. lúc bấy giờ triều đình Tự Đức đang đứng trước muôn vàn khó khăn. Giặc cướp, nông dân nổi lên có đến hàng trăm vụ, nạn đói do lụt, hạn hán, sâu bọ; đường giao lưu từ Nam ra bị chiến tranh làm gián đoạn. Ở Nam kỳ có đến bốn tỉnh thành lọt vào tay giặc. Ở Bắc kỳ trong mấy tháng đầu năm 1862. Tạ Văn Phụng làm chúa tể gần trọn cả phía Đông miền Bắc " (Chú thích: Schrciner (Alfred) Sđd. tr 407 )
Nội bộ lại không thống nhứt về phương sách đương đầu với thực dân Pháp. Trong triều đình không có người am hiểu tình hình quốc tế nói chung, tình hình nước Pháp nói riêng. Xuất phát từ quan điểm lạc hậu về thế giới. hầu như chỉ có Trung Quốc mới được biết đến dưới dạng vừa “bậc thầy" về nhiều mặt là mẫu mực cần tham khảo đối chiếu vừa lại là kẻ thù đáng sợ. Nay phải đương đầu với kẻ thù hoàn toàn xa lạ rất hung hãn về vũ lực, rất xảo quyệt, già dặn trong ngoại giao nên triều đình Tự Đức sa vào tình trạng lúng túng phải ký hòa ước Sài Gòn 1862, tạm nhường ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp để rảnh tay đối phó với cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng nguy hiểm hơn là lẽ đương nhiên.
Tuy nhiên, để mất đất vào tay giặc vì bất cứ lý do gì, vẫn là trách nhiệm trực tiếp của nhà cầm quyền lúc ấy là Tự Đức và triều đình. Tùy theo nhiệm vụ, mà mỗi người có trách nhiệm nặng nhẹ khác nhau trước lịch sử, trước hậu thế. Song, hậu thế không chỉ có việc qui tội cho cá nhân vị vua này, cá nhân ông quan nọ hay tập đoàn kia, mà cần phải bình tĩnh nhìn thấy ở sự kiện trọng đại đó có một nguyên nhân hết sức cơ bản.
Đó là sự tồn tại một cơ chế xã hội vô cùng lỗi thời ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX. Cơ chế đó là cả một hệ thống tư tưởng, học thuật, giáo dục, quan chế, triều chính, ngoại giao... đã được mô phỏng có khi rập khuôn từ một mẫu được xem là chuẩn mực mà chính nó đã kiềm hãm sức sống và sự phát triển dân tộc ta trong vòng lạc hậu, không theo kịp đà phát triển của thế giới, để tìm ra những bài học thiết thực có lợi ích cụ thể.
Trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc kỳ vào đầu năm 1862 và tiếp xúc với Phụng nhằm mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến để gây áp lực với Tự Đức, với sự giúp đỡ của Duval. Phụng tung ra nhiều cuộc tấn công trong nhiều tỉnh ở Bắc kỳ, liên kết với những bọn giặc cướp. Những cuộc bạo động ở Bắc kỳ ngày càng trầm trọng; triều đình Huế rốt cuộc đành phải nhận ký hòa ước đình chiến với người Pháp và Tây Ban Nha ngày 5/6/1862" (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu). tr 251)
Đến đây số phận của "con bài Tạ Văn Phụng" được kết thúc, vì thực dân Pháp đã đạt được thắng lợi trong giải pháp chính trị.
Tự Đức sai Nguyễn Tri Phương dẹp loạn ở miền Bắc. Về phần Ch. Duval, bất kể tương lai cá nhân của Phụng và hài lòng về sự thành công của sứ mạng mình, đã rời Bắc kỳ ngày 17/7/1863. Việc ra đi này nguy hại cho cuộc nổi dậy của Phụng.
Trong năm 1864 đồng đảng của Phụng nơi này, nơi khác bị quân đội Nguyễn Tri Phương đánh tan, bị bắt và bị giết ở Huế" (Chú thích: Tsuboi (Yoshiharu). tr 251)
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng. lúc bấy giờ triều đình Tự Đức đang đứng trước muôn vàn khó khăn. Giặc cướp, nông dân nổi lên có đến hàng trăm vụ, nạn đói do lụt, hạn hán, sâu bọ; đường giao lưu từ Nam ra bị chiến tranh làm gián đoạn. Ở Nam kỳ có đến bốn tỉnh thành lọt vào tay giặc. Ở Bắc kỳ trong mấy tháng đầu năm 1862. Tạ Văn Phụng làm chúa tể gần trọn cả phía Đông miền Bắc " (Chú thích: Schrciner (Alfred) Sđd. tr 407 )
Nội bộ lại không thống nhứt về phương sách đương đầu với thực dân Pháp. Trong triều đình không có người am hiểu tình hình quốc tế nói chung, tình hình nước Pháp nói riêng. Xuất phát từ quan điểm lạc hậu về thế giới. hầu như chỉ có Trung Quốc mới được biết đến dưới dạng vừa “bậc thầy" về nhiều mặt là mẫu mực cần tham khảo đối chiếu vừa lại là kẻ thù đáng sợ. Nay phải đương đầu với kẻ thù hoàn toàn xa lạ rất hung hãn về vũ lực, rất xảo quyệt, già dặn trong ngoại giao nên triều đình Tự Đức sa vào tình trạng lúng túng phải ký hòa ước Sài Gòn 1862, tạm nhường ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp để rảnh tay đối phó với cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng nguy hiểm hơn là lẽ đương nhiên.
Tuy nhiên, để mất đất vào tay giặc vì bất cứ lý do gì, vẫn là trách nhiệm trực tiếp của nhà cầm quyền lúc ấy là Tự Đức và triều đình. Tùy theo nhiệm vụ, mà mỗi người có trách nhiệm nặng nhẹ khác nhau trước lịch sử, trước hậu thế. Song, hậu thế không chỉ có việc qui tội cho cá nhân vị vua này, cá nhân ông quan nọ hay tập đoàn kia, mà cần phải bình tĩnh nhìn thấy ở sự kiện trọng đại đó có một nguyên nhân hết sức cơ bản.
Đó là sự tồn tại một cơ chế xã hội vô cùng lỗi thời ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX. Cơ chế đó là cả một hệ thống tư tưởng, học thuật, giáo dục, quan chế, triều chính, ngoại giao... đã được mô phỏng có khi rập khuôn từ một mẫu được xem là chuẩn mực mà chính nó đã kiềm hãm sức sống và sự phát triển dân tộc ta trong vòng lạc hậu, không theo kịp đà phát triển của thế giới, để tìm ra những bài học thiết thực có lợi ích cụ thể.
II. Giai đoạn sau Hòa ước Sài
Gòn (6-1862) đến trước lúc vào Đồng Tháp Mười
(8-1864)
Hòa ước Sài Gòn 1862 đối với thực dân Pháp là một thắng lợi lớn lao vượt quá dự định của chúng.
Người ta ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đã từng bác bỏ ý định giảng hòa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều kiện hình như đắt giá với họ (Chú thích: P. Vial. Sđd tr 150, 156)
Còn Tự Đức thì không hài lòng về văn kiện mà mình phải chịu nhiều thiệt thòi này, đã gay gắt kết tội Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp.
“Hai người không chỉ tội nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời nữa " (Chú thích: Phan Khoang - Việt Pháp bang giao sử. tr 148, 149)
Và “vẫn rất quyết tâm lấy lại ba tỉnh đã mất, bằng cách nhờ vào người mà nhà vua coi là thuyết khách giỏi nhứt của mình" (Chú thích: Tsuboi Yoshiharu. Sđd tr. 198) nên cử Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long để tiện giao thiệp với Pháp; để sau đó (ngày 21-6-1863) cử ông cầm đầu phái đoàn sang Pháp xin chuộc lại các tỉnh đã mất.
Việc nhượng đất bồi tiền như thế là không hợp, nhưng điều ước mới định mà cải nghị ngay vị tất họ chịu, vậy xin hai sứ thần (Phan, Lâm) đến ở gần, từ từ thương chước để chuộc lỗi trước. rồi sau sẽ sai sứ thông vấn? tùy cơ chước nghị” (Chú thích: Phan Khoang. Sđd tr. 1 48, 1 49)
Đối với lực lượng kháng chiến đang mặt đối mặt với kẻ thù thì đây là một hàng ước, một văn tự bán nước, một hành động phản bội không thể tha thứ được. Làn sóng căm phẫn nổi dậy khắp nơi. Thực dân Pháp ở Nam kỳ bị tấn công đều khắp như một cuộc tấn công khởi nghĩa. Chính bọn thực dân đã thừa nhận.
"Trừ Khmer tương đối yên và trừ ngoại ô trực tiếp Sài Gòn thì đây là cuộc Tổng khởi nghĩa lan tràn khắp Nam kỳ" (Chú thích: Thomazi (A) Laconquête de l'Indochine Payot Paris. 1934)
Những vị trí quân Pháp rút chạy hồi tháng 3 đã được nghĩa quân bố trí phòng thủ để đương đầu sự trở lại của chúng.
Nhưng hòa ước 1862 đã tạo cho quân Pháp một cơ sở pháp lý vững chắc. Để thi hành hòa ước, trước mắt Tự Đức hạ lịnh bãi binh trên ba tỉnh miền Đông, triệu Nguyễn Túc Trưng về kinh. Nguyễn Túc Trưng vâng lịnh triều đình vừa thăng chức lãnh binh cho Trương Định vừa bắt Trương Định giải tán nghĩa quân rồi đi An Giang nhận chức. Trước khi về kinh Nguyễn Túc Trưng đã lệnh Võ Duy Dương tập hợp nghĩa quân về Kiến Hòa (Vùng Bình Cách - Chợ Gạo) đến khi có lịnh mới (Chú thích: Gustave Janneau tài liệu đã dẫn.). Lực lượng kháng chiến sẽ lâm vào tình trạng khó khăn và có nguy cơ bị triều đình bỏ rơi nếu không tuân lệnh giải giáp.
Yoshiharu Tsuboi, trong một tác phẩm của mình (sách đã dẫn) ông đã cho rằng Tự Đức quyết tâm lấy lại các tỉnh đã mất bằng chánh sách hai mặt, ông viết:
“Tự Đức đã dốc toàn lực để tìm cách lấy lại đất đã bị chiếm. Vua bí mật khuyến khích các quan trong vùng bị Pháp chiếm nổi dậy và vua tìm cách thương lượng với Pháp để chuộc lại các tỉnh ấy. Với mục đích đó vua cử một sứ bộ sang Pháp để thương lượng trực tiếp với hoàng đế Pháp, và Phan Thanh Giản một lần nữa được cử làm chánh sứ" (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi - Sđd tr.198-262.)
Tsuboi cũng cho rằng Phan Thanh Giản đã hoàn thành sứ mạng của mình trong việc đi xin chuộc lại 3 tỉnh:
"Sứ mạng này là một thắng lợi ở chính quốc và ngày 15-7- 1864 kết thúc bằng một dự thảo mới về hòa ước, tiên liệu việc trả lại ba tỉnh" (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi - Sđd tr. 198-262).
Georges Taboulet cũng đã xác nhận sự thành công đó của sứ bộ Phan Thanh Giản.
“Sau một thời gian lưu trú ngắn ở Madrid, các sứ thần trở về Sài Gòn ngày 18-3-1864 và từ đó họ ra Huế ngay, vui mừng báo tin cho nhà vua của họ sự thành công của công cuộc thương lượng tế nhị đã qua” (Chú thích: G. Taboulet - La Geste Francaise en Indochine Paris ( l955-1956.) T.2 tr. 483.)
Hòa ước Sài Gòn 1862 đối với thực dân Pháp là một thắng lợi lớn lao vượt quá dự định của chúng.
Người ta ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đã từng bác bỏ ý định giảng hòa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều kiện hình như đắt giá với họ (Chú thích: P. Vial. Sđd tr 150, 156)
Còn Tự Đức thì không hài lòng về văn kiện mà mình phải chịu nhiều thiệt thòi này, đã gay gắt kết tội Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp.
“Hai người không chỉ tội nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời nữa " (Chú thích: Phan Khoang - Việt Pháp bang giao sử. tr 148, 149)
Và “vẫn rất quyết tâm lấy lại ba tỉnh đã mất, bằng cách nhờ vào người mà nhà vua coi là thuyết khách giỏi nhứt của mình" (Chú thích: Tsuboi Yoshiharu. Sđd tr. 198) nên cử Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long để tiện giao thiệp với Pháp; để sau đó (ngày 21-6-1863) cử ông cầm đầu phái đoàn sang Pháp xin chuộc lại các tỉnh đã mất.
Việc nhượng đất bồi tiền như thế là không hợp, nhưng điều ước mới định mà cải nghị ngay vị tất họ chịu, vậy xin hai sứ thần (Phan, Lâm) đến ở gần, từ từ thương chước để chuộc lỗi trước. rồi sau sẽ sai sứ thông vấn? tùy cơ chước nghị” (Chú thích: Phan Khoang. Sđd tr. 1 48, 1 49)
Đối với lực lượng kháng chiến đang mặt đối mặt với kẻ thù thì đây là một hàng ước, một văn tự bán nước, một hành động phản bội không thể tha thứ được. Làn sóng căm phẫn nổi dậy khắp nơi. Thực dân Pháp ở Nam kỳ bị tấn công đều khắp như một cuộc tấn công khởi nghĩa. Chính bọn thực dân đã thừa nhận.
"Trừ Khmer tương đối yên và trừ ngoại ô trực tiếp Sài Gòn thì đây là cuộc Tổng khởi nghĩa lan tràn khắp Nam kỳ" (Chú thích: Thomazi (A) Laconquête de l'Indochine Payot Paris. 1934)
Những vị trí quân Pháp rút chạy hồi tháng 3 đã được nghĩa quân bố trí phòng thủ để đương đầu sự trở lại của chúng.
Nhưng hòa ước 1862 đã tạo cho quân Pháp một cơ sở pháp lý vững chắc. Để thi hành hòa ước, trước mắt Tự Đức hạ lịnh bãi binh trên ba tỉnh miền Đông, triệu Nguyễn Túc Trưng về kinh. Nguyễn Túc Trưng vâng lịnh triều đình vừa thăng chức lãnh binh cho Trương Định vừa bắt Trương Định giải tán nghĩa quân rồi đi An Giang nhận chức. Trước khi về kinh Nguyễn Túc Trưng đã lệnh Võ Duy Dương tập hợp nghĩa quân về Kiến Hòa (Vùng Bình Cách - Chợ Gạo) đến khi có lịnh mới (Chú thích: Gustave Janneau tài liệu đã dẫn.). Lực lượng kháng chiến sẽ lâm vào tình trạng khó khăn và có nguy cơ bị triều đình bỏ rơi nếu không tuân lệnh giải giáp.
Yoshiharu Tsuboi, trong một tác phẩm của mình (sách đã dẫn) ông đã cho rằng Tự Đức quyết tâm lấy lại các tỉnh đã mất bằng chánh sách hai mặt, ông viết:
“Tự Đức đã dốc toàn lực để tìm cách lấy lại đất đã bị chiếm. Vua bí mật khuyến khích các quan trong vùng bị Pháp chiếm nổi dậy và vua tìm cách thương lượng với Pháp để chuộc lại các tỉnh ấy. Với mục đích đó vua cử một sứ bộ sang Pháp để thương lượng trực tiếp với hoàng đế Pháp, và Phan Thanh Giản một lần nữa được cử làm chánh sứ" (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi - Sđd tr.198-262.)
Tsuboi cũng cho rằng Phan Thanh Giản đã hoàn thành sứ mạng của mình trong việc đi xin chuộc lại 3 tỉnh:
"Sứ mạng này là một thắng lợi ở chính quốc và ngày 15-7- 1864 kết thúc bằng một dự thảo mới về hòa ước, tiên liệu việc trả lại ba tỉnh" (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi - Sđd tr. 198-262).
Georges Taboulet cũng đã xác nhận sự thành công đó của sứ bộ Phan Thanh Giản.
“Sau một thời gian lưu trú ngắn ở Madrid, các sứ thần trở về Sài Gòn ngày 18-3-1864 và từ đó họ ra Huế ngay, vui mừng báo tin cho nhà vua của họ sự thành công của công cuộc thương lượng tế nhị đã qua” (Chú thích: G. Taboulet - La Geste Francaise en Indochine Paris ( l955-1956.) T.2 tr. 483.)
Nhưng, vì bọn thực dân chủ
trương bành trướng ở hải ngoại (Bonard, Chasseloup
Laubat. De Lagrandière...) ráo riết can thiệp vào vấn đề
này (Chú thích: xem thêm Tập san sử địa số7-8. Sài Gòn
1967) bản dự thảo hòa ước 1864 không được phê chuẩn.
Cho nên thành công của phái bộ Phan Thanh Giản chỉ còn
là làm chậm lại việc thi hành Hòa ước 1862 mà thôi.
Về việc Tự Đức ngấm ngầm khuyến khích trợ giúp lực lượng kháng chiến trong vùng Pháp chiếm đóng là một công tác vô cùng phức tạp diễn ra trong âm thầm bí mật, mặt khác bề ngoài triều đình phải chứng tỏ rằng đang thực hiện hòa ước 1862 để đánh tan sự ngờ vực đương nhiên phải có về phía thực dân Pháp. Qua Phan Thanh Giản, người thay mặt vua Tự Đức cao nhứt ở Nam kỳ, các chiếu chỉ, sắc dụ công khai ra lệnh kêu gọi các lãnh tụ nghĩa quân giải giáp, rút quân rồi sau đó là lệnh tầm nã thậm chí “yêu cầu" giặc Pháp bắt giúp... Trong trạng huống phức tạp đó, việc đánh giá thái độ của triều đình đối với lực lượng kháng chiến lúc này thật khó chính xác nếu thiếu thái độ bình tĩnh khách quan có lý có tình sẽ dễ rơi vào tình trạng úp chụp ngộ nhận đáng tiếc.
Thật vậy, nếu chỉ dựa vào nội dung bức “mật văn" của Phan Thanh Giản gởi cho Bonard ngày 7-2-1863 (Chú thích: Tập san sử địa số 22 (1971)) mà kết luận rằng Phan Thanh Giản là thỏa hiệp với giặc là phản quốc thì thật là quá vội vàng, vì bình tĩnh xem kỹ lại thì bức “mật văn” đó thiếu mất chữ ký của Phan Thanh Giản.
Trong văn thơ ngoại giao giữa đại diện nước này gởi cho đại diện một nước khác mà thiếu con dấu và chữ ký của người gởi, thiết tưởng cũng nên xét lại về mặt giá trị pháp lý của nó. Trong văn thư đề ngày 6-8 năm Tự Đức thứ 15 (tức 30-9-1862) cũng gởi cho Bonard, cuối thư Phan Thanh Giản viết: “do tân ấn vị phụng cấp đáo, nhưng dụng cựu quan phòng vi tín” tạm dịch là: “do ấn mới chưa kịp mang đến, tạm dụng ấn cũ làm tin”. Nhưng bên cạnh đó cũng không thấy đóng con dấu nào hết. Phan Thanh Giản quên hay cố tình không đóng dấu. Như vậy, văn bản đó có giá trị đến mức độ nào? Điều này cũng cho thấy được tư tưởng của Phan Thanh Giản. Theo quan niệm phong kiến, công văn không dấu là thái độ xem thường người đọc.
Chính Nguyễn Phan Quang, tác giả chủ trương chỉ trích gay gắt triều đình Tự Đức và Phan Thanh Giản cũng đã phải viết:
“Nếu bảo rằng triều đình có chủ trương hai mặt và lệnh bãi binh cách chức chỉ là bề ngoài, thì thật khó giải thích vai trò và hoạt động của Phan Thanh Giản (chiêu dụ Trương Định qui thuận, thúc giục giặc Pháp tiêu diệt nghĩa quân gửi mật thư cho tướng giặc yêu cầu bắt Trương Định "đền tội lỗi" v.v...) Hay là bản thân Phan Thanh Giản. trong khi thực hiện "sánh lược hai mặt" của triều đình đã “lỡ trớn" đi quá giới hạn cho phép? đây cũng là một chi tiết cần được tìm hiểu thêm" (Chú thích: Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước. Sđd tr. 109).
Còn nếu căn cứ vào tình trạng nghĩa quân bị cô lập trên địa bàn chiếm đóng của giặc sau Hòa ước 1862; vũ khí lương thực thiếu thốn nghiêm trọng. Nghĩa quân hoàn toàn phải dựa vào dân để chiến đấu, liên hệ với người Hoa để mua súng đạn... mà cho rằng triều đình bỏ rơi kháng chiến thì e rằng chưa xác đáng lắm, Vì lúc bấy giờ triều đình đang gặp nhiều khó khăn trong việc tập trung lực lượng dẹp cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng ở Bắc kỳ, Yoshiharu Tsuboi lý giải hành động đó như sau:
“Triều đình muốn có thì giờ để dẹp cuộc nổi loạn Lê Duy Phụng, cuộc nổi loạn này uy hiếp Bắc kỳ đối với triều đình quan trọng hơn Nam kỳ nhiều; Triều đình hy vọng sẽ lấy lại ba tỉnh ở Nam kỳ đã mất một khi giải quyết xong số phận của nhóm nổi loạn ở miền Bắc" (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi - Sđd tr. 262.).
Hành động ngấm ngầm trợ lực của Triều đình Tự Đức đối với lực lượng nghĩa quân Võ Duy Dương thấy rõ qua các tài liệu sau:
- Châu bản ban hành mùng một tháng ba năm Tự Đức thứ XVII. (tức ngày 27-3-1865) với nội dung: “phong trào nổi dậy đánh Pháp của quân mộ nghĩa ở ba tỉnh miền Đông Nam bộ do Pháp cai trị ngày càng mạnh, gây cho chúng nhiều thiệt hại, chúng gởi thơ cho quân ta ở Vĩnh Long phản đối hoạt động chống chúng của nghĩa quân Thiên Hộ Dương - với dụ này Tự Đức kêu gọi nghĩa quân ngưng hoạt động và trừng trị ai chứa chấp" (Chú thích: Xem phần phụ lục (trang 193-195))
- Châu bản ban hành ngày mùng 7 tháng 6 năm Tự Đức thứ XVIII (tức ngày 29-7-1865). Đây là dụ của Tự Đức ra lệnh tầm nã Thiên Hộ Dương để lấy lòng chánh phủ Pháp. Võ Duy Dương chống Pháp tích cực ở ba tỉnh Tây Nam kỳ được các quan chức địa phương ủng hộ".
- Châu bản ban hành ngày 3 tháng 9 năm Tự Đức thứ XIX (tức ngày 11-10-1866). Đây là chỉ dụ ra lệnh bắt Thiên Hộ Dương nộp cho Pháp. (Chú thích: Lưu trữ tại trung tâm lưu trữ II tại TP.HCM ký hiệu số CB.287 tờ 76-81) .
Về việc Tự Đức ngấm ngầm khuyến khích trợ giúp lực lượng kháng chiến trong vùng Pháp chiếm đóng là một công tác vô cùng phức tạp diễn ra trong âm thầm bí mật, mặt khác bề ngoài triều đình phải chứng tỏ rằng đang thực hiện hòa ước 1862 để đánh tan sự ngờ vực đương nhiên phải có về phía thực dân Pháp. Qua Phan Thanh Giản, người thay mặt vua Tự Đức cao nhứt ở Nam kỳ, các chiếu chỉ, sắc dụ công khai ra lệnh kêu gọi các lãnh tụ nghĩa quân giải giáp, rút quân rồi sau đó là lệnh tầm nã thậm chí “yêu cầu" giặc Pháp bắt giúp... Trong trạng huống phức tạp đó, việc đánh giá thái độ của triều đình đối với lực lượng kháng chiến lúc này thật khó chính xác nếu thiếu thái độ bình tĩnh khách quan có lý có tình sẽ dễ rơi vào tình trạng úp chụp ngộ nhận đáng tiếc.
Thật vậy, nếu chỉ dựa vào nội dung bức “mật văn" của Phan Thanh Giản gởi cho Bonard ngày 7-2-1863 (Chú thích: Tập san sử địa số 22 (1971)) mà kết luận rằng Phan Thanh Giản là thỏa hiệp với giặc là phản quốc thì thật là quá vội vàng, vì bình tĩnh xem kỹ lại thì bức “mật văn” đó thiếu mất chữ ký của Phan Thanh Giản.
Trong văn thơ ngoại giao giữa đại diện nước này gởi cho đại diện một nước khác mà thiếu con dấu và chữ ký của người gởi, thiết tưởng cũng nên xét lại về mặt giá trị pháp lý của nó. Trong văn thư đề ngày 6-8 năm Tự Đức thứ 15 (tức 30-9-1862) cũng gởi cho Bonard, cuối thư Phan Thanh Giản viết: “do tân ấn vị phụng cấp đáo, nhưng dụng cựu quan phòng vi tín” tạm dịch là: “do ấn mới chưa kịp mang đến, tạm dụng ấn cũ làm tin”. Nhưng bên cạnh đó cũng không thấy đóng con dấu nào hết. Phan Thanh Giản quên hay cố tình không đóng dấu. Như vậy, văn bản đó có giá trị đến mức độ nào? Điều này cũng cho thấy được tư tưởng của Phan Thanh Giản. Theo quan niệm phong kiến, công văn không dấu là thái độ xem thường người đọc.
Chính Nguyễn Phan Quang, tác giả chủ trương chỉ trích gay gắt triều đình Tự Đức và Phan Thanh Giản cũng đã phải viết:
“Nếu bảo rằng triều đình có chủ trương hai mặt và lệnh bãi binh cách chức chỉ là bề ngoài, thì thật khó giải thích vai trò và hoạt động của Phan Thanh Giản (chiêu dụ Trương Định qui thuận, thúc giục giặc Pháp tiêu diệt nghĩa quân gửi mật thư cho tướng giặc yêu cầu bắt Trương Định "đền tội lỗi" v.v...) Hay là bản thân Phan Thanh Giản. trong khi thực hiện "sánh lược hai mặt" của triều đình đã “lỡ trớn" đi quá giới hạn cho phép? đây cũng là một chi tiết cần được tìm hiểu thêm" (Chú thích: Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước. Sđd tr. 109).
Còn nếu căn cứ vào tình trạng nghĩa quân bị cô lập trên địa bàn chiếm đóng của giặc sau Hòa ước 1862; vũ khí lương thực thiếu thốn nghiêm trọng. Nghĩa quân hoàn toàn phải dựa vào dân để chiến đấu, liên hệ với người Hoa để mua súng đạn... mà cho rằng triều đình bỏ rơi kháng chiến thì e rằng chưa xác đáng lắm, Vì lúc bấy giờ triều đình đang gặp nhiều khó khăn trong việc tập trung lực lượng dẹp cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng ở Bắc kỳ, Yoshiharu Tsuboi lý giải hành động đó như sau:
“Triều đình muốn có thì giờ để dẹp cuộc nổi loạn Lê Duy Phụng, cuộc nổi loạn này uy hiếp Bắc kỳ đối với triều đình quan trọng hơn Nam kỳ nhiều; Triều đình hy vọng sẽ lấy lại ba tỉnh ở Nam kỳ đã mất một khi giải quyết xong số phận của nhóm nổi loạn ở miền Bắc" (Chú thích: Yoshiharu Tsuboi - Sđd tr. 262.).
Hành động ngấm ngầm trợ lực của Triều đình Tự Đức đối với lực lượng nghĩa quân Võ Duy Dương thấy rõ qua các tài liệu sau:
- Châu bản ban hành mùng một tháng ba năm Tự Đức thứ XVII. (tức ngày 27-3-1865) với nội dung: “phong trào nổi dậy đánh Pháp của quân mộ nghĩa ở ba tỉnh miền Đông Nam bộ do Pháp cai trị ngày càng mạnh, gây cho chúng nhiều thiệt hại, chúng gởi thơ cho quân ta ở Vĩnh Long phản đối hoạt động chống chúng của nghĩa quân Thiên Hộ Dương - với dụ này Tự Đức kêu gọi nghĩa quân ngưng hoạt động và trừng trị ai chứa chấp" (Chú thích: Xem phần phụ lục (trang 193-195))
- Châu bản ban hành ngày mùng 7 tháng 6 năm Tự Đức thứ XVIII (tức ngày 29-7-1865). Đây là dụ của Tự Đức ra lệnh tầm nã Thiên Hộ Dương để lấy lòng chánh phủ Pháp. Võ Duy Dương chống Pháp tích cực ở ba tỉnh Tây Nam kỳ được các quan chức địa phương ủng hộ".
- Châu bản ban hành ngày 3 tháng 9 năm Tự Đức thứ XIX (tức ngày 11-10-1866). Đây là chỉ dụ ra lệnh bắt Thiên Hộ Dương nộp cho Pháp. (Chú thích: Lưu trữ tại trung tâm lưu trữ II tại TP.HCM ký hiệu số CB.287 tờ 76-81) .
Đó là văn bản công khai, nó có
tính hai mặt của nó. Trong các tài liệu sau đây cho ta
thấy mối quan hệ giữa triều đình với nghĩa quân Võ
Duy Dương.
Dựa vào hai báo cáo quân sự của Võ Duy Dương gởi cho vua Tự Đức, tác giả Gustave Janneau, cho rằng:
“Ông Thiên Hộ Dương tên thật là Võ Duy Dương, là một trong những thủ lĩnh của đám loạn quân đã gây cho chúng ta nhiều thiệt hại trước khi chúng ta chiếm đóng đô hộ xứ này. Tại Tháp Mười, Dương đã đích thân chỉ huy những người An Nam. Các văn bản dưới đây “chứng tỏ ông có quan hệ với Hoàng Đế Tự Đức".
- Qua nội dung hai báo cáo của Võ Duy Dương, Gustave Janneau còn nêu lên một số sự kiện quan trọng như: .
“Ông (Võ Duy Dương) còn nhận được bức thánh chỉ đề tháng 6 truyền lệnh cho ông phải mời Tổng đốc Gia Định Bùi Quang Diệu và Tham tán Bùi Tân. Các quan chức này đã đến Tháp Mười chỉ mang theo 80 người, vào tháng 11, họ quay trở lại Gia Định để nhận vài chỉ thị mới".
“...Trong lúc ấy (tháng 7-1862) phó lãnh binh Trương Định đang đóng quân ở Gia Định viết thơ cho ông Dương trình bày là ông sẽ gặp nguy hiểm khi phải hoạt động đơn độc, ông yêu cầu ông Dương thống nhứt lực lượng, ông lấy địa điểm hội kiến là ở huyện Tân Hòa.
“Ông Dương đồng ý, cử giáo thọ Nguyễn Hữu Huân đến Tân Hòa để bàn bạc, tại đây ông Huân gặp thị vệ Nguyễn Thi, người đã mang đến cho Quản Định một thánh chỉ phong cho ông chức Bình Tây Tướng Quân, tổng chỉ huy quân đội trong ba tỉnh.
“Sau đó ông Huân trở lại Định Tường. Ông Dương nhận chức Chánh Đề Đốc, ông Huân nhận chức Phó Đề Đốc với ấn, triện của phẩm hàm” (Chú thích: Gustave Janneau tài liệu đd)
- Trong một bức thư của Trung tá hải quân Auguste Ansart Tư lệnh tỉnh Mỹ Tho gởi cho thống đốc Nam kỳ De la Grandière ngày 18-11-1866 Ansart có đề cập đến cuộc đàm thoại giữa y và Phan Thanh Giản. Có đoạn Ansart viết:
"Tôi nhắc lại với ông (Phan Thanh Giản) tất cả các sự phiến động trong tỉnh của chúng ta, do những mật sứ chắc chắn đã được lệnh vì nếu không, họ đã không thể nào tìm được nơi dân chúng tiếng vang mà họ đã gặp được. Tôi nhắc lại cho ông những toan tính của con trai Quản Định, của Thiên Hộ (tức Trương Quyền và Thiên Hộ Dương - NHH) tức là hai lãnh tụ được họ ngầm giúp đỡ, chứa chấp và che chở, các đoàn quân của những người này ngày nay vẫn về bè với Poucombo... ".
Phan Thanh Giản trả lời rằng ... không nên đi trên những mối bất bình trong quá khứ lịch sử rằng cái gì đã xảy ra là những việc đã qua, rằng những lỗi lầm trước kia của chánh phủ An Nam là do sự không hiểu biết giá trị và trí thức của người Âu, nhưng ngày nay, hai dân tộc đã hiểu nhau, thì dân tộc mạnh phải giúp đỡ soi sáng cho dân tộc yếu, để đưa dân tộc này vào các con đường của văn minh. Hiệp ước ký giữa Hoàng đế Pháp và vua Tự Đức không những là hiệp ước hòa bình nhưng còn là hiệp ước giao hữu, xóa bỏ tất cả dĩ vãng và trở lại cái lý lẽ trước của ông, Phan Thanh Giản nói với tôi rằng “người An Nam đã không làm một điều gì để vi ước...".
Qua lời đối đáp với ngôn ngữ ngoại giao " Phan Thanh Giản gián tiếp xác nhận rằng triều đình Tự Đức có ngầm giúp đỡ nghĩa quân Võ Duy Dương.
Cho đến sau khi thực dân Pháp triệt hạ được chiến khu Đồng Tháp Mười (tháng 4-1866) triều đình vẫn còn giữ thái độ trân trọng đối với Võ Duy Dương. Điều này đã được thể hiện rõ trong Đại Nam Thực lục”
“Tuần phủ Thuận Khánh là Hoàng Văn Tuyển tâu nói : gần đây nghe nói Võ Duy Dương và bọn Trương Tuệ (Tuệ là con Trương Định) ngầm đến thương du hội với bọn còn sót lại của tên Bướm mưu đồ khởi nghịch. Vua bảo cơ mật viện rằng: lũ tên Dương lòng hẳn như thế nào chưa biết rõ, nhưng cũng là do lòng công phẫn mà ra, có thế mới ràng buộc lòng người, để dùng về sau, cho đi tuần bắt cũng chẳng qua cho vui lòng nước Pháp mà thôi, giết đi cũng đáng tiếc, người không biết bảo là phụ ân, trước đã bất đắc dĩ để mất một Phan Huân (có lẽ là Nguyễn Hữu Huân bị bắt nộp cho Pháp vào tháng 7-1864 - NHH). Lòng trẫm vẫn áy náy, chưa biết quan kinh lược và quan tỉnh cũng đã biết rõ ý làm cho thóa đáng hay không? Nếu nhận là việc thật thì thất sách lắm. Bọn chúng quen đánh không sợ tuy sức ít không làm nên việc, nhưng khí khái đáng khen, huống chi lũ tên Dương nếu được địa lợi, đủ quân lương, biết đem dùng hắn thì người đã quen, tưởng cũng được việc, nên vời hắn đến xử trí cho khéo, ngõ hầu lưỡng toàn" (Chú thích: ĐN TL Đệ Tứ kỷ. Quyển XXXI. tr. 49).
Dựa vào hai báo cáo quân sự của Võ Duy Dương gởi cho vua Tự Đức, tác giả Gustave Janneau, cho rằng:
“Ông Thiên Hộ Dương tên thật là Võ Duy Dương, là một trong những thủ lĩnh của đám loạn quân đã gây cho chúng ta nhiều thiệt hại trước khi chúng ta chiếm đóng đô hộ xứ này. Tại Tháp Mười, Dương đã đích thân chỉ huy những người An Nam. Các văn bản dưới đây “chứng tỏ ông có quan hệ với Hoàng Đế Tự Đức".
- Qua nội dung hai báo cáo của Võ Duy Dương, Gustave Janneau còn nêu lên một số sự kiện quan trọng như: .
“Ông (Võ Duy Dương) còn nhận được bức thánh chỉ đề tháng 6 truyền lệnh cho ông phải mời Tổng đốc Gia Định Bùi Quang Diệu và Tham tán Bùi Tân. Các quan chức này đã đến Tháp Mười chỉ mang theo 80 người, vào tháng 11, họ quay trở lại Gia Định để nhận vài chỉ thị mới".
“...Trong lúc ấy (tháng 7-1862) phó lãnh binh Trương Định đang đóng quân ở Gia Định viết thơ cho ông Dương trình bày là ông sẽ gặp nguy hiểm khi phải hoạt động đơn độc, ông yêu cầu ông Dương thống nhứt lực lượng, ông lấy địa điểm hội kiến là ở huyện Tân Hòa.
“Ông Dương đồng ý, cử giáo thọ Nguyễn Hữu Huân đến Tân Hòa để bàn bạc, tại đây ông Huân gặp thị vệ Nguyễn Thi, người đã mang đến cho Quản Định một thánh chỉ phong cho ông chức Bình Tây Tướng Quân, tổng chỉ huy quân đội trong ba tỉnh.
“Sau đó ông Huân trở lại Định Tường. Ông Dương nhận chức Chánh Đề Đốc, ông Huân nhận chức Phó Đề Đốc với ấn, triện của phẩm hàm” (Chú thích: Gustave Janneau tài liệu đd)
- Trong một bức thư của Trung tá hải quân Auguste Ansart Tư lệnh tỉnh Mỹ Tho gởi cho thống đốc Nam kỳ De la Grandière ngày 18-11-1866 Ansart có đề cập đến cuộc đàm thoại giữa y và Phan Thanh Giản. Có đoạn Ansart viết:
"Tôi nhắc lại với ông (Phan Thanh Giản) tất cả các sự phiến động trong tỉnh của chúng ta, do những mật sứ chắc chắn đã được lệnh vì nếu không, họ đã không thể nào tìm được nơi dân chúng tiếng vang mà họ đã gặp được. Tôi nhắc lại cho ông những toan tính của con trai Quản Định, của Thiên Hộ (tức Trương Quyền và Thiên Hộ Dương - NHH) tức là hai lãnh tụ được họ ngầm giúp đỡ, chứa chấp và che chở, các đoàn quân của những người này ngày nay vẫn về bè với Poucombo... ".
Phan Thanh Giản trả lời rằng ... không nên đi trên những mối bất bình trong quá khứ lịch sử rằng cái gì đã xảy ra là những việc đã qua, rằng những lỗi lầm trước kia của chánh phủ An Nam là do sự không hiểu biết giá trị và trí thức của người Âu, nhưng ngày nay, hai dân tộc đã hiểu nhau, thì dân tộc mạnh phải giúp đỡ soi sáng cho dân tộc yếu, để đưa dân tộc này vào các con đường của văn minh. Hiệp ước ký giữa Hoàng đế Pháp và vua Tự Đức không những là hiệp ước hòa bình nhưng còn là hiệp ước giao hữu, xóa bỏ tất cả dĩ vãng và trở lại cái lý lẽ trước của ông, Phan Thanh Giản nói với tôi rằng “người An Nam đã không làm một điều gì để vi ước...".
Qua lời đối đáp với ngôn ngữ ngoại giao " Phan Thanh Giản gián tiếp xác nhận rằng triều đình Tự Đức có ngầm giúp đỡ nghĩa quân Võ Duy Dương.
Cho đến sau khi thực dân Pháp triệt hạ được chiến khu Đồng Tháp Mười (tháng 4-1866) triều đình vẫn còn giữ thái độ trân trọng đối với Võ Duy Dương. Điều này đã được thể hiện rõ trong Đại Nam Thực lục”
“Tuần phủ Thuận Khánh là Hoàng Văn Tuyển tâu nói : gần đây nghe nói Võ Duy Dương và bọn Trương Tuệ (Tuệ là con Trương Định) ngầm đến thương du hội với bọn còn sót lại của tên Bướm mưu đồ khởi nghịch. Vua bảo cơ mật viện rằng: lũ tên Dương lòng hẳn như thế nào chưa biết rõ, nhưng cũng là do lòng công phẫn mà ra, có thế mới ràng buộc lòng người, để dùng về sau, cho đi tuần bắt cũng chẳng qua cho vui lòng nước Pháp mà thôi, giết đi cũng đáng tiếc, người không biết bảo là phụ ân, trước đã bất đắc dĩ để mất một Phan Huân (có lẽ là Nguyễn Hữu Huân bị bắt nộp cho Pháp vào tháng 7-1864 - NHH). Lòng trẫm vẫn áy náy, chưa biết quan kinh lược và quan tỉnh cũng đã biết rõ ý làm cho thóa đáng hay không? Nếu nhận là việc thật thì thất sách lắm. Bọn chúng quen đánh không sợ tuy sức ít không làm nên việc, nhưng khí khái đáng khen, huống chi lũ tên Dương nếu được địa lợi, đủ quân lương, biết đem dùng hắn thì người đã quen, tưởng cũng được việc, nên vời hắn đến xử trí cho khéo, ngõ hầu lưỡng toàn" (Chú thích: ĐN TL Đệ Tứ kỷ. Quyển XXXI. tr. 49).
Phải chăng đó là dấu hiệu
chứng tỏ Võ Duy Dương đang bí mật thực hiện chánh
sách hai mặt của Tự Đức. Vì bí mật nên Tự Đức e
sợ Phan Thanh Giản và Trương Văn Uyển (quan Kinh lược và
quan tỉnh) xử lý không khéo mà bắt ông nộp cho Pháp thì
thật là thất sách như việc bắt thủ khoa Nguyễn Hữu
Huân trước đây nộp cho Pháp.
Hơn ai hết, Phan Thanh Giản là người biết rõ vai trò của Võ Duy Dương, nên ông đã đề nghị khiển trách Nguyễn Hữu Cơ, khi Nguyễn Hữu Cơ tự tiện đề nghị với Pháp về việc Võ Duy Dương.
“Trước Nguyễn Hữu Cơ đến lỵ sở, đi qua Gia Định báo sứ Pháp rằng: Bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra thú đồn đi khai khẩn, khi đến Vĩnh Long đem việc ấy nói kín với Phan Thanh Giản, bèn tư cho các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và các tỉnh Bình Thuận trở ra Bắc: phàm bè lũ Dương đều cho ra thú đi khẩn hoang. Lại xin tuân thủ Bình Thuận, Khánh Hòa, hễ thấy tên Dương, tên Tuệ (Tức Trương Quyền, Con Trương Định - NHH), thì đem đổi tên cấp cho ngựa trạm về kinh, phái đi nơi khác cho hết điều tiếng.
“Phan Thanh Giản tâu: Nguyễn Hữu Cơ trước đã tự tiện bỏ Á Xoa, sau đem việc Duy Dương khinh thường làm việc táo bạo như thế, rất lấy làm ngại. Hữu Cơ phải giáng 2 cấp, cho lưu tại chức" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd).
Chính là người có sứ mạng hoạt động theo mật chỉ của nhà vua, Võ Duy Dương mới có tư cách báo cáo thẳng với Tự Đức. Sau trận Tháp Mười (tháng 4-1866), ba vị Khâm sai là Phó quản Cơ Nguyễn Xuân Phong, Tú tài Phạm Lợi Nguyên và bát phẩm Nguyễn Tương mang báo cáo của Võ Duy Dương về cho Tự Đức (Chú thích: ĐNTL Đệ Tứ Kỷ. Quyển XXXI.). Rồi đến tháng 10 “Thiên Hộ Võ Duy Dương (lại) cử người về kinh dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa".
Các tư liệu trình bày ở trên cho thấy rằng sau hòa ước Sài Gòn (1862) Võ Duy Dương có quan hệ bí mật với Tự Đức trong công cuộc đánh Pháp để giành lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường.
Tuy nhiên, với bản chất bảo thủ, mềm yếu thiếu quyết đoán của Tự Đức lại thêm bản thân nhà vua có năng lực của một nhà thơ hơn là một nhà chính trị; trong khi đó, trong hàng ngũ quần thần lại không có sự nhứt trí về một đối sách đối với bọn thực dân Pháp, không có người hiểu biết am tường về kẻ thù mới này lại có một số quan lại muốn đầu hàng Pháp, nên chánh sách hòa hoãn với Pháp lúc đầu từng bước biến thành hành động đầu hàng nhục nhã... Chánh sách hai mặt trong quá trình thực hiện dần dần nghiêng về một phía. Từ đó, dầu muốn dầu không dưới cái nhìn của quần chúng nhân dân, vua Tự Đức và một số quan lại như là những người phản bội.
Sau khi hòa ước được ký, về mặt công khai, để cho thực dân Pháp thấy rằng hòa ước được thi hành, triều đình Tự Đức điều các quan lại, lính chánh quy ra khỏi vùng giặc tạm chiếm, ra lệnh nghĩa quân giải giáp.
Nguyễn Túc Trưng được điều về kinh, Nguyễn Nhã điều qua Vĩnh Long lãnh chức án sát. Đỗ Thúc Tịnh chết hồi tháng 5-1862. Trên đất Nam kỳ còn lại hai lực lượng nghĩa quân đối đầu với thực dân Pháp. Trương Định ở khu vực Tân Hòa (Gò Công), Võ Duy Dương trấn giữ khu vực Ba Giồng.
Thực dân Pháp xảo quyệt lợi dụng lúc dân tình và nghĩa quân trong 3 tỉnh được quyền chiếm đóng đang hoang mang dao động vì việc nhường đất, nhứt là lực lượng nghĩa quân yếu hẳn đi khi lính chánh qui đã rút lui, chúng "hối hả đem tin hòa ước được ký kết đến các nơi bị nguy cấp nhất để chấm dứt ngay cuộc chiến đấu”. Trong báo cáo của Võ Duy Dương cũng ghi rõ:
“Tháng 6, những tên man rợ (chỉ thực dân Pháp) ra thông báo tuyên bố rằng 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường phải được xem là đất của chúng".
Nhưng tiếng loa báo tin của chúng được đáp lại bằng tiếng súng và máy bắn đá của nghĩa quân:
“Khi đến phạm vi Tân Hòa, nơi Trương Định đóng quân người ta (chỉ nghĩa quân - NHH) vẫn dùng súng và máy bắn đá bắn vào những người Pháp đến báo tin đình chỉ chiến sự" (Chú thích: P.Vial Sđd, quyển I, tr. 162).
Hơn ai hết, Phan Thanh Giản là người biết rõ vai trò của Võ Duy Dương, nên ông đã đề nghị khiển trách Nguyễn Hữu Cơ, khi Nguyễn Hữu Cơ tự tiện đề nghị với Pháp về việc Võ Duy Dương.
“Trước Nguyễn Hữu Cơ đến lỵ sở, đi qua Gia Định báo sứ Pháp rằng: Bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra thú đồn đi khai khẩn, khi đến Vĩnh Long đem việc ấy nói kín với Phan Thanh Giản, bèn tư cho các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và các tỉnh Bình Thuận trở ra Bắc: phàm bè lũ Dương đều cho ra thú đi khẩn hoang. Lại xin tuân thủ Bình Thuận, Khánh Hòa, hễ thấy tên Dương, tên Tuệ (Tức Trương Quyền, Con Trương Định - NHH), thì đem đổi tên cấp cho ngựa trạm về kinh, phái đi nơi khác cho hết điều tiếng.
“Phan Thanh Giản tâu: Nguyễn Hữu Cơ trước đã tự tiện bỏ Á Xoa, sau đem việc Duy Dương khinh thường làm việc táo bạo như thế, rất lấy làm ngại. Hữu Cơ phải giáng 2 cấp, cho lưu tại chức" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd).
Chính là người có sứ mạng hoạt động theo mật chỉ của nhà vua, Võ Duy Dương mới có tư cách báo cáo thẳng với Tự Đức. Sau trận Tháp Mười (tháng 4-1866), ba vị Khâm sai là Phó quản Cơ Nguyễn Xuân Phong, Tú tài Phạm Lợi Nguyên và bát phẩm Nguyễn Tương mang báo cáo của Võ Duy Dương về cho Tự Đức (Chú thích: ĐNTL Đệ Tứ Kỷ. Quyển XXXI.). Rồi đến tháng 10 “Thiên Hộ Võ Duy Dương (lại) cử người về kinh dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa".
Các tư liệu trình bày ở trên cho thấy rằng sau hòa ước Sài Gòn (1862) Võ Duy Dương có quan hệ bí mật với Tự Đức trong công cuộc đánh Pháp để giành lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường.
Tuy nhiên, với bản chất bảo thủ, mềm yếu thiếu quyết đoán của Tự Đức lại thêm bản thân nhà vua có năng lực của một nhà thơ hơn là một nhà chính trị; trong khi đó, trong hàng ngũ quần thần lại không có sự nhứt trí về một đối sách đối với bọn thực dân Pháp, không có người hiểu biết am tường về kẻ thù mới này lại có một số quan lại muốn đầu hàng Pháp, nên chánh sách hòa hoãn với Pháp lúc đầu từng bước biến thành hành động đầu hàng nhục nhã... Chánh sách hai mặt trong quá trình thực hiện dần dần nghiêng về một phía. Từ đó, dầu muốn dầu không dưới cái nhìn của quần chúng nhân dân, vua Tự Đức và một số quan lại như là những người phản bội.
Sau khi hòa ước được ký, về mặt công khai, để cho thực dân Pháp thấy rằng hòa ước được thi hành, triều đình Tự Đức điều các quan lại, lính chánh quy ra khỏi vùng giặc tạm chiếm, ra lệnh nghĩa quân giải giáp.
Nguyễn Túc Trưng được điều về kinh, Nguyễn Nhã điều qua Vĩnh Long lãnh chức án sát. Đỗ Thúc Tịnh chết hồi tháng 5-1862. Trên đất Nam kỳ còn lại hai lực lượng nghĩa quân đối đầu với thực dân Pháp. Trương Định ở khu vực Tân Hòa (Gò Công), Võ Duy Dương trấn giữ khu vực Ba Giồng.
Thực dân Pháp xảo quyệt lợi dụng lúc dân tình và nghĩa quân trong 3 tỉnh được quyền chiếm đóng đang hoang mang dao động vì việc nhường đất, nhứt là lực lượng nghĩa quân yếu hẳn đi khi lính chánh qui đã rút lui, chúng "hối hả đem tin hòa ước được ký kết đến các nơi bị nguy cấp nhất để chấm dứt ngay cuộc chiến đấu”. Trong báo cáo của Võ Duy Dương cũng ghi rõ:
“Tháng 6, những tên man rợ (chỉ thực dân Pháp) ra thông báo tuyên bố rằng 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường phải được xem là đất của chúng".
Nhưng tiếng loa báo tin của chúng được đáp lại bằng tiếng súng và máy bắn đá của nghĩa quân:
“Khi đến phạm vi Tân Hòa, nơi Trương Định đóng quân người ta (chỉ nghĩa quân - NHH) vẫn dùng súng và máy bắn đá bắn vào những người Pháp đến báo tin đình chỉ chiến sự" (Chú thích: P.Vial Sđd, quyển I, tr. 162).
Thực dân Pháp nghĩ đơn giản là
khi quân chánh qui của triều đình rút lui thì lực lượng
nghĩa quân sẽ nhanh chóng tan rã. Nhưng chúng đã lầm,
chúng vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân và
quân ứng nghĩa mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Các thủ lãnh nghĩa quân không muốn phục tùng chính phủ mới (tức chính quyền thực dân Pháp) cũng không yêu cầu trở về phần đất của nước An Nam (tức ba tỉnh miền Tây). Họ cứ ở trên phần đất của chúng ta, thu thuế, cướp phá các đoàn vận tải, và khi có cơ hội tấn công những người Âu riêng lẽ" (Chú thích: P.Vial Sđd, quyển 1. tr. 162.)
Dân chúng khắp nơi, kể cả quan binh của triều đình không chịu rút lui yêu cầu các thủ lãnh nghĩa quân ở lại tiếp tục chiến đấu, họ sẵn sàng gia nhập hàng ngũ nghĩa quân và tiếp tế lương thực.
“Những quan binh và những nhà phú hộ van nài ông Dương đừng xa rời họ mà tiếp tục chống giặc, họ sẽ lập một đơn vị quân đội hứa giúp đỡ và tiếp tế” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd.)
Trong khí thế nhân dân sôi sục chống giặc, nhưng chắc Võ Duy Dương cũng nhận định, tình hình lúc này đã khác trước: giặc đang đứng trên một thế mới, nghĩa quân chiến đấu đơn độc (thiếu sự chi viện của triều đình) chủ yếu là dựa vào sức dân, trước mắt phải tăng cường bổ sung lực lượng mới có thể chiến đấu lâu dài được. Nên vào tháng 7, ông phát lời kêu gọi hiệu triệu nhân dân trong tỉnh Định Tường nổi lên cùng nhau chống giặc” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd).
Cùng lúc ấy, ông nhận được thơ của Trương Định gửi từ Gia Định đề nghị hai bên thống nhứt lực lượng vì chiến đấu riêng lẻ sẽ gặp nhiều bất lợi. ông tán thành đề nghị này và cử giáo thọ Nguyễn Hữu Huân, hiện là một trợ thủ đắc lực của ông, đi Tân Hòa để hội kiến với Trương Định.
Tại đây, Nguyễn Hữu Huân gặp thị vệ Nguyễn Thi, thay mặt triều đình mang thánh chỉ phong Trương Định chức “Bình Tây Tướng quân". Võ Duy Dương chức Chánh Đề đốc, Nguyễn Hữu Huân chức Phó Đề đốc (Chú thích: Theo quan chế triều Nguyễn chức Chánh đề đốc là chức võ quan trật chánh nhị phẩm. Phó Đề đốc trật tòng nhị phẩm - Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim - Tân Việt. SG 1964.) Với chức Bình Tây Tướng Quân, Trương Định chỉ huy toàn bộ lực lượng ứng nghĩa trong ba tỉnh.
- Võ Duy Dương vẫn đóng tổng hành dinh tại căn cứ cũ ở thôn Bình Cách thuộc tổng Thạch Quơn, huyện Kiến Hòa. Từ đây hai ông chỉ huy nghĩa quân huy động nhân dân thiết lập hệ thống đồn lũy trên khu vực đất Ba Giồng (từ Bình Cách qua Mỹ Quí, Thuộc Nhiêu đến Cai Lậy, Cái Bè). Các gò cao, các cửa sông trọng yếu đều có xây đồn đắp cản. Gò Cát (nay là gò lũy Nhị Bình (Châu Thành Tiền Giang), Giồng Phèn (nay thuộc xã Điềm Hy (Châu Thành Tiền Giang) vàm Cái Thia (thuộc huyện Cái Bè), Bưng Môn (thuộc xã Tân Phú, Cai Lậy), kinh Cây Gáo (giáp ranh hai huyện Cái Bè và Cai Lậy)... là các vị trí quan trọng đều có nghĩa quân đóng đồn cố thủ.
Nguyễn Hữu Huân chẳng những là người bạn chiến đấu thân thiết của ông mà còn là một nhà tham mưu già dặn, thường thay ông soạn thảo tuyên ngôn, lời kêu gọi hô hào dân chúng nổi dậy, tham gia ủng hộ nghĩa quân. Trong thời gian này, nhận thấy cuộc khởi nghĩa của hai ông có ảnh hưởng sâu rộng, nhất là đối với sĩ phu Nam kỳ, thực dân Pháp sai Tôn Thọ Tường viết thư khuyên ông hạ vũ khí về cộng tác với thực dân, nhằm ly gián, chia rẽ ông với Võ Duy Dương. Ông viết thư trả lời, mắng Tường là một đứa vô quân, vô phụ đã đem mình làm tay sai cho giặc, không biết lấy thế làm nhục cho danh giá của con người Nho học, lại còn lôi thêm những người khác đi vào con đường bất chánh (Chú thích: Báo Ấp Bắc, số đặc biệt.).
Các thủ lãnh nghĩa quân không muốn phục tùng chính phủ mới (tức chính quyền thực dân Pháp) cũng không yêu cầu trở về phần đất của nước An Nam (tức ba tỉnh miền Tây). Họ cứ ở trên phần đất của chúng ta, thu thuế, cướp phá các đoàn vận tải, và khi có cơ hội tấn công những người Âu riêng lẽ" (Chú thích: P.Vial Sđd, quyển 1. tr. 162.)
Dân chúng khắp nơi, kể cả quan binh của triều đình không chịu rút lui yêu cầu các thủ lãnh nghĩa quân ở lại tiếp tục chiến đấu, họ sẵn sàng gia nhập hàng ngũ nghĩa quân và tiếp tế lương thực.
“Những quan binh và những nhà phú hộ van nài ông Dương đừng xa rời họ mà tiếp tục chống giặc, họ sẽ lập một đơn vị quân đội hứa giúp đỡ và tiếp tế” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd.)
Trong khí thế nhân dân sôi sục chống giặc, nhưng chắc Võ Duy Dương cũng nhận định, tình hình lúc này đã khác trước: giặc đang đứng trên một thế mới, nghĩa quân chiến đấu đơn độc (thiếu sự chi viện của triều đình) chủ yếu là dựa vào sức dân, trước mắt phải tăng cường bổ sung lực lượng mới có thể chiến đấu lâu dài được. Nên vào tháng 7, ông phát lời kêu gọi hiệu triệu nhân dân trong tỉnh Định Tường nổi lên cùng nhau chống giặc” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd).
Cùng lúc ấy, ông nhận được thơ của Trương Định gửi từ Gia Định đề nghị hai bên thống nhứt lực lượng vì chiến đấu riêng lẻ sẽ gặp nhiều bất lợi. ông tán thành đề nghị này và cử giáo thọ Nguyễn Hữu Huân, hiện là một trợ thủ đắc lực của ông, đi Tân Hòa để hội kiến với Trương Định.
Tại đây, Nguyễn Hữu Huân gặp thị vệ Nguyễn Thi, thay mặt triều đình mang thánh chỉ phong Trương Định chức “Bình Tây Tướng quân". Võ Duy Dương chức Chánh Đề đốc, Nguyễn Hữu Huân chức Phó Đề đốc (Chú thích: Theo quan chế triều Nguyễn chức Chánh đề đốc là chức võ quan trật chánh nhị phẩm. Phó Đề đốc trật tòng nhị phẩm - Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim - Tân Việt. SG 1964.) Với chức Bình Tây Tướng Quân, Trương Định chỉ huy toàn bộ lực lượng ứng nghĩa trong ba tỉnh.
- Võ Duy Dương vẫn đóng tổng hành dinh tại căn cứ cũ ở thôn Bình Cách thuộc tổng Thạch Quơn, huyện Kiến Hòa. Từ đây hai ông chỉ huy nghĩa quân huy động nhân dân thiết lập hệ thống đồn lũy trên khu vực đất Ba Giồng (từ Bình Cách qua Mỹ Quí, Thuộc Nhiêu đến Cai Lậy, Cái Bè). Các gò cao, các cửa sông trọng yếu đều có xây đồn đắp cản. Gò Cát (nay là gò lũy Nhị Bình (Châu Thành Tiền Giang), Giồng Phèn (nay thuộc xã Điềm Hy (Châu Thành Tiền Giang) vàm Cái Thia (thuộc huyện Cái Bè), Bưng Môn (thuộc xã Tân Phú, Cai Lậy), kinh Cây Gáo (giáp ranh hai huyện Cái Bè và Cai Lậy)... là các vị trí quan trọng đều có nghĩa quân đóng đồn cố thủ.
Nguyễn Hữu Huân chẳng những là người bạn chiến đấu thân thiết của ông mà còn là một nhà tham mưu già dặn, thường thay ông soạn thảo tuyên ngôn, lời kêu gọi hô hào dân chúng nổi dậy, tham gia ủng hộ nghĩa quân. Trong thời gian này, nhận thấy cuộc khởi nghĩa của hai ông có ảnh hưởng sâu rộng, nhất là đối với sĩ phu Nam kỳ, thực dân Pháp sai Tôn Thọ Tường viết thư khuyên ông hạ vũ khí về cộng tác với thực dân, nhằm ly gián, chia rẽ ông với Võ Duy Dương. Ông viết thư trả lời, mắng Tường là một đứa vô quân, vô phụ đã đem mình làm tay sai cho giặc, không biết lấy thế làm nhục cho danh giá của con người Nho học, lại còn lôi thêm những người khác đi vào con đường bất chánh (Chú thích: Báo Ấp Bắc, số đặc biệt.).
Tham gia nghĩa quân Võ Duy Dương
có đủ mọi thành phần trong xã hội từ nông dân đến
điền chủ, từ trí thức đến cựu quan, cựu binh của
triều đình, ngoài người kinh còn có người Khmer người
Hoa. Đặc biệt là trong hàng ngũ nghĩa quân Võ Duy Dương
còn có những lính Pháp đào ngũ, người Tagal. Điều này
không thấy ở các lực lượng nghĩa quân khác, chứng tỏ
Võ Duy Dương đã chú ý đến công tác địch vận, cảm
hóa được người đi lính cho Pháp đào ngũ gia nhập vào
hàng ngũ nghĩa quân. Trong báo cáo gởi vua Tự Đức, có
ghi rõ :
“Quân đội của chúng tôi kéo đến Chinh Hầm (Chú thích: Chưa xác minh được vị trí.) đang chiếm một điểm cao, từ địa thế này chúng tôi nã nhiều quả pháo tiêu diệt một số lớn quân Pháp, xác chúng rải rác trên trận địa, số tử vong vượt quá 150, chúng ta bắt được tù binh 3 người Pháp, 7 người Ma Ní, họ chịu đầu hàng và bằng lòng theo chúng tôi. Họ có sẵn súng và quân trang. Họ lại ghét bọn kia và muốn ra trận đế trả thù” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd.).
Về vấn đề quân số của nghĩa quân, trong báo cáo cũng có đề cập đến:
Ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường đã cung cấp một đội quân gồm có người An Nam, người Trung Hoa, người Cao Miên, và tổng số lên đến 100.000 người. Những đội ngũ được tổ chức lại, những cấp bậc của các ngạch trật, trong hệ thống quân sự được phân phối xong, những quân đội đã được điều đi theo yêu cầu của các đồn lũy" (Chú thích: có lẽ đây là số quân mà Võ Duy Dương dự kiến có thể mộ được hoặc do Gustave Janneau nhầm lẫn lúc diễn dịch từ chữ Hán sang chữ Pháp. Chớ vào thời đó cả quân đội triều đình chắc cũng không quá 100.000 quân.)
- Võ Duy Dương đã hình thành trong khu vực hoạt động ngoài hệ thống quân sự còn có bộ máy chánh quyền kháng chiến, những người tham gia hay được chiêu mộ, tùy theo năng lực, văn bằng, công trạng đều được ông phong chức tước, phẩm hàm và ấn triện.
Để có nguồn cung cấp vũ khí, Võ Duy Dương tổ chức vận động quyên góp tiền bạc trong các tỉnh Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Vĩnh Long rồi cử người đến Cà Mau, Rạch Giá (Hà Tiên) để mua súng. Đến giữa năm 1863 ông giao trọng trách này cho Nguyễn Hữu Huân.
“Dương phái Phó Đề Đốc bí mật đưa 20 người qua Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, ông ra lệnh cho các bạn chiến đấu của mình có nhiệm vụ nhận những tiền đúc bằng bạc quyên góp trong tỉnh Định Tường. Trong khi những người trước làm như thế tại Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Dương chờ tin tức từ Cà Mau, Rạch Giá về kết quả của cuộc lạc quyên".
Đáng tiếc trong báo cáo này, Võ Duy Dương không báo cáo về tổ chức lực lượng quân sự và chánh quyền kháng chiến trong tỉnh Định Tường. Còn trong báo cáo của Phạm Tiến (viết sau trận Tân Hòa 24-2-1863) chỉ đề cập đến lực lượng võ trang và hệ thống chính quyền kháng chiến trong tỉnh Gia Định, nên chúng ta không rõ được về hai mặt này ở Định Tường. Tuy vậy, đoạn cuối của báo cáo của Phạm Tiến, có ghi: ... “Còn bao nhiêu dân hạt bị chết trong lúc trận mạc thì Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Chánh đều ghi ở trong cuốn nhật ký" (Chú thích: Tập San Sử địa số 3/1966. tr. 148. Sài Gòn) Có lẽ, Nguyễn Hữu Huân ghi chép phần của tỉnh Định Tường.
Một điểm đáng lưu ý nữa trong nghệ thuật chỉ đạo kháng chiến của Võ Duy Dương là với phương tiện thông tin lạc hậu thời đó, mà ông vẫn có cách theo dõi tình hình quốc tế và triệt để khai thác tình hình đó để phục vụ cho công cuộc kháng chiến nếu thấy nó có lợi. Lợi dụng hôm chúa nhựt ngày 25-2-1866 (11 tháng giêng Bính Dần) một sứ bộ thứ nhất của Nhựt Bổn đi qua Châu Âu để thắt chặt tình hữu nghị Nhựt với các quốc gia Âu, sứ bộ ấy đi trên chiếc tàu Pháp và ghé ngang qua Sài Gòn" (Chú thích: Gustave Janneau - Tài liệu đã dẫn). Qua khoảng tháng 3, Võ Duy Dương cho phát ra những tờ hịch kêu gọi dân chúng vùng dậy vì có người Nhựt Bổn giúp sức đánh bật thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 309). Lời tuyên truyền của nghĩa quân làm cho dân chúng nức lòng, vì dù sao người ta cũng nghĩ rằng Nhựt Bổn cũng là một nước mạnh đang theo con đường canh tân ở châu Á cũng làm cho thực dân nể sợ".
Nửa năm sau khi ký hiệp ước 1862, lực lượng nghĩa quân không nhưng không rút lui, tan rã như thực dân Pháp dự đoán, trái lại còn được gia tăng củng cố gấp bội. Căn cứ Tân Hòa và tuyến Ba Giồng là hai gọng kìm liên hệ phối hợp nhau chặt chẽ sẵn sàng bóp nghẹt lực lượng chung trong tỉnh Định Tường.
“Quân đội của chúng tôi kéo đến Chinh Hầm (Chú thích: Chưa xác minh được vị trí.) đang chiếm một điểm cao, từ địa thế này chúng tôi nã nhiều quả pháo tiêu diệt một số lớn quân Pháp, xác chúng rải rác trên trận địa, số tử vong vượt quá 150, chúng ta bắt được tù binh 3 người Pháp, 7 người Ma Ní, họ chịu đầu hàng và bằng lòng theo chúng tôi. Họ có sẵn súng và quân trang. Họ lại ghét bọn kia và muốn ra trận đế trả thù” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd.).
Về vấn đề quân số của nghĩa quân, trong báo cáo cũng có đề cập đến:
Ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường đã cung cấp một đội quân gồm có người An Nam, người Trung Hoa, người Cao Miên, và tổng số lên đến 100.000 người. Những đội ngũ được tổ chức lại, những cấp bậc của các ngạch trật, trong hệ thống quân sự được phân phối xong, những quân đội đã được điều đi theo yêu cầu của các đồn lũy" (Chú thích: có lẽ đây là số quân mà Võ Duy Dương dự kiến có thể mộ được hoặc do Gustave Janneau nhầm lẫn lúc diễn dịch từ chữ Hán sang chữ Pháp. Chớ vào thời đó cả quân đội triều đình chắc cũng không quá 100.000 quân.)
- Võ Duy Dương đã hình thành trong khu vực hoạt động ngoài hệ thống quân sự còn có bộ máy chánh quyền kháng chiến, những người tham gia hay được chiêu mộ, tùy theo năng lực, văn bằng, công trạng đều được ông phong chức tước, phẩm hàm và ấn triện.
Để có nguồn cung cấp vũ khí, Võ Duy Dương tổ chức vận động quyên góp tiền bạc trong các tỉnh Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Vĩnh Long rồi cử người đến Cà Mau, Rạch Giá (Hà Tiên) để mua súng. Đến giữa năm 1863 ông giao trọng trách này cho Nguyễn Hữu Huân.
“Dương phái Phó Đề Đốc bí mật đưa 20 người qua Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, ông ra lệnh cho các bạn chiến đấu của mình có nhiệm vụ nhận những tiền đúc bằng bạc quyên góp trong tỉnh Định Tường. Trong khi những người trước làm như thế tại Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Dương chờ tin tức từ Cà Mau, Rạch Giá về kết quả của cuộc lạc quyên".
Đáng tiếc trong báo cáo này, Võ Duy Dương không báo cáo về tổ chức lực lượng quân sự và chánh quyền kháng chiến trong tỉnh Định Tường. Còn trong báo cáo của Phạm Tiến (viết sau trận Tân Hòa 24-2-1863) chỉ đề cập đến lực lượng võ trang và hệ thống chính quyền kháng chiến trong tỉnh Gia Định, nên chúng ta không rõ được về hai mặt này ở Định Tường. Tuy vậy, đoạn cuối của báo cáo của Phạm Tiến, có ghi: ... “Còn bao nhiêu dân hạt bị chết trong lúc trận mạc thì Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Chánh đều ghi ở trong cuốn nhật ký" (Chú thích: Tập San Sử địa số 3/1966. tr. 148. Sài Gòn) Có lẽ, Nguyễn Hữu Huân ghi chép phần của tỉnh Định Tường.
Một điểm đáng lưu ý nữa trong nghệ thuật chỉ đạo kháng chiến của Võ Duy Dương là với phương tiện thông tin lạc hậu thời đó, mà ông vẫn có cách theo dõi tình hình quốc tế và triệt để khai thác tình hình đó để phục vụ cho công cuộc kháng chiến nếu thấy nó có lợi. Lợi dụng hôm chúa nhựt ngày 25-2-1866 (11 tháng giêng Bính Dần) một sứ bộ thứ nhất của Nhựt Bổn đi qua Châu Âu để thắt chặt tình hữu nghị Nhựt với các quốc gia Âu, sứ bộ ấy đi trên chiếc tàu Pháp và ghé ngang qua Sài Gòn" (Chú thích: Gustave Janneau - Tài liệu đã dẫn). Qua khoảng tháng 3, Võ Duy Dương cho phát ra những tờ hịch kêu gọi dân chúng vùng dậy vì có người Nhựt Bổn giúp sức đánh bật thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 309). Lời tuyên truyền của nghĩa quân làm cho dân chúng nức lòng, vì dù sao người ta cũng nghĩ rằng Nhựt Bổn cũng là một nước mạnh đang theo con đường canh tân ở châu Á cũng làm cho thực dân nể sợ".
Nửa năm sau khi ký hiệp ước 1862, lực lượng nghĩa quân không nhưng không rút lui, tan rã như thực dân Pháp dự đoán, trái lại còn được gia tăng củng cố gấp bội. Căn cứ Tân Hòa và tuyến Ba Giồng là hai gọng kìm liên hệ phối hợp nhau chặt chẽ sẵn sàng bóp nghẹt lực lượng chung trong tỉnh Định Tường.
Ngay từ khi chiếm được Định
Tường, thực dân Pháp cho rằng vị trí Mỹ Quí - Thuộc
Nhiêu (nằm giữa thành Mỹ Tho và Cai Lậy) là vị trí có
thế chiến lược quan trọng nên đã nhiều lần tấn công
nghĩa quân để giành lấy Đến nay quan điểm đó chưa
thay đổi:
“Các vị trí ở Thuộc Nhiêu và Mỹ Quí thật ra quá gần Mỹ Tho để những người phản loạn có thể giữ lâu được, tuy nhiên chúng phải liên tục đến ba lần mới đuổi họ ra khói khu bốn công sự là vì tỉnh luôn luôn thiếu lực lượng... chắc chắn là có một đồn hàng đầu đặt ở trung tâm khu vực chiến lược này và tỏa ra về phía Cái Bè, Cai Lậy, Rạch Gầm, Mỹ Tho và Kiến An, có lẽ sẽ tước đi được mọi khả năng của người An Nam để đóng chốt ở đó và như thế làm nhẹ đi nhiệm vụ của các điểm đóng vòng ngoài của chúng ta" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 310).
Cùng lúc đó chúng biết được, nghĩa quân đang ráo riết xây dựng căn cứ Tân Hòa, nên chúng cho rằng:
“Các quan cầm đầu phong trào, đã dự kiến chính xác là một khi Thuộc Nhiêu bị chiếm lại thì vị trí này sẽ không bị chúng ta (tức Pháp) bỏ rơi nữa. Như thế, trong mục đích tạo cho cuộc nổi dậy một điểm tựa chắc chắn hơn, một trung tâm khó có thể tới được nên bọn ấy quyết định tập trung tại quận Tân Hòa mà quận lỵ là Gò Công và xây thành đắp lũy một cách đáng sợ" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn)
- Nhưng vì sự an toàn của vùng mà chúng gọi là “khu bốn công sự”, (vùng Thuộc Nhiêu Mỹ Quí) chúng thấy căn cứ Bình Cách (cách Mỹ Tho 20km, cách Thuộc Nhiêu gần 40km) là một sự đe dọa đáng ngại. Tháng 11-1862 chúng kéo quân tập kích căn cứ Bình Cách. Đích thân Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân nhanh chóng đánh bạt chúng ra, chúng tháo chạy. Nghĩa quân đuổi theo truy kích hai mươi tám (28) lính tập và mã tà bị bắt và bị giết (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn).
- Ngay sau đó để chuẩn bị cho cuộc tập kích địch, có sự phối hợp đồng bộ của nghĩa quân trên ba tỉnh, Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân kéo quân đến Giồng Cát thuộc tổng Nhị Bình phủ Kiến An (nay là Gò Lũy, xã Nhị Bình, huyện Châu Thành). Hai ông cho nghĩa quân xây đồn lũy và trú lại. Vị trí này cách Thuộc Nhiêu khoảng 10km, thuận lợi cho việc uy hiếp Thuộc Nhiêu của giặc.
Đúng vào đêm 17 rạng 18-12-1862 là thời điểm hợp đồng chiến đấu. Quân và dân khắp 3 tỉnh đồng loạt nổi dậy đánh địch khiến chúng hết sức hoang mang có cảm giác đây là một cuộc tổng khởi nghĩa và đã thú nhận:
“Kẻ cướp và quân khởi nghĩa ngày càng dạn dĩ, càng tấn công. Bao nhiêu việc xảy ra chứng tỏ rằng cuộc khởi nghĩa sắp nổ, người Pháp dè chừng, người ta hiểu mang máng rằng người Pháp bị bao vây trong một cái lưới âm mưu trong đó các giai cấp trong nhân dân đều tham dự chống lại chúng ta" (Chú thích: P. Vial. Sđd. Quyển 1. Tr. 191)
Nghĩa quân đồng loạt tấn công địch khắp nơi:
- Đánh đồn Rạch Tra (hay sông Tra): nằm trên đường bộ Sài Gòn Tây Ninh cách Sài Gòn 15km do 74 lính thủy đánh bộ và đại úy Thouronde trấn giữ. Gần sáng ngày 18-12-1862, 600 nghĩa quân bí mật leo vào thành giết lính canh chiếm đồn. Thouronde tử trận.
- Đánh đồn Long Thành: đêm 17 rạng 18-12-1862, 1.200 nghĩa quân Biên Hòa tấn công chiếm được đồn, Bonard vội vàng huy động lực lượng kéo đến phản công.
- Tập kích thuyền giặc ở Bến Lức, vây đồn Phước Hòa, cùng ngày nghĩa quân dưới quyền Nguyễn Trung Trực tấn công hai Lorcha (chiến thuyền nhỏ) đậu tại Bến Lức và bao vây đồn Phước Hòa, lính Pháp chống cự không lại, phải nhờ lính Tây Ban Nha đến cứu.
- Tập kích pháo thuyền Alarme: cùng đêm 17 rạng 18-12-1862, nghĩa quân Gò Công tập kích pháo thuyền Alarme và tấn công trận địa pháo của giặc trên bờ rạch Gò Công. Cùng lúc đó, 400 nghĩa quân tấn công các vị trí quan sát của giặc phía trước căn cứ Tân Hòa.
- Đánh đồn Rạch Kiến: ngày 18-12-1862, 2.000 nghĩa quân có trang bị 12 súng đại bác bắn đá tấn công đồn gây cho giặc thiệt hại nặng.
- Tấn công đồn Thuộc Nhiêu: do đại úy Taboulé với 50 quân trấn giữ. Võ Duy Dương tường thuật trận đánh, sơ lược như sau:
“Ngày 27 trong tháng (tức ngày 17-12-1862) quân Pháp mang quân tập kích các ông. Quân Pháp lại bại trận và tháo chạy bị quân các ông đuổi theo đến đồn Thuộc Nhiêu, cướp đồn và đốt cháy. Bọn Pháp trong đồn xông ra xáp trận. Thình lình một đám mưa to ập đến và đến tối, tất cả đều rút lui mỗi bên về một hướng”
“Các vị trí ở Thuộc Nhiêu và Mỹ Quí thật ra quá gần Mỹ Tho để những người phản loạn có thể giữ lâu được, tuy nhiên chúng phải liên tục đến ba lần mới đuổi họ ra khói khu bốn công sự là vì tỉnh luôn luôn thiếu lực lượng... chắc chắn là có một đồn hàng đầu đặt ở trung tâm khu vực chiến lược này và tỏa ra về phía Cái Bè, Cai Lậy, Rạch Gầm, Mỹ Tho và Kiến An, có lẽ sẽ tước đi được mọi khả năng của người An Nam để đóng chốt ở đó và như thế làm nhẹ đi nhiệm vụ của các điểm đóng vòng ngoài của chúng ta" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 310).
Cùng lúc đó chúng biết được, nghĩa quân đang ráo riết xây dựng căn cứ Tân Hòa, nên chúng cho rằng:
“Các quan cầm đầu phong trào, đã dự kiến chính xác là một khi Thuộc Nhiêu bị chiếm lại thì vị trí này sẽ không bị chúng ta (tức Pháp) bỏ rơi nữa. Như thế, trong mục đích tạo cho cuộc nổi dậy một điểm tựa chắc chắn hơn, một trung tâm khó có thể tới được nên bọn ấy quyết định tập trung tại quận Tân Hòa mà quận lỵ là Gò Công và xây thành đắp lũy một cách đáng sợ" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn)
- Nhưng vì sự an toàn của vùng mà chúng gọi là “khu bốn công sự”, (vùng Thuộc Nhiêu Mỹ Quí) chúng thấy căn cứ Bình Cách (cách Mỹ Tho 20km, cách Thuộc Nhiêu gần 40km) là một sự đe dọa đáng ngại. Tháng 11-1862 chúng kéo quân tập kích căn cứ Bình Cách. Đích thân Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân nhanh chóng đánh bạt chúng ra, chúng tháo chạy. Nghĩa quân đuổi theo truy kích hai mươi tám (28) lính tập và mã tà bị bắt và bị giết (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn).
- Ngay sau đó để chuẩn bị cho cuộc tập kích địch, có sự phối hợp đồng bộ của nghĩa quân trên ba tỉnh, Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân kéo quân đến Giồng Cát thuộc tổng Nhị Bình phủ Kiến An (nay là Gò Lũy, xã Nhị Bình, huyện Châu Thành). Hai ông cho nghĩa quân xây đồn lũy và trú lại. Vị trí này cách Thuộc Nhiêu khoảng 10km, thuận lợi cho việc uy hiếp Thuộc Nhiêu của giặc.
Đúng vào đêm 17 rạng 18-12-1862 là thời điểm hợp đồng chiến đấu. Quân và dân khắp 3 tỉnh đồng loạt nổi dậy đánh địch khiến chúng hết sức hoang mang có cảm giác đây là một cuộc tổng khởi nghĩa và đã thú nhận:
“Kẻ cướp và quân khởi nghĩa ngày càng dạn dĩ, càng tấn công. Bao nhiêu việc xảy ra chứng tỏ rằng cuộc khởi nghĩa sắp nổ, người Pháp dè chừng, người ta hiểu mang máng rằng người Pháp bị bao vây trong một cái lưới âm mưu trong đó các giai cấp trong nhân dân đều tham dự chống lại chúng ta" (Chú thích: P. Vial. Sđd. Quyển 1. Tr. 191)
Nghĩa quân đồng loạt tấn công địch khắp nơi:
- Đánh đồn Rạch Tra (hay sông Tra): nằm trên đường bộ Sài Gòn Tây Ninh cách Sài Gòn 15km do 74 lính thủy đánh bộ và đại úy Thouronde trấn giữ. Gần sáng ngày 18-12-1862, 600 nghĩa quân bí mật leo vào thành giết lính canh chiếm đồn. Thouronde tử trận.
- Đánh đồn Long Thành: đêm 17 rạng 18-12-1862, 1.200 nghĩa quân Biên Hòa tấn công chiếm được đồn, Bonard vội vàng huy động lực lượng kéo đến phản công.
- Tập kích thuyền giặc ở Bến Lức, vây đồn Phước Hòa, cùng ngày nghĩa quân dưới quyền Nguyễn Trung Trực tấn công hai Lorcha (chiến thuyền nhỏ) đậu tại Bến Lức và bao vây đồn Phước Hòa, lính Pháp chống cự không lại, phải nhờ lính Tây Ban Nha đến cứu.
- Tập kích pháo thuyền Alarme: cùng đêm 17 rạng 18-12-1862, nghĩa quân Gò Công tập kích pháo thuyền Alarme và tấn công trận địa pháo của giặc trên bờ rạch Gò Công. Cùng lúc đó, 400 nghĩa quân tấn công các vị trí quan sát của giặc phía trước căn cứ Tân Hòa.
- Đánh đồn Rạch Kiến: ngày 18-12-1862, 2.000 nghĩa quân có trang bị 12 súng đại bác bắn đá tấn công đồn gây cho giặc thiệt hại nặng.
- Tấn công đồn Thuộc Nhiêu: do đại úy Taboulé với 50 quân trấn giữ. Võ Duy Dương tường thuật trận đánh, sơ lược như sau:
“Ngày 27 trong tháng (tức ngày 17-12-1862) quân Pháp mang quân tập kích các ông. Quân Pháp lại bại trận và tháo chạy bị quân các ông đuổi theo đến đồn Thuộc Nhiêu, cướp đồn và đốt cháy. Bọn Pháp trong đồn xông ra xáp trận. Thình lình một đám mưa to ập đến và đến tối, tất cả đều rút lui mỗi bên về một hướng”
Còn De Grammont mô tả cụ thể
hơn :
“Vụ nghiêm trọng nhứt là vụ 18 tháng chạp: 1.200 quân phản nghịch đã lao trong đêm vào đồn Thuộc Nhiêu đặt trong khu bốn công sự giữa Mỹ Tho và Cai Lậy. Đại úy Taboulé và phân đội của ông trong một lúc đã bị bao vây, cuộc hỗn chiến trở thành toàn bộ, nhưng vì chúng ta ít người nên nó nhanh chóng trở biến thành một trận xáp lá cà không ngang sức, trong đó 50 người của chúng ta tỏ ra có nghị lực đáng khâm phục, cho nằm dưới chân họ “217 tử thi?", trong khi đó các người bản xứ cuồng nhiệt một cách mù quáng chưa hề có đến giờ, hình như có nhận được lệnh rõ ràng phải đánh bật chúng ta ra khói Thuộc Nhiêu hoặc là chết dưới chân tường đồn" ...
Kết quả của cuộc nổi dậy đồng loạt này là ngày 18-12-1862 Bonard viết một báo cáo dài gởi về Pháp, trong đó có đoạn:
“Thật là đau đớn khi nghĩ đến bao nhiêu cố gắng qua nếu con người mà tôi đã thực hiện từ 15 tháng nay! Các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi và đồng loạt. Tôi bị đẩy vào thế tự vệ, không có phương tiện để tổ chức một quân đội, dù chỉ 200 người. Nếu tăng viện đến ngay, tôi hy vọng làm chủ được tình hình, nếu không đành bất lực" (Chú thích: Kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp; Kỷ yếu. Tập 28 Cao Huy Thuần sưu tầm - Dẫn lại Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước - Sđd.).
Những ngày tiếp theo đó, tình hình của chúng càng bi đát thêm. Ảnh hưởng của các cuộc tấn công trên làm cho bộ máy hành chính tay sai của chúng vừa mới thành lập rệu rã nhanh chóng, bọn tay sai rút vào công sở hoặc vào các đồn bót hay xuống tàu nằm, không dám đi đâu (Chú thích: Trần Văn Giàu - Sđd. tr. 156) Còn số khác sẵn sàng bắt tay với nghĩa quân âm thầm bí mật chống lại Pháp (Chú thích: Louvet - La Cochinchine religieuse - Dẫn lại - Đinh Xuân Lâm Sđd.).
Tình trạng thiếu hụt quân số ngày một trầm trọng:
“quân Pháp bị xé lẻ đến mức vô cùng trầm trọng. Ngay cả bọn xạ thủ cũng bị phân tán mỗi người một đồn, nhiều đồn không có pháo binh, chỉ có vài người chống giữ" (Chú thích: Poyen - Notice sur l'artillerie de la marine en Cochinchine Paris 1893. Dẫn lại Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước - Sđd. Tr. 145.).
Trong tình hình nguy khốn đó, Bonard cứu vãn bằng cách "quyết định yêu cầu sự trợ giúp gần nhất của người cầm đầu trạm hải quân của chúng ta tại Trung Quốc”. Đáp lời kêu gọi này, phó Đô Đốc Jaurès từ Thượng Hải đến với tiểu đoàn khinh binh Châu Phi, rồi lấy theo ông chiếc Semiramis và chiếc Renommée, ông đi tìm ở Manille “đại đội của lữ đoàn thứ 5 lính Tagal dưới quyền chỉ huy của Trung tá Moscoso" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 315)
Có thêm được số quân đáng kể, Bonard tiến hành một cuộc bình định mới vào đầu tháng hai 1863. Nắm được sự nhu nhược của triều đình Tự Đức và nhất là biết triều đình đang bận tâm tập trung binh lực đánh dẹp cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng ở Bắc kỳ mà chúng là đạo diễn. Bonard thúc ép triều đình gấp rút phê chuẩn hiệp ước 1862 và cấm dân chúng nổi dậy chống Pháp hầu đẩy nghĩa quân vào thế bất lợi.
Chúng biết tổng chỉ huy quân kháng chiến Trương Định đang đồn trú ở càn cứ Tân Hòa. Từ ngày 13-2 đến 24-2-1863 chúng tập trung binh lực chiếm được căn cứ, nhưng đổi lấy phần thiệt hại không nhỏ:
“Quân ta chết và bị thương ít nhưng bị bịnh thì nhiều vì phải lội qua đầm lầy dưới nắng gắt. Quân phiến loạn thiệt hại ít, vì họ tháo lui và ẩn trốn cẩn thận" (Chú thích: Mollographie de la province de Gò Công.)
Như vậy là cuộc hành binh kết thúc bằng thất bại hoàn toàn (Chú thích: Xem thêm Báo Văn Nghệ số 31, 32 (ngày 3-8 và 10-8-1980) Xta-nhiu-kê-vich – Ơ- Cô sanh-sin.)
Sau khi tấn công Thuộc Nhiêu, Võ Duy Dương kéo quân về Giồng Cát ở lại đó đến ngày 27-12-1862 rút về Bình Cách.
Ngày 5-1-1863 , bọn Pháp ở Mỹ Tho gom góp trong số quân thiếu hụt của chúng tấn công cái gai trước mắt chúng là căn cứ Bình Cách; nghĩa quân ráo riết chống trả, chúng rút lui; nghĩa quân đuổi theo pháo kích.
“Cuộc pháo kích suốt ngày. Dương kiểm tra lại thấy còn rất ít đạn dược, ông thấy không thể đủ để chống trả với cuộc tấn công mới. Vì thế ông rút quân về đồn Tân Thạnh trong tỉnh Gia Định. Nơi đây ông viết thư xin Quản Định chi viện đạn dược" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd)
“Vụ nghiêm trọng nhứt là vụ 18 tháng chạp: 1.200 quân phản nghịch đã lao trong đêm vào đồn Thuộc Nhiêu đặt trong khu bốn công sự giữa Mỹ Tho và Cai Lậy. Đại úy Taboulé và phân đội của ông trong một lúc đã bị bao vây, cuộc hỗn chiến trở thành toàn bộ, nhưng vì chúng ta ít người nên nó nhanh chóng trở biến thành một trận xáp lá cà không ngang sức, trong đó 50 người của chúng ta tỏ ra có nghị lực đáng khâm phục, cho nằm dưới chân họ “217 tử thi?", trong khi đó các người bản xứ cuồng nhiệt một cách mù quáng chưa hề có đến giờ, hình như có nhận được lệnh rõ ràng phải đánh bật chúng ta ra khói Thuộc Nhiêu hoặc là chết dưới chân tường đồn" ...
Kết quả của cuộc nổi dậy đồng loạt này là ngày 18-12-1862 Bonard viết một báo cáo dài gởi về Pháp, trong đó có đoạn:
“Thật là đau đớn khi nghĩ đến bao nhiêu cố gắng qua nếu con người mà tôi đã thực hiện từ 15 tháng nay! Các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi và đồng loạt. Tôi bị đẩy vào thế tự vệ, không có phương tiện để tổ chức một quân đội, dù chỉ 200 người. Nếu tăng viện đến ngay, tôi hy vọng làm chủ được tình hình, nếu không đành bất lực" (Chú thích: Kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp; Kỷ yếu. Tập 28 Cao Huy Thuần sưu tầm - Dẫn lại Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước - Sđd.).
Những ngày tiếp theo đó, tình hình của chúng càng bi đát thêm. Ảnh hưởng của các cuộc tấn công trên làm cho bộ máy hành chính tay sai của chúng vừa mới thành lập rệu rã nhanh chóng, bọn tay sai rút vào công sở hoặc vào các đồn bót hay xuống tàu nằm, không dám đi đâu (Chú thích: Trần Văn Giàu - Sđd. tr. 156) Còn số khác sẵn sàng bắt tay với nghĩa quân âm thầm bí mật chống lại Pháp (Chú thích: Louvet - La Cochinchine religieuse - Dẫn lại - Đinh Xuân Lâm Sđd.).
Tình trạng thiếu hụt quân số ngày một trầm trọng:
“quân Pháp bị xé lẻ đến mức vô cùng trầm trọng. Ngay cả bọn xạ thủ cũng bị phân tán mỗi người một đồn, nhiều đồn không có pháo binh, chỉ có vài người chống giữ" (Chú thích: Poyen - Notice sur l'artillerie de la marine en Cochinchine Paris 1893. Dẫn lại Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước - Sđd. Tr. 145.).
Trong tình hình nguy khốn đó, Bonard cứu vãn bằng cách "quyết định yêu cầu sự trợ giúp gần nhất của người cầm đầu trạm hải quân của chúng ta tại Trung Quốc”. Đáp lời kêu gọi này, phó Đô Đốc Jaurès từ Thượng Hải đến với tiểu đoàn khinh binh Châu Phi, rồi lấy theo ông chiếc Semiramis và chiếc Renommée, ông đi tìm ở Manille “đại đội của lữ đoàn thứ 5 lính Tagal dưới quyền chỉ huy của Trung tá Moscoso" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 315)
Có thêm được số quân đáng kể, Bonard tiến hành một cuộc bình định mới vào đầu tháng hai 1863. Nắm được sự nhu nhược của triều đình Tự Đức và nhất là biết triều đình đang bận tâm tập trung binh lực đánh dẹp cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng ở Bắc kỳ mà chúng là đạo diễn. Bonard thúc ép triều đình gấp rút phê chuẩn hiệp ước 1862 và cấm dân chúng nổi dậy chống Pháp hầu đẩy nghĩa quân vào thế bất lợi.
Chúng biết tổng chỉ huy quân kháng chiến Trương Định đang đồn trú ở càn cứ Tân Hòa. Từ ngày 13-2 đến 24-2-1863 chúng tập trung binh lực chiếm được căn cứ, nhưng đổi lấy phần thiệt hại không nhỏ:
“Quân ta chết và bị thương ít nhưng bị bịnh thì nhiều vì phải lội qua đầm lầy dưới nắng gắt. Quân phiến loạn thiệt hại ít, vì họ tháo lui và ẩn trốn cẩn thận" (Chú thích: Mollographie de la province de Gò Công.)
Như vậy là cuộc hành binh kết thúc bằng thất bại hoàn toàn (Chú thích: Xem thêm Báo Văn Nghệ số 31, 32 (ngày 3-8 và 10-8-1980) Xta-nhiu-kê-vich – Ơ- Cô sanh-sin.)
Sau khi tấn công Thuộc Nhiêu, Võ Duy Dương kéo quân về Giồng Cát ở lại đó đến ngày 27-12-1862 rút về Bình Cách.
Ngày 5-1-1863 , bọn Pháp ở Mỹ Tho gom góp trong số quân thiếu hụt của chúng tấn công cái gai trước mắt chúng là căn cứ Bình Cách; nghĩa quân ráo riết chống trả, chúng rút lui; nghĩa quân đuổi theo pháo kích.
“Cuộc pháo kích suốt ngày. Dương kiểm tra lại thấy còn rất ít đạn dược, ông thấy không thể đủ để chống trả với cuộc tấn công mới. Vì thế ông rút quân về đồn Tân Thạnh trong tỉnh Gia Định. Nơi đây ông viết thư xin Quản Định chi viện đạn dược" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd)
Do tình hình đó, từ tháng giêng
nghĩa quân không tổ chức được các cuộc tấn công. Lúc
ấy, tên chỉ huy quân sự ở Mỹ Tho là đại tá Ariès ra
thông báo treo giải thường để bắt các thủ lãnh nghĩa
quân. Không thấy cuộc tấn công nào diễn ra nữa, chúng
tưởng là thông báo của chúng có kết quả và cho rằng
đó là thời cơ để tấn công Tân Hòa.
“Từ tháng giêng, địa phận Mỹ Tho, không bị khuấy động nhờ biện pháp tuyệt vời của người cầm đầu quân sự, đại tá Ariès; như vậy đã đến lúc thuận lợi để tiến đánh những người ở Tân Hòa và dập tắt trung tâm cuối cùng của sự phản loạn của người An Nam" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 316)
Từ Tân Thạnh (Gia Định), ngày 11-1-1863, Võ Duy Dương đưa quân về đóng ở Giồng Cát (nay là Gò Lũy xã Nhị Bình, Cai Lậy). Bọn thực dân ở Mỹ Tho nghi ngờ ông sẽ tấn công Thuộc Nhiêu, nên ngày 13-1 chúng điều quân đến tấn công, cuộc kịch chiến kéo dài từ 3 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Pháp đưa quân đến tăng viện, ông phải rút lui cách đó 4 cây số (Chú thích: Chưa rõ địa điểm nào, có lẽ là vị trí Ấp Bắc ngày nay, phần đất tận cùng của xã Nhị Bình (Châu Thành) giáp Tân Phú (Cai Lậy)).
Ngày hôm sau, chúng kéo đến vị trí mới của nghĩa quân tiếp tục công kích, lần này chúng bị đánh bật ra và phải rút lui. Nhưng với ý đồ chia cắt lực lượng nghĩa quân không cho lực lượng Võ Duy Dương và Trương Định liên hệ được để ứng cứu cho nhau, chúng không lui quân về Mỹ Tho mà đóng đồn tại Giồng Phèn (cũng trong địa phận xã Điềm Hy, Châu Thành) để kìm chế nghĩa quân.
Cách một ngày sau (tức ngày 16-1-1863) chúng trở lại tập kích vào vị trí nghĩa quân lần nữa. Nghĩa quân chống trả quyết liệt từ 3 giờ sáng đến 7 giờ sáng bọn chúng bị đẩy lùi phải rút về Giồng Cát nhưng đến 3 giờ chiều lại quay trở lại tiếp tục tấn công. Võ Duy Dương lại phải chiến đấu trong tình trạng bị tấn công liên tục và vũ khí đạn dược ngày một kém đi nên đành bỏ vị trí rút về Bưng Môn (nay thuộc xã Tân Phú, Cai Lậy). Đây là một vùng bưng trấp sình lầy cây cỏ rập rạp, Võ Duy Dương cho đắp chiến lũy và trú đóng lại.
Lúc này bọn thực dân pháp có thêm viện binh và đang chuẩn bị tấn công qui mô vào căn cứ Tân Hòa của Trương Định, nên chúng càng quyết tâm phong tỏa lực lượng của Võ Duy Dương. Ngày 20-1 chúng tập trung một lực lượng lớn gồm một pháo thuyền với nhiều ghe chài và ghe bướm bằng nhiều ngã tiến vào bao vây đầm lầy Bưng Môn. Để bảo toàn lực lượng Võ Duy Dương ra lệnh nhổ đồn bí mật lui quân trong đêm tối và kéo về huyện Kiến Đăng.
Xét thấy vùng Giai Mỹ nằm trên bờ kinh Cây Gáo có vị trí quan trọng có thể rút vào Đồng Tháp Mười, ông cho nghĩa quân dừng lại xây đồn đắp lũy ở Xoài Tư (nay thuộc vùng Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc (Cai Lậy giáp Hậu Mỹ Bắc. Hậu Mỹ Trinh thuộc huyện Cái Bè).
Tình hình nghĩa quân Võ Duy Dương ngày một xấu đi, luôn ở trong tình trạng bị cô lập, mọi sự tiếp tế lương thực, vũ khí hết sức khó khăn, nhưng với quyết tâm chống giặc giữ nước, nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của ông và Nguyễn Hữu Huân không hề có biểu hiệu dao động.
Sau khi đánh dẹp được căn cứ Tân Hòa của Trương Định, trong vòng không đầy một tháng từ ngày 30-3 đến 20-4-1863, bọn thực dân ở Mỹ Tho đã ba lần tập trung quân quyết lòng bình định khu vực Xoài Tư.
“ngày 23 trong tháng (tức 20-4-1863) quân Pháp lại tấn công lần thứ 3. Ông Dương thấy mình không thể chống giữ lâu hơn, ra lệnh cho các Trung đoàn và các lính đồn trú bỏ vị trí này và rút vào bưng biền" (Chú thích: Gustave Janneau. T1 đd.).
Tình trạng bất lợi ngày một gia tăng. Quân Pháp đã cắt đứt các đường giao thông thủy, bộ. Mọi sự tiếp tế càng ngày trở thành vấn đề cấp bách nhứt là lương thực, một mặt do nông dân bị mất mùa năm 1863 do hạn hán, một mặt bị phong tỏa và bọn tay sai đã bắt đầu hoạt động lại, thêm vào đó bọn thực dân Pháp sâu hiểm tung tiền cho nông dân vay không lấy lãi để làm mùa tới hầu mua chuộc họ. Và để cô lập phong trào kháng chiến của nhân dân ta nên vào tháng 4-1863, Pháp cử đại diện sang Oudong gặp vua Cao Miên, Norodom I đặt quan hệ ngoại giao với nước này nhằm thu hẹp địa bàn hoạt động và cô lập phong trào kháng chiến của nhân dân ta.
“Từ tháng giêng, địa phận Mỹ Tho, không bị khuấy động nhờ biện pháp tuyệt vời của người cầm đầu quân sự, đại tá Ariès; như vậy đã đến lúc thuận lợi để tiến đánh những người ở Tân Hòa và dập tắt trung tâm cuối cùng của sự phản loạn của người An Nam" (Chú thích: De Grammont (L) Sđd. tr. 316)
Từ Tân Thạnh (Gia Định), ngày 11-1-1863, Võ Duy Dương đưa quân về đóng ở Giồng Cát (nay là Gò Lũy xã Nhị Bình, Cai Lậy). Bọn thực dân ở Mỹ Tho nghi ngờ ông sẽ tấn công Thuộc Nhiêu, nên ngày 13-1 chúng điều quân đến tấn công, cuộc kịch chiến kéo dài từ 3 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Pháp đưa quân đến tăng viện, ông phải rút lui cách đó 4 cây số (Chú thích: Chưa rõ địa điểm nào, có lẽ là vị trí Ấp Bắc ngày nay, phần đất tận cùng của xã Nhị Bình (Châu Thành) giáp Tân Phú (Cai Lậy)).
Ngày hôm sau, chúng kéo đến vị trí mới của nghĩa quân tiếp tục công kích, lần này chúng bị đánh bật ra và phải rút lui. Nhưng với ý đồ chia cắt lực lượng nghĩa quân không cho lực lượng Võ Duy Dương và Trương Định liên hệ được để ứng cứu cho nhau, chúng không lui quân về Mỹ Tho mà đóng đồn tại Giồng Phèn (cũng trong địa phận xã Điềm Hy, Châu Thành) để kìm chế nghĩa quân.
Cách một ngày sau (tức ngày 16-1-1863) chúng trở lại tập kích vào vị trí nghĩa quân lần nữa. Nghĩa quân chống trả quyết liệt từ 3 giờ sáng đến 7 giờ sáng bọn chúng bị đẩy lùi phải rút về Giồng Cát nhưng đến 3 giờ chiều lại quay trở lại tiếp tục tấn công. Võ Duy Dương lại phải chiến đấu trong tình trạng bị tấn công liên tục và vũ khí đạn dược ngày một kém đi nên đành bỏ vị trí rút về Bưng Môn (nay thuộc xã Tân Phú, Cai Lậy). Đây là một vùng bưng trấp sình lầy cây cỏ rập rạp, Võ Duy Dương cho đắp chiến lũy và trú đóng lại.
Lúc này bọn thực dân pháp có thêm viện binh và đang chuẩn bị tấn công qui mô vào căn cứ Tân Hòa của Trương Định, nên chúng càng quyết tâm phong tỏa lực lượng của Võ Duy Dương. Ngày 20-1 chúng tập trung một lực lượng lớn gồm một pháo thuyền với nhiều ghe chài và ghe bướm bằng nhiều ngã tiến vào bao vây đầm lầy Bưng Môn. Để bảo toàn lực lượng Võ Duy Dương ra lệnh nhổ đồn bí mật lui quân trong đêm tối và kéo về huyện Kiến Đăng.
Xét thấy vùng Giai Mỹ nằm trên bờ kinh Cây Gáo có vị trí quan trọng có thể rút vào Đồng Tháp Mười, ông cho nghĩa quân dừng lại xây đồn đắp lũy ở Xoài Tư (nay thuộc vùng Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc (Cai Lậy giáp Hậu Mỹ Bắc. Hậu Mỹ Trinh thuộc huyện Cái Bè).
Tình hình nghĩa quân Võ Duy Dương ngày một xấu đi, luôn ở trong tình trạng bị cô lập, mọi sự tiếp tế lương thực, vũ khí hết sức khó khăn, nhưng với quyết tâm chống giặc giữ nước, nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của ông và Nguyễn Hữu Huân không hề có biểu hiệu dao động.
Sau khi đánh dẹp được căn cứ Tân Hòa của Trương Định, trong vòng không đầy một tháng từ ngày 30-3 đến 20-4-1863, bọn thực dân ở Mỹ Tho đã ba lần tập trung quân quyết lòng bình định khu vực Xoài Tư.
“ngày 23 trong tháng (tức 20-4-1863) quân Pháp lại tấn công lần thứ 3. Ông Dương thấy mình không thể chống giữ lâu hơn, ra lệnh cho các Trung đoàn và các lính đồn trú bỏ vị trí này và rút vào bưng biền" (Chú thích: Gustave Janneau. T1 đd.).
Tình trạng bất lợi ngày một gia tăng. Quân Pháp đã cắt đứt các đường giao thông thủy, bộ. Mọi sự tiếp tế càng ngày trở thành vấn đề cấp bách nhứt là lương thực, một mặt do nông dân bị mất mùa năm 1863 do hạn hán, một mặt bị phong tỏa và bọn tay sai đã bắt đầu hoạt động lại, thêm vào đó bọn thực dân Pháp sâu hiểm tung tiền cho nông dân vay không lấy lãi để làm mùa tới hầu mua chuộc họ. Và để cô lập phong trào kháng chiến của nhân dân ta nên vào tháng 4-1863, Pháp cử đại diện sang Oudong gặp vua Cao Miên, Norodom I đặt quan hệ ngoại giao với nước này nhằm thu hẹp địa bàn hoạt động và cô lập phong trào kháng chiến của nhân dân ta.
Xuất phát từ tình hình khó khăn
đó, Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân có một kế hoạch
nhằm bảo tồn lực lượng để chiến đấu lâu dài.
- Về mặt quân số: ông chia nghĩa quân làm từng toán nhỏ rút về các làng riêng của họ, như vậy vừa bảo đảm được quân số vừa giải quyết được một phần lương thực.
- Về mặt tài chánh: ông cử người tiến hành một cuộc lạc quyên tiền đúc bằng bạc trên khắp các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
- Về mặt cung cấp vũ khí: cử người đi Rạch Giá, Cà Mau (thuộc Hà Tiên) liên lạc với Hoa Kiều để mua súng đạn.
Ông cử Phó Đề đốc Nguyễn Hữu Huân cùng với 20 người bí mật sang Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên vừa làm công việc lạc quyên vừa mua súng đạn. Riêng phần ông chỉ giữ lại 100 nghĩa quân. Với quân số này ông tiến hành các cuộc hành quân lưu động gọn nhẹ qua các làng mạc có nghĩa quân sơ tán để củng cố tổ chức, duy trì tinh thần chiến đấu, bổ sung quân số và vận động nhân dân tham gia ủng hộ kháng chiến. .
Kế hoạch trên được thực hiện vào tháng 6-1863 nghĩa là cùng lúc với sứ Bộ Phan Thanh Giản đi Pháp để chuộc ba tỉnh miền Đông. Võ Duy Dương không những lưu động trong tỉnh Định Tường mà còn sang các tỉnh An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên, ông nay nơi này, mai nơi khác; thực dân Pháp tiến hành nhiều cuộc lục soát, nhưng không bắt được ông: “bản thân ông là đối tượng của bao nhiêu cuộc lục soát trong tỉnh Vĩnh Long và An Hà" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn.). .
Về phần Nguyễn Hữu Huân, sau gần một năm hoạt động, kết quả tương đối khả quan, do sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhân dân ba tỉnh miền Tây nên ông quyên được nhiều tiền bạc, mua được một số vũ khí đem về tàng trữ ở Châu Đốc. Ngoài ra Nguyễn Hữu Huân còn liên lạc được với Ácha Xoa (Thạch Bướm) người Khơmer yêu nước cũng đang chiêu mộ nghĩa dõng chống Pháp, hai bên đã liên kết nhau cùng chống kẻ thù chung. Trong “Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân " tiểu truyện có chép: .
"Tháng Giêng năm Giáp Tý, Tây lịch 1864, hai người hội họp, chiêu dụ nghĩa binh, được tên Thạch Bướm người Chân Lạp, có phép thuật, bèn tập hợp các đạo quân dũng cảm quyết chiến, lại dựng cờ nghĩa mưu đồ khởi sự.”.
Nhưng do một số quan lại trung quân một cách mù quáng, chấp hành việc thi hành hiệp ước 1862 theo lệnh Tự Đức một cách máy móc, thiếu sáng suốt để nhận rõ tình hình phức tạp của đất nước lúc này để có một hành động thỏa đáng, đã bắt giam thủ khoa Nguyễn Hữu Huân ở Châu Đốc.
“năm Tự Đức thứ 17 tháng 4 (tức tháng 5-1864), ông Phó Đề đốc bị bắt làm tù binh ở An Giang, bao nhiêu súng đạn, tiền bạc quyên góp được đều lọt vào tay kẻ thù" (Chú thích: Gustave Janneau, tài liệu đã dẫn.).
Được tin Nguyễn Hữu Huân bị giam ở Châu Đốc, tháng 7-1864 De Lagrandière (Chú thích: Sang thay cho Bonard từ ngày 23-4-1863) phái ngay Doudart de Tagrée đem 500 quân và đại bác từ Oudong (Cao Miên) xuống Châu Đốc buộc tỉnh thần địa phương phải nộp Nguyễn Hữu Huân cho chúng trong vòng hai giờ, nếu không chúng sẽ triệt hạ thành Châu Đốc.
Trước áp lực quân sự của thực dân Pháp, tổng đốc An Giang Phan Khắc Thận không còn cách nào khác đành giao Nguyễn Hữu Huân cho giặc.
Tưởng không có gì phẫn uất căm giận hơn! Công lao bôn ba gây dựng hàng năm trời bỗng chốc tiêu tán vì hành động của bọn người hèn nhát. Người bạn chiến đấu thân thiết lại một lần nữa rơi vào cảnh cá chậu chim lồng.
Trong tình trạng đó, Kinh phái Nguyễn Tánh thay mặt triều đình đến hội kiến với Võ Duy Dương và theo thánh chỉ của Tự Đức, Nguyễn Tánh khuyên ông nên hội quân với Trương Định để giải giáp.
“Trong những điều kiện như thế ông bày tỏ với sứ giả nhà vua là ông sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn náu chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng ông luôn luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn)
Sau đó, (tháng 8-1864) Võ Duy Dương cùng 30 nghĩa quân lên đường trở lại Xoài Tư Rạch Ruộng (khu vực giáp ranh hai huyện Cái Bè, Cai Lậy hiện nay) với quyết tâm xây dựng lại lực lượng nghĩa quân để bắt đầu giai đoạn mới cho cuộc chiến đấu.
- Về mặt quân số: ông chia nghĩa quân làm từng toán nhỏ rút về các làng riêng của họ, như vậy vừa bảo đảm được quân số vừa giải quyết được một phần lương thực.
- Về mặt tài chánh: ông cử người tiến hành một cuộc lạc quyên tiền đúc bằng bạc trên khắp các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
- Về mặt cung cấp vũ khí: cử người đi Rạch Giá, Cà Mau (thuộc Hà Tiên) liên lạc với Hoa Kiều để mua súng đạn.
Ông cử Phó Đề đốc Nguyễn Hữu Huân cùng với 20 người bí mật sang Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên vừa làm công việc lạc quyên vừa mua súng đạn. Riêng phần ông chỉ giữ lại 100 nghĩa quân. Với quân số này ông tiến hành các cuộc hành quân lưu động gọn nhẹ qua các làng mạc có nghĩa quân sơ tán để củng cố tổ chức, duy trì tinh thần chiến đấu, bổ sung quân số và vận động nhân dân tham gia ủng hộ kháng chiến. .
Kế hoạch trên được thực hiện vào tháng 6-1863 nghĩa là cùng lúc với sứ Bộ Phan Thanh Giản đi Pháp để chuộc ba tỉnh miền Đông. Võ Duy Dương không những lưu động trong tỉnh Định Tường mà còn sang các tỉnh An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên, ông nay nơi này, mai nơi khác; thực dân Pháp tiến hành nhiều cuộc lục soát, nhưng không bắt được ông: “bản thân ông là đối tượng của bao nhiêu cuộc lục soát trong tỉnh Vĩnh Long và An Hà" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn.). .
Về phần Nguyễn Hữu Huân, sau gần một năm hoạt động, kết quả tương đối khả quan, do sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhân dân ba tỉnh miền Tây nên ông quyên được nhiều tiền bạc, mua được một số vũ khí đem về tàng trữ ở Châu Đốc. Ngoài ra Nguyễn Hữu Huân còn liên lạc được với Ácha Xoa (Thạch Bướm) người Khơmer yêu nước cũng đang chiêu mộ nghĩa dõng chống Pháp, hai bên đã liên kết nhau cùng chống kẻ thù chung. Trong “Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân " tiểu truyện có chép: .
"Tháng Giêng năm Giáp Tý, Tây lịch 1864, hai người hội họp, chiêu dụ nghĩa binh, được tên Thạch Bướm người Chân Lạp, có phép thuật, bèn tập hợp các đạo quân dũng cảm quyết chiến, lại dựng cờ nghĩa mưu đồ khởi sự.”.
Nhưng do một số quan lại trung quân một cách mù quáng, chấp hành việc thi hành hiệp ước 1862 theo lệnh Tự Đức một cách máy móc, thiếu sáng suốt để nhận rõ tình hình phức tạp của đất nước lúc này để có một hành động thỏa đáng, đã bắt giam thủ khoa Nguyễn Hữu Huân ở Châu Đốc.
“năm Tự Đức thứ 17 tháng 4 (tức tháng 5-1864), ông Phó Đề đốc bị bắt làm tù binh ở An Giang, bao nhiêu súng đạn, tiền bạc quyên góp được đều lọt vào tay kẻ thù" (Chú thích: Gustave Janneau, tài liệu đã dẫn.).
Được tin Nguyễn Hữu Huân bị giam ở Châu Đốc, tháng 7-1864 De Lagrandière (Chú thích: Sang thay cho Bonard từ ngày 23-4-1863) phái ngay Doudart de Tagrée đem 500 quân và đại bác từ Oudong (Cao Miên) xuống Châu Đốc buộc tỉnh thần địa phương phải nộp Nguyễn Hữu Huân cho chúng trong vòng hai giờ, nếu không chúng sẽ triệt hạ thành Châu Đốc.
Trước áp lực quân sự của thực dân Pháp, tổng đốc An Giang Phan Khắc Thận không còn cách nào khác đành giao Nguyễn Hữu Huân cho giặc.
Tưởng không có gì phẫn uất căm giận hơn! Công lao bôn ba gây dựng hàng năm trời bỗng chốc tiêu tán vì hành động của bọn người hèn nhát. Người bạn chiến đấu thân thiết lại một lần nữa rơi vào cảnh cá chậu chim lồng.
Trong tình trạng đó, Kinh phái Nguyễn Tánh thay mặt triều đình đến hội kiến với Võ Duy Dương và theo thánh chỉ của Tự Đức, Nguyễn Tánh khuyên ông nên hội quân với Trương Định để giải giáp.
“Trong những điều kiện như thế ông bày tỏ với sứ giả nhà vua là ông sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn náu chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng ông luôn luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân” (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đã dẫn)
Sau đó, (tháng 8-1864) Võ Duy Dương cùng 30 nghĩa quân lên đường trở lại Xoài Tư Rạch Ruộng (khu vực giáp ranh hai huyện Cái Bè, Cai Lậy hiện nay) với quyết tâm xây dựng lại lực lượng nghĩa quân để bắt đầu giai đoạn mới cho cuộc chiến đấu.
B.- ĐỒNG THÁP MƯỜI, TRUNG TÂM
KHÁNG CHIẾN NAM KỲ (1864 - 1866)
I. Vài nét vế thiên nhiên Đồng Tháp Mười.
Về tên gọi Đồng Tháp Mười có nhiều giả thuyết khác nhau. Hiện nay các nhà nghiên cứu ghi nhận: vùng này có ngôi tháp thứ 10 trong số ước chừng 102 tháp bằng đá do Vua Jayavarman VII (1181 - 1218) xây cất trên khắp lãnh thổ Chân Lạp để thờ vị thần Bà La Môn Lockecvara là vị thần chuyên trị bệnh cho nhân loại. Bên cạnh có bệnh viện điều trị và chăm sóc sức khỏe cho dân chúng.
Như vậy tên gọi Đồng Tháp Mười đã có từ trước, nhưng khi Thiên Hộ Dương về đây lập căn cứ đánh Pháp và đặt Đại bản doanh tại Gò Tháp thì tên gọi đó trở thành phổ biến.
Đồng Tháp Mười đồng nghĩa với vùng "đất bưng" từng được gọi là "tràng", “trạch" hay "pha trạch" thuộc địa phận Định Tường. Đồng Tháp Mười, theo các nhà địa lý học, trải rộng từ tả ngạn sông Tiền đến hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông. Phía Bắc lên tới Preyveng (Campuchia), phía Nam giới hạn bởi quốc lộ 1 (quốc lộ 4 cũ) diện tích gần 1 triệu héc ta .
Nếu tính theo phương diện thủy học và phạm vi hoạt động thực tế của nghĩa quân Thiên Hộ Dương thì Đồng Tháp Mười lùi lại ở hữu ngạn sông vàm Cỏ Tây.
Xưa kia, Đồng Tháp Mười là một vịnh biển, sau những đợt vận động tân kiến tạo vào kỷ đệ tứ (ère quaternaire) đáy biển được đội lên cao biến thành một vũng nông được phù sa sông Cửu Long và sông Vàm Cỏ bồi đắp dần, tạo thành một đầm lầy như cái lồng chảo khổng lồ xác thực vật, động vật trầm tích, đất nhiễm chua phèn nặng (có nơi độ Ph = 2) thích hợp cho các loại: tràm, cà dâm, sen, súng, năn lác, bàng, đế, sậy, lau vôi, nga, cỏ mồm, lúa trời... mọc bạt ngàn. Cũng là nơi cư trú của hàng trăm loài động vật khác nhau: trăn, rắn, rùa, cá, chim, chuột, ong, muỗi, đỉa, vắt. Đây đó trong Đồng Tháp Mười nổi lên những gò, giồng là thềm phù sa cố kéo dài hoặc là những cồn sát ven bờ hình thành do những dòng nước cuộn trước kia như: Giồng Sa Rài; Giồng Găng, gò Cỏ ông, gò Lau Vôi, gò Cà Dâm, gò Thốt Nốt; Giồng (Động Cát), Giồng Tháp (Gò Tháp) ở tỉnh Đồng Tháp; gò Thành, gò Gòn, gò Bắc Chiêng, gò Trấp ky, gò ông Hạp, gò Giồng Dung, gò Bãi Liếp ở tỉnh Long An; gò Đế (chùa Trương Tháp Cai Lậy, Tiền Giang v.v...)
Hằng năm cứ đến mùa mưa (tháng 6 âm lịch) là cả một vùng bao la bị dìm trong biển nước. Các con lung, bưng, trấp vẽ lên những đường nước ngoằn ngoèo như những mạch máu. Cuối tháng 10 âm lịch, nước rút dần, cây cỏ mục ủng làm nước thối đen. Chỉ còn những chiếc giếng khơi trên các gò, giồng là tạm uống được.
Mùa khô, cuối mùa nắng mà còn những chỗ sình sụp lún từ đầu gối đến ngực. Tại Tràm Sình (Sình Lớn và Sình Nhỏ) rúng của nó rộng cả chục mẫu (chưa kể viền chung quanh), người, trâu, đi qua không được. Nhiều cá sấu ẩn nấp ở đây.
Muốn đi bộ phải len lỏi theo các vệt lau sậy, hoặc băng qua rừng tràm hàng chục cây số. Trên thì ong, muỗi, bù mắt vần vũ lấy tay mà vuốt, dưới thì đỉa vắt, lại thêm rắn độc lễnh nghễnh...
Nắng như thiêu như đốt, mùi sình bùn, cỏ ải xông lên nồng nặc, hôi thối, không khí oi bức đến nghẹt thở. Người không quen sẽ bải hoải, kiệt sức ngay.
Thật là một cánh đồng hoang dã, rậm rạp, nắng cả mưa nhiều, bùn lầy nước đọng quanh năm và có nhiều thú dữ... Trong ký ức các cụ già 70-80 tuổi sống trong Đồng Tháp Mười còn nhớ những mẩu chuyện ông bà mình là lớp người đầu tiên vào đây chiến đấu với voi, hổ, heo rừng, sấu, muỗi mòng, đỉa vắt, rắn độc, trăn khỉ...
Đồng Tháp Mười, nơi thiên nhiên vừa ưu đãi đồng thời lại vô cùng khắc nghiệt.
Từ phía sông Tiền bọc qua Vàm Cỏ Tây dày đặc sông rạch lớn nhỏ là một hệ thống thoát nước cho Đồng Tháp Mười cũng là những thủy đạo tự nhiên. Đáng kể là: rạch Đốc Vàng Thượng, Đốc Vàng Hạ, Phong Mỹ, Cần Lố, Rạch Ruộng, Cái Thia, Trà Lọt, Cái Bè, Ba Rài, Rạch Chanh, Cá Rô, Bắc Chang.
Các con sông này có nhiều nhánh luồn sâu vào nội địa chừng 10 cây số ngọn nhỏ dần rồi trở thành những con lung tự nhiên chi chít khắp Đồng Tháp Mười và lượn quanh sườn các gò nổng.
I. Vài nét vế thiên nhiên Đồng Tháp Mười.
Về tên gọi Đồng Tháp Mười có nhiều giả thuyết khác nhau. Hiện nay các nhà nghiên cứu ghi nhận: vùng này có ngôi tháp thứ 10 trong số ước chừng 102 tháp bằng đá do Vua Jayavarman VII (1181 - 1218) xây cất trên khắp lãnh thổ Chân Lạp để thờ vị thần Bà La Môn Lockecvara là vị thần chuyên trị bệnh cho nhân loại. Bên cạnh có bệnh viện điều trị và chăm sóc sức khỏe cho dân chúng.
Như vậy tên gọi Đồng Tháp Mười đã có từ trước, nhưng khi Thiên Hộ Dương về đây lập căn cứ đánh Pháp và đặt Đại bản doanh tại Gò Tháp thì tên gọi đó trở thành phổ biến.
Đồng Tháp Mười đồng nghĩa với vùng "đất bưng" từng được gọi là "tràng", “trạch" hay "pha trạch" thuộc địa phận Định Tường. Đồng Tháp Mười, theo các nhà địa lý học, trải rộng từ tả ngạn sông Tiền đến hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông. Phía Bắc lên tới Preyveng (Campuchia), phía Nam giới hạn bởi quốc lộ 1 (quốc lộ 4 cũ) diện tích gần 1 triệu héc ta .
Nếu tính theo phương diện thủy học và phạm vi hoạt động thực tế của nghĩa quân Thiên Hộ Dương thì Đồng Tháp Mười lùi lại ở hữu ngạn sông vàm Cỏ Tây.
Xưa kia, Đồng Tháp Mười là một vịnh biển, sau những đợt vận động tân kiến tạo vào kỷ đệ tứ (ère quaternaire) đáy biển được đội lên cao biến thành một vũng nông được phù sa sông Cửu Long và sông Vàm Cỏ bồi đắp dần, tạo thành một đầm lầy như cái lồng chảo khổng lồ xác thực vật, động vật trầm tích, đất nhiễm chua phèn nặng (có nơi độ Ph = 2) thích hợp cho các loại: tràm, cà dâm, sen, súng, năn lác, bàng, đế, sậy, lau vôi, nga, cỏ mồm, lúa trời... mọc bạt ngàn. Cũng là nơi cư trú của hàng trăm loài động vật khác nhau: trăn, rắn, rùa, cá, chim, chuột, ong, muỗi, đỉa, vắt. Đây đó trong Đồng Tháp Mười nổi lên những gò, giồng là thềm phù sa cố kéo dài hoặc là những cồn sát ven bờ hình thành do những dòng nước cuộn trước kia như: Giồng Sa Rài; Giồng Găng, gò Cỏ ông, gò Lau Vôi, gò Cà Dâm, gò Thốt Nốt; Giồng (Động Cát), Giồng Tháp (Gò Tháp) ở tỉnh Đồng Tháp; gò Thành, gò Gòn, gò Bắc Chiêng, gò Trấp ky, gò ông Hạp, gò Giồng Dung, gò Bãi Liếp ở tỉnh Long An; gò Đế (chùa Trương Tháp Cai Lậy, Tiền Giang v.v...)
Hằng năm cứ đến mùa mưa (tháng 6 âm lịch) là cả một vùng bao la bị dìm trong biển nước. Các con lung, bưng, trấp vẽ lên những đường nước ngoằn ngoèo như những mạch máu. Cuối tháng 10 âm lịch, nước rút dần, cây cỏ mục ủng làm nước thối đen. Chỉ còn những chiếc giếng khơi trên các gò, giồng là tạm uống được.
Mùa khô, cuối mùa nắng mà còn những chỗ sình sụp lún từ đầu gối đến ngực. Tại Tràm Sình (Sình Lớn và Sình Nhỏ) rúng của nó rộng cả chục mẫu (chưa kể viền chung quanh), người, trâu, đi qua không được. Nhiều cá sấu ẩn nấp ở đây.
Muốn đi bộ phải len lỏi theo các vệt lau sậy, hoặc băng qua rừng tràm hàng chục cây số. Trên thì ong, muỗi, bù mắt vần vũ lấy tay mà vuốt, dưới thì đỉa vắt, lại thêm rắn độc lễnh nghễnh...
Nắng như thiêu như đốt, mùi sình bùn, cỏ ải xông lên nồng nặc, hôi thối, không khí oi bức đến nghẹt thở. Người không quen sẽ bải hoải, kiệt sức ngay.
Thật là một cánh đồng hoang dã, rậm rạp, nắng cả mưa nhiều, bùn lầy nước đọng quanh năm và có nhiều thú dữ... Trong ký ức các cụ già 70-80 tuổi sống trong Đồng Tháp Mười còn nhớ những mẩu chuyện ông bà mình là lớp người đầu tiên vào đây chiến đấu với voi, hổ, heo rừng, sấu, muỗi mòng, đỉa vắt, rắn độc, trăn khỉ...
Đồng Tháp Mười, nơi thiên nhiên vừa ưu đãi đồng thời lại vô cùng khắc nghiệt.
Từ phía sông Tiền bọc qua Vàm Cỏ Tây dày đặc sông rạch lớn nhỏ là một hệ thống thoát nước cho Đồng Tháp Mười cũng là những thủy đạo tự nhiên. Đáng kể là: rạch Đốc Vàng Thượng, Đốc Vàng Hạ, Phong Mỹ, Cần Lố, Rạch Ruộng, Cái Thia, Trà Lọt, Cái Bè, Ba Rài, Rạch Chanh, Cá Rô, Bắc Chang.
Các con sông này có nhiều nhánh luồn sâu vào nội địa chừng 10 cây số ngọn nhỏ dần rồi trở thành những con lung tự nhiên chi chít khắp Đồng Tháp Mười và lượn quanh sườn các gò nổng.
Nếu lấy Gò Tháp (Chú thích; Gò
Tháp hiện nay thuộc ấp 4, xã Tân Kiền, huyện Tháp Mười,
tỉnh Đồng Tháp.) làm trung tâm, thì:
- Phía Đông Nam có Bưng Sen, lung Chuối Nước, lung Bông, trấp Bồn Bồn, trấp Cá Bông nối tiếp từ Hàm Vồ đến Phụng Thớt... cặp sát mé sườn Gò Tháp.
- Phía Tây Nam: Sông cần Lố, Doi Me vào Đô Sơn, ngọn Ba Sao, Láng Cò, lung Kiến Vàng, Sình Tranh (Bàu Tiên - Động Cát) Sình Dỗ, Sình Dứt (Gò Tháp).
Ngoài ra còn có trấp 20, Bưng Rồng, Sình Tranh, Sình Mướp...
- Phía Tây Bắc; có lung Bông và bưng Sấu Hì bắt đầu từ Sình Dực, Sình Dỗ ở Gò Tháp nối liền lên Trấp Suông, Sình Tròn, Sình Lớn, Rộc Năn, láng Tả Mơn ra Tân Thành, Cái Cái...
Một nhánh khác từ Tràm Sình (Sình Lớn - Sình Nhỏ) lên lung Bông, gò Cỏ ống, Tràm Chim, Giồng Găng, Sa Rài...
- Phía Đông Bắc có lung Bàu Chứa, trấp Rùng Rình, Láng Sen, Rộc Tượng kéo dài đến Gò Tháp.
Nghĩa quân dựa vào các lung, trấp trên đây để vận chuyển vũ khí: lương thực bằng ghe xuồng, lĩa trâu, cộ trâu (Chú thích: Lĩa trâu: xuồng hoặc ghe, trước mũi được cặp thêm 2 cây tre nối lên ách trâu, kéo theo đường lung hoặc chỗ nước sâu. - Cộ trâu: cũng như lĩa trâu. nhưng chiếc xuồng được thay bằng chiếc cộ tre, 2 cây đà dưới bình cong để trâu kéo lướt trên đồng cạn hoặc chỗ khô ráo.) vào tận căn cứ hoặc ban đêm tập kích các đồn bót giặc. Ba con đường chính còn gọi là “đường gạo" từ ngoài vào Đại bản doanh Gò Tháp là:
ĐƯỜNG CÁI NỨA: hướng Đông Nam)
Chạy từ ngã năm Phú Nhuận (xã Mỹ Thành Nam - Cai Lậy) theo rạch Cây Gáo đến Xoài Tư (xã Mỹ Thành Bắc) hướng Quan Cư (xã Hậu Mỹ-Cái Bè) lên Gò Tháp.
Đoạn từ kinh 9 qua kinh 8, cách chùa Thủ Tọa Đầy chừng 100 mét, có một con đường lươn. Đường lươn lớn rộng chừng 4 mét chạy lên Quan Cư (kinh số 8). Đường lươn nhỏ chạy ngang trước chùa Thủ Tọa Đầy đi về. phía ngọn Rạch Ruộng (kinh Nguyễn Văn Tiếp B).
Song song phía Bắc Kinh III (xã Tân Kiều, Tháp Mười - còn có 1 đường gạo rộng gần 10 mét, trũng sâu chừng 5 tấc tạo thành 1 vệt thẳng hun hút vào trong các đám tràm. Khúc đường gạo này còn gọi là Lung Voi, nhân dân quanh vùng đào được nhiều xương voi, răng voi ở đây.
ĐƯỜNG CẦN LỐ (hướng Tây Nam) .
Dấu vết không còn nữa, nhưng tên gọi Đường Thét (Chú thích: Đường Thét: Thét tức là rạch một đường thẳng, băng tắt ngang. “Đầm sen, bãi sậy, rừng tràm, Kinh dài thét đất, lúa xanh rợp trời") còn gợi lên 1 con đường thẳng nối ngọn Trà Bông (đường gỗ) đến Bàu Tiên - Động Cát. Từ đây vào Gò Tháp các con lung còn hiện rõ.
Ở khoảng giữa Giồng Dung- Gò Tháp, cách Gò Tháp 4km, tại xã Hậu Thạnh Đông (Tân Thạnh, Long An) có một con rộc mang tên Rộc Đìa Gừa hay Rộc Đìa Gạo rộng chừng 20m một đầu hướng về Giồng Dung - Mộc Hóa. Đầu kia hướng về Gò Tháp và tiếp giáp các lung, trấp khác về phía Cai Lậy. Tận Vĩnh Hưng còn những địa danh đường Tượng, đường Gạo, Gò Thành, Gò Gạch, Vàm Đồn... .
Cách thị trấn Kiến Bình 2km về phía Nam (tức phía Cai Lậy) có 1 vệt đường Gạo (rộng chừng 2m, sâu 4-5 tấc) hướng về Gò Tháp. Nếu tính chỗ ngọn Bắc Đông (cắt kinh 12) tới Gò Tháp chừng 30km.
Có những con đường tự nhiên chạy ngoằn ngoèo, bất tiện, nghĩa quân đã nhắm hướng đi tắt, hoặc mở thêm đường mới khi bị Pháp đóng đồn ngăn chặn như chỗ Vàm Bà Bầy. Ngoài ra còn có đường Gỗ (rạch Trà Bông-Cao Lãnh) dùng vận chuyển gỗ.
Như vậy, từ trung tâm Đồng Tháp Mười, nghĩa quân có thể đi lại dễ dàng giữa các đồn chính và các đồn phụ, có thể tiếp xúc với các cửa ngõ: Mộc Hóa, Long An, Cai Lậy, Cái Bè, Cao Lãnh, Hồng Ngự, và liên lạc xa hơn nữa với các miền An Giang, Hà Tiên, Rạch Giá, Preyveng... Ngược lại kẻ lạ không tài nào thông thuộc hết các đường ngang nẻo dọc này.
- Phía Đông Nam có Bưng Sen, lung Chuối Nước, lung Bông, trấp Bồn Bồn, trấp Cá Bông nối tiếp từ Hàm Vồ đến Phụng Thớt... cặp sát mé sườn Gò Tháp.
- Phía Tây Nam: Sông cần Lố, Doi Me vào Đô Sơn, ngọn Ba Sao, Láng Cò, lung Kiến Vàng, Sình Tranh (Bàu Tiên - Động Cát) Sình Dỗ, Sình Dứt (Gò Tháp).
Ngoài ra còn có trấp 20, Bưng Rồng, Sình Tranh, Sình Mướp...
- Phía Tây Bắc; có lung Bông và bưng Sấu Hì bắt đầu từ Sình Dực, Sình Dỗ ở Gò Tháp nối liền lên Trấp Suông, Sình Tròn, Sình Lớn, Rộc Năn, láng Tả Mơn ra Tân Thành, Cái Cái...
Một nhánh khác từ Tràm Sình (Sình Lớn - Sình Nhỏ) lên lung Bông, gò Cỏ ống, Tràm Chim, Giồng Găng, Sa Rài...
- Phía Đông Bắc có lung Bàu Chứa, trấp Rùng Rình, Láng Sen, Rộc Tượng kéo dài đến Gò Tháp.
Nghĩa quân dựa vào các lung, trấp trên đây để vận chuyển vũ khí: lương thực bằng ghe xuồng, lĩa trâu, cộ trâu (Chú thích: Lĩa trâu: xuồng hoặc ghe, trước mũi được cặp thêm 2 cây tre nối lên ách trâu, kéo theo đường lung hoặc chỗ nước sâu. - Cộ trâu: cũng như lĩa trâu. nhưng chiếc xuồng được thay bằng chiếc cộ tre, 2 cây đà dưới bình cong để trâu kéo lướt trên đồng cạn hoặc chỗ khô ráo.) vào tận căn cứ hoặc ban đêm tập kích các đồn bót giặc. Ba con đường chính còn gọi là “đường gạo" từ ngoài vào Đại bản doanh Gò Tháp là:
ĐƯỜNG CÁI NỨA: hướng Đông Nam)
Chạy từ ngã năm Phú Nhuận (xã Mỹ Thành Nam - Cai Lậy) theo rạch Cây Gáo đến Xoài Tư (xã Mỹ Thành Bắc) hướng Quan Cư (xã Hậu Mỹ-Cái Bè) lên Gò Tháp.
Đoạn từ kinh 9 qua kinh 8, cách chùa Thủ Tọa Đầy chừng 100 mét, có một con đường lươn. Đường lươn lớn rộng chừng 4 mét chạy lên Quan Cư (kinh số 8). Đường lươn nhỏ chạy ngang trước chùa Thủ Tọa Đầy đi về. phía ngọn Rạch Ruộng (kinh Nguyễn Văn Tiếp B).
Song song phía Bắc Kinh III (xã Tân Kiều, Tháp Mười - còn có 1 đường gạo rộng gần 10 mét, trũng sâu chừng 5 tấc tạo thành 1 vệt thẳng hun hút vào trong các đám tràm. Khúc đường gạo này còn gọi là Lung Voi, nhân dân quanh vùng đào được nhiều xương voi, răng voi ở đây.
ĐƯỜNG CẦN LỐ (hướng Tây Nam) .
Dấu vết không còn nữa, nhưng tên gọi Đường Thét (Chú thích: Đường Thét: Thét tức là rạch một đường thẳng, băng tắt ngang. “Đầm sen, bãi sậy, rừng tràm, Kinh dài thét đất, lúa xanh rợp trời") còn gợi lên 1 con đường thẳng nối ngọn Trà Bông (đường gỗ) đến Bàu Tiên - Động Cát. Từ đây vào Gò Tháp các con lung còn hiện rõ.
Ở khoảng giữa Giồng Dung- Gò Tháp, cách Gò Tháp 4km, tại xã Hậu Thạnh Đông (Tân Thạnh, Long An) có một con rộc mang tên Rộc Đìa Gừa hay Rộc Đìa Gạo rộng chừng 20m một đầu hướng về Giồng Dung - Mộc Hóa. Đầu kia hướng về Gò Tháp và tiếp giáp các lung, trấp khác về phía Cai Lậy. Tận Vĩnh Hưng còn những địa danh đường Tượng, đường Gạo, Gò Thành, Gò Gạch, Vàm Đồn... .
Cách thị trấn Kiến Bình 2km về phía Nam (tức phía Cai Lậy) có 1 vệt đường Gạo (rộng chừng 2m, sâu 4-5 tấc) hướng về Gò Tháp. Nếu tính chỗ ngọn Bắc Đông (cắt kinh 12) tới Gò Tháp chừng 30km.
Có những con đường tự nhiên chạy ngoằn ngoèo, bất tiện, nghĩa quân đã nhắm hướng đi tắt, hoặc mở thêm đường mới khi bị Pháp đóng đồn ngăn chặn như chỗ Vàm Bà Bầy. Ngoài ra còn có đường Gỗ (rạch Trà Bông-Cao Lãnh) dùng vận chuyển gỗ.
Như vậy, từ trung tâm Đồng Tháp Mười, nghĩa quân có thể đi lại dễ dàng giữa các đồn chính và các đồn phụ, có thể tiếp xúc với các cửa ngõ: Mộc Hóa, Long An, Cai Lậy, Cái Bè, Cao Lãnh, Hồng Ngự, và liên lạc xa hơn nữa với các miền An Giang, Hà Tiên, Rạch Giá, Preyveng... Ngược lại kẻ lạ không tài nào thông thuộc hết các đường ngang nẻo dọc này.
Chọn Đồng Tháp Mười làm căn
cứ không phải do ngẫu nhiên để đối phó tình hình vô
cùng bất lợi cho nghĩa quân trong những tháng 6, 7, 8 năm
1 864. mà phải nói rằng việc chọn Đồng Tháp Mười làm
tổng hành dinh để chống thực dân Pháp xâm lược của
Võ Duy Dương là một việc làm có cân nhắc tính toán cẩn
thận. Ngay khi còn hoạt động ở đất Ba Giồng, Võ Duy
Dương cũng đã xử dụng một phần tính năng của Đồng
Tháp Mười. Xưa kia, trong cuộc tranh chấp Tây Sơn - Nguyễn
Ánh, Đỗ Thành Nhơn cũng đã sử dụng cái thế “phên
dậu" của Đồng Tháp Mười - Ba Giồng làm thế tiến
thủ. Rõ ràng, trong thời kỳ mộ dân khai hoang ở vùng
ven đất Ba Giồng và nhứt là trong thời gian hành quân
lưu động (tháng tư năm 1863 đến tháng năm 1864), nhứt
định Võ Duy Dương “nắm bắt" được thế đất và
lòng người của vùng này .
Đồng Tháp Mười trũng thấp mênh mông với tràm đưng, lau sậy, đỉa muỗi... đường đi lại không có, cư dân ít ỏi; gối đầu với một Ba Giồng được khai phá lâu đời đã trở thành một vùng đất trù phú, đông dân nhứt nhì tỉnh Định Tường. Quả thật đây là một vị trí chiến lược lý tưởng trong cuộc chiến tranh giữ nước. Ba Giồng cung cấp sức người, sức của cho lực lượng nghĩa quân ở Đồng Tháp Mười. Đồng Tháp Mười vừa là bàn đạp tiến quân tiêu hao sinh lực đối phương vừa là vật che chắn bảo vệ nghĩa quân. Từ Đồng Tháp Mười có thể tiến lên miền Đông, quay xuống miền Tây hoặc rẻ sang Campuchia hay ra biển đều thuận lợi...
Chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ, quả thật Võ Duy Dương là một nhà quân sự có tài.
Ngoài ra, còn một yếu tố khác hết sức thuận lợi cho việc chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ. Số là vùng Cao Lãnh, ven Đồng Tháp Mười ở phía Tây Nam, nhứt là các xã Mỹ Ngãi, Mỹ Trà, Mỹ Thọ... lúc bấy giờ có hai lực lượng nghĩa quân hoạt động: một do Nguyễn Văn Linh (Thống Linh) một do Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều) chỉ huy.
Nguyễn Văn Linh, người ở xã Mỹ Ngãi huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay thuộc phường 1 Thị xã Cao Lãnh), khi triều đình Huế ký hòa ước nhường 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp, ông đã tự động đứng lên chiêu mộ dân dõng chống Pháp ở Cao Lãnh. (Chú thích: Về ngày hy sinh của ông, hiện nay có tài liệu chép 7/7/1862 không đúng, vì vào năm chánh quyền tỉnh Kiến Phong cũ (thời Ngô Đình Diệm) dựng tượng ông (mô phỏng từ người cháu nội là ông Nguyễn Văn Thôn) nhưng không biết năm mất của ông, nên dựa vào ngày giỗ của ông (7/7 âm lịch) mà suy ra. Hơn nữa, nếu ông bị giặc Pháp đem chém ngày 7/7/1862. tất nhiên ông phải bị bắt trước đó. Nhưng thực tế cho đến tháng 7/1862 bọn thực dân Pháp chưa đặt chân đến Cao Lãnh. Ông Nguyễn Vãn Linh hy sinh vào năm 1865 hay 1866 có lẽ đúng hơn.)
Nguyễn Tấn Kiều (Chú thích: Có nơi chép là Lê Tấn Kiều hay Lê Công Kiều, chưa xác định được quê quán của ông, nghe đâu ông cũng là người miền Trung vào Nam lập nghiệp có vợ là người ngụ ở Đồng Tháp Mười.) mộ nghĩa quân chống Pháp ở vùng Mỹ Thọ, Rạch Ruộng (huyện Kiến Phong, Định Tường).
Hai lực lượng này chính là những nhân tố đầu tiên tạo cơ sở cho căn cứ Đồng Tháp Mười phát triển sau này.
Đồng Tháp Mười trũng thấp mênh mông với tràm đưng, lau sậy, đỉa muỗi... đường đi lại không có, cư dân ít ỏi; gối đầu với một Ba Giồng được khai phá lâu đời đã trở thành một vùng đất trù phú, đông dân nhứt nhì tỉnh Định Tường. Quả thật đây là một vị trí chiến lược lý tưởng trong cuộc chiến tranh giữ nước. Ba Giồng cung cấp sức người, sức của cho lực lượng nghĩa quân ở Đồng Tháp Mười. Đồng Tháp Mười vừa là bàn đạp tiến quân tiêu hao sinh lực đối phương vừa là vật che chắn bảo vệ nghĩa quân. Từ Đồng Tháp Mười có thể tiến lên miền Đông, quay xuống miền Tây hoặc rẻ sang Campuchia hay ra biển đều thuận lợi...
Chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ, quả thật Võ Duy Dương là một nhà quân sự có tài.
Ngoài ra, còn một yếu tố khác hết sức thuận lợi cho việc chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ. Số là vùng Cao Lãnh, ven Đồng Tháp Mười ở phía Tây Nam, nhứt là các xã Mỹ Ngãi, Mỹ Trà, Mỹ Thọ... lúc bấy giờ có hai lực lượng nghĩa quân hoạt động: một do Nguyễn Văn Linh (Thống Linh) một do Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều) chỉ huy.
Nguyễn Văn Linh, người ở xã Mỹ Ngãi huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay thuộc phường 1 Thị xã Cao Lãnh), khi triều đình Huế ký hòa ước nhường 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp, ông đã tự động đứng lên chiêu mộ dân dõng chống Pháp ở Cao Lãnh. (Chú thích: Về ngày hy sinh của ông, hiện nay có tài liệu chép 7/7/1862 không đúng, vì vào năm chánh quyền tỉnh Kiến Phong cũ (thời Ngô Đình Diệm) dựng tượng ông (mô phỏng từ người cháu nội là ông Nguyễn Văn Thôn) nhưng không biết năm mất của ông, nên dựa vào ngày giỗ của ông (7/7 âm lịch) mà suy ra. Hơn nữa, nếu ông bị giặc Pháp đem chém ngày 7/7/1862. tất nhiên ông phải bị bắt trước đó. Nhưng thực tế cho đến tháng 7/1862 bọn thực dân Pháp chưa đặt chân đến Cao Lãnh. Ông Nguyễn Vãn Linh hy sinh vào năm 1865 hay 1866 có lẽ đúng hơn.)
Nguyễn Tấn Kiều (Chú thích: Có nơi chép là Lê Tấn Kiều hay Lê Công Kiều, chưa xác định được quê quán của ông, nghe đâu ông cũng là người miền Trung vào Nam lập nghiệp có vợ là người ngụ ở Đồng Tháp Mười.) mộ nghĩa quân chống Pháp ở vùng Mỹ Thọ, Rạch Ruộng (huyện Kiến Phong, Định Tường).
Hai lực lượng này chính là những nhân tố đầu tiên tạo cơ sở cho căn cứ Đồng Tháp Mười phát triển sau này.
II. Căn cứ Đồng Tháp Mười
và hệ thống đồn lũy:
Võ Duy Dương đóng Đại bản doanh tại Gò Tháp. Trên ba con đường gạo, mỗi hướng có một đồn chính. Đồn Tiền (hướng Cái Nứa), đồn Tả (hướng gò Bắc Chiêng), đồn Hữu (hướng Cần Lố). Đồn nào cũng có lũy đất ở chung quanh, cao non 2,5 m, trong và ngoài lũy là hàng cừ bằng sao, lũy có đục cửa và có nhiều lỗ để nhắm bắn ra ngoài.
Mỗi đồn chứa từ 200 đến 300 nghĩa binh, 10 khẩu súng và 4-5 chục thớt súng bắn đá, vài khẩu đại bác (Chú thích: Nguyễn Hiến Lê. Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười)
Đồn Trung (Chú thích: Dân gian còn gọi là đồn Ổ Bịp. Ổ Bịp có lẽ do đồn đóng ở một nơi hiểm yếu, kín đáo như một Ổ chim bìm bịp. Trong bản báo cáo thứ 2 của Võ Duy Dương gởi vua Tự Đức năm..., có đề cập đến đồn Bảo An phải chăng là đồn Trung) tọa lạc ngay giữa Gò Tháp, (ngày nay thuộc ấp 4, xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp), cách thị trấn Mỹ An 107km về phía Bắc. Đồn có hình tứ giác không đều, chu vi 675m ở trên độ cao 2,54m so với mực nước biển chuẩn Hà Tiên. Đồn được Lê Kim (Trần Trọng Khiêm) (Chú thích; Trần Trọng Khiêm. (1821-1866), người quê Xuân Lăng. Sơn Vi, Phú Thọ, sang Hoa Kỳ, khoảng năm 1850, làm nhiều nghề: thủy thủ, bòn vàng, làm báo ... khoảng năm 1855, ông về nước, vào Nam; góp phần khai phá lập làng Hòa An (Cao Lãnh- Đồng Tháp) rồi tham gia nghĩa quân Thiên Hộ Đường.) thiết kế và xây dựng theo kiểu đồn Suter ở California (Hoa Kỳ).
Mặt tiền đồn hiện còn rất phẳng, các bờ thành đã được san bằng nhưng dấu vết còn rất rõ. Chẳng hạn, bờ thành phía đông là một gò đất nhô lên rộng chừng 5m, cắt ngang mặt gò từ Nam sang Bắc, giữa hai đường trũng của hào ngoài và hào trong. Hào ngoài 3m, hào trong gấp đôi nơi lấy đất đắp bờ thành và nền đồn.
Như vậy, để tránh sụp lỡ, mỗi bên trừ hao 0,5m thì chân bờ thành ít nhất cũng 4m. Để đạt chiều cao trên 2m theo các tài liệu trước đây ghi chép thì đỉnh bờ thành rộng chừng 1,5m.
Phía ngoài và phía trong chân bờ thành được kèo gỗ cho chắc để chịu đựng súng công phá của đại bác giặc. Ngoài các cổng chính, phụ vào đồn, nghĩa quân còn bắc nhiều cầu ngang mương từ bên trong qua bờ thành, nơi có nhiều công sự và lỗ châu mai hướng ra bên ngoài. Theo lời kể của các bậc kỳ lão trong vùng thì nghĩa quân còn lợi dụng độ cao của mặt thành chất gỗ sẵn chờ lúc giặc tấn công biển người sẽ “vứt dây lăn gỗ". Người dân sống trên Gò Tháp đào mương, vét giếng thỉnh thoảng còn gặp nhiều khúc gỗ nằm sắp lớp. Chung quanh nền đồn còn có nhiều bụi tre mỡ, tre vai vốn là lũy cũ còn lại.
Gò Tháp là một gò đất pha cát do bàn tay con người bồi đắp dựa trên sự thành tạo ban đầu của tự nhiên, nằm theo hướng dòng chảy sông Tiền đông bắc-tây nam. Đỉnh gò dài trên 500m, rộng 300m, nhưng chân gò chạy thoai thoải mớ rộng ra hướng tây nam, diện tích lên gần 1 cây số vuông, có những con lung viền quanh chân gò.
Với địa thế này, nghĩa quân dễ dàng bố trí nhiều trạm canh ở chung quanh, nhất là hai đầu cực bắc và cực nam. Trên đỉnh gò Tháp Mười (chỗ nền Tháp Mười tầng) có độ cao 5,047m là nơi nghĩa quân dùng làm đài quan sát từ xa (Chú thích: Có tư liệu nói đài quan sát hình vuông, bằng gạch, xếp nhiều bậc nhỏ dần từ dưới chân lên đỉnh, cao 12m.)
Gò đất thích hợp cho việc trồng khoai lang, khoai mì, mía. đậu, mè... rải rác trong đồn và trên gò có nhiều giếng khơi dùng để tưới rẫy và ăn uống.
Nếu như các đồn chính khác là đồn Tả, đồn Hữu nằm trên những gò cao như gò Giồng Dung, gò Động Cát thì đồn Tiền lại nằm giữa cánh đồng sình lầy gần vùng gò Bãi Liếp (nên nhân dân còn gọi là đồn Bãi Liếp (Chú thích: Có nơi ghi đồn Bảy Liếp, Tràm Liếp...)
Võ Duy Dương đóng Đại bản doanh tại Gò Tháp. Trên ba con đường gạo, mỗi hướng có một đồn chính. Đồn Tiền (hướng Cái Nứa), đồn Tả (hướng gò Bắc Chiêng), đồn Hữu (hướng Cần Lố). Đồn nào cũng có lũy đất ở chung quanh, cao non 2,5 m, trong và ngoài lũy là hàng cừ bằng sao, lũy có đục cửa và có nhiều lỗ để nhắm bắn ra ngoài.
Mỗi đồn chứa từ 200 đến 300 nghĩa binh, 10 khẩu súng và 4-5 chục thớt súng bắn đá, vài khẩu đại bác (Chú thích: Nguyễn Hiến Lê. Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười)
Đồn Trung (Chú thích: Dân gian còn gọi là đồn Ổ Bịp. Ổ Bịp có lẽ do đồn đóng ở một nơi hiểm yếu, kín đáo như một Ổ chim bìm bịp. Trong bản báo cáo thứ 2 của Võ Duy Dương gởi vua Tự Đức năm..., có đề cập đến đồn Bảo An phải chăng là đồn Trung) tọa lạc ngay giữa Gò Tháp, (ngày nay thuộc ấp 4, xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp), cách thị trấn Mỹ An 107km về phía Bắc. Đồn có hình tứ giác không đều, chu vi 675m ở trên độ cao 2,54m so với mực nước biển chuẩn Hà Tiên. Đồn được Lê Kim (Trần Trọng Khiêm) (Chú thích; Trần Trọng Khiêm. (1821-1866), người quê Xuân Lăng. Sơn Vi, Phú Thọ, sang Hoa Kỳ, khoảng năm 1850, làm nhiều nghề: thủy thủ, bòn vàng, làm báo ... khoảng năm 1855, ông về nước, vào Nam; góp phần khai phá lập làng Hòa An (Cao Lãnh- Đồng Tháp) rồi tham gia nghĩa quân Thiên Hộ Đường.) thiết kế và xây dựng theo kiểu đồn Suter ở California (Hoa Kỳ).
Mặt tiền đồn hiện còn rất phẳng, các bờ thành đã được san bằng nhưng dấu vết còn rất rõ. Chẳng hạn, bờ thành phía đông là một gò đất nhô lên rộng chừng 5m, cắt ngang mặt gò từ Nam sang Bắc, giữa hai đường trũng của hào ngoài và hào trong. Hào ngoài 3m, hào trong gấp đôi nơi lấy đất đắp bờ thành và nền đồn.
Như vậy, để tránh sụp lỡ, mỗi bên trừ hao 0,5m thì chân bờ thành ít nhất cũng 4m. Để đạt chiều cao trên 2m theo các tài liệu trước đây ghi chép thì đỉnh bờ thành rộng chừng 1,5m.
Phía ngoài và phía trong chân bờ thành được kèo gỗ cho chắc để chịu đựng súng công phá của đại bác giặc. Ngoài các cổng chính, phụ vào đồn, nghĩa quân còn bắc nhiều cầu ngang mương từ bên trong qua bờ thành, nơi có nhiều công sự và lỗ châu mai hướng ra bên ngoài. Theo lời kể của các bậc kỳ lão trong vùng thì nghĩa quân còn lợi dụng độ cao của mặt thành chất gỗ sẵn chờ lúc giặc tấn công biển người sẽ “vứt dây lăn gỗ". Người dân sống trên Gò Tháp đào mương, vét giếng thỉnh thoảng còn gặp nhiều khúc gỗ nằm sắp lớp. Chung quanh nền đồn còn có nhiều bụi tre mỡ, tre vai vốn là lũy cũ còn lại.
Gò Tháp là một gò đất pha cát do bàn tay con người bồi đắp dựa trên sự thành tạo ban đầu của tự nhiên, nằm theo hướng dòng chảy sông Tiền đông bắc-tây nam. Đỉnh gò dài trên 500m, rộng 300m, nhưng chân gò chạy thoai thoải mớ rộng ra hướng tây nam, diện tích lên gần 1 cây số vuông, có những con lung viền quanh chân gò.
Với địa thế này, nghĩa quân dễ dàng bố trí nhiều trạm canh ở chung quanh, nhất là hai đầu cực bắc và cực nam. Trên đỉnh gò Tháp Mười (chỗ nền Tháp Mười tầng) có độ cao 5,047m là nơi nghĩa quân dùng làm đài quan sát từ xa (Chú thích: Có tư liệu nói đài quan sát hình vuông, bằng gạch, xếp nhiều bậc nhỏ dần từ dưới chân lên đỉnh, cao 12m.)
Gò đất thích hợp cho việc trồng khoai lang, khoai mì, mía. đậu, mè... rải rác trong đồn và trên gò có nhiều giếng khơi dùng để tưới rẫy và ăn uống.
Nếu như các đồn chính khác là đồn Tả, đồn Hữu nằm trên những gò cao như gò Giồng Dung, gò Động Cát thì đồn Tiền lại nằm giữa cánh đồng sình lầy gần vùng gò Bãi Liếp (nên nhân dân còn gọi là đồn Bãi Liếp (Chú thích: Có nơi ghi đồn Bảy Liếp, Tràm Liếp...)
Đồn Tiền ở về phía đông nam
đồn Trung 6km nằm ven con đường gạo từ Cái Nứa vào
Gò Tháp, cách kinh 3 (xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười) 100m
bên bờ sông.
Trong những ngày đầu, đây là đồn tiền tiêu, án ngữ và ngăn chặn những đợt tấn công của Pháp.
Năm 1979, chỉ còn lại nền đồn cao hơn mặt ruộng chừng 0,5m, hào chung quanh đã lấp để trồng lúa.
Đồn hình thang cân, đáy dài hướng về phía Mỹ Tho, Cai Lậy, có lũy đất nối dài ra cả thảy 75m, đáy ngắn hướng Gò Tháp dài 15m, chiều cao 25m. Ở phía đáy ngắn đồn cao hẳn lên, đó là nơi đặt chòi canh và trí súng. Xung quanh đồn có hào, lũy. Một con đường nổi từ đồn ra đường gạo cũng được đắp cao.
Súng thần công sử dụng trong đồn này có 3 loại: to, vừa và nhỏ bắn đạn gang tròn cỡ trái cam và trái chanh.
Trên bờ thành còn chi chít những đầu đạn chì của súng trường, có lẽ quân Pháp đã bắn vào khi tấn công đồn Tiền.
Từ năm 1945 đến nay, tại đồn Tiền, nhân dân trong vùng đã nhặt được các loại súng sau đây: 3 khẩu súng thần công loại lớn (dài 1,85m, đường kính trong 11cm, đường kính ngoài 25cm), 1 súng gang còn gọi là súng trường cửu (dài 0,8m, đường kính ngoài 6cm, đường kính trong 3,5cm).
Trong những năm 1945-1946, nhân dân tới đồn Tiền thu lượm những viên đạn gang tròn đưa về công binh xưởng để đúc vũ khí đánh Tây.
Nghĩa quân ở đồn Tiền một mặt luyện tập binh khí, mặt khác trồng mì, trồng rau, trên những bãi liếp gần đồn để tự túc một phần lương thực, thực phẩm.
Đồn Tả nằm trên gò Giồng Dung hay Bắc Dung (hiện thuộc xã Hậu Thanh Tây, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An) nằm cạnh rộc Đìa Gừa, con đường gạo từ Bắc Chiêng về Gò Tháp. Cách đồn Trung 7km về hướng Tây Bắc.
Giồng Dung là một gò thấp (0,50-0,80m) dài chừng 1,5km rộng 0,5km nằm trong hệ thống nhiều gò nối tiếp nhau trên cánh đồng rộng kéo dài đến tận Gò Tháp, mang dấu vết của đường bờ biển cổ.
Đồn này tương đương với đồn Tiền, hiện không còn dấu vết gì ngoài mấy bụi tre. Bề mặt gò đã bị bới tung xuống tới độ sâu hơn 1m bởi những người đào vàng.
Theo rộc Đìa Gừa về phía Gò Tháp (cách Giồng Dung 3km) ở đây có gò Năm Căn hình chữ nhựt dài 150m, rộng 100m và vài gò nhỏ kế cận.
Trước 1975, nhân dân cày ruộng nhặt được nhiều đạn gang tròn. Năm 1977, nhặt thêm 1 súng thần công cỡ cối 80. Có lẽ nghĩa quân đã vùi khí giới trên đường rút chạy từ đồn Tả về đại bản doanh Gò Tháp.
Đồn Hữu nằm trên gò Động Cát (Giồng Cát) thuộc xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, cách đồn Trung chừng 6km về phía Tây Nam.
Phạm vi và cao độ gò này cũng tương đương với Gò Giồng Dung. Gò nằm trơ trọi giữa cánh đồng, không còn dấu vết đồn lũy gì.
Trong những ngày đầu, đây là đồn tiền tiêu, án ngữ và ngăn chặn những đợt tấn công của Pháp.
Năm 1979, chỉ còn lại nền đồn cao hơn mặt ruộng chừng 0,5m, hào chung quanh đã lấp để trồng lúa.
Đồn hình thang cân, đáy dài hướng về phía Mỹ Tho, Cai Lậy, có lũy đất nối dài ra cả thảy 75m, đáy ngắn hướng Gò Tháp dài 15m, chiều cao 25m. Ở phía đáy ngắn đồn cao hẳn lên, đó là nơi đặt chòi canh và trí súng. Xung quanh đồn có hào, lũy. Một con đường nổi từ đồn ra đường gạo cũng được đắp cao.
Súng thần công sử dụng trong đồn này có 3 loại: to, vừa và nhỏ bắn đạn gang tròn cỡ trái cam và trái chanh.
Trên bờ thành còn chi chít những đầu đạn chì của súng trường, có lẽ quân Pháp đã bắn vào khi tấn công đồn Tiền.
Từ năm 1945 đến nay, tại đồn Tiền, nhân dân trong vùng đã nhặt được các loại súng sau đây: 3 khẩu súng thần công loại lớn (dài 1,85m, đường kính trong 11cm, đường kính ngoài 25cm), 1 súng gang còn gọi là súng trường cửu (dài 0,8m, đường kính ngoài 6cm, đường kính trong 3,5cm).
Trong những năm 1945-1946, nhân dân tới đồn Tiền thu lượm những viên đạn gang tròn đưa về công binh xưởng để đúc vũ khí đánh Tây.
Nghĩa quân ở đồn Tiền một mặt luyện tập binh khí, mặt khác trồng mì, trồng rau, trên những bãi liếp gần đồn để tự túc một phần lương thực, thực phẩm.
Đồn Tả nằm trên gò Giồng Dung hay Bắc Dung (hiện thuộc xã Hậu Thanh Tây, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An) nằm cạnh rộc Đìa Gừa, con đường gạo từ Bắc Chiêng về Gò Tháp. Cách đồn Trung 7km về hướng Tây Bắc.
Giồng Dung là một gò thấp (0,50-0,80m) dài chừng 1,5km rộng 0,5km nằm trong hệ thống nhiều gò nối tiếp nhau trên cánh đồng rộng kéo dài đến tận Gò Tháp, mang dấu vết của đường bờ biển cổ.
Đồn này tương đương với đồn Tiền, hiện không còn dấu vết gì ngoài mấy bụi tre. Bề mặt gò đã bị bới tung xuống tới độ sâu hơn 1m bởi những người đào vàng.
Theo rộc Đìa Gừa về phía Gò Tháp (cách Giồng Dung 3km) ở đây có gò Năm Căn hình chữ nhựt dài 150m, rộng 100m và vài gò nhỏ kế cận.
Trước 1975, nhân dân cày ruộng nhặt được nhiều đạn gang tròn. Năm 1977, nhặt thêm 1 súng thần công cỡ cối 80. Có lẽ nghĩa quân đã vùi khí giới trên đường rút chạy từ đồn Tả về đại bản doanh Gò Tháp.
Đồn Hữu nằm trên gò Động Cát (Giồng Cát) thuộc xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, cách đồn Trung chừng 6km về phía Tây Nam.
Phạm vi và cao độ gò này cũng tương đương với Gò Giồng Dung. Gò nằm trơ trọi giữa cánh đồng, không còn dấu vết đồn lũy gì.
Bên cạnh 3 đồn chính giữ thế
chân vạc cho Đại bản doanh Gò Tháp: còn nhiều đồn
nhỏ, trạm canh như đồn Cái Thia, Cái Nứa, Thủ Ngữ,
Đất Sét, Mỹ Thạnh (Thạnh Phú), Ấp Lý, Quản Oai, Đồn
Tre, Sa Tiền, Rạch Ruộng...
Mỗi đồn nhỏ có chừng 150 nghĩa quân, vài chục khẩu súng cò máy đá còn lại là gươm đao. Mỗi trạm canh chừng 10 nghĩa quân đóng giữ. Họ có nhiệm vụ nắm tình hình và canh phòng người lạ mặt đột nhập căn cứ, đồng thời tiếp nhận tân binh và làm nơi dừng chân của các đoàn vận lương tiếp tế cho căn cứ.
Các đồn, trạm này tạo thành tuyến bảo vệ vòng ngoài ở những nơi trọng yếu.
Phía Đông Nam là một cánh cung chặn đường Cai Lậy - Cái Bè
- Đồn ấp Lý trên đường Tân Hương vào.
- Đồn Mỹ Thạnh chỗ ngã năm Phú Nhuận bây giờ, chặn đường Cai Lậy.
- Đồn Cái Nứa: chỗ chợ Cái Nứa (xã Hậu Thanh, huyện Cái Bè, Tiền Giang). Đồn nằm trên ngã ba sông Cái Nứa và Rạch Bà Xẩm.
Cách chợ Cái Nứa chừng 1 km vào chợ Thiên Hộ (theo lộ 28 ) là đồn Thủ Ngữ. Trước khi Pháp đến, tại đây có một ngôi chùa lớn. Trong lúc hai bên giành giật nhau từng thước đất chợ Cái Nứa, nghĩa quân liền đắp lũy và đóng dã chiến tại Thủ Ngữ, áp sát và kìm chân Pháp không cho tiến vào Đồng Tháp Mười .
Đồn Cái Nứa và Thủ Ngữ kiểm soát ngả Cái Bè và Trà Lọt vào Hầm Vồ, Phụng Thớt.
Tại ngã ba Mỹ Đông, chỗ con sông Cái Thia (xã Mỹ Đức Đông, huyện Cái Bè, Tiền Giang) chia làm 2 ngả: một ngả về Mỹ Đức Tây một ngả về Mỹ Thiện, nghĩa quân có xây đồn lũy và cản đất.
Cặp bờ sông Mỹ Thiện, là lũy đất dài khoảng 100m, dày 8m, cao 8m trên bố trí 4-5 khẩu súng thần công.
Bên bờ Mỹ Đức Tây, cách ngã ba 400m, nghĩa quân cũng có đóng đồn. Buổi đầu vào đây lập nghiệp nhân dân còn thấy đồn hình chữ nhật dài 25m, rộng 12m, cao 7m. Phía sau đồn có một cái hầm lớn. Khi tát bắt cá và vét hầm ông Trương Văn Ngoại (85 tuổi) nhặt được nhiều xương người.
Ngay mõm doi chỗ đình Mỹ Đông bây giờ, là đồn chỉ huy.
Cách ngã ba 200m về phía sông Tiền, có 1 cản xốc bằng tràm, dừa chặn tàu từ mặt vàm sông Cái Cối vào.
Nhiều lần tàu Pháp vô đây dùng lòi tói kéo cản dừa, nghĩa quân kết bè, phủ rơm phóng hỏa thả trôi theo dòng nước để đốt tàu, nã thần công làm tàu giặc bị bể phải tháo chạy.
Phía Bắc kinh 28 (100m) và phía tây rạch Đất Sét (400m) thuộc ấp Hòa Điền (xã Hòa Khánh, Cái Bè - Tiền Giang) có một địa danh Gò Đồn. Phạm vi gò khoảng 0,5 héc ta, cao hơn mặt ruộng 5 tấc (cách đây 60 năm gò rộng 1 hecta, cao 1m). Gò thuộc đất làng dùng để chôn cất nên hình dạng tương đối còn nổi rõ.
Bà con bang đất chung quanh gò ra làm ruộng. Đồn nhỏ dần có hình chữ nhật. Phần trong lõm xuống có kích thước như sau: 25m (bờ Nam- Bắc), 30m (bờ đông-tây). Gián cách 5-6m chỗ góc đông bắc, bờ thành bao bọc dày trên 5m, bờ phía bắc là những liếp tràm nối tiếp nhỏ dần theo hình chóp. Góc tây bắc còn một gò hình vuông ( 12 x 12m). Cách góc thành đông-nam chừng 15m còn có 2 gò nhỏ ( 10x7m).
Rộc Bưng từ rạch Đất Sét (phía đông) chạy dọc bờ thành phía Nam, rồi vòng qua phía tây hướng gò Châu Báu (chùa Thủ tọa Giao) cách đó 100 m rồi đổ ra sông Cái Nứa.
Năm 1960, nhân dân đào mương phát hiện nhiều đồng tiền điếu, ghè ống và miếng chén kiểu tại khu vực Gò Đồn.
Một nơi đáng lưu ý nữa là gò Trường Tháp thuộc ấp III, xã Mỹ Thạnh Bắc, huyện Cai Lậy.
Gò hình chữ nhựt, rộng 1 hecta có đường tượng đi qua trước giếng chùa rồi đổ ra rạch Cây Gáo cách đó 400 mét. Phía trong gò Trường Tháp 100 mét là gò Đế rộng nửa hecta ở cùng độ cao 0,8- 1m so với mặt ruộng.
Đây là nền cũ của quân đồn điền, nghĩa quân đã dựa vào cao điểm này để đồn trú, chặn giặc từ hướng Cai Lậy-Bà Tồn vào.
Mỗi đồn nhỏ có chừng 150 nghĩa quân, vài chục khẩu súng cò máy đá còn lại là gươm đao. Mỗi trạm canh chừng 10 nghĩa quân đóng giữ. Họ có nhiệm vụ nắm tình hình và canh phòng người lạ mặt đột nhập căn cứ, đồng thời tiếp nhận tân binh và làm nơi dừng chân của các đoàn vận lương tiếp tế cho căn cứ.
Các đồn, trạm này tạo thành tuyến bảo vệ vòng ngoài ở những nơi trọng yếu.
Phía Đông Nam là một cánh cung chặn đường Cai Lậy - Cái Bè
- Đồn ấp Lý trên đường Tân Hương vào.
- Đồn Mỹ Thạnh chỗ ngã năm Phú Nhuận bây giờ, chặn đường Cai Lậy.
- Đồn Cái Nứa: chỗ chợ Cái Nứa (xã Hậu Thanh, huyện Cái Bè, Tiền Giang). Đồn nằm trên ngã ba sông Cái Nứa và Rạch Bà Xẩm.
Cách chợ Cái Nứa chừng 1 km vào chợ Thiên Hộ (theo lộ 28 ) là đồn Thủ Ngữ. Trước khi Pháp đến, tại đây có một ngôi chùa lớn. Trong lúc hai bên giành giật nhau từng thước đất chợ Cái Nứa, nghĩa quân liền đắp lũy và đóng dã chiến tại Thủ Ngữ, áp sát và kìm chân Pháp không cho tiến vào Đồng Tháp Mười .
Đồn Cái Nứa và Thủ Ngữ kiểm soát ngả Cái Bè và Trà Lọt vào Hầm Vồ, Phụng Thớt.
Tại ngã ba Mỹ Đông, chỗ con sông Cái Thia (xã Mỹ Đức Đông, huyện Cái Bè, Tiền Giang) chia làm 2 ngả: một ngả về Mỹ Đức Tây một ngả về Mỹ Thiện, nghĩa quân có xây đồn lũy và cản đất.
Cặp bờ sông Mỹ Thiện, là lũy đất dài khoảng 100m, dày 8m, cao 8m trên bố trí 4-5 khẩu súng thần công.
Bên bờ Mỹ Đức Tây, cách ngã ba 400m, nghĩa quân cũng có đóng đồn. Buổi đầu vào đây lập nghiệp nhân dân còn thấy đồn hình chữ nhật dài 25m, rộng 12m, cao 7m. Phía sau đồn có một cái hầm lớn. Khi tát bắt cá và vét hầm ông Trương Văn Ngoại (85 tuổi) nhặt được nhiều xương người.
Ngay mõm doi chỗ đình Mỹ Đông bây giờ, là đồn chỉ huy.
Cách ngã ba 200m về phía sông Tiền, có 1 cản xốc bằng tràm, dừa chặn tàu từ mặt vàm sông Cái Cối vào.
Nhiều lần tàu Pháp vô đây dùng lòi tói kéo cản dừa, nghĩa quân kết bè, phủ rơm phóng hỏa thả trôi theo dòng nước để đốt tàu, nã thần công làm tàu giặc bị bể phải tháo chạy.
Phía Bắc kinh 28 (100m) và phía tây rạch Đất Sét (400m) thuộc ấp Hòa Điền (xã Hòa Khánh, Cái Bè - Tiền Giang) có một địa danh Gò Đồn. Phạm vi gò khoảng 0,5 héc ta, cao hơn mặt ruộng 5 tấc (cách đây 60 năm gò rộng 1 hecta, cao 1m). Gò thuộc đất làng dùng để chôn cất nên hình dạng tương đối còn nổi rõ.
Bà con bang đất chung quanh gò ra làm ruộng. Đồn nhỏ dần có hình chữ nhật. Phần trong lõm xuống có kích thước như sau: 25m (bờ Nam- Bắc), 30m (bờ đông-tây). Gián cách 5-6m chỗ góc đông bắc, bờ thành bao bọc dày trên 5m, bờ phía bắc là những liếp tràm nối tiếp nhỏ dần theo hình chóp. Góc tây bắc còn một gò hình vuông ( 12 x 12m). Cách góc thành đông-nam chừng 15m còn có 2 gò nhỏ ( 10x7m).
Rộc Bưng từ rạch Đất Sét (phía đông) chạy dọc bờ thành phía Nam, rồi vòng qua phía tây hướng gò Châu Báu (chùa Thủ tọa Giao) cách đó 100 m rồi đổ ra sông Cái Nứa.
Năm 1960, nhân dân đào mương phát hiện nhiều đồng tiền điếu, ghè ống và miếng chén kiểu tại khu vực Gò Đồn.
Một nơi đáng lưu ý nữa là gò Trường Tháp thuộc ấp III, xã Mỹ Thạnh Bắc, huyện Cai Lậy.
Gò hình chữ nhựt, rộng 1 hecta có đường tượng đi qua trước giếng chùa rồi đổ ra rạch Cây Gáo cách đó 400 mét. Phía trong gò Trường Tháp 100 mét là gò Đế rộng nửa hecta ở cùng độ cao 0,8- 1m so với mặt ruộng.
Đây là nền cũ của quân đồn điền, nghĩa quân đã dựa vào cao điểm này để đồn trú, chặn giặc từ hướng Cai Lậy-Bà Tồn vào.
Hướng tây bắc đồn Tả, có
đồn Tuyên Oai nằm trên gò Bắc Chiêng (thị trấn Mộc
Hóa), một khu vực khá cao ráo, nổi lên giữa vùng đất
còn lầy lội hoang hóa, nằm trên hữu ngạn Vàm Cỏ Tây.
Gò này có 2 giồng chạy song song như hai con cù, phía trên giới hạn bởi rạch Cá Rô, phía dưới là rạch Bà Kén, tạo thành 2 rộc lung chạy vô Đồng Tháp Mười. Từ Gò Bắc Chiêng đến Gò Tháp gặp gò ông Hạp (khá cao) kế là gò Giồng Dung (xã Hậu Thanh Tây, Tân Thạnh, Long An).
Đường này nối với sông Vàm Cỏ Tây chính là một cửa ngõ giao thông có tầm chiến lược của nghĩa quân, nối liền trung tâm căn cứ kháng chiến với phần Đông Bắc Đồng Tháp Mười. Mộc Hóa là một vùng hậu cần quan trọng của cuộc kháng chiến. Nhiều gánh họ ở đây dài lên Bắc Chang, biên giới Campuchia là con cháu của nghĩa quân cùng vô khai hoang, đánh giặc dưới sự chỉ huy của Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều. Đây là đầu mối liên lạc với Tây Ninh và nhiều nơi khác ở miền Đông Nam bộ.
Đồn Tuyên Oai khi ấy thuộc loại vững mạnh vùng ngoại vi có chừng 120 nghĩa quân đóng giữ được trang bị 15 súng cò máy đá. Năm 1945- 1946, nhân dân còn phát hiện 1 số khẩu súng loại này tại đây.
Trong vùng còn những địa danh liên quan đến thời nghĩa quân như Lò Gạch, Gò Thiềng (tức Gò Thành), Vàm Đồn, Đồn Tre, Cây Gáo quan mông... Những con đường tượng, đường gạo từ phía biên giới Vĩnh Hưng - Svayriêng đi về Gò Tháp.
Gò này có 2 giồng chạy song song như hai con cù, phía trên giới hạn bởi rạch Cá Rô, phía dưới là rạch Bà Kén, tạo thành 2 rộc lung chạy vô Đồng Tháp Mười. Từ Gò Bắc Chiêng đến Gò Tháp gặp gò ông Hạp (khá cao) kế là gò Giồng Dung (xã Hậu Thanh Tây, Tân Thạnh, Long An).
Đường này nối với sông Vàm Cỏ Tây chính là một cửa ngõ giao thông có tầm chiến lược của nghĩa quân, nối liền trung tâm căn cứ kháng chiến với phần Đông Bắc Đồng Tháp Mười. Mộc Hóa là một vùng hậu cần quan trọng của cuộc kháng chiến. Nhiều gánh họ ở đây dài lên Bắc Chang, biên giới Campuchia là con cháu của nghĩa quân cùng vô khai hoang, đánh giặc dưới sự chỉ huy của Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều. Đây là đầu mối liên lạc với Tây Ninh và nhiều nơi khác ở miền Đông Nam bộ.
Đồn Tuyên Oai khi ấy thuộc loại vững mạnh vùng ngoại vi có chừng 120 nghĩa quân đóng giữ được trang bị 15 súng cò máy đá. Năm 1945- 1946, nhân dân còn phát hiện 1 số khẩu súng loại này tại đây.
Trong vùng còn những địa danh liên quan đến thời nghĩa quân như Lò Gạch, Gò Thiềng (tức Gò Thành), Vàm Đồn, Đồn Tre, Cây Gáo quan mông... Những con đường tượng, đường gạo từ phía biên giới Vĩnh Hưng - Svayriêng đi về Gò Tháp.
*
* *
* *
Phía Tây Nam, con sông Cần Lố là
thủy đạo quan trọng của Đồng Tháp Mười. Sông rộng,
sâu, quanh năm đều có thể đi lại được. Hầu hết
lương thực, vũ khí đạn dược từ An Giang, Hà Tiên,
Rạch Giá tiếp tế cho căn cứ đều qua ngã này.
Con sông uốn lượn, ẩn hiện giữa hai hàng cây rậm rạp, nhiều lau lách, sậy đế, có nhiều nhánh nhỏ giao với các con sông khác, khi gặp trở ngại dễ len lách mà đi.
Ngoài đồn Doi cạnh sông Tiền và đồn Sa Tiền chỗ ngã ba Trà Bông, nghĩa quân còn đặt nhiều trạm canh tàu giặc (Chú thích: Gò Tháp hiện nay thuộc ấp 4, xã Tân Kiền, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.).
Cũng như các tiền đồn khác, Đồn Doi và đồn Sa Tiền có từ 100 đến 150 nghĩa quân, còn các tháp canh thì khoảng 10 nghĩa quân.
III. Công tác tổ chức:
- Khi vào lập căn cứ Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, vận động, kêu gọi nhân dân tham gia kháng chiến, kể cả việc tranh thủ sự giúp đỡ của quân triều đình ở 3 tỉnh miền Tây.
- Nhờ vậy trong hàng ngũ của ông có nhiều thành phần tham gia: Nho sĩ, điền chủ, nông dân... gồm người Việt, người Hoa, người Khmer, ngay cả lính Pháp, lính Tagal cũng bỏ hàng ngũ theo về. Cuộc chiến đấu ở Đồng Tháp Mười rõ ràng là sự hợp tác giữa những người yêu công lý, chuộng tự do, không phân biệt tầng lớp, màu da, sắc tộc
- Nghĩa quân ở Đại bản doanh Gò Tháp, 3 đồn chính và trên 10 đồn phụ có hơn 200 người (Chú thích: Bốn đồn chính mỗi đồn 300 người. Trên mười đồn phụ, mỗi đồn trung bình 100 người. Tổng cộng có trên 2.000 người. Nếu tính luôn dân binh còn vượt hơn con số này)
Lực lượng chính là quân đồn điền tại chỗ, lúc bình thường thì theo việc đồng áng, lúc rỗi thì luyện tập võ nghệ, khi có giặc thì cầm súng chiến đấu trên mảnh đất của mình hoặc được điều ra trận.
Những trung tâm chính là đất Ba Giồng, Xoài Tư, Rạch Ruộng, Cần Lố... Trại ruộng của hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đạo Ngoạn khai mở tại vùng Trà Bông cũng cung cấp không nhỏ về quân lính và lương thực. Phía đồn Tả thì có vùng Mộc Hóa, từ Gò Bắc Chiêng lên Bắc Giang, Long Khất, Cái Cỏ, Thông Bình...
Lực lượng mộ nghĩa của Trương Định ở Gò Công cũng được thu hút vào đây tiếp tục chiến đấu.
Con sông uốn lượn, ẩn hiện giữa hai hàng cây rậm rạp, nhiều lau lách, sậy đế, có nhiều nhánh nhỏ giao với các con sông khác, khi gặp trở ngại dễ len lách mà đi.
Ngoài đồn Doi cạnh sông Tiền và đồn Sa Tiền chỗ ngã ba Trà Bông, nghĩa quân còn đặt nhiều trạm canh tàu giặc (Chú thích: Gò Tháp hiện nay thuộc ấp 4, xã Tân Kiền, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.).
Cũng như các tiền đồn khác, Đồn Doi và đồn Sa Tiền có từ 100 đến 150 nghĩa quân, còn các tháp canh thì khoảng 10 nghĩa quân.
III. Công tác tổ chức:
- Khi vào lập căn cứ Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, vận động, kêu gọi nhân dân tham gia kháng chiến, kể cả việc tranh thủ sự giúp đỡ của quân triều đình ở 3 tỉnh miền Tây.
- Nhờ vậy trong hàng ngũ của ông có nhiều thành phần tham gia: Nho sĩ, điền chủ, nông dân... gồm người Việt, người Hoa, người Khmer, ngay cả lính Pháp, lính Tagal cũng bỏ hàng ngũ theo về. Cuộc chiến đấu ở Đồng Tháp Mười rõ ràng là sự hợp tác giữa những người yêu công lý, chuộng tự do, không phân biệt tầng lớp, màu da, sắc tộc
- Nghĩa quân ở Đại bản doanh Gò Tháp, 3 đồn chính và trên 10 đồn phụ có hơn 200 người (Chú thích: Bốn đồn chính mỗi đồn 300 người. Trên mười đồn phụ, mỗi đồn trung bình 100 người. Tổng cộng có trên 2.000 người. Nếu tính luôn dân binh còn vượt hơn con số này)
Lực lượng chính là quân đồn điền tại chỗ, lúc bình thường thì theo việc đồng áng, lúc rỗi thì luyện tập võ nghệ, khi có giặc thì cầm súng chiến đấu trên mảnh đất của mình hoặc được điều ra trận.
Những trung tâm chính là đất Ba Giồng, Xoài Tư, Rạch Ruộng, Cần Lố... Trại ruộng của hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đạo Ngoạn khai mở tại vùng Trà Bông cũng cung cấp không nhỏ về quân lính và lương thực. Phía đồn Tả thì có vùng Mộc Hóa, từ Gò Bắc Chiêng lên Bắc Giang, Long Khất, Cái Cỏ, Thông Bình...
Lực lượng mộ nghĩa của Trương Định ở Gò Công cũng được thu hút vào đây tiếp tục chiến đấu.
Một số người Việt trước kia
vì lầm đường theo Pháp cũng trở về tình nguyện xin
được tham gia lập công chuộc tội.
- Bên cạnh chủ tướng Võ Duy Dương có phó tướng Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều), Lê Kim (Trần Trọng Khiêm) và nhiều thuộc tướng khác, cả văn lẫn võ như lãnh binh Dương, Bùi Quang Diệu, Trần Kỳ Phong, Nguyễn Văn Cẩn, Lê Văn ông, Võ Văn Khả, Trương Tấn Minh (Miêng), Võ Cẩm Tấn, Huấn Hiệu, Thống Linh, Thống Bình, Thống Chiếu, Thống Lãnh, Thống Cử... Huỳnh Lục, Huỳnh Thất, Phòng Biểu, Phòng Chơn, Hộ vệ Tân, Đội Nghị, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn, Thông Phụng, Bổn Lê, Tham Đa, Quản võ, Quản văn... có cả các lương y và thầy thuốc rắn: Lệ Huy Nhạc, Thủ Chiếu, Năm Hơn...
- Bên cạnh hệ thống quân sự, còn có bộ máy chính quyền kháng chiến "Những người tham gia hay được chiêu mộ, tùy theo năng lực, văn bằng, công trạng đều được Võ Duy Dương phong ấn tước, phẩm hàm... Trong một lá đơn của bà Cù Thị Quít gởi cho chính quyền thực dân xin ân xá cho chồng là Trần Văn Trà (Phủ Trà) có đoạn viết:
"Lạy quan lớn xin xuống phước cho chồng tôi là Trần Văn Trà, nguyên chồng tôi là Tú Tài năm Bính Dần (1866) thì Bùi Quang Diệu và Võ Duy Dương ép biểu chồng tôi mà phong bằng cấp cho chồng tôi là Tuyên phủ sứ, qua năm Kỷ Tỵ, tháng giêng thì chồng tôi đem súng và bằng cấp và ấn truyện (triện) hết thảy ra mà thu..." (Chú thích: Dossiers Individuels des Condamnés Politiques 1863-1878. Kho lưu trữ Trung ương II. SL 1840), đã cho ta thấy rõ điều này.
Đồng Tháp Mười thật sự trở thành trung tâm kháng chiến thu hút hầu hết các lực lượng nghĩa quân ở Nam kỳ trong thời kỳ 1864- 1866.
“Lại việc nữa: quan Tây có đến Vĩnh Long nói: tháng chạp qua, đảng của Thiên Hộ Dương, tên Quản Là đã đánh giết 4 người Tây, bắt sống một. Nói lên rằng đã giải đến Tháp Mười, nạp cho Thiên Hộ Dương..." (Chú thích: Chỉ dụ ngày 1 tháng 3 năm Tự Đức thứ 18 (1865)).
Phải chăng “chính quyền kháng chiến" này được hình thành theo chỉ dụ mật của triều đình hay ít ra nó cũng được mặc nhận. Với mục đích cuối cùng là lấy lại phần đất đã mất. Đó là nguyện vọng của nhân dân đồng thời là lợi ích của Vua.
"Ông còn nhận được bức thánh chỉ đề tháng 6, truyền lệnh cho ông phải mời quan Tổng Đốc Gia Định Bùi Quang Diệu và tham tán Bùi Tân. Các quan chức này đã đến Tháp Mười chỉ mang theo 80 người vào tháng 11, họ quay trở lại Gia Định để nhận vài chỉ thị mới (Chú thích: Gustave Janneau, tài liệu đd.).
- Ngoài việc xây cất các đồn lũy, tháp canh chiến đấu, nghĩa quân chia nhau đi đốn tre, tràm, sậy, đưng về dựng lán trại trên các gò giồng hoặc trên các nền đất đắp ven các con đường gạo. Che tum nghỉ mát trong các vệt tràm để canh tác hoặc đi giăng câu, đặt lokp, đặt lờ bắt cá, bẫy chim, đào chuột, bắt trăn, rắn, rùa, đập lúa trời, móc củ co, hái sen, nhổ bông súng... Tại các khu vực đồn Trung, Tiền, Tả, Hữu đều có làm rẫy trồng khoai lang, khoai mì, đậu phộng, mè... đào giếng lấy nước uống và tưới rẫy. Cá ăn không hết thì làm khô, làm mắm để dành.
- Lương thực từ vùng ngoài tiếp tế vào chủ yếu là dự trữ... Mỗi nghĩa quân thật sự là một nông dân dầm mưa giãi nắng, giỏi bơi lội, chống xuồng trên đồng nước. Phương tiện đi lại chủ yếu là xuồng, ghe, phổ biến là xuồng cui, xuồng ba lá, xuồng lìm kìm mũi nhọn 2 đầu để lướt nhanh trên đồng cỏ và xoay trở tùy ý. Nghĩa quân còn sáng lạo ra chiếc sào nang để chống qua bưng trấp dày đặc sen súng, lục bình, cỏ mồm... vì những nơi đó nước sâu, đất sình chống sào thường sẽ bị lún sâu, hụt hẫng khó nhổ sào lên để chống tiếp.
- Mùa khô thì đi bộ len lỏi theo đường mòn hoặc cỡi trâu, đi lĩa trâu, đi cộ.
Ngoài những thứ do gia đình, nhân dân tiếp tế, nghĩa quân còn biết giả bàng đươn đệm, làm nóp để ngủ, kết quần để mặc trong sinh hoạt hàng ngày và những lúc khó khăn. Thực tế thì loại đồng phục quân đồn điền không nhiều lắm và không phải ai cũng có. Vã lại phải để dành khi hội quân, tập kích.
- Bên cạnh chủ tướng Võ Duy Dương có phó tướng Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều), Lê Kim (Trần Trọng Khiêm) và nhiều thuộc tướng khác, cả văn lẫn võ như lãnh binh Dương, Bùi Quang Diệu, Trần Kỳ Phong, Nguyễn Văn Cẩn, Lê Văn ông, Võ Văn Khả, Trương Tấn Minh (Miêng), Võ Cẩm Tấn, Huấn Hiệu, Thống Linh, Thống Bình, Thống Chiếu, Thống Lãnh, Thống Cử... Huỳnh Lục, Huỳnh Thất, Phòng Biểu, Phòng Chơn, Hộ vệ Tân, Đội Nghị, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn, Thông Phụng, Bổn Lê, Tham Đa, Quản võ, Quản văn... có cả các lương y và thầy thuốc rắn: Lệ Huy Nhạc, Thủ Chiếu, Năm Hơn...
- Bên cạnh hệ thống quân sự, còn có bộ máy chính quyền kháng chiến "Những người tham gia hay được chiêu mộ, tùy theo năng lực, văn bằng, công trạng đều được Võ Duy Dương phong ấn tước, phẩm hàm... Trong một lá đơn của bà Cù Thị Quít gởi cho chính quyền thực dân xin ân xá cho chồng là Trần Văn Trà (Phủ Trà) có đoạn viết:
"Lạy quan lớn xin xuống phước cho chồng tôi là Trần Văn Trà, nguyên chồng tôi là Tú Tài năm Bính Dần (1866) thì Bùi Quang Diệu và Võ Duy Dương ép biểu chồng tôi mà phong bằng cấp cho chồng tôi là Tuyên phủ sứ, qua năm Kỷ Tỵ, tháng giêng thì chồng tôi đem súng và bằng cấp và ấn truyện (triện) hết thảy ra mà thu..." (Chú thích: Dossiers Individuels des Condamnés Politiques 1863-1878. Kho lưu trữ Trung ương II. SL 1840), đã cho ta thấy rõ điều này.
Đồng Tháp Mười thật sự trở thành trung tâm kháng chiến thu hút hầu hết các lực lượng nghĩa quân ở Nam kỳ trong thời kỳ 1864- 1866.
“Lại việc nữa: quan Tây có đến Vĩnh Long nói: tháng chạp qua, đảng của Thiên Hộ Dương, tên Quản Là đã đánh giết 4 người Tây, bắt sống một. Nói lên rằng đã giải đến Tháp Mười, nạp cho Thiên Hộ Dương..." (Chú thích: Chỉ dụ ngày 1 tháng 3 năm Tự Đức thứ 18 (1865)).
Phải chăng “chính quyền kháng chiến" này được hình thành theo chỉ dụ mật của triều đình hay ít ra nó cũng được mặc nhận. Với mục đích cuối cùng là lấy lại phần đất đã mất. Đó là nguyện vọng của nhân dân đồng thời là lợi ích của Vua.
"Ông còn nhận được bức thánh chỉ đề tháng 6, truyền lệnh cho ông phải mời quan Tổng Đốc Gia Định Bùi Quang Diệu và tham tán Bùi Tân. Các quan chức này đã đến Tháp Mười chỉ mang theo 80 người vào tháng 11, họ quay trở lại Gia Định để nhận vài chỉ thị mới (Chú thích: Gustave Janneau, tài liệu đd.).
- Ngoài việc xây cất các đồn lũy, tháp canh chiến đấu, nghĩa quân chia nhau đi đốn tre, tràm, sậy, đưng về dựng lán trại trên các gò giồng hoặc trên các nền đất đắp ven các con đường gạo. Che tum nghỉ mát trong các vệt tràm để canh tác hoặc đi giăng câu, đặt lokp, đặt lờ bắt cá, bẫy chim, đào chuột, bắt trăn, rắn, rùa, đập lúa trời, móc củ co, hái sen, nhổ bông súng... Tại các khu vực đồn Trung, Tiền, Tả, Hữu đều có làm rẫy trồng khoai lang, khoai mì, đậu phộng, mè... đào giếng lấy nước uống và tưới rẫy. Cá ăn không hết thì làm khô, làm mắm để dành.
- Lương thực từ vùng ngoài tiếp tế vào chủ yếu là dự trữ... Mỗi nghĩa quân thật sự là một nông dân dầm mưa giãi nắng, giỏi bơi lội, chống xuồng trên đồng nước. Phương tiện đi lại chủ yếu là xuồng, ghe, phổ biến là xuồng cui, xuồng ba lá, xuồng lìm kìm mũi nhọn 2 đầu để lướt nhanh trên đồng cỏ và xoay trở tùy ý. Nghĩa quân còn sáng lạo ra chiếc sào nang để chống qua bưng trấp dày đặc sen súng, lục bình, cỏ mồm... vì những nơi đó nước sâu, đất sình chống sào thường sẽ bị lún sâu, hụt hẫng khó nhổ sào lên để chống tiếp.
- Mùa khô thì đi bộ len lỏi theo đường mòn hoặc cỡi trâu, đi lĩa trâu, đi cộ.
Ngoài những thứ do gia đình, nhân dân tiếp tế, nghĩa quân còn biết giả bàng đươn đệm, làm nóp để ngủ, kết quần để mặc trong sinh hoạt hàng ngày và những lúc khó khăn. Thực tế thì loại đồng phục quân đồn điền không nhiều lắm và không phải ai cũng có. Vã lại phải để dành khi hội quân, tập kích.
- Hàng ngày nghĩa quân còn luyện tập võ nghệ, sử
dụng giáo mác dưới sự hướng dẫn của người thủ
lĩnh tại chỗ.
- Tại các đồn chính, nhất là tại Đại bản doanh có mở những đợt huấn luyện hẳn hoi về bắn súng, đấu gươm, các thao tác quân sự chính qui do Linguet và các chiến sĩ Bắc Phi đảm nhận. Vốn là những tù binh của Pháp ở Maroc, Algérie, Tunisie... tuy ngôn ngữ bất đồng, nhưng cùng cảnh ngộ với đất nước ta. Họ đã nhận ra sự phi nghĩa, khi phải cầm súng bắn giết nhân dân An Nam. Do đó, họ đã bỏ hàng ngũ để đứng về phía nghĩa quân. Sự chịu đựng gian khổ. lòng nhiệt tình, dũng cảm của họ đã kích thích tinh thần hăng say luyện tập và chiến đấu của nghĩa quân.
- Những đêm trăng sáng là dịp hội quân, các đồn cử người về Đại bản doanh thi thố tài năng, trao đổi từng đường đao thế kiếm, cách mài gươm. Sức mạnh cử nổi 5 trái linh, kéo bè gỗ... của ngài Ngũ Linh thiên Hộ đã từng được mọi người truyền tụng thì nay đường roi "song đôi”, “thượng bảo kỳ thân, hạ bảo kỳ mã" vung vút trên lưng trâu đã làm cho các ông Thủ Chiếu, Nhiêu Chấn và Thông Phụng đón đánh một cách vất vả, sau cùng, các ông đành bó tay.
Không chỉ có sức mạnh phi thường, võ nghệ tinh thông, trong những cuộc hội quân. Người còn nói lên những câu đầy khẩu khí:
“Thà làm quỷ không đầu, không làm trâu mang ách"
Đáp lại nghĩa cả ấy, nghĩa quân sôi sục lòng yêu nước, nêu cao khẩu hiệu chiến đấu:
“Thà chết không qui phục thằng Cốt Đột" (tức là Pháp)
Dẫu thác ở chốn lau xanh không nhục chí anh hùng của trai Nam Việt (Chú thích: Bước đầu tìm hiểu về Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều và cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Đồng Tháp Mười, tài liệu đánh máy dày 8 trang của Khoa Sử, trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh năm 1979)
Nhiều tấm gương sáng còn lưu lại đến ngày nay như câu chuyện “ông Dật ông Đà".
ông Dật - Một người đỗ tú tài - được Võ Duy Dương phái ra vùng Cao Lãnh chiêu dụ sĩ tử và nắm tình hình của Pháp do viên đội Courcy điều khiển.
Nhờ tài học của mình, ông Dật bí mật hoạt động trong vùng giặc chiếm, giao thiệp với các nhà yêu nước và các sĩ từ ẩn dật.
Việc bại lộ, ông Dật bị bắt giam lỏng tại nhà ông Thông Tri, có người phục dịch cơm nước, rượu trà theo kế của ông Đà - một người bạn học của ông Dật, đang cộng sự với viên đội Courcy. Cuối cùng ông Dật đã chọn phần thưởng danh dự là cái chết.
Tiêu biểu là ông Thống Linh. Thống Linh tên thật là Nguyễn Văn Linh, sinh năm 1815 tại làng Mỹ Ngãi, với võ nghệ cao cường, chí khí hiên ngang, ông đứng ra chiêu mộ binh sĩ hoạt động tại Cao Lãnh, Cần Lố. Nghĩa dũng trong vùng đến đầu quân rất đông mà ông là người thống lãnh binh quyền nên được gọi tắt là Thống Linh.
Ông áp dụng lối đánh du kích, ban đêm kéo quân ra tập kích đồn Pháp tại vàm Cần Lố. Trần Bá Lộc nhiều lần mang quân bao vây, đánh lấn ông vào sâu trong Đồng Tháp Mười.
Một hôm, từ căn cứ ông về vận động quân lương ở vùng Cao Lãnh, nhân tiện ghé thăm gia đình tại Mỹ Ngãi. Có kẻ điểm chỉ, Pháp mang quân bao vây bắt được ông. Chúng dụ ông hàng, ông không chịu. Thế là chúng xử chém ông cùng một lúc với Thống Bình, Thống Chiếu tại chợ ông Chánh (Chú thích: Nay là chợ Mỹ Ngãi (phường 1, TX Cao Lãnh)
Trước khi chết, ông vẫn thản nhiên ngâm 2 câu thơ:
- Tại các đồn chính, nhất là tại Đại bản doanh có mở những đợt huấn luyện hẳn hoi về bắn súng, đấu gươm, các thao tác quân sự chính qui do Linguet và các chiến sĩ Bắc Phi đảm nhận. Vốn là những tù binh của Pháp ở Maroc, Algérie, Tunisie... tuy ngôn ngữ bất đồng, nhưng cùng cảnh ngộ với đất nước ta. Họ đã nhận ra sự phi nghĩa, khi phải cầm súng bắn giết nhân dân An Nam. Do đó, họ đã bỏ hàng ngũ để đứng về phía nghĩa quân. Sự chịu đựng gian khổ. lòng nhiệt tình, dũng cảm của họ đã kích thích tinh thần hăng say luyện tập và chiến đấu của nghĩa quân.
- Những đêm trăng sáng là dịp hội quân, các đồn cử người về Đại bản doanh thi thố tài năng, trao đổi từng đường đao thế kiếm, cách mài gươm. Sức mạnh cử nổi 5 trái linh, kéo bè gỗ... của ngài Ngũ Linh thiên Hộ đã từng được mọi người truyền tụng thì nay đường roi "song đôi”, “thượng bảo kỳ thân, hạ bảo kỳ mã" vung vút trên lưng trâu đã làm cho các ông Thủ Chiếu, Nhiêu Chấn và Thông Phụng đón đánh một cách vất vả, sau cùng, các ông đành bó tay.
Không chỉ có sức mạnh phi thường, võ nghệ tinh thông, trong những cuộc hội quân. Người còn nói lên những câu đầy khẩu khí:
“Thà làm quỷ không đầu, không làm trâu mang ách"
Đáp lại nghĩa cả ấy, nghĩa quân sôi sục lòng yêu nước, nêu cao khẩu hiệu chiến đấu:
“Thà chết không qui phục thằng Cốt Đột" (tức là Pháp)
Dẫu thác ở chốn lau xanh không nhục chí anh hùng của trai Nam Việt (Chú thích: Bước đầu tìm hiểu về Thiên Hộ Dương - Đốc Binh Kiều và cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Đồng Tháp Mười, tài liệu đánh máy dày 8 trang của Khoa Sử, trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh năm 1979)
Nhiều tấm gương sáng còn lưu lại đến ngày nay như câu chuyện “ông Dật ông Đà".
ông Dật - Một người đỗ tú tài - được Võ Duy Dương phái ra vùng Cao Lãnh chiêu dụ sĩ tử và nắm tình hình của Pháp do viên đội Courcy điều khiển.
Nhờ tài học của mình, ông Dật bí mật hoạt động trong vùng giặc chiếm, giao thiệp với các nhà yêu nước và các sĩ từ ẩn dật.
Việc bại lộ, ông Dật bị bắt giam lỏng tại nhà ông Thông Tri, có người phục dịch cơm nước, rượu trà theo kế của ông Đà - một người bạn học của ông Dật, đang cộng sự với viên đội Courcy. Cuối cùng ông Dật đã chọn phần thưởng danh dự là cái chết.
Tiêu biểu là ông Thống Linh. Thống Linh tên thật là Nguyễn Văn Linh, sinh năm 1815 tại làng Mỹ Ngãi, với võ nghệ cao cường, chí khí hiên ngang, ông đứng ra chiêu mộ binh sĩ hoạt động tại Cao Lãnh, Cần Lố. Nghĩa dũng trong vùng đến đầu quân rất đông mà ông là người thống lãnh binh quyền nên được gọi tắt là Thống Linh.
Ông áp dụng lối đánh du kích, ban đêm kéo quân ra tập kích đồn Pháp tại vàm Cần Lố. Trần Bá Lộc nhiều lần mang quân bao vây, đánh lấn ông vào sâu trong Đồng Tháp Mười.
Một hôm, từ căn cứ ông về vận động quân lương ở vùng Cao Lãnh, nhân tiện ghé thăm gia đình tại Mỹ Ngãi. Có kẻ điểm chỉ, Pháp mang quân bao vây bắt được ông. Chúng dụ ông hàng, ông không chịu. Thế là chúng xử chém ông cùng một lúc với Thống Bình, Thống Chiếu tại chợ ông Chánh (Chú thích: Nay là chợ Mỹ Ngãi (phường 1, TX Cao Lãnh)
Trước khi chết, ông vẫn thản nhiên ngâm 2 câu thơ:
“Rất tiếc thù
chung chưa trả được
Sụt sùi chín suối dễ nào quên".
Sụt sùi chín suối dễ nào quên".
Trong bộ tham mưu của Võ Duy Dương có "ngũ hổ
tướng": Thủ Chiếu, Phòng Biểu, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn
và Thông Phụng là những bậc túc trí thâm nho, xuất thân
từ khoa cử của triều đình.
Song, ông Thông Phụng rất giỏi võ nghệ, lại đắc lực nên được ngài Thiên Hộ yêu mến kính nể. Những việc cơ mật, Võ Duy Dương đều bàn riêng với ông Thông Phụng. Vì thế cho nên ông Phòng Biểu và ông Nhiêu Bá ganh tỵ, thường tỏ thái độ bất mãn của mình cho ông Nhiêu Chấn và ông Thủ Chiếu nghe.
Việc thấu tai Võ Duy Dương, nhân một buổi mừng công đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Động Cát, Ngài mời “ngũ hổ Tướng" đến phòng riêng đàm đạo và rót rượu mời từng vị. Trong không khí cởi mở, chan hòa ấy, Ngài đã kể một câu chuyện Tàu với tích "Liêm Pha và Lạng Tương Như" ngụ ý chê trách sự hiềm khích, hiểu lầm nhau. Mối bất hòa trong nội bộ nhờ đó mà xóa tan.
Võ Duy Dương còn liên kết với các thủ lĩnh nghĩa quân khác như Bùi Quang Diệu (Quản Là) ở Cần Giuộc. Trần Văn Phú (Trần Võ). Nguyễn Trị, Trương Quyền ở Tây Ninh... liên kết cả Poucombo, Achaxoa đang hoạt động mạnh ở biên giới từ Tây Ninh đến An Giang.
Tháng giêng 1864, Phó đề đốc Nguyễn Hữu Huân, tham mưu của Võ Duy Dương, khi sang An Giang vận động quân giới, quân lương đã có quan hệ mật thiết với Acha-xoa, một thủ lĩnh Khmer đang lập căn cứ chống Pháp tại vùng Châu Đốc-Tà Keo.
Năm 1865, nhiều lần Võ Duy Dương cử đoàn thuyền theo đường Mộc Hóa Sveyriêng hoặc ngược mạn sông Tiền lên tiếp tế lương thực, vũ khí cho Poucombo, một thủ lĩnh Khmer khác đang hoạt động trong vùng bắc Campuchia và Tây Ninh.
Như vậy. đương nhiên hình thành một Mặt trận chống Pháp toàn Nam kỳ mặc dù lệnh của Tự Đức cấm không cho ai mộ binh chống Pháp (tháng 2- 1865).
Pháp bị căng kéo khắp nơi, lúng túng trong việc phân tán và tập trung, giữ đất và lấn chiếm.
Rõ ràng, bên ngoài Võ Duy Dương là một ngọn cờ đầu. Bên trong, ông tạo được niềm tin vững chắc và sự tương thân, tương ái. Mỗi người vừa là nông dân vừa là nghĩa binh "tay cày tay súng". Nhờ vậy, hoạt động xâm nhập của giặc, nghĩa quân có thể phát hiện và ngăn chặn từ xa. Suốt thời gian dài hệ thống đồn lũy và đại bản doanh vẫn là dấu hỏi lớn đối với Pháp.
Song, ông Thông Phụng rất giỏi võ nghệ, lại đắc lực nên được ngài Thiên Hộ yêu mến kính nể. Những việc cơ mật, Võ Duy Dương đều bàn riêng với ông Thông Phụng. Vì thế cho nên ông Phòng Biểu và ông Nhiêu Bá ganh tỵ, thường tỏ thái độ bất mãn của mình cho ông Nhiêu Chấn và ông Thủ Chiếu nghe.
Việc thấu tai Võ Duy Dương, nhân một buổi mừng công đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Động Cát, Ngài mời “ngũ hổ Tướng" đến phòng riêng đàm đạo và rót rượu mời từng vị. Trong không khí cởi mở, chan hòa ấy, Ngài đã kể một câu chuyện Tàu với tích "Liêm Pha và Lạng Tương Như" ngụ ý chê trách sự hiềm khích, hiểu lầm nhau. Mối bất hòa trong nội bộ nhờ đó mà xóa tan.
Võ Duy Dương còn liên kết với các thủ lĩnh nghĩa quân khác như Bùi Quang Diệu (Quản Là) ở Cần Giuộc. Trần Văn Phú (Trần Võ). Nguyễn Trị, Trương Quyền ở Tây Ninh... liên kết cả Poucombo, Achaxoa đang hoạt động mạnh ở biên giới từ Tây Ninh đến An Giang.
Tháng giêng 1864, Phó đề đốc Nguyễn Hữu Huân, tham mưu của Võ Duy Dương, khi sang An Giang vận động quân giới, quân lương đã có quan hệ mật thiết với Acha-xoa, một thủ lĩnh Khmer đang lập căn cứ chống Pháp tại vùng Châu Đốc-Tà Keo.
Năm 1865, nhiều lần Võ Duy Dương cử đoàn thuyền theo đường Mộc Hóa Sveyriêng hoặc ngược mạn sông Tiền lên tiếp tế lương thực, vũ khí cho Poucombo, một thủ lĩnh Khmer khác đang hoạt động trong vùng bắc Campuchia và Tây Ninh.
Như vậy. đương nhiên hình thành một Mặt trận chống Pháp toàn Nam kỳ mặc dù lệnh của Tự Đức cấm không cho ai mộ binh chống Pháp (tháng 2- 1865).
Pháp bị căng kéo khắp nơi, lúng túng trong việc phân tán và tập trung, giữ đất và lấn chiếm.
Rõ ràng, bên ngoài Võ Duy Dương là một ngọn cờ đầu. Bên trong, ông tạo được niềm tin vững chắc và sự tương thân, tương ái. Mỗi người vừa là nông dân vừa là nghĩa binh "tay cày tay súng". Nhờ vậy, hoạt động xâm nhập của giặc, nghĩa quân có thể phát hiện và ngăn chặn từ xa. Suốt thời gian dài hệ thống đồn lũy và đại bản doanh vẫn là dấu hỏi lớn đối với Pháp.
“Đã nghe sắt lửa
âm thầm dậy
Tiếng gọi từ xa thúc giục hoài
Há chịu làm thân trâu ngựa mãi
Chim lồng sao để hát bi ai!”
Tiếng gọi từ xa thúc giục hoài
Há chịu làm thân trâu ngựa mãi
Chim lồng sao để hát bi ai!”
(Chú thích: Đào Văn Hội, Tân An ngày xưa. Sai gon. 1972 trang 82.)
Đồng Tháp Mười bao la, bát ngát, chốn hoang dã thâm u tự bao đời, đang giấu kín trong lòng nó một sự rộn ràng kể từ khi nghĩa quân vào lập căn cứ. Tiếng gọi quê hương như vang vọng từ đây, thúc giục gái trai tìm tới gia nhập hàng ngũ chiến đấu hoặc ngày đêm tiếp lương, tải đạn.
Nếu để sinh hoạt bình thường, nghĩa quân có thể tự túc được bằng cách dựa vào kho tàng của thiên nhiên, cộng thêm một phần tăng gia sản xuất.
Đồng Tháp Mười, nơi tụ nghĩa thứ hai sau Gò Công. trở thành trung tâm kháng chiến mới của cả Nam kỳ. Ngày nào Pháp chưa đánh dẹp xong căn cứ này thì không thể lấn chiếm ba tỉnh miền Tây, và bên kia biên giới Cao Miên sẽ phải ảnh hường rất nhiều.
Với tầm vóc đó, nghĩa quân ráo riết vận động nhân dân quanh vùng từ Mộc Hóa, Tân An, Cai Lậy, Cái Bè, Sa Đéc, Cao Lãnh, Hồng Ngự... đóng góp sức người, sức của chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.
Ban đêm, nghĩa quân ra chợ quyên góp tiền, gạo muối của các nhà giàu. Thường nhà nào cũng quyên, không nhiều thì ít. Cũng có một số ra làm hương chức cho Pháp không muốn quyên cũng không dám quyên.
Hòa ước Sài Gòn (năm Nhâm Tuất 1862) có ràng buộc về
pháp lý, nhưng bên trong quan lại Nam triều ở các tỉnh
miền Tây vẫn âm thầm tiếp ứng. Một bộ phận quan
lính ở An Giang đã mang cả vũ khí sang Đồng Tháp Mười.
Trần Văn Thành, Quản Cơ An Giang, vâng lệnh triều đình mang quân sang nã tróc Võ Duy Dương, kỳ thực là cùng một vài vệ sĩ vượt thuyền qua sông Tiền, xuống Cần Lố, theo đường gạo vào đại bản doanh Gò Tháp. Chẳng biết triều đình có dặn ông “đưa cao đánh khẽ" không? Riêng Quản Thành rất mến mộ Võ Duy Dương và đã bày tỏ lòng mình quà bài thơ sau đây:
Trần Văn Thành, Quản Cơ An Giang, vâng lệnh triều đình mang quân sang nã tróc Võ Duy Dương, kỳ thực là cùng một vài vệ sĩ vượt thuyền qua sông Tiền, xuống Cần Lố, theo đường gạo vào đại bản doanh Gò Tháp. Chẳng biết triều đình có dặn ông “đưa cao đánh khẽ" không? Riêng Quản Thành rất mến mộ Võ Duy Dương và đã bày tỏ lòng mình quà bài thơ sau đây:
"Để biệt đó
lo đền thủy thổ
Đây cũng lòng ái quốc ưu quân.
Lịnh trời sai thần hạ phải vưng,
Lòng cũng biết ơn người nghĩa dõng.
Đạo quân thần là nghĩa trọng,
Niềm cơm áo phải lo đền ... "
Đây cũng lòng ái quốc ưu quân.
Lịnh trời sai thần hạ phải vưng,
Lòng cũng biết ơn người nghĩa dõng.
Đạo quân thần là nghĩa trọng,
Niềm cơm áo phải lo đền ... "
Cảm thông nhau trong tình yêu đất nước, hai ông trở thành hai người bạn cùng chí hướng. Sau cuộc gặp gỡ này, Võ Duy Dương ăn ý với Trần Văn Thành dùng chiến thuật “yểm kỳ tức cổ", giấu cờ im trống, không thanh trương uy thế ra ngoài...(Chú thích: Nguyễn Văn Hầu. Thiên Hộ Võ Duy Dương. Nguyệt San văn hóa số 51, 1960, tr. 383, 384. Trong bài, tác giả ghi sự kiện xảy ra vào cuối tháng 8 năm 1862. Thiết nghĩ thời gian này Võ Duy Dương đang đánh Pháp ở Bình Cách và Ba Giồng. Mãi đến cuối tháng 8-1864 khi Trương Định mất, Võ Duy Dương mới vào hẳn Đồng Tháp Mười để lập căn cứ.)
Tháng 5-1864, Nguyễn Hữu Huân bị bắt ở Châu Đốc, tiền bạc quyên góp mua sắm vũ khí đạn dược bị tịch thu, nhưng sức cổ vũ không bao giờ dập tắt. Nhiều đoàn thuyền đã bí mật vượt sông Hậu, sông Tiền chở khí giới và thuốc đạn tiến vào căn cứ. Các ngả Trà Cú Thượng, Trà Cú Hạ, kinh Phước Tuy, Vàm Xoài Hột... qua đường gạo Mộc Hóa, Cái Nứa cũng thường xuyên vận chuyển. Nhưng tấp nập nhất vẫn là con đường gạo Cần Lố.
Tại các tiền trạm, nghĩa quân túc trực đón nhận và vận chuyển tiếp.
Mùa nước thì xuồng ghe đi theo các con lung tự nhiên vào Đại bản doanh, mùa khô thì phân tán nhỏ cho cộ trâu, lía trâu kéo vào.
Việc tiếp tế cho nghĩa quân rất gian nan, khổ cực, nhiều người đã âm thầm đổ máu, nhất là từ đầu năm 1865 Pháp đóng đồn Mỹ Trà - Cần Lố. Nghĩa quân Thị Bầy đã hy sinh trong lúc mở con đường tắt từ Cần Lố qua Ba Sao và tên tuổi bà đã để lại với con rạch này “vàm Bà Bầy ".
Pháp có thể ngăn sông, đón ngõ nhưng không thể ngăn được lòng yêu nước của nhân dân. Đêm đêm, trên vùng sông nước các cô gái thả xuồng, ghe xuôi về căn cứ, lúc lặng lẽ lẩn tránh, lúc nhắn nhủ, động viên, thúc giục.
“Thuyền xuôi Châu Đốc, thả xuống Vàm Nao,
Thẳng tới Ba Sao coi chừng con nước dẫy .
Chị em ơi! Nào bầu, nào gạo, nào sắn, nào khoai,
Nào hũ mắm, cô Hai,
Nào bánh chai, chị Bảy,.
Chị em ta cứ vững tay chèo lái đem ra tận ải biên thùy;
Ta nuôi anh lính mộ, có sá gì nhiều nỗi lao dao
(Chú thích: Nguyễn Văn Hầu. Thiên Hộ Võ Duy Dương. Văn hóa Nguyệt san số 51 trang 382.)
IV Hoạt động của nghĩa quân
Đồng Tháp Mười:
Pháp nhận định về căn cứ Đồng Tháp Mười như sau:
“Tuy nhiên, còn một vùng khả nghi, chưa kiểm soát được, Đồng Tháp Mười. Chúng ta khó đi vào nội địa nhưng loạn quân chọn nơi ấy làm sào huyệt tốt, ra vào khủng bố các làng kế cận. Họ được tiếp tế võ khí đạn dược từ Hà Tiên và Rạch Giá chở đến (do Triều đình Huế). Đô đốc De Lagrandière phản đối việc ấy, cho rằng vi phạm hiệp ước 1862 nhưng triều đình chỉ trả lời bằng những lời “xã giao" (Chú thích: A. Schreiner. Sđd).
Như vậy, quân Pháp biết rất rõ rằng ở Đồng Tháp Mười còn một bộ phận rất lớn nghĩa quân đang hoạt động dưới sự lãnh đạo của Thiên Hộ Võ Duy Dương, nhưng chúng chưa nắm được sự bố phòng cụ thể của căn cứ. Chúng xoay qua dùng biện pháp ngoại giao, gây sức ép, buộc triều đình Huế ra chỉ dụ cho nghĩa quân Tháp Mười buông vũ khí đầu hàng. Mặt khác, chúng ráo riết thiết lập các đồn binh, trạm canh bao quanh địa bàn hoạt động của nghĩa quân. Đồng thời mạng lưới tình báo tung người dò tìm ngày đêm hệ thống đồn lũy, xác định rõ vị trí từng nơi nhất là Đại bản doanh. Tăng cường lực lượng bao vây, khống chế buộc nghĩa quân phải xuất đầu lộ diện cho chúng tiêu diệt.
Để khủng bố và đe dọa những người yêu nước, Pháp còn cho dời huyện lỵ Kiến Phong từ Mỹ Trà về Vàm Cần Lố, bố trí quân ở đây, thường được gọi là "Trường án Cần-Lố", điểm tiền tiêu của con đường gạo phía Tây Nam. Hằng ngày, quân Pháp theo rạch Cần Lố đi tảo thanh, hễ bắt được nghĩa quân hoặc tình nghi ai có quan hệ với nghĩa quân là đem về Trường án “trảm quyết và bêu đầu làm gương".
Sau gần một năm dùng kế “dấu cờ im trống" để lo xây dựng căn cứ, tích trữ quân lương... Võ Duy Dương nhận thấy nghĩa quân đã nhuần nhuyễn thao tác quân sự sau nhiều ngày luyện tập và tinh thần chiến đấu lên cao, không thể khoanh tay ngồi im chờ giặc đến mà phải dấy binh đánh đuổi quân xâm lược. Đó cũng là ý muốn của Võ Duy Dương đã nói với Nguyễn Tánh, vị Kinh phái (sứ giả thường lệ của kinh đô thuộc hàng chủ sự) vào tháng 5-1864.
“Tôi sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn nấp chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng tôi luôn luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd.)
Với mục đích lãnh đạo dân binh kháng chiến đến kỳ cùng để giành lại chủ quyền và đất đai đã mất, Võ Duy Dương đã thật sự đưa cuộc chiến đấu mới của mình tại Đồng Tháp Mười mang ý nghĩa "Dân chúng tự vệ”. Mặc dù lá cờ hiệu triệu lúc này là “Cần Vương cứu quốc" cho thích hợp với nhận thức của đa số đồng bào và sĩ phu - Địa bàn phát huy tác dụng nhất của chiến thuật này là những vùng tiếp giáp ngoại vi. Đó là vành đai dày mỏng trên dưới 10 km bao bọc chung quanh Đồng Tháp Mười từ Bắc Chang, Bắc Chiêng cặp theo sông Vàm Cỏ Tây xuống Thủ Thừa qua Tân An, Cai Lậy, Cái Bè, Rạch Ruộng, Cần Lố, Cao Lãnh, Đốc Vàng, Hồng Ngự. . .
Đặc điểm chung của vùng này là sông rạch quanh co chằng chịt, cây cối rậm rạp, dân cư tương đối đông đảo, nơi tranh chấp thường xuyên giữa 2 thế lực. Pháp mới đến bỡ ngỡ, ra sức xây dựng bộ máy hội tề, tìm cách chiêu dụ, mua chuộc nhân dân. Nghĩa quân quyết tâm đánh bật chúng ra khỏi địa bàn. Ít nhất cũng phải cô lập các đồn binh, ngăn chặn những vết dầu loang. Khi được tin có giặc ruồng bố, dân chúng ở đó tức tốc tản cư bỏ nhà không, vườn trống . . .
Hầu hết các cửa sông lớn, trước các đồn lũy, tàu địch đi lại dễ dàng, nghĩa quân đều phát động dân binh đắp cản, bằng vật liệu tại chỗ như tre, tràm, dừa... Quy mô nhất là hệ thống cản trên sông Vàm Cỏ Tây; từ trên phía Bắc Chiêng đổ xuống cho tới vùng sông Xoài, Bến Kè...
Đây là loại hình rất hiệu quả, Pháp không thể phát huy hết thế mạnh của mình là thủy quân, khi các thủy đạo quan trọng xâm nhập vào Đồng Tháp Mười đã bị đóng kín.
Pháp đã huy động nhân dân phá cản, đem tàu tới cột lòi tói kéo cho bung ra. Mỗi cản khai thông phải mất vài ngày. Xong cản này lại gặp cản khác...
Chiếc cầu khỉ, hầm chông, ong vò vẽ, ong lỗ, một trận đốt đồng... từ Quản Oai, Hầm Vồ, Bằng Lăng, Mỹ Thạnh, Động Cát, Mộc Hóa đều có thể trở thành tai vạ đối với Pháp. Đi lẻ tẻ bị bắn tia, tập trung bị tập kích. Ở trong nhà trong đình, chùa bị phóng hỏa. Đỉa, muỗi, rắn rết, sình lầy, nắng cả, thần phật... dường như cũng tiếp sức với nghĩa quân làm tiêu hao sinh lực Pháp.
Pháp nhận định về căn cứ Đồng Tháp Mười như sau:
“Tuy nhiên, còn một vùng khả nghi, chưa kiểm soát được, Đồng Tháp Mười. Chúng ta khó đi vào nội địa nhưng loạn quân chọn nơi ấy làm sào huyệt tốt, ra vào khủng bố các làng kế cận. Họ được tiếp tế võ khí đạn dược từ Hà Tiên và Rạch Giá chở đến (do Triều đình Huế). Đô đốc De Lagrandière phản đối việc ấy, cho rằng vi phạm hiệp ước 1862 nhưng triều đình chỉ trả lời bằng những lời “xã giao" (Chú thích: A. Schreiner. Sđd).
Như vậy, quân Pháp biết rất rõ rằng ở Đồng Tháp Mười còn một bộ phận rất lớn nghĩa quân đang hoạt động dưới sự lãnh đạo của Thiên Hộ Võ Duy Dương, nhưng chúng chưa nắm được sự bố phòng cụ thể của căn cứ. Chúng xoay qua dùng biện pháp ngoại giao, gây sức ép, buộc triều đình Huế ra chỉ dụ cho nghĩa quân Tháp Mười buông vũ khí đầu hàng. Mặt khác, chúng ráo riết thiết lập các đồn binh, trạm canh bao quanh địa bàn hoạt động của nghĩa quân. Đồng thời mạng lưới tình báo tung người dò tìm ngày đêm hệ thống đồn lũy, xác định rõ vị trí từng nơi nhất là Đại bản doanh. Tăng cường lực lượng bao vây, khống chế buộc nghĩa quân phải xuất đầu lộ diện cho chúng tiêu diệt.
Để khủng bố và đe dọa những người yêu nước, Pháp còn cho dời huyện lỵ Kiến Phong từ Mỹ Trà về Vàm Cần Lố, bố trí quân ở đây, thường được gọi là "Trường án Cần-Lố", điểm tiền tiêu của con đường gạo phía Tây Nam. Hằng ngày, quân Pháp theo rạch Cần Lố đi tảo thanh, hễ bắt được nghĩa quân hoặc tình nghi ai có quan hệ với nghĩa quân là đem về Trường án “trảm quyết và bêu đầu làm gương".
Sau gần một năm dùng kế “dấu cờ im trống" để lo xây dựng căn cứ, tích trữ quân lương... Võ Duy Dương nhận thấy nghĩa quân đã nhuần nhuyễn thao tác quân sự sau nhiều ngày luyện tập và tinh thần chiến đấu lên cao, không thể khoanh tay ngồi im chờ giặc đến mà phải dấy binh đánh đuổi quân xâm lược. Đó cũng là ý muốn của Võ Duy Dương đã nói với Nguyễn Tánh, vị Kinh phái (sứ giả thường lệ của kinh đô thuộc hàng chủ sự) vào tháng 5-1864.
“Tôi sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn nấp chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng tôi luôn luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân" (Chú thích: Gustave Janneau. Tài liệu đd.)
Với mục đích lãnh đạo dân binh kháng chiến đến kỳ cùng để giành lại chủ quyền và đất đai đã mất, Võ Duy Dương đã thật sự đưa cuộc chiến đấu mới của mình tại Đồng Tháp Mười mang ý nghĩa "Dân chúng tự vệ”. Mặc dù lá cờ hiệu triệu lúc này là “Cần Vương cứu quốc" cho thích hợp với nhận thức của đa số đồng bào và sĩ phu - Địa bàn phát huy tác dụng nhất của chiến thuật này là những vùng tiếp giáp ngoại vi. Đó là vành đai dày mỏng trên dưới 10 km bao bọc chung quanh Đồng Tháp Mười từ Bắc Chang, Bắc Chiêng cặp theo sông Vàm Cỏ Tây xuống Thủ Thừa qua Tân An, Cai Lậy, Cái Bè, Rạch Ruộng, Cần Lố, Cao Lãnh, Đốc Vàng, Hồng Ngự. . .
Đặc điểm chung của vùng này là sông rạch quanh co chằng chịt, cây cối rậm rạp, dân cư tương đối đông đảo, nơi tranh chấp thường xuyên giữa 2 thế lực. Pháp mới đến bỡ ngỡ, ra sức xây dựng bộ máy hội tề, tìm cách chiêu dụ, mua chuộc nhân dân. Nghĩa quân quyết tâm đánh bật chúng ra khỏi địa bàn. Ít nhất cũng phải cô lập các đồn binh, ngăn chặn những vết dầu loang. Khi được tin có giặc ruồng bố, dân chúng ở đó tức tốc tản cư bỏ nhà không, vườn trống . . .
Hầu hết các cửa sông lớn, trước các đồn lũy, tàu địch đi lại dễ dàng, nghĩa quân đều phát động dân binh đắp cản, bằng vật liệu tại chỗ như tre, tràm, dừa... Quy mô nhất là hệ thống cản trên sông Vàm Cỏ Tây; từ trên phía Bắc Chiêng đổ xuống cho tới vùng sông Xoài, Bến Kè...
Đây là loại hình rất hiệu quả, Pháp không thể phát huy hết thế mạnh của mình là thủy quân, khi các thủy đạo quan trọng xâm nhập vào Đồng Tháp Mười đã bị đóng kín.
Pháp đã huy động nhân dân phá cản, đem tàu tới cột lòi tói kéo cho bung ra. Mỗi cản khai thông phải mất vài ngày. Xong cản này lại gặp cản khác...
Chiếc cầu khỉ, hầm chông, ong vò vẽ, ong lỗ, một trận đốt đồng... từ Quản Oai, Hầm Vồ, Bằng Lăng, Mỹ Thạnh, Động Cát, Mộc Hóa đều có thể trở thành tai vạ đối với Pháp. Đi lẻ tẻ bị bắn tia, tập trung bị tập kích. Ở trong nhà trong đình, chùa bị phóng hỏa. Đỉa, muỗi, rắn rết, sình lầy, nắng cả, thần phật... dường như cũng tiếp sức với nghĩa quân làm tiêu hao sinh lực Pháp.
Nghĩa quân đã dùng nhiều cách
đánh phù hợp với địa hình Đồng Tháp Mười như phục
kích trên đường mòn bất thần nổ súng, Pháp nhảy sang
một bên chống trả thế là vấp phải trấp (trên cỏ
dưới sình) càng vùng vẫy càng lún sâu, nghĩa quân từ
dưới trấp đội lục bình lên đánh.
Hoặc nhử chúng vào sâu bên trong rồi đồng loạt đốt đồng nổ súng. Lửa cháy ngùn ngụt, khói bay mù mịt bốn phía, phút chốc bị rơi vào biển lửa mênh mông, Pháp hoảng kinh vứt bỏ súng ống mà chạy (Chú thích: Ngày nay, đi khắp trong Đồng Tháp Mười, từ Cái Bè, Cai Lậy đến Gò Tháp, Mộc Hóa... đâu đâu chúng ta cũng được nghe các bậc kỳ lão kể chuyện Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều "Cấm cỏ 3 năm" đốt đồng đánh giặc. Ở Mộc Hóa còn địa danh “Đồng sọ Tây").
Võ Duy Dương đã tận dụng được những khả năng của nhân lực, vật lực Đồng Tháp Mười để chống Pháp, và đã đạt được những kết quả bất ngờ, gợi ý cho đời sau một bài học về lối đánh du kích xuất quỷ nhập thần.
Chúng ta hãy nghe Paulin Vial tiết lộ "Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng Carbine, họ cứ việc nhào vô và đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường” (Chú thích: Paulin Vial. sđd trang 189-201).
Trong một báo cáo gởi về Pháp Bonard đã nhận xét: “cuộc khởi nghĩa là thường trực, nơi nào nó cũng bị chặn lại, nhưng không nơi nào khởi nghĩa bị đánh tan, vì ta không đủ phương tiện" (Chú thích: Báo cáo ngày 14-1-1863 của Trung tướng Pháp Bonard).
Võ Duy Dương còn khai thác đúng mức khả năng chiến đấu của những người lính Tagals, lính Pháp đang ở trong hàng ngũ mình.
Trong tinh thần yêu chuộng tự do, hòa bình, chính nghĩa, lại được Võ Duy Dương cùng các thuộc tướng đối xử rất khoan dung, tin cẩn, các chiến sĩ tây phương và Bắc Phi này đã trở thành những viên tham mưu đắc lực trong việc tổ chức lực lượng, luyện tập quân sự và sử dụng binh khí. Ngoài ra họ còn xung phong đi đầu trong những cuộc đánh nghi trang. Các chiến sĩ Tây phương này đã giả dạng làm sĩ quan Pháp dẫn theo một số nghĩa quân ăn mặc như lính tập đi tuần để xuất kỳ bất ý đột nhập vào lấy đồn bót, bắt sống lính trong đồn, đoạt hết vũ khí, lương thực. Xong đặt chất nổ sẵn chờ tốp khác tới giật sập đồn.
Có nơi, các chiến sĩ để lại truyền đơn hoặc ghi trên vách bằng tiếng Pháp kêu gọi lính Pháp không nên phục vụ cho những kẻ xâm lược, phải sớm bỏ hàng ngũ về với chiến khu hoặc bỏ trốn qua Cao Miên, qua Xiêm tìm đường về Pháp.
Do đó, Võ Duy Dương đã lôi kéo được nhiều lính Pháp và Tagal về với ông, kể cả những người Việt trước kia lầm đường theo giặc.
Lối đánh du kích và đánh nghi trang dù tinh vi mấy cũng chỉ ở phòng ngự và lẻ tẻ mà thôi. Mục tiêu chính của nghĩa quân là phải nhổ hết các đồn bót của Pháp vây quanh Đồng Tháp Mười, đánh cho chúng từ bỏ ý chí xâm lược, trả lại 3 tỉnh miền Đông, xóa đi hiệp ước nhục nhã năm Nhâm Tuất (1862).
Đầu năm 1865, khí thế đánh du kích mở rộng đều khắp, nghĩa quân bắt đầu dồn lực lượng đánh kỳ tập.
Đáng nói nhứt là những trận tấn công Mỹ Trà, rồi Cái Bè, Mỹ Quý, Thủ Thừa . . .
Hoặc nhử chúng vào sâu bên trong rồi đồng loạt đốt đồng nổ súng. Lửa cháy ngùn ngụt, khói bay mù mịt bốn phía, phút chốc bị rơi vào biển lửa mênh mông, Pháp hoảng kinh vứt bỏ súng ống mà chạy (Chú thích: Ngày nay, đi khắp trong Đồng Tháp Mười, từ Cái Bè, Cai Lậy đến Gò Tháp, Mộc Hóa... đâu đâu chúng ta cũng được nghe các bậc kỳ lão kể chuyện Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều "Cấm cỏ 3 năm" đốt đồng đánh giặc. Ở Mộc Hóa còn địa danh “Đồng sọ Tây").
Võ Duy Dương đã tận dụng được những khả năng của nhân lực, vật lực Đồng Tháp Mười để chống Pháp, và đã đạt được những kết quả bất ngờ, gợi ý cho đời sau một bài học về lối đánh du kích xuất quỷ nhập thần.
Chúng ta hãy nghe Paulin Vial tiết lộ "Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng Carbine, họ cứ việc nhào vô và đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường” (Chú thích: Paulin Vial. sđd trang 189-201).
Trong một báo cáo gởi về Pháp Bonard đã nhận xét: “cuộc khởi nghĩa là thường trực, nơi nào nó cũng bị chặn lại, nhưng không nơi nào khởi nghĩa bị đánh tan, vì ta không đủ phương tiện" (Chú thích: Báo cáo ngày 14-1-1863 của Trung tướng Pháp Bonard).
Võ Duy Dương còn khai thác đúng mức khả năng chiến đấu của những người lính Tagals, lính Pháp đang ở trong hàng ngũ mình.
Trong tinh thần yêu chuộng tự do, hòa bình, chính nghĩa, lại được Võ Duy Dương cùng các thuộc tướng đối xử rất khoan dung, tin cẩn, các chiến sĩ tây phương và Bắc Phi này đã trở thành những viên tham mưu đắc lực trong việc tổ chức lực lượng, luyện tập quân sự và sử dụng binh khí. Ngoài ra họ còn xung phong đi đầu trong những cuộc đánh nghi trang. Các chiến sĩ Tây phương này đã giả dạng làm sĩ quan Pháp dẫn theo một số nghĩa quân ăn mặc như lính tập đi tuần để xuất kỳ bất ý đột nhập vào lấy đồn bót, bắt sống lính trong đồn, đoạt hết vũ khí, lương thực. Xong đặt chất nổ sẵn chờ tốp khác tới giật sập đồn.
Có nơi, các chiến sĩ để lại truyền đơn hoặc ghi trên vách bằng tiếng Pháp kêu gọi lính Pháp không nên phục vụ cho những kẻ xâm lược, phải sớm bỏ hàng ngũ về với chiến khu hoặc bỏ trốn qua Cao Miên, qua Xiêm tìm đường về Pháp.
Do đó, Võ Duy Dương đã lôi kéo được nhiều lính Pháp và Tagal về với ông, kể cả những người Việt trước kia lầm đường theo giặc.
Lối đánh du kích và đánh nghi trang dù tinh vi mấy cũng chỉ ở phòng ngự và lẻ tẻ mà thôi. Mục tiêu chính của nghĩa quân là phải nhổ hết các đồn bót của Pháp vây quanh Đồng Tháp Mười, đánh cho chúng từ bỏ ý chí xâm lược, trả lại 3 tỉnh miền Đông, xóa đi hiệp ước nhục nhã năm Nhâm Tuất (1862).
Đầu năm 1865, khí thế đánh du kích mở rộng đều khắp, nghĩa quân bắt đầu dồn lực lượng đánh kỳ tập.
Đáng nói nhứt là những trận tấn công Mỹ Trà, rồi Cái Bè, Mỹ Quý, Thủ Thừa . . .
NHỮNG ĐỢT TẤN
CÔNG MỸ TRÀ CỦA NGHĨA QUÂN ĐỒNG THÁP MƯỜI
.
Nếu như Cái Bè là vị trí quan trọng, tiền đồn của tỉnh Định Tường, đối đầu với Vĩnh Long, thì Mỹ Trà là cửa ngõ phía Tây của Đồng Tháp Mười.
Bên kia con sông Cao Lãnh rộng chừng 100 thước - đối diện với làng Mỹ Trà - là làng Hòa An, Tổng An Tịnh, tỉnh An Giang thuộc Nam Triều. Có thể nói Mỹ Trà, cù lao Hổ, vịnh Tòng Sơn, cù lao Giêng và các cồn nhỏ rải rác là nhịp cầu nối 3 tỉnh miền Tây với 3 tỉnh miền Đông.
Nghĩa quân thường xuyên ra ngoài chợ Cao Lãnh khuyến dụ dân làng ứng nghĩa và quyên góp tiền bạc, lương phạn để mua sắm khí giới và nuôi quân. Nổi bật nhất là hoạt động của Thống Linh, Thống Bình, Thống Chiếu...
Biết vậy, đầu năm 1865 mặc dù đã dời huyện lỵ Kiến Phong về Cần Lố, Pháp quyết định vẫn đóng đồn ở Mỹ Trà, ráo riết bắt dân chúng làm xâu. Đồn hình vuông có 4 chòi canh ở 4 góc, công sự bằng gạch, dựng nhiều hàng rào tre chung quanh.
Đầu trên và đầu dưới đồn có 2 con rạch tự nhiên án ngữ. Con sông Cái Sao Thượng (Đình Trung) làm giới hạn phía Bắc, phía nam, con sông Cao Lãnh và nhiều rạch lớn chạy qua các vùng Bình Trung, Bình Trị đi thẳng ra sông Tiền.
Ngoài thế quân sự, vùng này rất trù mật, dân cư đông đúc. Từ thời chúa Nguyễn, đây là một trong chín khố trường biệt nạp khai khẩn đất đai làm ruộng mang tên Bả Canh. Giao thông thủy thuận lợi, dễ dàng kiểm soát đường sông Cửu Long từ Cao Miên, Hồng Ngự xuống, từ An Giang qua, làm bàn đạp bình định các làng lân cận: Mỹ Ngãi, Mỹ THọ, Mỹ Xương, Ba Sao v.v... và từ đó tấn công Đồng Tháp Mười.
Để nối lại nhịp cầu đông-tây, khai thông con đường gạo Cần Lố nghĩa quân không thể không đánh đồn Mỹ Trà.
1. TRẬN ĐÁNH ÚP ĐỒN MỸ TRÀ (22/7/1865)
Ở lâu không có việc gì, quân Pháp đâm ra khinh thường, lân la vào các tiệm quán, và làm quen với các nhà dân gần chợ. Người được chúng tin cẩn nhất là ông lang người Hoa. Những người bà con bên vợ (người Việt) của ông thường được giới thiệu vào xây cất trong đồn. Họ sớm trở nên gần gũi, thân thiện với lính tráng.
Sau thời gian theo dõi tình hình Pháp đóng đồn Mỹ Trà, Võ Duy Dương cùng bộ tham mưu bàn bạc kế hoạch đánh úp đồn này.
Một cô gái tuổi ngoài 20, xinh đẹp, duyên dáng và hoạt bát được phân công tiếp cận ông thầy lang người Hoa bằng cách giả dạng bịnh nhân tới điều trị và ở ngay trong nhà. Qua bề ngoài có vẻ “hữu hảo" giữa ông và lính Pháp, thực sự ông chẳng ưa gì chúng. Hiểu rõ điều đó, cô khéo gây thiện cảm và dần dần đưa ông về phía nghĩa quân.
Buổi chiều, ngày 22/7/1865, sau khi ăn tiệc xong ở nhà ông thầy Tàu, lính Pháp chếnh choáng men rượu, đeo súng nghênh ngang trở về đồn. Còn cách hàng rào một khoảng thì bất thần lính Pháp bị đội cảm tử phục kích 2 bên đường nổ súng và xông ra đánh phủ đầu.
Cùng lúc ấy, những người thợ làm trong đồn giết chết lính canh, đoạt súng bắn những tên có mặt tại doanh trại. Trở tay không kịp, tên chỉ huy chết tại chỗ, số sống sót nhanh chân chạy qua hàng rào thoát thân. Nghĩa quân ở các mũi áp sát vòng ngoài khai hỏa thần công trợ chiến, và được dân phu dẫn đường tức tốc ùa vào đồn.
Trận đánh kéo dài mấy tiếng đồng hồ, thủy quân Pháp đổ vào tiếp ứng, từ phía bờ sông nã đạn tới tấp để giải vây. Nghĩa quân rút ra ngoài đồn và dựa vào những bờ mương làm phòng tuyến.
Đêm ấy, mưa như trút nước, quân Pháp không tiếp thêm được, chúng báo tin khẩn cấp về Sài Gòn.
Chiều ngày sau 23/7/1865, viện binh từ Sài Gòn do Roze chỉ huy xuống tới nơi chỉ còn cách gom góp tàn quân và thu nhặt xác chết.
Sau khi đoạt nhiều chiến lợi phẩm, nghĩa quân rút êm, đồng bào cũng tản cư hết...
Nếu như Cái Bè là vị trí quan trọng, tiền đồn của tỉnh Định Tường, đối đầu với Vĩnh Long, thì Mỹ Trà là cửa ngõ phía Tây của Đồng Tháp Mười.
Bên kia con sông Cao Lãnh rộng chừng 100 thước - đối diện với làng Mỹ Trà - là làng Hòa An, Tổng An Tịnh, tỉnh An Giang thuộc Nam Triều. Có thể nói Mỹ Trà, cù lao Hổ, vịnh Tòng Sơn, cù lao Giêng và các cồn nhỏ rải rác là nhịp cầu nối 3 tỉnh miền Tây với 3 tỉnh miền Đông.
Nghĩa quân thường xuyên ra ngoài chợ Cao Lãnh khuyến dụ dân làng ứng nghĩa và quyên góp tiền bạc, lương phạn để mua sắm khí giới và nuôi quân. Nổi bật nhất là hoạt động của Thống Linh, Thống Bình, Thống Chiếu...
Biết vậy, đầu năm 1865 mặc dù đã dời huyện lỵ Kiến Phong về Cần Lố, Pháp quyết định vẫn đóng đồn ở Mỹ Trà, ráo riết bắt dân chúng làm xâu. Đồn hình vuông có 4 chòi canh ở 4 góc, công sự bằng gạch, dựng nhiều hàng rào tre chung quanh.
Đầu trên và đầu dưới đồn có 2 con rạch tự nhiên án ngữ. Con sông Cái Sao Thượng (Đình Trung) làm giới hạn phía Bắc, phía nam, con sông Cao Lãnh và nhiều rạch lớn chạy qua các vùng Bình Trung, Bình Trị đi thẳng ra sông Tiền.
Ngoài thế quân sự, vùng này rất trù mật, dân cư đông đúc. Từ thời chúa Nguyễn, đây là một trong chín khố trường biệt nạp khai khẩn đất đai làm ruộng mang tên Bả Canh. Giao thông thủy thuận lợi, dễ dàng kiểm soát đường sông Cửu Long từ Cao Miên, Hồng Ngự xuống, từ An Giang qua, làm bàn đạp bình định các làng lân cận: Mỹ Ngãi, Mỹ THọ, Mỹ Xương, Ba Sao v.v... và từ đó tấn công Đồng Tháp Mười.
Để nối lại nhịp cầu đông-tây, khai thông con đường gạo Cần Lố nghĩa quân không thể không đánh đồn Mỹ Trà.
1. TRẬN ĐÁNH ÚP ĐỒN MỸ TRÀ (22/7/1865)
Ở lâu không có việc gì, quân Pháp đâm ra khinh thường, lân la vào các tiệm quán, và làm quen với các nhà dân gần chợ. Người được chúng tin cẩn nhất là ông lang người Hoa. Những người bà con bên vợ (người Việt) của ông thường được giới thiệu vào xây cất trong đồn. Họ sớm trở nên gần gũi, thân thiện với lính tráng.
Sau thời gian theo dõi tình hình Pháp đóng đồn Mỹ Trà, Võ Duy Dương cùng bộ tham mưu bàn bạc kế hoạch đánh úp đồn này.
Một cô gái tuổi ngoài 20, xinh đẹp, duyên dáng và hoạt bát được phân công tiếp cận ông thầy lang người Hoa bằng cách giả dạng bịnh nhân tới điều trị và ở ngay trong nhà. Qua bề ngoài có vẻ “hữu hảo" giữa ông và lính Pháp, thực sự ông chẳng ưa gì chúng. Hiểu rõ điều đó, cô khéo gây thiện cảm và dần dần đưa ông về phía nghĩa quân.
Buổi chiều, ngày 22/7/1865, sau khi ăn tiệc xong ở nhà ông thầy Tàu, lính Pháp chếnh choáng men rượu, đeo súng nghênh ngang trở về đồn. Còn cách hàng rào một khoảng thì bất thần lính Pháp bị đội cảm tử phục kích 2 bên đường nổ súng và xông ra đánh phủ đầu.
Cùng lúc ấy, những người thợ làm trong đồn giết chết lính canh, đoạt súng bắn những tên có mặt tại doanh trại. Trở tay không kịp, tên chỉ huy chết tại chỗ, số sống sót nhanh chân chạy qua hàng rào thoát thân. Nghĩa quân ở các mũi áp sát vòng ngoài khai hỏa thần công trợ chiến, và được dân phu dẫn đường tức tốc ùa vào đồn.
Trận đánh kéo dài mấy tiếng đồng hồ, thủy quân Pháp đổ vào tiếp ứng, từ phía bờ sông nã đạn tới tấp để giải vây. Nghĩa quân rút ra ngoài đồn và dựa vào những bờ mương làm phòng tuyến.
Đêm ấy, mưa như trút nước, quân Pháp không tiếp thêm được, chúng báo tin khẩn cấp về Sài Gòn.
Chiều ngày sau 23/7/1865, viện binh từ Sài Gòn do Roze chỉ huy xuống tới nơi chỉ còn cách gom góp tàn quân và thu nhặt xác chết.
Sau khi đoạt nhiều chiến lợi phẩm, nghĩa quân rút êm, đồng bào cũng tản cư hết...
Để trả thù, Roze hạ lệnh càn
quét làng Mỹ Trà và các vùng phụ cận. Chúng bắt đầu
đốt nhà, bắt heo gà.
Sáng hôm sau, quân Pháp và lính mã tà của Huyện Lộc, Quản Khanh tiến sang vùng Mỹ Ngãi vấp phải sự đánh trả của nghĩa quân. Hai bên dàn thành mặt trận, quần nhau gần nửa ngày. Cuối cùng Roze phải cho quân rút về Mỹ Trà.
Qua trận đánh úp đồn Mỹ Trà, quân Pháp thiệt hại nặng nề về người và của, nhiều súng ống đạn dược bị tịch thu và 1 tàu liên lạc bị thiêu hủy.
Trong thời gian ở lại Mỹ Trà để phòng thủ và lo lập lại đồn bót. Roze đã viết 1 bản hiệu triệu dịch ra chữ nôm đem dán khắp nơi trong vùng, nội dung như sau:
“Vâng lệnh hoàng đế Nã-phá-luân đệ tam, một bậc anh quân mà cả thế giới đều kính phục, quân đội nước Đại Pháp tới đây là để giải phóng cho các người khỏi sự áp chế và bóc lột của vua quan triều đình bản xứ và để cho các người được tự do tín ngưỡng phụng thờ.
Sự có mặt của bản soái ở đây là thể theo ý trời và thuận với lòng dân. Vậy trước sức mạnh của đội quân bách chiến bách thắng đã phất cao 1 ngọn cờ từ Âu sang Á để đem văn minh khai hóa cho các dân tộc còn hậu tiến, các người hãy bỏ khí giới xuống đừng nên dại dột theo đuổi một cuộc phiến loạn dùng sức quả trứng để chọi một tảng đá nghìn cân.
Trước sự khoan hồng của Nhà nước tân trào đã thiết lập trong các tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường, thể theo tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái cùng lòng hiếu sinh vị tha của chúa và của trời, bản soái kêu gọi các người hãy ra cộng tác với Nhà nước tân trào. Nhà nước sẽ trọng thưởng. Như còn dong túng những kẻ phiến loạn, hoặc thấy mà không báo cho Nhà nước, thì sẽ bị nghiêm trị” (Chú thích: Thái Bạch, Sđd trang 66-67).
Được lệnh của Pháp, và để lập công với “quan thầy" Trần Bá Lộc tri huyện Kiến Phong củng cố lại bộ máy công sở Mỹ Trà.
Phạm Văn Khanh, vốn là quân đồn điền Tường Võ, làm đến chức Ban biện suất đội, am hiểu tình hình địa phương, chỗ bạn bè, quen biết với các viên chỉ huy nghĩa quân trong vùng. Tuy ít học nhưng Khanh rất ham mê nghiệp võ. Mãn hạn lính, kịp khi Pháp đến, Khanh làm tay sai cho chúng. Được phong chức Quản bộ đạo, Khanh đứng ra mộ tráng đinh, tổ chức một đạo binh chia thành 10 đội (mỗi đội 10 người) sắm khí giới canh phòng chợ Cao Lãnh.
Nạn cướp bóc đang hồi hoành hành. Cướp Tàu Hia từ miệt Nam Vang, Châu Đốc đi ghe xuôi dòng Cửu Long đánh phá các chợ dọc đường.
Một số nhóm giả danh nghĩa quân thị uy để dễ bề tống tiền đã làm dân chúng thù oán, khó phân biệt “vàng thau".
Vịn cớ ấy, làng lính đánh đồng là "Giặc Tháp Mười” để lôi kéo nhân dân bảo vệ quyền lợi của mình, giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm. Qua đó, chống lại nghĩa quân.
Khanh bắt tráng đinh phải luyện tập hàng ngày. Mé sông chợ thì đào hầm, đắp lũy. Mỗi nhà phải có thùng, gàu, ống thụt, dây để phòng “giặc" đốt nhà mà chữa. Khi nghe hồi trống quân là có “giặc" tất phải mang khí giới tập trung tại chợ.
Ngoài ra còn đặt tháp canh ở các yếu lộ, luôn luôn có người canh giữ, hễ thấy động tịnh đàng xa thì báo ngay cho Quản Khanh.
Giúp việc Khanh, bên văn có Nhiêu học Phan Đôn Thành (tức Nhiêu Thành) - một người túc trí đa mưu; bên võ có Đội Mền...
Sáng hôm sau, quân Pháp và lính mã tà của Huyện Lộc, Quản Khanh tiến sang vùng Mỹ Ngãi vấp phải sự đánh trả của nghĩa quân. Hai bên dàn thành mặt trận, quần nhau gần nửa ngày. Cuối cùng Roze phải cho quân rút về Mỹ Trà.
Qua trận đánh úp đồn Mỹ Trà, quân Pháp thiệt hại nặng nề về người và của, nhiều súng ống đạn dược bị tịch thu và 1 tàu liên lạc bị thiêu hủy.
Trong thời gian ở lại Mỹ Trà để phòng thủ và lo lập lại đồn bót. Roze đã viết 1 bản hiệu triệu dịch ra chữ nôm đem dán khắp nơi trong vùng, nội dung như sau:
“Vâng lệnh hoàng đế Nã-phá-luân đệ tam, một bậc anh quân mà cả thế giới đều kính phục, quân đội nước Đại Pháp tới đây là để giải phóng cho các người khỏi sự áp chế và bóc lột của vua quan triều đình bản xứ và để cho các người được tự do tín ngưỡng phụng thờ.
Sự có mặt của bản soái ở đây là thể theo ý trời và thuận với lòng dân. Vậy trước sức mạnh của đội quân bách chiến bách thắng đã phất cao 1 ngọn cờ từ Âu sang Á để đem văn minh khai hóa cho các dân tộc còn hậu tiến, các người hãy bỏ khí giới xuống đừng nên dại dột theo đuổi một cuộc phiến loạn dùng sức quả trứng để chọi một tảng đá nghìn cân.
Trước sự khoan hồng của Nhà nước tân trào đã thiết lập trong các tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường, thể theo tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái cùng lòng hiếu sinh vị tha của chúa và của trời, bản soái kêu gọi các người hãy ra cộng tác với Nhà nước tân trào. Nhà nước sẽ trọng thưởng. Như còn dong túng những kẻ phiến loạn, hoặc thấy mà không báo cho Nhà nước, thì sẽ bị nghiêm trị” (Chú thích: Thái Bạch, Sđd trang 66-67).
Được lệnh của Pháp, và để lập công với “quan thầy" Trần Bá Lộc tri huyện Kiến Phong củng cố lại bộ máy công sở Mỹ Trà.
Phạm Văn Khanh, vốn là quân đồn điền Tường Võ, làm đến chức Ban biện suất đội, am hiểu tình hình địa phương, chỗ bạn bè, quen biết với các viên chỉ huy nghĩa quân trong vùng. Tuy ít học nhưng Khanh rất ham mê nghiệp võ. Mãn hạn lính, kịp khi Pháp đến, Khanh làm tay sai cho chúng. Được phong chức Quản bộ đạo, Khanh đứng ra mộ tráng đinh, tổ chức một đạo binh chia thành 10 đội (mỗi đội 10 người) sắm khí giới canh phòng chợ Cao Lãnh.
Nạn cướp bóc đang hồi hoành hành. Cướp Tàu Hia từ miệt Nam Vang, Châu Đốc đi ghe xuôi dòng Cửu Long đánh phá các chợ dọc đường.
Một số nhóm giả danh nghĩa quân thị uy để dễ bề tống tiền đã làm dân chúng thù oán, khó phân biệt “vàng thau".
Vịn cớ ấy, làng lính đánh đồng là "Giặc Tháp Mười” để lôi kéo nhân dân bảo vệ quyền lợi của mình, giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm. Qua đó, chống lại nghĩa quân.
Khanh bắt tráng đinh phải luyện tập hàng ngày. Mé sông chợ thì đào hầm, đắp lũy. Mỗi nhà phải có thùng, gàu, ống thụt, dây để phòng “giặc" đốt nhà mà chữa. Khi nghe hồi trống quân là có “giặc" tất phải mang khí giới tập trung tại chợ.
Ngoài ra còn đặt tháp canh ở các yếu lộ, luôn luôn có người canh giữ, hễ thấy động tịnh đàng xa thì báo ngay cho Quản Khanh.
Giúp việc Khanh, bên văn có Nhiêu học Phan Đôn Thành (tức Nhiêu Thành) - một người túc trí đa mưu; bên võ có Đội Mền...
2. TRẬN TẤN CÔNG MỸ TRÀ CUỐI
NĂM 1865 (Chú thích: Từ trước tới nay, người ta nhầm
lẫn giữa trận đánh úp đồn Mỹ Trà ngày 22/7/1865 với
trận tấn công Mỹ Trà. Trận này không rõ ngày tháng,
theo miêu tả lúc ấy nhiều sa mù. Như vậy là trước
hoặc sau Tết âm lịch. Nếu sau Tết âm lịch là tháng
Giêng tức là tháng 2 dương lịch, nghĩa quân đã mở mặt
trận thứ 2 sang Cái Bè-Mỹ Quí. trận này diễn ra vào
tháng Chạp năm 1865 thÌ hợp lý hơn.)
Sau sự kiện ám sát hụt Nhiêu Thành - người bày vẽ mọi thứ cho Quản Khanh - dân chúng xôn xao bàn tán, hội tề làng Mỹ Trà nơm nớp lo sợ Nhiêu Thành bàn vỚi Quản Khanh xuống huyện trình bày cớ sự. Mặt khác tăng cường phòng thủ.
Đúng như sự dự đoán, cuối năm 1865, trên 100 nghĩa quân trang bị 2 súng đồng cửu phân, 2 thùng thuốc, 2 củi đạn và 5, 6 súng kép, còn lại là gươm, giáo, siêu, đao... dưới sự chỉ huy của Thượng Biện Dương và Thống Quản Long.
Nghĩa quân chia làm 3 đạo tiến vào công sở Mỹ Trà quyết bắt sống Phạm Văn Khanh.
Đạo thứ nhất, 30 người, từ trong Tháp ra ngọn Ba Sao để xuống Cầu Mống. Đạo thứ hai, 50 người, kéo ra ngọn Cần Lố tràn lên theo đường Đồn (xóm Bún bây giờ). Đạo thứ ba, 30 người. đi 3 ghe xuôi theo ngọn Mương Khai.
Được tin cấp báo, Quản Khanh chia tráng đinh ra làm 2 cánh. Đội Mến chỉ huy một cánh. Đích thân Quản Khanh kéo đội quân hùng nhuệ phục kích tại đường quẹo "Cây Đa" (nay là bệnh viện Đa khoa Cao Lãnh).
Hai bên xáp chiến, dân làng hoảng kinh, phố xá, nhà cửa 2 bên chợ đóng kín mít.
Đến giờ này, đạo thủy quân còn loay hoay bên ngoài. Vì trời sa mù, đạo quân thứ hai bị lạc đường không hiệp nhau đúng hẹn làm cho đạo quân thứ nhứt lúng túng.
Nguyễn Công Mẫn, một mưu sĩ của Khanh, nhanh chân chạy xuống Chùa Phật, cách chợ chừng 1.000 thước, thúc tăng lữ nổi trống sấm và thổi ốc lên hòa cùng tiếng trống quân dồn dập.
Tráng đinh của Quản Khanh hăng lên, vừa đánh vừa đồng thanh la lớn “Có tàu lân lên " (Chú thích: “Tàu lân": là một chiếc tàu tuần của Pháp, trên mui có để một con kỳ lân bằng sành mỗi khi lên đến thì trong chùa đánh trống sấm để báo tin cho Quản Khanh biết mà đi tiếp rước) nghĩa là có tàu Pháp trợ chiến .
Trận chiến kéo dài đến mặt trời mọc. Vì có sự chệch choạc giữa 3 đạo quân. nghĩa quân nhanh chóng rút lui bỏ lại 1 xác chết, 1 súng đồng, 2 thùng thuốc và 2 củi đạn. Bên Quản Khanh chết 1, bị thương 2, Phố chợ cháy 4 căn và 1 chiếc ghe.
Sau trận này, Quản Khanh được ban 1 mề đai vàng ở trong có khắc mấy chữ "Au Quản Bộ Đạo Phạm Văn Khanh", 1 đồng hồ quả quýt, và 1.200 quan tiền.
Trước kia, Khanh đã được 1 huy chương bạc của Hoàng đế Napoléon III ban cho, sau lưng mề đai có khắc dòng chữ: “Phạm Văn Khanh Chef des Partisans Annamites à l'lnspection de Sa Dec".
Đánh với Quản Khanh xong, Thượng Biện Dương và Thống Quản tong về Đại bản doanh tự nhận sự điều binh vụng về của mình với Võ Duy Dương. Hai ông chỉ huy mà không phối hợp chặt chẽ với các đạo quân để xảy ra những tổn thất đáng tiếc, thể hiện một sự khinh địch và quan cách: đi lộng lớn, lộng nhỏ trong lúc đánh nhau với giặc. Cũng như trước kia đã ám sát nhầm vợ của Nhiêu Thành, gây tai tiếng không ít cho nghĩa quân.
Võ Duy Dương thấy hai thuộc tướng của mình thành khẩn như vậy, nên vỗ về và đốc xuất các ông chuộc lỗi bằng những cuộc tập kích sắp tới
Nghĩa quân Đồng Tháp Mười còn tấn công chợ Cao Lãnh vài lần nữa, và tìm cách ám sát Quản Khanh nhưng không có kết quả đáng kể.
Võ Duy Dương mở một mặt trận thứ nhì, tấn công Cái Bè, Mỹ Quí, chọc thủng phòng tuyến của Pháp đóng ở vùng này. 50 quân Pháp và gần 100 lính mã tà bị nghĩa quân tiêu diệt và bắt sống
Sau sự kiện ám sát hụt Nhiêu Thành - người bày vẽ mọi thứ cho Quản Khanh - dân chúng xôn xao bàn tán, hội tề làng Mỹ Trà nơm nớp lo sợ Nhiêu Thành bàn vỚi Quản Khanh xuống huyện trình bày cớ sự. Mặt khác tăng cường phòng thủ.
Đúng như sự dự đoán, cuối năm 1865, trên 100 nghĩa quân trang bị 2 súng đồng cửu phân, 2 thùng thuốc, 2 củi đạn và 5, 6 súng kép, còn lại là gươm, giáo, siêu, đao... dưới sự chỉ huy của Thượng Biện Dương và Thống Quản Long.
Nghĩa quân chia làm 3 đạo tiến vào công sở Mỹ Trà quyết bắt sống Phạm Văn Khanh.
Đạo thứ nhất, 30 người, từ trong Tháp ra ngọn Ba Sao để xuống Cầu Mống. Đạo thứ hai, 50 người, kéo ra ngọn Cần Lố tràn lên theo đường Đồn (xóm Bún bây giờ). Đạo thứ ba, 30 người. đi 3 ghe xuôi theo ngọn Mương Khai.
Được tin cấp báo, Quản Khanh chia tráng đinh ra làm 2 cánh. Đội Mến chỉ huy một cánh. Đích thân Quản Khanh kéo đội quân hùng nhuệ phục kích tại đường quẹo "Cây Đa" (nay là bệnh viện Đa khoa Cao Lãnh).
Hai bên xáp chiến, dân làng hoảng kinh, phố xá, nhà cửa 2 bên chợ đóng kín mít.
Đến giờ này, đạo thủy quân còn loay hoay bên ngoài. Vì trời sa mù, đạo quân thứ hai bị lạc đường không hiệp nhau đúng hẹn làm cho đạo quân thứ nhứt lúng túng.
Nguyễn Công Mẫn, một mưu sĩ của Khanh, nhanh chân chạy xuống Chùa Phật, cách chợ chừng 1.000 thước, thúc tăng lữ nổi trống sấm và thổi ốc lên hòa cùng tiếng trống quân dồn dập.
Tráng đinh của Quản Khanh hăng lên, vừa đánh vừa đồng thanh la lớn “Có tàu lân lên " (Chú thích: “Tàu lân": là một chiếc tàu tuần của Pháp, trên mui có để một con kỳ lân bằng sành mỗi khi lên đến thì trong chùa đánh trống sấm để báo tin cho Quản Khanh biết mà đi tiếp rước) nghĩa là có tàu Pháp trợ chiến .
Trận chiến kéo dài đến mặt trời mọc. Vì có sự chệch choạc giữa 3 đạo quân. nghĩa quân nhanh chóng rút lui bỏ lại 1 xác chết, 1 súng đồng, 2 thùng thuốc và 2 củi đạn. Bên Quản Khanh chết 1, bị thương 2, Phố chợ cháy 4 căn và 1 chiếc ghe.
Sau trận này, Quản Khanh được ban 1 mề đai vàng ở trong có khắc mấy chữ "Au Quản Bộ Đạo Phạm Văn Khanh", 1 đồng hồ quả quýt, và 1.200 quan tiền.
Trước kia, Khanh đã được 1 huy chương bạc của Hoàng đế Napoléon III ban cho, sau lưng mề đai có khắc dòng chữ: “Phạm Văn Khanh Chef des Partisans Annamites à l'lnspection de Sa Dec".
Đánh với Quản Khanh xong, Thượng Biện Dương và Thống Quản tong về Đại bản doanh tự nhận sự điều binh vụng về của mình với Võ Duy Dương. Hai ông chỉ huy mà không phối hợp chặt chẽ với các đạo quân để xảy ra những tổn thất đáng tiếc, thể hiện một sự khinh địch và quan cách: đi lộng lớn, lộng nhỏ trong lúc đánh nhau với giặc. Cũng như trước kia đã ám sát nhầm vợ của Nhiêu Thành, gây tai tiếng không ít cho nghĩa quân.
Võ Duy Dương thấy hai thuộc tướng của mình thành khẩn như vậy, nên vỗ về và đốc xuất các ông chuộc lỗi bằng những cuộc tập kích sắp tới
Nghĩa quân Đồng Tháp Mười còn tấn công chợ Cao Lãnh vài lần nữa, và tìm cách ám sát Quản Khanh nhưng không có kết quả đáng kể.
Võ Duy Dương mở một mặt trận thứ nhì, tấn công Cái Bè, Mỹ Quí, chọc thủng phòng tuyến của Pháp đóng ở vùng này. 50 quân Pháp và gần 100 lính mã tà bị nghĩa quân tiêu diệt và bắt sống
Về phần Nam triều, hay tin Võ
Duy Dương gây nhiều tổn thất cho quân đội Pháp, vua Tự
Đức liền xuống chiếu cho Tổng đốc Trương Văn Uyển
ở Vĩnh Long bí mật cử người vào Đồng Tháp Mười sắc
phong cho Võ Duy Dương làm lãnh binh
Cuộc khởi nghĩa của Võ Duy Dương vốn đã in sâu trong lòng quảng đại quần chúng, nay lại được sự nhìn nhận của triều đình, càng có điều kiện phát triển. Các tỉnh miền Tây mạnh dạn hơn trong việc giúp thêm lương thực khí giới, các đạo nghĩa quân khác cũng thường xuyên liên lạc với ông để hợp đồng tác chiến. Cùng một lúc đánh Pháp ở nhiều nơi khiến chúng phải phân tán lực lượng đối phó, kín chỗ này hở chỗ kia. Bộ máy cai trị làng xã ở nhiều nơi bị giải tán luôn, hương chức hội tề mất ăn mất ngủ.
Con đường ngoại giao, tranh thủ Triều đình gây sức ép như trước đây không còn hy vọng gì.
"Ngày 20/1/1866, Phan Thanh Giản từ Huế về tiếp nhận 3 tỉnh miền Tây với chức Kinh lược. Chúng ta ngờ rằng vị quan này sẽ ra lệnh ngưng mọi việc nổi loạn nhưng chuyện đâu vẫn còn đấy như cũ. Lịnh của Phan Thanh Giản vẫn là vô hiệu quả, bọn phiến loạn ở Đồng Tháp ngày càng gia tăng hoạt động. Và đồn bót nhỏ của vùng Mỹ Tho bị tấn công. Đầu tháng 2 (Dương lịch) bọn phiến loạn truyền hịch kêu gọi dân chúng nổi dậy, hứa rằng sẽ thành công vì có “Người Nhật Bản ủng hộ" (Chú thích: Đào Văn Hội. Tân An ngày xưa, sđd.)
Đầu năm 1866, thủy sư đô đốc De Lagrandière quay trở lại Việt Nam với một quyết tâm lớn là tiêu diệt căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười và chiếm luôn các tỉnh miền Tây Nam kỳ.
Trong tháng 3, Pháp bất đầu mở những cuộc hành quân với ý đồ thăm dò phản ứng của nghĩa quân.
Từ Cái Bè, Pháp kéo vào vây đồn Cái Nứa. 200 nghĩa quân giao chiến với chúng suốt mấy ngày liền. Trước hỏa lực mạnh của Pháp, nghĩa quân phải tạm bỏ đồn Cái Nứa rút về Thủ Ngữ, Đất Sét. Pháp để lại một phân đội đóng tại chỗ.
Đêm đến, nghĩa quân tập kích chợ Cái Nứa nhưng bị Pháp đánh bật ra. Nghĩa quân lại tiếp tục tập kích lần thứ 2 và tái chiếm chợ Cái Nứa.
Pháp tháo chạy, chờ viện binh từ Cái Bè rồi tổ chức tấn công một lần nữa. Hai bên giành giật nhau từng thước đất chợ Cái Nứa. Cuối cùng nghĩa quân phải lui về Thủ Ngữ đóng dã chiến và gấp rút đắp phòng tuyến. Lần này, Pháp đóng luôn một đồn kiên cố tại chợ Cái Nứa.
Tại ấp Lý, Pháp huy động 250 lính thủy và dân quân tấn công. Nghĩa quân trong đồn chỉ có 150 người và vài chục khẩu súng phải chịu đựng sức công phá dồn dập của vũ khí tối tân từ các tàu chiến hỗ trợ cho bộ binh. Đồn Ấp Lý bị vỡ, nghĩa quân phải rút về phía sau để bảo tồn lực lượng.
Ngày 1 tháng 4/1866, Pháp lại tấn công một đồn nữa và bắt được hai nghĩa quân.
Trong khi đó, tàu chiến Pháp ngược sông Vàm Cỏ Tây tiến lên Mộc Hóa. Chúng đổ quân đóng tại Giồng Dừa, Kinh Ngang. Các trạm canh ven sông có làm chậm bước tiến quân Pháp, nhưng rồi Pháp cũng áp sát tận gò Bắc Chiêng.
Lực lượng thủy, bộ Pháp tập trung đè nặng lên phía Tây Bắc, vùng hậu của căn cứ Đồng Tháp Mười chờ ngày đồng loạt tấn công vào đại bản doanh.
Chính vì vậy, Võ Duy Dương giao mặt Hòa Khánh, Thông Lưu cho các thuộc tướng để về đồn Tiền và đồn Trung bàn luận với bộ tham mưu. Sau khi cân nhắc tình thế, đích thân ông sang chỉ huy đồn Tả, Phó tướng Nguyễn Tấn Kiều và tướng Nguyễn Văn Cẩn thay thế ông coi giữ trung quân tại đại bản doanh và tăng viện đồn Tiền, đồn Hữu.
Mấy đợt lấn chiếm các nơi, một số nghĩa quân sa vào tay giặc, và có người bị lung lạc. Sau khi khai thác và phối kiểm tin tức tình báo, Pháp thấy có thể lên sơ đồ và xúc tiến kế hoạch tấn công căn cứ Đồng Tháp Mười ngay trong mùa khô. Mục tiêu chính cần phải triệt hạ là đại bản doanh Gò Tháp.
Mặt khác để tác động tâm lý, Pháp tung tin rằng: Triều đình đã đồng ý đổi Đồng Tháp Mười lấy Vĩnh Long.
Lê Văn Ông đóng quân tại Rạch Ruộng và Võ Văn Khả đồn trú vùng Hồng Ngự cả tin, vội bãi binh lui về Sa Đéc.
Việc này đã gây hoang mang, giao động trong hàng ngũ nghĩa quân. Trong khi cuộc thư hùng sắp diễn ra nay mai.
Cuộc khởi nghĩa của Võ Duy Dương vốn đã in sâu trong lòng quảng đại quần chúng, nay lại được sự nhìn nhận của triều đình, càng có điều kiện phát triển. Các tỉnh miền Tây mạnh dạn hơn trong việc giúp thêm lương thực khí giới, các đạo nghĩa quân khác cũng thường xuyên liên lạc với ông để hợp đồng tác chiến. Cùng một lúc đánh Pháp ở nhiều nơi khiến chúng phải phân tán lực lượng đối phó, kín chỗ này hở chỗ kia. Bộ máy cai trị làng xã ở nhiều nơi bị giải tán luôn, hương chức hội tề mất ăn mất ngủ.
Con đường ngoại giao, tranh thủ Triều đình gây sức ép như trước đây không còn hy vọng gì.
"Ngày 20/1/1866, Phan Thanh Giản từ Huế về tiếp nhận 3 tỉnh miền Tây với chức Kinh lược. Chúng ta ngờ rằng vị quan này sẽ ra lệnh ngưng mọi việc nổi loạn nhưng chuyện đâu vẫn còn đấy như cũ. Lịnh của Phan Thanh Giản vẫn là vô hiệu quả, bọn phiến loạn ở Đồng Tháp ngày càng gia tăng hoạt động. Và đồn bót nhỏ của vùng Mỹ Tho bị tấn công. Đầu tháng 2 (Dương lịch) bọn phiến loạn truyền hịch kêu gọi dân chúng nổi dậy, hứa rằng sẽ thành công vì có “Người Nhật Bản ủng hộ" (Chú thích: Đào Văn Hội. Tân An ngày xưa, sđd.)
Đầu năm 1866, thủy sư đô đốc De Lagrandière quay trở lại Việt Nam với một quyết tâm lớn là tiêu diệt căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười và chiếm luôn các tỉnh miền Tây Nam kỳ.
Trong tháng 3, Pháp bất đầu mở những cuộc hành quân với ý đồ thăm dò phản ứng của nghĩa quân.
Từ Cái Bè, Pháp kéo vào vây đồn Cái Nứa. 200 nghĩa quân giao chiến với chúng suốt mấy ngày liền. Trước hỏa lực mạnh của Pháp, nghĩa quân phải tạm bỏ đồn Cái Nứa rút về Thủ Ngữ, Đất Sét. Pháp để lại một phân đội đóng tại chỗ.
Đêm đến, nghĩa quân tập kích chợ Cái Nứa nhưng bị Pháp đánh bật ra. Nghĩa quân lại tiếp tục tập kích lần thứ 2 và tái chiếm chợ Cái Nứa.
Pháp tháo chạy, chờ viện binh từ Cái Bè rồi tổ chức tấn công một lần nữa. Hai bên giành giật nhau từng thước đất chợ Cái Nứa. Cuối cùng nghĩa quân phải lui về Thủ Ngữ đóng dã chiến và gấp rút đắp phòng tuyến. Lần này, Pháp đóng luôn một đồn kiên cố tại chợ Cái Nứa.
Tại ấp Lý, Pháp huy động 250 lính thủy và dân quân tấn công. Nghĩa quân trong đồn chỉ có 150 người và vài chục khẩu súng phải chịu đựng sức công phá dồn dập của vũ khí tối tân từ các tàu chiến hỗ trợ cho bộ binh. Đồn Ấp Lý bị vỡ, nghĩa quân phải rút về phía sau để bảo tồn lực lượng.
Ngày 1 tháng 4/1866, Pháp lại tấn công một đồn nữa và bắt được hai nghĩa quân.
Trong khi đó, tàu chiến Pháp ngược sông Vàm Cỏ Tây tiến lên Mộc Hóa. Chúng đổ quân đóng tại Giồng Dừa, Kinh Ngang. Các trạm canh ven sông có làm chậm bước tiến quân Pháp, nhưng rồi Pháp cũng áp sát tận gò Bắc Chiêng.
Lực lượng thủy, bộ Pháp tập trung đè nặng lên phía Tây Bắc, vùng hậu của căn cứ Đồng Tháp Mười chờ ngày đồng loạt tấn công vào đại bản doanh.
Chính vì vậy, Võ Duy Dương giao mặt Hòa Khánh, Thông Lưu cho các thuộc tướng để về đồn Tiền và đồn Trung bàn luận với bộ tham mưu. Sau khi cân nhắc tình thế, đích thân ông sang chỉ huy đồn Tả, Phó tướng Nguyễn Tấn Kiều và tướng Nguyễn Văn Cẩn thay thế ông coi giữ trung quân tại đại bản doanh và tăng viện đồn Tiền, đồn Hữu.
Mấy đợt lấn chiếm các nơi, một số nghĩa quân sa vào tay giặc, và có người bị lung lạc. Sau khi khai thác và phối kiểm tin tức tình báo, Pháp thấy có thể lên sơ đồ và xúc tiến kế hoạch tấn công căn cứ Đồng Tháp Mười ngay trong mùa khô. Mục tiêu chính cần phải triệt hạ là đại bản doanh Gò Tháp.
Mặt khác để tác động tâm lý, Pháp tung tin rằng: Triều đình đã đồng ý đổi Đồng Tháp Mười lấy Vĩnh Long.
Lê Văn Ông đóng quân tại Rạch Ruộng và Võ Văn Khả đồn trú vùng Hồng Ngự cả tin, vội bãi binh lui về Sa Đéc.
Việc này đã gây hoang mang, giao động trong hàng ngũ nghĩa quân. Trong khi cuộc thư hùng sắp diễn ra nay mai.
TRẬN THÁP MƯỜI –
(THÁNG 4/1866)
Việc phải đến, đã đến. Gần 1.000 thủy-lục quân với nhiều tàu chiến và đại bác được tập trung để mở cuộc hành quân.
Bộ binh gồm 100 lính Pháp, 250 lính mã tà. Thiếu tá Dérôme và các đại úy: Boubée, Paris de La Bollardière, Gally Passebose cùng Quản Tấn, Huyện Lộc chỉ huy.
Ngày 14/4/1886, toàn bộ lực lượng này chia làm 3 mặt đồng loạt tấn công Đồng Tháp Mười.
Mặt 1 : Từ Cái Nứa đi vào.
Mặt 2: Từ Cần Lố đi qua.
Mặt 3: Từ Bắc Chiêng đi xuống.
Thủy binh thì theo tàu chạy dọc theo các con sông để phong tỏa nghĩa quân.
Trên sông Vàm Cỏ Tây, tàu giặc ra sức phá các bè cản ngang sông để tiến đến Bến Kè, Sông Soài, và Đá Biên rồi thẳng lên Nồi Gọ. Vấp phải cản ngại, thủy binh phải chạy vào sông Vàm Cỏ Đông tiến vào kinh Bình Hòa để xuyên qua Trà Cú.
Phía sông tiền (Cao Lãnh) thủy quân tiến vào vàm sông Phong Mỹ, thả thẳng vào Ba Sao, Cái Bèo...
Lúc đó, nghĩa quân tại đại bản doanh Gò Tháp - nơi chìm sâu trong cánh đồng bưng, lác được bao bọc bởi các khu rừng tràm bao la bát ngát, có nhiều lối mòn quanh co, phía dưới là các hầm hố cấm đầy chông nhọn phủ cỏ lên mặt rất tự nhiên - phần lớn nghĩa quân ra tăng cường cho các đồn chính: đồn Tiền, đồn Tả, đồn Hữu.
Riêng hướng Cái Nứa, đối. đầu với sào huyệt Pháp ở Cái Bè, Cai Lậy, Mỹ Tho, quân Pháp thường xuyên hành quân vô đây và hai bên đã nhiều lần chạm trán, nên nghĩa quân đã chủ động rải lực lượng đóng ở khắp khu vực Bằng Lăng, Mỹ Thạnh chạy dài đến Bang Dày và Xóm Than buộc bộ binh Pháp theo các ngã Cai Lậy và Cái Bè phải chia làm nhiều toán tiến vào Quản Oai, Hàm Vồ, Uy Trung và Mỹ Quí.. .
Ngày 15/4/1866 toán quân của đại úy Boubée từ Cần Lố tấn công đồn Sa Tiền. Địa hình vùng này có nhiều sông rạch chằng chịt, tàu chiến lưu thông dễ dàng, tăng cường hỏa lực cho bộ binh rất hữu hiệu. Tuy vậy, 150 nghĩa quân trong đồn chống lại mạnh mẽ, làm cho trung úy Vigny bị thương, nhưng rốt cuộc nghĩa quân cũng phải vùi khí giới dưới bùn rồi rút lui vào phía trong.
Dérôme, thiếu tá, chiếm được một đồn nhỏ trên đường từ Cái Nứa đến đồn Tiền. Quân Pháp tiến vào xóm Than, Bằng Lăng, Mỹ Thạnh. Hai bên kịch chiến, quân Pháp dùng đại bác mở đường. Nghĩa quân nấp trong các khu vực rừng tràm bắn tỉa ra. Quân Pháp bị thiệt hại khá đông, phải chững lại. Nghĩa quân rút lui về hướng khác.
- Hướng Bắc Chiêng, gần nửa tháng nay, quân Pháp từ phía Giồng Gừa, Kinh Ngang nhích dần lên. Tàu Pháp hùng hục trên sông Vàm Cỏ Tây tìm cách gỡ các trạm canh hai bên bờ. Lối bắn tỉa của nghĩa quân không phát huy được tác dụng. Cuối cùng Pháp đến trước đồn Tuyên Oai đóng trên Gò Bắc Chiêng.
Một trăm hai mươi nghĩa quân với mười lăm súng cò máy đá và gươm giáo sẵn sàng chiến đấu. Hai bên dồn mọi cố gắng cho trận quyết chiến đầu tiên ở mặt này. Trước sức công phá dữ dội của thủy binh, nghĩa quân tạm bỏ đồn Tuyên Oai định kế đánh hỏa công.
Đại úy Gally Passebose chiếm được đồn này. Tuy lính Pháp bị thương và chết không bao nhiêu nhưng kiệt sức và uể oải tinh thần. Gally phải xin thêm 25 viện binh.
Tất cả những nơi trú ẩn và 5 đồn nhỏ của nghĩa quân dài theo con đường mòn bị vỡ hết trong ngày 15. Các đồn chính: đồn Tiền, đồn Tả, đồn Hữu trở thành 3 đồn tiền tiêu và nghĩa quân đang bị dồn vào thế thủ từ 3 mặt. Nghĩa là quân Pháp còn cách Đại bản doanh mỗi phía trong khoảng trên dưới 6km.
Ngày 16/4/1866, toán quân của
Dérôme tiến tới đồn Tiền, lính mã tà đi trước dẫn
đường. Nghĩa quân chờ sẵn ở công sự với vũ khí cầm
chắc trong tay. Những trận đụng độ ở Ấp Lý, Cái Nứa
giằng co ít hôm rồi Pháp cũng tiến thẳng một mạch đến
đây. Pháp có ý xem thường, lính mã tà càng kiêu căng.
Không có một sự kháng cự từ xa, đồn Tiền như là bỏ ngỏ, Huỳnh Công Tấn hăng hái đi đầu dẫn quân men theo con đường đắp từ phía đường gạo và bỏ tốp lính Pháp lại phía sau khá xa... Bất thần nghĩa quân phục kích vòng ngoài đồng loạt nổ súng, 1/3 số lính ngã gục. Quản Tấn hấp tấp rút lui. Lính Pháp cũng dừng quân bắn giải vây cho lính Việt.
Sau khi bổ sung quân số từ tàu Fusée, theo bản sơ đồ, Gally điều động đội quân của mình nhắm hướng đồn Tả, còn gọi là đồn Chánh. Nơi có 350 nghĩa quân chống giữ và 40 khẩu đại bác, cộng thêm số nghĩa quân từ Tuyên Oai rút về. Đặc biệt phải tính đến người lính Pháp Linguet luôn cận kề bên Võ Duy Dương, hơn một tuần nay trực tiếp đốc xuất việc bố phòng và xuất kích tại đồn Tả.
Giữa tháng 4, những cơn mưa rào đã đến, thời tiết gây bất lợi cho việc đánh hỏa công. Từ trên các cao điểm (ngọn cây cao, đài quan sát) nhìn đội hình quân Pháp tiệm tiến như một mũi kim luồn sâu vào cánh đồng năng lác. Thám báo của nghĩa quân từng chập phát tín hiệu, theo kiểu liên hoàn, đưa tin khẩn cấp về đồn Tả.
Đội tiền quân sở trường đánh "đội trấp" phải lúng túng vì tốp lính thủy quân lục chiến Pháp đã được tập luyện thích nghi với lối đánh sông nước, đồng bằng. Hơn nữa, số lính mã tà người Việt còn bày cho lính Pháp (vận dụng cách di chuyển của nghĩa quân) đi trên cộ trâu, lía trâu và xuồng ghe theo các con lung tự nhiên.
Sau vài đợt đánh cầm chừng, nghĩa quân phải rút vào trong đồn cố thủ.
Buổi trưa, giờ nổ súng đã điểm. Nghĩa quân trong đồn được sự chỉ huy của Võ Duy Dương quyết tử chiến. Hai bên giao tranh ác liệt. Đến buổi chiều, đạn dược của nghĩa quân hết sạch, mà quân Pháp từ 3 phía ồ ạt xung phong. Nghĩa quân buộc lòng phải tản theo ngã hậu, bỏ lại 3 khẩu đại bác 12, và 17 súng cò máy đá cùng 27 chiếc ghe, xuồng. Trận này lính Pháp chết 2 và bị thương 17.
Thừa thắng, Gally truy kích những nghĩa quân rút lui về hướng Tháp Mười mà y đã thấy.
Quân Pháp bị sụp hầm chông chết và bị thương thêm một số nữa mới vào được Đại bản doanh.
Biết được sức giặc và không thể dựa vào thành cao hào sâu, Võ Duy Dương chủ động bỏ đồn Trung.
Trong đồn có vài chục nóc nhà cất bằng tràm lợp dừa, kho chứa đạn dược và lương thực. Quân Pháp nổi lửa đốt, ngọn khói bốc lên đen kịt cả một góc trời.
- Tại đồn Hữu, nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm cầm cự với Pháp suốt 3 ngày đêm (15, 16, 17) trong hoàn cảnh vũ khí và lương thực thiếu thốn. Trong khi đó quân Pháp lại được tăng viện dồi dào.
Đồn Hữu là một đồn chính giữ con đường gạo huyết mạch Cần Lố. Nó đóng vai trò trung chuyển giữa đồn Doi, Sa Tiền với đại bản doanh. Mỗi khi có chuyến tiếp tế từ ngoài vào là thân nhân, vợ con của nghĩa binh cũng theo vô. Những tay do thám cũng giả dạng trà trộn vào. Trước sự cảnh giác của dân binh nhiều kẻ gian đã bị bắt nộp cho nghĩa quân.
Khi Thống Linh hy sinh, Huỳnh Lục, Huỳnh Thất cầm chân Pháp tại đồn Doi thêm một thời gian.
Hai lần Pháp lấn chiếm đồn Doi và Sa Tiền tiến sâu vào tận Động Cát (Đồn Hữu).
Người chỉ huy đồn Hữu lúc đó là Huấn Hiệu cùng hộ vệ Tân, Thủ Chiếu (thầy thuốc rắn) trợ lực cho Huỳnh Thất, Huỳnh Lục đánh bật quân Pháp đến tận Cần Lố và đóng lại đồn Sa Tiền, đồn Doi.
Mãi đến tháng 6/1865, Pháp dời huyện lỵ Kiến Phong về Cần Lố (Chú thích: Trước đặt tại Mỹ Trà) nghĩa quân mới rút hẳn về đồn Sa Tiền.
Không có một sự kháng cự từ xa, đồn Tiền như là bỏ ngỏ, Huỳnh Công Tấn hăng hái đi đầu dẫn quân men theo con đường đắp từ phía đường gạo và bỏ tốp lính Pháp lại phía sau khá xa... Bất thần nghĩa quân phục kích vòng ngoài đồng loạt nổ súng, 1/3 số lính ngã gục. Quản Tấn hấp tấp rút lui. Lính Pháp cũng dừng quân bắn giải vây cho lính Việt.
Sau khi bổ sung quân số từ tàu Fusée, theo bản sơ đồ, Gally điều động đội quân của mình nhắm hướng đồn Tả, còn gọi là đồn Chánh. Nơi có 350 nghĩa quân chống giữ và 40 khẩu đại bác, cộng thêm số nghĩa quân từ Tuyên Oai rút về. Đặc biệt phải tính đến người lính Pháp Linguet luôn cận kề bên Võ Duy Dương, hơn một tuần nay trực tiếp đốc xuất việc bố phòng và xuất kích tại đồn Tả.
Giữa tháng 4, những cơn mưa rào đã đến, thời tiết gây bất lợi cho việc đánh hỏa công. Từ trên các cao điểm (ngọn cây cao, đài quan sát) nhìn đội hình quân Pháp tiệm tiến như một mũi kim luồn sâu vào cánh đồng năng lác. Thám báo của nghĩa quân từng chập phát tín hiệu, theo kiểu liên hoàn, đưa tin khẩn cấp về đồn Tả.
Đội tiền quân sở trường đánh "đội trấp" phải lúng túng vì tốp lính thủy quân lục chiến Pháp đã được tập luyện thích nghi với lối đánh sông nước, đồng bằng. Hơn nữa, số lính mã tà người Việt còn bày cho lính Pháp (vận dụng cách di chuyển của nghĩa quân) đi trên cộ trâu, lía trâu và xuồng ghe theo các con lung tự nhiên.
Sau vài đợt đánh cầm chừng, nghĩa quân phải rút vào trong đồn cố thủ.
Buổi trưa, giờ nổ súng đã điểm. Nghĩa quân trong đồn được sự chỉ huy của Võ Duy Dương quyết tử chiến. Hai bên giao tranh ác liệt. Đến buổi chiều, đạn dược của nghĩa quân hết sạch, mà quân Pháp từ 3 phía ồ ạt xung phong. Nghĩa quân buộc lòng phải tản theo ngã hậu, bỏ lại 3 khẩu đại bác 12, và 17 súng cò máy đá cùng 27 chiếc ghe, xuồng. Trận này lính Pháp chết 2 và bị thương 17.
Thừa thắng, Gally truy kích những nghĩa quân rút lui về hướng Tháp Mười mà y đã thấy.
Quân Pháp bị sụp hầm chông chết và bị thương thêm một số nữa mới vào được Đại bản doanh.
Biết được sức giặc và không thể dựa vào thành cao hào sâu, Võ Duy Dương chủ động bỏ đồn Trung.
Trong đồn có vài chục nóc nhà cất bằng tràm lợp dừa, kho chứa đạn dược và lương thực. Quân Pháp nổi lửa đốt, ngọn khói bốc lên đen kịt cả một góc trời.
- Tại đồn Hữu, nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm cầm cự với Pháp suốt 3 ngày đêm (15, 16, 17) trong hoàn cảnh vũ khí và lương thực thiếu thốn. Trong khi đó quân Pháp lại được tăng viện dồi dào.
Đồn Hữu là một đồn chính giữ con đường gạo huyết mạch Cần Lố. Nó đóng vai trò trung chuyển giữa đồn Doi, Sa Tiền với đại bản doanh. Mỗi khi có chuyến tiếp tế từ ngoài vào là thân nhân, vợ con của nghĩa binh cũng theo vô. Những tay do thám cũng giả dạng trà trộn vào. Trước sự cảnh giác của dân binh nhiều kẻ gian đã bị bắt nộp cho nghĩa quân.
Khi Thống Linh hy sinh, Huỳnh Lục, Huỳnh Thất cầm chân Pháp tại đồn Doi thêm một thời gian.
Hai lần Pháp lấn chiếm đồn Doi và Sa Tiền tiến sâu vào tận Động Cát (Đồn Hữu).
Người chỉ huy đồn Hữu lúc đó là Huấn Hiệu cùng hộ vệ Tân, Thủ Chiếu (thầy thuốc rắn) trợ lực cho Huỳnh Thất, Huỳnh Lục đánh bật quân Pháp đến tận Cần Lố và đóng lại đồn Sa Tiền, đồn Doi.
Mãi đến tháng 6/1865, Pháp dời huyện lỵ Kiến Phong về Cần Lố (Chú thích: Trước đặt tại Mỹ Trà) nghĩa quân mới rút hẳn về đồn Sa Tiền.
Ngày 17/4/1866, Dérôme lại tấn
công đốn Tiền lần nữa. Trước đây quân Pháp mở
nhiều cuộc tấn công vào đồn Tiền theo hướng Cái Bè,
Cái Nứa lên hòng phá vỡ bức tường án ngữ này để
vào đồn Trung, nhưng mấy lần đó đều thất bại. Về
sau Pháp cho tên Quản Cao lén lút xâm nhập vào hàng ngũ
nghĩa quân (bên cạnh còn Phạm Văn Khanh bỏ căn cứ theo
Pháp). Nhờ các tên này báo cáo tình hình, Pháp biết rõ
sơ đồ, đồn lũy của nghĩa quân nên chúng mở thêm hai
hướng tấn công mới từ Cao Lãnh và Mộc Hóa tạo thành
thế áp đảo 3 mặt.
Trong cuộc tấn công này, Pháp đã dồn lực lượng về phía Gò Bắc Chiêng đánh bọc hậu để tạo thế bất ngờ vừa ngăn chặn đường rút lui của nghĩa quân vừa đẩy nghĩa quân ra khỏi vùng đầm lầy để các cánh quân khác tiêu diệt.
Nghĩa quân bị truy kích mang theo tin đồn Tả thất thủ chiều ngày 16 đã làm tinh thần chiến đấu của nghĩa quân trong các đồn còn lại sa sút hẳn. Đại bản doanh Gò Tháp lại âm thầm phân tán lực lượng kéo theo sự sụp đổ nhanh hơn của đồn Hữu và đồn Tiền.
Trước tình hình nguy ngập này, Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều) và Nguyễn Văn Cẩn (lãnh binh Cẩn) quyết tâm dùng kế phục binh để Võ Duy Dương tìm hướng thoát thân và bảo toàn lực lượng.
Trong một trận đánh giáp lá cà, Nguyễn Tấn Kiều đã anh dũng hy sinh cạnh bên những xác chết ngổn ngang của lính Pháp.
Còn lại một mình, lãnh binh Cẩn đánh mở đường máu về hướng Tây, rút lên Hồng Ngự, Lăng Xăng, ngã ba Thông Bình.
Tới Hồng Ngự, chưa kịp nghỉ quân, một lần nữa ông lại bị Trần Bá Lộc truy kích.
Chiến trận tan rồi, Phòng Biểu đã cùng nghĩa quân mang xác chủ tướng mình là Nguyễn Tấn Kiều về chôn cất tại nền đồn Trung (Đại bản doanh Gò Tháp). Ngoài ra, Phòng Biểu còn làm nhiều ngôi mộ giả để nghi trang.
Ngày 18/4/1866, kể như toàn bộ căn cứ của nghĩa quân đều thất thủ, đây đó chỉ còn vang lên vài tiếng súng rời rạc.
Ngày 19/4/1866, quân Pháp vội vã rút lui quay về, phải đi vất vả 2 ngày nữa mới tới chỗ xuất phát cũ.
Suốt trong tuần lễ từ 14 đến 21/4/1866 thủy quân do tàu chở chạy dọc theo các sông để phong tỏa đường ra của nghĩa quân.
Ngày 22, khi đoàn tàu trở về Tân An, một chiếc bị chìm làm chết 7 lính Pháp, 1 đại úy.
Tính tổng cộng trong trận Tháp Mười, bên Pháp vừa chết và bị thương gần 100 người.
Pháp tịch thu được rất nhiều vũ khí và quân trang quân dụng, nhưng chỉ bắt được 2 hoặc 3 tù binh.
Cũng trong thời gian ấy, cánh nghĩa quân rút về phía đông, do Võ Duy Dương chỉ huy bị Pháp chặn đánh, trận đánh lớn giữa 2 bên diễn ra tại vùng Cái Thia thuộc quận Cái Bè.
Trận đánh liên tiếp mấy ngày. Nghĩa quân đánh rất hăng. Hai bên đều thiệt hại nặng. Quân Pháp bắt được 2 người lính Tagals, 1 người Pháp tên là Linguet và 12 nghĩa quân, nhưng phải đổi lại hai sĩ quan cấp úy và một số lính Pháp chết và bị thương.
Trận Tháp Mười là trận đầu tiên quân Pháp thắng được nghĩa quân trong một nơi bùn lầy, nên họ mừng lắm. Chính thủy sư đô đốc De Lagrandière nói "kết quả về chính trị của trận ấy rất lớn. Người Việt từ nay hết ảo vọng. Trước kia, họ tuy chịu là ta thắng họ trong đồng bằng và trong rừng rú, nhưng vẫn tưởng ta phải thua họ nơi bùn lầy" (Chú thích: Nguyễn Hiến Lê, sđd trang 50.)
Thật ra Võ Duy Dương không bao giờ ảo vọng. Ngay thời điểm căn cứ Đồng Tháp Mười cực thịnh, Người đã tự đánh giá :
“Dù sao cũng phải nhìn nhận rằng vị trí của Tháp Mười này ít thuận lợi là một nơi hoang vu và tiếp tế lương thực rất khó khăn. Người Pháp không thể không trở lại đây, chúng ta có thể bị tàn phá bởi quân số của họ, nếu chúng ta không quyết định rút khỏi nơi đây ngày 15 tháng 2, sau khi chúng ta chiến thắng để chúng ta bố trí ở đồn Bảo An" (Chú thích: Gustave Janneau, (tài liệu đã dẫn))
De Lagradière ban khen cho 37 người Việt đã có công trong việc hành binh. Quản Tấn và Huyện Lộc được mề đai.
Đồng thời với sự thắng trận này, Pháp lập thêm nhiều đồn bót để bao vây căn cứ địa Tháp Mười, chặn lại các cuộc nổi dậy và đánh phá của nghĩa quân. Điều bất ổn đối với chúng là Võ Duy Dương - linh hồn của cuộc khởi nghĩa - đối thủ lợi hại của Pháp, vẫn còn tồn tại...
Trong cuộc tấn công này, Pháp đã dồn lực lượng về phía Gò Bắc Chiêng đánh bọc hậu để tạo thế bất ngờ vừa ngăn chặn đường rút lui của nghĩa quân vừa đẩy nghĩa quân ra khỏi vùng đầm lầy để các cánh quân khác tiêu diệt.
Nghĩa quân bị truy kích mang theo tin đồn Tả thất thủ chiều ngày 16 đã làm tinh thần chiến đấu của nghĩa quân trong các đồn còn lại sa sút hẳn. Đại bản doanh Gò Tháp lại âm thầm phân tán lực lượng kéo theo sự sụp đổ nhanh hơn của đồn Hữu và đồn Tiền.
Trước tình hình nguy ngập này, Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều) và Nguyễn Văn Cẩn (lãnh binh Cẩn) quyết tâm dùng kế phục binh để Võ Duy Dương tìm hướng thoát thân và bảo toàn lực lượng.
Trong một trận đánh giáp lá cà, Nguyễn Tấn Kiều đã anh dũng hy sinh cạnh bên những xác chết ngổn ngang của lính Pháp.
Còn lại một mình, lãnh binh Cẩn đánh mở đường máu về hướng Tây, rút lên Hồng Ngự, Lăng Xăng, ngã ba Thông Bình.
Tới Hồng Ngự, chưa kịp nghỉ quân, một lần nữa ông lại bị Trần Bá Lộc truy kích.
Chiến trận tan rồi, Phòng Biểu đã cùng nghĩa quân mang xác chủ tướng mình là Nguyễn Tấn Kiều về chôn cất tại nền đồn Trung (Đại bản doanh Gò Tháp). Ngoài ra, Phòng Biểu còn làm nhiều ngôi mộ giả để nghi trang.
Ngày 18/4/1866, kể như toàn bộ căn cứ của nghĩa quân đều thất thủ, đây đó chỉ còn vang lên vài tiếng súng rời rạc.
Ngày 19/4/1866, quân Pháp vội vã rút lui quay về, phải đi vất vả 2 ngày nữa mới tới chỗ xuất phát cũ.
Suốt trong tuần lễ từ 14 đến 21/4/1866 thủy quân do tàu chở chạy dọc theo các sông để phong tỏa đường ra của nghĩa quân.
Ngày 22, khi đoàn tàu trở về Tân An, một chiếc bị chìm làm chết 7 lính Pháp, 1 đại úy.
Tính tổng cộng trong trận Tháp Mười, bên Pháp vừa chết và bị thương gần 100 người.
Pháp tịch thu được rất nhiều vũ khí và quân trang quân dụng, nhưng chỉ bắt được 2 hoặc 3 tù binh.
Cũng trong thời gian ấy, cánh nghĩa quân rút về phía đông, do Võ Duy Dương chỉ huy bị Pháp chặn đánh, trận đánh lớn giữa 2 bên diễn ra tại vùng Cái Thia thuộc quận Cái Bè.
Trận đánh liên tiếp mấy ngày. Nghĩa quân đánh rất hăng. Hai bên đều thiệt hại nặng. Quân Pháp bắt được 2 người lính Tagals, 1 người Pháp tên là Linguet và 12 nghĩa quân, nhưng phải đổi lại hai sĩ quan cấp úy và một số lính Pháp chết và bị thương.
Trận Tháp Mười là trận đầu tiên quân Pháp thắng được nghĩa quân trong một nơi bùn lầy, nên họ mừng lắm. Chính thủy sư đô đốc De Lagrandière nói "kết quả về chính trị của trận ấy rất lớn. Người Việt từ nay hết ảo vọng. Trước kia, họ tuy chịu là ta thắng họ trong đồng bằng và trong rừng rú, nhưng vẫn tưởng ta phải thua họ nơi bùn lầy" (Chú thích: Nguyễn Hiến Lê, sđd trang 50.)
Thật ra Võ Duy Dương không bao giờ ảo vọng. Ngay thời điểm căn cứ Đồng Tháp Mười cực thịnh, Người đã tự đánh giá :
“Dù sao cũng phải nhìn nhận rằng vị trí của Tháp Mười này ít thuận lợi là một nơi hoang vu và tiếp tế lương thực rất khó khăn. Người Pháp không thể không trở lại đây, chúng ta có thể bị tàn phá bởi quân số của họ, nếu chúng ta không quyết định rút khỏi nơi đây ngày 15 tháng 2, sau khi chúng ta chiến thắng để chúng ta bố trí ở đồn Bảo An" (Chú thích: Gustave Janneau, (tài liệu đã dẫn))
De Lagradière ban khen cho 37 người Việt đã có công trong việc hành binh. Quản Tấn và Huyện Lộc được mề đai.
Đồng thời với sự thắng trận này, Pháp lập thêm nhiều đồn bót để bao vây căn cứ địa Tháp Mười, chặn lại các cuộc nổi dậy và đánh phá của nghĩa quân. Điều bất ổn đối với chúng là Võ Duy Dương - linh hồn của cuộc khởi nghĩa - đối thủ lợi hại của Pháp, vẫn còn tồn tại...
V. Liên minh chiến đấu:
Sau trận Pháp đại tấn công, căn cứ Tháp Mười coi như bị phá vỡ. Nghĩa quân tổn thất không bao nhiêu, ngược lại, số tản mác khá nhiều. Tốp rã ngũ tại chỗ tìm nơi heo hút lo làm ăn, tốp chạy sang An Giang gia nhập vào hàng ngũ của Acha-xoa. Có người giả dạng tu hành chờ thời cơ.
Võ Duy Dương và các bộ tướng không vì thế mà ngã lòng, ông thay đổi cách đánh, từ chỗ dựa vào đồn lũy Pháp ở Mỹ Tho, Cai Lậy, rồi ông rút quân sang Cao Lãnh, tiến lên Ba Thằng Minh, Gò Bắc Chiêng.
Tại đây, cánh quân rút về phía đông (đến Cái Thia) do Võ Duy Dương chỉ huy, cánh quân rút về phía Tây (lên Hồng Ngự- Lăng Xăng- Thông bình) do Nguyễn Văn Cẩn chỉ huy, và một vài toán nhỏ lẻ khác của Trương Tấn Minh, Phòng Biểu... đã gặp nhau.
Củng cố xong lực lượng, Võ Duy Dương phối hợp ngay với các thủ lĩnh khác để tiếp tục chiến đấu. Sự phối hợp này thật ra là bố trí lại lực lượng trên toàn khu vực, chọn những cách đánh linh hoạt hơn. Bởi vì sự liên minh chiến đấu đã có ngay trong trận Tháp Mười và trước đó nữa...
Căn cứ Đồng Tháp Mười tan vỡ là sự tổn thất riêng của Võ Duy Dương, đồng thời là tổn thất chung của các lực lượng chống Pháp của người Việt cũng như người Khmer tại Nam kỳ và vùng biên giới.
Đến lượt trung tâm kháng chiến chuyển về khu tổng Cầu An Hạ ở Bắc Đức Hòa, một tổng liền với Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh). Võ Duy Dương đã tìm gặp Trương Quyền, người thủ lĩnh phong trào tại đây.
Qua Trương Quyền, hẳn nhiên, Võ Duy Dương liên minh với Poucombo.
Liên quân Việt-Khmer đủ các chủng tộc, người Việt, người Khmer, người Chăm, người Siêng và các bộ lạc khác... Ở đây còn có những người lính Pháp, lính Tagal phản chiến.
Sau trận Pháp đại tấn công, căn cứ Tháp Mười coi như bị phá vỡ. Nghĩa quân tổn thất không bao nhiêu, ngược lại, số tản mác khá nhiều. Tốp rã ngũ tại chỗ tìm nơi heo hút lo làm ăn, tốp chạy sang An Giang gia nhập vào hàng ngũ của Acha-xoa. Có người giả dạng tu hành chờ thời cơ.
Võ Duy Dương và các bộ tướng không vì thế mà ngã lòng, ông thay đổi cách đánh, từ chỗ dựa vào đồn lũy Pháp ở Mỹ Tho, Cai Lậy, rồi ông rút quân sang Cao Lãnh, tiến lên Ba Thằng Minh, Gò Bắc Chiêng.
Tại đây, cánh quân rút về phía đông (đến Cái Thia) do Võ Duy Dương chỉ huy, cánh quân rút về phía Tây (lên Hồng Ngự- Lăng Xăng- Thông bình) do Nguyễn Văn Cẩn chỉ huy, và một vài toán nhỏ lẻ khác của Trương Tấn Minh, Phòng Biểu... đã gặp nhau.
Củng cố xong lực lượng, Võ Duy Dương phối hợp ngay với các thủ lĩnh khác để tiếp tục chiến đấu. Sự phối hợp này thật ra là bố trí lại lực lượng trên toàn khu vực, chọn những cách đánh linh hoạt hơn. Bởi vì sự liên minh chiến đấu đã có ngay trong trận Tháp Mười và trước đó nữa...
Căn cứ Đồng Tháp Mười tan vỡ là sự tổn thất riêng của Võ Duy Dương, đồng thời là tổn thất chung của các lực lượng chống Pháp của người Việt cũng như người Khmer tại Nam kỳ và vùng biên giới.
Đến lượt trung tâm kháng chiến chuyển về khu tổng Cầu An Hạ ở Bắc Đức Hòa, một tổng liền với Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh). Võ Duy Dương đã tìm gặp Trương Quyền, người thủ lĩnh phong trào tại đây.
Qua Trương Quyền, hẳn nhiên, Võ Duy Dương liên minh với Poucombo.
Liên quân Việt-Khmer đủ các chủng tộc, người Việt, người Khmer, người Chăm, người Siêng và các bộ lạc khác... Ở đây còn có những người lính Pháp, lính Tagal phản chiến.
*
* *
* *
Mở màn cuộc liên minh này là
chiến thắng Tây Ninh (ngày 7/611866). Liên quân Việt-Khmer
trên 300 người do Poucombo lãnh đạo tấn công đồn Tây
Ninh, hạ tại trận 12 lính Pháp, trong đó có chủ tỉnh
Tây Ninh Larclauze và viên thiếu úy Le Sage.
Được tin thất trận ở Tây Ninh, thủy sư đô đốc De Lagrandière đưa quân lên tiếp viện.
Ngày 14/6/1866, Marchaise, trung tá thủy quân lục chiến Pháp, chỉ huy 150 lính và 2 cỗ đại bác tìm diệt nghĩa quân. Trong lúc lội qua rạch Dinh, đội hình Pháp rơi vào ổ phục kích của nghĩa quân. Bằng cung nỏ, gươm giáo và một ít súng trường, nghĩa quân đã dũng cảm đánh giáp là cà giết chết tên Marchaise và nhiều lính Pháp. Số còn lại bỏ chạy tán loạn.
Chiến thắng rạch Dinh và Tây Ninh trước đó là một tiếng vang lớn làm nức lòng nghĩa quân cũng như dân chúng Việt-Khmer. Nhưng, đó là nỗi kinh hoàng và lo sợ của Pháp. Paulin Vial trong cuốn Histoire de la Cochinchine, (cuốn II) có viết:
“Trong khi Pháp lo những cuộc hành binh khác, tin trận rạch Dinh và tin số quân bị thiệt hại của ta (Pháp) làm tràn ra ngoài dân chúng như một làn lửa thuốc súng. Các lãnh tụ khởi nghĩa phái người đi cổ võ khắp nơi, đến cả trong hàng ngũ chúng ta (Pháp), đến cả trong phố Sài Gòn và họ tìm cách tấn công ta tại thủ phủ của ta".
Ngày 24/6/1866, nghĩa quân lại tấn công đồn Thuận Kiều và Trảng Bàng.
Biết rõ căn cứ của nghĩa quân Việt Nam đóng tại tổng Cầu An Hạ, ở giữa bưng Tầm Lạc và Vàm Cỏ Đông, khu vực chạy dọc theo đường Sài Gòn-Tây Ninh, ngày 27/6/18666 Pháp điều lực lượng quanh vùng Chợ Lớn, ở Phú Lâm, ở Cầu Ong Lãnh gồm 200 lính Pháp, 100 lính mã tà và một pháo thuyền do thiếu tá Rosse chỉ huy đến bao vây, tập kích vào căn cứ.
Nghĩa quân chủ động đánh mở ra 3 mặt. Trương Quyền dẫn một cánh quân đông nhất đánh lên phía Trảng Bàng. Cánh thứ nhì đánh về phía sông Bến Nghé. Cánh thứ ba đánh xuống phía nam, băng qua đầm lầy, trú quân tại Bình Điền. Cai tổng Phước hay tin kéo lính đến vây
Được tin thất trận ở Tây Ninh, thủy sư đô đốc De Lagrandière đưa quân lên tiếp viện.
Ngày 14/6/1866, Marchaise, trung tá thủy quân lục chiến Pháp, chỉ huy 150 lính và 2 cỗ đại bác tìm diệt nghĩa quân. Trong lúc lội qua rạch Dinh, đội hình Pháp rơi vào ổ phục kích của nghĩa quân. Bằng cung nỏ, gươm giáo và một ít súng trường, nghĩa quân đã dũng cảm đánh giáp là cà giết chết tên Marchaise và nhiều lính Pháp. Số còn lại bỏ chạy tán loạn.
Chiến thắng rạch Dinh và Tây Ninh trước đó là một tiếng vang lớn làm nức lòng nghĩa quân cũng như dân chúng Việt-Khmer. Nhưng, đó là nỗi kinh hoàng và lo sợ của Pháp. Paulin Vial trong cuốn Histoire de la Cochinchine, (cuốn II) có viết:
“Trong khi Pháp lo những cuộc hành binh khác, tin trận rạch Dinh và tin số quân bị thiệt hại của ta (Pháp) làm tràn ra ngoài dân chúng như một làn lửa thuốc súng. Các lãnh tụ khởi nghĩa phái người đi cổ võ khắp nơi, đến cả trong hàng ngũ chúng ta (Pháp), đến cả trong phố Sài Gòn và họ tìm cách tấn công ta tại thủ phủ của ta".
Ngày 24/6/1866, nghĩa quân lại tấn công đồn Thuận Kiều và Trảng Bàng.
Biết rõ căn cứ của nghĩa quân Việt Nam đóng tại tổng Cầu An Hạ, ở giữa bưng Tầm Lạc và Vàm Cỏ Đông, khu vực chạy dọc theo đường Sài Gòn-Tây Ninh, ngày 27/6/18666 Pháp điều lực lượng quanh vùng Chợ Lớn, ở Phú Lâm, ở Cầu Ong Lãnh gồm 200 lính Pháp, 100 lính mã tà và một pháo thuyền do thiếu tá Rosse chỉ huy đến bao vây, tập kích vào căn cứ.
Nghĩa quân chủ động đánh mở ra 3 mặt. Trương Quyền dẫn một cánh quân đông nhất đánh lên phía Trảng Bàng. Cánh thứ nhì đánh về phía sông Bến Nghé. Cánh thứ ba đánh xuống phía nam, băng qua đầm lầy, trú quân tại Bình Điền. Cai tổng Phước hay tin kéo lính đến vây
Cũng như căn cứ Tân Hòa (Gò
Công), căn cứ Gò Tháp (Đồng Tháp Mười), trung tâm kháng
chiến Cầu An Hạ bị san bằng vì tương quan lực lượng
và vũ khí chênh lệch, nghĩa quân kháng cự quyết liệt
nhưng cuối cùng đành chịu thiệt hại nặng ở ấp Bình
Thủy, ở Ba Hầm và Bình Điền. Nguyễn Văn Tài, một
trong những người chỉ huy nghĩa quân đã bị giặc bắt.
Khi lên đến Tây Ninh, Trương Quyền cùng hoạt động mật
thiết với Poucombo.
Từ ngày 2/7 đến ngày 1l/7/1866; liên quân Việt-Khmer còn chạm trán với Pháp trong các trận: Trà Vang (Tây Ninh), thành phố Tây Ninh, Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Long Trì (Tân An), Bình Thới.
Người Pháp nhận xét: "Trong thời kỳ chiến tranh này, điều đáng chú ý là: ở những kẻ thù của chúng ta (nghĩa quân, Việt-Khmer) có một sự hoạt động, một sự cương quyết và một sự khéo léo vô cùng, dùng các súng mà đến nay, chưa hề thấy trong người bản xứ. Mỗi một người du kích đến quấy phá những vị trí tiền tiêu của ta hay khuấy rối xóm giềng làng xã. Họ núp ở những đường nho nhỏ, mà chờ toán quân đi qua để nhắm bắn các vị lãnh đạo của các toán quân đó. Những lính đào ngũ có mặt trong hàng ngũ của kẻ địch và lòng tin tưởng của người Khơme đối với Poucombo, điều ấy tạo ra một tình thế rất nguy hiểm cho quyền thống trị của chúng ta (Chú thích: Paulin Vial, Histoire de la Cochinchine, cuốn II. trang 70.) .
Pháp cho rằng nghĩa quân hoạt động mạnh là do Triều đình làm ngơ, thậm chí còn cố ý trợ giúp, mà cụ thể là 3 tỉnh miền Tây.
Trong thư gởi cho Thống đốc Nam kỳ De Lagrandière ngày 18/11/1866, August Ansart, trung tá hải quân, tư lệnh tỉnh Mỹ Tho có kể lại cuộc nói chuyện giữa y và Phan Thanh Giản trước đây như sau:
"Tôi nhắc lại với ông, tất cả các sự phiến động trong tỉnh của chúng ta, do những người mật sứ chắc chắn đã được lệnh, vì nếu không, họ đã không thể nào tìm được nơi dân chúng tiếng vang mà họ đã gặp được. Tôi nhắc lại cho ông những toan tính của con trai Quản Định, của Tiên Hộ (tức Trương Quyền, còn gọi là Trương Tuệ và Thiên Hộ Dương - NB) là hai nhà lãnh tụ được họ ngầm giúp đỡ, chứa chấp và che chở, các đoàn quân của những người này ngày nay vẫn về bè với Poucombo..."
Pháp phản đối quyết liệt, Tự Đức bất đắc dĩ phải ra chỉ dụ ngày 7/6 năm Tự Đức thứ 19 (1866) tầm nã Acha-xoa và Võ Duy Dương. . . kỳ thật bên trong lại khác.
“Tuần phủ Thuận Khánh là Hoàng Văn Uyển tâu nói: gần đây nghe nói Võ Duy Dương và bọn Trương Tuệ (Tuệ là con Trương Định) ngầm đến thượng du hội với bọn còn sót lại của tên Bướm mưu đồ khởi nghịch. Vua bảo cơ mật viện rằng: lũ tên Dương lòng hắn như thế nào chưa biết rõ, nhưng cũng là do lòng căm phẫn mà ra, có thể mới ràng buộc lòng người, để dùng về sau, cho đi tuần bắt cũng chẳng qua cho vui lòng nước Pháp mà thôi, giết đi cũng đáng tiếc, người không biết bảo là phụ ân. Trước đã bất đắc dĩ để mất một Phan Huân (Nguyễn Hữu Huân NB) lòng trẫm vẫn áy náy, chưa biết quan Kinh lược và quan tỉnh cũng đã biết rõ ý làm cho thỏa đáng hay không. Nếu nhận là việc thật thì thất sách lắm. Bọn chúng quen đánh không sợ, tuy sức ít không làm nên việc, nhưng khí khái đáng khen, huống chi lũ tên Dương nếu được địa lợi, đủ quân lương, biết đem dùng hắn thì người đã quen, tường cũng được việc, nếu với hắn nên xử trí cho khéo? ngõ hầu lưỡng toàn" (Chú thích: Đại Nam Thực lục, Đệ tứ kỷ, quyển XXXI. trang 49).
Trong khi Pháp ép Nam triều ở tại An Giang phải bắt cho được ACha- Xoa giao cho chúng, thì có một kẻ phản bội bắn ông trọng thương.
Pháp tưởng rằng, khi mất chủ tướng, phong trào chống Pháp của nhân dân Khơmer tại Tà Keo - Châu Đốc tan rã. nào ngờ nghĩa quân của Acha-xoa về theo Poucombo. Hai lực lượng kháng chiến vùng Đông Bắc và vùng Đông Nam Campuchia phối hợp chặt chẽ hơn, phạm vi mở rộng hơn.
Ngoài lực lượng kháng chiến của Võ Duy Dương và Trương Quyền, dân chúng hai tỉnh An Giang và Hà Tiên cũng ủng hộ Poucombo.
Sau đó, lực lượng của Poucombo chuyển hướng tấn công Oudong và Nam Vang và lập căn cứ tại đất nước mình.
Từ ngày 2/7 đến ngày 1l/7/1866; liên quân Việt-Khmer còn chạm trán với Pháp trong các trận: Trà Vang (Tây Ninh), thành phố Tây Ninh, Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Long Trì (Tân An), Bình Thới.
Người Pháp nhận xét: "Trong thời kỳ chiến tranh này, điều đáng chú ý là: ở những kẻ thù của chúng ta (nghĩa quân, Việt-Khmer) có một sự hoạt động, một sự cương quyết và một sự khéo léo vô cùng, dùng các súng mà đến nay, chưa hề thấy trong người bản xứ. Mỗi một người du kích đến quấy phá những vị trí tiền tiêu của ta hay khuấy rối xóm giềng làng xã. Họ núp ở những đường nho nhỏ, mà chờ toán quân đi qua để nhắm bắn các vị lãnh đạo của các toán quân đó. Những lính đào ngũ có mặt trong hàng ngũ của kẻ địch và lòng tin tưởng của người Khơme đối với Poucombo, điều ấy tạo ra một tình thế rất nguy hiểm cho quyền thống trị của chúng ta (Chú thích: Paulin Vial, Histoire de la Cochinchine, cuốn II. trang 70.) .
Pháp cho rằng nghĩa quân hoạt động mạnh là do Triều đình làm ngơ, thậm chí còn cố ý trợ giúp, mà cụ thể là 3 tỉnh miền Tây.
Trong thư gởi cho Thống đốc Nam kỳ De Lagrandière ngày 18/11/1866, August Ansart, trung tá hải quân, tư lệnh tỉnh Mỹ Tho có kể lại cuộc nói chuyện giữa y và Phan Thanh Giản trước đây như sau:
"Tôi nhắc lại với ông, tất cả các sự phiến động trong tỉnh của chúng ta, do những người mật sứ chắc chắn đã được lệnh, vì nếu không, họ đã không thể nào tìm được nơi dân chúng tiếng vang mà họ đã gặp được. Tôi nhắc lại cho ông những toan tính của con trai Quản Định, của Tiên Hộ (tức Trương Quyền, còn gọi là Trương Tuệ và Thiên Hộ Dương - NB) là hai nhà lãnh tụ được họ ngầm giúp đỡ, chứa chấp và che chở, các đoàn quân của những người này ngày nay vẫn về bè với Poucombo..."
Pháp phản đối quyết liệt, Tự Đức bất đắc dĩ phải ra chỉ dụ ngày 7/6 năm Tự Đức thứ 19 (1866) tầm nã Acha-xoa và Võ Duy Dương. . . kỳ thật bên trong lại khác.
“Tuần phủ Thuận Khánh là Hoàng Văn Uyển tâu nói: gần đây nghe nói Võ Duy Dương và bọn Trương Tuệ (Tuệ là con Trương Định) ngầm đến thượng du hội với bọn còn sót lại của tên Bướm mưu đồ khởi nghịch. Vua bảo cơ mật viện rằng: lũ tên Dương lòng hắn như thế nào chưa biết rõ, nhưng cũng là do lòng căm phẫn mà ra, có thể mới ràng buộc lòng người, để dùng về sau, cho đi tuần bắt cũng chẳng qua cho vui lòng nước Pháp mà thôi, giết đi cũng đáng tiếc, người không biết bảo là phụ ân. Trước đã bất đắc dĩ để mất một Phan Huân (Nguyễn Hữu Huân NB) lòng trẫm vẫn áy náy, chưa biết quan Kinh lược và quan tỉnh cũng đã biết rõ ý làm cho thỏa đáng hay không. Nếu nhận là việc thật thì thất sách lắm. Bọn chúng quen đánh không sợ, tuy sức ít không làm nên việc, nhưng khí khái đáng khen, huống chi lũ tên Dương nếu được địa lợi, đủ quân lương, biết đem dùng hắn thì người đã quen, tường cũng được việc, nếu với hắn nên xử trí cho khéo? ngõ hầu lưỡng toàn" (Chú thích: Đại Nam Thực lục, Đệ tứ kỷ, quyển XXXI. trang 49).
Trong khi Pháp ép Nam triều ở tại An Giang phải bắt cho được ACha- Xoa giao cho chúng, thì có một kẻ phản bội bắn ông trọng thương.
Pháp tưởng rằng, khi mất chủ tướng, phong trào chống Pháp của nhân dân Khơmer tại Tà Keo - Châu Đốc tan rã. nào ngờ nghĩa quân của Acha-xoa về theo Poucombo. Hai lực lượng kháng chiến vùng Đông Bắc và vùng Đông Nam Campuchia phối hợp chặt chẽ hơn, phạm vi mở rộng hơn.
Ngoài lực lượng kháng chiến của Võ Duy Dương và Trương Quyền, dân chúng hai tỉnh An Giang và Hà Tiên cũng ủng hộ Poucombo.
Sau đó, lực lượng của Poucombo chuyển hướng tấn công Oudong và Nam Vang và lập căn cứ tại đất nước mình.
Ở Nam kỳ, nghĩa quân của Võ
Duy Dương và Trương Quyền tích cực hoạt động tại
miền Đồng Tháp Mười, An Giang và Hà Tiên.
Trong một bức thư gửi cho Phan Huy Vịnh, Pháp báo:
“Bọn phỉ Dương, súng đạn phần nhiều ở Hà Tiên và người của Vĩnh Long thì theo bọn nghịch và trợ chiến cho bọn đó. Lại việc nữa: nghịch Dương và 8 tên tùng quản ẩn náu ở An Giang và được quan tỉnh đó che chở" (Chú thích: Dụ của Vua Tự Đức ngày 7 tháng 6 năm Tự Đức năm thứ 19 (1866))
Và theo Phan Huy Vịnh thì: "Tây súy lấy làm lạ về việc đó và đã đem sự việc đó báo về độc biên. Nếu không nã bắt giải giao mà để cho nghịch Dương trốn biệt đến bất cứ địa phương nào thì 3 tỉnh đó đều bị sự quy kết và Tây súy sẽ tùy nghi chiếu biện, v.v... " (Chú thích: Dụ của Vua Tự Đức ngày 7 tháng 6 năm Tự Đức năm thứ 19 (1866))
Trước sự bất bình và cương quyết của Pháp, đe dọa đến 3 tỉnh miền Tây, Triều đình cử Nguyễn Hữu Cơ vào Nam kỳ tìm gặp và trao đổi riêng với Võ Duy Dương cho "lưỡng toàn".
Vừa đến Gia Định, Nguyễn Hữu Cơ đã tiết lộ với Pháp: “Bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra thú đồn khi khai khẩn, khi đến Vĩnh Long đem việc ấy nói kín với Phan Thanh Giản, bèn tự cho các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và các tỉnh Bình Thuận trở ra Bắc, phàm bè lũ Dương đều cho ra thú đi khẩn hoang. Lại xin cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa, hễ thấy tên Dương, tên Tuệ thì đem đổi tên cấp cho ngựa trạm về kinh, phái đi nơi khác cho hết điều tai tiếng" (Chú thích: Đại Nam Thực lục. Đệ tứ kỷ. QXXXI)
Có thể đây là ý của triều đình mà đứng đầu là vua Tự Đức. Cách này theo vết Phan Trung (Phan Chánh), Trà Quý Bình, Lê Quang Bính, vào tháng 2/1865, khi căn cứ Giao Loan (giữa Biên Hòa và Bình Thuận) thất thủ. các ông đã lánh ra Bình Thuận. Đến tháng 7/1865, được chiếu chỉ gọi về Huế.
Có lẽ Nguyễn Hữu Cơ quá táo bạo trong việc đặt thẳng vấn đề với Pháp, với các tỉnh thần. Thái độ đó đã làm cho Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản khó chịu vì sĩ diện, cũng như vì sự mất còn của đất nước, ông tâu với triều đình Huế.
“Nguyễn Hữu Cơ trước đã tự tiện bỏ Á-xoa, sau đem việc Duy Dương khinh thường làm việc táo bạo như thế, rất lấy làm ngại. Hữu Cơ phải giáng 2 cấp cho lưu tại chức" (Chú thích: Đại Nam Thực lục, Đệ tứ Kỷ. Q.XXXI)
Rồi đến tháng 9/1866 "Thiên Hộ Võ Duy Dương cử người về kinh dâng sớ kín.
Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt lõi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa” (Chú thích: Đại Nam thực lục, Đệ tứ kỷ. quyển XXXI.)
Tháng 10/1866, trên đường ra Bình Thuận, Võ Duy Dương và đoàn tùy tùng đi trên chiếc ghe cửa đã bị bọn cướp biển tấn công bất thần giết chết tại cửa biển Thần Mẫu (tức Cần Giờ) (Chú thích: Lúc đó, quan tỉnh Bình Thuận báo rằng thuyền của Võ Duy Dương trên đường ra Bình Thuận bị bão đắm ở địa phận biển Thần Mẫu. )
Trong một bức thư gửi cho Phan Huy Vịnh, Pháp báo:
“Bọn phỉ Dương, súng đạn phần nhiều ở Hà Tiên và người của Vĩnh Long thì theo bọn nghịch và trợ chiến cho bọn đó. Lại việc nữa: nghịch Dương và 8 tên tùng quản ẩn náu ở An Giang và được quan tỉnh đó che chở" (Chú thích: Dụ của Vua Tự Đức ngày 7 tháng 6 năm Tự Đức năm thứ 19 (1866))
Và theo Phan Huy Vịnh thì: "Tây súy lấy làm lạ về việc đó và đã đem sự việc đó báo về độc biên. Nếu không nã bắt giải giao mà để cho nghịch Dương trốn biệt đến bất cứ địa phương nào thì 3 tỉnh đó đều bị sự quy kết và Tây súy sẽ tùy nghi chiếu biện, v.v... " (Chú thích: Dụ của Vua Tự Đức ngày 7 tháng 6 năm Tự Đức năm thứ 19 (1866))
Trước sự bất bình và cương quyết của Pháp, đe dọa đến 3 tỉnh miền Tây, Triều đình cử Nguyễn Hữu Cơ vào Nam kỳ tìm gặp và trao đổi riêng với Võ Duy Dương cho "lưỡng toàn".
Vừa đến Gia Định, Nguyễn Hữu Cơ đã tiết lộ với Pháp: “Bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra thú đồn khi khai khẩn, khi đến Vĩnh Long đem việc ấy nói kín với Phan Thanh Giản, bèn tự cho các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và các tỉnh Bình Thuận trở ra Bắc, phàm bè lũ Dương đều cho ra thú đi khẩn hoang. Lại xin cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa, hễ thấy tên Dương, tên Tuệ thì đem đổi tên cấp cho ngựa trạm về kinh, phái đi nơi khác cho hết điều tai tiếng" (Chú thích: Đại Nam Thực lục. Đệ tứ kỷ. QXXXI)
Có thể đây là ý của triều đình mà đứng đầu là vua Tự Đức. Cách này theo vết Phan Trung (Phan Chánh), Trà Quý Bình, Lê Quang Bính, vào tháng 2/1865, khi căn cứ Giao Loan (giữa Biên Hòa và Bình Thuận) thất thủ. các ông đã lánh ra Bình Thuận. Đến tháng 7/1865, được chiếu chỉ gọi về Huế.
Có lẽ Nguyễn Hữu Cơ quá táo bạo trong việc đặt thẳng vấn đề với Pháp, với các tỉnh thần. Thái độ đó đã làm cho Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản khó chịu vì sĩ diện, cũng như vì sự mất còn của đất nước, ông tâu với triều đình Huế.
“Nguyễn Hữu Cơ trước đã tự tiện bỏ Á-xoa, sau đem việc Duy Dương khinh thường làm việc táo bạo như thế, rất lấy làm ngại. Hữu Cơ phải giáng 2 cấp cho lưu tại chức" (Chú thích: Đại Nam Thực lục, Đệ tứ Kỷ. Q.XXXI)
Rồi đến tháng 9/1866 "Thiên Hộ Võ Duy Dương cử người về kinh dâng sớ kín.
Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt lõi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa” (Chú thích: Đại Nam thực lục, Đệ tứ kỷ. quyển XXXI.)
Tháng 10/1866, trên đường ra Bình Thuận, Võ Duy Dương và đoàn tùy tùng đi trên chiếc ghe cửa đã bị bọn cướp biển tấn công bất thần giết chết tại cửa biển Thần Mẫu (tức Cần Giờ) (Chú thích: Lúc đó, quan tỉnh Bình Thuận báo rằng thuyền của Võ Duy Dương trên đường ra Bình Thuận bị bão đắm ở địa phận biển Thần Mẫu. )
*
* *
* *
Cái Chết Của vị anh hùng dân tộc Võ Duy Dương thật là một bi kịch cũng như bi kịch cuộc đời hoạt động của ông.
Rất tiếc, nếu sóng lặng gió êm để Võ Đuy Dương được hội kiến với vua Tự Đức thì hậu thế sẽ rõ "sớ kín" kia nói những gì. Có phải đó là hai bản tấu trình, trong ấy "Võ Duy Dương đề nghị với nhà vua cho phép dùng mưu kế thu hồi lại ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường... " mà Gustave Janneau trong bài phân tích của mình đã khẳng định, hay một bản tấu trình nào khác.
“Ông Thiên Hộ Dương, tên thật là Võ Duy Dương, là một trong những thủ lĩnh của đám loạn quân đã gây cho chúng ta nhiều thiệt hại trước khi chúng ta chiếm đóng đô hộ xứ này. Tại Tháp Mười ông Dương đích thân chỉ huy những người An Nam. Các văn bản dưới đây (tức hai bản tấu trình - NB) chứng tỏ ông có quan hệ với Hoàng đế Tự Đức". Trong dân gian nhiều nơi ở Nam kỳ bảo ông về Huế xin triều đình viện binh.
Thực tế, khi hay tin ông mất, vua sai tìm xác đem chôn cùng đồ vật và cấp cho mẹ ông mỗi tháng 5 quan tiền và một phương gạo. Ngoài ra còn sắc phong cho gia đình ông.
Kết luận
Đến năm 1867, thực dân Pháp lại dùng sức ép quân sự chiếm luôn ba tỉnh miền Tây. Thế là với chiến thuật "vết dầu loang", chúng đã nuốt trọn sáu tỉnh Nam kỳ. Mặt nhân nhượng, hòa hoãn với giặc trong chánh sách hai mặt của triều đình nhà Nguyễn lúc đầu dần dần lấn át mặt ngấm ngầm ủng hộ nghĩa quân cuối cùng đi đến chỗ nhu nhược đầu hàng, phản bội nhân dân và lực lượng kháng chiến. .
Đành rằng, lực lượng kháng chiến chủ yếu là dựa vào sức dân, nhưng sự bỏ lực lượng kháng chiến của triều đình đã gây một tác hại không nhỏ đối với công cuộc chống ngoại xâm.
Trong quá trình xâm lược Việt Nam ngay trong buổi đầu bọn thực dân Pháp đã thấy rõ một điều là lực lượng mà chúng phải đương đầu không phải là quan quân triều đình mà chính là lực lượng kháng chiến, thế nên chúng đã khôn khéo một mặt tập trung quân lực đàn áp nghĩa quân, mặt khác dùng sức ép buộc triều đình ra lệnh giải giáp lực lượng kháng chiến. Dù vậy, nhưng nghĩa quân vẫn kiên trì, anh dũng chiến đấu với sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân. Lãnh tụ nghĩa quân này ngã xuống, vị khác đứng lên tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc. Từ Trương Định đến Võ Duy Dương rồi Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực... hào khí Đồng Nai mãi mãi được hun đúc. Dưới cờ nghĩa, nông dân, lính đồn điền, dân lưu tán trở thành nghĩa dõng, dân binh cùng chung một lời nguyền:
“Chúng tôi sẽ bẻ lau làm cờ, chặt tầm vông làm vũ khí. Nhứt định chúng tôi không bao giờ ngừng chiến đấu chống giặc cướp nước".
Đến nay vừa tròn 125 năm kể từ khi cuộc khởi nghĩa Võ Duy Dương bị đàn áp, những sôi động của lịch sử có thời gian lắng đọng để chúng ta có sơ sở khẳng định rằng: Võ Duy Dương là một trong những lãnh tụ nghĩa quân kháng Pháp đầu tiên ở Việt Nam và Nam bộ nói riêng. Dưới quyền chỉ huy chung của Trương Định, Võ Duy Dương đã cùng Nguyễn Hữu Huân, Trần Xuân Hòa hình thành cơ sở kháng chiến và chiến đấu chống Pháp trên đất Ba Giồng (Tiền Giang) như là một trung tâm kháng chiến đồng thời với trung tâm Tân Hòa (Gò Công) của Trương Định. Sau khi Trương Định anh dũng hy sinh ở Kiểng Phước (Gò Công, 8/1864), Võ Duy Dương chọn Tháp Mười làm căn cứ tập trung hầu hết lực lượng kháng chiến. Căn cứ Đồng Tháp Mười trở thành mối ngại nhứt của thực dân Pháp lúc bấy giờ.
Xuất thân là một nông dân nghèo, ít học, ở quê hương có truyền thống trọng võ, Võ Duy Dương lưu lạc vào Nam tìm kế mưu sinh, tham gia công cuộc chiêu dân khai hoang. Khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định, ông liền cùng người bạn chí thân là Nguyễn Hữu Huân qui tập lưu dân, dân mộ kéo về Gia Định ứng cứu.
So với các thủ lãnh nghĩa quân cùng thời, Võ Duy Dương thiếu những điều kiện thuận lợi cơ bản, khi bắt tay vào cuộc kháng chiến. Chúng ta đều biết rằng, dưới thời đại phong kiến, một người muốn ra hiệu triệu nhân dân làm một công việc gì lớn phải là người từng đỗ đạt hay ít ra phải là quan chức của triều đình, hoặc thấp lắm phải có điền sản. Trương Định vốn là con nhà quan, có điền sản, có đồn điền nhà với 500 dân mộ lại được phong chức phó quản cơ, nên rất dễ dàng gây dựng một lực lượng để chống Pháp. Nguyễn Hữu Huân, con một lái buôn, lại. đỗ thủ khoa thi hương có tiếng tăm, nên rất thuận lợi khi hô hào nhân dân tham gia kháng chiến. Sau này, ở miền Trung, Phan Đình Phùng, vốn là một gián quan cũ của triều đình, đã từng đỗ đình nguyên danh tiếng lẫy lừng, nên rất dễ dàng cổ động một phong trào Cần Vương rộng lớn.
Ở miền Bắc, Nguyễn Thiện Thuật cũng là người có chức phẩm khá cao trong triều, có danh vọng lớn trong nhân dân. “Mãi đến sau này, Phan Bội Châu muốn có điều kiện hô hào dân chúng tham gia chống Pháp cũng phải chịu khó thi mấy phen cho đỗ giải nguyên rồi mới có thể đứng ra lấy danh nghĩa Cường Để hiệu triệu nhân dân đứng lên giết giặc”. Lịch sử cho thấy phần lớn những người cầm đầu phong trào đều là quan chức của triều đình hoặc văn hoặc võ nếu không thì cũng đã từng đỗ đạt mới có đủ tư cách ăn nói cho người ta nghe theo.
Khi bước vào công cuộc vận động quần chúng đứng lên đánh giặc Pháp, Võ Duy Dương thiếu các điều kiện cơ bản đó, lại phát động cuộc chiêu mộ nghĩa dõng không phải trên quê quán của mình; ông chỉ có mỗi một mặt là giỏi võ nghệ, ấy vậy mà ông đã qui tụ được hàng ngàn nghĩa dõng, ngoài ra còn liên kết với các nhà khoa bảng, quan chức của triều đình và các điền chủ, bá hộ giàu có liên hệ với nhà vua qua các sứ giả; đã quần thảo với giặc suốt 7 năm trời từ Ba Giồng đến Đồng Tháp Mười và nhiều nơi khác trên đất Nam kỳ. Phải nói rằng Võ Duy Dương quả thật là người có tài có đức, biết tập hợp quần chúng quanh mình để xây dựng lực lượng, tạo nên uy tín.
Bước vào cuộc kháng Pháp, Võ
Duy Dương đã thấy và nhanh chóng khắc phục mặt yếu
của mình, ông đã liên kết với thủ khoa Nguyễn Hữu
Huân, một khoa bảng tiếng tăm ở Ba Giồng, đang là giáo
thọ phủ Kiến an (Định Tường), mới có tư cách nhứt
định đứng ra hiệu triệu nhân dân (Chú thích: Sau này,
Đinh Công Tráng, người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Ba Đình
cũng có hành động giống ông. Đinh Công Tráng không là
quan lại cũng không là văn thân tiêu biểu để gây tin
tưởng trong dân chúng ông đã liên kết với đốc học
Phạm Bành, một nhà khoa bảng, đứng ra kêu gọi mới có
tác dụng). Rồi với tư cách là một đầu mục nghĩa
dõng, ông táo bạo vượt biển về kinh, hiến kế chống
giặc ngoại xâm; được triều đình giữ lại dẹp giặc
biển và giặc Đá Vách ở Quảng Ngãi, ông đem sở trường
của mình ra thi thố hầu tạo ra cái mà mình chưa có. Dẹp
được giặc, ông được phong Chánh bát phẩm Thiên hộ.
Ông lại quay vào Nam với tư cách này: “dù là một võ
quan cấp thấp nhưng vẫn có thể hơn một anh nhà nghèo
tha phương cầu thực". Lúc đầu, Võ Duy Dương dựa
vào uy tín văn thân của Nguyễn Hữu Huân, nhưng từng
bước Võ Duy Dương đã tạo ra được cho mình cái uy thế
quan triều đình, một điều kiện hết sức cần thiết
để hiệu triệu dân chúng dưới xã hội phong kiến.
Đánh giặc cần phải có người có của. Muốn có người có của phải dựa vào dân. Hai hạng người mà Võ Duy Dương dựa vào là nông dân và điền chủ.
Vốn là một lưu dân đi khẩn hoang, nên Võ Duy Dương rất gần gũi. gắn bó với nông dân, dân lậu, dân đồn điền. Tình cảm tâm tư của những hạng người này đối với ruộng vườn, đất nước cũng là tình cảm tâm tư của Võ Duy Dương. Khắp nơi từ Ba Giồng đến Đồng Tháp Mười, có lẽ trong thời kỳ đi khẩn hoang Võ Duy Dương đều có lui tới. Bản thân Võ Duy Dương cũng có những khổ cực nhọc nhằn, lo toan như bao lưu dân khác. Trên cơ sở đó, trong quá trình chiêu mộ nghĩa dõng, dù Võ Duy Dương không có cái thế của Trương Định, không có cái thế của Phan Đình Phùng sau này, nhưng ông đã nhanh chóng quy tụ được hàng ngàn người. Võ Duy Dương quả thật là một lãnh tụ nông dân khoác áo quan triều đình trong kháng chiến chống Pháp ở Nam
Nhưng đại bộ phận nông dân dân đồn điền đều nghèo khổ, đóng góp của họ cho kháng chiến chủ yếu là sức người, là xương máu. Đóng góp lúa gạo làm quân lương, tiền bạc mua vũ khí phải trông cậy vào đám phú hào, điền chủ. Điền chủ ở Nam kỳ lúc bấy giờ có tới hàng ngàn mẫu ruộng là chuyện thường. Đời sống của họ gắn chặt với ruộng đất và tá điền để thu tô. Thực dân Pháp xâm lược sẽ cướp đất đai của họ, nên họ sẵn sàng bỏ lúa gạo ra nuôi quân, tung tiền bạc ra mua súng đạn. Võ Duy Dương đã triệt để khai thác tình hình này, với tư cách là quan Thiên Hộ, Võ Duy Dương quan hệ, liên kết với nhiều điền chủ, chủ ruộng (Chú thích: Ở Nam kỳ, có sự phân biệt rõ: điền chủ là chủ đất (không gọi là địa chủ). Còn chủ ruộng, không phải là chủ đất mà người đứng ra thuê ruộng của điền chủ rồi mướn người làm để thu huê lợi. Chủ ruộng thường là giàu có) giàu có để có một nguồn tài lực nuôi quân. Một trong những điền chủ có quan hệ mật thiết với ông là bá hộ Trần Văn Học ở thôn Bình Cách, huyện Kiến Hòa (Định Tường), nơi Võ Duy Dương lập căn cứ, ông này có tất cả là 447 mẫu ruộng (Chú thích: Theo di chúc của Trần Văn Học lập năm 1876) hàng năm thu trên dưới 7.000 giạ lúa ruộng. Trần Văn Học đã từng ủng hộ lúa gạo nuôi quân, bán lấy tiền mua súng đạn cho nghĩa quân, sau lại gả người con gái là Trần Thị Vàng cho Võ Duy Dương.
Đánh giặc cần phải có người có của. Muốn có người có của phải dựa vào dân. Hai hạng người mà Võ Duy Dương dựa vào là nông dân và điền chủ.
Vốn là một lưu dân đi khẩn hoang, nên Võ Duy Dương rất gần gũi. gắn bó với nông dân, dân lậu, dân đồn điền. Tình cảm tâm tư của những hạng người này đối với ruộng vườn, đất nước cũng là tình cảm tâm tư của Võ Duy Dương. Khắp nơi từ Ba Giồng đến Đồng Tháp Mười, có lẽ trong thời kỳ đi khẩn hoang Võ Duy Dương đều có lui tới. Bản thân Võ Duy Dương cũng có những khổ cực nhọc nhằn, lo toan như bao lưu dân khác. Trên cơ sở đó, trong quá trình chiêu mộ nghĩa dõng, dù Võ Duy Dương không có cái thế của Trương Định, không có cái thế của Phan Đình Phùng sau này, nhưng ông đã nhanh chóng quy tụ được hàng ngàn người. Võ Duy Dương quả thật là một lãnh tụ nông dân khoác áo quan triều đình trong kháng chiến chống Pháp ở Nam
Nhưng đại bộ phận nông dân dân đồn điền đều nghèo khổ, đóng góp của họ cho kháng chiến chủ yếu là sức người, là xương máu. Đóng góp lúa gạo làm quân lương, tiền bạc mua vũ khí phải trông cậy vào đám phú hào, điền chủ. Điền chủ ở Nam kỳ lúc bấy giờ có tới hàng ngàn mẫu ruộng là chuyện thường. Đời sống của họ gắn chặt với ruộng đất và tá điền để thu tô. Thực dân Pháp xâm lược sẽ cướp đất đai của họ, nên họ sẵn sàng bỏ lúa gạo ra nuôi quân, tung tiền bạc ra mua súng đạn. Võ Duy Dương đã triệt để khai thác tình hình này, với tư cách là quan Thiên Hộ, Võ Duy Dương quan hệ, liên kết với nhiều điền chủ, chủ ruộng (Chú thích: Ở Nam kỳ, có sự phân biệt rõ: điền chủ là chủ đất (không gọi là địa chủ). Còn chủ ruộng, không phải là chủ đất mà người đứng ra thuê ruộng của điền chủ rồi mướn người làm để thu huê lợi. Chủ ruộng thường là giàu có) giàu có để có một nguồn tài lực nuôi quân. Một trong những điền chủ có quan hệ mật thiết với ông là bá hộ Trần Văn Học ở thôn Bình Cách, huyện Kiến Hòa (Định Tường), nơi Võ Duy Dương lập căn cứ, ông này có tất cả là 447 mẫu ruộng (Chú thích: Theo di chúc của Trần Văn Học lập năm 1876) hàng năm thu trên dưới 7.000 giạ lúa ruộng. Trần Văn Học đã từng ủng hộ lúa gạo nuôi quân, bán lấy tiền mua súng đạn cho nghĩa quân, sau lại gả người con gái là Trần Thị Vàng cho Võ Duy Dương.
Cuộc kháng chiến Võ Duy Dương
kéo dài suốt 7 năm (1859-1866). cuối cùng cũng bị đàn áp
như các phong trào khác. Bên cạnh những nét chung của
cuộc kháng Pháp ở Nam kỳ, cuộc kháng Pháp của Võ Duy
Dương có mấy điểm đáng lưu ý :
So với các lãnh tụ nghĩa quân khác, trong suốt quá trình kháng chiến, Võ Duy Dương có mối liên hệ khá chặt chẽ với vua Tự Đức. Trước khi ký hòa ước Sài Gòn (1862), Tự Đức đã lần lượt phong chức Chánh quản đạo rồi quản cơ cho Võ Duy Dương, sau đó, Tự Đức còn phong cho Võ Duy Dương làm Chánh Đề Đốc. Qua hai bản tấu trình của Võ Duy Dương gởi cho Tự Đức, chúng ta thấy nhiều lần Tự Đức cử các đoàn kinh phái đến liên hệ với Võ Duy Dương; ngay cả khi Võ Duy Dương sắp vào lập căn cứ ở Đồng Tháp Mười, Tự Đức đã cử một kinh phái và một thị vệ đến tiếp xúc với ông. Qua mối quan hệ này, chúng ta thấy rõ chánh sách hai mặt của triều đình, muốn dùng lực lượng kháng chiến để khôi phục ba tỉnh miền Đông. Nhưng do thái độ nhu nhược, thiếu cả quyết của Tự Đức cộng với tư tưởng chủ bại, cầu hòa của một số quan lại đã biến chủ trương nhân nhượng với Pháp lúc đầu dần dần trở thành chủ trương đầu hàng nhục nhã. Xuất thân là một lưu dân, có chút ít công lao với triều đình và được ân thưởng hàm chánh bát phẩm Thiên hộ, Võ Duy Dương không hề bị cái hàm ân đó lôi cuốn, không để nghĩa quân thần chi phối hoạt động của mình, mà ông chiến đấu vì lợi ích của nhân dân. Trong cuộc hội kiến với Kinh phái Nguyễn Tánh vào tháng 6 năm 1864, ông đã nói: “tôi bày tỏ với sứ giả của nhà vua là tôi sẽ rút lui vào Tháp Mười ẩn náu đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng tôi luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân" (Chú thích: Gustave Jeanneau - Tlđd ). Qua mối quan hệ này chúng ta càng thấy rõ cuộc chiến đấu của Võ Duy Dương nhằm đạt mục tiêu cao nhứt là độc lập dân tộc và sự vẹn toàn lãnh thổ. Mục tiêu này càng lộ rõ khi ông chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ, mặc dù trong thâm tâm ông chưa hề có dấu hiệu phản kháng đối với ý thức hệ phong kiến.
Chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ là một bước tiến trong quá trình lãnh đạo kháng chiến của Võ Duy Dương. Trong thời kỳ đầu chống Pháp: có hai căn cứ làm thực dân Pháp lo sợ nhứt là Tân Hòa (Gò Công) và Tháp Mười. Tân Hòa có ưu thế là vùng đất trù phú đông dân cư tiếp tế dễ dàng, nhưng địa hình trống trải không thuận lợi cho cuộc chiến tranh du kích. Lập căn cứ ở Tháp Mười là Võ Duy Dương khắc phục nhược điểm của Tân Hòa về mặt địa hình. Đồng Tháp Mười rộng mênh mông dày ken tràm lau sậy với muỗi đỉa, rắn rết, đường giao thông hầu như không có; một địa bàn lý tường cho loại hình du kích chiến, cho một lực lượng nhỏ yếu đương đầu với một lực lượng lớn mạnh. Do địa hình, nghĩa quân sáng tạo nhiều lối đánh phong phú, đa dạng. Với địa hình này, nghĩa quân ở thế công hay thế thủ đều thuận lợi. Từ đây nghĩa quân tập kích địch ở vùng tạm chiếm, rút về an toàn nhờ địa hình che giấu bảo vệ. Nếu bị tấn công, nghĩa quân lúc ẩn lúc hiện tiêu hao lực lượng địch, làm địch mệt mỏi phải rút lui. Mạng lưới sông rạch chằng chịt ở vùng ven Đồng Tháp Mười còn cho phép nghĩa quân tổ chức những trận du kích chiến linh hoạt với kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ và sáng tạo thêm, tạo điều kiện cho họ giành ưu thế trước quân thù trên các trấp các bưng đầy lau sậy muỗi đỉa, rắn độc ở đây kẻ ngoại xâm rơi vào thế trận của Đất, Nước và Người, do đó không những đối phó với một cộng đồng mà còn đối phó với cả một truyền thống... Nên không lạ gì dù chiếm ưu thế về binh khí kỹ thuật và phương tiện chiến tranh nhưng không sao chúng kiểm soát được Đồng Tháp Mười (Chú thích: Địa chí Đồng Tháp Mười. Nhiều tác giả- NXB CTQG - Hà Nội 1996 tr.239). P. Vial đã cay cú: "Đồng Tháp Mười ở tây bắc Mỹ Tho, nơi trú ẩn của quân phiến loạn An Nam, dùng như là căn cứ bất khả xâm phạm mà từ đó kẻ thù có thể tiến hành hàng ngày nhiều cuộc tấn công vào các làng mạc của chúng ta mà ta không thể trừng trị được” (Chú thích: Paulin Vial Sđd tr 39.)
Đồng Tháp Mười còn có lợi thế nữa vì nó là đầu cầu để liên lạc giữa miền Đông và miền Tây Nam kỳ, giữa Campuchia và vùng Đông Nam kỳ. Nhưng ngược lại, Đồng Tháp Mười cũng có một hạn chế rất lớn là không thể tự túc sản xuất lương thực, còn khâu tiếp tế từ bên ngoài cũng hết sức khó khăn vì không có đường giao thông. Võ Duy Dương đã thấy rõ điều này. Muốn cho căn cứ Tháp Mười phát huy tác dụng, khâu quan trọng phải giải quyết là tiếp tế. Khi còn hoạt động ở Ba Giồng, Võ Duy Dương nhận ra thế "phên dậu" nương tựa nhau giữa Ba Giồng và Tháp Mười. Ba Giồng là vùng đất khai thác, lâu đời trù phú đông dân ở Định Tường sau đất Gò Công, sức người sức của dồi dào, nên trong các con đường tiếp tế (đường gạo) được hình thành từ căn cứ Tháp Mười đã có tới ba đường hướng ra Ba Giồng: Cái Nứa, Cai Lậy, Trấn Định (Tân Hiệp). Ngoài ra để nhận sự tiếp tế từ các tỉnh miền Tây con đường gạo từ Cần Lố vào Tháp Mười cũng được hình thành. Trên các con đường gạo, các đội vận lương với phương tiện xuồng ghe, cộ trâu, lìa trâu đã mang về cho nghĩa quân mọi vật dụng cần thiết cho sinh hoạt và chiến đấu từ sự đóng góp nhiệt tình của nhân dân khắp nơi ở Nam kỳ.
So với các lãnh tụ nghĩa quân khác, trong suốt quá trình kháng chiến, Võ Duy Dương có mối liên hệ khá chặt chẽ với vua Tự Đức. Trước khi ký hòa ước Sài Gòn (1862), Tự Đức đã lần lượt phong chức Chánh quản đạo rồi quản cơ cho Võ Duy Dương, sau đó, Tự Đức còn phong cho Võ Duy Dương làm Chánh Đề Đốc. Qua hai bản tấu trình của Võ Duy Dương gởi cho Tự Đức, chúng ta thấy nhiều lần Tự Đức cử các đoàn kinh phái đến liên hệ với Võ Duy Dương; ngay cả khi Võ Duy Dương sắp vào lập căn cứ ở Đồng Tháp Mười, Tự Đức đã cử một kinh phái và một thị vệ đến tiếp xúc với ông. Qua mối quan hệ này, chúng ta thấy rõ chánh sách hai mặt của triều đình, muốn dùng lực lượng kháng chiến để khôi phục ba tỉnh miền Đông. Nhưng do thái độ nhu nhược, thiếu cả quyết của Tự Đức cộng với tư tưởng chủ bại, cầu hòa của một số quan lại đã biến chủ trương nhân nhượng với Pháp lúc đầu dần dần trở thành chủ trương đầu hàng nhục nhã. Xuất thân là một lưu dân, có chút ít công lao với triều đình và được ân thưởng hàm chánh bát phẩm Thiên hộ, Võ Duy Dương không hề bị cái hàm ân đó lôi cuốn, không để nghĩa quân thần chi phối hoạt động của mình, mà ông chiến đấu vì lợi ích của nhân dân. Trong cuộc hội kiến với Kinh phái Nguyễn Tánh vào tháng 6 năm 1864, ông đã nói: “tôi bày tỏ với sứ giả của nhà vua là tôi sẽ rút lui vào Tháp Mười ẩn náu đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng tôi luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân" (Chú thích: Gustave Jeanneau - Tlđd ). Qua mối quan hệ này chúng ta càng thấy rõ cuộc chiến đấu của Võ Duy Dương nhằm đạt mục tiêu cao nhứt là độc lập dân tộc và sự vẹn toàn lãnh thổ. Mục tiêu này càng lộ rõ khi ông chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ, mặc dù trong thâm tâm ông chưa hề có dấu hiệu phản kháng đối với ý thức hệ phong kiến.
Chọn Đồng Tháp Mười làm căn cứ là một bước tiến trong quá trình lãnh đạo kháng chiến của Võ Duy Dương. Trong thời kỳ đầu chống Pháp: có hai căn cứ làm thực dân Pháp lo sợ nhứt là Tân Hòa (Gò Công) và Tháp Mười. Tân Hòa có ưu thế là vùng đất trù phú đông dân cư tiếp tế dễ dàng, nhưng địa hình trống trải không thuận lợi cho cuộc chiến tranh du kích. Lập căn cứ ở Tháp Mười là Võ Duy Dương khắc phục nhược điểm của Tân Hòa về mặt địa hình. Đồng Tháp Mười rộng mênh mông dày ken tràm lau sậy với muỗi đỉa, rắn rết, đường giao thông hầu như không có; một địa bàn lý tường cho loại hình du kích chiến, cho một lực lượng nhỏ yếu đương đầu với một lực lượng lớn mạnh. Do địa hình, nghĩa quân sáng tạo nhiều lối đánh phong phú, đa dạng. Với địa hình này, nghĩa quân ở thế công hay thế thủ đều thuận lợi. Từ đây nghĩa quân tập kích địch ở vùng tạm chiếm, rút về an toàn nhờ địa hình che giấu bảo vệ. Nếu bị tấn công, nghĩa quân lúc ẩn lúc hiện tiêu hao lực lượng địch, làm địch mệt mỏi phải rút lui. Mạng lưới sông rạch chằng chịt ở vùng ven Đồng Tháp Mười còn cho phép nghĩa quân tổ chức những trận du kích chiến linh hoạt với kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ và sáng tạo thêm, tạo điều kiện cho họ giành ưu thế trước quân thù trên các trấp các bưng đầy lau sậy muỗi đỉa, rắn độc ở đây kẻ ngoại xâm rơi vào thế trận của Đất, Nước và Người, do đó không những đối phó với một cộng đồng mà còn đối phó với cả một truyền thống... Nên không lạ gì dù chiếm ưu thế về binh khí kỹ thuật và phương tiện chiến tranh nhưng không sao chúng kiểm soát được Đồng Tháp Mười (Chú thích: Địa chí Đồng Tháp Mười. Nhiều tác giả- NXB CTQG - Hà Nội 1996 tr.239). P. Vial đã cay cú: "Đồng Tháp Mười ở tây bắc Mỹ Tho, nơi trú ẩn của quân phiến loạn An Nam, dùng như là căn cứ bất khả xâm phạm mà từ đó kẻ thù có thể tiến hành hàng ngày nhiều cuộc tấn công vào các làng mạc của chúng ta mà ta không thể trừng trị được” (Chú thích: Paulin Vial Sđd tr 39.)
Đồng Tháp Mười còn có lợi thế nữa vì nó là đầu cầu để liên lạc giữa miền Đông và miền Tây Nam kỳ, giữa Campuchia và vùng Đông Nam kỳ. Nhưng ngược lại, Đồng Tháp Mười cũng có một hạn chế rất lớn là không thể tự túc sản xuất lương thực, còn khâu tiếp tế từ bên ngoài cũng hết sức khó khăn vì không có đường giao thông. Võ Duy Dương đã thấy rõ điều này. Muốn cho căn cứ Tháp Mười phát huy tác dụng, khâu quan trọng phải giải quyết là tiếp tế. Khi còn hoạt động ở Ba Giồng, Võ Duy Dương nhận ra thế "phên dậu" nương tựa nhau giữa Ba Giồng và Tháp Mười. Ba Giồng là vùng đất khai thác, lâu đời trù phú đông dân ở Định Tường sau đất Gò Công, sức người sức của dồi dào, nên trong các con đường tiếp tế (đường gạo) được hình thành từ căn cứ Tháp Mười đã có tới ba đường hướng ra Ba Giồng: Cái Nứa, Cai Lậy, Trấn Định (Tân Hiệp). Ngoài ra để nhận sự tiếp tế từ các tỉnh miền Tây con đường gạo từ Cần Lố vào Tháp Mười cũng được hình thành. Trên các con đường gạo, các đội vận lương với phương tiện xuồng ghe, cộ trâu, lìa trâu đã mang về cho nghĩa quân mọi vật dụng cần thiết cho sinh hoạt và chiến đấu từ sự đóng góp nhiệt tình của nhân dân khắp nơi ở Nam kỳ.
Hơn thế nữa, từ 1864, 1865 trở
đi, khi căn cứ Giao Loan và Tân Hòa thất thủ, Đồng Tháp
Mười là chiến khu lớn nhứt đóng vai trò trung tâm của
phong trào kháng chiến chống Pháp ở Nam kỳ lúc bấy giờ.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc xây dựng căn
cứ và liên lạc của Đồng Tháp Mười cùng sự liên kết
chặt chẽ giữa Võ Duy Dương và các lãnh tụ nghĩa quân
khác trên vùng đất tạm chiếm là những yếu tố tạo
ra sự qui tụ ấy. Trần Kỳ Phong một thuộc tướng của
Phan Trung, năm 1865 đã kéo quân từ Giao Loan về Đồng
Tháp Mười. Đầu năm 1866 Bùi Quang Diệu (Quản Là) thủ
lãnh nghĩa quân quan trọng nhứt của vùng Cần Đước,
Cần Giuộc cũng đã liên kết chặt chẽ với Vô Duy
Dương.
Chọn Tháp Mười làm căn cứ, cho thấy Võ Duy Dương đã là một lãnh tụ nghĩa quân có tầm nhìn chiến lược; tổ chức cho căn cứ hoạt động có hiệu quả; quả thật, Võ Duy Dương là một nhà quân sự có tài.
Lấy một nơi như Tháp Mười làm căn cứ còn bộc lộ quyết tâm chống giặc của Võ Duy Dương. Thật vậy, trong bất cứ tình huống nào ông cũng một lòng đem hết sức mình ra đánh đuổi cho kỳ được bọn xâm lược. Từ một lưu dân, có thể nói ông thuộc lớp người ở dưới đáy của xã hội đương thời, ông đã tạo cho mình một địa vị nhứt định trong xã hội hầu có một uy tín tối thiểu để hô hào mọi người tham gia kháng chiến. Quyết tâm này cũng hiện rõ hơn vào tháng 4/1863 khi ông và nghĩa quân bị quân Pháp bao vây, phong tỏa ở khu vực Xoài Tư (Định Tường). Ông đã cho nghĩa quân phân tán về các làng mạc, bản thân ông với 100 chiến sĩ luồn lách hành quân lưu động nhiều nơi ở Nam kỳ để xây dựng lại lực lượng tiếp tục chiến đấu. Đến tháng 8/1864, lúc lực lượng kháng Pháp ở Nam kỳ rơi vào tình trạng bi thảm, Trương Định hy sinh, Nguyễn Hữu Huân bị bắt, tất cả tiền bạc vũ khí quyên góp mua được đều rơi vào tay giặc; Tự Đức lại cử kinh phái Nguyễn Tánh đến tận Tháp Mười khuyên ông nên giải giáp nhưng ông vẫn quyết tâm ở lại chiến đấu chống giặc đến cùng. Trong hai bản tấu trình ông gởi cho Tự Đức đều toát lên nguyện vọng lớn lao của ông là được đánh giặc thu hồi đất đai đã mất. Khi bị quân Pháp đánh bật ra khỏi căn cứ Tháp Mười ông vẫn liên kết với Trương Quyền (con Trương Định), Poucombo để đánh địch, gây cho chúng thiệt hại nặng ở đồn Tây Ninh và dự định cùng nhau thành lập chiến khu ở tổng Cầu An Hạ; nhưng lại bị thực dân Pháp mang đại quân càn quét. Trước khi ông vượt biển về Trung, ông gởi mật báo cho Tự Đức; có lẽ, nội dung của mật báo này cũng bao hàm nguyện vọng tiếp tục được chiến đấu.
Để thực quyết tâm đánh giặc và thắng giặc, ngay từ khi tham giạ kháng chiến, Võ Duy Dương chủ trương liên kết thống nhứt các lực lượng kháng chiến. Lúc hoạt động ở Ba Giồng, ông liên minh chiến đấu cùng Trần Xuân Hòa và đặt lực lượng của mình dưới quyền chỉ huy chung của Trương Định. Sau khi Trần Xuân Hòa hy sinh, ông điều Nguyễn Hữu Huân về chỉ huy căn cứ Thuộc Nhiêu để thống nhứt lực lượng nghĩa quân Ba Giống. Sau khi Trương Định hy sinh, ông rút về lập căn cứ ở Tháp Mười, ông đã khéo léo qui tụ, tập hợp thống nhứt chỉ huy các lực lượng kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Chung quanh ông, ngoài những võ tướng có tài tập hợp từ trước như Nguyễn Văn Cẩn ((Đốc binh Cẩn), Lê Văn Ong (Đốc binh Ong), Lê Văn Khả (Đốc binh Khả), Nguyễn Tấn Kiều (Đốc binh Kiều), Nguyễn Văn Linh (Thống Linh), Nguyễn Văn Biểu (Phòng Biểu)...; ông còn tập hợp thêm Bùi Quang Diệu (Quản Là), người chỉ huy trận Cần Giuộc tháng 12/1861; Trần Kỳ Phong nguyên là quản cơ sau thăng Thượng biện quân vụ đạo Phước Lộc, sau khi Trương Định hy sinh đã theo Phan Trung rút về Biên Hòa đến 1865 rút về Đồng Tháp Mười với Võ Duy Dương. Ngoài ra còn có Trương Quyền (con Trương Định), Trần Văn Phú (Trần Võ), Nguyễn Trị . . . Thống nhứt lãnh đạo chỉ huy trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam kỳ trong thời kỳ đầu là một nét đặc biệt không tìm thấy ở Trung và Bắc kỳ sau này. Chính nhờ điều đó mà Trương Định rồi đến Võ Duy Dương đã hình thành được bộ máy chính quyền kháng chiến. Một số tài liệu của Quốc sử quán, của thực dân Pháp cho biết Võ Duy Dương đã cử Bùi Quang Diệu làm Tổng đốc Gia Định, Trần Văn Trà làm Tuyên phủ sứ; ông Thành, ông Nên làm Tổng binh.. Và trong một trận đánh Bùi Quang Diệu (Quản Là) đã giết được 4 tên lính Pháp, bắt sống 1 tên giải về Tháp Mười là trung tâm thống nhứt chỉ huy bộ máy kháng chiến ở Nam kỳ trong thời gian 1 864- 1866.
Chọn Tháp Mười làm căn cứ, cho thấy Võ Duy Dương đã là một lãnh tụ nghĩa quân có tầm nhìn chiến lược; tổ chức cho căn cứ hoạt động có hiệu quả; quả thật, Võ Duy Dương là một nhà quân sự có tài.
Lấy một nơi như Tháp Mười làm căn cứ còn bộc lộ quyết tâm chống giặc của Võ Duy Dương. Thật vậy, trong bất cứ tình huống nào ông cũng một lòng đem hết sức mình ra đánh đuổi cho kỳ được bọn xâm lược. Từ một lưu dân, có thể nói ông thuộc lớp người ở dưới đáy của xã hội đương thời, ông đã tạo cho mình một địa vị nhứt định trong xã hội hầu có một uy tín tối thiểu để hô hào mọi người tham gia kháng chiến. Quyết tâm này cũng hiện rõ hơn vào tháng 4/1863 khi ông và nghĩa quân bị quân Pháp bao vây, phong tỏa ở khu vực Xoài Tư (Định Tường). Ông đã cho nghĩa quân phân tán về các làng mạc, bản thân ông với 100 chiến sĩ luồn lách hành quân lưu động nhiều nơi ở Nam kỳ để xây dựng lại lực lượng tiếp tục chiến đấu. Đến tháng 8/1864, lúc lực lượng kháng Pháp ở Nam kỳ rơi vào tình trạng bi thảm, Trương Định hy sinh, Nguyễn Hữu Huân bị bắt, tất cả tiền bạc vũ khí quyên góp mua được đều rơi vào tay giặc; Tự Đức lại cử kinh phái Nguyễn Tánh đến tận Tháp Mười khuyên ông nên giải giáp nhưng ông vẫn quyết tâm ở lại chiến đấu chống giặc đến cùng. Trong hai bản tấu trình ông gởi cho Tự Đức đều toát lên nguyện vọng lớn lao của ông là được đánh giặc thu hồi đất đai đã mất. Khi bị quân Pháp đánh bật ra khỏi căn cứ Tháp Mười ông vẫn liên kết với Trương Quyền (con Trương Định), Poucombo để đánh địch, gây cho chúng thiệt hại nặng ở đồn Tây Ninh và dự định cùng nhau thành lập chiến khu ở tổng Cầu An Hạ; nhưng lại bị thực dân Pháp mang đại quân càn quét. Trước khi ông vượt biển về Trung, ông gởi mật báo cho Tự Đức; có lẽ, nội dung của mật báo này cũng bao hàm nguyện vọng tiếp tục được chiến đấu.
Để thực quyết tâm đánh giặc và thắng giặc, ngay từ khi tham giạ kháng chiến, Võ Duy Dương chủ trương liên kết thống nhứt các lực lượng kháng chiến. Lúc hoạt động ở Ba Giồng, ông liên minh chiến đấu cùng Trần Xuân Hòa và đặt lực lượng của mình dưới quyền chỉ huy chung của Trương Định. Sau khi Trần Xuân Hòa hy sinh, ông điều Nguyễn Hữu Huân về chỉ huy căn cứ Thuộc Nhiêu để thống nhứt lực lượng nghĩa quân Ba Giống. Sau khi Trương Định hy sinh, ông rút về lập căn cứ ở Tháp Mười, ông đã khéo léo qui tụ, tập hợp thống nhứt chỉ huy các lực lượng kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Chung quanh ông, ngoài những võ tướng có tài tập hợp từ trước như Nguyễn Văn Cẩn ((Đốc binh Cẩn), Lê Văn Ong (Đốc binh Ong), Lê Văn Khả (Đốc binh Khả), Nguyễn Tấn Kiều (Đốc binh Kiều), Nguyễn Văn Linh (Thống Linh), Nguyễn Văn Biểu (Phòng Biểu)...; ông còn tập hợp thêm Bùi Quang Diệu (Quản Là), người chỉ huy trận Cần Giuộc tháng 12/1861; Trần Kỳ Phong nguyên là quản cơ sau thăng Thượng biện quân vụ đạo Phước Lộc, sau khi Trương Định hy sinh đã theo Phan Trung rút về Biên Hòa đến 1865 rút về Đồng Tháp Mười với Võ Duy Dương. Ngoài ra còn có Trương Quyền (con Trương Định), Trần Văn Phú (Trần Võ), Nguyễn Trị . . . Thống nhứt lãnh đạo chỉ huy trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam kỳ trong thời kỳ đầu là một nét đặc biệt không tìm thấy ở Trung và Bắc kỳ sau này. Chính nhờ điều đó mà Trương Định rồi đến Võ Duy Dương đã hình thành được bộ máy chính quyền kháng chiến. Một số tài liệu của Quốc sử quán, của thực dân Pháp cho biết Võ Duy Dương đã cử Bùi Quang Diệu làm Tổng đốc Gia Định, Trần Văn Trà làm Tuyên phủ sứ; ông Thành, ông Nên làm Tổng binh.. Và trong một trận đánh Bùi Quang Diệu (Quản Là) đã giết được 4 tên lính Pháp, bắt sống 1 tên giải về Tháp Mười là trung tâm thống nhứt chỉ huy bộ máy kháng chiến ở Nam kỳ trong thời gian 1 864- 1866.
Một nét độc đáo nữa trong
cuộc kháng chiến Võ Duy Dương mà ít tìm thấy ở các
cuộc kháng chiến khác. Đó là sự hiện diện trong hàng
ngũ nghĩa quân những người lính Tagal, những lính Pháp.
Sự hiện diện này là kết quả một chánh sách tuyên
truyền giáo dục cảm hóa được những người lính trong
hàng ngũ đối phương. Không phải dễ dàng gì để cho
những người lính này thấy được công cuộc chiến đấu
của ta là chánh nghĩa và họ đến đây xâm lược xứ sở
ta là phi nghĩa, đồng thời lôi cuốn họ đứng vào hàng
ngũ nghĩa quân đánh trả lại thực dân Pháp. Võ Duy Dương
làm được điều này, chứng tỏ ông đã triệt để khai
thác những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để đẩy
mạnh "công tác địch vận" có kết quả. Điều
này còn cho ta thấy được Võ Duy Dương ít nhiều cũng
nắm bắt được một lực lượng thông tin nhứt về tình
hình quốc tế lúc ấy. Cụ thể hơn hết là vào đầu
năm 1865, lợi dụng lúc một phái đoàn của chính phủ
hoàng gia Nhựt Bổn đi công cán ở các nước châu Âu ghé
qua Sài Gòn, Võ Duy Dương đã tung tin tuyên truyền Nhựt
Bổn ủng hộ Việt Nam chống Pháp xâm lược. Đành rằng
công cuộc tuyên truyền này chỉ gây được kết quả
nhứt định. Nhưng qua đó, ta suy nghĩ, có lẽ, Võ Duy
Dương cũng biết được Nhựt Bổn lúc ấy như thế nào
mới tung ra cái tin như thế.
Còn một điểm nữa cũng khá nổi bật trong cuộc kháng chiến Võ Duy Dương, đó là sự liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung là thực dân Pháp của hai dân tộc Việt Nam, Khmer. Trong thời gian 1863-1864, khi Nguyễn Hữu Huân quyên góp tiền bạc ở vùng An Giang, Võ Duy Dương hành quân lưu động sang đây; hai ông đã liên kết với Acha-xoa, một thủ lãnh nghĩa quân người Khmer. Về sau Võ Duy Dương còn cùng Trương Quyền liên minh với một thủ lãnh nghĩa quân Khmer khác là Poucombo. Sự liên minh chiến đấu này trước mắt chỉ là sự đoàn kết nương tựa vào nhau của hai lực lượng yếu nhằm chống lại một kẻ thù chung mạnh hơn. Nhưng thực ra, nó còn bao hàm ý nghĩa sự liên minh giữa hai dân tộc, từ lâu đã có truyền thống giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tồn tại; sự thịnh suy, còn mất của nước này, dân tộc này nhứt định sẽ ảnh hưởng đến dân tộc kia, nước kia.
Các đặc trưng nêu trên cho thấy rõ ràng Võ Duy Dương chẳng những là một thủ lãnh nghĩa quân có quyết tâm chống giặc cao độ mà còn là một lãnh tụ kháng chiến có năng khiếu về tổ chức và chánh trị, có tầm nhìn chiến lược sâu rộng và đặc biệt rất nhạy bén trước mọi thay đổi của tình thế.
Còn một điểm nữa cũng khá nổi bật trong cuộc kháng chiến Võ Duy Dương, đó là sự liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung là thực dân Pháp của hai dân tộc Việt Nam, Khmer. Trong thời gian 1863-1864, khi Nguyễn Hữu Huân quyên góp tiền bạc ở vùng An Giang, Võ Duy Dương hành quân lưu động sang đây; hai ông đã liên kết với Acha-xoa, một thủ lãnh nghĩa quân người Khmer. Về sau Võ Duy Dương còn cùng Trương Quyền liên minh với một thủ lãnh nghĩa quân Khmer khác là Poucombo. Sự liên minh chiến đấu này trước mắt chỉ là sự đoàn kết nương tựa vào nhau của hai lực lượng yếu nhằm chống lại một kẻ thù chung mạnh hơn. Nhưng thực ra, nó còn bao hàm ý nghĩa sự liên minh giữa hai dân tộc, từ lâu đã có truyền thống giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tồn tại; sự thịnh suy, còn mất của nước này, dân tộc này nhứt định sẽ ảnh hưởng đến dân tộc kia, nước kia.
Các đặc trưng nêu trên cho thấy rõ ràng Võ Duy Dương chẳng những là một thủ lãnh nghĩa quân có quyết tâm chống giặc cao độ mà còn là một lãnh tụ kháng chiến có năng khiếu về tổ chức và chánh trị, có tầm nhìn chiến lược sâu rộng và đặc biệt rất nhạy bén trước mọi thay đổi của tình thế.
Tư liệu Pháp có
liên quan đến cuộc khởi nghĩa Võ Duy Dương
Tư liệu 1:
Tư liệu 1:
Ngày 19/7/1865 đội Lộc (Chú thích: Durrwel - Trần Bá Lộc tổng đốc de Thuận Khánh " - Tập Kỷ yếu Đông Dương Học Hội - 1901) đệ nhị lục cá nguyệt.) tr. 39-40. Tức Trần Bá Lộc (1839- 1899), một trong những tay sai khét tiếng của thực dân Pháp. Người làng Tân Đức, cù lao Giêng (An Giang), năm 1861 còn bán cá cho quân đội Pháp ở chợ Mỹ Tho, sau theo cha Mare rồi đi lính bản xứ cho thực dân Pháp. Y thẳng tay tàn sát lực lượng kháng chiến và đồng bào để phục vụ chủ Pháp nên thăng chức rất nhanh. Năm 1862 làm cai thú lại, 1863 lên đội hạng nhì (dưới quyền Philastre) rồi đội hạng nhứt sau khi bắt được một số nghĩa quân ở Rạch Gầm. Tháng 7/1865 làm lại huyện Kiến Phong, tháng 9/1867 làm tri phủ, do công chiếm được một đồn của Thiên Hộ Dương và tham gia chiếm 3 tỉnh miền Tây. Y có công lớn trong việc đàn áp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá và được thăng đốc phủ sứ (15/8/1868). Ngày 1/7/1886 Pháp bổ y làm Tổng đốc Thuận Khánh, y đàn áp cuộc khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng thẳng tay, không còn nghĩ gì đến tình đồng bào, đồng loại.
Trước hành động tàn bạo man rợ của y. Chính toàn quyền Paul Doumer cũng xác nhận: “Việc ấy đã biết dư, cố nhiên phải như vậy! Nếu muốn (nhân nghĩa) và chớ chi còn kế hoạch nào khác, thì thà đừng sai hắn cầm binh...") được bổ làm tri huyện ở Kiến Phong (Cái Bè) (Chú thích: Lúc ấy, tỉnh Định Tường có 2 phủ và 4 huyện. Huyện Kiến Phong, trước khi Pháp xâm lược huyện lỵ đóng tại thôn Mỹ Trà.). Cái Bè thuở ấy là một vị trí quan trọng, tiền đồn của Mỹ Tho ngóng qua Vĩnh Long nơi triều đình còn nắm chủ quyền.
Ngày 22/7/1865, một bọn phiến loạn (Chú thích: Tức nghĩa quân Võ Duy Dương) võ trang bằng súng kíp vài khẩu thần công đến cướp bóc (Chú thích: Từ bọn thực dân thường dùng để chỉ các cuộc tấn công của nghĩa quân) chợ Mỹ Trà (Chú thích: Nay thuộc thị xã Cao Lãnh) Lính mã tà ra sức chống cự dưới sự điều khiển của huyện Lộc. Bọn phiến loạn chạy mất, bên này tịch thu được một khẩu thần công. Năm sau xảy ra trận tấn công Đồng Tháp Mười (17/4/1866).
Từ lâu rồi, chánh phủ chú ý đến vùng Đồng Tháp Mười này. Bọn phiến loạn ẩn núp, được triều đình tiếp tế vũ khí lương thảo. Sau khi thất bại ở Mỹ Trà, chúng chưa chịu thua. Cuối tháng ba chúng cả gan tấn công chợ Cái Nứa” (Chú thích: Nay thuộc thị xã Cao Lãnh).
“Chánh phủ quyết định mở cuộc chinh phạt. Ba cánh quân gồm lính Pháp và mã tà do quan ba Gally Passebose và huyện Lộc chỉ huy kéo đến tấn công vào huyện chánh mà bọn phiến loạn xây dựng giữa vùng sình lầy Đồng Tháp Mười. Dọc đường 5 tiền đồn nhỏ của loạn quân (Chú thích: Tức các đồn Tiền, đồn Hữu, đồn ấp Lý, đồn Sa Tiền đồn Bắc Chiêng.) bị triệt hạ. Tiền đồn cuối cùng gọi là Đồn Tải trong đồn có đến 350 người, 40 khẩu thần công và nhiều súng nhỏ.
Ngày 17, ba cánh quân đến trước đồn chánh (Chú thích: Tại Gò Thấp ngày nay). Nhưng loạn quân đã rút lui tản mác khắp vùng bưng biền.
Ngày 18/5/1866, huyện Lộc, người đã từng được huy chương (médaille militaire) hồi năm ngoái được thêm huy chương danh dự bằng bạc" (Chú thích: Durrwell - Trần Bá Lộc tổng đốc de Thuận Khánh" - Tập Kỷ yếu Đông Dương Học Hội - 1901 (đệ nhị lục cá nguyệt) tr. 39-40.).
Tư liệu 2:
"Dưới trào đô đốc Roze, 1865 biến cố quan trọng nhứt là việc tấn công vào làng Mỹ Trà (Sa Đéc) (Chú thích: Vào thời điểm nghĩa quân tấn công Mỹ Trà. Mỹ Trà vẫn còn thuộc huyện Kim Phong, tỉnh Định Tường. Sau tháng 2/1867, Mỹ Trà thuộc sở tham biện Cần Lố, và sau nghị định ngày 5/1/1867 Mỹ Trà mới thuộc sở Tham biện Sa Đéc.)
Hàng trăm quân phiến loạn từ Đồng Tháp Mười kéo vào làng, mang vài cây súng, 2 khẩu thần công và gươm giáo. Hương chức làng huy động dân chúng đánh đuổi bọn ấy; chúng bỏ lại một tên bị thương. Bên phe làng thì 1 chết, 3 bị thương.
Đô đốc Roze khen ngợi dân làng, tặng 1.000 quan để thết tiệc và tặng riêng cho Hương quản Khanh (Chú thích: Tức Phạm Văn Khanh, người Mỹ Trà Cao Lãnh, con của Phạm Văn Giai, trước y có tham gia mộ dận lập đồn điền trong cơ Tường Võ (một trong các cơ đồn điền trong tỉnh Định Tường Tường Kiên, Tường Nhuệ, Tường Uy) với chức ban biện suất đội. Sau tham gia kháng chiến chống Pháp trong hàng ngũ nghĩa quân Võ Duy Dương Cuối cùng y đầu hàng thực dân Pháp chống lại nghĩa quân, được thực dân Pháp ban chức Quản bộ đạo.) một cái đồng hồ trái quít vì ông này có công chỉ huy cuộc kháng cự" (Chú thích: A. Schreiner - Abrégé de l'histoire d'annam ". Sài Gòn 1906. tr 269.)
Tư liệu 3:
“Đầu năm 1866, tình hình yên ổn: ngân quỹ thâu các sắc thuế (ba tỉnh miền Đông) tăng đến 5.056.000 quan. Khi đó đô đốc De la Grandière từ Pháp trở qua đến Sài Gòn, nhiều phái đoàn gồm nhiều hương chức bang trưởng đến chúc mừng.
Vì mãn nhiệm kỳ, đô đốc Roze trở về Pháp sau khi gắn Bắc Đẩu bội tinh cho quan phủ Trần Tử Ca (Chú thích: Trần Tử Ca người thôn Hạnh Thông Tây (phủ Tân Bình - nay là thành phố Hồ Chí Minh) xuất thân là phó cai tổng, sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ y ra làm tay sai cho thực dân Pháp, thẳng tay sát hại đồng bào được huyện Sĩ tiến cử nên được thực dân bổ làm tri huyện Bình Long. Nhờ hết lòng làm khuyển mã cho giặc nên thăng đốc phủ sứ mọi người quen gọi là Đốc phủ Ca. Đầu 1885, Quản Hớn cùng nhân dân nổi dậy ở Hóc Môn, giết được y.) và kêu tội Huỳnh Văn Tấn (Chú thích: Tức Huỳnh Văn Tấn người làng Phước Hậu, Chợ Lớn (nay thuộc Gò Công). Cha y là phó quản cơ, sau khi đồn Chí Hòa thất thủ, về Tân An buôn bán có nhiều quan hệ với thực dân Pháp. Còn Tấn đầu quân dưới trướng Trương Định, y thông minh, liều lĩnh, gan dạ được Trương Định tin dùng, nhận làm con nuôi. Y cậy thế ức hiếp dân, cưỡng hiếp phụ nữ. Một hôm y nhận tiền hối lộ của một viên cai tổng theo giặc, đưa tên này trốn khỏi Gò Công. Việc bại lộ, Trương Định muốn xử thêm y, có người can gián. Trương Định tha y, chỉ cách chức và phải lập công chuộc tội. Từ đó y thù ghét Trương Định, nửa năm 1862, y đầu giặc, hết lòng đem thân xác làm khuyển mã cho thực dân Pháp.). viên đội Trần Bá Lộc thì được huy chương (médaille militaire).
Tuy nhiên còn một vùng khả nghi, chưa kiểm soát được: Đồng Tháp Mười. Chúng ta khó đi vào nội địa, nhưng loạn quân chọn nơi ấy làm sào huyệt tốt, ra vào khủng bố các làng kế cận. Họ được tiếp tế vũ khí đạn dược từ Rạch Giá, Hà Tiên chở đến (do triều đình Huế). Đô đốc De la Grandìère phản đối việc ấy, cho rằng vi phạm hòa ước 1862 nhưng triều đình chỉ trả lời bằng những lời “xã giao".
Ngày 20/1/1866, Phan Thanh Giản từ Huế về trấn nhậm ba tỉnh miền Tây với chức Kinh lược. Chúng ta ngỡ rằng vị quan này sẽ ra lịnh ngưng mọi việc nổi loạn, nhưng chuyện đâu vẫn vào đấy như cũ. Lịnh của Phan Thanh Giản vẫn là vô hiệu quả, bọn phiến loạn ở Đồng Tháp Mười ngày càng tăng gia hoạt động. Và đồn bót nhỏ ở vùng Mỹ Tho bị tấn công. Đầu tháng ba (dương lịch) bọn phiến loạn truyền hịch kêu gọi dân chúng nổi dậy, hứa rằng sẽ thành công vì có “người Nhựt Bổn ủng hộ". Họ ngờ rằng nước Nhựt là cường quốc, giỏi về quân sự, trước khi nước ấy đánh thắng Nga về sau này, năm 1905 (Năm 1905, vùng Biên Hòa có khởi loạn, họ cũng rêu rao Nhựt ủng hộ như vậy).
Cuối tháng ba, loạn quân tấn
công chợ Cái Nứa. Lúc trước họ tấn công lần đầu,
bị đẩy lui; giờ đây họ trở lại. Mặc dù đẩy lui
họ được nhưng chánh phủ thấy rằng không thể kéo dài
tình trạng.
Mục tiêu chánh phải diệt trừ là đồng Tháp Mười.
Ba cánh quân đồng tiến vào một lượt do ba ngã sình lầy khác nhau. Tổng sinh lực là 100 lính Pháp, 250 lính mã tà do các đại úy Boubée Paris de la Bollardière, Gally Passebose và quản Tấn. huyện Lộc điều khiển.
Ngày đầu tiên các tiền đồn của loạn quân đều bị chiếm.
Hai ngày sau (16/4), đại úy Gally tấn công đồn Tả trong đồn có 350 người, 40 khẩu thần công - và một lính Pháp đào ngũ theo phiến loạn từ trước. Đại đội lính từ tàu chiến Fusée đổ bộ kéo tới, tập trung những cánh quân lại để tấn công. Chúng chống trả kịch liệt, nhưng chập sau chạy trốn, bỏ lại đồ đạc vũ khí.
Bên phía chúng ta, 2 người chết, 17 người bị thương, cũng trong ngày ấy, chúng ta kéo đến đồn Tháp Mười nhưng loạn quân đã rút từ trước.
Trong trận này. đạn thì thu được rất nhiều, nhưng loạn quân thì bắt được rất ít, chỉ có hai ba tên thôi! Lãnh tụ Thiên Hộ Dương chạy thoát được nhưng tại Cái Thia, chúng ta bắt được nhiều người An Nam, 2 người Tagal (tức là thổ dân Ma Ní, Phi Luật Tân lúc trước theo quân đội viễn chinh, nay đào ngũ) và tên lính Pháp Linguet nọ.
Trên đường về, ngày 24 tháng 4, 15 lính Pháp phải chết chìm ở sông Vàm Cỏ, chỉ vì các viên chỉ huy của họ thiếu cẩn thận! Chiếc “xà lúp" chở lính chạy về đậu giữa sông, phía sau dòng theo một chiếc ghe lồng (ghe này dùng để đưa rước lính vô bờ). Khi chiếc xà lúp đậu trước chợ Tân An, có lịnh cho binh sĩ bước qua chiếc ghe lồng. Mười lăm lính Pháp mang vũ khí, mang "xắc" hí hởn bước qua ghe, chùm nhùm trước mũi, sau lái, trên mui. Vì họ đứng nên ghe nghiêng qua, nghiêng lại rồi chìm. Bao nhiêu vũ khí hành lý nặng nề khiến họ chìm dưới đáy sông như những khối chì. Chỉ vớt được 11 xác chôn không hòm chung một lỗ "nghĩa địa Tây" chợ Tân An bây giờ. Sau này, tại chỗ hầm chôn có dựng bia. Mộ chí ghi mấy chữ... không đúng cho lắm”:
“Để kỷ niệm những người Pháp đã chết trong cuộc tấn công Tháp Mười, tháng 4 năm 1866"
Chúng tôi (tức A. Schreiner) đã viếng hầm chôn này hồi 14/2/1906). Tài liệu trên đây sưu tầm được nhờ nhã ý của quan chủ tỉnh Tân An là Chanin. Quan chủ tỉnh giới thiệu chúng tôi với huyện hàm Huỳnh Văn Tấn; ông này nói rằng có tham gia cuộc tấn công hồi đó với chức quản mã tà ở Tân An.
Paul Via chép rằng: “chiếc xà lúp chở lính bị chìm, 15 chết trôi ". Như vậy là không đúng.
Cha sở Demareq cai quản họ Đạo Tân An đã giúp thêm tư liệu sau đây khác hẳn giả thuyết vừa nói trên.
Đầu đuôi là hai nạn chết trôi khác nhau chớ không phải nhập một.
- Nạn thứ nhứt: chiếc ghe lồng chở 7 lính Pháp, 1 đại úy (họ đứng trong mui) cập vô gần tới bờ thì bỗng đâu đụng nhầm một gốc dừa ngập dưới nước, không thấy. Ghe nghiêng qua bên này bên nọ. Họ hoảng hốt ngã qua bên kia để quân bình lại. Ghe chìm họ chết hết, tuy nơi chìm ấy nước không sâu lắm.
Sau đó, 7 người chôn chung một hố, viên đại úy thì chôn riêng, cách chừng 5 thước. Mộ của đại úy thì không ghi tên nhưng chúng tôi đoán đó là đại úy Boubée. Hai viên đại úy kia, sau này người thì tử trận tại Nouvelle Calédonie, người kia thì chết già.
- Nạn thứ hai : xảy ra ở giữa sông sáu người lính Pháp tắm gần một tàu chiến (canonnière) bỗng một người mất dạng. Mấy người kia xúm nhau tiếp cứu nhưng đeo vào nhau thành ra chết cả chùm. Hôm sau chỉ vớt được hai tử thi.
Theo lời Paulin Via (sách Les Premières années de la Cochichine, thì tên lính Pháp Linguet đào ngũ theo Thiên Hộ Dương đã chống cự mãnh liệt và bị bắt sống.
Vài người lính Pháp mỉa mai, hỏi "sao súng của các anh bắn không hiệu quả". Linguet trả lời: "Nếu tao có đạn tốt thì tụi bay phải chết nhiều hơn nữa” (Chú thích: A. Schreiner - "Abrégé de l'histoire d'annam" Sài Gòn - 1906 - trang 271-275.).
Mục tiêu chánh phải diệt trừ là đồng Tháp Mười.
Ba cánh quân đồng tiến vào một lượt do ba ngã sình lầy khác nhau. Tổng sinh lực là 100 lính Pháp, 250 lính mã tà do các đại úy Boubée Paris de la Bollardière, Gally Passebose và quản Tấn. huyện Lộc điều khiển.
Ngày đầu tiên các tiền đồn của loạn quân đều bị chiếm.
Hai ngày sau (16/4), đại úy Gally tấn công đồn Tả trong đồn có 350 người, 40 khẩu thần công - và một lính Pháp đào ngũ theo phiến loạn từ trước. Đại đội lính từ tàu chiến Fusée đổ bộ kéo tới, tập trung những cánh quân lại để tấn công. Chúng chống trả kịch liệt, nhưng chập sau chạy trốn, bỏ lại đồ đạc vũ khí.
Bên phía chúng ta, 2 người chết, 17 người bị thương, cũng trong ngày ấy, chúng ta kéo đến đồn Tháp Mười nhưng loạn quân đã rút từ trước.
Trong trận này. đạn thì thu được rất nhiều, nhưng loạn quân thì bắt được rất ít, chỉ có hai ba tên thôi! Lãnh tụ Thiên Hộ Dương chạy thoát được nhưng tại Cái Thia, chúng ta bắt được nhiều người An Nam, 2 người Tagal (tức là thổ dân Ma Ní, Phi Luật Tân lúc trước theo quân đội viễn chinh, nay đào ngũ) và tên lính Pháp Linguet nọ.
Trên đường về, ngày 24 tháng 4, 15 lính Pháp phải chết chìm ở sông Vàm Cỏ, chỉ vì các viên chỉ huy của họ thiếu cẩn thận! Chiếc “xà lúp" chở lính chạy về đậu giữa sông, phía sau dòng theo một chiếc ghe lồng (ghe này dùng để đưa rước lính vô bờ). Khi chiếc xà lúp đậu trước chợ Tân An, có lịnh cho binh sĩ bước qua chiếc ghe lồng. Mười lăm lính Pháp mang vũ khí, mang "xắc" hí hởn bước qua ghe, chùm nhùm trước mũi, sau lái, trên mui. Vì họ đứng nên ghe nghiêng qua, nghiêng lại rồi chìm. Bao nhiêu vũ khí hành lý nặng nề khiến họ chìm dưới đáy sông như những khối chì. Chỉ vớt được 11 xác chôn không hòm chung một lỗ "nghĩa địa Tây" chợ Tân An bây giờ. Sau này, tại chỗ hầm chôn có dựng bia. Mộ chí ghi mấy chữ... không đúng cho lắm”:
“Để kỷ niệm những người Pháp đã chết trong cuộc tấn công Tháp Mười, tháng 4 năm 1866"
Chúng tôi (tức A. Schreiner) đã viếng hầm chôn này hồi 14/2/1906). Tài liệu trên đây sưu tầm được nhờ nhã ý của quan chủ tỉnh Tân An là Chanin. Quan chủ tỉnh giới thiệu chúng tôi với huyện hàm Huỳnh Văn Tấn; ông này nói rằng có tham gia cuộc tấn công hồi đó với chức quản mã tà ở Tân An.
Paul Via chép rằng: “chiếc xà lúp chở lính bị chìm, 15 chết trôi ". Như vậy là không đúng.
Cha sở Demareq cai quản họ Đạo Tân An đã giúp thêm tư liệu sau đây khác hẳn giả thuyết vừa nói trên.
Đầu đuôi là hai nạn chết trôi khác nhau chớ không phải nhập một.
- Nạn thứ nhứt: chiếc ghe lồng chở 7 lính Pháp, 1 đại úy (họ đứng trong mui) cập vô gần tới bờ thì bỗng đâu đụng nhầm một gốc dừa ngập dưới nước, không thấy. Ghe nghiêng qua bên này bên nọ. Họ hoảng hốt ngã qua bên kia để quân bình lại. Ghe chìm họ chết hết, tuy nơi chìm ấy nước không sâu lắm.
Sau đó, 7 người chôn chung một hố, viên đại úy thì chôn riêng, cách chừng 5 thước. Mộ của đại úy thì không ghi tên nhưng chúng tôi đoán đó là đại úy Boubée. Hai viên đại úy kia, sau này người thì tử trận tại Nouvelle Calédonie, người kia thì chết già.
- Nạn thứ hai : xảy ra ở giữa sông sáu người lính Pháp tắm gần một tàu chiến (canonnière) bỗng một người mất dạng. Mấy người kia xúm nhau tiếp cứu nhưng đeo vào nhau thành ra chết cả chùm. Hôm sau chỉ vớt được hai tử thi.
Theo lời Paulin Via (sách Les Premières années de la Cochichine, thì tên lính Pháp Linguet đào ngũ theo Thiên Hộ Dương đã chống cự mãnh liệt và bị bắt sống.
Vài người lính Pháp mỉa mai, hỏi "sao súng của các anh bắn không hiệu quả". Linguet trả lời: "Nếu tao có đạn tốt thì tụi bay phải chết nhiều hơn nữa” (Chú thích: A. Schreiner - "Abrégé de l'histoire d'annam" Sài Gòn - 1906 - trang 271-275.).
Tư liệu 4:
Trích: NHỰT KÝ MỘT SĨ QUAN BIỆT PHÁI ĐẾN MỸ THO
(Theo De GRAMMONT)
(Từ 29/8/1861 đến 20/3/1862)
Trích: NHỰT KÝ MỘT SĨ QUAN BIỆT PHÁI ĐẾN MỸ THO
(Theo De GRAMMONT)
(Từ 29/8/1861 đến 20/3/1862)
Ngày 29/8/1961: đồn Cai Lậy bị tấn công (bởi nhóm Phủ Cao) (Chú thích: Phủ Cao: tức phủ Cậu Trần Xuân Hòa.) đồn do ông Chasseriau trấn đóng, ông này phải nhờ ông Hanès tiếp cứu và 50 lính bố trí rào giậu quanh đồn lũy.
Ngày 4/9/1861: Các nhóm phiến loạn xuất hiện ở đồn Bourdais trên rạch đồn (Chú thích; Tức rạch sông Bảo Định. đồn này nguyên trước là đồn phòng thủ thứ 5 của ta tên sông Bảo Định, khi Pháp tấn công đồn này, tên đại úy Bourdais bị ta bắn chết nên Pháp lấy tên y đặt tên cho đồn này.), cách Mỹ Tho ba dặm.
Ông Mac-dermont, trung tá hải quân tới tiếp viện để đánh đuổi chúng với lính thủy quân lục chiến.
Ngày 5/9/1861: tịch thu được một chiếc ghe mành chở đầy súng của người An Nam.
Ngày 14/9/1861: khởi hành đi hành binh ở khu bốn công sự (Chú thích: Khu vực nằm giữa Thành Mỹ Tho và Cai Lậy, tức vùng Thuộc Nhiêu, Mỹ Quí.) để tìm Phủ Cao. Ông Desvaux sẽ hành quân sau.
Ngày 15/9/1861: Nhóm Phủ Cao lại tấn công đồn Cai Lậy, ông Chasseriau với hai khẩu súng bắn đá An Nam và hộp đựng thức ăn biến thành đạn sắt vụn, đã chống trả kịch liệt.
Ngày 21/91861: Viện binh đi trên chiếc Norsagoray (Chú thích: viện binh Tây Ban Nha) đến nơi.
Ngày 22/9/1861: Đạo quân thứ hai do trung tá Desvaux chỉ huy bắt đầu hành quân. .
Ngày 23/9/1861: Chiếc thuyền bướm nhẹ Sdevad đã được sử dụng từ 15 ngày qua ở Rạch Gầm, nay đã phá hủy được các đập cản mở đường đến tận Thuộc Nhiêu.
Ngày 25/9/1861: Chiếm được Mỹ Quí, thân sinh của Phủ Cao bị bắn chết.
Ngày 28/9/1861: Các đạo quân rút về.
Ngày 29/9/1861: Hành quân xuống phía hạ lưu (sông Cửu Long) tìm kiếm những người ám sát xã trường Gò Công.
Ngày 14/10/1861: Chiếc Gougeard bị các đồn lũy ở Cái Thia (Mỹ Luông, Mỹ Đức tấn công.
Ngày 22/10/1861: Đuổi theo bọn phiến loạn ở đồn Rạch Gầm, (phía dưới Mỹ Tho một chút).
Ngày 30/10/1861: Đánh nhau với quân phiến loạn ở Rạch Gầm, 22 người An Nam bị thương.
Ngài. 3/11/1861: Lại đánh nhau với quân phiến loạn ở Rạch Gầm; 14 người An Nam bị thương.
Ngày 9/11/1861: Sai trinh sát đi do thám phía Mỹ Quí, Phú Mỹ.
Ngày 14/11/1861: Biến động lại bắt đầu trên sông Vàm Cỏ.
Ngày 15/11/1861: Các quan (An Nam) thu thuế ở chợ cũ Mỹ Tho.
Ngày 1711/1861: ám sát, cướp bóc lẻ tẻ, ngay đối với cả người Âu. Một viên đội ở Cai Lậy bị chặn đánh dọc đường.
Ngày 28 - 30/11/1861: Các sự kiện linh tinh khác và các đám cháy trong vùng phụ cận.
Ngày 10//2/1861: Cuộc nổi dậy bắt đầu; mộ người ứng nghĩa tại Mỹ Tho do những người của Phủ Cao.
Ngày 18//2/1861: Tấn công Gia Thạnh, được phòng thủ bởi các ông Robinet và Pineau.
Ngày 20/12/1861: Tấn công Cái Bè, được phòng thủ bởi các ông Bottel và Gonon. Mỹ Tho bị đe dọa.
Ngày 22/12/1861: ám sát xã trưởng được ta bổ nhiệm ở Mỹ Quí.
Ngày 23/12/1861: ám sát xã trưởng Trung Lương.
Ngày 25/12/1861: Tấn công Cái Bè lần thứ hai bởi quân chánh qui.
Ngày 27/12/1861: ám sát xã trường
Tân Lý và người nhà; dân cư tỵ nạn ở Mỹ Tho.
Ngày 28/12/1861. Báo động, cháy và tín hiệu tại các cù lao.
Ngày 29/12/1861: Viên quan họ Lê (Chú thích: chưa rõ là ai.) trình diện ở đó với quân binh Đồn Rạch Gầm bị tấn công, đồn được phòng thủ bởi Rolz de Couzolaz, trung úy thủy quân lục chiến.
Ngày 30/12/1861: Đồn Rạch Kỳ Hôn bị tấn công trên lộ và dưới sông; đồn được phòng thủ bởi các ông Gonon và Thouroude (Ông này sau bị giết khi chuyển về đồn Rạch Tra).
Ngày 2/1/1862: ám sát xã trường Vĩnh Kim Đông.
Ngày 3/1/1862: ám sát xã trưởng Phú Mỹ và người nhà.
Ngày 4/1/1862: Bốn đồn bị vây một lượt (Chú thích: Rạch Gầm, Kỳ Hôn, Cai Lậy, Cái Bè) hành quân để giải vây.
Ngày 5/1/1862: Hành quân đủ các hướng (mỗi hướng 45 người).
Ngày 6/1/1862: Phủ Cao, bị Rieunier bắt ở giữa Cái Bè và Cai Lậy nơi ông ta chuẩn bị tấn công.
Ngày 7/1/1862: Phủ Cao bị treo cổ lúc 9 giờ sáng với bảng hiệu: “Kẻ trộm và kẻ ám sát".
Ngày 8/1/1862: Tấn công và đốt Tai Ti (Chú thích: Không rõ ở đâu.); chúng ta lấy 5 cờ và hai pháo hạm An Nam.
Ngày 10/1/1862: Phong tỏa và tấn công Gia Thạnh bởi các nhóm phiến loạn Gò Công.
Ngày 11/1/1862: Phong tỏa và tấn công Rạch Gầm bởi quân An Nam và 10 pháo hạm. ông Rolz sử dụng đến viên đạn cuối cùng.
Ngày 22/1/1862: Đốt cháy đồn rạch Kỳ Hôn bởi nhóm phiến loạn Gò Công.
Ngày 23/1/1862: Tấn công hai lần vào Rạch Gầm.
Ngày 28/1/1862: Tấn công đồng loạt 4 đồn. Mưu toan đốt cháy tàu Sham-roch.
Ngày 3/2/1862: Phong tỏa các điểm do chúng ta chiếm đóng.
Ngày 4/2/1862: ám sát chung quanh Mỹ Tho.
Ngày 17/2/1862: Người An Nam đến thử các công sự để xây thành đắp lũy ở Mỹ Tho.
Ngày 18/2/1862 đến 21: Có nhiều đám cháy rất đẹp .
Ngày 24/2/1862: Di tản khỏi Gia Thạnh, chúng ta bị đuổi theo và pháo kích.
Ngày 26/2/1862: Di tản khỏi rạch Kỳ Hôn; chúng ta bị đuổi theo và pháo kích.
Ngày 27/2/1862: Pháo kích ngày và đêm.
Ngày 28/2/1862: Tấn công Mỹ Tho cũ.
Ngày 1/3/1862: Những trận đánh mới chung quanh Rạch Gầm:
Ngày 2/3/1862: Những trận đánh mới trên sông của Cam-bốt. Lại tấn công Mỹ Tho cũ.
Ngày 3/3/1862: Đêm báo động, pháo kích bắn súng và đêm còn lại
Ngày 5/3/1862: Nổ chiếc pháo hạm số 25 đưa người di tản Rạch Gầm về; 35 người chết, 20 người bị phỏng.
Ngày 6/3/1862: Tấn công lần thứ ba vào Mỹ Tho cũ.
Ngày 13/3/1862: Mỹ Tho bị tấn công khi hành quân ở Vĩnh Long.
Ngày 20/3/1862: Chiếm Vĩnh Long.
Ngày 28/12/1861. Báo động, cháy và tín hiệu tại các cù lao.
Ngày 29/12/1861: Viên quan họ Lê (Chú thích: chưa rõ là ai.) trình diện ở đó với quân binh Đồn Rạch Gầm bị tấn công, đồn được phòng thủ bởi Rolz de Couzolaz, trung úy thủy quân lục chiến.
Ngày 30/12/1861: Đồn Rạch Kỳ Hôn bị tấn công trên lộ và dưới sông; đồn được phòng thủ bởi các ông Gonon và Thouroude (Ông này sau bị giết khi chuyển về đồn Rạch Tra).
Ngày 2/1/1862: ám sát xã trường Vĩnh Kim Đông.
Ngày 3/1/1862: ám sát xã trưởng Phú Mỹ và người nhà.
Ngày 4/1/1862: Bốn đồn bị vây một lượt (Chú thích: Rạch Gầm, Kỳ Hôn, Cai Lậy, Cái Bè) hành quân để giải vây.
Ngày 5/1/1862: Hành quân đủ các hướng (mỗi hướng 45 người).
Ngày 6/1/1862: Phủ Cao, bị Rieunier bắt ở giữa Cái Bè và Cai Lậy nơi ông ta chuẩn bị tấn công.
Ngày 7/1/1862: Phủ Cao bị treo cổ lúc 9 giờ sáng với bảng hiệu: “Kẻ trộm và kẻ ám sát".
Ngày 8/1/1862: Tấn công và đốt Tai Ti (Chú thích: Không rõ ở đâu.); chúng ta lấy 5 cờ và hai pháo hạm An Nam.
Ngày 10/1/1862: Phong tỏa và tấn công Gia Thạnh bởi các nhóm phiến loạn Gò Công.
Ngày 11/1/1862: Phong tỏa và tấn công Rạch Gầm bởi quân An Nam và 10 pháo hạm. ông Rolz sử dụng đến viên đạn cuối cùng.
Ngày 22/1/1862: Đốt cháy đồn rạch Kỳ Hôn bởi nhóm phiến loạn Gò Công.
Ngày 23/1/1862: Tấn công hai lần vào Rạch Gầm.
Ngày 28/1/1862: Tấn công đồng loạt 4 đồn. Mưu toan đốt cháy tàu Sham-roch.
Ngày 3/2/1862: Phong tỏa các điểm do chúng ta chiếm đóng.
Ngày 4/2/1862: ám sát chung quanh Mỹ Tho.
Ngày 17/2/1862: Người An Nam đến thử các công sự để xây thành đắp lũy ở Mỹ Tho.
Ngày 18/2/1862 đến 21: Có nhiều đám cháy rất đẹp .
Ngày 24/2/1862: Di tản khỏi Gia Thạnh, chúng ta bị đuổi theo và pháo kích.
Ngày 26/2/1862: Di tản khỏi rạch Kỳ Hôn; chúng ta bị đuổi theo và pháo kích.
Ngày 27/2/1862: Pháo kích ngày và đêm.
Ngày 28/2/1862: Tấn công Mỹ Tho cũ.
Ngày 1/3/1862: Những trận đánh mới chung quanh Rạch Gầm:
Ngày 2/3/1862: Những trận đánh mới trên sông của Cam-bốt. Lại tấn công Mỹ Tho cũ.
Ngày 3/3/1862: Đêm báo động, pháo kích bắn súng và đêm còn lại
Ngày 5/3/1862: Nổ chiếc pháo hạm số 25 đưa người di tản Rạch Gầm về; 35 người chết, 20 người bị phỏng.
Ngày 6/3/1862: Tấn công lần thứ ba vào Mỹ Tho cũ.
Ngày 13/3/1862: Mỹ Tho bị tấn công khi hành quân ở Vĩnh Long.
Ngày 20/3/1862: Chiếm Vĩnh Long.
Ô Chavani
Đây là một ghi chú về Thiên hộ, xác nhận cái chết của người chiến sĩ xấu số này.
Kính gởi: ông Chánh sở
Tôi có vinh dự để cung cấp cho ông những tin tức về Thiên-Hộ. Người này tên là Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp-Mười bị chiếm, đã lên một chiếc ghe cửa để đi Bình Thuận, trước khi đến xứ này hắn bị tên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển, tấn công. Lý Sen đi trên một chiếc thuyền mành mà người ta gọi là Thiền du, đã cho liệng xuống biển tất cả những người An Nam trên chiếc ghe cửa này; Lý Sen đã lấy tất cả đồ vật trong chiếc ghe và sau đó cho nhận chìm ghe. Lý Sen đã lục lọi trong một cái rương lớn, đã lấy quần áo, các bằng cấp và cả mũ miện của Thiên Hộ nguyên soái tên là Võ Di Dương.
Lý Sen đã bị bắt thời gian sau đó tại Vĩnh Hội, bị buộc tội cướp bóc nhiều ghe đi biển, bị tên Hai Sĩ tố cáo và tống giam nó vào ngục, nơi đây nó đã tự tử bằng cách cắn lưỡi cách đây (viết không rõ) năm.
Tôi không ngạc nhiên về việc có một người khác tự gọi là Thiên Hộ để thúc đẩy dân chúng như tôi đã báo với ông về phía Trà Vinh, Bắc Tràng, Mõ Cày và Bến Tre.
Với sự kính trọng sâu xa
đối với ông Chánh sở
Người đầy tớ nhỏ của ông
(Ký tên: Nguyễn Đức Hạnh)
Loang
Con trai của Lý Sen có lẽ bị chất vấn (một chữ không đọc được) ở Linh (?) Lang với một tên giả (Ký tắt không đọc được)
Vợ của Lý Sen
số 9626
Sài Gòn, ngày 26 tháng 9 năm 1869
26 T. của Giám đốc Nội vụ
Gửi Thanh tra Mỹ Tho
Xin vui lòng cho tôi biết có điều gì bất tiện để nhận sự qui thuận của người đàn bà có tên Thị Vàng, vợ không cưới xin của Thiên Hộ và cho phép người này ở tại làng Bình Cách, nơi ở của gia đình người này.
Ký tên : Laugier
Sở Điện Báo NAM KỲ
---***---
VĂN PHÒNG
Saigon
------
Số 5042
Tôi trả lời
Ngày 9/10/1869
Số 1726 ĐIỆN TÍN
Mỹ Tho, ngày 29 tháng 9: 1 869, 10g40 sáng
Thanh tra Mỹ Tho
Gửi ông Giám đốc Nội vụ Saigon
Tôi đã trả lời, không thể có tin tức về họ, họ là những người hèn mọn ở Cai Lậy
Về người vợ của Thiên Hộ, tôi không thấy việc nó trở về có gì bất tiện.
TM.Trưởng Buồng Điện tín
Nhân viên
Ký tên: đọc không được
Đây là một ghi chú về Thiên hộ, xác nhận cái chết của người chiến sĩ xấu số này.
Kính gởi: ông Chánh sở
Tôi có vinh dự để cung cấp cho ông những tin tức về Thiên-Hộ. Người này tên là Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp-Mười bị chiếm, đã lên một chiếc ghe cửa để đi Bình Thuận, trước khi đến xứ này hắn bị tên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển, tấn công. Lý Sen đi trên một chiếc thuyền mành mà người ta gọi là Thiền du, đã cho liệng xuống biển tất cả những người An Nam trên chiếc ghe cửa này; Lý Sen đã lấy tất cả đồ vật trong chiếc ghe và sau đó cho nhận chìm ghe. Lý Sen đã lục lọi trong một cái rương lớn, đã lấy quần áo, các bằng cấp và cả mũ miện của Thiên Hộ nguyên soái tên là Võ Di Dương.
Lý Sen đã bị bắt thời gian sau đó tại Vĩnh Hội, bị buộc tội cướp bóc nhiều ghe đi biển, bị tên Hai Sĩ tố cáo và tống giam nó vào ngục, nơi đây nó đã tự tử bằng cách cắn lưỡi cách đây (viết không rõ) năm.
Tôi không ngạc nhiên về việc có một người khác tự gọi là Thiên Hộ để thúc đẩy dân chúng như tôi đã báo với ông về phía Trà Vinh, Bắc Tràng, Mõ Cày và Bến Tre.
Với sự kính trọng sâu xa
đối với ông Chánh sở
Người đầy tớ nhỏ của ông
(Ký tên: Nguyễn Đức Hạnh)
Loang
Con trai của Lý Sen có lẽ bị chất vấn (một chữ không đọc được) ở Linh (?) Lang với một tên giả (Ký tắt không đọc được)
Vợ của Lý Sen
số 9626
Sài Gòn, ngày 26 tháng 9 năm 1869
26 T. của Giám đốc Nội vụ
Gửi Thanh tra Mỹ Tho
Xin vui lòng cho tôi biết có điều gì bất tiện để nhận sự qui thuận của người đàn bà có tên Thị Vàng, vợ không cưới xin của Thiên Hộ và cho phép người này ở tại làng Bình Cách, nơi ở của gia đình người này.
Ký tên : Laugier
Sở Điện Báo NAM KỲ
---***---
VĂN PHÒNG
Saigon
------
Số 5042
Tôi trả lời
Ngày 9/10/1869
Số 1726 ĐIỆN TÍN
Mỹ Tho, ngày 29 tháng 9: 1 869, 10g40 sáng
Thanh tra Mỹ Tho
Gửi ông Giám đốc Nội vụ Saigon
Tôi đã trả lời, không thể có tin tức về họ, họ là những người hèn mọn ở Cai Lậy
Về người vợ của Thiên Hộ, tôi không thấy việc nó trở về có gì bất tiện.
TM.Trưởng Buồng Điện tín
Nhân viên
Ký tên: đọc không được
BÁO CÁO NGÀY 21 THÁNG HAI
1881
------
Ông Chánh sở mật thám
Tôi có vinh dự để cho ông những tin tức (người ta nói với tôi là tên Hội chức Thiên Hộ cựu lãnh tụ các đảng ở Tháp Mười, hắn đã chết vì bệnh từ 10 hoặc 12 năm nay, tử thi của hắn được chôn tại làng Tân Lập gần Cần Giuộc của Chợ Lớn); những người cầm đầu trong đoàn tùy tùng, các tên Hùng Lâm, hắn đã đi ra Huế. cậu Hai, con trai của Quản Định, người ta không biết đi đâu, Thái chức Thống Quản, hắn đã bị ô. Lãnh Huấn bắt, người ta đã kết án tử hình hắn. Trần Kỳ Phùng chức huyện, hắn chết vì bệnh, Huấn chức lãnh binh, hắn cũng chết như vậy, và Cẩn chức Đốc Binh, hắn biến mất người ta không biết hắn đi đâu.
-------
Vào lúc 8 giờ chiều hôm qua, một người Tàu gốc Quảng Đông chết trên lề đường chợ Cầu ông Lãnh; theo tin tức người ta nói với tôi thì người Tàu này ở tại nhà Hòa Thạnh thợ may ở trên kè kinh Tàu hủ; tôi đã đến nhà này để lấy tin tức của một người Tàu làm cu li tên Huỳnh Lâm 26 tuổi thẻ cư trú số 952, hắn nói với tôi là từ 3/?/ tháng nay hắn được thuê làm trong nhà này, hắn có thấy một người Tàu bị bệnh đến nhà chủ hắn 4 hay 5 lần để ăn uống; nhưng từ 5 hay 6 ngày nay hắn không còn thấy và chiều hôm qua vào khoảng 1 giờ rưỡi hắn thấy người Tàu này chết tại chợ.
Tôi có nhận được ba giấy báo trước gửi bởi ông Chánh/sở/mật thám để chuyển đến tay các làng Khánh Hội, Vĩnh Hội và An Hòa xã.
------
Đội mật thám
/Ký tên không đọc được/
Vào lúc 7 giờ sáng, xe của ông Bistout có cán ngã một người Tàu gánh vò rượu nếp trên kè kinh Tàu hủ; nhưng ông này không có trên xe.
Tên Thiên Hộ Dương bàn đến đây chắc là Võ Duy Dương mà đội quân Gally Pasboce năm 1866 đã chống trong đồng lác (Tháp Mười), (Courrier de Sai gon ngày 20 tháng tư 1866 phụ trương).
Các giấy tờ kèm theo đây có lẽ cho thấy là tên này đã chết vào năm 1869. Cách duy nhất để tin chắc có lẽ nên viết về Mỹ Tho để biết coi người vợ không cưới xin của hắn vẫn ở Bình Cách (Mỹ Tho).
số 307
Saigon, ngày 23 tháng hai 1 88 1
/Gửi/quan cai trị Sóc Trăng
Tên Thiên Hộ mà ông muốn có tin tức theo mọi khả năng đương bàn đến đây (xóa bỏ) là Võ Duy Dương mà đội quân Gally-Pasboc năm 1866 đã chống trong đồng Lác (chiếm Tháp Mười),Courrier de Saigon, ngày 20/4/1866 phụ trương).
Những giấy tờ mà Nha chỉ huy có, cho thấy là tên này (coi như đã) chết năm 1869. Để tin chắc tốt nhất về việc này (về người cầm đầu quân phiến loại này, điều có ích có lẽ là = gạch xóa) ông có thế viết cho quan cai trị Mỹ Tho nhắc lại những sự kiện sau đây:
Người vợ không cưới xin của Thiên Hộ, con gái của Trần Văn Học, tên là Thị Vàng đã qui thuận cuối 1869 và ở tại làng Bình Cách (Mỹ Tho).
BẢN DỊCH HÁN VIỆT TỜ BẨM
CỦA TRẦN VĂN HỌC
Kiến Hòa huyện, Thạnh Quơn (Quan) tổng Bình Cách thôn (dân) Trần Văn Học khấu bẩm vì: Khất vì bằng sự duyên tiền niên Võ Duy Dương tại Bình Cách thôn chiêu mộ bách mãi (dân) nữ thị Vàng vi thiếp hạ sanh nhất nữ, tự cai vản Thập Tháp tác nghịch (dân) tương nữ đào vãn biệt xứ trú cư.
Tư Văn cai danh dĩ tử (dân ) nãi phản hồi do Kiến Hòa Tham biện quan minh cứu vô tình trạng mông đắc văn phê hồi thôn an nghiệp.
Thiết niệm Lang sa pháp luật tội bất cập thu nô. Đản nữ (dân) thị Vàng kinh phiếm Duy Dương vi thiếp hữu sanh nhất nữ, pha can án, mạc cảm điềm nhiêm.
Phục khất Lại bộ thượng thơ đường đại nhân thẩm chiếu văn phê hứa (dân) nữ mẫu tử tùng (dân) an nghiệp, tứ miễn hậu lự vạn lại. Kim khấu bẩm.
Kỷ Tỵ niên, thập nguyệt, thập... nhựt dân
Trần Văn Học điểm chỉ
------
Ông Chánh sở mật thám
Tôi có vinh dự để cho ông những tin tức (người ta nói với tôi là tên Hội chức Thiên Hộ cựu lãnh tụ các đảng ở Tháp Mười, hắn đã chết vì bệnh từ 10 hoặc 12 năm nay, tử thi của hắn được chôn tại làng Tân Lập gần Cần Giuộc của Chợ Lớn); những người cầm đầu trong đoàn tùy tùng, các tên Hùng Lâm, hắn đã đi ra Huế. cậu Hai, con trai của Quản Định, người ta không biết đi đâu, Thái chức Thống Quản, hắn đã bị ô. Lãnh Huấn bắt, người ta đã kết án tử hình hắn. Trần Kỳ Phùng chức huyện, hắn chết vì bệnh, Huấn chức lãnh binh, hắn cũng chết như vậy, và Cẩn chức Đốc Binh, hắn biến mất người ta không biết hắn đi đâu.
-------
Vào lúc 8 giờ chiều hôm qua, một người Tàu gốc Quảng Đông chết trên lề đường chợ Cầu ông Lãnh; theo tin tức người ta nói với tôi thì người Tàu này ở tại nhà Hòa Thạnh thợ may ở trên kè kinh Tàu hủ; tôi đã đến nhà này để lấy tin tức của một người Tàu làm cu li tên Huỳnh Lâm 26 tuổi thẻ cư trú số 952, hắn nói với tôi là từ 3/?/ tháng nay hắn được thuê làm trong nhà này, hắn có thấy một người Tàu bị bệnh đến nhà chủ hắn 4 hay 5 lần để ăn uống; nhưng từ 5 hay 6 ngày nay hắn không còn thấy và chiều hôm qua vào khoảng 1 giờ rưỡi hắn thấy người Tàu này chết tại chợ.
Tôi có nhận được ba giấy báo trước gửi bởi ông Chánh/sở/mật thám để chuyển đến tay các làng Khánh Hội, Vĩnh Hội và An Hòa xã.
------
Đội mật thám
/Ký tên không đọc được/
Vào lúc 7 giờ sáng, xe của ông Bistout có cán ngã một người Tàu gánh vò rượu nếp trên kè kinh Tàu hủ; nhưng ông này không có trên xe.
Tên Thiên Hộ Dương bàn đến đây chắc là Võ Duy Dương mà đội quân Gally Pasboce năm 1866 đã chống trong đồng lác (Tháp Mười), (Courrier de Sai gon ngày 20 tháng tư 1866 phụ trương).
Các giấy tờ kèm theo đây có lẽ cho thấy là tên này đã chết vào năm 1869. Cách duy nhất để tin chắc có lẽ nên viết về Mỹ Tho để biết coi người vợ không cưới xin của hắn vẫn ở Bình Cách (Mỹ Tho).
số 307
Saigon, ngày 23 tháng hai 1 88 1
/Gửi/quan cai trị Sóc Trăng
Tên Thiên Hộ mà ông muốn có tin tức theo mọi khả năng đương bàn đến đây (xóa bỏ) là Võ Duy Dương mà đội quân Gally-Pasboc năm 1866 đã chống trong đồng Lác (chiếm Tháp Mười),Courrier de Saigon, ngày 20/4/1866 phụ trương).
Những giấy tờ mà Nha chỉ huy có, cho thấy là tên này (coi như đã) chết năm 1869. Để tin chắc tốt nhất về việc này (về người cầm đầu quân phiến loại này, điều có ích có lẽ là = gạch xóa) ông có thế viết cho quan cai trị Mỹ Tho nhắc lại những sự kiện sau đây:
Người vợ không cưới xin của Thiên Hộ, con gái của Trần Văn Học, tên là Thị Vàng đã qui thuận cuối 1869 và ở tại làng Bình Cách (Mỹ Tho).
BẢN DỊCH HÁN VIỆT TỜ BẨM
CỦA TRẦN VĂN HỌC
Kiến Hòa huyện, Thạnh Quơn (Quan) tổng Bình Cách thôn (dân) Trần Văn Học khấu bẩm vì: Khất vì bằng sự duyên tiền niên Võ Duy Dương tại Bình Cách thôn chiêu mộ bách mãi (dân) nữ thị Vàng vi thiếp hạ sanh nhất nữ, tự cai vản Thập Tháp tác nghịch (dân) tương nữ đào vãn biệt xứ trú cư.
Tư Văn cai danh dĩ tử (dân ) nãi phản hồi do Kiến Hòa Tham biện quan minh cứu vô tình trạng mông đắc văn phê hồi thôn an nghiệp.
Thiết niệm Lang sa pháp luật tội bất cập thu nô. Đản nữ (dân) thị Vàng kinh phiếm Duy Dương vi thiếp hữu sanh nhất nữ, pha can án, mạc cảm điềm nhiêm.
Phục khất Lại bộ thượng thơ đường đại nhân thẩm chiếu văn phê hứa (dân) nữ mẫu tử tùng (dân) an nghiệp, tứ miễn hậu lự vạn lại. Kim khấu bẩm.
Kỷ Tỵ niên, thập nguyệt, thập... nhựt dân
Trần Văn Học điểm chỉ
NHỮNG PHÂN TÍCH CỦA GUSTAVE
JANNEAU VỀ 2 BẢN TẤU TRÌNH CỦA VÕ DUY DƯƠNG DÂNG VUA TỰ
ĐỨC
Tài liệu này, đã được Gustave Janneau dịch và phân tích, được Jean Ricquebourg giới thiệu đăng trên Revue Indochinoise, số 2 (1914).
Qua nội dung, biết được hai bản tấu trình này của Võ Duy Dương gởi cho vua Tự Đức qua ba sứ giả: Phó quản cơ Nguyễn Quân Phong, Tú tài Phạm Nguyên Lợi và Bát phẩm Nguyễn Tương, có lẽ Võ Duy Dương viết trước khi đại đồn Tháp Mười thất thủ và quân Pháp tịch thu được trong trận tấn công vào đồn này (tháng 4-1866) .
Dĩ nhiên, qua bản dịch và bài phân tích của Gustave Janneau hai bản tấu trình của Võ Duy Dương cũng có phần nào lệch lạc. Tuy nhiên để tiện việc tham khảo, chúng tôi cố gắng theo sát nguyên vân bản tiếng Pháp của Gustave Janneau.
Song Gustave Janneau, không biết vô tình hay cố ý, đã có lầm lẫn trong việc xếp thứ tự trước sau của hai tờ tấu. Bản mà Gustave Janneau đặt tên: "Bài phân tích bức thư của Thiên Hộ Dương" thì nội dung Thiên Hộ Dương nói nhiều sự việc khi đã vào Đồng Tháp Mười. Còn bản mà Gustave Janneau đặt tên: "Bản báo cáo thứ hai" thì nội dung lại là quá trình hoạt động của Võ Duy Dương từ khi theo phái đoàn Đỗ Thúc Tịnh vào Nam (tháng 5-1861) đến khi rút vào Đồng Tháp Mười (tháng 8-1864). Hơn nữa, dù Gustave Janneau đặt tên hai tờ tấu như đã nói, nhưng cuối bài lại ghi "Bản dịch của Gustave Janneau”, nên không rõ được phần nào Gustave Janneau phân tích, phần nào ông ta dịch.
Còn một vấn đề đáng lưu ý nữa, có lẽ do Gustave Janneau chưa am tường việc đối chiếu ngày tháng âm lịch sang dương lịch, nên đã cho rằng "Ngày tháng trong báo cáo này không có một sự chính xác nào". Nhưng khi đối chiếu các ngày tháng và sự việc mà Võ Duy Dương báo cáo tương đối rất chính xác, ăn khớp với tài liệu của Quốc Sử Quán và một số tài liệu khác của Pháp. Cũng do sự chưa am tường đó nên phần lớn các chú thích của Gustave Janneau đều không đúng.
Trong bản dịch tiếng Việt dưới đây, chúng tôi không sử dụng chú thích của Gustave Janneau.
BÀI PHÂN TÍCH BỨC THƯ CỦA THIÊN HỘ DƯƠNG
Gởi dâng lên vua An Nam qua 3 vị sứ giả: Phó quản cơ Nguyễn Xuân Phong, Tú tài Phạm Nguyên Lợi, Bát phẩm Nguyễn Tương.
Ông Thiên Hộ Dương tâu với vua là ông đã mộ được khoảng 1.000 người đáng được chú ý về nhiệm vụ mà họ gánh vác trước kia, hoặc vì sự thế gia sản của họ, các vị được bổ nhiệm các ngạch trật hoặc được nâng các phẩm hàm.
Ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường đã cung cấp một đội quân gồm có người An Nam, người Trung Quốc, người Cao Miên và tổng số tăng lên hơn 100.000 người. Những đội ngũ được tổ chức lại, những cấp bậc của các ngạch trật trong hệ thống quân sự được phân phối xong, những đội quân đã được điều đi tùy theo nhu cầu của các đồn lũy.
Ông Thiên Hộ Dương đề nghị với nhà vua cho phép dùng mưu kế thu hồi lại ba tỉnh nói trên, ông nghĩ rằng phải hành động hết sức nhanh chóng đề phòng gặp phải những khó khăn trong công việc.
Ông Thiên Hộ Dương nêu lên ở đây tiểu sử tóm tắt của Quản Định (Chú thích: Tức là Trương Định) nhắc lại cấp bậc mà nhà vua đã lần lượt phong chức v.v...
Ông còn nhận được bức Thánh chỉ đề tháng 6 (Chú thích: Có lẽ là tháng 7-1865, vì đến tháng 8-1864 Võ Duy Dương mới rút vào Đồng Tháp Mười lập căn cứ.) truyền lệnh cho ông phải mời quan Tổng Đốc (Chú thích: Nguyên văn chữ Pháp là “Général Commandant" cũng có thể dịch là "Tướng tư lệnh". Tuy nhiên trong quan chế nhà Nguyễn lúc bấy giờ không có chức Tướng tư lệnh quân đội trong tỉnh mà có chức Lãnh binh.) Gia Định Bùi Quang Diệu và Tham mưu trưởng (Chú thích: Tham tán đúng nghĩa hơn tham mưu trưởng.) Bùi Tân. Các quan chức này đã đến Tháp Mười chỉ mang theo 80 người vào tháng 11, họ quay trở lại Gia Định để nhận vài chỉ định mới:
Trong tháng 2, mặt đất ở đây khô ráo do thời tiết nóng bức. Quân Pháp tổ chức một cuộc tấn công vào Tháp Mười với 600 bộ binh. Họ đánh nhau một trận tại huyện Kiến Đăng (Chú thích: Thuộc khu vực Đồng Tháp Mười.), chịu những thiệt hại to lớn, họ bị thua trận.
Ngày 11 tháng 2 quân Pháp lại vào Tháp Mười với số lượng hơn 1.000 quân gồm các lính tập và mã tà. Các toán quân của ta chống cự quyết liệt một quan Pháp ở cấp chỉ huy (Chú thích: Có thể là Thiếu tá) bị giết. Những người Pháp khác hoảng sợ chạy trốn để lại ở trận địa vũ khí và quân dụng mà chúng ta tịch thu được.
Dù sao cũng phải nhìn nhận rằng vị trí của Tháp Mười này ít thuận lợi là một nơi hoang vu và tiếp tế lương thực rất khó khăn. Người Pháp không thể không trở lại đây, chúng ta có thể bị tàn sát bởi quân số của họ, nếu chúng không quyết định rút khỏi nơi đây ngày 15 tháng 2, sau khi chúng ta chiến thắng để chúng ta bố trí ở đồn Bảo An.
Người Pháp theo dõi chúng ta để gài chúng ta vào cuộc chiến đấu mới. Quân đội của chúng ta đã kéo đến Chinh Hầm (Chú thích: Chưa xác định được là ở đâu) đang chiếm một điểm cao, chúng ta có thể với một địa thế rõ rệt nã nhiều quả pháo tiêu diệt một số rất lớn quan Pháp, xác chúng rải rác khắp trận địa, số tử vong vượt quá 150, chúng ta bắt tù binh 3 người Pháp, 7 người Ma Nì chịu đầu hàng và bằng lòng theo chúng ta. Họ đã có sẵn vũ khí và quân trang. Họ rất ghét bọn kia và muốn ra trận để trả thù bọn kia.
Ông Thiên Hộ Dương tường thuật một trận khác mà ông chắc chắn có thuận lợi hơn nữa (Chú thích: có lẽ đây là trận Cái Nứa, nghĩa quân tấn công vào tháng 3-1866).
Ông giải thích cho nhà vua một cách khá rõ ràng, tình thế mà trong đó ông gặp phải, để sao cho nhà vua có thể tính đến khả năng thu hồi 3 tỉnh trên.
Tiếp theo đó một tuyên bố dài dòng tố cáo tình hình hiện tại của ba tỉnh này đã bị quân Pháp chiếm đóng. Gia đình tan nát, mồ mả bị xúc phạm v.v...
Dân chúng ở Tân Bình (Chú thích: Tức Sài Gòn) sẽ bị cám dỗ do bọn Pháp thống trị nếu nhà vua không cho phép ông Thiên Hộ giáng trả một đòn quyết định.
Ông Thiên Hộ có vô số đồng đảng. Nếu nhà vua ra lệnh ông có thể tiêu diệt hết binh lính Pháp ở các kinh rạch nhỏ hẹp, nơi mà bọn chúng không có khả năng sử dụng các trọng pháo, loại này chỉ thật sự có tác dụng cho những hoạt động tầm xa.
Tài liệu này, đã được Gustave Janneau dịch và phân tích, được Jean Ricquebourg giới thiệu đăng trên Revue Indochinoise, số 2 (1914).
Qua nội dung, biết được hai bản tấu trình này của Võ Duy Dương gởi cho vua Tự Đức qua ba sứ giả: Phó quản cơ Nguyễn Quân Phong, Tú tài Phạm Nguyên Lợi và Bát phẩm Nguyễn Tương, có lẽ Võ Duy Dương viết trước khi đại đồn Tháp Mười thất thủ và quân Pháp tịch thu được trong trận tấn công vào đồn này (tháng 4-1866) .
Dĩ nhiên, qua bản dịch và bài phân tích của Gustave Janneau hai bản tấu trình của Võ Duy Dương cũng có phần nào lệch lạc. Tuy nhiên để tiện việc tham khảo, chúng tôi cố gắng theo sát nguyên vân bản tiếng Pháp của Gustave Janneau.
Song Gustave Janneau, không biết vô tình hay cố ý, đã có lầm lẫn trong việc xếp thứ tự trước sau của hai tờ tấu. Bản mà Gustave Janneau đặt tên: "Bài phân tích bức thư của Thiên Hộ Dương" thì nội dung Thiên Hộ Dương nói nhiều sự việc khi đã vào Đồng Tháp Mười. Còn bản mà Gustave Janneau đặt tên: "Bản báo cáo thứ hai" thì nội dung lại là quá trình hoạt động của Võ Duy Dương từ khi theo phái đoàn Đỗ Thúc Tịnh vào Nam (tháng 5-1861) đến khi rút vào Đồng Tháp Mười (tháng 8-1864). Hơn nữa, dù Gustave Janneau đặt tên hai tờ tấu như đã nói, nhưng cuối bài lại ghi "Bản dịch của Gustave Janneau”, nên không rõ được phần nào Gustave Janneau phân tích, phần nào ông ta dịch.
Còn một vấn đề đáng lưu ý nữa, có lẽ do Gustave Janneau chưa am tường việc đối chiếu ngày tháng âm lịch sang dương lịch, nên đã cho rằng "Ngày tháng trong báo cáo này không có một sự chính xác nào". Nhưng khi đối chiếu các ngày tháng và sự việc mà Võ Duy Dương báo cáo tương đối rất chính xác, ăn khớp với tài liệu của Quốc Sử Quán và một số tài liệu khác của Pháp. Cũng do sự chưa am tường đó nên phần lớn các chú thích của Gustave Janneau đều không đúng.
Trong bản dịch tiếng Việt dưới đây, chúng tôi không sử dụng chú thích của Gustave Janneau.
BÀI PHÂN TÍCH BỨC THƯ CỦA THIÊN HỘ DƯƠNG
Gởi dâng lên vua An Nam qua 3 vị sứ giả: Phó quản cơ Nguyễn Xuân Phong, Tú tài Phạm Nguyên Lợi, Bát phẩm Nguyễn Tương.
Ông Thiên Hộ Dương tâu với vua là ông đã mộ được khoảng 1.000 người đáng được chú ý về nhiệm vụ mà họ gánh vác trước kia, hoặc vì sự thế gia sản của họ, các vị được bổ nhiệm các ngạch trật hoặc được nâng các phẩm hàm.
Ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường đã cung cấp một đội quân gồm có người An Nam, người Trung Quốc, người Cao Miên và tổng số tăng lên hơn 100.000 người. Những đội ngũ được tổ chức lại, những cấp bậc của các ngạch trật trong hệ thống quân sự được phân phối xong, những đội quân đã được điều đi tùy theo nhu cầu của các đồn lũy.
Ông Thiên Hộ Dương đề nghị với nhà vua cho phép dùng mưu kế thu hồi lại ba tỉnh nói trên, ông nghĩ rằng phải hành động hết sức nhanh chóng đề phòng gặp phải những khó khăn trong công việc.
Ông Thiên Hộ Dương nêu lên ở đây tiểu sử tóm tắt của Quản Định (Chú thích: Tức là Trương Định) nhắc lại cấp bậc mà nhà vua đã lần lượt phong chức v.v...
Ông còn nhận được bức Thánh chỉ đề tháng 6 (Chú thích: Có lẽ là tháng 7-1865, vì đến tháng 8-1864 Võ Duy Dương mới rút vào Đồng Tháp Mười lập căn cứ.) truyền lệnh cho ông phải mời quan Tổng Đốc (Chú thích: Nguyên văn chữ Pháp là “Général Commandant" cũng có thể dịch là "Tướng tư lệnh". Tuy nhiên trong quan chế nhà Nguyễn lúc bấy giờ không có chức Tướng tư lệnh quân đội trong tỉnh mà có chức Lãnh binh.) Gia Định Bùi Quang Diệu và Tham mưu trưởng (Chú thích: Tham tán đúng nghĩa hơn tham mưu trưởng.) Bùi Tân. Các quan chức này đã đến Tháp Mười chỉ mang theo 80 người vào tháng 11, họ quay trở lại Gia Định để nhận vài chỉ định mới:
Trong tháng 2, mặt đất ở đây khô ráo do thời tiết nóng bức. Quân Pháp tổ chức một cuộc tấn công vào Tháp Mười với 600 bộ binh. Họ đánh nhau một trận tại huyện Kiến Đăng (Chú thích: Thuộc khu vực Đồng Tháp Mười.), chịu những thiệt hại to lớn, họ bị thua trận.
Ngày 11 tháng 2 quân Pháp lại vào Tháp Mười với số lượng hơn 1.000 quân gồm các lính tập và mã tà. Các toán quân của ta chống cự quyết liệt một quan Pháp ở cấp chỉ huy (Chú thích: Có thể là Thiếu tá) bị giết. Những người Pháp khác hoảng sợ chạy trốn để lại ở trận địa vũ khí và quân dụng mà chúng ta tịch thu được.
Dù sao cũng phải nhìn nhận rằng vị trí của Tháp Mười này ít thuận lợi là một nơi hoang vu và tiếp tế lương thực rất khó khăn. Người Pháp không thể không trở lại đây, chúng ta có thể bị tàn sát bởi quân số của họ, nếu chúng không quyết định rút khỏi nơi đây ngày 15 tháng 2, sau khi chúng ta chiến thắng để chúng ta bố trí ở đồn Bảo An.
Người Pháp theo dõi chúng ta để gài chúng ta vào cuộc chiến đấu mới. Quân đội của chúng ta đã kéo đến Chinh Hầm (Chú thích: Chưa xác định được là ở đâu) đang chiếm một điểm cao, chúng ta có thể với một địa thế rõ rệt nã nhiều quả pháo tiêu diệt một số rất lớn quan Pháp, xác chúng rải rác khắp trận địa, số tử vong vượt quá 150, chúng ta bắt tù binh 3 người Pháp, 7 người Ma Nì chịu đầu hàng và bằng lòng theo chúng ta. Họ đã có sẵn vũ khí và quân trang. Họ rất ghét bọn kia và muốn ra trận để trả thù bọn kia.
Ông Thiên Hộ Dương tường thuật một trận khác mà ông chắc chắn có thuận lợi hơn nữa (Chú thích: có lẽ đây là trận Cái Nứa, nghĩa quân tấn công vào tháng 3-1866).
Ông giải thích cho nhà vua một cách khá rõ ràng, tình thế mà trong đó ông gặp phải, để sao cho nhà vua có thể tính đến khả năng thu hồi 3 tỉnh trên.
Tiếp theo đó một tuyên bố dài dòng tố cáo tình hình hiện tại của ba tỉnh này đã bị quân Pháp chiếm đóng. Gia đình tan nát, mồ mả bị xúc phạm v.v...
Dân chúng ở Tân Bình (Chú thích: Tức Sài Gòn) sẽ bị cám dỗ do bọn Pháp thống trị nếu nhà vua không cho phép ông Thiên Hộ giáng trả một đòn quyết định.
Ông Thiên Hộ có vô số đồng đảng. Nếu nhà vua ra lệnh ông có thể tiêu diệt hết binh lính Pháp ở các kinh rạch nhỏ hẹp, nơi mà bọn chúng không có khả năng sử dụng các trọng pháo, loại này chỉ thật sự có tác dụng cho những hoạt động tầm xa.
BẢN BÁO CÁO THỨ
HAI
Tướng Võ Duy Dương, chỉ huy các toán quân đánh nhau với người Pháp đang đóng giữ trong tỉnh Định Tường đã dâng lên nhà vua một bản văn bí mật về những hoạt động trước kia và hiện trạng tâm lý trong các khu vực.
Ông Dương hoạt động một cách đơn độc, ông đã hết phương kế và cũng không làm gì được, vì không nhận được Thánh chỉ của nhà vua, ông thú thật sức lực của ông cũng chỉ đến thế thôi, ông bảo đảm nhà vua luôn luôn sẽ theo sát công việc của ông.
Năm Tự Đức thứ 14, tháng tư (Chú thích: Tháng 5-1861).
Võ Duy Dương tuân lệnh nhà vua theo Khâm phái Đỗ Thúc Tịnh di chuyển về Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên nhận nhiệm vụ.
Tháng 8 năm ấy, Khâm phái trao cho Dương Bằng Quản Cơ chỉ huy Võ Sanh và Võ Sĩ.
Tháng 11 Dương ở dưới quyền Quan án Nguyễn Nhã và Thượng Biện (Quan vụ) Trương Minh Lượng trong tỉnh Định Tường.
Ông được điều đi Mỹ Quí để xây dựng một đồn lũy (Chú thích: Đồn này được dân chúng quen gọi là Tân Thành Mỹ Quí, được xây trên một gò cát cao, kết hợp với Thuộc Nhiêu trở thành vị trí xung yếu ở Định Tường, nằm giữa thành Mỹ Tho và đồn tiền tiêu Cai Lậy của Pháp. Nay thuộc ấp Quí Thành ( xã Mỹ Quí. Cai Lậy) vết tích còn lại là, nền kho, bến vựa, ao nước, cột phường).
Năm Tự Đức thứ 15 (Chú thích: Tháng 2-1862.) tháng 2.
Thượng Biện tỉnh Định Tường nhận nhiệm vụ Khâm phái ông Đốc Binh thấy có thể mất đồn Thuộc Nhiêu (Chú thích: Trước đây là căn cứ của Phủ Cậu Trần Xuân Hòa, sau khi ông hy sinh (7-1-1862) Võ Duy Dương điều Nguyễn Hữu Huân đến thay thế. Kết hợp với Mỹ Quí là khu vực mà De Grammont gọi là khu “bốn công sự" nằm giữa Mỹ Tho và Cai Lậy, thực dân Pháp phải đánh nhiều lần mới chiếm được.) ông Dương lại ở tại Mỹ Quí, ông báo cáo việc này với quan Thượng Biện và ngài ra lệnh giải tán các đội quân và cất giấu vũ khí.
Tháng năm Khâm phái Nguyễn Thúc Trơn (Chú thích: Tức Nguyễn Túc Trưng) lại ra lệnh cho ông Dương ra kêu gọi các đội quân tập hợp về Kiến Hòa (Chú thích: Nay là ấp Bình Cách xã Tân Bình Thành, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang.) đến khi có lệnh mới.
Tháng 6, những tên man rợ (chỉ người Pháp) ra thông báo trong đó tuyên bố rằng 3 tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hòa phải được xem như trực thuộc họ.
Những quan binh và những nhà phú hộ van nài ông Dương đừng xa rời mà tiếp tục chống giặc, họ sẽ lập một đơn vị quân sự, hứa giúp đỡ và tiếp tế
Tháng 7 Dương phát lời kêu gọi nhân dân ở Định Tường nổi lên từng toán và chiến đấu lại.
Trong lúc ông Phó Lãnh binh Trương Định đang ở tại tỉnh Gia Định viết thư cho ông Dương để trình bày là ông sẽ gặp nguy hiểm khi hoạt động riêng lẻ, mời ông về đây thống nhất lực lượng hai bên, ông còn nêu địa điểm hội kiến tại huyện Tân Hòa.
Để thỏa thuận giao ước này ông Dương đã phái giáo thọ Nguyễn Hữu Huân đến Tân Hòa gặp thị vệ Nguyễn Thi. ông này mang về cho Quản Định một Thánh chỉ phong cho ông chức Bình Tây Tướng quân thống lĩnh chỉ huy toán quân trong ba tỉnh.
Giáo thọ Huân sau đó quay trở lại tỉnh Định Tường ngay. Ông Dương và Huân nhận người thứ nhất cấp bậc Chánh Đề đốc và Huân là Phó Đề đốc và hai ông đều nhận người nào cũng vậy, ấn và triện Phẩm hàm.
Ông Dương và ông Huân lưu lại Kiến Hòa, chịu trách nhiệm xây dựng đồn lũy tại cuộc chiến. (Chú thích: Theo dân gian thì đồn chính, nơi đây đóng cơ quan đầu não của nghĩa quân là một ngôi nhà lớn có 36 cửa, có ba lần hào và ba lũy trực bao bọc, thuộc ấp Bình Cách ngày nay, sát sông Hiệp Thạnh. Nay không còn vết tích gì, chỉ còn một đoạn sông Hiệp Thạnh cũ.)
Tháng 10, những toán lính Pháp tập kích đồn Bình Cách, ông Dương và ông Huân đánh bạt chúng ra ngay, bọn Pháp phải tẩu thoát. Chúng ta truy kích chúng, 28 lính tập hoặc mã tà bị bắt làm tù binh và bị chặt đầu.
Sau đó ông Dương và ông Huân kéo quân đến giồng Cát tổng Nhị Bình, phủ Kiến An (nay là Gò Lũy sự thật là làng Nhị Bình), nơi đây ông xây tạm một đồn lũy và trú tại đó.
Ngày 27 trong tháng (T.10) quân Pháp lại đến tập kích các ông. Quân Pháp lại bại trận và tháo chạy bị quân ta đuổi theo đến đồn Thuộc Nhiêu cướp đồn và đốt cháy. Bọn Pháp đóng ở đây xông ra và sáp trận. Thình lình một đám mưa to ập đến tối, tất cả đều phải lui quân mỗi bên một hướng (Chú thích: Đây là trận mà De Grammont cho rằng là trận đánh quan trọng nhứt vào cuối năm 1862.).
Dương dẫn quân về giồng Cát và ở lại đến ngày 6- 11 ngày mà ông kéo quân về Bình Cách.
Ngày 16 trong tháng quân Pháp lại đến tấn công nữa. Ông Dương xông ra sáp trận từ 3 giờ đến 7 giờ sáng. Quân Pháp bị đẩy lùi và rút khỏi đó vài cây số. Dương truy kích bọn địch từ trưa đến chiều tối. Tối đến ông đưa quân về đồn.
Cuộc pháo kích nổ ra suốt ngày. Dương kiểm tra xem còn bao nhiêu súng đạn, chỉ còn rất ít, ông không thể chống trả một cuộc tấn công mới. Vì thế ông kéo binh lính về đồn Tân Thạnh trong tỉnh Gia định (Chú thích: Khi nghĩa quân Võ Duy Dương về đóng ở đây. Schreiner nhận định rằng: "Cuộc nổi loạn xảy đến vùng phụ cận Sài Gòn"). Nơi đây ông viết thư cho Quản Định xin thêm đạn dược.
Ngày 22 ông Dương lại đưa quân
về giồng Cát thuộc phủ Kiến An.
Ngày 24 quân Pháp lại tấn công, cuộc chiến kéo dài từ 3 giờ đến 5 giờ chiều. Bọn Pháp nhận được viện binh, ông Dương phải tháo chạy và rút lui cách đó 4 cây số.
Sáng 25 quân Pháp trở lại công kích nữa. Dương chống trả từ 3 giờ đến 10 giờ sáng. Sau đó chúng rút lui. Chúng trở về Giồng Phèn trong làng Nhị Bạch (Chú thích: Nay thuộc xã Nhị Bình huyện Cai Lậy) ở đây chúng dựng một đồn lũy.
Ngày 27 quân Pháp trở lại công kích nữa. Dương chống trả từ 3 giờ đến 7 giờ sáng. Quân Pháp bị đẩy lùi và rút về giồng Cát. Đến 3 giờ chiều họ trở lại tấn công lần nữa. Ông Dương lại nghinh chiến nhưng thấy rằng mình không đủ lực lượng, đành tuyên bố không giữ được cứ điểm đó nữa rồi rút về Bưng Môn thuộc tổng Tân Phú (Chú thích: Nay thuộc xã Tân Phú huyện Cai Lậy.); một vùng đầm lầy rậm rạp và cho đắp một lũy.
Ngày 2-2, một pháo hạm với nhiều ghe chài và tàu buôn khác đi vào kinh rạch tiến tới bao vây đầm lầy, ông Dương chỉ còn phải nhổ đồn, rút lui trong đêm và tới sáng ông đưa người của mình về Kiến Đăng, trong tổng Đại Mỹ trên kinh Cây Gâu (Chú thích: Tức kinh Cây Gáo làng Giai Mỹ, nay thuộc hai xã Mỹ Thành Nam và Mỹ Thành Bắc huyện Cai Lậy, Tiền Giang). Vị trí này xem khá quan trọng ông liền đóng quân.
Năm Tự Đức 16 ngày 12 tháng 2 hai tàu buôn Pháp xuất hiện ở kinh Cây Gâu. Đến trước mặt đồn, bọn Pháp tìm cách đoạt lấy. Những người bị vây chống trả quyết liệt và quân Pháp buộc phải rút lui.
Ngày 20 trong tháng quân Pháp lại xuất hiện, họ bị đẩy lùi lần thứ hai.
Ngày 23 trong tháng quân Pháp lại tấn công lần thứ ba, ông Dương thấy mình không thể chống cự lâu hơn, ra lệnh cho các trung đoàn và các lính đồn trú bỏ vị trí này và rút vào bưng biền.
Ngày 12-3 các đường giao thông bị ngăn chặn và các đường bộ bị Pháp cắt đứt và lương thực cũng bị thiếu hụt. Dương ra lệnh cho người của ông rút về các làng riêng biệt của họ, ông chỉ giữ lại khoảng 100 người vừa quan vừa lính. Với lực lượng này, ông tiến hành một cuộc sống lưu động khi ẩn nơi này khi đánh nơi khác.
Tháng 5 ông Võ Duy Dương nhận thấy những khu rừng không thể cung cấp lương thực cho ông và người của ông, ông được tin có người bán súng đạn ở Cà Mau, Rạch Giá thuộc tỉnh Hà Tiên.
Dương phái Phó đề đốc (Chú thích: Tức Nguyễn Hữu Huân.) bí mật đưa 20 người qua Vĩnh Long, An Giang và An Hòa. Ông ra lệnh cho các đồng chí mình có nhiệm vụ nhận những tiền đúc bằng bạc quyên góp trong tỉnh Định Tường. Trong khi những người trước đã làm như thế tại Vĩnh Long, An Giang và An Hòa. Dương chờ tin từ Cà Mau và Rạch Giá và kết quả của cuộc lạc quyên.
Năm Tự Đức thứ 17 (Chú thích: Tức năm 1864) tháng 4 ông Phó Đề đốc bị bắt làm tù binh ở An Giang (Chú thích: Đúng ra là Nguyễn Hữu Huân bị các quan ở An Giang triệt để thi hành hòa ước 1862, bắt giam; sau đó trước áp lực quân sự của Pháp mới giao ông cho kẻ thù. Nhưng trong dân gian có nguồn tư liệu cho rằng chính bạn học của ông là Nguyễn Thanh Trung đang là đốc học An Giang vô tình tiết lộ với Pháp rằng ông đang hoạt động ở Châu Đốc, nên chúng mang quân đến buộc các tỉnh thần An Giang phải bắt ông nộp cho chúng.) bao nhiêu súng đạn, tiền bạc quyên góp lọt vào tay kẻ thù. Võ Duy Dương trình bày cho Quản Định để ông này khẩn cấp báo cáo tình hình trên cho nhà vua.
Tháng 5 vị Kinh phái (sứ giả thường lệ của kinh đô thuộc hàng chủ sự) tên Nguyễn Tánh và một thị vệ đến hội kiến với ông Dương báo rằng theo thánh chỉ của Hoàng đế việc giải giáp các toán quân xảy đến lúc nào ông thấy có thể hợp nhất với Quản Định.
Võ Duy Dương nhấn mạnh việc ông Phó Đề Đốc sẽ bị chặt đầu làm kinh hoàng những người theo ông và bản thân ông là đối tượng của bao nhiêu cuộc lục soát trong tỉnh Vãn Long và An Hà.
Trong những điều kiện như thế ông bày tỏ với sứ giả của nhà vua là ông sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn náo chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng ông luôn luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân.
Các sứ giả đều rút lui.
Tháng 6, ông Dương lại lên đường với hơn 30 người.
Tháng 7 ông đến Đại điền ấp, huyện Kiến Đăng, trong vùng gọi là xứ Xoài Tư (Chú thích: Đại điền ấp tức Rạch Ruộng ngày trước còn có tên Xoài Tư, khu vực đồn điền cũ; nay còn lại chùa Trường Tháp. Vùng này nay thuộc địa phận 4 xã Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc (thuộc huyện Cai Lậy) và Hậu Mỹ Trinh, Hậu Mỹ Bắc (huyện Cái Bè, Tiền Giang)). Bọn Pháp hay tin ông có mặt tại đó liền đến bao vây. Ông Dương chạy thoát được và đi thẳng về Tháp Mười rồi dừng lại đó. Từ đó ông ra một thông báo cho các làng xã kêu gọi nhóm Tháp Mười của ông trở lại mà ở đó ông đang bận xây cất những lán trại và đồn lũy.
Ngày 10 tháng 9 quân Pháp xuất hiện trước đồn lũy của ông với những toán chinh quân và mã tà.
Ông Dương xông ra và tiếp đánh rất ác liệt làm cho chúng phải hoảng sợ rút lui.
Để có thể đối phó và đẩy lùi một cách dễ dàng các cuộc tấn công sau này, ông Dương sai xây thành Bảo An (Chú thích: có lẽ là Đồn Tả, nằm trên gò Bắc Dung, còn gọi là giồng Dung hay gò Bắc Bung, nay thuộc xã huyện Mộc Hóa (Long An)), chu vi 104 trượng (khoảng 50 mét) bề dày thành 1 trượng (khoảng 2 mét) cao 8 thước (khoảng 3 mét) (Chú thích: Một trượng bằng 4 metres (mét) như vậy chu vi đồn Bảo An phải là 416m mới đúng). . Ngày 9 tháng 10, quân Pháp lại tiến công đồn này.
Ngày 24 quân Pháp lại tấn công, cuộc chiến kéo dài từ 3 giờ đến 5 giờ chiều. Bọn Pháp nhận được viện binh, ông Dương phải tháo chạy và rút lui cách đó 4 cây số.
Sáng 25 quân Pháp trở lại công kích nữa. Dương chống trả từ 3 giờ đến 10 giờ sáng. Sau đó chúng rút lui. Chúng trở về Giồng Phèn trong làng Nhị Bạch (Chú thích: Nay thuộc xã Nhị Bình huyện Cai Lậy) ở đây chúng dựng một đồn lũy.
Ngày 27 quân Pháp trở lại công kích nữa. Dương chống trả từ 3 giờ đến 7 giờ sáng. Quân Pháp bị đẩy lùi và rút về giồng Cát. Đến 3 giờ chiều họ trở lại tấn công lần nữa. Ông Dương lại nghinh chiến nhưng thấy rằng mình không đủ lực lượng, đành tuyên bố không giữ được cứ điểm đó nữa rồi rút về Bưng Môn thuộc tổng Tân Phú (Chú thích: Nay thuộc xã Tân Phú huyện Cai Lậy.); một vùng đầm lầy rậm rạp và cho đắp một lũy.
Ngày 2-2, một pháo hạm với nhiều ghe chài và tàu buôn khác đi vào kinh rạch tiến tới bao vây đầm lầy, ông Dương chỉ còn phải nhổ đồn, rút lui trong đêm và tới sáng ông đưa người của mình về Kiến Đăng, trong tổng Đại Mỹ trên kinh Cây Gâu (Chú thích: Tức kinh Cây Gáo làng Giai Mỹ, nay thuộc hai xã Mỹ Thành Nam và Mỹ Thành Bắc huyện Cai Lậy, Tiền Giang). Vị trí này xem khá quan trọng ông liền đóng quân.
Năm Tự Đức 16 ngày 12 tháng 2 hai tàu buôn Pháp xuất hiện ở kinh Cây Gâu. Đến trước mặt đồn, bọn Pháp tìm cách đoạt lấy. Những người bị vây chống trả quyết liệt và quân Pháp buộc phải rút lui.
Ngày 20 trong tháng quân Pháp lại xuất hiện, họ bị đẩy lùi lần thứ hai.
Ngày 23 trong tháng quân Pháp lại tấn công lần thứ ba, ông Dương thấy mình không thể chống cự lâu hơn, ra lệnh cho các trung đoàn và các lính đồn trú bỏ vị trí này và rút vào bưng biền.
Ngày 12-3 các đường giao thông bị ngăn chặn và các đường bộ bị Pháp cắt đứt và lương thực cũng bị thiếu hụt. Dương ra lệnh cho người của ông rút về các làng riêng biệt của họ, ông chỉ giữ lại khoảng 100 người vừa quan vừa lính. Với lực lượng này, ông tiến hành một cuộc sống lưu động khi ẩn nơi này khi đánh nơi khác.
Tháng 5 ông Võ Duy Dương nhận thấy những khu rừng không thể cung cấp lương thực cho ông và người của ông, ông được tin có người bán súng đạn ở Cà Mau, Rạch Giá thuộc tỉnh Hà Tiên.
Dương phái Phó đề đốc (Chú thích: Tức Nguyễn Hữu Huân.) bí mật đưa 20 người qua Vĩnh Long, An Giang và An Hòa. Ông ra lệnh cho các đồng chí mình có nhiệm vụ nhận những tiền đúc bằng bạc quyên góp trong tỉnh Định Tường. Trong khi những người trước đã làm như thế tại Vĩnh Long, An Giang và An Hòa. Dương chờ tin từ Cà Mau và Rạch Giá và kết quả của cuộc lạc quyên.
Năm Tự Đức thứ 17 (Chú thích: Tức năm 1864) tháng 4 ông Phó Đề đốc bị bắt làm tù binh ở An Giang (Chú thích: Đúng ra là Nguyễn Hữu Huân bị các quan ở An Giang triệt để thi hành hòa ước 1862, bắt giam; sau đó trước áp lực quân sự của Pháp mới giao ông cho kẻ thù. Nhưng trong dân gian có nguồn tư liệu cho rằng chính bạn học của ông là Nguyễn Thanh Trung đang là đốc học An Giang vô tình tiết lộ với Pháp rằng ông đang hoạt động ở Châu Đốc, nên chúng mang quân đến buộc các tỉnh thần An Giang phải bắt ông nộp cho chúng.) bao nhiêu súng đạn, tiền bạc quyên góp lọt vào tay kẻ thù. Võ Duy Dương trình bày cho Quản Định để ông này khẩn cấp báo cáo tình hình trên cho nhà vua.
Tháng 5 vị Kinh phái (sứ giả thường lệ của kinh đô thuộc hàng chủ sự) tên Nguyễn Tánh và một thị vệ đến hội kiến với ông Dương báo rằng theo thánh chỉ của Hoàng đế việc giải giáp các toán quân xảy đến lúc nào ông thấy có thể hợp nhất với Quản Định.
Võ Duy Dương nhấn mạnh việc ông Phó Đề Đốc sẽ bị chặt đầu làm kinh hoàng những người theo ông và bản thân ông là đối tượng của bao nhiêu cuộc lục soát trong tỉnh Vãn Long và An Hà.
Trong những điều kiện như thế ông bày tỏ với sứ giả của nhà vua là ông sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn náo chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới và nhắn rằng ông luôn luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân.
Các sứ giả đều rút lui.
Tháng 6, ông Dương lại lên đường với hơn 30 người.
Tháng 7 ông đến Đại điền ấp, huyện Kiến Đăng, trong vùng gọi là xứ Xoài Tư (Chú thích: Đại điền ấp tức Rạch Ruộng ngày trước còn có tên Xoài Tư, khu vực đồn điền cũ; nay còn lại chùa Trường Tháp. Vùng này nay thuộc địa phận 4 xã Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc (thuộc huyện Cai Lậy) và Hậu Mỹ Trinh, Hậu Mỹ Bắc (huyện Cái Bè, Tiền Giang)). Bọn Pháp hay tin ông có mặt tại đó liền đến bao vây. Ông Dương chạy thoát được và đi thẳng về Tháp Mười rồi dừng lại đó. Từ đó ông ra một thông báo cho các làng xã kêu gọi nhóm Tháp Mười của ông trở lại mà ở đó ông đang bận xây cất những lán trại và đồn lũy.
Ngày 10 tháng 9 quân Pháp xuất hiện trước đồn lũy của ông với những toán chinh quân và mã tà.
Ông Dương xông ra và tiếp đánh rất ác liệt làm cho chúng phải hoảng sợ rút lui.
Để có thể đối phó và đẩy lùi một cách dễ dàng các cuộc tấn công sau này, ông Dương sai xây thành Bảo An (Chú thích: có lẽ là Đồn Tả, nằm trên gò Bắc Dung, còn gọi là giồng Dung hay gò Bắc Bung, nay thuộc xã huyện Mộc Hóa (Long An)), chu vi 104 trượng (khoảng 50 mét) bề dày thành 1 trượng (khoảng 2 mét) cao 8 thước (khoảng 3 mét) (Chú thích: Một trượng bằng 4 metres (mét) như vậy chu vi đồn Bảo An phải là 416m mới đúng). . Ngày 9 tháng 10, quân Pháp lại tiến công đồn này.
Niên biểu Võ Duy
Dương
Năm 1827 (Đinh Hợi, Minh Mạng thứ 8)
- Võ Duy Dương ra đời tại thôn Cù Lâm Nam huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn, trấn Bình Định (nay là xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định).
Năm 1831 (Quí Tỵ, Minh Mạng thứ 12)
- Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh, đặt chức Bình Phú Tổng đốc thống hạt của tỉnh Phú Yên. Phủ An Nhơn có hai huyện: Tuy Viễn và Tuy Phước; Phù Ly chia ra thành hai huyện: Phù Cát và Phù Mỹ. Tên Phù Ly chỉ còn dùng để chỉ một cái chợ nằm ở phía Nam ngạn sông La tinh.
Năm 1832 (Nhâm Thìn, Minh Mạng thứ 13)
- Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định Thành qua đời. Nhân dịp này, Minh Mạng tiến hành cải tổ hành chánh, chia đất Gia Định ra làm 6 tỉnh.
Năm 1840-1852 .
- Cha mất, nhà nghèo, Võ Đuy Dương đi chăn trâu để nuôi thân.
- Được một ông quan nhận làm con nuôi, đem về cho ăn học.
- Võ nghệ thành đạt, nổi tiếng; trong một kỳ thi võ, Võ Duy Dương cử được một lúc 5 trái linh, nên được gọi là Ngũ Linh Dương.
Năm 1853 (Quý Sửu, Tự Đức thứ 6)
- Theo đề nghị của các quan, trong đó có Nguyễn Tri Phương. Tự Đức ban hành chánh sách đồn điền.
Năm 1854 (Giáp Dần, Tự Đức thứ 7)
- Tạ Văn Phụng nổi dậy ở Quảng Yên, xưng là con cháu nhà Lê với tên là Lê Duy Phụng, nhưng giám mục Retord khuyên hắn nên chờ dịp khác thuận lợi hơn sẽ hành động và rước hắn về Pénang.
Năm 1855 (Ất Mão, Tự Đức thứ 8)
- Võ Duy Dương lấy vợ là Phạm Thị Liệu, người thôn Tráng Long huyện Tuy Viễn, Bình Định (nay là xã Nhơn Tân huyện An Nhơn, Bình Định), bà Liệu sanh người con đầu là Võ Duy Cung.
Năm 1857 (Đinh Tỵ, Tự Đức thứ 10)
- Hưởng ứng chánh sách khai hoang của Nguyễn Tri Phương, Võ Duy Dương lên đường vào Nam tìm đến đất Ba Giồng (Định Tường) chiêu dân lập ấp và kết bạn với Nguyễn Hữu Huân.
- Bà Liệu sanh người con thứ hai là Võ Duy Phụng.
Năm 1858 (Mậu Ngọ, Tự Đức thứ 11)
Thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, tháng 9 chúng tấn công đánh chiếm bán đảo Sơn Trà.
- Triều đình lệnh cho quân đội và nhân dân đắp đồn lũy, lấp cửa sông ở một số nơi để ngăn giặc.
Năm 1859 (Kỷ Mùi Tự Đức thứ
12)
+ Tháng Hai
- Rigault de Genouilly để một lực lượng nhỏ giữ Đà Nẵng, kéo đại bộ phận quân lính và chiến thuyền đánh chiếm thành Gia Định. Phối hợp với quân triều đình có quân đồn điền của Trương Định dân binh của Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân và nhiều toán dân dũng khác.
- Quân Pháp chiếm được thành, Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân cùng binh sĩ dưới quyền tiếp tục chiến đấu bên cạnh quân triều đình.
+ Tháng 3
- Quân Pháp tấn công đồn Cây Mai, quân triều đình thua, phải rút lui
- Nhân dân các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long tự động quyên góp tiền bạc, đồng sắt, lương thực để nuôi quân, rèn vũ khí...
- Dù chiếm được thành, nhưng không đủ sức bảo vệ trước sự tấn công của nghĩa quân, nên Pháp thiêu hủy thành Gia Định rồi mang đại quân trở ra Đà Nang.
+ Tháng 5, do đứng ra mộ nghĩa dõng chống Pháp, nên Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân được phong chức Chánh quản đạo và Phó quản đạo.
+ Tháng 6. thất bại trong kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" Rigault de Genouilly chủ động xin hòa nghị với triều đình Huế. Nguyễn Tri Phương được giao nhiệm vụ thương thuyết; cuộc đàm phán không mang lại kết quả. Triều đình tăng cường lực lượng phòng thủ ở Cửa Tiểu Định Tường.
+ Tháng 11, Thiếu tướng hải quân Page sang thay Rigault de Genouilly. Một mặt Page chủ trương tiếp tục thương thuyết, mặt khác đem quân quay trở lại Gia Định.
- Võ Duy Dương cùng một số thuộc hạ thân tín vượt biển ra kinh để dâng kế diệt giặc. Được phái đi dẹp cướp biển và giặc mọi Đá vách ở Quảng Ngãi. Thắng trận được phong chức Thiên Hộ (Chánh bát phẩm).
Năm 1860 (Canh Thân, Tự Đức thứ 13)
+ Tháng 1. Quân đội triều đình, dưới quyền chỉ huy của Tôn Thất Cấp bắt đầu xây dựng hệ thống phòng thủ ở Sài Gòn, mà trung tâm là đại đồn Chí Hòa.
+ Tháng 2. Thiếu tướng Hải quân Page mang đại quân sang chiến trường Trung Quốc; chỉ để lại 800 quân cố thủ ở Gia Định, nhưng triều đình vẫn án binh bất động.
+ Tháng 5. Phó thủy sư đô đốc Charner sang thay Page.
+ Tháng 8. Nguyễn Tri Phương được cử làm Tổng thống Quân vụ vào Nam chỉ huy Quân thứ Gia Định tích cực xây dựng phòng tuyến Chí Hòa bao vây quân Pháp. Quân triều đình và nghĩa dõng được huy động vào trấn giữ Chí Hòa có lúc lên đến 20.000 người.
+ Tháng 10. Ngày 25 Pháp và Trung Quốc ký hiệp ước đình chiến. Pháp tấn công đồn Phú Nhuận, bị quân triều đình đẩy lui.
+ Tháng 12. Nghĩa quân dưới quyền của Trương Định phục kích giết chết đại úy thủy quân lục chiến Pháp tên Barbier. Khi y chỉ huy quân đồn trú tại chùa Khải Tường.
+ Tháng Hai
- Rigault de Genouilly để một lực lượng nhỏ giữ Đà Nẵng, kéo đại bộ phận quân lính và chiến thuyền đánh chiếm thành Gia Định. Phối hợp với quân triều đình có quân đồn điền của Trương Định dân binh của Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân và nhiều toán dân dũng khác.
- Quân Pháp chiếm được thành, Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân cùng binh sĩ dưới quyền tiếp tục chiến đấu bên cạnh quân triều đình.
+ Tháng 3
- Quân Pháp tấn công đồn Cây Mai, quân triều đình thua, phải rút lui
- Nhân dân các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long tự động quyên góp tiền bạc, đồng sắt, lương thực để nuôi quân, rèn vũ khí...
- Dù chiếm được thành, nhưng không đủ sức bảo vệ trước sự tấn công của nghĩa quân, nên Pháp thiêu hủy thành Gia Định rồi mang đại quân trở ra Đà Nang.
+ Tháng 5, do đứng ra mộ nghĩa dõng chống Pháp, nên Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân được phong chức Chánh quản đạo và Phó quản đạo.
+ Tháng 6. thất bại trong kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" Rigault de Genouilly chủ động xin hòa nghị với triều đình Huế. Nguyễn Tri Phương được giao nhiệm vụ thương thuyết; cuộc đàm phán không mang lại kết quả. Triều đình tăng cường lực lượng phòng thủ ở Cửa Tiểu Định Tường.
+ Tháng 11, Thiếu tướng hải quân Page sang thay Rigault de Genouilly. Một mặt Page chủ trương tiếp tục thương thuyết, mặt khác đem quân quay trở lại Gia Định.
- Võ Duy Dương cùng một số thuộc hạ thân tín vượt biển ra kinh để dâng kế diệt giặc. Được phái đi dẹp cướp biển và giặc mọi Đá vách ở Quảng Ngãi. Thắng trận được phong chức Thiên Hộ (Chánh bát phẩm).
Năm 1860 (Canh Thân, Tự Đức thứ 13)
+ Tháng 1. Quân đội triều đình, dưới quyền chỉ huy của Tôn Thất Cấp bắt đầu xây dựng hệ thống phòng thủ ở Sài Gòn, mà trung tâm là đại đồn Chí Hòa.
+ Tháng 2. Thiếu tướng Hải quân Page mang đại quân sang chiến trường Trung Quốc; chỉ để lại 800 quân cố thủ ở Gia Định, nhưng triều đình vẫn án binh bất động.
+ Tháng 5. Phó thủy sư đô đốc Charner sang thay Page.
+ Tháng 8. Nguyễn Tri Phương được cử làm Tổng thống Quân vụ vào Nam chỉ huy Quân thứ Gia Định tích cực xây dựng phòng tuyến Chí Hòa bao vây quân Pháp. Quân triều đình và nghĩa dõng được huy động vào trấn giữ Chí Hòa có lúc lên đến 20.000 người.
+ Tháng 10. Ngày 25 Pháp và Trung Quốc ký hiệp ước đình chiến. Pháp tấn công đồn Phú Nhuận, bị quân triều đình đẩy lui.
+ Tháng 12. Nghĩa quân dưới quyền của Trương Định phục kích giết chết đại úy thủy quân lục chiến Pháp tên Barbier. Khi y chỉ huy quân đồn trú tại chùa Khải Tường.
Năm 1861 (Tân Dậu, Tự Đức thứ
14)
+ Tháng 1. Triều đình lại tăng cường phòng thủ cửa Tiểu, cửa Đại (Định Tường)
+ Tháng 2. Phó Đô đốc Hải quân Charner chỉ huy hạm đội Viễn Đông đưa 3.000 quân từ Trung Quốc quay lại Sài Gòn.
- Ngày (đêm 23) quân Pháp tấn công đại đồn Chí Hòa, sau hai ngày kháng cự mãnh liệt, Nguyễn Tri Phương bị thương, quân triều đình thua rút về cố thủ ở Biên Hòa. Chúng đánh lan ra Tân An, Gò Công.
- Trong khi đó Trương Định mang quân dưới quyền về Tân Hòa (Gò Công) để xây dựng căn cứ kháng chiến.
+ Tháng 4. Ngày 12/4 Pháp chiếm thành Mỹ Tho, Nguyễn Công Nhàn bỏ chạy.
+ Tháng 5. Triều đình cử Đỗ Thúc Tịnh làm khâm phái quân vụ vào Nam kỳ mộ nghĩa dũng các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên chống Pháp. Nguyễn Văn Nhã, Võ Duy Dương, Phan Trung... cũng theo Đỗ Thúc Tịnh vào Nam.
- Giữa năm, theo gợi ý của giám mục Retord, Tạ Văn Phụng trở lại Bắc kỳ khởi loạn lần thứ hai cùng với danh nghĩa con cháu nhà Lê.
+ Tháng 6. Đỗ Trình Thoại (Tri huyện Thoại) mang nghĩa quân tập kích Pháp ở Tân Hòa, hy sinh tại trận địa.
+ Tháng 8. Do mộ được 1.000 nghĩa dũng nên Khâm Phái Đỗ Thúc Tịnh trao bằng Quản cơ cho Thiên Hộ Dương. Ông chỉ huy Võ Sanh và Võ Sĩ cùng Nguyễn Hữu Huân xây dựng căn cứ Bình Cách (Định Tường).
+ Tháng 9. Trương Định mộ được 6.000 nghĩa dũng đóng ở Gò Công, nhiều lần thắng giặc được thăng quản cơ rồi Phó lãnh binh tỉnh Gia Định.
+ Tháng 10. Phan Văn Đạt, Trịnh Quang Nghi, Nguyễn Thông, Phan Tung dấy quân ở Tân An. Quân Pháp phục kích, Phan Văn Đạt bị bắt, anh dũng hy sinh.
- Phạm Tiến mộ 1000 nghĩa dõng nổi dậy chống Pháp ở Gò Đen, Trà Quý Bình mộ được 800 nghĩa dõng chống Pháp ở Tân Thạnh (Tân An).
+ Tháng 11. Lực lượng nghĩa quân Võ Duy Dương dưới dưới quyền điều động của Án sát Nguyễn Nhã và Thượng Biện (Quân vụ) của tỉnh Định Tường.
- Quân đội và nghĩa quân Định Tường dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Nhã đánh thắng Pháp nhiều trận ở Cái Bè, Cai Lậy.
- Võ Duy Dương được điều đến Mỹ Quí, xây đồn lũy theo lối đánh chánh quy (đồng bào quen gọi là Tân Thành Mỹ Quí)
+ Tháng 12. Ngày 10, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực và nhân dân thôn Nhựt Tảo tấn công và đốt cháy tàu Espérance của giặc tại vàm Nhựt Tảo trên sông vàm Cỏ Đông (Bến Lức)
- Ngày 16, Bùi Quang Diệu (Quản Là) đem nghĩa quân tập kích Pháp ở Cần Giuộc.
- Ngày 18 thành Biên Hòa thất thủ, quân triều đình rút về Phước Tuy.
- Cuối năm, Charles Duval bí mật ra Bắc kỳ hỗ trợ Tạ Văn Phụng đẩy mạnh cuộc nội chiến, gây áp lực với triều đình để âm mưu một giải pháp chánh trị vì tình hình quân sự của Pháp ngày càng bi đát.
+ Tháng 1. Triều đình lại tăng cường phòng thủ cửa Tiểu, cửa Đại (Định Tường)
+ Tháng 2. Phó Đô đốc Hải quân Charner chỉ huy hạm đội Viễn Đông đưa 3.000 quân từ Trung Quốc quay lại Sài Gòn.
- Ngày (đêm 23) quân Pháp tấn công đại đồn Chí Hòa, sau hai ngày kháng cự mãnh liệt, Nguyễn Tri Phương bị thương, quân triều đình thua rút về cố thủ ở Biên Hòa. Chúng đánh lan ra Tân An, Gò Công.
- Trong khi đó Trương Định mang quân dưới quyền về Tân Hòa (Gò Công) để xây dựng căn cứ kháng chiến.
+ Tháng 4. Ngày 12/4 Pháp chiếm thành Mỹ Tho, Nguyễn Công Nhàn bỏ chạy.
+ Tháng 5. Triều đình cử Đỗ Thúc Tịnh làm khâm phái quân vụ vào Nam kỳ mộ nghĩa dũng các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên chống Pháp. Nguyễn Văn Nhã, Võ Duy Dương, Phan Trung... cũng theo Đỗ Thúc Tịnh vào Nam.
- Giữa năm, theo gợi ý của giám mục Retord, Tạ Văn Phụng trở lại Bắc kỳ khởi loạn lần thứ hai cùng với danh nghĩa con cháu nhà Lê.
+ Tháng 6. Đỗ Trình Thoại (Tri huyện Thoại) mang nghĩa quân tập kích Pháp ở Tân Hòa, hy sinh tại trận địa.
+ Tháng 8. Do mộ được 1.000 nghĩa dũng nên Khâm Phái Đỗ Thúc Tịnh trao bằng Quản cơ cho Thiên Hộ Dương. Ông chỉ huy Võ Sanh và Võ Sĩ cùng Nguyễn Hữu Huân xây dựng căn cứ Bình Cách (Định Tường).
+ Tháng 9. Trương Định mộ được 6.000 nghĩa dũng đóng ở Gò Công, nhiều lần thắng giặc được thăng quản cơ rồi Phó lãnh binh tỉnh Gia Định.
+ Tháng 10. Phan Văn Đạt, Trịnh Quang Nghi, Nguyễn Thông, Phan Tung dấy quân ở Tân An. Quân Pháp phục kích, Phan Văn Đạt bị bắt, anh dũng hy sinh.
- Phạm Tiến mộ 1000 nghĩa dõng nổi dậy chống Pháp ở Gò Đen, Trà Quý Bình mộ được 800 nghĩa dõng chống Pháp ở Tân Thạnh (Tân An).
+ Tháng 11. Lực lượng nghĩa quân Võ Duy Dương dưới dưới quyền điều động của Án sát Nguyễn Nhã và Thượng Biện (Quân vụ) của tỉnh Định Tường.
- Quân đội và nghĩa quân Định Tường dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Nhã đánh thắng Pháp nhiều trận ở Cái Bè, Cai Lậy.
- Võ Duy Dương được điều đến Mỹ Quí, xây đồn lũy theo lối đánh chánh quy (đồng bào quen gọi là Tân Thành Mỹ Quí)
+ Tháng 12. Ngày 10, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực và nhân dân thôn Nhựt Tảo tấn công và đốt cháy tàu Espérance của giặc tại vàm Nhựt Tảo trên sông vàm Cỏ Đông (Bến Lức)
- Ngày 16, Bùi Quang Diệu (Quản Là) đem nghĩa quân tập kích Pháp ở Cần Giuộc.
- Ngày 18 thành Biên Hòa thất thủ, quân triều đình rút về Phước Tuy.
- Cuối năm, Charles Duval bí mật ra Bắc kỳ hỗ trợ Tạ Văn Phụng đẩy mạnh cuộc nội chiến, gây áp lực với triều đình để âm mưu một giải pháp chánh trị vì tình hình quân sự của Pháp ngày càng bi đát.
Năm 1862 (Nhâm Tuất, Tự Đức thứ 15)
Tháng 1. Trần Xuân Hòa (Phủ Cậu) đã phục kích chặn đánh Pháp nhiều lần ở khu vực Thuộc Nhiêu, Mỹ Quí. Ngày 6, đánh Pháp ở Mỹ Trang, Bang Lãnh (Định Tường) bị giặc bắt, cắn lưỡi tự tử.
- Ngày 7, Pháp đánh chiếm Bà Rịa. Võ Duy Dương điều Nguyễn Hữu Huân đến chỉ huy căn cứ Thuộc Nhiêu thay Phủ Cậu.
Tháng 3. Thực dân Pháp thiết lập nhà tù Côn Đảo.
- Ngày 27, thành Vĩnh Long thất thủ
- Ngược lại, chúng bị nghĩa quân tấn công khắp nơi, khiến phải rút bỏ các đồn Gò Công, Chợ Gạo, Tân An, Gia Thạnh, Cần Giuộc, Cái Bè...
- Chúng tấn công đồn Mỹ Quí (Tân Thành Mỹ Quí) do Đỗ Thúc Tịnh lãnh tuần phủ Định Tường cùng Võ Duy Dương trấn thủ.
- Tự Đức xuống dụ sai phó lãnh binh Trương Định làm "đầu mục mộ nghĩa ở Gia Định", phối hợp cùng quan lại địa phương ‘điều khiển những người ứng nghĩa".
Tháng 4.
- Ngày 6, nghĩa quân Trương Định tấn công khu vực Chợ Lớn vào ban đêm, đốt cháy 50 căn nhà, phá hủy đồn bót và cơ sở hậu cần của giặc.
- Sau 57 ngày đêm cố thủ vào cuối tháng 4 Tân Thành Mỹ Quí thất thủ, Đỗ Thúc Tịnh hy sinh, Võ Duy Dương chỉ huy nghĩa quân mở đường máu thoát thân rút về Bình Cách.
- Giặc tấn công Thuộc Nhiêu, bắt được Nguyễn Hữu Huân và giải về Sài Gòn.
Tháng 5. Theo lệnh của khâm phái Nguyễn Túc Trưng, Võ Duy Dương tập hợp các đội ứng nghĩa rút về vùng Bình Cách - Chợ Gạo (huyện Kiến Hòa) chờ lệnh mới.
Tháng 6. Ngày 5, sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp thay mặt Tự Đức ký hòa ước Sài Gòn (1862) với Bonard (đại diện Pháp) và Guittierez (đại diện Tây Ban Nha) nhường ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Côn Đảo cho Pháp để chúng trả lại Vĩnh Long.
- Ngày 25, Pháp bắt đầu chế độ võ quan cai trị trực tiếp Nam kỳ.
- Để thi hành hòa ước, triều đình ra lệnh quan quân kể cả nghĩa dõng rút lui khỏi ba tỉnh trao đất lại cho Pháp. Phong Trương Định làm lãnh binh ở An Giang. Nhân dân phẫn uất bất chấp lịnh triều đình đứng lên chống Pháp, Trương Định không đi An Giang nhận chức, ở lại tiếp tục chiến đấu.
- Nhiều quan binh và phú hộ trong tỉnh Định Tường van nài Võ Duy Dương đừng xa họ, hãy ở lại tiếp tục chống Pháp, họ sẽ hết lòng ủng hộ.
Tháng 7. Võ Duy Dương phát lời kêu gọi nhân dân tỉnh Định Tường tiếp tục nổi dậy chống Pháp.
Tháng 8. Hưởng ứng lời kêu gọi hợp nhứt lực lượng kháng chiến của Trương Định, Võ Duy Dương cử Nguyễn Hữu Huân đi Tân Hòa (Gò Công) để hội kiến với Trương Định. Tại đây Nguyễn Hữu Huân gặp thị vệ Nguyễn Thi mang thánh chỉ phong Trương Định làm Bình Tây Tướng quân lĩnh chỉ huy các toán quân dân dũng trong ba tỉnh.
- Đồng thời Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân cũng được phong Chánh đề đốc và phó đề đốc, tiếp tục cố thủ căn cứ Bình Cách.
Tháng 12. Trong tháng, hai lần bọn Pháp tập kích vào căn cứ nhưng đều bị Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân chỉ huy nghĩa quân đánh bật ra. Lần thứ hai vào ngày 18, nghĩa quân đánh bật chúng ra và truy kích đến đồn Thuộc Nhiêu. Cuộc chiến diễn ra ác liệt tại đây, hai bên đều thiệt hại nặng. Võ Duy Dương kéo quân trở về Bình Cách vào ngày 27/12.
Tháng 1. Trần Xuân Hòa (Phủ Cậu) đã phục kích chặn đánh Pháp nhiều lần ở khu vực Thuộc Nhiêu, Mỹ Quí. Ngày 6, đánh Pháp ở Mỹ Trang, Bang Lãnh (Định Tường) bị giặc bắt, cắn lưỡi tự tử.
- Ngày 7, Pháp đánh chiếm Bà Rịa. Võ Duy Dương điều Nguyễn Hữu Huân đến chỉ huy căn cứ Thuộc Nhiêu thay Phủ Cậu.
Tháng 3. Thực dân Pháp thiết lập nhà tù Côn Đảo.
- Ngày 27, thành Vĩnh Long thất thủ
- Ngược lại, chúng bị nghĩa quân tấn công khắp nơi, khiến phải rút bỏ các đồn Gò Công, Chợ Gạo, Tân An, Gia Thạnh, Cần Giuộc, Cái Bè...
- Chúng tấn công đồn Mỹ Quí (Tân Thành Mỹ Quí) do Đỗ Thúc Tịnh lãnh tuần phủ Định Tường cùng Võ Duy Dương trấn thủ.
- Tự Đức xuống dụ sai phó lãnh binh Trương Định làm "đầu mục mộ nghĩa ở Gia Định", phối hợp cùng quan lại địa phương ‘điều khiển những người ứng nghĩa".
Tháng 4.
- Ngày 6, nghĩa quân Trương Định tấn công khu vực Chợ Lớn vào ban đêm, đốt cháy 50 căn nhà, phá hủy đồn bót và cơ sở hậu cần của giặc.
- Sau 57 ngày đêm cố thủ vào cuối tháng 4 Tân Thành Mỹ Quí thất thủ, Đỗ Thúc Tịnh hy sinh, Võ Duy Dương chỉ huy nghĩa quân mở đường máu thoát thân rút về Bình Cách.
- Giặc tấn công Thuộc Nhiêu, bắt được Nguyễn Hữu Huân và giải về Sài Gòn.
Tháng 5. Theo lệnh của khâm phái Nguyễn Túc Trưng, Võ Duy Dương tập hợp các đội ứng nghĩa rút về vùng Bình Cách - Chợ Gạo (huyện Kiến Hòa) chờ lệnh mới.
Tháng 6. Ngày 5, sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp thay mặt Tự Đức ký hòa ước Sài Gòn (1862) với Bonard (đại diện Pháp) và Guittierez (đại diện Tây Ban Nha) nhường ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Côn Đảo cho Pháp để chúng trả lại Vĩnh Long.
- Ngày 25, Pháp bắt đầu chế độ võ quan cai trị trực tiếp Nam kỳ.
- Để thi hành hòa ước, triều đình ra lệnh quan quân kể cả nghĩa dõng rút lui khỏi ba tỉnh trao đất lại cho Pháp. Phong Trương Định làm lãnh binh ở An Giang. Nhân dân phẫn uất bất chấp lịnh triều đình đứng lên chống Pháp, Trương Định không đi An Giang nhận chức, ở lại tiếp tục chiến đấu.
- Nhiều quan binh và phú hộ trong tỉnh Định Tường van nài Võ Duy Dương đừng xa họ, hãy ở lại tiếp tục chống Pháp, họ sẽ hết lòng ủng hộ.
Tháng 7. Võ Duy Dương phát lời kêu gọi nhân dân tỉnh Định Tường tiếp tục nổi dậy chống Pháp.
Tháng 8. Hưởng ứng lời kêu gọi hợp nhứt lực lượng kháng chiến của Trương Định, Võ Duy Dương cử Nguyễn Hữu Huân đi Tân Hòa (Gò Công) để hội kiến với Trương Định. Tại đây Nguyễn Hữu Huân gặp thị vệ Nguyễn Thi mang thánh chỉ phong Trương Định làm Bình Tây Tướng quân lĩnh chỉ huy các toán quân dân dũng trong ba tỉnh.
- Đồng thời Võ Duy Dương và Thủ Khoa Huân cũng được phong Chánh đề đốc và phó đề đốc, tiếp tục cố thủ căn cứ Bình Cách.
Tháng 12. Trong tháng, hai lần bọn Pháp tập kích vào căn cứ nhưng đều bị Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân chỉ huy nghĩa quân đánh bật ra. Lần thứ hai vào ngày 18, nghĩa quân đánh bật chúng ra và truy kích đến đồn Thuộc Nhiêu. Cuộc chiến diễn ra ác liệt tại đây, hai bên đều thiệt hại nặng. Võ Duy Dương kéo quân trở về Bình Cách vào ngày 27/12.
Năm 1863 (Quý Hợi, Tự Đức thứ 16)
Tháng 1.
- Ngày 5, bọn Pháp lại tấn công Bình Cách, cuộc chiến đấu diễn ra suốt ngày. Pháp phải rút lui.
- Ngày 11, Võ Duy Dương kéo quân về đóng ở Giồng Cát (Kiến An). Quân Pháp nhiều lần tấn công cứ điểm này nhưng đều bị đẩy lui. Nhưng Võ Duy Dương thấy lực lượng không thể đương đầu lâu dài với giặc nên lui về Bưng Môn thuộc tổng Tân Phú (nay là xã Tân Phú huyện Cai Lậy) vào cuối tháng rút về tổng Giai Mỹ trên kinh Cây Gáo (nay thuộc hai xã Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc, Cai Lậy) và xây dựng đồn lũy ở đây.
Tháng 3.
- Ngày 30 Pháp lại tấn công, tìm mọi cách để nhổ cứ điểm này, nhưng nghĩa quân chống trả quyết liệt buộc chúng phải rút lui. Trương Định bắt đầu xây dựng căn cứ mới tại Lý Nhơn.
Tháng tư.
- Từ ngày 9 đến 20 bọn Pháp hai lần nữa tấn công vào kinh Cây Gáo, mặt khác chúng phong tỏa mọi đường tiếp tế của nghĩa quân. Võ Duy Dương đối phó bằng cách cho nghĩa quân phân tán mỏng trở về làng mình. Ông chỉ giữ lại 100 nghĩa quân nay đóng nơi này mai nơi khác. Đó là biện pháp trước mắt.
Tháng năm. De la Grandière sang thay Bonard, với nhiều biện pháp xảo quyệt hòng cô lập phong trào kháng chiến.
Tháng sáu. Võ Duy Dương quyên vàng bạc đúc thành tiền cử Nguyễn Hữu Huân bí mật mang 20 người sang Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên tiếp tục vận động quyên góp rồi đi Rạch Giá, Cà Mau mua vũ khí.
- Phan Thanh Giản cầm đầu sứ bộ, theo lệnh triều đình sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông.
Tháng 9. Được mật báo, bọn Pháp đột kích căn cứ Lý Nhơn. Trương Định phá vòng vây chạy thoát.
Tháng 10-12.
- Trương Định cùng nghĩa quân hoạt động ở khu vực Đám Lá Tối Trời (Gò Công) để khôi phục lực lượng xây dựng căn cứ.
- Võ Duy Dương tiếp tục hoạt động trong vùng Cái Bè, Cai Lậy... chờ đợi kết quả cuộc vận động quyên góp tiền bạc vũ khí của Nguyễn Hữu Huân để xây dựng lại lực lượng tiếp tục chiến đấu.
Năm 1864 (Giáp Tý, Tự Đức thứ 17)
Tháng 1-4.
- Nguyễn Hữu Huân đẩy mạnh công cuộc vận động nhân dân ủng hộ nghĩa quân ở An Giang. Ông mua nhiều vũ khí, chiêu mộ được nhiều nghĩa dõng trong đó có nhiều người Khmer. Nhưng quan quân triều đình gây cho ông nhiều khó khăn.
- 17-4 Hồ Huân Nghiệp bị bắt, hiên ngang chịu chết.
- Quân Pháp đòi quan tỉnh An Giang bắt Nguyễn Hữu Huân và Võ Duy Dương thông báo cho Trương Định biết việc Nguyễn Hữu Huân bị bắt.
Tháng 6. Kinh phái Nguyễn Tánh cùng một thị vệ đến gặp Võ Duy Dương yêu cầu ông giải giới và hợp nhứt với lực lượng của Trương Định.
Ông báo cho sứ giả của Tự Đức biết, Pháp có thể chém đầu Nguyễn Hữu Huân và hiện nay chúng truy lùng ông quyết liệt nhưng ông không hề nao núng ông sẽ rút vào Tháp Mười xây dựng lực lượng tiếp tục chống Pháp theo nguyện vọng của nhân dân.
Tháng 7.
- Sau khi Kinh phái Nguyễn Tánh rút lui, ông lên đường với hơn 30 tuỳ tùng.
- Tổng đốc An Giang Phan Khắc Thân nộp Nguyễn Hữu Huân cho Pháp. Chúng giải ông về Sài Gòn. Được tin, vợ ông là bà Lê Thị Lộc xuống An Giang làm đơn xin tha cho chồng, nhưng không kịp.
- Ngày 25/7 thực dân Pháp ban hành sắc lệnh tổ chức tư pháp đầu tiên ở Nam kỳ, tách việc xét xử ra khỏi giới cầm quyền quân sự.
Tháng 8
- Võ Duy Dương đến xứ Xoài Tư (nay là khu vực xã Mỹ Thành Bắc, Mỹ Thành Nam (Cai Lậy, Tiền Giang) bọn Pháp hay tin liền bao vây, ông rút thẳng vào Tháp Mười.
- Võ Duy Dương phát lời kêu gọi nhân dân trong vùng ủng hộ, tham gia kháng chiến và tiến hành xây dựng khu căn cứ Gò Tháp.
- Ngày 19/8. Trương Định bị tên phản bội Huỳnh Công Tấn theo dõi bao vây tại Kiểng Phước (Gò Công) chỉ với 25 nghĩa quân, Trương Định chiến đấu anh dũng, nhưng không phá được vòng vây, ông bị thương và tự sát.
- Ngày 22/8, Nguyễn Hữu Huân bị kết án khổ sai chung thân, đày sang Caymêne (Nam Mỹ).
Tháng 10. Lần đầu tiên quân Pháp tấn công vào Đồng Tháp Mười với lính Pháp và lính mã tà. Nghĩa quân chống trả ác liệt, chúng phải rút lui. Để có thể đương cự lâu dài với giặc, Võ Duy Dương cho xây dựng ngoài căn cứ trung tâm tại Gò Tháp còn có các đồn Tiền, đồn Hữu, đồn Tả, đồn này là đồn chính còn gọi là đồn thành Bảo An để chống giữ mặt Bắc từ phía sông Vàm Cỏ Tây xuyên qua gò Bắc Chiêng. Ngoài ra còn có các đồn nhỏ khác: đồn Sa Tiền, đồn Ấp Lý...
Tháng 11.
Quân Pháp lại tiến công lần nữa, nhưng cũng bị đẩy lùi.
- Thống đốc Nam kỳ là De la Grandière ra Nghị định thành lập Nha Nội chính (Direction de L'intériteur).
Tháng 1.
- Ngày 5, bọn Pháp lại tấn công Bình Cách, cuộc chiến đấu diễn ra suốt ngày. Pháp phải rút lui.
- Ngày 11, Võ Duy Dương kéo quân về đóng ở Giồng Cát (Kiến An). Quân Pháp nhiều lần tấn công cứ điểm này nhưng đều bị đẩy lui. Nhưng Võ Duy Dương thấy lực lượng không thể đương đầu lâu dài với giặc nên lui về Bưng Môn thuộc tổng Tân Phú (nay là xã Tân Phú huyện Cai Lậy) vào cuối tháng rút về tổng Giai Mỹ trên kinh Cây Gáo (nay thuộc hai xã Mỹ Thành Nam, Mỹ Thành Bắc, Cai Lậy) và xây dựng đồn lũy ở đây.
Tháng 3.
- Ngày 30 Pháp lại tấn công, tìm mọi cách để nhổ cứ điểm này, nhưng nghĩa quân chống trả quyết liệt buộc chúng phải rút lui. Trương Định bắt đầu xây dựng căn cứ mới tại Lý Nhơn.
Tháng tư.
- Từ ngày 9 đến 20 bọn Pháp hai lần nữa tấn công vào kinh Cây Gáo, mặt khác chúng phong tỏa mọi đường tiếp tế của nghĩa quân. Võ Duy Dương đối phó bằng cách cho nghĩa quân phân tán mỏng trở về làng mình. Ông chỉ giữ lại 100 nghĩa quân nay đóng nơi này mai nơi khác. Đó là biện pháp trước mắt.
Tháng năm. De la Grandière sang thay Bonard, với nhiều biện pháp xảo quyệt hòng cô lập phong trào kháng chiến.
Tháng sáu. Võ Duy Dương quyên vàng bạc đúc thành tiền cử Nguyễn Hữu Huân bí mật mang 20 người sang Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên tiếp tục vận động quyên góp rồi đi Rạch Giá, Cà Mau mua vũ khí.
- Phan Thanh Giản cầm đầu sứ bộ, theo lệnh triều đình sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông.
Tháng 9. Được mật báo, bọn Pháp đột kích căn cứ Lý Nhơn. Trương Định phá vòng vây chạy thoát.
Tháng 10-12.
- Trương Định cùng nghĩa quân hoạt động ở khu vực Đám Lá Tối Trời (Gò Công) để khôi phục lực lượng xây dựng căn cứ.
- Võ Duy Dương tiếp tục hoạt động trong vùng Cái Bè, Cai Lậy... chờ đợi kết quả cuộc vận động quyên góp tiền bạc vũ khí của Nguyễn Hữu Huân để xây dựng lại lực lượng tiếp tục chiến đấu.
Năm 1864 (Giáp Tý, Tự Đức thứ 17)
Tháng 1-4.
- Nguyễn Hữu Huân đẩy mạnh công cuộc vận động nhân dân ủng hộ nghĩa quân ở An Giang. Ông mua nhiều vũ khí, chiêu mộ được nhiều nghĩa dõng trong đó có nhiều người Khmer. Nhưng quan quân triều đình gây cho ông nhiều khó khăn.
- 17-4 Hồ Huân Nghiệp bị bắt, hiên ngang chịu chết.
- Quân Pháp đòi quan tỉnh An Giang bắt Nguyễn Hữu Huân và Võ Duy Dương thông báo cho Trương Định biết việc Nguyễn Hữu Huân bị bắt.
Tháng 6. Kinh phái Nguyễn Tánh cùng một thị vệ đến gặp Võ Duy Dương yêu cầu ông giải giới và hợp nhứt với lực lượng của Trương Định.
Ông báo cho sứ giả của Tự Đức biết, Pháp có thể chém đầu Nguyễn Hữu Huân và hiện nay chúng truy lùng ông quyết liệt nhưng ông không hề nao núng ông sẽ rút vào Tháp Mười xây dựng lực lượng tiếp tục chống Pháp theo nguyện vọng của nhân dân.
Tháng 7.
- Sau khi Kinh phái Nguyễn Tánh rút lui, ông lên đường với hơn 30 tuỳ tùng.
- Tổng đốc An Giang Phan Khắc Thân nộp Nguyễn Hữu Huân cho Pháp. Chúng giải ông về Sài Gòn. Được tin, vợ ông là bà Lê Thị Lộc xuống An Giang làm đơn xin tha cho chồng, nhưng không kịp.
- Ngày 25/7 thực dân Pháp ban hành sắc lệnh tổ chức tư pháp đầu tiên ở Nam kỳ, tách việc xét xử ra khỏi giới cầm quyền quân sự.
Tháng 8
- Võ Duy Dương đến xứ Xoài Tư (nay là khu vực xã Mỹ Thành Bắc, Mỹ Thành Nam (Cai Lậy, Tiền Giang) bọn Pháp hay tin liền bao vây, ông rút thẳng vào Tháp Mười.
- Võ Duy Dương phát lời kêu gọi nhân dân trong vùng ủng hộ, tham gia kháng chiến và tiến hành xây dựng khu căn cứ Gò Tháp.
- Ngày 19/8. Trương Định bị tên phản bội Huỳnh Công Tấn theo dõi bao vây tại Kiểng Phước (Gò Công) chỉ với 25 nghĩa quân, Trương Định chiến đấu anh dũng, nhưng không phá được vòng vây, ông bị thương và tự sát.
- Ngày 22/8, Nguyễn Hữu Huân bị kết án khổ sai chung thân, đày sang Caymêne (Nam Mỹ).
Tháng 10. Lần đầu tiên quân Pháp tấn công vào Đồng Tháp Mười với lính Pháp và lính mã tà. Nghĩa quân chống trả ác liệt, chúng phải rút lui. Để có thể đương cự lâu dài với giặc, Võ Duy Dương cho xây dựng ngoài căn cứ trung tâm tại Gò Tháp còn có các đồn Tiền, đồn Hữu, đồn Tả, đồn này là đồn chính còn gọi là đồn thành Bảo An để chống giữ mặt Bắc từ phía sông Vàm Cỏ Tây xuyên qua gò Bắc Chiêng. Ngoài ra còn có các đồn nhỏ khác: đồn Sa Tiền, đồn Ấp Lý...
Tháng 11.
Quân Pháp lại tiến công lần nữa, nhưng cũng bị đẩy lùi.
- Thống đốc Nam kỳ là De la Grandière ra Nghị định thành lập Nha Nội chính (Direction de L'intériteur).
Năm 1865 (Ất Sửu, Tự Đức thứ 18)
Tháng 1. Thống đốc Nam kỳ ra quyết định đánh thuế các loại ghe thuyền vận chuyển trên sông rạch Nam kỳ.
Tháng 2.
- Tự Đức hạ lệnh cấm ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, không ai được mộ nghĩa quân chống Pháp nữa. Quan lại các
tỉnh, phủ, huyện có trách nhiệm bắt giữ những người trái lệnh và những người chứa chấp nghĩa quân.
- Chiến khu Đồng Tháp Mười được củng cố, nghĩa quân các nơi hội tụ về.
- Nghĩa quân Đồng Tháp Mười còn tiếp nhận và liên kết nhiều thủ lãnh nghĩa quân khác như: Trương Quyền (con Trương Định) Trần Văn Phú (Trần Võ), Nguyễn Trị, Bùi Quang Diệu (Quản Là)...
- Nghĩa quân Đồng Tháp Mười còn liên kết với nghĩa quân Campuchia hoạt động mạnh ở vùng biên giới từ Tây Ninh đến An Giang. Võ Duy Dương đương nhiên trở thành lãnh tụ nghĩa quân cao nhứt ở Nam kỳ.
- Căn cứ Giao Loan của nghĩa quân Phan Trung (Phan Chánh) bị tấn công. Phan Trung cùng Trà Quý Bình, Lê Quang Bính ra Bình Thuận và đến tháng 7 theo chiếu chỉ gọi về Huế.
Tháng 3. Phó Thủy sư Roze sang thay De la Grandière làm Thống đốc Nam kỳ .
Tháng 4. Hội nghị đình thần mật bàn về chuyển đổi thành Hà Tiên về xứ Súc Chăn (hạt Ba Xuyên, An Giang), bí mật đào hào, đắp lũy. xây dựng kho tàng, xưởng chế binh khí...
Tháng 7.
Triều đình cử tổng đốc Vĩnh Long, Trương Văn Uyển thu thập của cải ở Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên quy thành bạc chuyển về Gia Định nộp cho Pháp để bồi thường chiến phí.
Ngày 22, nghĩa quân Đồng Tháp Mười tấn công thôn Mỹ Trà (huyện Kiến Phong, Định Tường) nơi quân Pháp dùng làm bàn đạp uy hiếp chiến khu Đồng Tháp Mười, khiến Roze phải mang quân từ Sài Gòn xuống cứu viện.
Tháng 11.
- Triều đình cử Phan Thanh Giản làm kinh lược 3 tỉnh miền Tây.
- De la Grandière sang thay Roze.
Năm 1866 (Bính Dần, Tự Đức thứ 19)
Tháng 1. Phan Thanh Giản đến Vĩnh Long nhận chức kinh lược, Pháp hy vọng Phan Thanh Giản sẽ dàn xếp được các hoạt động của nghĩa quân.
Tháng 3.
Nghĩa quân tuyên truyền trong nhân dân rằng Nhựt Bổn sẽ ủng hộ Việt Nam đánh lại Pháp.
Nghĩa quân tấn công Cái Khía (Cái Bè, Định Tường)
Do thực dân phản đối rằng nghĩa quân đã gây cho chúng nhiều thiệt hại, nên để làm vừa lòng chúng, ngày 27, Tự Đức ra dụ công khai kêu gọi nghĩa quân ngưng hoạt động và trừng trị ai chứa chấp.
Tháng 4. Thực dân Pháp tập trung quân làm 3 hướng tấn công căn cứ Tháp Mười. Hơn một tuần lễ chiến đấu, nghĩa quân đã gây cho chúng nhiều thiệt hại và rút lui an toàn về hai hướng Tây và Đông để bảo toàn lực lượng. Dù chiếm được căn cứ Tháp Mười nhưng chúng cũng rút lui ngay không dám trấn giữ.
Tháng 5. Cánh nghĩa quân rút về phía Đông bị Pháp chặn đánh tại Cái Thia. Chúng bắt được vài nghĩa quân, hai lính Tagals và Linguet, một lính Pháp đào ngũ theo nghĩa quân.
Tháng 6. (ngày 7)
Nghĩa quân Võ Duy Dương phối hợp với nghĩa quân Trương Quyền và nghĩa quân Campuchia do Acha Xoa lãnh đạo tấn công đồn Tây Ninh gây cho giặc nhiều thiệt hại, trong đó có hai sĩ quan Pháp. Quân Pháp cố thủ, chờ viện binh.
- Ngày 14, Liên quân khởi nghĩa Việt-Campuchia đẩy lui nhiều đợt tấn công của viện binh Pháp đến giải vây cho đồn Tây Ninh. Địch quân thiệt hại nặng trong đó có tên trung tá thủy quân lục chiến Marchaise bị giết tại trận.
- Ngày 24, nghĩa quân lại tấn công đồn Thuận Kiều, Hóc Môn, Trảng Bàng.
Ngày 27, thực dân Pháp nghi ngờ có khả năng nghĩa quân tập trung ở Cầu An Hạ lập căn cứ, nên đã tập trung gần 400 quân đi càn quét. Nhưng không đạt kết quả vì nghĩa quân đã rút đi hai hướng: một lên phía Bắc một xuống phía Nam.
Tháng 7. Thực dân Pháp lại phản đối với triều đình về hoạt động của nghĩa quân để gây áp lực, cho rằng nghĩa quân hoạt động mạnh là do sự trợ giúp của triều đình. Để làm vừa lòng chúng, Tự Đức ra dụ công khai tầm nã Võ Duy Dương và Trương Quyền.
Tháng 9. Võ Duy Dương cho người mang mật báo lên vua Tự Đức
Tháng 10. Trên đường ra Bình Thuận, đến địa phận biển Cần Giờ, mũi Thị Khiết (Thần Mẫu) bị cướp chặn đánh bất ngờ. Võ Duy Dương và những người tín cẩn cùng đi đều bị sát hại.
Tháng 1. Thống đốc Nam kỳ ra quyết định đánh thuế các loại ghe thuyền vận chuyển trên sông rạch Nam kỳ.
Tháng 2.
- Tự Đức hạ lệnh cấm ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, không ai được mộ nghĩa quân chống Pháp nữa. Quan lại các
tỉnh, phủ, huyện có trách nhiệm bắt giữ những người trái lệnh và những người chứa chấp nghĩa quân.
- Chiến khu Đồng Tháp Mười được củng cố, nghĩa quân các nơi hội tụ về.
- Nghĩa quân Đồng Tháp Mười còn tiếp nhận và liên kết nhiều thủ lãnh nghĩa quân khác như: Trương Quyền (con Trương Định) Trần Văn Phú (Trần Võ), Nguyễn Trị, Bùi Quang Diệu (Quản Là)...
- Nghĩa quân Đồng Tháp Mười còn liên kết với nghĩa quân Campuchia hoạt động mạnh ở vùng biên giới từ Tây Ninh đến An Giang. Võ Duy Dương đương nhiên trở thành lãnh tụ nghĩa quân cao nhứt ở Nam kỳ.
- Căn cứ Giao Loan của nghĩa quân Phan Trung (Phan Chánh) bị tấn công. Phan Trung cùng Trà Quý Bình, Lê Quang Bính ra Bình Thuận và đến tháng 7 theo chiếu chỉ gọi về Huế.
Tháng 3. Phó Thủy sư Roze sang thay De la Grandière làm Thống đốc Nam kỳ .
Tháng 4. Hội nghị đình thần mật bàn về chuyển đổi thành Hà Tiên về xứ Súc Chăn (hạt Ba Xuyên, An Giang), bí mật đào hào, đắp lũy. xây dựng kho tàng, xưởng chế binh khí...
Tháng 7.
Triều đình cử tổng đốc Vĩnh Long, Trương Văn Uyển thu thập của cải ở Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên quy thành bạc chuyển về Gia Định nộp cho Pháp để bồi thường chiến phí.
Ngày 22, nghĩa quân Đồng Tháp Mười tấn công thôn Mỹ Trà (huyện Kiến Phong, Định Tường) nơi quân Pháp dùng làm bàn đạp uy hiếp chiến khu Đồng Tháp Mười, khiến Roze phải mang quân từ Sài Gòn xuống cứu viện.
Tháng 11.
- Triều đình cử Phan Thanh Giản làm kinh lược 3 tỉnh miền Tây.
- De la Grandière sang thay Roze.
Năm 1866 (Bính Dần, Tự Đức thứ 19)
Tháng 1. Phan Thanh Giản đến Vĩnh Long nhận chức kinh lược, Pháp hy vọng Phan Thanh Giản sẽ dàn xếp được các hoạt động của nghĩa quân.
Tháng 3.
Nghĩa quân tuyên truyền trong nhân dân rằng Nhựt Bổn sẽ ủng hộ Việt Nam đánh lại Pháp.
Nghĩa quân tấn công Cái Khía (Cái Bè, Định Tường)
Do thực dân phản đối rằng nghĩa quân đã gây cho chúng nhiều thiệt hại, nên để làm vừa lòng chúng, ngày 27, Tự Đức ra dụ công khai kêu gọi nghĩa quân ngưng hoạt động và trừng trị ai chứa chấp.
Tháng 4. Thực dân Pháp tập trung quân làm 3 hướng tấn công căn cứ Tháp Mười. Hơn một tuần lễ chiến đấu, nghĩa quân đã gây cho chúng nhiều thiệt hại và rút lui an toàn về hai hướng Tây và Đông để bảo toàn lực lượng. Dù chiếm được căn cứ Tháp Mười nhưng chúng cũng rút lui ngay không dám trấn giữ.
Tháng 5. Cánh nghĩa quân rút về phía Đông bị Pháp chặn đánh tại Cái Thia. Chúng bắt được vài nghĩa quân, hai lính Tagals và Linguet, một lính Pháp đào ngũ theo nghĩa quân.
Tháng 6. (ngày 7)
Nghĩa quân Võ Duy Dương phối hợp với nghĩa quân Trương Quyền và nghĩa quân Campuchia do Acha Xoa lãnh đạo tấn công đồn Tây Ninh gây cho giặc nhiều thiệt hại, trong đó có hai sĩ quan Pháp. Quân Pháp cố thủ, chờ viện binh.
- Ngày 14, Liên quân khởi nghĩa Việt-Campuchia đẩy lui nhiều đợt tấn công của viện binh Pháp đến giải vây cho đồn Tây Ninh. Địch quân thiệt hại nặng trong đó có tên trung tá thủy quân lục chiến Marchaise bị giết tại trận.
- Ngày 24, nghĩa quân lại tấn công đồn Thuận Kiều, Hóc Môn, Trảng Bàng.
Ngày 27, thực dân Pháp nghi ngờ có khả năng nghĩa quân tập trung ở Cầu An Hạ lập căn cứ, nên đã tập trung gần 400 quân đi càn quét. Nhưng không đạt kết quả vì nghĩa quân đã rút đi hai hướng: một lên phía Bắc một xuống phía Nam.
Tháng 7. Thực dân Pháp lại phản đối với triều đình về hoạt động của nghĩa quân để gây áp lực, cho rằng nghĩa quân hoạt động mạnh là do sự trợ giúp của triều đình. Để làm vừa lòng chúng, Tự Đức ra dụ công khai tầm nã Võ Duy Dương và Trương Quyền.
Tháng 9. Võ Duy Dương cho người mang mật báo lên vua Tự Đức
Tháng 10. Trên đường ra Bình Thuận, đến địa phận biển Cần Giờ, mũi Thị Khiết (Thần Mẫu) bị cướp chặn đánh bất ngờ. Võ Duy Dương và những người tín cẩn cùng đi đều bị sát hại.
HẾT
Sưu tầm: Nguồn ông Nguyễn Hữu Hiếu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét