THAY LỜI GIỚI THIỆU
Chiến thắng biên giới Cao - Bắc - Lạng (1950) là kết thúc hào hùng của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch trên Mặt trận Đường số 4 trong 4 năm ròng rã (1947 - 1950). Mặt trận Đường số 4 và chiến thắng Biên giới là tiền đề của chiến thắng Điện Biên Phủ. Theo lời một sĩ quan chỉ huy Pháp, đã từng tham gia chiến trận ở Cao - Bắc - Lạng và Điện Biên Phủ thì đối với quân đội Việt Nam thì chiến dịch Biên giới là "trận đánh thử lửa" và chiến dịch Điện Biên Phủ là "trận đánh quyết định". Và tinh thần quyết chiến cũng như sự tinh nhuệ của Cách mạng Việt Nam đã thể hiện hùng hồn trong "trận đánh thử lửa" trên mặt trận Đường sô' 4. Có thể thấy rõ điều này qua hai tác phẩm Đường số 4 rực lửa và Con đường tử địa. Có thể nói đây là Mặt trận Đường số4 nhìn từ hai phía.
Nhà xuất bản Giáo dục đã công bố tác phẩm Đường số 4 rực lửa, tập hồi ký của ông Đặng Văn Việt nguyên chỉ huy Mặt trận Đường số 4.
Trong dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Nhà xuất bản Đà Nẵng công bố bản dịch tác phẩm La Roltte morte (Con đường tử địa) {tức là Đường sô' 4}, tập hồi ký của ông Charles - Henlry de Pilrey, sĩ quan chỉ huy một đại đội tinh nhuệ quân đội viễn chinh Pháp, dịch giả Đặng Văn Việt.
Cứ mỗi lần dịch xong được vài chương, anh Đặng Văn Việt lại đưa tôi bản thảo nhờ tôi đọc lại bản dịch. Tôi đã đọc lại nguyên tác và có những trang viên rất hấp dẫn và chân thực. Tôi đọc say mê, quên khuấy đi một nhiệm vụ đọc lại bản dịch. Lần đưa bản dịch chương cuối tác phẩm của Charles - Henry de Pirey anh Việt nói với tôi: "Đây là một tác phẩm khó dịch. Và khó nhất là nhan đề của tập Hồi ức này:
"La Route morte". Dịch như thế nào ? Con đường chết ? Con đường tử huyệt hay Con đường không lối thoát ? ...Ý kiên anh thê' nào? )". Cuối cùng tôi đề nghị với anh Việt dịch là Con đường tử dịa. Tử địa là chữ của Tôn tử Trong Binh pháp Tôn tử, ở chương Cửu địa, tử địa đã được định nghĩa như sau: "tận chiến tắc tồn, bất tận chiến tắc vong giả, vị tử địa " (tạm dịch: đánh đến cùng thì còn sống, không đánh đến cùng ắt diệt vong, như vậy gọi là tử địa). Trong năm 1950, trước những cuộc tấn công ngày càng dồn dập, quyết liệt của quân đội Việt Nam, con đường số 4 cuối cùng đã trở thành con đường tử địa của những binh đoàn viễn chinh Pháp chiếm đóng dọc biên giới Cao Bắc Lạng. Trên con đường tử địa này, có những đại đội Tabor bị xóa sổ hoặc hầu như bị xóa sổ; đại đội Tabor của thiếu uý de Pirey bị tổn thất nặng nề nhưng cuối cùng vẫn còn lại thiếu uý de Pirey và dăm ba sĩ quan khác cùng một số lính Tabor: họ đã "tận chiến ". Tinh thần đồng đội - đặc biệt đội với những thương binh cũng như sự quả cảm của họ trong cuộc "tận chiến " đã được miêu tả hết sức chân thật, những "hành động giản dị" của những con người "tính cách giản dị", không hề có sự thêm thắt "mắm muối", như tác giả Hồi ức đã nói ở lời mở sách và tập Hồi ức này đã để lại ở tôi những ấn tương phức hợp, bất giác như có cả lòng cảm phục. Tôi trình bày những cảm tưởng này với anh Đặng Văn Việt, anh nói với tôi: "Chiến thắng của quân ta trên Đường số 4 không hề dễ dàng, có những đơn vị địa phương đã chống trả quyệt liệt. Tôi chia sẻ những cảm tưởng của anh, được đọc những trang hồi ức của thiếu uý de Pirey về cuộc "tận chiên" của ông và những chiến binh quả cảm của ông, một lần nữa, tôi ngả mũ..."
HOÀNG NGỌC HIẾN
Kính gửi: Đại tá Đặng Văn Việt
Tác giả "Đường số 4 rực lửa" mà tôi vừa đọc xong liền một hơi rất say mê và tiếc rằng chúng ta đã bỏ qua những quan hệ hòa bình nếu chúng đã cùng đứng về một phía.
Con đường tử địa
Đường thuộc địa số 4, năm 1950, con đường dữ dội, nhưng rất đỗi xinh đẹp và mặt khác không "đối đầu" với nhau ở đồn Bến Tắm trên đường 18, cái đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng Tư năm 1951, mà lại ở trong đồn, tay cầm ly rượu.
Ngài đã phục vụ cho lý tưởng của mình bằng một tài năng quân sự, một tâm lòng yêu nước tuyệt vời và đã viết nên trang sử vàng thi hùng tráng! Đất nước Việt Nam tươi đẹp với một dân tộc dũng cảm và dễ mến của Ngài muôn năm!
CHARLES - HENRY DE PIREY
- Cảnh người chỉ huy "Goum 60" anh Spor, cần cù, dũng cảm gần gũi, gắn bó với từng chiến sĩ, luôn đi đầu trước hàng quân ... Và anh đã không bao giờ trở về.
- Cảnh thương binh phải cứu chữa trong điều kiện thiếu thốn mọi mặt, anh bác sĩ quân y Enjalbelrt quên mình tất cả vì thương binh, bác sĩ Huard tuổi đã cao, còn lụ khụ lên tận Thất Khê nhận thương binh về Hà Nội để cứu chữa. Bác sĩ Huard là giáo sư "Cơ thể học" hồi tôi học trường Y. Ông yêu học sinh và chúng tôi rất quý ông. Ông là một tâm gương thầy thuốc yêu nghề, tận tụy cho chúng tôi, những sinh viên trường Y thời bấy giờ. Chúng tôi còn nhớ, khoảng cuối năm 1944, sau vụ oanh kích thảm khốc chợ hàng Da (Hà Nội), có hàng trăm nạn nhân bị trọng thương, thầy Huard một mình chạy vòng tròn qua sáu buồng mổ, mấy ngày liền hầu như không ngơi nghỉ...
Lịch sử đã sang trang, đã đến lúc, những đối thủ năm xưa, hãy ngồi lại, mặt nhìn mặt, tay cầm tay, không mặc cảm, không hận thù, để nói chuyện với nhau như những người bạn.
Hãy sống và làm việc cho tình hữu nghị và sự phồn vinh của hai dân tộc Việt Nam và Pháp.
ĐẶNG VĂN VIỆT
NGUYÊN CHỈ HUY MẶT TRẬN BIÊN GIỚI
Đường số 4 - Cao Bắc Lạng (1947 - 1950)
Hà Nội, ngày 2 tháng 4 năm 2004
Kính gửi: Ông CHARLES HENRY DE PIREY
Trước hết tôi xin tỏ lời cảm ơn ông đã gửi tặng tôi cuốn "Con đường tử địa" của ông. Tôi đã đọc một cách hứng thú từ đầu đến cuối. Nó làm sống lại trong tâm tưởng của tôi bao kỷ niệm về một cuộc sống và chiến đấu trên mặt trận Đường số 4 cách đây hơn nửa thế kỷ.
Ông và tôi là hai đối thủ, ở hai trận tuyến. Qua xem sách, mới biết là chúng ta đã gặp nhau rất nhiều lần (ở Đường số 4 - Đường sô 18 đồng bằng Bắc bộ) nhưng chưa gặp mặt thấy nhau.
Nếu vận may đưa đến giáp mặt thì hoặc anh đã ra đi, hoặc tôi đã ra đi, hoặc là cả hai chúng ta đều đã ra đi. Cuộc đàm thoại ngày hôm nay sẽ không bao giờ có, dù chỉ trên giấy tờ, trên tình cảm .
Đọc cuốn "Con đường tử địa" đã đem đến cho tôi nhiều suy nghĩ, nhiều cảm xúc.
- Cảnh chiến đấu ác liệt trên mỏm 703, 477, Lèn Cốc Xá - một bên quyết giữ, một bên quyết chiếm, sự hy sinh, dũng cảm có khi cả hai bên đều ngang nhau.
- Cảnh hành quân xuyên rừng trên những sườn núi sình lầy, đầy vắt và muỗi, áo quần tả tơi, mặt mày tay chân, xây xát dọc ngang.
- Cảnh tình bạn chiến đấu: như Réim không bỏ người bạn, người thủ trưởng bị thương, như Pascal giúp đỡ Pirey từ cõi chết trở về.
NGUYÊN CHỈ HUY MẶT TRẬN BIÊN GIỚI
Đường số 4 - Cao Bắc Lạng (1947 - 1950)
Hà Nội, ngày 2 tháng 4 năm 2004
Kính gửi: Ông CHARLES HENRY DE PIREY
Trước hết tôi xin tỏ lời cảm ơn ông đã gửi tặng tôi cuốn "Con đường tử địa" của ông. Tôi đã đọc một cách hứng thú từ đầu đến cuối. Nó làm sống lại trong tâm tưởng của tôi bao kỷ niệm về một cuộc sống và chiến đấu trên mặt trận Đường số 4 cách đây hơn nửa thế kỷ.
Ông và tôi là hai đối thủ, ở hai trận tuyến. Qua xem sách, mới biết là chúng ta đã gặp nhau rất nhiều lần (ở Đường số 4 - Đường sô 18 đồng bằng Bắc bộ) nhưng chưa gặp mặt thấy nhau.
Nếu vận may đưa đến giáp mặt thì hoặc anh đã ra đi, hoặc tôi đã ra đi, hoặc là cả hai chúng ta đều đã ra đi. Cuộc đàm thoại ngày hôm nay sẽ không bao giờ có, dù chỉ trên giấy tờ, trên tình cảm .
Đọc cuốn "Con đường tử địa" đã đem đến cho tôi nhiều suy nghĩ, nhiều cảm xúc.
- Cảnh chiến đấu ác liệt trên mỏm 703, 477, Lèn Cốc Xá - một bên quyết giữ, một bên quyết chiếm, sự hy sinh, dũng cảm có khi cả hai bên đều ngang nhau.
- Cảnh hành quân xuyên rừng trên những sườn núi sình lầy, đầy vắt và muỗi, áo quần tả tơi, mặt mày tay chân, xây xát dọc ngang.
- Cảnh tình bạn chiến đấu: như Réim không bỏ người bạn, người thủ trưởng bị thương, như Pascal giúp đỡ Pirey từ cõi chết trở về.
Kính tặng
Tướng André PEAUGAS
Đại uý Jacques SPOR
Chết tại An-giê-ri năm 1961
và SI HADDOU
Moqqaem - Aouel 60c GOUM
Tướng André PEAUGAS
Đại uý Jacques SPOR
Chết tại An-giê-ri năm 1961
và SI HADDOU
Moqqaem - Aouel 60c GOUM
LỜI NÓI ĐẦU
Những ngày đầu tháng 5//950, tiểu đoàn TABOR 1 mà tôi mới được bổ sung về, đang chuẩn bị rời khỏi căn cứ trú quân của nó ở xứ Bét Be (An-giê-ri, Ma-rốc bên Phi Châu) để sang phục vụ ở vùng biên giới Đông Bắc xứ Bắc Kỳ.
Những Cán bộ của nó xuất thân từ nhiều thành phần và có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng gắn kết với nhau dưới sự chỉ huy của một thủ trưởng cương quyết và quyết đoán và sự mong muốn thực thi một cách tốt nhất. Nghề binh nghiệp của mình, một số trong bọn họ thiếu phấn khởi, căn bệnh chung của tuyệt đại đa số những người lính được phái sang Đông Dương, họ thản nhiên và vô tư, nhưng tinh thần họ rất cao. Họ không lạc quan vì những đồng đội đã hồi hương của họ đã cho họ biết nhiều tin tức, nhưng họ cũng không ngại tương lai. Theo rõi họ trong những chuyển dịch trên đường thuộc địa số 4, con đường chết, chúng ta thấy rõ họ đã bị hy sinh từ trước, vì nhiều sự kiện hệ trọng và bi thảm đang diễn ra trước mắt họ. Điều đó không làm thay đổi thái độ quyết tâm của họ và cũng không ngăn cấm họ tổ chức những bữa nhậu nhẹt nhẹ nhàng mỗi khi có điều kiện: trong những lúc nghỉ xả hơi hiếm hoi họ thấy khỏi cần thắc mắc gì cả.
Còn về lính tráng, những lính đánh thuê cha truyền con nối, họ rất kỷ luật, được huấn luyện tốt, dễ mến, thì họ hoàn toàn tínnhiệm ở những thủ trưởng khoan dung của họ, đã dẫn dắt họ một cách nghiêm khắc tới những trận thắng ở Tuy-ni-di, ở Ý, ở đảo Coóc- sơ ở Pháp và ở Đức.
Dưới đây là lịch sử của tiểu đoàn Tabor ấy, sẽ bị tiêu diệt trong trận đánh trên đường thuộc đia số 4. Chúng ta sẽ theo dõi nó từ khi nó khởi hành từ miền Nam xứ Ma-rốc cho tới khi chấm dứt cuộc hành quân đau khổ của nó tại Đông Dưương.
Câu chuyện kể có thể thêm "muối ớt" bằng cách đưa vào một cuộc tình éo te, xa lạ, ngoại lai, hoặc có thể nâng lên bằng những nhân vật không có thật và những chiến tích tưởng tượng. Tôi không bao giờ làm như thế. Với những tên thật của họ, hoặc đôi khi với những tên say vay mượn, những tác giả thực sự sẽ làm sống lại tâm thảm kịch Cao Bằng.
Tôi sẽ cố gắng tôn trọng những tính cách của họ và báo cáo về những hành động giản dị của họ. Người ta đã viết quá nhiều, đã kể quá nhiều về cuộc chiến tranh của Pháp tại Đông Dương, những câu chuyện ngông cuồng, tưởng tượng, cũng... xúc động, nhưng đôi khi bị xuyên tạc, thiếu vô tư.
Cuộc chiến tranh này không phải đã được tiến hành với những anh hùng trong tiểu thuyết trong một khung cảnh huyền thoại, cũng không phải với nhung kẻ tàn ác khát máu và thực dân giữa một địa ngục trần gian. Dù sự thật có thể đôi khi làm ta thất vọng, tàn nhẫn, dù nó không phải trả cho độc giả, vì cuộc chiến tranh Đông Dương bẩn thỉu đã đi vào lịch sử của Thế kỷ 20.
Thật đau buồn khi phải kể lại những diễn biên của một thất bại nặng nề. Tôi đã ngần ngại từ lâu. Kể lại những chiến tích vinh quang của "Thời kỳ De Lattre " mà tôi đã tham gia từ đầu đến cuối còn hấp dẫn tôi hơn! Nhưng lịch sử việc rút bỏ vùng biên giới, tức là lịch sử sự thông đồng Trung Quốc - Việt Minh, rút những đồn bốt trên đường thuộc địa số 4, nỗi đau khổ của những binh đoàn Charton và Lepage, có một tầm quan trọng đến mức chỉ riêng việc đó với Điện Biên Phủ, đủ cắt nghĩa khí cục bi thảm của cuộc chiên tranh Đông Dương của Pháp.
Đó chính là lý do sự lựa chọn của tôi.
-------------------------
Chú thích:
Tabor = Tiểu đoàn lính bổ sung người Ma-rốc. Một Tabor gồm 3 foum (tương đương 3 đại đội) chiến đấu, 1 đại đội chỉ huy và trợ chiến - một đại đội (goum) gồm khoảng 176 người.
PHẦN THỨ NHẨT
TĂNG VIỆN CHO VÙNG BIÊN GIỚI
TĂNG VIỆN CHO VÙNG BIÊN GIỚI
1950 - NĂM MẤU CHỐT
Trong lúc chúng tôi khởi hành, tình hình quân sự ở Đông Dương như thế nào?
Những tháng cuối năm 1949, chiến tranh diễn biến trong những điều kiện thuận lợi: ở Nam Bộ, hoạt động du kích của địch bị chặn đứng lại bởi việc xây dựng dọc các trục giao thông những tháp canh - công trình của tướng De Latowr và của Đại tá De Castries. Trên vùng biên giới Bắc Kỳ, dọc đường thuộc địa số 4, chúng tôi đã xây dựng những đồn bốt sơ sài và cách xa, đủ để phân giới với Trung Hoa quốc dân đảng.
Đột nhiên, những dự án dài hạn của Bộ Tham mưu chúng tôi bị đảo lộn: quân của Thống chế Tưởng Giới Thạch đóng tại Vân Nam và Quảng Tây, bị những lưỡi lê của quân Cộng sản Trung Hoa truy ép, tràn qua đường số 4. Đại bộ phận các trung đoàn ấy bị chúng ta tước vũ khí và cho lưu trú, nhưng nhiều ngàn người bị chặn lại, đã đầu hàng quân của tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Việt Minh, với toàn bộ vũ khí, quân dụng.
Những người Cộng sản Trung Hoa bắt tay và giúp đỡ những người bạn Việt Minh của họ. Những trường cán bộ và những trại huấn luyện mọc lên nhan nhản đọc theo biên giới. Trong vài tháng trời, với một tốc độ Mỹ hơn là Á Châu, Giáp đã xây dựng nhiều Trung đoàn chính quy, trang bị và huấn luyện theo kiểu Trung Quốc. Tiềm lực của quân đội dân chủ tăng vọt.
Đầu năm 1950, tương quan lực lượng đã bị phá vỡ, chúng tôi và những đồng minh không chính thức phải tính lại toàn bộ vấn đề của cuộc chiến tranh Đông Dương.
Về mặt quân sự, chúng tôi có ba giải pháp để chọn.
1 Giải pháp bỏ cuộc
Nếu chúng tôi không thể có đủ khả năng tài chính cần thiết, chịu thua trước, và thương lượng thẳng thắn, trong danh dự, với Hồ Chí Minh khi đó còn chưa đánh giá đúng giá trị của quân đội của ông cũng như sự viện trợ tích cực của bọn đồng minh Trung Hoa của ông.
2. Giải pháp liên minh với phương Tây bằng quốc tế hoá Cuộc xung đột, như ở Triều Tiên, nếu chúng ta thuyết phục được người Mỹ rằng không phải chúng ta tiến hành một cuộc chiến tranh thực dân mà là cuộc chiến tranh trên tiền đồn của Thế giới Tự do, như cách nói năm 1951. Chúng tôi thấy nhiều uỷ ban Đồng minh tới nghiên cứu vấn đề tại chỗ ... một cách rụt rè.
3. Một giải pháp bằng sức mạnh của Pháp
Phải ba hay bốn Sư đoàn bộ binh, pháo binh hay không quân cần thiết để khoá chặt biên giới Trung Hoa, nghĩa là ngăn chặn Việt Minh thâm nhập khu vực đường số 4 và tổ chức tiến công tiêu diệt ... những đơn vị lớn của địch, đang trong thời kỳ tổ chức, bằng những trận đột phá táo bạo vào vùng chúng ta chưa kiểm soát được.
Sau nhiều cuộc họp bí mật và tối mật của các Ban Tham mưu và các văn phòng, cuối cùng chơi trò đến đâu hay đó, giữ gìn một cách thụ động ... và chờ đợi.
Tới tháng 5 năm 1950, tình hình xấu đi.
Khi hai đại đội lính Ma-rốc đóng ở Đông Khê bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy lại chủ trương một lần nữa rút bỏ Cao Bằng, việc rút bỏ đã bị trì hoãn mãi. Đó là một vị trí rất phiêu lưu trong hệ thống phòng ngự của chúng tôi trên vùng biên giới,từ khi chúng tôi rút bỏ Bắc Bạn (năm 1949, sau bản báo cáo của Revers), việc tiếp tế dựa duy nhất vào cầu hàng không từ Lạng Sơn, quân đồn trú khoảng 2000 người - kể cả quân bản xứ từ khi quân của Mao Trạch Đông chiếm tỉnh Quảng Tây, nó đã không hoàn thành nhiệm vụ con chó trấn giữ vùng biên giới phía Bắc nữa. Hệ thống của chúng tôi đã trở thành một cái chao thực sự của những vị có trách nhiệm ở Paris và Saigon đã làm cho Đại tá Coustans, chỉ huy vùng biên giới, không nhận được lệnh rút Cao Bằng vào hồi tháng 7/1950 nhân dịp thay thế quân đồn trú ở Đông Khê (một Tiểu đoàn Tabor Ma rốc thuộc diện hồi hương, nếu vào thời kỳ ấy, thì cuộc hành quân tháo rút hẳn là có thể thành công ).
Xin đọc những trang tiếp theo sẽ thấy rõ điều này.
Thời cơ thuận lợi đã qua, đáng lẽ rút bỏ cả Cao Bằng lẫn Đông Khê trong thời kỳ yên tĩnh theo mùa, chúng ta vẫn thi hành cái chính sách thiển cận giữ gìn bằng mọi giá và chờ thời.
Tột cùng của sự không may mắn là đúng lúc chúng ta chuẩn bị rút Cao Bằng thì Việt Minh tấn công mạnh đồn Đông Khê mới đóng lại. Bộ chỉ huy, để giải quyết nhanh, vẫn giữ nguyên mệnh lệnh và cuộc hành quân lập tức bắt đầu ngay trong lúc quân đối phương chuyển sang tấn công.
Quân đồn trú Cao Bằng tăng cường Tiểu đoàn Tabor Ma-rốc (gồm khoảng 2.600 người, cộng 500 dân miền núi) do Đại tá Charton chỉ huy, sẽ bắt liên lạc ở ngang Đông Khê (bị đối phương chiếm lần thứ hai ngày 18/9/1950 sau cuộc tấn công kể trên) với cánh quân gồm 3200 người, xuất phát từ Thất Khê, dưới sự chỉ huy của Đại tá Lepage. Sau đó haicánh quân phải vừa đánh vừa nhanh chóng rút lui về Thất Khê, lúc đó sẽ trở thành vị trí đầu cầu của hệ thống bố phòng của chúng tôi ở phía Bắc - Bắc kỳ.
Đơn vị chúng tôi sắp tham gia Trận Biên giới trong hàng ngũ Binh đoàn Lepage.
CHƯƠNG 1
NHỮNG BƯỚC ĐẦU
NHỮNG BƯỚC ĐẦU
Không có kinh nghiệm lớn về nghề quân sự, một buổi chiều tháng 5/1950, yên tĩnh và nóng bức, tôi đã tới cái thế giới Khép kín của Tiểu đoàn Tabor ấy, qua con đường nhỏ vắt trên những quả đồi, dẫn tới một doanh trại bằng đất đỏ dựa vào một ngọn núi trọc.
Vị chỉ huy, một người đàn ông trẻ, mắt sáng và có cá nhìn soi mói, dáng người tầm thớc và vững chắc, đón tiếp tôi tại nhà ông ấy.
Ông ở trong Khuôn viên doanh trại, trong một ngôi nhà nhỏ, các phòng trang trí kiểu Ma-rốc: sân nhà và tường trải, treo thảm của vùng Thượng và Trung Atlas, những bàn tròn thấp bằng gỗ dát vùng Mogador, những mâm lớn bằng đồng đỏ gia công tỉ mỉ, những lá chắn của người Mô rơ chạm trọc những khẩu súng bắn đá báng làm bằng bạc, những đồ gốm và tượng nhỏ thô sơ vùng Souss.
Ông ấy cho tôi biết là tôi được bổ nhiệm làm sĩ quan trợ lý trong Goum (Đại đội) của Trung uý Spor, và dặn tôi thêm.
- Tôi báo cho anh biết: tôi sẽ phạt giam anh mỗi lần anh nói tiếng Pháp với một lính trong Goum (người Ả Rập). Anh phải xoay sở để học tiếng Ả Rập, ở đây việc dó cũng quan trọng như điều lệnh.
Tôi chào và ra về.
Vị chỉ huy chừng như nhận thấy sự thất vọng của tôi qua cách đón tiếp tôi của ông ấy, bèn gọi tôi lại và cười nói:
- Thêm câu này, nếu thấy điều gì không ổn, đến gặp tôi, chúng ta sẽ trao đổi. Và bây giờ, hãy biến đi.
Đến ngày hôm sau tôi mới biết Trung uý Spor. Ông chìa cho tôi một bàn tay lớn mềm mại một cách lơ đãng, và nói khi tôi đến nhận lệnh:
- Anh cần xem và nghe mọi việc, trước khi bắt tay vào việc. Cần biết gì cứ hỏi tôi. Không việc gì phải vội vàng.
- Tôi hiểu rất rõ ràng rằng ông ấy không biết sử dụng vào việc gì một thằng nhãi con không kinh nghiệm và tôi sẽ chỉ là một gánh nặng cho ông ấy, chứ không giúp đỡ ông ấy được việc gì. Dù sao, vì trách nhiệm, ông ấy dẫn tôi đi thăm nhà cửa của Đại đội (Goum).
Trong khi đi song song bên nhau, ông ấy dùng cây gậy kiểu Leclerc (một viên tướng Pháp) chỉ cho tôi những khu vực của các trung đội, nhà ăn chung, những ngôi nhà nhỏ của những gia đình người lính trong Đại đội. Con người ông ta toát ra một sức mạnh và sự vững chắc. Dù lưng hơi gù, ông ấy vẫn bước đi bằng những bước dài, dẻo dai của một lực sĩ, ít có những cử chỉ, điệu bộ, và ít nói. Khổ người to lớn, vai rộng. Đầu ông ấy to, nặng nề, má đỏ mọng từng mảng ... trông không có lố bịch, mũi tẹt ngang những lỗ mũi dầy, mỗi một nét trên mặt ông ta biểu lộ một sự cương quyết kiên trì và bình thản. Hơn thế nữa, lâu lâu một nụ cười thoáng lướt qua trên đôi môi đỏ và trên cặp mắt xám xanh, khoan dung, nhân hậu, và khuôn mặt ông trở nên đẹp. Từ lúc ấy, tôi cảm thấy tôi có thể tin cậy ở con người vững chắc đó, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Tôi nhận thức rõ ràng rằng ông ta đã nhanh chóng và hoàn toàn chinh phục tôi và tôi đã hoàn toàn gắn bó với ông ta ngay từ ngày đầu tiên gặp gỡ. Khi trở về doanh trại để giải quyết vài thủ tục hành chính, tình cờ tôi gặp Trung uý Baillet, sĩ quan quân báo. Ông hỏi tôi đã biết Spor chưa và không đợi tôi trả lời, ông nói luôn:
- Anh may mắn được về với ông ấy, một tay vững đấy...
Ngay sáng hôm ấy tại nhà ăn chung tôi đã nghe nói về Baillet, ông là một người có lẽ vì méo mó nghề nghiệp, tự cho mình là biết hết mọi việc, biết hết mọi người và hay ba hoa. Biết như vậy, tôi liền gợi ý:
- Anh có thể cho tôi biết một chút về Trung uý?
- Thượng sĩ Orsini biết rõ về ông ấy đã kể cho tôi nghe về những bước đầu của ông ấy.
Hình như ông Spor sinh ra để phục vụ trong quân đội. Trong những năm Ba mươi ( 1930). Khi hết hạn nghĩa vụ quân sự, ông xin tái ngũ với chức vụ Trung sĩ bộ binh các đơn vị đồn trú. Từ đó ông bị cuốn theo những sự kiện quân sự của thời đại chúng ta một cách có kỷ luật, không cần suy nghĩ gì cả. ông chỉ không chấp nhận duy nhất một sự kiện: sự thất bại năm 1940. Bị bắt làm tù binh trên chiến tuyến Maginot, ông đã vượt ngục trong những ngày đầu tiên nhộn nhạo mà bọn Đức bị tràn ngập bởi số tù binh Pháp quá đông, không biết giữ họ bằng cách nào, mà chỉ nói với họ rằng: sắp ký kết hoà bình rồi và các anh sẽ được thả hết. Spor đâu có bị lừa, nhân lúc lộn xộn ông ấy đã ăn mặc sang trọng, trưởng giả, đi lần về phía Nam để chờ thời cơ. Rồi, bằng một mưu kế nào đó, ông đã sang Bắc Phi, tại xứ Ma rốc, ông ấy xin vào các Goum (các Đại đội lính bản xứ, dân tộc ả rập) làm Trung sĩ nhất. Điều về Tiểu đoàn Tabor này, ở đơn vị hiện nay ông ấy chỉ huy, ông ấy đã sống sót không bị vết thương trầm trọng nào, qua bao nhiêu lúc hiểm nghèo.
Trung sĩ nhất trung đội phó ở Tuy Ni Di, Thượng sĩ, Trung đội trưởng ở đảo Corse, Thượng sĩ Trưởng ở Mác-xây, nơi Tướng Đờ Lát đã thưởng Huân chương quân sự cho ông, được đặc cách thăng Thiếu uý tại Pháp và tại Đức, và đã được Tướng Juin tặng Bắc đẩu Bội tinh, ông đã thấy hai lần quân số Đại đội của ông hy sinh, ba chỉ huy đơn vị kế tiếp nhau, và tất cả những đồng sự Trung đội trưởng của ông.
Chiến tranh kết thúc, ông lại có mặt tại đây, huân chương đầy mình, hơi già đi vì những gian nan, thử thách. Ông lại tiếp tục cuộc sống cô đơn, vất vả mà ông đã lựa chọn, với một phần thưởng duy nhất, không thay đổi, là sự gắn bó, khâm phục mà những người lính trong Đại đội dành cho ông, khi từ châu âu trở về. Ở tuổi 38, ông là người lính già, quen sống độc thân, không biết gì đến những ngọt bùi của đời sống gia đình. Gia đình ông chính là nơi trú quân của Đại đội ông và niềm vui lớn nhất của ông là ngồi tán gẫu hàng giờ với họ, bằng tiếng Ả rập. Những câu chuyện đùa chơi thô lỗ nặng nề như đầu ông ấy, luôn gây cười cho cử tọa nguyên thủy xung quanh ông, vì nó mang dấu ấn của một lương tri tầm thường mà người Béc-be (Ả rập) đánh giá cao ở những thủ trưởng của họ.
Tôi ngó nhìn một cách thú vị Baillet khi anh kết thúc cuộc giới thiệu ấy, mà không ngừng khoa chân múa tay. Chàng sĩ quan nhỏ bé dễ bị kích động và khô khan, luôn luôn ở trạng thái căng thẳng, đúng là sự trái ngược hoàn toàn với Spor. Có lẽ chính vì thế mà anh nói về người lính già với tất cả lòng nhiệt tình. Một cái trán nóng thích nước mát, một bàn tay luôn hoạt động và không chịu yên, cần dựa vào một bức tường dầy và chắc chắn Spor mời tôi đến nhà ăn bữa tối. Ông ấy ở một ngôi nhà hẹp gần nơi đồn trú của Đại đội - Khi chúng tôi bước vào nhà thì trời vừa tối, Trung uý châm một đèn dầu hoả. Khi ấy không có điện! Người phục vụ đặt trên một chiếc bàn trắng một dĩa trứng chiên với nấm Paris và chào:
- Thưa Trung uý, đã dọn xong.
Nhưng Spor vẫn ngồi trong chiếc ghế bành nhỏ bằng mây. Ông ấy mở một cuốn vở cũ và bằng bàn tay vuông với những ngón tay có mấu, ông ấy viết một cách kỹ càng những mệnh lệnh cho ngày hôm sau. Ở phía ngoài, những tiếng động từ ngôi làng gần đấy càng nhỏ đi và thưa thớt dần. Trên cái nền hương thơm của đất nóng, của cỏ dại, của hoa cam, thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ đưa lại mùi hôi lộn mửa của dầu ôliu sơ chế và bơ thực vật hôi khét: những người vợ lính đang nấu cơm tối. Spor thản nhiên trước bức tranh Ma rốc nhiều tương phản ấy. Vừa nhai nuốt những miếng trứng chiên đã nguội, vị thủ trưởng mới của tôi đã nói nhiều về của quý nhất của một chiến sĩ bộ binh: đôi chân của ông ấy.
Thời kỳ tập sự của tôi bắt đầu.
CHƯƠNG 2
HÀNH TRANG, MÙI XOA VÀ ĐIỂM BÁO
HÀNH TRANG, MÙI XOA VÀ ĐIỂM BÁO
Từ 15 ngày nay, chúng tôi theo một chương trình tập. luyện gọi là tiền-thuộc địa. Đó là sự hướng dẫn đầu tiên về những trận chiến chúng tôi sẽ tham dự ở Đông Dương.
Chúng tôi được giới thiệu rằng Việt Minh như những kẻ đùa dai xấu chơi, nhấp trên cây trong rừng rậm nhằm bắn đặc biệt vào những sĩ quan với những vũ khí lủng củng, hoặc trong những trận đột kích ban đêm, sẽ đào và đặt những bẫy chông tre vót nhọn, sẽ xuyên suốt qua những chiến sĩ trinh sát đi đầu. Những huấn luyện viên của chúng tôi, rất giỏi nhưng hơi lạc hậu, nói nhiều với chúng tôi về những thiện xạ viên, những du kích, nhưng lại ít nói đến những trung đoàn chính quy của địch đang được xây dựng dọc theo biên giới Trung Hoa. Vì vậy chúng tôi có một nhận định hoàn toàn sai về sức mạnh của đối thủ tương lai của chúng tôi. Chúng tôi tạm thời yên tâm mặc dù hai người bạn của chúng tôi mới nhận được nhiều lá thư của những người bạn đã chạm trán với những đơn vị Việt Minh mới tổ chức và rất cơ động.
Trong những buổi tập cuối cùng tôi làm quen với những hạ sĩ quan của Đại đội, đặc biệt với hai người có thâm niên nhất, những trụ cột thật sự của ngôi nhà vững chắc. Thượng sĩ trưởng Loubès, trung đội trưởng Trung đội 1, chìa một bàn tay khổng lồ và lắc cánh tay tôi thật mạnh khi tôi gặp anh ta lần đầu tiên. Anh ấy thái quá về mọi mặt: trong hàng anh cao vượt lên hẳn một đầu, dáng người to đậm oai vệ, nói rất to hình như anh ta không tin ở những gì mình nêu ra, và tố cáo như một điều tai tiếng không thể chấp nhận được khi nhà ăn tăng giá một bữa ăn thêm lên 20 quan (đơn vị tiền tệ Pháp). Anh bạn Thượng sĩ Orsini nói với anh ta liên kết sự tế nhị của loài da dầy với sự tinh tế của một con trâu và gọi anh ta là ga- mu (con trâu, theo tiếng Ả rập).
Tuy nhiên anh ta là người tuyệt đối trung thực và làm việc say mê thành thạo, rất có phương pháp. Orsini là Trung đội trưởng Trung đội 2. Đó là người đảo Corse, tinh ranh và biết điều, rất dễ có thiện cảm, nhưng cũng dễ dàng ngờ vực và tính hay càu nhàu không sửa được: nếu hình dung anh ta đội mũ lông, với một bộ ria mép rậm rạp, nước mũi chảy ròng ròng và luôn mồm châm biếm thì anh ta đúng là một tinh binh của Napoléon.
Tôi nhanh chóng nhận ra rằng hai sức mạnh của thiên nhiên đó đôi khi đối lập nhau mạnh mẽ vì những chuyện vớ vẩn, nhưng sau này họ sẽ trở nên những người bạn tốt nhất trên đời.
Tôi không ngần ngại hỏi ý kiến họ, vì họ là những người am hiểu nghề nhà binh và biết nhiều mánh lới trong nghề. Có lẽ vì được khích lệ nên họ tránh một cách lịch sự biểu hiện sự vượt trội về hiểu biết của họ đối với tôi, và trước mặt lính trong Đại đội, họ tỏ ra rất kính trọng tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy họ không thật sự tôn trọng tôi, vì mãi về sau này tôi được biết rằng, ngay hôm tôi mới đến đơn vị, thì trước mặt một số hạ sĩ quan, Loubès đã hét vào tai Orsini (vì anh này hơi nghễnh ngãng).
- Mày đã nhìn mặt thằng ranh con không? Dễ mến đấy, nhưng tao cho nó không làm nổi trợ lý cho Spor ở Đông Dương quá ba tháng đâu. Ông già đã mất nhiều tay cừ hơn trong thời gian ngắn hơn.
Nhưng trong lúc chúng tôi đang đóng xếp hòm xiểng vì sắp tới ngày khởi hành thì Loubès và Orsini bề ngoài rất vui vẻ với tôi và tôi cảm thấy rất thoải mái trong Đại đội kỳ cựu này. Với những con người như thế người ta chỉ có thể bay từ chiến thắng này đến chiến thắng khác.
- Việc ra trận của một tiểu đoàn Tabor không giống như việc ra trận của một đơn vị chính quy.
- Trong nhiều tuần lễ liền, những người lính đã bán gà, dê, và dự trữ thóc gạo dư thừa, vì họ chỉ muốn để lại cho những người vợ hay ăn tiêu hoang phí của họ một số tài sản tối thiểu, những vướng mắc về gia đình và bất động sản đã được giải quyết trong những Mefless (những Toà án theo tập quán người Béc-be) ngày cuối cùng, người ta phân phối thực phẩm tươi cho binh lính trong Đại đội, để ngày hôm sau họ sẽ nấu nướng cạnh đường đi, ở trạm dừng chân thứ nhất, như những người du mục thực sự. Giờ chót, người ta còn phải đón các bà trong đám nhà thổ nhà binh dã chiến của người Béc-be, trong các xe vận tải đến từ Casablanca, họ tháp tùng chúng tôi trong cuộc phiêu lưu tại Đông Dương: đó không phải là một công việc giản đơn: tám trong số mười hai người đẹp chưa chuẩn bị xong... thật đúng là đàn bà!
Cuối cùng đoàn xe dài lăn bánh về phía đồng bằng trên những con đường nhỏ đầy bụi, chen chúc những người miền núi và những con lừa thờ ơ, dửng dưng, trên đường đi chợ. Sau đó, trên những bức tường đỏ của doanh trại còn in những cái bóng trắng của những người đàn bà, khóc lóc, cùng với những đứa trẻ mặt mũi nhem nhuốc đeo bám vào họ với vẻ quan trọng hợp tình hợp cảnh của hoàn cảnh.
Cũng tại đây, cách đây hơn mười năm, đã xuất phát cùng với Trung sĩ - Trưởng Spor, một người lính tên là Said, của Foseph Peyré. Cũng có thể Said lại có mặt lần nữa trong dòng người mặc áo dài nâu. Người ta không thể để họ đi một mình, huống chi khi họ không có kinh nghiệm đến những nơi chiến trận những nơi đã có người trở về, mà ta vừa ở đấy về. Nhưng mà, nếu Sài vắng mặt, những anh em của nó và con nó, những hàng xóm trong làng của nó, tất cả đều đã biết xứ người Trung Hoa, qua những câu chuyện Rễ giàu màu sắc của Said.
Khi đi ngang qua văn phòng các vụ việc bản xứ, một đơn vị Kỵ binh Moghafenis chào mừng họ. Trong chiếc áo choàng nặng nề màu xanh và đỏ, họ đứng nghiêm trên những bàn đạp rộng của người MÔRƠ, họ bắn nhiều phát súng lung tung và hô hét những tiếng hô ra trận, và đáp lại trên các xe vận tải, là tiếng đùa bỡn vui vẻ của các binh lính vô tư, và tiếng chiếp chiếp của đàn con gà con người ta dành được trước lúc ra đi.
Tiểu đoàn Tabor dừng lại tại một trại gần Casablanca để dự một lễ tiễn đưa.
Trên một quảng trường danh dự, bao quanh là những lán trại bằng gỗ, các trung đội và các đại đội bố trí thành hình vuông. Những binh lính trong Đại đội sửa lại những khăn quấn bằng len có chen những sợi chỉ xanh, trên những cái đầu dài, mầu nâu và trọc lốc. Những thắt lưng da bó lấy những áo dài nâu gấp nếp rất khéo. Những ống quần rộng túm lại ở ngang mắt cá thõng xuống phía chân, xỏ vào những đôi dép bằng da dày. Giữa cái khối đen sẫm và chắc chắn đó, những mũ Kêpi (của sĩ quan Pháp) màu xanh da trời điểm vào những đốm sáng. Những cán cờ của các đơn vị có buộc những cái đuôi ngựa tượng trưng. Đội quân nhạc của một Trung đoàn quân địa phương đang chơi những điệu Kèn chiến trận. Tướng Juin, Khâm sứ Pháp tại Ma-rốc, đi thong thả, theo sau ông là viên chỉ huy, giới thiệu với ông các viên tướng và các công chức cao cấp.
Tiếng nhạc ngừng bặt. Theo truyền thống, các trung đội diễu hành theo nhịp chân đập xuống đất ... lặng lẽ và nhanh chóng. Sau đó họ giải tán.
Đại tướng cùng các cán bộ dự một tiệc liên hoan hữu nghị trong khi các binh lính thì được mời dự tiệc trà có bánh kẹo ngọt. Mọi người nâng cốc chúc mừng những thắng lợi vinh quang sẽ đến. Tám trăm người của Tiểu đoàn cảm thấy mạnh mẽ và sẵn sàng.
Buổi tối, Trung uý De Rochefort, sĩ quan liên lạc, một tay ham vui hạng nặng, rất lanh lợi và tế nhị, với bộ mặt kiểu Ban-giắc (Blzac, một nhà văn Pháp), tổ chức một bữa tiệc tiễn biệt tại Casablanca, có một số người thích ăn chơi tham dự. Vị chỉ huy Tiểu đoàn xin khước từ, không tham dự: đêm cuối cùng đó ông phải ở nhà với bà vợ xinh đẹp, đảm đang, cùng với bảy đứa con. Đại uý Deminière, Đại đội trưởng Đại đội chỉ huy và trợ chiến, cũng vắng mặt với lý do như thế; ông còn hơn vị chỉ huy Tiểu đoàn vì có tám đứa con. Spor viện cớ bận việc và ở lại trong trại với binh lính của ông ấy. Có mặt có Trung uý Raval, Đại đội trưởng một đại đội chiến đấu, nói năng hoạt bát và đẹp trai, cựu vô địch môn đấu kiếm, có một bộ ria mép nhỏ, tóc quăn: ông ấy mang tới tính châm biếm sâu sắc và một cái gậy mềm đeo ở khuỷu tay. Đi theo ông ấy là Trung uý Xavier du Trest de Villeneuve, trợ lý của ông ta. ĐÓ là một cựu binh trẻ của chiến trường năm 1945 với những phẩm tước chiến tranh chói lọi và một dáng điệu thông thái và khoan thai. Baillet đến chậm, ông ấy thường như vậy, và nhanh chóng đuổi kịp mọi người vì ông ấy ăn rất khoẻ cũng như nói rất hoạt bát.
Những sĩ quan có gia đình vợ con cố gắng làm ra bộ vui vẻ vui đùa, mà không được vì còn để lại quá nhiều kỷ niệm, người thân. Hơi ích kỷ một chút, dù không ý thức được điều đó tôi rất vui thích, nói những câu bông đùa dí dỏm, yêu đời: tương lai đang ở trước mặt tôi. Đằng sau tôi, có thể có một kỷ niệm hơi buồn nhưng tôi muốn quên nó đi. Ở tuổi hai mươi hai, người ta không được phép quay lại ...
Đã gắn kết với nhau vào một số phận chung đang chờ đợi chúng tôi, chúng tôi cảm thấy cùng có một nhu cầu, phải đi tìm những thú vui trong khi thiếu thốn hạnh phúc và chúng tôi vùi đầu vào những hộp đêm tại Thủ đô xứ Ma-rốc.
Chúng tôi nâng cốc chúc mừng nhau về những ảo tưởng.
Chúng tôi cụng ly nhau về những giấc mơ. Thời gian trôi chậm chạp khi ta chống khuỷu tay trên một quầy rượu. Trời dần dần sáng khi chúng tôi về tới doanh trại. Cộng với sương mù buổi sáng là cái sương mù trong đầu óc còn dày đặc hơn.
Tôi nhìn thấy Villeneuve lái một chiếc xe hơi bỏ mui trần cũ kỹ, lang thang trên một vỉa hè rất may là vắng người. Anh ta vừa đánh cá một chai Cô nhắc ( loại rượu nho độ cao, đắt tiền) nếu anh ấy lái thành công một cuộc chạy vòng quanh các gốc cây trên một đại lộ ở trung tâm thành phố. Và anh ấy đã thắng. Đói bụng, anh ấy sẽ phải vào nhà thương!
Rồi lại xe vận tải. Rồi lại kèn đồng quân nhạc. Tiểu đoàn tới nhà ga Casablanca để lên một đoàn tàu chở hàng. Ban dịch vụ xã hội của quân đội phát cho binh lính những ly trà và bánh ngọt khô. Công nhân hoả xa phải vất vả lắm mới đẩy được những kẻ đến chậm lên các toa tầu. Viên tướng Tư lệnh vùng cùng Ban Tham mưu tề tựu đông đủ ở sân trước nhà ga, trong tiếng trống vang lừng một bản nhạc chiến trận của đội quân nhạc. Phút chót, hai anh lính trẻ khám phá ra rằng bình toong nước của họ rỗng không và họ xô đẩy vài người đứng xem hiền lành lao tới cái vòi nước không uống được.
Trong tiếng cười và tiếng chế nhạo, họ bị đẩy lên các toa tầu
Đoàn tầu chuyển bánh về thành phố cảng Oran. Trong khi vị tướng đứng nghiêm, chào lá cờ xanh và vàng của một Đại đội trong Tiểu đoàn Tabor, do một Trung uý cầm giữ, không biết vì cảm động hay lơ đãng, đã rơi xuống đường từ cửa sổ của toa tầu chúng tôi. Mặc dù có những tiếng kêu thét và khoa chân múa tay, tầu cứ chạy nhanh dần... mắt tôi dán vào cái còi báo động ... và tôi chợt nghĩ đến một trò chơi mơ ước khi còn thơ ấu: tôi giật mạnh cái còi. Tiếng còi hú lên và trong một tiếng động đinh tai nhức óc, đoàn tàu nặng nề đột ngột dừng lại.
Và bấy giờ tôi lại thấy vị tướng vẫn đứng nghiêm, xung quanh là những sĩ quan áo choàng sặc sỡ, giơ tay lên vành mũ chào toa tàu. Cuối cùng, trên đó có mười hai con người ăn mặc quần áo màu và đang nhốn nháo, mà nhiệm vụ tế nhị của họ là phân phối, ở nơi cách Tổ quốc mười hai nghìn ki- lô mét, vài ba phút khoái lạc, cho tám trăm chiến binh khó tính, trước đó họ đã nhiều lúc nhớ quê hương, nơi họ quen uống trà bạc hà và mơ tưởng đến những gia đình bền vững hơn.
Sau sự kiện đó, Thượng sĩ Sérès, người có hàng ria đỏ và kẻ tham ăn, có sáng tác một bài hát:
"Rồi lên tầu, khoảnh khắc thống thiết!
"Họ đứng nghiêm đó, phút giây lịch sử
"Ta từ từ ra đi, trong khi theo kiểu Pháp
"Một ban nhạc da đen chơi Mác-xây-e ...
"Và một việc lớn đã xảy ra, đánh dấu chuyến khởi hành:
"Một lá cờ đã lật rơi xuống lan can!
"Náo động lớn! Kêu thét, bao giọt lệ trên sân ga!
"Một người nhìn thấy đã giật còi báo động."
Sau này, chúng tôi còn nói nhiều về chuyện cái cờ ... Và chúng tôi chỉ biết cười nhưng Baillet luôn bi quan, đã nói về những điềm gở... Raval mê tín dị đoan, bảo Baillet là kẻ ba hoa, bất trị và làm xúi quẩy cho người khác.
Baillet có những linh tính lạ kỳ ... và anh ấy biết làm cho những cái bàn xoay tròn.
CHƯƠNG 3
CHUYẾN HÀNG VÙNG BIÊN GIỚI
CHUYẾN HÀNG VÙNG BIÊN GIỚI
Tháng 5 năm 1950 khí hậu ôn hoà. Khi chúng tôi lên tầu thời tiết thật đẹp.
Chiếc tầu "Les bagnards d'Indochine" (những người tù xứ Đông Dương), con tầu cũ nhất của cảng Mác-xây, sở kinh doanh lo liệu đám ma (nhà dồn) phát tài nhất nước Pháp, chiếc tầu to lớn Pasteur, đậu một cách êm ả tại cảng Mers-El-Kébir.
Từ cột khói duy nhất và to đùng một luồng khói hơi nước mầu xám bốc thẳng lên trời, như là cái thừng của thầy phù thuỷ. Trên mặt biển mầu xanh ấm áp dưới mặt trời là một bầu trời xanh nhạt hơn, không gợn bóng mây, chấm phá bởi những con hải âu bay lượn thất thường.
Từng hàng dài màu nâu, đầu đội những khăn len đen có lòi ra những chỏm tóc nhỏ, binh lính các Đại đội bước lên tầu một cách uể oải như là khởi hành một chuyến đi dã ngoại.
Chỉ còn thiếu chúng tôi nữa thôi.
Khi người cuối cùng và cái rương cuối cùng được đưa lên chiếc Pasteur, thì những cái neo nặng nề nhô lên khỏi mặt nước yên lặng, khuấy động và làm cho nước sục sôi trong chốc lát.
Trên bờ, một vị tướng già bốn sao, đội mũ Ca-lô lính Lê Dương, mắt long lanh nhìn chúng tôi sau cặp kính gọng vàng.
- Cái lão hưu trí còn xanh kia là ai? Raval hỏi giỡn.
- Đó là tướng Monclar - Baillet trả lời ngay.
- Sao lão ấy không bỏ quân phục?
- Không bao giờ, suốt đời ông ta là lính. ông ta đến chào vĩnh biệt những lính Lê Dương của ông ấy.
- Dĩ nhiên đó là hoạt động duy nhất ông ấy còn có thể làm được, Raval giọng chế giễu.
- Ai mà biết được? Đối với ông ấy ... một sĩ quan Lê Dương chen vào.
Chiếc tàu rời cảng trong khi Sérès, dựa vào boong tầu nghêu ngao hát:
"Thế rồi, rung rung, Pasteur hướng ra biển cả,
"Mạn phải tầu rời khỏi con đê chắn sóng,
"Ván đã đóng thuyền, César đã từng nói thế!...
Và tới quầy rượu uống vài ly rượu hồi đủ để giữ nguồn cảm hứng.
Chúng ta để lại cảng Alger la Blanche xinh đẹp ở mạn phải tầu. Trên boong tầu một làn gió xuân ấm áp lướt nhẹ trong khi chúng tôi trò chuyện và làm quen với nhau.
Một năm sau tướng Monclar không đeo sao tướng nữa, bằng lòng với cấp bậc Đại tá, chỉ huy Tiểu đoàn Pháp tại Triều Tiên, những lính "tsioux của Monclar" nhanh chóng nổi tiếng ở Viễn Đông. Vài ba anh em chúng tôi ngồi ởphòng khách. Kích thước lớn của phòng khách với những tấm biển đồng "Dành cho khách hạng nhất" nhắc mọi người biết trước đây tầu này là một con tầu sang trọng, giờ đây xuống cấp trở thành một tầu vận chuyển binh lính.
Đại uý Deminière, một người cao lớn, vững chắc, tóc húi cua, có cái nhìn hơi thần bí, đang chơi với cái thìa nhỏ, và nhớ quê hương như thường lệ, nói một mình:
- Chúng ta đã vào cuộc rồi ... mười sáu ngày không lo nghĩ gì để rồi sẽ bắt đầu: dù sao thế cũng là tốt!
Mọi thứ sẽ qua nhanh chóng thôi, Trung uý Battars bĩu môi, đáp lại
- Thật là một cuộc chiến tranh bẩn thỉu! Nó làm cho chúng ta sạt nghiệp và giết ng¬ời cán bộ tốt nhất của chúng ta...
Mọi người đều cười, Battars, Đại đội phó của Đại đội 58, là một người rất tết nhưng không thích sang Đông Dương mấy nên thường bị mọi người chế nhạo. Nguyên là hạ sĩ quan mãi mới trở thành sĩ quan, anh ấy chỉ mong thăng cấp Đại uý rồi về nghỉ hưu cho yên chuyện. Về những chiến tích, anh ấy chủ trương "dành cho thanh niên". Với đôi mắt to sau cặp kính dầy và cặp môi dầy mép cong xuống anh ấy cảm thấy mình đang xuống dốc.
Raval thì thầm với anh ta:
- Người ta có thể chắc chắn, chắc chắn tuyệt đối rằng sẽ bị đi ly hay bị sốt rét, có khi bị cả hai bệnh đó...
Battars nhăn mặt:
- Phải nói rằng nếu tôi muốn, tôi có thể xin phục viên! Và anh ta kể lể dài dòng những bệnh tật đau đớn, đa dạng, mà anh ta đã trải qua. Chúng ta nhắm mắt lại: Kẻ tử vì đạo Battars mắc đủ thứ bệnh: lao, tràng nhạc, ghẻ lở, đau gân, đau hạch, thấp khớp, đau tim, đau thần kinh... một cách đạo đức giả, chúng tôi tỏ vẻ buồn phiền, thương cảm.
- Đừng suy nghĩ gì hết bạn à, Raval người đồng đội với anh ta từ mười năm nay nói với anh ta, mày sẽ trở về với nhiều của cải và bà Battars sẽ lộng lẫy, sang trọng.
Ý kiến đó làm yên lòng người bạn bi quan. Anh ta nói luôn một cách chiếu lệ:
- Tôi không phải đi để kiếm tiền! Sau đó anh nói thêm, rất thành thực: vì người ta bắt buộc tôi đi tôi mới phải đi? Tôi có tình nguyện đi đâu, có điên khùng mới làm thế ... tính anh ấy vốn bộc trực, ai cũng biết.
Đại uý Deminière, người tình nguyện xin đi lồng lên chen vào:
- Ông bạn thân Battars ạ! Không phải tất cả mọi người đều đã đánh nhau và phiêu lưu nhiều đâu
Chúng tôi nhìn anh ta. Đôi mắt mầu xám thép của anh ta đột nhiên đanh lại.
Chúng tôi biết anh ấy công tác rất tết ở Sở Nội vụ bản xứ của nước Ma-rốc nhưng Deminière chưa ra trận bao giờ: đó mới thực là một sự bảo đảm cho một sĩ quan tại ngũ có thâm niên phục vụ. Bởi vậy anh ta có một tự ti mặc cảm. Việc tình nguyện của anh ta là một sự cần thiết của nghề nghiệp dù anh ta đã có tám đứa con và anh ta đã chuẩn bị hòm xiểng với một sự hào hứng hơi khiên cưỡng như một lính mới.
Chiếc cùi dĩa nhỏ đặt một cách vụng về trên cái dĩa, rơi xuống đất. Không thích nghe những loại chuyện đó, Spor đứng dậy, xin thứ lỗi và bước ra ngoài. Trung uý Ba ra, sĩ quan hành chính, thấy mọi người đột nhiên im lặng, nói lớn, để mọi người vui cười:
- Chúng ta đừng nêu những vấn đề một cách vô ích! Dù thế nào đi nữa chúng ta sẽ bị cắm sừng! Một người đàn bà đứng đắn trong ba mươi tháng ròng? Đó chỉ là sự tưởng tượng thôi! Chính phủ đếch cần biết đến cái vụ này... Cắt xén ngân sách! Người ta phái mày sang Tầu trong vòng hai năm rưỡi để thi hành chính sách tiết kiệm! Bao nhiêu gia đình tan vỡ, bao nhiêu cuộc đời bị phá hỏng, điều đó không quan trọng! Chúng mình là lính hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn giờ và ba mươi tháng trên ba mươi tháng, ha-ha- ha! những cái khác tớ không cần biết! Thưa quý ông , chúng ta hãy vui chơi, uống rượu, chơi gái, ca hát! Vợ chúng ta lừa dối chúng ta? Chúng ta lừa dối các bà ấy, đó là thường tình con người? Ở trong nước, những người đồng hương của chúng ta sẽ nói rằng. Cái đám vợ lính, toàn đồ đĩ ! Còn bọn chúng, bọn lính tráng là một lũ ngu si, đần độn! Trong khi ấy, bọn chúng mình muốn chết ở đâu thì chết: nghề của chúng mình mà!!! Đến lúc khởi hành sang thuộc địa? Tất cả là đồ bị mọc sừng!!!
Không ai thấy câu nói dài dòng của Bara là đặc biệt, kỳ cục cả. Nó bắt người ta phải suy ngẫm nhiều. Deminière nói:
- Bara, anh nói hơi quá đáng đấy. Lòng tin sẽ cứu vớt hết, và sự tín nhiệm.
Villeneuve nhẹ nhàng can thiệp:
- Thưa Đại uý, ông hãy tin anh ta? Bara nói có nhiều phần đúng, về những nỗi khổ nhục của chúng ta trong nước họ không thèm biết đến đâu! Những nỗi oán hận, những động cơ, những hy vọng, những hoài nghi của chúng ta đều chẳng có gì là quan trọng cả! Bara nói đó là nghề nghiệp của chúng ta. Thôi hãy sang trang đi, không nói chuyện ấy nữa!
Tôi ngắm cái mũi khoằm của anh ta, mái tóc đen chải cẩn thận, bộ quần áo khéo léo, ăn mặc chỉnh tề, mặc dù trời nóng, rất đúng nguyên tắc. Hắn chẳng tính toán, so đo điều gì. Hắn để lại tại nước Pháp một người vợ chưa cưới đã yêu nhau tha thiết, vả lại hắn thuộc một đơn vị được chỉ định mà hắn không muốn từ bỏ. Bản thân con người hắn có những ý niệm riêng. Nhưng người lính trong hắn thì câm lặng, chấp nhận và ra đi ...
Raval vừa cười vừa nói với hắn:
- Villeneuve, chắc chắn anh là người lỗi thời lắm rồi đó! Những kiểu người như anh thì phải phái tới những nơi gay go mới đúng ...
- Hy vọng rằng những nơi đó đừng quá gay go, Villeneuve đáp lại, tuy nhiên cũng phải có đánh nhau một chút thì một người trong bọn chúng mình mới được vinh quang và một ngày nào đó sẽ kiêu hãnh đeo chiếc Bắc đẩu Bội tinh mà anh ta đã lo xa, sắm trước ngày khởi hành!
- Đồ ngu xuẩn? Raval hét lên, làm như vậy nhất định rủi ro, xúi quẩy!
- Phải đi ngủ trưa thôi? Trung uý Battars đề nghị như thế, về phần tôi, tôi hơi bị nhức đầu: tôi phải đi khám Bác sĩ thôi.
Tầu Pasteur thong thả xuôi kênh đào Suê, trong tiết đầu hè nóng bức ... qua những tin tức được tiết lộ chúng tôi được biết rằng hầu hết binh lính trên tầu sẽ được đưa đến vùng biên giới. Tuyệt đại đa số là lính Lê Dương, lính vận tải, pháo binh, kỵ binh, một số binh lính thuộc địa và một đại uý thú y. Đủ các binh chủng, đủ các chủng tộc theo từng đơn vị lớn, nhỏ ... Các cô nhà thổ của chúng tôi có hai người bảo vệ vũ trang, xuất hiện trên boong tầu dạo mát: Để tránh những tai hoạ.. có thể xảy ra, luôn luôn có một trạm cảnh sát bảo vệnghiêm ngặt, để cách ly họ khỏi ba nghìn năm trăm cánh đực trên tầu, nhưng xem ra các cô nàng không khoái trí về.cái cung cách được bảo vệ kỹ như thế!
Chúng tôi đi ngang qua Ismailia, một viên ngọc của sa mạc. Tất cả chúng tôi đứng sát bờ thành tầu. Những người da đen châu Phi, những người Ả rập, những người lao trên các đảo những người Pháp chính hiệu, lính và sĩ quan lẫn lộn, nhìn ruột cách thèm muốn những người đàn bà và đàn ông đẹp, nước da bánh mật, vừa cười vừa bơi theo vết rẽ nước của con tầu. Những chiếc dù sọc sặc sỡ trải bóng của nó trên bãi biển đầy người phơi nắng. Những du thuyền đuổi theo chúng.tôi làm tung bọt nước trắng xoá. Những người trên thuyền vẫy chào hữu nghị. Cuộc đời của họ thật sung sướng? Gạt bỏ mọi sự ghen tỵ, sự vui vẻ của họ đã làm cho chúng tôi buồn bã, mặc dù chúng tôi không muốn tự thú nhận điều đó.
Phải chăng đó là việc nhớ lại hình ảnh trên đây? Đêm vừa buông xõng thì còi báo động: năm lính Lê Dương đãnhảy xuống biển và bơi về phía bờ biển hiu quạnh xứ Sinai Có lẽ họ đã tính toán trước việc ấy ngay từ lúc họ ký hợpđồng tình nguyện tại Si đi-Bel-Abbès ... Chứ không phải họlao mình xuống luồng nước ấm để theo đuổi một cái ảo ảnh về hạnh phúc thoáng hiện trên sa mạc cát nóng bỏng.
*
* *
* *
Tầu ghé Aden một thời gian ngắn. Chúng tôi lao lên những chiếc taxi Mỹ. Chúng đưa chúng tôi tới trung tâm hành phố sau khi vượt qua, rất nhanh, một đường hầm ngầm xuyên qua vách núi đá ngăn cách cảng với cái thuộc địa nhỏ.
Một sự kiện duy nhất đã làm cho chúng tôi quên khuấy đi cuộc dạo chơi đơn điệu ở quảng trường chợ trung tâm. Raval đang trở về một cách hãnh điện, hai tay ôm nhưng tút thuốc lá Anh hiệu Craven. Anh ấy nháy mắt, thỏa mãn, vượt qua chúng tôi thì chợt thấy anh ấy kêu to: một thăng bé con da mầu nâu sẫm, quần áo rách tả tơi, vừa giật của anh ấy một tút mười bao thuốc lá và chạy như bay về khu vực người bản xứ Raval vứt cho chúng tôi những gói đồ anh ta mua và đuổi theo thằng nhóc con nhanh nhẹn. Làm như không quan tâm,mọi người dân ngoái nhìn theo, nhưng không dám can thiệp!
Chúng tôi trở lại tầu Pasteur, ôm những tút thuốc lá Craven của Raval; anh ta lên tầu đúng lúc sĩ quan trực hạ lệnh kéo cầu thang cửa tầu.
Ông Tướng da trắng mình đẫm mồ hôi: bộ quần áo đẹp của ông ta lấm be bét và đầy bụi ... ông về tay không...
Tất cả mọi người đang nhộn nhịp, sôi động. Lễ hội trên tầu đang được chuẩn bị và buổi tối, trong mọi góc trên tầu, người ta gặp các ban đồng ca Nga, những người đa đỏ chếnh choáng hơi men và những người làm trò đu, bắp thịt săn chắc.
Màn đã kéo lên ở phòng chiếu bóng được sửa sang lại và trang trí hoa. Đằng sau những diễn viên in hình những bóng hình người và những cáu chuyện của họ...
Đối với tôi khi viết những trang này, những con người ấy có hai mặt:.có nghệ sĩ nghiệp dư trên tầu Pasteur vui nhộn và phấn khởi và có người lính bùn, máu đầy mình, nằm hấp hối trên con đường rừng nhỏ giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, chỉ vài tháng sau đó.
Một ban đồng ca của lính Lê Dương Đức chiếm lĩnh sân khấu: có lẽ họ là những con ngựa chiến già của quân đội Đức (Đức phát xít), những gân cổ của họ phồng lên trong lúc họ khạc ra những âm thanh khô khốc và mạnh. Viên Thiếu úy trưởng nhóm, có những cử chỉ chắc chắn của những người cầm đầu dày kinh nghiệm. Hắn chinh phục những ca sĩ của hắn, nhào nặn họ, nuốt chửng họ. Gáy của hắn dầy và cạo nhẵn, đôi mắt thép của hắn, những bàn tay rộng và lông lá, hống hách, những đường nét của thân hình thu lại, cái mũi tẹt và ngắn, tất cả đang nhảy múa quay cuồng trước những đôi mắt chăm chú của chúng tôi. Nhưng những bài ca mời rượu trên bờ sông Rhin thì lại tắt đi trên những làn môi mỏng. Tiếng hát kiêu ngạo của lính tráng đập vào tai chúng tôi. Sau lưng tôi, một viên đội Lê Dương thì thầm với người ngồi bên cạnh:
- Stansky, rõ ràng hắn ta là sĩ quan "Panzers" (Thiết giáp). Cái vỏ "cai đội" không đủ để che giấu điều đó!
Thế là hết. Cả phòng xả hơi, thoải mái. Cũng hay và chúng tôi hiểu rằng tất cả những người đó không thể quên nhanh được ... một cách rụt rè, một tay xách một cái ghế đẩu, một tay cầm cái đàn gui-ta đơn sơ, anh lính Allal bước lên sân khấu chào một cách vụng về. Hắn mặc Khiout, áo dài djellaba và đi dép da có dây quai. Đó là anh hề của đại đội tôi, và cũng là một ca sĩ ứng tác. Bằng cái giọng của hoạn quan, hắn loan truyền, có tô điểm thêm những chuyện tào lao, ngông cuồng và tối đến, xung quanh cái dáng còng lưng của hắn, những bạn bè vây quanh lắng nghe những chuyện ngồi lê đôi mách thú vị, những hình ảnh quen thuộc.
Nó là người Ả rập (Berbère), nó hát những bài vè Trung cổ dài dãi, nhưng trong đó có nơi đến cả xe hơi, máy bay và cả đài phát thanh... Nó không biết tiếng Pháp và biểu diễn tiết mục bằng tiếng mẹ đẻ, con mắt nghịch ngợm. Orsini thạo tiếng Ả rập, dịch một số hình ảnh trong khi người đàn ông ngồi im, lấy móng tay nhọn gẩy trên cây đàn thô sơ. Bây giờ mắt anh ta chăm chú dán nhìn xuống đất một cách khác thường. Trên sàn nhà bằng nhựa (linoléum) đánh bóng, có lẽ nó nhìn thấy những đàn cừu gầy gò và nhanh nhẹn, kéo theo những trẻ chăn cừu đẹp đẽ, hoang dã và đầy bụi tới những khu vực có những chồi cỏ non gầy guộc? Hay là nó nhìn thấy những đường cong mầu xanh, mầu tím hồng và mầu vàng của những rặng núi sỏi ở quê hương nó?
Thể xác nó ở với chúng tôi, nhưng cái đầu não nhỏ bé của nó vẫn nhởn nhơ, nô đùa trong một thế giới thân thương, mà nó ca ngợi vẻ đẹp và sự hùng vĩ, như là một sự ban ơn nào đó.
Hắn cầm cái ghế đẩu và cây đàn gui-ta của hắn và biến mất trong những tràng vỗ tay.
Một phát thanh viên giới thiệu tiết mục tiếp theo:
- Và bây giờ, xin giới thiệu John, ca sĩ của Harlem với chương trình của anh ấy.
Mặc một bộ đồ âu phục rất chỉnh tề, người Mỹ da đen này vừa cười vừa bước vào, với một vẻ khoan thai của nghề nghiệp. John có những cái nhìn, những điệu bộ và cung cách khá đặc biệt.
Anh chàng John có biết rằng tất cả mọi người trên tầu đều nói về nó. Có thể là như thế. Điều đó nó không thích, vì trái với ý nó. Vì một lý do không ai rõ, nó không thích vinh quang, nổi tiếng. Nó còn ngại nữa là đằng khác. Anh John, binh nhì quân Lê Dương, không còn những nét gì chung với con người được nuông chiều, tiếp đãi long trọng, nổi tiếng của ngày hôm qua. Bí mật cuộc đời nó là gì? Ở đỉnh cao của sự nghiệp nó, nó đã phạm một cái lỗi không thể sửa được như thế nào? Người ta nói đến tội hiếp dâm ... giết người ...
Mắt nó tối sầm mượt mà như nhung, ngó nhìn chúng tôi. Đôi môi dầy đỏ thẫm quay trở trên hàm răng sáng chói tạo thành một nụ cười chinh phục, có thể là hạnh phúc chăng? Nó hát. Với tất cả sự cuồng nhiệt, sự bốc đồng, sự say mê của chủng tộc nó. Nó diễn cho chúng tôi xem toàn bộ tài năng của nó, sau khi tuyên bố với một nụ cười hơi gắng gượng.
- Không phải đây là buổi ra mắt đầu tiên tôi mời các anh đến dự, mà là buổi vĩnh biệt: đây là lần cuối cùng tôi hát trước công chúng và tôi rất bằng lòng rằng trong công chúng, phần nhiều là các bạn tôi.
Mọi người hoan hô, những khía mạch máu ở cổ nó căng lên, cái đầu tóc xoăn của nó ướt đẫm mồ hôi, nó hát không ngừng những bài hát hay nhất trong cái vốn ca khúc của nó: những bài hát của người da đen, những bài hát của miền Tây nước Mỹ, những bài về Tây Ban Nha, những bài hát của thành Paris hoa xanh, với một giọng Mỹ (yankee) không ai có thể bắt chước được.
Sau đó hắn cúi chào.
Đó có phải là lời vĩnh biệt của anh hề Limelight? Một anh hề hoá trang thành lính Lê Dương, bị hạ không phải vì tuổi tác mà bời một kẻ thù mãnh liệt hơn: Đó là số phận, nó có linh cảm trước số phận của nó không? Nó có bao giờ tưởng tượng được một viên đạn trúng vào giữa đầu nó sẽ làm cho lời thề của một ca sĩ say rượu trở thành hiện thực:
- Đây là lần cuối cùng tôi ra mắt công chúng vĩnh biệt.
Anh bạn John! Những chuyện riêng của anh, anh hãy giữ lấy cho anh. Tối hôm nay anh thật dễ thương! Qua những tâm sự, hãy đừng làm hỏng những điều tết đẹp mà chúng tôi luôn nghĩ về anh: nếu việc giết người chỉ là một câu chuyện tình ái tầm thường? Nếu việc trốn chạy của anh chỉ là một sự trốn chạy của một người đàn ông đau khổ? Sáu tháng sau, khi hấp hối trong núi đá vôi ở Cốc Xá, anh đã thực hiện đầy đủ sự trốn chạy ấy ...
Và cuối cuộc hành trình ấy, tôi chỉ giữ lại mỗi một hình ảnh: cái cười của John sau tiết mục của anh ta.
- Vĩnh biệt các bạn, tôi đã im miệng rồi ! Xin để người khác diễn Tấn trò đời, về phần tôi, tôi đã chán ngấy rồi.
Hạ màn khuya hôm nay sẽ tới vịnh Hạ Long.
CHƯƠNG 4
CON ĐƯỜNG TỬ ĐỊA
CON ĐƯỜNG TỬ ĐỊA
Rạng sáng ngày 12 tháng 6 năm 1950, những cặp mắt còn ngái ngủ của chúng tôi được ngắm nhìn quang cảnh thần tiên còn hơi siêu phàm của vịnh Hạ Long. Con tàu đồ sộ thận trọng len lỏi giữa vô vàn hòn đảo nổi bằng đá vôi, phủ cây cỏ thưa thớt, dừng lại và thả neo.
Sương mù còn vương vấn trên mặt nước gợn sóng lăn tăn của một vùng biển màu sắc chưa ổn định. Bao quanh chúng tôi là những hành lang hẹp và bí ẩn:
Có phải là chúng tôi đang ở giữa trung tâm của một hải đồ mê lộ hoành tráng không? Các phúc thần của xứ An Nam và xứ Bắc Kỳ chắc là phải đến tìm nơi yên nghỉ cuối cùng ở những chốn hùng vĩ và hoang sơ này...
Một chiếc tàu tuần tiễu của Hải quân cập vào mạn chúng tôi. Chúng tôi chuẩn bị xuống đất liền. Đó là một khoảnh khắc đầy xúc động. Con tàu cũng là một mảnh đất của nước Pháp. Rời con tàu đúng là bắt đầu cuộc sống lưu đày ...
Đầu óc tôi tràn đầy câu hỏi:
Chúng tôi sẽ tìm thấy gì trên đất nước lạ lẫm, chống đối và khác xa nước chúng tôi. Vẻ đẹp nơi đây đã thực sự hấp dẫn chúng tôi, điều đó thật là rõ ràng, vì như vậy càng thêm một hiểm nguy?
Tôi đến đây để đánh nhau. Thật là đáng tiếc ! Sẽ thích thú biết bao nếu được ngao du trên một con thuyền buồm vải thô trên hải đồ huyền bí của vịnh Hạ Long và bất chợt gặp được những vị thần tiên của nước họ. Tôi sẽ hỏi họ liệu người da trắng chúng tôi có phải vĩnh viễn là những vị khách không mời mà tới, những kẻ thù không đội trời chung? Hay là chúng tôi vẫn còn hy vọng cộng tác với thế giới riêng của họ, vì lợi ích chung của hai nền văn minh quá khác biệt với nhau? Mắt tôi vô tình thăm dò và thầm hỏi các khối đá bí ẩn và kiêu kỳ vây quanh chúng tôi. Nhưng chúng chỉ âm thầm giữ kín bí mật của chúng. Riêng tôi, thì cảm nhận chỉ cần có một chút óc tưởng tượng và thật nhiều kiên nhẫn, là sẽ làm cho đá phải mở miệng và nhờ đó chúng tôi sẽ phát hiện tâm hồn của nước Việt Nam, mà tôi mường tượng là rập khuôn mẫu đá. Tôi ước ao được tâm sự mắt trong mắt, má kề má, ở một góc trời nước chưa in dấu bóng dáng con người, niềm khát khao của tôi được làm quen và yêu mến tâm hồn Việt Nam của họ. Họ ở một nơi quá đẹp. Tâm hồn của họ chắc hẳn cũng đẹp như vậy.
Tôi ghen tị với Spor. Cũng như mọi lần, anh ta đĩnh đạc chuẩn bị rời tàu Pasteur không một suy tư vương vấn âu lo nào làm vẩn đục trí tuệ thực tế của anh.
Khi tôi đến gần, anh đang điều chỉnh ống nhòm hướng về một hòn đảo nhỏ màu tím, hình tảng đá thờ vùng Tây Bắc nước Pháp. Anh bảo tôi trong lúc vẫn chăm chú nhìn qua ống nhòm:
- Hãy kiểm tra xem có đủ lính Ma rốc không, không loại trừ một ai, họ đã tập hợp trên boong B của tàu, trong trang phục chỉnh tề chưa? Đúng là điều lẽ ra tôi đã phải làm rồi ...? và vậy là tâm trạng mơ màng của tôi bị phá vỡ. Các phà sẽ chuyên chở tiểu đoàn tới căn cứ Tiên Yên, hải cảng mở cửa vào vùng biên giới, đã cập mạn tàu. Nắng gắt. Chúng tôi chen chúc trên phà, người và hành lý lẫn lộn. Hai chiếc phà do một tàu nhỏ kéo, lười biếng chạy dọc theo bờ biển Bắc Kỳ, sát vô số hòn đảo đá vôi làm nền cho một cảnh quan hoa đá ở đó tất cả đều im lìm. Thỉnh thoảng, một chiếc thuyền buồm An Nam dân dã lướt qua. Thuyền nhân chẳng mấy ai nhìn chúng tôi, có lẽ họ bận điều khiển thuyền và đánh cá.
Đến quãng cảng Oan-lút, trời đã tối, sương mù nóng ẩm bao phủ cảnh vật. Một thuỷ thủ An Nam bỗng rơi xuống biển. Những tiếng la hét chói tai của gã xen lẫn với tiếng còi hụ âm u của tàn héo.
Cuối cùng, chúng tôi cũng đã vớt được gã lên tàu, dở sống dở chết vì sợ. Vừa hoàn hồn, gã đã vội tuôn ra những lời giải thích rối rắm. Thuyền trưởng cười cợt ra lệnh không điều tra kỹ thêm: hình như gã đã bị một anh lính Ma-rốc thuộc trung đội Loubès hích nhẹ xuống biển, khi gạ gẫm một ả của trại con gái, mà anh ta đã tạm giành phần cho mình...Sau đó ít lâu, dây chằng của tàu kéo bỗng bị tuột. Và thế là suốt 2 giờ liền, đã diễn ra trò chơi trốn tìm giữa thuỷ thủ tàu kéo và "món hàng" là chúng tôi. Trung đội trưởng Loubès cho rằng trục trặc này là sự trả thù của gã nạn nhân bị động của cuộc "tắm biển". Anh nói, với giọng miền Nam hay ho của anh:
- Tôi chẳng ngạc nhiên tí nào. Đó là tâm địa bẩn thỉu của lũ chúng nó ở đất nước này ! Hành lang biển mà chúng tôi đang vượt lên khúc khuỷu như một dòng sông nhõng nhẽo. Hai chiếc phà nặng nề lắm lúc trườn sát sạt bên bờ đất tối sầm.
Chúng tôi thấy lạ là ở những khúc quẹo thuận lợi đó, đã không nhận được những loạt đạn của Việt Minh đang phục săn.
Raval diễu cợt:
- Dân bản xứ này chẳng ranh ma chút nào. Tưới đạn vào ta sẽ dễ như bỡn. Nếu trận chiến ở Đông Dương là thế này, thì ta tha hồ ăn no ngủ kỹ !
Ý kiến của Thuyền trưởng thì khác. Con phà đang len lỏi giữa 2 bờ đá cao vút. ông ra lệnh phụ trách lính canh trang bị đầy đủ vũ khí ở 4 góc boong tàu.
Nhưng tấn công chúng tôi đêm ấy, chỉ có hàng đàn hàng lũ muỗi. Chúng tôi chưa nhận được mùng màn và chỉ có tiếng những cú phát tới tấp của tay chúng tôi lên da thịt chúng tôi, thay cho tán chuyện gẫu trong đêm dài thao thức đó.
Khi Tiên Yên hiện lên trong ánh bình minh an toàn, chúng tôi cứ tự hỏi kẻ địch nguy hiểm nhất có phải là khíhậu và những sinh vật nhỏ bé của đất nước này không?
Ngay khi cập bến, chúng tôi đã chạm trán với thực tế: có tin báo là quân chính quy của Võ Nguyên Giáp đã tấn công đồn Đông Khê? Đội quân đồn trú, gồm hai đại đội lính chiến Ma rốc, bị tràn ngập d¬ới các đợt xung phong của quân địch và đồn đã bị hạ hôm qua. Không một ai thoát và vậy là chúng tôi lại tắm mình trong không khí chiến tranh!
Ngay ngày mai, đoàn xe chúng tôi sẽ đi ngược lên Lạng Sơn, thủ phủ của vùng biên giới.
Đêm đầu tiên ở Đông Dương của chúng tôi là trước tấm biển: "Đây là điểm xuất phát của Đường thuộc địa số 4".
R.C.4... Từ nay trở về sau, chúng tôi thuộc quyền sở hữu của người tình đầy giông bão, vắt cạn kiệt hơi sức ấy. Nàng sẽ nắm quyền sinh sát đối với mạng sống của chúng tôi và sẽ đùa giỡn với nó, với một sự hào phóng đầy ác ý. Khi đêm về, chúng tôi nuốt vội một bữa ăn tối đạm bạc, theo lời mời của tiểu đoàn Trưởng chỉ huy căn cứ quân sự Khe Tù. Chuyện trò xoay quanh con đường...
Tiểu đoàn Trưởng không đồng ý là R.C.4 có sức hấp dẫn của một người tình, dù là người tình nghiệt ngã và nguy hiểm.
Ông lưu ý chúng tôi rằng một người tình, dù nghiệt ngã đến đâu, vẫn cho ta ăn nằm với ả, còn con đường RC4 thì không giành cho ta bất cứ một đền bù nào. Ông ví nó với một con rắn độc dài dằng dặc, no ứ mồ hôi và máu, ngủ gà ngủ gật giữa những cánh rừng đại ngàn, đuôi ở Cao Bằng, đầu ở chỗ chúng tôi đang trú quân đêm nay.
Rải rác trên suốt chặng đường dài 200 cây số, càng lên phía Bắc càng thưa thớt, là những đồn bốt. RC4 có nhiều đoạn bị mất hút giữa khối cây rừng dày đặc và hung tàn. Có đoạn đường men theo hai bờ của một dòng sông đỏng đảnh, có đoạn đường bị bóp nghẹt giữa các dốc đá vôi cheo leo của Cao Nguyên, lại có đoạn đường lượn lờ giữa những đồi núi tròn trĩnh, nơi các du kích Việt Minh ẩn nấp trong những lùm cây độc hại đang ngày đêm rình rập con mồi với một sự kiên trì không chút buông lơi.
Có những đoạn đường chui tuột xuống địa ngục các thung lũng đầy chết chóc, lại có đoạn nó vươn lên tri cao mà nó đâu có thấy được, vì bị cây cối che phủ, y như rằng nó cố giấu giếm nỗi hổ thẹn đã phản bội chức năng khai hoá, bình định của mình ...
Thế xưa kia nó vốn là gì?
Lịch sử Đường số 4 hoà lẫn với lịch sử Đông Dương đã mấy thế kỷ nay. Ta nên tìm hiểu lịch sử đó, vì nó minh hoạ một cách đáng kinh ngạc sự bất ổn định về chính trị rất lớn của Bắc Kỳ "Chìa khoá cột sống" của cả vùng Đông - Nam Á Châu.
Trước khi con đường mòn khiêm tốn (tiền thân của RC4) hình thành, toàn bộ vùng Đông Bắc của Bắc Kỳ bị bao phủ dưới một lớp nước biển chưa định hình, hao hao giống Bái Tử Long, hay vịnh Hạ Long ngày nay.
Cho tới bây giờ, vùng có Đường số 4 đi qua vẫn còn rải rác vô số khối đá vôi đồ sộ, hình dáng kỳ lạ và vặn vẹo đã từng bị nước biển xâm thực và bào mòn phần gốc. Nhiều khối đá vôi trông giống hẳn những tai nấm khổng lồ bị giun biểu đục ruỗng. Vùng đất này được gọi tên là Hồ Đông Đình. Biển đã thua cuộc và thoái lui ra xa. Một con đường mòn xuất hiện và len lủi đi giữa những khối đá vôi sừng sững và ghẻ lở. Cuối thế kỷ thứ III trước Công nguyên, nó đã chứng kiến cảnh các bộ lạc người Việt từ miền Nam của Trung Quốc trẩy qua, trong một cuộc di cư dân tộc lớn mà châu Á thường nắm được bí quyết. Con đường đã thấy những thổ dân In-đô-nê-xia vốn cư trú trong vùng, tháo chạy hoảng loạn trước làn sóng xâm lược. Về sau, nó lại thấy hậu duệ của hai dân tộc trên hoà hợp làm một để tạo thành nòi giống An Nam.
Từ dạo đó đến năm thứ III trước Công nguyên, khi bị sát nhập vào Trung Quốc, cộng đồng người Việt sống thành bộ lạc, dưới quyền các tù trưởng. Các tù trưởng này lại sống dưới quyền những tù trưởng có quyền lực cao hơn. Họ kết thành một Vương quốc, Vương quốc Văn Lang, đóng đô ở vùng Ba Vì hiện nay. Ba Vì là một ngọn núi nằm trên Bờ sông Thao, ở phía: Tây - Bắc thị xã Sơn Tây (Bắc Kỳ). Từ năm 1939, Ba Vì đã trở thành một cảnh quan du lịch có khí hậu tết. Nhiều trận đánh lớn đã xảy ra ở đấy vào thời tướng đơ - Lát, vào cuối năm 1951. Thế rồi người Tàu đến và đặt nền đô hộ cho tới năm 938. Họ muốn "Hoa hoá" người Việt, làm cho họ thấm nhuần văn hoá của Tàu, nhưng không khuất phục được họ. Chắc là họ đã đánh nhau cho con đường biên giới này, khi Hai Bà Trưng những vị nữ anh hùng Việt Nam, và Lý Bôn dựng cờ nổi dậy chống kẻ thống trị Trung Quốc. Năm 938, họ lại đánh nhau ở đấy, khi Ngô Quyền giành được độc lập cho đất nước.
Nhưng đất nước An Nam - Bắc Kỳ còn sống trong hiểm nguy nhiều thế kỷ nữa, và các con đường từ vùng cao đổ xuống La Thành, (Hà Nội tương lai) và vùng biển sẽ còn phải chịu đựng nhiều lần hơn nữa gót giầy của quân xâm lược
Mở đầu là cuộc xâm nhập ghê gớm của quân Thái vương quốc Nam Chiếu, tức là quân Thái đáng gờm gốc ở Tây Tạng, mà người Việt và người Tàu sẽ phải vất vả lắm mới đánh đuổi được ra khỏi đất nước.
Từ năm 1280, đó còn là quân Mông Cổ của Hốt Tất Liệt, 3 lần xâm chiếm Việt Nam, 3 lần bị đánh lùi. Thế rồi đến lượt những trận chiến trên các con đường miền núi giữa 2 dòng họ Trịnh ở miền Bắc và Nguyễn ở miền Nam.
Các tu sĩ của Dòng Thánh Francois Xavier cũng đã đặt chân lên đó, khi dấn thân vào đất nước thù địch này, với cây Thập Tự và Kinh Thánh trên tay.
Ở một giai đoạn tạm thời hoà bình, dân Thất Khê, Lào Cai, Cao Bằng cũng đã dẫm những đôi dép nhẹ hoặc chân trần trên lối đi còn chưa xứng với tên "Đường" này, để về Hà Nội đón chào Nguyễn Ánh, vị hoàng đế mới vừa chiến thắng quân Tây Sơn nhờ sự giúp đỡ của người Pháp để lên ngôi dưới đế hiệu Gia Long. Cũng trên những lối mòn sẽ trở thành Đường số 4 sau này, quân Cờ Đen, mặc áo quần và chít khăn màu thanh thiên, súng đeo vai, gươm cài thắt lưng, nửa lính, ửa giặc, sẽ diễu qua trước khi có lính Tàu chính quy mặc áo dài xanh biển, với ống tay áo hình loa kèn, sau lưng có dấu tròn xanh da trời hoặc đỏ như son, ghi chữ Hán...
Sau 1886 và việc chiếm đóng Lạng Sơn đã bị đổ nát, bộ binh Pháp, Lê Dương, lính thuỷ đánh bộ và lính âu - Phi của Mẫu quốc, lính tập An Nam đã hành quân lên Đông Khê, Thất Khê, Cao Bằng và chắc chắn đã tôn tạo các lối đi và biến chúng thành một con đường thực thụ.
Đến lúc đó thì RC4 đã trở thành một đại lộ tuyệt với đối với sự khai phá thuộc địa và sự phồn thịnh, xây dựng trên trăm nghìn gian khó và đau thương sau giai đoạn chinh phục, y hệt những đại lộ của quân La Mã xưa kia ở Châu âu. Nó đã biến thành con đường huyết mạch mà vùng đất ngái ngủ này còn thiếu. Nó là kẻ đồng hành huynh đệ của đoạn đường sắt đi Vân Nam. Cũng như đường sắt Vân Nam, Đường số 4 đã cố gắng phí công dang tay bè bạn sang nước láng giềng rộng lớn của Đông Dương.
Nhưng Đường số 4 vẫn không thoát khỏi số phận oan nghiệt của mình. Nó lại thấy những kẻ xâm nhập da vàng khác, những người Nhật nhỏ thấp nhưng chắc nịch, nặng nề, có tinh thần thượng võ nhưng đồng thời cũng thật tàn ác, những người lính chiến đáng sợ, không biết mệt và cuồng tín.
Cuối cùng, con đường để thâm nhập và xâm lược đó, chỉ mấy năm sau, đã biến thành một trận địa, với không biết bao nhiêu là tổn thất ...
Bây giờ, nó chỉ còn là một vật vô dụng mà người ta dành giật nhau một cách quyết liệt. Hai đối thủ tối hậu quyết chiếm bằng được cho riêng mình "Con đường chết chóc". Họ tranh nhau quyền sở hữu cái thây ma của đoạn đường. Chủ nghĩa trong các hồ sơ của họ đều viện tới lý tưởng tự do, và quyền tự quyết của các dân tộc. Bên nào cũng chỉ lặp đi lặp lại một ngôn ngữ tương đồng, chỉ có nhân danh những vị thánh và những vị thần khác nhau.
Và con đường bị ô nhiễm, bị đập vụn đành cứ nai lưng ra cho các bánh xe tải cỡ lớn của chiến tranh hằn vết ngày mỗi sâu hơn trên những mảnh hình hài dập nát của mình, trong khi những nông dân hiền lành, ra đời ở hai bên vệ đường, chỉ còn dám hốt hoảng dẫm vội những bàn chân nhẹ nhõm của người miền núi trên những vết thương thoắt hiện, thoắt biến theo các rủi may của cuộc chiến trên con đường.
Tuy nhiên, bất chấp mọi vết thương, con Đường số 4 muôn hình muôn vẻ, vẫn luôn ham hố nuốt chửng qua cái họng đói Tiên Yên nào người, nào lương thực, vũ khí, xe pháo, không bao giờ chán...
Mọi buổi sáng hoặc hầu như mọi buổi sáng, những đoàn vận tải lại rời Khe Tu đi Lạng Sơn, quả tim còn sống sót của thân xác dài ngoằng đã tê liệt một nửa đó. Năm chục, một trăm, hai trăm xe tải lớn nối đuôi nhau bò trên con đường, cách nhau một khoảng trống an toàn khá dài, chuyên chở đầy ắp những vật sống và những vật chất, dưới sự bảo vệ của lính tráng ở những đoạn đường trống trải và của các đồn bết nằm rải rác trên đường, nhìn qua thì có vẻ khá dày đặc, nhưng xem kỹ thì hình như lại quá tản mạn, đến gần như vô vọng. Xe lăn bánh một cách nhọc nhằn, giữa vô số ổ gà và đường rãnh lớn chưa được san lấp kỹ, hì hục bò lên các dốc đèo và rên xiết mỗi lần qua các cua ngặt nghèo như kẹp tóc.
Lái xe, Lê Dương và phụ xế đều có cái nhìn chịu đựng và thụ động của những kẻ không còn làm chủ được số phận mình. Họ có tấm lưng trần và vầng trán ướt đẫm mồ hôi của những người đang chịu nóng. Họ kể cho nhau nghe những mẩu chuyện tấn công các đoàn xe vận tải khủng khiếp hoặc gây cười đến thắt ruột, thổi phồng hết cỡ hoặc thu nhỏ đến mức tối thiểu các hiểm nguy đã trải qua, và cười một cách vô nghĩa, tuỳ tâm tính mỗi người. Đó là trạng thái mất cân bằng nhất thời do thần kinh quá căng thẳng hoặc sắp suy sụp. Đó cũng là không khí đặc trưng của mọi đoàn xe vận tải trên vùng biên giới.
Những con người chuyên lái xe tải lên phía Bắc cho đoạn đường quái vật biết rõ hơn ai hết lịch sử của Con Đường ám ảnh của họ là xe bị sự cố khi đang bị cô lập trên đường. An ủi của họ là cốc rượu vang đỏ hay vại bia sủi bọt ở trạm dừng chân, lấy từ những cái chai âm ấm được chèn cẩn thận giữa cây súng và cây cuốc đào hầm hoặc chiếc giường xếp của lính. Vượt chặng đường Tiên Yên - Lạng Sơn đối với họ chỉ là trò trẻ, là công việc thường ngày, ít khó nhọc. Cuộc phiêu lưu lớn và nguy hiểm chỉ bắt đầu từ khi đoàn xe rời khỏi Na Chàm, để lọt vào trận địa giữa núi non đá vôi trùng điệp khoảng mỗi tháng một lần, tất cả các xe tải của cái thế giới bị lãng quên này phải dấn thân vào chốn rừng già đầy bí ẩn, nơi "đối phương" đang chờ đón họ ở chỗ rẽ ngoặt. Một ngày mở đường vào đầu năm 1950, trên đèo Lung Phai giữa Thất Khê và Đông Khê, một người qua đường, nhà báo hoặc chỉ là một kẻ tò mò, dù có hỏi thấy ngợp trước những vách đá thù địch cao chót vót, và ít nhiều lo lắng không biết chúng che dấu những gì, thì cũng vẫn chẳng hiểu được vì sao cánh lái xe và đám khách lính của họ lại không giấu giếm nổi sự lo lắng quặn ruột và những nụ cười chua chát của mình.
Kẻ qua đường đó sẽ nghĩ những chuyện vặt vãnh thường dễ bị thổi phồng quá trớn, rằng mọi lính tráng đều là những kẻ huênh hoang và lắm lời, thích phô trương những chiến công của mình:
"Kẻ thù ở đây (một quả xơ-ri), còn trung đoàn tôi thì ở đây (một quả táo) và tôi thì ở ngay hàng đầu i ông tướng già đã về hưu trong phim "Bốn chiếc lông chim trắng" đã nói như vậy, vừa nói vừa đặt xuống trước mặt mình một quả dứa to đùng ...
Cánh lái xe trên Đường số 4 sẽ không làm động tác rất "quân sự" đó khi nhắc tới "cuộc chiến của họ". Họ cố thu mình lại trong chiếc xe tải chở quá nặng, thường được vá víu bằng dây thép. Họ bị đè nén dưới khối núi cao ngất trời, phủ một lớp cây cọ cũng cao vút trời, và họ sẽ thú nhận không chút hổ thẹn rằng giữa những vật thể quá to lớn đó, họ chỉ muốn làm sao cho mình được bé nhỏ thêm chút đỉnh!
Muốn hiểu nguyên nhân của sự khiêm nhường đó, phải đi bộ qua những đèo cao đáng nguyền rủa đó và nhìn dưới tán lá quá um tùm cứ khăng khăng đòi phủ kín mặt đường.
Đến lúc ấy, ta mới sẽ phát hiện khắp nơi đây đó những khung xác công queo của vô số xe cộ đã bị thiêu rụi. Và nếu ta chịu khó phủi nhẹ lớp đất trên mặt sẽ làm lộ ra vô số nấm mồ dã chiến ít nhiều bị đổ nát, chôn vùi những mảnh hình hài thường đã cháy thành than của những người lính vô danh thuộc mọi tôn giáo và mọi chủng tộc. Những xác người và xác xe đó bất quá chưa tới hàng nghìn. Nhưng mặt khác đâucó vượt quá hàng nghìn, số lính làm cái nghề bạc ác đó. Và quanh quẩn vẫn chỉ có từng ấy con người ấy, lượn qua lượn lại ở đúng những chỗ ấy mà thôi!
Đám tài xế trên Đường số 4 chẳng cần phải rời những chiếc xe quan tài cũ kỹ để đi tìm lại những mảnh vụn xe cộ và những nấm mồ bỏ hoang đó, vì chính họ cũng đã có mặt tại đây vào những ngày mà các chiến hữu của họ mình xuyên qua đầy vết đạn, không còn tự vệ được nữa và các chiếc xe bốc cháy rừng rực đã phải lao mình một cách hỗn loạn xuống các hầm hố bên đường .. trong quãng thời gian dài 30 tháng đằng đẵng tại ngũ ở đó, họ đã đ¬ợc ban phát đặc quyền ngắm nhìn tận mắt quang cảnh khéo chọn vừa mô tả ở trên. Tất nhiên để có thể tiếp tục làm khán giả, qua mọi lần đụng độ, họ đã có may mắn được nằm trong các bộ phận thoát nạn của đoàn xe dài ...
Nhưng thật đáng tiếc là trên bánh xe Rủi May của số phận, không phải bao giờ ta cũng rút được lá số độc đắc. Cho nên, vô số lái xe chân chính của Đường số 4 sẽ không còn quấy rầy ai nữa với những lời ba hoa về chiến công của mình: họ đã trở thành những nấm đất sè sè bên đường...
CHƯƠNG 5
TRẬN SEDAN CỦA BẮC
KỲ
Từ sáng nay, đoàn xe chúng tôi đang di chuyển lên phía Bắc.
Qua một khúc đèo nữa là đã thấy có nhà cửa của Lạng Sơn Càng vào sâu chúng tôi càng thấy thành phố đã bị tàn phá đến chừng nào. Tuy nhiên, đại lộ ở trung tâm, mặc dù có mấy chỗ bị đào bới và một số cây bị trốc rễ, trông vẫn đẹp dáng.
Chúng tôi thoáng thấy nhiều ngôi nhà đóng quân vừa được xây dựng lại, và những biệt thự xinh xắn có tường vách rạn nút đã được trít kín. Lính tráng đủ các dân tộc và các cấp bậc tấp nập vào ra, dáng vẻ bận rộn. Đoàn xe dừng lại bên sông Kỳ Cùng "con sông chẳng đi về đâu cả", không xa các núi đá của Kỳ Lừa là mấy.
Thoạt đầu chúng tôi cũng ngạc nhiên trước quang cảnh "thành phố để mở" của Lạng Sơn. Bao quanh, chẳng có mấy công trình quân sự. Chỉ có thành quách cổ ở trung tâm và một hoặc hai pháo đài nhỏ đã đổ nát nửa vời, chênh vênh trên những đỉnh cao đáng sợ và hoang vu, ngoài rìa các núi đá.
Các chiến hữu của đội quân Tabor tới chào đón chúng tôi Đoàn xe phanh lại làm bụi bay mù mịt. Họ hoa chân múa tay, vẩy mũ Kê-pi màu xanh da trời đã hơi bạc, và mang tới nhiều chai rượu, nhiều bánh mỳ kẹp thịt.
Sự xuất hiện của họ làm chúng tôi trở lại hào hứng: người đầy bụi như những tay thợ phụ làm bột bánh mỳ, chúng tôi niềm nở bắt tay họ và ôm hôn họ. Tiếp đó là tiếng tu ừng ực của những cổ họng khát khô thay sự náo nhiệt lúc mới tới.
Trung uý Rochefort toét miệng cười và pha trò bằng một câu tục ngữ La tinh:
- Uống cái đã, sau đó mới nói triết lý! Trước khi chở tiếp chúng tôi lên Đồng Đăng, ở cách xa mười bẩy cây số, cánh lái xe phải kiểm tra lại máy móc và chờ hai ba chiếc xe đến chậm. Nhân tiện, chúng tôi cùng đại uý Duport đồn trú ở Lạng Sơn đã hơn một năm, ghé vào một tiệm ăn của ngườ Tàu.
Trên quầy bày la liệt cá hun khói, xôi nắm, cháo phở thịt chó béo ngậy và những chén "nước mắm" thơm ngon. Đại uý Duport là một nhà thông thái lắm lời như kiểu Baillet nên đã giới thiệu với chúng tôi lược sử của Lạng Sơn. Khi chúng tôi chỉ đặt vài câu hỏi vụn vặt về những nơi ăn và chơi được. Lúc đầu, chúng tôi chỉ nghe với những lỗ tai nghễnh ngãng, nhưng rồi cuối cùng thì lại chăm chú lắng nghe, và đại uý có cách dùng từ rất độc đáo, khiến cử toạ bị hấp dẫn.
- Lạng Sơn, đấy là Se dam của Bắc Kỳ, ông ta mở đầu trong khi Rochefort nhăn mặt tán thành cách ví von đó. Nhà hùng biện liền lao vào một bản thuyết trình thao thao bất tuyệt, chính xác đến mức làm chúng tôi lác mắt:
Tháng 5 - 6 năm 1884, sáu tháng sau trận thắng ở Sơn Tây, tướng Millot chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ đã chuẩn bị chiếm đóng các tỉnh biên giới. Ngày mồng 6 tháng 6, Hoà ước thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Trung Kỳ được ký ở Huế.
Theo quy ước Fournier ngày 11 tháng 5, Trung Hoa mà Phó vương Lý Hồng Chương là đại diện cam kết từ nay về sau sẽ tôn trọng mọi hiệp định hiện tại hoặc tương lai giữa nước Pháp và Triều đình Huế.
Trung Hoa cũng cam kết chậm nhất vào ngày mồng 6 tháng 6 sẽ rút khỏi Lạng Sơn, Thất Khê, Cao Bằng và các nơi khác nằm trên biên giới giữa Bắc Kỳ và Quảng Đông - Quảng Tây. ĐÓ là cái được gọi là "Quy ước Thiên Tân".
Đại uý Duport hầu như xin lỗi:
- Tôi có làm các vị chán không? Lịch sử của đất nước này quá đà làm tôi say mê. Tôi rút ra từ đấy những kết luận chính xác cho tương lai ... Các bạn cho phép?
Ông rút ra từ túi sơmi ka ki một cuốn sổ nhỏ bìa đen, dở dở mấy trang rồi nói tiếp khi đọc trong mắt chúng tôi sự đồng tình :
- Thượng tá Dugenne được chỉ định để đánh chiếm Lạng Sơn với một nghìn quân sĩ, trong đó có 400 lính Pháp và 1 khẩu pháo, một đoàn ngựa do một nghìn dân phu đi kèm. Thượng tá Phủ Lạng Thương ngày 13 tháng 6. Ngày 23 khi đến Bắc bộ trên bờ sông Thương, ông ta đã chạm trán với quân Tàu đông gấp bội. Tướng Tàu bảo có biết quy ước Thiên Tân nhưng không thể rút quân khi chưa có lệnh chính xác của Bắc Kinh.
Đến đây thì Battar vừa nếm xong một bát phở thịt chó bỗng ngắt lời :
- Cũng khá ngon đấy
Raval đang say sưa nghe chuyện liền quát:
- Câm mồm! Mày sẽ nói về cái bụng của mày sau.
Duport nói tiếp:
- Dugenne từ chối nghe lệnh thêm và tiếp tục tiến. Bị tấn công từ mọi phía, Dugenne chống cự lại. Thế rồi hôm sau, khi thấy mình sắp bị bao vây, ông mới ra lệnh rút... Đám phu phen đâm hoảng loạn và thế là cả đoàn xe gần như hoàn toàn tan rã. Riêng đoàn quân vẫn rút lui có trật tự. Chúng ta mất khoảng một trăm người, trong đó một phần tư là bị giết... Cuộc phục kích ở Bắc Lệ, thật ra có thể chỉ là một sự hiểu lầm, đã lại đặt nước Pháp và Trung Quốc vào thế đối đầu, mặc dù không hề có tuyên chiến.
Raval bị lôi cuốn theo câu chuyện lại hỏi:
- Thế rồi sao nữa?
- Một cuộc tấn công mới vào Lạng Sơn, thành phố không quen biết, lại được người kế nghiệp của Millot là Brière de l'Isle chuẩn bị vào tháng 2 năm 1885.
Đoàn quân rất hùng hậu: 7.000 lính chiến chia thành 2 lữ đoàn và 4.500 dân phu là rất cần thiết, kể cả bây giờ. Người Việt và người Tàu đều phải dùng họ, mà còn dùng nhiều hơn ta.
Một đội quân Tàu mạnh từ Quảng Tây sang chiếm đóng lạng Sơn. Sau nhiều trận đánh lớn, ở Đèo Vân rồi ở Đông Sương, quân Tàu rút và ta vào thành phố ngày 13 tháng 2. Hãy nhìn quanh các bạn sẽ tái hiện được ngay đường hành quân của Brière de l'Isle. Đoàn quân tiến giữa 2 núi đá khổng lồ nằm ở hai bên sân bay hiện nay (nhân tiện cũng nói thêm là sân bay không dùng được vào mùa mưa, hàng mấy tuần liền. Đến lúc ấy, thì chỉ có thả dù .... hàng hoá và thư từ đều ướt ráo!)
Sau khi vượt qua suối, trên một chiếc cầu kiểu Tàu men theo một núi đá phủ đầy bụi gai góc, dọc theo bờ sông Kỳ Cùng đoàn quân tiến vào một khoảnh đất bằng phẳng, có Đường Cái quan xuyên qua từ Nam lên Bắc.
Thành nội dạo đó còn có thành lũy bao quanh gần kín. Đó là một hình vuông cạnh dài khoảng năm trăm mét, không có hào và pháo đài. Thành luỹ cao tới 3 mét xây bằng gạch lớn, có đục bốn cổng ở 4 hướng. Ở chính giữa thành là ngôi "Chùa Vua" (chùa Tam Thanh), xây dựng trên một nền vuông từ đó có 4 con đường toả ra 4 phía. Hai bên đường là những nếp nhà tranh vách đất.
Trên bờ bên kia của sông Kỳ Cùng sạch sẽ và duyên dáng hơn, là các phố Tàu, hiệu người Việt ở.
Một trung uý của đoàn xe ghé vào uống một vại bia, mặt đỏ bừng, dáng vội vã, Raval hỏi:
- Đi chứ?
- Nửa giờ nữa. Trục trặc kỹ thuật chốc sẽ gặp lại.
- Thế là lại được nghe hết chuyện Lạng Sơn. Nào, kể tiếp đi!
- Một đội quân Tàu khác từ Vân Nam sang bao vây Tuyên Quang. Để lại tướng Négrier ở Lạng Sơn, Brière de I’Isle trở về Hà Nội cùng trung tá Giovannelli và Lữ đoàn của ông ta. Quân Tàu trở lại Thất Khê và Đồng Đăng. Négrier quyết định đẩy lùi chúng qua bên kia biên giới, quân lực của ta tiến lên Đồng Đăng, nơi các bạn sẽ trú quân tối nay. Nhưng Đồng Đăng cũng đã lại bị quân Tàu chiếm đóng. (Các bạn chiều nay sẽ không bị hổng như thế đâu, yên chí!). Thế là choảng nhau chí tử, quân Tàu rút. Ta đuổi đến tận ải Nam Quan. Cái "Cửa ngõ vào đất Trung Hoa" ấy nằm ở phía Đông Đồng Đăng, cách 4 cây số.
Négrier quyết định vượt biên giới để trừng trị quân Tàu một mẻ, nhưng quân ta bị đối phương cho thấm đòn trong một thung lũng nên buộc phải rút lui, bỏ cả Đồng Đăng, sau những tổn thất khá nặng nề. Ngày 26 tháng 3, hình như thế tướng Négrier rút quân về đến Lạng Sơn. Viện binh đưa quân số tại chỗ lên tới 4.500 người, với 18 đại bác. Lương thực và đạn dược thì không thiếu. Quyết định sẽ cố thủ ở Lạng Sơn. Hai ngày sau, quân Tàu tấn công và bị đẩy lùi khắp nơi với nhiều tổn thất. Thật đáng buồn là vào khoảng 3 giờ chiều, tướng Négrier vốn quen xông xáo hết mình, đã bị trọng thương do một viên đạn xuyên đúng giữa ngực. Người thay ông là trung tá Hérbinger bỗng nhiên quẫn trí và ra lệnh rút lui khỏi Lạng Sơn, giữa lúc chính quân Tàu bị đánh thua, đang bắt đầu tháo chạy.
Cuộc rút lui về hướng Nam bắt đầu lúc 10 giờ đêm, bỏ lại lương thực và cả đại bác chiếm đợc từ tay quân Tàu. Trong cảnh hỗn loạn, nhiều thùng rượu rum đã bị khui ra; lính nốc đến say mèm và càng làm tăng thêm cảnh hoảng loạn. Herbinger ra lệnh ném tuốt tuồn tuột xuống sông Kỳ Cùng đại bác, tiền ngân khố và đủ loại trang thiết bị. Cuộcrút lui biến thành cuộc tháo chạy tán loạn. Người ta bỏ Đồng Đăng, người ta đốt trụi hồ sơ tài vụ - kế toán, người ta đập nát máy móc thông tin, người ta vút của chạy người ... trong khi chẳng có ma Tàu nào thò đuôi sam ra cả!
Raval đùa tếu một câu:
- Nếu bây giờ Lạng Sơn cũng lại bị bỏ rơi như dạo ấy, thì sẽ ra sao, theo cậu?
Duport hơi sững người đáp lại:
- Trước hết, làm gì có chuyện ấy! Với lại, ta đã tổ chức chu đáo mọi việc. Sẽ chẳng có một rối ren nhỏ nào mà sao lại phát ngôn bừa bãi thế nhỉ?
Raval tán thành:
- Tất nhiên rồi: Nói tiếp đi !
- Thất trận ở Lạng Sơn đã có những hậu quả chính trị nặng nề. Nội các Fules Ferry đổ bên Pháp, người ta xem cuộc rút lui như một đại bại. Nếu người Tàu tự xem mình như đã thua trận, không vội xin giảng hoà chắc là ta đã để tuột mất cả Đông Dương. Trung uý Bara lẩm bẩm, nửa như đùa, nửa như thật:
- Được vậy đã là may. Ta càng đỡ cảnh loạn ly hôm nay chứ sao.
Battar ta nói thêm, vừa quan tâm đến câu chuyện, vừa thưởng thức món cầy tơ:
- Thế mới gọi là uốn ba tấc lưỡi chứ!
Raval toét miệng cười :
- Đúng là lũ tâm địa hạng bét!
- Chứ sao nào! Dân Pháp trung lưu ngày nay đâu còn quan tâm đến Đông Dương. Họ mặc mẹ nó! Ngay cả trong quân đội, cũng có khối quý ông Batt và quý ngài Bara sẵn sàng kệ thây Đông Dương. Dù có đổ vỡ xảy ra ở đây, thì bên Pháp cũng sẽ chẳng có nội các nào đổ đâu. Thôi, nói tiếp đi, Duport! Duport lại chúi mũi vào quyển sổ đen:
- Sau đó, là năm 1940. Từ ngày Đình Chiến đã có những dàn xếp khó khăn giữa Đại Sứ ta là Arsène Henry và Chính phủ Nhật, mặc khác giữa Đô Đốc Decoux viên Toàn quyền mới ở Đông Dương thay chân tướng Catroux và tướng Nhật Ni-si-ha-ra. Ngày 22 tháng 12, một thoả thuận được ký kết. Bọn Nhật sẽ được quyền sử dụng 3 sân bay của Bắc Kỳ, duy trì một đạo quân gồm 6000 người ở phía Bắc sông Hồng và chuyển quân giữa Vân Nam và Hải Phòng, xuyên qua Bắc Kỳ.
Thế nhưng tướng Nhật chỉ huy một sư đoàn của đội quân Phương Đông, đang bị kẹt vào thế chông chênh ở phía Bắc biên giới Tàu, không chịu đợi khoản thu xếp riêng đã được dự kiến trong Thoả ước, và đòi tiến ngay về Lạng Sơn. Tướng Martin chỉ huy trưởng quân đội Pháp lại cứ khăng khăng doạ nếu bọn Nhật lùn vượt qua biên giới, chúng nó sẽ biết tay! Quả vậy, ông ta có trong tay ở ngay trên đầu, 4 tiểu đoàn rải từ Lộc Bình đến Thất Khê; 4 tiểu đoàn nữa có trọng pháo và đại bác 155 li đóng ở Lạng Sơn, thêm 2 tiểu đoàn nữa cũng có trọng pháo riêng đóng tại Đồng Mỏ và xem như lực lượng dự bị. Toàn bộ đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Mennerat.
Chiều 22, bọn Nhật vượt biên giới và bài binh bố trận để bao vây Lạng Sơn. Chúng hành quân thành 3 mũi từ Điền He, Na Sầm và Lộc Bình để về tập kết tại thành phố. Quân chúng đông hơn lại có cả xe tăng. Rạng 24, các đạo quân ta ở Đồng Đăng và Lộc Bình bị cô lập.
Mennerat đề nghị Martin cho rút về Đồng Mỏ. Martin ra lệnh cho y phải cố thủ tại chỗ để chờ viện binh đến giải vây, như cho phép Mennerat đóng chết tại Kỳ Lừa.
Cuộc chuyển quân được tiến hành trong đêm tối, vì sao ta sẽ nói, nhanh chóng thành hỗn loạn.
Một trong các cỗ trọng pháo của ta bị chính quân lính Pháp đã mất bình tĩnh bắn nhầm. Quân nhân của cỗ pháo tháo chạy.
Đội quân phụ trách pháo 155li trong lô cốt thì phá huỷ các cỗ pháo của mình. Đội quân rời khỏi Cao Bằng bỏ ngỏ đã cố gắng giải vây cho Lạng Sơn nhưng thất bại. Ngày 25, Mennerat thấy tình hình không còn chịu đựng nổi, đã đề nghị Martin xin cấp tốc đình chiến. Đến 6 giờ chiều, mọi. cuộc kháng cự đành chấm dứt, đường về Hà Nội thế là đã mở trước mắt quân Nhật. Muốn chặn bước họ lại trừ khi có một lệnh trực tiếp từ chính Nhật Hoàng! Lệnh đó quả sẽ đến tay chỉ huy Nhật vào chiều 25 ...
Trong một số tiểu đoàn lính bản xứ đã xảy ra nhiều vụ đào ngũ hàng loạt, nhưng chính quân Nhật còn mất nhiều người hơn ta.
Ngày mồng 5 tháng 10, đội quân đồn trú ở Lạng Sơn được giải phóng. Và đến ngày 30 tháng 11, ta chiếm lại thành phố.
Sau vụ 1940 đã có cả một chương trình lớn xây dựng các pháo đài quanh Lạng Sơn, nhưng cho tới tháng 3 năm 1945, đa số công trình đều đang bị bỏ dở dang. Hệ thống công sự bao gồm thành nội và những cứ điểm trực thuộc như các pháo đài Galliéni, Négrier, Brière de l'Isle trên tả ngạn sông Kỳ Cùng và một số lô cốt. Quân Nhật chiếm ưu thế trên hữu ngạn sông. Tướng Lemonmer chỉ huy cứ điểm, có trong tay 4 tiểu đoàn bộ binh; 22 cỗ pháo trận, 8 cỗ trọng pháo, 4 xe tăng nhỏ và một số xe xích. Tổng cộng được 4000 người, trong đó chỉ có 700 lính âu. Quân Nhật ở Kỳ Lừa thì mạnh tới 7.000 - 8.000 người. Về phía Pháp, tinh thần là tốt - hình như thế- chỉ huy đều giỏi và quân lính thì quyết tâm.
Đáng tiếc là chúng ta đã để cho họ lừa gạt. Đa số sĩ quan cao cấp được người Nhật mời đến dự tiệc, đã bị bắt giữ, làm quân đội trở thành như rắn không đầu. Ngay sau đó, giữa đêm quân Nhật tấn công khắp nơi và bất ngờ đổ ập xuống quân lính của ta ngay trong chỗ trú quân của họ. Quân đội trực luân phiên không có mặt tại chỗ. Việc điều hành pháo binh cũng chẳng được tổ chức chu đáo. Ở Mai Pha, một tiểu đoàn của ta đã bị đánh tan tác sau chưa đầy một giờ? Hai đại đội đồn trú trong thành cũng chịu chung một số phận. Tiểu đoàn ở Kỳ Lừa bị vây hãm, chỉ huy bị giết cũng gắng cầm cự nhưng chỉ đến bình minh. Lemonnier bị tấn công trong thành nội với Ban tham mưu, đoàn quân cơ giới và 2 đại đội, đã chống chọi một cách tuyệt vọng, rồi cuối cùng vẫn phải hạ vũ khí. Quân dồn trú ở trại lính Brusseaux cũng chỉ đánh lui được 7 đợt tấn công của quân Nhật. Các pháo đài Négrier và Galliéni là những cứ điểm cuối cùng lúc 6 giờ chiều ngày 10. Đến lúc đó thì cả pháo đài Brière cũng đã bị chiếm lĩnh, mặc dù đã chống cự quyết liệt.
Ta có khoảng 100 người bị giết, 200 đến 300 người bị thương, trong đó có rất nhiều sĩ quan. Sau cuộc đầu hàng, quân Nhật còn lạnh lùng giết hại thêm 460 người nữa, trong đó có tướng Lemonnier và chỉ huy phó là quan năm Robert. Nếu sau này các bạn có được chút thì giờ rảnh rỗi, tôi sẽ đưa các bạn tới tượng đài đã được dựng lên trong thành để tưởng nhớ đến họ.
Ở Đồng Đăng, quan ba Amosse đã chống cự cho đến viên đạn cuối cùng. Tên sĩ quan Nhật khen ngợi lòng quả cảm của ông, rồi cho chém đầu ông, mà không cần xét xử mảy may cùng với mọi lính Pháp còn sống sót.
Thượng sĩ Panlurel bỗng lao vào phòng như một trận cuồng phong, miệng ngậm còi, tay phất phất chiếc ba-toong như sếp ga phất cờ lệnh:
- Tất cả lên xe. Tàu đi Đồng Đăng sắp chạy.
Ông bỗng dừng lại vì ngạc nhiên trước dáng điệu suy tư và nghiêm nghị của mọi người. Raval đứng lên đầu tiên.
- Bạn Duport thân mến, bản thuyết trình lịch sử ngắn ngủi của bạn đã làm chúng tôi rất vui. Toàn là những chuyện khôi hài ra phết. Hẹn bạn tới một ngày nào đó, ở câu lạc bộ sĩ quan. Bạn sẽ nói lên cho chúng tôi nghe các kết luận lạc quan mà bạn đã rút ra được từ cái mớ hỗn độn đó, cho tương lai...
Rochefort nhấn mạnh:
- Chính cánh ta sẽ phải chứng minh rằng Lạng Sơn không phải là một thành phố đáng nguyền rủa.
Chúng tôi vội vã lao ra khỏi phòng để nhảy lên các xe tải đang chuyển bánh trong đám bụi mù. Mặt trời đã lên cao trên thành phố Lạng Sơn yên bình và ngái ngủ.
Raval chào to Duport:
- Vĩnh biệt Se dan!
Duport thì miệng ngậm tẩu, vẫy tay chào chúng tôi lần cuối với một động tác đầy thân thiện...
CHƯƠNG 6
CUỘC HÀNH QUÂN "GLAO UI"
CUỘC HÀNH QUÂN "GLAO UI"
Con đường làng chạy giữa 2 bờ ruộng lúa, mang tên là "Đường Thuộc Địa số 4" (RC4) giữa Lạng Sơn và Đồng Đăng đưa chúng tôi lên giang sơn mới của chúng tôi.
Chúng tôi để lại sau lưng ở bên phía trái đường, nhà ga đã bị tàn phá nửa vời, nơi đồn trú của các ô-tô súng máy.
Đoàn xe tải tràn tới chiếm lĩnh mọi địa điểm còn để trống cũng như mọi con đường phụ của thị trấn biên giới Đồng Đăng. Chúng tôi sẽ đến trú quân ở một số nhà đang sụp đổ dở dang, ở chùa Tam Thanh và một phần của nhà ga. Cả dưới nền trại nữa... Người chỉ huy của khu vực, tiểu đoàn trưởng Calvin thuộc đội quân Lê Dương, ra đón chúng tôi. Thiếu tá nói to để động viên chúng tôi:
- Cánh này vốn đã quen xây dựng. Ta sẽ biến nơi này thành một cứ điểm đóng quân mẫu mực!
Calvin mời mọi người đến uống một chén rượu nhạt ở Sở chỉ huy của ông, để chúc sức khoẻ đám viện binh.
Các sĩ quan trẻ của đồn binh, còn mồ hôi nhễ nhãi và lấm bùn be bét, bước từng người một vào trong quán bar nhỏ bé và dân dã, nhưng đắt khách. Tất cả họ đều nói chuyện với chúng tôi như nhau:
- Rất vui mừng thấy các bạn đã đến! Không chỉ bởi niềm vui được làm quen với các bạn mà còn vì chúng tôi vốn mặc cảm là quân ta ở đây có hơi "mỏng"! Có các bạn đêm nay chúng tôi sẽ được yên giấc... Đại uý Deminière ngờ vực hỏi - Chẳng lẽ cái xó xỉnh này lại tệ hại đến vậy sao?
Viên sĩ quan thông tin vội đáp:
- Ô không! Ngược lại, nó quá yên tĩnh, chẳng có gì, chẳng bao giờ có gì xảy ra cả, hoặc gần như vậy. Chắc là sắp có chuyện chẳng lành. Yên tĩnh...
- Thế còn bọn Việt Minh?
- Họ ở khắp mọi nơi, mà như chẳng ở đâu cả. Từng tiểu đoàn trọn vẹn cứ vượt xuyên qua đường để sang Tàu hoặc trở về. Chúng còn táo tợn cắm trại hàng nghìn người một lúc, chỉ cách Đồng Đăng vài cây số, nhưng khăng khăng khôngchịu đánh nhau với ta, kể cả khi ta tìm tới chúng với chỉ một dúm người. Cầm chắc là chúng phải có lý do để hành động như vậy.
Đêm đã xuống. Ở bên kia nhà ga, mặt trời nhuộm vàng nhuộm xanh các ruộng lúa, trước khi lặn xuống sau các rặng chuối. Các đường phố vắng hẳn người. Các làng quán người Tàu lần lượt đóng cửa.
Lính canh bắt đầu phiên gác đêm. Những âm thanh đa dạng vô tận của một thế giới động vật và thực vật mới lạ đã ru giấc ngủ đầu tiên của chúng tôi ở ải Nam Quan... Khoảng nửa đêm, một loạt súng thất thần bỗng rộ lên ở phía có ngôi chùa. Ngay sau đó, ở phía ga lại vang lên những tiếng súng nổ nhát gừng xen cả với tiếng lựu đạn chát chúa trong bóng đêm. Hỏng chuyện rồi! Hai quả pháo sáng đĩnh đạc vút lên trên màn trời tăm tối. Đã tấn công rồi sao? Thế rồi mạnh ai nấy bắn, từ mọi chỗ tạm ẩn náu, vì ta đâu đã kịp đào hầm hào công sự? Một số còn chui cả xuống dưới gầm giường phản đang ngủ, một cách lén lút để khỏi có người bắt gặp trong tư thế kém hiên ngang ấy!
Và cuộc đùa dai cứ thế kéo dài tới rạng đông ... Khi trời đã sáng tỏ, vị chỉ huy mới triệu tập mọi sĩ quan đến:
- Thưa các ngài, tôi rất vui mừng thông báo với các ngàirằng lính của các ngài đã bắn suốt đêm, hàng nghìn viên đạn vào lũ đom đóm! Việc này đã trở thành truyền thống vào đêm đầu. Nếu đêm mai cũng thế, thì đó sẽ là chuyện "thần hồn nát thần tính" và ít nhiều thiếu kỷ luật trong chiến đấu. Còn nếu đêm mốt cũng lại vẫn thế, thì người ta sẽ đánh giá chúng ta là một lũ hoá rồ, chứ không còn là một tiểu đoàn sáng giá nữa.
Périgois thượng sĩ của tiểu đoàn quân Tabor nhăn mặt báo:
- Sáng nay, tôi đã tìm thấy 3 viên đạn méo mó trong phòng làm việc, cạnh giường nằm và một viên nữa, cắm ngập trên tường. Kể cũng hơi quá đáng nhỉ!
Khi chúng tôi gặp lại các bạn Lê Dương, họ ỡm ờ bảo:
- Chẳng phải chúng tôi đã bảo các bạn đến, chắc chúng tôi sẽ được một đêm ngủ yên sao?
Cám ơn các bạn đã không làm chúng tôi thất vọng!
* * *
Chúng tôi dành mấy ngày để đào công sự, bít các lỗ hổng trong nhà, thiết kế các túp lều tre để thay thế các lều trại và thế là lên đường cho một chuyến hành quân khai trương, được mệnh danh là "Glaoui". Đây chưa phải là để xua đuổi kẻ thù, mà mới chỉ là để tiếp cận với chiến địa trong tương lai, toàn bộ tiểu đoàn tham gia cuộc dạo mát...
Đoàn quân nối đuôi nhau rời Đồng Đăng lúc trời chưa sáng. Trời đã bắt đầu nóng. Chúng tôi đi về hướng Tây qua những ruộng lúa bậc thang, bị chia cắt bởi những khối đá vôisừng sững phủ đầy cây cối chằng chịt. Chúng tôi đi nhanh và giữ im lặng. Lính Ma-rốc thỉnh thoảng khẽ giục phu phen "Mao leu, mao len!", còn sĩ quan âu Phi thì nhắc lại "Fixa, Fixa" (Nhanh lên, tiếng Ả rập).
Nơi chúng tôi đi qua vắng bóng người. Bỗng nhiên, nổi lên những tiếng xì xào dọc hàng quân: một chú báo đốm vừa từ trên núi đá trượt xuống rồi mất hút trong các lùm cây. Chúng tôi lần đầu tiên thấy báo. Hai chú khỉ kêu khẹc khẹc để báo động cho đồng loại trong một cánh rừng thưa gồm những cây cối vặn vẹo, gỗ đã ít nhiều mục ruỗng.
Các trung đội bắt đầu thao tác giữa các núi đá. Cuộc hành quân chậm hẳn lại. Không khí nóng ẩm làm ướt những tấm lưng lính mang vác nặng.
Lính Phi chèn những mù-soa e không được sạch lắm dưới những chiếc mũ đi rừng hình dáng "ngẫu hứng", chẳng còn vẻ gì là "quân sự" cả. Thỉnh thoảng, một cậu lính lại tách khỏi hàng quân, châm một điếu thuốc rồi vội vã chạy trở về chỗ cũ. Có cậu bị trượt ngã trên nền đất sét trơn, làm mọi người bật cười rộ lên. Nóng bức đã trở nên ngột ngạt. Chúng tôi đi xuyên qua một bản làng miền núi nép mình dưới tán cây leo chằng chịt của một cánh rừng ẩm ướt. Đất sũng nước tù đọng. Cành cây và lá rụng xám xịt đang mục nát và thối rữa trong các vũng nước bẩn. ánh sáng mặt trời như không xuyên qua nổi tán lá rừng.
Ra khỏi bìa rừng đoàn quân đổ xuống một dốc núi ngoằn ngoèo chữ chi chúng tôi bất ngờ khám phá ra một quang cảnh bao la và hoang sơ. Nhiều ngọn đồi um tùm cây lá nối đuôi nhau thành những bậc thang chạy về phía Tây xa tít.
Chen vào giữa các ngọn đồi là những ruộng lúa hình dải lụa. Trên một trong các thửa ruộng đó, bàn tay con người đã tạc nên một cụm đồn bốt làm bằng những thân cây gỗ lớn ghép lại. Nhô hẳn lên trên là một chòi canh cũng bằng gỗ. Chúng tôi đầm đìa mồ hôi. Nóng đã tới mức không còn chịu nổi. Các đơn vị mở màn cho cuộc càn quét. Một số lính chạy đi bắt liên lạc với đồn. Súng nổ lác đác ở một góc rừng nhỏ. Cách đấy vài cây số, một đám Việt Minh có vũ khí, gồm khoảng 30 người, bỏ chạy dọc theo một con suối bờ đất bùn. Chúng tôi dùng súng máy kiểu Rebel lia theo mấy băng đạn, cũng để lấy lệ thôi, và vị chỉ huy ra lệnh đưa một trung đội để truy kích...
Chúng tôi mở đồ hộp ra ăn, nhưng chẳng ai thấy đói. Tất cả nghểnh cổ tu ừng ực thứ nước âm ấm từ các bi-đông và nuốt hàng tá viên muối để tránh "mất nước".
Các đơn vị lần lượt nối đuôi nhau trên đường mòn để trở về Trung đội truy kích địch cũng lê bước quay lại. Chỉ huy Sở, họ đã giết được một Việt Minh chậm chân và đoạt được một số giấy tờ, mà Baiuer bỗng phấn chấn hẳn lên, vội tức tốc khai thác, tất cả họ đều mệt nhoài...
Phải đi thêm hai mươi lăm cây số nữa giữa một thứ "lò lửa" theo kiểu "mả hồi", mới về tới "chuồng ngựa" của chúng tôi. Trong bóng râm, vẫn nóng tới 500C. Chúng tôi đi thất thểu như những người máy, chốc chốc lại cố nuốt không trôi vài viên muối.
Chẳng thấy mặt trời đâu, nhưng nó vẫn phóng những tia nắng vô hình quái ác qua một thứ màn mây xám ngoẹt làm lu mờ mọi màu sắc. Hai người bỗng ngã dụi xuống và nôn mửa vì kiệt sức...Thế là lại phải làm cáng dã chiến để khiêng họ đi.
Trung uý Rochefort bị trọng thương trong chiến dịch 1945, nay đúng là sống dở chết dở. Viên đội Kỵ mã cũ bị thiếu máu sau lần bị một viên đạn bắn xuyên qua ngực. Ông ta nôn oẹ, trở thành tái xanh tái xám, rồi trắng bệch, mỗi bước đi lại mỗi vấp ngã. Mặc dù rất can đảm, cuối cùng ông vẫn phải để 2 gã lính Ma rốc "bốc xếp" lên lưng một chú ngựa Tàu nhỏ thó, chiến lợi phẩm của cuộc đụng độ vừa qua. Chẳng ai cười được trước cảnh chàng San cho pancas tân thời nằm vắt mình trên lưng ngựa, tay chân buông thõng quét đất nóng hầm hập.
Nhiều người nữa phải khiêng trên các cáng tải thương. Đoàn quân trở nên lòng thòng và đứt quãng. Ai cũng cố gắng hết sức mình nhưng đều đuối sức.
Khi Đồng Đăng thấp thoáng hiện lên ở cuối trời, nằm lọt thỏm giữa mấy quả đồi, chúng tôi đều cảm thấy như vừa thắng một trận quyết liệt. Mà không phải tất cả chúng tôi.
Trong đêm, 3 lính Marốc rên rỉ rồi chết, do đã phải trải qua cuộc hành khủng khiếp: thời tiết nóng ẩm đã đánh quỵ sức chịu đựng ghê gớm của họ.
Chúng tôi đã học được bài học: thế nào là một cuộc càn quét và thám báo giữa rừng núi và biên giới.
CHƯƠNG 7
"NHỮNG MÂU TIN VẶT"
"NHỮNG MÂU TIN VẶT"
Hôm qua, chúng tôi đã chôn cất những tử sĩ đầu tiên trong nghĩa trang mi-ni của Đồng Đăng. Mặt trời rực rỡ và thiên nhiên vui tươi như giữa hội hè ...
Giữa 2 cuộc hành quân, lính Ma rốc giặt giũ áo quần trong dòng suối len lỏi chảy giữa các thành luỹ đổ nát và các di tích điêu tàn của nhà ga. Họ nói chuyện tếu, ca hát và dùng ván vỗ mạnh lên áo quần đem giặt...
Hôm nay, mọi vật thật yên tĩnh, Loubès ngồi trên một thân cây đổ, một be rượu vang đỏ kẹp giữa đùi, ngấu nghiến nhai bánh mỳ kẹp thịt.
Orsini thì đang ngâm chân dưới nước. Đó là việc mà không mấy khi anh làm!
Spor đi lướt qua và kêu lên :
- Chân lính bộ, ai lại đi rửa? Chỉ lau qua thôi. Đi lính đã ngót nghét 12 năm, mà chưa thuộc điều lệnh đó sao?
Orsini liền đáp:
- Chân tớ dù sạch mấy cũng có bao giờ từ chối cuốc bộ đâu!
Chuẩn uý Bauer, chỉ huy trung đội Súng Cối - Súng máy đang cạo mặt một cách thận trọng. Dưới dáng dấp một thư sinh nhút nhát, anh che giấu cái đầu cứng cỏi của một người xứ Al-Sacien dũng cảm và đầy nghị lực. Gần anh, ông đội Piteau thuộc trung đội 3, đang nghêu ngao một bài ca Tây Ban Nha và biểu diễn nghệ thuật gõ phách cho mấy tay lính Ma-rốc lác mắt đứng nhìn. Piteau là một con người xuất chúng: mới 16 tuổi đã đăng cai vào các Đội quân quốc tế trong chiến tranh nội bộ ở Tây Ban Nha, chỉ đơn thuần vì máu giang hồ. Sau đó, ông ta tham gia chiến dịch Italia từ đầu đến cuối rồi trở về với một huân chương chiến công. Bây giờ thì anh ta lại sang Đông Dương lần thứ hai. Đó là một gã người xứ Gascon chính hiệu, to khoẻ như lực sĩ, thông minh, huênh hoang và hơi ... vô chính phủ ! Anh ta mù tịt tiếng Ả rập và xem lính Ma rốc như cỏ rác; còn họ thì lại tôn sùng anh ta, vì cảm thấy anh ta đúng là một Đại ca loại xịn!
Một hôm Bauer khen: "Piteau bao giờ cũng ruột để ngoài da!" Orsim liền đế: "Đúng! và cả nắm đấm để trên mõm anh hàng xóm". Spor đứng nhìn tiết mục biểu diễn gõ phách, rồibỏ đi về phía con suối.
Loubès vừa nhai nhồm nhoàm miếng ba-tê, vừa cảnh báo:
- Thôi chết! Lại ngài Sệp sắp thiết triều! Spor tay đặt trên nắm can, liền xổ ra một tràng tiếng Ả rập để giao lưu một cách thật rôm rả với đám "Tây Thi giặt lụa" vai u thịt bắp, ngực đầy lông lá. Ông ta thuộc tên từng người lính, gốc gác, chuyện gái và lai lịch binh nghiệp của họ nên chẳng bao giờ thiếu đề tài để tranh cãi với họ. Xem chừng Spor sẽ xài trọn buổi sáng để pha trò, đùa vui và phân phát những cú đánh sẽ thân thiện bằng chiếc can trên những tấm lưng màu nâu thẫm của đám lính. Thế nhưng các hạ sĩ quan cũng thấy là ông ta cứ hay muốn "làm sáng tỏ" quá nhiều chuyện, lại cũng hay để bụng quá nhiều lời đồn đại hoặc kêu ca trong các buổi mạn đàm xem ra khá vụn vặt đó... Họ trách ông cứ hay làm họ bị "chập mạch"... Sự thật nằm ở chỗ lưng chừng. Người lính già quả có yêu mến đám lính của mình. Ngồi với họ, ông thấy hạnh phúc, như sáng hôm nay chẳng hạn. Thế nhưng khi cần trừng phạt một kẻ phạm tội, thì eo ôi! Sẽ không bao giờ có chuyện "Giơ cao đánh khẽ". Tất cả mọi người đều biết vậy ...
* * *
Một giao liên từ chỉ huy Sở của tiểu đoàn Tabor bỗng hớt hải chạy đến, với một mệnh lệnh:
"Xã trưởng của Pắc Luông vừa bị mấy phát đạn bắn chết sáng nay, ở quãng giữa Đồng Đăng và Lạng Sơn, ngay trên đường cái. Hình như là do Việt Minh khử. Lệnh cho 2 trung đội Ma rốc thuộc tiểu đoàn Spor đi xe tải tới cách Pắc Luông chủng 1 cây số. Rời Đường số 4, tiến về phía Đông và cố gắng đuổi kịp kẻ địch trước khi chúng rút sang Tàu...".
Spor đọc lại mảnh giấy một cách điềm đạm, rồi chuyển nó cho tôi và nói :
- Lấy 2 trung đội Bauer và Piteau và đi ngay.
Thế là có chuyện rồi! Sếp đã chính thức giao việc cho tôi. Tôi vội vàng chạy đi lấy khẩu các bin, trong khi đám lính Ma rốc hối hả. Mười phút sau, hai xe GMC khởi hành. Trong xe, lính Ma rốc lớn tiếng đọc lại kinh cầu nguyện cho kẻ lữ hành bằng tiếng Ả rập, như thường lệ. Một số vừa cầu nguyện để được tai qua nạn khỏi, vừa tranh thủ mặc quần áo và đi giày.
Tới một khúc quẹo ngoài tầm nhìn từ Pắc Luông, chúng tôi xuống xe và hành quân đi bộ thành 2 hàng dọc hướng về phía Đông. Cuộc chuẩn bị chiến đấu diễn ra rất nhanh. Tôithấy mình thật sung sức. Đây là lần đầu tiên tôi được chỉ huy một đơn vị sắp xung trận. Tôi hạ quyết tâm thực hiện thành công cuộc vây ráp. Lính của Bauer chiếm lĩnh một mô đất cao và thông báo ngay là đã phát hiện Việt Minh đang tháo chạy ở cách đấy khoảng 800 mét. Chính tôi đã chọn điểm dàn quân đó. Một khẩu súng máy vội nhả luôn mấy tràng đạn. Tiếp theo đó, 1 súng trường cũng bắn về phía địch. Viên đội cả quyết là bọn Việt Minh cũng đã bắn trả. Thấy Piteau còn do dự, tôi vội lệnh cho y cắt đường tháo chạy của địch bằng cách luồn qua một cánh rừng rậm rạp.
Nửa giờ sau y trở về, kéo theo 2 nông dân đang sợ mất hồn và chối bai bải là đã không hề thấy bóng dáng của bọn phiến loạn. Chúng nói là lúc nãy, người ta đã bắn vào chính chúng.
Tôi hỏi cung họ qua người phiên dịch:
- Sao các người không đến với chúng tôi mà lại bỏ chạy?
- Họ bảo là vì sợ quá.
- Thế các người ở Xã nào?
- Xã Pắc Luông.
- Thế các người rời Xã đi làm đồng từ bao giờ?
- Từ lúc tinh mơ.
- Nói với họ Xã trưởng của họ đã bị Việt Minh giết chết chỉ ít lâu sau khi họ đi làm.
Hai người nông dân chỉ nhún vai mà không trả lời.
Viên thông ngôn nói với vẻ ngờ vực:
- Hình như chúng tôi không biết mô tê gì cả. Chúng tôi thả 2 tên nhà quê ra. Họ liền bỏ đi vội vã, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn, y như sợ bị bắn lén sau lưng ...
Chúng tôi tiếp cận và bao vây xã Pắc Luông.
Trong làng, thảy đều im ắng. Trở về Đồng Đăng, tôi báo cáo với Sếp một cách thật thà và khá hay ho.
- Chúng tôi hành quân bằng cách luôn chiếm lĩnh các cao điểm. Đã đụng độ với địch và buộc chúng tháo chạy. Đã bắt được và khai thác 2 kẻ tình nghi. Đã lùng sục cẩn thận Pắc Luông, nhưng không thấy gì khác thường cả.
Sếp bỗng toét miệng cười rộ và bảo:
- Đi chén đi cái đã! Xong, đãi bọn mình vài cốc cay. Ở đây vừa được thông báo tên Xã trưởng Pắc Luông đã bị một gã anh em họ háo danh, nhân tình của vợ y đã mấy tháng nay ám hại để cuỗm cả vợ, cả của và cả cái chức Xã trưởng của y ...
Hình như thấy tôi xịu mặt nên Sếp tử tế nói chữa:
- Chẳng có gì phải phiền lòng, ông bạn!
Cánh này lúc khởi đầu , đều đã từng bốc đồng như vậy cả. Điều quan trọng là cách đã xử trí
Lúc ra khỏi phòng làm việc của tiểu đoàn, có một cái gì đó đã chẹn ngang cổ họng tôi, khiến bữa ăn trưa, tôi chỉ nhấm nháp được một quả cam khô đét.
Đã vậy như chọc tức cho tôi càng bực bội thêm, chiều đó giữa phòng ăn tập thể, Raval với thói quen đặt tên để chế nhạo mọi người, đã gọi tôi trong suốt bữa ăn là "Người hùng trả thù cho gã mọc sừng"! Mấy ngày sau, tôi được biết thêm: một trong hai tên nhà quê mà tôi đã tóm được rồi lại vội vàng thả ra trong cuộc hành quân dở hơi của tôi, chính là tên sát nhân đã giết lão Xã trưởng! Để giúp tôi quên câu chuyện chẳng mấy hay ho này, người ta đã cử tôi đi thực tập ở Lạng Sơn. Tôi được biệt phái đến "Thủ đô vùng biên giới" mười lăm ngày, để theo học một lớp của cơ quan tình báo ta quen gọi là Phòng Nhì.
"Trang phục đại lễ, cặp cầm tay, các bin đeo vai và công lệnh trong túi, tôi lên đường, lòng vui phơi phới vì sắp được làm quen với Lạng Sơn,trong con mắt tôi là một thành phố lớn, sau 3 tháng "sống mòn" ở Đồng Đăng. Đại uý Carre sếp Phòng Nhì đón tiếp tôi rất niềm nở. Mở đầu, chúng tôi cụng ly: đó là một cách làm quen thật đáng yêu.
- Đồng Đăng ổn cả chứ?
- Yên tĩnh quá. Thật đáng buồn chán. Trời lại nóng như thiêu như đốt.
- Phải kiên nhẫn! Rồi sẽ đánh nhau ngay thôi mà.
Chẳng ngại cụng đầu với một bức tường im lặng, tôi tò mò hỏi:
- Thế là thế nào ạ?
- Tớ sẽ nói toạc ra cho cậu nghe, nhưng phải giữ kín chuyện này đấy nhé: Sau vụ mất đồn Đông Khê, ta không nên có ảo tưởng nữa: Bọn Việt. Minh lần đầu tiên, đang tự tổ chức thành trung đoàn chính quy, thậm chí thành cả sư đoàn nữa. Chúng được vũ trang đến tận răng nhờ bọn Tàu và cũng phải thú nhận, nhờ cả cướp đoạt vũ khí của Pháp, cũng như của Tàu Tưởng. Chúng đang chuẩn bị cho những trận đánh lớn vào mùa thu này, tớ cần nhắc như vậy.
- Thế Bộ tổng có biết chuyện này không?
- Có, nhưng các vị vẫn cứ chủ quan trước những tin tình báo rất đảng lo ngại này. Bọn mình bị chụp mũ là "có tinh thần chiến bại".
- Mấy Sếp lớn không tin là tướng Giáp có thể làm nên trò trống gì hại ta. Họ chỉ ngại Tàu can thiệp.
- Thế còn đại uý?
- Tớ không sợ bọn Tàu can thiệp. Họ đâu có điên! Đánh nhau thông qua Việt Minh là một biện pháp quá tiện lợi. Tàu phải làm yên lòng Mỹ và tránh mọi rắc rối về chính trị. Chính bọn Việt Minh mới chuẩn bị cho ta một dịp tỉnh giấc đau nhớ đời. Theo những nguồn tiện đáng tin cậy, bộ đội chính quy của tướng Giáp có quân số tới ba mươi nghìn người. Tất cả đều tập trung ở vùng biên giới, giữa Cao Bằng và Đông Khê. Quá thừa thãi để đánh bật ta ra khỏi các vị trí hiện tại. Điều làm tình huống càng trở nên trầm trọng là họ biết tỏng tòng tong quân lực của ta! Trong một trận càn, ta đã vớ được quyển sổ tay. của một sĩ quan trong Ban tham mưu Việt Minh, trong đó, tất cả các vị Sếp chóp bu của Lạng Sơn đều được tướng Giáp cho điểm trên 20, kèm theo lời phê ngoài lề!
- Cụ thể là thế nào?
- Tớ cũng chẳng muốn đao sâu thêm vấn đề. Không phải điểm nào cũng đáng khen. Nhiều Sếp của ta sẽ không thể thăng quan tiến chức, nếu quyết định nâng bậc tuỳ thuộc vào tướng Giáp! Bên cạnh. tên cua một vị chỉ huy, còn có cả một câu gợi ý thật hài hước "Quân đội Nhân dân của ta sẽ được nhiều thuận lợi, nếu giữ được viên sĩ quan cao cấp nàytại chức càng lâu càng tốt. Trong tình huống lâm trận do chính Y chỉ huy, mệnh lệnh là: Cứ phản công một cách thật táo bạo ... ". Tớ đã đâm lúng túng trước mặt viên thông ngôn người Việt.
- Có hơi nói tếu quá không đấy?
- Có. Nhưng đó vẫn là sự thật.
Chúng tôi chia tay nhau. Hôm đó, đại uý Carré đã để lại nơi cửa Câu lạc bộ Lạng Sơn, một viên sĩ quan trẻ đầy ưu tú.
Tám ngày đã trôi qua. Một mệnh lệnh từ tiểu đoàn Tabor được trao lại cho tôi:
"Đội viên Ma rốc Said thuộc tiểu đoàn Sở chỉ huy, vừa qua đời ở Bệnh viện Lạng Sơn do bệnh sốt rét rừng. Ông được chỉ định để đại diện cho Sở chỉ huy ở tang lễ.
Có mặt ngày 17, lúc đúng 14 giờ, ở Văn phòng của đại đội quân Đồn trú".
Tôi đã thi hành đúng mệnh lệnh.
Một chuẩn uý với khuôn mặt hồng hào và lời nói cời mở đã đón tiếp tôi một cách niềm nở.
Chẳng với cớ gì khác ngoài cớ đang say mèm, anh ta tâm sự với tôi:
- Tớ ở trong quân ngũ đã hai mươi lăm năm rồi.
Và anh lè nhè nói tiếp:
- Tớ giữ chức vụ chôn cất người chết trên vùng biên giới. Sau này, tôi được biết thêm: anh ta bắt đầu nghiện rượu từ khi lên giữ "chức vụ" này. Nói là "nghiện", nhưng phải hiểu là "nốc vô tội vạ đến ễnh bụng ra như một cái túi căng phồng".
Để được việc chắc anh ta đã nhấm nháp vài ngụm lúc còn đói, từ sáng tinh mơ. Và đêm đến, nghe nói anh ta hay nằm mơ, và bị những cơn ác mộng dính dáng tới cái chết ám ảnh. Chẳng hiểu những chuyện này đúng đến đâu. Chỉ biết là anh ta rất thành thạo việc tang lễ: đó là một người "có tay nghề cao"!
Trung uý, chiếc xe Đốt mới sẵn sàng được. Ta sẽ tới nhận cái thây ma ở nhà xác của thành phố. Ở đấy đã có một đội lính Sénégalais bồng súng đứng chào.
Xong là ra luôn nghĩa địa. Trung uý xuống xe, tôi sẽ khẽ nhắc nhở cần phải làm gì. Nghĩa trang Lạng Sơn là một thành phố thứ hai, đông quá tải. Nhìn đâu cũng thấy thập tự, hoặc những tấm ván mang hình Trăng lưỡi liềm, cho người chết theo đạo Hồi.
Còn rất ít chỗ trống trên mảnh đất có tường bao bọc này. Chỉ cần đọc các dòng chữ ghi hoặc khắc trên các mộ chí, là sẽ tái hiện được ngay lược sử của vùng biên giới. Từ trên xe Đốt, tôi nhảy xuống. Viên đội cũng xuống xe nhưng mộtcách vất vả và chỉ tí chút là ngã. Tuy nhiên, Y vẫn giữ đượcvẻ trang nghiêm, với đôi mắt trầm tĩnh và bất động.
Huyệt đã đào xong. Lính Sénégalais đứng nghiêm thành hàng quanh huyệt.
Bốn người lính Việt khiêng hòm tới.
Viên đội hơi ríu lưỡi nhắc khẽ một cách khó nhọc:
- Đến lượt Trung uý rồi đấy!
- Nghiêm! Bồng súng, chào! Cử nhạc ai điếu! Chiếc quan tài gỗ trắng tụt sâu dần vào trong huyệt. Lính Việt bắt đầu hất đất lấp lỗ huyệt.
Một gã thầy cúng người Ma rốc lầm rầm đệm một đoạn trong kinh Co-ran, và những lời khấn vái theo đúng nghi lễ đạo Hồi. Viên đội lại thì thầm bên tai tôi:
- Trung uý hãy ra lệnh giữ một phút mật niệm, khi mọi người đã xếp đủ đồ đạc lên xe.
Thì ra là vậy đấy! Mọi việc đều đã được tiên liệu. Cả rượu và sự xúc động đều không làm cho vị chủ tế có tầm cỡ này phạm bất cứ sơ hở nào!
Vậy là xong. Chúng tôi đứng "Nghiêm!" trước nấm mồ mới đắp.
Viên đội gợi ý:
- Ta làm vài hớp đi, Trung uý?
* * *
Hôm sau, tôi trở lại Đồng Đăng.
Trung tá chỉ huy đã cho xe Gíp đến đón tôi, nhưng người lái xe đã làm gãy một cái lò xo khi lao qua ổ gà và thế là chúng tôi phải tìm đến xưởng sửa chữa ôtô tự quản của đơn vị Lê Dương trong thành nội.
Trung uý Chantel thân mật đón tôi và giao ngay chiếc xe Gíp cho một tốp thợ máy. Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện với nhau một lúc và đến cạnh một xe cứu thương lấm đầy bùn.
Thò ra ngoài giữa hai bánh xe, là một cặp giò gân guốc bọc trong tất lưới hiệu USA. Từ dưới cầu sau của xe bỗng hiện ra một phụ nữ nhỏ thó, đầy nam tính, chẳng có ngực, cũng chẳng có mông, với một khuôn mặt cương nghị, có đường nét hơi thô cứng và một cái nhìn thẳng thắn, thoảng lộ một tâm hồn nhân ái.
Nhân vật lạ lẫm này nói với giọng vùng Be-ri:
- Chàng trai, mới tới xó xỉnh này hẳn? Vậy ở đâu ra?
Tôi sửng sốt đến nỗi nói lắp bắp tự giới thiệu mình rồi
- Chúng tôi ở Đồng Đăng.
- Rất hân hạnh, cậu bé ạ (Cô ta chỉ đứng đến vai tôi! ). Còn mình là Aline Lerouge. Nhân viên xe cứu thương.
Cô ta lại quay đầu về phía viên sĩ quan thợ máy:
- Chà, chiếc xe tòng tọc này "bị" nặng ra phết? Cầu sau rạn nứt rồi. Cậu muốn tử tế thì thay ngay nó cho tớ. Xe cà khổ thế, nhưng cần ra phết!
Và thế là hốp! Cô Aline lại chui tọt xuống dưới gầm xe.
Tôi hỏi:
- Ai vậy?
- À, Trung uý Aline Lerouge. Sếp các ả cứu thương ở vùng biên giới. Xe cô ta đã 2 lần bị mìn nổ. Vi vu không người bảo vệ cả ngày lẫn đêm trên đường. Tải thương bất kể thời tiết và địa điểm mà cóc cần an toàn. Hôm trước cô ta chẳng báo với ai, đi tìm một thương binh "thập tử nhất sinh" tại một cứ điểm "khỉ ho cò gáy" mà muốn đến phải huy động cả một tiểu đoàn hộ tống. Mọi người lo sốt vó, cầm chắc là sẽ chẳng bao giờ thấy lại mặt cô ả. Vậy mà con nỡm ấy đã mang được cái thằng chết nửa người kia về Lạng Sơn, lúc bị tay quan Năm xạc cho một trận toé phở, còn nhăn răng cười xoà. Cô ta bảo với ngài quan Năm:
- Mỗi người có một cách nhìn riêng. Nếu chờ cho Ngài mở được đường, thì anh thương binh của tôi đã ngoẻo mười đời rồi! Ngài sẽ chẳng bao giờ ngăn cản được tôi hối hả đi tìm loại thương binh sắp "đi chầu ông bà sãi" này, cho dù họ đang nằm chờ chết trong tay Việt Minh.
- Thế còn... cái ngực?
- À rặt chuyện vớ vẩn, đùa tếu ấy mà...
Aline Lerouge? Một cô gái, thân hình đực rựa, trái tim từ mẫu và tiếng nói oang oang như lệnh vỡ...
- Nếu mọi chiến binh đều như cô ấy - một hạ sĩ quan lắng nghe câu chuyện giữa chúng tôi vội nói chen vào - thì cục diện Đông Dương đã không tệ như bây giờ!
Aline Lerouge bỗng gọi to Chantel :
- Ê, anh bạn già, chui xuống đây mà xem dưới này có cái gì đi.
- Mình không xuống được, đang mặc đồ Ka ki.
- Đừng làm bộ nữa, đồ lười. Lấy bộ áo quần lao động trong xe, gắng luồn tọt vào trong đó và chui ngay xuống đây!
Chantel nhún vai, cười phá lên và bỏ đi. Xe Gíp đã sẵn sàng.
Chantel vừa gắng vặn vẹo người để lọt đ¬ợc vào trong bộ đồ lao động, vừa kêu to:
- Mong gặp lại nhé!
Sau này, tôi được biết là vừa tiếp cận một trong những nhân vật huyền thoại của "Chiến tranh Đông Dương" Một khuôn mặt chân chính! 1
----------------------------
Chú thích:
1. Aline Lerouge dưới thời tướng de Lattre chết đuối khi qua nhà gần Hải Phòng, với xe cứu thương của mình. Một tai nạn thật đau lòng và ngu xuẩn! Các chiến công lẫy lừng của cô được truy tặng huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Chính phủ Pháp cũng tuyên dương cô danh hiệu "Tổ quốc ghi công" sau khi cô mất.
Người ta sẽ còn nói nhiều về cô, một thời gian dài trong các chung cư lính ở Bắc Kỳ. Cô được tất cả mọi người nhất trí tôn vinh về tính thẳng thắn và lòng quả cảm.
CHƯƠNG 8
ĐÊM TRỰC GÁC TRƯỚC GIỜ NỔ SÚNG
ĐÊM TRỰC GÁC TRƯỚC GIỜ NỔ SÚNG
"Một sự yên lặng đầy ấn tượng bao trùm lên cả Đường số 4"
Đã mấy tuần rồi, không hề có tiếng súng nổ ở các điểm phục kích thuận lợi trong vùng. Đêm nay, ở Đồng Đăng,chúng tôi là 4 người, họp mặt trong căn phòng trú ngụ của Trung uý Pascal chỉ huy Trung đội súng máy của Trung đoàn Khinh Binh số 1, được biệt phái lên đây. Có mặt Trung uý Baillet vừa để mọc một hàng râu mép thưa, Trung uý Villeneuve (trong một bộ đồ hộp chỉnh tề, mặc dù một giờ trước đây, còn lấm be bét bùn đất, do đi tuần tiễu về) Pascal và tôi.
Baillet đang sầu đời, sau một tai nạn. Tuần trước người Cần vụ của anh đã vào trong phòng sĩ quan tình báo của anh và tí toát luôn tay một quả mìn Việt Minh vừa lấy được trên đất thù.
Và thế là một tiếng nổ chát chúa đã vang lên, làm vỡ nốt những tấm kính cuối cùng của chỉ huy Sở tiểu đoàn. Những người đầu tiên chạy đến không còn thấy anh Cần vụ đâu nữa mà chỉ thấy vài vụn thịt còn rỉ máu, bám trên mặt tường lỗ đổ vết mảnh mìn ...
Từ hôm đó, Baillet ủ dột đến thảm hại. Thư nhà, những lời bông đùa của bè bạn, công vụ đều không làm anh ta tươi tỉnh lên được: Anh tự cho la mình có lỗi và cứ rầu rĩ ôn đi ôn lại trong đầu từng chi tiết nhỏ của vụ nổ.
Ngay gã nhà bếp Tàu của Khu chung cư lính cũng góp phần giải thích từng điểm xui xẻo: đáng lẽ nạn nhân không nên vào trong phòng, đáng lẽ anh ta không nên mó tay vào qua mìn, đáng lẽ không nên để mìn trên bàn làm việc v. v. Cấp chỉ. huy đã giải thích đi giải thích lại cho Baillet: tai nạn bao giờ chả xảy ra do sự trùng hợp của một số điều kiện đáng tiếc! Vấn đề là nên rút kinh nghiệm cho tương lai Baillet hãy cứ chọn cho mình một cậu Cần vụ mới; hãy đừng để rơi vãi chất nổ giữa đống giấy tờ và đồ đạc cá nhân nữa hãy lấy lại nhiệt tình cần cho cộng đồng! Tất cả chỉ là công cốc! Baillet cứ khăng khăng cho rằng linh hồn của kẻ bị nổ mìn đã mang theo mình cái "hên" của chính Baillet. Hôm trước, Ba ra muốn đi xe Gíp với Baillet đến Lạng Sơn để lấytin, Baillet đã tuyên bố với một giọng buồn thiu:
- Mình không khuyên cậu đi với mình đâu?
- Mình sẽ mang.xui xẻo đến cho cậu thôi.
Đêm nay, chúng tôi giải thích với Baillét: cứ nghĩ bậy như vậy, thì tai hoạ sẽ đến là cái chắc! Baillet tán thành ý kiến của chúng tôi, nhưng khổ một cái là chính vì thế nên anh ta mới càng thêm ngán ngẩm. Nói trắng ra là Baillet đang "linh cảm" sắp phải theo chân cậu Cần vụ!
Để không khí đỡ âm u, Pascal chuyển sang chuyện khác. Chàng trai này có một tâm trạng thật trẻ trung, tươi mát. Thế nhưng mấy tuần nữa, sắp được về Pháp, anh ta chẳng hề thấy vui, vì những lý do mà anh ta không muốn nói ra. Và còn cảvì chuyện anh ta trở về trước khi chưa hề được huân chương!Quay về nhà chỉ với huy hiệu "Đã phục vụ ở thuộc Địa" thì thật là đáng bẽ mặt. Chính Pascal đã nảy ra một sáng kiến làm anh ta lấy lại được thăng bàng: anh đành thì giờ nhàn rỗiđể học đánh máy "như một ả thư ký đánh máy chính hiệu"!
Pascal đứng lên với một nụ cười "bí mật" và vào trong cái mà anh gọi là "phòng giấy của tôi". Đó là một căn phòng nhỏ quét vôi trắng có để một chiếc bàn gỗ trắng và một chiếc ghế ít nhiều khập khiễng bị chôn vùi dưới hàng đống giấy tờ và đồ vật lỉnh kỉnh. Mới hôm trước thôi, tôi đã phát hiện giữa đống "chai chén" đó những nhíp ôtô tuyệt vời, mà Pascal đã mua trong một tiệm Tàu ở Sài Gòn, để thay nhíp xe Gíp đã "hy sinh anh dũng trên trận địa" ấy, dạo đó, ở Đông Dương, người ta đã giải quyết vấn đề "trang thiết bị quân sự" như vậy đó!
Pascal tái xuất hiện, hai tay nâng niu một máy đánh chữ xách tay hiệu "Japy" như người ta bế trẻ con, và khoe với chúng tôi:
- Trông thế nhưng dễ sử đụng và bền ra phết!
Quáng cáo miễn phí! Nhìn đây này
Anh rút từ túi ra một quyển sách nhỏ : "Thực hành đánh máy chữ qua những bài học đúng phương pháp và tiến bộ dần".
Sau khi lách cá.ch một hồi để minh hoạ động tác của tay trên các phím, Pascal bắt chúng tôi tập đánh theo. Thật buồn cười chết bụng, nhưng quả thật chúng tôi thấy vui như điên. Ngay Baillet cũng định mở miệng cười, nhưng sau lại thôi, vì Villeneuve pha trò ngang.
Trước những cố gắng vụng về của chúng tôi, Pascal cứ cười một cách xởi lởi. Chúng tôi cũng thấy hơi lạ, vì tính Pascal vốn lạnh nhạt ("phớt Ăng-lê") và hay giữ kẽ. Hình như đã gần hai giờ sáng. Chúng tôi chuẩn bị rút lui. Thay lời chúc "Một đêm tết lành!" Pascal tung ra lắm lời doạ đùa về những tai ương "sắp tới đít" chúng tôi, đám lính trẻ, mới đến với Đường số 4, thường không tin lắm các lời "ba hoa thiên địa" của những lão tướng! Chúng tôi thấy các bậc tiền bối cứ hay "tinh thần sa sút" và nghĩ là đã tới lúc nên mời các vị về vườn. Chúng tôi vừa cười vừa nói với Pascal như thế.
Ông cười vẻ hơi gượng gạo:
- Ờ, để rồi xem nhé!
Và để chứng minh mình không phải là một gã đã bị xì hơi, con người của các xe xích - súng máy đã tâm sự với chúng tôi những suy nghĩ rất "lính chiến" của mình.
Ông có hoài vọng được chiến đấu, mà ông trời cứ chối từ, kể từ khi ông đặt chân lên mảnh đất biên cương này. Vả chăng, ông cũng đã từng chứng minh điều đó: ông chán ngấy những cuộc hành quân vô tận trên Đường số 4, nơi mà những trung đội xe bọc thép có thể bị diệt sạch hoặc chẳng nhận được một viên đạn nào. Thần kinh bị căng thẳng đến cùng, trung uý Pascal đã nhiều lần khẩn khoản đề nghị Trung tá cho phép ông và lính của ông được hộ tống các đoàn quân của chúng tôi trong các chuyến hành quân tuần tiễu hoặc càn quét, vốn có rất nhiều.
Cánh Khinh Binh này săn tìm tiếng súng như kẻ khác cố tìm cách né tránh, nghĩa là cùng hăng hái như nhau. Họ có một thứ mặc cảm "phi-lính chiến" khá lạ lùng đối với chúng ta.
Thật ra, cánh lính chúng ta trên trái đất đều giống nhau: cho dù họ chỉ tin chút ít vào sứ mệnh của họ, hoặc các bản tính vốn thích phiêu lưu mạo hiểm, thì kết quả vẫn là thích choảng nhau: Họ tìm thấy trong đó khả năng tự giải phóng mình khỏi sức ép của sự sợ hãi. Sau đó, là một sự phấn khởi nhất thời, thoáng qua như sao băng và nhanh chóng bị thay thế bởi nỗi kinh hoàng cao độ khi phát súng đầu tiên nổ, lúc xung trận. Tiếp theo đó, cả tâm trí và thể xác đều bị cuốn hút vào hành động. Trong khói lửa trận đánh, phải cử độngluôn tay luôn chân, trông chừng bạn hữu, tránh vấp ngã, tránh bị xây xát. Chỉ lúc đó, và chỉ lúc đó mà thôi, ta thấy trống rỗng và hoàn toàn bị mụ mẫm. Đó là khoảnh khắc quý giá nhất của đám anh hùng rơm, trên thực tế chỉ là những gã bốc đồng! Tiếp theo là tâm trạng bị nén ép, sự tởm lợm và sự chán chường, giai đoạn nhỏ nhen và bần tiện đòi khen thưởng, và cãi lộn về từng cú đánh. Cuối cùng mới tái hiện ao ước đừng láp lại hành động như trước, mà phải vươn lên cao hơn nữa, phải hiểu thấu đáo hơn.
Đối với các bạn bên đoàn cơ giới có gắn súng máy, thiếu hẳn những niềm vui nối tiếp, hình ghềnh thác đó. Họ đã không hề sống. Họ muốn đi với chúng tôi, vì họ hy vọng sẽ dành giật được chút ít cảm xúc của chúng tôi. Nhưng đâu có được, vì chúng tôi chẳng bao giờ chạm trán với kẻ địch vàluôn quay về mà không hề phải đánh nhau. Tôi nói với Trung uý Pascal:
- Nói cho cùng, tôi thấy bạn thật gặp hên, vì sắp kết thúc thời gian phục vụ ở Đông Dương mà không hề bị sút mẻ, vẫn còn "nguyên xi"! Nhưng thấy cái nhìn mà anh ta ném cho tôi, tôi không nói thêm gì nữa. Chắc hẳn anh ta dữ tợn, ngờ độc rằng tôi cố tình chế nhạo sự xui xẻo của anh, rằng tôi cứ đùa dai một cách thiếu thông cảm với những dịp may đánh đấm mà anh đã bỏ lỡ. Chúng tôi lại cùng nhau cạn chén một lần nữa. Đó là cách tết nhất để chuyển sang chuyện khác. Villeneuve vội chộp lấy dịp may đó để rút lui một cách bíẩn, một mảnh giấy từ túi áo ra. Vì vốn dĩ là người sính nói chuyện có đầu có đuôi, nên trước tiên, anh phi lộ:
- Vừa xảy ra một vụ nổi loạn trong trại con gái dã chiến người Béc-be. Mụ Tú Bà đáng tôn kính đang có nguy cơ bị hạ bệ. Các cô nàng đã tấn công khu tập thể các sĩ quan với yêu sách phải tống khứ ngay mụ Béo, nếu không sẽ có biểu tình Sếp đã hành động một cách không chê vào đâu được. Mụ Béo bị thuyên chuyển ngay lập tức sang cơ sở Tabor bên cạnh với chức vụ "lính trơn"! Xong đâu đấy, Sếp lại điều mụ Ai-cha làm sư - nữ trưởng mới. Hứng khởi trước hàng loạt biến loạn ấy, thi sĩ dân dã Allal đã phóng tác ngay một thiên trường ca, như sau: "Năm nay, người ta đã quên ăn chay trong ngày lễ Ra-ma-đan, khi gặp kẻ ngoại tộc đã tháo giày dép, sống chui lủi trong hang, ở chốn thâm sơn cùng cốc, ôi, kẻ con cái của tội lỗi.
Chẳng ai biết nó ở đâu
Năm nay quả là một năm hạn.
Cầu Chúa tránh cho chúng con hoạ "Tàu" vì áo sơ mi của chúng con đang mục nát trên thân thể thơm hương hố xí của chúng con. Bọn đĩ điếm quá đắt tiền đối với thế gian này." Lính Marốc suốt ngày hì hục đào bới cuốc với xẻng, và đến tối vừa canh gác vừa ngủ gà ngủ gật trong rừng.
Con đĩ điếm chỉ mất ngủ một tí là đã được tới hai mươi tờ giấy bạc hình Bà Đầm Xoè.
Đối với kẻ phải chi tiền, thì nước trà của đĩ thật là đắng cay!
Khi họ phải ngủ lại và bị bọn đĩ chém một trăm đồng qua đêm. Thế mà chúng tớ đi lính chính là để được trả tiền, nên càng để mất, càng phải khóc than, vì sau 2 năm sẽ phải trở về với hai bàn tay trắng!
Mặt trời Đông Dương nóng như lửa.
Ai muốn khóc than, xin cứ sang đây.
Mặt trời sẽ khiến anh ta khôn trở lại. Còn ta thì khẳng định: đã thấy mặt trời làm một kẻ phát điên.
Xin cứ tin tưởng dưới lán trại những con nhà thổ,
Chẳng có gì ngoài thú vui xác thịt đáng thương
Có con đĩ thối, có con đĩ nhễ nhãi mồ hôi.
Có con đĩ mộng toác hoác...
Ai trót vào đó, lúc ra cũng sẽ phát điên nhưkhi bị mặt trời thiêu đốt.
Ô hô, mụ chủ của bà sao to thế
Cầu Chúa cắt phăng của nợ đó đi cho bà thêm thon thả
Thật đáng hổ thẹn,
Mới một tháng người ta đã...cách chức bà
Bố mụ Chủ, hãy cút đi.
Ra ngoài chuồng trâu mà ngủ như trâu
Cũng chẳng cần sợ muỗi,
Da của bà còn thô ráp hơn của trâu.
Một thằng Ta-bo điên khùng đã chi cho mụ năm trăm đồng, ai chẳng biết!
Và mọi người đều khấn vái thánh A-la
Tránh cho mình khỏi noi gương thằng ngu đó...!
***
Chúng tôi đứng lên, đi ngả mình trong 2 giờ trên nhưng chiếc giường xếp đã chiến, trước giờ đi tiếp tế cho một đồn cách 20 cây số về hướng Đông - Nam, trên đường lên biên giới Trung Hoa.
CHƯƠNG 9
"CÂU LẠC BỘ RIÊNG TƯ"
ĐỒNG ĐĂNG, THÁNG 8 NĂM 1950
"CÂU LẠC BỘ RIÊNG TƯ"
ĐỒNG ĐĂNG, THÁNG 8 NĂM 1950
Một đêm tuyệt vời sắp kết thúc. Trời tạnh ráo không có sương mù. Trăng sáng vằng vặc làm mọi người yên lòng. Chúng tôi cần thư giãn đến mức phải tự trấn an là muỗi giữa trời không đến nỗi dày đặc như mọi khi. Sĩ quan tiểu đoàn Tabor đang tập hợp đông đủ trong ngôi biệt thự nhỏ, nơi đặt nhà ăn tập thể. Đúng là căn lều ổ chuột của những ngày đầu nay đã biến thành một câu lạc bộ khang trang.
Trong mấy tuần liền, chúng tôi đã vá víu mái nhà thủng lỗ chỗ như mặt người bị bệnh đậu mùa, bịt kín các lỗ bom đạn từ thời 1945, trét vôi những vết rạn nút đen ngòm, và quét dọn gạch đá vụn còn ngổn ngang trên nền đất. Xong, chúng tôi cho quét vôi tường và trần nhà, đóng những bàn ghế mây tre (còn hơi khập khiễng), giăng chiếu cói và xây gạch một quầy rượu không lớn lắm. Sau đó, trung uý Rocheport đã hoàn thành việc "trang trí nội thất". Ở phía trên cửa ra vào, trung uý đã cho ghi dòng chữ Ả rập truyền thống, bằng giây thừng uốn lượn:
"M'Harabahbi" (Chào mừng quý khách). Một cậu lính Lê Dương được tiếng là có "tâm hồn nghệ sĩ", đã đến tô vẽ thêm trên tường vách những cảnh vui nhộn bằng bút than. Chai rượu ngon cạn đến đâu, tài năng anh ta tăng đến đấy.
Trong những ngày đầu đến Đồng Đăng, vừa nuốt xong miếng cuối cùng, chúng tôi đã vội vã rút về các căn nhà dột nát, nhung nhúc chuột bọ của mình, để nguệch ngoạc vô số thư từ.
Nhưng kể từ khi treo được nồi niêu xoong chảo ở bếp tập thể, những đêm tĩnh lặng, chúng tôi thường nán lại đấy quây quần quanh một đĩa ca nhạc.
Theo thông lệ, bất cứ ai kém lịch sự đến mức nhắc đến công vụ hoặc chiến tranh ở nơi tôn nghiêm đó cũng đều sẽ bị phạt. Riêng tối nay, điều cấm kỵ đó được tạm bãi miễn. Nguyên nhân là mấy chữ vừa được tung ra trên báo chí và trên đài:
"Đe dọa Tàu trên đất Việt"
Chúng tôi được biết là ngày mai, nhiều nhân vật quân sự nước ngoài và Pháp sẽ dấn thân lên Đường số 4. Xuất phát từ Lạng Sơn đi đến Đồng Đăng, để nghiên cứu trên thực địa triển vọng mới này ... Chúng tôi xôn xao hẳn lên và vội vểnh tai lắng nghe những lời ba hoa trên đài. Những vị tai to mặt lớn đâu có cất công lên thăm hỏi chúng tôi, nếu không có những lý do nặng ký!
Raval đưa ra ý kiến:
- Để bầy đàn các cha nội này phải xách cặp và ống nhòm quá bộ lên đây, cầm chắc là phải sắp có giông bão!
Trung tá chỉ huy vội đáp:
- Mình chẳng tin. Trung Cộng cũng đang bấn lên vì các hoạt động du kích ở vùng Vân Nam nên chẳng hơi đâu đi gây sự với ta. Sẽ là một lỗi lầm nghiêm trọng, nếu họ thâm nhập vào Đông Dương.
Mỹ và đồng bọn sẽ kêu oai oái cho mà xem ! Mình cho rằng người Tàu sẽ chỉ tăng cường sừ giúp đỡ đối với Hồ Chí Minh, Bác sĩ phát biểu một ý tưởng chung chung:
- Nói gì thì nói, các vị ở bên kia biên giới đừng tấn công ta thì vẫn hơn! Nếu không, sẽ loạn xà ngầu lên mất!
Raval vẫn theo đuổi cách nghĩ của mình:
- Cho dù Trung Cộng không đánh, tình hình cũng vẫn sẽ xấu đi vì vẫn còn bọn Việt Minh nữa mà! Đã mấy tháng rồi, hầu như đêm nào cũng có đến hàng nghìn dân quê, tình nguyện hoặc bị ép buộc phải đứng vào hàng ngũ quân độinhân dân vượt biên sang Tàu để được huấn luyện quân sự cấp tốc. Đi ngược chiều với họ, là những đoàn lính đã khá thiện chiến, vũ trang đến tận chân răng, nay quay trở về tăng mạnh quân số chính quy của Giáp.
Vậy mà ta, mặc dù đã tiến hành không biết bao nhiêu là trận phục kích và trận càn quét, nhưng đâu có ngăn chặn được bước đi của họ! Cho nên, dù có hay không có quân Tàu, thì năm nay cũng vẫn sẽ giành cho ta lắm điều bất ngờ tai hại!
Thế thì bám lấy mảnh đất chó đẻ được gọi là "vùng biên giới" này làm gì, nếu ta bất lực, không hoàn thành nổi nhiệm vụ, do thiếu người và cả do thiếu phương tiện?
Bác sĩ tiếp lời, với cách nhìn thực tế của mình. Ba-ta cũng mở miệng, định bình luận thêm một cách chua chát:
- Ấy, đây là vấn đề thể diện. Bên Pa-ri...Trung tá chỉ huy cười cợt ngắt ngang:
- Hãy để Pa-ri được yên thân! Xa thế kia mà! Hãy cố gắng lo toan việc nhà ở đây đã. Họ đã giam chân ta ở đây, thì cứ chuẩn bị tự vệ cho tốt ở chính nơi đây. Ta phải chủ động tiến công, mở những đợt càn quét vào các cứ điểm nổi loạn. Phải cắt chặn lúa má ngay nước mũi Việt Minh...
Raval cay đắng thốt lên:
- Vâng, cứ thêm cho chừng mười tiểu đoàn tăng viện, rồi tha hồ bàn luận thêm. Trung tá đáp lại ngay:
- Nghệ thuật đánh giặc, nếu ta quả là người Pháp, chính là phải lấy ít thắng nhiều. Chúng ta phải tự mình xả thân, nỗ lực đen tối đa...
Lời tuyên bố chín chắn và hợp lý đó hình như chẳng làm ai phấn chấn thêm.
Raval sửng cồ cãi lại:
- Thế mọi người đang nghỉ xả láng đấy phỏng? Mới có 2 tháng mà tôi đã gầy mất 10 Ki-lô, lại còn bị rôm sảy khắp người. Rôm sảy ở cái xứ nhiệt đới. này.là căn bệnh nhẹ nhất, nhưng lại khó chịu vô cùng: Trên da, bỗng nổi lên hàng loạt mụn nhỏ li ti màu đỏ, thường co cụm lại thành từng đám dày cộp, ngứa không chịu nổi, nhất là về đêm, đố chợp được mắt! Chúng tôi đều cười ruồi: Gì chứ rôm sảy thì ai mà chẳng biết? Đó là một loại "mốt" rất thịnh hành trong tiểu đoàn. Nhờ rôm sảy nên chúng tôi mới có những bữa điều trị đặc biệt thú vị.
Hễ trời mưa xuống (và mưa thì gần như cơm bữa vào mùa này! ) là cả trung đoàn, do chính trung tá chỉ huy dẫn đầu liền đổ xô ra ngoài sân, người mặc xì líp, kẻ tô hô như ông bà ta thời tiền sử. Chẳng là nghe đồn: nước mưa chữa được rôm sảy mà? Hay bị rôm sảy nhất lại chính là các cha bụng phệ. Điệu vũ "múa bụng" dưới mưa nhờ đó, càng thêm rôm rả?
Raval đành cười xoà để giảng hoà. Anh nốc một vại bia to đùng rồi tuyên bố: .
- Thì tất cả bọn ta đều thuộc cánh "tử vì đạo" chứ sao? Chỉ chán mớ đời cho Bác sĩ, đã chẳng tìm ra nổi một cách chữa rôm sảy nào bớt khôi hài này.
- Tốt hơn hết là, anh hãy chữa trị cái thói nát rượu của anh, theo đúng đơn thuốc "chừa uống" mà tôi đã kê cho anh, để cứu cái gan đã rách như xơ mướp của anh đi, anh bạn ạ? Được vậy, thì tôi sẽ cố gắng chữa nết các bệnh khác cho anh...Nào, ta cạn chén chứ? Hai phát súng bỗng nổ trong đêm, về phía chợ và về phía ngôi chùa lớn.
Raval bật khỏi ghế và lao vào giữa bóng đêm để tìm đến người của mình.
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện phì phèo mấy điếu thuốc lá và nhấm nháp mấy li rượu. Một chiếc máy hát đã cũ lè nhè một bản tình ca giật gân "Anh chàng thứ ba".
Lại hai phát súng chát chúa nữa xé tan bầu không khí tĩnh lặng.
Năm phút trôi qua.
Raval trở lại và lắc đầu.
- Không có gì hệ trọng, thì ra là một ánh đèn nhảy nhót trên ngọn đồi trước mặt. Tôi đã cho lính đi tuần tra.
Viên Bác sĩ nói với Rochefort.
- Ở bên dưới đòng chữ "M'Harabahbi" của anh, phải dùng các ống tiêm đựng nước màu để ghi thêm 2 chữ "Carpe diem"... bởi vì ban đêm...
Chúng tôi ra ngoài, đi một vòng .kiểm tra các bốt gác. Đồng Đăng đang yên giấc trong sự che chắn của khối đen đồn luỹ.
CHƯƠNG 10
MỐI ĐE DỌA CỦA TRUNG QUỐC
MỐI ĐE DỌA CỦA TRUNG QUỐC
Có lẽ để tận dụng cảnh đẹp trời đã trở lại, đàn bà con gái trong làng ra tắm truồng trong nhánh sông nhỏ của Đồng Đăng. Từ Chỉ huy sở của tiểu đoàn Tabor, đóng ngay trên miền núi cao vài trăm mét, có thể phóng tầm mắt nhìn xuống quang cảnh nhộn nhịp đó. Khi đi qua kho quân trang, tôi bắt gặp cả một lô hạ sĩ quan đang túm tụm trên "đài quan sát". Ống nhòm của trung tá chỉ huy được Piteau săn đón mang ra phục vụ tập thể, đang chĩa xuống các mái tóc dài đen loáng và các cặp mông vàng óng ...
Họ mời tôi:
- Nào trung uý, lại đây mà nhìn này.
Đẹp mắt đáo để, mà chẳng tốn xu nào. Tôi đi về phía bếp tập thể để gặp lại trung uý Pascal. Sáng nay, trung đội xe bọc thép lắp súng máy do anh ta chỉ huy với một đơn vị Ma rốc đi khai thông Đường số 4 để phòng ngừa mọi trục trặc đừng đến phá rối cuộc đi dạo ngắn ngủi của các sĩ quan Đồng Minh và Pháp đang trên đường tới hang ổ người rừng chúng tôi.
Lúc khởi hành, trung uý Pascal đã nhếch mép cười mộtcách bí mật, nhưng không tiết lộ gì cho bè bạn cả. Anh ta đã trở về rồi đấy, người phủ đầy bụi. Mình khoác chiếc áo chiến, chân vận giày da cứng cổ được đánh xi cẩn thận, với 2 lần để cờ rếp, mũ lưỡi trai màu xanh da trời và đỏ, ghếch một cách khá ngang tàng trên cái thỏm hói mặc đù điều lệnh và thông tin đã nói rõ là phải đội mũ cối hoặc mũ cảnh sát bằng Ka-ki!) anh ta nhảy từ trên xe Gíp xuống một cách thật điệu đàng:
- Có gì nốc không?
- Đối với cậu thì bao giờ chẳng có sẵn?
Ghé lại bếp tập thể đi ...
Nhân tiện, mấy cha nội sao rồi?
À, họ xử sự cũng khá. Chững chạc khi gặp sự cố đấy.
- Sự cố nào?
- Tớ sẽ tiết lộ cho cậu rõ, nhưng, suýt, phải kín miệng, cứ âm như hến nhé? Hứa không nào?
- Hứa.
- Tớ đã ngấy đến tận cổ cái nghề ngu độn này. Ban Tham mưu ở Lạng Sơn thừa biết là giữa Đồng Đăng và Lạng Sơn chẳng bao giờ có gì xảy ra cả. Xe chạy từng chiếc lẻ tẻ mà chẳng bao giờ dính đạn. Sáng nay, các vị đã lệnh cho một đoàn thiết giáp Lạng Sơn tháp tùng. Chuyện đó thì đồng ý.
Nhưng còn bày vẽ, quấy rầy thêm bọn tớ để làm ra cái vẻ tình hình quả là căng thẳng và nghiêm trọng, thì xì! tớ không duyệt. Vậy là tớ phản ứng theo cách riêng của tớ. Tớ bố trí xe tuần tiễu ở những chỗ có nghi vấn, đặt. liên hệ bằng ra-đi- ô. Xong xuôi đâu đấy, tớ bèn cử một hạ sĩ quan và 3 lính lên một điểm cao nhìn xuống đường cái. Mệnh lệnh là: khi phải đoàn xuất hiện, phải tia 2 băng súng máy... và vài loạt súng trường lên ... trời, để chứng minh rằng cánh ta cũng cảnh giác ra trò...
Yên vị xong, bọn tớ chờ. Một đám bụi mù to dần và tiến đến gần. Đúng là các vị. Khi đám sĩ quan ngoại quốc hàng ngũ chỉnh tề diễu qua chỗ bọn tớ thì hấp! lính của tớ liền y lệnh răm rắp, lia luôn cho mấy băng đạn lên trời.
Nếu cậu mục kích được cảnh tượng lúc đó? Đến chết cười vỡ bụng...
Một xe Gíp chui ngay đầu xuống hố. Chắc thằng xế sợ vãi đái. Các ngài sĩ quan của quý quốc, cảm thấy mọi người đang quan sát mình, đã nhập vai một cách không chê vào đâu được Các vị trụ lại vững như trời trồng, chỉ đưa mắt táo tác tìm vũ khí tại chỗ để tự vệ 1. Nhưng còn các ngài Pháp? Họ lao xao và có vẻ rất sợ. Đặc biệt, có một ngài thượng tá hết hoảng ra mặt. Tay ấy rõ ràng là chưa hề được nếm mùi bị phục kích!
Thế nhưng tớ tin rằng quan ngài không sợ... toi mạng bằng sợ bị quy trách nhiệm là đã không bố trí bảo đảm an ninh một cách chu đáo hơn...
Để tránh cho quan ngài một cú đột qụy, tớ liền đến trình diện với dáng vẻ một thiên thần:
- Thưa Thượng tá, chuyện vặt ấy mà. Một tên Việt Minh bỗng tháo chạy. Xin cứ tiếp tục đi. Ngài quả đã thở phào một cách nhẹ nhõm! Đấy, chính nhờ vậy đó, nên tớ mới tận hưởng được một buổi sáng thật khoan khái.
Cám ơn về bữa cơm chớp nhoáng! Chóng gặp lại nhé!
***
Các quan sát viên nước ngoài đã trèo lên một lô-cốt sụp đổ nửa vời của thành luỹ và thăm dò chân trời một cách thật kỹ lưỡng. Họ vừa lúc lắc cái đầu, vừa thậm thụt trao đổi ý kiến với nhau, như muốn xì xào: "... Tất nhiên, tất nhiên ..."
Rồi Sếp dẫn họ đi nhậu nhẹt tí xíu và họ hình như đánh giá cao cử chỉ thân thiện đó. Một đại tá, tuỳ viên quân sự của một nước bạn lớn, chẳng biết từ đâu rút ra một chai Real Scotch Whisky hạng tuyệt vời và cười:
- Viện trợ Kuan Su tót, tót! (Viện trợ quân sự, tốt, tốt).
Mọi người lại hăm hở lên xe, với những nghi lễ chia tay đầy tinh thần huynh đệ. Đoàn xe mất hút đằng sau Nhà thờ Cơ Đốc, nơi Đường số 4 có một khúc ngoặt, Quý Chư Vị đã thị sát được nước Tàu, từ cứ điểm biên giới Đồng Đăng, trong những điều kiện thuận lợi. Ai nấy đều có vẻ hả hê...
-----------------------------
Chú thích:
1. Đầu năm 1952, một thượng tá Mỹ nghe tôi nhắc nhở đến chuyện Việt Minh có thể cài đặt bẫy, phục kích ta trên đường Hoà Bình dễ như bỡn, đã trịnh trọng trả lời: "Bết rồi? (Biết rồi) Chính mình đã pị phịt kít (bị phục kích) ở gần Đoạn Đan (Đồng Đăng) năm 50. Thật là khủng khiếp!!!
Vị chỉ huy Tiểu đoàn và tuỳ tùng lên thăm một đường hào chống tăng cắt ngang đường sang Tàu, được đào giữa hai công sự, một của Pháp, một của Tàu và cách công sự Tàu 2 km.
Tôi được đi cùng đoàn.
Chưa có ai trong đoàn đã được đi thăm đường hào nổi tiếng đó, nhưng chúng tôi cũng mường tượng ra được: đường xe lửa cũ men theo đoạn đường trũng, lõm bõm nước và bùn loãng trên đó chúng tôi đang đi vì chẳng còn sót lại một thanh sắt nào trên đường sắt, nên con hào như được che chắn cẩn thận bởi một gờ đất vững chãi ra phết. Hào vừa sâu vừa rộng, chắc hẳn đã được thiết kế một cách công phu sau nhiều giờ động não, với những cái đầu thông thái cặm cụi chúi xuống trên những pho sách cũ kỹ của cánh Công Binh.Trong đó, chắc hẳn không thiếu những chi tiết chính xác tới từng xăng ti mét, chỉ dẫn cặn kẽ một nghìn lẻ một phương pháp chặn đứng một cách dữ tợn từng cỗ xe tăng đang yên bình nhích tới.
Thế nhưng chúng tôi chỉ bắt gặp một đường rãnh nhỏ, nông choèn, bờ đã bị sạt lở dở dang còn đáy thì ngổn ngang vài thanh ray cong quẹo và hẳn rỉ, đan xen lỏng lẻo với nhau lấy lệ như cho phải đạo vậy thôi! Ai cũng nghĩ đó chỉ là một công trình phụ và định vượt qua để đi tiếp. Thế nhưng con đường thì vốn phẳng phiu như chưa bao giờ đẹp bằng và chạy một mạch thẳng tắp đến đồn biên giới, chỉ nằm cách xa chúng tôi có 2 cây số. Cha mẹ ôi! Chúng tôi đã hiểu ra rồi Trung tá ngán ngẩm rời xa con hào lừng danh, để lại tại chỗ một số lính tiền tiêu và lênh về lấy thêm nguyên vật liệu ở Đồng Đăng. Chúng tôi cũng kéo về Đồng Đăng để nghiên cứu thêm cách bắn chặn hàng loạt bằng trọng pháo. Chúng tôi chỉ có trong tay 2 cỗ đại bác 105 già lão và tàn tạ. Vậy là sẽ phải bắn chặn tăng chủ yếu bằng ... súng cối 81 li của tiểu đoàn. Viên thượng sĩ Francaloni chỉ huy dàn cối, chuẩn bị các ống phóng lựu đạn một cách điêu luyện. Ông làm nghề này đã mười năm và thao tác súng cối với một sự thành thạo đáng phục.
Suốt ngày hôm đó, một nhóm sĩ quan của tiểu đoàn Tabor, loay hoay điều chỉnh tầm bắn từ một đài quan sát cao chót vót, cụ thể là một ngọn đồi cách Đồng Đăng 3 cây số về hướng Nam.
Đến khoảng 4 giờ chiều, Francaloni nhận qua ra-đi-ô một mệnh lệnh ngừng bắn đầy hết hoảng. Một quả pháo hỏng hay mất thăng bằng đã nổ chệch sang một làng bản xứ, ngay trên con sông nhỏ. Chúng tôi lao xuống để tìm hiểu các thiệt hại. Đàn bà, trẻ con la hét rầm trời và chạy trốn tán loạn ra mọi phía. Một con trâu bị trúng mảnh đạn nằm lăn kềnh giữa vũng bùn, thân mình giật giật liên hồi trong cơn giãy chết. Hàng trăm con cá nổi phơi bụng lềnh bềnh trên mặt nước.
Thế là quên cả sợ hãi, bất chấp những trận nã pháo mới, cả đám già trẻ bất thần quay trở lại, cởi vội áo quần và chen chúc nhau lao xuống nước để... hôi của? người ta la hét, gọi nhau ơi ới và cả reo hò, y như được hồi sinh. Vậy là Francaloni vừa tự ái, vừa nổi cáu, to mồm chửi bới đám lính phục vụ bắn, bằng ...tiếng địa phương xứ Corse. Đám lính cứ phớt lờ thu dọn ống bắn, bệ bắn một cách đĩnh đạc.
Màn đêm buông xuống. Khoảng nửa đêm, theo lệnh thiếu tá chỉ huy trưởng, ba phát súng, rồi hai phát nữa bỗng nổ. Một đám pháo sáng màu xanh lá cây và đỏ vọt lên trời cao rồi lừ lừ rơi xuống thành đuôi sao chổi: đó là lệnh báo động lớn số 1, bắn từ hệ thống vừa mới được tịnh chỉnh sáng nay, ngay trong buổi họp.
Chuẩn bị chiến đấu! Lính đổ xô ra các vị trí chốt, vừa chạy vừa vội vã mặc áo quần trong bóng tối. Chắc thế nào cũng có vài vị tồng ngồng như Đam, trong các hầm hào, đêm nay...
Khi vũ khí đã sẵn sàng và người thì đã ở tư thế chiến đấu, trung tá bỗng tuyên bố:
- Chỉ là tập trận giả thôi! Tôi sẽ đi kiểm tra một lượt mọi thứ, xem đâu đã vào đấy chưa. Chúng tôi trở về vị trí. Một cách thật.tỉ mỉ, Sếp kiểm tra kỹ từng đơn vị, từng bốt súng máy và tự tay rà soát từng chi tiết nhỏ. Cuối cùng, chúng tôi đến vị trí đóng quân của trung đội cơ giới - súng máy, ở quanh nhà ga đổ nát. Trong bóng tối, lập loè ánh thép của các khẩu 37 li. Lính phục vụ thảy đều đứng đúng vị trí.
Trung tá hỏi một hạ sĩ quan:
- Thế thiếu uý đâu?
Từ trong một hành lang còn đóng kín, vọng ra một tiếng nói lạnh lùng:
- Thưa Trung tá, ở đây ạ
Chúng tôi ngẩng đầu lên nhìn, trong cảnh tranh tối tranh sáng, chúng tôi nhận ra Pascal. Ông ta mặc áo quần ngủ, lơ đãng tựa trên thành ban công, miệng phì phèo một điếu thuốc. Ông ta nói nhỏ nhẹ:
- Nào, mời Trung tá cạn với tôi một chén và các vị nữa.
Trung tá ngẩn người ra một phút, rồi đành phá lên cười. Chúng tôi lên phòng của chủ nhân, bằng một cầu thang khập khiễng, trong khi các liên lạc viên chạy đi truyền lệnh hết báo động. Để đón tiếp chúng tôi, Pascal khoác thêm một chiếc áo choàng óng ánh mầu xanh nước biển, thêu rồng thêu phượng vàng choé (nghe đâu là do một ả người Việt ở Lạng Sơn tặng ... )
Xong, anh ta rót đầy cái cốc, nâng ly của mình lên và tuyên bố:
- Phòng tuyến chống Tàu đã hoàn chỉnh một trăm linh mốt phần trăm. Nào, xin cạn chén mừng sức khoẻ nó!
PHẦN THỨ HAI
NHIỆM VỤ THẾ MẠNG
NHIỆM VỤ THẾ MẠNG
(http://img522.imageshack.us/img522/3287/21166669.jpg)
CHƯƠNG 11
MỘT CUỘC THAY QUÂN VÀO CỬA TỬ
MỘT CUỘC THAY QUÂN VÀO CỬA TỬ
Đã nhiều tháng nay, một Tiểu đoàn Tabor Marốc chiếm lĩnh pháo đài Đông Khê và những đồn xung quanh. Hằng ngày, theo nhiều hướng khác nhau, một Đại đội Tabor đi tuần tiễu.
Lúc đầu quân Việt Minh còn ở xa. Gần đây những đơn vị của Tiểu đoàn Tabor đi về hướng Đông Nam, phía núi đá vùng Pò Mã, húc phải một số đơn vị lẻ tẻ. Lác đác vài tiếng súng qua lại. Cách pháo đài chừng vài nghìn mét, người ta có thể thấy một số hố cá nhân lúc đầu là do quân ta đào, sau đó quân Việt đào sâu thêm, một số lần, quân ta phát hiện trên núi vòng quanh Đông Khê, một số lính trinh sát Việt Minh lảng vảng.
Đồn Đông Khê bị hoàn toàn cô lập cũng như Cao Bằng vậy Đường giữa Đông Khê và Thất Khê bị cắt đứt, việc tiếp tế phải làm bằng thả dù. Sự liên lạc đi lại thực hiện bằng phi cơ nhẹ hạ cánh xuống sân bay ở cạnh đồn.
Tháng 5/1950, Tiểu đoàn Tabor đã chiếm lại đồn Đông Khê. Ở thời điểm ấy, lính biệt kích giữ Đông Khê bị rơi vào tay quân địch, phải bỏ đồn vào tay đối phương, nhiều người bị bắt làm tù binh - và bị mất một số quân dụng lớn, một Tiểu đoàn dù lập tức được thả xuống và chiếm lại vị trí.
Binh đoàn cơ động, do Đại tá Lepage chỉ huy gồm có thêm một số đại đội Marốc, mở lại con đường. Và khi rời khỏi Đông Khê, Lepage để lại Tiểu đoàn Tabor hiện nay - Tiểu đoàn này đã đến thời mãn hạn bởi vậy chỉ huy cấp trên đang nghĩ đến việc thay thế nó.
Đại tá chỉ huy quân khu biên giới nhấn mạnh với một thái độ cứng cỏi là không có việc thay quân, vì lẽ có chủ trương bỏ Đông Khê. ông cũng có ý định lợi dụng lúc cho rút Tiểu đoàn Tabor khỏi Đông Khê, thì đồng thời cho rút lui cả Cao Bằng. Hệ thống phòng thủ biên giới sẽ giới hạn từ Thất Khê trở xuống.
Ở Pháp, Chính phủ trung ương và một số chỉ huy cấp cao ở Hà Nội, Sài Gòn không cần biết gì cả. Họ chỉ cần biết về phương diện tinh thần và tâm lý là: sự rút lui liên tiếp nhiều đồn bết như vậy là một điều đáng tiếc, nó làm mất thể diện nước Pháp. Điều nghiêm trọng nữa là: một số cấp cao ở Sài Gòn cũng như ở Paris, coi việc chiếm giữ một số đồn bốt cách nhau có đến chục kilomet dọc theo biên giới, có thể cản trở được sự tiếp tế viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam.
Ý kiến sai lầm trên trở thành phổ biến đến nỗi những chiến binh của chiến trường biên giới mỗi khi tiếp xúc với những cán bộ tham mưu. Ở đồng bằng Bắc Bộ, một số người của Sài Gòn, một số chính khách của Paris, đều được hỏi những câu như: việc ngăn chặn những tân binh Việt Minh qua lại Đường thuộc địa số 4 biên giới ở khắp nơi, hiệu quả của sự có mặt của quân Pháp trên đường thuộc địa số 4 đối với quân đội Việt Minh.
Hình như câu trả lời, trước sau đều giống nhau:
- Mặc cho sự nỗ lực của chúng ta, hiệu quả đạt được rất ít. Đồn bốt của chúng ta xa nhau quá, quân địch luồn lách rất giỏi, địa hình bị chia cắt, rừng rú lại quá rậm rạp. Từ đấy, nếu chúng ta không củng cố các đồn bết thì sẽ thất bại, kẻ địch đang có âm mưu gì đây? Sự kiện Đông Khê bị thất thủ tháng 5/1950 là một đòn cảnh cáo để chúng ta thấy điều gì đang cần được lưu ý, thay vào đấy là những lời chê trách quân đồn trú không hoàn thành nhiệm vụ nhất là với những người không biết gì.
- Hãy coi khinh những lời bình luận tản mát ấy đi!
Để trả lời đanh thép cho những kẻ không dính líu gì và không biết gì về chiến trường biên giới : chúng tôi đã chiếm lại Đông Khê. Đó là một hành động tức thời!
- Người ta thì thầm là Đại tá Constant yêu cầu phải có một lệnh viết bằng giấy.
Dù sao, đáng lẽ là phải tăng cường cho quân chiếm đóng bằng một quân số lớn hơn là quân số của Tiểu đoàn rút lui, vì lẽ quân Việt Minh đang tập trung xung quanh đồn Đông Khê, lại chỉ thay thế bằng 2 đại đội với quân số hạn chế, trích ra từ số quân chiếm đóng của Thất Khê.
Tối đến ở nhà ăn chung, mọi người đều bàn tán đến những quyết định trên- quân Việt Minh không khai thác những điều kiện thuận lợi trên, vì lẽ người chỉ huy của họ bị mê muội chăng? Trái lại không phải thế. Con đường chết đang sống lại nhờ ở chiếc đũa Thần kỳ của đoàn Công Binh. Trong những ngày gần đây nó đã trở lại cái nhộn nhịp cũ. Những chiếc GMC hạng nặng chuyên chở liên tục quân mở đường lên phía Bắc. Phi cơ quan sát lùng sục hai bên đường huyết mạch này, những đoàn quân tăng viện đến từ đồng bằng được đưa lên Lạng Sơn - quân Việt Minh không có một chút phản ứng.
Chiều nay, Tiểu đoàn của tôi ngủ lại Thất Khê trước khi nhảy một bước lên đèo Lũng Phầy đoạn dừng chân giữa đồn Thất Khê và Đông Khê. Chúng tôi gặp ở giữa đường vài khẩu 105, đang ở tư thế bắn yểm trợ. Đó là binh chủng pháo binh của chiến trường biên giới - Thật đáng thương hại! Những chiến hữu của Trung đoàn 3 Lê Dương được chỉ định thay thế cho quân đóng ở Đông Khê. Họ đang làm công tác chuẩn bị để lên đường.
Họ huênh hoang, uống rượu suông, tiếp chúng tôi niềm nở, nhưng chúng tôi có cảm giác ngượng nghịu với những con người bung sung ấy. Anh Loup trung uý thầy thuốc, trong đoàn Lê Dương mời tôi đến nghỉ cùng phòng với anh anh ta muốn tâm sự với tôi những điều mà anh không muốn nói ra, với ý thức tự hào là một người lính Lê Dương, anh nói!
- Tớ mang theo những đồ dùng cá nhân tối thiểu. Tớ đã gửi những ảnh, những giấy tờ cá nhân, và vật quý cho một ông bạn ở lại đây. Không nên có ảo tưởng với những gì đang đợi chúng ta - Chúng tớ không phải là những thằng "hết hơi", mà là những người còn sáng suốt. Những bạn Tabor đã mất công sức làm thoáng đãng vị trí này với một quân số gần gấp đôi chúng tớ. Chúng tớ nhất định sẽ bị tiến công sau 1 vàituần đóng ở đây, kẻ địch sẽ tăng tốc đấy ! Trong cuốn "Leo Croix de bois" ông Rolaid Dorgeles nói đến những quả mìn mà bọn lính Công binh Đức đặt dưới chân của những người anh hùng của họ. Họ thì thoát được nạn, nhưng những người đến thay thế như chúng mình hẳn là biết cái gì sắp đến với nó.
Chúng tớ cũng ở trong cảnh tương tự chỉ có điều lần này phải chịu đựng cơ cực, không biết có đáng bõ công hay không? Tôi không dám nghĩ đến điều này.
- Nào chạm cốc đi ! Coi như ở nhà mình vậy. Anh hãy lấy bộ pijama ở trong tủ - anh giữ lấy mà dùng. Nó sẽ có tác dụng với anh. Cậu cần vụ của tớ sẽ để cho anh mượn tấm giường ván của nó, đặt nó ở đây này, xin lỗi là không có đệm. Tớ sẽ đi tìm cho anh một cái màn - Xin chào!
Sáu giờ sáng, chúng tôi đi ngược đường thành hàng dọc, lên đồn Bông Lau, một đồn bảo vệ ở phía Bắc của Thất Khê.
Chúng tôi đi lên đèo Lũng Phầy.
Hai đại đội Tabor khác leo theo đường đỉnh dãy núi Khâu Pia, để lên đỉnh 703.
Đại đội của tôi phải chiếm núi đá đứng sững bên phải cách đường bằng một cái vực trong ấy có những thửa ruộng nhỏ bé bị bỏ hoang. Chúng tôi bở hơi tai mới leo lên đến đỉnh núi, một thứ thể thao thực sự, đối với anh em Tabor phải mang vác đại liên thì thật là cực nhọc. Khi đi qua cái vực chúng tôi thấy nhan nhản những cái xác xe rỉ sét và đen đủi mà quân đội Việt Minh đã cho lăn xuống, sau những trận phục kích của năm 1949. Quân Việt Minh đã lột xác những cái xe này. Gần như không còn để lại một cái bulông nào nữa trên các bộ xương sắt.
Vào khoảng 2 giờ chiều. Đường số 4 lại mở trở lại. Nhưng chiếc xe tải lớn chở đầy ắp lính Lê Dương lên Đông Khê làm nhiệm vụ, thay quân. Chiếc "Bà Già" lượn báo tin có nhiều đơn vị địch đang di chuyển cách đường cái khá xa. Không có gì ở gần. Bằng cách rất thông minh, tướng Giáp cho tung những tin để đánh lạc hướng. Chúng tôi hiểu cách làm của ông và không dễ gì ông ta làm cho chúng tôi khiếp sợ.
Đến lưng chừng núi đá, chúng tôi thấy những công sự đặt súng liên thanh mà quân Việt Minh làm trong trận phục kích cuối cùng. Thật là những vị trí lý tưởng - ở những vị trí ấy, chúng tôi gần như ngang với mặt đường, lại được che rất kín bởi những cây cối mọc bám vào đá - qua những lỗ trống xuyên qua cành cây, chúng tôi thấy những chiếc GMC lượn qua trước mặt chỉ cách vài trăm mét, bụi tung mù mịt. Lính Lê Dương ngồi ở tư thế sẵn sàng nổ súng khi cần đến tác chiến. Từ chỗ tôi nhìn thấy đường số 4 quanh co uốn khúc, dốc đứng, các xe GMC chỉ rì rì chuyển bánh rất chậm chạp.
Trung sĩ Piteau phải buột mồm thốt lên:
- Thật là những cái bia tuyệt vời!
Thật là dễ bắn quá !
Trung uý Spor nói:
- Chúng nó, không tha cho chúng ta đâu! Hãy nhìn xuống đất mà xem.
Hàng đống vỏ đạn bắn rồi của những trung liên, đại liên mà quân Việt Minh vứt lại sau trận đánh.
Thượng sĩ Orsini nói:
- Có lời khuyên là nên nhặt hết vỏ đạn để cho quân Việt Minh không thể thu hồi lại được. Cho đến bao giờ chúng ta mới khỏi lập lại những lời nói này? quân địch không có ở đây đâu mà sợ!
Đến 4 giờ chiều, những chiếc xe GMC đi lại ngược chiều, chở đầy lính Tabor. Họ hưng phấn và hát vang. Đối với quân Tabor là cuộc hành trình trở lại Lạng Sơn để dự lễ duyệt binh, với việc gắn huân huy chương, với tiệc tùng, và việc tiễn biệt chuẩn bị lên Tàu để trở về nước.
Còn đối với lính Lê Dương thì là sự trái ngược, là rơi vào một cái bẫy, khó thoát. Là sự bắt đầu của cái kết thúc. Để quân địch không có đủ thời gian phản ứng, để quân ta không phải lo nghĩ gì sau khi rút lui, khi chiếc xe cuối cùng đã lọt qua, Trung uý Spor ra lệnh toàn Đại đội thu quân, mặc cho đêm đã đến. Trung uý Spor cho một tổ leo lên một mõm núi đá thẳng đứng để làm đài quan sát, chỉ huy do Trung sĩ Si Haddou, để bảo vệ cho toàn Đại đội rút lui.
Cuộc rút lui bắt đầu. Đường qua núi đá tai mèo thật là gập ghềnh nguy hiểm. Một chú Tabor trượt chân ngã, rơi cao từ mấy thước, bị gãy cánh tay ... Chúng tôi phải dùng đèn pin để soi đường. Khi đoàn tàu xuống đến đường, thì trên núi cao xuất hiện hàng chục đom đóm nhấp nháy đang ngoằn nghèo đi xuống. Quân Cảnh giới chưa kịp xuống núi, thì Spor đã ra lệnh rút nhanh về Thất Khê, anh ta bảo "Với Haddou, tôi không có gì phải lo sợ. Nếu quân địch đánh vào sau gót, anh ta có cách đối phó, và cố tìm đường về không một tổn thất- Anh ta đã làm như vậy hồi ở Tunisie - ở Corse. Thất Khê đầy ắp những lính, đóng ở khắp nơi - Trong đêm tối, hai Đại đội Tabor hội tụ, vui vầy với nhau. Có anh nói: "Tưởng là không bao giờ gặp nhau, chúng ta luôn phải đituần tiễu, để làm dãn vòng vây - quân Việt Minh không còn xa chắc chắn chúng nó sẽ bao vây Đông Khê. Dịp may hiếm có, nào các bạn. Hãy uống đi, cười đi, và hát to lên.
- Lần thay quân này làm tôi nhức nhối
- Các bạn Lê Dương, họ phải còn là trẻ con đâu. Họ hiểu rất rõ cái gì đang chờ họ - Công việc bàn giao, không có gì là khó nhất là về mặt vật chất. Điều mà họ hỏi liên tục là: về tình hình địch, chỗ mạnh, yếu của vị trí, những biện pháp hữu hiệu để phòng thủ ... Tối nay tôi thích ngủ ở đây hơn là trên ấy, tôi có cảm giác thoát khỏi cảnh nhà tù. Dù sao nghĩ đến nó tôi cũng thấy tởm.
Bọn chỉ huy ở Sài Gòn chúng có băng bịt mắt, chúng chẳng thấy gì cả!!
Hôm trước ở Na Sầm, xảy ra một tai nạn nghiêm trọng: Một xe tải chở đầy Tabor đang đi trong đoàn, đến 1 đoạn ngoằn nghèo chữ chi, xe lao xuống vực, may thay một cây nhỏ chặn giữ xe không rơi hẳn - mặc vậy bốn anh Tabor bị kẹt vào thành xe suýt chết, họ kêu thất thanh và xin cầu cứu với các bạn.
Chúng tôi, kéo dần dần ra được một chú, cành cây nới dần. 15 người bị thương, nằm sóng xoài trên đường cái - đang được băng bó. Chú lái xe say rượu, đang nằm trong một xó bụi, mặt hốc hác, người không bị một vết thương, anh ta kêu lên với những ai lại gần anh.
"Bạn, ơi, xem hộ, chiếc bánh xơ cua của tôi, đâu rồi!!"
Chúng tôi phải cho người có súng ống. bảo vệ anh ta. Các Tabor định hành hung anh này một trận.
Bác sĩ quân y tiêm cho những anh còn nằm kẹt dưới xe, mỗi người một ống "moóc phin", một chú trong bọn họ, người to lớn lực lưỡng, mặc dù là da đen, thế mà anh trở nênxanh nhớt, anh bị vỡ xương chậu, anh rên rỉ, tiếng rên yếu dần. Một chú bị xe đè lên 1 cái chân, kêu gào:
- Hãy chặt cái chân tôi đi!
Anh có cảm tưởng là chiếc xe 3 tấn đang trượt trên mình anh.
Hai lính Tabor, không sợ nguy hiểm, đang dùng cuốc xẻng, đào bới để kéo các bạn ra.
Cuối cùng, một xe cán trục đến, nó nhấc bổng xe tải lên được vài phân, anh chàng bị xe đè lên chân được kéo ra, anh ngất đi. Xe cứu thương đến mang đi những thương bình nặng trên một cái cáng, anh Nustapha đang hấp hối - anh chàng trai khổng lồ, lực lưỡng bây giờ là một thân hình rệu rã, tàn tệ, một lão binh Ả rập kêu lên: "Mekzoul!"
Anh là anh ruột của tử sĩ, cùng là lính trong đơn vị, quỳ xuống đất kêu khóc thảm thiết, vừa nói lẩm bẩm...
Chiều nay, mặc dù vui mừng là sắp được trở về, nhưng mọi người đều trầm ngâm, im lặng. Chỉ huy trưởng đến thăm và thông tin về những tin tức của các thương binh nằm ở Lạng Sơn, tình trạng khả quan mọi người đều hả dạ, Allal lấy đàn gẩy một bài nhạc điệu Bét- be để quên đi sự đau buồn, nhịp theo một vài bạn hát theo bài ca...Rồi dần dầnmọi người kéo chăn thiếp đi trong đêm giá lạnh.
Ngọn nến thắp giữa nhà bị thổi tắt. Chỉ còn lại ánh trăng đêm soi xuống những bộ mặt rắn rỏi, đầy bụi bặm và mồ hôi.
Sau khi đi kiểm tra xong các vọng gác, tôi trở lại với cái giường gỗ, mệt nhoài, đầu nặng trĩu, chui vào chăn, đầu óc tôi không thể nào không nghĩ đến ông bạn Trung uý Loup, các chiến hữu ở Đông Khê. Từ đêm nay, bắt đầu với họ là cơn hấp hối.
CHƯƠNG 12
CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA NHỮNG NGƯỜI DA ĐEN TRONG MỘT ĐƯỜNG HẦM
CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA NHỮNG NGƯỜI DA ĐEN TRONG MỘT ĐƯỜNG HẦM
Trong khi đồn Đông Khê bị đánh lần 2 bởi quân đội Việt Minh thì đại đội Tabor của tôi có nhiệm vụ đi tiếp tế cho đồn Bảo Lâm, ở cách Đồng Đăng 20 cây số về phía Tây. Một trung đoàn chính quy của quân Việt từ Trung Quốc về, đóng ở hai bên đường hầm qua lại, để án ngữ, ngăn quân Pháp không cho tăng viện lên phía Bắc, và cắt đôi Đường số 4 đoạn giữa Đồng Đăng và Na Sầm. Nơi đối phương bố trí, là đoạn đường chạy dọc theo một dãy núi đá men theo biên giới - Bên phải là đất Trung Quốc, bên trái là đất thuộc Bắc Bộ. Đường sắt xuyên qua đường hầm, là nơi rất thuận lợi cho việc bố trí các trận phục kích trước đây. So với bây giờ, thì nó kém phần quan trọng.
Sự việc xảy ra bắt đầu từ sáng hôm ngày 17/9/1950. Trung tá chỉ huy tiểu đoàn Tabor. Chúng tôi nhận nhiệm vụ đem số quân của Tiểu đoàn đang đóng ở Đồng Đăng, lên tập trung cùng đại đội thứ 2 đang đóng ở Na Sầm. Còn đại đội của tôi sau khi ở Bảo Lâm về, cũng về Na Sầm tập trung cùng đại bộ phận của Tiểu đoàn.
Quân việt Minh đến đường hầm hơi muộn, mặc dù vậy, họ còn đủ thời gian để tiến công vào cái đuôi của đoàn xe. Chúng tôi bị một số thiệt hại, một Trung đội thiết giáp, từ Na Sầm lên tiếp viện phải rút lui mang theo về được một số thương binh.
Đại tá Constant, chỉ huy phân khu biên giới, từ Lạng Sơn ra lệnh cho tiểu đoàn 3 Tabor ( 3è Tabor ) lên bằng cơ giới để tiếp viện. Đạo quân tiếp viện đổ bộ xuống Đồng Đăng, sau đấy đi bộ lên phía Thà Lai.
Trung tá Chergé, chỉ huy tiểu đoàn này, đặt chỉ huy sở ở đồn Thà Lai, quân đối phương từ các núi đá bắn liên thanh vào đồn Thà Lai.
Đối diện với đồn từ trái sang phải là những đồi núi bao phủ bởi rừng thưa cao lúp xúp, một con sông nhỏ vòng quanh các đồi ấy, xen vào là đường sắt, là những núi đá dọc theo biên giới Trung Hoa. Đồn Thà Lai nằm trên một mõm cao, bao quát cả vùng - những mảnh ruộng dọc theo bờ sông kéo đến tận Na Sầm.
Một đại đội Tabor tiến theo các đồi núi bên trái, một đại đội thứ 2 thì leo lên núi đá, đại đội thứ 3 đi giữa, coi như là đơn vị mở đường. Cả ba đơn vị đều gặp địch, chúng bám chặt và trận chiến đấu bắt đầu. Hai khẩu pháo 105 của Đồng Dăng bắn vào những trận địa súng cối hạng nặng của quân đội Việt Minh. Với những phương tiện ít ỏi ấy, pháo binh của quân đội Pháp tưởng là có thể ngăn chặn được sự đột nhập của quân đội Việt Minh mà các đơn vị Tabor tiếp xúc đã phát hiện được.
Chúng tôi biết được tin tức này vào lúc 3 giờ chiều, khi về đến Đồng Đăng. Chúng tôi đều mệt nhoài - chúng tôi đã phải đi 40 cây số trên một địa hình hiểm hóc, dưới ánh nắng 40 độ - nóng và oi bức lạ thường. Chúng tôi đang mơ đến một giấc ngủ hồi sức, được tắm rửa và ăn một bữa cơm qua loa ngon lành -nhưng mong ước trở nên mây khói, những thương binh và tử sĩ đang ùn về, một lệnh mới được ban ra: Trung uý Spor cùng đại đội của anh phải hộc tốc lên đồn Thà Lai để đặt dưới sự chỉ huy của Trung tá Chergé.
Chúng tôi giấu lính Tabor trong các lùm cây ở sườn núi, nơi xây dựng đồn Thà Lai, rồi chi tầng tôi đi gặp Trung tá. Đạn bay tứ phía, có thể nói là lần đầu tiên tôi ra trận - đạn cày đất dưới chân tôi, tiếng rít của đạn làm cho tôi có cảm tưởng là cái cổ của tôi rụt lại giữa hai vai. Trung uý Spor vẫn thản nhiên, vẫn bước đi chững chạc vào cổng đồn. Tôi đi theo anh ta, vừa nhìn vào mấy chú liên lạc viên, núp sau một lùm cây.
Trung tá Chergé nói với Trung uý Spor:
- Tình hình là: quân ta bị kìm chân bởi hoả lực đối phương trên toàn tuyến - bên trái : tin cho biết có nhiều quân Việt Minh xâm nhập đông và đáng sợ - Tôi đã tung số dự bị còn lại và ra lệnh phải chặn chúng lại - Bên phải, quân Tabor đang đánh giáp lá cà trên núi đá và cũng không tiến được - ở chỗ mà anh thấy kia kìa nơi mà dãy núi đá võng xuống, anhcó thấy không quả đồi tròn có nhiều cỏ tranh và bụi rậm ấy. Đó là cái chỗ dựa tự nhiên duy nhất ở giữa thung lũng - nếu chúng ta chiếm được, đường sẽ được mở lại, với điều kiện là quân ta chặn được quân địch. Tôi giao cho anh nhiệm vụ chiếm giữ đồi tròn ấy - chúc anh may mắn.
Chúng tôi chạy theo dọc bờ sông nước ngập đến nửa đùi, quân Việt Minh theo dõi, bắn mấy băng liên thanh- Đến ngang đơn vị bạn ở xa nhất về phía Bắc, chúng tôi phải vượt qua đường cái - quân địch đang đợi chúng tôi, chúng dội đạn vào chúng tôi không sợ hoang phí, một loạt đạn cối. Chúng tôi, một số khá lớn bị thương.
Những nỗi sợ sệt lúc này biến đâu mất lúc nào tôi không biết. Bị kích thích bởi những cảm xúc mới, tôi chỉ huy các lính Tabor tiến nhanh về phía mõm núi - mặc cho đạn cối rơi như mưa xung quanh chúng tôi.
Tự nhiên, tôi thấy ngạc nhiên, thượng sĩ Orsini, một chiến binh lão luyện, rỉ vào tai tôi.
- Chậm, chậm thôi, Trung uý! Không cần gấp lắm đâu, chúng ta có đủ thì giờ để chiếm mỏm núi kia. Hãy nghe tiếng cối lúc bắn đi, nằm rạp xuống cho đến khi đạn vừa nổ, lập tức nhảy chồm lên cho đến khi nghe loạt đạn khác bắt đầu.
Thật lòng thì Orsini là một con người rất lễ phép và rất biết điều. Chúng tôi chiếm đồi tròn một cách bất ngờ. Kẻ địch không kịp có phản ứng. Để trả thù, địch dội đạn cối và bắn liên thanh dữ dội, may quá đêm tối dần, tiếng súng cũng thưa dần. Một trận mưa phùn ẩm và dày hạt làm mờ nhạt chân trời, rồi một lúc không thể nào thấy nhau, chỉ cách vài bước.
Một điện vô tuyến đến với chúng tôi: "Đại tá Lepage với Hai tiểu đoàn bộ binh, một khẩu đội 75 ly trên lưng lừa sẽ xuất phát từ Đồng Đăng theo đường số 4 tiến lên phía Bắc. Họ sẽ đi qua chỗ anh vào nửa đêm. Đại tá muốn lợi dụng đêm tối đánh một cú bất ngờ vào sự tích cực của đối phương,và hội quân ở Na Sầm. Đơn vị các anh được đặt dưới quyền chỉ huy của Lepage để đi về với tiểu đoàn của các anh"
Chúng tôi nghe về phía bên phải: những tiếng hò reo chiến thắng. Có tiếng trâu bò kêu vì bị làm thịt. Tối nay quân Việt Minh ăn mừng chiến thắng.
Trời tối đến nỗi cách xa 5m đã không thấy gì, một tiếng động lớn dần, tiếng hàng trăm người bước đi dồn dập, đập vào mặt đường. Người lính tiền vệ của binh đoàn Lepage đến sờ sát mặt tôi. Tôi chỉ kịp kêu lên: đây mà - quân ta đây mà!
Những người lính đi đầu, vượt qua tôi bằng những bước đi rất nhanh. Việc họ đi qua đoạn đường chìm trong sương mù và bị bao vây bên phải, bên trái bởi quân địch là một cuộc hành quân quá ly kỳ.
Vừa mò mẫm vừa thu quân, lính Tabor tập hợp lại gọi nhau thì thầm. Chúng tôi làm nhiệm vụ Hậu vệ của binh đoàn Lepage, quân lệnh là: Đi sang ven đường trên bờ cỏ để đỡ tiếng động nhất.
Vài tiếng súng nổ ở phía sau. Chúng tôi - đã gần 3 giờ sáng - Chúng tôi đến gần sát Na Sầm. Cuộc hành binh của Đại tá Lepage đã thành công. Sáng sớm, quân Việt Minh sẽ điên đầu lên khi biết là đã để đi qua, lọt lưới một binh đoàn cơ động, có cả pháo binh.
Về phần chúng tôi thì: bằng 2 đầu gối, chúng tôi lê đến nơi tạm trú một vùng đất ẩm ướt, giữa trời, dưới mưa lạnh - Anh Pontet rên rỉ kêu lên, vừa ho vừa sụ.
Chúng muốn cho chú ngựa con này chết đi!
CHƯƠNG 13
MỘT SỰ KIỆN THUẦN TÚY ĐỊA PHƯƠNG
MỘT SỰ KIỆN THUẦN TÚY ĐỊA PHƯƠNG
Trận phục kích ở đường hầm Thà Lai được tướng Giáp tổ chức ở phía Bắc thị xã Lạng Sơn, để chặn quân tiếp viện lên cho Đông Khê.
- Ngày 16/9 đối phương kết thúc thời kỳ bao vây các đồn ngoại vi của pháo đài.
Vào khoảng 5h30' chiều vào lúc chạng vạng tối, đối phương tung ra nhiều đợt tiến công vào các công trình phụ.
Sáu giờ- chỉ huy trưởng Đông Khê điện về báo cáo. Đồn vẫn đứng vững, có 4 tử trận, 6 bị thương.
18 giờ sau, Ngày 17/9 Đông Khê không còn liên lạc được bằng vô tuyến điện nữa.
Phi cơ báo tin là lá cờ tam tài vẫn phấp phới bay lên pháo đài, nhưng không một bóng ma, việc gì đã xảy đến!
Sau 8 đợt xung phong, liên tục và rất ác liệt, quân Việt Minh đã lấy được pháo đài nhưng họ chờ đến đêm thì mới vào.
Cùng lúc, một số lính Lê Dương sống sót bằng từng tốp nhỏ, vượt khỏi vòng vây tìm cách lủi về Thất Khê qua rừng rậm .
Sáng ngày 18/9 lá cờ tam tài đã biến mất. Pháo đài vẫn vắng tanh.
10 ngày sau, Đại uý Jaugeon, người sĩ quan độc nhất, thoát nạn và kiệt sức, chạy về đến đồn Bông Lau.
Ngày 18/9, những trận chiến đấu lại tái diễn ác liệt ở vùng Thà Lai. Tiểu đoàn 3 Tabor, chiến đấu ở đấy, bị những tổn thương đáng kể.
Trung đoàn chính quy Việt Minh từ Trung Quốc trở về, nới bớt gọng kìm rồi thu quân, sau một ván cờ bỏ dở, sau một trận đánh còn dở dang.
Tiểu đoàn 3 Tabor, được cấp tốc điều về Lạng Sơn, sau đó đáp phi cơ lên vùng phía Bắc.
Một cầu hàng không nhỏ bắt đầu hoạt động, với khả năng của nó, có nghĩa là nhỏ giọt.
Không ai hiểu được ý định của Ban chỉ huy cấp trên ở Thất Khê và cả của binh đoàn Lepage. Nhưng bên ngoài ở Lạng Sơn và ở Bộ tham mưu của Hồ Chí Minh, thì ai cũng đoán biết là sắp có cuộc rút lui Cao Bằng.
Tiểu đoàn 3 Tabor, chiến đấu ở Thà Lai, nay được điều lên tăng viện cho Cao Bằng, chỉ huy Cao Bằng là Đại tá Charton, một Lê Dương sừng sỏ và cương quyết.
Phân khu Cao Bằng là vùng mà quân ta kiểm soát từ lâu, gồm có ở trung tâm là một pháo đài. Bị cô lập với mọi nơi, Cao Bằng chỉ được tiếp tế bằng đường hàng không, nhưng Cao Bằng khác với Thất Khê là những phi cơ vận tải Dakota và những phi cơ Ju cổ lỗ sĩ vẫn lên xuống sân bay đều đặn. Tiểu đoàn 3 của trung đoàn 3 Lê Dương. Do Trung tá Forget chỉ huy là đơn vị nòng cốt của quân đồn trú Cao Bằng.
Tiểu đoàn này, theo nhận định của Lạng Sơn, là một đơn vị yếu ít nổi tiếng nhưng dưới bàn tay đầy nghị lực của trung tá Forget, tiểu đoàn sẽ chứng tỏ một cách rạng rỡ tinh thần và sức chiến đấu của nó trong vài tuần tới.
Trợ lực cho nó là một Tiểu đoàn lính dõng Cao Bằng, một đơn vị mạnh với quân số gần 1000 quân thiện chiến ở vùng rừng núi .
Tiểu đoàn 3 Tabor được đưa bằng phi cơ lên Cao Bằng lúc về phi cơ chở đầy ắp những đàn bà, trẻ con, ông già, dân thường. Họ là những người trung thành với quân đội Pháp,họ muốn sống dưới sự che chở của chúng ta. Chúng ta không thể bỏ họ. Việc sơ tán số thường dân này có ý nghĩa chính trị to lớn.
Những điều kiện phương tiện hàng không không có đủ, nên những dân thường khoẻ mạnh không thể chở hết được về Lạng Sơn. Vì chỉ huy Cao Bằng phải yêu cầu họ đi đường bộ, theo đoàn quân cùng rút vào ngày N. Khối lượng năm trăm người này sẽ là một tai hoạ cho chúng ta.
Đại tá Charton và các cán bộ của ông, luôn nắm sát tình hình địch, nắm chắc thực lực của họ, cho nên, không có ảo tưởng cho một cuộc rút lui dễ dàng, trái lại sẽ đầy khó khăn. Căn cứ Thất Khê ở cách xa gần 100 cây số về phía Nam. Họ hiểu là đối phương sẽ lợi dụng tình thế đến cùng. Chúng sẽ thực hiện đúng lời thề và đêm đến, ngoài chân pháo đài họ bắc loa kêu gọi:
"Hỡi các binh lính Pháp, sẽ không có một người nào đồn trú ở Cao Bằng sẽ về đến Lạng Sơn. Các anh hãy đầu hàng đi. Bọn chỉ huy của các anh đã phản bội lại các anh - Các anh đã thất trận trước khi lâm trận".
Những lính Lê Dương cũng như hầu hết các bạn của họ trong các đồn bốt ở Đông Dương, đều rất quen thuộc với những khách lắm mồm nhiều miệng kia. Trong số họ, có khi có những người da trắng là lính đào ngũ sang hàng ngũ địch. Lính Lê Dương trả lời bằng những lời rủa chọn lọc, và cuộc đấu khẩu đã xảy ra ở chân pháo dài, giống như ở thời Trung cổ, người xưa hay làm trước khi mở cuộc tiến công vào lâu đài.
Những quân lính của Charton không chỉ lo chửi bới. Họ còn lo tích cực chuẩn bị để bước vào cuộc chiến đấu vài ngày trước khi rút khỏi Cao Bằng. Trung tá Forget triệu tập các sĩ quan và hạ sĩ quan của ông và với lời lẽ trần trụi, khí thế mạnh mẽ của một người lính có hạng, cùng với một giác quan tiên tri hiếm có, ông nói:
"Những tin tức và những hành động của quân địch tổng hợp lại cho thấy là một cuộc tấn công vùng biên giới là không thể tránh được. Chúng ta không sợ trận đánh này. Một người được biết trước, giá trị bằng hai- Vậy một tiểu đoàn Lê Dương cũng vậy ...Các anh biết là cả thế giới đang để mắt nhìn vào xứ Viễn Đông này, trong ấy đặc biệt là vùng biên giới lại có một vị trí quan trọng. Không cần lên giọng hùng hồn, chúng ta thừa biết rằng kết cục của trận đánh lần này sẽ thu hút sự chú ý không chỉ của Lạng Sơn, Hà Nội mà còn của cả Paris - Washington - Moscou."
Gần 4 năm trước Điện Biên Phủ, đây là một cách đặt lại vị trí của một vấn đề đúng ở tầm quan trọng chói lọi của nó. Có lẽ không có gì đáng bổ sung thêm cho những lời sáng suốt và đầy dũng khí trên. Nó buột ra từ miệng một con người rắn rỏi, thẳng thắn. Những lời ấy sau này vẫn là những lời đúng, cho đến khi nào mà cuộc chiến này vẫn là một cuộc chiến khốc liệt, nhưng vô ích, bắt đầu một cách sai lầm và không được hiểu đến nơi, đến chốn.
Trong lúc này, để chuẩn bị thi hành một "sứ mệnh hy sinh", binh đoàn Lepage tập kết ở Na Sầm là nơi trở nên đông đúc.
Vài ngày sau, tướng Carpentier Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương, và các lực lượng quân đội Pháp ở Viễn Đông tuyên bố với các nhà báo:
- "Sự kiện Đông Khê chỉ được coi như là một sự kiện thuần tuý địa phương"
Lời tuyên bố làm đau lòng cho những chiến binh của vùng chiến trường biên giới.
CHƯƠNG 14
NHỮNG CON VẬT QUỶ QUÁI
NHỮNG CON VẬT QUỶ QUÁI
Trong thị trấn Na Sầm đang yên giấc, 2500 quân của binh đoàn Lepage nằm la liệt khắp nơi, xung quanh là đồn cao cheo leo trên một chỏm núi đất, bao quanh bởi những núi đá vôi hoang vu.
Chúng tôi trú quân trong chợ, nằm xuống đất dưới ánh trăng lặn dần và bị che khuất sau những đám mây đen. Một luồng gió lạnh thổi chúng tôi co rúm lại, rồi chui vào cái chăn nhỏ hẹp vừa run lẩy bẩy, một đêm đầu mất ngủ, kết thúc bằng một bình minh mờ xám và buồn tẻ.
Chú cần vụ El Madani đem đến cho tôi một hộp thức ăn sẵn, một ly cafe nóng trong ấy nổi lềnh bềnh vài cái "cọng gỗ cháy".
Từ cái chăn chui bị qua đêm ẩm ướt, những lính Tabor của tôi chui ra: chúng nhìn xung quanh, dựa vào khuỷu tay, hai mắt quầng đen vì mệt mỏi. Họ đứng dậy vỗ mạnh vào sườn bằng hai bàn tay to đậm. Họ vung tay, vặn lưng rồi đốt hàng chục đốm lửa, họ đun nước sôi để chuẩn bị pha cà phê. Đây là một thứ lễ nghi hàng ngày cùng với những nghi lễ bất biến khác, nó lại được lập lại trong buổi sáng giá lạnh của tháng 9 này, một số cậu láu cá lợi dụng lúc mọi người sơ ý, dí hộp đồ ăn gần với lửa, làm mất chỗ những nồi niêu khác. Những trò vụng trộm ấy đôi khi gây nên những cãi cọkhông nghiêm trọng lắm, nhưng ngày nào cũng xảy ra.
Anh Spor và tôi leo lên một cái dốc đi lên đồn cao. Ở đấy có chỉ huy sở của Đại tá Lepage và trạm quân y dã chiến, một số thương binh ngày hôm qua đang được chăm sóc ở đây.
Một tiểu đội lính đang đi xuống phía sân bay ở cách đấy vài trăm mét. Anh hạ sĩ chỉ huy tiểu đội cho tôi biết là anh có thêm nhiệm vụ đi gỡ mìn, anh xung phong ở lại gác sân bay, vì mấy chiếc "bà già" sắp hạ cánh để sơ tán 1 số thương binh nặng. Ở chỉ huy sở chúng tôi được gặp Đại uý Mattéi chỉ huy trưởng đồn Na Sầm. Anh là người xứ Corse - một con người khôn ngoan, can đảm, anh thích hành động độc lập, làm những việc táo bạo, anh có bộ râu đen nhánh - những điểm trên làm anh nổi tiếng, anh có đôi mắt thâm với đôi lông mày rậm, mượt mà, làm anh thành con người cứng rắn, cố chấp khi nói đến đối thủ là quân Việt Minh. Anh sống ở đây như một chúa tể, một người chủ tuyệt đối, anh kiểm soát các vụ cờ bạc, tổ chức càn quét chợ, cho phép đóng hay mở cửa. các cửa hàng buôn Tàu, và đi dạo chơi với cái mông to tướng trên đường số 4, ban đêm hay ban ngày, không cần ai đi theo bảo vệ. Khi cấp trên ở Lạng Sơn gửi thư cảnh cáo nhắc anh không nên làm việc mạo hiểm trên anh trả lời: Tôi đi như vậy là vì tôi nắm chắc không có quân Việt Minh luẩn quẩn đâu đấy tổ trinh sát của tôi đã mở đường cho tôi từ rất sớm, hơn cả việc có thể làm của cả một trung đội thiết giáp. Một hôm anh cải trang làm một người nhà quê, anh đi ra ngoài với một trung sĩ Lê Dương. Anh giấu trong cái áo nông dân người Nùng một khẩu súng lục và hai quả lựu đạn. Hai người theo một đường mòn trên núi đến một điểm cơ sở của Việt Minh, do cơ quan Tham mưu địa phương về địch vận và tình báo đặt. Hai chàng người âu xin gặp ông chính trị viên với danh nghĩa là hàng binh Mattéi tự giới thiệu, anh là chỉ huy một "đơn vị chính quy- anh có nhiệm vụ vào vùng này với đơn vị của mình - anh muốn biết những tin tức về phía quân Pháp và về phía Việt Minh trong quân khu để hoàn thành một nhiệm vụ. Tay chính trị viên liến thoắng, cung cấp nhiều chi tiết hấp dẫn. Sau đấy còn mời hai ông khách quý uống một hớp rượu hữu nghị. Mattéi quay lại chú cảnh vệ của mình và bảo.
"Hãy ghi lại những tin tức mà anh chính trị viên đã cung cấp"
Anh lính Lê Dương với thói quen kỷ luật nhà binh, rập chân và trả lời.
- Thưa vâng! Thưa Đại uý ...
Thế là tự nhiên chúng tôi bị lộ chân tướng.
Quân Việt Minh nhào ra tìm chỗ lấy vũ khí. Họ nhào ra để tóm cổ cả hai người Tây. Mattéi không để mất sự dũng cảm của mình - anh chuồi luôn 1 quả lựu đạn về phía quân Việt Minh và cùng anh trung sĩ vụng về chạy trốn; với cái nhanh nhẹn của người dân xứ Corse, với những bài học thực hành về hành quân trong rừng vùng núi biên giới, anh và chú cận vệ thoát nạn. Mỗi khi có người nhắc đến câu chuyện bi hài kịch trên - anh vừa nói, vừa cười.
- Trời ơi! Tôi không sẵn sàng để làm lại một việc tương tự như vậy. Còn đối với chú trung sĩ ngu dốt, tôi đã cho 15 ngày phạt giam. Đó chỉ là hình thức thôi, nhưng xét về động cơ thì thật là đẹp.
Đấy là con người Mattéi đúng là gan dạ, nhưng cẩn thận và mưu mẹo, khác thường, có xu hướng phiêu lưu nhiều hơn là vì mục đích quân sự - anh ta có khi tỏ ra tàn bạo, không có sự thương xót trong hành động và suy nghĩ có cái gì đó củathú mèo rừng. Nhờ ở đức tính thích làm việc không mệt mỏi, đức tính thích oai quyền độc đoán, ở cách ăn miếng trả miếng của người Á Đông, anh đã biến vùng Na Sầm thành một vùng an toàn nhất so với các vùng khác ở khu biên giới. Những phương pháp của Mattéi đã làm, ai mà biết hết được nhưng có một điều là trong những người Việt của anh tuyển mộ, không có ai phản bội lại anh.
Cuối cùng là ai cũng tuân lệnh và sợ anh ta. Nhiều người không kể là âu hay Á yêu anh ta và trung thành với anh ta.
Uy tín của anh vượt ra ngoài phạm vi của anh - quân Việt Minh luôn doạ sẽ giết anh một trăm một nghìn lần, nhưng họ cũng tránh những trận chạm trán lớn với anh, vì lẽ đối với anh - họ luôn e sợ anh, một nỗi sợ hầu như bí hiểm.
Anh Mattéi người chúa tể vùng Na Sầm, có vẻ sung sức lắm. Anh nói:
- Kính chào các bạn - Các bạn có trước mặt một ông chủ lớn. Quân đồn trú hiện nay của Na Sầm lên đến 3000 chiến binh thiện chiến, mời uống cà phê?
Hai tôi vui vẻ nhận lời biết rằng nói cà phê chỉ là một lối nói trụi thôi. Với anh là bia, là các thứ rượu khác kia- Anh Spor hỏi:
- Anh nghĩ gì về tình hình.
Mattéi cười một cách ranh mãnh, vuốt ve bộ râu với những ngón tay sần sùi của anh.
Sự việc sẽ xảy ra những gì mà tôi đã từng loan báo từ lâu rồi. Cuộc chiến đấu sẽ gay go - nhưng anh biết đấy! Tôi chỉ là một đại uý quèn ... Bởi vậy, tôi không thể tự cho phép.
Hiểu rồi, Spor trả lời vừa cười. Ở phía Bắc, anh có tin đã xảy ra đánh lớn không?
- Cho đến Lũng Vài tôi tin là không có gì. Nhưng từ đồn Bản Bẻ trở đi cho đến Thất Khê, trung đoàn 174 đang phụ trách từ mấy tuần nay, phá hoại đường theo đúng phương pháp.
Thiếu uý Raval vào nhà một cách uể oải, anh có bộ râu mép đen được xén và chải rất cẩn thận. Anh ta khoẻ khoắn và sung sức. Anh chỉ huy trung đội 59 Tabor biết phải ở Na Sầm, do vậy không được tham dự trận đánh hôm qua. Anh ngồi xuống nhồi thuốc vào một tẩu píp anh nói với Spor.
- Nào, Anh Jacques, công việc tiến hành tốt chứ.
- Như một con người mà 48 tiếng qua chưa được chợp mắt một phút. Còn cậu, chắc cậu cóc cần về sự mất ngủ của chúng tớ.
- Uống 1 ly rượu đi, và đừng kêu gào nữa, trong 20 phút nữa các anh sẽ phải lên đường.
- Cái gì? Đi đâu vậy?
- Về phía Bắc. Hướng Thất Khê chúng ta đều lên xe tải.
Đại đội của các anh đi đầu trong các xe tải lớn, mệnh lệnh sẽ đến sau với các anh.
Chúng tôi chào tạm biệt Mattéi rồi đi xuống về phía chợ, ở đấy các hạ sĩ của đại đội cho tập hợp quân của Tiểu đoàn thành từng Trung đội. Sau đấy, những xe tải đã bố trí thành từng tốp. Chúng tôi lên xe chừng 30 người một chiếc, có thể nói như vậy là hợp lý.
Những chiếc GMC còn lấm lem vì bùn, di chuyển qua những đường khúc khuỷu của Đường số 4 thuộc địa. Bên phải là những núi đá đứng sững, có cây cối um tùm mọc. Bên trái là những núi đất có lau lách và cây cối rậm rạp. Súng kẹp vào giữa hai đùi, mọi người nói chuyện, có lẽ để quên đi cái lo lắng đến một trận phục kích có thể xảy đến. Chỉ có 2 lính Tabor đứng trong thùng sắt của xe bọc thép sẵn sàng dùng những trung liên nhả đạn khi cần thiết.
Chúng tôi được thả xuống một nơi có nhiều núi đá, cách nhau bằng những thung lũng nhỏ trên có những thửa ruộng lúa.
Các trung đội được bố trí trên những vị trí có thể kiểm soát được đường. Họ lùng sục xem có vết lạ của kẻ thù. Một số khỉ, cóc, nhái rít lên khi thấy xuất hiện nhiều bóng lạ. Một số xe tải vượt qua, xe chở đầy người và ba lô, đồ dùng. Họ sẽ đổ bộ xa hơn một chút. Những xe tải lên xa xa, rồi lại trở lại thu chúng tôi, những người đi trước, để vượt qua các bạn đi sau, và rồi lại được bố trí xa hơn nữa...Việc cứ tiếp tục làm như thế nhưng khi chiều tà, đêm tối sắp trở lại, những xe tải gấp rút rút lui về Na Sầm - không cần có bảo vệ, dám lướt qua những nguy hiểm.
Sau đấy thành hàng hai, theo hai bên đường, nơi mà những chiếc GMC đã cày lên những vùng lầy lội lầy nhầy những nước vàng nhạt. Chúng tôi đi, hướng về phía đồn Bản Bẻ cách xa đấy 10 cây số, và ở đấy những đơn vị khác của tiểu đoàn sẽ đợi chúng tôi.
Cạnh làng Lũng Vài có một chỏm núi cao, có cùng tên, trên núi là vị trí đồn Lũng Vài mà Trung uý Laurent là người chỉ huy, quân số có chừng 100 là lính Lê Dương.
Chốc nữa, trước khi chúng tôi tiếp tục lên đường, anh đồn trưởng đi xe Jeep đến chào chúng tôi. Anh lấy làm sung sướng, được gặp lại bạn bè trong cái vùng hoang vắng và thù địch này. Anh muốn mời chúng tôi một cái gì với anh ta ở nơi anh ở.
Sau đấy cả ba chúng tôi nhảy lên cái đống sắt vá víu mà anh gọi là xe.
Laurent bắt đầu cho chúng tôi khai vị bằng một cú biểu diễn nhào lộn khi leo lên đồn trên một con đường xoáy ốc, một cách không kinh viện lắm: đến một chỗ ngoẹo - hai bánh sau trượt và rít lên trên cát, chúng tôi rợn tóc gáy.
Anh Laurent cười và nói :
- Xin lỗi, ở chỗ ấy phải cho xe trượt mới quay được, nếu không thì phải thao diễn.
Chúng tôi nghĩ, lời giải thích của anh đã an ủi chúng tôi, và sau đấy anh lại cho rú ga.
Bình rượu của anh đã làm chúng tôi tươi tỉnh lên. Đúng là chúng tôi đang cần.
Anh có vẻ trang bị đầy đủ: nào là đài, vô tuyến điện bàn ghế kiểu cổ do lính Lê Dương làm, nào là sách báo có dấu của tổ chức xã hội, đều là cũ đã hơn 1 năm. Anh rất dễ cười, sung sướng được bắt chuyện và biết tin tức.
Sau khi chú Lê Dương người Ba Lan cho chúng tôi ăn một bữa qua loa, khi ra đi, anh tâm sự:
- Mình có cảm giác khét lẹt nơi đây!
Mình ra khỏi đồn càng ngày càng ít đi. Ở đâu cũng có Việt Minh, ngày nào đó chúng sẽ đến thăm mình, lúc ấy là nghiêm túc đấy nhưng chúng tớ chờ chúng nó, tớ đã gài sẵn một số mìn ngầm để tiếp đón chúng một cách tuyệt vời. Nhưng, trong khi chờ đợi, đêm đến chúng qua lại trên đường cái dễ dàng - chúng tớ chẳng làm gì được.
Lần leo lên đồn mới chỉ là mào đầu, lúc xuống những cảm xúc của chúng tôi càng mãnh liệt hơn, thượng sĩ Orsini con người bình tĩnh và cẩn thận, rỉ vào tai người cầm lái:
- Chậm, chậm một tí, ngài Trung uý đi nhanh thế này làm chúng tôi không kịp mà ngắm các cảnh đẹp quanh đồn và cảnh mặt trời lặn.
Mọi kết thúc đều êm đẹp.
Trung uý Laurent còn nhắn:
- Lúc về nhớ ghé bắt tay tôi nhé.
- Anh nhớ: đây là khách sạn của các lữ hành. Sau khi rộng mở bàn tay mến khách, anh chào tạm biệt chúng tôi, rồi lại nhảy lên chiếc xe Jeep, rú máy, phóng như khởi đầu một cuộc đua xe.
Chúng tôi mở rộng sải bước, hướng về đồn Bản Bẻ. Thượng sĩ Orsini càu nhàu:
- Ngày về, như Trung uý Laurent nói, tôi muốn biết là ngày nào? mẹ kiếp!!
Phân tiểu đội đi mở đường tự nhiên dừng lại, ở một chỗ ngoặt - một anh quay về báo cáo cho Trung uý Spor:
- Có tiếng người trước mặt, thưa Trung uý, chắc là bạn. Tôi nghe toàn là tiếng Ả rập.
Spor tiến lên trước - và một lính Tabor đột nhiên xuất hiện trước mặt anh, súng ống sẵn sàng. Anh này nhận ra Spor, anh nói khẽ.
- Thưa Trung uý, Trung tá đang chờ ông.
Nhờ ở ánh đèn tôi đoán là đồn Bản Bẻ ở trước mặt tôi, sừng sững trên núi cao. Xung quanh trời vẫn tối như mực. Chúng tôi chạm trán với một nhóm sĩ quan của tiểu đoàn. Trung tá nói:
- Cuối cùng là các anh?
Thay cho lời chào! nhưng chúng tôi biết là Trung tá đang tập trung lo cho việc hành quân. Còn anh Spor chỉ không muốn giải thích đến chậm là vì lý do phải đi bộ, là vì xe hơi bị trời tôi không phục vụ vận chuyển được. Trung tá nói: - Chúng ta sẽ lên đường trong nửa tiếng. Đại tá Lepage quyết định phải hành động bất ngờ, chúng ta phải thắng bằng tốc độ. Đáng lẽ là đợi trời sáng, chúng ta mở đường theo lối chính quy; chúng ta sẽ phóng thành hàng hai trong đêm nay để vào đến Thất Khê lúc mờ sáng. Theo nguồn tin chính xác, quân Việt Minh đang chiếm các đỉnh cao hai bên đường cái. Con đường hiện nay chỉ còn là một công trường phá hoại. Các anh luôn phải sẵn sàng để đối phó với mọi bất trắc".
Một tiếng động lớn xoong nồi loảng xoảng, tiếng ngã huỵch, cây cối xào xạc làm cắt ngang đoạn kết luận của Trung tá. Chúng tôi có cảm tưởng như một khẩu súng lớn bị rơi xuống rãnh. Một vài tiếng còi báo động, tiếp theo hai tiếng súng nổ trong đêm tối. Cả tiểu đoàn cùng với một đơn vị trợ chiến ngơ ngác nằm rạp xuống đất.
Hai khối đen lướt qua cạnh chúng tôi với hết tốc độ rồi biến mất trong bóng tối với tiếng sắt đá loảng choảng mà chúng tôi đã nghe lúc nãy.
Cuối cùng sự thật là: hai con ngựa Tàu mà đại đội trưởng trợ chiến cho đi theo để mang vác hành lý. Đã đáp lễ, những chú giữ ngựa vụng về, rồi bỏ chạy trốn. Đi trong rừng, dây buộc ngựa bị dật đứt, chúng tôi hốt hoảng khi gánh hàng thồ trên lưng bị rơi xuống đất nên gây một tiếng động lớn. Hai con ngựa hết hoảng lồng lên chạy nước kiệu, gây nên một sự hỗn loạn trong đoàn quân, mọi người đều tưởng là một tên biệt kích xảo trá người Việt nào đấy đã vứt một dụng cụ ma quỷ vào chân chúng tôi.
Mọi người đều cười về sự kiện đã xảy ra, và đều thấy thần kinh đang đặc biệt bị căng thẳng.
Một ánh trăng vàng may mắn làm sáng tỏ giúp cho việc tập hợp cả tiểu đoàn được thực hiện đúng lúc.
Chúng tôi được biết là một trong hai con ngựa bất hạnh trên đã mang theo một bộ đồ bếp núc dã chiến và một số rượu ngon. Mọi người đều nhăn mặt khi nghĩ đến những thứ quý hiếm trên sẽ rơi vào tay một số lính Việt Minh.
Trung tá ra lệnh
- Lên đường, đừng có báo động vì những con vật quỷ quái nữa ! Nghe không !
CHƯƠNG 15
NHỮNG VIÊN ĐẠN RA QUÂN
NHỮNG VIÊN ĐẠN RA QUÂN
Một chú Tabor bị rơi vào một cái hố của đạn pháo 105. Anh chàng kêu thất thanh vừa mò mẫm, các bạn anh tìm cách kéo anh ra khỏi hố bằng cách cho anh níu vào đầu gậy lấy được ở dọc đường.
Cuộc hành trình rất vất vả, cứ độ 100m lại có một hố tương tự, nó cắt ngang đờng, chúng tôi phải đi vòng bằng cách bíu vào các dây leo theo bờ trái của vực. Đại tá Legage phải để lại ở Na Sầm, đoàn lừa thồ pháo dã chiến của ông và tất cả những gì ông không thể mang theo trên lưng người. Chỉ có 3 tiểu đoàn Tabor Ma rốc đi được rất nhanh về đến Thất Khê. Quân Việt Minh đã bắt đầu sờ đến chỗ cửa ngõ vào cánh đồng, nơi mà ta có đồn bảo vệ. Ở xa phía trước - chỗ các tiền vệ của binh đoàn, có tiếng nổ của một băng đạn, lập tức cả dòng người phải dừng lại. Sau đấy, chúng tôi mới hay là quân tiền vệ đã chạm vào 200- 300 dân công, dưới sự bảo vệ của một lực lượng chính quy, đang hoàn thành việc phá hoại đường.
Ở điểm vừa xảy ra sự chạm trán, chúng tôi quan sát thấy: nào là những dụng cụ bỏ rải rác, một số hố mới đào. Có những đống đất mới cắt thành từng mẩu vuông, rơi ra từ những bao tải lộn ngược làm bằng những nan tre đan. Chúng tôi nhìn vào thấy xác một lính Việt Minh mặc áo ka ki mỏng, đầu đội mũ lá cọ nằm ngang đường. Xa hơn một tí, là xáchai dân làng, Chúng tôi có cảm giác là quân địch đang rình mò chúng tôi, một số tiếng động và ánh sáng nói lên là chúng ở rất gần.
Nếu chúng không đánh, đấy là do có sự tính toán chỉ huy cụ thể và chính xác...
Vậy việc không có phản ứng ấy, nó che dấu cái gì?
Chúng tôi vào đến Thất Khê không phải đánh đấm gì cả. Chúng tôi được quan quân Thất Khê tiếp đón nồng hậu - được nhân dân tụ tập 2 bên đường chờ đón.
Tiểu đoàn một Lê Dương nhảy dù ( 1 er BEP) từ sáng sớm ngày hôm qua được thả xuống sân bay:
Nó phải đi tuần tiễu lên phía Bắc. Nhiệm vụ của nó là lên đèo Lũng Phầy, cách Thất Khê 13 cây số, bằng cách bò theo con đường các đỉnh núi Khâu Pia mà cuối cùng là đỉnh 703. Núi Khâu Pia án ngữ phía Tây đường, sườn núi dốc, cây cối rậm rạp, có nơi thì toàn cỏ tranh bao phủ.
Chỉ huy sở của Đại tá Lepage đóng ở trên đồn Thất Khê. Hai tiểu đoàn Tabor được lệnh tuần tiễu trong vòng 2 - 3 cây số rồi tổ chức đóng quân ngoài trời, xung quanh thị trấn Thất Khê, tạo nên một tuyến phòng ngự bảo vệ bên ngoài. Tiểu đoàn của tôi đóng trên các quả đồi ở phía Bắc sân bay. Những mỏm đồi này đều bao phủ bởi cây cỏ xanh tươi, bên trái là đường số 4, bên phải là con đường đi đến một đồn lính dõng, đồn Bản Nè, nếu cứ tiếp tục đi từ Bản Nè, chúng ta có thể đi vào Pò - Mã vùng căn cứ du kích của Việt Minh, rồi ra ngoài biên giới Việt Trung.
Chúng tôi đóng quân trên một địa hình phức tạp gồm toàn những rãnh xối lở, những đồi nhỏ bao bọc bởi những rừng cây chặt rất khó đi lại. Thật là khó mà bố trí thành một tuyến phòng ngự. Lại còn vấn đề tiếp tế nước, lương thực phải xuyên qua hơn một cây số đường ngoằn nghèo mới đến được con đường đi Bản Nè và đến nguồn suối nước; một đoạn vừa dốc, vừa sình lầy.
Tất cả các sĩ quan đều được triệu tập về chỉ huy sở của Đại tá Lepage. Ông đọc cho mọi người nghe 1 điện khen ngợi gởi đi từ Hà Nội. Hình như chúng tôi vừa lập được một chiến công đáng kể. Cơ quan Tổng hành dinh dự kiến là chúng tôi phải để mất 3-4 ngày mới đến được Thất Khê, và sợ rằng quân Việt Minh sẽ gây tổn thất lớn cho chúng tôi. Bức điện giống như một tiếng thở dài an ủi, hơn là một lời reo chiến thắng, nó không làm cho chúng tôi tự cao một cách quá đáng nào. Từ nay chúng tôi trong thị trấn Thất Khê đã bị mất tất cả mối liên lạc với bên ngoài, chúng tôi không biết bằng cách nào, cấp chỉ huy chúng tôi mở lại sự đi lại được dễ dàng trên đường số 4 giữa Na Sầm và Thất Khê. Chúng tôi cũng biết là sau khi Đông Khê thất thủ, chỉ có một sĩ quan Lê Dương về đến Thất Khê - những lời báo cáo của anh khi nằm trên giường bệnh của trạm quân y, đã làm lo ngại các cấp chỉ huy. Trong những ngày sắp tới đây, chúng tôi dự đoán, có thể phải vượt qua những khó khăn còn ghê gớm hơn cả ngày hôm qua.
Đối với chúng tôi, những người chỉ biết tuân lệnh, thì những chiến thắng theo kiểu trên, không có ý nghĩa hấp dẫn gì. Theo chúng tôi, những chiến thắng chỉ phải tính bằng máu đã đổ ra; chỉ đáng kể khi máu quân thù bị chảy hơn nhiều lần so với quân ta.
Chúng tôi rời chỉ huy sở lòng đầy lo âu chỉ nghĩ đến những chuẩn bị cho sự phòng thủ, hơn là việc ăn mừng một cuộc chiến thắng trên giấy tờ của cơ quan tham mưu, chiến thắng chỉ đổi bằng sự hao mòn dưới đế giày.
Vài ngày trôi qua yên tĩnh. Hôm 19, tiểu đoàn dù 1 er BEP bị chạm trán mạnh mẽ trước đồn Bông Lau, trên mỏm 703 của dãy Khâu Pia. Nó thoát được dễ dàng - quân địch không tỏ ra tích cực lắm.
Sáng nay, ngài Đại tá tập họp sĩ quan, ông nói về một cuộc hành quân vào căn cứ Pò Mã của Việt Minh - ông tuyên bố:
"Tôi vừa đến thăm Đại uý Lê Dương Jaugeon. Anh ta trước đây là chỉ huy phó đồn Đông Khê, anh ta kể cho tôi nghe diễn biến của cuộc tiến công của quân Việt và cách thức anh tiến hành để rút về được. Việt Minh rất mạnh, tổ chức rất chặt chẽ, anh ta nói với tôi. Anh ta còn bị choáng, có thể anh này nói phóng đại một tí, nhưng thực lòng anh muốn nói đúng sự thực.
Sau khi có lệnh rút lui bỏ đồn, anh ta ở lại. Sau đấy anh mò ra trong đêm tối và đi dọc theo đường số 4. Ban ngày anh núp vào bụi và nằm im. Giữa Đông Khê và Thất Khê đầy những lính Việt Minh được trang bị rất tết. Xung quanh Đông Khê quân địch đào hố cá nhân và hầm ngầm. Các tuyến tiến công và các thứ dự trữ đều chôn giấu kín trong hầm, quân Việt Minh có tổ chức một tuyến phòng ngự ngang với đồn Nà Pá, gần Na Kheo, họ sợ chúng tôi phản công.Đại uý Jaugeon phải liên tục ẩn nấp để cho những đại đội và tiểu đoàn địch lên xuống đường số 4 trong đêm tối. Theo anh ta thì quân Việt Minh ở không xa với thung lũng Đông Khê. Sau trận chiến thắng, họ đợi sự phản ứng của chúng ta và sẵn sàng chiến đấu tại chỗ. Trong thời gian vừa đi, vừa trốn đại uý đã nghĩ đến sự bất hạnh có thể xảy đến. Khi đến gần cầu Bông Lau, anh bắt gặp một tốp lính dõng đang tắm giặt trong một con suối cạnh đường, anh cứ tưởng Thất Khê đã thất thủ rồi, theo như lời của đối phương gọi loa trong suốt thời gian tiến công Đông Khê, dễ làm cho quân Đông Khê mất hết tinh thần; Jaugeon bị sa sút tinh thần đến mức khi thấy bọn lính dõng, anh đưa cả hai tay lên đầu xin hàng, tưởng chừng như đã đến ngày tận số. Anh lấy làm sửng sốt khi thấy mấy anh lính Lê Dương chăm sóc anh và khuyến khích anh. Hiện nay anh chưa hồi sức, gầy như que củi, anh chưa đứng vững trên hai chân rạn đầy máu và đang bị sốt nặng.
Tóm lại, chúng ta hãy chờ đón những trận đánh ác liệt, và tôi yêu cầu các anh phải chỉ huy với sự cẩn thận, sự thận trọng tối đa, và phải hết sức tiết kiệm lực lượng, chúng ta rất cần đấy.
Nói xong, Đại tá chủ trương tổ chức một cuộc hành quân thăm dò bất ngờ và chớp nhoáng vào căn cứ hậu cần và căn cứ tập trung quân của Việt Minh ở Pò Mã.
Chúng tôi lên đường vào lúc 11 giờ đêm. Phân công tiểu đoàn dù 1 er BEP và tiểu đoàn Tabor của chúng tôi tiến công đi trước. Hai tiểu đoàn còn lại bảo vệ đường rút lui.
Nhiệm vụ là: tìm cách đánh úp quân Việt Minh, phá huỷ kho dự trữ lương thực và đạn dược đang tập trung ở Pò Mã. Tìm cách thu hồi hay phá huỷ những súng đại bác mà quân Việt Minh đã lấy được trong trận tiêu diệt đồn Đông Khê - những khẩu súng ấy hiện nay đang ở Pò Mã. Đây là những lệnh bằng giấy in rô-nê-ô. Các anh sẽ rõ các nhiệm vụ đi vào chi tiết, hẹn tối gặp nhau?
Tôi lợi dụng một ít thời gian được tự do để đi thăm Đại uý Jaugeon ở trạm quân y. Anh đặc biệt rất gầy và qua những câu chuyện tôi được biết Trung uý Loup đã chết vì mảnh đạn súng cối vào cuối trận đánh Đông Khê.
Để trở về đơn vị, tôi đi dọc theo cái lán, nơi Trung uý thầy thuốc Loup đã tiếp tôi như một người bạn thân. Nước mắt cứ trào ra mà tôi không thể nào cầm được.
Đại đội của tôi tập hợp ở chân đồi mà chúng tôi đã chiếm đóng từ đầu. Khi đến Thất Khê chúng tôi xuống núi lúc trời vừa tối. Để những quan sát viên Việt Minh không phát hiện sự bất thường, chúng tôi vẫn để đèn sáng trong đồn. Trong bóng đêm, hai tiểu đoàn đã diễu qua để bố trí theo đội hình của cuộc hành quân. Sương mù sớm bao phủ, và sau đấy trời mưa lâm thâm. Tiếng nện gót chân nặng thình thịch từ xa đến. Từ phía Thất Khê, đội tiền vệ của tiểu đoàn dù 1 er BEP đều vượt qua nơi chúng tôi đứng. Trong đêm tối, những anh lính Lê Dương to lớn, gọn gàng trong bộ quân phục dã chiến rằn ri. Họ đều mang súng cac -bin Mỹ hay tiểu liên mới của Pháp, họ làm chúng tôi kính nể.
Những đơn vị lướt qua như những bóng ma, chúng tôi có cảm giác họ đồng đều và dũng mãnh nhưng có lẽ không phải như vậy: trong những tiểu đoàn xung kích này, có mặt những lính nhảy dù Đức Quốc Xã khi đánh chiếm đảo Grête, những lính chiến Ba Lan của quân đoàn Ander, những lính bạch vệ của binh đoàn Vlassow, những lính quân tình nguyện trong lữ đoàn quốc tế chiến đấu trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha và những Cán bộ khung của tiểu đoàn xung kích lừng danh. Điều này cảm thấy khá rõ, mặc cho đêm tối như mực.
Bước đi nhẹ như bước chân mèo, hầu như không có tiếng động nhỏ ở đôi giày đế cao su dày cộp, từng người một lướt qua trước mặt chúng tôi; thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng than phiền của một vài dân phu lo bước theo không kịp, trong khi ấy lại phải mang vác đạn cối, đạn trọng liên với đôi chân nhỏ bước bên cạnh là những con người to lớn vạm vỡ như những hộ pháp.
Khi đi ngang gần tôi, một lính Lê Dương đánh một dân phu người Nùng một trận tơi bời, anh này bị lăn xuống bùn và đang lóp ngóp bò dậy. Tên Lê Dương tung ra mấy lời nguyền rủa, nó túm lấy bó đạn cối mà anh phu trẻ mang, như túm một chai rượu nho - Rồi trước khi tiếp tục đi theo đoàn, nó vùng chân đá, chú cu li lăn lông lốc về phía chúng tôi, rồi biến mất trong bóng tối.
Riêng với Trung uý Spor trong đại đội của ông, ông quy định cho toàn đại đội Tabor phải theo một quy luật nhất định. Mỗi lính Tabor có trách nhiệm bảo vệ một dân phu Việt Nam, phải lo cho họ ăn uống. Trung uý ra lệnh phát cho các tù binh những áo lót cũ và những đôi giầy ba ta mua ở chợ. Ông cũng không quên bắt buộc các lính Tabor phải kiểm soát ngặt nghèo, không để xảy ra một vụ đào ngũ nào. Chính cách ấy có một tác dụng rất tốt nó đã làm cho những dân phu có một số phản ứng đáng ngạc nhiên. Dẫn chứng là có một chú dân phu đã cứu một lính Tabor bị thương, bị bỏ rơi lại trận địa; có trường hợp một dân phu đã mang về một tiểu liên mà người chiến binh của ta bỏ lại trận địa khi bị loại ra khỏi vùng chiến đấu.
Hai lính Tabor đang chăm sóc chú dân phu trẻ bị đối xử tàn bạo, đang nằm rên rỉ trong một cái hố - anh chàng này đang bị sợ sệt nhiều hơn là bị đau. Trung uý Spor ra lệnh, cho anh ta ăn uống, và đề nghị anh này ở lại với đội Tabor; anh chàng thanh niên nhận lời và lần đầu tiên từ khi tôi đến Đông Dương, tôi thấy ở khoé mắt anh, loé ra một tia sáng về sự tỏ lòng biết ơn ... Trong bóng tối không biết tôi có nhầm tưởng hay không?
Cái tiểu đoàn trẻ - khoẻ và đầy hãnh diện lính dù Lê Dương ( 1 er BEP) đã đi qua. Chúng tôi nối đuôi theo họ trên con đường mòn khúc khuỷu xuyên qua hai thành vách đá vôi Rừng rậm um tùm trước khi vào thung lũng Pò Mã, một căn cứ kháng chiến Việt Minh.
Sương mù dày đặc đến mức mà chúng tôi phải nắm lấy tay nhau để khỏi thất lạc. Mọi ng¬ời đều phải đi một cách mò mẫm. Có một nơi, chỉ có một khúc gỗ bắc qua một cái ao bẩn thỉu màu xanh lục, bên cạnh một cái nhà dân. Anh Tabor M’Bark một thứ thần giữ của gớm guốc, một anh hề trong ban tham mưu, vừa là liên lạc viên không nhìn thấy thanh gỗ đã lao xuống ao và kêu thét lên. Chúng tôi kéo anh lên, đen thui thủi và đầy bùn, mọi người đều xỉ vả anh vì đã kêu to tiếng - Anh chàng xấu số được cho biết là anh có thể bước vào một "cái bẫy sập" và có nguy cơ bị những chông thuốc độc xuyên suốt. Hai hàm răng anh gõ vào nhau, anh hé một nụ cười mừng sự may mắn. Hai ông bạn đồng đội tình nguyện dìu cái cục hôi thối này. Trước mắt chúng tôi, liên tục có những người trượt và ngã để đuổi theo đoàn, có khi chạy 100 mét theo kiểu biểu diễn điền kinh, mặc cho sự may rủi. Bắt đầu mờ sáng, hai đại đội Tabor kia đã bố trí trên một mỏm đèo từ phía Nam, nhìn vào cánh đồng Pò Mã.
Anh M'Bark trước sự vui cười của các bạn, nhặt mấy miếng gỗ và cạo vào người- Trông anh giống như một con chuột cống.
Bên phải chúng tôi, tiểu đoàn dù 1 er BEP tiến về một mỏm núi đá cao ở phía Bắc cánh đồng. Sau cái pháo đài tự nhiên này, chúng ta thấy chìm trong sương mù, những quả núi đá lớn với cây cối rậm rạp - Ở đấy chúng tôi biết có vô số hang động để ẩn nấp tránh phi cơ và có thể xuất hiện bất thình lình những trung đoàn của tướng Giáp.
Tiểu đoàn dù 1 er BEP tiến rất nhanh, đội tiền vệ của nó gặp và nổ súng với vài lính Việt Minh. Họ rút lui và không chống cự. Bên trái chú Tabor Raval đến đúng nơi gặp một đại đội quân Việt Minh đang cắm trại ngoài trời. Họ bị hỗn loạn chạy nhốn nháo, một tên có vẻ là chỉ huy, ăn mặc oai vệ và đẹp hơn, lại có khẩu súng lục bên hông, y nhảy phốc lên một con ngựa Tàu rồi phóng nước đại, trước sự ngạc nhiên của lính Tabor, và để lại đằng sau quân lính của y "Sống chết mặc bay"?!
Đơn vị của tôi vào trong cánh đồng đến gần một xóm, nhà bỏ hoang. Dân làng đã cấp tốc tản cư. Chúng tôi nghe đằng sau núi đá Bồ Keo những tiếng khóc của trẻ con, phụ nữ và những tiếng trâu bò rống.
Lập tức quân địch có phản ứng. Họ bố trí những vũ khí hạng nặng và bắt đầu xối đạn vào chúng tôi, một trung đội của tiểu đoàn 1 er BEP đã tiến sâu vào tận chân núi đá Bồ Kèo bị những tổn thất nặng, họ buộc phải rút lui kéo lê theo những thương binh. Còn về phía chúng tôi: mấy anh Lê Dương đến bắt liên lạc và chúng tôi bị đều chặn đứng ở nơi dừng chân.
Đài vô tuyến điện của BEP báo tin là họ vừa húc phải một đoàn trâu mang theo đạn cối và mìn. Họ đang tìm cách phá huỷ những đạn dược này - tiếp theo nhiều tiếng nổ vọng đến từ cánh đồng trong suốt cả buổi sáng.
Chúng tôi bắt được hai người Tàu, mặc sơ mi vải ka ki màu nhạt, họ nằm rạp ở cánh đồng.
Chúng tôi hỏi qua phiên dịch- Họ chối không phải là chuyên viên quân sự bên cạnh quân Việt Minh, họ nói chỉ là những thường dân qua lại buôn bán ở Pò Mã. Chúng tôi cho canh gác cẩn mật.
Tình thế chúng tôi trở nên khó khăn. Một số quan sát viên bạn và chiếc bà già báo tin, có nhiều viện binh đối phương, đang dồn về cánh đồng và bắt đầu chiếm lĩnh các đỉnh núi đá- những chiếc máy bay tiêm kích Kinh - Cobra nhào lộn bắn vào quả núi đá lớn ởtrung tâm, mà chúng tôi không đánh. Mặt trời đã lên cao, Đại tá chỉ huy đã phải nghĩ đến chuyện thu quân.
Trước tiên, chúng tôi được lệnh thiêu huỷ các xóm nhà mà chúng tôi ở sáng nay, trong xóm có nhiều hố. Một đại đội Tabor được điều đến để làm nhiệm vụ trên, và giúp cho việc rút lui của đơn vị tôi.
Tất cả những diễn biến, dưới làn mưa đạn của đối phương càng lúc càng mãnh liệt, đã trở thành một sự lộn xộn.
Đại đội cuối cùng của tiểu đoàn dù 1 er BEP rút lui, bị quân Việt Minh bám sát. Họ biết rõ là ta có ý định rút lui- Về phía bên trái Đại đội của Raval đã biến mất ở phía sau cái đèo - sau đấy chúng tôi bị tràn ngập bên trái và bên phải bởi một đối thủ táo bạo. Tôi nhìn thấy cách đấy 300m, một trung đội lính Việt Minh chạy từng bước từng bước, hướng về phía chúng tôi. Họ không cần đến ngụy trang hình như họ muốn bao vây lấy chúng tôi.
Để tìm cách làm chậm bước tiến của quân địch, tôi ra lệnh đặt 1 trung liên ở cạnh.
Quân địch nằm rạp xuống ruộng, một đạn phóng lựu rơi gần chân tôi, may mà không nổ. Chú bắn trung liên bị một viên đạn vào vai. Chú tiếp đạn phải ôm lấy anh ta, tôi lập tức ôm lấy súng và bắn thay.
Chúng tôi gần như độc nhất còn lại ở trận địa. Phía trên một tí, gần đỉnh đèo, tôi nhìn thấy đài vô tuyến điện của đại đội, do hạ sĩ Jantier phụ trách đi theo có 2 lính Tabor và 4-5 dân phu. Họ có ý định vượt qua đoạn khó khăn, địch rút nhanh với bao thứ lỉnh kỉnh mà họ mang theo, một đạn cối nổ ngay giữa đám. Anh người Pháp đứng dậy, giúp một chú Tabor bị đẫm máu đứng lên, cùng với 2 dân phu cũng bị thương. Họ vượt được qua đỉnh đèo. Chú lính Tabor thứ 2 và 3 dân phu khác bị chết, người bị xé nát. Chúng tôi đến ngang tầm với họ. Một lát sau - những viên đạn cối rơi lác đác quanh chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi vượt sang bên kia đèo. Sự hỗn loạn đã đến tột cùng.
Từ những núi đá, lính tiền vệ Việt Minh chiếm ngay những nơi mà chúng tôi vừa rời bỏ lại và bắt đầu dùng liên thanh bắn dọc theo đường- Những đơn vị bạn rút lui rất nhanh, để khỏi bị ùn tắc ở nơi nguy hiểm. Họ rút lui một cách quá năng nổ đến nỗi người ngoài có cảm tưởng như bắt đầu một sự hỗn loạn chăng.
Với tốc độ ấy chúng tôi trở lại vùng an toàn, ở đây các tiểu đoàn bắt đầu chỉnh đốn lại đội ngũ.
Ngoài những lính bị thương nặng đã được sơ tán - đại đội tôi thiếu 2 lính Tabor không lấy được xác đem về. Thật là hổ thẹn, các trung đội thú nhận là đã để lại trên trận địa những xác chết. Tin ấy gây nên một sự rụng rời đối với các cựu chiến binh của đơn vị tôi.
Anh Spor làu nhàu nói!
- Trong một cuộc chiến tranh ở Tunisie ở đảo Corse, ở Pháp và ở Đức, chúng ta đều mang được về những người chết. Hay ít ra cũng đi nhặt lại các xác chết sau trận đánh. Bỏ lại xác chết là một dấu hiệu xấu.
- Đúng là rất xấu, Thượng sĩ Orsini hất cái đầu bù xù, du kích đảo Corse của anh, nói tiếp:
Đây là những lính Tabor chết đầu tiên ở mặt trận. Chiều đến, khi chúng tôi đã trở lại vị trí của ngày hôm trước, và khi bóng đen bao phủ doanh trại ngoài trời của chúng tôi, trung uý Spor tay chống vào cái dùi cui, mặt buồn rười rượi, anh cho tập hợp toàn đại đội và ra lệnh giữ một phút mặc niệm để tưởng nhớ những bạn chiến đấu bị bỏ lại ở Pò Mã. Cả tiểu đoàn không ai nhắc đến cuộc hành quân nữa. Chúng tôi làm như quên nó đi, và loại bỏ nó ra ngoài những chuyện trò.
Nhưng đến ngày thứ 3, anh Raval nói to lên ý nghĩ của những Cựu chiến binh của thời kháng chiến.
- Quân việt Minh có một sự nhạy cảm ghê gớm, họ biết đầy đủ và biết khai thác những sơ suất nhỏ của đối phương.
Họ thực sự là những người lính. Trên đây là những bài học của cuộc hành binh vào vùng Pò Mã.
CHƯƠNG 16
TRÊN CON ĐƯỜNG THÍ MẠNG
TRÊN CON ĐƯỜNG THÍ MẠNG
Từ hai ngày nay, mưa như trút, những cái lều bằng tre lợp lá bị rách nát tứ phía. Chúng tôi để ở một góc khô ráo những quân trang quý. Đêm đến, mọi người đều run lên vì lưng và đầu ướt át. Vị trí chúng tôi ở phía Bắc Thất Khê, đã trở thành một vùng bùn lầy nhầy, và sự xói mòn của nước mưa đã biến những vị trí súng máy, vị trí đứng gác thành những vũng nước vàng. Việc canh gác trở thành một cực hình.
Anh Loubès với giọng the thé của người cảm lạnh càu nhàu:
- Người ta còn kể, lính của đại chiến lần thứ nhất phải ở trong đường hầm hàng tháng, trong cái rét còn ghê gớm hơn.
- Xin kính chào sát đất với họ.
Bốn anh Trung đội trưởng và tôi, chúng tôi vây quanh cái lều nhỏ bé của anh Spor, anh đang mở tấm bản đồ, anh bình tĩnh nói:
- Chúng ta hãy làm một cú đánh úp! Chúng ta phải làm một việc tế nhị ...
Anh Orsini nói càu nhàu:
- Để không đi đến đâu cả, phải không?
Anh Spor cắt ngang
- Hãy im đi, lạ gì các anh, bao giờ anh cũng có cái gì đó để nói...
- Trừ khi cấm người khác nói sự thực!
Anh Spor trả lời bằng một cái nhún vai mạnh mẽ, những hạ sĩ quan cười về sự cãi cọ nội bộ thường hay xảy ra như vậy.
Spor tiếp tục ngón tay xù xì của anh chỉ trên tấm bản đồ 1/50000. Chúng tôi khó khăn lắm mới theo dõi được sự chỉ dẫn đường đi trên bản đồ của anh chúng tôi phải nghe cơ man những giải thích của người lính già cẩn thận, tỉ mẩn anh nói:
- Chúng ta sẽ đi theo đỉnh núi ở phía Đông của Nà Tia- Bản Mị (vĩ tuyến 605-742) để vòng phía sau các làng này, việc này tiến hành trong đêm. Sáng đến, chúng ta sẽ lục soát làng, xong rồi chúng ta sẽ trở lại Thất Khê theo dọc sông Kỳ Cùng, đi càn qua một số bản làng và bờ sông, mục đích là thu thập tin tức, và nếu có thể chèn cổ một số gián điệp, một số quan sát viên Việt Minh nằm vùng nơi đây.
Anh Spor còn dành một thời gian dài để bổ sung những chi tiết, có khi không cần thiết. Những con chó ướt mèm như chúng tôi lúc bấy giờ lủi thủi trở về nơi cái ổ ẩm ướt của mình. Không bao giờ cấp trên nghĩ đến việc cho chúng tôi được nghỉ ngơi, cắm trại một cách văn minh.
Orsini lại một lần nữa lẩm bẩm:
- Cứ lải nhải mãi một điều không hành quân thì chết toi, cái xứ chết tiệt này cái nghề chết tiệt này.
Bây giờ là 2 giờ sáng, trong sự yên tĩnh tương đối, chúng tôi tập hợp. Trời vẫn mưa. Phải mất một giờ để xuống núi, và để đi bộ 800m đến con đường đi từ Pắc Kéo đến Thất Khê. Con đường mòn mà chúng tôi bỏ công sửa chữa những ngày trước đây, nay trở thành một con đường trượt băng - vài chú Tabor không ngại gì mà không cho trượt bằng cái mông của mình còn hơn là để lộn nhào 2-3 vòng liền. Một chú trong khi ngã đánh tuột khẩu tiểu liên, chúng tôi lại phải dừng lại dùng đèn pin mò tìm, trò chơi tìm bắt này mất 10 phút. Gần đến đường, tôi bị ngã vỡ mặt, anh Spor kêu lên:
- Arioul (Đồ con lừa)! Ông tưởng là một chú Tabor vụng về nào đang bị nôn oẹ.
Hai chú Tabor vực đỡ tôi dậy. Tôi tin là chúng đang cười chế giễu tôi, tôi không thấy mặt chúng nó - mặc cho đất còn bám đầy mặt tôi, tôi gọi khẽ anh Spor bằng tiếng Ả Rập.
- Ana-arioul? Yalatif! (thật xấu hổ, anh gọi tôi là con lừa! )
Tiếng cười rúc rích, xung quanh tôi.
Tôi vẫn giữ cái lạc quan vui đời trong suốt cuộc hành quân đầy cáu ghét và mưa bụi này.
Chúng tôi đã lên đến Đường số 4 - theo hàng dọc, chúng tôi tiến lên phía cầu Bông Lau - rồi trước cái đồn ấy, chúng tôi rẽ sang trái để lên cái đồn phía Bắc của Thất Khê. Ở đấy đã có mặt Đại uý chỉ huy phó tiểu đoàn, anh là chỉ huy trưởng của cuộc hành quân, và một đại đội Tabor phòng để yểm trợ và bảo vệ lúc rút lui. Vì chúng tôi không tìm thấy nơi lọt qua suối của lính đồn, để lội qua cái suối sâu chảy song song với Đường số 4, chúng tôi băng qua suối, nước sâu đến bụng. Việc ấy không hề gì, vì chúng tôi đều ướt đẫm như những bộ áo quần bị ngâm trong chậu nước. Có thể nói, chúng tôi thực hiện 2 lần tắm, một lần tắm đầm nước cạn, một lần tắm dưới Hoa Sen. Tôi cũng lợi dụng qua suối để rũ hết đất ở đằng sau lưng, biết rằng không cẩn thận có thể bỉ sưng phổi như chơi. Điều ấy may đã không xảy ra. Trái lại sự cọ kị ở sau lưng đã làm cho tôi bớt một sự khó chịu trong đầu - phải chăng đó là một cách chữa bệnh theo vi lượng đồng cặn.
Lên đến đồn, chúng tôi nghỉ mấy phút, lúc này là 5 giờ sáng, chúng tôi yên lặng biến vào rừng và vừa đi vừa chặt cây để mở đường.
Anh đại đội trưởng đi trước, chúng tôi xuyên qua rừng rậm, ẩm ướt, may mắn chúng tôi đến một thửa ruộng lúa bao quanh một quả đồi. Chúng tôi đã đến đúng mục tiêu của mình, thêm một lần anh Spor đã tỏ ra là có một sự nhạy bén đặc biệt.
Làng Nà Tia lập tức bị bao vây, không có ai ở trong làng, trừ một cụ già, bố của một lính dõng; ông cụ bị quân Việt Minh dọa bắn chết. ông muốn tự đặt dưới sự che chở của chúng ta, ông nói:
- Có nhiều quân Việt Minh. Có chừng một tiểu đoàn đóng ở Nà Tia và ở Pắc Kọ trong những ngày gần đây, ngày 24/9 họ đã gấp rút lùi về hướng Đông Khê. Có tất cả 2 đại đội Việt Minh, 1 đại đội người da trắng và một khẩu trọng liên.
Ý kiến cuối cùng của cụ làm chúng tôi ngạc nhiên; mặc cho thái độ nghi ngờ của chúng tôi, ông cụ với bộ râu trắng xoá, chỉ trỏ cho chú thông ngôn, cái đầu to, tròn của Loubès để chứng tỏ cụ muốn nói gì về "người da trắng" .
Chúng tôi rút lui nhanh chóng theo một con đường làng song song với sông Kỳ Cùng. Dọc theo bờ sông, quân Việt Minh có làm một số công sự phòng ngự nghiêm chỉnh, không thiếu một thứ gì: nào là hố cá nhân, hầm có nắp, vị trí súng cối, súng liên thanh. Chúng tôi kết luận là ông già nói đúng sự thực. ít ra cũng đúng một phần. ông cụ đi nhanh nhẹn sau anh dân phu mang điện đài, và vừa nhai kẹo sôcôla, ông chỉ các công sự và vung tay để tỏ ra rằng ông không nói sai.
Về đến ngang làng Pác Kó, chúng tôi gặp một tổ 6 - 7 lính Việt Minh bỏ chạy trốn và biến mất vào trong rừng. Mặc cho cách lùng sục rất khoa học, chúng tôi chỉ bắt được một chú, may mà trúng tủ.
Anh này đội một mũ Calo như một du kích, anh ta nói anh ta bỏ chạy vì tưởng chúng tôi là quân Việt Minh. Khi lục trong người, chúng tôi tìm thấy một mệnh lệnh vừa ban hành ngay ngày hôm ấy do một tiểu đoàn trưởng ký. Chộp được một món bở!
Trận đánh úp đã kết thúc, lính Tabor vui vẻ trao đổi những lời đùa cợt. Trung uý Spor biểu lộ sự phấn khởi bằng cách cho phép 2 hạ sĩ quan dùng vài quả lựu đạn ném xuống suối! Hàng ngàn con cá trắng xoá nổi lên mặt nước và hơn 170 tên Tabor xô vào cướp cá. Trong những bùn lầy nhầy, nổi lên xác một nông dân chết, trần truồng, hai tay trói về sau lưng, Trung sĩ Britaud trước cảnh tưởng đùa cợt nói: Không lấy gì làm lạ, thật là nhiều thứ cá - Không bao giờ thiếu thức ăn trong con sông này!
Bất thình lình, ngày 30 tháng 9, vào buổi chiều, một lệnh đến với chúng tôi: Tối nay, binh đoàn Lepage gồm có 4 tiểu đoàn cộng với một số đơn vị trực thuộc (không có pháo binh) sẽ lên đường đi Đông Khê.
Đại uý Enjalbert, quân y trưởng của tiểu đoàn ra lệnh cấm tiểu đoàn trưởng tham gia cuộc hành binh, vì lẽ ông này đang bị một vết thương tấy ở chân, phải đi cà nhót mấy ngày hôm nay. Nhưng Tiểu đoàn trưởng cứng đầu vẫn muốn đi theo đoàn.
Đại uý Enjalbert nói: tôi không chịu trách nhiệm nếu ông cứ hành quân.
Trung tá đáp lại:
Tất nhiên, tôi không theo lời anh, các anh không thể tin là tôi phải bỏ các chiến hữu của tôi, khi mà tình thế trở nên nghiêm trọng?
Vì anh Battars không chịu nổi cái khí hậu chết người của xứ này, nên được thay thế bằng anh Barra, làm phó của đại đội tôi Anh này tính hay nhạo báng, bi quan, nhưng ai cũng khâm phục tinh thần dũng cảm và dám làm của anh. Anh Rochefort miễn cưỡng phải nhận nhiệm vụ ở lại Thất Khê bảo đảm hậu cần cho cả tiểu đoàn Tabor.
Mỗi người nhận 2 cơ số đạn và ba ngày lương khô. Điều này nói lên cuộc hành quân sẽ dài - Kinh nghiệm về cuộc hành binh ra vùng Pò Mã khiến chúng tôi nghĩ đây là một việc gay go ...?
Tiểu đoàn Tabor của tôi đi đầu binh đoàn Lepage, nhiệm vụ chúng tôi là mở đường giữa núi 703 (ở đây tiểu đoàn Tabor 11 đang chiếm giữ) và núi 600, phía Bắc của đèo Lũng Phầy. Tóm lại chúng tôi làm nhiệm vụ hướng đạo dẫn đường.
Trời bắt đầu chiều, các đại đội Tabor của chúng tôi lên Đường số 4 đi theo hàng dọc. Những khinh binh mấu chết là Trung uý công binh Legall và Trung uý Villeneuve, trong bóng cây, các anh mò mẫm tìm đường. Trên đường đi cứ 100m lại có những cây chặt nằm ngang, phải kiểm tra những cây cành um tùm để phát hiện đề phòng sự gài bẫy của địch.
Nhờ có sự kiên trì, dũng cảm của đội quân tiên phong này, cả tiểu đoàn đi đến mục tiêu đã định lúc mờ sáng.
Quân Việt Minh - không bộc lộ sự có mặt của họ không có một phát súng nào đã nổ, tiểu đoàn Tabor chiếm mỏm 600, đóng quân ở các đỉnh núi dọc theo đường từ cây số 79 đến cây số 82 tiếp theo, tiểu đoàn lính Maroc (8 e RTM) và tiểu đoàn dù Lê Dương ( 1 e BEP) vượt qua chúng tôi vàtiến lên phía Bắc, đi theo có 2 đại đội Tabor ( 11 e Tabor). Hai đại đội của tiểu đoàn này ( 11 e Tabor) thay chúng tôi ở chết600 và chúng tôi đì theo binh đoàn ở vị trí tập hậu.
Vào khoảng 1 giờ, chúng tôi đến ngang với núi Nà Kheo, dãy núi tạo một bóng đen che phía sau là vùng Pò Mã. Tiểu đoàn dù 1 e BEP, cách đấy 1 cây số ở phía Bắc đang chiếm mỏm 515. Họ không gặp địch. Việc không thấy một phản ứng nào của quân địch làm cho thần kinh chúng tôi căng thẳng, trong lúc này như có một thứ tâm lý là muốn có sự đụng độ, nó trở thành một nhu cầu. Không ai thích cái im lặng, dai dẳng và thù địch này.
Hai đại đội Tabor của tiểu đoàn 11 (đại đội 5 và 1 đại đội trợ chiến) đóng ở Nà Kheo cũng ở trong tình trạng: không chạm một tiếng súng ở độ cao của đồn Nà Pá bỏ hoang ở chân núi 600 rậm rạp, có rất nhiều hố cá nhân, hầm "tăng sê", có lẽ là những dấu vết về sự hiện diện của quân địch.
Chúng tôi có cảm giác là quân Việt Minh ở không xa so với chúng tôi - Chiếc "Bà Già" phát hiện sự vận động đi lại của quân Việt Minh trong vùng núi đá Pò Mã.
Trong các đại đội, chúng tôi không được biết nhiều về nhiệm vụ của binh đoàn Lepage. Có tiếng đồn lan tràn là chúng tôi vừa làm xong một hành động tiêu biểu:
Đó là chiếm lại đồn Đông Khê, sau đấy lại vĩnh viễn rời bỏ đồn, sau khi đã làm lễ kéo cái cờ tam tài lên đống gạch đổ nát. Chúng tôi thấy thật là vô ích và nguy hiểm, và nghĩ rằng chỉ huy cấp trên muốn rằng cuộc xuất quân lần này là nhằm mục đích thăm dò đối phương, và buộc đối phương phải bộc lộ ý đồ. Chúng tôi không có ý nghĩ gì đặc biệt đốivới đội quân chiếm Cao Bằng! chúng tôi đặt giả thiết là cuộchành quân nghi binh sẽ nhằm mục đích đánh lạc hướng và thực hiện việc sơ tán quân chiếm đóng Cao Bằng bằng một cầu hàng không. Chúng tôi cũng nhận biết tin là tiểu đoàn 3 e Tabor được đưa lên Cao Bằng bằng máy bay. Tin này làm chúng tôi lúng túng, vì chúng tôi thấy ngạc nhiên tại sao lại gửi quân mới đến một nơi sắp phải rời bỏ. Phải chăng đây là một mưu mẹo quân sự để đánh lừa tướng Giáp là quân đội .Pháp quyết tâm ở lại Cao Bằng? Tiểu đoàn 3 e Tabor là mộtđơn vị nhẹ, cơ động nhanh, sau khi quân đồn trú Cao Bằng đã sơ tán xong, có thể lợi dụng trong một đêm tối thuận lợi, chuồn về phía Nam theo các con đường xuyên sơn.
Những đại đội Tabor khác của tiểu đoàn đóng quân ở sườn núi dọc theo đường cái - Chúng có nhiệm vụ là tiến vào đồn Đông Khê vào sáng sớm 2/10/1950. Các đại đội của Tiểu đoàn 8 e RTM, đóng quân hai bên đường ở phía Nam của Nà Kheo, để cảnh giới và để yểm trợ bằng hoả lực. Riêng đại đội của tôi, nhận nhiệm vụ đóng quân trên 1 mỏm núi có rừng rậm, đối diện với Nà Kheo, mục đích là để đề phòng sự xâm nhập của quân đối phương từ hướng Tây. Chúng tôi là đơn vị độc nhất ở tư thế sẵn sàng chiến đấu về phía hướng này, vì lẽ phần lớn lực lượng của quân đối phương đều tập trung ở phía Đông, vùng Pò Mã và ở gần biên giới Việt Trung.
Trời đã bắt đầu tối, chúng tôi bắt đầu leo lên quả núi có rừng rậm. Một cuộc hành quân đi vào một hiểm địa. Những cây lớn dùng làm lọng che kín cho những cây cối bên dưới vừa dày đặc vừa gai góc. Vô số các đường ở đáy lũng và núi đá rất thuận lợi cho tổ chức những trận địa phục kích. Chúng tôi đi hàng giờ, một cách mò mẫm, dưới mưa, để cuối cùng dừng lại trên một đường mòn đi vào một lối cụt. Chúng tôi đang tìm lối thoát đợi đến sáng mai.
Có mấy chú Tabor gọi nhỏ: Họ vừa tìm thấy một số lán bằng tre - lá do quân Việt Minh làm để ngủ đêm trong những vùng này. Ngủ trên những nền của trâu bò là rất nguy hiểm, vì chúng ta có thể bị nhiễm nhiều thứ bệnh, không kể đến việc bị vô số con côn trùng, sâu bọ cắn, chích như: kiến đỏ nhện, rắn, rết, đỉa, vắt, mọt ẩm v.v...
Chúng tôi nằm chồng chất và nặng trĩu lên những cái giường may phúc mà vớ được. Trời tiếp tục mưa, mặt đất ướt đẫm, mỗi chúng tôi đều tìm một góc trên những cái giường quen thuộc này.
Vào nửa đêm, một tiếng động dễ sợ của những cành cây bị bẻ gãy, làm thức tỉnh cả đại đội, một lính gác hốt hoảng bắn luôn 1 băng đạn tiểu liên. Hàng chục lính Tabor lõm bõm trong nước, để rút ra khỏi cái bùng nhùng trong ấy nào là người, nào là cành tre, lá cây... đây là cái giường bẫy. Những sự ngứa ngáy khó chịu ở chân làm thức tỉnh những hảo hán Tabor, mặc cho bao chuyện đã xảy ra, mặc cho điều kiện tiện nghi thiếu thốn. Đêm nay chúng tôi mới phát hiện ra một đối thủ ghê gớm của núi rừng vùng biên giới: đó là các chú vắt.
CHƯƠNG 17
TRÊN QUẢ ĐỒI RÁCH NÁT
TRÊN QUẢ ĐỒI RÁCH NÁT
Chúng tôi đang tản mát trên sườn núi đối diện với Nà Kheo và đồn Nà Pá. Từ tinh mơ người của chúng tôi đang chặt cây để mở những mặt trên cái nền trần xanh thẫm đang phủ lên chúng tôi. Spor đã cho đi khắp các ngõ, những đội tuần tra để trinh sát tình hình. Những đội này về báo cáo là không thấy một bóng ma, nhưng đều nói là có rất nhiều đường nhỏ chạy từ các đỉnh núi xuống để cho Việt Minh có thể thâm nhập vào.
Anh chàng Pontet làm cho chúng tôi vui lên bằng một màn kịch kỳ cục: Anh này đang dựa vào một cây mục, vừa nhai miếng bánh quy, tự nhiên thân cây mà anh ta đang dựa đổ gục. Từ một cành lớn của cây một ổ kiến đổ ngập lên người anh ta, làm cho anh ta bị ngã lăn ra và kêu gào thảm. thiết. Chúng tôi trước cảnh tượng, nực cười đến vỡ bụng, đến nỗi không nghĩ đến cả cấp cứu cho Pontet. Anh này tuột hết quần áo, để rũ hàng ngàn con kiến đỏ nhỏ xíu nhưng rất độc địa đang cắn xé anh ta.
Chàng Piteaux và Loubès vội vã chạy vòng quanh anh ta, vừa đập phủi đàn kiến.
Độ 16h, 3 Junkers 52 từ Hà Nội lên thả xuống ở một điểm thả dù dã chiến, hai khẩu sơn pháo ( 3 pouces 7) và khẩu đội của nó. Trung uý, chỉ huy Trung đội, một số Hạ sĩ quan và pháo thủ, chưa bao giờ học nhảy dù, thế mà lần này họ tình nguyện nhảy. Họ đã nhảy rất khá.
Theo đài vô tuyến, chúng tôi chú ý theo dõi bước tiến của tiểu đoàn dù Lê Dương ( 1 er BEP). Họ đang tiến về hướng Đông Khê - toán Lê Dương không còn xa pháo đài lắm và không gặp một sự chống cự nào đáng kể. Họa chăng một vài cuộc chạm súng nhỏ.
Hai đại đội thuộc tiểu đoàn Tabor của chúng tôi đã đến đồn phía Tây và cũng không xảy ra đánh nhau.
Chiếc Morane lượn vòng và bay là là mặt đất ở trên khoảng đất bỏ hoang, báo tin là quân địch đang chiếm vùng xung quanh. Nó phát hiện những nhóm người tìm cách lẩn trốn khi máy bay lại gần. Chúng tôi còn nghe tiếng chuông từ đài quan sát do đồn phía Tây đặt. Họ báo cho biết có những bóng người khả nghi lảng vảng gần pháo đài. Có thể không phải là dân thường.
Theo đề nghị của đại tá Lepage, chiếc Morane làm một tuần trinh sát nhỏ khoảng giữa Pò Mã và Nà Kheo: nó phát hiện ra điều bí mật.
Tôi thấy chừng độ 100 Việt Minh đang di chuyển từ vùng núi đá Pò Mã về Nà Kheo.
Rồi tin :
- Có thể đến một đại đội
Lại có thêm tin:
- Đông đến một tiểu đoàn.
Và:
- Chúng rất đông, đâu cũng có, đang kéo về Nà Kheo, thành từng đoàn, song. Chúng lẩn tránh khi máy bay lại gần. Chúng đi rất nhanh, chúng đông, đông lắm!
Đại tá Lepage lập tức yêu cầu không quân viện trợ gấp.
Không quân đã không chậm trễ, những khu trục bổ nhào, lồng lộn bắn xả trút bão lửa vào các thung lũng chạy về hướng Đường số 4. Đến giây cuối cùng chúng thả hết những quả bom cuối cùng và xả những băng đạn còn lại vào những mục tiêu của chúng.
Trời lúc ấy là 18 giờ.
Trung uý chỉ huy đại đội 5 và những bộ phận tăng cường nhìn thấy kẻ địch đang lại gần qua ống nhòm. Họ biết là sắp phải đương đầu với những cú đấm đầu tiên. Họ lo việc chuẩn bị đối phó một cách tích cực, họ đào những hố cá nhân và những công sự đặt súng liên thanh.
Trước lúc trời tối, bộ phận đi trước của đối phương, tiến bí mật dưới bóng cây, họ tấn công bất ngờ một đại đội của tiểu đoàn 8 bộ binh đang làm công sự ở chân núi Nà Kheo. Chúng đánh quị chúng ta trong nháy mắt. Đại đội trưởng củachúng ta bị bắt làm tù binh- cùng một số khác là lính và sĩ quan nữa. Nhiều người tử trận. Hai trung đội lính Ma rốc do một Trung uý chỉ huy xuống Đường số 4, lúc ấy đang không có địch, họ chạy việt giã về Thất Khê, không cần nghĩ gì đến những người còn lại của mình.
Đấy là sự mở màn, đáng khích lệ chăng?!
Một buổi sáng tàn bạo: quân Việt Minh tấn công lồng lộn. Đây là lời kể lại của những người sống sót. Họ xông lên theo tiếng kèn xung trận với một khí thế, một quyết tâm chiến thắng tuyệt vời. Chỉ trong vài phút, bất chấp sừ thiệt hại, họ bao vây chúng ta, bắt nhiều tù binh, giết hết những ai còn lại, lăn xả vào chúng ta trong một cảnh hỗn độn vừa thét lên những tiếng kêu của kẻ chiến thắng.
Đêm đến, Tiểu đoàn Lê Dương dù (3 e BEP) báo tin là đại đội đi đầu đang bị bám chặt ở cách pháo đài Đông Khê chừng 2 cây số. Đại đội trưởng chỉ huy xin phép bố trí thành thế phòng ngự cho buổi đêm, để hôm sau có thể hoạt động chắc chắn hơn. Đại tá Lepage đồng ý.
Đạn súng liên thanh của quân Việt Minh bắt đầu quét lên đỉnh Nà Kheo. Những viên đạn cối đầu tiên nổ trên trận địa của chúng ta, và vùng lân cận, đạn bắn chưa chính xác lắm...
Trời gần như tối hẳn, một tổ khu trục cơ bắn những băng đạn cuối cùng vào hàng ngũ địch đang dồn dập đến, và biến mất ở chân trời, sau khi vẫy cánh hữu nghị chào chúng tôi. Những phi công chiều nay chắc sẽ kể chuyện lại trong nhà ăn sĩ quan ở Hà Nội.
Trên ấy chắc sẽ đánh to. Việt Minh đông nghịt. Chúng đang muốn gì đấy!
Chú phiên dịch của đại đội Tabor được một hạ sĩ quan vô tuyến điện gọi đến để dò nghe ở đài 694, những tiếng chỉ huy bằng tiếng Việt, có lúc là tiếng Trung Quốc, rất gần. Dịch qua lại tìm làn sóng của đài, qua tiếng của đài Anh, chúng tôi biết được một tin quan trọng liên quan đến nhiệm vụ chính của chúng tôi !!!
" Đây là đài BBC phát đi từ Singapor, chúng tôi vừa được tin quân đồn trú của Pháp ở Cao Bằng đang rút lui và cũng được tin: một binh đoàn từ Thất Khê đang ngược Đường số 4 lên đón đoàn quân đang rút lui. Mọi việc đang diễn biến theo kế hoạch đã hoạch định?".
Tất cả chúng tôi đều xúc động biết rõ số phận của mình nhận được qua một đài nước ngoài, cái tin mà nhất định phía Việt Minh cũng nghiền ngẫm theo dõi và khai thác!
Thế là các chiến hữu của ta đang từ Cao Bằng rút về. Cũng biết là đại tá Charton cũng có ba tiểu đoàn (tiểu đoàn 3, trung đoàn 3 Lê Dương (III/3 REI), tiểu đoàn 3 Tabor (3 e Tabor ), tiểu đoàn dõng Cao Bằng). Chúng tôi nghĩ là quân Việt Minh không thể ngăn cản chúng tôi trong việc thực hiện kế hoạch hành quân này, mặc dù họ cố bám chặt một cách cuồng tín, hơn hẳn ta về quân số: bảy tiểu đoàn của chúng ta đều đã qua huấn luyện, là một lực lượng đáng kể rõ ràng là chúng ta: đều về pháo binh, chỉ có 2 khẩu sơn pháo, 3 poucest, nhưng chúng ta còn có không quân mà chúng ta hết sức tin cậy.
Chúng tôi biết trận chiến sẽ khốc liệt và đẫm máu, nhưng chúng tôi đã sẵn sàng.
Trong suốt đêm trên núi Nà Kheo đã diễn ra những trận chiến ác liệt mà ở đấy đại đội Tabor của chúng tôi luôn phải đương đầu với những đợt tiến công mãnh liệt của quân đội Việt Minh - những đường đạn đỏ, vàng của những đạn vạch mục tiêu, đang đan thành chùm lộn xộn trên đỉnh ngọn đồi xơ xác mà quân ta đang cứng đầu bám chặt.
Quân chiếm giữ Nà Kheo, họ quên cả sự sợ sệt và quên cả những lập luận rời rạc có khi đầy tính bi quan, báo hiệu cho những trận đánh ác liệt trên mảnh đất thù địch này.
Bị lôi cuốn theo nhiệm vụ, họ đã khẳng định được trách nhiệm của mình, chiều hôm nay là phải giữ cho kỳ được vị trí then chốt này là nơi mở màn cho một trận chiến lớn.Cũng ở ngọn núi Nà Kheo này, quân đội Việt Minh cũng quyết chiến bằng mọi cách, cắt đút đường số 4. Từ kết quả của trận chiến đấu ác liệt này, tuỳ thuộc sinh mệnh của 5000 quân tham chiến.
Dần dần lực lượng quân bao vây, giảm dần sự xiết chặt của họ.
Có khi họ đã bị những tổn thất nặng nề. Quân của đại đội Tabor (5e) hết đạn, họ phải dùng đến bạch binh để chiến đấu. Họ dùng ngay cả những quả lựu đạn mà quân đội Việt Minh đã ném vào hố cá nhân của họ để ném lại. Điều mà chúng ta hay thấy ở những cuốn phim kể về những cuộc chiến đấu hào hùng.
Trung uý Rebours, chỉ huy đại đội Tabor, đã hy sinh một cách oanh liệt.
Phó của ông là Trung uý Rigault de Casanove bị thương nặng, nhiều binh lính và sĩ quan bị thương hoặc là chết.
Trời tờ mờ sáng, những người sống sót chỉ còn 1/3 của ngày hôm trước nhưng họ vẫn giữ vững trận địa trên đỉnh núi Nà Kheo.
CHƯƠNG 18
TRƯỢT VỀ HƯỚNG TÂY
TRƯỢT VỀ HƯỚNG TÂY
Vô thức, một sớm tinh mơ trong một trang phục suông sẻ, vừa hồng, vừa xanh lam.
Những khẩu trung liên Skoda của Việt Minh và những khẩu 24/29 của chúng ta đang đấu với nhau như mèo với chuột trên quả núi Nà Kheo đẫm máu mà một đại đội của tiểu đoàn dù số 1 ( 1 er BEP) đang chiếm giữ.
Chúng tôi đang lần lên Đường số 4 theo hướng Bắc, xa xa là một quả núi đá đứng sững, che đằng sau nó là cái thung lũng đồn Đông Khê - chúng tôi không tài nào vào được cái thung lũng này vì trên những chân núi đá trông như những ổ mối khổng lồ, đã bố trí sẵn những vũ khí nặng và những toán quân đông vô kể. Nhiệm vụ của chúng tôi bây giờ là đi vòng theo hướng Tây Nam, để đến tối leo lên được hai quả núi đất đầy cỏ mọc, đó là núi 760-765.
Thiên thần giáng trần và tai ác nào đã ám ảnh mảnh đất thối rữa đang bày ra trước những cặp mắt đỏ khè vì mất ngủ của chúng tôi. Hung thần nào đã tạo nên cái cảnh kinh hoàng này, nó làm rung động cả những con người lạnh lùng nhất trong chúng tôi, như anh thượng sĩ Loubès, con người rắn rỏi, không gì làm xoay chuyển nổi, luôn có cái cười lè nhè. Vừa run sợ, chúng tôi đi dọc theo mỏm núi đá cũ kỹ, bao bọc bởi dây ngàn dày đặc và chắc nịch mà qua đấy, chúng tôi tìm đường đi, như những chú Thỏ đi tìm hang.
Trên mặt đất ẩm ướt bị cày lên bởi những đế dày mục nát của chúng tôi, rỉ ra một thứ nước bùn, vàng vàng, chúng tôi bị trượt ngã lên ngã xuống, kêu la thất thanh. Chúng tôi chạy nước kiệu như những con lừa cao cẳng xuyên qua lùm cây dày đặc mà chúng tôi chui qua, trong ấy lắng đọng một mùi hôi thối của những xác trâu chết mà bụng trương to, rải rác cùng với các gốc cây đầy tổ kiến. Chúng tôi thấy những nhà sàn của dân miền núi bỏ hoang, mà dây rừng đang bao phủ- thân nhà đã rêu phong và xà nhà đã mục nát.
Cỏ dại đang mọc đầy trên những đất khô cằn của những ruộng lúa lâu nay bỏ hoang.
Không một bóng người, một bóng súc vật, không một bóng thú rừng kể cả chim chóc, phải chăng các sinh vật không muốn sống trong những cái nghĩa địa này. Quả là một khung cảnh mơ ước của mụ phù thuỷ già có âm mưu đen tối hay một nhà giả Kim điên rồ đang nhào lộn từ đất thối với một thứ kim loại ma quỷ, nhưng tất cả những thứ trên đây lại như quá hài và tự nhiên.
Bây giờ, chỉ còn một cây tre che chở cho cái đồn phía Tây của pháo đài Đông Khê.
Từ 2 hôm trước đây, hai đại đội thuộc tiểu đoàn Tabor của chúng tôi đã trụ được một cách dũng cảm trong những công trình đổ nát của đồn này, nhưng vẫn không tài nào vào được pháo đài Đông Khê được bảo vệ chắc chắn bởi một lực lượng khá đông quân Việt Minh.
Spor cùng vài người nữa và tôi, chúng tôi leo lên gốc cây để tìm cách quan sát cái trận địa gập ghềnh xung quanh chúng tôi.
Một đội máy bay tiêm kích Kinh - Cobra bổ nhào xuống Đông khê, rít lên, ai cũng tưởng Đông Khê chỉ còn là một cái xác chết và bị bỏ rơi, thế mà, khi máy bay vừa bay khuất, lập tức thấy những bóng người chạy trên đồn đi từ đống đổ nát này sang đống đổ nát khác.
- Ở vùng phủ cận đồn phía Tây, có tiếng súng kéo dài, chúng tôi có thể thấy từng chùm đạn lửa đỏ rực cả bầu trời.
- Ở bên trái chúng tôi một đường chạy trong thung lũng sâu hoắm và tối đen, ngăn cách chúng tôi với cái sườn núi cao đứng, rậm rạp của quả núi 765.
Luôn theo hàng dọc, chúng tôi xuyên qua đám rừng của cái ngách ngăn cách chúng tôi với những quả núi lớn và chúng tôi xuất hiện bất thình lình ở mỏm đầu của quả núi 765, gần con đường nhỏ đi về đồn phía Tây của Đông Khê, mà ở đấy các bạn chiến đấu của các đại đội Tabor đang phải đẩy lùi đợt tiến công này đến đợt tiến công khác.
Đại đội trưởng Spor ra lệnh.
- Anh thượng sĩ Loubès hãy mang theo một trung đội tăng cường đi theo đường hướng về những người đang được lệnh tiến về phía chúng ta: Còn lại, đại bộ phận của đại đội, thì dừng lại, củng cố công sự phòng ngự, hướng về phía Đông.
Loubès lập tức thi hành lệnh. Với bước đi chắc nịch của con người khoẻ mạnh, anh biến ngay vào rừng cùng với chiến sĩ của anh, một cái gì đó không bình thường có cơ xảy ra.
Từ đài quan sát, chúng tôi phát hiện một đoàn quân dài, ở ngoài tầm súng đang tiến lên. Đoàn quân tiến về phía pháo đài nơi mà không quân không bắn phá nữa. Gần như khắp nơi những tiếng súng nổ lẻ tẻ, lộn xộn. Đáp lại là những tràng liên thanh - sau đấy là sự im bặt.
Lút trong rừng rậm, địch và ta đều khó nhìn thấy nhau như những thú rừng đang lẫn vào đám cỏ rậm.
Dưới chân chúng tôi vào khoảng xa chừng 500m, chúng tôi nghe tiếng kêu của một số người hốt hoảng vừa bị vây khốn, chui tù rừng rậm ra... Đó là Hirsute ánh mắt hốc hác, trong tay cầm một quả lựu đạn nhem nhuốc những bùn và máu, trung sĩ Roquin của đại đội Mathieu, chui từ bụi cỏ cao rậm đến, anh nhìn chúng tôi như một kẻ khờ dại. Anh chàng được hồi sức bằng một hớp rượu mạnh và sau khi thượng sĩ Orsini, con người vui sống và thích cãi cọ, vỗ về cho mấy cái thân mật. Anh trở lại láu lỉnh, và với cặp môi run run, anh kể lại trận phục kích đẫm máu mà anh ta vừa gặp phải. Khi rút lui khỏi đồn phía Tây. Theo anh ta nói thì tất cả quân ta đều hoặc chết, hoặc bị thương, hoặc bị bắt làm tù binh.
Còn nữa, từ con đường nhỏ xuất hiện những chiến binh của đại đội Tabor gồm cả lính và sĩ quan, đang rút lui mệt mỏi và kiệt sức. Trung uý Bara, bị thương nặng ở đầu và ở mắt, dìu hai bên là hai chiến sĩ rách rưới. Anh ngẩng lên trời cái đầu nhức nhối đang bị băng bó - Đi đằng sau Bara, còn nhiều người bị thương nằm trên những tấm phên tre, hay đang dìu nhau. Tiếp theo là trung uý Mathieu chỉ huy đại đội Tabor 58 là cấp trên của Bara, ông này chỉ bị thương nhẹ, đi theo ông có một số sống sót đó là Raval và Villeneuve, ông thượng sĩ Loubès và một số chiến hữu khép đuôi. Họ tiến từng bước, từng bước, súng ống sẵn sàng chĩa vào cái đường mòn đang uốn khúc trước mắt họ.
Spor ra lệnh cho Loubès vừa cười vừa nói "Anh hãy bắt đầu leo lên núi 765, chúng tôi theo sau. Đến 1 ngã tư của đường mòn, anh sẽ gặp Trung uý Baillet, anh ấy sẽ chỉ cho anh vị trí phải chiếm giữ. Anh lên đường đi!"
Anh chàng Loubès quay trở lại với bước đi không mệt mỏi. Bên cạnh cặp chân lông lá của anh, khẩu Carbin Mỹ trông như một đồ chơi. Đeo sau mông anh là một cái túi đựng đầy ắp trong ấy có thể là những chai rượu vang đỏ.
Chúng tôi nghe anh nói lẩm bẩm bằng tiếng Ả rập. Sau đấy anh ta biến mất trong rừng dày.
- À nếu tao là chỉ huy!
Mặc dù mệt mỏi các anh lính Tabor đi theo anh, bằng một động tác uể oải, họ khoác lên lưng nhức nhối những cái ba lô xẹp ve. Họ bước theo chân của trung đội trưởng, anh này tuy đi đã xa rồi mà vẫn còn lẩm bẩm, theo đuôi, ý nghĩ của mình...
Bóng chiều đã đến các đỉnh núi, nơi chúng tôi đóng quân đêm nay. Đây là điểm cao nhất của chiến trường Đông Khê. Nếu những điểm cao này làm chúng tôi yên tâm, nếu sự hội tụ trên những mỏm núi này của một phần các lực lượng của binh đoàn Lepage, làm dịu đi sự lo lắng không dám nghĩ đến của ngày mai, thì chỉ cần nhìn xuống những sườn núi nguy hiểm đang bao bọc chúng tôi, giống như một vòng lửa đang bao vây một con bò cạp bất hạnh, cũng có thể thấy sự nguy hiểm sắp đến nơi rồi.
Những tiếng chuông gõ từng tiếng một ở chung quanh gây cho chúng tôi những cảm nhận về những tiếng động lạ lùng, và cảm như mình đang bị rình mò.
Không khí ẩm lạnh ban chiều làm cho chúng tôi phải co quắp lại ở các trạm gác đêm. Sương mù dày đặc buông xuống như một bức màn che cho kẻ địch tự nhiên biến mất. Giống như trên một thiếp ảnh mầu, mặt trời lặn ở hướng Tây. Một sự rối loạn về những mầu sắc phi thực tạo trên một bức tranh màu của một hoạ sĩ siêu thực. Một tiếng súng mà tiếng vọng còn đổ lại, nổ vang trong thung lũng.
Tôi lăn ra ngủ như một đống thịt mặc cho sự nguy hiểm, sự đói khát, cho muỗi đốt, mặc cho bình nước uống đã cạn kiệt. Một giấc mơ tầm thường đến với những thèm muốn bình thường: món gà quay, một chiếc giường rộng thênh thang, một bạn tình mãnh liệt.
Ôi! Trời lạnh quá.
Chú Cần vụ thúc tôi dậy sớm, và dí vào mũi tôi một thứ gọi là càfé không đường.
Buổi sáng, sau một rặng núi màu tím, mặt trời mọc với ánh hồng phả lên các sườn núi còn ẩm ướt sương mù, và những đám cỏ mềm mại.
Tôi hơi hổ thẹn vì ngủ quá đà trong khi ấy đại đội trưởng Spor của tôi thức thay tôi. Anh ta không muốn đánh thức tôi dậy mặc dù đã đến phiên tôi.
Đài vô tuyến bảo cho chúng tôi một tin vui lớn. Tin vui lan truyền dọc theo con đờng mới vạch ra từ hôm trước.
"Những chiếc Junkers sẽ từ Hà Nội lên thả dù tiếp tế".
Đã 48 giờ qua, chúng tôi chỉ sống với những tin tức rùng rợn và một tí nước bẩn.
Mọi người đều nở nụ cười khoan khoái báo hiệu một ngày tốt đẹp một không khí thắng lợi mới, sự tin tưởng lại trở lại.
Vấn đề nước uống làm chúng tôi lo lắng. Các đơn vị đều phải cử những tốp lính thiện chiến xuống núi để tìm một nguồn nước không chắc chắn lắm. Mọi người đều đứng dậy mắt nhìn về hướng Nam ở đấy đã xuất hiện có tiếng phi cơ - Có phải chúng đến không? Đúng rồi, hai chiếc phi cơ bay rất thấp trên đầu chúng tôi.
Chúng bắt đầu thả những bao lơ lửng treo dưới những cái dù nhiều màu sắc. Nếu quân Việt Minh mất vết của chúng tôi (có lẽ điều mà chúng tôi không nghĩ đến, vì chúng tôi đánh hơi chúng ở xung quanh chúng tôi) thì họ sẽ biết chúng tôi đang ở đâu, không khó gì cả.
Mặt bằng trên đỉnh núi rất hẹp, cho nên một số bao lăn theo sườn núi. Các phi công phải nghĩ đến thả không dù. Những thùng hàng nặng trĩu rơi thịch xuống đất, có khi rơi sát chúng tôi, may thay không làm ai bị thương, chẳng qua là nhờ may rủi cả.
Hai chiếc phi cơ hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi vẫy chào tỏ lòng biết ơn. Họ vẫy cánh bạc chào chúng tôi đầy thiện chí tình anh em trước khi quay về hướng Nam.
Chúng tôi chia nhau các khẩu phần, vì đông người, nên khẩu phần trở nên nhỏ bé, chỉ có 3-4 hộp thức ăn sẵn cho nhiều ngày.
Theo sáng kiến của chỉ huy trưởng, và của bác sĩ quân y, chúng tôi quyên một số thức ăn quý dành cho thương binh. Bác sĩ Enjalbert chăm sóc liên tục các thương binh, nhưng ông trăn trở là không có điều kiện mổ xẻ, và không cách gì sơ tán được những thương binh nặng - (lúc ấy cả Đông Dương không có một chiếc trực thăng). Ông là người chủ chốt trong đề nghị việc này, ông cũng thiết tha muốn một số thương binh được uống nước, thế mà nước cũng không có.
Đại đội trưởng Spor phân công tôi làm nhiệm vụ quyên góp này, cho đi kèm theo tôi hai chiến sĩ. Chúng tôi mang theo 4 bình tông trống rỗng, chúng tôi lần lượt đến từng bạn chiến đấu, giống như các bà xơ đi làm từ thiện. Những bạn nằm ở các ổ súng máy, nằm ở những chỗ hẻo lánh với cái chuông báo động để luôn sẵn sàng, họ rót những giọt nước cuối cùng của bình tông của mình, như một hành động nhân đạo một số anh sau khi rót hết còn đưa lên miệng, rót giọt cuối cùng vào trong họng của mình.
Trong những cái mũ giã chiến bạc màu, chúng tôi còn nhận được những hộp sữa Nestlé những cục đường bọc giấy, những thanh Chocolte như trên sàn nhà các quán rượu.
Khi chúng tôi đến cạnh lùm cây, nơi mà nhiều thương binh đang nằm, trung uý Bara không cầm nổi nước mắt khi biết được việc chúng tôi đang làm. Nước mắt chảy dòng trên hai gò má xanh nhạt râu ria xồm xoàm của anh. Anh gượng lên để giải thích cho các chiến binh đang nằm trên cáng, bằng tiếng Ả rập, về ý nghĩa của cử chỉ vì đoàn kết hữu nghị này. Anh lấy bàn tay bị băng bó kín mít và đỏ lòm vì thuốc đỏ, để dụi mắt, như cảm thấy hối hận là người luôn hoài nghi và hay chế diễu mọi người.
Trước cử chỉ và hành động của Bara mà tôi không tưởng tượng được, tôi thấy nghẹn ngào, chúng tôi đặt dưới chân người thầy thuốc mệt lả như bệnh nhân của ông, những bình nước quý giá đầy ắp và những bánh kẹo nhiều màu sắc.
CHƯƠNG 19
CÁI BẪY CỐC XÁ
CÁI BẪY CỐC XÁ
Chúng tôi vừa được tin là tiểu đoàn dù 1erBEP là đơn vị đang bám chặt sườn núi Nà Kheo đã thay thế cho đại đội 5 Tabor bị tiêu diệt; được lệnh bắt liên lạc với đại bộ phận của binh đoàn ( đi theo có một số người sống sót của tiểu đoàn Tabor 11).
Những đơn vị này hộ tống nhiều thương binh, và báo tin là họ đã phải phá huỷ hai sơn pháo được thả dù xuống trước đây Trung tá chỉ huy tiểu đoàn Tabor 11 là người chỉ huy chung tập đoàn này báo tin qua vô tuyến điện là cuộc rút theo hướng 765 sẽ chậm chạp và khó khăn, vì lẽ bị quân Việt Minh đuổi sát và vì thêm một gánh nặng phải cáng theo một số thương binh 89
Đại tá Lepage quyết định rời bỏ con đường đi dọc đỉnh núi 765 hướng đi về vùng núi đá vôi Cốc Xá, để từ đấy tìm ra con đường mòn đi về hướng Tây, đến những quả núi mâm xôi Quỳ Chân, là nơi mà Đại tá Charton hẹn làm nơi hội tụ. Cuộc rút lui được tiến hành yên tĩnh. Kẻ địch chưa thấy xuất hiện. Đại đội Tabor của tôi đi trước mở đường, chúng tôi trượt xuống một dốc đứng qua những cỏ rậm, và phỏng chừng tìm cách đi vào dãy núi đá mà ở đấy có con đường mòn vào Cốc Xá.
Chúng tôi lạc vào một thung lũng đá mục mũn tích tụ như, nằm trong một cái phễu không có lối thoát. Chúng tôi cuối cùng đến một cao nguyên nhỏ xanh tết, mà án ngữ phía Đông là dãy núi 765 và, phía Tây là dãy núi đá Cốc Xá, chúng tôi đến một vách núi dựng đứng, nhìn xuống trước một thung lũng rộng hàng trăm mét vuông.
- Đúng là một bẫy chuột. Loubès nói lẩm bẩm, vừa lau chùi những giọt mồ hôi nhỏ dòng dòng từ đầu xuống.
Chúng tôi quay lại do dự và định tìm đường khác.
Con đường đi đến một ngõ cụt, đi vào một cái lèn đá vôi.
Chúng tôi quay trở lại và đến đúng vào giữa đoàn quân của một đại đội Tabor khác mà Đại đội trưởng là anh Raval. Anh này hơi bị thần kinh, anh ta bảo là chúng ta đã đi lạc đường; điều mà chúng tôi cũng cảm thấy; Raval chỉ cho chúng tôi một đường mòn mà anh ta phát hiện, đường này đi theo hướng Tây Nam, bị vùi lấp dưới cỏ và dây leo.
Đại đội trưởng Spor tiếp tục cuộc hành trình, đi trước hàng quân. Những quả núi đá bao vây chúng tôi mỗi lúc lại đến gần và lối đi trở thành một cái hẻm. Chúng tôi chỉ còn có cách đi theo hàng dọc, sừng sững trên đầu là những khối đá khổng lồ bị phủ kín bởi những cây cối mục nát: mùi hôi thối phảng phất trong không khí, đôi khi để đi qua, chúng tôi phải luồn giữa hai khe đá lởm chởm đầy lỗ và hang hốc. Đến một đoạn thoáng hơn, chúng tôi thấy ló ra ánh sáng của ban ngày. Từ cái cửa thiên nhiên ấy chúng tôi đã đến đỉnh cao của cái lèn Cốc Xá.
Bên phải, một đường mòn đi xuống theo một độ dốc thoai thoải, nếu bản đồ chỉ đúng thì đường này sẽ đưa đến một dòng suối. Con đường đặc biệt này cao dần hẹp dần và cuối cùng đi vào thung lũng. Đằng trước, một núi đá chồm chỗm nhìn vào cái lèn, nó trở thành một bức tượng vĩ đại che cả chân trời về phía Tây. Bên phải, chúng tôi thấy một bản dân miền núi nằm bên cạnh một chỗ lõm của núi đá. Mặt đất lên dốc từ từ cho đến một chân rừng, nó kéo dài theo dãy núi đá ở trung tâm và bít chân trời cạnh một bờ vực.
Chúng tôi điều hành để thực hiện việc chiếm đóng của địa thế hoang vu và bấp bênh này.
Cái tổ phượng hoàng này, về phía Đông dựa vào dãy núi đá mà chúng tôi đã đi qua, nó nằm sát quả núi 764-765, hai quả núi có rừng rậm bao phủ, nó sẽ là con đường xâm nhập thuận lợi của đối phương một cách tự nhiên.
Tóm lại, chỉ có một con đường dốc để thoát khỏi cái tổ ong vò vẽ này. Thật là ít ỏi! Nhưng chúng tôi đã nghĩ. Chúng tôi hy vọng không phải ở lại mãi trên mảnh đất này, mà tìm cách đi vào thung lũng ngay chiều hôm nay.
Trung sĩ Bauer với trung đội của anh ta đến sát ven làng, rồi theo anh một tiểu đội tiến về khu rừng bên phải. Một loạt súng liên thanh, tiếng súng trường đã đón anh ta, những chiến binh của anh lập tức đối phó vì ở nơi nguy hiểm này, họ luôn sẵn sàng. Bọn địch không tiếp tục cuộc chiến đấu, họ biến mất sau các núi đá ở về phía Bắc - Bauer về báo cáo với đại đội trưởng Spor là anh ta chiếm một cánh rừng nhỏ và từ đây, anh ta đã trông thấy thung lũng và các đỉnh dãy núi của Quỳ Chân. Lính Việt Minh bắn ra không mạnh lắm. Anh trung sĩ nói thấy rõ có 2 lính chính quy mặc bộ ka ki và 2-3 thường dân trong ấy có một nữ, người thường dân mang súng trung liên có thể đã bị thương, có tiếng kêu, vì vậy một trong hai chiến binh phải nhặt khẩu trung liên trước khi tẩu thoát. Nếu đối phương chưa biết tin tức thì sau sự kiện này, họ sẽ biết chúng ta đang ở vị trí mới này.
Dần dần, những đơn vị khác của tiểu đoàn Tabor và số còn lại của 8eRTM đều đóng vị trí trong cái lèn đá vôi này.
Những thương binh được để ở trung tâm, chỉ huy sở của Đại tá Lepage đặt ở cạnh cái bản. Chúng tôi được biết là binh đoán Lepage sẽ đóng quân đêm này ở đây, để đợi binh đoàn Charton về đến Quỳ Chân. Việc ấy không được chậm trễ - Đại tá Lepage dùng vô tuyến điện tìm cách liên lạc với Đại tá Charton suốt cả đêm, thế mà không thấy có trả lời. Một số sĩ quan Tham mưu nhận định là việc ở kéo dài trong cái trận địa phục kích ở Cốc Xá là một vấn đề nguy hiểm và ngay bây giờ nên đóng ở tư thế phòng ngự trong thung lũng.
Đại tá Lepage trả lời:
1. Tiểu đoàn Lê Dương dù ( 1erBEP), đoàn thương binh thứ 2 và số còn lại của tiểu đoàn 11 Tabor chưa về tập trung với đại bộ phận của binh đoàn. Vì vậy cần đợi họ.
2. Mặc dù sao, nhiệm vụ của tôi là đón binh đoàn Charton ở phía Đông và bảo vệ không cho quân đội Việt Minh làm thiệt hại đến đoàn quân từ Cao Bằng rút về. Bởi vậy hiện nay vị trí tết hơn cả là Cốc Xá, một lá chắn, một áo choàng đỏ của người đấu bò.
Vào khoảng 2 giờ sáng lục tục thấy đến một số đơn vị của 1erBEP và một số người của tiểu đoàn Tabor 11, đi theo là đoàn thương binh. Những đơn vị này gặp rất nhiều khó khăn mới về được đến vị trí tập trung, luôn bị chậm lại vì những cáng thương binh, họ còn bị thiệt hại thêm. Quân Việt Minh đuổi sát gót họ.
Để đến với Cốc Xá, họ định leo lên núi 764 nhưng lại gặp đối phương đang chiếm giữ núi này. Một đại đội của tiểu đoàn BEP phải chiến đấu để bảo vệ cho đơn vị bạn lướt qua. Họ đều mệt mỏi và báo tin đang có triệu chứng của một cuộc vận động bao vây chúng ta về phía Đông. Bởi vậy cho nên chỉ có con đường mòn về Cốc Xá là bỏ ngỏ. Chúng tôi không còn đi trở lại được nữa.
Hai đoàn thương binh ( gồm chừng 350 người ) đều tập trung ở cạnh một cái suối, chảy bên cạnh khối núi đá về phía Tây.
Tiểu đoàn 1erBEP đóng ở đầu đường mòn, trên sườn núi đá nhìn vào lối đi.
Tất cả chúng tôi đều mong có lệnh chuyển về thung lũng, vì chậm trễ là nguy hiểm.
Còn đại tá Lepage thì kiên trì, muốn bắt liên lạc với binh đoàn Charton trước khi rời Cốc Xá. Trước đây, chúng tôi bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ sườn trái của binh đoàn Charton, phải chăng đây là một sứ mệnh thí mạng.
Những quan sát viên của chúng tôi ngồi trên những mỏm núi đá cao ở hướng Tây, rõi ống nhòm nhìn đến tận chân trời. Để làm dịu không khí căng thẳng, đại uý Battle thuộc bộ Tham mưu của đại tá Lepage tiếp các sĩ quan liên lạc của các tiểu đoàn, bằng những câu bông đùa.
"Nàng chị, nàng em, chẳng thấy bóng hồng nào lai Vãng?"
Nhưng câu này hoạ hoằn mới gợi được những nụ cười vì lễ phép trên những khuôn mặt đầy lo lắng, bị dày vò vì mất ngủ và mệt nhọc.
Còn những trinh sát tiền tiêu của quân Việt Minh, họ đi lại ngang nhiên ở khoảng trống, trên những đỉnh 764-765. Chúng tôi có cảm tưởng là họ muốn làm ra vẻ đông người để kéo sự chú ý của chúng ta. Với mục đích gì vậy?
CHƯƠNG 20
NHỮNG TRÒ XIẾC
NHỮNG TRÒ XIẾC
Chiều hôm 6/10, chúng tôi có thể ước tính là đến đêm, binh đoàn Charton sẽ đến gần chúng tôi, ở cách 3 cây số về phía Tây nơi chúng tôi đóng quân.
Binh đoàn bị tổn thương nặng, đuôi thì bị đánh thúc đuôi còn đầu thì không ngớt húc vào một đối thủ đang ở khí thế chiến thắng.
Trên những mỏm đá vôi mục nát, Spor và tôi đã mò lên đài quan sát. Chúng tôi dò xem tận chân trời, đã 2 ngày nay.
Trên sườn núi Quỳ Chân, giữa 2 đoàn Lepage và Charton, quân Việt Minh đang bò luồn, lỏi và lướt trong đám cỏ cao. Ở cách khoảng 3 cây số với chân núi đá Cốc Xá, chúng tôi quan sát thấy địch chừng 100 tên tiến từng bước lên đỉnh những núi nhỏ cách giữa đoàn Cao Bằng và đoàn chúng tôi.
Khi chúng tôi thấy chúng tiến từng người như vậy, giữa những mỏm đá, xen giữa các tiểu đoàn của chúng tôi, chúng cắm những cành lá sau lưng để ngụy trang phòng phi cơ phát hiện. Chúng tôi có cảm tưởng là chúng tôi trội hơn họ và đang ở thế bao vây họ. Sự điều binh của họ có vẻ như là ngược đời, vì họ dừng lại bố trí ở tư thế phòng ngự hướng về binh đoàn của Đại tá Charton.
Binh đoàn này đang tiến một cách mệt nhọc trước những băng liên thanh, cách xa đây 5-6 cây số Việt Minh cũng gây cảm tưởng là hình như họ không biết rằng binh đoàn Lepage của chúng tôi, mặc dù có bị suy yếu và chấn động nhưng nó vẫn là lực lượng có khả năng đánh bại họ ở Quỳ Chân. Những phút hy vọng hão huyền ấy không kéo dài được bao lâu.
Cái lèn đá vôi mà chúng tôi đang đóng quân chỉ có một lối thoát để đi vào thung lũng.
Hoàn cảnh này chúng tôi cũng đành phải chịu vậy không tìm ra được con đường nào khác.
Nó là một đường mòn dốc đứng, đi qua những núi đá và trở thành một đường đi qua đáy lũng, chồm lên trên nó là những núi đá cao vút, cây cối um tùm. Đường mòn chạy dọc theo một con suối, nước trong vắt, mà nơi đây từ hôm qua chúng tôi đã tập trung 350 thương binh bao gồm đủ các thứ giống người và đủ các cấp, sau những cố gắng phi thường vượt qua bao trận phục kích, bao trận chiến đấu.
Sáng sớm, tôi xuống chỉ huy sở của Đại tá Lepage đóng ở cuối lèn để nhận nhiệm vụ cho đại đội Tabor của chúng tôi, đang bám vào sườn núi đá ở một khe hở về phía Bắc, nơi mà quân Việt Minh có thể tấn công.
Một sự kiện quan trọng lại đến. Bác sĩ Enjalbert - Con người đã cùng các đồng nghiệp của ông tận tuỵ chăm sóc các thương binh - chạy đến chỉ huy sở mặt mày hốc hác, trán đầy vết nhăn vì 8 đêm mất ngủ. Ông nói hổn hển; ngồi bệt xuống đất, ông báo một tin quan trọng, đáng sợ và bất ngờ.
- Không thể kéo dài được! Đây là một vụ tàn sát. Ba bệnh nhân lại bị trúng đạn, một bị chết. Quân Việt Minh từ núi đá kiểm soát ngõ hẻm của đ¬ờng mòn bằng liên thanh và súng cối. Họ bắn xả vào suối, nơi ta đang tạm trú các thương binh - Tiểu đoàn BEP sau đây sẽ báo cáo tỉ mỉ sự việc ấy!
Qua lời báo cáo của người thầy thuốc đáng kính trọng, trước sự bất lực của mình, chúng ta có thể hình dung cảnh tượng những thương binh hết hoảng, nằm dí tại chỗ. Họ đều hiểu là tấm thảm kịch đã bắt đầu.
Con đường mòn nhỏ xíu xuống dốc một đoạn chừng 500m, gần như thẳng đứng dẫn đến cái thung lũng, đầy những kẻ thù đang ẩn nấp. Phải làm thế nào trong tối nay, hay ngày mai rút hết những người còn lại của 4 tiểu đoàn và số 350 thương binh.
Bác sĩ Enjalbert sau khi uống một ly café không đường lấy ở quân lương dự trữ cuối cùng của ngài Đại tá, trở lại dòng suối, ở đây những lời rên xiết đã thay cho tiếng chim hót.
Các tiểu đoàn trưởng hội tụ xung quanh Đại tá Lepage một cách im lặng. Mặt ngài lúc này nhăn nheo, còn râu thì xồm xoàm điểm rất nhiều chiếc lông trắng.
Họ phải quyết một quyết định nghiêm trọng nhất cho trận đánh nghiêm trọng này. Họ phải quyết rất nhanh. Ông tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn dù ( 1erBEP) cử một tổ trinh sát đi về phía con đường rút lui, nó bị đánh bật lui mãnh liệt. Không còn nghi ngờ gì nữa - Đối phương đã làm chủ lối hẻm. Lúc này những quan điểm bị phân tán: hoặc tối nay, bí mật rút lui ra cánh đồng; hay là sáng sớm mai đánh bật những "Nút chai bít lỗ hẻm".
Trung tá Labataille phó chỉ huy của Đại tá Lepage, xung quanh anh có nhiều chuyện lý thú, con người hay tổ chức những buổi ăn trưa ồn ào và vui vẻ, một cựu chiến binh của tiểu đoàn Tabor, một con người từng trải chiến trận, nay trở nên già đi trước 10 tuổi, với một giọng buồn tẻ ông phá tan bầu không khí nặng nề, làm cho nó sôi động lên.
- Phải lên đường ngay, quân Việt Minh đang xiết chặt cổ họng. Đợi đến mai là chậm quá. Tôi cảm thấy thảm họa là ở trên con đường hẻm này.
Đúng rồi, mặc cho một số sĩ quan bi quan, thảm hoạ ai cũng cảm thấy, một số sĩ quan không dám phát biểu ý của mình về tình hình đen tối, họ im lặng nhìn trung tá Lebataille để giữ mẽ.
Riêng ngài đại tá nói (có cảm tưởng không ai tin tưởng lời nói của ông).
"Thật vô lý chúng ta sẽ thành công trong việc chọc thủng vòng vây, không nên tỏ ra bi quan như vậy... "
Trong lúc chưa có một quyết đình nào rõ ràng, thì một đại liên và một súng cối 81 của quân Việt Minh nhìn thấy sự đi lại ở khu vực chỉ huy sở bắt đầu bắn, họ nhằm khá trúng làm cho từ sĩ quan đến liên lạc viên đến phu khênh vác đều cuống lên nháo nhào trong sự hỗn loạn, nhảy vào núp sau những tảng đá. Họ núp vào đó.
Trong thời gian gần một tiếng đồng hồ, mặc cho súng bắn trả liên tục của những khẩu đội 81 của tiểu đoàn Tabor 1, quân Việt Minh hình như được bảo vệ chu đáo, họ đã làm tê liệt sức kháng cự của sở chỉ huy và các bộ óc của các "Chef" đang có nhiệm vụ ra những quyết định nghiêm trọng.
Từ hôm qua, Đại tá Lepage đang tìm cách bắt liên lạc với Đại tá Charton bằng vô tuyến điện. Chỉ trong buổi chiềuhôm nay, bức điện đánh đi không dùng mật mã: "Tôi là Lepage đây, tôi gọi Charton", Đại tá Lepage bắt liên lạc được với "con người của Cao Bằng". Đó là, cách nói nguỵ trang, giờ thì chẳng cần thiết nữa vả chăng vì diễn biến quá nhanh, nên phía Việt Minh chẳng có cơ sở để khai thác những tin tức này.
Đại tá Charton nói đến những khó khăn ông gặp phải từ 2 ngày gần đây, trong sự vận động của ông và đề nghị Đại tá Lepage chìa tay giúp cho việc đổ quân xuống vùng thung lũng đầy nguy hiểm, ông thú nhận:
- Tôi không nhúc nhích được, trước một thảm hại. Tôi đang bị đóng đinh tại chỗ, quân Việt Minh tấn công không ngớt, tôi đang đóng quân ở tư thế phòng ngự, khép kín trong vùng núi 477 để đợi. Các anh phải hành động thật nhanh!
Trời lại về chiều, thỉnh thoảng pháo đạn của quân đội Việt Minh rơi vào vị trí của chúng tôi. Trong khi tin tức cho biết là quân đội Việt Minh đã đến gần, sẵn sàng xông vào miếng mồi quyết định đã được chỉ thị để quyết định vận mệnh của binh đoàn.
Theo thứ tự 1erBEP - 8eBEP (bộ phận) thương binh được hộ tống bởi một số người còn lại của đại đội 5e Tabor và của GCA của tiểu đoàn Tabor 11, tăng cường thêm đại đội bảo vệ của chỉ huy sở, 1erTabor, đại đội cuối cùng của 8e RCM, chúng ta sẽ vượt qua cái đèo này trước rạng đông. Đó là lời của Đại tá Lepage.
Đêm mồng 6 rạng mồng 7 đối với chúng tôi là một thế kỷ, trong khi tinh thần chúng tôi vẫn còn vững vàng, nó còn vững vàng cả trong suốt trận đánh: vì lẽ chúng tôi không muốn tin là có sự bị tiêu diệt toàn bộ và chúng tôi hy vọng là đến phút cuối cùng, đối phương sẽ phải nới bót vòng xiết vì họ sẽ bị vắt kiệt sức do sự hoạt động quá tải của họ và vì sức chống trả cương quyết của chúng tôi ngay từ khi bắt đầu.
Chiều nay, sau một mỏm đá, bọn lính Tabor đang quay một con gà mái bắt được của dân bản nằm sâu trong lèn núi đá. Con vật trốn trong cái rễ của cây si bị một lính gác bắt được, thật là vui vẻ khi chúng tôi cầm tay cắn ngấu nghiến miếng thịt nhỏ mà họ cho chúng tôi.
Trời càng tối đen, chúng tôi nghe rất rõ tiếng súng kéo dài vọng về từ thung lũng, nó phá tan bầu không khí yên tĩnh nặng nề của cái đêm thức trắng. Binh đoàn của Đại tá Charton chắc là đang bị đánh không ngớt.
Vào nửa đêm, trên sườn núi bị bom Napal đốt cháy của quả núi 765, nơi mà đối phương đang chiếm giữ, một phát pháo hiệu đỏ được bắn lên trong đêm đen. Chúng tôi đều ngoảnh nhìn và đặt dấu hỏi, ước đoán ý nghĩa của nó: Có phải là tín hiệu rút lui của quân đội Việt Minh không? Hay là tín hiệu của quân ta (quân của Charton) mở cuộc tấn công để bắt Liên lạc với binh đoàn của chúng tôi? Hay là quân của Đại tá Charton mở cuộc tổng tiến công vào quân của tướng Giáp?
Cái chùm tia sáng với những màu sắc tượng trưng tung toé trong đêm tối, có đầu đuôi lịch sử của nó ... đó là...
CHƯƠNG 21
QUẢ PHÁO HIỆU MÀU ĐỎ
QUẢ PHÁO HIỆU MÀU ĐỎ
Một năm sau sự kiện Cao Bằng, vào tháng 8 năm 1951, Tướng De Lattre de Tassigny đã đạt đến đỉnh cao của thành công Đông Dương, kể từ buổi lễ duyệt binh quy mô lớn tháng 7 tại Hà Nội.
Bài diễn văn đọc ở trường Chasseloup Laubat đối với những người trong chúng tôi, những người còn tin ở sức mạnh của chủ nghĩa trong lời nói chứa đựng những tư tưởng vĩ đại thành một Thứ kinh gối đầu cho cuộc chiến tranh này .Nó mở màn cho một giai đoạn hợp tác Việt - Pháp ( coi như có thể chân thành có sự hợp tác như vậy).
Chính trị hơn nữa, là lời kêu gọi vang lên ở Vĩnh Yên, làm cho người ta thấy từ đầu năm, triển vọng của một lối thoát trong danh dự; nhưng thực tế xa vời với cuộc chiến tranh này, cuộc chiến tranh đã giết hại bạn bè của chúng tôi với những ảo tưởng, nó làm rắn lại trái tim, và cả lòng bàn chân của chúng tôi nữa. Trong khi chờ đợi những cuộc hành quân lớn vào mùa thu lấy tên là Citron, Mandarine, Amande v.v, mà sự đánh giá còn linh tinh, thì Bộ Tổng hành dinh Citron, Mandarine, Amande cho tiến hành những trận đánh, những trận càn quét nhỏ tại chỗ để giữ thế đứng trong đồng bằng Bắc Bộ.
Một buổi sáng nóng bức và ẩm ướt của mùa hè miền Bắc, ở một đơn vị thiết giáp, nơi tôi đang làm việc, tôi nhận nhiệm vụ đi từ Hà Đông, là căn cứ thiết giáp cách Hà Nội 15km về phía Tây trên đường xuống Nam Định coi như trung tâm đầu não của phía Nam Đồng bằng Bắc Bộ, để làm một nhiệm vụ chưa được xác định và cũng trong một thời gian chưa rõ ràng.
24 giờ sau, đoàn chúng tôi đã có mặt ở phía Bắc tỉnh Thái Bình, nơi đồn Quỳnh Nôi và là nơi chiếm đóng của một đại đội chính quy Commando. Vandenberghe đang đợi chúng tôi, để chúng tôi hỗ trợ anh về hoả lực trong một số trận đánh vào một số làng thù địch của ta ở trong vùng. Vandenberghe, con ng¬ời của huyền thoại, của bao sự vu khống, lúc này đang ở trong đồn với một thái độ bàng quan. Sự việc ấy nói lên là, với đội Commando nổi danh do Vandenberghe chỉ huy, sự hỗ trợ của những chiến xa chúng tôi chỉ là một việc nhỏ, không quan trọng lắm.
Chúng tôi không nhầm, Đại đội trưởng của chúng tôi tỏ ra lạnh nhạt trước cái thái độ quá trớn trên.
Dù sao, ông Thượng sĩ phó đội trưởng đội Commando mới có 24 tuổi, đã tỏ biết thế nào là lễ độ. Anh này mặc toàn màu đen, quần dài rộng ống, thắt ở mắt cá, áo "bờ lu" buộc dây che lồng ngực, đầu đội một cái mũ của Việt Minh, có phù hiệu cấp chỉ huy đại đội của quân đội Việt Minh. Anh ta giống như một con báo đen.
Với cặp mắt sáng và đỏ ngầu, anh ta nhìn và đánh giá chúng tôi. Mặc dù vậy anh ta không thể đe doạ được chúng tôi Anh đại đội trưởng và tôi đã chiến đấu ở vùng đồng ruộng với tư cách là bộ binh. Ông bạn Hus của tôi là một Trung uý, đứng đầu một Trung đội, đã từng đánh du kích với quân Đức ở căn cứ du kích Pháp trong nhiều năm tháng. Có lẽ Vandenberghe cảm thấy những điều đó. Có lẽ vì vậy mà anh ta trở nên tự nhiên hơn và dễ chịu hơn.
Anh ta đến với chúng tôi, theo lời mời của đồn trưởng người Việt Nam là Trung uý Lô để cùng đi uống một ly nước mát theo tục lệ.
Trừ một vài lần giở món võ vặn sái quai hàm địch thủ, đôi khi với bản tính thích tự do, ngoài cái tính sợ bóng sợ vía và tính hung dữ, Vandenberghe là một chỉ huy chiến đấu đáng kính nể; anh đã bị trúng đạn, bị thương trong nhiều đợt xung phong, đánh giáp lá cà ban đêm. Anh là một con người thích phiêu lưu mạo hiểm coi mạng mình bằng nửa đồng xu, có những động cơ mà nhiều người hay bàn tán ở những pô pốt hay ở nhà ăn sĩ quan.
Có người nói là anh ta muốn trả mối thù cho một người anh bị chết trận. Anh ta nhằm vào một người là bạn chiến đấu cũ một trung sĩ của quân đội viễn chinh, chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Hai người này căm thù nhau, muốn giết nhau, ngăn cách bởi một mối thù cá nhân mà không mấy người biết. Vandenberghe là một chỉ huy Commando giỏi, được dựng lên do chỉ huy cấp trên, để thực hiện những thắng lợi ly kỳ, người ta còn nói anh ta là một tên giết người khát máu, kiêu ngạo đến hoang tưởng và gặp may.
Trong những trận đầu phối hợp với nhau, anh ta đã chứng tỏ rõ ràng tài năng của mình.
Vandenberghe có đầu óc giản dị. Anh là một con thú chiến trường. Anh ta có tài lợi dụng địa hình để tổ chức xung phong dứt điểm. Đưa những tiếng hò reo, cách khai thác được những kết quả không lường trước được. Trong những trận đánh kéo dài, hay lúc nghỉ ngơi anh luôn là con người thích dùng mưu mẹo, biết suy nghĩ có phương pháp sẵn sàng tình nguyện, độc lập hành động đến mức khó ai can ngăn nổi.
Tính cứng rắn làm tim anh chai lại, nhưng tôi cũng cảm nhận ở con người này dưới cái vẻ lạnh lùng, một tính nhút nhát da diết, một chút đa cảm cổ xưa dưới cái vẻ bẽn lẽn của một người chỉ huy, say sưa về thành tích, ai mà biết tìm hiểu thì có thể hiểu sâu con người này hơn.
Anh chàng người Paris này, mồ côi, được cứu tế xã hội nuôi dưỡng, đã làm chăn cừu ở Hà Lan trong thời trai trẻ.
Anh có bộ răng óng ánh, cặp vai rộng, hai bàn tay rắn chắc. Có thể nói anh là một hảo hán của đồng ruộng. Cái yếu của anh là không biết bơi. Anh còn viết không thạo, đọc không thông, chỉ huy cấp trên do dự khi muốn cho anh lên chức Thiếu uý Thế mà so với bao sĩ quan già dặn, xuất sắc, anh ta hiểu sâu sắc rằng đó là một thứ nghệ thuật rất khó chịu, bởi nó tuy không phức tạp nhưng phải triệt để tuân theo luật chơi: đơn giản đó là chiến tranh.
Đơn vị Commando của anh, đông có khi đến 200-300 người, hầu hết tuyển mộ từ đám lính cũ của quân đội Việt Minh, đánh trận với một tinh thần hăng hái tuyệt vời. Con người ấy ít học thức, có những trái ngược đậm nét, đã chứng minh qua những ngày chiến đấu cạnh nhau. Anh ta biết sử dụng xe Tăng có hiệu quả. Trung uý D.L.O người đi kèm Vandenberghe thú nhận là rất thú vị được làm việc với anh ta. Vandenberghe đã nhiều lần gọi phi cơ đến cứu trợ trong những trận đánh nguy hiểm, nếu anh ta sống ở thời Napoléon, con người cục cằn dũng cảm kia sẽ chết ở cấp tướng. Chỉ sau 2 ngày, qua sự giới thiệu của Thiếu uý Huss, anh ta biết tôi là thuộc quyền của Đại tá Lepage, anh ta mời tôi đến ngôi chùa, nơi đơn vị anh ta đang tạm trú, anh ta nói:
- Một trong những trung đội trưởng của tôi, bị bắt và thuận theo tướng de Lattre, sau trận Sông Đáy, trước đây là trung đội trưởng xung kích của trung đoàn 36, đánh vào Đông Khê ngày 16/9/1950, sau đó tham gia các trận đánh của chiến dịch biên giới. Nếu anh muốn, tôi sẽ giới thiệu anh này với anh.
Vì vậy, mà tôi được gặp đối thủ của ngày hôm qua, người Việt Nam trẻ 24 tuổi này, trong gần 2 tiếng. Anh ta gầy có cặp mắt rắn rỏi nhìn thẳng, có nụ cười rộng mở, một chút trầm lắng, ẩn đằng sau nhiều ý nghĩ sâu lắng. Anh này nói tiếng Pháp rất tốt, đậu tú tài toàn phần, và học đại học Hà Nội. Anh ta làm tôi thích bởi cái tính vững vàng nhưng không tự phụ của anh.
Anh ta nói với tôi :
- Mấy tuần nay, chúng tôi tiến đánh Đông Khê đã bắt đầu một cuộc bao vây theo trật tự pháo đài, các đồn ngoại vi, cả đồn Nà Pá, và chiếm các núi đá xung quanh.
Cuộc hành binh tiến hành như sau:
Bắt đầu bằng phá huỷ những công sự phụ, sau đến vây hãm pháo đài , việc đánh các bốt nhỏ được tiến hành thuận lợi Tiểu đoàn của tôi nhận lệnh đánh pháo đài. Trung đội của tôi nhận nhiệm vụ mở một điểm đột phá để vào trong Đông Khê.
Cuộc chiến đấu rất ác liệt. Lính Lê Dương đánh giáp lá cà với chúng tôi. Tôi bị thương ở cánh tay, và đơn vị tôi bị thiệt hại nặng nề, nhất là bộ phận bộc phá. Chiến sĩ bộc phá là những cảm tử quân theo kiểu "Kamikazes", họ bò vào giây thép gai. Không sợ sệt, đặt gói bộc phá ngay cả vào tường của lô cốt. Chúng tôi vẫn tiến từng bước một, tôi không biết diễn biến tiếp theo, một số đại đội khác đến hỗ trợ chúng tôi, lính Lê Dương tủa ra, chúng chạy tán loạn và chúng tôi chiếm được pháo đài.
Sáng ngày 17/9, chúng tôi sơ tán để tránh phi cơ, ra khỏi các vị trí rồi tổ chức liên hoan mừng chiến thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và tướng Giáp gửi đến chúng tôi những lời khen ngợi.
Trung đoàn 36 được tập trung lại và được điều lên phía Nam Đông Khê, cạnh Đường số 4, để ngăn chặn hướng phía Nam về Thất Khê. Đại bộ phận lực lượng Việt Nam của chúng tôi tập trung như một nút chai, từ Lũng Phầy đến Nà Pá, nối liên lạc với căn cứ ở vùng Pò Mã, Nà Pá, nằm trong vùng núi đá một phần ở đất Việt Nam, một phần trên đất Trung Quốc. Ở đây, chúng tôi chờ sự phản ứng của quân đội Pháp.
Tôi để giành một câu hỏi, nó đang làm bỏng cháy môi của tôi: ở Lạng Sơn và ở Hà Nội, những người ở căn cứ hậu phương, bàn tán rằng lính Lê Dương ở Đông Khê chiến đấu đến cùng? Và tiếng đồn ấy lan ra, rồi người ta nói đến những sĩ quan Lê Dương không phải là Lê Dương, đến những người lính Lê Dương không còn truyền thống Lê Dương. Rồi nói đến sự phản bội. Bởi vậy tôi mới hỏi người cựu quân nhân của quân đội Việt Minh.
- Những lính Lê Dương giữ Đông Khê, họ chiến đấu như thế nào?
- Những lính Lê Dương trong pháo đài là những người đáng phục! Anh ta nói.
Anh ấy nói chữ "đáng phục" có phần cường điệu, nhưng qua ánh mắt của anh, tôi thấy lời anh nói là thành thật, chiến thắng Đông Khê, đánh dấu cuộc đời chiến binh của anh, đầy sôi động và còn nóng bỏng. Tôi đề nghị đội trưởng của tôi tiếp tục câu chuyện, chúng tôi châm thuốc lá hút.
- Với những chiến binh Lê Dương đã chiến đấu một cách tuyệt vọng ở Đông Khê, trong những ngày 16 và 17.9. 1950, tôi xin chuyển tới những lời thú nhận hồn nhiên và lòng tôn trọng của một đối thủ may mắn.
Ở góc đồn, Vandenberghe đang bàn về việc bán một đàn trâu chiến lợi phẩm với một trong những trung uý của ông và với một người buôn trâu ở Quỳnh Ngọc. Một số chiến binh của đội Commando đến gần chúng tôi, với danh nghĩa là người của Cao Bằng và của Đông Khê. Họ muốn vừa theo dõi câu chuyện, vừa lau chùi khẩu Thompson đang được ưa thích ở Bắc Bộ.
Trung đội trưởng Long Khôi biết tin là trung đoàn 174, một trung đoàn của Tỉnh Lạng Sơn, được lệnh chuyển về phía Nam của Thất Khê, để trông nom hàng nghìn dân công phá đường. Một đoàn mang đạn 105, lấy được ở trận Đông Khê lần thứ nhất, đang hướng về trung đoàn 174 và những chiến sĩ công binh của trung đoàn đang gài mìn và đang làm nổ tung đoạn đường dài gần mười cây số. Anh này cũng biết là binh đoàn Lepage lợi dụng đêm tối đã xếp hàng thành từng nhóm đã đi từ Na Sầm lên Thất Khê, đã bất ngờ gặp những đơn vị của trung đoàn 174, không kịp đối phó và đã đuổi những dân công phá đường dưới sự bảo vệ của bộ đội chính quy. Sau việc ấy, những tiểu đoàn quân Pháp lại ở thế bị bao vây ở Thất Khê, trông bề ngoài thì có vẻ như được đối phương nới bớt sự kìm kẹp.
Trung uý Khôi cũng biết cuộc hành quân của chúng tôi ra vùng Pò Mã, vào buổi sáng hôm 24.9.1950 và cả cuộc hành quân của tiểu đoàn Lê Dương dù ( 1er BEP) lên đèo Lũng Phầy.
Ngày 1/10 anh ta cũng biết là cuộc chiến đấu trên đường biên giới bắt đầu. Đêm hôm trước, binh đoàn Lepage vào lúc 8 giờ tối, bắt đầu tiến lên Đường số 4, hướng Đông Khê.
- Chắc các anh nhận được lệnh gì? Tôi hỏi.
- Phải cắt đường rút lui của binh đoàn Cao Bằng, bằng bất cứ giá nào chúng tôi đã đoán trước là Cao Bằng sẽ phải rút lui. Chúng tôi là cái lá chắn chặn đường rút lui của Cao Bằng. Trong khi ấy, binh đoàn Lepage lên đến khu vực Nà Pá, một số đông của đoàn này gồm: Đại đội 5 và GCA của Tiểu đoàn Tabor 11 (1eTabor) đang ở thế phòng ngự trên núi Nà Kheo. Lập tức tướng Giáp ra lệnh: "Tập trung đánh binh đoàn Lepage, bằng bất cứ giá nào phải chiếm lại Nà Kheo, tiêu diệt quân còn lại của binh đoàn"
Nhiều năm sau, chữ "tiêu diệt" gần như là một khẩu hiệu chiến lược của quân đội Việt Minh - nó trở thành một nét chỉ đạo cho hành động. Dù là vấn đề tấn công một vị trí, dù là đánh một trận phục kích, dù là mở một trận chiến đấu, những mệnh lệnh của đối phương thường là kết thúc bằng hai chữ "tiêu diệt", những anh hùng chiến đấu bao giờ cũng là những người thực hiện tốt hai chữ này... lần này lệnh của tướng Giáp sẽ được thi hành triệt để.
Chiều hôm 2/10/1950 từ phía Pò Mã, những cánh quân địch tiến như vũ bão về phía sườn núi Nà Kheo. Sau 2 ngày chiến đấu ác liệt, quân Pháp phải chạy về hướng Tây - theo đúng kế hoạch của Đại tá Lepage.
- Vì chúng tôi không chiếm lại được Đông Khê, chúng tôi quay sang binh đoàn Charton về phía Tây, trong những dãy núi. Tôi nói
- Đúng rồi, anh Khôi nói tiếp, bất hạnh cho các anh là quân đội Việt Minh thấy được sự nguy hiểm của cuộc hành quân này, cho nên Bộ Tổng hành dinh quân đội Việt Minh đã ra lệnh:
"Đoàn quân Lepage chuyển sang hướng Tây, vào dãy núi 760- 765, và eo núi Cốc Xá. Hãy vòng sau eo núi Cốc Xá về phía Bắc, chặn không cho quân Pháp tiến lên. Trong khi ấy, những đơn vị có nhiệm vụ chặn binh đoàn Charton, thì hướng về phía Tây, chặn đoàn quân này khi nó "xuất hiện". Như vậy quân Lepage sẽ bị vây khốn trong khu núi đá vôi, tất cả vây đánh Charton".
Đến ngày 5.10.1950 những lệnh trên đến tay người chỉ huy quân đội Việt Minh. Những cuộc triển khai hành binh diễn ra theo hoạch định. Trong vùng núi đá, Đại tá Lepage đợi đại tá Charton, ông này tiến rất chậm, bị đánh tỉa từ bốn phía.
Ngày 6. 10. 1950, binh đoàn Charton tiến cách 5 âm về phía Tây, so với Cốc Xá. Những trung đoàn của đối phương được lệnh tổng tiến công vào các vị trí ở núi 477, bỗng dưng họ dừng cuộc tiến công.
- Vì sao vậy? Ngạc nhiên tôi hỏi.
- Vì quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã 2 ngày nay không có cơm ăn. Hành quân cấp tốc từ Bắc Kạn cho đến chiến trường. 3000 dân công tải gạo dùng cho việc tiếp tế cho các đơn vị đã bỏ chạy trốn trong đêm tối với hành trang của họ. Bộ phận hộ tống không thu được tí gì, quân đội Việt Minh không thể ra trận với cái bụng trống rỗng. Biết được tin, trong đêm mồng 6 rạng ngày 7. 10. 1950, mặc cho muôn vàn khó khăn về giao thông liên lạc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một lời kêu gọi, có lẽ đã được chuẩn bị sẵn từ trước.
"Giờ điểm chiến thắng đã đến. Tất cả chúng ta đều biết, kẻ địch đã mất tinh thần và kiệt sức? Ngày mai chúng ta sẽ chia nhau chiến lợi phẩm của chúng ta".
Kích động bởi lời kêu gọi của Bác Hồ. Tất cả chiến binh đều đứng dậy tiếp tục tiến công.
Về phía chúng ta, người Pháp, chúng ta không biết một tí gì về sự khó khăn lớn của đối phương?
Ngọn đèn báo hiệu phát ra trong đêm tối từ đỉnh núi 765 là lệnh báo sự tiếp diễn những trận quyết chiến cuối cùng.
CHƯƠNG 22
CHIA CẮT
CHIA CẮT
Những ngọn núi hình răng cưa vươn mình lên trên các sườn đồi tròn trĩnh của hai cao điểm 760, 765. Chúng đứng kề vai nhau, ở giữa là những thung lũng sâu, chìm dưới tán lá rậm rì. Cây cối ngoan cố trèo mãi lên cao, càng lên càng thưa thớt, như bị bắn tỉa dần trong cuộc tấn công nhẫn nại. Chỉ còn lại những đám dương xỉ khổng lồ và vài mảng mầu lục thẫm nằm phơi mình giữa thảm cỏ xanh.
Hôm nay, cây cối, bụi bờ, cỏ dại, dây leo ... đều bị đốn chặt vứt la liệt trên các mỏm núi. Quân của binh đoàn Lepage đã dùng cuốc xẻng dã chiến, gậy gộc và cả tay trần... để đào đắp những công sự nông choèn, như những vết gãi, vết cào cấu ... trên da dẻ các s¬ờn đồi, rải rác đồn bốt của đèo Cốc Xá...
Các bụi cây che giấu súng máy.
Cũng như cây rừng tấn công dai dẳng sườn đồi, lính Việt Minh đang ngoan cường bò lên để đánh chúng ta.
Trên cảnh hoang sơ của mảnh đất thiên nhiên bị hai lần tàn phá này, mặt trời vùng Viễn Đông huyền bí đang từ từ lặn. Cũng như khuôn mặt tái xanh rồi vàng ệch của một người đang sợ hãi, núi rừng tê tái chuyển mầu khi đĩa mặt trời chìm sâu dồn xuống đáy thung lũng. Tiếng ộp - oạp của ễnh ương trong các ao chuôm đáp lại những âm thanh mơ hồ, huyền bí như không thuộc về trần gian...
Giữa từng ấy âm thanh hỗn độn, các loạt đạn súng máy chát chúa bỗng làm ta thấy yên lòng, vì dù sao, chúng vẫn là do con người tạo nên.
Trong làn không khí lạnh lẽo trườn bò từ các dòng sông mù s¬ơng lên tận các đỉnh núi, những người lính xiết chặt vũ khí trong tay toát mồ hôi lạnh vì sợ để có tóc dính bết vào da đầu và chịu đựng cho muỗi tha hồ hành hạ... Họ cố vùi mình trong bùn đất của các hố cá nhân đào vội, và cảm thấy bị thôi miên bởi vô vàn vật thể đang lổm ngổm bò lên phía mình: Những cây cối đen ngòm, những âm thanh ảm đạm, làn khói sương thù địch, bụi bờ đang như lay động vì đang lay động thật ... Những con người theo đủ tôn giáo, thuộc đủ chủng tộc ấy, trong một khoảnh khắc kinh hoàng bỗng khám phá ra ý nghĩa của các từ "chia cắt" và "đốn chặt"
Thoạt đầu là sự cắt khúc thân hình, trong một nỗi đau nguyên thuỷ.
Cơ thể, bị xé toạc ra từng mảnh và đem trộn lẫn với đất vốn đang thèm khát cướp lại phần xác của người. Sự chia cắt còn được thể hiện trong các chiếc giày lính thô kệch, nút nẻ trong các chiếc dép rách bươm nằm rải rác trên đoạn đường mà hôm qua chúng dẫm đạp, còn hôm nay thì chia cắt như những mốc cây số. Bị vứt bỏ lại đàng sau trong cuộc tháo chạy, những chiếc giày dép này đã buộc chủ nhân chúng phải thấp xuống gần mặt đất, thêm vài xăng-ti-mét. Sự "cắt đứt, còn được cụ thể hoá trong các vết thương ở bàn chân sâu hoắm hoặc há mồm toang hoác, để mở đường cho bọn vắt khát máu và xảo quyệt chui vào. Rồi đến lượt các chân cẳng, đang chết dở vì rét và vì mệt lấm bê bết bùn đất và loang lổ máu mủ.
Những mảng quần thủng đáy, rách bươm và nhớp nháp vẫn cố dính bết vào các bắp vế khẳng khiu.
Thắt lưng da hay một sợi dây chia thân người thành hai phần trên dưới. Đó là ranh giới mỏng manh giữa nửa dưới là hạ tiện và nửa trên là cao thượng; giữa bụng và chân đang đau đớn, van xin và đầu với ngực đang ngoan cường tranh đấu trong cái bụng trống là chiếc dạ dày rỗng. Phía trên bụng là lồng ngực, bị nén ép và im lặng. Có thở không đấy? Có, nhưng chỉ còn thoi thóp... Thở cho căng lồng ngực, cho tràn trề sức sống chỉ thích hợp với chiến thắng, với sự toại nguyện trong lòng mà không thích hợp với sự sợ hãi, trước cái chết đã gần kề.
May mà trái tim vẫn còn đó, để cứu vớt. Nó đang đập có quá nhanh không? Đó là vật duy nhất còn hoạt động giữa đống thịt đã bại liệt. Thình ... thịch! Như trái tim của thú rừng bị người thợ săn bắt ... Thình ... thịch! Xem nào, đừng suy sụp, vẫn còn đấy thôi, cơ hội hồi sinh...
Là người chỉ huy của toà Kiến trúc đang co quặp để chờ sụp đổ, cái đầu chỉ còn lại tai và mắt. Tai để nghe ngóng, mắt đề rình mò. Phần còn lại của cái đầu, chỉ rỗng như một sọ dừa đã bị đập vỡ.
Mắt, tai, ngón tay ngéo trên cò súng và súng. Đó mới là những mắt xích đang bấm víu nhau, để gắng duy trì sự sống. Đêm đã trùm lên cảnh vật. Không còn phân biệt liệu có gì đang lầm lũi bò lên không? Và nếu có ai mường tượng ra điều đó, thì giải pháp tốt nhất chỉ là đành chịu đựng. Cứ phó thác cả cho trời cao và nếu muốn ngây thơ, thì hãy trông cậy vào hàng xóm! Có thể họ sẽ nghe, sẽ thấy gì chăng? Trí tuệ bắt đầu làm việc còn tinh thần cảnh giác thì cứ cùn đi một cách nguy hiểm.
Trái tim cũng bớt căng. Lồng ngực phồng xẹp hai ba lần liên tiếp, y như một bệnh nhân còn cầm cự được nên còn nghểnh đáu lên. Thân hình tê cóng và đau như dần, ngọ ngoạy để chuyển thế nằm trên nền đá sỏi. Một thoáng run rẩy bỗng giúp ta phát hiện là thân xác ta té ra đang cảm thấy lạnh. Công tắc đã bật. Đầu có chợt tỉnh và vậy là nó liền bắt đầu suy nghĩ miên man, nhát cắt mới.
Phát sinh từ một cuộc tự vấn lương tâm, vừa mang tính tà đạo vừa thuộc phạm trù xã hội. Giữa chiếc đồng hồ đeo tay có kim chỉ dạ quang mà người lính căng mắt cố nhìn trong bóng tối trên trận địa và hàng trăm hàng nghìn chiếc đồng hồ đeo tay, để bàn, treo tường ... đang điểm thời khắc hoà bình ở châu âu đã thoát khỏi vòng khói lửa, đã chênh lệch là 7 giờ. 7 giờ vênh nhau giữa 2 chân trời đối lập, ở 2 địa đầu của quả đất.
Tưởng tượng? Ký ức? Ai mà biết được!
Người lính chiến đang giáp mặt với cái chết ở bên này địa cầu, thấy chập chờn hiện lên cảnh người vợ yêu đang nép mình trong vòng tay âu yếm của kẻ tình địch. Người lính xa nhà thấy lại trong phòng khách của gia đình đám bè bạn đã lãng quên mình và bị mình quên lãng. Họ vừa uống cà phê, vừa ồn ào tranh cãi. Họ lớn tiếng lên án "cuộc chiến tranh phi nghĩa, bẩn thỉu, rồi quay sang thoá mạ những "thằng rồ ngốc nghếch" đang say máu gà đánh giết nhau "bên ấy"? Toàn là những hình ảnh bắt nguồn từ lòng đố kỵ và sự tiếc nuối. Người lính chiến mà cái chết đang rình rập thấy những bộ mặt phì nộn của bè bạn bỗng sáng lên trước những cốc vại tràn trề rượu vang ngon. Với một cử chỉ máy móc, bàn tay run rẩy của anh ta vội sờ soạng tìm chiếc bình toong méo và lấm đất trong đó còn sót lại một ít bảo vật, tức là chút nước gạn từ một vũng bùn tù đọng, có pha thêm một viên thuốc tẩy trùng. Anh lóng ngóng đưa bình toong lên miệng vừa khô vừa đắng, tu một hớp...
Không khí dịu dàng và an bình trùm hẳn lên thành phố đang ngủ. Trong buổi dạ hội thời son trẻ của anh, chỉ thấy những nụ cười. Những ngọn đèn mờ chao đảo theo nhịp khiêu vũ lả lướt, có đệm đàn ắc-coóc.
Tay trống vung vẩy cặp đùi, đổ mồ hôi và nốc rượu. Gã chơi kèn Xắc - Xô uốn éo, mồm vít chặt vào miệng ống đồng. Một cô tóc vàng bụ bẫm ngúng nguẩy đôi mông. Còn ả tóc nâu thì điệu đàng vờ che đôi vú lép để khiêu khích đám mày râu ...
Bỗng một loạt súng nổ. Có tiếng rú thất thanh. Một cành cây khẽ lay động gió chăng? Bàn tay phản xạ vội bíu chặt lấy súng. Tấm lưng đau nhổm lên. Nhưng kẻ thù đã thông cảm, chưa vội xuất đầu lộ diện. Bộ óc lại quay về gắng xóa bỏ độ lệch 7 giờ và khoảng cách mười một nghìn cây số...Một áo choàng bằng lụa, một thân hình vừa tắm vòi hoa sen, đang nằm thoải mái trong chiếc ghế bành da. Hai bàn chân đàn ông được ôm ấp trong một đôi dép nỉ mềm mại. Lần đầu tiên, người ta lắng nghe với một cảm giác thật khoan khoái từ đài ra-đi-ô, những lời quảng cáo. Xà phòng dưỡng da! Kem đánh răng thơm phức và sạch miệng. Xúp bắp cải ngon tuyệt trần... Cũng như anh chàng khôn lỏi trong chuyện kể, đến đứng cạnh nhà bếp một ông lớn để nhấm nháp mẩu bánh mỳ suông với làn khói thơm của các món ăn đặc sản, anh lính chiến đáng thương, đang ôm súng nằm lăn lóc trên đất ẩm trận địa, bỗng cười trong bóng đêm dày đặc để chào đón món xúp bắp cải và cả những khoanh xúc - xích căng tròn, nằm giữa những hạt đậu trắng, trên có rắc bột tiêu.
Nụ cười bỗng cô đặc lại trên môi. Nước chấm ngon cũng chợt nhạt nhoà trong mộng. Cuộc sống hiện tại và quãng đời x¬a kia, liệu có gì là chung không nhỉ? Một Vạn Lý Trường thành đã ngăn cách đôi đàng. Giờ lành tháng tết của thần hộ mệnh có bao giờ còn điểm cho số phận hẩm hiu của người lính đang chờ xung trận?
Các lùm cây lại tiếp tục khẽ xao động. Lũ ễnh ương chừng đã ngán kêu nên im bặt. Chỉ còn đàn muỗi vẫn cứ cố tình vo ve bên tai con người đang háo hức trở về thăm cảnh cũ, người xưa, mà anh ta đã dại dột bỏ lại đàng sau... Giờ thì anh ta chẳng còn nhớ gì tới cuộc hành hương tự giải thoát về dĩ vãng; chẳng còn nghĩ gì đến nỗi sợ hãi hiện tại, mà chỉ còn thấy chọt bàng hoàng trước cảm giác cô đơn tuyệt đối của mình ... Thế gian vẫn sống, dân tộc anh vẫn sống... Những người thân yêu nhất, nay đã trở thành xa lạ... Anh chỉ thấy mình cô đơn, một cách thật là khôi hài ... trước cái chết gần kề đang nhích lên dưới dạng những lùm cây xảo quyệt.
Anh cố gắng níu kéo và ghì chặt cái xã hội đang lãng quên anh.
Anh tưởng tượng lại mình là "người hùng" đang bảo vệ một nền văn minh quý giá, chỉ trông cậy vào anh để tồn tại và tự khẳng định. Chẳng phải anh đang thực hiện trọng trách "canh gác ở trạm tiền tiêu của Thế giới "tự do" là gì? Giờ đổi phiên gác sẽ điểm trong tình đại -đoàn- kết được phục hồi, đúng không?
Thế rồi, tự phản biện! Anh lính bỗng thấy mình thay đổi chiến tuyến. Bây giờ thì anh ta chỉ còn là một lính tình nguyện, dấn thân theo các ảo ảnh Vinh quang và Lợi nhuận. Anh chỉ còn là một gã khát khao sự quên lãng, một kẻ chán chường hạnh phúc giữa cái đống hỗn loạn tình cảm bốc đồng và khổ đau ấy, anh bỗng thấy mình ngỡ ngàng như đứa trẻ lạc giữa rừng!
Anh chỉ còn ý niệm được một điều: mấy ông Sếp của đất nước anh đã "đem con bỏ chợ". Anh ở đây vì họ muốn như vậy và vì họ là đại diện cho cả dân tộc anh. Anh có bổn phận phải cảm thấy là mình đang được cổ vũ và nâng đỡ, chứ không được nghĩ là mình bị bỏ rơi. Lẽ nào anh chỉ đơn thuần là một thứ đồ chơi trong tay hàng triệu tên phản chúa Pông- xơ Pi-lát?!
Anh chợt giác ngộ về tình cảnh oái oăm độc đáo của số phận mình. Anh là một thằng lính đang chiến đấu, khổ đau và tử nạn, đúng vào lúc bè lũ chúng nó, những kẻ nắm trong tay vận mệnh của anh, phè phỡn tận hưởng những lạc thú của nền hoà bình đã được vãn hồi, với tâm địa của những gã tham tàn, sống gấp vì linh cảm những cái đạt được là mong manh...
Trời! Lẽ nào anh chỉ là một thằng ngu! trượt dài trên đoạn dốc trơn trượt của ý nghĩ đang dẫn dắt mình đến một kết luận đầy hiểm nguy, người lính chiến cố gắng dừng phắt lại!.
Nhưng kìa! Đối phương đã ào ạt la hét vang trời xông tới đợt này tiếp đợt khác, theo những hồi kèn xung trận, trong tiếng nổ ầm ầm tung toé hào quang bẩy sắc cầu vồng của lựu đạn và đạn súng cối. Người lính chiến hối hả vút bỏ gánh nặng chết người của sự sáng suốt, cố quên đi trái tim bầm dập, bộ óc lãng tử của mình. Như một con thú hoang dại, anh sẽ lao vào trận chiến để bảo vệ mạng sống và lẽ sống của mình, mặc dù chẳng biết liệu mình có còn thiết tha với chúng nữa không ...
CHƯƠNG 23
HỖN LOẠN
HỖN LOẠN
3 giờ sáng.
Từ chập tối tiếng súng tiếp tục nổ trong thung lũng, cạnh đồi 477, nơi mà Đại tá Charton đang bám trụ.
Theo hàng dọc, lính Lê Dương của 1erBEP bắt đầu thăm dò lối thoát ra khỏi vùng Cốc Xá. Cùng lúc này, ở mọi nơi, lính Tabor, lính biệt kích tụ tập thành từng tốp đợi chờ một cách im lặng và bám vào các hốc đá.
Trước bóng tối, quân Việt Minh nghe ngóng và dò xét quân tuần tiễu của ta.
Trong đêm tối, Đại đội trưởng Spor ra lệnh cho tôi mang một tin khẩn đến cho Tổng chỉ huy: Chúng tôi khó mà thoát tối nay - quân Việt Minh đã tìm cách leo lên phía chúng ta, chúng nghe tiếng của chúng ta.
Bây giờ, tôi không thể nói một cách rõ ràng những gì xảy ra trong trận giáp lá cà tiếp đó ...
Đại đội Tabor của tôi làm cái đuôi cuối cùng của binh đoàn. Còn lại chỉ có chúng tôi và một đại đội lính biệt kích bị suy yếu.
Trời sáng nhanh quá, trong khi ấy lính của chúng tôi còn bị ùn tắc trên đường mòn chật hẹp qua cát núi đá. Đột nhiên, từ những mỏm núi đá bao quanh lối thoát bắt buộc, súng máy của đối phương xả mãnh liệt, như bắn vào một đàn thỏ bị dồn vào một góc có nhiều thú ở Sologne. Đạn súng cối nã chính xác vào đường mòn, làm thành một cối xay thịt. Cùng lúc ấy, hàng trăm lính Việt Minh, trang bị toàn là tiểu liên và lựu đạn, xung phong từ hướng Đông, nhào từ núi đá xuống. Họ bắn như điên, trong khi ấy chúng tôi chống đỡ yếu ớt.
Đại uý Deminière, chỉ huy đại đội chỉ huy và trợ chiến, đứng tại chỗ, điềm tĩnh ra lệnh cho khẩu 81 ly bắn trả vào quân đội Việt Minh. Bằng một phát súng lục ông bắn trúng một bộ đội đang bắn vào ông. Anh này mặc dù bị thương nặng vẫn vươn lên kéo một băng liên thanh cuối cùng vào Deminère. Trước khi chết ông còn kịp làm dấu chữ Thập...
Từ những cành cây những quả lựu đạn rơi xuống như mưa, mà không biết ai là người ném. Thỉnh thoảng từ trên cao rơi xuống một thi thể của đối phương mà ai đã bắn cũng không rõ. Trong sự hỗn loạn không tả xiết này, đạn bắn ra từ tứ phía. Làm thế nào biết được ai là bạn, ai là thù. Đây là một trận chiến ác liệt để tồn tại, và với một ý nghĩ cố định, đó là: liều chết, để vượt qua eo núi và với một ảo tưởng làm thế nào thoát khỏi cái thòng lọng này.
Quân đội Việt Minh từ phía Đông tiến vào chiếm những vị trí mà chúng tôi bỏ lại, để bao vây chúng tôi. Ở phía dưới đường hẻm, tiểu đoàn dù Lê Dương ( 1er BEP) đang bị bao vây và có khả năng bị tiêu diệt.
Đại tá ra lệnh cho Feaugas (Trung tá chỉ huy tiểu đoàn 1 Tabor) xông lên, xốc nách dìu những lính Lê Dương còn lại. Nhưng đoàn quân bị chặn lại.
Lúc đó chỉ còn cách, nhanh chóng trở lên lại đèo với quân Tabor, và tìm cách cản bước tiến của đối phương. Gọng kìm khép chặt dần. Chúng tôi trở thành những con mồi.
Trong khi một bộ phận của một đại đội điều khiển bởi một chỉ huy, mặt mày hốc hác, đã mất hết tinh thần, trở lại những núi đá, phía mà sáng nay chúng tôi chiếm đóng, để chờ cuộc chiến lắng xuống một chút, thì đơn vị của tôi cũng leo trở lại con đường mòn, bị xói lên tơi tả, đầy rác rưởi, dừng ở tư thế phòng ngự, mặt quay về đỉnh đèo, để cản sức tiến công của đối phương sắp nhằm vào đội Hậu vệ của chúng tôi.
Trong lúc này, chúng tôi nghĩ là hy vọng cuối cùng để vào thung lũng không còn nữa.
Thượng sĩ Orsini, con người đặc biệt bình tĩnh và gan dạ, bị một mảnh lựu đạn cạnh mắt phải, máu chảy ròng ròng trên gò má, anh vẫn xông lên và với cái giọng giễu cợt quen thuộc.
- Không can gì, tôi vẫn thấy chúng bắn không chính xác đâu.
Một số chiến binh Ma rốc đóng ở cạnh chúng tôi, nhìn thấy trong bóng đêm, trên một mỏm núi đá một số bóng người đang leo trèo. Họ chĩa súng vào những lính Việt Minh mạo hiểm kia, và bắn dữ dội. Có tiếng của Loubès, gào lên yêu cầu ngừng bắn. Đây là một nhầm lẫn đáng tiếc: Đó là một đơn vị nhỏ của 1erBEP, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan gan dạ định chộp một khẩu súng trọng liên của đối phương nằm trên một chỏm núi đá. Những người lính già của chúng tôi lại bị chúng tôi sát hại ...
Cũng không nên trách những chiến binh Ma rốc kia. Khi mà sự hỗn loạn đã đến cực độ, đường liên lạc không còn nữa, các đài vô tuyến cử những chiến binh đưa tin thì đều tử trận với bọc tin mang theo. Sự nguy hiểm của những nhầm lẫn lớn dần, ngoài sức tưởng tượng.
Trời sáng dần dưới màn sương mù.
Đạn vẫn nổ ở tứ phía, mỗi lúc một mạnh. Bên cạnh những trung đội còn nguyên vẹn trong tay những chỉ huy dạn dầy, đang tiếp tục chiến đấu, đã xuất hiện những tốp người như phát điên vì những chỉ huy của họ đã chết hay không còn sức chiến đấu nữa.
Đại tá Lepage ra lệnh cho Feaugas, chỉ huy leo Tabor, phải chọc thủng con đường ra khỏi Cốc Xá, nhiệm vụ mà tiểu đoàn 1erBEP không thực hiện được sau một trận đẫm máu, ông nói:
- Tôi tin ở anh, vì danh dự của các Goum của anh.
Lập tức Feaugas gọi Jeanpière từ nơi tử địa trở về cùng với vài lính Lê Dương còn khoẻ mạnh, ông bảo:
- Chỉ cho tôi trên bản đồ con đường nào là tốt nhất.
Jeanpierre người được thay thế Trung tá Segretain bị loại khỏi vòng chiến đấu, và đang là chỉ huy 1e BEP, trả lời:
- Anh chỉ cần theo vết các xác chết, họ sẽ chỉ anh lối đi !
Sau đấy, theo lệnh của Feaugas, tiếp là Raval, Villeneuve chỉ huy phó của đại đội Tabor 59, lao lên đi đầu tiểu đoàn 1 Tabor ( 1erTabor) vào con đường hẻm . Anh thấy xung quanh những thi thể chiến binh Tabor bị trúng đạn, và bắt đầu tan rữa. Lập tức anh cho hát vang bài hát Fathia.
Từ đáy của cái lũng hẻm đáng nguyền rủa cho đến đỉnh đèo đường hẻm, thế mà một số lính biệt kích và đại đội Tabor của chúng tôi còn cất nổi những tiếng hát rên rỉ và tuyệt vọng, những lời cầu kinh của những kẻ sắp chết, lời kêu gọi của những kẻ tuyệt vọng đến thượng đế, đồng thời cũng là lời chấp nhận cái chết sau khi đã cố gắng tìm con đường sống một cách tuyệt vọng.
Lính Tabor chỉ hát được 2 hay 3 lần cái khúc điệu bi thảm này trong suốt cuộc đời chiến đấu ác liệt của họ. Thật là thống thiết. và một điều bất ngờ đã xảy đến, mặc dù trước một cảnh lộn xộn ghê gớm, một mệnh lệnh được gửi trực tiếp tận tay yêu cầu rút lui theo đỉnh núi đá vôi đứng sững nhìn xuống thung lũng, ở bên phải của đường mòn. Không còn con đường nào khác nữa. Đó là sự mạo hiểm, một cuộc phiêu lưu mà 300 con người cuối cùng của binh đoàn Lepage đã phải đi qua.
Từ sáng tinh mơ, trước khi nhận lệnh đi ngược lại đến dòng suối, đại đội Tabor của tôi đã 3 lần xung phong lên vị trí mà chúng tôi định vượt qua, nhưng chúng tôi đều bị đẩy lùi bị kiệt sức. Sau khi thêm 10 người chết, vài chục người bị thương, chúng tôi đến chỗ dốc dựng đứng, dường như không thể nào xuống được.
Bây giờ, chúng tôi đang ở cạnh cái nhà tranh rách nát, nơi mà chúng tôi xuất phát. Những xác chết của cả hai bên ngổn ngang trên mặt đất. Tôi đang dừng một lúc với vài lính Tabor dưới một tảng đá cứu độ, ở cách tôi vài bước chân, một chàng trai rất trẻ, là trinh sát viên của trung đội Loubès, anh đang dìu một thương binh đứng dậy, thì bị trúng đạn, ngã xuống như một đống thịt: một viên đạn đã bắn trúng vào mặt anh, cái cằm dưới bị bay đi chỉ còn lại cặp mắt, anh nhìntôi Tôi nhớ mãi cái nhìn của anh - như muốn cầu cứu tôi. Một viên đạn thứ 2 bắn xuyên thủng bụng anh.
Bên cạnh dòng suối, xung quanh những thương binh không đưa đi được, người nào cũng nhăn nhó vì đau đớn và sợ sệt những thầy thuốc của các Tiểu đoàn, với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc thương bệnh binh đến cùng. Họ cắm một cái cờ Hồng thập tự, họ tiếp tục chạy chữa, băng bó dưới làn đạn và mảnh súng cối. Một số thương binh đang nằm giữa chỗ trống bị trúng đạn, một số bị chết. Tôi mang theo đài vô tuyến điện của Đại đội, và cùng 3 chiến hữu, tôi dự định liều một đợt vượt con đường mòn, mặc cho nguy hiểm, chết chóc, sự lo lắng bị bắt làm tù binh ám ảnh tôi, tôi không tìm thấy đại đội trưởng Spor trong đám hỗn loạn...
Đột nhiên, tôi húc phải một xác chết của một lính Lê Dương, tôi bổ nhoài, nằm lên xác anh ta. Mồ hôi toát ra làm ướt thẫm lưng tôi, tôi nhổm dậy, hai tay đè lên cái xác chết, như mê man, mắt tôi nhìn vào người chết, một viên đạn xuyên qua đầu anh ta ở gần lỗ tai, tóc xoăn, da nhợt nhạt, nét mặt rất tinh. Đúng rồi, đây là John ca sĩ da đen trên tàu Pasteur. Trên đôi môi tím ngắt điểm một nụ cười không tài nào tả nổi. Tôi khó khăn lắm mới lấy lại bình tĩnh, một tràng đại liên cày mặt đấy và xả vào cái xác chết của John. Tôi có cảm tưởng như anh chàng sống lại và rung rinh lẩy bẩy. Tiếp theo là một quả lựu đạn nổ tung cạnh tôi, tôi chỉ cảm thấy vài điểm châm kim nhức nhối ở cặp chân những chỗ bị nhiễm trùng, lên vẩy. Bị vắt cắn. Tôi kêu lên "Không thể chậm trễ, không thể chậm trễ được"! Tôi vội xa lánh nơi này, bước đi loạng choạng để đuổi kịp lính Tabor của tôi. Họ nhìn tôi lo lắng và không hiểu.
Từng bước nhảy, chúng tôi chạy qua một số cáng nằm dưới làn đạn của đối phương ... một người Pháp, băng bó đầy người gọi chúng tôi:
- Tôi thấy quân Việt Minh kia kìa, các anh không đi qua được đâu Các anh hãy ở lại, chúng ta ới tong cả rồi. Một lính Tabor sụp xuống, và ngồi nguyên tại chỗ. Một lát sau, anh này bị bắn chết. Cuối cùng tôi trở lại bờ vực giữa những lính biệt kích và những lính Lê Dương lẻ tẻ. Chỗ này, kín hơn tránh được những làn đạn. Tự nhiên có sự tĩnh lặng lạ lùng, tiếng súng ở xa im bặt. Chỉ còn những tiếng động nghẽn lại do núi đá, do cây cối rậm rạp. Nhưng chúng tôi thừa biết là đối phương đang thúc sau gót chúng tôi, chúng tôi không dám ngừng một lát để thở.
Cuộc rút lui qua con đường nguy hiểm bắt đầu có trật tự, ít ra là trong sự yên tĩnh. Cái chết luôn rình rập.
Một chú Tabor hoá điên gieo mình vào không trung.
Người hạ sĩ quan trẻ nhất của đại đội, mà tôi vừa gặpđang ngồi với cái gậy cặp giữa 2 đùi, nói với tôi bằng một giọng đặc nông dân, anh ta chẳng hiểu gì về tình hình: "Trung uý, hãy ngồi nghỉ một tí, ở đây tốt lắm".
Anh này đặt vấn đề nghỉ ngơi không đúng lúc, muốn được hưởng 1 phút thư giãn. Thôi cũng đỡ khổ thân cho anh ta, vì sau đấy 24 tiếng anh ta bị thương quá nặng ở đùi, và chết trong khi là tù binh...
Để tụt xuống núi đá, tôi xuống cặp đôi với một chú cai của tiểu đoàn Lê Dương dù (BEP) bị thương, nhưng còn nhanh nhẹn. Vấn đề là tụt từ Cốc Xá đến thung lũng qua hàng trăm mét phía dưới có một đoạn độ 50m là dốc đứng nguy hiểm nhất, anh chàng giao cho tôi cái đài vô tuyến điện vì sợ mất, xuống vài chục phân, anh ta lại xin lại đài, anh cầm luôn cả khẩu carbine của tôi, cứ thế chúng tôi xuống dần dần từng bước, luân phiên nhau như những người leo núi Alpes . Trong khi ấy quân đội Việt Minh xung phong, họ gào thét, họ ném những quả lựu đạn dọc theo vách đá.
Chỗ này, một người tuột tay rơi như một tảng thịt, kéo theo một người khác. Chỗ kia một dây leo rừng, một dây dùmỏng manh bị đứt làm cho người túm lấy nó ngã xuống vực,tạo một tiếng "phạch" lớn.
Đột nhiên, bên cạnh những tiếng thét, một tiếng rú xé toang bầu không khí: một Tabor già râu ria, trong đội trợ chiến, không muốn rời cái đế súng cối 81 mà ông có trách nhiệm. Ông tuột tay lao giữa không trung, cái đế súng cối của ông cũng bay theo như một thiên thạch, nó rơi đúng đầu một chú lính bất hạnh đang tuột xuống gần chân núi, và đã tưởng thoát nạn. Ông lính già râu ria rơi trong không gian tay chân ông múa như một con rối, rồi ông nát bét bên cái gánh nặng chết người của ông.
Chân tôi đã dẫm xuống đất bằng. Bên cạnh tiếng reo của đồng đội, là tiếng la hét của đối phương, họ tiêu diệt hay bắt sống những bạn đi chậm hay bị thương của chúng tôi.
Đến những người địa phương, thậm chí cả những chú khỉ của vùng biên giới , cũng không dám đi con đường hoả ngục mà chúng tôi đã đánh dấu bằng máu để đi qua đây, vậy mà lúc đó lại là cơ may của chúng tôi.
Chúng tôi đã tập họp một cách rất vất vả những tốp nhỏ các đơn vị ở chân núi đá, đối phương ở cái nút chai trên đỉnh núi đá vôi vùng Cốc Xá tiếp tục bắn vào chúng tôi, nhưng rồi những trọng liên, súng cối nặng dần dần thưa đi vì lẽ đám sương mù dai dẳng làm cản trở việc yểm trợ và tiếp tế lương thực đạn dược, bây giờ lại giúp chúng tôi bằng cách phủ kín các đỉnh núi trên đường hẻm.
Từ trên đỉnh cao, người ta nghe tiếng kèn đồng chua loát của đối phương. Phải chăng việc choa chác những miếng thịt mồi bắt đầu.
CHƯƠNG 24
TIẾP THEO HỖN LOẠN
TIẾP THEO HỖN LOẠN
Một bức màn sương mù dày đặc bao phủ các đỉnh núi của đường hẻm Cốc Xá, ở đằng sau lưng chúng tôi. Chúng tôi chạy vượt qua một đám ruộng ngập, và leo lên những ngọn núi nhỏ, nó ngăn cách chúng tôi với quả núi 477, nơi mà binh đoàn Charton đang đợi chúng tôi. Chỉ có một ý nghĩ, một mục đích: bắt liên lạc với binh đoàn Charton cho bằng được và nhanh nhất.
Những đơn vị bị xé lẻ bị tàn sát qua những trận của những ngày qua, đã bị tan rã, chưa củng cố được, sau vụ tuột xuống núi đá vừa diễn ra. Tôi đang đứng giữa một đám người, đủ các loại: vài lính quân xa, vài lính Lê Dương vài quân biệt kích và quân Tabor.
Chúng tôi đang đi trong một rừng thưa, đút đoạn bởi những khoảng trống.
Cỏ mọc xum xuê từ nơi đây, chúng tôi nhìn thấy những đỉnh cao của núi đá Cốc Xá, những tốp quân Việt Minh tiến về phía chúng tôi, người nào cũng có một túm cành cây buộc vào sau lưng để nguỵ trang. Chúng tôi chạy nước kiệu. Không kịp để lấy lại hơi thở.
Đằng trước, đằng sau, hai bên sườn, có nhiều tiếng súng, tiếng liên thanh, tiếng đạn súng cối. Đạn reo giữa các cây, các cành gãy nghe rắc rắc những tiếng động rất bất bình thường, mấy lính Việt Minh tiến gần chỗ tôi, cách 50m. Họ không thấy tôi, trong khi tôi đang trên một đường mòn nhỏ, đi tìm đồng đội. Tôi nghe một tràng liên thanh và tiếng lựu đạn nổ trước mắt tôi, 4-5 lính Tabor đang đi hối hả. Tôi chỉ còn cách họ chừng 100m, tôi đang tìm cách bắt kịp, tôi gọi, đúng lúc một trong số họ quay lại vẫy tay chào tôi thì một tiếng nổ xé trời, kèm theo một số tiếng nổ khác ... khói tan dần, vài thước trước mặt tôi, xác mấy chú Tabor tan tác, đẫm máu nằm ngang ngửa như những người đang đóng kịch câm, giữa những cành cây gãy và đất tung toé.
Tôi sải bước qua các xác chết, một mình chạy trên đường, ngón tay luôn đặt sát lẫy súng của khẩu "các bin". Chỉ cần gặp một người lính của liên hiệp Pháp là tôi tin mình đã thoát nạn!
Tôi vừa chạy thêm mấy bước, thì một loạt thứ hai đạn cối 81 rơi cạnh gót tôi.
Sau cùng, tôi gặp các chiến hữu. Tôi gặp anh Baillet, vài hạ sĩ, và mấy người nữa. Chúng tôi lần theo con đường mòn mà súng cối đối phương đã dò sẵn, vì nó đi thẳng đến chân núi 477. Chúng tôi biết là đối phương đang tìm cách đến quả núi này, và chúng tôi đi theo cách lối con dím để đẩy lùi sự áp sát của quân Việt Minh.
Chúng tôi đi theo hàng dọc, người thì sẵn sàng bắn sang trái, người thì sẵn sàng bắn sang phải.
Bên cạnh đường, một Trung uý đã có tuổi của Tiểu đoàn dù Lê Dương, nằm dựa vào một gốc cây, ở ngực của ông chảy ra một dòng máu sủi bọt, chân ông bị nát, đầu ông bị băng bó nhem nhốc đã mấy ngày. Một lính Lê Dương, cũng bị thương ở cánh tay, đang tìm cách chặn không cho máu chảy, cứu thủ trưởng của mình. Anh xé cái áo lưới mắt cáo, để làm nùi giẻ bịt vết thương to tướng, vô phương cứu chữa. Trung uý nhìn chúng tôi chằm chằm, mắt nhợt nhạt và cố găng nói:
- Không theo lối này, các chú, chúng đang ở đấy, chính chúng bắn tôi. Rẽ sang trái.
Chúng tôi cúi xuống, giúp cho việc băng bó, không tin tưởng lắm ở hiệu quả, ông ta cản không cho một chiến hữu của tôi xé bao cứu thương, bằng một cử chỉ trăn trối:
- Đi tong rồi, ông bạn ơi. Vô ích thôi!
Một dòng máu đỏ chảy ở mép, miệng trắng nhợt, ông gục luôn xuống.
Chúng tôi chạy rẽ sang trái, kéo theo xác ông, không muốn để lại xác chết của viên trung uý già. Nước mắt tràn ngập đôi mắt xanh của anh lính Lê Dương, anh ta chạy ngoằn ngèo, thấm máu trong nỗi đau. Thân anh trần trục, quần rách không còn ống, anh như một đứa trẻ tinh nghịch, đang chạy trong rừng tìm tổ chim. Anh đi chân đất da mầu nâu, xây xát những vết đỏ.
Đến một ngã ba đường, chúng tôi bắt gặp những lính dõng người Cao Bằng, súng ống sẵn sàng hướng về phía Tây. Tí nữa là họ đón chúng tôi bằng những băng đạn, vì tưởng rằng bị tấn công từ sau lưng. Họ ẩn trốn trong một khu rừng nhỏ, trong những đám cỏ cao. Trung uý Viltard mũ nồi dính chặt trên đầu, lưng thắt một dãy lựu đạn trông rất hùng hổ, anh gọi to:
- Rẽ ngay sang trái, các anh cách chỉ huy sở của Đại tá Charton chừng 800m. Các anh sẽ gặp quân của 3e Tabor vàquân của 3/3 REI.
Rồi, anh ta hò hét, ra lệnh, vung tay theo thói quen:
- Vọng, mày bắn vào cành cây to, kia kìa! đồ ngu. Bắn ngắn thôi, mày không thấy bọn Việt Minh à. Thằng ngốc! - Được, trúng đấy.
Chúng tôi đã cùng nhau đến Việt Nam trên con tàu Pasteur tháng 5/1950, mặc dù anh ta bận, tôi vẫn hỏi:
- Ở đây có gì hay?
- Không có gì tốt cả, mọi việc đều xấu đi ? Quân Việt Minh ở khắp nơi, như kiến. Chúng đang điều một đại đội đến. Charton cử tớ đến đây để giúp đỡ các cậu, và chỉ đường nếu trong một giờ nữa mà các cậu không có đủ thì tớ toi, nói các bạn của cậu chạy nhanh lên, chạy hết sức.
- Còn trên ấy thì thế nào?
- Không hơn gì! Tiểu đoàn 3e Tabor gần như hết đạn, quân Việt Minh chăng lưới thế nào mà chiếc Tunkers đã thả cho chúng két đạn dành cho chúng tớ. Trong tiểu đoàn tớ, đã có 2 đại đội kiệt sức. Đêm qua chúng tớ bị tấn công mãnh liệt Tiểu đoàn còn sung sức là tiểu đoàn Lê Dương của Trung tá Forget. Tớ có cảm tưởng là Đại tá Charton giữ nó làm con chủ bài để làm một quả đấm mạnh sắp đến, đó là chắc chắn.
Anh ta ngắt lời. Rồi bỗng nhiên nói:
- Cút nhanh đi, ông bạn ơi, có thể một ngày nào đó... Rồi anh ta tiếp tục chửi bới lính dõng của anh, như anh hay quen thói, tiếp theo anh tập trung chỉ huy mấy khẩu trung liên của anh.
Tôi gặp lại một tốp người trong tiểu đoàn của tôi trên đỉnh núi 477. Tôi bắt tay các sĩ quan và hạ sĩ của tiểu đoàn 3e Tabor. Trên địa điểm này có một sự ùn tắc đáng lo ngại của lính đủ các loại.
Trong một hang đá túm tụm đến 400 dân thường của Cao Bằng. Họ không muốn ở lại Cao Bằng, khi quân Pháp rút. Họ nhìn xung quanh với một thái độ hốt hoảng và sợ sệt của kẻ bị vây dồn. Có nhiều người bị thương, nhiều người mất nhiều máu. Những người may mắn không bị gì thì không nghĩ đến việc giúp đỡ đồng đội mình, họ chỉ nhìn nhau ngây dại, bị tê liệt vì quá sợ sệt.
Đại tá Lepage, với một số sĩ quan tham mưu tìm cách bắt liên lạc với Đại tá Charton, ông chỉ liên lạc được với ông Charton sau một thời gian dài tìm kiếm. Chứng tỏ sự tan rã bao trùm lên cứ điểm này ùn lên quá nhiều đơn vị quân đội Việt Minh.
Cuối cùng hai ông gặp nhau. Tất cả chúng tôi nhìn về phía hai ông. Trách nhiệm lớn lao nào đang đè lên hai ông? Hai bộ mặt rầu rĩ lưng bị còng đi đã nói lên tình cảnh của họ.
Đại tá Lepage giải thích cho Đại tá Charton là ông cần nhiều giờ để tập hợp lại những đơn vị của ông bị tan rã và bị rải rác để xốc lại đội ngũ. Thời gian này hết sức quan trọng đến tương lai của hai binh đoàn. Những Đại tá Charton không thể bảo đảm cho việc này. Quân của ông đang bị đe doạ trước cuộc phản công quyết liệt của đối phương. Tiểu đoàn của Forget đang bị quấy rối gần đây, quân số của tiểu đoàn lính dõng sa sút liên tục. Phải rút nhanh.
Hai Đại tá quyết định ở lại đỉnh núi 477 một giờ nữa để cố gắng tập hợp quân ở sườn núi, những đơn vị còn sót lại của tiểu đoàn dù Lê Dương 1erBEP đang được vá víu lại. Những chiến binh thiện chiến của nó đã bị những tổn thương nặng trong những ngày qua, những người sống sót hầu hết đều bị thương.
Về phía chúng tôi, cũng không hơn gì. Hai đại đội Tabor bị thiệt hại nặng chỉ còn lại vào khoảng 250 người còn khoẻ mạnh, trong số 650 người ra đi từ Thất Khê.
Đối với hai đại đội của 11eTabor, tết hơn cả là không nên nói đến, nó đã bị đánh nát tan tành ở Nà Kheo, đường hẻm Cốc Xá là một cú chí tử cho số còn sống sót. Hiện nay chỉ còn một bộ phận nhỏ tiểu đoàn bộ còn lại trong đơn vị này. Tôi mừng rỡ vô cùng khi gặp lại anh Spor. Sau khi tuột xuống từ vách núi đá, tôi và anh cố gắng tập họp lại các đơn vị chiến đấu, phân phối lại vũ khí, đạn dược. Nhưng chúng tôi không tài nào thực hiện được ý định này.
Quân đội Việt Minh điều chỉnh súng bắn lên đỉnh núi 477 với một độ chính xác, và mật độ mỗi lúc một cao. Đạn cối rơi gần như khắp nơi, súng liên thanh đối phương quét sát đỉnh núi, từ bốn phía có quân xâm nhập.
Lệnh được ban ra, các đơn vị Tabor được tập họp phải bố trí ở tư thế phòng ngự, hướng về phía Đông, nơi mà hai Đại tá nhận định sẽ có lực lượng xung phong của đối phương.
Trời chiều bắt đầu, từ sáng đến giờ, bao là sự việc?
Một cấp dưỡng trao cho tôi một miếng bánh quy và một miếng Sô cô la. Đã không có tí gì trong bụng từ 24 giờ qua. Tôi ngấu nghiến tức khắc và cảm ơn ông bạn, bằng cách tặng lại một băng tiểu liên còn đầy đạn mà tôi nhặt được trong một bụi rậm. Chúng tôi không còn cuốc xẻng, một số người phải đào đất bằng cái gậy của mình. Ông Thượng sĩ Loubès tháo con dao găm luôn mang ở thắt lưng ra để xới đất.
Khó tin nổi, tôi hỏi anh tìm gì trong đất này.
Không cười, anh ta trả lời rất điềm tĩnh:
- Tôi đào một vị trí chiến đấu, còn anh, anh cũng phải làm như tôi.
Mặc cho đạn bay, rít lên ở mọi nơi làm tung toé đất và những mảnh gỗ, chỗ này, chỗ khác. Mặc cho số người bị thương vì những viên đạn vu vơ, số lượng càng nhiều lên, mặc cho giờ phút kinh hoàng trước một đợt xung phong sắp xảy đến. Tôi không thể nhịn cười khi thấy con người khổng lồ kia đang bò cả bốn chân để đào bốn cái hố bằng con dao găm.
Khía cạnh nực cười của tình hình làm cho tôi như khoẻ lại đến mức tôi đã nói đùa không đúng lúc. Có lẽ là lúc dây thần kinh không còn có thể căng hơn nữa, nhưng cái nhìn xoi mói những bộ mặt ác cảm tập trung vào tôi làm tôi phải vội vàng tìm cách gạt sang một bên lối đùa không đúng lúc ấy và tôi miễn cưỡng cào cuốc đất, ra vẻ cũng làm như mọi người.
Ông Thượng sĩ Francaloni quay lại và kêu lên, một viên đạn trúng vào lưng ông, một lính dõng lăn ra chết bên cạnh Loubès đang cặm cụi đào đất như con kiến đào tổ. Những lính Lê Dương nóng nảy đổ cho lính Tabor muốn đầu hàng nếu không cho hai trọng liên vào hoạt động. Một sĩ quan Tabor trả lời ngắn gọn ngay là không nên dây vào việc không phải của mình. Không khí thật là ồn ào, những cuộc cãi lộn xảy ra, trong khi đối phương lại gần. Buộc tất cả mọi người của các đơn vị đều xích gần lại với nhau để chống đỡ, lo cho sự an toàn cho cả tập thể. Nhưng trạng thái kích động chung vẫn còn, tâm trạng bất an vẫn ẩn khuất trên quả đồi, như những con kền kền đang lượn quanh một xác chết.
Chúng tôi sắp rút lui, lệnh ban ra sắp đến nơi. Trên mỏm đồi tròn cạnh núi 477, tiểu đoàn 3, trung đoàn 3 Lê Dương (3/3REI) chiếm đóng, một loạt liên thanh nổ rền. Đó là một báo hiệu xấu. Chúng tôi nghe tiếng lựu đạn nổ, đối phương đang bước sang đánh giáp lá cà.
Một cụ già người Cao Bằng chòm râu trắng xoá, bò đến với chúng tôi, hai chân bất động, cụ kêu rên:
- Nước nước (de I'eau, de I'eau!)
Mặt cụ nhăn nheo vì đau đớn, cặp mắt nhỏ sắc sảo của cụ nhìn vào một điểm xa xa mà cụ nguyền rủa, mệt lả vì cố gắng, cụ nằm xuống từ từ tại chỗ, và không cựa quậy nữa.
CHƯƠNG 25
MỘT SỰ THOẢ HIỆP XỘC XỆCH
MỘT SỰ THOẢ HIỆP XỘC XỆCH
Trong khi những người sống sót cuối cùng của tiểu đoàn dù Lê Dương 1erBEP đang đi về phía thung lũng, im lặng, theo hàng một dưới bóng cây che chở, và khi những đơn vị của tiểu đoàn Tabor của Cao Bằng bắt đầu rút lui, thì ông Đại uý chỉ huy phó của tiểu đoàn, mất tinh thần bỗng điên loạn, gào lên:
- Phản công, phản công! Các anh đều là những thằng hèn, chúng ta đi tong rồi.
Thực ra, không phải quân Việt Minh tiến đến chúng tôi, mà là những bộ phận rơi rớt của tiểu đoàn lính dõng của trung uý Viltard. Họ đến giúp chúng tôi một tay.
-Viltard đây! Đừng bắn! Chúng tôi đây mà! Viltard kêulên.
Họ đang ở giữa 2 luồng đạn: Chúng tôi và đối phương.
Trong lúc này, quân Việt Minh điều chỉnh thước ngắm nhằm vào đỉnh núi (477) nơi chúng tôi đang tìm cách rút lui. Đạn của họ trúng vào các thân cây, cày đất tung toé, hú hoạ giết hại, và làm bị thương những kẻ mà giờ tận số đã đến. Trung uý Baillet ở tư thế quỳ, rõi ống nhòm về phía một đơn vị quân đối phương ở cách đồi 477 vài trăm mét, nói với Villeneuve vừa mới đến.
- Không nên ở đây, chúng ta sẽ bị hạ thủ.
- Đi đâu thì chúng ta cũng bị giết chết. Villeneuve trả lời:
Baillet đứng dậy, đi được mấy bước rồi lăn ra, một viên đạn găm trúng vào tim anh.
Đi sau đại đội Tabor bảo vệ và Trung đoàn bộ của Đại tá Lepage, chúng tôi rút lui. Đối phương thúc đằng sau gót. Chúng tôi rút khỏi đồi 477 bằng con đường ở đáy lũng được tạo thành bởi một con suối cạn. Hẳn là quân đối phương đã tiến qua con đường này, vì nhiều xác chết, đủ các màu da, nằm ngổn ngang dọc theo con đường này. Mọi thứ quân trang quân dụng rải khắp nơi trên mặt đất: túi ba lô, khăn quàng, băng đạn, mụn rách của quần áo, tập băng gạc, mũ của quân đội Việt Minh bằng lá cọ, thứ thì treo trên mỏm đá, thứ thì dính bùn lầy bẩn thỉu. Hầu như tất cả đều vấy bẩn bởi bùn và máu, máu tươi. Trên đỉnh núi 477, mặc dù tình thế nghiêm trọng, chúng tôi vẫn có cảm tưởng là tương đối an toàn nhờ ở độ cao của vị trí. Bây giờ, chúng tôi đang đi trong một lòng suối cạn, vấn đề lại đặt ra: theo đường suối, theo quân Việt Minh giục xung phong, rồi chúng tôi nghe tiếng súng của trận đánh giáp lá cà, điểm vào là tiếng lựu đạn nổ.
Tiếp theo, tiếng kèn đồng chua loét của quân Việt Minh báo hiệu chiến thắng, gọi nhau, tìm nhau. Mặt trời tắt dần. Chân trời tối đen. Màn sương mù nhẹ buông xuống.
Chúng tôi thở xả hơi mấy phút, rồi mỗi người tự sửa sang, như trang điểm lại cho mình. Trung sĩ Bauer đang sửa sang bộ quân phục bằng cách gài lại cái khuy, anh Pontet với một miếng gạc cứu thương, chùi cái áo lưới mắt cáo bị lấm bẩn sau cú ngã quỵ xuống bùn. Còn Đại đội trưởng Spor, anh ngồi bình tĩnh, anh để khẩu tiểu liên trong tầm tay, khoá chốt an toàn, rồi anh từ từ tuột đôi giày, kiểm tra tỉ mỉ mấy ngón chân, tay, xoa bóp nhè nhẹ từng ngón một. Anh xỏ lại giày đứng dậy, anh rút ra tấm bản đồ và bắt đầu nghiên cứu với một cái đèn Pin nhỏ, bọc ở đầu có một miếng giẻ. Anh đúng là người lính thực thụ ở giữa đội quân, một cấp chỉ huy bất chấp sự nguy khốn, anh quyết định cho dừng chân... Chỉ có một cái thiếu, đáng tiếc! đó là bữa cơm chiều.
Trong đêm tối, một tiếng khe khẽ gọi: "Ông Trung uý! Ông Trung uý! "
Ở tư thế nằm ngửa, chân anh bị giữ im bởi những chỗ băng bó, Trung sĩ Triquet Trung đội trưởng một trung đội Tabor, chồm dậy dựa vào 2 khuỷu tay, khi chúng tôi đến gần. Bên cạnh anh, có đội trưởng Renin đang thức, và chăm sóc cho thương binh này.
Renin giải thích:
- Quân Tabor tiếp tục cuộc rút lui. Họ để lại anh Triquet vì mang theo sẽ làm chậm bước tiến của đoàn quân. Tôi cố giữ lại một số lính Tabor của Trung đội tôi, nhưng họ vẫn tiếp tục đi về hướng Nam. Tôi ở lại với Thủ trưởng của tôi, tôi không muốn bỏ rơi anh ta. Rồi như để tự thanh minh, anh nói:
- Các anh hiểu! Chúng tôi biết nhau từ lâu rồi.
Spor hỏi ngay:
- Vậy ai là chỉ huy Trung đội các anh bây giờ?
- Không ai cả. Anh ta trả lời với vẻ hơi ngượng ngùng.
Spor lắc đầu, rồi ra lệnh làm một cái cáng tạm thời để khiêng người thương binh, người lính đã nhiều năm dưới quyền anh ở Ma rốc.
- Anh Trung uý - Triquet nói khe khẽ giữa tiếng rên vì đau đớn - Nếu là anh, thì tôi sống! Anh? Anh không bỏ rơi tôi, Trung uý, tôi biết, tôi biết là anh không bỏ rơi tôi.
Nói năng thật không ra sao cả, nhưng Spor mủi lòng, trái với thói thường của anh
Bám lấy cáng, chúng tôi cố gắng leo trèo trong khu vực của những mỏm núi mấp mô. Có người trượt chân ngã vào đống bùn, họ dựa vào đầu gối, họ gượng nâng cáng lên ...Trời tối đen, tiếng súng thưa dần, đó là thường lệ ở giờ này. Ở vào lúc mà chúng tôi phải lợi dụng giây phút tiếng súngngơi, để lao nhanh thì chúng tôi lại chùn lại, đi cực kỳ chậm. Dù sao, chúng tôi dồn sức còn lại để làm nhiệm vụ gay go này, không ai muốn nói ra nhưng chúng tôi đều nghĩ, nếu chúng tôi làm việc ấy với người thương binh cấp dưới của Spor, thì Spor cũng sẽ như vậy với chúng tôi, khi có sự kiện tương tự xảy ra. Trong tình trạng rã rời, ý chí dù là mù quáng, của một con người mạnh mẽ bỗng trở thành một mệnh lệnh vô thượng. Đáng tiếc, chúng tôi sắp buộc phải bỏ lại anh thương binh, mặc cho bao cố gắng tuyệt vọng, chúng tôi thấy khó tiến lên nữa, trong lúc còn hàng chục cây số phải đi tới.
Trong một giờ chúng tôi chỉ có thể tiến lên độ vài trăm mét. Luân phiên phải thay người khiêng cáng, lúc đầu đi đầu, dần dần đi theo đuôi.
Anh hạ sĩ quan thương binh biết là đoàn sẽ để anh lại trên đường, anh mạnh dạn nói với Trung uý Spor.
- Để tôi lại, cho tôi một phát đạn!
Một tâm lý đáng hổ thẹn, đến với chúng tôi, tất cả có hai luồng suy nghĩ: Để cứu một mạng người, không nên làm cho 80 người khác bị kẹt mất hết hy vọng và nếu chúng tôi lại bị thương nữa, thì đi tong. Không thể nghĩ khác. Hoặc không nên cầu xin sự giúp đỡ của người khác, khi buộc người ấy có thể bị nguy hiểm tính mạng, chỉ vì một việc là đi chậm. Mỗi người chúng ta đều phải có sự dũng cảm mà nói khi đến lượt mình: "Hãy bỏ tôi lại", để giải toả lương tâm cho các chiến hữu của mình, vả chăng sự quyết đoán ấy coi như đã được tính trước rồi .
Anh Trung sĩ Renin quyết định ở lại với Sếp của anh.
Spor muốn cưỡng lại, nhưng không được. Anh ta phải giải thích cho viên hạ sĩ của anh là anh phải tìm gặp Trung đội của anh ta, và đưa những người còn sống về đến đích cuối cùng.
Anh Renin ở lại, không rời người bạn của anh. Đừng bỏ rơi tôi, đừng bỏ rơi tôi. Người bị thương kêu gào, rên rỉ trong mê sảng.
Chúng tôi phải tiếp tục đi
Spor ra lệnh lên đường, đoàn đi nhanh, như để xua đi cái
hình ảnh đau thương vừa qua.
Khi những lính Tabor đang lên một dốc nhỏ, tôi ngoảnh lại nhìn, thấy dưới bóng cây, anh Renin đang cúi người xuống với Triquet, cho anh ta uống nước.
Hai bóng đen mờ dần trong đêm tối.
Trường hợp của hai anh chàng Triquet và Renin sau này được đưa ra tranh luận. Anh Renin bị đưa ra phê phán mạnh bởi những bạn chiến đấu của anh ta. Anh bị lên án là đã bỏ rơi Trung đội của mình mà đúng ra anh phải cầm quyền chỉ huy, khi Triquet vắng mặt.
Renin bị phạt giam vì đã bỏ rơi Trung đội của mình, anh đã có thể chọc thủng vòng vây, được thưởng Huân chương và là kẻ chiến thắng trong chiến bại, anh sẽ được các bạn của anh, cho anh là một chiến binh giỏi. Có thể, có lúc anh nhớ đến người bạn bị bỏ rơi, bị thương nặng đang nằm trong một khu rừng ở Đông Khê, anh có thể thấy lương tâm anh cắn rứt.
Trước một sự lựa chọn được đặt ra, anh Renin đã chọn cách giải quyết khắc nghiệt nhất, không theo một ước lệ nào, tự phát nhất và xúc động nhất.
Người nào đã đánh giá không khoan nhượng về anh, về con người Renin quá trung thành với bạn bè, mà quên nhiệm vụ, người ấy vẫn cảm thấy trong lương tâm day dứt, xao động. Mong rằng những miệng lưỡi độc ác đừng có xúc phạm nữa. Người ta chỉ nên nhớ đến hình ảnh anh chàng Renin ngồi bên cạnh cái thân thể bị tàn phá của người bạn mình .
Phải chăng Renin, một trung sĩ thấp bé đã đi vào truyền thuyết những con người thượng thặng, những gương quả cảm? Không kể là anh có thể có những động cơ kín đáo và những yếu đuối nào.
CHƯƠNG 26
MỘT TRẬN Ú TIM
MỘT TRẬN Ú TIM
Chúng tôi lần mò tiến trong rừng. Trời tối đen, từng lúc có sương mù. Địa hình xấu đến nỗi chúng tôi phải dừng lại và người này dựa vào người kia. Chúng tôi phải thu mình, lưng dựa lưng, bị rét cóng, không phân biệt là cấp nào. Tôi như dính vào hai anh lính Tabor, khẩu các bin kẹp vào hai chân, co rúm và băng giá.
Chỉ có đêm tối và xa lạ. Thỉnh thoảng nghe vài phát súng nổ xung quanh, có cảm tưởng như gần lắm, mọi người đều nắm chắc tay súng, nhưng mắt trố ra mà không thấy gì. Tiếng còi quân Việt Minh văng vẳng, dịu nhẹ hơn trước đó, dường như có sự mệt mỏi.
May quá tôi gặp lại anh Spor, chúng tôi quyết định dừng chân tại chỗ, cho đến gần sáng, vì lẽ chúng tôi không thể nào vạch được con đường để đi trong rừng, trong đêm và dưới trời mưa.
Trong số chúng tôi, nhiều người không còn ba lô, không còn lều nữa. Một số bắt đầu ho, lập tức có tiếng kêu rồi im lặng. Không một tiếng động, có tiếng ho chứng tỏ có bóng người ở đâu đấy ẩn núp, trong đêm đen. Bằng tiếng rất khẽ, chúng tôi xin nhau miếng bánh bích quy, kẹo Sô-cô-la. Chúng tôi không có gì trong bụng đã từ 24 tiếng rồi và cho đến Thất Khê, cũng không có gì, chỉ còn có tiếng nhai cọt kẹt của hàm răng. Hay tiếng va của răng vì giá rét, làm thủng bầu không khí im lặng.
Còn hơn đêm trước, đêm nay sao mà dài thế. Chúng tôi cảm thấy sự kinh hãi của những con người vốn thấy mình còn quyết tâm, còn mạnh mẽ.
Một khi tiếng động của chiến trận ngơi ngớt, ý nghĩ bị thất bại hoàn toàn tự nhiên thấm vào óc, vào tim. Đã đến lúc kết thúc niềm hy vọng cuối cùng, những ảo ảnh cuối cùng. Bị vây dồn, chúng tôi chỉ còn nước là cứu lấy mạng sống của mình.
Chúng tôi tưởng có thể vượt lên trước những kẻ săn đuổi chúng tôi, nhờ ở sự nhanh nhẹn trong hành động. Giữa chúng tôi và Thất Khê, không biết những gì chờ đợi: có thể là những đơn vị đối phương từ phía Nam lên, họ đang căng lưới phục kích chúng tôi để tiêu diệt chúng tôi; hay trái lại một đơn vị bạn đang tiến lên để đưa đến cho chúng tôi một sự hỗ trợ mong manh nào đó.
Ngày mai sẽ rõ.
Vào lúc 4 giờ sáng, chúng tôi lại lên đường, tay cầm tay, gần 100 người. Sau đấy, đoàn quân bị chia cắt, đường xấu vô cùng, một thứ rừng đầy cây gai xé tay, xé chân, xé mặt chúng tôi, nó xé nát những mảnh quân phục đã rách nát.
Trong đất bùn trộn lẫn những mảnh đá làm nát chân, chúng tôi vấp ngã, bị chấn thương và tuôn cả máu. Hàng chục con vắt đói bám lấy hai chân, trong khi ấy những mụn lở bắt đầu tấy và mưng mủ làm cho cả thân thể nhức nhối.
Thượng sĩ Coussy rất đau đớn, anh bị một viên đạn bắn vào bàn tay và cánh tay bị thương của anh luôn bị va vào những tảng đá, hay cành cây. Để giữ bí mật chung, anh không dám kêu một lời. Ban ngày, chúng tôi có thể hiểu sự cố gắng của anh khi nhìn thấy những rạch gân xanh dưới cặp mắt của anh, nó đánh dấu sự đau khổ mà anh phải chịu đựng. Đôi môi anh mỏng, mím chặt như bị gắn lại bởi một nghị lực thép. Anh không thốt ra một lời than phiền. Coussy không rời khẩu các bin, khi nào mà anh cảm thấy không gượng nổi sự đau đớn, lúc ấy anh mới dựa vào một chiến hữu.
Một ánh sáng màu xám, che bởi màn sương, rọi vào trong rừng. Chúng tôi đang lạc vào trong vùng chằng chịt những dây leo và núi đá.
Đi sang bên phải một con suối nhỏ mà chúng tôi vừa đi theo, chúng tôi đi vào một đường mòn không rõ ràng, chúngtôi tìm thấy những vết chân, vết giày đính lẫn với vết chân đất làm chúng tôi suy nghĩ.
Có tiếng động bất thường, chúng tôi nằm rạp, súng ống sẵn sàng, cách chừng 20m trước mặt, trong một khoảng rừng quang 3 người âu đang ngồi. Họ có vẻ mệt nhọc, chúng tôi nhích đến gần, luôn cảnh giác với mọi bất trắc, vì chúng tôi biết trong hàng ngũ quân Việt Minh, có người da trắng.
Đây là những hạ sĩ quan lính biệt kích mất liên lạc với đơn vị của họ. Họ thông báo cho chúng tôi biết: Trước mặt chúng tôi là đơn vị Tabor của Cao Bằng, do Trung tá Chergé chỉ huy. Trước đấy một đơn vị nhỏ của quân đội Việt Minh tấn công vào khúc đuôi và đã gây một số thiệt hại. Quân việtMinh hình như đã đi xa, còn quân ta chống trả mãnh liệt, có lẽ là nhờ ở sức vươn lên khi sắp thất bại.
Chúng tôi quyết định đuổi kịp những bạn chiến đấu để cùng hành quân với nhau. Khi ấy chúng tôi có thể dễ bị phát hiện, nhưng chúng tôi sẽ khoẻ hơn lên. Trên đường, chúng tôi nhận được một số lính Lê Dương, một số bị lạc hoặc những người lính lẻ loi sót lại của các đơn vị.
Một trong số họ, nói rằng họ ở trong đoàn của Đại tá Charton. ông này bị thương, và đã bị rơi vào tay Việt Minh trong một trận phục kích, đã bị bắt làm tù binh, với cả bộ tham mưu của ông ta.
Một anh khác tự nói là người độc nhất còn sống sót của trung đội anh ta, anh kể là đã chạy trốn, khi đang bị trói tay đằng sau, và bị một lính Việt Minh dắt đi. Anh này không còn vũ khí nữa. Chúng tôi cũng tự hỏi, không biết anh ta có nói hết sự thực hay không? Việc ấy lúc này không quan trọng lắm. Trường hợp như anh này không ít, việc những người bị mất vũ khí và những việc thanh toán tiền nong sẽ được giải quyết sau này. Khi mà chúng ta thoát được cảnh này, và khi những việc thanh toán có thể đặt ra.
Đã qua nhiều giờ, chúng tôi leo lên, rồi lại leo xuống các ngọn núi có rừng bao phủ, chúng tôi mong sao chóng tối,chúng tôi cảm thấy như ánh sáng đang bị yếu đi ... một sĩ quan mang chiếc đồng hồ còn chạy, nói là chỉ mới có 10 giờ sáng. Có đúng thế không?
Đôi khi bước đi trở nên rất nhanh, những bóng người hiện ra và biến mất liên tục. Đôi khi cảm thấy bị cô lập và sợ khủng khiếp.
Chúng tôi chạy, chạy nữa...còn thấy bóng bạn bè bỏ trốn, vẫn còn cảm tưởng như mình là một khâu nhỏ của dây xích vững chắc. Thế rồi không chạy lên được nữa, những lính phía sau càng tồi tệ.
Chúng tôi thỉnh thoảng quay lại nhìn về phía sau, súng ống sẵn sàng, nhẫn nhịn tìm xem có xuất hiện bóng đối phương nào theo sau gót, và để nhả những băng đạn phục thù cho danh dự.
Gặp một đội quân nhỏ đơn vị bạn của Cao Bằng, với chúng tôi thật là những giờ phút hồi hộp. Suýt bắn nhầm nhau.
Đến một ngã tư đường, họ phạm một sai lầm là dừng lại để thở và nhai mấy miếng bích quy cuối cùng, có thể là chỉ một phần tư cái bánh, bây giờ thì họ biết rằng đứng trước mặt họ, chúng tôi là những người làm nhiệm vụ trinh sát. Sự yên lặng lại trở lại. Hẳn là chúng tôi còn phải chịu những đợt xung phong của quân Việt Minh! Cảm tưởng cơmay đã rời bỏ chúng tôi càng tăng thêm, đoàn chúng tôi không đi nữa, một số băng đạn nổ ở phía trước. Rồi im bặt.Cuộc hành trình lại tiếp tục bình thường và chúng tôi nhìn nhau dò hỏi.
Không ai gặp chúng tôi, bạn cũng không, thù cũng không?
Gần một giờ chiều, ở dưới những bóng cây, chúng tôi đi theo một quả núi lớn.
Cách một cây số về bên phải, ở phía dưới, một loạt liên thanh bất ngờ nổ, chúng tôi thấy một số người, có thể là bạn, vừa chạy vừa bắn về phía một quả núi. Từ đỉnh núi, một số người lao xuống, một sự hỗn loạn đã xảy ra, hình như những người trên núi xuống đã bị bắt làm tù binh, những người dưới núi đã bao vây họ, vì những người trên núi quân số ít hơn. Chúng tôi có cảm tưởng như đã vượt qua hàng chục cây số, cuộc hành quân thật là vất vả. Thực tế chúng tôi đã đi rất chậm.
Bây giờ, đã đến một giai đoạn tế nhị của cuộc hành trình. Chúng tôi đi đến đoạn cuối của một đỉnh núi có những bụi cây, có rừng bao phủ.
Trong cái thung lũng mà chúng tôi nhìn từ núi xuống, đang có nhiều lính Việt Minh. Họ đi đi lại lại. Họ mặc quân phục màu vàng. Họ đang chiếm lĩnh trận địa trên một mỏm đồi cách chúng tôi chừng 3-4 cây số.
Thế là rõ, quân của tướng Giáp đã từ phía Nam lên để đối đầu với chúng tôi và để đóng cái lưới lờ chặn chúng tôi. Bởi vậy, trong các lùm cây trên các mỏm núi ngăn cách chúng tôi với Thất Khê, quân Việt Minh đang ẩn nấp và đợi chúng tôi. Mong là họ không đông lắm, có thể băng qua thung lũng bằng con đường băng ngang ngắn nhất, vòng qua núi 515 rồi lên quả núi 608, mà ở đấy 2 đại đội Lê Dương, và 2 đại đội của tiểu đoàn Tabor 11, đang ở tư thế phòng ngự đã chờ đón chúng tôi.
Nếu chúng tôi bị rơi vào một ổ phục kích, chúng tôi sẽ phải xông thẳng trước mặt để vượt qua với số đông nhất, những ai bị bỏ lại thì mặc.
Chúng tôi bắt đầu hành quân, theo hàng dọc, lần đầu tiên không có rừng che. Viltard trung uý của tiểu đoàn dõng Cao Bằng nhập vào đoàn chúng tôi.
Viltard nói rằng cách hành quân như vậy là rất mạo hiểm, và nói trước là sẽ thất bại hoàn toàn. Viltard nói là trước đây ở vùng này trong một cuộc hành binh trinh sát, anh đã tìm ra một lối đi thích hợp, anh định dùng lối đi đó và tình nguyện làm hướng đạo.
Chúng tôi đi với số đông và không muốn làm sai kế hoạch của đoàn bằng cách chia nhỏ số người.
Viltard đi với hai lính dõng người Nùng, chúng tôi không còn gặp lại anh ta nữa.
Xuống một triền núi rất dốc, chẳng bao lâu chúng tôi đến đầu một cái thung lũng miền núi có nhiều ruộng, nhiều suối. Ngọn núi 515 chỉ cách chúng tôi chừng 3-4 cây số.
Chân núi có rừng ven cánh đồng ruộng nước, quả núi có thể bị chiếm giữ bởi quân Việt Minh vì chúng tôi thấy hai chiếc Kinh - Cobra bổ nhào vào đỉnh núi và bắn dai dẳng.
Xung quanh chúng tôi, quân Việt Minh chạy lẩn tránh, như để mở một lối đi cho chúng tôi đến núi 515.
Một cách tự nguyện, chúng tôi làm theo ý họ.
Đoàn chúng tôi, vượt qua một cái làng nghèo khổ, dân làng vừa mới bỏ đi, vội vã, trên bếp còn lửa nấu bữa cơm chiều.
Cạnh con sông nhỏ mà chúng tôi lội qua, nước đến vai, một số trâu đen đang đầm, chúng nhìn chúng tôi với con mắt thù địch. Orsini gọi to:
- Trâu Việt Minh, còn có cả lợn con Việt Minh, lưng còng, bụng sệ.
Chúng tôi chui vào dưới bóng cây ở chân núi 515, theo một đường mòn đi dọc theo sườn của quả núi.
Đi độ 1 giờ trong yên tĩnh, thế rồi bỗng nghe thấy tiếng hò hét của những kẻ chiến thắng tung ra từ bên trái. Hàng trăm người, mà chúng tôi không trông thấy, hò reo ...,không thể chối cãi được họ là ai rồi, chúng tôi chuẩn bị phá cuộc phục kích hộc tốc này, với tư thế nhún.
- Súng nổ bên trái, bên phải mấy lính Việt Minh đang tuột từ sườn ngọn 515 xuống theo như chiến thuật họ hay dùng, họ tung lựu đạn, hò reo, nhiều người nhảy bổ nhào bị những băng đạn xối xả của chúng tôi bắn chết. Đạn chúng tôi bay tứ phía của thung lũng, sự im lặng đột nhiên trở lại.Chúng tôi hiểu rất rõ: đó là những kẻ chiến thắng ở phía dưới đang bò lên để giết chúng tôi.
Từ những phút đầu của cuộc hành binh mệt nhọc này, đơn vị của tôi lúc nào cũng là cái khoá đuôi của binh đoàn Lepage. Đi theo có vài trẻ mồ côi của Cao Bằng, vài lính Lê Dương, lính quân xa và lính dõng. Còn có độ 60 lính Tabor và gần hết cán bộ khung của tiểu đoàn Tabor.
Gọng kìm sắp khép lại, xiết đúng vào tâm của đơn vị này.
Anh Piteau một cựu chiến binh lữ đoàn quốc tế của quân đội Viễn Chinh ở Ý, một tay bất trị của Đông Dương luôn luôn lặp lại những mệnh lệnh, bắt quân của anh bố trí một trung liên. Hành động này buộc đối phương phải ngừng một cuộc tấn công, nhưng đã làm cho đoàn quân hậu vệ phải cắt làm đôi. Sau đó Piteau bị bắt làm tù binh....
Tôi ở tình trạng bị cô lập, cùng với một số lính Tabor, giữa trận địa phục kích, sự lộn xộn đến cao độ, đạn của chúng tôi và đối phương bay đi tứ phía. Chúng tôi chạy nước đại theo hướng núi 608, ngọn núi cao dựng đứng, như là mũi một con tàu, tôi xả hai băng đạn vào một tốp đối phương. Tôi không tìm thấy anh Spor đâu cả. Người của chúng tôi phân tán đi tứ phương : một số leo lên mỏm 515 một cách mù quáng, bị rơi vào giữa đám lính Việt Minh và nằm trong ống chuẩn trực của mấy chiếc phi cơ của ta đang hoạt động; một số lao xuống sườn núi, một số đâm thẳng vào quân Việt Minh...bắn lia lịa.
Tôi nhìn thấy cách xa chừng 300m về phía dưới, đại bộ phận đi đầu của binh đoàn đang rẽ về phía chân quả núi 608, đi sau là lính Tabor. Tôi đi theo hướng ấy.
Đối phương bị thiệt hại nặng vì không quân chúng tôi đang xả vào họ, để bảo vệ cho sự vận động của chúng tôi.
Quân việt Minh tìm cách bám sát lấy chúng tôi nên chúng tôi bị những tràng liên thanh từ phía sau bắn tới.
Bấy giờ chúng tôi bò cả hai chân hai tay lên thành dốc đứng của 608.
Ướt đẫm mồ hôi, có thể chết đi vì mệt mỏi, chúng tôi leo từng thước, từng thước những dốc đứng. Cỏ tranh bao phủ sườn núi trông như ở cánh đồng lúa mỳ lượn sóng bên dưới. Lính Ma rốc đột nhiên dừng lại ở lưng chừng sườn núi. Họ tưởng là nhìn thấy quân Việt Minh đang hối hả đi lại trên đỉnh núi. Họ hét lên là không nên, không nên lao lên nữa. Họ ngừng việc leo, mặc cho tôi ra lệnh, họ đứng nguyên tại chỗ như bị chốt đinh lại vì sự lo lắng, và từ chối không tiến lên nửa bước.
Cho đến khi chúng tôi lên đến đỉnh núi, chúng tôi gọi, lúc ấy mấy anh lính Tabor mới leo lên theo. Chúng tôi thực sự ở trạng thái mệt lử. Họ chẳng lấy gì làm vui, và tôi không quên những bộ mặt ỉu xìu của họ.
* * *
Giờ phút mà với áo quần tơi tả, chúng tôi ngã vào tay những người bạn Lê Dương từ Thất Khê đến, là những giờ phút buồn đến rơi nước mắt.
Các bạn Lê Dương nhìn chúng tôi với vẻ hoài nghi, những kẻ rách bươm, xây xát, những kẻ chiến bại. Chúng tôi đoán biết họ nghĩ gì, nhưng dù sao, chúng tôi cũng tranh thủ thư giãn một tí, uống một cốc càfê nóng như để sống lại. Những tiểu đoàn chính quy đồng đều đã diễu hành đầykiêu hãnh ngày 14/7 ở Lạng Sơn năm xưa, và tháng 9 năm nay, khi nhận nhiệm vụ lên biên giới phía Bắc ở trong một tưthế tuyệt đẹp. Chẳng lẽ chỉ còn lại thế này ư? Những khuôn mặt hốc hác, râu ria xồm xoàm, nhem nhuốc vì máu và bùn, những bộ quần áo rách như xơ mướp, những bàn chân đất của kẻ bị nhục hình, chứng tỏ một sự tổn thất hy sinh ghê gớm, không cần thêm một lời bình nào.
Những bạn Lê Dương hỏi gay gắt và nghiêm khắc. Họ muốn không tin chúng tôi, nhưng họ nhận thấy là chúng tôi bị chấn động, trở nên bi quan vì quá mệt mỏi. Chúng tôi rất hiểu tâm lý của họ và tìm cách giải thích mọi tình hình. Họ hiểu ra được tầm ảnh hưởng to lớn của thảm họa Cao Bằng.
Đại uý Labaume, chỉ huy đơn vị đi ứng cứu, rời chúng tôi, rồi đi từng bước, nặng trĩu đến cạnh đài phát vô tuyến điện. Tôi thấy ông ta cúi xuống một sổ tay, do dự một tí, rồi viết.
Điện đài viên bắt bắt đầu đánh ti ... ti ... ti ... ti ... nghe đơn điệu như thường lệ...
Sự tin tưởng của những kẻ ở Sài Gòn, Hà Nội, Lạng Sơn kể cả Thất Khê sẽ bị sụp đổ khi nhận được tin sau: Mấy đơn vị nhỏ của Charton, Lepage đã ùn về vớii tôi trong cảnh lộn xộn. Có ít hy vọng thấy thêm những người thoát nạn khác đến.
Chữ "thoát nạn" bị tung vào không trung, làm cho chúng tôi bị nhục trong nhiều tháng, vì không có chữ nào nặng nề hơn cho một người lính, cho người thân và cho gia đình họ. Trung uý Spor nhặt nhạnh những rơi vãi còn lại của Đại đội Taborr.
Anh chàng Pontet mới cưới vợ ở Đồng Đăng bị nêu là mất tích, cùng với hai Trung sĩ của anh ta. Piteau bị bắt làm tù binh. Một hạ sĩ bị chết. Hơn một nửa số quân của các đại đội Tabor vắng mặt khi điểm danh. Còn lại chừng 60 người, còn Loubès, Orsini, Bauer, Spor và tôi. Chúng tôi thế là còn may mắn so với một số đơn vị bị xoá sổ hoàn toàn.
CHƯƠNG 27
BƯỚC NHẢY CUỐI CÙNG
BƯỚC NHẢY CUỐI CÙNG
Trên đỉnh núi 608, Đại uý Labaume và lính Lê Dương của ông đóng ở tư thế phòng ngự. Những hố cá nhân bao quanh đỉnh các mỏm núi mà đỉnh cao nhất là ở phía Bắc. Lính có thói quen đánh trần, liên tục đào công sự. Trên ngực lực lưỡng của họ, mồ hôi nhễ nhại, đường gân rõ nét của cơ bắp nói lên sức khoẻ tiềm tàng trong từng người của họ. Những cái mũ dã chiến phai nhạt bám lấy những cái đầu trọc, tạo nên những dáng kỳ lạ: mũ phớt rộng vành, mũ người đi câu cá, mũ hai mũi của lính thực dân Hà Lan ở châu Phi...
Một trung uý, tò mò và cũng có sự quan tâm mời tôi đến Trung đội của anh ta. Khi thấy tình trạng thảm hại của tôi, anh ta cho tôi một đôi tất loại tốt mà tôi không thể nào mang được, vì lẽ bàn chân tôi, cho đến mắt cá, rõ ràng là đang ởtrong tình trạng thối rữa mặt ngoài, lốm đốm rải rác những vết thương do lựu đạn, những vết ghẻ nhiễm trùng và mưng mủ, những vết của vắt cắn chưa thành sẹo, máu me đen thui, những vết đứt do gai góc, do cỏ sắc, làm thành những vết thương ngang dọc và bị mưng mủ dưới cái áo lót hình mặt cáo rách nát. Nhiều bạn tôi còn trong tình trạng bi đát hơn: Họ phải đi hàng chục cây số, chân đất, bây giờ họ không còn đi được nữa. Bàn chân của họ bị xăm bởi hàng trăm chấm đen, giống như những ổ nấm, bây giờ họ không thể đứng dậy được nữa. Phi cơ đến thả lương thực. Đối với chúng tôi, đâylà những phút vui mừng nhất khi những con chim câu trung thành ấy đều lượn bay rất thấp, lượn trên đầu chúng tôi, thả những két lương thực vào cái không gian nhỏ hẹp của các đỉnh núi. Trước khi về nó còn vẫy cánh tạm biệt. Chúng trở lại với một không khí gia đình, một sự an ủi đặc biệt. Những trọng liên của quân Lê Dương chốc chốc bắn vài băng đạn xuống các tốp nhỏ lính Việt Minh đi lại trong thung lũng. Cái ngày đáng buồn không bao giờ quên ấy, kỷ niệm duy nhất mà độc nhất tôi muốn ghi lại trong cuốn sổ tay đi đường của tôi "Ngày 8/10, tôi đã cạo râu, tôi đã uống một ly vang đỏ".
Còn không biết bao việc phải làm, phải xem xét, phải nói đến những bộ máy của tôi, không cho phép tôi làm việc. Tôi có nhu cầu ngủ. Chúng tôi quên là một nhu cầu bức xúc da diết. Anh Trung uý cho tôi mượn cái túi chăn của anh ta. Tôi vui mừng không tả xiết, chuẩn bị chui vào chăn.
Cuối cùng chúng tôi đã có thể bàn giao công việc lại trong vài giờ. Tôi được thức dậy.
Anh Trung uý chạy đến bắt tay tôi. Tôi cứ tưởng anh nói gì anh lại nói "Chào anh buổi tối" tôi vẫy chào anh thân thiện, anh quay lại lều của mình và bắt đầu sắp xếp tư trang của mình. Tôi thấy anh là người rất ngăn nắp. Sau đấy anh xếp lều, xung quanh tôi các lính Lê Dương khác cũng làm như vậy. Anh bạn đến gần tôi, bẽn lẽn, cẩn thận nói, như với một thương binh nặng.
"Xin lỗi ông bạn, tôi phải xin lại cái túi chăn, một giờ nữa là đêm đến, chúng tôi phải rời vị trí này".
Việc mất mấy giờ ngủ, đối với tôi là cực kỳ quan trọng. Trên đường đi, tôi đã có cái cảm giác sắp chết đi vì buồn ngủ.
Để làm giảm bớt động tác thiếu tình cảm trên, anh chàng cầm lắc lư cái túi, vừa vỗ vai tôi và nói:
"Những chỉ huy các đơn vị tập trung cạnh đài vô tuyến điện, tất cả các sĩ quan thoát nạn (lại nhắc đến chữ ấy) cũng đến đấy".
Tôi đứng dậy nặng nhọc, cảm thấy cái nặng nề của mệt nhọc. Tôi tự nhủ: "Đừng để ý đến hoàn cảnh cá nhân của mình nữa, hãy quên rằng mình chẳng còn cách nào nữa đi, hãy làm chủ lấy mình". Tôi bị mềm nhũn và suy sụp. Tôi đau đớn toàn thân, cổ tôi nhức nhối, tôi có một cảm tưởng kỳ lạ là cái đầu tôi nhỏ quá, không chứa nổi cái bộ óc của tôi. Có khi tôi hoá điên để tỉnh người, tôi nhúng mặt vào chậu nước ấm, rồi khó nhọc lê bước, tôi đến nơi họp.
Đại uý Labaume giải thích: Tôi vừa nhận điện của Thất Khê là tình hình trở nên xấu. Tôi ra đi với hầu hết lực lượng nòng cốt của đồn Thất Khê, những đơn vị quân Việt Minh bắt đầu chiếm đỉnh các ngọn đồi xung quanh lòng chảo Thất Khê - Tiểu đoàn 3 nhảy dù, thả xuống hôm qua ở sân bay, đang lên phía Bắc cầu Bông Lau, đang tìm cách lên đến 703, đèo Lũng Phẩy mũi đi đầu đang gặp sự chống cự mạnh. Họ bị bắn trên đầu, từ khắp bốn phía. Ở phía Nam, đồn Bản Trại giữ cái cầu qua sông Kỳ Cùng bảo vệ con đường độc nhất cốt để rút về Na Sầm - Lạng Sơn, từ hôm qua đến nay bị quấy rối bằng đạn cối. Giữa chúng ta và Thất Khê, quân Việt Minh bắt đầu chăng lưới phục kích và đang chiếm một cái chùa nằm cạnh sườn một cái đồi bên kia sông Kỳ Cùng, nhìn vào pháo đài Thất Khê. Chúng đặt súng máy bắn vào Đường số 4 giữa Thất Khê và cầu Bông Lau. Không quân không diệt nổi tổ ong vò vẽ này. Kết luận:
1. Chúng tôi phải rút lúc chập choạng tối. Tôi được lệnh bảo vệ các anh về đến Thất Khê, nơi gần nhất, có thể đến cầu Bông Lau. Sau đấy, tôi còn phải giúp tiểu đoàn 3e BCCP và lính Lê Dương của nó.
2. Hai đại đội của tiểu đoàn Tabor 11 đang ở với chúng tôi, nay đặt dưới sự chỉ huy của tôi.
Những lời cứng rắn trên có ý nghĩa: "Người ta sẽ thả anh về với thiên nhiên, tìm cách về đến Thất Khê theo cách của mình. Chúng ta có việc khác phải làm, không phải chỉ có việc hộ tống bọn anh"
Tất nhiên, chúng tôi đồng ý và không ai có ý kiến bác bỏ. Chúng tôi đều biết là những ý kiến trên là rất xác đáng, nó có lợi cho công việc chung chúng tôi sẵn sàng thi hành. Tại sao lại không? Sau cùng ý nghĩ là lại có dịp được chiến đấu làm cho tôi hồ hởi, phấn chấn, tôi kiểm tra khẩu cacbin, đạn dược của mình và tôi mò tìm trong túi áo cái bản đồ 1/100 000 mà tôi giữ kỹ ngay từ đầu.
Lúc ấy có chừng một chục sĩ quan là người thoát nạn của 2 binh đoàn Lepage và Charton. Tôi hy vọng ở lại với đại đội Tabor của tôi và với Trung uý Spor luôn là con người vững vàng, rắn rỏi. Những nét nhăn trên mặt lần đầu tiên nói lên là anh đã bị mệt mỏi quá sức như mọi lần trong những lúc có công việc lớn, anh kiểm tra những ngón chân của anh, trong khi ấy anh vẫn lắng nghe những lời dặn dò cuối cùng.
Trái với nguyện vọng, tôi được giao một nhiệm vụ đặc biệt.
- Anh nhận nhiệm vụ chỉ huy những lính dõng thoát nạn của Cao Bằng.
Thật là một việc kỳ lạ khó tin. Mặc dù họ chỉ có độ 30 người, cộng với vài thường dân, trong số hàng trăm người của cả tiểu đoàn lính dõng có mặt ở khắp nơi. Họ không quen biết tôi. Tôi không còn lo nữa. Họ theo tôi một cách miễn cưỡng, từ khi mới tập hợp lại ở 608, họ đã lẫn vào đám đông lính Lê Dương để kiếm ăn.
Ăn để lấy lại sức là sự lo lắng tức thời của họ, còn các lệnh của tôi, tuy là mệnh lệnh, nhưng có vẻ bị bật ra không có hiệu nghiệm với những cái đầu bướng bỉnh của anh nông dân miền núi.
Cả đoàn bắt đầu rút lui theo kế hoạch đã định: Hai đại đội Lê Dương đi đầu, ở giữa hai đại đội Tabor - những đơn vị sống sót của Lepage và Charton- khoá đuôi: 1 đại đội Tabor. Không có đường giữa mỏm 608 và cầu Bông Lau (Bascou). Đại uý Labaume đi đến quyết định mở một con đường xuyên qua rừng, gần như một đừ lắng thẳng, theo trục: Nam - Đông Nam.
Con đường đau khổ bắt đầu từ khi khởi hành, bờ bụi gần như dày đặc, lính Lê Dương phải vạch đường bằng dao xuyên qua một bức tường bằng dây leo và bờ bụi. Chúng tôi đi với tốc độ 100m/h, lò dò từng bước vì chúng tôi quá buồn ngủ, mỗi khi đoàn dừng lại chốc lát chúng tôi nhắm tịt đôi mắt, nhưng đột nhiên một gót chân thúc khẽ vào tôi, thúc tôi dậy, đẩy tôi tiến thêm vài mét để nối theo người trước, không đút đoạn. Nhiều giờ đã trôi qua, chúng tôi còn thấy đường theo đỉnh núi vẫn hiện ra ở chân trời, mặc cho đêm tối. Quân việt Minh thế nào cũng phải trinh sát thăm dò nơi chúng tôi đóng quân, nếu chúng phát hiện sự rút quân, thế nào chúng cũng tung quân đuổi theo chúng tôi, trở lại gần như những ngày trước đã trôi qua. Đêm nay sao mà yên tĩnh thế, từ 3 giờ đến nay, không có một tiếng súng nổ. Ở vùng xung quanh có gì đã xảy ra chăng?
Nhích dần từng bước, cuối cùng cái đuôi của đoàn chui được vào khu rừng bị đốn chặt, dưới bóng trăng, những dây leo bị chặt, trông giống như những con sâu màu trắng bị cụt tay cụt chân. Con đường hầm chui do bộ phận tiền đạo mở đi xuống thung lũng dốc đứng và chúng tôi trượt trên mặt bùn vàng, bị cỏ, lá cây, phòi bào bao phủ.
Có những chặng, lính Lê Dương đặt những dây thừng làm chỗ vịn cho những người trong chúng tôi bị thương. Có khi chúng tôi chửi họ một cách vô lý, cho là những việc cầu kỳ ấy làm chậm bước đi của đoàn. Chúng tôi có cảm tưởng như họ là người ngoài cuộc. Họ nhìn sự vật không như chúng tôi cho nên họ hoạt động một cách ung dung, không chút vội vàng. Chúng tôi vừa học được nhờ vào kinh nghiệm xương máu của mình, một chân lý. Nó sẽ thay đổi một năm sau đấy nhịp điệu của cuộc chiến tranh Đông Dương. Chân lý đó là: với Việt Minh, phải làm nhanh, luôn luôn phải rất nhanh. Không bao giờ nên chờ đợi.
Ánh sáng ban ngày chọc thủng soi lờ mờ vào đường hầm được kết bởi những dây leo. Chúng tôi đi lần dọc theo những sợi dây.
CHƯƠNG 28
NHỮNG NGƯỜI THOÁT NẠN
NHỮNG NGƯỜI THOÁT NẠN
Tôi đang đi trước người chỉ huy đại đội Tabor 60 của tôi ông Trung uý Spor, một số thường dân và lính dõng của Cao Bằng bị thương hoặc bị mất hết vũ khí, mà trên giao cho tôi chỉ huy, đang đi bước thấp bước cao trước mặt tôi. Tôi theo dõi sát họ.
Dần dần, tôi nhận thấy trong số 30 lính bổ sung, nay chỉ còn có 8 đến 10 người. Thực ra với vẻ mặt tỉnh bơ nhưng họ cứ lần lên trước vì theo kinh nghiệm, họ biết đi sau đuôi là nguy hiểm. Tôi vượt qua cái dòng người hỗn tạp đang luồn đi ngoằn nghèo trong rừng. Người ta nhìn tôi như một anh chàng không mời mà đến, với một thái độ không thiện chí, nhất là với lính Lê Dương. Tôi mặc kệ, vẫn đi tìm những bạn lạc đường của tôi. Tôi tìm thấy họ khắp nơi về phía trước, bọn chỉ huy của 1erBEP yêu cầu tôi đưa đám thoát nạn raphía sau. Đó cũng là điều tôi muốn.
Trong thời gian này, đoàn chúng tôi rời lòng suối chạy xuyên rừng trong cái vòm những dây leo. Họ nghẹo qua trái và chui vào rừng theo con đường dốc thoai thoải đi về hướng Đông, là hướng của Đường số 4 ở giữa cột 703 và cầu Bông Lau. Chỉ có độ 10 cây số xa cách, nhưng trong ấy có vài cây số rừng chứa đầy Việt Minh.
Đến một đoạn cong của con suối, tôi không thấy có ai cả Spor và số Tabor còn lại bỏ xa chúng tôi dần. Họ không thấy vết chân về phía bên trái, rồi cứ đi thẳng. Tôi tự nhiên bị lẻ loi với vài lính dõng đi tay không, và thấy hốt hoảng khi có tiếng súng đến gần, họ tán loạn chạy vào rừng.
Tôi bị cô đơn, vì đa số lính Tabor đi với Trung uý Spor rồi. Tôi phải tiến lên phía trước của đoàn để báo tin bộ phận hậu vệ của đoàn đã biến đi mất. Tôi lên đến chỗ Đại uý Jeanpielte, chỉ huy phó của tiểu đoàn dù Lê Dương (1erBEP)sau bao nguy nan và mệt nhọc. Những cái tin đem đến không làm cho Jeanpiene lo lắng tí nào, ông nhún vai coi như một định mệnh.
Ba sĩ quan, những người thoát tai nạn kinh khủng nhất cùng với vài lính Lê Dương, không có cái bản đồ nào cả. Tôi giới thiệu cái của tôi cho Jeanpierre, anh ta chộp ngay lấy nó. Những bộ quân phục nguỵ trang của họ bị rách nát. Có những bộ có thể coi như xơ xác. Riêng tôi, cũng chẳng kém gì họ, trừ cái áo dài Tabor lấm bùn còn nguyên vẹn. Họ trông tôi vẫn còn chững chạc oai vệ Jeanpiene vừa đi vừa nghiên cứu bản đồ, chân anh bị băng quấn kín mít rách tươm vì anh còn dùng nó thay cho giày. Tôi nhìn và đánh giá người chiến binh dũng cảm mà những lính Lê Dương luôn bày tỏ một thái độ ngưỡng mộ sùng bái, và tin cậy tuyệt đối, nét mặt anh rất rắn rỏi, da anh màu nâu, lấm láp những bùn và bị rạch bởi những gai của dây leo. Anh có cái nhìn chắcchắn của người đã trải qua nhiều thử thách; người ngoài tìm ở anh một nghị lực không gì lay chuyển được. Đã có lần anh là tù binh trong đại chiến thứ 2, cho nên anh quyết không để xảy ra lần thứ 2 đối với anh và sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm, nếu không thì chỉ có cái chết mà thôi.
Về phần tôi, tôi cũng quyết không để bị bắt, dù bất cứ tình huống nào, tôi nghĩ là tôi sẽ không đủ tinh thần để chịu những sự sỉ nhục của kẻ chiến thắng, hay chịu những thiếu thốn vô nhân đạo đối với kẻ chiến bại. Không nói một lời, giữa Đại uý và tôi như có một sự đồng cảm - anh ta trở nên bớt nghi ngờ, trở nên cởi mở đối với tôi, mặc cho sự căng thẳng của tình hình. Tôi thấy anh ta không mang vũ khí, có khi anh có mà giấu ở đâu đấy, nhưng dù sao anh ta vẫn là ông chủ của cả đoàn hỗn hợp này. Tôi có cảm tưởng yên tâm ở bên cạnh Jeanpierre và Spor, hai con người được tôi luyện. Đột nhiên, những tràng liên thanh xé tan bầu không khí trên đầu chúng tôi. Đoàn dừng lại, mọi người nằm rạp, sẵn sàng phát hoả.
Đại uý Labaume tụ tập ở đỉnh 608 lính Lê Dương của mình, ông giải thích cho chúng tôi rằng: ngày 9/10, tiểu đoàn 3er BCCP thả dù xuống Thất Khê đã nhận lệnh: Hành quân từ đồn Bông Lau, leo lên cao đỉnh núi Khâu Pia và theo đường đỉnh núi đến cột 703.
Chúng tôi bây giờ đang cách các đỉnh núi trên chừng một cây số chúng tôi đang đi thẳng đến đó. Những băng liên thanh bắn ra là do có sự đụng độ giữa quân mũ nồi đỏ và quân Việt Minh. Cuộc chiến đấu tăng dần, chúng tôi nghe những tiếng nổ của súng cối những tiếng của tiểu liên, đó là dấu hiệu của một đợt xung phong. Tiếng kèn đồng rung chuyển.
Các sĩ quan tụ tập lại, Labaume đứng lên phát biểu.
- Nhiệm vụ ưu tiên của tôi, sau việc đón các anh, là giúp các đơn vị dù chiếm 703. Sau đó, tôi sẽ quay trở lại Thất Khê, các anh nghĩ sao?
Trung tá Chergé chỉ huy 3eTabor và binh đoàn trả lời:
- Nếu chúng tôi cứ tiếp tục theo các anh, chúng tôi sẽ làm chậm bước tiến của các anh. Hiện nay chúng tôi không còn bao nhiêu đạn nữa, nhiều thương binh, có nhiều người còn khoẻ nhưng lại không có vũ khí. Tôi nghĩ, phương án tốt nhất là chúng ta chia ra.
Ông Labaume đồng tình với ý trên. ông thấy có vẻ nhẹ nhõm với đề xuất trên mà ông không muốn nêu lên. Ông muốn chiến đấu với hai đại đội của ông, hơn là làm việc hộ tống những người thoát nạn.
Chúng tôi chia tay: cơn ác mộng chưa phải đã hết. Đại uý Labaume ra lệnh cho lính Lê Dương của ông chuyển hướng lên chiếm các đỉnh núi.
Hai Trung tá chỉ huy Tabor còn khoẻ mạnh tập hợp quân rơi rớt của hai binh đoàn Lepage và Charton quân số vào khoảng 300, phần lớn là thương binh của 7 tiểu đoàn khác nhau. Jeanpierre với một số lính Lê Dương còn sống sót, dẫn đầu đoàn. Tôi đi sau đuôi. Chúng tôi đi hướng ngược lại và đi theo một đường mòn theo hướng Nam. Chúng tôi đi khá nhanh, và bất ngờ gặp trung uý Mouton cùng một số Tabor.
Mouton bị 1 viên đạn vào gót chân và một viên đạn vào đùi. Nhưng mặc dù là khập khiễng, mặc cho sự đau đớn của vết thương làm cho cái mặt vuông và đầy nghị lực của anh trở nên nhăn nheo, anh chàng vận động viên bóng ru bi đã là anh hùng trong chiến dịch đánh vào nước Ý trước đây, không chịu bị đánh bại, anh quyết bảo vệ tính mạng của mình và cả cho những người của anh ta. Chẳng thà bị nổ tung ra, chứ quyết không chịu xẹp xuống.
Trong một quãng rừng trống, hai nông dân đang chặt cây, họ nhìn chúng tôi đến nhưng không bỏ chạy. Một trong hai người biết trả lời bằng tiếng Pháp - một thứ tiếng Pháp bồi .
- Các ông muốn biết đường về Thất Khê? Tôi là người Thất Khê đây, tôi biết đường và sẵn sàng giúp các ông. Chúng tôi do dự, nhưng cuối cùng không có con đường nào khác. Trong thời gian qua, chúng tôi đi trên một con đường rất khó, có nhiều lần phải đi lộn lại vì nhiều nghi ngờ trắc trở.
Mặc dù chúng tôi có tấm bản đồ quý, nó được chuyển tay từ người này sang người khác, cuối cùng vẫn trở lại tay anh Jeanpierre. Mặc dù Pierre rất tinh ý, chúng tôi có cảm tưởng là chúng tôi đi loanh quanh, mất nhiều thời gian quý giá cho nên bất chấp có chăng người có vẻ chần chừ. Trung tá Delcros quyết định: "nhờ anh ta dẫn đường", rồi ông ta rỉ tai với Mouton:
"Phải để mắt đến nó". Mouton nhếch mép, có ý nghĩa là: không sợ? Tôi nắm chắc chúng nó.
Chúng tôi lại lên đường. Lần này đi chắc hơn, người dẫn đường dắt đi theo một lối rất rõ ràng. Anh ta đi đúng hướng, nước đến háng, có một lúc chúng tôi đi theo một đoạn hẹpcủa một con suối. Bờ suối mở rộng dần và chúng tôi đi vào một thung lũng có rải rác những lùm cây. Suối con trở thànhsông con. Chúng tôi đi vào thung lũng rất cẩn thận. Nhưng anh dẫn đường rất thoải mái, ra hiệu cho vẫn tiếp tục. Anh ta cười để lộ bộ hàm răng đen ăn trầu của anh. Đi vài bước nữa, xảy ra một trận phục kích. May quá, đây chỉ là một nhóm du kích địa phương bắn từ xa. Họ không đông, chúng tôi chỉ thêm vài người bị thương, hay bị thương lại.
Chúng tôi nằm rạp ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tiếng súng im bặt chúng tôi nhìn vào anh nông dân nghịch ngợm, định bắt trói lại. Anh ta đã biến mất như chớp, chúng tôi không tưởng tượng được. Không ai biết anh ta trốn lúc nào, tưởng chừng anh ta bốc hơi.
Đâu phải lúc chúng tôi nghĩ ngợi về những chuyện nhỏ nhặt này. Bằng những bước nhảy, từng người một chúng tôi biến sang bên trái vào những lùm cỏ, đi trên những đồi cỏ voi. Trên đồi có những hố cá nhân lác đác do quân Pháp trước đây đã đào. Hố cạn, rộng và kém nguỵ trang. Bên cạnh những hố cá nhân, chúng tôi còn thấy những vỏ sắt tây đựng thức ăn làm sẵn, những giấy bạc vò nát. Tiểu đoàn 3e BCCP đã đi qua đây.
Anh Mouton bị mất nhiều máu, anh nhợt nhạt như tàu lá, đi chệnh choạng mặc dù chúng tôi đỡ anh. Còn trung uý Fournier trông anh còn nhanh nhẹn lắm, mặc dù anh bị vết thương kỳ lạ. Một viên đạn của đối phương bắn vào cổ anh, đạn xuyên qua, mà không trúng vào huyệt tử và cũng ít chảy máu. Anh vẫn tỏ ra bên ngoài khoẻ về thể xác và tinh thần trong khi ấy cái chết như treo trên sợi chỉ thế mà không chết, phải chăng đây là nhờ ở số mệnh.
Còn ông Thượng sĩ Roulais chỉ huy Tabor, ông ta tiếp tục đi với một thái độ dũng cảm không ai chê được. Cũng vì vậy mà ông nổi tiếng qua những trận đánh đã qua. (Mấy năm nay, ông không hề thua trận). Ông được thưởng nhiều huân, huy chương :Bắc đẩu bội tinh, huân chương chiến công đặc biệt. Ông chỉ huy một Trung đội Tabor. Ông bị một viên đạn vào lưng, tất nhiên là chưa lấy ra mặc dù vậy ông vẫn chỉ huy đơn vị với một sự bình tĩnh tuyệt vời trong những trận ác liệt Với giọng nói the thé ông ra lệnh, động viên quân lính giữ vững tinh thần trong mọi hoàn cảnh. ông cầm khẩu các bin, ông quan sát và quyết định hành động trong quyền hạn cấp bậc của ông. Ông chỉ huy trung đội hành quân, giữ vững lòng tin, sự mệt nhọc và đau đớn tạo nên những vết nhăn đậm nét trên khuôn mặt hồng hào và phúc hậu của người nông dân. Ông có đôi lông mày rậm, một nét nhăn ở giữa cái hằn sâu nói lên ông là một con người có vẻ hiền từ nhưng xấu thói.
Trong khi hành quân, ông không ngớt chỉ trích một số quyết định và cằn nhằn bướng bỉnh với cấp trên, không ngoài mục đích là bảo vệ những người của ông ... không phải là chỉ có ông là người có những phản ứng chống đối hoặc có những thất vọng để tỏ rõ sự bực bội, ông thốt ra lời với lối nói chua chát và quyết liệt.
Chẳng hay ho gì? Nếu tôi làm anh không vui, thì cứ tống cổ tôi ra cổng. Đấy là điều tôi muốn trở về vườn, trồng xà lách ... nhưng chúng không dám đâu! Chúng đang cần đến tôi ?
Lạy chúa, những lời trên có khi là ý nguyện chính xác của mọi người.
Cuối cùng, chúng tôi mệt mỏi lên đến cầu Bông Lau.
Một số lính Lê Dương đang rộn rịp củng cố những công sự bên ngoài của cái "bốt" nhỏ này với một sự an ủi lớn lao, chúng tôi đi về hướng Thất Khê, bằng những bước chân kéo lê nhưng vô cùng phấn khởi. Cái con đường đáng nguyền rủa và hư hỏng mà chúng tôi đi trở lại lần đầu sau 10 ngày, sao mà đẹp thế, đẹp như đường phố Pa ri, ở một chỗ ngoẹo, Thất Khê hiện ra với những nhà lụp xụp kiểu Trung Hoa, vài cái nhà ngói và cái pháo đài nhỏ có lỗ châu mai, con sông Kỳ Cùng lượn quanh những lô cốt lốm đốm mọc lên như nấm. Một hệ thống giây thép gai bao bọc trên một đoạn đường thẳng, chúng tôi vượt qua Trung uý Chaumier và một số người của đội biệt kích nhảy dù của ông. Ông đập mạnh thân ái vào vai chúng tôi, và nói:
- Hãy chạy qua đoạn đường này. Ở sườn núi nơi có cái chùa, bên kia sông Kỳ Cùng, quân Việt Minh đang bố trí đại liên bắn dọc theo Đường số 4. Đã có những lái xe bị thương lúc nãy.
Chúng tôi chạy, tiếp tục cuộc hành trình. Quân đối phương lúc này có lẽ lơ đãng, lẽ ra họ phải quét một vài băng liên thanh. Anh Trung sĩ Bauer của đại đội Tabor 60 e nhìn về phía cái chùa làm một động tác chào trân trọng, như để tỏ một sự cảm ơn... Tất cả chúng tôi rã rời, mệt mỏi vô hạn độ.
CHƯƠNG 29
LỤC ĐỤC
LỤC ĐỤC
Chúng tôi như những người ăn xin, áo quần rách rưới, phần lớn là đi chân đất, muốn nói lên tình trạng của đoàn quân đồn trú. Lính Lê Dương và dân vùng Thất Khê, chúng tôi tụ tập ở chân pháo đài nói về đội ngũ : với những người còn khoẻ, họ chỉ còn có chăng vũ khí lấm bùn, mà báng gỗ thì vỡ nát, nòng súng thì cong queo. Họ phải mang lên những cái vai xây xát và đau nhức, một cách nặng nề.
Quân đồn trú đang gấp rút làm công việc củng cố phòng ngự bên ngoài. Ông chỉ huy mới của phân khu Thất Khê đã để dành cho những nạn nhân thoát nạn nơi ở có mái che. Những người quá mệt nhọc nôn oẹ ra cả sàn nhà bằng đất. Hai lính Ma rốc và một lính Pháp bị ngất đi vì mệt lả ở cạnh nơi mới được chỉ định. Một xe Hồng Thập tự đến tìm họ. Trung uý Rochefort với một vài Tabor của căn cứ đã tổ chức một trung tâm tiếp đón - để ở đấy, chúng tôi có thể nhận áo quần và giầy dép. Những lính Tabor của tôi cảm ơn ông ta. Khi ông này giao vào tay họ một bọc không nhiều nhặn gì nhưng còn dùng được và mời chúng tôi ăn bát súp nóng.
Từng tốp nhỏ riêng lẻ theo những đường mòn khác nhau, một số người của binh đoàn Lepage và Charton trở về căn cứ. Họ phải mất mấy phút để hoàn hồn, thấy mình trở lại là một con người tự do, trong một doanh trại bạn.
Tên những người về cuối cùng được loan truyền từ người này qua người khác, và mỗi người đều hy vọng tìm lại một người thân hay một thủ trưởng cũ ở tiểu đoàn Tabor của chúng tôi. Có mặt hiện nay là 3 sĩ quan thoát nạn trong số 12 sĩ quan đã đi lên Đông Khê trước đây. Chúng tôi mong đợi Trung tá thủ trưởng tiểu đoàn Tabor, ông ấy vẫn vắng mặt. Với sự dũng cảm và gan dạ của ông, chúng tôi tin là ông có thể khống chế được vòng vây.
Một số tin loan báo truyền đi về vấn đề này: một Tabor nói là ông đã bị bắt làm tù binh cùng lúc với đại tá Lepage...
Chúng tôi không thể tưởng tượng được là ông bị rơi vào tay đối phương, ông là một con người nổi tiếng có nhiều may mắn, ông là một con người giỏi chịu đựng, đầy sức sống, không thể chịu một số phận như vậy được. Ông đã có một quá khứ rất vẻ vang. Cuối cùng có một sĩ quan tham mưu của đại tá Lepage về được căn cứ. Anh đã xác nhận là ông đã bị bắt làm tù binh cùng với Lepage và các tuỳ tùng của ông. Trong số ấy có một Trung tá. Ông Trung tá này bị một vết thương nhiễm trùng làm cho ông rất yếu. Đáng ra ông đã có thể thoát không bị bắt - nhưng ông không chịu thoát, vì ông không muốn rời bỏ người thủ trưởng kiệt sức của ông.
Bởi vậy, chúng tôi không còn hy vọng gì gặp lại Trung tá tiểu đoàn trưởng nữa, mặc cho sự vui mừng được trở về căn cứ, chúng tôi không thể vượt lên trên nỗi đau buồn và thất vọng khi được biết ông đã rơi vào tay đối phương. Ông không đáng bị số phận như vậy. Cũng vậy, Trung uý Raval và Villeneuve phó của anh ta cũng không về nữa, nhiều hạ sĩquan và những lính Tabor của họ cũng chung một số phận.
Chúng tôi đang mong đợi cái đội ngũ vững chắc của đội quân chiếm đóng Thất Khê ấy. Chúng tôi làm một tổng kết sơ bộ: Quân số còn lại là 180 lính Tabor, trong số 650 lính của Tiểu đoàn điểm danh lúc rời Thất Khê cách đây 15 ngày.Đại uý Deminière và Trung uý Baillet đều tử trận; Trung uý Guyomar có thể bị bắt làm tù binh, Đại uý thầy thuốc Enjalbert có thể cũng vậy. ông đã tình nguyện ở lại với những thương binh không sơ tán được ở trong vùng Cốc Xá, bên bờ suối. Trung uý Mathieu và Ba ra của đại đội 58 Tabor , đều coi như mất tích, phó của anh ta bị thương nặng ở đầu ở lại với Enjalbert ... còn không biết bao nhiêu Hạ sĩ quan và lính Tabor đều chung số phận với thủ trưởng của họ.
Biết bao người bị giết, bị thương, bị bắt làm tù binh. Đến ngày nào chúng tôi mới có thể biết chính xác được? Chúng tôi hy vọng rằng nhiều bạn của chúng tôi, còn chiến đấu trong rừng sâu và đang bị rượt đuổi bởi những toán quân đối phương, lợi dụng đêm tối, phá được vòng vây. Toàn là những hy vọng hão huyền!
Hai chân tôi, bây giờ đau nhói và tôi không thể nào tháo được đôi giày. Nó dính vào bàn chân đẫm máu của tôi. Một Trung sĩ to, khoẻ của lính Lê Dương có một bộ râu tua tủa như một cái quạt mà tôi quen thân từ khi tôi đến Thất Khê lần đầu hồi tháng 9, đến gần tôi mà tôi không biết, một cách nhẹ nhàng ông nói:
- Ông Trung uý, ông cần giúp đỡ một tí phải không?
Vì tôi không thể nào xỏ chân vào đôi dày đinh mới da còn cứng đét mà ông Rochefort cung cấp cho tôi, Trung sĩ dùng xe dodge chở tôi ra chợ làng, ở đấy với độ 10 đồng (mượn của Rochefort) tôi mua một đôi giày bóng rổ xanh, mềm và nhẹ. Sau đấy ông cho tôi một cái giường, trong căn buồng nhỏ bé của ông rồi để tôi dùng những gì mà ông có: một chú Lê Dương theo lệnh của ông đem đến cho tôi nước nóng và xà phòng, một dao cạo, và nước hoa. Tôi chưa kịp nói câu cám ơn tấm thịnh tình của ông, ông đã nói với một giọng thân tình bố con.
- Nếu là chúng tôi mà bị bàn chân đau nhức như thế này, người ta không giúp đỡ đâu, thật là quá đáng!
Xong, ông lại xin lỗi:
- Tôi không có thời gian đưa ông đến trạm quân y để ông được băng bó, ông Trung uý ạ, những trạm ấy rất gần đây, đây ông cầm cái này, nó giúp ông! ông giao cho tôi cái gậy nhẵn nhụi mà đầu gậy có chạm hình một phụ nữ trần truồng và một con rắn dữ.
- Có phải ông là nghệ nhân làm ra cái gậy này.
- Vâng - Ông trả lời hơi đỏ mặt - chiều tối ngồi buồn ...Rồi ông đột ngột bỏ đi.
- Chốc nữa cứ ở đây. Coi như ở nhà...
Chống nhờ cái gậy khiêu dâm ấy, tôi đi khập khiễng, tôi đến được phòng quân y...Đông người, đông đến cực độ. Trong cái sân chờ đợi có đến chục cái cáng, trên cáng có thương binh rên rỉ, và có cả người sắp chết.
Cho đến nay, chưa có một chiếc máy bay Junker vận tải nào đổ xuống sân bay Thất Khê để cấp cứu, nó chỉ vừa sít cho loại máy bay này. Việc sơ tán Thương binh chỉ có thể làm được bằng loại Junker. Có một phi công tình nguyện thử nghiệm việc này. Phi cơ liệu có hạ cánh được an toàn, mỗi lần chỉ chở được mười thương binh nặng cần được mổ xẻ gấp. Nếu họ không đi được chuyến này, thì họ không còn có hy vọng cứu chữa được nữa.
Chiếc Junker chạy cho đến đầu cuối của đường băng, rồi quay lại sát với bờ ruộng để khỏi mất khoảng dài cần thiết cho việc hạ cánh. Máy phi cơ nổ ầm ầm, cái vỏ bằng tôn rung lên đến cực độ. Những người của trạm đặt cuốc xẻng xuống, mọi người dân đều ra khỏi nhà, những người thoát nạn, bò ra ngoài nhà để quan sát cuộc chạy đua chống cái chết. Một trăm sinh mệnh thương binh tuỳ thuộc vào việc thử nghiệm mạo hiểm này. Những người khác thì còn nằm trong tay quân Việt Minh... Khi chiếc phi cơ mở hết ga và chạy trên đường băng, cả thị trấn Thất Khê trở lên yên lặng. Máy bay chạy đã đến 2/3 của đoạn đường băng, chỉ có bánh sau hơi nhích lên một tí. Tất cả mọi người đang chờ đón một tai nạn sắp xảy đến, người thợ máy lắc đầu và thốt lên: "Toi rồi". Vào cuối đường, hai bánh xe trước nhấc lên cao trên mặt ruộng vài mét, viên phi công phải gài máy thúc phi cơ bay bổng lên. Chiếc Junker lên cao dần, hơi do dự một tí, rồi chúi mũi để bay ngang gần như sát ngọn cỏ. Nó biến mất sau những quả đồi. Phải chờ một lúc, chúng tôi mới nói: "Nó đã thành công".
Rồi sau đấy chiếc Junker khác lại đổ xuống "Chúng tôi đã hoàn chỉnh kỹ thuật", anh phi công vừa nói, vừa cười, "bây giờ thì yên rồi. Cho vào mười lăm người, phải nhẹ tối đa".
Để được chăm sóc, tôi phải nối đuôi đợi mất hai tiếng. Đúng vậy, hai sĩ quan thầy thuốc và y tá chăm sóc ưu tiên cho những thương binh nặng. Tôi được đưa đến một bác sĩ, ông nhìn tôi và nhăn nheo.
- Đã đến lúc phải chăm sóc đến anh, không ổn ! Không ổn! Nếu anh muốn tránh một tai nạn bất ngờ, tức là một sự nhiễm trùng toàn thân, anh hãy can đảm lên...
- Bác sĩ cứ làm theo yêu cầu.
- Tốt, Hermann sẽ chăm sóc anh. Anh ấy là y tá của ta, nhưng là người mổ xẻ trong quân đội Đức đấy. Hãy tin ở anh ta.
Rồi ông gọi:
- Hermann!
Sau đó quay lại cô y tá có cặp mắt quầng đen vì mệt mỏi.
- Người tiếp theo.
Hermann bắt tay làm việc. Anh có vóc người to lớn, tóc hoe, mắt xanh vẻ nghiêm túc, có phần nghiêm khắc, anh đeo một cặp kính gọng thép. Anh ta vừa nói vừa chỉ vào cặp chân của tôi: "Nếu ông không muốn nó làm phiền ông, phải cạo nó bằng dao mổ". Rồi chưa đợi tôi trả lời, anh ta bắt đầu cạo chân phải, từ đầu gối xuống, như cạo củ khoai tây vậy; tôi chịu một cực hình, chỉ thiếu có ngất đi. Anh ta tiếp tục công việc không nói một lời. Tôi có cảm tưởng là xương của tôi sẽ lòi ra dưới lớp thịt bị phanh ra. Anh làm quá tốt công việc của anh.
Công việc xong xuôi, anh nói một cách lạnh lùng.
- Đúng ra tôi có thể tiêm một liều thuốc tê vào cái đùi của ông nhưng sợ rằng khi trở về chức vụ, ông lại quên nó đi.
Tôi trả lời "không", vừa cố mỉm cười, nhưng tôi có một ý muốn một cách không cỡng được là dựt cặp kính của anh ta và dẫm nát nó đi ... anh ta rắc bột "Sulfamide" vào những chỗ lòi thịt, và quệt tất cả chân bằng thuốc đỏ, xong anh ta quấn bông và băng cho cả hai chân. Tôi đứng dậy như là đứng trên hai khúc dồi lợn trắng toát. Tôi phải chạng hai đầu gối mới đứng lên được.
Tôi đã làm trò vui cho một số sĩ quan nơi quán ăn công cộng khi tôi đi vào với một tư thế buồn cười như vậy.
Càng về sau những người thoát nạn đến càng ít. Đối phương đang khép chặt vòng vây quanh Thất Khê.
Trung uý Chaumier và đội biệt kích vùng của ông được phái xuống đồn phía Nam (đồn Bản Trại) là đồn bảo vệ cái cầu độc nhất trên sông Kỳ Cùng để mở con đường rút lui về Na Sầm. Đồn trưởng Bản Trại, báo tin là có nhiều Việt Minh thâm nhập xung quanh hàng rào phòng vệ của đồn. Phải đề phòng một cuộc tiến công bằng vũ lực. Trời tối dần.
Ông chỉ huy mới đồn Thất Khê, vừa từ Lạng Sơn lên bằng máy bay. ông cho triệu tập chúng tôi để trình bày những ý định của ông ta cho ngày mai và những hôm sau.
- Cho đến khi có ý định mới, chúng ta phải chuẩn bị bảo vệ Thất Khê đến cùng từ mai, những chiếc Junkers sẽ sơ tán về Lạng Sơn những người thoát nạn của Lepage và Charton. Trước tiên những thương binh, sau đấy những người khoẻ mạnh. Chúng ta sẽ sửa sang thêm cho đường bay. Tiểu đoàn 3 (3e BCCP) và lính Lê Dương của đại uý Labaume cố giữ mỏm 703 và cầu Bông Lau càng lâu càng tốt để dùng làm nơi đón những chiến binh còn sống sót trong rừng và còn tìm cách trở về. Trung uý Chaumier với đội biệt kích và Trung uý Pascal, người chỉ huy mới của Trung đội xe bọc thép (Coventry) có nhiệm vụ tăng cường bảo vệ cầu qua sông Kỳ Cùng, đề phòng đối phương phá cầu là một điểm cốt tử cho việc rút quân. Trước tình hình nguy ngập, tôi yêu cầu mọi người chấp hành một cách rất cẩn trọng những mệnh lệnh ban hành dù cho các anh thấy...
- Xin chào!
Đêm hôm ấy, tôi ngủ trong căn buồng của người lính Lê Dương già, là một đêm đầy ác mộng:
Quân Việt Minh gớm ghiếc nhảy múa xung quanh cái xác chết của tôi, những dây leo của rừng xanh có cánh tay quấn lấy tôi. Tôi không còn sức chống cự được kể cả bỏ trốn. Tự nhiên, tôi biến thành một cái cây gỗ, và tôi nhìn với một con mắt khinh bỉ quân Việt Minh quanh quẩn xung quanh cái cây gỗ là tôi, không thấy tôi ở đâu cả.
Tôi tỉnh dậy nhiều lần, và nghe những tiếng đạn cối nổ xung quanh. Tôi tự hỏi, có phải là cơn ác mộng của tôi đang tiếp diễn hay không?
Sớm tinh mơ, tôi thấy ông già râu chồm dậy, áo quần nguyên vẹn. Ông ta thấy tôi cũng đã thức dậy, ông nói:
- Anh có một đêm dầy mộng mị có phải không? Anh Trung uý! Hồi tôi mới đến, tôi bị tấn công trong một đồn lẻ suốt ba ngày ba đêm. Đồn bị chiếm, quân Việt Minh để tôi nằm tại chỗ, tưởng tôi đã chết. Tôi đã phải mất một tháng mới trở lại có những giấc mơ bình thường. Anh đừng quá lo lắng, anh sẽ trở lại những đêm yên ổn. Tôi sẽ cho mang đến càfê nóng, nó sẽ làm anh tỉnh táo. Anh có biết không, có nghe không? Đêm qua, họ nấp và bắn, ta có vài người bị thương, nhưng điều quan trọng là quân Việt Minh đã thực hiện được việc phá cầu trên sông Kỳ Cùng rồi. Biết làm sao bây giờ? Những lính bảo vệ vẫn thức suốt đêm để bảo vệ mà từ sáng đến giờ chưa bắt được liên lạc với họ. Đường bị gài mìn. Thôi lát nữa nhé! Anh nghỉ đi, đến lượt chúng tôi phải ra thay.
CHƯƠNG 30
ĐÁM NGƯỜI HOẢNG LOẠN
ĐÁM NGƯỜI HOẢNG LOẠN
Từ sáng nay, những Junkers đổ xuống vừa lắc lư, vừa rên xiết trên đường bay cổ lỗ của Thất Khê. Chúng sơ tán nhanh nhất những thương binh thoát nạn của binh đoàn Lepage và Charton.
Trên đỉnh núi 703, tiểu đoàn 3e BCCP tiếp xúc với đối phương, đang tìm cách tràn xuống phía Nam. Một vài người trốn thoát lẻ tẻ trở về vào ban đêm hay buổi sáng, nhưng càng ngày càng ít đi, những người này công nhận là rừng núi và các làng bản đều tràn ngập bởi bộ đội đối phương, ai cũng hỏi làm thế nào mấy anh này đi lọt qua được.
Những quả đạn cối đầu tiên rơi xuống sân bay. Trung đội xe Thiết giáp được gọi từ đồn Bản Trại về đã khống chế, làm tê liệt một ổ đại liên bắn vào phi cơ. Tôi được gọi về trạm xá quân y. Lượt lên đường của tôi đã đến. Tôi chỉ có khẩu các-bin là tài sản độc nhất. Tôi và độ mười thương binh nữa bị nhồi nhét vào một chiếc xe tải. Trạm cứu thương ở trang trại bị kích động.
Một đội tuần tiễu đi bộ về hướng Đông phải trở về hộc tốc vì gặp phải đối phương đang chiếm giữ chống trả lại. Một thợ máy hàng không giúp đỡ thương binh lên máy bay, gọi to:
- Các anh là người hên đấy, con chim này có thể là một trong những con cuối cùng hạ cánh.
Tôi gặp ông bạn Pascal của tôi, anh nhận ra tôi và đến bắt tay vĩnh biệt tôi.
- Thế nào, anh để lại chúng tôi trong cảnh cùng cực này à. Đồ tồi, đến hôn cô xẩm phố Khâm Thiên hộ mình cái nhé, chiều nay!
- Những nguyện vọng cuối cùng của những người sắp chết là thiêng liêng! Anh tin ở tôi, sao anh có thể tin là phi cơ sẽ ngừng, không tiếp tục làm cầu hàng không?
- Đáng sợ đấy! Đội tuần tra do anh chỉ huy phó của tớ làm chỉ huy. Anh này không phải là con người lừa phỉnh hay phóng đại, nếu nó nói quân Việt Minh còn không xa thì đó là sự thực đấy.
Một cô y tá đến nắm tay tôi, và dìu tôi lên máy bay.
- Hẹn gặp nhau!
- Inh Ah Allah?
- Vớ vẩn! chúc hạnh phúc
- Tớ sẽ cần đến đấy!
- Đừng có lảm nhảm. Từ trên cao, tớ sẽ báo tin cậu về...Hẹn gặp lại ...
Anh phi công không muốn tôi mang theo vũ khí
- Cấm mang theo những thứ nặng không cần thiết, anh sẽ không cần đến nó nữa mà.
- Tôi không biết, tôi không bao giờ đi mà không có khẩu các -bin. Tôi đã mang nó quá lâu, không để nó lại ở đấy đâu!
- Thôi, được rồi, anh lên nhanh lên! Anh ta nói với một nụ cười vui vẻ. Anh phụ lái đóng cửa phi cơ.
Nhiều tiếng động, có lúc có hiện tượng như rơi tõm mỗi khi phi cơ đi vào "lỗ trống". Từ cửa sổ máy bay tôi có thể nhìn thấy mấy chiếc xe Thiết giáp nhỏ xíu như đồ chơi trẻ con, nằm trên khoảng đất vàng nhạt đường biên lờ mờ.
Anh lái phụ tìm cách làm quen thân thiện với chúng tôi, anh có khuôn mặt hồng hào, cái bụng sệ, mọi người nhìn anh, một con người khoẻ mạnh, yêu đời.
- Lên cao rồi, sướng chưa? Anh nói để bắt chuyện. Anh
hạ sĩ biệt kích có cái nhìn không vui, anh nói:
- Anh nói gì? Chúng tớ đang nghĩ đến bạn bè đây.
Phụ lái mời anh ta một điếu thuốc lá.
- Nào, bây giờ chúng ta có thể hút thuốc. Anh giữ cả bao cũng được ...
Sau đó, anh ta nói thêm:
- Trong 20 phút, chúng ta sẽ ở Lạng Sơn, nếu trong các anh có ai cần gì - xin hỏi tôi. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình một cách vui lòng.Lạng Sơn ? Sân bay ... thành Lạng Sơn... bệnh viện. Những người ở đây có chuyện gì thế này? Gần như có một cơn lốc kinh hoàng bao trùm.
- Thất Khê còn giữ được nữa không! Có tin Na Sầm đã thất thủ. Các anh là những người thoát nạn độc nhất? v.v...
Ở bệnh viện, bác sĩ, y tá chạy hỗn loạn tứ phía...
- Chú bé, ông thầy thuốc đợi anh. Một người hộ lý vừa chạy vừa kêu .
Anh y tá cắt băng ở chân cho tôi, chiếu điện, đưa tôi lên bàn mổ và còn lấy ra được ba mảnh đạn, có từ đâu tôi cũng không nhớ, có thể ở Cốc Xá, cùng một lúc với Orsini, hay trong trận trên đồi 515. Làm xong họ đưa tôi đi về nằm. Một khi nằm giường bệnh thì nhiều người ở hậu phương đến thăm.
- Ông Thượng sĩ Corroul, một lão binh sắp được về nước, đem tặng tôi sâm banh, bánh quy, cam. Ông cho tôi. biết chiếc phi cơ cuối cùng vừa về đến Lạng Sơn. Quân Việt Minh kiểm soát sân bay bằng hoả lực của họ và mọi người đều phải rút lui theo với quân của đồn Thất Khê, nếu như rút bỏ Thất Khê, và có tin đồn như vậy.
Tôi có cảm nhận mình có lỗi là đã về nằm trên cái giường được nuông chiều như một học sinh mới đậu bằng tú tài, trong khi ấy thì Thủ trưởng, và những người cùng đơn vịvới tôi đều đang trong cảnh khốn cùng, và đang phải chống đỡ.
Tôi ước rằng tôi chỉ đi trước họ vài ba giờ về Lạng Sơn, chứ không phải là đi xa họ mãi.
Ông Thượng sĩ Conoul đã tham gia cuộc chiến tranh 1940. Đã qua 5 năm làm tù binh, ông tỏ ra bi quan:
- Tình hình trở nên xấu, rất xấu! Nó làm tôi nhớ một sự kiện tương tự, cách đây mấy năm. Thấy rõ là quân đồn trú Lạng Sơn không phải là "cánh sang" quân sự của khu biên thuỳ. Đám khá thì ở xa hơn nữa phía Bắc, còn ở đây chỉ những "người không ai ưa", chúng bắt đầu lộ mặt là những người đầu tiên dám chỉ trích công khai trong các quán rượu, những người chỉ huy vụng về ở Cao Bằng, ở Đông Khê thậm chí còn vấn đề của hai ông Đại tá, nếu quân Việt Minh đến đây? Sẽ không tết đẹp gì đâu. Kết thúc mọi sự.
Trung uý Đ..., ở căn cứ hậu phương của các Tabor, đến với tôi anh này là người ngoài cuộc, anh ta ở hậu phương. Anh ta đầy nhiệt tình và ôm lấy tôi, xiết chặt tay, chỉ còn thiếu bóp nghẹt tôi.
Tôi rất lấy làm sung sướng đã được gặp lại các anh, dù chỉ là một người. Anh có mệt lắm không? Chắc là mệt lắm, bây giờ thì không có gì mà sợ nữa đâu. Tôi chỉ huy đồn Đông Bắc. Chúng tôi chống đỡ đến cùng ? chúng tôi củng cố công sự phòng ngự suất đêm ngày ... Tôi ...
Anh ta, kể cho tôi vô số chuyện hấp dẫn về ý kiến chiến thuật, về tinh thần chiến đấu của binh lính anh ta, rồi đột nhiên anh ta nói:
- Thế còn anh X...?
- Anh bị giết rồi.
- Còn anh Y ...?
- Cũng vậy.
- Còn anh Z...?
- Bị làm tù binh - chắc là vậy - Đố ai mà biết, có lẽ tốt hơn là anh hỏi tôi về những ai đã thoát nạn, như vậy sẽ nhanh hơn.
- Chẳng thể nào tin được ? Lạy chúa, làm sao có thể đến như vậy.
Các anh khác thay nhau hỏi trước sau chỉ mấy câu, họ đều nói:
- Có thể là sự thực không? Ai mà đoán trước được. Những đơn vị tinh nhuệ đến như vậy? Hoặc là:
-Tôi đã nói? Không thể tránh được, quân Việt Minh mạnh lắm. Họ chiếm đồng bằng Bắc Bộ dễ dàng! Trong 8 ngày nữa, họ sẽ ở Hà Nội ...
Đêm thứ 2 nằm trên giường cũng là một đêm mất ngủ và đầy mộng mị, ông lính già Thất Khê nói đúng mọi việc rồi sẽ đến.
Tôi ngồi dậy, mặc quần áo, rồi bước khập khễnh, tôi đi tìm những tin cuối cùng.
-Việc rút lui Thất Khê đến nơi rồi ?
Ở Lạng Sơn, sự nhốn nháo đã dần dần trở thành sự kinh hoàng. Đêm nay có sự giằng co trong bóng tối, ở mọi nơi về mọi mặt, sáng nay tình trạng báo động được công bố. Bệnh viện thu xếp đồ đạc gấp rút.
- Hãy chuẩn bị ra đi ! một chú y tá vừa chạy, vừa kêu.
Tôi phải bỏ lại khẩu các bin
- Không cần những thứ này trong bệnh viện. Ông bác sĩ nói với tôi khi ông chớp nhoáng qua các phòng, tôi phải gửi lại cho người thân là Thượng sĩ Corroul và nhờ giữ lại trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Vào lúc 15 giờ một chiếc phi cơ nhỏ một động cơ đưa chúng tôi về Hà Nội: chúng tôi có tất cả tám người nhồi nhét trong thân máy bay, như đống quần áo bẩn.
Ở Bệnh viện Lanessan, một nữ y tá hỏi tôi:
- Anh ở trên ấy về à?
- Vâng.
Cô ta nhìn tôi một cách thương hại, xong cô lo việc ghi chép giấy tờ cho tôi theo kiểu cách của cô ta, cô dìu tôi đến một cái giường, đỡ tôi, hướng dẫn cho tôi những điều mà tôi thừa biết, như làm thế nào tháo mở vòi nước ở phòng vệ sinh, làm thế nào kéo dây ở các phòng W.C. Tôi biết là cô ta coi tôi như một anh chàng bị liệt cả về thể chất lẫn tinh thần. Một bạn cạnh giường theo dõi cái cảnh vừa rồi, vừa cười, vừa nói với tôi:
- Họ ở đây tử tế lắm, rất ân cần với những người thoát nạn, nhưng họ coi các anh đương nhiên như những người bị chấn động thần kinh. Đừng có giận họ!
CHƯƠNG 31
MÙI "Ê-TE" VÀ MÙI HÔI THỐI
MÙI "Ê-TE" VÀ MÙI HÔI THỐI
Bệnh viện Lanessan chật ních bệnh nhân phải bố trí giường dọc theo hành lang đầy ắp, nhân viên phải làm việc liên tục suốt ngày đêm. Mặc dù vậy trung tâm chọn bệnh nhân không thể nào làm vãn bớt được cáng thương binh nằm đầy cả sân.
Trước đầu giường tôi, diễn ra một cuộc diễu hành không ngớt: nào là bạn bè, nào là dân thường, nào là người lạ. Tất cả đều hỏi chúng tôi, có khi một cách kỳ cục. Họ muốn biết về "tình hình", chúng tôi phải khó khăn lắm mới đẩy lùi được những khách quấy rầy, sự tò mò của họ là chính đáng nhưng không đúng lúc.
Một nữ y tá ra khỏi phòng khóc lóc. Cô vừa được tin người yêu bị bắt làm tù binh. Một thường dân đến thăm một bạn cạnh giường, đưa cho ông ta một tờ báo và nói:
Đọc đi đọc lại không thể tưởng tượng được. Anh này đọc to lời tuyên bố của ông Lon Pignon "Ngày mồng 8 tháng 10 năm 1950, cao uỷ Pháp ở Đông Dương đã xem xét tình hình và tuyên bố rằng: Những tin tức nước ngoài báo tin là một cuộc phản công của Việt Minh ở Lạng Sơn - Đông Khê là hoàn toàn khôngchính xác. Một lực lượng mạnh được báo tin tập trung ởvùng này, nhưng ngoài một số trận đánh quy mô nhỏ đánh những đồn bốt lẻ, quân Đỏ không mở một cuộc tiến quân nào vào lực lượng của ta đang hoạt động dọc đường số 4 (những binh đoàn Charton- Lepage) những lực lượng tập trung này là những lực lượng phản công hùng mạnh của Đông Dương, việc những lực lượng này bị đe doạ là một điều đáng nghi ngờ".
Ông khách nói to vào tai ông bạn, vừa vung văng tờ báo:
- Ông nghĩ thế nào? Hử ông.
- Lực lượng của chúng ta bị tiêu diệt. Chiến tranh Đông Dương đã thất bại! Quân Việt Minh trong tám ngày nữa sẽ có mặt ở Hà Nội. Tôi cho anh tám ngày và ông Lon Pignon có nghĩ rằng chỉ trong 48 tiếng đồng hồ, lực lượng của chúng ta có thực sự là đáng lo ngại không?
Ông bạn tôi chỉ cười, mặc dù vết thương làm cho ông đau đớn, và từ tốn, không có nhiều lời, ông đã tìm cách làm yên lòng ông bạn tư sản Hà Nội của ông.
Nghịch lý này thật là lạ lùng. Chúng tôi, những người thoát nạn trong những ngày đầu ở Bệnh viện Lanessan là những người làm yên tâm những người khác ở Hà Nội. Họ là quân nhân hay là dân sự, tất cả đều hoảng loạn, thật là quá sá?
Đừng làm khổ nhau như vậy, ông bạn, đúng là chúng ta đang qua một bước hiểm nghèo. Quân Việt Minh đang còn xa, và các anh có cảm tưởng là họ bắt và giết hơn 5000 người của chúng ta trong gần một tháng, mà phía họ không bị thiệt hại à. Theo thiển ý của tôi, họ cũng bị tổn thất nặng. Họ cũng mệt nhoài. Họ đang cần thức ăn và đạn dược. Trong giờ tạm ngừng này, bộ chỉ huy quân đội Pháp có thì giờ nắm lại tình hình trong tay, ngoài ra Thất Khê, Na Sầm và Lạng Sơn còn giữ vững. Các anh sẽ thấy chúng ta sẽ thoát được cơn nguy hiểm này ...Ở Hà Nội họ nói gì?
- Họ không nói gì cả? Họ mua các chỗ máy bay, hay lên tàu thủy để về nước. Một cô y tá xinh đẹp, có lẽ là cô xinh đẹp nhất của quân đội Pháp đang chăm sóc trung uý Mouton, đây là ý kiến của một vài bệnh nhân có khiếu thẩm mỹ. Anh chàng thường dân tạm biệt chúng tôi, sau khi nhét một chai rượu xuống dưới bàn. Viên đạn bắn vào Mouton chui qua bẹn. Để chăm sóc vết thương, nữ y tá (sau này chúng tôi được biết cô kết hôn với một Đại uý quân y sĩ) phải để trần truồng cái bộ phận mà anh sẽ khóc lóc suốt đời, nếu anh bị hỏng nó ở Cao Bằng. Có phải vì sự thiếu hụt về tình cảm mà chúng tôi phải chịu đựng gần một tháng nay, hay là tại bàn tay khéo léo, mềm mại của cô y tá đã khiến sự cường tráng của Trung uý Mouton nổi dậy không đúng lúc và để làm cho nó dịu đi, để không phải đỏ mặt, cau mày, cô y tá xinh đẹp đặt ngay đúng chỗ đó một miếng gạc bông tẩm cồn 900, cơn sốt bị dập tắt tức thì. Rồi bình tĩnh, cô tiếp tục việc băng bó cho bệnh nhân, anh ta thì cứ ngớ người ra, không dám một lời kêu la, dù đau như bị đốt cháy thịt, cháy da.
Từ hôm ấy, cô y tá xinh đẹp được anh em trong phòng chúng tôi phong cho cái tên là "người hùng" tuy cô có thân hình mảnh khảnh và xinh đẹp.
Đêm thứ ba cũng mất ngủ và đầy mộng mị. Tôi trăn trở vì mệt nhoài, khi tôi ngủ thiếp, những giấc mơ khủng khiếp lại đến với tôi. Tôi thức tỉnh, ngồi ở giường, ngao ngán, tôi mong có một ngày yên tĩnh.
Sáng nay, có tin: Thất Khê đã sơ tán, và suốt cả ngày những chi tiết mới liên tiếp đến với chúng tôi.
Thông báo của Bộ chỉ huy Pháp báo tin:
Dân quân hậu vệ của của quân đội Pháp đang giao chiến lẻ tẻ với những phần tử cộng sản.
Thực tế là, những đơn vị rút lui, để tránh phải đi qua cái eo Thà Lài, phải rút ra Đường số 4 ở gần đồn Thà Lài. Họ đi về hướng Na Sầm dọc theo biên giới Việt Trung, và sẽ đến Na Sầm vào chập tối sau muôn vàn khó khăn và chịu đựng những tổn thất nhất định.
Đồn Na Sầm phải chống đỡ với một cuộc tấn công của đối phương, cách đây mấy ngày. Đêm đến, quân Việt Minh mang loa đến thông báo những thất bại của quân đội Pháp ở phía bắc Đường số 4 và kêu gọi quân Na Sầm hãy bỏ sự chống cự vô ích. Nhưng đại uý Mattei đồn trưởng Na Sầm không hề bị nao núng bởi những điệp khúc ấy. Trinh sát của ông báo tin là có hai, ba khẩu đại bác đối phương được bố trí chuẩn bị bắn vào Na Sầm, cách hai, ba cây số về phía Đông.
Mattéi dùng súng cối bắn vào các vị trí nghi có pháo của đối phương. Ông bắn chính xác đến nỗi quân Việt Minh tưởng là bị lộ, không dám mở cuộc tiến công ào ạt nữa. Tuy vậy quân Việt Minh vẫn lảng vảng không xa. Họ quấy rầy Na Sầm suốt đêm ngày. Đoàn hậu vệ của binh đoàn Lepage bị quân bọc hậu của Việt minh chia cắt, cầu Bản Trại bị phá huỷ. Đoàn công binh với hai xà lan tìm cách đưa mọi người qua sông. Trung đội xe thiết giáp phải tự phá huỷ xe sau khi đã hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ. Đội quân của trung đội thiết giáp đều bị giết hay bị bắt làm tù binh. Trung uý Pascal người chỉ huy đơn vị, người kỵ sĩ độc đáo và dễ mến của Đồng Đăng bị coi như là mất tích. Đoàn quân dù của 3er BCCP phải chiến đấu ở thế một chọi năm trong điều kiện bi đát, vẫn không chọc thủng được vòng vây, cuối cùng phải tự phân tán. Chỉ vài chục người về đến Lạng Sơn.
Tiểu đoàn 3e BCCP bị đưa lên tiếp viện cho Thất Khê, đúng vào lúc họ sắp được lệnh về Hà Nội để chuẩn bị hành trang trở lại Pháp - sau khi đã hoàn thành những cuộc hành quân gian khổ ở Lào và tưởng là sắp được vĩnh biệt đồng ruộng và núi rừng Việt Nam. Hoàn cảnh đối với Tiểu đoàn dù 1erBEP cũng tương tự.
Ba ngày đã qua, chúng tôi theo dõi tin tức qua những thương binh vẫn ùn về, qua các báo chí. Sáng nay, khi mở một tuần báo Paris, tôi kinh ngạc được tin Spor và tôi mất tích - coi như đã chết! Tin này làm cho gia đình tôi nhận được khá nhiều thư chia buồn.
Quân Việt Minh ăn mừng chiến thắng ở Thất Khê và lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Đông Dương: Hội Hồng thập tự của đôi bên có sự thoả thuận chính thức về nguyên tắc trả thương binh nặng, cần cấp cứu tránh cho họ cái chết, chắc chắn về phía Việt Minh đây là một hành động tuyên truyền, nhưng đây cũng là một biểu hiện của cuộc chiến tranh du kích nay đã trở thành chiến tranh chính quy về mọi phương diện. Nó cũng chứng minh là những tù binh Pháp sẽ không bị ngược đãi, không bị giết hại (điều mà nhiều năm đã thấy xảy ra ). Họ sẽ được đối xử theo chính sách thương bệnh, tù binh của luật quốc tế theo Công ước Genève. Mặc cho động cơ, hành động của Chính phủ Hồ Chí Minh trở nên cao cả. Cuộc đàm phán Pháp Việt được nối trở lại lần đầu sau 1946, những kẻ gọi là phiến loạn thì nay trở thành những đối thủ của ta.
Giáo sư Huard, của trường Đại học Y Hà Nội là người biết rất rõ về Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Nhiều lính Việt Minh và chỉ huy Việt Minh là học trò cũ của ông. Ông đã tiếp xúc với cơ quan tham mưu đối phương, và một thông báo được phát đi qua làn sóng:
Hội Hồng Thập tự Pháp và Hội Hồng Thập tự đối phương đã thoả thuận về những thủ tục sơ tán thương binh Pháp đang được điều trị ở trạm cấp cứu Thất Khê.
Việc sơ tán sẽ tiến hành trên sân bay Thất Khê từ 10 giờ ngày 18/10/1950 (giờ địa phương), một phi cơ nhẹ sẽ xuống thử trước, bảo đảm cho những đợt sơ tán đầu tiên, tiên hành trong suốt ngày, bằng tàu bay hạng nặng.
Các tạp chí, báo Paris ngày 14/10/1950, nói chủ yếu về Vụ việc lớn này - Tâm lý tang tóc, tìm kiếm người chịu trách nhiệm, những bóng ma muôn thuở, và những nhu cầu, những lời khuyên, đó là những chủ đề được triển khai cho những bài báo chính.
Ông Louis Pauwels trong tờ "Combat" khẳng định là ông không biết cái gì đã làm cho ông cảm thấy nặng nề: đó là sự nổi loạn trước những cái chết vô ích, hay sự khinh bỉ trước những lời lẽ, hay hành động của những kẻ có trách nhiệm....
Xã luận báo "Epoque" viết: không một cành hoa, không một vòng hoa trong chính giới, không toát ra chút gì về sự buồn thảm đang thắt trái tim của những người Pháp. Cuộc sông vẫn theo dòng chảy của nó, các vị bộ trưởng vẫn đeo đuổi các cuộc gặp gỡ và diễn đàn . Trong hành lang của thương nghị viện, người ta bàn tán về các vấn đề bầu cử, và ông nói thêm: ông Quốc Vụ Khanh tuyên bố với Ban chủ tịch hội đồng rằng tai nạn đáng tiếc này không gây ra một ngạc nhiên nào quá đáng.
Tờ báo "Franc - Tireur" khẳng định: Cứ làm như vấn đề Đông Dương là vấn đề bỏ bạc tỷ và vấn đề quân số. Cứ làm như một sự cố quân sự, dù bi đát đến mấy nó vẫn không làm thay đổi những dự kiến.
Đô đốc Decoux, nguyên toàn quyền Đông D¬ơng viết trong "Ce matin":
Về mặt quân sự, đây là một sự nhẹ dạ không thể tha thứ, đó là việc áp dụng ở Đông Dương, một chính sách "bình định nhỏ giọt " - Cách bố phòng, những đồn lẻ cố định và những đoàn xe dài có hộ tống. Tất cả chỉ có thể đi đến thảm hoạ. Cuộc lút lui đánh dấu thảm hoạ cuối cùng trong những trận đẫm máu nhất.
Phải cử sang Đông Dương, trong một thời hạn ngắn nhất một người chỉ huy đúng với cương vị của nó, có khả năng nói lên tiếng nói của nước Pháp và có thể phối hợp Thất Khê, với nghị lực và sáng suốt, tất cả những hoạt động để bình định xứ Đông Dương, cả về mặt chính trị, quân sự, hay kinh tế.
Báo "L'Aube" kết luận:
Nên công bằng mà trở lại ngắn gọn với những sự kiện chính, với sự chê trách. Ông Pigron là đã có một thái độ lạc quan. Với sự việc mà thực tê/ đã nói lên sự thái ái ngược một cách cay đắng - Hình như những đề nghị của vị Cao uỷ Đông Dương bị bóp méo. Cái mà người ta gọi là sự lạc quan giả tạo trước tình hình chung, hình như chỉ căn cứ vào sự nối được liên lạc giữa hai binh đoàn Lepage và Charton. Khi mà chiến sự đang diễn biên, cần phải nghĩ là vị Cao uỷ khó mà bày tỏ công khai sự lo lắng cho kết quả cuối cùng của mình. Phải đem lại ánh sáng cho vấn đề này cũng như cho những vấn đề khác - Cần chú ý là không nên đánh lạc hướng dư luận bằng cách chỉ cho nó những nạn nhân bung sung.
Trong những lời tuyên bố thường hay trái ngược nhau. Sự thật là thế nào? Đấy là điều mà chúng tôi yêu cầu không thiện kiến. Một vấn đề tồn tại, đó là: Mọi người đều tìm tòi ai là kẻ hung ác, ai là con chim câu, ai là nạn nhân bung sung.
Một Thượng sĩ mà bố là người Pháp, mẹ là người Việt Nam đang chăm sóc một vị đại uý bộ binh thuộc địa ở trong phòng tôi, anh nói một cách chắc chắn:
- Trách nhiệm của sự kiện Cao Bằng thuộc phần lớn vào những con người đã nhiều năm không nắm chính quyền ở đây nữa. Họ là những con người đặt quyền lợi của đất nước dưới quyền lợi của sự cạnh tranh phe phái, những con người phải giải quyết những vấn đề mà họ không có đủ hiểu biết, nhưng có ảo tưởng. Hoặc là quá yếu: không dám nghĩ đến việc bất chấp đường lối chính trị của phe đồng minh trên vùng đất này của thế giới , gạt bỏ vĩnh viễn ông Hồ Chí Minh và đồng đội của ông. Hoặc là quá mạnh: để nghĩ đến việc đàm phán thẳng thắn với ông ta, không nghĩ đến tìm cách lừa ông ta. Ông Hồ Chí Minh mà người ta hay gọi là Bác Hồ, là một con người lão luyện trên vũ đài chính trị, và là con người am hiểu về đường lối cách mạng, ông đâu có để rơi vào cái bẫy bọc vàng của Hội nghị Fontainebleau, ông không tỏ ra thoả mãn với những lời hứa hẹn hay những lời bảo đảm dài hạn. Ở thời ấy, ẩn ý của các vị là giữ lại Đông Dương. Sau đấy các vị đã phải nhân nhượng với vua Bảo Đại, những nhân nhượng ấy còn quan trọng hơn cả với ông Hồ Chí Minh. Đáng lẽ là các vị phải vào cuộc mạnh ngay từ đầu, các vị chỉ thả những "gói nhỏ" đồ dằn nửa vì do dự, nửa vì luyến tiếc. Trước ngày Cao Bằng sụp đổ, ông Hồ Chí Minh đã tuyên bố với quân sĩ của ông. "Bình minh của một ngày lớn bắt đầu chớm sáng". Cái ngày ấy, ông ta đợi từ năm 1946.
Việc quân cộng sản Trung Hoa chiếm Vân Nam là một cái án tử hình đối với chúng ta, mà cụ thể là đối với Cao Bằng. Khi quân Quốc Dân Đảng rút chạy, quân Pháp bắt giữ, lúc ấy các vị hoặc phải có sự thương lượng với Việt Minh, hoặc phải gửi ngay 100.000 quân tăng viện cho Đông Dương. Trong thời điểm ấy, hầu như mọi việc đều chỉ mới bắt đầu: nếu vùng biên giới phía Bắc được sơ tán sớm đúng lúc trong điều kiện tốt nhất, trận đánh lớn cũng có thể xảy raở Lạng Sơn hay ở đồng bằng Bắc Bộ ít lâu sau đấy, cuộc chiến đấu là không thể tránh được, có thể nó không thuận lợi cho chúng ta. Ở nơi sẽ xảy ra nhưng chắc chắn là chúng ta đã tìm ra được cái gậy để chống đỡ tết hơn. Trong khi ấy nhiều sai lầm, vụng về, nghiêm trọng đã phạm phải. Cái sai lầm lớn nhất của các cấp chỉ huy Pháp ở Đông Dương là việc giả vờ không biết sự thực là không có đủ can đảm để kêu cứu về mẫu quốc, có phải vì sợ mất ghế chăng?
Một sĩ quan Lê Dương đáp lại anh ta một cách châm chọc.
- Anh phải làm một luận án chính trị về Đông Dương. Dù sao nghe anh nói cũng thấy thích. Dù sao, ít ra anh cũng có những ý kiến riêng của mình về vấn đề này - anh đã nhặt nhạnh nó ở đâu vậy?
Anh Thượng sĩ hơi đỏ mặt trả lời :
- Trong công việc giải phóng vùng đất Đông Dương của nhiều người, trừ người Pháp. Tôi được thả dù xuống làm thông ngôn, làm việc cho một phái đoàn quân sự của ĐồngMinh. Tôi làm việc cho một người tên là Hồ Chí Minh, ông này nằm ở trong một cái làng ở Bắc Bộ, với một số bạn thân. Có nhiều chuyện có thể nói về những người bạn đồng minh này. Gần đây, tôi nhận một nhiệm vụ mà ở đấy tôi được biết thêm nhiều chuyện. Đối với chúng tôi, đây lại là một việc nặng nề và nguy hiểm cho số phận. Nguy hiểm ở chỗ là ở trong một nước, mình là Tây lai, là người đứng giữa hai chủng tộc. Hai chủng tộc này bắt đầu thù ghét nhau. Trong lúc này trong từng chủng tộc lại xảy ra những đối đầu về những học thuyết chính trị xung khắc lẫn nhau.
Trước sự ngạc nhiên chung, anh chàng đổi giọng:
- Chúng ta còn có một phạm trù, trong ấy có thể thoả hiệp được với nhau: đó là sự căm thù chiến tranh, sự tôn trọng cuộc sống của con người. Hai tâm lý ấy rất gần với nhau, nó có thể đưa đến một cuộc gặp gỡ để bàn về một nền hoà bình có thể. Nhưng, nhưng tôi không biết tôi đang ở đâu, ôi còn bao trở ngại để vượt qua! Tha lỗi cho tôi về sự trút hết nỗi niềm tâm sự.
Ông Đại uý nói với một giọng mỉa mai:
- Bởi vậy cho nên không nên nghĩ đến nó nữa, hãy uống hết cốc cô nhắc mà anh vừa mới tặng tôi, nó sẽ giúp anh chỉnh đốn lại những ý nghĩ của anh.
- Xin cảm ơn, tôi chỉ uống nước lọc... hoặc nước chè.
CHƯƠNG 32
MỘT CHÚT KHÔNG KHÍ TRONG LÀNH
MỘT CHÚT KHÔNG KHÍ TRONG LÀNH
Hôm nay, ngày 7/10/1950. Lính Tabor thoát nạn của Cao Bằng về, mệt lả ở trong những căn nhà đổ nát của Đồ Sơn, và đóng quân ở đấy. Những con người mệt mỏi không còn có thứ gì trong tay, phải qua đêm trong một nhà thờ đổ nát, và phải tự lo liệu cho có ăn và có mặc. Họ sẽ nhớ lâu cách đón tiếp đậm tình anh em của cơ quan tham mưu Quân khu Hải Phòng.
Ông Letourneau bộ trưởng phụ trách về liên lạc với các nước Đồng minh, và tướng Juin hạ cánh xuống Hà Nội. Cuộc viếng thăm đầu tiên của hai chính khách này là giành cho những "kẻ mồ côi ở Đồ Sơn" ( lính Tabor ).
Độ 300 - 400 lính Tabor, những người thoát nạn của ba Tiểu đoàn Tabor trong tổng quân số là 2000 người xếp thành từng trung đội trên một con đường gần như bị phá hoại hoàn toàn của khu nghỉ mát xứ Bắc Kỳ.
Với trang phục rách rưới, súng ống lem luốc, nòng súng sút sẹo, những lính Tabor, râu ria xồm xoàm, thân hình gầy gò, mặt mày đầy lo lắng, đều đứng phắt khi thủ trưởng đi qua. Họ vẫn cố giữ một tư thế kiêu hãnh tối thiểu, nhưng họ vẫn không giấu nổi sự cực khổ, sự mệt mỏi, nỗi đau đớn, một nhà báo kể:
"Lễ gắn huân chương diễn ra không kèn, không trống. Chỉ có một thứ nhạc là tiếng sóng biển đều đều và buồn tẻ - từ một cái va li đặt trên thềm cỏ, giữa những đá cuội vụn nát người ta rút ra từng chiếc huân chương ... "
Trong khi ấy, những tù binh thương binh đầu tiên được Việt Minh thả ra đã về đến Bệnh viện Lanessan. Tất cả có chừng 140 người. Họ được gặp nhau ở đây, trong buổi chiều kỳ diệu này, để được hưởng những phút tự do, được chăm sóc và được gắn huân chương.
Trong số này chỉ có một người là sĩ quan, phía Việt Minh họ chỉ muốn trả toàn là lính.
Trung uý Faulques của 1erBEP là ng2ời lần thứ 2 trở lại Đông Dương, anh chỉ huy một trung đội thiện chiến của tiểu đoàn thiện chiến này, anh năm lần bị thương bởi đạn, bởi mảnh cối, bởi lựu đạn. Anh em Lê Dương kể rằng, khi sắp bị bắt, anh ra lệnh cho người cận vệ buộc anh vào một gốc cây, anh bị một lính Việt Minh bắn bị thương vì không chịu đầu hàng.
Sự thật may mắn còn kém bi đát hơn. Sau khi chống cự đến sức lực cuối cùng, anh gần như sắp chết và bị rơi vào tay đối phương. Những thầy thuốc Việt Minh đề xuất phương án là mổ cắt một chân đùi, và khuyên nên cho sơ tán cái xác chết còn sống này về Hà Nội.
Chiều hôm ấy, về đến Lanessan trong cơn hôn mê, Faulques được mang vào phòng cấp cứu. Ông Đelom, Đại tá bác sĩ, người phẫu thuật chính lúc bấy giờ, người thầy lớn của Bệnh viện, quyết định cứu chữa với tinh thần nhân đạo nhất sau nhiều lần mổ xẻ, cái chân của Faulques cứu chữa được. Nhưng tim anh quá yếu, rất dễ bị ngã gục, phải nhiều lần tiếp máu, anh mới có trên nét mặt một tia hy vọng còn sống.
Vài giờ sau, người tù binh hấp hối ấy nhận được từ tay Đại tướng Juin: một Bắc Đẩu bội tinh, một huân chương chiến công hạng nhất. Chiều hôm ấy, với một nụ cười nhăn nheo, anh nhấp một thìa café sâm banh.
Khi Đại tướng Juin, gắn huân chương, hình như ông muốn hỏi :
- Này, tại sao các anh Tabor dễ bị người ta moi ruột gan ra như thế này.
- Chúng tôi có cảm tưởng khó chịu là cấp trên thất vọng về tinh thần chiến đấu của mình trên mặt trận. Làm thế nào mà giải thích nổi sự hy sinh to lớn, sự đau khổ và số phận không may đã đè lên chúng tôi. Chúng tôi muốn giữ im lặng, không muốn phiền hà đến cấp trên, không muốn tỏ rõ nỗi niềm. Một buổi tối buồn tẻ, mặc dù cho bạn bè giúi vào đệm giường những chai rượu bổ.
Cuối cùng, chúng tôi chuyện trò nhắc đến những bạn mất tích, bị giết, bị bắt làm tù binh, và gia đình họ.
Lạng Sơn sơ tán.
Đó là quả bom nổ của ngày hôm nay, những đơn vị đầu tiên rút lui đã về đến Hà Nội, những người trong cuộc không thể che dấu nổi cảm tưởng tồi tệ gây nên bởi những điều kiện trong ấy, sự rút lui được tiến hành. Dần dần từ trong giường bệnh của bệnh viện, chúng tôi hình dung được toàn cảnh của cuộc "di cư" này.
Đây là một cuộc ra đi trong hỗn loạn. Những xe tải đầy ắp những đồ dùng cá nhân không có giá trị như tủ lạnh, dụng cụ văn phòng trong khi những kho lớn về vũ khí, đạn dược, quân lương, quân trang thì đều bị bỏ lại...
Một phi công phi cơ khu trục hạ cánh xuống sân bay Lạng Sơn, sau một chuyến công vụ lên phía Bắc, vì trục trặc cơ khí anh này kể:
Tôi hạ cánh xuống một địa điểm hoang vu. Không một bóng ma! Bị kích thích sự tò mò về cái im lặng, tôi định bò xuống phi cơ đề hỏi han, bỗng một xe tải chở lính Lê Dương chạy nhanh đến gần tôi. Một lính Lê Dương gọi to: Rút lui đi! Rút lui đi! quân Việt Minh đến đấy. Tôi không hỏi gì nữa và bay luôn về Hà Nội, mặc cho máy của phi cơ cứ khụt khịt mỗi phút mỗi nặng.
Thực tế là không có một đơn vị Việt Minh nào quan trọng xung quanh Lạng Sơn khỉ xảy ra cuộc rút lui. Chúng ta có đủ thời gian để phá hủy các kho tàng và dụng cụ quân sự. Từ sau cuộc thảm bại Cao Bằng, sự hoang mang lan tràn xuống các đơn vị lẻ tẻ của quân đồn trú ở Lạng Sơn, hầu hết là lính hậu phương, lính văn phòng. Những con người này quen ăn no, ở tốt. Không bao giờ tỏ ra có trình độ hiểu biết tình thế. Đối với họ không cần giấu họ điều gì, còn bọn chỉ huy thì thiếu cứng rắn.
Còn những kho quan trọng về đạn dược thì Bộ tổng chỉ huy đã cho phi cơ lên oanh tạc, theo thông báo thì phần lớn những két đạn pháo, đạn cối đều bị phá huỷ. Chỉ cần biết vị trí của những kho tàng ấy ở đâu là có thể không tin vào những lời tuyên bố trên, những lời tuyên cáo ấy nhằm mục đích bưng bít những tai tiếng. Đối phương đã tận dụng lâu dài những chiến lợi phẩm không mong đợi mà có ấy.
Đại uý Duport nghĩ gì về sự lặp lại bất diệt của lịch sử, cho nên với ý thức là một người chạy trốn, như những người của Đại tá Herbinger năm 1885 trước đây, ông tìm cách trở lại Hà Nội.
Tôi được biết người cầm cờ là một chiến binh của đại đội Tabor của chúng tôi, anh Si Haddou mới được quân Việt Minh thả về, vừa về đến Lanessan. Anh là một người to lớn, đã có tuổi, có bộ râu quai nón màu hoa râm, với khuôn mặt nói lên là một con người thẳng thắn, gan dạ, anh đã cùng một số bạn ở trên đỉnh núi suốt một đêm, vật lộn với quân đối phương trong dịp làm lại cuộc mở đường trên Đường số 4. Trong trận Đông Khê, anh bị thương nặng, chúng tôi tưởng là anh đã tử trận: một đạn cối nổ giữa hai chân anh.
Anh còn bị thương vì đạn.
Những cựu chiến binh của Tunisie, Ý, Pháp, Đức có một cuộc sống gian khổ, họ đã thoát chết nhiều lần một cách may mắn kỳ diệu. Họ đang ở tình trạng nào? Có thể nói đúng là cả thân hình họ bị lốm đốm vì mảnh đạn.
Anh đang nằm dài trên giường bệnh, hai chai nước sérum đang chảy dần vào mạch máu của anh, một ống cao su để đi đái, một ống khác dùng cho việc ăn uống. Cách đây một giờ anh phải thở bằng bình "ô xy", anh yếu lắm, nhưng vẫn nói được đôi lời bằng tiếng Ả rập một cách khó khăn. Anh kể câu chuyện: bị bỏ rơi, gần chết trong vùng núi đá Cốc Xá Một số nông dân phát hiện ra anh, họ lột hết những gì mà anh có, anh bị ngất đi...
Anh nói :
- Tôi ngủ thiếp đi như để chết, tỉnh dậy trên một cái cáng ở Thất Khê, đau đớn cực kỳ, nhưng được chăm sóc rất chu đáo bởi quân chính quy Việt Minh.
Một người đi phu của trung đội tôi đang là dân công trong quân đội Việt Minh - anh ta nhận ra tôi. Tôi còn nhớ, ngày nào đó, tôi đã cho anh ấy một cái áo vét, anh ta được ăn, được đối xử tử tế ở trung đội tôi.
Anh cúi người nói với một cán bộ Việt Minh, anh này mang một băng vải ở cánh tay và một súng con, vừa nói vừa nhìn tôi tươi cười, anh ta lại gần tôi, vừa mời tôi uống nước, vừa nói:
- Anh sẽ được đi Hà Nội!
Anh xiết tay tôi.
Si Haddou hỏi tôi nhiều câu chuyện về những bạn bè Tabor của đơn vị, và về những sĩ quan của tiểu đoàn, mặc cho sự thử thách, tôi có cảm giác là anh ta vẫn trung thành, vẫn tin tưởng và nếu tổ chức yêu cầu tiếp tục chiến đấu trong hàng ngũ Tabor, anh sẽ tiếp tục.
Tôi mang cho anh ta kẹo Sôcôla và thuốc lá. Hơi ngượng, anh nói:
- Cấm đấy
- Sao anh có thể?
Anh ta gật đầu mấy cái, nước mắt trào lên, tôi cũng vậy.
Tôi nói:
- Tôi sẽ trở lại thăm anh, khi nào Trung uý Spor biết là anh nằm ở đây, thì thế nào anh ta cũng đến. Chuyện gắn huân chương có làm anh vui lên không?
Haddou gật đầu, a.anh đã nhiều lần được khen thưởng - Lần này lại được nữa! Anh nói thêm, có vẻ bằng lòng:
- Đại tướng Juin ...
Cái làm cho anh thích thú là Đại tướng Juin trao tặng trực tiếp cho anh. Những con người mãi vào cái tổ ong vò vẽ như trên. Anh chàng là một con người đáng tin cậy, một người trung thành, một cựu chiến binh đáng kính trọng của những lính Ma rốc và lính Pháp.
Anh ta hiểu và chấp nhận ... còn đối với nhiều người khác thì họ còn phải bàn luận kéo dài, họ còn tranh luận và phán xét... ai có thể truất cái quyền trả giá bằng xương máu của họ được?
Lộc Bình, Đình Lập cũng lần lượt được sơ tán. Bởi vậy, chúng ta chỉ còn giữ ở vùng biên giới Tiên Yên và những đồn phía Nam Đường số 4 từ Tiên Yên đến Móng Cái. Trong thành Hà Nội, tướng Carpentier mở một cuộc họp báo:
Ông André Blanchet, phái viên đặc biệt của báo "Le Monde" nói:
Đối với việc rút lui Lạng Sơn một cách ngao ngán, vị Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương giải thích là: Cao uỷ Léon Pignon và bản thân ông đã ước tính là ông không có quyền để 4 tiểu đoàn quân đội Pháp bị tiêu diệt trong cái bẫy chuột này. Thêm nữa, với lực lượng quân Việt Minh hiện nay, phải có ít nhất một sư đoàn đầy đủ mới bảo vệ được nội thành Lạng Sơn, và phải thêm một sư khác nữa để bảo vệ vòng quanh ngoại thành.
Tám ngày trước đây, thì chỉ cần ba trung đoàn là có thể bảo vệ vùng biên giới từ Lạng Sơn đến Cao Bằng...
Đại tướng Carpentier khẳng định nói tiếp: Nếu lút lui khỏi Lạng Sơn sau 15 ngày là chạy theo một sự nguy hiểm, và sẽ gây nên những tổn thất lớn. Tôi đã suy nghĩ, tôi nhận phần trách nhiệm này. Chúng ta đã thu hồi được những con người luôn bị ám ảnh về một cuộc bao vây, các cầu có thể bị phá huỷ. Chúng ta đã rút ra được khỏi cái tổ ong vò vẽ Lạng Sơn tất cả những cái gì mà chúng ta có thể rút ra được.
Trả lời câu hỏi của phái viên đặc biệt báo "Le Monde". Đại tướng nhấn mạnh rằng: lệnh rút lui khỏi Lạng Sơn được ban ra sau khi đã xin ý kiến Đại tướng Juin và Bộ trưởng Letourneau, khi hai ông đến Sài Gòn.
Đại tướng tiếp tục:
Trong lúc ấy, một quyên định trái ngược không thể nào có được. Thực tế là cuộc hành binh cuối cùng được trả giá là: tất cả các đơn vị của chúng ta đều nguyên vẹn về đến vị trí mới.
Vài ngày sau tôi ra khỏi Bệnh viện Lanessan đi hơi khập khễnh. Tôi thuê một xe kéo đưa tôi đến ngã tư, từ đấy, một xe tải của lính Tabor đưa tôi về đơn vị của mình.
Có chừng 150 người thoát nạn, cộng với những người ở hậu phương- những người sống sót của các đơn vị khác.
Chúng tôi phải đóng quân ở Hải Phòng, trong những nhà gạch.
Tôi lấy làm sung sướng được trở lại với lính Tabor của Tôi. Trong lúc này, chúng tôi làm việc về: biên chế tổ chức,làm các thống kê, những thanh toán, nhận những quân trang quân dụng.
Đại tá Edon, chỉ huy mới của binh đoàn G.M.N.A, đến thăm chúng tôi, cho biết là ông ta coi chúng tôi, những người bị chấn động, ông sẽ dùng trong những cuộc hành binh nhỏ không nguy hiểm, để chúng tôi trở lại hoàn hồn.
Lời tuyên bố trên làm chúng tôi nổi cáu một cách mạnh mẽ - Cái tên huyền thoại: "Kẻ thoát nạn" có ý nghĩa là kẻ tinh thần bị xây xát, nó đeo đuổi chúng tôi cho đến bao giờ?".
Một ý nghĩ đến với chúng tôi, phải phục thù! Ý nghĩ làm xé lòng chúng tôi. Chúng tôi có một cái nợ đối với những bạn đã chết, hay bị bắt làm tù binh. Cái hy vọng có ngày được tham gia giải phóng cho họ, làm cho chúng tôi như tăng thêm sức mạnh.
Có những buổi chiều, ngồi câu cá trên con sông đầy bùn của Hải Phòng, để tiêu khiển. Nhớ đến các bạn Spor, Loubès, Orsini, Bauer - chúng tôi nghĩ đến sự phục thù. Nuôi ý định một ngày nào đó, chúng tôi sẽ trở lại Lạng Sơn để giải phóng cho các bạn ...
Người ta quên chúng tôi một thời gian ở nơi hẻo lánh này. Cũng như người Pháp quên việc Cao Bằng. Một đội ngũ sĩ quan và lính Tabor được tăng cường, từ Ma rốc đến, để lấp lỗ hổng.
Không khí của tiểu đoàn Tabor thay đổi với sự tăng viện nguồn nhân lực mới này, nhưng bộ khung của tiểu đoàn Tabor cũ không thay đổi. Chúng tôi đã để lại trên núi cao, những bạn chiến đấu, những bạn thân của chúng tôi, linh hồnhọ vẫn ở cạnh đây - chúng tôi nghĩ đến số phận hẩm hiu của họ, mà đúng ra cũng là của chính mình.
Mặc cho sự mệt nhọc, cho sự chán ngấy với những gì đã thấy, để khỏi phản bội lại các bạn, chúng tôi trở lại cầm súng, tham gia tất cả các trận đánh owr trên đồng bằng Bắc Bộ, dưới thời huy hoàng của tướng de Lattre.
CHƯƠNG 33
CAO BẰNG, CÚ ĐÁNH THỬ
CAO BẰNG, CÚ ĐÁNH THỬ
Trong ba ngày tháng 9.1952, tôi sẽ lên chiếc tàu Félix Roussel để về Pháp.
Chúng tôi gặp nhau, bốn năm anh em sắp được hồi hương, trong hộp đêm trên đường Catina (Sài Gòn). Chúng tôi tiêu không cần tính toán những đồng bạc Đông Dương cuối cùng với một thích thú tột bậc. Phải trải qua 30 tháng trên ruộng lầy và rừng rậm, trong sự cô đơn, mới có thể đem đến cho chúng tôi được cái vui thú này.
Chiều nay có rất đông người: những người Việt Nam với mái tóc chải bóng trong bộ trang phục chỉnh tề; những cô gái nhảy với quần áo lụa mỏng để lộ những "Soutien" ngực, những quần lót màu hồng nhạt; những quân nhân trong quân phục chỉnh tề, một vài người ăn mặc áo lót, một dàn nhạc theo kiểu "montmar" đang đánh nhịp cho cô hát người Phi Luật Tân.
Bất thình lình, tôi nhận ra một trung uý Tabor, ngồi trong một góc, vẻ mặt trầm ngâm xa xăm. Tôi say chăng, hay điên chăng? Không thể nào là anh ta, chiều nay anh ta phải ngồi bên một bếp lửa, ăn mặc theo lối nhà quê, ở trong một cái nhà rung rinh ở vùng biên giới ... là một tù binh, ốm đau. Nhưng mà đúng là những nét và cử chỉ của anh ta, mặt anh gầy gớm guốc, mắt đỏ au vì sốt rét, mặt anh xanh xao, vàng khè. Đúng là Xavier của Crest de Villeneuve!
Hai mắt chéo nhau, chúng tôi lao tới, vừa gọi tên nhau. Trước sự ngạc nhiên của những người đang uống nước, chúng tôi cho nhau những cái đấm mạnh vào lưng, trênbăng nhảy.
- Cậu đấy à!
- Đúng rồi, tớ mới được thả ra cách đây ba ngày.
- Cậu làm gì trong cái hộp đêm này, không thể tưởng tượng được?
- Chúng tớ đến từ miền Bắc, người ta cho tớ một cái buồng ở nhà tiếp tân, nhưng thần kinh căng quá tớ không ngủ được, tớ tìm cách để văn minh hoá mình lại.
Tôi cười và nói :
- Thôi, ta đi đi.
- Lấy một taxi. Cái thế giới này làm tớ nhức đầu.
Trên ghế đệm của một chiếc xe Mỹ chỉ còn hai đứa. Tôi liếc nhìn trộm ông bạn. Đúng là anh ta thay đổi rất nhiều: gầy nhom, những sợi tóc bạc xen lẫn với tóc đen: anh mới 28 tuổi
- Thật là kỳ diệu, anh là một trong những sĩ quan đầu tiên được giải phóng ... không nghĩ đến lại gặp nhau.
- Chúng tớ cũng vậy! Thật là một giấc mơ.
- Các bạn Tabor còn ai nữa?
- Còn X của Tabor ...về phía chúng tớ, tớ là người độc nhất.
Về đến trung tâm tiếp đón. Chúng tôi tìm một góc yên tĩnh, để chuyện trò đến sáng.
- Trước tiên, phần cậu?
- Bộ máy làm việc tốt! Thời cơ đã đến.
- Cậu đã báo cho người yêu chưa?
- Điện đã gửi hôm qua, hôm nay chắc cô nàng đã nhận được.
- Cậu là người cuối cùng, mà tớ thấy được thả.
- Tớ cũng vậy ...ở trại, tớ tỏ ra có tính đồng đội và ý thức tập thể.
- Tớ không lạ gì ở cậu. Còn các bạn khác thì sao?
- Ông Trung tá là người đại diện Pháp với các sĩ quan Việt Minh. Ông được chỉ huy Việt Minh tin cậy, và tôn trọng vì cái tính ngay thật và lòng dũng cảm của ông. Chúng tớnghĩ là ông ấy sẽ sớm được thả...
- Còn những bạn khác thì sao?
- Raval không còn ở chỗ cũ, anh ta đã đổi chỗ. Ông Bác sĩ đã được tha, anh Ba ra đã chết vì vết thương. Guyomar vẫn như cũ, vẫn giữ cái tính kiêu ngạo. Trung uý Mathieu mất rồi, cách đây vài tuần. Còn các tiểu đoàn khác thì...
- Cậu còn may đấy!
- Đúng...
- Họ đối xử với các cậu như thế nào?
- Hàng ngày, chúng tớ được ăn như lính Việt Minh, cơm là chính. Tất nhiên chúng tớ ở với dân, khó mà trốn thoát, không một ai thực hiện được. Họ làm công tác tuyên truyền rất tích cực: lên lớp chính trị. Họp phê bình và tự phê, đúng là những buổi xưng tội công khai, còn cậu, cậu đang làm gì?
- Tớ gặp may, rất nhiều cái may? Phần đầu ở Việt Nam là những thất bại. Phần thứ hai là những thắng lợi. Tớ được sống dưới thời đại của tướng de Lattre từ đầu đến đuôi.
- Chúng tớ tưởng là còn có thể giải thoát cho các cậu - có tin đó là ý định chính của tớ không?
- Không làm được đâu? Mọi việc đều đã được đề phòng. Chỉ cần một lệnh báo động là chúng tớ bị đưa qua bên kia biên giới Trung Hoa ngay!
- Lính Việt, nghĩ gì về tướng de Lattre?
- Họ cho là một chỉ huy giỏi! Họ bảo tin de Lattre chết như một tin chiến thắng. Có thể ông ta là người chỉ huy độc nhất đã làm họ sợ trong một thời gian nhất định.
- Họ bây giờ ở đâu, hả?
- Khó mà nói. Họ kể cho chúng tớ bao là chuyện, chỉ nghe họ, ai cũng có cảm tưởng là quân đội Việt Minh đóng trong Hà Nội rồi. Họ tin tưởng ở thắng lợi, rắn như sắt thép với một tinh thần tuyệt vời .
- Chúng ta cũng vậy, chúng ta có một tinh thần tuyệt vời. Mặc cho một số bóng đen. Tin là những thắng lợi của chúng ta trong những tháng qua đã làm cho họ phải lung lay. Họ bắt đầu chán nản? Họ hy vọng được hoà bình?
Không phải thế, họ muốn một thắng lợi hoàn toàn và đặt những điều kiện. Nếu họ có những nhân nhượng, trừ khi có áp lực của Bắc Kinh hay Mạc Tư Khoa. Họ chiến đấu đến cùng. Họ đã phải trả giá quá đắt, để có thể chấp nhận những chia sẻ. Đối với họ một hoà bình thoả hiệp, chỉ là một cuộc đình chiến tạm thời. Họ rất mạnh, tổ chức chặt chẽ, trang bị tốt, hăng hái!
- Tớ có cảm tưởng là cậu có một sự thán phục với họ.
- Tại sao lại không? đấy là sự thực. Họ chiến đấu tốt và hiểu vì sao mà chiến đấu.
- Họ có nói về những thất bại ở Vĩnh Yên, Đông Triều, Hoà Bình?
- Họ cho là những trận đánh mà bên này, bên kia đều có thiệt hại .. Đối với Hoà Bình, với họ đây là một thắng lợi chiến lược. Quân đội Pháp tập trung lên hành lang của tỉnh Hoà Bình và Đường số 6, trong khi ấy họ tung sư 320 và trung đoàn 174 vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, đã giải phóng cho nhân dân lâu nay bị quân Pháp áp bức, đã phá tan hệ thống phòng ngự của quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ. Sau đấy quân Pháp phải rút bỏ Hoà Bình nhưng ở đồng bằng thì không bao giờ củng cố lại được.
- Đúng vậy, vậy cậu thấy cuộc chiến tranh này sẽ kết thúc như thế nào? Cậu là người đã ở vùng Việt Minh trở về.
- Cậu làm tôi lúng túng, sau đây là những lời họ nói trong khi lên lớp buổi tối. "Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên bởi sự dễ dàng trong việc quân đội chúng tôi giải phóng Cao Bằng và chiếm lại vùng biên giới. Chúng tôi không ngờ về thắng lợi quá nhanh, nếu không chúng tôi đã phát triển xuống đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng Cao Bằng chỉ là bước đầu trên con đường giải phóng toàn Đông Dương. Về phía quân đội nhân dân Việt Nam...Với con Đường số 4, chúng tôi có một cửa ngõ cho sự tiếp tế mới".
- Ở đây người ta gọi Đường số 4 là con đường chết chóc, có đúng không?
- Cậu nên nói là: "Con đường chết đi sống lại", nó chưa bao giờ sống mãnh liệt như bây giờ. Hàng chục ngàn dân công, và những tù binh của liên hiệp Pháp chưa được thả về, hay bị thương đang sửa sang nó. Hàng ngày trong mấy tháng nay phi cơ có thể đến phá huỷ nhưng sau 48 giờ nó lại hồi sinh, được mở rộng, củng cố vững chắc hơn, những xe tải đủ các loại lại lên xuống.
- Vậy cậu kết luận tất cả là thế nào?
- Tớ phải nói thực thà với cậu, và nói về những gì mà tớ nghĩ. Tớ biết cậu sẽ không coi tớ là thằng đần độn, như ngàyhôm qua, khi mới đến Hà Nội ... Quân Việt Minh chưa bao giờ mạnh như bây giờ? Cao Bằng chỉ là một cú đánh thử, một ngày sắp đến sẽ có cú đánh thực?
PHẦN KẾT LUẬN
(Viết năm 1954)
(Viết năm 1954)
TỪ CAO BẰNG ĐẾN
ĐIỆN BIÊN
Với thảm họa Cao Bằng, mặc dù chúng ta đã bị những tổn thất lớn: gần 5000 người bị chết, bị thương, bị bắt làm tù binh trên toàn bộ Đường số 4. Chúng ta còn bị những ảnh hướng xấu về chính trị, quân sự ngoài tầm cỡ bình thường.
Trong những cuộc chiến tranh thuộc địa, những chuyện nhỏ gây ra, thường cho những hậu quả lớn.
"Thế giới tự do" thết lên lời kêu báo động: "Với Đông Dương phải cẩn thận, là mảnh đất hiểm, là một cái dốc trượt".
Người Mỹ, lâu nay giữ thái độ thận trọng, nay lao vào một sự nguy hiểm mà khối phương Tây cho là để đi đến sự thất bại hoàn toàn về Việt Nam.
Cái "quạt thuộc địa" mà lâu nay tổng thống F.D.Roosevelt và đồ đệ của ông phe phẩy, thì nay được cho vào "một cái túi" nhét đầy băng phiến, sự viện trợ của Mỹ trở nên quan trọng và thiết thực hơn, có phải là quá muộn không?
Trong một khoảnh khắc, từ sau khi nước Pháp được giải phóng, nước Pháp mới cảm nhận được sự đau khổ phải chịu đựng, những hy sinh phải chấp nhận và những cố gắng vô ích...
Còn sự giúp đỡ của Trung Cộng với Việt Minh đã là một vấn đề quan trọng, nay lại còn được nhân lên gấp bốn lần. Chủ tịch Mao Trạch Đông và đồng bào của ông nghĩ rằng:
"Người láng giềng nghèo khổ của họ đang chiến đấu cho chính nghĩa. Họ đã chứng minh cho việc ấy và họ cần phải được giúp đỡ đến nơi, đến chốn".
Đối với con người khổng lồ bên bờ Đại Tây Dương, cuộc chiến tranh du kích ở cách xa Châu âu đến 12000km, có thể đem lại cho Mỹ lợi ích gấp đôi so với chiến tranh Triều Tiên, trong điều kiện thoáng đãng và trực tiếp hơn . Đối với Mỹ quốc - Việt Nam chỉ là một cái gai quỷ quái mà thôi. Ảnh hưởng của những hành động nối tiếp trên là từ chiến tranh bình định, chiến tranh du kích rồi trở thành một cuộcchiến tranh hiện đại.
Nếu những diễn biến của sự kiện Cao Bằng, rút lui khỏi vùng biên giới, lịch sử của con đường chết chóc "Con Đường số 4" mà ở đấy đã diễn ra những sự kiện trên, đáng được kể lại sau sự kiện vĩ đại của Điện Biên Phủ, là bởi vì có một sự giống nhau tương tự về sự thất bại, giữa trận đánh trên một chiến trường rộng lớn, với trận đánh trên một địa hình chật hẹp.
Trong hai trường hợp, tướng Giáp biết rõ ý định của chúng ta. Trong hai trường hợp ông ta đã có thì giờ và cơ hội để tập trung hầu hết những đơn vị chủ lực của ông, để tác chiến với điều kiện quân số hơn hẳn chúng ta. Trong hai trường hợp, quân đội của liên hiệp Pháp đều ở rất xa căn cứ tiếp tế của họ và các con đường đều trở thành vô dụng hoặcbị quân đối phương chiếm đóng. Trong cả hai trường hợp quân đội Việt Minh đều đưa vào sử dụng những phương tiện mới, được tiếp tế đạn dược tuỳ theo yêu cầu. Trong hai trường hợp, sức hoạt động của không quân tỏ ra thấp hơn so với yêu cầu, mặc cho sự can đảm và trình độ các phi công. Thời tiết xấu đã hạn chế rất lớn sự hoạt động của họ. Trong cả hai trường hợp những đơn vị chúng ta, đều là những đơnvị tinh nhuệ của quân đội Viễn chinh Pháp; Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều không có đủ quân dự bị cần thiết để bằng những cuộc hành quân nghi binh buộc đối phương phải nới bớt gọng kìm bao vây. Trong cả hai trường hợp, quân đội Viễn chinh Pháp gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Nếu sự kiện Cao Bằng được coi là một sự kiện cốt yếu của lịch sử quân sự ở Đông Dương, nếu biết rút kinh nghiệm về những sai lầm về những yếu kém đã qua thì có thể tránh được sự thất bại ở Điện Biên Phủ và có thể đưa chúng ta đi đến ký kết Hiệp ước hoà bình từ 1953.
Một vấn đề đặt ra: vì sao chúng ta quên quá nhanh cuộc chiến tranh biên giới hay nói đúng ra, tại sao chúng ta bỏ rơi những bài học của sự đổ vỡ này, sự trái ngược này phải chăng ngoài mong đợi, do sau thất bại lớn trên, lại tiếp theo là giai đoạn của những thắng lợi: đó là thời kỳ của de Lattre. Tôi đã sống qua thời kỳ thắng lợi huy hoàng này, đó là thắng lợi ở Vĩnh Yên, ở Đông Triều, ở Hoà Bình, ở đồng bằng Bắc Bộ - dưới sự chỉ huy của những tướng tá tài ba của tướng de Lattre, như đại tá: Don, de Castries, Vanuxem, Ducourneau, Gilles những tướng de Linarès, Cogny, Allard, Sa lan v.v...
Đại tướng de Lattre đã cho những đơn vị và người chỉ huy của ông uống thuốc kích thích. Nhờ có sự tăng viện về khí tài do những thay đổi về đường lối chính trị của nước Mỹ với Đông Dương; nhờ có một số tăng viện về sức người đến từ Pháp và Bắc Phi, nhờ ở chính sách "vàng hoá" những tiểu đoàn chiến đấu của quân đội Viễn Chinh (một đại đội lính Việt Nam cho một tiểu đoàn lính âu, một trung đội lính Việt Nam cho mỗi đại đội lính âu). Sự ô hợp không phải không đem lại những tai hại. Nhờ ở thay đổi mà ông đã đem đến cho đội quân lính Việt, mà ông là người sáng lập ra. Nhờ ở nghị lực rắn như thép, ông Cao uỷ kiêm tổng chỉ huy đã thành lập những binh đoàn ứng chiến cơ động, những binh đoàn này đã đánh bại những sư đoàn của tướng Giáp.
Dưới sự thúc đẩy của Đại tướng de Lattre, chúng tôi đã cảm thấy trở nên mạnh hơn quân đội Việt Minh, và đã có hy vọng đi đến một giải pháp hoà bình không bằng một cái đá gót từ sau lưng. "Không để họ phải bị nhục" - phương châm của tướng de Lattre đã thành phương châm của cả chúng tôi. Để không làm mất giá trị cho bất cứ ai, phải nói rằng, những thắng lợi của chúng tôi có ý nghĩa hình thức nhiều hơn là thực tế: những lực lượng Việt Minh vẫn tiếp tục được phát triển, quân chủ lực Việt Minh được tăng cường thêm những đơn vị mới, được trang bị hiện đại hơn.
Tôi xin kể một câu chuyện, trong hàng trăm câu chuyện tương tự, để nói lên tình trạng tinh thần của quân đội Viễn chinh trước sức mạnh của quân đội Việt Minh ngày một tăng:
Trong chiến dịch Hoà Bình, trên Đường số 6, tháng 1/1952, một hôm tôi đến nơi phòng ăn của các sĩ quan của đại tá de Castries ở Ao Trạch. Ao Trạch là một nơi vắng vẻ nguy hiểm, nơi đây quân Việt Minh có thể tạo nên dễ dàngmột thứ Cao Bằng quy mô nhỏ, nếu họ để ý. Tôi lúc ấy là một trong những người thoát nạn hiếm hoi của binh đoàn Lepage và Charton. Khi những sĩ quan ngồi vào bàn thì mọi người mới đến, nghe những ý kiến của tôi. Họ đều coi tôi là một người bi quan, một người bại trận. Một đại uý của cơ quan Tham mưu hỏi tôi là tôi có còn "bị choáng" nữa không?
May cho chúng tôi, quân Việt Minh không tiến công nữa, vài ngày sau mặc dù bị bất ngờ do cuộc rút lui đột ngột của quân đội chúng tôi khỏi Hoà Bình và Đường số 6 một cách hộc tốc. Sưpháo binh nặng của tướng Giáp bước vào hoạt động lần đầu tiên, với súng 75 ly, 105 ly, súng SKZ các cỡ, súng cối 81 và 120 ly. Nhiều xe thiết giáp của chúng tôi bị phá huỷ. Chỉ cần có một sự trục trặc nhỏ trong kế hoạch bố phòng của chúng ta. Một sự tắc đường bất ngờ gây nên bởi một ổ phục kích là đã có thể gây nên một đổ vỡ lớn cho quân ta.
Tướng Linarès biết rõ điều này. Ông ta chờ đợi chúng tôi một cách lo lắng cao độ, ở đầu ngõ vào Đường số 6, trong một thung lũng.
Sự thành công lớn của cuộc hành binh rút lui là nhờ phần lớn ở ông tướng này, ông đã tổ chức cuộc rút lui trong sự bí mật tuyệt đối nhưng cuối cùng chúng tôi bị một đòn choáng váng, gọng kìm của quân đội Việt Minh khép lại vào cái đuôi của cuộc hành binh, làm. cho nó bị thiệt hại nghiêm trọng.
Không có một viên chức cao cấp nào dù là dân sự hay quân sự, có can đảm hay có trí nhớ để đi đến tuyên bố một cách thẳng thắn là:
Chúng tôi thừa nhận sự thất bại ở Cao Bằng và bài học của nó! Chúng tôi không thổi phồng thắng lợi của cuộc rút lui chiến lược của Hoà Bình. Ngày ấy chúng tôi có may mắn lớn! Chúng tôi không bị thôi miên về một sự mệt mỏi của quân đội Việt Minh, xử sự như một kẻ ở tư thế trội hơn hay là lần cuối cùng, còn có thể, chúng tôi tung những sư đoàn cần thiết đánh tan quân chủ lực của đối phương.
Không có một lời lên tiếng, đủ cứng rắn để làm cho "mẫu quốc" hiểu biết những sự thực ấy và để có những quyết định xác đáng. Không có ai kêu lên: Chúng ta đã bỏ rơi cơ hội để giành thắng lợi từ năm 1949, năm mà đã xảy ra sự liên kết giữa việt Nam và Trung Quốc. Hãy tìm những hành động đúng đắn để tránh một thất bại nghiêm trọng.
Để có lý lẽ cho những người lạc quan dầy dạn, và ru ngủ vĩnh viễn dư luận nước Pháp (họ không cần cái ấy) và dư luận những quan sát viên nước ngoài, (họ chỉ muốn có thế), trong những năm 1952 - 1953 chúng tôi đã thu được những thắng lợi rực rỡ như:
Đó là: cuối năm 1952, trận tiêu diệt toàn bộ trung đoàn 98 do binh đoàn cơ động của đại tá de Castries và Vanuxem, đối phương trong hai ngày có 500 người chết, hơn 1000 bị làm tù binh, hàng trăm vũ khí và hàng tấn đạn dược.
Đó là năm l953: cuộc hành binh huy hoàng của đội quân dù của tướng Gilles xuống Lạng Sơn.
Cũng là năm ấy, những cuộc hành binh của tướng Cogny trên đồng bằng Bắc Bộ, và của tướng Leblanc ở Bắc Trung Bộ.
Cho nên, trước một tổng kết thuận lợi như trên, bộ chỉ huy nghĩ rằng, không cần có những sư đoàn tăng cường, chúng ta có thể với những điều kiện sẵn có, thực hiện những ý định táo bạo, cách độc nhất để cản trở trong một thời gian nhất định sự phát triển của lực lượng đối phương: làm tan rã lực lượng chính quy của tướng Giáp, cái tinh hoa, cái cột sống của chế độ, bằng cách đưa họ vào một địa hình mà chúng ta chọn.
Để bảo vệ xứ Lào, và để có thể sử dụng một sân bay, đã đưa tướng Navarre chọn thung lũng Điện Biên Phủ để thực hiện tham vọng trên.
Một vấn đề tồn tại: đó là sự lãng quên, hàm ý hay vô ý, bài học về thất bại Cao Bằng, có nghĩa là sự lãng quên về thực lúc của quân đội Việt Minh, sự lãng quên ấy có thể đưa đến một thất bại thảm hại hơn nữa. Dưới ánh sáng của những sự kiện vùng biên giới, chúng ta đứng ra, không nên vì những lý do về uy tín, về sự trung thành với những giao ước mà tập trung những lực lượng mạnh vào một điểm của một vùng khó xâm nhập, bao vây bởi rừng và núi. Trong khi đối phương có thể khai thác cái tài len lỏi, sức cơ động nhẹ nhàng của họ. Thì chúng ta bị tê liệt vì thiếu các trục giao thông, vì bị xa các căn cứ tiếp tế, hậu cần, chống đỡ với bao bất lợi mà chỉ dựa vào có không quân. Đó là điều tỏ ra kém hiểu biết về đất nước và những điều kiện thiên nhiên của họ như: núi non, cây cối, khí hậu ...
Những vùng biên giới, vùng Hoà Bình, vùng Thái là những xứ của núi và rừng mà ở đấy chỉ có thể tiến hành chiến tranh du kích, hay ở đấy những sự oanh tạc chớp nhoáng vào căn cứ hậu phương của đối phương có thể đem lại những khả năng về kết quả.
Bởi vậy, từ 1950 - 1954, từ Cao Bằng đến Điện Biên Phủ chúng ta đã phạm vào những sai lầm trên mặt quân sự, chính trị, một cách ấu trĩ kỳ lạ. Về mặt quân sự chúng ta đã đánh giá thấp đối thủ, chúng ta có theo dõi nhưng không đi trước họ trong sự lo liệu chiến tranh. Chưa bao giờ chúng ta thành công trong việc bắt đối phương phải theo chiến lược của chúng ta. Chúng ta lại luôn theo chiến lược của họ. Chúng ta phải chấp nhận chiến đấu trên những địa hình mà đúng ra phải tránh xa.
Về mặt chính trị, chúng ta đã chưa tỏ ra là có khả năng bảo vệ hoà bình. Chúng ta không biết cách lập lại hoà bình đúng lúc và cũng không bao giờ biết tiến hành chiến tranh. Chúng ta đã nuôi dưỡng đội quân Viễn chinh bằng người, bằng vật chất, bằng lương thực như nuôi một kẻ hủi lở...để nó không bị phát ban. Chúng ta đã có cố gắng nhỏ bằng những "Viện trợ nhỏ giọt", cách làm này khiến chúng ta tốn kém hơn nhiều về sức người sức của hơn là dốc toàn lực ngay từ đầu.
Hãy có can đảm làm một tổng kết: nước Pháp để lại một xứ Đông Dương rách nát sau tám năm của những trận chiến ác liệt bị gián đoạn bởi một đình chiến đau đớn nhưng cần thiết. Để đi đến kết quả trên, nó đã tiêu phí 2385 tỷ Frăng, mất 92.000 sinh mạng và bị mất mặt trên thế giới. Trước cái tài sản nợ đáng khủng khiếp ấy, tốt hơn cả là không nên ghi gì trong khoản cho vay vì để bảo vệ danh dự: không ai có thể tin nổi những con số ấy - nó là một cái giá phải trả cho suốt một quá trình.
Điều trái ngược nổi bật: những kẻ thu lãi lớn của cuộc chiến tranh Đông Dương là những Công ty nước ngoài, một số con buôn người Pháp, Trung Hoa, Việt Nam ... và lực lượng Việt Minh.
Còn đối với những chiến binh của đội quân Viễn chinh họ chỉ được một sự an ủi lớn là: trên đất nước Việt Nam mà họ đã dọc ngang khắp các nẻo đường, ở đó họ đã để lại những người bạn thân, đã để lại những ảo tưởng sâu lắng nhất, ở đấy họ đã chịu đựng những trận chiến đấu ác liệt. Ở đấy họ đã đau khổ, đã mất hết sức lực, máu của họ đã chảy.
Sau khi đình chiến hàng ngàn gia đình Pháp, Châu Phi, Ả Rập, hàng triệu gia đình người Việt Nam, có nghĩa là gia đình họ, gia đình những người bạn chiến đấu của họ, những địch thủ của ngày hôm trước tìm lại được sự vui sống quên bớt những khủng khiếp của chiến tranh, những đau thương của sự chia ly, sự dằn vặt của hư vô ...
Trước những kết quả ban đầu và vĩ đại mà mọi cuộc đình chiến đều đưa đến, mặc cho sự chán nản sâu sắc vì thấy sự cố gắng của mình bị hoang phí, những đau khổ đã vô ích, mặc cho sự lo lắng thầm lặng đè nén lên họ khi nghĩ đến một ngày mai có khi không tươi sáng. Những người đã bỏ cả cuộc đời và đổ máu của mình trên mảnh đất Việt Nam, những người ấy chỉ còn có thể kêu lên với tất cả những người Pháp, với tất cả những người có thiện chí:
Cuộc chiến tranh bẩn thỉu đã chết! Hoà bình muôn năm! Mong sao nó sẽ bền vững!.
BẢN LÍ LỊCH
CHARLES HENRY DE PIREY
CHARLES HENRY DE PIREY
Thân thế:
Sinh ngày 28/7/1928 ở Pari. Có vợ, hai con gái, ba cháu, ba chắt nam.
Học vấn:
Tú tài một ở trung học phổ thông La Ka-nal ở Toulouse sau khi khu tự do bị chiếm đóng, đã tham gia vào các hoạt động kháng chiến của sinh viên: truyền đơn "chống đối" và những bài ca "yêu nước" trong phạm vi nhà trường. Đỗ tú tài hai ở trường trung học phổ thông A-lanh Phuốc-ni-ê ở thành phố Bourges. Không đăng ký được vào không quân quân sự hoặc dân sự do lúc ấy thừa ế phi công nên Henry de Pirey phải đăng ký vào trường luật đại học Sarbonne ở Pari.
Đời sống dân sự:
1947 làm báo ở Tanger; viết phóng sự về các tội phạm chiến tranh na-di ẩn náu ở đấy. Quyết định ở lại Ma rốc và được nhận làm biên tập viên tạm thời của báo A.I. tại Tafraout gần Souss.
Đời sống quân đội:
1948 từ chối hoãn dịch quân sự do đang là sinh viên và xin thực hiện nghĩa vụ quân sự trong không quân được xếp hàng hạng hai trong đoàn không vận Ain El.Hanouda ở Casablanca. Được tuyển chọn vào trường E-O-R ở Cherchell (Angiêri) rồi EAT ở Toùrs. Được phong chuẩn uý và cử đến làm việc ở trung đoàn vận chuyển ở số 514 ở Marrakech. Năm 1949 được cử để vận chuyển tiểu đoàn Tabor -Ma rốc về Nam và bị hấp dẫn bởi đơn vị có sức thu hút và "bí mật" này. Được sự nâng đỡ của đại uý Feaugas chỉ huy trưởng tiểu đoàn Tabor, de Pirey thuyên chuyển sang ABC và đến đơn vị tiểu đoàn sắp sang Đông Dương.
Đổ bộ xuống Bắc Kỳ tháng 5/1950 và được chuyển tới Goum Marốc số 60 với tư cách chỉ huy phó. Tháng 9/10/1950, tham gia các trận đánh kinh hoàng trên Đường số 4, bị thương giữa các núi đá vôi Cốc Xá, de Pirey xuyên thủng được vòng vây và tiếp tục chiến đấu với tiểu đoàn Taborr số 1, được tái lập vào cuối năm 1950. Anh tham gia các trận đánh thắng của "thời kỳ tướng de Lattre" (Vĩnh Yên, Đông Triều).
Được thuyên chuyển theo lệnh tướng de Lattre về đoàn Khinh Binh số 1, de Pirey cùng trung đội chiến xa số 5 được đặc phái đến GMI của mình vào những trận đánh ác liệt. Ngày 29/1/1952: để hỗ trợ một tiểu đoàn Lê Dương cố thủ ở gần Đổng Bến (Hoà Bình, Đường số 6) de Pirey bị thương ở đầu lúc chiến đấu. Tháng 4, ở Châu Thổ sông Hồng tại Bắc Ninh, de Pirey và trung đội của mình đã tham gia tích cực vào việc đánh bại trung đoàn Việt Minh 98.
Năm 1952 - 1953: hồi hương, Trung uý trong quân đội hoạt động. Bắc đẩu Bội tinh loại đặc biệt. Thuyên chuyển đến đội quân Xpahi số 4 quân Ma rốc ở Fès, rồi biệt phái làm tuỳ viên tướng quân đoàn Guillaume, toàn quyền Pháp ở Ma rốc (Rabat).
Hàng không quân sự
Năm 1954: thuyên chuyển đến Trung đoàn Kỵ Binh Nhẹ số 2 ở Orleams, đăng ký tình nguyện tham gia đợt tập sự huấn luyện thành phi công trực thăng AeLe.T với điều kiện nhận lời đi một chuyến Đông Dương lần thứ 2 với tư cách là phi công. Thất bại Điện Biên Phủ và Hiệp ước Genève xảy ra giữa chừng. Được thuyên chuyển sang đoàn trực thăng số 1 ở Satony.
1954 - 1957: Sau nhiều đợt thực tập trên máy bay rồi trên tất cả các loại trực thăng hoạt động ở Pháp lúc bấy giờ de Pirey trở thành huấn luận viên phi công, rồi trưởng nhóm thực tập và phi công trưởng trong việc xét cấp các bằng lái quân sự kể cả bằng lái trên núi cao. Anh từ giã quân đội năm 1957, đại uý danh dự của A.B.C (R) hàng không dân sự. Năm 1957 phi công rồi phó phi công - trưởng đoàn Hê- li-co Pe. Ông ngang dọc trên thế giới để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau.
Năm 1958: Thực tập ở trung tâm bay thử Brétigny. Thực hiện 2 chuyến bay hàng đầu thế giới.
1/2/1959: Hạ cánh lần đầu tiên trên một núi lửa đang hoạt động cao 4050m, núi Khuy Táp Tan trên đất Iran.
30/9/1971: Hạ cánh lần đầu tiên ở độ cao 5500m trên một chiếc Pu-ma dân sự trên mỏm núi "Tổ chim kền kền" trên đỉnh Acoucagua của dãy núi Anđet nam Mỹ). Là người tiên phong của các đường bay chính quy đang được thực nghiệm, đặc biệt với tư cách là chỉ huy trưởng hàng không Phương Nam, lái máy bay "Ong vò vẽ siêu hạng" cho hãng "hàng không núi Ôlempic" trên bán đảo Hy lạp, phi công bay thử của tổ chức "hàng không vũ trụ", ông đã thực hiện trong 25 năm, được 10.000 giờ bay.
Huân chương: huân chương Bắc đẩu bội tinh cấp cao
Thập Tự Chương T.O.E. bốn nhánh.
Huân chương U-i-xam A-lao-ít-sê-ri-phen
Huân chương thương binh (2 lần bị thương trong chiến đấu)
Huân chương hàng không.
Hoạt động trong đời tư:
Tái kiến thiết và trang trí nội thất một nhà thờ đạo thế kỷ XI đã đổ nát, được sếp hạng di tích lịch sử từ năm 1924 và biến đổi khu vườn kín thành nơi cư trú cho chim di cư.
Thành viên của nhiều hội trong đó có viện Hàn Lâm sưu tập tem thư Châu âu, chuyên viên về tem thư hàng không. Nghiên cứu triền miên khoa Chiêm Tinh - từ Za-phơ-ra-út năm 1958 đến phòng triển lãm Prô-văn-sơ năm 2002.
TƯ LIỆU
Những đơn vị của quân đội 2 bên tham chiến trong cuộc chiến tranh Biên giới ( Đường số 4 ) - Tháng 10/1950
A. NHỮNG ĐƠN VỊ PHÁP
I.Binh đoàn Charton ( Cao Bằng ):
* Tên và quân số:
- Tiểu đoàn 3, trung đoàn Lê Dương ( 3 er REI )
- Tiểu đoàn Ma rốc
- Đơn vị công binh pháo binh
Tổng số: 1.600 người
* Số thiệt hại ( Chết, bị thương, tù binh )
- Của binh đoàn Lepage - Charton
- 75 sĩ quan
- 292 hạ sĩ quan
Tổng số: 2.839 người
II. Binh đoàn Lepage (Thất Khê và Đông Khê )
* Tên và quân số:
- Tiểu đoàn Tabor 1
- Tiểu đoàn Tabor 11
- Tiểu đoàn dù Lê Dương 1erBEP
- Tiểu đoàn bộ binh 8erBEP RTM
- Công binh, pháo binh, cơ giới: 3.200 người
Tổng số: 4.800 người
* Số thiệt hại ( Chết, bị thương, tù binh ):
Tổng số thiệt hại: 3.200 người
III. Thuộc binh đoàn Charton ( Cao Bằng )
* Tên và quân số:
- Tiểu đoàn dõng: 1.100 người
* Số thiệt hại ( Chết, bị thương, tù binh ):
Tổng số thiệt hại: 1.000 người
IV. Đơn vị dù (Thất Khê ):
* Tên và quân số:
- Tiểu đoàn 3 e BCCP và 1 er BEP: 360 người
* Số thiệt hại ( Chết, bị thương, tù binh ):
Tổng số thiệt hại: 1.000 người
V. Đơn vị đồn trú ở Đông Khê - Thất Khe - Na Sầm ( vào khoảng )
* Tên và quân số:
- 1 tiểu đoàn của 3e REI
- 2 tiểu đoàn 3e RET
- Dõng A.B.C
- Pháo binh, cơ giới, công binh
Tổng số: 1.500 người
* Số thiệt hại ( Chết, bị thương, tù binh ):
- Quân đồn trú
- Dõng
Tổng số: 500 người
TỔNG SỐ:
QUÂN SỐ: 7.760 NGƯỜI
SỐ THIỆT HẠI ( CHẾT, BỊ THƯƠNG, TÙ BINH ): 5.030 NGƯỜI
B.NHỮNG ĐƠN VỊ VIỆT MINH
Sự thiệt hại ( chỉ tính chết ) - là những đơn vị tham chiến
I. Những đơn vị sẽ là sư đoàn của tướng Giáp:
- Quân số: 30.000 người ( ước chừng )
- Số thiệt hại: 3.000 người ( gồm cả những người bị phi pháo )
II. Trung đoàn địa phương: Lạng Sơn - Cao Bằng ( trung đoàn 174 )
- Quân số: 3.000 người ( ước chừng )
III. Tiểu đoàn địa phương:
- Quân số: 2.000 người ( ước chừng )
CHUNG:
QUÂN SỐ: 35.000 NGƯỜI ( ƯỚC CHỪNG)
SỐ THIỆT HẠI: 3.000 NGƯỜI ( ƯỚC CHỪNG)
------------------------
Chú thích:
Tin tức về lực lượng của Việt Minh đôi khi trái ngược
Năm 1950 người Pháp đánh giá vào khoảng 40.000 - 50.000 người tham chiến - có 8.000 người chết.
Phía Việt Minh thông tin 30.000 người tham chiến, 1.000 người chết.
Tổng số trên có phần gần với thực tế:
Phía Việt Minh: 3.000 người chết, có thể cộng với 5.000 - 6.000 người bị thương.
CHỈ DẪN NHỮNG TỪ
VIẾT TẮT
A.B.C: Arme Blindée et Cavalerie
A.I: Affaires Indigènes du Maroc
A.L.A.T: Aviatinon Légère de I’Armée de Terre
B.C.C.P: Bataillion Colonial de Commandos Parachutistes
B.E.P : Bataillion Étranger Parachutistes
B.M.C: Bordel Militaire de Campagne
D.L.O: Détachement de Liaison et d’Observation d’artillerie
E.A.T: École d’Application du Trai des Équipages
E.O.R: Élève Officier de Réserve
F.M: Fusil Mitrailleur
G.C.A: Goum de Commandement et d’Accompagnement
GOUM: Compagnie de supplétifs Marocains d’origine Berbere
G.M: Groupement Moblie à I’époque de Lattre . Un État-Major, une Compagnie
de Commandement, trois bataillons d’infanterie: Artillerie, Transmissions et un Peloton Blindé
G.M.C: Camion de transport de la "General Motor Corporation"
G.M.N.A: Groupement Mobile Nord Africain
G.T: Groupe de Transport Automobile du Train
G.T.M: Groupe de Tabors Marocain; effectif d’un régiment
GMT.EO: Groupe de Tabors Marocain d’Extrême - Orient
Ju.52: Junker 52, ( Toucan ), avion de transport de troupes et de matéreid
M.D.L: Maréchal des logis ( sergent dans I’A.B.C, I’Artillerie et le Train ).
P.C: Poste de Commandement.
R.P: Route Provinciale
R.C: Route Coloniale
R.E.I: Régiment Étranger d’Infanterie
R.T.A: Régiment de Tirailleurs Algériens
TABOR: Bataillons de troupes suppletives berbères marocaines
T.O.E: Théatre Opératinon Extérieures
VM: Vietminh
Wrecker: Camion de dépannage équipé d’un treuil et d’un palan
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét