Nằm
trên núi U Rồng thuộc dãy Tản Viên, Đá Chông mang vẻ đẹp nguyên sơ tĩnh
mịch với những hàng thông xù xì vạm vỡ lá kim vi vút bốn mùa. Xen kẽ là
những loài cây gỗ lớn lá rộng có hàng trăm, hàng ngàn năm tuổi càng làm
tăng thêm nét thâm u cổ kính của cánh rừng nguyên sinh. Đi dưới tán
rừng già râm mát, chúng ta sẽ rất thích thú khi trông thấy những tảng đá
đứng lô nhô, sắc nhọn như chông, như chà.
Đây là khu vực đồi Đá Chông ở độ cao chừng 250m, có nhiều đá nhọn như
chông, như mác chĩa thẳng lên tạo thế bên sông Đà, mọc đầy cây rừng. Đá Chông cách trung tâm Hà Nội khoảng gần 50 km, có ranh giới
với ba xã Thuần Mỹ, Minh Quang, Ba Trại, phía Tây giáp sông Đà, bên kia
sông là xã Đồng Luận, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ. Địa hình toàn khu vực bị chia cắt thành nhiều
mảnh nhỏ, cao ở phía Bắc và phía Đông, thấp dần về phía Tây và Tây Nam.
Theo
truyền thuyết, đây là dấu tích của những cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh và
Thủy Tinh thời xa xưa. Lòng ghen tuông của chàng Thủy Tinh si tình dữ
dội, bao nhiêu bão dông mưa lũ cuồn cuộn đổ về đây, bao nhiêu thủy quái
được điều đến hòng cướp lại người đẹp từ tay Sơn Tinh, ầm ầm ào ào suốt
mấy ngày liền và hàng ngàn năm sau vẫn chưa thôi cơn giận dữ. Xưa nay,
cuộc chiến vì người đẹp bao giờ cũng bi tráng.
Có
thể kể thêm rằng, sông Đà từ Lai Châu cheo leo xa tắp về Hòa Bình xuôi
chảy qua làng Khê Thượng khi đến đây đã bất ngờ đổi hướng chuyển dòng
lên phía Bắc tạo ra một khúc gãy lạ kỳ để tìm tới ngã ba Bạch Hạc hội tụ
với sông Hồng, sông Thao tạo thành lưu thủy mênh mang về chầu Đền Hùng,
mộ Tổ. Chúng thủy giai Đông tẩu/Đà giang độc Bắc lưu (Các sông đều chảy
về Đông/Sông Đà riêng một, ngược dòng Bắc lưu). Trong Diễn ca Thánh Tản
Viên – Sơn Tinh có viết thế. Quả là một vùng núi sông danh thắng linh
thiêng hữu tình.
Đá
Chông càng thêm giá trị khi ở đây có thêm di tích K9. Năm 1957, Bác Hồ
cùng các đồng chí trong Quân ủy Trung ương đi kiểm tra diễn tập của Sư
đoàn 308 khi dừng chân tại đây Người đã nhận ra linh khí trong thế núi
hình sông của vùng đất này. Dãy Tản Viên Sơn ở phía Đông, dãy Thiết Sơn ở
phía Tây lại thêm Đà giang độc đáo liền kề, xét theo phong thủy thật là
đắc địa cho việc dựng căn cứ. Bác đã quyết định chọn Đá Chông làm Khu
căn cứ địa để chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dài
lâu của dân tộc ta.
Ở đây còn có ngôi nhà sàn do chính tay Bác chỉnh sửa thiết kế và chọn hướng
đã được khởi công xây dựng vào tháng 5-1958 và hoàn thành vào tháng
3-1960. Ngôi nhà nhìn về hướng Nam, xung quanh có nhiều cây cổ thụ râm
mát. Tiếp đó là nhà làm việc của Bộ Chính trị, Trung ương, Chính phủ.
Trong xây dựng công trình Bác không cho chặt một cây cổ thụ nào hết.
Trước sân nhà Bác cho rải sỏi tự nhiên chứ không đổ bê tông. Vừa hài hòa
với cảnh vật vừa dễ phát hiện thú dữ, kẻ gian xâm nhập. Các ô cửa sổ
đều đặt lưới chống muỗi nhưng vẫn rất thoáng đãng để đón các ngọn gió
rừng mát mẻ ùa vào nhà.
Bác
đã có 9 năm làm việc tại đây, từ 1960 đến 1969. Trong mỗi căn phòng,
lối đi, cành cây, ngọn lá tưởng như còn vương vấn tâm hồn Bác. Một lãnh
tụ anh minh kiệt xuất của dân tộc cũng là một thi sĩ đau đáu yêu từng
ngọn lá mỗi nhành hoa. Sự giản dị đậm đà tinh hoa truyền thống dân tộc
và văn minh tương lai nhân loại của Hồ Chí Minh như đang ẩn hiện ở nơi
này. Trước ngôi nhà làm việc của Bác có hai cây vàng anh tỏa cành vươn
lá xanh biếc. Đó là hai cây lưu niệm do Anh hùng vũ trụ Liên Xô Giécman
Titốp và phu nhân của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, bà Đặng Dĩnh
Siêu, trồng khi đến thăm Bác.
Sau khi các công trình phục vụ việc
bảo quản thi hài của Người trong những điều kiện hết sức nghiêm ngặt
hoàn tất, mật danh K9 được đổi thành K84. Năm 1970, sau cuộc tập kích
của không quân Mỹ ở khu vực Sơn Tây, để đề phòng căn cứ K84 bị lộ, thi
hài Bác được chuyển về công trình A75 tại Hà Nội. Từ trận lũ
lịch sử đe dọa vỡ đê và lũ lớn tại Hà Nội một năm sau đó, Đá Chông lại
được chọn làm nơi cho Người an giấc. Từ năm 1972-1975, thêm ba lần thi
hài Bác được chuyển tới những căn cứ bí mật khác rồi lại trở về K84.
Lại Hồng Khánh - Uỷ viên Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Tây:
- Bởi vì địa danh K9 Đá chông, cách đây 50
năm Bác Hồ đã đến thăm và xem xét khu vực núi Đá Chông, để rồi sau đó Đá
Chông mang mật danh “Công trường 5”, mật danh “K9″ nơi nghỉ và làm việc
của Bác Hồ và Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nơi
bảo vệ giữ gìn thi hài Bác những năm 1969 – 1975. Chúng tôi cho rằng
cuộc Hội thảo hôm nay còn có thêm một ý nghĩa khác, đó là chúng ta kỷ
niệm 50 năm ngày Bác Hồ về thăm và khảo sát khu vực núi Đá Chông trên
địa phận xã Minh Quang, huyện Bất Bạt ngày trước. Với những thực tế đó
tại cuộc Hội thảo này Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà tây chúng tôi phát biểu
với nội dung: 50 năm Bác Hồ với Đá Chông niềm tự hào của Đảng bộ và nhân
dân tỉnh Hà Tây.
Bác Hồ với Đá Chông là một mảng đề tài
nghiên cứu trong toàn bộ chương trình sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn về
Bác Hồ với Hà Tây trong công tác lịch sử Đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây.
Sau khi Bác Hồ qua đời, từ năm 1969 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hà Tây đã chỉ
đạo Ban nghiên cứu lịch sử Đảng sau đó là Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tiến
hành sưu tầm nghiên cứu và biên soạn những tư liệu Bác Hồ ở Hà Tây. Cho
đến nay đã 4 lần Tỉnh uỷ chúng tôi cho xuất bản sách Bác Hồ ở vào thời
điểm của các năm 1973; 1980; 1990 và năm 2006. Mỗi lần xuất bản sách Bác
Hồ, chúng tôi lại hoàn thiện thêm những tư liệu và Bác. Song cả 3 lần
xuất bản sách Bác Hồ trước đó Tỉnh uỷ chúng tôi vẫn chưa được phép công
bố những sự kiện Bác Hồ ở Đá Chông. Riêng những sự kiện Bác Hồ ở Đá
Chông sau khi Bác mất, vào những năm 1969 – 1972, trong những việc sưu
tầm, xác minh được một số thời điểm Bác Hồ đến Đá Chông vào các năm
1957, 1958, 1959. Bởi vì các sự kiện này liên quan đến các sự kiện: Cuối
năm 1956 Bác Hồ tặng cho Tỉnh uỷ Hà Tây chiếc xe ô tô GAT do Liên Xô
sản xuất, vì Hà Tây có thành tích đóng góp xây dựng một số công trình ở
“Công trường 5”. Chiếc xe ô tô đó mang biển số BAA – 257. Tỉnh uỷ giao
cho đồng chí Xuân Trường Bí thư Tỉnh uỷ sử dụng.
Năm 1999 Trung ương chính thức công bố
cho phép tham quan rộng rãi địa danh K9 – Đá Chông. Điều này đã tạo cho
Hà Tây có điều kiện hoàn thiện thêm những tư liệu về Bác Hồ với K9 – Đá
Chông ở Huyện Ba Vì . Với sự giúp đỡ của Bảo tàng Hồ Chí Minh, của Bộ Tư
lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 2006 Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Hà Tây đã cho xuất bản cuốn “Bác Hồ với Hà Tây”. Cuốn sách có 5
mục, trong đó mục II cuốn sách, Tỉnh uỷ Hà Tây công bố 61 lần Bác Hồ về
thăm, về ở và làm việc tại Hà Tây. Với địa danh Đá Chông chúng tôi công
bố 9 lần Bác Hồ về thăm.
Công bố 9 lần Bác Hồ về Đá Chông, Ban
Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Tây có những cơ sở của cả một quá trình sưu tầm,
nghiên cứu, biên soạn những cuốn sách về Bác Hồ. Trước hết, chúng tôi
dựa vào các tài liệu do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng trước đây sau đó là
Phòng lịch sử Đảng, ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ sưu tầm bổ sung và dựa vào
kết quả hai buổi gặp mặt nhân chứng lịch sử về Di tích K9 Đá Chông do
Bảo tàng Hồ Chí Minh chủ trì. Bên cạnh đó chúng tôi còn dựa vào kết quả
cuộc Hội thảo “Bác Hồ với Ba Vì” do Ban tuyên giáo Huyện uỷ Ba Vì trước
đây tổ chức. Riêng hai cuộc gặp mặt nhân chứng lịch sử do Bảo tàng Hồ
Chí Minh phối hợp với Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ
chức tại Hà Nội ngày 19/4 và ở Đá Chông ngày 1/7/2006 chúng tôi rất chú ý
đến ý kiến phát biểu của 2 đồng chí Cù Văn Chước và Nguyễn Văn Mùi. Đặc
biệt là ý kiến của đồng chí Nguyễn Văn Mùi, nguyên là lái xe của Phủ
Chủ tịch đã từng đưa Bác Hồ lên K9. Ý kiến của đồng chí Mùi là: “Trước
khi xây nhà ở trên đó, Bác có đi vài lần” và đồng chí kết luận “Bác lên
K9 không quá 10 lần”. Phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Mùi đã phù hợp
với kết quả khâu nối giữa 2 nguồn tư liệu: Một phần của Ban nghiên cứu
lịch sử Đảng tỉnh trước đây và kết quả cuộc gặp mặt các nhân chứng lịch
sử do Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức.
Hà Tây là địa phương được Bác Hồ về thăm,
về và làm việc nhiều lần. Đây là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân
tỉnh Hà Tây, trong đó K9 – Đá Chông lại là Khu căn cứ, là nơi bảo vệ và
giữ gìn thi hài Bác. Công tác sưu tầm biên soạn lịch sử Đảng của tỉnh Hà
Tây được tiến hành từ năm 1963. Việc sưu tầm tư liệu về Bác Hồ, chúng
tôi làm thường xuyên từ nhiều năm nay và kết hợp chặt chẽ với Bảo tàng
Hồ Chí Minh. Cuốn sách “Bác Hồ với Hà Tây” xuất bản năm 2006, chúng tôi
công bố 9 lần Bác Hồ về Đá Chông ở các thời điểm:
- Lần thứ nhất vào mùa hè năm 1957.
- Lần thứ hai vào sáng ngày 23/2/1958.
- Lần thứ ba vào buổi sáng ngày 20/6/1959.
- Lần thứ tư vào sáng mồng 1 Tết Canh Tý năm 1960.
- Lần thứ năm vào tháng 3/1961, Bác đưa Đại sứ Trung Quốc Hà Vỹ lên Đá Chông.
- Lần thứ sáu Bác đưa đoàn Bà Đặng Dĩnh Siêu lên Đá Chông vào ngày 13/3/1961.
- Lần thứ bảy Bác đưa đoàn của Anh hùng phi công vũ trụ Giéc man Ti Tốp lên ngày 24/01/1962.
- Lần thứ tám Bác lên Đá Chông ngày 19/5/1963.
- Lần thứ chín là ngày 20/9/1964, Bác
cùng một số Uỷ viên Bộ Chính trị và Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị lên
K9 trao đổi về tình hình đất nước sau sự kiện ngày 5/8/1964.
Trong 9 lần đó có 6 lần được giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh kết luận tại cuộc gặp mặt các nhân chứng ở Hà Nội vào ngày 19/4/2006. Ở đây tôi đi sâu vào sự kiện Bác Hồ lên Đá Chông vào các thời điểm 1957; 1958; 1959 và Tết Canh Tý 1960. Bởi lẽ những sự kiện này liên quan mật thiết với việc Bác tặng cho Tỉnh uỷ Hà Tây chiếc xe ô tô GAT vào cuối năm 1965.
Đối với sự kiện Bác Hồ lên Đá Chông vào
mùa hè năm 1957 đây là lần đầu tiên Bác Hồ lên Đá Chông. Bác lên Đá
Chông lần này là để khảo sát, xem xét địa bàn núi Đá Chông, sau khi có
báo cáo của Tỉnh uỷ Sơn Tây, lúc đó đồng chí Nguyễn Xuân Trường làm Bí
thư Tỉnh uỷ.
Bác lên Đá Chông lần này rất bí mật. Bởi
lẽ ai cũng biết: Tháng 8/1956 đất nước ta không có Tổng tuyển cử để
thống nhất Tổ quốc, sự nghiệp đấu tranh giải phóng Miền Nam và cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược sẽ rất gay go, ác liệt. Cuối năm
1956 Trung ương đã giao cho Sơn Tây tìm một địa điểm “Có núi, có sông,
có rừng cây che phủ, gần đồng bào” với lý do để xây dựng nhà nghỉ.
Thường trực Tỉnh uỷ Sơn Tây đã giao việc này cho Ty Công an và đồng chí
Việt Tiến là Phó Ty Công an Sơn Tây thực hiện. Đồng chí tìm mãi và cuối
cùng quyết định chọn địa điểm Đá Chông, sau đó trao đổi với đồng chí
Tùng rồi mới Báo cáo với Bác, chính vì vậy mùa hè năm 1957 cách đây 50
năm Bác Hồ đã lên khảo sát, xem xét khu vực núi Đá Chông. Khi Bác lên
đồng chí Việt Tiến ở phía xóm Bu đi ra và chờ Bác, Bác hỏi:
- Chú làm gì ở đây?
- Đồng chí Việt Tiến trả lời: Thưa Bác cháu dạy học
- Bác nói: Dạy học sao lại đứng ở đây?
- Đồng chí Việt Tiến đáp: Thưa Bác cháu dạy buổi chiều. Nói như vậy chính thực hôm đó Công an Sơn Tây có làm nhiệm vụ bảo vệ.
- Bác xem xét địa điểm, phong cảnh và nghỉ trưa ở Đá Chông.
Về sự kiện Bác cùng đồng chí Nguyễn Lương Bằng lên thăm Đá Chông vào sáng 23/2/1958 cũng được Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng trước đây ghi nhớ do khi sưu tầm tài liệu sự kiện chiều ngày 23/2/1958 Bác Hồ về thị xã Sơn Tây thăm và nói chuyện với Hội nghị cán bộ tỉnh đang học tập 2 văn kiện: Tuyên bố của Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân các nước XHCN và Tuyên ngôn hoà bình của hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân 65 nước họp ở Matxcơva (11/1957). Chính khi sưu tầm tư liệu Bác về thăm và nói chuyện với Hội nghị cán bộ ở Sơn Tây mà lãnh đạo Ban chúng tôi có biết đến việc đồng chí Nguyễn Lương Bằng và Bác Hồ lên Đá Chông vào buổi sáng.
Sự kiện sáng ngày 20/6/1959, Bác Hồ lên
lúc đó các công trình ở đây đang thi công và được mang mật danh “Công
trường 5”. Chiều hôm 20/6/1959, Bác về thăm và nói chuyện với hơn 2000
đồng bào huyện Quốc Oai đang làm việc trên công trường đê Ngọc Tảo,
huyện Phúc Thọ. Đối với sự kiện này báo tin Sơn Tây số ra 281 ngày
23/6/1959 đã đăng tin và bài nói chuyện của Bác. Khi chúng tôi tìm gặp
đồng chí Việt Tiến, đồng chí đã kể lại được các đồng chí cùng đi với Bác
nói là rất có thể lúc về Bác sẽ ghé vào thăm đê Ngọc Tảo và ở đây nhân
dân đang đắp đê đông lắm. Chỗ nào thấy nhân dân lao động vui Bác thường
hay dừng lại thăm hỏi, các anh em nên chuẩn bị trước.
Nhận được tin đó đồng chí Việt Tiến đã
báo tin với Tỉnh chuẩn bị micro nếu Bác xuống thăm, quả nhiên buổi chiều
ngày 20/6/1959 Bác Hồ vào thăm và nói chuyện với đồng bào Quốc Oai đang
đắp đê vừa hết một tiếng đồng hồ. Kết thúc buổi nói chuyện Bác bắt nhịp
hát bài “Kết đoàn”. Chính do việc tìm nhân chứng sống kể về sự kiện Bác
Hồ thăm đê Ngọc Tảo buổi chiều ngày 20/6/1959 mà lãnh đạo Ban nghiên
cứu lịch sử Đảng lúc đó đã biết được buổi sáng Bác về thăm “Công trường
5”.
Về sự kiện ngày mồng một Tết Canh Tý năm
1960, trước hết chúng tôi căn cứ vào cuộc trao đổi của Ban Tuyên giáo
Huyện uỷ Ba Vì và cuộc toạ đàm ngày 01/7/2006 do Bảo tàng Hồ Chí Minh và
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng tổ chức vào sổ ghi nhật ký của đồng chí Đỗ Viết
Nam, nguyên là Tiểu đội trưởng cảnh vệ ở K9. Điều chúng tôi rất lý thú
là những ý kiến về Bác lên Đá Chông sáng mồng một Tết Canh Tý năm 1960
trong 2 cuộc toạ đàm của huyện Ba Vì và Bảo tàng Hồ Chí Minh và Bộ Tư
lệnh Bảo vệ Lăng tổ chức lại trùng với ý kiến của đồng chí Nguyễn Xuân
Trường cách đây 15 – 16 năm.
Đồng chí Nguyễn Xuân Trường, nguyên là Bí
thư Tỉnh uỷ Sơn Tây 1954 – 1960, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông 1961 – 1965, Bí
thư Tỉnh uỷ Hà Tây 1965 – 1976. Một đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ ở cả 2 thời
kỳ khi còn là 2 tỉnh Hà Đông và Sơn Tây, khi đã hợp nhất thành tỉnh Hà
Tây có vinh dự và đi cùng và chứng kiến nhiều lần khi Bác Hồ về thăm và
làm việc ở Hà Tây. Năm 1991 đồng chí Xuân Trường về hưu, hàng tuần
thường đi bộ sang Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đọc các loại tài liệu. Khi ngồi
nói chuyện về cuốn sách “Bác Hồ với Hà Sơn Bình” xuất bản năm 1990,
đồng chí Xuân Trường có nói đến các sự kiện Bác Hồ ở Đá Chông nhưng do ở
K9 Trung ương chưa cho công bố nên trước đây các đồng chí thường trực
Tỉnh uỷ chỉ đạo các đồng chí không được nói, không được biên soạn. đồng
chí Xuân Trường có nhắc đến sự kiện sáng mồng một Tết Canh Tý năm 1960.
Tuy đồng chí không đi cùng với Bác hôm đó nhưng Công an tỉnh có đi bí
mật, phần lớn công nhân tham gia xây dựng ở khu quan trọng của “Công
trường 5” là người miền Nam nên Bác đã chúc Tết động viên. Trong việc nghiên cứu Bác Hồ với Hà Tây, từ khi tách tỉnh Hà Sơn Bình, chúng tôi phân thành 4 mảng đề tài:
- Mảng thứ nhất là sưu tầm nghiên cứu về
các sự kiện của Bác ở Hà Tây trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Về mảng này chúng tôi mở đầu kể từ khi quân đội Pháp nổ súng
tấn công Hải Phòng, Lạng Sơn cho đến 3/3/1947, Bác Hồ rời động Hoàng Xá
(Quốc Oai) lên chiến khu Việt Bắc.
- Mảng thứ 2 là sưu tầm nghiên cứu các sự kiện Bác về Đá Chông kể từ cuối năm 1956 – 1969.
- Mảng thứ 3 là sưu tầm nghiên cứu những tư
liệu về Bác với Đảng bộ và nhân dân Hà Tây kể từ sau Cách mạng Tháng
8/1945 đến khi Bác qua đời.
- Mảng thứ 4 là sưu tầm nghiên cứu các sự kiện Bác Hồ đến thăm các đơn vị Quân đội, Công an đóng trên địa bàn tỉnh.
Tất cả 4 mảng đề tài đó, duy chỉ có mảng
sưu tầm nghiên cứu những tư liệu Bác Hồ về Đá Chông là kéo dài nhất,
thầm lặng nhất do chúng ta phải chờ đợi vào thời gian Trung ương cho
công bố công khai địa danh K9, chính vì vậy những sự kiện Bác Hồ về Đá
Chông mà Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Tây công bố trong cuốn sách “Bác Hồ
với Hà Tây” xuất bản năm 2006, theo chúng tôi đó là sự tổng hoà giữa
việc sưu tầm khai thác tư liệu của ngành lịch sử Đảng tỉnh Hà Tây kể tù
năm 1969 với việc gặp gỡ các nhân chứng do Bảo tàng Hồ Chí Minh và Bộ Tư
lệnh Bảo vệ Lăng tổ chức; đồng thời còn là sự kết hợp giữa nhật ký công
tác và ảnh tư liệu của những người tham gia công tác ở Đá Chông hoặc
từng đến thăm Đá Chông, cũng như có lần đồng chí Vũ Kỳ đến làm việc
riêng với Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Hà Sơn Bình về Bác Hồ lên Đá
Chông.
Với những cơ sở như vậy năm 2006 khi tiến
hành sưu tầm tư liệu bổ sung và biên soạn cuốn “Bác Hồ với Hà Tây”,
chúng tôi đã công bố 9 lần Bác Hồ về Đá Chông trong đó có phần Bác tặng
thưởng chiếc ô tô GAT vào cuối năm 1965. Vì vậy tại cuộc Hội thảo này
chúng tôi muốn trình bày những cơ sở đó mà trước đây bộ phận nghiên cứu –
sưu tầm – biên soạn lịch sử Đảng của Đảng bộ tỉnh đã biết để các đồng
chí hiểu thêm về quá trình Tỉnh uỷ Hà Tây chỉ đạo toàn bộ việc sưu tầm –
biên soạn các sự kiện Bác Hồ về Hà Tây trong đó có sự kiện Bác đến Đá
Chông.
Cuộc hội thảo ngày hôm nay, chúng ta vừa
kỷ niệm 117 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa kỷ niệm 50 năm Bác
Hồ lên Đá Chông xem xét và khảo sát địa bàn. Những lần Bác Hồ lên Đá
Chông cũng như việc Bộ Chính trị , Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết
định chọn K9 – Đá Chông làm nơi bảo vệ giữ gìn thi hài Bác đã cải tạo
cho Đá Chông ngày hôm nay trở thành Khu Di tích lịch sử văn hoá của cả
nước, có giá trị to lớn trong việc tuyên truyền truyền thống cách mạng,
học tập đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuộc Hội thảo hôm nay với các bài tham
luận đứng ở các góc độ khác nhau, để bàn luận xoay quanh chủ đề “Chủ
tịch Hồ Chí Minh với khu Di tích Đá Chông” đã giúp chúng tôi thêm nhiều
vấn đề cùng nhau trao đổi sâu hơn những sử liệu về Bác ở Đá Chông, giúp
chúng tôi hoàn thiện hơn mảng đề tài “Bác Hồ với Đá Chông” mà chúng tôi
đã in trong cuốn “Bác Hồ với Hà Tây” xuất bản cuối năm 2006. Cuộc Hội
thảo này đã giúp chúng tôi sưu tầm và xác minh để xuất bản cuốn sách về
Bác Hồ trong những năm qua để sau này tiếp tục hoàn thiện ở những lần
tái bản sau.
Đại tá Lê Hồng Đường - Phó Chủ nhiệm Chính trị - Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Tôi
đã có mặt trong buổi gặp mặt các nhân chứng lịch sử đã từng được phục
vụ Bác Hồ và Trung ương tại Đá Chông. Tháng 5, tuy cái nắng hè oi ả
nhưng thời tiết ở nơi đây thật là dễ chịu với bao cảm xúc. Đã gần nửa
thế kỷ trôi qua, hôm nay người còn, người mất nhưng trong tiềm thức của
mỗi nhân chứng lịch sử đều gợi nên những kỷ niệm sâu sắc, tình cảm kính
yêu Bác vô hạn. Xin được ghi lại một vài kỷ niệm của các bác, các anh,
những thế hệ đi trước đã vinh dự được phục vụ Bác và Trung ương tại Đá
Chông.
Sau những cái bắt tay thân thiết, là những câu chuyện cảm động, hỏi
thăm sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình của nhau, mọi người chậm bước hướng
vào ngôi nhà nơi Bác đã từng sống và làm việc để làm lễ dâng hương tưởng
niệm Người. Biết bao những kỷ niệm đầy ắp cứ trào dâng trong lòng.
Những hiện vật một thời từng gắn liền với Bác; những nơi Bác và các đồng
chí Trung ương đã từng làm việc, nghỉ ngơi, tiếp khách, những cuộc họp
quan trọng bàn quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước trong
những năm chiến tranh. Các ông lần giở cuốn sổ vàng ghi lưu niệm của
khách tới tham quan, có nhiều đoàn, nhiều người viết rất cảm động. Đây
là lời ghi cảm tưởng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Tổng Tư lệnh,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Ông nhiều năm được sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ: “Ngày 1 tháng
1 năm 1998 lên thăm Khu di tích K9, cũng thường gọi là khu Đá Chông,
nhìn lại bức tượng khá giống Bác, ngồi lại cái bàn trước đây Bác đã họp
cùng các anh trong Bộ Chính trị, càng nhớ Bác vô cùng, cảm thấy như ngày
nào lên đây làm việc với Bác”. Đọc xong những dòng lưu niệm của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, mọi người nhìn nhau lặng đi trong giây lát, cùng
chung một cảm xúc: Tuy Bác đã đi xa nhưng ngôi nhà, chiếc bàn, chiếc ghế
làm việc, chiếc giường như còn ấm hơi Người, ngày nào còn được phục vụ
bên Bác, được Bác ân cần chỉ bảo, thế mà đã thấm thoát một phần hai thế
kỷ. Ông Nguyễn Văn Rự - 86 tuổi, nguyên Phó Chánh Văn phòng Uỷ ban Hành
chính tỉnh Sơn Tây những năm 1957 đến năm 1959, tuy tuổi đã cao, sức đã
yếu nhưng còn minh mẫn; ông chậm rãi kể lại:
“Tháng 2 năm 1958, tôi cùng
với ông Phương - Chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh vinh dự được đón Bác
lên thăm khu vực đồn điền cà phê cũ (công trường 5 sau này). Hôm đó, Bác
và đoàn công tác nghỉ ăn trưa tại đây. Buổi chiều Bác nói chuyện với
gần 500 cán bộ chủ chốt của tỉnh ở thị xã Sơn Tây. Sau này Bác Hồ và
Trung ương quyết định chọn nơi đây làm căn cứ, tôi lại vinh dự được cử
tham gia Ban chỉ huy công trường, đồng thời tham gia Đảng uỷ công
trường. Ông say sưa kể tiếp: “Thú thực lúc đó tôi vừa mừng vừa lo, mừng
rỡ cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ, một nhiệm vụ rất quan trọng, rồi
đây trên quê hương mình có Bác Hồ, có các đồng chí Trung ương ở và làm
việc, không mừng sao được”, nét mặt ông rạng lên: “Nhưng cũng rất lo vì
nhiệm vụ nặng nề, yêu cầu khẩn trương, công trình phải đảm bảo chất
lượng và tiến độ quy định. Vì vậy tôi phải luôn bám sát công trình. Mấy
lần được đi cùng Bác lên thăm và kiểm tra, còn lại tôi thường dùng chiếc
xe máy cơ động lúc ở Sơn Tây, lúc ở Công trường 5”.
Nghe ông Rự nói, tôi chợt nhớ đến ông Vũ Kỳ - Thư ký riêng của Bác
những năm trước đây đã kể lại: “Vào một ngày tháng 5 năm 1957, khi Bác
đến thăm cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 308 diễn tập ở thượng nguồn Sông Đà,
Bác nghỉ ăn cơm nắm cùng các đồng chí bên cạnh “Ba ngọn núi” Đá Chông,
chỗ đó đất phẳng, có một cây phượng vĩ, sau đó Người nằm nghỉ một lát
ngay dưới gốc cây”. Bác Hồ đến Đá Chông không chỉ một lần, nhưng buổi
trưa tháng 5 năm 1957 đó, cũng theo ông Kỳ: Người đã đứng ở vị trí “3
ngọn núi” Đá Chông nhìn Sông Đà trước mặt, thấy nơi đây sơn thuỷ hữu
tình, dòng sông uốn khúc, cảnh vật tươi đẹp, gần dân, xa đường quốc lộ.
Với tầm nhìn của nhà chiến lược thiên tài, Người đã tính đến việc lập
một căn cứ, khi cần thiết có thể đưa Bộ tham mưu của cách mạng đến đây
để tiếp tục chỉ đạo cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù.
Theo ý kiến của Bác, khu vực Đá Chông được xây dựng gồm nơi làm việc
của Trung ương, nơi nghỉ ngơi và khu vực dành cho lực lượng phục vụ.
Ngay sau đó, Tổng cục Hậu cần được giao nhiệm vụ xây dựng một số ngôi
nhà cấp 4. Đến tháng 5 năm 1959, trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, Trung ương đã chỉ
đạo các lực lượng của quân đội và địa phương khẩn trương xây dựng các
công trình của khu căn cứ. Sau khi hoàn thành, khu căn cứ mang mật danh
K9.
Kể về những ngày đầu xây dựng khu căn cứ, ông Cù Văn Chước - nguyên
Trưởng phòng Văn thư Văn phòng Chủ tịch nước, nguyên Giám đốc Bảo tàng
Hồ Chí Minh, là người vinh dự được phục vụ Bác Hồ nhiều năm chậm rãi tâm
sự: “Trong thời gian xây dựng khu nhà này, Bác Hồ đã lên kiểm tra 3
lần. Ngôi nhà chính được xây dựng mô phỏng theo kiểu nhà sàn và chính
Bác là người cắm cọc nhắm huớng cho ngôi nhà. Để giữ bí mật, khi xây
dựng, cây trong khu vực không được phép tuỳ tiện chặt phá. Nhiều cây lâu
năm cạnh nhà sàn (ngôi nhà 2 tầng) đến nay vẫn còn: cây gạo, cây vải,
cây long não, bồ hòn, cà phê….Nhiều cây được trồng thêm sau này như: cây
hoa lan, cây bạch quế… trồng ở đây vừa thêm bóng mát lại có hương thơm
bảo vệ cho môi trường. Cây vú sữa miền Nam trồng trong vườn Bác cũng
được chiết cành đem trồng trên công trường 5 và một số nơi nghỉ khác
như: Nhà nghỉ Hồ Tây, khu vườn ươm trong Phủ Chủ tịch…”.
Ông Lê Văn Năm, chiến sĩ Trung đội 1, Đại đội 1, Trung đoàn 600 đã từng
làm nhiệm vụ bảo vệ khu Đá Chông từ năm 1960 đã bồi hồi nhớ lại: trong
đời quân ngũ của ông đã vinh dự được gặp Bác Hồ nhiều lần, nhưng lần đầu
tiên được gặp Bác là sâu sắc nhất mà đến nay, buổi gặp đó vẫn in đậm
trong tâm trí của ông. Đó là sáng ngày 28 tháng 1 năm 1960 (tức ngày
mồng 1 Tết Canh tý) Bác Hồ lên Đá Chông (Công trường 5) thăm và chúc Tết
cán bộ, chiến sĩ bảo vệ và công nhân làm việc trên công trường. Biết
một số anh em công nhân là người miền Nam rất nhớ nhà, Bác căn dặn: “Các
cô, các chú nhớ miền Nam thì phải làm việc bằng hai để xây dựng miền
Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc”.
Kế đó Bác đến chúc Tết hai gia đình cụ Tô, cụ Cẩm ở chân đồi. Bác mặc bộ
quần áo nâu, đội mũ len, đi đôi dép cao su đen. Khi Bác đến gần mọi
người đều ngạc nhiên, vui mừng và luống cuống. Cụ Tô, cụ Cẩm chắp tay và
nói: “Lạy cụ, lạy cụ”. Bác tươi cười giơ tay vẫy và nói: “Các cụ đừng
làm thế. Nhân dịp năm mới chúc các cụ, các chú mạnh khỏe, ăn tết vui vẻ
và tiến bộ”. Sau đó Bác chúc Tết và chia quà cho mọi người. Tất cả mọi
người vỗ tay và cảm ơn Bác. Bác chào và đi lên nhà sàn.
Còn nhiều câu chuyện khác hết sức cảm động, đó là vào các dịp lễ, tết,
và kỷ niệm ngày sinh của Bác, Người không muốn tổ chức chúc tụng nhiều
và Người đã chủ động bố trí những chuyến đi công tác xa. Đá Chông là địa
điểm được Người đến nhiều nhất.
Mỗi
người bổ sung thêm một câu chuyện, một kỷ niệm với Bác, tưởng chừng như
không dứt. Các ông đứng lặng người ngắm nhìn ngôi nhà, mọi đồ vật vẫn
nguyên vẹn như xưa, đây là nơi tiếp khách, là phòng họp của Bộ Chính
trị, có kê một dãy bàn dài, ghế ngồi và quạt trần. Hệ thống cửa được
thiết kế đẩy ra vào cơ động trên ray, tạo thông thoáng, bệ cửa dùng làm
ghế ngồi khi có số lượng người dự họp đông, hoặc lúc nghỉ giải lao.
Những năm sau khi Bác mất, vào những ngày Tết Nguyên Đán, ngày giỗ Bác,
cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ tại đây đều đến thắp hương tưởng nhớ Bác.
Ngày 17 tháng 4 năm 1995 (tức ngày 18 tháng 3 năm Ất Hợi) đơn vị đã lập
bàn thờ Bác. Lúc đầu bàn thờ đặt ảnh chân dung, đến ngày 8 tháng 5 năm
1997 (tức ngày 2 tháng 4 năm Đinh Sửu) đã thay ảnh Bác bằng pho tượng
đồng. Đây là tác phẩm của hoạ sĩ Minh Đỉnh công tác tại Bảo tàng Quân
đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự) đã dựng lại chân dung Bác ngồi
trên chiếc ghế trúc (một đồ dùng quen thuộc của đồng bào Cao Bằng tặng
Người). Bác vừa dừng đọc báo Nhân dân, dường như để đón khách với ánh
mắt hiền từ nhân hậu. Mọi người dừng lại ngắm kỹ pho tượng Bác, rồi lần
bước cầu thang lên tầng 2 ngôi nhà. Tại đây ông Cù Văn Chước, ông Nguyễn
Văn Mùi - lái xe phục vụ Bác còn nhớ rất rõ năm 1961 Bác đã tiếp bà
Đặng Dĩnh Siêu (phu nhân cố Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai) và năm 1962
Bác Hồ đã đón tiếp Anh hùng vũ trụ Liên Xô Giéc - man Ti - tốp. Sự kiện
Bác Hồ tiếp hai vị khách quốc tế tại K9 có ý nghĩa rất lớn. Đây là một
cử chỉ rất thân tình của Bác đối với nhân dân Liên Xô và nhân dân Trung
Quốc anh em. Hiện nay những cây ngọc lan và vàng anh do Bác và các vị
khách quý trồng bốn mùa vẫn xanh lá, trổ hoa thơm ngát, tượng trưng cho
tình bạn, tình đồng chí thuỷ chung của nhân dân Việt Nam.
Cạnh
hai phòng khách là phòng họp nhỏ. Căn phòng này đã diễn ra buổi họp của
Bác với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để bàn bạc và quyết định
những việc có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam thống nhất Tổ quốc.
Phòng Bác nghỉ được bố trí những đồ dùng rất giản dị, những thứ rất cần
thiết. Ông Cù Văn Chước kể: “Đây là chiếc đệm cỏ của đồng bào Sơn La
tặng Bác, chiếc đèn ngủ, tấm thảm len là quà tặng khi Bác đi sang Trung
Quốc”. Bác vẫn nói với anh em phục vụ: “Những thứ tốt, đồ dùng khá hơn
nên dành cho khách quý, Việt Nam ta vốn có truyền thống hiếu khách, quý
trọng bạn bè”. Trong phòng này những khi Bác lên làm việc và nghỉ, trên
bàn làm việc thường có lọ hoa huệ - thứ hoa mà Bác rất thích.
Trước cửa ngôi nhà có một bể tròn, ở giữa có hòn non bộ tự nhiên, phía
trước bên phải, đầu cầu thang xuống có xây hầm trú ẩn nhỏ cho 3 - 4
người sử dụng. Phía trước bên phải ngôi nhà có một con đường xây gạch,
rải sỏi, từ nhà xuống sông Đà gồm 81 bậc, mọi người gọi là “Con đường
rèn luyện sức khoẻ” của Bác và hôm nay ai cũng nhìn thấy những cây bông
bụt khá to được trồng từ khi xây dựng khu căn cứ để gợi nhớ những cây
trồng trong vườn nhà ở quê hương Kim Liên, Nam Đàn.
Rời ngôi nhà sàn thân quen, mọi người trở về thăm khu nhà kính, khu nhà
đã bảo vệ, che chở an toàn cho thi hài Bác trong 6 năm chiến tranh.
Đứng trước tấm biển “Nơi đây đã giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
năm 1969 - 1975” do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trực tiếp gắn vào ngày 16
tháng 5 năm 2001, các ông đã kể nhiều câu chuyện cảm động về tinh thần
khắc phục khó khăn gian khổ, âm thầm chịu đựng, những sáng kiến cải tiến
kỹ thuật của các kỹ sư, bác sĩ, cán bộ, công nhân viên, kỹ thuật viên
của Việt Nam sát cánh cùng chuyên gia Liên Xô trong quá trình giữ gìn
lâu dài và bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Bác trong những năm tháng
chiến tranh ác liệt.
Kết thúc phần tham quan, các ông bước vào phòng khách. Mặc dù trước đó
đã dốc tâm sự, nhưng lúc này các nhân chứng lịch sử còn đầy ắp những kỷ
niệm đẹp. Sau này, mỗi người được phân công một nhiệm vụ khác nhau,
nhưng luôn luôn theo dõi từng bước đi của Đoàn 69 trước đây, cũng như Bộ
Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay. Trong điều kiện khó
khăn, gian khổ, thiếu thốn và giai đoạn bước ngoặt sau khi Liên Xô sụp
đổ, đơn vị đã vững vàng từng bước vươn lên làm chủ nhiệm vụ giữ gìn lâu
dài và bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Bác. Riêng khu di tích Đá Chông,
nhiều năm các ông mới trở lại, nhưng vẫn được bảo vệ giữ gìn nguyên
vẹn, các khu vực lân cận nhà sàn, nhà kính được tôn tạo khang trang, đẹp
đẽ.
Đứng ngắm nhìn các bác, các ông - những người đã một thời có vinh dự
được làm nhiệm vụ đặc biệt, giờ tuổi đã cao, sức đã yếu, nhưng vẫn minh
mẫn kể lại cho lớp con cháu những kỷ niệm thiêng liêng của mình đối với
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, trong tôi trào dâng niềm kính phục và
biết ơn vô hạn.
Người trực tổng đài ở K9:
Từ 1965, khi Bác Hồ sơ tán lên K9, người trực tổng đài tại đây chính
là ông Nguyễn Văn Hanh, nhân viên Cục Bưu điện Trung ương (nay là Bưu
điện Trung ương thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam - VNPT). Ông Nguyễn Văn Giai, nguyên Cục trưởng
Cục Bưu điện Trung ương (BĐTƯ). cho hay:
"Một số cán bộ của Cục
BĐTƯ đã lên thăm Khu di tích lịch sử K9 trước tôi nhưng không có ý định
tìm hiểu cơ quan nào phụ trách bộ phận thông tin liên lạc thời Bác Hồ và
Bộ Chính trị còn làm việc ở K9. Năm 2005, sau khi nghỉ hưu, tôi đến
thăm K9 và thấy lạ là trong thời chiến, Bác Hồ và Bộ Chính trị ở đâu thì
thường có người của Cục BĐTƯ ở đó để phục vụ hoạt động thông tin liên
lạc, nhưng sao ở đây lại không thấy nói đến chuyện này. Tôi hỏi thuyết
minh viên nhưng không có câu trả lời. Trở về cơ quan, tiếp tục dò tìm
trong đơn vị xem có người nào từng ở K9 giai đoạn đó không thì chẳng ai
biết vì việc điều động nhân viên của Cục BĐTƯ lên K9 thuộc thẩm quyền
của Văn phòng Trung ương, không lưu lại hồ sơ giấy tờ gì ở Cục".
Chuyện
ông Giai không có được câu trả lời cũng không có gì lạ bởi những thông
tin như vậy thuộc diện tuyệt mật, những người liên quan phải luôn tâm
niệm "sống để bụng, chết mang theo". Tuy nhiên, với mong
muốn làm rõ một bí mật liên quan tới lịch sử hào hùng của Cục BĐTƯ, ông
Giai quyết tâm đi tìm bằng được lời giải.
Mất khá
nhiều thời gian tìm đến một số cơ quan liên quan để hỏi thông tin mà
không thu được kết quả gì, chỉ khi lặn lội sang Bảo tàng Hồ Chí Minh,
ông Giai mới "mò" ra thông tin có một nhân viên của Bảo tàng là ông Bắc
"già" người Nghệ An từng phục vụ mảng điện thắp sáng cho Hồ Chủ tịch ở
K9.
Ông Giai liền tìm đến nhà ông Bắc ở Khu tập
thể Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, được ông Bắc cho biết
mình vốn là người của Nhà máy điện Yên Phụ, nhận nhiệm vụ đảm bảo mạng
điện trong Phủ Chủ tịch, lúc Bác Hồ lên K9 thì ông Bắc lên theo. Ở cùng
ông Bắc tại K9 thời kỳ đó có 2 người nữa của Cục BĐTƯ là ông Nguyễn Văn
Hanh và ông Long, chịu trách nhiệm phụ trách tổng đài điện thoại và mạng
cáp. Tổng đài điện thoại ở K9 được để ở phòng riêng, khi có báo động
thì chuyển xuống hầm.
Trên
hành trình đi tìm người từng phục vụ thông tin liên lạc cho Bác Hồ ở
K9, ông Nguyễn Văn Giai cũng khám phá thêm một câu chuyện khác chứng tỏ
sự chấp hành nghiêm túc nguyên tắc đảm bảo bí mật của cán bộ nhân viên
Cục BĐTƯ. Cùng thời điểm ông Hanh lên K9, còn có 1 bộ phận khác của Cục
BĐTƯ được điều lên làm phụ trách đài vô tuyến điện tại khu sơ tán ở
huyện Bát Bạt (giờ là huyện Ba Vì). Mặc dù khu K9 và đài vô tuyến điện ở
Bát Bạt ở cùng xã, thế nhưng 2 bộ phận hoàn toàn không biết nhau. Tới
khi Bác Hồ mất thì bộ phận phụ trách tổng đài của ông Hanh tại K9 giải
tán và đài vô tuyến điện ở Bát Bạt cũng được chuyển đi chỗ khác. Ông
Giai đoán rằng đài vô tuyến điện này cũng được sử dụng để phục vụ Bác Hồ
và Bộ Chính trị ở K9 như một bộ phận dự phòng hoặc hỗ trợ cho tổng đài.
Như
vậy là bí mật về nhân viên tổng đài phục vụ Bác Hồ tại K9 đã được làm
sáng tỏ. Năm 2007, tại khu di tích lịch sử K9, Ban Quản lý khu di tích
đã dựng biển trước cửa phòng tổng đài điện thoại ngày trước và ghi rõ
đây là thiết bị tổng đài điện thoại của Cục BĐTƯ phục vụ Bác Hồ. Chỉ tiếc rằng 2 năm sau khi những bí mật trên được ông Giai khám phá ra, đến năm 2009 thì ông Hanh đã qua đời.
K9
- Đá Chông là địa điểm đã được chính Bác Hồ chọn làm vị trí để dựng khu
căn cứ của Trung ương trong thời chiến. Nhiều lần Bác Hồ cùng các đồng
chí trong Bộ Chính trị đã làm việc ở K9. Đây cũng là nơi được chọn
để gìn giữ thi hài của Bác Hồ trong những năm chiến tranh, suốt từ khi
Người ra đi - năm 1969 cho đến năm 1975, trước khi đón Người về Lăng ở
Quảng trường Ba Đình.
Sưu tầm.
1 nhận xét:
hay ạ
Đăng nhận xét