PHẦN 1 - KHU A
Cách
Hội An 42 Km và cách Trà Kiệu khoảng 30 Km về phía tây có
một thung lũng nhỏ đường kính ước chừng 2 Km đó
là thánh địa Mỹ Sơn , nó nằm gọn giữa những ngọn núi
bao quanh và chỉ có một lối vào duy nhất là theo con đường
độc đạo nằm giữa hai quả đồi , hai quả đồi này
tạo thành hai cái trạm gát , một cái chốt phòng ngự
cao khoãng 30 mét và một con suối nằm chắn ngang trước mặt
con đường vào thung lủng như một chiến hào sâu và rộng
gây thêm một chướng ngại cho những ai muốn vào khu vực
thánh địa , một thứ chiến lủy của thiên nhiên sẵn có
, con suối chảy quanh co theo sườn núi phía bắc , rồi đâm
thẳng vào phía trung tâm , sau đó nó chạy vòng quanh tạo thành
một thủy lộ lưu thông cho toàn bộ khu vực này trong mùa
mưa và chỉ cần một cái đập nhỏ chấn ngang dòng suối
thì sẽ là lý tưởng , hình như con suối này ăn thông với
một nhánh của sông Vu Giang , Thu Bồn...
Sau khi băng qua suối đi dọc
theo một con đường ngoằn nghèo khoảng 3 Km thì đến khu vực
với các công trình kiến trúc quan trọng nhất của nền văn
hóa vương quốc Champa
Trong Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư (ĐVSKTT ) có ghi lại một số sự kiện liên quan đế sư
hình thành của vương quốc champa , kinh đô Trà Kiệu và thánh
dịa Mỹ Sơn
ĐVSKTT trang 158 : " năm 137 người
man ở huyện Tượng Lâm , quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đánh
phá quận huyện giết trưởng lại , năm 138 Thị Ngự sử
Giả Xương cùng quân các châu huyện hợp lại đánh Khu Liên
không được , bị Khu Liên vây đánh hơn một năm..... " Khu
Liên được xem như vị vua đầu tiên của Lâm Ấp hay còn
gọi là Vương quốc Champa sau này
ĐVSKTT trang 173 : " Năm 399 vua
Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân
rồi vào cướp Giao Châu " Kinh đô của Lâm Ấp bấy giờ là
Trà Kiệu
Năm 420 Tuệ Độ đánh Lâm
Ấp phá được chém giết đến quá nửa , Lâm Ấp xin hàng...Lần
đầu tiên Kinh đô Trà Kiệu và Thánh địa Mỷ sơn bị xâm
chiến
Năm 432 Vua Lâm Ấp là Phạm
Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống xin cai trị Giao Châu...
Năm 436 Hòa Chi hạ thành Khu
Túc, chém Phù Long , thừa thắng tiến vào Tựơng Phố ( Trà
Kiệu ) đây là lần thứ hai Thánh địa Mỹ Sơn bị chiếm
ĐVSKTT trang 222 chép : "
Năm 982 Vua Lê Đại Hành thân đi đánh Chiêm Thành chém chế
vua Chiêm tại trận. Chiêm Thành thua to , bắt sống của chúng
nhiều vô kể , cùng các kỷ nữ trong cung trăm người và mộ
nhà sư người Thiên Trúc , lấy các đồ quí đem về
thu được vàng bạc châu báu vô kể , san phẳng thành trì
, phá hủy tông miếu , vừa một năm thì trở về kinh sư ...
" đó là lần thứ ba khu Thánh địa này bị tàn phá và về
sau các Vua Lý Thái Tông , Lý Thánh Tông đánh chiếm Chiêm Thành
nhiều lần nữa
Những nghiên cứu của các
nhà khảo cổ cho biết Thánh địa này xây dựng từ thế kỷ
thứ IV và liên tục được trùng tu , phát triển và xây mới
thêm những đền tháp cùng các pho tượng điêu khắc bàng
đá khác cho đến thế kỷ thứ XIII mới chấm dứt
Theo Đai Nam Nhất Thống Chí
(ĐNNTC) quyển 2 trang 332 thì vùng đất Quảng Nam – Trà Kiệu
- Mỹ Sơn thì xưa là đất Việt Thường thị ; đời Tần
thuộc Tượng quận , đời Hán là bờ cỏi quận Nhật Nam;
đời Đường thuộc Lâm Ấp; đời Tống thuộc Chiêm Thành
là đất Châu Lý và Chiêm Động, Nước ta đời Trần năm
1306 gọi là châu Hóa ; năm Hồng Đức thứ nhất ( 1470 ) Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục trang 1104 ghi : " Vua Lê
Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành , mở rộng đất đai đến
núi Đá Bia đặt tên Thừa Tuyên Quảng Nam và tên Quảng Nam
có từ ngày đó (Tháng 6 năm 1472)
Trong ĐNNTC có ghi về phần
cổ tích có ghi Thành cổ Hoàn Vương (Trà Kiệu) ở huyện
Diên Phước tục gọi là Vệ Thành , tương truyền ngày xưa
Hoàn Vương đóng đô ở đấy.Ba mặt thành , trước ,tả
,hữu bị xói lở chỉ còn góc phía tây bắc hiện nay vẫn
còn ; về tháp cổ Chiêm Thành ở huyện Diên Phước có hai
cây tháp nay dều đổ nát , một tháp đổ xuống thành gò
ước hơn một mẫu....và còn mô tả một số tháp có trong
tỉnh nhưng không có chỗ nào trong sách mô tả phong cảnh và
tháp miếu như ở Mỹ sơn mà chỉ nói ở Khương Mĩ là có
ba tòa liền nhau cao 80 trượng , phía trên có lỗ thông thiên
, phía trong có tượng đá ,nay đã đổ nát , tương truyền
đây là chổ táng vợ vua Chiêm Thành
Hiện tại Thánh địa Mỹ Sơn
là quần thể kiến trúc phong phú và đa dạng nhất của nghệ
thuật Champa vể đền tháp , văn bia , tượng , điêu khác trên
đá và trên gạch
Lịch sử phát triễn của Thánh
địa Mỹ Sơn có lẽ là song song với sự xây dựng , hoàn
thiện kinh đô Trà Kiệu trong một tổng thể không thể thiếu
được trong nền văn minh , văn hóa Á đông nhất là văn minh
Champa là : Kinh đô - Lăng Miếu , Thánh địa , Đền đài để
thờ cúng các tiên vương , chư thần...
Trong một bi ký cho biết chính
vua Bhadravarman đệ nhất là người khởi công xây dựng thánh
địa này với những giòng như sau : " Ngài đã cúng dâng cho
thần Bhadresvara một khu vực vĩnh viễn , phía đông la núi
Sulaha , phía nam là núi Mahaparvata , phía tây là núi Kusala ,
phia bắc là núi...làm ranh giới . Ngài cũng cúng dâng cho thần
tất cả các ruộng đất và cư dân trong phạm vi đó, hoa lợi
cũng được dâng cúng cho thần.....Nếu có kẻ nào dùng vũ
lực để chiếm đoạt hay phá hủy ruộng đất này thì nhân
dân không phải tội, mà tội lổi sẽ dành cho kẻ đó....
"
Có bao nhiêu lối đi vào bên
trong khu vực thánh địa hay vào một quần thể tháp Champa
, có hay không ? một lối đi vào trực diện với cửa chính
của tháp đến nay vẫn còn là một điểu bí ẩn , hầu
hết các tháp đều quay mặt về phía đông , hướng của mặt
trời và của thần linh , khi quan sát người ta thấy chỉ có
một lối đi vào bên hông hay mặt sau của tháp mà thôi
Từ một vị trí cao nhất trong
thung lủng để quan sát hết quần thể kiến trúc của Thánh
địa Mỹ Sơn ta có thể phân chia các di tích , các tháp theo
kiểu phong thủy của nền văn minh Châu Á người ta thường
chọn hướng Đông Tây làm trục chính , Nam Bắc làm trục
phụ , gò cao , thế núi và mạch sông làm chuẫn trong việc
thiết kế xây dựng kinh đô , lăng miếu , đền đài , nhà
cửa...
Trong thung lủng có hai ngọn
đồi , ngọn phía đông cao hơn ngọn phía tây hai ngọn đồi
này đối diện nhau ở điễm trung tâm ngã tư của một con
suối , các nhánh của con suối này bao bọc 4 khu vực trong
Thánh địa
Khu
A : gồm các tháp và di tích nằm trên ngọn đồi phía đông
Khu B : gồm các tháp và di tích
nằm ngọn đồi về phía tây
Khu C : gồm các tháp và di tích
nằm phía nam , có hai khu C1 và C2
Khu D : gồm các tháp và di tích
nằm phía bắc
Cách phân chia này phù hợp
với địa thế phong thủy , tránh được tình trạng xé lẻ
từng mảnh vụn của tổng thể kiến trúc của mỗi tháp mà
trước đây nhà khảo cổ học người Pháp ông H.Parmentier
đã công bố năm 1904
Khu A có 5 kiến trúc : 1 tháp
chính và 4 tháp phụ
Khu B có 4 kiến trúc : 1 tháp
chính và 3 tháp phụ ?
Khu C chia làm C1 và C2 ,
C1 nằm phía đông được bao
quanh bằng một con suối gồm có 16 kiến trúc (4 kiến trúc
nằm rải rác bên ngoài và 12bên trong) : 2 tháp chính với 8
tháp phụ , 1 tháp chính và 2 tháp phụ đi kèm cùng
một số tượng điêu khắc bằng đá
C2 nằm phía tây gồm có 26
kiến trúc ( 6 ngoài và 20 trong ) : 3 tháp chính và 12 tháp
phụ cùng với một số tượng , phù điêu cùng các tác phẫm
điêu khắc , bi kí bằng đá mang tính tôn giáo
Khu C là khu vực có nhiều tháp
và các tác phẫm điêu khắc nhất
Khu D có 12 kiến trúc ( 1 ngoài và 11 trong) : 2 tháp chính , và 4 tháp phụ ,trong đó có 1 tháp chính không có tháp phụ đi kèm ? cùng một số tượng điêu khắc bằng đá
Khu D có 12 kiến trúc ( 1 ngoài và 11 trong) : 2 tháp chính , và 4 tháp phụ ,trong đó có 1 tháp chính không có tháp phụ đi kèm ? cùng một số tượng điêu khắc bằng đá
Tất cả là 46 kiến trúc có
thể đếm được trong khoảng ước chừng 70 kiến trúc của
Thánh địa này
Quan sát một số tháp , di chỉ
tiêu biểu mà hiện nay (năm 2003 ) còn lại trên thực địa
Khu A : gồm 5 kiến trúc nằm
trên ngọn đồi phía đông là ngọn đồi cao nhất trong thung
lủng , có một tháp chính và 4 kiến trúc phụ trong đó có
một tháp nhỏ để đựng bi kí nằm ở giữa , một thủy
tháp , một hỏa tháp và nhà bày mâm dùng để sửa soạn đồ
tế
Tháp chính có hai cửa theo hướng
đông tây , ở mỗi cửa có 8 bậc cấp để đi lên , ở mỗi
cửa đều có vòm cuốn
Núi Kasula |
Thánh địa Mỹ Sơn |
Ô Vuông điêu khắc hình Dương Vật |
Mặt nạ điêu khắc hình Sư tử |
Đặt biệt , tiêu biểu và
khá độc đáo nhất là cách trang trí ở chân tháp , mỗi góc
của chân tháp có một con sư tử đực vóc dáng cực kỳ dũng
mãnh bằng đá có kích thước khá lớn trong tư thế chống
đở các góc tháp , quanh chân tháp được trang trí bằng những
hàng mặt nạ gồm các ô vuông bằng đất nung cùng một kích
thuớc và cùng một chủ đề là mô tả dương vật bằng hình
ảnh thật mà không cách điệu như bộ Linga – Youni mà ta
thường thấy , mổi ô là một tác phẫm điêu khắc rất tinh
tế , sắc sảo , đầy ấn tượng với dương vật ngắn ,
hai tinh hoàn to và tròn , qui dầu tròn đỉnh nhọn , mạnh mẽ
đầy sinh khí
Mặt nạ nầy cũng có thễ
nhìn theo một cách khác đó là mặt của một quái vật mắt
lồi , mũi to , môi trên xếch lên , nhe răng dáng dấp của
sư tử , mỗi ô vuông là mỗi tác phẫm điêu khắc rất sinh
động và hấp dẫn, không có cái nào giống cái nào ( Xem hình
)
Nếu chỉ tách riêng phần sống
mũi và hai cánh mũi của quái vật để so sánh với một Linga
ở khu D thì khuynh hướng thiên về hình ảnh của Linga không
cách điệu dể dàng đựơc chấp nhận hơn , thế nhưng giải
thích đó là mặt nạ của mặt sư tử theo như vùng đất
mang tên Shimhapura thì cũng là một điều thú vị , bởi Shimhapura
là Trà Kiệu hay còn gọi là thành phố sư tử
Khu A có thể được xem như
là khu vực linh thiêng nhất nó mô tả toàn bộ triết lý của
vương quốc và dân tộc Champa hay chỉ riêng vùng đất Shimhapura
Các biểu tượng sư tử hay về bộ phận sinh dục nam
và nữ được các nhà điêu khắc và các nghệ sĩ cổ đại
Champa sáng tác theo hình ảnh thật chứ không cách điệu như
các tác phẫm ơ nơi khác , hình ảnh bộ phận sinh dục được
thờ phượng rất trân trọng ở nơi đây , ngoài ra Khu A là
một trong toàn bộ một tổng thể kiến trúc mang tính chất
triết lý và thờ phượng đặc sắc nhất của nghệ thuật
sử dụng gạch và đất nung để trang trí trên tháp của dân
tộc Champa trong thời kỳ vàng son của vương quốc này . Một
số trong các tác phẫm bằng đất nung vẫn còn vẽ đẹp sắc
sảo , với các nét đặc thù của nó, mặc dù nó đã
trải qua phơi mình giữa nắng mưa suốt gần 1500 năm mà vẫn
không hề hấn gì , phần còn lại của toàn cảnh thánh địa
Mỹ Sơn điêu tàn , thê lương như nhận xét cách đây hơn
một thế kỷ rửơi của sách Đại Nam Nhất Thống Chí
PHẦN 2 - KHU B
Trong
Thánh địa Mỹ Sơn có hai ngọn đồi , chúng nằm đối diện
nhau theo hướng đông – tây ngay ngã tư của một con suối
, các nhánh của con suối chia vùng này thành 4 khu vực
Khu A : gồm các tháp và di tích nằm trên ngọn đồi phía
đông
Khu B : gồm các tháp và di tích nằm ngọn đồi về phía
tây
Khu C : gồm các tháp và di tích nằm phía nam , có hai khu
C1 và C2
Khu D : gồm các tháp và di tích nằm phía bắc
Khu
B : gồm có các kiến trúc nằm trên ngọn đồi phía tây có
một tháp chính và 3 kiến trúc phụ
Theo tác giả Trần Kỳ Phương thì tất cả nhóm tháp này
đều có cùng một
niên đại .Tháp chính xoay mặt về hướng đông, một kíên
trúc phụ đối diện với tháp chính ( xem hình ) có thể đó
là chỗ bày mâm , nơi dùng để sửa soạn vật dụng tế lễ,
chếch về phía nam một kiến trúc khác có thể đó là Hỏa
tháp - Thủy tháp và một miếu nhỏ dựng bi kí phía đông
nam
Hiện nay tháp chính đã bị phá hủy , đổ nát tạo nên
một cái gò cao bằng gạch , phía dưới chôn vùi những gì
bí ẩn thì chẳng có ai biết , ngoài đống đổ nát này chỉ
còn một mảng tường cao về phía bắc , trên tường còn một
cửa giả và 5 trụ áp tường. Cửa giả có vòm cuốn có hình
ba lưỡi mác chồng lên nhau, trước nhỏ sau lớn hơn. Trụ
áp vào chân tường cũng có hình lưỡi mác nhỏ. Tất cả
những phần trang trí trơn không chạm hoa văn
Vật trang trí là những đầu thủy quái Makara bằng sa thạch
trông rất kỳ cục và hung dữ . Trên cửa chính là một tấm
lá nhĩ chạm thần Siva múa, thần có 8 tay , hai tay chắp lên
đầu , hai lòng bàn tay úp lại với nhau , vẫn còn trông rõ
các ngón tay , một kiểu thức đặt biệt của nghệ thuật
múa Champa và 4 cánh tay bên trái của nữ thần Siva mô tả
chi tiết không rõ rệt nhưng các bàn tay bên phải thì sinh
động hơn nhiều , các ngón tay nắm lại như đang cầm một
vật phụ thuộc , một đai dây đeo trước bụng , dưới rốn
một phần đai dây thòng xuống che kín bộ phận sinh dục ,
đầu đội mũ Kirita-Mukuta , dưới chân hai con Makara có vòi
cuốn (TKP)
Khu B tương đối là nhỏ nhất trong quần thể kiến trúc
ở đây , tháp chính không có các kiến trúc phụ đầy đủ
đi theo kèm như Hỏa tháp , Thủy tháp....như các tháp khác
của Champa , tuy nhiên ở đây có nét đặt biệt là tượng
thần Siva trở thành chủ đề thở phựơng chính của khu này
Khuôn mặt với mắt có hai hàng lông mày mỏng , mắt nhắm
nghiền , khuôn măt trong trạng thái , siêu thoát , sóng mũi
cao và cánh mữi nở lớn , môi dày và hơi mím lại , tai đeo
búp hoa , trái tai trệ xuống, nữ thần Siva trong thế múa
với các động tác rất đặt trưng là hai hàng tay dang ngang
rồi cong vút lên đầu , phần thân được kéo xuống do tư
thế dang hai đầu gối ra và gót bàn chân chụm lại , bàn
chân chài ra và các ngón chân hất ngược lên . Về phương
diện múa cỗ điển hay biến tâu hiện đại thì đây là một
động tác trong 5 động tác chân căn bản của nghê thuật
múa đòi hỏi nhiều kỷ năng và thời gian luyện tập lâu
dài mới có khả năng thực hiện được động tác khó này
, bởi nghệ sĩ múa chỉ tỳ trọng lượng của tòan bộ cơ
thể chỉ trên một điểm tiếp xúc nhỏ ở một phần ở
lòng bàn chân phài làm điểm tựa và toàn bộ chịu lực đặt
vào gan bàn chân phần ngón cái của bàn chân trái
Vũ
điệu của nữ thần SIVA
Dưới chân nữ thần Siva có hai người trong tư thế quỳ
, hai tay chấp lại đang dâng cho nữ thần một phẩm vật ,
hai nhân vật này không đối xứng và có động tác mô tả
sự hiến dâng lễ vật cho nữ thần rất khác nhau , một người
ở phía trước nữ thần và một người sau , những chi tiết
hoa văn trang trí phần này là một biến tấu trong nghệ thuật
điêu khắc rất đa dạng tinh vi.
Phần đế là hai con Makara nằm phủ phục hai bên với vòi
cuốn cong , con bên trái của nữ thần vòi được chạm trổ
che khuất một phần ống chân , mắt mở to , mí mắt hai vồng
ngước trông lên dầy sùng bái và ngữơng mộ , con Makara bên
phải ở trong tư thế khác , nằm sau nữ thần , phần đầu
của vòi kẹp một xâu chuỗi có hơn 25 hạt hướng dâng lên
nữ thần
Nữ thần Siva đang thể hiện điệu múa trên một tòa sen có nhiều cánh trong trạng thái trầm tư thanh thoát như đang hội nhập vào cõi siêu nhiên vô hình
Giữa lòng Thánh địa |
Hoa văn trên đài tượng |
Thánh địa Mỹ Sơn giờ đây chỉ còn sót lại lác đác
vài đền tháp rệu rã , những bức tượng không đầu rải
rác đâu đó trong bụi rậm ,dưới lòng suối hay nơi gò mối
... Hoang vu như những cơn gió nam oi nồng thổi qua trên đỉnh
núi Mahaparvata nhưng cái hồn của Champa vẫn còn phảng phất
đâu đó trên cỏ gai và cây dại , cái tinh anh của các nghệ
nhân Champa cổ đại vẫn còn thấp thoáng trong điệu múa của
nữ thần Siva trên khu cổ tháp ngậm ngùi
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ngõ cũ lâu dài bóng tịch dương
Ngõ cũ lâu dài bóng tịch dương
PHẦN 3 - KHU C
Từ
trên đồi cao của khu miếu tháp A chúng ta có thể nhìn thấy
được bao quát toàn bộ Thành địa Mỹ Sơn với những nóc
tháp bên dưới ẩn hiện trong những tàn cây hay bị che lấp
sau những bụi cỏ gai , điêu tàn , xơ xác , thê lương đến
ngậm ngùi , những ngôi tháp không còn nóc rệu rã , những
pho tượng mất đầu , các di chỉ , bi ký , các tác phẩm điêu
khác bằng gạch hay sa thạch lên mốc thời gian , các loại
cây ký sinh tầm gởi như sanh hay bồ đề có tuổi thọ khá
cao đeo bám như những phần xương máu huyết mạch của các
công trình kiến trúc , dưới chân tháp thì cỏ dại dây leo
chui rúc qua kẻ hở , ngóc ngách của các pho tượng hay các
khung trang trí của các mặt nạ ở chân tường gậm nhấm
, xói mòn , rạn nức , sụp đổ.....những kiệt tác của một
nền văn hóa mà độ dài thời gian ai nghĩ đến cũng phải
nuối tiếc thương hại cho số phận của nó , đó một hình
ảnh của Thánh địa Mỹ Sơn , một di tích văn hóa của Quảng
Nam – Đà Nẳng và của tất cả chúng ta
Thánh địa Mỹ Sơn hoang tàn
Nhìn từ phía Đông |
Nhìn tứ phía Tây |
Cây Ký sinh trên nóc tháp |
Tượng không đầu |
Nhìn trên cao phía từ Đông Nam của thung lũng thì khu C trải rộng nằm soãi ra bắt đầu bởi một mặt bằng , đỉnh của một ngọn đồi thấp , khu vực này chạy dọc theo triền dồi về hướng tây và càng xuống , càng thấp dần cho đến khi gặp khu bình nguyên đáy của thung lũng , khu C được phân chia thành những ô đất hình bậc thang , trên đó các kiến trúc đền tháp được xây dựng , phần bình nguyên dứơi chân đồi tương đối rộng rãi và thoáng , diện tích đất ở đây đủ để cất lên nhiều đền tháp
Và từ khu vực này có thể quan sát các đền tháp chung quanh thánh địa , xét về mặt địa lý thì nó được xem như trung tâm của vùng đất này
Một con suối chạy vòng vèo bao quanh làm cho cảnh trí ở đây thêm phần huyền bí , có khi thì dòng suối như chảy ngầm trong hang động mí nước len lỏi qua các tàn cây ụp xuống nước , tàn lá cây rừng nguyên sinh che kín ánh mặt trời làm cho khung cảnh càng mờ ảo , âm u , bí ẩn ....người ta có cảm giác rờn rợn bất an .... lẫn khuất đâu đó với ma rừng sơn lam chướng khí khi ngang qua một đoạn của con suối , mà từ mặt nước đen ngòm rong rêu chằng chịt bên dứơi khói bốc lên như sương mù , ở một chỗ khác con suối lại phơi mình dứơi ánh sáng mặt trời chói chang hai bên bờ chỉ là sỏi đá khô khốc , tia nắng chiếu từ hướng đông tới , xuyên qua dòng nứớc trong veo mát lạnh soi rõ từng tảng đá có nhiều màu sắc bên dứơi thanh thoát và an bình
Suối trong Thánh đia Mỹ Sơn |
Sơ đồ nóc tháp |
Bệ đá Youni vĩ đại |
Ngoài của tháp thì các trụ áp tường kéo dài khỏang 4
m với những trang trí hoa văn hình lá cuốn hình chử S nối
liền nhau , các vật trang trí là các tượng điêu khắc bằng
sa thạch hình Makara , hình vũ nữ Apsara , sử tử , voi , chim
thần Garuda....
Kiến trúc chân tháp gồm có hai phần , dứơi nhỏ hơn trên
, trang tri bằng những đóa sen trong các ô hình chữ nhật cùng
các tác phẩm điêu khắc bằng sa thạch khác , cửa lên được
thiết kế bởi 6 bậc cấp bằng đá ( Xem sơ đồ phục chế
)
Ngôi tháp này là biểu tượng cho nghệ thuật điêu khắc
, kiến trúc xây dựng và thiết kế , nó có thể là mẫu mực
cho các công trình kiến trúc sau này
Ngôi tháp chính mà ngảy hôm nay trên nền đá của nó chỉ
còn sót lại một bệ đá Youni cô đơn buồn hiu trong buổi
chiều nắng quái đỏ rực trên thánh địa Mỹ Sơn hoang vu
đầy gió , nắng , cỏ tranh và hoa dại, một vùng đất thánh
, một nơi linh thiêng một thời của dân tộc và vương quốc
Champa
PHẦN 4 - KHU C2
Người
Champa lập quốc vào cuối thế kỷ thứ II. Năm 192 cuộc khởi
nghĩa thành công, nghĩa quân Tượng Lâm và Nhật Nam dưới
sự lảnh đạo của Khu Liên lập ra một vương quốc lấy
tên là Lâm Ấp, đó là một quốc gia đầu tiên hình thành
ở phía nam nước Đại Việt. Lâm Ấp theo giải thích của
Thủy Kính ghi chú : Huyện Tượng Lâm, đọc theo chữ Hán là
Tượng Lâm huyện hay Tượng Lâm ấp, về sau bỏ dần chữ
Tượng thành ra Lâm Ấp. Năm 627-649, vua Viknâtavarman lên ngôi
đổi quốc hiệu là Hoàn Vương Quốc. Năm 808, nhà Đường
sang đánh, vua Hoàn Vương rút vào nam, đổi quốc hiệu là
Champa tức Chiêm Thành , đến thế kỷ XII, dựa theo một bí
ký của Champa thì quốc gia này bị Chân Lạp xâm chiếm kéo
dài từ năm 1199 đến năm Canh Thìn (1220) Sau khi người Chân
Lạp rút khỏi Champa, là bắt đầu thời kỳ hưng thịnh của
vương quốc này.
Kinh đô Trà Kiệu và thánh địa Mỹ Sơn có thể được
xây dựng từ thế kỳ thứ IV , Thánh địa Mỹ Sơn nằm cách
Trà Kiệu khoảng 30 Km về phía tây đó là một thung lủng
nhỏ đường kính ước chừng 2 Km, phía đông la núi Sulaha
, phía nam là núi Mahaparvata , phía tây là núi Kusala , những
ngọn núi bao quanh và chỉ có một lối vào duy nhất là theo
con đường độc đạo nằm giữa hai quả đồi phía bắc ,
hai quả đồi này tạo thành cái cửa ngỏ như một cái chốt
phòng ngự cao khoãng 30 mét với một con suối nằm chắn ngang
trước mặt, con suối chảy quanh co theo sườn núi phía bắc
, rồi đâm thẳng vào phía trung tâm , nó chạy vòng quanh tạo
thành một thủy lộ lưu thông cho toàn bộ khu vực
Sơ đồ khu C2 |
Du khách sau khi băng qua suối đi dọc theo một con đường
ngoằn nghèo khoảng 3 Km về hướng nam thì đến khu vực đền
tháp với các công trình kiến trúc và điêu khắc phong phú,
đa dạng nhất của nền văn hóa Champa
Ấn tượng dầu tiên mang đến cho du khách là sự hoang tàn
đổ nát của các ngôi tháp , sự rệu rả của các kiến trúc
trước sự tàn phá của thời gian từ hằng bao nhiêu thế
kỷ không được chăm sóc tu bổ đến đau lòng : Cỏ dại
, dây leo dưới chân tháp , cây tầm gởi , hoa lau ở trên nóc
Vương vãi mặt đất ; đá, gạch ngỗn ngang , loang lổ trên
tường rêu mốc thời gian. Tượng đá hình người vết thương
đầy rẫy kẻ mất đầu người cụt tay , chốn thì còn đầu
mà người đã mất . Hoa văn gạch đỏ , sa thạch tượng đài
lổ chỗ nắng mưa...
Trong số đó có tháp mang số B5 theo phân loại của nhà
khảo cổ hoc người Pháp , ông H.Parmentier vào năm 1903-1904
Ngôi tháp này có mái cong hình thuyền khác hẳn với các ngôi tháp khác là có đỉnh hình chóp nhiều tầng trong thánh địa cũng như ở các nơi
Đáy của ngôi tháp này có hình chử nhật , của chính quay mặt ra hướng bắc , hai bên hông đều có cửa sổ , tháp có hai phần , phần dứơi có mái che, cửa chính lệch về bên phải gồm có tiền sảnh , bậc cấp đi lên và vòm che chống đở bằng hai trụ đứng , mặt trước của mỗi trụ chia làm 3 ô nằm trên một chân đế hình vuông vững chắc , còn lại có tất cả 6 trụ áp tường chia mặt tiền của tháp ra làm 5 ô , trong mỗi ô có tượng hình người đứng chắp tay , phần trên trụ có 3 gờ nổi , chân trụ là đầu voi
Phần trên của tháp nằm chồng lên mái , mặt tiền có 8 trụ đứng , phần trên các trụ này có 4 gờ xếp lên nhau chia cắt phần mặt tiền thành các ô ngang dọc lạ mắt trong ô có trang trí hoa văn
Riêng phần trụ áp tường ở các góc có kích thước lớn hơn
Mái hình thuyền , hơi cong hai đầu , lỏm ở giửa , diện tích toàn bộ của mái bằng diện tích của phần trên tháp nên nhìn ở xa ngôi tháp có một thiết kế rất lạ gồm có mái cong hình thuyền , phần trên tháp trang trí chia cắt bởi 8 hàng cột và phần dưới tháp là các ô có hình ngửời đứng thẳng
Mặt hông của tháp quay về hưóng đông tây , đỉnh tháp là một vòm chóp nhọn hình búp sen được nâng bởi một dãy trụ áp tường
Trang trí là phần độc đáo của ngôi tháp này ngoài kiến trúc mái tháp không nhọn có nhiều tầng như các ngôi tháp khác mà là một mái cong hình thuyền
Chân tháp đã bị phá hủy tuy nhiên vẫn còn sót lại 3 tượng có hình đầu voi với vỏi thả xuống đất , phần trên các đầu voi này là một tòa sen trên có hình ngừơi đứng thẳng vai ngang hai tay chắp vào nhau , thân được chạm thẳng vào tường tháp , đầu đội mũ 3 tầng , hình ngừơi thứ ba trong hình còn thấy rõ có râu dài , trông xa thì thấy giông nhau nhưng nhìn và phân tích kỷ trong 5 tượng ngừơi được trang trí trong các ô có vòm che thì không có cái nào giống cái nào chỉ cần để ý các chi tiết ở bàn chân , hoa văn , nếp gấp của áo quần , kích thưóc chiều cao và chiều ngang của vai....
Phần trang trí vòm và thân tháp phía đông và tây là các bức tranh điêu khắc chạm trổ hài hòa và sinh động với các cột trụ chống ở góc hay áp tường
Ngôi tháp này được xem như ngôi tháp còn tương đối nguyên vẹn nhất trong Thánh địa Mỹ Sơn mặc dù nó bị phá hủy , một phần mái cong hình thuyền với các viên gạch bị bong ra trơ lại lớp đất nung bên trong nhiều nhất là giửa của mái phía hướng bắc , các gờ dứơi của nó cũng bị sạt lở
Nét hoang tàn của Thánh địa Mỹ Sơn
Ngôi tháp này có mái cong hình thuyền khác hẳn với các ngôi tháp khác là có đỉnh hình chóp nhiều tầng trong thánh địa cũng như ở các nơi
Đáy của ngôi tháp này có hình chử nhật , của chính quay mặt ra hướng bắc , hai bên hông đều có cửa sổ , tháp có hai phần , phần dứơi có mái che, cửa chính lệch về bên phải gồm có tiền sảnh , bậc cấp đi lên và vòm che chống đở bằng hai trụ đứng , mặt trước của mỗi trụ chia làm 3 ô nằm trên một chân đế hình vuông vững chắc , còn lại có tất cả 6 trụ áp tường chia mặt tiền của tháp ra làm 5 ô , trong mỗi ô có tượng hình người đứng chắp tay , phần trên trụ có 3 gờ nổi , chân trụ là đầu voi
Phần trên của tháp nằm chồng lên mái , mặt tiền có 8 trụ đứng , phần trên các trụ này có 4 gờ xếp lên nhau chia cắt phần mặt tiền thành các ô ngang dọc lạ mắt trong ô có trang trí hoa văn
Riêng phần trụ áp tường ở các góc có kích thước lớn hơn
Mái hình thuyền , hơi cong hai đầu , lỏm ở giửa , diện tích toàn bộ của mái bằng diện tích của phần trên tháp nên nhìn ở xa ngôi tháp có một thiết kế rất lạ gồm có mái cong hình thuyền , phần trên tháp trang trí chia cắt bởi 8 hàng cột và phần dưới tháp là các ô có hình ngửời đứng thẳng
Mặt hông của tháp quay về hưóng đông tây , đỉnh tháp là một vòm chóp nhọn hình búp sen được nâng bởi một dãy trụ áp tường
Trang trí là phần độc đáo của ngôi tháp này ngoài kiến trúc mái tháp không nhọn có nhiều tầng như các ngôi tháp khác mà là một mái cong hình thuyền
Chân tháp đã bị phá hủy tuy nhiên vẫn còn sót lại 3 tượng có hình đầu voi với vỏi thả xuống đất , phần trên các đầu voi này là một tòa sen trên có hình ngừơi đứng thẳng vai ngang hai tay chắp vào nhau , thân được chạm thẳng vào tường tháp , đầu đội mũ 3 tầng , hình ngừơi thứ ba trong hình còn thấy rõ có râu dài , trông xa thì thấy giông nhau nhưng nhìn và phân tích kỷ trong 5 tượng ngừơi được trang trí trong các ô có vòm che thì không có cái nào giống cái nào chỉ cần để ý các chi tiết ở bàn chân , hoa văn , nếp gấp của áo quần , kích thưóc chiều cao và chiều ngang của vai....
Phần trang trí vòm và thân tháp phía đông và tây là các bức tranh điêu khắc chạm trổ hài hòa và sinh động với các cột trụ chống ở góc hay áp tường
Ngôi tháp này được xem như ngôi tháp còn tương đối nguyên vẹn nhất trong Thánh địa Mỹ Sơn mặc dù nó bị phá hủy , một phần mái cong hình thuyền với các viên gạch bị bong ra trơ lại lớp đất nung bên trong nhiều nhất là giửa của mái phía hướng bắc , các gờ dứơi của nó cũng bị sạt lở
Những phần đổ nát của ngôi tháp có mái cong hình
thuyền
Phần mái che cho các trụ , ô chứa hình ngừơi thì sạt lở , bong tróc không còn hình dáng trông rất thê thảm nhất là vòm che ở tiền sảnh cửa chính , còn chân tháp thì ngoài việc mất đi một tượng có hình đầu voi và các tác phẫm điêu khắc trang trí khác các viên gạch đã bong ra khỏi chân tháp để lại những ngóc ngách lổ chổ môi trường tốt nhất cho các loại cây ký sinh, cỏ dại và hang cho các loại gậm nhấm
Trong khu C1 còn có một ngôi đền nhỏ nằm phía tây của ngôi tháp có mái cong hình thuyền này , đền quay về hướng đông , nóc tháp nhọn đổ nát nhiều chổ , các hoa văn trang trí không còn nguyên vẹn , tiền sảnh bị sập chỉ còn lại sườn của vòm cuốn dưới có tạc tượng một hình người chắp tay phần mặt bị hư hại nặng , chân dứng trên một bệ đá mà hoa văn đã bi hủy hoại , hai bên có trụ chống cho vòm cuốn trên hoa văn lá xoắn hình chữ S liền nhau , tường và các cửa giả cách nhau là cho nó bớt nặng nề phù hợp với chiều cao của ngôi đền làm cho nó có một vẻ đẹp vừa nhẹ nhàn vừa thanh thoát
Trong cuốn sách Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm kể lại : Trong chỗ sâu kín của ngôi đền này vào khỏang năm 1904 , những nhà khảo cỗ học đã sưu tầm được một bộ trang sức bằng vàng, đầy đủ dành cho một pho tượng lớn cở nửa người thường. Kiểu thức hoa văn trang trí cho biết nó thuộc phong cách Đồng Dương . Đây là một bộ trang sức bằng vàng lá duy nhất còn nguyên vẹn tìm thấy trong nghệ thuật Chăm . Nó từng được đem trưng bày tại Hội Chợ Marseille năm 1926
Nơi ngôi đền này một bộ trang sức bằng vàng lá được
tìm thấy năm 1904
Bộ trang sức này dùng để đeo cho các tượng thần bằng
sa thạch hoặc bằng đồng khi hành lễ , ngày thường chúng
được tháo ra và cất giử cẩn thận . Bi ký Chăm tại Mỹ
Sơn đã nhiều lần nhắc đến bộ lễ vật này nó được
dâng cúng bởi các vua Chăm
Hiện tại bộ trang sức này đang ở đâu ? ai là chủ nhân
của nó , điều mà nhiều người muốn biết , muốn chiêm
ngữơng nó
Con người đã lấy đi rất nhiều thứ từ khu Thánh địa
này với rất nhiều lý do ! hiện tại tổ chức UNESCO thừa
nhận nó là một di tích lịch sử của nhân loại , hảy trả
lại cho khu Thánh địa Mỹ Sơn những gì của nó , đó cũng
là lòng tự trọng của con người chứ không phải sợ một
lời nguyền của vua Bhadravarman đệ nhất là người khởi
công xây dựng thánh địa này với những lời nguyền như
sau : ".....Nếu có kẻ nào dùng vũ lực để chiếm đoạt hay
phá hủy ....thì nhân dân không phải tội, mà tội lổi sẽ
dành cho kẻ đó.... "
Tham khảo
1/ Du ký đường Trường Sơn
2/ Đại Nam Nhất Thống Chí
3/ Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm của Trần Kỳ Phương
4/ Đại Việt Sử Ký Tòan Thư
5/ Mỹ Sơn sanctuary
6/ The Cham sculpture museum Đà Nẳng
7/ Khâm Định Đại Nam Hội Điễn Sự Lệ
2/ Đại Nam Nhất Thống Chí
3/ Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm của Trần Kỳ Phương
4/ Đại Việt Sử Ký Tòan Thư
5/ Mỹ Sơn sanctuary
6/ The Cham sculpture museum Đà Nẳng
7/ Khâm Định Đại Nam Hội Điễn Sự Lệ
Sưu tầm: Nguồn ông Hồ Đắc Duy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét