TỰA
Từ đời Tần, mỗi lúc có một họ thống nhất Trung Hoa, họ ấy liền nghĩ đến việc chiếm các nước nhỏ xung quanh. Tần có Nhâm Hiêu, Triệu Đà; Hán có Lộ Bác Đức đều đã đạt mục đích là diệt họ đang cầm quyền ở đất Việt. Sau trong khoảng độc lập hoàn toàn trở lại ở nước ta, những cuộc xâm lăng bắt đầu từ đời Tống, dưới triều Tống Thái Tông, tướng Tống tưởng lấy nước ta dễ, đã khinh cử, nên thất bại hoàn toàn bởi tay Lê Hoàn.
Lần thứ hai, dưới triều Tống Thần Tông, thế vua Tống và tể tướng Vương An Thạch rất to, nên sự xuất quân được dự bị một cách cẩn thận và đầy đủ: Quân hơn mười vạn, sửa soạn một năm, tướng tá tinh nhuệ, kế hoạch định rõ từng chi tiết. Đáng lẽ nước ta lúc ấy bị đổi thành châu quận của Tống. May! Đương thời, có một vĩ nhân cầm quyền, có đủ óc chính trị, biết kết thúc nhân tâm, có cao tài lợi dụng thời cơ, có kinh nghiệm điều binh, khiển tướng. Bậc ấy là Lý Thường Kiệt.
Bằng mót trận tấn công chớp nhoáng, Thường Kiệt phá các căn cứ địch, trước khi Tống khởi việc động binh, rồi rút về, cương quyết cố thủ trên sông, ngăn cản xâm lăng xuống đồng bằng. Khí hậu nóng, lam chướng độc, địa thế hiểm, thêm vào sự bất lực của tướng Tống, sự bất hòa giữa các kẻ cầm quyền chung quanh Tống Thần Tông, đã khiến cho trận tấn công vĩ đại của Tống đã phải ngừng trước cửa Thăng Long, gần nơi lăng tẩm nhà Lý và trước cánh đồng phì nhiêu ở trung nguyên nước ta. Thường Kiệt hiểu thời cơ, chịu tạm nhường về thể diện, khiến Tống lui quân và ta bảo toàn binh lực. Sau đó Thường Kiệt biết dùng ngoại giao dựa vào binh lực ấy làm hậu thuẫn, mà đòi được đất đã mất. Cuối cùng không những Tống không dám dòm ngó cõi ta, mà bắc thùy nước Việt lại được khuếch trương và củng cố. Đó là kỳ công của Lý Thường Kiệt.
Nhưng còn một kỳ công khác, đương thời không kém việc trên, mà đối với vận mệnh tương lai nước ta, lại còn to hơn nữa. Ấy là việc đánh Chiêm Thành. Tuy trước thế kỷ XI, Chiêm Thành đã bị quân Trung Quốc hay quân ta đánh thua nhiều trận, nhưng dân Chiêm vẫn là dân thiện chiến và hiếu chiến. Vùng Thanh, Nghệ nước ta luôn luôn bị đe dọa, và Thăng Long cũng dễ bị phục kích từ bể đánh vào. Cho nên Lý Thánh Tông đã có cuộc đánh Chiêm. Lý Thường Kiệt làm nguyên soái.
Đặc điểm là, không phải như mọi lần, chiến tranh chỉ có mục đích phá thành, giết chúa. Trái lại vua Chiêm được tha mà ta được ba châu cực bắc của Chiêm. Bước đầu của cuộc nam tiến của dân tộc ta là từ đó. Ta lại đẩy xa, về phương nam, những căn cứ khởi công của Chiêm; khiến cho đời sau, lúc thế nước ta suy, quân Chiêm không đủ sức thôn tính nước ta được. Khuếch trương và củng cố biên thùy miền Nam, miền Bắc đã rồi. Thường Kiệt còn phủ phủ dụ dân miền thượng du ở vùng Thanh Hóa; khiến cho thanh thế nước ta trong triều Lý Thánh Tông và Nhân Tông đã đến tột bực và các đời sau được yên ở mặt tây. Đối với một anh hùng dân tộc bậc nhất trong lịch sử nước ta, sử sách ta tuy có ghi công, nhưng chép sự nghiệp một cách sơ sài và sai lạc. Lại thêm các nhà văn phụ họa, làm cho ngày nay chúng ta rất mơ hồ về đoạn sử oanh liệt nhất của tiền nhân.
Trong hồi năm 1943, vì tránh máy bay oanh tạc Hà Nôi, tôi đã phải theo trường học vào Thanh Hóa. Trong khi nhàn rỗi, tôi đã để ý tìm tòi cổ tích, mà tôi biết có nhiều ở trong vùng. Tôi đã may mắn tìm thấy bốn tấm bia còn rõ chữ, trong đó có ba bia ghi công Lý Thường Kiệt đối với các chùa. Tôi đã sắp công bố sự phát giác kia liền. Nhưng tôi nghĩ đối với các vũ công của Lý Thường Kiệt, sử sách há lại không có đâu chép kỹ càng, để ta có thể soạn một sách kể lại toàn sự nghiệp sao?
Sau khi tìm tòi cẩn thận, tôi đã thấy một bộ sách đời Tống để lại, là Tục tư trị thông giám trường biên. Tuy nay đã mất lỗ mỗi vài phần, nhưng trong năm trăm hai mươi quyển còn nguyên, ta có thể lượm lặt những sự có liên quan đến việc bang giao Tống Lý. Nhờ đó ta biết được một cách tường tận việc Lý Thường Kiệt đánh Tống, việc Tống xâm lăng nước ta, việc ta điều đình đòi đất. Những chi tiết vụn vặt rất nhiều, khiến ta có thể sống lại, hàng ngày, những phút vua tôi nhà Tống lo việc đánh nước ta, và nhờ đó, biết công lao của Lý Thường Kiệt.
Tham khảo với các sách cũ khác, soạn bởi người Tống hay người ta, tôi đã dọn xong quyển sách này. Tuy nhan đề Lý Thường Kiệt, nhưng thật ra là sử bang giao với Tống của nước ta về thế kỷ thứ XI, trong triều Lý. Chắc có độc giả sẽ trách sự chênh lệch trong cách chép chuyện Tống và chuyện Lý: chuyện Tống kỹ càng; mà chuyện Lý đơn sơ. Tác giả cũng lấy điều ấy làm ân hận. Nhưng lỗi là tại dân tộc ta, hoặc đã ít biên chép việc đương thời để di truyền lại đời sau, hoặc không biết giữ những vết tích xưa; cho nên nay rất hiếm tài liệu của ta về việc ta. Tôi cũng biết rằng, muốn tránh sự chênh lệch, còn có thể bớt phần nói đến các việc Tống. Nhưng những việc vụn vặt ấy, trải qua chín trăm năm còn truyền lại, khiến ta như còn thấy trước mắt; há ta lại bỏ qua mà không công bố sao? Vả chăng, tôi đã ước lược đi nhiều. Và chỉ giữ đại cương hay chọn những chi tiết, nó càng rõ ràng bao nhiêu. Lại làm ta, đoán bấy nhiêu hành động của người nước ta, mà sử ta không biết bảo tồn.
Những việc tôi kể trong sách, hoàn toàn có chứng và được dẫn chứng. Cũng trong các hạng chứng, tôi chỉ để ý đến chứng chính xác mà thôi. Không bịa đặt, không thiên vị, hết sức rõ ràng: đó là những chuẩn thằng1 tôi đã theo, trong khi viết cuốn sách này. Tuy sách chưa được hoàn bị, vì cuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc ta, không cho tôi những phương tiện khảo cứu thêm, nhưng chính cuộc tranh đấu ấy đã giục tôi đưa bản thảo hiến độc giả. Mong ai nấy thấy rằng lòng dũng cảm, chí quật cường của dân tộc ta ngày nay có cội rễ rất xa xăm. Mong ai nấy thấy một cách rõ ràng, cụ thể, sự nguy hiểm của một cuộc ngoại xâm, nhận thấy sự lo việc nước không phải chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hy sinh, trí sáng suốt để xếp đặt, tính toán.
Đọc xong đoạn sử này, độc giả sẽ thấy, cách đây ngót nghìn năm, cha ông ta đã đủ tài năng, nghị lực để gây dựng, tổ chức và giữ gìn khoảnh đất gốc cỗi của Tổ quốc ta ngày nay, độc giả sẽ nhận thấy huyết quản của chiến sĩ bây giờ vẫn chan hòa máu nóng của tổ tiên, máu nóng mà không lẽ có người không mang một giọt. Dẫu trong nhất thời, có kẻ lỡ lầm làm hại nước, hoặc con dân một nước có ý tưởng dị đồng, trước nạn bại vong, giọt máu ấy cũng đủ gây nên chí quật cường, lòng tương ái.
Vẫn biết sống về tương lai, nhưng dĩ vãng là gương nên ngắm lại. Vẫn biết tương lai là thế giới đại đồng, nhưng trước lúc ấy, nước mình phải là một nước thật. Vẫn biết chớ vin vào phân tranh đời trước mà gây oán thù đời sau, nhưng biết rõ sự tranh đấu đời xưa, sẽ làm cho các nước càng kính nể nhau thêm, và mới hiểu vì sao mà phải cộng tác ngang hàng. Đó là những ý tưởng và nguyện vọng của tác giả, trong khi viết bài tựa này. Tưởng cũng không lạc đề đối với vấn đề Lý Thường Kiệt.
Viết
tại Hà Nội tháng 5
Năm Kỷ Sửu (1949)
HOÀNG XUÂN HÃN
__________________________________
1. Chuẩn thằng (từ cổ): ý nói dây thừng lấy làm chuẩn (Căng dây làm chuẩn).
Dẫn.
TÀI LIỆU
I. Tài liệu Việt Nam
II. Tài liệu Trung Quốc
III. Tục tư trị thông giám trường biên
IV. Các tên đất [/i]
Tài liệu dùng để viết sách này có thể chia ra hai thứ: tài liệu Việt Nam và tài liệu Trung Quốc.
I- TÀI LIỆU VIỆT NAM
Loại này ít và sơ sài. Ngoài những bia xưa, phần lớn là phỏng theo tài liệu cũ nay không còn, cho nên không thể nhận là đúng hay không. Tôi chỉ dùng những tài liệu xưa nhất và bỏ những tài liệu chép theo tài liệu cũ, trừ khi nào có một chi tiết không thấy trong tài liệu xưa. Nhưng những chi tiết ấy phần lớn không hoàn toàn tin được
A- Cũ nhất có các bia nhà Lý, phần lớn tôi phát giác ra.
1. Bia chùa Báo Ân ở núi An Hoạch làng An Hoạch, dựng năm Hội phong thứ 9, Canh Thìn 1100, kể khá rõ sự nghiệp Lý Thường Kiệt về khoảng ông cai trị Thanh Hóa.
2. Bia chùa Sùng Nghiêm diên thánh ở làng Duy Tinh, dựng năm Hội trường đại khánh thứ 9, Mậu Tuất 1110, kể công một vị nối chức Lý Thường Kiệt, đối với chùa ấy.
3. Bia tháp Sùng Thiện diên linh ở núi Long Đội, dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 2, Tân Sửu 1121, kể rõ các đức tính và sự nghiệp Lý Nhân Tông.
4. Bia chùa Hương Nghiêm ở núi Càn Nê làng Phủ Lý, dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 5, Giáp Thìn 1124, kể công Lý Thường Kiệt đối với chùa này.
5. Bia chùa Linh Xứng ở núi Ngưỡng Sơn làng Ngọ Xá dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 7, Bính Ngọ 1126, kể qua sự nghiệp Lý Thường Kiệt và công ông dựng chùa này.
6. Bia đền Ngọ Xá là đền thờ Lý Thường Kiệt, tuy mới dựng năm Tự Đức thứ 29, năm Bính Tý 1876, nhưng cũng là thần tích.
B- Sách Việt có nói đến Lý Thường Kiệt chỉ chừng bốn quyển cũ.
1. Trước hết, có Đại Việt sử ký, Lê Văn Hưu soạn đời Trần Nhân Tông, năm Nhâm Thân 1272; và Ngô Sĩ Liên đời Lê Thánh Tông có sửa chữa ít nhiều (năm Kỷ Hợi 1479, theo lời tựa của Ngô Sĩ Liên). Bản nay còn, là do sử thần đời Lê đính khảo hai lần (đời Huyền Tông năm Ất Tỵ 1665, và đời Hy Tông năm Đinh Sửu 1697). Bản in này còn gọi là Đại Việt sử ký toàn thư (Viết tắt TT). Tên Ngô Sĩ Liên đặt; nhưng khắc lại đời Nguyễn, và có sửa chữa thêm. Sự sửa chữa, thường bỏ những điều cho là vụn vặt quá, hay trái với tư tưởng luân lý và chính trị đương thời. Không biết rằng đoạn sử đời Lý do Lê Văn Hưu soạn, có bị đính khảo nhiều không? Tôi ngờ rằng có, như sau đây tôi sẽ chứng minh. Một sự chắc chắn là, theo bản TT còn nay, việc Lý Tống chiến tranh chép rất sơ lược và điều lầm.
Đời Nguyễn Tây Sơn, có khắc bản Đại Việt sử ký (1800), do sử thần dọn lại bản TT và có tham khảo sử Trung Quốc. Về Lý thường Kiệt bản này chính xác hơn. Nhưng tôi không dùng, vì sách ấy lấy gốc ở bản TT, và phần tham khảo Tống sử còn sơ lược. Tôi cũng không dùng bản Khâm định Việt sử thông giám cương mục trừ một vài chi tiết nhỏ, vì sách ấy cũng do các sách trên mà ra và không thêm gì chắc chắn hơn.
2. Trái lại tôi đã dùng nhiều một bộ sách nhỏ, sách Việt sử lược (viết tắt VSL) soạn đời nhà Trần, nay còn ở bộ Tứ khố toàn thư và đã nhiều nhà xuất bản Trung Quốc khắc. Sách này đổi họ Lý ra họ Nguyễn (theo phép húy đời Trần) và cuối có đề “Kim vương Xương phù” nghĩa là “vua nay hiệu Xương phù”, tức Trần Đế Nghiện (1377). Sách VSL chép đoạn Hùng Vương rất sơ sài, và không nói đến Lạc Long, đến các chuyện hoang đường; và tuy có nói đến Thục An Dương Vương, nhưng không kê thành Hồng Bàng kỷ và Thục Kỷ như ở TT. Nay xét lời tựa của Ngô Sĩ Liên, và phàm lệ của sách TT, ta thấy rằng “Lê Văn Hưu trùng tu từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng”. Ta lại thấy chính VSL cũng chỉ có đoạn sử ấy. Ta có thể đoán rằng VSL là do một tác giả, cuối đời Trần, lược lại Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Riêng về Lý Kỷ, sách VSL chép nhiều chi tiết hơn TT, tuy lại có đoạn lược hơn. Bởi đó ta biết rằng Ngô Sĩ Liên đã dọn bớt tác phẩm của Lê Văn Hưu nhiều. TT còn nói tác phẩm ấy có ba mươi quyển. Thế mà nay nội dung thấy sơ sài. Đó là một chứng thứ hai sự bị ước giản ấy.
Sách VSL đã cho ta biết nhiều chi tiết về Lý Thường Kiệt, lúc đánh Chiêm và lúc Lý Nhân Tông mới lên ngôi.
3. Ngoài loại sử, còn có sách Việt Điện U linh, (viết tắt VĐUL), là một tập thần tích, Lý Tế Xuyên soạn đời Trần (1329). Nay còn bản viết. Trong sách này có chuyện Lý Thường Kiệt, chép khá kỹ, nhưng chỉ ghi những sự tích lớn và các chức tước lần lượt được phong. Sách này có lẽ đồng thời với Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, vì các sắc thần nói trong sách đều phong trước năm 1313. Nhưng tài liệu dùng, có thế có từ đời Lý, và chung với tài liệu dùng bởi Lê Văn Hưu.1
Dẫu rằng sách VĐUL chỉ còn sao chép, nhưng chuyện Lý Thường Kiệt có thể coi là chính xác và cho biết thêm một vài điều không thấy ở TT.
4. Cuối cùng, có sách Thiền Uyển Tập Anh ngự lục, (viết tắt TUTA) là chuyện các vị cao tăng ở nước ta từ đời thuộc Đường đến đời Trần. Cũng có một vài chi tiết nói đến Lý Thường Kiệt đối với các sư. Sách này cũng viết đời Trần, vì bản in cũ nay còn (năm 1715) đều đổi họ Lý ra họ Nguyễn, theo lệ húy đời Trần.
_______________________________________
1. Tựa sách VĐUL có niên hiệu: “ Hoàng triều Khai Hữu nguyên niên” tức là đời Trần Hiến Tông (1329). Nhưng họ tác giả là họ Lý. Biết rằng tất cả họ Lý bấy giờ đã đổi ra Nguyễn, ta có thể nghi rằng Lý Tế Xuyên ở đời Lý. Chức của Lý Tế Xuyên (giữ kinh Địa tạng, thư hỏa chính chưởng trung phẩm phụng ngư, chuyển vận sử ở An Tiêm lộ) rất có thể là chức đời Lý. Nếu thật như vậy thì đến đời Trần có kẻ sao lại, thêm và chữa sách VĐUL.
II- TÀI LIỆU TRUNG QUỐC
Tài liệu Trung Quốc về sử rất nhiều, tôi chỉ dùng những sách soạn dưới triều Tống hay với nguyên liệu Tống.
1. Sách căn bản tôi đã dùng là Tục Tư trị thông giám trường biên (viết tắt TB) của Lý Đào viết trong đời Nam Tống (thế kỷ thứ 12). Sau sẽ có một mục nói kỹ về sách ấy
2. Sách Tống sử (viết tắt TS) soạn đời Nguyên, với nguyên liệu đời Tống cho ta biết một ít việc không có trong TB. Tống sử gồm nhiều phần. Phần bản kỷ chép chuyện từng vị vua, chỉ cho ta biết một vài chi tiết thuộc lịch sử bang giao Lý Tống mà thôi.
Phần liệt truyện cho nhiều tài liệu hơn, hoặc là trong chuyện những nhân vật có liên quan đến nước ta, hoặc trong chuyện các ngoại quốc, như Giao Chỉ truyện, Quảng Nguyên châu man truyện, Chiêm Thành truyện.
Đáng lẽ Giao Chỉ truyện cho ta biết khá đầy đủ về đoạn sử này. Nhưng không may cho ta, chính đoạn “Lý Tống chiến tranh” lại bị khuyết. Sự khuyết ấy có từ lâu, có lẽ từ đời Tống. Sách Sử vĩ nói: “bản của Nhị Ung đã thiếu đoạn ấy rồi”. Có lẽ người Tống đọc đoạn này, cho là nhục quốc thể mà xé đi chăng. Tôi nói “xé”, vì câu văn, còn lại sau khoảng khuyết, đã thiếu đầu.
Phần thứ ba, là phần chí; ta có thể lượm lặt một ít tài liệu trong quan chí, lễ chí, dư địa chí...
3. Sách Đông đô sự lược viết tắt (ĐĐSL), Vương Xưng soạn đời Tống. Nội dung như phần bản kỷ và liệt truyện trong Tống sử, nhưng sơ sài hơn.
4. Những việc xảy ra ở biên thùy Tống Lý rất lớn, nên các danh gia đời Tống từng đã nói đến trong các ký tải của họ. Nay ta còn lượm lặt một ít trong các Tống thư. Như Tốc thủy kỷ văn của Tư Mã Quang, Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt, Đông hiên bút lục của Ngụy Thái, Đàm phố của Tôn Thăng, Nhị trình di thư của Trình Hạo và Trình Di, Kê lặc của Trang Xước, Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, Quế hải Ngu hành chí của Phạm Thành Đại, Tống hội yếu, vân vân.
III- TỤC TƯ TRỊ THÔNG
GIÁM TRƯỜNG BIÊN
Sách này soạn ra bởi Lý Đào trong đời Nam Tống. Sách chép những sự xẩy ra từ đời Tống Thái Tổ đến lúc dời đô xuống miền nam (960-1126). Việc chia theo ngày tháng, chứ không chia loại; cho nên gọi là “trường biên”. Lý Đào đã dùng rất nhiều tài liệu nguyên trước mà nay không còn, trích những việc xẩy ra từng ngày, biên vào một phiếu, rồi bỏ phiếu ấy vào một hòm riêng. Xong, sao lại thành sách. Như vậy được hơn 4.400 việc, thuộc chín đời vua Tống.
Những văn tự Lý Đào dùng có Thực lục của các đời vua Tống tức là theo công văn, giao cho sử quán chép, Thời chính lục, Nhật lục tức là lục chép lời nói, việc làm của vua, do viện Thời Chính, Nhật Lục ở cạnh vua chép hằng ngày, và ghi những cử chỉ, tư tưởng riêng của vua. Hai loại này rất quý mà nay không còn đủ hay đã mất.
Lý Đào lại dùng các mộ chi, tức là bài bia kể sự nghiệp để ở mộ các vị đại thần. Do các đại nho đương thời soạn. Mộ chí các tướng đánh ta như Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt đã được dùng.
Một loại văn nữa rất quý là các tư kỷ của các nhà chức trách, như tư kỷ của Vương An Thạch, Tư Mã Quang, Tăng Bố; như Chinh nam nhất Tống văn tự của Quách Quý.
Các văn tập của các đại nho đương thời, không có quyển nào Lý Đào không được đọc tới, và đã được trích lục vào trong sách TB. Một phần các văn ấy nay còn, ta có thể khảo thẳng và so sánh.
Nói tóm lại, sách TB là một kho tài liệu, cực đầy đủ; tuy chưa phải là sử, nhưng nhờ sách ấy mà ta có thể viết sử.
Lý Đào là ai? TS liệt truyện cho ta biết rõ ràng.
Ông người Mỵ Châu, đậu tiến sĩ năm Thiệu Hưng thứ 8 (1138). Xuất sĩ, ông làm các chức như tri huyện, tri châu. Trong lúc làm quan, ông thấy sách Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, nên muốn tiếp tục công việc ấy. Không ở sử quán, mà làm công việc sử rất khó. Muốn được vua để ý tới, ông bắt đầu soạn Bách quan công khanh biểu dâng lên. Năm Càn Đạo thứ 3 (1167) được vua triệu về kinh. Năm sau ông đã dâng lên phần đầu sách TB, từ đời Kiến Long đến đời Trị Bình (960-1067) gồm 108 quyển (cách chia quyển lúc đầu khác bây giờ).
Năm 1169, ông được bổ vào Bí thư cục, coi viện Khởi cư xá và kiêm chức kiểm thảo viện Thực Lục. Thế là ông đã được một chức thích hợp với xu hướng ông. Nhưng vì ông nói mất lòng tể thần, nên phải xuất ngoại.
Năm đầu Thuần Hy (1174) ông được về kinh, nhưng sau lại phải đi xa. Ít lâu, ông được về Sử quán, làm biên tu viện Thực Lục. Trong thời kỳ ấy, ông vẫn tiếp tục soạn nối sách TB. Cho nên sau, tuy phải xa kinh, ông cũng soạn xong phần Bắc Tống. Năm 1180, ông dâng toàn sách lên vua Tống Hiếu Tông, vua sai để sách tại bí các.
Tự xét sách mình, Lý Đào đã nói “thà chịu chê là bề bộn hơn bị chê là sơ lược”. Vua Tống cũng khen “sách này thật không thẹn với sách Tư Mã Thiên”, rồi bổ ông làm Phu văn lâu học sĩ và coi làm quốc sử.
Ông xin về hưu năm Thuần Hy thứ 11 (1184) và mất năm ấy.
Các danh nho được đọc sách TB, đều khen ngợi và thán phục.
Bây giờ đọc phần còn lại, ta không khỏi sửng sốt về công phu vĩ đại mà một viên quan bé, phải thuyên chuyển nay đây mai đó, mỗi lần phải mang theo tài liệu đi đến nghìn dặm, đã cố gắng trong 40 năm, để làm xong bộ sách khổng lồ!
Sách rất to, ít ai chép lại nổi; cho nên không mấy ai được đọc. Đến đời Minh Thành Tổ (1405-1424) sách được chép vào bộ Vĩnh Lạc đại điển; nhưng cũng chỉ để trong bí các mà thôi. Đến đời Thanh Thánh Tổ, niên hiệu Khang Hy (1662-1721) mới được sao lại vào bộ Tứ khố Toàn thư, và do đó mới được truyền bá.
Nhưng bấy giờ sách đã khuyết mất ba khoảng: khoảng đầu, 4 năm, từ tháng 4 năm Trị Bình thứ 4 đến tháng 3 năm Hy Ninh thứ 3 (1067-1070); khoảng thứ hai, gần 4 năm, từ tháng 7 năm Nguyên Hữu thứ 8 đến tháng 3 năm Thiệu Thánh thứ 4 (1067-1097); và đoạn cuối là hai đời Huy Tông (1101-1125) và Khâm Tông (1126). Phần còn lại chia làm 520 quyển.
Đời Quang Tự thứ 7 (1881), có viên tuần phủ tỉnh Chiết Giang là Đàm Chung Lân đem khắc in. Ông tìm được một bản khá đầy đủ như bản Tứ khố Toàn thư và hai bản đời Tống nhưng khuyết nhiều. Ông so sánh cẩn thận với bản để ở bí các và các bản sao khác, rồi sai khắc. Nhờ đó nay có bản in rất đẹp và ít sai lưu truyền. Tôi đã dùng bản ấy. Sau còn tội dẫn chứng, có biên rõ số quyển, số trương theo đó.
Thực ra sách TB khó dùng, vì to mà chép theo thứ tự thời gian. Đời Tống, đã có Dương Trọng Lương có ý sao lại nhưng xếp thành mục; được hơn 400 mục. Sách ấy gọi là Tục tư trị thông giám trường biên bản mạt (viết tắt BM). Sách này rất tiện cho việc kê cứu. Riêng về việc Tống Lý bang giao, sách BM có ba mục: Giao Chỉ nội phụ (quyển 12) chép chuyện Đinh, Lê về trước; Quảng nguyên man bạn (quyển 50) chép chuyện Nùng Trí Cao, và Thảo Giao Chỉ (quyển 87) chép chuyện Lý Thường Kiệt đánh Tống và Quách Quỳ đánh Lý.
Tuy sách BM dùng tiện, nhưng tôi xét thấy rằng Dương Trọng Lương lúc sao lại, đã bỏ nhiều chuyện, cho là không quan hệ. Tôi đã dò lại bản TB và chỉ dùng BM để kiểm soát mà thôi. Cũng may rằng bản TB còn gần đủ và nhất là sử các năm 1070-1093 còn vẹn, cho nên ta biết khá đủ rõ đoạn sử chiến tranh này.
Người xuất bản sách TB cũng đã khắc cả bản BM. Ông lại còn có ý hay, tìm cách lập lại đoạn mất trong TB, bằng tài liệu lấy lại trong BM; vì BM soạn khi TB còn toàn bích. Kết quả thành sách Tục Tư trị thông giám trường biên thập bổ. Đối với việc Lý Thường Kiệt, sách ấy không cho biết thêm một điều gì. Thế mà đọc phần TB còn lại, ta nhận rằng trong khoảng đã mất, chắc có chép một ít việc. Đó là thêm chứng cớ rằng Dương Trọng Lương đã bỏ bớt nhiều trong khi soạn BM.
Giá trị của các tài liệu kể trên không đều nhau, và cũng không tuyệt đối là hay. Trong khi dùng, tôi đã gắng so sánh cân nhắc.
IV- TÊN ĐẤT
Các tên đất chép trong sách Lý Thường Kiệt, phần lớn tên có đời Lý. Tôi đã gắng công tìm tên mới để nhận ở địa đồ. Sự ấy rất khó. Tuy đã có nhiều sách cũ làm việc ấy, như sách CM, Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo, Đại Nam nhất thống chí, và rất nhiều sách Tầu. Nhưng sự phỏng đoán trong các sách ấy có nhiều chỗ chắc sai hay thiếu. Khu nào tên cũ nay còn, và phần đất theo địa thế hợp lý thì tôi nhận. Ngoài ra, lý luận phải lấy điều kiện nhân sự và địa thế hợp lý nhau làm chuẩn. Còn sự trùng tên, hay gần tên, chỉ là một chứng phụ mà thôi - nếu thật nó có thể dùng được.
Tôi tưởng rằng, sau khi đọc sách này, độc giả sẽ thấy rằng các tên quan trọng đất Tống hay ta, dọc biên thùy, và các chiến trường trên đất ta, nhận như trong sách này, có phần đúng lẽ.
PHÀM LỆ
1. Chép thời điểm. Thời điểm, gồm ngày, tháng, năm. Trong sách này, chép theo lịch dùng đương thời, ngày và năm theo lối Giáp Tý và niên hiệu. Khi có việc nào quan trọng, tôi có đổi ngày tháng ra dương lịch. Còn năm, thì khi nào cũng chú thích năm tây. Tôi đã dùng một phép riêng để đổi ngày mà tôi đã giải trong báo Khoa học số 19 và 20. Các chữ viết tắt như sau:
Về Can, có 10: G(giáp), A(ất), B(bính), Đ(đinh), M(mậu), K(kỷ), C(canh), T(tân), N(nhâm), Q(quý).
Về Chi, có 12: Ty(tí), Su(sửu), Da(dần), Ma(mão), Th(thìn), Ti(tị), Ng(ngọ), Vi(mùi hay vị), Ta(thân), Zu(dậu), Tu(tuất), Ho(hợi).
Về giáp Tý có 60: Ví dụ A.Ma(ất mão).
Về Thời điểm - Ví dụ: 20-12 năm A.Ma (Đ.Vi, DL28-1-1076) phải đọc ngày 20 tháng chạp năm Ất Mão, là ngày Đinh Mùi, dương lịch là 28 tháng giêng năm 1076.
2. Chép chứng: - Khi nào chứng là một sách, thì tên sách viết hoàn toàn hay viết tắt (theo bảng sau), bên cạnh có chữ số là số mục quyển trong sách ấy; nếu muốn biên số chương ở một bản nào thì sẽ có một sổ xiên rồi sau đề số tờ và theo sau có chữ a (là mặt trước) hay b (là mặt sau).
Chỉ có khi nào chứng dùng sách TB thì mới ghi chương như thế và lấy ở bản khắc của Đàm Chung Lân.
Ví dụ: TTh9: sách Tốc thủy kỷ văn quyển 9
TB 273/3a: Sách Tục Tư tri thông giám trường biên quyển 273, tờ 3, mặt trước.
Ts: Tống sử
Khi dẫn chứng bằng sách Toàn thư, Việt sử lược, tôi chỉ dẫn năm làm thôi. Vì biết năm thì tìm trong các sách ấy rất dễ. Thỉnh thoảng có dẫn số quyển và số chương trong sách TT (bản in đời Nguyễn ), nhưng cũng ít khi.
Khi dẫn chứng tự lấy trong sách Lý Thường Kiệt này, thì chỉ ghi số mục chương, số mục đoạn, hay số mục chú thích. Ví dụ:
(IV/3): chương IV, đoạn 3 trong sách này.
(V/cth2): chương V, chú thích 2.
3. Bản đồ các bản đồ đều ở cuối sách. Lúc giở bản đồ hiện ra ngoài, để tiện cho việc vừa đọc vừa tra.
4. Chữ nho xem các bảng chỉ ở cuối sách.
BẢNG VIẾT TẮT CÁC
TÊN TÀI LIỆU
Dẫn chứng
Trong sách này mỗi lúc chép chuyện gì lấy ở một tài liệu nào thì cuối đoạn ấy, có dẫn chứng bằng cách viết tắt tên tài liệu ấy vào trong hai vòng đơn.
Trong bảng dưới này, cột đầu là tên viết tắt. Sau có tên tài liệu. Rồi, nếu biết tên tác giả, thì ghi tên bằng chữ xiên. Cuối là ghi tài liệu ấy viết vào thời đại nào.
ANC An Nam chí lược. Lê Tắc (Trần)
ANCB An Nam chí nguyên. Cao Hùng Trưng (Minh)
B Lebouddhisme en An Nam. Trần Văn Giáp
BA Bia chùa Báo Ân (Lý)
BM Tục Tư trị thông giám trường biên bản mạt. Dương Trọng Lương (Tống)
CM Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Nguyễn)
CN Chinh nam nhất tông văn tự. Quách Quỳ (Tống)
ĐĐSL Đông đô sự lược. Vương Xưng (Tống)
ĐHBL Đông hiên bút lục. Ngụy Thái (Tống)
ĐKĐĐ
ĐNNTC Đại Nam nhất thống chí (Nguyễn)
ĐP Đàm phố. Tôn Thăng (Tống)
HN Bia chùa Hương Nghiêm (Lý)
HVDĐC Hoàng Việt dư địa chí. Phan Huy Chú (Nguyễn)
KL Kê Tặc. Trang Xước (Tống)
LNĐĐ Lĩnh ngoại đai đáp. Chu Khứ Phi (Tống)
LX Bia chùa Linh Xứng. Hải chiếu đại sư Pháp Bảo (Lý)
MC Mộ chí: Quách Qùy. Phạm Tổ Vũ (Tống)
Triệu Tiết. Phạm Bách Lộc (Tống)
Yên Đạt. Tăng Bố (Tống)
Lưu Khánh Đàm (Lý) Lưu Khánh Ba (Lý)
MKBĐ Mộng khê bút đàm. Thẩm Hoạt (Tống)
NB Thần phổ Lý Thường Kiệt. Nhữ Bá Sĩ (Nguyễn)
NL Nhật lục (Tống)
NTDT Nhị Trinh di thư. Trình Di và Trình Hạo (Tống)
PBTL Phủ biên tạp lục. Lê Quý Đôn (Lê)
QHNHC Quế Hải Ngu hành chí. Phạm Thành Đại (Tống)
SK Đại Việt sử ký (Nguyễn Tây Sơn)
SNDKT Bia chùa Sùng nghiêm diên thánh. Hải chiếu đại sư Pháp Bảo (Lý)
STCT Sở thụ chiếu trát tăng tu. Quách Quỳ (Tống)
STDL Bia tháp Sùng thiên diên linh. Nguyễn Công Bật (Lý).
TB Tục tư trị thông giám trường biên. Lý Đào (Tống)
TCK Thời chính kỷ (Tống)
THY Tống Hội yếu (Tống)
TL Thực tục: Tống Thần Tông (Chu bản và Mặc bản)
Tống Triết Tông (Tống)
TNDĐC Thiên Nam dư địa chí (Lê)
TNTC Thiên Nam tứ chi (Lê)
TS Tống sử (Nguyên)
TS 14, 15 Thần Tông kỷ.
TS 290 Quách Quỳ truyện. Định Thanh truyện.
TS 235 Dư Tĩnh truyện.
TS 332 Triệu Tiết truyện... Lý Sư Trung truyện. Lục Sắn truyện.
TS 334 Thẩm Khỉ truyện. Lưu Di truyện. Tiêu Chú truyện.
Hùng Bản truyện. Đào Bật truyện.
TS 349 Yên Đạt truyện. Diêu Tự truyện.
TS 350 Hòa Mân truyện. Khúc Chẩn truyện.
TS 446 Tô Giảm truyện.
TS 488 Giao chỉ truyện.
TS 489 Chiêm Thành truyện.
TS 495 Quảng Nguyên châu man truyện: Nùng thị.
TT Đại việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên (Lê)
TTH Tốc thủy kỷ văn. Tư Mã Quang (Tống)
TUTA Thiền tuyển tập Anh ngự lục (Trần).
ƯTDĐC Ức Trai dư địa chí (Lê)
VĐLN Vân Đài loại ngữ. Lê Quý Đôn (Lê)
VĐUL Việt điện u linh. Lý Tế Xuyên (Trần)
VKT Việt kiệu thư. Lý Văn Phương (Minh)
VSL Việt sử lược (Trần)
PHẦN THỨ NHẤT
BẠI
CHIÊM PHÁ TỐNG
CHƯƠNG NHẤT
GỐC TÍCH
1. Gốc tích - 2. Vào
cấm dinh - 3. Kinh phỏng Thanh Nghệ
1. - Gốc tích
Lý Thường Kiệt quê phường Thái Hòa, ở trong thành Thăng Long, phía hữu (VĐUL) nghĩa là phía tây (HVDĐ). Thái Hòa cũng là tên một núi nhỏ ở phía tây trong thành Thăng Long, bây giờ, ở phía nam đê Bách Thảo, gần chỗ rẽ xuống trường đua ngựa, Lý Thường Kiệt có nhà ở gần núi ấy.
Tuy là họ Lý, nhưng ông không phải là người hoàng tộc. Theo bia NBS, có chỗ chép tên húy ông là Tuân, và nói Thường Kiệt chỉ là tự mà thôi. Nhữ Bà Sĩ bàn rằng có lẽ ngày xuất thân mới dùng tự làm tên.
Cha, tên An Ngữ, sung chức Sùng ban lang tướng1 ở triều Lý. (VĐUL)
Mẹ, họ Hàn. Năm hai mươi tuổi sinh Thường Kiệt. Ấy vào năm Thuận thiên thứ 10 (1019) đời Lý Thái Tổ. Sau lại sinh Lý Thường Hiến, mà có chỗ cũng gọi là Thường Hiển. (NBS)
Khoảng niên hiệu Thiên thành, đời Lý Thái Tông, cha đi tuần biên địa, ở Tượng Châu thuộc Thanh Hóa, bị bệnh rồi mất vào năm Tân Mùi (1031). Thường Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt. (NBS).
Chồng cô, Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng. Ông trả lời: “Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. Về vũ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ2, lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện”. Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.
Thường Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức lại khuyên đọc sách nho. Thường Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên chóng thành tài.
Đoạn trên này, chép theo bia NBS, là một bia mới dựng đời Tự Đức. Chắc rằng Nhữ Bá Sĩ chép theo thần phổ. Thần phổ phần nhiều là lời chép tục truyền hay lời bịa đặt, ta không thể hoàn toàn tin những chi tiết quá rõ ràng chép trong thần phổ. Nhưng sự giáo dục Thường Kiệt kể trên đây là hợp với những điều ta còn biết về đời nhà Lý.
Từ lúc nhà Đinh mở nước, các vua đều lấy vũ công mà gây dựng cơ đồ. Đến Lý Công Uẩn, xuất thân cũng là tay vũ-tường. Cho nên triều đình và xã hội bấy giờ chuộng vũ. Thanh niên thì lấy nghề làm tướng là vinh. Hễ mỗi khi có giặc-dã nổi lên, tuy tại nơi rất xa lánh, vua cũng thân chinh, hoặc sai hoàng tử đi cầm quân. Lý Thường Kiệt con một vũ tướng, được dạy nghề vũ, thích nghề vũ; sự ấy là lẽ dĩ nhiên.
Còn về nho học, bấy giờ chưa thịnh. Phần vì óc thượng vũ, phần vì tục mộ phật và dị-đoan rất mạnh ở dân gian cũng như trong cung điện, cho nên nho học, từ đời Hán đưa vào, tuy bấy giờ vẫn được duy trì, nhưng phải đợi đến năm 1070 mới dựng văn miếu, và năm 1075 mới có khoa thi nho3. Trước năm 1040, Lý Thường Kiệt học sách nho, là một việc đáng được chú ý và ghi chép.
Năm ông 18 tuổi (1036), mẹ mất. Hai anh em lo đủ mọi lễ tống tang. Trong khi cúng tế, hễ có việc gì, cũng tự tay mình làm. (NBST) lúc hết tang, nhờ phụ ấm, Thường Kiệt được bổ chức Kỵ mã hiệu úy, tức là một sĩ quan nhỏ về đội quần cưỡi ngựa.
__________________________________
1. Theo (ANCL), trong quan chế đời Lý có hai tên Sùng ban và Lang tướng, nhưng sách ANCL chép hai tên ấy rời nhau. Sùng ban và Lang tướng là hàm lang tướng thuộc ban Sùng ban, chăng? ANCL có chép hàm Vũ nội lang tướng, thì chắc rằng hàm Sùng ban lang tướng có thật.
2. Vệ Thanh là một danh tướng đời Hán, bảy lần đánh Hung nô. Hoắc Khứ tức Hoắc Khứ Bệnh, con em gái Vệ Thanh, cũng là một tướng tài đời nhà Hán, đánh Hung nô nhiều lần.
3. Trước đó tuy chưa có đặt khoa cử, nhưng nho gia đã được trọng dụng. Trong việc bang giao với Tống phải cần đến nho thần biết ứng đối: biết làm thơ. Năm 1043 vua Lý Thái Tông du ngoạn ở núi Vũ Ninh, có nho thần đi theo làm thơ (TT).
2- Vào cấm đình
Năm lên 23 tuổi, là năm Tân Tị (1041), niên hiệu Can phù hữu đạo đời Lý Thái Tông, ông được bổ vào ngạch thi vệ để hầu vua, và sung chức Hoàng môn chỉ hậu. Chức này là một chức hoạn quan.
Như trên đã nói, ông cưới vợ mấy năm về trước. Thế thì, vì lẽ gì ông lại tĩnh thân để làm quan hoạn?
Về việc này có nhiều thuyết.
Bia LX, dựng đời Lý, chỉ nói tóm tắt rằng: “Lúc ông còn nhược quán, được cử vào cấm thát hầu vua Thái Tông hoàng đế”. Hai chữ nhược quán nghĩa là tuổi vào khoảng hai mươi, gần đúng như lời bia NBS. Sách VĐUL, đời Trần, chép rằng: “Vì ông có dáng mặt đẹp, nên mới tĩnh thân mà sung vào chức Hoàng môn chỉ hậu”. Theo hai sử liệu xưa trên, thì ông tự yếm mà làm quan hoạn.
Nhưng bia NBS có kể lại rằng: “Về việc này, có hai thuyết. Một thuyết: Lúc vua Lý Thái Tông đánh bắt được Nùng Trí Cao rồi thả ra (1041), ông nhất thiết can; vua cho là thất lễ, bèn phạt bắt tĩnh thân. Sau khi ông trở về nhà, vua lại triệu vào hầu cận”. Thuyết thứ hai là thuyết đã thấy ở sách VĐUL; rằng: Vua thấy mặt mũi đẹp đẽ cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm.
Lý Thường Kiệt đã tự yếm; đó là một sự thật, vì tuy thần tích có nói ông đã lấy vợ, mà sau, sử ta cũng như sách Mộng khê bút đàm của người Tống đều nói ông là một hoạn quan. Thuyết nói ông vì can vua mà bị nhục hình, thì chắc sai. Việc bắt và tha Nùng Trí Cao là vào tháng 11 năm Tân Tị, 1041. Và cũng năm ấy ông được vào cấm thát. Không lẽ trong hai tháng cuối năm, mà ông bị phạt nặng rồi được cất lên cao như thế. Vả không lẽ vua vừa tha và phong hầu cho một nghịch thần, mà lại bắt tự yếm một người tôi trung, trẻ tuổi.
Thuyết sau có lý hơn. Hoạn quan xưa nay nhiều quyền thế, vì thường ngày được ở cạnh vua. Nhất là từ đời Đường, hoạn quan lại càng được thế. Khi trước, tuy được vua tin nghe, nhưng hoạn quan cũng thường chỉ hành động trong cung thất. Từ đời Đường, thì được công nhiên cầm chính quyền hay làm đại tướng. Vì những lẽ ấy, đời sau lắm kẻ tự tĩnh thân để được chọn. Đối với Lý Thường Kiệt, có đặc biệt hơn là được vua ban tiền và sai làm. Ông nghe lời. Bấy giờ ông 23 tuổi. Không biết bà vợ ra sao, hay là lúc ấy đã mất rồi. Không sách nào nói đến.
Ông vào cầm thát. “Chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình” (Bia LX). Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô tri, ông coi tất cả mọi việc trong cung. (VĐUL và bia NBS)
Năm Lý Thánh Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi) vì đã có công phù-dực, ông được thăng chức Bổng hành quân hiệu úy, tức là một chức vũ quan cao cấp.
“Hàng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm hiệu thái bảo (Bia LX), tức là một chức tại triều rất cao1.
3. Kinh Phỏng Thanh
Nghệ
Sách VĐUL (NBS cũng chép theo) chép rằng: “gặp lúc trong nước, ở cõi tây nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy rối. Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, vào trao quyền tiện nghi hành sự. Ông phủ dụ dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều qui phục và được yên ổn”.
Ấy là lần thứ nhất ông lập vũ công.
Về việc loạn này, trong sách TT không thấy chép duy chỉ sách VSL có viết rằng: “năm 1061, Ngũ Huyện Giang ở Ái châu2 nổi loạn”. Ngũ Huyện Giang là tên một vùng thuộc lộ Thanh Hóa. Đời Tiền Lê và đời Lý thường dùng tên sông mà gọi đất có sông ấy, ví dụ Bắc Giang lộ, Đà Giang Lộ. Theo hai bia đời Lý, bia HN và mộ chí Lưu Khanh Đàm3, Ngũ Huyện Giang chắc ở Thanh Hóa, là sông Mã ngày nay. Vả TT chép đời Lê và Lý dân Lữ Long nổi loạn, tức là dân Mường vùng Cẩm Thủy ngày nay. Ý chừng Lý Thường Kiệt vào kinh phỏng Ái Châu là để dẹp loạn Mường và đúng vào năm 1061 ấy. Bấy giờ ông 43 tuổi.
__________________________________
1. Sách VĐUL cũng chép như vậy, Kiểm hiệu nguyên là một chức giám sát. Đến đời Tống, chỉ là một hàm, dùng để ban gia cho các quan vào hàng cao nhất. Những hàm ấy, ở đời Lý kể từ cao xuống thấp, có: Thái sư, Thái úy, Thái phó, Thái bảo, Phụ quốc, Thiếu sư, Thiếu úy, Thiếu phó, Thiếu bảo. (ANCL).
2. Sách VĐUL nói: “Năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động”. Có lẽ muốn nói vùng thượng du Thanh Nghệ.
3. Bia HN chép: “vua Lê Đại Hành đi tuần du Ngũ Huyện Giang nhân tới thăm chùa Hương Nghiêm”. Chùa này ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (XV/1)
Bia LKĐ chép: Lưu Khánh Đàm người thôn Yên Lang, thuộc Ngũ Huyện Giang, quận Cửu Chân (XV/1).
CHƯƠNG II
ĐÁNH
CHIÊM THÀNH
1. Duyên cớ - 2. Sửa
soạn - 3. Xuất quân: trận Nhật Lệ - 4. Trận Tu Mao - 5.
Bắt vua Chiêm - 6. Khải hoàn. Tha vua Chiêm - 7. Kết quả
1 - Duyên cớ
Đầu đời Lý, Chiêm Thành là một nước phồn thịnh, địa giới từ vùng Bình Thuận đến vùng Quảng Bình ngày nay. Ở cực bắc có châu Bố Chánh, ở phía nam núi Hoành Sơn, giáp địa phận Hoan Châu thuộc nước ta.
Vùng biên giới ấy không khi nào được yên hẳn. Châu Hoan và Châu Ái bị quân Chiêm quấy nhiễu luôn. Các vua ta thông thường phải sai quân đi chinh phạt.
Ngay sau khi Đinh Tiên Hoàng mới nhất thống sơn hà, mà nước đã bị quấy. Nguyên là, Đinh Bộ Lĩnh đã diệt mười hai sứ quân, mà trong số ấy có Ngô Nhật Khánh. Nhật Khánh là dòng dõi Ngô Quyền. Bấy giờ y còn trẻ. Vua Đinh lấy mẹ y làm hậu, đem em gái y gả cho con trai mình là Liễn, và gả con gái mình cho Nhật Khánh. Tuy vậy, Nhật Khánh vẫn oán; bèn chạy vào Chiêm Thành. Cuối năm Kỷ Mão (979), Nhật Khánh đưa hơn nghìn thuyền Chiêm về đánh kinh đô Hoa Lư. Chẳng may, khi vào cửa bể Đại Ác và Tiểu Khang (thuộc hải phận Ninh Bình Nam Định ngày nay. Đại Ác nay là Đại An, tức là cửa Đáy, Tiểu Khang thuộc huyện Yên Mô), thuyền bị bão chìm. Quân Chiêm tan và Nhật Khánh cũng bị chết. (TT)
Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, sai sứ sang giao hiếu với Chiêm Thành (982). Hai sứ là Từ Mục và Ngô Tử Canh đều bị Chiêm giữ lại. Vua Lê mang quân vào đánh, phá thành trì, hủy tông miếu, giết chúa và bắt vô số dân đưa về. (TT)
Đó là cuộc nam phạt đầu tiên trong lịch sử độc lập của các vua ta. Chiêm Thành, vì đó, phải kinh sợ, nhún nhường. Có lúc vua Lê không chịu nhận sứ Chiêm, chúa Chiêm phải sai cháu là Chế Cai sang cống để tạ tội (994). Tuy vậy, năm 997 Chiêm lại ngấp nghé ở biên thùy. (TT)
Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, Chiêm Thành chịu cống. Năm 1011, có cống sư tử (có lẽ là tên cá sấu, xem II/4), nhưng năm 1020, vua Lý Thái Tổ đã phải sai con là Khai Thiên Vương và tướng Đào Thạc Phụ vào đánh đất Bố Chánh. (TT)
Chiêm Thành qua một hồi nội loạn: các con cháu hoàng tộc tranh ngôi nhau. Cho nên nam thùy ta cũng được tạm yên. Thỉnh thoảng phái nào thua lại còn đem đồ đảng sang nước ta xin phụ, như con vua Chiêm sang năm 1039, và năm 1040 dân Bố Chánh kéo nhau hàng trăm tới ở nước ta.(TS 489)
Trong khoảng 16 năm, Chiêm Thành không hề cống hiến gì ta nữa. Mùa hè năm 1043, lại còn tới quấy ở ven bể. Vì thế, năm 1044, vua Lý Thái Tông mới có cuộc thân chinh. Chuyến ấy, quân ta vào sâu trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 30 voi, 5.000 người, và chém giết đến ba vạn người. Tháng bảy năm ấy, vua Lý kéo quân vào kinh đô, bắt cung nhân, nhạc nữ rất nhiều. (TT)
Sau cuộc đại bại này, Chiêm Thành rất kính nể ta; và theo lệ cống hiến đều đều. Lúc hiến voi trắng, lúc hiến tê trắng, lúc sang mừng vua Thánh Tông mới lên ngôi. Sách TT và nhất là sách VSL chép rất rõ ràng1.
Sau khi cống vua ta một con tê trắng vào năm 1065 (VSL), Chiêm Thành không sai sứ sang ta nữa. Thật ra, sách TT có chép rằng “năm 1068, Chiêm Thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới”. Nhưng chắc TT lầm, vì một lẽ việc ấy không thấy chép ở VSL là sách chép rất đầy đủ về các việc Chiêm Thành cống vua ta, và lẽ nữa là còn có nhiều chứng cớ khác tỏ rằng từ năm 1065, Chiêm Thành tuyệt giao với ta2. Nhưng chừng ấy, sau sẽ rõ.
Chứng đầu là lời bia LX nói rõ rằng: “kịp đến khi nước Phật Thệ (tức là Chiêm Thành) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh”. Chứng thứ hai là sau khi khải hoàn, vua Lý dâng biểu sang vua Tống nói rằng: “Chiêm Thành đã lâu không tới cống tôi tự đem quân sang đánh, bắt được chúa nó về” (TS 488). Hai tài liệu xưa ấy chứng rằng trong bốn năm (1065 - 1069) Chiêm Thành không tới cống vua Lý, và ta vin vào cớ này để đánh nước ấy.
Nguyên nhân sự chiến tranh Chiêm-Việt là sâu xa hơn, chứ không phải vì cớ trên mà thôi.
Một mặt, Lý Thánh Tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc, có danh ngang với một nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu Đại Việt (1054), tôn các vua trước là Thái Tổ, Thái Tông, (TS 488 và LNDV 2), coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm Thành thuần phục Tống.
Một mặt, Chiêm Thành trước bị Lý Thánh Tông đánh phá kinh đô, giết chúa, bắt dân, tự nhiên đã trở nên thâm thù với ta. Chiêm Thành lẩn lút sang thuần phục Tống và tìm cách dựa thế Tống để trả thù ta. Năm Tống Hoàng Hựu thứ 7 (1055), Quảng Tây an vũ sứ tâu rằng: “Chiêm Thành vốn không hay tập binh. Ở gần Giao Chỉ, thường hay bị lấn. Nay Chiêm Thành soạn sửa quân bị để chống Giao Chỉ.” (TS 489)
Từ lúc Rudravarman III, mà sử ta gọi là Chế Củ, (TT) hay là Đệ Củ (VSL), lên ngôi vào khoảng cuối năm 1061, chí báo thù của Chiêm lại càng mạnh. TS 489 chép rằng “vừa mới lên ngôi, Dang-pu-sơ-li Lu-đa-ban-ma-đê-ba (Yan Pu Cry Rudrarmandra, theo Le Roy yaume du Champa của Maspéro) tổ chức vũ bị, luyên tập binh lính. Lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa. Vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng Châu”.
Xem thế thì ta cũng không lấy làm gì lạ rằng Rudravarman III không chịu cống vua Lý nữa, và vua Lý Thánh Tông nhân đó đánh Chiêm Thành. Xét chính sách triều Lý, sau này, ta sẽ thấy rằng các vua Lý có định tâm lấn nước Tống để mở bờ cõi miền bắc. Đối với Chiêm Thành hèn yếu hơn Tống vạn bội, chắc rằng vua Lý Thánh Tông cũng muốn xâm chiếm đất đai.
___________________________________
1. Chiêm Thành tới cống những năm: 1057, 1059, 1060, 1063 (VSL).
2. TT chép năm ấy, châu Chân Đằng hiến voi trắng; cho nên vua đổi niên hiệu ra Thiên huống báu tượng, nghĩa là trời cho voi qúi. TT lại chép thêm: “Chiêm Thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới”. VSL cũng chép rằng: “Tháng giêng châu Chân Đằng hiến voi trắng. Châu Kỷ Lang (chắc là Quang Lang, VSL lầm chữ Quang là sáng ra chữ Kỷ là ghế, vì hai chữ tự dạng gần nhau) cũng hiến voi trắng. Tháng hai, huyện Đô Lập hiến voi trắng và công trắng”. Xem vậy, VSL không hề chép việc Chiêm Thành hiến voi trắng năm ấy.
2- Sửa soạn
Đối với một cuộc hành binh vĩ đại như cuộc này, sử ta chép rất sơ lược. Hình như, đời Lê Thánh Tông, đoạn sử này, của Lê Văn Hưu để lại, đã bị thiếu sót, hay là Ngô Sĩ Liên biên Đại Việt sử ký toàn thư tự ý ước lược đi? Sách TT chỉ nói qua một vài câu, không ghi chi tiết gì cả. May còn có sách Việt sử lược từ đời Trần y nguyên còn lại, chép khá rõ ràng.
Theo TT, quân ta có 5 vạn. Quân ấy không phải có sẵn cả. Phần lớn huy động dân thường.
Theo Chu Khứ Phi (LNĐĐ 2) và Ngô Thì Sĩ (SK 3), khoảng đầu đời Lý, binh chế theo phép quân phủ vệ đời Đường và quân cấm sương đời Tống. Mục đích đầu là bảo vệ nhà vua ở kinh đô, chống những việc đảo chính cướp ngôi. Binh dùng về việc này là hạng binh tốt nhất, gọi là thân quân, tên riêng là thắng quân hoặc cấm-quân. Cấm quân họp thành một vệ, gọi là cấm vệ. Cấm vệ chia ra 10 quân, mỗi quân gần 200 người. Cả thảy gồm 2.000 người, đóng chung quanh kinh thành, thường ngày túc trực. Lúc vua đi đâu xa, thì đi theo. Theo lệ nhà Lê, cấm quân đều có khắc ba chữ Thiên tử binh trên trán. Năm 1028, đời Lý Thánh Tông, có 10 quân cấm vệ, đặt tên là Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật, Đằng Hải, mỗi hiệu đều có tả quân, hữu quân. Đời Lý Thánh Tông, lại thêm lên 6 quân nữa. Cấm vệ bấy giờ gồm 16 quân, cộng 3.200 tên. Tên quân cũng đặt lại như sau (1059): Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiếp; mỗi hiệu cũng chia làm tả hữu.
Vì lần này, vua Thánh Tông thân chinh, nên 3.200 cấm binh này chắc ở trong số 5 vạn nói trên.
Mục đích thứ hai của lính là giữ cuộc trị an trong nước và chống cuộc ngoại xâm. Về việc này, dùng lính hạng nhì như loại sương quân ở Tống. Quân này không có số nhất định (ANCL). Người dân nào đến tuổi cũng phải đăng lính, nhưng vẫn được ở nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải đi phen một kỳ ngắn. “Lúc chinh phạt, thì cất quân ấy giao cho các tướng. Nếu quân không đủ thì lấy dân đinh mà dùng. Việc xong rồi quay trở về cày ruộng”(SK). Trong khi phải đi phen, sương quân đóng ở các châu, huyện, để phòng bị khi có dụng binh. Hạng lính này, ngày thường, ít tập tành. Nhưng được số đông. Chắc trong số 5 vạn quân kia, sương quân chiếm phần lớn. Số 5 vạn chép ở TT có thật không? Nước ta dân số bấy giờ bao nhiêu, không thể biết được. Nhưng theo sự ta có thể chống lại 10 vạn quân Tống mấy năm về sau, thì ta chắc ta có hơn 5 vạn quân. Và phép kiểm điểm dân đinh bấy giờ rất ngặt, cách nuôi lính bấy giờ tiết kiệm. Dân không trốn được, nuôi lính không tốn; cho nên cất một đạo quân năm vạn chắc là dễ dàng1.
Đường giao thông bằng bộ vào Chiêm Thành gặp trở ngại. Theo sứ Chiêm tâu với vua Tống (1074), thì từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao Chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi (TS489). Cho nên cuộc hành quân này chắc chắn chỉ dùng đường thủy. Mà thủy quân ta, từ trận Bạch Đằng đời Ngô Quyền, đã lập được nhiều chiến công.
Bắt đầu từ tháng năm năm trước, Mậu Thìn (1068), vua Lý sai sửa chữa và đóng thêm chiến hạm (VSL).
Tục ta đời xưa rất tin về điềm lành dữ, nhận đó là ý trời tỏ cho biết trước sự thắng lợi hay thất bại của việc mình dự bị làm; hay nó tỏ ý trời muốn xui hay ngăn mình làm một việc gì. Nhất về đời Lý, óc dị đoan lại càng mạnh. Sử gia để ý đến tất cả những sự vụn vặt, nhưng khác thường. Sử nhà Lý trong VSL, sách không bị đời Lê sửa bỏ bằng các nho hóa theo khổng giáo, còn chép rất nhiều những việc như voi trắng, sẻ trắng, rùa sáu chân, cau chín buồng. Chuyện rồng hiện nay nhiều lắm. Không biết bấy giờ có con vật gì (kỳ đà chăng?) người ta cho là rồng, mà sử chép rồng hiện khắp nơi.
Tháng tám năm Mậu Thìn (1068), Long Chu (thuyền vua), đậu ở bến, vô cố dời đi ba thước (VSL). Đó là điềm vua sắp đi đánh xa, và là điềm hay. Tháng chín, rồng vàng hiện ở chiếc thuyền bể lớn là Vĩnh Xuân và Thanh Lãn. (VSL)
______________________________________
1. LNĐĐ, quyển 2, chép rõ về binh chế đời Lý, như sau: binh lính một tháng đi phen một kỳ. Lúc rỗi thì cầy cấy tự cấp. Mỗi năm, ngày mồng 7 tháng giêng, mỗi tên lính được phát 300 đồng tiền và một tấm vải quyến. Mỗi tháng, mỗi người lính được cấp 10 bó lúa. Ngày đầu năm lại phát cơm nếp và cá mắm để khao quân.
Trong sách SK, Ngô Thì Sĩ cũng chép tương tự như trên. ANCL chép: quân số không định trước. Tuyển dân tráng mà dùng. Lúc vội thì ra lính, lúc rỗi thì về cày ruộng.
Về việc tuyển binh, đời Lý kiểm điểm rất cẩn thận. Phan Huy Chú trong sách LTHC viết: dân đinh lên 18 tuổi, phải đăng tên vào sổ. Sổ đóng bìa vàng. Cho nên hạng đinh này gọi là hoàng nam. Đinh trên 20 tuổi gọi là đại nam. Các đại nam đều có thể sung vào lính. Các nhà quan chức chỉ có quyền nuôi một đại nam mà thôi để hầu hạ. Mỗi quân có ba người bảo lĩnh; nếu ai giấu đại nam, thì cả bốn người đều phải tội.
3 - Xuất quân. Trận
Nhật Lệ
Cuối năm Mậu Thìn (1068), thủy quân đã dự bị sẵn sàng. Đợi ra giêng, thuận gió bắc, sẽ xuất quân. Đến tháng hè, thuận gió nồm, quân sẽ trở về. Vua thân chinh sẽ chừng trong năm tháng.
Ngày Mậu Tuất tháng hai năm Kỷ Dần là ngày dương lịch 24 tháng hai 10691 vua Lý Thánh Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm Thành (VSL). Quân có 5 vạn (TT). Lý Thường Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong (VĐUL và bia NBS), kiêm chức nguyên soái (VSL). Ông xin cho em, là Thường Hiến đi theo; Hiến được trao chức tán kỵ vũ úy (bia NBS).
Số quân năm vạn kia chắc hoàn toàn đi đường thủy. Nếu mỗi mành chở được 250 quân và lương thực, thì phải chừng 200 chiếc. Lúc Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành (1044), đã sai đóng vài trăm chiếc. Vậy, chuyến này chắc cũng có số thuyền ấy.
Từ đời Lý Thái Tông, có đặt lệ tuyên thệ. Mỗi đầu năm, hay mỗi lúc có việc quan hệ, các triều thần hội lại, hoặc ở đền thờ vọng thần Đồng Cổ, hoặc ở sân Long Trì, rồi cùng phát lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết”2. Lần này, vua sắp đi vắng kinh đô lâu. Sự biến rất có thể xảy ra trong nước. Kẻ có lòng tranh ngôi, sẽ có cơ hội rất thuận tiện. Vì vậy, ngày Đinh Mùi (DL 5-3) quân thần phải hội tại Long Trì để tuyên thệ.
Ba ngày sau, ngày Canh Tuất (DL 8-3 VSL chép Canh Dần, chắc lầm), vua xuống thuyền xuất quân, giao quyền binh lại cho Ỷ Lan nguyên phi (TT) và Thái sư Lý Đạo Thành3.
Thuyền xuôi dòng sông Lô (Nhị Hà), qua Lý Nhân hành cung (vùng Nam Xương), rẽ xuống phía nam, rồi ra cửa Đại An nay trên sông Đáy, cách bể chừng 20 cây số, thuộc địa phận làng Quần Liêu, huyện Đại An, tỉnh Nam Định. Cửa ấy hồi cận đại cũng có tên cửa Liêu Hải. Từ Lý về trước, cửa này là chỗ các thuyền mành qua lại để đi từ các sông nước ta ra bể vào Nam4.
Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long, thuyền đến Nghệ An; vào ngày Đinh Tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam Giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam Giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng Lĩnh, thuộc phủ Thạch Hạ, tỉnh Hà Tĩnh. Bờ nam cửa có núi, nay có tên núi Nam Giới. Từ Lý về trước, cửa này là cửa bể lớn cuối cùng ở miền nam nước ta, trước các cửa nước Chiêm Thành. Có lẽ tên Nam Giới (bờ cõi phía Nam) lấy nghĩa ở sự ấy. Cửa này can hệ, vì lẽ, lúc bấy giờ quân Chiêm thường vào nước ta bằng chỗ đó, và từ Nghệ An đi vào có con sông nhỏ dọc theo phía tây núi Hồng Lĩnh rồi ra cửa ấy. Đời sau lúc lên Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành cũng qua sông ấy5. Có lẽ Lý Thánh Tông cũng dùng đường này. Thật ra thuyền thường đi khoảng này, dài chừng 50 cây số, chỉ mất một ngày. Nhưng sông hẹp, chiến thuyền lớn, đi chậm hơn. Vả chắc quân có đóng nghỉ lại Nghệ An. Sách VSL chép: “Lúc tới Nghệ An, rồng vàng hiện ở thuyền kim phượng”, một thuyền riêng của Lý Thánh Tông. Ngày Canh Thân (DL 18-3), tới Nam Giới, “rồng” lại hiện ở thuyền ấy.
________________________________
1. TT và VSL đều chép lầm chữ Kỷ ra chữ Ất vi tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra: Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. VSL chép ngày bằng lối can chi, chứ không nói rõ số mục ngày trong tháng. Vì không biết phép lịch dùng đời Lý, nên tôi không đổi ra ngày ta, mà chỉ dùng phép đổi ra ngày dương lịch mà thôi (xem phép đổi trong báo Khoa học số 19 và 20). Nhờ sự đổi ấy, tôi đã thấy rằng bản in VSL lầm ngày một vài chỗ, như ta sẽ thấy.
2. Lời thề: Vì tử bất hiếu, vì thần bất trung, thần minh cực chi (TT 2/15a).
3. Lý Đạo Thành làm Thái sư, tức là tể tướng, từ năm 1054 (VSL). Theo TT, bà Nguyên phi coi chính quyền. Nguyên phi tức là Ỷ Lan. Ỷ Lan chỉ là phi. Bấy giờ còn có hoàng hậu Thượng Dương. Vả sau khi Thánh Tông mất, quyền về tay hoàng hậu. Cho nên có thể nghi rằng trong khi vua vắng mặt, quyền cũng giao cho Dương hậu. Vua Tự đức đã phê và trong sách CM, đại ý cũng như thế. Nhưng bấy giờ Ỷ Lan mới sinh hoàng tử, được vua rất yêu dấu. Nên có thể được vua giao tạm quyền. Còn sau này, hình như Thánh Tông chết một cách đột ngột, không kịp dặn dò, cho nên theo lẽ thường, Lý Đạo Thành đề cử Dương hậu chấp chính. Xem vậy, sự Thánh Tông giao quyền cho Ỷ Lan trong lúc đi đánh Chiêm Thành, không phải là vô lý.
4. Tuy các sách không chép rõ đoạn đường này, nhưng đó là đường Thái Tông theo 25 năm về trước, và sau này cũng thường theo. Cửa Đại An trước có tên là Đại Ác hay Đại Á. Lúc Thái Tông qua đó, bể không sóng, cho nên mới đổi tên Đại Ác ra Đại An (TT). Nay huyện sở tại còn tên Đại An.
5. Xem thơ: Lê Thánh Tông trong Thiên nam dư hạ tập. Đoạn sông này có tên Sông Nghèn.
Năm ngày sau (A.Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật Lệ. Cửa Nhật Lệ là của Đông Hải ngày nay. Đây cửa bể thứ ba của Chiêm Thành, kể từ núi Hoàng Sơn vào. Cửa đầu nhỏ, là cửa Di Luân hay cửa Ròn. Cửa thứ hai rộng nhưng cạn, là cửa Bố Chánh hay cửa Giang, hai cửa này không quan hệ lắm về việc phòng thủ.
Địa thế nước Chiêm Thành rất đặc biệt: một dải đất hẹp và dài, chẹt giữa bể đại dương và núi cao ngất. Phía bắc, có núi Hoàng Sơn và sông Bố Chánh (sông Gianh) ngăn cản đường từ Giao Chỉ vào. Dải đất hẹp ấy lại bị nhiều dãy núi chắn ngang đến bờ bể. Ngoài núi Hoàng Sơn ở cực bắc, có núi Hải Vân ở phía nam Thuận Hóa, núi Thạch Tân ở phía nam Quảng Ngãi, núi Đại Lãnh ở phía nam Phú Yên. Các dãy núi “xương sườn” ấy ngăn thành mấy cánh đồng: Bình Trị Huế, Nam Ngãi, Bình Phú, Khánh Thuận. Dân Chàm chỉ ở các đồng bằng ấy, và hình như giao thông với nhau chỉ toàn đường bể. Đường Thiên Lý bấy giờ chưa có. Vì thế, vua Chiêm chỉ để ít quân phòng thủ ở Bố Chánh, và thủy quân tập trung ở cửa Nhật Lệ, Đại quân đóng giữ kinh đô và cánh đồng Bình Định ngày nay.
Lúc thuyền quân ta tới Nhật Lệ, thủy quân Chàm, chặn đánh. Lý Thánh Tông sai tướng đại liêu ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua. Sánh VSL chép việc ấy, không nói gì thêm. Nhưng thấy sau này, quân tiến xuống miền nam không bị ai ngăn cản, thì ta đoán rằng thủy quân Chiêm bị tan vỡ ở đây.
Quân ta không đổ bộ ở Nhật Lệ, vì mục đích vua Lý là phá Kinh thành và bắt chúa. Cho nên thuyền quân lại thẳng xuống phương nam. Thuyền dọc theo bờ bể, vượt khỏi những đồi cát trắng mà ta còn thấy ngày nay. Bốn ngày sau qua khỏi khoảng cát Đại Tràng Sa1. Ấy vào ngày Kỷ Tị tháng hai (DL 27-3).
Ngày hôm sau (C.Ng, DL 28-3), thuyền đến cửa Tư Dung. Cửa này gọi là Tư Hiền. Xưa cửa rất sâu (ĐNNTC), thông với phá Hà Trung (Cầu Hải ở đại đồ Đông Dương), và là cửa vào các phá và sông thuộc xứ Ô Lý (Thuận Hòa), vì bây giờ chưa có cửa Thuận An. Phá Hà Trung sâu kín2.
Thủy quân Chiêm đã bị phá. Cho nên thuyền ta vào nghỉ ở Tư Dung không bị cản trở gì. Rồi Thánh Tông lại theo bờ bể xuống miền nam.
Thuyền đi được ba ngày, có “rồng” hiện ở ngự chu là thuyền Cảnh Thắng. Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư Dung, quân ta tới cửa Cri Bonei (Sơ li po nai) nhằm vào ngày Bính Tí 3 đầu tháng ba (DL 3-4). Cửa Sơ li po nai ở đâu? Maspéro (Le Royaume du champa) diễn ra Cri Bonei, nhưng không nói địa điểm nào. VSL chép bằng Hán tự đọc theo tiếng ta là Thi lị bì nại. Ta biết rằng cửa bể lớn Qui Nhân tên xưa là Thi Nại. Lấy nghĩa, thì tên ấy không có nghĩa. Chắc là phiên âm tiếng Chàm. So sánh tên ấy với tên Thi lị bì nại, thì ta có thể chắc rằng hai tên chỉ là một. Chỉ vì theo thói ta hay rút ngắn các tiếng dài để gọi cho tiện, cho nên cửa Thi lị bì nại thành ra cửa Thi Nại. Và tính ngày đường thì từ Tư Dung đi sáu ngày đến Qui Nhân là phải. Từ Thăng Long đến Cri Bonei, đã đi hết 26 ngày4.
VSL chép rằng lúc ngự thuyền tới đó, có hai con chim cùng bay theo, trông như muốn dẫn đường. Những điềm dọc đường đều là điềm tốt.
___________________________________
1. Theo Lê Quí Đôn trong sách Phủ biên tạp lục: từ cửa Nhật Lệ đến cửa Minh Linh (cửa Tùng) có bãi Đại Tràng Sa; từ cửa Việt đến cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay) có bãi Tiểu Tràng Sa. Bấy giờ cửa Thuận An chưa có.
2. Cửa Tư Dung hẹp và sâu, là một cửa rất can hệ trong sự hàng hải ngày xưa. Trong các đời Lý, Trần, Lê, mỗi lúc thủy quân xuống đánh Chiêm Thành, đều nghỉ ở đó. Chữ Dung húy đời Mạc, đã bị đổi ra chữ Khách, tự dạng gần nhau. Vào khỏi cửa, có một vũng rất lớn, nay gọi là phá Hà Trung, thông với sông Hương, và phá Tam Giang.
3. VSL chép B.Ng. Nhưng tháng ba năm K.Zu không có ngày ấy. Chữ Ngọ và chữ Tý gần giống nhau; vả lại tháng ba lại có ngày B.Ty, mà ngày B.Ty này lại cách tới cửa Tư Dung (C.Ng) sáu ngày. Vậy theo lịch, cũng như theo hành trình, ta có thể chữa chữ Ngọ ra chữ Tý một cách hợp lý.
4. Nay còn một vài sách chép nhật trình đi từ Thăng Long đến các cửa bể miền nam. Góp nhặt lại, ta có thể kể ra như sau:
Từ Thăng Long đến cửa Đại An: 1 ngày (Lý Thái Tông đánh Chiêm. TT).
Từ cửa Đại An đến cửa Hội ở Nghệ An: 3 ngày (Lê Cảnh Hưng. PBTL).
Từ cửa Sót đến cửa Nhật Lệ: 3 ngày. (PBTL)
Từ cửa Nhật Lệ đến cửa Tư Dung: 3 ngày. (PBTL. Sách này chỉ chép hải trình đến cửa Châu Ổ, chỗ giáp hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi).
Từ cửa Tư Dung đến cửa Châu Ổ: 4 ngày.
Từ cửa Châu Ổ đến cửa Nước Mặn (cửa Thi Nại): 3 ngày. (theo sách Càn khôn Nhất lãm của Phạm Đình Hổ chép hải trình năm M.Tu, 1778, của quan đốc thị Nguyễn Thưởng. Cộng hai đoạn sau, để so sánh với hải trình đời Lý Thánh Tông, ta thấy: từ cửa Tư Dung đến cửa Thi Nại mất 7 ngày.
Hải trình nên chỉ hợp với khi thuận gió, thuyền đi ban ngày theo ven bể mà thôi.
Sách Thiên nam Tứ chí lộ đồ, đời Lê, chép rằng: thuyền vượt qua bể, đi cả đêm ngày, nếu thuận gió bắc mùa đông và mùa xuân), thì hành trình như sau: từ cửa Lạc (phía bắc cửa Đại An, đi nửa ngày đến Biện Sơn (một đảo gần chỗ giáp giới Thanh và Nghệ, rồi đi nửa ngày đến cửa Hội thống (cửa Hội ở Nghệ An), rồi đi 1 ngày đến cửa Bố Chánh (sông Gianh); rồi đi 1 ngày đến cửa Tư Khánh (tư-dung, phía nam Thuận Hóa); rồi đi 1 ngày đến Đại Chiêm (phía đông thành Quảng Nam); rồi đi 1 ngày đến cửa Ô Lộ (?); rồi đến cửa Phố Đại (?) thuộc Chiêm
So sánh hành trình này với hành trình Lý Thánh Tông, ta thấy rằng Lý Thánh Tông đã đi theo ven bể. Dọc đường chắc có dừng nghỉ nhiều.
Sách TS (quyển 489) nói: thuyền thuận gió, đi từ Chiêm Thành đến Giao Châu mất 2 ngày. Chắc là nói đi từ hải phận Chiêm đến cửa cực nam của Giao Chỉ tức là cửa Nam Giới.
4. Trận Tu Mao
Thành Phật thệ, kinh đô Chiêm Thành đời bấy giờ, ở vào địa phận tỉnh Bình Định ngày nay. Tên Chàm là Vijaya; sau đó Chà Bàn ta thường chép lầm ra Đồ Bàn1. Vijaya ở phía bắc thành Bình Định bấy giờ, bên nam sông Khu Cương hay Hà Giao (Bản đồ họa vụ Đông Dương), ở chính giữa một cánh đồng phì nhiêu hình thoi mỗi đường nối góc dài chừng 30 cây số. Ba phía, bắc, tây, nam, đều có núi cao che chở. Chỉ miền Đông là trực tiếp với nước, tại vũng Nước Mặn (vịnh Qui Nhân ngày nay). Vũng chạy dài từ bắc chí nam dài 20 cây số và thông với bể bằng cửa Thi Nại, hẹp và sâu. Muốn tới thành Vijaya, chỉ có do phía đông là dễ dàng. Sông Khu Cương chảy vào vũng Nước Mặn, góc cực bắc. Nhưng sông cạn, thuyền lớn khó vào. Vì thế mỗi lúc quân ta tới đánh Vijaya, đều đưa thuyền vào cửa Thi Nại rồi đổ bộ ven bờ vũng Nước Mặn.
VSL chép rằng quân ta đổ bộ, tiến lên đóng ở bờ sông Tu Mao, thấy tướng Chàm là Bố bì đà la bày trận trên bờ sông. Quân ta xông tới đánh, giết tướng Bố bì đà la. “Quân Chàm chết nhiều không kể xiết”. Sông Tu Mao nói trên là sông nào? Theo địa thế mà đoán ta có thể ngờ là nhánh cực nam của hạ lưu sông Tam Huyện, mà sánh ĐKĐD gọi là sông Tân An. Có ba dòng sông chắn ngang đường tới Đồ Bàn; sông này ở trước nhất. Theo bia NBS, khi gặp quân Chiêm, hai anh em Thường Kiệt và Thường Hiến chia quân làm hai cánh, đánh tạt ngang; chém được ba vạn người. Có lẽ đó cũng là trận sông Tu Mao, mà công trong trận đầu tiên này thật về Thường Kiệt.
Trong Ức trai dư địa chí, có kể chuyện rằng “LýThường Kiệt kéo đại quân tới sông Phan Định. Sông Phan Định tiếp với phủ Hoài Nhân (gồm địa hạt thuộc tỉnh Bình Định từ Quảng Ngãi đến sông Khu Cương). Sông có nhiều sư tử (tức cá sấu), “sư tử” khuất phục được các thứ khác; tê, tượng đều phải sợ. Sông Phan Định có ba đoàn sư tử. Nó ở dưới nước, vẫy đuôi làm dợn sóng đổ thuyền. Lúc Lý Thường Kiệt đánh Chiêm, đại quân kéo đến sông ấy, vì sợ “sư tử”, quân không qua sông dễ dàng được”. Theo đó, sông Phan Định có thể cũng là sông Tu Mao2.
Qua khỏi sông Tu Mao, còn phải hai sông khác mới tới Vijaya.
Nghe tin quân mình thua ở sông Tu Mao, Rudra varman III, đang đêm, đem vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam (VSL). Cũng đêm ấy quân ta kéo tới gần thành Vijaya. Lúc quân ta đến bến Đồng La, (có lẽ trên sông Thạnh Yển là sông chắn thứ ba, gần phía nam thành), người trong thành ra hàng. (VSL) Vua Lý Thánh Tông vào thành nhưng vua Chiêm đã chạy chốn thoát.
_______________________________________
1. Dấu tích thành Vijaya, nay còn, và chắc chắn là nhận được.
Ấy là thành Trà Bàn trong sử chiến tranh giữa hai họ Nguyễn:
Thuận Hóa và Tây Sơn. Trà Bàn là kinh đô của vua Thái Đức, tức Nguyễn Nhạc. Võ Tánh tự thi u trong thành. Nay có mộ và đền trong thành.
Sách TNTCĐ có vẽ bản đồ thành, và chú thích: “Xã Phú Đa xưa có thành xây bằng gạch, tên là Trà Bàn (Sách ta đều chép lầm ra Đồ Bàn, vì hai chữ Trà là chè và Đồ là một thứ rau đắng rất giống nhau). Thành vuông, mỗi bề dài một dặm. Có bốn cửa. Trong có điện, có tháp. Nay điện đã bị đổ. Tháp còn 12 tòa. Tục gọi là tháp Con Gái hay tháp Cánh Tiên”. Trên đây là tả thành Trà Bàn đời cuối Lê.
Sách ĐNNTC chép: “Thành Trà Bàn ở trên sông Phú Gia Đa. Hai tên Phú Đa và Phú Gia Đa chắc là một. Có lẽ là tên Chàm phiên âm ra Phú Gia Đa. Sau rút ngắn tên mà gọi tên làng. Bản đồ trong TNDĐC vẽ sông ấy chảy ra phía bắc thành.
Sách ĐNNTC chép: “Thành Trà Bàn ở chỗ giáp giới hai huyện Tuy Viễn và Phú Cát. Chu vi dài hơn 60 dặm. Trước là kinh thành của chúa Chàm. Nguyễn Nhạc chiếm và lấy đá ong xây thành. Trong thành có tháp xưa, có tượng nghê đá, voi đá; đều là của người Chàm xưa. Sau Đại binh thu phục, đổi tên là thành Bình Định, và đặt tỉnh lị ở đây. Sau (1808) dời tỉnh lị đến chỗ ngày nay.”
Ngày nay, cách phía bắc thành Bình Định 10 cây số, trên đường thiên lý, còn thấy di tích một thành cổ ở địa phận ba làng An Nghĩa, Nam An và Thuận Chánh. Thành đất, bọc bằng đá ong. Hình chữ nhật, các mặt rồng đúng hướng. Mặt Đông và Tây rộng 1.400 mét; mặt Nam và Bắc rộng 1.100 mét. Phía bắc thành có sông Khu Cương đường quan lộ xiên qua góc đông bắc thành. Trong thành còn nhiều cồn đất, hình như ngày xưa có những lâu đài hay tháp dựng trên Thành nay đã đổ hết. Trong thành là ruộng. Còn vết một đường đi từ cửa đông sang cửa tây. Chính giữa, còn có một tháp lớn, tức là tháp Con Gái, hay là tháp Canh Tiên, đã nói trên. Ở phần phía tây thành có mộ và đền thờ Võ Tánh. Trong thành còn có nhiều đá chạm, như hai con sư tử (nghê) trước mộ Võ Tánh, hai con voi đá lớn ở trong vườn đến. (Phỏng theo Parmentier; inventaire descriptif des Monuments Cam de l’Annam). Xung quanh thành đá ấy còn nhiều tháp. Các tọa tác ấy chắc là thuộc thành Vijaya. Thành chu vi hơn 60 dặm, nói trong ĐNNTC, chắc là một thứ la thành bọc chung quanh các tháp nói trên. Thành vuông mỗi bề một dặm nói trong TNTCĐ là thành đá ở trong.
2. Sách ƯTDĐC chép thêm rằng: “Lý Thường Kiệt phong cho ba đoàn sư tử ấy chức Hiệu thuận lam thần bá. Ngày tuyên sắc, sư tử nổi lên mặt sông để nghe. Nhờ đó, quân ta qua sông không bị trở ngại”.
Ở Phan Rang (tên Chàm là Panduranga), có sông tên là Kron Biyuh nghĩa là sông Cá Sấu (theo Cbaton). Chắc rằng xưa sông này có nhiều cá sấu hơn các sông khác. Hoặc giả, sông Phan Định của ƯTDĐC là sông này. Nếu thật vậy, thì sự Lý Thường Kiệt bị cá sấu trở ngại là vào lúc ông đuổi vua Chàm tới biên giới Chân Lạp.
5- Bắt Vua Chiêm
Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo xuống miền nam. Tháng tư quân ta đuổi đến biên giới nước Chân Lạp (VSL). Bấy giờ Chiêm Thành gồm có vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay. Phan Rang, tên Chàm là Pandurango lại là một thành phố lớn. Có lẽ vua Chiêm đã chạy đến đó. Chân Lạp vốn là một cừu quốc với Chiêm (LNĐV). Vua Chiêm không dám chạy qua đó; cùng thế phải ra đầu hàng. “Lý Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp” (VSL) và cầm tù cả thảy 5 vạn quân (NBS).
Cuộc đuổi bắt vua Chiêm kéo dài ngót một tháng, từ đầu tháng ba đến tháng tư.
Thế là Chiêm Thành bị đại bại. Tuy Lý Thánh Tông tự cầm quân, nhưng công chiến thắng hoàn toàn về Lý Thường Kiệt, từ trận đầu đến trận cuối. Việc Hành quân kể lại trên đây, phần lớn lấy ở sách VSL. Còn sách chính sử ta là Đại Việt sử ký toàn thư thì không những không chép những chi tiết trên, mà lại chép chuyện hoàn toàn khác. Sách ấy nói rằng: “Vua đánh Chiêm lâu không thắng, bèn quay trở về. Về tới châu Cư liên, nghe nói ở trong nước, bà Nguyên Phi (Ỷ Lan) coi nội trị giỏi, khiến dân tâm hòa hiệp, cõi nước yên lặng. Vua tự than rằng: “Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, há lại vụng về sao?” Rồi vua quay trở lại đánh; bèn thắng”. Trong đoạn trên, có hai việc: một là thất lợi đầu tiên của quân ta, hai là vua Lý Thánh Tông rút quân về rồi trở lại.
Về việc đầu, hình như có sự thiệt. Hoặc đó là vì tướng Chiêm, Bố bì đà la, cản quân ta trên sông Tu Mao, hoặc là sóng nhiều cá sấu mà quân ta không dám qua. Lẽ hợp hơn cả là vì vua Chiêm trốn thoát, chạy xa vào miền nam hiểm trở, quân ta khó lòng đuổi kịp và bắt được; vua ta cho là chưa đạt được chủ đích. Rồi sử gia cho là “đánh lâu không thắng”. Còn việc thứ hai cũng có thể xảy ra. Nhưng không rõ châu Cư Liên ở đâu, thuộc nước ta hay nước Chiêm? Và nếu vua Lý có trở về thật, thì chắc về đường thủy. Sử nói vua về đến châu Cư Liên, ấy muốn nói vua về đến hải phận châu ấy. Hiểu như thế, ta có thể nghĩ rằng hoặc giả sau khi lấy Vijaya, vua Lý Thánh Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đuổi bắt vua Chiêm. Vua đợi mãi thấy chưa bắt được. Sợ vắng mặt lâu, trong nước nhà, dân sự không yên, nên đưa một phần quân về trước. Nhưng về dọc đường, được tin bà Nguyên Phi trị dân yên ổn, vua lại trở lại, đợi bắt được vua Chiêm. Nếu sự có thật, thì ta không hiểu vì lẽ gì VSL, là sách chép kỹ về việc đánh Chiêm Thành lần này, lại không chép chuyện ấy.
6 -Khải Hoàn. Tha
vua Chiêm
Sau khi bắt được Rudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm. Bấy giờ là tháng năm. Muốn tỏ sự hân hoan “vua thân hành múa khiên và đánh cầu1 trước bệ”. (VSL)
Vua lại sai kiểm sổ tất cả các nhà trong và ngoài thành. Cả thấy có hơn 2.560 khu. Đều sai đốt hết. (VSL)
__________________________________
1. Múa khiên và đánh cầu là hai quân lễ để ăn mừng trong các hội lớn. Môn múa khiên có lẽ đời sau còn hình dung trong các bài “đi võ”. Còn môn đánh cầu là thế nào?
Chữ Hán chép “kích cầu”. Cầu là một đồ chơi làm bằng da, hình tròn, trong nén đầy lông. Nói tóm lại, tức là quả bóng ngày nay, nhưng ruột đặc và đầy lông để cho nhẹ. Tuy về đời sau, như đời Lê có chuyện một viên quan “đá cầu chúc thọ” chúa Trịnh, nhưng trò chơi này là lấy chân đá cái cầu làm bằng một vật có chắp đuôi, như cầu trẻ con chơi ngày nay bằng đồng tiền có đuôi giấy.
Môn đánh cầu trong quân khác hẳn thế. Đó là trò chơi mà Âu Mỹ gọi là Polo. Ở Ấn độ cũng có từ đời xưa.
Tống sử, (Q.121, lễ chí, chép Đá cầu) còn chép rõ cách thức chơi của nhà vua. Sân chơi là sân chính điện, dưới thềm ngai vua, ở phía Nam ngai. Hai bên tả hữu (đông và tây) dựng hai cửa bằng gỗ, gọi là cầu môn cao hơn một trượng, trên chạm rồng, dưới đặt tòa sen bằng đá dùng vải vóc trải trên. Chỉ có các bậc vương và đại thần được dự chơi ở trước bệ; họ chia ra làm hai phe. Ở hai cầu môn có treo cờ nhật và nguyệt, dưới cờ đặt nhạc. Hai phe mặc áo vóc, màu khác nhau; bên tả (đông) mầu vàng, bên hữu mầu tí. Trước thềm cũng bày hai giá cờ; hễ bên nào được, thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ.
Lúc bắt đầu đánh, sở tầu ngựa vua đem ngựa và yên cương ra. Vua lên ngựa. Ban nhạc gẩy khúc Lương Châu. Vua gọi từng người lần lượt lên ngựa. Đuôi ngựa gióc thắt theo mầu phe vàng hay tía. Các quan bắt đầu sắp hàng phía tây; vua đứng ở góc tây nam.
Quan nội thị mở một hộp vàng, lấy quả cầu sơn đỏ, ném xuống trước điện, viễn thông sự xá nhân tấu: “phe vua đánh vào cửa đông”. Vua tiến ngựa đánh cầu. Nhạc nổi. Lúc cầu vào cửa, thì cờ phất, chiêng rền, trống dóng. Vua quay ngựa trở về chỗ. Các quan chúc mừng, rồi vua ban rượu. Xong vua lại lên ngựa, lại đánh. Bây giờ mới sai các quan ruổi ngựa tranh cầu. Trống đánh rậy khi cầu tới cửa, trống giục càng mau. Lúc cầu qua cửa thì trống dóng ba hồi. Rút cờ để sẵn bên cửa phe được, rồi cắm vào giá phe mình để trước hè. Như thế gọi là được một thẻ. Khi nào vua được thẻ, thì nhạc đánh nhẹ bớt, để các quan hô “Vạn tuế”; khi nào một quan được thẻ, thì hô “hảo”, kẻ được thẻ, xuống ngựa để tạ. Xong ba thẻ, vua lại mời các quan uống. Mỗi phe có 24 cờ. Có lẽ bên nào được 24 thẻ trước thì được.
Trên đây là cuộc đánh cầu bằng ngựa. Cũng có lúc đánh cầu không cưỡi ngựa. Tuy TS không nói rõ, nhưng ta cũng hiểu rằng, người ngồi trên ngựa, cầm cương một tay; tay kia cầm cái trượng dài, mà đưa đẩy quả cầu, hoặc đánh mạnh vào cầu để chuyền cho kẻ đồng phe, hay để cho vào cửa. Hình dạng cái trượng ấy chắc như còn thấy trên một bức chạm bằng đá của dân Chàm, Na còn ở bảo tàng Đà Nẵng. Bức chạm nổi ấy gồm hai người Chàm cưỡi ngựa, tay phải cầm cương ta trái cầm trượng dài mà đầu cuối cong và bẹt. Ngựa đeo đạc, mang yên, đuôi gióc như trong TS tả. Bức chạm này rất linh động, người sau vừa đánh vào cầu, người trước kéo gò ngựa quay đầu lại rồi vắt tay ra sau mà chặn cầu. Dáng điệu ngựa và người làm ta tưởng tượng như còn thấy cuộc đánh cầu của vua Lý Thánh Tông còn diễn trước mắt ta. Biết đâu trong cuộc đánh cầu này, vua Lý lại không bắt các quan Chàm bị cầm tù ra đánh làm trò vui? Nếu có vậy thì bức chạm này lại nhắc được một hình ảnh của huy hoàng của tiệc mừng thắng trận.
Trò chơi ấy ở triều Lý có. TT chép: “Năm B.Ng (1126), mồng một tháng hai, vua Lý Nhân Tông tới điện Thiên An xem các vương hầu chạy theo cầu mà đánh (ở đây TT chép: xúc cầu, xúc là chạy theo, xúc cầu nghĩa là chạy theo cầu mà đánh). Năm C.Tu (1139) tháng chạp, vua Lý Thần Tông đánh cầu (chép kích cầu) ở sân Long Trì; vua bảo xứ Chiêm vào xem.”.
Tháng ấy (tháng năm), vua kéo quân về, đem theo Rudravarman III. Ngày Quí Tị (DL 19-6), thuyền về đến cửa Tư Minh1. VSL chép rằng đêm ấy “rồng” hiện ở ngự thuyền. Bấy giờ là mùa hè, gió nồm thổi mạnh, thuyền về rất thuận. Ngày Kỷ Tị tháng sáu (có lẽ là Kỷ Hợi, DL 25-6) quân vượt bể, “rồng vàng hiện ở thuyền Kim phượng”. Ngày Mậu Thân (DL 4-7) qua các núi Lỗ-lỗi lớn và bé ở ngoài cửa bể Bố Chánh (cửa bể sông Gianh, ở phía bắc Quảng Bình) thuyền vua đụng phải đã bị vỡ2.
Ngày Tân Dậu (DL 17-7) vua về đến Thăng Long, dừng thuyền ở bến Triều Đông, trên sông Lô (Nhị Hà).
Cuộc rước vua về cung rất long trọng. VSL còn ghi những chi tiết nhắc cho ta biết sự huy hoàng xán lạn của cuộc tiếp rước một vị vua viễn chinh khải hoàn. Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Vua lên bờ, ngự trên chiếc báu xa (xe nạm ngọc). Quần thần đều cưỡi ngựa. Dắt vua Chiêm Thành theo sau. Vua Chiêm Thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai. Tay trói sau lưng, có giầy vải quyến buộc. Năm tên lính hiệu Vũ đô dắt đi, Các đảng thuộc cũng bị trói dắt theo sau. Tháng bảy, vua làm lễ tâu việc thắng trận ở Thái Miếu (VSL)
Cuối năm, sai Quách Sĩ An và Đào Tông Nguyên sang sứ Tống, để báo tin thắng trận. Lời biểu có câu: “Nước Chiêm Thành đã lâu không tới cống. Tôi tự đem quân đánh, đã bắt được chúa nó về”. Vua Tống tuy không bằng lòng, nhưng cũng phải nhận sự Chiêm Thành là một phiên quốc của ta. Bèn ban cho chánh sứ Sĩ An chức lục trạch và phó sứ Tông Nguyên chức nội điện sùng ban (TS 488)
Thế là vua Lý Thánh Tông đã thỏa lòng tự lập: sau khi xưng đế, lập được vũ công xứng đáng với danh hiệu ấy. Vua bèn đổi niên hiệu Thiên huống báu tượng (trời cho voi quí) ra Thần vũ để ghi vũ công lớn lao ấy.
Rudravarman III xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh thuộc Chiêm Thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng Bình và phía bắc Quang Trị3.
Rudravarman III được tha về nước.
Vua Lý bèn thưởng quân công cho tướng sĩ. Ban cho Lý Thường Kiệt chức tước sau này: Phụ quốc Thái phó, dao thụ Nam Bình tiết độ sứ, Phụ quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Khai quốc công, Thiên tử nghĩa nam (bia NBS và VĐUL). Chức thái phó là thứ ba trong hàng tể chấp (I,cth4); Tiết độ sứ là thứ hai trong hàng tướng; tước là Thượng trụ quốc Khai quốc công. Đặc biệt là vua nhận ông làm con nuôi, tức là vào hàng vương; và tuy ông ở triều, nhưng được giao cho coi binh lính ở vùng Nam Bình, có lẽ là ba châu mới giành được. Ông bấy giờ 51 tuổi.
Chẳng bao lâu, vua lại trao ông chức Thái úy, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự4 là chức thứ hai trong triều. Ông giúp vua trông nom quốc chính. “Dân sự vì đó được nhờ”. (bia LX)
Đứng đầu triều có Thái sư Lý Đạo Thành, đã giữ chức ấy từ năm Thánh Tông lên ngôi (1054). Đạo Thành và Thường Kiệt giúp vua trong hai năm. Trong nước rất được yên ổn. Mùa hè năm Canh Tuất (1070) gặp trời đại hạn, lấy lúa, tiền, vải ở kho phát chẩn cho dân nghèo. Về hình luật, định số tiền cho tội nhân có thể nạp để chuộc tội (năm Tân Hợi 1071). Về tạo tác, mùa xuân năm Canh Tuất (1070), dựng điện Tử thần. Về tôn giáo và giáo dục, bây giờ là lúc Nho giáo được chính thức tôn sùng: tháng tám năm ấy, vua sai dựng Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng 72 hiền để thờ trong miếu; lại cho Hoàng Thái tử tới đó học tập (TT). Có lẽ, ấy cũng có ảnh hưởng ít nhiều của Thường Kiệt khi bé có đọc sánh nho.
Tuy vậy, Phật giáo cũng không bị sao lãng. Tháng chín năm ấy, dựng chùa Nhị thiên vương ở góc đông nam thành, vua viết bia chữ Phật5 cao một trượng sáu thước, để lại tại chùa Tiên Du (Phật Tích, Bắc Ninh ngày nay).
Thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn luôn dặn biên thần đừng gây sự với ta. Còn Chiêm Thành, thì kính sợ và thần phục, năm Tân Hợi (1071), sứ Chiêm tới cống (TT).
______________________________________
1. Cửa Tư Minh có phải là cửa Tư Dung không? Trong sử đời Lý, sách VSL có chép Tư Minh hai lần: lần này (Thánh Tông trở về) và lần trước, khi Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành (1044). Nay so với TT ta thấy cũng chép việc Thái Tông, TT có nói: “Vua tới cửa Tư Khánh, cá trắng nhảy vào thuyền”, mà VSL lại chép: “Vua tới cửa Tư Minh, cá trắng nhảy vào thuyền”. Vậy Tư Minh tức Tư Khánh hay Tư Dung. Nhưng không hiểu vì cớ gì, mà lúc Thánh Tông đi và lúc về cách nhau có bốn tháng mà VSL lại gọi, một chỗ đất bằng hai tên khác nhau: Tư Dung và Tư Minh?
2. Sách Ô châu cận lục (đời Mạc) chép tên núi Lỗi Lôi. Núi ở châu Bố Chánh, gần cửa bể Di Luân (cửa Ròn). Núi Hoành Sơn chạy ra bể đến đó là hết.
Sách ĐNNTC nói rõ là một hải đảo. Trên đảo có chùa, cho nên gọi là đảo Chùa. Vũng bể này có tên là Vũng Chùa, là vì cớ ấy.
Sách VSL chép: ở gần cửa Bố Chánh, tức là cửa sông Gianh. Cửa sông Gianh và cửa sông Ròn cũng cách nhau không bao nhiêu. Huống chi sông Gianh là sông lớn, cho nên VSL chép như vậy.
3. Theo HVDĐC, và các sách địa chí khác: Các châu ấy chiếm địa phận theo như sau. 1/ Địa lý: đời Lý đổi ra Lâm Bình. Trần đổi ra Tân Bình. Lê Trung Hưng đổi ra Tiên Bình. Nay thuộc Quảng Bình, gồm các huyện Lệ Thủy, Phong Phú, Phong Lộc. 2/ Ma Linh: Lý đổi ra Minh Linh. Minh đổi ra Nam Linh. Lê lập lại Minh Linh. Nay thuộc Quang Trị, gồm hai huyện Minh Linh và Do Linh. 3/ Bố Chánh: Minh đổi ra Trấn Bình. Lê đổi lại Bố Chánh. Nay thuộc Quảng Bình, gồm các Bình Chánh, Bố Trạch và Tuyến Chánh.
4. Vũ chức đời Lý có: Độ nguyên soái, Tiết độ sứ, Đại tướng quân, Phó nguyên soái, Phó tiết độ, Phó tướng quân. Nội điện chỉ huy sứ, Chiêu thảo sứ, Thiên tướng, thần tướng, chức đầu, chọn kẻ Tông thất bổ nhậm. (ANCL).
Sách LNĐD chép: “binh quan, thì đứng đầu có Khu mật sứ, Kim Ngô Thái úy đô lĩnh binh.” Đại loại các chức cũng theo Đường chế.
5. Nay ở trước cửa chùa làng Bạch Á, huyện Nga Sơn, còn có một tấm bia lớn, rộng 1,12m và cao 1,67m. Trên khắc chữ Phật rất lớn. Chung quanh chạm rồng và hoa cỏ rất tỉ mỉ và đẹp. Bia không còn chữ gì khác nữa, ngoài bi ngạch “TRÙNG TU DIÊN LINH CHÂN BẢO TỰ BI”. Lê Quí Đôn có nói đó là bia khắc chữ Phật của Lý Thánh Tông viết. Tuy theo cách chạm trổ, thì biết là bia rất xưa, có lẽ đời Lý, nhưng không biết Lê Quí Đôn có lầm bia này với bia chùa Tiên Du chăng?
7- Kết quả
Về việc đánh Chiêm Thành, bia chùa Linh xứng chỉ chép rằng: “Kịp đến lúc Phật thệ1 hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ sang đánh. Ông có tài thao lược hơn người đời, vào trong cung giúp vua lo toan mưu kế, đặt binh luật để đi đánh dẹp, Hoàn vương (tức vua Chiêm) bỏ thành chạy trốn, nhưng lại tự mình hiến thân chịu chém. Ông bèn bắt lấy, rồi đem quân khải hoàn. Vua luận công, gia thưởng và ban trật cho ông”.
Tuy tóm tắt nhưng đó cũng đủ chứng rằng trong cuộc nam phạt, Lý Thường Kiệt vừa làm tham mưu, vừa làm thống soái. Ông đã có công lấy thành, bắt chúa Chiêm, cho nên nước ta mới được nhường khoảnh đất ba châu phía nam dãy Hoành Sơn. Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau. Trước đó, tuy Lê Đại Hành, Lý Thái Tông cũng đánh chiếm Chiêm Thành, nhưng mỗi lúc chỉ bắt người, lấy của rồi về, chứ không hề nghĩ tới mở mang bờ cõi.2
_________________________________
1. Phật thệ là tên Chiêm Thành, Hoàn vương là tên Chiêm Thành mà người đời Đường đặt ra khoảng năm 756-757 (Tân Đường thư và LNĐĐ). Các tên chỉ nước này là: Lâm ấp, Phật thệ, Hoàn vương, Chiêm Thành. Ở nước ta còn có tên Lồi (như nói thành Lồi, chúa lồi) và tên Chàm.
2. Trong lúc Lý Thánh Tông vượt bể, hình như gặp sóng gió to. Sách VĐTTL còn chép chuyện thần Hậu thổ địa kỳ giúp vua qua bể. Chuyện như sau: Khi Lý Thánh Tông đến cửa bể Hoàn (?), thình lình bão to mưa lớn, sóng nổi ngùn ngụt. Thuyền vua không tiến được. Đêm đến, vua mộng thấy một đàn bà, áo trắng, quân lục, nói với vua: “Tôi là tinh đất nước Nam, giả làm một cây gỗ đã lâu năm để đợi thời. Nay thời đã đến. Giúp vua không chỉ đánh được giặc, mà nước nhà còn có chỗ nhờ”. Nói xong, biến mất. Tỉnh dậy, vua sợ. Đem việc hỏi chung quanh. Có sư Huệ Sinh nói nên tìm cây gỗ có thần ẩn. Quân lên núi, thấy một cây gỗ hình người. Đem xuống thuyền. Vua sai đem làm tượng, mặc áo quần như thấy trong mộng và ban hiệu Hậu thổ phu nhân, và đặt ở thuyền vua. Thuyền bèn êm không lắc nữa. Lúc được trận về đến chỗ cũ, vua sai lập đền thờ. Nhưng tối đến, mưa gió nổi lên. Sư Huệ xin đem tượng về kinh vua sai lập đền thờ ở làng Yên Lãng.
Chuyện trên này đời sau viết, cho nên có sự lầm. Ví như: vị sư Huệ Sinh, thì các bản sao viết Huệ Lâm Sinh hay là Huệ Lâm. Sách TUTA/57b có chép chuyện tăng thống Huệ Sinh hộ Lâm chắc là vị ấy. Nhưng Huệ Sinh mất năm 1064, trước năm Thánh Tông đánh Chiêm Thành.
CHƯƠNG III
CẦM
QUYỀN BÍNH
1. Văn võ phân tranh -
2. Liên kết nhân-tâm.
1- Văn võ phân tranh
Tháng giêng năm Nhâm Tý, Thần Vũ thứ tư, vua Lý Thánh Tông mất. Ấy vào ngày Canh Dần (DL 1-2-1072), thọ 50 tuổi. Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi. Tức là Lý Nhân Tông.
Càn Đức là con Ỷ Lan nguyên phi. Sinh năm Bính Ngọ vào tháng giêng (1066). Bấy giờ mới bảy tuổi. Quyền binh ở trong tay thái sư Lý Đạo Thành và Hoàng Thái hậu Thượng Dương họ Dương.
Mẹ Càn Đức, tuy được phong làm Hoàng thái phi, nhưng không được tham dự chính quyền. Thái phi là Ỷ Lan phu nhân, một cô gái nhà quê. Nhân khi vua Thánh Tông hiếm con, đi cầu tự ở chùa làng Siêu Loại, gặp Ỷ Lan trong vườn dâu, vua để ý tới, đem về cung1. Vì sau khi sinh con trai, nên được tôn làm nguyên phi. Khi Thánh Tông vắng mặt ở kinh (1069), Thái phi đã được thay vua cầm quyền. Thái tử còn trẻ; lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại thần. Nhưng sử không chép vua Thánh Tông ủy quyền phụ chánh cho ai. Ta xem đó, nghĩ rằng vua mất một cách nhanh chóng, không kịp di chúc điều đó. Cho nên trong cung cấm có chuyện cạnh tranh. TT còn chép rằng: tháng chạp năm trước, vua mệt. Chiếu cho quan hữu ti rằng có ai vào lầm nhà dành cho quan chức đô tả hữu, thì sẽ phạt 80 trượng. Ý chừng để đề phòng sự cướp quyền.
Phe Thượng Dương thái hậu được Lý Đạo Thành ủng hộ, nên Thái hậu được cầm quyền và Lý Đạo Thành làm phụ chánh. (TT và VSL)
Lý Đạo Thành là một bậc lão thần. Vua Thái Tông lúc mới lên ngôi, đã chọn ông làm thái sư (1054, VSL). Ông ở ngôi tể tướng trong 18 năm. Nay vua còn trẻ, chức phụ chánh về ông là phải. Ông lại là một nhà nho học; ông theo lẽ thường, tôn Thượng Dương thái hậu lên chấp chính. Đó là một cớ xung đột giữa ông và Ỷ Lan thái phi. Là một văn quan, mộ Nho, mộ Phật, chắc ông chuộng hòa bình, trái với Lý Thường Kiệt là một vũ tướng đương tuổi còn hăng hái (54 tuổi).
Thường Kiệt vẫn giữ chức thái úy, cầm binh quyền, nhưng đứng sau thái sư Đạo Thành. Đã có xung đột giữa hai người, thì chẳng bao lâu ắt có cuộc biến.
VSL chép rằng: “ngày mồng 8 tháng tư năm ấy, (TT chép năm ấy là Thái Ninh năm đầu, còn VSL chép năm ấy vẫn để niên hiệu Thần Vũ) sau khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, vua Nhân Tông chọn quan đại liêu Nguyễn Thường Kiệt làm kiểm hiệu thái úy, và Nguyễn Nhật Thành làm binh bộ thị lang”. Họ Nguyễn đây là họ Lý mà đời Trần kiêng húy (tổ nhà vua là Trần Lý) mà đổi ra. Nhật Thành chắc là Đạo Thành. Chứ Đạo hình như vì húy nên đời Trần cũng thay đổi (XV/1).
Theo đó, bốn tháng sau khi Nhân Tông lên ngôi, phe Thường Kiệt đắc thắng. Thường Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo Thành bị giáng xuống chức thị lang.
Đó là kết quả của sự Nguyên thái phi vận động ở trong. Cho nên ta không lấy làm lạ rằng năm sau có cuộc Thái phi tính hay ghen, thấy mình là sinh mẫu mà không được dự chính, bèn nói với vua rằng “Mẹ già đã khó nhọc nuôi nấng con, mới có ngày nay. Bây giờ đã được phú quý, thì người khác giành mất chỗ. Họ sẽ đặt mẹ già vào chỗ nào?” Vua bèn giam Thái hậu và 72 thị nữ vào cung Thượng Dương (cung riêng của Thái hậu), rồi ép phải chết theo vua Lý Thánh Tông. (VSL chép 72 người, TT chép 76. Tục truyền cũng 72, và nói vì vậy, sau này Ỷ Lan dựng 72 ngôi chùa để chuộc tội).
Còn Lý Đạo Thành phải giáng chức, làm tả gián nghị đại phu, ra coi châu Nghệ An (TT). Đạo Thành ra đó lập viện Địa tạng, trong ấy để tượng Phật và vị hiệu vua Lý Thánh Tông để thờ. Lý Thường Kiệt chuyền cầm quyền binh cùng Thái phi, mà bấy giờ cũng tôn lên làm Linh nhân, Hoàng thái hậu. (TT)
Tuy các sử không đâu chép, nhưng trong việc Khuynh đảo Thượng Dương thái hậu, chắc Thường Kiệt có một phần trách nhiệm. Sử chỉ đổ lỗi cho Ỷ Lan xui con, và cho Nhân Tông, vì nhỏ tuổi, nghe lời mẹ. Nhưng thật ra, vua mới tám tuổi; Thượng Dương lại cầm quyền. Nếu không có một đại thần, cầm quân đội trong tay, giúp, thì làm sao ép được Thái hậu tự tử? Còn Lý Đạo Thành, theo như lời bàn của Ngô Sĩ Liên (TT), chắc đã phản kháng việc ấy, nên mới bị biếm ra Nghệ An, và mới ôm hận, mang theo thần vị vua Thánh Tông để thờ. Đạo Thành làm thế để tỏ lòng uất ức.
Một sự đáng làm ta chú ý đến, là trong TT không hề nói đến Thường Kiệt trong khoảng đầu đời Nhân Tông. Nhưng nhiều sách khác của người Tống nói rõ địa vị của ông; và, như ta thấy trên, VSL, là sách viết tự đời Trần, và chưa từng bị sửa chữa lại, cũng nói rõ ông được làm thủ tướng. Chính bia LX cũng nói rõ rằng: “Lúc đầu đời Thái Ninh, vua ta nay là Minh hiếu Hoàng đế, cầm vận nước lên ngôi. Vì ông (Thường Kiệt) có tài, văn ngang Y Doãn, vũ sách Hoắc Quang, nên vua giao coi việc đại chính và phó xã tắc cho ông”2. VĐUL cũng nói: “Lúc Nhân Tông lên ngôi, trao cho ông chức Phụ quốc Thái úy”, ấy cũng hợp với VSL. Các sách Tống nói rõ ràng hơn. Sách MKBĐ (Quyển 2) rằng: “Nhật Tôn (Thánh Tông) mất, Càn Đức lên, lấy hoạn quan Lý Thường Cát và mẹ Lê Thị Yến Loan Thái phi cùng coi việc nước”. Người Tống chép theo âm, như ta cũng nhận thấy tên Lý Thường Kiệt và Ỷ Lan thái hậu. Sách LNĐĐ cũng nói: “Nhật Tôn mất, con là Càn Đức lên, tự gọi là Minh Vương. Quyền về tay bầy tôi. Đại thần Thượng Cát cầm đầu.” Sách TB (279/11a) cũng chép tên Lý Thượng Cát ấy. Cho đến bia NBS, của Nhữ Bá Sĩ dựng đời Tự Đức, mà cũng chép: “Lúc Nhân Tông lên ngôi, Lý Thượng Cát dự chính”. NBS tưởng Thượng Cát và Thường Kiệt là hai người.
Những chứng cớ trên làm ta không thể nghi ngờ rằng, hoặc trước, hoặc sau khi Thượng Dương Thái hậu mất, Thường Kiệt cầm hết quyền binh trong tay: văn và vũ. Vả, vì đó, Thường Kiệt đã phụ Ỷ Lan trong việc tranh giành ngôi thứ với Hoàng Thái hậu, và trong việc bức tử 73 nhân mạng.
Đó là một vết đen trong trang sử xán lạn của Lý Thường Kiệt. Nhưng ông là võ tướng; trong trận đánh Chiêm, cũng như sau này, trong các trận đánh Tống, ông còn hi sinh biết bao nhiêu là nhân mạng nữa, gấp trăm ngàn lần sự bức sát này.
Muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ Lan, và có lẽ cho ông, ta nhận rằng đời Lý còn giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ Lan mất (1117), có ba thị nữ chết theo, (TT và VSL) và sau khi vua Lý Nhân Tông mất (1127) cũng có cung nữ lên dàn lửa để chết theo vua. (TT)
Trên kia đã nói, sách TT không hề nói đến chuyện Lý Thường Kiệt cầm quyền tể tướng. Chắc rằng, đời sau, khi Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên viết sử, Khổng học đã thịnh, kẻ họ đã dùng sử học làm một khoa luân lý; cho nên tự sửa chữa các việc cũ theo ý ấy. Thường Kiệt là một hoạn thần, mà hoạn thần xưa nay không được nho thần trọng. Nho thần lấy khoa cử xuất thân, coi hoạn thần như là đầy tớ trong cung. Vả từ cuối đời Hán về sau, các hoạn thần đã lạm dụng sự gần gũi cung cấm mà tiếm quyền, cho nên đời sau rất ghét hoạn quan cầm quyền bính. Có lẽ Lý Thường Kiệt cũng bị ghét lây. Sử gia cho ông không đáng chức tể tướng, cho nên tước khử sự ấy trong sử cũ mà không chép lại.
_____________________________________
1. Làng là bởi chữ hương mà dịch ra. Nhưng hương không phải một làng nhỏ như bây giờ. Từ đời Tần, nước Trung Quốc chia ra từng quận. Quận chia thành huyện. Huyện chia thành hương. Hương chia thành đình. Đình chia thành lý. Tuy đời sau có đổi chế độ ít nhiều. Nhưng hương vẫn là phần của huyện. Lúc nước ta thuộc Bắc, nước thành quận, cũng bị chia ra châu hay huyện. Vậy chế-độ hương có từ đời ấy. Mà hương là lớn như một tổng lớn đời sau.
Về chuyện Ỷ Lan, xem lời dẫn tường tận ở sách Chuyện Ỷ Lan, (nhà xuất bản Sông Nhị).
2. Y Doãn làm quan đời Thương. Trước ở ẩn, vua Thang ba lần đến mời, mới chịu ra. Ông có công giúp vua Thang đánh vua Hạ Kiệt. Sau vua Thang mất, có phó thác cháu là Thái Giáp cho ông. Thái Giáp còn trẻ, tính hư. Y Doãn truất đi, bèn hối qua.
Hoắc Quang, tướng đời Hán, là em Hoắc Khứ Bệnh (I, Cth 2) Quang giúp vua Hán Vũ đế rất có công, Vua mất, giao ông phò vua Chiêu đế. Quyền hoàn toàn trong tay ông. Chiêu đế chết, ông lập xương ấp vương tên Hạ. Vì Hạ dâm loạn, ông lại bỏ đi, lập vua Tuyên đế. Nói tóm lại Y Doãn và Hoắc Quang là hai bầy tôi, được vua phó thác hoàng tử còn bé. Tuy cầm hết quyền binh trong tay, hai người đều trung thành với chúa, và không nhân cơ hội đoạt ngôi vua. Lời bia so sánh Lý Thường Kiệt với Y Doãn, Hoắc Quang đủ tỏ rằng Lý Thường Kiệt đã làm tể tướng cầm hết quyền trong nước, trong khi Lý Nhân Tông còn nhỏ.
Bia BA có câu: “Vua nhỏ có thể phó thác cho ông”. Đó là thêm một chứng nữa rằng Thường Kiệt được sung chức phụ chính.
2- Liên-kết nhân-tâm
Vua gia phong cho ông chức Đôn quốc thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ và ban cho hiệu Thượng phụ công. Thế là ông coi việc văn, việc vũ, và kiêm cả chức cầm quan. “Ông bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lòng lấy sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn” (NBS). Bấy giờ ông 55 tuổi (năm 1073).
Sự yên ổn ấy chỉ có bề ngoài. Thật ra, ở biên thùy có nhiều triệu chứng chiến tranh. Năm sau (Giáp Dần 1074) Chiêm Thành lại bắt đầu quấy biên cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động binh.
Có lẽ, vì thế, Lý Thường Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm. Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích gây ra vì chuyện Thượng Dương thái hậu. Năm ấy (Giáp Dần 1074), mời Lý Đạo Thành từ Nghệ An trở về, giữ chức Thái phó, bình chương quân quốc trọng sự, hiệp tác với Thường Kiệt coi việc dân và quân trong nước, để cho Thường Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống Tống, và thay ông trong khi phải xuất ngoại cầm quân.
Lý Đạo Thành là một bậc lão thành, được sĩ phu ngưỡng vọng. Việc ông bị biếm vào Nghệ An chắc đã gây mầm chia rẽ lớn ở triều.
Bây giờ, bên triều Tống, cũng có việc hai phái tân cựu cạnh tranh. Tân và cựu, không phải chỉ trong phương pháp (VI/3), nhưng ở cả cá nhân. Phái tân có thủ lĩnh Vương An Thạch; trong phái ấy, người đều còn trẻ. Phái cựu gồm hầu hết các lão thần. Thấy Vương An Thạch và đồng phái đều còn ít tuổi mà lên cầm quyền, phái cũ không bằng lòng, cho nên sự xung đột về chủ nghĩa lại tăng kịch liệt.
Chắc rằng, ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng của cuộc xung đột ấy. Vua còn trẻ, đáng lẽ các lão thần phụ chính. Mà bây giờ, quyền lại vào tay một vũ tướng mới hơn 50 tuổi. Thêm là một hoạn quan, Phái già chắc bất mãn. Muốn lấy lòng phái ấy, Thường Kiệt tất phải hậu đãi các lão thần. Vì vậy mới có việc mời Lý Đạo Thành trở về dự chính, và việc vua hạ chiếu cho phép những công thần 80 tuổi, mỗi khi vào chầu, được chống gậy và ngồi ghế. (TT)
Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, để chiêu dụ hiền tài. Từ trước, tuy có lập Văn miếu (1071), tuy có dùng nho quan, nhưng chưa hề có mở khoa thi để khuyến khích và tuyển nhân tài. Năm Ất Mão (1075), vào tháng hai, vua hạ chiếu tuyển các nhà Minh kinh bác học, chọn kẻ hiểu sách Kinh, học rộng; và mở khoa thi Nho đầu tiên ở nước ta. Lê Văn Thịnh đậu khoa ấy, và được vào dạy vua Nhân Tông bấy giờ lên 10 tuổi. Trong các việc này, chắc Lý Đạo Thành có ảnh hưởng lớn. Thế cũng đủ tỏ rằng hai nhà họ Lý kia đã thành thật đồng tâm cộng sự. Nhờ sự hòa hảo trong triều, mà sau này, tuy Tống tìm phương chia rẽ các đại thần để dễ bại quân ta. Nhưng Tống sẽ hoàn toàn thất bại.
Ta sẽ thấy vũ công của Lý Thường Kiệt trong năm sắp tới rất to. Mà xem việc trên đây, ta cũng thấy về chính trị, ông cũng là tay rất giỏi.
CHƯƠNG IV
CHÍNH-SÁCH BẮC-CƯƠNG
TRIỀU LÝ
1. Cương vực Đại
Việt - 2. Dân vùng biên giới
3. Họ Nùng và Châu Quảng Nguyên - 4. Phủ dụ - 5. Chinh phạt.
3. Họ Nùng và Châu Quảng Nguyên - 4. Phủ dụ - 5. Chinh phạt.
1 - Cương vực Đại
Việt
Đời Lý ở nước ta là đồng thời với nhà Tống bên Trung Quốc.
Nhân bên Trung Quốc, có cuộc phân tranh đời Ngũ đại cho nên ở miền Nam, dân Giao Chỉ đã có cơ Tự Lập. Từ khi Khúc Thừa Mỹ (919), Ngô Quyền (939) chiếm cứ được đất, đánh lui quan Nam Hán, thì trung nguyên xứ Bắc kỳ bây giờ, đã do tay người Giao Chỉ tự quản trị. Nhưng công ấy không bởi một người, cho nên quyền chưa tập trung. Kịp khi Ngô Xương Văn mất, các tướng tá tranh giành nhau. Nhưng sự tranh giành ấy cũng không ra ngoài trung nguyên.
Đến khi nhà Đinh nhất thống sơn hà (986), thì bên bắc, nhà Tống cũng vừa mới lập (963). Hai nước còn bận việc trị an những nơi gần căn cứ mình, cho nên chưa nghĩ đến việc biên thùy. Nhưng khi nghe tướng Tống đã vượt xuống Lĩnh Nam vào vùng Lưỡng Quảng (970), thì Đinh liền sai sứ sang Tống xin giao hiếu (973, TB 14/6a), và Tống cũng nhận cho ta tự trị và phong cho Đinh Bộ Lĩnh làm An nam quận vương. Tiếng rằng tự trị, thật thì Tống chẳng có quyền thực tế gì ở nước ta. Chỉ có điều là ta thỉnh thoảng phải sang cống phương vật và chịu Tống phong cho chức tước theo lệ chư hầu.
Sở dĩ Tống chưa muốn chiếm lại nước ta như đời Đường là vì còn bận việc nơi khác (VI/1). Cuối đời Đinh, cha con vua Đinh bị nạn (979), tướng là Lê Hoàn có ý chiếm ngôi. Tống bấy giờ trong nước đã gần yên, nhân cơ hội định chiếm lại Giao Chỉ. Lấy cớ đánh Hoàn, Tống sai quân sang xâm lấn nước ta. Đó là mở cuộc bang giao khó khăn ở hai nước (980). Nhờ Hoàn đánh bại thủy quân Tống ở sông Bạch Đằng, giết chết đại tướng Hầu Nhân Bảo ở Chi Lăng (giáp giới Bắc Giang và Lạng Sơn) và phá tan lục quân của Thẩm Khâm Tộ ở Tây Kết (tháng ba năm Tân Tị 981), nước ta tránh khỏi ách Tống. Vua Tống phải nhận Lê Hoàn làm chủ ở nước ta (986).
Phía Bắc, Lê Hoàn đánh lui quân Tống, phía nam đại phá quân Chiêm. Nước ta nhờ đó có cơ đồ khá vững vàng. Nhưng khoảng đất Hoàn cai trị không quá vùng trung nguyên1. Còn miền thượng du thì hình như chưa ràng buộc gì cả. Tuy nhiên, biên giới miền đông bắc đã rõ ràng; và trên hai đường thông lộ lớn, từ châu Vĩnh An ở vùng Hải Ninh, Móng Cái, đến Khâm Châu (kintcheou) và từ huyện Quang Lan, là Ôn Châu, ở phía nam Lạng Sơn, đến Ung Châu (Nanning), thì hai nước kiểm soát cẩn thận2. Biên thần Tống thường thám thính tình hình nước ta, nhưng Tống còn bận việc bắc cương đối với Liêu (vùng Bắc Bình và Mãn Châu), Hạ (vùng Thiểm Tây), cho nên chưa muốn gây hấn với ta. Dẫu có khi dân ta sang quấy (995) mà Tống cũng làm ngơ3. Đến lúc Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi, quan Tống xin đem quân sang đánh ta (1006). Nhưng vua Chân Tông vẫn không bằng lòng. Vua nói rằng: “Hoàn đã trung thành, ta không nên nhân y chết mà đánh. Vả núi sông Giao Chi hiểm trở, thủy thổ độc dữ. Có lấy được cũng vô ích”4 (TS. 488 và TB 63/8b).
Sau đó, vua Tống lại bằng lòng cho Lý Công Uẩn nối nhà Lê. Tính rộng rãi của Tống Chân Tông đã tỏ trong câu trả lời cho tả hữu về việc Công Uẩn tranh ngôi Lê: “Lê Hoàn bất nghĩa mà được nước. Lý Công Uẩn bắt chước, rất là đáng ghét. Nhưng man tục như thế, không nên trách.” (TS 488)
_____________________________________
1. Lê Hoàn chia đất cho các con cai trị như sau: 1/ Khai Minh Vương LONG ĐĨNH coi Đằng Châu (vùng Kim Động). 2/ Ngự man vương LONG ĐINH coi Phong Châu (vùng Sơn Tây, Phú Thọ). 3/ Ngự bắc vương LONG CÂN coi Phú Lan (vùng Văn Lâm, Mỹ Hào). 4/ Định phiên vương LONG TÚNG coi Ngũ huyện Giang (Thanh Hóa). 5/ Tư doanh thành phó vương LONG TƯƠNG coi Đỗ động ( vùng Thanh Oai, Thượng Phúc). 6/ Trung quốc vương LONG CÁNH coi Mạt Tên (Tiên L). 7/ Nam quốc vương LONG MANG coi Vũ Long (Thanh Hóa). 8/ Hành quân vương LONG ĐẾ coi Cổ Lãm (Quế Dương, Đông Ngạn). 9/ Phù Đái vương (?) coi Phú Đái (vùng Vĩnh Bảo, Vĩnh Lại).
Trên đây, phần lớn theo CM mà nhận đất, trừ Ngũ Huyện Giang mà CM cho là sông Cà Lồ ngày nay. Xét các đất trên ta thấy các vương chỉ cai quản vùng đồng bằng mà thôi. Có lẽ các vùng khác tù trưởng coi, nhưng các sách không thấy nói.
2. Sách sử ta chép sơ lược đến nỗi bây giờ ta không biết hết tên các thành phần nước ta đời Lý. Sách LNĐĐ (Tống) chép: Giao Chỉ chia làm 4 phủ, 13 châu, 3 trại, Phủ có Đô Hộ, Đại Thông, Thanh Hóa, Phú Lương. Châu có Vĩnh An, Vĩnh Thái, Vạn Xuân, Phong Đạo, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Già Phong, Trà Lô, Yên Phong, Tô Châu, Mậu Châu (sách TB chép châu Tô Mậu), Lạng Châu. Trại có Hòa Ninh, Đại Bàn, Tân Yên. Đại để thì Thanh Hóa, Già Phong, Nghệ An, Vĩnh An đều kề bể. Mà Vĩnh An giáp Khâm Châu, Trà Lô giáp Chiêm Thành, Tô Châu, Mậu Châu giáp Ung Châu. Phía đông Giao Chỉ có sông nhỏ, vượt qua đến Khâm, Liêm. Phía tây có lục bộ đi nước Mán áo trắng (Thái, Sơn La, Lai Châu). Lục đó đi về nam đến Chiêm Thành, đi về bắc đến Ung Châu.
Tuy LĐĐ chép sơ sài, và chưa chắc đã đúng hết, nhưng những tài liệu ấy cũng khiến ta biết ít nhiều về sự phân hạt ở nước ta hồi Lý.
3. Năm 995, việt coi trấn Như Hồng, phía tây Khâm châu, là Trương Quan, tâu với vua Tống rằng: Giao Chỉ cướp châu Như Hồng và biên giới Ung Châu. Y lại nói Lê Hoàn đã bị họ Đinh đuổi ra ở ngoài hải đảo và đã chết rồi. Vua Tống sai xét lại, thấy lời tâu ấy sai: bèn đem giả cho ta những dân đã trốn sang đất Tống (TS 488).
4. Ngày mồng 1 tháng 3 năm Q.Ma (1003), viên coi Khâm châu nói có bọn Hoàng Khánh Tập đem hơn 450 người vào xin phụ. Hoàng Khánh Tập là một viên chức ở Vĩnh An. Vua Tống bảo ủy dụ chúng và bảo chúng trở về nước (TB 54/15a). Viên chuyển vận xứ Quảng Tây tuân mệnh bảo Hoàng Khánh Tập trở về Vĩnh An (TB 54/15b). Năm sau, Lê Hoàn sai con là Minh Đề vào nước Tống cống. Minh Đề chưa về, Lê Hoàn đã mất (1005). Các con tranh giành ngôi thứ. Trong nước loạn. Minh Đề phải lưu lại ở Quảng Châu (TB 62/7b).
Vua Tống giao cho viên coi Quảng Châu là Lăng Sách, và viên an phủ sứ dọc bể là Thiệu Dục xét về việc Giao Chỉ. Tháng 6 năm B.Ng (1006), Lăng Sách tâu: “Các con Lê Hoàn tranh nhau ngôi. Đền nhóm đồ đảng đóng ở các trại. Việc công bỏ bễ, dân tình lo sợ. Tụi Hoàng Khánh Tập, Hoàng Tú Man với hơn nghìn người không chịu theo, nên bị đe dọa. Chúng đưa thân thuộc chạy tới Liêm Châu, xin tính việc đem binh mã đánh Giao Chỉ. Tụi Khánh Tập tình nguyện đi tiên phong. Chắc thế nào cũng lấy được. Chúng tôi đã hội bàn. Nếu triều đình nhận lời xin, chỉ đem quân ở đạo chúng tôi và thêm vài ba nghìn quân vùng Kinh Hồ (Hồ Nam), theo hai đường thủy bộ cùng tiến. Lập tức bình định được”. Vua nói: “Lê Hoàn tiếp tục cống hiến, lại từng sai con sang chầu. Khiến cho góc bể miền Nam yên ổn, chưa hề trái đạo làm tôi. Nay nghe Hoàn chết. Chưa điếu-tuất nó mà đã nhân tang nó để vội đánh. Kẻ vương giả há lại làm việc ấy ư?”. Vua Tống ban chiếu: “Sai Lăng Sách an ủi tụi Khánh Tập, cấp cho ăn mặc, cho ruộng, ban chức một cách ưu hậu”. Thiệu Dục vâng chiếu, viết thư cho Giao Chỉ, dụ rằng: “Nếu anh em còn giết hại lẫn nhau, quân nhà vua sẽ trị tội; thì họ Lê không còn dòng giống nữa đâu”, Lê Minh Hộ sợ, lập tức tôn Lê Long Đĩnh làm chúa. Rồi vua Tống sai Dục lấy lễ vật trước định cho Lê Hoàn, đem cho Long Đĩnh. Nhưng Dục tâu: “Vỗ về dân ngoài, cốt nêu lòng thành tín của nó. Chi bằng đợi Long Đĩnh tới cống rồi sẽ phong tước, để hậu đãi nó.” Vua Tống khen là phải (TB 63/8b).
Từ lúc Lý lập nước (1009), ngoài việc có các vương toan cướp ngôi Thái Tông, bên trong không có sự cạnh tranh khác. Cho nên các vua Lý rất chú ý đến việc biên cương phương nam và phương bắc.
Về phương nam, địa giới đã rõ ràng, vì có dãy núi Hoành Sơn ngăn đôi hai nước Chiêm và Việt. Dân Chàm cũng như dân ta, sinh nhai về cày cấy. Gần biên giới chung, dân ta và dân Chàm sống trên hai đồng bằng Châu Hoan và Bố Chánh cách xa nhau, nên ít sinh sự xâm lấn lẫn nhau, trừ phi những vụ giặc bể Chàm vào cướp ven bể rồi bỏ đi mà thôi.
Còn về phương bắc, ngoài hai dân tộc Hoa và Việt, có nhiều dân tộc khác mà cả hai nước đều gọi là Man (Thổ, Nùng, Mán...), chiếm miền rừng núi rất rộng ở giữa hai bình nguyên lớn: Triền sông Lô (Nhị Hà) ở ta và triền sông Uất chảy xuống châu Ung (Nanning) ở Tống. Từ miền Cao Bằng bây giờ sang đông, biên giới đã khá rõ ràng. Theo LNĐĐ và các sử, ta có thể nhận thấy như sau. So với ngày nay, thì đến vùng Đông Khê, không khác lắm. Từ đó ra biển, bắc ngạn sông Kỳ Cùng thuộc về Tống, gồm có châu Tây Bình, Lộc Châu và huyện Thanh Viễn. Rồi tới chỗ gần bể, phần đất nước ta còn ăn vào tỉnh Quảng Đông đến gần vịnh Châu Khâm1. Còn về phía tây Cao Bằng, dân man ở thành từng động, không hẳn thuộc về ai; cho nên biên giới có thể nói là chưa có. Nhưng ảnh hưởng Lý cũng tới vùng Bảo Lạc và miền Yên Bái ngày nay.
Biên hạt Tống giáp nước ta gồm có các đất sau:
Đất KHÂM CHÂU giáp với châu Vĩnh An (tên cũ là Triều Dương, năm 1023 mới đổi), tức là vùng Hải Ninh, Móng Cái bây giờ.
Từ đó sang phía tây, hai nước cách nhau một con sông nhỏ, là sông Kỳ Cùng ngày nay. Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại: Thiên Long, Cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn. Năm trại ấy đều thuộc Ưng Châu.
Trại THIÊN LONG giáp giới Khâm Châu, và có lẽ với phần tây châu Vĩnh An. Trại CỔ VẠN gồm đất TƯ LĂNG và giáp châu Tô Mậu ở nước ta.
Trại VĨNH BÌNH gồm phần đất các châu TƯ MINH, BẰNG TƯỜNG, một phần TƯ LĂNG và phần đất ở bắc ngạn sông Ô Bi (Kỳ Cùng thuộc Lạng Sơn), Đất gần sông có châu TÂY BÌNH (vùng Đồng Đăng và phố Lạng Sơn) và Châu Lộc (vùng Lộc Bình ngày nay). Trại Vĩnh Bình tiếp đất với các châu sau này ở nước ta: Tô Mậu (vùng Na Dương, Đình Lập, An Châu), huyện Quang Lang (vùng Ôn Châu ngày nay), và châu Văn (vùng nam châu Văn Uyên và châu Văn Quan, tức phố Bình Gia trong địa đồ Đông Dương). Huyện Quang Lang và châu Văn thuộc châu Lạng.
Trại THÁI BÌNH, địa phận đất rộng, gồm có đất châu An Bình, châu Đống (Thượng đống và Hạ đống), châu Long, đều ở phía đông những đất châu Thất Nguyên, châu Môn (Đông Khê), châu Tư Lang (Thượng và Hạ Lang) và châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân Tông, châu Thái Nguyên (Thất Khê ngày nay) tùy thuộc quyền Lý, nhưng thỉnh thoảng cũng còn theo Tống (VII/3).
Trại HOÀNH SƠN gồm phần đất giữa biên thùy Cao Bằng ngày nay và hữu giang. Những động giáp châu Quảng Nguyên ở đất ta là Hạ Lôi, Ôn Nhuận (bây giờ là Hồ Nhuận).
Nhìn biên giới Tống Việt trên bản đồ, ta sẽ thấy chỉ chừng một phần tư biên giới Trung Việt ngày nay là khá định; nghĩa là ảnh hưởng Lý và Tống tiếp xúc thực sự. Còn dư, về phía tây, đều thuộc những bộ lạc hầu như độc lập. Ai mạnh, kẻ nấy cai quản.
Đường biên giới hình một đường cung, một phần tư vòng tròn, tâm ở Ung Châu, một bán kính chỉ xuống phía nam, một bán kính chỉ sang phía tây. Cái địa thế đất ta ôm đất Ung Châu là cớ quan trọng trong việc biên dân thuộc quận Ung Châu, và giúp thắng lợi cho cuộc tấn công vào thành Ung Châu của Lý Thường Kiệt sau này.
_____________________________________
1. Nay ở gần phía đông thành Lạng Sơn có trang Bình Tây (ĐKĐD), có lẽ là Tây Bình mà đổi ra. Vả theo TS quyển 488, châu Tây Bình có huyện Như Ngao. Nay còn làng Như Ngao ở phái tây Lộc Bình. Suy đó mà đoán, Tây Bình là vùng gồm tỉnh lị Lạng Sơn và Lộc Châu là vùng gồm Lộc Bình ngày nay,
Lại theo Quảng Đông Chí, ở biên giới Khâm Việt có sông tên An Nam. Xét bản đồ, thấy sông ấy nay ở địa phận Khâm Châu. Vả trong các sách địa chí ta, Bạch Long Vĩ thuộc nước ta. Nay thuộc Trung Quốc. Sử lại ghi rằng đời Mạc, Mặc Đăng Dung đem các động Tư Lẫm, Cổ Sum, Liễu Cát, La Phù, Kim Lặc, thuộc hai đô (như tổng) Như Tích và Chiêm Lãng, hiện cho vua Minh. Sách Khâm Châu Chí chép rõ ràng hơn: Mấy châu ấy đời Tống là đất riêng của họ Hoàng coi; gần như độc lập, tuy rằng vua Tống ban chức trại chúa. Đầu đời Minh, Trung Quốc thu ấn của trại chúa. Rồi chỉ coi các đắt ấy như những động, và cho Hoàng làm động trưởng. Đời Minh Tuyên Đức, tức là lúc Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, các động ấy về Lê. Đến đời Minh Gia Tĩnh, Mạc Đăng Dung đem biếu vua Minh để cầu phong.
2- Dân vùng biên-giới
Hai bên biên giới, từ Bảo Lạc đến châu Vĩnh An, giáp Khám Châu, sinh tụ nhiều dân tộc riêng biệt, không phải Việt mà cũng không phải Trung Hoa. Cả hai nước Tầu và ta đều gọi chúng bằng tên chung: Man-dân.
Thật ra, Man dân gồm nhiều giống khác, có lẽ từ đời Tống, Lý, đến nay không thay đổi mấy. Theo các sách và sử, ta sẽ phân biệt các dân ấy bằng họ.
Ở cực đông, có họ Hoàng ở hai mé biên giới, tại động Như Tích và châu Vĩnh An. Họ Hoàng nhỏ nhưng đã từng làm châu mục ở Vĩnh An.
Họ Vi là một họ lớn, chiếm vùng Tư Lăng, Lộc Châu, Tây Bình ở Tống và châu Tô Mậu ở ta. Các động trưởng ở vùng này đều họ Vi. Họ Vi có ba họ khác nhau, Nùng, Hoàng, Chu, mà bốn họ mà Tống sử (TS 495), nhận là dân Khê Động vùng Tả Giang và Hữu Giang.
Tả Giang và Hữu Giang là hai nguồn sông Tây Giang ở Lưỡng Quảng. Hữu Giang phát nguyên từ Vân Nam, chảy xuống qua Quảng Tây, theo hướng đông nam. Tả Giang phát nguyên từ chỗ giáp giới tỉnh Cao Bằng và Vân Nam, chảy qua Cao Bằng, rồi theo chiều đông bắc, qua Quảng Tây và hợp với Hữu Giang ở phía thành Ung Châu. Sông Ô Bì (Kỳ Cùng) là một nhánh của Tả Giang.
Các họ Nùng, Hoàng, Chu vân vân, ở trong triền hai sông ấy. Họ Nùng phần lớn ở bốn châu: An Bình, Vũ Lặc, Tư Lãng, Thất Nguyên thuộc Tả Giang và ở Quảng Nguyên, tức là trên đất Cao Bằng ngày nay. Họ Hoàng ở về phía tây, thuộc Hữu Giang, nhất là ở bốn châu An Đức, Qui Lạc, Lộ Thành, Điền Châu, tức là phía bắc và tây bắc biên giới Cao Bằng. (LNĐĐ và QHNHC)
Sự phân biệt bằng địa điểm như thế không tuyệt đối đúng. Thật ra, các họ ở lẫn nhau. Họ Nùng ở các châu phía tây đạo Đắc Ma (thuộc Vân Nam), và họ Hoàng cũng ở phía đông đất Quảng Nguyên.
Hai đạo Tả và Hữu Giang gồm 50 đến 60 động (TS, QHNHC). Tù trưởng các động ấy khi trước đều tự lập. Đời Đường có viên kinh lược Ung Châu, là Từ Thân Hậu, chiêu dụ; nên mới theo Đường.
Từ khi Tống lập nước, quan Tống coi Quế Châu, hay là coi Ung Châu, đã tìm cách thu phục các khê động ấy. Nhưng thật ra cũng chỉ có các động, gần các đồn binh Tống theo. Còn các động ở xa, thì hoặc tự lập, hoặc chỉ nạp cống ít nhiều lấy lệ, hoặc đã theo Lý. Các châu Vạn Nhai (Vũ Nhai ở Thái Nguyên ngày nay) Vũ Lặc (ở Cao Bằng) Quảng Nguyên, đều nộp cống cho vua Lý.
Nước ta nhỏ, nên đường đất từ kinh đô đến các khê động ấy không xa. Lý kiểm soát vùng tây tả giang dễ dàng hơn quan Tống đóng ở Ung Châu. Sử ta còn chép rõ các việc vua Lý hay các hoàng tử dẹp loạn ở vùng ấy1. Nhưng cũng có bộ lạc, thỉnh thoảng bất bình vì một việc gì, đều bỏ đất này qua đất khác. Vì thế, cương giơi ở vùng này còn lưu động. Vua Lý rất quan tâm mở cõi về vùng ấy.
Còn quan Tống, thì giữ thế thủ. Ấy bởi vì đối với Tống, đất nào cũng đã cho là thuộc mình rồi. Cho nên, quí hồ dân khê động không quấy rối vùng đồng ruộng dọc sông, quan Tống không cần hỏi đến. Muốn gìn giữ đất vùng xuôi, quan Tống đã đặt ra những trại, tức là đồn ở biên giới chia dân khê động và Hán dân. Đối với tả, hữu giang và nước ta, Tống đã đặt năm trại thuộc Ung Châu: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long, và hai trại thuộc Khâm Châu: Như Tích và Để Trạo.
Sau này ta sẽ thấy rằng, tất cả các việc lôi thôi giữa Lý và Tống đều bởi những cuộc xung đột giữa các dân khê động, hoặc tự ý tranh giành, hoặc tự triều đình Lý xui giục.
Nội trong các dân khê động trên đất Lý, họ Thân chiếm một địa vị đặc biệt. Mục sau (IV/4) sẽ nói rõ. Ấy là dân động Giáp, thuộc Lạng Châu.
Họ Thân ba đời làm phò mã dưới triều Lý. Nguyên họ Giáp, sau đổi ra Thân; chữ thân khác chữ giáp chỉ có thêm dài nét sổ lên phía trên.
Động Giáp chắc ở phần bắc tỉnh Bắc Giang ngày nay và phía nam ải Chi Lăng2. Đất này là chỗ rất quan yếu. Nó chặn con đường lớn nhất từ Ung đến nước ta. Mà đối với trại Vĩnh Bình của Tống thì có các đèo ải rất hiểm thuộc huyện Quang Lang che chở. Muốn qua huyện ấy phải qua hai ải rất hiểm: ải Quyết Lý kề phía bắc Ôn Châu ngày nay và ải Giáp Khẩu, tức Chi Lăng ở phía nam Ôn Châu. Trong cuộc Lý Tống chiến tranh sau này, hai ải ấy sẽ có công dụng rất lớn.
______________________________________
1. Sau đây, kể những việc dẹp loạn can hệ trong đời Lý Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông.
Năm 1013, Lý Thái Tổ thân chinh giặc Hạc Xác (Vân Nam) ở Kim Hoa và Vĩ Long (huyện Kim Anh và châu Chiêm Hóa ngày nay).
Năm 1014. Dực thánh vương đánh Dương Trường Huệ cũng ở vùng ấy.
Năm 1015, Dực thánh vương và Vũ đức vương đánh Hà Trắc Tuân ở các Đô Kim (huyện Hàm Yên), Vĩ Long (Châu Chiêm Hóa), Thường Lân (?), Bình Nguyên (Châu Vĩ Xuyên), thuộc vùng Tuyên Quang, Hà Giang bây giờ.
Năm 1022, Dực Thánh Vương đánh Đại quang lịch, đốt kho tàng ở trại Như Hồng (khoảng giữa Mông Cái và Khâm Châu).
Năm 1021, Thái tử (sau là Lý Thánh Tông) đánh châu Phong Luân (?) và Khai quốc vương đánh châu Đô Kim (xem trên, 1015)
Năm 1029, Thái tử (sau là Lý Thánh Tông) đánh châu Thất Nguyên (châu Thất Khê), Đông chinh vương đánh châu Văn (châu Văn Uyên, Văn Quan vùng tây nam Lạng Sơn).
Năm 1033, Lý Thái Tông than chinh châu Đinh Nguyên (có lẽ vùng Yên Bái) rồi thân chinh châu Trễ Nguyên (?).
Năm 1036, Khai hoàng vương đánh dẹp các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên (xem trên. 1015) Quảng Nguyên (Cao Bằng), Lạng (nam Lạng Sơn và bắc Bắc Giang), Tô Mậu (phía đông Bắc Giang), vì dân các châu này đánh Tống. Về việc này, chắc là chính vua Lý sai các châu ấy đánh Tống. Vì Tống trách, nên giả vờ sai quân dẹp.
Cũng năm ấy, Thái Tông thân chinh Lâm lây (vùng Hưng Hóa, Thanh Sơn ).
Năm 1039, Thái Tông thân chinh Nùng Tồn Phúc ở Quảng Nguyên (Cao Bằng).
Năm 1041, vua sai tướng đánh Nùng Trí Cao cũng ở đó.
Năm 1042, Khai hoàng vương đánh châu Văn (xem 1029)
Năm 1048, Vũ uy hầu và Quách Thịnh Di đánh Nùng Trí Cao ở Quảng Nguyên (Cao Bằng).
Năm 1061, Thánh Tông thân chinh động Sa Đảng (?)
Năm 1064, Thánh Tông thân hành động Ma Sa (Đà Bắc, Hòa Bình ).
Năm 1065, Thánh Tông thân chinh châu Mường Quán (vùng Sơn La).
2. Các sách TS và TB chép nhiều lần họ Thân kéo quân vào đánh trại Vĩnh Bình ở Tống. Vậy động Giáp, tức là quê họ Thân không xa biên giới Vĩnh Bình. Ta lại biết rằng họ Thân từng làm châu mục Lạng Châu (VSL: Thân Thiệu Thái làm châu mục Lạng Châu năm 1060). Động Giáp thuộc Lạng Châu. Lạng Châu gồm tỉnh Bắc Giang (Phủ Lạng Thương ngày nay) và phần nam tỉnh Lạng Sơn, Động Giáp ở về phần nào?
Sách VSL có phép: năm 1059, vua Lý Thánh Tông đi săn vùng sông Nam Bình, thuộc Lạng Châu; nhân đó tới chơi nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên. Ta biết rằng Cảnh Nguyên là con Thiếu Thái và công chúa Bình Dương: lấy công chúa Thiên Thành năm 1066 (VSL). Vả lại, nhờ chuyện Trương Hống, Trương Hát chép ở sách VĐUL, ta cùng biết rằng sông Nam Bình là sông Thương ngày nay (xem phụ lục ở cuối). Với những điều tham khảo trên, ta thấy rằng: năm 1059, Lý Thánh Tông đi săn vùng Bắc Giang, gần sông Thương lắm, và nhân đó vua tới nhà Thân Cảnh Nguyên ở động Giáp. Ta có thể kết luận rằng động Giáp không xa sông Thương lắm, và chắc ở trong hạt tỉnh Bắc Giang ngày nay. Vả phía bắc ải Chi Lăng, có huyện Quang Lang, đất đai rất hiểm trở, và ít ruộng đất cày cấy được; một cự tộc như họ Thân chắc cai quản địa hạt giàu có hơn.
Ngày nay, trong vùng Lạng Giang, còn có nhiều làng có tên Kép, như phố Kép trên đường xe lửa Phủ Lạng Thương đi Lạng Sơn là một, Kép chắc là bởi chữ Giáp mà ra và đó là những làng họ Giáp ở ngày xưa, theo TB, ta có thể đoán (XI/1) rằng ải Chi Lăng có tên là Giáp Khẩu. Tuy chữ Giáp đây là gần nhau, khác chữ giáp là họ Giáp, nhưng ta cũng có thể ngờ rằng động Giáp ở kề phía nam ải ấy.
Về đời sau, còn có họ giáp, như Giáp Hải đậu trạng nguyên đời Mạc, họ Giáp này người huyện Phượng Nhãn cũng ở Bắc Giang. Cho đến các họ Thân hiển đạt đời Lê Thánh Tông (Thân Nhân Trung) cũng vậy.
Phụ Lục. - VĐUL chép chuyện Trương Hống và Trương Hát hiện lên giúp vua Ngô Nam Tấn. “Hai thần hội quân ở cửa hù Lan (Lục đầu) Anh (Hống) đóng binh trên sông Vũ Binh, kéo tới sông Như Nguyệt, rồi lên nguồn sông Phú Lương (mấy khúc sông Cầu). Em (Hát) đóng binh ở sông Lạng, kéo vào sông Nam Bình.
Nay Hát có đền thờ ở “cửa sông Như Nguyệt” tại làng Như Nguyệt ở Nam Ngạn sông Cầu; và Hống có đền thờ ở “cửa sông Nam Bình”, ở làng Phượng Nhãn ở Bắc Ngạn sông Thương.
3- Họ Nùng và châu
Quảng Nguyên
Quảng nguyên là địa phận Cao Bằng bây giờ. Nay châu Quảng Uyên là tên cũ đổi ra (theo ĐNNTC, cuối đời Hồng Đức đổi; nhưng có lẽ đời Mạc tránh tên húy Mạc Phúc Nguyên). Tuy châu ở cách xa Thăng Long, ít ruộng, rừng núi hầu khắp nhiều thú dữ, khí độc, nhưng sẵn vàng bạc. Vùng Ngân Sơn (nghĩa núi bạc). Nguyên Bình, Thạch An (ĐKĐD và ĐNNTC), xưa có lò vàng bạc. Phía tây thông với vùng Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay; chính đó có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ chì và thiếc (nhất là ở vùng Tụ Long, bị mất vào Trung Quốc từ hồi thuộc Pháp, nay ở vào hơn 20 cây số trong tỉnh Quảng Tây về phía tây bắc Hà Giang). Vùng này có giống Nùng (lấy họ Nùng), là một dân tộc đông và mạnh, ở rải rác từ Hữu Giang và Tả Giang thuộc Quảng Tây cho đến châu Quảng Nguyên.
Trước khi Tống lập quốc, họ Nùng đã mạnh. Có Nùng Dân Phú được vua Nam Hán phong làm thủ lĩnh mười châu ở Quảng Nguyên. Sau khi Tống Thái Tông lên ngôi, Dân Phú lại xin qui phụ (977) và được phong chức kiểm hiệu tư không. (TB 18/4a và TS 495).
Đầu đời Lý, có Nùng Tồn Phúc (theo TT, còn TS chép Toàn Phúc) quê ở động Tượng Cần, châu Thạch An thuộc Cao Bằng bây giờ (CM), làm thủ lĩnh châu Thảng Do (có lẽ ở miền Trung thẳng thuộc Cao Bằng). Tồn Phúc giết em là Tồn Lộc thủ lĩnh châu Vạn Nhai (Vũ Nhai ở Thái Nguyên bây giờ, CM) và em vợ là Đương Đạo thủ lĩnh châu Vũ Lặc (ở Cao Bằng), thuộc tả giang (TS 495 và TTh 13). Tồn Phúc nhờ các lò vàng, trở nên giàu có, chiêu tập dân các động chung quanh; tự xưng đế và không chịu cống vua Lý. Y bèn dời nhà ra chỗ đất gọi là nước Trường Sinh, xây thành, luyện binh; quyết chí độc lập. Theo ĐNNTC, thành Na Lữ, phía tây thành Cao Bằng, chính là kinh thành của họ Nùng ngày xưa. Có lẽ kinh đô nước Trường Sinh là ở đó.
Tháng hai năm Mậu Dần (1038), Lý Thái Tông tự cầm quân tới đánh, bắt được Tồn Phúc và con cả là Tri Thông; vợ là Ả Nùng và. con thứ là Trí Cao chạy thoát qua động Lôi Hỏa. Trí Cao bấy giờ mới 14 tuổi (theo Tiêu Chú, lời dẫn của Tư Mã Quang trong sách TTh 13).
Năm Tân Tị (1041), Ả Nùng và Trí Cao trở về chiếm lại châu Thảng Do, rồi đổi ra nước Đại Lịch. Lý Thái Tông sai quân đánh, bắt được Trí Cao; nhưng thương tình cha và anh đã bị giết, cho nên tha cho về, và cấp thêm đất ở vùng châu Tư Lang (TT). Theo một thoại, Lý Thường Kiệt (23 tuổi) cố can vua đừng tha vì sợ có hậu hoạn. Nhưng vua không nghe. (I/2). Rồi hai năm sau (1043), vua lại sai sứ đến tận nơi phong hàm thái bảo. (TT)
Thế mà năm Mậu Tý (1048), Trí Cao lại làm phản. Tiêu chú (TTh 13) nói Trí Cao thông với người xung quanh vua Lý, định cướp nước (có lẽ cướp vùng Quảng Nguyên). Vua sai tướng đánh. Trí Cao thua chạy sang đất Tống; cướp châu An Đức ở phía bắc vùng Bảo Lạc ngày nay. Trí Cao lại lập nước, đặt tên Nam thiên quốc, lấy hiệu Cảnh Thụy, và xin phục dịch Tống (TB, TT, TTh, TS). Nhưng Tống sợ mất lòng vua Lý, nên khước từ. Trí Cao chạy tới Văn Thôn thuộc Hữu Giang (TT 13), ở đó do thám tình hình Ung Châu. Bấy giờ có Kỵ Mân làm quan Tống bị biếm, phải đi tuần thú ở Ung. Mân muốn lập công, bèn đưa quân đi tuần sâu vào man địa gần nơi Trí Cao đóng. Bị Trí Cao bắt, Mân nói dối rằng được triều mệnh sai tới chiêu dụ. Trí Cao mừng, sai bộ hạ đi theo Mân về Ung, dâng biểu cầu phong. Lại dâng vật báu: ngà voi, vàng, bạc. Vua Tống lại từ khước, viện lẽ Trí Cao thuộc nước ta.
Trí Cao rất tức giận. Trong bị ta đánh, ngoài bị Tống từ. Mới định tâm nổi loạn. Lại có tiến sĩ Hoàng Sư Mật thường qua lại Quảng Nguyên buôn vàng, trở nên quen thuộc. Sư Mật vốn người Quảng Châu. Y tỏ bày tình hình, trong hạt mình cho Trí Cao nghe và nhận làm mưu chủ. Sau khi kết đảng với bộ hạ của viên coi châu Ung, Trí Cao ngầm đốt hủy sào huyệt mình, rồi hội quân mà nói rằng: “Của cải chúng ta, tích trữ cả đời, nay bị thiên tai, đã hóa ra tro. Chúng ta không còn kế gì sinh sống nữa. Chỉ còn cách đánh lấy Ung Châu để tự lập”. Quân chúng đều nghe theo. (TS 495)
Tháng tư năm Hoàng hữu thứ ta (Nhân Thìn, 1052), Trí Cao đem 5.000 quân, dọc sông Hữu Giang mà xuống miền đông, lấy trại Hoành Sơn (Điền Châu bây giờ) vào tháng tư; rồi xuôi Uất, xuống đánh thành Ung. Vì có nội công, Ung mất ngày mồng một tháng năm (A tị, DL 31-5-1052 TB 172/12a).
Trí Cao đặt quốc hiệu Đại Nam, tự xưng Nhân huệ hoàng đế, cải nguyên Khải lịch, rồi dọc theo sông Tầm, xuống sông Tây mà tiến tới Quảng Châu các châu lị không có thành trì; quân Tống lại hèn nhát. Còn quân Trí Cao là quân vong mạng, cho nên đến đâu được đó. Các châu dọc sông đều lần lượt mất. Trong khoảng mười ngày, Trí Cao phá các châu Hoành (9-5), Quí (12-5), Củng (16-5, nay là Bình Nam), Tầm, Đằng (17-5), Ngô (17-5, nay là Thương Ngô), Phong (17-5), Khang (18-5, nay là Đức Khánh), Đoan (19-5, nay là Triệu Khánh). Vừa trong hai tuần, mà từ Ung Châu, quân Trí Cao đã đến Quảng Châu (22-5). Quân và tướng Tống đều sợ hãi. May có Vương Hãn đóng thành chống lại. Trí Cao đánh suốt ngày đêm, trong 57 ngày, không hạ được, (TS 495); bèn rút quân lui. Ấy là ngày 18 tháng bảy (N.Tu, DL 16-8-1052; TB 173/1b).
Trong các trận, Trí Cao giết hơn 3.000 tướng tá Tống, bắt hàng vạn người. Qua đâu đốt phá đó. Vua Tống rất lo. Bèn sai các quan sở tại là bọn nho thần Dư Tĩnh, Dương Điền, Tôn Miễn ra dẹp, nhưng không ngăn nổi thế giặc.
Vua Lý Thái Tông rất quan tâm đến việc Trí Cao đánh bại Tống. Thấy quân Tống bị đại bại, biết binh lực Tống ở miền nam rất kém, vua muốn nhân cơ hội, thử thách. Bèn xin đem hai vạn quân đi đường bể tới Khâm Châu tiếp viện (TT). Vua Tống chưa dám bằng lòng. Dư Tĩnh nói rằng: “Trí Cao là nghịch thần của Giao Chỉ. Ta nên nhận lời cho Giao Chỉ xuất quân; chớ trái ý tốt của nó”. Rồi nhiều lần, Tĩnh dâng sớ về bàn. Cuối, Tĩnh tâu: “Ung Châu và Giao Chỉ tiếp đất. Nay nếu ta không nhận lời, Giao Chỉ giận, sẽ giúp Trí Cao”. Vua Tống bèn ưng thuận cho phép Tĩnh tự liệu (ĐĐSL 75)
Nhưng ngày Canh Ngọ tháng 9 (DL 23-10), tướng Tống là Địch Thanh được chuẩn lời tình nguyện đi đánh Trí Cao (TB 173 11b). Địch Thanh là một vũ tướng có nhiều mưu kế. Thanh sợ trúng mưu ta, nên tâu cùng vua Tống rằng: “Mượn binh ngoài dẹp giặc trong không lợi cho ta đâu. Chỉ vì một Trí Cao mà sức Lưỡng Quảng không chống chế nổi, đến phải mượn quân ngoài; thì hoặc giả quân ấy nhân đó làm loạn, ta lấy gì để ngăn?”. Vua Tống bèn hạ chiếu ngăn không cho quân Lý vào cõi. (Đ. Vì tháng giêng năm Quí Tị, DL 28-1-1053; TB 174/1a)
Sau khi rút khỏi Quảng Châu, Trí Cao tới đánh Hạ Châu, nhưng cũng không phá được; bèn rút về phía tây. Dọc đường, Trí Cao đánh bại nhiều tướng Tống rồi kéo đánh Tân Châu. Dư Tĩnh bỏ chạy về Ung. Lần lượt Tân (DL 30-10-1052) và Ung (DL 6-11-1052) đều mất. Tĩnh sai tướng Trần Thự đem một vạn quân đón giặc. Thự chù chừ, nên bị thua to ở trạm Kim Thành, trên đường Tân tới Ung. Ấy là ngày mồng một tháng chạp (N. Ta, DL 24-12-1052; TB 173/18a).
Tháng giêng năm Quí Tị (1053), Địch Thanh đến Tân Châu, hội chư tướng. Vì các tướng đều có ý khinh Thanh, nên Thanh ra lệnh chém Trần Thự. Ai nấy đều khiếp. Trước đó, Thanh cầm quân ở vùng Diên Phu chống Hạ (vùng Thiểm Tây). Thanh đem nhiều quân kỵ ở vùng ấy theo xuống. Có kẻ bảo Trí Cao phải chặn ải Côn Lôn, trong núi trên đường Tân Ung, đừng để Thanh xuống đồng bằng, vì ở đồng bằng dùng kỵ binh rất lợi. Nhưng Địch Thanh muốn hành quân gấp, nên không đợi lương thực tới, ra lệnh biện tại chỗ lương thực ăn mười ngày. Trí Cao tưởng là Thanh còn đóng quân lại nghỉ, nên không nghe lời bày mưu: lại còn nhân hãy thượng nguyên (rằm tháng giêng) trường đến đặt hội. Thanh cho quân tiến gấp qua ải Côn Lôn, thẳng tới thành Ung. Đang đêm, Địch Thanh mặc áo thường lẩn vào tiền quân mà vượt ải. (TB 174/2b)
Trí Cao được tin báo, lật đật đem quân chặn lại. Hai quân gặp nhau ở phố Qui Nhân. Ấy là ngày 17 tháng giêng (M.Ng, DL 8-2-1053). Thanh cho bộ binh ra trước, dấu kỵ binh ở sau. Còn Trí Cao thì trái lại, cho quân kiêu dũng cầm trường thương ra trước, để quân hèn ốm ở sau. Lúc giáp trận, quân tiền phong Tống thua. Nhưng Thanh nghiêm hiệu-lịnh; các tướng sĩ không dám lùi. Rồi Thanh trèo lên cồn cao, cầm cờ ngũ sắc, ra hiệu cho kỵ binh hai cánh đổ ra, đánh vào sau quân kiêu dũng của Trí Cao. Quân tả tiến sang hữu, quân hữu tiến sang tả. Rồi tả lại về tả, hữu lại về hữu (TS, TB), cắt quân địch ra hai đoạn. Quân Trí Cao tan vỡ, chết mất ba nghìn.
Trí Cao rút quân về thành. Đang đêm, đốt thành bỏ chạy. Quân Thanh đuổi đến Điền Châu, nhưng không kịp nữa. (TTh)
Trí Cao đem tàn quân về đóng ở trại Đặc Ma (phủ Quảng Nam, miền đông Vân Nam), đồ tâm trở lại Ung Châu. Một mặt, Trí Cao kết thân với thủ lĩnh trại ấy là Nùng Hạ Thành để mua ngựa và mộ quân, vì Đặc Ma là nơi sản xuất rất nhiều ngựa tốt. Một mặt sai Lương Châu tới nước ta xin quân giúp (VSL).
Ý chừng vua Lý Thái Tông cũng muốn tiếp tục thử thách sức Tống, và muốn trả thù sự vua Tống đã không giữ lời hứa cho quân mình tới Khâm Châu (TT), bèn sai viên chỉ huy Vũ Nhĩ đem quân đi giúp (VSL và TT). Nhưng sau khi thấy Trí Cao đã thua và thế Địch Thanh mạnh, Lý thôi không phái quân đi nữa.
Hai năm sau, Dư Tĩnh cho quân vào Đặc Ma, bắt được mẹ, em và con Trí Cao. Còn Trí Cao, thì chạy vào nước Đại Lý thuộc Vân Nam ngày nay phía tây Còn Minh; rồi chết ở đó.
4- Phủ dụ.
Trên đây lược kể lại chuyện Nùng Trí Cao. Tả thấy rõ ràng hồi bấy giờ, biên giới miền bắc nước ta thật chưa định, mà Tống cũng thường bỏ không phòng bị. Vua Lý, trái lại rất có chủ kiến muốn nhân sự bất định ấy mà bành trướng lãnh thổ về phía Bắc. Muốn vậy, chỉ cần hoặc phủ dụ man dân, hoặc uy hiếp chúng để chúng theo mình; vì hễ chúng theo tức thì lãnh thổ chúng cũng sáp nhập về mình. Đến lúc người Tống biết ra, thì thường đã chậm rồi. Nếu không muốt sinh sự, Tống ắt phải nhận. Nói tóm lại, đối với man dân ở bắc thùy, Lý đã dùng chính sách chiêu dụ hoặc uy hiếp để đi đến chính sách “làm trước cãi sau” đối với Tống.
Mà thật vậy, khác những triều khác, các vua Lý đã không chia rẽ hoa, di, và đã lợi dụng sự hôn nhân để kết thúc các dân tộc biên thùy. Các sách sử VSL và TT còn chép nhiều việc vua gả công chúa cho châu mục, nghĩa là người miền núi cầm đầu một châu.
Trong các châu ở biên giới, Lạng Châu là quan trọng hơn cả, vì vừa ở gần kinh kỳ, vừa ở trên đường bộ từ Tống sang ta. Lạng Châu tức là nay thuộc vùng Bắc Giang và phần nam Lạng Sơn. Lạng Châu có động Giáp, rất to, chúa động họ Giáp, sau đổi ra họ Thân, đã nhiều đời làm phò mã. Động Giáp ở phía nam ải Chi Lăng1. Sách MKBD chép rõ ràng rồi “Giáp động là một bộ lạc lớn. Chủ động tên là Giáp Thừa Quí, lấy con Lý Công Uẩn rồi đổi ra họ Thân. Con Thừa Quí là Thiệu Thái lại lấy con gái Đức Chính (Thái Tông). Con Thiệu Thái là Cảnh Long lại lấy con Nhật Tôn (Thánh Tông).
Tống sử cũng chép Giáp Thừa Quí lấy con gái Lý Công Uẩn (TS 488). Xem như vậy, đủ biết họ Giáp này đã có thanh thế từ trước. Chắc từ đời Lê, đã mạnh, mới có sự Lý Thái Tổ kén phò mã trong họ như vậy. Có lẽ muốn xóa vết tích man động nên đã đổi họ ra họ Thân.
Con Thừa Qúi là Thiệu Thái, nối cha làm mục Lạng châu. Năm Kỷ Tị (1029), vua Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho Thân Thiệu Thái (TT và VSL).
Con Thiệu Thái và công chúa Bình Dương là Thân Cảnh Nguyên (VSL 1059), hay Đạo Nguyên (VSL 1066), hay Cảnh Long (MKBD2), hay Cảnh Phúc (TB 297/11a), cũng được kén lấy công chúa Thiên Thành năm Bính Ngọ, 1066, đời Lý Thánh Tông.
Nhờ vậy họ Thân đã rất trung thành với nhà Lý, và là một phên giậu rất kiên cố ở trên đường sang Tống. Trong những cuộc dụng binh đối Tống, họ Thân sẽ có công nhiều.
Năm Bính Tý (1036), vua Thái Tông lại gả công chúa Kim Thành (theo TT; VSL chép Khánh Thành) cho châu mục Phong Châu (vùng Sơn Tây, Phú Thọ bây giờ) tên là Lê Thuận Tông, và công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai (có lẽ vùng Hòa Bình ngày nay) là Hà Thiện Lãm.
Vua Thái Tông lại chọn con gái Đào Đại Di ở châu Chân Đăng (vùng Hưng Hóa) đưa về cung làm hoàng phi (1033, TT). Vua Thánh Tông gả con nuôi là công chúa Ngọc Kiều2 cho châu mục Chân Đăng họ Lê (TUTA và TT)
Nhờ chính sách ấy, lòng dân miền trung du tây và bắc đều qui hướng về nhà vua.
Cho đến Nùng Trí Cao, tuy cha con đã phản lại ta, mà vua Thánh Tông không những tha cho, lại còn hậu đãi nữa3.
____________________________________
1. Các sách TS và TB chép nhiều lần họ Thân kéo quân vào đánh trại Vĩnh Bình ở Tống. Vậy động Giáp, tức là quê họ Thân không xa biên giới Vĩnh Bình. Ta lại biết rằng họ Thân từng làm châu mục Lạng Châu (VSL: Thân Thiệu Thái làm châu mục Lạng Châu năm 1060). Động Giáp thuộc Lạng Châu. Lạng Châu gồm tỉnh Bắc Giang (Phủ Lạng Thương ngày nay) và phần nam tỉnh Lạng Sơn, Động Giáp ở về phần nào?
Sách VSL có phép: năm 1059, vua Lý Thánh Tông đi săn vùng sông Nam Bình, thuộc Lạng Châu; nhân đó tới chơi nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên. Ta biết rằng Cảnh Nguyên là con Thiếu Thái và công chúa Bình Dương: lấy công chúa Thiên Thành năm 1066 (VSL). Vả lại, nhờ chuyện Trương Hống, Trương Hát chép ở sách VĐUL, ta cùng biết rằng sông Nam Bình là sông Thương ngày nay (xem phụ lục ở cuối). Với những điều tham khảo trên, ta thấy rằng: năm 1059, Lý Thánh Tông đi săn vùng Bắc Giang, gần sông Thương lắm, và nhân đó vua tới nhà Thân Cảnh Nguyên ở động Giáp. Ta có thể kết luận rằng động Giáp không xa sông Thương lắm, và chắc ở trong hạt tỉnh Bắc Giang ngày nay. Vả phía bắc ải Chi Lăng, có huyện Quang Lang, đất đai rất hiểm trở, và ít ruộng đất cày cấy được; một cự tộc như họ Thân chắc cai quản địa hạt giàu có hơn.
Ngày nay, trong vùng Lạng Giang, còn có nhiều làng có tên Kép, như phố Kép trên đường xe lửa Phủ Lạng Thương đi Lạng Sơn là một, Kép chắc là bởi chữ Giáp mà ra và đó là những làng họ Giáp ở ngày xưa, theo TB, ta có thể đoán (XI/1) rằng ải Chi Lăng có tên là Giáp Khẩu. Tuy chữ Giáp đây là gần nhau, khác chữ giáp là họ Giáp, nhưng ta cũng có thể ngờ rằng động Giáp ở kề phía nam ải ấy.
Về đời sau, còn có họ giáp, như Giáp Hải đậu trạng nguyên đời Mạc, họ Giáp này người huyện Phượng Nhãn cũng ở Bắc Giang. Cho đến các họ Thân hiển đạt đời Lê Thánh Tông (Thân Nhân Trung) cũng vậy.
Phụ Lục. - VĐUL chép chuyện Trương Hống và Trương Hát hiện lên giúp vua Ngô Nam Tấn. “Hai thần hội quân ở cửa hù Lan (Lục đầu) Anh (Hống) đóng binh trên sông Vũ Binh, kéo tới sông Như Nguyệt, rồi lên nguồn sông Phú Lương (mấy khúc sông Cầu). Em (Hát) đóng binh ở sông Lạng, kéo vào sông Nam Bình.
Nay Hát có đền thờ ở “cửa sông Như Nguyệt” tại làng Như Nguyệt ở Nam Ngạn sông Cầu; và Hống có đền thờ ở “cửa sông Nam Bình”, ở làng Phượng Nhãn ở Bắc Ngạn sông Thương.
2. Ngày nay ở làng Hương Nộn, kề tỉnh lỵ Hưng Hóa, còn có một chùa bên cạnh đền thờ “Lê phu nhân”. Trước đền có tấm bia rất cũ, dựng đời Lý, vì còn chữ niên hiệu Chính Long Bảo Ứng, là khoảng 1163-1174 đời Lý Anh Tông. (theo Hưng Hóa Phong Thổ Phú của Vũ Phạm Hàm). Sách TUTA (59b) và Tt (3/16a) chép: Ngọc Kiều góa chồng, bèn đi tu, Vua ban hiệu ni sư, và mất năm 1113, chắc Lê Phu Nhân này là công chúa Ngọc Kiều ấy, tuy rằng cũng có thể là công chúa Kim Thành vợ Lê Thuận Tông, người Phong Châu.
3. Năm 1041, Lý Thái Tông tha cho Nùng Trí Cao và ban các động Lôi Hỏa, Bình, Bà, Tần và châu Tư Lang. Năm 1043, vua Lý sai Ngụy Trưng đến tận Quảng Nguyên ban cho Trí Cao ấn thái bảo. Đời sau, sử gia không hiểu thâm ý vua Lý Thái Tông. Lê Văn Hưu cho rằng vua nhu nhược, bị đạo Phật mê hoặc, cho nên “thiên về việc nhỏ mà quên nghĩa lớn của nước” (TT 2/33a).
5- Chinh phạt
Tuy vậy, ở vùng thượng du, uy quyền trung ương có khi bị các tù trưởng khinh miệt. Hoặc chúng không nạp thuế, hoặc chúng tự lập một nước nhỏ, hoặc chúng theo lời dụ dỗ của quan Tống, mà bỏ ta theo Tống.
Các vua quan triều Lý, tuy chịu ảnh hưởng đạo Phật, thường tỏ thái độ khoan hồng; nhưng về chính trị, họ rất tin rằng muốn ràng buộc các phiên thần, phải dùng cả uy lẫn đức. Xem như việc đời Lý Thái Tông, khi Chiêm Thành không tới cống, vua hỏi quần thần: “Tiên đế mất đã mười sáu năm, mà không có một sứ Chiêm Thành nào tới cả, vì sao vậy? Ấy vì trẫm không gia uy đức sao, hay vì nó cậy có sông núi hiểm trở?” Các quan trả lời: “Chúng tôi cho rằng tuy Bệ hạ có gia đức, nhưng uy chưa trương rộng. Ấy vì cớ đó. Từ khi Bệ hạ lên ngôi, nó trái mệnh không tới chầu. Tuy Bệ hạ thi bố đức huệ để tỏ lòng yêu, nhưng chưa từng trương vũ uy mà đánh nó. Không phải là làm như vậy mà kẻ ở xa sợ”. (TT)
Cũng vì lẽ ấy, mỗi khi có biên biến, các vua thường sai đại tướng, hoặc các hoàng tử đánh dẹp. Nhiều lần vua tự thân chinh1. Chuyện họ Nùng vừa kể trên là một bằng chứng. Vùng thường hay có biến nhiều nhất là vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng ngày nay. Nhưng các châu ở vùng Đà Giang và Thao Giang cũng có lần phải dẹp.
Với hai chính sách đức và uy, nhà Lý đã kết thúc được dân vùng bắc thùy. Nhờ vậy, cương vực được mở mang dần dần sang địa phận tả và hữu Giang; và lúc Tống định tiêu diệt nước ta, quân các phiên trấn đã giúp ta được phần lớn.
_____________________________________
1. Sau đây, kể những việc dẹp loạn can hệ trong đời Lý Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông.
Năm 1013, Lý Thái Tổ thân chinh giặc Hạc Xác (Vân Nam) ở Kim Hoa và Vĩ Long (huyện Kim Anh và châu Chiêm Hóa ngày nay).
Năm 1014. Dực thánh vương đánh Dương Trường Huệ cũng ở vùng ấy.
Năm 1015, Dực thánh vương và Vũ đức vương đánh Hà Trắc Tuân ở các Đô Kim (huyện Hàm Yên), Vĩ Long (Châu Chiêm Hóa), Thường Lân (?), Bình Nguyên (Châu Vĩ Xuyên), thuộc vùng Tuyên Quang, Hà Giang bây giờ.
Năm 1022, Dực Thánh Vương đánh Đại quang lịch, đốt kho tàng ở trại Như Hồng (khoảng giữa Mông Cái và Khâm Châu).
Năm 1021, Thái tử (sau là Lý Thánh Tông) đánh châu Phong Luân (?) và Khai quốc vương đánh châu Đô Kim (xem trên, 1015)
Năm 1029, Thái tử (sau là Lý Thánh Tông) đánh châu Thất Nguyên (châu Thất Khê), Đông chinh vương đánh châu Văn (châu Văn Uyên, Văn Quan vùng tây nam Lạng Sơn).
Năm 1033, Lý Thái Tông than chinh châu Đinh Nguyên (có lẽ vùng Yên Bái) rồi thân chinh châu Trễ Nguyên (?).
Năm 1036, Khai hoàng vương đánh dẹp các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên (xem trên. 1015) Quảng Nguyên (Cao Bằng), Lạng (nam Lạng Sơn và bắc Bắc Giang), Tô Mậu (phía đông Bắc Giang), vì dân các châu này đánh Tống. Về việc này, chắc là chính vua Lý sai các châu ấy đánh Tống. Vì Tống trách, nên giả vờ sai quân dẹp.
Cũng năm ấy, Thái Tông thân chinh Lâm lây (vùng Hưng Hóa, Thanh Sơn ).
Năm 1039, Thái Tông thân chinh Nùng Tồn Phúc ở Quảng Nguyên (Cao Bằng).
Năm 1041, vua sai tướng đánh Nùng Trí Cao cũng ở đó.
Năm 1042, Khai hoàng vương đánh châu Văn (xem 1029)
Năm 1048, Vũ uy hầu và Quách Thịnh Di đánh Nùng Trí Cao ở Quảng Nguyên (Cao Bằng).
Năm 1061, Thánh Tông thân chinh động Sa Đảng (?)
Năm 1064, Thánh Tông thân hành động Ma Sa (Đà Bắc, Hòa Bình ).
Năm 1065, Thánh Tông thân chinh châu Mường Quán (vùng Sơn La).
CHƯƠNG V
BANG GIAO
LÝ TỐNG
1. Giao thông - 2. Giao
dịch - 3.Tu cống. 4. Biên-sự buổi châu - 5.Can thiệp trực
tiếp -6.Việc động Tư Lẫm - 7. Việc châu Tây-Bình. Thân
Thiệu Thái. - 8.Việc động Lôi hỏa. Nùng Tông-Đán. - 9.
Kết luận.
1 - Giao thông
Giao Chỉ tiếp đất với Tống, dọc theo biên-thùy đầy núi rừng hiểm trở. Đường giao thông bằng bộ khó khăn. Đường bể dễ dàng hơn nhiều, vì các cửa bể Khâm, Liêm cách biên giới chung chỉ một vài ngày. Và từ cửa sông Bạch Đằng đến châu Vĩnh An giáp hải phận Khâm Châu, có rất nhiều đảo (ở vùng Hạ Long và vịnh Đàm Hà ngày nay). Những đảo lớn, như đảo Cát Bà, Vân Hải, Kế Bào (tên ở địa đồ Đông Dương ngày nay) và vô số đảo nhỏ ngăn một dải nước khá yên lặng trước bờ bể; người ta và Trung Hoa vẫn coi giải nước ấy là một con sông, nối Bạch Đằng với Khâm Châu (Thủy kinh chú). SáchTB (288/13b) có nói đến sông Đông kênh (kênh ở phía đông), có lẽ chỉ dải nước này (XI/5).
Theo sách LNĐĐ đời Tống, đường thủy từ Khâm Châu vào nước ta như sau: từ Khâm Châu, thuyền đi hướng tây nam, một ngày đến châu Vĩnh An; theo trại Đại Bàn (đảo Kế Bào ngày nay) thuộc Ngọc Sơn, tới Vĩnh Thái, Vạn Xuân (vùng Vạn Kiếp, sông Lục Đầu), liền tới Thăng Long, thuyền đi mất năm ngày.
Còn đường bộ từ Ung Châu tới Thăng Long, thì đường tiện nhất là đường ngày nay còn dùng: đường qua Ninh Minh, Bằng Tường, Lạng Sơn, Bắc Giang và Bắc Ninh (tên ngày nay). Theo LNĐĐ, đời Tống, đường ấy từ trại Vĩnh Bình thẳng xuống phía nam, vào huyện Quang Lang thuộc Giao Chỉ. Đường qua hai sông nhỏ Ô Bì và Đào Hoa, đến sông Nam Định, tức là sông Phú Lương. Theo địa thế thì ba sông ấy tức là sông Kỳ Cùng, sông Thương và sông Cầu ngày nay1. Đường đi bốn ngày đến Thăng Long. Đó là đường Quách Quì đem quân Tống xâm ta.
Ở phía tây đường chính lộ ấy, còn có hai đường. Một đường từ trại Thái Bình vào, qua sông La thuộc động Đan Đặc thì tới Lạng Châu. Đường ấy đi mất sáu ngày mới tới Thăng Long. Một đường từ trại Ôn Nhuận thuộc đạo Hữu Giang vào địa phận Cao Bằng ngày nay. Tức là đường Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên. LNĐĐ chỉ nói rằng đường ấy quanh co, chứ không nói đi mất mấy ngày. Nhưng theo lời Triệu Tiết (TB 279/21b), từ Cao Bằng đến Thăng Long có mười hai trạm, tức là đi mất mười hai ngày.
Các đường giao thông này từ đời Đường đã từng dùng. Đến đời Tống, đã có lúc sao lục lại. Năm 1046, khu mật viện kiểm các đường thủy lục dùng từ đời Đường vào Giao Chỉ. Cả thảy có mười sáu chỗ. (TB 158) Mười sáu chỗ ấy gồm phần lớn những ải quan khó đi. Chỉ có bốn đường kể trên là quan hệ. Từ năm 1006, Thiệu Dục sau khi đi sứ Giao Chỉ về đã hiến các bản đồ vẽ bốn đường thủy lục từ Ung vào Giao Chỉ (ĐĐSL 112 và TB 63). Chắc là bốn đường kể trên.2.
_______________________________________
1. Về sông Phú Lương, sẽ có nhiều chứng cớ ở chương X. Về sông Đào Hoa, có những chứng sau này: Trong sứ bộ vua Thanh phái sang nước ta năm N.Tu 1682, có một người quản gia tên Lư Anh Nhân để lại mười bài thơ tả cảnh từ Lạng Sơn đến Thăng Long. Bài tả sông Thương có những câu (Theo sách Nhâm Tuất Thanh sứ):
“Xôn xao ngựa vá qua sông Thương,
Áp nước hoa đào ánh bóng gương.”
Thơ vịnh sông Thương của Nhan Nhữ Tu, sứ Thanh làm năm Tân Tị (1761) cũng có câu: “Nhị hoa nở ực đỏ như son) (Kiến văn tiểu lục của Lê Quí Đôn).
Chắc rằng từ xưa, ở bờ sông Thương có nhiều hoa đào, cho nên đã gọi tên sông là Đào hoa. Sử ta đời Lý chép tên sông Nam Bình (IV/cth6).
2. Đời Minh, các đường từ Trung Quốc vào nước ta còn được ghi một cách rõ ràng. Đại loại cũng có bốn đường nói trong LNĐĐ, nhưng còn thêm đường qua Lộc Bình, đường qua Tuyên Quang, đường theo sông Thao. Các đường ấy có thể chia ra ba loại: từ Quảng Tây, từ Quảng Đông. Và từ Vân Nam.
A) Từ QUẢNG TÂY có ba lối, đều đi đến phía bắc sông Thị Cầu:
a/ Từ BẰNG TƯỜNG khởi hành qua cửa Nam Quan, 1 ngày đến trạm Pha Lũy (Đồng Đăng); qua châu Văn Uyên và phía bắc châu Thoát Lang, 1 ngày đến Lạng Sơn vệ; 1 ngày đến hẻm ở phía bắc Ôn Châu (đèo Kháo Mẹ và Kháo Con, tức là ải Quyết Lý); nửa ngày đến Quỉ môn quan (bầu Chi Lăng, tức là ải Quyết Lý); nửa ngày đến thôn Tân Lệ (Tiên Lệ) ở phía nam Ôn Châu; 1 ngày đến huyện Bảo Lộc; nửa ngày đến sông Xương Giang (sông Thương); 1 ngày đến bắc ngạn sông Thị Cầu (sông Cầu). Cộng 7 ngày.
b/ Từ TƯ MINH khởi hành qua núi Ma Thiên 1 ngày đến châu Tư Lăng; qua ải Biện Cường Châu Lộc Bình (có thể đi về tây đến Lạng Sơn), 1 ngày đến sông Xa Lý (sông Lục Nam); 1 ngày rưỡi đến châu An Bạc (An Châu); 1 ngày rưỡi đến động Hao Quân; 1 ngày đến huyện Phượng Nhãn; 1 ngày đến huyện Bảo Lộc; qua đò Xương Giang 1 ngày đến phủ Lạng Giang; 1 ngày đến bắc ngạn sông Thị Cầu. Cộng 9 ngày.
c/ Từ LONG CHÂU khởi hành 1 ngày đến ải Bình Nhi; 1 ngày đến châu Thất Nguyên; 2 ngày qua xã Bình Gia. Từ đây có thể đi hai ngả:
1o. đến châu Văn Lan (Văn Quan); theo đường núi phía bắc châu Hữu Lũng, ra đồng bằng cách Quỉ Môn quan 40 dặm, 1 ngày đến thượng lưu sông Thương, qua sông rồi theo nam ngạn đến đồng bằng huyện Yên Thế, nửa ngày đến huyện Yên Dũng, 1 ngày đến giữa huyện Yên Việt, ở bắc ngạn sông Thị Cầu.
2o. đến phía tây xã Bình Gia, 1 ngày rưỡi đến đường núi châu Vũ Nhai; 2 ngày đến đất bằng huyện Tư Nông, 1 ngày rưỡi đến phía bắc huyện Yên Việt, và bắc ngạn thượng lưu sông Thị Cầu.
Cả bốn đường trên đều đến Thị Cầu. Từ đó đi Giao Châu (Thăng Long) mất 1 ngày, phải qua phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngạn, huyện Gia Lâm, sông Phú Lương (muốn nói sông Nhị Hà).
B) Từ VÂN NAM có hai lối, một lối dọc sông Lô, một lối dọc sông Thao.
a/ Từ MÔNG TỰ qua thác Liên Hoa, thạch lung quan, động Trình Lan đến hữu ngạn nguồn sông Thao, 4 ngày đến châu Thủy Vĩ; 8 ngày đến châu Văn Bàn; 5 ngày đến huyện Trấn Yên; 5 ngày đến huyện Hạ Hoa; 3 ngày đến huyện Thanh Ba; 3 ngày đến phủ Lâm Thao; 3 ngày đến huyện Sơn Vi; 2 ngày đến phủ Hưng Hóa, 1 ngày đến ngã ba miếu Bạch Hạc; 4 ngày đến huyện Bạch Hạc, qua sông và đến Giao Châu.
b/ Từ ải HÀ DƯƠNG (Hà Giang) khởi hành 10 ngày đến Bình Nguyên, 5 ngày đến huyện Phúc Yên (Hàm Yên); 1 ngày đến phủ Tuyên Quang; 2 ngày đến phủ Đoan Hùng; 5 ngày đến Ngã ba Bạch Hạc.
C) Từ QUẢNG ĐÔNG. thuyền khởi hành từ núi Ô lôi, theo bờ bể, đi 1 ngày đến núi Bạch Long Vĩ thuộc châu Vĩnh An; 2 ngày đến cửa Ngọc Sơn; 1 ngày đến châu Vạn Ninh, 1 ngày đến Miếu Sơn; 1 ngày đến tuần ti Đồn Tốt; 2 ngày đến phủ Hải Đông; 2 ngày đến xã Kinh Thục; 1 ngày đến cửa Bạch Đằng, tuần Thiên Lâu.
Vào nội địa có thể qua những cửa Bạch Đằng, An Dương, Đồ Sơn, Đa Ngư, hay Thái Bình. Các lối vào, kê như sau:
a/ Cửa Bạch Đằng, huyện Thủy Đường (Thủy Nguyên), huyện Đông Triều, phủ Hải Dương, huyện Chí Linh, sông Hoàng Kênh, sông Bình Than, phía bắc Nam Sách, phía bắc Thượng Hồng, Giao Châu.
b/ Cửa An Dương (cửa Cấm) huyện An Dương, phủ Kim Môn, sông Hoàng Kênh, sông Bình Than, phía bắc Nam Sách, phía bắc Thượng Hồng, Giao Châu.
c/ Cửa Đồ Sơn, Cổ Trai, phía bắc huyện Nghi Dương, phía bắc huyện An Lão, huyện Bình Hà, phía nam huyện Nam Sách, phía nam Thượng Hồng, Giao Châu.
d/ Cửa Đa Ngư (cửa Văn Úc), huyện An Lãi, huyện Tân Minh (Tiên Lãng), sông Sóc Hồng thuộc huyện Tứ Kỳ, Hàm Tử Quan thuộc Khoái Châu, Giao Châu.
e/ Cửa Thái Bình, phủ Thái Bình, phủ Tân Hưng (Tiên Hưng), phủ Khoái Châu, sông Phú Lương (muốn nói sông Nhị Hà trước thành Thăng Long).
Tài liệu trên chắc về đời Mạc, vì cớ các tỉnh đều gọi là phủ, và nói đến làng Cổ Trai, tức là quê họ Mạc, mà Mạc đã tôn thành một kinh đô.
Tuy đời Mạc cách đời Lý hơn bốn trăm năm, các đường thông lộ Trung Việt qua bể và qua rừng núi chắc không thay đổi. Trước khi có những máy móc và tổ chức vĩ đại, thì các đường sá, nhất là qua những vùng khó khăn, chỉ theo đường thuộc, nghĩa là đường mòn đã có người dùng trước. Cho nên ta có thể tin rằng đời Tống Lý, đường qua lại giữa hai nước cũng như trên, chỉ có những đường Vân Nam thì Lý chưa dùng, mà thôi. Còn như những tên đất thì tự nhiên phần nhiều đổi khác.
2- Giao dịch
Ngoài sự bang giao chính thức bằng các sứ bộ, hai nước Tống Lý có sự giao dịch hằng ngày ở biên thùy. Trên những chỗ đường thông lộ lớn, qua biên giới, sự buôn bán khá thịnh, và có tổ chức.
Tống, cũng như Lý, sợ người ngoài giả mạo vào buôn bán để do thám. Cho nên lúc thường, tuy cho đi lại thông thương, nhưng chỉ được tụ họp tại một nơi nhất định, gọi là bạc dịch trường (chợ quốc tế).
Một nơi quan trọng thuộc trại Vĩnh Bình. Sách LNĐĐ chép: “trại Vĩnh Bình kề Giao Chỉ, chỉ cách bằng một sông con mà thôi. Phía bắc sông có trạm Giao Chỉ (ở đất Tống). Phía nam sông có đình Nghi Hòa. Đều là chỗ để buôn bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh Bình cai quản, người Giao Chỉ đem các vật quí (vì đường bộ khó chở) như các thứ hương, nhà, sừng tê, vàng, bạc, tiền, đến đổi lấy các thứ vải, vóc. Chỉ có muối là hàng nặng. Muối chỉ dùng đổi lấy vải thường mà thôi. Muối đóng thành sọt, mỗi sọt 25 cân. Vải dệt ở huyện Vũ Duyên, khổ hẹp”. Có lẽ trạm này là chợ Kỳ Lừa ngày nay.
Trên biên giới Sách nam giang (thuộc trại Cổ Vạn) và châu Tô Mậu, cũng có một “bạc dịch trường” nhỏ. Thường, thổ dân hai bên tới buôn bán ở đó.
Một “bạc dịch trường” quan trọng khác ở trại Hoành Sơn, vì đó là chỗ tụ tập các nhà buôn ở xa đến, từ Quảng Nguyên (Cao Bằng) và từ các đạo Đặc Ma, nước Đại Lý (Vân Nam). Châu Quảng Nguyên sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng, chu sa, diêm tiêu. Ấy là những hóa vật rất được chuộng. Các nhà lái buôn lớn, quê ở Quảng Châu, cũng tới đó cất hàng Quảng Nguyên. (Xem chuyện Nùng Trí Cao, VI/3).
Bạc dịch trường lớn nhất gần biên thùy ta là ở Khâm Châu. Trường ấy ở ngoài thành, tại trạm Giang đông. Người nước ta đi thuyền đến đó buôn bán. Lái buôn hạng nhỏ có các phường chài, đem cá, sò đến đổi lấy vải; có hàng xén tới mua giấy bút, gạo. Sự buôn nhỏ ấy, hằng ngày vẫn có, không cần xin phép riêng.
Đến như việc buôn to, thì phải có viên coi châu Vĩnh An ở nước ta thông điệp cho viên coi Khâm Châu trước, rồi kẻ phú thương mới được đem hàng hóa vào. Cũng có lúc, chính phủ ta sai sứ tới Khâm Châu buôn bán. Các hàng của ta có: vàng, bạc, tiền đồng, trầm hương, thục hương, sinh hương, trân châu, ngà voi, sừng tê. Về mặt Tống, các đại thương ở vùng Thục (Tứ Xuyên) một năm tới một lần, đem gấm Thục tới đổi lấy hương chở về Thục. Buôn như vậy rất to, mỗi lần trao đổi kể có hàng nghìn quan tiền.
Trên đây chép theo Chu Khứ Phi (LNĐĐ) là người đã chứng kiến những sự giao dịch ấy (Sách chép xong năm 1188). Khứ Phi còn nói rõ cách buôn bán bấy giờ, chẳng khác ngày nay bao nhiêu. Hai bên đem hàng mặc cả cùng nhau. Hồi lâu mới định giá. Lúc định giá rồi, thì không được thương nghị với ai nữa. Đó là một lệ ai cũng theo. Lời Khứ Phi nói: “giá người mặc cả đầu đã định, thì trời đất cũng không bằng”,nghĩa là ai trả cao bao nhiêu, cũng không được bán. Nếu có ai xấu bụng, muốn bán thầm cũng không làm được; vì lúc ngã giá, phải nhờ quan cân hương và giao gấm. Hình như các hàng ấy phải để sẵn ở công sở. Quan thuế đánh hàng Tống mà thôi, cứ một quan tiền thu ba mươi đồng.
Lúc hai nhà buôn gặp nhau, mời nhau uống rượu làm vui; lâu rồi mới nói đến buôn bán. Trong lúc mặc cả, những tùy tùng trả thêm dần dần đến lúc giá gần bằng nhau, rồi đến ngang nhau. Người Tống thường găng giá. Họ sai người nhà làm nhà ở, buôn bán lặt vặt để tự cấp, rồi họ ở đó mãi, cứ ngâm giá cho người ta mỏi mệt, phải bán rẻ. LNĐĐ chép tiếp: “Nhưng phú thương kia (Việt) ngoan cố, nó không nhúc nhích, cầm vững giá lâu, làm cho ta khốn đốn”.
Theo Khứ Phi, người Giao vốn thực thà. Chắc vì vậy, người Tống cân hàng một cách gian trá, tuy rằng Khứ Phi chép lại. Cho nên Lý đã ba lần sai sứ sang Khâm Châu để thử lại cân. Vì hay bị lừa, nên người nước ta cũng trở nên dối trá. Khứ Phi nói tiếp: “ Gần đây, người Vĩnh An rất gian giả. Vì nhà buôn ta (Tống) bán cho chúng thuốc giả, chúng đúc lẫn đồng vào vàng bạc; hương thì tẩm muối cho nó chìm (để giả trầm hương) hoặc đổ chì vào những lỗ hổng trong hương. Nhà buôn ta đều bị lừa”.
Nói tóm lại, đời Tống Lý, hai nước giao dịch nhiều; không những chỉ giữa dân biên thùy mà thôi, mà cả đến những cự phú từ phương xa tới dự. Hàng hóa như ngà, hương, đạt tới miền kinh đô và Thục; và hàng tơ, vải, gấm, giấy của Tống được dùng ở xứ ta.
Chắc từ đời bắc thuộc đến Đinh, Lê, sự buôn bán ở biên thuỳ đã có rồi. Sử chép rằng: năm 1009 Lê Chí Trung (Ngọa triều) xin buôn bán với Ung Châu (TB 72/19b). Lại chép: năm 1012, Lý Công Uẩn xin cho thuyền tới Ung Châu buôn bán. Vua Tống Chân Tông chỉ bằng lòng, theo lệ cũ, cho tới buôn bán ở Quảng Châu và ở trại Như Hồng (Khâm Châu) mà thôi.
Sự giao dịch với Tống có lợi nhiều cho nước ta về nhu cầu của dân cũng như về quốc dụng. Vả đó cũng tiện cho việc do thám tình hình trong nước Tống. Sau này quan Tống cấm ta sang buôn bán, và vì đó ít nhiều mà đã có cuộc Lý Tống chiến tranh.
Còn ở nước ta, ngoài những trạm biên thùy như trạm Nghi Hòa ở huyện Quang Lang đã nói trên, có một trường bạc dịch lớn tập ở Vân Đồn. Đảo Vân Đồn ở trong nhóm đảo mà bản đồ Đông Dương đề: đảo De la Table. Ấy là đảo lớn ở ngoài hết nhóm ấy. Hình dài, hướng đông bắc tây nam. Phía nam đảo ấy có một đảo nhỏ ngăn thành một lối vào, gọi là cửa Vân Đồn. Đời xưa, đó là một căn cứ hải quân quan trọng, và cũng là một hải cảng duy nhất mở cho thuyền ngoại quốc đến buôn bán. Sách TT chép rằng “năm Kỷ Tị 1149, có thuyền ba ngoại quốc Qua qua (Java), Lô Lạc (?) và Tiêm La tới Hải Đông (miền Quảng Yên) xin ở lại buôn bán. Vua Lý Anh Tông bèn lập những trang ở trên các đảo, đặt tên là Vân Đồn, để mua bán châu báu, hàng hóa và dâng phương vật”.
Tuy năm 1149 mới đặt lệ, nhưng trước đó đã có ngoại quốc đến buôn bán rồi. Có lẽ Vân Đồn là nơi thuyền từng ghé mà LNĐĐ gọi là Đố Sơn. Ngày nay, một nhà khảo cổ Nhật Bản có tìm thấy ở đó nhiều tiền đời Tống và các mảnh sứ đời Tống. Xem vậy thì các thuyền Tống cũng từng ghé buôn ở đó. (sách An Nam mậu dịch cảng Vân Đồn)
Địa vị Vân Đồn rất lợi. Người ngoại quốc ở trên đảo ấy không thể thám thính trong nước ta một cách dễ dàng. Mà ở đó bể lặng, nước sâu, thông với Khâm, Liêm, Quảng ở Tống, và với các nước miền đông và nam rất tiện.
3. Tu cống
Từ khi quân Tống bị thất bại bởi tay Lê Hoàn, nước ta được ghi nhận là một phiên quốc. Lại nhờ các vua Tống trước đời Thần Tông khá hiền từ nhu nhược, cho nên dẫu trong nước ta có lúc biến, mà quân Tống cũng không lợi dụng thời cơ.
Từ lúc Lý lên ngôi, ta cố giữ lễ phiên thần để kết tinh hòa hảo. Hơn hết các triều đại khác, đời Lý đã luôn luôn sai phái bộ đi cống. Không quản đường sá khó khăn, nhiều lần ta đem cả đàn voi, tê đến tận kinh đô Tống, gần Khai Phong, ở sát sông Hoàng Hà. Mỗi lúc ở triều Tống có việc vua thăng hà hay đăng cực, ta có sứ sang điếu hay sang mừng. Mỗi lúc ở triều ta có việc hay hỉ, cũng có sứ ta sang Tống báo tin, hay cầu phong. Mỗi lúc được phong, vua ta lại sai sứ sang tạ ơn.
Ngoài sự bang giao theo điển nghi một phiên thần đối với nước thiên tử, vua Lý thường sai sứ sang xin kinh Phật. Bấy giờ đạo Phật rất thịnh ở nước ta, mà các tàng viện, tự quán, chắc vì loạn lạc, không còn đủ kinh dùng. Sự đồng tôn giáo là một cớ để gây tình hòa hảo.
Sau đây, sẽ kê các phái bộ cống sứ của triều Lý sang Tống, trước khi có việc Lý Tống chiến tranh. Bản kê lập theo TT, VSL, TB và TS. Khi nào sử ta và sử Tàu chép tên và năm hơi khác nhau, tôi theo sử ta. (Một phái bộ thường gồm hai sứ: tên đầu là chánh, tên sau là phó).
Xét qua bản thống kê trên, ta thấy trong khoảng 63 năm, các vua Lý đã sai hơn 23 bộ sang cống vua Tống. Mỗi lúc sứ ta tới, vua Tống rất ưu đãi, ban chức tước cho sứ, và nhân đó gia phong cho vua Lý, từ tước quận vương đến tước vương, và tăng lệ thực ấp và mỹ tự công thần1.
Sứ ta vào nước Tống hoặc bằng đường Khâm Châu, hoặc bằng đường Vĩnh Bình. Mỗi lúc đem voi cống thì đi đường Vĩnh Bình. Quan Tống, Chu Khứ Phi, còn cho ta biết một vài chi tiết về việc cống.
Trước lúc sứ ta tới biên giới, có phái bộ tới trước xin phép cho sứ tới kinh (ở gần Khai Phong ngày nay). Phải có trả lời của triều đình Tống ưng thuận mới được đi. Mỗi phái bộ ta gồm có đến năm mươi người, có lúc đến trăm người. Nhưng số người được đến kinh cũng phải tùy Tống chấp nhận.
Ngoài các tê, tượng, những cống vật thường rất quí. Sau lúc Tống đã phải dời kinh xuống phía nam, vua Lý vẫn cống hiến rất hậu. Năm 1156, Lý Quốc đem cống đồ kim khí nặng hơn 1.200 cân, nạm châu báu nặng phần nửa. Lại thêm 100 hạt trân châu đựng trong bình vàng (3 hạt lớn như quả cà, 6 hạt lớn như hạt mít, 24 hạt lớn như hạt đào, 17 hạt lớn như hạt mận và 50 hạt lớn như hạt táo). Lại thêm 1.000 cân hương trầm, 50 đôi lông thúy, 850 tấm đoạn màu vàng thắm, hoa rồng cuốn, 6 ngựa vua cưỡi đủ cả yên cương, 8 ngựa thường, 5 voi. Phái bộ gồm có 100 người (LNĐĐ 2)
Xem đó biết đời Lý, nước ta giàu biết là bao nhiêu. Những lần khác, tuy cống lễ không hậu như trên, nhưng các đồ vàng, bạc, ngà và hương trầm, cũng trị giá đến vài ba vạn quan. Muốn biết giá trị một lễ như vậy, ta có thể so sánh với tiền ban cho các nhân viên phái bộ dọc đường, mỗi ngày 10 đồng tiền ngoài gạo !
Sứ bộ được ưu đãi dọc đường và lúc tới kinh vua Tống ân cần phủ dụ.
Sứ thần được chọn trong các hàng quan cao cấp biết ứng đối, biết làm thơ. Khứ Phi còn ghi một câu thơ của Lý Bang Chính. Sau khi vua Tống đổi tên nước Giao Chỉ ra nước An Nam (1164), Bang Chính về; dọc đường có đề thơ ở một bưu đình. Trong thơ có câu “Thử khứ ưu thanh tứ quốc danh” (Đi lần này thành công là được ban tên nước).
Đáp lễ lại, vua Tống ít sai sứ đến sứ Thăng Long. Chỉ lúc ở nước ta có quốc tang và tự quân lên ngôi, vua Tống thường sai một viên quan ở Quảng Tây tới điếu ai và phong vua mới: như năm 1029, viên chuyển vận sứ Quảng Tây Vương Duy Chính (T và TB 107) tới tế Lý Thái Tổ và phong Lý Đức Chính (Thái Tông); năm 1055, viên chuyển vận sứ Quảng Tây Tô Yên Thế (TB 181) tới điếu Lý Thái Tông và phong Lý Nhật Tôn (Thánh Tông); năm 1072, viên chuyển vận sứ Quảng Tây Khang Vệ (TB 231) tới điếu Lý Thánh Tông và phong Lý Càn Đức (Nhân Tông).
_______________________________________
1. Các vua Lý chịu Tống phong, thường theo lệ sau:
Sau khi vua cha mất, Thái tử lên ngôi vua và tự xưng hoàng đế. Nhưng đối với Tống thì chỉ coi là quyền tri lưu hậu, nghĩa là tạm coi những việc còn dở dang. Rồi sai sứ sang Tống báo tin: gọi là Cáo ai, Tống sai sứ (viên chuyển vận sứ Quảng Tây) sang làm hai việc: Điếu tặng nghĩa là điếu vua mất và tặng tước cao nhất, THỊ TRUNG NAM VIỆT VƯƠNG; và tấn phong cho vua mới.
Bắt đầu, chỉ phong chức KIỂM HIỆU THÁI ÚY, tước GIAO CHỈ QUẬN VƯƠNG. (Chức tước hoàn toàn là: Kiểm hiệu thái úy, Tĩnh hải tiết độ sứ, An Nam đô hộ Giao Chỉ quân vương)
Sau phong thêm mỹ tự công thần, nghĩa là ban cho những chữ tán tụng những đức tính tốt trong khi giúp vì Thiên tử. Những mỹ tự ấy gồm hai chữ liền. Ban nhiều cặp chữ như vậy bao nhiêu là hậu đãi bấy nhiêu: ví dụ như dực đái, bảo tiết, thủ chính công thần.
Lại phong THỰC ẤP bao nhiêu hộ, nghĩa là cho ăn lộc của bao nhiêu họ phải nộp. Nhưng đó chỉ là hư hàm. Cho nên, còn ban THẬT PHONG hay THẬT THỰC ẤP bao nhiêu hộ.
Mỗi lúc sứ ta sang Tống, hay ở Tống có việc khánh hỉ gì, thì vua Tống gia phong cho vua Lý, gia phong hoặc bằng thêm mỹ tự, hoặc thêm thực ấp. Còn gia phong chức tước thì thường theo thứ tự sau:
ĐỒNG BÌNH CHƯƠNG SỰ, nghĩa là cùng bàn việc nước.
ĐỒNG TRUNG THƯ MÔN HẠ BÌNH CHƯƠNG SỰ (Trung thư là một ti thảo các chiếu chỉ cho vua; môn hạ bình chương sự là bàn việc với vua).
KHAI PHỦ NGHỊ ĐỒNG TAM TI (được quyền mở phủ ở riêng, cùng tam ti tức là ti tài chánh bàn việc nước).
KIỂM HIỆU THÁI SƯ
NAM BÌNH VƯƠNG
Tước Nam bình vương là tột bậc khi vua Lý còn sống. Nếu muốn gia phong, vua Tống chỉ ban thêm mỹ tự hay là thực ấp.
Chỉ sau khi mất, mới tặng chức tước cao nhất; THỊ TRUNG NAM VIỆT VƯƠNG.
Thứ tự trên này phần lớn đúng như vậy, và tuần tự theo. Nhưng cũng có đời vua Tống phong vượt thứ tự, cũng có lúc bắt đầu chỉ cho chức THÁI PHÓ, nhỏ hơn Thái úy, như đời Lý Thái Tổ. Ấy vì bấy giờ, Lý mới cướp ngôi Lê.
Riêng từng triều đại một, sử ta không chép sự phong và gia phong tường tận; vì vua ta không lấy sự được phong làm hân hạnh, nhưng phải nhận, để ngoại giao với Tống cho yên ổn mà thôi. Còn Tống sử (Lễ chí, Giao Chỉ truyện chép rất rõ ràng.
Ví dụ:
LÝ THÁI TỔ
1010 Kiểm hiệu thái phó, Tĩnh hải tiết độ sứ, quan sát sứ, xử trí sứ, An Nam đô hộ, Ngự sử đại phu, Thượng trụ quốc Giao Chỉ quận vương, thực ấp tam thiên (3.000) hộ, thật phong nhất thiên (1.000) hộ, suy thành thuận hóa công thần.
1010, thêm: Đồng bình chương sự, thực ấp 1.000 hộ, thật phong 400 hộ.
1012, thêm: Khai phủ nghị đồng tam ti, thực ấp 700 hộ, thật phong 300 hộ, dực đái công thần.
1014, thêm: Bảo tiết thủ chính công thần, thực ấp 1.000 hộ, thật phong 400 hộ.
1017, tiến: Nam bình vương; thêm: thực ấp 1.000 hộ, thật phong 400 hộ.
1018, thêm: Kiểm hiệu thái úy, thực ấp 1.000 hộ, thật phong 400 hộ.
1022, thêm, Kiểm hiệu thái sư.
1028. tặng: Thị trung Nam Việt Vương.
LÝ THÁI TÔNG
1028, tự xưng: quyền tri lưu hậu sự.
1028, ban: Kiểm hiệu thái úy, Tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ Giao Chỉ quận vương.
1032, thêm: Đồng trung thư môn hạ bình chương sự
1034, thêm; Kiểm hiệu thái sư.
1038, tiến: Nam bình vương.
1055, tặng: Thị trung Nam Việt Vương.
LÝ THÁNH TÔNG
1055, ban: Kiểm hiệu thái úy, Tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ, Giao Chỉ quận vương.
1064, gia: Đồng trung thư môn hạ bình chương sự.
1068, tiến: Nam bình vương.
1072, tặng (?) TS không chép, nhưng chắc là Thị trung nam việt vương.
4- Biên-sự buổi
đầu
Tuy giữ đạo phiên thần tu cống, nhưng các vua Lý gìn giữ cẩn thận bắc thùy. Mỗi lúc các biên lại Tống dụ thổ dân, lấn đất đai, vua Lý liền phản kháng. Khi thì sai quan sang biện bác, khi thì sai tướng sang chống cự. Có lúc tướng ta giết quan Tống, đốt đồn trại Tống, mà chung quy, Tống cũng phải làm ngơ.
Sau này, ta sẽ kể những chuyện lớn xẩy ra trên biên thùy, trong 40 năm đầu triều Lý, nó tỏ rõ những mối bất hòa giữa Lý và Tống, và nó chứng tỏ rõ tính cách hoạt động của chính sách bắc thùy của các vua Lý.
Năm 1022, đời Lý Thái Tổ, các dân Đại Nguyên Lịch thuộc Khâm Châu, và châu Như Hông tới quấy trấn Triều Dương (Hải Ninh, Quảng Yên). Vua sai Dực Thánh Vương đi đánh. Vương đem quân vào sâu trong đất Khâm Châu, đốt phá trại Như Hồng, rồi mới trở về (TT). Trại Như Hồng ở liền phía đông biên giới ta, và bên cạnh có động Như Tích. Ngày nay động Như Tích còn khoảng cách giữa Tonghinh (Đông Hưng) và Kintcheou (Khâm Châu). Năm 1028, có việc gì bất bình ở biên giới, phò mã Thân Thừa Quí đem quân và đất Tống. Tại chúa châu Thất Nguyên (Thất Khê) Lý Tự bị chết. Thừa Quí bắt dân Tống đem về. Viên coi Ung Châu bàn hòa. Lý Thái Tổ ưng thuận. (TB 106)
Năm 1034, đời Lý Thái Tông, có dân ta là bọn Trần Công Vĩnh đưa hơn 600 người vào theo Tống. Thái Tông sai hơn 1.000 quân tới biên giới đuổi bắt. Vua Tống Nhân Tông sợ sinh sự, hạ chiếu trả bọn đào vong ấy cho ta, nhưng dặn đừng giết chúng. (TS 488 và TB 114/16b)
Hai năm sau (1036), lại xảy ra một việc lôi thôi rất lớn. Số là dân ở các châu giáp đất Tống như Lạng, Môn, Tô Mậu, Quảng Nguyên, động Đại Phát, huyện Đan Ba (TS 488), và các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên (TT) đều nổi lên đánh Tống, quấy các châu Tư Lăng, Tây Bình, Thạch Tây thuộc Ung Châu. Chúng cướp dân gian, gia súc và đốt nhà cửa, rồi rút lui (TS 488 và 495). Cầm đầu là họ Thân ở động Giáp. Dân động ấy kéo vào cướp châu Tư Lăng và động Bằng Tường, và giết tướng coi trấn Đăng Uyển (TB 118/4b theo Thực lục). Về việc này, vua Tống cũng chỉ bàn hòa. Hai bên cho rằng duyên cớ bởi man dân có đứa sinh sự mà thôi. Thật ra đó là triệu chứng của họ Nùng nổi loạn sau này.
Năm 1050, viên coi Ung Châu lại dụ hơn 3.000 dân cùng các tù trưởng Vi Thiệu Tự, Vi Thiệu Khâm ở châu Tô Mậu. Lý Thái Tông đòi lại. Vua Tống liền trả và dặn ta phải ước thúc biên dân, kẻo chúng xâm phạm nhau. (TS 488).
Sau cuộc loạn Nùng Trí Cao (1052-1053), Tống mới quan tâm đến biên cảnh phía nam; cắt quan canh phòng cẩn mật, và có ý dòm ngó nước ta. Vì vậy, sự xích mích ở biên giới càng sinh nhiều và mạnh.
5- Can thiệp trực
tiếp
Chính sách bắc thùy triều Lý trong 40 năm bắt đầu có kết quả. Tuy Tống vẫn coi châu Quảng Nguyên như thuộc châu Ung của mình, nhưng thật đã hoàn toàn theo vua Lý (TS 495).
Viên coi Ung Châu là Tiêu Chú cũng phải tâu về triều rằng: “Giao Chỉ tuy có triều cống, thật thì ngầm ngấm họa tâm, thường dùng cách tâm thực mà lấn vương thổ. Ví dụ, về đời Thiên Thành (1023-1031), quan ta là Trịnh Thiên Ích có trách Giao Chỉ tự tiện thu thuế ở động Vân Hà (vậy khi ấy Vân Hà thuộc Tống, có lẽ ở vùng Lạng Sơn, hoặc là sau đổi ra Vân Mịch, tức là phố Van Mit trên địa đồ Đông Dương); thế mà nay động Vân Hà đã ở sâu vào đất Giao Chỉ vài trăm dặm. Ấy thật vì, năm này qua năm khác, nó lấn dần cho đến ngày nay...” (TS 334 và TB 150/15b).
Tiêu Chú là một viên quan đời Tống, am hiểu tình hình nước ta vào bậc nhất. Chú là một nhà nho học có tiếng, xuất thân tiến sĩ, mà lại rất thích việc binh. Coi huyện Phiên Ngu (Quảng Châu ngày nay) lúc Trí Cao tới đánh. Trong khi các quan to đều hoang mang sợ hãi, Chú đã lập kế hoạch du kích quân Nùng. Chú lại vào các man động kết thúc dân chúng. Sau khi Trí Cao thua chạy về đạo Đặc Ma, Chú đã thân hành đem quân đến nơi do thám và bắt được mẹ và con Trí Cao. Chú lại sai người vào tận nước Đại Lý tìm Trí Cao nữa. (TS 334).
Đối với Giao Chỉ, không những mục đích Chú là lấy lợi thu phục lại Quảng Nguyên (TS 334 và TB 150), mà Chú còn tham vọng đánh lấy đất Lý nữa. Nói lời tâu trên, Chú nói: “Tôi nay đã rõ chỗ quan yếu, thấu chỗ lợi hại. Nếu không đánh bây giờ mà lấy Giao Chỉ đi, thì sau sẽ có điều lo cho Trung Quốc”.
Lời tâu ấy thật là xác đáng và tiên tri. Từ năm Trí Cao bị thua (1053), Tiêu Chú được coi Ung Châu, tức là chỗ cuống họng vào đất nước ta. Một mặt, Chú xin về triều để bày tỏ phương lược; một mặt, ngầm thi hành ý định; lấy lợi nhử dân Quảng Nguyên, bảo ngầm chúng soạn binh giáp, trữ lương tiền, tuyển lính mán, dạy cưỡi ngựa, bắn cung; dung nạp dư đảng của Nùng Trí Cao và chiêu tập các du sĩ. (TS 334 và TB 150)
Nhưng những quan trên Chú, như Lý Sư Trung, Tiêu Cố coi giữ Quảng Tây, cho Chú hay sinh chuyện, nên thường gạt bỏ lời trình của Chú.
Với chính sách mưu chiến của Tiêu Chú, sự xích mích giữa Tống và Lý ngày càng nhiều. Cho nên những biên sự, ngày trước chỉ vì biên lại gây nên, sắp trở thành việc xung đột lớn giữa hai nước.
6 - Việc động
Tư-lẫm
Lý Thánh Tông biết rõ ý định của Chú, đã phản ứng lại một cách mạnh bạo. Nhiều việc bất hòa xảy ra ở vùng biên thùy, có tính cách quyết liệt hơn trước. Sau đây sẽ kể vài ba.
Năm 1057, sứ ta là Mai Nguyên Thanh (VSL) đem hai “kỳ lân” qua Quảng Châu, định cống vua Tống. Nói đến kỳ lân, đời xưa ở Á Đông, là một việc rất quan hệ. Người Trung Quốc tin rằng chỉ khi có thánh nhân ra đời và gặp vận thì kỳ lân mới hiện. Đến như Khổng Tử ra đời không gặp vận, kỳ lân có hiện cũng chỉ là kỳ lân quèn! Vì lẽ ấy, các quan Tống cãi nhau sôi nổi về việc kỳ lân của Giao Chỉ cống. Sánh TB còn chép rõ hình dáng con vật ấy: “Hình như trâu, mình có da dày từng mảnh như giáp, đầu mũi có sừng; hay ăn cỏ, quả, dưa. Cho ăn thì phải lấy gậy đánh nó mới ăn”. Ta đoán đó là con tê giác. Nhưng triều đình Tống bàn nhau mãi. Sau Tư Mã Quang phải nói nửa chừng rằng: “Giả sử đó là kỳ lân thật, thì hiện không gặp thời là điềm dở; mà nếu đó không phải là lân mà ta nhận, thì các phương xa sẽ cười ta”. (TT và TTh). Vua Tống bèn bảo gọi vật ấy là “thú lạ” mà thôi (TB 187) và để lại Quảng Châu.
Chắc rằng việc Tống từ khước “kỳ lân” này không làm cho vua Lý hài lòng. Vả Tiêu Chú đem quân đi tuần các khê đông gần biên giới ta, có ý đe dọa. Vua Tống phải hạ chiếu răn cấm (tháng 7 năm M.Tu 1058). Lý Sư Trung, làm đề điểm hình ngục Quảng Tây cũng lo toan chỉnh đốn hành chính, binh lương và giao thông ở miền Ung Châu. Sư Trung nói: “Vùng Linh Nam không tiện phải lính thú đến đó. Xin mộ thổ đinh, nhà nào bốn năm đinh thì chọn một, mà cắt phiên nhau, tới lúc ngoài mùa làm ruộng, họp lại tập tành”. Trong vùng Quảng Tây mộ được hơn bốn vạn người. Sư Trung lại cho thông thương buôn bán, lập lại cái chợ Ung Châu, đào sâu kênh Linh Cừ nối Hồ Nam với Quảng Tây.
Được những tin ấy, tháng hai năm sau (K.Zu 1059,theo TS và TB 188; TT chép tháng ba) vua Lý Thánh Tông sai quân đóng miền đông bắc, từ châu Vĩnh An vào địa phận Khâm Châu, và từ châu Tô Mậu vào trại Cổ Vạn (TB 118/4b và 190/1a). Sử ta chỉ nói qua rằng:
“Ta diễu quân rồi rút về. Làm thế vì người Tống tráo trở” (TT). Các sách Tống chép rõ quân ta đánh Cổ Vạn, giết viên quản câu Lý Duy Tân (TB 190/1a), và đánh động Tư Lẫm ở phía tây thành Khâm Châu. (TB 188/4b)
Ngày G.Tu, Tiêu Chú trình: “Giao Chỉ cướp các động Tư lẫm, Cổ Vạn, Chiêm Lãng, bắt dân và gia súc mười bảy thôn, nhiều không kể xiết. Tôi muốn hạ lệnh cho Quảng Châu giữ sứ giả Giao Chỉ, không cho nó đem tiến thú lạ, đợi đòi chúng trả người và vật bị cướp đã. Nếu chúng không nghe, tôi muốn lập tức đưa quân đánh sâu vào đất chúng”.
Vua Tống sai Tiêu Cố, Tống Hàm và Lý Sư Trung, là ba quan coi lộ Quảng Tây, cùng Tiêu Chú xét việc mà xử trí (TB 189/5b). Tháng 9 năm ấy, Sư Trung tâu: “Viên coi Ung Châu là Tiêu Chú muốn đánh Giao Chỉ. Sợ người nước ấy nghe mà không yên. Xin cấm Chú không được sinh biên sự”. Vua Tống nghe lời tâu, nên chuyện ta đánh Tư Lẫm không thành chuyện to.
7 - Việc châu Tây
Bình. Thân Thiệu-thái
Trong lúc ấy, lại xảy ra một việc khác ở châu Tây Bình, giáp Lạng Châu. Nguyên có dân ta chạy trốn đến đó. Viên cai quản ở đó, là Vi Huệ Chính, dấu đi. Vua Lý Thánh Tông sai quân vào đòi lại. Quân ta do Châu Mục Lạng châu phò mã Thân Thiệu Thái, dẫn từ động Giáp kéo vào huyện Như Ngao, thuộc châu Tây Bình (TS). Vua Tống hạ lệnh cho Ung Châu đem quân dẹp (TB 191/16a). Viên đô giám tuần kiểm Tống Sĩ Nghiêu đem quân cự lại. Quân ta rút lui. Sĩ Nghiêu đem quân vượt biên giới động Giáp, bị quân ta đánh, giết và bắt được nhiều tên. Việc này xảy ra năm 1059, có lẽ đồng thời với việc Tư Lẫm nói trên. Sang năm sau (1060, TB 192/16a) Thân Thiện Thái lại kéo quân vào đánh, giết Tống Sĩ Nghiêu và vài tướng nhỏ: Lý Đức Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật (TB 194/10a). Việc tâu về triều. Vua Tống hạ chiếu sai Tiêu Cố đem quân tới Ung Châu, họp cùng Tống Hàm, Lý Sư Trung ngăn đánh.
Quân Thiệu Thái đã qua châu Tây Bình và đánh vào trại Vĩnh Bình (TB 192/2b); làm chấn động cả Ung Châu (theo lời Dư Tĩnh). Ti chuyển vận Quảng Tây xin đem các quân lộ Kinh Hồ bắc, chừng 3.000 tên, giỏi nghề thương và mộc, đến đánh. Vua Tống lại bảo phải kiểm điểm quân mà thay kẻ già yếu; ý chừng muốn đánh to.
Quân ta vẫn tiến, bắt chỉ huy sứ Dương Lữ Tài (VSL, còn TT chép Dương Bảo Tài), dân đinh và gia súc nhiều vô kể.
Viên coi Quế Châu là Tiêu Cố, và viên coi Ung Châu, là Tiêu Chú, đều bị cách chức, vì đình thần kết tội “đã không xét công việc các biên lại, để chúng gây sự, làm hại cho quan quân”. (Tháng 11, TB 192/12b)
Tháng Chạp năm ấy (1060) quân Lý cũng chưa lui. Lại thêm quân vùng châu Tô Mậu cũng kéo vào Ung Châu họp cùng quân động Giáp. (TB 192/17b, 18b)
Tống bèn sai viên lại bộ thị lang Dư Tĩnh làm an phủ sứ, xuống họp cùng Lý Sư Trung mà bàn việc đánh dẹp. (TS 320)
Dư Tĩnh muốn xui Chiêm Thành họp sức, rồi đem quân Quảng Nam tây lộ tấn công (TS 488). Nhưng có lẽ chưa thi hành được. Sử ta chép: Dư Tĩnh đánh không được, bèn dùng phép ôn hòa mà điều đình. (TT)
Một mặt, Lý Sư Trung tâu về triều kể tội Tiêu Chú đã hà hiếp man dân, bắt dân tìm vàng riêng cho mình, để đến nỗi mất lòng dân. Một mặt, Dư Tĩnh nhận rằng lỗi bởi các viên coi biên trại tham công, sinh sự, và hẹn với quan ta họp nhau để thương nghị. Trong Tống sử (T 320 và ĐĐ SL 75) nói Dư Tĩnh đến nơi, gọi viên dụng sự Giao Chỉ, Phí Gia Hữu, mà trách hỏi. Nhưng theo lời Dư Tĩnh tâu vua Tống, thì chính Tĩnh đã dùng chước bàn hòa trước. (TB 193/7a).
Vua Lý Thánh Tông sai Phí Gia Hữu (TS và TT; còn VSL chép lầm ra họ Bùi) tới thương nghị, Tĩnh yêu cầu trả lại Dương Lữ Tài và dân đinh mà Thân Thiệu Thái đã bắt. Gia Hữu cùng bàn hòa, và trả lời: “Việc này xẩy ra là vì dân gần biên giới cướp nhau, rồi vô ý phạm đến quan quân. Tôi sẽ đòi chúng để tra hỏi, và sẽ trừng trị. Còn những kẻ chúng bắt, tôi sẽ trả lại” (TS). Sách ĐĐSL quyển 75 chép Gia Hữu nói: “Tội chúng đáng chết, tôi xin về bắt những đứa thủ phạm đến nộp”.
Được lời Tĩnh rất mừng, bèn hậu tạ Gia Hữu (TS). Sử ta nói Dư Tĩnh hối lộ Gia Hữu rất nhiều để xin lại tướng Lữ Tài. Cuối cùng, vua Lý không bằng lòng trả (TT, VSL). Nhưng cũng bắt năm người giải tới biên giới Khâm Châu mà chém. (ĐĐSL 75)
8 - Việc động
Lôi-hỏa. Nùng Tông-Đán
Sau khi Nùng Trí Cao bị bại trận. Họ Nùng còn có bọn Nùng Tôn Đán là kiệt hiệt hơn cả. Tông Đán coi vùng động Lôi hỏa về phía tây bắc Cao Bằng ngày nay (TB 185/8b chép Hỏa động), Tông Đán tụ họp con là Nhật Tân và dư đảng của Nùng Trí Cao, căn cứ vào chỗ hiểm mà chống với quân Tống. Đối với vua Lý, Tông Đán vẫn được coi như là phiên thần nối dòng Trí Cao.
Trong đời Lý Thánh Tông, vào năm 1057, Tông Đán đem quân vào đánh đất Tống thuộc Ung Châu. Tiêu Chú, coi Ung Châu, muốn đưa quân động đinh đánh. Nhưng quan trên là Tiêu Cố, coi Quế Châu, không ưng và muốn chiêu hàng. Viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Vương Hãn cũng bàn rằng: “Tông Đán giữ vùng núi rậm, nếu có đặt phục binh đón quân ta, thì quân ta chưa chắc đã thắng nổi. Đánh sẽ chỉ làm tăng biên hoạn mà thôi”. Hãn bèn một mình đem quân tới gần động Lôi Hỏa; sai người triệu con Tông Đán là Nhật Tân mà khuyên rằng: “Cha mày, trong thì bị Giao Chỉ thù, ngoài thì bị các quan biên thần ít thưởng cho. Mày về bảo cha mày nên chọn đường có lợi mà đi”. Sách TB (185/8b) chép luôn: “Sau đó, hai cha con Tông Đán hàng. Việc ở miền nam mới yên”. Tông Đán được ban chức trung vũ tướng quân, Nhật Tân chức tam ban tá chức và được coi châu Ôn Nhuận (TB ở đây chép Ôn mẫn, vì tự dạng hai chữ Nhuận, mẫn, gần nhau). Tuy sách Thần Tông Thực lục cho công chiêu dụ Tông Đán là của vương Hãn, nhưng Tống sử và mộ chí Tiêu Cố (do Vương An Thạch viết) thì nói đó là công của Tiêu Cố.
Tuy vậy, Tông Đán vẫn không theo Tống. Cho nên, năm 1060, lúc quân ta do Thân Thiệu Thái Lĩnh, kéo vào châu Tây Bình đánh quân Tống, Vương Hãn bấy giờ coi Đàm Châu, lại khuyên nên dè Nùng Tông Đán và nên chiêu dụ nó. (TB 192/12b)
Năm 1062, Tông Đán và con đem các động thuộc mình, là Lôi Hỏa và Kế Thành, nộp cho Tống, và xin tới ở Lạc Châu. Tống nhận đất, bổ Tông Đán coi châu Thuận An (là vùng Lôi Hỏa, Kế thành mới được đổi ra tên ấy) và bổ Nhật Tân coi việc thuế ở Ung Châu. (TS495).
Như vậy, cha con Tông Đán vẫn giữ đất cũ, là đất mà ta vẫn coi là thuộc ta. Cho nên chúng không lấy làm yên tâm, vì sợ vua Lý Thánh Tông đánh. Vả chăng động Lôi Hỏa bên cạnh Quảng Nguyên, mà bấy giờ Lưu Kỷ quản. Lưu Kỷ cũng là một tướng kiệt hiệt, lại làm chức quan sát cho vua Lý. Tông Đán lại càng lo.
“Năm Trị Bình (1064), Tông Đán có sự hiềm khích với Lý Nhật Tôn (Thánh Tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng đe dọa. Viên coi Quế Châu là Lục Sằn biết vậy, sai người đến dụ. Tông Đán bèn bỏ châu minh vào nội địa, và được ban chức hữu thiên ngưu vệ tướng quân”. (TS 495)
Sự phản bội của tụi Nùng Tông Đán lần này làm Lý mất một vùng đất khá lớn ở phía tây bắc châu Quảng Nguyên. Những tên đất mà Tông Đán nộp Tống, mỗi sách chép một khác; vả trong một sách, cũng mỗi nơi chép một khác. Nhưng có lẽ đất ấy gồm nhiều động. Vả lúc nhận đất rồi, Tống lại đặt tên mới. Nhưng động hay châu ấy có thể tóm tắt như sau; động Lôi hỏa (hay hỏa), động Kế thành, châu Ôn nhuận. Có lẽ các đất này thành châu Thuận An. Về sau, lúc vua Lý xin Tống trả đất đã bị thổ tù nộp Tống, lại nói đến các động Vật Ác, mà TB (349/7b) nói là Tông Đán đã nộp và Tống đổi ra làm châu Thuận An.
Vua Lý Thánh Tông sai sứ sang đòi đất và dân (TS 488). Sứ giả là Lê Thuận Tông(TS 332), nguyên châu mục Phong Châu, được kén phò mã đời Lý Thái Tông. (1036, IV/4) lấy công chúa Kim Thành. Sứ tới Quế Châu, gặp Lục Sằn. Tỏ thái độ quả quyết, Thuận Tông đòi Sằn trả Tông Đán và các động.
Lục Sằn cũng là một viên xuất thân tiến sĩ như Tiêu Chú, và cũng am hiểu việc biên giới giữa Tống và ta. Trước đó Sằn coi Qui Châu, đã tình nguyện xin tới Quế, vì nhận thấy rằng Ung chỉ cách Quế có 18 trạm, mà vũ bị ở đó không sẵn sàng. Vua Tống bằng lòng. Tống sử (TS 332) chép nối: “Từ khi giặc Nùng yên, người Giao Chỉ càng kiêu căng, các thú thần thường chịu nhịn cho qua. Sằn tới Ung, họp động trưởng ở bốn mươi lăm động thuộc tả và hữu Giang, biên tên được năm vạn thổ đinh, đặt các tướng lại, cấp cho ấn. Thanh thế Tống nổi lại trong vùng khê động. Sứ Giao là Lê Thuận Tông tới, kiêu ngạo như cũ. Sằn nhún nhường mời tới, giảng dụ phải kính lẽ phải, làm sứ phải sợ mà trở về”.
Sự thật thì Sằn tâu về triều việc sứ ta tới. Vua Tống Anh Tông mới lên ngôi, hỏi ý kiến các đình thần. Tể tướng Hàn Kỳ bàn rằng: “Xứ Giao Châu, rằng núi hiểm trở, khí hậu ẩm độc. Nếu có lấy cũng không giữ được. Chỉ nên vỗ về chúng mà thôi” (TS Và TB 203/12a). Vua Tống Anh Tông bèn trả hai châu (Lôi Hỏa và Ôn Nhuận?) lại cho vua Lý. (TS 332).
Nhưng cha con Tông Đán vẫn theo Tống. Mười lăm năm sau (1073), viên chuyển vận sứ Quang Tây là Ôn Cảo xin gia hàm cho chúng. Tống Thần Tông ban cho hàm cung bị khố phó sứ. Tông Đán được làm đô giám Quế Châu. (TB 244/3b).
Về đại thể, Tống Lý vẫn giao hiếu cùng nhau. Lý vẫn cống hiến, Tống vẫn gia phong. Sứ Lý sang mừng Anh Tông lên ngôi (1064). Anh Tông sai sứ đem các di vật của Tống Nhân Tông sang tặng vua Lý, và gia phong chức đồng trung thư môn hạ bình chương sự. (TS hình pháp chí). Trong mười năm liền; không hề xảy ra biên sự
9 - Kết luận
Ở triều Tống, trong đời Chân Tông, Nhân Tông, và Anh Tông, có nhiều người chủ việc đánh ta. Nhưng bây giờ, vua Tống thích hòa bình, các đại thần đều là người nho học, không ham gây họa chiến tranh. Vả việc bắc thùy Tống cũng đã khó khăn lắm. Cho nên, với việc quân Tống bị nhục bởi tay Thân Thiệu Thái mà Tống cũng không gây sự; và đến việc Nùng Tông Đán, Tống cũng không làm già. Sau đó ta lấn dần đất Tống. Năm 1074 Thẩm Khỉ tâu rằng năm trước ta đã chiếm mất châu Thất Nguyên. (VI/7)
Tuy nhiên, phái chủ chiến vẫn không thôi. Năm 1064, khi sứ ta tới kinh đô Tống, có nội thị là Lý Kế Hòa, đe dọa sứ ta rằng: “Lúc Thân Thiệu Thái vào cướp Quảng Nam Tây lộ, ta đã nhiều lần xin đánh nước người. Nhưng triều đình cho rằng Thiệu Thái là đứa ngông cuồng. Vả nước người đã sai sứ tạ tội. Cho nên triều đình chưa cất quân mà thôi”. (TS 488)
Những người chủ chiến ấy sắp có cơ hội sau này. Chính là sau lúc Tống Thần Tông lên ngôi (1067), và Vương An Thạch được chấp chính (1069).
CHƯƠNG VI
VƯƠNG
AN THẠCH VỚI ĐẠI VIỆT
1. Chính sách tân pháp
- 2. Phòng thủ nam thùy - 3. Chính sách kiềm chế - 4.Chính
sách hòa hoãn. Tiêu Chú. - 5. Chính sách khiêu khích. Thẩm
Khỉ - 6. Chính sách do dự - 7. Tình hình nghiêm trọng.
1 - Chính sách tân
pháp
Tống là một nước từ địa vị nhỏ ở trung tâm nước Trung Hoa, đã trở nên một đế quốc, bằng cánh dùng vũ lực thôn tính các nước bày vai. Cuộc bành trướng bắt đầu năm 963 hướng về phương nam và tây, đánh lấy Kinh Nam (vùng Hồ Nam), Vũ Bình, Hậu Thục (Tứ Xuyên), Nam Hán (Quảng Đông); dụ hàng Nam Dường (Giang Tây), Ngô, Việt (Chiết Giang) và Mân (Phúc Kiến). Còn về mặt bắc, Tống gặp nhiều khó khăn, vì kề vạn lý trường thành có nước Liêu và Hạ rất mạnh1 không muốn để Tống lấn lên cạnh nước mình. Cho nên Tống Thái Tổ đã thất bại trong việc đánh bắc Hán (vùng Hà Bắc). Phải đợi đến khi Thái Tông lên ngôi, nước này mới bị nhập vào đất Tống (979).
Nước Tống gồm địa giới Trung Quốc bây giờ, trừ vùng Bắc Binh, Sơn Tây, Cam Túc, Tây Cương, Quí Châu, tây phần Quảng Tây và Vân Nam.
Thấy tiến về nam dễ, Thái Tông đã quyết định đánh ta, và đã bị thất bại hoàn toàn trong năm 981 (VI/1) vì tay Lê Hoàn. Từ đó về sau, tâm trí vua Tống phải luôn luôn quay về hai nước Liêu, Hạ ở miền bắc. Trong khoảng gần trăm năm, nước ta được khỏi họa xâm lăng.
Năm 1068, một vua trẻ lên ngôi nhà Tống. Ấy là Tống Thân Tông và Anh Tông nhu nhược, chỉ bo bo giữ khốn kinh kỳ yên ổn, chứ không quản gì đến quốc nhục ở các biên thùy; trong triều, các nho thần chỉ chăm về từ chương và chỉ bàn suông về đạo đức, lấy sự dân yên làm quí. Cho nên Thần Tông có chí quật cường.
Bấy giờ có một nho thần là Vương An Thạch cao tài kinh tế. Tuy chức tước còn nhỏ nhưng Thần Tông gọi về gần kinh để hỏi ý kiến (tháng 9 năm 1067) rồi cất lên làm tể tướng (1096). An Thạch lập kế hoạch làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc quỹ dồi dào làm binh lực nước mạnh. Các phương sách y đề cử và ban ra để thi hành đối với đương thời đều có tính cách đại cách mạng. Cho nên bấy giờ gọi là các phép ấy là tân pháp.
Làm tiện và lợi cho dân thì có phép mộ dịch, quân thâu, nông điền, thủy lợi. Mộ dịch là bỏ lệ bắt làm xâu, mà tùy theo nghèo, giàu nạp tiền để thuê người làm thay. Quân thâu là trong việc thuế cống, có thể lấy chỗ gần thay chỗ xa, lấy cái đắt thay cái rẻ, để thâu cho đều. Nông điền, thủy lợi là phép mở mang ruộng cày, lấy nước vào ruộng. Phép mộ dịch, cũng chép là miễn dịch, hay trợ dịch.
Làm lợi cho dân và cho công quỹ thì có các phép: Thanh miêu, thị dịch, phương quân điền. Thanh miêu là lúc lúa còn xanh, nhà nước cho dân vay tiền trước; đến lúc gặt phải trả vốn và lời 2 hoặc 3 phân (phần mười). Thị dịch là lập công vụ mua hàng khi rẻ, rồi phát cho các nhà buôn, bán lấy lãi; hoặc để cho dân gian lúc cần tiền có thể tới cầm cố đồ vật với một lợi tức phải chăng. Phương quân điền hay phương điền là đạc điền theo từng khoảnh vuông để định thế lệ.
Làm mạnh cho nước thì có phép bảo giáp và bảo mã. Bảo giáp là bỏ bớt cấm binh, tức là lính mộ phải trả tiền tốn, mà dùng dân binh. Họp mười nhà thành một bảo, có bảo trưởng coi; năm bảo là một đại bảo, có đại bảo trưởng coi; mười đại bảo thành một đô bảo có đô bảo trưởng coi. Nhà nào hai đinh, thì bắt một để vào bảo. Không cấm khi giới như trước; trái lại sai các bảo tập vũ nghệ. Phép bảo mã là phát ngựa cho các bảo và tư gia tình nguyện nuôi, hoặc nhận cấp tiến để tự mua lấy. Mỗi nhà được một hay hai con. Hàng năm có quan khám nghiệm. Lúc hữu sự thì bảo đinh phải ra lính và các ngựa phải nộp quan.
Đại để các phép ấy rất tài tình và gần như các phép mà ngày nay cả thế giới dùng. Bấy giờ thì rất mới, tuy bị phái cũ bài xích, các phép đều được thi hành, và chẳng bao lâu có ảnh hưởng rất khả quan.
__________________________________
1. Liêu là một nước ở vùng Mãn Châu, Hà Bắc bây giờ. Nguyên trước là Khiết đan. Chúa nước xưng vương năm 916. Đến năm 937, đổi tên ra Liêu. Rồi chiếm phần đất Hà Bắc, Sơn Tây và Chahar. Lúc Tống lên ngôi, hai nước Liêu Tống thành lân bang. Tống Thái Tông đánh Liêu, nhưng thất bại ở Cao Lương (979). Năm 982, Thái Tông lại nhân Liêu có tang, kéo quân tới đánh, nhưng bị đại bại. Năm 1004, Liêu tới đánh Tống, nhưng Liêu bị bại. Hai bên sức ngang nhau, nên định hòa hiếu với nhau và lập đàn thề nhân thiện ở Đàn uyên. Đến lúc nước Hạ, ở phía tây Liêu, trở nên một nước mạnh và bắt đầu quấy Tống, Liêu thừa cơ, yêu sách Tống nhiều điều: như đòi đất và tiền (1042 và 1074). Tống đều phải nhịn. Hạ là một nước có từ nhà Đường, chiếm vùng Cam Túc, Ninh Hạ ngày nay. Ban đầu, giúp Tống đánh Bắc Hán, nhưng sau lại theo Liêu chống Tống, và được Liêu phong cho chúa làm Hạ quốc vương (986). Hạ bắt đầu bức hiếp biên thừa tây bắc của Tống. Nhưng năm 1003, Hạ chúa lại cầu phong với Tống, và vua Tống phong chước Tây bình vương (đối với Nam bình vương phong cho vua Lý). Từ năm 1082, Hạ trở nên nước mạnh, mở mang bờ cõi miền tây. Lấn nước Thổ Phồn và tự xưng đế (1038). Từ đó đe dọa Tống luôn luôn. Các danh tướng đời Bắc Tống đều có cầm quân chống Hạ.
2. Phòng thủ nam
thùy
Quảng Nam là vùng cực nam nước Tống; gồm hai lộ: Quảng Nam tây lộ và Quảng Nam đông lộ. Gọi tắt là Quảng Tây và Quảng Đông. Quảng Tây bấy giờ ra tận bờ biển; Liêm Châu và Khâm Châu đều thuộc Quảng Tây. Cho nên nước Đại Việt đời Lý hoàn toàn tiếp đất Quảng Tây.
Sau khi Nùng Trí Cao đánh phá Quảng Nam, Tống đã chia tây lộ làm bá: Ung, Nghi, Dung. Được ít lâu lại trở lại chế độ cũ (LNĐĐ/1).
Chức quan cai quản việc quân ở lộ là kinh lược an phủ sứ, đóng ở Quế Châu. Lệ thường là viên coi Quế Châu kiêm chức ấy: người ta gọi bằng quan tri Quế Châu hay quan kinh lược sứ. Về việc lương thực, tài chính, có chức chuyển vận sứ. Hai chức trên, không bên nào phụ thuộc bên nào, và đều theo mệnh lệnh trung ương.
Danh hiệu châu rất phức tạp. Vì từ đời Hán đặt ra danh hiệu ấy. Đời sau, lúc thì đổi ra quận, lúc lại đặt lại. Cho nên đời Tống, tiếng châu chỉ một khu vực hoặc to hoặc nhỏ; ví dụ: Quế Châu quản Liêm Châu mà Liêm Châu lại có lúc quản Khâm Châu.
UNG CHÂU là châu thuộc Quảng Tây và tiếp đất nước ta. Viên coi Ung Châu thuộc viên coi Quế Châu. Viên ấy kiêm chức an phủ đô giám, coi tất cả việc binh lương, luyện tập, phòng ngự ở biên thùy. Dọc theo các trại giữ những khê động, như năm trại giáp Đại Việt (IV/1), các chủ trại đều kiêm chức tuần kiểm để huấn luyện giáp đinh và bặt trộm cướp (LNĐĐ/1). Những chủ trại có chức tuần phong sứ hoặc là đô giám (LNĐĐ/3).
Về quân, thì Ung Châu gồm hai đoàn, gọi là hai “ tướng”. Mỗi tướng có 5.000 quân. Giữ biên thùy Đại Việt có một tướng, chí làm hai phần: 2.000 đóng ở Thành Ung, 3.000 chia đóng năm trại: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long.
Về mặt KHÂM CHÂU, có đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn quân gọi là Đằng Hải, hợp với quân của hai viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại: Như tích giáp biên thùy châu Vĩnh An và Để trạo ở cửa sông Khâm Châu.
Trên đây chỉ nói đến “quan quân” nghĩa là quân chính qui thuộc triều đình tuyển. Ngoài ra, còn có nhiều thứ quân địa phương, tức là dân quân: thổ đinh (dân các châu), động đinh (dân các động). Theo thời, ở các trại, khi thì có quan quân, khi thì hoàn toàn để động đinh phòng thủ.
Dân các động thường hay có nhau. Vậy nên, chúng ta tự lập vũ nghệ để tự vệ: hạng trai tráng tự vệ ấy gọi là điền tử giáp, nghĩa là vừa cày vừa làm lính. (LNĐĐ/3)
Tất nhiên rằng khi các viên chức Tống không biết cai quản khê động, thì động đinh ấy trở thành những mối lo cho Tống ở biên thùy. Trái lại, lúc các viên coi Quế Châu, hay Ung Châu quan tâm đến sự kết thúc chúng, thì chúng lại trở nên những quân lính, không những giữ biên thùy có công hiệu, mà chúng có thể thành quân tiền phong uy hiếp nước ta.
Từ khi Nùng Trí Cao đã phá Quảng Nam, quân Tống đặt ra lệ cứ năm đinh bắt một để làm thổ đinh, và cứ hai đinh bắt một, để làm bảo đinh.
Đến đời Hi Ninh thứ 6 (1073), Vương An Thạch tổ chức lại, muốn theo lệ quân nghĩa dũng ở Hà Bắc; đặt cấm binh giao cho viên kinh lược hoàn toàn điều phát, và chỉ dành bảo đinh cho các châu huyện trông coi. (LNĐĐ/3)
Tống tổ chức quân khê động để toan vào đánh đất ta. Ta sẽ thấy rằng Tống sẽ thất bại trong các cuộc hành quân; mà lẽ chính là vì do dự không lợi dụng triệt để các quân khê động ấy.
3. Chính sách kiềm
chế.
Lúc Thần Tông mới lên ngôi và lúc Vương An Thạch mới chấp chính, ý tưởng đối với ta thế nào? Sách TB nay đã mất khoảng ba năm đầu đời Hi Ninh (từ tháng 4 năm Đ.Zu 1067 đến tháng ba năm C.ty 1070), làm ta không thể biết rõ. Nhưng đoạn sau còn nhắc lại đoạn mất, khiến ta đoán rằng vua Tống và An Thạch đã bàn đến việc Giao Chỉ. (TB 216/6a).
Lúc quốc dụng được dồi dào, binh lực khá mạnh, vua Tống Thần Tông bèn nghĩ đến việc biên cương.
Ở phía bắc, hai nước Liêu, Hạ vẫn mạnh và thường thường uy hiếp biên giới. Quân và tướng giỏi phần lớn đóng ở Bắc thùy.
Tháng 11 năm M.Ta (1068), Vương Thiều hiến kế đánh nước Thổ Phồn ở phía tây nước Hạ, để cắt “cánh tay phải của nước này”. Vương An Thạch khen là kỳ mưu. Vua cũng bằng lòng. Cho nên việc binh bắt đầu phát ở đó. Tuy lấy được Hi Hà và Thần Tông khen An Thạch, nhưng sau này cũng là một mối lo cho Tống, dai dẳng đến năm 1073.
An Thạch làm nội chính cách mạnh, nên bị lắm kẻ thù oán, nhất là các lão thần. Cho nên kẻ đương thời cũng như các sử gia đời sau đều qui tội thất bại nội chính cũng như ngoại giao cho An Thạch. Vì thế xét đoán cho đích xác trách nhiệm vua Tống Thần Tông và Vương An Thạch trong việc đánh nhau với nước ta, không phải dễ. Sự chắc chắn là cả hai người đều để ý đến các man dân miền khê động châu Ung, và trong trí người Trung Quốc ở trung nguyên, thì dân ta cũng chỉ là một man dân mạnh mà thôi. Cả hai đều nghĩ sớm chầy gì cũng sẽ mở mang bờ cõi miền Nam; vì “nếu thắng thế, Tống sẽ tăng, và các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.
Nhưng trong khi bàn bạc về thời cơ thuận tiện, có chỗ dị đồng: lúc vua muốn gây sự thì An Thạch lại can, lúc An Thạch muốn khởi binh thì vua lại dè dặt. Trong lúc ấy, các biên thần đều lo liệu sự kết thúc các an dân và tăng binh lực.
Tháng 7 năm C.Tu (1070), An Thạch bàn với vua việc lấy dân binh thay mộ binh, có nói: “Ở Quảng Nam thú binh chết nhiều, cần phải dùng gấp dân quân.” (TB 213/6b)
Bấy giờ ý Tống Thần Tông đã quyết. Nhưng binh lực chưa sẵn. Vả An Thạch cũng mới bắt đầu thí nghiệm các tân pháp, còn phải đối chọi với biết bao kẻ ghen ghét oán thù. Cho nên triều đình Tống chỉ tìm cách kiềm chế phương nam. Tống sợ thất bại, chưa dám gây sự. Tháng 10 năm ấy, viên coi Quế Châu là Phan Bội tâu: “Tưởng Thánh Du, coi việc văn tự về khê động Ung Châu, vừa tới nhậm chức mà đã lập tức nói muốn đánh lấy Giao Chỉ. Sợ sẽ sinh sự, xin đổi y”. Vua nghe theo (TB 216/6a).
Nhưng vua Tống vẫn muốn dời ty kinh lược từ Quế Châu xuống Ung Châu, để phòng bị sự “Giao Chỉ phản trắc”. Sau lại bảo đợi sứ vua Lý sang đến nơi sẽ hay (TB 216/6b). Tô Giàm, một viên có công trong cuộc chống Nùng Trí Cao và ở lâu vùng Lưỡng Quảng, rất am hiểu tình thế nước ta, được bổ coi Ung Châu (tháng 10 năm C.Tu 1070, Tb 216/6b). Tháng chạp, sứ ta là Lý Kê Nguyên tới, quan Tống ngăn không cho tới Biện kinh (kinh đô ở gần Khai phong tỉnh Hà Nam) và đòi ta phải trả trước dân Tống, mà ta đã bắt. (TB 218/12b).
Đồng thời, Tống tăng số quân ở Quảng Đông và Quảng Tây thêm 120 tên.
Cuối năm C.Tu (1070) tình thế giữa Tống với Lý coi chừng đã khá găng. Viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Đỗ Kỷ dâng sớ nói rất rõ ràng về nội tình nước ta, kể rõ núi sông, đường xá, binh dân. Vua đưa cho Vương An Thạch xem, và định giao cho viện khu mật giữ làm tài liệu. An Thạch hiểu ý Thần Tông muốn đánh Giao Chỉ, liền can. An Thạch nói: “... Vua đã ngỏ ý từ trước là phải làm nước giàu, dân yên. Đó là phúc cho dân. Còn việc ngoài vạn dặm, trước đã bàn rằng không thể không xét tới, như đã xét đến sự bọn Ôn Cảo lấy làm lo cho các châu Khâm, Liêm. Nhưng đến như sai biên thần đi dỗ Giao Chỉ, thì không nên. Làm như vậy, trước là sẽ trái với lời dặn của Bệ hạ từ trước, sau lại làm Giao Chỉ sinh nghi”.
Chữ dỗ mà An Thạch dùng đây nghĩa là đem binh tới ép. Rồi An Thạch dẫn tích nhà Tần dỗ Nghĩa Cừ mà thành ra Nghĩa Cừ biết mà làm phản. Y nói tiếp: “Tôi sợ nếu dùng Ôn Cảo, thì chẳng may Giao Chỉ biết, dự bị trước, sẽ có sự khó khăn ở biên”. An Thạch khuyên Thần Tông theo vua Anh Tông, lấy trí, dũng, nhân, nghĩa mà trị dân, thì không cần đánh cũng phục được.
Đọc qua lời tâu dài này, ta thấy An Thạch còn bị các triều thần khác bài xích. An Thạch sợ thất bại trongviệc mở biên cương, nên can vua: “Như vậy, việc chưa bắt đầu mà kẻ trí giả đã biết trước sẽ không thành”. Ý nhân đó ám chỉ những triều thần khác. Trong kết luận, có câu: “Sự đáng lo trong nước, không phải ở biên thùy, mà ở triều đình; không ở triều đình, mà ở lòng vua…” (tháng 11 năm C.Tu, 1070; TB 217/13b).
4. Chính sách hòa
hoãn Tiêu Chú
Tuy vậy, kẻ hiến kế đánh ta vẫn dâng thư về triều. Có kẻ nói rằng: “Giao Chỉ bị thua ở Chiêm Thành (muốn nói việc năm 1069, II), quân không còn nổi một vạn. Có thể tính ngày đánh lấy được”. Sách TB đoán rằng đó là lời Phan Bội, coi Quế Châu bấy giờ, vì tuy Bội đã hoặc người khác về việc muốn đánh nước ta, nhưng cũng đã bày tỏ ý kiến là có thể lấy nước ta được. (TB 219/4b ).
Vả chăng từ khi bị truất chức coi Ung Châu (tháng 11 năm C.ta 1060; V/5) vì đã khiêu khích nước ta, Tiêu Chú vẫn muốn lăm le phục chức.Theo lời Ngụy Thái, lúc Thần Tông lên ngôi và Vương An Thạch chấp chính, Chú đoán rằng triều đình vừa có ý mở biên cương; bèn đánh tiếng rằng: “Trước đây tôi đã ở Ung Châu lâu, tôi biết rằng Giao Chỉ có thể lấy được”. Triều đình lật đật gọi Chú, cho phục chức và bổ coi Quế Châu, lại sai kiêm các chức kinh lược, an phử sứ Quảng Tây. (ĐHBL 8.)
Thật ra, tháng giêng năm T.Ho (1071), Tiêu Chú1 có chỉ bổ coi việc quân mã ở vùng Hà Đông, là vùng còn đánh nhau với Hạ. Chú không muốn đi, bèn nói: “Tôi vốn là thư sinh, thạo nghề phủ dụ, nhưng kém nghề chiến đấu, sợ không cáng nổi viện ở đó”. Lại nhân có kẻ nói Giao Chỉ có thể lấy được, vua Tống sai Chú coi Quế Châu (TB 219/4b). Xem đó ta thấy rằng triều đình Tống càng ngày càng quan tâm đến nước ta.
Vùng nam Ngũ Lĩnh có tiếng là khí nóng, nước độc. Các quan lại bị chết nhiều, và ít kẻ bằng lòng nhận chức ở đó. Cho nên viện khu mật tâu xin hậu đãi những người đi Quảng Nam, “như thế thì người ta mới vui đi, và chốn xa không thiếu chính quan” (tháng 10 năm T.Ho 1071. TB 227/6b).Trái lại, Chú thích đi.
Lúc Chú tới Quế Châu, các tù trưởng xa gần, từ đạo Đặc Ma đến châu Điền đống đều kéo nhau tới yết kiến. Chú đều mời mọc ân cần, hỏi han hình thế sông núi, tình trạng nhân dân mà Chú đã từng quen biết mười năm trước. Ai nấy đều bằng lòng. “Cho nên Lý Càn Đức (Nhân Tông) động tĩnh thế nào, Chú đều biết rõ” (TB 242/13b và TS.334). Chú thấy trong khoảng mười năm, nước ta đã giàu mạnh lên nhiều, ta đã đại thắng Chiêm Thành và đã mở mang bờ cõi nam và bắc. Chú là một người rất thức thời nên đã hiểu rằng phải kiêng dè kính nể nước ta, và sợ ta đánh lại. Cho nên khi có kẻ hiến kế đánh Gia Châu, Chú đốt thư đi”. (TB 242/14a)
Trong lúc ấy, quân ta cũng không yên. Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên đem hơn 200 quân thổ đinh dẫn quân Lý vào châu Qui Hóa, tức đất Nùng Tông Đán và con mới nộp Tống (V/6). Ti kinh lược Quảng Tây tâu về triều. Tổng Thần Tông phê rằng: “Gần đây, đã nhiều lần thám báo rằng giặc Quảng Nguyên tụ tập. Cuối cùng tin đó không đúng. Khiến dân khe động ở không yên. Sợ tin là giặc Giảo hoạt cố ý hư truyền ra, để làm náo động nhÂn Tình, rồi nhân đó, hiếp bức dân chúng theo nó. Đó là việc mà bọn Hoàng Trọng Khanh, Lư Báo đã làm. Nếu để lâu không xử lý không tiện. Vậy, kịp sai Tiêu Chú tới đó mà xử trí, chớ để thành chuyện to lớn.” (tháng 11 T.Ho 1071; TB 288/1a)
Tháng 5 năm sau (N.Ty, 1072), Tiêu Chú xin nước thúc dân các khê động, và nói: “Mỗi khi nghe báo có giặc qua địa hạt mình, mà các tri Chú không lập tức tới đánh bắt, thì xin đem quân pháp trị tội”. Ý Tiêu Chú là cốt bắt buộc các quan địa phương canh phòng cẩn mật. Nhưng vua Tống nói với các phụ thần rằng: “ khi báo có giặc, chưa biết thật hay không, lại không biết giặc nhiều hay ít. Nếu thế lực các châu không đủ, thì đánh bắt làm sao được, mà lấy quan pháp trị tội người ta. Nên sai ti kinh lược xem kỹ và giảm tội”. (TB 233/21b)
Tiêu Chú ở Quế Châu hai năm, lăng nhăng không được việc gì (ĐHBL 8.).
_____________________________________
1. Tiêu Chú xuất thân tiến sĩ. Cóp đại chí thích bàn việc quân. Lúc làm tri huyện Phiên Ngu (cạnh Quảng Châu), bị Nùng Trí Cao vây thành (0). Chú thoát ra ngoài thành, kết thúc man động. Sau đem thổ đinh vào tận sào huyện Trí Cao. (TS 334).
5. Chính sách khiêu
khích Thẩm Khỉ
Sự thật là Tiêu Chú hiểu rõ thế lực nước ta bấy giờ rất thịnh, nên mới chù chừ, không muốn mưu sự đánh ta, triều đình Tống cũng chưa dám quyết.
Nhưng sang năm N.Ty (1072), tình thế biến chuyển. Tháng giêng, vua Lý Thánh Tông mất. Vua Nhân Tông còn bé. Thái hậu Thượng Dương và Thái phi Ỷ Lan tranh quyền nhau. Phe Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành hiềm kỵ nhau (III/1)
Tống Thần Tông và nhất là Vương An Thạch bắt đầu quyết tâm sửa soạn cuộc nam chinh.
Tháng 8, có lệnh chung bãi bỏ các viên câu đương công sự ở các ti Kinh lược và an phủ, nhưng trừ tỉnh Quảng Tây; “Vì Ôn Cảo bấy giờ giữ chức ấy, vả lại vừa có ý đánh Giao Chỉ” (TB 237/23b). Lệnh đặt bảo giáp ở các lộ đã ban ra. Tháng giêng năm Q.su (1073), Hứa Ngạn Tiên là viên coi việc ấy ở Lưỡng Quảng tâu: “Đã sai các huyện lệnh lập bảo giáp để thay các thứ lính đã đặt từ trước”. (TB 242/3b)
Tống Thần Tông triệu Tiêu Chú về hỏi tình hình Giao Chỉ và sách lược chinh phạt (ĐHBL). Chú cho việc ấy khó. Vua ngạc nhiên, nhắc lại câu người ta nói “Giao Chỉ bị thua ở Chiêm Thành, quân không còn nổi một vạn; có thể tính ngày lấy được” (VI/3). Chú tâu: “Xưa, tôi cũng có ý ấy. Bấy giờ quân khê động một người ta có thể địch mười; khí giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo, là điều khiển được. Nay, hai điều ấy không như trước; binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà người Giao Chỉ lại sinh tụ, giáo hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao không đầy một vạn thì sợ sai”. TB (219/4b) chép câu trả lời vào lúc ban đầu, khi Chú mới tới Quế Châu, chắc là lầm. (TS 334)
Vua và Vương An Thạch không bằng lòng. Có viên hình bộ lang trung, là Thẩm Khỉ, nói quả quyết rằng: “Giao Chi là đồ hèn mọn, không lý gì không lấy được”. Vì thế vua chọn Khỉ thay Chú coi Quế Châu và kiêm chức Quảng Tây kinh lược sứ (tháng 2 năm Q.Su (1073), TB 242/14a).
Khỉ liền xin: “Từ nay nếu ở Quảng Tây có biên sự, sẽ theo lệ Thiểm Tây, để ti kinh lược được xử trí rồi tâu sau”. Vua bằng lòng. Khỉ lại sai người ra ngoài biên giới để lo liệu công việc. Vua hỏi An Thạch : “trả lời sao?” An Thạch xin y lời. Vua cũng bằng lòng (tháng 4 Q.su, 1073; TB 244/3b). Ít ngày sau lại giao thêm cho Khỉ công việc lương thảo (TB 244/7b).
Thoạt tiên, Khỉ muốn tổ chức tây bắc Quảng Tây, để cho yên đường tiếp tế hạt mình. Cho nên, đặt các doanh trại ở các châu Dung, Nghi. Đem quân đánh trại Vương Khẩu, binh lính bị chết nhiều (ĐHBL 8.)
Thế mà Khỉ tâu dối về triều rằng các man dân theo mình. Rồi tự xây thành, đắp lũy. Làm dân vùng Nghi, Dung oán. Dân các động nổi lên, chém giết quan quân (theo lời Tống Thần Tông, TB 272/2a).
Tháng 4 (Q.Su, 1073), Khỉ xin lấy động định trong năm mươi mốt động thuộc Ung Châu để kết thành bảo giáp, và sai quan dạy và kiểm tra. Vua Tống không những bằng lòng, mà còn cấp tiền cho để thi hành (TB 244/8b). Khỉ sai người vào các khê động, kiểm điểm dân đinh, lập thành bảo ngũ, phát các trận đồ dạy chúng tập. Sau đó lại bắt các thuyền dọc bờ biển, thường dùng chở muối, để tập thủy chiến. Sợ người nước ta biết những hành động ấy, Khỉ ra lệnh cấm ta không được sang buôn bán ở đất Tống. (TS 334).
Quan Tống hết sức dụ dỗ các tù trưởng. Tháng 4 năm Quí Sửu 1073, Ôn Cảo xin tăng hàm cho tụi Nùng Tông Đán (V/8) và Nùng Trí Hội (L/TI/7) là tụi đã bỏ Lý theo Tống. Tông Đán được chức đô giám Quế Châu, Trí Hội coi châu Quí Hóa; và cả hai được thăng hàm cung bị khố phó sứ (TB 244/3b). Thẩm Khỉ lại sai người dụ Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên. Ngày 15 tháng 10 năm Q.Su (1073), Khỉ tâu: “Lưu Kỷ ở Giao Chỉ muốn theo ta. Nếu không nhận, sợ nó làm loạn như Nùng Trí Cao”. (TB 247/22a)
Cũng vào khoảng cuối năm ấy Q.Su (1073), có bọn Nùng Thiện Mỹ ở châu Ân Tình (vùng châu Cảm Hóa thuộc Bắc Cạn, giáp châu Thất Khê, còn có làng Ân Tình, chính là đe, (xem ĐKĐD), nghe lời Thẩm Khỉ dỗ, đưa bảy trăm bộ hạ vào xin theo Tống (TB 259/13b). Viên đô tuần kiểm là Tiết Cử nhận (TB 251/1a). Thẩm Khỉ tâu rằng: “Viên coi châu Ân Tình là Nùng Thiện Mỹ và hơn 6000 gia thuộc xin qui phục Trung Quốc. Tôi xét thấy Thiên Mỹ vốn người Trung Quốc, quản động Hạ thôn thuộc châu Thất Nguyên. Năm trước, động ấy bị Giao Chỉ chiếm mất, và đổi tên ra Ân Tình. Nay vì Giao Chỉ bắt thuế nặng nề, nên tụi Thiện Mỹ xin qui phục ta, kẻo nếu chúng không nạp thuế cho Giao Chỉ, thì e bị giết”. (TB 259/13b)
Tháng ba năm G.Dn (1074) viên chuyển vận sứ Quảng Tây tố cáo việc ấy (TB 251/1a). Vua Tống bảo xét, và dặn rằng: “Chúng nó đã quy ninh, thì nên cứu giúp”. (TB 259/13b)
6. Chính sách do dự
Tuy Tống Thần Tông đã quyết ý đánh ta, nhưng biên thùy miền bắc còn lôi thôi. Việc đánh Thổ Hồn (Hi Hà, vùng Cam Túc) còn dai dẳng, nước Liêu còn đòi nhường đất. Cho nên bề ngoài đối với ta, Tống còn dè dặt.
Sau khi Lý Thánh Tông mất, Tống đã sai viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Khang Vệ sang điếu (tháng 3, N.Tý 1072, TB. 231/4a). Tháng ba năm sau (Q.su 1073), sứ ta là Lý Hoài Tố tới cống, vua Tống phong vua Lý Nhân Tông tước Giao Chỉ quận vương.
Khi Khỉ xin nhận Lưu Kỷ hàng (tháng 10. Q.Su 1073, VI/5), vua Tống hỏi vương An Thạch.rằng: “Ta nghĩ rằng chưa có thể nhận Lưu Kỷ được. Nhận Lưu Kỷ, chắc rằng Giao Chỉ giành lại”. An Thạch nói: “Nghe nói Ôn Cảo từ Quảng Tây đã về. Xin đợi Cảo đến nơi, sẽ thương lượng”. (TB 247/22a)
Thẩm Khỉ tới coi Quế Châu được một năm rồi, mà trong hạt Quảng Tây xảy nhiều vụ lôi thôi. Triều đình Tống sợ Khỉ gây chuyện với ta không đúng cơ hội. Vua Tống và An Thạch đã trở nên không thích Khỉ. Nhân bàn chuyện Lưu Kỷ, vua Tống nói: “Việc Giao Chỉ có thể làm xong được. Nhưng sợ Khỉ không làm nổi”. An Thạch trả lời: “Khỉ tự cho dễ làm xong. Nhưng việc binh rất khó. Sợ Khỉ chưa dễ làm đã xong”. (tháng 10 Q.Su 1073, TS 247/22a). Lúc ti chuyển vận tâu hoặc Khỉ không ngăn kẻ dưới nhận Nùng Thiện Mỹ, vua Tống phê: “Ở Hi Hà còn đương dụng binh chưa xong, mà ở phương nam Thẩm Khỉ đã làm xằng, giấu việc gây sự với man dân. Nếu không xử trí cho êm thì có thể gây nên họa lớn cho Trung Quốc. Thật là không được. Phải lập tức bãi Khỉ, trị Khỉ tội đã tự tiện chiêu nạp man dân. Thế để cho trong ngoài được yên”. Rồi ngày mồng một tháng ba năm Giáp Dần (1074), lấy Lưu Di thay Thẩm Khỉ. Giao cho Lưu Di công việc ước thúc man dân, như đã giao cho Khỉ trước, và sai Di xét việc Khỉ nhận Nùng Thiện Mỹ nữa. (TB 251/1a).1.
Xem vậy, đủ rõ rằng chính sách dè dặt của Tống Thân Tông và Vương An Thạch đối với ta, trong năm Quí Sửu (1073), chỉ bởi thời cơ chưa thuận mà thôi. Chứ định ý đánh ta đã quyết, và vua tôi Tống đều đồng lòng. Sự bãi Khỉ không chứng sự bỏ ý định ấy. Trái lại, theo lời Ngụy Thái trong ĐHBL, “tuy Khỉ tìm gây trăm mối chiến tranh, nhưng không trúng cơ hội. Triều đình nghi rằng Khỉ có ý chù chừ, cho nên đổi đi coi Đàm Châu”.
Kỳ thật thì cả Tống Thần Tông và Vương An Thạch đều điều khiển Khỉ soạn sửa đánh ta. Và cả hai người, lúc đầu, đều ưa Khỉ. Khi chọn Khỉ thay Tiêu Chú, có viên khu mật nói: “Lúc Khỉ làm chuyển vận sứ Thiểm Tây, lính Khánh Châu nổi loạn kéo tới thành Tràng An, Khỉ đóng cửa thành không đám ra; người ta nghi Khỉ dát”. Vua Tống bênh Khỉ, nói: “giặc tới dưới thành, mà trong thành không có người giữ, sao lại không đóng thành? Đó không phải là lỗi”. An Thạch cũng nói Khỉ không có lỗi đáng kể, và vì Khỉ tính trực, nên nhiều người ghét mà thôi (TB 242.14a). Sau này khi Tống bị thua, đáng lẽ Khỉ bị tội chết. May sẽ có An Thạch cứu cho (theo lời Trần Quán, ở đồng thời. TB 244.4b).
Tóm lại, Thẩm Khỉ được lệnh Tống Thần Tông và Vương An Thạch dự bị đánh nước ta. Nhưng Khỉ đã hành động vụng về. Vua và An Thạch cho là bất lực, cho nên mới bãi Khỉ (tháng 3 năm Giáp dần 1074).
Và ở triều Tống, thế An Thạch cũng bị lung lay gần đổ. Chính sách cách mạng của An Thạch tuy được vua thích, và đã có hiệu quả hay, nhưng vây cánh An Thạch còn là tụi trẻ, thừa hành có kẻ lạm quyền; cho nên các đại thần phe cũ và dân gian rất oán. Bắc thùy nước Tống lại đang lâm vào cảnh khốn đốn. Không những Thổ Phồn quấy nhiễu, mà thế lực nước Liêu càng tăng, ép Tống phải nhiều lần nhượng bộ. Bấy giờ Liêu lại sai sứ sang yêu cầu Tống nhượng thêm đất ở vùng Phần thủy lĩnh. Vì vậy tuy được vua che chở, An Thạch cũng phải tự ý rút lui, để cho người đồng đảng thay cầm quyền. Ấy là vào tháng tư năm Giáp Dần 1074.
_____________________________________
1. Sách TB (271/6b) chép lời chiếu kể tội Thẩm Khỉ và Lưu Di, như sau: “Ngày trước Thẩm Khỉ nói dối rằng nhận lệnh triều đình mật sai lo việc đánh Giao Chỉ. Sau lại không đợi chiếu chỉ, tự tiện sai người nhận tụi Nùng Thiện Mỹ ở châu Ân Tình, và ép man dân đặt doanh trại ở châu Dung và Nghi. Khỉ lại tâu dối rằng man dân chịu theo, rồi xây thành đắp lũy, làm cho man dân nổi loạn, giết thổ binh, tướng hiệu, quan lại, kể đến hàng nghìn. Nay Giao Chỉ phạm biên giới, dân Lèo ở châu Thuận, châu Nghi lại xâm nội địa. Dân và quân khổ sở. Tội thật tại Khỉ. Trẫm đã cách chức y và tống đày chỗ Viễn ác châu.
Lưu Di lại xin bãi hạng lính trát binh, đóng chiến thuyền cấm người Giao Chỉ tới buôn bán; Di không chịu bàn nghị với Tô Giàm và không nhận thư tố cáo của Giao Chỉ. Vì thế mới sinh ra biến. Vậy tội cũng không riêng ở Khỉ...
Sách ĐĐSL cũng nói chuyện Tô Giàm viết thư cho Khỉ can những việc đang làm, nhưng Khỉ không chịu nghe, và còn hặc Giàm (ĐĐSL 86).
7. Tình hình nghiêm
trọng. An Thạch trở lại.
Ở nước ta, Lý Thường Kiệt lên cầm quyền đã được hai năm. Ông cũng rất lo lắng vì chính sách khiêu khích của Vương An Thạch. Lại thêm năm Tống Hi Ninh thứ 6 (1073), có người Tống quê Châu Bạch (LNĐĐ), tên Từ Bá Tường, viết thư báo tin Tống sửa soạn đánh ta, và xui ta nên đánh Tống trước (TB 2881/7a). Thường Kiệt đã tập nhiều quân ở biên giới, và lộ vẻ muốn vào đánh đất Tống.
Tháng ba năm ấy (Giáp Dần 1074), vua Tống hạ chiếu nói rằng: “Quảng Tây nhiều lần nói tin thám tử báo rằng Giao Chỉ tụ binh, muốn phạm vào đất ta. Sợ rằng biên thần không biết lường sức chúng, mà đưa quân xa thành trại, để đánh lại. Vậy nên, phải gấp báo cho viên coi Ung Châu là Tô Giàm, dặn nếu quân man giám phạm đến Ung Châu, thì phải kiểm quân cố thủ, chớ có tham lập công mà khinh địch” (TB 251/6a).
Lúc ấy, Lưu Di đến thay Thẩm Khỉ. Triều đình ra lệnh phải chiêu tập phủ dụ cho yên lòng dân. Di xin hoãn thuế cho khê Động vì hạn hán (TB 257/10a) và mộ quân cày đồn điền (TB 256/2a).
Nhưng, ở Biện Kinh, sau mười tháng vắng mặt, Vương An Thạch lại được triệu về chấp chính. Bấy giờ là tháng hai năm Ất Mão 1075. Việc bắc thùy rất bối rối. An Thạch chủ trương nhượng đất cho Liêu. An Thạch nói. “Muốn lấy thì phải cho đi đã”. Tống Thần Tông nghe lời, và cắt 700 dặm đất Hà Đông biếu nước Liêu.
Bắc thùy tạm yên, vua tôi Tống lại quay về biên thùy Đại Việt.
Ý Vương An Thạch vẫn là đánh lấy nước yếu để dọa nước mạnh. Lưu Di được lệnh tăng cường binh lực. Tháng 6 năm ấy (1074), có chiếu cho Quảng Tây chỉ dùng thổ đinh, thay lính thương thủ: cứ ba đinh bắt một và nếu chỗ nào từ trước chưa có thương thủ, thổ đinh hay châu quân, thì đừng đặt thêm. Lưu Di tâu rằng. “Nay tiếp tin từ xứ man báo về, tôi sợ chúng sắp vào cướp, thủ ngự ứng viện sẽ không kịp. Nếu theo lệ mới thì, chỉ mộ được bảy phần mười số cũ. Vậy xin theo lệ cũ.” (TB 254/10a).
Rồi Di theo chính sách Thẩm Khỉ, sai các quan lại vào các khê động kiểm điểm thổ dân, bắt chúng tập trận. Di đóng chiến hạm, dùng thuyền muối để tập thuỷ binh, y như Khỉ trước. Di cũng cấm người nước ta sang buôn bán để tránh sự thám thính (TS 334 và TB 271/7a). Những thuế má vùng tả và hữu Giang thì thu bằng thóc gạo, để tích trữ quân lương (TB 253/4a).1
Tô Giàm coi Ung Châu, thấy quân ta tụ tập ở biên giới rất lo. Bèn viết thư báo với Di rằng: “Phải bỏ ba việc đang làm: tập lính, đóng tàu và cấm chợ, để cho người Giao Chỉ, nếu có cất quân, không còn có danh nghĩa nữa”. Di không nghe, viết thư vặc Giàm, trách Giàm bàn nhảm, và cấm không được nói đến biên sự nữa2. (TB 271/7a).
Tình thế càng ngày càng găng. Trước đó vài tháng, vào tháng giêng năm Ất Mão (1075), Lý Thường Kiệt xui vua Nhân Tông gửi biểu tới triều Tống đòi lại tụi Thiện Mỹ. Lời biểu rằng: “Thủ lĩnh châu Ân Tình, tên Ma Thái Dật là người châu Định Biên ở đất tôi (Bắc Cạn ngày nay). Nó đã dời sang châu Ân Tình và nay đổi tên Nùng Thiện Mỹ. Nó và 700 bộ thuộc đã trốn sang Trung Thổ. Vậy xin xét rõ căn do”. Vua Tống bảo xét (TB 259/13a). Không thấy Tống trả lời, ta dâng biểu đòi trả tụi dân ấy. Lưu Di không chịu chuyển biểu (TB 272/2a). Cuối cùng, vua Tống không bằng lòng trả Nùng Thiện Mỹ (TB 259/13a). Ta cũng đành tạm chịu, nhưng chỉ đợi cơ hội phục thù3.
Ý định chiến tranh bên Tống đã rõ ràng. Quân giữ biên thùy ta cũng sẵn sàng chống lại.
Châu Quảng Nguyên là một yếu địa. Tướng cầm quân ở đó là Lưu Kỷ. Lưu Kỷ nối Nùng Trí Cao. Sau khi Trí Cao thất bại, bộ hạ y là tụi Hoàng Trọng Khanh, Lư Báo, về theo Kỷ (MKBD). Ta đã thấy Kỷ có lần vào châu Qui Hóa và Thẩm Khỉ đã có lần muốn dụ y (VI,4). Kỷ làm quan sát viên ở Quảng Nguyên (TB 279/11a), thường qua các khê động mua ngựa. Có con Nùng Trí Cao là Trí Hội ở châu Qui Hóa, cản đường. Trí Hội bấy giờ đã qui phụ Tống. Kỷ đem 3.000 quân sang đánh đất châu Ung. Trí Hội và con là Tiến An chống lại. Kỷ lui quân về (TB 263/7a).
Việc này chỉ là một cuộc xung đột địa phương, giữa hai viên tướng. Nhưng Tống muốn nhận cơ hội, gây thanh thế ở nam thùy một cách khôn ngoan. Lưu Di được tin Kỷ và Trí Hội đánh nhau, tâu về triều. Di nói: “Thật ra Trí Hội chưa theo ta hẳn. Nên để hai bên đánh nhau như thế. Thua được đều có lợi cho triều đình”. Vua Tống Thần Tông không bằng lòng, trả lời: “Sao lại nói như thế? Nếu ta không dung kẻ theo ta, thì kẻ không theo đắc chí. Bày phương kế như vậy là bậy!” An Thạch cũng đồng ý, nói: “Quả thực như lời Hoàng thượng! Nếu thật Trí Hội chưa theo hẳn ta như lời Di nói, thì nên nhân cơ hội này mà mua chuộc nó. Vả nay, Càn Đức còn bé; nếu Lưu Kỷ đánh được Trí Hội, rồi quay lấy Giao Chỉ, thì đó sẽ là cái họa cho ta. Ta nên giúp Trí Hội để chế lại Lưu Kỷ, làm cho nó không rỗi tay mưu đánh Giao Chỉ. Thế thì mới lợi cho ta” (TB 263/7a).
Theo ý Vương An Thạch, cũng như ý của người Tống đương thời, Lưu Kỷ là một tướng Độc Lập ở Quảng Nguyên, thanh thế không kém gì vua Lý. Cho nên mới có lý luận trên. Nhưng dựa vào lý luận của An Thạch, thì tại sao Tống không dùng Kỷ đánh Lý Nhân Tông? Ấy vì An Thạch sợ Kỷ lấy được nước ta, rồi sẽ trở nên rất mạnh. Vua Tống cho lời An Thạch là phải; hạ chiếu cấp bổng tiền cho Trí Hội và ban cho con là Tiên An chức Tây đầu cung phụng (chiếu ngày A.Vi, 4-4n AMa. DL 21-5-1075; TB 263/7a).
Vua Tống lại chiếu cho ti kinh lược Quảng Tây sai sứ thần vào các khê động mộ đinh tráng để làm thanh viện cho Trí Hội. Vua hẹn rằng hễ ai bắt hay giết được giặc, thì theo lệ thường thưởng cho mười tấm vải (TB 265/7a).
Lưu Di càng được nhịp sửa soạn chiến tranh. Chẳng bao lâu nữa, bức thế, Lý Thường Kiệt phải tấn công trước.
____________________________________
1. Sách TB (271/15a) chép. Vua Tống nghe chuyện Nùng Thiện Mỹ hàng là bởi Thẩm Khỉ sai người dỗ, và nay Lưu Di cũng làm xằng, đến nỗi Giao Chỉ vào cướp, vua bèn chiếu cho viên coi Quế Châu là Thạch Giám và viên phán quan là Chu Thái Dục xét thật (tháng chạp năm ma 1075).
2. Sách TS (quyển 334, Thẩm Khỉ truyện) chép việc này thuộc Thẩm Khỉ cũng như sách ĐĐSL (quyển 86). Nhưng sách TB (271/6b) cho việc ấy về Lưu Di, chắc là đúng hơn, vì hợp với lời chiếu đã dẫn trong chú thích (3). Vả chăng sự bất đồng giữa các sách có nguyên từ gốc. TB chú thích rõ ràng rằng thực lục có hai bản, bản mực (Mặc bản) chép Khỉ hặc Giàm, bản son (chu bản) chép Di hặc Giàm.
3. Cuối cùng Nùng Thiện Mỹ theo Tống. Sách TB (280/21a) chép: Thiện Mỹ và con là Thịnh Minh qua châu Tây Nùng chiêu dụ dân, nên bị dân giết. Ngày 28 tháng 2 năm Đ.Ti (1077), cháu Thiện Mỹ là Huệ Đàm được bổ chức Tam ban tá chức để thưởng công.
Châu Định, thuộc tỉnh Bắc Cạn ngày nay, còn có xã Định Biên ở phía tây chợ Chu. Họ Ma đến ngày nay vẫn còn ở vùng Thái Nguyên, Bắc Cạn. (ĐĐKĐD).
CHƯƠNG VII
LÝ
THƯỜNG KIỆT TẤN CÔNG TỐNG
1. Dự bị tấn công -
2.Binh tướng - 3. Khởi công. Trận Khâm Liêm - 4. Tiến vào
nội địa -5. Phản động của Vương An Thạch - 6. Vây
Ung Châu - 7. Diệt viện binh. Trận Côn lôn quan. - 8. Phá
Ung Châu - 9. Lui quân và đề phòng - 10. Ảnh hưởng.
1. Dự bị tấn công
Những việc xảy ra lâu năm Ất Mão (1075) làm cho Lý Thường Kiệt không còn nghi ngờ ý định của Vương An Thạch đối với ta.
Vả hai năm trước, có người Tống tên Tư Bá Trường, quê châu Bạch thuộc Quảng Tây, đã có người thầm thông với vua Lý. Bá Tường nguyên đậu tiến sĩ, nhưng không được bổ làm quan. Y viết thư cho vua Lý (1073) nói rằng: “Tiên thế Đại vương vốn người đất Mân1. Tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng nhiều người đất Mân. Bá Tường này, tài lược không kém người, nhưng không được trọng dụng ở Trung Quốc. Vậy xin giúp Đại vương. Bá Tường nghe rằng hiện nay Trung Quốc muốn cử binh đi diệt Giao Chỉ. Theo binh pháp dạy: Trước khi người có bụng cướp mình, thì chi bằng mình đánh trước. Lúc nào quân Đại vương vào đánh, Bá Tường này xin làm nội ứng”.2 (TB 273/17a và TTh 13)
Sách VĐUL cũng chép rằng Lý Thường Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu vua: “Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc”.
Vì lẽ ấy Lý Thường Kiệt lại quyết tâm tấn công trước để phá tan mưu mô của Tống. Quân Tống vào đánh nước ta có thể đi theo hai đường chính: đường bộ lấy Ung Châu làm cứ điểm và đường thủy lấy các cửa bể Khâm và Liêm làm cứ điểm (V/1). Vậy nên Thường Kiệt nhằm mục đích phá các thành ấy.
Khâm Châu chỉ cách châu Vĩnh An ta chừng nửa ngày đến một hai ngày (LN ĐĐ 1 và 2). Thủy quân ta tập trung rất dễ dàng ở cửa Đồn Sơn tại vịnh Hạ Long ngày nay, rồi len lỏi theo bờ biển sau núi đá, mà thình lình vào vịnh Khánh Châu.
Ung Châu, nay là Nan Ninh, ở trên sông Uất Giang, sau chỗ hai dòng Tả Giang và Hữu Giang họp lại. Những đường từ đất ta tới đó có nhiều: từ châu Quảng Nguyên vào, thì theo bờ sông Tả mà qua trại Thái Bình; từ châu Tô Mậu vào, thì phải vượt núi, qua các đất Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư Lăng và Thượng Tư; đường chính là châu Quang Lang vào, thì qua các đất Tây Bình, Bằng Tường, Tư Minh và trại Vĩnh Bình. Các đường này đều khá gồ ghề và phải qua những đồn trại Tống. Nếu quân ta lấy được Khâm Châu, thì theo đường Khâm Châu thẳng lên Ung Châu là gần hơn cả (V/1).
Lý Thường Kiệt tập trung quân hạ du ở Vĩnh An và quân thượng du ở dọc biên thùy tại các châu Quảng Nguyên, Môn, Quang Lang và Tô Mậu.
______________________________________
1. Theo sử ta, Lý Công Uẩn là con vô thừa nhận. Bố nuôi là Lý Tự Khanh, cho nên lấy họ là Lý. TT còn chép chuyện hoang đường mẹ có mang với thần nhân. Sự thật, chắc rằng thuyết ấy là bịa đặt ra, hoặc để che đậy một gốc tích không được đẹp đẽ, hoặc để cho dân sự đương thời theo về. Sách VSL chép: khi lên ngôi, Lý Công Uẩn phong bố làm Hiển Khánh Vương, anh làm Vũ uy vương, em làm Dực thánh vương. Xem vậy, Công Uẩn biết cha là ai và có đủ họ hàng, chứ không phải là một đứa con vô thừa nhận. Tuy ta có thể nghĩ rằng bố đây là bố nuôi, nhưng VSL chép rõ những chữ: phụ, huynh, đệ.
Vì thế, thuyết nói Công Uẩn gốc người Mân có thể là thật. Vả chăng nước ta bắc thuộc trong nghìn năm, người Trung Quốc hoặc sang buôn bán, hoặc sang làm việc quan rồi sinh con cái ở đất ta rất nhiều. Có lẽ hầu hết dân miền trung châu gốc ở Trung Hoa. Cho nên Lý Công Uẩn rất có thể là con cháu một người Mân. Tổ tiên sang nước ta lúc nào? dựa vào sự họ Lý dấu gốc tích, tôi nghĩ rằng gốc ấy mới. Có lẽ bố Lý Công Uẩn người Mân, còn chức vị quan trọng ở đó. Khi Tống lấy nước Mân (971), họ Lý chạy sang ta ẩn tích. Sau Công Uẩn làm vua nước ta, không muốn nói mình là người Bắc; lại nhân muốn tăng lòng dân tin cậy nên mới bịa ra thuyết con thần. Không biết giả thuyết này đúng hay không. Một điều chắc chắn là đời Tống, người Tống đều nhận Lý gốc ở Mân; không những Từ Bá Tường nói mà thôi, mà sách Mộng khê bút đàm cũng nói thế.
2. Có lẽ Bá Tường sau này không giúp Lý Thường Kiệt. Sau khi quân Lý rút lui, viên coi Quế Châu là Thạch Giám có khai công trạng Từ Bá Tường, đã mộ 7000 quân che chở cho nạn nhân chạy giặc xuống Quảng Châu. Ngày 22 tháng 3 năm B.Th (1076), Bá Tường được bổ làm tuần kiểm các châu Khâm, Liêm và Bạch (TB 273/17b).
Nhưng sau, vua Lý tố giác sự Bá Tường xui ta đánh Tống. Ngày 26 tháng 2 năm M.Ng (1078), có chiếu cách chức anh em bá Tường, ép bá Tường tự thắt cổ chết, và phát phối con cái (TB 288/7a).
2- Binh tướng
Như trên đã nói, đời Lý dùng dân quân; khi hữu sự mới gọi dân ra lính (II/2). Trong trận đánh Tống, chắc rằng cấm binh phần lớn ở nhà, vì vua còn nhỏ tuổi, không xuất chinh. Quân tinh nhuệ là quân hạ du, tập trung ở miền đông, do Lý Thường Kiệt điều khiển. Còn miền bắc thì có thổ quân, do thủ lĩnh các châu đốc suất. Các thổ dân đi đường bộ, đưa cả vợ con đi theo. Sau trận, Vương An Thạnh có gọi là kẻ lái buôn từ nước ta về, để dò hỏi; người ấy trả lời rằng: “Khi Giao Chỉ vào cướp, quân có sáu vạn, trong đó nhiều đàn bà, trẻ con. Man dân kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà”1 (TB 275/13b). Lời ấy chắc là nói các dân man động mà thôi. Còn quan quân, đã có qui củ. Vả đi đường thủy, chắc không thể đem người nhà đi theo nhiều được, hai đạo quân ấy có từ sáu vạn đến mười vạn2.
Lý Thường Kiệt lĩnh thủy quân, từ Vĩnh An đánh vào ven bể Quảng Đông (VSL). Đó là Đại quân.
Còn các quân từ biên giới miền tây Quảng Tây kéo vào có Tông Đản quản lĩnh (TT). Tông Đản là ai? Sử ta không hề nói đến, ngoài việc cấm quân đánh thành Ung lần này. Tống sử và Tống thư cũng không đâu nói đến. Nhưng sách TB và các sách Tống, như TS 488 TS 495, có chép tên Nùng Tông Đán, người châu Quảng Nguyên. Ta đã thấy Nùng Tông Đán đã theo Tống rồi bỏ Tống nhiều lần (xem V/8). Tháng 6 năm Bính Thìn (1076), ti An Nam tuyên phủ tâu rằng: “Đã sai đô giám Quế Châu là Nùng Tông Đán kiểm điểm đinh tráng Hữu Giang, để đánh Lưu Kỷ”. Vua bảo: “tuy Tông Đán đã hiệu thuận và là kẻ dũng mạnh, nhưng các con còn theo Lưu Kỷ. Ta sợ Tông Đán cũng theo nốt. Vậy nên chọn các viên có mưu lược đi theo Tông Đán”. (TB 276/1b).
Có lẽ Tông Đản ở sử ta là Nùng Tông Đán ấy, hoặc là một con y. Chữ Nùng dùng đầu tên có thể chỉ giống người Nùng mà thôi, chứ không phải hẳn là chỉ họ. Vì sự hai âm Đản và Đán rất gần, hai tên có thể là một chăng?3
Các quan man động ấy đóng từ Quảng Nguyên đến châu Tô Mậu, trước các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cô Vạn, Thiên Long. Lưu Kỷ cầm quân vùng Quảng Nguyên. Có lẽ Tông Đản chỉ là một bộ tướng. Vùng Môn Châu có Hoàng Kim Mãn, vùng Lạng Châu có phò mã Thân Cảnh Phúc (IV/4) và vùng Tô Mậu có Vi Thủ An cầm quân.
Khí giới thì ngoài cung nỏ, trường thương mà hai bên đều dùng, ta có tên tẩm thuốc độc, và máy bắn đá.
Ta lại dùng nhiều voi để xung phong. Voi có thể do cả đường thủy và đường bộ tiến vào.
______________________________________
1. Xem câu chuyện giữa vua Tống và Vương An Thạch (VII/10). Tô Tử Nguyên cũng có nói với An Thạch rằng: quân Giao Chỉ, một nhà tám người thì bảy người đi, còn một người ốm yếu ở nhà. (TB 276/13b).
2. Sử ta, như TT và VSL, chép mười vạn. Sách TB có lúc chép 6 vạn (276/13b), có lúc chép 8 vạn (271/6b). Những số ấy cũng đều có lý. Dân các châu kéo vào Ung Châu, thì khó lòng đếm được, nhất là phu phen đi theo không có định số. Còn số quân chắc có thể đến 6 vạn.
3. TS quyển 495 chép: Họ Nùng có Tông Đán, coi động Lôi Hỏa, cũng là khá hiệt liệt. Đời Gia Hữu thứ 2 (1057) đã từng vào cướp đất Tống. Viên coi Quế Châu là Tiêu Cố chiêu dụ Tông Đán, y bèn theo, được trao chức trung vũ tướng quân. Con Tông Đán là Nhật Tân, nguyên coi động Ôn mẫu, được trao chức tam ban chức phụng. Năm Gia Hữu thứ (1062), cha con Tông Đán đem các động Lôi Hỏa, Kế thành nộp cho huyện quan, và xin ở Lạc Châu, để đời đời làm dân Tống, vua Tống ban cho mỗi người họ Nùng một chức, Tông Đán được coi châu Thuận An, và được ban trâu, muối, vóc... Sau đó Nhật Tân coi thuế ở Ung Châu.
“Đời trị bình (1064-1067), Tông Đán có hiềm khích với tụi Lý Nhật Tôn (Thánh Tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng ép bức. Viên coi Quế Châu là Lục Sằn sai người đến dỗ. Tông Đán bèn bỏ châu mình mà dời nhà vào nội địa. Vua Tống ban cho chức hữu thiên ngưu vệ tướng quân”.
TS quyển 488 (Giao Chỉ truyện) chép lược hơn, nhưng cũng phù hợp với trên. Năm đầu niên hiệu Trị Bình (1064) Giao Chỉ đòi lại Nùng Tông Đán và con là Nhật Tân, với đất hai động Ô Mẫn. Hàn Kỳ bàn với vua Tống nên trả lại V/8.
TB 394/6a chép: Tông Đán nộp đất Vật ác; Tống đổi ra châu Thuận An.
Trong trận Ung Châu, Nùng Nhật Tân bị chết, nên được vua Tống tặng cho chức giám áp Ung Châu (tháng hai năm B.Th 1076, TB 273/3a). Còn Tông Đán vẫn theo Tống, nhưng vua Tống không tin lắm. (V/8)
Những việc trên, tuy làm cho ta không tin chắc rằng Nùng Tông Đán đã theo Lý đánh Ung Châu, nhưng cũng không đủ để bác thuyết ấy. Sau khi quân Thường Kiệt rút về và đại quân Tống tới, có nhiều tù trưởng trước là tướng theo Lý, bấy giờ lại theo Tống như Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn vân vân.
3. Khởi công. Trận
Khâm Liêm
Phần Lý kỷ còn chép lại rất sơ sài về việc hành binh này. Ta không thể biết chi tiết cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt. Tống sử và các Tống thư chỉ chép rõ việc người Tống làm. Còn việc người ta, họa hoằn có một vài chi tiết. Sách TB cho ta biết thêm một vài việc. Nhờ những lời tâu của biên lại Tống, có ghi ngày tháng, nên ta có thể căn cứ vào đó mà đoán một cánh khá tường tận những hồi biến chuyển của cuộc tấn công do Lý Thường Kiệt chỉ huy.
Như đã nói trên, biên thùy ta giáp địa hạt Ung Châu có hình một góc tư vòng tròn, đường bán kính trung bình dài 150 cây số, mà trung tâm là thành ung (IV/1). Ba đường chính đi Ung, đường Quảng Nguyên, đường Quang Lang và đường Tô Mậu đều xấp xỉ như nhau. Về phía đông, góc tư đường vòng tròn kia tiếp với bờ bể châu Khâm và châu Liêm. Đường từ Khâm đến Ung lại ngắn hơn cả, dài chừng 120 cây số; quân đi mất độ năm ngày đường.
Lý Thường Kiệt đã mưu tính chiến lược rõ ràng. Thổ binh đóng ngoài vòng biên giới sẽ lần lượt kéo vào chiếm đất Tống và trong lúc đầu, quấy rối gần biên thùy mà thôi. Chủ ý là làm cho Tống tưởng rằng quân ta sẽ do các đường bộ kéo vào đánh Ung. Thổ binh ta sẽ phá những trại Hoành Sơn Thái Bình; Vĩnh Bình Cổ Vạn, là những đồn che đỡ cho Ung. Trong lúc ấy, quân Tống ắt sẽ kéo xuống miền tây và tây nam để cứu các trại ấy. Mặt đông nam châu Ung sẽ bỏ ngỏ, vì từ Ung đến Khâm là hoàn toàn đất Tống.
Lúc quân Tống trong hạt Ung Châu đã đổ xô vào phía tây và tây nam, Lý Thường Kiệt liền đưa đại quân đi đường thủy, từ châu Vĩnh An tới Khâm Châu và Liêm Châu. Đường đi đến Khâm chỉ mất chừng vài ngày. Đại quân đổ bộ ở Khâm, rồi tiến thẳng tới Ung. Như vậy, đại quân ta chỉ chừng bảy ngày đã từ đất nhà đến thẳng căn cứ địa Ung Châu.
Nếu quân Tống bỏ thành Ung để dời xuống cứu các trại biên thùy, thì thành Ung có thể mất liền. Nếu Tống để nhiều quân giữ thành Ung, thì các thổ binh ta sẽ tiến dễ dàng. Từ mọi bề, quân ta cùng kéo tới thành Ung, và thành này sẽ bị vây mấy mặt.
Chiến sách ấy đã thấy rõ ràng trong cuộc chuyển binh của ta vào cuối năm Ất Mão (1075).
Ta đã thấy rằng vào tháng tư nhuận, Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên đã đem 3.000 quân đánh châu Qui Hóa làm Tống phải động tâm và phải phái quân giúp viên coi châu ấy là Nùng Trí Hội (VI/7).
Nhưng cuộc tấn công thật bắt đầu vào tháng chín.
Ngày G.Tu, 15 tháng 9, 700 quân tới đánh trại Cổ Vạn (DL 27-10-1075, TB 268/10b). Chắc là quân ấy từ châu Tô Mậu kéo vào. Tin này đến 28 tháng 10 mới về đến kinh (B.Th, DL 8-12-1075; TB 269/23b), và đến ngày 11 tháng 11, triều đình Tống mới hay rằng Cổ Vạn đã mất, và “ở Quảng Nguyên có nhiều hương binh họp và soạn sửa vào cướp”. (K.Ti, DL 21-12-1075; TB 270/2b ).
Tin từ biên giới về đến Biên Kinh mất một tháng rưỡi, cho nên các biến cố ở biên đang dồn dập, mà triều đình Tống vẫn tưởng rằng chỉ có những việc cướp nhỏ mà thôi. Vua Tống dặn Lưu Di phải sai các tuần kiểm kê phòng cho nghiêm, không được khinh chiến (TB 269/23b). Khi nghe tin trại Cổ Vạn mất, vua lại bảo Lưu Di kê tên những người có chiến công và giúp đỡ những người có nhà bị cướp và bị đốt. (TB 270/2b)
Trong lúc ấy thì có sao chổi hiện; làm cho vua Tống càng lo. Ngày mồng 7 tháng 10 năm Ất Mão (DL 17-11-1075, TB 269/13a), sao chổi hiện ở chòm sao Chẩn. Ngày 8, đuôi dài ba thước) có lẽ cầm thước dơ thẳng tay, nhắm mà đo). Ngày 9, dài 5 thước. Ngày 10, dài 7 thước, trỏ xiên về sao Thái Hạt. Đêm 19 mới tắt (TB 269/18b). Theo phép đối chiếu trên trời dưới đất, sao Chẩn là tinh phận phương nam. Theo sự tin của Á Đông, sao chổi là điềm sắp có binh đao, tật dịch. Theo các nhà chiêm tinh bấy giờ đoán, thì sắp có binh đao trên đất Giao Chỉ.
Riêng Vương An Thạch là một nhà học giả rất có óc thực tế và không tin dị đoan (TTh 13). Sử Tống còn trách An Thạch để việc sao chổi hiện ba ngày không tâu vua (TB 271/15b). Ở nước ta, Thường Kiệt có tin điều lành dữ hay không? Ta không biết. Nhưng theo óc dị đoan đương thời, thì sao chổi hiện lần này1, chắc làm cho người ta càng tin rằng quân Tống sắp kéo vào đánh nước ta.
Trong khi bang giao Tống Lý đang gay go, sự sao chổi hiện, làm tăng lòng lo âu và nghi kị. Có lẽ vì đó, Lý Thường Kiệt càng quyết tâm phát quân tấn công vào đất Tống.
Bộ binh ở Tả Dực được lệnh xuất quân trước, tràn qua Vĩnh Bình để đến Ung Châu (VSN). Quân các châu dọc biên giới kéo vào chiếm các trại Vĩnh Bình, Thái Bình; quân từ Lạng Châu vào lấy những châu Tây Bình, Châu Lộc. Quân Quảng Nguyên và châu Môn chiếm trại Hoành Sơn. Các tướng Tống chống cự rất hăng hái, nhưng đều bị bại. Chúa trại Hoành Sơn là Lâm Mâu Thăng, viên quan hạt Vĩnh Bình là Tô Tá, viên quản hạt Thái Bình là Ngũ Cử, và viên giám áp trại Thái Bình là Quách Vĩnh Nguyên đều tử trận. (TB 273/4b)
Lưu Di chưa biết nguy cơ đã đến, còn xin bốn vạn quan tiền để mua lương trữ ở Ung Châu. (23-10, T.Ho, DL 3-12-1075, TB 269/21b)
Bấy giờ, biên giới Ung Châu rất bỏ ngỏ. Man dân sẵn oán Tống, quân lính ít được tập tành. Lưu Di đương thay lính, bỏ trát binh mà dùng quân thương trượng. Các tướng trễ nải. Quân ta tới đâu như là vào chỗ không người (VSL)
Trong khi ấy, đại quân Lý Thường Kiệt đã cưỡi thuyền theo bờ bể, từ châu Vĩnh An vào cửa bể Khâm Châu và Liêm Châu (TB 271/1b). Bộ binh đóng gần biên giới Khâm Châu cũng kéo vào các trại Như Hồng, Như Tích và Để Trạo.
Quân Tống bị đánh bất ngờ, không chống cự. Ngày M.Dn, 20 tháng 11, Khâm Châu bị chiếm (DL 30-12-1075; TB 270/5a). Ba ngày sau, Liêm Châu cũng bị mất luôn. (2-1-1076; TB 270/8a)2.
Những chúa trại chung quanh Khâm Châu đều bị giết; Ngũ Hoàn chúa trại Như Tích và Trương Thủ chúa trại Để Trạo đều chết. (TB 273/4b)
Viên coi Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái (theo LNĐĐ 10, còn TB 273/4b chép Trần Vĩnh Linh). Trước lúc quân ta tới, đã có kẻ nói hở chuyện cho người Tống biết rằng: Giao Chỉ sắp đánh úp Khâm Châu. Người Khâm mách với Vĩnh Thái, nhưng y không tin. Chiến thuyền Lý thình lình vào bến rất gấp. Vĩnh Thái vừa bày rượu uống. Có người báo tin quân Lý tới, nhưng Vĩnh Thái vẫn không để ý đến. Quân Lý đột nhập vào thành, bắt được Vĩnh Thái và tất cả bộ hạ, không phải gia phong một hợp nào. Sách LNĐĐ chép chuyện trên, kể nối rằng: “Quân Giao Chỉ nói với Vĩnh Thái: “Chúng ta chỉ lấy của cải mà thôi, chứ không giết chúng mày đâu”. Sau khi lấy sạch của, lại đem giết hết. Sau đó, người Khâm Châu Tô Tượng thờ Vĩnh Thái ở miếu Thành Hoàng, và tôn làm thần Chuyển Tí đại vương. Nhưng người đời sau vẫn cười chê Vĩnh Thái là ngu muội. Khi muốn chế nhạo ai là không thông tuệ, thì gọi người ấy là “Trần Thừa Chỉ!”. Thừa Chỉ hàm của Vĩnh Thái, theo LNĐĐ 10; còn TB chép Thừa chế.
Cùng với Vĩnh Thái, còn có các viên giám áp Văn Lương, Ngô Phúc, viên tuần kiểm Tưởng Cẩn, các viên chỉ sứ Tống Đạo, Đinh Toại, viên giám thuế Âu Dương Dẫn đều bị hại. (TB 273/4b)
Ở Liêm Châu quân Tống cũng thua rất nặng. Hình như ở đây, các quan Tống được tin Khâm Châu mất, có phòng bị và chống cự ít nhiều. Tám nghìn thổ đinh bị ta bắt làm phu khiêng xuống thuyền đồ vật cướp được, xong rồi đều bị giết (Thần Tông TL và VKT). Lỗ Khánh Tôn coi Liêm Châu bị chết cùng nhiều bộ hạ: tri huyện Hợp Phố Lương Sở, giám áp Chu Tông Thích, chỉ sứ Ngô Tông Lập. (TB 273/4b)
Nói tóm lại, trong các trận mở đầu, Lý Thường Kiệt đã lợi dụng được hai điều cốt yếu trong chiến lược xưa nay: triệt để dùng sở trường của mình là thủy quân, và rình chỗ bất ngờ mà đánh úp. Thắng lợi hoàn toàn đã về quân Lý, cũng là phải lẽ.
______________________________________
1. Các sử ta không còn thấy chép việc sao chổi hiện.
2. Về ngày mất Khâm và Liêm, đây theo sách TB 270/8a. Trong sách TTh, Tư Mã Quang chép ngày 20 và 23 tháng chạp. Ấy là lầm, vì theo TB 270/5a, hai ngày ấy là tin về đến Biện kinh. Lại theo sách Tông giám cương mục quyển 71, Liêm Châu mất ngày G.Ta, tức sáu ngày sau Khâm Châu.
4- Tiến vào nội
địa
Chiếm xong hai hải cảng Khâm, Liêm, Thường Kiệt liền đưa quân tiến vào nội địa.
Bấy giờ, Tống không còn quân để cản quân ta. Nhưng Thường Kiệt sợ dân Tống oán thù và quấy đường tiếp tế ở hậu phương, cho nên ông phải tìm danh nghĩa cho cuộc hành quân.
Muốn phô trương danh nghĩa, Thường Kiệt sai yết bảng dọn đường kể tội quan Tống. Lời lộ bố nói rằng: “Có những dân Giao Chỉ làm phản rồi trốn sang Trung Quốc. Các quan lại dung nạp và giấu đi. Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế Châu (Lưu Di) không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt bể sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi Quảng Châu cũng không chịu báo. Vì vậy, quân ta tới đuổi bắt dân trốn ấy...”. Ông lại biện luận rằng mình chỉ tự thủ. Ông tuyên bố: “Quan coi Quế Châu đã kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao Chỉ”.
Thường Kiệt lại lợi dụng sự phân tranh trong triều đình Tống giữ hai phái tân và cựu, để chia rẽ quân dân địch. Trong các lộ bố, có nói: “Trung Quốc dùng các phép thanh miêu, trợ dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đem quân tới cứu”. (TTh 13 và TB 271/15b)
Người đời sau kể rằng “dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam; rồi cùng nhau bày phương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp” (NBS). Bởi vậy, tiến quân vào nội địa càng thêm dễ dàng.
Trong lúc ấy, đạo quân Tông Đản tràn qua các trại ở phía tây. Trong tháng 11, Vĩnh Bình, Thái Bình, Thiên Long, Cổ Vạn đều mất (TB 271/7a). Ngày 10 tháng chạp, quân Tông Đản kéo thẳng đến Ung Châu. Thành Ung bắt đầu bị vây. (Đ Zu, DL 18-1-1076; TB 271/6b).
Đại quân ở Khâm và Liêm cũng tiến lên phía bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu, như ta sẽ thấy sau. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm châu Bạch (ĐĐSL 8 ). Viên tuần kiểm Thẩm Tông Cổ bị chết. (TB 273/5a). Đạo quân ấy lại tiến lên Dung Châu. Viên đô tuần kiểm các châu Bạch, Dung là Phan Nhược Cốc và chỉ sứ châu Dung là Vương Đạt và Tào Quăng cũng đều tử trận (TB 274/3b). Hình như đạo quân ấy dừng ở khoảng này, để chặn quân từ phương đông tới cứu Ung Châu.
5- Phản động của
Vương An Thạch
Tin tức bây giờ chuyển chậm, vì dịch trạm ở miền nam chưa tổ chức. Tuy Khâm Châu bị chiếm ngày 20 tháng 11, mà đến mồng 6 tháng sau, ti kinh lược Quảng Tây đóng ở Quế Châu mới được tin vào tâu: “Người Giao Chỉ họp quan thủy ở Triều Dương (tức là Vĩnh An Châu, hay là Hải Ninh bây giờ. Sách TB 271/5b chép Hồ Dương, sai vì tự dạng), sắp sửa đi hai đường vào cướp”. Đúng một tháng sau khi Khâm Châu bị mất, tin mới tới triều đình Tống (20 tháng Chạp, Đ.Vi, DL 28-1-1076; Tb 270/5a).
Ba ngày sau lại tiếp tin Liêm Châu cũng mất luôn. Các tướng ở địa phương bối rối đã đành; mà vua tôi Tống cũng rất đỗi hoang mang. Triều đình náo động.
Báo tin mất Khâm Châu, ti kinh lược Quảng Nam tây lộ xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 ngựa và một tháng lương, tất cả lấy dọc đường từ kinh đến Quảng Tây. Lại xin chừng mười sứ thần theo quân, xin thêm khí giới, đồ dùng, và xin điều động các dân Khê Động. Muốn điều khiển quân mau chóng, ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung Châu. (TB 271/12a)
Ngày 20 tháng 12, được tin báo Khâm Châu mất vua Tống Thần Tông liền hạ lệnh chuẩn bị các trạm, cấp đủ người và ngựa, để đem tin cho chóng. Lại sai Trương Thuật, Tả Quí Thành tới ti kinh lược Quảng Tây để chuẩn bị tướng lệnh (TB 271/12a). Sợ quan ta thừa thế đi thuyền đến Quảng Châu, vua Tống ra lệnh cho quan coi Quảng Châu phòng bị cẩn mật. Về mặt trận Quảng Tây, dặn các tướng phải cố thủ ở các thành và nơi hiểm yếu và chớ khinh địch. Lời chiếu nói rằng: “Giao Chỉ chiếm Khâm Châu chưa lui. Sợ nó theo bờ bể dòm ngó Quảng Châu, nên phải lo giữ. Nay xét thấy quân các đồn ở Quảng Tây yếu và ít, mà lại phân tán ra. Nếu không cố thủ các thành, thì quân ta sẽ tan rã, và tiếng tăm giặc sẽ lan ra, làm tăng thế nó. Vậy chiếu cho Quảng Tây, hãy bảo các tướng giữ thành, chớ có khinh địch”. (TB 271/12a)
Hai ngày sau, lại có tin báo Liêm Châu cũng mất. Triều đình Tống càng thêm lo, hoang mang rất mực. Vua Tống liền hạ chiếu cho ti kinh lược Quảng Tây, dặn rằng: “Nếu xem chừng có quân Giao Chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ mấy chỗ hiểm mà thôi. Chỗ nào có tiền, vải, lương thực, thì phải chở tháo đi, đừng để lọt vào tay giặc”. (TB 271/12b). Sau đó lại ra một lệnh trái ngược nói rằng: “Nếu quân bỏ thành đi chỗ khác, thì lo rằng dân rối sợ. Hãy bảo các quan ti đều phải trở lại thành mình”. (TB 271/13a)
Cũng ngày ấy (22 tháng chạp), vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây. Cấp cho Quảng Tây 50.000 quan tiền và sai các lộ chung quanh trữ lương thực để mộ quân1. Sai mộ 3.200 đinh tráng ở các châu Thú, Ung, Tân, và dặn nếu không đủ thì mộ thêm thổ dân để dùng. Vua Tống lại sai chọn trong các châu quận những người dân trai trẻ, khỏe mạnh, đảm dũng đem tới Quế Châu; cứ 5000 người lập một chỉ huy, rồi dạy vũ nghệ, và đặt tên là quân Tân đằng hải (TB 271/13b). Vua Tống lại định đem quân Hà Bắc xuống miền nam để ti kinh lược Quảng Tây dùng; đạo quân thứ 35 xuống Quế Châu, đạo quân thứ 19 xuống Đam Châu (Tràng Sa bây giờ.). Sai hai lộ Kinh, Hồ sắm 7.000 cung nỏ bằng gỗ để cấp cho Quảng Tây. (TB 271/14a)
Ý vua Tống là vận động cấp tốc binh sĩ để ngăn quân ta tiến lên phía bắc. Đối với dân gian, vua Tống sai tồn tuất cho nhà có người chết trận. Nếu có ai muốn chạy lánh nạn lên Lĩnh Bắc (vùng Hồ Nam), thì cũng đưa lên. (TB 271/13b)
Vương An Thạch rất tức giận, khi được tin Lý Thường Kiệt chỉ trích chính sách tân pháp trong lời lộ bố yếu dọc đường, bèn định sai tướng đem đại quân đi đánh đất ta. Ngày 25 tháng chạp (T.Ho, DL 2-2-1076; TB 271/15a), vua Tống Thần Tông chọn viên ngoại lang lại bộ, hiện coi Diên Châu (Thiển Tây), là Triệu Tiết, làm An nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quản, kinh lược chiêu thảo sứ và kiêm chức Quảng Nam tây lộ an phủ. Vua lại sai hoạn quan Lý Hiếu làm phó an phủ sứ và Yên Đạt (TS chép lầm ra Yên Quì vì tự dạng) làm phó đô tổng quản, Ôn Cảo làm quản câu, coi việc kê cứu thư từ. Rồi sai thảo một tờ chiếu đặc biệt, gọi là Thảo Giao Chỉ chiếu để ban ra một cách long trọng.
Theo lời Tư Mã Quang, thì chính tay Vương An Thạch thảo lời chiếu ấy, để trả thù lời lộ bố của Lý Thường Kiệt chỉ trích các tân pháp của y. Lời chiếu rằng:
“Chúa nước An Nam đời đời được phong tước vương, cho nên con cháu được ta thừa nhận và vỗ về Tiên Triều đã từng tha lỗi cướp họ Lê. Nay lại phạm vào nội địa, giết hại lại dân. Can tội với nước thiên tử, như thế không thể tha thứ được!
“Quân Trời tới đánh, thật có danh nghĩa!
“Nay Trẫm sai Triệu Tiết làm An Nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quản, kinh lược chiêu thảo sứ; Lý Hiến làm phó an phủ sứ và Yên Đạt là phó đô tổng quản.
“Các người hãy cất quân thủy, lục tiến chóng đi! Trời tỏ muốn giúp, nên đã có điềm sao chổi tốt, người rõ lòng gian, nên đều căm giận quân địch ác.
“Chiếu cho quân Giao Chỉ hay: khi thấy quan quân đến thì đừng chạy. Dân chúng đã chịu khổ sở lâu ngày. Nếu dỗ được chúa mày vào nội phụ, Trẫm sẽ ban tước lộc cho. Càn Đức còn trẻ, việc làm loạn không phải tự người gây ra. Ngày nào người tới chầu, Trẫm sẽ tha thứ cho...”. (TTh 13)
Ta nên để ý đến sự vua Tống quan tâm đến danh nghĩa của cuộc chinh phạt này. Trước đó, vua và An Thạch bàn chuyện đánh Giao Chỉ vua do dự và cho rằng chưa phải lúc dụng binh. An Thạch đáp: “ Binh không có lúc nào là không dùng được”. Vua nói: “Dụng binh bây giờ không có danh nghĩa gì cả”. An Thạch sỗ sàng trả lời: “Nếu Bệ hạ quả muốn dụng binh, sao lại không có danh nghĩa?” (Theo lời Trần Quán, TB 244/4a)
- Lần này danh nghĩa rõ ràng. Tự nhiên An Thạch lấy cớ
___________________________________
1. Quảng Tây biện 57 vạn thạch gạo, Quảng Đông biện 57 vạn thạch gạo và 10 vạn thạch đậu, Kinh nam biện 3 vạn thạch gạo, Phúc Kiến biện 3 vạn thạch gạo (TB 271/12a).
6. Vây Ung Châu
Trong khi triều đình Tống vội vã đối phó, quân LýThường Kiệt đã lục tục kéo trên đường Khâm Ung, để họp cùng quân Tông Đản đến đó trước (TT và VSL)
Ta đã thấy rằng sau khi lấy được Khâm, Liêm, Lý Thường Kiệt chia quân làm hai đạo: một mặt, từ Liêm Châu kéo lên lấy châu Bạch, hình như để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới; một mặt, đại quân rời Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Sau ngày 10 tháng chạp (Đ.Zu, DL 18-1-1076) đại quân mới đến thành Ung (TB 271/6b)
Hai đạo quân ta kẹp lại, bắt đầu vây chặt Ung Châu.
Thành Ung có tiếng rất chắc. Chính Vương An Thạch cũng đinh ninh rằng quân ta không thể phá nổi (TB 273/10a). Quan Tống giữ thành Ung lại là một người kỳ cựu, lão luyện, thông minh và rất cương quyết ấy là Tô Giàm. Trận Ung Châu, bởi thế, sẽ rất khốc liệt, và sẽ là một trường tranh đấu giữa mưu trí của Lý Thường Kiệt và lòng dũng cảm của Tô Giàm.
Giàm là một văn quan, giữ những chức nhỏ ở Quảng Nam từ lâu và được coi giữ Ung Châu đã năm năm. Giàm đã biết rằng chính sách của quan trên là Thẩm Khỉ, Lưu Di, thế nào cũng gây ra họa chiến tranh. Nhiều lần can Khỉ rồi Di, mà không được (VI/5,6,7).
Lúc nghe quân ta tới gần Ung, Giàm nghĩ rằng Ung cách Quế không xa, viện binh chỉ 14 ngày đường đã đến nơi, cho nên quyết tâm đóng thành cố thủ.
Giàm liền kiểm điểm binh lính trong quận. Kể cả cấm binh, sương binh và quân già yếu, chỉ có cả thảy 2.800 người. Giàm bèn hô hào người trong quận, bảo người nào có ai dũng thì bày tỏ phương lượng, rồi chia nhau phòng thủ. (TB 271/7a)
Dân nghe tin, rất sợ hãi; đạp nhau chạy, đông không biết bao nhiêu mà kể. Thấy quân dân nao núng, Giàm đem hết của công và tư bày ra cho quân xem, rồi nói: “Khí giới ta đã dự bị đủ, lương thực trữ cũng không thiếu. Bây giờ giặc đã đến dưới thành. Chỉ còn cách cố thử lấy thành để đợi ngoại viện. Ắt là ta sẽ thắng. Nếu có một ai chạy, thì lòng dân sẽ náo động, và đại sự sẽ hỏng. Nếu chúng ngươi nghe ta, thì sẽ được hậu thưởng. Nếu có ai không nghe mà bỏ chạy, thì ta sẽ chém”. (TS 446 và TB 271/7b)
Trước đó, con Giàm là Tử Nguyên, vốn làm quan ở Quế Châu, đưa vợ con tới thăm Giàm. Lúc sắp trở về, thì thành Ung bị vây. Tuy vậy, Tử Nguyên muốn đưa vợ con đi. Giàm không cho, và chỉ để Tử Nguyên một mình đi thôi. Ấy vì sợ nếu bà con mình chạy, thì dân gian sẽ chạy hỗn loạn. (TS 446; TB 272/7b)
Có một viên đại hiệu, tên Địch Tích, muốn trốn. Giàm sai người nấp ngoài cửa, bắt được quả tang, đem chém và bêu đầu để làm gương. Vì thế, trên dưới ai cũng nín hơi mà nghe theo. (TB 271/7b và TS 446)
Giàm lại mộ được hơn một trăm quân cảm tử, chèo thuyền trên sông Ung Giang, đón đánh quân ta. Chúng chém được mười voi lớn (TB 271/6b) và hai tướng (TS 446)..
Quân Lý vây thành càng ngày càng riết. Giàm đốc thúc quân cố thủ. Muốn an ủi nhân tâm. Giàm phao tin rằng viện binh sắp tới. Giàm lại dùng thứ cung thần tí bắn một phát được nhiều tên. Bắn ra giết nhiều lính và voi. Quân Lý dùng công cụ (một thứ máy bắn đá?) tứ bề trèo lên cao nhắm bắn vào trong thành, giết nhiều quân phòng thủ.
7- Diệt viện binh.
Trận Côn Lôn quan
Lúc thành Ung sắp bị vây, Giàm sai sứ về Quế Châu, ở cách về phía bắc chừng 400 cây số, để cầu viện. Quan coi Quế Châu là Lưu Di sai viên đô giám Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Nhưng Thủ Tiết nghe báo rằng ta đông gấp mười, nên dùng dằng không chịu đi liền. Trái lại Thủ Tiết đem binh đi vòng theo đường Quí Châu để tới Tân Châu. Y trú binh lại ở trại Khang Hòa để chờ xem sức Giàm chống lại với ta thắng bại thế nào đã. Không thấy viện binh đến, mà vòng vây đã thắt chặt, Giàm phải cho người mang lạp thư, nghĩa là thư viết vào giấy rồi vò vào trong sáp mà ngậm trong miệng, lọt ra vòng vây để cấp cáo với đề điểm hình ngục Tống Cầu. Lúc nhận được thư, Cầu khóc và giục Thủ Tiết tiến binh. Thủ Tiết hốt hoảng không biết làm thế nào; bèn đem quân đóng ở núi Hỏa Giáp (TS chép Đài Giáp), rồi kéo tới giữ ải Côn Lôn giữa đường Ung Tân, cách Ung chừng 40 cây số. (TB 272/1a và TS 446).
Thường Kiệt được tin, đưa quân đến đón đánh. Thình lình quân ta tiến tới, quân Tống chưa đánh đã chạy. Thủ Tiết nhu nhược không điều khiển nổi binh sĩ, liền bị thua. Nhiều tên quân hàng theo ta (TB 277/17a). Thủ Tiết bị giết1. Ấy vào ngày 4 tháng giêng năm Bính Thìn (T.Zu, DL 11-2-1076; TB 272/1b). Các viên đề cử Tả Giang Ôn Nguyên Dụ, đô giám Hồ Nam Trương Biện, tuần kiểm các châu Ung và Tân Hứa Dự, tuần kiểm các châu Liễu, Tân, Tượng Vương Trấn đều bị giết chết. (TB 273/4b)
8. Phá Ung Châu
Thành Ung Châu bị vây từ mồng mười tháng chạp năm trước, đến bấy giờ gần một tháng. Nhưng thành cao và chắc, Giàm lại giỏi điều khiển binh lính. Quân Lý không sao lọt. Muốn dòm vào trong thành, ta dùng vân thê, là một thứ thang bắc chuyền nối nhau rất cao, rồi sai các tù binh trèo lên mà trông vào thành. Bốn bề dựng thang. Thang vừa dựng, Giàm sai bắn hỏa tiễn, tức là một thứ pháo thăng thiên, đốt cháy thang. (TS 446 và TB 272/7b).
Cầm cự nhau mãi. Bên ta, quân và voi chết rất nhiều. Quân mất một vạn rưởi (TB 271/7b). Quân ta dùng tên độc bắn lên thành. Trên thành người và ngựa chết rất nhiều.
Ta tại đào đường hầm lót da cho kín nước, định chui vào thành. Giàm để ta tiến tới gần, rồi phóng hỏa đốt các huyệt (TB 272/7b). Có tù binh bắt được ở Côn Lôn, tên Triệu Tú, bày cho ta dùng hỏa công, nghĩa là bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành (TB 281/13b), trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy (TB 273/15a)
Ta vây thành đã 42 ngày, mà không sao phá được. Thường Kiệt sắp kéo quân lui. Lại có tù binh xui ta dùng phép thổ công: quân ta lấy đất bỏ vào bì, xếp chồng vào nhau thành bực thềm để lên thành.
Bao đất chất hàng vạn, dần dần cao như núi. Chốc lát đã cao đến vài trượng. Quân Lý nối tiếp nhau như kiến mà trèo lên, rồi lọt vào trong thành. Ấy là ngày Canh Thìn 23 tháng giêng.2 (DL 1-3-1076; TL và TB 272/7b)
Trong khi thành bị vây, lương hết, giếng cạn. Người Ung phải vốc nước bẩn mà uống. Nhiều người mắc bệnh lị chết chất chồng đống. Nhưng không ai nản chí và phản lại. Giàm biết thế nguy, nhưng vẫn chống rất hăng. Giận tụi Thẩm Khỉ, Lưu Di đã gây việc binh đao mà lại không chịu tới cứu, Giàm muốn dâng sớ kêu kiện, nhưng đã tiệt đường. Giàm bèn yết bảng ở chợ kể tội Khỉ, Di, mong lời đạt đến vua Tống. (TS 446 và TB 272/8a)
Lúc quân ta vào lọt trong thành Ung, Giàm còn đem lính bị thương ra chống lại, ruổi ngựa đánh rất hăng. Nhưng thấy mình không còn đủ sức chống nữa, bèn nói với bộ hạ rằng: “ta quyết không chịu chết về tay giặc”. Giàm bèn trở về dinh, tự giết 36 người nhà, kể cả hai con và hai cháu (theo TS, còn TB nói Giàm bảo 36 người nhà chết trước). Giàm giấu thây người nhà vào một cái hầm, rồi tự thiêu mà chết.3 (TB 272/8a và TS 446 )
Quân dân thấy Giàm nghĩa khí như vậy, không ai chịu hàng. Vì Giàm kháng cự lâu, quân Lý tức giận. Lúc vào thành, quyết tìm bắt Giàm cho được. Khi biết Giàm đã chết, chúng tìm xác cũng không thấy. Tức giận, chúng giết sạch dân thành, kể cả quan lại, lính tráng, thổ đinh, cư dân, cả thảy hơn năm vạn người. Các sách TB 272/8a và TS 4346 còn chép rằng quân Lý sắp đầu người thành đồng; mỗi đống 100 đầu mà có tới 580 đống.
Thường Kiệt sai phá thành Ung, lấy đá lấp sông để ngăn quân cứu viện.
Lấy xong Ung Châu, Thường Kiệt kéo quân lên phía bắc, ý muốn lấy Tân Châu. Viên coi Tân Châu, là Cổ Cắn Lặc, nghe quân ta kéo gần đến thành, bỏ thành chạy chốn. (TB 280/2b)
_______________________________________
1. Lúc luận công, đáng lẽ con Thủ Tiết được bổ làm quan, nhưng ngày 27 tháng 7 năm B.Th (1076), viên khu mật tâu: “... Nhưng xét ra, thì Thủ Tiết nhu nhược, không điều khiển được quân. Quân lính nhiều người hàng giặc, và bày cho giặc làm súng pháo để đánh thành Ung. Nay xin chỉ bổ cho hai con y mà thôi”. (TB 277/17a).
2. Về ngày Ung Châu mất, mỗi sách chép một khác. TTh chép ngày 21 tháng giêng. ĐĐSL cũng chép ngày ấy. BM chép ngày A.Ma, nhưng tháng giêng không có ngày ấy. Trên đây, theo Thần tông Thực lục mà TB chép lại.
3. Vua Tống Thần Tông được tin Tô Giàm chết, rất thương tiếc. Ngày 15 tháng 2, vua nhịn ăn để tỏ lòng xót thương. Bèn tặng Giàm chức Phục quốc công, tiết độ sứ, và ban tên thụy Trung Dũng. Vua Tống lại cấp mười khoảnh ruộng hạng nhất ở khu đệ nhất trong kinh thành. Ban chức cho những người thân thuộc, và thăng chức cho con là Tử Nguyên, duy nhất sống sót vì Giàm đã để cho rời khỏi Ung trước khi Ung mất, làm tây đâu cung phụng hạp môn chỉ hậu. Tử Nguyên được bổ làm phó tướng, đi mộ thủy quân. Vua Thần Tông đặc biệt mời Tử Nguyên đến mà an ủi. Vua nói: “Nếu không có cha người giữ Ung Châu, thì thành ấy cũng chỉ như Khâm và Liêm, giặc vừa đến đã mất. Như thế thì giặc thừa thắng đánh tràn, và các châu Tân Tượng, Quế cũng không giữ nổi. Đời Đường, Trương Tuần, Hứa Viễn giữ Mục dương để che cho Giang Hoài, công so với cha ngươi không hơn gì xa.”.
Vua Tống lại thăng cho Tử Nguyên chức điện trung thừa, thông phán Ung Châu. Còn các con khác như Tử Minh, Tử Chính, các cháu như Quảng Uyên, Trực Ôn, chết ở Ung với Giàm, đều được ưu tặng. (TB 273/9b, TS 446). Vua Tống lại sai lập đền thờ Tô Giàm ở Ung Châu. (TS 446)
Việc Ung Châu mất, làm náo động nhân tâm ở Tống. Trước vì Ung là cử vào phương nam cho nước Tống. Sau vì Giàm tử tiết ở đó. Sự tử tiết trong thời đại trọng nho, có tiếng dội rất to. Người đương thời ngợi ca khí tiết của Tô Giàm. Ngô Xử Hậu, trong sách Thanh sương tạp ký có kể chuyện sau này: trước đó, Xử Hậu là đồng liêu với Giàm ở Việt Châu; y có làm thơ khen Giàm có công chống với Nùng Trí Cao ở Anh Châu. Trong thơ có câu: “Yến hầm tướng quân dục bạch đầu, tích niên trung dũng động nam châu.”. Sau đó vua Tống ban tên thụy cho Giàm là Trung Dũng. Xử Hậu cho thơ y là câu sấm.
Chữ Giàm cũng có âm Giam hay Cảm.
9- Lui quân và đề
phòng
Bấy giờ đại quân Tống từ bắc đã kéo xuống. Mà quân Lý đánh Ung trong hơn một tháng, coi chừng cũng mỏi mệt. Vả mục đính chính của ta là phá các cứ điểm của Tống có thể dùng đánh ta. Nay các thành Ung, Khâm, Liêm đã bị phá, các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Thiên Long, Cổ Vạn đã bị đốt. Như thế, ta xuất quân cũng thắng lợi rồi.
Vả chăng nếu quân Tống tiến gấp, chúng có thể qua vùng khê động vào thẳng các châu Quảng Nguyên, Môn, Lạng và Tô Mậu, trong khi quân ta bị kẹt ở vùng Ung. Vì cớ ấy sự rút quân ta về là cần kíp. (VII/10)
Thường Kiệt hạ lệnh lui quân. Tháng ba năm Bính Thìn (1076), quân ta ra khỏi đất Tống. Tư Mã Quang (TTh 13) nói ngày 21-1 Ung Châu mất, ngày 23-1 Lý rút quân về, không hợp với sách TB, nhưng không sách nào khác nói rõ ngày Lý rút khỏi Ung.
Biết Tống sắp sửa kéo quân tới trả thù, Lý Thường Kiệt ra sức đề phòng trước. “Ngày ngày ông sai tụ tập binh lính để tập trận; nhóm họp voi ngựa, tập duyệt phép chạy, phép xung phong” (theo lời chiếu cho Quách Quì 20-7 năm B.Th; TB 277/4b)
Một mặt khác; Lý hết sức do thám hành động của quân Tống. Lúc hạ Ung Châu, có bắt được 2000 nhà sư. Ta thu lấy băng sắc. Rồi sai thám tử cạo đầu, mặc áo cà sa, mang bằng sắc ấy, giả làm Sư Tống, vào đất Tống dò xét (TB 277/12a). Ta lại dùng dân thuyền chài ở ven bể cho lẫn vào đất Tống để thám thính. (TB 276/6b)
Dân và quân Tống bị ta bắt đem về, được đưa tới ở Nghệ An, Thanh Hóa xa biên thùy Tống, kẻo khi quân Tống vào, các tù nhân ấy có thể theo quân Tống. Hạng trên 20 tuổi, phải khắc trên trán ba chữ Đầu nam triều nghĩa là hàng Nam triều. Hạng dưới 20 tuổi và trên 15 tuổi phải sung làm lính, và theo tục bấy giờ, phải khắc trên trán ba chữ Thiên tử binh. Còn đàn bà, con gái thì phải khắc vào cánh tay hai chữ Quan khách nghĩa là khách của nhà nước. (TS 488)
Các tù ấy hình như cũng không bị giam cầm nghiêm ngặt. Trong bọn tù có Triệu Tú, là người thuộc đội quân Trương Thủ Tiết, bị Thường Kiệt bắt ở ải Côn Lôn, và bày cho ta dùng hỏa công ở Ung Châu. Tháng 10 năm Bính Thìn (1076), bọn Triệu Tú, tất cả ba mươi người, từ trại Nghệ An trốn, cưỡi thuyền vượt bể để về bắc; nhưng gặp gió, bị giạt vào Lê Động ở đảo Hải Nam ngày nay. (TB 267/3b)
Thường Kiệt lại dò biết Tống dụ Chiêm Thành và Chân Lạp họp lực đánh ta. Tháng tám năm ấy (Bính Thìn 1076), Thường Kiệt đem quân vào tuần du ở các châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh mà Chiêm Thành mới nhường cho ta bảy năm trước. Ông vẽ địa tô các châu ấy để tiện việc phòng thủ. Muốn củng cố địa vị của ta ở những châu mới ấy, ông chiêu dân tới ở, và tổ chức cai trị lại. Đổi tên Địa Lý ra Lâm Bình và Ma Linh ra Minh Linh. (TT).
Về việc này, sử ta (TT) chép rằng “vua sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành1, nhưng đánh không thắng, bèn vẽ bản đồ...” Nhưng chắc chắn rằng mục đính cuộc xuất quân này không phải là để xâm chiếm Chiêm Thành. Bấy giờ quân Tống đã tụ tập nhiều ở Ung Châu. Thường Kiệt chỉ đi tuần tra kiểm soát sự phòng thủ, để ngừa sự bất trắc ở miền nam thôi. Sự họa bản đồ và di dân tới ở các châu mới kia đủ tỏ ý định ấy.
Tâm trí Lý Thường Kiệt bấy giờ phải chuyên chú về sự Tống đương soạn sửa uy hiếp miền bắc.
Sau trận Lý tấn công, vùng Tả Giang trên đất Tống bị tàn phá. Muốn ngăn Tống kéo quân xuống, quân ta đã dùng phép thanh dã. Các kho tàng, tiền bạc, lương thực đều bị đốt cháy. Quân Lý, nhất là thổ binh, lại mang cả nhà đi theo, cho nên đã cướp của cải, bắt đàn bà, con gái Tống rất nhiều. (Theo lời tâu Trương Phương Bình, TB 276/18b). Dân gian chạy tán loạn vào rừng núi. Nhiều khê động quay theo Lý. Người Tống dẫu muốn phục thù, trước hết cũng mất nhiều thì giờ để khôi phục và sắp đặt vùng ấy đã. (TB 275/12b và TB 276/19b)
____________________________________
1. TT chép việc đánh Chiêm Thành vào tháng 8 năm trước (A.Ma 1075). VSL không chép việc ấy. SK cho ta biết rằng sách Việt sử bị lãm của Nguyễn Nghiễm chép chuyện ấy vào năm B.Th 1076. Chép như thế mới đúng lý. Nhưng ta không biết Nguyễn Nghiễm dựa vào đâu mà chép khác TT.
Trong khoảng sử về Lý, TT còn chép lầm một vài chỗ khác.
Còn như VSL, thì không nói đến việc nầy. Ấy tỏ rằng việc tuần du nầy không quan hệ lắm. Vậy chắc không phải để đánh Chiêm.
10- Ảnh hưởng
Trên đây, tôi đã nhờ một chi tiết ghi trong các sách Tống, để kể lại cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt vào đất Tống. Tự nhiên, sách Tống đã tìm mọi cách để giảm vũ công ta, như nói có người Tống bày mưu kế hay chiến thuật. Nhưng thế cũng không che nổi sự thất bại lớn lao và chua cay của Tống. Ta hãy xem những ảnh hưởng của nó, sẽ hiểu rõ.
Sau khi Tống bị đại bại, tại triều Tống, vua và tể thần không ai chịu nhận lỗi mình. Người này đổ lỗi cho người kia. An Thạch viết trong tư kỷ của mình rằng: “Vua sai Khỉ kinh chế kín việc Giao Chỉ, các đại thần không hay. Phàm Khỉ tâu xin gì vua cũng nghe” (TB 244/3b). Thần Tông thì chối không hề sai Khỉ làm bậy; tự tay viết chiếu kể tội Khỉ, có nói: “trước đây Thẩm Khỉ ở Quảng Tây nói dối là nhận được mật truyền của triều đình báo soạn đánh Giao Chỉ” (TB 272/2a). Người đương thời cũng kết tội Khỉ như thế ấy (TB 272/2a), và nhiều kẻ buộc hẳn lỗi tại An Thạch tham lập công (Trần Quán, TB 244/4a).
Sau ngày Khâm và Liêm mất, Lưu Di bị cách chức và Thạch Giám được bổ thay (tháng 12 năm Ất Mão 1075).
Ngày mồng 9 tháng Giêng (B.Da, DL 16-2-1076); TB 272/2a), vua Tống sai Thạch Giám và Cho Ốc xét tội Thẩm Khỉ và Lưu Di, tuy rằng trước đó vua có hạ chiếu kể tội hai viên coi Quế Châu ấy. (VI/th3)
Thất trận, An Thạch đổ hết tội cho các thuộc hạ. Kỳ thật, ai cũng biết chính y là chủ mưu và hoàn toàn phải mang trách nhiệm. Sau khi nghe quân mình thua trận liên tiếp ở Quảng Tây, Vương An Thạch muốn bưng bít, kẻ sợ dư luận bài xích. Lúc được tin Ung Châu bị vây, An Thạch nói: “Thành Ung rất chắc, quyết là không phá nổi”. Vua cho là đúng. Đến khi Ung Châu mất, vua muốn triệu hai ti trung thư và khu mật tới hội nghị ở các Thiên Chương. An Thạch can rằng: “Hội ở đó thì việc thất lợi này thành ra việc to. Bất nhược hội ở Đông Phủ”. Tư Mã Quang (TTh 13) chép lời ấy và thêm rằng: Vương An Thạch lo, tỏ vẻ ra lời nói và sắc mặt, đến nỗi Vương Thiều phải bảo: “Ông ở đây còn lo như thế, huống chi kẻ ở ngoài biên khích ! Xin ông án trọng, để trấn tĩnh vật tình”. (TB 273/10a)
An Thạch lo sợ như vậy, là vì y để hoàn toàn hy vọng vào việc lập biên công, để gây thanh thế cho mình ở trong triều và ngoài nước. Y lại rất tin rằng thành Ung vững chắc. Khi biết Ung Châu bị vây, y đã lập tâm cho Triệu Tiết đem đại quân, thừa hư đánh thắng vào đất Lý (TB 276/2b). Đến khi thấy mưu mình thất bại, y hoang mang, bối rối.
Ngày 24 tháng 5 năm Bính Thìn 1076, vua Tống Thần Tông phàn nàn với An Thạch rằng: “Đời vua Chân Tông. Lúc Lê Hoàn chết, có thể lấy Giao Chỉ; thế mà bỏ mất cơ hội”. An Thạch nói: “Khi Nùng Thiện Mỹ nội phụ (1074), Giao Chỉ không dám cố nài (VI/5). Bấy giờ Càn Đức mới lên ngôi. Trong ngoài, dân chưa theo. Trong nước ai cũng sợ Trung Quốc tới đánh...
Nay có người buôn bán ở Giao Chỉ, nhân theo giặc tới Ung, rồi trốn thoát. Đã gọi nó tới và hỏi rằng: “ngày trước Giao Chỉ vào cướp có 6 vạn người, mà trong đó nhiều đàn bà, con gái, ông già, kẻ ốm, có phải thế không?” Kẻ kia trả lời: “Nhà có sáu người thì năm người đi theo quân, còn một người nữa không đi được, nên ở lại”. Xem vậy, cả nước Giao Chỉ đã vào cướp. Trong nước chúng đã không còn ai. Ta bỏ mất cơ hội, thật là đáng tiếc!”. (K.Vi, DL 28-6-1076; TB 276/13b).
Trên đây là một chứng tỏ rằng An Thạch và vua Tống lăm le muốn thừa cơ lấy nước ta. Sau đây còn có một chứng khác, tỏ rõ rằng An Thạch trước khi Ung Châu mất, muốn thừa hư đánh úp ta, và sau khi ấy, lại bối rối và hối hận. Ngày mồng 6 tháng 6, vua Tống và An Thạch cãi nhau về việc dùng người đi phụ dụ các khê động đã theo ta, lúc quân ta tới Tả Giang. Vương Thiều nói: “Trước, định cuối xuân đầu hạ đánh Giao Chỉ. Sau, ti tuyên phủ lại đổi ý.” Vua hỏi: “Sao lại thế?” An Thạch trả lời: “Tôi khi trước thấy Giao Chỉ đánh Ung Châu chưa hạ được, trong nước chúng bỏ không; nên tính có thể hành động chóng mà đánh úp ở hậu phương nó. Làm như thế, thì ta không cần đánh quân nó đương cướp ở đất ta, mà chúng cũng bị tan. Sau khi Ung mất, sự đánh úp chúng không thể bàn đến nữa.” An Thạch lại nói thêm: “Đáng lẽ, ta phải đánh khi Càn Đức mới lập. Bấy giờ, các khê động đều muốn nội phụ. Nếu lúc ấy ta muốn đánh Giao Chỉ, thì chỉ cần mộ 2 vạn tinh binh, chọn 5,6 tướng vừa vừa, là có thể làm xong chuyện. Tôi trộm nghĩ rằng nếu bấy giờ ta đoán được sự ngày nay chúng không tuân lệnh, thì ta đã có tiếc gì mà không cử binh. Thế mới biết rằng: việc bốn cõi biên thuỳ, nếu không lo sự lớn hơn sự bé, làm việc khó trước việc dễ, thì đến nhọc quân tốn của.” (DL 9-7-1076; TB 276/2b và 3a)
Vua tôi Tống tiếc rẻ không đánh ta trước, nhưng lại không biết rằng sở dĩ Tống bị đánh trước, là vì Tống dự bị đánh ta. Trong cuộc xung đột nam bắc này, hai bên rất rõ ý nhau. Chỉ có bên khéo toan tính, hành động nhanh chóng, là bên thắng. Chuyến này, nhờ Lý Thường Kiệt, nước ta đã đi bước trước, cho nên mới thắng một cách hoàn toàn và khỏi thua về sau.
Nhưng Vương An Thạch cũng không phải kẻ tầm thường. Y tính toan rất đúng lẽ. Khốn nỗi, trên vì vua còn do dự, dưới vì tướng vụng về, cho nên gây thành thất bại ấy. Hãy nghe tiếp câu chuyện của vua tôi Tống còn kể dở trên kia.
Vua Tống nói: “Ngày trước, nếu ta muốn hưng binh cho lợi, thì trước phải luyện binh đã.” An Thạch trả lời: “Cứ bắt đầu làm đi, thì kẻ có tài tự nó luyện lấy. Nếu không bắt đầu, thì binh khó lòng mà luyện được; nếu ta đêm ngày tập mà không biết địch khí ra sao, thì lúc cử sự, sẽ bất lợi. Nếu ta cứ sử sự đi, thì kẻ có tài và kẻ bất tài sẽ phân biệt. Ta sẽ thưởng bạt kẻ có tài, kẻ bất tài cũng phấn khởi.” An Thạch thích hoạt động, nên hay bênh thuyết “phải hoạt động mới thấy tài, và chỉ có kẻ bất tài mới không hiếu sự.” Vua Tống nói: “Cũng phải dùng đến quân có sẵn, rồi mới có thể cử sự được; và ta cũng phải xét sức có thể thắng hay không, mới nên cử sự.” An Thạch trả lời: “Lúc Càn Đức mới lập, ta chỉ cần hai vạn tinh binh là xong việc. Ở Trung Quốc, há lại không thể mộ được hai vạn quân giỏi, năm bảy tướng vừa hay sao? Lúc quân ta diệt được Giao Chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ta báo cáo cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ có thắng khí. Với thắng khí ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được Hạ, thì ai dám quấy nhiễu Trung Quốc nữa”. (Nhật lục, TB 276/2a, 2b và 3a)
Mộng Vương An Thạch đã tan. Vương An Thạch hối cũng không kịp. Tuy y đã dự bị việc phục thù, nhưng dư luận xôn xao; các triều thần nhao nhao chỉ trích. Trong các thư tịch đời Tống còn lại, các danh nhân như Tư Mã Quang, Trích Hạo, Phương Chính Bình, vân vân, còn chép một vài mẩu chuyện về việc xuất quân bất lợi của An Thạch. An Thạch hoàn toàn cô lập, trở nên chán nản. Không đợi kết quả của cuộc phát quân phục thù mà mình đã chủ mưu. An Thạch phải xin từ chức. Ấy vào tháng 10 năm Bính Thìn (1076).
Một ảnh hưởng bất ngờ của cuộc thắng trận của Lý Thường Kiệt là: không những nó đánh đổ âm mưu xâm lược của Tống, không những nó đánh đổ kẻ chủ mưu cuộc xâm lược ấy, mà nó còn là cớ cuối cùng đánh đổ một cuộc cách mạng về tư tưởng, về chính trị, về kinh tế vĩ đại nhất ở thế giới trong đời trung cổ.
PHẦN
THỨ HAI
KHÁNG
TỐNG ĐÒI ĐẤT
CHƯƠNG VIII
TỐNG
SỬA SOẠN PHỤC THÙ
1. Tướng tá - 2. Bộ
binh - 3. Thủy binh - 4. Lương thực. 5 - Chuyên chở - 6. Y
dược
Trên kia đã nói, sau khi nghe tin Khâm và Liêm đã mất. Vua Tống và tể tướng Vương An Thạch quyết định một mặt ngăn ngừa quân ta tiến đánh sang mé đông và mé bắc; một mặt sắp sửa binh mã, đánh thẳng vào nước ta, để gỡ vây cho thành Ung.
Nhưng trong khi sửa soạn, Ung Châu cũng mất. Và sau đó, quân ta cũng tự ý rút về. Cho nên An Thạch phải đổi chiến lược. Mục đích mới là chinh phục nước ta và sát nhập đất đai ta vào Tống. Trong lời dặn tướng Quách Quì, ngày 28 tháng hai (G.Dn, DL 6-3-1076; TB 273/13b) vua Tống nói: “Sau khi bình được Giao Châu, sẽ đặt châu huyện như ở nội địa”.
Muốn chắc chắn đạt mục đích chuyến này, Tống đã sửa soạn một cách chu đáo lạ thường. Trong gần một năm, từ tháng chạp năm Ất Mão 1075 đến tháng mười năm sau, Tống sửa soạn kỹ càng về đủ mọi phương diện: tướng tá, quân thủy, quân bộ, khí giới, lương thực, chuyên chở, thuốc thang, tuyên truyền, phủ dụ và mưu lược
1 - Tướng tá
Chương trên đã kể rằng ngày 25 tháng Chạp năm Ất Mão (DL 2-2-1076) Tống Thần Tông cử Triệu Tiết làm tướng, Lý Hiến làm phó, cầm quân xuống đánh ta. Tờ chiếu xuất quân là tự tay Vương An Thạch thảo ra. Ngày 24 tháng giêng, vua giục Tiết về chầu. (TB 272/8b)
Triệu Tiết, xuất thân tiến sĩ. Bấy giờ còn coi Diên Châu (Diên An ngày nay, ở Thiểm Tây). Vì có công ngăn Hạ1, nên mới được vua bạt thăng làm thiên chương các đại chế (TS 332), và được An Thạch thích. Còn Lý Hiến là một hoạn quan, tuổi mới hơn ba mươi; đáng lẽ chỉ được coi nơi cung cấm. Nhưng từ nhà Đường, có tệ hoạn quan, gần gũi vua, nên được tin cậy và được trao việc chính và việc quân.
Việc chọn tướng như vậy không làm cho triều đình hài lòng, huống chi An Thạch thường định đoạt điều gì, cũng chỉ bàn bạc với vua, chứ không hỏi ý kiến đại thần khác. Có quan ngự sử Thái Thừa Hi tâu (ngày 28 tháng Giêng) rằng: “Người ta phàn nàn sự vua không hỏi ý kiến hai phủ Trung thư và Khu Mật, và sự Lý Hiến trần tính thẳng, chứ không qua hai phủ. Vậy vua nên cho các quan hai phủ biết đến các việc, để họ bàn, rồi vua hãy định sau” (TB 272/12b).
Nhất là sự chọn hoạn quan Lý Hiến cầm quân càng bị chỉ trích. Có Dương Hội dâng sớ can vua không nên dùng hoạn quan và không nên bỏ ngỏ bắc biên (VKT 9).
Lời sớ có đoạn nói rằng: “Tôi nghe sách Quân chí có nói: kẻ giỏi đánh, đánh chỗ tưởng không cần giữ; kẻ giỏi giữ, giữ chỗ tưởng không đánh đến. Nay đưa tướng giữ những nơi Đàm, Quảng (Hồ Nam và Quảng Tây), mà ở Mân, Tuyền, Phúc (Phúc Kiến) chưa hề bàn đến cách giữ. Tuy rằng giặc phải vượt qua Quảng rồi mới đến Mân, nhưng tôi lo rằng chúng tiện gió vượt bể, bất ý sẽ tới. Như thế thì hóa ra ta nhãng giữ chỗ tưởng không đánh đến.
“Giao Chỉ quấy phương nam, mà tướng tá chọn lấy tại chỗ phải phòng bị là miền tây. Vạn nhất ở đó, giặc (nước Hạ) thừa hư vào cướp, thì điều lo lại lớn hơn. Làm thế cũng trái với phép phải giữ chỗ tưởng không đánh đến.
“Tôi lại thấy chiêu thảo phó sư Lý Hiến tuổi mới hơn ba mươi, chức mới đến phòng ngự. Mà nay bệ hạ mưu đánh Giao Chỉ ắt là thành công. Vậy xin Bệ hạ nghĩ đến sự sau khi thành công, Hiến sẽ được yêu dùng. Tuổi y chưa cao, mà quyền sẽ sớm thịnh. Bệ hạ xử trí sẽ khó. Xin nghĩ đến sự có thể có nguy cơ...”.
Vua Tống cũng không nghe lời can ấy. Nhưng hai tướng Tiết và Hiến bất hòa. Tiết lại sợ Hiến cậy thế được vua thân tín, lấn quyền chánh tướng. Cho nên Tiết tâu rằng: “Triều đình đặt chức phó đô tổng quản (cho Hiến) là cốt để bàn góp việc quân. Còn Tiết chế hiệu lịnh thì xin quy nhất vào tay chánh đô tổng quan (Tiết). Hiến thấy vậy, lấy làm mếch lòng. Vả Tiết muốn rằng phàm việc gì cũng tâu qua hai phủ, mà Hiến thì muốn tâu thẳng lên vua (TB 273/1b).
__________________________________
1. Triệu Tiết xuất thân tiến sĩ. Lúc nước Hạ chống Tống, Quách Quì được sai đi tuyên phủ Thiểm Tây. Quì đóng quân ở Diên An. Tiết giúp việc ở đó. Bấy giờ Quì, Tiết mộ kỵ binh ở dân bản thổ được 17.000. Tiết tập luyện chúng, trở nên hay hơn chính binh. Tống Thần Tông rất khen, mới cất Tiết lên chức Thiên chương các thị chế. Vì vậy, lúc tiến đánh Giao Chỉ, vua Tống và Vương An Thạch liền cử Tiết cầm quân (ĐĐSL 91)
Một hôm, Hiến hỏi Tiết: “Trong việc quan, nếu có chỉ vua về chỉ huy, thì làm thế nào? có tuân theo không?” Tiết trả lời: “Chỉ ấy phải thì nên theo, chỉ ấy không phải thì nên không theo. Trong quân phải tiện nghi”. Tiết hiểu rõ quyền và bổn phận một tướng tại ngoại; còn Hiến quen tính tôi tớ ở cấm đình, nên chỉ chịu sai bảo mà thôi.
Hai người trở nên ghét nhau, nhiều lần cãi nhau trước mặt vua (TB 273/1b). Tiết xin vua bãi Hiến (TS 332). An Thạch bênh Tiết nói: “Không nên bắt chước đời Đường lúc suy, giao việc nước cho hoạn quan” (TB 273/1b). Vua bằng lòng nghe theo, và hỏi Tiết: “Nếu Hiến không đi, thì lấy ai thay?” Tiết tâu: “Có Quánh Quì đã lão luyện biên sự”.
Nguyên, tại triều, Vương An Thạch và Ngô Sung không ăn ý với nhau về việc đánh Giao Chỉ. An Thạch nói đánh chắc được. Sung nói nếu có được cũng vô ích. (TB 273/1b)
An Thạch lại không thích Quách Quì. Trước đó An Thạch đã đổ cho Quì đã làm hỏng việc đào sông Hi Hà, và đã truất Quì. An Thạch lại là người thích Tiết, nên chỉ muốn để Quì làm phó mà thôi. Trái lại, Sung che chở Quì và xin cho Quì làm chánh. Hai bên cãi nhau. Vua hỏi thẳng Tiết rằng: “Khanh thống soái, mà Quì làm phó hay sao?”
Câu hỏi làm Tiết lúng túng, vì bụng muốn làm chánh soái mà không lẽ nói ra. Nên Tiết tâu một cách miễn cưỡng rằng: “Vì nước mà làm việc chung. Sao lại hỏi ai chánh, ai phó? Tôi chỉ xin giúp việc mà thôi.” (TB 273/1b).
Thế là Quách Quì được cử làm nguyên soái, và vô cớ, Tiết tự truất mình xuống làm phó. Đó là một cớ lớn làm cho sau này hai người trở nên bất hòa, và sự hành binh thất bại cũng căn do ở đó phần lớn.
Trong cuộc xung đột giữa Ngô Sung và Vương An Thạch, An Thạch đã thua. Ảnh hưởng An Thạch từ đó sụt kém.
Ngày mồng 2 tháng hai (M.Ty, DL 9-3), vua hạ chiếu cử Quách Quì lên chức tuyên huy nam viện sử, thay Triệu Tiết làm An Nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quản chiếu thảo sứ và kiêm chức tuyên phủ sứ ở các lộ Kinh Hồ, Quảng Nam. Triệu Tiết thay Lý Hiến. Hiến bị bãi. Yên Đạt vẫn làm phó đô tổng quản.
Quì là một võ tướng như Địch Thanh xưa. Vì anh có quân công, nên Quì được tập dụng. Quì đã từng giúp Phạm Trọng Yêm giữ biên thùy giáp Hạ. Bấy giờ Quì còn coi phủ Thái Nguyên (TB 273/1a và ĐĐSL 62 ).
Tính Qùi cẩn thận, bàn việc rất đứng đắn, nhưng có bề cẩn thận quá, hóa ra rụt rè chậm chạp. Vua Tống Thần Tông cũng biết vậy. Vua muốn hai tướng tương đắc với nhau để làm việc. Lúc Tiết vào chào để xuống trước miền nam (15-2, T, Su, DL 22-3) 1, vua dặn Tiết rằng: “Muốn dùng thổ binh, phải lấy lợi mà nhử chúng. Quách Quì tính hạ tiện; khanh nên dụ y rằng triều đình không sợ tổn phí đâu. Quì lại hay nghiêm quá, không hiểu hạ tình. Tướng tá không giám nói gì với y. Khanh nên nói thay cho họ, chớ có khinh để họ quá” (TB 273/8b).
Ngày hôm ấy, chính là ngày ti khinh lược Quảng Tây tâu việc Ung Châu mất. Vua rất lo lắng. Được tin Tô Giàm tử nghĩa, vua nhịn ăn để tỏ lòng thương tiếc.
Ngày 18 tháng 2, vua ban cho Quì 1000 lượng bạc và 1000 tấm quyến (G, Th, DL 25-3; TB 273/11b)
Ngày 20 (B, Ng, DL 27-3; TB 273/11b). Quì về đến kinh, yết kiến vua, vua đặc biệt tiếp tại điện Diên Hòa. Vua hỏi: “Dẹp An Nam bằng chước nào?” Quì cẩn thận trả lời: “Về việc binh, khó lòng ở xa mà tính được. Xin đợi đi đến Ung Châu, rồi sẽ hiến phương lược”. Vua lại hỏi: “Dùng quân phải thế nào?” Quì đáp: “Xin đưa theo tất cả tướng, lại, quân sĩ cũ ở các châu Phủ Diên tại Hà Đông (Thiểm Tây)”. Đó là vì Quì vừa cầm quân ở châu ấy muốn đem bộ thuộc quen dùng của mình đi theo. Ý ấy cũng hợp với ý vua. Từ ngày 13 tháng giêng (C, Ng, DL 7-2), đã có lệnh được chọn những tướng được sung vào việc cầm các đạo quân nam thảo. Các tướng ấy đều lấy ở các doanh tại tây bắc2.
Vua Tống bằng lòng, rồi cắt công việc, bèn sai Triệu Tiết xuống miền nam trước, để trông coi những quân đã mộ ở các miền ấy. Ngày 21 tháng 2 (Đ, Vi, DL 28-3), lại sai Tiết coi riêng về việc lương thực (TB 273/11b, 12b)
____________________________________
1. Chú ý: Về sau, khi nào không chép năm, tức là năm Bính Thìn, DL 1076.
2. Trong số những tướng ấy có: 1. Diêu Tự hiện làm hàm hạt ở Kinh nguyên; 2. Lý Hạo hiện làm hàm hạt ở Hi Hà; 3. Trương chi Giám tướng hiện đóng quân ở Tần Phượng; 4. Dương Vạn hiện làm đô giám ở Hoàn Khánh; 5. Lôi Tự Văn tướng làm đô giám ở Hoàn Khánh; 6. Lữ Chân phó tướng hiện làm đô giám Diên Phu; 7. Lý Hiếu Tôn hiện làm đô giám ở Hoàn Khánh; 8. Trương Thế Cự hiện làm phát khiển ở Phong Châu; 9. Địch Tường hiện tướng đóng ở Hà Bắc; 10. Khúc Chẩn phó tướng hiện đóng ở Diên Phu; 11. Quản Vi phó tướng hiện đóng ở Kinh Tây; 12. Vương Mẫn phó tướng hiện đóng ở Hà Đông (TB 22/3b)
Sau này các tướng Diên Tự, Trương Thế Cự, Khúc Chẩn sẽ đem quân theo Quách Quì và có lập được chiến công, cho nên TB có nói tới. Còn các tướng kia, không biết có đi hay không.
2- Bộ binh
Bộ binh phần lớn lấy ở các doanh trại đóng gần biên thùy Liêu, Hạ. Một phần là quân có sẵn, đã được tập luyện hẳn hoi. Một phần là quân mới mộ ở các lộ Hà Bắc, Kinh đông, lại thêm quân mộ dọc đường từ kinh tới Ung Châu và quân khê động. Tổng số hơn mười vạn, chia ra chín đạo. Quân tuy nhiều, nhưng giá trị chiến đấu không đều. Lại là ô hợp, ngôn ngữ bất đồng; cho nên hiệu lệnh khó thông tri, làm thêm khó điều khiển.
Từ ngày 27 tháng chạp năm Ất Mão (G, Dn, DL 25-2-1076), đặt An Nam hành doanh và giao cho Triệu Tiết, thì đã định chuẩn bị mười vạn quân, tự Biện Kinh đến Ung Châu, và hai vạn quân từ Biện Kinh đến Quảng Châu. Lại sai biện một tháng lương, hẹn đến tháng giêng năm sau phải có đủ (TB 271/17a)
Vua Tống sai đình chỉ các công việc không gấp, như việc đào sông Câu Hà, để lấy phu dùng vào việc nam chinh (TB 271/18a).
Viên coi Quảng Châu, là Lưu Cẩn xin mộ các xạ sinh và lính dũng lực ở các châu, để sung vào việc ấy (13-1, C, Ng, DL 20-2; TB 272/4a).
Ý triều đình là tùy tiện đâu mộ động binh ở đó (lời chiếu cho ti kinh lược Quảng Tây ngày 28 tháng giêng; TB 272/12a). Còn binh, nghĩa là lính chính thức, thì phải mộ ở vùng bắc; Thiểm Tây, Hà Đông; vì đó là nơi kỵ binh rất giỏi (theo chiếu ngày 13-2, TB 273/8a).
Đến lúc Quách Quì xin đem hết quân sĩ mình cai quản ở Phù Diên theo xuống miền nam (20 tháng 2) vua bằng lòng ngay, và hỏi: “Quân, cần chừng bao nhiêu?”. Quì tâu: “Cần nhiều, miễn sao cho đủ dùng, chứ nói ra không hết” (TL và TB 273/11b)
Cho nên ở các lộ gần miền nam đều phải mộ quân: Quảng Tây, Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến (TB 273/14b). Trong khi mộ quân, vua Tống sợ quân ta lẩn vào làm gián điệp. Ngày mồng 5 tháng 3 có chiếu dặn các lộ ở ven bể, như Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến phải coi chừng sự ấy, vua lại nói: “Tại Quảng Đông ít người khỏe mạnh, phải chọn người Quảng Châu. Họp 500 người thành một chỉ huy, đặt tên là Tân Đằng Hải như ở Quảng Tây” (TB 273/14b)
Ngoài các quân tuyển mộ, còn có các tướng tự ý tình nguyện đem quân mình theo, để lập công. Đổng Việt xin mộ 1000 quân nghĩa dũng ở các châu Thi và Kiềm; Lưu Vĩnh An có tội xin tòng quân chuộc tội.
Theo lời Quách Quì chép, bộ binh có mười vạn người và một vạn ngựa (CN và TB 274a). Quân miền bắc đưa xuống có chín tướng. Mỗi tướng quản chừng 5.000 quân. Vậy có 45.000 quân chính thức; còn dư là quân tuyển mộ ở miền nam, động đinh và quân tình nguyện.
3- Thủy binh
Trong cuộc xuất quân lần này, Tống ít chú ý về thủy quân. Các tướng thường quen trận địa miền tây bắc, là vùng cao nguyên và sa mạc, cho nên ít nghĩ đến cách lợi dụng đến chiến lược thủy quân.
Ban đầu, lúc định sai Triệu Tiết cầm quân, Vương An Thạch chỉ định sai Hứa Ngạn Tiên và Lưu Sơ đem 35 người qua Chiêm Thành, Chân Lạp, xui các nước ấy đánh biên thùy phương nam nước ta (25-12 năm Ất Mão; TB 271/16b)
Sau khi Ung Châu mất và quân ta đã rút về nước. Tống mới có ý dùng đường biển đánh tập hậu. Ngày 18 tháng 3 theo lời thỉnh cầu của mình, Dương Tùng Tiên được bổ làm chức Chiến trạo đô giám thuộc An Nam đạo hành doanh (Q.Ma, DL 23-4; TB 273/20b)
Trước đó, Tùng Tiên tâu: “Xin mạo hiểm đại dương vào sâu tới góc tây nam, quanh sau lưng giặc đánh chỗ không hư, và nhân đó đem binh bảo Chiêm Thành, Chân Lạp cùng giúp đánh.” Vua Tống khen kế hay, bổ Tùng Tiên chức ấy và sai mộ thủy binh (TB 273/20b theo công văn gửi cho Quách Quì).
Nhưng hình như Tùng Tiên thi hành chậm chạp. Ngày mồng một tháng sáu, viên chuyển vận sứ Quảng Đông là Trần Sảnh xin triều đình chọn các viên chức có kinh nghiệm về thủy chiến để tuyển quân thủy. Vì ngặt ngày quá, vua ban rằng: “Sắp đến ngày xuất quân rồi. Nếu triều đình tự chọn, thì không kịp nữa. Vậy ti chiêu thảo cứ chọn và tìm cho rõ chỗ lợi hại mà thi hành”
(A. Zu, DL 4-7; TB 276/1a).
Con Tô Giàm là Tô Tử Nguyên được bổ làm tuần kiểm coi dọc bờ biển miền nam. Ngày mồng bẩy tháng sáu, Tử Nguyên bắt các dân thuyền chài phải theo lệnh các chủ hộ kiểm điểm, rồi chực sẵn, để khi nào đại binh phát thì đi theo thủy quân (TB 276/6b)
Thủy quân có bao nhiêu, ta không được rõ. Nhưng ta sẽ thấy quân ấy yếu và tướng bất tài sau này bị thủy quân ta đánh đại bại, và sẽ không giúp cho lục quân được một việc gì.
4- Lương thực
Trong việc viễn chinh này, quân phải qua nhiều miền hoang mãng, không thể trông cậy vào tiếp tế ở chỗ đi qua, cho nên việc lương thực là việc hệ trọng bậc nhất. Tống lo sao có đủ gạo cho mười vạn lính, đủ cỏ cho một vạn ngựa. Lương ấy, cỏ ấy cần nhiều phu tải. Các phu ấy lại phải có lương riêng. Vậy không những phải cung cấp cho mười vạn người ăn, mà thật ra phải gấp bội.
Tống đã hiểu rõ sự quan trọng ấy, cho nên trong khi sửa soạn nam chinh, việc lương thảo rất được chăm nom. Ngày 21 tháng 2, vua đã ủy riêng Triệu Tiết coi về việc ấy (TB 273/12b). Và chính Tiết cũng tự tình nguyện phụ trách (MC Tiết và TB 283/16b). Trong lời tâu ngày 5 tháng ba, Tiết nói: “Việc lương thảo rất quan hệ, xin cho tuyển người tài cán giúp việc”. (DL 10-4; TB 273/14b)
Lúc đầu, trong thời kỳ phòng thủ, Tống đã dự bị một tháng lương dự trữ dọc đường từ Biện Kinh đến Ung Quảng (TB 271/17a). Nhưng sau, Tống định sang đánh đất ta cho nên ti An Nam chinh thảo tâu rằng: “Sẽ phát binh tám vạn, thì phải dự bị mười tháng lương khô, tức là 8000 cân. Xin giao cho ti chuyển vận biện được bao nhiêu thì làm, còn thiếu bao nhiêu, giao cho hai châu Quế và Tuyền biện”. Vua chiếu cho tam ti, tức bộ tài chánh, lấy hai mươi vạn quan tiền; giao cho lái buôn mua lương thực ở Quảng Đông (26-1, Q. Mu).
Không những các lộ gần biên thùy nước ta phải biện lương, mà Hồ Nam, Phúc Kiến cũng nhận được lệnh phải mua lương giúp. Ngày 25-5, vua chiếu: “Nếu Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông không thể biện đủ lương, thì tâu lên để tìm ở các lộ khác” (C, Th, DL 29-6; TB 275/14a)
Còn kỵ binh mộ từ miền Phu Diên (Thiểm Tây) chúng phải tự mang theo lấy cỏ, Triệu Tiết ra lệnh phải mua cỏ tươi và khô ở vùng ấy (9-2, A. Ho, DL 16-3, TB 273/7a)
Trong việc mua lương thực, kẻ tùy hành quấy nhiễu dân gian. Ngay lúc đầu, vua Tống hạ chiếu cấm không được nhiễu dân (28-1, A.Zu, DL 6-3; TB 272/12b). Sau vua bảo phải đem tiền, vải để mua lương, cỏ cho đắt ở các châu, động. Viên coi việc thị dịch tính thấy phải chi 6000 lượng vàng mới đủ tiêu vào việc chiến tranh (8-4, Q. Ti, DL 13-5; TB 274/6a)
Tuy vậy, việc biện lương không dễ dàng và bị chậm trễ. Phần vì có nhiều nơi bị mất mùa, phần vì sự chuyên chở khó khăn. Cho nên lúc quân đã xuống đến Đàm Châu (Tràng Sa), mà Quảng Tây chưa nhận được số lương đã hứa. Ti chuyển vận lộ ấy xin hơn 46 vạn quan, để mua 36 vạn thạch thóc (mỗi thạch bằng 10 bát), 44.800 thạch đậu, hơn 36 vạn bó cỏ, và trâu, dê, lợn, rượu. Vua sai Lý Bình Nhất, Châu Ốc, Thái Dục cấp cho đủ số (9-7, Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b)
Lúc quân sắp tiến vào đất ta, nhiều nơi chưa nộp đủ số lương dự định. Ti chiêu thảo phải dọa. Ngày 12 tháng 10 (A.Vi, DL 11-11; TB 278/6a), nói rằng: “Nếu ai thiếu tiền, lúa, cỏ về việc đánh quân An Nam, thì lúc quân trở về sẽ thu gấp đôi”. Và ngày 28 tháng 10, để bù số thiếu, vua Tống cấp 150.000 quan, giao cho Quảng Đông mua lương thảo (TB 278/13b)
5- Chuyên chở
Các số lương dự bị được chở tới Quảng Tây, trữ tại những nơi căn cứ, để đợi ngày phân phát cho quân.
Sau khi quân ta rút lui, việc làm trước nhất của các viên chức Tống là sửa chữa các nơi căn cứ ấy.
Ngày 11-2, Quảng Đông xin 5 vạn quân để sửa chữa thành hào. Ấy vì bấy giờ còn sợ quân ta đến đánh Quảng Châu nữa (Đ, Zu, DL 18-3; TB 273/7b)
Ung Châu là nơi căn cứ quan hệ nhất. Cho nên viên chuyển vận sứ Quảng Tây là Lý Bình Nhất muốn tu bổ gấp. Y xin bắt cả dân phu Quảng Đông tới đắp lại thành. Nhưng vua bảo không nên (8-3 Q. Ho, DL 13-4; TB 273/16a). Đến tháng 4, thành Ung cũng chưa đắp xong, vả đường vận lương cũng chưa thông, vì sông Ung trước bị ta đổ đá lấp (theo chiếu ngày 19-4, G.Th, DL 24-5; TB 274/9a)
Đến tháng 6, lương đã được tải xuống. Ngày mồng 1 có lệnh đắp các thành, trại can hệ ở vùng Ung Châu để chứa lương (A.Zu, DL 4-7; TB 276/1a)
Còn cách chuyên chở, thì dùng đủ mọi phương tiện. Trong địa phận Trung Quốc, có thể dùng thuyền theo các sông đến các nơi căn cứ. Đi lại trong vùng Lưỡng Quảng, có sông Tây Giang, và các sông nhánh như Quế Giang, Bắc Giang.
Từ đồng bằng ở triền sông Dương Tử tới Lưỡng Quảng, có sông đào Linh Cừ, nối sông Tương ở Hồ Nam đến sông Quế. Từ đời Tần đã xây nhiều cửa cống để thuyền con có thể xuyên qua núi. Vào đất nước ta bằng thuyền thì không có đường sông mà chỉ có đường bể mà thôi. Nhưng, như ta đã thấy trên, bấy giờ Tống không dùng đường bể một cách khẩn thiết, cho nên chỉ dùng đường bộ để chở lương theo quân mà thôi.
Ngày 21 tháng 4, chuyển vận sứ Quảng Tây là Lý Bình Nhất yêu cầu các lộ Hồ Nam và Quảng Đông cho 1000 thuyền bằng đáy để chở tiền và lương trên các sông cạn ở Ung Châu (B.Ng, DL 26-5; TB 274/9b)
Ngày mồng 4 tháng ấy, vua Tống hạ chiếu cho lộ Tây Kinh phải lấy ở vùng Khai phong 1000 cỗ xe, để đưa xuống Quảng Tây chở lương thực. Xe phải đi hàng nghìn cây số mới đến nơi (K. Su, DL 9-5; TB 274/4a)
Thuyền và xe chỉ dùng được trong nối địa Tống. Muốn sang qua núi non hiểm trở đến cõi nước ta, thì phải cần tới người hay súc vật. Từ ngày mồng 1 tháng 2, ti chuyển vận Quảng Tây đã bắt phu rất nhiều. Tại chín huyện thuộc Quế Châu, bắt 8.500 bảo đinh, 91.200 các hạng khác. Bảo đinh được cấp tiền gấp hai những hạng kia, vì bảo đinh có thể dùng làm chiến binh (Đ. Ho, DL 8-3; TB 273/1a)
Chừng ấy cũng không đủ, viên chuyển vận sứ Lý Bình Nhất tính cần có 40 vạn phu cả thảy. Ngày mồng 1 tháng 4 (B. Tu, DL 6-5), vua Tống sai Quách Qùi xét lại, và dặn nên làm cho khỏi náo động nhân tâm. Quì nói: “Theo Bình Nhất, lương khẩu cần cho mười vạn quân và một vạn ngựa ăn trong một tháng phải có 40 vạn phu chuyên chở. Một tháng đã vậy, huống chi, từ nay đến lúc tới sào huyệt giặc, không phải chỉ một tháng mà thôi. Nay tính cho rộng rãi, trừ phần quân và ngựa tự chở lấy, trừ phần có thể lấy ở các địa phương sản xuất; còn dư, ta sẽ mua trâu bò mà chở. Dọc đường, ta lại làm thịt trâu bò ấy cho quân ăn. Nếu ăn còn thừa, sẽ cấp cho các đồn điền cày. Làm như thế ta có thể giảm bớt phu. Ta lại bỏ bớt những đồ không cần gấp. Ta sẽ dùng xe lừa kéo; cho đi đi, lại lại mà chở. Nói tóm lại, ta có thể bớt số phu đi một nửa, còn 20 vạn mà thôi” (lời tâu vào tháng 11, CN, theo TB 274/1a)
Cũng vì thiếu phu khiêng vác, mà ti An Nam chiêu thảo đã phải xin bỏ bớt một nửa mũi tên bằng sắt, chỉ mang theo 32.400 cái mà thôi (9-2, TB 273/6b)
6 - Y dược
Miền nam, khí hậu nóng nực; mà quân, phần đông từ miền cực bắc kéo xuống. Lại phải đi qua các vùng rừng núi, thường đầy lam chướng. Từ xưa, nước ta đã có tiếng là xứ độc. Mã Viện đã tả cảnh nước lụt mùa hè, khí độc xông lên, đến nỗi chim trên trời phải sa xuống nước. Vì vậy vua Tống Thần Tông, trong cuộc nam chinh này, rất chú ý về việc thuốc thang cho quân sĩ.
Ngay ban đầu, lúc nghe Khâm Liêm bị mất vua Tống sai viện binh xuống Ung Châu, mà đã chiếu cho hàn lâm y quan viện chọn 57 bài thuốc trị lam chướng; và sai sở hạp dược chế thành tễ, rồi mang theo quân (23-12 năm Ất Mão, DL 31-1-1076; TB 271/13b)
Đến lúc quân đã ra ngoài Lĩnh, vào Quảng Tây, người đau ốm càng nhiều. Ngày 17 tháng 5, có chiếu dụ rằng: “Sau khi qua Lĩnh, hễ quân có ai đau, thì lưu lại, bảo địa phương đó chọn thầy thuốc mà cứu chữa. Ai chữa được nhiều, sẽ có thưởng” (N Ta, DL 21-6, TB 275/10b). Vua lại dặn các tướng phải thân hành vỗ về lính ốm, và săn sóc thuốc thang, rồi phải tâu số lính bị bệnh tật chết (chiếu mồng 3 tháng 6, Đ.Ho, DL 6-7; TB 276/16)
Không những chỉ dự bị thuốc thang, cứu chữa người ốm, phủ dụ bệnh nhân vua Tống còn lưu ý đến cách phòng ngừa, đến phép vệ sinh. Ngày mồng 5 tháng 8 (M. Ty, DL 5-9; TB 277/7b), được tin quân xuống miền nam có nhiều người ốm, vua đã hạ chiếu rằng: “Nghe nói quân đi đánh An Nam đã qua Lĩnh; nhiều người bị tật bệnh. Truyền cho ti tuyên phủ phải hiểu cáo cho binh lính đừng ăn đồ sống, đồ lạnh và cấm uống rượu” (M. Ty, DL 5-9; TB 277/7b). Lúc nghe tin quân đến Ung Châu, nhiều người bị chết, vua Tống liền quở “các tướng tá đã không ngăn cấm binh lính ăn những thứ mà người miền bắc phải kiêng” và vua dặn “nay phải hết sức điều trị” (14-10, Đ. Zu, DL 13-11; TB 278/6b)
Rồi vua sai thái y cục chế 30 bài thuốc chữa lam chướng, bảo sứ đem giao cho ti An Nam hành doanh tổng quản. Vua Tống lại bảo chọn dăm bảy lương y chuyên trị bệnh lam chướng, gửi gấp theo quân (21-10, G, Th, DL 20-11; TB 278/9a)
Khi thấy thuốc thang cũng không ngăn nổi quân chết bệnh, vua Tống sai lập đàn cúng nhương. Ngày 21 tháng 11, có chiếu: “Quân bị tật bệnh nhiều. Vậy sai viên tri lễ phải cầu thần Nam Nhạc ở Hành Dương, và sai trung sứ lập đàn cầu phúc một tháng” (Q. Zu, DL 19-12; TB 279/5b)
Tuy vua Tống lo lắng thuốc thang, cầu cúng như vậy, nhưng khí hậu ẩm thấp miền nam, bệnh sốt rét ở miền rừng núi, làm cho quân Tống chết dọc đường rất nhiều. Những quân được yên lành, lúc đến cõi nước ta, cũng bị yếu ớt đi nhiều. Cho nên quân ta càng dễ đánh bại.
CHƯƠNG IX
KẾ
HOẠCH ĐÁNH ĐẠI VIỆT
1. Mục đích - 2. Liên
minh và ngoại viện -3. Phòng thủ - 4. Trinh sát và phản
trinh sát - 5. An ủi nạn dân - 6. Chiêu dụ Khê Động - 7.
Dùng lục quân - 8. Dùng thủy quân - 9. Chỉ thị đại
cương - 10. Dư luận - 11. Ý kiến Triệu Bổ Chi - 12. Ý
kiến Trương Phương Bình.
1 - Mục đích
Trong hai chương trên đã nói, phản động Tống có thể chia làm hai thời kỳ. Lúc mới nghe Khâm, Liêm bị mất và Ung bị vây Tống Thần Tông và Vương An Thạch muốn lập tức sai đại quân xuống miền nam, trước là ngăn cản sức bành trướng của quân ta tới vùng Quảng Châu và Quế Châu, sau là đánh thẳng vào nước ta làm cho ta phải thả Ung Châu. Nhưng Ung lại bị mất trước khi Tống sắp đặt quân xong. Cho nên vua tôi An Thạch định lại kế hoạch, là sửa soạn lại kỹ càng để đến mùa nóng nực, có thể kéo toàn lực chinh phục hẳn đất nước ta.
Tống sửa soạn kỹ càng về mọi phương diện vật chất, như ta đã thấy ở trong chương VIII trên. Sau đây, ta sẽ thấy rằng kế hoạch chiến lược, tướng Tống cũng rất có định kiến, ít ra là trong lý trí.
Mục đích cuộc xuất quân lần này, là đánh lấy hẳn đất ta, rồi sáp nhập vào nước Tống.
Ngay lúc đầu, sau khi Quách Quì, được cử làm tướng, Tống Thần Tông hạ chiếu dặn rằng: “Sau khi bình được Giao Châu, ta sẽ đặt châu huyện như nội địa” (28-2, G. Dn, DL 4-4; TB 273/13b)
Nhân cơ hội, Tống muốn đặt quan cai trị các vùng Khê Động thay các tù trưởng mà đến bấy giờ vẫn tự lập. Nhất là vùng Quảng Nguyên sản xuất nhiều vàng, bạc, Tống lại càng muốn chiếm lấy. Ngày mồng 5 tháng 7, Quách Quì nhận được chiếu về việc ấy. Chiếu rằng: “Nghe nói vùng Khê Động có nhiều của quý. Sau khi Giao Chỉ thua, hãy đặt thành quận, huyện mà cai trị và hãy sung công của cải”. (K. Vi, DL 7-8; CN, theo TB 277/1a)
2- Liên minh và ngoại
viện
Muốn chia lực lượng quân ta, quan Tống là Hứa Ngạn Tiên, tâu xin xui các nước Chiêm Thành và Chân Lạp đem quân đánh miền nam nước Việt. Chiêm Thành bị ta đánh đại bại sáu năm về trước, chắc sẽ thừa cơ hội này để trả thù. Vua Tống hạ chiếu nói rằng: “Chiêm Thành, Chân Lạp vốn là huyết thù của Giao Chỉ. Vậy sai Hứa Ngạn Tiên và Lưu Sơ mộ dăm ba người buôn bể, đi dụ các quốc trưởng nước ấy dự vào việc đánh Giao Chỉ. Khi nào bình định xong, sẽ có thưởng” (25-12 năm Ất Mão, Q Su, DL 3-2; TB 271/16b)
Không biết vì lẽ gì Hứa Ngạn Tiên không đi. Sau khi Ung Châu mất, lại có chiếu sai Lý Bột và La Xương Hạo mang sắc thư, thuốc khí dụng, lụa sang Chiêm Thành và Chân Lạp để dụ các nước ấy đánh ta. Lời chiếu rằng: “Chiêm Thành, Chân Lạp từ lâu nay bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sư sang đánh Giao Chỉ để phạt tội. Các nước ấy nên thừa cơ hội, hiệp lực mà trừ nó. Ngày nào đánh dẹp xong, Trẫm sẽ ban thưởng cho. Trẫm lại nghe nói rằng nhiều dân nước ấy đã bị Giao Chỉ bắt về. Trong số ấy có cựu vương Chiêm Thành1, khó lòng trở về nước (vì có sự bất hòa với vua hiện ở ngôi). Nên triệu y sang chầu. Trẫm sẽ gia ân cho” (2-2, M Ty, DL 9-3; TB 273/2a)
Sau này ta sẽ thấy rằng kế dùng Chiêm Thành, Chân Lạp có được thực hiện ít nhiều, nhưng bị Lý Thường Kiệt đón trước. Trong tháng tám năm ấy, Thường Kiệt đem quân vào tuần tra các châu vừa lấy được của Chiêm, chỉnh đốn việc cai trị, cho dân vào ở thêm và tăng sự phòng bị (TT) Mà bên Tống cũng không có sức gì uy hiếp Chiêm Thành, Chân Lạp. Cho nên Chiêm Thành có đưa ít quân lên đóng ở biên giới nước ta, nhưng không dám gây sự.
_______________________________________
1. Cựu vương Chiêm Thành nói đây là vua Chiêm bị kẻ khác tranh ngôi, nay đã chạy sang nước ta. Sử ta không chép việc này. Nhưng TB 252/22b và TS 489 đều có chép: ngày C.Dn tháng 4 năm G.Dn 1074, Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức dâng biểu nói: “Tháng 10 năm ngoái, trại Định phiên thuộc nam giới trình rằng quốc vương Chiêm Thành đem hơn ba nghìn lính và vợ con, cưỡi thuyền đến xin hàng. Tháng giêng năm nay đã đến đạo tôi (nước tôi), cúi đầu xin phục” vua Tống trả lời bảo bằng lòng nhận hàng. TS chép sơ lược hơn một chút.
Theo Maspéro trong sách Le Royaume du Champa, bia Chàm ở đền Ponagar (Nha Trang) có nói đến chuyện ấy, và vua chạy sang hàng vua Lý, chính là Chế Củ hay là Rudravarman III bị Lý Thường Kiệt bắt được rồi tha, năm năm về trước.
3- Phòng thủ
Trước lúc đánh vào nước ta, theo đường từ Ung Châu đến Lạng Châu, Tống sợ quân ta hoặc từ khê động tràn vào quấy hậu phương, hoặc từ Khâm châu đánh quật vào, chiếm các nơi căn cứ. Cho nên Tống đã phải dự bị phòng thủ phía sau, theo như lời Dương Hội (VIII/1) dẫn sách quân chí: nên giữ chỗ tưởng không đánh tới.
Vua Tống sai xây gấp lại thành Ung. Ngày 8-3 Lý Bình Nhất xin đem cả phu Quảng Đông sang giúp vào việc ấy (Q.Ho, DL 13-4; TB 273/16a). Rồi ti tuyên phủ lập tức phái tướng cầm đạo quân Hữu đệ nhất xuống đóng ở Ung Châu để phòng bị. Vua Tống cho rằng một tướng giữ không đủ; lời chiếu nói: “Thành Ung Châu đắp chưa xong. Đường chở lương cũng chưa sẵn. Nay vào mùa mưa dầm, khí độc nhiều. Nếu giặc trở lại, thì một tướng không đương nổi. Phải xét lại”. (chiếu 19-4 G. Th, DL 24-5; TB 274/9a)
Ngày 25-6. vua Tống lại chiếu rằng: “Trong việc nam chinh, Ung Châu rất can hệ. Đó là căn bản. Tiền, lương, quân nhu đều để đó. Nếu giặc cùng kế mà từ hải khẩu (có lẽ chỉ cửa Bạch Đằng) theo đường châu Vĩnh An lấy Khâm, Liêm, rồi từ đó tới Ung Châu thì chỉ mất vài ngày. Tuy thành Ung vững chắc, nó không lấy được, nhưng ta há lại không nên đo đường vận lương bị đứt hay sao? Bị đứt, thì lòng dân bị lay động. Mà bấy giờ, dẫu muốn trở về cứu Ung Châu, trước sau đều có giặc! Phải nói ti chiêu thảo nên lo liệu thế nào, rồi mật tâu về” (K. Zu, DL 28-7; TB 276/12a)
Tống lại sợ các phiên quốc miền tây nam nhân cơ hội quấy rối và giao kết với ta để cùng chống Tống. Viên coi Bành Châu (Tứ Xuyên) và Lữ Đào có tâu rằng: “Nếu Giao Chỉ đánh Quảng Tây, mà lại kết đảng với Nam Chiếu (vùng Vân Nam), thì ta rất đáng lo. Vậy xin sai các châu Lê, Nhã, Nhung, Lô, Thi, Kiềm, thuộc lộ Thành đô, phủ Chàng và lộ Quì Châu (giáp vùng Vân Nam) phải đề phòng cẩn thận” (21-4, B. Ng, DL 26-5, TB 274/9b)
Tống rất sợ các nước Hạ, Liêu nhân khi Tống bận việc ở phương nam, sẽ gây sự ở phương bắc. Cho nên vua Tống căn dặn Quách Quì phải đánh cho chóng thắng (IX, 9)
Tháng 5, sứ Liêu đến Biện Kinh. Nghe tin Tống soạn sửa đánh Lý, sứ hỏi Chu Ôn Kỳ là viên tiếp sứ rằng: “Nam Man có việc gì?”
Nam Man tức là Giao Chỉ. Ôn Kỳ trả lời:
“Nam Man cướp. Triều đình đã sai người dẹp”
Binh dùng có đến một vài vạn chăng?
Không đến vài nghìn
Ai làm tướng?
Quách Quì và Triệu Tiết.
Ôn Kỳ trả lời như vậy, giấu giếm sự hành quân vĩ đại, tưởng thế đã là khôn. Nhưng vì nói hở tên những tướng quan trọng đóng miền bắc, triều đình cách chức Ôn Kỳ, lấy lẽ rằng Ôn Kỳ không bẩm tin sứ Liêu hỏi đó. (1-5, B. Th, DL 5-6; TB 275/1b).
4 - Trinh sát và phản
trinh sát.
Thời bấy giờ, Lý Thường Kiệt triệt để lợi dựng mọi phương tiện để dò hành động của quân Tống, và để địch vận, chiêu dụ người Tống theo và giúp mình.
Vua Tống dặn các lộ Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến rằng: “Lúc mộ quân hiệu dụng, phải coi chừng, kẻo tụi gian lẫn vào” (5-3 C.Ta, DL 10-4; TB 273/14b). Lại bao Tô Tử Nguyên: “Coi chừng tụi dân thuyền chài dọc bờ bể, thường làm nghề đánh cá, mò châu. Chỉ cho chúng ở các vũng bể. Nếu chúng ra vào thì phải xét chúng đi đâu; kẻo sợ chúng làm trinh thám cho Giao Chỉ” (7-6, T.Ma, DL 10-7; TB 276/6b)
Tống phòng bị như thế không phải không có lý. Lý Thường Kiệt đã sai nhiều thám tử vào Lưỡng Quảng. Ngày 12-4, vua Tống hạ chiếu nói: “Nghe Giao Chỉ sai nhiều kẻ gian tới thám Lưỡng Quảng. Vậy các chỉ huy, các tướng phải coi chừng. Đừng để nó dò được phép công, thủ, tiến, thoái của ta” (Đ Zu, DL 27-5; TB 274/6b)
Lúc trước, khi ta đánh Khâm, Liêm, có bắt hơn trăm nhà sư. Ta lấy bằng mà quan Tống đã cấp cho các sư ấy, rồi giao cho gián điệp mang vào đất Tống, giả làm sư để dò thăm tình hình. Cho nên ngày 28-8 vua Tống hạ chiếu cho lộ Quảng Tây đình việc cấp bằng cho các sư (T. Ho, DL 28-9; TB 277/12a)
Tuy đề phòng cẩn thận như thế, nhưng dọc bờ bể, thám tử ta vẫn vào nhiều. Ngày 11-10, vua Tống sai các lộ Duyên Hải mộ quân, nói: “Để bắt quân Giao trốn vào trong sứ để trinh thám” (G.Ng, DL 10-11; TB 278/5a)
Đời Lý, nước ta dùng nhiều người Trung Quốc. Theo lời Từ Bá Tường, họ Lý vốn người Mân, cho nên những người Phúc Kiến hay được dùng1. Vua Tống muốn chiêu dụ những kẻ ấy trở về, mới hạ chiếu rằng: “Nghe nói Phúc Kiến, Quảng Nam có người sang buôn bán ở Giao Chỉ, nay lại ở đó để Giao Chỉ sử dụng. Vậy chiếu cho người nhà những người ấy phải khai rõ, để chiêu dụ chúng về. Ai về sẽ được bổ dụng” (8-3, Q. Ho, DL 13-4 TB 273/16b)
Một mặt khác, Tống muốn sai thám tử hoặc để dò la, hoặc làm nội ứng, hoặc làm hướng đạo. Đối với những dân Khê Động theo ta lúc quân ta vào đánh Tống, vua Tống bảo: “Dụ chúng cứ tạm theo giặc để cho được yên; nhưng khi đại binh tới, thì sẽ làm nội ứng; sau khi thắng trận, sẽ có trọng thưởng” (19-4, G. Th, DL 24-5; TB 274/9a). Đối với tù binh ta, vua Tống dặn: “Nếu có bắt được giặc Giao mà chưa giết, thì dùng chúng làm hướng đạo” (2-3, DL 7-4; TB 273/14a).
Tống tổ chức gián điệp ở nước ta, hình như không có kết quả. Vua Tống phải chú ý đến việc lấy hư danh, chức tước để chiêu hàng (IX 6)
_____________________________________
1. Xem chú thích 1 ở chương VII và lời tâu của Trương Phương Bình (IX/12). Vả trong các triều đại nước ta, sau này cũng thường hay dùng những người Trung Quốc giúp; những người ấy phần lớn là cựu thần một triều đại ở Trung Quốc đã bị diệt, không chịu được ở dưới triều đại mới, bèn trốn sang nước ta. Vì lẽ ấy, phần nhiều họ là những người giỏi và giúp được việc. Đời Trần có người Tống giúp, đời Lê có người Minh giúp. Vậy đời Lý, rất có thế có những người thuộc các nước bị Tống diệt chạy sang nước ta, rồi tự mình hay con cháu giúp vua Lý. Như tôi đã nói, họ Lý rất có thể là một họ như vậy, và đã giúp vua Đinh, vua Lê ở nước ta.
5 - An ủi nạn nhân
Ta đã thấy rằng Lý Thường Kiệt đã tấn công vào đất Tống, cố ý tiêu hủy các căn cứ của Tống ở Ung Châu, đốt phá hết các quân nhu lương thực, phá phách hết doanh trại mà Tống có thể dùng để tập trung quân uy hiếp nước ta. Nhất là lúc rút về, quân ta đã áp dụng chiến thuật thanh dã, làm cho quân địch không thể dùng Khê Động vào quân sự được nữa (TB 273/9a)
Công việc đầu tiên của Tống bấy giờ, là vỗ về dân bị nạn, để chúng sống trở lại.
Liền sau khi được tin Khâm, Liêm mất, vua Tống ban chiếu hẹn thưởng, cho quân hiệu dũng nào giết được giặc và cho những kẻ có biệt công (2-1, K. Vi, DL 9-3; TB 272/1a). Các quan văn, võ chết ở hai châu ấy, đều được tặng mười tư1 (26-1, Q.Vi, DL 4-3; TB 272/9b). Các người hoặc có công hoặc tử trận đều được thưởng hay tặng (4-2, C. Dn 11-3, TB 273/4b, 5a, b, 6a). Riêng về Tô Giàm, tử tiết ở Ung Châu, vua ban tặng rất hậu, thăng chức cho con và sai lập đền thờ (VII/cth 11). Cũng vì binh lính Ung Châu theo gương Giàm, chống giữ đến chết không chịu hàng, cho nên những kẻ chết ở Ung Châu được tặng hậu hơn mọi nơi khác (7-3, N. Tu, DL 12-4 TB 273/15a). Các viên tri châu, như Nùng Văn Phú coi châu Thất Nguyên, bị quân ta giết, đều được tăng chức. (TB 274/3b)
Sau trận tấn công của ta, dân sự xiêu dạt, người chết không ai táng. Ngày 6 tháng 3, vua Tống hạ chiếu cho các châu Ung, Khâm, Liêm phải chôn cất hài cốt các tử sĩ, và bảo chùa phải lập đàn thủy lục đạo tràng để làm chay cho những kẻ thiệt mạng. Các nơi đều tuân mệnh, lập những đàn rất long trọng, dùng đến một nghìn vị sư (TB 273/14b). Đối với kẻ bị hại ở Quảng Tây mà không con, vua Tống sai lấy người bà con lập hậu; người ấy cũng được thưởng như con thật (9-7. Q.Ho, DL 11-8 TB 277/2b)
Đối với dân sống sót, vua Tống tỏ lượng khoan hồng: tha thuế, thứ lỗi. Vua lại giục các quan địa phương điều tra sự thiệt hại và liệu cách cứu tế2.
Ngày 9 tháng 7, viên coi Liêm, Châu tâu rằng: “Ở Ung và Liêm, các trị sở đã được làm lại. Ở Ung Châu đã có cường binh giúp. Xin cho dân Khâm và Liêm khỏi phải đi vận tải lương thực, và chỉ phải làm việc ở châu nhà mà thôi” (Q. Ho, DL 11-8; TB 277/2b)
Đối với thân sĩ các nơi bị hại, vua Tống cũng biệt đãi. Ngày mồng 8 tháng 3, có chiếu lục bổ cho những người học giỏi ở ba châu ấy, chứ không bắt thi (Q.Ho, DL 11-8, TB 273/15b). Ta còn nhớ rằng chính vì lẽ học giỏi mà không được dùng, nên Từ Bá Tường đã phản Tống, xin theo vua Lý. Nhưng bấy giờ, mưu gian ấy chưa tiết lộ, cho nên Bá Tường cũng được bổ làm tuần kiểm các châu Khâm, Liêm, Bạch (VII/cth2)
_____________________________________
1. Tư là một thứ điểm dùng để tưởng lục cho các quan. Khi vị nào đáng thưởng, vua ban cho một hay nhiều tư. Cuối khóa (hạn 3 năm hay 6 năm), sẽ cộng số tư thưởng và trừ những tư phạt; còn bao nhiêu, thì theo đó mà thăng giáng.
2. Ngày 6 tháng 3 (T.Zu, DL 11-4), miễn thuế trong hai năm cho những nơi bị phá, và cho những người tản cư (TB 273/14b)
Ngày 5 tháng 3 (C.Ta, DL 10-4), tha lỗi cho những người đã bỏ chạy lúc quân ta lấy Khâm, Liêm và Ung (TB 273/14b)
Ngày 13 tháng 3 (M.Dn, DL 18-4) tha cho thổ binh bị hại ở ba châu ấy khỏi phải nạp tiền trợ dịch (TB 273/17b)
Ngày 18 tháng 4 (Q.Ma, DL 23-5) hỏi các quan địa phương về số nhà bị phá và hỏi đã liệu cách gì cứu chữa chưa (TB 274/8b)
Ngày 3 tháng 7 (Đ.Ti, DL 5-8) tha thuế cho thổ đinh bị hại (TB 277/1a).
6- Chiêu dụ khê
động
Về đời Tống, phần tây Quảng Tây và Quí Châu bấy giờ còn là đất cơ mì, nghĩa là không bị chính phủ trung ương đặt quan cai trị. Vùng ấy chia ra từng khoảng rộng như một châu, một huyện, dân cư ở dọc những khe hoặc thung lũng. Những khoảng ấy gọi là khê hay động. Cho nên gọi tên chung là vùng khê động. Mỗi động có tù trưởng là người thổ dân, tự cai quản như một chúa nhỏ. Tù trưởng ấy nhìn nhận quyền trung ương bằng cách nạp thuế, cống, chịu phục dịch và chịu ban chức tước. Vùng khê động giáp nước ta là Tả Giang và Hữu Giang (IV/2)
Lúc quân Lý Thường Kiệt sang đánh Tống, đạo quân Tông Đản và Lưu Kỷ đã đánh vào các khê động ấy. Phần lớn tù trưởng hàng phục, theo ta nổi lên đánh quân Tống. Sau khi quân Lý rút về nước, vùng Tả Giang và Hữu Giang hầu như hoàn toàn tự lập, nhưng sợ vía quân ta.
Vì vậy, trong kế hoạch đánh Lý, trước hết Tống phải tìm cách kiểm soát lại vùng khê động. Trong các chỉ thị của vua Tống, ta thấy rõ ràng những phương tiện Tống dùng để đạt mục đích ấy. Hoặc lấy lợi mà nhử, hoặc lấy uy mà hiếp, Tống ép các khê động bỏ Lý theo Tống. Xong rồi, các quan Tống mộ quân trong các khê động, để đem sang đánh ta; hoặc là đoàn kết các khê động, lập đồn bảo để ngăn ta không tập hậu quân được. Đối với các tướng coi khê động trung thành theo ta, Tống sẽ dùng võ lực đánh tỉa dần dần.
Ngày 15 tháng 2 (T. Su, DL 22-3), lúc Triệu Tiết vào bái từ, để xuống miền nam tước Quách Qùi, vua Tống Thần Tông dặn dò căn dặn: “Hễ dùng thổ dân, có đưa thực lợi mới sai được chúng. Chớ nên chỉ dừng lời ngọt mà thôi. Ngươi sẽ mộ vài nghìn thổ dân mạnh bạo; chọn tướng dữ tợn để cai quản, rồi sai chúng đi ép các dân động. Bảo những dân ấy rằng: đại binh ta sắp tới qua vùng chúng; đứa nào theo ta thì được thưởng, không theo thì sẽ bị giết. Nếu chúng quả không theo, hãy giết đi vài ba họ để thị uy. Lúc binh uy đã có, ta sẽ bắt đầu ép Hữu Giang, rồi ép Tả Giang. Sau khi hai đạo ấy theo ta rồi, ta sẽ đánh sào huyệt Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, không khó nữa” (T. Su, DL 22-3; TB 273/8b)
Tống chú ý đến Lưu Kỷ như vậy, vì Kỷ là một kiện tướng giữ vùng Quảng Nguyên, sau khi Nùng Trí Cao chạy sang đất Tống. Ta đã thấy rằng trước lúc đại quân Lý vào đất Ung, Lưu Kỷ đã xung đột với con Trí Cao là Nùng Trí Hội (VI/5). Theo Tống sử (TS 495), trong đời Lý Thánh Tông, Lưu Kỷ đã có hiềm khích với Nùng Tông Đán. Tuy sử ta không hề còn ghi tên Lưu Kỷ, nhưng ta cũng thấy rằng Kỷ cũng giữ một trọng chức lúc bấy giờ. Kỷ có 5000 quân, luôn luôn uy hiếp hữu dực quân Tống. Không diệt được Kỷ, thì đường thông lộ Ung Châu đến Lạng Châu, còn bị uy hiếp đường tiếp tế quân viễn chinh Tống sẽ bị đe dọa luôn luôn, và quân ấy sẽ bị tập kích.
Ngày mồng 8 tháng 5, khu mật viện Tống tâu rằng: “Tụi Lưu Kỷ, ở Quảng Nguyên, trước theo Giao Chỉ vào cướp đất ta. Nay sẵn có lòng hiệu thuận. Nhưng bị Giao Chỉ ép, nên không thể đổi chí hướng được. Y ở đó, thám báo cho Giao Chỉ để lo tự thủ yên thân. Vậy lúc đại quân tới vùng y đóng, phải trừ tụi ấy đi”.
Vua Tống muốn dùng lối ôn hòa, bảo Quì và Tiết nên dụ Lưu Kỷ, và hứa sẽ trọng thưởng cho y, ban chức tước, vàng, lụa, ruộng đất. Nhân đó, vua Tống lại bảo phải đoàn kết dân các động, để dự bị việc đánh Lý. Dân động, hễ ai già thì để ở nhà cày, ai mạnh thì sung làm lính; cấp cho một ngày một thăng gạo, hai mươi đồng tiền. Vua dặn phải lập trại, rào chắn các nơi hiểm yếu, luyện tập dân đinh, xem ai giỏi thì thưởng, ai đói thì giúp (Q. Ho, DL 12-6; TB 275/5a)
Ngày 23 tháng ấy (M. Dn, DL 21-6), vua Tống lại có chiếu nhắc ti An Nam tuyên phủ rằng: “Phải đoàn kết Lưỡng Giang (Tả và Hữu). Hàng ngày cấp tiến ăn cho cường tráng, sai huấn luyện vũ nghệ. Nếu lương khó chở vào, thì lấy tiền bạc trả thay. Ở Tả Giang trước đây có những động theo giặc, nay nên dùng đủ cách chiêu dụ trở lại. Nếu chúng không chịu nghe thì nên liệu cách mà dẹp. Nếu có thể kết ước được các khe động ở đất giặc gần biên thùy, thì nên làm. Rồi thừa hư mà đánh; tùy tiện thi hành. Phải tuyển gấp binh lính, mộ cường tráng cho được năm, sáu nghìn người và sai Lưỡng Giang đoàn kết binh lực giúp nhau”. (M.Dn, DL 21-6; TB 275/12b)
Vua Tống đã có ý lấy phẩm hàm chiêu dụ các tướng ta giữ biên thùy, từ lúc ban đầu định xuất quân. Ngày 14 tháng Giêng, định cấp 40 bằng trống tên cho các ti chiêu thảo; và ban riêng: hàm cung bị khố phó sứ cho các tri châu Vi Thủ An ở Tô Mậu, Hoàng Sầm Mãn và Nùng Thịnh Linh ở Môn Châu; hàm tả tàng khố phó sứ cho Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, và hàm lộ điện sùng ban cho Sầm Khánh Tân (T.Vi, DL 21-2; TB 272/4b)
Lại ngày 19 tháng 4, cấp cho ti chiêu thảo 92 đạo bằng sắc trống tên, để thưởng công và chiêu hàng (G. Th, DL 24-5; TB 274/9a)
Lúc Quì đã xuống Đàm Châu rồi, còn nhận được chiếu nhắc: “Phải yết bảng chiêu dụ thổ tù để chia thế giặc” (5-7, K. Vi, DL 7-8; CN, theo TB 277/1b)
Về việc chiêu dụ khê động, các tướng không đồng ý với nhau. Cho nên vua Tống Thần Tông và Vương An Thạch có cuộc tranh biện, mà sử còn chép (2-6, Đ.Ho, DL 6-7, TB 276/1b). Cuộc tranh biện ấy làm cho ta hiểu rõ tình trạng khê động bấy giờ.
Nguyên là ti tuyên phủ sai Khúc Chẩn, là phó tướng đạo quân Tả đệ nhị, coi việc đoàn kết và huấn luyện dân khê động. An Thạch không bằng lòng và muốn cử Ôn Cảo.
An Thạch nói: “Chẩn người miền tây, không quen dân tình khê động. Nên dùng Ôn Cảo”
Vua Tống không bằng lòng, nói: “Trước, Ôn Cảo đã nói: “Dân khê động Lưỡng Giang theo giặc, ta không thể dụ chúng được nữa”. Việc đó, nói vậy không đúng”
An Thạch cãi: “Lúc quan quân chưa tới, thì cấm chúng theo giặc sao được. Đã không cấm chúng được thì phải nói thật rằng chúng theo giặc. Vả, hoặc có kẻ theo giặc để làm nội ứng, đó cũng là hay”
Vua bẻ: “Đã theo giặc, thì chúng phải làm con tin cho giặc, và đến kẻ già hèn cũng bị giặc dùng”
An Thạch nói: “Sức giặc mạnh như vậy, Quí Hồ ta không xui dân khê động hàng giặc; còn ra, can sao được chúng”
Vua không bằng lòng, nói dỗi rằng: “Nếu ta không xui chúng, thì chúng không dám theo giặc hết”
An Thạch nhắc lại: “Sức Giao Chỉ có thể uy thế nổi Lưỡng Giang, mà quân ta đã không tới cứu khê động. Vì cớ gì chúng nó không theo giặc?”
Vua kết luận: “Thế thì, chi bằng nay ta đoàn kết chúng đi!”
An Thạch trả lời: “Tôi đã bảo làm rồi”
Vua chê Ôn Cảo: “Ti tuyên phủ tự xin đoàn kết chúng; thế mà Ôn Cảo đã cho là không thể làm. Chẩn, tuy người miền tây, nhưng cho sự tới Lưỡng Giang có thể làm; còn Cảo quen với Lưỡng Giang nhiều, lại không giám vào đó”
An Thạch bênh Cảo: “Cảo, khi trước, đã xin vào đó, và đã vào sâu để đánh Giao Chỉ”
Vua hỏi: “Sao, sau không chịu đi?”
An Thạch trả lời: “Vì sau Ung Châu mất, Cảo tưởng chưa nên đi”
Vua hỏi lại: “Vì sao Cảo lại cho rằng đoàn kết không được?”
An Thạch trả lời: “Cảo nói rằng dân động cày bừa mà không đủ ăn, cho nên khó lòng đoàn kết chúng. Còn như sau này, Triều đình sẽ giúp đỡ, chẩn cấp cho chúng. Nếu bấy giờ, Cảo còn bảo không thể đoàn kết được thì sẽ mang tội. Chứ khi xưa, không có điều kiện thuận tiện như thế. Vậy, tuy Cảo có nói không thể đoàn kết được, nhưng có tội gì đâu”
Vua nói: “Nay ti tuyên phủ đã xin cho khê động tiền và gạo”
An Thạch nhắc lại: “Lúc Cảo nói không thể đoàn kết được thì chưa hề nghe nói có chi tiền gạo cho không gì cả”
Xét câu chuyện cãi nhau trên, ta thấy vua tôi Tống cũng đồng ý phải lấy tiền gạo cho dân khê động, thì mới dụ chúng theo và đăng lính giúp Tống. Dẫu tốn bao nhiêu cũng phải làm, y như lời vua Tống dặn Triệu Tiết: “Quách Quì tính hà tiện. Khanh nên dụ y rằng triều đình không sợ tổn phí đâu” (15-2, T. Su, DL 22-3; TB 273/8b)
7- Dùng lục quân
Chủ lực Tống là bộ binh, Quách Quì và Triệu Tiết đều là tướng giữ bắc thùy, quen với lính cỡi ngựa vùng cao nguyên và sa mạc. Vả hai mươi lăm năm về trước, sở dĩ Địch Thanh thắng Nùng Trí Cao ở phía nam ải Côn Lôn, chính là nhờ kỵ binh đưa từ miền bắc xuống, đột xuất chỗ đất bằng rồi đánh kẹp vào hai bên quân Trí Cao. Thấy mình thua vì thiếu ngựa, cho nên Trí Cao đã có ý chạy về đạo Đặc Ma tìm mua ngựa (IV/3)
Vì hai lẽ ấy, trong cuộc nam chinh lần này, Quách Qùi đã đem theo một vạn ngựa.
Đại binh sẽ kéo xuống, tập trung tại Ung Châu, phân phối ra các trại trên đường thông lộ sang Quảng Nguyên, Lạng Châu, Tô Mậu và Vĩnh An, để chắn đường quân ta tập hậu. Xong, sẽ đưa đại quân theo đường chính vào Lạng Châu, qua các sông Đào Hoa (sông Thương), sông Nam Định (sông Cầu), sông Lô (Nhị Hà), đến tận kinh thành Thăng Long (X/1)
Phần tinh nhuệ quân Tống là kỵ binh, kỵ binh là quân xung phong chọc thẳng hàng ngũ địch, dẫn đường cho bộ binh. Kỵ binh lại là “kì binh”, nghĩa là quân đánh những chỗ bất ngờ. Dùng sức ngựa chạy nhanh, và qua những gai góc, đá sỏi dễ, kỵ binh có thể, lúc vướng chỗ này, chạy quanh chỗ khác, để bọc hai bên hông quân địch.
Nhưng muốn lợi dụng kỵ binh để phá địch, thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng, để cho ngựa xông xáo dễ dàng.
Bên ta thì thiện chiến về voi. Trong trận Ung Châu, ta đã đem voi theo được (VII/2), huống chi trên trận địa nước nhà. Thế thủ của ta lại dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu! Từ trại Vĩnh Bình vào Lạng Châu, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đồng Mỏ ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc Ôn Châu1. Rồi lại phải qua dãy núi lèn (đá không pha đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm; đó là ải Giáp Khẩu, tức ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Bắc Giang ngày nay. Cuối đời Đinh, Hầu Nhân Bảo, là tướng Tống đã bị chết ở đó; và đời sau, Liễu Thăng là tướng Minh cũng bỏ mình ở chốn ấy.
Đèo ải tuy hiểm, nhưng có thể dùng kỵ binh hoặc vượt qua, hoặc len lỏi qua rừng để tránh. Còn sông sâu rộng, thì ngựa khó lòng qua nổi. Phòng thủ sông khá dễ; đóng cọc và dùng rào giậu ở bờ nam, cũng đủ ngăn quân địch. Vả chăng, thủy binh ta từ đời Ngô, đã lập nhiều chiến công lừng lẫy. Thế sông ở Trung Nguyên lại rất tiện cho thủy chiến. Sáu ngành sông châu về Vạn Xuân (Vạn Kiếp). Đó là căn cứ tự nhiên của thủy quân ta. Hoặc phải ra cửa Bạnh Đằng chắn quân thủy địch, hoặc phải vào sông Đào Hoa (sông Thương), hoặc phải vào sông Nam Định (sông Cầu), hoặc phải vào sông Thiên Đức (sông Đống), để chắn địch qua sông; ta chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.
Vì vậy, tướng Tống cũng đã nghĩ đến dùng thủy quân giúp sức bộ binh để qua sông.
8- Dùng thủy quân
Tống không có thủy binh sẵn. Chưa hề phải vượt bể, binh lính Tống không có chiến hạm. Lúc hữu sự, mới sung công hay chế tạo thuyền mành, và chiêu nạp hay cưỡng bách dân chài dọc bể tòng quân.
Từ đầu năm, có Dương Tùng Tiên dâng sớ tâu rằng: “Xuất quân đường bể là tiện. Tôi muốn mạo hiểm qua đại dương, vào sâu tới góc tây nam, quanh sau lưng giặc, đánh vào chỗ bỏ trống. Nhân đó, tôi xin đem binh bảo Chiêm Thành, Chân Lạp cùng ta đánh Giao Chỉ”. Ngày 18 tháng 3, vua bằng lòng và bổ Tùng Tiên làm chiến trạo đô giám, thuộc An Nam đạo hành doanh. (Q. Vi, DL 23-4; STCT, theo TB 273/20b).
Nhưng Tùng Tiên bất lực. Đến tháng 6 cũng chưa sửa soạn được gì. Ngày mồng 1 tháng ấy chuyển vận sứ Quảng Đông là Trần Xảnh còn xin “chọn quan có kinh nghiệm về thủy chiến để soạn thủy quân” (A.Zu, DL 4-7; TB 276/1a)
Đến hạ tuần tháng 6, cũng chưa quyết định kế hoạch về thủy quân một cách rõ ràng. Các người phụ trách vẫn bàn cãi mà không hợp ý. Ngày 17 tháng 6 (T.Su, DL 20-7; TB 276/10a), ti An Nam chiêu thảo tâu rằng: “Theo lời Tô Tử Nguyên, triều đình định sai tướng tới Chiêm Thành, Chân Lạp, bảo chúng đánh Giao Chỉ. Quảng Đông đã dự bị chiến thuyền xong. Nhưng gió bể chưa nhất định. Cho nên khó đi đến nơi được. Vả Chiêm Thành sợ Giao Chỉ. Còn Chân Lạp, dân chưa hề tới buôn bán ở Quảng Châu; cho nên ta chưa hề dò được tình hình nước ấy. Nếu khi thủy quân ta tới các nước ấy, mà chúng nghi sợ điều gì, thì sẽ nguy cho ta. Vậy xin bảo Tùng Tiên đình việc tiến thủy binh từ các châu Khâm, Liêm. Tử Nguyên lại có bàn thêm rằng: trên đường bộ, tiến binh đến kinh thành giặc còn bị cách sông lớn. Người Giao lại giỏi thủy chiến. Sợ thuyền giặc giữ các chỗ hiểm; đại binh ta khó lòng qua được. Rồi đêm đến, giặc xông tới đánh, thì việc ta hỏng mất...” (T.Su, DL 20-7; TB 276/10a)
Theo ý Tử Nguyên, nên thôi đừng dùng kế xui Chiêm Thành và Chân Lạp đánh biên thùy miền nam nước ta. Trái lại, nên đem thủy quân vào trong cõi nước ta, để hợp chiến với lục quân, và nhất là để giúp lục quân qua các sông. Vẫn lời ti chiêu thảo tâu: “Vậy xin hạ lệnh cho các ti kinh lược, chuyển vận Quảng Đông phải tuyển thủy binh, chọn những người dũng cảm rồi dạy thủy chiến cho chúng. Sau này, sẽ từ Quảng Châu, theo bờ bể, chỉ tiến tới Liêm, Khâm mà thôi, rồi đậu thuyền đợi đó. Lúc nào đại binh tiến, sẽ hẹn ngày sai thủy quân cùng vào Giao Châu đánh giặc. Thủy quân sẽ tách ra một phần thuyền, ghé vào bờ bắc sông, để chở đại quân qua”
Ti chiêu thảo lại dẫn lời Tùng Tiên bàn: “Theo Dương Tùng Tiên tâu, đường thủy quân và lục quân tiến vào Giao Chỉ là: lục quân chẳng qua từ Ung Châu đến Tả Giang, Hữu Giang, đi các đường qua các trại Hoành Sơn, đến biên giới gần động Giáp và Quảng Nguyên; thủy quân chẳng qua tiến từ Khâm, Liêm. Nhưng thế nào Giao Chỉ cũng phòng bị cẩn thận. Nếu ta không dùng quân dấu kín để đánh chỗ bất ngờ, sao tính được ngày thắng chúng? Theo lý ấy, nên định vào tháng chín, sẽ phát thuyền từ Quảng Châu, nhân gió bắc, vượt bể tắt qua Chiêm Thành, Chân Lạp. Rồi từ đó, hẹn ngày cùng ti chiêu thảo mà tiến vào nước Giao Chỉ”. Ý Tùng Tiên trái với ý Tử Nguyên. Tùng Tiên chỉ muốn vào dụ các nước ở phương nam nước ta, hẹn ngày vào đánh ta cùng một lúc với quân Tống thì bất tiện cho nước đó. Nên cẩn thận!” (16-8, K. Ho, DL 16-9; CN, theo TB 277/9b)
___________________________________
1. Xem V/1. Tên các con sông lớn chắn các con đường từ trại Vĩnh Bình đến Thăng Long là: sông Ô Bì, Đào Hoa, Nam Định cũng gọi là Phú Lương (LNĐĐ) và sông Lô sau này (X/2), ta sẽ thấy rằng sông Phú Lương chắc chắn là khúc sông Cầu ngày nay thuộc địa phận Thái Nguyên và Phúc Yên.
10- Dư luận
Kẻ muốn chiến tranh là vua Tống, kẻ mưu chiến tranh là An Thạch. Tuy An Thạch được trở về ngôi tể tướng, nhưng thế lực cũng kém dần. Về nội trị hay ngoại giao, thường bị chỉ trích gay gắt.
Lễ bộ thị lang Vương Thiều đã tranh biện kịch liệt, chủ trương những muốn gây việc binh đao, muốn nuôi dân lực và bớt phí tổn cho nước. Vì thế, Thiều đã sinh hiềm khích với An Thạch (TB 280/14a)
Cho đến lão thần Phú Bật đã về hưu, cũng còn lo ngại. Tháng 6 năm ấy, ông dâng sớ tỏ lòng thắc mắc. Lời tâu như sau: “Tôi về ở chốn cỏ gianh, không biết đến nhân sự. Mới đây, nghe Man Lào (nói quân ta) phạm cõi, gieo họa cho Lưỡng Quảng.
“Mà nay, dân mất mùa. Nên tha thuế, giúp đỡ dân. Đợi lúc Lĩnh Nam yên ổn, mùa màng khá rồi lại lo việc đánh Giao Chỉ, thế cũng chưa muộn...
“Người ta lại đồn rằng: giặt Man cướp rất nhiều, rồi đã lập tức trốn về. Như thế thì không cần đánh vội. Nhưng vương sư đã ra đi, ắt là để đánh chúng. Quân thủy lục đã tiến, uy đức đã ban. Bệ hạ nên hạ chiếu cho Quách Qùi tới Lưỡng Quảng, xét định kỹ càng về việc công thủ thế nào, rồi tâu về. Nếu có thể đánh được thì đi. Nếu không, thì nên liệu cánh khác để cho toàn danh vọng của vương sư” (TB 276/14b)
Lời tâu ấy, hình như không được vua chú ý tới.
Vương Sung một tể thần ở triều, cũng không bằng lòng cuộc nam chinh, nhưng cũng phải gượng theo vua và An Thạch. An Thạch bảo: “Đánh Giao Chỉ chắc được” Mà Sung nói: “Đánh được cũng vô ích”.
An Thạch muốn cho Triệu Tiết làm thống soái, vua theo ý Ngô Sung, lại cử Quách Qùi (VIII/1). Tiết đã miễn cưỡng cử Quì và xin làm phó. Cho nên hai tướng bất hòa, đến nỗi hiệu lệnh bất nhất. Tiếng vang về đến triều đình. Đến lúc đại quân Tống sắp vào nước ta mà hai tướng vẫn còn cãi cọ (X/5). Khi tin ấy báo về triều, vua Tống phê rằng: “Quì Tiết phải biết rằng triều đình đã giao cho trọng trách. Thế mà ta nghe rằng các ngươi bàn luận, thường không ăn ý nhau. Vậy, phàm việc gì, cũng phải theo lệnh trên; trong khi thương nghị, chớ có giằng co nhau” (21-10, G. Th, DL 20-11; TB 278/9a)
Sách TB chép lại chuyện này có thêm rằng: “Nguyên Quì với Tiết vẫn thích nhau, cho nên Tiết mới cử Quì. Nhưng lúc gặp nhau, bàn nhiều chuyện, Quì bị Tiết cãi. Lại có hoạn quan Lý Thuấn Cử tức Tiết đã gạt bỏ hoạn quan Lý Hiến, cho nên cũng ghét Tiết”
Các đại thần khác, thấy vua không hỏi ý kiến triều đình, đều lấy làm bất mãn. Chúng nhao nhao bàn bạc, dâng sớ, hoặc để can gián, hoặc để hiến mưu. Đến nay còn vài bài luận về việc chinh nam, trong đó có hai bài rất dài bàn đủ mọi lẽ: một bài của tiến sĩ Triệu Bổ Chi (VKT9), và một bài của đại thần Trương Phương Bình (VKT9 và TB 276/18b). Sau đây sẽ lược ý hai bài ấy.
11- Ý kiến Triệu
Bổ Chi
Triệu Bổ Chi là một văn thần; thấy dư luận xôn xao, ai cũng muốn dâng mưu kế, nên cũng dâng sớ. Tuy lời văn sáo, lý luận suông, nhưng sớ ấy cũng cho ta biết một vài điều về tình hình binh bị Tống. Triệu Bổ Chi lại là người độc nhất bàn đến những cớ có thể làm cho quân Tống có thể thất bại. Những cớ ấy sau này sẽ thành sự thật. Bài sớ rất dài. Sau đây chỉ lấy đại ý mà thôi.
Bổ Chi muốn chứng rằng xuất quân chắc được, mà cũng có thể không thành công. Mặt nào, y cũng viện ra lý; mà mặt nào cũng tìm vừa đủ năm lý.
A- Đánh chắc được, vì những lẽ sau:
1) Giao Chỉ đã cướp đất Tống, Tống đem quân đi hỏi tội là có danh nghĩa.
2) Bầy tôi Tống đều trung thành và có nghĩa khí. Xem chuyện Tô Giàm thì rõ (VII/8)
3) Từ khi Tống Thần Tông lên ngôi, vũ bị được chấn hưng. Nay binh mạnh, khí giới nhiều.
4) Giao Chỉ là một nước nhỏ. Chỉ cần biên tướng cũng đủ phá. Thế mà nay phát đại binh đi đánh.
5) Các tướng Tống có nhiều mưu, và đã bàn cùng vua kỹ càng. Còn Giao Chỉ kiêu căng nhưng ngu muội.
B- Có thể không thành công vì những lẽ sau:
1) Đến lúc cùng túng quá, Giao Chỉ sinh gian giảo. Có thể giả tỏ vẻ hèn để lừa quân Tống.
2) Đất Giao Chỉ nóng nực, nhiều lam chướng, nhiều rắn rết
3) Quân Tống phải đi đánh xa, lương thực rất khó liệu đủ. Mà nếu muốn lấy lương địch để nuôi quân mình, thì đất Giao Chỉ nhỏ bé, vốn không đủ nuôi dân chúng.
4) Đất Giao Chỉ nhiều rừng núi, khe ngòi. Quân Tống chỉ quen dùng xe ngựa, là lợi khí đồng bằng. Quân địch lại quen đường lối. Quân Tống dễ bị du kích.
5) Quân Tống mộ ở Hà Bắc, Kinh Đông, gồm một nửa lính mới. Ấy toàn những lũ dân du đãng, nay cùng thế, mới đăng lính. Chúng rất ô hợp, khó điều khiển và không có dũng khí.
Kết luận đoạn này, Bổ Chi khuyên không nên đem đại quân đi đánh, mà chỉ nên lập đồn giữ biên thùy và bờ biển mà thôi.
Nhưng y vẫn bàn đến chuyện đánh. Đoán kế hoạch của địch, Bổ Chi nói:
“Giao Chỉ dùng không ra ngoài ba kế sau:
“Một là Giao Chỉ cố thủ các cửa quan không chịu ra, để làm cho quân Tống đóng lâu, bị mỏi. Nếu quân Tống rút quân Giao sẽ tiến. Nếu quân Tống quay trở lại, quân Giao lại về giữ cửa quan. Làm như thế, vùng biên thùy sẽ rất khổ. Đó là thượng sách của địch.
“Hai là Giao Chỉ bỏ hở các cửa quan để khiêu chiến, nhử quân Tống vào chỗ đặt phục binh. Quân Tống sẽ không tiến lui được. Đó là trung sách.
“Ba là Giao Chỉ bỏ các cửa quan, xông ra chiếm đồn trại của Tống. Chúng sẽ bị đánh tan. Đó là hạ sách”
Bổ Chi, ức đoán hành động quân ta, và đề nghị cách đối phó. Y nói tiếp:
“Giao Chỉ không thể thi hành thượng sách được, vì cần phải có ngoại viện. Vậy nên sai sứ tới biên thùy dụ dỗ các man dân theo Tống, để cắt chân, tay của địch
“Nhưng Giao Chỉ có thể vừa dùng thượng và trung sách. Bổ Chi khuyên nên đem đại quân tới gần các cửa quan. Hoặc trương bày cho địch thấy, rồi sai quân tinh nhuệ đi đường tắt đánh quanh. Làm như thế để đối phó với thượng sách địch. Hoặc dấu đại quân, rồi sai quân kỵ giả cách trúng kế khiêu khích của địch, chia ra hai cách đánh vào địch. Nếu địch lui thật, thì cứ đuổi theo, nếu địch xông ra đánh lại, thì cứ giả cách rút lui nhử địch vào chỗ phục binh của Tống. Làm thế để đối phó với trung sách địch.
“Khi Giao Chỉ dùng thượng và trung sách đều thất bại, cùng túng, chúng sẽ xông ra đánh. Đó là hạ sách của chúng. Giao Chỉ sẽ tan”.
Bổ Chi vẫn đuổi theo lý luận:
“Bị thua, Giao Chỉ chạy trốn. Tống nên đóng binh lại chớ đuổi theo xa, hoặc Giao Chỉ chạy vào chỗ hang cùng; theo vào đánh thì như chuột ngoài vào cắn chuột trong hang, chuột trong chắc được. Hoặc Giao Chỉ chạy ra bể; theo thì quân Tống nhát sóng, hơi có gió đã sợ rồi, không biết sẽ chiến đấu làm sao? Vả người Giao giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói chúng có kẻ đi chìm dưới đáy bể năm mươi dặm mà không thở (!). Vả nay, thuyền buôn thường gặp giặc bể, bị chúng lặn dưới nước đục thuyền”.
Đó là chứng cớ rõ ràng, quân Tống sợ thủy quân của ta.
Giấc mộng nhà nho vẫn kéo dài. Tuy Bổ Chi nói nước Tống đất rộng của nhiều, cần gì lấy đất và của báu Giao Chỉ, chỉ cần phạt tội cho nó hiệu thuận mà thôi, nhưng y vẫn bàn đến sự tổ chức sau khi bình định. Y khuyên nên theo cũ, chọn tướng súy tốt và giỏi, đặt làm thứ sử và thái thú, mộ thổ binh để tự vệ, mộ những kẻ hoặc ham công danh, hoặc muốn báo thù, hoặc muốn chuộc tội, hoặc bất đắc chí tới ở đó. Rồi Bổ Chi kết luận:
“Đó là kế lo cho trăm đời”.
Kể ra lý luận chính trị Triệu Bổ Chi đã rất cao, mà óc thực dân y đã mạnh!
12 - Ý kiến Trương
Phương Bình.
Sau đây, sẽ tóm tắt bài thứ hai, mà Trương Phương Bình đã dâng vua hồi tháng sáu, trước khi quân Tống tập trung tại Ung Châu. Bài này tóm tắt mọi phương diện của cuộc chiến tranh Lý Tống bấy giờ: cớ ta đánh Tống, việc ta tấn công Quảng Tây, kế hoạch Tống báo thù, và dư luận của phái phản đối Vương An Thạch.
Trong khoảng đầu, Phương Bình nói về việc Lý đánh Tống:
“Từ đời Lý Nhật Tôn, Giao Chỉ bỏ việc cống. Triều đình đã rộng lượng tha cho, không hỏi tội. Biên thần đã cẩu thả sao nhãng sự canh phòng. Tụi hung hãn, trộm cướp, có kẻ bị giam dày mà bỏ trốn. Binh cũng có đứa ngoan ngạnh, bỏ trốn sang giúp giặc. Cho nên Càn Đức mới dám trái vương mệnh, dùng nhiều người Hoa.
“Vả, ngày trước (đời Lê Hoàn), triều đình sai sứ (Lý Cảo) đến Giao Chỉ. Sứ đã thấy trong thành chúng không có dân cư; chỉ có phủ xá ẩm thấp, vài trăm khu nhà gianh để lính ở. Binh khí chỉ dùng cung nỏ, còn mộc, bài, thuẫn, thương, trúc thương, chúng hèn không dùng nổi. Thế lực chúng không đáng làm cho Trung Quốc sợ. Cho nên ta đã khinh dẻ.
“Trong đời Cảnh Đức (Tống Chân Tông 1004-1008) họ Lý trộm chiếm bờ cõi (thật ra Lý lên ngôi năm 1010). Từ đó đến nay đã hơn bảy mươi năm. Người dân nước ta lâu ngày không đến đó, nên không biết tình hình hư thực thế nào. Nay nghe nói kinh đô chúng có thành, hào mấy từng; binh lực, dân chúng sung túc. Chúng lại đánh được các nước nhỏ lân bang. Thế lực chúng, so với trước thì mạnh hơn nhiều.
“Thế mà, biên lại quen thói cũ, vẫn khinh thường, không lo. Cho nên mới sinh sự. Man dân có đứa hung hãn, làm cho Giao Chỉ không chịu nổi. Giao Chỉ tố cáo thì không nghe; gửi thư kêu thì không chịu nhận. Sự tình ủng tắc, chứa thành oán giận.
“Đến lúc chiến hãm chúng tới bờ bể ta, đại quân tới gần thành ta, thì như là đến chỗ không người. Quân ta không lo dự bị chống lại chút nào. Quân giặc đến đâu, thành ấp đều bị vét sạch. Cướp của cải, bắt con gái đàn bà. Chúng tham lam rất mực, tha hồ làm khốc hại. Tôi nghe chuyện mà đau lòng...”
Đoạn thứ hai rất dài, bàn về tương lai, và việc sửa soạn đánh ta. Sau đây, sẽ rút đại ý mà thôi:
“Nhưng đó là chuyện cũ. Về tương lai tôi xin hiến chín điều:
1) Nay các vùng Hoài, Điện (Kinh), Lưỡng Chiết, Giang Đông, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc đều bị đói kém. Vậy nên dùng mẹo mà chế giặc, chớ nên dùng binh. Nên chọn hai thù thần rất giỏi để trấn thủ hai nơi Quảng Châu và Quế Châu, hãy chọn lọc kẻ giúp việc cho kỹ để trị dân. Đem cấm binh giữ các lộ Kinh Hồ. Mộ thổ đinh để giữ thành ấp gần biên thùy. Đóng trại ở các chỗ yếu hại, để cứu lẫn nhau. Làm như thế, thì giặc thôi không dám nhòm ngó nước ta nữa.
“Đó là thượng sách. Nhưng nếu nghĩ rằng đã cất quân đi thì không lui được, tôi cũng xin hiến những điều sau gọi là Trung sách”
2) Giặc vào cướp, đã trở về sào huyệt được mấy tháng rồi. Tuy triều đình đã thưởng công, suy ân, nhưng còn thiếu. Nên ban lời an ủi xuống Kinh Hồ, Quảng Nam để tỏ lòng thương xót của bệ hạ. Nên tha thứ cho kẻ có tội để cho lại tốt không có lòng phản trắc. Nên thưởng các tù trưởng để chiêu dụ khê động. Nên chôn cất tàn cốt, tế tiếu vong hồn.
3) Sáu lộ đông nam bị đói. Quan không có tiền cứu giúp. Lại thêm các phép thanh miêu, trợ dịch, thị dịch, làm dân khốn khổ vì việc đài tải. Trước hết, xin bỏ phép trợ dịch ở bốn lộ Kinh Hồ nam và bắc, Quảng Nam đông và tây, và quay lại cựu chế, để gọi là tuyên bố Đức Trạch.
4) Giặc không đông và không đủ mưu trí bằng Trung Quốc. Sở dĩ chúng dám phạm đất ta, là vì chúng ỷ thế núi bể hiểm; rừng bụi rậm. Nhân ta không phòng bị, chúng mới được mãn ý. Nay tôi nghe rằng đất Giao Chỉ hiểm trở, đường rừng khó qua. Năm trước, chúng đem voi vào cống, có dọn đường cho voi đi, nhưng đi xong, cây cỏ lại mọc đầy. Đường vào nước chúng coi chừng rất khó, chỉ có chúng biết rõ mà thôi. Nay, chúng đã kéo về hết. Sự ta đánh chúng không gấp nữa. Ta phải lo sao toàn thắng. Nay ta đem đi mười vạn quân, mỗi ngày tốn ngàn lượng vàng. Nhưng binh không giỏi nên đưa vào đất độc, ngựa hay không nên ruổi trên đường hẹp. Doanh trại không chỗ đóng, đường tải lương không chỗ thông. Binh nhiều không chỗ dàn, xe cộ không thể dùng được. Như vậy, đến lúc của hết, lực kiệt, sẽ rất hại cho uy nước. Nếu ta sang đánh bây giờ, mà mùa đông này giặc chưa tan, thì mùa xuân sau, quân ta ắt phải lui, rồi lại soạn sửa tiến một lần nữa. Tôi cho rằng làm như vậy khó thành công.
“Vả bây giờ, Lĩnh Nam đã có vạn quân, giặc sao giám vào quấy. Huống cho các vùng Hoài, Chiết Giang, Kinh Hồ bị đói kém. Ta nên đóng quân lại vùng Tương Đăng (Tương Dương và Nam Dương hai chỗ này đều ở Kinh tây nam lộ, hay Hà Nam bây giờ) là hai vùng được mùa. Làm như vậy, dân khỏi phải đi đài tải, mà binh no, ngựa béo. Đến cuối thu, ta lại phát binh. Như thế thì nhuệ khí rất nhiều. Ta chắc thắng.
5) Tôi xét việc đánh Man, có thể dùng mẹo, chứ không dùng sức. Huống chi Giao Chỉ tục không giống Man khác. Các Man khác từ trước đến sau, đều phục tùng một họ qui chủng mà thôi. Còn ở Giao Chỉ thì từ khi Quốc triều lập nên, thủ lĩnh đã đổi đến bốn họ (Ngô, Đinh, Lê, Lý) mà đều là đại tướng lên cướp ngôi chúa. Đó là thói quen của các phiên trấn cuối đời Đường. Vì vậy, thế Giao Chỉ dễ lật đổ. Càn Đức còn nhỏ. Những kẻ giúp việc đều theo ba người. Năm nay, khi chúng vào cướp đất ta, chúng lấy được nhiều vàng, lụa, con gái. Chắc chúng sẽ tranh giành nhau khi chia của. Chúng sẽ chia thành ba bộ, do ba tù trưởng cầm đầu. Rồi chúng sẽ khai hấn lẫn nhau. Bấy giờ ta đánh càng dễ.
6) Lâm ấp ở phía nam Giao Chỉ từ đời Đường, tới cống ta luôn. Đời Quốc Triều ta vì bị Giao Chỉ chia cách nó mới đình cống. Đời Tấn, Tống, Lâm ấp thường xâm vùng Nhật Nam, Cửu Chân. Cuối Đường, hợp với Lào (Nam chiếu), nó lại hãm Giao Chỉ, và gây mối lo cho Trung Quốc.
“Vậy nay, Lâm ấp rất có thể làm hao tổn Giao Chỉ. Vả lại Lâm ấp cách kinh đô Giao Chỉ 1000 dặm, lại chung với Giao Chỉ đất Tượng (ba châu mới nhường cho ta). Nay từ Quế Châu tới Ung Châu còn hơn 14 ngày đường; như thế thì Lâm ấp tới Giao Châu còn gần hơn. Vậy ta nên mộ sứ tới dụ Lâm ấp diệt Giao Chỉ, ta sẽ cho nó Nhật Nam (Quảng Bình trở vào), Cửu Đức (Hà Tĩnh). Man di tham lợi. Cứ hẹn như thế, chắc nó sẽ gắng sức làm.
7) Hậu quân đi nam chinh, nay còn ở phủ này (kinh), đợi ngày xuất quân. Ngoài quân của tướng nam kinh, lại có chừng 2500 kỵ binh ở châu Kinh, Nguyên, Tần, Lũng. Các quân đã hẹn đến tháng 7 sẽ tới đây. Mùa hạ và mùa thu nóng nực. Mà đến Quế Châu đã phải đi vạn dặm rồi. Vả ở Giao Chỉ như trên đã nói, núi rừng rất hiểm; người không qua lại được, ngựa khó dùng. Trước kia, khi Nùng Trí Cao nổi loạn, Địch Thanh phá giặc ở vùng tây bắc Ung Châu. Đó là chỗ ngoài núi, địa thế rộng phẳng. Ngựa có chỗ thi sức, cho nên mã quân đã có công to. Nay thì khác, Trí Cao chỉ là một thủ lĩnh khê động, vào đất ta mà cướp. Còn Giao Chỉ là một nước, lại có đất đai xa mà hiểm.
“Quân ta lấy ở Tần, Vĩ và quân cung tiến thủ (bắn cung) vốn để phòng ngự các rợ Khương, Nhung ở mặt bắc. Quân ấy tốt, ngựa ấy hay, tới kinh sư mà còn chưa chịu được thủy thổ, huống chi xua chúng vào nơi hiểm độc. Đã không dùng chúng ở đó được, mà khi trở về, sẽ còn sống được bao nhiêu? Huống chi giặc Nhung ở mặt bắc, chăm chắm rình ta. Ví bằng nhân đưa số quân kỵ ta xuống phương xa, chúng đột nhiên vào quấy, thì vì đường xa, quân ấy về cứu sao kịp?
“Vậy xin đem kỵ binh trở lại. Chỉ nên chọn đinh tráng ở các lộ Kinh Hồ, thêm vào với thổ quân mà dùng. Tướng thì chọn người am hiểu sơn xuyên, địa lợi. Còn nếu muốn dùng kỵ binh, chỉ nên dùng ngựa miền nam, vì nó quen thuỷ thổ và quen đi lại chỗ hiểm ải.
8) Ti An Nam chiêu thảo hẹn đến trung tuần tháng bảy sẽ tới Đàm Châu (Tràng Sa). Đàm Châu cách Quế Châu 14 ngày đường mà ở ngoài Lĩnh, tháng 8, tháng 9 rất nhiều lam chướng; từ tháng 10 trở đi mới bớt. Nếu quân chưa ra ngoài Lĩnh, còn đóng đợi lại ở Đàm Châu, thì vì Hồ Nam đã bị đói, lương thảo sẽ khó lòng biện; ở đó lâu sự vận tải rất tốn. Nhưng nếu cứ tiến ra ngoài Lĩnh, thì sợ chướng độc làm cho người và ngựa, chưa dùng đã ốm.
9) Từ trước, mỗi lúc bản triều có việc biên phòng, từng sai quần thần bàn bạc một cách rộng rãi. Nay, muốn đi đánh Giao Chỉ ta đem mười vạn quân đi, phải trải qua nhiều nguy hiểm. Lợi hại như thế rất lớn. Thế mà bệ hạ tự định trước một mình. Tuy quốc luận cũng đồng ý, nhưng xin cứ hỏi ý kiến các quan trong ngoài, các cận, chức, để cho rộng lời bình luận. Làm như thế không những sẽ biết được ai hay giỏi, và sẽ làm yên lòng quân, lòng dân, mà lại còn có thể tìm được những kế hoạch hay nữa”
Lời bàn của Trương Phương Bình rất là xác đáng, trừ sự mong đợi dân ta chia bè đảng là sai. Sự thi hành phần lớn cũng hợp với lời bàn. Duy chỉ về việc dùng quân miền bắc, việc hoãn kỳ xuất quân, thì không thay đổi ý đã định. Vả các tướng sẽ rất phân vân về việc nên đánh chóng hay không. Quánh Quì chù chừ, do dự. Triệu Tiết biện lương không đủ. Lại thêm lam chướng giết quân Tống và quân ta chống cự dũng cảm. Cho nên, tuy soạn sửa chu đáo, kế hoạch hợp lý, nhưng cuối cùng cùng khiến quân Tống xuất trận phải thất bại chua cay.
Chương X
XÂM
LĂNG ĐẠI VIỆT
1. Thế thủ - 2. Tống
xuất quân dọn đường - 3. Dẹp khê động - 4. Chuyển
quân: trận Vĩnh An - 5. Tướng Tống bất hòa - 6. Quân ốm,
lương thiếu - 7. Phòng hông: trận Quảng Nguyên - 8. Trận
biên thùy: Quyết Lý, Môn, Tô Mậu
1 - Thế thủ ta
Trong nửa năm đầu, Tống sửa soạn đưa quân sang đánh Lý. Đến mùa thu, bắt đầu kéo xuống Ung Châu. Tháng mười một mới đưa quân vào cõi đất Việt. Sự chuyển quân kéo dài trên hơn sáu tháng. Lại thêm ở triều Tống, Ngô Sung thay Vương An Thạch, có ý muốn hòa, cho nên tướng Tống đến cuối năm Đinh Tỵ (1077) mới bắt đầu đem quân vào Việt. Trong thời gian dài ấy, Lý Thường Kiệt đã sắp đặt thế thủ sẵn sàng.
Từ tháng ba, quân ta rút về nước (TB 277/4b). Lý Thường Kiệt sửa soạn các phòng tuyến để phòng bị cuộc Tống tổng phản công. Tuy không có sách nào nói rõ đến mặt trận của ta, nhưng theo các chi tiết kể trong các mục sau, ta có thể biết được đại cương của chiến lược phòng thủ ấy.(IX /7)
Mục tiêu thứ nhất của Tống tự nhiên là chiếm kinh thành Thăng Long. Phá lâu đài, cung điện, đối với các vua chúa đời xưa, tức là phá nước. Vả toàn quân tinh nhuệ để bảo vệ kinh thành. Phá được đô, tức là đã đánh tan quân tinh nhuệ, và nếu còn có các đạo quân khác, thì tiêu diệt cũng dễ dàng.
Với tín ngưỡng và luân lý của ta xưa, lăng tẩm của tổ tiên vua can hệ không khác gì kinh đô. Mục tiêu thứ hai của Tống chính là phá các lăng tẩm nhà Lý. Lăng miếu của các vua Lý đều ở Thiên Đức, làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn ngày nay; vậy gần biên giới hơn Thăng Long.
Che chở cho kinh thành và lăng miếu nhà Lý, có con sông Nam Định, tức là sông Cầu ngày nay. Vả chăng đồng ruộng phì nhiêu của nước Việt hầu hết ở phía nam sông ấy. Quân Tống ốm vì rừng núi, đói vì hết lương, chỉ mong tiến mau đến chỗ đồng bằng, nước lành, lúa tốt.
Vả các đường thông lộ từ Quảng Tây vào nước Việt để tới Thăng Long đều bị sông Cầu chắn (V/I và cth2). Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng. Từ Lục đầu ra đến bể, là một cái hào sâu và rộng, che chở cho đồng bằng nước Việt để chống lại tất cả mọi cuộc ngoại xâm bằng đường bộ từ Lưỡng Quảng kéo vào.
Đối với đường sá từ Ung Châu tới Thăng Long, thì sông Bạch Đằng không can hệ, vì đã có sông Lục Đầu là cái hào ngăn trước rồi. Trái lại, sông Cầu là rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu qua vùng rừng núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và qua rồi thì có đường xuôi. Nhưng sau sông, ở phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể vượt. Chung quy chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, là có bến, có đường qua sông để tiến xuống miền nam một cách dễ, thẳng và gần.
Xét qua địa thế, ta hiểu rằng Lý Thường Kiệt đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam Định (s.Cầu), bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau: ải Quyết Lý ở phía bắc châu Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở phòng tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định.
Muốn cản quân Tống qua sông, Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạn cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm dậu, dày đến mấy từng. Thành đất, lũy tre nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả trung nguyên nước Việt. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, hẳn khó qua và dễ phòng thủ hơn là thành hào một đồn lẻ như thành Thăng Long.
Chính đó là cao kiến của Lý Thường Kiệt.
Trước thành đất, lũy treo có thủy quân đậu thuyền ở nam ngạn, sẵn sàng tiếp chiến với quân Tống, nếu chúng qua sông. Đến đời sau, Hồ Quí Ly cũng dùng chiến thuật ấy, giữ sông Lô và đóng cọc gỗ giữa sông, để làm rào che cho thuyền đậu và lưu thông dọc theo Nam Ngạn. Có lẽ, Lý Thường Kiệt cũng có dùng những cọc rào như thế ấy.
Đại đội thủy quân đóng ở Lục Đầu, vùng Vạn Xuân, để có thể tiếp ứng được mọi nơi trên các đường thủy: hoặc lên sông Đào Hoa (s.Thương), hoặc lên sông Lục Nam, hoặc tới sông Nam Định, hoặc tới sông Thiên Đức hoặc ra cửa biển Bạch Đằng tiếp viện thủy quân đậu ở sông Đông Kênh.
Thế đất Vạn Xuân thật là thế rẻ quạt. Thái tử Hoằng Chân (VSL, còn các sách Tống đều viết Hồng Chân) đóng doanh ở đó. Bộ hạ có thái tử Chiêu Văn và tả lang tướng Nguyễn căn1.
Đại quân Lý Thường Kiệt đóng dọc theo sau lũy tre, chắn đường tới Thiên Đức và Thăng Long.
Trên đây là cách phòng thủ đường chính lộ tức là mặt trận trung ương.
Sau đây sẽ xét về trận thế ở hai cánh. Trên bắc thùy, thế đất nước Việt như một cung trăng, hai sừng chỉ sang đất Tống (IV/1). Trên hai góc ấy có quân tả dực và hữu dực của Lý, là quân phên giậu hàng ngày.
Năm nghìn quân thổ đinh giữ châu Quảng Nguyên ở tả dực. Tướng Lưu Kỷ2 chỉ huy. Dưới quyền thống lĩnh Lưu Kỷ, có nhiều tì tướng kiệt hiệt, dòng giống hay bộ hạ Nùng Trí Cao và Nùng Tông Đán. Các con Tông đán vẫn giữ các động Lôi Hỏa, Vật Ác, Vật Dương. Các tướng Trí Cao là Lư Báo, Nùng Sĩ Trung thủ lĩnh động Hữu Nông (Cổ Nông?), Hoàng Lục Phẫn thủ lĩnh động Lũng Định. Các tướng ấy không những gìn giữ đất mình, mà còn uy hiếp hậu phương và đường tiếp tế địch.
Hữu Dực thì có quân đóng ở trại Ngọc Sơn thuộc Vĩnh An và thủy binh rất mạnh, do Lý Kế Nguyên đốc suất. Có lẽ đại hạm đội đóng trong sông Đông Kênh, sau cửa Đồn Sơn tức Vân Đồn3. Đường bộ qua Ngọc Sơn đi Thăng Long không tiện. Nên quân đóng ở Vĩnh An không cần nhiều. Thủy quân can hệ hơn và có nhiệm vụ ngăn cản thuyền lương và chiến hạm địch vào sông ta để tiếp tế, hay đưa bộ binh Tống qua sông.
Còn trung quân then phong, thì giao cho phò mã Thân Cảnh Phúc, đóng doanh ở động Giáp, để khống chế hai ải hiểm: Quyết Lý và Giáp Khẩu. Gần hai bên tả hữu Cảnh Phúc có các thổ binh do các tù trưởng chỉ huy: bên tả có Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh và Hoàng Kim Mãn giữ Môn Châu và đường qua Bình Gia đến Phú Lương4; bên hữu có Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu và đường từ Tư Lăng đến Lạng Châu.
Giá như các mặt trận đều có quân trung châu, thì thế thử xếp như trên có lẽ sẽ đại bại Tống từ đầu. Những thổ quân các châu sẽ vội hàng trước đại quân Tống. Quân tiền phong không giữ nổi các ải. Cuối cùng là nhờ phòng tuyến sông Cầu khéo đặt, và thủy quân ta mạnh, cho nên Lý Thường Kiệt sẽ ngăn cản được sức tấn công quyết liệt của Tống.
____________________________________
1. Chữ Thái tử thường dùng để chỉ con vua được chọn nối ngôi. Nhưng theo Chu Khứ Phi thì đời Lý, các con vua đều gọi là thái tử (LNĐĐ 2). Sách ta, như VSL, chỉ chép là hầu mà thôi. Chữ hầu chỉ con vua. Hai hầu này có lẽ là em vua Lý Thánh Tông (XI/cth3). Các sách Tống đều chép tên là Hồng Chân. Sách ta, như VSL chép Hoằng Chân. Tuy rằng Lê Tắc cũng chép Hồng Chân trong sách ANCL, nhưng có lẽ Tắc viết sách ở đất Nguyên, đã theo sách Tống.
2. Trong các sách Tống, thường chép tên châu mục Quảng Nguyên là Lưu Kỷ (TB,TS,ĐĐSL). Nhưng cũng có một vài nơi lại chép Lưu Ứng Kỷ, như trong chuyện Quách Quì ở TS 290 và truyện Yên Đạt ở ĐĐSL 84.
3. Vân Đồn là một đảo trong nhóm phía nam đảo Ide le la Table ở địa đồ Đông Dương. Đại Bàn là vùng đảo Kế Bào (nay ở Kế Bào có làng Đại Độc và phía đông có đảo Độc Bằn). Đường thủy từ Trung Hoa sang ta hay qua phía đông hay qua phía tây Kế Bào. Đồn Sơn ở phía đông Kế Bào (Xem V/2).
4. Phú Lương là tên một phủ đời Lý (Theo LNĐĐ và VSL, TT). Nay cũng còn có châu Phú Lương thuộc tỉnh Thái Nguyên. Thượng lưu sông Cầu chảy qua đó. Đời Lý, phủ Phú Lương gồm địa phận cả tỉnh Thái Nguyên bây giờ và cả huyện Đa Phúc nữa. Sông Phú Lương là khúc đông Cầu chảy qua đó. Nối với sông Phú Lương có sông Như Nguyệt, chảy từ ngã ba Như Nguyệt qua làng Như Nguyệt đến vùng Thị Cầu. Tiếp đó là sông Kháo Túc (Xem XI/2) chảy xuống Phả Lại, Vạn Kiếp. Có lẽ đối với Tống, Phú Lương chỉ là sông Cầu, mà đối với ta thì lại gọi là sông Như Nguyệt. Cách gọi tên sông ở xứ ta là đặt tên từng khúc và thường lấy tên xứ sông chảy qua. Vì thế mà tuy một dòng sông, nhưng có nhiều tên khác nhau. Sự ấy thường làm cho người ta lầm lẫn. Đến đời Lê, sông ấy có tên là Nguyệt Đức, hay Nguyệt Giang. Trong sử sách ta, sông ấy còn tên là Vũ Bình (VĐUL), và theo LNĐĐ của người Tống, còn thêm tên Nam Định (IV/cth 6 và V/1)
Về sông Phú Lương còn có một sự lầm lớn nữa, là các sử Trung Hoa và sử ta đều lầm với sông Nhị Hà. Nguyên nhân sự lầm ấy là bởi sử gia Trung Quốc. Có lẽ người Tống khi đọc đến truyện Quách Quì đưa quân đến sông Phú Lương “Chỉ còn cách Giao Chỉ có một dòng sông”, thì tưởng Phú Lương Giang là Lô Giang (Nhị Hà). Theo chỗ tác giả nhận thấy, thì ít nhất về đời Nguyên đã lầm như vậy rồi. Trong Nguyên sử, An Nam truyện, chép việc Sài Thung tới Thăng Long năm 1278: có nói quan thái úy (vua Trần Nhân Tông) dẫn bách quan từ bờ sông Phú Lương (đây viết chữ lương là rường) ra mời Sài Thung vào quán ngày mồng 2 tháng Chạp, Nhật Huyễn (Thái thượng hoàng) tới quán, ra mắt các sứ giả. Theo chuyện, có thể nhận Phú Lương đây muốn nói sông Nhị Hà. Cũng ở Nguyên sử, lại có chỗ chép Phú Lương với chữ Lương là lành: “Năm Chi nguyên thứ 22 (1285) Ô Mã Nhi thua trận trên sông Phú Lương. Toa Đô chết”.
Từ đời Nguyên trở về sau, sử Tầu đều chép lầm như vậy, nghĩa là mỗi lúc muốn nói sông Nhị Hà thì chép là Phú Lương Giang. Còn sử ta, lúc đầu đời Trần còn chép là Lô Giang, khi muốn nói rằng Thái Tông lui về đóng ở sông Nhị Hà (TT 1257). Đến sau, tuy có lúc chép Nhị Hà bằng Lô Giang (TT 1257, 1282, 1285), nhưng mỗi lúc thấy sử Tầu chép Phú Lương Giang, sử gia ta không phán đoán, nên chú thích là sông Nhị Hà. Vậy mà chỉ cần nhìn địa đồ nhỏ cũng đủ đoán được rằng, đời Tống, Phú Lương Giang chỉ sông Cầu bấy giờ. Ông Ma péro đã nhận thấy sự lầm ấy trong tập san ĐPBC.
2- Tống xuất quân
Sau khi nghe Khâm, Liêm mất, vua Tống Thần Tông chọn tướng Triệu Tiết, Lý Hiến, Yên Đạt (25-12, T. Ho năm Ất Mão, DL 2-2-1076), rồi ban 300.000 quan tiền thưởng cho sĩ tốt để khao quân (2-1, K.Ti; TB 272/7a)
Ngày 23 tháng Giêng (C.Th,TB 272/7a), vua Tống sai quan lễ viện Trịnh Ung tế cáo thần núi Nam Nhạc, ở phía nam hồ Động Đình, và Trần Đồng tế cáo thần bể Nam Hải ở Quảng Châu, để báo việc sắp xuất quân xuống miền nam.
Vua Tống lại ban tiền cho quân lính, và dặn rằng: “Đại quân xuống phương nam vừa lúc nắng to, phải chinh thảo xa xôi; triều đình lấy làm thương xót. Vậy nay Trẫm ban cấp tiền cho. Nhưng đợi lúc tới Đàm Châu sẽ phát, rồi đợi khi ra khỏi Lĩnh lại phát lần nữa” (27-1, G.Ta; TB 272/12a)
Sau khi thay đổi thống soái, lấy Quách Quì thay Triệu Tiết (2-2, M.Ty, DL 9-3), vua ban cho Quì 1.000 lượng bạc, 1.000 tấm lụa (18-2, G.Th,DL 25-3; TB 273/11b). Ngày 20 tháng 2 (B.Ng, DL 27-3), Quì từ giã lộ Phu Diên về đến Biện Kinh. Quì vào bái yết vua Tống. Vua đặc biệt tiếp Quì ở điện Diên Hòa. Vua hỏi phương lược đánh Giao Chỉ. Quì xin tới Ung Châu rồi sẽ định (TB 273/11b). Ngày hôm sau, vua Tống lại phát thêm tiền để ban cho tướng sĩ (TB 273/13a)
Ngày mồng 5 tháng 3 (C.Ta, DL 10-4, Hội yếu và TB 273/14b), vua thết yến đãi Quì ở điện Thuỷ củng, là điện tư, để tỏ lòng quí mến. Vua lại ban cho Quì: cờ, đồ dùng, kiếm, giáp (MC Quách Quì, Theo TB 273/14b). Sau đó, Quì vẫn được lưu tại kinh, để bàn mưu lược và sắp đặt lương thưởng (TB 274/1a)
3 Dọn đường. Dẹp
khê động
Bấy giờ, Quì còn lo việc chinh phục tại miền Khê Động và củng cố các nơi căn cứ ở Ung Châu. Ngày 19 tháng 4 (G.Th, DL 24-5, TB 274/8b), Quì sai tướng coi đạo quân hữu đệ nhất là Lý Thật, đưa quân đi trước, xuống đóng tạm ở thành Ung Châu, tuy rằng thành ấy bấy giờ chưa xây lại xong. Nhiệm vụ thật là phòng bị quân Lý trở lại đánh Ung Châu, và giúp đỡ các Khê Động dọc biên thùy (1-5, B.Th; TB 275/1a)
Quì lại sai Đào Bật và Khúc Chẩn mang các bằng sắc vào các Khê Động để chiêu hàng các tù trưởng.
Đào Bật là một văn quan1 có mưu trí. Tới đạo Tả Giang, rồi được bổ coi Ung Châu. Bấy giờ, Ung Châu vừa mới bị phá, dân sống sót còn trốn trong các động núi, chưa dám về nhà. Đào Bật một mình một ngựa, đem theo chỉ hơn trăm người, đi sâu vào Khê Động. Trước hết, Bật tới Tả Giang, chiêu dụ thổ dân. Dân thấy thế, mới dám về làm ăn. Nhân đó, Bật điểm được 27.000 đinh tráng. Bật mộ đinh tráng ấy, chia làm ba hạng, lấy 20.000 người giao cho các tướng dùng. Phàm các việc vặt như giã gạo, mở đường, đẩy xe, đều dùng dân các động (TB 275/7b)
Các tù trưởng Khê Động thuộc Ung Châu trước đó đã theo ta. Nay nghe quân ta đã rút hết và quân Tống kéo tới, thì lần lượt bỏ ta theo Tống: như tụi Nùng Quang Lâm (1-5, B.Th), Nùng Thịnh Đức, giữ cửa ải ở động Hạ Lôi (9-5, G.Ty, TB 275/5b), đều hàng Tống từ tháng năm. Cho đến Lưu Kỷ, thủ lĩnh Quảng Nguyên, Tống cũng muốn dụ. Tống tin rằng Kỷ có lòng muốn hàng Tống, nhưng sợ vua Lý nên không dám làm. Vì vậy, Tống định cách trừ khử hay cám dỗ Kỷ (8-5, Q.Ho; TB 275/5a)
Khúc Chẩn là một võ tướng có mưu lược, được sai đi cùng hàng tướng Nùng Tông Đán tới đạo Hữu Giang.
Nùng Tông Đán thủ lĩnh động Lôi Hỏa, Vật Dương, Vật Ác có lẽ vừa theo ta đánh Ung Châu nay lại qui thuận Tống (VII/2 và cth5). Y được bổ chức đô giám Quế Châu. Nhưng các con Tông Đán vẫn theo Lưu Kỷ. Ngày mồng 3 tháng 6 ti tuyên phủ nói đã sai Nùng Tông Đán tới Hữu Giang, kiểm điểm đinh tráng, để dự bị đánh Lưu Kỷ, và đã sai phó tướng đội quân tả đệ nhị, là Khúc Chẩn (IX/6), đoàn kết và huấn luyện các đinh tráng ấy. Vua Tống hạ chiếu nói rằng: “Tuy Tông Đán đã hiệu thuận và là dũng mãnh, nhưng các con y còn theo Lưu Kỷ. Ta sợ y có ý theo Kỷ nốt. Vậy nên chọn các viên chức có mưu lược theo Tông Đán còn việc Khúc Chẩn quản hạt, thì phải cấp lương tiền cho đủ. Nếu có thủ lĩnh động nào có ý làm phản, phải lấy quân pháp mà trừng trị” (TB 276/1b)
Quì và Tiết ra sức chiêu dụ man dân. Chúng dùng lợi, dừng uy, dùng những kẻ thân thuộc các tù trưởng mà nhử. Có khi lại phao tin rằng kẻ này đã hàng, để dụ kẻ kia. Dần dần thế lực quân Tống ăn sâu vào các động ở trên đất ta. Các tướng ta như Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân, coi Môn Châu, cũng ngầm hẹn qui hàng (5-7,K.VI, DL 5-8; TB 277/1a theo MC Quách Qùi).
Nhưng ở sâu trong đất Tống, cũng còn một vài động không chịu theo. Như ở Hữu Giang tụi thủ lĩnh Thiệu Châu là Dương Tiên Tiềm và Tiên Hàm đều nói rằng nếu quân Tống tới đó thì chúng đánh lại. Muốn cho khỏi chậm việc tiến quân, và muốn tránh sự chúng vì bị áp bức quá sẽ giao kết với Giao Chỉ rồi đe dọa vùng Tương Đàm, vua Tống bảo: “Nếu để yên chúng (8-6, N. Th; TB 276/8a); nếu chúng có phản thì mới đánh (17-6, T. Su; TB 276/10a); chứ đừng lưu đại quân tại đó, kẻo chậm việc nam thảo” (15-7, K. Ti, TB 277/3b)
_____________________________________
1. Đào Bật tự Thương ông, người Vĩnh Châu dự vào nhiều việc đánh dẹp các khê động, sau được coi là Thuận Châu. Bị bệnh ở đó rồi chết. Bật có thơ vịnh miền Ung Châu (XII/1).
4- Chuyển quân. Trận
Vĩnh An
Không biết Quách Quì rời khỏi Biện Kinh vào lúc nào. Nhưng trong trung tuần tháng 6, An Nam hành doanh và quân của 4 tướng thuộc trung đoàn đã đóng ở Đàm Châu, tức Tràng Sa ngày nay (TB 278/14b). Các quân kỵ, mộ ở Thiểm Tây và Hà Đông, lục tục đã kéo về đến kinh, và đi xuống miền nam; chúng hẹn trung tuần tháng 7 sẽ tới nơi Đàm Châu tụ tập (Theo lời tâu của T.P.Bình, TB 276/22b)
Muốn phòng bị sự quân Lý bất ngờ đi đường thủy như năm trước vào đánh Khâm, Liêm và uy hiếp Ung Châu, Quách Quì lúc mới tới Đàm, liền sai viên coi khâm châu là Nhâm Khỉ đem quân đánh úp trại Ngọc Sơn gần biên giới châu Vĩnh An (CN và TB 277/3a)
Nhâm Khỉ chia quân đi ba đường vào đất Vĩnh An: một đường từ huyện An Viễn, một đường từ trại Như Tích và một đường thủy. Trại Ngọc Sơn không có nhiều quân đồn thủ, nên bị mất. Đó là thắng lợi đầu tiên của quân Tống trên đất ta.
Ngày 10 tháng 6, Quì tâu: “Đến ngày 15, sẽ đi Quế Châu và ước chừng đầu tháng bảy sẽ tới nơi” (TB 276/9b chép lầm ra ngày 19; CN và TB 277/5b)
Đúng như vậy, ngày rằm tháng 6, Quách Quì rời bản hành doanh từ Đàm Châu xuống Quế Châu (TB 276/9b). Đường đi mất chừng 14 ngày (theo T.P.Bình, IX /12). Vào đầu tháng 7, hành doanh đã đóng ở Quế Châu, là nơi, trị sở lộ Quảng Tây.
Ở đó, Quì được tin ngày 9 tháng 7 (Q.Ho, DL 11-8) Nhâm Khỉ đã chiếm được châu Vĩnh An (TB 277/3b). Ngày 21 tháng 7 (DL 23-8), Quì báo thắng trận về triều (CN, theo TB 277/3a)
Trong lúc ấy, tướng Tống sai thuyết khách vào vùng Tả Giang dỗ các tụi thủ lĩnh: Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân ở Môn Châu hứa sẽ ra hàng.
Trung tuần tháng bảy, hậu quân đã tụ tập ở Đàm. Cuối tháng 7. Quì hạ lệnh cho 9 đạo lục quân từ Quế Châu tiến xuống Ung Châu. Lại sai viên hàm hạt Quảng Đông là Mân Hòa cùng Dương Tùng Tiên đem thủy quân từ Quảng Đông ra bể (MC và truyện Quách Quì, theo TB 277/5b).
Hành doanh đóng lại ở Quế Châu trong tháng 7, và tháng 8. Đến hạ tuần tháng 8, mới dời xuống. Ung Châu.
Đường đi mất 14 ngày (TB 388/1b chép Hùng Bản nói 18 ngày). Thượng tuần tháng 9, Quách Quì và đại quân đóng ở Ung Châu1. Rồi phân phát đóng ở các thành, trại, dọc theo biên giới các châu thuộc nước ta: Quảng Nguyên, Môn Châu, Quang Lang và Tô Mậu.
Tướng Khúc Chẩn đem quân đánh vào động Hạ Lôi thuộc Hữu Giang, phía bắc Quang Nguyên (TB 278/14b). Nùng Thịnh Đức ở đó đã theo Tống từ tháng 5 (X/3). Đào Bật được phái đi nhóm họp quân thổ đinh ở Tả Giang và đưa đến Tư Minh để đợi ngày xuất quân (TB 278/14b)
Vua Tống muốn nâng cao sĩ khí. Ngày 23 tháng 9 (B.Ty, DL 23-10; TB 277/16a), có chiếu nói rằng: “Binh mã đi An Nam chẳng bao lâu nữa sẽ ra khỏi nước. Phải có gì làm bật sĩ khí. Trước đây Nhâm Khỉ đánh được trại Ngọc Sơn. Công tuy không to, nhưng cũng đã lần đầu làm phấn khích sĩ tốt. Ai lập công thì nên thưởng, rồi tâu lên để báo cáo cho tướng sĩ biết”.
Đầu tháng 10, hành doanh cũng xuống Tư Minh. Đường đi từ Ung Châu xuống tới đó mất chừng 4 ngày. (TB 278/15a)
Trong lúc ấy, Dương Tùng Tiên lĩnh thủy quân muốn theo kế hoạch của mình vượt bể vào họp với quân Chiêm Thành để đánh miền nam nước Việt. Nhưng thuyền không qua được Đại Dương. Ngày 12 tháng 8 (A. Vi, DL 12-9; TB 277/7b), có chiếu bảo Tùng Tiên thôi đừng đi Chiêm Thành nữa, và phải giao trả các bằng không tên, tiết chế và triều chỉ cho ti chiêu thảo, và đợi ti ấy phân xử. Dương Tùng Tiên đành phải theo kế của Tô Tử Nguyên, dọc ven bể sang hải phận Vĩnh An để vào trong sông thuộc nước ta.
Sở dĩ có chiếu ấy, một phần có lẽ vì sứ Chiêm sắp tới Tống và miễn cho sứ Tống khỏi phải đi Chiêm. Ngày 16 tháng 8 (K.Ho, DL 16-9; TB 277/9b), sứ Chiêm Thành tới cống. Tống khuyên hợp quân đánh ta. Ngày 12 tháng 9 (A.Su, DL 12-10; TB 278/6a), Chiêm Thành bằng lòng đưa quân giúp Tống.
____________________________________
1. Về nhật trình tiến quân của Quách Quì, sách TB chép hơi lúng túng, bởi vì các tài liệu sách ấy dùng đã chép không giống nhau. (TB 278/14b) có chú thích rằng: “Quách Quì truyện nói tháng 10 Quì đến Ung, còn Mộ chí Quách Quì thì không chép rõ ngày tháng nào cả. Theo Mộ chí Triệu Tiết, thì quân lưu lại Tư Minh 7 tuần (70 ngày), và ngày 11 tháng chạp từ Tư Minh đi. Nếu ta tính dồn lên, thì thấy rằng quân tới Tư Minh vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng10 và từ Ung tới Tư Minh còn mất chừng khoảng 4 ngày đường. Nếu như ta cho rằng thiên Quách Quì tân và cựu truyện ở TL chép Quì tới Ung vào tháng 10 là đúng, thì mộ chí Triệu Tiết lại thành ra chép sai. Muốn cho cả hai đường đều đúng ta phải nhận rằng đầu tháng 10, quân tới Ung rồi lập tức đi xuống Tự Minh. Nhưng sự quân đi như thế là vô lý. Vả chăng, ngày 15 (TB lầm ra 16) tháng sau, Quì đi từ Đàm xuống Quế; đường đi mất 14 ngày. Vậy đến Quế vào đầu tháng 7. Quế lại cách Ung 14 ngày. Nếu quả tháng 10 mới tới Ung thì hóa ra Quì ở lại Quế rất lâu (3 tháng). Vả lại, ngày 23 tháng 9 có chiếu nói rằng chẳng bao lâu quân sẽ ra khỏi cõi. Nếu bấy giờ quân chưa tới Ung, thì sao lại có lời nói quân sẽ ra khỏi cõi? Hoặc giả Quách Quì truyện chép đầu tháng 10 Quì tới Ung là sai. Đáng lẽ thì giữa tháng 9 tới Ung, đầu tháng 10 đến Tư Minh mới phải” (TB 278/ 14b )
Lý luận trên xác đáng, và hợp với chứng sau. Ngày 14 tháng 10 (TB 278/6b), vua có chiếu rằng: “An Nam hành doanh đã tới Ung Châu. Tính tới thượng tuần tháng 9, quân lính của bốn tướng chết bệnh mất, năm nghìn tân...” Ta có thể hiểu rằng cái ngày thượng tuần 9 nói trên, là ngày quân đến Ung Châu. Từ sau lời bàn trên TB, thêm rằng Mộ chí chép quân ở lại Tư Minh bảy tuần là sai, nhưng nay ta tính lại, thì thấy rằng Mộ chí chép như thế có lý. Vậy tôi đã theo thuyết ấy.
5. Tướng Tống bất
hòa
Như trên đã nói, giữa các tướng Tống có sự bất hòa ngấm ngầm từ đầu. Nguyên do sự bất hòa là ở triều, các đại thần không đồng ý về việc nam thảo. Mỗi người lại bênh một tướng, Vương An Thạch lại bênh Triệu Tiết mà Ngô Sung bênh Quách Quì. Ai cũng công kích Lý Hiến, nên các hoạn quan đều oán tức các tướng. Vua Tống đã đề cử Tiết làm chánh tướng; thế mà, vì một câu hỏi của vua, Tiết đã miễn cưỡng nhường chức chỉ huy cho Quì (VIII/1). Chắc đó cũng là bởi sự trả thù của tụi hoạn quan xui nên, vì chúng giận Tiết đã bỏ Lý Hiến. Quì được các đại thần như Ngô Sung che chở, mà Ngô Sung lại chủ hòa.
Lúc quân đã xuống đến Ung Châu, mà hai tướng vẫn còn hục hặc với nhau. Nhiệm vụ của mỗi người không rành mạch. Khi bàn việc, hai người đôi co nhau, không ai chịu nhường ai. Ngày 12 tháng 9 (A.Su, DL 12-10; TB 277/13b), vua Tống phải hạ chiếu chia phần việc:
1) Tuyên bố đức trạch, an phủ quân dân (phát tiền, gạo, bằng sắc) thì giao cho ti tuyên phủ, (tức là ti an phủ, Quì làm chánh, Tiết làm phó)
2) Mưu mẹo, phương lược thì thuộc ti kinh lược chiêu thảo (Quì coi một mình)
3) Hành doanh tướng hiệu binh mã, thì thực quyền ti đô tổng quản (Quì làm chánh, Yên Đại làm phó)
Tiết đã được vua Tống giao cho việc lương thực (VIII/4). Quì chia công việc ti đô tổng quản với Yên Đạt, là viên phó đô tổng quản. Còn Tiết là phó an phủ sứ lại không được dự. Cho nên mỗi lúc Tiết bàn gì, cũng bị Quì bác. Ngày 21 tháng 10 (G.Th, DL 20-11), vua Tống phải hạ chiếu trách, và dặn: “Phàm việc gì, cũng phải theo lệnh trên; thương nghị, chớ giằng co nhau”(TB 278/9a)
Những chuyện bất hòa, nay còn thấy chép một vài thuộc chiến lược. Lúc tới Quế Châu. Tiết bàn nên thừa lúc chưa động binh, sai người vào vũng Lưỡng Giang chiêu dụ tù trưởng; không nên đem đại quân xuống đóng chỗ lam chướng, và nên đợi quan sát địch đã. Quì không nghe, cứ đem đại quân xuống Ung, rồi xuống Tư Minh đóng lại ở Bằng Tường đến bảy mươi ngày (MC Triệu Tiết, theo TB 279/11a). Tiết lại bàn nên dụ Lưu Kỷ và Thân Cảnh Phúc. Tiết nói: “Vì mưu của Lý Thường Kiệt (TB chép Thượng Cát) và Lý Kế Nguyên nên Giao Chỉ đã làm loạn. Càn Đức (Lý Nhân Tông) và mẹ (Ỷ Lan) oán hai người ấy, nay lại tin vào Nguyễn Thù1. Thù vốn có lòng quy thuận. Vả Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, thân Cảnh Phúc giữ động Giáp, đều cầm cường binh. Ta có viên Thành Trạc, làm giám áp ở trại Hoành Sơn, vốn quen thân với Thù và Cảnh Phúc. Tôi muốn sai Trạc mang sắc bằng vào chiêu nạp chúng” Quì cũng không nghe mưu ấy. (TB 279/11a)
Trong khi các tướng ở ngoài không ăn ý với nhau, thì ở triều, cuộc xung đột giữa Vương An Thạch và cựu phái lại càng kịch liệt. Tháng 10, An Thạch phải từ chức. Tống Thần Tông lấy Ngô Sung và Vương Khuê thay. Phùng Kinh được coi việc khu mật. Sung vốn thuộc phái không thích đánh. Sung đã từng cãi lại An Thạch rằng: “Có lấy được Giao Chỉ, cũng vô ích” (TB 273/1b). Nhưng nay quân đã đến biên thùy; vô cớ lui quân cũng bất tiện. Sung viết thư cho Quánh Quì, nói: “Về việc quân huyện bắt phu chậm trễ, triều đình đã ban chỉ hặc tội, về việc sắp đặt đánh Giao Chỉ, đã có kế bàn định rồi. Hãy chỉ nên đóng quân lại để xét kỹ càng. Thế là hay hơn” (Quách Quì cựu truyện và TB 307/17b). Quì tính vốn cẩn thận, chậm chạp; nay được lệnh như thế lại càng trù trừ.
Quân lính do các tướng chiêu mộ lấy, thường không theo luật pháp (lời khu mật tâu; 17-9, C, Ng, DL 17-10) đến nỗi vua Tống phải hạ chiếu cắt đặt người cai quản và bảo phải gia tử tội (TB 277/14b). Tướng cũng có kẻ không theo phép luật. Như Lý Thực lĩnh đội quân hữu đệ nhất đưa cả vợ con đi theo. (Lời ti chiêu thảo hặc, ngày 25-10, M. Th, DL 24-11; TB 278/11a)
6- Quân ốm, lương
thiếu
Tình trạng quân Tống bấy giờ khốn đốn vì bệnh tật và thiếu lương thực. Từ khi qua dãy núi Lĩnh, gặp mùa nóng nực, quan lính bị đau rất nhiều. Đến thượng tuần tháng chín đã chết mất bốn, năm nghìn trong bốn đạo trung quân (theo lời chiếu 14-10, Đ.Zu, DL 13-11; TB 277/6b). Vua Tống rất lo ngại, gửi chiếu chỉ xuống nhiều lần dặn dò thuốc thang. Thuốc không khỏi, lại sai cúng (13-10 và 21-11 xem VIII/6).
Về lương thực, các viên đốc sự cũng đã tính toán mập mờ. Triệu Tiết được cử trông coi việc ấy từ đầu. Khi tới Hồ Nam, Tiết hỏi những kẻ chuyên trách phải điều phát bao nhiêu lương số. Có Đường Nghĩa làm chuyển vận phán nói: “Vì không dám làm lỗi quân kỳ, xin chở tất cả một lần”. Nhưng viên an phủ sứ Tăng Bố nói: “Không thể làm nổi. Phải chở làm hai lần”.
Tiết hỏi: “Đã chơ lương tới Quảng Tây được bao nhiêu rồi?”, Bố nói: “Đã có 90 vạn hộc”. Tiết hỏi: “Đã có bao nhiêu phu?”. Bố trả lời: “Có 27 vạn”. (TB chép 270 vạn, chắc sai). Tiết tính, thấy thế là đủ, bèn nói: “Thôi cần gì làm khổ dân nữa. Nếu thiếu thì ta lo cho”. Rồi bảo Nghĩa thôi việc bắt phu ở Hồ Nam (MC Triệu Tiết, theo TB 283/16b)
Lúc đến Ung Châu, lương và phu đều thiếu. Ngày 12 tháng 10 (A.Vi, DL 11-11). Viện khu mật phải thúc giục và dọa: “Nếu ai thiếu tiền, lúa, cỏ trong việc đánh An Nam, thì lúc quân trở về sẽ thu gấp đôi” (TB 278/6a). Thế mà cuối cùng lương vẫn thiếu.
_______________________________________
1. Lý Thượng Cát tất nhiên là Lý Thường Kiệt. Đọc bằng âm Tầu, hai tên như nhau.
Lý Kế Nguyên là ai? Sử ta không hề chép tới. Lần đầu, Tống sử (TS 488) chép tên phó sứ Lý Kế Tiên tới Biện Kinh vào năm 1063. Chữ tiên là trước gần chữ nguyên là dầu. Chắc là Lý Kế Nguyên. Sách TB có chép tên ấy nhiều lần. Trên đây là một một, một lần thứ hai là lúc dẫn lời Dương Tùng Tiên trình: “Vừa rồi tôi đã gặp quân liên lạc giặc mang lệnh của viên hành quân chiêu thảo sứ giặc là Lý Kế Nguyên. Sau đó, nhiều lần tôi đánh chúng, nhưng chúng không có ý khuất phục. Vậy xin nghiêm sai dự bị ở biên giới để chế sự bất ngờ” (Tháng 3 năm Đinh Tị 1077, TB 281/2a). Lần thứ ba là tháng 10 năm Đinh Tị (1077) Giao Chỉ sai bọn Lý Kế Nguyên tới biên giới bàn việc biên giới (TB 285/4b). Các sử ta (TT và VSL) đều chép rằng năm Mậu Ngọ (1078) Lý sai Đào Tông Nguyên đem voi sang cống Tống, chắc rằng muốn nói phái bộ trên. Xem vậy, ta có thể nghĩ rằng Lý Kế Nguyên và Đào Tông Nguyên là một. Nhưng lại có sứ giả tên là Đào Tông Nguyên thật, vì cũng trong sách TB có chép tên ấy nhiều lần (313/11b và 339/2a). Vả Tống sử (TS 488) cũng có chép tên Đào Sùng Nguyên, năm 1069 làm phó sứ tới báo sự thắng quân Chiêm Thành. Xem vậy thì như Lý Kế Nguyên và Đào Tông Nguyên là hai người khác nhau.
Lại xét trong sử đời Lý, có một nhân vật tên Lý Nguyên, mà con gái làm thứ phi đời Lý Thần Tông, Lý Nguyên làm thượng thư rồi bị hạ ngục, chết năm 1132. Nhưng năm 1132 cách năm 1077 những 55 năm. Chắc rằng lúc đánh Tống Lý Nguyên còn trẻ lắm, không phải là một chiêu thảo sứ được. Lý Nguyên không phải là Lý Kế Nguyên.
Nói tóm lại Lý Kế Nguyên là một chiêu thảo sứ, nghĩa là một tướng quan trọng cầm quân đánh Tống, quản đạo thủy quân châu Vĩnh An. Có thể rằng Lý Kế Nguyên là tên khác của Đào Tông Nguyên. Vì đời xưa, vua thường ban quốc tính, nghĩa là họ vua, cho bầy tôi được trọng đãi.
Tên Nguyễn Thù, ở sử ta (TT và VSL) cũng không thấy. Nhưng TT có chép: “Năm 1042, mất mùa vua Lý Thái Tông sai quan khu mật Nguyễn Châu đem những người phiêu lưu đắp ụ đất ở các địa phương, trên có dựng thẻ gỗ đề tên đất, để người đi tha hương kiếm ăn dễ nhận đường”
Chữ châu và ngọc châu rất gần chữ thù là khác, có lẽ hai tên ấy là một chăng? Từ năm 1042 đến năm 1076 có 34 năm, giả thuyết trên cũng không vô lý.
7- Phòng hông. Trận
Quảng Nguyên
Đầu tháng 10, đại quân Tống đóng ở Tư Minh (Ninh Minh ngày nay), Tư Minh thuộc trại Vĩnh Bình, là trung tâm điểm để đi các cửa ải vào những châu Quảng Nguy n, Môn, Tô Mậu, và huyện Quang Lang. Quân Tống ở đó bảy mươi ngày. Quách Quì theo lệnh của tể tướng mới là Ngô Sung, đóng hành doanh ở Bắc Tường (cạnh Tư Minh), đợi xem nên hành động làm sao (TB 279/11a)
Quì nói: “Quảng Nguyên là cổ họng của Giao Chỉ. Có binh giáp mạnh đóng giữ đó. Nếu ta không đánh lấy trước, thì sau khi ta đi sâu vào đất chúng; quân ta sẽ bị đánh cả mặt trước và mặt sau. Lưu Kỷ đóng ở đó, là quan sát sứ của giặc, mà lại là chủ mưu sự cướp Ung Châu. Nếu ta không bắt được nó, thì thanh thế ta không thể nổi dậy” (MC Quách Quì, theo TB 279/11a)
Trước đó, Tống đã dụ Lưu Kỷ hàng (X/3) nhưng không được. Quách Quì sai viên phó đô tổng quản Yên Đạt đem quân qua trại Thái Bình, vào châu Quảng Nguyên (TB 279/11a)
Yên Đạt là một vũ tướng đã lập được nhiều công ở Diên Châu, trong khi đánh Hạ. Lúc y vào bái tử để theo Quách Quì xuống miền nam, vua Tống Thần Tông có dặn: “Khanh, danh vị đã cao, bất tất phải tự mình xông pha tên đạn. Khanh chỉ nên khuyến khích tướng sĩ mà thôi”. Đạt cúi đầu cảm tạ và tâu: “Tôi nhờ uy vua đi dẹp giặc. Tuy chết cũng không sợ” (TS 349)
Lúc được lệnh vào Quảng Nguyên, Yên Đạt đem theo một tướng giỏi, tên là Tu Kỷ giúp mình (TB 284/4a). Đường vào Quảng Nguyên hiểm trở, nhưng quân Tống đông. Lưu Kỷ sai quân cự chiến. Dân gian họp nhau chống lại vùng Bắc Quảng Nguyên, có Hoàng Lục Phẫn ngăn được quân Tống, không để chúng cướp phá động mình. Nay còn có đền thờ y ở làng quán là làng Lũng Định, ở phía bắc phủ Trùng Khánh (ĐNNTC). Quân Lưu Kỷ cũng chống cự rất hăng, làm cho tiền quân Yên Đạt lâm nguy. Đạt muốn đem quân cứu. Một tiểu tướng hầu gần thưa rằng: “Tướng công nên tính đến việc mình trước, rồi sẽ tiến quân”. Đạt trả lời: “Quân ta đánh đã lâm nguy. Ta há còn lòng nào lo tự bảo toàn sau!”. Rồi hạ lệnh rằng: “Ai bàn đóng doanh lại không tiến quân thì sẽ bị chém”. Đạt liền đem đại quân tới cứu. Quân sĩ Tống bị vây, thấy vậy đều phấn khởi. Chúng kêu to lên rằng: “Quan Thái úy đã tới!”. Quân Lưu Kỷ bèn giải vây và lui (TS 349).
Yên Đạt biết cơ khó lòng bắt được Lưu Kỷ, bèn định dùng mưu cắt vây cánh của y. Đạt phao tin rằng Lưu Kỷ đã nhận lời theo Tống và hẹn ba ngày nữa sẽ ra hàng. Các Khê Động tưởng thật, đều theo Tống. Lưu Kỷ sợ thế cô lập. Ba ngày sau cũng đem gia thuộc và các động trưởng ra hàng. Ấy là ngày Bính Tuất mồng 4 tháng 12 (DL 1-1-1077;TS 15). Quì bắt được 5.000 quân của Kỷ và cứu được 3.000 quân bị Kỷ bắt trước đó (Theo lời tâu ngày 4-12, B.Tu, DL 1-1-1077; TB 279/11a). Đạt thu lại được một vạn hộc lương và dân các động cung nạp theo 20 vạn hộc. Thế là đỡ cho Tống được 10 ngày lương (TB 283/16b). Yên Đạt sai đốt phá các động để phòng sự quân ta tập kích (MKBD)
Ti chiêu thảo báo về, vua Tống hạ chiếu rằng: “Nếu vì đại binh tới gần cõi, cho nên Lưu Kỷ bất đắc dĩ mới hàng, thì hãy đem Lưu Kỷ và gia quyến về kinh đô” (4-12. B.Tu, DL 1-1-1077; TB 279/11a)
Bảy ngày sau, các tì tướng như Nùng Sĩ Trung và Lưu Báo thủ lĩnh động Bát Tế ở châu Cổ Nông cũng ra hàng, rồi bị đem về Biện Kinh cả (Theo lời tâu 11-12, Q. Ti, DL 8-1-1077; TB 279/11a)
Yên Đạt đem quân vào sâu đến đâu? Châu Quảng Nguyên là tỉnh Cao Bằng ngày nay. Cổ tích trong vùng có thành Na Lữ, cách tỉnh lị chừng hơn 10 cây số về phía tây bắc. Theo sách Bắc thành địa chỉ, thành ấy do Trương Hương làm tiết độ sứ đời Đường đắp nên, rồi sau Nùng Tồn Phúc cũng ở đó. Có lẽ Lưu Kỷ cũng đóng quân ở đó chăng, và Yên Đạt đã đem quân tới gần Na Lữ.
Vậy, đầu tháng chạp, Quảng Nguyên đã mất, ý Triệu Tiết là sau khi lấy được Quảng Nguyên, bảo Yên Đạt theo đường tắt xuống Thăng Long, tức là đường qua Bắc Cạn, Thái Nguyên ngày nay. Tiết nói rằng: “Đường tắt từ Quảng Nguyên xuống Giao Châu (Thăng Long) chỉ 12 trạm. Theo đường ấy rất tiện lợi, ta nên xuất kỳ bất ý, đem quân đi đường ấy mà đánh úp. Như thế, vừa bằng sông, vừa bằng bộ, ba đường tiến đánh, thế giặc phải chia. Chắc ta sẽ thắng” (TS 332 và TB 279/21b). Ba đường nói trên, có lẽ là đường Quảng Nguyên, đường Lạng Châu và đường thủy từ Bạch Đằng vào.
Quách Quì không bằng lòng kế ấy, và bảo Yên Đạt khi đánh xong Quảng Nguyên, phải trở lại trại Vĩnh Bình, hội với đại binh ở vùng Tư Minh, Bằng Tường. Yên Đạt bèn đúng lời hẹn, bỏ Quảng Nguyên và rút quân về phía đông.
Nhưng bấy giờ còn chừng một vạn quân ta đóng ở động Hạ Liên và Cổ Lộng. Hai châu này ở phía nam Quảng Nguyên, trên đường Cao Bằng, Thái Nguyên ngày nay. Hạ Liên là đất Ngân Sơn1.
Trong khi lui quân, Yên Đạt sợ bị quân ta đánh úp. Bèn sai Khúc Chẩn quản 3. 000 quân kỵ đóng lại, dương ngôn rằng sắp qua các động ấy để vào đánh lấy Thăng Long. Đạt lại tha tù binh, quê ở các châu ấy, để chúng về kể truyền tin bịa ấy. Vì thế, quân ta thông dám động, chỉ ở lại giữ thế thủ mà thôi (TB 279/22a)
Yên Đạt rút quân được vô sự, còn Khúc Chẩn ở lại sau.
______________________________________
1. Sách TT có chép vào năm 1039 rằng: tháng 5, huyện Liên châu Lộng Thạch, châu Định Biên nay ở Bắc Cạn, tức là châu Định giáp vùng Ngân Sơn (xem VI/7). Xem vậy, các châu trên đều ở vùng nam Cao Bằng. Mà theo địa thế, hai châu Hạ Liên, Cổ Lộng trong lời Yên Đạt cũng ở vùng ấy. Ta có thể đoán rằng Hạ Tiên và huyện Liên có lẽ là một. Còn Cổ Lộng cũng có nghĩa là châu Lộng Thạch. Chữ cổ là xưa với chữ thạch là đá dễ lẫn nhau. Cổ Lộng có lẽ là Thạch Lộng, hay Lộng Thạch.
8 - Trận biên thùy:
Quyết Lý, Môn, Tô Mậu
Đại quân Tống bấy giờ ở vùng Tư Minh, Bằng Tường phía bắc châu Quang Lang thuộc nước ta.
Ngày 11 tháng 12 (Q.Ti, DL 8-1-1077) Quách Quì đem quân qua biên giới (Hội yếu và TB 279/11a). Đại quân chắc theo đường qua cửa ải Nam Quan và tiến về ải Chi Lăng, tức là đường Hà Nội-Nam Quan ngày nay.
Mặt tây, Khúc Chẩn rời bỏ Quảng Nguyên, tiến quân sang đông nam, lấy Môn Châu (TB 279/11a) một cách dễ dàng vì các tướng giữ vùng ấy là Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân đã ngấm ngầm thông với Tống từ trước1.
Mặt đông, quân ở các châu Lộc, Tư Lăng tiến vào châu Tô Mậu. Viên châu mục là Vi Thủ An, đã bị viên chúa trại Vĩnh Bình là Dương Nguyên Khanh dụ trước. Cho nên quân Tống chiếm Tô Mậu dễ dàng (TB 281/8a)
Mặt giữa, quân tiền phong vượt núi ở phía nam sông Ô Bì, tiến tới huyện Quang Lang. Ngày nay phía nam tỉnh Lạng Sơn, còn có làng Quang Lang trên đường Thiên Lý, phía nam Ôn Châu. Chắc rằng đời Lý, huyện lỵ Quang Lang đóng tại đó. Từ phía bắc xuống đó, phải qua nhiều đèo ải như đèo Kháo Mẹ, Kháo Con, rồi qua làng Nhân Lý, ở bên cạnh Làng Giai hay Đồng Mỏ. Đời Lê, Nhân Lý là một trạm lớn, và đèo Kháo Mẹ, Kháo Con là hiểm nhất trên đường này.
Các sách và sử Tống đều nói rằng quân Quách Quì đánh bại quân Lý ở ải Quyết Lý, rồi thừa thắng lấy huyện Quang Lang. Sách MKBD lại nói rõ rằng: Quách Quì phá ải Quyết Lý ở huyện Quang Lang. Xem đó, ta có thể đoán rằng ải Quyết Lý tức là Nhân Lý ngày nay, nó ở về phía bắc Quang Lang, cách chừng 15 cây số.
Vậy Quách Quì sai quân tiến tới huyện Quang Lang. Quân Lý chặn ở ải Quyết Lý. Đó là tiền quân của phò mã Thân Cảnh Phúc. Quân Lý đem voi chống lại. Quì sai Yên Đạt (TB 284/4a), Trương Thế Cự tiến đánh (TB 279/11a). Tu Kỷ đi tiên phong. Tu Kỷ đưa quân đi lén tới giết được 66 quân ta (TB 284/4a). Nhưng bị voi cản đường, quân Tống không thể tiến. Quì sai quân cung tiễn thủ lấy nỏ bắn vào voi. Lại sai mã tấu chém vòi voi. Voi sợ quay chạy, dẫm xéo lên quân Lý. Quân Lý tan vỡ. Quyết Lý mất. Quân Tống tràn đến huyện Quang Lang (TB 279/12b)
Sách Quế hải chí (theo lời SK, nhưng sách QHNHC không chép) kể chuyện rằng: “Viên tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ. Thấy quân Tống đi lẻ loi, thì ra giết chết, hoặc bắt về chặt ra mà ăn. Người ta cho là một vị thiên thần”. Phò mã này chắc chính là Thân Cảnh Phúc coi châu Lạng. Vậy sau trận Quyết Lý, Cảnh Phúc rút lui vào rừng Động Giáp, rồi du kích hậu phương quân Tống. Rình lúc bất ngờ, đánh úp quân địch làm chúng rất sợ hãi.
Tuy Cảnh Phúc không những không theo gương các thủ lĩnh các châu khác qui hàng giặc, mà còn đổi thế thủ ra thế công bằng du kích, nhưng thế cũng không sao ngăn nổi đại quân Tống đang ồ ạt băng ngàn, tràn xuống miền nam. Các phủ Lạng Châu và Phú Lương đang sắp qua những ngày quyết liệt.
___________________________________
1. Về ngày Hoàng Kim Mãn hàng, sách TB đã nhận thấy rằng mỗi nơi nói một khác. Lời chú thích trong TB như sau:
“Mộ chí Quách Quì chép: “Quách Quì dụ các khê động. Môn Châu có tụi Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân hàng”
“Sách Ngư tập chép: “Ngày 19 tháng 5, Tôn Giốc làm chuyển vận sứ ở Hồ Bắc tâu rằng Hoàng Kim Mãn muốn hàng”
“Sách Nhật lục lại nói: “ngày 17 tháng 8, dụ được Hoàng Kim Mãn”. Theo đó thì Kim Mãn qui hàng vào khoảng tháng 8 hay tháng 9
“Sách Thực lục không hề chép việc Hoàng Kim Mãn hàng. Nhưng có chép việc các tù trưởng dân Mán ở Cổ nông hàng vào ngày 12 tháng Chạp. Có lẽ Hoàng Kim Mãn qui hàng lúc ấy”
“Vả Mộ chí Quách Quì chép hai việc sau này trái ngược nhau: việc Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu hàng và việc đánh Môn Châu sau đó. Nó đã hàng rồi, sao còn đánh nữa? Hay là Kim Mãn có ý hàng mà chưa đến hàng?
“Theo sách Chinh nam nhất văn tự thì đúng là vậy. Vả sách ấy có chép “Ngày 28 tháng 4 năm Hi ninh thứ 10 (1077), Triệu Tiết mách rằng Hoàng Kim Mãn đã đem Miêu Lý qua sông Phú Lương”. Xem đó, ta nhận thấy rằng lúc ta đánh Môn Châu, Hoàng Kim Mãn mới hàng. Vậy thì Mộ chí Quách Quì chép cũng không sai”.
Nay xét qua các chứng trên ta có thể nhận rằng:
Tháng 5 năm Bính Thìn (1076), tụi Hoàng Kim Mãn ngỏ ý muốn hàng với thuyết khách Tống. Nhưng bấy giờ quân Tống chưa tới vùng Môn Châu. Đến tháng 8, tháng 9 đại quân Quách Quì đã đến Ung Châu. Có tướng tới dụ tụi Kim Mãn. Chúng nhận lời, nhưng vẫn cứ ở lại châu mình đợi quân Tống. Đến đầu tháng chạp, quân Khúc Chẩn từ Quảng Nguyên lại Môn Châu. Hoàng Kim Mãn mới đem bộ hạ theo Chẩn và nhận làm hướng đạo cho quân Tống, để đi tắt từ Môn Châu xuống Phú Lương, y lại dẫn đường cho Miêu Lý qua đò Như Nguyệt để đi tắt về phía thành Thăng Long.
Chương XI
HÒA
VÀ HÒA BÌNH
1. Tránh phục binh:
trận Đâu Đỉnh - 2. Tiền phong qua sông: trận Như Nguyệt
- 3. Tống tấn công thất bại: trận Nam Định - 4. Lý tấn
công thất bại: trận Kháo Túc - 5. Thủy chiến: trận
Đông Kênh - 6. Tống lui quân - 7. Giảng hòa - 8. Kết cục.
1- Tránh phục binh:
trận Đâu Đỉnh
Chiếm xong huyện Quang Lang, Quách Quì định kéo quân thẳng xuống Lạng Châu.
Đường thẳng là đường Ôn Châu đến phủ Lạng Thương ngày nay. Đường rất hiểm trở. Hai bên toàn rừng núi. Phía đông có núi rừng man mác chạy dài qua châu Tô Mậu đến bờ biển phía tây, có núi đá rất cheo leo, bao trùm một vùng đất rộng, mà nay gọi là núi Cai Kinh, hay nói đúng hơn là núi Bắc Sơn. Núi toàn đá lèn lởm chởm tràn về phía tây đến sông Phú Lương, thuộc Thái Nguyên ngày nay.
Trong núi, có một vài lối đường hẹp, ngoặt ngoèo. Không quen đường thì khó dò ra được.
Đường chính phải qua ải Chi Lăng, mà sách TB chép tên là ải Giáp Khẩu. Ngoài đường chính ấy, còn có một đường vành xa về phía tây, qua xã Bình Gia, châu Vạn Nhai rồi đến Phú Lương (V/1); và có một lối tắt trong núi, qua xã Vạn Linh. Đường cuối này, tuy hẹp nhưng cũng khá ngắn.
Ải Chi Lăng đã làm cho quân Tống, khi sang đánh Lê Hoàn, bị một phen thất bại. Đại tướng Hầu Nhân Bảo đã bỏ mình vì phục binh của Lê đặt ở đó.
Lần này, Lý Thường Kiệt cũng đặt nhiều quân lính nấp hai bên cửa ải để đợi quân Tống.
Quách Quì dò biết, không dám đưa quân qua ải. Nhưng bấy giờ đại quân Tống đã dồn vào chỗ đường độc đạo như nước chảy vào khe hẹp; nên Quì phải tìm đường qua. Quì sai tướng tiền phong Tu Kỷ đem quân vòng quanh về phía tây.
Sách TB chép; “Giặc mới đặt phục binh ở cửa ải Giáp Khẩu để đón quân ta. Quì biết, nên đi đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh mà tiến. Bèn tới sông Phú Lương” (TB 279/22a)
Theo SK, thì Tống sử và các sách khác chép rằng: “Quách Quì tiến đóng ở ải Quyết Lý, rồi tự đưa binh sang phía tây, tiến đến sông Phú Lương”
Nếu mở bản đồ vùng này ra xét, ta phải nhận rằng dãy núi Đâu Đỉnh nói trên chắc là dãy núi Bắc Sơn. Vả chăng hai chữ Đâu Đỉnh có nghĩa là đỉnh Đâu Mâu, tức là cái đỉnh bằng kim loại, mà người ta cắm trên mũ. Núi đá lèn, có đỉnh lô nhô như mũi Đâu Mâu sắp thành hàng, có thể có tên là Đâu Đỉnh Lĩnh. (V/cth 2)
Vậy ta chắc rằng, sau khi không dám qua ải Giáp Khẩu; Quánh Quì đem đại quân hướng về phía tây, vượt qua dãy núi Bắc Sơn để ra chỗ cao nguyên ở vùng Yên Thế. Quì đã theo đường tắt qua xã Vạn Linh.
Thường Kiệt không ngờ quân Tống có thể đem đại quân qua đường hẹp ấy, nên chỉ để một ít quân giữ.
Tướng tiên phong Tu Kỷ đưa kỵ binh đi.trước. Kỷ gặp một đoàn quân ta chừng vài nghìn người. Quân ta đánh rất gắt. Kỷ phải đánh hết sức mới ra khỏi núi (Theo lời chiếu kể công Tu Kỷ, ngày Q.Vi, 6-8 năm Đinh Tị, DL 26-8-1077; TB 284/4a)
Tiền quân qua lọt. Đại quân kéo tràn theo sau. Một mặt tiến xuống bờ sông Phú Lương, tức thượng lưu sông Cầu thuộc địa phận Thái Nguyên ngày nay. Một mặt, tiến sang phía đông, tới phía nam ải Giáp Khẩu. Quân Lý nấp ở ải bị bọc bao lưng, nên lật đật rút lui vào miền núi động giáp để tháo lui về phía đông nam, liên lạc với hữu dực đóng ở vùng Vạn Xuân.
Sau khi quân Lý phải bỏ ải Giáp Khẩu, quân Tống kéo thẳng qua đó tràn tới sông Đào Hoa. Chúng qua sông ấy liên lạc với quân đã qua dãy núi Đâu Đỉnh. Rồi, chia nhau đóng dọc bờ bắc sông Như Nguyệt (trung lưu sông Cầu)
Trong lúc ấy, đạo quân Khúc Chẩn cũng từ QuảngNguyên tiến tới phía đông nam. Chẩn tới Châu Môn. Thủ lĩnh châu ấy là Hoàng Kim Mãn, theo hàng (X/cth9) Kim Mãn theo Chẩn tới sông Phú Lương, hợp với đại quân. Chắc rằng Khúc Chẩn đã đi đường Bình Gia, Vạn Nhai theo dọc phía tây dãy núi Đâu Đỉnh, để vào tỉnh Thái Nguyên ngày nay.
Các đạo quân Tống đã lần lượt theo con đường từ bắc tiến xuống nam, mà dồn vào trước cái hào sâu thiên nhiên, là con sông Cầu. Các quân ấy đóng trên bờ, từ khoảng tỉnh lị Thái Nguyên đến vùng trước Thị Cầu.
Sách Tống hội yếu chép: “Ngày 21 tháng chạp, quân Quách Quì tới sông Phú Lương” (Q.Ma, DL 18-1-1017; THY và TB 279/21b)
Quân Lý bắt đầu một trận phòng thủ vĩ đại.
2 - Tiền-phong qua
sông: trận Như Nguyệt
Thế là sau khi vượt gần vạn dặm, quân Tống đã đến trước trung thổ nước ta. Qua được sông Như Nguyệt này thì Tống chắc khuynh đảo được lăng tẩm họ Lý và cơ đồ Đại Việt.
Quách Quì sửa soạn qua sông.
Từ bờ sông Như Nguyệt đến Thăng Long, đường gần nhất và không bị trở ngại nhiều, là đường đi từ làng Như Nguyệt ở cửa sông Cà Lồ chảy vào sông Câu, tới bờ sông Nhị phía tây bắc Hồ Tây. Đường ấy chỉ dài chừng hai mươi cây số.
Phía tây bến đò Như Nguyệt, còn có những cồn núi cuối cùng của dãy núi Tam Đảo ngăn cản. Từ đó sang phía đông, thì chỉ có công bằng. Qua sông chỗ nào cũng dễ dàng, và lúc qua rồi thì gặp đồng ruộng phì nhiêu. Lương thực nhiều, phu phen sẵn và muốn qua sông Lô cũng không khó nữa.
Vậy nên, quân Tống ở mặt Tây đổ dồn xuống trước bến đò Như Nguyệt. Đó là Hữu Dực do tướng Miêu Lý quản lĩnh. Giúp việc dẫn đường là hàng tướng Hoàng Kim Mãn, mà Khúc Chẩn đã đem theo.
Đại quân Quách Quì đóng cách đó sáu mươi dặm về phía đông (TB 281/14a). Sáu mươi dặm tức bằng chừng 30 cây số. Tính theo bờ sông khuất khúc, ta thấy rằng đại bản doanh đóng vừa trước xã Thị Cầu ngày nay. Chính đó là ở trên đường cái đi Thăng Long.
Từ hành doanh sang phía đông, đường đất ở bắc ngạn sông Nam Định bị dãy núi Nham Biền chắn ngang, ngăn đường tới Vạn Xuân. Tả dực quân Tống hình như không qua dãy núi này, và còn phải quay mặt về hướng đông để đối phó với quân Thân Cảnh Phúc đóng vùng động Giáp.
Nói tóm lại, phòng tuyến của Tống theo dọc bờ sông Cầu ngày nay, từ địa phận Hiệp Hòa, qua huyện Việt Yên, đến chân núi Nham Biền ở huyện Yên Dũng. Rồi chạy lên phía đông bắc đến nam ngạn sông Thương. Khoảng phòng tuyến chính dài ba mươi cây số, trải từ trước bến đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền. Quân Tống chực qua sông ở khoảnh ấy.
Còn quân Lý, thì tiền quân mai phục ở ải Giáp khẩu đã rút lui về động Giáp để xuống miền Vạn Xuân. Đại quân cũng rút lui về phía nam sông Nam Định: Đó là phòng tuyến thứ ba của quân Lý.
Như trên đã nói (X/1) sông Nam Định cũng là phòng tuyến cuối cùng, mà Lý Thường Kiệt phải đem toàn lực giữ; vì nó che chở cho lăng tẩm nhà Lý ở Thiên Đức, cho đồng ruộng của dân gian và vì nó cũng là cái hào ngoài cho đô thành Thăng Long.
Lý Thường Kiệt đã sai đắp đê nam ngạn cao như bức thành đất. Ngoài đê, đóng cọc tre mấy từng để làm giàn (VĐUL và NTDT). Chiến thuyền đều rút về bờ nam, sẵn sàng đón đánh quân địch, nếu chúng chực qua sông (TB 279/22b)
Đại quân Lý chắc rằng đóng ở Thiên Đức và Thăng Long. Còn thủy quân một phần do Lý Kế Nguyên đốc suất, giữ sông Đông Kênh, để chặn thủy quân Tống không để lọt vào nội địa và tiếp viện Quách Quì: một phần đóng ở Vạn Xuân để tùy cơ ứng biến.
Phòng tuyến ta rất kiên cố. Mà Tống lại không có thuyền để qua sông. Thủy quân cũng không thấy tới. Quách Quì sẵn tính cẩn thận, lại muốn đợi thuyền từ bể vào; cho nên hạ lệnh không cho các tướng tự tiện tấn công.
Nhưng viên châu mục Hoàng Kim Mãn mách với Miêu Lý biết rằng đường từ bến đò Như Nguyệt đến Thăng Long rất gần. Miêu Lý trình với Quách Quì việc ấy. Y nghĩ rằng đại quân địch còn đóng ở động Giáp, chưa kịp rút về, vậy nên thừa hư mà qua sông ở bến đò Như Nguyệt. Kể ra, địa điểm và thời gian cuộc tấn công khởi thủy chọn như thế là xác đáng.
Y bèn nói với Quì rằng: “Giặc đã trốn đi rồi. Xin cho quân qua sông”. Quách Quì cũng miễn cưỡng bằng lòng (TB 281/14a)
Miêu Lý sai buộc Phù Kiều1 trước bến đò Như Nguyệt rồi hẹn với tướng tiền phong Vương Tiến đem quân qua sông trước. Hoàng Kim Mãn dẫn đường.
Quân Lý Thường Kiệt cản lại. Vương Tiến thấy thế, sợ quân ta dùng cầu qua bắc ngạn; vội sai quân cắt đứt cầu. Hậu quân Tống không sang sông kịp. Quân tiền phong tiến gấp về phía Thăng Long. Có kẻ chỉ cách kinh đô chừng mười lăm dặm2. Quân ta phản công kịch liệt, quân Tống lâm nguy. Viện binh phải chèo bè sang tiếp cứu. Nhưng bị quân ta ngăn, không đổ bộ được. Thế quân Tống bị đứt. Quách Quì phải ra lệnh gọi tụi Miêu Lý trở về. (TB 284/11b)
Tuy quân Tống phải lui, nhưng thế vẫn mạnh. Cho nên tụi Miêu Lý trở về được vô sự. Về sau lúc vua Tống thưởng công, Miêu Lý được phong tước tử, và gần hai trăm quân được thưởng vải hay thăng chức, đều là nhờ việc sang sông táo bạo lần này (TB 281/14a). Tụi Vương Tiến, Bình Viễn và Lưu Mân bị kết tội đã vội cắt phù kiều. Nhưng vì có công đánh Quảng Nguyên, Quyết Lý, nên đều được tha khỏi tội chém (TB 284/11b)
Trận Như Nguyệt này rất kịch liệt. Quân ta có khi đã lâm vào thế khốn. Muốn cổ vũ binh sĩ Lý Thường Kiệt sai người giả làm thần nhân, nấp trong đền Trương Hát ở bờ nam cửa sông Như Nguyệt, đọc thơ mắng giặc, và báo trước rằng giặc sẽ thua.
Sách VĐUL chép truyện Trương Hát, thần sông Như Nguyệt, kể lại rằng chính thần nhân đưa đọc bài thơ sau này:3
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lộ lai xâm phạm!
Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư”
nghĩa là:
Sông núi nước Nam, vua Nam coi
Rành rành định phận ở sách Trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm!
Bay sẽ tan tành chết sạch toi!
Sách chép tiếp: “Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đảm, không đánh đã tan”
Trận này rất quyết liệt và định đoạt sự thắng phụ sau này. Các bia và sách ta đều ghi trận sông Như Nguyệt, và cho là một cuộc đại thắng của quân ta. Đó cũng hợp với lời chép trong sách TB của Tống.
Quách Quì cũng nhận là thất bại, bắt tội Miêu Lý đã trái lệnh trên. Lý trả lời rằng Quì đã cho phép sang sông. Triệu Tiết cũng bào chữa hộ. Cho nên Lý mới được tha. (TB 281/14b)
______________________________________
1. Một loại cầu phao.
2. Số 15 dặm là theo TB 281/14a. Về số này mỗi nơi chép một khác. Lời chính thúc (NTDT) nói: “Tranh nhau chỉ 25 dặm mà thôi”. Sách Thông giám chép: “Bấy giờ đại quân xa Giao Châu chừng 30 dặm; chỉ cách một con sông mà không tiến được”. Sách Tống sử (TS 289) lại chép: “Quân ta tiến tới sông Phú Lương, còn cách Giao châu 30 dặm”.
Một dặm là bao nhiêu? Các sách toán thư cổ như Cửu Chương, Tôn Tử, Ngũ Tào đều chép 300 bước là một dặm. Nhưng sách Toán kinh của Hạ Hầu Dương đời Tấn chép: “5 thước là một bước, 360 bước là một dặm”. Sự đổi ấy là từ đời Tùy và còn giữ đến đời Thanh. Vậy đời Tống, dặm ăn 360 bước. Theo sách Toán học từ điển của Đoàn Dục Hoa và Chu Nguyên Thụy thì bằng 576 mét. Theo sách Ức trai toán pháp nhất đắc lục của Nguyễn Hữu Thận (đời Gia Long) thì nói: “địa cầu chia làm 360 độ, mỗi độ bằng 20 dặm tây (hải lý) mà mỗi dặm tây bằng 10 dặm Đại Thanh” nay ta biết rằng địa cầu chu vi chừng 40.000 km, thì ta suy thấy dặm Đại Thanh bằng 555 mét.
Xem vậy ta có thể lấy chừng một dặm bằng già nửa cây số, thì có thể ước được đường dài.
3. Sách VĐUL có chép chuyện hai vị thần Trương Hống và Trương Hát một cách rõ. Hai người là anh em, đều là tướng của Triệu Quang Phục. Sau khi Lý Nam Đế đánh bại Triệu, cho người mời hai ông ra giúp việc. Hai ông đều chối và trốn vào trong núi Phù Long. Lý bèn mưu giết đi. Cho nên hai ông uống thuốc độc tự tử. Đến đời Ngô Xương Văn đi đánh giặc Lý Huy ở châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan. Hai thần hiện lên xin giúp. Sau khi giặc tan, vua Ngô phong cho anh, Trương Hống, làm Đại đương giang đô hộ quốc thần vương và sai lập đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt. Vua Ngô lại phong cho em, Trương Hát, làm Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương, và sai lập đền thờ ở cửa sông Nam quân (tức Nam Bình hay sông Thương ngày nay).
Các sử TT, SK cũng chép lại chuyện ấy, và nhắc lại chuyện thần sông Như Nguyệt đọc thơ. Bài thơ kia, bản viết VDUL lại chép khác một vài chữ, nhưng nghịch lộ đổi ra nghịch tặc, bại hư đổi ra tảo trừ.
Thần phả Trương tôn thần sự tích phụ họa vào nhiều. Nào kể lai lịch bố mẹ, em trai, em gái. Nào kể chuyện thần giúp Ngô, Lê, Lý, Trần, Lê. Chuyện thần đọc thơ được kể hai lần, đời Lê Hoàn và đời Lý. Câu cuối lại đổi ra: nhất trận phong vân tận tảo trừ, trong lúc giúp Lê.
Chuyện này bất quá vì là lòng sùng bái của người ta, mà bịa đặt ra, và nhà nho phụ họa cho thêm linh. Sự thật có lẽ như tôi đã theo ý Trần Trọng Kim, nhận rằng thơ là của Lý Thường Kiệt. Nhưng nói chắc là Lý Thường Kiệt làm được thơ thì không có gì làm bằng cứ.
Ngày nay, cả vùng lân cận hai sông Cầu và Thương, có đến hơn 290 ngôi đền thờ hai vị thần họ Trương. Đền chính thờ Trương Hống ở làng Vọng Nguyệt, cạnh làng Như Nguyệt, và đền thờ chính Trương Hát ở làng Phượng Nhỡ ở cửa sông Thương. Vị trí đền phù hợp với việc quân Tống qua sông ở bến đò Như Nguyệt, cho nên câu chuyện thần ám trợ kể trong VDUL có căn cứ vào sự thật ít nhiều.
3- Tống tấn công
thất bại: trận Nam Định
Sau khi thất bại ở đò Như Nguyệt, Quách Quì không mong chọc thủng phòng tuyến ta một cách bất ngờ, và đành chịu đóng quân đợi thủy quân tới đón qua sông.
Nguyên trong kế hoạch đã dự định (IX/8), hai tướng Hòa Mán và Dương Tùng Tiên phải đem thuyền vượt bể, vào trong sông thuộc nước ta để liên lạc với lục quân và đón quân qua sông. Nhưng thủy quân đã thất lợi ngay ở vùng biên giới (XI/5) và không liên lạc được với Quách Quì.
Đợi mãi không nhận được tin tức gì của tụi Mán và Tùng Tiên. Quì bèn tự tiện để tổng tấn công.
Quì sai đóng bè rất lớn, có thể chở mỗi lần 500 quân. Bè đi lại nhiều lần, đổ bộ lên nam ngạn những đạo quân khá mạnh.
Quân tiên phong đổ bộ. Liền xông tới áp giậu. Vừa chặt, vừa đốt; nhưng giậu dày mấy từng không phá được. Quân Lý trên bờ cao đánh xuống, quân Tống rất khốn đốn; muốn trở về cũng không được, vì bè đã về bắc ngạn, để chở viện binh sang.
Quân ta chém giết quân địch đã đổ bộ. Phần bị chết, phần xin hàng, đạo quân đã qua sông hoàn toàn tan vỡ. (NTDT)
Trên đây là lời của Chính Thúc, do Tô Bình kể lại và chép trong sách NTDT. Hai ông họ Trình bàn thêm rằng: “Tranh nhau chỉ hai mươi lăm dặm. Muốn qua sông lần nữa, nhưng không có thuyền, không có lương để đóng binh lâu. Lo việc nước mà lầm như vậy, chưa từng thấy” (NTDH 10 Và TB 280/17a, Lê Quí Đôn có sao lại đoạn này trong sách VĐLN của ông)
Thế là mộng tưởng qua sông của quân Tống bị tiêu tán “Muốn qua sông lần nữa nhưng không có thuyền!”. Sự thất bại của Tống trong việc hành quân vĩ đại nay, được tóm tắt trong lời phê bình ngắn ngủi ấy.
Quì đóng quân lâu, đợi thuyền không thấy. Có lúc thám tử về báo có thuyền từ phía đông lại. Tưởng là thủy quân của Hòa Mán và Dương Từng Tiên đã đến, quân sĩ Tống rất mừng. Lúc thuyền tới nơi “lại hóa ra hàng vạn quân Giao Chỉ, cổ tháo mắng chửi quan quân” (MC Quách Quì, theo TB 279/22b)
Quách Quì sợ quân mình khinh địch, lại càng cấm ngặt không được tấn công nữa. Lệnh ban ra rằng: “Ai bàn đánh sẽ bị chém!” (ĐP)
Quân Lý cũng thỉnh thoảng qua sông khiêu chiến. Có lúc cưỡi thuyền con, chèo sang bắc ngạn. Tướng Tống là bọn Diêu Tự đưa tinh binh hết sức giữ bờ. Quân Lý không lên cạn được. (ĐĐSL 104)
Triệu Tiết sai quân sĩ vào rừng đốn cây, làm những máy bắn đá. Máy này có một cái cần, ở một đầu có bộ phận để những viên đạn bằng đá. Cần trương lên rồi bật, làm cho đá ở đầu cần bắn đi xa. Tiết dùng công cụ ấy phá thuyền đậu ở nam ngạn, và để đánh lui thuyền ta, mỗi lúc quân ta tấn công sang. (TS 332 và ĐĐSL 91)
Hai bên giằng co nhau hơn một tháng, đối ngạn nhìn nhau, không ai dám quyết liệt tổng tấn công nữa.
Viên chuyển vận phó sứ Quảng Tây Miêu Thì Trung bàn rằng: “Quân ta không có ý tiến đánh, thì chắc rằng giặc sẽ đi đường tắt tới, để mong khi ta không phòng bị. May gì phá được ta chăng. Ta nên để chúng làm như vậy. Hễ chúng có thua, thế cùng rồi mới chịu hàng. Ta nên bí mật phòng bị đợi chúng” (TS 331)
Yên Đạt cũng đồng ý, và còn chủ trương khiêu khích quân Lý để nhử tới. Đạt dẫn sách binh thư, nói: “Nhử người tới đất mình lợi hơn tới đất người. Vậy ta nên giả cách không phòng bị. Chúng nó ắt sẽ tới đánh ta” (TS 349 và ĐĐSL 84)
Mưu này sắp được thi hành. Quân Thường Kiệt sẽ sa vào bẫy ấy.
4 - Lý tấn công
thất bại: trận Kháo Túc
Thám tử Tống lại báo rằng ngoài sông Kháo Túc có thể lấy được. Quách Quì muốn tới đó, nhưng nghi ta có đặt phục binh. Cho nên Quì dẫn theo 5000 kỵ binh người phiên lạc tức người thổ dân ở phương bắc.
Sách Đàm phố chép việc này, không nói rõ sông Kháo Túc ở đâu. Nhưng ta thường thấy tiếng kháo dùng ở miền Lạng châu dùng để chỉ tên các núi. Cũng có khi viết khâu hay khảo. Đó là tiếng thổ, nghĩa là núi. Ví dụ Kháo Mẹ, Kháo Con, Khâu Ôn. Trong một câu sau ở sách ấy, lại chép sông Kháo (bỏ chữ Túc). Tiếng kháo và cầu rất gần nhau. Lại xét trận thế sau đây, và lời các sách Tống, ta có thể nghĩ rằng sông Kháo Túc này là một khúc sông Cầu, khoảng kề đông nam núi Nham Biền. Có lẽ tên núi ấy là Kháo Túc chăng? Cho nên tên sông ấy cũng lấy tên núi ở cạnh bờ mà gọi.
Ý chừng phòng tuyến của ta từ chân núi Nham Biền đến Vạn Xuân, không kiên cố như ở phía tây. Cho nên Quì nghĩ qua sông ở khoảng ấy dễ.
Lý Thường Kiệt sai các hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn (VSL) đem thuyền chở quân đến chống lại1. Hoằng Chân có nuôi riêng 500 quân đặc biệt; cấm mọi điều thị dục, dạy cho trận pháp. Đội quân riêng ấy rất giỏi. Hiệu lệnh rất nghiêm. Người nào cũng cầm một cái kim bài để làm hiệu riêng (ĐP)
Hoằng Chân từ phía đông đem 400 chiến hạm, chở vài vạn quân tới. Quân quát tháo ầm ỹ. Theo kế hoạch Yên Đạt đã bàn, Quì rút quân. Quân ta đổ bộ lên bắc sông Ngạn, đuổi đánh quân địch. Tiền quân của Tống thua; Quách Quì phải cho thân quân tới cứu. Tụi Yên Đạt cũng tiến theo (MC Quách Quì, theo TB 279/22a)
Quân ta bấy giờ đã tiến sâu vào đất bằng (ĐP), có lẽ mé tây núi Nham Biền. Quân Tống phản công mạnh. Quân ta lui một ít. Quì sai các tướng Trương Thế Cự, Vương Mẫn, đưa kỵ binh ra giúp sức. Giới định đặt phục binh ở trong núi (TB 281/14a) bấy giờ cũng đổ ra. Quân Tống giết chừng vài nghìn quân địch. Trên đất bằng kỵ binh Tống rất thắng lợi. Quân ta bị rối loạn, rút lui hỗn loạn, tranh nhau sang sông trở về, bị chết đuối rất nhiều. Nước sông ba ngày chảy không hết xác (TB 279/22a)
Ta ghé thuyền đưa quân về, bị quân Tống bắn đá xuống như mưa làm thuyền đắm, Hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đều bị chết chìm xuống sông (VSL) Thuyền của đội quân riêng của Hoằng Chân bị đắm, nhưng ai cũng cầm vững kim bài mà chết (ĐP). Tả lang tướng Nguyễn Căn bị tướng Tống là Đặng Trung bắt (TB 283/8a)
Trận Kháo Túc này là cuộc đại tấn công của Lý Thường Kiệt, nhưng thất bại. Các sách và sử Tống đều cho là một cuộc đại thắng của quân Tống, và thường chép “đánh đại bại quân Giao Chỉ ở sông Phú Lương”. Ấy là muốn nói trận này.
Quân ta tấn công bất lợi, bèn đóng giữ bờ nam sông. Quân Tống muốn sang, mà thuyền không có. Hai bên cầm cự nhau đã 40 ngày “Đường chỉ cách hai lăm dặm mà không thể nào vượt qua được” (NTDT)
Quách Quì đợi thủy quân mãi, nhưng không thấy đến.
________________________________________
1. Sách TT không hề chép đến chuyện hai hoàng tử chết trận. Nhưng VSL chép: “Vua Lý sai Nguyễn Thường Kiệt lĩnh thủy quân để chống lại. Hai hầu Chiêu Văn và Hoằng Chân đều chết đuối ở sông Như Nguyệt.
Các sách Tống chép về chuyện ấy nhiều. Tống sử (TS 290) chép: “Ta đại chiến ở sông Phú Lương, chém được vương tử giặc là Hồng Chân”. Mộ chí Quách Quì chép: “Giết được đại tướng Hồng Chân, bắt được tả lang tướng Nguyễn Căn”. Sách Thông giám chép: “Bắt được thái tử giặc là Hồng Chân”, sách Trường biên (TB 293/8a) chép: “Tướng Bạch Bảo bắt được thái tử Hồng Chân, và tướng Đặng Trung bắt được tả lang tướng Nguyễn Căn... Nhưng tướng Tiết Đức lại nói chính mình giết được Hồng Chân ở ải Quyết Lý”. Sách Đông phố chép rõ ràng nhất. Tôi đã kể lại trên. Các sách viết đời sau như ANCL, ANCN, VKT đều theo sách Tống chép tên hai hầu cả.
Sách SK, tức sách TT chữa lại ít nhiều cho hợp với sử Trung Quốc, có chú thích nhiều về đoạn này. Kẻ soạn chú thích ấy, có lẽ Ngô Thì Sĩ hay Ngô Thì Nhiệm, đã khảo Tống sử, và chữa đoạn sử này một cách khá xác đáng. Lời chú thích có nói: “Lại xét Tống sử và các sách khác chép, thì Quách Quì tiến đóng ở ải Quyết Lý. Sai tướng lấy lại Ung, Liêm (chép thứ tự như thế là sai). Rồi tự mình đem quân đi về phía tây, tiến đến sông Phú Lương, quân ta cưỡi thuyền đón đánh. Quân Tống không qua sông được. Triệu Tiết chia công việc, sai các tướng đẵn gỗ, đóng công cụ, bắn đá xuống như mưa. Chiến thuyền của quân ta đều bị vỡ. Rồi Tiết đặt phục binh mà đánh lại, chém vài ngàn đầu, thái tử Hồng Chân chết tại trận”. Sau khi nói thêm về việc Tống chiếm các châu thượng du, SK nối lời rằng: “So đó với sự sử ta chép rằng quân Tống bị thua, thì khác nhau. Tôi trộm nghĩ rằng Hồng Chân không phải là thái tử, sự ấy đã rõ (ta đã thấy lẽ khác ở X/cth 1). Hoặc giả các vương có người bị tử trận mà đương thời giấu chuyện đi chăng? Hoặc là tụi Quì muốn che sự thua, mà bịa chuyện tâu về, để kể là chiến công”. Tác giả ngả về thuyết sau, nên bàn rằng: nếu không phải thế, thì sao với đạo quân tám vạn tên mà chết quá nửa, một dải Nhị Hà mà không dám qua để đến kinh sư? Như thế thì sao có thể nói đó là thắng?”. Lý luận ấy đúng. Ta nay biết rõ là Tống và Lý không ai thắng bại cả.
Lại có sách Tùng dâm chép tên hoàng tử khác hẳn các sách khác. Sách ấy nói: tướng tiên phong là Miêu Lý và Yên Đạt qua sông Phú Lương. Đánh một trận, phá tan giặc. Bắt được hai thái tử giặc là Phật Nha (TB 303/9a). Tên Phật Nha ấy tuy khác các tên kia, nhưng chắc là đúng. Lý Thái Tông còn có thái tử tên là Phật Mã, thì con có thể là Phật Nha. Chắc đó là tên húy, còn hiệu Hoằng Chân vương hay Hoằng Chân hầu.
Sự lại là chính sử như TT không chép truyện Hoằng Chân. Chắc không phải đời Lý giấu sự ấy, vì VSL, viết đời Trần, còn chép. Có lẽ chỉ vì đời Lê, sử Lý đã thất lạc đi nhiều.
Nay tôi có để ý đến thần đền voi phục, là đền dựng đời Lý ở phía tây Thăng Long, kề phía bắc đường đi Hà Nội - Sơn Tây và cạnh ô Cầu Giấy. Hiệu thần là Linh Lang đại vương. Trong hạt Hoài Đức còn nhiều đền thờ. Nhưng bốn đến chính là các đền ở làng Thủ Lệ (Voi Phục), Bồng Lai ở huyện Từ Liêm, và hai làng Đại Quan, Thuần Lễ. Tuy thần tích mỗi nơi một khác, vì thường thường thần phổ là do kẻ khai bịa đặt ra nhiều, nhưng xét gốc chuyện có một phần chung, mà ta có thể coi là có liên quan với sự thật.
Trong chuyện Linh Lang, thì cốt truyện là như sau: Linh Lang là con vua Lý Thái Tông. Mẹ là một người con gái kẻ quê quán ở Bồng Lai. Nhưng chính là con thần Thủy Long ở hồ Dâm Đàm (hồ Tây) giáng sinh. Vua đặt tên cho là Hoàng Tử Lang theo thần phả đền Voi Phục, hay Hoàng Lang theo thần phả làng Đại Quan. Tên ấy có nghĩa là con thứ tư vua hay con vua.
Hoàng Lang mặt mũi khôi nghô, nhưng đã lớn mà chưa biết nói.
Chợt có giặc xâm lăng nước. Các tướng đi đánh, không thắng. Vua và triều thần lo. Có thần báo mộng cho vua biết rằng đã có thần nhân giúp, cứ cho sứ mời thì được.
Sứ đi tìm các nơi. Lúc sứ tới làng Thủ Lệ (theo Thần phả đại quân thì Thị Lệ), Hoàng Lang thưa với mẹ gọi sứ tới, rồi nói với sứ rằng: “Xin vua cha một lá cờ đỏ lớn, cán dài và một con voi. Ta sẽ dẹp yên giặc”.
Lúc được cờ với voi. Hoàng Lang cầm cờ chỉ voi. Voi bèn phục xuống, Hoàng Lang bèn cưỡi voi cầm cờ ra trận. Voi chạy như bay, cờ phất một cái thì giặc tan.
Lúc Hoàng Lang trở về bèn bị bệnh đậu. Thuốc chữa không khỏi. Hoàng Lang nói với vua cha rằng mình là con thủy cung tới giúp vua, xong rồi phải về thủy cung.
Tự nhiên Hoàng Lang biến thành một con rắn đen dài mà bò vào hồ Dâm Đàn biến mất. Vua sai lập đền thờ ở trại Thủ Lệ là chỗ cung mẹ ở, tại làng Bồng Lai là quê mẹ, và ở hai làng Đại Quan và Thuần Lễ là nơi Hoàng Lang trú binh.
Xem chuyện trên, ta thấy một vài chú ý mà ta thường thấy trong các chuyện thần khác: thụ thai với giao long, thai bọc, lớn không biết nói, xin voi, cờ (gần như chuyện Phù Đổng thiên vương), hóa ra rắn mà biến.
Kể ra các thần phả ấy còn chép nhiều chuyện hiển nhiên là bịa đặt sai lầm. Nhưng chuyện này làm cho ta chú ý, vì có sự hoàng tử đời Lý đánh lui giặc ngoại xâm rồi chết. Thần phả đền Đại Quan nói giặc là Trinh Vĩnh khởi binh từ Nam hải. Ta không biết Trinh Vĩnh là dân tộc nào, trái lại, thần phả đền Voi Phục nói giặc là Tống. Phả ấy chép: “Bấy giờ có các tướng mạnh của Tống, là Triệu Tiết, Quách Quì đem quân của 9 tướng, và tụi Hồng Chân, Vũ Nhĩ, Dư Tĩnh và hợp Hoàng Vĩnh Trinh với Chiêm Thành Chân Lạp mà tới xâm”.
Bên cạnh những sự đúng, nói như tướng Tiết và Quì, lại có những sự sai, như nói đến Vũ Nhĩ (tướng ta đời Lý Thái Tông IV/3). Dư Tĩnh (quan Tống đánh Nùng Trí Cao, IV/3, còn tên Hoàng Vĩnh Trinh kia với tên Trinh Vĩnh chắc có liên can).
Sự lạ nhất là trong các tướng Tống, lại có tên Hồng Chân. Nếu kẻ viết thần phả bịa đặt hoàn toàn thì sao biết có tên Hồng Chân ấy. Nếu y có đọc Tống sử thì sao lại lẫn các tên người Tống, người ta?
Hoặc là tên Hồng Chân có trong chuyện thần lúc xưa. Nhưng sau, chuyện bị sai suyễn, Cho nên kẻ viết lại thần phả lầm lẫn, nhưng vẫn giữ được tên Hồng Chân.
Vì lẽ ấy ta có thể ngờ rằng thần Linh Lang tức hoàng tử Hoằng Chân. Nhưng còn có hai lẽ làm ta thêm tin thuyết ấy. Về đường ngữ học, tên Hoàng Lang chép ở thần phả rất có thể là biến âm của Hoằng Chân hay Hồng Chân. Hoàng và Hoằng gần nhau, sự ấy đã rõ. Còn lang và châu, tuy bề ngoài tưởng xa, nhưng thật là gần. Âm CH là biến âm của TR mà TR là biến âm của TL, và TL lại biến ra L. Ví dụ: Chàm là tràm, là thàm là lam, và Chèm là Trèm là Thèm là Liêm (Từ Liêm). Cũng theo luật ấy mà Chân biến ra Lang. Nói tóm lại tên Hoằng Chân đã biến ra Hoàng Lang ở thần phả.
Đó là một lẽ. Lẽ thứ hai là sự Hoàng Lang hiện ra rắn rồi lặn xuống hồ có thể là cách tượng trưng sự Hoằng Chân chìm xuống sông mà chết.
Ta có thể tin một phần rằng hoàng từ Hoằng Chân đã được thờ ở đền Voi Phục. Có lẽ vì tử tiết nên được biệt đãi, được thờ ở trong thành Thăng Long.
5- Thủy chiến: trận
Đông Kênh
Nguyên là tụi Hòa Mán và Dương Tùng Tiên đã đem thuyền sang hải phận ta, muốn theo dọc sông Đông Kênh, để vào cửa Bạch Đằng; nhưng gặp thủy quân của Lý Kế Nguyên chặn lại ở hải phận Vĩnh An.
Các tướng như Trương Thuật, Bùi Cảnh, Bành Tôn đều hăng hái chiến đấu (TB 288/13a), nhưng cũng không tiến nổi, phải lùi về đóng ở cửa sông Đông Kênh, có lẽ là cửa Tiên Yên ngày nay (TB 288/13b)
Tùng Tiên, quân tuy ít, nhưng cũng gắng tiến sâu vào cõi ta. Gặp thủy binh ta đánh nhau lớn bé, đến mười trận “Tuy không giết được nhiều quân địch nhưng cũng không đến nỗi thua” (TB 288/6a). Đó là lời bào chữa cho Tùng Tiên của vua Tống trong chiếu ngày 23 tháng 2 năm Mậu Ngọ (M. Th, DL 8-4-1708; TB 288/6a). Thật ra, thủy quân Tống bị thua luôn. Quân lính bị thương nhiều (Theo lời tâu của viên coi Liêm Châu, 8-3 Đinh Tị, M.Ng, DL 3-4-1077; TB 281/2a)
Tùng Tiên đậu thuyền ở cửa sông Đông Kênh, đợi tin lục quân nhưng không biết tin tức và tình trạng của đại binh ra sao cả. Y bèn sai hai tướng hiệu dụng, là Phàn Thật và Hoàng Tông Khánh, vượt bể vào biên giới miền nam nước ta, để dò tình hình và khuyên Chiêm Thành đừng giúp ta. Tùng Tiên lại khuyên Chiêm Thành nên đem quân chắn các đường từ nước ta vào nước ấy, để phòng khi quân ta, bị quân Quách Quì đuổi, chạy trốn xuống phương nam (TB 288/13b). Chiêm Thành nghe lời và có đưa 7000 quân chẹn các đường quan hệ (theo lời tụi Thực, TB 288/13b)
Nhiệm vụ đầu của thủy quân, là xui Chiêm Thành đánh ta, như thế là không đạt. Mà quân Tùng Tiên cũng không vào lọt sông ta, trợ chiến cho lục quân được. Không có liên lạc với Quách Quì, Tùng Tiên đỗ thuyền đợi. Đến lúc, có lệnh đi đón về mới biết đã hòa bình! Ngày 8 tháng 3 năm Đinh Tị (M. Ng, DL 3-4-1077), vua Tống hạ chiếu có nói rằng: “Nếu Dương Tùng Tiên chưa về thì cho quân đi tiếp viện”
Ngày 20 tháng ấy, Tùng Tiên mới về đến nơi.
Thủy quân Tống đã hoàn toàn thất bại, vì không tinh nhuệ bằng thủy quân ta. Sự thất bại về chiến thuật của thủy sư như thế đá làm hỏng cả chiến lược của Quách Quì.
6- Tống lui quân
Sau khi quân ta thất trận ở Kháo Túc, mất hai hoàng tử, Lý Thường Kiệt nghĩ đến kế hoãn binh. Vả ta biết rằng quân Tống cũng mệt mỏi lắm rồi. Hễ chúng rút quân về, thì quân ta lại khôi phục dễ dàng những châu đương bị chiếm.
Vì vậy Lý Thường Kiệt bèn “dùng biện sĩ để bàn hòa. Không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu mủ mà bảo an được tông miếu” (LX)
Ông sai sứ tới doanh Quách Quì nói: “Xin hạ chiếu rút đại binh về, thì sẽ lập tức sai sứ sang tạ tội, và tu cống”. Ông lại bằng lòng nhượng đất cho Tống. Sứ giả là viên văn tư sứ Kiều Văn Ứng nhận với Quách Quì rằng1: “Chỗ nào quân Tống đã chiếm tức là đất Tống” (TB 349/7a). Ông lại bào chữa cho vua Lý, đổ lỗi việc đánh Ung Châu cho người Tống là Từ Bá Tường đã xui giục (VII/1)
Về mặt Tống, lương thảo rất thiếu thốn (X/6). Từ khi đại quân vào đất ta, phu khuân vác lương thảo không đủ số. Ngày 17 tháng 12 (K.Ho, DL 14-1-1077; TB 279/17a) viên chuyển vận phó sứ Quảng Tây Miêu Thì Trung phải tâu việc ấy về triều đình. Vua Tống hạ chiếu nói: “Vì số phu không đủ, cho nên binh phải dừng lại lâu như thế. Vậy phải bắt phu cho đủ. Nếu bắt không đủ bảy phần mười thì châu quan phải phạt một phần và huyện quan phải phạt hai phần...”
Về sau, khi kể công tội trong việc nam chinh, Triệu Tiết bị khiển trách vì để thiếu lương (chiếu 18 năm Đinh Tị, M.Dn, DL 21-8-1077, TB 283/16b). Chính Thúc kể chuyện thiếu lương, phải thở ra câu này: “May có lời giặc xin quy thuận, không thì làm thế nào?”(NTDT)
Tình hình quân quẫn bách như thế! Mà Thăng Long gần như thế! Các tướng Tống không biết nghĩ nên gắng tiến hay nên lui.
Bấy giờ đã cuối tháng Giêng năm Đinh Tị, mùa nóng gần tới. Các tướng Tống đều thoái chí, cùng bàn rằng: “Lương ăn của chín đạo quân ta đã cạn. Lúc ra đi, quân có 10 vạn, phu có 20 vạn. Vì nóng nực và lam chướng, quân phu đã chết mất quá nửa rồi. Còn non nửa cũng đều ốm”.
Quách Quì kết luận rằng: “Ta không đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức, để báo mệnh triều đình; Thôi ta đành liều một thân ta, chịu tội với triều đình, đó là bởi trời! Thôi ta đành liều một thân ta, chịu tội với triều đình, để mong cứu hơn mười vạn nhân mạng” (TB 279/22b)
Quì bèn quyết định nhận lời sứ ta, mà lui quân. Quì cho người mang biểu của vua Lý về triều Tống, và hẹn với sứ ta tới đó nhận trả lời (TB 279/22b)
Quách Quì đã định ngày rút quân. Nhưng sợ quân ta theo đánh, cho nên không ban bố cho mọi người biết trước. Đang đêm, Quì cho lệnh rút lui lập tức. Các bộ binh và kỵ binh không kịp sắp thứ tự, hoảng hốt đạp xéo nhau mà đi. Tống sử (TS 334) chép việc này, kể thêm rằng: “Quân Giao Chỉ, đóng bên kia sông, rình thấy như vậy, nhưng biết rằng tướng Đào Bật cầm hậu quân đi sau, cho nên không dám đuổi theo.
Đào Bật là một tướng văn võ kiêm toàn. Từ khi đánh Quảng Nguyên đến khi quân tới Phú Lương, Quì đã sai Bật cầm quân giữ mặt hậu. Nay quân rút, Bật cũng có trách nhiệm che chở cho đại quân lui, để khỏi bị quân ta theo đánh. Bật, rất điềm tĩnh, ra lệnh cho quân sĩ mình không được nhố nhao; đợi sáng rồi, mới sắp hàng chỉnh tề thong thả rút lui. Quân Quách Quì nhờ đó được vô sự (TS 334).
Các sách không chép rõ ngày rút quân. Nhưng theo sách NTDT thì hai bên cầm cự nhau 40 ngày ở sông Phú Lương. Ta biết rằng Quì đến đó ngày 21 tháng 12. Vậy ngày rút quân về ở đầu tháng 2 năm Đinh Tị 1077
Lý Thường Kiệt, cũng muốn hòa bình, nên cũng không thừa cớ bội ước, để quân Tống rút lui yên ổn.
_______________________________________
1. Sách VSL có chép Kiều Văn Tư, nói y được cất làm chức thượng lâm quốc sĩ sư vào năm 1100. Không biết có phải là Kiều Văn Ưng làm chức Văn tư sứ mà VSL chép lầm hay không.
7- Giảng hòa
Quân Tống đã vượt hàng ngàn cây số, qua biết bao núi đèo mới tới sông Phú Lương. Chỉ còn vài chục cây số là đến Thăng Long. Thế mà triều đình Tống đợi mãi không được tin báo thắng trận.
Ngày đầu năm Đinh Tị (1077), vua Tống Thần Tông nóng lòng phán rằng: “Triều đình muốn biết sự động tĩnh của quân An Nam hành doanh từng ngày một. Vậy sai Chu Ốc, hiện sung chức quyền phát ở Ung Châu phải tâu về hàng ngày. Phu mang điệp, sẽ dùng thứ bài dài đặc biệt, viết chữ lớn để xa trông rõ, đề chữ Khu mật cấp tốc văn tự (văn tự cấp tốc của bộ quốc phòng), và sẽ chạy qua các trạm không phải dừng”. Nhờ vậy, vua Thần Tông theo dõi đại quân tiến hàng ngày.
Vua rất quan tâm đến việc này, cho nên luôn luôn xem địa tô và trình lục rất kỹ lưỡng. Lúc Quách Quì tâu về báo rằng đại quân đã đến Quang Lang, vua Tống mừng nói cho các quan biết. Nhưng các cận thần không biết Quang Lang ở đâu. “Vua bèn giảng cho biết từ Quang Lang đến chỗ này 50 dặm là đường gần (có lẽ đường ải Chi Lăng), đến chỗ kia 100 dặm là đường xa (có lẽ là đường quanh trong núi). Vua chỉ chỗ hiểm, chỗ bằng, lối quanh, lối thẳng, thuộc như đếm mấy ngón tay” (Theo lời thư Tôn Thù gửi cho Triệu Bổ Chi, chép trong sách Kê lặc)
Đến khi được tin quân Tống không thể sang sông Phú Lương được, vua tôi Tống rất bất bình, bèn đổ lỗi cho nhau. Ngày 18 tháng 2 năm Đinh Tị (K. Ho, DL 15-3-1077; TB 280/14a) viên thị lang bộ lễ Vương Thiều dâng sớ nói rằng: “Ngày trước tôi đã diện đàm về việc Quyết Lý, Quảng Nguyên; tôi đã thấy rằng phàm lo việc nước, đại thần không nên tham hư danh mà quên thực họa; bỏ sự nghiệp xa mà lấy việc nhỏ làm đầu. Lúc mới khởi việc đánh An Nam, tôi đã tranh luận kịch liệt, muốn nuôi dân lực và bớt phí tổn, đến nỗi sinh thù với kẻ chấp chính bấy giờ (Vương An Thạch)”, Vua Tống lấy thế làm mếch lòng. Vương Thiều bị bãi (TS 328).
Hạ tuần tháng 2, được tin Quách Quì nhận lời đình chiến với Lý, đã lui quân, đã thôi không tìm cách vượt bốn năm chục dặm cuối cùng để hạ Thăng Long nữa. Tuy nhận được biểu của vua Lý khiêm tốn xin nhận lỗi, chịu nhường đất và trở lại tu cống như xưa, nhưng Tống Thần Tông lấy làm bất mãn. Vua liền muốn sai quân tiếp viện xuống để gắng qua sông. Có viên giám sát ngự sử Thái Thừa Hi dâng sớ can ngăn (VKT). Trong sớ có nói rằng:
“Thánh nhân đối với man di, làm chính sách không trị mà trị; thế mà trong thiên hạ không đâu là không trị. Tôi trộm nghĩ rằng, từ khi Giao Chỉ chưa hàng, ta đem quân đánh, thì chỉ đánh một góc, mà binh phu đã chết dọc đường nối tiếp nhau; phí của nước kể hàng ức, hàng vạn. Trong hai năm nay, thật là lao khổ. Thế mà chỉ được đất vài châu như Quảng Nguyên mà thôi. Đất ấy cũng chỉ là chỗ cùng hải, cùng sơn, đầy ác thú, khí độc. Người ấy, đất ấy, nếu có được thì cũng chả có ích gì cho thiên hạ”.
“Nếu nói đánh An Nam để hỏi tội, thì nó đã chịu tội rồi”
“Khi xưa rợ Tam Miêu chưa dẹp, vua Thuấn cũng chỉ đi đánh 70 ngày rồi về. Nay, cớ sao ta lại cần đánh nhiều ngày hơn? Mà bây giờ Quách Quì, Triệu Tiết chưa về kinh đô, quân ra ngoài biên thùy chưa trở về doanh ngũ. Thế cho nên kẻ ngoài tuyên truyền rằng: mặc dầu Lý Càn Đức đã hàng, triều đình còn ngấm ngầm ý gì, muốn đem quân đánh trở lại. Không biết sự ấy có thật hay không?
“Vả man di, ở ngoài cõi hoang phục, phong tục khác. Thư từ phải thông dịch mới hiểu được. Với phép trị chúng, ở đời Tam đại (Nghiêu, Thuấn, Thang) tinh xảo biết bao, mà bấy giờ cũng cho rằng chúng không đáng được cai trị. Ấy vì cớ gì? Ấy vì không muốn bởi dân man mà làm khổ dân trong nước.
“Nếu triều đình muốn trả thù sự chúng cướp bóc, thì ta đã thu đất của nó, giết tướng nó, bắt quân nó. Muốn đề phòng ngày sau khỏi có khi chúng ra lòng bất trắc thì ta nên sai bọn Quì và Tiết canh giữ; khiến cho chúng sợ bị đánh lần nữa mà không dám tới cướp.
“Vạn nhất, nếu có nghĩ đến chước đi đánh trở lại, tôi xin triều đình nghĩ kỹ, nên để người Hồ (Kinh Hồ tức Hồ Nam và Hồ Bắc), Quảng (tức Quảng Nam, Quảng Tây và Quảng Đông) nghỉ ngơi vài năm, đợi lúc thương tích lành, rồi sau sẽ tính việc”
Vua Tống cũng cho lời tâu ấy là phải. Vả Lý Thường Kiệt cũng đã giữ thể diện cho Tống, bằng lời lẽ xin quy phục, xin cống hiến và nhường những đất quân Quì đã chiếm. Tể tướng Ngô Sung là kẻ chủ hòa xưa nay, lại rất bằng lòng.
Ngày 25 tháng 2 năm Đinh Tị, Ngô Sung thay mặt quần thần dâng biểu mừng vua Tống “Đã dẹp yên An Nam, và đã lấy được Quảng Nguyên” (B.Ng, DL 22-3-1077; TB 280/16a, còn TS 6 chép lần ra tháng ba)
Cũng ngày ấy, có chiếu đổi châu Quảng Nguyên ra Thuận Châu và thăng Châu Quang Lang lên hàng huyện, bãi bỏ ti An Nam đạo kinh lược chiêu thảo đô tổng quản, và ti an phủ, và giải tán hành doanh (TB 280/16a)
Vua Tống liền trả lời cho vua Lý Nhân Tông, bảo phải tu cống như trước và phải trả lại dân đinh mà quân Lý đã bắt ở Khâm, Liêm và Ung (TB 280/16a)
Cuộc chiến tranh Lý - Tống khởi đầu từ tháng 11 năm Ất Mão (1075) đến đây đã chấm dứt. Ấy vào tháng hai năm Đinh Tị (1077). Nó đã kéo dài trong mười lăm tháng.
8 - Kết cục
Tống không đạt mục đích dự định thôn tính đất Việt, không tiêu hủy được binh lực Lý, chỉ chiếm được các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Mậu, Môn và Quang Lang là đất rừng núi mà thôi. Nhưng trái lại, bị thiệt người, tốn của rất lớn. Ngoài bốn trại Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long và bốn thành Khâm, Liêm, Bạch và Ung bị tàn phá. Tống còn mất quân lính, phu phen rất nhiều. Theo lời Chính Thúc “8 vạn phu vận lương và 11 vạn chiến binh chết vì lam chướng. Còn được 28.000 người sống sót về, mà trong đó còn bị ốm nhiều. Kể cả số trước bị địch giết thêm mấy vạn, cả thảy không dưới 30 vạn” (NTDT). Tuy so với các số công khai sau này có khác, nhưng có lẽ Chính Thúc kể cả thổ đinh.
Tuy triều đình Tống chúc mừng thắng trận, nhưng ai cũng biết Tống đã bị thất bại to, và đã mất thể diện với thiên hạ.
Vua Tống cho kiểm điểm binh mã. Thấy có 49.506 người, 4.690 ngựa. Lúc về đến nơi, trừ số chết bệnh hay vì cớ khác, chỉ còn 23.400 lính và 3.174 ngựa (TB 280/17a). Phí tổn cả thảy 5.190.000 lượng vàng. (Theo lời Từ Hi tâu ngày 21 tháng 3 năm Đinh tị. T.Vi, DL 16-4-1077; TB 281/5a)
Vua Tống nghe lời bàn của Thái Thừa Tư (X,13) sai các tướng cầm quân nam thảo coi các châu ở trên đường sang Giao Chỉ: Quách Quì coi Đàm Châu, Triệu Tiết coi Quế Châu, Thạch Giám coi Ung Châu và Đào Bật coi Thuận Châu tức Quảng Nguyên cũ (TB 280/17b)
Sau, vua Tống xét rõ công tội các tướng cầm quân. Tội chính về Quách Quì, vì đã trì hoãn không chịu tiến binh. Quì bị đổi đi Ngạc Châu, rồi giáng làm tả vệ tướng quân và an trí ở Tây Kinh (27-7. A. Ho, DL 18-8-1077). Vua sai tra cứu duyên cớ sự trì hoãn ấy. Chu Ốc khai vì tể tướng Ngô Sung bảo Quì đừng tiến binh. Nhưng sự thật Sung dặn phải xét kỹ lưỡng rồi sẽ hành động (TB 303/8b và TĐ). Tội thứ hai là không biện đủ lương thảo cho quân mã dùng. Những người có trách nhiệm về lương thảo như bọn Lý Bình Nhất, Thái Dục và Chu Ốc đều bị biếm (1-8. M. Dn, 21-8-1077, TB 284/1a)
Còn Triệu Tiết lại được hỏi tội: vì có ngự sử Thái Xác bênh vực (TB 283/16b). Nhưng năm năm sau (1082) khi bị đổi lên lộ Phu Diên, Tiết tỏ vẻ không bằng lòng, vua Tống mắng rằng: “Triệu Tiết trước đây đi đánh An Nam bị thua, đã được tha không bị tội chết. Nay còn ý oán. Nếu không trừng trị thì còn ai sợ lệnh trên nữa” (TB 326/19a). Cho đến Dương Tùng Tiên thống lĩnh thủy quân, lúc mới về, cũng bị tội, nhưng sau được ân xá (TB 288/6a)
Tống vội phủ dụ các quân lính bị đau, cấp tiền cho gia đình những người tử trận, thưởng những người đã có công, phạt những người đã có tội theo hàng Lý, Từ Bá Tường phải tự thắt cổ (năm 1708, TB 288/7a) Triệu Tú trước bày cho ta phép hỏa công, bị phát phối đi Hồ Bắc (năm 1077, TB 281/13b)
Các binh mã thuộc An Nam hành doanh được rút về, trừ một số được đóng coi các châu vừa được nhượng (TB 280/16a)
Muốn tỏ lòng khoan hồng, vua Tống lại theo lời Quách Quì xin, thu dụng tả lang tướng Nguyễn Căn đã bị bắt ở sông Kháo Túc, và bổ làm hạ ban điện thị (1-6, TB 283/1a)
Tuy vậy, vua Tống vẫn nghĩ đến tương lai. Ngày 14 tháng 9 năm Mậu Ngọ 1078, có La Xương Hạo từ Chiêm Thành về tới nơi, dâng các bản đồ vẽ đường đi từ Chiêm tới Giao Chỉ. Tống Thần Tông phê thưởng cho Xương Hạo và nói thêm rằng: “Từ khi dụng binh ở An Nam, kẻ hiến kế đánh giặc kể có hàng trăm. Lời bàn về đường thủy, đường bộ để tiến quân, thường không giống nhau. Chưa biết ai phải. Nên chép các thuyết thành từng loại, về mỗi loại, vẽ đồ phụ vào, để sẵn sàng cho việc dụng binh ngày sau” (TB 292/6a)
Nhưng sau đó, Thần Tông chán nản về việc chiến tranh và không muốn động đến nước ta nữa. Lý Thường Kiệt thì trái lại, dùng vũ lực chiếm lại một phần đất mất và đe dọa Quảng Nguyên. Cuối cùng, Tống không những phải bỏ cả năm châu đã chiếm, mà còn trả cho ta một phần đất ở phía tây bắc Cao Bằng ngày nay, mà các tù trưởng đã đem nộp Tống.
Chương XII
KHÔI
PHỤC ĐẤT MẤT
1. Tống tổ chức
nhượng địa - 2. Khôi phục Quang Lang 3. Đòi Quảng
Nguyên: Đào Tông Nguyên - 4. Tống trả nhượng địa - 5.
Dư luận - 6. Bang giao thân thiện (1079-1082) - 7. Đòi Vật
Ác, Vật Dương. Lại Đào Tông Nguyên. - 8. Phái đoàn Lê
Văn Thịnh - 9. Lý cố nài Tống quyết từ.
1- Tống tổ chức
nhượng địa
Tuy không lấy được toàn cõi nước ta; nhưng Tống cũng đã chiếm được năm châu miền núi: Quang Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang và Quảng Nguyên. Trong đó hai châu Quang Lang và Quảng Nguyên là quan trọng hơn cả. Quang Lang là cổ họng của châu Ung, và Quảng Nguyên là nơi có tiếng sản xuất nhiều vàng bạc.
Tống liền tổ chức cai trị các châu ấy. Ngày 25 tháng 2, sau khi triều đình mừng thắng trận, vua Tống hạ chiếu đổi Quảng Nguyên ra Thuận Châu và thăng Quan Lang lên hàng huyện (TB 280/16a)
Ta sẽ thấy rằng Quang Lang ở vào địa thế không thể giữ được, nên Tống phải bỏ, sau khi Quách Quì rút quân. Các châu Tô Mậu và Môn hình như không được hai bên chú ý lắm. Còn Thuận Châu; thì được đặt vào hàng Ung Châu, và có lẽ kiêm quản các châu kia.
Đào Bật liền được bổ coi châu mới (28-2, TB 280/22a). Bật là người Vĩnh Châu. Xuất thân vũ chức. Trước đã từng giúp Dương Điền đánh giặc Dao ở Hồ Nam. Sau lại có công phủ dụ dân bị loạn Nùng Trí Cao lôi cuốn. Trong vụ hành quân đánh Lý lần này. Bật đã được giao những trọng chức, là đi phủ dụ các dân khê động vùng Tả Giang; và mỗi lúc đại quân tiến hay lui Bật cũng phải cầm quân chặn hậu (XI/6). Tuy là vũ tướng. Bật lại là một thi sĩ có tài. Lê Quí Đôn có chép trong sách Kiến văn tiểu lục (quyển 4) sáu bài thơ mà Bật làm trong khi đi tuần thú ở Tả Giang. Số là, sau khi ta đã rút khỏi Ung Châu, Tống lập lại thành Ung Châu. Rồi tháng 5 năm Bính thìn 1076, bổ Đào Bật tới coi châu ấy. Quách Quì lại sai Bật vào các Khê Động phủ dụ man dân. Trong khi đi đường qua trại Vĩnh Bình, Bật có bài thơ ngũ ngôn, tả cảnh nơi biên thùy xa xăm buồn tẻ đối với một viên tướng giàu thi tứ:
Điệp chướng thâm biên lý
Cùng kim biên nhất ngu
Bắc phong gia tin tức
Nam đẩu khách trình đồ
Lĩnh thế tần khai hợp
Viên thanh sạ hữu vô
Quá khê nhân tiếu ngữ
Cách ngạn thú yên cô
Nghìn dặm núi chồng chất
Một góc biên tít xa
Nam đẩu soi đường khách
Bắc phong thổi tin nhà
Cửa Lĩnh từng khép mở
Tiếng vượn chốc kêu ca
Lội khe, ai cười nói
Đồn cách, khói la tha.
Xét nhân cách, chức vị, công trạng của viên tri châu đầu ở Thuận Châu, ta biết rằng Tống quan tâm đến nhượng địa vừa được, và gắng sức tổ chức cai trị.
Ngoài Đào Bật, Tống định bổ tới Thuận Châu đủ các viên chức, mỗi chức một người: thông phán thiểm thư, phán quan, kiềm hạt, đô giám, đô áp. Sợ rằng châu mới độc nước, quan lại không thích đi, chiếu thư có dặn rằng: “Mỗi năm sẽ thay một quan. Ở hết hạn được thăng một chức, và bổ về mạc chức, nghĩa là ở chỗ trung ương” (21-2, TB 280/15b).
Việc đầu Tống làm là củng cố sự đề phòng châu mới. Từ tháng Giêng (Đ.Ti, 1077) ti tuyên phủ đã tâu: “Châu Quảng Nguyên mới được, nên đóng binh phòng bị khai thác. Xin theo lệ các đất Hi Hà và Nguyên Châu, đemc ác tội nhân tới đó giam”. Vua Tống bằng lòng và bảo đem tội nhân bị án phát phối, từ Hoài Nam trở xuống, đến ở Quảng Nguyên (28-1, TB 280/7a).
Ngày mồng 8 tháng 3, ngự sử Đặng Nhuận Phủ tâu: “Gần đây, nghe nói đã đắp thêm thành Quảng Nguyên và đã bổ vũ thần đến coi. Xin trước hết sai ti an phủ Quảng Tây cùng giám ti xét các điều lệ lợi hại thế nào, mỗi năm dùng giáp binh bao nhiêu, lương thực bao nhiêu, giáp binh lấy từ đâu, lương thực biện chỗ nào. Làm sao cho lính đủ để chống giặc, lương đủ cho lính ăn, và khi thình lình có biến, khỏi phải lo liệu lật đật vất vả”. Tống liền sai 17 chỉ huy ở các xứ Hồng Châu tới phòng thủ Quảng Nguyên, Tư Lang (TB 281/1b và 2a).
Việc thứ hai là tổ chức khai lợi các mỏ. Chiến tranh chưa hết. Quách Quì đã xin sai viên đề điểm hình ngục Quảng Tây đề cử đặt các lò luyện quặng vàng bạc ở Quảng Nguyên (28-1, TB 280/7a). Ngày 9 tháng 3, có chiếu sai viên quan cao cấp là viên ngoại lang Tất Trọng Hùng coi về việc ấy (TB 281/2b và 3a).
Việc thứ ba là thu phục nhân tâm. Tống đặt các chức lại trị coi đủ mọi việc hành chánh. Lại thưởng công cho các tù trưởng đã theo giúp quân Tống, như cháu Nùng Thiện Mỹ là Huệ Đàm (TB 280/21b) và định cấp ấn son cho các động trưởng (19-4, TB 281/10b)
Châu trị bấy giờ đóng ở đâu? Thành Na Lữ, ngày nay còn dấu, có lẽ là thành Thuận Châu cũ.
2- Khôi phục Quang
Lang
Huyện Quang Lang kề trại Vĩnh Bình, thuộc Ung Châu cai quản. Đất ấy quan trọng, vì gần gũi các đồn ở Vĩnh Bình, nhưng sự phòng thủ dễ dàng hơn Thuận Châu. Vả lại hòa bình đã trở lại dần dần. Vua Lý đã xin sai sứ tới Tống. Triệu Tiết bấy giờ coi Quế Châu không ngần ngại mà rút bớt tiền chi phí về việc quân phòng ở Quang Lang (1-5, TB 282/1a).
Lý Thường Kiệt liền mưu đồ chiếm lại những đất đã mất. Sau khi quân Quách Quì rút lui khỏi Lạng Châu, quân Lý liền theo sau và đóng giữ ở động Giáp. Rồi kéo vào đánh úp, chiếm lại Quang Lang (TB 283/15a). Các viên tri huyện Hồ Thanh và tuần phòng Trần Tung đều bỏ chạy (TB 287/1b).
Thế mà viên coi trại Vĩnh Bình không biết. Tháng 7 (Đ.Ti 1077), ti chuyển vận mới tâu về triều, nói: “Có dò được tin quân Giao Chỉ hiện đóng ở ngoài huyện Quang Lang”. Vua Tống không hài lòng, hạ chiếu: “Huyện Quang Lang đã bị Giao Chỉ đánh úp và chiếm. Chưa thấy lộ Quảng Tây xử trí làm sao. Từ đó qua ải Quyết Lý đến Thuận Châu không xa. Coi khéo lại không thể cố thủ được. Phải làm sao cho không tổn quốc uy, sao cho binh lực và tài phí không càng ngày càng hao tổn. Vậy giao cho Triệu Tiết, Lý Bình Nhất, Miêu Thì Trung cùng nhau bàn mưu kế cho đúng lợi hại. Chớ có lần nữa tránh việc, đến nỗi hỏng đại sự của Triều đình ở một phương. Bàn định xong, rồi sẽ gấp tự viết thư báo về tâu rõ” (TB 283/15a).
Sau đó không thấy Tiết tâu điều bàn định về triều. Chỉ thấy rằng ngày mồng 8 tháng Giêng nhuận năm sau (Mậu Ngọ 1078) hai viên chức ở Quang Lang bị kết tội bỏ thành trốn: Trần Tung bị chém và Hồ Thanh bị đày ra đảo Sa Môn. (TB 287/15b)
Thế là quân Lý đã lấy lại được huyện Quang Lang. Có lẽ hai châu gần cạnh là Tô Mậu và Môn, cũng được giải phóng nốt. Chỉ còn Quảng Nguyên, vì trọng binh Tống đóng, quân Lý chưa dám kéo vào. Nhưng Lý Thường Kiệt đe dọa, phao truyền tin sắp tới chiếm Quảng Nguyên để thử xem quan Tống hành động thế nào. Được tin, Đào Bật vẫn điềm nhiên, khuyên binh sĩ ở yên cố thủ, chớ khiêu khích quân Lý. Vì vậy quân Lý vẫn đóng im ở Quang Lang, không dám kéo vào. Dân Thuận Châu được yên tĩnh. Hễ quân Lý động tĩnh thế nào, đều có kẻ mách cho Đào Bật biết (TS 334 và TB 280/24a)
Dùng vũ lực khôi phục đất mất sợ không xong, Lý lại chủ trương ngoại giao mềm dẻo, và xin sai sứ tới bàn. Triệu Tiết tâu về, vua Tống bằng lòng, và hạ chiếu nói: “Giao Chỉ chịu theo ta rồi. Nếu nó có sai người tới bàn việc, hãy cho tới Quế Châu”(1-5; TB 282/1a)
Tuy vậy, vua Tống vẫn sợ quân ta sẽ sang đánh Ung Châu như trước. Vua viết thư hỏi ý kiến Triệu Tiết: “Giao Chỉ nghịch thuận thế nào? Chúng sắp vào cống. Thế nào chúng cũng yêu cầu dân miền đã nhượng cho ta. Ta nên trả lời chóng hay chầy, cho chúng nhiều hay ít?” Tiết trả lời rất tường tận. Lời bàn như sau:
“Lúc chống quân ta ở sông Phú Lương, Giao Chỉ đã đem tất cả các tướng giỏi tự tập ở đó. Thế mà cũng đến nỗi thế cùng, lực quệ, rồi phải xin hàng. Nay việc binh vừa xong. Nên để binh dừng, dân nghỉ: Nhưng thủ lĩnh các khê động thuộc Khâm, Liêm muốn dựa vào biên hấn để kiếm lợi. Chúng trương hoành thanh thế giặc, để làm náo động tiên binh. Những kẻ nhẹ dạ hay nghe và thích kiếm chuyện, lại đồng thanh phụ họa, gây lo cho phương nam.
“Tôi xét thế Giao Chỉ, thấy chúng chưa dám động. Ấy vì có ba lẽ:
1) Trước đây, Giao Chỉ lấy tụi Lưu Kỷ làm mưu chủ. Nay tụi ấy đã được ta bổ làm công chức. Các thuế mỏ vàng, mỏ bạc ở Quảng Nguyên, Tư Lang, nay đều về ta. Các khê động mới theo ta nay đều tự chủ và lập đảng riêng biệt; Giao Chỉ khó lòng mà họp lại được. Huống chi dân miền biên thùy chống lại chúng, không để chúng hiếp dỗ. Ta đã lấy được phủ ở phía ngoài đất chúng, như là đã cắt cánh tay phải của chúng. Trong vài năm nữa, thế chúng vẫn còn chết. Càn Đức nhỏ dại, chinh sự phần lớn ở môn dân mà ra. Chúng nó còn phải gầm ghè nhau để tự bảo, không rỗi tay để cướp ta. Đó là lẽ thứ nhất, mà chúng không dám đụng.
2) Từ kinh thành Giao Chỉ đến biên trại cũ, đường đi mất hơn mười ngày. Từ trước, giặc tới đó chưa từng có đủ lương ăn. Chúng chỉ nhờ tụi Lưu Kỷ góp nhặt cấp cho, mà cũng không đủ ăn nửa tháng. Hết rồi thì chúng cướp đoạt của dân. Cho nên dân rất oán thù. Trước đây, tụi Kỷ liên lạc với các Khê Động ở nước ta, và nhờ dẫn đường nên chúng dám vào cướp. Nay, phên giậu đều hết sạch. Chúng biết nương tựa vào đâu mà dám dòm ngó biên thùy?
“Từ khi chúng làm phản đến nay, dân bỏ cày đã hai năm. Dân ta cũng bỏ cày cấy. Lại thêm bị điều động, bị tật dịch. Số chết nhiều không kể xiết. Ví như chúng có ý ngông cuồng tranh cương thổ ta, thì vừa qua khỏi trường giang1, đã dậm lên đất ta. Chúng lấy ai dẫn đường? Lấy lương đâu ăn? Quân giặc có bao nhiêu để tự vệ? Phải chia quân ra thủy lục, thì quân chắc ít, khi chắc hết. Đó là lẽ thứ hai, mà chúng chưa dám động.
3) Giao Chỉ thu thuế nặng. Những nhà hạng vừa và hạng dưới mỗi năm phải nộp đến trên trăm quan. Bốn phần mười thuế ấy nộp nhà chúa; còn dư, các thủ lĩnh lấy. Thuế nặng đến nỗi dân phải xiết cả tài sản, vợ con, mà bù không đủ số thiếu. Biên dân rất oán giận. Vừa rồi, quan, quân đến đánh. Muốn tỏ lòng thương những dân chúng tới hàng, ta đã treo các sắc bảng hứa tha cho chúng năm năm thuế. Lòng chúng đều vui quy thuận. Giá sử Giao Chỉ trở lại hiếp dỗ chúng, thì có ai theo? Đó là lẽ thứ ba, mà chúng chưa dám động.
“Xét ba lẽ chúng không thể động, ta thấy rằng giặc bị thương di như thế, mà sợ chúng lại phạm thiên uy, thì quá đáng. Trước đây, Địch Thanh bại Nùng Trí Cao xong rồi rút quân liền, không cần phá sào huyệt nó. Thế mà Trí Cao rồi cũng bị giết. Huống nay, Giao Chỉ đã không trông cậy vào láng giềng nào, mà dân chúng đều oán. Thế cô như cây măng. Chỉ chờ thời bị diệt” (TB 291/6b)
Tuy lời thư của Triệu Tiết ngoa và không đáp lại những câu hỏi của Tống Thần Tông, nhưng nó tả cũng khá đúng thế lực và tâm tình tương đối của hai bên Tống, Lý, một năm sau khi giảng hòa. Thật vậy, tuy Lý giữ được gần toàn binh lực ở đồng bằng, nhưng vây cánh ở thượng du hoàn toàn tan rã. Họ Nùng, họ Vi2 theo Tống đã đành. Mà họ Thân hình như cũng điêu tàn. Trong sử Lý sau này, không thấy nói gì đến nữa. Trái lại trong đời Anh Tông, có Thân Lợi tự xưng là con Nhân Tông họp nhiều quân, chiếm các đất Bắc Cạn, Thái Nguyên (1140, TT); không biết Lợi có họ hàng gì với họ Thân ở động Giáp hay không (VSL chép tên Ông Thân Lợi vào năm 1139). Còn Tống thì chán nản không muốn đánh nhau với quân ta nữa, tuy rằng vẫn muốn giữ các mỏ vàng Quảng Nguyên.
Tống Thần Tông nghe lời Triệu Tiết, bèn “xá tội” cho vua Lý. Tống Lý trở lại hòa thuận cùng nhau. Lý Thường Kiệt sẽ có cơ hội để ngoại giao đòi lại những đất còn mất.
_______________________________________
1. Nguyên văn: tài quá Trường giang, tức tiển tỉnh địa nghĩa là vừa qua sông dài (hay là vừa qua sông Trường ), lập tức đạp lên đất nhà vua (Tống). Hai chữ Trường giang có thể hiểu là danh từ chung hay là danh từ riêng. Nếu hiểu là danh từ chung, thì sông dài ấy là sông nào. Theo lời chấp nhận của sứ ta, thì đất Lạng Châu, đã bị Quách Quì chiếm, là thuộc Tống. Vậy sông dài kia là sông Cầu ngày nay. Nếu hiểu là danh từ riêng thì có thể là sông Thương, mà tên xưa là sông Xương. Âm xương và trường đều đọc như nhau, là tchang. Nhưng đây chắc nó chỉ có nghĩa là sông dài mà thôi. Trong bia cổ LX và STDL đều chép: Lý Thường Kiệt bại Tống trên Như Nguyệt trường giang. Hai chữ trường giang ở đây cũng như ở trong biểu của Triệu Tiết, chỉ là một cách nói cho trịnh trọng và bóng bẩy.
2. Viên coi Khâm Châu là Lưu Sơ đã dỗ được Vi Thủ An coi châu Tô Mậu. Chúa trại Vĩnh Bình Dương Nguyên Khanh đã dỗ được những thủ lĩnh Quảng Nguyên. Các viên ấy đều được thưởng bảy tư (TB 281/8a).
3 - Đòi Quảng
Nguyên: Đào Tông Nguyên
Tháng 7 năm ấy (Đ.Ti 1077); triều đình Tống xét rõ các công trạng của các tướng thuộc An Nam hành doanh; Quách Quì bị an trí ở Tây Kinh, còn Triệu Tiết vẫn được lưu lại coi Quế Châu, sung chức an phủ sứ Quảng Tây, để đối phó với Lý. Tháng 10, sứ bộ ta tới biên. Tiết tâu rằng: “Người Giao sai tụi Lý Kê Nguyên tới biên giới cùng với quan ta bàn việc. Tôi muốn bảo quan ta lấy ấn tín triều đình mà hiểu dụ Càn Đức, ra lệnh cho y trả lại những nhân khẩu đã cướp, rồi triều đình sề cấp đất cho”. Vua Tống bằng lòng (TB 285/4b)
Nhưng trong lời biểu của vua Lý, có dùng chữ húy của triều Tống. Triệu Tiết không chịu nhận biểu, và bảo sứ ta trở về chữa lại. Ngày 15 tháng 11, Tiết tâu: “Giao Chỉ dâng biểu có phạm miếu húy. Sứ giả đã về rồi”. Vua Tống bảo cứ thu rồi tâu đệ về triều (TB 285/17b)
Đầu năm sau (M.Ng 1078), vua Lý sai Đào Tông Nguyên trở lại đi sứ. Tông Nguyên đem theo năm voi để cống, và tờ biểu của vua Lý xin lại các đất Quảng Nguyên và Quang Lang (TT chép vào tháng Giêng nhuận, VSL chép vào tháng hai; còn TB chép vào tháng Giêng như TT)
Lời biểu nói rằng:
“Tôi đã nhận được chiếu chỉ cho phép theo lệ tới cống, y như lời tôi thỉnh cầu. Chiếu lại đã sai quan thuộc ti an phủ định rõ cương giới và dặn tôi không được xâm phạm. Tôi đã vâng lời chỉ dụ. Nay sai người tới cống phương vật. Tôi xin triều đình trả lại các đất Quảng Nguyên và Quang Lang”1 (9-1, MA. DL 25-1-1078; TB 287/1a)
Vua Tống trả lời: “Hãy đợi sứ tới kinh, sẽ phân xử về cương giới”.
Tuy vậy, ti kinh lược Quảng Tây có kẻ không muốn để sứ tiến kinh. Ngày 22 tháng Giêng nhuận, ti chuyển vận tâu rằng: “Trước đây, sứ Giao Chỉ đến, nhưng phải quay về vì trong biểu có phạm húy. Nay sứ đã trở lại và đã chữa biểu. Nhưng viên câu đương thuộc ti kinh lược, là Dương Nguyên Khanh, chưa chịu thu nhận. Sợ chúng ngờ vực là muốn ngăn chúng Triệu Tiết. Vua Tống liền bảo tụi Nguyên Khanh: “Phải nhận và gửi biểu về, sai người đưa sứ tới kinh. Còn như việc chúng đòi trả nhân khẩu và sự định biên giới, thì hãy đợi phân xử riêng” (TB 287/19a)
Vua tôi Tống vẫn sợ ta có lòng phản trắc. Triệu Tiết xin tăng quân đóng ở Quế Châu cho được 5000 (TB 285/8b). Ti chuyển vận Quảng Tây xin tăng lương thực và tiền bạc (TB 287/20b). Quế Châu xin sai chúa trại Hoành Sơn tới đạo Đặc Ma mua ngựa, và tới Ung, Khâm kiểm điểm dân Khê Động và sai tập rèn vũ nghệ (TB 286/5a). Vua Tống sai khuyến khích dân Thái xứ Cửu đạo bạch y, vì chúng đã trình những việc thám thính được ở nước ta (TB 285/18a). Nhân bấy giờ có sứ Chiêm Thành tới Quảng Châu, ti kinh lược Quảng Đông không muốn cho vào kinh, vì “chúng đều vãng lai với Giao Chỉ, sợ có gian phi lẫn vào để thám thính” (TB 285/17a)
Trong khi sứ ta khó nhọc dẫn đàn voi đi Biện Kinh, vua Tống phê rằng: “Sứ Giao tiến tới kinh. Vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới kinh, hễ chúng ra vào phải cắt người giám thị. Vậy phải viết thư cho ti kinh lược Quảng Tây và cho các viên hộ tống phải mau mau báo cáo. Nếu dọc đường có xẩy chuyện gì, ti kinh lược chưa kịp bẩm, thì cứ việc thi hành” (25-5, TB 289/18b)
Tháng 6, sứ bộ qua lộ Kinh Hồ Bắc. Viên chuyển vận sứ ở đó không đủ quân hộ tống, xin phép bỏ tiền thuê phu cho đắt (TB 290/1b). Ngày mồng 2 tháng 9 Đào Tông Nguyên đã tới kinh, xin dâng cống vật (TB 292/1b)
Triệu Tiết khuyên Tống Thần Tông đừng trả hai châu Quảng Nguyên và Quang Lang (Theo TCK, TB 300/12b). Ý Thần Tông cũng không bằng lòng trả (TS 14)
Nhưng từ khi chiếm được Quảng Nguyên, Tống đã bị thất vọng lớn. Châu ở cách xa Ung hai ngàn dặm, khí hậu lại độc. Quân thú mười phần chết mất bảy, tám (TS 334). Mỗi lúc đến phiên đi thú ở đó, lính từ biệt vợ con như là sắp chết. Cả nhà khóc lốc rất thảm thiết (ĐHBL). Quân thú đào ngũ hàng đoàn. Có lúc có hai quân đội bỏ doanh trốn về nhà. Triệu Tiết nghe nói, viết thư cho tướng chỉ huy chúng, báo: “Quân đóng ở ngoài lâu ngày mệt nhọc, cho chúng nghỉ một tháng rồi bảo chúng trở lại”. Lúc chúng về qua doanh, Tiết mời ăn uống. Rồi gọi hai người đứng hầu mà hỏi vì sao bỏ ngũ. Chúng đều trả lời: “Chỉ vì đi thú lâu ngày ở nơi nước độc, cho nên nhớ nhà”. Tiết nói: “Mẹ ta già tám mươi tuổi. Ta muốn về thăm, có được không?”
Lập tức sai chém hai người ấy, và phạt tội bọn kia phải đánh và đày đi châu khác. (TB 291/7b)
Các viên chức ở Quảng Nguyên dần dần ốm chết. Từ ngày mồng 1 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1078), Đào Bật đã cáo ốm, và xin đổi, hay về hưu nếu không có chỗ để đổi đi. Vua Tống sai Tiết khám thật, và bảo chọn người khỏe mạnh thay thế, để Bật về nghỉ ở Quế Châu (TB 288/7b). Bật được đổi và thăng chức, nhưng ốm chết vào tháng 11 năm ấy (TB 291/3b)
Vua Tống hỏi ý kiến Triệu Tiết thì Tiết khuyên giữ lấy Quảng Nguyên và Tư Lang (18, TCK, xem TB 300/12b)
Triều đình cho đất Thuận Châu là vô dụng. Vua Tống bất đắc dĩ phải trả lời sẽ trả cho vua Lý. Nhưng hoặc muốn giữ thể diện, hoặc để khỏi bị chỉ trích, hoặc vẫn muốn theo lời Tiết, Tống Thần Tông đòi ta trả trước các tù binh và nhân khẩu đã bị bắt. Tống sử còn thép lời chiếu trả lời cho Lý Nhân Tông như sau:
“Khanh đã được triều đình cho cõi Nam Giao, đời đời được ban vương tước. Thế mà, khanh đã bội đức, phụ mệnh, tới cướp phá các biên thành; đã bỏ lòng trung thuận của cha ông, làm phiền quân triều đình phải đi chinh phạt. Đến lúc quan quân vào trong cõi, thế bức, rồi khanh mới quy hàng. Xét tội, thì khanh càng đáng bị truất chức.
“Nay khanh đã sai sứ tới cống, dâng lời rất kính cẩn. Xét rõ tư tình. Trẫm thấy khanh đã biết hối”
“Trẫm vỗ về vạn quốc, không kể xa gần. Nhưng khanh phải trả các dân Khâm, Ung mà khanh đã bắt đưa đi xa làng mạc chúng. Đợi khi nào khanh đưa chúng trở về hết. Trẫm sẽ lập tức lấy các châu Quảng Nguyên ban cho khanh” (TS 488)
Đào Tông Nguyên đệ lời vua Lý, hẹn sẽ trả một nghìn quan lại bắt ở ba châu Khâm, Liêm, Ung (TS 488). Tống Thần Tông lại đặt ra một điều kiện mới, là phải phạt những kẻ cầm đầu gây việc chiến tranh. Sách TB (292/4a) chép rằng ngày 12 tháng 9, Tống Thần Tông hạ chiếu nói:
“Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức bằng lòng trả những người đã cướp ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, thì theo lời Khanh đã xin, lấy các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và huyện Quang Lang trả lại cho. Nhưng phải đem các thủ lĩnh đã gây loạn đến biên giới xử.” (Q.Vi, DL 1-10-1078).
Thế là Tống đòi Lý xử “tội nhân chiến tranh”. Mà tội nhân ấy chính là ám chỉ Lý Thường Kiệt! Vua Lý trả lời rất tường tận. Đó là theo chú thích ở sách TB(292/4a), nhưng sách ấy nói: bản thực lục cựu kỷ2 chép lời đáp rất rõ, bản tân kỷ bỏ đi. Nay sách ấy không chép lại. Ta rất tiếc không được biết lời lẽ thư trả lời ấy. Nhưng ta cũng đoán được rằng Lý không nhận đem xử thủ lĩnh gây loạn. Mà vì thế phái bộ Đào Tông Nguyên lần này không đem lại một kết quả thực tế gì về việc đòi đất Quảng Nguyên, ngoài lời hứa của hai bên.
_______________________________________
1. Những châu mà Lý xin là Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Quang Lang và Tô Mậu. Trong các văn kiện thường chỉ kể một vài tên để trỏ toàn thể. Vả bấy giờ, quân ta đã lấy lại Quang Lang, và có lẽ cũng chiếm lại Tô Mậu và Môn. Nhưng vua Lý vẫn xin kéo lại các châu ấy, cốt ý để Tống cho Quảng Nguyên.
2. Sau khi Triết Tông lên ngôi, Triều Tống sai các sử quan Phạm Tổ Vũ, Triệu Ngạn Nhược, Hoàng Đình Kiên soạn Thần Tông thực lục. Năm Tân Mùi 1091, soạn xong. Bấy giờ đảng phái chống Vương An Thạch cầm quyền, cho nên thực lục Thần Tông phỉ báng An Thạch. Đến năm Quí Dậu 1093, Triết Tông thân chính, phái tân pháp trở lại đắc dụng, cho nên sai rể An Thạch, là Thái Biên, soạn lại Thần Tông thực lục. Tháng Chạp năm Giáp Tuất (đầu năm 1095) Biên soạn xong. Các sử thần soạn bản thực lục cũ đều bị an trí. Vì vậy có hai bản Thần Tông thực lục cựu kỷ và tân kỷ.
4- Tống trả nhượng
địa
Tuy Tống lấy giọng bề trên đối với vua Lý, nhưng bề trong, Tống vẫn sợ ta uy hiếp biên thùy. Đối với sứ bộ Đào Tông Nguyên, Tống tiếp đãi rất tử tế. Bấy giờ sứ Chiêm Thành cũng vừa đến, đưa voi từ Quảng Châu tới cống (tới Quảng Châu từ tháng Chạp năm trước. TB 286/1a). Sứ Chiêm sợ gặp mặt sứ ta. Vua Tống tỏ vẻ lúng túng, vì biết rằng ta tự coi Chiêm Thành như phụ thuộc trực tiếp nước ta. Bèn sai xếp đặt làm sao cho hai sứ bộ không chạm mặt nhau, và để tỏ rõ rằng Tống ưu đãi sứ ta hơn sứ Chiêm. Vua Tống dặn các viên đón tiếp rằng: “nhà ở, nơi ăn đều để riêng. Gặp ngày sóc, thì hai phái bộ đều đến điện Văn Đức, nhưng chia ra đông tây mà đứng. Ngày vọng thì phái bộ Giao Chỉ vào điện Thùy Củng, phái bộ Chiêm Thành vào điện Tử Thần. Ngủ và đãi yến thì sứ Giao ở điện Đông Đóa, sứ Chiêm ở Tây Vu”. (TB 292/7a)
Tống Thần Tông bấy giờ lo việc biên thùy miền bắc hơn miền nam. Tháng 8 năm ấy (M.Ng 1078), đổi Triệu Tiết đi coi Thái Nguyên, và bổ Tăng Bố thay. Nhưng viện khu mật xin lưu Tiết coi ti an phủ, tuy rằng Bố đã đến Quế Châu (12-9,TB 292/4a).
Trong khi ấy, nội tình ở Quảng Nguyên, cũng như ở các biên trại, vẫn khó khăn và bối rối. Đào Bật ốm nặng. Ngày 28 tháng 10, phải sai Trương Chi Gián thay coi Thuận Châu. Bật không kịp về, tháng sau thì mất. (TB 292/12a).
Ung Châu bị tật dịch, hỏa tai luôn luôn. Người đương thời hay tin những điềm gở. Khi thấy một tượng phật ở Ung Châu tự nhiên động, dân gian lo sợ; vì trước quân Lý vào đánh Ung Châu cũng đã có điềm ấy. Vua Tống sai lập thủy lục đạo tràng để cầu phúc cho những oan hồn tử sĩ, và giao cho Tăng Bố bàn có nên dời thành Ung hay không (TB 392/7a). Mà điềm xấu không phải ngoa. Các doanh đồn, kho, trại ở Ung, Liêm, Vĩnh Bình, Thái Bình bị cháy. Rất nhiều lương thực khí giới bị thiêu hủy (TB 293/9a). Phải chăng chỉ là sự tình cờ?
Một mặt khác, thấy Tống lần nữa không muốn trả Quảng Nguyên, Lý Thường Kiệt xui dân Châu cướp phá, Ngày 21 tháng 4 năm Kỷ Mùi 1079, ti kinh lược Quảng Tây tâu: “Dân Man cướp Thuận Châu. Xin đưa quân dẹp”. Vua Tống phê: “ Có thể đưa cả đạo quân đoàn kế ở Đàm Châu đến Quế Châu, tạm đóng để trấn tĩnh lòng dân ở Lưỡng Quảng, cho chúng khỏi khiếp sợ. Đợi lúc biên sự yên, quân ấy sẽ trở về chỗ cũ”.(TB 297/15b) Cầm đầu quân giải phóng ấy có Nùng Trí Xuân coi động Cung Khuyết. Trí Xuân có lẽ là dòng Trí Cao, vốn đã theo Tống, và được ban chức nội điện sùng ban. Bấy giờ Trí Xuân thông với họ Ma coi vùng Bắc Cạn ngày nay. Ma Thuận Phúc coi động Vũ Lăng (đất Bắc Cạn) và Hoàng Phu họp quân cùng Nùng Trí Xuân, đánh Thuận Châu (TB 298/13a; TB 300/6b chép Ma Trọng Phúc). Các tù trưởng trung thành với Tống chống lại, trong bọn ấy, có Linh Sùng Khái1 coi châu Cát Lộng (có lẽ cũng là đất Cổ Lộng ở phía bắt vùng Ngân Sơn phía nam Cao Bằng.X/7). Nùng Trí Hội coi châu Quì Hóa cũng đem 2000 quân tới cứu Thuận Châu (TB 298/4b).
Trí Xuân thua. Chạy xuống phía nam cầu viện với vua Lý. Lúc trở lại thì bị viên coi Đống Châu là Hoàng An Cao giết. Vợ con là đồ đảng cũng bị bắt (TB298/13a tháng 6). Ba tháng sau, Ma Thuận Phúc và Hoàng Phu cũng bị bắt và đầy đi xa (TB 300/6b). Lý Thường Kiệt hình như không muốn gây việc chiến tranh to. Cho nên việc khởi nghĩa ở Quảng Nguyên cũng tạm bỏ.
Nhưng các quan Tống ở Quảng Nguyên lần lượt chết bệnh. Vua Tống thương xót, truy ân cho viên quyền phát Vương Cảnh Nhân, viên đô giám Trương Cát, viên đô giám Dương Nguyên Khanh, viên tuần phán Lưu Tử Dân (Tháng 10, TB 300/9b và 12), viên kiềm hạt Trương Thuật và viên đồng tuần kiểm Ngô Hạo (tháng 11, TB 301/4b và 5a). Các người ấy đều chết bệnh sốt rét ở Quảng Nguyên. Lính thú thì mỗi năm cắt tới ba nghìn mà chết tới năm sáu phần. Đó là lời của Triệu Tiết nói (TL,TB 300/12b). Vua Tống phải đặt lệ ban tiền tuất cho con cháu những tử sĩ một cách rất hậu (TB 301/7b).
Cuối cùng, Triệu Tiết cũng phải nhận thấy rằng không thể giữ được châu Quảng Nguyên. Nhưng trong triều còn có kẻ luyến tiếc. Vua Tống nói: “Vì Càn Đức đã phạm thuận, ta mới sai quân đi hỏi tội. Quách Quì đã không đánh lấy được kinh đô nó. Mà nay, Thuận Châu là đất lam chướng. Triều đình được đất ấy cũng chưa có lợi. Lẽ nào lại còn tự mình xua thú binh vào nơi nước độc. Một người bị chết, Trẫm còn thương xót huống chi mười người chết mất năm, sáu” (TCL, xem TB 300/12b). Miêu Thì Trung cũng bàn nên bỏ, nhưng không muốn chính thức trả lại cho vua Lý. Y nói: “Các đồn trại thuộc Thuận Châu ở sâu trong đất giặc. Trở lương vào đó rất khó. Thú binh đóng đó, mười người chết tám, chín. Vậy ta nên bỏ đi. Nhưng mà Thuận Châu vốn là đất cơ mi của châu Ung, chứ không phải thuộc Giao Chỉ”. (TB 300/12b)
Vua tôi Tống nhất định trả đất Quảng Nguyên. Chỉ chờ cơ hội có thể trả mà không mất thể diện mà thôi.
Cơ hội ấy sắp đến. Không lấy tội Tống yêu sách xử tội mình mà giận, Lý Thường Kiệt sai đem trả một ít tù nhân, gồm đủ gái trai già trẻ.
Các tù nhân ấy được đưa từ Nghệ An về bằng đường thủy. Cửa thuyền đều bị trát bùn kín. Trong thuyền thắp đèn đuốc luôn, để tù nhân không biết ngày đêm thế nào, và cũng không thấy đường xá. Mỗi ngày chỉ cho thuyền đi chừng mười đến hai mươi dặm rồi bắt đậu lại. Quân lính canh thuyền giả đánh trống cầm canh. Ngồi trong thuyền nghe canh, tưởng chừng đi trong vài tháng mới tới nơi. (TS 488).
Ngày 13 tháng 10 năm ấy (K.Mu 1079), ti kinh lược Quảng Tây tâu nói Giao Chỉ đã đưa trả 221 người dân đã cướp (TS 488 và TB 300/12a chép số ấy, còn TB 349/7a chép 206 người). Tuy Lý trả không đủ số một nghìn quan lại như đã hẹn, và tuy đã khắc chữ vào mặt và tay tù nhân (VII/9), Tống Thần Tông cũng vin vào cơ hội, mà phán rằng: “Hãy nhận tù nhân; và bỏ Thuận Châu, lấy ban cho Giao Chỉ”. (13-10, M.Ta, DL 9-11-1079; TB 333/12a) Tuy lời chiếu chỉ nói đến đất Thuận Châu, nhưng kỳ thật thì Tống trả tất cả bốn châu, một huyện mà quân Quách Quì đã chiếm: Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Tô Mậu và Quang Lang. (TS 488)
Tuy vậy, quan Tống đã đề phòng sự trả đất này, cho nên trước đó đã bớt lại những châu, động, nguyên thuộc Ung Châu mà sau sáp nhập vào Thuận Châu. Sáu tháng trước ti kinh lược Quảng Tây nói: “Những động như Cống thuộc châu Thuận An, trước là thuộc Ung Châu”. Vua Tống bằng lòng (TB 297/15a). Tống trả đất, nhưng đã di dân vào đất Tống. Một năm sau khi có chiếu trả Thuận Châu, viên coi Ung Châu là Lưu Sơ tâu: “Đã dời 9.929 đã theo ta vào ở các động gần trong, để dễ đàn áp. Dân dời đến Tả Giang thì giao cho các viên tuần kiểm Nùng Bảo Phúc và viên coi Giang Châu Hoàng Thiên Hưng quản. Dân dời vào Hữu Giang thì giao cho các viên coi Điền Châu Hoàng Tiên Sành, viên coi Đống Châu Hoàng An Định quan sát.” Vua Tống bằng lòng (22-10 C.Ta 1080,TB308/14a).
_____________________________________
1. TB (411/5b) lại chép rằng năm Mậu Thìn, sau khi trả Thuận Châu cho ta, Linh Sùng Khái chạy vào đất Tống. Được Tống cho coi động Hoài Hóa. Tống thưởng công liệt vào hàng sứ và đổi động Hoài Hóa ra châu.
5- Dư luận
Đến đây là chấm dứt cái chính sách của Tống muốn chinh phục nước Đại Việt. Nào hai bên huy động quân, dân, hàng chục vạn; nào biện luận trong gần bốn năm; kết quả là biên thùy lại trở lại như trước năm Ất Mão 1075. Thế mà Tống đã thiệt hơn hai vạn người.
Đối với nước ta tuy có thể nói không được thua gì. Nhưng thật ra, nếu ta để Tống tấn công trước, chưa chắc quân ta đã bảo toàn lãnh thổ được. Vậy cho nên chánh sách ngoại giao của Lý gồm ba thời kỳ, là tấn công, cầm cự để đến đình chiến và điều đình có lẽ là con đường độc nhất mà một nước nhỏ phải làm, để đối phó với một nước lớn, lăm le muốn nuốt mình.
Xét lại cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt không những là táo bạo, mà ta có thể nghĩ đó là vong mạng, dễ dàng đem lại những ảnh hưởng tai hại vô cùng cho nước ta. Nhưng sự hành động của ông đã thành công. Ấy vì ông đã quan sát tường tận tình hình, quyết định rõ ràng kế hoạch. Khiến nên, trong lịch sử nước ta, có một vũ công phi thường, để dấu chân người Đại Việt lên đất xưa vua Triệu. Đời sau, không có khi nào người nước ta có dịp diễn lại một cuộc tranh hùng như vậy, tuy vậy hình như Nguyễn Huệ có lúc muốn theo gương Lý Thường Kiệt, nhưng vì chết yểu nên không thành.
Không biết câu ca dao:
Nực cười châu chấu đấu xe
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng!
sinh ra đời nào. Nhưng nó có thể tóm tắt như hoạt họa, khoảng lịch sử oanh liệt này của nước ta. Tuy về vật chất, sự thắng lợi của chính sách Lý Thườngg Kiệt chỉ có tính cách tiêu cực; nhưng về tinh thần, thì trái lại, nó đã làm tăng thanh thế nước ta lên nhiều, buộc Chiêm phải sợ và Tống phải nể.
Đối với Tống, sự thất bại trong chính sách nam thùy có ảnh hưởng rất lớn. Nhưng ta đã thấy, ảnh hưởng đầu tiên là sự tấn công của Lý Thường Kiệt làm cho kẻ chủ mưu Vương An Thạch bị đổ và kéo đổ theo cả một công cuộc cách mạng về tư tưởng, chính trị, tài chính và kinh tế của hoàn cầu. Ảnh hưởng thứ hai là người nối An Thạch, là Ngô Sung cũng vì thất bại trong cuộc tấn công ta, nên cũng bị gièm pha và đổ.
Phê bình chung về chính sách Tống ở nam thùy, đã có lời ngụy thái, em vợ Tăng Bố trong sách đông hiên bút lục. Thái viết: “từ khi bọn Tiên Chú đến kinh lược Quảng Tây, hoặc nói dối giá để lừa trên dưới, hoặc không phòng ngữ dân ngoài, để đến nỗi bốn đồn trại bị hãm. Quách Quì lại do dự. Đến nỗi cũng không giữ nốt được Quảng Nguyên, cuối cùng phải bỏ đi. Dân bị bắt, thì mười phần chỉ được trả có một. Thế mà triều đình tốn hàng vạn. Dân Lưỡng Quảng từ đó phải khốn đốn”. (ĐHBL 8 )
Những kẻ chỉ có óc trào phúng, không nghĩ rằng Tống Thần Tông phải trả đất Quảng Nguyên là không giữ nổi. Chúng chế nhạo vua Tống bằng hai câu thơ (TT1084):
Nhân tham Gian Chỉ tượng
Khước thất Quảng Nguyên kim.
nghĩa là: “Vì tham voi Giao Chỉ, nên mất vàng Quảng Nguyên”1.
6- Bang giao thân
thiện (1079-1082)
Trả xong các đất Quảng Nguyên, Tống coi như đã trút được một gánh nặng trên vai. Vua Tống lấy làm đắc chí, thăng hàm cho viên coi Quế Châu là Tăng Bố. “vì đã xếp đặt việc Giao Chỉ xong xuôi, nên Bố được suy ân” (8-11 K.Vi 1079, TB 301/5a). Nhưng ai cũng nhận thấy rằng cuộc chinh nam đã làm tổn hại binh lực và thanh danh Tống, mà không đem lại một lợi điểm nào. Triều thần đều đổ lỗi cho Ngô Sung đã kìm hãm Quách Quì không để Quì tiến binh mau chóng. Vì vậy Ngô Sung bị bãi chức tể tướng (tháng 8, TB 303/1a), rồi chẳng bao lâu thì mất (tháng 4).
Đối với ta, vua Tống tỏ vẻ kính nể. Tháng 9 nhuận năm ấy (1080), tăng thêm thực ấp cho Vua Lý (TB 309/2a). Ở nước ta triều đình rất vui vẻ. Sử, như VSL, toàn chép những sự tốt lành trong mấy năm liền. Năm Kỷ Mùi 1079, được mùa to. Lạng Châu hiến voi trắng: Công chúa Thiên Thành là vợ Thân Cảnh Long, hiến rùa sáu mắt ba chân: “rồng vàng” hiện luôn luôn. Năm Canh Thân 1080, đúc chuông chùa Diên Hữu, tức là chùa một cột. Sương cam lộ xuống. Vua đi xem đánh cá ở Cùng Giang, xem đua thuyền ở điện Linh Quang, đi xem gặt ở Lị Nhân, đặt lễ ban yến mùa thu. Người Tàu dâng cây tử chi. Năm Tân Dậu 1081, ngày xuân, mặt trời có hai quầng. Sứ Chiêm Thành tới cống. Chỉ có một điều làm bớt vui, là Lý Đạo Thành mất vào tháng 10 năm ấy (TT).
Đối với Tống, Vua Lý vẫn tiếp tục giao hiếu. Giữa năm Tân Dậu 1081, một phái bộ được sai sang Tống vừa để cống phương vật (TB) vừa để xin kinh Đại tạng (VSL). Phái bộ này quan trọng hơn thường, gồm đến 156 nhân viên, và có Lương Dụng Luật và Nguyễn Văn Bội2 cầm đầu, sợ quan địa phương Tống làm khó dễ như trước, Lý Nhân Tông gửi biểu nói: “Trước đây tôi có sai bọn Đào Tông Nguyên vào triều cống. Nhưng bị quan Quảng Châu cấm chế, ngăn cản, nên các thú vật đem cống không cùng tới một lần được (XII/3). Nay tôi lại sai viên Lương Dũng Luật và viên tướng tác lang Nguyễn Văn Bội đi thuyền tới cống. Xin giáng chỉ cho phép theo lệ cũ mà vào kinh”.
Vua Tống bảo viên coi Quảng Châu không được ngăn cản, phải theo lệ cũ mà nhận sứ. Và căn dặn phải sai một viên nhập nội sứ thần hộ tống tới kinh (27-6, TB 313/11b). Viên chuyển vận sứ Quảng Đông nói sứ ta xin đi đường Kinh Hồ. Vua Tống trả lời: “nếu người Giao thích đi đường thủy, thì ti kinh lược Quảng Tây cứ theo đường cũ mà dẫn chớ có đổi”. (tháng 7, TB 314/11a). Thế mà, viên kinh lược Quảng Tây bấy giờ, là Trương Hiệt (thay Tăng Bố từ tháng chín nhuận năm trước) nói: “Giao Chỉ vào cống có 156 người. Đối với lệ cũ thì thừa ra 56 người”. Tống Thần Tông phê: “Ai đã đến đó thì cứ cho vào kinh. Về sau sẽ theo lệ cũ” (tháng 8, TB 315/1b).
Tống hết sức làm vừa lòng vua Lý. Thấy sự giao tiếp các công văn với nước ta phiền phức, vua Tống hạ chiếu cho ti kinh lược Quảng Tây, nói rằng: “Từ nay hễ có chiếu ban cho An Nam, thì sai người đến biên giới nghinh tiếp, rồi giao cho”. (Tháng 12, TB 321/10a)
Dọc biên thùy, Tống tổ chức lại để cho sự giao dịch trở lại bình thường. Từ tháng 5 năm Kỷ Mùi 1079 viên kinh lược Quảng Tây, là Tăng Bố, đã sai các châu Khâm, Liêm lập lại các trạm, các bến đò, để người nước ta sang buôn bán (TB 298/18a). Sau cuộc chiến tranh, Ôn Cảo được bổ coi trại Hoành Sơn. Năm 1082, có chiếu đổi Cảo coi Khâm Châu. Viên chuyển vận phó sứ Quảng Tây, Ngô Tiềm, sợ người nước ta oán Cảo mà sinh sự, Tiềm nói: “Gần đây sai Ôn Cảo coi Khâm Châu. Tôi chộm nghĩ rằng Giao Chỉ còn nghiến răng muốn ăn thịt Cảo. Sợ chẳng may, vì thế, chúng sẽ cướp”
Vua Tống vốn không thích Cảo (IX/6), phê: “Cảo vốn tính nhu nhược, mà lại có hiền thù với Giao Chỉ. Thật không nên ở chỗ cùng biên can trọng. Vậy sai viên kiềm hạt Lưu Hi coi Khâm Châu”. (TB 331/21a). Trái lại, Long Đạt, được bổ coi trại Vĩnh Bình, không chịu nhận chức, vì “đã coi các trại ở Ung Châu, y từng bị Giao Chỉ giết chết mẹ, vợ, con và em, nay không muốn gặp mặt chúng”. Vua Tống cũng bằng lòng (TB 334/25b).
Xem các việc trên, ta thấy vua Tống tránh các việc tuy rất nhỏ, nhưng có thể gây sự với nước ta.
________________________________________
1. Một dư luận quan trọng khác là lời Tô Thức (Tô Đông Pha) Tâu can vua Tống Triết Tông đừng dùng Thẩm Khỉ. Nguyên Khỉ và Lưu Dị bị biếm và có nghị định về sau không được lục dụng nữa. Nhưng Dị được khôi phục chức vụ ít nhiều. Khi Triết Tông lên ngôi định xá tội cho Khỉ, Tô Thức dâng biểu nói:
“Tôi thấy từ đời Hi Ninh, Vương An Thạch được dùng, bắt đầu tìm lập biên công, sinh hiềm thù với các man di. Vương Thiều đang việc Di Hà Chương Thuần xui việc Ngũ Khê (vùng Mai Châu, Phúc Kiến ). Hùng Bản gây việc Lô Châu (vùng Tứ Xuyên). Thẩm Khỉ và Lưu Dị thấy vậy, cũng bắt chước, kết oán với Giao Chỉ. Binh dùng liền liền. Gây ra họa lớn. Quân chết đến mười vạn người. Cả nhà Tô Giàm bị hóa bùn tro. Đến nay, Lưỡng Quảng bị đau thương chưa khỏi.
“Tiên đế đầu muốn giết hai người ấy để tạ thiên hạ. Nhưng Vương An Thạch hết sức che chở, cho nên chúng mới khỏi mất đầu. Thế là đã may lắm rồi. Đến năm Nguyên phong thứ sáu (24-3 năm Quí Hợi 1083) có Thánh chỉ định rằng Thẩm Khỉ đã phạm tội nặng không được lục dụng nữa. Thiện hạ truyền tụng tin ấy, và cho là đáng. Đó là lời Tiên đế không thể đổi được. Vậy không nên vì tức vị mà ân xá
“Thẩm Khỉ và Lưu Dị đều có trách nhiệm đối với hàng mười vạn sinh linh. Tuy có bị kiềm hãm suốt đời, cũng chưa trả đủ nợ. Gần đây chỉ vì Lưu Dị hơi được dùng, mà Khỉ không biết tự lượng, dám ngỏ lời kêu ca và đổ lỗi cho Dị, vin lẽ nọ kia để mong được dùng.
“Theo ý tôi, thì việc An Nam là do Khỉ gây mối, mà Dị nối theo. Phép có thủ phạm và tùng phạm. Dị còn là kẻ siêng năng; học thuật còn có chỗ dùng được. Còn Khỉ thì nhân cách ti tiện, làm việc xu nịnh và nham hiểm. Sự Triều đình dùng Dị đã làm mất tin đối với công nghị, huống nay lại dùng Khỉ. Thật không có lẽ gì ân xá Khỉ” (TB 373/4a).
2. Các tên sứ thì các sách chép hơi khác nhau. Thông giám cương mục (Sách Tàu) chép tên thánh sứ là Lệ tân phó sứ Lương Dụng Tân. Sách TB chép Lệ Quảng phó sứ Lương Dụng Luật. Sách ta chỉ có VSL chép tên sứ mà thôi, và chép Lương Dụng Luật như ở TB.
Còn tên phó sứ, thì TB 313/11b chép Nguyễn Văn Bội, và nói theo các sách TL chép như vậy. Nhưng sau đó (TB 349/6a), có chép tên một phó sứ khác là Nguyễn Bồi đi sứ Tống cùng Lê Văn Thịnh.
7. - Đòi Vật Ác,
Vật Dương. Lại Đào Tông Nguyên
Sở dĩ Tống dè dặt với nước ta như vậy, là vì bấy giờ Tống còn phải đánh nhau với quân Hạ ở miền bắc, và vừa bị thua một trận to ở Vĩnh Lạc tháng 9 năm (N.TU 1082). Ở trong địa hạt Quảng Tây, cũng vừa có dân châu An Hóa nổi loạn. Các quan Tống vào dẹp, bị giết chết (tháng 5, TB 326/20a). Loạn ấy kéo dài đến cuối năm chưa yên, làm Vua Tống rất lo.
Thấy Tống lâm vào thế khó khăn, và biết ý Tống Thần Tông không dám găng với nước ta, Lý Thường Kiệt bắt đầu từ năm Nhâm Tuất 1082 trở lại chính sách củng cố và mở mang bờ cõi vào các khê động Hữu Giang. Chính sách dùng hôn nhân để ràng buộc thượng du vẫn được tiếp tục. Tháng hai năm ấy, vua Lý gả công chúa Khâm Thành cho Hà Di Khánh châu mục Vĩ Long, ở vùng châu Chiêm Hóa ngày nay (TT và VSL). Thường Kiệt lại mưu sự lấy lại những đất, tuy thuộc Quảng Nguyên, nhưng đã bị các tù trưởng đem nộp Tống trước khi có cuộc Tống Lý chiến tranh. Trong nhưng năm ấy, có hai động lớn, là Vật Dương và Vật Ác.
Các sử sách Tống và Việt đều có chép hai tên đất ấy, nhưng không chỉ rõ ở vùng nào. Nay góp lặt những tham khảo rời rạc, ta có thể nhận ra rằng hai động ấy ở phía tây bắc Cao Bằng ngày nay.
Từ đời Đường, các động ấy đều thuộc châu Quảng Nguyên, bởi họ Nùng cai quản.
Hai tên Vật Dương và Vật Ác thấy chép ở sử ta vào thời Nùng Trí Cao. Ta đã thấy rằng (IV/3) Trí Cao được vua Lý Thái Tông tha chết và cấp cho đất Quảng Nguyên và đất lân cận như Lôi Hỏa, Bình Tân1, Bà Tư Lang (1041). Bảy năm sau, Trí Cao làm loạn, chiếm đất Vật Ác (TT và VSL, 1048). Bị quân Lý đánh, Trí Cao chạy vào đất Tống, chiếm đất châu An Đức (TS 495 và TB 167/8a). Năm 1050, Trí Cao lấy động Vật Dương, thuộc châu An Đức, lập nước Nam Thiên và lấy hiệu Cảnh Thụy (VSL)2. Theo, ta biết rằng hai động kia ở trung gian Cao Bằng và An Đức ngày nay.
Sau khi Trí Cao mất, Nùng Tông Đán coi đất Vật Ác. Theo lời viên kinh lược Quảng Tây Hùng Bản tâu năm 1084 thì trong đời gia hữu (1057), Tông Đán đem động Vật Ác nộp cho Tống, cùng các động khác là Lôi Hỏa, Kế Thành và Ôn Nhuận, rồi Tống đổi tên Vật Ác ra châu Thuận An (TB 349/7b và V/8). Ta còn nhớ rằng bấy giờ, vua Lý Thái Tông đòi Tống giả người và đất. Vua Tống Anh Tông không chịu trả tụi Tông Đán, nhưng chịu trả hai châu, và sai Tông Đán coi châu Thuận An mới lập.
Nói tóm lại, Lý mất động Vật Ác vào năm 1057, bởi vì Nùng Tông Đán đem nộp cho Tống; Tống gọi đất ấy là châu Thuận An.
Ta cũng đã thấy rằng cha con Nùng Tông Đán theo Tống, nhưng vẫn là mối lo cho Tống. Phải đợi năm 1064, Tống Đán mới vào ở đất Tống. Năm ấy viên coi Quế Châu Lục Sằn, tới vùng Hữu Giang dụ các khê động. Không những tụi Tông Đán theo, mà còn có tụi Nùng Trí Hội cũng theo. Trí Hội là dòng dõi Nùng Dân Phú, tri châu Quảng Nguyên đời Nam Hán (IV/3). Đó là theo lời Lưu Sơ coi Ung Châu (TB 349/7a). Lại theo lời Hùng Bản, trong đời trị bình (1064), Nùng Trí Hội đem động Vật Dương theo Tống được vua Tống đổi tên cho động ấy ra châu Qui Hóa (TB 349/7b). Trí Hội rất trung thành với Tống. Năm 1073, Ôn Cảo giúp việc ti kinh lược Quảng Tây có tâu xin tăng hàm cho. Cảo nói: “Đã có chiếu bổ tụi Nùng Tông Đán và Nùng Trí Hội làm tướng quân. Nhưng man di không biết chức ấy là gì, chúng muốn xin một chức hàm cao, như phó sứ.” Tống Thần Tông ban cho chúng hàm cung bị khố phó sứ, Tông Đán làm đô giám Quế Châu và Trí Hội coi châu Qui Hóa (TB 244/3b).
Ta cũng đã thấy rằng Trí Hội chặn đường từ Quảng Nguyên đi Đặc Ma, cản trở việc Lưu Kỷ đi mua ngựa ở đó. Cho nên tháng tư nhuận Ất Mão 1075, Lưu Kỷ đã đem quân đánh châu Qui Hóa (VII/3) Tống giúp Trí Hội chống Lưu Kỷ, nên Trí Hội giữ vững châu mình. Sau lại được phong chức văn tư phó sứ (TB 298/4b). Năm 1079, Nùng Trí Xuân cùng Ma Thuận Phúc họp nhau đánh quân Tống coi Quảng Nguyên, Trí Hội lại mang quân tới cứu quan Tống (XII/4). Vua Tống bèn ban thưởng và thăng lên chức cung uyển phó sứ, và cấp cho toàn bổng, vì “Trí Hội tuổi đã già và đã có công” (TB 302/8a). Xem vậy, ta thấy rằng từ khi hàng Tống vào năm 1064 Trí Hội vẫn trung thành với Tống. Châu Qui Hóa, mà y vẫn quản lĩnh, là đất cũ Vật Dương của Lý. Trong khoảng mười sáu năm, Lý chưa có dịp nào để đòi lại đất ấy.
Đất Qui Hóa ở đâu? Theo lời viên coi Ung Châu, là Lưu Sơ, thì khi Lưu Kỷ nộp đất Quảng Nguyên cho Tống (1076-1077), “triều đình lấy châu thông nông cho Trí Hội (TB 349/7a). Như vậy nghĩa là vua Tống lấy đất Thông Nông thuộc Quảng Nguyên thưởng cho Trí Hội, để thêm vào đất Qui Hóa của y đã có. Sử Lý cũng có chép tên đất Thông Nông ấy vào đời Lý Anh Tông (Dương Tự Minh đánh Hàm Hữu Lạng ở đó năm 1145, TT), và nói rõ rằng châu ấy thuộc Quảng Nguyên. Nay ở làng Xuân Lĩnh gần Nước Hai (Cao Bằng), còn có đền Quan Triều thờ Dương Tự Minh, và ở phía tây tỉnh Cao Bằng, còn có làng và tổng Thông Nông. Vả chăng viên coi Quế Châu, là Hùng Bản, có nói: “Các châu Qui Hóa, Thuận An là đất cổ họng của Hữu Giang, chế ngự các đường trọng yếu đi các nước Giao Chỉ, Đại Lý, Cửu Đạo Bạch y”. Xét các chứng trên, ta có thể nhận rằng động Vật Dương hay châu Qui Hóa ở phía bắc tổng Thông Nông ngày nay, tức là ở vào địa phận châu Qui Thuận và Trấn An, kề phía bắc các địa phận Sóc Giang và Bảo Lạc ở địa đồ của sở họa đồ Đông Dương.
Còn đất Vật Ác hay châu Thuận An cũng kề đất Vật Dương, kề đất An Đức và Lôi Hỏa. Nay tên An Đức hãy còn trong hạt châu Qui Thuận của Trung Quốc. Tên châu Lôi Hỏa không còn. Nhưng còn có Hóa Động ở trên đường quan lộ nối phủ Trùng Khánh thuộc Cao Bằng với châu Qui Thuận. Và các sách Tống có chép tên động Lôi Hóa làm Hỏa Động (TB 185/8b). Hỏa Động gần Hồ Nhuận cũng như Hóa Động gần Ô Nhuận. Ta có thể đoán rằng Hóa Động ngày nay là Hỏa Động hay Lôi Hỏa đời Lý, vào đất Vật Ác hay châu Thuận An ở khoảng giữa Hóa Động và An Đức ngày nay.
Nói tóm lại, động Vật Dương là đất Nùng Trí Hội nộp Tống vào năm 1064 và được Tống đổi tên ra Qui Hóa; động Vật Ác là đất Nùng Tông Đán nộp Tống từ năm 1057 và được Tống đổi ra châu Thuận An. Hai động này ở phía bắc biên thùy huyện Thạch Lâm tức là phần tây bắc Cao Bằng, và thuộc các châu Trấn An và Qui Thuận của Trung Quốc. Phải chăng tên Qui Thuận là lấy hai chứ đầu hai châu Qui Hóa, Thuận An mà đặt ra?
Tháng 6 năm Nhâm Tuất 1082, Vua Lý sai một phái bộ đem 50 sừng tê và 50 ngà voi sang cống Vua Tống. Đó là theo TB(327/15b). Sách ấy có chú thích rằng: “TL Tân Kỷ chép rằng ngày Nhâm Thân 22 tháng 6, Giao Chỉ cống hai con tê nuôi, nhưng Cựu Kỷ không chép. “Nay Tống sử (TS16) cũng chép như Tân Kỷ. Vừa năm trước đã có cống bộ Lương Dũng Luật tới biện kinh. Vậy công bộ năm nay không phải theo thường lệ. Hình như cũng không có sứ giả tới kinh. Mục đích lần này là để đòi dân Quảng Nguyên mà Tống đã đem vào ở trong đất Tống. Lời biểu của Lý nói. (TB 327/15b):
“thủ lĩnh động Cát đán thuộc Quảng Nguyên, là Nùng Dũng, cùng dân động đã làm loạn và chạy vào Ung Châu. Tôi đã viết thư nhiều lần vào đòi. Nhưng Ung Châu không chịu trả”.
Vua Tống trả lời: “Tụi Nùng Dũng nguyên không phải Giao Chỉ quản. Chúng theo ta khi Giao Chỉ chưa hàng. Vậy chúng là dân ta. Không lẽ gì ta trả chúng.”
Theo lời Tống, ta hiểu rằng bọn này theo Tống khi quân Yên đánh Quảng Nguyên. Trước lúc trả Quảng Nguyên, Tống đem dân châu ấy vào ở Tả Giang và Hữu Giang, như ta đã thấy (XII/4). Chắc bọn Nùng Dũng ở trong đám dân ấy. Nhưng không hiểu vì sao Lý chỉ đòi dân động Cát Đán mà thôi. Có lẽ Cát Đán là Cốc Đán (Cát và Cốc đồng một nghĩa là tốt, như trong quán thoại cát nhật hay cốc nhật) ngày nay ở góc tây nam Cao Bằng. Cát Đán ở phía nam Thông Nông mà Nùng Trí Hội còn chiếm.
Lý Thường Kiệt là khôi phục lại các đất mà Trí Hội còn giữ. Thái độ Lý coi chừng đã găng. Ti an phủ Quảng Tây đòi trả thêm các quan lại và đàn bà bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm. Sứ ta trả lời không có nữa (TB 349/7a). Viên chuyển vận phó sứ Quảng Tây, Ngô Tiềm nói: “Gần đây, nghe nói Giao Chỉ nhiều lần vào đòi dân Hữu Giang. Tôi đã cùng bàn chuyện với những người am hiểu việc Giao Chỉ, và thử đoán ý chúng, ai cũng đều nói rằng trong dăm ba năm nữa, chúng sẽ tới cướp. Vậy xin huấn luyện thổ binh ở Quảng Tây để phòng bị.” (22-6, TB 327/16a)
Tin này và tin dân An Hóa ở Nghi Châu nổi loạn làm cho Vua Tống lấy làm lo. Tuy Hùng Bản đã có lệnh triệu về kinh, bấy giờ cũng phải trở lại coi Quế Châu thay Trương Thiệt (8-7 năm N.Tu 1082, TB 328/4b). Ngô Tiềm lại xin đem 500 quân kỵ ở Thiểm Tây xuống đóng ở Quế Châu (2-8,TB 329/1b).
Ngô Tiềm lo, không phải là không đúng. Tháng 9 năm ấy, Lý Thường Kiệt sai châu mục châu Thượng Nguyên, là Dương Thọ Văn(vùng Bắc Cạn), đem quân đánh Nùng Trí Hội ở châu Qui Hóa, và toan đánh vào châu Thuận An (TB 349/7a). Nùng Trí Hội thua chạy vào Hữu Giang cầu cứu (346/4b). Hùng Bản tâu về triều nói: “Đời Gia Hữu, Nùng Tông Đán đem các động Vật Ác nộp, vua ban tên Thuận An. Đời Trị bình, Nùng Trí Hội đem động Vật Dương nộp, vua ban tên châu Qui Hóa. Nay các châu động họ Nùng cai quản, vốn không phải thuộc xứ Nam Bình (Giao Chỉ). Mà các châu Qui Hóa là đất chẹn cổ họng của Hữu Giang; chế ngự các đườngquan yếu đi Giao Chỉ, Đại lý, Cửu Đạo Bạch Y, vật xin hạ chiếu cho Giao Chỉ, hỏi vì sao đã xâm phạm châu Qui Hóa, và bao trả lại tất cả các sinh khẩu mà chúng đã cướp. Như thế mới dứt được lòng ác của chúng, khi nó chưa sinh”.(TB 349/7b)
Trong lúc ấy, ở triều Lý, Vua Lý đã trưởng thành và tự cầm quyền. Vua lập một quận ở Thanh Hóa giao cho Lý Thường Kiệt (XIII/2). Có lẽ vì lý do đó, thái độ của Lý bấy giờ không cương quyết như trước nữa.
Hùng Bản sai sứ mang thư trách Vua Lý. “Lý Càn Đức tạ tội, bèn rút quân về”, nhưng vẫn xin Tống trả đất Vật Dương, Vật Ác
Bản là một nho thần, xuất thân tiến sĩ. Tính điềm tĩnh, đến đâu cũng không hay sinh sự. Thường dùng chính sách ôn hòa đối đãi với dân. Nhờ thế, mà loạn An Hóa không lan rộng. Nay thấy nước ta găng, Bản tuy viết thư trách, nhưng xin Tống Thần Tông trả cho Lý tám động đất hoang (TB 346/4b), rồi hẹn với Vua Lý phái người đến Vĩnh Bình bàn cương sự.
Tháng 6 năm Quí Hợi 1083, Hùng Bản phái viên đô tuần kiểm Tả Giang là Thành Trạc và viên coi lò vàng Điền Nại là Đặng Khuyết đến Vĩnh Bình (TB 335/13a TB 349/6a chép Đặng Tịch). Vua Lý phái Đào Tông Nguyên đến bàn nghị.
Sứ ta muốn đòi lại hai châu Vật Dương và Vật Ác, mà Tống chỉ muốn trả một dải đất ở phía nam dãy núi Hỏa Diễm mà thôi. Đào Tông Nguyên vẫn giữ thái độ găng. Cuối cùng Tông Nguyên đề nghị:
“Đất thuộc Quảng Nguyên nầy chỉ là đất nhỏ. Khó lòng mà ban chia. Tôi muốn tự làm bài tâu, để rồi triều đình định bằng lòng hay không.” (TB 339/2a).
Ta có thể coi lời sứ ta như một tối hậu thư! Tất nhiên, Thành Trạc không bằng lòng. Đào Tông Nguyên bỏ hội nghị về.
Ngày mồng 2 tháng 9 (năm Q. Ho 1083), ti linh lược Quảng Tây tâu lời Đào Tông Nguyên tấu với quan Tống, và báo rằng y đã về nước. Vua Tống không bằng lòng lời ấy, nhưng lại trách quan Tống; cho nên hạ chiếu nói: “Hùng Bản chỉ huy các viên bàn cương sự. Như có hội nghị với Đào Tông nguyên, thì đưa cho nó xem rõ văn tự của triều đình. Đừng có lấy lý lẽ bắt bẻ, thương lượng cãi nhau mà để chúng ra ý khinh nhờn” (TB 339/2a).
_____________________________________
1. Sách TT chép: “bốn động: Lôi Hỏa, Bình, Yên, Bà, và một châu Tư Giang”, còn VSL chép ba động: Lôi Hỏa, Bình, Bà và châu Tư Lang. Sách TS 495 chép: “Lấy bốn động: Lôi Hỏa, Tần, Bà và châu Tư Giang”, sách SK so sánh TT và TS và kết luận: “có nơi đổi tên Yên ra Tần. Đây tôi lấy Tần vì trong chiếu vua Tống có chép tên ấy.
2. TT chép: “tháng 9, người Vật Dương loạn, đánh dẹp yên”, VSL chép: “Nùng Trí Cao chiếm động Vật Dương thuộc châu An Đức ở Tống”, TS 495 chép: “Nùng Trí Cao đánh úp châu An Đức, tiếm xưng Nam thiên quốc, cải nguyên cảnh thụy. Năm Hoàng Hữu đầu (1049), vào cướp Ung Châu. Năm sau (1050). Giao Chỉ đưa quân tới đánh không được”.
8- Phái đoàn Lê Văn
Thịnh
Hội nghị Vĩnh Bình thất bại. Tình thế dọc biên thùy trở lại găng. Vua Lý lại sai tập trung quân gần châu Qui Hóa. Ngày 25 tháng chạp năm ấy (Q.Ho 1083); ti kinh lược Quảng Tây nói: “Châu Qui Hóa báo rằng Giao Chỉ tụ binh, muốn trở lại lấy châu mình. Trước đây lấy cớ đuổi bắt Nùng Trí Hội, Giao Chỉ đã xâm châu Qui Hóa. Nay, tuy đã về giữ sào huyệt, nhưng vẫn có ý dòm ngó. Nay Trí Hội lại nói rằng nếu Giao Chỉ tới thì khó lòng ngăn, và chúng sẽ lập tức vào đất ta. Trí Hội đã không hay kiên quyết chống Giao Chỉ; nếu nay để nó ở đó, thì không tránh khỏi việc Giao Chỉ cướp đất ta”. Vua Tống hạ chiếu rằng: “Hùng Bản hãy hiểu dụ rõ ràng cho Trí Hội, bảo nó dời nhà vào nội địa. Rồi sai lo liệu giữ chắc những đường ải quan trọng ở Qui Hóa. Nếu Giao Chỉ lại kéo quân tới tức là vô cớ vào đất ta. Ngươi có thể viết thư hỏi tội.” (TB 341/8b)
Các viên chức ở Quế Châu phần nhiều lo lắng. Viên chuyển vận phó sứ Ngô Tiềm chỉ vì nói Giao Chỉ muốn vay gạo, mà ti đề điểm hình ngục cũng hặc (TB 331/10a, tháng giêng Q.Ho 1083) viên sai quan Hồ Cách chỉ có công cãi cọ hăng với Đào Tông Nguyên mà cũng được giữ lại không phải về hưu (tháng 8, TB 338/11b). Một mình viên kinh lược Hùng Bản vẫn điềm nhiên. Có lúc thám tử về báo rằng: “Sang năm, Giao Chỉ sẽ vào cướp. Sứ Giao Chỉ cũng nhận là đúng”.Vua Tống hỏi ý Bản. Bản trả lời: “Sứ An Nam còn ở trên đường không thể có chuyện ấy. Sứ giả có mưu trí, sao lại nói cho ta biết trước mưu mình.”(TS 334 và TB 346/4b)
Lý cũng không có ý muốn đoạn tuyệt sự thương thuyết. Tháng 6 năm Giáp Tí 1084, vua Lý sai viên lang trung binh bộ Lê Văn Thịnh và Nguyễn Bội1 tới Vĩnh Bình tiếp tục bàn nghị việc biên cương mà Đào Tông Nguyên đã bỏ dở gần một năm qua (TT và VSL). Lê Văn Thịnh là kẻ đậu khoa nho học đầu tiên ở nước ta (A. Ma 1075). Ông lại được vào cung dạy vua Lý Nhân Tông từ thủa bé. Chắc ông là một tay ứng đối giỏi nhất ở triều, cho nên được chọn sung vào sứ mệnh này.
Lúc đầu hai bên bàn cãi gay go. Sứ ta không chịu nghe lời Tống. Tống vẫn nghi ta muốn sinh sự. Tháng 7, khu mật viện nói: “Sứ Giao Chỉ còn biện nghị cương chí hoàn toàn chưa chịu nghe mệnh. Sợ rằng ở biên thùy còn phải phòng bị”. Vua Tống chiếu: “ Hùng Bản phải lo liệu sự phòng ngự các thành, trại, dọc biên thùy. Phải hết sức chú ý xếp đặt. Thi hành thế nào thì tâu về “ (TB 347/15b).
Đến tháng 8, hội nghị đã có cơ thành công. Tuy Hùng Bản đã được thăng lên chức thị lang lại bộ từ tháng 6, nhưng còn phải đợi xong việc biện chính địa giới rồi mới về kinh. Bấy giờ, Bản được lệnh gọi về. Miêu Thì Trung được bổ thay Bản. Ngày 16 tháng 8, vua Tống nói: “Cứ theo báo cáo, thì việc Giao Chỉ bàn cương chí xem đã có cơ xong. Thì Trung am hiểu man dị ở phương ấy. Không nên, để Thì Trung xử việc ở biên cương dưới quyền Hùng Bản. Vả Bản đã có lệnh đổi; sợ không có trách nhiệm nên không chịu làm việc ấy. Vậy giục Thì Trung thôi đừng đợi bàn gia, lấy ngựa trạm mà đi chóng tới nhậm sở.” (TB 348/6b)
Hội nghị Vĩnh Bình lần thứ hai này ra sao? Hai bên thỏa thuận những điều gì? Các sử ta nói rất đơn sơ. Sách TT chỉ chép vẻn vẹn rằng: “Định biên giới. Tống lấy sáu huyện, ba động trả ta”. Sách ấy lại dẫn câu thơ người Tống cười triều đình, tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên vào đây2. Tống sử chép rõ hơn, nhưng cũng rất vắn tắt. Nay góp lặt những việc tản mát trong TB, ta có thể kể lại việc ấy khá tường tận như sau.
Mục đích cuộc hội nghị là bàn cương giới thuộc hai đất Vật Dương và Vật Ác, hoặc theo Tống là bàn cương giới hai châu Qui Hóa và Thuận An (TS và TB 349/6a). Bên Tống, Thành Trạc đứng đầu phái bộ; có lẽ vẫn có viên coi lò vàng Đặng Khuyết giúp. Bên Lý, ngoài chánh sứ Lê Văn Thịnh còn có Nguyễn Bồi (TB 349/8a), có lẽ là người đã đi cùng Đào Tông Nguyên tới biện kinh sáu năm về trước. Hội nghị họp trong tháng bẩy năm ấy (G.Ty 1084). Văn Thịnh biện rõ rằng hai châu Qui Hóa và Thuận An nguyên là đất Vật Dương và Vật Ác của nước ta, đã bị các tù trưởng lấy trộm đem nộp Tống. Một phái viên Tống nói: “Những đất mà quân nhà vua đã đánh lấy, thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất mà các người coi giữ, lại mang nộp để theo ta, thì khó mà trả lại”.
Văn Thịnh trả lời: “Đất thì có chủ. Các viên coi giữ mang nộp và chốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép. Huống chi nay chúng lại đem đất trộm dâng, để làm dơ bẩn sổ sách nhà vua!”(TB 349/7b)
Câu trả lời ấy chắc đã làm mếch lòng người Tống. Nhưng sau này vua Tống từng khen Văn Thịnh biết khiêm tốn. Có lẽ Thành Trạc không dám thuật lại câu trên chăng. Sách TB chép câu ấy, chỉ nói rằng có kẻ nói như trên. Rồi Văn Thịnh trả lời như vậy. Ý TB là nói rằng câu chuyện trên do người ta mách lại, chứ không phải là câu ghi trên biên bản. Vì Văn Thịnh găng cho nên mới có lệnh bảo Quảng Tây phải đề phòng, như ta đã kể trên.
Sau đó, không rõ rằng có huấn lệnh bảo Văn Thịnh bới găng, hay tự ông nhún nhường chăng. Kết quả là Thành Trạc buộc rằng Văn Thịnh đã nói: “Tôi không dám tranh chiếm các châu động mà Nùng Trí Hội và Nùng Tông Đán đã nộp”, và “Như Thành Trạc đã bàn về các động Vật Dương và Thuận An, định vạch cương giới ở phía nam đất ấy, thì kể bồi thần này không dám cãi” (TB 348/8a)
Sự thật chứa trong bức thư mà Văn Thịnh gửi cho Hùng Bản. Thư ấy nói rằng: “Thành Trạc đã nói sẽ vạch đại giới ở phía nam mười tám xứ sau này: Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật Ác, Kế Thành, Cống, Lục, Tần, Nhâm, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện3 và nói những xứ ấy đều thuộc Trung Quốc, Bồi thần tiểu tử nầy, chỉ biết nghe mệnh, không dám cãi lại. Nhưng những đất ấy, mà họ Nùng đã nộp, đều thuộc Quảng Nguyên.
“Nay, may gặp Thánh triều ban bố hàng vạn chính lệnh khoan hồng. Sao lại chuộng miếng đất đầy đá sỏi, lam chướng này, mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại thần.” (TB 349/7b)
Đọc thư trên, ta thấy Lê Văn Thịnh không bằng lòng đề nghị của Thành Trạc. Nhưng biết rằng cãi nhau với Trạc cũng vô ích, và muốn dùng lời nhún nhường khéo léo để lay động những kẻ cầm quyền ở thượng cấp.
Thành Trạc hoặc tự xuyên tạc ý Văn Thịnh, hoặc không hiểu rõ, lại tâu về triều rằng Văn Thịnh không đòi đất Vật Dương và Vật Ác nữa. Và xin vua Tống giáng chiếu theo lời Trạc đề nghị. Vua Tống sai Hùng Bản xét lại những công điệp và những điều điện nghị của Văn Thịnh, thì thấy lời tâu của Trạc không đúng.
___________________________________
1. Các tên sứ thì các sách chép hơi khác nhau. Thông giám cương mục (Sách Tàu) chép tên thánh sứ là Lệ tân phó sứ Lương Dụng Tân. Sách TB chép Lệ Quảng phó sứ Lương Dụng Luật. Sách ta chỉ có VSL chép tên sứ mà thôi, và chép Lương Dụng Luật như ở TB.
Còn tên phó sứ, thì TB 313/11b chép Nguyễn Văn Bội, và nói theo các sách TL chép như vậy. Nhưng sau đó (TB 349/6a), có chép tên một phó sứ khác là Nguyễn Bồi đi sứ Tống cùng Lê Văn Thịnh.
2. Các sử gia ta ngày trước không ai hiểu rõ việc trả đất năm Giáp Tý 1084, cho nên thường chép lúng túng. Ngô Thì Sĩ nhận thấy sự mập mờ ấy, có bàn trong sách KS, nhưng chính ông cũng không hiểu nốt. Ông nói: “theo Cương mục tục biên và Giao Chỉ di biên thì “quân Tống tới xâm lấn các đất Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Mậu, Quang Lang, rồi đổi Quảng Nguyên ra Thuận Châu. Đến khi Lý trả dân đã bắt, Tống bèn lấy Thuận Châu trả lại. Về sau định giới lại trả lại sáu huyện ba động.” So với cựu sử (tức là TT) thì cũng như nhau, nhưng đều không chép rõ huyện nào, động nào. Nay xét, thấy các sách đều không nói trả các huyện Tư Lang, Quang Lang. Thế mà các đất này từ thời Lý Thần Tông về sau sẽ là đất Lý. Hoặc giả, sau khi đổi Quảng Nguyên ra Thuận Châu, Tống lại hợp đất Tư Lang và Quang Lang mà đổi thành huyện và động. Sáu huyện và ba động kia hoặc là đất ấy chăng? Lúc đầu chỉ trả Thuận Châu; về sau định giới mới trả hết cả. Như thế mới còn có lý. Nhược bằng sáu huyện là đất Bảo Lạc, ba động là đất Túc Tang (TT và SK đều nói ba động, và hình như hiểu Túc Tang là một động mà thôi), thì người Tống chưa hề xâm đất ấy cớ sao lại trả cho ta?”.
3. Sách cũ của nước ta và nước Tàu không có chấm câu. Khi nào chép tên nhiều đất liền nhau như ở đây, rất khó lòng nhận tên đất cho đúng, vì có tên chỉ một chữ, có tên gồm hai, ba chữ. Nhưng có một vài trường hợp ta có thể nhận ra; nhất là khi trong số đất chép tên có một vài đất mà mình quen tên trước, và khi nào biết trước số tên đất chép đó. Hai trường hợp ấy gặp ở đây. Vậy tôi đã theo nguyên tắc sau này để chấm câu: phải chấm câu làm sao cho có đủ 18 tên, mà giữ chọn được những tên đã biết rồi, như Ôn Thuận, Vật Ác, Vật Dương, Tần, Nhậm, Cống. Hay là những tên có thể đoán được như Hạ Lôi, Thương Điện. Ngoài các tên ấy ra thì ở đây phải nhận rằng mọi tên chỉ có một chữ, mới đủ 18 tên, đó là trường hợp đặc biệt.
Ngày 7 tháng 8 năm ấy (G.Ty 1084), vua trách rằng: “Đã sai Hùng Bản bảo Thành Trạc bày tỏ những công điệp và những điều đề nghị của Lê Văn Thịnh. Trong đó không thấy nói đến câu không dám tranh chiếm đất Nùng Tông Đán nộp. Thế mà Trạc lại nói chúng nó đã nghe lời. Thế thì căn cứ vào đâu để xin giáng chiếu gia ân.”
Mười ngày sau, Tống lại tiếp được lời tâu của Hùng Bản nói: “Thành Trạc thưa rằng trong điệp Lê Văn Thịnh có nói: “Khê Động nhỏ mọn ấy, nếu Trạc nhận là đất của Tống, thì xin để tôi bày tỏ với nha kinh lược, nhờ tâu về triều, và xin triều đình định đoạt.”
Chính lúc ấy, Văn Thịnh đưa cho Hùng Bản bức thư đã thấy trên. Vua Tống nói: “Muốn sai Hùng Bản xét kỹ càng những lời Thành Trạc tâu về từ trước. Hoặc là nếu quan kinh lược mới đã tới, thì hãy xét tường tận những công điệp và lời đối đáp của Văn Thịnh. Như có chấp cứ được thì vạch rõ ra mà theo; để từ rày về sau, hễ người Giao Chỉ nhận được chiếu, thì không thể phản phúc nữa. Vậy phải trình về cho rõ”
Ba ngày sau, là ngày 20 tháng 8, Tống lại tiếp được một báo cáo khác của Hùng Bản nói: “Thành Trạc trình rằng: “Theo công điệp của Lê Văn Thịnh thì bằng lòng vạch địa giới ở phía nam các châu Vật Dương và Thuận An.” Vậy xin bàn nên phụng chỉ ban chiếu thư, cấp cho Giao Chỉ tám sứ ở ngoài ải, và ban cho Lê Văn Thịnh và Nguyễn Bồi đồ vật.” Lại ba ngày sau nữa, vua Tống nhận được báo cáo cuối cùng của ti kinh lược Quảng Tây gửi về nói: “Trước đây bản đạo chưa rõ đầu đuôi việc hai châu Qui Hóa và Thuận An. Vì thế, đã sai ti kinh lược tới biện chính, và đạt chiếu cho Càn Đức bảo người đến chia đất. Nay ti kinh lược Quảng Châu tâu, thì ti đã sai Thành Trạc biện chính với sai quan Giao Chỉ là Lê Văn Thịnh. Bây giờ đã thấy rõ đầu đuôi. Vậy xin giáng chiếu”
Vua Tống bèn phê rằng: “nay An Nam đã bằng lòng phân hoạch xong xuôi, thì hãy đem các đất sáu huyện Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đình, Phóng, Cân và hai động Túc, Tang 1 ở ngoài ải Khấu Nhạc, giao cho Giao Chỉ thủ lĩnh. Cứ theo đó mà giáng chiếu. Bảo viện học sĩ theo đó mà thảo lời chiếu. Đợi ti kinh lược Quảng Tây khám xong tên các ải, rồi sẽ viết chiếu. Còn như bọn Lê Văn Thịnh, thì ban vải vóc để may áo: cho Lê Văn Thịnh 200 tấm, và Nguyễn Bồi 100 tấm;”2
Những chi tiết lời trình của Quảng Tây và lời chiếu của Tống Thần Tông chép lại trên đây là theo Thời chính kỷ của viên khu mật (xem TB 349/8a). Ta thấy rằng từ mồng 7 đến 23 tháng 8, viện khu mật nhận được bốn tờ trình của Hùng Bản. Vì đường trạm đi từ Vĩnh Bình đến Biện kinh mất chừng một tháng, ta đoán rằng hội nghị Vĩnh Bình nhóm suốt trong tháng 7, và những chỉ thị của vua Tống, trả lời các tờ trình ấy, không tới kịp Quảng Tây, trước khi hội nghị bế mạc. Vậy thì sự định cuối cùng của vua Tống chỉ căn cứ vào lời trình khi đầu của Thành Trạc, chứ không căn cứ vào bức thư của Lê Văn Thịnh. Vua Tống tin rằng Văn Thịnh đã bằng lòng nhận những đề nghị của Thành Trạc, và vua Lý chịu mất Vật Ác và Vật Dương.
Ngày 22 tháng 10, sau khi ti kinh lược Quảng Tây đã khám rõ tên các ải, dùng làm cận cho biên thùy, vua Tống sắc cho vua Lý lời nghị định sau:
“Sắc cho Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức:
“Trẫm đã xét lời ti kinh lược Quảng Nam tây lộ tâu về nói: “Trước đây, vì An Nam tâu kêu rằng cương chí các khê động thuộc hai châu Vật Ác, Vật Dương chưa được rõ, đã có triều mệnh sai bản ti lo liệu. Bản đạo đã sai quan chức biện chính. Nay được tin báo An Nam đã sai bọn Lê Văn Thịnh tới biên giới và biện chín đã xong. Vậy xin giáng chiếu chỉ để trao cho An Nam theo làm.”
“Trẫm đã xem xét các lời khanh trần tình về phong cương. Trẫm đã đặc biệt sai biên thần lo liệu biện chính. Khanh vốn được trẫm yêu mến. Giữ một lòng trung thuận, Khanh đã vâng chiếu chỉ, sai chức thuộc đến chia cõi các châu, động. Nay đầu đuôi đã được rõ ràng.
“Về hai động Vật Dương và Vật Ác, Trẫm đã giáng chỉ lấy tám ải sau này làm giới hạn: Canh Liệm, Khâu Cự, Khiếu Nhạc, Thông Khoáng, Canh Nham, Đốn Lị, Đa Nhân và Câu Nam. Đất ngoài các ải ấy có sáu huyện là Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đình, Phóng, Cân, và hai động là Túc, Tang: Các đất ấy đều cho Khanh chủ lĩnh.
“Khanh hãy xem đó biết Trẫm luyến ái. Khanh càng phải cung thuận, tuân theo cẩn thận điều ước về cương giới, chớ có xâm lấn.”(ngày M.Ty, DL 22-11-1034; TB 349/6a).
Thế là Tống Thần Tông đã quyết định theo lời đề nghị từ đầu của Thành Trạc, mà không chấp lời xin của Lê Văn Thịnh trong công điệp gửi cho Hùng Bản. Tuy có ban cho Lý đất sáu huyện và hai động, nhưng hai châu Vật Dương và Vật Ác vẫn bị Tống giữ, vì Thành Trạc đã nói rõ là vạch cương giới ở phía nam mười tám xứ trong đó có Vật Ác và Vật Dương.
_______________________________________
1. Tôi cũng theo nguyên tắc vừa nói trong chú thích (ở trên), mà định những tên này. Những tên ải thì chắc như thế là đúng: vì có 8 ải mà có 16 chữ, mỗi tên chắc gồm hai chữ. Vả chăng nếu chấm câu như vậy, thì những tên có Canh, Khâu, Khiếu đứng đầu đều là những danh từ chỉ đèo, núi.
Tên sáu huyện và hai động cũng chắc là đúng như trên. Vì tên Bảo Lạc nay còn. Huyện Bảo Lạc xưa là vùng phía bắc tỉnh Hà Giang bây giờ. Nùng Văn Vân nổi loạn ở đó (1833). Vua Minh mạnh bèn xóa tên Bảo Lạc, mà chia đất ra làm hai huyện Để Định và Vĩnh Điện. Huyện lị đời xưa đóng ở phố Vân Trung. Cho nên phố ấy cũng có tên Bảo Lạc. Nay ở trong bản đồ sở họa đồ Đông Dương còn đề tên Bảo Lạc vào chỗ ấy.
Nguyên tắc dùng để định tên đất, đã dùng trên, chỉ có lý khi nào biết chắc chắn số đất. Về sáu huyện hai động thì có nhiều thoại khác nhau. Sách ta có TT chép “sáu huyện ba động”. Sách Tàu thì TS 488 chỉ nói đất Túc Tang hay Túc, Tang; TS 334 nói “8 động Túc Tang hay Túc, Tang”; thông giám cương mục chép như TT: 6 huyện 3 động. Chỉ có TB chép theo TCK, có chép đủ chi tiết, và nói 6 huyện 2 động. Xét thấy thoại của TCK là chắc chắn đúng.
2. TS 488 chép: “Tống Thần Tông khen rằng Văn Thịnh biết khiêm tốn, Càn Đức biết cung thuận. Cho nên ban cho Văn Thịnh áo dài, đai nịt, và 500 tấm quyến. Lại cho Càn Đức sáu huyện Bảo Lạc và chia động Túc Tang ở ngoài tám ải”.
9- Lý cố nài. Tống
quyết từ
Sự quyết định ấy của Tống Thần Tông tạm chấm dứt lịch sử điều đình giữa Tống và Lý, nó bắt đầu từ tháng giêng năm Đinh Tị 1077, là khi Tống rút quân khỏi bắc ngạn sông Nam Định về. Ở triều Lý, chính sách ngoại giao từ lúc ấy đến năm Nhâm Tuất 1082 hoàn toàn bởi tay Lý Thường Kiệt điều khiển. Từ năm Nhâm Tuất về sau, vua Lý đã trưởng thành và đã tự mình coi việc nước. Còn Lý Thường Kiệt đi ra giữ trấn Thanh Hóa. Cho nên nếu ông còn có ảnh hưởng ở triều, thì ảnh hưởng ấy không lớn như trước nữa. Tuy vậy, các nho thần như Lê Văn Thịnh cũng không đi trái với chính sách mà Lý Thường Kiệt đã vạch rõ trong mười năm rồi. Có khác chăng, chỉ là bớt phần cương quyết.
Nhận được chiếu của vua Tống, vua tôi Lý không lấy làm hài lòng. Nhưng hình như họ cũng còn do dự trong cách đối phó. Lý không trả lời lập tức. Tống yên trí là Lý nhận lời. Sáu tháng sau, ở Tống vua Triết Tông lên ngôi. Vua Lý được gia phong chức đồng trung thư môn hạ bình chương sự (11 tháng 4 năm Ất Sửu 1085, TB 354/4b).
Việc chia địa giới cũng là việc cuối cùng Tống Thần Tông làm với nước ta. Thần Tông mất ngày Mậu Tuất mồng 5 tháng 3 năm ấy (DL 1-4-1085, TB 353). Triết Tông lên ngôi, mới mười tuổi. Quốc Chính ở trong tay Thái hoàng thái hậu họ Cao. Thái hoàng thái hậu trước vẫn ghét Vương An Thạch và đồng đảng. Cho nên lập tức đem phái cựu lên giúp việc. Lã Công Trứ, Tư Mã Quang, Trình Di đều được trọng dụng. Các đảng nhân tân pháp đều bị tội hay bị biếm. Triều đình Tống cố tâm xóa bỏ những sự mà Vương An Thạch đã làm nên. Đối với các nước ngoài, Tống tỏ thái độ rất cương quyết, “để rửa những cái nhục của đời Thần Tông”
Lý vin vào cơ hội mới, lại gửi thư sang vua Tống mới, xin đổi lời chiếu cũ về hai động Vật Dương và Vật Ác. Viện khu mật tâu: “Nên giáng chiếu, nhắc lại chiếu chỉ của Tiên triều, và bảo Càn Đức phải tuân theo”.
Ngày 24 tháng sáu, Tống trả lời không nhận lời xin của vua Lý. Lời chiếu có giọng cương quyết như sau:
“Ban cho Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức chiếu sau này
“Trẫm đã xét kỹ lời biểu của Khanh xin cương thổ các động Vật Ác, Vật Dương. Đời Tiên đế, Khanh đã bày tỏ việc cương giới. Tiên đế đã giáng chiếu dụ, đầu đuôi rõ ràng. Đã đặc biệt theo lời Khanh cầu, mà cắt đất cho. Nay Trẫm đọc lời tâu, bất ngờ còn thấy Khanh bày tỏ kêu ca điều ấy.
“Trẫm vừa nối nghiệp, hành động phải theo mệnh trước. Nghị định trước đã rõ, nay khó lòng mà đổi được. Khanh phải trung thuận, nhất nhất phải tuân theo lời chiếu trước.”(TB 357/16a)
Đó là Lý cố nài, và Tống quyết từ lần thứ nhất.
Vua Lý được chiếu, chắc lấy làm tức giận. Nhưng không hề đổ lỗi cho Lê Văn Thịnh đã vụng bàn. Tháng năm ấy (A. Su 1085), Văn Thịnh được cất lên chức Thái sư, tức là đứng đầu triều đình. Trái lại, vua Lý tức Tống đã bất chấp lời cố nài của mình. Cho nên Lý lại muốn dùng binh lực quấy nhiễu. Bấy giờ có Nùng Thuận Thanh coi động Nhâm, bị cha con Lương Hiển Trí chiếm đất. Thuận Thanh đánh lại (TB 402/10b). Viên coi châu Quảng Nguyên là Dương Cảnh Thông, nhân đó thông với Thuận Thanh. Bèn sai bọn Đàm An đem dân vào đánh biên dân ở Tống. Ngày mồng 2 tháng giêng năm Bính Dần 1086, vua Tống hạ chiếu cho ti kinh lược Quảng Tây bảo phải xét việc ấy, và gửi thư trách vua Lý “hỏi vì cớ gì mà không chịu theo chiếu sắc”.(TB 364/1a).
Lý Nhân Tông trả lời và nhắc chuyện xin đất. Nhưng lần này, đổi lý lẽ và mưu mẹo. Biết rằng nếu nhắc lại sự biện chính cương chí trước, thì Tống vin vào chiếu cũ mà trả lời thoái thác, Lý Nhân Tông mượn sự vua Tống mới lên ngôi mà xin đổi mới chính sách đối với hai đất Vật Ác, Vật Dương. Lý bèn gửi biểu sau này sang Tống lời lẽ khá khôn ngoan: “Ấp tôi có hai huyện ở hai động Vật Dương, Vật Ác, giáp với đất nhà vua. Trước sau bị các tù trưởng làm loạn mà bỏ đi, đem mình vào qui minh. Đất Vật Dương thì năm Bính Thìn (1076) được thu vào vương thổ, đất Vật Ác thì năm Nhâm Tuất (1082) mới được thu và đặt ải Thông Khang 1.
“Tuy đất ấy là nhỏ nhen nhưng tôi rất lấy làm đau xót luôn luôn nghĩ đến. Thật tổ tiên tôi ngày trước đã đánh dẹp những kẻ tiếm nghịch, xông pha gian hiểm mới có đất ấy. Nay gặp thời vận suy đồi, tôi không hay nối sự nghiệp cha ông. Tôi đâu dám dự vào hàng phiên thần, sống trong chốc lát.
“Năm Giáp Tý (1084), Ti kinh lược Quảng Tây đã từng tâu về việc ấy. Tiên triều lấy hai động Túc, Tang, và sáu huyện cho tôi chủ lĩnh. Nhưng các đất Túc, Tang ấy hiện thuộc ấp tôi rồi, không phải là đất mà nay tôi đã xin: Cho nên tôi không dám nhận mệnh.
“May gặp khi bệ hạ lên ngôi. Việc gì cũng đổi mới. Vậy tôi kính cẩn bày tỏ lời biểu này để tâu lên.” (TB 380/20b).
Ngày 13 tháng 6, vua Tống trả lời, cương quyết gạt hẳn lời xin. Thư Tống như sau:
“Vả nay, biên thần nói: “Thủ lĩnh thuộc Khanh đã xâm lấn biên thùy. Tiên hoàng vốn sẵn lòng nhân, đã ban chiếu dụ. Cho phép biện chính chứng thực rõ ràng. Đã đặc biệt cắt đất ải Khanh (chắc là Thông Khang), ân tứ cho Khanh, tiếng ban đức còn đó, nét mực chiếu vẫn còn tươi!
“Vậy Khanh nên nghĩ đến lượng bao dung, mà tuân theo bờ đã định. Cớ sao còn tâu nhắc lại, vẫn giữ lầm xưa, mà lấy đất mới ban cho làm vật cũ sẵn có? không kiêng dè đến thế. Thờ kẻ trên như vậy, sao coi được!
“Xét ý Khanh không lẽ như vậy; ngờ lời người mách thế là sai. Huống chi dân châu động ấy là dân nhà vua đã từ lâu. Từ khi quan quân đánh lấy Quảng Nguyên đến lúc Trẫm trả Thuận Châu, không hề có tranh giành ruộng đất ở đó.
“Khanh phải hết lòng thành thật, tuân theo chiếu trước. Phải thêm cẩn thận giữ gìn cương vực. Chớ có sinh sự lôi thôi. Gắng làm cho đáng Trẫm thương, để được đời đời hưởng lộc.” (chiếu ngày N. Ty, DL 7-8-1086; TB 380/21a).
Vua Tống lại sai viên kinh lược Quảng Tây là Miêu Thì Trung, viết thư cãi lại lời vua Lý.
Đó là Lý cố nài, Tống quyết từ lần thứ hai.
___________________________________
1. Ải Thông Khang nầy có lẽ là ải Thông Khoáng trong tám ải phân giới đã nói trong chiếu của vua Tống (xem XII/8).
Thế là Tống dứt hẳn con đường thương thuyết để nước ta thôi đòi lại những đất Vật Ác, Vật Dương. Tống cũng biết rằng sự bang giao với Lý trở lại khó khăn. Tuy rằng năm ấy sứ ta sắp tới Biên kinh mừng Triết Tông lên ngôi, các quan Tống ở Quảng Tây cũng gia công đề phòng biên giới cẩn thận.
Ngày 11 tháng 10 viên khu mật nói: “Ti kinh lược Quảng Tây tâu về, ngỏ ý rất sợ rằng khi sứ Giao Chỉ trở về, chúng sẽ gây sự. Vậy xin thêm quân phòng ngự”. Thái hoàng Thái hậu nói: “Nếu ti kinh lược Quảng Tây dò thấy sự chóng chầy gì Giao Chỉ cũng sẽ làm loạn là không sai, thì một mặt đạo quân thứ 18 đóng ở đông nam Đàm Châu xuống đóng ở Quế Châu, một mặt soạn sửa đem quân Hồ Nam tới Quảng Tây và lấy quân ở kinh xuống đóng ở Hồ Nam. Đợi khi nào sứ Giao vào cống, thì sẽ chuyển quân”. ( TL cựu kỷ theo TB 390/14a).
Ti kiềm hạt Quảng Tây cũng xin cho quân thủ ở các trại Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thái Bình, Hoành Sơn, Thiên Long, Như Tích, để Trạc được hai năm thay phiên một lần (TB 393/6b).
Sứ bộ ta lần nầy gồm có viên ngoại lang hộ bộ Lê Chung là chánh sứ và phó hiệu úy Đỗ Anh Bối là phó sứ.
Sứ bộ tới Quảng Tây trong ngày mười một. Lê Chung gặp Thành Trạc. Y nói với Trạc rằng: “Vua Lý đã xin đổi địa giới mà chưa được chiếu trả lời”. Chung lại xin chép lại những nguyên thư và trạng của Lê Văn Thịnh gửi cho quan Tống, để lúc về sẽ dâng cho vua Lý xem. Trạc mách lại ti kinh lược. Ti ấy tâu về triều các việc trên và thêm rằng: “Nếu khi Lê Chung tới kinh, lại nói đến việc xin đất, thì nên đem bức thư dài của Lê Văn Thịnh cho xem mà giảng dụ, để Lê Trung hiểu rõ rằng trước đó, vì Thành Trạc bảo đảm sự sứ Giao Chỉ bàn biên cương không đến nỗi phản phúc, cho nên đã theo lời sứ xin mà giáng chiếu rồi. Từ rày về sau nếu người Giao tới kinh còn dám bày tỏ kêu ca về chuyện ấy, thì triều đình khó lòng xử lý cách khác được”.
Tống trả lời cho Miêu Thì Trung rằng: “Nếu người Giao không thôi việc xin đổi địa giới thì đem hết lý lẽ mà trả lời và giảng giải.”
Đó là Lý cố nài và Tống quyết từ lần thứ ba.
Mồng 6 tháng 4 năm Đinh Mão 1087, sứ bộ tới biện kinh. Mồng 4 tháng 5, vua Tống thăng chức cho chánh và phó sứ; lấy Chung làm viên ngoại lang lại bộ, và Anh Bối làm Tây Kinh tả tàng khố phó sứ. Không rõ Lê Chung có tâu việc xin đất không. Có lẽ không vì không thấy TB chép lại. Chỉ biết rằng, bấy giờ, triều đình Tống tiếc đã trả đất ngoài tám ải cho ta, và giận Thành Trạc và Hùng Bản đã đề nghị sự ấy. Chính ngày mà Tống ban chức cho sứ ta, viên khu mật hặc Trạc đã bảo lĩnh cho Giao Chỉ biện chính, mà lại còn tự tiện lấy thư của Lê Văn Thịnh đã gửi cho Tống, đưa cho Lê Chung xem. Thành Trạc bị giáng chức và sai đi coi thuế rượu ở Quân Châu (TB 400/6b). Mười ngày sau, Hùng Bản cũng bị biếm; vì cớ “lúc coi Quế châu đã phân hoạch địa giới không đúng.”(TB 401/9b).
Tống không những không trách vua Lý, mà tháng 7 năm ấy, còn phong cho “Giao chỉ quận vương Lý Càn Đức tước Nam Bình Vương”1 (TB 403/7a).
Thế, nhưng mà Lý Nhân Tông cũng không liền chịu bỏ rơi hai động đã mất. Tống sợ quân ta tới đánh úp, bèn xây đồn ở các cửa ải ở đó, và phát quân tới canh phòng. Vua Lý vin vào việc ấy mà viết thư kêu với Tống, ý nói quân Tống đe dọa đất mình, và có lẽ vua Lý lại đòi đất hai động Vật Dương và Vật Ác một lần nữa.
Lời thư ấy không còn nữa. Nhưng chiếu trả lời của vua Tống nay còn. Chiếu ấy viết ngày 22 tháng 8 năm Mậu Thìn 1088, nghĩa là hơn một năm sau khi Lê Chung tới kinh đô Tống, lời chiếu như sau:
“Trẫm nhớ thánh đức của Tiên đế đã đoái thương đến phương xa. Sau rút quân khỏi Phú Lương, Tiên đế đã xét lời khẩn cầu của Khanh, liền lấy các châu Quảng Nguyên ban cấp.
“Sau đó, vì thủ lĩnh An Nam nhận lầm vương thổ, Tiên đế lại sai quan biện chính chia cõi. Rồi lấy sáu huyện hai động ở ngoài tám ải, cấp cho Khanh chủ lĩnh. Thi ân như thế có thể gọi là tột mực
“Trẫm vâng theo lời dạy của Tiên đế, cốt làm sao cho bờ cõi yên vui. Huống chi Trẫm đã giáng chiếu nhiều lần, giảng cực rõ ràng. Các đất Vật Ác, Vật Dương không thể trở lại bàn đến được.
“Còn như sự xây cửa ải, đặt lính thú, thì âu là việc thường làm ở biên cương. Huống chi những đất này qui minh trước và sự xây dựng ải là sau. Vậy không lẽ gì mà ngờ vực và kêu ca nữa.
“Thật rằng nghĩa kẻ phiên thần là trước hết dốc lòng thành tín. Chớ nên vu hoặc. Lời Trẫm không thể nói đi nói lại nhiều lần.
“Thành Trạc nhân khi đi tuần biên để soát các cửa ải đã tự tiện đem đồ vật và lụa cho thủ lĩnh ở ngoài cõi. Làm thế là trái luật. Vừa rồi, theo lời ti kinh lược tố giác và tâu hặc Trạc đã sinh sự, Trạc đã bị biếm và đổi đi rồi. Khanh nên đòi lại những đồ vật ấy, và đệ tất cả tới quan.
“Hãy dâng thư biểu, tỏ lòng cung thuận. Gắng hiểu lòng Trẫm thương mến nồng nàn, để được thêm hưởng nhiều phúc.” (TB 413/8a)
Đó là Lý cố nài Tống quyết từ lần thứ tư.
Trong chiếu trên, có nói đến việc Thành Trạc đi tuần biên, cho thủ lĩnh người nước ta lụa vải và đồ vật. Không biết sự ấy vào khoảng nào. Ta biết rằng Thành Trạc đã bị biếm từ tháng 5 năm trước. Trong chiếu vua Tống lại nói vì Trạc làm lầm việc tuần biên nên đã bị biếm. Vậy ta nghi rằng việc lầm ấy có từ lâu, và có lẽ là việc cho Lê Văn Thịnh vải vóc từ năm 1084. Nếu quả như vậy thì vua Tống xử quá gay gắt và vụng về.
Lý đã kiên nhẫn xin đất Vật Ác và Vật Dương cả thảy sáu lần, mà hai lần bị Tống Thần Tông từ, bốn lần bị Thái hoàng Thái hậu họ Cao gạt.
Từ đó, vua Lý phải thôi hẳn, không thể nhắc đến việc hai động nữa.
Vả bấy giờ, nước ta đã đến lúc cực thịnh. Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan) và vua đều rất mộ phật và ưa tạo tác. Các đại thần thì có Lê Văn Thịnh đứng đầu, đều là những người mê tín dị đoan và luôn luôn xu nịnh cái tính mê tín của vua và Thái hậu. Cho nên không có ai nghĩ đến việc biên thùy một cách khẩn thiết như hồi Lý Thường Kiệt còn cầm quyền. Còn Lý Thường Kiệt, thì bấy giờ ở luôn tại Thanh Hóa. Ảnh hưởng của ông đối với Nhân Tông hình như cũng giảm đi nhiều.
Tuy rằng sau khi Thái hoàng Thái hậu Tống mất (năm Quí Hợi 1093), vua Tống cầm quyền nhu nhược, đảng phái tân cựu lại khuynh đảo nhau rất kịch liệt, quân Hạ đe dọa Tống ở miền bắc, mà vua Lý cũng không biết nhân cơ hội, cố đòi lại đất còn mất. Trái lại, năm Kỷ Tị 1089, quân Tống có khi kéo vào châu Thạch Tề (có lẽ Thạch Tâm ở Cao Bằng ngày nay), mà vua Lý cũng không chống lại kịch liệt (VSL).
Từ đó về sau, sự bang giao Lý Tống trở lại bình thường không có tính cách phản đối, yêu sách đòi hỏi gì nữa2. Tuy rằng VSL có chép vào năm 1106 rằng: “Tháng 11 vua Lý sắp có việc lôi thôi với Tống, sai đóng thuyền Vĩnh Long có hai bụng và những chiến hạm” nhưng sau, không thấy có chuyện gì. Trái lại, VSL chép liền sau: “Viên ngoại lang Ngụy Văn Tướng đi sứ Tống”.
Tống Lý lại trở nên hòa hảo. Triều Lý Nhân Tông còn dài. Trong khi ấy nước Tống bị nước Kim xâm lấn, bắt vua và phá kinh đô. Kẻ sống sót phải xuống miền nam sông Dương Tử mà lập nên Nam Tống. Thế mà các vua Lý không hề biết lợi dụng thời cơ, để mở rộng thêm vùng Bắc Việt.
Xem thế mới biết rằng, tất cả chính sách lấn dần vào Hữu Giang, trong triều Lý, chỉ nhờ Lý Thường Kiệt mới có thành công.
___________________________________
1. VSL chép: Năm Đinh Mão, vua Tống Triết Tông giao cho vua Lý chức Đồng bình chương sự, và ba năm sau mới phong cho vua Lý tước Nam bình vương. Còn TT cũng chép như TB. Nhưng TS 488 chép rõ rằng: Triết Tông lên ngôi (1085), gia phong cho Càn Đức chức Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, và năm Nguyễn Hữu thứ hai (1087), Giao Chỉ sai sứ vào cống được tiến phong Nam bình Vương. Xem vậy, VSL chép đúng việc, nhưng sai năm.
2. Từ năm 1090 đến cuối đời Nhân Tông (1027), Lý sai mười sứ bộ vào cống Tống; cứ bốn năm tới Biện kinh một lần.
Sau đây là bảng kê các phái bộ ta tới tiếp xúc với Tống trong đời Lý Nhân Tông, trước và sau cuộc Tống Lý chiến tranh:
Còn như việc Tống phong cho Lý Nhân Tông, thì thứ tự như sau:
1073 Trao chức kiểm hiệu thái úy, Tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ phong tước Giao Chỉ quân vương
1085 Gia phong Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (vì Triết tông lên ngôi )
1087 Tiến phong Nam bình vương
1101 Gia phong Khai phủ nghị đông tam ti, Kiểm hiệu thái sư (vì Huy Tông lên ngôi).
(b) Theo TT. Còn VSL, chép tên Khánh, chữ Khánh viết thảo và chữ Độ gần tự tạng.
1119 Gia Thủ tư không (Vì Khâm Tông lên ngôi ).
1132 Tặng Thị Trung, truy phong Nam Việt Vương (Lý Nhân Tông mất năm 1127, nhưng vì Tống bị Kim đánh chạy, đến năm 1132 mới đóng đô yên ổn ở Hàng Châu)
Cách phong cho vua Lý đến Lý Anh Tông vẫn theo lệ cũ, nghĩa là bắt đầu bằng chức thái úy, Tĩnh hội quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ, và phong Giao Chỉ quận vương. Nhưng trong đời Lý Anh Tông, nhân có sứ ta là Doãn Tử Tư và Lý Bang Chính tới cống (1073), sau Tống Hiếu Tông phong cho vua Lý tước An Nam Quốc vương (1074). Từ đó về sau, Tống nhận ta là một nước (QUỐC), và các vua Lý Cao Tông, Huệ Tông, các vua Trần Thái Tông, Thánh Tông đều được phong tước An Nam quốc vương, lập tức sau khi mới lên ngôi. Sánh TT chép Tống phong Lý Anh Tông làm An Nam Quốc vương và đổi Giao Chỉ ra An Nam quốc, vào năm Giáp Thân 1164. Chắc là sai. Không những VSL, TS 488 và TS 34 chép vào năm Giáp Ngọ 1074, mà câu thơ của Lý Bang Chính, mà LNĐĐ còn ghi lại: Thử khứ ưu thành tứ quốc danh (V/3) chứng tỏ rằng sự đặt tên nước An Nam là vào năm Bang Chính đi sứ, nghĩa là năm 1074.
PHẦN
BA
VÌ DÂN
VÌ ĐẠO
CHƯƠNG XIII
COI
ĐẤT MIỀN NAM
1. Tu-bổ nội-trị -2.
Thôi chức tể tướng - 3. Trị trấn Thanh Hóa - 4. Trở về
triều - 5. Dẹp loạn Ly Giác - 6. Đuổi quân Chiêm - 7.
Huân dự cuối cùng - 8. Dư luận
1 - Tu bổ nội-trị
Sau khi đánh lui quân Tống, thanh thế Lý Thường Kiệt lại càng lừng lẫy. Vua mới mười hai tuổi. Quyền vẫn ở trong tay tể tướng.1
Thường Kiệt đã lo lắng khôi phục những đất đã mất và đòi lại những châu động bị sáp nhập vào Tống trước khi có đại chiến tranh (XII). Đối với trong nước, ông cũng tu bổ đê điều, đường sá, đình chùa hư hỏng vì chiến tranh. Ông sửa đổi việc hành chánh, tuyển thêm nhân viên giúp việc các công sở.
Ta đã thấy quân ta đắp đê bờ nam sông Cầu thành một bức trường thành để ngăn quân Tống. Các trận kịch liệt chắc đã làm cho đê hư hỏng nhiều. Tháng 9 năm Đinh Tị 1077, có lệnh đắp lại đê con sông ấy. Khoảng đắp lại dài 67.380 bước (VSL), bằng ước chừng 35 cây số, có lẽ từ ngã ba sông Như Nguyệt đến chân núi Kháo Túc.
Tháng Giêng năm sau (Mậu Ngọ 1088), thành Đại La cũng được đắp lại (TTVSL chép tháng giêng nhuận). Có lẽ ông còn sợ quân Tống trở lại, cho nên tu bổ các thành trì, chữa đê Như Nguyệt kỳ thật là để làm chắc thêm phòng tuyến chống xâm lăng.
Sau một năm loạn lạc, các đền đài, tự quán bị hư hỏng nhiều (theo Mộ chí Lưu Ba). Ông sai sửa chữa lại.
Về việc hành chính, liền sau khi đánh Ung Châu về, đã có sự cải lương. Ông chọn những kẻ hiền lương có tài văn vũ để cai quản quân và dân. Trong sự chọn lọc quan liêu, hình như tài văn học bắt đầu được chú ý lắm.
Cuối năm Bính Thìn 1076, chọn những quan viên văn chức hay chữ dạy trường Quốc Tử Giám (TT). Tháng Chạp năm ấy, nhà khoa bảng đầu tiên ở nước ta, là Lê Văn Thịnh, được trao chức binh bộ thị lang (VSL).
Một việc cải cách quan hệ mới là tổ chức những cơ quan hành chính thuộc mọi ngành. Năm Đinh Tị 1077, nước ta bắt đầu có mở những kỳ thi chọn những nhân viên chuyên môn về viết chữ tốt, làm toán giỏi, thông hình luật. Những người trúng tuyển được bổ làm lại viên ở các viện và bộ, như thư xá, hộ bộ, hình bộ.
2- Thôi chức tể
tướng
Vì Thường Kiệt có công lao đặc biệt, nên được cất lên ngang hàng với các hoàng tử. Ta đã thấy rằng vua Lý Thánh Tông từng phong ông làm Thiên tử nghĩa nam, nghĩa là con nuôi vua. Cho nên, vua Lý Nhân Tông coi ông như em nuôi, và ban cho ông hiệu Thiên tử nghĩa đệ.
Tuy vậy, vua càng năm càng lớn, thì thế lực Thường Kiệt chắc cũng bị giảm dần. Quyền binh dần dần chuyển sang tay Lý Nhân Tông. Từ năm Quí Hợi 1083, các sử bắt đầu chép những việc to rằng Nhân Tông đã ra thân chinh. Bấy giờ vua lên 16 tuổi; đối với nhà vua, đó là tuổi trưởng thành. Tháng hai năm ấy, vua ra ngự ở điện Thiên Khánh, thân hành duyệt các hàng nam ở kinh thành, và chia ra làm ba hạng (VSL và TT). Hoàng Nam, như ta đã thấy (II/cth3), là con trai mười tám tuổi, phải đặng tên vào sổ công, để gọi ra lính. Duyệt hàng nam thật là một dấu hiệu vua mới trưởng thành.
Tháng ba năm ấy, Thái hậu đã sai chọn mỹ nữ vào hầu ở cung Vạn Diện. (VSL). Tháng chín, dân động Ma Sa (ở vùng Đà Giang) nổi loạn, tháng mười vua đem quân thân chinh và dẹp yên (VSL).
Thường Kiệt đi đâu vắng, mà vua thân chinh? Các sử ta không hề chép. Nhưng còn có hai bia đời Lý nói rõ rằng ông được sai coi đất Thanh Hóa. Bia LX không chép rõ ông vào ở Thanh Hóa năm nào, mà chỉ nói rằng: “Đầu đời Anh Vũ Chiêu Thắng, vua ban hiệu Thiên tử nghĩa đệ, sai ông ra giữa trấn Thanh Hóa, thuộc quận Cửu Chân, Ái Châu coi mọi việc quân và dân. Lại phong cho ông lộc của một vạn hộ ở Việt Thường”. Niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng có từ tháng ba năm Bính Thìn 1076 đến tháng hai năm Ất Sửu 1085. Vậy, bia LX nói vua ban cho ông hiệu Thiên tử nghĩa đệ mà thôi, Hoàng đế đặc gia một quân ở trấn Thanh Hóa, ban cho ông làm phong ấp”. Năm Nhâm Tuất 1082 chính là năm trước khi có những việc Lý Nhân Tông thân hành đã kể trên.
Vậy thì chắc rằng trong năm Nhâm Tuất, ông ra đóng ở trấn Thanh Hóa. Có lẽ vào cuối năm ấy. Song hình như ông đã được trao quyền coi Ái Châu từ trước, nhưng chỉ phải dao thụ, nghĩa là ở xa trông coi mà thôi. Từ lúc đánh Chiêm Thành về, ông đã có chức Nam bình tiết độ sứ (II/6). Nam Bình đây có thể trỏ ba châu mới được.
Ta sẽ thấy rằng (XV/3), năm Tân Dậu 1081, Lý Thường Kiệt có lần vào Thanh Hóa xử việc chia ruộng cho giáp Bối Lý. Vậy bấy giờ, ông đã được coi riêng đất Thanh Hóa rồi.
Lý Đạo Thành mất năm Tân Dậu 1081. Chỉ còn Thường Kiệt là kẻ chế lại ít nhiều uy quyền của Nhân Tông. Ông đi xa, thì vua mới thân chính thực sự được. Chắc đó là một cớ khiến ông vào trấn Thanh Hóa.
Vả theo lưỡi Triệu Tiết, vua và thái hậu oán Thường Kiệt đã gây chiến tranh với Tống (X/5). Tuy những ý tưởng của người Tống đối với người nước ta phần nhiều là những thành kiến chủ quan, nhưng trong cơn nguy kịch, đang khi quân Tống uy hiếp lăng tẩm và kinh thành nhà Lý, Thái hậu và vua, là đàn bà con trẻ quen sống thái bình, êm ấm, chắc chẳng khỏi có lúc nản lòng, và oán viên đại tướng quen trăm trận, không nghĩ đến sự nhân thân. Vả bấy giờ chiến tranh đã xong, mà lại đòi được tất cả những đất đã mất. Danh dự và quyền lợi đã bảo toàn. Thế mà Thường Kiệt còn gắt gao đòi lại những đất Vật Ác Vật Dương. Tháng 9 năm ấy, ông lại sai quân vào đánh Nùng Trí Hội để chiếm đất Vật Dương, và có lẽ còn soạn sửa tấn công mạnh vào đất Tống nữa. Những lời Ngô Tiềm nói, và những tin đồn ở Quảng Tây rằng quân ta sắp đánh Tống, dẫn lại trong chương trước (XII/7), chứng thực cho sửa soạn ấy. Tự nhiên, Thái hậu sợ vì ông mà chiến tranh lại bùng nổ một lần nữa. Đó là cớ thứ hai mà Thái hậu và vua muốn ông bỏ chính quyền.
Tuy vậy, như ta đã thấy, triều đình Lý vẫn thiết tha muốn đòi lại hai động Vật Ác và Vật Dương. Nhưng lại chỉ muốn dùng lối ôn hòa. Trước đó bốn năm, Tống đã đòi xử tội Thường Kiệt đã gây chiến tranh. Nếu ông rời ngôi tể tướng, có lẽ sự điều đình sẽ dễ dàng hơn.
Đó là lẽ thứ ba, khiến vua Lý Nhân Tông sai ông vào coi trấn Thanh Hóa.
Thường Kiệt phải bỏ Thăng Long vào Thanh Hóa là một sự bất đắc dĩ, nhưng không phải là ông bị cách chức, hay khiển trách. Vua Lý Nhân Tông lại đặc biệt đặt thêm một quân ở Thanh Hóa để phó cho ông, và phong ông một vạn hộ ở Việt Thường, nghĩa là đủ tỏ rằng tuy thôi chức tể tướng, nhưng ông vẫn được tôn trọng. Vả hình như trong hồi ông ở Thanh Hóa, các triều thần như Lê Văn Thịnh vẫn chịu ảnh hưởng của ông trong việc điều đình với Tống để đòi đất.
____________________________________
1. Bia HN chép việc chữa chùa Hương Nghiêm, có nói: “ Năm Đinh Tị 1077, sư Đạo Dung nhờ Lưu Khánh Đàm chữa chùa. Khánh Đàm nghe lời, bèn nói chuyện ấy với quốc tướng thái úy Lý Công. Chữ tướng đây là tể tướng.
3- Trị trấn Thanh
Hóa
Thanh Hóa là một trấn giàu, rộng, được khai thác từ đời Hán, Đường. Nhân dân trù mật, và rất được giáo hóa. Các việc cai trị và hành chính ở đó chẳng khác gì ở trung nguyên chung quanh Giao Châu.
Đời Đinh, Lê, đô đóng ở Hoa Lư, không xa Thanh Hóa mấy. Lê Hoàn lại là người Ái Châu (huyện Thụy Nguyên, làng Nho Tạ có đền. Theo ĐNNTC, tục truyền rằng đền làm trên nhà họ Lê, tuy rằng Ngô Thì Sĩ nói khác). Vì thế, đất Ái Châu được các vua Lê chú ý tới1.
Năm 993, Lê Hoàn phong cho con thứ bảy là Long Tùng làm Định phiên vương, coi Ngũ huyện giang ở Ái Châu.
Đến đời Lý, kinh đô đóng tại Thăng Long. Đất Ái Châu liền đổi ra trại (1010, TT). Thanh Hóa hình như không được quan tâm đến lắm. Các sử còn lại không chép một tên vị quan nào được bổ coi Ái Châu trong đầu đời Lý. Trong khoảng ba đời vua đầu nhà Lý, ta thấy sử còn chép dân nổi loạn sáu lần2. Mỗi lần, hoặc vua (thiếu 2 trang).
Tuy lời các bí là lời tân dương của những kẻ thuộc hạ. Nhưng ta không có lẽ gì mà cho đó chỉ là lời nịnh hót một vị quan trên, nhất là văn ấy lại viết sau khi Lý Thường Kiệt đã rời Thanh Hóa, hay đã mất. Một sự chắc chắn là từ khi ông ra coi Ái Châu, trong mười chín năm, không hề thấy sử chép một việc loạn gì ở vùng Thanh Hóa trở vào nam. Trái lại, sau khi ông trở về triều, ở Diễn Châu và ở miền giáp Chiêm Thành, lại có giặc quấy.
Trong lúc tại quận, nhân dân yên ổn, chính sự nhàn rỗi. Ông thường ngao du sơn thủy, để thưởng thức phong cảnh đẹp lạ ở Thanh Hóa.
Ai đã ở qua vùng Thanh Hóa cũng phải nhận rằng núi sông ở đây khác hẳn các nơi. Núi phần nhiều núi đá, gọi là núi lên. Núi trông lởm chởm, có thể hình dung được nhiều vật lạ. Như Hàm Rồng, Chồng Mâm, Ngọc Nữ, Kim Đồng. Hoặc ở gần đường cái, hoặc nổi giữa đồng bằng, những núi đất và đá đều gần dân gian, cho nên thường được trang sức. Nhiều chùa được xây dựng trên. Núi đá lại thường có nhiều đền hang động, trong có thạch nhũ thiên hình vạn trạng. Nào động Linh Quang, Bích Đào, Hồ Công, Kim Sơn, đều là những nơi đại thắng cảnh. Núi lại thường gần sông lớn. Cảnh trên đá dưới nước, gần chỗ thuyền bè đô hội, làm cho du khách càng đông. Nào Thần Phù, Sầm Sơn, Linh Trường, Bàn A, Vân Hoàn đều có danh từ đời trước.
Lý Thường Kiệt cũng đã bị những cảnh thiên nhiên ấy cám dỗ. Ông thường ngao du. Đến đâu cảnh trí thanh u, ông dừng thuyền lên bộ, chọn chỗ xây đình, dựng chùa. Nay còn lại một vài vết tích, chương XV sẽ kể.
Những lúc khách kinh kỳ tới viếng, những lúc sứ Chiêm Thành, Chân Lạp qua chầu, ông đón tiếp ân cần. Đó cũng là những lúc đỡ tẻ trong đời êm lặng của tướng quân tại quận.
Các sử không chép việc ông ra trị Thanh Hóa. Vậy ta không biết rõ chính tích của ông. Chỉ có bia chùa Hương Nghiêm còn ghi chuyện ông, chia đất ở làng Bối Lý và bia Linh Xứng chép chuyện ông với một vị cao tăng tới thăm ông, cùng đi du lịch các núi sông, và chuyện ông dựng chùa Linh Xứng và nhà Thọ Đường mà thôi.
Về việc dựng chùa, sau này sẽ kể (XV/3). Sau đây là chuyện chia đất. Chùa Hương Nghiêm là một ngôi chùa cổ, lập ra từ đời Đường, ở giáp Bối Lý. Người sáng lập là Lê Lương, một kẻ rất giàu có và nhiều thế lực trong hạt. Gặp năm đói kém. Ông lấy của nhà phát chẩn cho dân. Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi, vua ban cho ông chức tước và thực ấp. Thực ấp ấy là đất chung quanh chùa, có lẽ rộng như một phủ, huyện. Đến đời Lý Nhân Tông họ Lê có vị đại sư rất có tiếng là Đạo Dung. Sư lại có người anh họ, là Lưu Khánh Đam (XV/1), bạn thân của Lý Thường Kiệt. Vì vậy, Thường Kiệt đã vì sư và Khánh Đàm, sửa chữa chùa Hương Nghiêm ở trong trị hạt của ông.
Bia HN chép chuyện trên, nối lời rằng:
“Năm Tân Dậu (1081), hai phò ký lang, họ Thiều và họ Tô, xin đất phong ấp của họ Lê. Vua bèn xét, định trả lại giáp Bối Lý cho họ Lê. Mùa thu năm ấy, thái úy Lý Cộng tới trả ruộng đất. Ông lập bia đá chia ruộng cho hai giáp... Thái úy dặn đi, dặn lại, bảo hai giáp không được lấy một là lau lách ở hai bên bờ phân giới.”
Chính tích của Lý Thường Kiệt trong mười chín năm tại trấn, mà nay chỉ ghi được một công việc cỏn con như thế mà thôi. Thật là đáng tiếc, mà đáng trách các sử gia và văn sĩ ta đã không ghi chép việc thường ngày.
_____________________________________
1. Sách TT chép chuyện Lê Hoàn đánh các tướng nhà Đinh, là Đinh Điền, Nguyễn Bặc ở Tây Đô (979 TT 1/7b) Nhân đó chú thích: “Hoàn người Ái Châu, đóng đô ở Hoa Lư; cho nên sử gọi Ái Châu là Tây Đô”.
Năm N.Ng 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm Thành, đem quân từ Hoa Lư qua đường núi, qua huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc, đến đền Đồng Cổ (ở xã Han Nê, trên trung lưu sông Mã), từ đó đến sông Bà Hòa(?), đường núi hiểm trở, binh mã phải khó nhọc. Đường bể thì bị sóng gió. Cho nên Lê Hoàn sai đào “Hải đạo tân cảng”, nghĩa là sông mới trên đường bể. Đến năm 984 mới xong (TT). Có lẽ đó là sông nối Thần Phù ở Ninh Bình và sông Chính Đại ở Thanh Hóa, mà ngày nay còn dùng.
Năm K.Su 989, Lê Hoàn thân chinh Dương Tiến Lộc, vì Tiến Lộc không chịu nghe lệnh thu thuế ở Hoan Châu, và Ái Châu (TT và VSL)
Năm Q.Ti 993, phong con thứ năm, Long Tùng, làm Định phiên vương, ở vùng Ngũ huyện Giang (TT) Năm G.Nh 994, phong con thứ mười, Long Mang, làm Nam quốc vương ở châu Vũ Long (phía nam Thanh Hóa) (TT).
Năm T.Su 1001, Lê Hoàn thân chinh giặc Cửu Long ở Thanh Hóa, trông thấy Hoàn đằng xa tướng giặc trương cung nhằm bắn, thì tên rơi. Lại trương cung bắn lần thứ hai, thì cung gẫy. Nên giặc sợ mà lui quân. Hoàn bèn đưa thuyền vào sông Cùng Giang đuổi theo. Bị giặc nấp hai bên sông bắn. Con Đinh Tiên Hoàng là Vệ vương Tuấn tử trận. Hoàng kêu trời ba tiếng, rối thúc quẤn Đột chiến, giặc bèn thua (TT và VSL). Nhữ Bá Sĩ trong Thanh Hóa chí đã nhận thấy rằng huyện Cẩm Thủy có tổng Cự Lữ và các xã Lữ Thượng, Lữ Trung, Lữ Hạ và nói đó là do tên Cửu Long xưa mà ra. Nếu Cử Long là Cẩm Thủy, thì sông Cùng Giang cũng không xa đó. Nhưng VSL chép hai lần sự vua Lý Nhân Tông đi xem đánh cá ở Cùng Giang (1101, tháng 2 và tháng 9) và lúc tháng 2, lại đi xem cày ở Ứng Phong (phủ Nghĩa Hưng ngày nay, theo CM). Không biết rằng đó là sông Cùng Giang khác, hay là cũng sông Cùng Giang kia ở Thanh Hóa, nhưng gần phủ Nghĩa Hưng. Hoặc ấy là sông Chính Đại đã nói trên chăng? Thế cũng có lý, vì dân Cử Long có thể đã xuống đánh vùng Nga Sơn ngày nay, cho nên năm 1001, Lê Hoàn vào dẹp ở đó. Tôi tin như thế là đúng, vì bốn năm sau, là năm 1001, dân Cử Long chắc là dân Mường ở các huyện thuộc miền bắc và tây bắc Thanh Hóa.
Năm A.Tị 1005, sau khi Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi. Đông thành vương chạy vào Cử Long, rồi, bị Long Việt đuổi theo, bèn chạy vào Chiêm Thành, nhưng bị giết ở cửa Kỳ La (Hà Tĩnh). Long Việt lên ngôi, liền bị Long Đĩnh giết. Trong khi Long Đĩnh đi đánh các anh em ở mọi nơi, thì nghe dân Cử Long lại vào cướp, và đã đến cửa Thần đầu (Thần Phù). Long Đĩnh đi thuyền tới đánh tan (TT)
Năm Q.Ma 1003, Lê Hoàn đi chơi Hoan Châu (TT). Có ghé thăm Thanh Hóa và viếng chùa Hương Nghiêm (bia HN).
Năm K.Zu 1009, tụi Ngô Đô Đốc, Kiều Hành Hiến xin đào sông đắp đường, dựng bia chỉ đường ở Ái Châu. Long Đĩnh sai quân và dân Ái Châu đào sông và đắp đường từ cửa quan Chi Long, qua núi Đỉnh (hay Hạng TT), đến sông Vũ Lung. Long Đĩnh lại đi chơi Ái Châu. Tới sông Vũ Lung. Tục truyền rằng ai lội qua sông ấy hay bị chết đuối, Long Đĩnh sai người lội qua lại ba lần, mà không việc gì. Bèn sai đóng đò để bốn chỗ trên sông, cho người qua sông (TT) Về Chi Long, sách Thiên hạ lợi bệnh thư có nói Chi Long quan ở huyện Chi Nga tức là Nga Sơn ngày nay. Sông Vũ Long, chữ nho viết vũ là trái với văn, lung là thủy với long. Bia HN có chép tên đất Vũ Long, nhưng vũ là múa và long là rồng. Theo nghĩa văn bia, thì đất ấy ở phía năm sông Lương. Chắc rằng Vũ Lung và Vũ Long là một. Sông Vũ Lung có lẽ là sông Ngọc Giáp ở phía nam huyện Quảng Xương ngay nay.
Năm M.Ta 1008, Long Đĩnh đánh Ái Châu (VSL, còn TT nói đánh Hoan Châu), bắt người ta bỏ cũi mà đốt.
2. Năm T. Ho 1011, tháng 2, Lý Thái Tổ đem đại binh đánh diệt hẳn giặc Cự Long, bắt được thủ lĩnh đem về. (TT và VSL)
Năm K.Ti 1029, dân giáp Đãn nại nổi loạn. Tháng 4, Lý Thái Tông thân chinh dẹp yên (TT, VSL). Sai dân Đãn Nại vào sông Đãn Nại. (TT).
Năm T.Vi 1031, Thái Tông đi đánh Hoan Châu (TT, VSL). Ghé chơi Ái Châu, qua thăm chùa Hương Nghiêm (bia HN)
Năm A. Ho 1035, Ái Châu có loạn, tháng 10 Thái Tông thân chinh. Xử tội mục trưởng Ái Châu (TT VSL). Năm. Q.Vi 1043 tháng giêng, Ái Châu lại nổi loạn. Vua sai hoàng thái tử Khai Hoàng Vương dẹp yên (TT, VSL)
Năm C.Da 1050, dân giáp Long Trì thuộc Ngũ huyện giang ở Ái Châu nổi loạn. (VSL).
Năm T.Ma 1051, sai kiêu vệ tướng quân Trần Nậm đem người Ngũ huyện đào sông Cá Lẫm.
4- Trở về triều
Bia BA kể công đức Lý Thường Kiệt ở Thanh Hóa có nói: “Trong mười chín năm, ông thực hành tiết tháo.”
Ta có thể hiểu rằng ông ở Thanh Hóa trong mười chín năm, từ năm 1082 đến năm 1101. Sách TT chép vào năm Tân Sửu 1101 việc vua Nhân Tông cải nguyên, lấy niên hiệu Long Phù (VSL chép Long Phù nguyên hóa) và cử Lý Thường Kiệt kiêm chức Nội thị phân thủ đô ấp nha hành điện nội ngoại đô tri sự, nghĩa là một chức quan hầu gần vua, và coi hết các việc trong ngoài cung điện. Như thế đủ tỏ rằng có sự thay đổi lớn ở triều trong năm ấy, và Lý Thường Kiệt được gọi về kinh.
Hai chứng phù hợp với nhau cho ta biết chắc rằng, năm Tân Sửu, vua Lý Nhân Tông mời ông về Thăng Long giữ chức tể tướng trở lại. Lúc rời kinh, ông 64 tuổi; bấy giờ trở về, đã 83 tuổi.
Vì lẽ gì có việc thay đổi này?
Năm năm trước, thái sư Lê Văn Thịnh bị cách chức, vì có việc vua hiềm nghi ông muốn dùng thuật pháp để hại vua (XIV/6). Văn Thịch bị đầy vào Thanh Hóa1, giao cho Thường Kiệt giữ. Sử không chép ai thay chức tể tướng.
Sau đó mấy năm liền, nhiều hiện tượng thiên nhiên xảy ra, mà người ta cho là điềm xấu, báo sự Trời không bằng lòng nhân chính hay tin trước những sự tai họa sắp xẩy ra, như: tật dịch, binh đao, hoặc một vị đại thần, thái hậu, vua sắp mất. Khi thấy có những điềm ấy, vua thường tự xét mình có tội lỗi gì và tìm phường cứu chữa. Hoặc sai xét lại các án, hoặc phóng thích tù nhân, hoặc cầu “trực ngôn”, nghĩa là cho phép công luận một cách không dè dặt chỉ trích chính sách triều đình và đề khởi những chính sách mới. Cũng có lúc dùng lễ bái để cầu trời, cầu Phật tha lỗi, hay là dùng một cách giản dị hơn, là đổi niên hiệu để tỏ mình bắt đầu một kỷ nguyên mới, như một người thường dân, gặp vận đen, đổi nhà hay đổi họ, đổi tên.
Năm Đinh Sửu, chín tháng sau khi Lê Văn Thịnh phải tội, trên trời, sao hiện giữa ban ngày. Vua liền xá tội cho các tù nhân giam ở nhà ngục Đô hộ phủ ở Thăng Long (VSL 1097). Một năm sau nữa, đất động, sao chổi lại hiện ra. Vua 35 tuổi, vẫn chưa có hoàng tử. Vua lập đàn, có xây núi Ngao Sơn trên đất cạn; dựng đài cao, chung quang treo đèn đủ sắc, đủ kiểu, ở trên có vũ nữ múa, nhạc công cử nhạc (VSL 1089). Rồi trong hai năm, vua Nhân Tông và thái hậu dựng nhiều chùa, ở núi An Lão (ở Kiến An, 1099 VSL), ở núi Tiên Du (ở Bắc Ninh, 1110 VSL). Vua sai Kiều Văn Tư đi sứ Tống để xin kinh Tam Tạng (tháng 7 năm C.th 1110, VSL).
Vua cố gắng như vậy, nhưng tai nạn cũng không tránh khỏi. Cuối năm Canh Thìn 1110, bệnh dịch phát to trong nước (TT và VSL, tháng chạp). Vì vậy, mà đầu năm sau, vua mới cải nguyên và mời Lý Thường Kiệt về kinh.
Ông có thay đổi chính trị gì không? Các sử ta chép những khoảng nầy rất sơ sài, nên không thấy nói gì về chính sự. Chỉ thấy trong mấy năm liền, chép rặt chuyện dựng chùa, xây tháp; và chuyện vua đi các hành cung xem cày, gieo thóc, xem đánh cá, hoặc săn voi (VSL).
Tuy nhiên, ta cũng còn thấy sử chép một đôi việc, có thể đoán là do sáng kiến của ông mà ra. Liền sau khi ông từ Thanh Hóa trở về triều, ông đổi châu Hoan ra phủ2 Nghệ An (VSL). Chắc rằng, ông đã thấy vị trí quan trọng của châu Hoan trong việc phòng thủ nước nhà, nên ông cất xứ ấy lên hàng phủ để tăng số quân lính coi giữ. Cuối năm Nhâm Ngọ 1102, lụt to, nên đầu năm sau ông sai các nơi trong và ngoài thành đều đắp đê chắn nước (VSL).
Tuy chính tích ông còn ghi rất ít, nhưng ta cũng tin rằng sự ông về triều đã làm yên lòng vua và dân. Những năm sau đó đều là những năm thịnh. Sử còn chép rằng vào tiết lập xuân, tháng chạp năm Nhâm Ngọ, đầu năm 11033, “thụy tuyết” xuống. Tuyết là sương muối chăng? Bấy giờ cho rằng nó báo điềm tốt. “Rồng vàng” lại hiện, “mây tốt” cũng thấy trên trời, hươu đen tự nhiên tới. (VSL)
Vua ban áo lạnh cho các quan, đặt lễ thu yến (VSL 1101). Thái hậu đem tiền kho chuộc con gái nhà nghèo đã phải thế thân để trả nợ, rồi đem gả cho những đàn ông góa vợ nhưng không có tiền cưới vợ khác (TT và VSL 1103). Sứ Chiêm tới cống. Vua sai Đỗ Anh Hậu đi sứ Tống. Thật là cảnh tượng thái bình. Chỉ có cuối năm. Quí Mùi 1103, đầu năm Giáp Thân 1104, có loạn ở miền nam, nhưng hình như cũng không nguy kịch mấy.
Sau khi Lý Thường Kiệt tự đem quân dẹp các loạn Lý Giác ở Diễn Châu (1103), và Chiêm Thành ở các châu Bố Chánh (1104), ông liền tổ chức lại quân đội trong nước. Tháng ba năm Giáp Thân 1104, duyệt lại các đơn vị, tử cấm binh đến dân quân. Đổi hai đội binh hoàng nam dũng tiếp tả và hữu ra đô Ngọc giai. Đô là đội thân quân, hộ vệ Vua và giữ cung điện. Đô Ngọc giai là đô hầu bên “thềm ngọc”, tức là gần bên ngai vua. Đội binh Ngự Long được đổi ra đô Hưu Thánh và đô Quảng Vũ4. Đó là cấm quân. Còn sương quân thì có quân của các đại tộc, tức là quân của các nhà quan có quyền thế, nhưng không phải họ vua; và dân quân vừa cày vừa làm lính, gọi là điền nhi. Quân của nhà quan đổi thành lính Vũ thắng. Điền nhi đổi ra lính Thiết lâm. Sách VSL chép rõ những sự cải cách trên. TT chỉ nói: “tháng ba, lại đổi hiệu các cấm vệ binh”.
_______________________________________
1. TT chép Văn Thịnh bị đày lên miền nguồn Thao Giang, (Thượng lưu sông Nhị). Nhưng VSL chép: Bị đày lên nguồn Lương Giang. Lăng Bối Lý (XV/3) có sinh Lê Quát, đậu trạng nguyên đời Trần Minh Tông. Tục truyền rằng ông là dòng dõi Lê Văn Thịnh. Vậy sự Lê Văn Thịnh bị đày vào Thanh Hóa có lẽ đúng. Vả chăng đất Thanh Hóa là đất để giam tù nhân. Ví dụ năm 1128, đày dân làm loạn ở Quảng Nguyên vào Thanh Hóa (TT).
2. Thực ra tên Nghệ An đã có từ năm 1036. Tháng tư năm B.Ty 1036, Lý Thái Tông đặt hành doanh ở Hoan Châu ở Nghệ An (TT). Nhưng bấy giờ còn chỉ là một châu. VSL nói năm 1101, đổi Hoan Châu ra Nghệ An phủ. Nhưng trong các đời sau, chỉ thấy sử chép Nghệ An châu mà thôi, ví dụ TT 1128, 1073, 1131, 1132 vân vân.
3. VSL chép tháng chạp năm N.Ng 1102 có lập xuân. Theo phép lịch, thì năm ấy phải là năm nhuận, và có hai tiết lập xuân. Còn TT chép vào tháng giêng nay xét lịch nhà Tống thì năm ấy có tháng sáu nhuận. Vậy chắc VSL chép đúng. Còn TT có lẽ thấy sử cũ chép tiết lập xuân vào mùa đông tháng chạp, cho là vô lý, cho nên tự chữa.
4. Năm 1118, Nhân Tông chọn 350 con trai hạng đại hoàng nam mạnh khỏe, để sung vào đô Ngọc Giai, Hưng Thánh và Ngự Long Bính (TT). Xem vậy, hình như tên Ngự Long không bỏ.
5- Dẹp loạn Lý
Giác
Nhưng sau khi Thường Kiệt rời bỏ Thanh Hóa, dân miền Nam lại có kẻ manh tâm làm loạn. Tuy rằng Nghệ An được củng cố phòng thủ hơn trước, ở đất Diễn Châu có Lý Giác chống với quan quân. Tương truyền rằng Giác học được phép phù thủy, dùng án binh sai khiến quân lính giả, bện bằng rơm bằng cỏ, Giác bèn chiêu tập nhưng kẻ vô lại, chiếm Diễn Châu, đắp thành để làm loạn. (TT).
Sách CM chép lại chuyện trên theo TT, nhưng có thêm nhiều chi tiết sau, mà không thấy ở sách hay bia cũ nào chép cả. Có lẽ CM lấy ở một thần tích nào chăng? Tin loạn Lý Giác báo về đến kinh, vua hỏi quần thần có ai có thể cầm quân dẹp nổi. Các quan đều trỏ Lý Thường Kiệt, tuy rằng bấy giờ ông đã 85 tuổi. Vua nói: “Giặc Lý Giác Kiệt hiệt. Nên chọn tướng trẻ tuổi mà địch nó. Thường Kiệt dự việc binh đã lâu năm, nay đã già rồi. Nếu nay Trẫm còn giao cho việc quân, thì không đành lòng Trẫm muốn đãi kẻ lão thần”. Thường Kiệt cúi đầu tâu rằng: “Tôi từ trước, chưa học mưu lược của kẻ làm tướng. Thế mà đánh Chiêm, phạt Tống, may mà được thành công. Đó là nhờ đức thiêng của Bệ hạ, và sự gắng của các tướng thần. Nay nhờ ơn nước tôi được ngôi cao, lộc trọng thế này. Nếu cứ ngồi yên xem giặc Giác làm kiêu, thì tôi sẽ chết không nhắm được mắt”. Rồi ông tình nguyện đi đánh. Vua ban lời khen ngợi, và bằng lòng để ông đi.
Diễn Châu là đất phía bắc tỉnh Nghệ An và có lẽ gồm một ít đất tỉnh Thanh Hóa. Thường Kiệt đem quân đến đánh. Lý Giác thua, bỏ chạy vào Chiêm Thành. Dư Đảng bèn tan.
Việc loạn Lý Giác này cũng như việc đánh Chiêm Thành năm sau, có lẽ không phải là một cuộc xuất quân quan trọng như CM có ý kể lại trên đây. VSL không hề chép lại việc ấy. Còn VĐUL chỉ nói qua về Lý Giác mà thôi. Dẫu sao, chuyện Lý Giác có kết quả là gây lại mối chiến tranh với Chiêm Thành một lần nữa.
6- Đuổi quân Chiêm
Lý Giác chạy chốn vào Chiêm Thành, nói rõ tình hình trong nước ta cho vua Chiêm nghe. Theo TT, vua Chiêm bấy giờ là Chế ma na; Maspéro nói là Indravar-man II. Có lẽ Giác mách vua Chiêm rằng từ khi Nhân Tông thân chính, về vũ bị không gia ý như trước. Cho nên vua Chiêm đem quân vào chiếm lại các đất Lâm Bình, Minh Linh và Bố Chánh mà Chế Củ đã nhường cho ta.
Tháng hai năm Giáp Thân 1084, vua Lý sai Thường Kiệt đem quân vào đuổi. Quân Chiêm thua. Chế ma na phải trả lại ba châu ấy. (TT)
Như trên đã nói, việc đánh Chiêm Thành này không kịch liệt. Đó chỉ là một cuộc tuần biên. Một mình TT chép chuyện mà thôi. Các sách VSL và VĐUL đều không nói đến. Các bia đời Lý cũng không bia nào ghi việc ấy cả. Nhưng nếu ta xét lịch sử bang giao Chiêm Việt từ lúc Tống Lý chiến tranh, ta cũng có thể hiểu được rằng cuộc xung đột lần này có thể xảy ra, nhưng cũng chẳng quá một cuộc xích mích ở biên thùy.
Trước đó, Chiêm Thành đã nghe lời Tống, đem quân chực đón đánh quân ta, trong khi quân Quách Qùi tấn công mặt bắc để dồn quân ta xuống cõi miền nam (1076-1077). Nhưng sau, thấy quân Tống phải rút lui, Chiêm Thành lấy làm lo, sợ ta trả thù. Vì vậy, trong năm 1077, Chiêm sai sứ tới nước ta; và sứ thần Chiêm, khi tới Biện Kinh cùng một lúc với sứ ta đã tìm cách tránh mặt (XII/3) Sách VSL chép rất kỹ về việc sứ Chiêm tới, và còn cho ta biết rằng từ năm 1081 đến 1091. Năm nào sứ Chiêm cũng đến cống vua Lý. Trong khoảng ấy, vua Lý cũng có sai Mạc Hiển Tích đến nước Chiêm một lần (TT 1084). TT nói là để đòi lễ tuế cống, nhưng có lẽ không phải, vì mấy năm liền, Chiêm không hề chiếu cống.
Năm 1092, vua Chiêm hơi đổi ý. Nhân sứ Chiêm tới Tống, vua Chiêm xin Tống đem quân đánh Lý, và hẹn sẽ tập kích để yểm hộ. Vua Tống nói rằng: “Chiêm Thành có thù cũ với Giao Chỉ. Hiện nay, Giao Chỉ vẫn giữa thần tiết vào cống thường thường. Vậy khó lòng bàn việc cất quân đánh Giao Chỉ.” (TB 470/1a)
Chiêm Thành nghỉ cống trong ba năm. Năm 1094, lại bắt đầu sai sứ đến triều Lý, hoặc một, hoặc hai năm một lần 1, cho đến hết đời Lý Nhân Tông. Nhưng chính năm 1103, không thấy sử chép Chiêm tới cống, mà năm 1104 lại có. Xem vậy, ta có thể hiểu rằng, đó là vì có Lý Giác xui giục Chiêm Thành vào đánh nước ta. Vua Chàm sẵn thù vua Lý, nên bị lầm, tưởng nước ta bấy giờ yếu, nên mới đem quân vào chiếm miền nam. Nhưng khi Thường Kiệt kéo quân vào, thì quân Chiêm liền lui. Vua Chiêm lại sai sứ tới Thăng Long như cũ (VSL 1104). Vả Thường Kiệt cũng không có ý kéo quân vào chiếm thêm đất Chiêm. Bấy giờ ông đã 85 tuổi. Tuy không hăng hái như trong trận năm 1069, nhưng như vậy mà còn cầm quân đi xa hơn ngàn dặm. So với chuyện Mã Viễn đời Hán cũng chẳng kém gì.
____________________________________
1. Theo VSL, từ khi bị Lý Thánh Tông đánh bại đến hết đời Nhân Tông, Chiêm Thành sai sứ cống vua Lý, vào những năm sau này. 1073, 1075, 1077, 1081, 1082, 1083, 1084, 1085, 1086, 1087, 1088, 1089, 1091, 1094, 1095, 1097, 1098, 1099, 1102, 1104, 1105, 1106, 1108, 1110, 1111, 1116, 1118, 1120, 1126.
7 - Huân dự cuối
cùng
Vua Nhân Tông nghị công ông đánh dẹp, đem vũ uy làm chấn động từ Tống đến Chiêm, bèn chế bài hát để tân dương công trạng. Rồi ban ông chức: Triều quốc thái úy, thủ thượng thư lệnh, khai phủ nghị đồng tam ti, kiêm ngự sử đại phu, dao thụ chư trấn tiết độ sứ (NBS).
Nhưng tuổi già, ông không chịu nổi gian lao trong cuộc đuổi quân Chiêm. Năm sau, vào tháng 6 năm Ất Dậu 1105, ông mất tại kinh đô. Thọ 86 tuổi (NBS chép 87). Các sử TT và VSL đều chép như trên. TT và VĐUL có thêm: Vua tặng quan chức tước lộc như sau: Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy, bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, thực ấp vạn hộ1.
Vua lại phong cho em là Thường Hiến nối tước hầu. Theo NBS, vua ban tên thụy là Mục Uyên.
Nhữ Bá Sĩ nói mộ Lý Thường Kiệt đặt tại làng Yên Lạc, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay2.
Đầu đời Lý Anh Tông, niên hiệu Thiệu Minh (1138), vua sai trấn quan lập đền ở núi Ngưỡng Sơn (Thanh Hóa), tại nhà Thọ Đường (chắc là sinh từ), bên cạnh chùa Linh Xứng, mà ông đã từng dựng lên. Vua lại sai dân hai tổng (NBS chép tổng, nhưng chế độ Tổng là đời sau mới đặt ra) Ngọ Xá và Hoàng Xá phụng sự. Mỗi năm có bạn quốc tế (NBS). Đời Trần Nhân Tông, năm đầu niên hiệu Trùng Hưng (1285), vua ban sắc, phong ông tước trung phụ công. Năm Trùng Hưng thứ 4 (1288), lại gia phong hai chữ Dũng vũ. Đời Trần Anh Tông, năm Hưng Long thứ 21 (1313), lại tấn phong làm Uy thắng đại vương (đó là theo NBS, VĐUL chỉ nói gia phong hai mỹ tự Uy thắng mà thôi). Về đời sau, nhiều lần được phong thêm hai chữ mỹ tự. Cho đến đời Tự Đức thứ 29, 1876, đã có 258 chữ. (NBS)
Trong sổ Bách thần lục đời Tự Đức, Lý Thường Kiệt chỉ được liệt vào trung đẳng, và thường có hiệu Quảng uy Lý tôn thần, hay Mục uyên vũ dũng thần, hay Thái úy Việt quốc công tôn thần, hay nói tắt Lý thái úy tôn thần.
Ngày nay, còn có một vài nơi có đền thờ Lý Thường Kiệt. Đền chính ở xã Ngọ Xá, phủ Hà Trung (Thanh Hóa). Theo bia NBS thì huyện Kim Động (Hưng Yên), và huyện Vĩnh Thuận (gần trường đua ngựa ở Hà Nội), cũng có đền. Trong mục lục sách VĐUL, có chép đền ông ở Gia Lâm Hương. Nhưng ngày nay không rõ ở đâu nữa.
Đền mà NBS nói ở các làng thuộc Kim Động (nay một số ăn về huyện Đông An), thì không phải thờ Lý Thường Kiệt3. Đền Vĩnh Thuận, thì nay có lẽ là một ngôi đền nhỏ, lẫn vào những nhà dân làm nghề trồng rau ở Vĩnh Phúc, gần đua ngựa. Kẻ thủ từ, cho đến dân làng, cũng không biết đích xác thần là ai nữa. Mà xét ra, thì đền cũng không giữ được dấu vết gì xưa.
Đến Ngọ Xá tuy cũng nhỏ, nhưng ở vào địa thế rất đẹp. Đền ở xa thành thị, nên còn giữ được tính cách một miếu thần. Theo bia NBS ở đền, thì đền này lập từ đời Lý Anh Tông (1138), nhưng sau bị đổ nát. Đến đời Lê Trung Hưng, vua Lê tin rằng thần đã giúp mình đánh Mạc, nên sai dân xã Ngọ Xá trùng tu, và cấp cho 20 suất tảo lệ, và 18 suất lệ phu coi việc tế tự và giữ đền.
Năm Cảnh Hưng thứ hai (T.Zu 1741), vua sai theo lệ trước lập đền ấy. Giao cho dân ba thôn Bùi, Đồ, Thị trông coi việc tế tự. Những kẻ sung vào việc đền đều được tha hết thuế, dịch khác. Năm Cảnh Hưng Bính Thân 1776, lại gia phong hai chữ tối linh, nghĩa là rất thiêng (theo tựa thần tích ở làng Ngọ Xá).
Những điều ban ấy, thì trước năm 1942 đã bỏ hết; nhưng trong miếu vẫn còn. Miếu ở phía tây Đô Lèn, cách cầu xe lửa chừng hai cây số. Miếu dựng trên bờ bắc sông Lèn. (Nga Giang) ở châu nam núi Ngưỡng Sơn. Về kiến trúc miếu không có gì đặc biệt. Chỉ có ba gian nhà ngói sơ sài trên một miếng đất cao. Trong đền, tự khí chỉ có ba hương án với một ngai đồ ngũ sự bằng gỗ mà thôi. Vật gì cùng là đồ mới, đơn sơ. Trên thềm miếu có hai tấm bia, là đồ cũ hơn cả. Bia ở phía tây, là bia NB, mới làm và khắc đời Tự Đức thứ 29 (1876). Bia ấy khá lớn, chữ khắc cả hai mặt. Bài bia là thần tích do Nhữ Bá Sĩ, là một nho học có tiếng trong đời Thiệu Trị, Tự Đức ở Thanh, soạn theo thần tích cũ, lại có tham khảo Việt Sử, Tống Sử và các sử khác. Tuy trong đó có những sự chép sai lầm, nhưng đối với các ký tải khác, thì đầy đủ hơn cả.
Bia đặt ở phía đông là bia chùa Linh Xứng, nay đem vào để gửi đó. Bia khắc đời Lý. Chữ còn rất rõ, nét rất tốt (xem ảnh III). Bia nhỏ hơn bia NBS, làm bằng đá xanh thớ mịn. Không trang sức. Những chữ triện ở “trán” đẹp, và nhất là con rùa đội bia lại có vẽ mỹ thuật. Bài văn bia và bài minh rất dài, khắc hết cả hai mặt bia. Người soạn văn bia là một vị cao tăng đã từng làm việc dưới quyền Lý Thường Kiệt. Trong chương XV sẽ nói rõ về bài này.
Trước đền có đám đất hoang, hơi trũng, hình như là một cái hồ cũ. Trước vườn có cửa tam quan gồm bốn cột gạch sơ sài. Trước cửa là đường đê, thông lộ từ huyện Nga Sơn đến huyện Vĩnh Lộc. Bên kia sông có đền thờ Lý Thường Hiến, có vẻ tráng lệ hơn nhưng lại không có bia đời Lý.
______________________________________
1. Bia LX, dựng sau khi Lý Thường Kiệt mất, kê đủ các chức tước của ông như sau: Suy thành, Hiệp mưu, Thủ chính, Tá lý, Dực đới công thần, Thủ thượng thư lệnh, Khai phủ nghị đồng tam ti, Nhập nội nội thị tỉnh đô đô trị, Kiểm hiệu thái úy, Kiêm ngự sử đại phu, Dạo thụ Dao Thụ chư trấn tiết độ sứ, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Thượng trụ quốc, Thiên tử nghĩa đệ, Phụ quốc thượng tướng quân, Việt quốc công, Thực ấp nhất vạn hộ, Thực thất phong tứ thiên hộ. Nghĩa là: Kẻ bầy tôi có công, trung thành, bày mưu, cầm tiết, giữ chính, giúp việc, phò tá; coi việc ti thượng thư, được cầm quyền mở phủ, ngang với tam ti, được vào nội, coi tất cả các việc chầu trong cung, lĩnh chức thái úy đứng đầu các quan; kiêm chức ngự sử đại phu kiểm soát việc chính; ở Kinh coi việc quân tất cả các trấn, cùng coi việc bí thư, hằng ngày đến gần vua bàn việc; hàm thượng trụ quốc, đã có công bắt được tướng giặc; em nuôi vua; chức thượng tướng giúp nước; tước quốc công, hiệu việt; được phong lộc hạng một vạn hộ; được thật phong lộc bốn nghìn hộ.
Bia BA (dựng trước khi ông mất) kê có khác một vài chữ như sau: Chữ hiệp ở bia BA viết khẩu và thập, ở LX viết thập và ba chữ lực; Chữ nghị đồng thì BA viết khâm đồng; chữ phụ quốc thì BA viết khai quốc.
2. Về mộ Lý Thường Kiệt, bia Nhữ Bá Sĩ nói là ở làng Yên Lạc ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Không biết rằng Bá Sĩ chép sự ấy theo ai, nhưng có lẽ theo sổ các vị thần được ghi vào điền bộ. Chính trong sách ĐNNTC, soạn đời Tự Đức, cũng chép rằng huyện Kim Động có đền thờ Lý Thường Kiệt.
Nhưng theo lời các làng thuộc tỉnh Hưng Yên khai các vị thần thờ trong hạt, để trả lời một cuộc điều tra của viện Bác Cổ năm 1938, thì những làng Yên Lạc và lân cận (Cao Quan) Hoàng vân ngoại, Hoàng vân nội, Thổ Khối, Kim Tháp (nay thuộc huyện Đông An phủ Khoái Châu kiêm lý), và Đào Xá, Tượng Cước, Bình Câu, Vũ Xá, Đề Cầu, Lôi Cầu (thuộc Kim Động) đều khai tên thần mình là Đức thánh Lác và tên là Đỗ Anh Vũ. Nhưng đến khi kể thần tích, thì phần lớn đều kể chuyện của Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành và đánh Tống.
Đền chính là đền Yên Lạc, nay cũng thuộc về huyện Đông An; cho nên thường chỉ gọi thần là Đức Thánh Lác mà thôi, vì tên tục làng là Lác. Làng còn có đám đất chừng tám mẫu gọi là cấm địa, trong đó có mộ của thần.
Vì sao có sự mâu thuẫn như thế? Và đức thánh Lác đích là ai?
Thủa xưa mộ thần có bia lớn, nhưng nay đã “chìm” mất. Đó là theo người làng Yên Lạc. Họ lại kể chuyện rằng vì trẻ chăn trâu thường đốt lửa cạnh bia, cho nên bia đã vỡ và lấp xuống đất mất. Nhưng làng còn bản sao bia ấy. Tuy kẻ chép lại có bỏ sót hoặc viết sai một vài chữ, và tuy rằng bản sao không có niên hiệu và tên người làm bài bia, nhưng tôi đã xét kỹ nội dung bài văn bia, thì thấy rằng bia ấy thật dựng từ đời Lý, và dựng vào năm 1158. Ngoài những chứng như cách dùng chữ hư tự Nãi, Yên giống ở các bia đời Lý khác ngoài những chuyện chép khá phù hợp với sách TT, còn có một chứng rất chắc chắn là sự sau nầy. Bia có chép rằng Lý Anh Tông lấy con gái họ Đỗ tên Thụy Châu. Việc ấy trong TT không có. Nhưng trong VSL lại có (VSL 1175). Ta biết rằng sách VSL đã viết vào đời Trần, và bí mật ở xứ ta, có lẽ vào khoảng đời Minh Vĩnh Lạc. Sự bia và VSL có chép tên Đỗ Thụy Châu, mà TT không chép, bắt buộc ta phải kết luận rằng vi phỏng bài bia kia có kẻ bịa ra, thì ít ra cũng từ đời Trần. Nhưng cũng không có gì khiến ta nghĩ rằng bài bia kia đã bị “bày đặt”, như các thần tích khác. Huống chi bia này là một mộ chỉ kể chuyện một người vừa mất, chứ không phải chuyện một vị thần. Vậy ta có thể tin rằng mộ chí kia thật dựng lên đời Lý.
Mộ chí ấy là mộ chí Đỗ Anh Vũ, làm thái úy đời Lý Anh Tông, chứ không phải là mộ chí Lý Thường Kiệt. Mặc dầu bia NBS và sách ĐNNTC nói Lý Thường Kiệt táng và có đến ở làng Yên Lạc, mặc dầu các làng ở Kim Động và Đông An khai chuyện đức thánh Lác y như chuyện Lý Thường Kiệt, mộ chí ở làng Yên Lạc buộc ta phải nhận rằng đức thánh Lác là Đỗ Anh Vũ, đúng như tên khai bởi các làng thờ thần.
Thế thì tại sao lại có sự hồ đồ ấy? Có lẽ vì những cớ sau này. Nguyên là Đỗ Anh Vũ cũng làm đến chức thái úy ở đời Lý như Lý Thường Kiệt. Mà theo mộ chí Anh Vũ lại được vua ban họ Lý. Cho nên cũng gọi là Lý thái úy, y như Thường Kiệt, lại thêm, dòng đầu ở mộ chí có đề “Cự Việt quốc Thái úy Lý Công Thạch bi minh tự”, nghĩa là bia tựa của lời khắc vào bia quan thái úy họ Lý người nước Cự Việt (tức là Đại Việt) Nếu kẻ đọc bia chữ đã mờ mà không để ý thì dễ nhầm ra Việt quốc công thái úy Lý Công nghĩa là Lý Thường Kiệt. Chức tước Đỗ Anh Vũ cũng dài và gần giống chức tước Thường Kiệt. Chức tước ấy như sau (những chữ giống chức tước Thường Kiệt sẽ viết xiên): Suy trung, Hiệp mưu, bảo tiết, Thủ chính, tả Lý, Dực đái công thần; Thủ thượng thư lệnh, Khai phủ nghị đồng tam ti; nhập nội nội thị tỉnh đô đô trị, Kiểm hiệu thái úy, Kiêm ngự sử đại phu, Dao thụ chư trấn Tiết độ sứ, Đồng trung thư, minh chính bình chương sự, Thượng trụ quốc, Thiên tứ tính. Đặc tiến phu quốc thượng tướng quân Nguyên Soái đại đô thống.
Gặp loạn lạc, hoặc đời Lê, hoặc đời Nguyễn, thần tích làng Yên Lạc đã mất. Các làng thờ đức thánh Lác không còn thần tích nữa. Tuy vậy, ai cũng còn biết tên thần là Đỗ Anh Vũ. Đến khi phải khai sự tích thần mình, thì không mấy ai để ý đến mộ chí kia, hoặc họ chỉ xem qua dòng đầu mà cho đó là mộ Lý Thường Kiệt, hoặc họ chỉ nhớ rằng thần là Lý Thái úy làm quan đời Lý, có công dẹp giặc; rồi họ cho đó là Lý Thường Kiệt. Vì vậy, tuy có mộ chí, tuy người làng biết thần là Đỗ Anh Vũ có tên trong quốc sử, nhưng họ lẫn công lao với công lao của Lý Thường Kiệt. Còn người ngoài thì lầm tưởng mộ chí đền là của Lý Thường Kiệt.
Mộ chí này dài, có chép một ít tên đất, tên người và những sự tích rất có ích cho sự kiểm soát sách TT và VSL. Tiếc vì nay chưa tiện bới đất tìm bia, cho nên ta chưa chắc chắn tin vào văn sao được, và chưa có thể bàn một cách hoàn toàn chu đáo.
Nhưng mộ chí cũng cho ta biết một điều rất quan hệ có liên quan đến Lý Thường Kiệt, mà ta phải lập tức nêu ra. Ấy là vấn đề gốc tích của ông. Trong chương đầu sách này, tôi đã dựa theo bia NBS và sách VĐUL, và TT mà viết rằng Lý Thường Kiệt người phường Thái Hòa, họ Lý cha là An Ngữ, sung chức sùng ban lang tướng và mất ở Thanh Hóa năm 1031, trong khi ông còn bé. Thế mà theo mộ chí này thì ta thấy rằng cha Lý Thường Kiệt là một quan thái úy đời Thái Tông, họ Quách, quán ở huyện Câu Lậu, thuộc Tế Giang (ở đây có lẽ có chữ viết lầm, vì Tế Giang trở đất gồm huyện Văn Giang ở Tả ngạn Nhị hà, mà Câu lậu thì lại là đất huyện Thạch Thất ở hữu ngạn sông ấy). Nay xét các sách TT và VSL, ta thấy ở đời Thái Tông có thái úy Quách Thị Dật là tướng mà Thái Tông sai cầm quân đánh Nùng Trí Cao năm 1048. Có thể đó là người sinh ra Thường Kiệt.
Nếu quả vậy thì tại sao Thường Kiệt lại thành họ Lý. Mộ chí Đỗ Anh Vũ đã trả lời sẵn: ấy vì vua ban quốc tính cho ông. Tuy mộ chí không nói chuyện ấy xảy ra vào năm nào, nhưng có lẽ vào năm ông được ban hiệu Thiên tử nghĩa nam. Vua nhận ông làm con nuôi, thì tự nhiên cho ông họ Lý.
Trước khi tìm lại đích xác mộ chí này, tôi chỉ tạm dịch đoạn có nói đến Lý Thường Kiệt và sự liên quan giữa ông và Đỗ Anh Vũ. Đoạn ấy như sau:
“Tổ tiên Đỗ Anh Vũ là thái úy họ Quách, vốn người huyện Câu Lậu thuộc Tế Giang. Quách thái úy sinh Thường Kiệt giúp triều Nhân Tông. Đó là quan thái úy được vua ban quốc tính Lý. Cha Đỗ Anh Vũ tên là Tướng, họ Đỗ, tức là cháu ngoại sanh (nghĩa là con chị hay con em gái) quan thái úy họ Lý”.
Xem đó, ta thấy các thần tích, dẫu là xưa như những chuyện chép theo sách Việt điện u linh, cũng rất đáng nghi ngờ. Nhất là khi các thần tích ấy chép rõ các chi tiết vụn vặt, thì lại càng nên nghi hoặc.
Mộ Yên Lạc là mộ Đỗ Anh Vũ, thì mộ Thường Kiệt ở đâu? Ở làng Ngọ Xá không hề nghe nói đến mộ ông. Mà mộ cũng không thể ở phường Thái Hòa được, vì đời Lý, phường này còn ở trong thành Thăng Long. Phải chăng rằng ông đã hỏa táng và tàn được giấu vào ngôi tháp nào chăng? Hay là có mộ ở nơi nào nay chưa biết? Trong mục lục sách VĐUL, có chú thích dưới hiệu ông mấy chữ Gia Lâm hương. Ấy muốn nói đền chính thờ Lý Thường Kiệt là ở làng Gia Lâm (sau thành huyện). Vậy có lẽ tìm kỹ càng, ta có thể thấy mộ và mộ chí của ông trong địa hạt Gia Lâm ngày nay. Làng Gia Lâm cũng không xa làng Yên Lạc bao nhiêu; có lẽ cũng vì lẽ ấy, mà người đời sau lẫn với nhau hai vị thái úy đời Lý cùng được ban quốc tính.
3. Bài tựa thần tích ở đền làng Ngọ Xá có chép lại mấy câu trong sắc thần cũ: “Anh hùng xuất thế, văn vũ tư kiêm. Bảo đại định công, nẫm chuẩn y thanh ư tuyệt vực; khang dân thọ quốc, trường lưu tuấn dự ư thanh biên” nghĩa là: “Anh hùng hơn chúng, văn vũ gồm hay giữ đạo, định công, từng rậy uy thanh nơi lạ, yên dân, cứu nước, lâu còn tiếng tốt sử xanh”.
8- Dư luận
Công trạng Lý Thường Kiệt lớn lao như thế. Đời Lý đã rất được tán dương. Các bia Linh Xứng, Báo Ân và Hương Nghiêm đã ghi lại một vài lời tán tụng.
Trong lời minh ở bia LX, Hải Chiếu đại sư đã viết:
Nguyên văn:
Việt hữu Lý công,
Cổ nhân chuẩn thức.
Mục quận ký ninh,
Chưởng sư tất khắc.
Danh dương cực hạ
Thanh chấn hà vực.
Tông giáo qui sùng,
Cảnh phúc thị thực.
Nghĩa là
Việt có Lý công
Theo dấu nghển cổ
Coi quận yên dân,
Đánh đâu được đó.
Tiếng động cõi xa,
Danh lừng Trung thổ.
Dựng phúc chốn này,
Qui sùng Phật tổ.
Bia BA có những câu ca tụng huân nghiệp ông rằng:
“Đồ lâm đại tiết, ngôn thụ chuyết lưu. Tin hồ: lục xích chi cô khả thác, bách lý chi mệnh khả ký. Quyết hậu, nãi thệ vu sư; bắc chinh lân quốc, tây thoát bất đinh. Thiện thất tùng thất cầm chi thắng địch. Phi Hán hữu Hàn Bành chi công, khởi Tề hữu Quản Yên chi liệt. Duy Công phụ quân, quốc gia ân phú đa lịch niên, sở khả thùy thần đạo thiên cổ chi hi tích dã.” Nghĩa là: “Mưu thì đương được tiết lớn, lời thì nhận được mệnh to. Vua trẻ mồ côi có thể gửi cho ông, lệnh sai đi có thể giao cho ông. Sau, ông dốc lòng vẽ việc quân: bắc đánh nước láng giềng, nam phá nước không phục mệnh. Hay thắng địch bằng cách bắt rồi lại thả. Chẳng phải như công Hàn Tín, Bành Việt, ở Hán; há không bằng công Quản Trọng, Yên Anh áo Tề hay sao! Thật, ông giúp vua, làm nước nhà giàu mạnh đã lâu năm. Như thế có thể để lại muôn đời cái chính tích sang láng của kẻ bầy tôi!”
Bia STDL tán dương vũ công đời Nhân Tông có những câu:
“Trên ngôi yên lặng, quanh nước vỗ về. Thình lình biên lại làm xằng; đến nỗi bắc thùy có biến. Dồn dập ruổi quân cự địch, ầm ầm sấm động ra uy, thành Ung Châu ức nghìn quân giặc, tan tành như trận gió cuốn mây; sông Như Nguyệt trăm vạn binh thù, vỡ lở như mặt trời đốt già. Tuy ngoài trận, tướng quân ra sức; nhưng trong cung, hoàng thượng bầy mưu. Từ đó về sau, ngôi cả thảnh thơi, nhân dân phú thọ. Gió nhân thổi hóa dân ngu, mưa huệ thấm nhuần cõi lạ. Vua Chiêm Sạ chế, bỏ cung thất xin tới làm dân; chùa nước La Vu, lìa sơn hà sang qui chịu phục. Chúng đều dốc chi kính tôn, nghiêng lòng theo dõi.”
Chỉ cần nhắc lại rằng bấy giờ vua Nhân Tông mới lên mười tuổi, thì ta đủ hiểu rằng lời khen trên qui vào Lý Thường Kiệt là kẻ vừa cầm quyền vừa cầm quân.
Đời Trần tuy không có văn tán dương công trạng Lý Thường Kiệt để lại, nhưng sách Việt điện u linh viết đời ấy còn chép chuyện ông, và nói vua Trần Nhân Tông phong sắc thần cho ông. Thế cũng đủ biết danh ông còn lừng lẫy ở đời ấy. Chỉ tiếc rằng Lê Văn Hưu, trong Đại Việt sử ký, không để lại một lời bàn.
Đầu nhà Lê, Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo, có nói rằng hào kiệt nước ta đời nào cũng có; cho nên “Triệu Tiết nghe giật mình!”. Đó là một câu để ca tụng kín đáo Lý Thường Kiệt.
Trong đời Lê Thánh Tông, văn học đại thịnh. Tuy đối với nhưng kẻ hoạn thần, sử gia đã có lòng khinh để, nhưng Ngô Sĩ Liên khi chép đến trận Ung Châu, cũng phải phê bình: “Vua Tông ban tên thụy cho Tô Giàm là Trung Dũng, cũng đủ làm rạng lòng trung dũng, cũng đủ làm rạch lòng trung dũng của Lý Thường Kiệt.”(TT)
Đặng Minh Khiêm (đậu Hoàng Giáp đời Hồng Đức thứ 18, năm 1497) có bài thơ vịnh Lý Thường Kiệt trong Thoát hiên vịnh sử thi:
Đệ huynh chỉ xích thị minh quang.
Tài lược kiêm ưu hữu mão dương.
Bắc phạt, nam chinh, huân nghiệp trước.
Thù phi môn ngoại tiểu điêu đương.
Nghĩa là:
Anh em chầu chực chốn đền đài,
Tài lược gồm hay, lại đẹp giai.
Đánh bắc bình nam, huân nghiệp rạng
Hoạn thần nhưng khác lũ hầu sai.
Dư luận đời Hậu Lê thường chú ý đến sự Thường Kiệt là một hoạn quan, hoặc có ý tiếc rằng sự nghiệp ấy không vào tay một nho thần, hoặc có ý tự phụ rằng: hoạn quan nước Việt còn thế, huống chi nho thần! Tự nhiên, đó chỉ là những dư luận của nhà nho, nhờ chữ nho mà nay còn sót lại. Còn dư luận của các hạng người khác ra sao, thì ta không thể biết được.
Ngô Thì Sĩ là người đã chịu khó khảo sát các sách Trung Quốc để tăng bổ đoạn sử Lý Thường Kiệt. Ông đã phê bình nhiều về họ Lý. Thì Sĩ viết: “Nước ta với Bắc triều đánh nhau nhiều lần, khi thắng, khi bại. Sau đó, Ngô Tiên chúa được trận ở Bạch Đằng, Lê Đại Hành giết giặc ở Lạng Sơn. Trần Nhân Tông bại Toa Đô, bắt Ô Mã Nhi đuổi Thoát Hoan. Ấy là những việc mà nước ta thích khoe. Nhưng những cuộc thắng trận ấy, đều vì giặc đến trong nước ta bất đắc dĩ mà chống. Bên mỏi, bên nhàn khác nhau, thế chủ, thế khách chênh lệch. Đến như, bày trận đường đường kéo cờ chính chính, mười vạn quân kéo thẳng sâu vào đất khách, phá quân ba châu như chẻ trúc, lúc tới cõi không ai dám địch, lúc rút quân không ai dám đuổi; dụng binh như thế, chẳng phải nước ta vốn chưa từng có bao giờ? Vây cho nên, tôi cho rằng việc các châu Ung, Liêm, Khâm là vũ công đệ nhất từ xưa nay ở nước ta. Lý Thường Kiệt khởi thân là một quan hoạn mà lập được nhiều công lạ liền liền. Người Tống thật phải xấu hổ!
“Hoặc có kẻ hỏi tại sao không giống trống thẳng tiến? Nếu không đến kinh đô nhà Tống, thì cũng lấy lại đất của nhà Triệu ta xưa. Xin trả lời: Phải biết người, biết ta. Trăm trận mà không biếng, đó là phép dụng vũ hay đó. Xét thấy nhờ việc này, mà ta trương vũ uy. Người Tống thấy ta mạnh, bèn nghĩ đến cách lấy ân ý mà đãi ta. Từ đó về sau, nghi lễ cống sính, lời lẽ văn thư, đều không sách hoạch lôi thôi nữa…” (SK 1076 và Việt sử tiêu án)
Qua đời Nguyễn, nghị luận cũng quanh quất trong hai ý ấy: tán dương vũ công, chú ý đến sự xuất thân là hoạn thị. Từ vua Tự Đức trong Việt sử ngự chế tổng vinh, qua bìa Nhữ Bá Sĩ, cho đến người phê bình nhân vật chép trong VĐUL, đều lặp đi lặp lại hai ý ấy.
Ngày nay chúng ta không thành kiến, có thể xét sự nghiệp Lý Thường Kiệt một cách công minh.
Đọc hết đoạn sử này, ai cũng phải nhận thấy rằng Lý Thường Kiệt đã có công đặc biệt đối với vận mệnh nước ta: là mở cõi miền nam và miền bắc, chống thắng cuộc xâm lăng của nước ngoài và củng cố biên thùy mọi mặt khiến các lân bang kính nể.
Đạt được mục đích ấy là nhờ dân ta đời Lý đã đông đúc. Lại nhờ kẻ cầm quyền đã biết tổ chức binh đội, biết lợi dụng đức tính bền bỉ của nông dân ở đồng bằng, tập tính giỏi nghề đi sông đi bể của dân miền bể và sự hiểu thiên thời, địa lợi của dân thượng du.
Trái lại, tuy Tống có của cải nhiều, binh mã giỏi, tướng có kinh nghiệm, vua có chí to, nhưng những cái sở trường ấy dùng không hợp với mục đích xâm lăng, không hợp với địa hình, thời tiết miền nam. Cũng tướng ấy quân ấy, nếu để ở biên thùy bắc thì chắc có thể ngăn cản được quân Liêu, Hạ. Nhưng vua Tống lại đem chúng tới vùng nóng nực, rừng núi, xa làng mạc chúng. Chỉ nêu danh nghĩa đem quân đi phạt man di, thì có lẽ chỉ đủ làm phấn khởi lòng các tướng tá, vì họ mong thắng trận rồi được thăng chức tước. Nhưng đối với quân ô hợp lượm ở miền bắc, thì chỉ có sự mong muốn cướp bóc, hiếp chóc, học may mới làm chúng chiến đấu hăng hái. Khốn nỗi, quân chưa từng xuống đến miền giàu có, mà đã bị thiệt hại nhiều rồi. Cho nên không ai có lòng chiến đấu.
Lý Thường Kiệt đã biết đem sự bất kỳ chống với sự mạnh, đem chỗ mình giỏi chống với chỗ địch kém, đem quân được nghỉ ngơi đợi quân phải mệt nhọc, đem sự nhẫn nại chống với sự kiêu căng, và nhất là lấy nghĩa sinh tồn của một dân tộc đối với lòng cầu danh của một vài nhân vật địch. Đó là những cớ chính làm cho quân Lý thắng và quân Tống phải thua.
Công Lý Thường Kiệt là to. Tài cầm quân Thường Kiệt là cao đã đành, mà đến chính sách nội trị và ngoại giao của Thường Kiệt cũng khéo. Thường Kiệt lại không tự ái quá, biết trọng quyền lợi chung. Nếu không thì sao khi vua còn nhỏ, ông cầm hết quyền bính và quẤn Đội trong tay, mà không bắt chước Lê Hoàn hay Lý Công Uẩn, chỉ ra một lệnh là cướp được ngai vàng? Nếu không, thì sau khi thấy tình thế ngoại giao với Tống trở nên khó khăn bởi mình, ông lại chịu bỏ ngôi tể phụ mà ra lủi thủi ở trấn Thanh Hóa?
Tuy sách sử ta chép chuyện sơ sài. Nhưng xét qua những sự còn ghi trong những sách Tống ta cũng hiểu được ít nhiều đức tính của Thường Kiệt.
Chỉ tiếc rằng riêng về cá nhân của ông, thì không có những chứng làm cho ta biết rõ ràng hơn. Những lời nói mà bia Nhữ Bá Sĩ và sách Cương mục còn chép, vào khoảng đồng ấy và lúc già, thì không có gì chắc chắn. Sợ đó chỉ là lời sáo ngữ mà sử quan hay người viết thần sắc và dã sử đã bịa ra mà thôi. Chỉ có một điểm mà ta chắc chắn, là thái độ của Thường Kiệt đối với đạo Phật. Tuy ông không mê đạo, nhưng ông cũng đã che chở các tăng đồ và ít ra, cũng đã dựng chùa Linh Xứng ở Thanh Hóa.
Chùa ấy nay cũng đã mất. Ngoài cái bia chùa còn lại, tuyệt nhiên không còn có vật gì kỷ niệm một vị ân nhân của dân tộc ta. Tưởng nay đã đến lúc ta có thể đền bù công đức của Lý Thường Kiệt.
CHƯƠNG XIV
ĐẠO
PHẬT THỜI LÝ
1. Tín ngưỡng ở Giao
châu. - 2. Đạo Phật tới Việt - 3. Đạo Phật bành
trướng - 4. Chế độ tăng và chùa - 5. Tăng và chính trị
- 6. Đạo Phật và phong hóa - 7. Đạo Phật và văn hoá.
1- Tín ngưỡng ở
Giao Châu.
Trước khi các tôn giáo ngoài tràn vào, người Việt chắc đã tôn sùng những mãnh lực thiên nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di tích còn lại không những ở trong tập tục của dân gian, mà trong điển lệ tế tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc tích từ đâu tới. Thần Cao Sơn chắc cũng là đức thánh Tản Viên, thần Long Thủy có lẽ gốc ở Thác Bờ. Lại như đền hay “chùa” Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện hẳn là di tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
Đến hồi Bắc thuộc, đạo Nho và đạo Lão được đem vào. Nhất là trong đời loạn li sau khi Hán mất, Sĩ Nhiếp là thái thú ở Giao Châu, giữ một vùng yên ổn, thì nhiều nhà tri thức Trung Hoa tụ tập ở Luy Lâu, trị sở Giao Châu. Nhờ đó, Nho học và Đạo học lại càng bành trướng. Trong hai đạo mới, đạo Lão là thích hợp với tín ngưỡng gốc của dân Việt, cho nên nó lan tràn chóng và hòa lẫn với những tập tục dân gian. Còn như Nho giáo, tuy được dựa thế những kẻ cầm quyền, phần đông là nho sĩ, nhưng nó cũng chỉ giữ tính cách thường, chứ không thành một tín ngưỡng mới.
Sau đó, đạo Phật từ Ấn Độ mới lan đến góc đông nam lục địa. Với tính cách ôn hòa, thần bí, Phật giáo chóng ăn sâu vào lòng tín ngưỡng người Việt. Nó dung hòa dễ dàng với sự sùng bái thường, và nó dễ đi đôi với Đạo giáo đến đấy từ trước.
Ba Tông giáo Nho, Lão, Phật đã sớm thành cơ bản của tín ngưỡng dân Việt, và đồng thời tiến triển. Cho nên thường gọi là tam giáo tuy nói là tam giáo tịnh hành, nhưng theo thời đại, một hay hai giáo vẫn được chuộng hơn. Ta sẽ thấy trong thời nhà Lý, Phật giáo chiếm bậc nhất. Nhưng ta cũng phải nhận rằng Phật giáo hành ở xứ ta, cũng như ở Trung Quốc bấy giờ, đã dung hòa với Đạo giáo và những tín ngưỡng gốc của dân gian. Nó đã biến thành một Tông giáo lấy Phật làm gốc, nhưng lại ghép vào các vị thần linh, mà ngày xưa chỉ là mãnh lực thiên nhiên. Và nó dùng những kỹ thuật, theo đuổi những mục đích thích hợp với Đạo giáo hơn là Phật giáo.
Địa vị các tăng già, trong suốt đời Lý, vẫn là trọng; nhưng ảnh hưởng về chính trị hình như không có bao nhiêu. Về phương diện tinh thần và luân lý, thì hẳn rằng Phật giáo có ảnh hưởng lớn. Nó đã đổi cái triều đình vũ phu và mộc mạc của các đời Đinh, Lê, đóng ở chỗ đầu ngàn cuối sông, ra một triều đình có quy mô, có lễ độ ở giữa bình nguyên, có thể so bì với các nước khác ở miền bắc.
2- Đạo Phật tới
Việt
Nhờ một câu chuyện giữa thái hậu Linh Nhân, tức bà Ỷ Lan, mẹ Lý Nhân Tông, với một nhà sư có học uyên bác, mà ta còn biết gốc tích đạo Phật ở nước ta. Sách TUTA còn ghi chuyện ấy rất rõ ràng trong chuyện Thông biện quốc sư (TUTA 19a).
Ngày rằm tháng 2 năm Hộ Phong thứ 5 (1096) thái hậu đặt tiệc chay ở chùa Khai Quốc, thết các tăng. Tiệc xong, thái hậu kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Thái hậu hỏi:
“Nghĩa hai chữ Phật và Tổ thế nào? Bên nào hơn? Phật ở phương nào? Tổ ở thành nào? Đạo tới sứ ta đời nào? Truyền thụ đạo ấy, ai trước ai sau? Mà sự niệm tên Phật, hiểu tâm tổ là do từ ý ai?”
Các sư đều im lặng. Chỉ có vị Trí Không trả lời rất tường tận từng khoản. Vì đó, thái hậu, ban cho sư hiệu Thông biện quốc sư. Về đoạn truyền giáo vào sứ ta, lời sự đại khái như sau:
“Phật và Tổ là một. Phật truyền đạo cho Ca Diệp. Về đời Hán có Ma Đằng đem đạo vào Trung Quốc, Đạt Ma lại truyền vào nước Lượng và nước Ngụy. Đạo rất thịnh khi dòng Thiên Thai thành lập. Dòng ấy gọi là Giáo Tông. Sau lại có thêm dòng Tào Khê, tức là dòng Thiền Tông. Hai dòng ấy vào nước ta đã lâu năm. Về dòng Giáo, có Mâu Bác và Khang Tang Hội là đầu. Về dòng Thiền, trước nhất có Tì ni đa lưu chi; sau đó, Vô ngôn thông lại lập ra một dòng Thiền khác nữa”.
Trí Không trả lời như thế đã khá rõ ràng. Nhưng thái hậu có óc phán đoán, lại hỏi thêm chứng những điều nói trên. Sư trả lời rành mạch, dẫn những sách cũ, những trả lời của các người xưa, mà nay ta còn tìm lại được một phần, nó có thể khiến ta tin rằng những chứng Trí Không đem ra đều là đích xác.
Trí Không viện lời của hai người xưa bên Trung Quốc, một người nói đến sự truyền dòng Giáo Tông, một người chứng việc truyền dòng Thiền tông vào nước Việt.
Chứng đầu là lời pháp sư Đàm Thiên kể lại một câu chuyện mà sư này có nói với vua Tề Cao Đế (479-483). Vua Tề khoe với sư rằng mình đã xây dựng chùa tháp khắp mọi nơi, kể cả Giao Châu; rồi vua nói thêm rằng: “Xứ Giao Châu tuy nội thuộc, nhưng chỉ là một xứ bị ràng buộc mà thôi. Vậy ta nên chọn các sa môn có danh đức, sai sang đó để giảng hóa. May chi sẽ làm cho tất cả nhân dân được phép Bồ Đề”.
Vua Tề tưởng rằng nước ta còn kém về đạo Phật, cho nên mới có ý ấy. Nhưng sư Đàm Thiên biết rõ rằng sự thật là trái ngược: nước ta đã được Phật hóa từ lâu, trước cả nước Tề ở vùng Sơn Đông nữa. Sư trả lời rằng:
“Xứ Giao Châu đường thông với Thiên Trúc (Ấn Độ). Khi Phật Pháp chưa tới Giang Đông (nước Tề), thì ở Luy Lâu (kinh đô Giao Chỉ, nay là làng Lũng Khê ở phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh), đã (có xây hơn hai mươi ngôi chùa, chọn hơn năm trăm vị tăng, và tụng mười lăm quyển kinh rồi. Vì đó, mà người ta đã nói rằng Giao Châu theo Phật trước chúng ta. Lúc ấy đã có những vị sư Ma La Kê Vực, Khang Tăng Hội, Chi Cương Lưu Chi và Mâu Bác ở đó”
Sau khi dẫn lời Đàm Thiên ở trên, sư Trí Không còn nói thêm một chứng của sư, là: “Sau đó, lại có sư Pháp Đắc Hiền được Tì Ni Na Đa Lưu Tri truyền tông giáo của tổ thứ ba là bồ tát Đạt Ma cho. Sư ấy ở chùa Chúng Thiện và dạy hơn 300 đệ tử”.
Chứng thứ hai là thuộc về dòng Thiền Tông. Sư Trí Không viện lời Quyền Đức Dư, là viên tể tướng đời Đường, về cuối thế kỷ thứ tám. Đức Dư đã viết trong tựa sách Truyền pháp rằng: “Sau khi Tào Khê mất, phép Thiền rất thịnh và dòng Thiền nối dõi không dứt. Có thiền sư Trương Kính Huy là học trò Mã Tổ đi truyền giáo ở các xứ Ngô Việt, và có đại sư Vô Ngôn Thông đi truyền ý phái Bách Trượng và giảng pháp ở xứ Giao Châu”.
Đó là hai chứng mà sư Trí Không đã bày trước thái hậu. Ta có thể tin vào đó chăng? Ông Trần Văn Giáp trong sách BA đã khảo cứu các sách Phật, và đã thấy rằng, tuy những lời của Đàm Thiên kể lại trên không còn thấy trong những sách còn lại, nhưng những nhân vật kể trong đó đều có thật, và còn có chuyện hợp với lời trên. Vả sách TUTA cũng chép lại gốc tích các dòng Thiền, nó chứng thật lời Quyền Đức Dư, mà nay vẫn thấy trong sách Tàu còn lại.
Trong những nhân vật kể trong lời Trí Không, thì Mâu Bác là xưa nhất. Bác nguyên người Thương Ngô sang Giao Châu ở với mẹ, vào khoảng cuối đời Hán Linh Đế (năm cuối là 189). Bấy giờ Sĩ Nhiếp coi quận Giao Châu. Đất Giao Châu được yên tĩnh trong khi nước Hán bị loạn; cho nên nhiều người học giỏi chạy sang ở đó. Sự học càng bành trướng ở Giao Châu. Mâu Bác ban đầu theo học Đạo giáo và phép thần tiên. Nhưng vào khoảng năm 194-195, Bác lại theo đạo Phật, (BA)
Xem vậy thì trước Mâu Bác, Phật giáo đã được hành ở Giao Châu rồi. Đạo Phật từ đâu đã vào đất Việt? Có thể từ đất Hán, vì đạo đã vào Hán chừng một trăm năm trước. Nhưng đạo cũng rất có thể từ Ấn Độ được theo đường bể đem vào, theo các thuyền buôn đi dọc bờ biển Ấn Độ, sang biển Trung Hoa. Khi sư Đàm Thiên nói xứ Giao Châu đường thông với Thiên Trúc, có lẽ sư muốn nói đường thủy. Những người Tây Vực tức là ở vùng tây bắc Ấn Độ, đã sang buôn bán dọc bờ biển. Những đồng tiền bạc, tìm thấy ở nội địa trong Nam, chứng tỏ rằng đồng thời với các hoàng đế ở Rome, xứ Tây Vực đã có liên lạc với đất Đông Dương. Trong truyện Phật chùa Pháp Vân ở Luy Lâu, có nói rằng đời Sĩ Nhiếp, đã có hai vị sư Ấn Độ, là Kì Vực và Khâu Đa La qua đó. Những chuyện kể sau sẽ làm ta tin thêm vào thuyết ấy.
3 - Đạo Phật bành
trướng
Ba vị sư, mà Đàm Thiên kể tên trên kia, đều là người Ấn Độ hay Tây Vực (ở xứ Sogdiane) gần phía tây bắc Ấn Độ.
Ma La Kỳ Vực, tên chữ Phạn là Marajivaka, là người Ấn Độ, đến Giao Châu, rồi qua Quảng Châu. Tới Lạc Dương đời Tấn Huệ Đế, năm 294. Ông giỏi phù pháp. Sau gặp loạn ở Trung Quốc, ông lại trở về Ấn Độ.
Khang Tăng Hội vốn người Tây Vực, theo cha buôn ở Giao Châu rồi học đạo Phật ở đó. Nguyên người Tây Vực mà ở xứ Việt, cho nên ông học giỏi hai thứ tiếng Phạn và Việt. Nhờ đó ông đã dịch nhiều sách Phật ra Hán văn. Sau đó ông sang nước Ngô, giảng đạo cho Ngô Tôn Quyền, rồi mất tại nước Ngô vào năm 280.
Còn như Chi Cương Lương, thì Trần Văn Giáp cho là Cường Lương Lưu Chi chép trong sách Thập nhị du kinh. Tên Phạn của sư là Kalaruci theo Pelliot, hay là kalyanaruct theo Trần Văn Giáp. Vị sư này tới Giao Châu vào khoảng năm 255-256, và có dịch kinh Pháp hoa Tam muội (BA)
Xem mấy thí dụ trên, ta thấy rằng nhiều vị tăng dịch kinh Phật là người Ấn Độ hay người Tây Vực. Ngoài số những vị đã do đường bộ tới Trung Quốc, một số đã đi đường bể. Những vị này tất nhiên phải học Hán tự. Các vị ấy chắc phần lớn đã qua và ở đất Giao. Vì thế đạo Phật rất có thể đã tới nước ta trước khi đến nước Trung Quốc.
Cho đến sư Đàm Thiên, cũng là người Indoscythe, ở phía tây bắc Ấn Độ. Sư rất giỏi Hán văn, sở dĩ sư lại rõ tình hình Phật giáo ở Giao châu, chắc vì cũng đã có thời kỳ qua ở đó.
Lịch sử Phật giáo ở nước ta, từ ban đầu đến lúc phái Thiền tông xuất hiện, không được biết rõ nữa, vì không ai biên chép lại. Về Thiền Tông, thì sách TUTA đều chép khá kĩ càng.
Dòng Thiền tông lại có hai phái: phái Nam Phương và phái Quan Bích. Phái Nam Phương vào trước, phái Quan Bích vào sau. Nhưng từ đời Đinh, hai phái đều phát triển một cách thịnh vượng.
Tổ phái NAM PHƯƠNG là T.ni đa lưu chi, tên Phạn là Vinitaruci, nguyên người Thiên Trúc, học đạo Bà la môn (Braman). Sau theo Phật giáo, rồi sang các xứ Đông nam để tới Tràng An, kinh đô nước Trần bên Trung Quốc (573). Sau, sư tới Quảng Châu; ở đó 6 năm dịch các kinh Phật. Tháng 3 năm Canh Tý 580, sư sang Giao châu tới trụ trì ở chùa Pháp Vân tại Luy Lâu. Ơ đó được mười lăm năm. Đến năm Giáp Dần 594, đời Tùy Khai Hoàng mới mất.
Đệ tử Vinitaruci có sư Pháp Hiền, mà sách TUTA đã chép ra Pháp Đắc Hiền, trong chuyện quốc sư Thông biện. Vị này được coi như là tổ thứ nhất của dòng Nam phương. Sư người Chu Diên, họ Đỗ; ở chùa Chúng Thiện, tại núi Thiên Phúc, hạt Tiên Du. Sư có rất nhiều học trò. Thứ sử Lưu Phương mời tới Luy Lâu, ở chùa Pháp Vân. Rồi đi giảng đạo, dựng chùa khắp mọi nơi ở Phong Châu (Sơn Tây), Hoan Châu (Nghệ An), Tràng Châu (Ninh Bình) và Ái Châu (Thanh Hóa). Đến năm Bính Tuất 626, đời Đường Vũ Đức, mới mất (TUTA, 44a)
Nhờ đó, phái Nam phương rất được phát đạt, và đã bành trướng nhất trong vùng phủ Từ Sơn. Có sư Định không, là tổ thứ tám, lập chùa ở làng Dịch Bảng, là quê nhà Lý về sau (trước 808). Sau đó, phái Nam phương có nhiều can hệ với các triều đại độc lập ở nước ta. Sư Pháp Thuận giúp Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh giúp Lý Thái Tổ, sư Đạo Hạnh mà tục truyền là tiền thân của Lý Thần Tông, sư Minh Không giúp Lý Thần Tông, đều thuộc phái này cả.
Phái QUAN BÍCH thì đến đời Đường Nguyên Hòa mới vào nước ta, do vị sư đời Đường là Vô Ngôn Thông đem tới. Sư người Quảng Châu, họ Trịnh. Sau khi đi học với Mã tổ ở Giang Tây, sư về Quảng Châu. Sư sang Giao Châu, năm Canh Tý 820; ở chùa Kiến Sơ, tại Phù Đổng (TUTA, 4a). Phái này phát đạt cũng chóng và đã phát ra nhiều vị cao tăng còn để tiếng về sau. Sư Khuông Việt giúp Đinh Tiên Hoàng, sư Trí Không tức là Thông biện quốc sư, sư Khổng Lồ, sư Giác Hải đều thuộc phái này cả.
Không những ở chung quanh kinh kỳ đạo Phật thịnh hành, mà đến những chốn xa như Ái Châu, Phật giáo trong đời Đường cũng đã phát đạt. Trong các vị tăng quê nước ta đã từng đi Thiên Trúc cầu đạo1, có hai vị người Ái Châu, là Trí Hành và Đại Thặng Đăng (BA). Vả bia HN cũng cho ta biết rằng về đời thuộc hậu Đường (923-937), châu mục Lê Lương ở Ái Châu có dựng ba chùa ở trong hạt ấy.
Tuy đạo được thịnh hành, nhưng nước ta bấy giờ vẫn còn bị người Tàu thống trị. Cho nên Phật giáo cũng như các ngành tư tưởng khác, hình như cũng chỉ đạt đến một hạng người quyền quí, hay gần gũi người ngoại quốc cầm quyền, chứ không phổ cập đến dân gian. Phải đợi đến thời kỳ độc lập, mới bắt đầu có những chứng rằng Phật giáo có tổ chức và ăn sâu vào dân chúng.
____________________________________
1. Theo TV. Gáp, các vị tăng đã qua Ấn Độ là: Vận Kỳ người Giao Châu, Mộc soa đe ba (Moksadeva) người Giao Châu, Khuy Xung người Giao Châu (Mất ở Thiên Trúc), Tuệ Diệm người Ái Châu (ở lại Thiên Trúc), Trí Hạnh người Ái Châu (mất ở bắc ngạn sông Hằng Hà), Đại thặng đăng người Ái Châu (mất ở Ấn Độ).
4 - Chế độ tăng
và chùa
Trong khi các nước ở Trung Quốc phải đương đầu với Tống trong cuộc chiến tranh thống nhất, thì ở nước Giao Chỉ, tông giáo cũng như hành chính, dần dần tự cởi dây ràng buộc, và trở nên tự trị. Các phái Thiền Tông phát đạt, và tăng đồ càng bành trướng ảnh hưởng trong xã hội.
Kẻ cầm quyền không những cần đến thiền sư về phương diện tín ngưỡng mà thôi, mà cả về phương diện chính trị, cũng cần nữa. Nhất là trong đời Đinh, Lê, các vua đều là những bậc võ biền, nhân loạn mà nắm được chính quyền. Học thức vua ít, mà kẻ nho học cũng chưa đông, và phần nhiều chắc có lòng trung thành với triều đại bị tiếm, nên không được tin dùng. Chỉ có kẻ tăng đồ có đủ thì giờ, đủ phương tiện sinh sống để đọc nhiều hiểu rộng. Vả lại nhà tu hành lại ít có thành kiến thiên vị về chính trị, cho nên dễ được vua mới tin dùng.
Lúc nhà Đinh mới lập nước, liền trọng đãi các nhà sư. Năm đầu sau khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đã định phẩm hàm và giai cấp cho các nhà tăng và đạo. Tăng và đạo cũng được coi như là những công chức văn võ (TT 961). Tuy đời Lý, cũng có đặt lại phẩm hàm và giai cấp cho tăng đạo, nhưng vẫn theo quy chế đời Đinh.
Đầu hàng tăng, có chức Quốc sư. Sau, theo thứ tự trên dưới, có những chức tăng thống, tăng lục, tăng chính, đại hiền quan. Quốc sư chỉ có nghĩa là người sư của nước, cũng không phải là chức tể tướng như vị thái sư. Cũng như các chức kia, quốc sư coi việc giữ các chùa trong nước giản đạo, lập đàn và giúp vua trong những việc cầu may, cầu phúc.
Ngoài những chức phẩm trên, ta còn nhận thấy những hiệu như đại sư, trưởng lão, cư sĩ (Bia LX, TUTA). Có lẽ đó chỉ là huy hiệu mà thôi.
Chùa thì do vua, quan hay dân làng xây dựng lên. Những chỗ danh lam thì chắc thuộc nhà vua và được vua cấp tiền của, ruộng đất, phu hầu. Năm 1088, Lý Nhân Tông định chia chùa làm ba hạng, đại, trung và tiểu danh lam, do các quan văn và quí chức đề cử. Sách TT chép việc ấy, và thêm rằng: “Ấy vì bấy giờ, các chùa có điền nô và kho của”. Điền nô là phu cày ruộng cho chùa.
Ở các trấn, cũng có các tăng quan coi các chùa và Phật giáo. Sư Hải Chiếu có nói trong bia LX rằng sư “kiêm coi công sự ở Thanh Hóa”, và là “thuộc hạ” của Lý Thường Kiệt.
Được làm sư không những là một vinh hạnh. Sư có chức phận đã đành, mà về phần vật chất, lại khỏi bắt làm xâu, làm lính; ở chùa lại được bổng lộc dân chúng cung và vua ban. Vì thế, muốn được làm sư phải có bằng của nhà nước cấp cho. Như thế, gọi là được độ.
Sử sách ta còn chép một vài năm, vua chọn dân để cho làm sư. Năm 1014 tăng thống Thẩm Văn Uyển xin lập giới trường ở chùa Vạn Thọ trong thành Thăng Long để cho tăng đồ thụ giới. Năm 1016, vua chọn hơn nghìn người ở kinh sư để cho làm tăng và đạo sĩ. Năm 1019, Lý Thái Tổ lại độ dân khắp nước để làm tăng. Sau mãi đến năm 1134, Lý Thần Tông mới sai hội dân ở đài Nghinh tiên để độ tăng một lần nữa. (TT)
Đó là những cơ hội lớn chọn tăng một cách tập đoàn. Còn hàng ngày vẫn cấp bằng cho những trai tráng được rút tên ra ngoài sổ bạ (Bia LX). Đồng thời ở Tống, bằng cấp độ tăng lại là một lợi khí làm tiền cho công quỹ. Sách TB thường chép rằng vua Tống cấp cho các lộ một số lớn bằng cấp ấy, để hưng công xây thành, đào sông. Không biết ở triều Lý có lợi dụng sự độ tăng như thế không. Nhưng ta biết rằng nhà nước có dùng cách ấy để thưởng một hạng người có công. Như năm 1128, Lý Thần Tông sai chọn bốn người lính già, cho làm tăng (TT).
Con cháu những nhà quyền quí cũng không ngần ngại bỏ nhà theo Phật giáo, như các cháu họ Lý Thường Kiệt (Bia LX), sư Mãn Giác con Lý Hoài Tố, Diệu Nhân ni sư con nuôi Lý Thánh Tông và sư Viên chiếu cháu thái hậu Linh Nhân.
Xem chuyện các cao tăng trong sách TUTA, ta thấy phần nhiều các vị này giỏi nho học, hay khi bé thường học nho rồi sau mới theo Phật. Nhưng trong khoảng đầu đời Lý, chưa mở khoa thi Nho. Sau, dần dần nho học tiến mạnh. Tam Giáo tịnh hành. Các khoa thi nho được mở đều, và các khoa thi tam giáo cũng được lập vào cuối đời Lý Cao Tông (năm 1179 và 1195, TT). Các nho thần như Đàm Dĩ Mông đã bắt đầu kiềm chế tăng đồ, kiểm điểm khảo hạch tăng chúng. Năm 1179 Lý Cao Tông sai thi các đệ tử tăng quan tụng kinh Bát Nha (TT)
Nhân các vua trước, như Thần Tông, Anh Tông mê đạo nhiều dân đinh xin độ làm tăng để trốn khỏi dao dịch. Lại có những ác tăng làm điều phạm pháp. Cho nên năm 1198, Đàm Dĩ Mông nói với vua rằng: “Bây giờ, tăng đồ gần bằng số dịch phu. Chúng tự kết bè, bầu chủ, họp nhau thành từng bày. Chúng làm nhiều việc bẩn thỉu. Hoặc ở nơi giới trường, tĩnh xá mà công nhiên rượu thịt; hoặc ở trong trai phòng tĩnh viện, mà âm thầm gian dâm. Ngày ẩn, tối ra thật như đàn cáo chuột. Chúng làm bại tục, thương giáo; dần dần thành thói quen. Nếu mà không cấm, thì lâu thành quá lắm”.
Vua Cao Tông cho lời Dĩ Mông nói là phải. Sai Dĩ Mông triệu tập tăng đồ trong xứ, lại ở các nơi cốc xá; chọn tháng mười người có tiếng lưu lại làm tăng. Còn dư, thì đánh dấu vào tay mà bắt hoàn tục.
Chắc rằng lời Dĩ Mông quá đáng, và sự sa thải triệt để tăng đồ là một phần do nho gia bài xích dị đoan. Tuy vậy đạo Phật không phải vì đó mà suy. Trạng nguyên Lê Quát, là dòng dõi Lê Văn Thịnh, phải phàn nàn trong bia chùa Thiệu Phúc dựng đời Trần, rằng: “Làng xóm nào cũng có chùa, mà không đâu thấy thờ Khổng thánh”.
5 - Tăng và chính
trị
Lúc nước ta vừa được độc lập, vua đều là những kẻ vũ biền. Sở dĩ các vua ấy trọng tăng đồ, một phần chắc vì lý do chính trị. Tuy không có chứng gì tỏ rằng các vua Đinh và Lê mộ Phật, nhưng dân gian bấy giờ chắc theo đạo Phật nhiều. Trái lại nhiều việc, còn chép trong sử, tỏ rằng các vua ấy hành động thường trái với điều dạy phải từ bi của Phật, ví như những cực hình dùng ở đời ấy: cột đồng đốt nóng, vạc dầu đun sôi, chuồng hổ báo, cũi ngâm sông.
Các vua lại nhận thấy rằng các tăng có học rộng hơn mình và hơn các tướng. Tuy bên cạnh vũ tướng còn có nho thần, nhưng những người này thường hay cố chấp trong những thuyết trung quân, cho nên không thể trung thành với một ông vua mới, đã cướp quyền của chúa mình. Vì những lẽ ấy, các vua Đinh Lê đã lợi dụng học vấn của tăng đồ để trị dân và đối ngoại. Cũng như đại đa số người đương thời, các vua rất tin rằng các tăng và đạo sĩ có những thuật làm cho họ biết trước những sự hay dở tương lai, hay là có thể cầu cho họ được phúc và tránh họa.
Vị sư đầu tiên được tham gia chính là đại sư Khuông Việt, giúp Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Sư tên Ngô Chân Lưu, dòng dõi vua Ngô. Bé học Nho lớn theo Phật. Đinh Tiên Hoàng ban cho chức tăng thống và hiệu Khuông Việt đại sư, nghĩa là vị sư lớn giúp nước Việt (TT 971 và TUTA sa). Sau khi Lê Hoàn lên ngôi “phàm sự quân quốc, đều giao cho sư hết”. Đó là lời sách TUTA, còn sách TT chỉ chép việc Khuông Việt giúp vua Lê đón sứ Tống mà thôi (XIV/7)
Lúc Lý mới lập cơ nghiệp, sư Vạn Hạnh đã có ảnh hưởng nhiều. Từ đời Lê, sư có tiếng là một kẻ tiên tri. Cho nên Lê Đại Hành đã từng hỏi ý kiến, trong khi đánh Tống và đánh Chiêm. Sách TUTA chép rằng: “về việc chống Tống, sư đoán nội trong ba, bảy ngày giặc sẽ tan. Còn về việc đánh Chiêm, thì sư khuyên nên đánh chóng (TUTA 52a). Các sách sử ta đều kể chuyện Vạn Hạnh đã đoán được câu sấm, mà sâu ăn thành ra trên cây vông gạo; và sư biết trước rằng nhà Lê sắp mất, nhà Lý sẽ lên. Sư bèn nói với Lý Công Uẩn chuyện ấy và quả quyết rằng họ Lý là họ của ông. Biết đâu rằng chuyện sấm ấy lại không phải là mưu của Vạn Hạnh.
Về sau, các vua Lý có học hành. Tuy vẫn thích Phật nhưng một cách cao hơn. Triều thần đã có nhiều người học uyên bác. Cho nên ảnh hưởng về chính trị của các vị sư bị giảm dần. Cuối cùng, các tăng chỉ giữ những việc giảng kinh hay giáo hóa.
Trong phạm vi tín ngưỡng và kỹ thuật, địa vị các tăng già vẫn rất trọng. Các vua và thái hậu thường mời những vị sư có tiếng vào giữ chùa trong thành nội, để giản kinh. Các vị Huệ Sinh và Viên chiếu từng được Lý Thái Tổ mời vào cung. Nhất là trong đời Lý Nhân Tông, vua và thái hậu Linh Nhân rất mộ Phật, thường sai các sư có danh nhất, vào nội để bàn đạo. Những vị sư như Thông Biện, Mãn Giác, Chân Không, Giác Hải, Khổng Lộ đều được mời và trọng đãi. Cũng nhờ đó mà ta mới có câu chuyện Thông biện bàn nguồn gốc đạo Phật, còn chép lại đến ngày nay.
Các công, vương, tướng cũng thường hay che chở tăng ni, và tôn trọng họ vào bực thầy. Lương Nhậm Văn, Lý Thường Kiệt, Vương Tại, Đoàn Văn Liệm, Phụng Càn Vương, công chúa Thiên Cực đều có giao thiệp mật thiết với các cao tăng (TUTA). Vả chăng nhiều vị thiền sư là con cháu vua, hoàng hậu hay các đại thần. Chắc vì sự liên quan bằng gia đình, ảnh hưởng những vị ấy đối với chính trị cũng không ít.
Về mặt kỹ thuật, tăng đồ thường lại có tiếng là có phép thần thông, hay biết chữa bệnh một cách thần diệu. Vì vậy mà nhiều vị đã được vua dùng, như Minh Không chữa bệnh cho Thần Tông, Đạo Tuệ được Anh Tông đón vào cung cấm chữa cho các cung phi, Nguyệt Học có tiếng cầu mưa và chữa bệnh rất hay, cũng đã được Anh Tông mời tới.
Trong đời Thánh Tông và Nhân Tông, vì vua chậm có hoàng trừ, cho nên các vị có tiếng biết phép cầu tự, đầu thai, lại rất được quí trọng. Những chuyện Đại diên, Đạo Hạnh còn được để đến ngày nay.
Nói tóm lại, ảnh hưởng các nhà sư lúc ban đầu trực tiếp với chính trị. Nhưng sau, dần dần ảnh hưởng chỉ còn kịp tới cá nhân vua quan. Vì đó mà gây ra những phong trào từ trên lan xuống dưới. Rồi phong hóa chung cả nước cũng chịu nhiều ảnh hưởng của hình thức Phật giáo hiện hành.
6 - Đạo Phật và
phong hóa
Từ đời Lý Nhân Tông về sau, các vua thường chết yểu, tự quân thường trẻ tuổi, cho nên các thái hậu được nhiều quyền. Sự sùng Phật dần dần được chuyển sang thành một mối dị đoan, nó ăn nhịp với đạo giáo hiện hành và những tín ngưỡng cổ truyền còn sót lại.
Những kẻ tầm thường đua nhau lợi dụng lòng mê tín của vương hậu, đến nỗi gây ra một phong trào loạn tri ở trong cung. Những chuyện huyền bí như Nguyễn Bông đầu thai thành Càn Đức, Giác Hoàng muốn đầu thai nhưng bị Đạo Hạnh ngăn cản, rồi đến chuyện Đạo Hạnh hóa kiếp ra Lý Thần Tông, đã làm người nước ta đời bấy giờ rất tin vào thuyết luân hồi và vào bí thuật của các nhà sư1.
__________________________________
1. CHUYỆN NGUYỄN BÔNG. - Về chuyện Nguyễn Bông, sách TT chép: “năm Quí Mão 1036, Lý Thánh Tông đã bốn mươi tuổi nhưng chưa có con, vua sai viên chỉ hầu Nguyễn Bông tới cầu tự ở chùa Thánh Chúa, Sau đó, Ỷ Lan phu nhân có mang, sinh Càn Đức, tức là Lý Nhân Tông. “Sách ấy lại chú thích rằng: “Sư chùa Thánh Chúa bày cho Bông phép đầu thai để vào làm con vua. Sự bại lộ, nên Bông bị chém ở trước chùa, tại chỗ này nay mà vẫn gọi là Cánh đồng Bông. Chùa này, nay ở làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, gần phía tây thị trấn Hà Nội. Cánh đông Bông ở phía tây, trước cửa chùa.
Dã sử và thần tích Ỷ Lan thái hậu (xem sách Chuyện Ỷ Lan, nhà Minh tâm xuất bản) có kể rõ nhiều chi tiết, và chép tên sư chùa chùa Thánh Chúa là Đại Diên. Đại Diên bảo Bông về nấp trong buồng tắm Ỷ Lan. Một hôm Ỷ Lan tắm thì bắt được Bông còn ẩn trong buồng. Vua Thánh Tông sai đem Bông đi chém. Khi qua chùa Thánh Chúa, Bông xin vào chùa để trách sư. Sư cười và trả lời: “Nếu không hủy thân này, thì sao đầu thai được”. Bông mới hiểu mưu sâu của Đại Diên và chịu chết. Sách VSL không hề chép đến việc Nguyễn Bông.
CHUYỆN GIÁC HOÀNG.- Về chuyện Giác Hoàng thì cả hai sách TUTA và VSL, soạn đời Trần, đều có chép. Sau đây, là dịch nguyên văn trong VSL.
“Tháng 2 năm Nhâm Thìn 1112, người Thanh Hóa nói ở bờ bể có một đứa bé lạ. Tuổi mới lên ba, mà người ta nói gì, nó cũng hiểu. Nó tự xưng là con đầu lòng vua, và tự gọi là Giác Hoàng (nghĩa là Phật). Phàm vua Nhân Tông làm việc gì, nó cũng biết trước. Vua sai sứ tới hỏi, thì quả đúng như lời đồn. Sứ bèn rước Giác Hoàng về Thăng Long, để ở chùa Báo Thiên (ở chỗ nhà thờ lớn Cơ Đốc, cạnh Hồ Gươm). Vua thấy Giác Hoàng linh dị, càng yêu dấu; và muốn lập làm thái tử. Triều đình cho là không nên, vua bèn thôi.
“Vua mới sai đặt trai đàn trong cung, muốn sai Giác Hoàng đầu thai để làm con mình. Có vị sư ở núi Phật Tích, tên Từ Lộ, hiệu Đạo Hạnh, nghe tin ấy, lấy làm lo. Sư bèn giao cho em gái và hạt châu có làm phép, và dặn rằng: “Đến xem hội, hãy giắt châu vào mái nhà, đừng để ai thấy”. Từ Thị làm đúng như lời. Bỗng nhiên Giác Hoàng phát cơn sốt mà ốm. Y bèn nói với người ta rằng: “Ta thấy trong nước lưới sắt bày la liệt khắp; không có lối nào vào cung để thác sinh”.
“Vua sai lục tìm khắp trong trốn trai đàn, thì thấy mấy hạt châu mà Từ Thị đã giấu. Vua sai bắt Từ Lộ trói ở hành lang Hưng Thánh, rồi toan kết tội chết. Nhân lúc ấy, em vua, sùng hiền hầu, vào chầu vua. Từ Lộ thấy, kêu van thảm thiết rằng: “Mong Hiền hầu cứu bần tăng. Nếu bần tăng được thoát khỏi, thì sẽ vào làm con hầu để báo đức” Sùng Hiền Hầu nhận lời. Vào thăm vua, hầu tìm mọi cách cứu Đạo Hạnh. Hầu nói: “Nếu Giác Hoàng quả có thần lực mà lại bị Từ Lộ làm phép yểm được thì Lộ chả giỏi hơn Giác Hoàng hay sao? Sự ấy đã rõ. Tôi nghĩ rằng: chi bằng vua cho phép Lộ vào thác sinh”. Vua bèn tha cho sư. Còn Giác Hoàng, thì bệnh thành nguy ngập. Y dạn người chung quanh rằng: “Sau khi ta mất, hãy dựng tháp ở Tiên Du để tang ta”.
Lời văn dịch trên đây gần giống y như văn trong sách TUTA. Có lẽ cả hai sách đều lấy gốc ở một nơi. Nhưng trong TUTA, ở chuyện Từ Đạo Hạnh (53b), có nói rõ vì cớ gì mà Đạo Hạnh lại không muốn để Giác Hoàng đầu thai làm con vua Nhân Tông. Nhân tiện đây, tôi sẽ kể lại chuyện Từ Đạo Hạnh, theo sách TUTA, để ta thấy dưới triều Lý đời sống đầy chuyện huyền ảo, và ta có thể so sánh với óc thực tế của Lý Thường Kiệt.
CHUYỆN TỪ ĐẠO HẠNH.- Đạo Hạnh họ Từ, bố tên Vinh, làm chức tăng quan đô sát. Vinh từng du học ở làng Yên lãng (làng Láng ở gần phía tây thị trấn Hà Nội), lấy vợ họ Tăng ở đó, và ở lại làng ấy. Bà sinh Đạo Hạnh. Lúc bé Đạo Hạnh tính thích thảng, có chí lớn. Cử động thế nào, không ai lường được. Ngày thường, ông kết bạn cùng nho giả Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa, và con hát Vi Ất. Tối thì chịu khó đọc sách. Ngày thì thổi sáo, đánh đu, đánh bạc làm vui. Cha thường trách ông là lười biếng. Một đêm, cha lén vào phòng ngủ, dòm trộm, thì thấy đèn chong suốt đêm, sách vở chồng đống. Ông thì tựa án ngủ, tay không buông sách. Từ ấy, cha không lo nữa.
Sau, ông dự kỳ thi tăng quan, bèn đỗ.
Từ Vinh thường dùng tà thuật quấy Diên Thành Hầu (có lẽ là con vua Lý Thánh Tông). Hầu nhờ pháp sư Đại Diên dùng phép đánh chết. Về đoạn này, thần tích chùa Láng, chùa Thầy và các nơi thờ Từ Đạo Hạnh, có nói rằng Từ Vinh dùng phép tàng hình, lọt vào trong hậu cung của Điên Thành Hầu để ghẹo kẻ cung nhân. Hầu nhờ Đại Diên bắt. Một hôm, Đại Diên lấy tro rắc trước cửa phòng cung nhân, rồi đọc chú, vẽ bùa và trao cho cung nhân một cuốn chỉ ngũ sắc Đại Diên dặn cung nhân rằng nếu Vinh tới thì lấy chỉ buộc mình y. Đêm ấy, Từ Vinh quả tới. Cung Nhân buộc chỉ vào lưng, rồi hô toáng lên. Vinh túng thế, nhưng không chạy được; bèn biến hình làm con dán trốn vào vách. Đại Diên tới tìm mãi không thấy. Sau thấy có râu dán trong vách lòi ra. Đại Diên cầm râu kéo ra, thì thấy một con dán trắng. Đại Diên đánh chết. Lại hiện ra thấy Từ Vinh.
TUTA không chép chuyện con dán ấy, mà chỉ nói Đại Diên đánh chết Từ Vinh mà thôi. Sau đó, TUTA chép nối rằng Đại Diên vứt thây Từ Vinh xuống sông Tô Lịch. Thây trôi đến cầu Vu Quyết (có lẽ là Yên Quyết, ở gân góc tây nam thành Thăng Long), trước nhà Diên Thành Hầu, thì thình lình đứng dựng lên, mà trỏ tay vào nhà hầu. Hầu sợ, chạy mách Đại Diên. Pháp sư tới đọc một câu kệ. Thây bèn trôi đi.
Đạo Hạnh muốn trả thù cha, nhưng không có kế. Một hôm, ông rình Đại Diên. Lúc pháp sư đi ra, ông toan giơ gậy đánh, thì nghe trên không có tiếng mắng, bảo: “Chớ, chớ!” Ông sợ bèn bỏ gậy mà chạy.
Ông muốn sang Ấn Độ học dị thuật để chống với Đại Diên. Nhưng khi đi đến xứ mán Kim Xỉ (Mán răng vàng, có lẽ ở vùng Thượng Lào hay Vân Nam), thì đường sá hiểm trở quá, nên ông đành trở về. Ông bèn lên núi Từ Sơn mà ẩn. Ngày ngày, niệm kinh Đại bi tâm đà la ni, niệm đủ một vạn tám nghìn lần. Một hôm, ông thấy thần nhân tới nói rằng: “Đệ tử là Tứ Trấn thiên vương. Cảm công đức sư tụng kinh, cho nên lại hầu, để sư sai khiến.”
Đạo Hạnh tự biết rằng mình đã học được đạo pháp và thù cha sẽ trả xong. Ông bèn tới cầu Vu Quyết, cầm gậy thử, ném xuống sông. Gậy bèn trôi ngược dòng như rồng lội, đến cầu Tây Dương mới dừng. Ông mừng và nghĩ thầm rằng phép mình sẽ thắng Đại Diên. Ông bèn đi thẳng đến nhà Đại Diên. Đại Diên thấy ông, liền nói: “Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?” Ông ngửng mặt lên trời, thì không thấy có gì lạ. Ông bèn lấy gậy đánh Đại Diên. Đại Diên phát bệnh mà chết.
Sau khi thù cha rửa sạch, ông bèn đi thăm các tùng lâm, bàn đạo với các sư Trí Huyền ở Thái Bình và Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân.
Rồi đến năm Hội tường đại khánh thứ ba 1112, xẩy ra chuyện Giác Hoàng đã kể trên.
Sau đó, Đạo Hạnh được tha. Ông xin đến nhà Sùng hiền hầu, dùng phép Đại Diên bầy cho Nguyễn Bông trước, để đầu thai. Ông cũng nấp ở buồng tắm phu nhân. Phu nhân giận mách. Hầu biết chuyện, nên không nói gì. Phu nhân bèn có mang. Ngày chuyển dạ, phu nhân theo lời Đạo Hạnh dặn trước, sai người lên chùa Thiên Phúc (chùa Thầy) báo tin cho ông. Đạo Hạnh bèn tắm rửa, thay quần áo, rồi vào trong hang núi mà chết. Ấy là ngày Dương Hoán sinh, tức là Lý Thần Tông.
Sách TT chép vào tháng sáu năm Bính Thân 1126. Xác Đạo Hạnh không hư hỏng. Dân làng giữ để thờ. Đến đời Minh Vĩnh Lạc, quân Minh sang đánh Hồ Quí Li, mới đốt mất.
Ai cũng tin rằng, nếu tìm được
thiền tăng hay đạo sĩ dạy cho, thì mình có thể biến
đổi được sức mạnh thiên nhiên, hòa mình, ẩn thân,
rút đất phục hổ, cầu mưa, làm nắng. Vì thế, một vị
thái sư có danh vọng như Lê Văn Thịnh mà phải
cách chức mà toan bị giết, chỉ vì vua Nhân Tông nghi ông
đã hóa hổ để vồ mình; một tên dân thường mộng
thấy trâu trèo lên ngọn cây muỗm, mà đoán rằng mình
sắp được làm vua, bèn nổi loạn1.
Ở trong triều, thì từ công hầu, hoạn đậu, cho đến những tăng già, cũng đua nhau hiến vật lạ, cho là điềm tốt: nào rùa sáu chân ba mắt, mang từng hàng chữ chúc vua trên mai, nào hươu trắng hươu đen, sẻ vàng ác trắng, nào cau chín buồng, lúa chín bông, cá ruột có ngọc, ngựa chân có cựa. Những điềm lành như mây ngũ sắc, rồng vàng hiện, thì các chính sử TT và VSL còn chép rất nhiều.
Tuy những sự mê tín này không có ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, nhưng nó đủ chứng minh rằng tâm thần nhân dân rối loạn, thời giờ của nhà chức trách bỏ phí vào việc hão huyền, và sự thưởng phạt của nhà vua thường căn cứ vào những điều không chính đáng.
____________________________________
1. CHUYỆN LÊ VĂN THỊNH. - Lê Văn Thịnh đậu khoa nho đầu tiên ở nước ta, mở năm 1075; rồi được vào dạy vua Nhân Tông (III/2). Năm 1084, Văn Thịnh được sai tới trại Vĩnh Bình để chia địa giới với Thành Trạc là quan Tống. Năm sau, được cất lên chức thái sư. Y giữ chức tể tướng trong mười hai năm. Năm 1096, y bị cách chức và đầy đi nơi nước độc. Nguyên do chỉ vì một việc tin dị đoan rất thường thấy ở đương thời. Các sách TT, VSL, VĐUL đều chép chuyện ấy.
Văn Thịnh nuôi được tên hầu, người Đại Lý (Vân Nam), biết làm phép thả hơi mù và biến thân thành hổ báo. Văn Thịnh học lại được phép ấy. Y bèn lập kế giết tên hầu, và định dùng thuật ấy để cướp ngôi vua.
Bấy giờ vào tháng mười một (theo VSL, còn TT nói tháng ba, và VĐUL nói mùa thu), vua Lý Nhân Tông dạo chơi hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) xem đánh cá. Vua cưỡi trên một chiếc thuyền chài, có tên là Mục Thận, người phường Tây Hồ (ở trên bờ bắc hồ), đứng đầu mũi, bủa lưới. Lúc thuyền ra đến giữa hồ, thình lình mù lên đen tối. Nhìn chung quanh không thấy rõ. Bỗng nghe tiếng thuyền chèo vụt vụt, lướt qua mù tới thuyền vua. Qua mù, ai cũng nhìn trong thuyền ấy có một con hổ lớn đang nhe răng như muốn cắn. Vua sợ lắm. Mục Thận thấy vậy cũng kêu nguy cấp. Sẵn lưới ở tay, Thận ném vào thuyền kia, bắt được hổ. Thì lại hóa ra Lê Văn Thịnh!
Vua sai lấy dây sắt trói vào cũi mà giam. Nhưng nghĩ rằng Văn Thịnh là một đại thần, từng có công to, vua không nỡ giết (TT). Bèn sai đầy lên ở một trại ở thượng lưu sông Lương (theo VSL; còn TT và TĐUL đều nói sông Thao.)
Chuyện trên này tiêu biểu cho sự mê tín có ảnh hưởng lớn đến chính trị ở triều Lý. Sử còn cho biết nhiều chuyện chứng rằng Nhân Tông, cũng như các vua Lý về sau, rất tin ảo thuật, và có thần kinh dễ cảm xúc. Cho nên, chỉ vì một việc xẩy ra rất thường, mà Văn Thịnh xuýt chết. Về tháng mười một, trận mù thình lình tới trên hồ, đó là một sự thường có. Nhưng với tâm thần hay bị xúc cảm của vua Lý, khi thấy trời tối mà mình còn ở trên mặt nước, thì vua cũng đâm ra hoảng hốt. Có lẽ Văn Thịnh, cũng vì thấy trời tối, mà vội vã sai chèo thuyền gấp để hộ vua về. Ngồi trong thuyền bị trùng chiềng không vững, Văn Thịnh phải ngồi khom mình, tay chống vào thuyền cho vững. Hình dáng trông như một con hổ. Một mặt khác, có lẽ Văn Thịnh cũng tin vào các thuật, và có tiếng sẵn là đã học được phép hóa hổ. Cho nên, kẻ trông thấy hình con hổ trong thuyền lại càng nghi cho y muốn hại vua.
Cũng may cho y. Tuy vua tin dị đoan, nhưng đạo Phật đã gieo mối từ tâm, cho nên Văn Thịnh không bị tru di tam tộc như Nguyễn Trãi đời sau. Các nhà bình luận phái nho ở đời sau, như Ngô Sĩ Liên, còn trách rằng: “Nhân thần mà mưu giết vua cướp ngôi, thế mà còn tha tội. Lại sai hình chính như vậy; ấy bởi vì lỗi vua quá sùng đạo Phật”.
Sau đó, Mục Thận được ban chức đô úy tướng quân, và đất Tây Hồ làm thực ấp (TT). Mục Thận làm quan đến chức phụ quốc tướng quân. Sau khi mất được tặng hàm thái úy, và được vua sai lập đền ở phường nhà. Đền ấy đến nay vẫn còn. Sách VĐUL còn chép thêm rằng cạnh đền có một cổ thụ rất to, hình dáng cong queo, như thân con rắn lớn. Cành lá thưa thớt, trong thân có lỗ. Trong lỗ có con trăn làm tổ. Ngày sóc vọng, trăn vào đền, khoanh thành mấy vòng nằm trầu.
CHUYỆN TRÂU TRÈO MUỖM. – Lê Văn là một tên lính ở giáo Cổ Hoằng (huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.). Người giáp ấy có kẻ thấy dấu tích một con trâu trèo lên một cây muỗm. Xem ra, thì là trâu trắng. Khá lâu sau, trâu trắng lại xuống bằng một lối khác. Lê Văn bèn đoán rằng. “Trâu trắng là một vật ở thấp. Nay nó lại trèo lên cao. Đó là điềm kẻ dưới được lên ở trên”. Tuy các sách sử không nói, nhưng có lẽ Văn là tuổi Sửu (cầm tinh con trâu), và tự cho rằng điềm ám chỉ mình. Y bèn tụ quân làm loạn (TT). Bấy giờ vào năm 1192, đời Lý Cao Tông. Vua sai Đàm Dĩ Mông đem quân Thanh Hóa dẹp. Dĩ Mông sai đẵn chuối bỏ sông, ngăn cản thuyền của Văn không bày thành trận được. Quân Dĩ Mông thình lình tiến tới đánh gấp. Quân Văn liền tan.
Ở trong triều, thì từ công hầu, hoạn đậu, cho đến những tăng già, cũng đua nhau hiến vật lạ, cho là điềm tốt: nào rùa sáu chân ba mắt, mang từng hàng chữ chúc vua trên mai, nào hươu trắng hươu đen, sẻ vàng ác trắng, nào cau chín buồng, lúa chín bông, cá ruột có ngọc, ngựa chân có cựa. Những điềm lành như mây ngũ sắc, rồng vàng hiện, thì các chính sử TT và VSL còn chép rất nhiều.
Tuy những sự mê tín này không có ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, nhưng nó đủ chứng minh rằng tâm thần nhân dân rối loạn, thời giờ của nhà chức trách bỏ phí vào việc hão huyền, và sự thưởng phạt của nhà vua thường căn cứ vào những điều không chính đáng.
____________________________________
1. CHUYỆN LÊ VĂN THỊNH. - Lê Văn Thịnh đậu khoa nho đầu tiên ở nước ta, mở năm 1075; rồi được vào dạy vua Nhân Tông (III/2). Năm 1084, Văn Thịnh được sai tới trại Vĩnh Bình để chia địa giới với Thành Trạc là quan Tống. Năm sau, được cất lên chức thái sư. Y giữ chức tể tướng trong mười hai năm. Năm 1096, y bị cách chức và đầy đi nơi nước độc. Nguyên do chỉ vì một việc tin dị đoan rất thường thấy ở đương thời. Các sách TT, VSL, VĐUL đều chép chuyện ấy.
Văn Thịnh nuôi được tên hầu, người Đại Lý (Vân Nam), biết làm phép thả hơi mù và biến thân thành hổ báo. Văn Thịnh học lại được phép ấy. Y bèn lập kế giết tên hầu, và định dùng thuật ấy để cướp ngôi vua.
Bấy giờ vào tháng mười một (theo VSL, còn TT nói tháng ba, và VĐUL nói mùa thu), vua Lý Nhân Tông dạo chơi hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) xem đánh cá. Vua cưỡi trên một chiếc thuyền chài, có tên là Mục Thận, người phường Tây Hồ (ở trên bờ bắc hồ), đứng đầu mũi, bủa lưới. Lúc thuyền ra đến giữa hồ, thình lình mù lên đen tối. Nhìn chung quanh không thấy rõ. Bỗng nghe tiếng thuyền chèo vụt vụt, lướt qua mù tới thuyền vua. Qua mù, ai cũng nhìn trong thuyền ấy có một con hổ lớn đang nhe răng như muốn cắn. Vua sợ lắm. Mục Thận thấy vậy cũng kêu nguy cấp. Sẵn lưới ở tay, Thận ném vào thuyền kia, bắt được hổ. Thì lại hóa ra Lê Văn Thịnh!
Vua sai lấy dây sắt trói vào cũi mà giam. Nhưng nghĩ rằng Văn Thịnh là một đại thần, từng có công to, vua không nỡ giết (TT). Bèn sai đầy lên ở một trại ở thượng lưu sông Lương (theo VSL; còn TT và TĐUL đều nói sông Thao.)
Chuyện trên này tiêu biểu cho sự mê tín có ảnh hưởng lớn đến chính trị ở triều Lý. Sử còn cho biết nhiều chuyện chứng rằng Nhân Tông, cũng như các vua Lý về sau, rất tin ảo thuật, và có thần kinh dễ cảm xúc. Cho nên, chỉ vì một việc xẩy ra rất thường, mà Văn Thịnh xuýt chết. Về tháng mười một, trận mù thình lình tới trên hồ, đó là một sự thường có. Nhưng với tâm thần hay bị xúc cảm của vua Lý, khi thấy trời tối mà mình còn ở trên mặt nước, thì vua cũng đâm ra hoảng hốt. Có lẽ Văn Thịnh, cũng vì thấy trời tối, mà vội vã sai chèo thuyền gấp để hộ vua về. Ngồi trong thuyền bị trùng chiềng không vững, Văn Thịnh phải ngồi khom mình, tay chống vào thuyền cho vững. Hình dáng trông như một con hổ. Một mặt khác, có lẽ Văn Thịnh cũng tin vào các thuật, và có tiếng sẵn là đã học được phép hóa hổ. Cho nên, kẻ trông thấy hình con hổ trong thuyền lại càng nghi cho y muốn hại vua.
Cũng may cho y. Tuy vua tin dị đoan, nhưng đạo Phật đã gieo mối từ tâm, cho nên Văn Thịnh không bị tru di tam tộc như Nguyễn Trãi đời sau. Các nhà bình luận phái nho ở đời sau, như Ngô Sĩ Liên, còn trách rằng: “Nhân thần mà mưu giết vua cướp ngôi, thế mà còn tha tội. Lại sai hình chính như vậy; ấy bởi vì lỗi vua quá sùng đạo Phật”.
Sau đó, Mục Thận được ban chức đô úy tướng quân, và đất Tây Hồ làm thực ấp (TT). Mục Thận làm quan đến chức phụ quốc tướng quân. Sau khi mất được tặng hàm thái úy, và được vua sai lập đền ở phường nhà. Đền ấy đến nay vẫn còn. Sách VĐUL còn chép thêm rằng cạnh đền có một cổ thụ rất to, hình dáng cong queo, như thân con rắn lớn. Cành lá thưa thớt, trong thân có lỗ. Trong lỗ có con trăn làm tổ. Ngày sóc vọng, trăn vào đền, khoanh thành mấy vòng nằm trầu.
CHUYỆN TRÂU TRÈO MUỖM. – Lê Văn là một tên lính ở giáo Cổ Hoằng (huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.). Người giáp ấy có kẻ thấy dấu tích một con trâu trèo lên một cây muỗm. Xem ra, thì là trâu trắng. Khá lâu sau, trâu trắng lại xuống bằng một lối khác. Lê Văn bèn đoán rằng. “Trâu trắng là một vật ở thấp. Nay nó lại trèo lên cao. Đó là điềm kẻ dưới được lên ở trên”. Tuy các sách sử không nói, nhưng có lẽ Văn là tuổi Sửu (cầm tinh con trâu), và tự cho rằng điềm ám chỉ mình. Y bèn tụ quân làm loạn (TT). Bấy giờ vào năm 1192, đời Lý Cao Tông. Vua sai Đàm Dĩ Mông đem quân Thanh Hóa dẹp. Dĩ Mông sai đẵn chuối bỏ sông, ngăn cản thuyền của Văn không bày thành trận được. Quân Dĩ Mông thình lình tiến tới đánh gấp. Quân Văn liền tan.
Đến cuối đời Lý, nho học bành trướng. Những tà thuyết dần dần bị phát giác; những ảo thuật của kẻ bịp đời bị bộc lộ. Sử còn chép những chuyện buồn cười, như vị sư ở Tây Vực khoe mình biết phục hổ, nhưng đến khi làm thử thì chết khiếp rồi bị hổ vồ. Lại như chuyện tên hầu cận nói mình có phép làm im sấm nhưng sau khi đọc chú, sấm vẫn ầm ầm, làm cho Lý Cao Tông sợ kinh1.
Trên đây là nói riêng về ảnh hưởng không tốt của sự mê tín dựa theo đạo Phật. Còn như những tư tưởng siêu việt những giáo dụ từ bi của đức Phật, thì hẳn đã có ảnh hưởng rất hay đối với phong tục và văn hóa nước ta về triều Lý.
So sánh với hai triều Đinh Lê, ta nghiệm thấy rằng trong đời Lý, phong tục triều đình thuần hậu hơn nhiều. Các vua vũ biền các đời trước đã đem những thói giết chóc thời loạn ra thi hành ở thời bình. Những cực hình dùng hàng ngày, chứng tỏ rằng các vua ấy còn giữ tập tính của người rừng rú. Những việc Đỗ Thịnh giết cha con vua Đinh, Ngọa Triều giết em là Lê Trung Tông, đủ tiêu biểu lòng tàn nhẫn, tính phàm phu và sự chỉ có tư lợi điều khiển những hành vi của kẻ cầm quyền.
Sang đời Lý, thì khác hẳn. Tuy rằng trong các vụ hành quân ở Chiêm hay đánh Tống, có giết hại nhiều người, tuy rằng khi có loạn trong nước, vẫn có gia tài tử hình, nhưng ta phải nhận rằng chưa có đời nào, như ở đời Lý, mà vua có độ lượng khoan hồng đối với dân hay là đối với kẻ địch. Lý Thái Tông đã tha tội cho Nùng Trí Cao. Lý Thánh Tông đã tha chết cho vua Chàm là Chế Củ. Tuy rằng đó là có lợi cho đường chính trị, nhưng nếu không có sẵn từ tâm, thì ắt không nghĩ đến khoan hồng để làm lợi cho chính trị mình.
Nhờ sẵn từ tâm như vậy, cho nên các vua Lý đã có những cử chỉ đáng kính, tuy vụn vặt, nhưng còn được ghi lại trong sử sách. Mùa đông năm Ất Mùi 1055, trời giá rét, Lý Thánh Tông nói với các quan rằng: “Ta ở trong cung kín, sưởi lò than, khoác áo lông mà còn rét như thế này. Ta nghĩ đến tù nhân bị nhốt trong lao tù, chịu trói buộc khổ sở, mà chưa biết phải trái ra sao. Ăn không đầy bụng, mặc chẳng che thân. Vì gió rét, nên có kẻ chết không nơi nương tựa. Ta thật lấy làm thương”. Rồi vua sai phát chăn chiếu cho tù, và cấp cho một ngày hai bữa cơm. (TT)
Lại có lúc, Thánh Tông chỉ con gái mình là công chúa Động Thiên, mà nói với các quan coi việc kiện tụng rằng: “Ta yêu con ta, như ta là cha mẹ dân yêu dân. Vì dân không hiểu luật lệ, nên mắc tội. Ta lấy làm chướng. Vậy từ rày về sau, không kể tội nặng hay nhẹ, các ngươi phải xử một cách khoan hồng cả”. (TT 1065)
Lòng thương người như vậy của Thánh Tông không phải là một sự giả dối của nhà chính trị, mà chính là phần biểu diễn của lòng từ bi, do Phật giáo gây nên. Chính Lý Thánh Tông là tổ thứ nhất một dòng Thiền Tông ở nước ta, là dòng Thảo Đường, lập ra tại chùa Khai Quốc ở Thăng Long (TUTA 71b)
Cho đến thái hậu Ỷ Lan, tuy có ghen tuông, cho nên đã bức sát thái hậu Thượng Dương và các cung nữ, nhưng sau đó, bà biết hối và luôn luôn tìm chuộc tội mình. Bà xuất thân là một gái thôn quê, biết rõ nỗi gian lao của nông dân phải cày sâu cuốc bẫm. Cho nên bà đã có lúc khuyên Lý Nhân Tông phạt tội nặng những kẻ trộm và giết trâu. Tháng hai năm Đinh Dậu 1117, thái hậu nói cùng vua: “Gần đây người kinh thành và làng ấp đã có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây ta đã từng mách việc ấy, và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”. Nhân Tông bèn hạ lệnh phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng xóm, vì tội không tố giác. (TT)
Thái hậu chậm con hiếm cháu, cho nên thương những đàn bà con gái, vì nghèo, phải đem thân thế nợ, không thể lấy chồng. Mùa xuân năm Quí Mùi 1103, thái hậu lấy của kho chúng chuộc về, và gả cho những kẻ góa vợ (TT)
Tuy những hành động từ bi của Thái hậu không phải tự nhiên mà có, tuy đó vì một phần muốn chuộc tội và cầu phúc cho con, nhưng chắc nhờ ảnh hưởng Phật mới có những hành động bác ái ấy.
Vả chăng, ở triều Lý, ít có những cuộc tàn sát vì những chuyện mưu tiếm vị cướp quyền. Tuy có hai lần, vào đời Thái Tông và Cao Tông, nhưng kết cục, cũng không khốc hại như ở các triều khác. Các đại thần cũng ít người bị nghi kị và tàn sát như ở các đời sau.
Nói tóm lại, sau các đời vua hung hãn họ Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện ra những kẻ cầm quyền có độ lượng khoan hồng, những người giúp việc ít tham lam phản bạn. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong sử nước ta. Đó chính là nhờ ảnh hưởng của đạo Phật.
Mà thực vậy, mỗi lúc ta thấy có nho gia bài xích Phật giáo, thì ta biết rằng trong nước sẽ có cuộc tranh quyền lợi mà giết lẫn nhau. Sau khi Đàm Dĩ Mông sa thải tăng già, thì có Trần Thủ Độ liền sau tàn sát họ Lý. Cuối đời Trần, nho học nên thịnh. Có Trương Hán Siêu, Lê Quác chỉ trích đạo Phật, thì sau lại có Hồ Quý Ly sát hại họ Trần. Trần Thủ Độ và Hồ Quý Lý làm những việc kia, ấy cũng vì muốn thi hành chính trị vị danh, xa hẳn lòng bác ái từ bi của Phật.
Mà trong khỉ Dĩ Mông phỉ nhục tăng đồ, thì lại có một vị tăng dám can Lý Cao Tông đừng hát xướng chơi bời, xa hoa quá độ. Lời can ấy lại viện sách nhà Nho! Sư là tăng phó Nguyễn Thường. Lời sư nói với Cao Tông rằng: “Tôi nghe ở tựa kinh Thi có nói: âm nhạc làm loạn nước thì nghe như oán, như giận. Nay dân thì loạn, nước thì khốn. Chúa thượng rong chơi vô độ. Triều chính rối loạn dân tâm lìa tan. Đó là triệu chứng nước mất đó.”
Lời can ấy cũng đủ tỏ giá trị của người đi tu và ảnh hưởng của họ đối với chính trị với phong hóa. Mà lời can ấy lại là một lời đoán vận mệnh nhà Lý rất hay, chỉ cần lý luận mà tìm ra, chứ chẳng phải mượn kĩ thuật gì cả.
________________________________________
1. CHUYỆN SƯ GIÁNG HỔ.- Mùa thu năm Đinh Mùi 1187, đời Lý Cao Tông có một sư người Tây Vực (phía tây bắc Ấn Độ) tới Thăng Long. Cao Tông hỏi: “Sư biết phép gì không?” sư trả lời “Biết giáng hổ”. Vua sai tên chỉ hầu phụng ngự Lê Năng Trường đem sư về công quán ở, và sai người bắt hổ để thử. Hơn một tuần sau, sư nói với Năng Trường rằng hổ ấy có thể phục được. Năng Trường tâu vua. Vua sai dựng chuồng trong các Vĩnh Bình. Rồi bảo sư vào chuồng thử hồ. Sư đi ren rén bước một, miệng đọc chú, tay cầm gậy. Đến trước hổ, sư lấy gậy đánh vào đầu hổ. Hổ vồ lấy gậy. Sư lui ra, tâu vua: “Có người nào ác, đã giải mất phép chú của tôi.”
Một hôm khác, vua lại sai thử lại. Sư xin làm đàn cầu Phật trước. Vua bằng lòng. Nhưng sư làm lễ lâu không chịu vào thử. Vua muốn thử cho đến cùng. Một hôm khác, vua ép sư vào chuồng hổ. Hổ nhảy lồng lên gường nhà, cào, thét. Sư sợ quá, lùi, không biết làm gì nữa. Bèn tựa chuồng mà chết.
CHUYỆN THỦY CUNG - Lý Cao Tông thường say đắm chơi bời. Thường lấy vải lụa bọc sáp chung quanh, rồi vứt xuống hồ trong Thượng uyển, và sai kẻ hầu lặn xuống mò lên, để giả làm như Thuỷ cung đem hiến. Sau, có tên hầu, là Vũ Cao, sợ phải lặn mò. Y bèn bịa đặt kể lại chuyện sau: “Cao qua chơi trên bờ hồ. Thấy một người lạ cầm lấy tay mà dắt đi. Đến gốc cây muỗm trên bờ hồ người kia kéo Cao, bảo đi xuống nước. Cao sợ chết đuối, không dám tiến. Một lát, thấy nước rẽ ra. Cao bèn đi vào. Đến một nơi, thấy cung điện nguy nga, thị vệ nghiêm chỉnh. Cao hỏi ai ở đó. Người kia trả lời: ta ở đó để quản hồ này. Rồi người kia sai dọn mâm cỗ, cùng Cao uống rượu. Rượu xong, Cao xin về. Người kia đưa cho cau cầm tay, rồi dẫn ra. Đến gốc cây muỗm, thì không thấy người kia đâu nữa, mà trong tay, cau đã hóa ra mấy viên đá. Bấy giờ Cao mới biết hồ có thần”.
Cao Tông nghe chuyện, không sợ hãi gì cả, mà còn sai chôn sắt để yểm thần. (VSL 1206)
CHUYỆN GỌI NƯỚC. -Đến mùa đông, nước hồ cạn. Cao Tông không thể dong thuyền chơi trên hồ được. Vua bảo kẻ hầu chung quanh: “Có ai làm phép cho nước sông lên tây hồ được, thì ta sẽ hậu thưởng”. Có tên Trần Túc trả lời: “Tôi làm được”. Không phải như ta tưởng; Túc không làm máy tát nước đâu. Y định làm phép chú. Vua sai làm, nhưng nước không lên. (VSL 1206)
CHUYỆN GIÁNG SẤM - Tính Cao Tông sợ sấm. Mỗi lúc nghe sấm động thì run sợ. Có tên cận thần Nguyễn Dư khoe mình có phép giáng sấm. Gặp khi có sấm kêu, Cao Tông bảo nó làm phép. Dư ngửng mặt lên trời đọc chú. Sấm lại càng kêu lớn. Vua hỏi tại sao, Dư trả lời: “Tôi đã rằn nó từ lâu, mà nó còn cường bạo như thế đó? “ (VSL 1206).
7- Đạo Phật và
văn hóa
Lời sư Nguyễn Thường can vua lại chứng tỏ một sự mà ta đã biết rồi, là ở đời Lý, phần lớn các tăng học nho rất rộng. Vậy nên tăng đồ có ảnh hưởng lớn đến văn hóa đương thời. Văn thơ đời Lý để lại còn nhiều, nhờ sách TUTA và một số bia nhà Lý. Ta thấy các sư, thật là những người hay chữ. Mà những nho gia khác cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhà chùa.
Câu truyện làm thơ đầu tiên trong lịch sử độc lập nước ta thuộc về hai vị sư. Tống Thái Tông sai nhà văn hào Lý Giác sang phong cho Lê Hoàn làm Tĩnh Hải tiết độ sứ. Năm 987, Giác tới nơi. Chắc trong triều bấy giờ ít người hay chữ. Vua phải nhờ đến sư Đỗ Thuận tiếp. Các sách TT và TUTA chép rằng sư giả làm lái đò chèo thuyền cho Giác. Tính Giác thích làm thơ. Bấy giờ có hai con ngỗng cùng bơi trên mặt nước. Giác ngâm:
Nguyên văn:
Nga nga, lưỡng nga nga.
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Nghĩa là:
Ngỗng kia! Ngỗng một đôi!
Nghểnh cổ nhìn góc trời.
Sư Thuận nghe, ứng khẩu đọc tiếp:
Bạch mao phô lục thủy.
Hồng trạo bãi thanh ba.
Nghĩa là:
Nước xanh lông trắng phủ.
Sóng biếc chân hồng bơi.
Giác khen sư hay thơ và có tài mẫn tiệp. Rồi Giác làm thơ vịnh, nhưng tỏ ý kính trọng vua ta. Cho nên lúc Giác ra về, vua Lê nhờ sư Khuông Việt làm bài ca tặng. Bài ca ấy nay còn chép (TT và TUTA). Khuông Việt soạn ra bài ca chúc sứ lên đường, lúc cùng nhau uống chén tiễn biệt. Sau đây là bài dịch theo đúng điệu và nguyên văn:
“Trời lành, gió thuận, buồm gấm trương,
Thần tiên về đế hương.
Ngàn trùng vượt sóng bể mênh mang,
Đường xa mấy dặm trường.
Cạn tình thảm thiết chén li xương,
Cầm tay sứ, lòng càng...
Nhờ đem thâm ý người nam cương.
Phân minh tâu thượng hoàng.”
Đó là lời tửu chúc từ thân thiện đầu tiên trong lịch sử ngoại giao của nước Việt. Mà lại là của một vị sư!
Bước sang triều Lý, nho thần đủ người để sung vào việc ngoại giao. Ta không thấy những vị sư tiếp sứ nữa. Nhưng sư vẫn có nhiều người hay chữ. Nguồn thơ là đạo lý uyên nguyên. Suốt quyển TUTA, trong chuyện tất cả các vị sư, đều có một vài câu kệ bằng văn vần. Trong khi các sư nói chuyện về đạo lý cùng nhau, họ đều đọc thành những câu kệ, ý tứ mông lung, nhưng đối với sự hiểu thường của ta, thì thường không rõ ý. Ví như chuyện có tăng tới hỏi sư Viên chiếu, là con anh thái hậu Ỷ Lan, rằng: “Phật và Thánh nghĩa là thế nào?” Sư trả lời:
Cúc trùng dương dưới giậu,
Oanh thục khí đầu cành
Tăng kia không hiểu, nhờ sư giảng. Sư lại nói:
Ngày thì ác vàng chiếu
Tối lại thỏ ngọc soi.
Tăng bèn nói đã hiểu chân lý của sư. Thật ra, ta không biết ý ấy ra sao. Phải chăng sư muốn nói rằng Phật và Thánh nghĩa là tất cả những biến tướng hiện ra trong trời đất?
Trái lại có một vài bài thơ ý tứ gần ta hơn, nhưng lời lẽ rất thanh tao, đọc lên cảm thấy đời sống mặc tĩnh, ý nghĩ thâm trầm của những nhà cao ẩn. Ví dụ như bài kệ của sư Mãn Giác (XV/3), là một vị tăng con một đại thần, và được vua Nhân Tông và thái hậu Linh Nhân rất trọng. Sư mất khi mới 45 tuổi, năm Hội Phong thứ 5 (1096). Trước khi mất, sư đọc bài kệ sau này:
Nguyên văn:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc,
Đinh tiền tạc dạ nhất chí mai.
Nghĩa là:
Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân lại nở trăm hoa.
Trước mắt sự đời thoảng,
Trên đầu hiện tuổi già.
Chớ bao xuân tàn hoa rụng hết.
Ngoài sân đêm trước một cành mơ
Tóm tắt trong sáu câu trên, có đủ ý vũ trụ tuần hoàn trái với đời người ngắn ngủi, ý người ta không nên lấy sự ấy làm phàn nàn, vì tuy mất rồi, nhưng vẫn còn tinh hoa để lại cùng trị.
Cho đến phái nho, vì hằng ngày giao thiệp với các tăng, nên cũng chịu ảnh hưởng nhiều của Phật giáo. Thi văn của phái nho nay không còn gì nữa, ngoài một vài bài, giữ được nhờ sách TUTA. Ví như hai bài thơ của vị công bộ thượng thư Đoàn Văn Liệm tặng và điều thiền sư Quảng Trí (TUTA 18a), mất vào khoảng đời Quảng hữu (1085-1092). Bài thơ điếu như sau: Lâm man bạch thủ độn kinh thành.
Phất tụ cao sơn viễn cánh hinh.
Kỷ nguyện tĩnh cân xu trượng tịch,
Hốt văn di lý yểm thiền quinh.
Trai đình u điểu không đề nguyệt,
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh.
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
Phỏng dịch như sau:
Rừng xanh đầu bạc lánh kinh thành,
Rủ áo lên non rậy nổi danh.
Toan đổi khăn sồng lên cửa Phật,
Thoát nghe tiếng dép động ngoài sanh.
Sân chùa chim rũ gào suông nguyệt,
Mộ tháp ai còn giúp viết minh.
Bạn đạo xin đừng than vĩnh biệt,
Trước am, sông núi ấy chân hình.
Văn đời Lý nay chỉ còn một ít văn bia, do tăng hay nho viết. Những bia ấy là bia chùa. Văn rất cổ kính. Trong chương sau, ta có nhịp dịch một vài đoạn văn của Hải chiếu đại sư.
Về khảo cứu, ta đã thấy rằng quốc sư Thông biện thật là một nhà khao cổ uyên bác. Chỉ tiếc nay không còn trước tác gì khiến ta biết rõ hơn.
Nói tóm lại, văn học đời Lý đã thịnh, và chịu ảnh hưởng đạo Phật nhiều. Vả nhờ đạo Phật mà các bia chùa, và sách Thuyền uyển tập anh còn giữ được một phần tác phẩm. Xem vậy Phật giáo có công to đối với sự phát triển cũng như sự bảo tồn văn học nước nhà.
Đối với các ngành mỹ thuật,
như kiến trúc, điêu khắc và hội họa, đạo Phật là
một cớ làm tiến triển rất to.
Trong triều Lý, rất nhiều chùa tháp được xây dựng với qui mô rộng lớn. Hầu hết những danh lam còn lại, là do từ đời Lý lập ra. Những thắng tích ở Hà Nội, như quán Trấn Vũ (tên tục là chùa Quán Thánh, tên đời Lý là Bắc Đế, 1102), Diên Hữu (tên tục là chùa Một Cột, 1049), đền Nhị Nữ (tục gọi là tên Hai Bà, nguyên ở phường Bố Cái tức là ở bãi Đồng Nhân, 1160), đền Linh Lang (tên tục là đến Voi Phục), đều khởi tạo từ đời nhà Lý. Sách TUTA và các sử còn chép nhiều tên chùa dựng ở Thăng Long, nhưng nay đã bị hủy mất, hay đã bị đổi tên1.
Còn như những danh sơn như núi Long Đội ở huyện Duy Tiên, núi Phật Tích ở huyện An Sơn, núi Tiên Du ở huyện Tiên Du, núi Lam Sơn ở huyện Quế Dương, núi Tiêu Sơn ở huyện Yên Phong, núi Đồ Sơn ở huyện Nghi Dương, đều có dựng chùa và tháp.
Ngoài những từ miếu, các vua Lý còn dựng và sửa chữa nhiều cung điện ở Thăng Long và ở những nơi vua thường đi chơi hay đi làm lễ xem gặt, xem cày. Tuy là các tạo tác này không có tính cách tôn giáo, nhưng chắc nó cũng chịu nhiều ảnh hưởng của sự dựng chùa.
Trong chương sau, ta sẽ thấy tả một vài chùa cổ làm trong hồi Lý Thường Kiệt vào trấn ở Thanh Hóa. Sau đây là tả qui mô chùa Một Cột, theo ba STDL và sách TT. Tháng 9 năm Ất Dậu 1105, Lý Nhân Tông dựng hai tháp mái bằng sứ trắng ở chùa Diên Hữu. Bấy giờ vua chữa lại chùa (TT). “Ở vườn Tây Cấm, dựng chùa Diên Hữu. Theo giấu chế độ cũ, thêm mưu mới của nhà vua. Tạc hồ Linh Chiểu. Trên hồ dựng lên một cột đá. Trên cột đá nở một hoa sen nghìn cánh. Trên hoa lại gác một tòa điện. Trong điện đặt tượng Phật vàng. Chung quanh hồ có hành lang bao vây, tường vẽ. Ngoài hành lang lại có hồ Khang Bích bọc bốn bề. Mỗi bề có cầu thông ra ngoài sân. Trong sân, kề đầu cầu ở trước chùa, có dựng hai tháp lợp ngói sứ.” (Bia STDL)
Tuy những cung điện, chùa miếu cũ nay không còn, nhưng ở một vài nơi, còn có vài tòa tháp, hay một tấm bia, hay vài bệ đá, hay ít nhiều tảng đá chạm cũ. Những di vật ấy cũng đủ tỏ cho ta thấy rằng nghề kiến trúc, cũng như nghề điêu khắc đời Lý, rất tinh vi và hùng vĩ, các triều đại sau không sánh kịp2.
Một ảnh hưởng bất ngờ của đạo Phật là: nhờ các vua Lý muốn tổ chức những hội long trọng, cho nên đã khuyến khích sáng chế ra nhiều máy tự động. Sử và nhất là bia STDL còn tả rõ những máy đã được thực hiện ở trong đời Nhân Tông.
Đây là máy kim ngao. Ngày trung thu và ngày tết, Nhân Tông ngự ở điện Linh Quang trên bờ sông Lô. Dưới sông, hàng nghìn thuyền gióng đua bơi, ở giữa sông, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù rờ trên mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua, mà cúi đầu chào. (STDL)
Đây là máy đèn quay và người nộm đánh chuông. Ấy là lúc vua kén hoàng hậu. Nhân Tông đặt hội đền Quảng Chiếu. “Dựng đài Quảng Chiếu, ngoảnh ra cửa Đoan Môn.
Giữa nêu một cột, ngoài đặt bảy từng. Rồng cuốn mà đỡ tòa kim liên, rèm rồng mà che đèn sáng rực: Có máy dấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có hai tòa hoa lâu. Treo quả chuông đồng. Tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn máy kín thì giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo, liền quay mặt lại. Thấy bóng vua, lại biết cúi đầu. Tựa hồ như có chí khôn, biết khi động khi tĩnh. (STDL)
Nói tóm lại, suốt trong triều Lý, đạo Phật được vua quan trọng, tăng già nhiều kẻ giỏi giang. Cho nên ảnh hưởng Phật giáo ăn sâu vào tất cả các ngành hoạt động của người trong nước, về phương diện tinh thần cũng như vật chất.
__________________________________
1, 2. Sau đây, kê những việc các vua Lý làm, có liên quan với việc đạo Phật, Lão và Nho. Bảng kê theo hai sách TT và VSL. Khi nào cả hai sách cùng chép một việc, thì sau việc ấy, có đánh dấu (C). Khi nào chỉ một sách chuyện ấy mà thôi, thi chỉ đánh một dấu (T) hay (V). Còn về cách chép năm, thì trong khoảng từ năm 1133 đến 1155, hai sách ấy chép lệch năm nhau. Trong khoảng 1133-1139, cũng cùng một chuyện, sách TT chép chậm lại một năm đối với VSL, trong khoảng 1140-1155, sách TT chép chậm đến hai năm đối với VSL. Muốn biết đâu là hư thật, ta phải so sánh với những tài liệu thứ ba.
Trong khoảng đầu, TS và bia Đỗ Anh Vũ đều cho ta biết rằng Lý Thần Tông mất năm Đ. Ti 1137, y như trong VSL. Thế mà TT lại chép chuyện ấy vào năm sau. Ta phải nhận rằng TT sai, mà VSL đúng. Vì đâu có sự sai ấy? Xét kỹ, ta thấy TT bỏ sót mất đề mục năm Q.Su 1133, cho nên chép chuyện năm ấy vào năm sau; rồi sự sai ấy kéo chuyện đến năm Canh Thân 1140, mà ta phải chữa ra K.Vi 1139.
Trong khoảng thứ hai, TS cho ta biết rằng tháng 4 năm A. Su 1145, có sao chổi hiện. Thế mà sách TT lại chép vào năm 1146, và VSL lại chép vào năm 1144. Vả chăng, TT còn cho biết rằng năm ấy có tháng 6 nhuận; mà theo lịch Tống thì chính năm A.Su 1145. Trong khoảng nói đây, 1140-1145, TT vẫn chép chậm một năm, mà VSL lại chép sớm hơn một năm.
Trong bảng kê sau đây, tôi sẽ theo nguyên tắc trên mà chữa niên kỷ của hai sách.
Đời LÝ THÁI TỔ. Năm:
1010, dựng chùa riềng Hưng Thiên Ngự Tự và lầu Ngũ Phượng. Tinh tâu trong thành nội. Dựng chùa Thắng Nghiêm ở phương nam thành Thăng Long (C). Phát 2 vạn quan tiền để dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức đều có dựng bia ghi công. Sức cho các làng phải trùng tu chùa chiềng. Phát 1.680 lạng bạc để đúc chuông chùa Đại Giáo. Chọn dân làm tăng (T).
1011, trong thành, dựng cung Thái Thanh ở bên tả, chùa Vạn Thọ ở bên hữu. Dựng nhà tàng kinh Trấn Phúc. Ngoài thành, dựng chùa Tứ Dạ Thiên Vương (T). Dựng chùa Cẩm Y và Long Hưng Thánh Thọ (C).
1014, tăng thống Thẩm Văn Uyển xin lập giới trường ở chùa Vạn Thọ để tăng đồ thụ giới (xem 1011). Phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng Thiên, và 800 lạng bạc để đúc chuông chùa Thắng Nghiêm và lầu Ngũ Phượng (Xem 1010).(T)
1016, dựng các chùa Thiên Quang, Thiên Đức, và tô tượng Tứ Thiên Đế (C). Dựng đền Lý Phục Man. Chọn hơn 1.000 người ở kinh sư, làm cho tăng và đạo. (T)
1018, sai Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc đi Tống xin kinh Tam Tạng (C). Năm 1020 mới về. Vua Lý sai sư Phí Trí tới Quảng Châu đón. (T)
1019, độ dân làm tăng. (T)
1021, dựng núi Nam Sơn chúc thọ (C). Dựng nhà tàng kinh Bát Giác. (T)
1023, viết lại kinh Tam Tạng, rồi trữ tại tàng kinh Đại Hưng. (T)
1024, dựng chùa Chân giáo ở trong thành nội, để tiện việc tụng kinh. (T)
1027, sai viết kinh Tam Tạng
Đời LÝ THÁI TÔNG. - năm:
1028, dựng núi Nam Sơn chúc thọ. Dựng miếu thần Đồng Cổ ở phía hữu thành Đại La, cạnh sau chùa Thánh Thọ. Đặt các giai cấp cho tăng và đạo. (T)
1031, sai chữa và dựng nhiều chùa và quán; sách VSL, chép 150 nơi, sách TT chép 950 nơi. Lập pháp hội. Đặt chức kỷ lục coi cung Thái Thanh (xem 1011) và giao cho đạo sĩ. (T)
1034, vua thăm chùa Trùng Quang ở núi Tiên Du. Dựng nhà tàng thư Trùng Hưng. Sai Hà Thụ và Đỗ Khoan đi sứ Tống. Vua Tống tặng cho kinh Tam Tạng. Hai vị tăng Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm tự thiêu; sai để xá lị ở chùa Trường Thánh (T). Đào được hòm xá lị ở chùa Pháp Vân tại Cổ Pháp. (T)
1035, cấp 6 nghìn cân đồng để đúc chuông chùa Trùng Quang (xem 1034); chuông “tự dời đến chùa”. (T)
1036, khánh thành phật hội Đại Nguyên ở Long Trì. Sai viết kinh Đại Tạng để trữ ở tàng thư Trùng Hưng (xem 1034). (T)
1037, tượng phật cổ ở dưới đất mọc ra ở một vườn dâu tại Ô Lộ (T)
1038, dựng bia chùa Trùng Quang (xem 1034) (T)
1040 đặt hội La Hán. Khánh thành một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ, một nghìn bức tranh và một vạn cờ phướn. (T)
1041, xây viện Thiên Phúc ở núi Tiên Du, cấp 7.560 cân đồng để đúc tượng Di Lặc và chuông, đặt tại viện ấy. (T)
1043, vua đi thăm chùa cổ ở núi Tùng sơn tại Châu Vũ Ninh. Chùa đã đổ. Có một cột đá tự nhiên dựng lại. (T)
1048, dựng chùa Xã Tắc ở ngoài cửa Trường Quảng, để cầu được mùa(c). Đặt lễ rước trâu đất đầu mùa xuân. (V)
1049, dựng chùa Diên Hữu, tức chùa Một Cột (C). Nguyên vua mộng thấy Phật bà Quan âm ngồi trên đài hoa sen, đến dẫn vua lên trên đài. Lúc tỉnh, vua kể lại Triều Thần cho là điềm gở (điềm vua chết). Sư Thiền Tuệ khuyên nên xây chùa, dựng cột đá giữa hồ, đặt đài hoa sen có tượng Quan âm ở trên, như thấy trong mộng. Tăng đồ đi vòng quanh đài, tụng kinh để cầu cho vua sống lâu.(T)
Trong triều Lý, rất nhiều chùa tháp được xây dựng với qui mô rộng lớn. Hầu hết những danh lam còn lại, là do từ đời Lý lập ra. Những thắng tích ở Hà Nội, như quán Trấn Vũ (tên tục là chùa Quán Thánh, tên đời Lý là Bắc Đế, 1102), Diên Hữu (tên tục là chùa Một Cột, 1049), đền Nhị Nữ (tục gọi là tên Hai Bà, nguyên ở phường Bố Cái tức là ở bãi Đồng Nhân, 1160), đền Linh Lang (tên tục là đến Voi Phục), đều khởi tạo từ đời nhà Lý. Sách TUTA và các sử còn chép nhiều tên chùa dựng ở Thăng Long, nhưng nay đã bị hủy mất, hay đã bị đổi tên1.
Còn như những danh sơn như núi Long Đội ở huyện Duy Tiên, núi Phật Tích ở huyện An Sơn, núi Tiên Du ở huyện Tiên Du, núi Lam Sơn ở huyện Quế Dương, núi Tiêu Sơn ở huyện Yên Phong, núi Đồ Sơn ở huyện Nghi Dương, đều có dựng chùa và tháp.
Ngoài những từ miếu, các vua Lý còn dựng và sửa chữa nhiều cung điện ở Thăng Long và ở những nơi vua thường đi chơi hay đi làm lễ xem gặt, xem cày. Tuy là các tạo tác này không có tính cách tôn giáo, nhưng chắc nó cũng chịu nhiều ảnh hưởng của sự dựng chùa.
Trong chương sau, ta sẽ thấy tả một vài chùa cổ làm trong hồi Lý Thường Kiệt vào trấn ở Thanh Hóa. Sau đây là tả qui mô chùa Một Cột, theo ba STDL và sách TT. Tháng 9 năm Ất Dậu 1105, Lý Nhân Tông dựng hai tháp mái bằng sứ trắng ở chùa Diên Hữu. Bấy giờ vua chữa lại chùa (TT). “Ở vườn Tây Cấm, dựng chùa Diên Hữu. Theo giấu chế độ cũ, thêm mưu mới của nhà vua. Tạc hồ Linh Chiểu. Trên hồ dựng lên một cột đá. Trên cột đá nở một hoa sen nghìn cánh. Trên hoa lại gác một tòa điện. Trong điện đặt tượng Phật vàng. Chung quanh hồ có hành lang bao vây, tường vẽ. Ngoài hành lang lại có hồ Khang Bích bọc bốn bề. Mỗi bề có cầu thông ra ngoài sân. Trong sân, kề đầu cầu ở trước chùa, có dựng hai tháp lợp ngói sứ.” (Bia STDL)
Tuy những cung điện, chùa miếu cũ nay không còn, nhưng ở một vài nơi, còn có vài tòa tháp, hay một tấm bia, hay vài bệ đá, hay ít nhiều tảng đá chạm cũ. Những di vật ấy cũng đủ tỏ cho ta thấy rằng nghề kiến trúc, cũng như nghề điêu khắc đời Lý, rất tinh vi và hùng vĩ, các triều đại sau không sánh kịp2.
Một ảnh hưởng bất ngờ của đạo Phật là: nhờ các vua Lý muốn tổ chức những hội long trọng, cho nên đã khuyến khích sáng chế ra nhiều máy tự động. Sử và nhất là bia STDL còn tả rõ những máy đã được thực hiện ở trong đời Nhân Tông.
Đây là máy kim ngao. Ngày trung thu và ngày tết, Nhân Tông ngự ở điện Linh Quang trên bờ sông Lô. Dưới sông, hàng nghìn thuyền gióng đua bơi, ở giữa sông, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù rờ trên mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua, mà cúi đầu chào. (STDL)
Đây là máy đèn quay và người nộm đánh chuông. Ấy là lúc vua kén hoàng hậu. Nhân Tông đặt hội đền Quảng Chiếu. “Dựng đài Quảng Chiếu, ngoảnh ra cửa Đoan Môn.
Giữa nêu một cột, ngoài đặt bảy từng. Rồng cuốn mà đỡ tòa kim liên, rèm rồng mà che đèn sáng rực: Có máy dấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có hai tòa hoa lâu. Treo quả chuông đồng. Tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn máy kín thì giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo, liền quay mặt lại. Thấy bóng vua, lại biết cúi đầu. Tựa hồ như có chí khôn, biết khi động khi tĩnh. (STDL)
Nói tóm lại, suốt trong triều Lý, đạo Phật được vua quan trọng, tăng già nhiều kẻ giỏi giang. Cho nên ảnh hưởng Phật giáo ăn sâu vào tất cả các ngành hoạt động của người trong nước, về phương diện tinh thần cũng như vật chất.
__________________________________
1, 2. Sau đây, kê những việc các vua Lý làm, có liên quan với việc đạo Phật, Lão và Nho. Bảng kê theo hai sách TT và VSL. Khi nào cả hai sách cùng chép một việc, thì sau việc ấy, có đánh dấu (C). Khi nào chỉ một sách chuyện ấy mà thôi, thi chỉ đánh một dấu (T) hay (V). Còn về cách chép năm, thì trong khoảng từ năm 1133 đến 1155, hai sách ấy chép lệch năm nhau. Trong khoảng 1133-1139, cũng cùng một chuyện, sách TT chép chậm lại một năm đối với VSL, trong khoảng 1140-1155, sách TT chép chậm đến hai năm đối với VSL. Muốn biết đâu là hư thật, ta phải so sánh với những tài liệu thứ ba.
Trong khoảng đầu, TS và bia Đỗ Anh Vũ đều cho ta biết rằng Lý Thần Tông mất năm Đ. Ti 1137, y như trong VSL. Thế mà TT lại chép chuyện ấy vào năm sau. Ta phải nhận rằng TT sai, mà VSL đúng. Vì đâu có sự sai ấy? Xét kỹ, ta thấy TT bỏ sót mất đề mục năm Q.Su 1133, cho nên chép chuyện năm ấy vào năm sau; rồi sự sai ấy kéo chuyện đến năm Canh Thân 1140, mà ta phải chữa ra K.Vi 1139.
Trong khoảng thứ hai, TS cho ta biết rằng tháng 4 năm A. Su 1145, có sao chổi hiện. Thế mà sách TT lại chép vào năm 1146, và VSL lại chép vào năm 1144. Vả chăng, TT còn cho biết rằng năm ấy có tháng 6 nhuận; mà theo lịch Tống thì chính năm A.Su 1145. Trong khoảng nói đây, 1140-1145, TT vẫn chép chậm một năm, mà VSL lại chép sớm hơn một năm.
Trong bảng kê sau đây, tôi sẽ theo nguyên tắc trên mà chữa niên kỷ của hai sách.
Đời LÝ THÁI TỔ. Năm:
1010, dựng chùa riềng Hưng Thiên Ngự Tự và lầu Ngũ Phượng. Tinh tâu trong thành nội. Dựng chùa Thắng Nghiêm ở phương nam thành Thăng Long (C). Phát 2 vạn quan tiền để dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức đều có dựng bia ghi công. Sức cho các làng phải trùng tu chùa chiềng. Phát 1.680 lạng bạc để đúc chuông chùa Đại Giáo. Chọn dân làm tăng (T).
1011, trong thành, dựng cung Thái Thanh ở bên tả, chùa Vạn Thọ ở bên hữu. Dựng nhà tàng kinh Trấn Phúc. Ngoài thành, dựng chùa Tứ Dạ Thiên Vương (T). Dựng chùa Cẩm Y và Long Hưng Thánh Thọ (C).
1014, tăng thống Thẩm Văn Uyển xin lập giới trường ở chùa Vạn Thọ để tăng đồ thụ giới (xem 1011). Phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng Thiên, và 800 lạng bạc để đúc chuông chùa Thắng Nghiêm và lầu Ngũ Phượng (Xem 1010).(T)
1016, dựng các chùa Thiên Quang, Thiên Đức, và tô tượng Tứ Thiên Đế (C). Dựng đền Lý Phục Man. Chọn hơn 1.000 người ở kinh sư, làm cho tăng và đạo. (T)
1018, sai Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc đi Tống xin kinh Tam Tạng (C). Năm 1020 mới về. Vua Lý sai sư Phí Trí tới Quảng Châu đón. (T)
1019, độ dân làm tăng. (T)
1021, dựng núi Nam Sơn chúc thọ (C). Dựng nhà tàng kinh Bát Giác. (T)
1023, viết lại kinh Tam Tạng, rồi trữ tại tàng kinh Đại Hưng. (T)
1024, dựng chùa Chân giáo ở trong thành nội, để tiện việc tụng kinh. (T)
1027, sai viết kinh Tam Tạng
Đời LÝ THÁI TÔNG. - năm:
1028, dựng núi Nam Sơn chúc thọ. Dựng miếu thần Đồng Cổ ở phía hữu thành Đại La, cạnh sau chùa Thánh Thọ. Đặt các giai cấp cho tăng và đạo. (T)
1031, sai chữa và dựng nhiều chùa và quán; sách VSL, chép 150 nơi, sách TT chép 950 nơi. Lập pháp hội. Đặt chức kỷ lục coi cung Thái Thanh (xem 1011) và giao cho đạo sĩ. (T)
1034, vua thăm chùa Trùng Quang ở núi Tiên Du. Dựng nhà tàng thư Trùng Hưng. Sai Hà Thụ và Đỗ Khoan đi sứ Tống. Vua Tống tặng cho kinh Tam Tạng. Hai vị tăng Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm tự thiêu; sai để xá lị ở chùa Trường Thánh (T). Đào được hòm xá lị ở chùa Pháp Vân tại Cổ Pháp. (T)
1035, cấp 6 nghìn cân đồng để đúc chuông chùa Trùng Quang (xem 1034); chuông “tự dời đến chùa”. (T)
1036, khánh thành phật hội Đại Nguyên ở Long Trì. Sai viết kinh Đại Tạng để trữ ở tàng thư Trùng Hưng (xem 1034). (T)
1037, tượng phật cổ ở dưới đất mọc ra ở một vườn dâu tại Ô Lộ (T)
1038, dựng bia chùa Trùng Quang (xem 1034) (T)
1040 đặt hội La Hán. Khánh thành một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ, một nghìn bức tranh và một vạn cờ phướn. (T)
1041, xây viện Thiên Phúc ở núi Tiên Du, cấp 7.560 cân đồng để đúc tượng Di Lặc và chuông, đặt tại viện ấy. (T)
1043, vua đi thăm chùa cổ ở núi Tùng sơn tại Châu Vũ Ninh. Chùa đã đổ. Có một cột đá tự nhiên dựng lại. (T)
1048, dựng chùa Xã Tắc ở ngoài cửa Trường Quảng, để cầu được mùa(c). Đặt lễ rước trâu đất đầu mùa xuân. (V)
1049, dựng chùa Diên Hữu, tức chùa Một Cột (C). Nguyên vua mộng thấy Phật bà Quan âm ngồi trên đài hoa sen, đến dẫn vua lên trên đài. Lúc tỉnh, vua kể lại Triều Thần cho là điềm gở (điềm vua chết). Sư Thiền Tuệ khuyên nên xây chùa, dựng cột đá giữa hồ, đặt đài hoa sen có tượng Quan âm ở trên, như thấy trong mộng. Tăng đồ đi vòng quanh đài, tụng kinh để cầu cho vua sống lâu.(T)
_____________________________________________
Đời LÝ THÁNH TÔNG. – Năm:
1055, dựng chùa Đông Lâm (TUTA nói ở Điển Lạnh) và chùa Tĩnh Lữ, ở Đông Cứu. (V)
1056, lập hội La Hán ở điện Thiên An (V), dựng chùa Sùng Khánh Báo Thiên; phát 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa. Vua tự làm bài minh khắc vào chuông. Chùa này thường gọi là chùa Báo Thiên, ở chỗ nhà thờ lớn Cơ Đốc tại Hà Nội ngày nay. (C)
1057, xây tháp Đại Thắng Tư Thiên, tức là tháp chùa Báo Thiên (xem 1056). Tháp cao vài mươi trượng. TT chép tháp có 12 tầng, VSL chép 30 tầng chắc sai. Dựng các chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ; đúc tượng Phạm Vương và Đế Thích để thờ ở đó. (C)
1058, vua đi xem chỗ xây tháp Đồ Sơn (ở nơi khách sạn lớn tại mỏm núi Đồ Sơn ngày nay).(V)
1059. dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ Ninh. Vua đặt tên cho tháp Đồ Sơn là Tường Long, vì “có rồng vàng hiện ở điện Vĩnh Thọ”. (V)
1063, dựng chùa ở núi Ba Sơn để cầu tự. (V)
1066, sai lang tướng Quãnh Mãn dựng tháp ở núi Tiên Du. (C)
1070, dựng chùa Nhị thiên vương ở đông nam thành Thăng Long (V) Tháng 8, dựng (hay chữa, TT chép tu) Văn Miếu; tô tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối, thất thập nhị hiền để thờ. Cho hoàng thái tử ra đó học (T).
1071, vua viết chữ Phật, cao một trượng 6 thước (C); khắc vào bia để tại chùa Tiên Du (T)
Đời LÝ NHÂN TÔNG -Năm:
1072, ngày Phật đản, vua tới xem làm lễ tắm Phật (C)
1073, rước phật Pháp vân về kinh để cầu tạnh. Lập đền thờ núi Tản Viên (VSL chép vào năm trước).
1075, thi minh kinh bác sĩ. (T)
1077, đặt hội Nhân Vương ở điện Thiên An. (V)
1080, đức chuông chùa Diên Hữu (xem 1049), chuông không kêu, bèn vứt xuống ruộng Qui Điền, cạnh chùa. Đời sau, tướng Minh là Vương Thông bị Lê Lợi vây ở Thăng Long, bèn phá chuông để đúc súng. (T)
1081, sai Lương Dũng Luật sang Tống xin kinh Đại Tạng. (V)
1085, thái hậu đi chơi khắp sông núi, có ý dựng chùa (T; nhưng chép lầm ra hoàng hậu)..
1086, thi chọn những kẻ có văn học, để bổ vào Hàn lâm. Dựng chùa ở núi Đại Lãm (C)
1087, khánh thành chùa ấy. Đặt dạ yến. Vua làm hai bài thơ. (C)
1088, phong sư Khô đầu làm quốc sư. Chia chùa làm ba hạng, thượng trung hạ. Dựng tháp ở chùa Lãm Sơn (xem 1088) (C )
1094, tháp chùa Lãm Sơn (xem 1088) xong. Vua đặt tên chùa là Cảnh long đồng khánh, và đề tên bằng chữ triện vào trán bia. (V)
1097, được mùa thái hậu dựng nhiều chùa (T)
1098, lập núi Ngao trên đất. Sai Nguyễn Văn Tín đi sứ Tống, xin kinh Tam Tạng ( V)
1099, dựng chùa ở núi An Lão(V)
1100, dựng chùa Vĩnh Phúc ở núi Tiên Du (V)
1101, dựng quân Khai nguyên (V) Chữa chùa Diên hữu (xem 1080) (C).
1102, dựng các quan Thái Dương, Bắc đế và Khai nguyên (xem 1101), để cầu tự. (V)
1105, xây hai tháp lợp bằng ngói sứ trắng ở chùa Diên hữu và chữa chùa ấy (xem 1101, còn chi tiết thì xem XIV/7). Dựng ba tháp bằng đá ở chùa Lãm Sơn (xem 1094) (C)
1108, xây tháp ở núi Chương Sơn (V).
1109, xây đài Động Linh. (V)
1110, mở hội đền Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng. (V)
1112, xẩy ra chuyện Giác Hoàng (XIV/cth2)
1114, chữa chùa Thắng Nghiêm (xem 1014) Đặt Thiên Pháp Đường. Dựng lầu Thiên Phật để đặt một nghìn pho tượng Phật (V)
1115, khánh thành chùa Sùng Phúc ở làng Siêu Loại, là quê thái hậu Ỷ Lan (V). Trước sau, thái hậu dựng hơn trăm ngôi chùa. Thế truyền rằng Thái hậu hối việc ép Thượng Dương và các cung nữ chết, cho nên dựng nhiều chùa để sám hối. (T)
1116, mở hội đền Quảng Chiếu. Từ Đạo Hạnh mất và đầu thai (xem XIV/cth 2). (C)
1117, khánh thành tháp Vạn Phong Thành Thiện ở núi Chương Sơn (xem 1108), thái hậu Ỷ Lan mất. Hỏa táng và ba cung nữ chết theo (C).
1118, khánh thành tháp Thất Bảo. Khánh thành hội Thiên Phật ở chùa Thắng Nghiêm (xem 1114) và Thánh Thọ (xem 1028); có dẫn sứ Chiêm thành đi xem. Cầu được mưa. Vua viết vào bia tám chữ: Thiên hạ thái bình. Thánh cung, vạn phúc. (T)
1119, khánh thành hội chùa Tĩnh Lữ (xem 1055) (T).
1120, đặt hội đèn Quảng Chiếu (T). Dựng đài Chúng Tiên (C)
1121, dựng chùa Quảng Giáo ở núi Tiên Du (C). Khánh thành điện Trùng Minh ở chùa Báo Thiên (xem 1057) (T)
1122, khánh thành tháp Sùng Thiện Diên Linh ở núi Đội Sơn (C)
1123, khánh thành chùa Quảng Giáo (xem 1121) và chùa Phung từ. Dựng đài Tử Tiêu (T)
1124, dựng chùa Hộ Thánh (T). Cầu mưa và xây đài Uất la (C).
1126, mở hội đèn Quảng Chiếu, hội Nhân Vương ở Long Trì, hội khánh hạ Ngũ Kinh ở chùa Thọ Thánh (hay Thánh Thọ (xem 1118).(T)
1127, khánh thành chùa Trùng Hưng Diên Thọ. Vua mất. Cung nữ lên hỏa đàn chết theo vua. (T)
Đời Lý THẦN TÔNG. Năm:
1128, vua tới chùa Thiên Long và Thiên Sùng để tạ sự cờ phướn ở đó tự nhiên bay. Vua lại tới hai cung Thái Thanh (xem 1011), Cảnh Linh và các chùa quán khác để tạ ơn Phật. Cầu mưa được (T).
1129, đặt hội khánh thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp ở các Thiên Phù (có lẽ tháp bằng đất nặn, nay còn thấy nhiều ở dưới đất thành Thăng Long). (C)
1130, khánh thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh. (T)
1132, làm lễ nghinh xuân ở đình Quảng Văn, trước cửa Đại Hưng, nay là Cửa Nam (T)
1133, dựng các quán Diên Sinh và Ngũ Nhạc (C) Dựng hai chùa Thiên Ninh và Thiên Thành. Tô tượng Đế Thích, vua tới xem (T).
1134, khánh thành ba tượng Tam Tôn bằng vàng để ở quán Ngũ Nhạc (xem 1133). Khánh thành quán Diên Sinh (xem 1133) (T).
1135, chuông cổ ở dưới đất lộ ra (C). Vua ốm nặng, sư Minh Không chữa lành. (T)
1136, rước Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên để cầu mưa. Khánh thành chùa Linh Cảm (T)
Đời LÝ ANH TÔNG. Năm:
1142, vua cầu mưa (T).
1144, vua cầu tạnh. Dựng đền thần Tản Viên (xem 1073), và đền ông Nghiêm, ông Mẫu ở phường Bố Cái. Dựng chùa Vĩnh Long và Phúc Thánh (T)
1148, đặt hội Nhân Vương ở Long Trì (T).
1154, đắp đàn Viên Khâu ở phía nam thành Thăng Long, để tế lễ Nam Giao. (V)
1156, dựng miếu Khổng Tử (xem 1070). (C)
1160, dựng đền Nhị Nữ (Hai Bà) và xây vưu ở phường Bố Cái (V) Dựng chùa Chân Giáo. Lấy vàng đúc tượng Phạm Vương và Đế Thích, đặt ở hai chùa Thiên Phù và Thiên Hữu. (V)
1161, dựng lại chùa Pháp Vân ở châu Cổ Pháp (C).
1162, dựng đài Chúng Tiên, trên lợp ngói bằng vàng, dưới lớp ngói đúc bạc (V)
1165, mở hội đèn Quang Chiếu Diên Mệnh (V)
1166, bắt đầu làm lễ tắm Đạo. Đến năm 1171, thì bỏ lễ ấy (V)
1169, chữa chùa Chân Giáo (xem 1160). Rằm tháng ba, có nguyệt thực, cá ở các cửa sông, cửa bể chết nổi. Vua sai các tăng ni, đạo sĩ tụng kinh cầu đảo. (T)
1171, chữa miếu Khổng Tử (xem 1156) và miếu Hậu Thổ. (C)
Đời LÝ CAO TÔNG.- Năm:
1179, chữa thêm chùa Chân Giáo (xem 1169). Thi các tử đệ tăng và tam quan ( V)
1180, sai Tam Giáo làm bia để ở Đại Nội. (V)
1187, chuyện sư giáng hổ (XIV/cth4)
1188, vua đi cầu mưa ở chùa Pháp Vân, rồi rước tượng Phật ở đó về để tại chùa Báo Thiếp (T) Dựng cung Thánh nghi (V)
1189, vua đi chơi khắp mọi nơi, đến đâu cũng có phong thần và lập miếu (T)
1194, lấy vàng sai thiếp tượng Phạm Vương và Đế Thích, đặt tại các chùa ấy. (V)
1195, thi Tam giáo. Mở hội đèn Quảng Chiếu(V)
1198, sa thải tăng, theo lời Đàm Dĩ Mông (XIV/4)
1206, dừng chùa Thánh Huân. Chữa chùa Chân Giáo (xem 1179) (V) Chuyện vua sợ sấm (XIV/cth4).
Đời LÝ HUỆ TÔNG. - Năm:
1224, vua nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, và ra ở chùa Chân Giáo (xem 1206).
1226, vua Lý thắt cổ chết ở chùa ấy. (T)
PHỤ BIÊN: Theo gia phả họ Lê Quát ở xã Phủ Lý thì Lê Văn Thịnh người Đông Cứu (huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Vợ họ Lê, người làng Phủ Lý này. Văn Thịnh gặp bà, lúc thân phụ bà làm quan ở Thăng Long.
Có lẽ chỉ vì vậy, con Văn Thịnh sau nhập tịch quê mẹ. Nhưng cũng có thể vì cớ thứ hai là Văn Thịnh đã bị đày vào Thanh.
Đời LÝ THÁNH TÔNG. – Năm:
1055, dựng chùa Đông Lâm (TUTA nói ở Điển Lạnh) và chùa Tĩnh Lữ, ở Đông Cứu. (V)
1056, lập hội La Hán ở điện Thiên An (V), dựng chùa Sùng Khánh Báo Thiên; phát 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa. Vua tự làm bài minh khắc vào chuông. Chùa này thường gọi là chùa Báo Thiên, ở chỗ nhà thờ lớn Cơ Đốc tại Hà Nội ngày nay. (C)
1057, xây tháp Đại Thắng Tư Thiên, tức là tháp chùa Báo Thiên (xem 1056). Tháp cao vài mươi trượng. TT chép tháp có 12 tầng, VSL chép 30 tầng chắc sai. Dựng các chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ; đúc tượng Phạm Vương và Đế Thích để thờ ở đó. (C)
1058, vua đi xem chỗ xây tháp Đồ Sơn (ở nơi khách sạn lớn tại mỏm núi Đồ Sơn ngày nay).(V)
1059. dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ Ninh. Vua đặt tên cho tháp Đồ Sơn là Tường Long, vì “có rồng vàng hiện ở điện Vĩnh Thọ”. (V)
1063, dựng chùa ở núi Ba Sơn để cầu tự. (V)
1066, sai lang tướng Quãnh Mãn dựng tháp ở núi Tiên Du. (C)
1070, dựng chùa Nhị thiên vương ở đông nam thành Thăng Long (V) Tháng 8, dựng (hay chữa, TT chép tu) Văn Miếu; tô tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối, thất thập nhị hiền để thờ. Cho hoàng thái tử ra đó học (T).
1071, vua viết chữ Phật, cao một trượng 6 thước (C); khắc vào bia để tại chùa Tiên Du (T)
Đời LÝ NHÂN TÔNG -Năm:
1072, ngày Phật đản, vua tới xem làm lễ tắm Phật (C)
1073, rước phật Pháp vân về kinh để cầu tạnh. Lập đền thờ núi Tản Viên (VSL chép vào năm trước).
1075, thi minh kinh bác sĩ. (T)
1077, đặt hội Nhân Vương ở điện Thiên An. (V)
1080, đức chuông chùa Diên Hữu (xem 1049), chuông không kêu, bèn vứt xuống ruộng Qui Điền, cạnh chùa. Đời sau, tướng Minh là Vương Thông bị Lê Lợi vây ở Thăng Long, bèn phá chuông để đúc súng. (T)
1081, sai Lương Dũng Luật sang Tống xin kinh Đại Tạng. (V)
1085, thái hậu đi chơi khắp sông núi, có ý dựng chùa (T; nhưng chép lầm ra hoàng hậu)..
1086, thi chọn những kẻ có văn học, để bổ vào Hàn lâm. Dựng chùa ở núi Đại Lãm (C)
1087, khánh thành chùa ấy. Đặt dạ yến. Vua làm hai bài thơ. (C)
1088, phong sư Khô đầu làm quốc sư. Chia chùa làm ba hạng, thượng trung hạ. Dựng tháp ở chùa Lãm Sơn (xem 1088) (C )
1094, tháp chùa Lãm Sơn (xem 1088) xong. Vua đặt tên chùa là Cảnh long đồng khánh, và đề tên bằng chữ triện vào trán bia. (V)
1097, được mùa thái hậu dựng nhiều chùa (T)
1098, lập núi Ngao trên đất. Sai Nguyễn Văn Tín đi sứ Tống, xin kinh Tam Tạng ( V)
1099, dựng chùa ở núi An Lão(V)
1100, dựng chùa Vĩnh Phúc ở núi Tiên Du (V)
1101, dựng quân Khai nguyên (V) Chữa chùa Diên hữu (xem 1080) (C).
1102, dựng các quan Thái Dương, Bắc đế và Khai nguyên (xem 1101), để cầu tự. (V)
1105, xây hai tháp lợp bằng ngói sứ trắng ở chùa Diên hữu và chữa chùa ấy (xem 1101, còn chi tiết thì xem XIV/7). Dựng ba tháp bằng đá ở chùa Lãm Sơn (xem 1094) (C)
1108, xây tháp ở núi Chương Sơn (V).
1109, xây đài Động Linh. (V)
1110, mở hội đền Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng. (V)
1112, xẩy ra chuyện Giác Hoàng (XIV/cth2)
1114, chữa chùa Thắng Nghiêm (xem 1014) Đặt Thiên Pháp Đường. Dựng lầu Thiên Phật để đặt một nghìn pho tượng Phật (V)
1115, khánh thành chùa Sùng Phúc ở làng Siêu Loại, là quê thái hậu Ỷ Lan (V). Trước sau, thái hậu dựng hơn trăm ngôi chùa. Thế truyền rằng Thái hậu hối việc ép Thượng Dương và các cung nữ chết, cho nên dựng nhiều chùa để sám hối. (T)
1116, mở hội đền Quảng Chiếu. Từ Đạo Hạnh mất và đầu thai (xem XIV/cth 2). (C)
1117, khánh thành tháp Vạn Phong Thành Thiện ở núi Chương Sơn (xem 1108), thái hậu Ỷ Lan mất. Hỏa táng và ba cung nữ chết theo (C).
1118, khánh thành tháp Thất Bảo. Khánh thành hội Thiên Phật ở chùa Thắng Nghiêm (xem 1114) và Thánh Thọ (xem 1028); có dẫn sứ Chiêm thành đi xem. Cầu được mưa. Vua viết vào bia tám chữ: Thiên hạ thái bình. Thánh cung, vạn phúc. (T)
1119, khánh thành hội chùa Tĩnh Lữ (xem 1055) (T).
1120, đặt hội đèn Quảng Chiếu (T). Dựng đài Chúng Tiên (C)
1121, dựng chùa Quảng Giáo ở núi Tiên Du (C). Khánh thành điện Trùng Minh ở chùa Báo Thiên (xem 1057) (T)
1122, khánh thành tháp Sùng Thiện Diên Linh ở núi Đội Sơn (C)
1123, khánh thành chùa Quảng Giáo (xem 1121) và chùa Phung từ. Dựng đài Tử Tiêu (T)
1124, dựng chùa Hộ Thánh (T). Cầu mưa và xây đài Uất la (C).
1126, mở hội đèn Quảng Chiếu, hội Nhân Vương ở Long Trì, hội khánh hạ Ngũ Kinh ở chùa Thọ Thánh (hay Thánh Thọ (xem 1118).(T)
1127, khánh thành chùa Trùng Hưng Diên Thọ. Vua mất. Cung nữ lên hỏa đàn chết theo vua. (T)
Đời Lý THẦN TÔNG. Năm:
1128, vua tới chùa Thiên Long và Thiên Sùng để tạ sự cờ phướn ở đó tự nhiên bay. Vua lại tới hai cung Thái Thanh (xem 1011), Cảnh Linh và các chùa quán khác để tạ ơn Phật. Cầu mưa được (T).
1129, đặt hội khánh thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp ở các Thiên Phù (có lẽ tháp bằng đất nặn, nay còn thấy nhiều ở dưới đất thành Thăng Long). (C)
1130, khánh thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh. (T)
1132, làm lễ nghinh xuân ở đình Quảng Văn, trước cửa Đại Hưng, nay là Cửa Nam (T)
1133, dựng các quán Diên Sinh và Ngũ Nhạc (C) Dựng hai chùa Thiên Ninh và Thiên Thành. Tô tượng Đế Thích, vua tới xem (T).
1134, khánh thành ba tượng Tam Tôn bằng vàng để ở quán Ngũ Nhạc (xem 1133). Khánh thành quán Diên Sinh (xem 1133) (T).
1135, chuông cổ ở dưới đất lộ ra (C). Vua ốm nặng, sư Minh Không chữa lành. (T)
1136, rước Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên để cầu mưa. Khánh thành chùa Linh Cảm (T)
Đời LÝ ANH TÔNG. Năm:
1142, vua cầu mưa (T).
1144, vua cầu tạnh. Dựng đền thần Tản Viên (xem 1073), và đền ông Nghiêm, ông Mẫu ở phường Bố Cái. Dựng chùa Vĩnh Long và Phúc Thánh (T)
1148, đặt hội Nhân Vương ở Long Trì (T).
1154, đắp đàn Viên Khâu ở phía nam thành Thăng Long, để tế lễ Nam Giao. (V)
1156, dựng miếu Khổng Tử (xem 1070). (C)
1160, dựng đền Nhị Nữ (Hai Bà) và xây vưu ở phường Bố Cái (V) Dựng chùa Chân Giáo. Lấy vàng đúc tượng Phạm Vương và Đế Thích, đặt ở hai chùa Thiên Phù và Thiên Hữu. (V)
1161, dựng lại chùa Pháp Vân ở châu Cổ Pháp (C).
1162, dựng đài Chúng Tiên, trên lợp ngói bằng vàng, dưới lớp ngói đúc bạc (V)
1165, mở hội đèn Quang Chiếu Diên Mệnh (V)
1166, bắt đầu làm lễ tắm Đạo. Đến năm 1171, thì bỏ lễ ấy (V)
1169, chữa chùa Chân Giáo (xem 1160). Rằm tháng ba, có nguyệt thực, cá ở các cửa sông, cửa bể chết nổi. Vua sai các tăng ni, đạo sĩ tụng kinh cầu đảo. (T)
1171, chữa miếu Khổng Tử (xem 1156) và miếu Hậu Thổ. (C)
Đời LÝ CAO TÔNG.- Năm:
1179, chữa thêm chùa Chân Giáo (xem 1169). Thi các tử đệ tăng và tam quan ( V)
1180, sai Tam Giáo làm bia để ở Đại Nội. (V)
1187, chuyện sư giáng hổ (XIV/cth4)
1188, vua đi cầu mưa ở chùa Pháp Vân, rồi rước tượng Phật ở đó về để tại chùa Báo Thiếp (T) Dựng cung Thánh nghi (V)
1189, vua đi chơi khắp mọi nơi, đến đâu cũng có phong thần và lập miếu (T)
1194, lấy vàng sai thiếp tượng Phạm Vương và Đế Thích, đặt tại các chùa ấy. (V)
1195, thi Tam giáo. Mở hội đèn Quảng Chiếu(V)
1198, sa thải tăng, theo lời Đàm Dĩ Mông (XIV/4)
1206, dừng chùa Thánh Huân. Chữa chùa Chân Giáo (xem 1179) (V) Chuyện vua sợ sấm (XIV/cth4).
Đời LÝ HUỆ TÔNG. - Năm:
1224, vua nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, và ra ở chùa Chân Giáo (xem 1206).
1226, vua Lý thắt cổ chết ở chùa ấy. (T)
PHỤ BIÊN: Theo gia phả họ Lê Quát ở xã Phủ Lý thì Lê Văn Thịnh người Đông Cứu (huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Vợ họ Lê, người làng Phủ Lý này. Văn Thịnh gặp bà, lúc thân phụ bà làm quan ở Thăng Long.
Có lẽ chỉ vì vậy, con Văn Thịnh sau nhập tịch quê mẹ. Nhưng cũng có thể vì cớ thứ hai là Văn Thịnh đã bị đày vào Thanh.
CHƯƠNG XV
LÝ
THƯỜNG KIỆT VỚI ĐẠO PHẬT
1. Sư Đạo Dung. Chùa
Hương Nghiêm - 2. Núi An Hoạch. Chùa Báo Ân. - 3. Núi
Ngưỡng sơn. Chùa Linh Xứng
Lý Thường Kiệt sống trong thịnh thời của đạo Phật. Ông từng chịu Phật giáo chi phối một phần. Quả như lời đại sư Hải Chiếu nói trong bia L.X “ông tuy thân vướng cõi tục nhưng lòng đầy qui y”.
Không biết ông theo đạo Phật đến mực nào. Có điều chắc chắn là ông đã che chở các vị sư có danh như Tri Bát, Chân Không (TUTA), Đạo Dung (HN) và Sùng Tín (LX)
1-Sư Đạo Dung, chùa
Hương Nghiêm
Năm 1077, Lý Thường Kiệt đã giúp sư Đạo Dung chữa chùa Hương Nghiêm ở Thanh Hóa.
Sách TUTA có chép chuyện vị sư này. Nhưng những bản, nay còn, đều chép hiệu sư là Pháp Dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy, Trần Hưng Đạo1.
Chùa Hương Nghiêm nay vẫn còn ở xã Phủ Lý, phủ Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chùa mới được trùng tu. Chùa còn có hai tấm bia. Một tấm bia lớn, rất xưa. Bia ấy nguyên dựng năm 1124, đời Lý Nhân Tông. Niên hiệu ở bia là Thiên phù duệ vũ thứ năm, Giáp Thìn. Nhưng sáu trăm năm sau, năm 1726, đời Lê Bảo Thái thứ 7, Bính Ngọ, có vị sư ở chùa, là Lê Văn Nghị, đã thuê thợ đục lại, theo nét chữ xưa. Nhờ đó, bây giờ chữ vẫn rất rõ. Nhưng nhìn kỹ, ta sẽ thấy, có chữ không theo hẳn nét cũ, và có chữ lại đục sai.
Bia ấy dựng trong hạ đường chùa, tựa vào tường, ở phía trái nếu ta nhìn vào phật điện. Không biết mặt áp vào tường có chữ hay không? Còn mặt ngoài có 30 dòng chữ cũ, và một dòng niên hiệu mới. Mỗi dòng, nhiều nhất, có 45 chữ.
Văn bia kể lại sự tích chùa khá kỹ. Về thiền sư Đạo Dung, sự tích chép ở bia khá phù hợp với sách TUTA, và bổ túc cho sách ấy. Đó là một chứng rất quý cho sự cổ truyền và xác thực của cuốn sách TUTA.
Bia còn lại nói đến một vị thái phó họ Lưu, tùng huynh sư Đạo Dung, và sống đồng thời với Lý Thường Kiệt. Xét rõ, thấy đó là Lưu Khánh Đàm, mà người ta thấy tên chép ở sử2 và ở mộ chí dựng đời Lý, nay vẫn còn ở làng Lưu Xá, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình. Như thế thì, vì một sự ngẫu nhiên đặc biệt, ta còn có hai bia, đời Lý, một sách đời Trần, chép những chuyện về đời Trung cổ ở nước ta, có liên quan với nhau. Sự ấy thật là quý. Nhất là, các sử liệu ấy không trái với các sách Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư, nó làm tăng giá trị hai cuốn sử này.
Sau đây, tôi theo bia HN, các sách TUTA, TT VSL, sẽ kể lại lai lịch chùa Hương Nghiêm, thân thế sư Đạo Dung và sự liên quan giữa Lý Thường Kiệt và Lưu Khánh Đàm.
Chùa Hương Nghiêm ở núi Càn Ni. Đó là theo bia HN; còn sách TUTA chép núi Ma Ni, vì chữ Càn húy đời Trần3. Chùa Giáp Bối Lý, bây giờ là làng Phủ Lý, phủ Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đời Hậu Đường (923-937), Lê Lương dựng chùa ấy (HN), Lê Lương thuộc một cự tộc ở quận Cửu Chân, chùa Châu Ái. Ông làm đến chức Trấn Quốc bộc xạ. Nhà ông giàu, rất có thế lực trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3.000 người khách. Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật. Ông là người trước nhất dựng chùa ở Giáp Bối Lý. Các bia chùa Hương Nghiêm, Chinh Nghiêm, Minh Nghiêm đều có khắc chép công ông. (HN)
Bấy giờ, dân ở châu quận này bị mất mùa, đói khó. Ông đem thóc nhà phát chẩn để cứu dân.
Đến sau lúc vua Đinh Tiên Hoàng lên ngôi (968-979), nghe tiếng ông có đạo đức, vua phong cho ông chức Ái Châu Cửu chân đô quốc dịch sứ, tức là chức quan đứng đầu giúp nước ở Ái Châu, quận Cửu Chân. Vua lại ban cho ông hàm Kim tử quang lộc đại phu, và phong cấp ấy ở trong giới hạn sau này: đông đến Phân dịch, nam đến Vũ Long, tây đến đỉnh núi Ma La, bắc đến lèn Kim Cốc4, và cho đời con cháu làm quan coi đất ấy (HN). Sách TUTA cũng chép rằng ông làm châu mục Ái Châu đời Đường và suốt mười lăm đời, họ ông nổi tiếng ở đó.
Đến khi vua Lê Đại Hành tuần du ở Ngũ Huyện Giang, tức là triền sông Lương, sông Mã ở Thanh Hóa. Vua thấy chùa đổ nát, bèn chữa lại (HN). VSL có chép vua đi chơi Hoan Châu năm 1003. Có lẽ vua qua Thanh năm ấy.
___________________________________
1, 3. Húy đời Trần. - Đời Trần, không những tên các vua, và cha mẹ vua đều phải kiêng mà thôi. Sau khi cướp ngôi Lý, Trần ban miếu húy. Vì “Nguyên tổ tiên Lý, cho nên đổi họ Lý ra họ Nguyễn, để cho tuyệt lòng mong nhà Lý của dân”. (TT 1232). Ta thấy rằng trong sách, sử viết đời nhà Trần, như VSL và TU, TA, họ Lý đều đổi ra họ Nguyễn. Vả trong bia BA, chữ Lý cũng bị đời Trần đục xóa đi (xem ảnh II).
Ngô Sĩ Liên còn cho ta biết rằng: “Vua Trần Minh Tông đối với họ hàng rất hậu, mà đối với người họ thuộc bậc tôn quí thì lại càng tôn kính. Phàm bày tôi có ai trùng tên, thì bắt đổi đi. Ví như tên Đô thì đổi ra Sư Mạnh, (chắc là Phan Sư Mạnh), vì kiêng tên Trần Thủ Độ, Tung thì đổi ra Thúc Cao vì kiêng tên hầu Hưng Ninh. Vả mỗi khi nói chuyện, để tránh nói đến tên các bực chú, bác, cô, cậu, vua là soạn tấm thiếp nhỏ kê những tiếng kiêng nói, để trao cho các con cái và cung nhân” (TT 1315)
Vì lẽ ấy cho nên chữ Càn phải kiêng. Sách TT (1312 đời Trần Anh Tông) có chú thích rằng: “Cửa Cần ở huyện Quỳnh Lưu, thuộc Nghệ An, vốn tên cửa Càn, vì húy nên đổi. Cũng vì lẽ ấy, mà điện Càn Nguyên, đời Trần đổi ra điện Triều Nguyên; núi Càn Ni đổi ra núi Ma Ni. Mà chính âm của chữ ấy là Kiền, nay ta thường đọc Càn có lẽ cũng là vì tị húy từ đời Trần.
Chữ Đạo chắc cũng vì tên của Trần Hưng Đạo mà đổi. Không những Đạo Dung thành Pháp Dung, mà tên Lý Đạo Thành trong VSL (1073), đã đổi ra Nguyễn Nhật Thành. Cũng có lẽ vì kiêng húy, mà tên Tô Hiến Thành, VSL (1139) đã đổi chữ Hiến ra chữ Linh, và hiệu Sùng Tín của đại sư Mãn Giác đã bị (TUTA 21b) đổi ra Hoài Tin.
2. Tên Đàm mỗi nơi chép một khác. Mộ chí và TT 1161 đều chép với chữ Đàm là nói chuyện; nhưng vào năm 1127, 1129, 1136, sách TT lại chép với chữ Đàm là sâu dài, tức là nửa bên phải chữ Đàm kia.
Sách TT có chép những chuyện sau này về Khánh Đàm.
Năm 1127, vua Nhân Tông triệu thái úy Lưu Khánh Đàm để trao di chiếu. Năm 1129 Thần Tông sai Thái úy Lưu Khánh Đàm đi bắt hươu trắng ở rừng Giang Đề. Năm 1135 ông chết. Nhưng đến năm 1161, TT lại chép thái úy Lưu Khánh Đàm chết một lần nữa, có lẽ đó là em Lưu Khánh Đàm, tức là Thái úy Lưu Ba.
4. Các tên này, nay không còn. Nhưng ta cũng biết được một vài điều. Phân dịch có lẽ là phần đất huyện Quảng Xương ở bờ nam sông Mã. Bia Báo Ân cũng nói tới đất ấy (XV/1). Tên núi Ma La, về cuối đời Trần vẫn còn. Sách Lam Sơn thật lục chép rằng Lê Lợi trốn quân Minh ở đó, gặp xác một người đàn bà mặc áo trắng.
Đến đời Lý, vua Thái Tông đi chơi về phương nam; tới Ái Châu, có qua chùa ấy. TT và VSL chép rằng năm 1031 Lý Thái Tông đi đánh Hoan Châu về, phát tiền thuê thợ chữa nhiều chùa quán, ở các hương ấp (XIV/cth5). Chắc rằng vua tới thăm chùa năm ấy. “Trải mấy đời thờ cúng, gường cột đã đổ nát. Vua bèn sai chữa lại. Vua lại ban cho cháu ông bộc xạ, là Đạo Quang trưởng lão làm thiền chủ, cấp cho năm tên giúp việc, và sai trụ trì ở đó”. (HN)
Hai tiếng trưởng lão là một mỹ hiệu tặng cho những tăng hai tăng quan được vua kính trọng. Tuy tăng quan ấy coi chùa, nhưng vẫn có gia đình con cái.
Theo TUTA, thì trưởng lão này là hiệu Tăng Phán tên là Huyền Nghi. Trưởng lão là thân phụ thiền sư Đạo Dung. (HN)
Thiền sư Đạo Dung tên gì? TUTA không chép. Nguyên bia HN có ghi, nhưng nay mòn không thấy dấu chữ nữa.
Thiền sư có một tùng huynh, là Lưu Khánh Đàm, cũng là người Ngũ huyện giang, ở Cửu Chân, thôn Yên Lãng (Mộ chí). Nay ở phủ Thọ Xuân và phủ Thiệu Hóa có hai làng Yên lãng gần nhau ở hai bờ sông Lương. Có lẽ quê ông là vùng ấy. Ông nội Lưu Khánh Đàm có năm con giai. Trong đó có Huy Triết, dời nhà tới ngụ cư ở khách quán, có lẽ tới ở làng Lưu Xá huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình bây giờ. (Bia HN và mộ chí Lưu Xá)
“Bấy giờ vua Lý Thái Tông chọn dân ở quận để cho vào hầu vua. Lưu Khánh Đàm “phi thường khác chúng, nên được chọn vào chầu ở nội đình”. Kịp đến khi Lý Thánh Tông lên ngôi, ông chầu bên cạnh, rất được vua yêu. Sau khi Nhân Tông lên ngôi, vua nghĩ đến công ông giúp rập ba đời, có nhiều công. Vậy phong cho ông chức thái phó, kiêm chức nội dịch thượng quan, coi hết các việc quân và các việc thường trong cung dịch. Vua lại ban cho ông chức tước sau này: Nhập nội thị tỉnh đô đo tri, kiểm hiệu thái phó, kiêm cung dịch sứ, đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, thực ấp 6.700 hộ, thật phong 3.000 hộ (HN)
“Thiền sư Đạo Dung có hình thần lạ đẹp, tư khí thanh cao. Kinh kệ thì không đọc tới (TUTA). Năm Bính Thìn 1076, sư bỏ gia hương đi tìm bạn. Cưỡi thuyền ra bể, rồi tới Thăng Long. Ở đó, thiền sư gặp một vị tăng hiệu là Cao tăng. Sư cảm phục, bèn theo học”(HN). Vị Cao tăng ấy là ai? Sách TUTA có nói: Lúc nhỏ, sư theo tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ để xuất gia. Tăng Tống người Cổ Giao, quận Long Biên (thuộc Bắc Ninh bây giờ), trụ trì ở Từ Liêm, gần phía tây thành Thăng Long. Có lẽ Cao tăng kia chính là hiệu của tăng thống Khánh Hỷ trước năm 1133, khi chưa được triệu vào kinh và chưa được ban chức tăng thống1.
“Cao tăng Khánh Hỉ để ý đến Đạo Dung, cho là một kỳ nhân, và dạy cho Phật Pháp (TUTA). Đạo Dung hỏi: “Điều gì cốt yếu trong Pháp”. Cao tăng trả lời: “Pháp vấn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi”. Bỗng nghe, sư thấy trong lòng nở nang, bèn giác ngộ. (HN)
“Một hôm, sư Đạo Dung hỏi Cao tăng: “Tôi đã hiểu rõ nghĩa chữ không và chữ sắc. Sắc là bởi kẻ phàm thấy, không là bởi kẻ Thánh thấy. Có lẽ phải thấy không?” Cao tăng trả lời bằng một bài kệ phỏng dịch như sau này:
Ở đời chớ hỏi sắc và không,
Học đạo chẳng qua tìm ở Tổ Tông
Trồng quế trên trần sao được rậm,
Tìm Tâm ngoài Phật khó lòng mong.
Bao hàm nhật nguyệt trong hạt cải,
Thu hết càn khôn đầu mũi lông.
Đại dụng rõ ràng tay nắm chặt,
Ai hay phàm, thánh, biết đâu cùng.
“từ đó sư thích dạo núi sông, không ngại đến” (TUTA)
“Sư bèn ngược dòng sông Lô (Nhị Hà), treo núi Thứu Đài. Ngắm xem cảnh đẹp ấy, sư dừng chân lại, cho là rất vừa ý. Sư sai thợ chọn hướng, ghép đá làm nền, mà dựng nên chùa. Đặt tên là chùa Khai Giác”. Trên đây là theo bia HN, còn TUTA chép: “Sư đi đạo hóa, dừng chân ở núi Thứu Phong, tại chùa Khai Giác và dạy học trò”. Sư được công chúa Thụy Thành, có lẽ là con vua Thái Tông, và thái phó Lưu Khánh Đàm cấp cho khí dụng để làm chùa. (HN)
Sư dạy học trò. Người tới học đầy nhà. (TUTA)
“Năm sau, Đinh Tị 1077 (bia HN, khi khắc lại lầm ra Đinh Mão), sư trở về ấp cũ, thấy chùa Hương Nghiêm đã đồi hoại. Sư bèn nói với Lưu Khánh Đàm rằng: “Kẻ nhân hiền không quên dấu tích tiên tổ. Xin anh chữa lại cho.” Lưu Công nghe nói, vui lòng mà thuận”. (HN)
Bấy giờ, quân ta vừa đánh lui quân Tống. Lý Thường Kiệt vừa lập đại công. Lưu Công, và em là Lưu Ba cũng vừa được chia phần vinh dự. Lưu Công thấy chùa chiền bị chiến tranh làm hư đổ, đang lo sửa sang tự tháp (Mộ chí Lưu Xá).
“Lưu Công bèn nói với quốc tướng thái úy Lý Thường Kiệt rằng; “Chùa Hương Nghiêm là do tiên tổ tôi sửa chữa. Nay đã đổ nát. Ông cùng tôi, chúng ta hãy chữa lại (HN)
Theo chương trên, ta biết rằng bấy giờ Thường Kiệt còn ở Thăng Long. Có lẽ Thanh Hóa là thực ấp của ông từ trước, cho nên Khánh Đàm mới bàn cùng ông chữa chùa Hương Nghiêm ở đó. Thường Kiệt bèn tìm gỗ, sai thợ tới sửa chùa.
Năm Tân Dậu 1081, hai phó ký lang. Họ Thiều và họ Tô2, tâu vua xin ruộng đất của bộc xạ Lê Lương. Vua xét lời tâu bèn định trả giáp Bối Lý cho họ hàng Lê Công.
Mùa thu năm ấy, Lý Thường Kiệt đi Thanh Hóa trả ruộng. Ông lập bia đá chia ruộng cho hai giáp. Từ nửa đầm A Lôi trở lên, cho giáp Bối Lý; từ nửa đầm trở xuống cho giáp Viên Đàm. Ông lại dặn đi, dặn lại hai giáp không được hái một lá lau lách ở hai bên bờ đầm, vì đó là giới hạn. (HN).
Hai tên giáp ấy nay đã thay đổi, nhưng đất còn có thể tìm được. Chùa Hương Nghiêm nay ở làng Phủ Lý. Nếu ta xét bản đồ Thanh Hóa ngày nay, ta thấy rằng bên cạnh làng Phủ Lý có những làng Nhân Lý, Mỹ Lý theo tục đổi tên ở xứ ta3, ta có thể chắc rằng ba làng ấy khi xưa là một và sau mới chia ra. Vả làng Phủ Lý có tên nôm là làng Kĩ. Chắc đó là tên giáp Bối Lý cũ. Bên cạnh phía tây làng Phủ Lý, ta lại thấy có hai làng liền nhau, tên là Viên Quang và Hồ Đàm. Ta cũng có thể đoán đó là do làng Viên Đàm cũ mà phân tách ra. Xem vậy, ta có thể nhận dấu hai giáp Bối Lý và Viên Đàm. Nhưng đầm A lôi thì không thấy nữa. Ruộng vùng ấy là ruộng sâu. Có lẽ đó là đầm cũ.
Năm Đinh Mão 1087, sư Đạo Dung được vua Nhân Tông triệu tới kinh, lập đạo tràng trong cung (HN)
Năm Nhâm Dần 1122, sư trở về thăm quê cũ. “Nhân vật tuy đổi, non nước như xưa. Chùa đã đổ nát, nền móng vẫn còn”. Sư liền sai thợ sửa chữa. Tô tượng Phật ngồi trên đá Bàn Đa. Đào hồ. Giữa hồ, xây bệ; đặt tượng Phật trên. Chùa cao, cửa rộng, mái ngói. Mé tả có lầu chuông, mé hữu dựng bia đá ghi công. Xung quanh đều xây tường. Vườn giồng hoa cỏ. (HN)
Chữa xong chùa, sư đặt tiệc mừng; lập đàn cầu tự cho vua, và cầu phúc cho quần chúng. Sư mời người làm bài ký khắc vào bia. Chính là bia dựng năm 1124 mà nay hãy còn. Nhưng tên tác giả thì mờ hẳn không đọc được nữa. Có lẽ cũng là vị Hải Chiếu đại sư, làm bia Linh Xứng dựng năm 1126 và bia Sùng Nghiêm diên thánh dựng năm 1118.
Sau đó, sư ở lại chùa cho đến lúc mất. TUTA chép rằng: “Rồi sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp Ngọ 1174, đời thiên cảm chí báu”. Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm 1076, sư đã ra Thăng Long. Nếu sống đến năm 1174, thì sư phải ít nhất cũng một trăm hai mươi tuổi. Sau khi sư mất, học trò là sư Tăng Đạo Lâm làm lễ hỏa táng và xây tháp ở núi Càn Ni (TUTA)
Ngày nay, làng Phủ Lý không có núi. Núi Càn Ni chép ở bia, có lẽ chỉ là mô đất cao hơn cánh đồng chung quanh.
Chùa này hoàn toàn mới. Các cảnh vật trong chùa đều mới, trừ quả chuông đúc đời Gia Long. Trong vườn không thấy có tháp cổ. Còn có hồ. Nhưng trong chùa và ngoài chùa không thấy vật cổ nữa. Nếu bới đất tìm, trong nền hay dưới hồ, may chỉ còn thấy cái bia xưa, dựng đời Hậu Đường ghi công đức Lê Lương.
_____________________________________
1. TUTA chép rằng Khánh Hỉ mất ngày 27 tháng giêng, năm Đại Định thứ ba, Nhâm Tuất 1142, thọ 76 tuổi. Theo đó mà tính, thì ông sinh năm 1067, và ông mới có 10 tuổi, lúc Đạo Dung tới Thăng Long. Làm sao ông làm thầy cho Đạo Dung được? Sách TT lại có chép, vào năm 1135, việc hầu Khánh Hỉ mất. Chắc rằng nguyên là chữ Tăng, mà TT chép lầm ra chữ hầu. Người chú thích sách TATU, in đời Vĩnh Thịnh, cũng nói rằng: theo Sử ký thì tăng Khánh hỉ mất năm 1135. Nếu theo thoại sau thì lúc bấy giờ Khánh Hỉ cũng chỉ mới 17 tuổi mà thôi. Tôi nghĩ rằng TUTA chép lầm mất và tuổi thọ. Có lẽ thọ 96 tuổi, vì chữ Cửu và Thất rất dễ lẫn. Với chữ Cửu, thì lúc sư Đạo Dung ra học với Khánh Hỉ, vị này đã 37 tuổi. Như thế mới hợp lý.
2. Phò ký lang là một chức quan có lẽ gần như phò mã. Ở Thanh Hóa có họ Thiều lớn ở làng Doãn Xá, thuộc phủ Đông Sơn. Đời Trần, họ này có Thiều Thốn làm quan Lạng giang phòng ngũ sứ. Đời Lê có Thiều Quy Linh đậu hoàng giáp khoa 1505. Trong vùng này, có vài làng tên Thiều xá, nghĩa là làng họ Thiều.
3. Ở nước ta, lúc đổi tên một xứ nào, thường vẫn giữ lấy một phần tên cũ, để dễ nhớ và dễ nhận trong giao thời. Tên đất thường gồm hai tiếng; lúc đổi thì hoặc giữ tiếng trên hoặc giữ tiếng dưới. Cho đến chữ bị đổi, trong tên mới, cũng thường được giữ lấy hình dáng, hoặc nghĩa, mà nhiều khi được giữ cả hình, cả nghĩa. Ví dụ chữ Minh đổi ra chữ LÃNG. Hai chữ đều nghĩa là sáng và tự dạng hơi giống nhau.
Sự đổi tên có nhiều cớ. Cớ thường là vì kiêng chữ húy của các vua; ví dụ đời Lê, đổi An bang ra An Quảng, Thanh Đàm ra Thanh Trì, đời Nguyễn đổi Kim hoa ra Kim anh, Nam chân ra Nam trực. Một cớ rất thường là để trừng phạt hay khen thưởng đất ấy. Ví dụ làng Trung Lễ ở Hà Tĩnh đã bị đổi ra Quy Nhân. Có lúc vì dân làng tự cho tên làng mình không hay, cho nên dân tự xin đổi. Như làng Bần Điền ở Nghệ An đã đổi ra Phú Điền. Một cớ rất thường là vì phân tích một đơn vị to ra nhiều mảnh, rồi thay tên cũ bằng tên mới. Cũng có lúc, trái lại, vì hợp nhiều đơn vị thành một, mà phải thay nhiều tên cũ bằng tên mới. Trong trường hợp chia đổi đất, người ta thường lấy chữ đầu nguyên danh làm chữ đầu cho một tên mới, và chữ cuối nguyên danh làm chữ cuối cho tên mới thứ hai. Lúc họp hai đơn vị thì lấy chữ đầu của một tên và chứ cuối của tên kia mà chắp lại, ví dụ tổng đốc Hà Ninh là tổng đốc Hà Nội, Bắc Ninh. Trong trường hợp chia ra nhiều mảnh, thì người ta lấy một chữ làm gốc (ví dụ tên tục) có sẵn trong nguyên danh, rồi thêm chữ mới lên trên hay xuống dưới để làm chỉ định tự, để mà phân biệt. Ví dụ: làng Sét thành Thịnh Liệt, Thanh Liệt, Tử Liệt; làng Mơ thành Bạch Mai, Hoàng Mai, Tương Mai, Mai Động.
2- Núi An Hoạch.
Chùa Báo Ân
Chừng hai cây số phía tây thành Thanh Hóa, có làng An Hoạch, kề đường cái đi làng Sim. Hiện nay, làng có một ngôi chùa cổ, ở phía bắc con đường ấy. Cửa Tam quan cũng là lầu chuông. Cửa khi nào cũng đóng. Nhìn qua rào thưa, ta thấy vườn rộng. Trông xa có nhà bái đường lợp tranh. Đường lên chùa có bậc đá. Trông vào thì bên tả thấy có hai bia, một bia to cao, dựng gần bên lối vào.
Bia rất mòn, nhưng ở ngạch còn tám chữ to và rõ AN HOẠCH SƠN BÁO ÂN TỰ BI MINH, nghĩa là bài minh của bia chùa Báo Ân ở núi An Hoạch.
Đó là một ngôi chùa dựng lên trong lúc Lý Thường Kiệt còn trấn Thanh Hóa. Bia tuy mờ mất niên hiệu và mất tên người dựng. Nhưng cũng còn đọc được. Nó cho ta biết nhiều điều rất quí về Lý Thường Kiệt.
Núi An Hoạch thuộc núi Nhồi, là dãy núi Lèn ở phía tây nam Thanh Hóa. Ở chân núi, có làng Nhồi, tên chữ là Nhuệ Thôn. Dân làng chuyên mộ làm nghề lấy đá ở núi để làm bia, khánh, cối xay, trục lăn, tượng. Nghề ấy có đã lâu đời. Đời Tấn (265-418), thái thú Dự chương là Phạm Ninh sai sứ tới Cửu Chân lấy đá làm khánh; tức là lấy ở đó.
Theo bia Báo Ân, thì “năm Nhâm Tuất (1082), vua Lý Nhân Tông đặt riêng một quán ở Thanh Hóa, ban cho Lý Thường Kiệt, để phong ấp. Thường Kiệt ra đó, coi việc quân dân. Các đầu mục đều theo bóng, tất cả dân gian đều mến đức.
“Ông thấy ở phía tây nam quận lỵ, có quả núi cao và to tên là An Hoạch. Núi sẵn một thứ đá đẹp. Đá rất quý cho thợ. Màu sáng như ngọc lam, chất xanh như khói mới lên. Tạc làm đồ dùng rất dễ, làm khánh đánh rất kêu, làm bia rất bền. Ông bèn sai một người quản giác tên là Vũ Thừa Thiết đem dân Cửu Chân tới núi ấy để lấy đá.
“Ông coi quận trong 19 năm (1082-1101) nay. Dân kính mến. Giặc sợ hãi. Dân tự nghĩ rằng, đó là nhờ Phật tế độ cho dân qua bể khổ, mà dân chưa lấy gì báo đáp. Bèn chọn chỗ này; xảy cỏ dựng chùa, đặt tên là chùa Báo Ân. Đắp tượng vẽ đồ. Chùa bắt đầu làm năm Kỷ Mão, (1099) đến năm sau Canh Thìn (1100) thì xong.
“Chùa ngoảnh mặt về hướng nam. Đất là huyện Cổ Chiến. Sau chùa có núi Tường Phượng. Gần mé sau, có núi Bạch Long, trước chùa có sông chảy ngang; phía tả chảy về phương đông, tới sứ Phàn Dịch; phía hữu chảy về núi Nghiêu Nhạc. Trước cửa có giếng đá, trông ra có hai tảng đá nhọn đứng. Bên cạnh có cầu”. (BA)1.
Trên đây là theo văn bia mà tả. Ngày nay con sông lại chảy quanh sau chùa; có lẽ bị chữa về địa lý. Phía đông sông chia ra hai nhánh, một nhánh xuống qua làng Bố Vệ cạnh đền vua Lê rồi ra sông Mã, một nhánh chảy về phía nam, hợp với sông Hoàng Giang. Phía tây sông bị lấp tại làng Phủ Lý. Sông ấy là sông sóng Bồn. Theo sách Thanh Hóa kỷ thắng chép lại, thì khi xưa, sông ấy thông với Lễ Khê chảy từ Lương Giang ra. Tục truyền rằng có một bà Thái hậu đời Trần, thấy nước Lễ Khê ngọt, cho rằng đất ở đó có thể phát vua, bèn lấp sông ấy.
Tuy rằng bia Báo Ân mất niên hiệu, nhưng theo năm làm chùa xong là năm 1100, và theo câu nói Lý Thường Kiệt coi quận trong 19 năm nay, thì ta thấy rằng bài bia làm năm Hội Phong thứ 9, Canh Thìn 1100. Vậy bia này là bia bằng chữ Hán xưa nhất còn thấy ở nước ta.
Mà chùa cũng rất đáng chú ý, vì trong chùa còn những tượng rất xưa. Như trên đã nói, hạ đường chỉ là một nhà tranh, nhưng thượng đường lợp ngói. Trong có một pho tượng đất cao gần hai mét, xưa thiếp vàng, nay lớp vàng đã phai hết, chỉ còn lớp sơn đen, nhưng trông rất đẹp. Pho tượng lại ngồi trên tòa sen. Tòa sen đặt trên lưng một con vật bằng đá, điêu khắc rất tinh xảo. Con vật ấy, đầu hình đầu lợn, có nanh, mắt hung dữ; chân có vuốt nhọn, đuôi to hình lông xoắn ốc. Cả pho tượng và con thú ấy đặt trên một bệ đá, có lẽ mặt trước có điêu khắc nhưng nay đã bị người ta xây một bệ khác che khuất. Ở hai góc, còn lòi ra một phần, và góc ấy có hình aguda tức là vị thần, thân người đầu chim, có cánh, chân có vuốt, tai đeo khuyên, ngực đeo chuỗi hạt, lấy đầu và hai cánh đỡ trên mặt bệ. Kiểu điêu khắc ấy như kiểu nay còn thấy ở cổ vật Chàm, mà người ta cũng thấy ở một vài chùa ta. Chắc rằng đó là do ảnh hưởng của các thợ Chàm, mà ta bắt đem về đời Lý Thánh Tông. Những bức chạm ở đây rất có thể là do người Chàm mà Lý Thường Kiệt đã đem về năm 1069, hay là những học trò thợ ấy. Đó là một chứng cho ta tin rằng bệ đá, và có lẽ tượng đất, là từ đời Lý để lại.
Trong chùa còn có nhiều bệ con; trong số ấy, có một cũng chạm aguda ở góc. Các tảng đá kê cột cũng chạm hình hoa sen. Chắc xưa chùa to, nay những tảng đá còn lại, to không hợp với những cột nhỏ bé ngày nay. Nếu phá được cái bệ mới thêm vào trước bệ chính ở chùa, thì ta có lẽ thấy những bức chạm khác hay là những dấu chữ xưa.
Ngoài sân đền, còn có một cái khánh đá cũ, nhưng nay bị vỡ. Xem kỹ, không thấy có nét gì. Tên chùa này có nghĩa là báo ơn Phật, mà Phật thì cũng dễ nhắc công Lý Thường Kiệt như ta thấy trong lời tán dương ông ở một chương trên (VIII/8 )
3- Núi Ngưỡng Sơn.
Chùa Linh Xứng
Hai chùa trên, tuy có liên quan mật thiết với Lý Thường Kiệt, nhưng không phải tự ông tự dựng lên. Các bia ở hai chùa ấy, tuy có ghi công ông, nhưng cũng không chuyên để tán dương ông. Ở Thanh Hóa còn có một chùa mà tự ông dựng lên, và ta có thể gọi là chùa Lý Thường Kiệt. Ấy là chùa Linh Xứng.
Chùa Linh Xứng ở núi Ngưỡng Sơn cạnh đền Lý Thường Kiệt, mà tôi đã tả (VIII/7). Núi Ngưỡng Sơn là một núi nhỏ, đất đá hỗn tạp, ở bờ phía bắc sông Lèn (tên chữ Chùy Giang), cách phía tây cầu hỏa xa Đò Lèn chừng hai cây số. Núi ở làng Ngọ Xá, xưa thuộc huyện Vĩnh Lộc, nay thuộc phủ Hà Trung. Núi thấp không dính với núi xung quanh. Phía nam núi có đường đê và sông. Phía bắc núi là một cánh đồng sâu, xung quanh toàn núi. Ở giữa cánh đồng ấy có vài núi nhỏ, có tiếng nhất là núi Chương Các. Phía đông núi là đồng bằng, kéo dài cho đến dãy núi nhỏ ở phủ Hà Trung. Còn phía tây thì rất gần dãy núi cuối cùng của dãy Kim Sơn thuộc Vĩnh Lộc. Đứng phía tây ngắm lại, núi có hình người đàn bà nằm ngửa. Người ta nói vì vậy mới đặt tên là Ngưỡng Sơn.
Đối với trấn lị Thanh Hóa đời Lý. Ngưỡng Sơn khá gần, “chỉ cách năm dặm, phảng phất như ở trong thành quận” (LX). Tên làng sở tại, đời Lý là làng Đại Lý. Tên Đại Lý bây giờ còn, ấy là làng phía nam sông Lèn, đối ngạn với làng Ngọ Xá. Đời Lý, làng ấy rất to (LX), chắc nó gồm cả vùng bắc và nam sông. Đến đời Trần, phần bắc đã đổi tên ra Đại Lại2.
Chùa Linh Xứng nay không còn nữa. Nhưng bia chùa, dựng đời Lý vẫn còn. Dân xã đem để trên thềm đền Lý Thường Kiệt. Bia ấy dựng năm Thiên phù duệ vũ thứ 7, năm Bính Ngọ (1126), nghĩa là 21 năm sau khi Lý Thường Kiệt mất. Tác giả bài văn bia là đại sư Hải Chiếu, tên Pháp bảo, trù trị chùa Phúc Diên tư thánh, kiêm coi công sự ở Thanh Hóa. Đại sư là một thuộc hạ ông. Bia chép khá rõ sự nghiệp của ông, và kể rất tường tận sự ông xây dựng lên chùa Linh Xứng. Văn bia lại rất dài, bia khắc hai mặt, chữ chân phương rất tốt, nét rất rõ. Tuy bia không có chạm trổ trang sức như các bia khác đồng thời, nhưng hàng chữ triệu đề trán bia khá đẹp, và con rùa đội bia rất đơn giản nhưng mỹ thuật.
Nay theo lời bia, ta biết gốc tích chùa Linh Xứng và lòng sùng Phật của Lý Thường Kiệt khi ở Thanh Hóa thế nào.
Ban đầu đời Anh vũ chiêu thắng, vua Lý Nhân Tông ban cho ông hiệu Thiên Tử nghĩa đệ. Ông ra coi các việc quân, dân ở Ái Châu, quận Cửu Chân, trấn Thanh Hóa (theo bia BA thì năm 1082, Anh vũ chiêu thắng thứ 7, ông ra Thanh Hóa). Tuy thân vướng tục, nhưng lòng đã quy y. Ấy vì vua và mẫu hậu (thái hậu) tôn sùng đạo Phù đồ: ông vâng ý hai thánh giúp đỡ đạo trời rất nhiều (LX).
Bấy giờ có vị sư hầu thái hậu, là Sùng Tín trưởng lão, từ kinh tới thăm quận.
Vị trưởng lão ấy là ai? Xét sách TUTA, thì có lẽ trưởng lão là Mã giác đại thư3
Đại sư sinh năm 1052, là con viên ngoại lang Lý Hoài Tố, người đi sứ Tống năm 1073, (TUTA chép họ Nguyễn, vì kiêng húy đời Trần; đây theo TB). Lúc nhỏ, học Nho và Thích đều giỏi. Vào khoảng năm 1071, được chọn vào cung dạy hoàng tử Càn Đức mới lên 6 tuổi. Ông bấy giờ mới 20 tuổi, nhưng đã nổi tiếng là học rộng nhớ nhiều. Tuy còn trẻ, ông đã có ý đi tu. Sau khi Càn Đức lên ngôi, thái hậu ban cho ông hiệu Hoài tín. Trong đời Anh vũ chiêu thắng ông dâng biểu đi tu, chừng vào năm 1077. Chẳng bao lâu nổi tiếng, và thành vị lãnh tụ các sa môn. Vua và thái hậu dựng chùa bên cung Cảnh Hưng mời sư về ở, để tiện việc hỏi han về đạo. Vua và thái hậu thường không gọi tên, mà chỉ xưng là trưởng lão, tuy rằng sư mới chừng hơn 30 tuổi mà thôi. (TUTA)
____________________________________
1. Sách ANCL có chép rằng phủ Thanh Hóa có giáp Cổ Chiến, theo bia BA, thì giáp ấy là đất Đông Sơn.
2. Cuối đời Trần, sử chép tên sông Lèn là Đại Lại, làng ở phía bắc sông là làng Đại Lại, núi ở phía bắc Ngưỡng Sơn là núi Đại Lại. Chắc đó là biến danh của Đại Lý. Làng Đại Lại là quê của Hồ Quý Ly. Năm 1398, Quí Ly dựng cung Bảo Thanh ở dưới chân núi Đại lại, để ép vua Trần Thuận Tông ở (TT ). Sau khi Quý Ly lên ngôi, thường hay về nghỉ mát ở đó. Dựng cung gọi là Ly Cung. Có bể tắm, xây đá, có chạm trổ rất đẹp. Bể tắm, thì lấy nước suối cho vào. Nay vết tích bể tắm còn. Nếu bới đất tìm vùng này, ta sẽ biết rõ nhiều điều về đời Trần Mạt. Cũng ở đó, có chùa Kim Âu, dựng đời Trần, nay còn bệ đá điêu khắc rất đẹp, và một pho tượng Phật cổ, có lẽ từ đời Trần.
3. Mã Giác là tên thụy, nghĩa là tên được vua ban cho, sau khi sư đã mất. Húy của sư là Trường. Lúc bé sư vào hầu Càn Đức, Thái hậu rất yêu. Cho nên sau khi Càn Đức lên ngôi, thái hậu lại ban hiệu cho ông là Hoài tín. Sau khi sư đi tu nổi tiếng thái hậu lại mời vào chùa Giáo Nguyên trong cung. Thái hậu không gọi sư bằng tên, mà chỉ gọi bằng trưởng lão. Theo những điều mà TUTA chép trên, thì đang lúc sinh thời, Mãn Giác mang hiệu Hoài tin trưởng lão. Hiệu ấy so với hiệu Sùng tin trưởng lão, chép trong bia LX, có khắc chữ Hoài. Nhưng hai hiệu nghĩa như nhau. Ta có thể đoán rằng, hai trưởng lão kia chỉ là một. Có lẽ, đời Trần có kiêng tiếng Sùng (XV/cth I) cho nên TUTA mới đổi ra Hoài như thế.
Xét tên, xét chức, xét địa vị của Sùng Tín trưởng lão và Hoài tin trưởng lão, ta có thể tin rằng hai người là một. Vậy, vị sư tới thăm Lý Thường Kiệt, năm 1085, ở Thanh Hóa, chính là Mãn Giác đại sư.
Năm đầu đời Quảng Hữu (1085), trong nước vô sự. Thái hậu (TT chép hoàng hậu, chắc sai) đi chơi khắp núi sông, ý muốn dựng chùa xây tháp. Bấy giờ, Thường Kiệt ra Thanh Hóa đã được ba năm. Trong lúc thái hậu ngao du, có lẽ đại sư được theo hầu. Thái hậu sai đại sư vào Thanh Hóa, thăm ông và bảo dựng chùa. Bấy giờ đại sư mới 34 tuổi.
Vậy năm 1085, Sùng Tín trưởng lão vào chơi Thanh Hóa, thăm Lý Thường Kiệt. “Nhân khi rảnh việc, ông và sư, ngược dòng đi chơi cửa bể Phấn Đại, dừng thuyền ở chân núi Long Tị. (LX)
Cửa bể Phấn Đại và núi Long Tị ở đâu? Không sách nào chép rõ. Nhưng ta có thể nhận rằng cửa Phấn Đại và núi Long Tị là cửa sông Mã và núi Hàm Rồng1. Ta có thể dò lại cuộc hành trình của Lý Thường Kiệt đi cùng Sùng Tín trưởng Lão.
Ông và sư xuất hành từ quận lị Cửu Chân; xuống thuyền trên sông Ngu Giang (Lạnh Trường); “ngược dòng” tới sông Mã, đến ngã ba Tào Xuyên, rồi xuống cửa bể Phấn Đại. Thuyền qua dưới chân núi Long Tị. Ông sai ghé thuyền để lên ngắm cảnh núi.
“Ý sư là tìm nơi thắng cảnh để dựng chùa. Nhưng bấy giờ, ở núi Long Tị đã có chùa rồi. Chắc là chùa ở trong động Linh Quang trên núi Hàm Rồng. Thường Kiệt bèn bảo xây một đình nhỏ trên mỏm đá, xung quanh bọc tường, để làm nơi ngồi ngắm cảnh.
“Sư bèn nói với ông rằng: “Núi này đẹp lạ! Đã có kẻ dựng chùa ở đây rồi. Còn có chốn nào thanh u, có tiếng là thanh lịch từ xưa, thì nhờ đưa tới thăm chơi”. Ông khen sư là người có công to với Phật, rồi sai kẻ hầu chèo thuyền về phương tây” (L).
Vậy thuyền rời núi Long Tị, ngược dòng sông Mã, đến ngã ba Bông (xem bản đồ IV). Thuyền “qua sông trong Nam Thạch, đến ấp lớn Đại Lý” (LX). Nam Thạch chắc là sông Lèn ngày nay. Từ ngã ba Bông đi về phương đông, xuôi sông Lèn, thì đến làng Đại Lý.
“Ông và sư ghé thuyền lên bến. Đưa mắt ngắm trông. Thấy một núi nhỏ, tên là Ngưỡng Sơn; chỉ cách quận lị năm dặm, phản phất như trong thành. Chân núi gần sông; ít kẻ lên đó, nhưng cũng dễ trèo. Hơi mù bám cây cối um tùm, màu lam ngùn ngụt. Sau lưng (phía bắc) có dãy núi Giao Lĩnh, làng Hoàng Hương ôm bọc. Phía trước có núi Nhân Phong, đồi Nê Phụ nhô cao”. (LX)
Núi Giao Lĩnh chắc là núi Mông Cù, Kim Âu; làng Hoàng Hương chắc nay là tổng Hoàng Xã. Núi Nhâm Phong có lẽ là nhỏm núi ở phía đông làng Oai Hổ, phía nam làng Bạch Thỏ; vì nhỏm núi này cao 229 mét, lại cao nhất trong các núi ở trước Ngưỡng Sơn, và cách đó không xa. Còn đồi Nê Phụ phải chăng là núi tại làng Chi Nê, Sơn Đông ngày nay?
Bia LX chép tiếp: “Ở đấy, nguyên đã có một ẩn giả làm am, ở lánh một mình, và đi giáo hóa những vùng lân cận. Gọi là khai thác, nhưng tĩnh giới chưa được nghiêm trang. Ông cùng bộ thuộc bèn lần đường nối gót mà lên núi. Chỉ thấy cổ thụ um tùm, yên hà rằng rịt. Bồi hồi dẫn bước, ngưỡng cúi mà nhìn không chớp mắt. Lòng thấy thích vui, ý muốn xây dựng”. Bia LX không nói rõ đây là cuộc đi chơi cùng sư Sùng Tín hay cuộc khác. Có lẽ, sau lúc sư về Kinh rồi, Thường Kiệt trở lại núi Ngưỡng Sơn với bộ thuộc. Trong số bộ thuộc, có Hải Chiêu đại sư, là người làm văn bia này.
“Ông bèn nói với bộ thuộc: “Kẻ nhân trí vui là vui với núi sông. Đời đời truyền lại danh với đạo. Nếu không dựng chùa ở nơi này để mở đạo, thì danh núi đâu là đủ quý” (LX)
“Rồi ông sai xảy cỏ hoang, đập đá lớn. Thầy xem bóng lấy hướng, thợ trình kiểu làm chùa. Kẻ giúp mang đồ ăn tới, kẻ đi học đua nhau đến xem. Kẻ giúp sức thì đục đẽo, kẻ lành nghề thì xây dựng”. (LX)
Sau đây là cảnh chùa khi hoàn thành.
“Chùa ở phía nam núi. Trai phòng ở hai bên. Tượng đức Phật Như Lai sơn vàng, ngồi cao trên tòa sen nổi lên trên mặt nước. Trên tường chung quanh, vẽ mười sáu La Hán và các biến tướng, thiên hình vạn trạng, không kể xiết
“Sau chùa, xây bảo tháp, đặt tên là tháp Chiêu Ân. Tháp cao chín tầng, đều trương bày lưới. Bốn mặt mở cửa xung quanh có bao lơn. Bốn góc treo chiêng vàng, rung trước gió, cùng chim núi kêu êm; phía trước dựng cột biểu, ánh bóng mai cùng tượng vàng chói sáng. Bao lơn quanh bọc, hoa cỏ đầy thềm. Trước có cửa chính, dựng để treo chuông. Chày kình gõ đánh, tiếng chuyển bay xa: thức kẻ mê, phá kẻ tục, khuyên kẻ thiện, răn kẻ ác. Trước cửa một đường thẳng xuống sông. Hai bên có rãnh nước; giời mưa thì nước chảy theo mà xuống. Kề sông có một đình nhỏ. Thường thường, thuyền bè qua lại dừng đó nghỉ ngơi. Hoặc Chiêm Thành, Chân Lạp sang sứ, tới đó mà quì gối qui y. Hoặc nước lạ, đất xa về chầu, qua đó cũng cúi mình rạp trán” (LX)
Thật vậy, chùa ở trên đường xung yếu bấy giờ. Từ nam tới, thuyền qua sông Mã, sông Lèn, qua trước chùa Linh Xứng, đến sông Hội Thủy, sang Tống Giang và ra cửa Thần Phù, để tới Thăng Long.
Lúc lạc thành, có lập hội. Các sư tụ tập rất đông.
Lý Thường Kiệt có người cháu gái họ (có lẽ con Lý Thường Hiến), tên là Lý Thị Cậu, lấy Văn Thị Hiệu là Sùng Chân Xử Sĩ. Bà cùng qui Phật, hiệu Bà di Diệu tính. Bà sinh được ba trai, người đầu theo đạo Nho, tên là Văn Hai, tự là Bành Tổ. Hai con sau theo đạo Phật:
Là sư Viên Giác hiệu Pháp trí, và sư Minh Ngộ hiệu Pháp Tư. Hai người này xuất gia đời Thần Vũ (1069-1072), phục chiếu được xóa tính danh, không biên vào công điển. Bấy giờ hai người đã tới làm nhà ở núi này mà ở. Hai người lại làm chùa riêng ở phía đông núi, đặt tên là chùa Thánh Ân (LX)
Công xây dựng bốn năm mới thành. Lý Thường Kiệt gọi sư Hải Chiếu mà bảo: “Hưng công đã lâu, nay chùa đã xong. Nếu không khắc bia chép lại sự tích thì người đời sau biết đâu mà tìm. Sư hãy lựa lời văn, kể lại sự sáng tác. Khiến cho rằng tuy vật đổi dời, nhưng lời lành truyền mãi mãi.” (LX)
Đại sư bây giờ trụ trì ở chùa Phúc Diên tư thánh, có lẽ ở trấn lị, kiêm coi công sự ở quận Cửu Chân, và làm việc dưới quyền Lý Thường Kiệt. Sư nghe lời ông dạy bèn viết bài bia và bài minh.
Trong bài văn bia, đoạn đầu tán dương công đức Phật. Rồi chuyển sang khen ngợi công Lý Thường Kiệt đối với chùa. Lời bia nói:
“Vì thế nên có danh sơn, thắng cảnh, thì có chùa chiền; nhưng nếu không có kẻ vương công đại nhân thì không dựng nổi. Chùa Linh Xứng ở núi Ngưỡng Sơn là do Thái úy lệnh công sáng lập.”
Đoạn sau nói sự nghiệp Lý Thường Kiệt, và kể rõ sự việc xây chùa, như đã chép lại trên. Cuối cùng là bài minh tóm tắt đại ý bài văn bia. Lời minh sẽ phỏng dịch ra sau:
“Tam giới luân hồi; Tứ sinh lăn lóc.
Lầm lỡ đời mình; Đảo điên tâm sắc.
Tham chơi, chuộng giận; Kéo dài ái dục.
Há dễ yên đâu, không thể đủ được.
Cao thay! Chân như: Thể, lượng mông mù!
Thần không lường nổi, hóa rồi vẫn dư
Mưa nhuần một trận, ba cỏ được nhờ.
Cờ Pháp dựng lên, mối tà liền trừ.
Việt có Lý Công, theo dấu người cổ.
Coi quận, dân yên; đánh đâu được đó.
Tiếng động Chiêm Thành, danh lừng Trúng thổ
Dựng chùa chốn nầy, Qui sùng Phật tổ.
“Núi cao thay hề! Ngất từng không.
Hiền tể coi, hề! Đã mở công.
Điện tháp cao, hề! lớp chập chồng.
Tượng vàng nghiêm, hề! Vẻ tráng hùng.
Điềm tốt nhiều, hề! Chúc Thượng hoàng.
Trị vì lâu, hề! Đời xương long.
Biến tích khắp, hề! Đến hang cùng.
Bia đá bền hề! Với núi sông.”
Chùa làm xong năm nào? Bài văn bia viết năm nào?
Suy lời bia, thì biết rằng năm ấy Thường Kiệt còn ở Thanh Hóa, vì trong bia không hề nói đến việc ông lại trở về triều. Nhưng bia, thì hai mốt năm sau khi ông mất, mới dựng lên. Niên hiệu bia là Thiên phù duệ vũ thứ bảy Bính Ngọ (1126).
Nay chùa Linh Xứng không còn nữa, tháp cũng không còn dấu tích. Có lẽ chùa tháp đều làm bằng gạch, chắc nay nát hết rồi. Hay rằng hãy còn di tích chôn lấp dưới đất. Phải bới tìm. May còn thấy chăng? May sao bia còn vẹn, nay để thềm đền thờ Lý Thường Kiệt (XII/7). Nhờ vậy đỡ được mưa nắng ăn mòn. Nhưng sát cạnh đền, về phía đông, và cao hơn đền một ít; còn có một cái miếu nhỏ, có lẽ nền chùa xưa ở đó.
Tuy chùa cũ không còn, nhưng tấm bia xưa còn đủ làm toại lòng Lý Thường Kiệt muốn, để người đời sau biết đến sự sáng tạo của ông, theo như lời ông dặn sư Hải Chiếu.
Với ba tấm bia đã nói trên, ta biết rằng ông đã có công với Phật giáo không phải ít.
Nhưng ông là một vũ tướng. Trong khi đánh Chiêm, chống Tống, ông đã làm thiệt mạng biết bao nhiêu sinh linh. Kẻ mộ Phật, như vua Lý Thái Tông, lúc thấy quân ta vào kinh đô Chiêm Thành, sát hại nhân dân, còn có lòng thương xót, và đã hạ lệnh “không ai được giết bậy người Chiêm Thành. Ai giết sẽ không tha tội” (TT). Còn Lý Thường Kiệt, khi vào thành Ung, đã để quân mình giết gần sáu vạn người, chất đầu thành đống, mà không có một lời ngăn. Hẳn ông không phải là một Phật tử được gương đức Phật từ bi theo gọi.
Ông giúp Phật giáo, chẳng qua là theo phong trào đương thời mà thôi. Lại thêm thái hậu và vua mộ Phật. Ông dựng chùa chỉ vì “vâng ý hai Thánh” mà thôi chăng?
Hoặc giả, công đức với Phật của ông. Lúc về già, mới có. Nếu thật như vậy, thì biết đâu đó chẳng là vì lòng sám hối tội hiếu sát của ông đương lúc tráng thời hay sao?
______________________________________
1. Theo Lê Tắc là người Thanh Hóa đời Trần, viết trong ANCL thì Thanh Hóa có lên Long đại, mà cũng gọi là Bảo đài. Cảnh lèn u uất, đẹp có động thờ Phật, ngoài có lầu gác trên sườn núi. Trước mặt có sông sâu sau có lối đi ra ngòi nước. Rừng thông vạn dặm, núi đá vạn trùng. Xưa truyền rằng trong hang có thứ dơi lớn. Cho nên tên tục là núi Hang dơi.
Những sách, ANCL của Lê Tắc, ANCN của Cao Hùng Trưng, Việt kiệu thư, và Minh chí chắc đều chép theo một gốc mà ra, gốc ấy là Lê Tắc. Nhưng vì sao lầm, in lầm, cho nên có khác nhau ít nhiều, ngày nay còn có động Bạch Ác ở làng Trị Nội, huyện Nga Sơn, cũng có tên tục hang Dơi. Nhưng tôi tưởng tên ấy, các hang thường có. Theo trên, núi Long Tị không phải ở đó.
Sách Minh Chí cũng có chép núi Long Đại vào hàng danh sơn, sách ĐNNTC XIV/31a nói rằng núi Long Đại là núi Hàm Rồng ngày nay, mà tên chữ là Long Hàm.
Xét hai tên Phấn Đại, Long Tị, ta có thể ngờ rằng cửa bể ấy và núi ấy cũng chẳng xa núi Long Đại đời Trần. Tôi tưởng rằng núi Long Tị là núi Long Hàm (Hàm Rồng), và cửa bể Phấn Đại là cửa sông Mã. Núi Long Hàm hay Hàm Rồng là nhỏm cuối của một dãy núi, chạy dài trên hữu ngạn sông Mã từ làng Dương Xá đến cầu Hàm Rồng, dài trên khoảng 5 cây số. Núi là núi đất lẫn đá, nhưng nhỏn Hàm Rồng thì toàn đá. Trên cao có động, tên động là Long Quang. Động có hai cửa hai bên, hình như hai mắt rồng, mà thường gọi là Long Nhãn. Núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá nhô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long Tị. Gần mặt nước hai lớp đá trồng nhau như hàm rồng, đó là Long hàm. Toàn hình, trông từ phương bắc, giống như đầu rồng đương uống nước. Bên kia sông có một mỏm đá tròn, người ta gọi là núi Hỏa Châu. Cảnh chung gọi là Long hỷ châu (rồng vờn hạt ngọc châu). Chắc rằng đời Lý, cửa sông Mã gần núi Long Tị hơn bây giờ. Vả bờ bể từ đó ra đến cửa Thần Phù mỗi năm bồi thêm không ít. Cửa Thần Phù nay ở trong đất ngót 10 cây số, cửa Bạch Câu ở huyện Nga Sơn, xưa cũng gần núi Vân Hoàn, như thơ Phạm Sư Mạnh, để ở động năm 1372 còn chứng.
Núi này cũng đất đá lẫn nhau, trừ phần cuối về phía nam là toàn đá. Ở đó có động, có chùa. Trước cửa động có bia đời Trần. Trên bia có khắc thêm một bài thơ của Phạm Sư Mạnh tả cảnh xung quanh, thơ nói: Trèo lên động nhìn xuống thấy sóng nổi ngàn vạn dặm, giữa trời nổi nước, giữa nước nổi núi. Đó là tả cửa bể Bạch Câu.
Bia Chùa HƯƠNG
NGHIÊM
Tại làng Phủ Lý, phủ Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Mặt: Cao 145 cm, rộng 90 cm. – Trán: Càn ni sơn, Hương Nghiêm tự bi minh. – Niên hiệu: Thiên phù duệ vũ ngũ niên, Giáp Thìn (1124), thập nhị nguyệt, sơ tứ nhật (dựng bia) Để ý: Dòng chữ bên trái, ngoài khung: Bảo thái thất niên, tuế kỉ Bính Ngọ (1726) đông (khắc lại).
Bia không trang sức. Chữ rõ và tốt. Không tên tác giả.
So với bia Linh Xứng thì thấy có lẽ cùng một tác giả và một người viết.
BẢN ĐỒ I. TỐNG
VIỆT CHIÊM
(Phụ đồ:VIJAYA)
(Phụ đồ:VIJAYA)
Những điều nên chú ý:
I. Biên giới Tống Việt, và so sánh với biên giới ngày nay. (Xem bản đồ III).
a) Năm biên trại Tống thuộc Ung: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long.
b) Hai trại thuộc Khâm Châu: Như tích và Để trạo.
c) Các biên địa Việt: Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Quang Lang, Tô mậu,Vĩnh An.
d) Địa điểm quan hệ: Động Giáp và Đồn Sơn (Vân Đồn )
II. Biên giới Chiêm Việt và ba châu: Bố chính, Địa Lý, Ma Linh.
III. Hành trình Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành (lịch tây phương).
Xuất quân từ Thăng Long, ngày 8-3.
Qua cửa Đại An, tới Nghệ An ngày 15-3.
Đến Nam giới ngày 18-3.
Phá hạm đội Chiêm ở Nhật Lệ ngày 23-3.
Qua khỏi Đại tràng sa ngày 27-3.
Nghỉ ở cửa Tư Dung ngày 28-3.
Vào cửa Cri bonei ngày 3-4.
Trận Tu Mao
Chiếm Vijaya chừng vào ngày 10-4.
Đuổi bắt được Rudravarman III vào tháng 5.
Rút quân chừng vào ngày 10-6.
Nghỉ ở cửa Tư Dung 19-6.
Thuyền vua đụng đá ở núi Lỗi lối ngày 4-7.
Về đến Thăng Long ngày 17-7.
BẢN ĐỒ II b, TỐNG
CHUYỂN QUÂN
I. Hành trình tiến quân của Quách Quỳ (X).
Được cử làm nguyên súy, 2-2 năm B Th 1076.
Mộ quan ở Tân Phượng, Vĩnh Hưng, Thiểm Tây, Hà Đông và Phu Diên.
Đặt An Nam hành doanh ở Biện Kinh, tháng 3.
Tới Đàm Châu, tháng 6. Tới Quế châu, tháng 7.
Dụ các khê động, tháng 7 và tháng 8 (X/3).
Nhâm Khỉ đánh Vĩnh An, tháng 7 (X/4).
Tới Ung Châu, tháng 9. Tới Tư Minh, tháng 10.
Tới Bằng Tường, để xét tình hình quân Lý.
Vượt biên giới Tống Việt, 11-12 năm ấy, B Th 1076.
BẢN ĐỒ III b, MẶT
TRẬN PHÚ LƯƠNG
I. Các trận quan hệ:
Yên Đạt đánh Quảng Nguyên, đầu tháng 12 năm B. Th 1076 (X/7).
Khúc Trân lấy Môn Châu, tháng chạp (X/8).
Quách Quỳ qua biên giới ngày 11 tháng 12.
Phá ải Quyết Lý, lấy Quang Lang (X/8).
Tránh ải Giáp Khẩu, qua dãy núi Đâu Đỉnh (XI/1). Đến bắc ngạn sông Phú Lương, ngày 21 tháng 12.
Miêu Lý qua sông ở bến đò Như Nguyệt (XI/2), bị đánh lui.
Tống đại phản công trên sông Nam Định (XI/3).
Lý tổng phản công trên sông Kháo TúC(XI/4).
Tống lui quân, đầu tháng hai năm Đ. Tí 1077
II. Điều đình đòi đất:
Sứ bộ Đào Tông Nguyên, đầu năm M. Ng 1078.
Tống trả năm châu: Quang Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang và Quảng Nguyên (tháng 10 năm K Vi 1079, xem XII/4).
Đòi Vật Ác và Vật Dương, Hội Nghị Vĩnh Bình lần thứ nhất thất bại (tháng 6 năm Q Ho 1083, xem XI/7).
Hội nghỉ Vĩnh Bình lần thứ hai. Tống trả sáu huyện Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng, Cận và hai động Túc, Tang.
Đòi Vật Ác và Vật Dương lần thứ ba, tháng 6 năm A. Su 1085. Đòi lần thứ tư, tháng giêng năm B. Dn 1086. Đòi lần thứ năm, sứ bộ Lê Chung, đầu năm M. Th 1088. Đòi lần thứ sáu tháng 8 năm ấy. Chung Quy, Tống không trả.
III. Đất Vật Ác là đất Quy Hóa. Đất Vật Dương hay Thuận An ở khoảng giữa An Đức và Bảo Lạc.
BẢN ĐỒ IV. TRẤN
THANH HÓA ĐỜI LÝ
Để ý đến vị trí các chùa:
Hương Nghiêm ở làng Bồi Lý
Báo Ân ở làng An Hoạch
Linh Xứng ở làng Ngọ Xá
Sùng Nghiêm Diên Thánh ở làng Duy Tinh
LỜI
BẠT
Giáo sư Hà Văn
Tấn1
Quyển sách mà chúng ta đọc ở đây đã xuất bản từ năm 45 năm trước. Tác giả, giáo sư Hoàng Xuân Hãn, hiện đang sống ở Pháp.
45 năm đã qua nhưng vẫn chưa có một quyển sử nào viết về Lý Thường Kiệt và cuộc kháng chiến chống Tống có giá trị vượt được tập sách này. Tập sách chẳng hề cũ tý nào, ngoại trừ một số từ ngữ mà ngày nay chúng ta không quen dùng như thế nữa.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là một bác học. Ông vốn là một nhà toán học nhưng uyên thâm Hán Nôm và có những công trình về sử học, văn học có giá trị. “Lý Thường Kiệt” là một trong số đó.
Có thể nói, ở Việt Nam, Hoàng Xuân Hãn là người đầu tiên đem cái phong cách nghiên cứu khoa học tự nhiên vào nghiên cứu khoa học nhân văn. Đọc ông, bao giờ chúng ta cũng bị thuyết phục bởi những minh chứng chặt chẽ, ngay cả trong những giả thuyết. Chính ông đã viết trong lời tựa: “Những việc tôi kể trong sách, hoàn toàn có chứng và được dẫn chứng. Cũng trong các hạng chứng, tôi chỉ để ý đến chứng chính xác mà thôi. Không bịa đặt, không tây vị, hết sức rõ ràng: đó là những chuẩn thằng tôi đã theo, trong khi viết cuốn sách này.
Nhưng ở đây chúng ta không chỉ gặp một phương pháp viết sử nghiêm túc, mà còn được đọc nhiều sử liệu quý giá. Ngoài bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Đọi (Nam Hà) dựng năm 1121 mà ít nhiều đã được biết đến từ trước, năm tấm bia khác ở Thanh Hóa liên quan đến Lý Th Thường Kiệt, trong đó có bốn tấm thời Lý, đã được chính tác giả phát hiện và lần đầu tiên công bố. Đối với sử học và văn học nước nhà, một đóng góp như vậy quả là lớn lao. Cũng lần đầu tiên, Việt sử lược, một quyển sử Việt Nam nhưng được khắc in ở Trung Quốc, được sử dụng để nghiên cứu lịch sử đời Lý. Trước Hoàng Xuân Hãn, chưa người Việt Nam nào hiểu rõ giá trị của Việt sử lược. Tác giả còn khai thác một nguồn sử liệu quan trọng khác là Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào đời Tống. Đáng tiếc là mãi tận nay, dường như tác giả là người duy nhất sử dụng tài liệu này mà không có ai khác tiếp tục trực tiếp khai thác nó cho việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam.
Với một sử bút thật nghiêm, với những nguồn sử liệu phong phú, tác giả đã làm sống lại một giai đoạn hào hùng cửa lịch sử Tổ quốc. Chúng ta không những thấy được chân dung người anh hùng Lý Thường Kiệt, hiểu rõ cuộc kháng chiến chống Tống và lịch sử ngoại giao triều Lý, như phụ đề của tập sách, mà còn hình dung ra nhiều mặt của đời sống xã hội đương thời, như chế độ ruộng đất, văn hóa, Phật giáo...
Tác giả là người tinh thông lịch pháp, việc xác định ngày tháng dương lịch làm cho các sự kiện được sắp xếp với trật tự rõ ràng trên trục thời gian.
Các chú thích công phu cũng giúp ích cho chúng ta rất nhiều, không những làm sáng tỏ các điều đã đề cập trong chính văn mà còn làm mở rộng kiến văn của người đọc.
Nếu giờ đây, viết về Lý Thường Kiệt và cuộc kháng chiến chống Tống, chắc chúng ta cũng bổ sung được đôi điều. Chẳng hạn, chúng ta biết được rằng Lý Thường Kiệt vốn là người họ Ngô, căn cứ vào bài minh trên một quả chuông. Chúng ta có được những tài liệu khảo sát thực địa ở phòng tuyến sông Cầu. Cũng có người cho rằng nếu trên phòng tuyến này, quân ta đã tấn công nhưng thất bại như ở trận Kháo Túc, thì tướng Tống Quách Quỳ không thể đã ra lệnh lui quân sớm. Phải có một trận thắng quyết định. Và người ta nhắc rằng cần chú ý đến một dòng quan trọng của Việt sử lược mà tác giả đã bỏ qua: “Lý Thường Kiệt biết quân Tống sức đã khốn, đang đêm vượt sông tập kích, đại phá được, quân Tống mười phấn, chết đến năm, sáu”.
Tuy nhiên, dầu có thêm được chút ít tài liệu thì các sự kiện lịch sử mà tác giả đã trình bày ở đây, về cơ bản, không có gì thay đổi. Theo tôi, “Lý Thường Kiệt” đã trở thành một tác phẩm mang giá trị cổ điển trong các công trình nghiên cứu lịch sử Việt Nam.
Từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường đã học, tôi đã say mê đọc “Lý Thường Kiệt”. Tôi bị cuốn hút bởi một phong cách viết sử chính xác với ngồn ngộn sử liệu. Về sau, khi viết cuốn “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII”, chúng tôi đã lấy “Lý Thường Kiệt” làm mẫu mực, cố gắng theo những “chuẩn thằng” mà tác giả đã nêu ra, nhưng dĩ nhiên là khó lòng đạt được như mong muốn.
Sau này, mỗi dịp đến Paris, tôi đều xin phép được đến hầu chuyện giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Mỗi lần như vậy tôi đều nhận được sự chỉ bảo ân cần của ông và biết thêm nhiều điều bổ ích và thú vị về lịch sử và văn học nước nhà. Ở ông, đằng sau những chứng lý nghiêm nhặt, không phải là một thái độ lạnh lùng, mà sôi nổi một tấm lòng yêu nước. Điều này thì chúng ta đã nhận ra từ những dòng mà tác giả đã viết trong lời tựa của “Lý Thường Kiệt”.
“Đọc xong đoạn sử này, độc giả sẽ thấy, cách đây một nghìn năm, cha ông ta đã đủ tài năng, nghị lực để gây dựng tổ chức và gìn giữ khoảnh đất gốc cội của tổ quốc ta ngày nay; độc giả sẽ nhận thấy huyết quản của chiến sĩ bây giờ vẫn chan hòa máu nóng của tổ tiên, máu nóng mà không lẽ có người không mang một giọt...
Vẫn biết sống về tương lai; nhưng dĩ vãng là gương nên ngắm lại.
Vẫn biết tương lai là thế giới đại đồng; nhưng trước lúc ấy, nước mình phải là một nước thật”.
Cũng có lẽ vì những điều như tác giả đã viết mà Nhà xuất bản Hà Nội đã cho tái bản “Lý Thường Kiệt”. Thật tự hào và hạnh phúc khi chúng ta biết rằng người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt cũng là một danh nhân Hà Nội.
Thật vinh dự cho tôi khi được viết lời bạt tập sách này. Tôi cũng muốn qua đây, kính chúc tác giả trường thọ để có thêm những công trình khoa học mới, đóng góp lớn cho sự hiểu biết lịch sử dân tộc.
_____________________________________
1. Chủ nhiệm bộ môn Phương pháp luận sử học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện trưởng Viện Khảo cổ học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét