Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam (Phần 1) - Vũ Thanh Sơn

NGUYỄN TRI PHƯƠNG

Nguyễn Tri Phương tên thật là Nguyễn Văn Chương tự là Hàm Trinh, hiệu Đường Xuyên, sinh năm 1800, quê làng Chi Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Do cha mẹ sống bằng nghề làm ruộng, thợ mộc nghèo, nên ông không được học hành, nhưng ông là người có chí tiến thủ.

Khởi đầu ông làm lại viên ở huyện Phong Điền, sau lên làm lại viên ở bộ Hộ. Do có tài giải quyết công việc sự vụ nhanh, đúng luật lại mẫn cán, ông được thăng dần lên tới chức Tham tri bộ Lễ kiêm tuần phủ Nam - Ngãi dưới triều Minh Mệnh(1820-1840).

Đầu triều Thiệu Trị(1841 - 1847), ông củng cố hệ thống phòng thủ bờ biển Quảng Nam - Quảng Ngãi, sau thăng Tham tri bộ Công, Tổng đốc An- Hà (An Giang - Hà Tiên). Ông là viên tướng dũng cảm, mưu lược có công đánh đuổi quân Chân Lạp và quân Xiêm, được thăng Hiệp biện đại học sĩ được nhà vua ban danh hiệu “An Tây dũng tướng”.

Dưới triều Tự Đức, ông làm Phụ chính Đại thần. Năm 1850, ông được vua Tự Đức cho đổi tên là Nguyễn Tri Phương, vì trong chiến trận ông dũng mãnh và mưu lược.

Năm 1853, ông được thăng chức Đông các Đại học sĩ, sung chức Tổng thống quân vụ đại thần, kiêm Kinh lược sứ Nam Kỳ.

Dã tâm xâm lược Việt Nam của đế quốc Pháp ngày càng bộc lộ rõ. Sau khi Pháp ký với triều đình Mãn Thanh. Hiệp ước Thiên Tân ngày 27/6/1858 thì tàu chiến Pháp thường xuyên uy hiếp vùng biển Đà Năng. Triều đình cử Nguyễn Tri Phương, Ông Ích Khiêm tới Đà Nẵng chuẩn bị chiến đấu. Bộ thuộc địa Hải quân Pháp điều động Thiếu tướng Hải quân Rigônđờ Giơniơ (Rigauld de Gerromille) Tổng chỉ huy lực lượng Hải quân Pháp ở vùng biển Đông làm Phó Thủy sư Đô đốc, giữ chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Ngày 30/8/1858, chiến hạm Pháp đóng ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) để hội quân với chiến hạm Tây Ban Nha. Ngày 31/8/1858, 13 chiến thuyền của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha thả neo ở vịnh Đà Nẵng, ngày 01/9/1858 chúng bắn đại bác vào đồn lũy của quân triều đình ở bán đảo Sơn Trà, chiếm bán đảo Sơn Trà. Nguyễn Tri Phương thực hiện kế hoạch "nửa thủ, nửa công" bằng cách dựng chiến lũy để quân ta ẩn nấp và bao vây quân Pháp. Ông cùng các tướng Phạm Thế Hiển, Nguyễn Duy, Đào Trí đã chặn đứng các mũi tấn công của quân Pháp từ bán đảo Sơn Trà vào sâu trong đất liền.

Quân Pháp đưa tàu chiến vào sông Nại Hiên đã bị Nguyễn Tri Phương đánh bại, phải tháo chạy về bán đảo Sơn Trà. Giơniơ thay đổi chiến thuật, ngày 22/2/1859, hắn kéo đại quân theo đường biển vào đánh chiếm Sài Gòn, chỉ để lại đại tá Toay-ông (Toyon) giữ bán đảo Sơn Trà. Trong 2 ngày 6 và 7/211859, Nguyễn Tri Phương sai Nguyễn Duy và Đào Trí tấn công nhiều lần vào bán đảo Sơn Trà, nhưng không thành.

Từ ngày 10/2/1859 quân Pháp liên tiếp tấn công thành Sài Gòn và các đồn lũy chung quanh, ngày 17/2/1859, thành Sài Gòn vỡ.

Tháng 8/1960, triều đình cử Nguyễn Tri Phương giữ chức Tổng thống quân vụ, vào Nam chỉ huy quân thứ chống giặc.

Ngày 23/2/1861, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở đợt tấn công quy mô lớn vào Đại đồn Chí Hòa, Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân đội chiến đấu quyết liệt suốt hai ngày đêm. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha bị tổn thất nặng nề: 1 quan năm Tây Ban Nha, 4 sĩ quan cao cấp, 121 hạ sĩ quan, 1805 binh lính liên quân chết trận. Song quân ta cũng tổn thất nghiêm trọng: Tán tương Nguyễn Duy tử trận, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, ngày 25/2/1861 đại đồn Chí Hòa thất thủ.

Cuối tháng 12/1861, Triều đình cử Thượng thư Bộ binh Nguyễn Tri Phương làm Đổng suất quân vụ Biên Hòa và Thị lang bộ binh Tôn Thất Cáp làm phụ tá quân vụ Biên Hòa trực tiếp vào Nam Kỳ tổ chức đánh giặc.
Tháng 9/1862 , tình hình các tỉnh vùng núi Bắc Kỳ biến động, triều đình điều động tướng lĩnh ra Bắc, trong đó có Nguyễn Tri Phương, giữ chức Tổng thống quân vụ Tây bắc. Sau khi Nguyễn Tri Phương dẹp yên loạn lạc ở vùng biên giới Bắc Kỳ, cuối tháng 9/1866, Tự Đức triệu ông về Huế, giữ chức Thượng thư bộ Binh, kiêm Kinh lý Hải phòng chánh sứ, bổ sung vào Viện Cơ mật lo việc đánh dẹp giặc dã nổi lên ở khắp nơi.
Các năm 1871, 1872 tại các tỉnh Bắc Kỳ bị giặc Khách, giặc Cờ Trắng, Cờ Vàng, Cờ Đen quấy nhiễu, Triều đình lại cử ông giữ chức Tuyên sát Đổng sức đại thần ra sức đánh dẹp. Ông cùng Hoàng Kế Viêm thu phục được tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, phá xong các bọn giặc khác.

Giữa năm 1873, Nguyễn Tri Phương về làm Tổng đốc Hà Nội, đối phó với tên Jean Dupuis ngang ngược. Từ ngày 12/11  đến 19/11/1873 Garnier gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, buộc ông phải hạ khí giới, giao nộp thành Hà Nội cho chúng. Song ông vẫn quyết tâm chiến đấu.

Ngày 10/11/1873, Nguyễn Tri Phương ra lời Hiệu triệu toàn quân, toàn dân Hà Nội chống Pháp cho niêm yết khắp nơi.

Nhưng lời đe dọa của giặc Pháp không làm Nguyễn Tri Phương khuất phục, ông cùng con trai là phò mã Nguyễn Lâm ra Hà Nội thăm cha và các tướng sĩ kêu gọi quân sĩ và nhân dân Hà Nội sẵn sàng đánh giặc Pháp, tăng cường phòng thủ. Nguyễn Tri Phương cũng liên kết với Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản, Tổng đốc Sơn Tây Hoàng Kế Viêm sẵn sàng ứng cứu cho nhau.

Song Nguyễn Tri Phương giữ thành Hà Nội trong điều kiện phe chủ hòa mà cầm đầu là Tự Đức, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp... thắng thế. Tại Hà Nội, trước khi Nguyễn Tri Phương tới nhậm chức thì triều đình đã điều động các tướng giỏi như Hoàng Kế Viêm đi Sơn Tây, điều Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy quân Cờ Đen lên mạn ngược. Quan lại trong thành Hà Nội có tư tưởng chống Pháp cũng bị điều đi nơi khác thay thế bằng quan lại thuộc phe chủ hòa. Triều đình còn ngăn cấm không cho nhân dân vũ trang đánh Pháp.

Quân phòng thủ Hà Nội quá mỏng, chỉ có 5.000 quân, trang bị quá kém, từ lâu không được luyện tập, tinh thần chiến đấu xa sút. Khi giặc Pháp tới đóng ở Trường Thi, Nguyễn Tri Phương chỉ huy động được 2.000 quân, nhưng tinh thần hoang mang, trang bị quá kém. Trong khi đó quân Pháp có 300 quân thiện chiến, trang bị hiện đại, có tầu chiến, súng đại bác. Bọn Pháp còn cấu kết với những tên gián điệp đội lốt cha cố Tây Ban Nha, Pháp đến Hà Nội truyền giáo từ trước tổ chức màng lưới gián điệp do thám các hoạt động của quân ta; chúng vũ trang cho đám giáo dân quá khích quấy rối hậu phương ta. Chín nhà buôn Trung Hoa có lực lượng vũ trang cũng cấu kết với giặc Pháp. Hơn 3.000 quân của dư đảng Tạ Văn Phụng đang nổi loạn ở Hải Dương, Quảng Yên đem quân đến giúp quân Pháp sẵn sàng đánh thành.

Mặc dù lực lượng chênh lệch, phải chiến đấu đơn độc, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương vẫn kiên quyết chiến đấu.

Bốn giờ sáng ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu tức ngày 20/11/1873, quân Pháp do thiếu tá Francis Garnier và tên lái buôn Jean Dupuis đem 180 quân tấn công thành, chúng nã đại bác vào khu Cột Cờ là Tổng hành dinh của Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương thân lên mặt thành chỉ huy quan quân đánh quân Pháp ở cửa Nam. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt. Quân Pháp tiến tới sát tường thành, đạn đại bác của ta đặt trên mặt thành rơi vượt quá đầu địch. Quân Pháp chiếm được lợi thế phá vỡ cửa Nam nơi Nguyễn Tri Phương và con trai là Nguyễn Lâm chỉ huy. Ở các nơi khác Ngô Triều vẫn hăng hái xông lên mặt thành vung gươm chém những tên giặc đang dùng thang leo vào. Cả hai người đều hi sinh anh dũng trên đống xác giặc. Khi thấy nguy cơ thành bị mất, Thự đốc Bùi Thúc Kiên, án sát Tôn Thất Trác bỏ chạy về cửa Bắc, mặc dù quân sĩ vẫn đang kiên cường chiến đấu. Khâm phái Phan Đình Bình, Bố Chính Võ Dương, Đề đốc Đặng Siêu đều sa vào tay giặc.

Quân sĩ khiêng ông vào nằm trong dinh. Quân Pháp băng bó cho ông, ông dứt ra, chúng đổ thức ăn vào miệng ông nhổ ra, nói: "Bây giờ nếu ta chỉ miễn cưỡng lắt lay mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”.

Nguyễn Tri Phương bị trọng thương không chịu để giặc buộc thuốc, nhịn ăn uống, người Pháp đổ thuốc và cháo ông phun ra cả. Sau một tháng buồn rầu vì thành mất, vua quan bạc nhược, sợ giặc, buồn cho vận nước, thương em và con đều hy sinh và đau đớn vì bị thương, ngày 20 tháng 12 năm 1873 (ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu), Nguyễn Tri Phương mất tại dinh Tổng đốc Hà Nội. Lúc đó ông là Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Lại bộ Thương thư, sung Khâm mạng tuyên sát Đổng sức Đại thần.

Ông được các sĩ phu và nhân dân Hà Nội an táng trọng thể, rước bài vị về thờ ở miếu Trung Liệt. Khi ông tuẫn tiết các tướng lĩnh, sĩ phu trong phe chủ chiến và dân Hà Thành vô cùng thương cảm, gửi rất nhiều đối trướng, thơ phúng viếng.

Ngay sau khi nhận được tin ông mất, nhân dân Nam Kỳ vô cùng thương tiếc. Người dân Mỹ Khánh nay thuộc phường Biên Hòa, thành phố Biên Hòa đã rước bài vị Nguyễn Tri Phương vào thờ ở đình này trước chỉ là ngôi miếu nhỏ thờ Thành hoàng bản cảnh làng Mỹ Khánh. Từ đó đình mang tên đền thờ Nguyễn Tri Phương. Di tích nằm trên một khu vực rộng lớn của sông Đồng Nai. Trong đình có nhiều hiện vật quý bằng gỗ, bằng đồng, bằng vải và giấy như bát biểu, bộ áo mão tương truyền vua ban khi ông đi kinh lược Nam Kỳ. Tượng ông tạc bằng gỗ thể hiện sắc diện uy nghi, lẫm liệt với chiếc ngai khảo tả long vân.

Hàng năm có tổ chức lễ hội ở đình từ 16 đến 17 tháng 10 .

Đình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa quốc gia”.

Nhân dân Hà Nội thờ ông cùng Tổng đốc Hoàng Diệu ở đền Trung Liệt và trên lầu cửa Bắc thành Hà Nội.
Nhiều nhà sử học ca ngợi Nguyễn Tri Phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi viết “Lịch sử nước Nước ta” đã ca ngợi ông:

Nước ta nhiều kẻ tôi trung
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương
Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương
Cùng thành còn mất, tấm gương muôn đời”.

ÔNG ÍCH KHIÊM

Ông Ích Khiêm tên tự là Mục Chi, sinh năm Tân Mão (1831), thân phụ là ông Văn Điều người huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Lúc nhỏ, ông là người có trí tuệ theo học người chú là Ông Văn Trị.

Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), đỗ Tú tài khi mới 15 tuổi. Năm Tự Đức thứ 4 (1852) ông đỗ Cử nhân, được bổ chức Tri huyện Kim Thành (Hải Dương). Ông không a dua theo bọn tham quan, ô lại ở địa phương, bị bọn chúng gièm pha, vu cáo, ông bị mất chức. Chán cảnh làm quan văn, ông xin chuyển sang ngạch võ, được thu dụng lại.

Năm Tự Đức thứ 15 (1862) dẹp yên các toán phỉ Ước, phỉ Độ ông lập được công nên được phục lại hàm tri huyện sung Hiệp quản vệ chiến sai. Lâm trận đốc chiến có công được bạt bổ Tri phủ sung Đốc binh.
Năm Tự Đức thứ 18 (1865), giặc biển phạm các đồn Quỳnh Lâu, Yên Trì, Ông Ích Khiêm cả phá được bắt và chém được hơn một trăm tên, được thăng Thị độc sung Tán tương, sau được cất lên chức Hồng lô Tự khanh biện lý Lễ bộ.

Năm Tự Đức thứ 20 (1807) vua thấy Ích Khiêm trước ở Hải Dương mộ thủ hạ trên 600 tên lập thành Thành Dũng cơ tiễu phỉ có công cho bạt bổ Thị lang Binh bộ và ban cho một tấm Hiếu nghĩa tử kim khánh. Gặp lúc tên phạm trốn bên đất nhà Thanh là Vi Tái Thọ tụ đảng ở Bắc Ninh gây việc, vua sai Khiêm sung Khâm phái Bắc Ninh tiễu phủ Sứ, ban cho quần áo, 20 lạng bạc rồi cho đi đánh. Ích Khiêm đến quân thứ, chia phái quan quân đi bắt được 65 tên phạm. Ít lâu, bọn phỉ ở Thái Nguyên trở nên hung dữ, quân bộ biên bị thua. Tổng đốc Ninh - Thái Phạm Chi Hương tâu xin cho Khiêm coi hạt Thái. Ít lâu vì tiến đánh bất lợi, bị thương. Việc tâu lên, vua cho là quan văn như thế cũng hiếm có, cấp cho 10 lạng bạc chữa thuốc. Lại dụ rằng chữa mau để đi đánh, để thu lấy cái thành hiệu đã hăng hái đánh giặc, đừng thấy thua một trận mà chán nản.

Năm thứ 21 (1868), bọn phỉ tiến đánh ở Cao Bằng lại nổi lên. Vua sai Chi Hương đi Cao Bằng trù tính đánh dẹp, Ích Khiêm thời quyền giữ ấn Tổng đốc quan phòng. Chưa bao lâu, Khiêm đổi sang Tán lý quân thứ Lạng Bình, cùng với đề đốc Nguyễn Viết Thành hội họp với phó tướng Tạ Kế Quý nước Thanh đánh phỉ ở Thất Khê, cả phá được, có trong nửa ngày đốt luôn được hơn 30 đồn giặc. Khiêm được thưởng các hạng nhẫn vàng khảm pha lê lóng lánh. Sau bị việc để cho quân bộ biên đi đốt nhà cướp của, khép vào tội đồ, vẫn cho phép mộ lính dõng theo đi đánh giặc.

Năm thứ 22 (1869) bọn phỉ nước Thanh là Ngô Côn đem đồ đảng đánh vây tỉnh thành Bắc Ninh, khí thế rất hăng. Bọn khâm sai Nguyễn Văn Phong, đình thần Bùi Tuấn bám chặt thành cố giữ. Ích Khiêm được tin, từ huyện Kim Anh ban đêm binh voi gấp đường xông tới đánh. Trong ngoài giao nhau bắn, Côn bị trúng đạn lạc, bèn giải được vây, được phục hàm bố chính sung tán lý, và thưởng thêm 1 đồng kim tiền “Vạn thế vĩnh lại” hạng lớn, 1 tấm bội bài bằng ngọc quý và 50 lạng bạc. Khiêm lại đốc suất đi với lãnh binh Hà Nội Trương Trường Hợp và quyền đề đốc quân thứ Thái Nguyên Nguyễn Văn Nhuận đánh phỉ ở xã Thanh Tước bắt và chém được rất nhiều. Phỉ sợ, rút lui. Ích Khiêm đời quân về quân thứ Sơn Tây. Gặp lúc bọn phỉ chia nhau đóng giữ Phú Bình, Đại Từ, chẹn lối sau của Thái Nguyên, Ích Khiêm liền đem quân bản bộ và quân đạo Sơn Tây, hợp tiễu để giải nguy cấp cho tỉnh Thái.

Năm thứ 23 (1870) Khiêm cùng với tham tán Lê Bá Thận đánh phá đảng lũ của Hoàng Văn ở trong rừng Lục Ngạn, được cất bổ lên tham tri Binh bộ và đổi sang tán lý Lạng - Bình, ít lâu thăng lên tham tán. Bấy giờ bọn phỉ Tô lại chiếm cứ thành Lạng. Ích Khiêm sai bắn đại bác vào cửa đông thành, bỗng bị phỉ bắn trả lại làm chân trái bị thương, bèn mang lính tùy tòng trở về Hải Dương. Vua thấy luôn lập chiến công, ban cho sâm quế, sâm tam thất, bạc cùng đồ vật và gia ơn cho được cách chức lưu dụng, nghỉ giả hạn rồi lại tới quân thứ. Nhưng thứ thần tâu rằng hôm bị thương, Khiêm đã chọn lấy 200 lính giỏi ở đồn để hộ vệ mình (trở về), Khiêm lại bị giáng xuống Quang lộc Tự khanh vẫn sung Tán lý.

Năm thứ 24 (1871) Ích Khiêm đóng quân thứ ở Đông Triều dẹp phỉ được thắng lợi luôn. Mùa hè năm ấy, bọn phỉ lại cướp Sơn Tây. Khiêm được thăng thự Thị lang gia hàm Tham tri đổi Tham tán quân thứ Sơn Tây, chuyển đốc lạo quân Sơn, phàm việc quân cơ được làm tập tâu riêng phát đệ.

Năm thứ 25 (1872), tháng 2, Khiêm cùng tán tương Nguyễn Dy phá tan sào huyệt phỉ ở Quán Tư, lấy lại huyện Trấn Yên, được thưởng thêm 1 tấm kim bài. ích Khiêm lại họa địa đồ Sơn Hưng Tuyên dâng vua. Vua xem, nói rằng: "Nay hãy trù tính Hưng trước, Tuyên sau”. Ít lâu, vì trận đánh ở Đại Đồng thua, rút lui, bị cách chức lưu dụng.

Năm Tự Đức thứ 26 (1873), Ông Ích Khiêm là bộ tướng của Tôn Thất Thuyết, bọn phỉ do Lý Dương Tài chỉ huy gây ra nhiều vụ cướp phá ở biên giới. Đề đốc Phùng Tử Tài có gửi thư cho Tôn Thất Thuyết cùng hội quân đánh giặc. Hai bên hợp sức đánh, quân giặc lùi về cố thủ ở vùng Ba Bể (Bắc Cạn), quan quân đánh mấy tháng không phá được, Tôn Thất Thuyết giao cho ông Ích Khiêm 15 ngày phải phá xong, nếu không bị quân luật. Ông Ích Khiêm chọn 80 lính khỏe mạnh, biết võ thuật, giỏi côn kiếm, trang bị gươm, đoản đao, bốn chiếc thanh la. Cuối tháng giêng, ông xuất phát từ Thái Nguyên lên tới nơi phỉ đóng quân phải mất hơn 10 ngày. Ông dẫn quân trèo lên ba đỉnh núi mà bọn phỉ đóng ở dưới chân núi. Nửa đêm, ông cho quân cởi trần, mặc quần đùi cầm đoản đao cùng 4 chiếc thanh la, buộc dây từ đỉnh núi tụt xuống. Ông lệnh cho 4 chiếc thanh la cùng gõ, rồi 80 quân đột nhập vào doanh trại giặc khi chúng đang ngủ, chém giết trên 1000 quân phỉ kể cả tên tướng giặc Lý Dương Tài. Quân của ông nguyên vẹn thu chiến lợi phẩm trở về. Trận thắng dũng mãnh này khiến Đề đốc Phùng Tử Tài cũng phải khâm phục.

Năm thứ 35 (1882) vua nghĩ tình vất vả, giỏi giang, dùng lại làm Hồng lô Tự khanh biện lý Hộ bộ. Ích Khiêm tâu bày về kế sách nước mạnh dân giàu, vua đều cho là phải, nhưng việc biên giới chưa rồi nên không quả quyết lắm. Rồi Khiêm được bổ Thị lang sung tham lược kinh kỳ hải phòng coi đắp các đồn Thái Dương, Lộ Châu, ý muốn làm mau xong, có vẻ nghiêm khắc, tàn bạo. Vua hạ dụ khiển trách, giáng xuống Chủ sự, cho đời đi phòng thủ đồn Hòa Quân.

Chưa bao lâu được phục hàm thị giảng tham biện phòng vụ. Đến khi đồn cửa Thuận không giữ được, Ích Khiêm thu hơn 700 quân về đến bến Nam Phổ vẫn chưa thôi tiếng trống hiệu. Việc tâu lên, vua quở, đổi sang chức biện lý Lễ bộ. Sau đó Nguyễn Văn Tường, Lê Thuyết mưu với nhau phế lập, giả cách thuận cho phế để nhượng ngôi, lui về phủ cũ, rồi mật báo Ích Khiêm và Trương Đăng Thê mời vua đến nha Hộ Thành cho uống thuốc độc giết chết.

Đầu niên hiệu Kiến Phúc (1854) thăng thự Thị lang tấn phong tước Kiên Trung Nam. Tháng 5 ấy, ông mang 50 lính đi thẳng về quê ở tỉnh Quảng Nam. Bọn Ngự sử Đào Hữu Ích đàn hặc là tự tiện bắt binh mã giao thông với phủ đệ, Khiêm lại bị cách chức phát đi an trí ở Bình Thuận rồi mất ở trong ngục, bấy giờ 55 tuổi. Hồi đầu niên hiệu Hàm Nghi (1885) truy phục hàm Thị độc.
(Theo Đại Nam chính biên liệt truyện,
quyển 35 từ trang 276-282 Nxb Thuận Hóa.-
T.C Tri Tân (1941-1946).

PHẠM THẾ HIỂN

Phạm Thế Hiển sinh ngày 14 tháng 12 năm Quý Hợi (1803), ông quê ở làng Luyến Khuyết, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Từ nhỏ, Phạm Thế Hiển đã nổi tiếng thông minh. Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), ông đỗ Hương cống, năm sau thi Đình, ông đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ. ông được bổ làm tri phủ.

Từ năm 1831, ông trải qua nhiều chức vụ, đến năm 1851  ông được triệu về Kinh giữ chức Lễ bộ Hữu tham tri.

Khi ông làm Lễ bộ Hữu Tham tri đang sung chức Khâm sai đi tra xét Tuần phủ Hưng Yên Lê Chân, án sát Hưng Yên Tôn Thất Loan, Bố chính Hải Dương Nguyễn Hữu can tội tham nhũng và suy thoái đạo đức. Ông đã điều tra rõ ràng tội trạng của ba viên quan tham nhũng đó tâu vua trị tội.

Tháng 8 năm Tân Hợi (1851), Phạm Thế Hiển được vua Tự Đức khen là: "Cảm kích, siêng năng, cẩn thận, cần kíp công việc”, thưởng rất hậu và thăng Tuần phủ Gia Định. Sau đó lại được thăng Thự Tổng đốc Gia Định - Biên Hòa, kiêm Tham hiệu kinh lược, cùng Nguyễn Tri Phương lo việc lớn ở Lục tỉnh Nam Kỳ.

Để chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến, Phạm Thế Hiển cùng Nguyễn Tri Phương tâu với Tự Đức khai hoang, lập ấp ở Lục tỉnh. Ngay tháng 9 năm đó ông cùng Nguyễn Tri Phương thực hiện việc khẩn hoang, hình thành ra hai huyện mới là Kiên Giang, Long Xuyên. Các phủ huyện cũng khai hoang, lập được 23 ấp mới. (Đại Nam thực lục chính biên. Đệ tứ kỷ)

Để bảo vệ an ninh khi giặc Pháp xâm lược, ông cùng Nguyễn Tri Phương, Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Sung đắp thành lũy ở sau núi Ngũ Hổ gần tỉnh lỵ tạm thời Hà Tiên. Các ông cho xây doanh trại lính thủy Hà Tiên, doanh trại lính thủy Long Tường, xây dựng chiến lũy phòng thủ ở cửa biển Cần Giờ và cửa biển Tiểu ở Định Tường. Ông cùng Nguyễn Tri Phương xây dựng đại đồn Chí Hòa, xây dựng phòng tuyến từ chợ Lớn đến xã Bình Hải dài 12 cây số, xây 6 đồn trên chiến lũy đó.

Ngày 01/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Triều đình điều Phạm Thế Hiển ra Quảng Nam với chức vụ mới: Tham tán binh nhung đại thần Quảng Nam để đánh giặc.
Sau đó, Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển cho đắp đồn Liên Trì vô cùng kiên cố, phía ngoài có hầm chông, cạm bẫy được ngụy trang kín đáo.

Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1859), quân Pháp tiến đánh Thạch Thán, Phạm Thế Hiển cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy các tướng đánh trả mãnh liệt, giặc Pháp thua phải tháo chạy.

Ngày 17/2/1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở đợt tấn công lớn vào thành Gia Định và các pháo đài bảo vệ, Hải quân Pháp - Tây Ban Nha cũng đánh phá cảng Cần Giờ. Ngày hôm sau, 18/2/1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha vào đóng ở thành Sài Gòn và cảng Cần Giờ.

Vua Tự Đức triệu Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển hỏi kế sách nên đánh, nên hòa hay nên giữ. Cả hai ông đều bàn "Đánh là tiện hơn cả”. Hai ông kiến nghị xây dựng đồn lũy phòng thủ, tăng quân số lên 1 ,5 - 2 vạn người, trang bị nhiều súng lớn đường kính "hai tấc chín phân trở lên mới đắc lực”. Tự Đức cho là phải, nhưng chưa quyết vì Tự Đức chủ trương thương lượng với quân Pháp.

Tháng 12/1860, Tham tán quân thứ Quảng Nam kiêm Tổng đốc Định Tường, Biên Hòa Phạm Thế Hiển được vua Tự Đức cử giữ chức Tham tán quân thứ Gia Định để cùng với Nguyễn Tri Phương mưu việc chống đánh giặc Pháp. Vừa vào tới nơi, Tham tán Phạm Thế Hiển được Nguyễn Tri Phương cử về các phủ huyện tổ chức dân binh, huấn luyện quân sự, trang bị vũ khí cho họ để họ hỗ trợ, tiếp ứng cho quân Triều đình khi quân Pháp tới đánh. Phạm Thế Hiển đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Nguyễn Tri Phương giao cho.

Đại đồn Chí Hòa do Phạm Thế Hiển và Nguyễn Tri Phương xây dựng từ mấy năm trước, khi hai ông được triều đình điều ra Quảng Nam thì Tôn Thất Hiệp trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng, củng cố chiến lũy. Quân Pháp đã mở nhiều đợt tấn công từ tháng 4/1860, song đều bị quân triều đình do Tôn Thất Hiệp chỉ huy đánh lui. Phạm Thế Hiển vừa đi xây dựng lực lượng dân binh trở về thì liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã tập trung quân.

Ngày 23/2/1861, Kharne chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha đưa toàn bộ lực lượng mạnh tấn công đại đồn Chí Hòa. Suốt hai ngày hai đêm, quân ta chiến đấu dũng cảm, gây nhiều tổn thất cho giặc: quan 5 Tây Ban Nha Planca, 4 sĩ quan cao cấp, 30 sĩ quan, 121 hạ sĩ quan và 1805 liên quân xâm lược bị giết tại trận (Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, trang 32-33). Song bên ta cũng bị tổn thất nặng nề; Tán lý Nguyễn Duy, Tán tượng Tôn Thất Trĩ trúng đạn chết, Nguyễn Tri Phương bị thương, Phạm Thế Hiển phải lo đốc chiến.

Cuộc chiến sáng ngày 24/2/1861, quân ta bị thương vong nặng nề, được sự đồng ý của Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển lệnh cho Lê Tố, Lê Hóa ở tiền đồn mở đường rút quân về thôn Tân Tạo, huyện Tân Long, phủ Tân Bình là tỉnh lỵ lâm thời của tỉnh Gia Định. Quân Pháp đưa 400 lính, xe ngựa chở súng đến đánh phía trái đồn, Phạm Thế Hiển chỉ huy quân sĩ bắn trả ác liệt, quân Pháp phải rút lui về căn cứ.

Ngày 25/2 quân Pháp tập trung 300 quân đánh vào phía sau và bên trái đồn. Quân ta chiến đấu vô cùng dũng cảm nhưng hết đạn, hy sinh nhiều. Phạm Thế Hiển lo cứu chữa cho chủ tướng Nguyễn Tri Phương cùng quân lính bị thương chuyển về nơi an toàn. Sau đó Phạm Thế Hiển lệnh cho các quan quân thứ lui về Biên Hòa để củng cố lực lượng, tiếp tục đánh quân Pháp.

Tự Đức triệu Phạm Thế Hiển về kinh nhưng tới tỉnh Phú Yên ông lâm bệnh nặng, chữa không khỏi, mất ngày 11 tháng 7 năm Tân Dậu (1861) thọ 58 tuổi.

NGUYỄN DUY

Nguyễn Duy sinh ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Tỵ (1809) niên hiệu Gia Long thứ 8. Ông là em ruột Tổng thống Quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương. Ông người Chi Long, xã Đường Long, tổng Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Năm Thiệu Trị nguyên niên (Tân Sửu - 1841) ông đỗ Hai cống. Năm sau, Thiệu Trị thứ 2 (Nhâm Dần - 1842), ông thi Hội, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ông được sơ bổ làm viện tu soạn Nội các, rồi năm sau (1844), được thăng Hàn Lâm viện tu soạn. Niên hiệu Thiệu Trị thứ 5 (1845), ông làm Tri phủ phủ Tây An. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), ông được cải bổ làm Tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình).

Quan Bố chánh tỉnh ấy là Trương Đăng Đệ, phụng chỉ sát hạch các quan lại tỉnh Quảng Bình, ghi vào lý lịch của ông lời khen “ở với dân thì khoan hòa, làm việc rất thanh liêm, gìn giữ”. Ông Đệ tâu lên xin đặc cách thăng ông Duy làm chức Biện lý (án sát). Tự Đức tiếp được tờ tâu ấy, đòi ông Duy về kinh bệ kiến ban khen và cho thăng lên Thị độc ở Nội các. Đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), ông được thăng Thị giảng học sĩ và cử đi sứ nhà Thanh. Khi ấy ở ngoài khơi có giặc Tàu Ô, cướp phá thuyền bè dọc bờ biển Trung Hoa, thành ra thuyền sứ Nguyễn Duy không về được. Mãi đến năm Tự Đức thứ 8 (1855) ông mới về phục mạng, Vua Tự Đức phán rằng: “Khanh đi muôn dặm xa xôi, ba năm khó nhọc, trở về bình an đã làm trọn việc nước”. Rồi nhà vua thưởng trung hạng kim khánh, 50 lạng bạc và ban cho một bài thơ khen tặng úy lạo. Sau chuyến đi sứ, ông được thăng hàm Đại lý Tự khanh biện lý bộ Lại.

Các triều đình Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức đã nhượng bộ cho Pháp nhiều đặc quyền, đặc lợi về kinh tế (nội thương, ngoại thương), truyền đạo, nhưng dã tâm của chúng ta cướp nước ta, nên năm 1847 tàu chiến của Pháp nổ súng khiêu khích ở Đà Nẵng. Năm 1856 , tầu chiến của Pháp lại đến cửa biển Đà Nẵng diễu võ dương oai, vua Tự Đức cử ông và Đào Trí Phú vào đắp đồn lũy phòng ngự. Làm xong, ông về kinh phụng chỉ.

Chính phủ Pháp sau khi cùng Triều đình Mãn Thanh ký Hiệp ước Thiên Tân, ngày 27/6/1858 bộ Thuộc địa - Hải quân Pháp điều động Thiếu tướng Hải quân Rigôn Đờ Giơnuiy (Rigauld De Genouilly), Tổng chỉ huy lực lượng Hải quân Pháp vùng biển Đông làm Phó Thủy sư Đô đốc giữ chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Ngày 30/8/1858, chiến hạm Pháp đến đóng ở đảo Hải Nam để hội quân với chiến hạm Tây Ban Nha (do đại tá Lan da rết (Lazarois) chỉ huy. Ngày 31/8/1858, 13 chiến thuyền của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đến ngoài biển vịnh Đà Nẵng thả neo. Về phía triều đình đã cử Nguyễn Tri Phương vào Đà Nẵng. Nguyễn Duy tình nguyện đi quân thứ Đà Nẵng cùng với Đào Trí Phú lập đồn Trấn Đông trên núi Sơn Trà.

Ngày 01/9/1858, chiến hạm liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà. Hai ông đã chặn đánh quyết liệt, không cho chúng tiến sâu vào đất liền. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công vào các vị trí phòng thủ của quân ta. Tình thế rất nguy nan, quan quân hoảng loạn bỏ hàng ngũ, Nguyễn Duy kiên quyết ở lại và tuyên bố: "Đã là yêu nước thì không luận văn hay võ”.

Trong tháng 9 và tháng 10 , Nguyễn Duy trực tiếp chỉ huy quân dân Quảng Nam dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất đá lấp dòng sông Vĩnh Điện để ngăn chặn tầu chiến của giặc Pháp. Dòng sông bị lấp, thế nước sẽ dồn vào cửa biển Đại Chiêm, do đó mạn hạ lưu sẽ cạn, tàu giặc không thể vào được, quân ta chỉ lo phòng thủ mặt bộ.

Tháng 11/1858, thuyền chiến Pháp tiến vào Sông Hàn và Sông Nại Hiên (Quảng Nam) bắn trái phá dữ dội vào các đồn lũy và làng xóm hai bên bờ sông. ông đã cùng Đào Trí Phú bố trí trận địa đánh tầu chiến và bộ binh giặc, khiến cho chúng bị thương vong nặng nề, cả 8 chiếc thuyền phải tháo chạy.

Ngày 2/2/1859, Giơniy, kéo đại quân theo đường biển vào đánh chiếm Sài Gòn, chỉ để lại Đại tá Toayông (Toyou) giữ bán đảo Sơn Trà. Ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1859 , Nguyễn Duy và Đào Trí Phú tổ chức nhiều trận tấn công vào bán đảo Sơn Trà, nhằm tiêu diệt lực lượng quân chiếm đóng Pháp, nhưng việc không thành.

Tháng 8/1860 , Triều đình cử Nguyễn Tri Phương giữ chức Tổng thống quân vụ vào Nam chỉ huy Quân thứ Gia Định tổ chức đánh Pháp. Nguyễn Duy được cử giữ chức Quân thứ Tán lý đại thần Gia Định, cùng Tôn Thất Cáp, Phan Tịnh vào Gia Định ứng cứu cho Nguyễn Tri Phương. Các ông về giữ Đại đồn, Chí Hòa thay cho Tôn Thất Hiệp. Từ tháng 4/1860 , Tôn Thất Hiệp đã đánh thắng liên quân Pháp - Tây Ban Nha nhiều trận khi chúng tấn công Chí Hòa. Các ông đã củng cố xây dựng chiến lũy Chí Hòa vô cùng vững chắc.

Đêm 23/2/1861, quân Pháp mở trận tấn công quy mô vào đồn Chí Hòa. Nguyễn Duy cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân sĩ chiến đấu liên tục hai ngày, hai đêm, gây nhiều tổn thất cho giặc: quan 5 Tây Ban Nha là Palancce, 4 sĩ quan cao cấp, 30 sĩ quan, 121 hạ sĩ quan, 1805 lính liên quân bị giết chết tại trận.

Song ngày 25 tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, Tán lý Nguyễn Duy, Tán tương Trí tử trận. Riêng Nguyễn Duy bị trúng đạn đại bác, xác ông biến dạng, không nhận ra hình người nữa. Có người biết được cái đai áo và gấu áo ông thường mặc liệm xác về chôn ở Cửa Đông thành Biên Hòa sau khi cải táng mới đưa về quê. Nhưng theo Nguyễn Thông, tác giả bài thơ “Viếng ông Nguyễn Duy, Tán lý quân vụ Định - Biên” thì đây là mộ giả, chỉ có chiếc áo, gọi là “Hư trùng”.

Ông được thờ ở miếu “Tam Trung” cùng với anh là Nguyễn Tri Phương và cháu là Nguyễn Lâm ở quê nhà.

ĐÀO TRÍ PHÚ

Đào Trí Phú quê ở tỉnh Đồng Nai, ông làm quan Thương bạc lo việc ngoại giao với các nước. (Đại Nam thực lục; Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 - 1945) tập I của Dương Kinh Quốc, Nxb khoa học xã hội và nhiều tài liệu, sách báo đều viết là Đào Trí. Chúng tôi căn cứ vào cuốn "Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm trình thành và phát triển” viết là Đào Trí Phú).

Năm 1832, Tổng thống Hoa kỳ là Andren Jackson cử Edmund Robert làm trưởng đoàn phái bộ ngoại giao Hoa Kỳ đem quốc thư đến Vũng Lắm, vịnh Xuân Đài (nay thuộc tỉnh Phú Yên) tìm cách trình quốc thư lên triều đình Huế đề nghị thiết lập bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhưng Minh Mệnh từ chối (Dưới thời Gia Long (1819) một du khách người Hoa Kỳ đầu tiên là Jonhn White đặt chân lên Đồng Nai từ thuyền Úc (Vũng Tầu) để đến Gia Định, Tổng trấn Gia Định Thành là Nguyễn Vãn Nhâm đón tiếp. Với tính chất một cuộc giao lưu văn hóa cá nhân với người ngoại quốc). Bốn năm sau, năm ngày 20/4/1836 , phái đoàn do Robert trở lại, cùng đi còn có thuyền trưởng, sĩ quan Hải quân là E.P. Kennedy, bác sĩ Ruschen Berger đến xin thương thuyết để ký Hiệp thương. Vua hỏi ý Đào Trí Phú, Phú trả lời là nên nghênh tiếp, đưa họ về Kinh, để ở Thương Bạc, tiến mà dò xét. Vua liền cử Đoàn Trí Phú cùng Thị lang bộ Lại Lê Bá Tư dẫn đầu phái đoàn của triều đình đến Vũng Trà Sơn (thuộc vịnh Đà Nẵng) gặp phái đoàn Hoa Kỳ. Nhưng đoàn đến nơi thì Robert cáo bệnh không tiếp. Ngày 21/5/1836 họ ra đi, tới Ma Cao thì E Robert chết vào ngày 12/6/1836. (Theo Đại Nam thực lục chính biên - quyển 168. trang 3).

Đến đời Thiệu Trị, năm 1847, vua ra Sắc lệnh cấm đạo Gia Tô. Pháp sai trung tá Rigault de Genouilly dùng thư can gián, mặt khác uy hiếp bằng vũ lực. Vua phái Đô thống Mai Công Ngôn và Tham tri ngành võ bị quân sự Đào Trí Phú đem theo ba vệ binh Vũ Lâm, Hổ Uy, Hùng Nhuệ vào Cửa Hàn tăng cường cho lực lượng Hải quân. Ngày hôm sau chiến thuyền của Pháp rút.

Giữa năm 1856  dưới triều Tự Đức, Pháp đã thực hiện mưu đồ đánh chiếm Việt Nam, tầu chiến Pháp diễu võ dương oai ở vùng biển Đà Nẵng. Vua cử Đào Trí Phú và Nguyễn Duy vào Quảng Nam nghiên cứu cách bố trí phòng chống quân Pháp. Hai ông đã chỉ huy quân lính và nhân dân đắp đồn lũy phòng ngự.

Ngày 01 tháng 9 năm 1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đưa tầu chiến đến bắn phá đồn Trà Sơn. Đào Trí Phú tăng cường phòng thủ cho hai thành An Hải và Điện Hải. Vua Tự Đức phong Đào Trí Phú là đặc phái viên và Trần Hoàng, Tổng đốc Nam Ngãi chống giữ thành. Khi hai ông tới nơi thì hai thành đã mất, Triều đình cử Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thế Hiển sau lại sai Nguyễn Duy vào lập phòng tuyến chống Pháp. Đào Trí Phú cùng Nguyễn Duy lập đồn Trấn Đông trên núi Sơn Trà.

Sau Trần Hoàng có lỗi bị cách chức, Đào Trí Phú được cử làm Tổng đốc Nam Ngãi. Tháng 11 năm 1858, tầu chiến của quân Pháp theo sông Hàn, sông Nại Hiên tấn công sâu vào đất liền, bị Đào Trí Phú và Nguyễn Duy đón đánh. Súng thần công của ta nổ rầm trời, bắn gẫy nhiều cột buồm và nhiều thuyền giặc, chúng phải tháo chạy. Sau trận thất bại này, quân Pháp chỉ để lại đại tá Toay ông ở lại giữ Sơn Trà còn đem binh thuyền vào tấn công tỉnh thành Gia Định.

Trong 2 ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1859 , Nguyễn Tri Phương sai Nguyễn Duy, Đào Trí Phú tấn công nhiều lần vào bán đảo Sơn Trà, nhưng không thành.

Do chính sách bạc nhược của Tự Đức không dám chủ trương chống Pháp, lại đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, tập trung tiền bạc, quân lính xây lăng Vạn Niên, Đào Trí Phú bỏ quan, trốn khỏi nhiệm sở cùng gia đình vào Quảng Nam để xuôi thuyền vào Nam Kỳ. Song Tự Đức đã nghi ngờ Đào Trí Phú có liên quan đến vụ Hồng Bảo là con vua Thiệu Trị, anh vua Tự Đức tổ chức cuộc chính biến năm 1864 không thành, nên cho quân đuổi theo, bắt giết ông lại Diên Khánh, xác hỏa thiêu. (Theo Đại Nam thực lục chính biên;  Biên Hòa - Đồng Nai. 300 năm hình thành và phát triển).

NGUYỄN TƯ GIẢN

Nguyễn Tư Giản trước tên là Nguyễn Văn Phú, tự Tuân Thúc, hiệu Vân Lộc và Thạch Nông, sinh năm Nhâm Ngọ (1822). Ông người xã Du Lâm, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay Mai Lâm thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Nguyễn Tư Giản thông minh từ nhỏ. Năm Quý Mão (1843), ông 22 tuổi, đỗ Hương cống, năm Giáp Thìn (1844), ông đỗ Hoàng giáp khi 23 tuổi.

Ban đầu ông giữ chức Tu soạn ở Hàn lâm viện sau bổ làm Tri phủ Ninh Thuận. Năm Mậu Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ Cấp sự trung, ít lâu sau được bổ làm Thị độc ở viện Tập Hiền rồi sung làm Kinh diên Khởi cư chú. Ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ sung vào Nội các. Năm 1857, sau khi làm bản Điều trần trị thủy, ông được Tự Đức bổ làm Biện lý rồi Hiệp hiệu Đê chính Bắc Kỳ.

Năm 1858 và 1859 quân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà và Gia Định, triều đình chia làm hai phái chủ hòa và chủ chiến. Ông đứng về phái chủ chiến.

Ngày 8/5/1859, quân Pháp tấn công các phòng tuyến trên sông Hương, quân triều đình tan vỡ phải rút vào phòng tuyến thứ 2. Tháng 7/1859, ông đang làm quan Đê chính đã dâng sớ nói không hòa với Tây dương. Sớ đề là "Sớ Đánh Tây”. Song không được Tự Đức và Viện Cơ mật chấp nhận.

Năm 1861, Tự Đức thứ 14, nhân ông xin phép về thăm cha mẹ, tế tổ tiên. Vua dụ ông nhân đó lo xem xét tìm phương cách trị thủy ở riêng Nhị Hà. Quan Đê Chính Nguyễn Tư Giản sau khi đi khám xét đê ở Bắc Kỳ, chủ yếu là đê sông Hồng, ông đã làm một số việc như sau: xây cửa cống, đắp sửa đê... Ông kiến nghị nhiều lần không được. Tháng 2 năm 1862 , Tự Đức ra lệnh bãi bỏ nha Đê chính, chuyển giao công việc trông nom, sửa đê cho quan sở tại. Nguyễn Tư Giản được phong Thị lang bộ Lại.

Cũng năm Nhâm Tuất (1862), Tự Đức 15, thổ phỉ hoành hành ở vùng Đông bắc, ông được giao làm Tham biện, lo việc quân ở Hải - Yên. Có trận ông đánh bại giặc, nhưng để giặc lan tràn không dẹp yên, ông bị cách chức rồi cáo bệnh xin về quê.

Năm Ất Sửu (1865), Tự Đức 18, ông được khởi phục Hàn Lâm viện tu soạn rồi thăng Thị độc tại Tập biên viện, sau đổi qua Hồng lô Tự khanh, làm việc tại bộ Hộ.

Năm Mậu Thìn (1868), Tự Đức thứ 21 ông được thăng Hồng lô Tự khanh ở Quang Lộc tự, lại giữ chức Tả thị lang bộ Lại, sung làm việc ở Nội các. Năm Nhâm Thìn (1872), Tự Đức 25, ông được bổ làm Tham tri, nhưng lĩnh việc của Thượng thư bộ Lại, sung làm phó Tổng tài quốc sử quán, kiêm trông coi Quốc tử giám. Năm sau thăng Thượng thư, sung làm đại thần viện cơ mật.

Mùa đông năm 1872 , đề phòng quân Pháp đánh Bắc Kỳ, ông cùng Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ ngày đêm bàn tính việc cơ mật. Sau đó ông bị giáng chức, phải đi sơn phòng ở Chương Đức khai khẩn đất hoang. Năm Mậu Dần (1878), Tự Đức 31 khôi phục chức Hàn lâm viện Thị độc sung cai quản Hàn lâm viện cho ông.

Hậu quả của việc Tự Đức bãi bỏ chức quan Đê chính trong nhiều năm, đê không được tu sửa, xây cửa cống, cửa cống, cửa sông không được nạo vét. Vì vậy, năm 1862 mưa liên tục, nước không tiêu làm hỏng vụ chiêm. Năm 1865 đê ở các  tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ nhiều nơi bị vỡ. Năm 1871, vỡ đê Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Nội, Nam Định, dân chết đói nhiều vô kể. Năm 1872, đê Văn Giang vỡ 20 trượng. Các tỉnh thần đề xuất việc đắp đê, Tự Đức phán: "Hiện nay đương bận việc quân ở vùng biên giới, nên chưa bàn đến trị thủy". Năm 1873 vỡ đê 5 huyện ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trong các năm 1874, 1875, 1876, 1877 năm nào đê Phi Liệt (Văn Giang, Bắc Ninh) cũng vỡ. Năm 1878, đê Phi Liệt, đê Ân Thi (Hưng Yên) vỡ. Trong các năm 1880, 1881, 1882 đê Phi Liệt vỡ. Năm 1885, các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ hạn hán nặng, các cửa cống lấy nước đều bị phù sa bồi lấp, không lấy được nước vào đồng. Năm 1889 đê sông Đuống (Bắc Ninh) vỡ... Nạn vỡ đê ngập lụt hạn hán, dịch bệnh tàn phá đồng ruộng, xóm làng khiến cư dân vô cùng điêu đứng.

Nguyễn Tư Giản làm quan từ khi còn trẻ, mãi gần 40 năm giữ những chức vụ trọng yếu. Mỗi khi triều đình cần bàn luận những vấn đề khó khăn đều cần có ông. Ông chẳng những là một trọng thần của triều Nguyễn, là nhà chính trị, ngoại giao, nhà trị thủy, nhà sử học, địa lý học, mà còn là nhà văn, nhà thơ xuất sắc. ông còn có nhiều tác phẩm có giá trị để lại đến nay là:

- Thạch nông chi văn
- Văn Diễm Du Lâm Nguyễn tộc hợp phả
- Yên Thiều Thi văn tập
- Thạch nông thi văn
- Như Thanh Nhật ký
- Tiểu thuyết sơn phòng tập
- Trung Châu Quỳnh Dao tập
- Tiểu thuyết sơn phòng cổ lục.


Nguyễn Tư Giản mất năm (1890) hưởng thọ 67 tuổi.

VŨ DUY THANH

Vũ Duy Thanh sinh giờ Tý ngày 9 tháng 8 năm Đinh Mùi, Gia Long 6 (1807). Ông quê ở làng Kim Bồng, tên Nôm gọi là làng Bồng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Ông là người thông minh từ nhỏ, sách chỉ đọc một lần là nhớ. Năm 14 tuổi đã thông làu kinh sách, xuất khẩu thành thơ. Nhưng số ông lận đận trên con đường khoa cử, năm 35 tuổi mới đỗ tú tài Thi Hội mấy lần đều hỏng. Mãi đến năm Tự Đức thứ 4 (1852), Tự Đức mở chế khoa, ông đỗ đầu, nhưng triều đình không lấy Trạng nguyên nên ông chỉ đỗ Bảng nhãn. Song nhân dân yêu mến vẫn gọi là Trạng Bồng.

Ông được bổ nhiệm làm Tế tửu Quốc tử giám.

Vũ Duy Thanh chỉ là quan Tế tửu Quốc tử giám không có trách nhiệm gì về đê điều, về đời sống của nhân dân, về an ninh của đất nước, nhưng với lòng yêu nước, thương dân cháy bỏng đứng trước thảm cảnh từ năm 1851 đến năm 1855 , Thanh Hóa và Bắc Kỳ bị vỡ đê liên tiếp, ông đã dâng biểu xin vua phát 10.000 hộc thóc trong kho dự trữ để bán, và cho dân Thanh Hóa, Bắc Kỳ vay.

Vũ Duy Thanh trong công việc thì ngay thẳng, công minh và thanh liêm. Nhưng đối với đồng sự và mọi người, ông cư xử rất giản dị, vui vẻ.

Tháng 9/1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công vào bán đảo Sơn Trà ông cảm khái nói: “Tương lai, sự thể chỉ có tranh (luận) về hòa với chiến”.

Đồng thời ông dâng sớ đề nghị triều đình tăng cường lực lượng quốc phòng và cải cách nội trị, cụ thể là tổ chức lại việc học, chỉnh đốn việc phòng bị hải phận và khuyếch trương nền kinh tế trong nước.
Vũ Duy Thanh còn đề nghị Triều đình phải cử người đi học sản xuất vũ khí, đóng tầu biển của phương Tây, phải mua vũ khí của phương Tây trang bị cho quân đội. Ông còn dùng tiền riêng của mình để đóng tầu chiến kiểu “Thủy chiến hỏa công”. Ông cũng là người đề nghị tổ chức khai thác than đá ở Đông Triều, Hòn Gai và nhiều cải cách về việc học, về nội thương, ngoại thương.

Song những kiến nghị của ông bị Tự Đức xếp lại, không thảo luận, không thực hiện. Trước cảnh nước mất nhà tan, Vũ Duy Thanh đau buồn lâm bệnh nặng. Trước khi chết ông còn gửi lên vua Tự Đức bảy phương sách cứu nước. Đến nay bản điều trần này đã bị thất lạc.

Vũ Duy Thanh sáng tác nhiều thơ ca, trong đó có những bài như:

TIỄN NGUYỄN TRI PHƯƠNG

Non nước vì đâu đến nỗi này?
Đủ tài kinh tế dễ ai hay
Bắc Nam phận cả không từ chối,
Sương tuyết lòng xưa chẳng đổi thay,
Một ngọn cờ đào dong thẳng nẻo ,
Chín lần gươm báu đã trao tay
Sóng kình mong mỏi đều im lặng
Tiệc rượu hoàn quân ắt có ngay.


(Theo thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học).

Khi các sĩ phu Nam Kỳ cùng nhân dân đánh Pháp, Vũ Duy Thanh làm bài thơ “Gửi sĩ phu Nam Kỳ” để khích lệ, biểu dương các sĩ phu Nam Kỳ.

GỬI SĨ PHU NAM KỲ

Nam Bắc đâu đâu cũng một trời,
Tấc lòng, tấc đất hỡi ai ơi!
Trăm năm công đức nên ghi dạ,
Một gánh cương thường phải ghé vai,
Sự thế ngán thay cơn gió bụi,
Anh hùng bao quản bước chông gai
Hoài nam khúc cũ ai còn nhớ
Còn nhớ cùng nhau hóa mấy bài.


(Theo Tài liệu của Đào Trình Nhất trong báo
Trung Bắc Chủ nhật số 227 ngày 5/11/1944
).

Hiện nay Vũ Duy Thanh còn lại một số tập thơ văn như "Bổng Châu thi văn tập", "Bổng Châu Vũ tiên sinh thi văn".

Ông mất năm Quý Hợi (1863).

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH

Nguyễn Đăng Hành sinh năm Quý Mùi (1823) quê ở xã Phù Khánh, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình, nay là thôn Phù Khánh, xã Hương Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông thi đỗ Hương cống khoa Quý Mão (1843). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, ân khoa Mậu Thân, niên hiệu Tự Đức 1 (1848) năm ông 26 tuổi.

Ban đầu ông được bổ chức Biên tu ở Tập hiền viện, thăng Thị độc án sát tỉnh Quảng Ngãi.

Năm Tự Đức thứ 14 (1861) thăng Hồng lô Tự khanh, lĩnh chức Bố chính Khánh Hòa. Năm Tự Đức thứ 15 (1862) sung chức Thương biện quân vụ Nam đạo chuyển sang Bắc đạo.

Từ đầu năm 1862, đất nước cực kì rối ren, tháng giêng, quân Pháp đánh tỉnh thành Bà Rịa; tháng 3 chúng chiếm tỉnh thành Vĩnh Long. Đến tháng 5, Bôna sai trung tá Ximông (Simon) đem chiến thuyền ra cửa biển Thuận An uy hiếp triều đình Huế đòi phải vào Sài Gòn kí Hiệp ước giảng hòa. Triều đình Huế nhu nhược, tháng 6 năm 1862 sai Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn kí Hòa ước "Hòa bình và hữu nghị”, với Pháp và Tây Ban Nha và phải bồi thường chiến phí cho Pháp. Trong khi đó thì ở miền Bắc, Triều đình Huế bãi bỏ nha Đê chính trông coi việc đê điều. Kết quả là ngay năm đó, nhiều đoạn đê ở Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên vỡ.

Do dân đói khổ và bất mãn với triều đình Huế, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ. Nạn giặc Tàu Ô, giặc biển, thổ phỉ từ Trung Hoa tràn sang cướp phá các tỉnh ven biển và châu thổ sông Hồng. Đến tháng 9 thì hầu hết các tỉnh miền Bắc đều có loạn, triều đình phải cử Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Tuyển bình định miền Tây bắc, Trương Quốc Dụng bình định miền Hải Yên (Hải Dương - Quảng Yên) Nguyễn Đăng Hành bình định Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang ngày nay). Vừa nhận lệnh Nguyễn Đăng Hành lập tức lên đường cùng quan quân ở Bắc Ninh tiễn trừ giặc cướp. Cả một vùng phía đông giáp Quảng Yên và phía Nam giáp Hải Dương, Hưng Yên sạch bóng giặc. Khi ông tiến lên tiễu trừ giặc cướp ở phía Bắc tỉnh, thì ông bị tử trận trong một trận ác chiến.

Triều đình truy tặng ông hàm Bố chính.
(Theo Đại Nam thực lục - Đăng khoa lục)

PHẠM VĂN NGHỊ

Phạm Văn Nghị hiệu là Nghĩa Trai, biệt hiệu là Liễu Động chủ nhân, sinh năm Ất Sửu (1805). Ông người làng Tam Đăng, tổng An Trung Thượng, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, nay là thôn Tam Đình. Ông thông minh, lại miệt mài kinh sử.

Năm Đinh Dậu (1837) khi ông 33 tuổi, đậu Hương cống. Năm Mậu Tuất (1858) ông 34 tuổi, đậu hoàng giáp. Ngay sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Hàn lâm viện Tu soạn, sau được bổ làm Tri phủ Lý Nhân.

Năm 1852, ông cùng với người anh là Phạm Văn Thạch cùng 14 sĩ phu các tỉnh Nam Định, Hưng Yên đứng ra chiêu tập dân nghèo lưu tán đến khai hoang, đắp đê, lấn biển, thau chua rửa mặn lập nên trại Sĩ Lâm. Sau trại phát triển thành tổng Sĩ Lâm rồi cả miền hạ huyện Nghĩa Hưng với hàng chục làng xã mới được thành lập.

Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) sau đó đánh Gia Định. ông tổ chức một đội quân "quân Nghĩa dũng” vào Đà Nẵng đánh giặc Pháp.

Ngày 21/6/1860, đoàn quân Nam tiến của Phạm Văn Nghị tới kinh đô Huế. Khi đó quân Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng tập trung binh lực đánh phá ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Phạm Văn Nghị xin vua Tự Đức cho vào Nam Kỳ đánh Pháp. Với tư tưởng đầu hàng giặc, Tự Đức lấy cớ quân sĩ gian lao, bắt đoàn quân Nam tiến phải quay trở lại Nam Định. Phạm Văn Nghị không thể chống lại lệnh vua, cùng đoàn quân đem theo nỗi bất bình trở ra Bắc.

Ngày 10/12/1873, giặc Pháp cho tầu Xcoocpiông theo sông Đáy đến làng đạo Vĩnh Trị để phối hợp với bọn phản động trong đạo Thiên Chúa giáo đã được cố đạo Puyginiê vũ trang làm nội ứng khi quân Pháp tấn công. Song Tú tài Phạm Đăng Hài (con trai Phạm Văn Nghị) đã chỉ huy nghĩa quân tấn công quân đạo trước khi tàu Pháp tới khiến chúng tan rã. Tàu giặc tới ngã ba sông Đào chảy vào sông Đáy thuộc địa phận huyện Ý Yên thì bị gần 1000 nghĩa quân do Phạm Văn Nghị chỉ huy đóng ở đồn Độc Bộ và quân của Lãnh binh Nguyễn Văn Lợi đóng ở đồn Phù Sa chặn đánh. Không ngờ lãnh binh Nguyễn Văn Lợi khiếp sợ kéo quân tháo chạy chỉ còn một mình Phạm Văn Nghị chỉ huy quân sĩ chống giữ, mãi đến khi súng hỏng, đạn hết mới chịu rút lui.

Với tinh thần có trách nhiệm với đất nước, ông cho rằng trận thua ở Độc Bộ là do mình tài năng kém, làm chưa hết phận sự của người làm tướng, liền trầm mình dưới sông tự vẫn đến hai lần. Những người đi theo vớt được đưa về thuốc thang chạy chữa. Đẩy lùi được quân ta ra khỏi đồn Độc Bộ, quân Pháp tràn vào đồn phá hủy súng thần công các cỡ rồi tiếp tục cho tầu tiến về tỉnh thành Nam Định, ngày 11/12/1873 thành Nam Định rơi vào tay giặc Pháp.

Năm 1874, triều đình Huế ươn hèn, sợ giặc đã ký Hòa ước với chúng, buộc Phạm Văn Nghị phải giải tán Nghĩa quân, cử ông làm Bang biện. Ông lấy cớ tuổi già xin nghỉ về dưỡng bệnh. Nhưng triều đình Huế sợ giặc Pháp vì vẫn sử dụng người chống Pháp, nên trước khi ông nộp đơn đã nghị án rằng trước đây ông đã không giữ được tỉnh thành Nam Định, nên cách hết chức tước của ông. Ông về ở ẩn tại động Liên Hoa (Gia Viễn - Ninh Bình).

Giặc Pháp ngày càng bành trướng, triều đình thì ký Hiệp ước đầu hàng giặc Pháp, ngăn cấm nhân dân tuyên truyền, vũ trang chống Pháp. Phạm Văn Nghị xem chừng không có cơ hội đánh được giặc, ông di cư về làng Hóa Thiên tổng Bồng Hải, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình mở trường dạy học, học trò đến học rất đông...

Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông buồn chán mất ngày 11 tháng 1 năm Canh Thìn (1880) thọ 76 tuổi. Triều đình truy phục hàm Hàn lâm viện Thị độc học sĩ.

NGUYỄN VĂN HIỂN

Nguyễn Văn Hiển, tự Doãn Trai, người xã Mỹ Chánh, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nay xã Mỹ Chánh thuộc huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị. Ông sinh năm Đinh Hợi (1827). Năm Bính Ngọ (1846), ông 20 tuổi, đỗ Hương cống, năm Đinh Mùi (1847) ông 21 tuổi, đỗ Tiến sĩ.

Thi đỗ Tiến sĩ, ông nhập ngạch Hàn lâm viện Tu soạn. Năm Mậu Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ làm Tri phủ Kiến Tường, rồi đổi làm Tri phủ Điện Bàn.

Ông là người sáng suốt, làm việc có kế hoạch, hết lòng vì dân. Những năm đói kém, ông thực hiện việc phát chẩn cho dân có hiệu quả, nhờ vậy ân trạch của triều đình mới đến được dân nghèo. Tuần phủ Gia Định Phạm Thế Hiển nhận mật chỉ về xét tình hình Quảng Nam, thấy việc ông làm ở đây đúng chính thuật trị dân, đem tâu lên. Vua vô cùng ngợi khen, cho thăng Hàn lâm viện Thị độc, nhưng vẫn giữ chức tại phủ đó để khuyến khích những người hết lòng vì dân. Sau vì bà nội già yếu, ông xin về phụng dưỡng bà. Ngoài giờ chăm sóc bà, ông còn mở trường dạy học. Học trò của ông nhiều người thành đạt. Tổng đốc Bùi Quỹ đề cử ông lên vua, ông được bổ làm Đốc học.

Khi quân Pháp xâm lược, đánh phá bán đảo Sơn Trà vào năm 1858. Chúng bị Nguyễn Tri Phương, Ông ích Khiêm, Phạm Thế Hiển cầm chân tại chỗ, liền rút quân vào Nam Kỳ tiến đánh cửa Cần Giờ, theo sông Sài Gòn đánh chiếm tỉnh thành Gia Định. Triều đình cử ông coi sóc quân vụ ở cửa Thi Nại, là cửa biển quan trọng. Ông đã tích cực xây dựng các vị trí phòng thủ, đặt súng đại bác, huấn luyện quân sĩ sử dụng súng bắn nhanh mua của người Anh tại Hồng Kông.

Việc yên, ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, cử làm án sát tỉnh Quảng Ngãi. Ông là người am hiểu việc binh có cơ mưu, có tài thao lược, nên được triều đình cử làm Tán tương ở mặt trận Biên Hòa giúp Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Duy xây dựng và giữ Đại đồn Biên Hòa.

Sau Nguyễn Văn Hiển được Triều đình cử làm Phủ doãn Phủ Thừa Thiên. Ông chưa kịp đi thì triều đình thay đổi, cử ông làm Tuyên phủ sứ Phú Yên.

Ông mất khi tại chức mới 39 tuổi, được truy tặng Phú Yên Tuyên phủ sứ.
BÙI HỮU NGHĨA

Bùi Hữu Nghĩa tên cũ là Bùi Quang Nghĩa, sinh năm 1807  trong một gia đình làm nghề chài lưới. Ông gốc người Trung Kỳ, nội tổ di cư vào Nam ở tại Long Tuyền (Bình Thủy), phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh, nay thuộc tỉnh Cần Thơ.

Năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835) đỗ Giải nguyên ở trường thi Hương Gia Định. Ông đỗ thủ khoa, nên còn gọi là Thủ khoa Nghĩa. Thi Hội hỏng, ông được sơ bổ Tri huyện Phước Long (Biên Hòa), sau ông được thăng Tri phủ Trà Vinh, tỉnh Long Hồ.

Bùi Hữu Nghĩa tính tình cương trực, thẳng thắn, không sợ cường quyền, dù là quan trên, nếu có tội, ông vẫn tố cáo. Bấy giờ em vợ Bố chánh Truyện có thái độ hỗn xược, ông cho đánh đòn. Bố chánh Truyện đem lòng thù oán. Nhân việc ông xử vụ án tranh chấp thủy lợi giữa người Thổ và người Tàu. Người Thổ được kiện bèn đập phá đập của người Tàu. Hai bên đánh nhau. Dân Tàu bị chết 8 người. Nhiều dân Thổ bị Bố chánh bắt, bắt cả Bùi Hữu Nghĩa giải về Gia Định đệ đơn lên triều kết tội Bùi Hữu Nghĩa lạm phép giết người.
Vợ ông là Nguyễn Thị Tồn ra Huế kêu với triều đình minh oan cho chồng. Vua giao cho Tam pháp ty nghị án rồi chính vua trung thẩm bản án như sau: “Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải "quân tiền hiệu lực lập công chuộc tội”.

Bà Từ Dũ mẹ Tự Đức bèn sai mời bà phu nhân Bùi Hữu Nghĩa ban cho tấm biểu chạm bốn chữ vàng: "Liệt phụ khả gia". Bùi Hữu Nghĩa xung vào Tiền quân hiệu lực. Vì có công, ông được phong Phó quản cơ.

Bà Nguyễn Thị Tồn về đến quê hương thì bị ốm rồi qua đời. Vì ở nơi xa xôi lại được thực hiện lệnh của Tam pháp ty, ông không về lo tang ma cho vợ được, Bùi Hữu Nghĩa đã khóc vợ rất xúc động.

Năm 1859, quân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông đã già không có điều kiện trực tiếp đánh giặc như sĩ phu Nam Kỳ nhưng ông vẫn một lòng ủng hộ kháng chiến đi các nơi vận động nhân dân đánh Pháp, sáng tác thơ văn, tố cáo tội ác của thực dân Pháp, ca ngợi các gương chiến đấu hi sinh dũng cảm của nghĩa quân và nhân dân. Nhà ông là nơi các chí sĩ hội tụ bàn bạc kế sách đánh Pháp.

Năm 1868 ông tham gia tích cực vào cuộc bút chiến, vạch mặt tên Việt gian Tôn Thọ Tường, tay sai giặc Pháp.

Ít lâu sau chán nản việc đời, ông từ quan về quê mở trường dạy học, uống rượu với bạn cử nhân là Phan Văn Trị. Ông sáng tác vở tuồng "Kim Thạch kỳ duyên" được coi là kiệt tác sân khấu miền Nam. Vở này khi diễn ở Huế đích thân Tự Đức tới xem.

Khi đã từ quan về ở ẩn mở trường dạy học, nhưng tiếng tăm của ông vẫn lừng lẫy.

Ông mất ngày 21 tháng giêng năm Nhâm Thân (1872) thọ 66 tuổi.

Tác phẩm của ông còn lại có Văn thạch kỳ duyên, Tây du, Mạnh Tòng. Đương thời ông còn là nhân vật xuất sắc ở Nam Kỳ, nên có câu ca:

"Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc hoạ, Lễ phú, Sang đờn, Nghĩa thi”.

TRƯƠNG ĐỊNH

Trương Định sinh năm Canh Thìn (1820) là con quan Hữu thủy Vệ úy Trương Cầm, sinh tại làng Tư Cung Nam, phủ Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Trương Định có hai người vợ, vợ cả là bà Lê Thị Thưởng là con một nhà giầu quê ở Tân Hòa, Tân An, Long An, vợ hai là bà Trần Thị Sanh quê ở Gò Công.

Trương Định trạng mạo khôi ngô, thông hiểu binh thư và bắn rất giỏi. Năm 1838, cha ông thừa lệnh Triều đình Huế vào Nam Kỳ lãnh chức Lãnh binh Thủy sư Gia Định, trông coi việc khẩn hoang, lập ấp mở rộng và bảo vệ bờ cõi. Khi đó Trương Định 18 tuổi cũng theo cha vào Gia Định. Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của Nguyễn Tri Phương, khuyến khích quan lại, gia đình quan lại chiêu dân lập ấp. Trương Định đứng ra chiêu mộ được 6.000 dân nghèo khai hoang lập đồn điền. Do ông có năng lực, thương yêu hết lòng giúp đỡ những người đến khai hoang, hết thảy mọi người đều cố gắng, nên đồn điền của ông sớm tự túc được lương thực, có dự trữ.

Trương Định vốn là người chuộng võ, nên ông đã huấn luyện quân sự, trang bị vũ khí cho những người trẻ tuổi, trở thành gia binh, còn gọi là “lính đồn điền". Gia binh của ông đánh đuổi giặc cướp, những người theo đạo Thiên chúa gây bạo loạn. Triều đình phong ông chức Phó quản cơ, sau thăng lên Quản cơ.
Tháng giêng năm Kỷ Mùi, Tự Đức 12 (tháng 2/1859) quân Pháp rút đại lộ phận chiến hạm từ bán đảo Sơn Trà vào đánh chiếm tỉnh thành Gia Định. Trương Công Định chiêu mộ quân lập căn cứ tại Gò Công để đánh Pháp. Nghĩa quân của ông rất đông, được sắp xếp thành 18 cơ, 24 liên đội (có 4 liên đội mộ trú ở Biên Hòa). Mỗi liên đội khoảng 400 người trang bị đại bác, súng ống và giáo mác... Ông được đặc cách thăng lên Quản cơ kiêm Chánh tổng Tân Hòa.

Quân Pháp sau khi đã bắn phá 12 đồn binh dọc 2 bờ sông và 3 cảng sông trên sông Sài Gòn liền tấn công thành Gia Định. Đến 10 giờ cùng ngày thành Gia Định vỡ, Trương Định dẫn gia binh đến đóng ở Thuận Kiều, gia nhập quân đội của triều đình. Trong chiến trận, ông thường đi tiên phong, lập nhiều chiến công, cổ vũ quân lính hăng hái giết giặc.

Tháng giêng năm Tân Dậu (1861), quân Pháp tấn công Gia Định lần thứ 2. Trương Định chiến đấu dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương. Ngày 24/2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Trương Định rút quân về đóng ở Biên Hòa chờ dịp đánh xuống Chợ Lớn Gò Công. Ông bí mật liên hệ với nhiều sĩ phu ở Biên Hòa như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị đến bày mưu tính kế. Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy Dương, Phan Văn Đạt đến giúp chỉ huy. Thanh thế, lực lượng của ông rất mạnh, ông cho quân đánh phá các nơi, làm cho quân Pháp khốn đốn.

Ngày 01/4/1861, giặc Pháp hành quân tiến về tỉnh thành Mỹ Tho, Nghĩa quân Trương Định cùng các lực lượng nghĩa quân khác chặn đánh quyết liệt, giết chết nhiều tên giặc, trong đó có tên đại tá chỉ huy trưởng Bourdeus. Giặc Pháp phải mất 12 ngày mới tới được Mỹ Tho.

Ngày 15/4/1861, quân Pháp đánh chiếm được tỉnh thành Định Tường. Lãnh phủ Nguyễn Hữu Thành chỉ huy quân triều đình bỏ chạy, chỉ còn các đơn vị nghĩa quân hoạt động, trong đó nghĩa quân Trương Định là mạnh hơn cả.

Tháng 9 năm 1861, khi đó Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia Định, ông đã cùng với Tri huyện Lưu Tuấn Thiện và Bát phẩm thơ lại Lê Quang Quyền tích trữ lương thực, rèn đúc súng đạn, chiêu mộ hơn 6000 nghĩa quân. Nhân lính Tây không am hiểu đường xá, ông thường đem quân đi phục kích, thu nhiều thắng lợi nhỏ. Triều đình Huế nghe tin thăng ông lên Phó lãnh binh tỉnh Gia Định. Tháng 11 năm ấy, quân Pháp hãm thành Biên Hòa, Triều đình có chỉ nghiêm trách Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp và Khâm phái quân vụ là Nguyễn Túc Trưng phải tìm đường tới hội ở Tân Hòa mưu tính thu phục lại thành Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang trước đó đã đi đường khác tới hợp lực với Trương Định. Lúc ấy Trương Định đã chiếm cứ Quy Sơn, quân đông quá 5000 người. Ông nghĩ rằng Nguyễn Túc Trưng là vị quan to của triều đình, nên tôn làm chỉ huy. Thấy thế giặc mạnh Túc Trưng không dám tiến, chỉ ngồi yên cố thủ ở hạt Tân Hòa mà thôi.

Ngày 16/12/1861 (rằm tháng 11 năm Tân Dậu), Thủ lĩnh nghĩa quân Tân An - Cần Giuộc1 là Đốc binh Là (còn gọi là tổng Là) chỉ huy đón đánh quân Pháp tấn công Cần Giuộc, Thủ lĩnh Gò Công là Trương Định đem quân tới phối hợp cùng nghĩa quân của Cai tổng Là chủ động tấn công quân Pháp ở đồn Cần Giuộc trước. Trong trận này nghĩa quân và quân Pháp đều bị thiệt hại nặng nề.

Ngày 17/2/1861, Trương Định chỉ huy nghĩa quân tiến công đồn Rạch Tra thắng lợi . Đêm 17 rạng ngày 18/2/1861, nghĩa quân Trương Định có 1200 người chia làm hai mũi tấn công đồn Đồng Môn (Long Thành) gây thiệt hại nặng nề cho quân Pháp.

Ngày 18/12/1861 Trương Định tấn công đồn Thuận Kiều (Gia Định), tiêu diệt nhiều sinh lực địch, Bonnard phải xin viện binh từ Thượng Hải để tấn công Gò Công, căn cứ của Trương Định. Một mặt chúng yêu cầu triều đình phải giải tán quân đội Trương Định.

Tháng 3/1862, Tự Đức cho Trương Định kiêm chức Tổng chỉ huy Đầu mục ở Gia Định (tức toàn bộ số quân mộ ở Gia Định). Trương Định đóng quân ở xứ Gò Công Thượng thuộc huyện Tân Hòa, Nghĩa quân được phiên chế thành 18 cơ. Từ căn cứ Trương Định điều động quân tấn công các doanh trại, đồn binh Pháp thu vũ khí. Ông còn lập xưởng đúc súng theo mẫu súng của Pháp.

Tháng 5/1862, Bonnard sai trung tá Hải quân Simon đem chiến thuyền tiến vào cửa biển Thuận An hoạt động quân sự, gây sức ép buộc triều đình Huế giảng hòa. Ít ngày sau Simon trở lại Thuận An mang theo tối hậu thư của Bonnard buộc triều đình Huế phải phái ngay sứ thần có đầy đủ thẩm quyền vào Sài Gòn bàn định, lập Hiệp ước.

------------------------------------------------------
(1) Quận Cần Giuộc nay thuộc Chợ Lớn. Sau khi bị quân Pháp chiếm, ngày 14/12/1861. Thống quân Bùi Quang Diệu chỉ huy đánh trận Cần Giuộc.

Tự Đức hoảng sợ, ngày 26/5/1862, Triều đình cử Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm phó sứ vào Sài Gòn. Ngày 5/6/1862, Triều đình Huế ký Hiệp ước "Hòa bình và Hữu nghị" với Pháp và Tây Ban Nha. Đại diện Pháp là Bô na. Thiếu tướng Hải quân Phó Đô đốc - Tổng chỉ huy quân Pháp - Tây Ban Nha, Đại tá Guttirie (Guitterez) chỉ huy quân viễn chinh Tây Ban Nha tại Nam Kỳ. Triều đình Huế nhu nhược đã ký Hòa ước Nhâm Tuất nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa. Tự Đức cho Phan Thanh Giản vào truyền dụ của Tự Đức thăng chức Lãnh binh An Giang cho Trương Định, đồng thời ra lệnh cho ông bãi binh. Trương Định chống lệnh của Triều đình tiếp tục đánh phá các đồn binh Pháp mạnh mẽ, khiến chúng bị thiệt hại nặng nề. Triều đình Huế khép ông vào tội phản nghịch, song ông vẫn giữ vững ý chí chiến đấu.

Tháng 8 năm 1862, triều đình lại một lần nữa hạ lệnh cho nghĩa quân đình chỉ mọi cuộc tấn công và điều Trương Định về Phú Yên. Bọn Nguyễn Túc Trưng giải tán nghĩa binh rồi gửi thư bảo ông Trương Định mau theo đường tắt đi ngay. Trương Định cho vợ con đi trước, một mình ở lại kiểm điểm quân số sẽ đi sau. Nhưng những người ứng nghĩa ở Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, không muốn giải binh, cố lưu ông Định lại. Họ nói với nhau rằng: "Bọn Tây bị dân ta nhiều lần đánh lui, nay chúng được triều đình giảng hòa, chắc chắn chúng sẽ giết hại bọn ta. Vả lại bọn Tây lấy binh lực uy hiếp, bắt ta hòa, nhưng chúng không thành thực, nay Triều đình giảng hòa với chúng, bọn ta không nơi nương tựa, sao bằng hợp lực đánh lại chúng, giữ lấy một mảnh đất để cùng nhau bảo toàn tính mạng”.

Mọi người đều cho là phải, liền cử Trương Định giữ binh quyền. Lúc ấy có Phạm Tuất Phát ở Tân Long đem thư các nghĩa hào đến tỏ ý muốn cử Định làm chủ soái để ra sức trừ giặc. Tức thì mọi người xây đàn tôn Trương Định làm Chủ soái. Ông tự xưng là "Bình Tây Đại nguyên soái" cử Trịnh Quang Nghị làm Tham tán quân vụ và bố trí các cơ quan viên chức mặt đông nam ra tới biển, mặt tây lên đến Hoa Cương. Tại các nơi hiểm yếu đều sai quân lính phòng giữ. Trương Định tự đem đại quân đóng ở Gò Công. Từ Động Cây Đa đến đập Ông Canh, từng đoạn một, đều đắp lũy để cản quân Tây đột nhập. Trương Định lại đúc thêm đại bác, kén chọn quân lính các huyện, bổ sung vào các đồn thuộc Tân Hòa, phòng thủ chắc chắn để làm kế lâu dài. Sau đó Trương Định truyền Hịch cho nhân dân kêu gọi kháng chiến, ông viết:

Tưởng có lời ca rằng:
Nước có nguồn, cây hoa có gốc
Huống chi người sinh ra có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha,
Huống chi người sinh có nóc, có gia
Mà sao không biết trung; biết hiếu...
Hai vai nặng trĩu: gánh chi bằng gánh cương thường!
Tấc dạ trung lương; gồng chi bằng gồng xã tắc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng ham danh
Lòng địch khái xin cho rõ hết”.


(Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, trang 367).

Các nghĩa hào đều theo mệnh lệnh của ông; các phủ huyện cũng vận tải tiền gạo đến cung cấp. Trương Định thường mổ trâu bò khao thưởng tướng sĩ, ai có công khen thưởng biểu dương kịp thời, nên ai cũng đồng lòng gắng sức. Quân do Trương Định trực tiếp chỉ huy và quân của Phạm Tuấn Phát đóng ở Hắc Khẩu, quân của Bùi Huy Diện đóng ở Cần Đước, quân của Tuyên úy phủ sứ Nguyễn Văn Trung đóng ở Tân Thành là khá nghiêm chỉnh, thanh thế.

Vì hòa ước đã thành, nên Tây soái không động binh và nhiều lần thúc giục quan tỉnh Vĩnh Long gửi thư cho Trương Định khuyên bãi binh. Thư qua lại ba lần Trương Định vẫn không nghe. Đình thần hội bàn cho rằng việc miền Bắc đương còn khó khăn, miền Nam chưa có cơ hội, cử Phan Thanh Giản vào "hiểu dụ”, Trương Định và nghĩa quân. Trương Định nhất quyết không chịu về Phú Yên nhận chức mới. Triều đình liền cách chức hàm Phó lãnh binh của ông.

Tháng 10/1862, Phan Thanh Giản lại xin Tự Đức ra sắc chỉ gọi Trương Định về và giải tán nghĩa binh của ông. Trương Định cương quyết chống lệnh triều đình và cùng với dân binh ứng nghĩa của Nam Kỳ Lục tỉnh tiếp tục kháng chiến chống giặc Pháp.

Khởi nghĩa của Trương Định gây cho quân Pháp rất nhiều khó khăn, báo chí Pháp khi đó đã phản ánh: "Đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến, có bao nhiêu người An Nam thì bấy nhiêu trung tâm kháng chiến".

Trương Định càng ý thức được sâu sắc sứ mạng của mình trước nguy cơ đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Ông được nghĩa quân kính trọng, nhân dân mến mộ, tin tưởng, nên ông dã tự khẳng định: "Từ ngày lòng dân đã muốn ta lên làm Nguyên nhung ba tỉnh, trước hết ta cố gắng điều khiển Tân Hòa chống quân cướp nước, để cuối cùng, sau dứt một tiếng trống, dân chúng đều thở không khí thong thả". (GS Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định. NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1989)

Trong lúc ấy Trương Định giả lệnh vua, truyền đi các nơi để cổ động dân chúng, Bonnard ngờ triều đình có lệnh thật, nên sai quân tấn công Quy Sơn. Trương Định lập kế dụ quân Pháp vào chỗ lầy, giết chúng rất nhiều.

Tháng 12/1862, quân Pháp tập trung chiến thuyền ở Dung Giang (tức sông Gò Công) cho lính đổ bộ vây đánh. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề, song quân Pháp cũng bị thương vong lớn.

Đô đốc Bonnard viết thư dụ dỗ ông đầu hàng ngay sau trận đánh, trong thư trả lời, ông tuyên bố: “...Triều đình Huế không công nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta”. (Tuyên bố của Trương Định trả lời thư dụ hàng của Bonard tháng 12/1862).

Quân Pháp huy động toàn bộ binh lực cùng quân triều đình với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại như súng bắn nhanh liên thanh, đại bác, tầu chiến bao vây, liên tục tấn công nghĩa quân, nên nghĩa quân không giữ nổi các đồn lũy, nhiều tướng lĩnh hy sinh, một số bỏ chạy. Trương Định lâm vào cảnh thế cô. Tháng 12/1862 quân Pháp tập trung quân đánh vào Tân Hòa, chia làm ba đạo. Một đạo do đường biển đánh vào Lảng Lộc, một đạo đi theo Kỳ Man Giang, dùng tầu chiến chở quân đánh vào đồn Hoa Cương, còn đạo binh đánh thẳng vào Quy Sơn. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt, Trương Định thân chỉ huy quân sĩ đánh liền ba ngày, ba đêm không nghỉ.

Phan Thanh Giản đã bốn lần làm trung gian đưa thư của Pháp dụ Trương Định ra hàng, ông đều cự tuyệt và cương quyết chống Pháp. Triều đình Huế cách chức ông, bọn Pháp tìm cách giết ông, ông vẫn vững vàng quyết tâm kháng chiến.

Ngày 17/1/1863, Trương Định ban Hịch đánh Tây “Sẵn sàng chiến đấu ở miền Đông cũng như ở miền Tây”, Tuyên cáo với các quan lại Vĩnh Long.

Ngày 25/2/1863 (7 tháng Giêng năm Quý Hợi) quân Pháp đánh úp Lý Nhơn. Thuốc súng hết, Tây binh trèo lũy đánh vào đồn, nghĩa quân tan vỡ, Trương Định thoát chết bị Tây đuổi theo, phải cùng bộ ba trốn vào một rừng cây gần bờ biển. Con ông là Trương Quyền thường gọi là "Nhị lang quân” (Cậu Hai) tiếp tục cùng cha thu thập tàn quân tính việc khởi binh lại. Quân các nơi tụ hội về. Khi đã có lực lượng, Trương Định đưa quân ra đóng ở Phước Lộc tính việc khởi binh lại.

Tháng 2/1863, quân pháp tổng công kích vào đại bản doanh của Trương Định ở Gò Công. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt ba ngày liền. Ông cùng các tướng chỉ huy quân sĩ đánh trả quyết liệt. Song nghĩa quân bị tiêu hao lực lượng, Gò Công thất thủ lần thứ hai, ông buộc phải rút về Rừng Sát gần biển tiếp tục kháng chiến.

Với khí phách anh hùng và lòng yêu nước, thương dân nồng nàn, trong lúc thất thế ông vẫn được toàn thể nghĩa quân và nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Mọi người suy tôn ông là “Bình Tây Đại nguyên soái, Trung Thiên tướng quân".

Ngay trong tháng 2 năm 1863 khi rút ra Rừng Sát ông đã nhân danh toàn thể dân chúng Gò Công gửi Tuyên bố cho giặc Pháp, trong đó có đoạn: “...Chúng ta thề sẽ đánh mãi và không ngừng, khi ta thiếu tất cả, ta sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vũ khí cho binh lính ta”.

Sau lời Tuyên bố thể hiện quyết tâm kháng chiến đến cùng trên “Bình Tây Đại nguyên soái, Trung Thiên tướng quân" Trương Định đã gửi “Hịch đánh Tây” cho các đạo nghĩa quân từ Tân Long, Bình Dương, Bình Long cho tới Biên Hòa đồng ngày tấn công Mai Sơn, phía tây Thuận Kiều. Lại truyền các đồn ở Thác Phúc, Tuy Bình, An Long đến đánh để chia sức giặc. Trong "Hịch đánh Tây” có đoạn:

Đêm năm canh thương người chính liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trunlg thần
Chốn biên thùy lãnh ấn Tổng binh
Cờ đề chữ "Bình Tây Đại tướng”.


Trong 2 năm xây dựng căn cứ ở Rừng Sát, lực lượng nghĩa quân phục hồi nhanh chóng, liên tiếp đánh quân Pháp ở khắp nơi. Nghĩa quân Trương Định chiến đấu khắp ba lỉnh miền Đông Nam Bộ rồi đánh sang cả vùng Đồng Tháp Mười. Nhiều trận đánh như trận tấn công thành Gò Công và Gò Đen (Tây An), vây đánh đồn binh Thuộc Nhiêu buộc quân Pháp phải bỏ thành tháo chạy. Quân Pháp ở Nam Kỳ không chống nổi các đòn sấm sét của nghĩa quân Trương Định, chúng phải cầu viện binh từ Pháp, Trung Quốc, Philippin tới. Khi có viện binh, quân Pháp mở những trận phản công lớn, ác liệt vào các cứ điểm của nghĩa quân.

Ngày 26/2/1863 , quân Pháp huy động lực lượng lớn bao vây căn cứ Gò Công. Cuộc chiến đấu diễn ra gay go quyết liệt, nhiều chiến hữu của Trương Định hy sinh, trong đó có hai phó tướng là Đặng Kim Chung và Lưu Hải Đường. Trương Định phải phá vây chạy về lập căn cứ mới ở làng Lý Nhân, tỉnh Biên Hòa, nay thuộc Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh, âm thầm củng cố lực lượng, chờ thời cơ phản công.

Đầu tháng 8/1864, Trương Định một lần nữa gửi "Hịch đánh Tây", sau này sử sách gọi là "Hịch Trương Định" cho khỏi nhầm lẫn với "Hịch đánh Tây" của ông tháng 2 năm 1863. Trong Hịch có đoạn: "Lòng dân đã muốn ta đi lên làm Nguyên nhung ba tỉnh, ta trông vào lòng yêu thương không phai nhạt của mọi người đối với ta. Thế là xong, bất dung tha cho giặc cướp...”.

Giặc Pháp không đánh bại được Trương Định trên chiến trường, và thư dụ hàng. Chúng mua chuộc Huỳnh Công Tấn (Đội Tấn) là một nghĩa quân thân tín của ông. Năm 1862, Đội Tấn về hàng pháp, theo đạo Thiên Chúa. Đêm 19 rạng ngày 20/8/1864 , Tự Đức thứ 17 (1864) theo kế hoạch của Pháp, Đội Tấn khuyên Trương Định trở lại thôn Phước Lộc để đánh úp Tân Hòa làng Tân Phước. Trương Định tin lời hắn, đưa quân về thôn Phước lộc. Tên Tấn đã báo trước cho Pháp, nên khi Trương Định đưa quân tới bị lọt vào ổ phục kích của quân Pháp. Trương Định bị thương nặng, biết khó thoát, ông liền rút dao găm trong người tự vẫn. Hôm đó là ngày 20 tháng 8 năm 1864, khi ông mới 44 tuổi.

Năm Tự Đức 27, triều đình hiểu công lao của ông đã ban thưởng ruộng đất, tiền bạc cho vợ con ông để sinh sống.

Ngôi mộ của ông hiện còn ở Gò Công, được xây dựng bằng đá vôi rất lớn, xung quanh có vòng thành rộng, thấp. Trước bia mộ có khắc dòng chữ “ĐẠI NAM LÃNH BINH KIÊM BÌNH TÂY ĐẠI TƯƠNG QUÂN TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH CHI MỘ”.

Tại ấp Núi Đất, khu phố 1, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa nhân dân xây dựng ngôi đình thờ ông từ năm 1966.

Nhân dân Nam Kỳ lập đền thờ ông ở nhiều nơi như Gò Công, Tân An, Mỹ Tho... Bà Lê Thị Thưởng vợ cả của ông về làng Từ Cung Nam ở phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thờ phụng ông ở từ đường dòng họ. Về phần mộ của ông, ngay sau khi ông hy sinh, bà Trần Thị Sanh, vợ thứ của ông đã cùng nhân dân làm lễ an táng trọng thể, bà đứng ra xây mộ cho ông. Trên mộ có bia khắc: “ĐẠI NAM AN HÀ LÃNH BINH KIÊM BÌNH TÂY ĐẠI TƯỚNG QUÂN TRƯƠNG CÔNG HÚY ĐỊNH CHI MỘ”. Thấy nhân dân đến lễ bái đông, bọn cầm quyền Pháp ra lệnh đục chữ "Bình Tây Đại tướng quân" và phạt tiền bà Trần Thị Sanh.

Công lao, sự nghiệp đánh giặc của ông chẳng những được nghĩa quân và nhân dân ngưỡng mộ, mà vua Tự Đức là người đã khép ông vào tội phản nghịch khi ông chống lệnh bãi binh của chính nhà vua đã chuẩn cho ban cấp 5 mẫu ruộng và sai lập đền thờ ông. Đại Nam thực lục chính biên tập 34 và tập 35 đã chép như sau: "Cho ruộng thờ cúng Lãnh binh quan đã chết là Trương Định. Khi bấy giờ Bố chính xứ Quảng Ngãi là Trà Quý Bình tâu lên nói một nhà Trương Định cha con trung nghĩa trên đều soi xét đều hết từ lâu, xin cấp cho công thờ cúng, để xung vào đèn hương. Viện Cơ mật xét lại và cho rằng người trong Nam mộ nghĩa như Trương Định thì có nhiều, chỉ thành tích chưa được hoàn toàn, nên đều chưa được xét đến, nghĩ nên đợi sẽ thi hành sau. Vua không nghe, chuẩn ban cấp ngay cho 5 mẫu ruộng thờ cúng... nhưng trích ruộng ở nơi cận, tiện chỗ để cấp, lấy người họ ấy là Văn Hổ làm thừa tự, trông coi cầy cấy để thờ phụng”.2

Năm sau vua Tự Đức lại sai làm đền thờ cúng Trương Định: “Vua thương Trương Định là người trung, năm trước đã cấp 5 mẫu ruộng thờ cúng, đến nay lại sai làm đền thờ ở xã Tư Cung, tỉnh Quảng Ngãi để thờ" (sách Đạt Nam thực lục chính biên, tập 35 (1881-1883), NXB Khoa học xã hội. Hà Nội. 1974. tr 16).
Đền thờ ở làng Tư Cung, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, nay chỉ còn dấu tích là cái nền. Tại Gò Công Đông, năm 1964, chính quyền Sài Gòn dựng lại đền, năm 1972 nhân dân Gò Công Đông xây lại đền thờ. Đền được tôn tạo từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, được bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1989.

Ngày 20/8/2004, nhân dân tỉnh Quảng Ngãi - Gò Công (Tiền Giang) long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 140 năm ngày mất của Trương Định. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định đầu tư kinh phí xây dựng lại đền thờ Trương Định ngay tại làng Tư Cung, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

-------------------------------------------------------
(2) Sách Đại Nam Thực lực chính biên, tập 34.
- Số ruộng trên: bị Nguyễn Thân người quê Mộ Đức khi mới làm Quyền Tiễu phủ sứ Sơn phòng Nghĩa Định đã chiếm trên 1.000 mẫu ruộng ở Quảng Ngãi (khi hắn đàn áp phong trào Cần Vương những năm 1885-1887) trong đó huyện Sơn Tịnh bị chiếm hơn 50 mẫu, thì có 5 mẫu ruộng thờ cúng Trương Định.

NGUYỄN ĐỨC ỨNG

Ngày 24 tháng 2 năm 1861, tại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Duy tử trận, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương phải rút về Biên Hòa dựng đồn lũy chống giặc.

Để ngăn chặn quân Pháp đánh chiếm toàn tỉnh Biên Hòa, Triều đình Huế cử Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng vào Biên Hòa chỉ huy, xây dựng tuyến phòng ngự Bá Ký, sông Kỳ Giang, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng đã thu nạp tàn quân sau trận đại đồn Chí Hòa, chiêu mộ nghĩa quân người địa phương, ngăn chặn bước tiến của quân Pháp từ Biên Hòa xuống.

Ngày 13 tháng 12 năm 1861, tướng Bonard ký huấn lệnh đánh chiếm Biên Hòa do đích thân tướng Bonard cùng các đại tá Foucault, đại tá Domenech Diego, thiếu tá Lecbris chỉ huy với 1000 quân Pháp, Tây Ban Nha và 2 chiến hạm. Ngày 15 tháng 12 năm 1861, quân Pháp tấn công tỉnh Biên Hòa. Quân triều đình ở đồn Mỹ Hòa rút chạy. Khi chúng tới phá cản đá ở sông Đồng Nai, quân triều đình và nghĩa quân chống trả quyết liệt, bắn trúng 54 phát thần công vào tàu Alarne, nhưng đạn công phá kém, chỉ làm gẫy cột buồm. Quân Pháp phá được cản. Ngày 18  tháng 12 năm 1861, quân Pháp chiếm được tỉnh thành Biên Hòa. Quân Pháp đánh chiếm các pháo đài ven sông một cách dễ dàng.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 26 tháng 12 năm 1861, đại tá Domenech Diego chỉ huy một cánh quân đánh chiếm huyện lỵ Long Thành. Khi chúng tới gần ngã ba Nha Mát, ấp Bà Ký thì bị Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy quân triều đình và nghĩa quân đánh trả quyết liệt, quân ta chỉ có súng trường khai hậu, bắn phát một và giáo mác, song đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc Pháp, giết và làm bị thương nhiều tên. Cuộc chiến đấu kéo dài đến tận 14 giờ, quân ta bị tổn thất nhưng vẫn giữ vững trận địa. Quân Pháp đã phải rút về phía sau củng cố đội hình. Đúng lúc đó thì đại tá Lepperut đã vượt sông Đồng Nai đến tiếp viện cho đại tá Diégo. Cuộc chiến đấu giữa quân ta và quân Pháp trở nên gay go quyết liệt. Nguyễn Đức Ứng bị trọng thương và hy sinh vào ngày 26 tháng 12 năm 1861.

Quân sĩ và nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu, cho tới khi quân Pháp hoàn toàn chiếm được Long Thành.
Mặc dù bị giặc Pháp ngăn cấm, nhân dân vẫn đấu tranh, an táng lãnh binh Nguyễn Đức Ứng cùng 27 quân triều đình và nghĩa quân trong một ngôi mộ chung.

Nhớ ơn những người đã dũng cảm hy sinh vì nước, nhân dân từ đời nọ đến đời kia vẫn chăm sóc, hương khói của ngôi mộ chung của 28 liệt sĩ.

Ngày 15 tháng 10 năm 1994, Nhà nước đã xếp hạng Di tích lịch sử ngôi mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh huyện Long Thành.

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1822 trong một gia đình quan lại. Ông là con ông lại viên Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, làm lại viên Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định. Năm ông 12 tuổi được gửi cho một người bạn ở Huế để ăn học. Tám năm sống và ăn học ở Huế đã giúp Nguyễn Đình Chiểu tiếp thu được nền văn hóa dân tộc hội tụ về Huế, và cũng thấy rõ triều đình Huế thối nát bạc nhược.

Khoảng năm 1840 ông trở về quê mẹ, và thi đậu tú tài khoa Quý Mão (1843) ở trường thi Gia Định.

Năm 1846 ông ra Huế chờ thi Hội vào năm Kỷ Dậu (1849) thì được tin đột ngột mẹ mất, ông bỏ thi quay về Nam chịu tang mẹ. Dọc đường bị bệnh, ông phải ở lại Quảng Nam vừa chữa bệnh vừa học nghề thuốc. Vì đường sá xa xôi, hiểm trở, đi lại khó khăn, tốn công sức mà chủ yếu là đi bộ, đi thuyền, lại thương mẹ, khóc quá nhiều, nên bệnh càng nặng, đôi mắt bị mù. Năm ấy Nguyễn Đình Chiểu mới có 26 tuổi.

Không thực hiện được ước mơ “phò đời giúp nước”, Nguyễn Đình Chiểu liền mở trường dạy học, làm thuốc, chữa bệnh và sáng tác thơ văn. Truyện thơ Lục Vân Tiên là sáng tác đầu tay của ông và ông đã hóa thân vào tác phẩm Lục Vân Tiên mang tính nhân văn, nặng lòng yêu nước, thương dân, chính thắng tà.

Mặc dù bị mù, song ông không thể ngồi yên, lòng sôi sục căm thù khi năm 1858, giặc Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà- Đà Nẵng.

Quân Pháp bị thua ở Đà Nẵng, năm 1859 chúng đổ bộ vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, rồi đánh chiếm Đại đồn Phú Thọ. Nguyễn Đình Chiểu lui về Bến Tre, vẫn cùng các bạn học như Phan Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa đi lại bàn luận công việc cứu nước.

Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp vào cuộc kháng chiến đo Trương Định lãnh đạo, Trương Định vẫn thường đến hỏi ý kiến ông, coi ông là người tham mưu của mình. Sau khi quân Pháp chiếm được Cần Giuộc, nay thuộc Chợ Lớn, Nguyễn Đình Chiểu liên hệ với Đốc binh Là, tích cực giúp đỡ nghĩa quân nhiều mặt.
Ngày 14 tháng 12/1861, Thống quân Bùi Quang Diệu kéo quân về đánh quân Pháp ở Cần Giuộc. Trong trận này nghĩa quân hy sinh 27 người, trong đó có Đỗ Trình Thoại là bạn của Đồ Chiểu. Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang sai Bùi Quang Diệu làm lễ truy điệu và thay mặt ông đọc "Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” do Nguyễn Đình Chiểu viết. Đây là Văn tế gây xúc động lòng người trong đó có đoạn:

Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn,
Chín chục trận binh thư không hề bày bố,
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo lủng lẳng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào thót tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní kinh hồn;
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tầu thiếc tầu đồng súng nổ.


Và kết thúc bằng đoạn:

Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,, muôn kiếp nguyện được trả thù kia,
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.


Trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp kích động những phần tử quá khích trong đạo Thiên chúa gây ra nhiều vụ cướp bóc, phá đình chùa của người bên lương, gây nên mối hận thù dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu viết tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu, dài 3.448 câu thơ phê phán âm mưu lợi dụng tôn giáo của địch để phá vỡ khối đoàn kết dân tộc. Tác phẩm cũng lên án những kẻ thờ ơ, vô trách nhiệm đối với vận mệnh suy vong của đất nước.

Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, ông đưa gia đình về làng An Đốc, Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục mở trường bốc thuốc trị bệnh cho dân và giữ mối liên hệ chặt chẽ với các sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị và các lực lượng kháng chiến Trương Định.

Nguyễn Đình Chiểu là người tích cực hưởng ứng và cổ vũ cho phong trào "tỵ địa" do Phan Văn Trị và một số sĩ phu đương thời khởi xướng. Thực dân Pháp biết ông có uy tín lớn trong nhân dân và nghĩa quân Trương Định và nghĩa quân các cuộc khởi nghĩa khác, tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc. Nhưng danh lợi, bổng lộc không làm nhà thơ mù yêu nước thiết tha xiêu lòng. Giặc Pháp hứa trả lại ruộng đất cho ông. Ông trả lời: "Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”.

Trước cảnh mất nước, thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang màu sắc bi tráng. Văn tế Nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh là một thí dụ. Đoạn kết của bài Văn tế ông viết:

Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mây năm;
Người uống giận suối vàng lắm bực.
Cảnh Nam thổ phôi màu hoa thảo, động tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơn oán trăng thưa, chăng nhặt.
Ngày gió thổi lao xao tinh dã mã thoạt nhóm, thoạt tan, thoạt lui, thoạt lới, như tuồng rạng bóng tinh binh
Đêm trăng lờ réo rắt tiếng đề quyên, dường hờn, dường mếu, dường khóc, dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.
Xưa nghe có bên sông Vị Thủy, lấy lễ nhân đầu tế đảng hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức
Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong
Đọc bài văn tế quỷ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất


(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX).


Đồng bào ở Ba Tri kể lại, chính Nguyễn Đình Chiểu đứng ra làm chủ tế những nghĩa sĩ lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, ông quá xúc động, nước mắt đầm đìa rồi ngã nằm bất tỉnh nhân sự, mọi người phải đưa đi cứu chữa.

Cuối đời Nguyễn Đình Chiểu vẫn sống ở Ba Tri dạy học và làm thuốc, nhưng ông vẫn lên án triều đình Huế cắt đất đầu hàng, ngăn cấm nhân dân chống Pháp, để đến nỗi mất lục tỉnh vào tay giặc Pháp.

Nguyễn Đình Chiểu giãi bày tâm sự trong “Ngư tiều ư thuật vấn đáp”, đây là tác phẩm cuối cùng của ông với lời văn xót xa trước cảnh đất nước bị “chia dưa”, “khăn xé” trong đó có đoạn:

Cây đa đua nhánh đón đường
Như tuồng đón hỏi: Đông hoàng ở đâu ?
...Gió tru hưu hắt theo sau
Như tuồng xúi giục đi may tìm thày.
Dưới non suối chảy kêu ngày
Như tuồng nhắn hỏi: “ Sự này bởi ai?”


Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu bao gồm nhiều thể loại thơ, văn tế, câu đối, trướng, truyện thơ, văn đều sâu sắc thiết tha căm thù giặc Pháp cướp nước, yêu chính nghĩa, ghét gian tà, lên án vua quan nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng giặc Pháp, tiếp lay cho giặc đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân.

Nguyễn Đình Chiểu mất ngày 3 tháng 7 năm 1888. Đến này đồng bào còn kể lại rằng ngày đưa đám ông cả cánh đồng An Bình Đông nay là xã An Đức trắng xóa khăn tang của bạn bè, đồng chí, của học trò của những người bệnh được ông cứu sống và nhân dân cảm phục một nhà thơ lớn, một chiến sĩ cách mạng.

PHAN VĂN TRỊ

Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại làng Hưng Thành, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Thành Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Cha là Phan Văn Tấn làm quan Khâm sai chưởng Tiền dinh Đông Thống chế; vợ là Đinh Thị Thanh.

Ông đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849) tại trường thi Gia Định cùng với Nguyễn Thông. Ông không làm quan mà dời về ở làng Phong Điền, tỉnh Cần Thơ, nay là xã Nhân Ái, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ dạy học, làm thơ, bốc thuốc.

Kể từ khi giặc Pháp xâm lược Việt Nam, Phan Văn Trị đứng hẳn về phe chủ chiến. Ông cùng với các bạn bè chung chí hướng như Nguyễn Thông, Bùi Hữu Nghĩa bàn bạc kế sách cứu nước và giúp đỡ phong trào kháng chiến. Phan Văn Trị làm rất nhiều văn thơ chống Pháp, có thể nói đó là những bài văn thơ chống Pháp đầu tiên.

Năm 1862, quân Pháp gây hấn ở Gia Định, ông tránh xuống Vĩnh Long cùng Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt ủng hộ phong trào kháng chiến. Trong những bài thơ chống Pháp, ông căm thù giặc Pháp đến tột độ và biểu lộ sự phẫn uất của các dân tộc lên án triều đình Huế hèn nhát đầu hàng. Trong đó có bài:

GIA ĐỊNH THẤT THỦ PHÚ

Thương thay đất Gia Định, tiếc thay đất Gia Định
Vực hóa nên cồn; Đất bằng dậy sóng
Tàu khói chạy máy tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến Trâu
Dây thép dăng nhấp nhoáng, đất ngàn trùng ngàn thành Phụng
Bờ cõi phân chia khác mặt, trông xa như quáng như mờ, Non sông dời đổi họa mi, tưởng tới dường si dường tủng.
Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, dọc ngang xe ngựa đất gò bằng, Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát chợ nhà trời sấm động.
Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt câu ca,
Tò le kèn thổi tối trời Nam, ngơ ngác năm canh không tiếng trống.
Hào kiệt tìm phương lánh, sa cơ giá hạc lúc hư kinh, Anh hùng kiêm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
Tới Bến Thành trải qua Chợ Đũi, loài tinh chiên loạn xạ biết bao nhiêu, Nơi Chợ Lớn sắp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng khôn xiết những.
Tầu Bà Nghè cùng nơi Chợ Quán, quỷ hung tàn đắc ý vểnh râu; - Chùa Cầm Thảo trải tới Cây mai, Phật Bồ tát chịu nghèo ôm bụng.
Nơi nơi nổi xóm mới nhà Tây, Chốn chốn lập đồn cạnh ụ súng.
Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô thân thế đều khô; Đau xót lẽ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng người đời cũng rụng.
Mấy dặm: Gò Đen, Rạch Kiên, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không, Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trông rỗng.
Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu; Thân liều chết, chết cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống.
Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng an hồn; Đường xá đắp cửa nát nhà tan, cực bấy kẻ cồn không nổi sóng.
Sau trước vầy đoàn xâm lược, dân ta đòi bữa đòi suy, Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày càng lộng.
Cờ Thành Thang sao không thấy phát, bỏ liều con đỏ trước chông gai; Áo Vũ Vương sao chẳng thấy gây, nỡ để dân đen trong bùn vũng
Đầu Trung Nguyên tóc hãy còn dài, ơn này nhờ có Bá, học Xuân Thu xin chớ biếm Hoàn Công, Tay tả nhẫm áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, đọc Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng.
Bóng xế dặm ngàn trông man mác, nước non này ai thấy cũng buồn; Trời chiều chim chóc nhảy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động.
Ta nay nhân cảm với cuộc đời, Vậy nên tả một bài đề chúng!


Năm 1857, Vĩnh Long rơi vào tay quân Pháp, Phan Văn Trị thốt ra những lời thơ đau đớn, chua cay vì sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn. ông làm bài thơ:

MẤT VĨNH LONG

Tò le kèn thổi tiếng lăm, ba
Nghe lọt vào tai dạ xót xa
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói
Vàng hoe thành Phụng ủ sầu hoa
Tan nhà căm nỗi câu ly hận
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hòa!
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.


(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX: trang 79).

Phan Văn Trị coi bọn chó săn làm tay sai cho giặc Pháp giết hại đồng bào, bán rẻ Tổ quốc như loài muỗi hút máu người, ông làm bài thơ:

CON MUỖI

Muỗi hỡi, thân mi sướng mọi điều
Thiếu chi chi nữa lại còn kêu
Gương ngà, chiếu ngọc từng nương dựa
Má phấn môi son cũng ấp yêu
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại
Cành hông nào đoái chúng dân nghèo
Ngày sao miễn gặp cây xơ quất
Xử tội nhà người mắt chẳng nheo!


Phan Văn Trị là một trong những sĩ phu đề ra phong trào "tỵ địa" được đông đảo các sĩ phu và nhân dân ba tỉnh miền Đông bị giặc chiếm đến ở các tỉnh còn thuộc triều đình quản lý, gây cho giặc Pháp nhiều khó khăn trong việc quản lý nhân khẩu, ổn định tình hình kinh tế chính trị ở vùng chúng vừa chiếm đóng.

Phan Văn Trị cũng là người khởi xướng, tiên phong trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường, một tên bồi bút tay sai đắc lực cho bọn xâm lược Pháp. Tôn Thọ Tường đã múa mép, khua môi, khoe khoang công nghệ chiến tranh hiện đại của giặc Pháp như súng trường bắn nhanh, đại bác, tàu chạy bằng hơi nước, khinh khí cầu; và giải thích rằng lực lượng quân sự của ta lạc hậu, tinh thần dân ta kém cỏi không tài nào địch nổi quân Pháp. Lời thơ của ông tố cáo tội phản quốc của tên bồi bút Tôn Thọ Tường rất gay gắt. Ông nhiếc móc Tôn Thọ Tường là “đứa ngu” “kẻ đáy giếng trông trơ mắt ếch”, “loại tanh nhơ”.

Trong cuộc bút chiến bằng thơ, có thể nói đây là cuộc bút chiến vạch tội bọn bán nước đầu tiên ở Việt Nam đã thu hút được các nhà thơ yêu nước ở Nam Kỳ như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt tham gia, dấy lên một phong trào chống Pháp trong thơ văn quyết liệt, sôi động ở Nam Kỳ. Đến nay các nhà nghiên cứu thơ văn yêu nước Việt Nam mới tập hợp được khoảng trên 50 bài.

Trong trận bút chiến này Phan Văn Trị đã huy động được đông đảo sĩ phu có tên tuổi như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu tham gia, nhưng Phan Văn Trị là cây bút xông xáo, tiêu biểu nhất.
Cuộc bút chiến do Phan Văn Trị khởi xướng còn kéo dài tới mấy chục năm sau, khi Tôn Thọ Tường đã chết, vì còn có nhiều tên "Tôn Thọ Tường" khác theo giặc.

Giặc Pháp thấy Phan Văn Trị có uy tín lớn trong giới sĩ phu và nhân dân lục tỉnh tìm cách dụ dỗ, mua chuộc ông ra làm quan và thôi không viết những bài đả kích người Pháp và những người làm việc cho Pháp. Phan Văn Trị đã kiên quyết từ chối, sống thanh cao trong cảnh nghèo nàn. Ông mất năm 1910, thọ 80 tuổi.

TRẦN TRỌNG KHIÊM

Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821) quê làng Xuân Lũng, tên Nôm là làng Dòng, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Ông sinh trưởng trong một gia đình nho học nên thông thạo chữ Hán và chữ Nôm. Vợ ông ở nhà bị tên chánh tổng giở trò cường bức, bà chống lại, bị nó bóp cổ đến chết. Nhận được tin, ông về làng đâm chết tên Chánh tổng rồi bỏ làng đi.

Ông tới Phố Hiến làm thuê cho các tầu buôn nước ngoài. Từ năm 1843, ông là thủy thủ trên các con tàu viễn dương, từ Hồng Kông tới Malaixia, vượt biển Ấn Độ Dương, tới các nước nam Châu Phi. Sau đó ông tới Hà Lan học nghề đóng tầu, rồi sang sinh sống ở Pháp, Anh. Trong quá trình bôn ba ở các nước, ông vốn giỏi chữ Hán, nên học tiếng Quảng Đông, Quảng Tây rất nhanh, riêng tiếng Anh ông nói giỏi và viết thạo.

Năm 1847 ông đổi tên là Lê Kim (tiếng Anh viết là Lee Kim) trà trộn vào dòng người Tàu nghèo khổ di cư sang Mỹ. Vốn thông thạo tiếng Anh, ông Lê Kim làm bỉnh bút ngoại ngạch cho các tờ báo Alisa Caliornia, Morning Post, Daily Heraid... Sau đó ông vào làm biên tập cho tờ báo Daily Evering và viết bài có nhiều tờ báo khác.

Khoảng năm 1854, Lê Kim rời bỏ nước Mỹ, xuống tầu vượt Thái Bình Dương rồi rời Hồng Kông rồi theo tàu buôn về Việt Nam. Vì trước đây ông đã giết tên Chánh tổng, nên không dám về Bắc Kỳ mà vào Nam Kỳ với giấy tờ của người Minh hương. Ông xin cư trú ở làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang khai phá đất hoang làm ruộng. ông lấy vợ người Nam Bộ, sinh được 2 con trai là Lê Xuân Lâm và Lê Xuân Lương.

Ông tìm được cách liên lạc về quê và nhận được tin nhắn: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng nên vội về quê cũ”. Trần Văn Khiêm hiểu rõ cần phải tiếp tục giấu lai lịch của mình để sống ở nơi hoang vu ngút ngàn lau sậy ven sông Tiền Giang.

Tháng 9/1861, Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia Định chiêu mộ hơn 5.000 quân đánh Pháp. Võ Duy Dương đã cùng Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt đến giúp ông chỉ huy nghĩa quân.

Trần Trọng Khiêm tức Lê Kim dã đem một số trai tráng và lương thực, tiền bạc giúp nghĩa quân Võ Duy Dương. Song ông vẫn không dám để lộ tung tích, họ tên thật, quê quán, cùng tên khi di cư sang Mỹ và quê lương, bản quán của mình, mà chỉ giới thiệu chung chung là "Người Minh Hương". Võ Duy Dương và các tướng cũng tôn trọng, không gặng hỏi rõ tên tuổi, quê quán, mà cũng chỉ gọi là "Người Minh Hương". Vì vậy một số tư liệu lịch sử viết về cuộc khởi nghĩa Võ Duy Dương cũng chỉ viết ông - một bộ tướng xuất sắc của Thiên hộ Dương là “Người Minh Hương”.

Theo gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá viết về cụ tổ Trần Trọng Khiêm: “... Ngoài 20 tuổi, cụ cải danh họ Lê (húy Kim) khảng khái rời quê cha đất tổ, xuống một tầu buôn ngoại nhân, suốt mấy năm lênh đênh từ Á sang Âu, năm châu, bốn biển không ở đâu không lưu dấu tích. Tới xứ đạo cụ cũng tìm hiểu văn minh, phong tục, cái hay, cái dở đều nhân định phân minh, ý hẳn muốn thâu tháo để sau này kinh bang tế thế. Cụ thật có nhãn quan thiên lý, nhìn suốt cổ kim, có chí kế vãng khai lai, đáng làm gương cho hậu thế vậy... Coi khắp các kỳ quan, dị cảnh trên hoàn vũ rồi năm Giáp Dần (triều Tự Đức) cụ về Tổ quốc lập nghiệp ở làng Hòa An, tỉnh Định Tường. Noi đó còn hoang vu, toàn lau cùng sậy, tràm với lat (cỏ lác), cụ quy tụ một số người khai phá thành ruộng nương tươi tốt... Cư khai phá làng lập Hoài An chưa được 10 năm, làng xóm vừa mới phong túc, thì nước nhà bị nạn ngoại xâm. Năm Giáp Tý (1864), cụ khảng khái bỏ nhà cửa ruộng đất cùng với cụ Ngũ Linh Thiên bộ (hiệu của cụ Thiên hộ Dương) mộ được mấy ngàn nghĩa binh, phất cờ khởi nghĩa ở trong Đồng Tháp Mười. Các có tài bắn súng, bách phát, bách trúng, xây cất đồn lũy (theo mô hình, kinh nghiệm của tướng Mỹ Jolin A Sutter - chú thích của MTH), cầm đầu một nhóm lính đào ngũ Pháp (vì thông thạo ngoại ngữ, nên ông Kim đứng đầu địch vận lính Lê dương - chú thích của MTH) tấn công (các đồn Pháp) ở Cái Bè, Mỹ Quới, quân Pháp trăm phần điêu linh. Cụ bà cũng dắt con theo (cụ bà họ Phan), thật đáng mặt cân quốc anh hùng. Năm Bính Dần quân Pháp dèm quân bao vây ba mặt, tấn công đồn Tiền, cụ tổ chúng ta chống cự không nổi, tuẫn tiết. Trước khi mất, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá, gắng sức nuôi con, dạy chúng giữ đạo trung hiếu, làm ruộng mưu sinh, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ dưới chân Giềng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) năm đó cụ chưa được ngũ tuần”.

Trên mộ ông có đôi câu đối của các đồng chí xưa, cũ. Tạm dịch:

Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh.
Chính khí nêu cao tinh thần Hùng Nhị còn truyền hậu thế.


(Bản gia phả do ông Lê Xuân Lăng, cháu nội cụ Lê Xuân Lương viết bằng chữ quốc ngữ khoảng năm 1930 dựa theo lời trăng trối, dặn dò của các bậc tiền nhân kể từ cụ Lê Xuân Lâm, con trai cả cụ Lê Kim. Ông Lăng truyền cuốn gia phả trên cho con trai là Lê Xuân Liêm, truyền cho cháu nội là Lê Xuân Lưu. Ông Liêm có học chữ Tây, tự tay ghi dòng chữ Bilio thèque familiale - Lê Xuân Liêm - Vilacfe de Mỹ Quới. Rạch Giá - Mai Thanh Hải (Theo bài “Từ giữa thế kỷ XIX đã có một người Việt Nam làm báo ở Mỹ, Văn nghệ Công an số 18 (118 tháng 6/2005).

VĂN ĐỨC GIAI

Văn Đức Giai sinh năm Đinh Mão (1807), người xã Phú Hậu, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Năm Quý Mão (1843), ông 37 tuổi, thi đỗ Hương cống. Năm Giáp Thân, niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844), ông 38 tuổi thi đỗ Tiến sĩ. Ông sớm mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Thi đỗ tiến sĩ, nhưng ông vẫn ở nhà nuôi mẹ đau yếu. Hơn 10 năm sau, mẹ ông mất, ông mới nhận chức Đốc học lần lượt ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Sau đó ông được triều đình điều về kinh đô Huế đứng đầu tòa Ngự sử. Ông nổi tiếng là người cương trực, các quan có chức tước to hơn, nhưng làm việc sai trái, ông đều dâng sớ đàn hặc.

Tháng 2 năm 1861, triều đình cho ông mộ quân nghĩa dũng tòng chinh vào Nam chống nhau với quân Pháp ở quân thứ Gia Định. Ông dũng cảm, có cơ mưu trong chiến trận, đánh thắng nhiều trận lớn. Ông được thăng tới chức Bố chính Phú Yên. Ông được vua Tự Đức ban khen, cho đổi tên là Khuê (viên ngọc quý). Từ đó ông có tên mới là Văn Đức Khuê.

Năm Nhâm Tuất (ngày 5/6/1862), triều đình Huế ký hòa ước với Pháp, ông phải bí mật tìm đường ra Huế. Đầu năm 1863, Triều đình cử ông ra làm Tán lý quân vụ ở quân thứ Hải - Yên (Hải Dương - Quảng Yên) cùng với Trương Quốc Dụng đánh dẹp. Hai ông đánh thắng một số trận tiêu diệt nhiều sinh lực giặc, thu được nhiều súng bắn nhanh do thực dân Pháp cung cấp cùng kế hoạch bành trướng của đạo Thiên chúa ở Bắc Kỳ.

Trong một trận ác chiến diễn ra vào tháng 6/1884 , hai ông bị giặc Tạ Văn Phụng bao vây, các ông mở đường máu phá vây, nhưng không thành. Hai ông hy sinh. Triều đình truy tặng ông chức Tuần phủ.
Nhân dân vùng Quảng Yên lập đền thờ hai ông gọi là "Song Trung từ". Bài vị hai ông được đưa vào "Hiền lương từ” ở Kinh đô Huế.


Tiêu đề: Re: 284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam (Vũ Thanh Sơn)_Tập 1
Gửi bởi: hoi_ls trong 06 Tháng Tám, 2011, 10:53:51 AM

VÕ DUY DƯƠNG

Võ Duy Dương quê ở thôn Cù Lâm Nam, nay là thôn Nam Tường, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 1889 , quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Gia Định, ông hưởng ứng phong trào chống Pháp đã đi chiêu mộ nghĩa quân. Võ Duy Dương được cử làm Chánh quản đạo, Thủ khoa Huân được cử làm Phó quản đạo.

Tháng 5 năm ấy, triều đình biệt phái Võ Duy Dương ra dẹp giặc cướp ở tỉnh Quảng Ngãi. Trong khi đó ở Nam Kỳ giặc Pháp vẫn không ngừng lấn tới. Tháng 4 năm 1860 phó Đô đốc Charmer nhiều lần tấn công đại đồn Chí Hòa, đều bị tướng chỉ huy là Tôn Thất Hiệp chỉ huy quân sĩ đánh lui. Tháng 8 năm 1860 , Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Thế Hiển được Triều đình cử vào thay Tôn Thất Hiệp chỉ huy đại đồn Chí Hòa. Trong khi đó, giặc Pháp cũng mới nhận được viện binh, tầu chiến, đại bác từ Pháp ráo riết chuẩn bị tấn công đại đồn Chí Hòa. Hai ông đã củng cố, xây dựng thêm đồn lũy, đào thêm hầm hào, đặt thêm súng thần công để chống giặc.

Đêm 23 tháng 2 năm 1861, quân Pháp, quân Tây Ban Nha tấn công ác liệt vao đại đồn Chí Hòa. Mặc dù chúng bị thiệt hại nặng nề: 1 quan 5 Tây Ban Nha, 4 sĩ quan cao cấp và 1 805 lính bị giết. Song đến ngày 25/2/1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ. Tán lý Nguyễn Duy, Tán lý Tôn Thất Trí tử trận, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Hiển đều bị trọng thương. Quân triều đình phải rút về Biên Hòa.

Ngày 12/4/1861 tỉnh thành Định Tường (Mỹ Tho) thất thủ, Triều đình cử Đỗ Thúc Tịnh làm Khâm phái quân vụ vào Nam. Đoàn có nhiều nhân sĩ, võ tướng đi theo như Nguyễn Văn Nhã, Võ Duy Dương, Phan Trung. Võ Duy Dương được thăng “Bát phẩm Thiên hộ (quan võ)”.

Ngay từ khi vào Nam Kỳ lần thứ hai, Võ Duy Dương mộ được 1 000 quân, theo quy định ông được trao thêm chức Quản cơ.

Tháng 9 năm 1861, Trương Định giữ chức Phó quản cơ Gia Định chiêu mộ được hơn 6000 quân đánh Pháp. Võ Duy Dương đã cùng với Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt đến giúp ông chỉ huy nghĩa quân. Trong các chiến công của Trương Định có phần công lao của Võ Duy Dương.

Tháng 11 năm 1861, Võ Duy Dương Dương đến Mỹ Quý (nay thuộc Nhị Quý, Cai Lậy, Tiền Giang) đắp đồn Tân Thành cho Trần Xuân Hòa (tức Phủ Cậu) trấn giữ. Quân Pháp tấn công liền trong 57 ngày đêm, thành vỡ, Trần Xuân Hòa chạy thoát nhưng rồi bị bắt và cắn lưỡi tử tiết vào ngày 6 tháng giêng năm 1862.

Ngày 16 tháng 12 năm 1861, quân Pháp mở chiến dịch tấn công vào tỉnh thành Biên Hòa. Ngày 18 tháng 12 năm 1861, tỉnh thành Biên Hòa thất thủ.

Triều đình Huế lo sợ cử Phan Thanh Giản vào Gia Định xin giảng hòa kí kết Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Đây là hòa ước nhục nhã đầu tiên triều đình ký với Pháp. Nhân dân Nam Kỳ phản đối, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ rạ như khởi nghĩa Trương Định, khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, khởi nghĩa Thủ khoa Huân.
Trương Định hy sinh thì Võ Duy Dương trở thành lãnh tụ chính ở vùng Tiền Giang với căn cứ là Đồng Tháp Mười (Định Tường).

Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân cũng giúp Võ Duy Dương tổ chức binh đội, vận động nhân dân tiếp tế lương thực, thực phẩm vào chiến khu.

Võ Duy Dương cho quân lấy ca tra là loại cây có sợi, đập dập bện dây lòi tói, buộc bè gỗ chăng ngang sông Lòng Tàu để cản tàu giặc. Ông còn có sức khỏe, có biệt tài bắt và thuần hóa trâu rừng thành trâu chiến. Đó là con trâu đực đầu đàn của một đàn trâu rừng có cặp sừng nhọn, vô cùng hung dữ. Khi xung trận, ông cưỡi trâu ngụy trang bằng bèo lục bình nam muống lặng lẽ bơi dưới ngòi lạch rồi bất ngờ xông thẳng vào trận địa giặc, hai tay ông sử dụng côn đánh tới tấp vào bọn giặc, trâu thì húc, dày xéo lên lũ giặc. Bọn giặc khiếp đảm, tháo chạy tán loạn đến khi chúng hoàn hồn, tổ chức phản công thì ông cưỡi trâu biến mất dưới những con ngòi lạch chằng chịt ở Đồng Tháp Mười.

Để phòng thủ, Võ Duy Dương đã lợi dụng địa hình các gò nổi để xây dựng một hệ thống phòng thủ từ ngoài vào trong. Ông lại chia các đồn tiền, hậu, tả, hữu để ứng cứu lẫn nhau khi có chiến sự. Hoạt động của nghĩa quân rất táo bạo, các toán nghĩa quân dùng thuyền nhẹ xuất phát từ căn cứ đi đánh phá các đồn binh, lị sở của quân Pháp và tay sai, đánh giao thông địch, cướp các đoàn xe, thuyền chở lương của địch.

Trong suốt ba năm (1864 - 1866) , quân Pháp chưa dám hành quân càn quét, kể cả do thám ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Quân Pháp phải mất nhiều năm chuẩn bị, đến tháng 4/1886, mới điều động một đạo quân lớn tấn công vào căn cứ của Thiên hộ Dương ở Đồng Tháp Mười. Thiên hộ Dương và các tướng đã đón đánh địch từ xa. Đạo quân thứ nhất do Bupbê chỉ huy bị chết khá nhiều quân mới chiếm được đồn Sa Tiền. Đạo quân thứ hai do Đêrômờ cũng bị giết chết khá nhiều, xác chúng nằm rải trên đường hành quân mới chiếm được đồn Ấp Lý và bị chặn lại ở đồn Tiền. Đạo thứ ba do tên Ganly Pátsơbôgiơ còn bị thương vong nặng nề hơn, hai đạo quân trên mới chiếm được đồn Gò Bắc. Tên chỉ huy phải xin viện binh mới có đủ lực lượng tấn công đồn Tả. Đồn này được xây dựng kiên cố, có 350 nghĩa quân trong đó có cả hàng binh người Pháp, người Filippin, đồn được trang bị tới 40 đại bác. Trận đồn Tả diễn ra ngày 16/4/1866 là trận quyết liệt nhất, 2 tiểu đội địch chết và bị thương. Quân ta rút khi không còn nghĩa quân. Ngày 24/4/1866, quân Pháp tấn công Cái Thia - Mỹ Tho, bắt được nghĩa quân người Pháp là Lanh ghê (Linquet).

Sau khi rút khỏi căn cứ Đồng Tháp Mười, đem quân phối hợp với con Trương Định là Trương Tuệ (tức Trương Quyền) và thủ lĩnh nghĩa quân người Cămpuchia là A Soa tấn công quân Pháp nhiều trận. Trong đó có những trận điển hình như ngày 7/6/1866, tấn công quân Pháp ở Tây Ninh tiêu diệt được nhiều địch, trong đó có hai sĩ quan. Quân Pháp phải cố thủ trong đồn chờ viện binh. Ngày 14/6/1866 nghĩa quân Việt và Campuchia lại đánh lui nhiều đợt tấn công của quân Pháp tới cứu nguy cho đồn binh Tây Ninh. Tên quan tư lính thủy đánh bộ Macsetxơ (Marchaisse) bị giết tại trận.

Đến tháng 7/1866, Võ Duy Dương phát triển lực lượng chiêu mộ quân chống Pháp ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Sẵn lòng căm thù giặc Pháp nhân dân gia nhập nghĩa quân rất đông và đóng góp quân lương.

Triều đình Huế tuy phải thực hiện "Hiệp ước hòa bình và hữu nghị” do triều đình ký với Pháp và Tây Ban Nha ngày 5/6/1862, trong điều khoản 9 quy định: "Triều đình Huế nhận trách nhiệm truy lùng, bắt giữ và giao nộp cho Pháp tất cả những ai có hành động chống đối chính quyền Pháp mà ẩn náu trong các vùng thuộc triều đình cai trị”. Nhưng thực ra Viện Cơ mật ở Huế thường có ý định liên lạc và khuyến khích các hoạt động chống Pháp để tìm cách giành lại mấy tỉnh đã mất. Vì thế người của Triều đình vẫn bí mật liên hệ với Võ Duy Dương, Trương Quyền, A Soa. Tuy vậy trước áp lực của Pháp, Tự Đức đã thực hiện yêu cầu của Pháp.

Không rõ vì lý do gì ba tháng sau, triều đình Nguyễn nói với Pháp là cho Võ Duy Dương, Trương Tuệ trở ra Bình Thuận đi khẩn hoang, rồi lại dặn quan tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa gặp họ thì cho đổi tên đi và cấp cho ngựa về kinh, chứ không ở lại đấy.

Sự kiện này Đại Nam thực lục chính biên viết như sau:

Tháng 9 năm Bính Dần (10/1866): “Trước Nguyễn Hữu Cơ đến tỵ sở, đi qua Gia Định bảo sứ Pháp rằng: bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra thú dồn đi khai khẩn, khi đến Vĩnh Long đem việc ấy nói kín với Phan Thanh Giản, bèn tư cho các tỉnh Vĩnh Long, Gia Định, An Giang, Hà Tiên và các tỉnh từ Bình Thuận trở ra Bắc, phàm bè lũ Duy Dương đều cho ra thú đi khẩn hoang. Lại sắc cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa hễ thấy tên Dương, tên Tuệ thì đem đổi tên, cấp cho ngựa trạm về Kinh, phái đi nơi khác, cho hết điều tiếng”...

Phan Thanh Giản hặc tâu việc này với Tự Đức, Nguyễn Hữu Cơ bị phạt giáng hai cấp. Song việc Võ Duy Dương ra Bình Thuận vẫn được thực hiện. Trước khi đi Thiên hộ Dương “ủy người về kinh dâng sớ kín”.

Trong tháng 10/1866, triều đình Huế được tỉnh thần Thuận Khánh báo rằng: "Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú gặp gió bị đắm ở phần biển Thuần Mẫn, sai tìm xác cho đồ vật đem chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5 quan tiền, 1 phúng gạo”.

TRƯƠNG QUỐC DỤNG

Trương Quốc Dụng còn có tên là Khánh, tự Dĩ Hành, người làng Phong Phú, huyện Thanh Hà, phủ Hà Thanh, trấn Nghệ An, nay thuộc làng Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm Đinh Tỵ (1797).

Năm Ất Dậu (1825) 29 tuổi, ông đỗ Hương cống, đến năm Kỷ Sửu (1829) 33 tuổi, đỗ Tiến sĩ. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được bổ nhiệm ngạch Hàn lâm viện Biên tu, rồi thăng đến Lang trung ở bộ Hình. Sau đó vì tính tình cương trực, thẳng thắn không được lòng vua bị cách chức, rồi cho làm một chức quan nhỏ ở bộ Lại.

Năm Quý Tỵ, triều Minh Mệnh năm thứ 14 (1833) ông được trở lại làm Tư vụ theo đạo quân của Triều đình đi chinh phạt Phiên An. Sau đó ông được bổ nhiệm làm Tham tán đại thần đánh lui quân xâm lược. Khi tình hình biên giới Tây Nam được ổn định, ông được triệu về Kinh làm Viên ngoại lang ở bộ Hộ. Sau đó triều đình chuyển ông làm Án sát tỉnh Quảng Ngãi, sau đó chuyển làm Án sát tỉnh Hưng Yên.

Đến đầu đời Thiệu Trị, Trương Quốc Dụng được thăng Tả Thị lang bộ Lễ rồi chuyển sang làm việc cùng một lúc ở ba bộ Hình, bộ Lại, bộ Công. Năm Đinh Mùi, triều Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), ông được thăng Tả Tham tri bộ Công.

Đầu triều Tự Đức, Trương Quốc Dụng được sung làm Giảng quan tại Kinh diên, lại phụ trách trông coi Khâm thiên giám. Sau thăng đến Thượng thư bộ Hình, kiêm Tổng tài Quốc Sử quán.

Trương Quốc Dụng còn có tài làm thơ, thơ của ông lời lẽ trau truốt, ý nghĩa sâu sắc, thiên về tả cảnh.

Thơ của ông in trong "Nhu Trung thi văn tập". Trong đó có những bài xuất sắc như:

NƯỚC TRỜI MỘT VẺ

Thu thủy công trường thiên nhất sắc,
Vẻ thu thiên rất mực phong quang
Trăng trăng bạc, gió gió vàng
Giục lòng khách tha lương tình khiển hứng
Chén rượu hoàng hoa còn chếch choáng
Câu thơ bạch tuyết lúc ngâm nga
Bạn cùng người tuyết nguyệt phong hoa
Lấy thi tửu, cầm ca làm thích chí
Có lưu lạc mới trải mùi thế vị
Lúc phong lưu càng lắm vẻ xuân tình
Tỉnh ra rồi mới giật mình.




TRUNG THU VỌNG NGUYỆT

Kim dạ nguyệt minh nhân tân vọng
Bất tri thu tú tại thùy gia
Sẵn giang sơn hứng thú cầm ca
Xin chớ để trăng già cười khách tục
Tửu nhất hồ, cầm nhất trương ca nhất khúc
Thú Nam Lâu nào có thua ai
Biết trăng hãy hỏi trăng chơi


Ông còn là người cải cách lịch. Trước kia ta cứ theo lịch Đại Thống của Trung Hoa mà làm in ra ban cho dân gian, không sửa chữa, thêm bớt. Khi ông trông coi Khâm Thiên giám mới tham khảo Sách Đại lịch Tương Khảo đời Khang Hy nhà Thanh, đối chiếu với lịch của phương Tây, từ đó làm ra lịch của ta rất chính xác. Hồi ấy các giáo sĩ phương Tây so sánh thấy nguyệt thực nhật thực của ta làm ra chính xác hơn lịch Trung Hoa.

Ông còn có các tác phẩm khác như Công hạ ký văn, Thối thực ký văn, Văn quý tân thể.

Song, Trương Quốc Dụng còn là một võ tướng can đảm, mưu lược. Năm Nhâm Tuất (1862), Tự Đức thứ 15, giặc biển ở Hải Yên (Hải Dương - Quảng Yên) bao vây tỉnh thành Hải Dương, quan lại cao cấp. Vua sai ông làm Thống đốc quân vụ đại thần cùng với Đào Trí, Phan Tam Tỉnh đi cứu Hải Dương. Ông dùng kỳ binh giải được vây, đuổi giặc đến Bình Giang, chém được hơn 450 dầu giặc, bắt sống hơn 100 tên. Thắng trận, ông được thăng Hiệp biện đại học sĩ.

Năm Giáp Tý, Tự Đức thứ 17 (1864) thực dân Pháp huấn luyện, đào tạo Tạ Văn Phụng là dân theo đạo Thiên chúa thành một kẻ gây bạo loạn ở Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh để thăm dò lực lượng quân sự ở Bắc Kỳ, quấy rối hậu phương, thu thập tin tức tình báo cung cấp cho quân Pháp, phát động dân theo đạo Thiên chúa ở Bắc Kỳ khi quân Pháp đánh vào thì nổi dậy đánh chiếm các phủ huyện, làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đưa đường cho quân Pháp. Ông đã cùng Tán lý Văn Đức Giai, Tán tương Trần Huy San dẹp cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên. Trong trận đánh ở đồn La Khê, giặc Tạ Văn Phụng dùng bộ binh, thủy lính vây kín bốn mặt. Ông cùng Văn Đức Giai, Trần Huy San đều tử trận.

Vua sai quan về tế, truy tặng ông hàm Đông Các điện Đại học sĩ. Năm Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870), ông được đưa vào thờ ở đền Trung Nghĩa. (Theo Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa).

ĐỖ QUANG

Đỗ Quang còn gọi là Đỗ Tông Quang, tên chữ là Huy Cát, người làng Phương Điếm, tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, nay Phương Điếm thuộc xã Phùng Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông sinh năm Giáp Thìn (1808) trong một gia đình nhà nho nghèo. Năm Mậu Tý (1828), khi ông 21 tuổi đỗ Hương cống khoa thi Hương năm Nhâm Thìn, niên hiệu Minh Mạng 13 (1832) khi ông 29 tuổi, đỗ Tiến sĩ, đứng hàng thứ nhất. Khi đỗ Tiến sĩ ông không ngồi kiệu, võng mà đi bộ về làng. Đỗ Quang lần lượt giữ các chức "Hàn lâm Trực học sĩ biên tu; Tri phủ Diễn Châu; Phúc khảo quan trường Gia Định, Lang trung bộ Công, Án sát sứ Quảng Trị. Năm đầu Thiệu Trị (1841) cất làm Thị lang bộ Công, lại đổi Trực học sĩ Viện Hàn lâm sung sử quán Toản tu. Năm Ất Tỵ Thiệu Trị thứ 5 (1845) chuyển Thị lang bộ Lại. Ông được sung làm Kinh diên giảng quan và tham gia duyệt quyển thi Đình. Năm 40 tuổi, thăng chức Tham tri bộ Lễ, Tự Đức năm đầu (Mậu Thân - 1848), được bổ làm thự Tuần phủ Định Tường.

Đỗ Quang làm quan nổi tiếng thanh liêm, ông thường xuống tận các thôn xóm tra xét bọn quan lại ức hiếp, chiếm ruộng của dân. Bọn quan lại, hào lý kinh hãi đem vàng bạc đến biếu, ông không nhận. Sau vì tầu ngoại quốc trốn thuế ông bị tội miễn quan. Hôm ông đi, dân khóc như mưa. Vua bảo: "Nghe tin Đỗ Quang ở Định Tường bị khứ chức, dân hạt ấy khóc như mưa, nếu không phải ngày thường được lòng dân sao có như thế”. Cho khởi phục làm Hàn lâm viện Trước tác rồi lãnh Án sát Nghệ An, lại chuyển Hồng lô Tự khanh, sau thăng Bố chính Nghệ An, cho cái án trước ở Định Tường phải di chuyển, bồi thường. Tổng đốc là Tôn Thất Cáp dâng sớ nói là người lương chinh xin miễn cho; xuống chế cho miễn, lại lãnh Bố chánh Nam Định. Năm Tự Đức thứ 9 (1856), đổi Quang tộc tự khanh, sung Biên lý bộ Lại, sung Kinh diên giảng quan. Vua khen cách giảng luận lời lẽ đơn giản tỏ rõ cùng với Tô Trân xấp xỉ ngang nhau, tiến Lại bộ Thị lang.

Năm Tự Đức thứ 13 (1860) ông là thự Tuần phủ Gia Định. Mùa xuân năm 1861, quân Pháp cử binh đổ bộ lên đánh. Quân ta ở các tỉnh và Đại đồn tạm thua. Lúc ấy Đỗ Quang đóng ở Biên Hòa vì chuyện này mà bị cách chức, nhưng vẫn được lưu dụng. Đỗ Quang bí mật sai người tới dụ các hào mục và sĩ dân ở Gia Định khuyên họ đứng ra mộ quân để đợi thời cơ. Mùa đông năm đó, quân Pháp vây hãm Biên Hòa, ông bèn tới Tân Hòa để cùng Phó Lãnh binh Trương Định đem quân đến chiếm giữ những chỗ hiểm yếu để chống cự  (Đại Nam chính biên liệt truyện, đệ nhị tập, quyển 31).

Tự Đức năm thứ 15 (1862), triều đình Huế nhu nhược, đầu hàng giặc, ký Hòa ước và lệnh bãi binh, điều ông về kinh đô Huế thăng chức Tham tri bộ Hộ, bổ ông giữ chức Tuần phủ Nam Định. Lần này ông khéo léo nhưng kiên quyết từ chối, đưa ra những lời lẽ yêu nước rất thắm thiết để phản đối triều đình cắt đất cầu hòa: “Ngày thần ra về, kẻ sĩ và nhân dân đón chật đường mà nói rằng: “Từ nay cha bỏ con, quan bỏ dân, quan về quan lại làm quan, còn dân thì không được làm dân của triều đình nữa”. Tiếng khóc nghẽn đường, thần cũng phải gạt nước mắt ra đi. Trộm nghĩ, thần tầm thường, kém cỏi, không tài cán, nhưng lần này quanh quẩn với dân vốn không dám nghĩ đến ngày được sống trở về. Nay thần được gọi về triều đình, còn nghĩa dân thì không được gọi về triều đình mà góp sức đóng của nữa, không biết đặt mình vào đâu. Như thế là thần trên phụ triều đình, dưới phụ trăm họ rõ ràng không thể chối cãi được. Nếu thần lại nhận chức ở Nam Định thì đối với nhân dân Gia Định biết nói sao đây? Đối với công luận thiên hạ, biết thế nào? Thần còn chút lòng biết xấu hổ nên cúi xin (Thượng hoàng) tha cho về vườn ruộng để cho hả cái nỗi phẫn oán của nhân dân và còn giữ được tiết liêm xỉ của kẻ hạ thần”.

Vua xem xong lời tâu, và cho triệu kiến dụ rằng: “Trẫm đã biết lòng nhà ngươi là Đỗ Quang, mà ngươi là Đỗ Quang cũng nên biết bụng trẫm, không nên như thế”. Tờ sớ giao cho bộ Các giữ. Gặp lúc quê mình ở Hải Dương có quân thổ khấu làm rối loạn, mẹ Quang và gia quyến phải lánh nơi khác, Tổng đốc Nam Định là Nguyễn Đình Tân dâng sớ kể tình trạng, vua sai hậu cấp cho rồi cho về thăm mẹ và cho bạc cùng thuốc men. Quang đón mẹ về làng, rồi liền đó cáo lệnh được chỉ hậu cho.

Mùa đông năm sau tới kinh, được thự Tham tri bộ Hộ, vua nói: "Đỗ Quang ngày nay đổi khác không như trước, và chí khí người trượng phu có nhầm lẫn về sáng như thu công về chiều, vậy ngày xây dựng công nghiệp còn nhiều, người chớ lấy đó mà nhụt chí, nên cố gắng lên”.

Tự Đức năm thứ 17 (1864), Quang làm thự Tuần phủ Bắc Ninh vào bệ từ. Vua dụ rằng: "Ngươi vốn có khí tiết, hễ gặp việc phần nhiều hay tranh chấp lý luận, nhưng việc có kinh, có quyền, không nên cố chấp, phải khả thủ thương lượng, châm chước mới được việc”. Rồi đổi thự Tham tri bộ Binh, kiêm Hữu phó đô ngự sử ở viện Đô sát, sung Tham tán quân vụ Hải An quân thứ, lại thự Tuần phủ Lạng Bình, rồi mắc bệnh xin giả hạn. Rồi có chỉ đổi Hộ Tuần phủ tỉnh Bắc Ninh. Vua bảo Đỗ Quang từ khi Nam Kỳ trở về đến nay, thường vin là bất tài, vô dụng, không từng làm được một việc gì, ý thường như bất mãn, muốn nghỉ việc về hưu, trẫm thường răn bảo, giao bộ theo chỉ, sức cho gấp chữa bệnh, để chóng khỏi tới nhận chức, rồi theo lời tới tỉnh Bắc làm việc.

Tự Đức năm thứ 19 (1866) việc ngoài biên đã cáo xong, lại dâng sớ trần tình xin nghỉ, được sắc ủy lạo lưu lại vào bảo: “ý trẫm gấp dùng người, mà ngươi cứ lấy tình riêng làm rườm tai ta mãi, lòng ngươi có yên không”. Lại gia cho ban thưởng và nói: “biết ngươi tình cảnh thanh bần nên ban cho”. Được hơn tháng, bệnh nặng thêm, cho về nghỉ, về đến nhà rồi chết, thọ 60 tuổi. Tin cáo phó tới tai vua, vua dụ rằng: "Đỗ Quang ra làm quan 30 năm có lẻ, thanh bạch, trung chính, chăm chỉ, cẩn thận, được tiếng trong ngoài, trước đây ở Nam Kỳ dẫu gặp gian nan vẫn giữ một tiết, kịp tham tán quân vụ ở Hải An tỏ có công lao. Hàng năm tới nay nhân ngoài biên có báo động nên đặc cách khởi phục còn trong khi có lệnh để vỗ yên nơi trọng khẩn, không ngờ lệnh thê ngày thêm, bèn cho nghỉ việc về làng. Ta vẫn nghĩ tới người, đương lúc cần dùng không may vội chết, thực là đau xót", cho truy tặng Lễ bộ thượng thư, còn con đợi chỉ sẽ lục dụng, lại ban lộc cho mẹ để sinh sống và sai hữu tư thình tới hỏi thăm. Em Quang là Vinh cũng đỗ Hương tiến”. (Đại Nam chính liên liệt truyện).

Triều đình Huế ban chế rằng: "Cố Tuần phủ Đỗ Quang nổi danh khoa giáp, rạng rỡ hàng quan. Trong triều, ngoài triều, từng trải đã lâu, nổi tiếng thanh liêm, chính trực, cần mẫn, thận trọng từ Nam ra Bắc mấy bận bôn ba, vất vả, tận tụy, khổ ải gian nan , người người ca ngợi”.

Ngoài các chức tước đã phong, nhà vua còn phong ông tước "Tự thiện đại phu”. Dân làng Phương Điếm lập đền thờ ông, sau tôn ông làm Thành hoàng, thờ cùng Nguyễn Chế Nghĩa (phò mã nhà Trần).

TRẦN XUÂN HÒA

Trần Xuân Hòa người tỉnh Quảng Trị, là con Trần Tuyên, nguyên Bố chính tỉnh Vĩnh Long. Trần Xuân Hòa đỗ cử nhân năm 1847 được làm Tri phủ, lại là con quan, nên thường gọi là Phủ Cậu.

Tháng 2/1861, Đại đồn Chí Hòa bị quân Pháp tấn công. Trần Xuân Hòa hăng hái đứng ra mộ nghĩa dũng đánh giặc Pháp ở Định Tường. Ông thường dùng chiến thuật phục kích để tiêu diệt sinh lực giặc. Ông chỉ huy đánh thắng quân Pháp nhiều trận trong đó có 6 trận lớn giết nhiều lính Pháp và lính mã tà.

Do ông đánh giặc lập được nhiều thành tích ông được triều đình thưởng hàm Thị độc học sĩ. Trần Xuân Hòa chủ yếu hoạt động ở vùng Cai Lậy, lập Tổng hành dinh ở vùng Thuộc Nhiêu và Nhị Quy đánh phá các đồn lính Pháp. Quân của ông hoạt động mạnh mẽ, tiêu diệt nhiều sinh lực Pháp, tên Đại tá Hải quân Pháp phải thân cầm quân đi đánh. Quân Pháp đem quân đánh chiếm các xứ Mỹ Trang, Bang Lềnh thuộc tỉnh Định Tường, Trần Xuân Hòa dàn quân chống đánh quyết liệt. Song thế giặc mạnh quân ta phải rút lui.

Ngày 6/1/1862, Trần Xuân Hòa chuẩn bị đi đánh đồn Cái Bè, nhưng bị quân Pháp dưới quyền chỉ huy của đại úy hải quân Rieuner bao vây ở Cái Bè và Cai Lậy, ông bị bắt rồi bị xử giảo ngày hôm sau (7/1/1862). (1)

Có nhiều thơ văn ca ngợi ông, viếng ông. Sau đây là bài:

MỘ PHỦ CẬU Ở THUỘC NHIÊU

Qua chơi ta nhớ nghiệp tiền triều,
Nghĩa sĩ mộ còn cách Thuộc Nhiêu.
Huỳnh thổ một gò nên thạch trụ
(2)
Bạch vân mấy thức lộng hà kiều
(3)
Kiếp căn thần tử tuy dày mỏng,
Nần nợ quân vương trả ít nhiều
Giận chẳng ngờ Tây dương nắng mộ (?)
Can thành
(4) đầu mất khí nào tiêu.

II

Tiêu tán binh rồi xác thịt chôn,
Ngàn thu chỉ có liệt oanh tồn
Bia danh ái quốc bia còn dựng,
Dấu ngựa Cần vương dấu đã mòn
Bắc khuyết
(5) cỏ cây còn lã chã,
Đông lâu ve đố cũng thon von!
Tôi con đâu cũng tôi con vậy,
Kẻ ấm lương đăng kẻ lạnh hồn.
(6)





-------------------------------------------------------------------------
(1) Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập 1, viết ngày 6 tháng Giêng năm 1862 Phú Cậu, thủ lĩnh nghĩa quân bị sa vào tay giặc.
(2) Một gò đất vàng nhô lên như cái cột đá giữa dòng nước cháy.
(3) Đám mây trắng lồng bóng xuống nước dưới cầu.
(4) Can thành: Người tướng có tài ngăn giặc giữ nước như cái mộc che binh khí, cái thành chống giặc.
(5) Cửa khuyết ở phía bắc, chỉ nơi vua ở
(6) Tác giả có ý trách cũng là tôi con nhà vua mà kẻ được hương khói, người thì mồ mả vắng lạnh.

ĐỖ THÚC TĨNH

Đỗ Thúc Tĩnh tự là Cấn Trai, sinh năm Mậu Dần (1818). Tổ tiên người Quảng Ngãi. Cha là Như Tùng, nhân theo cha mà nhập tịch ở làng La Châu, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông do chân tú tài mà làm Tri huyện An Định. Thúc Tĩnh từ nhỏ, mồ côi cha, nhà nghèo mà chăm học, thờ mẹ và tôn trọng anh, cẩn thận, có tiếng hiếu hữu. Tự Đức năm đầu (1848) đỗ tiến sĩ được bổ Biên tu, thự Tri phủ Thiệu Hóa, sau đổi về Diên Khánh. Bấy giờ Diên Khánh đất bỏ hoang, dân hao mòn. Thúc Tĩnh tìm mọi cách vỗ về, mộ dân phiêu tán đến, cấp cho đất ở, làm nhà cửa, cấp cho điền khí, kẻ ốm đau thời thuốc thang, kẻ đói rét thời khẩn cấp, được người ta gọi là Đỗ Phụ (1).

Năm thứ 7 (1854), có Chỉ gọi về làm Giám sát ngự sử, nhưng dân ái mộ, triều đình giữ lại cho địa phương và thăng hàm thự Thị độc, lưu giữ ở địa phương để hoàn thành việc lập ấp an dân. Chưa được bao lâu lại xuống chiếu bổ viên Ngoại lang Binh bộ. Quan tỉnh thấy việc mộ (dân) lập (ấp) đã sắp xong, xin cho lưu lại làm nốt. Vua dụ rằng: “Thúc Tĩnh là người thanh liêm cần cán vào hạng nhất trong hàng phủ huyện, cho thực thụ thị độc vẫn lưu lại đấy làm việc để khuyên khích cho những viên quan tốt". Thế rồi việc mộ dân lập ấp thành hiệu, được 143 người và 241 mẫu ruộng. Quan tỉnh đem việc tâu lên, được cất lên Hồng lô Tự khanh. Rồi qua Án sát Khánh Hòa, chuyển sang Bố chính, sau lại đổi về biện lý Binh bộ.

Năm Tự Đức thứ 14 Tân Dậu (1861), Gia Định, Định Tường nối nhau thất thủ, Thúc Tĩnh dâng sớ xin đi vào Nam dẹp giặc. Vua khen là người trung nghĩa khảng khái, cho sung Khâm sai mang dụ chỉ đi. Lại cấp cho 30 lạng bạc, đi ngựa trạm đến 2 tỉnh Long, Hà tuyên thị cho sĩ dân và chiêu mộ nghĩa dũng, rồi hợp lực cùng Tổng đốc Trương Văn Uyển, Tuần phủ Phan Khắc Thận thương biện việc quân. Phàm mọi việc được tùy tiện mà làm: Binh lương cho phép trù định lấy, viên biền, cho phép cắt đặt lấy, lính dõng cho phép tổ chức huấn luyện lấy, tiền thóc, cho phép quyên phát lấy, đến như tướng sĩ, ai có công, được khen thưởng, sợ hãi rút lui, được chém đầu đem rao để thị uy. Đặc biệt ban cho quyền trọng như vậy để mong công việc có thành hiệu. Sau chuẩn cho lĩnh Tuần phủ Định Tường. Thúc Tĩnh dâng sớ xin triệu tập binh sĩ, tích trữ lương, chọn chỗ hiểm lập đồn luyện quân để phòng lúc đánh, lúc giữ. Lại xin thuê những người Tây Dương và người Thanh hiện ở Gia Định để làm nội ứng mặt thủy, mặt bộ. Vua nghe lời và dụ rằng: "Thúc Tĩnh tiết tháo xem xét tình hình, trù nghĩ phương lược, mọi khoản đều hay. Hiện nay triệu tập binh dõng, tích trữ tiền, lương đều kể có hàng vạn. Tuy còn đương lắng chờ cơ hội, chưa thể vội vã đem dùng, nhưng vì nước làm việc như vậy tin là có lòng trung thành mưu tính sâu xa. Thương tình nhà ngươi vất vả, cho thăng thự Lại bộ thị lang vẫn lĩnh chức cũ”.

Năm thứ 15 (1862) Thúc Tĩnh chết.

Ông là người khảng khái, dũng cảm thao lược, có chí mà chưa đạt, vua rất lấy làm tiếc, truy tặng Tuần phủ và gia cấp cho gấm lụa bạc tiền. Con là Hữu Điển được ấm thụ chức Tư vụ, thăng mãi đến Tri phủ Ninh Hòa.
(Quốc sử quán triều Nguyễn -
Đại Nam chính biên liệt truyện, -
Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn)
.





---------------------------------------------------------------------
(1) Đỗ Phụ đời Tấn (Trung Quốc) làm quan ở Tương Dương dẫn nước sông vào tưới cho hơn vạn khoảnh ruộng. Dân được nhờ ơn, gọi là Đỗ Phụ (theo Từ Hải).

NGUYỄN NGỌC THĂNG

Nguyễn Ngọc Thăng sinh năm 1798, con cụ Nguyễn Công và cụ Trần Thị Kiêm, quê tại ấp Giồng Keo, làng Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông hiếu học lại thông minh nên trong khi học chữ nho vẫn đến các lò võ trong vùng để học võ.

Ông đăng lính vào thời vua Thiệu Trị. Nhờ biết võ nghệ, huấn luyện tốt quân sĩ, củng cố đồn lũy vững chắc, ông được thăng Cai cơ. Đầu năm Tự Đức nguyên niên (1848), ông được thăng Lãnh binh.

Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm các pháo đài bảo vệ thành Gia Định từ xa. Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng không chờ lệnh mà đem quân cấp tốc đi ứng cứu. Nhưng trước sức mạnh của đại bác, tàu chiến, súng bắn nhanh quân Pháp đã chiếm được hết các pháo đài và cửa biển Cần Giờ. Quân giặc theo đường sông tiến sát tỉnh thành rồi đổ bộ đánh phá. Đến 10 giờ sáng ngày 17/2/1859 thành Gia Định vỡ.

Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng được lệnh đóng giữ đồn Cây Mai. Ngay lập tức ông đã điều động quân lính và nhân dân xây dựng hệ thống phòng thủ, đắp lũy thêm cao, đào hào thêm sâu, bố trí lực lượng phòng thủ ở những vị trí xung yếu. Đội quân của Nguyễn Ngọc Thăng đã đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân Pháp. Nhưng do quân Pháp có ưu thế về quân binh, vũ khí, nên sau một thời gian cầm cự, lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng phải bỏ đồn rút về Gò Công, khi đó vẫn thuộc phủ Tân An, tỉnh Gia Định.

Khi chủ tướng Trương Định hy sinh trong mặt trận tập kích bất ngờ do tên phản bội Huỳnh Văn Tấn (Đội Tấn) dẫn quân Pháp vào bao vây, đánh úp, Nguyễn Ngọc Thăng tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở hữu ngạn sông Soài Rạp cho đến cửa Tiểu, thuộc Gò Công. Trong nhiều trận đánh ông đã phối hợp với nghĩa quân do Trương Quyền, con của Trương Định chỉ huy hoạt động ở vùng Tây Ninh và nghĩa quân do Thiên hộ Dương chỉ huy chiến đấu ở vùng Đồng Tháp Mười.

Ngày 27/6/1866, trong một trận giao chiến với quân Pháp, Nguyễn Ngọc Thăng trúng đạn hy sinh. Nghĩa quân lợi dụng đêm tối, dùng ghe đưa về quàn ở tỉnh Mỹ Lồng, bên cạnh mé sông để nhân dân trong vùng đến điếu phúng. Mộ ông đặt tại một con giồng nhỏ ở Mỹ Lồng thuộc làng Mỹ Thạnh. Sau khi ông mất, vua Tự Đức phong sắc, áo, mão và một thanh gươm. Những di vật này đặt tại ngôi miếu thờ ông ở ấp Giồng Keo bị hư hỏng trong chiến tranh và thất lạc.

Ông còn được thờ ở đình làng Nhơn Hòa, nay thuộc phường Cầu Ông Lãnh (quận I, thành phố Hồ Chí Minh) và tại đình làng Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm. Hàng năm vào dịp lễ Cầu Yên, tại hai nơi này đều tế lễ long trọng để ghi nhớ công ơn người anh hùng chống Pháp.
THÂN VĂN NHIẾP

Thân Văn Nhiếp sinh năm 1804, người xã Yên Lỗ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông đỗ Hương cống khoa thi Hương năm Tân Sửu. Thiệu Trị thứ nhất (1841) tại trường thi Thừa Thiên. Ông được Hậu bổ Khánh Hòa, thăng Tri huyện Tân Định. Năm 1858 ông đang làm Bố chính Quảng Nam thì liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, quân ta bị thiệt hại nặng nề, ông bị cách chức.

Quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông sung chức Tham biện cơ mật, giữ chức Hiệp tán quân vụ Biên Hòa, ông tổ chức lực lượng nghĩa quân giúp Tổng đốc Biên Hòa đánh Pháp.

Ngày 16/12/1861, quân Pháp tấn công tỉnh thành Biên Hòa, Thân Văn Nhiếp đã cùng quan tỉnh Biên Hòa chống đánh kịch liệt Song thế giặc mạnh cả về binh lực và vũ khí, ngày 18/12/1861 tỉnh thành Biên Hòa thất thủ, quân triều đình rút về rừng núi Phước Tuy.

Ít lâu sau Thân Văn Nhiếp nhận lệnh vua đi xem xét địa thế các châu thuộc khu vực Quảng Trị để chuẩn bị căn cứ chống Pháp lâu dài. Sau ông thăng Tham tri bộ Binh, năm sau thăng Tuần phủ, Hộ lý Tổng đốc Bình Định - Phú Yên. Ông đã làm sớ khuyên vua Tự Đức nên bãi bỏ mọi việc ăn chơi, làm hao tổn tiền bạc của nước, kiệt quệ sức lực của dân; nên chăm lo việc dân việc nước.

Ngày 24/12/1865, một nhóm nghĩa quân do các phó tướng là ông Rồng, ông Được, ông Long tấn công đồn Cai Lậy, thiêu hủy nhiều căn nhà, chỉ có 25 tên lính tập giữ đồn chống trả mãnh liệt nên nghĩa quân phải rút lui.

Ngày 01/5/1868 một nhóm nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của Thân Văn Nhiếp đột kích thành phố Mỹ Tho, tấn công kho lương thực, hạ sát người giữ kho.

Năm 1870, Thân Văn Nhiếp được thăng Tổng đốc Bình Định, Phú Yên. Ông chăm lo bố phòng, chuẩn bị kháng chiến, lập căn cứ ở nơi có địa hình hiểm trở, trang bị vũ khí hiện đại để chống đánh giặc có hiệu quả. Năm 1872, ông đang khẩn trương chuẩn bị chống giặc Pháp khi chúng từ Nam Kỳ đánh ra miền Nam Trung Kỳ, thì bị ốm chết, được truy phục nguyên hàm Tổng đốc.

HỒ HUÂN NGHIỆP

Hồ Huân Nghiệp tên chữ là Thiệu Tiên, Thiệu Thiên, sinh năm 1828, người làng An Định, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

Trương Định gửi giấy cử Huân Nghiệp giữ chức Tri phủ Tân Bình. Huân Nghiệp cố từ chối không nhận vì nhà có mẹ già. Nghĩa hào hai huyện Bình Dương, Tân Bình lại gửi cho Hồ Huân Nghiệp một bức thư trong đó có đoạn: "Trong khi quốc gia lâm nạn, trượng phu ắt phải vì nước quên nhà. Vậy ông là người xứng đáng làm tiên hiền cho cả binh dân, lẽ nào chỉ hiếu mà bỏ trách nhiệm non sông".

Hai bạn thân của ông là cử nhân Lê Xuân Khánh và tú tài Phan Như Châu đều khuyên ông ra gánh vác việc nước. Hồ Huân Nghiệp tạm nhận để việc binh, việc dân có kẻ chủ trương. Buổi ấy, hạt Gia Định bị giặc Pháp chiếm, quan lại phủ, huyện do Trương Định đặt ra đều ẩn náu trong nhà dân mà làm việc. Huân Nghiệp đã nhận việc điều động binh lính tiếp tế cho Trương Định. Nhờ có nguồn lương thực dồi dào đó mà nghĩa quân ăn no đánh thắng. Tân Hòa thất thủ, ông không nao núng, vẫn bí mật làm việc như cũ.

Ngày 12/3 năm Giáp Tý, niên hiệu Tự Đức 17 (17/4/1864), giặc Pháp bắt được ông, giải về huyện lỵ cũ Tân Bình. Bọn Tây tra hỏi Huân Nghiệp tên những người cầm đầu nghĩa quân, nhưng ông không trả lời. Chúng còn hỏi Hòa ước đã định, sao còn sinh sự hại dân. Ông khảng khái cãi lại. Bọn Pháp không làm sao cho ông thua lý được. Chúng đem ông ra chém. Tên cố đạo biết chữ Hán thấy Huân Nghiệp là một người nho học, muốn tìm cách làm cho ông được tha, hắn đem giá chữ thập ra bảo ông lạy, ông không chịu khuất, lấy giá chữ thập vứt xuống đất.

Đến lúc sắp phải hành hình, Hồ Huân Nghiệp rửa mặt, sửa khăn áo rồi ung dung dọc bốn câu thơ:

LÂM HÌNH THỜI TÁC

Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi,
Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi
Thử thân sinh tử hà tu luận
Duy luyến cao đường bạch phát thùy


Dịch thơ:

LÀM LÚC SẮP BỊ HÀNH HÌNH

Thấy nghĩa lòng đâu dám hững hờ
Làm trai ngay thảo quyết tôn thờ
Thân này sống chết khôn màng nhắc
Thương bấy mẹ già tóc bạc phơ
. (1)

Ông bị giặc Pháp chém, ai thấy cũng xót xa.

Nguyễn Thông trong Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX có viết rằng:

Phan Văn Đạt xướng nghĩa đầu tiên, thân chịu chết để giữ trọn điều nhân. Trương Định bị thua, chạy trốn, thu thập tàn quân, chiếm cứ Tân Hòa, bỏ mình vì nghĩa. Ví thử khi Gia Định chưa mất được cầm quyền binh nhờ quốc oai và địa thế thì mưu lược sắp đặt há chỉ có thế mà thôi đâu. Còn Hồ Huân Nghiệp ở nhà thờ mẹ, gặp thời loạn lạc không thể không đạt được chí muốn của mình. Nhưng bài thơ ông làm khi ông lâm chung, lời nói mạnh mẽ. Thật đúng là bậc trượng phu tiết nghĩa.

Từ khi người Tây gây biến ở lục tỉnh, sĩ phu và dân chúng liều mình đứng lên, khẳng khái chịu chết kể không xiết được, như Đỗ Trình Thoại
(2) ở Tân Hòa, Nguyễn Lịch ở Tân An đều là những tấm gương chói lọi. Còn như ở chốn làng xa, ngõ hẻm, những trinh phụ, liệt nữ trọng nghĩa không chịu ô nhục, chống giặc đến chết, chính tôi biết được có hơn chục người. Tiếc rằng thời thế đổi đời, đường xá cách trở, sự tích không sao biết rõ được.

Than ôi! Người ta đang cơn loạn lạc, hầu dễ mấy ai chịu quyên sinh để giữ vững khí tiết. Thế mà những người nêu cao được tiết tháo nhưng việc làm lại bị che lấp, không ai biết mà truyền lại, cho nên không được triều đình ban khen. Cũng trong đám người trọng nghĩa mà có người may, người không may, đáng thương lắm thay!”.






-----------------------------------------------------------------------
(1) Ca Văn Thỉnh - Bảo Định Giang dịch- (Thơ văn yêu nước Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, NXB Văn Hóa, 1962).
(2) Đỗ Trình Thoại: đậu cử nhân đời Triệu Trị, làm Tri huyện Long Thành bị cách Về nhà. Quân ta thua ở Gia Định. Tây chiếm Tân Hòa, Thoại chiêu mộ quân dân đánh đồn giặc, bị tử trận.

PHAN VĂN ĐẠT

Phan Văn Đạt tên chữ là Minh Phủ, sinh năm 1828, cha là Phan Văn Mỹ, người thôn Bình Thạch, huyện Tân Thạnh, Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

Thuở nhỏ Phan Văn Đạt thông minh, học giỏi, thông hiếu kinh sử, sở trường về thư từ và có phong cách như người lớn. Năm 1848, ông đậu cử nhân tại trường thi Gia Định (có sách viết ông đậu cử nhân năm Canh Thân - 1860). Nhà ông nghèo, không có tiền ra kinh đô Huế để bổ nhiệm làm quan. Bạn bè phải giúp đỡ mới có tiền lệ phí. Ông ở Huế một thời gian thấy quan lại đều là bọn đục khoét dân, xu nịnh, nên ông bỏ quan về quê làm thuốc và dạy học.

Tính tình ông ngay thẳng, không quỵ lụy bọn quan lại, nên được mọi người kính mến. Dân làng có chuyện xích mích đều đến nhờ cậy phân xử. Vì vậy mọi người dân bảo nhau: "Sợ chênh lệch thì nhờ mặt cân, muốn hết tranh giành thì nhờ ông Phan”.

Năm 1859 quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, ông căm thù chúng, nhưng còn cha già nên đành ở nhà phụng dưỡng, lo tròn chữ hiếu.

Tháng 3 năm Tự Đức 14 Tân Dậu (1861), thân phụ ông qua đời, ông bảo các bạn: “Việc riêng của tôi thế là xong. Từ nay về sau tôi sẽ tùy theo tạo hóa vần xoay”.

Cũng thời gian đó, tỉnh thành Thuận Hóa thất thủ, quan quân triều đình lui về giữ Biên Hòa. Phan Văn Đạt cùng với người cháu họ bên ngoại là Trịnh Quang Nghị và hương thân Gia Định là Lê Quang Dũng khởi binh đánh Pháp. Trai tráng các huyện theo về rất đông, ông chia quân đóng giữ phía nam Biện Kiều, thôn Bình Thạnh, Gia Định. Tại đây ông ra lời hiệu triệu kêu gọi nhân dân gia nhập nghĩa quân chống Pháp. Tiếng tăm của ông vang dội, người các huyện Bình Dương, Tân Lập, Tân Long, Tân An, Tân Hòa nổi dậy hưởng ứng rồi gia nhập nghĩa quân của ông.

Khi Phan Văn Đạt mới khởi binh, thế lực còn yếu, lại thấy quan quân của triều đình đóng ở Biên Hòa không tiến đánh, nên bàn với nhau đóng quân ở nơi hiểm yếu chờ cơ hội. Vì nghĩa quân để mất thế chủ động, nên ngày 16 tháng 7 năm Tân Dậu (1861), tướng Pháp là Ba Xu đóng đồn ở phủ Tân An dò biết tình hình liền đem quân về đánh úp Biện Kiều. Phan Văn Đạt, Lê Cao Dũng cùng 6 nghĩa quân bị bắt, Lê Quang Nghị đóng đồn ở Ô Khê (Tây Nam Biện Kiều) cũng bị quân Pháp tập kích, ông cố sức đánh phá vòng vây chạy thoát.

Giặc Pháp dùng cực hình tra tấn Phạm Văn Đạt, Lê Cao Dũng và 6 nghĩa quân. Song các ông không hề run sợ, không khuất phục, ông bảo với bẩy anh em: "Tôi thì chắc chết, còn các anh thì không can gì. Nhờ các anh em nói lại với các bạn đồng tâm nên cố sức cho thành công".

Thấy ông can trường như vậy, tên chỉ huy Pháp lấy làm lạ, hỏi tên thông ngôn. Tên này trỏ vào Phan Văn Đạt nói rằng: “Người này là hiệt kiệt nhất trong Đảng, nên bắn phứt đi cho rồi!" .

Vì thế Phan Văn Đạt bị hành hình, chúng tàn bạo lấy móc sắt móc vào cổ họng ông treo lên cột buồm tầu của chúng tại Vũng Gù (Tân An) suốt ba ngày cho đến chết. Năm đó ông mới 34 tuổi. Nhân dân vô cùng thương xót: đốt vàng mã, cúng tế ông. Bà chị ông Trần Quang Nghị sai người tìm được thi hài ông đưa về chôn cất ở phía nam Biện Kiều, nơi ông khởi nghĩa.

Tháng 9 năm Tân Dậu (10/1861), vua Tự Đức truy tặng ông hàm tri phủ, trật tòng ngũ phẩm và cho nhân dân lập miếu thờ.
ĐẶNG VĂN TÒNG

Đặng Văn Tòng là con ông Đặng Văn Trước, người tỉnh Bình Định theo cuộc Nam tiến vào Bến Đồn. Ông có công lập ra làng Gia Lộc, tham gia chống quân Cao Miên xâm lược, trở thành tiên hiền làng Gia Lộc, được nhân dân lập miếu thờ.
Đặng Văn Tòng chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp từ khi quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Ông được phong là Lãnh binh. Ông liên kết với Lãnh binh Két khởi nghĩa ở Long Giang, Gò Dầu, nay là quận Hiếu Thiện đánh nhiều trận lớn.
Khi Thống đốc Nguyễn Tri Phương được triều đình cử về chỉ huy đại đồn Chí Hòa, đã giao cho ông chỉ huy một trong năm điểm tựa bảo vệ chiến lũy Biên Hòa.

Khi đó quân Pháp đang đi thăm dò, điều tra sự bố phòng của quân ta ở chiến lũy Chí Hòa. Nghĩa quân tăng cường tuần tra tiêu diệt các toán thám báo này.

Ngày 15/10/1860, nghĩa quân bắn bị thương tên đại úy hải quân Harmand khi hắn đi tuần bằng thuyền trên sông Thị Nghè. Cũng trong tháng 10/1860, quân ta lại phóng lao giết chết tên đại úy thủy quân lục chiến Barhe lúc hắn cưỡi ngựa đi tuần ở chùa Hải Tường. Tên Đại tá D'Arière vô cùng lo lắng vì bị quân ta bao vây khống chế. Song Nguyễn Tri Phương chỉ thế thủ, nếu khi đó ông tiến công quân Pháp thì cầm chắc thắng lợi trong tay và cục diện chiến trường Nam Kỳ sẽ đảo ngược.

Ngày 25/10/1860, mặt trận Hoàng Hải (Trung Quốc) kết thúc bằng một Hiệp ước, từ đó quân Pháp được rảnh tay. Tên Đề đốc Charur được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp đi cứu quân của Đại tá D'Arière bị vây khốn ở Gia Định.

Ngày 7/2/1861, một lực lượng lớn quân Pháp từ Trung Quốc kéo về có 2 hộ tống hạm L'Impératrice Eugénee, Remommer, 4 hộ tống hạm hạng nhẹ, 16 thông báo hạm, 17 quân vận hạm, 1 tầu bệnh viện và một số thuyền buồm với 3.000 quân về tới Gia Định.

4 giờ sáng ngày 24/2/1861, quân Pháp bắn đại bác vào 5 vị trí điểm tựa, trong đó có vị trí do Lãnh binh Đặng Văn Tòng chỉ huy và đồn lũy Chí Hòa. Quân ta phản pháo song vô hiệu vì tầm bắn không tới tầu chiến đậu ngoài biển và pháo đặt ở chùa Khải Tường, chùa Kiểng Phước.

Chiến lũy điểm tựa vỡ, Đặng Văn Tòng cho quân rút về chiến lũy Chí Hòa. Quân ta quần nhau với quân Pháp từ 9 giờ sáng đến 18 giờ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại, song quân ta bị tổn thất nặng nề. Ngày hôm, sau quân Pháp tiếp tục tấn công, hơn 1.000 quân sĩ ta tử trận, xác để lại chiến trường, chỉ đưa được thương binh đi. Quân Pháp chết 1 quan 5 Tây Ban Nha, 4 sĩ quan cao cấp, 121 hạ sĩ quan, 1805 binh lính chết trận. Song quân ta tổn thất nặng nề hơn: Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, Nguyễn Duy tử trận. Đại đồn Chí Hòa thất thủ.

Lãnh binh Đặng Văn Tòng chạy tới Tha La thì bị Việt gian chỉ điểm cho giặc Pháp bắt. Chúng đầy ông sang đảo Guy Am và ông chết ở đó.

Lãnh binh Đặng Văn Tòng có 10 người con đều tham gia chống Pháp, trong đó có 4 người tham gia Thiên Địa hội bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Hai người kết bè trốn thoát, hai người bỏ xác ngoài đảo trong đó có anh Đặng Văn Thoại.

Họ Đặng bị giặc Pháp gán cho tội làm giặc.

PHẠM PHÚ THỨ

Phạm Phú Thứ sinh năm Canh Thìn (1820) trong một gia đình nhà Nho, thuộc hàng thế gia, đời đời có người đỗ đạt, làm quan. Quê ông ở làng Đông Bàn, nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông có tư chất thông minh từ nhỏ, 5 tuổi đã đi học, chăm học. Năm lên 8 tuổi, mẹ mất, ông được cha nuôi nấng chu đáo, cho học hành đến nơi, đến chốn. Năm Nhâm Dần (1842), ông 23 tuổi, thi Hương đỗ đầu. Năm Quý Mão (1843), ông 24 tuổi, thi Hội đỗ Tiến sĩ. Vua Thiệu Trị đổi chữ Thứ là rộng lượng sang chữ Thứ là đông đảo. Từ đó ông dùng tên là Phạm Phú Thứ, tự Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, Trúc Ân.

Ban đầu ông từ ngạch Hàn lâm viện thụ hàm Biên tu được bổ làm Tri phủ Lạng Giang (Bắc Ninh). Năm năm sau, dưới triều Tự Đức, ông được thăng Hàn lâm Thị độc. Sau được sung vào chức Kinh diên Khởi cư trú.

Phạm Phú Thứ không ngần ngại phê phán các quan trễ nải việc nước, tham nhũng. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) bấy giờ nhân mưa rét, thấy nhà vua nào là bãi triều, nào là nhà Kinh diên cũng ít ra ngự. Phú Thứ dâng sớ can ngăn, phê phán vua ham chơi, lơi lỏng việc triều chính song ông lại bị cách chức, kết án khổ sai, đầy đi cắt cỏ ngựa ở trạm Bưu chính Thừa Nông (Huế). Một năm sau, do bà Từ Dũ khuyên can vua, ông mới được phục hồi chức Hàn lâm viện rồi đi công cán ở Quảng Đông (Trung Quốc). Tại đây ông tiếp xúc với sách báo phương Tây, thôi thúc ông phải cải cách kinh tế lạc hậu, bế quan tỏa cảng của triều đình Huế. Cũng trong dịp ở Quảng Đông, ông được chứng kiến phố phường ở đây đang đẩy nhanh tốc độ phát triển công thương nghiệp. Nhìn sang Ma Cao, nhượng địa của Anh quốc đã nhanh chóng trở thành một trung tâm thương mại quốc tế. Cửa hàng, cửa hiệu san sát, ống khói các nhà máy vươn cao, nhả khói lên bầu trời. Phố xá tấp nập, trên bến, dưới thuyền. Các hoạt động kinh tế sôi động biểu thị của sự ấm no, hạnh phúc trái ngược hẳn với không khí im lìm, lặng lẽ của xứ Huế.

Nhìn quang cảnh náo nhiệt của xứ người, ông càng thấy Việt Nam muốn giàu mạnh, muốn tự cường thì phải mạnh dạn xóa bỏ quan điểm thủ cựu của triều đình Huế, phải giao lưu với thế giới, phải tiếp nhận nền khoa học kỹ thuật tiên tiến của châu Âu.

Đi sứ về, ông chưa đề đạt những kiến nghị lên vua được, ông được bổ làm tri phủ Tư Nghĩa. Ở đây dân rất nghèo, ông khuyến khích nhân dân khai hoang, đắp đập, đào mương. Ông khuyến khích các làng xã lập kho nghĩa thương để trợ giúp nhau khi đói kém. Sau đó ông được điều về kinh làm viên ngoại lang bộ Lễ. Gặp lúc quân Man ở Vách đá nổi loạn, vua thấy ông trước đã làm quan ở Tư Nghĩa, nên phái theo quân đánh dẹp. Việc thành công, năm 1856, ông được cử làm Án sát Thanh Hóa.

Điều tâm huyết của ông từ khi đi công cán ở Quảng Đông, mãi đến khi ông làm Án sát Thanh Hóa mới có cơ hội thực hiện. Ông khuyến nghị với triều đình Tự Đức tổ chức đóng tầu, thuyền vận tải. Ông chỉ đạo đóng chiếc tầu bọc đồng mang tên Thụy Nhạc, hoàn thành trong một thời gian ngắn.

Năm 1858, Phạm Phú Thứ được bổ nhiệm làm Án sát tỉnh Hà Nội. Ông đã dâng sớ lên triều đình đề đạt một "phương án về cải cách kinh tế, quốc phòng”.

Đầu tháng 9 năm 1858, khi nghe tin giặc Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ lên cửa biển Đà Nẵng (1/9/1858) ông dâng sớ thỉnh nguyện triều đình xin cho tất cả các quan viên nguyên quán ở Quảng Nam hiện tại kinh đô Huế được trở về quê hương chiêu tập dũng binh chống Pháp xâm lược. Nhưng đề xuất của ông bị triều đình bác bỏ.

Năm 1859, Phạm Phú Thứ được thăng Hàn lâm thị độc đại học sĩ, giữ chức Tham biện nội các. Trên đường đi kinh lý ở miền Trung ông ghé lại quê nhà ở xã Đông Bàn, tỉnh Quảng Nam, ông càng hiểu rõ nỗi khổ của nhân dân. Trở về kinh đô, ông dâng sớ lên triều đình đắp đê Cu Nhí, huyện Điện Bàn, đào kênh Ái Nghĩa ở huyện Đại Lộc, để tưới và tiêu nước và giao thông đường thủy thuận lợi. Trước nguy cơ giặc Pháp tái chiếm Đà Nẵng và các phủ huyện, ông đề đạt với các quan tỉnh Quảng Nam khẩn cấp xây dựng đồn lũy, bố phòng ở các cửa sông, các vị trí sung yếu, bổ sung và luyện tập cho dân binh có đủ năng lực chiến đấu tại chỗ.

Năm 1860 , ông được thăng Tả tham tri bộ Lại và thăng hàm Quang lộc Tự khanh.

Năm Quý Hợi (1863), Tự Đức thứ 16, ông được cử vào phái bộ của triều đình sang Pháp và Tây Ban Nha xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Yêu sách của sứ bộ không đạt kết quả. Phạm Phú Thứ đã không bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi để học hỏi kỹ nghệ, tìm hiểu kỹ nghệ phương Tây về công nghiệp, nội thương, ngoại thương, giao thông vận tải đưa về nước cách tân. Từ tháng 9/1863 đến tháng 3/1864, bất cứ đi tới đâu từ La Caire của Ai Cập, đến Rôma nước Ý đặc biệt khi tới Pháp lừ Toulou đến Marseille sau đến đến Paris thủ đô nước Pháp, sau đó sang Madrid thủ đô Tây Ban Nha không một sự kiện mới lạ nào không được ông ghi chép, nhận xét đầy đủ. Riêng về công nghệ được ông quan tâm hàng đầu, ông đã đến thăm hàng chục cơ sở công nghiệp nhẹ như xưởng sản xuất giấy, đến công nghiệp nặng chế tạo máy sản xuất như máy bơm nước, máy tiện, chế tạo ô tô, tầu hỏa, tầu thủy, sản xuất súng đạn. ông cũng không bỏ qua các xí nghiệp làm phim ảnh, mạ vàng, đúc chì và cả các hiệu ảnh cùng quy trình chụp ảnh, tráng phim, rửa ảnh. Đến thăm các nhà máy, ông không coi là người tham quan, mà thực sự cầu thị, ông đã tìm hiểu kỹ cả quy mô, cấu tạo của từng loại nhà máy, quy trình sản xuất, vận hành máy móc và hiệu quả của từng nhà máy để khi nước ta có điều kiện có thể ứng dụng được Thời gian ở Ai Cập không lâu, nhưng ông đã vẽ kiểu, đo kích thước tổng thể và từng chi tiết xe trâu đưa nước vào ruộng. Ông đã đưa về Quảng Nam áp dụng, từ đó phải phát triển ra Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Những ghi chép trên, Phạm Phú Thứ in thành tập tên “Tây hành nhật ký” dày 330 trang bằng chữ Hán. Cùng với tập sách "công nghệ" này còn có tập thơ “Tây phù thi thảo” của Phái bộ. Ông đã dâng hai quyển sách đó lên vua Tự Đức. Cảm kích tấm lòng của ông đối với tương lai của đất nước, Tự Đức tặng ông hai câu thơ:

Lịch thiệp dĩ thân nam tử chí
Mẫu thời vị tất phó không chương


Có nghĩa là:

Thỏa chí nam nhi khi giao thiệp
Lo đời không chịu để tờ không.


Song các điều trần của ông cũng giống như các điều trần của Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đều bị Tự Đức coi là những ý nghĩ ngông cuồng không xét đến mà vẫn bo bo giữ đầu óc thủ cựu, bế quan, tỏa cảng.

Năm Ất Sửu Tự Đức thứ 18 (1865) triều đình thăng ông làm Thự Hộ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần cơ mật. Ông xin đặt 4 tuyên phủ sứ ở các địa đầu: về Quảng Trị thì ở 9 châu Cam Lộ; về Bình Định thì ở nơi cùng cực về địa giới phía tây trên tổng An Tây; về Nghệ An thì ở phủ Trấn Tây; về Hưng Hóa thì ở phủ Điện Biên, xây thành làm tường giao dịch chợ búa, ngoài sửa thuế thương chính, mà ngụ ý về quân chính. Ông lại xin lập thổ tù đời đời được tiếp tập mà liệu đánh thuế khiến cha con anh em họ cùng nhau ngăn giữ. Đình thần cho lời trình bày thư có ý kiến làm mạnh vững nơi biên phòng, xin mật tư cho các tỉnh dò xét rồi phúc lại, nhưng việc rút cục không thành.

Năm Tự Đức thứ 26 (1873) vì Hộ bộ giấu lỗi rồi về hóa vật của nhà nước, phải giáng Thị lang, rồi khôi phục Tham tri vẫn thự Thương thư. Tuy thất vọng nhưng Phạm Phú Thứ vẫn nén lòng chờ đợi cơ hội thuận lợi để thực hiện nguyện vọng của mình là cách tân đất nước.

Năm Tự Đức thứ 27 (1874) ở Bắc kỳ mới mở tòa Thương chính, các nước tới họp đông đúc, qua lại thành thù ứng, sự thể nặng nề. Vua cho Phú Thứ am hiểu và tài cán lão luyện từng dự vào khu phủ, biết rõ trước sau, đổi thự Hải Dương Tổng đốc kiêm sung Tổng lý thương chính đại thần.

Nơi ông đến nhận chức đầy rẫy khó khăn, trước đó bị giặc Tạ Văn Phụng, tay sai của giặc Pháp đánh phá. Tỉnh thành lại bị giặc Pháp đánh chiếm năm 1873 vẫn tan hoang. Nhưng mối nguy hiểm nhất vẫn là sau nhiều năm đê Văn Giang (Bắc Ninh), đê sông Đuống, đê sông Thái Bình vỡ, cả tỉnh Hải Dương mùa mưa năm nào cũng chìm trong nước, hơn 20.000 dân Hải Dương bị đói. Ông tổ chức ngay việc chẩn cấp cho dân đói. Với cương vị Tổng lý Thương chính đại thần Phạm Phú Thứ ra lệnh cho quan tỉnh Hưng Yên mở kho xuất 50 vạn phương thóc cho dân đói và khuyến khích nhà giàu mở lẫm lúa để cứu đói cho dân làng. Để cứu đói lâu dài, ông tổ chức cho nhân dân khai hoang, trồng cây ngắn ngày; cho mở các công trình thủy lợi ở Đông Triều, Nam Sách (Hải Dương).

Phạm Phú Thứ có chủ trương và đề ra biện pháp cụ thể khôi phục tỉnh thành Hải Dương bị giặc Pháp tàn phá nặng nề; ông cho đào rộng thêm một đoạn sông ở phủ Bình Giang để thuận tiện cho giao thông đường thủy. Ông thành lập nha Thương chính Ninh Hải để cùng với Lãnh sự Pháp đưa cảng Hải Phòng vào hoạt động. Để phát triển giáo dục, ông cho mở trường dạy học, mở lớp dạy tiếng, dạy chữ Pháp ở Hải Phòng. Với ý thức phổ biến khoa học kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, ông cho khôi phục Nhà xuất bản Hải học đường tại tỉnh lỵ Hải Dương có từ thời Gia Long (1802-1805). Nhà xuất bản này đã xuất bản bốn cuốn sách của phương Tây đã dịch từ tiếng Anh ra tiếng Hán là: Bác vật tây liên (Khoa học tự nhiên), Khai môi yếu pháp (Phương pháp khai mỏ), Hàng hải kim châm (Kỹ thuật đi biển) , Vạn quốc công pháp (Công pháp các nước).

Phạm Phú Thứ còn quan tâm một số vấn đề về khoa học công nghệ như quy trình đúc súng, khai thác than đá, khai thác quặng sắt và luyện thép, sản xuất đồ dùng bằng thủy tinh theo quy trình công nghệ. Ông cũng quan tâm đến hóa học như giải thích tính năng, tác dụng của chất Axit sunfuric trong công nghệ. các sách xuất bản và các buổi diễn thuyết của ông về khoa học phổ cập được nhiều giới công thương, nhân dân quan tâm và có liếng vang trong xã hội đương thời.

Ông không những quan tâm về các vấn đề kinh tế công thương nghiệp, thủy lợi, nông nghiệp, giáo dục mà còn tổ chức lực lượng trang bị vũ khí hiện đại, phương tiện hoạt động cho lực lượng phòng thủ bờ biển, hải đảo và biên giới.

Phạm Phú Thứ đi đường qua Thanh Hóa có hỏi hết Phan Đức Trạch, trước khi làm niết sự ở Thanh (bấy giờ lĩnh Bố chính ở Nam Định) làm việc phần nhiều không đúng, có tờ mật phong tâu lên. Vua giao tờ ấy xuống viện duyệt lại. Khi ông tới tỉnh thì tỉnh thành sau khi linh hỏa, dinh thự bị đốt phá, làng ấp tiêu điều, khi trước có bàn đặt nha thư để khai trương việc tuần phòng ở biển, đều chưa xây dựng. Phú Thứ hàng ngày cùng phó viện mới là Nguyễn Tăng, Nguyễn Đa Phương mưu xếp đặt công việc dần dần đã có manh mối. Gặp lúc đê huyện Văn Giang, tỉnh Bắc vỡ, nước lụt tràn qua bao phủ Bình Giang, Ninh Giang thuộc Hải Dương, dân đói phiêu lưu tản mát tới tỉnh đợi chẩn kể có hàng vạn mà kho không còn của để. Phú Thứ xin phân trích ở kho gạo Hưng Yên 5 vạn phương phát chẩn cho lại cho dân cầm cố đồ đạc cấp cho nhà có của. Lại phái thuộc hạ đem những người khỏe mạnh tới huyện Đông Triều cày cấy, khai khẩn sinh sống, chờ khi nước xuống cho về làng mạc, dân nhờ đó mới sống. Khi nha thự về thương chính đã xong, hội đồng lãnh sự mở cảng chiêu thương, một dải sông Cấm thuyền xe tụ họp đông đúc thành nơi lạc thổ.

Năm Bính Tý (1876), Tự Đức thứ 29, Phạm Phú Thứ đánh dẹp giặc biển ở đảo Cát Bà lưu dân yên nghiệp, đặt chức bang trưởng, đầu mục. Từ đó lưu dân Khâm Châu tràn sang không dám gây bạo loạn. Ông được phong chức Tổng đốc.

Năm Tự Đức thứ 31 (1878), ông được thăng thự Hiệp biện đại học sĩ vẫn lĩnh Tổng đốc. Ông tâu vua phái quân dẹp thổ phỉ nước 'Thanh là Lý Dương Tài quấy rối hai tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh mà huyện Đông Triều - Nam Sách cũng tiếp cận. Vua cho Đề đốc Tôn Thất Hòe đem 500 quân lên đóng giữ. Ông tâu lính ở lâu chi phí rộng mà nhàn hạ dễ sinh trễ nải. Xét ra nơi đó ruộng đất bỏ hoang đến 21.800 mẫu có lẻ, xin cho đặt nha phòng khẩn, vừa phòng thủ, vừa khai khẩn. Vua y lời tâu cho thi hành. Cũng năm 1878, do quân buôn giảo quyệt khởi xướng phao đồn là gạo xuất cho người Pháp thì nghiêm cấm, xuất cho người Thanh thì buông tha... đều do Phú Thứ làm cả. Vua chưa tin, cho quan đi tra xét.

Năm Kỷ Mão (1879), Tự Đức thứ 32, gặp lễ thất tuần đại khánh của Hoàng hậu Từ Dũ, ông về kinh lạy mừng và xin được chuyển. Vua chấp thuận, cử người thay thế. Bọn con buôn gian xảo phao tin thất thiệt, khiến ông mật tấu xin ở lại. Đình thần nghị bàn cho rằng ông thiếu sự hòa hợp với người Pháp, mà nâng đỡ cho con buôn nhà Thanh. Ngoài ra ông còn bị Khâm sai Ngự sử đàn hặc tội danh, để cho anh em họ ngoại là Lương Văn Tiến cậy thế làm ăn phi pháp. Trong khi đó ông bị bệnh, phải xin về kinh chạy chữa và đợi xét án.

Năm Canh Thìn (1880), Tự Đức thứ 33, khi xét án dâng lên, vua giáng ông xuống hàm Quang lộc Tự khanh, giữ chức Tham tri ở Bộ Binh.

Năm Tự Đức thứ 34 (1881), ông được thăng Thượng thư bộ Hộ, đổi là Tổng đốc Hải Yên sung Thượng chính đại thần.
Về cuối đời trên cương vị trọng thần, ông chỉ góp phần vào cuộc "Nghị hòa ", giữa triều đình Huế với thực dân Pháp. Khi nghị hòa lâm vào bế tắc, ông bị ngự sử đàn hặc và bị triệu về kinh "Hậu cứu”.

Năm 1887, ông 68 tuổi xin về nghỉ, rồi mất.

Ông mất trong tỉnh cảnh bi đát của đời mình và giữa những ngày rối như tơ vò của triều đình trước họa xâm lược của thực dân Pháp.

Sau khi ông mất, triều đình xét kỹ công lao, truy phục Khâm sai đại thần hàm nhất phẩm với tước phong “Vinh lộc đại phu trụ quốc hiệp biện đại học sĩ”.

Vua Tự Đức cũng thương tiếc, dụ rằng: “Phú Thứ kinh lịch nhiều khó nhọc, đi Đông, sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối. Về việc tới trông coi thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi, công việc đều có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo”. Những lưu dân, gian phỉ chứa ác ở Quảng Yên, ông tới kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán hàng ngày rực rỡ đáng nêu. Gia ơn cho truy phục nguyên hàm Thự Hiệp biện Đại học sĩ và chuẩn cho thực thụ, cũng sức cho địa phương tới tế một tuần”. (Đại Nam chính biên liệt truyện, tập IV. NXB Thuận Hóa. Huế. 1993).

Tang lễ ông tổ chức tại quê nhà, triều đình viết lời điếu có đoạn: “Phạm Phú Thứ kinh lịch nhiều nơi khó nhọc. Từ Đông sang Tây bồng bềnh chân mây mặt nước (đại hải trine trùng) đến Thương chính đại thần, dù sức yếu, chẳng từ nan. Mọi việc trước sau cho hoàn tất cả. Thật là đất Nam Trung hiếm có”. (Đại Nam chính biên liệt truyện, tập IV. NXB Thuận Hóa. Huế. 1993).

Phạm Phú Thứ còn nổi tiếng về sáng tác văn thơ, dịch thuật, nghiên cứu, bình luận thơ văn của các tác gia lớn như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Thông, Nguyễn Tư Giản…

Thơ văn Phạm Phú Thứ đề cập đến nhiều vấn đề lớn, nhỏ của đất nước. Ông quan tâm đến giặc ngoài từ phương Tây đến đang rình rập ở ngoài biển Đông.

Nhà sử học Trần Văn Giáp đã nói về văn thơ của ông: “Trúc Đường Phạm Phú Thứ có một số tác phẩm văn và thơ chữ Hán, dưới thời Tự Đức, vừa là tài liệu tham khảo về sử cận đại, vừa là phản ánh được sự chuyển biến tư tưởng của phái Nho học thời đó sau khi đã qua châu Âu đã nói lên sự đóng góp to lớn của ông đối với văn học nước nhà ở nhà sau thế kỷ XIX”. (Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999. trang 117-127)

VŨ ĐỨC KHUÊ

Vũ Đức Khuê sinh năm Quý Sửu (1793 ) người xã Hoa Đường, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Lương Ngọc, xã Huỳnh Thúc Kháng, ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

Vũ Đức Khuê thi Hương đỗ Hương cống khoa Tân Tỵ (Minh Mệnh thứ 2 (1821). Ông đỗ đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822) khi 30 tuổi. Lúc đầu ông làm Hàn lâm Thị độc. Ông làm quan đến Hộ bộ Tham tri. Sau ông bị giáng xuống Tư vụ.

Tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, triều đình hạ lệnh cho các quan lại ở Nam kỳ được phép tiếp nhận những người tình nguyện gia nhập đội quân chính quy để đi chống giặc Pháp. Cho phép nhân dân Nam Kỳ rèn đúc vũ khí và tổ chức các đoàn hương dũng để tự bảo vệ nhà cửa, làng xã, cho phép sĩ phu Nam Kỳ chiêu mộ nghĩa quân thành lập đội ngũ để đánh giặc hoặc theo quân thứ của triều đình để chống giặc.

Vũ Đức Khuê đã hăng hái mộ quân nghĩa dũng đến quân thứ Biên Hòa để trợ lực với Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp. Quân ta đắp thành đất ở núi Phúc Thắng (Biên Hòa) để bảo vệ pháo đài trên núi chống quân Pháp.

Ngày 16 tháng 12 năm 1861, quân Pháp mở chiến dịch tấn công vào lỉnh thành Biên Hòa. Vũ Đức Khuê cùng các tướng chỉ huy nghĩa quân chiến đấu quyết liệt gây cho quân Pháp bị thương vong nặng nề. Song quân Pháp thiện chiến, trang bị vũ khí tối tân, có đại bác yểm trợ, nên ngày 18 tháng 12 năm 1861 tỉnh thành Biên Hòa thất thủ. Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang, Bố chánh Đỗ Thúc Tĩnh, Vũ Đức Khuê bị triều đình bắt đưa đi biệt xứ.

Vũ Đức Khuê trốn về Gia Định chiêu tập nghĩa binh liếp tục đánh Pháp. Sau triều đình ký hòa ước với Pháp, ông được phong Hồng lô Tự khanh, đi làm Tuyên phủ sứ Quảng Yên về Kinh làm Biện lý hình tu sự vụ. Sau ông được điều về làm Hộ lý Tuần phủ Quảng Yên. Giặc biển tay sai của thực dân Pháp vào đánh phá, ông kiên cường chỉ huy quân sĩ đánh trả và đã anh dũng hy sinh. Ông được truy tặng Bố chính Quảng Yên.
(Ông nghè ông cống Triều Nguyễn -
Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam -
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội)

NGUYỄN TRUNG TRỰC

Nguyễn Trung Trực khi nhỏ tên là Chơn, khi giặc Pháp xâm lược, ông gia nhập quân thứ Trương Định mới đổi tên là Nguyễn Văn Lịch, sau đó lại đổi tên là Nguyễn Trung Trực. Ông sinh năm 1838 trong tầng lớp ngư dân ở xóm Nghè, xã Bình Đức, phủ Tân An, xưa thuộc tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Long An.

Ngày 25/2/1861, ông tham gia chống quân Pháp ở Đại đồn Kỳ Hòa dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương. Đồn Kỳ Hòa vỡ, ông cũng thu thập tàn quân ở Kỳ Hòa, tuyển thêm quân mới đánh quân Pháp hàng chục trận ở trên bộ và dưới sông tại ba tỉnh miền Đông.

Ngày 10/12/1861, ông chỉ huy quân đốt cháy tàu Hy Vọng do tên trung úy Bacfe chỉ huy 45 tên lính trên sông Vàm Cỏ Đông thuộc thôn Nhật Tảo. Nghĩa quân chỉ có 54 người đã tiêu diệt toàn bộ quân lính trên tàu quân tới cứu viện. Nghĩa quân hy sinh 4 chiến sỹ. Đây là trận đầu tiên quân ta nhấn chìm được tầu đồng của phương Tây giữa ban ngày khiến cho giặc Pháp phải kinh hoàng.

Sau trận này tiếng tăm của Nguyễn Văn Lịch nổi lên như một lãnh tụ nghĩa quân kiệt xuất bên cạnh tướng quân Trương Định. Triều đình Huế phong sung chức Quản cơ. Ông ra kinh đô Huế nhận chức rồi vào Hà Tiên làm Thành thủ úy.

Năm 1862, Nguyễn Văn Lịch tấn công tiểu hạm do đại úy Gougeard chỉ huy tại Vũng Gù. Ông còn tấn công đồn Thủ Thừa và đồn Tân Uyên nhiều trận dữ dội.

Ngày 16/2/1862, Nguyễn Văn Lịch lại đánh tầu tại bến Lức trên sông Rạch Tra. Trong trận này nghĩa quân táo bạo đánh giặc với phương thức hết sức thủ công, là nghĩa quân dùng sợi dây đôi buộc vào tầu rồi đứng trên bờ đồng thanh hò la kéo cho tàu chạy mắc cạn để phóng hỏa đốt tầu. Quân Pháp phải dùng súng bắn đá, nạp đạn bằng sắt để bắn trả.

Triều đình Huế dấn sâu vào con đường bán nước, thăng cho Nguyễn Văn Lịch chức Lãnh binh để điều ông ra miền Trung. Nguyễn Văn Lịch chống lệnh, trả chức tước của triều đình, đổi tên là Nguyễn Trung Trực, đưa nghĩa quân về cứ điểm Hòn Chông lập đồn trại, huấn luyện tân binh, xây dựng lực lượng. Ông còn có tên nữa là Quản Chôm (Chôm là Châu Trực, Trung Trực). Tại căn cứ Hòn Chông, ông được đồng bào ở Tà Niên, Đông Yên, Vĩnh Hòa, nhiệt liệt gia nhập nghĩa quân, ủng hộ quân lương, giúp nghĩa quân xây dựng đồn trại.

Khoảng ngày 10/6/1868, Nguyễn Trung Trực từ Hòn Chông theo đường biển vào sông Cái Bè rồi vào rạch Trà Niên. Tại đây ông chiêu tập được 100 nghĩa quân một cách nhanh chóng. Nghĩa quân chỉ được trang bị giáo, mác là chính để đánh đồn Kiên Giang (nay là thị xã Rạch Giá). Rạng sáng ngày 16/6/1868, nghĩa quân áp sát một cách bí mật chiếm được đồn.

Cay cú trước thất bại nhục nhã đó, ngày 18/6/1868, tên trung tá hải quân An Sa (Ansart) từ Vĩnh Long đem theo lực lượng lớn quân Pháp, chia làm ba cánh quân theo hai đường thủy bộ tiến đánh tỉnh lỵ Rạch Giá. Ngay trưa 18/6/1868, Nguyễn Trung Trực đã phán đoán quân Pháp sẽ tiến công, nên đã có kế hoạch tác chiến từ xa. Trước sức tấn công mãnh liệt của giặc có ưu thế về quân số và vũ khí, Nguyễn Trung Trực lui về đồn Kiên Giang. Trận này nghĩa quân làm chủ tỉnh lỵ được sáu ngày.

Nghĩa quân phải xuống thuyền trở lại Hòn Chông. Nguyễn Trung Trực phán đoán, quân Pháp có hạm đội ca nô, phần lớn là lính hải quân chúng sẽ bao vây chặt Hòn Chông mà tiêu diệt. Vì vậy nghĩa quân lấy 40 chiến thuyền do ông chuẩn bị từ trước vượt biển chạy ra đảo Phú Quốc. Khi tên Đômănggơ chỉ huy một cánh bộ binh từ Châu Đốc tiến qua Hà Tiên, men theo ven biển xuống Hòn Chông, thì loàn bộ nghĩa quân đã rút lui an toàn.

Nguyễn Trung Trực đổ bộ vào An Thái, cực nam đảo Phú Quốc, và được chánh tổng Nguyễn Văn Điền và Xã Ngợi rất ủng hộ. Sau đó ông dẫn quân lên đóng ở ven rừng Hàm Ninh, xây dựng trận địa phòng thủ.

Giặc Pháp đưa tên phản bội Huỳnh Văn Tấn, kẻ đã bắt Trương Định giao cho Pháp, nay được giặc cho làm lãnh binh tới bắt Nguyễn Trung Trực. Tên này đưa 125 lính tập trung dân làng, buộc mọi người phải chỉ dẫn chỗ ở của Nguyễn Trung Trực, nhưng không ai chịu nói. Tên phản bội sai lính treo ngược mọi người lên tra tấn dã man nhưng không ai khai một lời. Tin này truyền đến tai Nguyễn Trung Trực, ông không muốn vì ông mà nhân dân bị giặc tàn sát, bèn sai đổ quân lương xuống sông, giải tán nghĩa quân còn lại, sai người trói ông lại, giả là bắt được, dẫn về Đông Dương. Đến nơi ông đứng trên cồn bên Hữu Ngạn gọi Tấn đem thuyền ra đón. Giặc bắt được Nguyễn Trung Trực vào ngày 19/9/1868.

Bọn xâm lược Pháp và lũ tay sai ra sức dụ dỗ ông theo chúng, vẫn không lay chuyển được tấm lòng trung với nước của ông. Chúng đưa ông về Rạch Giá, kết án xử tử hình ông.

Ngày 27/10/1868, đưa ông ra xử tử hình công khai ở Rạch Giá. Ông bình tĩnh, đòi giặc mở trói, mặc lễ phục áo thụng, khăn đen đường bệ. Ông còn đòi cho nhân dân trong tỉnh đến chứng kiến để có dịp vĩnh biệt nhân dân.

Đao phủ hôm ấy không phải là người Việt Nam, và không ai muốn tự tay giết một vị anh hùng. Trước khi giặc hành quyết, ông dõng dạc tuyên bố: "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, thì mới hết người Nam đánh Tây”.

Khi đầu ông rơi xuống đất trong pháp trường cũng có người tự vẫn để tỏ lòng thương tiếc ông. Nhân dân xin thi thể ông về mai táng trọng thể. Ở Long Kiên, Rạch Giá vẫn còn mộ và đền thờ ông.

Tin Nguyễn Trung Trực hy sinh truyền đến triều đình Huế, vua Tự Đức, một người chủ trương chủ hòa cũng phải làm thơ nhiệt liệt ca ngợi ông.

Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá hàng ngày có hàng trăm người đến thắp hương tưởng niệm ông.

PHAN TRUNG

Phan Trung tự là Tử Đan, tên hiệu là Bút Phong trước tên là Cự Chính. Tổ tiên gốc người Phúc Kiến, Trung Quốc, tổ bốn đời sang nước Việt cư trú tại Ninh Thuận, tỉnh Khánh Hòa. Ông là người cương nghị có khí tiết.

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) đỗ Cử nhân, làm Tri huyện Tân Thịnh. Song vì có việc kiện tụng bị cách chức.

Năm Tự Đức thứ 14 (tháng 9/1861) ông đang là tùy phái Gia Định, đã chiêu mộ được 2000 nghĩa binh, thành lập 2 cơ. Đội quân của ông cùng với hơn 6000 quân của Trương Định, Phó quản cơ Gia Định, 2000 quân của Tri phủ Phước Long Nguyễn Thành ý, Tri phủ Phước Tuy, Gia Định hợp binh đánh Pháp nhiều trận. Ông được khôi phục quan tịch và thăng Thị giảng Học sĩ.

Cũng như Trương Định, Phan Trung chống lệnh bãi binh của triều đình. Từ sau tháng 8/1862 , Phan Trung vẫn ra vào vùng núi Gia Định, Định Tường, Biên Hòa để liêu diệt quân Pháp và bọn lính mã tà (dân đạo Thiên Chúa đi lính cho Pháp). Giặc Pháp rất hoảng sợ và căm tức, song không làm gì được ông.

Khi Phan Trung hoạt động ở Phan Rang (Bình Thuận) thực dân Pháp khiếp sợ, đòi quan tỉnh Bình Thuận phải giải tán nghĩa quân và bắt Phan Trung giao cho chúng. Triều đình Huế sợ quân Pháp, một mặt lệnh cho Phan Trung rút quân đi nơi khác, một mặt phái người đi gặp Pháp để dàn xếp.

Phan Trung chuyển nghĩa quân đến Phan Rang hoạt động Ông mang hàm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ và giữ chức Tri huyện.

Phan Trung đưa nghĩa quân đến khai thác đồn điền ở Tính Linh gần đồn Bảo Chính thuộc tỉnh Bình Thuận, giáp ranh khu vực quân Pháp chiếm đóng. Phan Trung chỉ mượn cớ mở mang đồn điền để sản xuất tích trữ lương thực, đồng thời đào hào, đắp lũy thành một cứ điểm quân sự. Hơn 500 người đang khai khẩn đồn điền là nghĩa quân trực chiến dưới quyền chỉ huy của Phan Trung từ năm 1861.

Giặc Pháp lo sợ nghĩa quân Phan Trung sẽ từ đồn điền uy hiếp chúng. Tháng 2/1865, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phan Trung hoạt động mạnh ở Phan Rang (Bình Thuận), thực dân Pháp hoảng sợ yêu cầu quan tỉnh Bình Thuận ra lệnh giải tán nghĩa quân và bắt giao Phan Trung cho chúng xử lý. Triều đình ra lệnh cho Phan Trung chuyển quân đi nơi khác và cho người thương lượng với Pháp. Đến tháng 7/1866, chúng đòi triều đình Huế phải khám xét, xác định rõ ràng địa giới của đồn điền Bảo chính. Triều đình phải cử Nguyễn Văn Phương - Doanh điền sứ Bình Thuận - Khánh Hòa - Phú Yên đi làm việc này với ông mới được sung chức bổ Thị độc học sĩ, sung Khánh Hòa điền nông sứ, cấp cho ấn quan phòng và sai bọn dũng mộ đi khẩn điền. Bắt đầu đến nhận chức, Trung cùng với Bình Thuận Doanh điền sứ Nguyễn Văn Phương điều bắt dân phu đào con cừ Đồng Mới dài 1023 trượng, thủy thế làm cho hơn 2000 mẫu ruộng đất có nước cày cấy dân được tiện lợi.

Tháng 9/1867, quân Pháp lại ép triều đình Huế chuyển Phan Trung cùng số người đang khai khẩn đồn điền ở Tính Linh đi nơi đi nơi khác để bảo đảm an toàn cho chúng. Triều đình Huế phải nghe theo, liền cấp ấn “Khâm phái quan phòng” cho Phan Trung và bắt chuyển số "cựu nghĩa binh" đó đi khai khẩn đất hoang ở các tỉnh Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên để được lòng Pháp.

Năm Tự Đức thứ 32 (1879), Phan Trung được sung làm Tả trực kỹ khâm điểm (Quan ở địa phương được vua chấm về kinh chúc hỗ). Vua cho vời vào điện riêng. Trung tâu thưa từng khoản tường tận. Vua khen là người trung nghĩa khảng khái, cho bạt bổ thị lang Hộ bộ, vẫn sung chức Điền Nông sứ.

Năm Tự Đức thứ 35 (1883), Phan Trung được triệu về kinh. Năm đầu Phúc Kiến (1884), ông xin về nghỉ rồi mất, thọ 71 tuổi.
TRỊNH VIẾT BÀNG

Trịnh Viết Bàng người thôn Tân Định, nay là xã Định Trung, huyện Bình Đạo, tỉnh Bến Tre. Năm 1859, giặc Pháp đánh ba tỉnh miền Đông, ông tham gia phong trào chống Pháp do Trương Định lãnh đạo. Khi chủ tướng hy sinh (20/8/1864), ông với người con cả là Trịnh Văn Diệm và các ông Tô, ông Kiểu đưa một nhóm nghĩa quân rút về vùng cù lao An Hóa tại quê nhà vận động nhân dân gia nhập nghĩa quân, đào hào, đắp lũy, xây dựng căn cứ chống giặc.

Trịnh Viết Bàng tránh các trận đánh phá lớn của giặc, ông chia nghĩa quân thành từng nhóm nhỏ đột nhập vào các làng diệt những tên tay sai, mật vụ và đón đánh những toán quân Pháp nhỏ. Nghĩa quân được nhân dân che chở, bảo vệ, nên chúng không sao tiêu diệt hết được.

Trong một trận càn quét khu vực quanh làng Vang Quới, giặc không bắt được người nào đến chiều đành phải rút quân. Không ngờ neo tầu bị kẹt gốc dừa, bọn lính phải lặn xuống gỡ neo. Con chó của tên chỉ huy thấy trên bờ có con kỳ đà liền nhẩy lên đuổi bắt. Sợ chó bị lạc, tên chỉ huy dẫn một toán lính đuổi theo con chó. Con kỳ đà bị đuổi leo lên cây dừa. Con chó đuổi theo đứng dưới gốc cây dừa sủa ầm ĩ. Tên chỉ huy thấy lạ, đến nơi nhìn lên thì phát hiện ra trên đó có người đang trốn. Hắn bắn súng dọa để người trên cây phải tụt xuống, nhưng không kết quả, liền lệnh cho lính bắt sống người này. Thật là bất ngờ khi chúng phát hiện ra người đó là Trịnh Viết Bàng, người chúng mất bao công tìm kiếm. Giặc trói ông giải về Mỹ Tho. Mặc dù tay bị trói, ông vẫn đá lộn cổ hai tên xuống sông, toan nhảy xuống sông, nhưng bọn chúng đông đã giữ ông lại. Giặc giam ông ở Cồn Rồng. Chúng tra tấn, dụ dỗ mua chuộc nhưng không khai thác được ở ông điều gì. Chúng dọa tử hình ông và giết chết con cháu ông, nhưng ông vẫn thản nhiên, không khuất phục.

Ông biết giặc Pháp sẽ giết mình, ông đã dặn dò vợ và hai thủ hạ thân tín đã đóng giả vai họ hàng đến thăm là ông Mật và ông Kèo rằng: "Ta chết, bọn bay về nói lại với thằng Diệm, con của tao và ông Tô, ông Kiểu cùng với các chiến hữu còn lại không nên đau buồn nhiều, mà hãy cùng nhau ráng sức gây dựng lại lực lương, làm cho đặng việc lớn. Sau khi ta chết rồi, hãy đem xác ta chôn ở nơi ngã tư để cho con cháu và mọi người nhớ mà không theo giặc..”.

Thực hiện di chúc của ông, sau khi giặc xử chém ông ở Cồn Rồng, con cháu, nghĩa quân đưa thi thể ông về táng ở ngã tư Giồng Tre, cạnh lộ Đá, nay thuộc xã Định Trung, huyện Bình Đại. Nhân dân thương tiếc người anh hùng nên bất chấp giặc Pháp đóng đồn ở gần đó và lũ tay sai lảng vảng ở quanh Giồng Tre đã tổ chức lễ tang ông trọng thể. Bà con trong vùng vô cùng thương tiếc người anh hùng đánh Pháp kiên cường bất khuất. Cụ Đồ Chiểu ở Ba Tri xúc động gởi lời chia buồn vì không thể đến viếng được.

Sau đó ít lâu, ông Kiểu bị giặc Pháp bắn chết ở Vang Quới. Lực lượng nghĩa quân dần dần tan rã. Ông Tô qua ẩn náu bên Ba Tri rồi mất tích.

Cuộc chiến đấu do Trịnh Viết Bàng chỉ huy chấm dứt nhưng nhân dân vùng huyện Bình Đại ngày nay vẫn không quên công ơn của ông và các đồng chí, đồng đội của ông đã anh dũng ngã xuống trên vùng đất máu lửa này./.

NGUYỄN HỮU HUÂN

Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1841, người làng Tịnh Hà, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Kiên Giang). Ông đỗ thủ khoa khoa thi Hương khi chưa đầy 20 tuổi, nên gọi là Thủ khoa Huân. Ông được cử làm giáo thụ huyện Kiến Hưng.

Ngày 17/2/1859, chiến thuyền của liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở cuộc tấn công qui mô lớn vào tỉnh thành Sài Gòn, tỉnh thành Gia Định. Gia Định thất thủ, Nguyễn Hữu Huân đứng hẳn về phe những người chủ chiến.

Năm 1861, Nguyễn Hữu Huân khởi nghĩa chống Pháp, ông được bổ chức Phó quản đạo. Ông chia quân đi hoạt động khắp tỉnh Định Tường và đến các miền tỉnh Hà Tiên. Ông liên kết với quân của Âu Dương Lâu và của Võ Duy Dương. Quân các ông ít súng bắn nhanh, chủ yếu là giáo mác. Vì vậy ông đã quyên góp được nhiều tiền, giao thiệp với các chủ tàu buôn Hải Nam đế mua khí giới của Trung Hoa.

Khi quân Pháp tập trung quân càn quét, ông cho nghĩa quân phân tán, rút lui, lợi dụng địa hình, địa vật đánh theo lối du kích trên địa bàn rộng lớn từ Tân An đến Mỹ Tho. Sau hết lương thực, ông xuống Hậu Giang chờ khí giới chuyển sang. Khi thế cùng, lực kiệt, ông phải giải tán bớt nghĩa quân về ẩn náu ở Chợ Gạo, Định Tường mưu cuộc khởi nghĩa khác.

Năm 1863, khi quân Pháp bao vây, ông vượt vòng vây đến Châu Đốc, nhưng ông bị bọn quan lại của triều đình Huế bắt giao cho quân Pháp. Giặc Pháp hết tra tấn lại dụ dỗ ông ra làm quan cho chúng nhưng ông cự tuyệt, bị thực dân Pháp bắt đi đầy. Sau đó không khai thác được gì, chúng trả tự do cho ông, chưa kịp nghỉ ngơi, dưỡng sức, sau những năm bị đày ải ở chốn lao tù, ông lại hô hào nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa. Nhân dân rất tin tướng, quý mến ông, gia nhập nghĩa quân do ông chỉ huy rất đông. Ông lại trở về Châu Đốc bổ sung lực lượng nghĩa quân, trang bị vũ khí đánh giặc.
Năm 1864, Achar Xva (Axoa) khởi nghĩa ở Ba Phnom (Cămpuchia), rồi chuyển sang Châu Đốc, Hà Tiên, dựa vào Việt Nam chiêu mộ người Việt gốc Khmer để tổ chức lực lượng nghĩa quân về đánh chiếm Campot. Achar Sva liên lạc được với lực lượng của nghĩa quân thủ khoa Huân, đánh thắng Pháp nhiều trận lớn.

Năm 1864, ông lại bị giặc Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Sau đó đày sang đảo Reunion.

Năm 1874, triều đình ký hòa ước nhường lục tỉnh cho Pháp, chúng mới cho ông trở về. Quản thúc ở nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phong ở Chợ Lớn là tay chân đắc lực của Pháp và là nơi quen biết ông. Phong mở một tiệc lớn có đại diện bọn cầm quyền Pháp, Nam dự. Sau bữa tiệc nhiều người muốn xin thơ của ông làm kỷ niệm. Ông tức cảnh làm bài thơ bát cú, nói lên nỗi lòng tâm sự của mình và phê phán một số người ra làm quan cho giặc đàn áp dân.

Sau đó ông được trả tự do. Ngay khi được tự do, Nguyễn Hữu Huân lại cùng các văn thân Nam Kỳ như Âu Dương Lâu chiêu mộ quân đánh Pháp. Ông đặt đại bản doanh ở Long Trì. Lực lượng nghĩa quân đông tới 3000 người, đánh Pháp trên toàn tỉnh Định Tường nơi hoạt động chủ yếu từ Tân An đến Mỹ Tho. Cuộc khởi nghĩa lần thứ hai của Nguyễn Hữu Huân diễn ra trên địa bàn chủ yếu là Định Tường. Nhưng nhân dân Bến Tre đã nô nức hưởng ứng bằng cách tham gia nghĩa quân, ủng hộ lương thực, tiền bạc, để mua vũ khí.

Nguyễn Hữu Huân còn thường xuyên làm công tác vận động binh lính mã tà bỏ hàng ngũ địch về với nhân dân. Nhiều lính mã tà đem vũ khí về với nghĩa quân hoặc đào ngũ đi nơi khác làm ăn.

Đầu tháng 5 năm Ất Hợi (5/1875) quân Pháp huy động lực lượng lớn quân đội, cảnh sát chia làm nhiều ngả vây đánh nghĩa quân ở Long Trì.

Nghĩa quân dựa vào địa thế hiểm trở và đặc biệt được nhân dân ủng hộ về mọi mặt đã kiên cường đánh trả quân Pháp, giữ vững căn cứ trong nửa tháng. Quân Pháp bị thương vong nặng nề. Với dã tâm đè bẹp nghĩa quân, bắt hoặc giết cho được thủ lĩnh nghĩa quân Nguyễn Hữu Huân, giặc Pháp điều động thêm quân lính, súng đại bác đánh mạnh vào căn cứ Long Trì. Nghĩa quân tan vỡ, Nguyễn Hữu Huân phải rút quân về Chợ Gạo, sau đó ông trở ra Bình Thuận phát động cuộc khởi nghĩa lần thứ ba.

Giặc Pháp đánh mãi không được lại dùng thủ đoạn mua chuộc những kẻ thoái hóa trong hàng ngũ, nghĩa quân làm phản chỉ điểm cho giặc bắt ông. Chúng kết án ông tử hình.

Ngày 15 tháng 5 năm Ất Hợi (18/6/1875) ông bị giặc Pháp bắt đưa ra chợ Thôn Trong (tức chợ Phú Kiết) hành hình. Ông ung dung đọc bài thơ Hãn mã bày tỏ khí phách hiên ngang của mình.

HÃN MÃ

Hãn Mã gian quan vị quốc cừu,
Chủ nhân binh bại bù thân hưu
Anh hùng mạc bả dinh dự luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu
Vô bố dĩ kinh hồ lỗ phách
Bắt hàng can đoạn tướng quân đầu
Dương niên Tho Thủy li ba huyết
Lang đảo thu phong khởi mộ sầu


Dịch thơ:

Ruổi rong vó ngựa báo thù chung
Binh bại cho nên mạng mới cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
Hơn thua xá kể với anh hùng
Không hàng đầu tưởng đánh rơi xuống
Quyết thác không hàng rạng núi sông
Tho Thủy ngày rày pha máu đỏ
Đảo Rồng hưu hắt ngọn thu phong.


(Phan Bội Châu dịch)

Có sách chép bài thơ Tuyệt mệnh của ông như sau:

Hai liên thiên hạ thống hay không?
Một gánh cưng thường, há phải gông!
Oằn oại hai vai quân tử trúc
Long đong một cổ trượng phu tòng;
Sống về đất Bắc danh còn rạng
Thác ở Thành Nam tiếng bỏ không.
Thắng bại danh du ai khiến chịu
“Phản thần” đẻo quả đứa còn ông.


Ngâm xong bài thơ Tuyệt mệnh ông cắn lưỡi tự tử không chịu để giặc Pháp chém đầu.

HUỲNH MẪN ĐẠT

Huỳnh Mẫn Đạt sinh năm Đinh Mão (1807) ở thôn Tân Hội, xã Tân Hội, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định, nay là thành phố Hồ Chí Minh. Thuở nhỏ ông học giỏi. Ông thi đỗ cử nhân khoa Tân Mão (1831) dưới triều Minh Mệnh.

Dưới triều Minh Mệnh (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847), Huỳnh Mẫn Đạt giữ các chức vụ: Ngự sử đạo Ninh Thái (Bắc Ninh - Thái Nguyên). Khi ông giữ chức Án sát Định Tường, đã đánh dẹp thổ phỉ quấy nhiễu trong tỉnh. Khi làm Án sát Hà Tiên, hai lần ông chỉ huy dẹp phỉ, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Sau đó ông được thăng Bố chính rồi Tuần phủ Hà Tiên.

Ông làm quan thanh liêm, luôn chăm lo đến việc ích quốc, lợi dân, nên được nhân dân kính trọng. ông là bạn thơ, bạn tri kỷ với Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa. ông cùng Bùi Hữu Nghĩa sáng tác kịch bản vở tuồng Kim Thạch kỳ duyên. Ông nổi tiếng giỏi thơ Nôm ở đất Đồng Nai.

Sau đó vì nhiều viên quan tỉnh liên lụy đến vụ án chứa thuốc phiện, nên ông bị cách chức Tuần phủ Hà Tiên. Năm 1860 ông được khôi phục, giữ chức Án sát Định Tường.

Ngày 17/3/1861, quân Pháp cho 4 tàu chiến, 18 khẩu đại bác chiếm vùng vịnh Cù Úc và hải phận các cửa biển Đại Hải, Tiền Hải thuộc tỉnh Định Tường. Huỳnh Mẫn Đạt chỉ huy quân sĩ ra sức chống trả, nhưng vũ khí lạc hậu không chống nổi vũ khí hiện đại của phương Tây, nên thất bại. Ngày 29/3/1861, quân Pháp tấn công các đồn Tân Hưng, Tĩnh Giang, Cai Lộc. Mặc dù quân ta chiến đấu dũng cảm cuối cùng cũng phải rút lui trước hỏa lực mạnh áp đảo của giặc. Ngày 12/4/1861, quân Pháp lại đem 4 tầu chiến, 18 đại bác tấn công tỉnh thành Định Tường. Cũng như những lần chiến đấu trước, vũ khí lạc hậu của quân triều đình không chống được tầu chiến và súng Tây, nên các ông phải bỏ thành rút chạy. Tỉnh thành Định Tường lọt vào tay quân Pháp. Tự Đức bắt ông về kinh chịu tội. Đến tháng 11 năm Tân Dậu (1861), ông được tha, điều động theo Nguyễn Tri Phương đang giữ chức Thượng thư bộ Binh làm Đổng suất quân vụ ở Biên Hòa, trực tiếp vào Nam Kỳ tổ chức đánh Pháp.

Thực ra sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Huỳnh Mẫn Đạt lánh về Kiên Giang ở ẩn.

Huỳnh Mẫn Đạt mất năm 1888, thọ 77 tuổi. Hiện nay ở Văn Xương các, tức miếu Văn Thanh, Vĩnh Long có bài vị thờ ông.
PHẠM VĂN CHÍ

Năm Kỷ Mùi, Tự Đức thứ 12 (1859), thành Gia Định thất thủ, Trương Định rút về đóng ở đồn cũ Tân Hòa rồi cùng Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang, phát động kháng chiến.

Anh hùng hào kiệt khắp nơi hưởng ứng hịch "đánh Tây - cứu nước của Trương Định”. Ông Phạm Văn Chí là một thân hào vùng Bình Hòa, dân quen gọi ông là Trùm Chí là một người yêu nước, căm thù giặc Pháp đã hưởng ứng chiêu mộ nghĩa quân, trang bị vũ khí đánh Pháp ở vùng Chợ Lớn, Rạch Cát, Bình Đông nay thuộc vùng quận 5, quận 6, quận 8 thành phố Hồ Chí Minh.

Tháng 3 năm 1862, ba tỉnh miền Đông mất hoàn toàn vào tay giặc Pháp. Giặc Pháp liền điều động quân các nơi về bình định vùng Chợ Lớn, Rạch Cát, Bình Đông. Trong cuộc càn quét lớn, kéo dài nhiều ngày đó, tháng 3 năm 1862 , Phạm Văn Chí bị giặc Pháp bắt. Chúng tra tấn dã man, rồi lại dụ dỗ, mơn trớn ông đầu hàng, khai báo các chiến hữu, và kêu gọi chiến hữu đầu hàng. Phạm Văn Chí hiên ngang bất khuất, không ngớt lời chửi mắng quân giặc.

Không khuất phục được ông, tháng 2 năm 1863, chúng đưa ông ra hành quyết tại làng Bình Đông. Ông lớn tiếng chửi mắng bọn giặc Pháp xâm lược, lũ vua quan bán nước cầu vinh, kêu gọi, nhân dân tiếp tục đánh Pháp. Giặc Pháp chém ông rồi chặt đầu đem bêu. Dân làng đem thi hài ông (không có đầu) an tán ở bên kia rạch Tân Hữu. Sau cải táng đưa về đường Thơ Ký. (Theo truyền thuyết khi giặc bêu đầu ông, một số bà con yêu nước đã lấy lại đem chôn giấu, thờ ở nơi khác, đến nay chưa tìm lại được).

Ngay sau khi ông mất nhân dân lập miếu bằng tranh tre ngay trên mộ ông. Việc thờ cúng không dám công khai vì sợ giặc Pháp biết. Đến năm 1938 các bô lão làng Bình Hòa cùng nhân dân lấy cớ xây đình thờ bản thổ thành hoàng được Thống đốc Nam cho phép xây dựng. Nay đình Bình Hòa và mộ ông Phạm Văn Chí tọa lạc ở số nhà 703 đường Phạm Văn Chí, phường 7, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. Đình còn một tấm bia trong đó có hai câu:

Khí chất danh lưu dương dương tại,
Khiêm trinh quán nhật mẫu dịu hoàng


Dịch:

Khí chất danh thơm trào cuồn cuộn
Trung trinh ngời sáng chiếu rợp trời.

TRƯƠNG QUYỀN

Trương Quyền còn gọi là Trương Tuệ, Trương Huệ, cậu Hai Quyền. Ông là con trai của Trương Định, quê gốc ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ông luyện tập võ nghệ từ tuổi thiếu niên nên giỏi võ nghệ, tài trí mưu lược, xuất quỉ nhập thần.

Ngày 25/8/1864, Trương Định hy sinh nghĩa quân hoang mang vì mất chủ tướng. Khi đó Trương Quyền mới 18 tuổi đã thay cha chỉ huy nghĩa quân. Ông phối hợp với thủ lĩnh Võ Duy Dương và thủ lĩnh quân Khmer là Achar Sva (Axoa) tiếp tục đánh Pháp.

Ngày 7/6/1866 , Trương Quyền và Pôkômbô dùng mưu dụ tên quan ba Laclo (Larclbause) ra cách đồn chừng hơn một cây số lọt vào ổ phục kích giết chết hắn và bọn lính đi hộ vệ. Tên quan năm Mác xe (Marchausre) từ Sài Gòn lên cứu viện cũng bị nghĩa quân giết chết.

Cuối tháng 6/1866, quân Pháp ở Sài Gòn điều động quân đi đối phó với nghĩa quân Thiên hộ Dương ở Mỹ Tho, Cao Lãnh.

Đêm 23/6/1866, Trương Quyền và Pôkômbô xuất quân từ cầu An Hạ (nằm giữa Tầm Lạc và sông Vàm Cỏ Đông) tiến về Binh Biền (đường chợ Lớn đi Mỹ Tho) đột nhập vào Chợ Lớn tấn công đồn Thuận Kiều cách Sài Gòn 10 cây số. Ông đánh giáp lá cà với bọn kỵ binh Spalus. Trận ác chiến xẩy ra, Trương Quyền chiếm được đồn giết chết tên đội Pháp, nhiều lính Pháp và lính Nam, làm bị thương một số tên, chỉ còn năm, ba tên sống sót chạy đi báo cho quân Pháp.

6 giờ sáng, Trương Quyền chỉ huy nghĩa quân đánh quân tiếp viện. Sau 2 giờ kịch chiến, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, song quân ta cũng núng thế. Đúng 8 giờ sáng, Trương Quyền cho quân rút khỏi Thuận Kiều về Bà Hom.

Giặc Pháp ở Sài Gòn hoảng sợ bắn súng lớn rồi báo động nghĩa quân đang đến sát "ngưỡng cửa của Sài Gòn", hôm sau tên giám đốc Nội An ra thông cáo để trấn an, rồi 7 giờ tối bọn Pháp dân sự ở Sài Gòn nhận được chỉ thị mật cho biết “Loạn quân” có thể xuất hiện trong thành phố, nghe tiếng súng thì phải tập trung ba, bốn người một nhà, dựng chướng ngại vật chặn cửa, bình tĩnh đối phó vì ngoài đường có lính cưỡi ngựa tuần phòng rồi.

Quân Pháp và quân Đốc phủ Ca tập trung lực lượng phản công. Trương Quyền phải rút quân về đánh quân Pháp ở Trảng Bàng. Pháp sai trung úy Eymard đem quân vây đánh. Trương Quyền phải rút quân vào rừng rồi lên Tây Ninh hợp quân với Pôkômbô mở mặt trận mới. Song trước khi rút, ông cho quân tập trung súng bắn mãnh liệt vào căn cứ quân sự của quân Pháp khiến chúng rối loạn, một số tên tháo chạy.

Tin Trương Quyền phối hợp với Pôkômbô tấn công quân Pháp báo về Sài Gòn. Bọn chỉ huy Pháp sai 200 lính là 50 lính Thượng do thiếu úy Rémiot Lerbuer chỉ huy đến Tây Ninh tăng viện.

Từ đó nghĩa quân Việt - Khơ me phối hợp với nhau đánh Pháp ngày càng nhịp nhàng chặt chẽ. 12 giờ trưa ngày 2/7/1867  liên quân Việt - Khơ me đánh quân Pháp ở Trà Vang (Bắc Tây Ninh). Quân Pháp thiệt hại nặng nề phải tháo chạy về Tây Ninh. Nghĩa quân phục kích trên đường chúng rút chạy diệt thêm một số tên nữa. Hôm sau, đêm 3/7/1 866, liên quân Việt - Khơ me lại táo bạo đột nhập vào thành phố Tây Ninh, đốt phá dinh thự, lị sở quân Pháp và Nam triều. Ngày 7/7/1866 , Trương Quyền chỉ huy nghĩa quân tiến đánh Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng.

Cuối tháng 7/1866, quân Pháp chia làm bốn mũi có kỵ binh, phiêu binh và quân bộ tấn công vào Rạch Vui. Liên quân Việt - Khơ me có ít đạn nên bị chết nhiều. Tổng hành dinh Pôkômbô bị trúng đạn. Các ổ súng đồng bị đổ vỡ tê liệt. Trước tình thế đó, Pôkômbô rút về Nam Vang, Trương Quyền rút về Biên Hòa tiếp tục đánh quân Pháp.

Ngay sau đó nghĩa quân Việt - Khơ me lại đánh đồn An Cư ở Tây Ninh - đây là một trận đánh lớn. Quân Pháp bị tiêu diệt một trung đội và 2 tên đại úy Pháp. Nghĩa quân Trương Quyền cũng bị thiệt hại.

Tháng 11/1867, nghĩa quân Pôkômbô vượt sông Cửu Long đánh thẳng vào Công Pông Thom phía bắc Biển Hồ. Tại đây Pôkômbô bị thương rồi bị bắt và bị giết vào ngày 3/12/1867.

Trương Quyền vẫn tiếp tục chiến đấu ở vùng rừng núi Tây Ninh, xây dựng căn cứ ở Nha Mét. Thời gian này lực lượng nghĩa quân đã yếu, nên chỉ đánh được những trận nhỏ. Ông cũng hợp tác với lực lượng kháng chiến của người Khơ me và người Stiêng. Trong nghĩa quân Trương Định có Trần Tử Ca, người Hanh Thông Tây, sau đầu hàng Pháp theo đạo Thiên Chúa cùng Trương Công Tấn một nghĩa quân thân tín của Trương Định đầu hàng Pháp trở lại đàn áp nghĩa quân Trương Định. Bàn tay hắn đẫm máu nghĩa quân và đồng bào yêu nước. Năm 1862, quân Pháp cho Trần Tử Ca làm Tri huyện Bình Long (Hóc Môn). Năm 1865, hắn đàn áp nghĩa quân Trương Quyền, tham gia vào đội quân xâm lược đánh chiếm ba tỉnh miền Tây. Tháng 5/1870, Trần Tử Ca cho tay chân xâm nhập vào hàng ngũ nghĩa quân Trương Quyền giết chết ông.

Tội ác của Trần Tử Ca chất cao như núi, mãi đến ngày 27 tháng chạp năm Giáp Tuất (1884) Quản Hớn mới đánh vào phủ đệ của hắn, giết chết hắn.
LINH MỤC KHÂM

Linh mục Khâm tên thật là Đặng Đức Tuấn, sinh năm 1805, người làng Gia Hựu, huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa. Ông nổi tiếng hay chữ từ bé, nhưng năm 1825 đi thi không đỗ. Ông được các linh mục Pháp chọn đi học ở chủng viện Pơnay (Malaisia) trong 7 năm, ông trở thành linh mục lấy tên là Khâm. Ông nổi tiếng là người học rộng, biết nhiều.

Ngày 1/9/1858, quân Pháp đánh bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, ngày 17/2/1859, quân Pháp đánh thành Gia Định. Ông bị triều đình nghi ngờ có liên quan với quân Pháp, nên bị triều đình bắt giải về Huế.

Tháng 9/1859, triều đình Huế giao cho bộ Lễ, phụ trách tuyển những người biết tiếng Pháp sử dụng làm thông ngôn, phiên dịch thì ông được tha. Cuối tháng 4/1862, linh mục Khâm được bộ Lễ cử làm phiên dịch cho phái đoàn của triều đình Huế do Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp làm chánh phó sứ vào Gia Định để ký hiệp ước ngày 9/5/1862.

Linh mục Khâm đã biết nhiều điều tai nghe, mắt thấy, kể cả việc giáo dân bị giết hại. Nhưng ông không mù quáng như một số linh mục và giáo dân đã tiếp tay cho giặc Pháp xâm lược Việt Nam, gây nên mối hận thù trong giáo dân và dân lương. Ông đã bày tỏ lòng yêu nước, lên án giặc Pháp cướp nước. Ông là người Thiên Chúa giáo đầu tiên ở Việt Nam vạch rõ giặc Pháp đã lợi dụng đạo Lành (đạo Thiên Chúa) để đẩy nhanh tốc độ xâm lược Việt Nam. Trong một bài “Tự tích việc đạo nước Nam văn”, sau khi kể các hành động tội ác xâm lược ông viết:

...Khéo là tội báo oan gia ,
Tính bề trục lợi khéo pha đạo Lành
Mượn câu giảng đạo làm danh
Làm cho giáo hữu tan tành phen ni
Làm cho nhà nước sinh nghi
Giam cầm đầu mục khinh khi đạo trời.
...


Khi đi học ở Malaisia và đi các nước khác và nghiên cứu các sách Tân thư viết bằng tiếng Pháp, dịch ra tiếng Hán, ông đã thấy nhiều nước như Nhật Bản, Malaisia, Hồng Kông, Ma Cao thuộc Anh của Trung Quốc đã có những cải cách kinh tế lớn theo phương Tây mà trở nên hùng cường. Năm 1862, ông đã gửi điều trần lên vua Tự Đức đề nghị cải cách kinh tế, văn hóa, quân sự như Nhật Bản để chống Pháp xâm lược. Những bản điều trần của Đặng Đức Tuấn sớm hơn các điều trần của Nguyễn Trường Tộ một năm. (Nguyễn Trường Tộ gửi bản điều trần đầu tiên là vấn đề tôn giáo ngày 29/3/1863).

Sau này Phan Bội Châu đánh giá "Đặng Đức Tuấn là một trong những người đầu tiên thắp sáng lên những mầm văn minh trên đất nước ta".

TÁN KẾ

Tán Kế tên thật là Lê Quang Quan, chưa rõ năm sinh. Quê gốc ở tỉnh Bình Định, đến đời ông nội vào lập nghiệp tại làng Mỹ Chánh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Ngày 26/5/1862, Tự Đức cử phái đoàn của triều đình do Phan Thanh Giản làm chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm phó sứ vào Sài Gòn để cùng Bằng ký hiệp ước. Ngày 5/6/1862 Phan Thanh Giản ký với Bôna "Hiệp ước hòa bình và hữu nghị” với Pháp và Tây Ban Nha.

Lê Quang Quan bất mãn bỏ ngũ về Mỹ Chánh tập hợp trai tráng trong vùng, chia thành đội ngũ, luyện tập võ nghệ cho anh em. Ông chiêu tập thợ rèn các nơi về chế tạo vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa.

Tháng 6 năm 1867, giặc Pháp đánh ba tỉnh miền Tây, trong đó có Bến Tre (khi đó thuộc Vĩnh Long) Lê Quang Quan yết bảng chiêu mộ quân, phát động khởi nghĩa chống Pháp tại vùng Ba Châu (Châu Phú, Châu Thới, Châu Bình). Để có danh nghĩa chỉ huy, ông tự xưng là Tán tương quân vụ, lấy mật danh là Kế vì vậy nghĩa quân và nhân dân gọi ông là Tán Kế.

Nghĩa quân do Tán Kế lãnh đạo dựa vào địa thế hiểm trở (khi đó phần lớn đất đai là rừng rậm), thực hiện lối đánh tập kích, phục kích gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề.

Trước tình thế bị giặc bao vây truy quét, đạn dược thiếu, lương thực cũng rất khó khăn, Tán Kế giải tán lực lượng, chỉ giữ lại số người thân cận, khỏe mạnh, có tinh thần chiến đấu cao rút vào vùng lau sậy, chà là, tránh những trận tấn công ồ ạt của giặc chờ cơ hội phát triển lực lượng, tiếp tục cuộc chiến đấu. Không ngờ một tên phản bội báo cho quân Pháp biết nơi Tán Kế ẩn náu. Lập tức bọn Pháp điều động hàng trăm quân bao vây, lùng sục. Tán Kế chỉ huy số nghĩa quân ít ỏi đánh trả bọn Pháp kịch liệt, giết một số tên. Cuối cùng ông và một số nghĩa quân bị chúng bắt được.

Sau khi tra tấn ông bằng đủ cực hình, không moi ở ông được điều gì, chúng chém ông ngày 11 tháng giêng năm Kỷ Tỵ (tức ngày 21/2/1869) bêu đầu ở Tân Thới ba ngày để uy hiếp dân chúng. Trong dân gian ở vùng này còn lưu truyền giai thoại, đầu ông Tán Kế để trong giỏ tre, hai mắt vẫn mở trừng trừng. Nhân dân Ba Châu an táng ông tại làng Mỹ Chánh, nhân dân trong tỉnh nhiều nơi lập miếu thờ ông. Đền chính được xây tại xã Mỹ Chánh.
NGUYỄN KHẮC TRẠCH

Nguyễn Khắc Trạch tự An Phủ, hiệu Nhuế Xuyên, sinh năm 1797, người làng Bình Hồ, huyện Đông Yên, trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) ông đậu Hương cống, được bổ làm Tri huyện huyện Yên Lạc, Sơn Tây nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, sau đó làm Tri phủ phủ Yên Khánh (Ninh Bình), Tri phủ Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Sau một thời gian ông giữ chức Viên ngoại lang rồi Trung ngoại lang bộ Hình, rồi lần lượt ông giữ chức Án sát Hải Dương, Án sát Hà Tĩnh. Năm 1849 ông làm Bố chính (quan đầu tỉnh) Gia Định, khi đó còn có tên là Phiên An. Tôn Thất Thuyết giữ chức Án sát. Hai ông đều có chung một đức tính tính tình cương trực, thanh liêm, nên trở thành bạn chí cốt.

Khi tình hình Gia Định ổn định ông được điều về làm Tuần phủ Vĩnh Long. Năm 1855, Tự Đức thứ 8, ông được triệu về triều giữ chức Hàn lâm trực học sĩ, sung Biên tu Quốc sử quán.

Trong khi giữ các chức vụ ở địa phương ông luôn luôn chăm lo đến đời sống của nhân dân, chú trọng khai hoang, làm thủy lợi. Ông còn chủ trương giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân và rất lưu tâm đến việc học hành, khuyến khích mở trường học. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện của triều Nguyễn viết về ông như sau: “Trạch đi đến đâu cũng khuyến khích các sĩ tử. Các học trò tài vào bậc nào thành đạt vào bậc ấy, học tập thường đến vài trăm người”.

Trong thời gian ông làm Toản tu ở Quốc sử quán ở triều đình thì năm 1858 giặc Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Nguyễn Tri Phương, Ông Ích Khiêm đã chặn đứng cuộc xâm lược đó. Không đánh chiếm được Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công kinh thành Huế, ngày 10/2/1859 chiến thuyền liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo vào Sài Gòn. Ngày 17/2/1859, quân Pháp mở đợt tấn công quy mô lớn vào thành Sài Gòn và các pháo đài. Năm 1862, quân Pháp chiếm xong 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Triều đình Huế vội vàng ký hòa ước và ngăn cấm nhân dân kháng chiến. Kết cục là đến năm 1864 quân Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Bộ. Trước thảm họa của đất nước, triều đình Huế vẫn tiếp tục chính sách đầu hàng, khi đó ông đã mấy lần dâng sớ xin về chí sĩ, mãi đến năm 1864 khi đó ông đã 67 tuổi, Tự Đức mới chấp nhận. Ông về quê sống một cuộc đời dân dã với nông dân, khuyến khích nông dân mở mang nông nghiệp, trồng dâu, nuôi tằm, quan tâm đến việc học của lớp trẻ.

Khi Nguyễn Tri Phương mất, Nguyễn Khắc Trạch có bài văn khóc ông trong đó có câu: (dịch) “Cách đây không lâu, giặc Tây dương gây biến, cõi Đông (Nam Kỳ) bị chia cắt. (Ông) đảm đương giữ muôn dặm thành dài. Năm trước, giặc Tây lại đến Hà Nội (ông) là người làm tướng ở xa triều đình đã lấy lợi ích của xã tắc làm trách nhiệm”. Nguyễn Khắc Trạch đánh giá rất cao phẩm chất anh hùng của Nguyễn Tri Phương: "Đá núi Nùng chính là tâm bia truy lệ vậy ".
Nguyễn Khắc Trạch mất vào giờ Thân, ngày 22 tháng 6 năm Giáp Thân (9/1884) tại quê ở làng Bình Hồ. Tôn Thất Thuyết khi đó là Thượng thư bộ Binh, phụ chính đại thần gửi câu đối viếng:

Cố địa vô song, cộng đạo Phiên An di cựu khách
Tiên Sinh hà khứ trùng khan Hàm Tử chính đường niên


Dịch:

Đất cũ không quên, những tưởng cũng đương đến, Phiên An còn lại khách cũ
Tiên sinh về đâu, xem sao được nữa trận Hàm Tử diễn lại ngay trong năm nay.


Nguyễn Khắc Trạch còn là một nhà thơ. Ông để lại trên mười tác phẩm như: Nhuế Xuyên bạch bút thi tập, Nhuế Xuyên văn tập, Nhuế Xuyên thặng bút thi tập, Nhuế Xuyên trùng tập, Nhuế Xuyên tùy bút tập...

VŨ PHẠM KHẢI

Vũ Phạm Khải tự là Đông Dương, người thôn Phượng Trì, tổng Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) ông đỗ Cử nhân được bổ làm Tri phủ huyện Quỳnh Lưu. Gặp lúc ở Quỳ Châu báo động có giặc, ông được cử giúp việc quân và được cất làm Lễ khoa cấp sự trung.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848) vì lời ông nói thẳng bị quan lại gièm pha tâu với Tự Đức, ông bị bãi chức, liền trở về quê. Gặp lúc Bắc Kỳ có giặc, hãm phủ Thiên Quan, ông đưa con em, học trò ra tòng quân, thu lại tỉnh thành. Việc đến tai vua, vua sai ông làm Bang biện tỉnh Ninh Bình. Ít lâu sau ông lại được thăng Thị độc học sĩ bổ làm Bố chính Thái Nguyên. Ông làm quan trải ba triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức.

Ông là vị quan một lòng thương dân, lo cho dân. Khi ông làm tri huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), ở ấp Thạch Đồng vì đói kém, thuế khóa nặng nề, dân bỏ đi. ông giảm, miễn thuế, trợ cấp cho dân nghèo. Do thực hiện chính sách cởi mở, những người bỏ quê đã hồi hương. Nhớ ơn ông, khi ông mất, dân ấp Thạch Đồng lập đền thờ ông.

Vào một năm Hà Nội, Ninh Bình gặp lụt đói kém, Vũ Phạm Khải thương xót, nhưng ông không có đủ quyền hạn để giải quyết, đã viết thư cho bạn làm quan ở hai tỉnh đó từ cho quan lại địa phương xem xét kỹ càng tình hình thiệt hại để có biện pháp cứu giúp.

Có lần vua cử Vũ Phạm Khải về Bắc Kỳ kinh lý. Khi đến huyện Kim Động (Hưng Yên) gặp lúc địa phương bị tai hại, mà trong huyện thành vẫn hát xướng, ông đã dâng sớ hặc xin cách chức viên tri huyện Kim Động. Trong sớ có câu: "Ngoài thành khóc, mà trong thành hát, không có lòng trắc ẩn không phải là cha mẹ dân". Sau đó viên tri huyện này bị cách chức.

Trong thời gian về nghỉ ở quê (1849-1856) ông đã cùng Nguyễn Công Trứ khai khẩn vùng đất bồi Kim Sơn - Văn Hải ở gần quê nhà, lập ra ấp Tuy Định. Khi ông mất nhân dân ấp Tuy Định đã nhờ Phạm Văn Nghị, bạn thân của ông ở Nam Định làm bài văn tế, nhắc đến công đức của ông, trong đó có đoạn:

Có một điều mà cụ xưa thường nói: đất cát là để nuôi sống người. Phượng Tài ta có một phần bãi bể, đem người làng và con em ra mở mang lập ấp, một mặt để thêm thuế khóa cho nhà nước, một mặt để làm nơi sinh sống cho mọi người của ta..., đến nay đã được nhiều năm có kết quả, việc đó là nhờ có sức cụ mở mang từ nhiều năm mới có được. Nay cụ mất đi, nhưng việc làm vẫn còn đó. Thế là cụ vẫn sống mãi”.

Vì ông có công lao, cha được tặng Nghi đại phu Hàn lâm viện thị độc, tên thụy là Đoan Trực, mẹ được tặng Ngũ phẩm nghi nhân.

Năm 1858, giặc Pháp đánh phá bán đảo Sơn Trà, năm 1859 đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Triều đình Huế hoang mang, sợ hãi. Vũ Phạm Khải đã kiên cường đứng về phe chủ chiến. Ông cũng viết nhiều văn kiện chống nghị hòa gửii vua Tự Đức như "Biện hoặc luận”, "Lỗ Trọng Liên bất đế Tần luận”, "Hòa nhung luận”.

Khi Đại đồn Kỳ Hòa thất thủ, thực dân Pháp ép triều đình Huế hòa nghị. Vũ Phạm Khải khi đó đang ở Quốc sử quán đã dâng sớ lên Tự Đức nói cái hại của sự giảng hòa và bàn nên cử chiến tướng ra trận.

Ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ mất, lòng ông đau xót vô cùng. Nhưng ông biết tai họa cho đất nước không dừng ở đấy âm mưu của giặc thôn tính nước ta ngày càng lộ rõ. Ông lại dâng sớ lên triều đình bàn kế phòng thủ và quyết chiến với giặc. Nhưng lúc này triều đình dấn sâu vào con đường đầu hàng, bỏ ngoài tai bất cứ sớ, tấu, kiến nghị nào nói về đánh giặc.

Quân Pháp nuốt gọn ba tỉnh miền Đông, lại có âm mưu chiếm ba tỉnh miền Tây, chúng phái tên Vial từ Gia Định ra Huế đòi triều đình nhường nốt ba tỉnh miền Tây cho chúng. Triều đình đem ra bình nghị. Vũ Phạm Khải cũng được tham dự. Cuộc bình nghị đa số các quan đều ngả về chủ hòa, khiến ông bất bình. Các đại thần nhìn ông có ý muốn ông phát biểu trước. Ông thẳng thắn nói:

Lòng tham của giặc không bao giờ chán, ta đã chót lầm lỡ một lần, hay còn lầm thứ hai nữa? Nhất định không thể cho chúng nó được”.

Cuộc bình nghị đa số các quan đều ngả về chủ hòa, không giữ được bình tĩnh, ông lớn tiếng:

Chiến sĩ đời xưa không nói hòa, chiến sĩ đời nay chỉ một mực nói hòa. Quan võ đời xưa không sợ chết, quan võ đời nay chỉ một mực sợ chết, sao mà đời nay lại khác hẳn đời xưa như vậy!”.

Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Vũ Phạm Khải làm Thị độc học sĩ sung Toản tu sử quán. Khi đó ở Nam Kỳ giặc Pháp ráo riết đánh ba tỉnh miền Tây. Trong một số lần triều đình họp, Khải được dự, ông đều đứng về phe chủ chiến là đánh, chỉ có đánh mới giữ được chủ quyền đất nước. Song ông chỉ là một quan nhỏ, những người trong phe chủ chiến đã bị gạt ra khỏi triều chính, nên ông rất buồn phiền.

Năm 1868, ông được cử làm thương biện để ngăn giữ vỗ yên công việc Ninh Bình. Chính trong thời gian này ông đã giúp nhân dân Ninh Bình chấn hưng nông nghiệp, hoàn chỉnh các công trình dẫn thủy nhập điền ở vùng đất mới khai hoang.

Năm Tự Đức thứ 23 (1870), Vũ Phạm Khải làm quyền biện Bố chính sứ ở Thái Nguyên. Tỉnh này đã bị giặc tàn phá nhiều năm, dân tình điêu đứng. ông tới Thái Nguyên mới được vài tháng, đang ổn định tình hình thì đột nhiên giặc là Đặng Chí Hùng kéo tới. Tỉnh không có viện binh, tình thế rất gấp, Vũ Phạm Khải đưa thư dụ Chí Hùng việc họa phúc. Đồng thời ông cấp báo về kinh, vua nhận được thư liền cho Tham tán Lê Bá Thận hợp với tuần biên Trần Văn Mỹ đánh dẹp. Vũ Phạm Khải đóng đồn ở châu Bạch Thông, bị giặc vây hãm và bị bắt. Vua nghe tin kíp sai bày cách cứu về.

Vì thua trận, Vũ Phạm Khải bị giáng ba cấp lưu dùng, bổ làm Tả thị lang bộ Hình, kiêm sung sử quán Toản tu. Ông tới kinh bị đài thần hặc tâu, vua sai giao xuống đình luận. Việc chưa xét thì ông bị ốm chết vào ngày 22 tháng chạp năm Tân Mùi. Khi ông mất có nhiều câu đối phúng viếng. Trong đó có đôi:

Phiên âm:   VÃN ĐÔNG DƯƠNG TIÊN SINH

Tâm sự như bạch nhật thanh thiên, lỗi lỗi
Thần khí tại Càn nhai bãng lĩnh thương thương thế thế.


Dịch nghĩa:   VIẾNG ĐÔNG DƯƠNG TIÊN SINH

Tâm sự giữa trời xanh, ngày rộng quang minh chính đại
Tinh thần nên núi thẳm cùng mây thương cảm thê lương.

ĐẶNG HUY TRỨ

Đặng Huy Trứ sinh ngày 19 tháng 3 năm Ất Dậu (26/5/1825). Quê gốc của ông ở thôn Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Đặng Huy Trứ là người thông minh từ nhỏ. Ông thi Hội, thi Đình đỗ tiến sĩ nhưng vì phạm húy, nên bị tước hết học vị. Ông vừa dạy học để kiếm ăn, vừa đi học. Năm 1847, ông đi thi lại đỗ cử nhân.

Đặng Huy Trứ vốn là nhà nho yêu nước, nên ngay từ buổi đầu giặc Pháp xâm lược, ông đã đứng về phe chủ chiến và là người hăng hái tích cực, sau đó ông được thăng tri phủ Kiến Xương, rồi tri phủ Thiên Trường, Nam Định. Tự Đức gọi ông về kinh giữ chức Hàn lâm viện trước tác, sau thăng ngự sử.

Ngày 1 tháng 9 năm 1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha do tên thiếu tướng Rigôn đờ Giôny phó thủy sư đô đốc, tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam tấn công bán đảo Sơn Trà. Ông đang còn là quan tập sự, nhưng đã thực hiện ý chí quyết chiến của mình, sẵn sàng chống giặc bảo vệ Tổ quốc.

Đặng Huy Trứ là người thẳng thắn, kiên quyết, không sợ cường quyền. Khi ông làm quan ngự sử, biết việc viên Tham tri bộ Binh, một chức quan cao hơn ông có hành vi tham nhũng, ông vẫn thẳng thắn vạch tội. Vì vậy bọn quyền thần căm ghét ông, hùa nhau hãm hại ông, chỉ trong 9 tháng, ba lần ông bị giáng chức.

Năm 1854, Đặng Huy Trứ được bổ làm Bố chính tỉnh Quảng Nam.

Đặng Huy Trứ là người chính trực, công bằng, ông đã phát hiện nhiều nhân tài tiến cử với vua Tự Đức, trong đó có việc tiến cử các ông Nguyễn Quýnh, Hoàng Diệu, Phan Thanh Nhã...

Hai năm sau ông lại được điều về kinh làm Biện lý bộ Hộ. Một thời gian sau, ông xin từ chức Biện lý bộ Hộ xin vua Tự Đức cho lập ty Bình chuẩn. Đặng Huy Trứ được bổ nhiệm giữ chức Bình chuẩn sứ ty. Đặng Huy Trứ đã mở rộng phạm vi hoạt động của ty Bình chuẩn không chỉ có quản lý việc buôn bán, mà còn làm cả nhiệm vụ khai mỏ, mở mang thủ công nghiệp, thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải. Khoảng đầu năm 1867, Tự Đức lại phái Đặng Huy Trứ sang Trung Quốc, Áo Môn với nhiệm vụ chính là mua súng đại bác, súng bắn nhanh của Anh, Pháp, Bỉ, Bồ Đào Nha bán vào Trung Quốc.

Đặng Huy Trứ vừa đến Quảng Châu thì do không hợp thủy thổ, cuộc hành trình vất vả ông bị bệnh nặng phải vào nằm nhà thương trong hoàn cảnh không tiền tiêu, không thân thích bạn bè. Song ông đã dẹp tất cả sự đau khổ vì bệnh tật, vì túng quẫn không bạn bè để tâm sự và nỗi buồn vì triều đình bãi bỏ ty Bình chuẩn, mà ông phải mất bao công sức gây dựng nên, để viết phương lược cứu nước thoát khỏi bọn xâm lược của thực dân Pháp và xây dựng một quốc gia dân giầu, nước mạnh. Ông đã phải sống trong nhà thương ở nơi đất khách quê người kéo dài tới 9 tháng. Song thời gian đối với ông cũng không uổng, ông đã tổng kết kinh nghiệm canh tân của nhà Thanh, Cao Ly, Ba Tư, Nhật Bản và đề ra quyết sách tự cường cho nước Việt Nam. Đặng Huy Trứ tổng kết kinh nghiệm canh tân của các nước, song ông thấy bệnh tình không thuyên giảm, số mình chết sớm, ông đã viết nhanh cuốn Từ thụ quy với 4 tập, dầy 900 trang để bàn về vấn đề chống tham nhũng.

Nằm nhà thương, bệnh tình vừa đỡ, ông đã bắt tay vào nhiệm vụ chính của triều đình giao phó là mua súng. Bằng mối quen biết, tài ngoại giao, ông đã mua và đưa về nước 239 khẩu pháo sơn quả. Đây là thứ vũ khí tối cần thiết cho việc phòng thủ đất nước.

Sau chuyến đi sứ này, Đặng Huy Trứ làm sớ đề nghị vua Tự Đức có những cải cách tình hình như mở mang công nghệ, lập cục cơ khí, xưởng đúc gang thép, chế tạo máy móc, thiết bị như phương Tây. Để có thợ cơ khí giỏi, nhà nước mở trường dạy nghề, mời chuyên gia nước ngoài sang dạy nghề, cử thanh niên sang các nước có công nghệ tiên tiến học nghề. Ông cũng đề nghị nhiều biện pháp cải tiến về ngoại thương.

Đặng Huy Trứ trở ra Bắc mở hiệu ảnh, nhà in, cho xuất bản binh thư và minh thư cùng Đại Nam quốc sử diễn ca. Đây là hiệu ảnh, nhà in, nhà xuất bản đầu tiên do người Việt sáng lập, làm chủ. Đặng Huy Trứ cũng không ngừng phát triển phố Thanh Hòa là thương điếm lừng lẫy nhất của ông. Khi ty Bình chuẩn bị giải tán, ông đi Trung Quốc thì các cộng sự của ông vẫn mở mang phát triển.

Những hoạt động của Đặng Huy Trứ trở nên bí ẩn trong con mắt thủ cựu của Tự Đức và triều đình Huế, Tự Đức nghi ngại ông "tìm một cách gì đó ngoài phạm vi của triều đình”.

Để triệu ông về khống chế, năm 1871, triều đình bổ nhiệm ông làm Bang biện quân vụ Lạng - Bằng - Ninh - Thái. Ông giao thương điếm cho các cộng sự, chuyển hiệu ảnh từ thành Hà Nội về phố Gia Lâm.

Ông đã cùng với Hoàng Kế Viêm, Hoàng Diệu khi đó với chức trách Khâm phái quân vụ và các tướng dẹp yên thổ phỉ, xây dựng căn cứ địa, lo công tác phòng thủ, tích trữ lương thực ở bốn tỉnh trên làm căn cứ kháng chiến vững chắc, lâu dài.

Ngày 20/11/1873, Francis Garnier đánh chiếm thành phố Hà Nội và các phố buôn bán, các phủ huyện, khu phố Thanh Hà, Thương điếm của ông bị bọn tay chân của quân Pháp cướp hết của cải, tàn phá tan hoang.

Quân Pháp đánh lấn ra các tỉnh Bắc kỳ, Đặng Huy Trứ theo Hoàng Kế Viêm rút quân về căn cứ Đồn Vàng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Hưng Hóa nay là thị trấn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Ngày 3 tháng giêng năm 1874 , phái đoàn Hiệp thương Việt - Pháp do Nguyễn Văn Tường và Phi Lát tới Hà Nội. Hai bên ký Quy ước ngày 5 tháng giêng và ngày 6 tháng 2/1874 nội dung: Pháp trao trả Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định cho triều đình Huế. Cho giải thể 12.000 người, phần lớn là dân theo đạo Thiên chúa theo chân Francis Garnies đi phá rối ở các nơi. Triều đình không được đưa thêm quân đến các tỉnh Pháp vừa trao trả. Phải để cho quân Pháp được ở lại Bắc Kỳ tự do đi lại trên đường sông, đường bộ. Triều đình phải ra ngay bản tuyên bố ân xá tất cả những người vừa qua đã cộng tác với Pháp.

Ngày 25 tháng 6 năm Giáp Tuất (7/7/1874) Đặng Huy Trứ lâm bệnh nặng, ông qua đời ở chợ Bến, Đồn Vàng năm 49 tuổi. Mộ ông táng ở Hòn Thông, Hiền Sí, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông mất trong khi hoài bão chấn hưng kinh tế, phát triển công nghiệp và kháng chiến chống thực dân Pháp chưa được thực hiện. Sách Đại Nam nhất thống chí có lời bình: “Đặng Huy Trứ khảng khái, có chí lớn, đương trù tính nhiều việc chưa làm xong đã mất, ai cũng tiếc”.

Sau này Phan Bội Châu coi ông như: "Trồng mầm khai hóa đầu tiên ở Việt Nam”.

Đặng Huy Trứ viết rất nhiều sách. Riêng về thơ có Hoàng Trung thi sao; Văn có Tứ thư văn tuyển; Nhị vị toàn tập; Việt sử thánh huấn diễn nôm (sử, văn) Nhớ hoàng di cư tập, Bách duyệt tập, sách học vấn tâm (giáo dục)...

TRẦN TẤN

Trần Tấn quê ở Chi Nê nay là xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương, là một sĩ phu kiên quyết kháng chiến rất bất bình với triều đình Huế cắt đất giảng hòa và bọn gián điệp Pháp đội lốt giáo sĩ mê hoặc dân đạo chống Tổ quốc, chống nhân dân. Vì vậy năm 1865, ông đã cùng học trò của mình là Đặng Như Mai, phó tổng Phan Điểm, Hoàng Đức Đề, Nguyễn Mỹ Nghi, Nguyễn Văn Vinh đã kịch liệt phản đối bọn gián điệp đội lốt cha cố, huy động người đốt phá nhà thờ, diệt trừ Việt gian (phần lớn là dân theo đạo).

Linh mục Chu lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước Nhâm Tuất tố cáo với bộ Lễ. Tự Đức sợ uy thế giặc đã ra lệnh thu bằng biện đánh Trần Tấn 80 trượng, còn 7 người nữa đều bị đánh và phạt giam.

Tháng 8 năm 1868, Linh mục người Pháp tên Việt là Ngô Gia Hậu buộc Triều đình Huế phải xử lại. Tự Đức sợ Pháp quyết định xử chém nhưng đợi xét thêm, riêng Trần Tấn có mẹ ốm nên được tha.

Ngày 20/11/1873, Francis Garnier đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh ở Bắc Kỳ, Trần Tấn cùng Đặng Như Mai đòi Tổng đốc Nghệ-Tĩnh là Tôn Thất Triệt phải họp văn thân trong tỉnh bàn chuyện đánh Tây. Hội nghị đã cử Trần Tấn, Đặng Như Mai đứng đầu tổ chức kháng chiến. Song ngày 15/3/1874, triều đình lại ký với Pháp “Hiệp ước hòa bình và liên minh” nhượng bộ Pháp nhiều quyền lợi.

Trần Tấn, Đặng Như Mai cùng các đồng chí đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, mọi người tôn Trần Tấn là chủ soái. Trần Tấn từ Huế về, đến xã Xuân Liễu, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An, ông lại liên kết với học trò cùng chung chí hướng là Đặng Như Mai (còn gọi là Tú Mai), Đội Lưu, Lãnh Sỹ (tức Trần Hưng) cùng với Trần Quang Cán, Nguyễn Huy Điển (Tú Khanh) ở Hà Tĩnh, Trương Quang Thủ ở Quảng Bình đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Mọi người suy tôn Trần Tấn làm chủ soái. Trần Tấn còn sáng tác bài thơ kêu gọi quần chúng khởi nghĩa:

Trời cao thẳm, đất lâu dài,
Trăm năm nghĩ lại cuộc này mà đau
Tây dương phiến loạn vì đâu
Cho dân trăm họ âu sầu đòi phen
Đất Nam từ thuở Đinh Tiên
Trải Lê, Lý, Trần dõi truyền tới nay
Trăm năm nhân trạch sâu dày
Bể trong suốt đã rộn nơi ba đào
Thuyền Tây ngang nhẹ mái chèo,
Xa xa cửa Nẵng chiều chiều ngàn sông
Quấy tranh lục tỉnh miền trong
Nam, Hà, Ninh, Hải thành vàng súng tan
Sắt này dạ, đá này gan
Thương người trung nghĩa thác oan thế này
Thương ôi mấy vạn quan Triều
Sông trôi giọt máu, non rều đống xương
Ngán thay những kẻ lo lường
Lo lòng hộ tả yên lương cực mình.
Cân đai áo mão triều đình
Hòa Tây tin để bực mình lắm thay
Vì thẳng tả giận thằng Tây,
Tuốt gươm chém sạch, trận này mới nghe
Nghĩa binh nghĩa sĩ ta hè,
Đồng chung áo giáp tứ bề ruổi rong.
Đâu đâu ai cũng một lòng
Cờ bay là nghĩa, súng đùng là nhân
Một miền nhượng địch yên dân
Càn khôn dãi tỏ, quỷ, thần chứng tri,
Tuồng chi những đứa ngu si
Lo lòng nặng túi tưởng chi đạo người
Sao mà nghĩ chẳng tới nơi
Giở giăn rồi lại cân đai được nào.
Cuộc cờ tính nước thấp cao
Xuất xe nổi pháo ào ào tiên lên.
Làm trai có chí thì nên
Khắp trong non biển rõ tên anh hùng.


(Thơ văn nửa sau thế kỷ XIX).

Nghĩa quân lôi kéo được nhiều sĩ phu, quan lại tham gia. Nghĩa quân đóng đại bản doanh ở xóm Liễu, cắm cờ trên đỉnh rú Anh (một trong năm ngọn núi chạy qua xã Xuân Liễu) Trần Tấn đánh chiêng trống mộ quân, chỉ trong 10 ngày đã được trên 15.000 người. Ông chia quân làm 5 đội, mỗi đội làm 5 cơ. Ông đưa một bộ phận nghĩa quân sang đóng ở Thanh Thủy, huyện Nam Đàn.

Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào tháng 2 năm 1874, lên tới đỉnh cao vào giữa tháng 5/1874. Khẩu lệnh "Bình Tây sát tả” được gương cao khẩu hiệu đề ra nhanh chóng đánh đuổi giặc Pháp cùng với Thiên chúa giáo đồng lõa với Pháp xâm lược Việt Nam, là kẻ nội gián, tiếp tay cho giặc Pháp xâm lược nước ta. Khẩu hiệu thứ hai cũng được gương cao là: "Đánh cả triều lẫn Tây”.

Ngày 31/5/1874, quân khởi nghĩa chiêm đóng lị sở Hà Tĩnh. Vài ngày sau nhiều huyện ở Nghệ An lọt vào tay nghĩa quân. Cuối tháng 5 nghĩa quân chiêm thành Nghệ An. Một bộ phận quân khởi nghĩa do một thủ lĩnh vượt đèo Ngang chiếm huyện Bố Chính, một bộ phận nghĩa quân khác trên đường tiến ra Thanh Hóa. Đồng thời một bộ phận khác đốt phá các làng Công giáo, trấn áp giáo dân.

Đến cuối tháng 8/1874 quân triều, quân đạo cơ bản dập tắt được cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai. Chúng đàn áp nghĩa quân một cách man rợ, 2000 nghĩa quân bị chém đầu. Những người còn lại bị đánh đập dã man bị chặt 2 ngón tay cái và bị cắt một ngón chân.

Đặng Như Mai và Trần Huy Điểu chiếm Phủ Quỳ lập căn cứ mới tiếp tục đánh Pháp, sau các ông bị nội phản bắt giao cho quân triều đình, bị xử tử ngay. Đội Lưu dàn quân ra đánh ác liệt, bị hy sinh.

Cuộc khởi nghĩa do Trần Tấn, Đặng Như Mai lãnh đạo phản đối triều đình ký Hòa ước công nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ, nhượng bộ Pháp nhiều quyền lợi lớn của quốc gia, bãi bỏ lệnh cấm đạo, chỉ duy trì được 8 tháng, nhưng là tấm gương sáng chói hy sinh vì nước của tầng lớp sĩ phu và nhân dân Nghệ Tĩnh.

ĐẶNG NHƯ MAI

Năm 1865, linh mục Pháp lấy tên Việt là Chu đến truyền đạo ở hai thôn Bàn Thạch và Mạc Vĩnh thuộc các huyện Thanh Chương và Quỳnh Lưu (Nghệ An), Đặng Như Mai người Nghệ An đã cùng thày học là tú tài Trần Tấn cùng phó tổng Phan Điểm, Hoàng Đức Đề, Nguyễn Mỹ Nghị, Nguyễn Văn Vinh đã nêu khẩu hiệu "Bình Tây sát tả" đốt phá các làng theo đạo Thiên Chúa và tiêu diệt đám giáo dân quá khích.

Sau ký hòa ước với Pháp, triều đình bỏ lệnh cấm đạo. Linh mục Chu tố việc Trần Tấn, Đặng Như Mai làm năm 1865. Để lấy lòng bọn Pháp, triều đình Pháp đánh trượng, thu văn bằng, chức tước của những người tham gia.

Đến tháng 5/1868, Linh mục Chu chưa thỏa mãn với án xử của triều đình, tiếp tục khiếu nại lên bộ Lễ. Triều đình sợ mất lòng Pháp xử tử những người chỉ huy vụ "Bình Tây sát tả". Trần Tấn, Đặng Như Mai làm thơ phản đối thực dân Pháp và triều đình theo giặc.

Tháng 5/1872, triều đình chuẩn bị ký Hòa ước mới với Pháp cho Ngụy Khắc Đản ra Nghệ An dàn xếp vụ này. Tháng 2/1874 Trần Tấn, Đặng Như Mai phát động nhân dân “Quyết đánh cả triều lẫn Tây”.

Cuộc khởi nghĩa nổ ra 2 tháng sau khi triều đình ký Hiệp ước Giáp Tuất, nên còn mang tên là khởi nghĩa Giáp Tuất. Cuộc khởi nghĩa nổ ra từ tháng 2 đến tháng 5 thì lên đến đỉnh cao. Khẩu hiệu nêu ra là "Bình Tây sát tả" (tức là diệt Tây và đạo Thiên chúa). Sở dĩ có khẩu hiệu này vì một số dân theo đạo Thiên chúa quá khích, được Pháp tập hợp thành lực lượng vũ trang, trang bị vũ khí dẫn đường cho quân Pháp đánh phá làng xóm, phá đình chùa, tàn sát dân bên lương.

Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông và mạnh. Ngày 31/5/1874, quân khởi nghĩa chiếm đóng lị sở Hà Tĩnh. Vài ngày sau nhiều huyện ở Nghệ An lọt vào tay nghĩa quân. Cuối tháng 6, nghĩa quân chiếm thành Nghệ An.

Đầu tháng 7/1874, khởi nghĩa từ Nghệ An lan ra các tỉnh khác. Nghĩa quân vượt đèo Ngang vào chiếm châu Bố Chính (Quảng Bình), một bộ phận nghĩa quân tiến ra Thanh Hoá.

Cùng lúc đánh chiếm lỵ sở Hà Tĩnh, Nghệ An một số nghĩa quân còn đốt phá các làng công giáo, đàn áp giáo dân. Được sự đồng ý và khuyến khích của giám mục Garthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu) nhiều làng công giáo đã tự vũ trang, thành lập những đội quân tự vệ, chống lại nghĩa quân rồi kéo về thành Nghệ An hỗ trợ cho quan quân đang bị nghẽn ở đó.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra thì triều đình Huế sai Khâm sai Nguyễn Văn Tường, Tổng thống quân vụ Lê Bá Thận hội quân với quân Pháp vây đánh. Trần Tấn, Đặng Như Mai liền rút quân lên rừng, liên minh với các lực lượng nghĩa quân Trần Quang Cán, Nguyễn Vĩnh Khanh, Trương Quang Thư, Nguyễn Huy Điểm (Tá Khanh) chỉ huy đánh Pháp.

Quân triều đình, quân Pháp đem toàn lực tấn công, Trần Tấn, Đặng Như Mai lui về huyện Cam Môn, Trần Tấn bị bệnh ốm chết. Con là Trần Hướng tiếp tục sự nghiệp của cha thì bị bọn tổng lý ở xã Hữu Bình, bắt nộp cho Pháp. Trần Quang Cán hy sinh trong chiến đấu. Đặng Như Mai đem quân chiếm Phủ Quỳ châu xây dựng căn cứ, bị nội phản bắt giao cho quân Pháp. Chúng xử tử ông ngay. Cuộc khởi nghĩa tan rã.
ĐOÀN HỮU TRƯNG

Đoàn Hữu Trưng sinh khoảng năm 1844 , quê ở làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.

Ông là con nhà thường dân, nhưng hay chữ, chưa đi thi mà trong vùng đã cầm chắc là đỗ đại khoa. Chính vì vậy mà Tùng Thiện vương Miên Thẩm, hoàng thân và là nhà thơ nổi tiếng ở kinh thanh Huế gọi gả con gái là Thể Cúc cho và cho ở rể. Đó là vào năm 1864, Trưng mới 20 tuổi. Sau ở trong phủ gò bó, nên Trưng xin ra ngoài ở.

Đoàn Hữu Trưng là tác giả của nhiều thơ ca. Ông đã cùng một số sĩ phu thành lập “Đông Sơn thi tửu hội” ở kinh thành. Bề ngoài là uống rượu, làm thơ, nhưng bên trong là bàn quốc sự.

Sau điều ước 1862, triều đình nhà Nguyễn ngày càng mục nát, từ vua và phần lớn các đại thần đều sợ giặc, đầu hàng giặc. Ông đã thể hiện tâm tư, tình cảm của mình trong bài thơ dài: "Trung nghĩa ca". Ông tố cáo vua Tự Đức và quan lại cắt đất đầu hàng.

Một dây bó chặt chữ hòa,
Của tiền trả mãi , tỉnh ba cắt đành...
...Tiếc thay nghiệp cũ gian nan
Ba thành bằng mất, ai hoàn lại cho
Đua chen Hoa lộn với Hồ
Mùi tanh nhuộm khắp một bầu giang sơn”


Trong khi đó thì giặc Pháp liên tục lấn tới, bắt ép triều đình phải thỏa mãn lòng tham không đáy của chúng.Vua Tự Đức xây “Vạn niên cơ” Khiêm Lăng khởi công từ tháng 10/1864. Cũng vào thời gian đó đất nước bị thiên tai nghiêm trọng. Giặc dã cũng hoành hành dữ dội, chưa kể quân Pháp đã đánh chiếm xong, ổn định tình hình ba tỉnh phía Đông, đang đánh phá dữ dội ba tỉnh phía Tây. Ở Bắc Kỳ thì Tạ Văn Phụng, tay sai của Francis Garnies đánh phá Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh. Ở Quảng Ngãi thì "Mọi Đá vách” nổi loạn.

Vì vậy Đoàn Hữu Trưng cùng với em trai là Đoàn Tử Trực và một số người trong hoàng tộc có tư tưởng chống Pháp ở phe chủ chiến như Tôn Thất Cúc, Hồng Tập và Trương Trọng Hòa, Nguyễn Văn Quý quyết định khởi nghĩa vào ngày 19/6/1866, tức ngày 8 tháng 8 năm Bính Dần, Tự Đức thứ 19.

Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa là lật đổ Tự Đức đưa Đinh Đạo là con trai An phong công Hồng Bảo, Hồng Bảo là con trưởng Thiệu Trị, nhưng Trương Đăng Quế đã âm mưu lập Tự Đức làm vua. Vì vậy Hồng Bảo đã có âm mưu lật Tự Đức từ năm 1854. Việc không thành, Tự Đức ép Hồng Bảo uống thuốc độc chết, các con như Đạo, Bảo phải đổi sang họ mẹ là họ Đinh. Đoàn Hữu Trưng không chủ trương phế truất vua Tự Đức, mà đưa lên làm Thái thượng hoàng.

Nhưng do vũ khí không được chuẩn bị, lực lượng chủ yếu là 3.000 binh lính làm việc tại công trường xây Khiêm Lăng chỉ có một ít giáo mác còn phần lớn là chày giã vôi nên không chống lại được với quân đội thiện chiến, được trang bị vũ khí tốt. Đoàn Hữu Trưng cũng không tính đến việc không thành thì rút đi đâu, nên khi thất bại đã bị bắt một cách nhanh chóng.

Cuộc khởi nghĩa thất bại, Đoàn Hữu Trưng và Đoàn Tử Trực bị tội lăng trì (tùng xẻo). Cả gia đình Đinh Đạo gồm tám người bị thắt cổ chết. Tùng Thiện vương Miên Thẩm cũng bị bắt giữ, nhưng sau không có chứng cứ nên được tha. Tiểu thư Thể Cúc sau khi chồng bị hại, bị đổi sang họ mẹ, rồi vào tu ở nhà chung.

PHAN TÒNG

Phan Tòng còn gọi là Phan Ngọc Tòng sinh năm 1818, quê ở làng An Bình Đông, tổng Bảo An, quận Ba Tri sau đó là xã An Đức, nay thuộc thị trấn Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Năm 1867, quân Pháp chiếm Bến Tre, phong trào chống giặc nổi lên khắp trong tỉnh. Vốn là thày đồ ở làng, Phan Tòng đứng lên tập hợp dân chúng dựng cờ khởi nghĩa. Sau ông gia nhập cuộc khởi nghĩa của Phan Tôn - Phan Liêm (1). Ông chiến đấu dũng cảm lập được nhiều công lao được phong làm Đốc binh. Tối ngày 9 tháng 11  năm 1867, tên De Chapeaux chỉ huy khoảng 40 lính bao vây làng Hương Điểm, nơi nghĩa quân hoạt động. Chúng đóng quân trong chùa, đợi đến sáng thì đàn áp. Ngay đêm hôm đó, nhân trời mưa to gió lớn, hơn 100 nghĩa quân tấn công dữ dội vào chùa, đâm bị thương tên De Champeaux. Bọn giặc hoảng sợ rút chạy ngay trong đêm, để lại một số xác chết.

Để trả thù, ngày 12/11, chúng bao vây làng Hương Điểm. Nghĩa quân do Đốc binh Phan Tòng chỉ huy đem quân chặn đánh dọc các kênh rạch, tiêu hao một số tên, mãi 2 giờ chiều chúng mới tới Hương Điểm. Sáng 13/11, quân Pháp bao vây, lùng sục, cuộc chiến đấu diễn ra hết sức quyết liệt, quân Pháp đi đến xóm ngõ nào cũng bị đánh. Nghĩa quân chiến đấu dũng cảm, Trương Tấn Chí, cháu của Trương Tấn Bửu cầm cờ xông lên trước bị trúng đạn hy sinh. Giặc phải rút ra khỏi làng co cụm lại ở chợ, không dám tấn công vào làng. Ngày 14/11, giặc Pháp sai Tôn Thọ Tường đến dụ hàng không được, sáng 15/11, giặc Pháp lại tung quân đi đàn áp, chúng tìm được một số lượng lớn vũ khí nghĩa quân giấu ở chợ Hương Điểm. Palin Vial cho tầu chiến chạy dọc bờ sông Hàm Luông để truy kích nghĩa quân. Đến 4 giờ chiều, quân Pháp đổ bộ vào ấp An Thới làng An Lái. Chúng sợ không dám vào làng, mà đóng ở cái cồn gọi là Giồng Gạch còn gọi là Gò Trụi. Nắm vững thời cơ quân Pháp đóng ở ngoài trời, không có công sự, 2 giờ sáng ngày 15/11, nghĩa quân bao vây rồi tiến đánh cực kỳ ác liệt. Nghe súng nổ, nghĩa quân ở các nơi kéo đến tiếp ứng càng đông. Trận đánh giáp lá cà, đẫm máu diễn ra dữ dội. Đốc binh Phan Tòng dũng cảm chỉ huy trận đánh. Đến nay giai thoại ở vùng Ba Tri còn kể trên đầu ông đội khăn tang mẹ, chỉ huy nghĩa quân xông thẳng vào quân giặc mà đâm chém. Nghĩa quân vừa đánh vừa hét "hè" để uy hiếp giặc, vì thế dân gọi là "giặc hè". Trận này quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, nhưng nghĩa quân cũng bị tổn thất.

Mặc dù bị thua đau, ngày 16/11/1867, quân Pháp vẫn tấn công dữ dội vào Ba Tri, Bảo Thạnh. Nghĩa quân đốt chợ Bảo Thạnh, rút về Mù U. Giặc tập trung quân thủy, quân bộ tấn công ác liệt Mù U. Nghĩa quân không chống cự nổi chạy tan tác.

Sau các trận đánh dữ dội của giặc Pháp trên, nghĩa quân bị thất bại nặng nề, Phan Liêm, Phan Tôn bỏ ra Huế, ông vẫn ở lại xây dựng lực lượng nghĩa quân tiếp tục chiến đấu. Ông dấy binh ở Ba Tri năm 1869, đánh thắng quân Pháp nhiều trận oanh liệt.

Cuối năm 1870, quân Pháp hành quân tấn công Ba Tri. Đêm đến chúng đóng quân trên một cái gò cát gọi là Giồng Gạch (còn gọi là Gò Trại). Phan Tòng chủ động chỉ huy nghĩa quân tấn công vào cứ điểm của giặc, với khẩu lệnh khi xung phong thì hô “Hè” để uy hiếp tinh thần giặc. Vì vậy nhân dân còn gọi trận đánh này là "trận giặc Hè”. Trong trận đánh giáp lá cà này, Phan Tòng đã hy sinh cùng một số nghĩa quân.

Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu xúc động làm 10 bài thơ viếng:

VIẾNG PHAN TÒNG
(Trích)


Thương ôi, người ngọc ở Bình Đông
Lớn nhỏ trong làng thảy mấn trông
Biết đạo, khác bầy con mắt tục
Dạy dân nắm giữ tấm lòng công
Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông
Một trận trải gan trời đất thấy
Lo xưa nào thẹn tiếng anh hùng.


IV

Ba Tri vừa vắng tiếng hơi chàng,
Gió thảm mưa sầu khá xiết than
Vườn luống trông xuân hoa ủ dột
Ruộng riêng buồn chủ lúa khô khan
Bầy ma bất chính duầng làm nghiệt,
Lũ chó vô cô cũng mắc nàn
Người ấy vì ai ra cớ ấy
Chạnh lòng trăm họ khóc quan Phan


(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX).

Về sau hàng năm cứ vào ngày ông hy sinh, dân làng An Bình Đông vẫn tổ chức ngày giỗ hội và lễ cầu hồn để tưởng nhớ tới Phan Tòng và các nghĩa sĩ đã hy sinh.





-----------------------------------------------------------------------
(1) Phan Tôn, Phan Liêm, con Phan Thanh Giản khởi nghĩa năm 1867- 1868, sau trận thất bại ở Hương Điềm (15/1 l/1868) Phan Tôn, Phan Liêm bỏ ra Huế. Sau đó theo Nguyễn Tri Phương ra thành Hà Nội. Năm 1873, Hà Nội thất thủ. Pháp bắt Phan Tôn, Phan Liêm đưa sang Pháp. Sau Phan Liêm làm khâm sai đại thần đàn áp khởi nghĩa Nguyễn Duy Hiệu ở Quảng Nam, Phan Tôn làm thượng thư triều Đồng Khánh.

TÀI LIỆU BIÊN SOẠN CHÍNH

Sách lịch sử:
- Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1894
- Việt sử cương mục tiết yếu
- Đại Nam thực lục chính biên, tập 34, 35, NXB Khoa học xã hội, 1974.
- Công văn tấu tập, ký hiệu A545, Thư viện Khoa học xã hội.
- Hà Nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trần Quốc Vượng chủ biên, NXB Quân đội Nhân dân.
- Hội đồng lịch sử Hà Bắc: Lịch sử Hà Bắc tập I.
- Ban nghiên cứu lịch sử Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện và thời niên thiếu của Bác Hồ, NXB Sự thật, 1985.
- Lịch sử 80 năm chống Pháp.
- Hà Nam nhân vật lịch sử và văn hóa
- Trần Văn Giầu: Chống xâm lăng quyển I, II, NXB Xây dựng, Hà Nội 1956
- Tôn Quang Phiệt: Phan Bội Châu và một giai đoạn lịch sử chống Pháp của nhân dân Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958.
- Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập I, NXB Khoa học xã hội.
- Nguyễn Phan Quang - Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
- Phan Trần Chúc - Lê Quế: Nguyễn Tri Phương, NXB Quốc Văn, Hà Nội, 1946.
- Ban liên lạc Cựu chiến binh Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945- 1954: Quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia thời kỳ 1945-1954.
- Phan Khoang: Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn 1974.
- Đào Đăng Vỹ: Nguyễn Tri Phương, Bộ Văn hóa - Giáo dục và thanh niên, Sài Gòn, 1974.
- Phạm Văn Sơn: Quân dân Việt Nam chống Tây xâm, Sài Gòn, 1963.
- Nguyễn Văn Hầu: Cuộc khởi nghĩa Bẩy Thưa, Tân Sinh, Sài Gòn, 1956.

Sách Văn học:
- Phan Bội Châu toàn tập, nxb Thuận Hóa
- Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
- Thơ văn yêu nước Nam Bộ.
- Dương Quảng Hàm: Văn học sử yếu, nha Học chính Đông Pháp, Hà Nội, 1943.
- Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn
- Phan Bội Châu niên biểu
- Truyện Trương Định
- Ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
- Sơn Nam: Bến Nghé xưa, NXB Trẻ 1997.
- Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971.
- Phạm Phú Thứ với tư tưởng Canh tân, NXB Đà Nẵng, 1995.
- Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969.
- Nhóm Trà Lĩnh: Đặng Huy Trứ: Con người và tác phẩm, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.
- Kỳ Xuyên Văn Sao, bản dịch của Lê Thước.
- Văn học yêu nước cách mạng Hà Nam Ninh.
- Phạm Thận Duật toàn tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.
- Danh nhân Thái Bình.
- Các nhà khoa bảng Việt Nam.
- Vè Thái Bình.
- Vũ Ngọc Khánh: Giai thoại ông đồ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002.

Địa chí:
- Địa chí Bến Tre

Sách tiếng Pháp:
- André Massen: "Hà Nội, giai đoạn 1873 - 1888".
- Dulleman: Cuộc chiến tranh chống cướp bóc
- Histoire militaire de l'Indochine Francais
- Parlin Histoire de la Cochindume
- Toboulel: Le geste francais en Indochine
- P.Vial: Les premièrè années de la Cochine (Những năm đầu ở Nam Kỳ).
- Annales de la, prapagagation de la Foi
- L'Amiral Dpéet la conquête du Ton Kin Dideb.
- Histoire militaire de l'Indochinoir
- Những người Pháp ở Bắc Kỳ và việc can thiệp của người Pháp.
- Xứ Bắc Kỳ và sự can thiệp của Pháp (bản dịch thư viện KHXH).

Sách tiếng Nga:
- K.Xtannhin Kêvich: Vòng quanh thế giới trên lầu Coóc xin: Tuyển tập tác phẩm, 1977.

Sách tiếng Trung Quốc:
- Dương sự thủy mạt: Bản dịch của trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
- Chiến tranh Trung - Pháp, quyển 7.

Báo cáo:
- Báo cáo của công sứ Thái Bình Ô e (Auer), hồ sơ số 71, 844, F6, 686, Cục lưu trữ Trung ương.
- Simôni: Báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương.
- Thư tín chính trị (Contes pondances pliliquen) (Thư của De Vile gửi cho Henririvière).

Tạp chí:
- Tạp chí Nghiên cứu lịch sử các số 3/1977; Số 2/1990, số 4/1994, số 6/2000.
- Tạp chí Xưa và nay số 223 tháng 1/2004; số 223/2005.
- Tạp chí Toàn cảnh số 5/1999.

Gia phả:
- Gia phả họ Lê Xuân ở Rạch Giá.
NGUYỄN THÔNG

   Nguyễn Thông sinh năm 1827, quê xã Tân Thạch, huyện Tân Bình, Gia Định, nay là chợ Kỳ Sơn, huyện Long An. Ông đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849) năm 23 tuổi, nhận chức Huấn đạo huyện Phong Phú, tỉnh An Giang, sau thăng đến Bố chính. Ông có tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Năm 1856, ông được về Huế làm việc trong nội các tham dự khảo duyệt lộ Cương mục và soạn sách nhân sự kim gián.

   Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông 33 tuổi đang làm việc ở Huế, đã tình nguyện tòng quân trở lại Nam Kỳ làm việc dưới quyền Thống đốc Tôn Thất Hiệp. Ông đã cùng Trà Quý Bình lập Đồng Châu xã chống Pháp.

   Năm Tự Đức thứ 14 (1861), Kinh lược sứ Phan Thanh Giản tiến cử người có văn học, ông được thăng lĩnh Đốc học tỉnh Vĩnh Long. Sau đó được thăng thị giảng học sĩ lĩnh Án sát Khánh Hòa.

   Cũng trong thời gian này Nguyễn Thông liên lạc được với các sĩ phu, các thủ lĩnh khởi nghĩa, theo dõi, giúp đỡ cuộc kháng chiến của Trương Định và các cuộc khởi nghĩa của Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt. Ông không trực tiếp cầm súng đánh Pháp mà sáng tác thơ văn ca ngợi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân lục tỉnh Nam Kỳ.

   Thơ văn Nguyễn Thông toát lên tinh thần yêu nước, hy sinh tính mạng mình cho đất nước. Trong thơ cũng thể hiện rõ tình yêu làng xóm, cây đa, giếng nước, yêu nhân dân, yêu đồng bào thắm thiết. Trong văn thơ của ông cũng bộc lộ tâm trạng day dứt, đau xót trước cảnh đất nước bị họa xâm lăng, lên án bọn xâm lược và bọn Việt gian bán nước, bọn đầu hàng giặc.

   Khi viết về Trương Định, ông vô cùng trân trọng tường thuật lại tài năng quân sự, đức độ của Trương Định. Trong đó có đoạn: "... Nhưng các người ứng nghĩa không muốn giải binh, cố lưu ông Định ở lại. Họ nói với nhau rằng: "Bọn Tây bị dân ta nhiều lần đánh lui, nay chúng được triều đình giảng hòa, chắc chúng sẽ giết hại bọn ta. Vả lại bọn Tây lấy binh lực ăn hiếp ta bắt hòa, nhưng chúng không thành thực, nay triều đình giảng hòa với chúng, bọn ta không nơi nương tựa, sao bằng hợp lực đánh lại chúng, giữ lấy một mảnh đất để cùng nhau bảo toàn sinh mạng". Mọi người đều cho là phải, liền cử Trương Định giữ binh quyền. Lúc ấy có Phạm Tuất Phát ở Tân Long đem thư các hào nghĩa đến cử Định làm chủ soái để ra sức trừ giặc. Tức thì mọi người xây đàn tôn Trương Định làm chủ soái...". và “…Định bị thương nặng, liệu không thoát khỏi, rút dao mang sẵn trong mình, tự vẫn chết. Năm ấy ông 44 tuổi”.

   Trong "Truyện Phan Văn Đạt”, Nguyễn Thông kể lại việc Phan Văn Đạt, Đỗ Trình Thoại khởi binh đánh Pháp. Ông viết: “Người Tây bắt được Văn Đạt, dọa tra tấn cực hình, nhưng Văn Đạt không hề run sợ, tên chủ giặc lấy làm lạ hỏi tên thông ngôn. Tên thông ngôn trỏ Văn Đạt nói rằng: "Người này là kiệt hiệt nhất trong đảng" . Vì thế Văn Đạt bị giết, năm ấy ông mới 34 tuổi. “Ta Hồ Huân Nghiệp" có đoạn: “Đến lúc sắp phải hành hình, Huân Nghiệp sửa mặt, sửa khăn áo ung dung đọc bốn câu thơ rồi chịu chém. Ai nâý cũng rơi nước mắt. Ông mất mới 36 tuổi”.

   Tại miệt Gò Công, ông hợp tác với Trương Định phát động một phong trào chống Pháp rộng lớn. Năm 1862 , ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị mất, ông giữ chức Đốc học Vĩnh Long, vẫn liên lạc với các sĩ phu yêu nước và theo dõi, giúp đỡ cuộc kháng chiến của Trương Định. ông còn tích cực hưởng ứng phong trào "tỵ địa". Khi quân Pháp chiếm cả ba tỉnh miền Tây, ông cùng nhiều người yêu nước lỵ địa ra Bình Thuận. Ông xướng lập ra "Đồng Châu thư xã" nơi hội tụ các nhà văn thân yêu nước bình luận văn thơ. Đồng Châu thư xã còn in các tác phẩm văn thơ yêu nước. Tại đây đã in cuốn "Việt sử cương giám khảo lược" của Quốc sử quán triều Nguyễn, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ông. Đồng Châu thư xã không chỉ đơn thuần là nơi các nhà nho bình luận văn thơ, xuất bản sách, mà Nguyễn Thông còn tổ chức lực lượng chống Pháp.

   Nguyễn Thông tỵ nạn ở Bình Thuận nhưng vẫn da diết nhớ quê hương. Tâm sự đó được biểu hiện trong thơ. Trong bài thơ "Tiễn vợ là Ngô Vũ Khanh về Nam thăm quê", đã nói rõ cảnh biệt ly "Vầng trăng ai xẻ làm đôi".

      Nhị thiên sinh nguyệt nhất chu hoan
   (Một vầng trăng sáng chia đôi, một chiếc thuyền lênh đênh trở về).


   Bài thơ kết bằng hai câu:
      Tạc dạ thuận lo giang thương mộng,
      Tiên tỳ hoàn bội đáo gia san.


   Dịch nghĩa:
   Đêm hôm qua nằm mơ tưởng cái thú canh rau cần chả cá vược (những thú ở quê) ở trên sông quê hương
   Và giấc mơ ấy đã theo vòng xuyến của vợ về quê nhà trước rồi


   Nguyễn Thông nhớ quê hương không lúc nào nguôi. Có một người nông dân biếu ông một đời chim đa đa để ăn thịt. Chợt ông nhớ người xưa gọi chim đa đa là chim hoài Nam. Ông thả cho chim bay về Nam và làm bài thơ:

      Cành Nam nay thả mày về lại
      Bạn cũ gà rừng mặc sức chơi
      Bên suối uống ăn nên cẩn thận
      Chút thân đừng để lọt tay ai.


   Tại Bình Thuận, Nguyễn Thông làm nhiều bài thơ tiễn bạn ra Bắc, vào Nam. Trong đó có bài thơ "Tiễn Nguyễn Thiện Quan vào Gia Định". Thiện Quan xưa là bạn chiến đấu với ông. Nay được vua Tự Đức cử vào Gia Định làm Lãnh sự để giao thiệp với Pháp. Bài thơ thấm đậm nỗi buồn rầu, lo lắng:

      …Không biết gọi nhau lần sau ở chỗ nào,
      Vậy nên ngồi buồn rầu rầu tóc bạc đầu thành ông già cả rồi.
      Bây giờ triều đình đang có việc lo về miền Nam
      Tôi bực không có thiên Trù hải tặng ông,
      Ngoảnh đầu về miền Nam bâng khuâng nhìn mây lồng càng rợp


   Cuối năm 1867, Nguyễn Thông được điều về Khánh Hòa làm Án sát. Ông đã dâng biểu cho Tự Đức cải cách chính sự, chú trọng chọn người hiền tài làm quan, trừ bọn tham nhũng, tăng cường võ bị, cải tiến thuế và thực hiện chính sách khoan hậu với nhân dân. Sau đó ông bị bệnh, ông xin về nghỉ. Năm 1870 , ông về Huế làm Biện lý bộ Hình. Sau đó ông được điều về Quảng Ngãi làm Bố Chính.

   Trong ba năm làm Bố chánh, ông đã thực hiện chủ trương “Thực lực binh cường”, đã hô hào, giúp đỡ nhân dân đắp đập, đào kênh, làm thủy lợi, đắp đường giao thông. ông đã tập trung công sức trong một thời gian dài khẩn hoang ở vùng La Ngư. Chính thời gian này ông đã dâng sớ cho Tự Đức về “Biểu về việc doanh điền”. Khu khẩn hoang La Ngư đã kết hợp tài tình giữa doanh điền với căn cứ kháng chiến. Vì vậy giặc Pháp buộc triều đình Huế cản trở công việc của ông.

   Nguyễn Thông cũng đã xây dựng Phan Thiết thành một khu vực có sản xuất nông nghiệp có đánh cá, xây dựng thành khu thương mại, có lò nấu nước mắm, và dự kiến mở mang trường học, khai hóa dân trí. Ý tưởng của ông không thực hiện được vì chính sách "bế quan tỏa cảng" của triều Tự Đức.

   Bằng hành động của mình ông đã là nhà khuyến nông, nhà bảo vệ sinh thái. Thể hiện rõ nhất là bài ký: “Đinh gia Yển ký”. Bài Ký này đầu tiên được các ông Cao Tư Hanh, Đoàn Lê Giang nhắc đến trong tập "Tác phẩm Nguyễn Thông”, do sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi ấn hành năm 1984, nhưng các tác giả chưa có toàn văn bài ký để công bố. Đến năm 1994, nhà giáo Nguyễn Đình Thảng được ông Trần Tê, cháu ngoại cụ Nguyễn Duy Tư, người sáng tác "Bài phú Đập ông Cá" tặng cho một bản chép tay nói là chép từ một tấm bia dựng năm 1910. Ông Nguyễn Đình Thảng đã dịch nghĩa bài ký đó và đăng trên Tạp chí "Cấm Thành" số 1 năm 1984. Ông Nguyễn Đình Thảng viết: "Nghe đâu tấm bia này hiện vẫn còn ở xã Bình Mỹ huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi)”. Sau đó Bài ký được ông Ca Văn Thỉnh và ông Bảo Định Giang dịch, đưa vào tập "Nguyễn Thông con người và sự nghiệp”.

   Bấy giờ hạt Quảng Ngãi đất rất xấu, dân nghèo. Nguyễn Thông làm tại chức được hơn một năm, đào ngòi cứ, đắp đập, đắp bờ dẹp yên tệ lại nhũng, trấn áp bọn cường hào, dân được dễ chịu. Nhưng công việc cũng chưa xong, lại có án mạng, tội nặng đem xử nhẹ, bị phạt ly chức. Dân được tin liền kêu xin cho ông. Năm Tự Đức 27 (1874) lại được khởi phục làm Tư vụ lĩnh Lễ bộ chủ sự. Triều đình lại cử lĩnh Quốc tử giám tư nghiệp tham gia khảo duyệt bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục.

   Năm 1877 triều đình cử ông về Bình Thuận làm Dinh điền sứ, tổ chức khai hoang ở Tây Nguyên. ông tổ chức khai hoang, thành lập các ấp trại mới. Các nông trại đều được chính ông khảo sát và đều được bảo vệ bằng "trong lũy, ngoài hào", trồng tre mây tạo thành hàng rào kiên cố. Ông cho đắp đường giao thông, đào kênh mương từ trong trại, ấp ra cánh đồng, từ cánh đồng trại ấp này sang trại ấp khác. Ông còn cho giữ lại những dải rừng cây rậm rạp ở hai bên đường và mương dẫn nước. Thời bình thì phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao thông, nhưng thời chiến thì trở thành hào, lũy, phục vụ chiến đấu. ông còn xây dựng lực lượng dân binh, trang bị vũ khí, và huấn luyện quân sự thường xuyên.

   Những việc làm của ông ở Tây Nguyên làm cho bọn cầm quyền Pháp ở Sài Gòn lo ngại. Chúng vin cớ hòa ước đã ký không được xây dựng căn cứ quân sự và gửi thư ra triều đình Huế phản đối. Tự Đức và triều thần vốn sẵn có tư tưởng đầu hàng, nên đã run sợ trước lời buộc tội của thực dân Pháp, lệnh cho ông đình chỉ những việc ông đang làm. Để ngăn cách ông với dân cư ở khu mới khai hoang ở Tây Nguyên, triều đình Huế cử ông làm Phó sứ điền nông kiêm đốc học tỉnh Bình Thuận.

   Năm Tự Đức thứ 32 (1879), địa phương gặp có báo động, vì có người Man nổi dậy, vua sai Nguyễn Thông cùng với Phan Trung điền nông sứ xử trí. Khi xong việc, Nguyên Thông được thăng Hồng lô Tự khanh sung Điển nông phó sứ kiêm lĩnh Học chính rồi sau mất năm 1894 thọ 68 tuổi. Mộ phần ông hiện nay còn ở Bình Thuận.

   Nguyễn Thông không những là nhà cải cách chính trị, nhà quân sự, nhà giáo dục, nhà khuyến nông, nhà thương nghiệp mà ông còn là nhà thơ, nhà sử học, nhà địa lý. Đến nay tác phẩm còn lại có các tập Ngoạ du sào thi, văn tập, Kỳ Xuyên thi văn sao, Độn Am văn tập, Kỳ Xuyên công độc, Việt sử Cương giám khảo lược.

LÊ ĐÌNH DIÊN

   Lê Đình Diên sinh năm Giáp Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 5 (1824), người làng Mọc Cựu, xã Nhân Mục Cựu, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội (1). Lê Đình Diên sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nho học. Ông học giỏi, có tư cách được cử làm trưởng tràng của cụ nghè Tự Tháp Vũ Tông Phan.

Ông thi đậu cử nhân khoa Mậu Thân, Tự Đức thứ 2 (1848). Ông đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Dậu dưới triều Tự Đức (1849). Ông làm bài thơ, dịch như sau:

      Người đời đánh cá biển khơi
      Ta lại đánh cá ở nơi núi rừng
      Nơi núi rừng vốn không có cá
      Núi quanh co như thể sướng dồn,
      Người đời kiếm củi đầu non,
      Ta lại kiếm mãi ở mom biển ngoài
      Ngoài biển cả, khảo ai ra củi?
      Chỉ nhấp nhô sóng đuổi núi cao
      Người đều cày ruộng bằng trâu
      Ta lại đem bút thay trâu mà cày
      Cây bút vắng tiếng trâu hì hục
      Chữ từng hàng gấm vóc nở hoa
      Người đều miệng đọc ngâm nga
      Ta nay tâm đọc lại là phần hơn,
      Tâm đọc sách không vang thành tiếng
      Mà Thiên kinh, vạn quyển làu trơn
      Thành cầu tâm đắc là hơn...


   Lúc đầu ông được bổ chức quan Hàn lâm Biên tu, rồi thăng tri phủ Tân Yên. Ông vốn tính thẳng thắn, không xu nịnh quan trên, nên quan phủ, tỉnh không ưa, dâng sớ về triều nói xấu ông. ông bị cách chức, năm 1858 , ông được khai phục chức Biên tu, Hàn lâm viện Kiểm thảo. Năm 1860 thăng hàm Tu soạn, điều bổ làm Đốc học Nghệ An, sau làm Đốc học Hà Nội. Năm 1870  chán cảnh triều đình Huế ký các Hiệp ước đầu hàng giặc Pháp, để mất lục tỉnh Nam Kỳ vào tay giặc Pháp nên ông cáo quan về nghỉ, mở trường dạy học ở số nhà 39 phố Hàng Đậu. Trường của ông khi mới thành lập chỉ có năm gian nhà tranh, tre, nứa, lá. Sau học trò góp tiền xây nhà gạch, lớp ngói. Căn nhà vừa là nơi dạy học vừa là nơi thờ gia tiên. Nhà tiền tế có bức hoành phi: Quân tử thành mệnh do một học trò cũ là Vũ Nhự, đốc học Hà Nội cung tiến năm 1881. Nay là số nhà 39 phố Hàng Đậu, Hà Nội.

   Tên lái buôn Jean Dupuis ngày càng ngang ngược. Một lần ông nằm trên võng có hai phu võng khiêng qua Cửa Bắc, nhìn thấy hai tên Pháp và một tên người Nam, đang tò mò xem xét, có vẻ như ghi chép ở Cửa Bắc. Ông nằm trong võng thò đầu ra mắng chúng không được nhòm ngó. Ngay lập tức một thằng Tây xông tới đánh ông ngã quị xuống đất. Hai phu võng vừa đỡ ông dậy vừa kêu cứu. Nhân dân nghe tiếng liền đem gậy gộc đổ ra đường đánh đuổi chúng. Ngay chiều hôm đó thân hào, tư văn Hà Nội họp ở Văn Miếu thành lập đội quân trên 300 người, tôn tiến sĩ Lê Đình Diên làm thủ lĩnh, cử nhân phường Kim Cổ Ngô Văn Dạng trực tiếp chỉ huy. Ngô văn Dạng nhận thấy phải tổ chức trừng trị quân Pháp nên đánh hai trận ngày 7 và ngày 9 tháng 11 năm 1873. Song cả hai trận đánh trên không đem lại hiệu quả lại bị quan tỉnh Hà Nội theo lệnh triều đình Huế bắt giải tán nghĩa quân. Ngày 20/11/1873 khi Francis Gernier đánh thành Hà Nội thì tiến sĩ Lê Đình Diên và cử nhân Ngô Văn Dạng đã tập hợp được một số nghĩa quân, dân binh đánh vào sau lưng quân Pháp, hỗ trợ cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đánh giặc ở trong thành.

   Thành Hà Nội thất thủ, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết Tự Đức lại cử Nguyễn Trọng Hợp giữ chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ ra Hà Nội đàm phán với Pháp. Nguyễn Tư Giản, Lê Đình Diên cùng đồng môn dựng bia cho thày Vũ Tông Phan tại ngôi trường Tự Tháp cũ, gạt Nguyễn Trọng Hợp ra khỏi tổ chức, Hợp không được tham gia dựng bia thày nên cay cú với Nguyễn Tư Giản, Lê Đình Diên lắm. Giặc Pháp cũng như Nguyễn Trọng Hợp sợ hãi, hằn học tìm cách đối phó. Chúng cho tay chân rình rập đánh trọng thương tiến sĩ Lê Đình Diên. Giặc Pháp và triều đình Huế đã sai Nguyễn Trọng Hợp ra Hà Nội đàn áp dữ dội nho sĩ Hà Nội. Chúng phá nhà thờ Vũ Tông Phan để xây dinh thự cho tên Phó Toàn quyền Đông Dương (nay là báo Nhân dân). Nhưng các nho sĩ Hà Nội và nhân dân đã bảo vệ được tấm bia và chuyển đến nơi an toàn.

   Lê Đình Diên mất năm khoảng năm 1885.






------------------------------------------------------------------------
(1) Vùng Mọc từ thập kỷ 70 của thế kỷ XIX trở về trước chia làm hai xã là Nhân Mục Môn và Nhân Mục Cựu. Nhân Mục Môn gồm Quan Nhân, Giáp Nhất, Chính Kinh (Hoa Kinh) và Cự Lộc. Nhân Mục Cựu gồm hai thôn Thượng Đình và Hạ Đình. Khoảng đời Tự Đức (1848-1883), Thượng Đình và Hạ Đình tách thành 2 xã Thượng Đình và Hạ Đình độc lập nhau. Lê Đình Diên quê ở Hạ Đình, nay thuộc phường Hạ Đình.

LÊ CẨN

   Khoảng năm 1872 khởi nghĩa Vũng Liêm (sau gọi là Vĩnh Long) nổ ra, giặc Pháp gọi là giặc Cầu Vông. Cuộc khởi nghĩa này do hai ông Lê Cẩn và Nguyễn Giao chỉ huy.

   Lê Cẩn cùng Nguyễn Giao vốn là người nghĩa hiệp thường bênh vực kẻ yếu, cứu giúp người nghèo, được nhân dân quý trọng, nên khi hai ông dựng cờ xướng nghĩa có rất nhiều người dân theo. Họ tự sắm vũ khí, đem theo cả lương thực đến đầu quân.

   Lê Cẩn và Nguyễn Giao xây dựng đại bản doanh ở ngay quận lỵ Vũng Liêm. Quân dân đào hào dọc quận lỵ Vũng Liêm ngăn tầu chiến Pháp từ sông Cổ Chiên đi vào. Hai ông còn đắp thành lũy ở ấp Vạn Điểm là nơi có địa thế hiểm trở để phòng thủ.

   Lê Cẩn và Nguyễn Giao được quân sĩ tôn làm Đốc binh để có danh nghĩa chỉ huy nghĩa quân, tập hợp quần chúng.

   Giúp việc hai đốc binh có nhiều trợ thủ đắc lực như Phó Mai đã hoạch định kế hoạch đánh chiếm chợ Vũng Liêm, đốt chợ giết tên chủ quận là Nguyễn Việt một tay sai tàn bạo của thực dân Pháp.

   Sau vụ này giặc Pháp đem quân đến đánh phá Vũng Liêm và vùng chung quanh dữ dội. Giặc Pháp sai Tôn Thọ Tường một tên chó săn cho Pháp đến làm chủ quận Vũng Liêm thay tên Nguyễn Việt bị nghĩa quân giết chết.

   Cuộc kháng chiến của Lê Cẩn, Nguyễn Giao còn làm cho tên Tham biện Pháp là Alix Salicetti, người Việt gọi hắn là Bôi Xê là một tên nham hiểm đang dùng mọi thủ đoạn đàn áp, mua chuộc nghĩa quân phải khiếp sợ. Các thủ lĩnh nghĩa quân bàn với nhau là phải trừng trị tên này. Đốc binh Lê Cẩn nói: “Thằng này vốn tính kiêu căng, ngạo mạn tôi đưa thư trá hàng, dụ có vào ổ phục kích rồi ta đổ ra đánh giết...”.

   Mọi người chưa rõ kế hoạch trá hàng như thế nào, Lê Cẩn trình bày cụ thể, mọi người thấy được liền chấp thuận và bổ sung vào kế hoạch. Salicetti nhận được thư xin hàng của hai Đốc binh Lê Cẩn và Nguyễn Giao quyết định đến nơi tổ chức lễ đầu hàng. Tôn Thọ Tường vốn là kẻ đa nghi, can ngăn, Salicetti vẫn giữ ý kiến của mình chỉ đem vài chục quân hộ vệ tới Vũng Liêm…

   Ngày 15 tháng 2 năm 1872 , Salicetti thấy bốn bề vắng lặng, đã nghi hoặc. Song hắn vẫn cưỡi ngựa qua Cầu Vông. Quả nhiên tới đầu Cầu Vông đã thấy vài chục nghĩa quân tụ tập ở đó, nhưng không có vẻ gì là quy thuận cả. Song hắn chưa kịp ra lệnh cho lính đối phó thì Đốc binh Lê Cẩn với thế võ nhẩy sào từ trong bụi rậm chống gậy tầm vông nhẩy vọt ra ôm lấy vật hắn từ mình ngựa xuống mặt cầu. Qua phút hàng hoàng, bọn lính đã kịp thời lên đạn nhưng không dám bắn. Trong khi đó chiêng trống vang lên, nghĩa quân từ nơi mai phục ở hai bên đường đổ ra đánh giết quân Pháp. Cả mấy chục tên đều bị giết không sót một tên. Trong khi đó Lê Cẩn và tên Salicetti vẫn vật nhau, rồi cả hai rơi xuống sông và cùng chết đuối. Nguyễn Giao chặt đầu tên giặc Pháp bêu ở phố.

   Vài ngày sau tên Đốc phủ sứ Trần Bá Lộc đem quân tới Vũng Liêm, hắn ra lệnh cho bọn lính: "Vùng này chứa chấp bọn phiến loạn phải giết hết".

   Bọn lính tràn vào ấp giết tất cả già trẻ, lớn bé kể hàng trăm người, đốt phá trụi Vũng Liêm.
NGÔ VĂN DẠNG

   Ngô Văn Dạng sinh năm Ất Mùi - Minh Mệnh 16 (1835) người làng Lương Ngọc, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông sinh trong một gia đình khoa bảng, ông đỗ cử nhân khoa Giáp Tý, Tự Đức 17 (1864). Ông không ra làm quan mà dời quê lên ngụ ở phường Kim Cổ, huyện Thọ Xương, Hà Nội mở trường dạy học (nay là số nhà 12 phố Hàng Bông) nên cũng gọi là ông Cử Kim Cổ.

   Từ khi triều đình Huế cắt Hà Nội thành nhượng địa của thực dân Pháp thì Văn Miếu Hà Nội giao cho quan tỉnh Cầu Đơ (sau đổi là Hà Đông) quản lý. Vì vậy trung tâm văn hóa của Hà Nội chuyển về đền Ngọc Sơn nằm ở giữa hồ Hoàn Kiếm. Đền Ngọc Sơn là trụ sở của hội Phả đền, sau đổi thành hội Hướng Thiện do ông Nghè Vũ Tông Phan làm Hội trưởng, tiếp đó là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu làm Hội trưởng. Ông cử Ngô Văn Dạng thường xuyên đến đền Ngọc Sơn, có nhiều đóng góp quan trọng vào việc in ấn sách để tổ chức lễ kỷ niệm các anh hùng dân tộc.

   Ông cử Kim Cổ là một nhà sư phạm mẫu mực, học trò người Hà Nội và các tỉnh theo học rất đông, khoa thi nào cũng có người đỗ Đại khoa..

   Dựa vào thế lực của giặc pháp và sự nhu nhược, đầu hàng của triều đình Huế, tên lái buôn Jean Dupuis rất ngang ngược, ngang nhiên cho quân cướp phá phố phường.

   Cử nhân Ngô Văn Dạng đã cùng với thày là Hoàng giáp Lê Đình Diên phát động nhân dân Hà Nội phản đối sự lộng hành của Jean Dupuis. Ông sử dụng lực lượng đông đảo nhân dân ngăn chặn, đánh đuổi quân lính của Jean Dupuis, lính Vân Nam, đám tàn quân của Tạ Văn Phụng cùng dân công giáo quá khích cướp phá các phố.

   Một lần Hoàng giáp Lê Đình Diên ngăn cản hai tên Pháp và một tên người Nam nhòm ngó địa thế Cửa Nam, ông lên tiếng xua đuổi chúng. Lập tức một tên lính Pháp xông lại đánh ông làm ông ngã từ trên cáng xuống đất. Ông Huấn đạo huyện Thọ Xương dạy học ở gần đó liền đưa học sinh ra đánh giặc giải vây cứu thày. Ông cử Ngô Văn Dạng nhận được tin liền lập tức đến thăm thày đang phục thuốc ở trường phố Hàng Đậu và thông báo cho các thân sĩ, nho sinh cùng nhân dân Hà thành biết. Ngay chiều hôm đó, các học trò và cả cựu học trò các trường Kim Cổ của cử nhân Ngô Văn Dạng, trường Vũ Thạch của ông cử Nguyễn Huy Đức và nhân dân Hà thành tổ chức cuộc họp ở Văn Miếu bàn việc trừng trị Jean Dupuis và tên Lý Dương Tài cầm đầu 200 tên thổ phỉ Tàu đánh thuê cho Jean Dupuis.

   Cuộc họp đã quyết định thành lập đội nghĩa quân, trong đó 242 người ở trong văn hội Thọ Xương và môn sinh các trường lớn, 150 người là các văn hữu ở các huyện Thanh Trì, Hoài Đức (Hà Đông), 92 người là thanh niên các phố phường và nông dân, các Nghĩa hội. Các nhà nho và quân sĩ tôn Hoàng giáp Lê Đình Diên làm thủ lĩnh, cử nhân Ngô Văn Dạng làm chỉ huy trưởng. Cử nhân Ngô Văn Dạng chia quân làm nhiều đội theo đơn vị trường học và khu dân cư, cắt đặt các xuất đội trưởng chỉ huy. Các lớp huấn luyện võ nghệ tổ chức vào ban đêm để giữ được bí mật. Ban ngày nghĩa quân chia nhau đi các phố phường và vùng nông thôn quyên góp tiền bạc để mua vũ khí, ủng hộ lương thực, thực phẩm để nuôi quân. Cử nhân Ngô Văn Dạng còn xây dựng các cơ sở hậu cứ ở vùng nông thôn ngoại thành, đề phòng trong thành gặp khó khăn thì rút ra đó củng cố, bổ sung lực lượng.

   Đội nghĩa quân của cử nhân Ngô Văn Dạng đang khẩn trương luyện tập thì nhận được thông sức của Thái tử Thiếu bảo Nguyễn Tri Phương Đổng suất Quân vụ Đại thần kiêm Kinh lược Bắc Kỳ cho các tỉnh, huyện, phủ phải gấp rút chuẩn bị lực lượng, trang bị vũ khí để đánh quân Pháp xâm lược.

   Khi đội quân nghĩa dũng đã được huấn luyện về sử dụng vũ khí, thế tiến lui, phục kích, công đầu, diệt viện thì ông cử Ngô Văn Dạng quyết định trừng trị bọn Jean Dupuis. Mục tiêu được chọn là kho đạn 200.000 viên của quân Pháp ở bờ sông Hồng. Ngày 7 tháng 11 năm 1873, Ngô Văn Dạng làm lễ xuất quân. Trước giờ xuất phát, ông cử đọc hai câu thơ:
  
      Chí tại tiêm cừu thành khổ nhục
      Tâm năng cứu quốc khởi cam sinh

Dịch:
      "Chí đã quyết định giết kẻ thù mà thành ra bị đánh dấu
      Lòng biết dốc, biết cứu nước lẽ nào cam chịu sống uổng”


   Khi màn đêm buông xuống, Ngô Văn Dạng phái một đội cảm tử quân bí mật đột nhập vào kho đạn rồi dùng kế hỏa công. Kế hoạch trên bị lộ, bọn giặc bắn trả dữ dội. Nghĩa quân không có súng bắn nhanh để tiêu diệt bọn lính, nên không tiếp cận được kho đạn, nên trận đánh không thành.

   Không chịu bó tay, hai ngày sau ngày 9 tháng 7 năm 1873, Ngô Văn Dạng tổ chức trận đánh phục kích trên bờ đê lối Jean Dupuis và bọn lính từ tầu chiến lên đi qua. Trận đánh không diệt được Jean Dupuis nhưng bắt sống được mấy tên lính Vân Nam và Ngô Văn Dạng đã lệnh tha cho chúng. Hai trận đánh không thành, nhưng đã làm cho Jean Dupuis và quân lính của hắn hoảng sợ không dám hống hách, cướp bóc trong phố như trước nữa. Quan tỉnh Hà Nội là Bùi Thúc Kiên nghe tin phái đoàn Pháp sắp ra dàn xếp việc Jean Dupuis, nên phải chấp hành dụ của triều đình khiển trách tiến sĩ Lê Đình Diên và cử nhân Ngô Văn Dạng tha cho mấy tên lính Vân Nam và bắt giải tán nghĩa quân. Việc này khiến nhân dân Hà Nội bất bình.

   Ngày 20/11/1873 khi Francis Garnier đánh thành Hà Nội, Ngô Văn Dạng lại tập hợp nghĩa quân đánh vào sau lưng quân Pháp. Thành Hà Nội thất thủ, Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết, thành mất nhưng nghĩa quân Ngô Văn Dạng vẫn không ngừng phục kích, tập kích quân Pháp cho đến khi quân Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ theo Hiệp ước ký với triều đình, ông mới giải tán nghĩa quân, tiếp tục dạy học. Học trò của ông sau này có nhiều người tham gia vào các tổ chức chống Pháp. Ông mất năm 1885.

ĐẶNG XUÂN BẢNG

   Đặng Xuân Bảng sinh năm Mậu Tý (1828) tại xã Hành Thiện, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Đặng Xuân Bảng có diện mạo khôi ngô tuấn tú, trán cao, mắt sáng, tiếng nói sang sảng. Từ nhỏ, ông chỉ theo học cha là Đặng Xuân Hòe.

   Năm Canh Tuất (1850) ông 23 tuổi đỗ cử nhân, được giữ chức Giáo thụ phủ Ninh Giang (Hải Dương). Năm Bính Thìn (1856), khi ông 29 tuổi, đỗ tiến sĩ.

   Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, Đặng Xuân Bảng đã trải qua các chức quyền Tri phủ Thọ Xuân ( Thanh Hóa), Giám sát ngự sử ở Nội các, Chưởng ấn ở Lại khoa, Án sát Quảng Yên, Bố chính Tuyên Quang, Bố chính Thanh Hóa, Bố chính Hà Nội, Bố chính Sơn Tây. Năm 1870 ông được phong Tuần phủ Hưng Yên, tháng 6/1872 nhận chức Tuần phủ Hải Dương, quyền Hộ Tổng đốc.

   Khi đó thực dân Pháp đã ổn định xong bộ máy cai trị ở Lục tỉnh Nam Kỳ, ông phán đoán quân Pháp sẽ đánh chiếm Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Để bảo vệ đất nước, Đặng Xuân Bảng dâng nhiều tờ sớ biểu lên triều đình tâu bày về tình hình tài chính thiếu hụt, hiện trạng quân đội yếu kém cùng các biện pháp khắc phục. Ông cũng kiến nghị với triều đình mở cửa sông Cấm thành cảng biển để buôn bán với nước ngoài, xuất hàng nông sản, thủ công nhập máy móc, tàu thuyền hơi nước, vũ khí của châu Âu về. Ông cũng đề cập đến việc xây dựng lực lượng bảo vệ, phòng thủ bờ biển, hải đảo và biên giới. Song Tự Đức cùng triều đình bảo thủ không chấp nhận.

   Từ cuối năm 1871, quân Pháp nhận được viện trợ và vũ khí từ Pháp gửi sang, cho tầu chiến xâm phạm hải phận Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Trước tình hình đó, Tuần phủ Đặng Xuân Bảng thương nghị với các quan. Mọi người đều xin đánh. Song không thể làm trái lệnh của triều đình mà chỉ phái người theo dõi các hoạt động của quân Pháp, ngăn cản không cho các giáo sĩ Pháp, Tây Ban Nha, giáo dân tiếp xúc với bọn Dupuis. Đặng Xuân Bảng cũng cho tu sửa thành trì, đặt thêm súng thần công trên thành, ra lệnh cấm trại, không cho lính ra ngoài mà phải sẵn sàng chiến đấu.

   Những hành động ngang ngược của Jean Dupuis và Francis Garnier khiến cho Tuần phủ Đặng Xuân Bảng và Án sát Nguyễn Đại không khỏi nghi ngờ dã tâm của giặc Pháp đối với Bắc Kỳ, song không dám trái lệnh của triều đình Huế.

   Ngày 15 tháng 10 năm Quý Dậu (4/12/1873), quân Pháp đi tầu chiến đến đánh thành Hải Dương. Thoạt đầu chúng uy hiếp bằng cách mời quan tỉnh xuống tầu của chúng để thương thuyết. Tuần phủ Đặng Xuân Bảng và các quan thừa biết đây là thủ đoạn lừa bịp để bắt sống những người chỉ huy giữ thành nên Đặng Xuân Bảng trả lời: “Chưa có lệnh của triều đình nên không hành đồng tùy tiện”. Không lừa được Đặng Xuân Bảng và đồng sự của ông, quân Pháp bắn đại bác dữ dội vào thành. Đặng Xuân Bảng, Án sát Nguyễn Đại cùng các quan chống cự kiên quyết, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc. Song thế lực quân ta yếu dần, nguyên nhân chính là: "Pháo thần công và súng kíp nhỏ bị trọng pháo đặt trên tầu chiến đè bẹp”. Biết không giữ nổi thành, Đặng Xuân Bảng tổ chức phản công quyết liệt rồi rút lui về Mao Điển để bảo toàn lực lượng. Do triều đình có nhận xét thành Hải Dương "mất trong thế lấy lại”, nên sau khi mất thành, triều đình triệu ông về Huế để chờ xét xử trách nhiệm. Song xét Đặng Xuân Bảng có phòng bị không sơ xuất, quyết chiến đấu giữ thành, rút lui bảo toàn lực lượng, nên ông không bị khiển trách. Tuy vậy đến năm 1876 , Tự Đức điều ông về Hưng Hóa chiêu mộ phu thành lập đồn điền để đới công chuộc tội.

   Từ năm 1878, ông nhận được lệnh về triều nhận chức Đốc học và công việc tâm huyết của ông từ khi bước vào chốn quan trường. Cũng năm đó và 10 năm sau. Năm 1888 triều đình điều ông về kinh giao cho chức vụ cao hơn, song ông đều tìm được lý do xin ở lại làm đốc học và triều đình đã chấp nhận.

   Năm 1888, thực dân Pháp đã cơ bản đàn áp được phong trào Cần vương, thực hiện bóc lột kinh tế và chính sách ngu dân về văn hóa, nên ông xin nghỉ hưu ở tuổi 61.

   Đặng Xuân Bảng về hưu, song với kinh nghiệm 2 năm mở đồn điền, ông đã tổ chức nhân dân khai hoang lập ấp Tả Hành, nay thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Lịch sử làng Hành Thiện còn ghi nhận ông đã gián tiếp giúp nhiều hộ dân từ nghèo trở thành giầu có.

   Làm quan to, có danh vọng, song ông rất quan tâm đến việc sửa sang, trùng tu, bảo tiền, tôn lạo các di tích như chùa, đền Văn Xương, Văn Chỉ. Ông còn xây dựng đường làng bằng đá phiến.

   Đặng Xuân Bảng về hưu song ông vẫn kiên trì thực hiện sự nghiệp giáo dục bằng hành động mở trường dạy học, viết sách. Ông đào lạo được nhiều cử nhân Hán học có tài, có đức. Tiêu biểu cho lớp người đó là Vũ Tuân, người Hải Dương, đỗ phó bảng năm 1901. Để chấn hưng việc học, ông làm Tiên chỉ hội Tư văn làng và hội Tư văn huyện, thường tổ chức các buổi bình thơ, văn trong đó có thơ văn yêu nước của trường Đông Kinh nghĩa thục. Chỉ trong 12 năm nghỉ hưu, Đặng Xuân Bảng đã viết tới 20 cuốn sách trong các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ học, giáo dục, địa lý, địa chí, văn hóa ứng xử, tức đạo làm người. Thí dụ về Lịch sử có các cuốn sử tiêu biểu như Sử học bi khảo, Việt sử cương mạc toát yếu. Đặng Xuân Bảng có quan hệ mới mẻ khi nhìn nhận đánh giá một số vấn đề lịch sử. Ông là người đầu tiên đã khẳng định vị trí không thể phủ định được của triều Tây Sơn trong lịch sử. Ông viết về triều Tây Sơn như sau:

   "Bên trong dẹp giặc cướp, bên ngoài đánh đuổi quân Thanh, khiến cho núi sông Hồng Lạc vẫn vững vàng như cũ. Huống chi lúc ấy, nhà Lê đã mất, triều Nguyễn ta chưa lên; sự truyền nối các đời Đinh, Lý, Trần, Lê đối với đất Bắc Kỳ trong 18 năm ấy nếu không thuộc về Tây Sơn thì còn thuộc về ai nữa". (Việt sử cương mạc toát yếu).

   Đặng Xuân Bảng có quan niệm nhìn nhận về công nghiệp, thủ công nghiệp, nêu cao vai trò của công nghiệp thủ công, buôn bán là điểm tiến bộ. Ông viết: “Ngày trước, phần công nghệ chỉ có đám hạ lưu làm, còn như bậc thượng lưu, trung lưu không mấy người nghĩ tới. Vì triều đình chỉ chú trọng vào khoa cử, khiến cho những người tài trí, thông minh cứ chăm chú miệt mài vào cuộc thi cử đó, đến nỗi già đời không có ích gì cho quốc dân; Do đó các nguồn lợi lớn về công nghệ như khai hoang đều rơi vào tay người Hoa cả”.

   Ông là người ham thích đọc sách, đến già cũng không biết mỏi, đọc cả các sách thiên văn, địa lý, tính mạng (số tướng) y bốc (bói toán), lục nhâm, thái ất, độn toán thích nhiều về thuyết “lập thân hành kỳ”. Ông thích bài nói và việc làm của cổ nhân, sự việc thiện ác, báo ứng nhất là sự tích các danh vật nước ta, và có đọc binh thư, binh pháp cổ. Ông thường nói: người nước ta chỉ học Bắc sử, không học quốc sử nhiều; cho nên các sự việc của nước ta về các mặt sơn xuyên (núi sông), phong tục (bờ cõi). quan danh (tên quan) chế độ v.v... tuy các bậc lão thành học nhiều cũng không biết hết. Do đó, ông rộng khảo các sách và làm các bộ sách: Nhân sự kim giám thư, (khoảng năm 1857-1858), Nam phương danh vật bi khảo, Độc sử bi khảo. Khi làm Tri phủ Yên Bình (1861) có viết bài "Tuyên Quang phú” là một tài liệu dân tộc học lịch sử rất quý. Tương truyền ông còn có bộ "Thiệu đình Việt sử” nhưng nay chưa tìm thấy.

   Đặng Xuân Bảng là người giầu tính dân tộc, làm nhiều sách về Việt Nam, nghiên cứu nhiều về Việt Nam như các sách Độc sử bị khảo, Nam phương danh vật bị khảo v.v….

   Về Văn hóa, Đặng Xuân Bảng có Như tuyền thi tập (thơ chữ Hán), Nam phương danh vật bi khảo, Huấn tục quốc âm ca (những bài ca Nôm do Đãng Xuân Bảng san bổ, nhuận sắc và in), Thành tổ hạnh thực diễn âm (thơ Nôm về sự tích Thiền sư Dương Không Lộ, Nhị Độ mai (dịch ra Nôm từ truyện Nhị độ mai của Trung Quốc và nhiều sách khác.

   Đặng Xuân Bảng là người đầu tiên ở Bắc Kỳ thiết lập được một thư viện tư nhân mang tên thư viện Hy Long với số lượng sách "chứa đầy sáu gian nhà ngói”. Ông còn tổ chức in sách, bán sách tại nhà. Đây là thư viện lớn nhất Bắc Kỳ thời đó.

   Đặng Xuân Bảng mất năm 1910, thọ 83 tuổi. Trong đám tang ông, có trên 300 học trò đến chịu tang. Nhân dân ấp Tả Hành chịu ơn ông tổ chức khai hoang lập ấp đã tôn ông làm Thành hoàng thờ ở đình.

VŨ CANH

   Vũ Canh húy là Tề người làng Tập Mỹ, tổng Bồ Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, nay là thôn Tập Mỹ, xã La Sơn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

   Thuở nhỏ ông đi học rất thông tuệ, nhưng lại có thiên hướng võ nghiệp, được cha mẹ đón thày về dạy võ, ông miệt mài học và luyện tập nên trở thành người rất giỏi võ. Ông sung vào lính, trúng tuyển kỳ thi võ, được thăng làm Giám kho Phủ Lý. Quan Giám kho Vũ Canh ở kho Phủ Lý là một trong số những người Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chọn lựa về tăng cường cho thành Hà Nội. Ông đã xây dựng, chấn chỉnh hệ thống kho lương, kho thuốc súng, kho bạc, kho quân trang. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương rất hài lòng về những việc quan giám Vũ Canh làm ở Hà Nội, đã dâng sớ lên vua Tự Đức phong cho Vũ Canh chức “Vũ Canh tướng công Đô úy tinh binh Cai đội”.

   Trước việc tên lái buôn Jean Dupuis ngang ngược, ngông cuồng, đòi có "nhượng địa” tại Hà Nội, đòi có muối, than đá chở đi Vân Nam bán. Hắn đòi thu thuế ở Hà Nội, xé các thông cáo của Hà - Ninh Tổng đốc dán bố cáo của hắn. Hắn còn cho 150 tên thổ phỉ ở Vân Nam do hắn mộ về bắt cóc các quan đưa xuống tầu, cướp mấy thuyền gạo của quan quân, cướp phá các hiệu buôn.


   Vũ Canh không thể làm ngơ, ông xin với Tổng đốc cho ông trừng trị chúng. Vì Tổng đốc phải chấp hành lệnh của vua Tự Đức không được ngăn cản chúng, mà chỉ để ông tập hợp một số quân lính giỏi võ hành động như “dân anh chị” trừng trị chúng nhiều phen đích đáng. Vũ Canh còn phối hợp với Bá hộ Trần Chí Thiện, Hào mục Nguyễn Văn Hổ và hai con trai là những người có thế lực, có uy tín ở Hà Nội đang chỉ huy những toán vũ trang tự phát, những dân binh thông thuộc đường phố, trừng trị bọn lính Pháp đi lẻ, đánh giết bọn thổ phỉ Vân Nam và đám thanh niên công giáo quá khích, mù quáng được các cố đạo Pháp, Jean Dupuis vũ trang. Các ông còn hô hào dân các phố phường hễ thấy bọn Tây, bọn phỉ Vân Nam, bọn giáo dân quá khích lập tức đổ ra đánh giết, gõ chuông, trống, chậu thau, mâm đồng uy hiếp chúng.

   Bọn Jean Duypis rất sợ hãi, mỗi khi ra phố phải kéo đi đông, vũ trang đầy mình, không dám cướp bóc bừa bãi như trước.

   Ngày 21/1/1873 tên Francis Garnier đem tàu chiến từ Sài Gòn ra Hà Nội với chiêu bài "Giải quyết vụ Dupuis”, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương thấy rõ dã tâm của Gamier ra Hà Nội là để đánh thành, nên ra lệnh chuẩn bị chiến đấu. Vũ Canh là người kiên quyết chống giặc Lang Sa dã tích cực thực hiện mệnh lệnh trên.

   Ngày 12/11/1873, Garnier gởi “Tối hậu thư” cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đòi ông phải nộp thành cho chúng. Nguyễn Tri Phương không trả lời, tăng cường phòng ngự. Vũ Canh là người tích cực thực hiện mệnh lệnh của quan Tổng đốc. Ông còn cho phân tán kho tàng, phát trước lương thực, đạn dược cho quân lính, phân tán kho gần 4 cửa thành để cấp phát được nhanh chóng. Ngày 19/11/1873, Garnier lại gửi “Tối hậu thư”  một lần nữa, Nguyễn Tri Phương vẫn không trả lời chỉ khẩn trương chuẩn bị chiến đấu. Một số quan lại hoang mang, lo sợ. Vũ Canh đã trấn an họ và thề sống chết với thành.

   Vũ Canh không yên phận là quan hậu cần mà ông giao việc này cho người tin cậy, xin chỉ huy một đội quân tham gia giữ cửa Bắc. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chấp nhận, giao cho ông chỉ huy 100 quân và biểu dương ông trước toàn quân.

   Ngày 20/11/1873 , quân Pháp bắn đại bác dồn dập vào thành mở đầu cho trận tấn công. Được sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, con trai ông là Nguyễn Lâm cùng các tướng đại bác, thần công đặt trên mặt thành bắn trả. Song quân Pháp sử dụng vũ khí tối tân đã sát thương nhiều quân ta. Quân ta phải lùi dần trước hỏa lực áp đảo của quân Pháp. Chúng phá được cổng thành, Nguyễn Tri Phương thân ra đốc chiến, Vũ Canh luôn đi bên cạnh hộ vệ ông. Song thế giặc rất mạnh, ông cùng Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã hy sinh anh dũng trong trận này.

   Dân làng Tập Mỹ làm sớ về triều xin tôn ông làm Thành hoàng thờ cùng với chín vị thần khác. Vua Tự Đức chuẩn tấu sắc cho làng Tập Mỹ thờ phụng, lại ban cho bạc và ruộng tế.

   Năm Tự Đức thứ 28 (1875) truy tặng Kiến công đô úy tinh binh cai đội.

   Năm Khải Định thứ 2 (1917) gia phong ngài Vũ Canh Tướng công đô úy chi thần là Dực bảo Trung hưng linh phù chi thần.

   Năm Khải Định thứ 9 (1929) gia phong ngài Dực bảo Trung Hưng linh phù Vũ Canh Tướng công đô úy tôn thần là Đoan túc Tôn thần.

PHẠM TÀI

   Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn có ghi tên hai ông Phạm Tài và Nguyễn Cao vào danh mục 500 vị, thờ ở đền Trung Nghĩa thuộc kinh đô Huế. Song việc đó cũng bị lui vào quá khứ.

   Mãi đến năm 1988, ông Phạm Đình Bao ở thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình tìm thấy tấm bia mộ bằng đá. Theo lời ông Bao thì đấy là bia mộ Phạm Tài tổ 5 đời dòng họ Phạm Đình ở Diêm Điền.

   Phạm Tài là một vị tướng chiến đấu dưới quyền chỉ huy của Tổng thống quân vụ Đại thần Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển quê ở làng Luyến Khuyết, huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình. Thự Tổng đốc hai tỉnh Gia Định Biên Hòa. Các ông xây dựng nhiều đồn lũy trong đó có đại đồn Chí Hòa.

   Ngày 23/2/1861, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công đại đồn Chí Hòa. Ngày 25/2/1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ. Nguyễn Tri Phương bị trọng thương. Nguyễn Duy em trai Nguyễn Tri Phương tử trận.

   Chưa rõ sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ thì Phạm Tài và Nguyễn Cao (đồng hương với Phạm Tài) chiến đấu ở đâu và trở về Diêm Điền lập đồn đánh Pháp từ bao giờ vì mãi tới tháng 11/1873, quân Pháp mới đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất.

   Tấm bia mộ của Phạm Tài có kích thước 45x30 gồm 52 chữ như sau:

   “Bản triều khai quốc công thần Tiền quân Khâm sai Cai cơ chỉ huy sứ Phạm Tài chi hầu chi mộ”.

   "Lạc Ngạn Gia Định Phạm Nguyễn đồng quy huân nghiệp bỉnh thanh sử chi công thủy”. Hách hách. Hoang Nguyễn phục nghĩa hưng xúy tảo binh nghịch lỗ khai thác hồng cơ”.


   Đại ý:

   Phạm Tài là một vị tướng triều Nguyễn, giữ chức Tiền quân khâm cai cơ chỉ huy sứ, tước hầu.

   Ông đã chiến đấu bảo vệ thành Gia Định. Sau khi thành Gia Định thất thủ Phạm Tài về quê ở Diêm Điền lập đồn binh chống Pháp, được truy phong “Khai quốc công thần”.


   Còn cụm từ 4 chữ "Phạm Nguyễn đồng quy”, theo trí nhớ của ông Phạm Đình Bao, cháu 5 đời của Phạm Tài thì "Nguyễn” ở đây là Nguyễn Cao, một vị tướng là người đồng hương cửa biển Diêm Điền.

   Hai ông lập đồn lũy kháng chiến lâu dài, hiện vật còn đến nay là hai khẩu thần công.

   Cũng thời gian trên còn phát hiện một tấm bia đá ở đền Thuận Nghĩa trên bờ sông Diêm Hộ thuộc thị trấn Diêm Điền. Bia có kích thước 80 x 60cm, bị gãy đôi, chữ mờ. Bia khắc ở phía trên 5 chữ: "Thuật Nghĩa từ bi ký”.

   Bia có 3 nội dung:
   - Lược ghi công tích của Phạm Tài và Nguyễn Cao.
   - Ý thức nhân dân sùng bái hai vị
   - Tên họ người đứng đầu lập bia là cựu lý trưởng xã Diêm Điền (và tu tạo đền).

   Dòng lạc khoản ghi rõ:
   “Bảo Đại Nguyên niên, tứ nguyệt nhị thập, nhị nhật. Diêm Điền xã tu tạo miếu vũ, cựu lý trưởng Phạm Hữu Biên cẩn chi”.

   Cuối năm 1989, tỉnh Thái Bình đã xếp hạng di tích nơi này.
NGUYỄN ĐẠI

   Nguyễn Đại người xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Ông đỗ Cử nhân khoa thi Hương khoa Mậu Ngọ, năm Tự Đức thứ 11 (1858) tại trường thi Hà Nội. Ông làm quan tới chức Án sát Hải Dương, giúp việc về quân sự, an ninh cho Tổng đốc Đặng Xuân Bảng.

   Sau khi được Chính phủ Pháp phê duyệt kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ, đến tháng 10/1872, Dupré lại sai Sơnê thám sát vịnh Hạ Long lần thứ hai. Tuần phủ Đặng Xuân Bảng, Án sát Nguyễn Đại cùng các quan quan tâm đến việc tầu chiến Pháp xâm nhập vào địa bàn mình quản lý, song chưa có lệnh của triều đình, nên chỉ giám sát các hoạt động của chúng.

   Tháng giêng năm 1873, bất chấp sự ngăn cấm của triều đình Huế, tên lái buôn kiêm mật thám Jean Dupuis đưa đoàn thương thuyền vào Cửa Cấm, tới sông Lục Đầu, tới Bắc Ninh, Hà Nội rồi theo sông Hồng sang Vân Nam.

   Lệnh của vua ban ra Án sát Nguyễn Đại cũng như Tuần phủ Đặng Xuân Bảng không dám có các hoạt động ngăn trở.

   Ngày 20/11/1873, Garnier, Jean Dupuis tấn công thành Hà Nội. Chiếm xong Hà Nội, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của Garnies, Tuần phủ Đặng Xuân Bảng, Án sát Nguyễn Đại cùng các quan tăng cường công tác phòng thủ tỉnh Hải Dương.

   Ngày 4/12/1873, Francis Garnier sai trung úy Hải quân Balny đem tàu chiến tấn công tỉnh thành Hải Dương. Trước khi nổ súng Balny quỉ quyệt mời các quan tỉnh xuống tàu để thương thuyết (Tên Balny bị quân ta và quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc giết chết trong trận Cầu Giấy ngày 21/1/1873). Án sát Nguyễn Đại cũng như Tuần phủ Đặng Xuân Bảng biết rõ đây là thủ đoạn của giặc Pháp lừa bắt nên từ chối, nhưng trả lời với thái độ mềm mỏng: "Chưa có lệnh của triều đình nên không hành động tùy tiện”.

   Không lừa được các quan tỉnh thành Hải Dương, Balny cho đại bác trên tầu chiến nã đạn đại bác vào thành. Nguyễn Đại đã cùng Tuần phủ Đặng Xuân Bảng chỉ huy quân sĩ kiên cường đánh trả quân Pháp. Ông đích thân lên mặt thành đốc thúc quân sĩ bắn mãnh liệt cản đường quân giặc đang ồ ạt tấn công thành.

   Song do triều đình Huế chủ trương "Hòa với giặc Pháp" nên đề nghị của Nguyễn Đại tăng quân số, đổi mới trang bị, cho đặt thêm đại bác ở trên mặt thành, thiết lập các vị trí quân sự bảo vệ thành từ xa không được Tự Đức chấp nhận. Vì vậy trong thành không có sự chuẩn bị chiến đấu, quân sĩ trang bị vũ khí lạc hậu, không được huấn luyện, tinh thần chiến đấu sa sút. Khi quân Pháp tấn công nã đại bác cấp tập vào thành thì từ quan văn, quan võ đến lính đều khiếp sợ. Nên đến 11 giờ trưa thành vỡ, Nguyễn Đại phải chỉ huy đội quân cảm tử ở lại đánh chặn quân Pháp để Tổng đốc đưa quan quân rút về Mao Điền.

   Mặc dầu triều đình nghị hòa với Pháp, Nguyễn Đại vẫn khẩn trương chấn chỉnh lại quân đội bổ sung thêm khí giới tích  cực chuẩn bị phản công, cướp lại thành. Sau ông bị quân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo. Bọn cai ngục hành hạ, đánh đập ông, ông quắc mắt lên quát: "Tao là Nguyễn Đại, người Hà Nội, cử nhân, Án sát Hải Dương, vì tao đánh quân Pháp nên bị chúng nó bắt cầm tù, chúng mày không được vô lễ". Từ đó bọn cai ngục không dám hành hạ ông.

PHÙNG XUẤT NGHĨA

   Phùng Xuất Nghĩa quê ở làng Trích Sài vùng Hồ Tây, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Ông là người cương trực, thường lên án bọn quan lại, cường hào ức hiếp dân, bênh vực người nghèo.

   Ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu, Tự Đức thứ 26 (20/11/1873), quân Pháp do Francis Garnier đánh chiếm thành Hà Nội xong rồi lấn ra phủ Hoài Đức, huyện từ Liêm, huyện Gia Lâm, huyện Thanh Trì của các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh… Triều đình Huế đã ra lệnh bãi binh, ngăn cấm nhân dân nổi dậy chống Pháp. Mặc cho triều đình đầu hàng, nhân dân các huyện giáp ranh với Hà Nội vẫn tập hợp lực lượng, tự trang bị vũ khí, thành lập các đội nghĩa binh đánh Pháp ở khắp nơi. Phùng Xuất Nghĩa được cụ đồ Tịch ở làng Cổ Nhuế giúp đỡ đã đứng ra thành lập Nghĩa hội, tuyên truyền phát động nhân dân đứng lên đánh Pháp. Ông vốn là người giao du rộng, được nhiều thân hào, thân sĩ trong vùng kính trọng nên vừa xướng nghĩa đã có đông đảo người yêu nước gồm các nhà nho, người lao động, dân buôn bán, thợ thủ công, làm công cho Pháp ở các làng Trích Sài, Quán La, Võng Thị, Bưởi, Nghi Tàm vùng ven Hồ Tây tham gia. Phùng Xuất Nghĩa tuyển chọn những người khỏe mạnh hăng hái vào đội nghĩa quân. Nghĩa quân tự trang bị vũ khí bằng dáo mác, gậy gộc, súng kíp. Những người còn lại chuyên lo việc điều tra tin tức của địch báo cho quan quân phe chủ chiến, quyên góp tiền bạc, lương thực ủng hộ nghĩa quân. Phùng Xuất Nghĩa tổ chức Lê Tế cờ long trọng ở gò Ngũ Nhạc trong làng Trích Sài giáp ranh với làng Cổ Nhuế, có đông đảo nhân dân vùng Hồ Tây tham dự rồi dẫn quân đi tìm giặc Pháp để tiêu diệt. (Theo Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trần Quốc Vượng chủ biên, Nxb Quân đội nhân dân).

   Do lực lượng của ông ít, vũ khí thô sơ, nên đội quân của Phùng Xuất Nghĩa chủ yếu tập kích các đồn giặc vào ban đêm, phục kích các cánh quân đi càn, đi tuần tiễu. Ông còn chỉ huy đánh phá các kho vũ khí quân lương, cướp thuyền chở lương của bọn công giáo phản động chở lương thực, thực phẩm tiếp tế cho quân Pháp. Những hoạt động quân sự, tình báo của Phùng Xuất Nghĩa gây cho quân Pháp nhiều tổn thất, nhiều lần tung quân đi đánh song đều bị ông đánh cho thất bại. Giặc Pháp thuyết phục dụ dỗ ông theo chúng, ông khảng khái từ chối. Chúng tra tấn ông cực kỳ man rợ bắt ông khai ra các đồng chí, song ông vẫn kiên trinh.

   Phùng Xuất Nghĩa hy sinh khiến nhân dân vùng Hồ Tây vô cùng thương xót và kính trọng, nhiều gia đình lập bàn thờ thờ ông và lưu truyền sự tích anh hùng của ông đến mãi ngày nay.


HOÀNG KẾ VIÊM

   Hoàng Kế Viêm sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thìn (1820), quê ở làng Văn La, tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, nhưng sinh ra ở Bình Hòa, nay là Khánh Hòa. Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), ông kết duyên với Hương La công chúa, con gái thứ 5 vua Minh Mệnh, nhưng chẳng bao lâu công chúa mất.

   Hoàng Kế Viêm theo học trường Quốc tử giám, năm 1843  đỗ cử nhân, ông ra làm quan sơ bổ Tư vụ, hàm Quang lộc Tự khanh. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), lãnh Lang trung bộ Lại. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), vì có tang mẹ, ông nghỉ 3 năm. Chưa đoạn tang, nhưng đầu năm 1852, miền Bắc có giặc cướp, vua triệu ông về kinh lĩnh chức Án sát Ninh Bình. Năm Tự Đức thứ 7 (1854) thăng Bố chính Thanh Hóa. Năm Tự Đức thứ 12 (1859) thăng chức Bố chính kiêm Tuần vũ Hưng Yên. Năm 1861, các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên bị giặc Tạ Văn Phụng, người công giáo, tay sai của thực dân Pháp tàn phá, nhưng tỉnh Hưng Yên do ông cai quản vẫn bình yên.

   Năm Tự Đức thứ 16 (1863), Hoàng Kế Viêm lãnh Tổng đốc An - Tĩnh, ông lo mở mang kinh tế, cho đào sông Thiết Cảng để thuyền bè qua lại dễ dàng.

   Đầu năm Tự Đức thứ 23 (1870) ông được đổi về triều. Ông đã thẳng thắn can ngăn vua bỏ săn bắn, chơi bời. Vua nghe theo. Triều đình thăng Hoàng Kế Viêm làm Lạng - Bình - Ninh - Thái Tổng đốc quân vụ đại thần (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang) Thái Nguyên (gồm cả Bắc Kạn). Hoàng Kế Viêm nhậm chức, đốc thúc quân sĩ chuẩn bị lực lượng chiếm đồn, đồng thời cho người tin cậy thu thập tình hình, tháng 12/1870, ông viết báo cáo về triều đình tình hình biên giới phía Bắc. Ông đã cầm quân đánh các toán phỉ trên vùng biên giới phía Bắc, trừng trị bọn quan lại tham nhũng, khoan hồng đối với những người bị quan lại áp bức mà mộ quân chống lại. ông cũng thu phục được tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, giao cho Phúc cai quân vùng đất Lào Cai ngày nay. Ông đã cùng với Kinh lược sứ Bắc Kỳ đề nghị với triều đình 9 điều cần phải làm đối với các tỉnh biên giới phía Bắc vừa bình định xong nạn thổ phỉ.

   Tháng 10/1871, theo đề nghị của Hoàng Kế Viêm, triều đình Huế đã quy định một số biện pháp để quản lý số người Trung Quốc ở Việt Nam từ Ninh Bình trở ra Bắc. Ngày 20/11/1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết, thành Hà Nội mất, quân Pháp đánh rộng ra các tỉnh Bắc Kỳ. Ngày 20/12/1873, Hoàng Kế Viêm giữ chức Thống đốc quân thứ Tam Tuyên.

   Tôn Thất thuyết, Tham tán quân thứ Tam Tuyên, tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, huy động quân ở một số quân thứ và nghĩa quân về phục kích ở Cầu Giấy và cho một toán quân vào Hà Nội khiêu khích giặc Pháp. Francis Ganier đang hội đàm buổi thứ hai với Trần Đình Túc ở trong thành. Thấy bên ngoài thành có động, Francis Garnier bỏ họp đem quân ra ngoài thành nghênh chiến rồi bị phục kích chết. Tàn quân của Garnier rút vào thành cố thủ. Hoàng Kế Viêm định đem quân về đánh thành Hà Nội, nhưng nghe lời bàn thiệt hơn của Hà Ninh tổng đốc Trần Đình Túc nên không động binh, đợi triều đìnhký Hòa ước.

   Lẽ ra nhân đà chiến thắng đó, Triều đình lệnh cho các quân thứ ở Bắc Kỳ cùng quân Cờ Đen áp đảo thành Hà Nội và các tỉnh thành Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định và các đồn lính khác của quân Pháp thì triều đình sợ trở ngại cho thương lượng nên mật điều Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết, Lưu Vĩnh Phúc về phòng thủ ở quân thứ Tam Tuyên, không cho hoạt động ở Hà Nội nữa.

   Để thưởng công cho các tướng thắng trận Cầu Giấy, đồng thời cũng để tách các ông ra khỏi Hà Nội, tháng 3/1874 (tháng 2 năm Giáp Tuất), triều đình phong Hoàng Kế Viêm làm Hiệp biện đại học sĩ, phong tước Tử; Tôn Thất Thuyết làm Binh bộ Hữu Tham tri, phong cho tước Nam, Lưu Vĩnh Phúc làm Phó Lãnh binh quân thứ Tam Tuyên.

   Năm Tự Đức thứ 29 (1875) Hoàng Kế Viêm khuyến khích việc khai hoang, đắp đê sông Nhị Hà, mở mang trường học.

   Năm Tự Đức thứ 31 (1878) ông được thăng Đông các Đại học sĩ. Hai năm sau (1880), ông được phong Tĩnh biên sứ kiêm cả đạo Lạng Giang và Đoan Hùng.

   Ngày 25/4/1882, trung tá Hải quân Hăngri Rivierơ (Henri Rivière) theo lệnh của Thống đốc Nam Kỳ Lơ mía rơ Đơ vi lơ (Le myre se Vilers) rời Sài Gòn đem theo hai chiến hạm cùng 300 quân ra tăng cường cho lực lượng viễn chinh Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ. Ngày 4/3/1882, Henri Rivière đóng quân ở Đồn Thủy nắm ,quyền chỉ huy tối cao toàn lực lượng viễn chinh Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ. Ngày 25/4/1882, quân Pháp tấn công thành Hà Nội, đến 11 giờ thành Hà Nội vỡ. Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết.

   Triều đình muốn thương thuyết đầu hàng Pháp, bắt Hoàng Kế Viêm phải đuổi quân Cờ Đen lên Tuyên Quang và Sông Đà, Hoàng Kế Viêm về đóng ở Thục Luyện (huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ).

   Triều đình điều đình với Pháp không xong, ngày 12/3/1883, quân Pháp đánh chiếm Hòn Gai. Ngày 22/3/1883, Hoàng Kế Viêm kết hợp với Lưu Vĩnh Phúc đánh Hà Nội, nhưng không kết quả. Ngày 28/3/1883 quân Pháp đánh chiếm Nam Định. Sau khi thành Nam Định mất, Hoàng Kế Viêm bị triều đình giáng xuống hàm Tổng đốc.

   Ngày 19/5/1883, Hoàng Kế Viêm triệu tập tướng Lưu Vĩnh Phúc và một số tướng lĩnh khác lại kéo quân về Cầu Giấy, Hà Nội đánh một trận phục kích lớn, giết chết trung tá Hải quân Henri Rivière và những binh lính Pháp. Đây là trận thắng vô cùng lớn lao. Song triều đình sẵn có tư tưởng đầu hàng, nên đã ra lệnh rút quân về Kinh, nhưng Hoàng Kế Viêm không tuân lệnh đã chỉ huy quân dân chiến đấu bảo vệ thành Sơn Tây.

   Ngày 14/12/1883 quân Pháp do Đô đốc Cuốc bê chỉ huy tiến đánh thành Sơn Tây. Thành Sơn Tây thất thủ, Hoàng Kế Viêm về đóng quân ở Thục Luyện.

   Hoàng Kế Viêm về Huế bị giáng xuống Thượng thư bộ Công. Năm Bính Tuất (1886), dưới triều Đồng Khánh ông xin về hưu không được. Pháp và Đồng Khánh muốn lợi dụng uy tín của ông trong việc phái ông ra Quảng Bình phủ dụ dân chúng nhưng chúng đã thất bại. Cuối cùng, cuối năm 1887, Triều đình phải để cho ông về hưu tại làng Văn La, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

   Tại quê hương, ông xuất tiền bạc khai khẩn đất hoang cho dân chúng làm ăn. Năm Kỷ Dậu (1909) ông mất tại làng Văn La, thọ 90 tuổi.

   Vua Duy Tân thương tiếc vị huân hiền của quốc gia ban cho tên thụy là Văn Nghi.

   Hoàng Kế Viêm sáng tác nhiều thơ văn, nay còn các tác phẩm “Phê thị trần hoàn”, “Khôn Y lục” (Thân thế, sự nghiệp công chúa Hương La)…

NGUYỄN MẬU KIẾN

   Nguyễn Mậu Kiến, hiệu Kinh Đài, sinh ngày 8 tháng 5 năm Kỷ Mão (6/1819) trong một gia đình giàu có, có truyền thống văn học ở xã Động Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

   Tuy sinh trưởng trong một gia đình giầu có nhưng Nguyễn Mậu Kiến từ nhỏ đã có lòng yêu nước, thương dân. ông thường xuyên xuất tiền, thóc để cứu tế cho dân Sơn Nam bị mất mùa trong các năm 1856 - 1857. Ông hiến một phần ruộng đất làm ruộng "binh điền" để trợ cấp cho các gia đình có con em đi tiễu phỉ ở biên giới, ven biển. ông còn cúng ruộng "học điền" để khuyến khích việc học, in sách phát không cho học trò.

   Ông có uy tín để dàn xếp những vụ xung đột giữa tín đồ đạo Thiên chúa gây ra với tín đồ đạo Phật ở tỉnh Nam Định, do bọn gián điệp đội lốt cha cố gây ra hòng làm rối loạn hậu phương của ta mở đường cho giặc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ.

   Ông học giỏi, nhưng thi cử lận đận, mãi đến năm 1863, khi ông đã 44 tuổi mới thi đỗ giám sinh (ngang cử nhân). Hai năm sau, năm 1865, Nguyễn Mậu Kiến mới thi đỗ khoa Hoành từ là khoa thi đặc biệt thời Tự Đức lấy ngang với đỗ Hoàng giáp để kén chọn nhân tài. Niên hiệu Tự Đức thứ 20, ông được cử làm Lang trung bộ Lại kiêm bang biện Nam Định. Sau làm đến Quang lộc Tự khanh.

   Nguyễn Mậu Kiến từ chối không ra làm quan, mà trở về quê huy động nhân công đào sông tiêu nước phát triển nông nghiệp ở huyện Tiền Hải, nơi Nguyễn Công Trứ tổ chức khai hoang vào các năm 1824, 1828. Sau nhiều lần Triều đình triệu, năm 1867, ông nhận chức Lại bộ Lang trung, sung chức bang hiện hai tỉnh Nam Định và Hải Dương. Năm 1868, giặc Cờ vàng do Hoàng Sùng Anh từ nhà Thanh tràn sang cướp phá Cao Bằng, Lạng Sơn, Triều đình cử ông làm Bang biện quân thứ Lạng Sơn cùng với Đề đốc Phan Bân, Tán tương Mai Quý đi đánh dẹp Trước nguy cơ giặc Pháp đem quân đánh chiếm Bắc Kỳ, năm 1871, Nguyễn Mậu Kiến đã cùng với hai con là Nguyễn Hữu Cương và Nguyễn Hữu Bản chiêu mộ quân đánh Pháp. Đúng như phán đoán của ông, sáng ngày 20/4/1873, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội.

   Ngày 02 tháng 10 năm Quý Dậu (10/12/1873), tàu chiến Pháp từ sông Vị Hoàng bắn đại bác vào thành Nam Định. Thành Nam Định thất thủ, Nguyễn Mậu Kiến cùng hai con lui quân về Thái Bình để bảo toàn lực lượng rồi bắt tay xây dựng căn cứ kháng chiến tại Kiến Xương. Nghĩa quân do ông chỉ huy lên tới 2.000 người.

   Lo sợ trước lực lượng kháng chiến ở Thái Bình do Nguyễn Mậu Kiến là người chỉ huy tối cao, Garnier từ Nam Định theo sông Hồng xuống cửa Vân Môn đánh phá Động Trung. Nghĩa quân chặn đánh chúng dọc tuyến sông Hồng, khiến cho chúng thiệt hại nặng nề cả về quân số và vũ khí.

   Nhưng với sức mạnh của tàu chiến, vũ khí chúng đã tràn được vào Động Trung, đốt nhà của Nguyễn Mậu Kiến và nhiều kho lương song Nguyễn Mậu Kiến đã chỉ huy nghĩa quân chiếm lại đồn Chân Định, xây dựng lại căn cứ, duy trì cuộc chiến đấu. Nghĩa quân luôn luôn tập kích các đồn binh Pháp, nên chúng  không dám đóng đồn ở Thái Bình.

   Nguyễn Mậu Kiến cũng như phần đông các bạn bè của ông kháng lệnh, vẫn duy trì quân đội, tiếp tục cuộc chiến trừng trị những tên từng theo giặc để bảo vệ độc lập dân tộc. Tự Đức đã xuống chiếu tước hết chức tước, phẩm hàm rồi bắt sung vào làm lính ở quân thứ Thái Nguyên - Tuyên Quang.

   Nhưng không may trong lúc Nguyễn Mậu Kiến cùng các đồng chí của mình tích cực hoạt động trên nhiều phương diện để phòng thủ Bắc Kỳ thì bệnh sốt rét ác tính tái phát và ông đã hy sinh tại quân doanh Đồn Vàng, Hưng Hoá ( nay là thị trấn huyện Thanh Sơn, Phú Thọ).
LÊ VĂN TỐN

   Lê văn Tốn sinh năm 1852, quê ở thôn Kinh Truật, nay thuộc xã Liên Sơn huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tú tài khi mới 18 tuổi. Noi gương Tam Đăng Phạm Văn Nghị, ông bỏ học văn theo học võ và tìm đọc các sách binh thư với mong muốn trở thành một chiến sĩ thực thụ trên mặt trận chống Pháp.

   Năm 1873 quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Ninh Bình, Lê Văn Tốn đã chiêu mộ nghĩa quân xuống An Hoà tham gia nghĩa quân Phạm Văn Nghị đánh Pháp. Ông chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc được phong chức Bang biện. Tháng 2/1874, Triều đình Huế ký hoà ước với Pháp buộc thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa giải tán nghĩa quân, ông trở về quê. Ông biết dã tâm của bọn Pháp là thôn tính cả nước Việt Nam, trước sau chúng sẽ đưa quân ra đánh Bắc Kỳ lần nữa, nên không ngừng luyện tập võ nghệ và liên kết với hào kiệt trong vùng để khi đất nước có biến thì chiêu mộ quân đánh Pháp.

   Năm 1882 quân pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai rồi đem quân đi đánh các phủ huyện (nay thuộc tỉnh Hà Nam ) Nam Định, Hưng Yên, Ninh Bình. Ông cùng các chiến hữu chiêu mộ quân đột kích quân Pháp và đánh bọn “giáo dũng” làm tay sai cho Pháp đi đánh chiếm các phủ huyện.

   Sau trận 19/5/1883 tiêu diệt Henri Riviere ở Cầu Giấy, Đinh Công Tráng về Hà Nam, Nan Định phát động phong trào khởi nghĩa đánh Pháp thì Lê Văn Tốn cùng với tiến sĩ Ngự sử Lê Văn Mai lập tức đưa quân bản bộ đến gia nhập nghĩa quân Đinh Công Tráng.

   Ông đã giúp Đinh Công Tráng trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân quyên góp lương thực nuôi quân Lê Văn Tốn cũng là nhà quân sự đa mưu, túc kế, đã cùng tiến sĩ, ngự sử Lê Văn Mai, Cai Hành bầy mưu tính kế cho từng trận đánh, khiến cho nghĩa quân ra quân trận nào là thắng ròn rã trận đó như các trận ở Trang, Thông, Bưởi.

   Trong trận nghĩa quân tiến đánh Kẻ Non là huyện lỵ Thanh Liêm do lực lượng quân Pháp mạnh lại có bọn "giáo dũng" tiếp sức Lê Văn Tốn bị quân Pháp bắt đưa về giam giữ ở Hà Nội. Trong thời gian ở tù, Lê Văn Tốn đã chiến thắng những lời dụ dỗ được ông, giặc Pháp đã dùng mọi cực hình tra tấn, song ông vẫn hiên ngang bất khuất, trơ như đá, vững như đồng ở nơi tù ngục ông đã làm bài thơ tỏ rõ ý chí của mình, của nghĩa quân:
     
         Ở TÙ

      Biết mấy năm nay tới tỉnh Ninh
      Quan quân đón rước thật là vinh
      Sớm trưa đủng đỉnh gông trên cổ.
      Lính tráng canh giờ giáo cửa dinh
      Tiêu tướng ngày xưa không khác tớ
(*)
      Chu Vương thưở nọ cũng như mình
      Rồi ra mới hết thân là quý
      Gặp gỡ tao mày thực thánh minh.


   (*) Tức Tiêu Hà, thừa tướng của Hán Cao tổ, bị Cao tổ bắt tù. Văn Vương nhà Chu bị vua Trụ bắt đi tù).

   Ngày 17/12/1886, giặc Pháp xử chém ông ở Hà Nội. Trên đường ra Pháp trường ông ung dung đọc bài thơ.

         ĐỌC LÚC RA PHÁP TRƯỜNG

      Ai ơi chớ nghĩ tớ là thường,
      Nào đã công thần, đã bá vương.
      Lính tráng đón đưa năm bảy lũ,
      Tiếng tăm lững lẫy chín mười phương.
      Lầu rồng, gác tía xênh xang ở.
      Thẻ ngọc, đai vàng đủng đỉnh mang.
      Thiên hạ ai ai là chẳng sợ,
      Theo xem nô nức thật đầy đường.

PHẠM THẬN DUẬT

   Phạm Thận Duật sinh năm 1825 , quê ở làng Yên Mô Thượng, tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình - nay là xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

   Khoa Canh Tuất, triều Tự Đức (1850), Phạm Thận Duật 26 tuổi đỗ cử nhân trường Nam Định.

   Năm Tân Hợi (1851) Phạm Thận Duật vào kinh thi Hội, chỉ lọt tam trường, không trúng cách.

   Năm Nhâm Tý (1852) ông được cử làm giáo thụ phủ Đoan Hùng. (Khi đó Đoan Hùng còn thuộc tỉnh Sơn Tây).

   Năm Ất Mão (1855), ông nhận chức Tri châu Tuần Giáo tỉnh Hưng Hóa, được thăng Tòng lục phẩm.

   Năm Bính Thìn (1856) ông kiêm nhiệm Tri châu Luân Châu. Trong thời gian ở Tuần Giáo, ông soạn sách “Hưng Hóa ký lược”. Nhận xét về cuốn Hưng Hóa ký lược, Phó giáo sư Phan Văn Các, Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong bài "Hưng Hóa ký lược - cuốn địa phương chí đặc sắc của Phạm Thận Duật” in trong tập "Phạm Thận Duật toàn tập” kết luận như sau: "Có thể nói với Hưng Hóa ký lược , Phạm Thận Duật đã thể hiện một tư duy khoa học sắc sảo, vượt ra ngoài khuôn khổ đào tạo kiểu từ chương khoa cử đương thời, vươn tới chiếm lĩnh những tri thức  bách khoa và thực tiễn để có cống hiên đích thực cho khoa học và cho đất nước”.

   Năm Đinh Tỵ (1857) ông được thăng Tri phủ tòng ngũ phẩm, đảm nhiệm tri huyện Quế Dương và Võ Giàng tỉnh Bắc Ninh.

   Năm Mậu Ngọ (1858), ông giữ chức Tri phủ Lạng Giang tỉnh Bắc Ninh kiêm Tri huyện Quế Dương. Với cương vị Tri phủ Lạng Giang, ông đã phải đối phó với bọn phỉ quấy rối ở thượng du.

   Từ năm 1866, Phạm Thận Duật được điều lên tỉnh làm Bang biện, kiêm đồn điền sứ. Đến tháng 10 năm 1867, ông đã thành lập ba sở đồn điền ở Lục Ngạn, Hiệp Hòa, Kim Anh với quy mô khá lớn. Tiếc thay chỉ một năm sau, Tự Đức ra lệnh bãi bỏ ba đồn điền này. Phạm Thận Duật ban bố nhiều chính sách phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh, song từ năm 1867 trở đi giặc cướp liên miên, Phạm Thận Duật được thăng Án sát. Do có công lao đánh phỉ, năm 1870, ông được thăng Bố chính Bắc Ninh. Đúng lúc đó Thanh phỉ do Ngô Côn cầm đầu từ Cao Bằng, Lạng Sơn tràn xuống đánh phá Bắc Ninh. Tiễu phủ Ông Ích Khiêm và Bố chính Phạm Thận Duật đã sử dụng mưu lược. Ông Ích Khiêm giả núng thế chạy xuôi, Phạm Thận Duật giữ thành Bắc Ninh bằng một đạo cô quân. Ngô Côn vây thành quyết chiếm thành, Phạm Thận Duật cố giữ, tiêu hao giặc. Ông Ích Khiêm được bổ sung lực lượng, bất ngờ đưa viện binh quay lại từ ngoài đánh vào. Phạm Thận Duật dẫn quân từ trong đánh ra, ép giặc vào giữa. Ngô Côn bị trúng đạn, chết dưới chân thành.

   Năm 1871, tên Tịch, thủ hạ của Ngô Côn tự xưng là Đại nguyên soái lại nổi lên ở Bắc Ninh, bè lũ tới trên 4000 tên, Phạm Thận Duật hợp sức với quân triều đình đánh tan. Ông được thưởng quân công một cấp. Phạm Thận Duật đang làm Bố chính tỉnh Bắc Ninh được triều đình cử làm Tuần phủ Hà Nội kiêm chánh đốc thông bảo cục (Sở đúc tiền), kiêm tri phòng khẩu sự vụ (phụ trách những việc khẩn yếu). Công việc của Phạm Thận Duật là bố trí lại bộ máy cai trị của tỉnh Hà Nội đã bị tan tác sau khi Pháp đánh chiếm. Trong thời kỳ Pháp chiếm đóng, nhiều lưu manh và giáo dân ỷ vào giặc Pháp đi cướp bóc của cải, chỉ điểm cho Pháp bắt những người yêu nước, nên tình hình an ninh không bảo đảm, mâu thuẫn giữa giáo dân Thiên chúa với những người theo đạo Phật nặng nề. Phạm Thận Duật phải mất khá nhiều thời gian để giải quyết việc này.

   Phạm Thận Duật thuộc phe chủ chiến, nên trừng trị thẳng tay bọn cộng tác với Pháp hạ thành Hà Nội và đánh phá nhiều nơi khác, bọn ngụy quyền do Pháp đặt ra, nay bị Pháp bỏ rơi vẫn quấy rối, nhũng nhiễu dân chúng, gây ra nhiều vụ mất an ninh.

   Trong bộ "Châu bản triều Nguyễn” còn lại đến nay còn bản tấu đứng tên Tuần phủ Hà Nội Phạm Thận Duật về việc: "Sau khi quân Pháp rút, quan quân Hà Nội phải đánh dẹp một toán phản loạn 500 người, cầm đầu là bọn đã theo Tây tấn công phủ Lý Nhân (thuộc tỉnh Hà Nội). Những tên cầm đầu đã bị hành quyết làm răn”. (Bản chính công văn hành chính của triều Nguyễn, trong đó có lời "châu phê" (phê sau) của nhà vua cho nên có tên như vậy. Nhóm biên soạn "Phạm Thận Duật toàn tập" căn cứ vào bản dịch tóm tắt các chân bản thời Tự Đức hiện còn lưu giữ ở Viện Hán - Nôm - Hà Nội).

   Phạm Thận Duật thẳng tay trừng trị bọn Việt gian giáo dân đạo Thiên chúa đã tiếp tay cho giặc Pháp, phản bội Tổ quốc, mặc dù trong điều 2 Quy ước ký kết giữa Nguyễn Văn Tường với Pháp, đại diện Soái phủ Sài Gòn về những sự kiện vừa xảy ra ở Bắc Kỳ ký ngày 5 tháng 1 năm 1874, ghi: “Triều đình Huế phải  ra ngay bản Tuyên bố ân xá tất cả những người vừa qua đã cộng tác với Pháp”.

   Phạm Thận Duật bổ nhiệm các quan chức ở tỉnh Hà Nội, ở các phủ huyện là những người yêu nước, có công chống Pháp, bảo vệ dân trong thời gian Pháp đánh chiếm Hà Nội, xử tội bọn quan chức do Pháp dựng lên, cách chức, hạ cấp bậc các quan chức khi quân Pháp đánh, bỏ chạy. Ông cũng dâng sớ về triều phong thưởng cho những người không kể là quan hay lính nhưng có tinh thần dũng cảm chiến đấu. Ông còn xuất công quỹ trợ cấp cho vợ con những binh sĩ hy sinh khi bảo vệ thành Hà Nội và các lị sở khác. Vì vậy ông đã nhanh chóng ổn định bộ máy cai trị ở tỉnh và các phủ huyện đã bị tan tác khi Pháp hạ thành Hà Nội và các phủ huyện (gồm Hà Nội và Hà Nam) và kiên quyết trừng trị những toán phản loạn đã từng theo Pháp tấn công thành Hà Nội và các phủ huyện.

   Phạm Thận Duật không phải chiến đấu trực tiếp với giặc Pháp như Nguyễn Tri Phương, song từ quan văn, ông đã phải làm võ tướng đánh dẹp Thanh phỉ và bọn giặc Tạ Văn Phụng, tay sai của giặc Pháp đánh phá các tỉnh ở Bắc Kỳ, làm do thám cho giặc Pháp, chia rẽ giáo, lương, chuẩn bị cho giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai.

   Cuối năm 1875, Phạm Thận Duật được cử làm Hộ lý tổng đốc Ninh - Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên), giữa năm 1876 ông bị ốm nặng phải nghỉ điều trị, sau đó về kinh làm Tham tri bộ Lại, kiêm phó Đô ngự sử Viện đô sát.

   Nhận chức vụ ở kinh chưa được 2 tháng, triều đình cử Phạm Thận Duật trở lại Bắc với chức vụ "Khâm sai kinh lý hà đê sứ” chỉ huy việc trị thủy vùng tả ngạn sông Hồng.

   Quan điểm của ông và của Hoàng Diệu là không bỏ đê mà đắp ngay đê bao lớn ở những nơi đê đã bị vỡ như ở Văn Giang; đắp đê ngăn mặn; khơi thông dòng chảy. Ông cũng đề xuất chuyển dần chân mùa sang chân chiêm theo lối hai bát úp một, lấy lợi phù sa bồi đắp để bù lại.

   Với chức vụ khâm sai Hà đê sứ (và cả khi còn giữ chức thự Tuần phủ Bắc Ninh) ông đã gửi tới vua Tự Đức 19 bản tấu về công tác đê điều (từ tháng 12 năm 1875 đến tháng 7 năm 1878).

   Cuối thu 1878, Phạm Thận Duật trở về kinh được thăng Thượng thư bộ Hình, sung Phó tổng tài Quốc sử quán, kiêm quản Quốc tử giám. Năm 1879, ông được cử làm đại thần Viện cơ mật.

   Giữa năm 1879, mẹ ông mất, ông về cư tang, vua Tự Đức ban cho ông 50 quan tiền làm đám. Ngay sau đó, ông có lệnh triệu về Kinh để cùng triều đình lo toan công việc. Ông dâng sớ xin lưu lại ít lâu thì bị vua Tự Đức quở, ông đành phải vào Kinh. Trên đường ông thấy dân tình xáo xác vì vụ mùa vừa mất, lòng thương dân của ông xáo động. Vừa vào đến kinh, ông đã dâng sớ xin triều đình tư sức cho các quan tỉnh đốc thúc dân chúng trồng thêm rau, củ, ngũ cốc để cứu đói. Vua Tự Đức chấp nhận và cho thực thi.

   Với cương vị Phó tổng tài quốc sử quán, ông đã kiểm duyệt lại bộ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”. Ông đã đầu tư nhiều công sức cho công trình trên, đến đầu năm 1882 ông đã làm xong, xin cho chép lại sạch sẽ và đưa khắc in.

   Trong thời gian làm Thượng thư bộ Hình ông đã có nhiều kiến nghị về phòng thủ đất nước.

   Năm 1882, Phạm Thận Duật được cử làm Khâm sai chánh sứ, Nguyễn Thuật làm phó sứ sang Thiên Tân. Song giữa lúc ấy thì Phạm Thận Duật nhận được tin từ Bắc Kỳ đưa sang là Henri Rivière đánh chiếm tỉnh thành Nam Định và vua Tự Đức ốm, chết ngày 19 tháng 7 năm 1883. Tình hình phế lập của triều đình Huế rối ren, quân Pháp tấn công cửa Thuận An. Triều đình Huế phải ký Hiệp ước Harmand với nội dung là triều đình Huế chấp nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là đất bảo hộ của Pháp.

   Phạm Thận Duật đành phải trở về nước trên đường về bị ốm phải nằm lại điều trị, tính ra kéo dài một năm.

   Bất chấp Hiệp ước Hannand, nhiều sĩ phu ở Bắc Kỳ phối hợp với Lưu Vĩnh Phúc, Đường Cảnh Tùng tiếp tục đánh Pháp.

   Vua Hiệp Hòa tỏ ra bạc nhược, thân Pháp nên Viện cơ mật đầu độc chết, đưa Kiến Phúc lên ngôi (trong 4 ngày có 3 vua).

   Phạm Thận Duật chuyển từ Thượng thư bộ Hình sang Thượng thư bộ Hộ và kiêm nhiệm cả Công bộ Tả tham tri (trong đó có việc xây dựng thành lũy, đồn binh), ông vẫn có chân trong Viện cơ mật. Vua Kiến Phúc còn nhỏ tuổi, nên quyền hành đều thuộc về Viện cơ mật, ông là nhân vật thứ ba sau Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Với cương vị Thượng thư bộ Hộ, ông đã xử lý nghiêm khắc nhiều vụ tham nhũng tiền và thóc như ở Thanh Hóa, có hàng chục kẻ bị chém, hàng trăm quan tỉnh, phủ, huyện bị mất chức, giáng, phạt.

   Ngày 25/7/1885, Phạm Thận Duật được thăng Vinh Lộc đại phu, chánh thất phẩm nhận nhiệm vụ khâm sai đại thần ra Bắc chiêu tập nghĩa sĩ Cần vương, tổ chức kháng chiến, xây dựng phong trào Cần vương ở Bắc Kỳ. Hai bà vợ ông được phong hàm tòng nhất phẩm phu nhân. Ngày 26 tháng 7/1885, xa giá vua theo đường núi Nghệ Tĩnh để ra Bắc. Phạm Thận Duật cùng hai con là Phạm Luyện, Phạm Cầu và đoàn tùy tùng quay ra Quảng Trị để theo đường biển ra Bắc trước. Ông bị ốm phải ở lại thôn Hà Trung, huyện Triệu Phong điều trị. Ngày 29 tháng 7 năm 1885, ông trên đường ra bến đò vừa đến Quán Dốc thuộc thôn Hà Trung thì bị Tri phủ Triệu Phong là Tôn Thất Thị đưa lính đến bắt cùng hai con là Phạm Luyện, Phạm Cầu và cả đoàn tùy tùng. Tôn Thất Thi nộp ông cho Pháp. Ngày 31/7/1885, quân Pháp đưa ông và đoàn tùy tùng về giam ở Thương Bạc. Ngày 1/9 ông bị quân Pháp đưa xuống tầu ra giam ở nhà tù Côn Đảo. Ngày 23/11/1885, Pháp đưa ông cùng một số người nữa đi đày ở quần đảo Tahiti. Ông đang bị ốm nặng, nên ngày 29/11/1885, ông mất ở trên tầu thuộc vùng biển Malaixia. Các bạn tù thủy táng ông ở dưới biển.

   Mãi đến năm 1995, nhân kỷ niệm 110 năm ngày mất của danh nhân Phạm Thận Duật, UBND tỉnh Ninh Bình, Viện Sử học Việt Nam, hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã long trọng tổ chức hội thảo về thân thế, sự nghiệp Phạm Thận Duật, đã dựng nhà bia tưởng niệm ông tại Yên Mô Thượng. Các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Hà Nội mới, Đại đoàn kết, Tin tức buổi chiều, Văn hóa và thể thao, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam... đều có bài viết, bài nói về thân thế, sự nghiệp của Phạm Thận Duật; Đài truyền hình Việt Nam giới thiệu tập phim tài liệu: "Phạm Thận Duật - cuộc đời và sự nghiệp”. Tháng 11 năm 2000, Trung tâm Unesco thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin đã xuất bản cuốn "Phạm Thận Duật toàn tập”. Cuốn sách đã nêu rõ thân thế sự và sự nghiệp trên chính trường, chiến đấu cùng các trước tác của ông.

TẠ HIỆN

   Tạ Hiện còn có tên là Tạ Quang Hiện, sinh năm Tân Sửu (1841), người làng Quang Lang, tổng Hổ Đội, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình, nay là xã Quang Lang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Tạ Hiện từ khi nhỏ ưa hoạt động, giỏi võ nghệ, bơi lặn giỏi, đỗ tú tài võ. Ông đã giữ chức Đốc binh quân vụ tỉnh Tuyên Quang.

   Tháng 9/1872, Tạ Hiện chỉ huy một số thuyền nhỏ của Nghệ An đánh tan 30 chiến thuyền lớn của bọn hải tặc Trung Quốc tại Hàm Giang (Quảng Yên). Sau chiến thắng này, Tạ Hiện được phong Phó quản cơ.

   Ngày 31/12/1873, quân Pháp trao trả tỉnh thành Hải Dương, triều đình cử Tạ Hiện làm Lãnh binh, (Nguyễn Huy Tự làm Hộ đốc, Nguyễn Hữu Đỗ làm Bố chính).

   Tháng 10/1879, thành lập đồn Cối Sơn, tỉnh Quảng Yên, Tạ Hiện được cử chỉ huy đồn. Ông chỉ huy quân lính đánh dẹp bọn phỉ Tàu, nên vùng này được yên lành.

   Năm 1883, triều đình Huế ký Hòa ước Quý Mùi nước ta phải chịu sự bảo hộ của Pháp.

   Tháng 8/1882, Tạ Hiện được thăng Chưởng vệ, lãnh Đề đốc Bắc Ninh. Tháng 2/1883, triều đình giao cho Tạ Hiện chỉ huy đội Hùng nhuệ thay Thống chế Hoàng Văn Thụ bị giáng chức.

   Ngày 27/3/1883, thành Nam Định thất thủ, Tạ Hiện xin triều đình đổi về giữ chức Đề đốc Nam Định để khôi phục lại tỉnh thành.

   Tháng 9/1883, triều đình ra lệnh triệt binh, Tạ Hiện không chịu, kiên quyết ở lại cùng nhân dân kháng chiến. Ông phái người nộp trả ấn Đề đốc, rồi cùng một số đồng chí, lui về phủ Kiến Xương (Nam Định) phát lệnh tố cáo giặc Pháp xâm lược, chiêu mộ hương dũng đánh Pháp nhiều trận kịch liệt. Ông còn mở rộng địa bàn hoạt động xây dựng căn cứ chống Pháp ở các huyện Hưng Nhân và huyện Thán Khê, Duyên Hà khi đó thuộc tỉnh Hưng Yên. Ông cũng phối hợp với Đổng quân vụ Đinh Gia Quế thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đánh quân Pháp nhiều trận lớn trên hai bờ Tả ngạn và Hữu ngạn sông Luộc.

   Cuối năm 1883, Tạ Hiện tập trung tới 4.000-5.000 nghĩa quân, đánh chiếm lại tỉnh thành. Họ đã làm chủ vùng nông thôn: thu thuế, tuyển lính, xử án...

   Trong những chiến công nghĩa quân do Tạ Hiện chỉ huy trên các chiến trường ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, có những trận đánh lớn vào đồn giặc ở Trà Lý (Thái Bình), đền Trần (Nam Định) trận đánh úp đồn Quỳnh Côi (Thái Bình) gây cho địch nhiều thương vong và thu được nhiều vũ khí. Nghĩa quân dựa vào dân thực hiện chiến tranh du kích, thiên biến vạn hóa, thoắt ẩn, thoắt hiện. giặc Pháp tung quân đi càn quét lại không thấy nhưng lại thường bị đánh úp, bị phục kích. Có trận nghĩa quân mặc quần áo lính khố xanh, công khai hành quân ban ngày.

   Lực lượng nghĩa quân Tạ Hiện ngày càng đông, mạnh mẽ, được huấn luyện tốt, có ý thức căm thù giặc và ý thức kỷ luật cao.

   Tạ Hiện đã phối hợp với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân như Đinh Gia Quế ở Bãi Sậy trong các năm 1883, 1884. Bang Tốn và một số tướng lĩnh của ông đã sát cánh chiến đấu với nghĩa quân Bãi Sậy. Ông cũng phối hợp với Nguyễn Thiện Thuật, Lã Xuân Oai, Phạm Huy Quang, Cai Kinh, Lưu Vĩnh Phúc, đánh quân Pháp ở cầu Quan Âm (Bắc Lệ, Lạng Sơn) ngày 24/5/1884.

   Đêm mùng 4 rạng ngày mùng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Phạm Thận Duật tấn công đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ ở kinh đô Huế. Bị quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị phát động phong trào Cần vương, Tạ Hiện đã nhiệt liệt hưởng ứng, ông được vua Hàm Nghi thăng thự Đô thống. Từ đó nghĩa quân của ông hoạt động càng mạnh, gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất.

   Từ tháng 10 năm 1886, nghĩa quân Tạ Hiện hoạt động mạnh trở lại. Nghĩa quân đánh úp đền Quỳnh Côi. Nghĩa quân do Bang Tốn chỉ huy và nghĩa quân do sư So ở chùa Thiền Quang chiếm lại được phủ Kiến Xương, tấn công huyện Trực Định (Kiến Xương). Nghĩa quân còn đánh đồn Thanh Quan, đồn Vụ Bản và nhiều trận khác. Daufès trong cuốn La Garde indigène de 1’Indochine de sa création à nos four, tập I, Toukin, Avignou 1933 đã phải thừa nhận: "Đội lính khố xanh đã xung đột nhiều trận với các đội nghĩa quân của Tán Thuật, Lãnh Giang, Tổng Kinh, Đốc Sung, Đề đốc Tạ Hiện, Đốc Tít… chỉ huy càn quét, bình định vùng giữa sông Luộc và sông Trà Lý, đột phá làng mạc, tàn sát nhân dân. Nghĩa quân tránh những trận đánh lớn, chỉ lẻ tẻ chiến đấu. Nghĩa quân của ông thường đào hố ngụy trang dụ địch đến là nhẩy ra bắt gọn chúng, nên chúng gọi là "giặc vồ”.

   Về cái chết của Tạ Hiện, có nhiều tư liệu khác nhau, nhưng đáng tin là cuốn “Lịch sử quân sự Đông Dương” thì đầu năm 1887, Tạ Hiện bị địch bắt và bị giết vào đêm mùng 2 tháng 2 năm 1887 ở Bình Bắc, Phả Lại, Đông Triều. Các cụ già ở quê Tạ Hiện cũng xác định ông bị giặc Pháp bắt và giết ở quê vợ tại Đông Triều, hiện ở đó còn đền thờ ông.

   Ngoài võ công lừng lẫy, Tạ Hiện còn là nhà thơ, nay còn lại bài "Cái nợ tang bồng”.

      Cái nợ tang bồng tí tẻo teo,
      Nay đòi mai hỏi tiếng ong eo.
      Nay ta quyết kéo trời Nam tại
      Kéo để giang sơn đổ lộn phèo


(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, trang 214 nhóm Chu Thiên, Văn học, Hà Nội, 1970)

PHẠM HUY QUANG

   Phạm Huy Quang sinh năm 1847 tại làng Phù Lưu, huyện Đông Quan (nay là xã Đông Sơn, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình).

   Ngày 1 tháng 7 năm 1868, Phạm Huy Quang đậu cử nhân đứng hàng thứ năm. Đầu năm Tự Đức thứ 22 (1869) có dụ ở kinh đô triệu ông vào nhận chức Hàn lâm Cung phụng, tập sự ở viện Đô sát. Sau đó ít lâu Phạm Huy Quang xin chuyển về Đông đạo ngự sử Bắc Kỳ với dụng ý ngăn chặn bớt sự tham nhũng của quan lại. Năm Tự Đức thứ 25 (1872) ông về Hải Dương thị sát với Tổng đốc Phạm Phú Thứ. Ông kiểm tra các tỉnh Quảng Yên, Hải Dương, Hưng Yên, một phần Nam Định. Đây là vựa lúa của đồng bằng sông Hồng. Nhà vua đã ra điều lệnh cho lập xã thương và nghĩa thương để cứu đói cho dân khi mất mùa. Ông cùng Phạm Phú Thứ điều tra thì số thóc trên bị quan lại, tổng lý vay chi tiêu vào mục đích khác. Ông đã tìm đủ mọi chứng cứ, bắt những kẻ tham nhũng phải bồi thường cho các nhà kho. Ông đem thóc đó phân phát cho dân bị đói. Năm 1874, Phạm Huy Quang được thăng Hàn lâm Điển bạ kiêm Giám sát Ngự sử Bắc Ninh.

   Tới Bắc Ninh, Phạm Huy Quang gặp lại bạn cũ là cử nhân Ngô Quang Huy, đốc học Bắc Ninh, phó bảng Lã Xuân Oai, người làng Thượng Đồng, huyện Phong Doanh, tỉnh Nam Định ( nay là xã Yên Tiến, huyện Ý Yên) khi đó đang ở Bắc Ninh,    Phạm Thận Duật, Bố chính tỉnh Bắc Ninh. Các ông trở thành bạn cùng chí hướng, thấy rõ Tự Đức là một ông vua mang nặng tư tưởng đầu hàng giặc Pháp, phải tổ chức lực lượng kháng chiến chống Pháp nên phân công Lã Xuân Oai liên lạc với quân Thanh để mua súng bắn nhanh do phương Tây sản xuất. Còn ông (Phạm Huy Quang), cùng với Ngô Quang Huy, Phạm Thận Duật, giúp Nguyễn Cao người làng Cách Bi huyện Quế Dương thành lập đội nghĩa dũng Bắc Ninh.

   Tháng 11/1873, quân Pháp đánh chiếm Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình để ép triều đình Huế nhượng lục tỉnh Nam Kỳ cho giặc Pháp.

   Mặc dù triều đình đầu hàng giặc, phe chủ chiến vẫn quyết tâm đánh Pháp. Ngày 3/12/1873, quân triều đình dưới sự chỉ huy của Tán tương Trương Quang Đản cùng nghĩa quân Nguyễn Cao, Phạm Huy Quang tập kích quân Pháp chiếm lại phủ Thuận Thành.

   Chán cảnh Triều đình đầu hàng giặc, mùa xuân năm 1875, Huy Quang xin từ quan mở trường dạy học. Song với lòng yêu nước thiết tha, ông lại bỏ hết gia tư, điền sản cho việc mộ quân, thiết lập các đồn mới để liên kết với các cánh quân khác cùng khởi nghĩa.

   Cuối năm 1888, Phạm Huy Quang được tin nghĩa quân chuẩn bị đánh ra Nam Định đã từ Phủ Gạch về đồn Đọ bàn kế hoạch phối hợp tác chiến. Song do Khán Quyết đã chỉ điểm, quân Pháp biết rõ hành trình của Phạm Huy Quang, chúng cho Khán Quyết và hai tên lính tập giả làm phu khiêng cáng vào làng Đọ chờ sẵn. Khi Phạm Huy Quang bàn việc ở đồn Đọ xong lên cáng trở về đồn Phủ Gạch để bàn kế hoạch đưa quân đi đánh phối hợp. Khán Quyết và hai tên phu cáng ra khỏi làng Đọ chúng không đưa ông về Phủ Gạch mà về đồn Châu Giang. Ông đòi xuống, chúng ra hiệu cho Bang Văn chỉ huy một toán lính bám theo sau ập đến bắt ông giải về đồn Châu Giang. Quân Pháp tra tấn ông không moi được tin tức gì, ngay sáng hôm sau chúng đưa ông ra bãi bắn chết.

   Phạm Huy Quang hy sinh song phong trào kháng chiến chống Pháp còn duy trì tới năm 1892 mới tan rã. (Danh nhân Thái Bình - Việt Nam những sự kiện lịch sử, tập 1 - Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX. Nxb văn học, Hà Nội. 1977).
NGUYỄN CAO

   Nguyễn Cao, sinh năm 1840 tại làng Cách Bi huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Cao lúc nhỏ được gửi đến ở nhà ông tú tài Nguyễn Gia Giao ở xã Liễu Ngạn, phủ Thuận Thành, sau theo học thày Phạm Văn Nghị ở Tam Đăng. Năm Đinh Mão (1867) Tự Đức thứ 20, ông đỗ Giải nguyên (đỗ đầu Cử nhân). Ông không ra làm quan ở mà nhà dạy học.

   Tháng 11/1873, quân Pháp từ Hà Nội đánh chiếm Gia Lâm, Siêu Loại, Nguyễn Cao chiêu mộ được hơn 1000 nghĩa dũng cùng Bố chính Phạm Thận Duật đánh quân Pháp. Ngày 4/12/1873, nghĩa quân của ông tấn công quân Pháp ở Gia Lâm, Thuận Thành, diệt nhiều giặc Pháp, bắt sống 150 ngụy quân, giải phóng một vùng rộng lớn. Ngày 15/3/1874, Triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước "Hòa bình và liên minh” có lợi cho Pháp. Sau khi Hòa ước ký, Nguyễn Cao buộc phải giải tán nghĩa quân.

   Ông có công cùng Phạm Thận Duật đánh dẹp giặc nên triều đình ép ông làm Tri huyện Yên Dũng rồi Tri huyện Lạng Giang. Ông làm quan thanh liêm, trừng trị bọn trộm cướp, quan lại nhũng nhiễu dân, tổ chức cho dân khai hoang, phục hóa, cải thiện đời sống. Triều đình thăng ông chức Bố chính Thái Nguyên rồi đi kinh lý khẩn hoang ở Nhã Nam.

   Ngày 25/4/1882, quân Pháp tấn công thành Hà Nội, đến 10 giờ cùng ngày, thành vỡ, Tổng đốc Hoàng Diệu tự tử. Nguyễn Cao đang làm Tán lý quân vụ tỉnh Bắc Ninh đã chăm lo, củng cố thành Tỉnh Đạo. Ông lại đem quân về Hà Nội cùng các cánh quân khác bao vây Hà Nội. Ngày 27/3/1883 Nguyễn Cao đã cùng nhiều quan lại khác chỉ huy 4000 quân Tứ Tổng đột nhập vào phố Hàng Đậu tấn công Cửa Đông, buộc quân Pháp phải rút vào trong thành cố thủ.

   Đêm 11/3/1883, Nguyễn Cao đóng quân ở Gia Lâm, cho quân nã đại bác vào đồn Đồn Thủy, vị trí đóng quân của quân Pháp. Ngày 15/5/1883, quân Pháp đổ bộ sang Gia Lâm, Nguyễn Cao dàn quân ra đánh. Hai bên kịch chiến đến tận ngày hôm sau.    Ngày 16/3/1883 Nguyễn Cao bị thương nặng ở bụng. Sau khi vết thương lành, ông được cử giữ chức Tán lý quân vụ Bắc Kỳ.

   Triều đình Huế nhu nhược liên tiếp nhượng bộ Pháp nhiều quyền lợi của quốc gia, rút hết quân đội ở các vị trí chiến lược quan trọng, ngăn cấm nhân dân vũ trang đánh Pháp. Mùa Xuân năm 1884, Bắc Ninh trở thành chiến trường nóng bỏng. Ngay từ những ngày đầu tiên Nguyễn Cao đã cùng với Hoàng Văn Hòe đã đối phó với quân Pháp. Các ông phối hợp với nghĩa quân Ba Báo liên tục tấn công quân Pháp ở Phả Lại và sông Cầu. Khi thành Bắc Ninh mất, Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hòe cùng nhiều quan lại, sĩ phu rút về thành Tỉnh Đạo. Đầu năm 1884 Nguyễn Cao cùng Ngô Quang Huy, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Văn Hòe, Dương Khải thành lập "Đại nghĩa đoàn” hay còn gọi là “Tam tỉnh nghĩa quân” tiếp tục đánh Pháp. Đại nghĩa đoàn có hơn 5000 quân tuyển mộ từ các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương đánh Pháp. Trong số tướng chỉ huy có Đội Văn tức Vương Văn Vang người thôn Thuận An xã Chạm Lộ, tổng Tam Á, huyện Thuận Thành, nay thuộc xã Chạm Lộ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; Nguyễn Quang tức Nguyễn Trọng Đạo và tú tài Nguyễn Trọng Huyên là hai anh em họ Nguyễn quê ở làng Phù Khê, tổng Nghĩa Lập, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, nay thuộc xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tham gia.

   Nghĩa quân Đại Nghĩa đoàn dựng đại đồn trong cánh rừng Báng ở làng Đình Bảng, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, chia quân đóng giữ các vị trí sung yếu uy hiếp quân Pháp ở lưu vực sông Cà Lồ (tỉnh Phúc Yên cũ). Các ông xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Bắc Giang cùng các đồn binh ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung Đồng khống chế vùng ngã ba Phượng Nhỡn nơi hợp lưu của các sông Lục Nam, sông Thương, sông Cầu tạo thành Lục Đầu Giang.

   Tháng 7/1884 nghĩa quân Đại nghĩa đoàn tấn công quân Pháp ở Ngọc Trì (nay thuộc xã Bình Định, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh). Nghĩa quân còn củng cố các căn cứ ở Đình Bảng, Vân Cốc, Trung Đồng.

   Theo Hiệp ước Pháp - Thanh, quân Thanh và quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc rút về nước. Đại nghĩa đoàn tan rã, Nguyễn Cao về làng Kim Giang, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Ứng Hòa, Hà Tây) dạy học.

   Tháng 7/1885 vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương, Nguyễn Cao lại đứng ra vận động các sĩ phu Bắc Kỳ chống Pháp. Đầu năm 1886 vua Hàm Nghi phong cho ông chức Tán lý quân vụ Bắc Kỳ. Được ít lâu tình hình khó khăn, ông lại lui về Kim Giang bí mật tập hợp đồng chí.

   Tháng 4 năm Đinh Hợi (5/1887), quân Pháp bắt được một tờ sớ của Hồng lô Tự khanh Tán tương quân vụ Ngô Quang Huy gửi vua Hàm Nghi có nói tới Nguyễn Cao. Bọn Pháp tung mật thám đi dò xét, ở làng Kim Giang có tên Việt gian tố cáo ông với giặc Pháp để tiến thân. Hôm đó ông không có nhà, học trò đến báo cho ông biết và xin ông tránh đi. Ông nói: "Bọn kia mất ta, tất sẽ tróc nã tìm trong dân chúng. Ta không nỡ vì một thân này mà để tai họa cho vài trăm người”. Rồi ông ung dung đi về nhà. Giặc đưa lính về bắt, chúng nhốt ông vào cũi giải về Hà Nội. Ông cắn lưỡi tự tử, chúng cứu chữa ông để khai thác các sĩ phu chống Pháp ở Bắc Kỳ. Có tên Việt gian đến dụ dỗ ông, chê bụng ông tối tăm không hiểu thời thế. Ông đập bát, lấy mảnh bát khoét rốn rút ruột ra cho chúng xem và thét: "Chúng bay xem, ruột tao trắng như ngó cần!”. Bấy giờ người đứng xem chật ních đều sợ hãi, bưng mặt mà chạy. Bọn giặc Pháp đưa ông đi cấp cứu. Ông nhịn ăn, uống, luôn miệng chửi bới quân thù, rồi thiếp đi. Khi tỉnh dậy, ông cắn lưỡi tự tử. Hôm đó là ngày 24 tháng ba năm Đinh Hợi (14/4/1887).

   Cái chết của ông làm kẻ thù khiếp sợ, kích động lòng yêu nước của nhân dân. Ông đã chết, giặc Pháp vẫn đưa thi hài ông sang Tòa án Nam xét xử. Chúng xử ông tử hình, đem thi thể ông ra bãi Dừa bên hồ Hoàn Kiếm nay là bồn nước ga xe điện Bờ Hồ (cũ) thành phố để chém đầu.

NGUYỄN LÂM

   Nguyễn Lâm gọi tên đầy đủ là Nguyễn Tri Lâm, sinh ngày 19 tháng 4 năm Giáp Thìn (5/1844). Ông là con trai thứ hai Tổng thống quân vụ, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, quê làng Chi Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông gọi Gia Định Tán lý quân thứ đại thần Nguyễn Duy là chú ruột.

   Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cả văn học lẫn võ công, Nguyễn Lâm lại có tinh thần ham học, thông tuệ từ nhỏ nên học giỏi có tiếng. Là con nhà quan nhưng tính tình ông rất hòa nhã, khiêm nhường không cậy mình là con quan đại thần mà kiêu ngạo. Khi ông bước vào tuổi thiếu niên (14 tuổi) thì cha và chú phải vào cầm quân đánh Pháp ở bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, nên ông đã luyện tập võ nghệ, đọc binh thư để nối nghiệp cha, chú đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ cõi.

   Năm 1859, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo vào Nam Kỳ hạ thành Sài Gòn. Vua Tự Đức phong cha ông làm Tổng thống quân vụ đại thần - giữ chức Gia Định Quân thứ Thống đốc quân vụ đại thần cùng chú ông là Nguyễn Duy đang giữ chức Gia Định Quân thứ Tán lý đại thần xây dựng Đại đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa) chống liên quân Pháp - Tây Ban Nha.

   Ngày 25/10/1861, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha điều động đại lực lượng binh thuyền tấn công chiến lũy Kỳ Hòa. Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy cùng các tướng cố thủ chiến lũy Kỳ Hòa gây tổn thất nặng nề cho Liên quân Pháp - Tây Ban Nha. Chiến lũy Kỳ Hòa vỡ, Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, Nguyễn Duy tử trận, cả ba tỉnh Đông Nam Kỳ lọt vào tay giặc Pháp. Từ đó Nguyễn Lâm càng nung nấu chí căm thù giặc Pháp, chuyển hẳn sang học võ, đọc binh thư để sau này chỉ huy quân đội Khi ông vừa tròn 18 tuổi, ông đã theo cha giúp việc quân. Năm Nguyễn Lâm 20 tuổi đã là một thanh niên tuấn tú, lập được nhiều chiến công. Vua Tự Đức có lòng yêu gả công chúa Đồng Xuân cho, phong làm Phò mã đô úy.

   Năm Tự Đức thứ 24 (1871), Nguyễn Lâm thấy cha đã 72 tuổi, luôn luôn bận rộn việc quân ở Bắc Kỳ bèn làm sớ xin theo đi Tam Tuyên quân thứ để đỡ đần cha xông pha nơi trận mạc và tiện phụng dưỡng cha già. Khi ông ra tới Hà Nội thì triều đình giao cho cha ông làm Tổng đốc Hà - Ninh để đối phó với âm mưu xâm lược của quân Pháp. Vì vậy khi con trai ra Bắc, ông liền giữ con ở lại thành Hà Nội giúp việc.

   Sáu giờ sáng ngày 20/11/1873, (1 tháng 10 năm Quý Dậu) quân Pháp nã đại bác cấp tập vào thành. Nguyễn Tri Phương phán đoán từ trước vì ông súng đạn ít, ông cho nghi binh ở cửa Bắc, cửa Tây, tự mình giữ cửa Đông Nam, giao cho Nguyễn Lâm giữ cửa Tây Nam. Đúng như phán đoán của Nguyễn Tri Phương, Francis Garnier cũng nghi binh ở cửa Bắc, cửa Tây chia làm hai cánh quân đánh cửa Đông và cửa Nam. Nguyễn Tri Phương cùng các tướng thân lên mặt thành chỉ huy quân sĩ. Quân Pháp bắn đại bác dữ dội vào thành rồi cho quân tiến sát tường thành. Đại bác của ta đặt trên mặt thành bắn vọt ra xa không trúng đội hình quân Pháp. Nguyễn Lâm đứng trên mặt thành chỉ huy quân sĩ lăn đá gỗ, bắn những tên tới gần, dùng câu liêm đẩy thang của chúng, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của giặc. Đạn đại bác của giặc phá vỡ cửa thành Tây - Nam, quân giặc ồ ạt tràn vào. Nguyễn Lâm chỉ huy quân đánh giáp lá cà. Ông trúng đạn hy sinh, năm đó ông mới 29 tuổi. Quan lại làm sớ tâu về kinh, vua Tự Đức thương tiếc ban dụ: "Làm tôi thì chết theo điều trung với nước, làm con thì chết theo điều hiếu với cha, thật đáng khen ngợi! Phò mã Nguyễn Trí Lâm không phải trách nhiệm cầm quân ra trận, nay chết về việc hiếu nghĩa, trên trả được nợ nước, dưới không phụ tình cha. Thực đáng là bậc tu mi đứng trong hoàn vũ. Vậy truy tặng hàm Binh bộ Tả thị lang để biểu dương”.

   Vua lại cấp cho 300 quan tiền tuất để lo việc tẩm liệm, sắc cho quan lại Hà Nội cấp binh phu tống tiễn linh cữu về kinh và an táng tại làng. Năm Tự Đức thứ 28 (1875) vua lại phê lập nhà thờ Trung hiếu tại làng để thờ cúng Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy là cha và chú.

   Trong bài văn tế của quan Khâm mệnh triều đình có những câu:

   “…Nhĩ tử Nguyễn Lâm, tiên nhĩ dĩ vong oanh oanh liệt liệt hào tố nhất trường.
   Thị huynh, thị đệ, thị phụ, thị tử cổ chi Biên môn đãi bất quả thử!
   Ô hô! Vi thần năng trung ư quốc!
   Ô hô! Vi tử nang hiếu ư thân!
   Duy trung chữ hiếu, nhất môi hàm tụng...”


   Như vậy là cả cha, chú và ông đều hy sinh trong sự nghiệp chống giặc Pháp xâm lược ở cuối thế kỷ XIX.
HOÀNG VĂN HÒE

   Hoàng Văn Hòe sinh năm Mậu Thân (1858). Quê ông ở làng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Tân Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Khoa thi năm Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870) ông đỗ cử nhân tại trường thi Hà Nội. Năm 1858, quân Pháp đánh chiếm bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Năm 1859, quân Pháp đánh tỉnh thành Sài Gòn, thì Nguyễn Tư Giản dâng sớ về kế sách đánh Pháp, Hoàng Văn Hòe làm bài thơ:

         LỜI HÔ HÀO ĐÁNH GIẶC

      Vua nước lo hôm sớm
      Kinh xưa khói mịt mùng
      Quân ta mau tiên phát
      Thẳng đến thành Hoàng Long.


   Bài thơ có tác dụng thôi thúc mọi người gia nhập đội quân do nhà yêu nước Phạm Văn Nghị chiêu mộ vào Nam giết giặc.

   Ngày 11 tháng 10 năm 1873, Thiếu tá Hải quân Francis Garnier dời Sài Gòn đem binh thuyền ra đánh Bắc Kỳ. Ngày 20/11/1873, Garnier tấn công thành Hà Nội. Thành Hà Nội thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, bị giặc bắt đã tuẫn tiết. Cuối tháng 11/1873 , quân Pháp vượt sông Hồng đánh chiếm huyện Gia Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Hoàng Văn Hòe chiêu mộ quân đánh Pháp, khích lệ những người tham gia đội quân kháng chiến ông làm bài thơ:

         KHẨU HIỆU

      Sơn mãng do tiềm thử
      Giang ba hốt phí kình
      Xích mi vị năng phá
      Bạch diện bất tu binh
      Tân đảm lao thần lự
      Yên trần thảng cổ kinh
      Nhạc quân đương tảo phát
      Thống ẩm Hoàng Long thành.


Dịch nghĩa:

      Chuột vẫn còn lẩn ở núi cỏ rậm,
      Cá kình bỗng làm sôi sục sóng sông
      Giặc lông mày đỏ chưa phá được
      Cánh thư sinh mặt trắng thì không biết việc binh
      Làm nhọc lòng vua phải nằm gai nếm mật
      Kinh đô cũ gió bụi âm thầm
      Quân của ông Nhạc nên sớm xuất phát.
      Tiến thẳng đến uống say ở thành Hoàng Long.


   (Khẩu hiệu tức là lời hô hào đi đánh giặc. Nguyên chú: Quý Dậu niên (1873) Hà Thành hữu sự, dư thời mộ dũng tòng thứ. (Năm Quý Dậu (1873) Hà Nội có việc, tôi lúc bấy giờ mộ quân đi theo quân thứ.
   Xích mi: tên gọi nhóm giặc bôi lông mày đỏ thời Tây Hán. Ởđây chỉ giặc Pháp.
   Ông Nhạc đây chỉ Tống Nhạc Phi đời Tống chống quân xâm lược Kim
   Khi Nhạc Phi đem quân đánh Kim có hát: "Ta quyết đánh thẳng vào thành Hoàng Long mà uống say”. Đây ví Hoàng Long với Thăng Long lúc đó bị quân Pháp đánh chiếm lần thứ nhất. Hoàng Văn Hòe viết bài này kêu gọi lấy lại thành Thăng Long).

   Hoàng Văn Hòe đã đem đội nghĩa quân của mình chiến đấu dưới sự chỉ huy của Phạm Thận Duật và Trương Quang Đản tiến đánh quân Pháp, ngày 4 tháng 12/1873 tiêu diệt đồn binh Pháp đóng ở Gia Lâm. Ngày 21/12/1873 giải phóng huyện Siêu Loại Gia Lâm, (Siêu Loại, đều thuộc trong phủ Thuận Thành). Năm 1874, triều đình Huế ký Hòa ước với Pháp , Hoàng Văn Hòe tiếp tục dùi mài kinh sử, ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn, Tự Đức thứ 33 (1880). Sau đó ông lại trúng tuyển khoa Yếm bác. Ông được bổ làm Tri phủ Kiến Xương, hàm Thị độc.

   Sau khi triều đình Huế ký Hiệp ước Hannand (8/1883) Hoàng Văn Hòe từ quan, gia nhập nghĩa quân Tạ Hiện chiến đấu ở vùng Nam Định, Thái Bình. Sau đó Hoàng Văn Hòe cùng Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy, Dương Khải thành lập Đại nghĩa đoàn, còn gọi là Tam tỉnh nghĩa quân. Đại nghĩa đoàn có hơn 5000 quân tuyển từ các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên.

   Nghĩa quân đánh thắng quân Pháp nhiều trận lớn như trận Ngọc Trì, tên nôm là làng Bến nay thuộc xã Bình Định, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh. Sau vài tháng chiến đấu, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn, bị quân Pháp truy kích liên tục nghĩa quân tan rã, một số gia nhập các lực lượng kháng chiến khác. Để tăng cường lực lượng phe chủ chiến ở triều đình, Tôn Thất Thuyết tiến cử ông với vua Hàm Nghi. Vua triệu ông về triều giữ chức Sử quán Biên tu kiêm Kinh diên Khởi cư trú.

   Đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm 1885 , Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tiến đánh Tòa khâm sứ, đồn Mang Cá. Hoàng Văn Hòe được giao chỉ huy một cánh quân đánh vào đồn Mang Cá, ông hy sinh anh dũng.

BÙI VĂN DỊ

   Bùi Văn Dị tức Bùi Ân Niên sinh ngày 17/5/1833 tức ngày 28 tháng 3 năm Quý Tỵ. Cụ thân sinh là Bùi Văn Hy, đỗ tú tài thời Minh Mệnh. Ông quê ở làng Châu Cầu, xã Mễ Tràng, huyện Thanh Liêm, nay là thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

   Ngay từ thuở nhỏ, Bùi Văn Dị đã có tư chất thông minh, có trí nhớ tốt. Năm 13 tuổi đã vượt qua kỳ thi khảo hàng xứ để dự thi Hương. Hai khoa thi Hương năm 1850 và 1 852, ông đều thi đỗ tú tài khi mới 18 tuổi và 20 tuổi. Năm 1855, ông 23 tuổi, thi đỗ cử nhân. Năm Ất Sửu (1865) ông vào Huế dự khoa thi tiến sĩ, đỗ thứ tư, hạng trúng cách. Song vào thi Đình lại bị trượt, nên chỉ xếp đỗ Phó bảng cùng với người em họ con ông chú ruột là Bùi Văn Quế.

   Ông lần lượt được bổ làm Tri phủ các huyện Lang Tài, Việt Yên, Yên Dũng tỉnh Bắc Ninh. Được một thời gian ông về cư tang. Năm 1871, các đại thần Bùi Tuấn, Nguyễn Tư Giản vốn biết tài ông, tiến cử ông thăng Án sát Ninh Bình, sau ông vào Nội các.

   Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất, Tự Đức cử ông cùng Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Thượng Phiên ra xử lý các vụ Pháp chiếm bốn tỉnh thành ở Bắc Kỳ. Ông được triều đình cử làm Án sát Ninh Bình. Sau ông được về kinh thăng hàm Quang lộc Tự khanh, làm việc ở Nội các. Ông học vị không cao nhưng nổi tiếng về tài văn chương, nên vẫn được đề cử làm quan Duyệt quyển.

   Năm 1876 ông được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh. Ông dẫn đầu sứ bộ hoàn thành nhiệm vụ. Các quan lại nhà Thanh đánh giá ông rất cao.

   Cuối năm 1878, ông lại được sung vào Nội các. Cũng năm đó ông được duyệt quyển thi Hội, thi Đình lần thứ hai. Theo quan chế của triều đình, dùng quan ở Nội các không đặt quan nhị phẩm, song vì ông có nhiều công lao, được giao thêm chức quyền Tham tri bộ Lại để chính thức phẩm trật.

   Năm 1881, ông làm Đại thần của quản lý nha Thương bạc, là cơ quan chuyên trách việc giao thiệp với Pháp và trông nom các thuyền luôn qua lại.

   Tháng 4 năm 1882 , Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Giặc Pháp được một số giáo dân phản động và giáo dân được quân Pháp huấn luyện, trang bị vũ khí như Tạ Văn Phụng, giúp sức đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ, Bùi Văn Dị dâng sớ đề nghị triều đình kiên quyết chống đánh. Ông được triều đình cử giữ chức Khâm sai phó Kinh lược sứ Bắc Kỳ, ông vẫn dẫn một đội quân nhỏ đi kiểm tra các tỉnh. ông tổ chức các cuộc tấn công giặc, phòng thủ không cho giặc lấn chiếm các vùng chung quanh tỉnh thành.

   Khi Henri Rivière đem quân di Nam Định, Bùi Vãn Dị Khâm sai phó kinh lược sứ Bắc Kỳ và Trương Quang Đản Tổng đốc Ninh - Thái (Trương Quang Đản là con trai Trương Đăng Quế sau về làm Tuần phủ Quảng Trị cùng với em trai là Trương Văn Để tham tri bộ Binh, người phái chủ chiến mà Tôn Thất Thuyết tin cậy đã đầu hàng Pháp, hai anh em đưa Tam cung về Huế và còn dẫn quân đi đón bắt vua Hàm Nghi theo lệnh của quân Pháp). , kéo quân về Gia Lâm, Văn Giang đối diện với đồn Thủy để chống đánh quân Pháp. Trong khi đó thì Hoàng Kế Viêm chỉ huy quân thứ Sơn Tây cùng tướng Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc kéo quân về đóng ở Hoài Đức, Từ Liêm. Quân Pháp bị hai gọng kìm phía Bắc (Gia Lâm) và phía Tây (Hoài Đức, Từ Liêm) kẹp lại. Tên Đại tá Béc tơ đờ Vile, kẻ thay Henri Rivière giữ thành Hà Nội thấy rõ mối nguy hiểm của hai cánh quân Bắc Ninh và Sơn Tây. Ngày 18/3/1883 hắn cho tầu vượt sông Hồng tấn công các làng ven sông như Gia Quất, Thượng Cát, Ngọc Lâm ở Gia Lâm. Bùi Văn Dị trực tiếp chỉ huy quan quân chặn đánh quyết liệt, làm chết và bị thương hơn 30 tên, số còn lại hốt hoảng chạy xuống tầu về Đồn Thủy. Sau trận này triều đình cử ông làm Tham tán quân thứ Bắc Ninh, tức là làm Tham mưu cho đạo quân Bắc Ninh là một trong hai đạo quân mạnh của triều đình ở Bắc Kỳ (Bắc Ninh và Sơn Tây). Bùi Văn Dị, Trương Quang Đản phối hợp với Hoàng Kế Viêm mưu đánh chiếm lại thành Hà Nội, song không giành được thắng lợi.

   Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3/1883, quân ta từ Gia Lâm và Hoài Đức tấn công vào thành, riêng quân của Hoàng Kế Viêm đánh vào kho thóc, là nơi mấy hôm trước quân Pháp còn đóng nhiều, hiện còn đóng ít. Béc tơ đờ Vile nghi rằng ý định của quân ta bấy giờ là để đánh úp quân Pháp ở Đồn Thủy kéo đến cứu viện rồi thừa hư qua sông mà chiếm Đồn Thủy, nơi trung tâm của địch. Cho nên địch không tiếp viện cho kho thóc, nhưng quân ta cũng không chiếm được vị trí này.

   Ngày 28/3, Béc tơ đờ Vile đem 200 quân qua sông đánh phục thù. Chúng lục lọi các xóm bờ sông rồi tiến về Gia Quất, dưới sông có tầu chiến gắn đại bác yểm trợ. Bùi Văn Dị, Trương Quang Đản tự mình đốc chiến. Quanh làng có lũy đất và lũy tre, rào tre là chiến lũy của quân ta, quân ta bắn chặn, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân Pháp. Tại làng Gia Quất, hai bên đấu súng rồi đánh giáp lá cà. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Trong khi quân ta chiến đấu, thì trai tráng, dân binh trong làng không đi tản cư, trợ chiến bằng giáo mác, gậy gộc, khua chiêng trống, thùng chậu uy hiếp quân Pháp. Theo lời Vile thuật lại thì: “người An Nam đánh đến cùng, giật cả súng của lính Pháp”. Như vậy là trận đánh ở Gia Quất rất kịch liệt. Quân ta ở Gia Quất rút lần về hướng Bắc Ninh và hướng Bát Tràng. Căn cứ Thượng Cát vẫn tiếp tục chống cự với địch, giữ từng ngõ xóm, từng nhà, đến khi quân ta rút thì quân Pháp đốt luôn cả làng Thượng Cát cũng như chúng đã đốt rụi cả làng Gia Quất.

   Bùi Văn Dị và Trương Quang Đản tập hợp quân trên sông Đuống để phản công, toan đi vòng cắt đường rút lui của địch. Quân Pháp phán đoán được ý đồ của quân ta luôn hối hả chạy ra bờ sông Hồng, trên đường rút, chúng đốt thêm nhiều làng xóm nữa.

   Giặc rút, quân ta trở lại Gia Quất, Thượng Cát chôn cất tử sĩ, giúp nhân dân, sửa chữa nhà cửa, một mặt củng cố trận địa sẵn sàng đánh địch.

   Đầu tháng 5/1883, quân Pháp ở Hà Nội bị hai cánh quân Bắc Ninh và Sơn Tây tạo thành thế hai gọng kìm ép chặt. Đêm 815/1883 đại bác của quân thứ Bắc Ninh do Bùi Văn Dị, Trương Quang Đản đặt ở trên bờ đê sông Hồng ở Gia Lâm nhả đạn vào Hà Nội, ở Đồn Thủy, ở căn cứ tại nhà thờ Hàm Long, có đêm bắn tới 80 phút, gây thiệt hại cho quân Pháp, khiến quân Pháp rất hoang mang. Đêm 15/5/1883, quân ta tập kích vào căn cứ quân Pháp ở nhà thờ Hàm Long. Henri Rivière hốt hoảng xin viện binh ở Hải Phòng, của Hạm đội Pháp đóng ở Hạ Long và của Sài Gòn.

   Việc vua quan nhà Nguyễn ký hàng ước 25/8/1883 làm cho Bùi Văn Dị suy sụp tinh thần đến phát bệnh và là cái cớ để không nhận chức Tổng đốc Ninh - Thái, cùng lúc Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng từ chối chức Tổng đốc Sơn Tây, ông về ở ẩn tại Thanh Hóa. Đến năm đầu Kiến Phúc (18 84) ông được triệu về kinh sung vào kinh diên làm "nhật giảng quan" giảng dạy cho vua Kiến Phúc, Ưng Lịch (sau là vua Hàm Nghi). Sau đó ông bị ốm, xin về dường bệnh ở Hải Quật, huyện Yên Định, Thanh Hóa.

   Khi vua Hàm Nghi lên ngôi, ông được cử làm Tả Tham tri bộ Lại. Khi toàn bộ đất nước rơi vào tay quân Pháp, ông chán cảnh quan trường, chọn đất Hải Quật, Thanh Hóa dựng một nhà tranh, lấy hiệu là Hải Nông làm nơi ẩn dật.

   Mặc dù ông từ chối ra làm quan nhiều lần, song cuối năm 1887, ông lại phải buộc về triều làm Thượng thư bộ Lại, Phụ chính đại thần. Trong dịp này ông được xét đặc cách nhận học vị tiến sĩ. Đến triều Thành Thái (1890) ông lại đi thi, đậu tiến sĩ. Ông được thăng Phó đô ngự sử, Thượng thư bộ Lại, bộ Lễ, Phụ chính đại thần và Quốc sử quán tổng tài. Sau đó ông xin từ chức, chỉ giữ chức phụ đạo đại thần kiêm Phó tổng tài Quốc sử quán.

   Ông mất năm 1895 ngay tại Quốc sử quán, thọ 63 tuổi. Ông có nhiều tác phẩm như "Dư Hiên tùng bút", "Du Hiên thi thảo” (văn), “Vạn lý hành ngâm” (văn), “Tồn am thi tập”, “Thời chính Tạp biên”, "Trĩ Chu thù xướng” (văn).

   
(Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919)
- Lịch sử 80 năm chống Pháp - Chống xâm lăng của Trần Văn Giầu
- Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn. NXB Thuận Hóa)
.

NGUYỄN QUANG

   Ngày 25/4/1882, quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ 2. Nguyễn Cao, Nguyễn Huy Quang, Nguyễn Thiện Thuật đã thành lập "Đại nghĩa đoàn", còn gọi là "Tam tỉnh nghĩa quân" để đánh Pháp.

   Đông đảo sĩ phu, hào kiệt ba tỉnh hưởng ứng, trong đó có Nguyễn Quang. Tên thực của ông là Nguyễn Trọng Đạo, quê ở làng Phù Khê, nay thuộc xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông giữ chức Án sát tỉnh Bắc Ninh, đã cùng em họ là tú tài Nguyễn Trọng Huyên chiêu mộ quân rồi gia nhập Tam tỉnh nghĩa quân.

   Bộ Tư lệnh Đại nghĩa đoàn giao cho Nguyễn Quang nhiệm vụ chọn vị trí đóng đồn trại, phòng thủ. Nguyễn Quang là một trong những người đề xuất đóng đồn binh ở xã Đình Bảng, nay thuộc huyện Từ Sơn. Từ Đại đồn Đình Bảng, Nguyễn Quang còn thiết lập các đồn nhỏ khống chế lưu vực sông Cà Lồ ở các huyện Kim Anh, Đa Phúc của Bắc Ninh, Sơn Tây; các huyện Phổ Yên, Phú Bình của Thái Nguyên và dãy núi Thằn Lằn trong đó có đỉnh Sóc Sơn, đền thờ Thánh Gióng. Với tầm nhìn chiến lược của mình, Nguyễn Quang đã ủng hộ chủ trương của các thủ lĩnh Đại nghĩa đoàn xây dựng căn cứ ở vùng núi Nham Biền nay thuộc huyện Yên Dũng nằm trên bờ Hữu ngạn sông Thương. Nguyễn Quang cùng với Nguyễn Trọng Huyên có mối giao lưu rộng rãi với các nho sĩ, tổng lý vùng Từ Sơn, Yên Phong, Đông Anh, Tiên Du, đã đảm nhận việc phát triển lực lượng và tiếp nhận lương thực, thực phẩm của đồng bào ủng hộ. Các ông còn tham gia các trận đánh bảo vệ căn cứ, chặn đánh quân Pháp khi chúng đánh phá các căn cứ của Đại nghĩa đoàn. Song thế giặc quá mạnh, lực lượng nghĩa quân lại mỏng, thiếu vũ khí và lương thực, Nguyễn Quang phải trở về Phù Khê. Biết không khôi phục được lực lượng, tết năm 1885, ông đến lễ ở nhà thờ họ rồi tới xã Văn Môn, tổng Mẫn Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh tuẫn tiết. Nhân dân Văn Môn đã lập miếu thờ người hào kiệt chống Pháp kiên cường.
ĐỖ PHÁT

   Đỗ Phát tự là Tử Tuấn, sinh năm Quý Dậu (1813) tại thôn Quần Anh, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

   Năm Canh Tý (1840) ông 28 tuổi, đỗ cử nhân. Khoa thi Hội năm Quí Mão (1843) ông 31 tuổi, đỗ tiến sĩ.

   Năm Mậu Thân (1848), Tự Đức nguyên niên, ông được bổ làm Tri phủ ở Ứng Hòa rồi thăng Đốc học Nghệ An. Sau thăng Tư nghiệp Quốc Tử giám. Không bao lâu, ông mắc bệnh, phải xin về quê nghỉ.

   Vào khoảng năm 1862, ông được cử làm Tham biện, chiêu mộ quân ra dẹp giặc dã ở Quảng Yên, bảo vệ vùng bờ biển và các đảo ở vùng Đông Bắc. Sang năm Giáp Tý, Tự Đức thứ 17 (1864), ông được thăng hàm Quang lộc Tự khanh, sung làm Toản tu ở Quốc sử quán. Sau ông xin vê quê ở Nam Định chiêu mộ dân khai hoang vùng ven biển và thành lập các đồn binh "hải phòng" bảo vệ bờ biển. Do ông làm tốt việc chiêu dân khai hoang lập trại ấp mới, quy hoạch đồng ruộng, kênh mương để dân ổn định cuộc sống, nên được thăng làm Hồng lô Tự khanh giữ chức Doanh điền phó sứ ở Nam Định kiêm Thương biện lo phòng thủ mặt biển.

   Khi các vùng dân cư mới được ổn định, các đồn "hải phòng" được thiết lập giữ việc đảm bảo an ninh, tuần tra vùng biển được thiết lập, ông được điều về kinh làm Tế tửu Quốc tử giám. Nhưng do sự ráo riết chuẩn bị xâm lược Bắc Kỳ của thực dân Pháp, chúng trang bị vũ khí cho nhiều toán thanh niên ở xứ đạo để hậu thuẫn cho chúng khi chúng đánh ra Bắc Kỳ, ông lại được điều ra Nam Định làm Doanh điền Phó sứ kiêm tuần phòng mặt biển. Ngày 21 tháng 10 năm Quý Dậu (10/12/1873), tầu chiến Pháp từ sông Vị Hoàng bắn đại bác vào cửa Đông thành Nam Định, do việc chuẩn bị phòng thủ không tốt, súng đại bác của giặc có sức công phá lớn, nên cửa thành Đông bị vỡ, quân Pháp tràn vào thành. Thành mất, vua Tự Đức đổ tội để mất thành cho các quan tỉnh Nam Định, các quan đều bị giải về kinh, riêng ông xin ở lại để ổn định tình hình, thu thập tàn quân, hợp lực với nghĩa quân chống Pháp, vua chuẩn cho.

   Ông đã cùng các quan trong phe chủ chiến và các thủ lĩnh nghĩa quân lập nhiều căn cứ chống Pháp trong tỉnh, đánh thắng quân Pháp nhiều trận. Ông đang cùng với các tướng lo đối phó với giặc Pháp thì triều đình Huế lại đưa vụ án để mất thành Nam Định ra nghị bàn. ông phải chịu phạt trượng và đi đầy. Con ông là Bình Thành xin chịu tội thay cha, vì thế ông chỉ bị cách chức, cho lập công chuộc tội. Ông một lòng vì nước, vì dân nên vẫn cùng các tướng phe chủ chiến và thủ lĩnh nghĩa quân, củng cố đồn lũy đánh giặc Pháp. Một thời gian sau, ông được khôi phục hàm Biên tu, lĩnh chức Dinh điền sứ.

   Năm Nhâm Ngọ, Tự Đức thứ 35 (1882) ông qua tuổi 70 xin về hưu được thăng chức Thị lang. Ông mất năm Quý Tỵ (1893), thọ 81 tuổi.

   Nhân dân ở những nơi ông chiêu dân lập ấp khai hoang ở Giao Thủy, Hải Hậu nhớ công ơn, lập đền miếu thờ ông.

   
(Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn
- Lược truyện các tác gia Việt Nam do Trần Văn Giáp chủ biên).

NGUYỄN HỮU CƯƠNG

   Nguyễn Hữu Cương sinh năm 1855. Ông là con thứ hai nhà văn thân nổi tiếng Nguyễn Mậu Kiến. Ông quê ở làng Động Trung, nay là xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nguyễn Mậu Kiến là một nhà nho yêu nước, lại là một nhà hoạt động quân sự, nên đã rèn dạy các con, chẳng những giỏi văn thơ mà còn thành thạo các môn bắn súng, cưỡi ngựa, luyện chữ viết, học vẽ, cầm ca...

   Quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873), triều đình Huế ký Hòa ước với Pháp. Cha ông - Nguyễn Mậu Kiến phản kháng lệnh bãi binh của Tự Đức, bị tước hết quan tước sung vào lính ở quân thứ Tuyên Quang, Thái Nguyên. Sau Nguyễn Mậu Kiến về sơn phòng Hưng Hóa, cùng Hoàng Kế Viêm và các văn thân phe chủ chiến chuẩn bị đánh Pháp. Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Bản được cha cho lên quân thứ tập dượt việc chinh chiến.

   Năm 1883, Nguyễn Mậu Kiến mất do bị sốt rét ác tính, hai anh em ông trở về Nam Định lại chiêu mộ nghĩa quân chuẩn bị đánh Pháp. Sau ngày 25/4/1882, Henri Rivière hạ thành Hà Nội, Nguyễn Hữu Cương cùng với anh trai là Nguyễn Hữu Bản sang Nam Định cùng Đề đốc Lê Văn Điếm, Án sát Hồ Bá Ôn giữ thành Nam Định. Nguyễn Hữu Bản cùng các tướng chỉ huy quân sĩ giết được tên trung tá Carô (Carreau), Nguyễn Hữu Bản hy sinh anh dũng tại cửa Đông ngày 27/4/1883, Nguyễn Hữu Cương lui về quê cùng với em ruột là Nguyễn Hữu Phu, cháu ruột là Nguyễn Công Úc - Bang Úc, Nguyễn Năng Thố (con cô con cậu ruột)... xây dựng nhiều cứ điểm chống Pháp ở vùng Kiến Xương.

   Năm 1884, triều đình bổ nhiệm Tạ Hiện là Chưởng vệ doanh Hùng Nhuệ ở Huế ra thay Đề đốc Lê Văn Điếm tử trận trong trận quân Pháp đánh thành Nam Định, chỉ huy việc đánh Pháp. Nguyễn Hữu Cương và em là Nguyễn Hữu Phu đã đón Tạ Hiện về căn cứ chống Pháp ở Động Trung để bàn bạc kế hoạch hợp đồng tác chiến giữa quân triều đình và nghĩa quân, đồng thời cổ vũ tinh thần cho nghĩa quân.

   Khi Ưng Lịch lên ngôi, đặt niên hiệu là Hàm Nghi, Bố chính Đồng Sĩ Vịnh đã giới thiệu Nguyễn Hữu Cương về kinh đô Huế dâng tờ tấu lên, được vua Hàm Nghi tiếp nghe ông trình bày kế hoạch chống Pháp. Ông ở lại kinh đô gần 3 tháng gặp gỡ Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường. Song chỉ có Tôn Thất Thuyết là thiết tha chống Pháp.

   Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết giao cho Nguyễn Hữu Cương trở ra Bắc chiêu lập quân sĩ mạnh giỏi, huấn luyện, đưa vào Huế bảo vệ kinh thành. Ông phụng mệnh ra Bắc, tới Quảng Bình thì được tin kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương.

   Tới Bắc Kỳ, Nguyễn Hữu Cương đi Hưng Hóa là trung tâm kháng chiến thời đó. ông đã được gặp Nguyễn Quang Bích, Tống Duy Tân, Vũ Hữu Lợi, Phan Đình phùng, Đề đốc Đinh Trạch, Đốc Ngữ, Đề Kiều... Các ông đã họp cuộc họp quan trọng tại làng Cố Đô, huyện Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây nhất trí hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi và chia nhau về các địa phương chiêu mộ quân đánh Pháp.

   Ít lâu sau Nguyễn Thiện Thuật về nước được vua Hàm Nghi phong là Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung tướng quân. Nguyễn Hữu Cương chiến đấu trực tiếp dưới quyền Đô thống Tạ Hiện, và được cử giữ chức Tán tương quân vụ mặt trận Thái Bình. Nguyễn Hữu Cương đã chỉ huy nghĩa quân đánh nhiều trận lớn gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề. Quân Pháp kéo về Động Trung đánh phá căn cứ kháng chiến, triệt phá nhà ông. Quân Pháp truy lùng ông không được, cho quật mả tổ tiên ông, song dân làng bảo vệ, nên việc này không thành. Toàn quyền Pôn Bê (Paul Bert) mời ông ra làm Án sát tỉnh Hưng Yên ông không nhận, công sứ Nam Định mời ông làm Tri phủ Kiến Xương, ông đều từ chối.

   Ông mở trường dạy học, làm thơ, nay còn tập Mai Hồ thi thảo

   Ông bị mật thám Pháp theo dõi, song vẫn có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà chí sĩ yêu nước như Trần Xuân Sắc, Phan Bội Châu, phó bảng Ngô Đình Chí (Thanh Hóa), tú tài Chu Lê Hành (Hưng Yên), Đặng Đoàn Bằng (Hành Thiện Nam Định). Năm 1904, giáo sư Nhật Bản Thạnh Xuyên Thị Sỹ Nguyên từng du học ở Mỹ cũng tới nhà ông trao đổi về công việc chấn hưng của Nhật Bản. Những cuộc thăm hỏi, bàn luận thời cuộc của các nhà chí sĩ đã tạo điều kiện cho Nguyễn Hữu Cương tiếp xúc được với các tác phẩm của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (Trung Quốc) và bản dịch về triết học, văn học của JJ Rousseau, Montesquieu, Tônstôi, Banzắc theo các bản dịch ra tiếng Trung Hoa. Nguyễn Hữu Cương còn thông gia với các sĩ phu như Lương Văn Can ở số 4 Hàng Đào, Hà Nội; với Tam nguyên Trần Bích San (Vị Xuyên, thành phố Nam Định); cử nhân Ngô Sách Đôn (Từ Sơn, Bắc Ninh), phó bảng Vũ Nhuận Phủ (Hải Dương) là các nhà hoạt động trong Đông Kinh nghĩa thục, Đông Du. Khi Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du, Nguyễn Hữu Cương đã cho nhiều con cháu xuất dương và giúp tiền bạc thậm chí còn vay nợ một khoản tiền lớn giúp thanh niên du học, không trả được, Tòa án Pháp tịch biên gia sản của ông.

   Nguyễn Hữu Cương có mối liên hệ chặt chẽ với trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội vào tháng 3/1907. Ông đã tập hợp được nhiều nhân sĩ tiến bộ ở Thái Bình vận động thành lập Đông Kinh nghĩa thục ở Thái Bình và mở các hiệu buôn Đông Động (Đống Năm, Đông Quan), cửa hàng chợ Mới, cửa hàng Đồng Sâm, cửa hàng Cổ Rồng... Các cửa hàng trên đều góp tiền vào quỹ Đông Du.

   Năm 1908, Nguyễn Hữu Cương cùng Lê Đại, Vũ Hoàng, tức Bẩy Quang, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí có xu hướng bạo động, các ông liên lạc với nhóm sĩ quan yêu nước trong Đảng Nghĩa Hưng do Hoàng Hoa Thám phái người về thành lập ở Hà Nội, sau việc không thành. Giặc Pháp đàn áp khốc liệt vụ "Hà Thành đầu độc”. Giặc Pháp không đủ chứng cứ nên không bắt được ông.

   Cũng trong năm 1908, ở Nam Trung Kỳ có phong trào chống thuế rộng lớn, thì tại Thái Bình Nguyễn Hữu Cương cũng đi vận động, diễn thuyết ở những nơi công cộng trong tỉnh kêu gọi mọi người chống thuế.

   Nguyễn Hữu Cương ở trong nước vẫn liên lạc với Nguyên Thiện Thuật và Phan Bội Châu để bàn kế sách cứu nước, cứu dân. Nhà cầm quyền Pháp đã bắt Nguyễn Hữu Cương đem xuống Hải Phòng đưa xuống tàu, đày biệt xứ vào Cần Thơ. Ngày 12 tháng 5 năm 1912, Nguyễn Hữu Cương mất ở Cần Thơ.

NGUYỄN HỮU BẢN

   Nguyễn Hữu Bản tự là Vụ Đức, hiệu là Động Nguyên, sinh năm 1841. Ông là con trai Án sát Nguyễn Mậu Kiến, quê ở làng Động Trung, phủ Kiến Xương, nay là xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

   Khi còn ở tuổi thiếu niên, ông học thông minh, thi Hương đỗ nhất trường. Năm ông 20 tuổi, cha là Án sát Lạng Sơn lo dẹp phỉ Cờ vàng Hoàng Sùng Anh, không có điều kiện lo việc nhà, ông phải thay cha quán xuyến công việc gia đình. ông cùng em trai là Nguyễn Hữu Khai đi khai khẩn vùng biển Tiền Hải, chiêu dân lập ra làng Đức Cơ.

   Tuy không theo học, nhưng tuân theo lời dạy của cha, ông mở rộng nhà học, mời thày giỏi về dạy cho con em hàng tổng hàng xã học tập. ông còn củng cố, phát triển nhà in Chiêm Bái đường khắc in các tác phẩm văn học, lịch sử, binh pháp, thiên văn. (Thư viện Khoa học xã hội còn lưu giữ một số sách của nhà in Chiêm Bái đường như "Độc thư lạc thú” (thơ văn), "Đăng đàn bái tướng" (Binh pháp).

   Ông chẳng những tổ chức khai hoang, đắp đường bắc cầu xây cống, tiêu nước cho vùng trũng trong huyện. Ngày nay làng Đức Cơ, huyện Tiền Hải còn có văn bia ghi lại công lao của Nguyễn Hữu Bản, Nguyễn Hữu Khai: "Dân làng nhiều phen bị bão lụt, thủy triều, nhiều người chiêu mộ trước bỏ  đi… có một giáp Vũ Đức đem nhượng lại cho quan Hàn Lâm tu soạn tên là Bản để cùng hợp sức với ông nguyên mộ trước, tiếp túc mộ dân, sửa sang điền tễ, khẩn trị hoang vụ, làng ấp lại được trù mật, dân chúng tưởng nhớ công ơn suy tôn hai vị làm thành hoàng”.

   Ở huyện Tiền Hải, còn truyền tụng bài ca:

      Hai vị ấy gia công điều động,
      Đem sức tài mà chống lại nhà siêu,
      Khai hoang phế, đắp đê điều
      Dân từ đấy, không xiêu liêu nữa,
      Nhờ công đức các ngài sửa chữa,
      Dân ngày nay nhà cửa vui đông
      Rõ ràng nhân thắng đứng long
      Mừng được chữ khả phong tị ốc.


   Ông có uy tín với dân nên đã chiêu mộ dân binh đánh phỉ và giặc biển khi chúng tàn phá, cướp bóc quê hương.

   Năm 1871, sau khi quân Pháp ổn định bộ máy cai trị ở Nam Kỳ, nhòm ngó ra Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nguyễn Mậu Kiến đã cùng hai con trai là Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Bản chiêu mộ quân chuẩn bị đánh Pháp.

   Ngày 12/12/1873, quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Nam Định. Nguyễn Mậu Kiến và Nguyễn Hữu Cương đưa quân lên Nam Định bảo vệ thành. Thành mất, cha con ông về xây dựng căn cứ kháng chiến tại huyện Kiến Xương. Lực lượng nghĩa quân đông tới 2000 người. Nghĩa quân do cha con ông chỉ huy dũng cảm, giầu lòng yêu nước, đánh nhiều trận lớn, gây thương vong nặng nề cho quân Pháp. Giặc Pháp phải thừa nhận là sợ cha con ông. Sự kiện trên được Giáo sư Trần Văn Giầu viết: "Địch sợ nhất cha con Nguyễn Mậu Kiên, người dân thường giầu có và nghĩa hiệp. Gácniê (F. Garnier) đã hứa trọng thưởng những ai cắt được đầu nhà thân hào ấy. Ông và hai con là Nguyễn Bản, Nguyễn Cương tụ họp ở Trực Định (Kiến Xương ngày nay) hàng nghìn nghĩa quân mà bản thân ông cung cấp lúa gạo, tiền bạc, quần áo và vũ khí. Hácmăng (Harmand) đem quân đến đánh nhưng không được”. (Trần Văn Giầu: Bắc Kỳ kháng Pháp. Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1957. trang 67-68).

   Phán đoán thế nào giặc Pháp cũng trở lại đánh chiếm Nam Định, Nguyễn Hữu Bản cùng con trai là Bang Úc và các lực lượng nghĩa quân khác, tiếp tục chiêu mộ quân, xây dựng căn cứ sẵn sàng đánh Pháp.

   Ngày 25/4/1882 Henri Rivière đánh thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, thành Hà Nội mất.Trước tình hình nguy cấp đó, Nguyễn Hữu Bản, Nguyễn Doãn Cử khẩn trương chiêu mộ quân, mua khí giới, xây dựng chiến lũy, sẵn sàng đánh giặc Pháp. Các ông lấy bốn huyện Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định, Tiền Hải của phủ Kiến Xương làm khu đề kháng trực tiếp; ba phủ Tiên Hưng, Kiến Xương, Thái Ninh làm hậu cứ chủ yếu. Các ông còn thành lập các đồn binh ở tuyến phòng thủ trên sông Hồng, sông Trà Lý và các đồn ở tuyến giữa. Trung tâm chỉ huy là Phủ Bo (thị xã Thái Bình ngày nay).

   Trong một cuộc giặc Pháp tấn công thành Nam Định, ông đã cùng nghĩa quân chiến đấu rất kiên cường. Song hiềm thế giặc  quá mạnh, thành bị thất thủ, Nguyễn Hữu Bản hy sinh nhưng con ông là Bang Úc vẫn cùng Nguyễn Doãn Cử và các tướng khác tiếp tục cuộc chiến đấu. Ông mất đi để lại một tổn thất vô cùng to lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

HOÀNG VĂN TUẤN

   Hoàng Văn Tuấn tên thực là Hoàng Văn Liêm, sinh năm 1825 tại làng Phú Khê, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nay thuộc xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông học giỏi, sớm có lòng yêu nước. Năm Mậu Ngọ (1858), ông cũng tham gia đoàn quân học trò ở các huyện thuộc Nam Định và ở các huyện Thanh Liêm, Bình Lục thuộc Hà Nội do Phạm Văn Nghị tổ chức Nam tiến.

   Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương... ông đã cùng các văn thân huyện Ý Yên chiêu mộ tráng đinh đánh Pháp và một số dân công giáo quá khích theo Pháp. Đội quân của ông đã giúp Phạm Văn Nghị giữ Phong Doanh, Ý Yên, đánh đuổi bọn phản động theo Pháp ra khỏi các huyện Thanh Liêm, Phủ Lý. Sau khi triều đình Huế và Pháp ký hòa ước, đội quân của ông truy quét bọn phản động theo Pháp không cho chúng tới cứu nguy cho bọn phản động đã chiếm huyện lỵ Lý Nhân đang bị Tuần phủ Hà Nội Phạm Thận Duật bao vây tiêu diệt. Sau Hòa ước triều đình xét thưởng những người có công thì Tự Đức tự tay viết tám chữ son tặng huyện Ý Yên: “Ý Yên tứ tú: Lý, Nghĩa, Tuấn, Phương”. (Ý Yên có bốn người giỏi (hay ông tú) Lý, Nghĩa, Tuấn, Phương). (Tú tài Phạm Lý ở xã Yên Hòa sau làm bang biện, Cần vương gia nhập khởi nghĩa Bãi Sậy; Tú tài Trần Vãn Nghĩa ở xã Văn Xá; Tú tài Hoàng Văn Tuấn ở xã Phú Khê; Tú tài Lê Văn Phương ở thôn An Hộ, xã Phú Khê).

   Phạm Văn Tuấn đỗ tú tài ba khóa liền, năm Bính Tý (1876), Tự Đức thứ 29, tại trường thi Thanh Hóa ông đỗ thủ khoa, năm 41 tuổi, được bổ làm Tri huyện Nam Xang, khi đó thuộc tỉnh Hà Nội. Ông thấy triều đình Huế liên tục ký những hiệp ước đầu hàng Pháp, dung túng bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo thả sức hoành hành, kéo nhau đi cướp bóc, tàn phá đình chùa, liền cáo quan, triều đình triệu nhiều lần cũng không ra.

   Năm 1882 quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Năm 1883 chúng tung quân đi đánh Nam Định và các tỉnh, Hoàng Văn Tuấn chiêu mộ quân khởi nghĩa, vận động nhân dân trang bị vũ khí, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. ông giữ chức bang biện, đã phân chia nghĩa quân thành cơ, ngũ, cử cai đội, suất đội cai quản, tổ chức huấn luyện kỹ thuật chiến đấu. Năm 1885 ông đã đem quân đánh chiếm lại được thành Phủ Lý. Cũng năm đó ông tổ chức đánh úp một đoàn thuyền giặc trên sông Đáy, chặn đánh bộ binh Pháp ở Bình Lương (Ý Yên). Ông đưa quân đi đánh tiếp ứng cho Bang biện Phạm Lý ở Yên Hòa (Ý Yên). Năm 1888 vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần vương ở các nơi tan rã dần. Quân Pháp cắt đặt quan lại đóng đồn binh ở Cổ Đan cùng tổng với xã Phú Khê, đem quân về đóng giữ đình Quán Chàm ở làng ông. Chúng cho quân đi càn quét nhiều nơi và bắt được ông, giam ở nhà lao Ninh Bình.

   Sau đó giặc Pháp kết án ông 10 năm phát vãng, chúng chuyển lên Hà Nội nhốt ông ở quán Thánh Trấn Võ, đợi ngày đưa đi Côn Đảo.

   Một người học trò cũ của ông là Cả Tương quê ở làng Nham Kênh trên bờ sông Đáy cứu được vợ chồng tên quan 5 người Pháp ở Sở Kiện. Hắn tỏ ý muốn đền ơn, Cả Tương bảo hắn: "Tôi với anh là kẻ thù, tôi có thể giết anh. Nhưng tôi cứu anh là để anh xin tha cho thày học của tôi là cụ Thủ khoa Hoàng Văn Tuấn”. Tên quan 5 nhận lời, đưa ông lên Hà Nội vận động mấy tháng ông mới được tha, nhưng bị chúng quản thúc. Khi bị quản thúc ông vẫn tỏ rõ khí phách căm thù giặc Pháp, một lần, tên hào mục ở nhà thờ Sở Kiện khoe Cố Phước (Puginier), cố Đông (Gendreau) ở Sở Kiện tài giỏi và cứng cổ. Ông ngắt lời bảo hắn: “Cổ cố đạo có cứng bằng gươm không?”. Tên kia chột dạ không dám đến nữa.

   Ông về làng được một năm thì mất, thọ 69 tuổi.
NGUYỄN GIẢN

   Nguyễn Giản còn gọi là Nguyễn Văn Giản, sinh năm 1822, người xã Phùng Thiện, nay là thôn 5, xã Khánh Thiện, huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình.

   Năm 1873, ông cùng ba con trai là Nguyễn Đường, Nguyễn Thị, Nguyễn Bích tham gia cuộc khởi nghĩa do Tam Đăng Phạm Văn Nghị chỉ huy. Ông đã chuẩn bị tham gia trận đánh ngăn chặn quân Pháp từ Ninh Bình đánh ra Nam Định theo đường sông Đáy vào sông Đào để xuống phá thành. Tam Đăng Phạm Văn Nghị chỉ huy cắm kè ở ngã ba Độc Bộ - nơi gặp nhau giữa sông Đào và sông Đáy. Thiên hộ Giản đắp đồn Trong và đồn Ngoài. Hai đồn nối với nhau bằng con đường đất, có thể chi viện cho nhau, tiến lui một cách dễ dàng.

   Trong trận Độc Bộ, ngày 10/12/1873, tầu chiến Pháp đến ngã ba Độc Bộ, Tam Đăng Phạm Văn Nghị lệnh cho cho súng thần công phát hoả. Đạn trúng tầu chiến Pháp, song sức công phá kém chỉ làm gẫy cột tầu, giết chết 3 tên Pháp và làm bị thương một số tên. Tháng 3 năm 1883, giặc Pháp lại kéo tới đánh chiếm Ninh Bình, quan quân thấy tình thế nguy hiểm, mở cửa thành đón giặc vào, không dám bắn một phát súng nào. Nguyễn Giản đã kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Ông đem hết tiền bạc trong nhà để mua sắm vũ khí đạn dược, mang hết thóc lúa trâu bò làm quân lương. Việc chuẩn bị khởi nghĩa của cha con ông và bộ tham mưu tiến hành bí mật. Ngôi nhà của Thiên hộ cũng là nơi bộ tham mưu làm việc. Đây cũng là nơi có hầm đặt lò rèn sản xuất vũ khí súng trường bắn nhanh theo mẫu súng 1874 của Pháp, có hầm bí mật giấu vũ khí, có kho chứa lương thực.

   Ngày 23 tháng chạp năm Kỷ Sửu (13/1/1890) quân Pháp bố phòng xung quanh tỉnh thành, chặn các ngả đường rồi bí mật kéo quân về đánh úp làng Phùng Thiện. Nghĩa quân chưa kịp đối phó thì quân Pháp đã ập vào lùng bắt. Cả bốn cha con Thiên hộ Giản và một số nghĩa quân bị bắt. Quân Pháp còn lấy được tại nhà Thiên hộ 30 lò rèn, 100 cối xay. Ngày hôm sau, 24 tháng chạp năm Kỷ Sửu (14/1/1890) giặc Pháp bắn chết Nguyễn Đường, Nguyễn Thị, Nguyễn Bích ở chân núi Cánh Diều. Nguyễn Giản bị giặc Pháp bắt giam trong ngục, hơn 2 năm sau, ngày 21  tháng 6 năm Nhâm Thìn (13/8/1892) ông mất tại nhà tù.

   (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 (174) ngày 5/6/1977, chú thích Thiên hộ Giản là một hào trưởng ở cùng Nho Quan, có lẽ là dân tộc Mường (chúng tôi chưa điều tra rõ lý lịch) đã giúp nhiều công của vào việc cứu dân và đánh Pháp nên được phong Thiên hộ. Tương truyền khi giặc Pháp vậy nhà ông còn bắt được hơn 30 lò rèn và 100 cối xay. Ông bị Pháp bắt và bị xử tử hình khoảng năm 1888. Hôm hành hình, trời có mưa to và sấm sét).

HOÀNG PHAN THÁI

   Hoàng Phan Thái quê ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, ông thi đỗ đầu xứ, nên các nhà nho suy tôn ông là "Đầu xứ Thái”.

   Ngày 15 tháng 3 năm 1874 , triều đình Huế ký với thực dân Pháp bản Hiệp ước mang tên "Hiệp ước hoà bình và liên minh” tại Sài Gòn (Trong sử sách còn gọi là Hiệp ước Giáp Tuất). Hiệp ước có 22 điều khoản. Trong đó điều khoản 5 ghi: "Triều đình Huế thừa nhận chủ quyền của Pháp trên phần đất Việt Nam kể từ địa giới phía Nam tỉnh Bình Thuận trở vào”.

   Lập tức các sĩ phu, nhân dân khắp nước, đặc biệt là ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ dấy lên phong trào phản đối triều đình Huế bán nước và thực dân Pháp cướp nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra với khẩu hiệu "Đánh cả triều lẫn Tây”. Hội Văn thân Nghệ Tĩnh phát "Hịch bình Tây" trong đó có câu: 'Triều đình dẫu hoà với Tây mặc lòng, sĩ phu nước Nam quyết không chịu. Vậy... xin đánh đuổi Tây cho hết để giữ lấy nền văn hiến của ta đã có hơn ngàn năm nay”.

   Hưởng ứng "Hịch Bình Tây”, Phan Thái xưng hiệu là “Đông Hải đại tướng quân” chiêu mộ nghĩa binh chống lại sự bạc nhược của triều đình Huế đầu hàng giặc Pháp. Triều đình Huế đưa quân đến Nghi Lộc quê hương ông vây bắt. Ông bị bắt đưa ra xử chém.

   Hoàng Phan Thái hy sinh khi chưa thực hiện được hoài bão giết giặc, trừ gian của mình nhưng nó như một ngòi nổ kích động nhiều cuộc khởi nghĩa khác. Riêng ở Nghệ Tĩnh đã có các cuộc khởi nghĩa của Vương Thúc Mậu (1886-1887) ; Lê Ninh, Tống Duy Tân...

   Hành động của cụ Đầu xứ Hoàng Phan Thái được Phan Bội Châu hết sức ca ngợi. Năm 1907, Phan Bội Châu viết: Tập tiểu truyện Đầu xứ Thái, một nhà nho sống thời Tự Đức và đã bị bọn phong kiến triều Nguyễn xử tử vì có tư tưởng chống đối triều đình nhà Nguyễn. Trong Phan Bội Châu niên biểu, tác giả cho rằng: cuốn trên này đánh dấu một chuyển biến lớn trong tư tưởng của mình. Truyện đề cao một "loạn thần" lên địa vị "ông tổ" mở đường cho cuộc vận động chống quân quyền ở Việt Nam đồng thời tố cáo tội ác của Tự Đức.
LÊ VĂN MAI

   Lê Văn Mai sinh năm 1843, người làng Vĩ Khánh nay thuộc xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông là người thông tuệ từ nhỏ, thi đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn, năm Tự Đức thứ 21 (1868) khi mới 25 tuổi, được bổ làm quan Ngự sử, nên dân gian gọi là Ngự Mai.

   Năm 1873 giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất, các phủ, huyện của Hà Nam khi đó thuộc Hà Nội đều bị quân Pháp đánh. Quân triều đình chưa đánh đã bỏ chạy. Triều đình Huế sợ giặc không dám động binh, vội vàng ký "Quy ước" giữa Nguyễn Văn Tường và Philát nhượng bộ Pháp nhiều quyền lợi về kinh tế, chính trị, quân sự.

   Lê Văn Mai đứng về phe chủ chiến, khuyên can vua không được liền từ quan về quê. Ông đã liên kết với những người cùng chí hướng như tú tài Lê Văn Tốn, chiêu mộ quân rèn đúc, vũ khí theo Đinh Công Tráng khởi binh đánh Pháp.

   Khi hai ông khởi binh rồi gia nhập cuộc khởi nghĩa Đinh Công Tráng thì thế lực nghĩa quân càng mạnh. Lê Văn Mai trở thành mưu sĩ hàng đầu, là tướng tâm phúc của Đinh Công Tráng. Ông cũng chủ trương vạch ra kế hoạch tác chiến, bày binh bố trận dụ địch vào nơi đất hiểm, và ông cũng là người cầm quân đánh những trận đó. Nghĩa quân Đinh Công Tráng chiến thắng nhiều trận lẫy lừng ở Tràng Bưởi, Sở Kiện, rồi ào ào tiến sang Nam Định giải phóng phủ Bỏ (Ý Yên), chợ Dầu (VụBản) thị xã Phủ Lý.

   Ngày 15/3/1874, Triều đình Huế ký với Pháp "Hiệp ước Hoà bình và liên minh”  thực tế là đầu hàng giặc Pháp, ra lệnh triệt binh của triều đình, giải tán nghĩa quân. Đinh Công Tráng trả chức tước cho triều đình, ông cử Lê Văn Mai ở lại mở trường dạy học để tuyên truyền lòng yêu nước, chí căm thù giặc Pháp cho thanh niên, huấn luyện quân sự, dạy binh thư cho anh em rồi lên Sơn Tây - Hưng Hoá gia nhập quân của Hoàng Kế Viêm được phong Lãnh binh, ông thường xuyên có mối quan hệ với Lê Văn Mai.

   Ngày 25/4/1882 (mùng 8 tháng ba năm Nhâm Ngọ) Henri Rivière tấn công thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng đốc Hoàng Diệu tuần tiết theo thành.

   Đầu năm 1883 quân Pháp đánh chiếm Phủ Lý và các phủ huyện nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ngày 27/3 thành Nam Định thất thủ...

   Do có 10 năm chuẩn bị, nên ngay khi quân Pháp đánh chiếm Phủ Lý, Lê Văn Mai đã triệu tập nghĩa quân đánh Pháp và bọn giáo dũng khiến chúng không dám đánh rộng ra các phủ huyện. Ông còn phối hợp với nghĩa quân của Lê Văn Tốn tập kích vào các trại quân Pháp.

   Đinh Công Tráng sau khi dự trận đánh ở Cầu Giấy ngày 19/5/1883, ông trở về Hà Nam, Nam Định gây dựng phong trào đánh Pháp thống nhất các lực lượng kháng chiến ở Hà Nam. Vốn mến mộ tài năng và đức độ của ông, chỉ trong mười ngày, ông đã có một đội nghĩa quân đông tới 5000 người. Ngự Sử Lê Văn Mai và tú tài Lê Văn Tốn cũng đem quân tới phối hợp.

   Hốt hoảng trước lực lượng nghĩa quân Đinh Công Tráng, giặc Pháp tập trung quân càn quét vùng sông Đáy. Lê Văn Mai đã sát cánh cùng chủ tướng Đinh Công Tráng chiến đấu dũng cảm đánh thắng nhiều trận ở Thong, Bưởi, xây dựng căn cứ rừng Tràng huyện Thanh Liêm. Từ căn cứ này, nghĩa quân liên tục đột nhập vào Phủ Lý, huyện lỵ Thanh Liêm. Giặc Pháp tập trung quân, đại bác bắn vào căn cứ rừng Tràng.

   Không giữ được căn cứ, Lê Văn Mai cùng chủ tướng Đinh Công Tráng rút quân về xây dựng căn cứ kháng chiến mới ở Thư Điền, tỉnh Ninh Bình. Sau Đinh Công Tráng nhận thấy Thư Điền dễ bị cô lập khi quân Pháp bao vây, tấn công nên Đinh Công Tráng đã cùng các ông Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Hà Văn Mao xây dựng căn cứ ở các xã Kim Âu và Thạch Bằng thuộc huyện Quảng Hoá, Thanh Hoá.

   Theo gợi ý của Thượng thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết khi đó đã đưa vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương, Đinh Công Tráng và Lê Văn Mai đã chuyển xuống đồng bằng xây dựng các căn cứ Ba Đình, thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ngự Sử Lê Văn Mai đã sát cánh cùng thủ lĩnh Đinh Công Tráng và các thủ lĩnh khác xây dựng và chiến đấu bảo vệ căn cứ này.

   Ngày 18 tháng 12 năm 1886, nghĩa quân Ba Đình đánh bại cuộc tấn công qui mô đầu tiên của quân Pháp vào căn cứ từ hai hướng: hướng Tây Nam do tên trung tá Melzinzen chỉ huy, hướng đông bắc do tên trung tá Dodds chỉ huy. Nhưng chúng đã bị nghĩa quân đánh bại. Lê Văn Mai dũng cảm chỉ huy nghĩa quân đánh lùi những đợt xung phong của quân Pháp, ông anh dũng hy sinh. Nghĩa quân đưa thi hài ông về quê ông ở làng Vĩ Khánh, xã Liêm Túc an táng. Bia mộ của ông nay vẫn còn ở đình Hát xã Liêm Túc. Khi còn sống làng Tập Mỹ, huyện Bình Lục xây đình đã mời ông đến cất nóc. Khi ông hy sinh dân làng tôn ông làm Thành hoàng thờ ở đình. Ông được nhân dân vùng Liêm Sơn tôn trọng, xưa kia vẫn kiêng tên huý của ông không nhắc đến.

NGUYỄN THÀNH THÀ

   Nguyễn Thành Thà quê ở thôn Phan Bổng, xã Đô Mỹ, huyện Thần Khê (nay là xã Bình Lăng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Nguyễn Thành Thà học võ rất nhanh và thi đậu cử nhân võ hạng ưu khi tuổi còn rất trẻ.

   Thành Thà được bổ chức quản suất ở Lạng Sơn, một chức quan võ nhỏ ở một tỉnh miền núi. Tuy chỉ là quản suất, nhưng bằng tài năng của mình ông đã lập được nhiều chiến công được thăng chức Chánh quản ở tỉnh Hưng Yên, chuyên lo xây dựng lực lượng quân sự để đối phó với giặc Pháp đang có âm mưu đánh chiếm Bắc Kỳ. Thời gian này ông có công huấn luyện cho một số nghĩa dũng trong dân quân Nam tiến 365 người do Đốc học Phạm Văn Nghị tổ chức tình nguyện vào Đà Nẵng đánh giặc ngày 29/2/1860. Cuối tháng 11 và 12/1873, quân pháp đánh chiếm thành Hà Nội, phủ Hoài Đức, nhiều phủ huyện của tỉnh Hà Nam (khi đó thuộc Hà Nội) phủ Thuận Thành (Bắc Ninh), thành Hải Dương, thành Ninh Bình, Hạ xong các thành trên, quân Pháp tiến đánh thành Nam Định, ngày 10/12/1873 quân Pháp do Francis Garnies cho tầu chiến vượt qua đồn Độc Bộ, do Hoàng giáp Phạm Văn Nghị chỉ huy nghĩa quân chống giữ. Nguyễn Thành Thà giữ chức Chánh quản ở Hưng Yên phán đoán trước đường tiến quân của quân Pháp nên trước đó ít ngày, ông đã đưa một bộ phận nghĩa quân tinh nhuệ từ Hưng Yên sang đồn Độc Bộ cùng nghĩa quân Phạm Văn Nghị giữ đồn. Khi chiến hạm của quân Pháp lọt vào trận địa, nghĩa quân đã đánh một trận quyết chiến quyết liệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

   Sau Hiệp định 1874 triều đình Huế phải nhượng bộ Pháp nhiều điểm, để đổi lại Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ, chỉ để lại một bộ phận đóng ở Hà Nội và Ninh Hải (Hải Phòng). Nguyễn Thành Thà ở lại Nam Định. Ngày 25/3/1883, trung tá Hải quân Hăngri Rivierơ chỉ huy quân Pháp từ Hà Nội vào chiếm sông Vị Hoàng, gửi tối hậu thư buộc Tổng đốc Nam Định nộp thành. Sáng sớm ngày 26/3/1883, quân Pháp tấn công thành, Đề đốc Lê Văn Điếm, Án sát Hồ Bá Ôn đã chỉ huy nghĩa quân đánh giặc giữ thành. Hai cánh nghĩa quân do Nguyễn Thành Thà và Nguyễn Hữu Bản được giao giữ Cửa Đông. Cửa Đông là mũi tấn công chính của giặc Pháp, nên cuộc chiến diễn ra hết sức quyết liệt Nguyễn Thành Thà bị đạn pháo bắn bị thương vẫn không rời vị trí chỉ huy. Song thế giặc mạnh, nghĩa quân bị thương và hy sinh nhiều, Đề đốc Lê Văn Điếm đã tử trận, Nguyễn Thành Thà gom số quân còn lại lui về lập đồn cố thủ ở Vị Xuyên.

   Nghe tin Thành Thà về xây dựng đồn Vị Xuyên, các bạn chiến đấu, học trò của ông về tụ nghĩa rất đông. Triều đình cử Tạ Hiện người làng Quang Lang, huyện Thụy Anh về làm Đề đốc Nam Định. Tạ Hiện đã cử Nguyễn Thành Thà về cùng Đinh Gia Quế xây dựng căn cứ Bãi Sậy và các căn cứ ở vùng Thần Khê, Duyên Hà. Với tư cách là phái viên của quan Đề đốc, Nguyễn Thành Thà đã đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng lực lượng, thu góp quân lương tại các căn cứ trên. Nguyễn Thành Thà còn xây dựng thôn Phan Bổng - quê hương ông thành một căn cứ kiên cố, đồng thời là nơi chứa quân lương lớn nhất trong vùng.

   Vua Hàm Nghi thăng Nguyễn Thành Thà là Lãnh binh ở Hưng Yên, ông là trung tâm tổ chức hiệp đồng chiến đấu của các thủ lĩnh nghĩa quân Phạm Huy Quang, Đốc Đen, Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan…

   Những năm cuối đời, tuổi cao, sức yếu, Lãnh binh Nguyễn Thành Thà vẫn xông pha trận mạc. Ông còn cầm quân tiêu diệt bọn giặc bể Tàu Ô từ biển tràn vào cướp phá huyện Thái Ninh, Thụy Anh. Đầu năm 1895 giặc Pháp tấn công căn cứ Phan Bổng, căn cứ bị vỡ. Nguyễn Thành Thà bị thương. Nghĩa quân đưa ông về căn cứ ở Mỹ Hào (Hưng Yên) điều trị vết thương. Khi ông sắp qua đời, nghĩa quân đưa ông về căn cứ Phan Bổng. Ông mất vào một ngày cuối năm 1895. Nhân dân học trò, nghĩa quân tới phúng viếng rất đông.
NGUYỄN XUÂN ÔN

   Nguyễn Xuân Ôn sinh ngày 22 tháng 3 năm Ất Dậu, người làng Quần Phương, xã Lương Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, nay là xã Diễn Thái huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông là người thông tuệ, đọc sách nhớ lâu, người đời gọi đùa là "tủ sách bụng”. Năm 1844 ông đỗ tú tài khi mới 18 tuổi, năm 1847 đỗ tú tài lần thứ hai. Lận đận mãi đến khoa thi Đinh Mão, Tự Đức 20 (1867) ông mới đỗ cử nhân. Khoa thi Hội Tân Mùi, Tự Đức 24 (1871), khi đã 42 tuổi ông mới đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, được bổ nhiệm tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình), rồi lại được bổ làm Án sát Bình Thuận.

   Nguyễn Xuân Ôn là người cương trực, khẳng khái chỉ trích quan lại tham nhũng. Ông là người đứng hẳn về phe chủ chiến. Năm 1874 ông đã báo cáo với triều đình âm mưu của giặc Pháp nhưng vua Tự Đức và các quan lờ đi, ông liên tiếp gửi sớ về trình bày kế hoạch đánh giữ. Ông còn xin về Nghệ An để cùng quan lại địa phương tổ chức lực lượng kháng chiến. Ông cực lực phản đối chủ trương của triều đình cầu hòa với Pháp. Vua Tự Đức chủ trương cầu hòa, nên không ưa ông, đã phê vào sớ của ông dòng chữ: "Kiến sự phóng sinh" (Thấy việc nói tràn). Triều đình mượn cớ cầu hòa, nhưng thực tế là đầu hàng, ký nhiều Hiệp ước bán rẻ chủ quyền cho thực dân Pháp. Nguyễn Xuân Ôn vẫn kiên trì trình bày tường tận ý kiến, phương lược chống Pháp của mình. Ông cũng tuyên bố rõ ràng: "Nếu triều đình không nghe thì từ chức”. Vì thế mỗi khi triều đình tiếp được sớ của Nguyễn Xuân Ôn đề cập đến việc giặc Pháp thì tỏ thái độ rất khó chịu. "Có lần Thượng thư bộ Lại lúc đó là Nguyễn Chánh đã lên tiếng chỉ trích kịch liệt, thậm chí cả Tự Đức cũng xuống chiếu trách phạt”.

   Triều đình Huế không muốn để Nguyễn Xuân Ôn là người có tư tưởng chống Pháp ở Bình Thuận, giáp với Lục tỉnh Nam Kỳ, mà triều đình Huế đã bán đứt cho Pháp thì xảy ra một sự việc: Khoảng cuối năm 1881, đầu năm 1882, một tên cố đạo Pháp ngang nhiên xúc phạm nghi lễ của dân tộc đã bị ông điều lên cho hỏi tội. Vì việc này, thực dân Pháp trách cứ triều đình Huế vi phạm Điều 9 "Hiệp ước Hòa bình và Liên minh" đối với đạo Thiên Chúa là; chấm dứt việc mạt sát đạo Thiên chúa, cho phép các giáo sĩ được đi lại khắp nơi để truyền giáo”. Vì thế triều đình Huế điều ông ra làm Án sát tỉnh Quảng Bình điều tra một số vụ án không quan trọng.

   Ông ra Quảng Bình chưa được bao lâu thì ngày 25 tháng 4 năm 1882, quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày 12/3/1883, quân Pháp đánh Hòn Gai, ngày 27/3/1883, giặc Pháp hạ thành Nam Định…

   Trước họa xâm lăng một số tướng lãnh ở Bắc Kỳ như Hoàng Kế Viêm, Bùi Văn Dị, Nguyễn Chánh, Trương Quang Đản đều mật tâu về kinh xin đánh. Nhưng Tự Đức chỉ phái người ra Hà Nội thương thuyết xin Pháp trao trả lại thành, lệnh cho quân chính quy và quân Cờ Đen lên mạn ngược, nới lỏng vòng vây cho quân Pháp, bắt các sĩ phu giải tán nghĩa quân, cho người đi cầu cứu nhà Thanh.

   Sau khi Nguyễn Xuân Ôn gửi nhiều bản sớ tấu về triều không được Tự Đức chấp nhận, ông xin từ quê về Nghệ An để phát động cuộc kháng chiến chống Pháp. Song ông vẫn dâng sớ xin kinh lý miền thượng du để có cơ sở kháng chiến lâu dài. Tiếp nữa ông lại dâng sớ điều trần các việc nên làm, kịch liệt phản đối chủ trương hòa hảo với giặc Pháp của triều đình. Chán cảnh triều đình đầu hàng giặc Pháp, ông cáo quan về quê nhà ở xã Diễn Thái huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An rồi tự mình đứng ra lo việc chống Pháp. Ông "chăm việc vỡ hoang đồn điền, tập hợp những người dân lưu tán, xếp vào đội ngũ, chờ lúc cần mà dùng”. Từ khi về nhà tới đầu tháng 8/1884 là thời gian ông bàn bạc với các đồng chí tin cậy, chuẩn bị mọi mặt từ tuyển quân, huấn luyện, trang bị vũ khí, tích trữ quân lương, xây dựng căn cứ.

   Tháng 8 năm 1884 vua Hàm Nghi lên ngôi cho người ra Nghệ An phong cho Nguyễn Xuân Ôn làm "An - Tĩnh Hiệp đốc quân vụ đại thần thông lĩnh lực lượng nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh”. Ông lập tức tuyển quân, chỉ trong nửa tháng số quân lên gần 2.000 người. Ông có nhiều trợ thủ đắc lực như Đề Kiều, Lãnh Mậu, Lãnh Phương, Đốc Nhan, Đề Vĩnh, Lãnh Bảng, Đề Thắng lo việc huấn luyện, trang bị vũ khí, tịch trữ quân lương, xây đồn lũy.

   Tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn Nghĩa quân tấn công đồn Mang Cá, khu Nhượng địa. Việc không thành. Các ông rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị).

   Ngày 13/7/1885 từ Tân Sở, chiếu Cần vương được phát đi trong cả nước kịch liệt tố cáo âm mưu cướp nước của thực dân Pháp, hô hào toàn dân đứng lên chống Pháp cứu nước. Tiếp được chiếu, Nguyễn Xuân Ôn lập tức hưởng ứng. phong trào tòng quân diễn ra rầm rộ ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.

   Thực dân Pháp nghe tin Nguyễn Xuân Ôn khởi binh ở Nghệ An vội vàng kéo vào chiếm đất, đóng đồn khống chế các hoạt động của nghĩa quân. Giữa tháng 11/1885, nghĩa quân của Nghè Ôn và quân Pháp đánh nhau dữ dội ở xã Đoài, ưu thế nghiêng về phía nghĩa quân. Sau trận thắng này thanh thế của nghĩa quân Nghè Ôn càng lớn mạnh. Ông lui quân về Tây bắc xã Đoài tiến hành các hoạt động quân sự mạnh mẽ hơn.

   Trong năm 1886 nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn đánh thắng nhiều trận lớn như trận Thưa Sủng, Đồng Mờm, Đồng Nhơm trên con đường từ Diễn Châu đi Yên Thành. Tháng 6/1885 vua bù nhìn Đồng Khánh ra dụ nếu thủ lĩnh Nguyễn Xuân Ôn (và 17 người nữa) nếu ra đầu thú sẽ được giữ nguyên hàm và được bổ làm quan từ Quảng Bình, Quảng Trị đổ vào. Song Nguyễn Xuân Ôn không thèm đếm xỉa đến những lời gạ gẫm của Đồng Khánh, vẫn tiếp tục cuộc chiến. Cuối năm 1886 nghĩa quân còn táo bạo thọc sâu xuống đồng bằng, ven biển, tấn công đồn Pháp ở chợ Sy (cạnh đường số 1, thuộc huyện Diễn Châu).

   Năm 1887 nghĩa quân Nguyễn Xuân ôn đánh thắng nhiều trận lớn như trận vùng Sừng, Mị, Xóm Hố thuộc vùng tây bắc huyện Yên Thành.

   Trong các trận đánh, Nguyễn Xuân Ôn luôn luôn đi hàng đầu, nêu cao gương dũng cảm, làm cho khí thế nghĩa quân phấn chấn. Ông bị thương nhiều lần. Trong một trận đánh vào tháng 6/1887 ở xóm Hồ, ông bị thương vào bả vai phải về làng Đồng Nhân, nay là thôn Đồng Đức, xã Mã Thành, huyện Yên Thành điều trị. Ngà.y 12 tháng 4 năm Đinh Hợi (25/7/1887), tên quan một Bunlơ (Bouloux) chỉ huy một toán lính cải trang làm nông dân do tên Tới dẫn đường xâm nhập vào nơi ông ở. Khi phát hiện ra quân Pháp, 20 cận vệ xông ra cản giặc. Một cuộc kịch chiến xảy ra. Quân Pháp đông và mạnh, phần lớn vệ sĩ hy sinh. Nguyễn Xuân Ôn rút kiếm tự tử, song bị quân Pháp ngăn lại, bắt ông. Lúc đầu chúng giam ông ở đồn Yên Mã (Mã Thành, huyện Yên Thành). Sau đó chúng đưa ông về giam ở Diễn Châu. Đến ngày 13/8/1887 chúng giải ông về nhà lao Vinh. Tại đây giặc dùng mọi cách mua chuộc, lung lạc ông, song ông vẫn kiên cường không khuất phục. Chúng buộc ông bảo thuộc hạ ra hàng. Ông suy nghĩ nhận thấy quân Pháp đang mạnh, quân ta ở thế yếu, lại không có chủ tướng, nếu tiếp tục chiến đấu sẽ gây tổn thất lớn, cần phải bảo toàn lực lượng để quyết chiến với giặc khi có cơ hội. Vì vậy ông viết thư khuyên tướng sĩ giải tán về nhà làm ăn. Về sự kiện này sau này ông viết trong Lời trình về Bộ năm Mậu Tý (1888) - "Tôi đem lòng báo nước, lòng và sức đều kiệt, việc đã không ra gì, nếu cứ để lại những người bộ thuộc , sợ không thể trì chí, nên tôi viết thư bảo họ giải tán đi”.

   Giặc Pháp thấy nghĩa quân đã giải tán, ông tuổi cũng đã cao, đã bị thương lại hay đau yếu, không có lý gì để xử tử ông, song chúng vẫn không dám đưa ông về Nghệ An mà bắt ông ở Huế. Nhưng ra tù được mấy tháng, ông lâm bệnh nặng rồi mất vào cuối năm 1889. Nguyễn Xuân Ôn để lại tập thơ "Ngọc Đường thi tập" gồm 311 bài, "Nguyễn Đường văn tập” 22 bài, một số câu đối, thơ Nôm. Thơ văn của ông nêu cao tinh thần quyết tâm kháng chiến bất chấp quân Pháp có vũ khí hiện đại. Các bài thơ cũng lên án mạnh mẽ giặc Pháp và vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc.

LÊ VĂN ĐIẾM

   Đề đốc Lê Văn Điếm quê ở xã Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, ông tham gia giữ thành Nam Định.

   Đề đốc Lê Văn Điếm và các quan tỉnh phe chủ chiến, các thủ lĩnh nghĩa quân chăm chú theo dõi các hoạt động khiêu khích của quân Pháp và dân theo đạo Thiên chúa. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, Lê Văn Điếm vẫn lệnh cho các đồn binh củng cố công sự, sẵn sàng chiến đấu. Trong chừng mực có thể, ông còn giúp vũ khí cho nghĩa quân, cử các Hiệp quản, suất đội có kinh nghiệm giúp các thủ lĩnh nghĩa quân huấn luyện quân sự cho tân binh.

   Trước thái độ tích cực chống Pháp của quan quân, nhân dân nhiệt liệt đồng tình và ủng hộ. Tầu Carabin đậu ở sông Nam Định cứ đêm đến bị ném đá. Khi quân Pháp cho tầu chiếm ngã ba Độc Bộ cửa ngõ của tỉnh thành Nam Định, Lê Văn Điếm phán đoán quân Pháp sắp đánh chiếm Nam Định. Đến ngày 24/2/1883 H.Rivière tiếp nhận được binh lính và tầu chiến, hắn cho tầu chiến vào chiếm Sông Đào khống chế thành Nam Định.

   Quân dân Nam Định càng khẩn trương chuẩn bị đánh giặc. Người già, đàn bà, trẻ con được lệnh rời khỏi tỉnh thành. Ngày 10/3/1883, Henri Rivière gửi thư cho Thomson, Thống đốc mới ở Nam Kỳ xin cho đánh Nam Định. Ngày 23/3/1883, Henri Rivière chỉ huy quân lính đi trên các tàu chiến Carabin, La Hat sơ, Yatagăng, Tông Canh (Tonkin Kiang Nam và Oăm Poa) (Wampois) và một số thuyền theo sông Hồng về đánh Nam Định. Chúng tới Phủ Lý không bị cản trở, ở qua đêm tại đó rồi hành quân qua sông Đáy, Ninh Bình, không bị quân triều đình ngăn cản. Tới Vĩnh Trụ, thì tàu Pluvier đợi sẵn nhập bọn. Ngày 24/3 chúng tới ngã ba Độc Bộ có tầu Surprise đợi sẵn. Sáng ngày 25/3/1883, Henri Riviere gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Vũ Trọng Bình đòi nộp thành. Vũ Trọng Bình kiên quyết không giao, chúng liền bắn pháo giữ dội vào thành. Đề đốc Lê Văn Điếm cùng các tướng chỉ huy quan quân đánh bật nhiều đợt tấn công của giặc khiến chúng phải rút chạy về tàu.

   Sáng sớm ngày 27/3, tàu chiến Pháp bắn dữ dội vào cửa Đông, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt đến trưa. Đề đốc Lê Văn Điếm chỉ huy vòng ngoài giữa vòng vây của giặc, xông pha lửa đạn chỉ huy quân lính đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc. Xác chúng ngổn ngang trên đường. ông bị trúng đạn vào bụng, ruột lòi ra ngoài, ông lấy tay ấn vào, lấy khăn chít đầu quấn chặt lại, tiếp tục chỉ huy quan quân đánh giặc. Quân sĩ thấy chủ tướng bị trọng thương vẫn không rời trận địa, tất thảy đều hăng hái xông lên giết giặc. Đề đốc Lê Văn Điếm chiến đấu đến khi ngất xỉu, quân sĩ đưa lên ngựa chạy về cửa Tây tới Biên Dương thì chết. Quan quân đưa thi hài ông về Bồng Trung an táng.
TỔNG ĐỐC HOÀNG DIỆU

   Hoàng Diệu nguyên tên là Hoàng Kim Tích, sinh ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Sửu (5/3/1829), người xã Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Quang, vùng Gò Nổi, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Khoa thi Hương tại Thừa Thiên năm 1848, Hoàng Diệu đỗ cử nhân. Năm năm sau, năm 1853, Hoàng Diệu thì Đình, đỗ Phó bảng. Khởi đầu ông làm Tri huyện huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Do nha lại lầm lẫn án từ, ông bị giáng chức làm Tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên. Sau theo bản sớ tấu của Đặng Huy Trứ tiến cử người hiền tài, ông được phục chức làm Tri phủ Lạng Giang, rồi thăng Án sát Nam Định, Bố chánh Bắc Ninh. Năm 1873 ông về Huế làm Tham tri bộ Hình, sau làm Tham tri bộ Lại, kiêm Đô sát viện, sung cơ mật đại thần. Năm 1878, ông được bổ chức Khâm sai đại thần. Cùng năm đó, Hoàng Diệu được nhận chức Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh). Năm sau ông được điều về kinh giữ chức Phó sứ thương thuyết với Tây Ban Nha, sau đó ông giữ chức Thượng thư bộ Binh. Tháng giêng năm 1880, ông được thăng chức thự Tổng đốc, năm 1881 thăng Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình).

   Hoàng Diệu làm quan lớn, cha mẹ, vợ chính thức được phong tước hiệu, nhưng gia đình ông vẫn sống ở làng quê một cuộc sống dân dã. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: "Hoàng Diệu tính tình cương trực, lâm sự quyết đoán, có phong độ bậc đại thần”.

   Ngày 4/4/1882, Henri Rivière vào thành yết kiến Tổng đốc Hoàng Diệu. Chuyến vào thành không nhằm mục đích ngoại giao mà đích thân dò xét mọi mặt. Hoàng Diệu phán đoán hắn ra chuyến này là để hạ thành Hà Nội, nhưng chưa có lệnh của Triều đình Huế, ông không dám đánh ngay. Ông gấp rút điều động lực lượng phòng thủ trong thành bố trí ở những địa điểm xung yếu. ông cho tôn cao mặt thành lên từ 1,5 mét đến 1,9 mét, tường thành được tu bổ dầy thêm từ 0,60 mét đến 0,8 mét. Cổng thành được làm lại bằng gỗ lim dầy, vững chắc bên trong chất nhiều bao đất đá, gỗ. Riêng của Nam và cửa Đông - nơi Garnier đột nhập vào 10 năm trước, có thêm các dẫy tường chéo bao bọc lấy khu trung tâm, có kho thuốc súng, quân dụng và hành cung. Như vậy là hai cửa Tây và cửa Bắc không vững như hai cửa trên. Súng đại bác cũng được tăng cường, đặt trên mặt thành. Ông còn phái một bộ phận quân đội ra ngoài thành để cùng lực lượng dân binh đánh tập hậu quân địch.

   Sáng 25/4/1882, Rivière gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu với lời lẽ xấc xược. Bức thư láo xược của giặc Pháp, làm cho Tổng đốc Hoàng Diệu vô cùng căm tức. Ông lập tức triệu tập các quan văn võ họp ở lầu trên Cửa Đông, xếp ở đó mấy hòm thuốc súng, rót rượu nói với các quan, tướng rằng: “Tôi xin các ông cạn chén, thề tận trung báo quốc. Nếu vạn nhất thành mất thì tất cả chúng ta đến đây, đốt các hòm đạn này”. Các quan thà chịu chết chứ không chịu đầu hàng.

   Tổng đốc còn cho người ra ngoài thành, lệnh cho cử nhân Nguyễn Đồng, phường Bích Câu đưa dân binh đánh vào sau lưng quân Pháp, làm rối loạn đội hình của chúng. Quân ta đóng chặt cửa Đông và cửa Bắc, tổ chức chiến đấu ở cửa Tây và cửa Nam. Quân Pháp nghi binh ở cửa Đông, cửa Nam, nhưng lại đánh phá cửa Bắc và cửa Tây. Tổng đốc Hoàng Diệu đang ốm vẫn mặc triều phục, mang gươm cùng Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng thân lên mặt thành đốc chiến. Ông cũng không khoan nhượng với bọn quan lại có tư tưởng hòa hoãn, đầu hàng, ngăn chặn những vụ phá hoại, gieo rắc hoang mang trong quân lính của chúng. Trong trận chiến, Nguyễn Đình Trọng, còn gọi là Cử Tốn, giữ chức suất đội thuộc Tả trấn, hữu dinh ở trong thành, ông là vệ sĩ của Tổng đốc, luôn luôn theo sát bảo vệ Tổng đốc. Hai ông suất đội là Trần Lộc, người làng Nghè, Bếp Bốn người làng An Phú đều thuộc huyện Từ Liêm chiến đấu trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Tổng đốc Hoàng Diệu, tả xung hữu đột và đều hy sinh anh dũng. Song thế giặc mạnh, ùa vào bên trong. Quân ta tan rã. Tổng đốc Hoàng Diệu, Phó lãnh binh Hồ Văn Phong không sao cản nổi giặc, vì chúng kéo vào quá đông. Thấy thành đã vỡ, khó lòng chống cự nổi, Hoàng Diệu quay mặt về phía Nam, chảy nước mắt nói: “Thần đã sức cùng, lực tận rồi, xin tạ tội”. Đoạn ông cưỡi voi đến Võ miếu, viết một bài biểu gởi vua Tự Đức, rồi ông lấy khăn quấn đầu bằng nhiễu đỏ thắt cổ tự tử để khỏi bị quân xâm lăng hạ nhục. Khí tiết hy sinh vì nước lẫm liệt của ông được Nguyễn Văn Giai ca tụng trong bài "Hà thành chính khí ca”.

      “…Một cơn gió thảm mưa sầu
      Nấu nung gan sắt dãi dầu lòng son
      Chữ trung còn chút cỏn con
      Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây
      Trời cao hiểu rộng đất dầy
      Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi”.

CAI TRÍ

   Cai Trí, tức suất đội Đỗ Đăng Lâm được Tổng đốc Hoàng Diệu tin cậy giao cho việc vận chuyển, bảo vệ các hòm giấy tờ, chiếu chỉ, bằng sắc công văn từ trong thành về huyện đường. Vì quá cẩn thận, ông Cai Trí cho hẳn một đội lính đi bảo vệ các hòm công văn trên. Điều đó khiến cho bọn mật vụ của Lãnh sự Pháp ở Đồn Thủy và những giáo dân Thiên chúa giáo quá khích được Pháp vũ trang nghi ngờ đó là các hòm vàng bạc, nên chúng báo ngay cho Lãnh sự Pháp. Vì vậy Lãnh sự Pháp coi huyện đường Thọ Xương cũng là một mục tiêu cho quân Pháp tấn công. Trước thế mạnh và sự hung hăng của giặc Pháp cùng bọn tay sai, tri huyện, lục sự, thông phán, nha lại cùng một số lính sợ hãi bỏ nhiệm sở chạy thoát thân. Mặc dù giặc cướp đông, trong huyện thành chỉ còn lại hơn 20 lính cơ, Cai Trí cùng anh em vẫn quyết tử giữ thành. Tên thông ngôn gọi loa uy hiếp Cai Trí và anh em lính cơ nếu đầu hàng nộp hết các hòm từ trong thành chuyển ra sẽ được tha mạng. Cai Trí biết rõ những hòm đó chứa đựng giấy tờ quan trọng nên dù chết cũng bảo vệ tới cùng. Bọn giặc không khuất phục được ông liền nổ súng rồi cho bọn trộm cướp phá cổng. Cai Trí chỉ huy anh em ngoan cường đánh trả giặc. Chỉ trong giờ đầu, hơn một chục anh em đã hy sinh, đè lên xác giặc. Cai Trí cùng số anh em còn lại lùi vào công đường giữ từng gian nhà. Hết đạn, ông cùng anh em dùng đoản dao, dao găm đánh giáp lá cà và đã hy sinh đến người cuối cùng.

   Giặc rút, nhân dân huyện Thọ Xương vô cùng thương tiếc ông và anh em quân sĩ, làm lễ an táng trọng thể. Nhân dân huyện Thọ Xương nhớ ơn ông đã hy sinh cả thân mình chỉ huy quân lính đánh giặc, nên lập ngôi miếu nhỏ thờ ông.

   Tự Đức có chỉ dụ truy tặng suất đội Đỗ Đăng Lâm (ông Cai Trí) chức Phó quản cơ vì đã chống cự quyết liệt cánh quân Pháp đánh chiếm thành huyện Thọ Xương, cùng lúc Henri Rivière hạ thành Hà Nội và hy sinh anh dũng.

   Giặc Pháp sợ uy danh của ông, sợ nơi đây trở thành một lễ đài ghi công tích những người hy sinh đánh Pháp, nên chúng cho bọn lưu manh đập phá miếu. Miếu bị phá, nhưng dân vẫn thắp hương trên nền ngôi miếu cũ vì nhân dân Hà Nội vẫn hướng về ông như hướng về quan Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, quan Tổng đốc Hoàng Diệu, ông Chưởng Cơ giữ cửa ô Thanh Hà (nay là ô Quan Chưởng) và biết bao liệt sĩ khác đã hy sinh bảo vệ thành Hà Nội.
NGUYỄN ĐỒNG

   Nguyễn Đồng, đỗ cử nhân võ, người ở phường Bích Câu, là người bộc trực nghĩa khí. Nguyễn Đồng khi đó tuổi đã ngoài 50, từ xưa tới nay vẫn nổi tiếng là bậc: "Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Ra đường thấy việc bất bình mà tha!”, đã khẳng khái nhận lời ủy thác của nhân dân đứng ra tổ chức nghĩa binh. Vốn là con nhà võ từng chỉ huy quân lính đánh trận, ông hiểu rõ, đánh thắng giặc chỉ có lòng dũng khí không chưa đủ mà còn phải là người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, phải có vũ khí, phải biết tiến lui. Vì vậy ông chọn trong số những người tình nguyện trẻ tuổi, có vũ khí mở lớp huấn luyện cấp tốc dạy thế tiến, lui, cách lợi dụng vật cản che khuất và vật cản tránh đạn.

   Cũng vào thời gian đó Henri Rivière ráo riết chuẩn bị đánh thành. Cử nhân Nguyễn Đồng tập hợp quân ở đình Quảng Văn (Nay khu vực đình Quảng Văn thuộc phường Cửa Nam, Hà Nội) rồi kéo quân đến cửa Nam thành Hà Nội xin Tổng đốc Hoàng Diệu điều động lực lượng nghĩa binh đi đánh giặc.

   Khi đó Tổng đốc Hoàng Diệu đã cho bịt kín các cửa thành, việc đi lại giữa trong và ngoài thành đều dùng thang dây. Tổng đốc thân lên mặt thành khen ngợi tinh thần chiến đấu xả thân vì nước của đạo dân binh đông tới nghìn người do cử nhân Nguyễn Đồng chỉ huy. Tổng đốc yêu cầu Nguyễn Đồng về chấn chỉnh đội ngũ, trang bị thêm vũ khí để khi quân Pháp tấn công thành  thì đem quân đánh tập hậu, gây rối loạn đội hình giặc, đồng thời ngả cây, dựng chướng ngại vật cản đường quân giặc.

   Tổng đốc cũng tặng đội dân binh một số súng để tăng thêm nhuệ khí cho dân binh. Nguyễn Đồng nhận lệnh của Tổng đốc đưa quân về các phố phường, chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu. Nhân dân Hà thành đem gạo, thịt ủng hộ đội dân binh. Các cụ già cũng đến các đình, chùa, đền miếu mượn chiêng, trống, mõ phân phát trong dân để khi giặc tấn công thì đánh lên để hư trương thanh thế.

   Cử Đồng cũng không quên chia quân chủ động tấn công vào số giáo dân quá khích nghe lời xúi giục của một số gián điệp đội lốt cố đạo tập hợp thành các toán vũ trang đi cướp bóc, đốt phá các phủ huyện, các khu phố sầm uất, cướp đoạt của cải của nhân dân.

   Ngày 20/4/1882, quân Pháp tấn công thành Hà Nội thì ông chỉ huy gần 1000 dân binh đánh vào sau lưng quân Pháp, tiêu diệt bọn giáo dân tay sai của giặc. Nhân dân gõ chiêng trống, mõ, thổi tù và trợ chiến cho quan quân trong thành. Nhân dân Hà Nội bên ngoài ô cửa Nam, cửa Bắc còn tự tay đốt các dẫy phố của mình tạo thành bức rào lửa ngăn cản giặc.

   Sự hỗ trợ của dân binh đã gây phấn khích cho quan quân trong thành và làm cho quân Pháp khiếp đảm. Vì chúng đi tới đâu cũng nghe thấy tiếng reo hò, tiếng chiêng trống, tiếng mõ, tiếng thanh la, Henri Rivière phải cho một đội quân quay trở lại bắn như đổ đạn vào lực lượng dân binh chỉ có giáo, mác, gậy gộc trong tay. Song Nguyễn Đồng vẫn lợi dụng được sự thông thạo địa hình và sự dũng cảm của dân binh áp sát chân thành để trợ chiến.

   Cuộc chiến của quân và dân trong và ngoài thành đang diễn ra quyết liệt thì kho thuốc súng trong thành bốc cháy. Quan quân hoảng sợ, một số vượt tường thành chạy ra ngoài. Dân binh do Nguyễn Đồng chỉ huy cũng nhanh chóng tan vỡ.

   Thành Hà Nội mất, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Nguyễn Đồng và nhiều dân binh tham gia vào các lực lượng chống Pháp khác đang diễn ra trên địa bàn Hà Nội, Sơn Tây.

DƯƠNG HỮU QUANG

   Trong trận quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai, ngày 22 háng 4 năm 1882 , Dương Hữu Quang người làng Sơn Lộ (tên tục là làng So), tổng Đông Cứu, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc xã Tân Hòa, huyện Quốc Oai, Hà Nội làm Tri huyện Thọ Xương, rồi Thương vụ quân sự Hà Nội. Khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, dưới sự chỉ huy của Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, ông chiến đấu tới khi thành bị vỡ mới thoát ra ngoài. Giữa năm 1883, Dương Hữu Quang được cử giữ chức Phòng binh tỉnh Sơn Tây, dưới quyền chỉ huy của Thống tướng Hoàng Kế Viêm (còn gọi là Hoàng Tá Viêm).

   Ngày 01/9/1883, tướng Bouet chỉ huy lực lượng quân viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ đích thân chỉ huy quân Pháp đánh thành Sơn Tây. Hoàng Kế Viêm kết hợp với quân Cờ Đen do tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đón đánh quân Pháp ở Cầu Phùng. Dương Hữu Quang được giao nhiệm vụ chỉ huy một cánh quân đánh tạt sườn phía sông Hồng. Trận đánh diễn ra ác liệt từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 9 năm 1883, quân Pháp đại bại phải tháo chạy. Tướng Bouet bị triệu hồi và bị cách chức.

   Sau chiến thắng ở Phùng, Dương Hữu Quang được lệnh của Thống tướng Hoàng Kế Viêm cùng các tướng tăng cường phòng thủ tỉnh Sơn Tây.

   Trận đánh diễn ra mười ngày, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, sau đó đại quân rút về Hưng Hóa. Dương Hữu Quang ở lại thu thập tàn quân, ông về ẩn náu ở chùa làng So, ông mượn áo tu hành để chiêu mộ quân đánh Pháp, vì thế nhân dân gọi ông là Tự So. Tại đây, Dương Hữu Quang thành lập hội Tín Nghĩa tập hợp những người yêu nước chống Pháp. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông thu thập được hơn 40 sĩ tốt là những người chiến đấu gan dạ ở thành Hà Nội, Cầu Phùng và thành Sơn Tây. Song quân ít, vũ khí chỉ mới có hơn một chục khẩu súng bắn nhanh, còn lại là gươm, giáo nên chưa xuất trận lần nào.

   Người gia nhập Hội Tín Nghĩa càng đông, chẳng bao lâu, đội nghĩa binh lên đến vài trăm. Dương Hữu Quang trút bỏ áo nhà chùa mặc lại quần áo nhà binh, huấn luyện quân sĩ.

   Đội quân của Dương Hữu Quang hoạt động mạnh ở nội thành Hà Nội và các huyện Từ Liêm, Quốc Oai, Đan Phượng, Tùng Thiện. Đội quân của ông trang bị kém xa quân Pháp, nhưng nhờ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, lại được nhân dân hết lòng ủng hộ, tiếp tế quân lương, thông tin các hoạt động của quân Pháp, tố cáo bọn Việt gian nên trận nào nghĩa quân cũng thắng.

   Vào một ngày giữa tháng 12 năm 1883, nghĩa quân được tin báo tên tuần phủ Ninh Bình gửi biếu tên công sứ Pháp ở Hà Nội một con voi. Dương Hữu Quang cho trinh sát đi nắm tình hình được biết bọn lính hộ tống voi sẽ đi qua trạm Hà Mai, xã Thanh Liệt, ông liền đặt quân mai phục đánh tan tác bọn hộ tống voi bắt được con voi.

   Năm 1885, nghĩa quân đột nhập vào nội thành đánh bọn lính Pháp đua thuyền trên hồ Hoàn Kiếm do giặc Pháp và tay sai tổ chức kỷ niệm 1 năm ký Hiệp ước 1884.

   Dương Hữu Quang chuyển địa bàn lên hoạt động ở tỉnh Sơn Tây. Thanh thế nghĩa quân ngày càng mạnh, thắng lợi tiêu biểu là trận Ngãi Cầu.

   Không đánh thắng được nghĩa quân Dương Hữu Quang trên chiến trường, giặc Pháp hèn hạ cho tên Quận Vùng vốn là bạn với Dương Hữu Quang, đã ra đầu hàng nhân làm tay sai cho giặc Pháp nhưng chưa lộ mặt. Hắn mời Dương Hữu Quang sang nhà hắn chơi rồi đặt quân mai phục ám hại. Dương Hữu Quang nhận được lời mời, ông định đi thì các tướng khuyên nên cảnh giác đem quân đi hộ tống. Dương Hữu Quang nói Quận Vùng là bạn bè đâu nỡ theo giặc hãm hại mình, nhưng vẫn nể các tướng đem theo 15 quân hộ vệ.

   Dương Hữu Quang đến nhà Quận Vùng, hôm đó là ngày 22 tháng 5 năm Quý Mùi (cuối tháng 6-1884), Quận Vùng hô phục binh đổ ra đánh. Mặc dù lực lượng ít, quân sĩ không đem vũ khí chỉ có đoản đao và dao găm lại bị bất ngờ, bị bao vây tứ phía, nhưng Dương Hữu Quang và các nghĩa binh đi hộ vệ đã kiên cường đánh trả bọn giặc, giết chết hơn ba mươi tên, nhưng nghĩa quân cũng hy sinh mất tám người. Dương Hữu Quang và các nghĩa quân còn lại cũng đều bị trọng thương. Tuy vậy anh em vẫn vừa đánh vừa phá vòng vây. Trên đường rút quân Quận Vùng cho quân đuổi theo, mặc dù thương tích đầy mình, anh em vẫn đánh trả, giết hơn một chục tên lính nữa. Khi họ đưa được chủ tướng về đại bản doanh thì ông đã mê man bất tỉnh.

   Tang lễ Thủ lĩnh nghĩa quân Dương Hữu Quang được tổ chức rất trọng thể.
LÃNH CỒ

   Lãnh Cồ còn gọi là Quận Cồ, tên chính là Phùng Văn Minh, người thôn Thanh Chiểu, xã Sen Chiểu, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Hà Tây.

   Căm thù giặc Pháp và vua quan triều đình Huế, phong trào khởi nghĩa nổ ra ở khắp nơi. Phùng Văn Minh cũng giương cao cờ nghĩa chống Pháp. Vì nhà nghèo, lại không phải là người xuất thân khoa bảng, nên ông khởi nghĩa với hai bàn tay trắng. Nhưng do lòng yêu nước thiết tha và chí căm thù giặc sâu sắc, kiên quyết chiến đấu, nên dân nghèo gia nhập rất đông.

   Phùng Văn Minh lập căn cứ chống Pháp ở vùng rừng núi huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Để thu hút đông đảo nhân dân tham gia kháng chiến ông đã thành lập các đội tuyên truyền đi khắp nơi dịch loa tố cáo tội ác của giặc Pháp xâm lược nước ta và triều đình nhà Nguyễn đầu hàng giặc.

   Nghĩa quân và nhân dân phong ông là Lãnh Cồ, còn giặc lại gọi ông là Quận Cồ. Lãnh Cồ đã phát Hịch chống Pháp, thường gọi là Hịch Lãnh Cồ. Nhân dân theo lời phát động của ông đã hăng hái tham gia rất đông.

   Sau đây chúng tôi đăng nguyên văn:

         HỊCH LÃNH CỒ

      Tỉnh thành thất thủ, lệnh rút lui thực đã đắng cay;
      Quân thứ triệt phòng, chiếu ban xuống càng thêm chua chát.
      Như tằm ăn lá, gớm mưu quân Phú Lãng Sa
      Là giòi trong xương, mạt kiếp thằng Lương Văn Đạt
      Nên nỗi:
      Tình thế gian nguy;
      Cơ đồ tan nát,
      Cũng vì triều đình nhu nhược, tham sinh nên đã đầu hàng;
      Để cho quân giặc tung hoành, thừa thế ra tay tàn sát!

      Nhưng chúng ta
      Ở nước phải lo giữ nước, không nên giương mắt ngồi nhìn.
      Có thân thì quyết hiến thân, đâu nỡ co vòi chịu nhát.
      Có người có ta,
      Còn nước còn tát,
      Đọc chiếu Bình Ngô
      Noi gương Sát Thát
      Góp gió làm bão, đấu gạo, đồng tiền
      Chụm cây lên rừng, gậy tầy giáo vạt,
      Chí đã quyết sống còn với địch, chớ lo châu châu đá voi,
      Việc phải tin thành bại ở người, há sợ dã tràng xe cát.
      Nhớ những trận Cổ Đằng, Vân Mộng, chị ngã em nâng
      Ôn những lời Tòng Lệnh, Đông Viên con khen mẹ hát,
      Giữ dân làm gốc, chớ mong đục nước béo cò.
      Nuôi sức đợi thời, đừng có tham miếng bỏ bát,
      Những kẻ hại nòi, hại nước, xác xẻ thây vằm,
      Cùng ai đồng chí, đồng cừu, vai kề cánh sát.
      Vết xe cũ lìa đàn bên bị diệt, Đốc Khoát, Đề Công
      Tấm gương soi hợp lực dễ thành công, rừng Thông, Cầu Giáp
      Mấy lòng thiết tha
      Tỏ lòng khao khát.


(Tập san Văn Sử Địa số 35 tháng 12 năm 1957)

(- Phú Lãng Sa: Phiên âm Hán - Việt tiếng Francaice ( Pháp )
- Lương Văn Đạt : Tên Việt gian đã lẻn vào thành Sơn Tây cắm cờ tam tài trên cột cờ
- Cổ Đằng, Vân Mộng : Những địa điểm chiến đấu của nghĩa quân hồi đó.
- Tòng Lệnh, Đông Viên : Địa bàn hoạt động của nghĩa quân nay thuộc huyện
Ba Vì, Hà Tây.
- Đốc Khoát , Đề Công: Các thủ lĩnh nghĩa quân hồi ấy đã bị thất bại.
- rừng Thông, Cầu Giáp : Địa điểm chiến đầu của nghĩa quân).

   Nghĩa quân Lãnh Cồ lập được nhiều chiến công oanh liệt. Ông bị giặc Pháp bắt ba lần, cả ba lần ông đều vượt ngục trở về chiến đấu. Ông duy trì cuộc chiến đấu gần bẩy năm. Giặc Pháp gài tên Bình, tay sai của chúng vào hàng ngũ nghĩa quân. Trong trận chiến đấu ở làng Vật Lại ngày 13/6/1889, tên Bình bắn trộm vào sau lưng ông. Ông hy sinh ngay hôm đó. Nhưng trong truyền thuyết dân gian kể: "Trong một trận chiến đấu đẫm máu ở vùng thuộc xã Tiền Phong, tỉnh Sơn Tây, ông bị quân giặc chém gần đứt cổ. Ông giữ cổ cưỡi ngựa chạy đến một quán nước hỏi bà già: "Đầu tôi như thế này liệu sống hay chết?”. Bà hàng nước lắc đầu: "Đầu ông thế này thì chết!”. Thế là đầu Lãnh Cồ tự nhiên rơi xuống đất và ông hoá tại đó. Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng, chôn cất tử tế, lập miếu thờ cúng.

LÊ VĂN THỨ

   Lê Văn Thứ còn có tên là Lê Văn Cúc, quê quán xã Tân An, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nay là phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

   Ông vốn là một võ tướng thủy quân từ đời vua Thiệu Trị, Quản bát đội suất vệ. Đến đời Tự Đức ông từng chỉ huy thủy quân đánh dẹp giặc biển ở vùng biển Đông bắc.

   Từ năm 1858 đến 1873, đất Bắc Hà thường bị quân của Thái bình thiên quốc, Thiên địa hội của miền Hoa Nam chạy sang quấy nhiễu. Ông tham gia nhiều trận đánh dẹp, lập được nhiều chiến công, được phong lần lượt các chức Phó quản cơ rồi Quản cơ hàm Tứ phẩm.

   Trước nguy cơ quân Pháp đánh Bắc Hà lần thứ 2, vua Tự Đức cử Thượng thư bộ binh Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà - Ninh để phòng thủ Hà Nội. Hoàng Diệu biết rõ tài cầm quân của Lê Văn Thứ liền xin vua Tự Đức cho về thành Hà Nội trợ giúp. Ông được triều đình thăng Quyền kinh Hà Nội thủy sư, thăng thự Cấm binh trấn thành Hà Nội.

   Ông đã cùng binh lính chiến đấu rất hăng hái và lập được nhiều chiến công song do thế giặc quá mạnh, quân giặc ào ạt tràn vào từ cửa Nam, đánh vào sau lưng nên quân ta bị núng thế. Ông hy sinh ngay trên mặt thành Cửa Bắc, tay vẫn nắm chắc thanh gươm đẫm máu giặc.

   Tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, Lê Văn Thứ hy sinh báo về kinh đô, vua Tự Đức vô cùng thương tiếc cấp tiền bạc lo tang lễ. Ông được vua Tự Đức ân sủng sai quân lính đưa quan tài về quê an táng. Tự Đức còn ban tặng một chiếc ngai vàng chạm rồng để thờ ông. Mộ ông hiện ở khối Tân An, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Thành phố Đà Nẵng hiện còn có phố mang tên ông.
HỒ BÁ ÔN

   Hồ Bá Ôn tự là Công Thúc, hiệu Tùng Viên, sinh năm Giáp Dần (1854) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, ông là người thông minh, khảng khái.

   Ông thi Hương khoa Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870), tại Nghệ An, đỗ cử nhân năm 27 tuổi. Ông đỗ Ất khoa kỳ thi Hội năm Tự Đức thứ 28 (1875) ở tuổi 22. Ông làm đến chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, sung Biên tu Nội các rồi Tri huyện Hương Thủy. Năm 1877 thăng hàm trước tác, lĩnh chức Thừa chỉ Nội các rồi chuyển làm Thị độc. Năm Tự Đức thứ 34 (1881), lĩnh chức Án sát Nam Định.

   Ngày 25 tháng 4 năm 1882 quân Pháp hạ thành Hà Nội, các quan tỉnh Nam Định đã hội nghị nhận định sớm muộn quân Pháp cũng đánh chiếm tỉnh thành Nam Định và các tỉnh thành khác ở Bắc Kỳ, và lần này chúng sẽ chiếm đóng vĩnh viễn chứ không trao trả như lần trước. Vì vậy các quan tỉnh mà hăng hái nhất là Án sát Hò Bá Ôn, Đề đốc Lê Văn Điếm đã tích cực chuẩn bị mọi mặt để đối phó với giặc Pháp. Các quan tỉnh đã bất chấp lệnh của triều đình Huế lệnh cho các quân thứ Bắc - Trung Kỳ phải bãi bỏ các hoạt động chống Pháp. Án sát Hồ Bá Ôn cùng các quan tỉnh điều động quân ở các đồn về phòng thủ thành Nam Định.

   Ngày 24/2/1883, giặc Pháp đánh chiếm thành Nam Định. Trước hành động xâm lược của giặc, quan quân trong thành và nhân dân các phố phường khẩn trương chuẩn bị tiếp chiến.

   Sáng ngày 25/3/1883, Henri Rivière gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Vũ Trọng Bình bắt phải nộp thành ngay sau khi nhận được tối hậu thư của giặc, Vũ Trọng Bình đã triệu tập các quan họp đột xuất. Cũng giống như ở triều đình Huế, quan lại chia làm hai phe chủ hòa và chủ chiến. Giữa lúc căng thẳng đó thì các quan nhận được tin Nguyễn Hữu Bản, con trai Án sát Nguyễn Mậu Kiến và Nguyễn Thành Thà đều đưa lực lượng nghĩa quân đến xin hợp tác cùng quan quân giữ thành. Tổng đốc Vũ Trọng Bình còn do dự thì Án sát Hồ Bá Ôn đã ra lệnh mở cửa thành đón hai đoàn nghĩa quân vào. Nguyễn Hữu Bản và Nguyễn Thành Thà vào thành đã làm cho lực lượng phía chủ chiến thắng thế. Hội nghị quyết định bác bỏ tối hậu thư của Henri Rivière. Tuy vậy khi Vũ Trọng Bình trả lời Henri Rivière vẫn giữ ý tứ mềm mỏng: "Thành do vua ủy thác, không thể giao nộp được!”.

   Sáng ngày 25/3/1883, quân Pháp định tấn công thành, nhưng sương mù, không nhìn rõ mọi vật, nên không tấn công được. Chúng cho lính đi trinh sát và tổ chức phá hủy 3 khẩu đại bác ở cổng thành phía Nam, rồi cho quân đổ bộ tấn công. Cửa Đông là nơi quân Pháp tập trung xung lực và hỏa lực tấn công ác liệt nhất. Biết rõ cổng thành phía Đông là mục tiêu đánh phá chủ yếu của giặc, Tổng đốc Vũ Trọng Bình thương ủy cho Án sát Hồ Bá Ôn cùng Đề đốc Lê Văn Điếm trấn giữ. Cùng giữ cổng này với hai ông còn có Nguyễn Hữu Bản chỉ huy dân binh. Các ông chiến đấu dũng cảm, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc, giết chết nhiều tên. Đến chiều tối chúng phải tháo chạy xuống tầu chiến.

   Ngay sau khi giặc tháo chạy, Hồ Bá Ôn cùng các tướng chỉ huy quân và dân củng cố thành, bịt hẳn ba cổng bằng các bao đất đá chỉ để lại cửa Tây.

   Bảy giờ sáng ngày 27/3/1883, quân Pháp bắn đại bác gắn dưới tầu cấp tập vào thành, mục tiêu đánh phá chính của chúng vẫn là Cửa Đông - Song dưới sự chỉ huy của án sát Hồ Bá Ôn và Đề đốc Lê Văn Điếm lệnh cho hàng trăm khẩu pháo nã đạn vào tầu giặc... Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra gay go quyết liệt thì Tổng đốc Vũ Trọng Bình, Án sát Đồng Sỹ Vịnh bỏ thành chạy, Hồ Bá Ôn cùng cha con Nguyễn Thành Thà vẫn dũng cảm chỉ huy quân sĩ. Hồ Bá Ôn trúng đạn bị thương, ông vội buộc vết thương, tiếp tục chỉ huy quân sĩ đánh giặc. Ông lại bị trúng đạn lần thứ hai, ngã lăn ra đất. Khi quân sĩ đưa Nguyễn Thành Thà cũng bị thương ra khỏi thành, Hồ Bá Ôn không khỏi đau xót vì khó mà giữ được thành. Ông bị ngất lịm, quân sĩ khiêng ra ngoài. Khi tỉnh dậy ông biết là thành đã bị lọt vào tay quân Pháp, khí uất xung lên, bệnh càng trầm trọng. Quân sĩ đưa ông xuống thuyền, theo đường biển về quê ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An phục thuốc. Việc tâu lên, vua ban cho 30 lạng bạc để chữa thuốc. Song vì vết thương quá nặng mới được một tháng thì mất. Năm ấy ông mới 41 tuổi. Vua được tin nói: "Không tránh cái chết mà mất theo thành hơn kẻ tránh cái chết xa lắm”. Rồi chuẩn cho đặc cách truy tặng Quang lộc Tự khanh và chiếu theo hàm mới mà cấp tiền tuất để khuyến khích những người khi lâm sự hết lòng tiết tháo.

NGUYỄN DOÃN CỬ

   Nguyễn Doãn Cử, hiệu Bằng Phi sinh ngày 9 tháng 7 năm Tân Tỵ (1821), quê ở thôn Dũng Nghĩa, gần chùa Keo, nay thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

   Nguyễn Doãn Cử là người phóng khoáng không chịu gò mình trong khuôn phép sách vở, nên đi thi mấy năm liền không đỗ. Mãi đến khoa thi năm Giáp Tý (1864) khi ông đã 43 tuổi mới đỗ cử nhân. Triều đình bổ ông làm Huấn đạo huyện Thanh Ba, tỉnh Hưng Hóa. Ba năm sau thăng tri huyện Lập Thạch, Tri huyện Hải Lăng. Năm 1874, Nguyễn Doãn Cử được triều đình bổ nhiệm làm Tuần phủ Sơn - Hưng - Tuyên cùng các quan văn võ triều đình cử lên lo việc phòng thủ. Nguyễn Doãn Cử đã cùng các tướng tiễu phỉ, củng cố thành lũy, trang bị vũ khí mới, khai khẩn đồn điền, ổn định đời sống nhân dân và duy trì phép nước nghiêm minh.

   Tháng giêng năm Tự Đức thứ 32 (1879), ông được triệu về triều làm giảng quan phủ Tôn nhân, thăng Hàn lâm viện Thị giảng, sung chức Biên tu Quốc sử quán. Bất chấp trước việc triều đình đầu hàng giặc Pháp, năm Tân Tỵ (1881), ông 60 tuổi, mượn cớ sức khỏe kém xin hưu trí.

   Đầu năm Quý Mùi (1883), Tổng đốc Vũ Trọng Bình làm sớ tâu với Tự Đức để Nguyễn Doãn Cử và Nguyễn Hữu Bản đưa hương binh vào giữ thành Nam Định. Sáng ngày 27/3/1883, quân Pháp từ tầu chiến bắn đại bác dồn dập vào thành. Quân ta kiên cường chiến đấu. Đề đốc Lê Văn Điếm hy sinh, Án sát Hồ Bá Ôn bị trọng thương đưa về quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An 2 tháng thì chết. Nguyễn Doãn Cử, Nguyễn Hữu Bản giữ cửa Đông là cửa quân Pháp tấn công ác liệt nhất. Quân Pháp bắn đạn đại bác sập cổng thành, đè lên người Nguyễn Hữu Bản, ông hy sinh. Nguyễn Doãn Cử động viên quân sĩ quyết tâm tiêu diệt thật nhiều quân Pháp trả thù cho chủ tướng. Tổng đốc Vũ Trọng Bình bỏ thành chạy, nhưng trước đó còn cho người tới Cửa Đông gọi ông về dinh để tránh nguy hiểm cho ông. Nguyễn Doãn Cử khảng khái trả lời: "Người về thưa với quan Tổng đốc rằng ta không thể rời bỏ nơi này và các nghĩa sĩ của ta. Xin đa tạ”.

   Đến trưa ngày 27/3/1883 thành vỡ, Nguyễn Doãn Cử cùng quân triều đình rút qua cửa Tây, giao quyền chỉ huy cho Bang Úc. Bang Úc phá vây rút về Thái Bình giữ phòng tuyến sông Hồng. Nguyễn Doãn Cử bị ốm phải nghỉ dưỡng bệnh, cử con trai là Nguyễn Doãn Chí cùng Bang Úc giữ tuyến phòng thủ sông Hồng.

   Sau khi thành Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Phủ Lý thất thủ, vua Tự Đức chết, Nguyễn Doãn Cử sống trong tâm trạng đau buồn.

   Năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn tấn công tòa Khâm sứ Pháp, đồn binh Pháp ở Mang Cá thất bại, liền hộ giá vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương. Nguyễn Doãn Cử khi đó đã 64 tuổi, bị ốm yếu, nhận được tin trên, ông phấn khởi, bật khỏi giường, lệnh gọi con trai cả là Nguyễn Doãn Chí đến bảo: "Mệnh thày chưa hết, thày sẽ khỏe để cùng mọi người cứu dân, cứu nước theo chiếu Cần vương. Thày rất mừng vì học trò của thày là Ưng Lịch - Vua Hàm Nghi đã thoát khỏi sự khống chế của phái chủ hòa, giương cao ngọn cờ cứu nước”.

   Nguyễn Doãn Cử qua đời ngày 12 tháng 2 năm Canh Dần (1890). Nguyễn Doãn Cử được phụ tế vào bậc tiền hiền trong văn chỉ hàng xã, văn từ hàng huyện và được nhiều gia đình ở Giao Thủy, Thư Trì, Vũ Tiên thờ phụng. Có người đã nói: "Ông sống nghiệp văn, chết được đưa tiễn bằng văn và lưu danh sử sách”.
NGUYỄN QUANG BÍCH

   Nguyễn Quang Bích nguyên họ Ngô, tự Hàm Huy, hiệu Ngư Phong, sinh giờ Thìn ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Thìn (7/5/1832). Ông người làng Trình Phố, huyện Chân Định, sau đổi là Trực Định, phủ Kiến Xương, nay là huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông thông minh, học giỏi, nhưng mãi đến năm 27 tuổi mới thi đỗ tú tài. Năm Tân Dậu (1861), đỗ cử nhân, được bổ làm giáo thụ phủ Trường Khánh (Ninh Bình). Được hơn một năm, cha mất, ông ở nhà cư tang, dạy học. Khoa thi Mậu Thân (1868) ông thi Hội hỏng. Khoa thi Hội năm Kỷ Tỵ Tự Đức 22 (1869) nhân có khoa ân thi, ông thi đỗ Nhị giáp tiến sĩ Đình nguyên, lúc đó ông 38 tuổi. Ông được triều đình bổ nhiệm làm Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa), sau thăng Tri phủ Lâm Thao (Phú Thọ). Vùng này trước đây mất an ninh, từ ngày ông về nhận chức thực hiện nhiều cải cách, thưởng người có công, trị kẻ có tội nghiêm minh, nên toàn huyện yên ổn, không có trộm cướp. Vì có tài trị an, ông được thăng Án sát Sơn Tây. Ông làm quan thanh liêm, thường trị quan lại nhũng nhiễu dân, được dân cư mến mộ. Giặc Pháp xâm lược, ông liên lạc với Lưu Vĩnh Phúc, tiến cử Lưu với triều đình làm "Bảo hưng phòng ngự sứ”. Lưu Vĩnh Phúc kính trọng ông vào bậc thầy.

   Sau đó ông được gọi về triều làm Tế tửu Quốc tử giám. Năm 1873, vua Tự Đức giao cho ông duyệt bộ Việt sử thông giám cương mục. Sau đó ông được bổ làm án sát Bình Định. Khi triều đình lập ban Doanh điền ở Hưng Hóa, Tự Đức cử ông làm Chánh sứ Sơn phòng Hưng Hóa. Năm Bính Tý (1876), ông được hàm Tuần phủ Hưng Hóa. Ông luôn luôn chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Nhân dân gọi ông là Hoạt Phật (Phật sống). Trong thời gian ông giữ chức Tuần phủ Hưng Hóa, giặc Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ 2 (25/4/1882), Nguyễn Quang Bích đã báo cáo ngay về triều đình dư luận Bắc Kỳ lo ngại vì quân Thanh kéo sang ngày càng đông. Nhưng Tự Đức không
nghe mà còn trách ông: "Đem lòng tiểu nhân để đo bụng người quân tử, lẽ nào người Thanh lại làm các cử động vô nghĩa ấy”.

   Từ ngày 1 đến ngày 3/9/1883, quân Pháp tiến đánh Sơn Tây, thành Sơn Tây thất thủ, Hoàng Kế Viêm rút về thành Hưng Hóa, có cả quân Lưu Vĩnh Phúc, quân Thanh ở Vân Nam, Quý Châu đóng giữ. Nguyễn Quang Bích khi đó là Tuần phủ kiêm trấn thủ Hưng Hóa đưa quân của Bố chánh Nguyễn Văn Giáp từ Lâm Thao sang hợp lực.

   Đến tháng 3/1884 hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ đều lọt vào tay quân Pháp chỉ còn thành Hưng Hóa. Thành Hưng Hóa trở thành tỉnh lỵ của Tam Tuyên (Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang) án ngữ đường thủy sông Thao, đường bộ đi Hòa Bình, Nghĩa Lộ. Trong thành có quân triều đình do Thống tướng Hoàng Kế Viêm chỉ huy; quân Tam Tuyên do Nguyễn Quang Bích chỉ huy, quân Thanh do Sầu Dục Anh, chỉ huy quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đóng.

   Ngày 12/4/1884, thiếu tướng Négrier chỉ huy vượt sông Đà ở quãng Hạ Bì - La Thượng (nay thuộc xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Lúc đó lực lượng quân đội triều đình có quân chủ lực của triều đình do Hoàng Kế Viêm chỉ huy; quân đội địa phương do Nguyễn Quang Bích chỉ huy; hai đạo quân của nhà Thanh do Sầm Dục Anh, Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy. Song do triều đình nhà Nguyễn đầu hàng nên Hoàng Kế Viêm rút quân vào Thanh Sơn, quân nhà Thanh rút khỏi Hưng Hóa, trong thành chỉ còn lực lượng do Nguyễn Quang Bích chỉ huy. Quân Pháp tấn công, thành Hưng Hóa thất thủ, Nguyễn Quang Bích rút quân về Tiên Động xây dựng căn cứ kháng chiến. Tiên Động là vùng hiểm trở có thể rút vào Yên Lập, triển khai xuống Cẩm Khê, lên Hạ Hòa, sang Thanh Ba được. Ông được vua Hàm Nghi phong Lễ bộ Thượng thư, sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần Trung hầu. Cho phép ông được quyền lựa chọn, cất nhắc quan văn từ Tham tán, quan võ từ Đề đốc trở xuống được quyền tùy nghi tuyển dụng. Nghĩa quân Nguyễn Quang Bích ở căn cứ Tiên Động phải chống chọi với nhiều cuộc tấn công của quân Pháp, có tháng nghĩa quân phải đánh trả tới 15 cuộc tấn công.

   Giặc Pháp và tay sai không đánh thắng ông được trên mặt trận quân sự đã cho ngụy bố chính Hưng Hóa là Bùi Quang Thích và ngụy tri phủ Lâm Thao là Nguyễn Khắc Hợp lần lượt đến dụ hàng, nếu chịu giải quân ra làm quan, trở về làng sẽ được cấp hậu bổng. Sau đó thực dân Pháp lại cho bọn tay sai đầu sỏ viết thư dụ dỗ ông ra hàng sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Ông viết thư trả lời với giọng đanh thép: "... Nếu mà thắng mà sống thì là nghĩa sĩ của triều đình, nhưng chẳng may mà thua, mà chết thì cũng là quỷ thiêng giết giặc”.

   Giặc Pháp bắt mẹ ông bỏ tù, ông vẫn kiên quyết ở lại kháng chiến.Không đánh được Nguyễn Quang Bích bằng vũ lực, giặc Pháp cho tên bố chính Hưng Hóa Bùi Quang Tín, tri phủ Lâm Thao Nguyễn Khắc Hợp đến dụ dỗ bị Nguyễn Quang Bích cự tuyệt

   Tháng 11/1887, quân Pháp bất ngờ ập đến đánh, ông và Nguyễn Văn Giáp phải đi lánh mỗi người một nơi. Tháng 3 năm Mậu Tý (4/1888) quân Pháp huy động lực lượng lớn, dùng chiến thuật giương đông, kích tây. Một mặt chúng cho 40-50 quân kéo đến đánh đồn bên Tả để thu hút lực lượng nghĩa quân. Mặt khác quân Pháp bắt người địa phương dẫn đường cho toàn bộ quân Pháp xuyên qua đèo Lao Khê, Nha Sơn tấn công vào phía sau đồn Đèo Ách - nơi Nguyễn Quang Bích và bộ tham mưu đóng và chiếm được đồn Đèo Ách.

   Trước sự tấn công ác liệt của địch, Nguyễn Quang Bích và các tướng phải tránh vào các động Mèo rồi rút quân về thủ hiểm ở châu Phù Sa (tức huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ). Khi giặc rút, Nguyễn Quang Bích trở về căn cứ.

   Quân thứ nghĩa quân phải di chuyển luôn tháng 5/1888 (tháng 4 năm Mậu Tý) ông phải rút về Sơn Động. Để tránh các cuộc càn quét của quân Pháp, tháng 8/1888 phải dời đến châu Yên Lập. Tại đây Nguyễn Quang Bích đánh nhiều trận lớn, Đề Thành, Đề Mạc là những viên tướng đánh nhiều trận tập kích xuất sắc Trong hơn 1 năm, nghĩa quân đánh thắng quân Pháp nhiều trận, song sức khỏe của Nguyễn Quang Bích ngày càng sa sút.

   Tháng 9/1889 ông thấy bệnh tình của mình ngày càng trầm trọng, khó lòng qua khỏi, ông dặn con cháu đi theo phục dịch việc quân: “Ta đã đem thân hứa quốc, không cần người đi lại thăm nom vô ích; sau này, nếu có nhớ đến ta, cứ lấy ngày thành Hưng Hóa thắt hãm làm ngày giỗ ta”.

   Nguyễn Quang Bích đòi Pháp trả lại thành, đặt lại vua Hàm Nghi thì mới có hòa hảo được.

   Trong những năm kháng chiến, ông đã cùng nghĩa quân làm thất điên bát đảo quân giặc. Do tuổi cao, hành quân, chiến đấu liên tục, ăn uống kham khổ, sống trong vùng nước độc, sơn lam chướng khí, nên ông bị đau yếu liên miên. Tuy vậy ông vẫn gắng gượng cùng các tướng chỉ huy nghĩa quân chống các cuộc tấn công của giặc bảo vệ căn cứ. Tháng 11/1889, ông truyền lệnh cho các tướng lĩnh và các quân thứ phải chuẩn bị đầy đủ vũ khí, lương thực cho cuộc tấn công lớn vào năm sau. Không ngờ ngày 15 tháng chạp năm Canh Dần (1/1890), ông đột nhiên chuyển bệnh nặng rồi mất tại đại bản doanh nghĩa quân ở núi Tôn Sơn, khi mới 54 tuổi.

NGUYỄN VĂN GIÁP

   Nguyễn Văn Giáp người làng Tả Thanh Oai nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông đỗ cử nhân được cử giữ chức Bố chính Sơn Tây nên gọi là Bố Giáp. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ thành Sơn Tây có sự chỉ huy dũng cảm, mưu trí của Bố chính Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp.

   Tháng 8/1885 Nguyễn Quang Bích thừa lệnh vua Hàm Nghi đi sứ Trung Quốc cầu viện thì Nguyễn Văn Giáp trực tiếp nắm quyền chỉ huy tối cao phong trào chống Pháp ở các tỉnh trung du Bắc Kỳ. Nguyễn Văn Giáp xây dựng căn cứ ở Thanh Mai từ đó hoạt động mạnh ở lưu vực sông Lô, sông Thao trên đường từ Việt Trì đi Thanh Ba lên tận Nghĩa Lộ. Một vinh dự cho Bố chính Nguyễn Văn Giáp cũng như lực lượng kháng chiến vùng sông Thao, sông Lô là ngày 10 tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi thăng Bố chính Nguyễn Văn Giáp chức Tuần phủ Sơn Tây, sung Tham tán Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ.

   Giặc Pháp đã mở nhiều cuộc càn quét lớn để diệt nghĩa quân song không thực hiện được. Vì vậy, trong các căn cứ quân sự của các thủ lĩnh nghĩa quân ở hai tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên giặc Pháp coi cứ điểm quân sự Thanh Mai của Nguyễn Văn Giáp là nguy hiểm số 1. Nhằm tiêu diệt cứ điểm quan trọng này bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ điều động trên 6000 quân, có đại bác, tầu chiến, công binh yểm trợ tới mức tối đa do tên tướng Giame chỉ huy tiến đánh Thanh Mai. Quân Pháp chia làm ba mũi tiến quân.

   Nghĩa quân Nguyễn Văn Giáp chặn đánh giặc từ xa. Đạo quân thứ ba của quân Pháp khi đến Thạch Sơn, đã bị đội quân tiền tiêu do Tán Dật chỉ huy đánh trả dữ dội. Đạo quân thứ nhất và thứ hai cũng bị nghĩa quân chặn đánh ghìm chúng tại chỗ. Vì thế mà chúng tiến quân từ sáng 23/10/1885 nhưng mãi đến ngày 25/10/1885 chúng mới vào được Thanh Mai. Đến đâu chúng cũng bị đánh, nhiều tên bỏ mạng tại vùng phụ cận Thanh Mai, trong đó có tên quan ba pháo binh Piétri Camille, chúng không đem xác đi được phải chôn tại chỗ.

   Khi quân Pháp lọt được vào Thanh Mai, thì nghĩa quân lợi dụng đêm tối dùng thuyền nhẹ bơi qua đồng nước rút khỏi các vị trí chiến đấu. Những nghĩa quân hy sinh được chôn cất, người bị thương được đem đi theo cùng toàn bộ vũ khí.

   Rút khỏi Thanh Mai, nghĩa quân phân tán làm hai lực lượng: Nguyễn Văn Giáp sang Tiên Động hợp lực với Nguyễn Quang Bích; Tán Dật ngược sông Hồng lên xây dựng căn cứ mới ở Lang Sơn, Phi Đình, huyện Hạ Hòa.

   Sau khi tới căn cứ Tiên Động, Nguyễn Văn Giáp nhiều lần đưa quân đi đánh Cẩm Khê, đánh các đồn lẻ của quân Pháp dọc sông Hồng. Nguyễn Văn Giáp cùng các tướng bảo vệ vững chắc căn cứ Tiên Động. Tên đại úy Lơ Bicô (Le Bico) nhiều lần đem quân tấn công Tiên Động đều bị nghĩa quân đánh cho đại bại.

   Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp nhận định Tiên Động có địa hình hiểm trở, thuận tiện cho công tác phòng thủ, nhưng quá chật hẹp, khó phát triển và liên hệ với các nơi, nên hai ông chủ động rút về xây dựng căn cứ mới ở Nghĩa Lộ để tác chiến lâu dài. Biết rõ thế nào quân Pháp cũng đuổi theo, ông cử Nguyễn Văn Giáp đi sau chặn giặc. Song quân Pháp được tăng viện, truy kích, Nguyễn Văn Giáp phải đưa quân rút lên Sa Pa, rồi chuyển sang hoạt động ở Lai Châu.

   Tháng 7/1887, Nguyễn Văn Giáp vào tận Nghệ An phát động đồng bào các dân tộc ở miền Tây nổi dậy chống Pháp.

   Tháng 10/1887 ông trở lại Nghĩa Lộ hoạt động quân sự ở Nghĩa Lộ, Yên Bái, lưu vực sông Đà. Hàm Nghi năm thứ 3, tháng 10 (11/1887) Nguyễn Văn Giáp hy sinh tại căn cứ.
ĐỐC NGỮ

   Đốc Ngữ tên thật là Nguyễn Đình Ngữ, sinh năm 1850, quê ở làng Xuân Vân, tổng Xuân Trù, nay thuộc xã Xuân Phú, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Ông đi lính, sau giữ chức cai đội trong quân đội của Thống tướng Hoàng Kế Viêm đóng ở thành Sơn Tây. Ông tiễu phỉ lập được nhiều công lao, được phong là Đốc binh. Từ năm 1880, Đốc Ngữ chỉ huy một đội quân đóng ở thành Sơn Tây. Ông tham gia đánh trận Cầu Giấy lần thứ 2, ngày 19/5/1883 giết chết Henri Rivière.

   Sau Hiệp ước Harmand, Hoàng Kế Viêm theo lệnh triều đình rút quân về Huế, Đốc Ngữ ở lại cùng Bố chính Nguyễn Văn Giáp giữ thành Sơn Tây. Khi quân Pháp bại trận ở Phùng, Bố Giáp giao cho ông bảo vệ chiến lũy Phù Sa, tiền đồn của thành Sơn Tây. Sau khi chiếm Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh... thì một mục tiêu quan trọng cần phải đánh chiếm của quân Pháp là đánh chiếm thành Sơn Tây. So sánh lực lượng lúc đó thì quân Việt trong thành Sơn Tây có 25.000 người (kể cả quân Cờ Đen). Quân Pháp ở Bắc Kỳ khi đó có 8.000 quân, không kể thủy binh trên một số pháo hạm do Thiếu tướng Hải luân Cuốcbê (Courbet) chỉ huy.

   Phán đoán quân Pháp tiến đánh Sơn Tây (cách sông Hồng 1000 mét). Quân Việt bố trí phòng thủ ở Phù Sa (thuộc huyện Phú Lộc, phủ Quảng Oai, Sơn Tây). Chỉ huy đồn Phù Sa là Đốc Ngữ.

   Bẩy giờ sáng ngày 14 tháng 12 năm 1883, pháo binh Pháp bắn dữ dội vào thành Phù Sa, rồi tấn công Phù Sa bằng hai mũi. 11 giờ quân Pháp chiếm được xóm Chiêu thuộc Phù Sa, 13 giờ chúng đến cách chân thành Phù Sa 500 mét, chúng bắn pháo dữ dội vào khu vực đặt thần công của quân Việt. 14 giờ Hoàng Kế Viêm phái một cánh quân từ thành Sơn Tây đánh tạt sườn quân Pháp, nhưng không đẩy lùi được chúng. 16 giờ quân Pháp nổi kèn xung phong, Đốc Ngữ thân chỉ huy quân thành Phù Sa kháng cự mãnh liệt đẩy lùi nhiều đợt xung phong của giặc. Chỉ trong ngày 14 quân đồn Phù Sa đánh thương vong 250 quân Pháp, trong đó có 13 sĩ quan. Đêm 14 rạng ngày 15 Đốc Ngữ nhiều lần tấn công vào các vị trí đóng quân của quân Pháp, song không đẩy lùi được chúng. Sáng ngày 15 thấy không thể đánh lui được quân Pháp, Đốc Ngữ được lệnh rút về thành Sơn Tây.

   Rạng sáng ngày 15/12, Cuốcbê cho quân nghi binh ở cửa Bắc rồi tấn công cửa Tây. Chúng còn cách cửa Tây khoảng 300 mét thì bị quân trong thành bắn ra dữ dội, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề. Nhưng đến 17 giờ 45 phút quân Pháp phá được cổng thành cửa Tây, tràn vào thành. Cuộc chiến đấu giáp lá cà diễn ra suốt đêm.

   Tảng sáng ngày 17/2, quân Việt đốt hết kho lương thực, súng đạn rồi rút về phía Bắc thành Sơn Tây. Kết thúc chiến dịch, quân Pháp chết và bị thương khoảng 350 tên, trong đó có 22 sĩ quan, phía quân Việt chết khoảng 2.000.

   Thành Sơn Tây bị quân Pháp chiếm. Năm 1887, thủ lĩnh Nguyễn Văn Giáp hy sinh, Nguyễn Đình Ngữ tập hợp quân sĩ; chiêu mộ thanh niên dân tộc Việt, dân tộc Mường ở các huyện Thanh Sơn, Thanh Thủy và vùng bên kia sông Đà tiếp tục đánh Pháp. Nghĩa quân của ông hoạt động mạnh ở Hòa Bình, Sơn Tây, làm chủ vùng Chợ Bờ, Yên Lãng. Với cương vị là phó tướng đạo Hà Ninh (Hà Nội - Ninh Bình), ông nhiều lần đưa quân đột nhập vào Hà Nội, Hà Nam ngày nay tập kích các đồn binh Pháp, tiễu trừ bọn việt gian thân Pháp. ông phát động nhân dân chống quân Pháp bắt lính, bắt phu.

   Đốc Ngữ là một viên tướng xuất sắc, các tướng tá Pháp mặc dù không muốn, chúng cũng phải ca ngợi; trung tướng Pennequin viết trong báo cáo của hắn: “Trong cuộc khởi nghĩa của người An Nam, các thủ lĩnh của họ đã chỉ huy quân đội như là những sĩ quan cừ khôi. Họ biết lựa chọn và sử dụng địa hình, sắp xếp quân lính. Bản thân tôi đã trông thấy Đốc Ngữ điều binh. Ông đã biết chọn vị trí bảo vệ mạng sườn cho quân mình, nhìn ra điểm yếu trong đội hình tấn công của quân ta. Phải chăng đến ngày nay (năm 1911) chúng ta vẫn còn thấy Đề Thám bất khuất trong cuộc chiến đấu, không bao giờ nản chí. Đây là một người anh hùng đáng được chúng ta hết lòng khâm phục cũng như tất cả người An Nam khâm phục ông ta”.

   Một sĩ quan Pháp khác từng đem quân đánh nhau với Đốc Ngữ cũng phải viết về ông với những lời lẽ khâm phục:
   "Những ai theo dõi, từ năm 1889, lịch sử của những trận nội chiến (những cuộc hành quân càn quét của giặc Pháp) của chúng ta đều nhớ lại rằng: hơn hẳn, mọi người khác, Đốc Ngữ là người quyết liệt nhất và may mắn nhất trong số những kẻ thù của chúng ta (người Pháp). Đốc Ngữ chiếm được ở người An Nam một uy tín và một ảnh hưởng mà không một người Pháp hay người bản xứ nào có thể sánh bằng. Rất khôn khéo, chỉ tấn công khi nắm chắc thắng lợi, không bao giờ chịu lùi bước trước những lực tượng to lớn của quân đội Pháp. Đốc Ngữ bao giờ cũng lừa đánh chúng ta một đòn đẫm máu... Một lần vào tháng 3 năm 1891, ông ta phải lùi bước lực lượng của chúng ta, nhưng sau 7 giờ chiều đấu liền và không hề rơi vào tay chúng ta một người bị thương hay một khẩu súng. Chúng ta phải đương đầu với một kẻ thù ghê gớm, biết chỉ huy và chiến đấu giỏi”.

   Với chính sách chia rẽ người Việt (Kinh) với đồng bào các dân tộc thiểu số, quân Pháp dùng tiền, gái, thuốc phiện, chức tước mua chuộc các tên Đinh Văn Lan, Đinh Văn Thiệu làm phản. Tháng 8/1892, bọn chúng lại lẻn vào bản bộ ám sát Đốc Ngữ và 9 tướng tâm phúc.

   Đồng bào các dân tộc Việt - Mường - Dao vô cùng thương tiếc vị thủ lĩnh đánh Pháp xuất sắc và rất mực thương dân. Cái chết của ông và của các tướng tâm phúc khiến cho lực lượng nghĩa quân tan rã.

   Nhớ ơn Đốc Ngữ, đồng bào dân tộc Mường và Dao đã lập đền thờ ông ở Suối Trùng, xã Tân Lập. Làng Xuân Vân cũ, xã Xuân Phú, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây bị lở xuống sông Hồng, nhân dân chuyển đến nơi ở mới cũng lập đền thờ ông - người con ưu tú của quê hương.

TRẦN VÀNG

   Trần Vàng sinh ngày 28 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1829) tại làng Kiều Mộc, tổng Kiên Mộc, huyện Tiên Phong, phủ Quốc Oai, nay là xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Ông được cha cho học võ ở một lò võ nổi tiếng ở xứ Đoài. Chẳng bao lâu ông thông thạo thập bát ban võ nghệ và giỏi cả môn vật.

   Năm Tự Đức thứ 10 (Mậu Ngọ - 1858), Trần Vàng thi đậu cử nhân võ. Trải qua ba lần tấn phong, đến năm Tự Đức thứ 25 (1873) ông được triều đình phong chức Tam Tuyên đề đốc quân vụ đứng đầu hàng quan võ ba tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên.

   Năm 1882, thành Hà Nội thất thủ lần thứ 2, giặc Pháp đánh lên Sơn Tây. Trần Vàng theo lệnh của Thống tướng Hoàng Kế Viêm đưa quân về Đại Phùng cùng các tướng chặn đánh quân Pháp. Quân Pháp thua, phải rút chạy đem theo hàng trăm xác chết, trong đó có 10 tên từ quan tư trở xuống.

   Bẩy giờ sáng ngày 14/12/1883, tên thiếu tướng hải quân Courbet sai tên đại tá Bisô và tên trung tá Bơlanh chỉ huy tấn công thành Phù Sa bằng hai mũi. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt, quân Pháp bị thương vong tới 250 tên, trong đó có 13 sĩ quan mới chiếm được thành Phù Sa. Song quân ta cũng bị tổn thất, nên ngày 15/12/1883 phải rút vào thành Sơn Tây. Từ chiều 15/12, quân Pháp tập trung hỏa lực và công binh phá thành Sơn Tây. Quân ta dũng cảm chiến đấu, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Nhưng tới ngày 17/12/1883 thành Sơn Tây thất thủ.

   Thành Sơn Tây thất thủ, Trần Vàng kéo quân về đóng ở vùng đồi núi, sông nước Tiên Phong tỉnh Sơn Tây. Nghĩa quân của ông hoạt động mạnh mẽ ở Lâm Thao, Thanh Sơn, (Phú Thọ). Sau đó ông đóng đại đồn ở Đồn Vàng, nay là huyện lỵ Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ củng cố, phát triển lực lượng đánh Pháp.

   Giặc Pháp mua chuộc được một tên phản bội trong nghĩa quân chỉ điểm, dẫn đường cho quân Pháp vào bắt ông ở làng Mai Đình. Chúng giải ông xuống thuyền ở ngã ba Bạch Hạc. Trần Vàng giậm chân cho đắm thuyền để tự tử nhưng không thoát. Chúng canh gác cẩn mật, ông không tự tử được. Đến bến Sơn Tây, chúng áp giải ông vào thành Sơn Tây, nhưng ông đã cắn lưỡi tự vẫn, quyết không để kẻ thù làm nhục. Thi hài ông được nhân dân Sơn Tây mai táng tại đồng Mát, Sen Chiểu, huyện Phúc Thọ. Sau con cháu cải táng đưa về an táng ở đồng đất quê hương Cố Đô. Nhân dân Cố Đô lập miếu thờ người con anh hùng của quê hương. Đến nay, vùng Sơn Tây, Hưng Hóa vẫn còn truyền tụng câu ca:

Quân ai như quân Trần Vàng
Khiến cho giặc Pháp kinh hoàng nhiều phen

TÁN DẬT

   Tán Dật tên thật là Lê Đình Dật, là một trong số thủ lĩnh quân sự ở thành Sơn Tây. Khi thành Sơn Tây thất thủ, Tán Dật cùng với Bố chính Nguyễn Văn Giáp, Lãnh Mai (Nguyễn Bá Như) rút về Lâm Thao xây dựng căn cứ kháng chiến ở vùng Thanh Mai, Thạch Sơn. Tán Dật đã đem quân từ Thanh Mai đi đánh phá các đồn binh Pháp ở Lâm Thao.

   Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương đã sai sứ giả tới Tiên Động phong cho Nguyễn Quang Bích là Lễ bộ Thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần chủ trương phong trào Cần vương ở Bắc Kỳ. Khi ấy thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa ở các nơi về hội kiến, trong đó có Tán Dật.

   Ngày 22/10/1885, quân Pháp chia làm ba đường tấn công căn cứ Thanh Mai. Sau ba ngày kịch chiến với giặc, nghĩa quân rút khỏi Thanh Mai. Nguyễn Văn Giáp sang Tiên Động hợp sức với Nguyễn Quang Bích; Tán Dật ngược sông Hồng xây dựng căn cứ mới ở Lang Sơn - Phú Đình thuộc Hạ Hòa.

   Tán Dật đã chủ động liên hệ hợp tác với các thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa khác ở Hạ Hòa như Đề Thân ở Ấm Thượng, Đề Ngàn, Đề Mạc, Lãnh Hặc ở Mai Tùng; Lãnh Khanh ở Xuân Áng, Lãnh Tháp ở Bảo Toàn…

   Từ cuối năm 1885 đến năm 1890, nghĩa quân Tán Dật đã cùng các lực lượng nghĩa quân khác ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ ngày nay liên tục tiến đánh quân Pháp và chống càn thắng lợi.

   Sang năm 1892, Tán Dật nhiều lần đem quân đánh vào cứ điểm Ngòi Lao của quân Pháp do tên đại úy Bécna Môngty chỉ huy.

   Sau khi Đốc Ngữ hy sinh, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân bị sa vào tay giặc Pháp như Lãnh Mai bị tay chân làm phản, bắt nộp cho Pháp, chúng xử chém ông ở Sơn Tây. Lãnh Hặc (Hồ Văn Hặc - Mai Tùng) bị giặc Pháp bắt được giết ngay ở đình làng. Giết xong, chúng cắt đầu ông treo ở cửa đình để uy hiếp nhân dân. Lãnh Đa bị quân Pháp bắn chết khi ông vượt sông Hồng. Tán Dật bị bức đến cùng, ngày 25/3/1893, Tán Dật phải ra hàng ở đồn Ngòi Lao để cứu các con và những thân nhân bị bắt. Khi các con được trả tự do, ông nói: “Ta hàng vì triều đình đã hàng, chứ nhất định ta không chịu nhìn mặt thằng Tây” . Nói rồi ông uống thuốc độc tự tử.

VƯƠNG VĂN DOÃN

   Nguyễn Quang Bích khởi nghĩa đánh Pháp, có hai tướng trợ giúp đắc lực là Đốc Ngữ, Đề Kiều và nhiều Lãnh binh, đề đốc khác. Trong số tướng lĩnh đó thì Lãnh binh Vương Văn Doãn là người dũng cảm, mưu trí, có tài cầm quân, lấy ít địch nhiều, xuất quỷ nhập thần. (Sách Lịch sử tỉnh Vĩnh Phú gọi ông là Đề Vương). Tháng 10 năm 1878, Bố chính Nguyễn Văn Giáp hy sinh ở căn cứ Nghĩa Lộ, đây là tổn thất lớn cho nghĩa quân. Để bảo toàn lực lượng, đầu năm 1888, Nguyễn Quang Bích phải chuyển quân về xây dựng căn cứ mới ở Mộ Xuân, Yên Lập, cũng ở tỉnh Hưng Hóa.

   Lãnh binh Vương Văn Doãn cho quân đi thám thính thấy giặc Pháp đóng ở đồn Hưng Hóa có nhiều sơ hở. Nếu xuất kỳ, bất ý tiến đánh thì cầm chắc thắng lợi, giết được địch, cướp được vũ khí trang bị cho nghĩa quân. Với quyết tâm đột kích đồn Hưng Hóa, Lãnh Doãn trình báo với Hiệp thống Nguyễn Quang Bích là ở dọc huyện Cẩm Khê có nhiều giặc cướp xin đi tuần phòng để ngăn trừ. Nguyễn Quang Bích tin là thật mới điều động cho 30 nghĩa quân và cấp giấy cho đi, lại cho cả Đốc binh Lê Duy Tiên đi cùng. Vương Văn Doãn dẫn 30 nghĩa quân đến Tăng Xá, bàn mưu với Đốc binh Lê Duy Tiên, để cho Tiên nửa số quân đi tuần, còn mình dẫn 15 nghĩa quân trang bị chỉ có 4 khẩu súng và 12 quả thủ pháo xuôi theo sông Hồng. Vương Văn Doãn dẫn quân vào cổng trại giặc hạ thủ tên lính gác. Tên này cố kêu to báo động. Bọn Pháp đóng trong đồn biết có động, bật đèn điện sáng trưng. Vương Văn Doãn cùng nghĩa quân ở ngoài cổng, trời tối nhìn vào đồn rất rõ, không cho địch kịp trở tay, Lãnh Doãn ném thủ pháo và bắn xả vào quân Pháp. Tên quan ba giám binh và mấy chục tên Pháp bị giết chết. Bọn sống sót bỏ chạy tán loạn tháo thân. Doãn hô xung phong, anh em tràn vào đồn, không ham truy kích bọn đang chạy trốn mà tước được 40 khẩu súng, 2 hòm đạn rồi rút nhanh xuống thuyền. Doãn không cho thuyền đi dưới sông mà cho thuyền khảm sang bên Lâm Thao, rồi chuyển chiến lợi phẩm lên bộ đi đường rừng tránh địch truy tìm. Để giữ bí mật, ban ngày Doãn cho anh em nghỉ ở trong rừng, không tiếp xúc với bên ngoài, ban đêm mới đi. Phải hết 5 ngày đêm mới về đến căn cứ Mộ Xuân.

   Lãnh binh Vương Văn Doãn trình báo với chủ tướng Nguyễn Quang Bích, nộp chiến lợi phẩm và xin chịu kỷ luật. Hiệp thống Nguyễn Quang Bích thấy thắng lợi quá lớn, quân ta diệt được mấy chục tên Pháp cả tên quan ba giám binh, thu được tới 40 khẩu súng và hai hòm đạn là một thắng lợi rất lớn, rất quan trọng, nên Hiệp thống chỉ trách Lãnh Doãn khinh xuất. Quan Hiệp thống xét tài năng và ý chí đánh giặc của Lãnh Doãn phong cho ông làm Hành dinh phó Đề đốc.
NGÔ QUANG ĐOAN

   Ngô Quang Đoan là con cả quan Thượng thư Nguyễn Quang Bích. Quê ở làng Trình Phố, phủ Trực Định, nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Từ nhỏ, Ngô Quang Đoan đã thông minh giỏi cả cầm, kỳ, thi, họa. ông tự chế ra cây đàn nguyệt và cây đàn này gắn bó với ông suốt đời. Ngô Quang Đoan là người tinh thông võ nghệ, sử dụng được các loại vũ khí cổ truyền và cả súng bắn nhanh của phương Tây. Ông còn tài cưỡi ngựa, sai khiến được tất cả những con ngựa bất kham.

   Năm 1882, giặc Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai; năm 1883 quân Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình... Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi, Đốc học Nam Định đã bí mật tổ chức lực lượng nghĩa quân phần lớn là học trò của mình, trong đó có Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan, Ngô Quang Đoan. Nghĩa quân chủ trương đánh úp thành Nam Định. Vũ Văn Báo quê ở làng Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam cũng là học trò Vũ Hữu Lợi dò biết đã mật báo váo Pháp, để bắt sống cụ Nghè Vũ Hữu Lợi và chém cụ đúng vào chiều 30 tết. Vũ Văn Báo do mật báo với Pháp bắt được cụ Nghè được Pháp thăng Tổng đốc Nam Định. Nghĩa quân vô cùng căm giận, tìm cách giết Báo trả thù cho thày, lập mưu đóng giả làm lính Tây đi tuần đột nhập vào nhà Báo ở xã Nghĩa Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam bắt hắn đưa về căn cứ lập đàn tế thày.

   Cuối năm 1889, đầu năm 1890, các thủ lĩnh nghĩa quân phủ Thái Bình như Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan... lần lượt hy sinh. Ngô Quang Đoan còn quá trẻ. địch không thể ngờ ông là một chỉ huy nghĩa quân, nên chưa bị lộ. Ông đến học phó bảng Trần Xuân Sắc. Đầu năm 1890, khi ông 18 tuổi, ông nhận được tin cha là Nguyễn Quang Bích mất ở chiến khu. Ngô Quang Đoan phải bỏ học đi bộ lên núi Tôn Sơn, xã Mậu Xuân, châu Yên Lập, nay thuộc huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ chịu tang. Đề Kiều, Đốc Ngữ, Đốc Đen, Lãnh Gáo biết tài chỉ huy quân sự của Ngô Quang Đoan ngỏ ý mời ông ở lại căn cứ tiếp tục sự nghiệp của cha lãnh đạo phong trào kháng chiến. Song ông cảm thấy mình còn ít tuổi, nên chỉ xin đứng vào đội ngũ kháng chiến. Ông dự nhiều trận đánh quân Pháp ở vùng sông Thao, sông Đà. Ông phát hiện ra một vấn đề nghiêm trọng là giữa các tướng Đề Kiều ở Khả Cứu, Đốc Ngữ, Lãnh Vân ở Hòa Bình, Đốc Đen, Lãnh Gáo ở Nam Định không phục nhau, không ai chịu nghe ai. Ngô Quang Đoan thấy nhiệm vụ cấp thiết là phải đoàn kết các tướng vào một mối. Ông đã lần lượt tới chiến đấu với các tướng chỉ huy các cánh quân để thuyết phục.

   Quân Pháp cho mật vụ đi dò xét biết được trong nghĩa quân Đốc Ngữ - Đề Kiều có Ngô Quang Đoan là một thủ lĩnh đa mưu túc kế, lệnh cho quân đồn trú ở Hưng Hóa - Sơn Tây tìm mọi cách bắt hoặc giết được Ngô Quang Đoan. Nhưng tất cả các cuộc hành quân dù ào ạt hay chia thành toán nhỏ lén lút vào căn cứ đều bị nghĩa quân tiêu diệt. Giặc Pháp hèn hạ cho lính về làng Trình Phố bắt Lý trưởng và mẹ ông giam vào ngục, cướp hết thóc lúa, của cải, phá phách tài sản để lung lạc ông. Song tất cả những hành động dã man, điên cuồng ấy càng làm cho ông căm thù, quyết tâm tiêu diệt giặc Pháp.

   Hoạt động của nghĩa quân Hưng Hóa do Đốc Ngữ, Đề Kiều, Ngô Quang Đoan chỉ huy đã gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp ở lưu vực sông Thao, sông Đà. Đốc Ngữ hy sinh ngày 25/11/1892, bị quân Pháp tấn công dữ dội Đề Kiều, Ngô Quang Đoan vượt sông Hồng sang Tam Đảo hợp tác với các thủ lĩnh nghĩa quân Tuấn Đạt, Tuấn Bôn, Đốc Khoát, sau đó Đề Kiều quay trở về căn cứ. Ông bị giặc Pháp bắt song không ra làm cho chúng mà mở đồn điền.

   Ngô Quang Đoan vào Hà Tĩnh gặp thủ lĩnh Phan Đình Phùng bàn mưu kế sang Trung Quốc bắt liên lạc với Tôn Thất Thuyết, song việc không thành. ông lại cùng với một ông Tú tài tiếp tục cuộc kháng chiến ở Hưng Hóa. Vào đầu năm 1893, Ngô Quang Đoan và ông Tú bị giặc Pháp bắt ở Hưng Hóa. Sau một thời gian bị giam giữ, mua chuộc hai ông không được, giặc Pháp đem ông Tú ra chém để uy hiếp ông, nhưng ông vẫn kiên quyết không chịu đầu hàng. Quân Pháp quyết định đưa ông ra xử tử. Song ông được Đề Kiều đứng ra bảo lãnh giảm án tử hình, nhưng bị quản thúc. Trong thời gian bị quản thúc ở quê hương Trình Phố, Ngô Quang Đoan vẫn bí mật liên lạc với các chí sĩ yêu nước.

   Năm 1905 Ngô Quang Đoan ra Hà Nội gặp cử nhân Lương Văn Can, bàn việc tổ chức Đông Kinh Nghĩa Thục. Sau đó Ngô Quang Đoan lại sang Nhật. Năm 1907, Hội Duy tân phân công Ngô Quang Đoan về nước vận động tài chính cho hội và liên lạc với các tướng lĩnh cũ ở vùng sông Thao, sông Đà để chống Pháp. Trong khi vận động tài chính, ông cũng có giúp đỡ phong trào Duy tân ở tỉnh Thái Bình. Năm 1909 hoạt động vận động tài chính của Ngô Quang Đoan đang có kết quả thì Chính phủ Nhật đã đồng lõa với nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương trục xuất Phan Bội Châu và các lưu học sinh Việt Nam ra khỏi Nhật. Ngô Quang Đoan trở về nước.

   Ngô Quang Đoan qua đời ngày 29 tháng 5 năm Ất Dậu, tức ngày 8 tháng 7 năm 1945 tại làng Trình Phố chỉ trước khi Cách mạng tháng Tám thành công có 41 ngày.

ĐỀ KIỀU

   Đề Kiều tên thật là Hoàng Văn Thúy, quê ở xã Lộc Cương, tỉnh Phú Thọ. Ông cùng Đốc Ngữ, Bố Giáp giúp Nguyễn Quang Bích phát triển lực lượng nghĩa quân ở vùng sông Đà, thượng nguồn sông Thao, sông Chảy, từ Sơn Tây, Hưng Hóa lên biên giới Tây Bắc. Do chiến đấu giỏi, mưu trí, thắng nhiều trận lớn, ông được phong tới chức Chánh Đề đốc.

   Tháng 1 năm 1885, Đề Kiều chỉ huy một cánh quân, góp phần quan trọng vào chiến công đánh bật quân Pháp càn quét vào khu rừng Già. Ngày 2/2/1885 ông chỉ huy nghĩa quân đánh chặn quân Pháp từ Hưng Hóa tràn vào cướp phá Sơn Vi (Thanh Thủy).

   Giặc Pháp thấy rõ nguy cơ bị nghĩa quân Nguyễn Quang Bích chặn đứng âm mưu xâm lược các tỉnh vùng Tây bắc Bắc Kỳ, nên mở hàng chục cuộc càn quét vào căn cứ Tiên Động. Đề Kiều cùng với các tướng khác đóng quân ở giữa sông Hồng, sông Lô chặn địch từ xa căn cứ Tiên Động. Sau khi Đề Kiều đánh thắng trận càn quét lớn vào Sơn Vi, ông cùng Nguyễn Văn Giáp mở rộng địa bàn hoạt động ở tận các huyện Văn Bàn, Than Uyên.

   Trong các năm 1888, 1889, Đề Kiều cùng với Đề Mạc, Quyền Hạo chiếm cứ vùng sông Đà, nghĩa quân phát triển lực lượng, xây dựng nhiều đồn lũy khắp các tỉnh Sơn Tây, Vĩnh Yên, Hưng Hóa. Dưới quyền Đề Kiều có nhiều tướng giỏi như Đề Mạc chỉ có 40 quân thường trực, nhưng khi động thì có hàng nghìn nông dân ở Sơn Tây bỏ cày cuốc cầm vũ khí chiến đấu. Tháng 1/1889 Tri phủ Lâm Thao, một tên chó săn cho giặc Pháp chỉ huy 350 quân đi tuần tiễu vào vùng nghĩa quân kiểm soát, bị nghĩa quân Đề Kiều đánh cho tan tác.

   Từ năm 1889, nghĩa quân Đề Kiều kiểm soát vùng sông Đà, hạ lưu sông Thao. Trong 2 năm 1889 và 1890, nghĩa quân Đề Kiều đánh nhiều trận lớn, gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề. Sách Histoire Militaire của Pháp ghi lại một số trận đánh do Đề Kiều chỉ huy như sau:

   - Tháng 8/1889, nghĩa quân đánh tổng Yên Lãng (Sơn Tây) giết chánh tổng phản động Lý Đức Điền.

   - Tháng 9/1889, Đề Kiều chỉ huy liền hai trận đánh ở Ngòi Lao và Bắc Khê.

   - Ngày 10 tháng 10/1889, chủ tướng Nguyễn Quang Bích triệu tập các tướng lĩnh về họp tại đại bàn doanh ở Quế Sơn. Quân Pháp dò biết đến đánh úp. Nguyễn Quang Bích biết được mưu đồ của giặc Pháp, ông tương kế, tựu kế phái Đề Kiều, Đề Thanh đem quân mai phục cách căn cứ 5-6 dặm. Quân Pháp không ngờ, lọt vào ổ phục kích, bị tiêu diệt phần lớn, số còn lại tháo chạy bỏ lại nhiều xác chết và súng đạn.

   Tháng 10/1889, lực lượng nghĩa quân hùng mạnh, ông tổ chức các trận đánh phòng ngự ở Mộ Xuân, Tiên Động, Quế Sơn. Trận nào nghĩa quân cũng thắng, làm thất bại các trận càn quét của quân Pháp. Để phô trương thanh thế, uy hiếp giặc ông còn chủ động tấn công đồn Văn Bàn. Trận đánh táo bạo này gây khiếp đảm cho quân Pháp, gây phấn chấn cho đồng bào các dân tộc, đồng bào đem thóc gạo, trâu bò ra úy lạo nghĩa quân.

   Tháng 11/1889, nghĩa quân đánh trận Đào Xá cách Hưng Hóa 6 dặm (3 cây số). Trận này tuy nghĩa quân thắng, nhưng Đốc Sỹ tử trận.

   Cũng trong tháng 11, ông còn tổ chức các trận đánh và trực tiếp chỉ huy các trận đánh đồn Thanh Ba, trận đánh đồn Ngòi Lao, đánh huyện lỵ Cẩm Khê.

   Tháng 12/1889, Đề Kiều chỉ huy đánh trận Tý Mã. Trận này Đốc Hội tử trận. Cũng trong tháng 12/1889 ông chỉ huy đánh trận Trí Chủ.

   Ngày 15 tháng chạp âm lịch (khoảng 20 tháng 1/1890), Nguyễn Quang Bích lâm bệnh nặng mất tại đại bản doanh ở núi Tôn Sơn.

   Trước tổn thất lớn lao mất chủ tướng. Đề Kiều cùng các tướng vẫn duy trì, phát triển lực lượng quân sự, liên tục tấn công quân Pháp. Tháng 1/1890 , nghĩa quân đánh đồn Văn Bàn lần thứ 2. Cũng trong tháng 1 ông còn chỉ huy đánh trận làng Bản Nguyên, trước mặt Hưng Hóa, giết chết chánh tổng tổng Văn Phú và giết chết chánh tổng tổng Cẩm Khê.

   Tháng 5/1890 , Đề Kiều thống nhất các toán nghĩa quân tại vùng Hưng Hóa. Ông trực tiếp chỉ huy 300 tay súng giỏi lập căn cứ tại phía Nam huyện Cẩm Khê (Phú Thọ), bên Hữu ngạn sông Hồng. Ông phối hợp chặt chẽ với Đốc Ngữ đánh nhiều trận lớn. Đề Kiều đã liên hệ với các lực lượng nghĩa quân khác ở thượng lưu sông Hồng, sông Đà, Bắc Ninh, triền sông Lục Nam, Thanh Hóa, Nghệ An. Ông còn cử người sang Trung Quốc liên lạc với Tôn Thất Thuyết để nhận súng đạn. Ông chịu ảnh hưởng lớn chí hướng hành động của Tôn Thất Thuyết.

   Ngày 25/11/1892, Đề Kiều vượt sông Hồng sang Tam Đảo bàn việc hợp tác với nghĩa quân do Tuấn Đạt, Tuấn Bôn, Đốc Khoát, Đội Giang, Đốc Đông chỉ huy. Ngày 27/11/1892 ông về tới căn cứ, song quân Pháp dùng chính sách chia rẽ dân tộc, mua chuộc một số nghĩa quân người dân tộc, những người này chỉ điểm cho quân Pháp biết nơi ông đóng quân. Giặc đem quân bao vây chặt trong nhiều ngày, tấn công liên tục, nghĩa quân bị tiêu hao, lương thực không còn, đạn hết. Giặc bắt, dụ dỗ ông làm quan cho chúng, ông cự tuyệt, chúng giam lỏng ở quê, ông mở đồn điền vẫn ngầm giúp đỡ nghĩa quân, sống cuộc đời dân thường cho đến khi mất.

HOÀNG HOA THÁM

   Hoàng Hoa Thám vốn họ Trương tên Nghĩa, quê gốc ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Sau gia đình di cư lên vùng Yên Thế, ông đổi tên là Hoàng Hoa Thám. Năm ông 20 tuổi, ông đã gia nhập đội quân chiến đấu dưới hiệu lệnh của Trần Quang Loan, lãnh binh tỉnh Bắc Ninh. Năm 1870 Giáp Văn Trận còn gọi là Đại Trận, quê ở làng Lý, xã Ngọc Lý, tổng Ngọc Cục, huyện Yên Thế, nay là xã Ngọc Lý, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, cùng con trai là Giáp Văn Cương (Đề Cương) khởi nghĩa chống triều đình Huế. Cuộc khởi nghĩa này mang tên là khởi nghĩa Đại Trận. Song lại bị quân của Tôn Thất Thuyết đàn áp, cuộc khởi nghĩa thất bại, Hoàng Hoa Thám phải trốn tránh một thời gian rồi cùng cha nuôi là Bá Phức tới Lạng Sơn tham gia cuộc khởi nghĩa do Hoàng Đình Kinh lãnh đạo. Hoàng Hoa Thám đã được rèn luyện về tài cầm quân xông pha nơi trận mạc trong 5 năm tham gia cuộc khởi nghĩa Đại Trận, từng lập công lớn trong các trận đánh thành Bắc Ninh, Tam Đảo, nên khi tham gia cuộc khởi nghĩa Cai Kinh đã lập nhiều chiến công, được Cai Kinh phong là Đốc binh. Tháng 12/1885 Đề Thám cùng Bá Phức rời cuộc khởi nghĩa Cai Kinh gia nhập cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Đề Nắm lãnh đạo, quân Pháp đã vấp phải sức chiến đấu ngoan cường và kiên quyết của nghĩa quân. Đề Thám còn tham gia một số trận đánh và đều lập công, được Đề Nắm phong tới Đề đốc. Từ khi Hoàng Hoa Thám và Bá Phức rời khỏi cuộc khởi nghĩa Cai Kinh trở về tham gia cuộc khởi nghĩa Yên Thế thì từ đó giữa hai cuộc khởi nghĩa có sự hỗ trợ lẫn nhau và vai trò của Đề Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế ngày càng nổi lên rõ rệt.

   Đề Thám đã cùng với Đề Nắm rút kinh nghiệm xây dựng đồn Na Lương để xây dựng hệ thống phòng thủ mới ở Hố Chuối. Sau một số hoạt động quân sự nhỏ, hiệu quả chiến đấu không cao, ngày 22/8/1888 các thủ lĩnh nghĩa quân họp ở đình Dĩnh Thép đã cử ra một bộ chỉ huy quân sự mới do Bá Phức làm Chánh tướng, Đề Nắm làm Phó tướng, Đề Thám phụ trách quân sự. Bộ chỉ huy mới đã lãnh đạo cuộc chiến đấu một cách toàn diện, đi vào nền nếp. Tiêu biểu là trận đánh thắng ở làng Dương Sặt. Bọn giặc đã bị 250 nghĩa quân đánh trả quyết liệt. Sau một ngày chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, quân rút khỏi căn cứ. Giặc Pháp tràn vào làng thiêu hủy làng Sặt và làng Thế Lộc.

   Đề Thám lập căn cứ trên núi Yên Ngựa gần làng Cao Thượng, chỉ huy nghĩa quân đánh bại mọi cuộc tiến công của quân Pháp. Sau chiến thắng, Đề Thám rút quân, quân Pháp vào Cao Thượng chỉ còn trận địa không. Chúng đốt làng Cao Thượng cùng đình, chùa.

   Cuối tháng 10/1891, bọn cầm quyền Pháp sai tên Voay rông chỉ huy Lữ đoàn 1 tấn công vào Yên Thế. Ngày 30/3 quân Pháp chiếm được đồn Bá Phức, ngày 31/3 căn cứ Yên Thế thất thủ. Trong những thời điểm khó khăn đó, Bá Phức đem lực lượng lên vùng Tam Đảo, Đề Thám tạm lánh ở Bằng Cục. Tháng 11/1892, Thống Luận, Thống Ngò cùng Bá Phức trở lại Yên Thế, Đề Thám quyết định hoạt động trở lại. Từ tháng 2/1893, Đề Thám bắt đầu trực tiếp nắm quyền lãnh đạo tối cao ở căn cứ Yên Thế.

   Để lấy danh nghĩa và khôi phục lại uy thế sáng 19/12/1892 (tháng 11 Nhâm Thìn), Đề Thám tập hợp một lực lượng 400 quân tại đình làng Đông, xã Quỳnh Đông, sau đổi là Bích Động, nay thuộc Bích Sơn, Việt Yên) tổ chức lễ Tế cờ, chính thức nhận chức chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Một bộ chỉ huy quân sự được thành lập gồm Đề Thám, Đặng Thị Nhu, Cả Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh, Điển Ân. Nghĩa quân hoạt động mạnh ở khu vực Nhã Nam, bí mật củng cố căn cứ Yên Thế.

   Tháng 10/1893, Lê Hoan mang một lực lượng 200 lính khố xanh, 690 lính cơ phối hợp với quân của các đồn binh Na Lương, Mỏ Trạng, Bố Hạ, Nhã Nam, Thái Nguyên càn quét Yên Thế suốt 2 tháng liền.

   Tháng 01/1894, thực dân Pháp buộc phải thương lượng đình chiến với Đề Thám. Công sứ Bắc Ninh phái tổng đốc Lê Hoan đến thương lượng. Đề Thám ra điều kiện quân Pháp phải nhổ hết đồn bốt quanh Yên Thế, Nhã Nam và ông hẹn ngày 7/2/1894 ông sẽ đến gặp công sứ. Đề Thám lợi dụng thời gian thỏa thuận đình chiến kéo dài 3 tháng (tháng 1 đến tháng 4/1894) để bổ sung lực lượng, tu sửa đồn trại, tích trữ lương thực. Công sứ Bắc Ninh phải chấp nhận những điều kiện do Đề Thám đề ra. Bá Phức lo sợ, ngày 15/2/1894 vội vã đem 76 thủ hạ, 54 súng ra hàng Lê Hoan, nhận chức bang tá. Đề Thám không nao núng, vẫn điềm nhiên đến dự họp ở Luộc Hạ. Mọi âm mưu đầu độc ông ở đây bị thất bại. Cuối tháng 4/1894 cuộc thương lượng tan vỡ.

   Tháng 5/1894 công sứ Bắc Ninh Muydơliơ (Muselier) quyết định chấm dứt thương lượng với Đề Thám, chuẩn bị tấn công căn cứ Yên Thế. Muslier cho Tổng đốc Lê Hoan sai Bá Phức vốn là bố nuôi Đề Thám với danh nghĩa đến “thuyết khách” để đặt mìn giết Đề Thám. Ông tương kế, tựu kế giả chết để đánh lừa quân Pháp. Quân Pháp tin Đề Thám đã chết, đem quân đến đánh, Đề Thám phản công, quân Pháp bị thất bại nặng nề.

   Ngày 9/4/1896, Đề Thám rút quân về vùng núi Tam Đảo lập căn cứ mới. Từ căn cứ này nghĩa quân tỏa đi, hoạt động ở Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Bắc Giang.

   Những hoạt động quân sự tích cực của Đề Thám khiến cho nhà cầm quyền Pháp lo ngại.

   Ngày 17/4/1901 Hòa ước được ký kết tại đình làng Nẻo. Tuy bị ràng buộc về hòa ước, nhưng Đề Thám và các tướng lĩnh vẫn không ngừng bổ sung lực lượng, làm tốt công tác huấn luyện. Đề Thám cũng mở rộng mối quan hệ với các nho sĩ, các nhà văn thân, các thủ lĩnh phong trào yêu nước khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều cơ sở của nghĩa quân được xây dựng ở Từ Sơn, Thuận Thành (Bắc Ninh) Văn Lâm (Hưng Yên), Sơn Tây. Một hành lang cơ sở vững chắc kéo dài từ Yên Thế sang Hiệp Hòa, vượt sông Cầu tới hai tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên.

   Sau cuộc hội đàm với nhà cách mạng Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám đã có tầm nhìn toàn cục là phải phát động cả nước đồng thời nổi lên chống Pháp. Để thực hiện được nhiệm vụ lớn lao trên, Đề Thám đã cử những người tin cẩn về các địa phương trên tuyên truyền, tổ chức lực lượng. Đề Thám cũng giao nhiệm vụ cho các vị chỉ huy, nghĩa quân có uy tín đang ở căn cứ. Trong các trận đánh ở Tam Đảo (Tam Dương) và ở các làng Lập Trí, Xuân Lai, Hiền Lương, Ninh Bạch. Bình Dã (Kim Anh) Thúy Yên, Thái Lai (Yên Lãng), nghĩa quân đều gây thiệt hại nặng nề cho quân Pháp.

   Cuối tháng 1/1909, Toàn quyền Đông Dương ra lệnh tấn công quy mô lớn vào các căn cứ của Đề Thám. Cuối tháng 3/1909, quân Pháp bao vây thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám ở Rừng Phe. Ngày 25/3/1909 Đề Thám quyết định phá vây để rút lên Tam Đảo, Cả Trọng hy sinh, Cả Huỳnh bị thương nặng, Cai Tề bị giặc bắt. Ngày 4/6/1909 toàn bộ các toán nghĩa quân Yên Thế đóng ở Vĩnh Yên, Phúc Yên tập trung về Vệ Linh để đón thủ lĩnh Đề Thám. Ngày 14/6/1909, Đề Thám vượt sông Cầu, qua Thủ Lâm để tới Vệ Linh để cùng 50 thủ lĩnh và nghĩa quân còn lại rút về căn cứ Núi Sáng ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên.

   Từ đầu tháng 11/1909, Đề Thám trở lại Yên Thế, có mặt ở Mỏ Trạng, Dĩnh Thép, Cầu Gồ. Đề Thám chỉ còn lại vài thủ hạ và một số quân song vẫn quật cường chiến đấu. Sau vụ giết Phó đội Liên và Đồng Cứu tháng 3/1912, giặc Pháp tung quân truy lùng gắt gao các thủ hạ thân tín lần lượt bị hi sinh, bên mình ông chỉ còn hai thủ hạ trung thành. Cuối tháng 12/1912, nhờ Lương Tam Kỳ làm trung gian, bọn Trần Đắc Kỷ (Tsan-tác-ky) nhận tiền của Pháp giết Đề Thám, tìm cách liên hệ được với Đề Thám ở vùng núi vùng Yên Thế, ngày 10 tháng 2 năm 1913 (mùng 5 tết Quý Sửu) chúng ám hại ông tại khu rừng cách chợ Gồ 2km, chúng chặt đầu ông bêu ở chợ Nhã Nam. (có sách viết ông bị ám hại ngày 18/3/1913 (tức ngày 10 tháng 2 năm Quý Sửu).Về cái chết của Đề Thám còn nhiều nghi vấn có sách viết cái xác Pháp nói là Đề Thám thực ra là Sư ông chùa Lèo).

NGUYỄN KHÁN - NGUYỄN CÁN

   Cuối năm 1886, Nguyễn Khán cùng em là Nguyễn Cán quê ở xã Phù Khê nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh lên Yên Thế gia nhập nghĩa quân. Trên đường tới Yên Thế, hai ông đã giết hai tên lính gác cầu cướp súng và ra mắt nghĩa quân. Hai ông lập công xuất sắc trong các trận đánh đồn Hố Chuối và Phồn Xương.

   Hoàng Hoa Thám giao cho hai anh em ông Nguyễn Khán (tức Hai Cao) và Nguyễn Cán (tức Hai Cán) chỉ huy căn cứ này. Hai ông trở thành bộ tướng tin cậy của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám.

   Mở đầu cho các hoạt động quân sự của Nguyễn Khán, Nguyễn Cán là tập kích đồn binh Pháp ở phà Đuống để mở thông đường Từ Sơn sang các huyện Thuận Thành, Gia Lâm nơi hoạt động của Nguyễn Thiện Kế, Đội Văn, Đề Vinh của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Trận đánh diễn ra vào tháng 6/1888 tiêu diệt toàn bộ quân Pháp, đốt cháy đồn. Trận này tuy không lớn nhưng đã gây nỗi kinh hoàng cho quân Pháp và tên đại Việt gian Hoàng Cao Khải, tổng đốc ba tỉnh Bắc Ninh - Hưng Yên - Hải Dương vì nghĩa quân đánh vào hậu phương của chúng rồi rút lui an toàn. Nguyễn Khán cùng em là Nguyễn Cán còn làm nhiệm vụ tiễu trừ Việt gian, phản động, triệt phá đường dây mật vụ, chỉ điểm của giặc Pháp. Các hoạt động quân sự của nghĩa quân Nguyễn Khán, Nguyễn Cán đều diễn ra ở xa căn cứ, nên vẫn giữ được bí mật cho căn cứ Phù Khê. Hai ông xây dựng được nhiều cơ sở tin cậy trong làng như nhà cụ Đồ Thuyết, nhà ông Nguyễn Trọng Châu (Cả Châu).

   Tháng 8/1911, thủ lĩnh Đề Thám phái ông Nguyễn Khán và Nguyễn Cán dẫn một đội quân trên 30 người bí mật về đóng ở nhà cụ Đồ Thuyết để thi hành bản án trừ khử tên Lê Văn Trung tay sai Pháp cài vào hàng ngũ nghĩa quân. Khi nghĩa quân phát hiện thì hắn trốn khỏi Yên Thế, Pháp cho làm tri phủ Từ Sơn. Tên này rất nguy hiểm vì nó biết mặt nhiều tướng lĩnh, biết một số cơ sở bí mật ở đồng bằng, trong đó có Phù Khê. Song các ông chưa kịp ra tay thì Lê Văn Trung biết, hắn đem hơn 100 quân về Phù Khê để tiêu diệt nghĩa quân. Nghĩa quân được nhân dân giúp đỡ đã đắp công sự ở lũy nhà cụ Đồ Thuyết sau đình.

   Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt suốt một ngày, hai đêm. Quân của Trung đông gấp ba nghĩa quân, đều trang bị súng trường kiểu 1874, có rất nhiều đạn nhưng không dám xông sang nhà cụ Đồ Thuyết. Vì nghĩa quân bố trí ở lũy tre cao, kín đáo, tuy có ít súng, ít đạn nhưng lại có tài thiện xạ, bắn phát nào trúng phát đó. Nghĩa quân lực lượng mỏng cũng không vượt qua được lưới lửa của quân giặc tấn công sang đình được. Sau một ngày hai đêm quần nhau với giặc, lợi dụng đêm tối, hai ông rút quân về căn cứ Nhạn Tái.
CAI HẬU

   Cai Hậu tên thật Nguyễn Văn Hậu, quê ở làng Dương Lâm, tổng Nhã Nam, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã An Dương huyện Tân Yên, Bắc Giang.

   Ông Nguyễn Văn Hậu tham gia nghĩa quân nhưng không công khai mà giữ chân thủ từ ở đình để che mắt giặc. Ông đào một đường hầm từ hậu cung ra bờ ao vào cánh đồng đề phòng các thủ lĩnh đang hội họp, nghỉ ngơi bị giặc bao vây, tập kích bất ngờ thì thoát ra ngoài một cách dễ dàng.

   Trong mấy trận quân Pháp tấn công nghĩa quân đóng trong làng Dương Lâm, chúng đã bắn pháo phá sập ngôi đình. Mãi đến thời kỳ "Hòa hoãn với bọn cầm quyền Pháp lần thứ hai" (1897- 1909), Thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám đã giúp dân Dương Lâm dựng lại ngôi đình mới. Đình mới nằm ở giữa làng, cạnh con đường liên xã đi Ngàn Ván, quay mặt ra hướng Nam, nhìn vào núi Quế. Ngôi đình này tuy nhỏ hơn đình cũ nhưng nằm trên địa thế cao, mặt nhìn ra cánh đồng rộng, kế đó là núi Quế bốn mùa xanh tươi. Đình lại ở giữa làng, bên cạnh đường đi, thuận tiện.

   Đình dựng xong, chính tay Đề Thám đã cùng ông Cai Hậu trồng cây Dạ hương trước cửa đình làm kỷ niệm. Ông Cai Hậu lại được dân làng giao cho làm thủ từ. Ông là một chỉ huy nghĩa quân xông xáo, gan dạ và mưu trí.

   Sau vụ "Hà Thành đầu độc” năm 1908 bọn cầm quyền Pháp biết do nghĩa quân Yên Thế chủ mưu, nên cuối tháng 12  năm 1908, tháng giêng năm 1909, quân Pháp mở cuộc tấn công lớn vào Phồn Xương, Hố Chuối và hầu hết các căn cứ của nghĩa quân. Không tiêu diệt được nghĩa quân giặc Pháp đốt phá làng Dương Lâm và các làng có nghĩa quân hoạt động. Chúng biết rõ mối quan hệ giữa làng Dương Lâm với nghĩa quân Yên Thế, giữa ông Cai Hậu với thủ lĩnh Đề Thám, nên đã bắt ông tra tấn cực kỳ dã man để mong tìm ra nơi Đề Thám và các tướng lĩnh cư trú và những bí mật khác của nghĩa quân. Nhưng ông Cai Hậu vẫn kiên trinh, bất khuất không khai báo với giặc nửa lời. Chúng đã hèn hạ giết chết ông.

   Cho đến nay, trên 110 năm đã trôi qua, tướng quân Đề Thám, ông Cai Hậu đã hy sinh, nhưng chiến công lừng lẫy của cuộc khởi nghĩa Yên Thế vẫn còn đó. Đình Dương Lâm cùng cây Dạ hương là nhân chứng lịch sử đã chứng kiến cuộc khởi nghĩa anh hùng Yên Thế vẫn còn đó, trường tồn với đất nước đã sạch bóng quân thù.

   Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra Quyết định số 154-QĐ ngày 25/1/1991 công nhân đình Dương Lâm là di tích lịch sử văn hóa.

HÒA THƯỢNG THÍCH THANH ĐIỀU

   Tin giặc Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai (2514/1882) truyền đến vùng rừng núi châu Thoát Lãng, tỉnh Lạng Sơn, gây nỗi kinh hoàng và căm phẫn trong dân chúng. Lập tức Hoàng Đình Kinh, quê ở làng Thuốc Sơn, châu Thoát Lãng, nay là xã Cai Kinh, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn là người giỏi võ, tính tình hào hiệp, nhà giầu, thu nạp được nhiều người nổi tiếng trong giới giang hồ, hùng cứ cả một vùng Dương Yên, Giàng Thượng, châu Thoát Lãng triệu tập anh em họp gấp, kêu gọi kháng chiến.

   Trong số thủ hạ của Hoàng Đình Kinh có Hoàng Đình Điều người cùng xã được dự họp ngay từ đầu. Hoàng Đình Điều giỏi võ nghệ, bắn súng được xếp vào hàng thiện xạ, được Cai Kinh giao cho chỉ huy một đội quân. Đội quân này chiến đấu dũng mãnh, thường đi tiên phong trong các trận đánh. Hoàng Đình Điều đã sát cánh với chủ tướng Cai Kinh trong các trận đánh quân Pháp ở Kép, Phủ Lạng Thương, tiêu diệt đồn Than Muội (5/1885), tiêu diệt đồn Mai Sao (4/1886). Đầu năm 1888 Hoàng Đình Kinh bị giặc Pháp phục kích bắt được khi ông đang trên đường tới biên giới Việt - Trung. Ngày 6/7/1888 giặc Pháp xử tử Cai Kinh, Hoàng Đình Điều cùng phần lớn các tướng và nghĩa quân gia nhập cuộc khởi nghĩa Yên Thế.

   Đến Yên Thế, Hoàng Đình Điều trực tiếp chiến đấu dưới quyền chỉ huy của Đề Thám. Ông tham gia các trận đánh ở làng Dương Sặt (nay thuộc xã Liên Sơn), Thế Lộc (nay thuộc xã Tân Trung đều thuộc huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang). Trong suốt thời gian từ năm 1891 đến năm 1892 , Hoàng Đình Điều luôn luôn chiến đấu cạnh Đề Thám. Sau đó Hoàng Đình Điều được Đề Thám giao cho xây dựng căn cứ mới ở núi Tam Đảo.

   Hoàng Đình Điều chỉ huy toán nghĩa quân ở Tam Đảo cho tới tận năm 1920, quân số bị tổn thất trong các trận đánh, ông mới quy y cửa Phật lấy pháp danh là Thích Thanh Điều về tu ở chùa Vua.

   Chùa Vua ở phố Thịnh Yên, nay thuộc phường phố Huế, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Chùa Vua là tên gọi chung của chùa Hưng Khánh, điện Thiên Đế và Điện Mẫu. Chùa được xây dựng từ thời Lê. Đây là một bộ phận của cung Thừa Lương, nơi vua và các đại thần nghỉ ngơi trước khi ra tế Nam Giao (nay là địa điểm nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo).

   Thích Thanh Điều khoác áo tu hành nhưng vẫn canh cánh bên lòng chí nguyện đánh giặc cứu nước, nên ông đã mở lò dạy võ để kén chọn nhân tài phòng khi dùng đến.

   Trong những ngày Toàn quốc kháng chiến, tháng 12/1946, chùa Vua là nơi đóng quân, chứa vũ khí của Vệ Quốc đoàn và tự vệ Thành Hà Nội. Ngày 10/4/1956 Hồ Chủ tịch đến thăm chùa.

   Ngày 21/8/2001, Chính phủ truy tặng nhà sư Hoàng Đình Điều bằng khen của Chính phủ về thành tích chống giặc ngoại xâm. Chùa được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa ngày 21/01/1992.
HÒA THƯỢNG THÍCH THANH QUYẾT

   Tháng 9/1889, Đề Yêm, một tướng lĩnh xuất sắc của nghĩa quân Bãi Sậy rời căn cứ kháng chiến ở vùng núi đá huyện Kim Bảng ( Hà Nam), Mỹ Đức, Hà Tây về núi Tuyết Sơn, nay thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông. Tại đây Đề Yêm nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của tăng ni, phật tử, trong đó có Hòa thượng Thích Thanh Quyết, hiệu Đôn Mẫn, Động chủ Hương Sơn đời thứ tám (tổ thứ tám) chùa Hương Tích. Hòa thượng Thích Thanh Quyết là một tham mưu tài giỏi cho Đề Yêm.

   Sau trận đánh ngày 14/10/1891, nghĩa quân Đề Yêm tan tác vì không còn căn cứ, đạn dược, kho lương bị quân Pháp đốt cháy. Đề Yêm cho giải tán nghĩa quân rồi cùng viên tướng tâm phúc quê ở Bắc Ninh một chiến sĩ thiện xạ lên Yên Thế tham gia cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Hòa thượng Thích Thanh Quyết giao cho Tỳ khiêu Thích Thanh Tích quản lý chùa Hương tích rồi theo Đề Yêm lên Yên Thế chiến đấu dưới cờ Hoàng Hoa Thám.

   Đề Thám biết tiếng hòa thượng Thích Thanh Quyết liền mời về trụ trì ở chùa Phồn Xương nằm ngay cạnh đại đồn Phồn Xương và làm tham mưu cho mình.

   Ngày 11/4/1892, Đề Sặt đầu độc Đề Nắm rồi đem đồng đảng cùng vũ khí ra hàng Pháp. Đề Thám phải đảm đương việc chỉ huy nghĩa quân. Trong những ngày tháng gian khổ đó, Hòa thượng Thích Thanh Quyết luôn luôn ở bên cạnh Đề Thám cùng bộ tham mưu bàn bạc kế hoạch tác chiến phá vỡ vòng vây của quân Pháp đang ngày càng thắt chặt.

   Quân Pháp sau trận thất bại ở Hố Chuối tháng 4/1894  phải điều đình ký Hòa ước với Đề Thám. Đề Thám cho xây dựng lại hệ thống đồn lũy. Hòa thượng Thích Thanh Quyết đề nghị với thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám sửa chữa, xây dựng lại chùa Hả, trùng tu chùa Phố, thường gọi là chùa Nhã Nam. Chùa này bị đại bác Pháp bắn sập vào năm 1885, nghĩa quân đã dựng lại vào năm 1886.

   Trong thời gian hòa hoãn lần thứ hai với giặc Pháp, Thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám cấp tiền bạc và giao cho hòa thượng Thích Thanh Quyết tiếp tục xây dựng lại, sửa chữa các chùa Phồn Xương, Chùa Lèo, chùa Thông... Các chùa này đều nằm trong vùng kiểm soát của nghĩa quân Yên Thế và đều án ngữ trên các con đường chiến lược, hoặc xây dựng trên các cao điểm, hoặc ở nơi giáp ranh với vùng kiểm soát của địch. Vì thế hòa thượng đều cho xây tường, đắp lũy, trồng tre bao quanh. Nếu chiến sự xảy ra thì mỗi ngôi chùa đều trở thành pháo đài đánh Pháp.

   Nhằm phát triển thế lực về các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, năm 1907 , Đề Thám cử các phái viên của mình về Hà Nội thành lập đảng Nghĩa Hưng, phối hợp với binh lính yêu nước trong thành Hà Nội tiến hành vụ "Hà Thành đầu độc” ngày 27/6/1908. Vụ đầu độc không thành. Thực dân Pháp biết Đề Thám là người chủ mưu vụ này, nên từ ngày 28/1/1909 (mùng 7 tết Kỷ Dậu), quân Pháp tập trung 15.000 quân liên tục mở các cuộc tấn công vào hầu hết các căn cứ của Đề Thám. Đề Thám và bộ Tham mưu đã anh dũng chống trả cho tới ngày 10/2/1913 (mùng 5 tết Quý Sửu) Đề Thám bị tay chân của Lương Tam Kỳ ám hại, cuộc kháng chiến kết thúc.

   Hòa thượng Thích Thanh Quyết thấy mình không thể ở lại Yên Thế được, nên quyết định trở lại chùa Hương Sơn. Hòa thượng đang chuẩn bị lên đường thì Hoàng Đình Điều tìm đến. Ông cho Hòa thượng biết mình đang chỉ huy một toán nghĩa quân hoạt động ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc nhận được tin thủ lĩnh bị ám sát nên về nghe ngóng tình hình. Hòa thượng Thích Thanh Quyết cho biết sau khi thủ lĩnh bị ám hại giặc Pháp và lũ tay sai ráo riết truy lùng lùng những người đã tham gia nghĩa quân, ủng hộ nghĩa quân để giết hại và đưa đi tù đày, hòa thượng cũng chuẩn bị về Hương Sơn. Bọn quan lại tay sai thực dân Pháp đánh hơi được một nhà sư từng theo Đề Yêm, đã biến cả chùa thành đồn lũy đánh Pháp rồi lại lên Yên Thế theo "giặc Đề Thám" nay trở về chùa liền mật báo với tri phủ Mỹ Đức. Tri phủ cho lính về chùa Hương Sơn bắt hòa thượng về phủ tra khảo. Song đòn đánh, kìm kẹp không làm cho vị hòa thượng yêu nước sờn lòng. Thực ra bọn thực dân Pháp chẳng cần gì phải khai thác bí mật về cuộc khởi nghĩa Yên Thế, vì thủ lĩnh Đề Thám đã bị chúng sát hại, khởi nghĩa Yên Thế đã tan rã. Hành động tàn bạo của tri phủ Mỹ Đức chỉ nhằm moi tiền hối lộ. Và tên tri phủ tay sai của thực dân Pháp đã không giấu giếm điều đó khi ghé vào tai hòa thượng gạ gẫm: "Có tiền lễ thì tao tha cho!”. Hòa thượng Thích Thanh Quyết trả lời một cách mỉa mai: "Nếu quan lớn muôn ăn đút thì để tôi về chùa bán mấy ông Phật đi lấy tiền đút cho quan lớn!”.

   Câu trả lời của nhà tu hành khác nào cái tát vào mặt hắn, song cái mặt dầy của hắn vẫn chai lỳ. Suốt mấy tháng trời đánh đập, tra khảo nhà sư không được lợi lộc gì lại bị Phật tử và nhân dân phản đối, tên tri phủ buộc phải trả tự do cho hòa thượng trở về Hương Tích.

   Bị bọn tay sai giặc Pháp tra tấn, từ đó hòa thượng mang bệnh nặng, nhưng lòng yêu nước vẫn không nguôi. Bọn quan lại ở Hà Đông từ đó phải gọi Hòa thượng là "Tăng trung hào kiệt”.


284 ANH HÙNG HÀO KIỆT CỦA VIỆT NAM - TẬP 3
Tác giả : Vũ Thanh Sơn
Nxb Công an Nhân dân 01/2009
Số trang : 183. Kích thước : 14.5 x 20.5cm

Số hóa: hoi_ls




TÔN THẤT THUYẾT
VUA HÀM NGHI
TÔN THẤT ĐÀM
CÔN PÚA
NGUYỄN PHẠM TUÂN
LÊ TRỰC
BẠCH XỈ
HOÀNG THỊ TÁM
PHAN ĐÌNH PHÙNG
CAO THẮNG
LÊ NINH
PHAN ĐÌNH THÔNG
ĐỘI QUYÊN
NGUYỄN HUY THUẬN
VƯƠNG THỨC
NGUYỄN THỨC TỰ
TRẦN QUANG DIỆM
TRẦN XUÂN SOẠN
TỐNG DUY TÂN
CẦM BÁ THƯỚC
HÀ VĂN MAO
ĐINH CÔNG TRÁNG
NGUYỄN PHƯƠNG
HOÀNG BẬT ĐẠT
PHẠM BÀNH
NGUYỄN ĐÔN TIẾT
NGUYỄN HỮU HẠNH
LÊ VĂN THỨC
LÊ NGỌC TOẢN
ĐỘI TÁM
NGUYỄN TRỌNG TÂY
LÊ CHÍNH
NGUYỄN TỬ TƯƠNG
ĐINH VĂN PHÚ - ĐINH HỮU KHANG
ĐỐC ĐEN
ĐỐC NHƯỠNG
LÃNH HOAN
BA BÁO
SƯ THUYỀN QUAN
SƯ NĂM THƯỢNG
NGUYỄN THIỆN THUẬT
NGUYỄN THIỆN KẾ
NGUYỄN THIỆN DƯƠNG (LÃNH GIANG)
ĐINH GIA QUẾ
NGÔ QUANG HUY
NGÔ QUANG CHƯỚC
LÊ VĂN HANH
PHẠM VĂN ĐỨC
CẢ SEN
ĐỐC ĐOÁN
LÃNH DUỆ
ĐỐC ĐỒNG
BANG ẤM
LÃNH THẢO
ĐỐC MUỖI
LÃNH LƯỜNG
ĐỐC NHÔNG
NGUYỄN VĂN LONG
QUẢN CẦU
PHẠM TRUNG THỨ

TÔN THẤT THUYẾT

   Tôn Thất Thuyết sinh năm 1835, quê ở thôn Phú Mộng, xã Xuân Long, tỉnh Thừa Thiên. Tôn Thất Thuyết xuất thân từ võ tướng học vấn không cao. Tự Đức đã có lần nhận xét về Tôn Thất Thuyết: “Học vấn còn ít", "song có trí dũng, giỏi về việc binh”.

   Năm 1869, ông được bổ nhiệm làm Án sát Hải Dương. Sau đó làm tham tán cho Thống tướng Hoàng Kế Viêm. Ngày 21/12/1873, thực dân Pháp mở rộng cuộc xâm lược, đánh chiếm ra Bắc Kỳ, ông cùng Hoàng Kế Viêm tích cực chuẩn bị đối phó với giặc Pháp.

   Để thực hiện Hoà ước, triều đình mật điều Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết về phòng thủ ở quân thứ Tam Tuyên, không cho hoạt động ở Hà Nội nữa. Để yên lòng các tướng, tháng 3 năm Giáp Tuất (3/1874), Triều đình phong Hoàng Kế Viêm làm Hiệp biện đại học sĩ, tước Tử. Tôn Thất Thuyết được phong làm Binh bộ hữu Tham tri, phong tước Nam, Lưu Vĩnh Phúc làm Phó lãnh binh Tam Tuyên. Năm 1881, Tôn Thất Thuyết được phong chức “Thự thượng thư bộ binh”.

   Trong bài Dụ của Tự Đức nhân việc Tự Đức phong chức viết: “Dụ rằng, Nguyên thự Tổng đốc sung Hiệp đốc Tôn Thất Thuyết bị bệnh đã lâu, trước đã chuẩn cho giải chức về điều trị, nhiều lần cấp thuốc thang và cho thăm hỏi, nay lại được khoẻ, lại biết gắng lại xin lai kinh sung chức để báo đáp ơn sâu. Trẫm khen là người có lỗi mà biết sửa đổi... Vậy nên điều bổ cho chức Thự Binh bộ thượng thư, để cho xứng chức”.

   Tháng 6 năm 1883, Tôn Thất Thuyết được sung vào viện Cơ mật.

   Dưới triều Kiến Phúc, Tôn Thất Thuyết trên cương vị phụ chính đại thần, Thượng thư bộ Binh nắm trọn binh quyền đã có nhiều biện pháp mạnh, thực hiện mưu đồ chống Pháp. Đứng đầu phe chủ chiến: ông đã soạn thảo kế hoạch đánh Pháp lâu dài. ông lập công binh xưởng, dựa vào mẫu súng của Pháp cho chế tạo súng trường, súng máy. Ông cũng đôn đốc, đầu tư nhiều tiền bạc, xây dựng Tân Sở thành kinh đô dự bị, khi có biến sẽ rước vua tới đó. Các sơn phòng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng được bổ sung quân và vũ khí. Ông vẫn bí mật liên lạc với các quan văn võ kháng chiến ngoài Bắc vừa chuẩn bị thực lực ở miền Trung. Từ Ninh Bình đến Nghệ An, Quảng Trị ông đều củng cố tổ chức sơn phòng. Tại Nghệ An, ông giao cho Lê Doãn Nhạ khai hoang được 2070 mẫu đất trong núi sâu Nghệ An. Ở Quảng Trị, tại Cam Lộ, sơn phòng to lớn hơn cả tục gọi là Tân Sở. Phủ nha Quảng Trị được đưa vào đấy là nơi hiểm yếu, rộng rãi ở Cam Lộ. Tại đây Tôn Thất Thuyết đã đem châu báu, vàng bạc, lương thực, xây dựng căn cứ địa, khai hoang đất rừng thành ruộng, phòng khi cần vua sẽ lên đó.

   Đầu tháng giêng năm 1884 , Tôn Thất Thuyết lập "Phấn nghĩa quân” giao cho Trần Xuân Soạn tổ chức, huấn luyện. Khi thành lập Phấn nghĩa quân, Tôn Thất Thuyết giữ chức phụ chính đại thần, Hiệp biện đại học sĩ. Lãnh thượng thư bộ Lại và có chân trong viện Cơ mật và kiêm giữ chức Chưởng binh bộ sự vụ, kiêm quản văn ban, phò mã. Vệ uý lãnh kinh thành phó Đề đốc Trần Xuân Soạn trong dịp này được thăng lên Chưởng vệ.

   Tôn Thất Thuyết một mặt tích cực chuẩn bị kháng chiến, một mặt chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tướng lĩnh, quân lính tại ngũ.

   Năm 1886, Tôn Thất Thuyết nhận thấy phong trào kháng chiến có nhiều khó khăn, ông giao nhiệm vụ phò vua, đánh giặc cho các đình thần, hai con là Tôn Thất Đàm 19 tuổi, Tôn Thất Tiệp 15 tuổi, Đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân cùng các quan bảo vệ vua Hàm Nghi rồi cùng Trần Xuân Soạn sang Trung Quốc cầu viện. Trên đường sang Trung Quốc, Tôn Thất Thuyết có ghé lại nhiều nơi có căn cứ kháng chiến như Hương Sơn, Hà Tĩnh của Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích ở Tiên Động, Vĩnh Phúc, Cai Kinh ở Lạng Sơn...

   Tôn Thất Thuyết đề nghị triều đình nhà Thanh giúp Việt Nam đánh Pháp. Khi đó Lý Hồng Chương đang giữ chức Toàn quyền Đại thần Trung Quốc, kẻ đã ký Hiệp ước thân thiện với Pháp đã tâu với Tây Thái hậu đày an trí Tôn Thất Thuyết tại La Đình, sau đưa về đày ở huyện Thiện Quan. Tôn Thất Thuyết hối hận vì mình đã quá tin tưởng vào nhà Thanh đến nỗi cơ nghiệp đổ vỡ thân bị cầm tù. Song ông được nhân dân Trung Quốc quý mến che chở nên vẫn liên hệ được với các đồng chí.

   Phẫn uất vì mình quá tin vào nhà Thanh sang cầu viện, nay về nước cũng không được vì thực dân Pháp đã đàn áp hầu hết các cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, đặt xong ách thống trị ở hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ông về Long Châu dựng một cái lều nhỏ dưới chân đồi sống cô đơn, phẫn uất phát điên, hết khóc lóc lại réo bọn Pháp và Việt gian mà chửi rủa. Ông điên nhưng không phá phách gì của dân, nên dân thương ông thường đem thức ăn cho ông ăn, áo cho ông mặc. Con rể ông là Nguyễn Thượng Hiền cũng cùng hoạt động ở Trung Quốc trong tổ chức Việt Nam Quang Phục hội của Phan Bội Châu cũng bị mật thám Pháp thuê bọn lưu manh Trung Quốc giám sát không dễ dàng gì đến thăm nhạc phụ được. Nguyễn Thiện Thuật cũng chỉ thỉnh thoảng mới đến thăm ông được vì đối với nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương ông vẫn là một quốc sự phạm không thể tự do đi lại. Tôn Thất Thuyết mất vào tháng 3 năm 1913 tại Long Châu, thọ 79 tuổi, trong cảnh cô đơn.

VUA HÀM NGHI

   Ưng Lịch sinh ngày 16 tháng 6 năm Tân Mùi (3/8/1871) là con thứ 5 Hồng Cai, là em Ưng Đăng. Ngày 2/8/1884, triều đình tổ chức lễ đăng quang cho Ưng Lịch lên ngôi vua, hiệu là Hàm Nghi.

   Ngày 1/7/1885, De Courcy từ Hải Phòng vào Huế gây hấn. Trước tình thế không thể nhân nhượng được nữa, đêm 4/7/1885 Tôn Thất Thuyết cùng các tướng phe chủ chiến tấn công đồn Mang Cá, khu nhượng địa, toà Khâm sứ của thực dân Pháp. Sáng ngày 5/7/1885, quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật cùng các quan hộ giá nhà vua và Tam cung rút ra khỏi kinh thành.

   Sáng ngày 9 tháng 7, nhà vua rời thành Quảng Trị để đi Tân Sở. Ở Tân Sở, vua Hàm Nghi có ý định muốn về Huế, Tôn Thất Thuyết giải thích. Hai ngày sau, Tôn Thất Thuyết xin nhà vua phê chuẩn vào chiếu kể tội giặc Pháp, kêu gọi nhân dân nổi dậy Cần vương. Vua Hàm Nghi đọc kỹ tới hai lần rồi nói: "Bây giờ trẫm hiểu vì sao khanh không muốn trẫm về Huế còn bị giặc Pháp chiếm đóng”.

   Ngày 26/7/1885, vua Hàm Nghi phong Phạm Thận Duật làm Bắc Kỳ Khâm sai đại thần ra Bắc Kỳ trước, tổ chức phong trào Cần vương để đón vua.

   Tháng 10/1885 vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết về đóng ở nha sơn phòng Hà Tĩnh.

   Tại Huế, ngày 11 tháng 8 năm Ất Dậu (19/9/1885), thực dân Pháp đưa Ưng Đường (sau đổi là Ưng Kỷ) là con trưởng của Hồng Cai lên làm vua gọi là Đồng Khánh. Đồng Khánh là tên vua bù nhìn tôi tớ cho thực dân Pháp, vừa lên ngôi, hắn đã viết thư cho Tổng thống Pháp: “…Cái ân giúp cho ấy, không biết lấy gì báo đáp, nước tôi xin nhận quý quốc là thượng quốc và xin tuyên bố quý Đô thống đại thần Đơ suy (De Courcy) làm Bảo hộ vương, Khâm sứ Săm pô đại thần làm Bảo hộ công…”

   Tháng 9 năm Ất Dậu (1885), Đồng Khánh ra lệnh tịch thu gia sản của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn. Nếu bắt được Thuyết và Soạn thì xử chém ngay. Đối với vua Hàm Nghi, Đồng Khánh cũng ra đạo dụ và cáo thị ca ngợi công lao của thực dân Pháp; lên án Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết.

   Trong khi Đồng Khánh "bắt” vua Hàm Nghi, đại thần Tôn Thất Thuyết và triều đình Hàm Nghi bằng các đạo dụ, cáo thị thì ngày 22/11/1885 quân Pháp điều một lực lượng lớn quân lính, đặt dưới quyền chỉ huy của trung tá Minhô (Mignot) xuất phát từ Ninh Bình tiến vào phía Nam. Song chúng cũng bị lực lượng nghĩa quân trừng trị thích đáng.

   Mùa xuân năm 1887, quân Pháp hành quân gặp khó khăn, vua Hàm Nghi, Tôn Thất Tiệp quyết định chia quân nhỏ tiến về đồng bằng giải phóng những vùng đã mất. Nhưng lực lượng yếu, không giữ được.

   Trước những khó khăn đó lẽ ra vua Hàm Nghi ra vùng Thanh - Nghệ nơi có phong trào mạnh thì được an toàn.

   10 giờ đêm ngày 30 tháng 10 rạng sáng ngày 11/1/1888, kẻ địch dò biết đích xác vua Hàm Nghi ở trong cái lều tranh trên bờ khe Tá Bào, các tên Trương Quang Ngọc, Nguyễn Đình Tình dẫn đường cho khoảng 200 tên Pháp đi xuyên rừng tới nơi vua ở. Chúng bắt vua đưa xuống thuyền về Thuận Bài. Bọn giặc Pháp đi lùng sục chém chết hết các quan, nghĩa quân, người phu dịch tại chỗ.

   Được tin vua Hàm Nghi tới Thuận Bài, các quan ở địa phương đến bái hạ, nhà vua giả làm như không nhận ai cả. Khi có ông Nguyễn Thuận là thày cũ của mình, vua Hàm Nghi vái chào ngay một cách tự phát. Từ đó giặc Pháp biết đích xác là nhà vua. Chúng đưa vua Hàm Nghi về Cửa Thuận.

   Tuy vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt, nhưng lực lượng kháng chiến vẫn sử dụng niên hiệu, danh nghĩa của vua Hàm Nghi trong các công văn, cáo thị, phong thưởng tướng sĩ. Vì vậy tháng 11/1888, Đồng Khánh ra dụ cấm từ nay không được dùng hai chữ Hàm Nghi, khi cần chỉ cần gọi là Quận công Lịch; cấm không được ai lợi dụng danh nghĩa của vua Hàm Nghi để mưu việc chống lại triều đình. Các tỉnh phải sao dụ này để yết thị khắp nơi, kèm theo chân dung của vua Hàm Nghi.

   Từ cửa Thuận An thực dân Pháp đưa vua Hàm Nghi đi đầy tại một ngôi nhà trên ngọn đồi ở làng ElBiar, cách thủ đô Alger 12 km, nước Angêri.

   Ngày 24 tháng 12/1943, nhà vua qua đời.
TÔN THẤT ĐÀM

   Nguyễn Đàm (Tôn Thất Đàm) là con trưởng quan điện tiền tướng quân Thượng thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết. Năm Hàm Nghi, Ất Dậu (1885), kinh thành Huế thất thủ, Nguyễn Đàm theo cha phò vua ra Quảng Bình, lấy chỗ sơn trại của thổ quan là Trương Quang Ngọc làm nơi vua ở. Ông giữ chức Khâm sai Tán lý quân vụ. Năm 1886, Tôn Thất Thuyết sang Trung Quốc cầu viện, Tôn Thất Đàm được phong Tham tri bộ Binh, sung khâm sai đại thần coi cả việc quân hai tỉnh Hoan (Nghệ An), Ái (Thanh Hóa).

   Tôn Thất Đàm lưu người em là Tiệp ở lại hầu vua, tự mình ra Hà Tĩnh đóng quân ở ngàn Hà Tĩnh, chỗ hai hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, tiếp ứng với nghĩa quân Phan Đình Phùng chống Pháp. Tôn Thất Đàm còn giữ đầu mối liên lạc giữa vua Hàm Nghi với thủ lĩnh Cần vương các nơi.

   Tôn Thất Đàm nhận được tin vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt, em trai hy sinh, ông viết hai bức thư, bức thư thứ nhất gửi vua Hàm Nghi:

   Niên hiệu Hàm Nghi thứ 4 , tháng 11  ngày mùng 8

   Thần Tôn Thất Đàm, Khâm sai chưởng lý Quân vụ cúi dâng ngự lãm.

   Không được gần gũi Hoàng thượng để hộ giá.

   Khi có phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất lớn song đây là mệnh trời xui nên nước ta gặp bước gian nguy và các công thần không được gần Vua để cứu giá.

   Các quan văn võ sẽ mang hận ấy suốt đời, vậy xin Hoàng thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác”.


   Bức thư thứ hai gửi cho Thiếu tá Dabat, sĩ quan Pháp, chỉ huy đồn Thuận Bài.

   Niên hiệu Hàm Nghi thứ 4, tháng 11 ngày mùng 8.

   Khâm sai đại thần Tôn Thất Đàm thư kính sĩ quan Pháp, quản đồn Thuận Bài.

   Những việc khốn nạn vừa xảy ra ở nước tôi bắt buộc tôi phải viết thư cho ngài.

   Cha tôi vì việc nước phải xuất dương chưa về, tôi phải kế cái nghiiệp lớn lao mà vua tôi chẳng quản tôi tuổi trẻ, tài hèn đã phó thác cho tôi.

   Tôi không hiểu sao trời lại xui khiến cho vua phó thác cho tôi cái trách nhiệm quan trọng ấy, và tôi rất tiếc rằng không được ở cạnh vua để cứu giá và giết chết bọn phản thần hoặc cùng chết với em tôi khi quân phản nghịch bắt vua mà nộp cho quân địch.

   Nếu bọn giáo dân không xen vào giữa người Pháp và người Nam thì không bao giờ có chiến tranh. Về phía chúng tôi thì tự nhiên chúng tôi không bao giờ khiêu chiến với người Pháp. Nên chúng tôi có chống với người Pháp chẳng qua chỉ là vì phận sự phải che chở cho bờ cõi và hết lòng trung theo vua khi Ngài rời bỏ Kinh thành.

   Nay chúng tôi bị thua, cái then của chiến bại đã bước đến cùng. Vậy xin ngài cho các tướng sĩ được về quê hương an trí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới.


   Tôn Thất Đàm triệu văn võ thuộc hạ đến, nói:

   - Đàm này tài trí kém cỏi, phòng bị không cẩn để nhà vua mắc nạn là bất trung; cha giao cho việc lớn, mà nay để đến thế là bất hiếu, còn mặt mũi nào đứng trong trời đất. Xin các ông cứ theo chí mình mà làm, nhưng chớ có nhận chức quyền của triều đình mới.

   Ông cũng dặn mọi người rằng: "Nếu Pháp có hỏi gì về ta, hãy bảo chúng vào rừng sâu, núi thẳm mà tìm, chúng sẽ thấy nấm mồ của ta”. Sau đó ông tuẫn tiết.

   Về cái chết của Tôn Thất Đàm có nhiều ý kiến khác nhau. Theo Nguyễn Thượng Hiền trong “Giọt lệ bể dâu” thì Tôn Thất Đàm đến chùa Vàng Liệu tại vùng núi Hà Tĩnh tự sát, lúc ấy ông mới 22 tuổi. Các quan đem táng vào trong núi, sau người miền đó cảm Nguyễn Đàm là bậc trung liệt lập đền thờ hàng năm tế lễ. Theo Việt Nam danh nhân tự điển viết: “... Còn phần tôi , nếu người Pháp có hỏi, các ông cứ bảo họ vào trong rừng này mà tìm mả”. Dứt lời Tôn Thất Đàm trật chiếc khăn đang đội trên đầu thắt cổ tự tử . Theo Gosselin trong sách Le Laos et le Protectorat Rauzais thì Tôn Thất Đàm thắt cổ mà chết; còn Baille, tác giả sách Souvenirs d'Annam thì Tôn Thất Đàm uống thuốc độc.

CÔN PÚA

   Côn Púa, chưa rõ năm sinh, nhưng khi vua Hàm Nghi xuất bôn (7/1885) thì Côn Púa đến tuổi cưa răng (15 tuổi) đã theo cha là Ariay (già làng) đưa đường, bảo vệ, khuân vác vận chuyển đồ đạc cho đoàn xa giá từ Tân Sở, Cam Lộ ngược lên Mai Lĩnh.

   Khi ông phát động cuộc khởi nghĩa chống Pháp thì cả đồng bào Tà Ôi và Vân Kiều đều tham gia tích cực và đều coi ông là thủ lĩnh, là người của dân tộc mình.

   Giặc Pháp biến cái đồn nhỏ ở biên giới Việt Lào của triều đình mở rộng thành nhà tù Lao Bảo đày đọa những người chống Pháp chúng gọi là “quốc sự phạm”. Già làng Côn Púa đã cùng đồng bào các dân tộc Tà Ôi, Vân Kiều giúp đỡ anh em lương thực, quần áo chăm sóc người ốm. Bà con còn đưa đường cho anh em tù "quốc sự phạm” sang tỉnh Savanakhét, nước Lào.

   Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), thực dân Pháp tăng cường khai thác thuộc địa Việt Nam. Côn Púa đã chỉ huy đội vũ trang sử dụng cung nỏ với những mũi tên tẩm thuốc độc tấn công giết sạch một toán lính Pháp. Côn Púa biết bọn Pháp sẽ đến đánh báo thù, ông liền huy động dân làng làm hầm chông, bẫy đá để diệt địch. Quân Pháp điều quân từ Đông Hà, Quảng Trị tấn công vào các làng Tà Ôi, Vân Kiều. Giặc đánh ráo riết. Côn Púa đưa dân làng vào rừng sâu dựng lũy cao, hào sâu làm hầm chông, cạm bẫy đánh Pháp. Côn Púa cũng cho đồng bào phát nương trên núi cao để sản xuất. Ông tập hợp các trai tráng thành đội vũ trang đánh giặc. Côn Púa phát động đồng bào Tà Ôi, Vân Kiều đứng lên đánh Pháp trên một vùng rộng lớn.

   Cuộc kháng chiến chống Pháp của người Tà Ôi, Vân Kiều do Côn Púa phát động từ Hướng Hóa lan nhanh tới A Lưới, đồng bào các dân tộc ở dọc đường số 9, đến các xã miền núi huyện Bến Hải ngày nay. Đồng bào người Việt ở Cam Lộ, Cùa cũng ủng hộ nghĩa quân Côn Púa.

   Mãi đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi già làng Côn Púa đã già yếu nhưng vẫn là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa của đồng bào dân tộc Tà Ôi, thì có những toán quân Pháp chạy vào rừng. Côn Púa lập tức đưa đội vũ trang đến tiêu diệt toàn bộ toán quân Pháp thu vũ khí cùng quân trang.

   Tháng 8 năm 1945, đúng vào ngày 24 tháng 8 khi Việt Minh huyện Hướng Hóa lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa cướp chính quyền huyện, thì già làng Côn Púa dẫn đầu đội vũ trang của đồng bào Tà Ôi được trang bị cung, nỏ và súng cướp được của Pháp vượt rừng núi về tham gia cướp chính quyền.

   Cách mạng tháng Tám thành công, Côn Púa được bầu là Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện. Ông vận động nhân dân Tà Ôi, Vân Kiều, Êđê trong huyện xây dựng cuộc sống mới, thành lập chính quyền cách mạng lâm thời ở các xã. Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Hướng Hóa thành lập Đội biệt động đường 9. Côn Púa tuy đã già nhưng vẫn cùng các chiến sĩ trong đội võ trang năm xưa truyền lại kinh nghiệm xây dựng đơn vị, lập làng chiến đấu, chế tạo và sử dụng các loại chông, các loại bẫy đá... để diệt giặc Pháp.

   Năm 1947, Côn Púa quá già yếu (khoảng 78, 79 tuổi) đã mất. Chính quyền cách mạng, Mặt trận Việt Minh huyện, lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Hướng Hóa vô cùng thương tiếc vị lão chỉ huy du kích trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, cách biệt với thế giới bên ngoài vẫn cống hiến cả cuộc đời dài 60 năm (1885 - 1947) cho cuộc kháng chiến chống Pháp, cho độc lập của dân tộc.
(Theo Danh nhân Bình Trị Thiên - NXB Thuận Hóa).

NGUYỄN PHẠM TUÂN

   Nguyễn Phạm Tuân sinh năm 1842 , người xã Tráng Tiệp, nay thuộc xã Bắc Cử, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông thi Hương khoa Quý Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873). Ông được bổ làm Huấn đạo huyện Bố Trạch, sau thăng tri huyện Tuyên Hóa, sau lại thăng Tri phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

   Ông là người nặng lòng yêu nước, đau buồn vì triều đình đầu hàng, để mất lục tỉnh Nam Kỳ về tay Pháp. Tháng 8 năm 1883, triều đình Huế lại ký Hiệp ước Hác Măng (Harmand), thực tế là văn tự bán nước.

   Nguyễn Phạm Tuân treo ấn từ quan, buồn rầu về nhà tự tử. Người nhà biết đã kịp thời cứu chữa được. Tháng 7 năm 1885 phe chủ chiến đứng đầu là Binh bộ Thượng thư Tôn Thất Thuyết tấn công phủ Khâm sứ và đồn Mang Cá. Song việc không thành, các ông đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, nhà vua hạ chiếu Cần vương, Nguyễn Phạm Tuân nhiệt liệt hưởng ứng mộ quân chống Pháp.

   Tháng 10 năm 1885 vua Hàm Nghi phong cho ông chức Tán tương quân vụ quân thứ Quảng Bình. Tháng 11 năm 1885, Nguyễn Phạm Tuân hoạt động quân sự ở Quảng Bình, mạnh nhất là ở các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch.

   Ông vốn là tâm đắc với Tôn Thất Thuyết, do đó Tôn Thất Thuyết đã ủy thác cho ông nuôi Tôn Thất Trọng khi đó mới lên bảy tuổi, nên Tôn Thất Trọng mang tên là Nguyễn Phạm Trọng. Vì vậy khi Tôn Thất Thuyết phò vua ra sơn phòng Quảng Trị là ông hưởng ứng, mộ quân chống Pháp. Tháng 10 năm 1885 vua Hàm Nghi phong cho ông chức Tán tương quân vụ quân thứ Quảng Bình. Nguyễn Phạm Tuân cùng với Lê Trực là người chỉ huy chiến đấu. Tháng 11 năm 1885, Nguyễn Phạm Tuân hoạt động quân sự ở Quảng Bình, mạnh nhất là ở các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch.

   Năm 1886, Tôn Thất Thuyết sang Trung Quốc cầu viện, đã ủy thác cho ông nuôi giúp Tôn Thất Trọng là con nhỏ của mình khi đó mới 7 tuổi, bởi vậy Tôn Thất Trọng mới mang tên là Phạm Trọng. Ông giữ chức Thượng tướng cùng Đề đốc Lê Trực và Tôn Thất Tiệp, Tôn Thất Đàm phò vua đánh Pháp. Nguyễn Phạm Tuân lập căn cứ ở vùng rừng núi Tuyên Hóa. Nghĩa quân của ông chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công oanh liệt. Có trận ông chỉ huy nghĩa quân đột nhập vào thành Quảng Bình giết Bố chính Nguyễn Đình Dương.

   Ngày 8 tháng 4 năm 1887, lợi dụng tết Nguyên đán, quân ta mất cảnh giác, tên Đại úy Mu tô (Mouteauz) chỉ huy đồn Minh Cầm (Tuyên Hóa) đem lính đến vây làng Cổ Liễu nơi ông đóng quân (Văn thơ yêu nước nửa sau thế kỉ XIX, NXB Văn học viết ông bị bắt ở làng Yên Ninh). Sáng ngày 9 tháng 4 năm 1887, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, nghĩa quân dũng cảm, tiêu diệt nhiều tên. Nhưng Nguyễn Phạm Tuân bị trọng thương và bị sa vào tay giặc cùng với con nuôi là Nguyễn Phạm Trọng. Giặc lục soát thu được cả ấn của vua Hàm Nghi ở nơi ông, chúng đưa ông về đồn Minh Cầm.

   Giặc tìm mọi cách mua chuộc ông để hỏi chỗ ở của vua Hàm Nghi, nhưng trước sau ông không chịu khai, chỉ chửi mắng  giặc Pháp và lũ người Việt làm tay sai cho giặc. Ông không chịu ăn uống, phun nhổ thuốc vào mặt chúng. Ông làm câu đối tỏ rõ ý chí của mình:

         BỊ ĐÃI THỜI TÁC

      Sổ thế quân ân thù nhất tử,
      Thập niên hoạn nghiệp túc tam sinh.

            (Bài ngoại hịch truyện)

Dịch:
         CÂU ĐỐI LÀM KHI BỊ BẮT

      Ơn nước mấy đời, đền một chết.
      Nghềquan mười tuổi, vạn ba sinh.


   Đến nửa đêm 9 tháng 4 ông chết vì vết thương quá nặng. Giặc Pháp vừa hèn hạ vừa tàn bạo ném xác ông xuống song. Một nghĩa quân đã tìm xác vớt ông lên và đem chôn ở trên núi Yên Phong.

   Còn Đồng Khánh, tên vua bán nước hèn hạ đã thưởng cho tên giặc Pháp Mu tô một chiếc khánh vàng, còn lính Pháp, lính ngụy đi theo đều được thưởng tiền.

   Nguyễn Phạm Tuân không chỉ là một nhà giáo dục, nhà quân sự mà còn là một nhà thơ, chúng tôi trích đăng bài: Đề miếu Nguyễn Biểu:

         ĐỀ NGHĨA VƯƠNG MIẾU

      Đông A nhật mộ khởi hoàng phân,
      Mã sâu hoa nguyên thuộc gián thần.
      Năng đạm nhân đầu năng đạm Phụ.
      Thượng tồn ngô thiệt thượng tồn Trần.
      Nhất thanh mạ tặc hưởng thiện địa.
      Bát tư đề điều khấp quỷ thần .
      Thê thảng Bình-Hồ thiên cổ miếu,
      Y y chính khí dẫn thanh phân.


            Hàm Nghi Ất Dậu xuân
         (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập IV. NXB Văn hóa 1963)

Dịch thơ:

         ĐỀ MIẾU NGUYỄN BIỂU

      Đông A ngày tối đám mây vần,
      Ngựa vượt đồng hoa cậy gián thần.
      Hễ nuốt đầu người thì nuốt Phụ.
      Hãy còn tấc lưỡi vẫn còn Trần.
      Một câu chửi giặc vang trời đất,
      Tám chủ đề cầu khóc quỷ thần.
      Miếu cổ Bình-Hồ còn phảng phất,
      Mùi thơm chính khí tỏa lâng lâng.

            (Khương Hữu Dụng dịch)

   (Nghĩa vương tức Nguyễn Biểu, người làng Bình-Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh đời Trần Trùng Quang làm chức ngự sử được cử đi sang gặp tướng nhà Minh là Trương Phụ đóng ở núi Thành (Nghệ An). Phụ dọn cỗ đầu người. Ông lấy đũa khoét lấy con mắt ăn xong ra về. Phụ cho lính đuổi theo, ông biết chắc sẽ bị giết, liền cầm bút viết 8 chữ: “Thất nguyệt sơ nhất nhật Nguyễn Biểu tử - Ngày mồng một tháng bảy Nguyễn Biểu chết" vào cột cầu, rồi trở lại mắng Trương Phụ trước khi bị giết.
   Đông A tức nhà Trần do chữ Trần gồm một bên là bộ phụ của chữ A và một bên là chữ đông.
   Ngựa vượt đồng hoa: Ý nói đi sứ).

LÊ TRỰC

   Lê Trực còn gọi là Lê Văn Trực, sinh năm Tân Sửu (1841), quê làng Thanh Thủy, tổng Tuần Lễ, huyện Minh Chính, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. nay thuộc huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình.

   Năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 11 (1858), ông 28 tuổi, thi đỗ cử nhân võ được sung vào Võ học đường học tập chờ khoa thi Hội. Năm Kỷ Tỵ (1869). Tự Đức thứ 22, qua sát hạch ở Võ học đường ông được tham gia Hội thí, đỗ thứ nhì, hạng thứ trúng cách, song vào thi Đình lại đỗ thứ ba, được ban chức Đệ Tam giáp Tiến sĩ võ xuất thân. Trước năm 1882 từng giữ chức Đề đốc Hộ thành Hà Nội.

   Ngày 3 tháng 4 năm 1882 giặc Pháp do Henri Rivière chỉ huy đổ bộ ra Hà Nội. Theo lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu. Lê Trực cùng các tướng củng cố thành trì, cổng thành được thay bằng cánh mới bằng gỗ lim dầy, tường thành được đắp cao từ 0,5 đến 2 mét.

   Sau khi gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu không được trả lời, 10 giờ ngày 25 tháng 4 năm 1882, Henri Rivière cho bắn đại bác dồn dập vào thành rồi cho quân tấn công. Thành vỡ. Lê Trực lui về quê ở tại Quảng Bình. Tại quê hương, ông vẫn nung nấu ý chí chống Pháp, bí mật liên kết với những người yêu nước chuẩn bị vũ khí. lương thực đợi thời cơ khởi nghĩa đánh Pháp.

   Tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tấn công đồn Mang Cá, Tòa Lãnh sự Pháp, khu nhượng địa Pháp, nhưng việc không thành. Các tướng phải phò giá vua ra Quảng Trị, nhà vua hạ chiếu Cần vương. Lập tức Lê Trực cùng các đồng chí hưởng ứng, chiêu mộ quân dựng cờ khởi nghĩa kéo quân lên thượng nguồn sông Gianh xây dựng căn cứ.

   Lê Trực được vua Hàm Nghi phong là Đề đốc, cho dự việc quân cơ với các đại thần. Ông vốn là người Quảng Bình, là Lãnh binh lại thông thuộc địa hình vùng núi Quảng Bình nên được các đại thần giao cho việc chỉ huy xây dựng các đồn trại.

   Tháng 12/1885, sau khi quân Pháp chiếm được Vinh liền cho quân ngược sông Ngàn Sâu tiến vào trung tâm kháng chiến của vua Hàm Nghi. Lê Trực xin đem nghĩa quân đi đánh trận đầu với quyết tâm thắng lợi để tăng sĩ khí cho quân ta và gây nỗi khiếp đảm cho quân Pháp.

   Tháng 3/1886, Tôn Thất Thuyết sang Trung Quốc cầu viện, bên cạnh vua Hàm Nghi chỉ còn Tôn Thất Đàm, Tôn Thất Tiệp, Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân. Tình hình ở Quảng Bình hết sức khó khăn vì quân Pháp đóng nhiều đồn bốt vây quanh căn cứ của vua Hàm Nghi. May sao khi đó ở Bắc Kỳ, quân ta đánh mạnh, quân Pháp phải rút bớt lực lượng ở Trung Kỳ ra Bắc. Nhân đó Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân đem quân vây hãm Quảng Khê, Chợ Đồn, Đồng Hới. Song quân Pháp tuy lực lượng ít, nhưng được trang bị vũ khí hiện đại, chống trả quyết liệt, nên nghĩa quân không tiêu diệt được mục tiêu. Đến tháng 11/1886 nghĩa quân do Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chỉ huy đã đánh bật hai cuộc hành quân của quân Pháp vào Nam Lưu.

   Vua bù nhìn Đồng Khánh, tay sai đắc lực của thực dân Pháp sai Hoàng Kế Viêm ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi và các quan đầu hàng, bị thất bại, tên đại úy Mutê chỉ huy đồn Minh Cầm viết thư dụ hàng Lê Trực tới ba lần, đều bị Lê Trực vạch mặt là quân Pháp chia rẽ lương giáo.

   Trong bức thư cuối cùng Mutê buộc Lê Trực đầu hàng không điều kiện, nếu không sẽ bị bắn chết, Lê Trực khảng khái trả lời: "Tôi vì vua vì nước sống chết một lòng chứ không dám vì tham sống mà quên nghĩa”.

   Ngày 19/6/1887, Mu tê đánh úp căn cứ của Lê Trực ở vùng núi Thanh Thủy vào ban đêm. Hầu hết các bộ tướng nghĩa quân như Phạm Tường, thủ hạ số 1 của Lê Trực, cả vợ con Lê Trực cũng bị bắt. Lê Trực chạy thoát vào ẩn náu trong rừng một thời gian.

   Đối với những người bị bắt giặc đưa Phạm Tường về làng Thọ Ngoã quê ông để hành hình, còn tất cả mọi người không kể lớn bé, già trẻ đều bị giết ở Minh Cầm.

   Lê Trực tập hợp được một số nghĩa quân tiếp tục chiến đấu, ông không ở nơi nào cố định, xuất quỷ nhập thần đánh giết quân Pháp khiến cho quân Pháp hoảng loạn..

   Cuối năm 1887, đầu năm 1888, Tôn Thất Tiệp, Tôn Thất Đàm, Lê Trực phá thế bao vây của giặc Pháp, đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở Hà Tĩnh, Quảng Bình. Cuối hè năm 1888 tình hình nghĩa quân Quảng Bình được cải thiện. Nhưng ngày 1 tháng 11 năm 1888, tên Trương Quang Ngọc và tên Nguyễn Đình Tình ở trong đội bảo vệ nhà vua làm phản đưa quân Pháp vào bắt vua. Tôn Thất Tiệp cầm kiếm xông ra bị một tên giặc đâm lén chết. Tôn Thất Đàm nhận được tin, họp các quan căn dặn các quan không nên theo giặc rồi vào rừng thắt cổ tự tử.

   Vua bị bắt, các đại thần bị giết hại, sự nghiệp không còn gì, trong khi đó giặc vẫn giết hại nhân dân để truy bức ông. Cuối tháng 12 ông tự ý ra cho giặc bắt để chúng khỏi giết hại nhân dân. Đồng Khánh và bọn quan Nam triều muốn giết ông, nhưng thực dân Pháp muốn mua chuộc ông nên giam giữ ông một thời gian rồi đưa về quê quản thúc.

BẠCH XỈ

   Bạch Xỉ tên thực là Đoàn Chí Tuân, còn có tên là Đoàn Đức Mậu, Bạch Xỉ chỉ là hiệu. Ông sinh năm 1855, người làng Hà Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, dòng dõi nho học, có truyền thống yêu nước.

   Ông học giỏi nhưng không đi thi. Năm ông 17 tuổi (1873), giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Ông đã đi khắp các tỉnh, giao kết với bạn bè đồng chí hễ có thời cơ là nổi dậy đánh đuổi giặc Pháp.

   Năm 1885, ông 30 tuổi, khi vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng, hạ chiếu Cần vương, ông đến sơn phòng Hà Tĩnh đón xa giá vua để phò vua giúp nước. Tôn Thất Thuyết không trọng dụng, ông liền về quê ở Hòa Ninh mộ quân đánh Pháp. Chỉ trong vòng 2 tháng, ông mộ được 490 người. Điều đặc biệt là ông không như các sĩ phu khác nêu khẩu hiệu “Bình Tây, sát tả”, coi đạo Thiên chúa cũng là kẻ thù, mà ông thực hiện đoàn kết lương giáo. Trong đội quân của ông có 25 người theo đạo Thiên chúa. Ông quyên tiền mua được 21 khẩu súng bắn nhanh, sản xuất 40 cung nỏ cùng hàng trăm đao, kiếm, giáo mác, 22 ngựa chiến. Dân chúng ủng hộ lương thực đủ nuôi quân trong 2 năm. Song địa thế ở Hòa Ninh trống trải lại bị tên cố đạo cản trở, Bạch Xỉ phải chia quân làm ba bộ phận hợp tác với các thủ lĩnh khác để chiến đấu. Trong 4 năm (1885-1888), nghĩa quân do ông tổ chức. huấn luyện, trang bị vũ khí, cung cấp một phần quân lương ở cả ba chiến trường đều chiến đấu dũng cảm gây cho quân Pháp và quân triều đình Đồng Khánh bị tổn thất nặng nề. Do nghĩa quân Bạch Xỉ, Hoàng Phúc hoạt động mạnh, gây cản trở làm cho cuộc Bắc du các tỉnh Bắc Huế của Đồng Khánh khởi hành ở Huế ngày 17/6/1886 diễn ra một cách tẻ nhạt.

   Hoàng Phúc hy sinh, Bạch Xỉ chỉ huy nghĩa quân cùng với nghĩa quân do Nguyễn Hưng Vinh phối hợp với nghĩa quân Cao Thượng Chí và nghĩa quân do Đinh Hiển chỉ huy phối hợp với nghĩa quân Mai Lượng chỉ huy liên tiếp trong 2 năm 1887, 1888 đánh thắng quân Pháp nhiều trận.

   Chỉ có Bạch Xỉ và nghĩa quân Hòa Ninh vẫn tiếp tục chiến đấu. Ông thu thập số nghĩa quân Cao Thượng Chí và Mai Lượng, tuyển thêm quân, được đồng bào ủng hộ trên 60 thúng lúa, ngô. Bạch Xỉ đem quân gia nhập nghĩa quân Hương Sơn do Phan Đình Phùng chỉ huy. Nghĩa quân sáp nhập vào nghĩa quân Hương Khê. Bạch Xỉ trở thành một bộ tướng bên cạnh Cao Thắng, Nguyễn Chánh tại đại bản doanh.

   Trong 2 năm (1888-1889) nghĩa quân Bạch Xỉ trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã đóng góp tích cực vào các trận chiến thắng của nghĩa quân Hương Khê.

   Bạch Xỉ nhiều lần đề nghị với Phan Đình Phùng lập vua mới để kế tiếp vua Hàm Nghi. Phan Đình Phùng và các tướng cực lực phản đối. Song ông vẫn kiên trì đề nghị trên và còn đề nghị liên kết lương giáo chống Pháp. Phan Đình Phùng và các tướng nghi ngờ ông về lòng trung thành với Tổ quốc. Bạch Xỉ bí mật rút hết quân sĩ về Đại Hàn, cố tìm người trong Hoàng tộc để Tôn quân diệt địch, nhưng không tìm được. Ông lợi dụng sấm Trạng Trình có câu: "Bạch Xỉ sinh, thiên hạ bình” và câu thơ truyền miệng trong dân gian: Một lũ thày tăng (thằng Tây) ra trị nước, có ông Bạch Xỉ mới nên đời, liền lên ngôi, hiệu là Long Đức hoàng đế; cắt đặt 28 thủ hạ vào các chức vụ của triều đình, gọi là nhị thập bát tú. Ông truyền hịch kêu gọi nhân dân lương cũng như giáo mau mau đứng lên kháng chiến cứu quốc.

   Ông được một số người cả lương và giáo ở các huyện Hương Khê, Hương Sơn, Kỳ Anh hưởng ứng, đưa số quân khi rút khỏi Hương Khê có 450 người lên trên 600 người và ủng hộ lương thực. Bạch Xỉ đánh quân Pháp ngay trên chiến trường do Phan Đình Phùng chỉ huy. Nghĩa quân Bạch Xỉ đã đánh thắng quân Pháp nhiều trận, tiêu biểu như:

   - Giữa tháng 5/1892 nghĩa quân phục kích đoàn vận tải từ Minh Cầm lên đồn Tri Bản và Hương Khê ở tả ngạn sông Ngàn Xâu. Đội quân cung nỏ bắn chặn bọn lính khố xanh đi đầu và đi cuối. Đội nghĩa quân ở trên cao nổ súng uy hiếp để đội quân ở giữa dùng đoản đao, mã tấu chém giết bọn lính vận tải. Bạch Xỉ còn bố trí một đội quân chặn viện từ đồn Tri Bản lên. Kết quả bọn địch bị chết và bị thương gần hết, nghĩa quân thu 9 súng, 15 hòm đạn, 12 gánh quân lương.

   - Tháng 1/1893 nghĩa quân phục kích toán lính khố xanh đi chợ Phiên Un, diệt gọn, thu 7 súng, nhiều gánh hàng.

   - Tháng 6/1894, giữa mùa nắng, gió Tây Nam thổi mạnh. Đang đêm nghĩa quân đem quân đốt hàng rào, gió thổi vào đồn cháy nhà cửa và bắn súng vào. Bọn giặc bị chết bỏng và trúng đạn rất nhiều.

   Ngày 18/12/1895, Phan Đình Phùng mất sau khi bị thương trong một trận đánh, giặc Pháp tổ chức các trận đánh lớn vào căn cứ Hương Khê để bắt các tướng lĩnh và nghĩa quân, Bạch Xỉ tổ chức một số trận đánh, thu hút hỏa lực về phía mình. Tháng 3/1895, Bạch Xỉ chỉ huy quân tấn công đồn Tri Bản, đặt hầm chông, quân giặc đuổi theo, sa xuống hầm chông bị chết và bị thương một số.

   Tháng 5/1896 , giặc Pháp cơ bản đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Hương Sơn, tập trung toàn bộ quân lực đánh Bạch Xỉ. Chúng bắt trói Bạch Xỉ khiêng về nhà lao Vinh dụ dỗ không được chúng tra tấn ông đến chết ở nhà lao Vinh vào cuối năm 1897.

   Bạch Xỉ anh dũng hy sinh năm 42 tuổi, đã cống hiến cả cuộc đời cho Tổ quốc.

   Ngoài ra, Bạch Xỉ còn là một nhà thơ. Thơ của ông được giới thiệu cùng tiểu sử trong tập "Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX”  và sách “Hợp tuyển thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX”, trong tập “Thi văn các nhà chí sĩ Việt Nam” của Phi Bằng, NXB Tâm Thanh Huế (1934).

HOÀNG THỊ TÁM

   Hoàng Thị Tám là con gái ông Hoàng Văn Phúc một thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Nam Quảng Bình. Tuy ít tuổi nhưng nhờ giỏi võ, mưu lược, cô trở thành một tham mưu tài giỏi của cha. Khi ra trận cô luôn đi hàng đầu, làm gương cho quân sĩ. Ông Hoàng Phúc hy sinh, nghĩa quân tan rã. Hoàng Thị Tám càng nung nấu chí căm thù giặc Pháp quyết trả thù cho cha và nghĩa quân đã hy sinh. Tới Hà Tĩnh cô thuê một căn nhà mở cửa hàng bán than tìm cách liên lạc với nghĩa quân Phan Đình Phùng.

   Trong khi chưa tìm được chủ soái, cô nghĩ mình xa lạ, lại là phận gái không thể đứng ra chiêu tập nghĩa quân được, song cô có cách đánh riêng đó là làm binh vận. Cô gặp gỡ lính tập, trò chuyện, còn đãi đằng rượu thịt chúng, cô khơi gợi tình nghĩa vợ con, làng xóm đang phải sống lầm than, đất nước thì chìm đắm trong vòng nô lệ. Vậy ai gây nên cảnh đó, chính là giặc Pháp và vua quan bán nước. Cô khuyên họ bỏ súng về nhà, nếu có điều kiện thì đem súng lên rừng tham gia kháng chiến chống Pháp. Thấy cô qua lại trò chuyện, lại đãi đằng cả rượu thịt cho lính tập, dân phố tỏ ý khinh cô ra mặt. Song Tám vẫn bền lòng cam chịu chờ đến thời cơ. Lòng kiên trì của Tám đã đem lại kết quả là một số lính bỏ về quê quán, số khác đem súng lên rừng theo nghĩa quân. Số còn lại không chịu đi tập, đi hành quân đánh nghĩa quân. Giặc đổi số lính tập đó đi nơi khác, cho mật thám theo dõi Tám. Cô liền thuê thuyền tới Hương Sơn nơi có căn cứ của cụ Phan Đình Phùng. Phan Đình Phùng đã biết đến cô gái cắp gươm theo hầu cha từ năm trước khi ông vào gặp tướng Hoàng Phúc. Nhưng vốn là người thận trọng, cụ Phan cho rằng nếu chỉ có lòng căm thù giặc thì chưa thể đánh thắng giặc được, mà phải có tài cầm quân, có mưu lược, nên lưu cô lại đại bản doanh chờ thử thách.

   Dăm ngày sau, người chỉ huy đội tuần tra về bẩm báo với Phan Đình Phùng là có khoảng 30 lính tập, vũ trang đầy đủ do một viên quản chỉ huy đến đóng ở ngôi miếu cách căn cứ khoảng 30 dặm. Hoàng Thị Tám tình nguyện xin đi bắt sống bọn lính đó, không tốn một viên đạn, chỉ xin đến ngày thứ ba ông Phan cho 20 nghĩa quân đem thừng đến miếu trói giặc. Tám rời căn cứ, đến cái chợ cách miếu khoảng mươi dặm, cô vào chợ mua quang gánh, nồi niêu, bát đĩa, rượu thịt. Ngay sau đó cô gánh hàng đến gốc đa gần ngôi miếu nơi bọn lính trú quân. Cô bán rẻ, lại nói cười có duyên nên chúng hả lòng, hả dạ. Hôm sau bọn chúng kéo đến đông hơn và đích thân tên quản bảo sáng mai cô đem nhiều rượu thịt vào hẳn trong miếu bán cho chúng. Đúng hẹn, Tám gánh hàng đến, nhưng chúng không thể ngờ rượu đã được bỏ thuốc mê. Cô vừa tới bọn lính đã xúm xít đứa dắt tay đứa kéo cô vào trong miếu. Cô Tám rót rượu cho tất cả mọi đứa, không bỏ sót một ai. Nhưng chỉ đến chén thứ ba, có đứa chưa hết chén thứ hai đã ngấm thuốc, đứa nằm, đứa ngồi gục đầu xuống gối ngủ mê mệt. Chính lúc đó 20 nghĩa quân xuất hiện trói chúng thu súng, dội nước lã cho chúng tỉnh rồi áp giải về căn cứ. Phan Đình Phùng đã khen ngợi cô và giao cho cô chỉ huy đội nữ trinh sát địch vận.

   Khi đó Cao Thắng chế tạo được rất nhiều súng bắn nhanh theo kiểu 1874, Reminton của quân Pháp, song thuốc đạn thì hiếm. Hoàng Thị Tám lãnh trách nhiệm sang Xiêm La mua thuốc súng. Cô cùng đội nữ trinh sát, địch vận chuyển nhiệm vụ gánh muối, cá khô, quế thanh sang Xiêm bán, và nhờ những người Việt yêu nước ở Xiêm La mua thuốc súng để đội của cô chuyển về. Trong mấy năm đội của Tám đã chuyển về nước tới năm, bẩy ngàn cân thuốc súng cùng hàng ngàn hạt nổ.

   Sau khi Cao Thắng hy sinh được ít lâu thì Phan Đình Phùng bị thương rồi mất, từ đó không ai biết cô Hoàng Thị Tám ở đâu, có người nói cô phẫn uất, lâm bệnh chết trong rừng, có người nói cô ở lại Xiêm. Nay thị xã Đồng Hới có một đường phố mang tên cô Tám.

PHAN ĐÌNH PHÙNG

   Phan Đình Phùng tự là Nhân Trai, hiệu Châu Phong sinh năm Giáp Thìn (1844). Ông người làng Đông Thái, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Đức Phong, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh

   Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, nhiều người đỗ đạt cao. Ông là người hiếu học, thông minh, đậu cử nhân khoa Bính Tý (1876), đậu Đình nguyên Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1877). Sơ bổ làm Tri huyện huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Năm Tự Đức thứ 31 (1878) ông về Kinh đô Huế sung chức Ngự sử Đô sát viện.

   Tính tình ông thẳng thắn, nhưng yêu nước thiết tha, nên từ chức Ngự sử Hình khoa chưởng ấn trong triều, ông về Hà Tĩnh chỉ giữ chức Tham biện sơn phòng dưới quyền chánh quản sơn phòng Nguyễn Chính, phó quản sơn phòng Phan Trọng Mưu, nhưng vẫn dốc lòng làm hết phận sự.

   Được sự tham mưu của Phụ chính Đại thần Tôn Thất Thuyết tháng 11/1884 , vua Hàm Nghi đã ban dụ cho củng cố sơn phòng Hà Tĩnh, ông được phục chức rồi bổ làm Tham biện sơn phòng Hà Tĩnh. Phan Đình Phùng còn chiêu mộ dân địa phương chế tạo cung nỏ, tên tẩm thuốc độc, còn cùng Chánh, phó sơn phòng sứ đặt thêm chức Nha sơn phòng sứ ở Đông Chi thuộc huyện Hương Sơn.

   Phan Đình Phùng một lòng vì nước, vì dân đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết. Khi vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị, ông đến bái yết, được phong làm Tán lý quân vụ coi các nghĩa quân chống Pháp ở Nghệ An - Hà Tĩnh. Ông theo lời Tôn Thất Thuyết đứng lên mộ quân chống Pháp và lãnh trọng trách thống nhất các lực lượng nghĩa quân. Ông dựa vào địa hình rừng núi suối ngòi ở xã Đông Thái, Hương Sơn (Vụ Quang) một vùng rừng núi quanh co, hiểm trở lập căn cứ chống Pháp lâu dài.

   Phan Đình Phùng tổ chức nghĩa quân làm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 600 nghĩa quân. Đại đồn Vụ Quang, nơi đóng đại bản doanh của nghĩa quân, nơi làm việc của Tán lý Phan Đình Phùng thường xuyên có 500 quân trở lên.

   Phan Đình Phùng không dựa vào đồn luỹ để cố thủ mà dựa vào sự hiểm trở của núi rừng sông suối, xây dựng trận địa. Nghĩa quân phối hợp việc đánh địch tại căn cứ với việc tập kích, phục kích giặc, phát động phong trào toàn dân đánh giặc.

   Ngay từ buổi đầu kháng chiến, ông đã nhận thức muốn chống Pháp thuận lợi phải có sức mạnh toàn dân. Vì vậy sau khi đưa tổ chức nghĩa quân của Nghệ - Tĩnh vào nề nếp, ông giao cho Cao Thắng - một viên tướng trẻ nhưng có năng lực tiếp tục củng cố lực lượng kháng chiến, tổ chức các cuộc chiến đấu ở Nghệ Tĩnh, còn ông ra Bắc vận động các lực lượng chống Pháp thống nhất hành động.

   Năm 1888, Phan Đình Phùng ở Bắc về trực tiếp lãnh đạo phong trào. Thanh thế của nghĩa quân Phan Đình Phùng ngày càng lớn mạnh.

   Năm 1889, Phan Đình Phùng bắt tên phản bội Trương Quang Ngọc kẻ đưa đường cho giặc Pháp bắt vua Hàm Nghi, về trị tội.

   Tháng 10/1894, với kế " Sa nang úng thủy", nghĩa quân đã làm cho 3 sỹ quan Pháp và nhiều binh lính Pháp, lính Nam bị nước cuốn trôi mất xác. Không tiêu diệt được bằng quân sự. tháng 5/1894, Toàn quyền La nét xăng (Lanessen) sai Hoàng Cao Khải viết thư cho người đem đến dụ ông hang, song không được, chúng lại bắt thân nhân quật mả tổ tiên của ông, ông vẫn không nản. Giặc cho tên Tiễu phủ sứ Lê Kinh Hạp đến để bắn giết người anh ruột của ông là Phan Đình Thông. Ông khẳng khái nói: Nay tôi chỉ có một ngôi mộ to nên giữ là nước Việt Nam, tôi chỉ có một ông anh rất to đang bị lâm nguy là mấy triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang lại phần mộ của tổ tiên riêng mình thì ngôi mộ của cả nước kia ai giữ? Về để cứu sống ông anh của riêng mình, thì còn bao nhiêu anh em trong nước ai cứu?

   Phan Đình Phùng vẫn quyết tâm kháng chiến một lòng, một dạ vì dân, vì nước. Đến cuối năm 1895, ông bị thương trong một trận giao chiến đẫm máu với quân Pháp, lại mắc bệnh lị nặng. Biết mình không qua khỏi, ông làm bài thơ tuyệt mệnh:

         LÂM CHUNG THỜI TÁC

      Nhung trường phung mệnh tập canh đông
      Vũ lược y nhiên vị tấn công
      Cùng lộ ngao thiên nan trạch nhạn.
      Phỉ đồ biến địa thượng dồn phong,
      Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại,
      Tứ hải nhân dân thuỷ hoả trung,
      Trách vọng dũ long ưu dũ đại
      Tướng môn thâm tự quý anh hùng.


Dịch thơ:

      Nhung trường vâng mệnh đã mười đông
      Vũ lược còn chưa lập được công.
      Dân đói kêu trời xao xác nhạn
      Quân gian chật đất rộn ràng ong.
      Chín lần xa giá non sông cách,
      Bốn bể nhân dân nước lửa nồng,
      Trách nhiệm càng cao, càng nặng gánh
      Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng.

               (Trần Huy Liệu dịch)

   Phan Đình Phùng mất ngày 28 tháng 12 năm 1895 khi mới 49 tuổi.

CAO THẮNG

   Cao Thắng sinh năm 1864 người thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ (nay thuộc xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Giặc Pháp xâm lược, ban đầu vào năm 1874 ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Trần Quang Cán lãnh đạo, sau sáp nhập vào lực lượng của Trần Tấn, Đặng Như Mai.

Năm 1885 Phan Đình Phùng hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi khởi nghĩa, thì Cao Thắng cùng với em trai là Cao Nữu, bạn là Nguyễn Kiểu chiêu mộ quân về theo. Ba người chiến đấu xuất sắc, lập được nhiều chiến công, đều được phong là Quản cơ. Khi Phan Đình Phùng ra Bắc liên minh với các thủ lĩnh ở Bắc Kỳ đã giao cho Cao Thắng phát triển lực lượng ở Nghệ - Tĩnh, ông đã cùng Cao Nữu, Nguyễn Niên, Nguyễn Kiểu về ẩn phục trong rừng thuộc làng Lê Đông, huyện Hương Sơn. Từ đây các ông toả đi các huyện chiêu nạp quân sĩ đưa về rừng Lê Đông huấn luyện quân sự. Cao Thắng còn cướp súng giặc làm mẫu để chế tạo ra hàng loạt súng kiểu 1874 của Pháp. Bấy giờ quân Pháp mới đóng đồn ở Hạ Trại, đồn còn đóng tạm, chưa có hào. Cao Thắng, Cao Đạt bàn kế hoạch đánh chụp (đánh úp) để cướp súng. Hai ông đem 40 nghĩa quân, trang bị đoản đao, lợi dụng trời tối đột nhập vào đồn, giết và làm bị thương hơn 20 tên, cướp được 24 khẩu súng và mấy ngàn bạc.

Nhưng muốn đánh thắng giặc thì phải có nhiều súng vì thế phải chế tạo lấy súng đạn. Cao Thắng cho người về làng rèn Trung Lương, huyện Can Lộc đưa 16 thợ rèn giỏi về căn cứ tìm cách chế tạo ra súng đạn. Mặc dù súng do các ông chế tạo không hoàn hảo song cũng có thể dùng được. Thâu ngày thâu đêm các ông làm gấp được 500 khẩu súng (Theo báo cáo của Lenormaud: "Có đến 1200-1500 khẩu súng do Cao Thắng sản xuất đã được nghĩa quân Phan Đình Phùng sử dụng năm 1895. Nếu kể cả súng bị huỷ hoại do các xưởng chế tạo của Cao Thắng bị quân Pháp tiến đánh thì có thể đã có nhiều ngàn súng kiểu Tây được sản xuất như vậy rồi").

   Từ khi chế được một ít súng, thanh thế của nghĩa quân Cần vương ở Nghệ Tĩnh ngày một mạnh.

   Cao Thắng bố trí quân chặn đánh quân Pháp và quân triều đình ở Tĩnh Di. Đến bốn giờ chiều Cao Thắng thấy quân Pháp và quân triều đình đã mệt mỏi và có ý khinh thường, dàn quân ra mai phục ở giữa rãnh đồng khoai. Ông lấy đội quân tính nhuệ ra khỏi tầm đạn của địch. đi vòng ra phía cạnh sườn phải của quân địch. Đội quân của chính phủ đương khi bất ý, nghe thấy tiếng súng liên thanh đổ vào cạnh sườn mình, nghe thấy tiếng nổ hình như ở bên lỗ tai. Đột nhiên tiếng người kêu cứu, tiếng người rên thở rầm rĩ cả lên. Quân chính phủ bị chết và bị thương lên đến hơn 50 người. Quân sĩ lộn xộn, tinh thần chiến đấu không còn, thấy vậy mấy viên mẫu binh (sĩ quan Pháp) cho thổi kèn, quân sĩ vội vàng tháo lui chẳng theo hàng lớp gì.

   “Thấy quân địch lộn xộn rút lui nên quân ở trận tuyến chính cũng nhẩy lên tấn công. Đạn ở mặt trước bắn sang, đạn ở mặt sườn bắn lại, hai bên đều giáp công, quân chính phủ rút lui rất vất vả.

   Nhờ có trận đánh đó lòng sốt sắng của nhân dân lại hưởng ứng lên nhiều và danh tiếng ông Cao Tất Thắng cũng thêm lừng lẫy”
(Nguyễn Phan Quang, bài Cao Thắng chế tạo súng kiểu Tây. Nghiên cứu lịch sử số 291 (3, 4/1997). Nguyễn Phan Quang chỉ viết trận này xảy ra vào năm Kỷ Sửu (1889), không viết rõ ngày tháng).

   Năm 1892, Cao Thắng dùng mưu bắt sống Tuần vũ Đinh Nho Quang làm chấn động dư luận Nghệ Tĩnh.

   Ngày 14 tháng 10 năm Quý Tỵ, tức ngày 21 tháng 11 năm 1893 , Cao Thắng tình nguyện dẫn đội quân cảm tử tấn công xuống Nghệ An, đốt phá nơi đóng quân, kho tàng của địch để gây thanh thế cho nghĩa quân. Sau khi chiếm được mấy đồn, đến đồn Nu, nay thuộc xã Thanh Xuân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, ông hăng hái dẫn đầu đoàn nghĩa quân xông lên bị tên Phiến bắn ông bị trọng thương rồi hi sinh năm ông mới 29 tuổi. Tại làng Khê Thượng, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh nhân dân lập đền thờ Cao Thắng.

LÊ NINH

   Lê Ninh, vì là con quan nên còn gọi là Ấm Ninh, hiệu Mạnh Khang sinh năm 1857. Ông là con quan Bố chính Lê Kiêm, người xã Trung Lễ, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Đức Trọng, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh.

   Lê Ninh lớn lên trong lúc giặc Pháp đưa quân ra đánh chiếm  Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Với chí khí đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, khôi phục chủ quyền đất nước. Lê Ninh không học lối khoa cử thi đỗ làm quan mà ông chỉ ham tập võ nghệ, đọc binh thư để sau này cứu nước. Ngay từ khi giặc Pháp chưa đánh Bắc Kỳ lần thứ hai (1882). Lê Ninh đã lặng lẽ chuẩn bị kháng chiến, đem của cải trong nhà ra chiêu mộ hào kiệt các nơi, sắm sửa vũ khí, mua ngựa chiến, luyện quân, biến nhà mình thành đại bản doanh của nghĩa quân, lập căn cứ ở làng Trung Nghĩa, xã Cổ Ngư.

   Khoảng tháng 9 năm 1885, sau hơn một tháng kể từ ngày Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn tấn công Toà Khâm sứ Pháp, đồn Mang Cá, Khu nhượng địa Pháp ở Kinh thành Huế (đêm 4 rạng ngày 5/7/1885) không thành. Tôn Thất Thuyết rước vua ra sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương. Lê Ninh đem quân xuống đánh tỉnh thành Hà Tĩnh, giết Bố chính Lê Đại là kẻ theo Pháp (Lê Đại người xã Phan Xá, huyện Phong Doanh, nay là huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Tỵ, Tự Đức 22 (1869) làm Bố chánh Hà Tĩnhh. Khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, Đại cùng quan văn, quan võ tỉnh Hà Tĩnh đều theo nghĩa quân. Nhưng sau phản lại theo quân Pháp và vua Đồng Khánh phản công nghĩa quân. Lê Đại bị Lê Ninh giết trong trận đánh thành Hà Tĩnh).

   Đánh xong ông thu chiến lợi phẩm rồi lên sơn phòng Hà Tĩnh yết kiến vua Hàm Nghi. Vua phong ông làm Bang biện quân vụ phối hợp với Phan Đình Phùng xây dựng căn cứ chống Pháp ở Trung Lễ. Quân Pháp cùng tên tay sai Nguyễn Thân đem quân đến triệt hạ làng Trung Lễ, tàn sát người già. trẻ em (Nguyễn Thân tay sai đắc lực của thực dân Pháp người huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi). Lê Ninh lên vùng Bạch Sơn phối hợp với nghĩa quân Phan Đình Phùng giết giặc. Lê Ninh chiến đấu kiên cường dũng cảm. Ở căn cứ ông còn làm nhiều thơ phú ca ngợi cảnh đẹp của đất nước và chiến công tố cáo tội ác của giặc Pháp. Sau đây là bài Tự vịnh.

         TỰ VỊNH

      Hồi ức tiền niên nhập Tĩnh thành
      Bồi hồi ngũ dạ quý hư danh.
      Tâm phao vạn tuyến cương thường trọng
      Thân lịch thiên trùng chương vụ khinh
      Đãi đán hữu hoài phù địa trục,
      Chẩm qua khả tất yết thiên kinh.
      Thuỷ chung hoà tự hoàn ngu tống.
      Lam thuỷ, Hồng Sơn thệ thử sinh.

            (Tuyển tập thơ văn Việt Nam tập IV, NXB Văn hoá. 1953)

Dịch thơ:

      Nhớ lại năm qua lấy Tĩnh thành.
      Suốt đêm khắc khoải thẹn hư danh
      Lòng vò trăm mối cang thường trọng
      Thân trải muôn trùng chướng khí khanh
      Trục đất ước xang chờ sáng gấp,
      Đạo trời muốn tỏ gối gươm linh
      Chứ hoà ngu cả tôi vua Tống
      Thề với Hồng Lam trọn kiếp mình.

            (Khương Hữu Dụng dịch)

   Năm 1887, Lê Ninh ốm mất tại căn cứ. Nghĩa quân sợ quân giặc trả thù đào mả, đem thi hài ông chôn giấu ở bãi dâu quê vợ ông ở làng Phục Hậu, huyện Hưng Nguyên. Em trai và các con ông là Lê Khai, Lê Phác,. Lê Trực thay ông chỉ huy nghĩa quân trong cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng.

PHAN ĐÌNH THÔNG

   Phan Đình Thông là con ông Phan Đình Tuyển, ông Tuyển có hai bà, bà cả sinh ra Phan Thị Đạt, Phan Đình Thông, Phan Đình Thuật, Phan Đình Tuấn, Phan Đình Phùng, Phan Đình Vận. Phan Đình Thông đỗ tú tài. Quê ở làng Đông Thái nay là xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.(Phan Đình Thông đã dỗ cử nhân, Phan Đình Tuấn mất sớm, Phan Đình Phùng đỗ Đình nguyên tiến sĩ. Phan Đình Vận đỗ phó bảng).

   Ông là người nuôi Cao Thắng làm con nuôi, dạy cho Cao Thắng võ nghệ và lòng yêu nước. Trong thời gian làm con nuôi Phan Đình Thông, Cao Thắng đi học nghề rèn, nhờ đức tính cần cù và sáng dạ, Cao Thắng trở thành một thợ cả tài giỏi, nổi tiếng trong vùng.

   Năm 1885, khi Phan Đình Phùng hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi chiêu tập nghĩa quân đánh Pháp thì Phan Đình Thông và con nuôi đều tham gia. Phan Đình Phùng xây dựng Đông Thái thành một đại đồn. Quân Pháp và Hoàng Cao Khải đưa đại quân đến đánh. Phan Đình Thông cùng em vượt vòng vây. Phan Đình Phùng về căn cứ Hương Sơn, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, Phan Đình Thông đem quân đóng ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Cuối năm 1886, ông đóng quân ở đồn binh tại huyện Thanh Chương thì bị một tên thủ hạ làm phản nửa đêm thừa lúc ông đang ngủ dẫn đường cho quân Pháp bao vây căn cứ. Phan Đình Thông chỉ huy quân sĩ đánh trả, song quân Pháp bao vây chặt căn cứ, nghĩa quân chống trả một cách yếu ớt rồi chạy toán loạn, Phan Đình Thông bị giặc bắt.

   Theo lệnh tên đại Việt gian Hoàng Cao Khải, Tổng đốc Nguyễn Chính cùng Tiễu phủ sứ Lê Kính Hạp định dùng ông làm con tin để chiêu dụ Phan Đình Phùng ra hàng. Trong một bức thư gửi Phan Đình Phùng, Tiễu phủ sứ Lê Kính Hạp dùng lời doạ dẫm: “…Ngày nay trong họ hàng làng xóm được an hay nguy chỉ can hệ ở nơi bác, tính mạng ông anh bác mất hay còn, cũng chỉ can hệ ở nơi bác...”.

   Phan Đình Phùng hy sinh tình cảm riêng của gia đình, đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết đã khẳng khái bảo: "Nay ta chỉ có một ông anh rất to đang bị nguy vong là cả mấy triệu đồng bào... Ta bây giờ thì chỉ có một cái chết mà thôi”. Ông nhắn với người đưa thư về nói lại với Lê Kính Hạp: "Nếu ai có làm thịt anh ta, nhớ gửi cho ta bát nước canh!”.
   Bọn Nguyễn Chính, Lê Kính Hạp đã theo lệnh giặc Pháp và tên đại Việt gian Hoàng Cao Khải giết hại Phan Đình Thông. (Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng. Tân Việt, Sài Gòn 1950 - Nhìn lại lịch sử của Phan Duy Kha).
ĐỘI QUYÊN

   Đội Quyên tên thật là Lê Quyên, còn gọi là Lê Văn Quyên hiệu Đại Đẩu sinh năm 1859 tại làng Nội Yên nay thuộc xã Đa Phúc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình làm ruộng và thợ rèn. Ông cũng là một thợ rèn giỏi đã chế tạo được súng kíp.

   Năm 1885, Lê Quyên tham gia cuộc khởi nghĩa do Lê Ninh, người La Sơn, Hà Tĩnh lãnh đạo. Năm 1887, Lê Ninh mắc bệnh qua đời ở ngay căn cứ Cổ Ngư, Lê Quyên cùng với Lê Phất người làng Trung Lễ còn gọi là Kiểm Phất cùng các em Lê Ninh là Lê Khai, Lê Phác, Lê Trực gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng.

   Tướng quân Phan Đình Phùng biết hai ông Lê Quyên, Lê Phất là thợ rèn giỏi liền phân công về xưởng sản xuất vũ khí do Cao Thắng phụ trách. Lê Quyên đã cùng với Cao Thắng nâng cao chất lượng súng trường bắn nhanh theo mẫu súng 1874 của Pháp mà Cao Thắng đã sản xuất từ trước. Lê Quyên đã cùng Cao Thắng phải tôi thép qua nhiều công đoạn. Nòng súng được chế tạo bằng hai cách là dùng thép cây dựng ngược dùng sức nước khoan theo phương pháp cổ truyền. Phương pháp thứ hai được các ông sáng tạo là dát thép mỏng thành thép tấm nung đỏ quấn lại rồi rèn. Tuy vậy nòng súng các ông chế vẫn không làm được rãnh xoắn như của Pháp.

   Với phương pháp sản xuất thủ công và trí tuệ, những người thợ rèn của nghĩa quân Phan Đình Phùng đã chế tạo ra hàng trăm khẩu súng trường kiểu 1874. Lê Quyên được phong chức đội.

   Ngày 21/11/1893, Cao Thắng bị trọng thương rồi hy sinh trong trận đánh đồn Nu (nay thuộc xã Xuân Thành, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An), thì Đội Quyên là người quản đốc sản xuất vũ khí, Lê Phất là trợ thủ của ông. Trong trận đánh đồn Quả Cảm năm 1895, Lê Phất hy sinh, một mình Đội Quyên phải gánh vác công việc sản xuất, sửa chữa vũ khí cung cấp cho nghĩa quân. Ông còn phải tổ chức một đội quân mạnh để bảo vệ xưởng sản xuất vũ khí.

   Ngày 28/12/1895, thủ lĩnh Phan Đình Phùng mất vì bị bệnh nặng ở căn cứ. Quân Pháp thừa cơ đánh phá căn cứ. Đội Quyên cho chôn giấu các bán thành phẩm vũ khí, đốt xưởng rồi dẫn quân ra Đông Thành (Nghệ An) cùng Lãnh Ngợi tập hợp nghĩa quân tập kích các đồn binh Pháp, trừng trị bọn tay sai, bán nước.

   Khi Lãnh Ngợi hy sinh. Đội Quyên đã về Hà Tĩnh theo Lãnh binh Ngô Quảng nhưng không gặp. Ông ra Nam Đàn, Nghệ An tìm Phan Bội Châu. Ông Phan thấy ông là người có tài năng về quân sự, phân công ông gây dựng cơ sở chống Pháp ở Nam Đàn. Tại đây ông được sự giúp đỡ nhiệt tình của tú tài Hoàng Xuân Hành, cử nhân Vương Thúc Quý, đặc biệt là của cô Nguyễn Thị Thanh. Khi giặc Pháp truy lùng hai ông gắt gao nhất, cô Thanh đã đưa hai ông về nhà mình ở Kim Liên ẩn náu. Cô còn tìm nơi an toàn, bố trí người canh gác để ông mở lớp dạy võ cho thanh niên.

   Trong chuyến Đội Quyên về huyện Quỳnh Lưu vận động cách mạng thì bị giặc Pháp bắt. Bọn Pháp chưa biết ông là Đội Quyên - một người gây cho quân Pháp bao nỗi kinh hoàng nên chỉ giam tạm ở đồn Can Lộc. Ông đã thuyết phục viên quyền trưởng đồn cho mình trốn thoát.

   Năm 1904, Lê Quyên có mặt trong ngày thành lập hội Duy tân ở Quảng Nam do Phan Bội Châu, Nguyễn Thành chủ trương. Dự Hội nghị xong ông được phân công trở về Nghệ An làm công tác vận động tài chính cho hội, để đưa thanh niên đi Đông du.

   Năm 1905, Đội Quyên cùng Tú Ngô, Giám Hành tức Hoàng Xuân Hành, người làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, cử nhân Vương Thúc Quý người làng Kim Liên, cô Nguyễn Thị Thanh phát động phong trào Cần vương trong huyện. Lê Võ thực hiện chủ trương của Phan Bội Châu đã ra Bắc, lên Yên Thế thoả thuận với thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám lập "đồn điền Tú Nghệ" ở Phồn Xương, đồng thời phát động phong trào chống Pháp ở Nghệ An, Hà Tĩnh để phối hợp với Yên Thế chống Pháp. Làm xong nhiệm vụ này, Đội Quyên về Nghệ An xây dựng căn cứ Bố Lư ở huyện Thanh Chương, chuẩn bị sẵn sàng lương thực, vũ khí để khi khởi sự đã có sẵn thực lực.

   Năm 1912, do thắng lợi của Cánh mạng Tân Hợi (Trung Quốc), Phan Bội Châu giải tán Duy Tân hội thành lập Việt Nan Quang phục hội thì Đội Quyên và Nguyễn Thị Thanh lại chuyển sang hoạt động cho tổ chức Việt Nam Quang phục hội. Bằng kinh nghiệm chế tạo súng bắn nhanh khi cùng Cao Thắng tham gia cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, ông đã thành lập xưởng chế tạo súng bắn nhanh trang bị cho Quang Phục quân.

   Tại hội nghị các thủ lĩnh tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở Nghệ An - Hà Tĩnh đã giao cho Đội Quyên làm Tổng chỉ huy Việt Nam Quang Phục quân Nghệ - Tĩnh. Ông gấp rút xây dựng căn cứ kháng chiến ở Bố Lư, tích cực luyện tập các động tác chiến đấu, cách sử dụng vũ khí, đặc biệt là súng bắn nhanh cho thanh niên. Ông còn cho mở một con đường từ căn cứ Bố Lư tới biên giới Lào để khi gặp nguy hiểm có thể qua Lào thoát sang Xiêm La mà ông đã chuẩn bị. Trong một đợt đi công tác Đội  Quyên bị ốm phải nằm lại nhà bạn là Đặng Nguyên Cẩn ở Lương Điền thì bị bọn tay sai của giặc Pháp dò biết báo cho giặc Pháp đến bắt. Mặc dù bị ốm ông vẫn chống cự kịch liệt, giết chết vài tên bằng khẩu súng lục và giành một viên cho mình để tự sát vào đêm 20 tháng 8 năm 1917, hưởng thọ 57 tuổi.

NGUYỄN HUY THUẬN

   Tháng 7/1885 vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương. Tại Hà Tĩnh có rất nhiều người hưởng ứng như Lê Ninh khởi nghĩa ở La Sơn, Nguyễn Thoại khởi nghĩa ở Hương Khê, Ngô Quảng khởi nghĩa ở Nghi Xuân, Nguyễn Trạch, Nguyễn Khương khởi nghĩa ở Can Lộc, Nguyễn Huy Thuận khởi nghĩa ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.

   Nguyễn Huy Thuận còn gọi là Nguyễn Thuận, thường gọi là Bá hộ Thuận. Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, quê ở xã Thạch Xuân, huyện Thạch Hà. Ông không đỗ đạt, dành tiền mua được chức Bá hộ, nên thường gọi là Bá hộ Thuận. Ông hưởng ứng chiếu Cần vương lập căn cứ chống Pháp ở Truông Xai, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông hoạt động chủ yếu ở vùng Thạch Hà. Năm 1888 khi Phan Đình Phùng thống nhất các lực lượng khởi nghĩa ở Nghệ An, Hà Tĩnh ông được Phan Đình Phùng cử giữ chức Quân thứ Thạch Hà (tức Thạch thứ). Ông hoạt động liên tục trong nhiều năm, đêm 23/8/1893 ông đã chỉ huy nghĩa quân tấn công tỉnh lỵ Hà Tĩnh, phá trại giam, thả tù nhân, đốt một số sổ sách giấy tờ rồi rút lui an toàn.

   Khi quân Pháp dốc toàn bộ binh lực đánh vào Trại Chè là một căn cứ quan trọng của nghĩa quân Hương Khê do Nguyễn Thoại chỉ huy. Để cứu nguy cho Nguyễn Thoại, Phan Đình Phùng đã lệnh cho Bá hộ Thuận là người chỉ huy quân thứ Thạch Hà đem quân tiến đánh thành Hà Tĩnh khiến cho quân địch phải bỏ dở cuộc càn quét kéo quân về tiếp ứng và giải vây cho tỉnh thành.

   Sự kiện trên đã được đánh giá trong sách "Phan Đình Phùng" như sau: “Trong khi giặc đang lúng túng, mất công tìm kiếm trong rừng (lúc này địch tập trung càn quét vùng Ngàn Xâu, sông Cả, Trường Xim) thì nghĩa quân đánh sát vào tỉnh ỵy Hà Tĩnh. Đồng thời các quân thứ ở các nơi khác nhau như Kỳ Anh, Nam Huân, Voi... địch bị tập kích mạnh, chúng phải vất vả tiếp ứng cho nhau, mới giữ được các vị trí”.

   Sự phối hợp của các quân thứ nghĩa quân Cần vương ở Hà Tĩnh cũng được Trần Văn Giàu đánh giá trong "Chống xâm lăng" như sau: "Việc phối hợp tác chiến giữa các quân thứ trên các địa bàn rộng lớn gồm 4 tỉnh từ Thanh Hoá đến Quảng Bình đã làm phân tán lực lượng của quân Pháp và hỗ trợ hiệu quả cho nhau để chống càn và tiêu diệt giặc”.
VƯƠNG THỨC

   Vương Thức sinh năm 1830 người làng Trung Lương, huyện Đông Thành, nay là làng Xuân Đào, xã Hồng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

   Năm 1879 , dân làng bầu Vương Thức làm lý trưởng. Ông nhận lời đứng ra gánh vác công việc của dân làng. Dân hàng tổng cử ông làm tuần kiểm lo việc canh phòng, trị an. Ông hăng hái nhận chức vụ trên vì với chức vụ này ông có thể công khai thành lập các đội tuần đinh, trang bị vũ khí, rào làng dưới danh nghĩa chống trộm cướp. Ông đem toàn bộ số tiền, thóc dân hàng tổng nộp thuế để mua vũ khí, rào làng, chi tiêu vào việc quân. Vương Thức tổ chức lễ Tế cờ ra mắt nghĩa quân rất trang trọng. Nguyễn Xuân Ôn tới dự cử, ông Vương Thức làm Đội trưởng Xuân nghĩa đội. Đội quân hơn 300 người do Vương Thức chỉ huy được biên chế vào đội quân Đông Bắc do Đề đốc Phan Bá Niên chỉ huy và đổi tên làng Trung Lương thành Xuân Đào.

   Trận đọ súng đầu tiên giữa nghĩa quân do Vương Thức chỉ huy là trận tập kích đồn Cồn Đông. Đồn có hơn 100 lính nguỵ do một tên Pháp chỉ huy. Mặc dù không có kết quả chỉ tiêu diệt được 1 tên lính và làm bị thương vài tên, song trận đánh đã có tiếng vang lớn, đã thu hút nhiều người gia nhập nghĩa quân và ủng hộ tiền bạc, lương thực cho nghĩa quân. Rút kinh nghiệm trận đánh trên, Vương Thức đã kịp thời bổ sung cho trận phối hợp với cánh quân do Đề đốc Phan Bá Niên chỉ huy đội quân do Chiêu Hoạt con trai cụ Nghè chỉ huy đánh địch tại Thừa Sũng - Đồng Mờm ở vùng giáp ranh hai huyện Yên Thành và Diễn Châu. Trận này nghĩa quân tiêu diệt hàng trăm tên địch. Trong một trận khác, Vương Thức dùng kế dụ địch ra khỏi đồn Cồn Đông sa vào ở phục kích để diệt địch. Trận này do một nghĩa quân sơ xuất để lộ trận địa, nên nghĩa quân chỉ bắn chết được hai tên.

   Cuối năm 1886 , nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn đánh nhiều trận lớn gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Tháng 6/1887, trong trận đánh ở xóm Hồ, chủ tướng Nguyễn Xuân Ôn dẫn đầu đoàn quân xông lên đánh giáp lá cà với quân Pháp. Quân Pháp phải rút, sau được viện binh phản công, ông Vương Thức luôn luôn đi sát bên chủ tướng cùng chủ tướng ở lại chặn giặc cho đại bộ phận nghĩa quân rút lui. Vương Thức chỉ huy 20 cận vệ chiến đấu quyết liệt để bảo vệ chủ tướng. Phần lớn anh em hy sinh, Vương Thức cũng bị bắt. Nguyễn Xuân Ôn rút kiếm tự tử nhưng bị quân Pháp ngăn lại. Quân Pháp giải cụ Nghè Ôn về giam ở nhà lao Huế. Vương Thức bị quân Pháp bắt giam ở nhà lao Diễn Châu và Vinh, đến năm 1889 mới được tha thì sức lực kiệt quệ không đi nổi.

   Vương Thức mất ngày 1 tháng 7 năm Canh Dần (1890) thọ 60 tuổi. Ông còn được lịch sử Đảng Cộng sản tỉnh Nghệ An biểu dương một cách trân trọng, được ghi trong Từ điển nhân vật Lịch sử Việt Nam. Ngôi nhà thờ ông được ngành Văn hoá - Thông tin đưa vào danh mục xếp hạng di tích lịch sử.

NGUYỄN THỨC TỰ

   Nguyễn Thức Tự, hiệu Đông Khê, sinh năm Tân Sửu (1841), quê làng Đông Chữ, nay thuộc xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Thức Tự thông minh, hiếu học từ nhỏ, ông thi đỗ Đầu xứ vào năm 27 tuổi, khoa thi năm Mậu Thân (1868) đỗ cử nhân. Ông đi thi Hội nhiều lần nhưng không đỗ.

   Năm 1873, Nguyễn Thức Tự làm Hậu bổ ở Hà Tĩnh, lần lượt làm tri huyện Hương Khê, Thạch Hà, tri phủ Đức Thọ. Năm 1880 giữ chức Chánh Sơn phòng sứ tỉnh Hà Tĩnh vìvậy nhân dân gọi ông là Sơn. Năm 1884 ông xin về mở trường dạy học, gọi là trường Đông Khê.

   Năm 1885 khi vua Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần vương, Nguyễn Thức Tự xếp bút nghiên hưởng ứng, ông bỏ tiền của nhà đi khắp nơi xây dựng đồn luỹ phòng thủ, chiêu mộ nghĩa quân các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị Thừa Thiên. Nguyễn Thức Tự luôn luôn cùng chủ tướng Phan Đình Phùng, tướng Cao Đạt bàn bạc các thế trận, ông là người thầy kiệt xuất về chiến tranh du kích, đánh mai phục, nổi tiếng là trận Nhà Làng.

   Sau khi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng bị quân Pháp dập tắt. Nguyễn Thức Tự từ quan về quê trở lại nghề dạy học. Nguyễn Thức Tự không chỉ đơn thuần dạy chữ lệ thuộc vào kinh sách sẵn có mà nội dung bài giảng dạy của ông là đào tạo học trò trở thành ngươi yêu nước thương dân. Trong 30 năm dạy học, Nguyễn Thức Tự đã đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước.

   Nguyễn Thức Tự rất nâng niu tài năng của học trò, ông đã tập hợp trên 100 bài phú hay nhất của học trò, trong đó có nhiều bài của Phan Bội Châu như "Công biểu chu du ngu hồ, Đào viên kết nghĩa. Xuân thu hoá công..” trong tập Đông Khê hiên luật phú để các thế hệ học sinh nghiên cứu học tập.

   Ông đã soạn tập Gia huấn ca để dạy dỗ con cháu. Thơ của ông cũng được in trong tập Đông Khê thi tập, Đông Khê thư tập, Đông Khê lịch sử, sự trạng...

   Nguyễn Thức Tự còn có tấm lòng hào hiệp giúp đỡ tiền bạc cho học sinh nghèo có chí như Phan Bội Châu. Năm Đinh Mùi (1907) ông thấy nhiều người trong làng Đông Chữ nghèo khó không đủ tiền nộp thuế phải bị tù tội đã hiến cho làng 5 sào ruộng tốt để lấy hoa lợi trợ sưu cho người nghèo.

   Đức độ của Nguyễn Thức Tự, sự nghiệp chiến đấu và giáo dục của ông được giới trí thức và nhân dân Nghệ An ghi nhận bằng đôi câu đối treo ở sinh từ của ông:

      Lục thuỷ thanh sơn, vũ trụ thường lưu xuân sắc
      Tả đồ, hữu sử, gia đình vĩnh đại thủ hương.


Hoàng Anh Tài dịch:

      Đây nước biếc, đó non xanh, xuân sắc lâu dài trong vũ trụ.
      Tả bản đồ, hữu sử sách, gia đình bền vững nếp thi hương.


   Trở về già, ông vẫn một lòng đau đáu nghĩ đến đất nước bị giặc Pháp thống trị, đến nhân dân bị lầm than, được ông thổ lộ một phần khi ông đi chơi thành phố Vinh năm 1898 về:

      Vừa mới đi thăm tỉnh Nghệ về.
      Nhìn xem phong cảnh nghĩ mà ghê.
      Trên trời dây thép giăng chằng chịt,
      Dưới đất kèn đồng thổi tò le.
      Phố xá nghênh ngang bồi cưỡi ngựa.
      Lâu đài nghi ngút đĩ ngồi xe,
      Ai lên nhắn với ông Tinh Bạch
      “Sao để trời Nam mãi thế hề?”.


   Ngày 25 tháng 4 năm Quý Hợi (10/06/1923), Nguyễn Thức tự mất tại làng Đông Chữ. (Tác giả Hán Nôm Nghệ Tĩnh, trang 93 viết ông mất năm 1917).

   Phần mộ và nhà thờ Nguyễn Thức Tự ở Nghi Lộc đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử.

TRẦN QUANG DIỆM

   Trần Quang Diệm, sinh năm 1848 , người làng Bút Trận, nay là xã Diễn Thái huyện Diễn Châu. tỉnh Nghệ An. Cha mẹ ông mất sớm, nhà nghèo, việc học gián đoạn, mãi đến khoa thi Đinh Mão (1867), khi ông đã 28 tuổi mới đậu cử nhân. Ông được bổ làm huấn đạo huyện Thanh Chương, sau đó thăng tri huyện Tùng Thiện (Sơn Tây).

   Sau ông chán ghét triều đình Tự Đức thực hiện chính sách đầu hàng giặc Pháp nên cáo quan về làng sống ẩn dật.

   Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương. Trần Quang Diệm đã cùng Nguyễn Xuân Ôn hưởng ứng dựng cờ khởi nghĩa. Ông được phong chức Tán lý quân vụ quân thứ An - Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh).

   Để phát động nhân dân tham gia nghĩa quân Cần vương. Trần Quang Diệm đã công bố bản:

         BỐ CÁO VIỆC PHỤNG CHỈ CẦN VƯƠNG

   …Nước Việt ta từ đời Hồng Bàng đến nay, trời gây đất mở, mênh mông non cao, nước trong; tổ dựng tông bồi, rực rỡ thói thuần, tục tốt. Vua Đinh Tiên Hoàng dùng gậy lau dấy quân lên, dẹp các sứ quân mà mở đầu nền chính thống; vua Lê Thái Tổ từ núi Lam Sơn khởi nghĩa, đuổi giặc Minh còn truyền bài cáo Bình Ngô. Non sông nước Nam, sách trời đã định lẽ nào để cho người ngoài ngủ ngáy ngay trên giường mình nằm được ư?

   Thế mà giặc Pháp gây hấn, tanh hôi khác loài, cướp kinh thành ta, làm cho chúa thượng phải chạy, rong xe ra phía bắc, tới sở sơn phòng Hà Tĩnh, đặt thành nơi hành tại, xuống chiếu Cần vương, tỏ lời cáo cấp. Những người nghe được tin đều rơi nước mắt. Đương khi nước nhà có việc, không phải là lúc thần tử yên vui. Bảo rằng: "Vua lo thì tôi phải nhục, vua nhục thì tôi phải chết”, chính là việc lúc này đây. Nếu không hăng hái đẩy sức mạnh như hùm gấu thì lấy gì để đẩy trừ được dã tâm của giặc như sói lang. Tất cả nhân dân ta ai là không làm, không phải là người dũng cảm. Cho nên ai nấy, người có của giúp của, kẻ có công giúp sức cùng một lòng, một đức, cùng nhau vượt bước khó khăn lúc này. Chớ có bảo tay không mà cam ngồi chịu trói.

   Nếu như ai cũng chỉ lo riêng lấy thân mình, cứ điềm nhiên ngồi ngó, thì rồi người không biết nghĩ xa, tất sẽ bị nỗi lo gần. Lúc đầu, chúng mới giở cái mưu, rồi sau dần dần chúng giở cái thói tàn ngược như hùm sói nuốt chửng. Nước mất nhà tan hối sao kịp nữa!

   Tôi lại nghe rằng: triều đình nuôi kẻ sĩ 300 năm, mà không ai có một nghề gì giúp việc Cần vương. Minh Hoàng nhà Đường luống những thở than, nhà nước nuôi binh lính hơn 30 năm, mà không lấy một người hy sinh cho việc Cần vương, Văn công đời Tống lấy làm xấu hổ.

   Mọi công việc trong vũ trụ đều là bổn phận chúng ta. Bốn phương trời còn có nhiều đồn luỹ, há không trải là cái nhục của sĩ phu đó ư?

   Tôi đây chỉ là một người học trò, lạm nhận chức nhỏ, gắng gượng làm việc, mong báo nước mảy may, ví không để được tiếng thơm lại muôn thuở thì cũng khỏi bị lên tiếng xấu lại trăm năm. Còn trung thần nghĩa sĩ như người xưa đã bảo thì dù tôi không làm được như thế nhưng trong lòng vẫn ham chuộng.

   Than ôi! Dân nước ta hãy ngẫm nghĩ, cố gắng lên, chớ cho lời nói là viễn vông mà coi thường. Đó là điều tôi rất mong mỏi.

   Nay đặc biệt bố cáo.


               (Chu Thiên dịch theo nguyên văn chữ Hán)

   Nhân dân Nghệ Tĩnh đã nhiệt liệt hưởng ứng lời Bố cáo của ông, trai tráng và cả những người đứng tuổi, người đã từng trải việc binh cũng hăng hái gia nhập nghĩa quân. Nhân dân nô nức đem thóc gạo, trâu lợn ủng hộ nghĩa quân làm quân lương.

   Trần Quang Diệm chia quân làm cơ đội, cắt đặt người huấn luyện các thao tác chiến đấu, cách sử dụng vũ khí. Ông thương yêu quân sĩ nhưng cũng giữ nghiêm kỷ luật chiến trường và không được nhũng nhiễu phiền hà dân.

   Để chuẩn bị chiến đấu, Trần Quang Diệm xây dựng căn cứ chống Pháp tại núi Thàng ở Xanh Gám, xã Tăng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

   Trần Quang Diệm hết lòng giúp Hiệp đốc quân vụ An - Tĩnh dành nhiều trận lớn gây cho quân Pháp và quân triều đình nhiều thiệt hại nặng nề. Khi Nguyễn Xuân Ôn đang điều trị bệnh, bị quân Pháp ập vào bắt rồi đưa về giam ở Huế, Trần Quang Diệm vẫn cùng các tướng lĩnh tiếp tục chiến đấu.

   Năm 1891, Trần Quang Diệm bị bắt giam ở Huế. Ông bị giam mấy năm mới được thả, về nhà thì mất vào năm 1907.

   Trần Quang Diệm còn là một nhà thơ đến nay còn các tập Ngọc Đường thi tập lời bình của Nguyễn Xuân Ôn. Ngắm trăng, Phụng chỉ Cần vương bố cáo văn.

TRẦN XUÂN SOẠN

   Trần Xuân Soạn sinh năm 1849, người làng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn. tỉnh Thanh Hoá. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo. Ông là người văn hay võ giỏi, mới ít tuổi đã am hiểu binh thư chiến lược. Gặp khi triều đình tuyển lính, Trần Xuân Soạn ứng mộ song không hợp cách nên bị loại. Ông vào làm bếp cho Nhuệ Vũ quân Phó quản Bắc Ninh.

   Quân Thái Bình Thiên quốc bị nhà Thanh đánh chạy sang ta “thổ phỉ hóa". Tôn Thất Thuyết đem quân tiễu phỉ dẹp mãi không yên. Trần Xuân Soạn một mình xông pha tên đạn, làm cho quân giặc vô cùng khiếp đảm. Kết quả cả toán quân bị phá vỡ. Trận đương thua hoá ra thắng. Trần Xuân Soạn thắng trận trở về với nhiều chiến lợi phẩm. Tôn Thất Thuyết khen ngợi và thăng cho một lúc ba trật: suất đội- phó quản- chánh quản. Trong một ngày thăng lên bị cấp thật là trường hợp hiếm hoi, người xưa nói "Nhất nhật thăng tam cấp".

   Tự Đức năm thứ 30 (1877). Trần Xuân Soạn được thăng Chánh Lãnh binh Bắc Ninh. Năm sau thăng Phó Đề đốc năm sau nữa vì có công đánh tan giặc Khách trên sông Sỏi (Yên Thế) được đặc cách thăng Chánh Đề đốc.

   Năm Tự Đức thứ 35 (1882) Trần Xuân Soạn được cử vào kinh thành làm Ngự môn Đề đốc. Tháng giêng năm 1884, Tôn Thất Thuyết thành lập “Phấn nghĩa quân" ở các tỉnh Trung Kỳ và Bắc Kỳ, đã giao cho Trần Xuân Soạn rèn luyện và chỉ huy. Khi kinh thành Huế thất thủ, Trần Xuân Soạn cùng Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật... phò vua Hàm Nghi ra sơn phòng Hà Tĩnh rồi chỉ đạo phong trào chống Pháp ở Thanh Hoá.Từ khi vua Hàm Nghi xuất bôn, ban chiếu Cần vương thì phong trào chống Pháp ở Thanh Hoá ngày càng mạnh mẽ. Ông đã cùng với các sĩ phu như Đinh Công Tráng, Phạm Bành chỉ trương xây dựng cứ điểm Ba Đình để giữ cửa ngõ miền Trung. Sau đó tuy không trực tiếp chỉ huy cứ điểm, nhưng ông có nhiệm vụ đóng quân ở phủ Quảng Hoá để hỗ trợ cho Ba Đình và giữ mối liên hệ giữa Ba Đình với Mã Cao.

   Tháng 9 năm 1885, Đồng Khánh - tay sai đắc lực của thực dân Pháp xuống dụ tước hết quan tước tịch thu gia sản của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường và Trần Xuân Soạn. Đồng Khánh xuống chiếu cho bọn quan lại địa phương nếu bắt dược Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn cho xử chém ngay. Song mặc cho tính mạng bị nguy hiểm, gia sản bị tịch biên, vợ con thân nhân phải sống trong cảnh bơ vơ, màn trời chiếu đất, ông vẫn quyết tâm kháng chiến. (Do Nguyễn Hữu Độ nguyên tả thị lang, Hộ lý Hà Ninh tổng đốc được tin vua Hàm Nghi dời kinh đô đã trở về Huế được Pháp đưa lên làm thành viên của viện Cơ mật và biệt phái làm Kinh lược sứ Bắc Kỳ. Độ cùng Phan Đình Bình nguyên Tuần phủ lãnh An - Định tổng đốc được Pháp cho làm thượng thư bộ Hộ, có chân trong viện cơ mật. Độ và Bình tính cực cùng Pháp đưa Ưng Chân, con nuôi Tự Đức lên vua lấy hiệu là Đồng Khánh, ngày 19/9/1885. Năm đầu vẫn dùng niên hiệu Hàm Nghi. Đến ngày 4/2/1886 mới dùng niên hiệu Đồng Khánh nguyên niên. Thực dân Pháp cấp cho Đồng Khánh 40.000 lạng bạc, 40.000 quan tiền còn kho tang, thuế khóa quân Pháp nắm hết. Vừa lên ngôi vua bù nhìn Đồng Khánh đã viết thư cảm ơn tổng thống Pháp. Tôn Đờ cuốc xy làm "Bảo hộ quân vương". tôn Khâm sứ Sam pô làm bảo hộ công. Ngày 28/1/1889. Đồng Khánh chết. ở ngôi 3 năm).

   Tháng 2 năm 1887 căn cứ Ba Đình và Ma Cao thất thủ. Trần Xuân Soạn cùng Hà Văn Mao rút về Điền Lư (nay là xã Điền Lư, huyện Bá Thước) dự định dựa vào rừng núi hiểm trở để xây dựng lại phong trào. Tại đây ông đã cùng Hà Văn Mao tổ chức phòng thủ chống quân Pháp càn quét nhiều lần. Sau đó Trần Xuân Soạn vào Nghệ An để liên minh với Thủ lĩnh phong trào chống Pháp ở Nghệ An là Nguyễn Xuân Ôn.

   Ngày 25 tháng 5 năm 1887, Nguyễn Xuân Ôn bị quân Pháp bắt giải về giam ở Vinh, Trần Xuân Soạn lại trở ra Niên Kỷ (ở Bá Thước) với Hà Văn Mao tiếp tục phong trào chống Pháp ở miền tây Thanh Hóa. Các ông đã tổ chức nhiều trận đánh gây cho quân Pháp những tổn thất nặng nề. Giặc Pháp và bọn tay sai không bắt, giết được ông, không gọi ông về đầu hàng đã trả thù ông một cách man rợ là đào mộ cha ông, lấy xương xếp ở giữa đường để thiêu huỷ, hòng buộc ông đầu thú, nhưng ông vẫn không chịu khuất phục.

   Khi vua Hàm Nghi bị bắt phong trào kháng chiến chống Pháp ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh suy yếu dần. Khi Phan Đình Phùng ốm mất ở căn cứ, quân Pháp tấn công vào núi Vụ Quang chiếm căn cứ này. Tại Nghệ An các tướng lĩnh của Nguyễn Xuân Ôn cũng dần dần bị tiêu diệt. Ở Thanh Hoá, căn cứ Ba Đình, Mã Cao thất thủ. Ông sang Long Châu để tập hợp lực lượng mưu đồ phục quốc. Ông cùng Tôn Thất Thuyết vận động nhà Thanh giúp nhưng triều đình Mãn Thanh và Chính phủ Pháp đã ký hiệp ước thân thiện nên nguồn tiếp viện bị ngăn chặn. Ông cùng với Tôn Thất Thuyết vận động một số nhân sĩ ở Hoa Nam có cảm tình với cách mạng Việt Nam giúp đỡ tổ chức được một toán quân, nhiều lần kéo về biên giới Việt - Trung hoạt động. Nhưng quân Pháp chiếm được Lạng Sơn, Cao Bằng ngăn chặn đường về của ông, ông đành sống tha hương ở Trung Quốc.

   Trong thời gian ở Trung Quốc, mẹ, vợ và hai con trai nhỏ của ông bị địch khủng bố dữ dội, tịch thu gia sản, phải thay tên đổi họ trốn tránh suốt 15 năm trời, nhưng không làm ông sờn lòng, nản chí. Trần Xuân Soạn mất tại thị trấn Thiều Châu, Trung Quốc ngày 17 tháng 12 năm 1923, thọ 74 tuổi .

TỐNG DUY TÂN

   Tống Duy Tân sinh năm Mậu Tuất (1838) tại thôn Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà nghèo nhưng có chí, chăm học và học rất giỏi.

   Năm Tự Đức thứ 11 (1858) ông đỗ cử nhân. Năm Giáp Tý (1864) ông được bổ làm Huấn đạo Quảng Xương, sau thăng Đốc học Phú Yên.

   Tuy làm quan cho triều đình nhưng ông chán ghét cảnh đất nước bị giặc Pháp xâm lược, lục tỉnh Nam Kỳ đã lọt vào tay giặc Pháp. Ngày 20/11/1873, quân Pháp hạ thành Hà Nội và đánh chiếm các tỉnh thành Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định. Ngày 5 tháng giêng năm 1874, triều đình ký Quy ước cam kết với Pháp như triều đình không tăng quân ở các tỉnh Bắc Kỳ; quân Pháp tự do đi lại trên đường bộ, đường sông ở Bắc Kỳ... Tiếp đó triều đình lại ký Hiệp ước Hoà bình và liên minh có 22 điều khoản thì đều nhượng bộ Pháp. Khoa thi Hội năm Ất Hợi, niên biểu Tự Đức thứ 28 (1875) ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Ông được bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.

   Tống Duy Tân bất bình với triều đình nên từ quan lấy cớ phải nuôi mẹ già, về làng dạy học. Về sau Tôn Thất Thuyết nhiều lần mời ông ra làm quan để tăng cường lực lượng cho phe chủ chiến, ông mới nhận chức Đốc học Thanh Hoá. Tiếp đó ông lại được cử làm Thương biện Tỉnh vụ rồi Chánh sứ Sơn phòng.

   Năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy “Phấn nghĩa quân" đánh úp quân pháp ở Mang Cá. Tòa Khâm sứ, khu nhượng địa của Pháp ở Kinh thành Huế không thành, hộ tống vua ra Quảng Trị phát lệnh Cần vương. Tống Duy Tân đã nhiệt liệt hưởng ứng. Ông cùng các ông Cao Điển trước là Suất đội Vũ Lâm bỏ về, Nguyễn Sự Chí dựng cờ khởi nghĩa. Nhân dân địa phương theo ông chống Pháp rất đông, vũ khí do nghĩa quân tự đem đến, nếu thiếu thì xưởng rèn mới cung cấp. Tống Duy Tân còn gửi một đạo quân đến chiến đấu ở căn cứ Ba Đình, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng, Phạm Bành.

   Nghĩa quân Tống Duy Tân còn mang tên Nghĩa quân Hùng Lĩnh. Quân Pháp đem quân đến đánh nhiều lần, nhưng Tống Duy Tân dựa vào địa hình hiểm trở đặt trận địa mai phục, tập kích đánh bại tất cả cuộc hành quân của quân Pháp.

   Ngày 10/9/1886, công sứ Pháp tỉnh Thanh Hoá gửi thư cho Tống Duy Tân vừa dụ hàng. vừa đe doạ ông. Cũng trong tháng 9/1886, Tống Duy Tân viết thư trả lời. Toàn văn bức thư như sau:

      THƯ TRẢ LỜI CÔNG SỨ PHÁP TỈNH THANH HOÁ

   Nguyên sơn phòng chánh sứ Tống... đáp thư.

   Ngày mồng 10 tháng này kinh tiếp được thư gửi đến, trong có câu “chỉ mong đức hoàng đế được yên ổn giàu có sang tôn vinh, dân gian các tỉnh đều được an cư lạc nghiệp”, chúng tôi bất giác rơi nước mắt, lấy làm đa tạ tấm lòng của quý sứ.

   Bản tâm chúng tôi không phải không muốn như thế, nhưng vì đại nghĩa bắt buộc, muốn thôi mà không được, phương chi hiện nay các toán lính ở Thiệu Hoá, Thọ Xuân tràn qua vơ vét, các toán ở Hoằng Hoá, Hậu Lộc luôn luôn đến đòi hỏi lôi thôi, chúng tôi dù có ngồi nhìn, người ta cũng chẳng dung nào, nên mới có hành động như thế, lúc đầu cũng là để phòng bị chống bọn giặc khác mà thôi. Còn về phần quý quan, quân mạnh thế lợi khác mà thôi, chúng tôi vốn biết rõ, có dám nói là chống lại đậu, mà không biết tại sao, mồng 6 tháng 6, quân Pháp tự đến bắn súng vào, ngày 17 tháng 8 lính tập đốt phá làng xóm làm cho anh em thủ hạ của chúng tôi nhất thời phấn khích, nhiều người rất bất bình, việc đó đã qua, bất tất kể lại dài dòng nữa.

   Chúng tôi nghĩ quý sứ đã có lòng muốn yên dân, thế mà ở miền dưới thì quan phủ Hà Trung dẫn quân đi đốt phá, phía trên thì bang tá Quảng Hoá thả lính ra cướp bóc. Tức như xã Bản Thuỷ đã ra thú, nộp bạc mà ngày mồng 7 tháng này vẫn còn bị cướp bóc của cải và đồ thờ tế. Lại như các xã Đa Bút, Ngọc Bôi bị quân Pháp và dân giáo đến cướp phá giữa ban ngày. Những hành động như thế đều là dựa vào uy danh người Pháp để mưu tính lợi riêng mà thôi, thế mà lại bắt chúng tôi khuyên dân ra đầu thú thì sao có thể khuyên được.

   Chúng tôi đây, nước mất thì nhà tan, không còn có hệ lụy gì thực như là thế cưỡi hổ, tiến thoái đều khó. Chúng tôi cùng với thủ hạ dựa vào rừng sâu mà giữ, quân Pháp đến thì đi, quân Pháp đi thì về, may ra mà ông Bá Di không chết thì núi Thú Dương vị tất đã là đất nhà Chu, thầy Đào tử vẫn còn thi lịch Giáp Tí vẫn còn là của nhà Tấn. Vạn nhất trời không giúp họ Lưu thế không thể nào được nữa, thì chúng tôi sẽ uống rượu say một phen, yết đức tiên đế ở dưới đất, tìm ông Điền Hoàng ở ngoài hải đảo mà thôi.

   …Nếu quý sứ có lòng tốt bảo hộ, thì xin tạm đặt hạt chúng tôi ở ngoài vòng, đợi sau khi mọi việc yên ổn, sẽ xử trí sau, thì may lắm, may lắm. Vậy xin phúc đáp.

   Hàm Nghi năm thứ 2 (1886) ngày tháng 9 .


(Chu Thiên dịch theo tài liệu sưu tầm của nhóm nghiên cứu lịch sử địa phương)

   (Bá Di con vua Cô Trúc đời Thương. Chu diệt Thương. Bá Di cùng em là Thúc Tề không chịu thần phục nhà Chu bỏ lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn, chết đói ở đó.
   Đào tử: Đào Tiềm người đời Tấn.Tấn mất ngôi, ông không chịu theo niên hiệu triều đại mới mà vẫn ghi niên hiệu Nghĩa Hy nhà Tấn, hoặc chỉ dùng can chi mà ghi năm tháng.
   Lưu: họ vua Hán).


   Tháng 10 năm 1886, Đồng Khánh ra dụ kêu gọi nghĩa quân đầu thú. Đối với vua Hàm Nghi, nếu quay về, Đồng Khánh phong cho tước công, hoặc cho làm Tổng trấn Bắc Kỳ, hoặc làm Tổng trấn ba tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và dụ hàng 18 thủ lĩnh nghĩa quân trong đó có Tống Duy Tân. Tống Duy Tân phản đối, tiếp tục kháng chiến.

   Quân Pháp huy động lực lượng lớn tấn công Ba Đình, Mã Cao, các căn cứ trên lần lượt bị thất thủ. Phong trào chống Pháp ở Thanh Hoá trải qua những ngày tháng rất gay go, gian khổ. Tống Duy Tân phải tạm lánh ra huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây).

   Năm 1889, Tống Duy Tân trở về Thanh Hoá tìm gặp những đồng chí cũ để phục hồi phong trào chống Pháp, ông trở thành thủ lĩnh chính của phong trào chống Pháp ở tỉnh Thanh Hoá. Tống Duy Tân đã nối liền được phong trào chống Pháp từ Nghệ Tĩnh - Thanh Hoá với sông Đà. Nghĩa quân Tống Duy Tân và nghĩa quân của các thủ lĩnh khác dưới sự chỉ đạo của ông ngày càng lớn mạnh và đã ghi được nhiều chiến công oanh liệt.

   Tháng 9/1892 , Tống Duy Tân rút về Niên Kỷ được một thời gian thì bị tên Cao Ngọc Lễ, học trò của ông đánh hơi thấy, báo cho quân Pháp đến vây bắt. Bọn xâm lược nhốt ông vào cũi giải từ Niên Kỷ về huyện Quảng Hoá (Vĩnh Lộc ngày nay), Công sứ Thanh Hoá Bouleche chờ sẵn ông ở phủ, sai mở cũi cho ông ra.

   Giặc Pháp biết không khuất phục được ông, giao cho Nguyễn Thuật, Tổng đốc Thanh Hoá xử ông. Nguyễn Thuật là bạn nên đối đãi với ông rất hậu, song biết ông không đầu hàng, nên khép ông vào tội tử hình. Chúng chém ông ở bãi đất gần nhà Đoan Thanh Hoá.

   Tống Duy Tân không chỉ là nhà quân sự, ông còn là nhà thơ. Tống Duy Tân nổi tiếng là người yêu nước đã kiên cường chống giặc Pháp được Nguyễn Ái Quốc khi hoạt động ở nước ngoài nhắc đến nhiều lần.

CẦM BÁ THƯỚC

   Cầm Bá Thước người dân tộc Thái, sinh năm 1857 tại chòm Lùm Lưa, xã Điền Lư, tổng Trịnh Vạn huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Dòng họ Cầm Bá Thước từng giữ chức cai tổng, tính tình hào hiệp, thương yêu dân.

   Năm 1883 ông được cử giữ chức Bang biện hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Khi Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn thành lập "Phấn nghĩa quân" ông nắm trong tay nguồn tài sản quý là quế Thanh, ông đã bán lấy tiền giúp Phấn nghĩa quân mua vũ khí, lương thực.

   Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Tân Sở, Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương, Cầm Bá Thước khi đó là một tù trưởng trẻ, mới 27 tuổi, đã lập tức hưởng ứng. Ông đã lấy ngay xã Điền Lư quê mình làm nơi tụ nghĩa mà trung tâm là Mường Kho. Điền Lư trở thành căn cứ quân sự, trung tâm kháng chiến chống Pháp ở miền núi, trung du Thanh Hoá. Cầm Bá Thước rất có uy tín trong đồng bào Thái, Mường, Việt ở miền Tây -Thanh Hoá. Vì vậy ông vừa xướng nghĩa, trai tráng trong vùng đã đem vũ khí gia nhập rất đông. Nhân dân các dân tộc miền Tây Thanh Hoá tự nguyện đóng góp lương thực, thực phẩm, tiền bạc làm quân lương. Nghĩa quân Cầm Bá Thước phát triển nhanh chóng địa bàn hoạt động không chỉ ở Thường Xuân, Lang Chánh mà còn lan sang Ngọc Lặc, Như Xuân (Thanh Hoá). Ông phối hợp với nghĩa quân Lang Văn Thiết, Lang Văn Hạnh ở phủ Quỳ Châu (Nghệ An) đánh Pháp.

   Tháng 10/1885 quân Pháp kéo đến đánh, ông chỉ huy nghĩa quân đánh bại các cuộc tấn công của giặc Pháp. Tháng 11/1885, Cầm Bá Thước chủ động đem quân tấn công quân Pháp ở đồn Bái Thượng. Sau các trận đánh thắng trên, thanh thế nghĩa quân Cầm Bá Thước ngày càng vang dội. Ngày 12/3/1886, nghĩa quân Cầm Bá Thước phối hợp với nghĩa quân Đinh Công Tráng, nghĩa quân Tống Duy Tân nghĩa quân Trần Xuân Soạn, nghĩa quân Lê Khắc Tháo đánh tỉnh thành Thanh Hoá, chiếm Toà công sứ, đánh bị thương tên phó sứ và tên quan hai. Sáng hôm sau quân Pháp và quân triều đình hợp lực phản công, nghĩa quân đánh trả tiêu hao thêm một số quân địch rồi rút khỏi thành phố. Trên đường rút, nghĩa quân tiến công huyện lỵ Đông Sơn, tịch thu ấn triện, đốt sổ sách rồi thả tù phạm, tước vũ khí của quan quân rồi rút lui an toàn.

   Giữa năm 1886, Cầm Bá Thước tham gia hội nghị Bồng Trung. Các thủ lĩnh nghĩa quân trong tỉnh giao trách nhiệm cho ông xây dựng Trịnh Vạn thành một căn cứ vững chắc. Hội nghị cũng đã thống nhất chỉ huy và phối hợp tác chiến giữa các căn cứ với nhau, chi viện cho nhau khi bị quân Pháp tấn công, tạo thành thế trận liên hoàn, khép kín. Ở hội nghị Bồng Trung trở về, Cầm Bá Thước khẩn trương xây dựng căn cứ Trịnh Vạn.

   Do bị quân Pháp vây ép, Cầm Bá Thước phải chủ động bỏ Trịnh Vạn rút về cứ điểm Cọc Chẻ để bảo toàn lực lượng. Ông xây dựng thêm nhiều hào luỹ, đồn trại, giành lại thế chủ động, đem quân tấn công các đồn lẻ của địch. Nhưng thời gian này giặc Pháp tập trung đông quân để tiêu diệt nghĩa quân của ông; Tình thế không cho phép ông kéo dài cuộc chiến đấu, ông phải rút vào rừng núi giáp với Nghệ An, xây đồn trại, lập căn cứ mới ở Hòn Bòng, xã Xuân Lệ, huyện Thường Xuân. Lực lượng nghĩa quân phục hồi nhanh chóng, từ tháng 2/1895 nghĩa quân liên tục phục kích, tập kích táo bạo vào các cánh quân Pháp đi càn quét. Giặc Pháp tung quân truy kích ráo riết, ngày 13/5/1895, Cầm Bá Thước sa vào tay giặc Pháp ở bản Cà. chúng tìm mọi cách mua chuộc để ông làm tay sai cho chúng, khống chế nhân dân. Ông vẫn kiên cường không khuất phục. Chúng xử tử ông khi ông mới 37 tuổi.

   Cách mạng tháng 8/1945 thành công, tên ông được đặt cho một huyện ở Thanh Hoá là huyện Bá Thước và nhiều đường phố khác.
HÀ VĂN MAO

   Hà Văn Mao người dân tộc Mường, thuộc dòng dõi quan Lang Châu Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vì ông làm Cai tổng nên nhân dân gọi ông là Cai Mao.

   Đời vua Kiến Phúc (1884), Cai Mao chống lệnh triều đình Huế đánh giết số người theo đạo Thiên chúa làm tay sai cho giặc Pháp. Triều đình sợ Pháp trách cứ, đem quân đàn áp. Hà Văn Mao phát động dân tộc Mường, dân tộc Việt ở miền Tây Thanh Hoá chống cả triều đình lẫn Tây.

   Ngày 6 tháng 6 năm 1884, triều đình Huế ký Hiệp ước Patơnốt, bán rẻ chủ quyền đất nước cho giặc Pháp, Hà Văn Mao lập tức kêu gọi nhân dân đánh Pháp. Vốn có sẵn uy tín trong dân tộc Mường, ông đã nhanh chóng xây dựng được một đạo quân hơn 1000 người, lập căn cứ ở Điền Lư (Mường Khô) và lập đại đồn ở xã Hỗn Bản, huyện Cẩm Thuỷ.

   Để ngăn chặn các cuộc tấn công của nghĩa quân Hà Văn Mao, từ ngày 25/3/1886, thiếu tá Terillion đưa quân từ Nam Định vào tăng cường cho quân Pháp ở Thanh Hoá. Hội nghị các thủ lĩnh nghĩa quân ở Bồng Trung đã giao cho Tả quân Đô thống Trần Xuân Soạn và Hà Văn Mao xây dựng căn cứ dự phòng Mã Cao. Ngay sau khi dự Hội nghị Bồng Trung về, Tả quân Đô thống Trần Xuân Soạn lo tổ chức lực lượng kháng chiến trong toàn tỉnh, nên Hà Văn Mao là người chịu trách nhiệm chính xây dựng căn cứ mới Mã Cao.

   Ngày 3/2/1887, quân Pháp tập trung binh lực lớn chia làm nhiều đường tấn công căn cứ Mã Cao. Nghĩa quân cầm cự được vài ngày thì Mã Cao thất thủ, Hà Văn Mao rút quân về Điền Lư tiếp tục kháng chiến. Đến tháng 1/1887, qua các trận chiến đấu liên tục, nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, cứ điểm Điền Lư bị quân Pháp chiếm rồi phá huỷ.

   Tháng 4/1887, Hà Văn Mao lại trở về căn cứ Điền Lư và ông đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng kháng chiến của Cầm Bá Thước trong việc xây dựng phong trào kháng chiến ở miền núi, tỉnh Thanh Hoá. Tới cuối tháng 11, thêm một số tướng lĩnh và nghĩa quân hy sinh, Đề đốc Trần Xuân Soạn lại đi Trung Quốc cầu viện, lực lượng nghĩa quân còn ít, nhưng Hà Văn Mao vẫn hành quân lưu động ở các huyện miền núi Thanh Hoá và liên tục tập kích, phục kích quân Pháp.

   Về sự hy sinh của Hà Văn Mao có nhiều ý kiến, sách Đại Nam thực lực chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn (tập 37, trang 258) thì trong một trận tấn công vào Điền Lư, ông đã bị chúng bắt. rồi đưa về chém ở tỉnh lỵ Thanh Hoá. Sách Bài ngoại mậu kiến liệt truyện của Phan Trọng Mưu thì ông bị bắt và đã tự tử để bảo toàn lanh dự. Truyền thuyết ở quê ông truyền lại sau khi thất bại ông trở về Điền Lư tự sát. Theo các cố lão thì căn nhà nơi ông tự sát năm 1974 vẫn còn. Sách "Kỷ niên về Trung Kỳ và Bắc Kỳ” của Masson, Paris 1903 thì ông thoát khỏi sự truy lùng của người Pháp ở Niên Kỷ và đoán chừng là chết vì bị thương. Tác giả Pierre Grossin viết trong cuốn “Tỉnh Hoà Bình” thì cho rằng ông đã chạy thoát rồi hợp tác với một thủ lĩnh Mường ở Hoà Bình là Đốc Tâm, sau khi đã giả chết bằng cách lấy quần áo mình mặc cho một xác người để đánh lạc hướng điều tra của Pháp.

   Song ý kiến cho rằng ông bị Pháp bắt trong trận chiến đấu tháng 11/1887 và tự sát để bảo toàn danh tiết được nhiều người chấp nhận.

   Đã có nhiều sách viết về phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân ta hồi cuối thế kỷ XIX, về phong trào Cần vương ở Thanh Hoá của các tác giả người Pháp, Mỹ, Nhật, Úc có viết về Hà Văn Mao. Đáng chú ý là cuốn “Ý nghĩa của sự bình định: Thanh Hoá dưới sự thống trị của người Pháp (1885 -1908)” của Niana Shapio Adams do trường Đại học Yale xuất bản ở Mỹ năm 1978 nhận xét về Hà Văn Mao như sau: “Ông là người chiến sĩ thật sự đã liên kết với một số nhà thủ lĩnh khác của địa phương để chống lại người Pháp dưới vùng đồng bằng cũng hiệu quả như vùng rừng núi trên quê hương ông”.

ĐINH CÔNG TRÁNG

   Đinh Công Tráng sinh ngày 14 tháng 1 năm Nhâm Dần (1842) là con cụ lang y nổi tiếng Đinh Văn Thành. Quê ông làng Nham Tràng, tên Nôm là làng Tràng xã Nham Kênh, huyện Thanh Liêm nay thuộc xã Thanh Tân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

   Trước việc nhà Nguyễn phải nhượng Lục tỉnh Nam Kỳ cho Pháp và chúng cho tàu chiến thám thính ở vùng biển Bắc Kỳ, ông phán đoán thế nào giặc cũng đánh ra Bắc. Ông thành lập đội phu tuần của tổng đông đảo, trang bị súng kíp, cả súng trường bắn nhanh mua ở biên giới Đông Bắc. Ông huấn luyện kỹ thuật chiến đấu, võ thuật cho họ  nên đội tuần phu của ông nổi tiếng thiện chiến.

   Sẵn đội tuần phu làm nòng cốt, ba ngày sau khi quân Pháp đánh phủ Lý Nhân, Đinh Công Tráng gửi hịch đi các nơi kêu gọi nhân dân gia nhập nghĩa quân. Ông biến nhà mình thành đồn luỹ, lấy thóc trong kho ra nuôi quân. Chỉ vài ngày quân số lên tới 400 người, chia làm bốn đạo đóng quanh làng Tràng. Ông còn phối hợp với dân binh của Hoàng giáp Phạm Văn Nghị xây dựng căn cứ Nham Tràng (Theo Địa chí Hà Nam).

   Đạo quân của ông phục kích, tập kích địch trên đường quan lộ dọc huyện Thanh Liêm - Phủ Lý, Ninh Bình. Ngày 14/12/1873, Đinh Công Tráng tấn công trại Cần nay thuộc xã Thanh Tân, Thanh Liêm là kho lương của cha cố Pháp và giáo dân tàng trữ để tiếp tế cho Pháp. Nghĩa quân Đinh Công Tráng gây khiếp sợ cho quân Pháp. Chiến công của ông lừng lẫy, Tự Đức phong cho ông chức Hiệp quản.

   Trước sự đầu hàng giặc Pháp một cách nhục nhã của triều đình nhà Nguyễn, Đinh Công Tráng trả chức tước cho triều đình, đi các nơi tìm các người cùng chí hướng đánh Pháp. Ông lên Sơn Tây là thủ phủ của ba tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên, trung tâm kháng chiến của phe chủ chiến trong triều đình và của các thủ lĩnh nghĩa quân. Thống tướng Hoàng Kế Viêm đã biết tài cầm quân và ý chí kiên cường chống Pháp của ông, phong ông là Lãnh binh. Đinh Công Tráng đã chiến đấu chống Pháp ở lưu vực sông Thao, sông Đà thuộc tỉnh Phú Thọ, Sơn Tây dưới sự chỉ huy của Nguyễn Quang Bích và Bố Giáp, sau đó ông về tham gia giữ thành Sơn Tây, đánh quân Pháp ở Hà Đông, ngoại thành Hà Nội.

   Đinh Công Tráng về gây dựng lại phong trào chống Pháp ở Hà Nam, Nam Định. Khi ông vừa ra lời kêu gọi đồng bào đã tích cực gia nhập lực lượng nghĩa quân đánh Pháp, chỉ trong một thời gian ngắn nghĩa quân của ông đã lên tới 5000 người.

   Khiếp sợ trước lực lượng nghĩa quân đông đảo lại đo một lãnh binh tài trí chỉ huy, bọn xâm lược Pháp ở Bắc Kỳ điều động quân lính ở Hà Nội, Hải Dương, Nam Định... mở cuộc càn quét  lớn vào vùng sông Đáy, hòng đè bẹp nghĩa quân Đinh Công Tráng. Cuộc chiến đấu đã diễn rạ vô cùng quyết liệt, quân cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Nhưng giặc Pháp tăng quân đưa tàu chiến gắn đại bác vào khống chế vùng sông Đáy, đã đẩy nghĩa quân bật khỏi đất Hà Nam.

   Không cam chịu thất bại, Đinh Công Tráng vào Thư Điền ở tỉnh Ninh Bình tiếp lục xây dựng lực lượng chiến đấu. Tại đây ông được Tôn Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi phong ông là Bình Tây Đại tướng quân.

   Tiếp đó Đinh Công Tráng vào Thanh Hoá cùng các ông Phạm Bành, Hà Văn Mao, Hoàng Bật Đạt, Trần Xuân Soạn xây dựng căn cứ kháng chiến tại vùng rừng núi thuộc các xã Kim Ân và Thanh Bằng thuộc huyện Quảng Hoá, tỉnh Thanh Hóa.

   Sau đó các ông nhận thấy căn cứ dễ bị quân Pháp bao vây, tiêu diệt, mà cần phải xây dựng một căn cứ mới ở vùng hiểm trở vừa có thế công, thế thủ, nhưng phải nằm trên đường thiên lý Bắc Nam (đường số 1 ngày nay). Sau nhiều chuyến đi khảo sát địa hình, cuối cùng các ông đã chọn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê thuộc huyện Nga Sơn. Phía Đông, phía Tây và phía Nam giáp huyện Tống Sơn (nay là hai huyện Hà Trung và Hậu Lộc), phía Bắc giáp tỉnh Ninh Bình.

   Các thủ lĩnh tín nhiệm cử Đinh Công Tráng và Phạm Bành là những người từng xây dựng nhiều chiến luỹ ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá phụ trách việc xây dựng và sau đó chỉ huy căn cứ mới này.

   Từ căn cứ Ba Đình, Đinh Công Tráng, Phạm Bành khống chế đạo đường thiên lý Bắc - Nam, đánh chặn các đoàn xe vận tải của địch thu chiến lợi phẩm. Nghĩa quân còn tập kích các đồn lính Pháp đóng ở Nga Sơn, Tống Sơn và cả ở vùng núi Tam Điệp tỉnh Ninh Bình.

   Đinh Công Tráng rút một bộ phận nghĩa quân lên Cự Bảo, Hồ Sen. Quân Pháp truy kích, Đinh Công Tráng phải rút sang Thượng Lào, rồi bất ngờ về hoạt động ở vùng Nông Cống. Trong khi đó căn cứ Mã Cao của các thủ lĩnh nghĩa quân Ba Đình khác bị thất thủ. Không nản chí, Đinh Công Tráng vào Nghệ An gây dựng phong trào kháng chiến.

   Đinh Công Tráng là viên dũng tướng lại mưu lược, nếu bày trận ra đánh thì quân Pháp không hại được ông. Vì chúng đánh úp khi ông đang ngủ, lại mất cảnh giác không tổ chức canh gác nên mới bị giết.

NGUYỄN PHƯƠNG

   Nguyễn Phương người làng Hương La, huyện Ngọc Sơn nay là huyện Tĩnh Gia, đỗ tú tài, giữ chức Tham biện phủ Tĩnh Gia.

   Nguyễn Phương và bộ tham mưu đã xây dựng Ổn Lâm - Kỳ Thượng thành căn cứ quân sự, trải dài theo vành đai Đông Bắc - Tây Nam, từ Ngã ba Chuồng đến tận vùng rừng núi bao gồm Ổn Lâm, Kỳ Thượng đến giáp xã Yên Thái huyện Như Thanh ngày nay, với chiều dài 20 cây số, rộng 8 cây số.

   Lực lượng nghĩa quân có trên 1000 người, Nguyễn Phương chọn ra 300 người trẻ khoẻ, dũng cảm, được huấn luyện võ nghệ thành lập Đoàn nghĩa dũng cảm tử quân. Đây là đội quân chủ lực cơ động của cuộc khởi nghĩa.

   Nhờ có sự chỉ đạo. thống nhất đã đưa phong trào Cần vương trong tỉnh Thanh Hoá phát triển ở hầu khắp các phủ huyện. Nghĩa quân phủ Tĩnh Gia do Nguyễn Phương chỉ huy cũng phát triển nhanh chóng.

   Quân Pháp mở nhiều trận càn quét vào căn cứ nghĩa quân. Nguyễn Phương giao cho các tướng chặn đánh các toán quân từ các đồn Mưng, đồn Thị Long đi càn quét vào vùng nghĩa quân hoạt động.

   Cuối tháng 4/1886 Nguyễn Phương lại chỉ huy nghĩa quân cùng nghĩa quân của Đề Sơn tiến đánh huyện lỵ Nông Cống, đốt phá huyện đường tiêu diệt tri huyện, lãnh binh, bang tá. Cũng đêm đó nghĩa quân còn đánh phá huyện lỵ Quảng Xương, đồn Thị Long và đồn Eo Sơn. Tại phủ lỵ Tĩnh Gia, Lãnh Bòng tấn công đồn, quân Pháp hoảng loạn vút súng bỏ chạy, nghĩa quân thụ toàn bộ vũ khí.

   Trước những hoạt động mạnh mẽ, có hiệu quả của nghĩa quân phủ Tĩnh Gia, quân Pháp tăng cường 1 đại đội Âu - Phi, một đơn vị của lính pháo thủ Bắc Kỳ, 300 lính khố xanh về Tĩnh Gia. Chúng cho quân càn quét, đốt phá các làng Cốc Hạ, Côn Phương, Hữu Cốc.

   Nguyễn Phương và bộ tham mưu phán đoán quân Pháp sẽ đánh vào khu trung tâm, Nguyễn Phương bố trí trận địa mai phục từ xa, đánh phủ đầu trên đường hành quân của chúng. Tháng 3/1886, ông đánh một trận phục kích xuất sắc ở Cấp Ké, tiêu diệt nhiều tên, số còn lại tháo chạy.

   Để đánh vào đầu não của quân Pháp, Trần Xuân Soạn, Tống Duy Tân quyết định đánh thành Thanh Hoá, nghĩa quân phủ Tĩnh Gia là lực lượng chủ công. Nguyễn Phương cho Đề Sơn dẫn một đơn vị nghĩa quân cải trang làm người đi chợ lọt vào thành trước, vũ khí giấu trong hàng hoá. Nguyễn Phương chỉ huy 300 quân đi đường sông, vũ khí giấu dưới đáy thuyền có nhiệm vụ tấn công trại lính Âu - Phi. Tôn Thất Hàm chỉ huy 200 nghĩa quân đánh các đồn lính khố xanh ở ngoài thành.

   Nửa đêm ngày 10/3/1886, quân ta tấn công mãnh liệt, trung uý Frank và Chánh văn phòng Toà sứ bị thương nặng, Quân Pháp bị bất ngờ nhưng có vũ khí mạnh, có công sự phản công mãnh liệt, nên sau khi gây thương vong lớn cho quân Pháp, gieo vào lòng chúng nỗi kinh hoàng rồi rút khỏi tỉnh lỵ.

   Sau trận nghĩa quân đánh thành Thanh Hoá, quân Pháp cay cú mở nhiều trận càn quét vào ba huyện của phủ Tĩnh Gia. Song nghĩa quân được nhân dân ủng hộ và nghĩa quân toàn tỉnh phối hợp đánh chúng ở khắp nơi, khiến chúng bị động đối phó. Nhờ đó nghĩa quân Nguyễn Phương vẫn giữ vững căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng từ tháng 4/1886 đến năm 1887 .

   Khi căn cứ Ba Đình và Mã Cao thất thủ (1887), quân Pháp tập trung quân tấn công Ổn Lâm - Kỳ Thượng. Chúng bao vây, đánh phá liên tục cả ngày lẫn đêm. Quân Pháp tấn công vào khắp các đồn trại, tàn sát nhân dân, đốt phá các làng trong vùng nghĩa quân hoạt động. Biết không thoát khỏi tay giặc, Nguyễn Phương cắn lưỡi tự tử khi ông ở tuổi 55, quyết không để giặc bắt. Lãnh Quýnh, Lãnh Bòng bị quân Pháp chém ở cầu Hạc. (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử quân sự số 4/2004 - Phong trào chống Pháp ở Nông Cống cuối thế kỷ XIX, huyện uỷ, UBND huyện Nông Cống xuất bản).
HOÀNG BẬT ĐẠT

   Hoàng Bật Đạt quê ở xã Bộ Đầu, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá, ông là bạn thân và là anh em cọc chèo với Phạm Bành, quê ở làng Trương Xá cùng huyện.

   Tháng 7/1885, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn phò vua Hàm Nghi ra Tân Sở, Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương, ông đã cùng với Phạm Bành chiêu mộ quân đánh Pháp ở huyện Hậu Lộc. Hai ông làm lễ Tế cờ ở nghè Lục Trúc, xã Phúc Lộc vào ngày 16 tháng 1 năm Bính Tuất (1886), Sau đó các ông liên kết với các ông Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân tổ chức đánh Pháp trên toàn tỉnh Thanh Hoá.

   Ông cùng các thủ lĩnh nghĩa quân Cần vương Thanh Hoá tấn công tỉnh thành Thanh Hoá, huyện Đông Sơn vào đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 2 năm Bính Tuất. Giữa năm 1886 các thủ lĩnh phong trào Cần vương ở Thanh Hoá, họp Hội nghị Bồng Trung (Vĩnh Lộc) là quê hương của ông nghè Tống Duy Tân đã quyết định xây dựng căn cứ ở Ba Đình, huyện Nga Sơn. Ông được phân công cùng Đinh Công Tráng, Phạm Bành chỉ huy căn cứ quan trọng này. Ông đã cùng các vị chỉ huy căn cứ đánh cho quân Pháp đại bại trong trận đánh ngày 18/12/1886 và trận đánh ngày 6 tháng 1 năm 1887 rồi chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng.

   Ba Đình, sau đó là căn cứ Ma Cao thất thủ, ông tạm lánh về quê tìm đường sang Trung Quốc để mua vũ khí về tổ chức nghĩa quân tiếp tục đánh Pháp. Song một thủ hạ phản bội báo cho giặc Pháp nơi trú chân của ông tại Chi Nê, tỉnh Hoà Bình. Ông bị giặc Pháp bắt đưa về giam ở nhà lao Thanh Hoá và chịu mọi cực hình tra tấn. Ông hiên ngang, bất khuất chửi bọn giặc Pháp cướp nước và bọn tay sai theo giặc không khai một lời.

   Giặc Pháp giết ông cắm đầu ông vào ngọn sào đưa về quê ông để uy hiếp nhân dân. Trước khi bị giặc hành hình ông đã làm đôi câu đối tỏ rõ ý chí của mình trao cho các bạn tù:

      Cố ý cứu sinh ư phục Việt,
      Cam tâm thề tử bất thần Tây.


Dịch:

      Chí cứu muôn dân nên phục Việt
      Lòng thề một chết, chẳng hàng Tây.


   Con trai ông là Hoàng Xuân Viễn nối chí cha tham gia phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng.

PHẠM BÀNH

   Phạm Bành sinh năm 1825, người làng Trương Xá, nay thuộc xã Hoà Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ông đậu cử nhân khoa Giáp Tý (1864) làm quan đến chức án sát rồi đốc học Nghệ An. Ông là vị quan thanh liêm, rất quan tâm đến cuộc sống của binh sĩ và nhân dân. Anh ông là Phạm Thanh đỗ Thám hoa, làm quan cũng nổi tiếng thanh liêm.

   Năm 1885 khi vua Hàm Nghi xuất bôn, phát hịch Cần vương, ông đã 60 tuổi, sức yếu nhưng ông vẫn bỏ quan về quê cùng Hoàng Bật Đạt chiêu mộ quân khởi nghĩa đánh Pháp. Với uy tín sẵn có của mình, ông nhanh chóng thống nhất lực lượng kháng chiến ở Hậu Lộc tạo thành một khối thống nhất. Ông tổ chức Tế cờ khởi nghĩa ở nghè Lục Trúc, xã Phú Cốc. Sau đó mở rộng phạm vi hoạt động liên kết với các lực lượng kháng chiến của Hà Văn Mao, Nguyễn Khế, Lê Toại. Các ông lập căn cứ ở vùng rừng núi thuộc xã Kim Âu và Thạch Bằng ở huyện Quảng Hoá, Thanh Hoá.

   Ngày 7 tháng 2 năm Bính Tuất (1886) Phạm Bành đã phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác ở Thanh Hoá tấn công tỉnh thành Thanh Hoá và huyện lỵ Đông Sơn.

   Sau trận đánh thành Thanh Hoá không thành, giữa năm 1886, các thủ lĩnh phong trào Cần vương ở Thanh Hoá, họp Hội nghị ở Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc thống nhất lực lượng, hành động chống Pháp. Các thủ lĩnh cũng quyết định xây dựng một căn cứ chống Pháp có hiệu quả. Hội nghị đã quyết định một việc quan trọng là xây dựng căn cứ Ba Đình ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá và giao cho Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Đinh Công Tráng cùng một số tướng thực hiện.

   Phạm Bành cùng các đồng chí về xây dựng căn cứ ở đồng bằng. Địa điểm xây dựng là ba thôn Mỹ Khê, Thượng Thọ, Mậu Thịnh, nay thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Tháng 5/1886 , Phạm Bành, Đinh Công Tráng kéo quân về núi Yến, vận động nhân dân dời đi nơi khác để nghĩa quân xây đồn luỹ chống giặc.

   Trong chiến đấu, Phạm Bành khi đó đã 60 tuổi, sức yếu vẫn cùng các chỉ huy khác có mặt ở những nơi nguy hiểm nhất động viên, khích lệ chiến sĩ chiến đấu. Ngày 18 tháng 12 năm 1886, Phạm Bành, Đinh Công Tráng cùng các chỉ huy căn cứ Ba Đình đánh bại cuộc tấn công qui mô lớn của hai tên trung tá Medingiơ và Đốt chỉ huy.

   Ngày 6 tháng giêng năm 1887, Bộ tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp phái tên đại tá Britxô (Brissaud) trực tiếp chỉ huy chiến dịch công phá Ba Đình. Để bảo tồn lực lượng và trên thực tế một số đã hi sinh, một số bị thương và cũng không sao chịu nổi mùi hôi thối của xác giặc chung quanh căn cứ từ trận ngày 18 tháng 12/1886 , Phạm Bành, Đinh Công Tráng và các tướng họp đột xuất bàn kế hoạch rút quân khỏi Ba Đình vào đêm 20 tháng 1/1887 (27 tết). (Theo tài liệu của Pháp thì con số tổn thất về người của địch ít nhất cũng trên 200 tên chết và bị thương trong trận tấn công Ba Đình về phía nghĩa quân theo tài liệu của Pháp khoảng 150 người).

   Để nghi binh tiếng trống chèo, tiếng hát tiếng loa địch vẫn vang lên không dứt. Các tay súng bắn tỉa phục trên bờ thành bắn rất trúng đích các điểm loé sáng từ phía quân Pháp. Nghĩa quân chôn bốn khẩu súng thần công và những vũ khí không đem theo được Bộ chỉ huy quyết định chia làm 2 hướng, 1 hướng do Đinh Công Tráng chỉ huy, một cánh do Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Nguyễn Viết Toại rút về hướng Nam. Cánh quân vừa ra khỏi căn cứ thì giặc Pháp phát hiện, phải chiến đấu quyết liệt để mở đường máu, thêm một số chiến sĩ hi sinh.

   Cuộc rút lui đã hoàn thành đúng kế hoạch, làm thất bại âm mưu tiêu diệt nghĩa quân ở căn cứ Ba Đình.

   Sau khi rút khỏi căn cứ Ba Đình, Phạm Bành cùng một số tướng lui về củng cố căn cứ Mã Cao. Song lực lượng quân Cần vương Thanh Hoá đã bị tổn thất, quân Pháp tập trung đánh phá Mã Cao. Thành Ma Cao vỡ, Phạm Bành lánh về quê để liên lạc với các đồng chí tập hợp lực lượng khôi phục phong trào. Bọn Pháp và lũ tay sai dụ dỗ ông đầu hàng không được đã hèn hạ bắt mẹ già và con ông là Phạm Tiên, hẹn trong 10 ngày nếu ông không ra thú chúng sẽ hành hình mẹ ông và con trai ông ở nhà lao Thanh Hoá. Vì thương mẹ và con, ông đã tự ra cho giặc bắt, nhưng trong mình giấu sẵn một liều độc dược. Sau khi đã biết chắc mẹ và con trai thoát khỏi tay giặc về quê an toàn, ông uống thuốc độc tự tử, hôm đó là ngày 18 tháng 3 năm Đinh Hợi (11/4/1897). Ông mất đi trong sự thương tiếc của đồng bào.
NGUYỄN ĐÔN TIẾT

   Nguyễn Đôn Tiết sinh năm 1836 người làng Thọ Vực nay thuộc xã Hoàng Đức, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. ông đậu Phó bảng năm Kỷ Mão (1879), được bổ nhiệm làm tri phủ. Song ông chán cảnh triều đình Huế đầu hàng Pháp, ông cáo quan về quê nhà mở trường dạy học, tuyên truyền trong nhân dân lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, căm thù bọn cướp nước và bán nước.

   Tháng 8 năm 1885, ông hưởng ứng Chiếu Cần vương của Vua Hàm Nghi, dựng cờ khởi nghĩa, chiêu mộ quân đánh Pháp, xây dựng làng Thọ Vực làm căn cứ chống Pháp. Đông đảo nhân dân tham gia nghĩa quân, trong đó có con trai ông là Nguyễn Hữu Tư và đã trở thành một bộ tướng xuất sắc. Khi các thủ lĩnh nghĩa quân Thanh Hoá quyết định xây dựng căn cứ Ba Đình ở huyện Nga Sơn, ông đã cho con là Nguyễn Hữu Tư đến chiến đấu dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng.

   Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 3 năm 1886, ông và các lực lượng nghĩa quân khác ở tỉnh Thanh Hoá tấn công tỉnh thành Thanh Hoá, huyện lỵ Hoằng Hoá, huyện lỵ Đông Sơn. Việc không thành, ông cùng nhiều thủ lĩnh nghĩa quân khác bị giặc Pháp bắt. Nằm trong nhà tù Thanh Hoá, bọn thực dân Pháp và quan lại Nam triều tra tấn ông cực kỳ man rợ để khai thác bí mật của nghĩa quân. song ông kiên cường bất khuất, dũng cảm chịu đựng Nằm trong nhà tù, nhận được tin Phạm Bành tuẫn tiết, ông làm câu đối khóc:

      Quân tử trọn đời lòng tỏ trắng;
      Tướng quân dẫu chết, mặt còn hồng.


   Giặc tra tấn ông chết đi, sống lại nhiều lần, vẫn không khai thác được gì ở ông. Chúng đầy ông đi nhà tù Lao Bảo là nhà tù ở nơi rừng thiêng nước độc, bọn cai tù cực kỳ tàn ác ở tỉnh Quảng Trị. Do tuổi cao, bị tra tấn tàn bạo, ông lâm bệnh, chết ở nhà tù Lao Bảo.

   Con trai cả của ông là Nguyễn Hữu Tư chiến đấu ở chiến luỹ Ba Đình. Ông chỉ huy một cách quân phá vây ngày 20 tháng 1 năm 1887 đã anh dũng hy sinh.

   Con trai thứ hai của ông là Nguyễn Đôn Dự hoạt động trong phong trào Đông du bị thực dân Pháp bắt, đầy ra Côn Đảo và hy sinh ở đó.

NGUYỄN HỮU HẠNH

   Nguyễn Hữu Hạnh người làng Kim Bôi, nay thuộc xã Đông Thanh, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, ông đậu cử nhân võ. Ông là phụ tá của Trần Xuân Soạn ở kinh đô Huế. Do lập được nhiều chiến công trong chiến đấu và có tài tổ chức, xây dựng quân đội, Nguyễn Hữu Hạnh được Tôn Thất Thuyết tin cậy giao cho cùng Trần Xuân Soạn tổ chức Phấn Nghĩa quân. Đây là đội quân nòng cốt tấn công vào khu nhượng địa của Pháp ở Huế và ở đồn Mang Cá đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm 1885.

   Khi quân Pháp phản công, cuộc tập kích có nguy cơ thất bại thì Tôn Thất Thuyết giao cho Nguyễn Hữu Hạnh chỉ huy một bộ phận nghĩa quân chặn giặc Pháp ở cửa Đông Ba để Tôn Thất Thuyết Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn hộ giá vua Hàm Nghi rút khỏi kinh thành Huế. Hoàn thành nhiệm vụ chặn giặc, Nguyễn Hữu Hạnh rút lui theo kịp hộ tống vua Hàm Nghi ra Tân Sở.

   Đến sơn phòng Quảng Trị, Ba cung (hai mẹ vua Tự Đức và mẹ vua Hàm Nghi) không chịu đi. Tôn Thất Thuyết giao cho ông hộ tống Ba cung trở về Huế giao cho Nguyễn Văn Tường. Thực hiện xong nhiệm vụ, ông quay lại Tân Sở thì vua đã đi vào rừng Quảng Trị, ông tìm không được, liền về quê ở làng Kim Bôi chiêu mộ quân đánh Pháp. Trong đội ngũ nghĩa quân của ông La Văn Hạnh người cùng làng Kim Bôi, sát nhà ông, là trợ thủ đắc lực, trong việc huấn luyện, chỉ huy nghĩa quân chiến đấu chống quân Pháp. Ông Thiều Gia, người làng Phúc Triều, ông đỗ tới tam khoa tú tài, không sao đỗ nổi bằng cử nhân. Thiều Gia là người giỏi thơ văn giữ việc thảo hịch, thư từ liên lạc với các thủ lĩnh nghĩa quân khác và làm thơ tố cáo tội ác của giặc Pháp cướp nước.

   Trong trận các lực lượng nghĩa quân tỉnh Thanh Hoá phối hợp tập kích tỉnh thành Thanh Hoá và huyện lị Đông Sơn thảng 2 năm Bính Tuất (3/1886). Trận này về quân số thì nghĩa quân áp đảo giặc Pháp và Nam triều, nhưng vì có mật vụ báo trước, nên giặc Pháp cho quân chặn các ngả đường tiến vào thành phố. Đội quân của ông chưa tiếp cận được mục tiêu đã bị quân mai phục của Pháp nổ súng đánh chặn. ông La Văn Hạnh vác cờ đi đầu bị trúng đạn hy sinh. Nghĩa quân chống cự một cách yếu ớt rồi tan tác
.
   Sau trận đánh thành Thanh Hoá không thành, nghĩa quân do Nguyễn Hữu Hạnh chỉ huy tan rã. Ông lẩn quất ở cánh rừng gần làng, với ý định về làng khôi phục lực lượng. Nhưng làng Kim Bôi bị quân Pháp bao vây, lùng sục dữ dội, nhiều người bị bắt, làng xóm bị đốt phá. Nguyễn Hữu Hạnh đợi đêm tới vượt sông Mã tới căn cứ Vân Đồn ở phía bắc núi Nưa do chánh sứ sơn phòng Tống Duy Tân thiết lập. Tống Duy Tân biết ông là người có tài tổ chức lực lượng nghĩa quân và chỉ huy chiến đấu giỏi, bổ sung ông vào ban chỉ huy đồn Vân Đồn hoạt động ở vùng tây Nam huyện Hoằng Hoá. Ông đã tích cực xây dựng đồn luỹ Vân Đồn, huấn luyện quân sĩ trở thành thiện chiến. ông cũng chỉ huy nghĩa quân đánh nhiều trận.

   Việc ông Nguyễn Hữu Hạnh tham gia chiến đấu ở căn cứ Vân Đồn được giữ bí mật, vì để lộ giặc Pháp sẽ tàn sát con cháu ông, triệt phá làng Kim Bôi. Khoảng năm 1890, căn cứ Vân Đồn vỡ, ông trở về nhà sống cuộc đời dân dã được vài năm thì mất. Có người ở Vân Đồn bí mật tới viếng kể chuyện, đến lúc đó con cháu mới biết suốt từ năm đánh thành Thanh Hoá thất bại đến năm 1890 ông chiến đấu ở Vân Đồn.
LÊ VĂN THỨC

   Lê văn Thức là người làng Nhuận Thạch, nay thuộc xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông là cai tổng, thường gọi là Cai Hoà. Ông làm tổng lý, nhưng không a dua theo Pháp như nhiều kẻ khác mà luôn luôn đứng về phía nhân dân phản đối sưu cao, thuế nặng, bắt phu, bắt lính của bọn quan phủ, quan huyện tay sai giặc Pháp.

   Năm 1885 vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương, sai Trần Xuân Soạn về Thanh Hoá phát động phong trào khởi nghĩa. Cai Hoà hưởng ứng bằng cách vận động con em, gia nhập nghĩa quân. Ông thường bàn với lý trưởng Chới ở làng Triều Xá tìm cơ hội đánh giết giặc Pháp. Dịp may đã đến, vào đầu tháng 3 năm Bính Tuất (7/4/1886) một toán lính Pháp đi tuần tra, đến làng Triều Xá, chúng vào nghỉ ở nhà Lý trưởng Chới.

   Cai Hoà được Lý trưởng Chới thông báo, liền quyết định đánh. Một kế hoạch cướp súng và tấn công quân Pháp được vạch ra. Trong lúc lính Pháp ở trong nhà đã ăn uống xong, đang đùa với nhau, súng vẫn chụm ở ngoài sân. Bỗng một đoàn người già trẻ, trai gái, đem lễ vật là chuối tiêu và trứng gà luộc hợp khẩu vị của lính Pháp bước vào. Một cụ già đại diện nói: “Nghe tin các quan Pháp về, dân xã chúng tôi đến chào mừng và có chút lễ mọn đem kính biếu”. Bọn Pháp khen ngợi. Dân đến mỗi lúc một đông, trong đó có nhiều trai tráng, bất thình lình một số người xông vào cướp súng, rồi gậy gộc phang vào đầu giặc Pháp, gạch đá ném túi bụi vào chúng. Ta cướp được súng nhưng không có đạn. Bọn lính Pháp sau phút hoảng loạn, chúng bình tĩnh trở lại, giành lại được vài ba khẩu súng, chĩa súng vào đám đông bóp cò. Bên ta một số người bị thương, bọn lính Pháp chết 2 tên và rất nhiều tên bị thương. Bọn lính Pháp chạy ra bãi Mả Mồ, chấn chỉnh đội hình bắn trả.

   Sau khi quân Pháp rút. Lê Văn Thức và Lý Chới biết thế nào giặc Pháp cũng quay lại đàn áp trả thù liền cho người già, trẻ con ở ba làng Triều Xá, Triều Tiến, Nhuận Thạch bồng bế con cái gồng gánh đồ đạc, dắt trâu, khiêng lợn lánh sang các làng khác. Lê Văn Thức tổ chức trai tráng thành đội ngũ, anh em tự trang bị vũ khí chủ yếu là giáo mác, dao phát bờ, gậy gộc, rào làng chuẩn bị chiến đấu.

   Quả nhiên mấy ngày sau, quân Pháp điều động một lực lượng lính Pháp, lính khố xanh. khố đỏ bao vây, tiến đánh ba làng trên. Chúng cũng đề phòng quân của Lê Khắc Tháo, Trần Xuân Huấn, Nguyễn Hữu Lâm tới chi viện đã cho quân đóng chặn các ngả đường vào ba làng trên.

   Quân Pháp bắn như đổ đạn vào các làng rồi cho quân tiến vào làng. Nghĩa quân chỉ có vài khẩu súng cướp được của giặc nhưng không có đạn nên không đánh được từ xa. Khi quân giặc đột phá vào làng Triều Xá, ông Lê Văn Thức đích thân chỉ huy nghĩa quân đánh giáp lá cà với giặc. Nhưng thế giặc mạnh, ông phải cho quân rút khỏi làng. Bọn Pháp truy kích ráo nết. cuối cùng chúng bắt được Lê Văn Thức và một số nghĩa quân, đã dùng một cực hình tra tấn buộc ông phải khai ra những người đồng mưu với mình, song chúng không moi được gì. Ngày 4 tháng 3 năm Bính Tuất (714/1886) Lê Văn Thức bị giặc Pháp chém rồi treo đầu ở cửa Tả thành Thanh Hoá. Ba ngày sau mới cho người nhà đem xác về chôn. Khi con cháu thay áo thấy trong vạt áo của ông có câu đối viết bằng máu:

      Nhất phiên đan tâm ưng bất tử
      Bách niên cơ sự phó lai sinh.


Dịch:

      Một tấm lòng son ưng chẳng chết.
      Trăm năm cơ sự để người sau.

LÊ NGỌC TOẢN

   Lê Ngọc Toản người xã Cổ Định (nay là xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá, trong một gia đình có thế lực trong vùng. Ông đỗ cử nhân được bổ nhiệm làm tri phủ Đoan Hùng (Phú Thọ).

   Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương, Lê Ngọc Toản hưởng ứng, bỏ quan về quê dấy nghĩa. Lúc đầu khi mới dựng cờ khởi nghĩa, ông xây dựng căn cứ ngay tại làng Cổ Định. Về sau ông xét thấy địa hình Cổ Định không có lợi thế về quân sự nên đã chọn Ngàn Nưa - nơi địa thế hiểm trở, xưa đã từng là căn cứ địa của Triệu Quốc Đạt, Triệu Thị Trinh xây dựng căn cứ.

   Lực lượng nghĩa quân Lê Ngọc Toản có khoảng 200 người, đa số là tráng đinh các tổng Cổ Định, Lai Triều, Hữu Định, Đô Xá tham gia. Nghĩa quân huấn luyện tại triền núi Nưa hiểm trở, xa khu dân cư. Ông xây dựng đồn binh ở Ba Động và Sả Hèo nằm cách nhau 1 km. Bộ chỉ huy cũng đóng tại đây. Hai đồn này nằm trên trục đường nối liền hai tổng Cổ Định - Lai Triều, lại có đường thông tới các huyện Thọ Xuân, Như Xuân. Đồn tiền tiêu đóng ở làng Tương Định nay thuộc xã Tân Thọ án ngữ đường Cầu Quan - Quán Giắt.

   Bộ chỉ huy nghĩa quân đóng ở đồn Ba Động. Lê Ngọc Toản cử Lê Duy Tán làm quản binh, đảm trách nhiệm vụ huấn luyện, chỉ huy tác chiến. Lê Ngọc Toản rất coi trọng lương thực, ông cử Lê Xuân Trường là người quen biết rộng, có uy tín trong vùng làm Đốc vận quân lương.

   Hoạt động của nghĩa quân chủ yếu ở vùng Tây Bắc huyện Triệu Sơn (xưa thuộc Nông Cống) chủ yếu là đoạn đường từ Cổ Định đi Quán Giắt ra Cầu Thiều. Nghĩa quân thường xuyên quấy rối địch ở đồn Hoàng Lộc gần Quán Giắt, chặn đánh các toán quân do thám, tuần tiễu của giặc Pháp gây nhiều khó khăn cho việc lùng sục, càn quét của chúng.

   Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc Toản chịu sự chỉ huy chung của bộ chỉ huy chung của tỉnh Thanh Hoá do Tả quân Đô thống Trần Xuân Soạn và Chánh sứ sơn phòng Tống Duy Tân chỉ huy.
ĐỘI TÁM

   Đội Tám tên thật là Lê Xuân Tuyển, sinh năm 1831  trong một gia đình ngư dân ở làng Đông Thành, xã Hà Lộ, tổng Ngọc Chuế, huyện Hoằng Hoá, nay thuộc xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Lê Xuân Tuyển là một ngư dân quen nghề sông nước, nên năm Tân Hợi (1851) ông được tuyển làm lính thuỷ. Nhiệm vụ của ông là vận chuyển lương thực dùng vào việc quân từ các tỉnh Bắc Kỳ vào Kinh đô Huế. Do ông mẫn cán hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nên được bổ nhiệm làm Đội trưởng. Từ đó ông có tên là Đội Tám.

   Năm 1864, Đội Tám được chỉ định chỉ huy chiến thuyền đánh bọn hải phỉ ở vùng đảo Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Yên. Với tài dụng binh, ông không bày trận đánh bọn hải phỉ vốn thạo thuỷ chiến, mà tổ chức một trận đánh úp diệt được nhiều chiến thuyền, bắt sống được tên cầm đầu hải phỉ. Vùng biển Quảng Yên được giữ yên. Tháng 10 năm Bính Dần (1866) vua Tự Đức tin cậy giao cho Đội Tám áp tải quân lương, trông coi việc đóng chiến thuyền bọc đồng cho triều đình. Năm Kỷ Tỵ (1870) ông chỉ huy việc thao diễn binh lính hoàn hảo, được triều đình thưởng tiền. Đến năm Nhâm Thân (1872) ông được thăng chức Chánh đội trưởng suất đội. Cuối năm 1883 vua Hàm Nghi lên ngôi, Binh bộ thượng thư Tôn Thất Thuyết xây dựng Tân Sở ở Quảng Trị thành căn cứ quân sự để khi cần thiết thì chuyển triều đình về đó chỉ đạo kháng chiến. Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn tin tưởng giao cho ông nhiệm vụ quan trọng xây căn cứ này. Sau đó ông lại được giao chở vàng bạc, vũ khí ở Kinh đô ra, chuyển lương thực ở các tỉnh Bắc Kỳ vào dự trữ ở Tân Sở.

   Hoàn thành nhiệm vụ xây dựng cơ sở ở sơn phòng Tân Sở, ông được cử ra đóng ở sơn phòng Hà Tĩnh. Tháng 7/1885 Tôn Thất Thuyết tấn công quân Pháp ở Kinh thành Huế, việc không thành, các ông rước vua ra Tân Sở, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương. Đội Tám đã hưởng ứng chiếu Cần vương bằng hành động phát động thân hào, thân sĩ, nhân dân ở ba tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá thành lập các đội nghĩa binh đánh Pháp. Khi quân Pháp chiếm được tỉnh thành Thanh Hoá một cách dễ dàng vì quan quân sợ giặc mở cửa thành đầu hàng, Đội Tám bỏ về quê ở Hoằng Hoá. Lúc này phong trào Cần vương ở Thanh Hoá phát triển rầm rộ, các thủ lĩnh nghĩa quân ở Thanh Hoá cử ông làm Tán lý Lãnh binh. Ông tổ chức nghĩa quân ở vùng biển Hoằng Hoá rồi liên lạc với các thủ lĩnh Phạm Bành, Nguyễn Đôn Tiết. Các thủ lĩnh Cần vương Thanh Hoá quyết định xây dựng chiến luỹ Ba Đình với kiến trúc đặc biệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh là xếp các sọt bùn tạo nên tường thành. Nhiệm vụ này được giao cho Đội Tám người có đóng góp quan trọng trong việc xây.dựng căn cứ Tân Sở ở Quảng Trị thực hiện. Tháng 9 năm 1886, chiến luỹ xây xong, Đội Tám cho chuyển lương thực, thực phẩm dự trữ chứa trong các kho nửa chìm, nửa nổi. Số lương thực này đủ cho đội quân phòng thủ sử dụng trong 6 tháng. Các thủ lĩnh phong trào Cần vương Thanh Hoá rất hài lòng với cấu trúc của chiến luỹ này. Khi trên 300 nghĩa quân được lựa chọn ở các cánh quân trong tỉnh tới, Đội Tám được phong chức Chánh Đề đốc phụ trách việc huấn luyện chiến thuật phòng ngự, tấn công cho anh em. Sau trận này quân Pháp tập trung quân Pháp, lính Nam triều, giáo dũng trở phá các căn cứ của phong trào Cần vương toàn tỉnh. Nhiều thủ lĩnh hy sinh, bị bắt, bị hành hình. Đội Tám về quê trú ẩn, giặc phát hiện được, bắt ông đi tù vài năm rồi thả về. Ông sống cuộc đời bình dị ở quê, mất năm Kỷ Dậu (1909) ở tuổi 79.

NGUYỄN TRỌNG TÂY

   Nguyễn Trọng Tây người làng Phù Lưu, Nguyễn Thế Sanh và Thiều Kim Nê người làng Viện Giang, đều ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay cả hai làng đều thuộc xã Đông Tân, huyện Đông Sơn. Cả ba ông Nguyễn Trọng Tây, Nguyễn Thế Sanh, Thiều Kim Nê đều đỗ cử nhân võ.

   Tháng 7 năm 1885, sau trận tấn công quân Pháp ở Kinh thành Huế đêm 4 rạng ngày 5 không thành, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn rước vua Hàm Nghi ra Tân Sở, hạ chiếu Cần vương. Thanh Hóa là một trong những tỉnh có đông đảo sĩ phu hưởng ứng, ba ông cử nhân võ cũng chiêu mộ quân đánh Pháp. Công việc mới khởi đầu thì có kẻ đi mật báo cho giặc Pháp biết. Quân Pháp kéo về vây hai làng Phù Lưu và Viện Giang. Nguyễn Thế Sanh và Thiều Kim Nê đem quân ra chống cự, bị giặc Pháp bắt, chém ngay tại chỗ. Nguyễn Trọng Tây phá vòng vây chạy thoát cùng một số nghĩa quân gia nhập cuộc khởi nghĩa do Lê Khắc Tháo ở Bái Giao lãnh đạo. Khi các thủ lĩnh phong trào Cần vương ở Thanh Hóa họp hội nghị ở Bồng Trung quyết định xây dựng căn cứ Ba Đình ở huyện Nga Sơn, giao cho Đinh Công Tráng, Phạm Bành và một số tướng lĩnh chỉ huy, Nguyễn Trọng Tây được Lê Khắc Tháo cử về tham gia xây dựng căn cứ Ba Đình và tham gia chỉ huy chiến đấu ở đó.

   Nguyễn Trọng Tây được Đinh Công Tráng, Phạm Bành cử chỉ huy một trong ba đồn. Ông còn được lệnh đem quân đi tập kích các đồn binh Pháp và Nam triều đóng ở Nga Sơn, Tống Sơn (Thanh Hóa), Tam Điệp (Ninh Bình) và chặn đánh các đoàn xe vận tải của giặc Pháp trên đường thiên lý.

   Nguyễn Trọng Tây chỉ huy quân sĩ đánh bại trận càn quy mô lớn vào ngày 18 tháng 2 năm 1886 ở hướng Tây Nam do tên trung tá Meldinggiơ chỉ huy. Ông còn tham gia trận đánh ngày 6 tháng giêng năm 1887 do tên trung tá Đốt chỉ huy. Nguyễn Trọng Tây hy sinh trong trận nghĩa quân chủ động rút khỏi căn cứ vì không chịu nổi mùi hôi thối của xác giặc chết ở chung quanh căn cứ.
LÊ CHÍNH

   Lê Chính còn gọi là Bang Hiền là con cụ Lê Đức có theo học chữ nho, nhưng không đi thi, ở nhà dạy học. Mặc dù theo học nghiệp văn, song ông chuộng cả văn lẫn võ. Do gia cảnh nghèo, nên mãi đến năm 1850 ông mới đỗ cử nhân khoa thi Hương ở Nam Định.

   Năm Kỷ Mão (1879) Lê Chính vào Huế thi Hội, thi Đình và đỗ Phó bảng.

   Lê Chính vốn nặng lòng yêu nước, trong thời gian ở Huế đã dâng biểu lên vua Tự Đức về chiến lược phòng thủ đất nước, về các chính sách kinh tế, phát triển công nghiệp, tu bổ đê đập, khơi sông ngòi, dẫn thuỷ nhập điền. Những bản tường trình của ông về các vấn đề trên được Tự Đức đưa ra viện cơ mật thảo luận, song không được thi hành.

   Cũng trong thời gian lưu lại kinh đô, ông đã được tiếp xúc với Tôn Thất Thuyết là một trong những người đứng đầu phe chủ chiến trao đổi về tình hình đất nước, đặc biệt về việc xây dựng một quân đội hùng mạnh ở các địa phương. Tôn Thất Thuyết rất ủng hộ ý kiến của ông. Lê Chính quyết tâm đi theo con đường vũ trang đánh Pháp.

   Khi Tự Đức mất, Ưng Lịch nối ngôi, lấy hiệu là Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã cử ông về Thanh Hoá tham gia lực lượng kháng chiến do Trần Xuân Soạn tổ chức. Ông được cử giữ chức Bang biện quân vụ tổng Văn Trinh, huyện Quảng Xưởng. Ông đã thống nhất lực lượng vũ trang của các xã thành một lực lượng nghĩa quân thống nhất tổng Văn Trinh.

   Với nhãn quan của người đã từng nghiên cứu binh thư, ông đã chọn "Cồn Cá Gáy" rộng tới 18 mẫu có cây um tùm, chung quanh là ruộng chiêm trũng, nước ngập sâu để xây dựng cứ điểm.

   Căn cứ vào quân số có sẵn ở các xã trong tổng và địa hình, ông chia quân làm bốn đơn vị do thủ lĩnh nghĩa quân các xã chỉ huy đóng ở các chốt quan trọng như núi Văn Trinh, núi Hoà Trung, núi Đá Chẹt...

   Khi giặc Pháp từ Nghệ An đánh ra tỉnh Thanh Hoá, chúng bị nghĩa quân tổng Văn Trinh chặn lại tiêu diệt ở các cứ điểm trên. trong đó phải kể đến trận đánh ở núi Hoà Trường do Cử Lưỡng chỉ huy. Lê Chính bố trí quân trong đám cây cỏ rậm rạp ở bến sông Hoằng. Bọn giặc vừa từ ca nô lốc nhốc kéo lên bãi, nghĩa quân đồng loạt bắn tên tẩm thuốc độc giết chết nhiều tên. Trong khi bọn giặc hoảng loạn thì nghĩa quân nhất tề xông ra dùng mã tấu, đoản đao, kiếm đánh giáp lá cà giết chết gần hết bọn chúng. Bọn còn lại trên ca nô tháo chạy mặc những tên chết, những tên bị thương gào khóc.

   Trận này nghĩa quân thắng lớn, thu được nhiều vũ khí, quân trang. Giặc bị chết gần hết, xác phơi trên bãi, nổi lềnh bềnh trên sông Hoằng.

   Quân Pháp muốn tấn công tỉnh thành Thanh Hoá từ phía Nam nhất thiết phải san phẳng được các cứ điểm tổng Văn Trinh. Ngày 24 tết năm Bính Tuất (1886) quân Pháp huy động hàng trăm canô chở đầy lính theo sông Hoà Trường tiến vào. Lê Chính lệnh cho dân cư ở cồn Cá Gáy và các làng lân cận tản cư vào huyện Nông Cống, chỉ còn nghĩa quân ở lại. Ông bố trí trận địa mai phục và khôn khéo cải trang dẫn chúng tới trận địa phục kích rồi biến mất trong những bụi cây. Cũng lúc đó tên, đạn của nghĩa quân phục ở hai bên bắn ra cấp lập. Bọn giặc hốt hoảng tháo chạy.

   Sau trận này, quân Pháp càn quét liên tục vào tổng Văn Trinh, nhưng Lê Chính vẫn chỉ huy nghĩa quân hoạt động liên tục trong 10 năm, đến năm 1895 mới tan rã. Các đồng chí của ông như Đỗ Đức Mậu, Đốc Nhất, Cử Lưỡng hy sinh, ông rút lên miền núi cùng chiến đấu với Cầm Bá Thước. Khi ông Thước hy sinh, ông cải trang ra dạy học ở Hà Nam, mất năm 1922 thọ 98 tuổi. (Theo bài Đội nghĩa quân Văn Trinh trong phong trào Cần vương tỉnh Thanh Hoá cuối thế kỷ XIX của giáo sư Đinh Xuân Lâm, TCLSQS).

NGUYỄN TỬ TƯƠNG

   Nguyễn Tử Tương sinh ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn (5 tháng 6 năm 1844) ở thôn Thư Điền, xã Ninh Nhất, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

   Nguyễn Tử Tương bản tính thông minh, học giỏi, văn chương phóng túng không chịu gò bó trong "khuôn vàng, thước ngọc” của nho học. Ông muốn nối chí cha đang giữ chức án sát tỉnh Quảng Yên nên còn học thêm võ nghệ. Ông không ngừng cùng bạn bè luyện tập, được giới võ lâm trong vùng kính nể. Vì văn chương phóng túng, chuộng võ hơn văn chương, nên ông đi thi mấy lần đều bị quan giám khảo đánh trượt, lận đận mãi đến năm 24 tuổi mới thi đỗ tú tài, năm sau đó thi cũng chỉ đỗ tú tài. Chán con đường khoa cử, ông xuống Quảng Yên giúp cha cầm quân đánh dẹp giặc Tầu Ô, hải phỉ lập được nhiều chiến công.

   Chiến công của ông đánh dẹp quân Tàu Ô, hải phỉ được triều đình biết tới. Mặc dầu ông mới đỗ tú tài vẫn được bổ nhiệm chức Bang biện sơn phòng tỉnh Thuận Hoá. Từ đó ông có tên gọi là "Bang Tương". Do ông có công lao xây dựng lực lượng biên phòng và bảo vệ biên giới phía Tây tỉnh Thuận Hoá, dẹp yên nạn trộm cướp, lưu manh ở miền Tây Thuận Hoá nên ông được thăng Thương biện tỉnh vụ.

   Ngày 25/4/1882, quân Pháp do Henri Riviere hạ thành Hà Nội. Triều đình Huế đã không chống cự, còn ra lệnh bãi binh chiêu hồi các tướng đang đánh Pháp về Kinh đợi chỉ, ngăn cấm nhận dân không được tổ chức lực lượng vũ trang đánh Pháp. Nguyễn Tử Tương liền từ quan về quê ở Ninh Bình. Tại đây ông đã liên lạc với nhiều sĩ phu yêu nước như Đinh Văn Tâm ở xã Hàng Sơn, Ba Chu ở xã Quán Vinh, Nguyễn Thể Kháng ở xã Áng Ngữ, Đinh Văn Phú và Đinh Hữu Khang ở xã Tri Hối đều thuộc tỉnh Ninh Bình, chuẩn bị lực lượng để khi có thời cơ thì nổi dậy đánh Pháp xâm lược và vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc.

   Khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, nghĩa sĩ khắp nơi hưởng ứng. Thời cơ đã tới, Nguyễn Tử Tương liền cùng các ông Đinh Văn Tâm, Nguyễn Thế Khánh, Phạm Văn Chu, Đinh Văn Phú, Đinh Hữu Khang dựng cờ nổi trống phát động nhân dân hưởng ứng. Nguyễn Tử Tương còn liên hệ với Trần Xuân Soạn quê ở Thanh Hoá. Ong cũng tới Tiên Động ở huyện Cẩm Khê, tỉnh Vĩnh Phúc liên hệ với Nguyễn Quang Bích, được Nguyễn Quang Bích thừa lệnh vua Hàm Nghi phong là Tán tương quân vụ phụ trách nghĩa quân Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định. Khi đã có lực lượng được trang bị vũ khí, Tán tương quân vụ Nguyễn Tử Tương bàn với ông Tú Đập đánh tỉnh thành Ninh Bình vào đêm 20 tháng 4 năm Bính Tuất (23/5/1886). Nhưng do chuẩn bị chưa tốt việc liên lạc với các cánh quân chưa chặt chẽ, đặc biệt là thiếu đội quân mạnh ở Hoà Bình do Đề Đập chỉ huy. Quân của ông đã đột nhập vào tỉnh lỵ Ninh Bình, nhưng xét thấy không đủ lực lượng công thành, nên ông cho đốt cổng Đông, chợ Phủ rồi rút lui.

   Bị quân Pháp truy kích, Nguyễn Tử Tương rút quân lên miền núi tiếp tục huấn luyện, chiêu mộ thêm quân. ông đã phối hợp với nghĩa quân Nam Định, nghĩa quân Hà Nam đánh các trận ở Nho Quan, Ý Yên, Phủ Lý gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Năm 1887, thực dân Pháp phát động lệnh các xã phải truy bắt ông nộp cho chúng, song nhân dân vẫn bảo vệ ông.

   Nguyễn Tử Tương ở rừng núi lâu ngày bị mắc bệnh sốt rét, bụng bang. Năm 1898 ông về nhà chữa bệnh, bị tên Cựu Bưởng phản bội báo cho giám binh Ninh Bình đến bắt. Thực dân Pháp và tay sai dụ dỗ ông ra làm quan, chúng sẽ chữa khỏi bệnh và cho ông hưởng vinh hoa phú quý, nhưng ông nhất định phản kháng. Đêm 16 tháng 10 năm Mậu Tuất (29/11/1898) Nguyễn Tử Tương dùng dao găm tự vẫn để tỏ thái độ bất hợp tác đối với giặc.
ĐINH VĂN PHÚ - ĐINH HỮU KHANG

   Vào thời Tự Đức, chi họ Tri Hối ở làng Sào Long, xã Tri Hối có anh em ông Đinh Văn Phú và Đinh Hữu Khang, cả hai ông đều đỗ tú tài đến khoá thứ tư.

   Năm 1885 khi Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá, Lãnh sự Pháp ở kinh thành Huế thì quân Pháp phản công. Hai ông cùng một số quan văn võ trong phe chủ chiến đã rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị.

   Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương. Các sĩ phu, nhân dân Trung Kỳ, Bắc Kỳ đều nhiệt liệt hưởng ứng trong đó có Đinh Văn Phú và Đinh Hữu Khang ở Thái Bình. Ông Đinh Văn Phú và ông Đinh Hữu Khang chiến đấu dũng cảm, mưu trí tiêu diệt nhiêu quân địch- ông Phú được vua Hàm Nghi ban cho Ngân tiền có ghi chữ "Thưởng công”.

   Khi hai ông Đinh Văn Phú, Đinh Hữu Khang mất xã Thiên Hối và ấp Tân An gần làng Sào Long tôn làm thành hoàng thờ hai ông.

      Đời sau có thơ vịnh hai ông:

         VỊNH CỤ NỀN ANH ĐINH VĂN PHÚ

      Xếp hề thư kiếm, dấy dao cung
      Việc nước cùng em gánh vác chung
      Tàn bạo, không dung ma quỷ trắng
      Quật cường quyết cứu nước non Hồng
      Sắc phong sán lạn lòi bao đức
      Tiền tặng huy hoàng chữ thưởng công
      Huyết thực ngàn thu thần mấy xã
      Đời sau nên mối chí anh hung.



         VỊNH CỤ NỀN EM ĐINH HỮU KHANG

      Tú tài mới đỗ bốn khoa liền,
      Vì nước cùng anh xếp bút nghiên,
      Sát tả sục sôi lòng cách mạng
      Bình Tây bỗng nhẹ gót chinh yên
      Vào sinh ra tử từng bao trận
      Lội suối trèo non trải chục niên
      Thành bại lẽ thường chi xá kể,
      Anh hùng tâm sự đối Hoàng thiên.

ĐỐC ĐEN

   Đốc Đen tên thật là Bùi Văn Quảng, người đen khoẻ mạnh, rất giỏi bơi lội, tính khí ngang tàng. Vì vậy mọi người gọi ông là Đen, ít người nhắc đến tên cúng cơm của ông. Ông người làng Yên Lữ, huyện Đông Quan, nay thuộc xã Đông Quan, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Năm 1882, Đen làm phụ tá cho Nguyễn Thân. Tổng đốc Định - An Vũ Trọng Bình gọi Thân vào thành giúp việc quân. Thân đem theo cả Đốc Đen. Ở trong quân ngũ Đốc Đen tiếp xúc, kết thân với Lãnh Khuyển, Đề Gạo, Ba Gang đều là những thủ lĩnh giỏi của nghĩa quân Nam Định, Hưng Yên.

   Đốc Đen đánh úp các toán quân của triều đình do phe chủ hoà chỉ huy, lấy vũ khí. Ông còn tập kích vào các huyện lỵ Quỳnh Côi, Đông Quan, Phụ Dực, Kiến Xương. Đốc Đen liên hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân như Đốc Nhưỡng ở Đô Kỳ, Lãnh Hoan ở Thọ Vực.

   Phong trào kháng chiến chống Pháp ở Thái Bình lên mạnh và quyết liệt từ tháng 7/1885 sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn; hạ chiếu Cần vương. Tri phủ Hoàng Văn Hoè từ quan theo Tạ Hiện cùng Đốc Đen chiêu mộ quân đánh Pháp. Từ năm 1885 đến năm 1888, Đốc Đen hoạt động mạnh ở Thanh Quan, Đông Quan (Thụy Anh), lan sang cả Thần Khê.

   Ngày 25/8/1888, Đốc Đen tập kích đồn Bình Cách (Đông Xá, Đông Hưng), Pháp phải đưa lính ở Thuỵ Anh tới cứu viện.

   Đêm 23/11/1888, trong khi nghĩa quân Nam Định tiến công đồn Vụ Bản thì Đốc Đen chỉ huy 300 quân đánh vào đồn Thanh Quan, hai tên thiếu uý Đây véc giơ (Duvergé) và I luyếc xi (Illiercy) phải liều chết đốc thúc quân lính dưới quyền chống cự mới giữ được đồn.

   Đêm 21/9/1889, quân Pháp cho tên Khải người cùng làng Đốc Đen chà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân chỉ điểm. Đốc Đen phát hiện ra liền tương kế, tựu kế, cố tình để lộ việc mời các thủ lĩnh về nhà mình ăn uống, bàn cách đánh kho gạo Kiến Xương. Tên Khải thám thính được vội vàng báo cho Bùi Phụng, Tuần phủ Thái Bình và tên thiếu uý Rivière chỉ huy đồn Phụ Dực biết. Hai tên này vội vàng đưa lính đến làng Yên Lũ, Bùi Phụng thúc lính vây kín chung quanh làng, Đốc Đen cho số quân ít ỏi phục ngoài vườn còn mình và các tướng vẫn ngồi trên sập uống rượu. Rivière vừa vào tới sân thì nghĩa quân phục ở ngoài vườn nổ súng. Đốc Đen cầm mã tấu xông ra sân, chém cụt đầu tên thiếu uý Pháp. Tên Khải đi sau vội kêu lên: "Ối quan phủ ơi nó giết mất quan một rồi”. Hắn chưa dứt lời thì cũng bị nghĩa quân xông vào chém đứt đầu hắn như tên đồn trưởng Pháp rồi xách đầu hắn chạy. Bùi Phụng phải vượt qua lưới đạn của nghĩa quân để khênh cái xác không đầu của Rivière ra khỏi làng.

   Trận đánh phá vây nổi tiếng uy danh Đốc Đen càng lừng lẫy, đích thân tên công sứ Nam Định Lamothe de Ranier lệnh cho phó sứ bố chánh Nam Định, từ phủ Thái Bình đem quân đi càn quét để bắt Đốc Đen.

   Từ cuối năm 1889 , phong trào chống Pháp ở Thái Bình khó khăn, Tạ Hiện, Phạm Huy Quang, Bang Tốn hi sinh. Căn cứ Đô Kỳ của Đốc Nhưỡng, căn cứ Thọ Vực của Lãnh Hoan bị quân Pháp càn đi, quét lại nhiều lần. Quân Pháp sau khi phá vỡ các cuộc càn quét khác đã tập trung binh lực, bao vây, truy quét Đốc Đen. Tuy vậy ông vẫn khôn khéo tránh các mũi nhọn của địch, đánh nhiều trận tập kích, phục kích xuất sắc. Tiêu biểu như các trận cuối năm 1889, Đốc Đen chỉ huy nghĩa quân đánh một trận ác chiến với quân lính của tên quan phủ Kiến Xương. Tháng 1/1890, Đốc Đen chỉ huy nghĩa quân đánh một trận lớn ở phía bắc phủ Kiến Xương, ở chùa Tương An, Đốc Đen còn tấn công huyện đường Thư Trì.

   Tháng 3/1890, Đốc Đen nhận được tin tên công sứ chở gạo từ Gia Định về để bán với giá cắt cổ cho dân bị mất mùa, ông phối hợp với quân của Lãnh Hoan, Đốc Nhưỡng đánh trận Bình Cách để cướp gạo.

   Các hoạt động của Đốc Đen vang dội, Tạ Quang Hổ - con trai Tạ Hiện, Cả Tiến, con rể Phạm Huy Quang cùng về liên hệ, bàn kế hoạch tác chiến.

   Để đối phó với quân Pháp tập trung quân mở các cuộc càn quét lớn vào các khu vực hoạt động của nghĩa quân, Đốc Đen chia quân thành những toán nhỏ, mặc quần áo của lính khố xanh, khố đỏ, hành quân giữa ban ngày tiến đánh các đồn bốt giặc, các lỵ sở của bọn quan phủ huyện làm tay sai cho giặc Pháp.

   Tháng 11/1889, Đốc Đen phối hợp với các thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa ở Nam Định. Hưng Yên đánh phủ lỵ Kiến Xương và phủ lỵ Thư Trì. Các ông tập trung ở căn cứ của Lãnh Bí, tên chánh đội Phạm Biểu làm phản báo cho tri phủ Kiến Xương là Trần Thuỳ, tên này báo cho quân Pháp rồi đưa lính đến bao vây. Hai bên đánh nhau ác liệt từ chiều đến đêm, cả hai bên điều bị thiệt hại rồi cùng rút lui.

   Tháng 12/1889, Đốc Đen chỉ huy nghĩa quân đánh thẳng vào huyện lỵ Thư Trì. Song quân triều đình đã được tăng viện lính và vũ khí chống trả dữ dội nên trận đánh không hiệu quả.

   Năm 1890 , tỉnh Thái Bình mất mùa, Đốc Đen đánh úp các đoàn tải lương của quân Pháp. Ông cùng với Đốc Nhưỡng, Lãnh Hoan hợp quân đánh thẳng vào Bình Cách, phủ lỵ Thái Bình, các huyện lỵ Đông Quan, Thanh Quan, Kiến Xương. Nhưng kế hoạch bị lộ, tri phủ Bùi Bổng phi báo cho Pháp đưa quân đến bao vây. Cuộc chiến diễn ra ác liệt từ 9 giờ sáng đến hơn 4 giờ chiều. Lực lượng quân Pháp đông gấp nhiều nghĩa quân, Đốc Đen phải mở đường máu rút lui về chùa Trực Nội. Tên chánh tổng báo cho tri huyện thư Trì là Vũ Văn Trinh. Tên này báo cho quân Pháp bao vây chùa, Vũ Văn Trinh xông vào chùa bị Đốc Đen bắn liền chạy ra. Đốc Đen cùng mấy nghĩa quân bắn mạnh, mở đường máu xông ra ngoài, thì bị quân Pháp bắt được. Chúng giải ông ra Hà Nội cho tên Thống sứ Bắc Kỳ biết mặt rồi đưa ông về làng Yên Lũ chặt đầu để uy hiếp nhân dân. (Theo Thái Bình thông chí của Phạm Văn Thụ thì sau trận Bình Cách, Đốc Đen chạy về Trực Nội, huyện Thanh Quan và bị bắt ở một ngôi chùa do một nhà sư phản bội).


Không có nhận xét nào: