Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam (Phần 2) - Vũ Thanh Sơn

 ĐỐC NHƯỠNG

   Đốc Nhưỡng tên thật là Đinh Khắc Nhưỡng, ông còn có tên là Đinh Quang Nghĩa, con thứ ba ông Đinh Quang Khánh. Ông người thôn Phú Lãng Đông, xã Đô Kỳ, huyện Thần Khê, phủ Tiên Hưng, nay là xã Đông Đô, huyện Hưng Hà, Thái Bình.

   Ngày 27/3/1883 thành Nam Định thất thủ các tướng phân tán về quê quán chiêu mộ nghĩa quân, xây dựng căn cứ đánh Pháp. Đốc Nhưỡng tuy còn trẻ tuổi, nhưng có kiến thức quân sự, lại có nhiệt tình yêu nước, căm thù giặc Pháp cũng noi gương các bậc đàn anh về quê hương ở xã Đô Kỳ chiêu tập những người yêu nước, sắp xếp vào đội ngũ, sắm sửa vũ khí, thuyền bè, tích trữ quân lương, đào hào đắp luỹ biến xã Đô Kỳ thành căn cứ chuẩn bị khởi nghĩa.

   Đầu năm Hàm Nghi thứ nhất (1885), Đốc Nhưỡng cùng Bang Tốn khởi nghĩa. Nghĩa quân của hai ông thoắt ẩn, thoắt hiện gây cho quân Pháp và quân triều đình nhiều phen thất bại.

   Tháng 6 năm Ất Dậu (7/1885), sau vụ khởi nghĩa ở Kinh thành Huế không thành, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn hộ giá vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương. Lập tức các thủ lĩnh nghĩa quân ở Thái Bình (khi đó Thái Bình còn nằm trong tỉnh Nam Định và Hưng Yên, mãi đến năm 1890 tỉnh Thái Bình mới được thành lập) đã nổi dậy chống Pháp từ tháng 3 năm 1883 khi thành Nam Định thất thủ như Vũ Văn Hoan (tức Đề Hoan), Đinh Khắc Nhưỡng (Đề Nhưỡng) người xã Đô Kỳ, Lãnh Nhàn (Nguyễn Nhàn) người xã An Dực (Phụ Dực)... được thêm sức mạnh với lời kêu gọi trong Chiến Cần vương của vua Hàm Nghi đã lập tức chiêu mộ thêm quân sĩ mở nhiều trận đánh vào các đồn binh Pháp, các phủ đường huyện đường có quan lại người Nam theo Pháp.

   Đốc Nhưỡng cùng các nghĩa quân chiến đấu chống quân Pháp và lũ tay sai đánh thắng nhiều trận lẫy lừng ở Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên.

   Đốc Nhưỡng còn cùng Lãnh Hoan bắt Vũ Văn Báo vốn là học trò của Vũ Hữu Lợi, tên Báo đã báo cho Pháp lừa bắt thày xử chém vào chiều 30 Tết năm Giáp Thân (1885), hai ông đã đưa tên Báo về căn cứ đốt sống làm cây đuốc tế thày.

   Ngày 17 tháng 6 năm Thành Thái thứ 3 (1891), Đốc Nhưỡng tập hợp 100 nghĩa quân mặc quần áo lính tây, có vũ khí đầy đủ trên đường về tiến công thị xã Thái Bình, thì bị quân Pháp chặn đường đánh. Cuộc xung đột diễn ra quyết liệt, tiền quân Khái bị thương tiến về Thư Trì thì bị tên tri huyện Nguyễn Duy Tiên bắt nộp cho công sứ Thái Bình, Đốc Nhưỡng chạy lên Sơn Tây, sau cùng bị giặc Pháp phát hiện bắt giải về Hà Nội.

LÃNH HOAN

   Lãnh Hoan tên thực là Vũ Văn Hoan, người làng Thọ Vực, huyện Thần Khê, nay thuộc xã Đông Thọ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

   Học chữ nho được vài năm thì Vũ Văn Hoan theo học lớp võ do Nguyễn Thành Thà tổ chức. Học xong trở về làng, Vũ Văn Hoan giữ chức phó tổng, sau đó theo việc binh, được phong là Lãnh binh.

   Ngày 25 tháng 3 năm 1883, quân Pháp do trung tá Hải quân Henri Rivière chỉ huy từ Hà Nội, đánh thành Nam Định lần thứ hai. Trưa ngày 27 tháng 3 năm 1883, thành Nam Định lọt vào tay quân Pháp. Lãnh Hoan từ quan về quê ở làng Thọ Vực lập căn cứ chiêu mộ quân sĩ đánh Pháp. Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi, Đốc học Nam Định cũng từ quan cùng Nguyễn Đức Huy... mộ quân chống Pháp được phong chức Đề đốc trong khi đó Vũ Văn Báo làm Tổng đốc Nam Định.

   Nghĩa quân Lãnh Hoan cùng nghĩa quân của năm cha con Nguyễn Thành Thà, nghĩa quân Đinh Khắc Nhưỡng đánh quân Pháp và lũ tay sai của chúng nhiều trận.

   Năm 1885 Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương. Lãnh Hoan lại hợp quân với anh em Bang Tốn, Đốc Đen, Đốc Nhưỡng đánh Pháp quyết liệt tại Thọ Vực. Quân Pháp thua phải tháo chạy bỏ lại nhiều xác chết và vũ khí. Lãnh Hoan còn phối hợp nghĩa quân của các thủ lĩnh khác đánh thắng quân Pháp ở làng Tống Vũ, nay thuộc xã Chính Lãm, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình và Cầu Kim, Chợ Đác nay thuộc xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nghĩa quân gây cho giặc nhiều thiệt hại nặng nề.

   Năm 1886, Lãnh Hoan chỉ huy nghĩa quân đánh Pháp ở làng Trường Yên. tiêu diệt 40 lính Pháp và lính tập.

   Đầu năm 1892, Lãnh Hoan hy sinh trong tư thế hiên ngang, lẫm liệt, đã được nhân dân ghi lại trong bài:

         VÈ LÃNH HOAN

      Thọ Vực ông Lãnh đánh Tây
      Hình dáng thợ cày, mã tấu bên hông.
      Toàn thân ông nhuộm mầu hồng,
      Ông đã rửa hận non sông phen này


   Nguyễn Thành Thà làm bài thơ viếng học trò của mình, có câu:

      Thọ Vực tuy tàn căn cứ địa,
      Thần Khê vưu tráng nghĩa quân doanh


Dịch:

      Thọ Vực dẫu tàn căn cứ địa
      Thần Khê càng mạnh nghĩa quân doanh.

BA BÁO

   Tạ Hiện có ba con trai là Tạ Quang Hùng, Tạ Quang Hổ, Tạ Quang Báo cũng theo cha cầm quân đánh giặc. Trong ba người con của Tạ Hiện thì Tạ Quang Báo (còn gọi là Ba Báo) là hiệt kiệt nhất.

   Khi giặc Pháp đánh phá căn cứ Kiến Xương. Tạ Hiện nhận thấy ở đây đồng bằng trống trải khó phòng thủ, liền đưa quân về hoạt động ở Đông Triều. Quảng Yên. Tại đây Ba Báo có một đội quân chuyên hoạt động trên sông nước. Ông vùng vẫy ở ngã ba sông Kinh Thày - sông Kinh Môn - sông Thái Bình và còn hoạt động lên cả Lục Đầu, Phả Lại. Có khi ông còn đưa quân hoạt động cả ở vùng sông Luộc trên địa bàn huyện Ninh Giang... Tạ Quang Báo thường xuyên tổ chức những trận đánh tầu thuyền vận tải quân lính, lương thực vũ khí của quân Pháp tại ngã ba sông này. Ba Báo có thể kiểm soát được cả đồng bằng và vùng núi. Nếu quân Pháp đánh đồng bằng thì nghĩa quân rút lên miền núi, nếu quân Pháp đánh miền núi thì quân của ông lại tản ra ở với dân làng ở đồng bằng. Có trận Ba Báo tấn công pháo hạm Mitrailleuse, suýt bắn đắm nó trên sông Kinh Thày.

   Ngày 12 tháng 3 năm 1884, quân Pháp huy động 16.300 quân, 55 đại bác, nhiều pháo thuyền do tên thiếu tướng Nêgơriê (Negrier) phái từ Hải Dương đánh chiếm Phả Lại làm nơi đứng chân để đánh chiếm tỉnh thành Bắc Ninh. Nguyễn Thiện Thuật đã cùng Hoàng Văn Hoè, Tạ Quang Báo hợp quân lợi dụng đêm tối tiến sát Phả Lại rồi nổ súng mãnh liệt, xung phong đánh giáp lá cà. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt từ 17 giờ ngày 12/3 đến 2 giờ sáng ngày 13/3 thì nghĩa quân chiếm được thành. Sáng hôm sau quân Pháp bắn đại bác dữ dội vào thành rồi cho quân xung phong, nghĩa quân phải rút.

   Trong các ngày 25 tháng 2, 28 tháng 2 và ngày 3 tháng 4 năm 1884, nghĩa quân Ba Báo cùng với nghĩa quân Hoàng Văn Hoè liên tục tấn công quân Pháp trên đường hành quân từ Phả Lại tấn công thành Bắc Ninh, cả trên đường bộ và đường thuỷ. Tháng 1/1886 quân Pháp phát hiện: “ …thấy cùng với Khoát, Ba Báo, Lang, Quý và Tiền Đức xuất hiện ở Hiệp Sơn, Chí Linh” .

   Tháng 6/1886 tên cai tổng địa phương báo cho giặc biết chỗ ở Ba Báo. Tên đại tá Bơritxô (Brissaud) liền phái một đạo quân do một thiếu tá chỉ huy 150 lính khố đỏ, luôn đêm đi thuyền, định tảng sáng thì đến nơi. Nhưng trong khi đi thuyền mấy người lái đò cố ý chần chừ và mấy lần lạc đường phải trở lại. Kết quả quân Pháp đến không đúng hẹn. Sau khi vây làng, tên cai tổng dẫn giặc vào nhà Ba Báo ở thì Ba Báo đã đi từ một giờ trước đó, vì ông được nhân dân báo cho biết quân Pháp đến từ nửa đêm. Ba ngày sau tên cai tổng phản động bị nghĩa quân giết chết.

   Giặc Pháp không giết, không bắt được Ba Báo, chúng điên cuồng khủng bố, tàn sát nhân dân ở những vùng Ba Báo hoạt động. Chúng phỉnh phờ lừa gạt nhân dân bằng luận điệu nếu còn che giấu, giúp đỡ Ba Báo thì giết hết người triệt hạ làng. Nếu người nào bắt hoặc giết được Ba Báo hoặc chỉ điểm chỗ Ba Báo đóng quân thì đều được thưởng. Một số tên lưu manh, có người nhà làm tay sai cho Pháp bị nghĩa quân Ba Báo trừng trị muốn nhân dịp này trả thù. Song ông được nghĩa quân và nhân dân bảo vệ, nên bọn chúng chưa thực hiện được mưu đồ.

   Sang năm 1887, quân Pháp lại kêu: “Từ tháng giêng năm 1887, Lãnh Giang lại trở về trong tỉnh liên kết với Khoát, Ba Báo, Văn và Quý. Kết quả của việc này chẳng bao lâu đã thấy rõ. Vụ nọ tiếp vụ kia, ba tầu buôn nhỏ bị tấn công khi qua sông Luộc”.

   Chiến dịch khủng bố đi đôi với mua chuộc của thực dân Pháp đã đạt được. Ngày 14/4/1887, trung tá Et vi Eschin chewiller coi đồn Bình Bạch đã bắt được Ba Báo và giết hại ông.

SƯ THUYỀN QUAN

   Tháng 7 năm 1885, Thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tấn công quân Pháp đóng ở đồn Mang Cá; Toà Khâm sứ, khu nhượng địa. Cuộc tấn công không thành. tảng sáng quân Pháp phản công. Tôn Thất Thuyết và các tướng hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị. nhà vua hạ chiếu Cần vương. Sĩ phu, nhân dân các tỉnh Trung Kỳ nhiệt liệt hưởng ứng. Tại Thái Bình các ông Tạ Hiện, Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Thu, Bang Tốn, Phạm Huy Quang.. hưởng ứng. Nhiều nhà sư ở Thái Bình cởi áo cà sa, khoác chiến bào gia nhập nghĩa quân giết giặc. Trong số đó có sư Sở tu ở chùa Thuyền Quan, nay thuộc xã Thái Hà, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình đã dựng cờ khởi nghĩa, dùng chùa làm đại bản doanh. Nhà sư đem thóc gạo của chùa ra nuôi quân, dân trong vùng quen gọi là sư Thuyền Quan. Trai tráng các huyện Thuỵ Anh, Thái Ninh... gia nhập nghĩa quân rất đông, họ tự sắm vũ khí. Nhân dân nô nức đem thóc gạo, lợn gà, tiền bạc đến khao quân.

   Sư Thuyền Quan vốn là người giỏi võ nghệ từng trải việc binh, nên công tác huấn luyện quân sĩ rất có bài bản. Nghĩa quân của sư Thuyền Quan trang bị chủ yếu là vũ khí thô sơ như gươm, giáo, kiếm, đoản đao, mã tấu, nhưng có tinh thần chiến đấu rất cao và có tinh thần kỷ luật. Thanh thế của nghĩa quân sư Thuyền Quan rất lớn, bọn quan lại làm tay sai cho Pháp không dám đem lính đến đàn áp.

   Cuối năm 1885, quân Pháp từ hai phía Nam Định và Hưng Yên có tàu chiến, pháo hạm tiến đánh Thái Bình. Các ông Nguyễn Hữu Cương ở Động Trung. Giám Thố ở Cổ Ninh, Lãnh Hoan ở Thọ Vực tiến về Kiến Xương, Tiên Hưng phối hợp với lực lượng của sư Thuyền Quan ở Thuỵ Anh đưa quân tới tấn công quân Pháp quyết liệt ở làng Tống Vũ (nay là xã Chính Lâm, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), ở Cầu Kìm, Chợ Đác (nay là xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương). Nghĩa quân đã gây cho giặc tổn thất nặng nề. Được tin thất bại, quân Pháp ở Hà Nội phải vội vàng điều động một đạo quân do 1 tên trung tá chỉ huy xuống tiếp viện.

   Đội quân do sư Thuyền Quan chỉ huy còn độc lập tác chiến hoặc phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác đánh nhiều trận lớn. Sư Năm Thượng ở chùa làng Lộ Vi (tức Lộ Xá nay thuộc Thăng Long, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) đánh quân Pháp khi chúng tấn công vào chùa Lộ Vi.

   Ở tỉnh Thái Bình nay còn lưu truyền bài:

         VÈ  SƯ THUYỀN  QUAN

      Nam vô đại tướng Thuyền Quan
      Mũ ni, tích trượng, phướn, phan thay cờ
      Bình Tây kiến lập vệ cơ
      Nghĩa quân khắp chốn đi về sớm hôm
      Chùa làm kho súng bên đồn
      Lãng Sa bạt vía kinh hồn Thuyền Quan
      Nam vô đại thế Át Nan
      Hộ trì đại tướng Thuyền Quan công thành.


(Năm 1885, tỉnh Thái Bình còn là đất của hai tỉnh Nam Định và Hưng Yên. Ngày 21/3/1890, tỉnh Thái Bình mới thành lập theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương của Nam Định, huyện Thần Khê của tỉnh Hưng Yên. Năm 1894 cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc tỉnh Hưng Yên vào tỉnh Thái Bình lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên).

SƯ NĂM THƯỢNG

   Sư Năm Thượng chưa rõ tên thực, quê quán, chỉ biết ông tu ở chùa làng Lộ Vi (tức Lộ Xá, nay thuộc xã Thăng Long. huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Từ năm 1882, khi giặc Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai rồi mở rộng chiến tranh xâm lược ra các tỉnh Nam Định. Hưng Yên, Hà Nam. Ninh Bình thì nhà sư đã tới các chùa Nam Định và Hưng Yên (Khi đó chưa thành lập tỉnh Thái Bình) vận động tăng ni, phật tử chống Pháp.

   Sư Năm Thượng hiểu rõ nghĩa quân muốn đánh thắng giặc thì ngoài vũ khí phải có lương thực. Vì vậy từ vụ mùa năm 1882, nhà sư đã vận động phật tử khai hoang mở rộng diện tích canh tác vốn có của chùa. Làng Lộ Vi nhỏ, nên số người giúp nhà chùa mở rộng diện tích không nhiều. Sư Năm Thượng đem vốn liếng của mình thuê người làm. Vì vậy mỗi năm diện tích cấy lúa một tăng, thóc thu được nhiều hơn những năm trước. Đến vụ gặt nhà sư chỉ dành một ít thóc giúp những người cơ nhỡ, còn đóng vào các bịch, lẫm.

   Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị ban chiếu Cần vương. Ông cùng sư chùa Thuyền Quan (huyện Thuỵ Anh), sư Neo ở huyện Thanh Miện (Hải Dương) chiêu mộ nghĩa quân theo Tạ Hiện đánh Pháp. Nhà sư đã đem ba chồng bịch thóc, trên 1000 phương thóc bí mật ủng hộ nghĩa quân. Nhưng nhà sư nguỵ trang những cót thóc trong chùa vẫn nguyên vẹn. (Phương là một cái thùng to hình vuông, đổ thóc vào gạt mặt, phương to 12 kg, phương nhỏ 10kg).

   Năm 1889, nghĩa quân Thái Bình tiến đánh phủ Bo (nay là thị xã Thái Bình), sư Năm Thượng tiếp tục ủng hộ lương thực và chỉ huy một cánh quân tấn công phủ Bo.

   Sau trận đánh, sư Năm Thượng bỏ chùa đi theo nghĩa quân. Dân làng ra chùa kiểm soát thấy ba cót thóc vẫn đầy không vơi. Vào một ngày nắng, dân đổ thóc ra phơi thì chỉ có lớp thóc bên trên, bên dưới toàn là trấu. Dân không oán trách gì sư, vì sư đem thóc đó cho nghĩa quân đánh Tây.

   Nay nở Thái Bình còn lưu truyền bài:

VÈ SƯ NĂM THƯỢNG MANG THÓC ỦNG HỘ NGHĨA QUÂN CHỐNG PHÁP

Kể từ Ất Dậu mới rồi (1885)
Nhà sư Năm Thượng là người đảm đang
Xin tu chùa của hai làng
Rèm và Lộ Xá bên đường cái quan
Ruộng chùa chăm bón giỏi giang
Ba chồng cót thóc một ngàn phương to
Cụ đem ngầm giúp Phủ Bo
Bỏ chùa rồi cụ đi xa không về
Dân lên kiểm soát mọi bề
Ba cây thóc đẫy, chẳng hề có vơi.
Nhân khi nắng ráo đẹp trời,
Dân làng đem thóc ra phơi kịp liền
Vừa vào xúc hết lượt trên,
Ở dưới toàn trấu vít liền ba cây
Thế là thóc đã lên mây.
Thóc đem ăn để đánh Tây mất rồi.
Biết vậy dân chúng đều thôi,
Lạy Phật, lạy giời phù hộ nghĩa quân.

NGUYỄN THIỆN THUẬT

   Nguyễn Thiện Thuật tên thật là Nguyễn Thuật, ông thi Hương đậu tú tài năm Canh Ngọ (1870). Thấy ông là người thông minh, lanh lợi, quan tỉnh Hải Dương đưa về giúp việc quân. Do có công dẹp giặc Tiên Viên, tay sai của Francis Garnier, Nguyễn Thuật được triều đình thưởng Quân công bội tinh và được cử làm Bang biện phủ Kinh Môn.

   Nguyễn Thuật vừa làm việc quan vừa tự học. Khoa thi Bính Tý (1876), ông thi Hương ở Nam Định đỗ thủ khoa. Năm 1877, ông được bổ làm tri phủ Từ Sơn. Vì có người cùng thời làm quan cũng tên là Nguyễn Thuật, ông làm sớ xin nhà vua cho đệm chữ Thiện, nhà vua ưng thuận, các anh em ông cũng đệm chữ Thiện. Tháng 6 năm Kỷ Mão (8/1 879), Nguyễn Thiện Thuật được thăng Tán tương quân thứ, hai năm sau ông được thăng Sơn phòng chánh sứ, kiêm Tán tương quân thứ Sơn Tây. Ông cùng Thống đốc Hoàng Tá Viêm thu phục mười sáu châu từ Bắc Giang đến Sơn La, bình định Ba Bể, lập nhiều công to.

   Ngày 10 tháng 7 năm Quý Mùi (9/8/1883) đại uý Briolval hạ thành Hải Dương. Triều đình cử ông về làm Tổng đốc Hải - Yên (Hải Dương-Quảng Yên, bao gồm cả Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh ngày nay), đồng thời làm Phó nguyên suý Đạo binh Đông bắc dưới quyền Thống đốc Hoàng Tá Viêm. Ông thành lập đạo quân gồm người Nam và người Khách ở huyện Đông Triều định thu phục Ninh Hải (Hải Phòng), nhưng việc không thành. Ngày 20/8/1883, Triều đình ký với Pháp Hiệp ước Harmand ra lệnh cho các quân thứ Bắc Kỳ: “Phải lập tức triệt binh dũng lui để tỏ điều tin đối với nước Đại Pháp”, đòi “quan lại đang đánh Pháp ở Bắc Kỳ về Kinh đợi chỉ”.

   Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ bỏ chức Tổng đốc Hải - Yên về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn Thiện Thuật, nhiều bậc chí sĩ, quan lại, tổng lý, nông dân, dân nghèo, binh sĩ yêu nước đã nhiệt liệt tham gia và nổi dậy ở nhiều nơi. Ông thành lập đội quân lấy Đông Triều làm căn cứ. Hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật làm cho quân Pháp chịu nhiều tổn thất nặng nề.

   Nguyễn Thiện Thuật cũng quan hệ chặt chẽ với Đinh Gia Quế thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, ông về căn cứ Thọ Bình dự lễ tế Cờ khởi nghĩa của Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế.

   Chiều ngày 12/11/1883, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Lãnh Giang ở lại giữ Đông Triều còn ông cùng Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh dẫn quân về đánh thành Hải Dương. Tám giờ tối, nghĩa quân bí mật bao vây, sắp tới giờ nổ súng thì cánh quân bên ngoài do Hai Kế chỉ huy chạm trán với toán quân Pháp đi tuần về nên buộc lòng phải nổ súng.

   Mặc dù mất yếu tố bất ngờ, Nguyễn Thiện Thuật vẫn quyết tâm đánh thành. Trước sức tấn công mãnh liệt của nghĩa quân, thành Hải Dương lâm vào thế nguy ngập, trời gần sáng, thành sắp bị hạ thì ông Thuật hạ lệnh ngừng công phá thành, bắn thưa thớt rồi lui quân. Ông Thuật vừa rút khỏi thành phố thì quân Pháp ở Bắc Ninh tới tiếp viện, nhưng quân ông Thuật đi đã xa.

   Sau trận hạ thành Hải Dương không thành, Nguyễn Thiện Thuật phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác và quân triều đình do phe chủ chiến chỉ huy hoạt động ở vùng sông Thái Bình, sông Kinh Thày, Phả Lại, Lục Đầu Giang, các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Hoá, Phủ Lạng Thương, Tuyên Quang.

   Ngày 26/10/1884 , Nguyễn Thiện Thuật cùng Lã Xuân Oai Tuần phủ Cao Bằng - Lạng Sơn, Đề đốc Tạ Hiện, Ngự sử Phạm Huy Quang cùng mười tám thân hào tỉnh Hải Dương phối hợp với quân Thanh do các tướng Đường Cảnh Tùng, Hoàng Quế Lan chỉ huy phục kích quân Pháp ở cầu Quan Âm (Bắc Lệ, Lạng Sơn) giết chết 21 tên Pháp.

   Ngày 28/3/1885, nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật tham gia chặn đánh quân Pháp khi chúng đánh thành Lạng Sơn. Quân Pháp đại bại bị chết trên 100 tên, tướng Negrier bị thương nặng ở ngực tại Kỳ Lừa, quân Pháp phải rút chạy về Chũ.

   Cuối tháng 3/1885 Pháp và nhà Thanh ký "Hiệp ước Hòa bình" buộc Lưu Vĩnh Phúc đem quân về nước, Nguyễn Thiện Thuật và các cánh quân khác yếu thế phải rút vào rừng. Bị quân Pháp truy lùng gắt gao, ông phải tạm lánh sang Long Châu (Trung Quốc).

   Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật nhận được tin vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị hạ chiếu Cần vương, liền về căn cứ Tiên Động (thuộc thượng huyện Cẩm Khê, nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) gặp Lễ bộ thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần Nguyễn Quang Bích nhận chiếu Cần vương. Nguyễn Quang Bích tâu với vua Hàm Nghi phong ông là Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung tướng quân trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.

   Tháng 9/1885, Nguyễn Thiện Thuật tổ chức lễ Tế cờ khởi nghĩa và hội nghị tướng sĩ ở Văn chỉ xã Bình Dân, tổng Bình Dân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu. Sau lễ tế cờ Nguyễn Thiện Thuật đã cho quân vượt sông Hồng đánh sang các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hoà.

   Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 9/1885 , quân Bãi Sậy tấn công thành Hải Dương, bọn chỉ huy Pháp ở Hải Dương phải đưa quân ra ngoài thành chặn đường nghĩa quân.

   Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho các tướng bí mật đồng loạt tấn công vào các đồn bốt địch, chặn đường hành quân của chúng, mặt khác tăng cường phòng thủ căn cứ Bãi Sậy nhiều vòng. Nguyễn Thiện Thuật còn phái các đội vũ trang tuyên truyền đi dán các bản Tuyên cáo ở khắp các thôn xóm, kêu gọi lính An Nam đào ngũ, bắn vào đầu bọn chỉ huy Pháp, bọn quan chức Việt Nam theo Pháp lập công trở về với hàng ngũ kháng chiến.    Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Thuật và bộ tham mưu nghĩa quân vẫn đánh thắng nhiều trận lẫy lừng như các trận do Đốc Tít, Lưu Kỳ, Hai Kế, Lãnh Giang, Đội Văn, Đốc Cọp, Đốc Sung chỉ huy.

   Tháng 10/1890, Nguyễn Thiện Thuật thấy tình thế nhiều khó khăn, ông trao binh quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế rồi sang Trung Quốc mưu tính một cuộc vận động mới. Song tình thế đã khác trước, việc không thành, ông đành ở lại nhà tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc.

   Nguyễn Thiện Thuật mất ngày 26/5/1926 (15 tháng 4 âm lịch). Mộ táng tại núi Vạn Hoa Cương, thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

   Được sự ủy nhiệm của ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Hưng Yên cùng dòng họ ngày 30/1/2005 đã đưa hài cốt của ông về táng ở khu tưởng niệm Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật tại quê nhà xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.

NGUYỄN THIỆN KẾ

   Nguyễn Thiện Kế là em thứ hai Nguyễn Thiện Thuật, quê làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam, tỉnh Hải Dương nay là thôn Xuân Dục, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Thiện Kế sinh ngày 28 tháng 6 năm Kỷ Dậu (1849) tự là Trung Khả, hiệu là Đường Dân tiên sinh.

   Nguyễn Thiện Kế theo anh làm việc quân từ năm Bính Tý (1876). Khi Nguyễn Thiện Thuật được thăng Hưng Hoá Sơn phòng chánh sứ kiêm Tán tương quân thứ Sơn Tây. Nguyễn Thiện Kế trực tiếp phụ trách Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên, Tây bắc Hải Dương. Với tài thao lược của mình, ông lập được nhiều chiến công, có uy tín rất lớn với các tướng lĩnh, nghĩa quân và nhân dân.

   Khoảng cuối năm 1885, đầu năm 1886, vua Hàm Nghi phong ông chức Hồng lô Tự khanh, sung Bắc Kỳ tán lý quân vụ, ông dâng sớ cố từ, nhận lấy chữ Đường Dân làm hiệu.

   Khi Tổng Khấu ở xã Ngọc Cục làm phản nghĩa quân, Nguyễn Thiện Kế lệnh cho Đốc Khuy giết chết. Tháng 1/1890, căn cứ Bãi Sậy bị bao vây, Nguyễn Thiện Kế, Đề Ban, Đốc Sung tấn công đồn Kẻ Sặt. Ngày 21/2/1890 Nguyễn Thiện Kế ở lại cùng Đốc Sung, Lãnh Mỹ tấn công đồn điền Iakmon (Hải Dương).

   Từ tháng 10/1890, Nguyễn Thiện Thuật sang Trung Quốc, giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế. Ông cùng các tướng vẫn lấy Bãi Sậy làm căn cứ chính nhưng hoạt động quân sự chủ yếu ở các huyện Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành, Quế Võ, Lang Tài (Nam Bắc Ninh), Cẩm Giàng, Thanh Miện, Bình Giang (Bắc Hải Dương), Ân Thi, Mỹ Hào (Hưng Yên).

   Để dễ vận động, Nguyễn Thiện Kế chia quân thành các toán nhỏ 20- 25 người hoạt động lưu động từ làng này qua làng khác. Chính các toán quân nhỏ này đã liên tục tập kích vào các đồn địch ở Khoái Châu, Hà Tiên (một thôn ở huyện Ân Thi giáp ranh với huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương, Phú Trạch (tổng Mễ Sở, Khoái Châu) gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.

   Sang năm 1891, giặc Pháp tập trung quân điên cuồng khủng bố phong trào Bãi Sậy, nhưng nghĩa quân do Nguyễn Thiện Kế lãnh đạo vẫn hoạt động mạnh mẽ.

   Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế, nghĩa quân Lưu Kỳ, Tiền Đức đã tấn công các lầu thuyền của quân Pháp trên sông Thái Bình và sông Văn Úc, Lãnh Quý cũng trở lại chiến trường cũ là Thanh Hà, Tứ Kỳ, Kim Thành tổ chức lại đội ngũ liên tục đánh quân Pháp. Tại huyện Thanh Lâm (nay là huyện Nam Sách- Hải Dương) lại xuất hiện các đạo quân khác liên tục sẵn sàng chiến đấu.

   Để đối phó với nghĩa quân do Nguyễn Thiện Kế chỉ huy, Toà sứ Hải Dương thành lập đạo quân này gọi là "lính cơ". Lại cho quan phủ, huyện được tuyển lính, trang bị vũ khí sẵn sàng đánh phá nghĩa quân, đàn áp các làng ủng hộ nghĩa quân. Quân Pháp tập trung lực lượng quân sự mạnh đàn áp dữ dội hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, nhưng phong trào chỉ tạm thời lắng xuống. Hai Kế, Đề Ban, Đề Vinh vẫn duy trì phục hồi phong trào, phát triển lực lượng nghĩa quân ở một số vùng, bẻ gẫy nhiều cuộc càn quét của chúng.

   Ngày 24/3/1891, Nguyễn Thiện Kế đã đánh nhau quyết liệt với thanh tra Lamber với sự hỗ trợ của các đồn Mỹ Hào, Đỗ Mỹ, Phong Cốc, nghĩa quân đi trên một cái thuyền.

   Đầu tháng 7/1891, Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh, Đốc Mỹ, Đề Quý kéo đi rất đông tấn công các đồn binh Pháp.

   Đầu tháng 7/1891, Nguyễn Thiện Kế phái Ba Giang phối hợp với Đề Hiệu, tướng cũ của Tạ Hiện và Đốc Nhưỡng, Đề Gạo mặc quần áo lính khố xanh tiến đánh tỉnh lị Thái Bình. Nghĩa quân đóng quân ở đình Thần Khê (huyện Duyên Hà) thì bị Việt gian báo cho quân Pháp chặn đánh. Đốc Nhưỡng, Đề Gạo bị thương, Đốc Nhưỡng rút quân lên Sơn Tây thì bị quân Pháp bắt xử tử, Ba Giang trở lại Hưng Yên hoạt động.

   Đầu năm 1892, nhiều tướng như Đốc Cọp, Đề Tính, Đốc Sung, Lãnh Điển hy sinh, Lưu Kỳ bị đánh bật ra khỏi Đông Triều, Lục Ngạn, Nguyễn Thiện Kế và các tướng phải luôn luôn di chuyển từ làng này qua làng khác, tỉnh Hưng Yên đến Bắc Ninh, sang Hải Dương rất vất vả. Lực lượng và vũ khí ngày càng hao hụt, có những trận nghĩa quân phải rút lui.

   Tuy bị địch truy bức liên tục nhưng chỉ trong tuần lễ đầu tháng 4/1892, nghĩa quân của Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh đã hạ liền 5 đồn lính Khố xanh và uy hiếp nhiều đồn binh khác. Hoàng Cao Khải và thanh tra Blanchart được tin báo vô cùng hốt hoảng vội vàng điều 600 dân binh, 800 lính lệ đi chặn đánh nghĩa quân.

   Sang năm 1892, Nguyễn Thiện Kế gặp nhiều khó khăn buộc lòng phải giải tán nghĩa quân, Nguyễn Thiện Kế phải cải trang trốn tránh. Từ đó Nguyễn Thiện Kế cải trang làm người bán thuốc bôn tẩu khắp nơi, thường qua lại Trung Quốc thăm anh, đưa đường cho nhiều người trong nước xuất dương Đông du.

   Ngày 14/3/1913 và ngày 26/4/1913 xảy ra hai vụ ném lựu đạn giết chết tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn và làm bị thương một số sĩ quan Pháp khác ở Hà Nội. Hội đồng Đề hình họp ngày 5/9/1913 nghi ông tham gia vào vụ này và đã kết án chung thân vắng mặt. Năm 1914, khi ông đã ở tuổi 65, nhà cầm quyền Pháp bắt được ông ở chợ Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông tự tử nhưng có người cứu nên không chết, Pháp đầy ông đi Côn Đảo, khi ông ngoài 70 tuổi chúng mới đưa ông về an trí ở quê nhà. Trước khi đưa ông về quản thúc ở quê nhà, bọn quan cai trị Pháp và Nam triều dụ dỗ ông ra làm quan với chúng song ông không chịu. Khi ở Côn Đảo về, nhà cửa bị tàn phá, tài sản bị cướp hết, ông lại bị quản thúc, cứ bảy ngày phải lên đồn Bần Yên Nhân trình diện một lần, ông phải sống trong cảnh bần hàn, nhưng ông vẫn thường nói với con cháu: "Nếu ta còn sức khoẻ ta sẽ tiếp tục đánh Tây đến cùng”.

   Nguyễn Thiện Kế mất ngày 22 tháng 9 năm Đinh Sửu (25/10/1937) hưởng thọ 88 tuổi tại làng Xuân Đào, xã Xuân Dục trong lòng thương tiếc của nhân dân địa phương và những người Việt Nam yêu nước.

NGUYỄN THIỆN DƯƠNG (LÃNH GIANG)

   Lãnh Giang tên thật là Nguyễn Thiện Dương, em thứ tư của Nguyễn Thiện Thuật. Lãnh Giang là người có đức độ, võ nghệ siêu quần. Trong thời gian Nguyễn Thiện Thuật làm Tổng đốc Hải - Yên ông cũng theo giúp việc quân. Khi Nguyễn Thiện Thuật phải lánh sang Long Châu (Trung Quốc), Nguyễn Thiện Dương ở lại trong nước cùng Nguyễn Thiện Kế hô hào nhân dân các phủ, huyện ở tỉnh Hải Dương bất cộng tác với Pháp, lên án bọn vua quan Tự Đức đầu hàng giặc.

   Tháng 9-1885, Lãnh Giang đã có mặt trong lễ Tế cờ khởi nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân, ông được phong chức Lãnh binh và được Nguyễn Thiện Thuật giao cho phụ trách vùng Đáp Cầu thị xã Bắc Ninh, phía thượng lưu, hạ lưu sông Cầu và vùng phụ cận. Ngoài nhiệm vụ xây dựng lực lượng và tổ chức tác chiến, ông còn lãnh trách nhiệm bảo vệ con đường bí mật chuyên chở vũ khí từ vùng biên giới Đông Bắc do Lưu Kỳ mua và vận chuyển về căn cứ Đáp Cầu. Trong năm 1887 Lãnh Giang hoạt động mạnh mẽ ở vùng Bắc và Tây Hải Dương, Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên gây cho quân Pháp nhiều tổn thất, quân lính hoang mang không dám càn quét. Pháp phải thú nhận như sau: "Năm 1887 trong thời gian chờ đợi công cuộc bình định chỉ được tiến những bước yếu ớt. Từ tháng giêng năm 1887 Lãnh Giang lại trở về trong tỉnh và liên kết với Khoát, Ba Báo, Văn, Quý. Kết quả của việc này chẳng bao lâu đã thấy rõ. Vụ nọ tiếp vụ kia, ba tầu buôn nhỏ bị tấn công trên sông Luộc. Một tầu bị bỏ lại và bị cướp. Trong những cuộc truy lùng địch, các đội lính Khố đỏ và Khố xanh của chúng ta luôn luôn xung đột với các đám giặc đương đầu với họ, có một bốt suýt nữa bị họ chiếm”. (Trận này Piglowski viết trong "Lịch sử lính Khố xanh An Nam ở Bắc Kỳ” như sau: Nhiều tên cướp đã vãi đạn vào chiếc tầu. Một thuỷ thủ bị giết chết. Chiếc xà lúc Antoinette chở thư đường sông Hà Nội - Hải Phòng đã bắt gặp chiếc Madalay sau khi Madalay bị tấn công. Chiếc xà lúc Antoinette đã được đồn binh đó yểm hộ và cập bến Hải Phòng vô sự (29-6).

   Pháp và Hoàng Cao Khải nhiều lần đem quân đánh Lãnh Giang, nhưng không có kết quả mà còn bị tiêu hao lực lượng, vì thế năm 1887 quân Pháp tăng cường lính Khố xanh, riêng ở Hải Dương đưa lên 800 tên đóng ở các đồn bốt và hợp thành "đội Bảo an dân sự bản xứ" rải ra các bốt cố định và bốt lưu động, Công sứ Hải Dương còn rút lính chính qui ở các đồn về lập các đội quân, khủng bố các làng ủng hộ nghĩa quân, giúp quan huyện thu thuế. Để chống lại lực lượng quân sự mới của quân Pháp, Nguyễn Thiện Thuật, Lãnh Giang kết hợp với các toán khác hợp thành sức mạnh diệt nhiều đồn bốt Pháp.

   Về tài thao lược của Lãnh Giang, kẻ thù cũng phải thừa nhận: "Tán Thuật có hai tướng giúp việc là anh em của ông ta là Lãnh Giang và Hai Kế. Hai người này thực sự là những chỉ huy có tài đã khiến cho cuộc nổi dậy này phải khó khăn và lâu dài  mới đàn áp nổi".

   Lãnh Giang chỉ huy quân sỹ nhiều lần đánh bật quân Pháp ra xa ngôi chùa, nhưng bọn chúng đông, nhiều súng đạn vẫn không ngừng tấn công, không may Lãnh Giang bị trúng đạn hy sinh. Nghĩa quân mở đường máu đưa xác ông vào trong làng, được nhân dân giấu trong đống rơm quân Pháp không tìm ra. Khi quân Pháp rút, nghĩa quân đưa xác ông về Bãi Sậy.

ĐINH GIA QUẾ

   Ngày 28/3/1883, quân Pháp chiếm thành Hưng Yên không mất một viên đạn. Đinh Gia Quế đang giữ chức Chánh tuần huyện Đông Yên phẫn nộ bỏ quan về quê ở xã Thọ Bình nay thuộc xã Tân Dân, huyện Khoái Châu chiêu mộ quân đánh Pháp. Để có danh nghĩa, ông tự xưng là Đổng quân vụ, gương cao cờ "Nam đạo Cần vương, Bình Tây phạt tội”.

   Cờ khởi nghĩa phất lên, nhân dân trong vùng mến mộ ông từ khi ông ngồi dạy học, rồi làm chánh tổng, chánh tuần huyện, luôn luôn đứng về phía dân nghèo, bảo vệ quyền lợi cho họ nên theo về rất đông. Đinh Gia Quế lấy Bãi Sậy làm căn cứ. Giặc Pháp phải thú nhận: “Tất cả những người nông dân ở Bãi Sậy đều theo Đinh Gia Quế chống người Pháp”. Đinh Gia Quế xây dựng ở ấp Thọ Bình một tòa thành bằng gạch rộng năm mẫu, bên dưới là địa đạo thông tới đền Dạ Trạch, ra sông Hồng và bãi sậy xung quanh. Ông không tập trung quân ở các thành lũy như một số cuộc khởi nghĩa khác mà bố trí quân ở xã nào về xã đó, với phương châm: "Bất biến vi dân, biến vi binh".

   Ngày 6/3 năm Quý Mùi( 8/4/1883) Đinh Gia Quế làm lễ tế cờ khởi nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân. Rất đông các tướng lĩnh ở khắp mọi nơi kéo về tụ họp dưới lá cờ khởi nghĩa mà ông dựng nên, Đinh Gia Quế cùng nghĩa quân đánh nhiều trận lớn ở Hưng Yên, Hải Dương, Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên. Bộ tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Trung Bắc kỳ thành lập một binh đoàn mạnh từ Hải Phòng lên để đánh bật quân của Đinh Gia Quế ra sông Hồng cho tàu chiến tiêu diệt. Song âm mưu của chúng không khuất phục được nghĩa quân, chúng đã bị đánh bật ra khỏi căn cứ Bãi Sậy.

   Trước thất bại đó, quân Pháp giao cho Hoàng Cao Khải, Án sát Hưng Yên đem quân đánh song chúng lại bị thất bại. Từ năm 1884 và 7 tháng đầu năm 1885, thế lực của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, đã đánh thắng quân Pháp nhiều trận lừng lẫy.

   Song giặc Pháp vẫn quyết tâm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa, chúng liên tiếp đưa quân đàn áp, Đinh Gia Quế, Lãnh Sậy đem quân vượt sông Hồng đuổi theo quân giặc đến tận làng Thanh Trì( gần cảng Phà Đen). Khi quay trở về đến bến đò Vạn Phúc thì bị quân Pháp phục kích. Lãnh Sậy hy sinh, Đinh Gia Quế phải chạy lên Thuận Thành, Bắc Ninh. Khoảng hơn một tháng sau, ông trở về khi đó ông đã 60 tuổi, sức yếu, bị ốm nặng, phải nằm dưỡng bệnh ở ấp Dương Trạch, giao binh quyền cho Chánh đề đốc Nguyễn Đình Tính chỉ huy.

   Đinh Gia Quế mất ngày 21/11 năm Ất Dậu (khoảng cuối tháng 12 năm 1885).

NGÔ QUANG HUY

   Ngô Quang Huy biệt hiệu là Quang Hiên, sinh năm 1835 ở xã An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn An Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

   Ngô Quang Huy là người thông minh, nổi tiếng hay chữ một vùng, đương thời có câu: “Thần Siêu, Thánh Quát, trẻ Quang Huy”. Năm 17 tuổi ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) tại trường thi Hà Nội, được bổ làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh.

   Năm 1883 Triều đình Huế kí Hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh. Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về huyện Đông Triều chiêu mộ quân đánh Pháp. Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, đỗ cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội đang làm Huấn đạo huyện Mỹ Đức đều bỏ quan chiêu mộ được hơn 100 quân đến Đông Triều gia nhập đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật.

   Ngô Quang Huy là nhà nho từng làm đốc học, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ông đã thành lập một đội tuyên truyền gồm các nho sinh hô hào đồng bào gia nhập nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Nghĩa quân do các ông chỉ huy hoạt động mạnh ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Thanh Hà, Cẩm Giàng, Mỹ Hào và vùng chung quanh lỉnh lị Hải Dương.

   Chiều 12/11/1883 nghĩa quân do Nguyễn Thiện Thuật, Hai Kế, Đề Vinh chỉ huy xuất phát từ Đông Triều về hạ thành Hải Dương. Đánh nhau đến gần sáng ngày 13 tháng 11, nghĩa quân không hạ được thành phải rút. Ngô Quang Huy trở về An Lạc cùng Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Tạ Hiện thành lập Tam tỉnh nghĩa quân còn gọi là “Đại nghĩa đoàn". Nghĩa quân có 5.000 người, xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền (Yên Dũng, Bắc Giang) và các căn cứ ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung Đồng. Sau vài tháng bị quân Pháp liên tục tấn công, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn, bị quân Pháp truy kích nghĩa quân tan rã, Ngô Quang Huy trở về An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang chờ thời, bí mật liên kết với các nghĩa sĩ.

   Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật được vua Hàm Nghi phong là Lễ bộ thượng thư, sung Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, tước Thuần trung hầu. Nguyễn Thiện Thuật trở về vùng giáp ranh ba tỉnh Hải Dương - Hưng Yên - Bắc Ninh cho người mời cử nhân Ngô Quang Huy và Nguyễn Hữu Đức tới bàn bạc. Nhận được tin, Ngô Quang Huy lập tức đến gặp Nguyễn Thiện Thuật. Ba ông đã nhất trí phải khôi phục phong trào Bãi Sậy và mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân sang Bắc Ninh, Hải Dương và các tỉnh khác. Nguyễn Thiện Thuật giao cho Ngô Quang Huy phụ trách miền Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương.

   Sau đó không lâu, Ngô Quang Huy nhận được sắc phong của vua Hàm Nghi phong cho ông là "Hồng lô Tự khanh, Tán lý quân vụ”. Nghĩa quân và nhân dân coi Ngô Quang Huy là nhân vật số hai của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, nên thường gọi ông là “ông Tán Bắc", "ông Tán Thái Lạc”...

   Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, Tuần Văn người xã Xuân Quan, huyện Văn Giang đã dấy binh từ năm 1883 theo Đổng Quế, Đốc Sung, trợ thủ của Tuần Vân, Đội Văn (Vương Văn Vang) vốn là tướng giỏi của Tam tỉnh nghĩa quân năm 1884, cả hai ông đều được Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Đề đốc, phát triển lực lượng ra vùng chung quanh.

   Ngô Quang Huy thành lập một đội quân tuyên truyền tố cáo tội ác của giặc Pháp và quan lại Nam triều, họp các kỳ hào và dân chúng, tuyên đọc Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Ông còn cho đắp đê, trồng tre dọc sông Nghĩa Trụ kéo dài từ xã Ngọc Kinh, qua Tuấn Dị, Vĩnh Bảo đến các xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số, một con đê khác từ Nghĩa Trai đến Cầu Ghênh (Nhạc Miếu) dài 4 cây số làm tuyến phòng thủ. Ông cho đắp nhiều gò đống, đắp nhiều bờ ruộng cao, khơi sâu kênh mương ở dọc đường 5 để quân sĩ ẩn núp phục kích quân Pháp.

   Nghĩa quân do Ngô Quang Huy chỉ huy đánh nhiều trận như trận tấn công đồn Bần Yên Nhân, nhiều trận phục kích quân Pháp ở đồn Ghênh, đồn Bần Yên Nhân, đồn Đống Mối (Nghĩa Lộ tổng Đại Từ, Văn Lâm). Các trận càn của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải vào An Lạc, Đình Dù, Đại Từ, Nghĩa Trai, Đông Khúc, Khúc Lộng... đều bị nghĩa quân đánh bật ra bảo vệ được căn cứ.

   Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy còn được vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích giao cho việc tổ chức lực lượng kháng chiến ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ông thường thảo thư từ liên lạc với các quan lại trong phe chủ chiến và sớ gửi vua Hàm Nghi.

   Mặc dù đã nhiều cố gắng, song bị quân Pháp liên tục bao vây, truy kích Ngô Quang Huy đành phải giải tán nghĩa quân rồi cùng em là Ngô Quang Chước cùng mươi nghĩa quân thân tín chạy lên Phủ Lạng Thương (tỉnh Bắc Giang ngày nay), quân Pháp vẫn đuổi sát phía sau, để giữ trọn danh tiết không sa vào tay giặc, ngày 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng 1/5/1889), Ngô Quang Huy đã tự tử. Ngô Quang Chước cùng mấy nghĩa quân chôn cất, rồi san bằng mặt ruộng cho mất dấu tích. Mươi năm sau, ông Chước quay lại tìm thì không thấy.

NGÔ QUANG CHƯỚC

   Ngô Quang Chước là em trai Tán tương quân vụ Ngô Quang Huy, quê ở xã An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Ông đỗ cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội. Ông được bổ làm Huấn đạo huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông.

   Năm 1883 khi triều đình Huế ký Hoà ước với quân Pháp, tổng đốc Hải - Yên Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Noi gương anh trai, ông cũng bỏ quan, cùng anh chiêu mộ được hơn 100 quân về Đông Triều gia nhập đội quân đánh Pháp của Nguyễn Thiện Thuật. Ngô Quang Chước cùng với anh trai và Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè... thành lập “Tam tỉnh nghĩa quân". Đội quân này có tới trên 5000 người, có nhiều tướng giỏi như Đội Văn, Lãnh Mỹ đã đánh thắng quân Pháp nhiều trận ở các huyện Lang Tài, Quế Võ, Tiên Du, Yên Phong (Bắc Ninh), Phượng Nhỡn (Bắc Giang). Nhưng sau quân Pháp tập trung quân đánh, nghĩa quân tan rã. Ông cùng với anh trở về quê chờ cơ hội đánh Pháp.

   Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu (Trung Quốc) trở về lãnh đạo phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật mời Ngô Quang Huy, Nguyễn Hữu Đức bàn việc phát triển cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy trở thành một phong trào rộng lớn. Nguyễn Thiện Thuật giao cho Ngô Quang Huy phụ trách phong trào đánh Pháp ở Nam Bắc Ninh, Bắc Hải Dương, Bắc Hưng Yên. Ngô Quang Chước đã cùng các ông Lãnh Dâu, Lãnh Dong ở xã An Lộc, Điển Lộc ở xã Nghĩa Trai, Hiệp Hanh ở xã Đại Từ, Lãnh Mỹ ở xã Xuân Cầu, Tổng Nghĩa ở Ngọc Quỳnh đắp đê, trồng tre gai dọc sông Nghĩa Trụ từ Ngọc Kinh qua xã Tuấn Dỵ, Vĩnh Bảo, đến các xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số làm phòng tuyến chống Pháp, giao cho các tướng lập đồn binh phòng thủ. Ông còn cho đắp nhiều gò, đống, đào nhiều mương máng ở hai bên đường số 5 từ Như Quỳnh đến Bần Yên Nhân làm trận địa phục kích. Ngô Quang Chước cùng các tướng xây dựng các làng chiến đấu như Đại Từ (Văn Lâm), Đông Khúc, Khúc Lộng, Xuân Quan (Văn Giang). Ông cũng tham gia nhiều trận đánh ở các đồn Bần Yên Nhân, Đống Mối, Cầu Ghênh, Phú Thị...

   Ngày 12 tháng 11 năm 1888, ông cùng anh trai là Ngô Quang Huy đưa hơn 200 quân về tham gia trận phục kích lớn ở cánh đồng Liêu Trung. Trận này nghĩa quân đại thắng.

   Tháng 3 năm 1889, quân Pháp do Giám binh Blan chard, Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải đưa đoàn bình định, quân các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên có pháo binh yểm trợ bao vây tấn công ráo riết vào các căn cứ của hai ông ở Nam Bắc Ninh. Dưới sự chỉ huy của anh trai, ông cùng các tướng như Đội Văn, Đốc Sung, Lãnh Mỹ chiến đấu quyết liệt. Song quân Pháp được tăng viện, kéo thêm đại bác, bắn phá các làng chiến đấu, giết hại nhiều nghĩa quân và nhân dân, đốt trụi hàng chục làng. Cùng đường Ngô Quang Chước cùng mười nghĩa quân thân tín hộ vệ anh trai chạy lên Phủ Lạng Thương. Bị vây hãm, biết không còn đường thoát, Ngô Quang Huy tự tử để bảo toàn danh tiết. Hôm đó là ngày mùng 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng ngày 1 tháng 5 năm 1889). Ngô Quang Chước cùng nghĩa quân chôn cất anh, san bằng, đánh dấu rồi cùng mấy nghĩa quân lên mạn ngược ẩn náu. Không bắt được Ngô Quang Huy, Ngô Quang Chước, quân Pháp kéo quân về tàn phá làng An Lạc.

Mãi đến năm 1905, Ngô Quang Chước và một số con cháu mới trở về An Lạc, xây dựng lại nhà cửa trên đống tro tàn, gạch vụn. Ngô Quang Chước mở trường dạy học, học trò đến học rất đông, nhiều người đỗ đạt cao. Khi Ngô Quang Chước mất, con cháu và môn sinh quàn để tế lễ rồi mới đem chôn. Ngô Quang Chước cùng anh trai được thờ ở nhà thờ họ Ngô Quang ở làng An Lạc, nhà thờ chữa lại năm 1934 đến nay vẫn còn.

LÊ VĂN HANH

   Lê Văn Hanh quê ở xã Đại Từ, tổng Đại Từ huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh nay là thôn Đại Từ, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. Ông tham gia khởi nghĩa, được Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Hiệp quản nên gọi là Hiệp Hanh. Ông là người chỉ huy làng chiến đấu Đại Từ, nhưng nghĩa quân ở Đại Từ mạnh nên Ngô Quang Huy và Nguyễn Thiện Kế thường điều động quân của ông đi đánh quân Pháp ở nhiều nơi trong tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hưng Yên.

   Hiệp Hanh cùng Tuần Tịnh quê ở xã Đông Mai cũng thuộc tổng Đại Từ chỉ huy nghĩa quân làng Đông Mai và mấy làng lân cận. Hai người thân thiết với nhau đã cùng nhau chiến đấu thắng nhiều trận lớn ở Thuận Thành, Văn Giang, Cầu Đuống, Từ Sơn. Sau Tuần Tịnh liên lạc với Pháp làm phản, có người mật báo cho Ngô Quang Huy biết. Ngô Quang Huy sai Hiệp Hanh bắt Tuần Tịnh về hỏi tội đầu hàng giặc, phản lại nghĩa quân. Mặc dù là bạn, nhưng việc quân là quan trọng, nên ông vẫn chấp hành. Tuần Tịnh biết việc mình định ra hàng Pháp đã bị bại lộ song ông là người nghĩa khí, dám chịu trách nhiệm trước việc mình làm nên hẹn với Hiệp Hanh: "Ông chờ tôi ở đầu làng, đúng giờ Ngọ tế thành hoàng xong, tôi sẽ theo ông về đầu thú”. Hiệp Hanh tin lời Tuần Tịnh nên ra đầu làng chờ. Đúng giờ Ngọ, tế Thành hoàng xong, cơm no, rượu say, Tuần Tịnh đi ra đầu làng nơi Hiệp Hanh đang chờ đợi. Khi đó con trai Tuần Tịnh là Lê Văn Vắn mới 16 tuổi nhưng nhanh nhẹn biết võ nghệ, đã từng theo cha ra trận can ngăn cha không nên ra nộp mình cho Hiệp Hanh, rút gươm ra đòi giết Hiệp Hanh. Tuần Tịnh là người trọng nghĩa khí nên trừng mắt nhìn mắng con: “Đây là chuyện người lớn, không phải chuyện trẻ con”, rồi thanh thản đi ra đầu làng. Tới nơi không chờ Hiệp Hanh nhắc, Tuần Tịnh tự mình chui vào cũi. Hôm đó Tuần Tịnh uống rất nhiều rượu ở đình, trời lại nắng gắt nên gần đến đại bản doanh của ông Tán Bắc thì Tuần Tịnh bị cảm, Hiệp Hanh sai quân đưa Tuần Tịnh ra khỏi cũi, mời lương y đến cứu chữa nhưng không kịp, Tuần Tịnh qua đời.

   Từ tháng 3/1889 quân Pháp cùng tổng đốc Hoàng Cao Khải liên tiếp mở các cuộc tấn công lớn vào vùng Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương. Do các hoạt động quân sự ráo riết đó của quân Pháp cánh quân do Ngô Quang Huy chỉ huy bị tan rã. Lãnh Vắn thấy thời cơ trả thù đã đến, liền "thương thuyết với Bố chính Bắc Ninh đóng ở đồn Đống Mối và gửi dấu ấn đến làm chứng tấm lòng thành thật ra hàng”.

   Tháng 5/1889, Lãnh Vắn khi đó mới 21 tuổi, hắn cho tay chân đem cáng, tàn lọng về xã Đại Từ đón bố của Hiệp Hanh là ông Phó tổng đến khánh thành chợ Dọi. Đến chợ hắn vung dao chặt đầu ông Phó tổng, treo đầu ở gốc cây đa Dọi, còn xác thì cho người nhà đi theo đem về.

   Hiệp Hanh khi đó đang chiến đấu ở huyện Ân Thi được tin báo liền cấp tốc về. Khi Hiệp Hanh về đến nơi thì Lãnh Vắn đã đầu hàng Pháp. Pháp cho lính đến đóng ở Cầu Bà Sinh, ông không lấy được đầu bố mình. Hiệp Hanh tức giận đem quân đến đốt phá làng Đông Mai. Được tin, Lãnh Vắn lúc này được Pháp tin cậy cho làm đồn trưởng đồn Đống Mối đưa quân đến đánh phá làng Đại Từ. Nhưng làng có luỹ tre, luỹ đất, hào sâu bao bọc, nghĩa quân và dân kiên quyết chiến đấu bảo vệ làng, Lãnh Vắn được công sứ Bắc Ninh tăng viện cũng không vào được làng Đại Từ, đành phải rút.

   Ông Hiệp Hanh không lấy được đầu bố, không giết được Lãnh Vắn, uất quá hóa điên, nhịn ăn mà chết.

PHẠM VĂN ĐỨC

   Tiền quân Phạm Văn Đức sinh khoảng năm Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846), quê ởỞ làng Thượng Cốc, tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Do cuộc sống ở Thượng Cốc gặp khó khăn ông phải lưu lạc ra đảo Cát Bà sống bằng nghề chài lưới. Vùng hải đảo thường có nhiều hải tặc quấy nhiễu, ông tập hợp những người biết võ nghệ có máu giang hồ thành một đội vũ trang chống bọn giặc Tàu Ô, cướp biển, hải phỉ. Năm 1873  khi quân Pháp đổ bộ lên đảo Cát Bà, ông hô hào dân đảo đánh trả chúng quyết liệt.

   Ngày 6/6/1874, vua Tự Đức sai Nguyễn Văn Tường ký kết quy ước với Phi lát, trưởng phái đoàn Pháp với nhiều điều khoản có lợi cho Pháp, Pháp rút quân khỏi Hà Nội và một số tỉnh đã chiếm đóng ở Bắc Kỳ, chỉ để lại một số quân đóng ở Hà Nội và Ninh Hải (Hải Phòng). Phạm Văn Đức giải tán nghĩa quân, ông trở về quê ở làng Thượng Cốc, huyện Gia Lộc sinh sống. Ngày 25/4/1882, quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày 12/3/1883 chúng đánh chiếm khu mỏ Hòn Gai, ngày 27/4/1883 chúng đánh chiếm tỉnh thành Nam Định, tháng 8/1883 quân Pháp hạ tỉnh thành Hải Dương.

Căm thù giặc Pháp, Phạm Văn Đức dựng cờ khởi nghĩa, chiêu mộ quân đánh Pháp, xây dựng căn cứ ngay tại làng Thượng Cốc. Lực lượng nghĩa quân của ông rất đông, được trang bị súng bắn nhanh, được huấn luyện thành thạo các thao tác chiến đấu. Tháng 9 năm 1883, triều đình Huế ra lệnh triệt binh, Tạ Hiện trả chức Đề đốc Nam Định lui về phủ Kiến Xương chiêu mộ quân đánh Pháp. Tạ Hiện thành lập năm dinh là Trung quân, Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân. Phạm Văn Đức chỉ huy Tiền quân, nên gọi là Tiền Đức. Khoảng giữa năm 1884, quân Pháp do trung tá Sécvie (Serviere) chỉ huy chia quân làm nhiều hướng tiến đánh căn cứ Thượng Cốc, nhưng Tiền Đức và các tướng đã kịp thời di chuyển quân từ trước chỉ để lại một lực lượng nhỏ cản địch. Tiền Đức chuyển hướng hoạt động về vùng cửa sông ven biển và đảo Cát Bà. Với năng lực và uy tín của mình, ông đã thống nhất các lực lượng vũ trang ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương (bao gồm cả Hải Phòng), Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang) Quảng Yên, Hà Nội (gồm các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên của Hà Đông và tỉnh Hà Nam), Thái Bình (khi đó thuộc Hưng Yên và Nam Định) dưới ngọn cờ Cần vương. Tiền Đức cũng gia nhập cuộc khởi nghĩa này, được thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật dâng sớ lên vua Hàm Nghi phong ông chức "Tiền quân đô thống". Nguyễn Thiện Thuật giao cho Tiền Đức cùng Lãnh Hy, Lãnh Pha, Đề Hồng, Lãnh Hai... hoạt động ở vùng cửa các sông Văn Úc, Thái Bình,vùng đảo Cát Bà, đảo Cái Bàn...

Song từ cuối năm 1891 đến năm 1892, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chịu nhiều tổn thất nặng nề, nhiều tướng lĩnh hy sinh. Tháng 4 năm 1892, sau trận thất bại ở Ngô Phần, Bích Khê, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã. Song Tiền Đức cùng một số tướng lĩnh vẫn duy trì được cuộc kháng chiến ở vùng biển và các đảo trên vịnh Bắc Bộ. Đến khoảng giữa năm 1893, quân Pháp tập trung hải quân bao vây đánh phá ác liệt các đảo Cát Bà, Cái Bầu nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề, Tiền quân Đô thống Phạm Văn Đức liền sang Trung Quốc. Ông đến yết kiến chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật đang ở nhà Lưu Vĩnh Phúc tại Sa Hà. Tiền Đức có mối quan hệ mật thiết với giới quan lại có thế lực ở Quảng Đông, Quảng Tây như Thống lĩnh Trần Thế Hoa. Nguyễn Thiện Thuật thường phái ông đi hộ tống các yếu nhân của Duy tân hội và phong trào Đông du như Phan Bội Châu. Ghi nhớ công lao của Tiền Đức nhân dân ấp Tiền Đức ở Mạo Khê, Đông Triều, nhân dân đảo Cát Bà lập đền thờ ông. Tại thành phố Hải Phòng có một đường phố số 24b ở quận Hồng Bàng được mang tên là phố Tiền Đức từ tháng 11/1996.

CẢ SEN

   Cả Sen tên thật là Vũ Văn Lộc, quê ở xã Nghĩa Trang, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Ngay sau khi thành Hưng Yên bị mất, Đổóng quân vụ Đinh Gia Quế, người xã Thọ Bình, tổng Bình Dân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu kêu gọi nhân dân khởi nghĩa chống Pháp. Ông nói với thân phụ: "Thưa cha, cha dạy con là làm trai phải trung với vua, hiếu với dân. Nay quân Pha lang đã cướp thành Hà Nội, thành Hải Dương, thành Hưng Yên. Chúng thẳng tay giết người, đốt nhà tàn phá biết bao làng xóm. Ông Đổng Quế ở phủ Khoái Châu đã nổi dậy kêu gọi mọi người đánh Pháp. Cha hãy bằng lòng cho con và em Vũ Văn Lương vào Bãi Sậy gia nhập nghĩa quân đánh Pháp”.

   Ngay sau khi gia nhập nghĩa quân, để tránh việc người quen nhận mặt, quan phủ, quan huyện khủng bố gia đình, đốt phá làng xóm, Đốc Sung đã chuyển hai ông vào đội quân cơ động của mình mà địa bàn hoạt động chủ yếu là ở Nam Bắc Ninh.

   Cả Sen và Vũ Văn Lương đã tham gia vào nhiều trận đánh như trận Đốc Sung chặn đánh quân Pháp ở chợ Bốn, đê Cự Khối, nay thuộc huyện Gia Lâm. Năm 1884, khi lữ đoàn Negrier tấn công cứ điểm Bãi Sậy, Đề đốc Nguyễn Văn Sung đã chỉ huy quân đánh tạt sườn chúng, có trận ông đánh vào phía sau chúng, đốt phá kho lương khiến chúng hoảng loạn. Trong trận này Cả sen lập công lớn, được Đề đốc Nguyễn Văn Sung bẩm báo với Đổng quân vụ Đinh Gia Quế phong ông chức Suất đội, nghĩa quân gọi là Đội Sen.

   Tháng 3/1888, Cả Sen chỉ huy 30 nghĩa quân tham gia vào đạo quân lớn tới 500 người do các ông Đề đốc Nguyễn Văn Sung, Đề đốc Mỹ, Quản Dây chỉ huy hoạt động ở vùng sông Cà Lồ khi đó thuộc Bắc Ninh, giáp Thái Nguyên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Quân Pháp và quân của Tiễu phủ sứ Hoàng Cao Khải phải vất vả lắm mới đẩy lùi được cuộc tấn công này.

   Năm 1888, hai ông Cả Sen, Vũ Văn Lương tham gia trận phục kích lớn ở Liêu Trung. Trận này do đích thân Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ Đại thần Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy giết chết 31 lính Pháp, trong đó có tên Giám binh Louis Ney.

   Tháng 3 năm 1889, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Đốc Sung điều quân trở lại Nam Bắc Ninh chi viện cho cánh quân của Tán lý Ngô Quang Huy đang bị quân Pháp bao vây ở Từ Sơn, Yên Phong. Cả Sen, Vũ Văn Lộc có mặt trong đạo quân này. Các ông đã kịch chiến với quân Pháp ở Liễu Khê, Liễu Ngạn, Thuận Thành, Bắc Ninh. Vũ Văn Lương và hơn 10 nghĩa quân hy sinh trong trận này. Khi trận chiến kết thúc, giặc rút, Cả Sen quay lại tìm thi thể của em để chôn cất nhưng nhân dân đã chôn chung một hố 11 người. Ông đem hương đi nhưng không dám thắp sợ bọn mật vụ phát hiện ra đây là mộ các nghĩa quân.

   Đội quân của Đốc Sung đi giải vây lại bị quân Pháp bao vây chia cắt nên không chi viện được cho Ngô Quang Huy. ngày 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng 1/5/1889), Ngô Quang Huy cùng đường phải tự tử. Cả Sen tiếp tục chiến đấu cạnh Đốc Sung. Sau đó ông hy sinh trong trận Đồng Ngư (Bắc Ninh) ngày 21  tháng 2 năm 1890. (Trận này báo Tin tức Hải Phòng số 35 ngày thứ năm ngày 27/2/1890 viết quan Pháp bị chết 1 vệ binh chính, 1 vệ binh bị thương ở vai. "bọn cướp"(chỉ nghĩa quân) bị chết 15 người, bỏ lại 1 súng lục, 1 súng tay).

ĐỐC ĐOÁN

   Đốc Đoán tức Tổng Đoán tên thật là Đinh Văn Đoán người làng Vô Ngại, sau đổi là Cảnh Lâm. Ông là bạn thân tín của Nguyễn Thiện Thuật, tham gia chống Pháp từ năm 1883, khi Nguyễn Thiện Thuật chiêu mộ quân đánh Pháp ở các huyện Đông Triều, Chí Linh. Ông có mặt trong đội quân do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy đánh thành Hải Dương ngày 12/11/1883.

   Sau trận hạ thành Hải Dương không thành ông lại theo Nguyễn Thiện Thuật đánh Pháp ở Phả Lại, và giữ thành Bắc Ninh. Bắc Ninh lọt vào tay quân Pháp, Đốc Đoán theo Nguyễn Thiện Thuật lên giữ thành Hưng Hoá, đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Tuyên Quang. Sau khi Nguyễn Thiện Thuật phải tạm lánh sang Trung Quốc, Đốc Đoán trở về Cảnh Lâm chiêu mộ quân phối hợp chặt chẽ vơi hai ông Lãnh Chủ, Lãnh Điếc, chỉ huy nghĩa quân ở Xuân Trúc, Ân Thi nhưng chỉ cách thôn Vô Ngại một cánh đồng rộng.

   Nghĩa quân của Đốc Đoán đã cùng nghĩa quân Lãnh Chủ, Lãnh Điếc đánh Pháp trên đường 39, đường đê 99 Lực Điền - Cầu Hầu, tập kích quân Pháp đóng ở Lực Điền.

   Ông cũng điều động nghĩa quân và nhân dân đến Thuỷ Trúc khai hoang nuôi quân. Sau khi phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại, số ruộng của nghĩa quân trở thành công điền của làng Cảnh Lâm.

   Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu (Trung Quốc) về nước. Ông được Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích thừa lệnh vua Hàm Nghi cử ông về lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy vì Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế bị ốm nặng. Được tin báo tháng 9/1885, Đốc Đoán về Văn chỉ Bình Dân dự lễ tế cờ. Ông nhận nhiệm vụ phối hợp với Đốc Đồng, Lãnh Mậu, Lãnh Chủ, Lãnh Điếc chống, đánh quân Pháp ở Mỹ Hào và Ân Thi.

   Đốc Đoán chỉ huy nghĩa quân đánh nhiều trận. Ngày 3/3/1889, hôm đó là ngày chủ nhật, Đốc Đoán tham gia đánh quân Pháp đặt đường dây điện thoại từ Lực Điền đi Sặt, tiêu diệt một số tên làm ngừng trệ công việc. Báo Tin tức Hải Phòng số 250 ra ngày thứ năm, 7/3/1889 viết như sau: "Chủ nhật ngày mùng 3 tháng 3 tổ điện báo có nhiệm vụ đặt đường dây nối từ Lực Điền lên Kẻ Sặt bất ngờ bị tấn công trong tỉnh Hưng Yên. Lực lượng tấn công đông chừng 100 tên”.

   Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Tân Việt xuất bản năm 1997  viết: "Vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi đô hộ nước ta thì cũng tà lúc phong trào Cần vương bùng nổ. Tại khu vực tỉnh nhà có phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy do ông Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. Tân Việt (trong đó có Cảnh Lâm) là một căn cứ của nghĩa quân. Nhân dân Tân Việt đã tự nguyện đứng dưới cờ khởi nghĩa của nghĩa quân Bãi Sậy. Nhiều người là tướng lĩnh tin cẩn của ông đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu dũng cảm chống đội quân xâm lược và đội quân nhà Nguyễn, làm cho chúng bao phen khiếp sợ”.

LÃNH DUỆ

   Lãnh Duệ quê gốc ở Nghệ An người cao, gầy, giỏi võ nghệ. Ông đã từng chiến đấu chống quân Pháp ở Nghệ An, bị quân Pháp truy nã, phải chạy ra Bắc, làm con nuôi cụ Tán Thuật rồi ở lại làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương. Tới nay con cháu cũng không nhớ rõ ông họ Vương hay họ Hoàng. Điều này được chứng minh là khi phong trào Bãi Sậy tan rã, giặc Pháp tới xã Xuân Dục truy xét một người mang hai họ Vương và họ Hoàng.

   Tuy Lãnh Duệ theo nghề võ, nhưng đã từng theo học chữ Nho tới khoá sinh Vì thế tuy Nguyễn Thiện Thuật phong ông làm lãnh binh, nhưng vẫn giữ nhiệm vụ văn thư. Lãnh Duệ cũng là người thay mặt Nguyễn Thiện Thuật tiếp kiến các tướng đề đạt kiến nghị của họ lên và truyền mệnh lệnh của Nguyễn Thiện Thuật đến các tướng lĩnh. Tuy vậy Lãnh Duệ vẫn cầm quân đánh giặc.

   Nguyễn Thiện Thuật đã phái Lãnh Duệ tới các xã trong huyện Mỹ Hào, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên phát động nhân dân khởi nghĩa. Từ cuối năm 1885, đầu năm 1886, Nguyễn Thiện Thuật phái Lãnh Duệ về xây dựng căn cứ ở chùa Xuân Nhân. Căn cứ xây dựng xong ông là người chỉ huy căn cứ này, cây đề cạnh chùa Xuân Nhân là vọng gác tiền tiêu của căn cứ. Từ căn cứ Xuân Nhân - Xuân Bản - Xuân Đào quê hương của Nguyễn Thiện Thuật, Lãnh Duệ đã tới xã Lương Xá gặp vợ chồng Lãnh Lường, tới làng Khuốc gặp anh em Lãnh Thảo bàn kế hoạch tác chiến và thu lương.

   Tháng 10 năm 1890, Nguyễn Thiện Thuật đi Trung Quốc cầu viện, giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế. Lãnh Duệ chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế. Lãnh Duệ đã cùng Lãnh Thảo, Hai Thao, Đốc Muỗi ở làng Khuốc, Tuần Khấu, Đốc Nhông ở Hương Lãng chiến đấu chống quân Pháp ở Nam Bắc Ninh, Bắc Hải Dương. Nguyễn Thiện Thuật đi Trung Quốc, nhưng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế , Đề Vinh, Lãnh Duệ, Đề Ban, Hai Thao... vẫn hết lòng giúp đỡ Nguyễn Thiện Kế đánh đuổi quân Pháp, xây dựng cơ sở, cử những người của nghĩa quân ra làm chánh tổng, lý trưởng, đóng thuế, quyên góp cho nghĩa quân.

   Tháng 4 năm 1892 , Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh thất trận ở Ngô Phần, Bích Khê, huyện Lang Tài, Bắc Ninh, nghĩa quân Bãi Sậy tan rã. Lãnh Duệ trở về Xuân Đào, Xuân Nhân mưu toan khôi phục phong trào.

   Quân Pháp kéo về Xuân Dục bắt người mang hai họ Vương, Hoàng người Nghệ An. Song ông đã được báo trước nên trốn đi gia nhập nghĩa quân của Đề Thám. Không bắt được ông, chúng sục vào khắp các xóm bắt con cháu ông. Khi đó anh Luận, con trai ông Duệ cho rằng mình đã đổi họ sang họ Phạm là họ của mẹ, chúng không biết, nên chỉ trốn quanh làng. Chúng bắt được Luận đầy đi Côn Đảo. Hết hạn tù, Luận được tha, trở về nhà làm thợ mộc, chết năm 1967, thọ 77 tuổi.

   Từ khi Lãnh Duệ lên Yên Thế tham gia cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, con cháu không nhận được tin tức gì chỉ nghe phong thanh lên đó ông đổi tên là Cai Thanh hay Cai Chanh. Con cháu cúng giỗ vào ngày ông đi là ngày 28 tháng 8 âm lịch. Nhưng theo Nguyễn Thiện Kế nói lại thì Lãnh Duệ hy sinh trong trận chiến đấu với quân Pháp ở Tam Lộng, tỉnh Vĩnh Phúc.

ĐỐC ĐỒNG

   Đốc Đồng tên thật là Vũ Văn Đồng, còn gọi là Đốc Quần, quê ở xã Tam Trạch, tổng Sài Trang, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc xã Trung Hoà, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.

   Vũ Văn Đồng chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa ngay từ khi giặc Pháp hạ thành Hải Dương và thành Hưng Yên lần thứ hai (1883). Hai năm đầu ông chiến đấu dưới sự chỉ huy của Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật. Cuối năm 1884, Nguyễn Thiện Thuật chuyển địa bàn hoạt động lên Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn sau đó sang Long Châu, (Trung Quốc) thì ông chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đổng quân vụ Đinh Gia Quế.

   Tháng 9/1885, khi Đinh Gia Quế bị ốm, nằm dưỡng bệnh ở xã Dương Trạch (trong căn cứ Bãi Sậy) Nguyễn Thiện Thuật về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, được vua Hàm Nghi phong Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần. Ông Thuật đưa phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy lên một quy mô lớn trên phạm vi các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên, Phúc Yên, Phủ Lạng Thương, Sơn Tây. Xã Tam Trạch căn cứ của Đốc Đồng và Lãnh Mậu chỉ qua một cánh đồng tới thôn Xuân Nhân, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, là tiền đồn của đại bản doanh Nguyễn Thiện Thuật những năm 1885, 1886; qua sông Nghĩa Trụ ở bến Cầu Hàu. Đốc binh Vũ Văn Đồng lập được nhiều công lao như trận đánh quân Pháp tấn công vào làng Tam Trạch; trận tấn công đồn Mai Đường ở xã Đỗ Mỹ, huyện Ân Thi.

   Cuối năm 1889 giặc Pháp mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Tam Trạch - Nguyễn Xá chúng bắt được Đốc binh Vũ Văn Đồng đưa đi đày ở Côn Đảo. Chúng chém ông sau một lần ông cầm đầu cuộc đấu tranh quyết liệt với bọn giám ngục, vứt thây xuống biển, chặt đầu ướp muối đưa về cắm cọc bêu ở huyện Mỹ Hào. Sau nghĩa quân cùng con cháu lấy được đầu ông đưa về táng ở quê, không có thân thể, con cháu đành lấy cành dâu làm xương đưa về táng, chỉ đánh dấu, không đắp nấm.
BANG ẤM

   Bang Ấm tên thật là Phạm Ngọc Toản là con trai độc nhất của Ngự sử Phạm Ngọc Xuân. Phạm Ngọc Toản là người thông tuệ học nhiều, hiểu rộng, thông kinh sử, nhưng không thích chốn quan trường ràng buộc, chỉ thích vui thú cảnh điền viên, nên không đi thi. Giữa lúc ấy quan Tán Nguyễn Thiện Thuật đứng lên chống giặc Pháp vận động ông gia nhập nghĩa quân Bãi Sậy. Sẵn có tấm lòng yêu nước, được Nguyễn Thiện Thuật động viện, ông hăng hái nhận lời, nhận ra làm quan Bang. Trong thời gian làm quan, ông đã thu thập được nhiều tin tức về các cuộc hành quân, vây bắt các thủ lĩnh kịp thời báo cho nghĩa quân. Việc này đã giúp cho nghĩa quân tránh được nhiều tổn thất, còn quân Pháp thì bị khốn đốn.

   Nhằm đẩy nhanh tốc độ khai thác thuộc địa ở xứ Bắc Kỳ, giặc Pháp thẳng tay đàn áp phong trào Cần vương. Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị quân Pháp đem quân vây đánh liên tục. Nghĩa quân bị tan vỡ, Nguyễn Thiện Thuật phải trốn tránh hết nơi này đến nơi khác. Trước tình hình đó ông thấy mình không thể làm gì được cho nghĩa quân nữa, ông xin từ chức quan Bang. Về nhà được ít lâu Nguyễn Thiện Thuật biết ông chưa bị lộ, bí mật cho người đến bàn cách tiếp tục chống giặc.

   Nguyễn Thiện Thuật phái ông Toản và một số thủ lĩnh nghĩa quân lên miền rừng núi Yên Bái lập đồn điền để trồng cấy lấy lương thực, đồng thời dựa vào thế rừng núi hiểm trở làm nơi tụ nghĩa. Ông Toản liền làm đơn với chính quyền Pháp đưa số nghĩa quân đã ra hàng hoặc chưa bị lộ đi mở đồn điền ở tỉnh Yên Bái. Nghe ông Toản trình bày chúng rất mừng vì sơn lâm, chướng khí, nước độc sẽ giết chết số nghĩa quân đó, chúng sẽ không mang tiếng giết người đã ra hàng. Chúng chẳng những cấp giấy phép, mà còn chu cấp cả nông cụ, lương thực, thuốc men cho anh em. Ông Toản cùng đi với anh em đến nơi lập đồn điền rồi về đón Nguyễn Thiện Thuật đang trú ẩn ở một nơi an toàn đi Cao Bằng để sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh.

   Anh em ở đồng bằng lên, lạ nước, lạ cái ăn uống không giữ được vệ sinh, uống nước suối, ăn quả xanh, mùng màn không có, nên bị sơn lam, chướng khí, muỗi đốt bị sốt rét chết gần một nửa. Số còn lại nản chí bỏ về gần hết. Khi ông Toản đưa Nguyễn Thiện Thuật lên Cao Bằng trở về nơi lập đồn điền thì chỉ còn dăm người, đành bàn với nhau hãy trở về quê, chờ Nguyễn Thiện Thuật về sẽ bàn kế chống giặc. Thế là ông cùng mấy anh em lủi thủi luồn rừng trở về nhà. Ông không ở đấy lâu nhưng cũng bị bệnh sốt rét, ốm đau dai dẳng, quặt quẹo mãi, sau đó qua đời vào ngày 11 tháng 6 khi mới 37 tuổi.

   Chuyện về ông bang biện Phạm Ngọc Toản chống Pháp do bà Phạm Thị Oanh, tức Chiêu Oanh là em gái ông Toản kể lại cho Phạm Dung là cháu gọi là bà cô từ trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, sau này ông Phạm Dung viết lại trong gia phả dòng họ Phạm ở xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.

   Cứ mỗi lần kể xong, bà lại khóc nức nở. Qua cơn xúc động, cụ lau khô nước mắt nói nhỏ với cháu: "Bà nói cho cháu nghe chuyện gian truân của nhà mình để cháu biết thôi chớ có hở môi ra với ai, Tây nó biết nó cắt lưỡi đấy. Làng ta và làng Đậu làng vẫn vẫn có mật thám rình mò đấy. Chả thế mà cụ Hai Kế, em cụ Tán bị giặc Pháp bắt đày ra Côn Đảo, ngoài bẩy chục tuổi nó mới thả về. Khi cụ mất, mật thám còn về soát xét xem có phải cụ chết thật không hay là nói ra như thế để trốn đi làm Hội kín. Cháu nhớ nhời bà dặn nhé”. (Theo bài kể của cụ Phạm Dung, cụ Phạm Toán - Cháu tam đại cụ Bang Ấm)

LÃNH THẢO

   Ngày 20 tháng 8 năm 1883, Triều đình Huế ký với thực dân Pháp Hiệp ước Harmand, ra lệnh cho các quân thứ Bắc Kỳ bãi binh, Tán tương quân vụ, Tổng đốc Hải - Yên Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ, từ quan về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Ông cho quân về các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh kêu gọi mọi người gia nhập nghĩa quân.

   Năm anh em ông Lê Văn Thảo, Lê Văn Thao, Lê Văn Muỗi, Lê Văn Điền, Lê Văn Cỡi người làng Khúc Nhu tên nôm là làng Khuốc cùng các ông Cai Thóc, Xã Tiên, Sư Rốn ở thôn Kim Huy, Vũ Xuân Quang ở thôn Yên Xá đều ở tổng Lỗ Xá, huyện Đường Hào đã thành lập đội nghĩa binh hàng tổng gia nhập cuộc khởi nghĩa này.

   Sau trận đánh thành Hải Dương không thành, Nguyễn Thiện Thuật giao cho một số chỉ huy nghĩa quân trở về quê xây dựng lực lượng vũ trang bí mật. Ông chỉ huy hơn 300 quân phối hợp với các lực lượng vũ trang khác, đánh quân Pháp ở Phả Lại, tham gia giữ thành Bắc Ninh, Hưng Hoá, đánh quân Pháp ở Phủ Lạng Thương, Kép, cầu Quan Âm (Lạng Sơn). Sau trận này, Chính phủ Pháp và Triều đình Mãn Thanh ký "Hiệp ước Hoà bình” rút hết quân Triều đình và quân Cờ Đen về nước. Quân Pháp huy động lực lượng lớn đánh phá Lạng Sơn, Nguyễn Thiện Thuật phải giải tán nghĩa quân, rồi sang Long Châu, Trung Quốc.

   Trong khi đó thì tại Khúc Khu, anh em Cả Thảo cùng các ông đầu lĩnh nghĩa quân khác ở xã Lỗ Xá hoạt động gặp nhiều khó khăn, vì quân Pháp đóng đồn ở Bần Yên Nhân, huyện lỵ Mỹ Hào, đồn Đống Mối.

   Sau một thời gian, Nguyễn Thiện Thuật về nước, tháng 9 năm 1885, ông tổ chức lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, triệu tập các tướng về dự. Cả Thảo, Vũ Xuân Quang, Ba Muỗi cũng được về dự. Sau lễ tế cờ, Nguyễn Thiện Thuật đã phong chức tước cho tướng lĩnh. Cả Thảo và Vũ Xuân Quang được phong chức Lãnh binh, Ba Muỗi được phong chức Đốc binh.

   Để phá âm mưu tiêu diệt phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy của thực dân Pháp, Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho các tướng đồng loạt tấn công đồn binh Pháp. Lãnh Thảo, Lãnh Quang, Đốc Muỗi nhận được lệnh cùng Tuần Khấu, Đốc Nhông quê ở tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xây dựng vùng Khuốc - Lạng thành căn cứ quân sự quan trọng ở vùng Tây bắc Hải Dương, Tây - Nam Bắc Ninh.

   Ngày 11/11/1888, Lãnh Thảo, Lãnh Quang nhận được lệnh của Nguyễn Thiện Thuật, liền điều động 80 nghĩa quân của tổng An Xá về cánh đồng xã Liêu Trung, tổng Liêu Xá, cũng thuộc huyện Mỹ Hào tham gia trận phục kích lớn. Quân ta diệt 31 tên Pháp trong đó có giám binh Louis Ney và bang tá Nguyễn Hữu Hào, bắt hụt Hoàng Cao Khải.

   Lãnh Thảo cùng với Hai Thao, Đội Khĩnh, Đội Thi đều là người làng Khuốc chỉ huy 150 nghĩa quân từ Mễ Xá (Ân Thi) theo đường 38 hiện nay rút về căn cứ của Lãnh Chủ, Lãnh Điếc ở Xuân Trúc, Xuân Đình rồi từ đó về căn cứ Bãi Sậy. Nhưng đi tới Chu Xá (Ân Thi) thì các ông bị quân Pháp mai phục đổ ra đánh, các ông phải chạy sang ấp Thuần Xuyên. Các ông vừa đánh, vừa rút về vùng Tam Tổng (Xuân Đào, Xuân Nhân, Xuân Bản) quê hương của chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề. Lãnh Thảo bị thương gẫy chân, mấy nghĩa quân cõng ông giấu trong một cái bếp của nhà dân ở làng Xuân Nhân. Ông biết mình không thể sống truyền lệnh cho mấy nghĩa quân: “Nếu giặc ập đến thì đốt nhà, kéo sập xuống”, nói rồi ông rút súng lục ghé vào tai bóp cò tự sát.

ĐỐC MUỖI

   Đốc Muỗi tên thật Lê Văn Muỗi quê ở làng Khúc Khu, xã Lỗ Xá, tổng Yên Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Phúc Xá, xã Phan Đình Phùng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.

   Tháng 4 năm 1883, khi Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật quê ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam huyện Mỹ Hào làm Tổng đốc Hải - Yên từ quan về Đông Triều khởi nghĩa đánh Pháp, thì bốn anh em trai trong đó có Lê Văn Muỗi đã chiêu mộ dân làng Khuốc gia nhập đội nghĩa binh về Đông Triều ứng nghĩa.

   Lê Văn Muỗi cùng với các anh trai là Cả Thảo, Hai Thao và các ông Vũ Xuân Quang, Cai Thóc, Cai Tiên, Sư Rốn đều là những người ở các thôn trong xã Lỗ Xá thành lập một đội nghĩa quân bí mật, luyện tập quân sự, chờ thời cơ khởi nghĩa. Các ông đã nhiều lần cảnh cáo bọn lý dịch trong tổng không được theo Pháp làm hại dân, khống chế ba em trai của Cả Nhiên đã đi lính đeo lon đội nhất lính Khố đỏ không được tiếp tay cho Pháp làm hại dân.

   Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu nhận được tin vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương liền về nước. Ông được vua Hàm Nghi phong là Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thay Đổng Quế vừa lâm bệnh từ trần.

   Tháng 9/1885, Ba Muỗi cùng với anh trai là Cả Thảo, Vũ Xuân Quang được triệu tập về Văn chỉ Bình Dân dự lễ tế cờ và nghe đọc chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Sau lễ tế cờ, thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật phong chức tước cho chỉ huy các đội nghĩa quân. Lê Thảo và Vũ Xuân Quang được phong chức Lãnh binh, ông được phong chức Đốc binh. Trở về quê, các ông đã phát triển lực lượng nghĩa quân ở tổng Yên Xá. Các ông còn liên kết với nghĩa quân tổng Thái Lạc, phủ Thuận Thành do Tuần Khấu, Đề Quân, Đốc Nhông chỉ huy thành “căn cứ Khuốc - Lạng".

   Đốc Muỗi đã tham dự nhiều trận phối hợp với Tuần Khấu, Đốc Nhông ở thôn Hương Lãng, tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành tấn công đồn Bần Yên Nhân, lấy được đầu Đề Quân bị chúng cắm cọc bêu ở cổng đồn. đốt cháy đồn vào khoảng tháng 3 năm 1886.

   Trong năm 1886-1887 ông cùng Lãnh Thảo, Lãnh Quang, Đôi Khĩnh, Đội Thi đánh phá các đồn binh trạm gác của giặc Pháp mới xây hoặc đang xây ở đường 5 đoạn từ Phố Nối đi huyện lỵ Đường Hào, đoạn từ Quán Gỏi đi Cẩm Giàng - Bắc Ninh. Khi nhận được tin quân Pháp đóng dã ngoại ở cầu Bà Sinh thuộc huyện Thuận Thành, nay thuộc Văn Lâm, ông đem quân tập kích, giết chết một số tên, thu vũ khí. Ông phối hợp với nghĩa quân tổng Thái Lạc tấn công đồn Điền (Xuân Đào), đồn Đống Mối (Đông Mai) gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Ông cũng có mặt trong trận nghĩa quân mai phục ở cánh đồng Liêu Trung giết chết 31 tên lính Pháp, lính Nam, trong đó có tên giám binh Louis Ney, bang tá Nguyễn Hữu Hào, bắt hụt Hoàng Cao Khải.

   Tháng 12/1888 ông cùng Lãnh Thảo, Lãnh Quang tập kích vào sườn quân hỗn hợp Lê dương - pháo binh Bắc Kỳ - vệ binh dân sự đông tới 223 tên do trung uý Corre chỉ huy đang tấn công đội quân của Lãnh binh Lưu Ngọc Tháu ở làng Liêu Trung tổng Liêu Xá cũng ở huyện Đường Hào khiến quân Pháp phải tháo chạy.

   Giặc Pháp càn quét vùng Khuốc - Lạng bắt được Đốc Muỗi tại chợ Trạm, phủ Thuận Thành. Chúng áp giải ông về đồn Đống Mối tra hỏi. Ông không khai báo nửa lời, còn nguyền rủa chúng là quân bán nước thờ quan Tây. Suốt hai ngày ròng rã Đốc Muỗi nhịn ăn, nhịn uống. Bọn giặc ở đồn Đống Mối nhốt ông vào cũi sắt kéo từ Đống Mối, qua Hương Lãng, đến làng Khuốc chúng gọi loa cho người nhà ra nhận mặt. Chúng kéo ông về đồn Bần Yên Nhân. Trước khi đưa ông ra xử chém, chúng cho ông một bát cơm, ông hất cơm đi, đập bát lấy mảnh khoét rốn lôi ruột ra thét lớn: "Muỗi từ nay không thèm đốt chúng bay nữa mà nhân dân sẽ giiết chúng bay!”. Chúng sai tên đao phủ xông tới chém ông. Dòng máu hồng của ông vọt lên cao tưới ướt đẫm mảnh đất Bần Yên Nhân nơi đã thấm máu biết bao anh hùng liệt sĩ bị chúng hành hình ở đây. Chúng đem đầu ông cắm cọc đem bêu, còn thây vứt xuống sông Bần Yên Nhân, trôi dạt vào vó bè của cánh đồng Đìa, nhân dân vớt lên chôn ở mé song. Vài ngày sau anh em đang đêm tới đào lên đem về làng Khuốc chon, chỉ đánh dấu hòn đá rồi san bằng mặt.

   Từ ấy cho đến nay, con cháu (chỉ có ông Tư Dệu là có con, còn bốn ông chưa có vợ con) không biết đích xác ngày ông hi sinh chỉ cúng ông vào ngày ông đi. (Lê Quang Tuyến - Lê Thị Hoà cháu gọi bằng ông và các cụ cao tuổi ở làng Khúc Khu (Phúc Xá), làng Lạng (Hương Lãng) kể với tác giả.)

LÃNH LƯỜNG

   Lãnh Lường tên thật là Nguyễn Văn Lường sinh năm 1863, quê ở làng Lương Xá, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào. Từ tháng 4 năm 1883, Nguyễn Thiện Thuật mộ quân đánh Pháp. Rất nhiều trai tráng trong huyện tham gia. trong số đó có Nguyễn Văn Lường đã tới Đông Triều ứng nghĩa.

   Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật làm lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân (Khoái Châu, Hưng Yên) phát động cuộc khởi nghĩa trên qui mô lớn. Ông Nguyễn Văn Lường ở Lương Xá cũng được triệu tập về dự. Sau lễ Tế cờ, ông Lường được phong là Lãnh binh, được cử cùng Lãnh Đậu (quê Thuận Thành, Bắc Ninh) hoạt động ở các xã thuộc tổng Bạch Sam. Lãnh Lường cùng Lãnh Đậu được lệnh đưa quân đánh bọn phản động cưỡng bức dân rào làng, lĩnh súng của Pháp chống lại nghĩa quân ở làng Ngọc Cục, huyện Bình Giang, Hải Dương. Ngày 12/11/1888, Lãnh Lường tham gia đánh trân phục kích lớn ở cánh đồng Liêu Trung, góp phần vào chiến công giết 31 tên Pháp, trong đó có giám binh Louis Ney. Lãnh Lường phối hợp chặt chẽ với các lực lượng nghĩa quân khác liên tục đánh quân Pháp trên địa bàn huyện Mỹ Hào. Bị thua đau nhiều trận quân Pháp khủng bố ác liệt nhân dân huyện Mỹ Hào.

   Năm 1890 quân Pháp mở nhiều trận tấn công lớn vào vùng Bắc Hải Dương, Hưng Yên, Nam Bắc Ninh, nhưng đội nghĩa quân do Lãnh Lường chỉ huy vẫn bảo vệ được làng Lường, vẫn mở nhiều trận đột kích vào các đồn binh Pháp.

   Tháng 10 năm 1890, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy suy yếu, Nguyễn Thiện Thuật giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế, sang Trung Quốc mưu một cuộc vận động mới. Tuy vậy trong suốt những tháng cuối năm 1890 và đầu năm 1891, cuộc kháng chiến của các đội nghĩa binh và nhân dân Mỹ Hào vẫn tồn tại.

   Quân Pháp, quân Nam triều tập trung binh lực tiêu diệt thủ lĩnh, đánh tan rã các cánh quân chủ lực của cuộc khởi nghĩa như Đốc Sung tháng 3/1891; Đốc Cọp tháng 5/1891; bốn anh em Đề Tính và Lãnh Điển tháng 8/1891; Đề Ban tháng 12/1891… thì cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị suy yếu hoàn toàn, quân Pháp tập trung quân đánh phủ huyện Mỹ Hào và các huyện Lang Tài, Gia Bình ở Nam Bắc Ninh. Khoảng tháng 1 -2 năm 1892, Lãnh Lường và Lãnh Đậu đóng quân ở làng Vân An bị quân Pháp truy kích phải chạy sang làng Vũ Xá, nơi Lãnh Đậu đang trú quân. Quân Pháp tập trung quân bao vây, đánh phá. Các ông buộc phải phá vây. Lãnh Đậu hy sinh. Lãnh Lường chạy thoát sang làng Bùi. Quân Pháp đem hàng trăm quân bao vây chặt làng Bùi. Lãnh Lường đem quân ra đột phá ở hướng Đông của làng thu hút quân địch để đại bộ phận nghĩa quân và dân làng rút ra khỏi làng theo hướng Tây và đã hy sinh, giặc chặt đầu ông bêu ở phố Bạc.

   Dân làng Bùi chôn cất ông, biết ơn ông hy sinh vì dân, vì nước, đã bốc bát hương phối thờ ông ở trong đình, sau lập miếu thờ ở gốc cây đề gần đình.

   Đến nay các cháu của ông đã cải táng ông ở đồng làng Lương Xá và trong nhà tổ của ngôi chùa làng Lương Xá có một ban thờ ông. (Ghi theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Nhiêu 82 tuổi là cháu gọi cụ Lãnh Lường là ông chú kể theo gia phả)

ĐỐC NHÔNG

   Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật họp hội nghị các tướng và làm lễ tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, Khoái Châu. Nguyễn Văn Nhông, Tuần Khấu, ông Quân cũng được triệu tập về dự. Tại lễ Tế cờ, Nguyễn Thiện Thuật nhận được sắc của vua Hàm Nghi phong là Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, gia chấn Trung tướng quân. Nguyễn Thiện Thuật phong cho Nguyễn Văn Long chức Chánh tuần huyện, ông Quân được phong là Đề đốc, Nguyễn Văn Nhông được phong là Đốc binh nên thường gọi là Đốc Nhông.

   Ngày 26/10/1884, Đốc Nhông có mặt trong trận đánh quân Pháp ở cầu Quan Âm, Bắc Lệ, Lạng Sơn. Đốc Nhông còn tham gia nhiều trận quân ta đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Tuyên Quang.

   Sau khi dự lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân về, Đốc Nhông góp phần tích cực cùng Chánh tuần Khấu chiêu mộ thêm nghĩa quân, trang bị vũ khí, quyên góp lương thực. Các ông cũng xây dựng xã Hương Lãng, xã Phượng Trì, xã Xuân Ao thành những làng chiến đấu.

   Trong khi các ông đang khẩn trương trang bị vũ khí, luyện quân thì nhận được tin bọn chỉ huy Pháp ở đồn Bần Yên Nhân đang ráo riết tập hợp quân ở các nơi để tấn công vào các căn cứ Hương Lãng, Xuân Ao, Phượng Trì. Đốc Nhông đưa ra ý kiến là phải đánh phủ đầu trước. Kế hoạch trên được Chánh tuần Khấu và Đề Quân nhất trí. Ngay tối hôm đó nghĩa quân tổng Thái Lạc làm lễ Tế cờ ở đình Chạ xã Hương Lãng, xuất quân đánh đồn Bần Yên Nhân. Trận này do Đề Quân trực tiếp chỉ huy, Đốc Nhông bảo vệ căn cứ.

   Cuối năm 1888, Nguyễn Thiện Thuật điều động 100 nghĩa quân tổng Thái Lạc do Đốc Nhông chỉ huy vào đội quân cơ động do Nguyễn Thiển Kế, Đề Vinh chỉ huy hoạt động ở Bắc Hải Dương, Nam Bắc Ninh.

   Tháng 10 năm 1890, nhận thấy tình hình trong nước khó khăn, Nguyễn Thiện Thuật giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế rồi sang Trung Quốc mưu tính một cuộc vận động mới. Song tình thế đã khác, việc không thành, ông cũng không thể về nước được.

   Trong những năm tháng khó khăn đó, Đề Vinh, Quan Bá Học, Đốc Nhông vẫn giúp Nguyễn Thiện Kế duy trì được đội quân thường trực trên 300 người. Đội quân này cùng với các tướng Đề Ban ở Ân Thi, Đốc Cọp ở Kim Động, Đốc Sung, Lãnh Tháu ở Yên Mỹ, Chánh Tính, Lãnh Điển ở Khoái Châu duy trì cuộc chiến đấu. Một cuộc chiến đấu không cân sức giữa một bên là 409 quân Pháp, trang bị vũ khí hiện đại, có đại bác yểm trợ, một bên là 70 nghĩa quân do Đề Vinh, Quan Bá Học, Đốc Nhông chỉ huy và khoảng 40 nghĩa quân làng Ngô Phần do Hai Dĩnh chỉ huy.

   Song nghĩa quân dựa vào hào lũy kiên cố đã bắn chết, làm bị thương hơn 10 tên Pháp. Quân Pháp nhận được quân tiếp viện từ Bắc Ninh do tên sĩ quan Pierrot, Feleppit, Vilian... kéo tới cùng hai khẩu pháo. Chúng tấn công ác liệt vào Ngô Phần. Nghĩa quân đợi chúng tiến sát lũy tre mới bắn, giết chết tên Desmot, bắn trọng thương giám binh Lambert cùng trên 20 lính Pháp, lính Nam. Song nghĩa quân cũng bị tổn thất, Hai Dĩnh cùng 30 nghĩa quân hy sinh. Đề Vinh, Đốc Nhông, Quan Bá Học quyết định đi ngược luồng đạn của giặc để thoát khỏi vòng vây. Đó là quyết định táo bạo và sáng suốt, vì nếu còn ở lại trong làng sẽ bị chết dưới làn đạn đại bác và đạn bắn thẳng của giặc. Nhưng cả 30 chiến sĩ trong đó có Đề Vinh, Đốc Nhông, Quan Bá Học, Am đều hy sinh. Song trong trận phá vây táo bạo này quân Pháp cũng bị chết năm tên trong đó có tên Montillion, bảy tên khác bị thương.

   Ba ngày sau xác của Đốc Nhông trôi lập lờ trên sông Bích Khê đổ ra cống huyện lỵ Cẩm Giàng đổ ra sông Cẩm Giàng. Những người dân ven sông vớt lên an táng trên bờ sông. Song sợ giặc khủng bố, họ đánh dấu bằng một tảng đá lớn, rồi đắp một cái mộ giả cách đó một quãng.

NGUYỄN VĂN LONG

   Nguyễn Văn Long, con trai cụ Nguyễn Đình Chi, được Triều đình phong chức "Bách hộ hầu”. Ông quê ở làng Phượng Trì, còn gọi là làng Xuân Ao, tên Nôm là làng Ao.

   Ông làm Chánh tổng rồi làm Chánh tuần huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật từ Trung Quốc về nước hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Lễ bộ thượng thư Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi ủy quyền chủ trương chống Pháp ở Bắc Kỳ, khi đó chỉ huy căn cứ ở Tiên Động, Phú Thọ giao cho Nguyễn Thiện Thuật về trực tiếp lãnh đạo căn cứ Bãi Sậy do Đổng Quế chỉ huy nhưng đang bị ốm nặng. Nguyễn Thiện Thuật đã đưa cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lên quy mô lớn khắp các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Yên, Bắc Giang. Các xã Phượng Trì, Hương Lãng của huyện Thuận Thành nằm giáp huyện Mỹ Hào là một trong những căn cứ lớn của nghĩa quân nên có nhiều người gia nhập cuộc khởi nghĩa.

   Trước khí thế sôi sục đó Nguyễn Văn Long từ quan về quê chiêu mộ quân khởi nghĩa. Hầu hết tuần đinh và tráng đinh tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành gia nhập nghĩa quân do ông chỉ huy. Khi đã có vài trăm quân, ông đến căn cứ Xuân Nhân gặp phái viên của cụ Tán bẩm báo tình hình, xin gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Nguyễn Văn Long được phái viên của cụ Tán chỉ định chỉ huy nghĩa quân tổng Thái Lạc và các xã phụ cận.

   Vốn là người phụ trách công việc trị an, an ninh trong huyện, nên Nguyễn Văn Long rất thạo việc binh. huấn luyện quân sĩ và xây dựng các đồn trại công khai, bí mật ngăn chặn quân Pháp đánh vào Hương Lãng, Xuân Ao, Phượng Trì.

   Khi Lãnh Vắn ở Đông Mai làm phản, giết hại nhiều thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy, thì Nguyễn Văn Long cũng bị Lãnh Vắn chỉ điểm cho giặc Pháp bắt. Chung đưa ông ra tù Côn Đảo. Khi được trả tự do, ông gả em gái cho Lãnh Hạp ở Tam Má, rồi lên Thuận Thành tiếp tục sự nghiệp chống Pháp.

   Nguyễn Văn Long cùng Lãnh Hạp đánh Pháp ở Thuận Thành, Gia Bình, ông hy sinh trong trận đánh thành Thuận Thành. Đồng đội chôn xong xóa dấu vết, đánh dấu. Mất 20 năm sau con cháu mới đưa hài cốt về quê, nay mộ thất lạc. Con cháu cúng giỗ vào ngày 15 tháng giêng. (Ghi theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Nguyên 84 tuổi ở thôn Thanh Khê, cháu ba đời Nguyễn Văn Long).

QUẢN CẦU

   Lê Hữu Cầu còn gọi là Quản Cầu, quê ở làng Lưu Xá, xã Nhật Tân, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Ông sinh khoảng năm 1860 trong một gia đình nho học. Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, ông chiêu mộ trai tráng ở địa phương dấy binh Cần vương tập kích quân Pháp ở Cầu Giẽ (cầu bắc qua sông Nhuệ, trên đường số I), gây cho chúng thiệt hại nặng nề, chúng phải tháo chạy.

   Lê Hữu Cầu nhận thấy ông chỉ có gần 100 quân không thể chống chọi lâu dài với giặc Pháp liền đưa quân vượt sông Hồng sang căn cứ Dạ Trạch gia nhập vào cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Khi đó phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy do Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy.

   Lê Hữu Cầu đến Bãi Sậy khoảng một tháng thì được dự lễ tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân tổ chức vào tháng 9 năm 1885. Sau lễ tế cờ, Nguyễn Thiện Thuật phong chức tước cho một số người chỉ huy. Lê Hữu Cầu được phong chức Hiệp quản, nên quân sĩ gọi là Quản Cầu.

   Ngay sau lễ Tế cờ, vị Tổng chỉ huy cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tổ chức một cánh quân vượt sông Hồng tấn công các đồn binh Pháp cùng các huyện đường các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Đông. Lê Hữu Cầu xin đi tiên phong, Nguyễn Thiện Thuật tin tưởng vào tài năng chiến thắng quân Pháp trong trận Cầu Giẽ nên chấp nhận. Nghĩa quân đánh phá ác liệt các huyện trên. Cao Xuân Dục đem lính từ Hà Nội tới đánh bị thua phải bỏ chạy về Hà Nội.

   Cuối tháng 9 năm 1885 nghĩa quân Bãi Sậy tấn công thành Hải Dương. Vì kế hoạch bị lộ, quân Pháp đưa quân ra ngoài thành chặn đường Mao Điền. Quân Pháp điều hai pháo hạm tuần tiễn trên sông Thái Bình để bảo vệ thành phố Hải Dương. Để trả thù, tháng 10/1885, thống tướng De Courcy giao cho thiếu tướng Négrier, trung tá Donuier, trung tá Godard, Hoàng Cao Khải mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật giao cho các tướng đem quân mai phục chặn các ngả đường vào Bãi Sậy. Quản Cầu được lệnh đem quân vượt sông Hồng đánh phá các đồn binh thuộc Thường Tín, Phú Xuyên (Hà Đông), Đồng Văn (Hà Nam), đánh phá giao thông để ngăn chặn không cho quân Pháp từ Hà Đông, Hà Nam vượt sông Hồng đánh vào phía Tây căn cứ Bãi Sậy. Nghĩa quân mai phục chờ quân Pháp lọt vào trận địa phục kích mới đổ ra đánh giáp lá cà. Quản Cầu đã góp phần công lao vào chiến công đánh cho thiếu tướng Négrier phải liều chết mở đường máu chạy thoát.

   Tháng 11/1888, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Quản Cầu bảo vệ căn Bãi Sậy, điều động phần lớn các tướng đánh trận phục kích lớn ở Liêu Trung.

   Trong trận càn quét quy mô lớn của quân Pháp đánh vào căn cứ Bãi Sậy vào cuối năm 1889, Quản Cầu chiến đấu ngoan cường và anh dũng hy sinh.

PHẠM TRUNG THỨ

   Phạm Trung Thứ còn có tên là Phạm Khắc Thứ, Phạm Khắc Trung. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Thượng Đồng, bờ Bắc sông Đáy, tỉnh Ninh Bình. Thời gian này, phe chủ hòa, do vua Tự Đức cầm đầu đã thắng thế. Quân Pháp phải rút khỏi các tỉnh Bắc Kỳ do chúng đánh chiếm năm 1873, nhưng vẫn cho bọn tay chân như Tạ Văn Phụng, Tiên Viên tập hợp bọn lưu manh, thổ phỉ và những giáo dân quá khích gây nhiều vụ bạo loạn, dọn đường cho quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai. Vì vậy Phạm Trung Thứ không nhận chức tước của triều đình Huế.

   Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật được giao lãnh đạo cuộc kháng chiến Bãi Sậy. Nhận được tin trên, Phạm Trung Thứ liền đến Bãi Sậy gia nhập lực lượng vũ trang do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy.

   Trong suốt mấy năm tham gia nghĩa quân Bãi Sậy, Phạm Trung Thứ đã có nhiều công lao trong việc đánh địch, bảo vệ căn cứ và mở rộng địa bàn hoạt động của nghĩa quân sang Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên. Cuộc chiến đấu ở Bãi Sậy gặp nhiều khó khăn, khó có điều kiện phát triển, Phạm Trung Thứ trở về làng Thượng Đồng cùng với các ông Đỗ Công Thiềm, Phạm Văn Sắt, Phạm Văn Thu, Nguyễn Thế Thị, Phạm Kim Thảo lập thành bộ tham mưu hoạch định kế hoạch khởi nghĩa. Các ông là những người có uy tín ở các huyện phía bắc tỉnh Ninh Bình nên vừa hô hào nhân dân khởi nghĩa thì toàn bộ trai gái Thượng Đồng kể cả những người cao tuổi đã nhiệt liệt hưởng ứng. Các ông cũng trưng tập thợ rèn các nơi về rèn vũ khí, các kho lương được thành lập. Nghĩa quân được các ông chia thành cơ ngũ, huấn luyện kỹ năng chiến đấu. Để giành thế chủ động, Phạm Trung Thứ và bộ Tham mưu quyết định khởi nghĩa. Sau khi làm lễ Tế cờ, đích thân Phạm Trung Thứ chỉ huy một cánh nghĩa quân tiến đánh huyện lỵ Phong Doanh, bắt tên tri huyện Nguyễn Quỹ đưa về đình làng Thượng Đồng xử tội. Không để cho giặc kịp trở tay, Phạm Trung Thứ đưa quân về đánh chiếm tỉnh lỵ Ninh Bình. Nhưng quân Pháp cho quân đón đường chặn đánh, nghĩa quân vừa chiến đấu vừa rút về làng chốt giữ cứ điểm, đắp cao lũy đất, rào thêm tre, đào nhiều hố chông, cạm bẫy để diệt địch. Quân Pháp bao vây làng, không dám tiến đánh, chỉ ở xa bắn súng vào, triệt đường tiếp tế. Chỉ sau khi do thám lực lượng quân sự trong làng và cách bố phòng của nghĩa quân, ngày 10/12/1889, quân Pháp nã đại bác rồi tấn công vào làng Thượng Đồng. Một cuộc ác chiến đã xảy ra, nghĩa quân ít súng đạn nhưng lợi dụng địa hình mình quá quen thuộc và vũ khí thô sơ để đánh địch. Khi quân giặc tiến đến sát lũy đất, Phạm Trung Thứ lệnh cho nghĩa quân bắn vào bọn xâm lược Pháp và phát loa gọi lính tập quay súng bắn vào giặc Pháp trở về với chính nghĩa. Công tác địch vận có kết quả, nhiều lính tập chĩa súng lên trời bắn chỉ thiên. Quân Pháp không vào được làng mà còn bị thương vong nhiều phải rút quân. Giặc Pháp điều động lực lượng đánh phá núi Nể, làng Thượng Đồng, Phạm Trung Thứ phải chia nhỏ quân đội chống càn quét, bảo vệ nhân dân. Bọn giặc tràn vào Thượng Đồng, đốt phá nhà những gia đình tham gia nghĩa quân, tịch thu gia sản, ruộng đất của họ.

   Trước sự khủng bố ác liệt của giặc, nghĩa quân tan rã, Phạm Trung Thứ lẩn tránh 10 năm mới trở về làng Thượng Đồng. Giặc dụ ông ra làm quan, ông không ra, mở trường dạy học. Đỗ Công Thiền cũng không hàng giặc, được nhân dân giúp đỡ ông trốn tránh, đến khi tuổi già mới trở về làng.

ĐỘI VĂN

Đội Văn tên thật là Vương Văn Vang, trong các bản Thông cáo của ông gửi nhân dân Yên Dũng (Bắc Giang) vào tháng 10-1889 ông cũng thường xưng là “Đề đốc họ Vương”. Ông quê ở thôn Thuận An, xã Trạm Lộ, tổng Tám Á, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Trạm Lộ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Vương Văn Vang trở thành một viên dũng tướng trong Tam tỉnh nghĩa quân, ông đã góp phần tích cực xây dựng căn cứ Đình Bảng, căn cứ núi Nham Biền, huyện Yên Dũng. Vương Văn Vang (khi đó gọi là Đội Văn) đã đánh thắng nhiều trận lớn trong đó có trận thắng lớn làng Ngọc Trì (tên Nôm là làng Bến) huyện Lang Tài tỉnh Bắc Ninh. Đội Văn còn tổ chức trận đánh lớn vào đồn Hồ cướp súng của quân Pháp trang bị cho nghĩa quân.

Cuối năm 1884 “Tam tỉnh nghĩa quân” tan rã, Đội Văn cùng Tuần Xô vẫn hoạt động ở Nam Bắc Ninh. Khi Tuần Xô hy sinh trong trận Hà Mẫn, Đội Văn tiếp tục hoạt động, song để cung cấp quân lương cho gần 200 quân rất khó khăn, ông thường phải đi “làm lương” tức là thu thuế của dân, vận động nhân dân ủng hộ, và cướp thóc của nhà giầu. Trong lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, Nguyễn Thiện Thuật phong cho Đội Văn chức Đề đốc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ngô Quang Huy. (Daufes viết trong cuốn: “Bảo an binh Đông Dương từ ngày thành lập đồn này viết: “trong vùng giáp ranh Hai Dương. Bắc Ninh - Hưng Yên có Đốc Sung, Đội Văn, Hai Kế”).

Tháng 7/1887 Đội Văn tấn công Phố Bạc nay là xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào (Hưng Yên). Trước sự truy kích ráo riết của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải, nghĩa quân do Đội Văn chỉ huy bị tổn thất nặng nề, một số thủ lĩnh dưới quyền ông và nhiều nghĩa quân hy sinh, dân chúng ở các làng ủng hộ nghĩa quân bị tàn sát, nhà cửa, đình chùa bị đốt phá. Hoàng Cao Khải biết Đội Văn lâm vào tình thế nguy ngập liền viết thư dụ hàng. Ngày 27/2/1889 Đội Văn viết thư cho Hoàng Cao Khải xin đầu hàng. Pháp và Hoàng Cao Khải rất mừng trao lại toàn bộ số vũ khí trên cho ông và cấp thêm 50 khẩu súng trường để ông đánh nghĩa quân.

Ngày 17-9- 1889, Đội Văn sau 8 tháng trá hàng, trong một trận quân Pháp sai ông đi đàn áp nghĩa quân ông đã ước hẹn trước với một số đồng chí rồi bí mật đem 200 quân, 100 tay súng vượt sông Đuống nhập với toán quân của Lãnh Đội đã chờ sẵn theo mật ước từ trước. Nghĩa quân mặc quần áo lính theo đường số 1 qua sông Cầu để lên Yên Thế gia nhập nghĩa quân Đề Nắm (Lương Văn Nắm) tiếp tục đánh Pháp. (Daufes, sách đã dẫn - Báo Le Courier d’ Hải Phòng năm 1889 viết là Đội Văn đem theo 40 súng. Thco chúng tôi, khi Đội Văn ra hàng, Pháp để nguyên số súng của đội quân của ông lại trang bị thêm 50 súng nữa, như vây số súng ông đem đi phải nhiều – VTS).

Trong một thông báo gửi nhân dân Bắc Ninh, Đội Văn tuyên bố rằng “mình đã trá hàng để tạo khả năng nghiên cứu kỹ càng hơn tổ chức và chiến thuật của quân đội Pháp, do đó sẽ bảo đảm đánh được họ khi thời cơ đến nhằm đánh đuổi bọn dã man phương Tây ra khỏi xứ sở Bắc Kỳ”.

Đội Văn trở lại hàng ngũ kháng chiến lại liên kết với nghĩa quân Yên Thế làm cho bọn xâm lược Pháp ở Bắc Kỳ rất hoảng sợ. Chúng phải kêu lên: “Lúc này Đội Văn lại hoạt động mạnh trong vùng rộng lớn giữa Phủ Lạng Thương Bắc Ninh và Tỉnh Đạo” và: “Cách đây 2 tháng người ta có thể ung dung đi lại trên con đường Hà Nội - Lạng Sơn, nhưng ngàv nay thì người ta sẽ phải “vũ trang đến tận răng” thế mà cũng phải là người táo bạo lắm mới dám đi từ Đáp Cầu đến Phủ Lạng Thương”.

Bọn chỉ huy quân sự Pháp ở Bắc Kỳ lập tức ra lệnh cho đồn binh Phủ Lạng Thương phải dò tìm đường hành quân của ông. Tên trung úy May e (Meyer) chỉ huy đồn Phủ Lạng Thương lập tức cho lính lùng sục vùng Phủ Khê, Liên Bộ, Lán Tranh. Đội Văn trở về Bắc Ninh. Trong một bức thư gửi nhân dân Yên Dũng. tỉnh Bắc Ninh đề ngày 25-8 âm lịch, năm Hàm Nghi thứ 5, Đội Văn nêu rõ: “mục đích chiến đấu của ông là nhằm để đánh đuổi giặc xâm lược Pháp, khôi phục lại đất nước, mang lại hòa bình, yên tĩnh thực sự cho nhân dân và chấm dứt những nỗi đau khổ đang đè nặng lên mọi người. Cũng để đạt được mục đích trên, Văn đã chiêu mộ nghĩa quân tổ chức lực lượng quân sự chống Pháp. Văn kêu gọi nhân dân tích cực ủng hộ nghĩa quân”.

Để diệt trừ Đội Văn, quân Pháp đã điều động một lực lượng lớn tràn lên Yên Thế để tiêu diệt lực lượng. Ngày 31-10-1889 cố đạo Tây Ban Nha Lê Vátcô làm trung gian, chúng đem nộp ông cho đồn binh Pháp ở Bắc Ninh. Mặc dù ông bị thương, bị ốm nặng chúng vẫn nhốt ông vào cũi, đeo gông cổ, xiềng tay chân giải về Hà Nội.

Bắt được Đội Văn, bọn xâm lược Pháp xử chém ông ngày 7 tháng 11 năm 1889 tại bãi đất trống cạnh hồ Hoàn Kiếm. Khi ông chết, giặc Pháp vẫn sợ, chúng chặt đầu ông đưa về bêu ở Bắc Ninh, còn xác ném xuống sông Hồng.

VŨ GIÁC

Vũ Giác hiệu Tùng Trai, sinh năm Mậu Tuất (1838) quê ở thôn Ngọc Quan, tên nôm là làng Sen, nay thuộc xã Lâm Theo, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.

Vũ Giác là người thông minh, học rộng, nghe nhiều. Ông đỗ Cử nhân khoa thi Ất Sửu (1865) năm 27 tuổi. Năm sau khoa Bính Dần (1866), ông đỗ Phó bảng. Ông được cử giữ chức Bố chánh Thái Nguyên. Ông là người có uy đức, giàu lòng nhân hậu, yêu nước, thương dân. Trong cương vị làm quan đầu tỉnh, ông được triều đình tin dùng, quân dân trong hạt Thái Nguyên kính trọng. Vì vậy khi ông còn sống, nhân dân làng Quan Đào, huyện Yên Lãng đã xin húy hiệu của ông để thờ làm Thành hoàng làng.

Trước tình thế triều đình nhân nhượng với giặc Pháp, Vũ Giác từ quan về quê mở trường dạy học. Lúc này một số quan lại thân Pháp nhiều lần đến vận động ông và các con ông ra làm việc cho Pháp và Nam triều, nhưng ông kiên quyết từ chối. Ông mở trường dạy học, và liên hệ mật thiết với các thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa, các sĩ phu yêu nước ở các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Đối với cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật ở Đông Triều, Chí Linh, ông hết lòng giúp đỡ bằng việc động viên con cháu, môn sinh, người làng tham gia nghĩa quân. Ông cũng đứng ra quyên góp tiền bạc, lương thực, áo quần gửi về Đông Triều cho nghĩa quân. Nhà ở và trường học của ông cũng là đầu mối liên lạc của quan lại trong triều ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật. Nhà ông cũng là nơi trú chân của gia đình Nguyễn Thiện Thuật bị chính quyền Nam triều khủng bố.

Ngay sau khi nhận lệnh trở về căn cứ Bãi Sậy, Nguyễn Thiện Thuật cùng với Cử nhân Ngô Quang Huy, Cử nhân Nguyễn Hữu Đức họp bàn và cho người mời Phó bảng Vũ Giác tới cùng xây dựng kế hoạch kháng chiến chống Pháp.

Nguyễn Thiện Thuật rất quan tâm đến đồn điền của Vũ Giác ở Bình Xuyên và đề nghị mở rộng diện tích, lập các ấp ở chung quanh để khi xảy ra chiến tranh thì biến thành các đồn tiền tiêu, chú ý đến đồn lũy phòng thủ. Nếu căn cứ Bãi Sậy bị uy hiếp thì nghĩa quân dồn lên đó dựa vào thế hiểm trở của miền núi để kháng chiến. Nguyễn Thiện Thuật cũng đề nghị ông Phó bảng tiếp tục giữ bí mật việc mình đứng ra lập đồn điền mà giao cho người tin cẩn đảm nhiệm như trước đây để mật thám Pháp không nhòm ngó.

Trong thời gian căn cứ Bãi Sậy tồn tại suốt từ năm 1885 đến năm 1888, đồn điền ở Bình Xuyên đã cung cấp nhiều lương thực, tiền bạc cho nghĩa quân. Đây cũng là nơi trú chân của các thủ lĩnh nghĩa quân bị giặc Pháp truy nã, hoặc bị thương, bị bệnh đến điều trị.

Hoài bão lớn lao của ông chưa được thực hiện, thì năm 1888 ông bị bạo bệnh qua đời khi mới 50 tuổi. Song đồn điền của ông vẫn được các thủ hạ duy trì, tiếp tục làm nhiệm vụ hậu cần cho căn cứ Bãi Sậy.

ĐỀ VINH

Cho tới nay các tài liệu của Pháp để lại cũng như truyền thuyết về các tướng lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy chỉ biết Đề Vinh, quê ở vùng Ba Tổng, nay là các thôn Thanh Lâm, Cường Trang, An Thịnh huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.

Đề Vinh luôn luôn chiến đấu bên cạnh thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật và nhiều lần khi bị quân Pháp bao vây, ông đã dẫn đội cảm tử mở đường máu xông ra thu hút hỏa lực địch về phía mình.

Khi quân Pháp đánh chiếm thành Phả Lại đã huy động lực lượng 2 sư đoàn gồm 16.300 quân, 55 đại bác và nhiều pháo thuyền từ Hải Dương, sông Đuống bắn vào. Ngày 20-2- 1884 thành Phả Lại thất thủ, Nguyễn Thiện Thuật cùng Hai Kế, Đề Vinh hội quân với Hoàng Văn Hòe, Ba Báo hai lần tấn công Phả Lại. Đề Vinh dẫn đội quân cảm tử đi thuyền nhẹ lọt vào các căn cứ của Pháp nổ súng rồi từ trong đánh ra. Các tướng Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thiện Kế, Hoàng Văn Hòe đánh vào gây tổn thất lớn cho quân Pháp. Khi thành Bắc Ninh bị quân Pháp uy hiếp, Đề Vinh lại theo Nguyễn Thiện Thuật lên tham gia giữ thành Bắc Ninh. Thành Bắc Ninh lọt vào tay quân Pháp, ông lại theo Nguyễn Thiện Thuật lên giữ thành Hưng Hóa, thành Hưng Hóa mất, Đề Vinh lại theo Nguyễn Thiện Thuật đi đánh quân Pháp ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn.

Tháng 7/1885 vừa nhận được tin vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị, xuống chiếu Cần vương, Đề Vinh lập tức sang Long Châu đưa Nguyễn Thiện Thuật về căn cứ Tiên Động gặp Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích nhận chiếu Cần vương. Sau đó Đề Vinh lại cùng một số nghĩa quân hộ tống Nguyễn Thiện Thuật về căn cứ của Nguyễn Thiện Kế, Lãnh Giang ở vùng giáp ranh các tỉnh Hải Dương - Bắc Ninh - Hưng Yên bàn định kế hoạch khôi phục cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.

Sau lễ Tế cờ khởi nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân, Đề Vinh luôn luôn ở bên Nguyễn Thiện Thuật bàn việc quân cơ. Những khi đi tấn công quân Pháp, Đề Vinh vẫn là người đi đầu, ông còn về vùng Tam Tổng (ở Quế Võ - Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh) xây dựng làng chiến đấu.

Ngày 12/11/1888 Đề Vinh tham gia trận đánh Hoàng Cao Khải, Giám binh Louis Ney ở làng Liêu Trung.

Ngày 20/5/1889 Đề Vinh tấn công 30 vệ binh đóng ở đồn Hoàng Trạch, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu do cai Soler chỉ huy. Bọn chúng thua phải chạy về Bình Phú, tổng Khóa Nhu. Đề Vinh đuổi theo bao vây uy hiếp đồn Bình Phú. Quân Pháp đóng ở đồn Bần Yên Nhân và đồn Lực Điền phải vội vã cho quân đến cứu.

Trong suốt thời kỳ Nguyễn Thiện Kế chỉ huy nghĩa quân, Đề Vinh lại luôn luôn sát cánh bên ông, tổ chức nhiều trận đánh quân Pháp và phối hợp với Đề đốc Phạm Văn Ban, Lãnh Mỹ đánh các trận bảo vệ La Mát lần thứ nhất, lần thứ hai. Đề Vinh dẫn trên 70 quân rút qua làng Ngọc Trì, quân Pháp đuổi theo, Đề Vinh rút sang làng Ngô Phần (làng Ngò) cũng thuộc tổng Ngọc Trì. Quân Pháp đuổi theo bao vây làng Ngô Phần.

Nửa đêm trời mưa to, Đề Vinh liền dẫn nghĩa quân rút về làng Bích Khê cũng thuộc huyện Lang Tài chỉ cách Ngô Phần khoảng 4 cây số. Vài giờ sau, ngày 12/1/1892, quân Pháp lại kéo tới bao vây quanh làng, song nghĩa quân vẫn chiến đấu dũng cảm, quân Pháp không sao vào gần chiến lũy được. Mặc dù đang ốm nặng Đề Vinh vẫn quyết định nửa đêm đi ngược luồng đạn để thoát khỏi vòng vây. Nhưng trước luồng đạn dầy đặc của giặc phần lớn nghĩa quân đều hy sinh tới 30 người trong đó có Đề Vinh, Quan Bá Học.

ĐỐC TÍT

Đốc Tít còn có các tên khác như: Đốc Tích, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Đức Hiệu. Ông vốn dòng dõi họ Mạc, khi nhà Mạc thất thế, đổi sang họ Nguyễn nhưng vẫn thực hiện quy định “sinh Nguyễn, tử Mạc” nên khi ông qua đời, con cháu khấn là Mạc Đăng Tiết.

Đốc Tít sinh ngày 10 tháng chạp năm Mậu Thân (1851), quê làng Yên Lưu thượng, tổng Yên Lưu, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đốc Tít có công trừ giặc Khách ở các phủ Kiến Thụy, Cẩm Giàng được Nguyễn Thiện Thuật phong chức Hiệp quản tinh binh suất đội. Sau ông lại lập được công lớn, Thống tướng Hoàng Tá Viêm và Phó tướng Nguyễn Thiện Thuật dâng sớ về triều, vua Tự Đức phong ông là Đốc binh, chính tay Hoàng Tá Viêm trao sắc phong cho ông.

Triều đình Huế ký Hòa ước với Pháp, ra lệnh triệt binh, Nguyễn Thiện Thuật chống lệnh, bỏ chức về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Đốc Tít hăng hái tham gia vào đội quân kháng chiến này.

Sau trận đánh thành Hải Dương không thành, Đốc Tít theo Nguyễn Thiện Thuật lên đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn. Ông được Tổng đốc Lạng Sơn - Cao Bằng Lã Xuân Oai cấp cho một số vũ khí, ông trở về Kinh Môn (Hải Dương) dựa vào vùng hang động ở thôn Tử Lạc, xã Minh Tâm và các hang động ở dãy núi Thiên Sơn, Trại Sơn (nay Trại Sơn thuộc xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải phòng) xây dựng đồn lũy, trồng tre gai quanh Trại Sơn. Căn cứ này nằm ở chân núi Thiên Triều, xung quanh được nghĩa quân đào hào đắp lũy, đào hầm chông, đặt cạm bẫy, tổ chức các tuyến ném lao.

Trong năm tháng đầu năm 1889, nghĩa quân Đốc Tít gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại lớn, bộ chỉ huy quân sự Trung-Bắc Kỳ giao cho Thống sứ Bắc Kỳ phải tập trung binh lực tiêu diệt căn cứ Trại Sơn và Cù lao Hai Sông.

Báo chí Pháp cũng phải than phiền: “Đốc Tít ngày càng trở nên nguy hiểm. Mấy tháng trước thiếu tướng Nê gờ ri ê (De Négrier) đưa quân đến hỏi tội y, đã bị y làm vỡ kế hoạch. Một cuộc tiễu phạt mới được tổ chức, kết quả cũng chẳng tốt lành”.

Tuy phá được căn cứ Hai Sông buộc Đốc Tít và một số thủ lính khác phải ra hàng nhưng quân Pháp cũng bị thiệt hại khá lớn, tiêu tốn từ 600 đồng đến 7000 đồng. Giám binh Laune bị thương nặng, 2 viên quản bị chết, trên 100 lính bị chết bị thương.

Bọn xâm lược Pháp rút kinh nghiệm Đội Văn ra hàng vào tháng 3/1889 sau đó lại trở lại đánh Pháp, nên đã quyết định đày ông đi biệt xứ.

Đốc Tít mất ngày 19/12/1916. Con gái ông xin đem thi hài cha về đến Kinh Môn vào ngày 29/12/1917 (tức ngày 16 tháng 1 năm Đinh Tỵ).

Hàng nghìn nhân dân phủ Kinh Môn đã đi đón linh cữu của ông. ¤ng được táng tại nghĩa trang của dòng họ Mạc tại xã Yên Lưu Thượng (thị trấn Kinh Môn) tỉnh Hải Dương.

NGUYỄN TRUNG LAN

Nguyễn Trung Lan sinh trưởng trong một gia đình ở thôn Đống Liêu, xã Hạ Trường, tổng Hạ Vĩnh, huyện Thanh Hà, sau thuộc thôn Hà Trường, xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, nay là thị trấn Thanh Hà.

Nhiệt liệt hưởng ứng phong trào mộ quân đánh Pháp của Nguyễn Thiện Thuật, năm anh em ông cùng chiêu mộ tráng đinh trong vùng thành lập đội nghĩa quân, các ông đã dấy quân ở chùa Minh Khánh và thế lực ngày càng mạnh. Nghĩa quân do các ông chỉ huy đã đánh bại nhiều trận càn quét của giặc Pháp vào căn cứ Phù Tình.

Ngày 12/12/1887, Nguyễn Trung Lan đem quân tập kích chợ Hệ, giết chánh tổng Hạ Vĩnh Lê Văn San, tay sai đắc lực của giặc Pháp điên cuồng đánh phá nghĩa quân. Ít ngày sau, Lê Văn Cơ, Lê Văn Thức là con trai tên San cùng Tuần Tiếu đưa lính về đánh căn cứ Phù Tình, bị nghĩa quân đánh cho đại bại phải tháo chạy. Trung Lan liên lạc được với nghĩa quân Bãi Sậy và trở thành bộ tướng của Nguyễn Thiện Thuật.
Trung Lan được nghĩa quân Bãi Sậy tăng viện, ngày 25 tháng chạp năm Đinh Hợi (1887) chia làm hai toán, một toán tiến theo đường sông núp dưới thuyền buôn vàng mã từ Hải Dương vượt qua cống Bá Hoàng vượt sông Hệ đổ quân lên vườn Vạn (Hạ Vĩnh) một toán đổ bộ qua Đò Bầu tiến vào chợ Hệ. Trung Lan nhận thấy vị trí xóm Liêu không có lợi liền rút sang thôn Phù Tình (nay thuộc xã Trường Thành) lập căn cứ. Chỉ trong một đêm nghĩa quân và nhân dân đã xây dựng xong bản doanh, đắp luỹ chiến đấu.

Trên toàn cục, cuối năm Mậu Tý (1888) cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã suy yếu. Nghĩa quân Trung Lan chỉ giữ được thôn Phù Tình, một phần thôn Nhan Bầu và một phần thôn Tiên Kiều.

Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 10 năm Mậu Tý (11/1888), Tuần Tiếu nhận lệnh của công sứ Pháp tỉnh Hải Dương và Tổng đốc Hoàng Cao Khải kiêm Tiễu phủ sứ đưa quân Pháp tấn công nghĩa quân Trung Lan, Đốc Đàm ở căn cứ Phù Tình. Đây là trận thứ 9 quân Pháp đánh vào Phù Tình. Sau tám trận thất bại nặng nề, lần này quân Pháp điều động cả lính lê dương, lính khố xanh, cảnh sát, lính thuỷ đánh bộ, công binh do tên Lê Văn Cơ con trai chánh tổng Lê Văn San dẫn đường. Bọn chúng từ Hải Dương đi trên những ca nô đổ bộ một toán quân xuống bến đò Mũi Gươm, qua thôn Ngọc Điểm tiến vào phía Tây bắc Phù Tình. Tuần Tiếu cùng bọn lính đồn trú ở đồn Đò Gùa, đồn Sòi tiến vào phía đông bắc Phù Tình.

Về phía nghĩa quân, sau tám trận chiến thắng, tuy lực lượng bị giảm sút, chưa kịp bổ sung, vẫn cùng nhân dân rào luỹ tre cho dầy, đắp luỹ đất cao thêm 1 mét, đào hào sâu thêm, cắm thêm chông, tổ chức canh gác nghiêm mật. Quân Pháp vừa nổ súng, Trung Lan đã chỉ huy nghĩa quân và cả làng đánh giặc, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công ào ạt của chúng. Nhiều tên bị bắn chết, bị sập hầm chông bị chém xả vai, máu giặc loang đỏ ngoài luỹ tre, bờ hào.

Nhiều thủ lĩnh và nghĩa quân bị bắt, bị giết. Trung Lan chạy sang vùng An Lão, Kiến An, sau cũng bị bắt bị giết.

LƯU KỲ

Bố Lưu Kỳ là người Hoa, mẹ là người Việt, quê ở huyện Lục Ngạn thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông là người giỏi võ nghệ, giao du rộng rãi trong giới quan lại người Việt và người Hoa. Ông có ý chí căm thù giặc Pháp.

Khi giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873), Lưu Kỳ đã tập hợp các chiến hữu ở vùng Lục Ngạn, Đông Triều bàn kế đánh Pháp. Trong số các thủ lĩnh người Hoa, Nguyễn Thiện Thuật đặc biệt quan tâm đến Lưu Kỳ, ông đã đến Lục Ngạn bàn bạc với Lưu Kỳ về việc thành lập một đội quân hỗn hợp người Việt, người Hoa, người dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc thành một đạo quân để chiến đấu chống Pháp ở địa bàn quan trọng này. Nguyễn Thiện Thuật biết rõ mối quan hệ mật thiết giữa Lưu Kỳ với các quan chức hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và các thương nhân Trung Hoa nên đã bàn với ông thiết lập một đường dây mua vũ khí từ Hồng Kông, Quảng Đông, Quảng Tây về vùng biên giới Móng Cái - Tiên Yên - Lộc Bình rồi theo đường mòn vùng rừng núi đưa về Lục Ngạn để trang bị cho nghĩa quân. Nghĩa quân Lưu Kỳ là những người đã từng quen với chiến trận, biết võ thuật, thông thạo vùng rừng núi nên ngay từ khi mới thành lập đã tổ chức các trận tấn công quân Pháp.

Nhờ có nguồn súng mua từ Trung Quốc, đội vũ trang của ông được trang bị nhiều súng bắn nhanh. Địa bàn hoạt động của ông là vùng Đông Triều, Lục Ngạn. Trong đội quân của ông có nhiều tướng lĩnh xuất sắc như Hoàng Tài Ngạn, Hoàng Thái Nhân, Đề Kỳ, Đề đốc Quý... Trong buổi đầu xây dựng vũ trang Nguyễn Thiện Thuật đã cử các tướng lĩnh tới giúp Lưu Kỳ biên chế đơn vị, huấn luyện quân sự cho tân binh, giúp đỡ lương thực. Đội quân của Lưu Kỳ được tổ chức rất chặt chẽ, có kỷ luật, thiện chiến. Bọn xâm lược đã gán ghép cho đội quân của ông bao điều xấu xa như thổ phỉ, cướp, buôn đàn bà, con gái... nhưng vẫn phải thừa nhận: “Lưu Kỳ là một người có nghị lực và rất thông minh, đã làm cho đồng đội tin tưởng tuyệt đối” và “Quân của ông là đội quân có kỷ luật và thiện chiến, thông thạo sở trường đánh du kích”.

Nghĩa quân Lưu Kỳ hoạt động mạnh mẽ liên tục tấn công quân Pháp ở Lục Ngạn, Đông Triều. Ông đã xây dựng một số cứ điểm ở vùng Bảo Đài, Đông Triều, phía Đông tỉnh Bắc Giang. Hoạt động của Lưu Kỳ mạnh mẽ đến mức trong một bức điện của Trương Chí Đông (quan lại Trung Hoa) đề ngày 15 tháng 3 năm Quang Tự (nhà Thanh Trung Quốc) năm thứ 11 (1885) nêu rõ: “Vùng Đông bắc (Việt Nam) có hàng vạn nghĩa quân hoạt động” gửi cho nha môn tổng lý các quốc sự vụ ngày 10/8 năm Quang Tự (nhà Thanh) thứ 11 (1885) thừa nhận “Lưu Kỳ là thủ lĩnh đội nghĩa quân mạnh nhất vùng Đông Bắc (Việt Nam)”. Mã Trung Thừa (quan lại Trung Quốc) cũng xác nhận rằng: “Suốt năm này sang năm khác bọn du phỉ náu đất Việt luôn ở những xứ giáp nước ta (chỉ Trung Quốc)”.

Nhận được chiếu Cần vương, Nguyễn Thiện Thuật từ Long Châu (Trung Quốc) về nước. Lưu Kỳ được phong chức Đề đốc.

Tháng 9/1885 Lưu Kỳ nhận lệnh của Nguyễn Thiện Thuật về Văn chỉ Bình Dân dự cuộc họp tướng lĩnh và Tế cờ khởi nghĩa, Lưu Kỳ chính thức trở thành một thủ lĩnh xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chiến đấu dưới ngọn cờ Cần vương. Với danh nghĩa Cần vương cứu nước bảo vệ vua Hàm Nghi, Lưu Kỳ đã tập hợp thêm được nhiều người dân tộc Hoa và dân tộc thiểu số dân tộc Việt ở vùng Đông bắc và cả quân lính, quan lại trong quân đội Pháp và Nam Triều vào hàng ngũ kháng chiến. Một số toán tàn dư của các phong trào nông dân khởi nghĩa ở Trong Quốc như Thiên Địa hội, Thái Bình Thiên quốc bị quân đội nhà Thanh đánh đuổi tràn sang Việt Nam cũng được ông thu nạp vào nghĩa quân. Được sự giúp đỡ tích cực của các thổ ty và nhân dân các dân tộc miền núi tỉnh Quảng Yên, tỉnh Lạng Sơn, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hải Dương, Lưu Kỳ đã xây dựng được đội quân mạnh, và có đủ lương thực cho đội quân đông đảo, Lưu Kỳ đã nhanh chóng tổ chức được đường dây mua, vận chuyển vũ khí từ đất Quảng Đông, Quảng Tây vượt qua đường biên vào hai tỉnh Quảng Yên, Lạng Sơn rồi từ đó chuyển về Lục Ngạn để cung cấp cho nghĩa quân. Lưu Kỳ còn tổ chức một đội quân hộ tống được trang bị mạnh để tiêu diệt các toán quân Pháp, thổ phỉ chặn đường cướp vũ khí.

Từ khi Nguyễn Thiện Thuật về nước, Lưu Kỳ tham gia vào cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, thì thế lực của Lưu Kỳ ngày càng lớn mạnh, quân Pháp phải thừa nhận: “Mặc dù khác dân tộc, khác khuynh hướng, hai người thủ lĩnh (Nguyễn Thiện Thuật và Lưu Kỳ) đã phối hợp chặt chẽ trong mọi hành động” và “Ông có mối liên hệ rất mật thiết với Tán Thuật và đã được Tán Thuật phong chức Đề đốc”.

Cuối tháng 7 đầu tháng 8/1889 quân Pháp liên tiếp mở chiến dịch lớn tấn công vào căn cứ của Lưu song đều bị bẻ gẫy hoàn toàn.

Để đối phó với nghĩa quân Lưu Kỳ từng gây bao nỗi kinh hoàng cho quân Pháp, bộ Chỉ huy quân sự Pháp ở Trung- Bắc Kỳ phải thiết lập hàng loạt đồn bốt ở Chi Ngãi, Lục Nam, Lầm, Biển Động, Vi Loại, Uông Bí, Đông Triều, đưa sáu pháo thuyền ngày đêm tuần tra trên sông Lục Nam để cắt đứt đường tiếp tế của nghĩa quân và mở nhiều cuộc hành quân càn quét. Lưu Kỳ chuyển địa bàn hoạt động về Đông Triều.

Ngày 9/7/1892 Nghĩa quân Lưu Kỳ lại đánh một trận lớn ở Bắc Lệ do Lưu Kỳ trực tiếp chỉ huy, có 1 8 xe chở vũ khí và một đạo quân hộ vệ do bốn viên sĩ quan chỉ huy: thiếu tá Bonnard, đại uý Sác păng chie (Charpentier) trung uý Van tông (Valton) và bác sĩ quân y Mơnie (Menier). Ngay loạt đạn đầu tên thiếu tá và tên đại uý đã tử trận. Trời còn sớm, sương mù bao phủ núi đồi và địch không ngờ Lưu Kỳ lại dám phục kích ở nay một địa điểm cũ và ngay sau khi chúng xuất phát lên đường. Trận đánh diễn ra ác liệt địch gần như hoàn toàn bị tiêu diệt, 2 sĩ quan, 30 lính bị giết. Nhưng không may Lưu Kỳ cũng trúng đạn hy sinh trong khi chỉ huy trận đánh.

ĐỀ YÊM

Đề Yêm tên thật là Đinh Văn Nghiêm, sinh năm 1858 trong một gia đình điền chủ, nhà có tới gần 60 mẫu ruộng ở làng Đồng Lạc, tổng Kim Bảng, phủ Lỵ Nhân, tỉnh Hà Nội, nay thuộc xã Đồng Hoá, huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. (Địa chí Hà Nam viết tên thật của ông là Đinh Quang Lý - Thắng cảnh Hương Sơn của Trần Lê Văn, Công ty phát hành sách Hà Tây xuất bản tháng 3/1999 viết chỉ huy cánh quân Bãi Sậy ở Hương Sơn là Đinh Vàn Thuận, ông còn có tên là Đề Yêm).

Đinh Văn Nghiêm tuy là lý trưởng, nhưng có lòng bao dung người nghèo, căm thù giặc Pháp cướp nước cùng bọn vua quan bán nước. Vì vậy, ngay từ năm 1883, khi Đổng Quế phát động cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy ở Khoái Châu, ông đã bí mật giúp đỡ lương thực. Đầu năm 1887 ông tập hợp những người bất mãn với bọn cầm quyền ở các xã Hoàng Tây, Văn Xá, Nhật Tân đi cướp thóc của nhà giàu chia cho dân đói. Ông đưa toàn bộ tiền thuế thu được ủng hộ nghĩa quân Bãi Sậy. Cuối năm 1887, tri phủ Phan Đình Hoè phát mại tài sản của ông để bù vào tiền thuế.

Đinh Văn Nghiêm cùng Tắc Vy vượt sông Hồng sang Khoái Châu gia nhập nghĩa quân Bãi Sậy. Chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật đổi tên ông là Yêm. Ông chiến đấu dũng cảm, mưu trí, lập nhiều chiến công, Nguyễn Thiện Thuật phong ông là Đề đốc quân vụ, quân sĩ gọi ông là Đề Yêm.
Cuối năm 1888, Nguyễn Thiện Thuật giao cho ông về xây dựng căn cứ ở Hà Nam. Đề Yêm xây dựng cơ sở thông tin liên lạc, trú quân ở các xã ven sông Hồng thuộc hai huyện Duy Tiên, Lý Nhân. Ông xây dựng tổng Kim Bảng vùng núi đá quê ông thành một cứ điểm quân sự vững chắc.

Tháng 9 năm 1889, quân Pháp liên tục tấn công Đề Yêm. Ông chuyển căn cứ kháng chiến đến chùa Tuyết Sơn nay thuộc xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây. Đề Yêm giao cho Thượng toạ Thích Thanh Quyết cùng Lãnh Cường xây dựng đồn tiền tiêu ở chùa Bảo Đài. Từ khi xây dựng căn cứ Tuyết Sơn, Bảo Đài, Đề Yêm luôn luôn xuất kích, tấn công các đồn binh Pháp, chặn đứng nhiều cuộc càn quét của chúng.
Sau trận đánh ngày 14/10/1891 nghĩa quân Đề Yêm hao tổn, vì không còn căn cứ, đạn dược, lương thực cũng bị quân Pháp cướp và phá huỷ. Đề Yêm cùng hoà thượng Thích Thanh Quyết, mấy nghĩa quân tâm phúc lên Yên Thế. Ông hy sinh trong một trận đánh ác liệt ở đồn Phồn Xương, Yên Thế vào đầu năm 1912.

Nhận xét Yề Đề Yêm, sách Lịch sử Hà Nam Ninh tập II viết: “Đề Yêm tham gia cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật được phong Đề đốc. Năm 1889 đề Yêm cùng Tắc Vy đem quân vượt sông Hồng về Đồng Văn (Duy Tiên), Chợ Đại (Kim Bảng), xây dựng phòng tuyến chống Pháp, sau đó mở rộng địa bàn sang chợ Dầu, Tuyết Sơn (Mỹ Đức, Hà Đông) lấy Tuyết Sơn làm căn cứ. Nghĩa quân đã đánh những trận lớn ở Quang Thừa, Mã Não (huyện Kim Bảng). Nhiều cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra ở các huyện Thanh Liêm, Nam Xang và vùng núi Hà Đông, trong trận làng Đùng (Thanh Liêm) cả làng bị giặc giết sạch. Nghĩa quân chiến đấu anh dũng, sau phải rút lui vì tương quan lực lượng giữa địch và ta quá chênh lệch”.

LÃNH MẬU

Lãnh Mậu tên thực là Hoàng Văn Mậu, quê gốc ở làng Văn Kỵ, nay là xã Bối Khê, huyện Thường Tín, gần Vân Đình tỉnh Hà Tây. Sau tổ tiên về lập nghiệp ở xã Sài Trang, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương nay là thôn Ông Tố, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên.

Năm 1883, Hoàng Văn Mậu 35 tuổi cũng là giặc Pháp hạ thành Hưng Yên, Hải Dương lần thứ hai, triều đình Huế ký hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh, Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật chống lệnh, trao trả quan tước, về Chí Linh, Đông Triều xây dựng căn cứ chống Pháp. Cả huyện Mỹ Hào quê hương ông nhiệt liệt hưởng ứng. Ông đến chùa Xuân Nhân, xã Xuân Dục tổng Bạch Sam huyện Mỹ Hào, nơi đây vừa là quê hương và vừa là căn cứ của Tán tương quân vụ xin tòng quân. Rất nhiều người ở các xã trong tổng Sài Trang gia nhập nghĩa quân. Sau vụ ông tham gia giết tên cường hào ở thôn Đỗ Xá, cùng xã Sài Trang theo Tây thì Hoàng Văn Mậu cùng vợ và hai con gái là Từ Huỳnh, Từ Vát xuống làng Nguyễn Xá cùng tổng, vì dưới đó ông cũng có họ hàng. Một lý do nữa là vùng Nguyễn Xá, Tam Trạch có lực lượng nghĩa quân rất mạnh, do Đốc binh Vũ Văn Đồng quê ở Tam Trạch chỉ huy.

Từ khi xuống Nguyễn Xá, ông Mậu tổ chức nghĩa quân và nhân dân xây dựng làng chiến đấu. Ông trở thành trợ thủ đắc lực của Đốc binh Vũ Văn Đồng quê ở Tam Trạch. Đình Nguyễn Xá là nơi Hoàng Văn Mậu thường xuyên tập trung, huấn luyện võ nghệ cho nghĩa quân. Đền Cương ở cánh đồng gần làng hồi đó còn là rừng núi, rừng sậy, cây cối rậm rạp um tùm là nơi ông cùng các thủ lĩnh họp bàn việc quân cơ. Cây đề ở Tam Tầng nằm trên trục đường đất Cầu Treo- Cầu Hầu là trạm gác tiền tiêu của nghĩa quân. Do trong chiến đấu Hoàng Văn Mậu Mậu lập được nhiều chiến công, ông được phong là Lãnh binh (dân làng thường gọi ông là Lãnh Mậu).

Tháng 3 năm 1885 khi Nguyễn Thiện Thuật sang Long Châu (Trung Quốc) thì Đốc Đồng và Lãnh Mậu gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Đổng quân vụ Đinh Gia Quế chỉ huy.

Tháng 7 năm 1885, Đổng quân vụ Đinh Gia Quế ốm, dưỡng bệnh ở làng Dương Trạch nằm trong căn cứ Bãi Sậy, thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã đưa cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lên quy mô rộng lớn, chủ động tấn công quân Pháp ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên, đột nhập vào một số thành phố lớn...

Lãnh Mậu đã chỉ huy nghĩa quân đánh quân Pháp nhiều trận như trận đánh quân Pháp càn vào vùng Tam Trạch. Ông còn phối hợp với nghĩa quân ở Bối Khê, Ân Thi do Đề Ban chỉ huy tấn công đồn Mai Đường ở xã Đỗ Mỹ, trên đường 38 ở huyện Ân Thi. Lãnh Mậu đã giết Đô Tép quê ở xã Thuỵ Trang (nay là xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ) làm phản khi hắn từ Sặt theo bờ sông Hoan Ái về Lực Điền.

Lãnh Mậu cũng đã tham gia trận đánh lớn ngày 12/11/1888  tại Lưu Trung do đích thân Nguyễn Thiện Thuật và nhiều tướng lĩnh chỉ huy, giết chết tên Louis Ney, bang tá Nguyễn Hữu Hào cùng 31 tên Pháp, suýt bắt được Hoàng Cao Khải.

Sau trận đánh này Lãnh Mậu bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở vực Nghĩa Xuyên gần xã Tam Trạch và Nguyễn Xá vào năm 1889. Ông mất khi vừa tròn 40 tuổi.

CỬ BÌNH

Cử Bình ( không rõ họ tên thật) quê ở làng Liễu Dịch, huyện An Lão, phủ Kiến An, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ cử nhân dưới triều Nguyễn, nhưng chán ghét triều đình đầu hàng giặc, ông không ra làm quan.

Cử Bình cùng với Nguyễn Văn Tư khởi nghĩa, lập căn cứ ở chùa Hoa Long, núi Voi (huyện An Lão, phủ Kiến An) rồi liên lạc với Tán Thuật khởi nghĩa ở huyện Đông Triều, Chí Linh với Đốc Tít, khởi nghĩa ở Trại Sơn, cù lao Hai Sông (Thuỷ Nguyên, Hải Phòng).

Cử Bình giữ cương vị chỉ huy trưởng, Nguyễn Văn Tư giữ cương vị phó chỉ huy. Năm 1884 nghĩa quân Cử Bình, Nguyễn Văn Tư có khi độc lập tác chiến có khi phối hợp với các lực lượng nghĩa quân khác liên tục đánh phá giao thông đường thủy, đường bộ của địch.

Năm 1885 nghĩa quân Cử Bình hoạt động chống Pháp ở các huyện An Lão, Kiến Thuỵ, Tứ Kỳ. Theo một tài liệu của Pháp thì Cử Bình là một tướng của Đề đốc Tạ Hiện. Tạ Hiện có 5 dinh là: trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân. Cử Bình chỉ huy hậu quân. Piglowski trong sách Histoire de la garde indigène de l’An Nam, tập I, Hà Nội. Les province du Tonkin; Hưng Yên Reme indochinois n08, 30/10/1905 cũng công nhận Cử Bình là Hậu quân của Đề Hiện.

Từ ngày 2/2/1887 Tạ Hiện bị quân Pháp bắt và giết thì Cử Bình phối hợp với Tiền quân đô thống Phạm Văn Đức, Lãnh Pha hoạt động ở các cửa sông Thái Bình, Văn Úc, các đảo Đồ Sơn, Cát Bà.

Tháng 12/1888, Cử Bình và Lãnh Tư chỉ huy nghĩa quân tấn công và tiêu diệt đồn núi Voi. Trận đánh kéo dài suốt từ 4 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Về trận này, Minh Thành viết trong bài: “Về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy” đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử như sau: “Vào tháng 12/1888, nghĩa quân đã tấn công đồn Voi (Hải Dương) suốt từ 4 giờ sáng đến 4 giờ chiều”.

Cũng về trận đánh này Lịch sử đấu tranh vũ trang huyện An Lão viết như sau: “Tại núi Voi, nghĩa quân do Lãnh Tư (Khúc Giản), Cử Bình (Liễu Dịch) chỉ huy tiến công Tượng Sơn (Núi Voi) dùng hoả công đốt cháy đồn giặc, giết chết tên quan Ba chỉ huy đồn”.

Giặc Pháp đem quân đánh Cử Bình nhiều lần không được, chúng sai bọn cha cố phản động lừa bắt ông rồi xử tử hình. Triều đình nhà Nguyễn hùa theo giặc Pháp xoá tên ông trong danh sách cử nhân.

Sau khi xử tử hình Cử Bình, thực dân Pháp đã san bằng khuôn viên chùa Long Hoa căn cứ của nghĩa quân.

Ngày 28/11/1996, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã ký Quyết định số 666 QĐ/UB về việc đổi tên, đặt tên một số đường phố trên địa bàn quận Hồng Bàng. Trong đó đường hiện mang số 24 (a) dài 500 mét được đặt tên là phố Cử Bình.

LÃNH ĐẬU

Lãnh Đậu ( không rõ tên họ thật) quê ở huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh tham gia cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo từ năm 1883. Lãnh Đậu cùng một số người ở huyện Mỹ Hào đã tới Chí Linh, Đông Triều tham gia nghĩa quân. Ông đã theo Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thiện Kế về hạ thành Hải Dương, song việc không thành, nghĩa quân phải rút lui về Chí Linh, Đông Triều. Sau Tán Thuật cử Lãnh Đậu về xây dựng căn cứ chống Pháp ở các xã Vân An, Sài Phi, Vân Cốc, nay thuộc xã Minh Đức, huyện Mỹ Hào. Với sự nhiệt tình của nhân dân, hưởng ứng lời kêu gọi chống Pháp của Nguyễn Thiện Thuật, đông đảo trai tráng, cả người già, phụ nữ cũng gia nhập nghĩa quân. Nhờ sự ủng hộ nhiệt tình ủng hộ của nhân dân, quân của Lãnh Đậu có tới hơn 200 người nhưng chưa bao giờ bị thiếu lương thực, thực phẩm.

Lãnh Đậu xây dựng các xã Vân An, Sài Phi, Phong Cốc thành những làng chiến đấu, trong hào, ngoài luỹ tre dầy đặc, giặc Pháp và bọn tay sai Việt gian đem quân đánh phá nhiều lần không được. Lãnh Đậu chỉ huy đánh nhiều trận lớn như trận Cầu Đồng ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương, nghĩa quân thắng trận về mổ lợn ăn mừng thì bị bọn Việt gian đưa đường quây kín chung quanh làng rồi tấn công. Nghĩa quân chiến đấu suốt từ gà gáy đến tận ba giờ chiều thì bị giặc Pháp vây chặt nghĩa quân trong một xóm nhỏ, tình thế vô cùng nguy hiểm. Lãnh Đậu cho quấn vải tẩm dầu lên mình hai con trâu, đốt lửa, đánh trâu xông vào bọn giặc. Bọn giặc kinh hoàng vứt cả súng tháo chạy, nghĩa quân thừa cơ rút lui an toàn

Quân Pháp nhiều lần tấn công vào các làng Vân An, Sài Phi, Phong Cốc đều bị Lãnh Đậu và vợ chồng Lãnh Lường đón đánh từ xa khiến chúng phải tháo chạy. Trong một trận đánh khác, nghĩa quân chỉ có 12 người phục kích ở chợ Đường Cái đã đánh cho một toán quân Pháp đi tuần thua chạy toán loạn.

Năm 1892 phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã, Lãnh Đậu đem 7 nghĩa quân về đóng ở Vũ Xá. Quân Pháp đưa quân đến vây bắt, Lãnh Đậu chỉ huy anh em chiến đấu quyết liệt. Cuối cùng thoát khỏi vòng vây. Ông vừa chạy khỏi làng thì bị quân Pháp đến tăng viện đón đường bắn chết. Giặc Pháp rất căm Lãnh Đậu người đã đánh chúng nhiều trận, giết lính Pháp, lính người Việt đánh thuê cho Pháp. Chúng trả thù ông bằng cách chặt đầu ông cắm cọc bêu ở cổng đồn, cắt hẳn một tiểu đội lính canh gác, còn xác ném xuống sông.

Được nhân dân chỉ đường, Lãnh Lường giao cho vợ là bà Phạm Thị Ngảnh chỉ huy một số nghĩa quân đi mò xác Lãnh Đậu còn mình chỉ huy nghĩa quân đánh đồn và cướp đầu Lãnh Đậu đưa về an táng.

ĐỀ QUÝ

Đề Quý ( không rõ tên thật) là lính thị vệ của kinh đô Huế có công được thăng chức tuần thành, nên còn gọi là Tuần Quý. Kinh thành Huế thất thủ (tháng 7/1885) ông về Bắc.

Sau đó ông theo Tán Thuật được phong chức Đề đốc, nên còn gọi là Đề Quý, Cẩm Quý, Thạnh Quý. Ông được phân công chỉ huy nghĩa quân vùng giữa Hải Dương - Hải Phòng. Đề Quý nổi tiếng gan dạ, ra trận thường đi trước, tính nóng như lửa. Nhiều lần chỉ một mình ông đánh thắng cả một toán quân Pháp. Ông chỉ huy nhiều trận đánh xuất sắc, có công lớn. Lính Pháp, lính Nam nghe tiếng ông là kinh sợ hết hồn. Quân Pháp dùng chức tước, tiền bạc mua chuộc ông song không được.

Tháng 1/1887, Lãnh Giang, Đốc Khoát, Đội Văn, Đề Quý phối hợp với nghĩa quân Ba Báo thành một đạo quân lớn tấn công các hạm tàu, xà lúc của quân Pháp vận chuyển quân lính, khí tài, lương thực, thư từ trên sông Luộc. Kết quả ba chiếc xà lúc trên sông Luộc bị tấn công, một chiếc tất cả thủy thủ sợ hãi bỏ trốn, nghĩa quân trèo xuồng ra thu hết vũ khí, quân trang, lương thực, đốt phá xà lúc.

Tháng 3/1889, phân đội Đống Mối (Văn Lâm) nhận được tin báo là toán của Đề Quý đang đồn trú ở các hang thuộc hai hòn đảo nhỏ thuộc huyện Nghiêu Phong gần đảo Cát Bà. Tin này do Bang Huy còn gọi là Lang Biên thuộc toán của Quý phản bội báo cho Pháp. Nhưng Hoàng Cao Khải đang đuổi theo quân của ông Thuật đang hoạt động ở tỉnh Phúc Yên, toán quân của Ba Phi ở Gia Lâm, Văn Giang, nên chưa đem quân đi đánh quân của Đề Quý được.

Đề Quý đang hoạt động ở vùng biển Ninh Hải (Hải Phòng) và các đảo thì tháng năm ông lại đột ngột chuyển địa bàn hoạt động ở Khoái Châu để tránh trận càn lớn của thuỷ quân Pháp ở các đảo.

Ngày 20/5/1889 viên Chương ấn Hưng Yêu báo cho người Pháp ở Hưng Yên biết một toán 200 nghĩa quân do Đốc Sung, Đề Quý, Lãnh Mỹ chỉ huy tấn công 30 lính vệ binh đóng ở Hoàng Trạch tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu do cai Soler chỉ huy lúc đang đi tuần tra, thám báo. Bọn vệ binh thua phải rút chạy về Bình Phú, tổng Khoá Nhu. Mặc dù đã có viện binh viên phó quản chỉ huy từ đồn Lực Điền, tổng Tử Dương, huyện Yên Mỹ đến cứu viện. Đồn Bần Yên Nhân cho một toán thám báo đông tới 100 quân theo dõi các hoạt động của nghĩa quân.

Khi trận càn lớn của thuỷ quân, hải quân Pháp chấm dứt ở các đảo thì Đề Quý, Lãnh Hai, Lãnh Nhan, Tuấn Huế lại trở về hoạt động ở vùng Tứ Kỳ, Thanh Hà, Tiên Lãng, vùng cửa sông và các đảo.

Đề Quý cũng đã trở lại chiến trường, tổ chức lại đội ngũ, trang bị thêm vũ khí đánh phá các huyện Tứ Kỳ, Thanh Hà, Kim Thành. Trên địa bàn có các huyện khác như huyện Năng Yên, Thanh Lâm lại xuất hiện các đạo quân khá mạnh, sẵn sàng chiến đấu.

Trước sự xuất hiện của một lực lượng nghĩa quân hùng mạnh và liên kết nhau chặt chẽ dưới sự chỉ huy chung của vị tổng chỉ huy Nguyễn Thiện Kế, còn phía quân Pháp ở Hải Dương thì lực lượng Bảo an binh từ 800 đã bị thương vong trong các trận chiến đấu, do bỏ ngũ nay chỉ còn lại 450 và không có hy vọng gì tăng lên được.

Trước tình hình không có lợi đó, Toà sứ Hải Dương chủ trương và được bộ Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp ở Trung- Bắc Kỳ, Phủ Thống sứ Bắc Kỳ chấp nhận đã thành lập một lực lượng cảnh sát đặc biệt dưới danh hiệu “lính cơ”. Lực lượng cảnh sát này thi hành mệnh lệnh trực tiếp của các quan phủ huyện được trang bị súng bắn nhanh, cho phép các quan phủ huyện hoạt động trong bất cứ thời điểm nào chống bọn phá rối trật tự theo sáng kiến và ý thức trách nhiệm của chính mình. Lực lượng này được bổ sung hoàn chỉnh thêm bằng sáng kiến tổ chức một lực lượng tuần tra và thám báo do hào mục các thôn xã đảm nhiệm bằng sự thiết lập hàng loạt những lô cốt trên các ngả đường giao thông quan trọng. Những lô cốt này dùng làm nơi đồn trú tạm thời cho những đạo quân thường xuyên di động trong tỉnh từ chỗ này qua chỗ khác làm cho tất cả dải đất của tỉnh này đều nằm trong sự giám sát và cũng từ đó có sự tuần tra của hào mục càng tăng thêm phần hiệu lực.

Sự hoạt động mạnh mẽ của Đề Quý khiến cho công sứ Hải Dương và Hoàng Cao Khải đối phó bằng các cuộc hành quân không tiêu diệt được ông, đã tìm cách mua chuộc, hắn sai viên quản Vinciliomi trước kia từng có quan hệ với Đề Quý cho người đem thư của hắn tới dụ dỗ Đề Quý ra hàng. Đề Quý khảng khái trả lời: “Tôi hành động trên vì nước, vì vua, dưới vì chủ soái tôi. Còn tôi đã quyết dù có chết cũng không thay đổi”.

NGUYỄN HỮU ĐỨC

Nguyễn Hữu Đức còn gọi là Nguyễn Đức, người làng Mễ Xá tổng Nhân Vũ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông đậu cử nhân nhưng không ra làm quan ở nhà dạy học. ngấm ngầm nuôi chí đánh Pháp.

Ngày 28/3/1883 thành Hưng Yên bị quân Pháp hạ một cách dễ dàng vì quan quân nhà Nguyễn ươn hèn không dám đánh trả. Đinh Gia Quế, đang làm Chánh tuần huyện Đông Yên căm thù giặc Pháp và quan lại Triều đình Huế bỏ quan chuẩn bị khởi nghĩa đã đến bàn với ông, được ông nhất trí và tham gia ngay từ đầu. Nguyễn Hữu Đức đã vận động con cháu, môn sinh và trai tráng trong vùng gia nhập nghĩa quân.

Tháng 7/1885 Nguyễn Thiện Thuật đang ở Long Châu (Trung Quốc) nhận được Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi đã trở về nước, về vùng giáp ranh Hải Dương - Hưng Yên - Bắc Ninh mời ông và cử nhân Ngô Quang Huy đến bàn cách khôi phục cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Ông được Nguyễn Thiện Thuật giao cho phụ trách miền Nam Hưng Yên và làm dâng sớ lên vua Hàm Nghi phong ông là Tán tương quân vụ. Vì thế nghĩa quân và nhân dân gọi ông là ông “Tán Nam”. Sỹ phu Bắc Kỳ quý tài năng, đức độ của ông đã tôn ông là một trong “Tứ Tán Bắc Kỳ”. (Đó là: Tán Bắc - Nguyễn Cao, tán lý quân vụ Thái Nguyên, còn gọi là ông Tán Cách Bi, vì ông quê ở làng Cách Bi, tỉnh Bắc Ninh; Tán Đông là Nguyễn Thiện Thuật; Tán Nam là Nguyễn Hữu Đức; Tán Tây là Nguyễn Ái, tự Trắc Phong, đỗ tiến sĩ. Mối quan hệ giữa bốn ông Tán như sau: con gái Nguyễn Thiện Thuật là Nguyễn Thị Trúc lấy con trai ông Nguyên Hữu Đức là Nguyễn Hữu Hạnh, cháu gái của Nguyễn Thiện Thuật (Nguyễn Thị Vân, húy Hợi) gả cho Nguyễn Cương, điệt tôn của Nguyễn Cao, cháu Nguyễn Ái gả cho cháu Nguyễn Thiện Thuật (cháu gọi Nguyễn Thiện Kế là ông nội).

Nguyễn Hữu Đức giúp các tướng như Đề Tập ở Kim Động, giúp xã Tam Nông ở Tiên Lữ chống càn quét của giặc Pháp, bảo vệ được làng xóm, liên tục tập kích các đồn giặc, phục kích giặc trên đường 39, 38, đường đê sông Luộc. Ông còn tổ chức các trận đánh lớn ở đoạn giữa Dốc Lã, (Hưng Yên) Thanh Miện ( Hải Dương), Hưng Nhân, Duyên Hà (Thái Bình).

Nguyễn Hữu Đức không chỉ tổ chức lực lượng kháng chiến, đột kích, tập kích. phục kích quân giặc, ông còn rất coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục, vì ông hiểu rõ muốn nhanh chóng đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ cõi thì cả dân tộc Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, sang hèn đều phải đồng tâm nhất trí nên rất coi trọng công tác tuyên truyền, vạch trần tội cướp nước của giặc và đám vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc.

Nói về các hoạt động tích cực của ông, A de Miribel từng làm Công sứ Hưng Yên đã phải thú nhận trong cuốn: “Lịch sử cuộc chiếm đóng Hưng Yên” (La Pronnes de Hung Yên) về vai trò quan trọng của cử nhân Nguyễn Hữu Đức như sau: “Tán Thuật và Cử Đức là linh hồn của cuộc nổi dậy. Hai người đi hết làng này đến làng khác họp các kì hào và nhóm lên trong lòng họ ngọn lửa yêu nước nồng nàn. Cả hai đều tỏ ra có tinh thần vô tư tuyệt đối và tinh thần hi sinh lớn lao đều phê phán những sự trả thù tàn bạo và những sự đàn áp đẫm máu. Họ tuyên truyền kháng chiến chống người ngoại quốc và hết sức thu phục những người theo họ bằng sự mềm mỏng và lòng tin chứ không phải bằng cách làm cho họ sợ hãi...Đó là bản chất của nhà ái quốc bất khuất, chúng ta phải mất 5 năm trời để chiến đấu với những ảnh hưởng của ông ta”.

Khi cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại (tháng 4 năm 1892) Nguyễn Hữu Đức phải chạy sang các tỉnh Thái Bình, Hải Dương. Hà Nam trong nhiều năm. Giặc Pháp bắt bớ giam cầm nhiều người trong gia đình, ép ông phải về hàng. Biết rõ uy tín của ông trong các tầng lớp nhân dân và giới khoa bảng, giặc Pháp và bọn quan lại dụ dỗ ông ra làm quan, nhưng trước sau ông từ chối, ở nhà dạy học.

CHÁNH TÍNH

Nguyễn Đình Tính quê ở xã An Vĩ, tổng An Cảnh, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên. Ông sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống yêu nước, cả ba anh em ông đều gia nhập lực lượng khởi nghĩa của quan tuần huyện Đinh Gia Quế, ông được phong là Chánh đề đốc.

Chánh Tính chỉ huy nhiều trận đánh, có trận quân ta ở trong bãi sậy lực lượng ít, quân Pháp bao vây kín chung quanh, Chánh Tính cho đốt nhiều đống lửa nghi binh. Quân Pháp tưởng quân ta đông, không dám tấn công phải rút quân. Trong trận đánh quân Pháp càn quét vào làng Ngọc Nha, Chánh Tính đã cho quân nấp dưới cống, tiểu đội Pháp đi tới anh em xông lên diệt gọn cả tiểu đội thu vũ khí...

Nghĩa quân do Chánh Tính chỉ huy đóng ở xã Trung Châu (Khoái Châu), liên tiếp mở các cuộc tấn công vào quân Pháp gây cho chúng nhiều tổn thất.

Trong hoàn cảnh nghĩa quân bị địch vây ráp liên tục, gặp phải rất nhiều khó khăn, Chánh Tính đã tập hợp các tướng, đánh trả các cuộc tấn công của quân Pháp, bảo vệ được căn cứ Bãi Sậy phá tan âm mưu liêu diệt căn cứ Bãi Sậy của giặc Pháp và Hoàng Cao Khải.

Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Chánh Tính rất mừng vì cuộc khởi nghĩa đã có một thủ lĩnh tài giỏi lãnh đạo nên thực hiện ngay mệnh lệnh.

Dưới sự lãnh đạo của Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật, cuộc khởi nghĩa được phục hồi nhanh chóng và phát triển ra các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ gây cho quân Pháp nhiều tổn thất lớn. Ngày 12/8/1888 công sứ Hưng Yên Dalmas và tổng đốc Hoàng Cao Khải hạ lệnh cho lính về An Vĩ bắt Chánh Tính, không bắt được ông, chúng bắt 15 kỳ mục của làng.

Những trận đánh do Chánh Tính, chỉ huy diễn ra liên tiếp gây cho quân Pháp những tổn thất nặng nề.

Tháng 10/1890 Nguyễn Thiện Thuật sang Trung Quốc giao quyền Tổng chỉ huy cuộc khởi nghĩa cho Nguyễn Thiện Kế, lực lượng nghĩa quân suy yếu. Nhưng theo tài liệu của mật vụ Pháp thì Hai Kế vẫn còn bẩy thủ lĩnh chính trong đó có Chánh Tính, ông vẫn còn trên 200 quân, ba phần tư được trang bị súng bắn nhanh. Nghĩa quân của ông hoạt động mạnh mẽ ở Nam Hưng Yên, Nam Hải Dương gây cho quân pháp nhiều tổn thất lớn, đến nỗi chúng phải kêu lên “Hai toán còn lại tiếp tục chống cự là Đề Tính và Lãnh Điển. Hai toán này hoạt động ở phủ Khoái Châu và mỗi khi cần thiết lại vào ẩn nấp ở vùng Bãi Sậy, họ đã chống cự lại một cách hữu hiệu đối với các cuộc truy kích của binh đoàn”.

Nghĩa quân Chánh Tính hoạt động mạnh chỉ tính từ tháng 4 đến tháng 6/1891 De Porto Carrero giám binh hạng nhất chết; ngày 27/6/1891 tên La Sage giám binh hạng nhì bị giết cùng nhiều lính Âu-Phi, lính Nam.

Sang tháng 7/1891 Chánh Tính bị đạo quân lớn của Hoàng Cao Khải không ngừng truy kích. Ông phải cùng các Lãnh binh Nguyễn Đình Xuyên, Nguyễn Đình Đề, Lãnh binh Ba Sành đưa 300 quân vượt sông Hồng sang Hà Đông để liên lạc với nghĩa quân của hai thủ lĩnh Đôn và Tây đang hoạt động ở vùng này.

Tháng 8/1891 quân Pháp truy kích Chánh đề đốc Nguyễn Đình Tính mãi không được cuối cùng nhờ tên Lãnh binh Lê Văn Vắn phản bội nghĩa quân đầu hàng Pháp bao vây mới bắt được. Sau khi bắt được ông chúng tiếp tục truy kích bắt được hai ông Lãnh Xuyên, Lãnh Đề. Chúng đưa ba ông về giam ở thành Hưng Yên. Ngày 21/8/1891 chúng xử chém ba ông (ngày 17 tháng 7 năm Tân Mão). Chúng vứt thây ba ông ở đâu không rõ, còn đầu ba ông chúng chôn ở trong thành, lấp đất, đặt kiềng lên trên đun và giao cho Đội Quý canh giữ.

Em gái Lãnh Đề tìm mọi cách không lấy được đầu ba ông sau phải nhận lời lấy Đội Quý, chuốc rượu cho Đội Quý và bọn lính gác say rượu rồi đào lấy đầu ba ông đem về An Vĩ, bí mật chôn ở vườn trầu không, lấy cành dâu làm xương rồi an táng.

LÃNH SẬY

Lãnh Sậy tên thật là Nguyễn Đình Mai, còn gọi là Nguyễn Xuân Mai, người làng Thọ Bình, cùng thôn với Đinh Gia Quế. Ông là người có công lớn xây dựng và phát triển lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy từ năm 1883 đến năm 1885. Ông là người thiết kế và chỉ đạo thi công thành Thọ Bình ở ấp Thọ Bình. Ấp này ở cách xa làng Thọ Bình, gần ấp Dương Trạch, gần đê sông Hồng, cách đền Hóa Dạ Trạch theo đường chim bay một kilômét. Đó là một kiến trúc quân sự hiện đại vào cuối thế kỷ XIX.

Ngoài nhiệm vụ xây dựng lực lượng nghĩa quân, xây dựng công trình phòng thủ, với phương châm tự túc lương thực tới mức cao nhất. Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế giao cho Lãnh binh Nguyễn Đình Mai chỉ huy hậu cần lo quân lương, vũ khí cho quân khởi nghĩa. Nguyễn Đình Mai đã thu thuế của nông dân cứ mỗi mẫu ruộng nộp ba phương thóc, ông còn tịch thu thóc của quan lại, địa chủ theo Pháp chống nghĩa quân. Ông cũng quan hệ chặt chẽ với chánh tuần huyện Đông Yên Dương Văn Bính ở xã Phù Sa mật báo cho ông biết ngày giờ, địa điểm quân Pháp vận chuyển quân lương để ông cho quân đánh úp cướp lương.

Nhằm tự túc lâu dài và ổn định lương thực cho nghĩa quân, giảm bớt sự đóng góp của nhân dân Nguyễn Đình Mai đã chọn những nghĩa quân già yếu và những nông dân tự nguyện đi phục vụ nghĩa quân phát, đốt sậy khai hoang đắp bờ được hàng trăm mẫu cấy lúa, trồng rau mầu. Đến vụ thu hoạch thì nghĩa quân thay nhau về gặt lúa. Số thóc đó được gửi trong dân bảo quản và xay giã giao cho nghĩa quân. Chính vì ông chỉ huy việc đốt sậy khai hoang, nên nghĩa quân gọi ông là Lãnh Sậy, quân Pháp cũng gọi theo như vậy.

Lãnh Sậy còn đảm nhiệm việc cung cấp vũ khí cho nghĩa quân. Lãnh Sậy không những chỉ tổ chức sản xuất súng ở hai làng Hoàng Vân mà sản xuất ở nhiều làng khác như Tân Dân, Ông Đình, Phù Sa, Ngọc Nha, Dạ Trạch cung cấp vũ khí cho nghĩa quân.

Có thời kỳ Lãnh Sậy đóng đại bản doanh ở đền An Lạc.

Ông chỉ huy nhiều trận đánh, trong trận đánh ở xã Đức Nhuận gần đền Dạ Trạch, Piglowski viết: “Trong trận đánh ở Đức Nhuận, nghĩa quân mặc quần áo như nông dân, quân Pháp chỉ nhận ra Lãnh Sậy chỉ huy trận đánh vì ông chít khăn xanh, thắt lưng đỏ”.

Từ cuối năm 1884 đến giữa năm 1885 lực lượng nghĩa quân Đổng Quế ngày càng mạnh. Tháng 11/1884, quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải tấn công căn cứ Bãi Sậy. Lãnh Sậy dẫn quân vượt sông Hồng đánh sang các huyện Thường Tín, Thanh Trì tỉnh Hà Đông khiến quân Pháp đang đánh phá Bãi Sậy phải vội vã rút quân về bảo vệ phía Nam thành phố Hà Nội.

Lãnh Sậy còn cùng các tướng tấn công các đồn Ứng Lôi, Bình Phú, Lực Điền gây cho chúng thiệt hại về người, vũ khí và nỗi kinh hoàng không dám đi càn quét các vùng chung quanh.

Giữa tháng 8/1885 (tháng 7 năm Ất Dậu) Đinh Gia Quế cùng Lãnh Sậy đem quân vượt sông Hồng đánh đuổi Hoàng Cao Khải, Cao Khải thua bỏ chạy theo đường đê về Hà Nội. Hai ông dẫn quân đuổi đến tận làng Thanh Trì (giáp cảng Phà Đen, Hà Nội) thì có kẻ đưa Hoàng Cao Khải đi giấu nên hắn thoát chết. Hai ông dẫn quân trở về đến bến đò Vạn Phúc (huyện Thanh Trì) thì bị quân Pháp phục kích. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề, tan vỡ. Đổng Quế phải trốn lên một làng gần bến đò Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Quân Pháp bắt được Lãnh Sậy, chặt đầu ở gốc gạo đền Lộ, đem đầu về Hà Nội rồi đưa về Hưng Yên bêu, còn xác vùi ở gốc gạo trước cửa đền Lộ.

Sau này con cháu Lãnh Sậy xây một ngôi miêu tưởng niệm dưới gốc gạo đền Lộ và cúng giỗ vào ngày 17 tháng 7 âm lịch là ngày ông đi đánh trận này.

PHẠM VĂN BAN

Phạm Văn Ban sinh trưởng trong một gia đình giàu có ở làng Đống Vậy, xã Bối Khê, tổng Huệ Lai huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi. Cha ông là Phạm Văn Cán, Chánh tổng tổng Huệ Lai, ông cũng đương chức Lý trưởng xã Bối Khê.

Với lòng yêu nước sâu sắc và chí căm thù giặc Pháp cướp nước và lũ Việt gian bán nước, Phạm Văn Ban đã bàn bạc với ông tú tài Thương Bằng, với ông Xã Thâu ở xã Bối Khê, Nguyễn Đình Tuyển ở xã La Mát kế hoạch khởi nghĩa. Phạm Văn Ban dựng một lá cờ đại ở đình Bối Khê, đánh trống để tuyển mộ quân.

Vấn đề vũ khí được Phạm Văn Ban hết sức quan tâm, ngoài vũ khí tự tạo như dao kiếm, lao, đoản đao, súng kíp, ông còn tổ chức nhiều trận đánh táo bạo vào đồn địch lấy súng đạn của giặc. Ngoài ra ông còn tập trung tất cả thợ rèn giỏi nghiên cứu cách chế tạo súng theo mẫu súng 1874; súng remington, súng lục của quân Pháp. “ví như lò rèn của nghĩa quân Đề Ban ở làng Nhân Đồng (tổng Huệ Lai, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Đề Ban lại có một nghĩa quân rất giỏi nghề đẽo báng súng bằng gỗ quê ở làng Bối Khê (Ân Thi, Hưng Yên) chuyên việc chữa các báng súng trường kiểu 1874. Ông này được mệnh danh là Cai Binh” (Minh Thành: Về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đăng trang Tập san Nghiên cứu lịch sử năm 1961).

Phạm Văn Ban lập đại bản doanh ở xã Bối Khê quê hương ông và ở đền Phù Ủng. Đề Ban hoàn toàn làm chủ ba tổng Huệ Lai, Phù Vệ, Đỗ Xá. Song địa bàn hoạt động của ông rất rộng gồm Ân Thi, Mỹ Hào, Phù Cừ, Tiên Lữ (Hưng Yên); Bình Giang, Ninh Giang, Cẩm Giàng, Thanh Miện (Hải Dương). Ông thường đi xe ngựa do một con ngựa đen kéo, có một nghĩa quân đánh xe, hai nghĩa quân trang bị súng bắn nhanh đi hộ vệ. Ông đi theo hành trình từ Bối Khê đi qua An Khải, Chu Xá, Huệ Lai, Kim Lũ, Phù Ủng, Đào Quạt, Tiên Kiều, rồi trở lại Bối Khê để nắm tình hình, kiểm tra công việc của nghĩa quân. Khi ra trận ông cưỡi ngựa đen có đủ yên cương, nhạc.

Hầu hết dân ba tổng Huệ Lai, Đỗ Xá, Phù Vệ đều theo Đề Ban. nghĩa quân có lới hàng nghìn, dân đều theo Đề Ban nên giặc Pháp gọi là “Tam tổng chi nhân đô thị tặc” nghĩa là “cả ba tổng đều làm giặc”.

Đề Ban đã liên hệ với Đinh Gia Quế ở làng Thọ Bình thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy và với các thủ lĩnh khác ở Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh để cùng đánh Pháp.

Từ giữa năm 1885, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị suy yếu có nguy cơ tan rã thì lực lượng nghĩa quân do Đề Ban chỉ huy vẫn hầu như nguyên vẹn.

Và tại Văn chỉ Bình Dân thì Đề Ban đã có mặt chiến đấu dưới ngọn cờ Cần vương do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo.

Cuối năm 1885 quân Pháp tập trung quân đánh Đề Ban, ông phải đưa hơn 1000 quân chạy lên Đông Triều, tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh), Nguyễn Thiện Thuật tới bàn bạc với ông, chỉ giữ lại 300 người khỏe mạnh, trung thành, dũng cảm được trang bị tốt. Từ đó Đề Ban không phải lo nhiều về lương thực, thực phẩm cho nghĩa quân.

Khi biết tin về Đề Ban đóng quân ở làng La Mát, quân Pháp huy động lực lượng lớn đến bao vây nhằm tiêu diệt cánh quân của ông.

Ngày 8/2/1891 quân Pháp tập trung trên 1400 dân binh và lính lệ do thanh tra Blanchart và Hoàng Cao Khải chỉ huy và 14 tên vệ binh chính cùng lính Nam ba tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh có pháo binh, tàu chiến yểm hộ tấn công dữ dội vào căn cứ Bãi Sậy và các căn cứ khác của nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân do Hai Kế, Đề Ban, Đốc Sung, Lãnh Tảo chỉ huy đã trống trả quân Pháp quyết liệt, nhưng sau cũng phải rút sang huyện Tứ Kỳ, Thanh Hà sang vùng sông Kinh Thày.

Mặc dù bị quân Pháp bao vây ngày càng chặt, nghĩa quân Đề Ban vẫn hoạt động mạnh.Trong một trận đánh diễn ra dữ dội kéo dài một tiếng đồng hồ, nghĩa quân núng thế. Đề Ban thấy quân Pháp vây kín chung quanh biết là khó thoát, ông từ chối không để Nguyễn Văn Bồng cõng mà rút súng lục tự sát, hôm đó là ngày 25/12/1891, tức ngày 18/11 âm lịch.

DƯƠNG VĂN ĐIỂN

Dương Văn Điển sinh năm 1836 quê ở làng Phù Sa cựu tổng Đại Quan, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Ngày 28/3/1883, quân Pháp hạ thành Hưng Yên lần thứ hai, bọn quan lại hèn nhát bỏ thành chạy. Dương Văn Điển là người nghĩa khí, không chịu khuất phục kẻ cường quyền áp bức liền bàn với anh em thân tín trong chi họ mộ quân đánh Pháp. Dân trong vùng vốn biết tài đức của Dương Văn Điển lại sẵn lòng căm thù giặc Pháp và bọn quan lại nhà Nguyễn đầu hàng giặc nên nô nức tòng quân. Vì thế chỉ trong một tuần trăng số nghĩa quân được tuyển lựa đã lên tới trên 100 người. Ông hiểu rõ quân đội hơn dân bính ở chỗ tinh thông võ nghệ, am hiểu phép tiến lui, thông thạo các thế trận nên đã cùng Dương Văn Phô, Dương Văn Sáu, Phạm Văn Thọ chia quân thành đội ngũ luyện tập cách sử dụng đao, kiếm, cách bắn súng, cách dàn thế trận.

Sau lễ Tế cờ, Đổng quân vụ phong chức một số tướng lĩnh, Dương Văn Điển được phong là Lãnh binh, một số người dưới quyền ông được phong là hiệp quản, quản, đội, cai, bếp chỉ huy các đội, các cơ, các toán quân. Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế giao cho ông về Phù Sa xây dựng thành căn cứ chống pháp ở ngoại đê sông Hồng. Trở về Phù Sa, Dương Văn Điển đã xây dựng ba làng Phù Sa, làng Ninh Tập thành một căn cứ chống quân Pháp từ tỉnh lỵ Hưng Yên theo đường đê sông Hồng và đường sông Hồng đánh vào phía Nam căn cứ Bãi Sậy

Dương Văn Điển hiểu rõ muốn đánh thắng quân Pháp chỉ có lòng dũng cảm chưa đủ mà còn phải có vũ khí tốt. Ông đã giao cho bà Hai Đạm là vợ mình về hai làng Hoàng Vân Nội và Hoàng Vân Ngoại, tổng An Lạc, huyện Đông Yên có nghề rèn truyền thống sản xuất được cả súng kíp; về chùa Tây Trù, xã Tứ Dân, huyện Đông Yên rèn vũ khí. Để nhanh chóng có nhiều súng bắn nhanh trang bị cho nghĩa quân, Lãnh Điển còn tổ chức nhiều trận đánh táo bạo vào các đồn binh địch với mục đích chính là cướp súng. Những trận đấu như thế xảy ra rất nhiều như trận: “Ngày 6/4/1889 Đề đốc Dương Văn Điển chỉ huy một đội quân trên 50 người, nắm được tin tên chỉ huy Soler đi vắng, giao quyền cho tên cai người Nam chỉ huy. Ông đã cho một số quân cải trang làm phụ nữ đem rau đến chợ Bình Phú bán, chợ ở sát đồn địch... Một người trong bọn đến giả vờ trò chuyện với lính gác rồi bất thình lình cướp súng của hắn. Lập tức những người khác xông vào đồn giết lính, cướp 12 khẩu súng. Địch ở Lực Điền, Thung Linh đến cứu viện thì nghĩa quân Lãnh Điển đã rút xa”.

Dương Văn Điển dùng lối đánh du kích như phục kích, tập kích, hỏa công, độn thổ, khi thì giả làm người đi chợ, khi là những nông dân bình thường xuất kỳ bất ý tiêu diệt quân Pháp, thu vũ khí rồi rút nhanh. Có lần ông cho hai nghĩa quân nhỏ bé nấp trong hai bó sậy do một nghĩa quân khỏe mạnh gánh vào đồn bán. Vào trong đồn, nghĩa quân đạp sậy tung ra giết lính, cướp súng rồi nhân lúc quân lính rối loạn rút lui an toàn.

Đội quân thường trực do Dương Văn Điển chỉ huy dao động từ 200 đến 300 người đều là quân thoát ly khỏi làng xã, hai phần ba được trang bị súng bắn nhanh, rất thiện chiến và tự túc được lương thực nên giữ kỷ luật nghiêm minh không tơ hào của dân, mà chỉ cướp thóc những nhà giầu, quan lại không nộp thuế cho nghĩa quân, chống lại nghĩa quân.

Từ năm 1883- 1884 Dương Văn Điển chỉ huy chiến đấu nhiều trận như trận đánh đám hào lý phản động ở các làng chống lại nghĩa quân. Các trận ông chỉ huy đánh quân Pháp ở Hoàng Vân, Giếng Vàng, Ngọc Nha, Kênh Khê. Bình Phú, Quán Cà... đã gieo mối kinh hoàng cho quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải.

Nghĩa quân Dương Văn Điển rất gan dạ, mưu trí, kiên cường đánh giặc, quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải nghe nói đến quân Dương Văn Điển là sợ như sợ cọp.

Tháng 1/1886. quân Pháp thực hiện chính sách “Dùng người Việt, đánh người Việt” lập binh đoàn Bình định giao cho tên đại Việt gian Hoàng Cao Khải làm Tư lệnh trưởng. Được sự hỗ trợ đắc lực của bộ binh, công binh, pháo binh, hạm tầu và cả sĩ quan Pháp chỉ huy, Hoàng Cao Khải đã điên cuồng mở nhiều đợt tấn công vào nghĩa quân Bãi Sậy. Song nghĩa quân Dương Văn Điển dũng cảm được nhân dân ủng hộ đã đánh thắng nhiều trận trong đó có những trận Dương Văn Điển phối hợp với các thủ lĩnh khác như trận Cầu Ngàng (Kim Đồng), trận Hoàng Vân, Kênh Khê, Hoàng Nha, Quán Cà (Khoái Châu), Thung Linh, Bình Phú (Yên Mỹ).

Khiếp sợ Dương Văn Điển, tháng 6/1889 Morel, phó công sứ Hưng Yên cho lính về đóng ở Phù Sa và lệnh cho quân Pháp đóng trong tỉnh Hưng Yên phải truy kích ráo riết nghĩa quân Lãnh Điển, song ông đã khôn khéo tránh các cuộc truy kích của địch mà còn tổ chức các trận tập kích: phục kích lại chúng. Đánh không được, Morel viết thư dụ ông hàng, ông phản đối, Morel cho lính bắt mẹ ông và hẹn ông năm ngày ông phải ra hàng ở Kênh Khê nếu không chúng giết mẹ ông và triệt phá cả ba làng Phù Sa.

Dương Văn Điển là người chí hiếu với mẹ, ông phải ra hàng để cứu mẹ, nhưng lợi dụng lúc giặc sơ hở, ông cõng mẹ chạy trốn. Quân Pháp cho hai tên lính khố xanh trá hàng nghĩa quân để thực hiện âm mưu ám sát Dương Văn Điển, nhưng do nghĩa quân cảnh giác, nên chúng bị bắt khi chưa thực hiện được âm mưu đen tối.

Tháng 10/1889 quân Pháp đóng ở phủ lý Khoái Châu được lệnh truy kích ráo riết nghĩa quân Dương Văn Điển. Song Điển đã khôn khéo tránh các cuộc truy kích của địch và còn tổ chức các trận tập kích, phục kích chúng khiến cho bọn đi đánh lại bị đánh.

Tháng 8/1891, Dương Văn Điển thấy không thể nào hoạt động ở Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh được, ông giải tán nghĩa quân, khuyên mọi người lên Yên Thế gia nhập nghĩa quân Đề Thám, ông cùng Hiệp quản Dương Văn Phô, Hiệp quản Dương Văn Ké, Hiệp quản Lê Văn Cần tìm đường lên Hưng Hóa gia nhập nghĩa quân Đề Kiều. Ngày 21/8/1891 bốn ông đi đến làng Phương Cách, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây thì bị lính của tri phủ Quốc Oai, và lính của tri huyện sở tại Phạm Hữu Đại bao vây. Các ông bị bọn lính bắt được lôi lên bờ chặt đầu. Sau khi Lãnh Điển hy sinh, quân giặc đưa đầu ông về Hưng Yên gọi lý trưởng đến nhận diện. Khi đó đầu Dương Văn Điển đã nát không nhận rõ, nhưng để yên chuyện lý trưởng công nhận đó là đầu Dương Văn Điển.

ĐỐC CỌP

Đốc Cọp tên thật là Vũ Văn Cợp quê ở xã An Xá, tổng An Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Vũ Văn Cợp tuy hiếu động nhưng học hành thông minh. Cợp đi thi vào đến Đệ nhị trường nhưng đến Đệ tam trường thì trượt. Chán con đường khoa cử, Cợp bỏ học văn, tìm thầy học võ. Chẳng bao lâu ông trở thành người giỏi võ, còn tài vật thì trong vùng không ai bằng. Cha mẹ muốn giữ chân ông, nên chạy cho ông chân phó lý. Ông làm phó lý, nhà giầu nhưng không keo kiệt, thường giúp đỡ người nghèo.

Ngày 28/3/1883, thành Hưng Yên thất thủ. Vũ Văn Cợp liền bàn với em trai là Hai Cống và hai bạn từ thuở chăn trâu là Nguyễn Văn Soàng và Tạ Văn Xuân đứng lên kêu gọi trai tráng trong hàng tổng khởi nghĩa đánh Pháp gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Đổng quân vụ Đinh Gia Quế lãnh đạo.

Dân cư tổng An Xá và các xã trong vùng vốn quí trọng phó lý Vũ Văn Cợp nên nô nức gia nhập nghĩa quân. Chỉ trong vòng nửa tháng đã có trên 200 người gia nhập quân khởi nghĩa. Đốc Cợp chỉ huy nhiều trận đánh Pháp ở Khoái Châu, Kim Động, trận Cầu Ngàng (Kim Động).
Tháng 9/1885 khi Nguyễn Thiện Thuật về trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Đốc Cợp có mặt ngay từ buổi đầu, dự lề tế cờ khởi nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân. Trong suốt quá trình chiến đấu, Đốc Cợp là một thủ lĩnh mưu trí, có công lớn trong phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy. Ông được Nguyễn Thiện Thuật giao cho ông cùng Tán tương quân vụ Nguyễn Hữu Đức chỉ huy vùng Nam Hưng Yên. Ông là người chỉ huy dũng cảm, táo bạo, tài thao lược, quân Pháp sợ ông như sợ cọp, nên chúng tôn ông là “Đốc Cọp”. Bọn chỉ huy Pháp viết về ông như sau: “Trong tỉnh Hưng Yên Đề đốc Ban, Đề đốc Cọp đã gây cho quân Pháp bao nỗi kinh hoàng” (Daufès: Bảo an binh Đông Dương từ ngày thành lập đến nay).

Tháng 3/1888, một đội quân do Đốc Cọp chỉ huy tao ngộ chiến dữ dội với quân Pháp ở Đông Nhu. Vũ Xá bắn trọng thương 2 sĩ quan Pháp là Legllé và Chuibert, giết chết nhiều tên.

Nghĩa quân do Đốc Cọp chỉ huy hoạt động mạnh mẽ ở các huyện Kim Động, Ân Thi, Khoái Châu song ông bị quân Pháp truy kích ráo riết.
Đầu tháng 4-1891, Đốc Cọp đưa quân về đóng ở chùa Quàn thuộc xã Lôi Cầu, huyện Đông Yên (Lôi Cầu nay thuộc xã Việt Hòa, huyện Khoái Châu, Hưng Yên). Nghĩa quân đóng trong chùa tổ chức phòng thủ, Hoàng Cao Khải được quân Pháp hỗ trợ đưa quân tới đánh, song trận nào chúng cũng bị quân của Đốc Cọp đánh bật ra ngoài. Nghĩa quân giữ được chùa Quàn hơn một tháng. Vì nghĩa quân đã mệt mỏi, đạn đã cạn, không còn lương thực, Đốc Cọp lợi dụng đêm tối và cánh đồng lau sậy tốt rút khỏi chùa Quàn về xã Tiểu Quan.

Ngày 21/5/1891 khi quân Pháp biết tin Đốc Cọp chỉ huy 300 quân đang cùng hơn 1 00 nghĩa quân làng Tiểu Quan đang đóng trong làng Tiểu Quan, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, lập tức Vincillioni, Pointes, Brezton chỉ huy bao vây chặt Tiểu Quan. Quân Pháp đến từ nửa đêm nhưng chúng sợ Đốc Cọp không dám xem thường mà chỉ bao vây từ xa, gần sáng chúng mới thít chặt vòng vây. Mờ sáng ngày 22/5/1891 nghĩa quân chuẩn bị rút khỏi Tiểu Quan bỗng có báo động. Đốc Cọp cho người ra quan sát thì thấy quân Pháp đã bao vây kín làng, ông liền bố trí quân sau các lũy tre dày gấp rút đào công sự đánh địch. Quân Pháp bắn như đổ đạn vào làng, nghĩa quân bắn lại, tuy lực lượng nghĩa quân ít, lại bị mệt mỏi sau hơn một tháng chiến đấu, đạn dược ít nhưng có ưu thế chiếm được cao điểm lại có lũy tre dầy, lũy đất kiên cố nên nghĩa quân bắn rất trúng, hạ được nhiều giặc, quân Pháp không sao tới gần được lũy. Suốt ngày hôm ấy nghĩa quân xông ra nhiều lần song không chọc thủng được vòng vây, sai người đi về Bãi Sậy cầu viện cũng không đi thoát, nghĩa quân bị tổn thất nặng nề. Quân Pháp tràn được vào làng, nghĩa quân đánh giáp lá cà nhưng lực lượng ít không địch nổi quân Pháp. Quân Pháp chia nhau đi sục sạo. Đốc Cọp bị thương nặng, nấp dưới ao sâu, đậy bè rau muống lên trên chỉ ngửa mặt lên thở. Bọn lính đuổi bắt gà, tình cờ một con gà bay xuống ao, bọn lính đuổi theo, phát hiện ra Đốc Cọp chúng bắt đưa về Hà Nội. chúng cũng bắt được 20 nghĩa quân. Ngày 23/5/1891 (ngày 16/4 âm lịch) quân Pháp xử bắn ông ở khu đất trống cạnh hồ Hoàn Kiếm Hà Nội - nơi chúng đã bắn Đội Văn tháng 11/1889 (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ) đưa đầu về Hưng Yên bêu, xác ném xuống sông Hồng.

NGUYỄN VĂN SUNG

Nguyễn Văn Sung còn gọi là Nguyễn Đức Sung sinh năm 1843 quê ở xóm Son, làng Dịch Trì, tổng Liêu Xá, huyện Mỹ Hào tỉnh Hải Dương, nay là thôn Dịch Trì, xã Ngọc Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.

Nguyễn Văn Sung học văn rất thông tuệ, học võ sớm tinh thông các môn vật, gậy, đoản đao, kiếm. Năm 1882 quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai, ngày 28/3/1883, quân Pháp hạ thành Hưng Yên Nguyễn Văn Sung khi đó đang ở làng Tam Á, tổng Tam Á liền tập hợp anh em trong phường gặt và anh em nghèo trong vùng sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực mưu đồ nổi dậy chống Pháp bị quân Pháp vây bắt, nhưng được nhân dân giúp đỡ nên ông đã trốn thoát. Đúng vào thời gian đó Tuần Vân ở xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh khởi binh đánh Pháp, Nguyễn Văn Sung đem vài chục thủ hạ đến theo. Ông nhanh chóng trở thành một thủ lĩnh xuất sắc của Tuần Vân. Đốc Sung đã chặn đánh quân Pháp nhiều trận như trận chợ Bốn, bên trong đê Cự Khối, huyện Gia Lâm gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.

Tháng 9/1885, Nguyễn Văn Sung đã có mặt trong buổi lễ Tế cờ tại Văn chỉ Bình Dân. Nguyễn Thiện Thuật phong ông chức Đề đốc và dâng sớ về căn cứ kháng chiến ở Quảng Trị để vua Hàm Nghi ban thưởng. Vua ban cho ông Kim tiền và thanh gươm báu, chuôi bằng ngà voi có tám chữ: “Phục quốc diệt thù - Tiền trảm hậu tấu”. Nguyễn Thiện Thuật giao cho ông chiến đấu ở Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương dưới quyền Hồng lô Tự khanh Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy.

Đốc Sung đóng quân ở đình Tam Á, và ở khu đền Sĩ Nhiếp rộng tới hơn 2 mẫu cây cối um tùm. Nhưng Tam Á là một làng trống trải nên ông còn xây dựng căn cứ ở cánh đồng Trằm và xây dựng làng Hà Mãn cách đó một quãng thành làng chiến đấu. Biết tin Đốc Sung về hoạt động ở Gia Lâm, Thuận Thành, Gia Bình bên Tả ngạn sông Đuống và Từ Sơn, Tiên Du bên Hữu ngạn sông Đuống, Pháp đưa quân đến đánh, ông lập trận địa ở cánh đồng Trằm rồi nhử chúng vào Hà Mãn, đặt phục binh hô quân đánh giáp lá cà. Quân Pháp thua bỏ chạy để lại trên 10 súng bắn nhanh.

Cuối năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật điều ông về đóng ở Tây Nam huyện Mỹ Hào, bảo vệ căn cứ Bãi Sậy. Ông đóng quân ở làng Liêu Trung cùng Lãnh binh Lưu Ngọc Tháu xây dựng Liêu Trung thành làng chiến đấu. Quân pháp cho cai Ponnis về đóng đồn Thụy Lân, giáp Cầu Đừng qua sông Nghĩa Trụ, chặn nghĩa quân từ Cầu Treo, Sài Trang tiến vào Bãi Sậy.

Khi Đề đốc Nguyễn Văn Sung đóng quân ở Liêu Trung, ông đã tổ chức cho nghĩa quân khai hoang, phục hóa cấy được hơn 100 mẫu lúa và rau mầu. giảm bớt sự đóng góp của dân. Đốc Sung đã “thi hành chính sách đạc điền”, tức là bắt bọn địa chủ ở Dịch Trì và các làng ông kiểm soát phải khai báo diện tích ruộng đất. Bọn này sợ phải đóng thuế nhiều nên đã khai bớt diện tích. Ông cho đo đạc lại tịch thu số ruộng đất dôi ra, sung vào công điền rồi chia cho dân nghèo.

Địa bàn hoạt động của Đề đốc Nguyễn Văn Sung rất rộng. Tháng 10-1888 Đốc Sung đưa quân đến đánh phá huyện Cẩm Giàng. Về trận này quân Pháp thú nhận như sau: “Trong khi huyện Mỹ Hào được yêu ổn thì hulyện Cẩm Giàng lại bị quân cướp của Đốc Sung từ Bắc Ninh đến quấy phá luôn. Các vùng khác, trừ miền núi vẫn yên”. Nghĩa quân của ông hoạt động rất mạnh, đẩy lùi được rất nhiều cuộc đàn áp của giặc.
Đầu tháng 3/1891 Đốc Sung đưa quân về hoạt động ở quê ông: tổng Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, đạo Bãi Sậy, đóng quân ở chùa Đống Long, cạnh làng Dịch Trì thì bị Lãnh Vắn ở làng Đông Mai (sau khi Lãnh Vắn làm phản, Pháp cho hắn làm đồn trưởng đồn Đống Mối) và tên Kha trước đây là thân cận của ông đang đêm đưa quân Pháp đến vây chùa. Đốc Sung khi đó đi tuần phát hiện được liền gọi loa báo cho nghĩa quân và dân biết. Bọn Pháp xả súng bắn, Đốc Sung bị thương nặng ở đùi, ông bò ra khu ao rộng 5 sào trước cửa chùa. Bọn Pháp bủa vây chung quanh, ông giấu thanh gươm vua Hàm Nghi ban vào bụi lau sậy rồi rút súng lục bắn vào miệng tự sát. Con cháu Đốc Sung vẫn cúng giỗ vào ngày 27 tháng 2 âm lịch (ngày 17 tháng 3 năm 1891).

NGUYỄN SUNG

Nguyễn Sung là con trai thứ hai Nguyễn Thành Thà, quê ở thôn Phan Bổng, xã Đỗ Mỹ, huyện Thần Khê, tỉnh Hưng Yên, cùng với anh cả là Nguyễn Khả Lương tham gia cuộc kháng chiến của nghĩa quân Bãi Sậy do Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế lãnh đạo.

Nguyễn Sung được Đinh Gia Quế cử giữ chức Hiệp quản chuyên trách lo hậu cần cho căn cứ Bãi Sậy. Để có lương thực cung cấp ngay cho nghĩa quân. Lãnh binh Dương Văn Điển đã cùng với Hiệp quản Nguyễn Sung bí mật đến nhà ông Dương Văn Bính là chú họ Dương Văn Điển đang giữ chức Tuần huyện Đông Yên bàn việc tổ chức quân lương cho nghĩa quân. Ông Bính làm việc cho Nam triều nhưng là người yêu nước đã thực hiện kế hoạch do Lãnh Điển và Hiệp Sung đề ra là trước khi ông đi áp tải lương từ các xã nộp vào kho của huyện hay trên đường vận chuyển lương thực tới các đồn binh thì báo trước cho nghĩa quân. Nguyễn Sung cho quân phục kích để cướp lương, nhưng cố không giết chết quân lính đi áp tải, trừ những tên ngoan cố để bảo vệ an toàn tính mạng cho Dương Văn Bính.

Với cách làm đó nghĩa quân thu được rất nhiều lương thực, mà ông Dương Văn Bính cũng không bị giặc nghi ngờ.

Khi cha và anh cùng hai em lần lượt hy sinh, Nguyễn Sung vẫn một mình kiên trì hoạt động để trả thù nhà, đền nợ nước. Trong một lần dẫn một toán nghĩa quân đi vận chuyển vũ khí do Lưu Kỳ mua ở biên giới Trung Quốc về đến vùng giáp ranh Bắc Ninh - Hưng Yên thì Nguyễn Sung bị quân Pháp càn bất ngờ. Ông chỉ huy anh em chiến đấu và hy sinh anh dũng.

ĐỐC GIỚI

Đốc Giới tên thật là Nguyễn Giới là con trai thứ ba Nguyễn Thành Thà, quê ở thôn Phan Bổng, xã Đỗ Mỹ, huyện Thần Khê, tỉnh Hưng Yên, nay là xã Bình Lang huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Nguyễn Thành Thà đã cho hai con trai là Nguyễn Khả Lương, Nguyễn Sung sang chiến đấu ở căn cứ Bãi Sậy từ tháng 4 năm 1883 dưới quyền chỉ huy của Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế.

Tháng 9 năm 1885, Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ Đại thần Nguyễn Thiện Thuật về lãnh đạo căn cứ Bãi Sậy thay Đinh Gia Quế. Nguyễn Thành Thà lại cho con trai thứ ba là Nguyễn Giới và con trai thứ tư là Nguyễn Mịch sang chiến đấu ở căn cứ Bãi Sậy.

Nguyễn Thiện Thuật phái Nguyễn Giới cùng Nguyễn Mịch giúp Bang Tốn xây dựng phòng tuyến sông Luộc ngăn chặn quân Pháp từ Nam Định vượt sông Luộc đánh sang các cứ điểm của nghĩa quân Bãi Sậy, đóng ở Tiên Lữ, Phù Cừ, và ngăn quân Pháp từ Hưng Yên, Hải Dương đánh sang Nam Định.

Nguyễn Giới đã góp phần quan trọng trong các trận nghĩa quân Bãi Sậy đánh thắng quân Pháp trên phòng tuyến sông Luộc. Do lập được nhiều chiến công, Nguyễn Thiện Thuật phong Nguyễn Giới hàm Đốc binh. Mọi người thường quên gọi ông là Đốc Giới.

Nguyễn Thiện Thuật chủ trương mở rộng căn cứ Bãi Sậy sang huyện Thần Khê nên giao cho Nguyễn Mịch cùng em trai về xây dựng căn cứ Đống Lau ở ngay quê ông là làng Phan Bổng, biến mảnh đất này làm mồ chôn quân Pháp và tay sai. Từ căn cứ Đống Lau, nghĩa quân bảo vệ được căn cứ Bãi Sậy từ xa và cũng ngăn chặn được quân Pháp từ hữu Ngạn sông Luộc đánh sang tả Ngạn sông Luộc.

Giặc Pháp đem quân đánh phá căn cứ Đống Lau nhiều lần không thắng mà còn bị thương vong nặng nề. Giặc Pháp giao cho tên đại Việt gian Hoàng Cao Khải dùng kế li gián. Hàng ngày Khải sai tay chân gọi loa dụ dỗ Đốc Giới cùng em ông là Lãnh Mịch đầu hàng sẽ được phong quan tước. Khải còn hèn nhát mạo thư ông nhận lời cộng tác với giặc Pháp để nghĩa quân và nhân dân nghi ngờ ông. Chúng bao vây chặt làng Phan Bổng, người nào ra khỏi làng là chúng dùng thóc gạo, tiền bạc, vải vóc mua chuộc. Người nào không nghe chúng đánh cho gãy tay, què chân. Quân Pháp không ngừng bắn đại bác vào trong làng, chặn các nguồn tiếp tế lương thực, thực phẩm. Sau nhiều ngày bị giặc phong tỏa, căn cứ Phan Bổng lâm vào cảnh thiếu lương, thiếu muối, nghĩa quân cũng hết đạn. Người trong làng bị bắt vãn. Nghĩa quân thiếu ăn, ngày đêm phải đề phòng quân giặc tấn công nên mệt mỏi, không còn sức chiến đấu. Đến lúc đó quân Pháp mới đổ quân, tấn công ào ạt, nghĩa quân không còn đạn, cũng không còn sức chiến đấu nên phần lớn hy sinh và bị bắt. Đốc Giới cùng em trai là Lãnh Mịch cũng bị bắt. Chúng bảo ông đầu hàng thì chúng tha chết. Ông vẫn kiên cường không khuất phục. Chúng đưa Nguyễn Giới về chém ở Kỳ Bá.

Vua Hàm Nghi nhận được bản tấu về sự hy sinh của ông, truy tặng ông hàm Nhiêu, sĩ phu Bắc Kỳ có nhiều câu đối phúng viếng.

LÃNH MỊCH

Lãnh Mịch tên thật là Nguyễn Mịch, là con trai thứ tư nhà yêu nước Nguyễn Thành Thà, người đã phối hợp với Đốc học Phạm Văn Nghị đánh quân Pháp từ năm 1873 khi đang làm Chánh quản ở tỉnh Hưng Yên. Năm 1883, quân Pháp hạ thành Nam Định lần thứ hai, Nguyễn Thành Thà giữ Cửa Đông, bị thương vẫn chiến đấu. Thành mất, ông về Vị Xuyên tổ chức nghĩa quân đánh giặc Pháp.

Tháng 4 năm 1883 , Đinh Gia Quế lập căn cứ kháng chiến ở Bãi Sậy, phủ Khoái Châu, ông cử con cả là Nguyễn Khả Lương, con thứ hai là Nguyễn Sung sang chiến đấu dưới ngọn cờ “Nam Đạo Cần Vương - Bình Tây phạt tội”. Tháng 4 năm 1885 khi Nguyễn Thiện Thuật về trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy ông lại cử con thứ ba là Nguyễn Giới, con thứ tư là Nguyễn Mịch sang Bãi Sậy chiến đấu dưới dự chỉ huy của Nguyễn Thiện Thuật, ông Thuật giao cho ông và anh ông là Nguyễn Giới giúp Bang Tốn, xây dựng phòng tuyến sông Luộc. Nguyễn Mịch chỉ huy một đồn binh ở miệt vạn chài ven sông Luộc cách đồn Úng Lôi của giặc Pháp không xa. Nghĩa quân của ông phần lớn là dân chài đánh cá trên sông Luộc và các ngòi lạch thuộc huyện Tiên Lữ và huyện Thần Khê. ông đảm đương đầu mối liên lạc giữa ban chỉ huy trung tâm cuộc khởi nghĩa ở đầm Dạ Trạch với hai huyện Thần Khê, Duyên Hà ở bên kia sông Luộc. Mỗi khi có các cuộc hành quân lớn của nghĩa quân qua sông Luộc thì ông cho quân bao vây, khống chế đồn Úng Lôi. Ông đã hai lần tấn công đốt trụi đồn Úng Lôi. Song quân Pháp không thể bỏ vị trí quan trọng này nên chúng lại dồn quân đến tái lập đồn.

Do lập được chiến công xuất sắc, Nguyễn Mịch được Nguyễn Thiện Thuật phong làm Lãnh binh. Nguyễn Thiện Thuật chủ trương phát triển lực lượng nghĩa quân sang huyện Thần Khê và huyện Duyên Hà nên đã cử Lãnh Mịch cùng anh trai là Đốc Giới về đóng đồn ở quê ông là làng Phan Bổng, Đống Lau, xã Đỗ Mỹ huyện Thần Khê. Đồn binh này đã chặn đứng các cánh quân Pháp từ Nam Định, từ huyện Vũ Thư đánh sang. Đồng thời kiểm soát con đường từ phủ Thái Bình (sau là tỉnh Thái Bình) sang các tỉnh Hưng Yên và Hải Dương. Quân Pháp đánh mãi không được, mới sai tên Việt gian Hoàng Cao Khải cho tay sai gọi loa dụ hàng.

Không khuất phục được anh em Lãnh Mịch, Đốc Giới bằng vũ lực và dụ hàng, Hoàng Cao Khải bao vây chặt làng Phan Bổng, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế từ ngoài vào. Chúng còn kéo đại bác từ Nam Định sang bắn phá ác liệt vào làng Phan Bổng. Người dân nào chạy ra khỏi làng là chúng bắt tra tấn cực kỳ man rợ. Bị bao vây nhiều ngày, thiếu đạn, thiếu gạo, thiếu muối, vô cùng mệt mỏi, mất hết sức chiến đấu đến lúc đó quân Pháp mới ào ạt tấn công vào làng.

Lãnh Mịch và Đốc Giới chỉ huy nghĩa quân đánh quân Pháp, nhiều nghĩa quân hy sinh và bị bắt. Lãnh Mịch, Đốc Giới cũng bị chúng bắt. Chúng dụ dỗ các ông đầu hàng sẽ không giết, Lãnh Mịch kiên quyết phản đối. Giặc hèn nhát đem anh ông là Đốc Giới về Kỳ Bá chém, còn ông chúng đưa ông về bến đò Phiên ở làng chém để uy hiếp đồng bào.

Vua Hàm Nghi nhận được bản tấu đã truy tặng ông và anh ông hàm Nhiêu, Nam sĩ phu trong tỉnh Hưng Yên và Nam Định làm nhiều thơ, câu đối phúng viếng, trong đó có câu:

Tích nhật Lục Giang Pháp phỉ kinh hồn
Phan Bổng anh hùng, đốc lãnh dân xưng bất hủ;
Kim thiên Lô Đống, nguỵ quân táng đởm,
Nông Kỳ tráng sĩ, Nhiêu Nam để tặng trường linh.


Dịch:

Ngày trước sông Luộc giặc Pháp kinh hồn, anh hùng Phan Bổng, Đốc Lãnh dân còn tôn mãi;
Hôm nay Đồng Lau ngụy quân vỡ mật, tráng sĩ Nông Kỳ, Nhiêu, Nam vua tặng không mờ.


NGUYỄN DUY HIỆU

Nguyễn Duy Hiệu còn gọi là Nguyễn Hiệu, Hường Hiệu sinh năm 1847 quê ở làng Thanh Hà, huyện Diên Phước, nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nguyễn Duy Hiệu có tư chất thông minh, năm 14 tuổi đã đi thi Hương, nhưng mãi đến năm 1879 mới đậu cử nhân và khoa thi Hội năm 1879 mới đậu phó bảng. Năm 1882 Tự Đức bổ dụng ông làm Giảng tập ở Dũng Thiện đường để dạy hoàng tử Ưng Đăng (sau là vua Kiến Phúc).

Khi triều đình Huế ký hoà ước với Pháp ông treo ấn từ quan thành lập Nghĩa hội chống Pháp. Sau khi Tôn Thất Thuyết ra bản Thông báo cho cả nước biết việc vua Hàm Nghi xuất bôn và kêu gọi mọi người “Cần vương”, lập tức Nguyễn Duy Hiệu cùng các ông Trần Văn Dư, Phan Bá Phiến, Hồ Học, Nguyễn Thành chiêu mộ quân nghĩa dũng đánh Pháp. Riêng ông Hồ Học chiêu mộ được 1000 quân. Hồ Học được Nguyễn Duy Hiệu giao cho chỉ huy từ đèo Hải Vân đến An Ngãi Đông.

Nguyễn Duy Hiệu được vua Hàm Nghi sắc phong: Bính bộ Tả tham tri, sung Tham tán quân vụ đại thần, kiêm lý Nam - Ngãi Tổng đốc (Tả tham tri bộ Binh, giữ chức Tham tán quân vụ đại thần, kiêm tổng đốc Nam - Ngãi). Nguyễn Duv Hiệu đã nhân danh vua Hàm Nghi phong chức cho những người đảm đương trach nhiệm hành chính và quân sự.

Nguvễn Duy Hiệu kế tục sự nghiệp của Trần Văn Dư lãnh đạo nghĩa quân. Ông hoạt động kiên quyết, nguyện hiến thân cho đại cục. Trước sự tấn công ác liệt của quân Pháp và quân triều đình Đổng Khánh, căn cứ Trung Lộc bị thất thủ. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề. Nguyễn Thành, Hồ Học ra sức cản địch để các vệ sĩ bảo vệ Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến rút về Gò May rồi chạv về vùng ven biển. Nguyễn Duy Hiệu thấy không còn khả năng phục hồi được Nghĩa Hội, ông nói với Phan Bá Phiến:

Nghĩa hội ba tỉnh ônạ với tôi thật chủ trương. Việc đã không thể làm thì ta chỉ có chết mà thôi. Nhưng hai ta cùng chết một lúc là vô ích. Ônq hãy chết trước. Phần tôi, tôi sẽ giải tán Hội, rồi đem thân mặc cho Pháp bắt. Nqười Pháp tra hỏi, tôi sẽ cực lực giải thoát cho Hội. Một mình tôi chết không đáng tiếc, còn hội ta sau này có kẻ làm thay chí ta, tức là ta sống đó!”. Sau đó hai thủ lĩnh quyết lấy cái chết để giữ bí mật của Nghĩa hội và bảo vệ các đồng chí còn sống được an toàn. Phan Bá Phiến uống thuốc độc tự tử trước, Nguyễn Duy Hiệu về quê thắp hương ở bàn thờ mẹ rồi ra miếu Quan Công, sai người báo cho Nguyễn Thân đến bắt. Ông nhận hết trách nhiệm về mình. Ngày rằm tháng tám năm Đinh Hợi (1/10/1887) một ngày sau khi Đồng Khánh phê chuẩn bản án tử hình, Nguyễn Duy Hiệu ung dung ra pháp trường chịu chém, trên môi vẫn nở nụ cười. Giặc Pháp và triều đình Huế chặt đầu ông dùng ngựa trạm hoả tốc đưa về phủ Điện Bàn tỉnh Quảng Nam bêu. Sự bình thản đi vào cõi chết của ông khiến kẻ thù run sợ. Baille, Khâm sứ Trung Kỳ lúc đó chứng kiến cái chết của ông đã phải viết:

''Hiệu đợi chết đứng như một nqười thuộc loại y vào bực y, nghĩa là y đợi chết không sợ sệt và đợi nó như một vận số, một định mệnh không có điều qì để căm qiận(...) Hiệu cũng như nhiều người khác đã thấy ở Nam Kỳ và Trung Kỳ, vẫn làm thơ trong khi đi tới pháp trường, rồi viết câu thơ đầu ngọn bút lông, mà không một nét nào run, tỏ sự xúc động gì cả...” (Baillc: Souvemirs d'Annam)

NGUYỄN HÀM

Nguyễn Hàm còn có tên là Nguyễn Thành, hiệu Tiểu La, sinh năm 1863, quê ở làng Nam Thịnh, huyện Thắng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Năm Ất Dậu, Hàm Nghi nguvên niên (1885), Nguyễn Thành ra Huế dự kỳ thi Hương nhưng kinh đô thất thủ, vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương. Nguyễn Thành trở về quê ứng nghĩa Cần vương. Sẵn có lòng yêu nước và kiến thức quân sự, lại biết võ nghệ, Nguyễn Thành cũng dựng cờ, chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp. Sau ông đưa quân gia nhập lực lượng của Nguyễn Duy Hiệu và trở thành Phó tướng khi ông mới 22 tuổi. Nguyễn Thành lĩnh chức Tán tương quân vụ lập công ngay trận đánh thu hồi sơn phòng Dương Yên.

Tháng 12 nám 1885 nghĩa quân bị một tổn thất lớn là thủ lĩnh Trần Văn Dư bị quân Pháp giết hại, công việc của Nghĩa hội do Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Thành gánh vác. Song về quân sự thì Nguyễn Thành đảm nhận là chính.

Cuối năm 1887, Đồng Khánh sai Nguyễn Thân chỉ huy 1000 quân. Khâm sứ Pháp cũng phái hai đạo quân gồm 400 lính Pháp 200 lính tập cùng quân của Phan Liêm đánh phá căn cứ Trung Lộc. Quân Pháp còn trang bị cho Nguyễn Thân, Phan Liêm 400 súng trường báng gấp cùng nhiều đạn dược. Giặc đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Thành bị bắt nhưng không bị tra tấn nhiều do Nguyễn Duy Hiệu đã nhận hết trách nhiệm về mình.

Nguyễn Thành không phải đi đày mà chỉ bị quản thúc ở làng. Về sau Nguyễn Thân ra Nghệ Tĩnh đàn áp cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng mấy lần mời ông cộng tác, ông đều khéo léo cự tuyệt.

Nguyễn Thành lập trại cày ở Nam Thịnh để tập hợp đồng chí, tích luỹ lương thảo, bề ngoài sản xuất nông nghiệp để che mắt kẻ thù.

Năm 1902, Phan Bội Châu đã biết tiếng Nguyễn Thành là người đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Nghĩa hội Quảng Nam và là viên dũng tướng nên quyết định vào gặp Nguyễn Thành để kết làm đồng chí cùng lo việc nước. Đầu tháng 5/1904, Phan Bội Châu và Nguyễn Thành đã triệu tập một Hội nghị có trên 20 sĩ phu đại diện cho ba kỳ Bắc - Trung - Nam tại Nam Thịnh sơn trang (điền trang của Tiểu La) nay thuộc huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Saư khi thảo luận kỹ đường lối, chính cương của tổ chức mới, các đại biểu đã nhất trí đặt tên là hội Duy tân. Khi Phan Bội Châu đi Nhật, thì công việc của hội ở trong nước đều Nguvễn Thành đảm nhận. Việc cầu viện Nhật không thành Phan Bội Châu chủ trương chuyển hướng xuất dương du học, gọi là phong trào Đông du, nhưng do hội Duy tân chủ trương thực hiện.

Trên thực tế từ giữa năm 1905 đến năm 1908, Nguvễn Thành là yếu nhân của Duy tân hội cũng là sáng lập viên hội Duy tân, vừa là người phụ trách phong trào Đông du ở miền Nam Trung Kỳ.

Vào giai đoạn 1907 ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi có sự phân kỳ tư tưởng trong nội bộ hội Duy tân giữa hai xu hướng là bạo động cách mạng và cải cách ôn hoà, đã gây ra mối  bất hoà trong hội. Tiểu La Nguyễn Thành là người đứng ra điều tiết hoà hợp hai xu hướng này một cách kết quả.

Đầu năm 1908 phái cải cách ôn hoà trong hội Duy tân ở miền Nam Trung Kỳ đã phát động phong trào xin xâu, chống thuế mãnh liệt tại tỉnh Quảng Nam và đã lan ra khắp các tỉnh miền Trung. Song thực dân Pháp đã đàn áp đẫm máu các cuộc biểu tình này. Rất nhiều sĩ phu yêu nước bị bắt, Nguyễn Thành cũng nằm trong số đó. Ông bị kết án khổ sai chung thân đày ra Côn Đảo. Trong tù ông bị bênh, đến khi Nguyễn Thành biết mình không qua khỏi, ông đã đọc cho Huỳnh Thúc Kháng ghi lại di chúc của mình gửi cho anh em đồng chí, trong đó có câu: “Thời cuộc xoay vần, cơ hội tốt sẽ đến, guồng máy Đông Á sau này còn nhiều cuộc biến đổi. Anh em hãy gắng lên”. Ông cũng để lại bài thơ TUYỆT MỆNH.

Một việc chưa thành tóc nhuộm màu,
Non sông ngoảnh lại thẹn mày râu.
Vá trời thiếu sức bàn nghe dễ,
Cứu thế không tài, tránh ở đâu?
Cuộc biến ngại gì mây đổi sắc,
Tình người e nỗi sóng thêm sâu.
Mở toang hai mắt xem trời đất,
Ngắm thử mười năm vẫn thế ru?


Ông mất tại Côn Đảo vào năm 1911.


HỒ HỌC

Hồ Học người làng Vân Dương, tổng An Hoà, huyện Hoà Vang, nay thuộc thành phố Đà Nẵng. Ông chiêu mộ được 1000 quân, trang bị,vũ khí đánh Pháp. Nghĩa quân tự trang bị vũ khí, súng bắn nhanh, súng khai hậu là súng trang bị cho quân triều đình có rất ít, chủ yếu là vũ khí thô sơ. Nhân dân huyện Hoà Vang và những nơi ông đóng quân tự nguyện đóng góp thóc gạo. trâu lợn và tiền bạc làm quân lương. Các sĩ phu tham gia vào đội quân của Hổ Học đã làm bài thơ tố cáo bọn xâm lược Pháp cướp nước, và triều đình nhà Nguyễn bán nước.

Hồ Học đã đưa quân đội của mình tham gia Nghĩa hội do Trần Văn Dư, Nguyễn Hàm (Nguyễn Thành) đem quân đánh thành Quảng Nam. Bọn quan tỉnh thân Pháp từ Tuần phủ, Bố chính, Án sát, sợ hãi bỏ thành chạy. Nghĩa quân của Nghĩa hội làm chủ tỉnh thành, lấy súng đạn, vũ khí, quân trang lương thực cho nghĩa quân và cấp phát cho dân. Đội quân của Hồ Học mở cửa nhà tù giải thoát cho những người yêu nước bị chúng bắt giam. Phần lớn tù nhân xin gia nhập nghĩa quân.

Để cứu nguy cho thành Quảng Nam, quân Pháp và quân triều đình Đồng Khánh tấn công tỉnh thành La Qua. Nghĩa quân phải rút khỏi thành Quảng Nam. Trong một trận đánh không cân sức, Trần Văn Dư bị giặc Pháp bắt rồi anh dũng hy sinh. Nghĩa Hội Quảng Nam cử Nguyễn Duy Hiệu lên giữ vị trí đứng đầu Nghĩa hội và chỉ huy nghĩa quân. Hồ Học là người chỉ huy dũng cảm, có tài cầm quân, đánh thắng quân Pháp nhiều trận. Nguvễn Duy Hiệu giao cho ông chỉ huy nghĩa quân, quản lý vùng đất đai rộng lớn từ đèo Hải Vân đến An Ngãi Đông. Lợi dụng địa hình đồi núi hiểm trở ông đã xây nhiều đồn lũy thành một thế trận liên hoàn, hỗ trợ lãn nhau trong phòng thủ và tấn công. Ông chỉ huy đánh quân Pháp nhiều trận lớn, có trận chiến thắng vang dội như trận dánh quân Pháp ở đèo Hải Vân.

Trong trận Hố Chiếu, quân Pháp đông gấp bốn lần nghĩa quân, lại có quân tiếp viện, nên nghĩa quân chỉ cầm cự được một ngày thì đồn luỹ bị đại bác của chúng san phẳng. Hồ Học cùng nhiều tướng lĩnh của ông như Tán Bùi, ông Đốc Sành, ông Lãnh Địa, Cai Á. Cai Cải cũng bị chúng bắt. Chúng giải ông về Ty Niết (tức Ty án sát của Nam triều) Hội An tra hỏi. Chính tên đại tá Pháp và tên án sát Quảng Nam hỏi cung. Chúng mơn trớn dụ dỗ ông khai báo nơi ở của thủ lĩnh Nguvễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến và các bí mật của Nghĩa hội, nghĩa quân sẽ được tha. Hồ Học đã quăng cả chiếc ghế vào tên đại tá Pháp. Chiếc ghế vừa quăng đi bọn lính bảo vệ đã bắn chết ông. Giặc Pháp còn giết các ông Tán Bùi, Đốc Lãnh, Lãnh Trinh, Cai Á, Cai Cải. Chúng chặt đầu các ông bêu trên bờ sông Cẩm Lệ để uy hiếp nhân dân. Nhân dân an táng ông ở Hố Chiếu trong đó có nhiều ngôi mộ giả. Mãi đến năm 1957 cháu chắt ông mới dựng bia bên cạnh mộ.

LÊ VĨNH HUY

Lê Vĩnh Huy tên thật là Lê Ngọc Cung, tự Vĩnh Huy, tên tục là Bang Tuyên hay Tán Hai. Quê quán làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Khi phong trào nghĩa hội Cần vương nổ ra, Lê Vĩnh Huy hăng hái tham gia. Ông được cử giữ chức Bang tá, sau thăng Tán lý Quân vụ thuộc Nghĩa hội Quảng Nam.

Năm 1886 sau khi Nguyễn Duy Hiệu chuyển ban Lãnh đạo Nghĩa hội đến Nà Lầu, nay thuộc xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, ông Lê Vĩnh Huy trực tiếp chỉ huy một cánh quân chủ lực bảo vệ căn cứ và đại bản doanh. Quân Pháp và quân triều đình tiến đánh nhiều trận, Lê Vĩnh Huy đã mưu trí, dũng cảm chỉ huy nghĩa binh phản kích, lập nên chiến thắng Nà Lầu, Dốc Miếu, Suối Đá.

Tháng 2 năm 1886, ông cùng tướng Hồ Học chỉ huy một cánh quân lớn, hợp đồng với cánh quân của Phan Bá Phiến tiến đánh tỉnh thành Quảng Nam đóng tại xã Vĩnh Điện (nay thuộc huyện Điện Bàn). Sau quân Pháp và quân triều đình phản công nghĩa quân núng thế, phải rút về căn cứ Quế Sơn, Tiên Phước, Trà My.

Cuối tháng 7 năm 1887, đại bản doanh nghĩa quân liên tục bị quân Pháp và quân triều đình đánh phá. Phan Bá Phiến, Nguyễn Duy Hiệu lần lượt hi sinh, phong trào nghĩa hội tan rã.

Một số thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt, bị giết, bị đày ải trong các nhà tù. Ông và một số khác về quê nhà sống mai danh ẩn tích. Để tránh sự nhòm ngó của giặc Pháp và tay sai, ông ra làm Chánh tổng Tiên Giang, ngấm ngầm tán trợ cho các phong trào yêu nước.

Năm 1904, ông bí mật liên lạc với Tiểu La Nguyễn Thành gia nhập Duy Tân hội. Ông là một trong số người đầu tiên gia nhập tổ chức này. Ông cùng Nguyễn Thành gây dựng phong trào Duy tân ở Quảng Nam. Sau chuyến đi của Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ sang Nhật thì chủ trương cầu viện Nhật Bản để đánh Pháp bị bãi bỏ, thay vào đó là vận động thanh, thiếu niên sang Trung Hoa, Nhật Bản du học đào tạo nhân tài để về xây dựng đất nước.

Chủ trương này sau được gọi là phong trào Đông du. Theo sự phân công của tổ chức, Lê Vĩnh Huy phụ trách việc vận động đưa thanh niên sang du học tại Nhật Bản. Đây là một công việc rất khó khăn vì vừa vận động thanh thiếu niên du học, vừa lo công tác tài chính.

Trước khó khăn đó, Lê Vĩnh Huy đã cho em trai mình là Lê Quý Liên và hai con trai là Lê Triêm và Lê Duyên xuất dương ngay từ đợt đầu về tài chính, ông đã cống hiến một nửa tài sản (tiền bán quế, bán hồ tiêu, bán chè) của gia đình ông cho phong trào. Khi nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương thông đồng với chính phả Nhật trục xuất Phan Bội Châu và lưu học sinh Việt Nam khỏi Nhật, thì Lê Quý Liên cùng Lê Triêm, Lê Duyên về Trung Quốc, Xiêm La một thời gian rồi về nước tham gia cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế năm 1916 do Thái Phiên, Trần Cao Vân chủ trương có vua Duy Tân tham gia. Chính Lê Triêm, Trần Hoành chỉ huy một cánh quân đánh chiếm đồn Trà Mv rồi tiến xuống thị trấn Tam Kỳ vàv bắt tri phủ Tam Kỳ Tạ Thúc Xuyên - một kẻ thân Pháp.

Cuộc khởi nghĩa năm 1916 thất bại, nhiều người trong gia đình Lê Vĩnh Huy bị bắt. Lê Triêm bị đầy đi Lao Bảo, bị thảm sát trong vụ tù chính trị do Hổ Bá Kiện và Lưu Thanh cướp ngục năm 1918. Lê Duyên bị đầy đi Côn Đảo, cháu ông là Lê Liễu cũng hi sinh năm 1916. Riêng Lê Vĩnh Huy bị bắt giam trong nhà lao Hội An khi cuộc khởi nghĩa 1916 bị đàn áp, ông hi sinh tại nhà lao ngay năm đó. Gia đình cha ông là Lê Vĩnh Khanh ở Tiên Phúc cũng có nhiều người bị bắt giam, bị tịch biên gia sản. Hiện nay ở thành phố Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh có đường phố mang tên Lê Vĩnh Huy.


LÊ TRUNG ĐÌNH

Lê Trung Đình sinh năm 1863 là con thứ sáu tiến sĩ Lê Trung Lượng, người làng Nhơn Phú, huyện Sơn Tịnh, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Lê Trung Đình có tướng lạ, hai lòng bàn chân cong lại không hề dính đất. Ông thông minh, lỗi lạc về văn chương, thơ phú và tính tình rất khí khái trong đối nhân xử thế. Năm Lê Trung Đình 15 tuổi đã thuộc làu kinh sử, giỏi đối đáp. Có lần Lê Trung Đình cùng cử nhân Trần Bá Võ, thủ khoa Điện ra Huế thi, ba người ngồi sát nhau. Các sĩ tử Nghệ An biết tiếng Lê Trung Đình liền cho hai cô gái người Nghệ An ra vờ thăm hỏi rồi ra vế đối:
Tam nhân đồng toạ, thượng hạ lục đầu”
Cử Đình liền đáp:
Nhị nữ song hành tung hoành tứ khẩu”.

Thơ Lê Trung Đình phần lớn mang tính trào lộng, đả kích. Song ông cũng có những bài thơ nồng nàn, đằm thắm yêu thương, như bài thơ: Giã vợ đi thi Hội:

Tên cỏ, cung dân vẫn chắc phần
Cực vi biển ái lại nguồn ân
Khúc đàn cầm sắt vui từng nhịp
Chén rượu quan hà nặng mấy cân
Trướng liễu dù vui xuân chín chục
Võ môn ai lướt sóng ba từng
Dặn lòng vàng đá, em đừng ngại
Chán biết hoàng châu mấy sắc xuân.


Song phần lớn thơ của ông mang khí tiết hiên ngang. Ông mượn cảnh thiên nhiên tái hiện cảnh sống lầm than cùng cực của nhân dân trước ách cai trị của giặc Pháp. Bài thơ cũng ý thức được trách nhiệm của “Trai thời loạn” và bày tỏ tâm sự của mình trong bài thơ Lụt:

Mưa từng chặp, gió từng hồi
Đoái lại giang san nước khoá rồi
Lũ kiến bất tài tha trứng chạy
Bầy rêu vô dụng kết bè trôi
Líu lo rừng vắng nghe chim hót
Lủm khủm giường cao thấy chó ngồi
Nỡ để dân đen chìm đắm bấy
Nào ông Hạ Võ ở đâu ơi!


Năm 1879 Lê Trung Đình dự khoa thi Kỷ Mão ở Bình Định, vì sơ ý để chữ “Nhất” (-) xuất vận nên bị đánh trượt. Năm thi Hương Nhâm Ngọ (1882), ông đi thi, cầm chắc đỗ Thủ khoa, nhưng chỉ được đỗ hạng nhì.

Sau hiệp ước Patơnốt(1884) Tôn Thất Thuyết đã soạn thảo kế hoạch đánh Pháp lâu dài. Ông biết Lê Trung Đình là người kiên quyết chống Pháp, nên ngay sau khi soạn thảo xong bản kế hoạch đánh Pháp lâu dài, ông đã mật giao cho Lê Trung Đình tập hợp những người có nghĩa khí ở tỉnh Quảng Ngãi lặng lẽ chuẩn bị lực lượng Hương binh để sẵn sàng đánh giặc Pháp. Lê Trung Đình trở về Quảng Ngãi cùng Nguyễn Tự Tân và các sĩ phu trong tỉnh thành lập Nghĩa hội Quảng Ngãi, tổ chức các đoàn kiệt và Hương binh.

Giờ Tý ngày 1 tháng 6 năm Ất Dậu (1885) Lê Trung Đình họp nghĩa quân ở chiến khu Truyền Tung (Bình Sơn) rồi kéo quân về chiếm tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Lê Trung Đình được cử làm Chánh quản Hương binh, Tú tài Nguyễn Tự Tân và Vũ Hội được cử làm Phó quản Hương binh, Nguyễn Văn Hoành được cử làm Thương biện.

Đêm mùng 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885 Kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị lãnh đạo nhân dân đánh Pháp. Nhận được chiếu của vua Hàm Nghi, Lê Trung Đình đã liên lạc với Thành thủ uý Nguyễn Côn và Hiệp quản Trần Tư ở thành Quảng Ngãi tập hợp lực lượng chống Pháp. Nghĩa quân làm lễ tế cờ tại bãi cát Văn Thánh vào ngày 12 tháng 7 năm Ât Dậu rồi chia quân làm ba đạo vượt sông Trà Khúc tiến về tỉnh thành Quảng Ngãi. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, Lê Trung Đình bị bắt. Giặc Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc ông ra làm quan cho triều đình nhưng ông không khuất phục, chửi mắng chúng, Nguyễn Thân, Nguyễn Hội xử ông tội chết chém.

Lê Trung Đình bị tên Việt gian Nguyễn Thân xử tử ngày 18/7/1885, khi chưa tới 22 tuổi. Hiện nay mộ Lê Trung Đình vẫn toạ lạc ở ấp Phú Nhơn cách tỉnh lỵ 5 cây số về phía Đông Bắc. Con cháu cúng giỗ ông vào ngày 11 tháng 6 âm lịch.

NGUYỄN DUY CUNG

Nguyễn Duy Cung quê ở ấp Thanh Liêm, xã Tủ Bình, quận Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Ông thi đỗ cử nhân, dạy học một thời gian. Năm 1882 ông được cử làm Thượng biện sơn phòng, giữ chức vụ đó trong 3 năm. Khoảng tháng 3 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, người đứng đầu phe chủ chiến biết rõ tư chất của ông nên cử ông vào giữ chức án sát tỉnh Bình Định để tăng cường lực lượng, nên nhân dân gọi ông là án Cung.

Vua Hàm Nghi xuất bôn, kêu gọi nhân dân hưởng ứng chiếu Cần vương. Hồng lô Tự thiếu khanh Đoàn Doãn Địch một quan lại trí sĩ, tập hợp 600 nghĩa quân khởi nghĩa hưởng ứng chiếu Cần vương, án sát Nguyễn Duy Cung trở thành trợ thủ số một cho Đoàn Doãn Địch. Từ thành Bình Định, nghĩa quân mở nhiều trận đánh từ Trường Úc đến Phong Miêu, có kẻ phản bội, bắt Nguyễn Duy Cung bỏ ngục rồi mở cửa thành đầu hàng quân Pháp. Nguyễn Duy Cung vượt ngục ra vùng cửa sông Tiền phát lời kêu gọi nhân dân đánh Pháp. Người ứng nghĩa rất đông, Nguyễn Duy Cung lập ra phòng tuyến trước sông Cửa Tiền từ Cầu Gạch đến Chóp Vung để chống Pháp ở mặt Đông. Án Cung bí mật liên lạc với Mai Xuân Thưởng, người thôn Phú Lạc, huyện Bình Khê lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Phú Phong.

Tháng 8/1885 Nguyễn Duy Cung được tin Lê Trung Đình. Nguyễn Tự Tân đã chiếm thành Quảna Ngãi. Các ông làm chủ được 5 ngày thì quân Pháp, Nguyễn Thân đem quân đến đánh, Nguyễn Duy Cung đem quân vào cứu. Khi ông dẫn quân tới nơi thì Nguyễn Tự Tân đã hy sinh, Lê Trung Đình bị Nguyễn Thân bắt, thành lọt vào tay giặc, Nguyễn Duy Cung đem quân trở về Bình Định tiếp tục xây dựng phòng tuyến từ Cầu Gạch đến Chóp Vung. Người đến tham gia nghĩa quán ngày càng đông, trong đó có cả Lê Bá Thân, Tổng đốc Bình Định cũng bí mật tham gia.

Tháng 8 năm 1885, quân Pháp từ biển đổ bộ vào chiếm Quy Nhơn. Nguyễn Duy Cung đưa toàn bộ quân sĩ cùng văn thân nghĩa sĩ trong tỉnh ra chặn giặc. Thế giặc mạnh, ông bị thua, phải lui quân về An Nhơn, gia nhập cuộc khởi nghĩa do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo. Giặc Pháp, Nguyễn Thân đem quân đến đánh nhiều lần không được. Chúng sử dụng chiến tranh gián điệp, mua chuộc, dụ dỗ những tên ham sống, sợ chết trong nội bộ nghĩa quân làm phản. Nguyễn Cung không ngờ kẻ phản bội mình lại là Tổng đốc Lê Bá Thân. Hắn khuyên ông trở lại Bình Định mở một trận tấn công quân Pháp, đánh chiếm vùng rừng núi phía Tây của tỉnh xây dựng căn cứ để từ đó đánh thọc xuống đồng bằng, tỉnh thành và vùng ven biển. Nguyễn Duy Cung tin lời hắn, hẹn địa điểm, ngày giờ hội quân. Tên Lê Bá Thân lập tức mật báo cho giặc Pháp, Nguyễn Thân đặt quân mai phục bắt ông rồi mở cửa thành đầu hàng giặc Pháp.

Giặc Pháp, Nguyễn Thân, Lê Bá Thân dùng chức tước, tiền bạc dụ dỗ ông ra làm quan cho chúng, bị ông cự tuyệt và chửi mắng bọn Việt gian đầu hàng giặc. Bọn chúng dùng cực hình thời trung cổ tra tấn ông, hòng ông khuất phục, khai báo cơ sở và đồng chí của mình. Ông vẫn một lòng kiên trinh sắt đá phục vụ lý tưởng cứu nước của mình. Chúng tống giam ông và ngục Bình Định. Trong ngục, Nguyễn Duy Cung xé vạt áo cắn ngón tay lấy máu viết tâm thư gửi cho Mai Xuân Thưởng và Nghĩa binh tại mật khu Linh Đỗng (Bình Khê). Bức thư bằng máu này có nhiều tên gọi khác nhau như Huyết lệ tâm thư. Hịch kêu gọi chống Pháp, Hịch Bình Tây, và còn có tên gọi là Bình Thành Cáo thị vì nó được viết từ thành Bình Định.

Chúng tôi dẫn toàn văn văn kiện trên:

Thiết vị:
Quốc gia đa sự,ninh từ huống tụy dĩ tuyên lao
Thần tử phỉ cung, cảm vị tồn vong nhi cải tiết
Cái năng tận thần đạo,
Phương khả uỷ quân tâm.
Nhan Châu khanh tư chuẩn Đường nguy, đoạn thiệt hà phương ư Hy Liệt;
Lý Thị Chế kỳ thanh tống nạn, phanh can hà uỷ ư Bá Nhan.
Viễn giám tiền nhăn Sự đồng kim nhật Ty dĩ
Thượng Châu tiện phẩm,
Ngãi tỉnh hàn nho.
Lạm dự khoa danh,
Hạnh bồi văn tịch
Sơn phòng tham biện, tích tổ hiệu ư tứ niên;
Lân tỉnh đề hình, hoá vị chu ư tam nguyệt.
Đồng niệm đế kinh luân một, oán kết thống tâm,
Sấu tư hoàng giá bá thiên, cừu thảm khiết xỉ.
Kế dĩ cô thành khởi sự, hội chúng mưu nhi thu thập nhân tâm.
Tạc văn lân tỉnh hưng binh, tán dinh soái nhi trù duy quốc kế.
Phương hỷ binh dân văn tập,
Tương kỳ tướng sĩ lôi oanh.
Tưởng tha soái phủ khả minh công. Cần Hải chi lang yên tiêu tức;
Nại thử tướng nhân vô hiệu ỉực,
Bình thành chi nhung mã tung hoành.
Ty, tự liệu tài sơ, Nan kham kế hoạch.
Dục hướng An Nhân thoái thủ, khủng vi mệnh dĩ cầu sinh;
Phục hồi ban tỉnh ngự phòng, quyết vong thân nhi tuẫn quốc.
Bất ý gian thần mại quốc,
Nhẫn tương thổ địa dữ tha.
Bài cỉúmq nghị dĩ khoa trương, chiến cục phiên thành hoà cục;
Khai thành môn nhi nghinh tiếp, nam nhân hoán tác Tây nhân.
Kỷ nhật đề lao cấm cố, hiếp ty đẳng cữ thành hoà hảo chi mưu;
Sổ ngôn hoạ kết binh liên, gia ty dẳnq mật klìải văn thân chi tội.
Ty tự niệm.
Ninh vi trung nghĩa quỷ;
Bất vi tàm phụ nhân.
Thệ cửu tử dĩ hà từ, đỉnh hoạch sình tiền an túc uý;
Túng nhất sinh nhi hữu khiểm, đao phong tử hậu hiũi thuỳ tri.
Thể bất tịnh sinh,
Phận cam vạn tử.
Bá thử trung can nghĩa phủ, đối cố chủ dĩ vô tàm;
Cảm vân tráng tiết hoàn danh, dữ cổ nhân như tịnh liệt.
Thử tại tâm trung tự hứa;
Chuyên khảo chư liệt chứng tri.
Cảm tương tu ngã qua mâu, địch khái chi hùng tâm vị tỏa;
Kỳ dĩ dữ đồng bào trạch, Cần vương chi tráng chi vô vong.
Thiên ý nhược hưrĩg Lưu, Quang Vũ chi đông đô phục chấn;
Nhân tâm như đái Tống, Cao tông chi nam độ trùng hưng.
Vương nhất khuông tương, hạnh bằng chúng trí.
Kinh thành khôi phục, ký dữ chư công Huyết lệ thư phong,
Chúc duy cáo thị.


Toàn văn bản dịch của Nguvễn Bích Ngô:

Thiết nghĩ:
Quốc gia khi nhiều việc phải nên tận tưỵ chịu gian lao.
Tôi con quyết một lòng, há vi mất còn thay khí tiết.
Vì có hết đạo kẻ dưới,
Mới khỏi phụ lòng bề trên.
Nhan Châu Khanh lo cứu nguy nhà Đường, bị cắt lưỡi nhưng kinh gì Hy Liệt;
Lý Thị Chế mong yên nạn nhà Tống, bị moi gan nhưng nào sợ Bá Nhan.
Xa trông người trước,
Việc giống ngày nay.
Cung này, thân phận hèn ở Tượng Châu.
Nhà nho nghèo ở Quảng Ngãi.
Lạm dự đỗ đạt, may bổ quan văn.
Sung chức Sơn phòng, tham biện mới được bốn năm.
Đổi sang tỉnh cạnh đề hình chưa đầy ba tháng.
Xót nghĩ kinh thành thất thủ, oán kết ruột đau, sầu lo xa giá chạy dài, hằn sâu răng nghiến.
Liệu giữ cô thành tính việc, hội chúng mưu mà thu thập lòng người;
Chợt nghe tỉnh cạnh dấy binh giúp đinh soái để toan lo việc nước.
Vua mừng quân dân mây hợp,
Hầu mong tướng sĩ sấm vang.
Tưởnq phá soái phủ để ghi công, bể Cần Hải khói lang bay báo.
Ngờ đâu tướng thần không gắng sức, thành tỉnh Bình ngựa giặc dọc ngang.
Cung này, tự liệu tài hèn;
Không bày kế hoạch.
Muốn lui đến An Nhân tìm thế thủ, e rằng trái mệnh cầu sinh.
Nên lại về bản tỉnh để đề phòng quyết kế quên mình mà báo quốc.
Không ngờ gian thần bán nước,
Nỡ đem lãnh thổ cho Tây.
Bác chúng nghị để làm càn, chiến cục xoay thành họa cục.
Mở cửa thành ra đón tiếp, nqười Nam đổi dạng người Tây.
Mấy ngày cấm cố đề lao, hiếp bọn Cung tác thành mưu hoà hảo.
Câu chuyện động binh gây vạ, buộc bọn Cung vào tội họp văn thân.
Cung này tự nghĩ:
Thà làm ma có hồn trung vía nghĩa
Không làm người đeo mặt ngựa đầu trâu
Chín phần thề chết chẳng từ, sống dẫu nấu vạc xanh không núng chí.
Một đời sống thêm còn mang tội, chết còn nhiều hình phạt có ai hay.
Thế chẳng đều sinh
Phận cam vạn tử.
Bày hết gan trung ruột nghĩa, đối chủ cũ cũ không thẹn lương tâm.
Dám cầu cao tiết thơm danh, cùng người xưa sánh hàng liệt sĩ.
Chính bởi trong lòng tự quyết.
Dám mong các bạn chứng tri,
Xin trong tay sắp sẵn qua mâu, lòng địch khái còn hăng chưa nhụt.
Xin cùng nhau trọn lòng giáp trụ, chí Cần vương còn mạnh không quên,
Lòng trời còn tựu Lưu, Quang Vũ đóng phía Đông lại thịnh;
Nhà nước được vững vàng, từ nay mong nhờ chúng trí.
Kinh thành lại khôi phục, sau đây cậy có các ông.
Lệ máu dán thư,
Mấy lời bá cáo.


Viết xong Huyết lệ tâm thư, ông tìm cách gửi ra ngoài rồi ông tự tử trong ngục giữ tròn khí tiết. Ông hy sinh năm 1886.

MAI XUÂN THƯỞNG

Mai Xuân Thưởng sinh năm 1860 tại thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tuy Viễn, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Sau khi thi đậu cử nhân, tháng 7/1885 ông vào Huế dự thi Hội. Dời trường thi, Mai Xuân Thưởng về làng chiêu mộ nghĩa quân hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi chống Pháp. Với lòng yêu nước căm thù giặc Pháp và ngưỡng mộ nhà vua trẻ tuổi đã dũng cảm rời ngai vàng cùng cuộc sống đế vương vào rừng sâu, núi thẳm lãnh đạo nhân dân kháng chiến, nên gia nhập rất đông. Nghĩa quân suy tôn Mai Xuân Thưởng là Nguyên soái, Bùi Điền quê ở xã Mỹ Hoà là Thống trấn, Nguyễn Đức Nhuận là Hiệp trấn, cùng một số phó tướng, thống binh trở xuống. Lực lượng nghĩa quân Bình Định đông hàng ngàn người.

Ngay sau khi vừa thành lập, tháng 7/1885 nghĩa quân đã đánh chiếm tỉnh thành Bình Định. Nghĩa quân còn đánh phá các làng theo đạo Thiên chúa được thực dân Pháp vũ trang đi cướp phá các làng bên lương, do thám hoạt động của các tổ chức yêu nước, chỉ điểm cho quân Pháp đến đánh phá.

Thủ lĩnh nghĩa quân Mai Xuân Thưởng còn phối hợp với nghĩa quân tỉnh Phú Yên do cử nhân Nguyễn Trọng Trì chỉ huy tấn công tỉnh lỵ Phú Yên vào tháng 9/1885, bắt giam Bố chính Phạm Như Xương theo Pháp. Mai Xuân Thưởng chủ trương mở rộng cuộc khởi nghĩa vào Nam Kỳ, đã phong cho Nguyễn Công Chánh chức Tổng đốc cử vào Nam vận động các sĩ phu và nhân dân khởi nghĩa.

Các trận đánh ác liệt đẫm máu diễn ra giữa quân Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc với quân Mai Xuân Thưởng và các tướng trong suốt tháng 7/1887. Nghĩa quân chiến đấu kiên cường, dũng cảm tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Nghĩa quân tuy đông, dũng cảm, hăng hái song chưa được luyện tập thành thục các động tác chiến đấu, vũ khí kém xa địch. Nghĩa quân đánh nhau cả tháng nhưng không có quân tiếp viện, một số căn cứ thiếu lương ăn, nên không cầm cự được lâu.Trong các cuộc chiến, một số thủ lĩnh bị bắt bị hy sinh, nghĩa quân số chết, số tan tác, có một số nản chí bỏ đi. Song các thủ lĩnh Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền, Bùi Hiền, Vương Toàn, Nguyễn Trọng Trì, Tăng Doãn Văn (Tăng Bạt Hổ) vãn kiên trì chiến đấu, mở nhiều trận tập kích vào quân triều đình tay sai đắc lực của bọn thực dân Pháp.

Đêm 30/4/1887, Mai Xuân Thưởng quyết định cùng các tướng chỉ huy đội quân BaNa đột kích vào doanh trại của Trần Bá Lộc. Nghĩa quân phá trại giam giải thoát người bị bắt, trong đó có bà Hoàng Thị Nguyệt, mẹ của Mai Xuân Thưởng. Song nghĩa quân không tiêu diệt được hoàn toàn quân địch. Trần Bá Lộc chạy thoát. Trước tình thế bị cô lập, Mai Xuân Thưởng cử ông Mai Xuân Phẩm mang thư và quà sang Xiêm cầu viện. Lực lượng nghĩa quân còn lại chừng 50 người do Mai Xuân Thưởng chỉ huy bănơ rừng, lội suối vào Phú Yên chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa mới. Nhưng ngày 4/5/1887, đội quân mệt mỏi vừa tới chân đèo Phú Quý thì bị Trần Bá Lộc phục kích bắt hết. Ông Phẩm trên đường sang Xiêm cầu viện cũng bị quân của Đồng Khánh bắt đưa về Huế xử giảo.

Mai Xuân Thưởng bị giải về thành Bình Định, triều đình Huế nghị án: “Dương vị Hàm Nghi khởi nghĩa, ân vị Huệ Nhạc phục thù” và giao cho Tổng đốc Bình Định thực hiện án trảm. Mai Xuân Thưởng cùng với Bùi Điền, Nuuvễn Đức Nhuận và 18 đồng chí khác bị giải từ nhà lao Bình Định ra pháp trường ở Gò Chàm, cách đó không xa về hướng Bắc để hành quvết. Riêng Mai Xuân Thưởng bị Đồng Khánh xử “ tội lăng trì xử tử”.

Mai Xuân Thưởng và các đồng chí của ông bị giặc Pháp và triều đình Đồng Khánh xử chém ở Gò Chàm, tỉnh Bình Định vào ngày 15 tháng 4 năm Đinh Hợi (khoảng 15/5/1887), hài cốt đưa về chôn cất ở làng cũ Phú Lạc, quận Bình Khê phía Bắc ngạn sông Côn.

NGUYỄN THẾ TRIẾT

Nguyễn Thế Triết tự là Tứ Quý, hiệu là cổ Khê, thường gọi là Tám Tương. Ông là người làng Phụng Sơn, phủ Tuy Hoà, tỉnh Bình Định. Sau khi thi đỗ tú tài ông được bổ làm hậu bổ.

Hưởng ứng chiếu Cần vương, Mai Xuân Thưởng tổ chức lực lượng nghĩa quân khởi nghĩa. Biết tiếng của Nguyễn Thế Triết, Mai Xuân Thưởng mời ông về và phong cho ông chức Tán tương quân vụ chỉ huy đạo quân Bình Nhơn - An Khê. Khởi nghĩa nổ ra ở hầu khắp các phủ huyện trong tỉnh Bình Định, phát triển sang phía nam tỉnh Quảng Ngãi, bắc tỉnh Phú Yên. Giặc Pháp hoảng sợ, đích thân tướng Đờ Cuốc xi (De Courcy) tướng Pờ Rung đom nơ và Khâm sứ Trung kỳ De Champo chỉ huy quân Pháp, Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc chỉ huy quân Nam triều tiến đánh nghĩa quân. Nguyễn Thế Triết tham gia nhiều trận đánh lớn.

Tháng 4 năm 1887 quân Pháp điều động lực lượng lớn, Khâm sứ Trung kỳ và vua Đồng Khánh sai các tên Việt gian Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc chỉ huy một lực lượng lớn quân lính do sĩ quan Pháp huấn luyện, trang bị tới Bình Định mở cuộc tấn công quy mô lớn vào tất cả các căn cứ của nghĩa quân. Chúng bịt chặt các đường thông từ Quảng Ngãi vào từ Phú Yên ra, nên nghĩa quân không ứng cứu cho nhau được. Các trận đánh diễn ra đẫm máu, nghĩa quân tiêu diệt được nhiều địch, song cũng bị tổn thất nặng nề.

Ngày 4/5/1887 Mai Xuân Thưởng chỉ còn lại khoảng 50 nơựời chạy về Phú Yên trong đó có ông Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận thì bị Trần Bá Lộc đặt phục binh bắt. Vua bù nhìn thân pháp Đồng Khánh ra lệnh xử chém tất cả các tướng lĩnh.

Cuộc khởi nghĩa Bình Định tan rã, một số tướng như Nguyễn Trọng Trì, Đặng Thành Tích trốn tránh một thời gian, rồi ra trình diện được Pháp tha. Riêng Tán tương quân vụ Nguyễn Thế Triết cùng phó tướng Đặng Xuân Thiều vẫn duy trì được đạo quân Bình Nhơn, An Khê, rút lên Tây Nguyên, xây dựng căn cứ ở làng Con Rang.

Từ căn cứ Con Rang xa xôi hiểm trở ông vẫn hướng về quê hương Phụng Sơn với nỗi nhớ quê, nhớ người mẹ già, nhớ vợ con bội phần. Song sơn lam chướng khí và bệnh sốt rét rừng đã cướp đi sinh mạng của ông tú tài, Tán tương quân vụ Nghĩa quân Bình Định. Phó tướng Đặng XuângThiều vuốt mắt cho ông rồi cùng nghĩa quân và đồng bào Thượng Con Rang làm lễ an táng người chỉ huy tận trung với nước, tận hiếu với dân của mình.

LÊ CÔNG CHÁNH

Lê Công Chánh tức Nguyễn Ngọc Ân, Lê Công Sơn, Võ Văn Thung, Nguyễn Văn Hải sinh năm 1842. Ông quê ở tổng Phú Vĩnh, tỉnh Phú Yên. Ông học trường võ tại Bình Định, đỗ cử nhân võ. Sau ông ra Hà Nội dự thi võ trúng tiến sĩ, được phong chức Lãnh binh.

Năm 1885 Lê Công Chánh giữ chức Phó tổng binh thành Hà Nội. Khi vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương thì ông về Bình Định tham gia cuộc khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng. Mai Xuân Thưởng phong ông chức Tổng đốc, cử ông vào Nam Kỳ vận động nhân dân chống Pháp.

Lê Công Chánh vào Nam cùng Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Bá Trọng, Lê Bá Đạt lập căn cứ ở vùng Thất Sơn (Bảy Núi), An Giang phát động nhân dân khởi nghĩa. Lê Công Chánh về Mỹ Tho với tên giả là Võ Văn Thung thì bị bắt. Bọn Pháp bắt kết án ông 2 năm tù, đày ra Côn Đảo rồi lại chuyển về đày ở nhà lao Phú Quốc. Đầu năm 1889 Lê Công Chánh cùng bảy người vượt ngục Phú Quốc, bị bão dạt vào rạch Cả Hường, Cần Vọt của Campuchia.

Tháng 3/1893 ông trở về núi Thất Sơn ở An Giang rồi xuống Mỹ Tho theo đường biển trở ra Bình Thuận vào tháng 8/1893. Cuối tháng 9/1893, Lê Công Chánh cùng Nguyễn Đăng Giai vào gặp Lê Văn Lễ khi đó đã 60 tuổi ngụ tại An Lộc, Bình Tri thuộc Gia Định, năm 1861 đã từng tham gia khởi nghĩa Trương Định. Sau đó Lê Công Chánh lại gặp Trần Xuân Sanh, tên chính là Đỗ Văn Thống, 57 tuổi, người làng Bình Qươn, tổng Hoà Hảo, hạt Mỹ Tho, trú quán ở Tân Thuận Đông, năm 1875 đã tham gia khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân giữ chức Thống quân. Khi Thủ khoa Huân bị bắt, ông trốn ở làng Tân Thuận Đông. Các thủ lĩnh họp bàn, cử ra bộ chỉ huv cuộc vân động gồm: Nguyễn Đăng Giai, Chưởng lãnh Lưỡng Kỳ; Nguvễn Văn Lễ; Nam Kỳ tổng thống Trần Văn Sanh; Nam Kỳ hiệp thống Lê Công Chánh; Nam Kỳ Hiệp biện quân; Phan Thanh Thuần giữ chức thương biện, sau phong Hộ đốc, Nguyễn Văn Mỹ giữ chức Tham mưu.

Công việc vận động đang tiến hành thì đầu năm 1894 bị giặc Pháp phát hiện và đàn áp. Hầu hết các yếu nhân trong tổ chức Lê Công Chánh đều bị bắt.

Lê Công Chánh biết rằng bọn thực dân Pháp đã biết rõ lai lịch của mình, khó thoát nên ông đã nhận hết trách nhiệm về mình. Cũng nhờ lời tuyên bố khảng khái nhận hết trách nhiệm về mình, nên giặc Pháp không có cớ khủng bố rộng rãi, số người tham gia vào kế hoạch nổi dậy, kể cả những người ở trong ban lãnh đạo cũng chỉ bị chúng kết án đi đầy, chỉ một mình ông bị chúng xử chém.

TRỊNH PHONG

Trịnh Phong người làng Phú Vinh, huyện Vĩnh Xương nay là xã Vĩnh Thanh, huyện Vĩnh Xương tỉnh Khánh Hoà. Ông theo nghề binh từ khi còn trẻ, lập được nhiều chiến công, được phong tới chức Để đốc, chỉ huy thành Diên Khánh là tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hoà, nên quân sĩ và nhân dân gọi ông là Đề Phong.

Đề đốc Trịnh Phong vốn là người thuộc phe chủ chiến từ khi giặc Pháp đánh chiếm thành Gia Định rồi cướp cả lục tỉnh Nam Kỳ, hai lần đánh Bắc Kỳ, tấn công cửa Thuận An uy hiếp triều đình Huế thì trong lòng Trịnh Phong rất căm thù giặc Pháp. Vì vậy chiếu Cần vương vừa ban ra, Trịnh Phong cùng ba anh em Nguyễn Khánh, Nguyễn Dy, Nguyễn Lương chỉ huy thành Diên Khánh hưởng ứng chiếu Cần vương chiếm thành Diên Khánh.

Ông cho người đến yết kiến vua Hàm Nghi và đại thần Tôn Thất Thuyết còn tự mình đem quân đi đánh chiếm các phủ huyện trong tỉnh Khánh Hoà. Khi quân Pháp và tên vua bán nước Đồng Khánh cho quân ra Khánh Hoà đàn áp phong trào Cần vương, Trịnh Phong giao thành Diên Khánh cho các ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Dy giữ, còn mình đem quân ra Hòn Khói ở Đông bắc quận Ninh Hoà để đón đánh quân Pháp ngay từ khi chúng đặt chân tới Khánh Hoà. Công việc chưa xong thì quân Pháp và quân của Đồng Khánh kéo ra tấn công. Cuộc chiến đấu giữa quân của Trịnh Phong với quân Pháp diễn ra vô cùng quyết liệt. Song quân Pháp đông, thiện chiến, trang bị vũ khí hiện đại, có tàu chiến, đại bác yểm trợ, lại được quân của Đồng Khánh đưa đường dẫn lối và khống chế các làng ĩriệt đường tiếp tế của nghĩa quân. Quân của Trịnh Phong ít, trang bị kém xa quân Pháp nên chỉ cầm cự được một ngày một đêm, rồi phải bỏ chiến luỹ, rút lên rừng phòng thủ. Quân Pháp đuổi theo truy kích. Quân Pháp ngày càng thắt chặt vòng vây, chúng cho quân triệt phá các làng chung quanh cắt đứt hoàn toàn nguồn tiếp tế của dân cho nghĩa quân... Nghĩa quân đã thiếu đạn dược lại thiếu lương thực nên ngày càng nguy ngập. Quân Pháp được tăng viện, ngày càng ngọn núi ở Hòn Khói, Trịnh Phong chỉ huy anh em quân sĩ đánh thọc ra hướng Tây để rút vào rừng rậm cách đó khoảng 5 dặm. Song quân Pháp vây vòng trong, vòng ngoài, tấn công mãnh liệt, nghĩa quân bị thương vong nặng nề. Trịnh Phong cũng bị thương ở cánh tay. Bọn giặc xô đến, quyết không để giặc bắt sống, ông rút đoản đao định đâm vào cổ tự sát nhưng bị tên giặc xô tới giằng mất.

Bọn Pháp cho bọn quan lại Nam triều dụ dỗ ông đầu hàng sẽ được phục nguyên chức. Ông không chịu chỉ luôn mồm nguyền rủa giặc Pháp và bọn vua quan Đồng Khánh. Không khuất phục được ông chúng đưa ông về thành Diên Khánh, đem ra cái gò ở bờ sông Cạn gần chỗ Cây Dầu đôi để chém đầu. Người ta kể lại, trước giờ giặc hành hình, người nhà dọn cỗ cho ông ăn. Ông ngồi ăn đàng hoàng, sau đó bảo người nhà dọn đi rồi ông ung dung ra nơi hành hình. Tên đao phủ chém ông, dòng máu đỏ của ông vọt lên cao như khí phách ông khi còn sống.

Từ đó nhân dân gọi gò bên bờ sông Cạn là “Gò chết chém”. Nhân dân thương tiếc lập đền thờ ông ngay tại nơi đó.

ĐÀO CÔNG BỬU

Đào Công Bửu còn có tên là Đoàn Công Bửu, Đào Xuân Bửu, Cả Bửu sinh năm 1825 tại Trà Vinh ngụ tại xã An Bồi, Bảo Hữu, Bến Tre. Năm 1867 ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa ở Trà Vinh với chức vụ Tổng binh dưới sự chỉ huy của Phó đốc binh Lê Đình Đường. Ông đã tham gia trận đánh ở Long Điền ở tổng Bình Trị Thượng ngày 26/8/1867. Trận này nghĩa quân thắng lớn nhưng chủ tướng Lê Đình Đường hy sinh, nghĩa quân tan rã, ông chạy về Bến Tre, liên kết với những người yêu nước.

Năm 1875 Đào Công Bửu, cùng Nguyễn Xuân Phụng khởi nghĩa ở Trà Vinh. Đến năm 1885, 1886 hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Đào Công Bửu tham gia các hoạt động chống Pháp ở Bến Tre, Mỹ Tho. Năm 1893 thực dân Pháp đã ổn định được bộ máy cai trị của chúng từ cấp xứ, tỉnh, phủ, huyện, tổng tới cấp xã, ấp đặt các đồn binh, đồn cảnh sát ở khắp mọi nơi để khống chế đồng bào. Năm đó Đào Công Bửu đã 67 tuổi vẫn cùng với Lê Công Từ phát động nhân dân khởi nghĩa chống Pháp trên một địa bàn rộng lớn bao gồm các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Gò Công, Trà Vinh, Hà Tiên, An Giang, Châu Đốc, Gia Định.

Để có danh nghĩa, Đào Công Bửu tự xưng là “Nam Kỳ tướng quân Nguyên soái Đào Công Bửu”, Lê Công Từ là “Nam Kỳ phó tướng quân”. Đào Công Bửu từng chỉ huy nghĩa quân từ năm 1867 nên ông tích luỹ được nhiều kinh nghiệm vận động quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang và đặc biệt là công tác giữ bí mật. Để tránh sự truy lùng của bọn cầm quyền Pháp, ông chọn Rạch Giá cách xa các đô thị lớn để đặt sở chỉ huy, song không cố định ở một nơi và có nhiều cơ sở dự bị như Rạch Giá, rạch Cái Nhum, Nước Mặn, Chùa Nha Sạp ở làng Nhục Tụng, Rừng Cái Nạng, Gò Đất. Vì vậy ông đã nhiều lần thoát được các cuộc vây bắt của giặc như trường hợp đầu tháng 12/1893, ông đang trên đường từ Bến Tre đi Rạch Giá thì bị quân Pháp phát hiện, ông lập tức chuyển sang Cù Lao Dài khoảng nửa đêm ngày 5/12/1893 ông tới nhiều cơ sở rồi về Cà Mau.

Sự hoạt động linh hoạt của ông đã được tri huyện Sa Đéc báo cáo với thực dân Pháp như sau: “Trong thời gian ở Rạch Giá, Đào Công Bửu đã giả dạng là thày pháp cao tay, có khi lại đóng vai một viên quan đi tuyển mộ nghĩa sĩ theo lệnh của ông vua xuất bôn” (ý nói vua Hàm Nghi).

Nhận xét về các hoạt động chống Pháp của ông, báo cáo ngày 5/6/1894 của tri huyện Sa Đéc viết: ''Bửu là tên phiến loạn rất ngoan cố, nếu tính cả lần mưu tính nổi dậy vào năm 1894 thì Bửu đã 5 lần lôi kéo, kích động dân Nam Kỳ chống lại người Pháp”.

Tên chủ tỉnh Rạch Giá phải thừa nhận: “Cuộc vận động chống lại chúng ta trên hầu khắp các tỉnh ở Nam Kỳ trong những tháng đầu năm nay là do Đào Công Bửu chủ mưu. Y đã triển khai mưu đồ chủ yếu tại địa bàn các tổng Kiên Định, Kiên Hảo là những tổng khó kiểm soát nhất”.

Thống đốc Nam Kỳ viết trong báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương về ông như sau: “Đào Công Bửu rất linh hoạt và năng động, tuy đã già. Y len lỏi được trong hạt Rạch Giá và tìm cách đánh lạc hướng sự truy nã của chúng ta là nhờ sự đồng mưu của nhiều hương chức và dân địa phương, cảm thấy mình đã được lãng quên, Đào Công Bửu lại bắt đầu khởi xướng những vụ nổi loạn và y đã chọn một địa bàn được chuẩn bị chu đáo trong các tổng Kiên Định và Kiên Hảo. Đào Công Bửu không khó khăn lắm trong việc làm cho mọi người tin rằng y là một quan chức của triều đình Huế được cử vào kêu gọi dân chúng Rạch Giá nổi dậy chống lại nền thống trị của người Pháp. Đào Công Bửu đã từng là tên chủ mưu ngoan cố trong các vụ nổi dậy liên tiếp ở Trà Vinh, Bến Tre, và ở nhiều địa phương khác, nay y lại xuất hiện ở Rạch Giá đẻ tổ chức một cuộc nổi loạn mới”.

Đáng tiếc là cuộc vận động yêu nước do Đào Công Bửu lãnh đạo chưa kịp bùng nổ thì ông và hầu như toàn bộ các thủ lĩnh đều bị thực dân Pháp bắt. Bọn xâm lược Pháp và tay sai Nam triều đã dùng mọi cực hình tra tấn để khai thác bí mật của tổ chức. Song họ đều dũng cảm nhận trách nhiệm về mình, bảo vệ những thủ lĩnh nghĩa binh chưa bị lộ, bảo vệ cơ sở. Tất cả những người có danh sách trên đều bị bắt và bị kết án tù từ 4 đến 15 năm và đày đi Côn Đảo. Ra đảo họ bị đánh đập, lao dịch nặng nhọc, bị bỏ đói nên phần lớn đều chết trước khi mãn hạn.

BỔN SƯ NGÔ LỢI

Từ năm 1867 Cao đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương Trần Văn Thành, nguyên là Chánh quản cơ đã từ bỏ mọi chức vụ để theo Phật Thầy chiêu mộ nghĩa sĩ và nhân dân lập trại xây dựng căn cứ chống Pháp ở Bẩy Thưa - Láng Linh từ năm 1867 đến năm 1873.

Noi gương Bửu Sơn Kỳ Hương Trần Văn Thành, năm 1876, Bổn sư Ngô Lợi là một trong những vị chủ trương đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” là một nhà sư thoát tục song ông vẫn có tấm lòng thương dân, yêu nước thiết tha, một lòng lo đánh đuổi giặc Pháp cứu nước, cứu dân.

Để thực hiện mục tiêu xây dựng căn cứ chống Pháp, năm 1876 Bổn sư Ngô Lợi đã dẫn một số tín đồ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” vào núi Tượng là một trong bảy ngọn núi của Thất Sơn. Các tín đồ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” đều là những ngưòi tin đạo, yêu nước.

Trong số những người theo bổn sư Ngô Lợi lên “trảm thảo khai sơn” còn có những người từng là điền chủ, từng là hương chức nên theo việc khai hoang, lập làng mới. Vì vậy chẳng bao lâu bốn làng mới mang tên là An Định, An Hoà, An Thanh, An Lập đã được dựng lên theo kiểu vừa là khu dân cư, vừa là làng chiến đấu.

Ngày 25/9/1878, Giám đốc Nội vụ Sài Gòn phát lệnh truy nã Bổn sư Ngô Lợi tức Năm Thiếp. Chúng còn treo giải 1000 đồng cho kẻ nào bắt được Ngô Lợi. Thực hiện lệnh truy nã trên có rất nhiều người theo đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” ở các tỉnh bị giặc Pháp bắt. Song Ngô Lợi có tài hoá trang, bình tĩnh, mưu trí lại được nhân dân hết lòng bảo vệ, nên vẫn an toàn. Ngô Lợi lợi dụng đêm tối và sự che chở của nhân dân trốn thoát khỏi vòng vây.

Không bắt được ông, giặc đốt phá hết nhà cửa, ngôi chùa của đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” ở làng An Định. Từ đó địch thần thánh hoá Bổn sư Ngô Lợi có phép tàng hình, thăng thiên độn thổ để che đậy sự bất lực của mình. Song điều đó càng tăng thêm uy tín cho nhà sư yêu nước Ngô Lợi.

Bổn sư Ngô Lợi không chỉ hoạt động ở núi Cấm (Thất Sơn) - nay thuộc phần đất huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Thực dân Pháp chăng lưới khắp nơi, nhưng trong suốt mấy năm liền chúng không bắt được ông. Chúng nhiều lần đốt phá nhà cửa, chùa chiền của bốn làng, nhưng giặc vừa rút, nhân dân lại trở lại dựng nhà cửa, chùa chiền. Hưởng ứng Chiếu Cần vương, bổn sư Ngô Lợi và các tướng bàn kế hoạch giương cao ngọn cờ Cần vương, phát động nhân dân vùng lên chống Pháp. Công việc tiến hành rất thuận lợi, anh hùng nghĩa sĩ khắp lục tỉnh tụ hội về...

Khoảng tháng 12/1887, tháng giêng 1888, bằng đức độ và tài thuyết phục của mình, bổn sư Ngô Lợi đã giáo hoá được Năm Cùi (tức Nguyễn Thành Liễu) là tay sai đắc lực của Đốc phủ sứ Trần Bá Lộc cài vào để ám sát bổn sư Ngô Lợi. Năm Cùi đã tình nguyện ở lại Bảy Núi, và còn quay về ám sát Trần Bá Lộc, tiếc rằng việc không thành, Trần Bá Lộc thoát chết.

Để đánh lừa giặc Pháp, tín đồ phao tin bổn sư Ngô Lợi đã chết, lập mộ giả ở Hai Ký thuộc làng An Thành. Trong khi quân Pháp còn bán tín bán nghi thì Ngô Lợi vẫn tiếp tục các hoạt động cứu nước. Song lúc này lực lượng nghĩa quân đã suy yếu, hầu hết tướng lĩnh đều bị giết, bị tù. Bổn sư Ngô Lợi mất vào năm 1890, an táng tại núi Tượng.

LÊ THÀNH PHƯƠNG

Lê Thành Phương sinh năm 1825, quê ở làng Phú Mỹ huyện Trung An, tỉnh Phú Yên. Năm Ất Mão (1885) ra Huế thi Hương đậu Tú tài.

Năm 1885 Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tấn công Pháp ở đồn Mang Cá, Toà Khâm sứ Pháp không thành, hộ tống vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương.

Lê Thành Phương hưởng ứng chiếu Cần vương, tổ chức nghĩa quân, tự xưng là Tổng thống quân vụ đại thần lập căn cứ chống Pháp ở Quán Câu, nay thuộc xã Tuy Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông phong cho con trai là Lê Thành Bích làm Hữu tham tri cùng ông chỉ huy nghĩa quân.

Lê Thành Phương tế cờ ở núi Phù Diềm (Hoà Đa) rồi chia quân đi chống giữ các nơi. Giặc Pháp cho tầu chiến bắn phá bờ biển Phú Yên, ông đưa súng thần công lên núi bắn trả dữ dội gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.

Với quân lính thiện chiến, có tàu và đại bác yểm trợ quân Pháp đổ bộ đánh chiếm tỉnh Phú Yên. Nghĩa quân chiến đấu quyết liệt gây cho quân Pháp nhiều tổn thất rồi rút quân lên Củng Sơn tiếp tục đánh du kích.

Giặc Pháp hèn hạ sai Trần Bá Lộc đem quân đến bắt vợ con ông để buộc ông ra đầu thú, ông cũng không khuất phục.

Cuối cùng tên Việt gian Trần Bá Lộc cho bọn phản động trong vùng lừa bắt ông nộp cho giặc Pháp. Chúng dụ dỗ ông ra làm quan, ông quát lớn: “Thà chết chứ không chịu”. Giặc Pháp đưa ông ra chém ở bến đò Cây Dừa xã Ngân Sơn, huyện Trung An. Giặc chặt đầu ông bêu ở gốc cây đa bến đò Chiều làng Phú Mỹ, 10 ngày sau chúng mới cho chôn. Năm đó Lê Thành Phương 62 tuổi.

VÕ TRỨ

Võ Trứ còn có tên là Võ Văn Trứ, Nguyễn Trứ, Võ Thản, quê ở làng An Nhơn, tổng Kỳ Sơn, phủ Tuy Phước, Bình Định, sau dời về làng Quang Vân cũng thuộc phủ Tuy Phước. Võ Trứ là một bộ tướng của Mai Xuân Thưởng.

Khi Mai Xuân Thưởng hy sinh, nghĩa quân tan rã, Võ Trứ trở về Phù Cát, khoác áo thày tu, đến chùa Đá Bạc giúp thày chùa bắt mạch kê đơn, bốc thuốc cứu giúp người nghèo. Ông là người thông thạo thuốc Nam, thường dùng ngay những cây thuốc trồng trong vườn chùa và cây tự nhiên mọc trong vùng làm thuốc. Trong các buổi giảng giải kinh sách Phật ông đã khéo léo kích động lòng yêu nước của các tín đồ lên án giặc Pháp và bọn tay sai bán nước. Tín đồ theo về ngày càng đông. Trần Cao Vân nghe những lời đồn đại về vị thày chùa đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng, nay chuyên làm việc thiện cứu dân, liền đến chùa làng Chánh Danh tìm. Song ông được các Phật tử ở chùa cho biết thày Võ Trứ đang đi phân phát thuốc cho dân không rõ ở làng xã nào, nên ông đành quay trở về Bình Định.

Võ Trứ về đến chùa Chánh Danh được các đệ tử trao cho bức thư của Trần Cao Vân để lại. Võ Trứ từng được nahe những người vêu nước ở Phú Yên ca ngợi thày địa lý họ Trần giỏi Kinh dịch đang hoàn thiện thuyết “Trung Thiên dịch” liền thu xếp đi ngay thành Bình Định để gập Trần Cao Vân.

Hai người cùng có chung một hoàn cảnh, cùng có tấm lòng thiết tha yêu nước gặp gỡ nhau lần đầu, song tâm đầu, ý hợp đã nhanh chóng trở thành đôi bạn tri kỷ. Hai ông nhận định sau khi thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa ở Bình Định Mai Xuân Thưởng hy sinh, khởi nghĩa tan rã (1887), gần đây nhất (1895) khi Phan Đình Phùng mất, khởi nghĩa cũng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa khác cũng bị giặc đàn áp từ khi mới phôi thai, cả nước chỉ còn cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Vì vậy cần có ngay cuộc khởi nghĩa ở xứ Trung Kỳ để thức tỉnh đồng bào và cũng để cho thực dân Pháp thấy rõ tinh thần quật cường của người Việt Nam. Vì thế hai ông quyết định gấp rút chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở hai tỉnh Bình Định, Phú Yên mà Phú Yên là trọng điểm. Trần Cao Vân ở lại Bình Định một thời gian ngắn rồi cũng vào Phú Yên làm tham mưu cho Võ Trứ.

Võ Trứ đã hoạt động tích cực ở ba huyện Bắc Phú Yên. Đi đến đâu Võ Trứ cũng giúp đỡ dân, bốc thuốc, chữa bệnh cho dân, cung cấp dao phát, dao quắm, rìu cho dân đi rừng làm rẫy. Ông cũng nói rõ những nỗi nhục của người dân mất nước, khơi gợi lòng căm thù giặc Pháp. Thực dân Pháp và Nam triều sợ ảnh hưởng của ông lan rộng trong dân chúng, nên vu cáo ông biển thủ công quỹ, trốn đi ở chùa để hạ uy tín ông. Song đồng bào các tầng lớp nông dân, dân nghèo, trí thức người Việt, các tầng lớp tăng ni, phật tử đồng bào các dân tộc ở miền Tây hai tỉnh Phú Yên, Bình Định vẫn tin yêu, kính trọng ông. Giặc Pháp cho mật thám theo dõi, lùng bắt ông khắp nơi. Nhưng nhờ có tinh thần cảnh giác cao, có tài hóa trang, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, giúp đỡ, nên ông vẫn an toàn. Thực dân Pháp, quan lại Nam triều đồn đại tung tích kì dị của ông, để che giấu nỗi bất lực của mình là: “Nghe đồn rằng vị sư ấy là Tiên, ban đêm cưỡi chim hai cánh bay rất nhẹ nhàng!”. Các ông đã sử dụng giáo lý của nhà Phật để phát triển đức tin trong các tầng lớp nhân dân vào công cuộc phục quốc. Ông thuyết phục đồng bào Thượng ở vùng núi Phú Yên trên dải Trường Sơn đi theo con đường chống Pháp cứu nước.

Ông đã thành lập đội nghĩa binh, dự định tập kích trại lính để cướp súng rồi tiến đánh dinh công sứ, dinh tuần phủ và các lỵ sở khác. Song cuộc khởi nghĩa thất bại, Võ Trứ, Trần Cao Vân trốn tránh trong các làng đồng bào Thượng được đồng bào che chở an toàn.

Võ Trứ thấy giặc bắt rất nhiều đồng đội của mình và đồng bào tra tấn cực kỳ dã man và giết hại, đốt phá các làng, tàn phá trâu bò, ngô lúa. Khắp hai tỉnh Phú Yên, Bình Định nơi nào cũng khói lửa ngút trời.

Để cứu đồng đội và đồng bào, ông ung dung tự ra cho giặc bắt. Giặc tra tấn Võ Trứ vô cùng dã man, hết bọn mật thám Pháp lại đến bọn bố chính Bùi Xuân Huyến tra tấn ông cực kỳ man rợ, song ông nhận hết trách nhiệm về mình, không hề khai cho ai. Giặc đưa ông ra pháp trường chém, cho đến lúc chết ông vẫn ung dung.

ĐỒ ĐÀM

Đồ Đàm tên thực là Đỗ Văn Đàm, còn gọi là “Đồ Hà Nam”, Đồ Hải. Ông người làng Tạ Xá, tổng Lương Xá, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hà Tây.

Ông Đồ Đàm văn hay, chữ tốt, nhưng vì nặng lòng yêu nước, thương dân ông thường làm thơ đả kích thực dân Pháp, quan lại Nam triều theo Pháp. Vì vậy bọn cầm quyền hằn học ông, chỉ tìm cách hãm hại. Tư tưởng chống Pháp của ông được thể hiện trong các bài thơ, nên ông đi thi nhiều lần đều bị giám khảo đánh trượt. Ông chán nản bỏ học, bỏ thi về làng mở trường dạy học. Học trò trong vùng, mến đức độ của ông theo học rất đông.

Trong khi ngồi dạy học, ông vẫn bí mật liên lạc với các phong trào khởi nghĩa như ông vượt sông Hồng sang căn cứ Bãi Sậy ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu liên lạc với thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật. Ông đã cùng một số học sinh tâm huyết trực tiếp điều tra các hoạt động quân sự, các vị trí đóng quân của quân Pháp ở huyện Phú Xuyên, huyện Thường Tín, Thanh Trì rồi báo cho nghĩa quân Bãi Sậy sang tập kích, tiêu biểu là các trận đánh vào huyện lỵ Thanh Trì ngày 8/7/1888 do Đội Văn chỉ huy 500 quân; tấn công huyện Thanh Trì vào tháng 7 năm 1889.

Năm 1892, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã, Đồ Đàm lên Yên Thế yết kiến tướng quân Hoàng Hoa Thám. Khi Hoàng Hoa Thám thành lập đảng Nghĩa Hưng ở Hà Nội thì Đồ Đàm là một yếu nhân của Đảng này. Đảng Nghĩa Hưng chủ trương làm nội ứng cho nghĩa quân Yên Thế về đánh thành Hà Nội. Ông có nhiều quan hệ với đảng Nghĩa Hưng, tích cực chuẩn bị cho việc đánh thành Hà Nội. Kế hoạch đánh thành Hà Nội lúc đầu định vào ngày 15/11/1907, sau hoãn đến ngày 16/5/1908, cuối cùng do đích thân thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám duyệt sẽ diễn ra vào ngày 27/6/1908, khi các bồi bếp đầu độc sĩ quan và binh lính Pháp. Một bộ phận nội ứng khác làm nổ kho thuốc súng. Ông Đồ Đàm được đảng Nghĩa Hưng giao nhiệm vụ cùng các ông Lang Seo khi đó đóng giả làm thầy bói đến các đền, chùa tuyên truyền nhân dân chống Pháp được giao nhiệm vụ hạ cờ Pháp kéo cờ khởi nghĩa lên Cột Cờ Hà Nội làm hiệu lệnh. Song thuốc độc do các bồi bếp đầu độc lính Pháp vì chế bằng cà độc được nên quá nhẹ, chỉ làm cho chúng say, nôn mửa không làm cho chúng chết. Cuộc khởi nghĩa bị lộ, giặc Pháp báo động toàn thành phố và lùng bắt các hạ sĩ quan, bồi bếp, binh lính ở trong thành chúng nghi có liên quan đến vụ đầu độc. Quân Pháp điều quân ra bờ sông Hồng, cầu Phùng, Cầu Giấy, Ngã tư Sở, Lò Lợn, Gia Lâm, Chèm chặn đánh các cánh quân từ Yên Thế về. Cuộc binh biến thất bại hoàn toàn. Trong khi đó ông Đồ Đàm núp ở gần Cột Cờ chờ mãi không nghe thấy súng lệnh nổ, chỉ thấy giặc Pháp lùríg sục, bắt người khắp các phố. Ông Đồ biết là đại sự bị bại lộ, liền cùng một người học trò cùng làng Tạ Xá đóng vai người kéo xe tay chờ sẵn kéo ông từ Hà Nội về Tạ Xá. Ông biết thế nào giặc cũng về làng lùng sục bắt mình liền vượt sông Hồng sang một làng ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu ẩn náu, chờ thời. Giặc Pháp truy lùng ông Đồ Đàm, chúng hẹn cho lý dịch làng Tạ Xá phải đem nộp ông nếu không chúng sẽ triệt hạ làng Tạ Xá quê ông và làng Vân Hội quê ngoại ông.

Ông Đồ Đàm không muốn để liên lụy đến bà con, liền thiêu hủy tài liệu, trở về làng. Ngay từ khi ông từ phủ Khoái Châu trở về làng, bọn mật vụ đã biết báo cho bọn cầm quyền. Chúng khâm phục nghĩa khí của ông và cũng sợ dân kịch liệt phản đối chúng, nên chúng chỉ bao vây chặt làng Tạ Xá chứ không vào bắt ông ngay để mặc ông từ biệt con cháu, học trò cùng họ hàng, dân làng. Mãi đến khi cuộc “tế sống” thày tàn cuộc giặc Pháp mới vào bắt. Oai phong của ông lẫm liệt, khiến giặc không dám trói, không dám đeo gông, ông đàng hoàng đi giữa đường làng vẫy chào đông đảo dân làng ra vĩnh biệt, ông chỉ căn dặn một điều: “Bà con ở lại ngẩng cao đầu mà sống, đừng tiếp tay cho giặc”.

Giặc Pháp giải ông ra Hà Nội giam tại Hỏa Lò và hành quyết ông cùng một số đồng chí của ông phần lớn là các đảng viên đảng Nghĩa Hưng người Hà Nội tại pháp trường Quần Ngựa, Hà Nội. Nhân dân Hà Nội đã chứng kiến giây phút anh hùng của ông Đỗ Đàm và các đồng chí của ông. Từ đó cứ tới ngày 10 tháng 11, con cháu học trò, họ hàng, thân thuộc lại tập trung ở nhà ông Đẩu, trưởng tràng cúng giỗ thày.

TRẦN TRỌNG CUNG

Trần Trọng Cung tức Trần Văn Lý còn gọi là Đồ Cát, vì ông là người làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông, nay Từ Liêm thuộc Hà Nội. Ông theo nghiệp binh chiến đấu dưới quyền Bố chính Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp. Sau khi thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai, Bố chính Nguyễn Văn Giáp đã liên kết với tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy quân Cờ Đen phòng thủ Sơn Tây. Trong trận đánh quân Pháp lần thứ hai ngày 19/5/1883 tại Cầu Giấy, Trần Trọng Cung chỉ huy một đội quân mai phục ở làng Dịch Vọng Trung dưới sự chỉ huy của Tả dực Dương Trí Ân. Cánh quân này đã giết chết đại tá De Viler. Từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 9/1883 ông đã theo Nguyễn Văn Giáp phối hợp với quân Cờ Đen do tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy chặn đánh quân Pháp do tướng Bouet chỉ huy tiến đánh Sơn Tây. Quân Pháp bị tổn thất nặng nề, phải rút về Hà Nội.

Ngày 14/12/1883 Đô đốc Cuốc bê (Courbet) chỉ huy một lực lượng lớn bộ binh lính thủy đánh bộ có tầu chiến, pháo binh, công binh hỗ trợ đánh thành Sơn Tây. Bố chính Nguyễn Văn Giáp chỉ huy quân sĩ chặn đánh quân Pháp ở chiến lũy Phù Sa. Trần Trọng Cung luôn ở bên cạnh quan Bố chính, bảo vệ ông. Ông còn chỉ huy các mũi đột kích vào doanh trại của giặc, tổ chức các mũi vu hồi đánh tạt sườn vào trận địa quân Pháp. Khi quân ta phải rút khỏi chiến lũy Phù Sa về thành Sơn Tây, ông đã ở lại đánh chặn giặc, yểm hộ cho chủ tướng rút trước. Ông đã sát cánh cùng Bố chính trong ba ngày liền chiến đấu giữ thành Sơn Tây, gây cho quân Pháp thương vong nặng nề.

Thành Sơn Tây thất thủ, triều đình Huế ký hòa ước với Pháp, lệnh cho các tướng ở Bắc Kỳ phải triệt binh. Nguyễn Văn Giáp chống lệnh ở lại mộ quân chống Pháp. Trần Trọng Cung lại theo Bố Giáp rút về huyện Lâm Thao xây dựng căn cứ Thanh Mai.

Khi Thanh Mai thất thủ, Trần Trọng Cung hợp với quân Nguyễn Quang Bích. Tháng 10/1887 Bố Giáp hy sinh tại căn cứ Nghĩa Lộ, Trần Trọng Cung còn chiến đấu trong hàng ngũ nghĩa quân mấy năm nữa, cho đến khi tuổi già, sức yếu, bị sơn lam, chướng khí quật ngã ông mới chịu trở về sống ở Thượng Cát, mở trường dạy học để che mắt kẻ thù, nên dân mới gọi là ông Đồ Cát. Về quê nhưng ông vẫn liên lạc với các đồng chí trong cuộc khởi nghĩa.

Vụ Hà thành đầu độc bị thất bại. Chúng xử tử hình nhiều người, Trần Trọng Cung bị giặc Pháp bắt đày đi Côn Đảo và bị bệnh mất tại Côn Đảo vào cuối năm 1908.

CAI NGA

Cai Nga tên thực là Nguyễn Văn Nga, còn gọi là Nguyễn Tác A, sinh quán tại Hà Nội. Ông đi lính đeo lon cai, ở cùng cơ binh pháo thủ số 9 với Đội Bình, Đội Nhân. Mỗi khi ông bất bình với bọn chỉ huy Pháp thường đến tâm sự với Đội Bình, Đội Nhân là bạn thân, cùng chung chí hướng như mình. Cai Nga trở thành trợ thủ tin cậy của Đội Bình trong việc tuyên truyền, phát triển lực lượng phản chiến trong quân đội Pháp. Ông là người thông minh, đọc văn thơ yêu nước mà thực dân Pháp cấm lưu hành như Hải ngoại huyết thư, Lịch sử Việt Nam, Thiết tiền ca, Bài ca lính tập chỉ vài lần là thuộc làu, đọc lại cho anh em nghe. Cai Nga đã bỏ ra nhiều công sức điều tra kỹ lưỡng các mục tiêu mà binh lính phản chiến và nghĩa quân Yên Thế sẽ tấn công như Phủ Toàn quyền Đông Dương, dinh Thống sứ Bắc Kỳ, Bộ Tổng Tham mưu Pháp. Trong cuộc họp phân công người chỉ huy các cánh quân, Cai Nga được chỉ định làm chỉ huy phó đánh bộ Tổng Tham mưu, do chính Đội Bình làm chỉ huy trưởng.

Sau cuộc tấn công giặc Pháp tháng 6 năm 1908 bị thất bại vì có nội phản báo cho giặc biết kế hoạch tấn công của nghĩa quân và đầu độc sĩ quan Pháp thì giặc Pháp sai đóng cổng thành, vây bắt hầu như toàn bộ binh lính, bồi bếp đã tham gia. Cai Nga bị bắt cùng với nhiều đồng chí khác. Giặc Pháp dùng mọi cực hình tra tấn ông dã man, nhưng ông cắn răng chịu đựng không khai những đồng chí, những cơ sở ở bên ngoài thành cho giặc biết. Để xét xử “Vụ Hà Thành đầu độc”, ngày 28 tháng 6 năm 1908, Hội đồng Đề hình được thành lập cấp tốc để xét xử vụ đầu độc với quyền hạn rộng rãi và thủ tục xét xử nhanh chóng. Mặc dù cuộc điều tra còn đang tiếp tục, ngày 8 tháng 7 năm 1908 giặc Pháp đã đưa Đội Bình, Đội Nhân, Cai Nga, Đội Cốc ra xét xử. Cai Nga bị giặc đưa ra xử thứ hai, sau Nguyễn Trị Bình. Tác phẩm Truyện các liệt sĩ Hà thành của Phan Bội Châu khi đó đang ở Nhật đã thu thập tài liệu viết về vụ này ngay trong tháng 10/1908 đoạn viết về Cai Nga như sau:

...Khi đến lượt Nguyễn Văn Nga, các nhà chức trách Pháp hỏi Nga các câu sau:

- Chính phủ đã nuôi mày, đối xử với mày tử tế, tại sao mày lại đứng vào hàng ngũ những tên nổi loạn?

Nga đáp:

- Người Pháp bắt người Việt Nam đóng mọi thứ thuế. Đó là một số tiền rất lớn, mấy triệu đồng một năm, thế mà Chính phủ Pháp chỉ trả cho chúng tôi lương mỗi tháng 5 đồng, 8 đồng hoặc 10 đồng,thì làm sao mà chúng tôi có thể nói được các ông đối xử tốt. Người Pháp các ông tới nước chúng tôi, chiếm lấy những gì mà tôi, đồng bào tôi có trong nhà. Các ông đuổi chúng tôi, các ông sai giết chúng tôi để đảm bảo hạnh phúc cho các ông và cho gia đình các ông. Chúng tôi đã tổ chức cuộc âm mưu này chống lại các ông, đó là vì chúng tôi tự thấy mình đã quá khốn khổ”.


Người ta ra lệnh chặt đầu Nga. Trước lúc chặt đầu ông, người ta hỏi ông có điều gì cần nói nữa không. Nếu ông có thể tố giác những người khác tham gia âm mưu, ông sẽ được ân xá khỏi tội chặt đầu. Nga đã trả lời rằng, nếu ông không giết người Pháp thì người Pháp sẽ tiêu diệt nòi giống Việt Nam. Ông thích được chặt đầu ngay lập tức hơn là phải nhìn nòi giống mình bị người pháp tiêu diệt. Sau câu nói cuối cùng này, tên đao phủ đã thực hiện nhiệm vụ của nó. Nga thét to: “Đồng bào! Đồng bào vạn tuế!”. Ông vừa dứt lời thì tên đao phủ hạ đao. Ông lìa đầu khỏi cổ trong hoàn cảnh thật bi hùng.

NGUYỄN THỊ MÃO

Nguyễn Thị Mão còn có tên gọi cô Đồng Đa, là người trông nom ngôi đền Sóc Sơn. Cô cũng là người phụ trách trạm liên lạc tiền tiêu của căn cứ Yên Thế từ những năm 1884, 1885. Các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa thường tránh lối qua phía Nam cầu tỉnh lỵ Bắc Giang về qua Bắc Ninh mà thường đi tắt. Đền Sóc Sơn là địa điểm dừng chân của các tướng lĩnh. Tại đây cô Đồng Đa báo cho họ biết tình hình hoạt động của quân Pháp và quan phủ quan huyện. Người từ đồng bằng lên Yên Thế cũng được các liên lạc đưa lối đi qua đền Sóc Sơn.

Tháng 3/1907, trường Đông Kinh nghĩa thục thành lập ở Hà Nội, cô Đồng Đa tham gia vào hoạt động của trường, nhưng không phải là giảng viên, ban tu thư, hay ban tài chính mà cô tham gia vào ban tuyên truyền. Cách tuyên truyền của cô Đồng Đa cũng rất độc đáo đó là cô không đăng đàn, diễn thuyết, không hô hào mọi người làm cách mạng mà cô mượn lời tiên, thánh dưới các hình thức cầu cơ, giáng bút, soạn thành lời ca trong các quẻ thẻ để truyền bá tư tưởng yêu nước, kêu gọi đồng bào đồng tâm nhất trí đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.

Tiếng đồn các vị Thánh ở đền Sóc linh thiêng giáng bút, cầu cơ xin thẻ rất mầu nhiệm, khiến khách từ khắp nơi đến đền. Bọn mật thám đánh hơi được có hoạt động chính trị ở đền Sóc Sơn, cho tay chân len lỏi vào khách thập phương đến xin giáng bút, xin thẻ để dò la.

Đền Sóc còn là nơi các sĩ phu trường Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Đông du, phong trào Duy tân hội họp bàn việc quốc sự vì họp ở Hà Nội khó giữ được bí mật. Đền Sóc cũng là nơi lun giữ nhiều tài liệu thơ văn cách mạng của trường Đông Kinh nghĩa thục, của phong trào Đông du.

Tháng 12/1907, nhà cầm quyền Pháp đóng cửa trường Đông Kinh nghĩa thục, bắt bớ những yếu nhân của trường, thì đền Sóc là nơi cất giấu tài liệu của trường. Những hoạt động nhộn nhịp của những người thường ra vào đền, nhìn bề ngoài không có vẻ mộ đạo, có những người nằm trong tầm kiểm soát của quan phủ, quan huyện, khiến bọn mật thám theo dõi gắt gao. Tên Việt gian chó săn trung thành của giặc Pháp là Từ Đạm án sát tỉnh Phúc Yên cho tay chân đóng vai người đi lễ bám sát các hoạt động của cô Đồng Đa. Từ Đạm cho tay chân đe dọa sẽ trị tội cô Đồng Đa nếu cô còn dính líu vào quốc sự.

Song sự bao vây, theo dõi gắt gao của mật thám và tay chân Từ Đạm không làm cô Đồng Đa nhụt chí, từ bỏ sự nghiệp thức tỉnh đồng bào, kêu gọi đồng bào đứng lên chống giặc ngoại xâm của mình. Cô càng căm thù bọn chó săn cho giặc, riêng đối với Từ Đạm cô ví hắn như quỷ dữ, gây tội tất “ác giả, ác báo”', nên nhân ngày rằm tháng bẩy “xá tội vong nhân” năm Mậu Thân (1908), cô Đồng Đa đặt ở hàng mã một chiếc thuyền rồng bằng giấy, trong thuyền là một lũ quỷ sứ đầu trâu, mặt ngựa, thành đanh, đỏ mỏ, tượng trưng cho bọn tay sai, mật thám bị Diêm Vương kết tội giam xuống hỏa ngục. Chúng được Đức Phật thương tình giác ngộ; cải tà quy chính, cho chúng được hình nhân thế mạng, làm phép cho chúng sống lại đời lương thiện để chuộc tội.

Bọn tay chân vội vàng ton hót với Từ Đạm, hắn không còn giả nhân, giả nghĩa che đậy bộ mặt chó săn của mình mà sai lính đến bắt cô Đồng Đa, lục soát đền Sóc Sơn. Tại nhà lao Phúc Yên, Từ Đảm sai bọn cai tù, những tên mất hết lương tri dùng mọi ngón đòn tra tấn dã man, tàn bạo nhất với cô. Song người phụ nữ yêu nước kiên trinh không một lời khai báo, xin xỏ, luôn mồm lớn tiếng chửi mắng Từ Đạm. Biết trước sau tên chó săn Từ Đạm cũng giết hại mình, một đêm nhân lúc bọn gác ngục sơ hở, cô Đồng Đa xé áo thắt cổ chết, giữ trọn khí tiết của mình.

NGUYỄN CÔNG VẬN

Nguyễn Công Vận quê ở xã Động Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, ông là cháu nội Nguyễn Mậu Kiến, con trai Nguyễn Hữu Cương, gọi Nguyễn Hữu Bản là chú ruột. Cả ông, cha, chú đều hy sinh trong sự nghiệp chống Pháp, cứu nước.

Với mục đích tuyên truyền lính khố xanh, khố đỏ, lính làm binh biến, Nguyễn Hữu Cương đã cho con trai là Nguyễn Công Vận vào lính tập. Nhiều người không hiểu ý đồ của ông, tỏ ý trách cứ ông, ông vẫn bình thản, không thanh minh. Trong suốt thời gian ở lính tập đóng ở tỉnh lỵ Thái Bình, Nguyễn Công Vận đã làm công tác binh vận, tuyên truyền giác ngộ được nhiều lính tập. Ông bí mật gửi các văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu như “Việt Nam vong quốc sử”, ''Lưu Cầu huyết lệ thư”, “Tĩnh hồn quốc dân ca”... bí mật gửi về nước. Số binh sĩ trên đã hứa nếu quân khởi nghĩa nổi lên đánh vào tỉnh lỵ thì họ sẽ hưởng ứng.

Năm Mậu Thân (1908), cha ông là Nguyễn Hữu Cương đã cùng các ông Lê Đại, Vũ Hoàng, tức Bẩy Quang, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí đã liên lạc được với nhóm sĩ quan trong thành Hà Nội do Đội Nhân, Đội Bình, Cai Nga... gia nhập đảng Nghĩa Hưng do thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Hoa Thám chủ trương, thì ông cùng nhóm hạ sĩ quan, binh lính ở tỉnh lỵ Thái Bình cũng ráo riết chuẩn bị để khi Hà Nội khởi nghĩa thì Thái Bình cũng hưởng ứng. Ngày 27 tháng 6 năm 1908, tức ngày 29 tháng 5 năm Mậu Thân tại thành Hà Nội nổ ra “vụ Hà Thành đầu độc”. Song kế hoạch bị bại lộ, giặc Pháp đàn áp. Các ông Nguyễn Công Úc, Nguyễn Công Tích, Nguyễn Công Vận cùng số hạ sĩ quan, binh lính tham gia vào vụ đánh tỉnh thành Thái Bình cùng cha ông và nhiều nghĩa quân bị bắt. Ông cùng cha bị đầy vào thành Gia Định, sau đó ông mắc bệnh, chết ở đó. Cha ông vì phẫn quất mất ngày 12/5/1912 tại nơi đi đầy ở Cần Thơ.

Khi Nguyễn Công Vận mất, có nhiều thơ điếu, liễn, câu đối phúng viếng.

Một câu liễn điếu Nguyễn Công Vận

Phiên âm:

Trung hiếu hữu chân truyền, niệm tổ quốc, niệm đồng bào, khỏi nhẫn thiên nhai di lão phụ.
Anh hùng vô ấn bản, diệc ngoan dân, diệc nghĩa sĩ, quản giao sử bút thuộc danh gia.


Dịch:

Trung hiếu do truyền thống từ xưa, nghĩ tổ quốc, nghĩ đồng bào, nỡ để bên trời quên lão phụ;
Anh hùng không bản in để lại, cũng ngoan dân, cũng nghĩa sĩ, rồi đây bút sử chép danh gia.


(Thơ điếu, liễn in trong sách Việt Nam nghĩa liệt sử của Đặng Bằng Đoàn, trang 92, 93).

NGUYỄN HÀNG CHI

Nguyễn Hàng Chi khi nhỏ tên là Nối, đi học là Đồ Nam, nho Tuy, khi đỗ tú tài thì gọi là Tú Nối. Ông sinh năm 1886. Ông là con một nhà nho nổi tiếng ở làng Đông Thượng, xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu (nay là xã Hậu Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), ông là em ông Nguyễn Hiệt Chi. Cũng như người anh, ông là người hay chữ, giỏi văn thơ nhất vùng, nhưng không đi thi.

Cuối năm 1906, đầu năm 1907, Nguyễn Hàng Chi đi Quảng Nam, gặp được các nhà nho trong phong trào Duy tân, ông đã chịu ảnh hưởng sâu sắc. Ông trở về Hà Tĩnh lại được ông Phạm Văn Thản - người lãnh đạo phong trào Duy tân ở Nghệ Tĩnh giác ngộ về tinh thần và phương pháp đấu tranh chống đế quốc Pháp. Ông Thản còn cho Nguyễn Hàng Chi đọc nhiều tân thư, tân văn. Qua các buổi tiếp xúc với các nhà nho trong phong trào Đông du và tiếp thu được từ Tân thư, ông có nhiều việc làm thiết thực như hưởng ứng phong trào Đông du, là người đầu tiên cắt tóc ngắn, mặc quần áo ngắn (quần áo khách).

Từ tháng 11/1907 nhiều nhà lãnh đạo phong trào Duy tân như Phó bảng Đặng Nguyên cẩn lần lượt bị bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh, thì Nguyễn Hàng Chi trở thành người đứng đầu phong trào chống thuế ở Hà Tĩnh.

Ngày 18/4/1908 tỉnh Quảng Nam nổ ra vụ chống thuế, do hội Duy tân chủ trương, quần chúng các phủ huyện xông vào Tòa sứ đòi bỏ sưu thuế. Nguyễn Hàng Chi lập tức gặp các yếu nhân phong trào Duy tân ở Nghệ Tĩnh. Sau khi thảo luận các ông đã nhất trí phát động nhân dân Hà Tĩnh kéo lên phủ huyện, lên tỉnh chống thuế vào ngày 23/5/1908. Cuộc họp cũng thông qua thông tri do Nguyễn Hàng Chi soạn thảo nói về diễn biến cuộc biểu tình chống thuế ở Quảng Nam ngày 18/4/1908 và kêu gọi các hội viên Duy tân trong tỉnh kêu gọi, phát động nhân dân Hà Tĩnh biểu tình chống thuế vào ngày 23/5/1908.

Từ ngày 22/5/1908, Trịnh Khắc Lập diễn thuyết ở chợ Giang Đình, huyện Nghi Xuân kêu gọi mọi người hưởng ứng tờ Thông tri của Nguyễn Hàng Chi. Hôm sau - ngày 23/5, Trịnh Khắc Lập, Trịnh Yên, Trịnh Xuyên, Phan Chiêu, Phan Cẩn, Trần Tý, Nguyễn Lương Nhân dẫn trên 500 người áo xác, quần xơ, nón cời, tơi rách, cơm đùm, cơm nắm kéo đến vây huyện Can Lộc. Những người biểu tình trói tri huyện Lê Trần Thụy, giải về tỉnh kêu sưu. Đoàn đi khỏi huyện, vừa tới hơi toán lính của tên trung úy Pháp Gaya chặn lại và xông vào dân xin xâu đánh đập. Mặc dù bị đánh, Nguyễn Hàng Chi và Trịnh Khắc Lập vẫn dẫn đầu mọi người xông tới đòi gặp Công sứ Pháp để chất vấn, đưa yêu sách. Song giặc Pháp đàn áp, Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập cùng những người khác bị bắt, tên án sát Cao Ngọc Lễ dùng cực hình tra tấn. “Cái quần lụa trắng của Nguyễn Hàng Chi đã nhuộm máu mất hai phần mà ông vẫn không nhận”. Song sau đó ông lại nhận hết về mình không khai cho ai khác.

Bọn cầm quyền Pháp và tay sai chém Nguyễn Hàng Chi ở sau thành Hà Tĩnh.

NGUYỄN HIỆT CHI

Nguyễn Hiệt Chi còn có tên là Nguyễn Đức Thuận, hiệu Mông Thượng, sinh năm 1870, là anh trai Nguyễn Hàng Chi. Ông quê ở làng Đông Thượng, xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Hậu Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông học giỏi, đỗ đầu ở trường thi Nghệ An và đỗ tú tài trường thi Bìrih Định, nên thường gọi là Xứ Thuận. Khi thi Hương, ông cố tình để hỏng nhiều lần để được thi lại, ông có cơ hội làm bài thuê để kiếm tiền. Năm 1906 ông lại đi thi, quan trường cho ông đỗ tú tài cuối bảng.

Ông cùng em trai là Nguyễn Hàng Chi vào Phan Thiết. Ông được bổ làm ký học ở Phú Yên, sau được bổ vào ngạch giáo dục dạy chữ Hán tại trường Pháp - Việt Phan Thiết. Ông cùng em trai là Nguyễn Hằng Chi đều là những hội viên tích cực của hội Duy tân. Ông thuộc phái Minh xã, còn Nguyễn Hàng Chi ở trong phái Ám xã theo xu hướng bạo động.

Năm 1908 Nguyễn Hàng Chi chịu ảnh hưởng của phong trào xin xâu, chống thuế ở Quảng Nam, trở về Hà Tĩnh phát động phong trào chống thuế. Cuộc chống thuế ở Hà Tĩnh diễn ra quyết liệt, Nguyễn Hàng Chi cùng với đồng chí là Trịnh Khắc Lập bị nhà cầm quyền Pháp giết hại. Nguyễn Hiệt Chi cũng bị Pháp bắt hai lần, giam cầm trong 6 tháng, song không có chứng cớ chúng đành phải tha. Ông cùng với Nguyễn Trọng Hợi, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang lập Thương quán là công ty Liên Thành, Nguyễn Hiệt Chi là nhân vật chủ chốt của công ty. Tiếng là công ty thương nghiệp nhưng do nhiều nhà trí thức tiến bộ sáng lập, nên công ty đã thành lập trường Tư thục Dục Thanh. Nguyễn Hiệt Chi là giáo viên ở trường Dục Thanh. Ông còn là người hiểu biết các sách Tân thư do các nhà cách mạng Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Tôn Dật Tiên viết và dịch của các học giả phương Tây như Mông pát kiơ, Rút xô, Vích to Huy gô, nên ông được công ty giao cho phụ trách một thư xã có rất nhiều sách Tân thư.

Khi ở Phan Thiết, Nguyễn Hiệt Chi giúp đỡ tận tình cho nhiều người ở Nghệ Tĩnh vào Phan Thiết và về tiền bạc, lương thực, nơi trú chân và tinh thần. Nguyễn Hiệt Chi giảng dạy ở trường Dục Thanh 12 năm, dạy ở trường Quốc học Huế 2 năm, sau đó ông trở về Nghệ An dạy ở trường tiểu học Cao Xuân Dục và Nguyễn Trường Tộ ở thành phố Vinh.

Nguyễn Hiệt Chi còn là nhà biên soạn sách trong khi dạy ở trường Quốc học Huế, ông đã soạn sách Mẹo tiếng Nam, soạn Hán - Việt từ điển (với Đoàn Danh Từ), Hán văn Tân giáo khoa thư soạn với Lê Thước, Sách dạy tiếng Nam, mẹo chữ Pháp. Ông cũng làm thơ, chủ yếu là thơ trào phúng, là cộng tác viên với báo Nữ giới chung của bà Sương Nguyệt Anh.

Năm 1933, Nguyễn Hiệt Chi về hưu, được hai năm thì mất (1935), thọ 65 tuổi.

Trong suốt 38 năm đứng trên bục giảng, Nguyễn Hiệt Chi đã đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước và soạn nhiều sách về giáo dục, đặc biệt là Từ điển.

LÊ BÁ TRINH

Lê Bá Trinh sinh năm Ất Sửu (1865) (Có sách viết ông sinh năm 1875 hay 1878). Quê ông ở xã Hải Châu thượng, huyện Hòa Vang nay thuộc quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Ồng thi đậu cử nhân khoa thi Hương, niên hiệu Thành Thái 12 (1900), xếp hạng 4 trên 22. Thi Hội ông chỉ đủ phân số để bổ nhiệm, không đỗ tiến sĩ.

Lê Bá Trinh sớm có lòng yêu nước từ khi tuổi còn trẻ, không chịu ra làm quan cho chính quyền thực dân Pháp và Nam triều. Ông làm một nếp nhà nhỏ ở chân núi Hành Sơn ngày ngày cày ruộng, tát nước làm kế sinh nhai. Trần Quý Cáp là bạn thân với Lê Bá Trinh, đến nhà ông ở chân núi Hành Sơn chơi, mong muốn ông ra hoạt động cách mạng, liền tặng bạn đôi câu đối:

Hoàn hải sơ khai thiên cổ nhan
Cố nhân do ngọn Ngũ Hành Sơn.


Dịch:

Trời mới đã ra mối thế giới
Bạn xưa còn núp dưới Hành Sơn.


Lê Bá Trinh tỉnh ngộ, bèn ra dạy học ở nhà ông Thương Liên ở Đà Nẵng. Từ đây về sau, các nhà ái quốc trong Nam ra, ngoài Bắc vào đều lấy chỗ nhà ông Châu Thành và nhà ông Lê Bá Trinh làm căn cứ.

Từ đó ông giao kết với các nhà yêu nước có xu hướng canh tân như Thái Phiên, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp. Ông cùng em trai là Lê Thúc Kỳ, dời nhà về làng Quảng Cái (Khái Đông) mở trường dạy học theo chủ trương tân canh, thực dụng. Cao trào chống thuế bùng nổ ở huyện Đại Lộc, nhanh chóng phát triển ra toàn tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Trung Kỳ. Lê Bá Trinh và nhiều nhà yêu nước ở Quảng Nam tích cực tham gia phong trào này. Thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, Lê Bá Trinh cùng Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị thực dân Pháp kết án đày đi Côn Đảo, riêng ông bị kết án 9 năm khổ sai. Tại nhà tù tàn bạo của thực dân Pháp, Lê Bá Trinh vẫn kiên cường liên tiếp đứng ra tổ chức nhiều cuộc đấu tranh với bọn chúa đảo, đòi không được đánh đập tù nhân, không cho ăn gạo mục, cá thối, mà phải cho án no, có rau, cá tươi.

Lê Bá Trinh bị tù ở Côn Đảo 7 năm, năm 1915 ông được trả tự do. Vừa về đến nhà, ông lại cùng hai người em là Lê Trọng Đoàn và Lê Thúc Kỳ gia nhập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở các tỉnh Nam Trung Kỳ do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo. Tại Đại hội thành lập Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ, ông được cử phụ trách ban Kinh tài thay cho Thái Phiên được bầu giữ chức chủ tịch.

Ông là một trong những người đã cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân... tích cực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế có vua Duy Tân tham gia. Ngày 3 tháng 5 năm 1916, cuộc khởi nghĩa nổ ra bị thất bại, Lê Bá Trinh cùng hai em là Lê Trọng Đoàn, Lê Thúc Kỳ, bị đày đi Lao Bảo. Trong nhà tù khắc nghiệt của đế quốc Pháp ông vẫn kiên cường dẫn đầu các cuộc đấu tranh với bọn chúa ngục. Ông tích cực tham gia vụ cướp ngục năm 1918 do Hồ Bá Kiện và Liêu Thanh lãnh đạo. Thực dân Pháp đàn áp, em ông là Lê Trọng Đoàn cùng nhiều chiến sĩ hy sinh trong vụ thảm sát. Ông bị chúng bắt lại ở rừng Lào bị chúng xích trong nhiều năm, chân thành tật.

Sau khi mãn hạn trở về, ông mất tại Hòa Hải, Đà Nẵng vào năm 1934. Nay ở thành phố Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đều có đường phố mang tên ông.

TỔNG KIÊM - ĐỐC BANG

Tổng Kiêm tên thật là Nguyễn Văn Kiêm là thuộc tướng của Đốc Ngữ, do chiến đấu xuất sắc, được phong là Lãnh binh, nên còn gọi là Lãnh Kiêm. Ông hoạt động mạnh ở tỉnh Phương Lâm, sau đổi là tỉnh Chợ Bờ, rồi Hòa Bình.

Năm 1908, Đinh Công Nhung cậy thế giặc Pháp cướp 8 mẫu ruộng của nhân dân Mông Hóa. Đốc Bang giữ chức phó tổng và Nguyễn Văn Kiêm tức Tổng Kiêm lãnh đạo nhân dân Mông Hóa làm đơn kiện Đinh Công Nhung lên Công sứ tỉnh, Thống sứ Bắc Kỳ và Toàn quyền Đông Dương. Thực dân Pháp đã xử cho Đinh Công Nhung. Đinh Công Nhung dựa vào thế lực Pháp khủng bố những người đi kiện hắn. Đốc Bang và Tổng Kiêm phải trốn lên rừng. Đinh Công Nhung tàn bạo, bắt bố Đốc Bang đóng cũi trôi sông để uy hiếp tinh thần đấu tranh của nhân dân.

Lãnh Kiêm liền chiêu mộ quân đánh Pháp. Vốn biết tiếng Lãnh Kiêm, nên những nghĩa quân cũ của ông cùng nhiều người dân Việt, dân Mường nhiệt liệt hưởng ứng, tham gia nghĩa quân rất đông, Lãnh Kiêm liên lạc được với Đốc Bang.

Đốc Bang tên thực là Nguyễn Đình Nguyên, người Mông Hóa, huyện Kỳ Sơn khi đó cũng đang tập hợp lực lượng đánh Pháp và tay sai Đinh Công Nhung.

Đến tháng 4/1909, lực lượng nghĩa quân có 30 người, đặt tên là đội “Bình Tây”. Quân kỳ mầu đỏ, có hai chữ “Bình Tây”. Hai ông làm lễ tế cờ tại núi Viên Nam, xã Mông Hóa. Nghĩa quân tôn Tổng Kiêm làm Chánh Thống tướng, Đốc Bang làm phó Thống tướng. Cuối tháng 7/1909 lực lượng nghĩa quân lên tới 41 người, nhưng trang bị kém, chỉ có một khẩu súng hỏa mai, 8 thanh mã tấu, còn lại là dao quắm, dao phát bờ. Hai ông nhận được tin tại tỉnh Hòa Bình, công sứ Rênhiê (Régnier) đi dưỡng bệnh, phó công sứ Patơrích (Patrich) đi thanh tra các đồn điền. Chánh quan lang Đinh Công Nhung ở bên chợ Phương Lâm, hữu ngạn sông Đà. Tỉnh chỉ còn lại Án sát và Đề đốc. Hai ông tính toán tuy quân số ít, vũ khí trang bị thua xa quân Pháp, nhưng nghĩa quân lại có ưu thế là lòng căm thù giặc, quen thuộc địa hình. Một thuận lợi nữa là viên Đề đốc đã hứa án binh bất động khi nghĩa quân đánh vào tỉnh lỵ. Hai ông cho quân áp sát tỉnh lỵ, cho trinh sát đi điều tra nắm vững địa hình, binh lực, hỏa lực, các mục tiêu là đồn lính khố xanh, kho bạc, ty thương chính, nhà dây thép, nhà tù. Nắm chắc phần thắng, Tổng Kiêm và Đốc Bang nhanh chóng quyết định đánh chiếm Tỉnh lỵ, thời gian được ấn định vào đêm mùng 2 rạng ngày mùng 3 tháng 8 năm 1909. Trận đánh đã thành công tốt đẹp. Tổng Kiêm, Đốc Bang định đưa quân vượt sông Hồng sang Tam Đảo,Vĩnh Yên, hợp với quân Đề Thám, nhưng bị 3000 quân chặn đường nghĩa quân phải vượt sông Đà sang đóng ở Bản Thôn thuộc huyện Thanh Thủy định vượt sông Hồng, sông Lô sang Vĩnh Yên nhưng quân Pháp phái 3 tiểu đoàn chặn đánh ở Tô Vũ vào ngày 31/10/1909. Tình thế buộc nghĩa quân vượt sông trở lại, bị quân Pháp cắt nghĩa quân làm đôi, Tổng Kiêm bị dồn về chân núi Ba Vì. Đốc Bang bị bao vây ở Mông Hóa. Nghĩa quân phải phân tán thành nhiều toán, đánh những trận nhỏ. Do quân Pháp khủng bố nhân dân dữ dội, không có tiếp tế nên nghĩa quân bị cô lập. Đêm 29 rạng ngày 30/12/1909, Đốc Kiêm hy sinh trong 1 trận bị quân Pháp phục kích. Trong tháng 01/1910, trong một trận đánh, nghĩa quân hy sinh, bị bắt 25 người, 84 người bị bao vây, hết đạn, hết lương thực phải ra hàng. Đốc Bang bị Pháp đày ở Lạng Sơn 20 năm.

PHẠM CHÁNH - PHẠM LUÂN - NGUYỄN SUM

Đêm mùng 4 rạng ngày mùng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn chỉ huy Phấn nghĩa quân tấn công toà Khâm sứ Pháp, đồn Mang Cá, khu nhượng địa. Việc không thành, sáng 5/7 quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương. Các tướng lĩnh, sĩ phu, những người yêu nước khắp các tỉnh Trung Kỳ, Bắc Kỳ sôi nổi hưởng ứng.

Tại tỉnh Khánh Hoà có Trịnh Phong, Trần Dương, Phạm Chánh cùng con trai là Phạm Luân và Nguyễn Sum cùng nhiều người khác hưởng ứng. Phạm Chánh cùng con trai là Phạm Luân và Nguyễn Sum đều quê tại làng Hội Khánh huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà. Ba người đã hăng hái hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, đứng ra chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp. Đông đảo trai tráng trong huyện Vạn Ninh đã tới làng Hội Khánh nơi đặt đại bản doanh cuộc khởi nghĩa tòng quân. Nhiều người còn đem theo cả vũ khí, lương thực đến. Phạm Chánh giao cho con trai là Phạm Luân biên chế nghĩa quân thành cơ đội, huấn luyện các thao tác chiến đấu, cách sử dụng vũ khí. Nguyễn Sum lo công tác hậu cần chủ yếu là mua sắm quyên góp vũ khí quân lương.

Nhận được tin Phạm Chánh cùng với Phạm Luân, Nguyễn Sum khởi nghĩa, Thượng thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết cử phái viên giao cho ba người cai quản nghĩa quân hạt Vạn Ninh. Nhận thấy địa hình ở Hội Khánh trống trải, các ông xây dựng căn cứ và thành lập kho lương tại Đồng Đồn trên núi Ninh Phước. Phạm Chánh cùng Phạm Luân và Nguyễn Sum chỉ có tấm lòng căm thù giặc, yêu nước thiết tha, không có kiến thức về quân sự, lại không có tham mưu giỏi. Công tác tuyển quân cũng ồ ạt, theo lối “đánh trống ghi tên” không lựa chọn, nên có những kẻ cơ hội, cả bọn lưu manh lọt vào hàng ngũ. Quân Pháp nghe tin đánh bất ngờ vào ban đêm, các ông không đề phòng nên bị thất bại, nghĩa quân mạnh ai nấy chạy, kho lương bị đốt cháy.

Sau trận tập kích của quân Pháp, các ông tụ tập tàn quân chờ ngày khởi sự. Nhận được tin quân Pháp đóng ở thôn Hiền Lương, Phạm Chánh cùng Phạm Luân, Nguyễn Sum đem quân đến đánh báo thù. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, nhưng ba ông lại bị thua, quân số còn rất ít. Lẽ ra các ông nên rút vào nơi an toàn bổ sung lực lượng, trang bị thêm vũ khí, chờ cơ hội diệt địch thì các ông lại đưa số quân ít ỏi, trang bị kém xa quân Pháp, đánh trận thứ ba ở núi Quán Chùa. Kết quả là trận này các ông lại bị thua. Đánh ba trận thua cả ba, nghĩa quân chán nản bỏ đi. Khi hai cha con Phạm Chánh rút về căn cứ trên núi không thấy Nguyễn Sum, hai cha con ông xuống núi trở lại trận địa tìm kiếm thì thấy Nguyễn Sum bèn đưa về căn cứ chữa vết thương. Quân sĩ lúc này bỏ đi hết chỉ còn lại hai cha con Phạm Chánh và Nguyễn Sum.

Ba ông rút về núi Tu Bông, hết lương thực, bị quân Pháp bao vây chặt, không có người tiếp tế, Phạm Chánh về làng tìm lương thực, bị tay sai của giặc Pháp bắt nộp cho Đốc phủ. Khi dựng cờ khởi nghĩa ba người đã thề sống chết có nhau nên Phạm Luân và Nguyễn Sum tự ra cho giặc bắt để cùng được chết. Giặc Pháp và bọn tay sai dụ dỗ các ông đầu hàng, các ông không theo. Chúng tra tấn cực kỳ dã man cũng không khuất phục được các ông.

Chúng đưa các ông về làng Hội Khánh xử bắn tại Gò Đồn. Bắn xong, chúng chặt đầu ba người. Đầu cha con ông Phạm Chánh bêu tại Tu Bông, thân mình bêu tại Vạn Dã, đầu ông Nguyễn Sum bêu tại Vạn Dã, thân mình bêu tại Gò Bí (Tu Bông). Ai đi qua cũng vô cùng thương cảm, mãi ba ngày sau chúng mới cho gia đình chôn cất.

Mộ Phạm Chánh, Phạm Luân, Nguyễn Sum nay vẫn còn ở thôn Hội Khánh, huyện Vạn Ninh.

KỲ ĐỒNG NGUYỄN VĂN CẨM

Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn cẩm sinh ngày 10 tháng 8 năm 1875, cha là Nguyễn Văn Tỵ đỗ nhị trường, sống bằng nghề dạy học, đan lát và đóng cối xay, dân làng gọi là cụ Đồ Tỵ. Nguyễn Văn Cẩm sớm bộc lộ thông minh kỳ lạ từ khi mới bốn, năm tuổi. Năm 6 tuổi đã học chữ Nho, có tài ứng đối nhanh và rất tài tình. Lên bẩy tuổi, đã biết làm thơ chữ Hán và thuộc nhiều câu sấm Trạng Trình. Nghe đồn Nguyễn Văn Cẩm thông minh kỳ lạ, nhiều nhà nho đến tận nơi thử tài. Một hôm bạn của cha cậu đến chơi, đọc một câu trong sách:

Tam tài: thiên, địa, nhân (Ba cõi trời, đất, người).

Nguyễn Văn Cẩm ngồi chơi ở góc nhà liền đối:

Tứ thi: phong, nhã, tụng.

Chỗ hóc búa là nói đến bốn thể thơ mà chỉ có ba. Nhưng tuy ba mà bốn, vì chữ Nhã bao gồm cả chữ nhã và tiểu nhã cộng vói phong, tụng đúng là bốn thể thơ.

Những huyền thoại đối đáp của Kỳ Đồng với những nhà thâm nho, những vị khoa bảng nhiều và hết thảy người ra đối đều vô cùng thán phục. Điều đặc biệt là Kỳ Đồng chưa một lần bị thua cuộc.

Lên tám tuổi, Nguyễn Ván cẩm được cha dẫn lên tỉnh Hưng Yên dự kỳ thi sát hạch, chuẩn bị cho kỳ thi Hương ở Nam Định. Các quan chấm thi, thấy cẩm bé, ra câu đối cực khó, nhưng Kỳ Đồng lập tức đối lại rất chỉnh khiến các quan trường đều phải phục tài. Kết quả Nguyễn Văn Cẩm đạt hạng Ưu. Các quan tỉnh kinh dị làm sớ tâu về triều.

Vua Tự Đức có chỉ dụ: “Cấp cho trẻ lạ Hưng Yên Nguyễn Văn Kỳ (tức Cẩm) lên tám tuổi mà thông minh, nhà nghèo, chăm học, mỗi tháng ba quan tiền, một phương gạo, quần áo mỗi thứ hai cái, một năm cấp một lần”. (Trong bức thư gửi cho công sứ Thái Bình ngày 2/5/1897. Nguyễn Văn Cẩm cho biết tên Kỳ Đồng là do vua Tự Đức ban)

Tiếng tăm và những huyền thoại của Kỳ Đồng ngày càng vang xa. Nhân dân ở các tỉnh Bắc Kỳ, kể cả Thanh - Nghệ rất ngưỡng mộ và kính phục coi ông như Trạng Trình giáng sinh để cứu dân, cứu nước đã kéo nhau về xem mặt Kỳ Đồng đông như trẩy hội.

Năm 1887 phong trào theo Kỳ Đồng lên rất cao, các sĩ phu yêu nước ở Nam Định, Thái Bình muốn nhân dịp này tổ chức lực lượng để đánh chiếm thành Nam Định, nên đã tuyên truyền rộng rãi những kỳ tài của Kỳ Đồng.

Thống sứ Bắc Kỳ Bờ Ri e rơ (Brrière) trước từng làm công sứ Nam Định, sợ Kỳ Đồng trở thành ngòi nổ cho một cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Bắt Kỳ Đồng đưa đi tù thì lập tức dân có phản ứng mạnh mẽ đòi trả tự do cho thần tượng. Hắn liền đưa Kỳ Đồng sang học ở trường Lui Lơgrang (Louis Le Grand) ở thủ đô Algé nước Algéri để tách ông ra khỏi phong trào chống Pháp và hy vọng đào tạo thành tay sai của chúng. Tại Algérie, Kỳ Đồng đã liên hệ với vua Hàm Nghi (vua Hàm Nghi hơn Kỳ Đồng ba tuổi). Tháng 9 năm 1896, Kỳ Đồng đỗ tú tài toàn phần, chúng đưa ông về nước. Bọn cầm quyền Pháp giao cho ông nhiều chức vụ nhưng ông không nhận. Ông trở về quê mở trường dạy học chữ Hán và chữ Pháp. Người đến học trường ông rất đông. Ông làm giỗ bố thật to để bạn bè xa gần đến làng Ngọc Đình cùng nhau hội ngộ bàn việc cứu nước. Trước những hoạt động tích cực vận động phong trào chống Pháp của Kỳ Đồng, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa trường và giám sát ông chặt chẽ.

Kỳ Đồng xin phép mở đồn điền song mật thám Pháp cho theo dõi sát từng hành động nhỏ của ông ở khắp mọi nơi.

Kỳ Đồng trở thành quân sư của cuộc khởi nghĩa lớn do Mạc Đình Phúc lãnh đạo. Trước nguy cơ bùng phát một cuộc khởi nghĩa mới, Toàn quyền Đông Dương ra lệnh cho Péroz chỉ huy đạo quân Yên Thế phải bí mật bắt Kỳ Đồng. Khi ông bị bắt, giặc Pháp dùng thuyền máy đưa ông về Hải Phòng. Từ Hải Phòng chúng đưa ông vào Sài Gòn theo đường biển rồi giải sang Pháp. Từ khi bị bắt, chúng cùm xích ông canh gác rất chặt rồi đưa đi đầy ở Tahiti thuộc quần đảo Polinêdi. Tin tức Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm bị Pháp bắt đầy sang đảo Tahiti, lập tức Hội Bảo vệ và bênh vực nhân dân bản xứ tại Pháp, bác sĩ Ghia người cùng Kỳ Đồng khai phá đồn điền chợ Kỳ ở Yên Thế đã gửi thư cho Toàn quyền Pôn Dume đòi trả tự do cho Kỳ Đồng nhưng không kết quả. Tại Tahiti, Kỳ Đồng đã làm quen với nhà danh họa người Pháp bị đày sang đó năm 1901. Ông viết một vở kịch ba hồi “Những mối tình của người họa sĩ già ở quần đảo Mác ki dơ”. Trong suốt 30 năm bị đi đầy, ông không được gặp một người đồng bào nào của mình, không hề biết tin tức gì về đất nước mình. Ông mất ngày 17/7/1929.

MẠC ĐÌNH PHÚC

Mạc Đình Phúc tên thực là Nguyễn Khắc Tình, còn gọi là Khóa Tinh, Khóa Doãn, người làng Bình Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
Ông là người có học, đỗ khóa sinh, từng làm tiên chỉ ở làng Bình Hà. Ông có quan hệ rộng với hàng lý dịch trong huyện và có hiểu biết về lính Pháp.

Từ năm 1881, khi Nguyễn Văn Cẩm lên 6 tuổi nổi tiếng thần đồng, được coi là Trạng Trình tái thế cứu nhân dân. Người khắp các tỉnh ở Bắc Kỳ, cả Thanh - Nghệ kéo đến làng Ngọc Đình xem mặt và thử tài. Trong dòng người đó có Nguyễn Khắc Tinh.

Tại đây, ông đã thấy rõ trí tuệ thông minh của Nguyễn Văn Cẩm trong lòng rất kính phục. Ông cũng kết thân với các nhà nho như cử nhân Bùi Tam Đồng huấn đạo huyện Duyên Hà, Phó bảng Trần Xuân Sắc, tri huyện huyện Tiên Lữ, cử nhân Nguyễn Bá Ôn, quê ở làng Nguyệt Lâm, huyện Kiến Xương, cử nhân Phan Cung quê ở Nam Định.

Từ đó Khóa Tinh thường xuyên đi lại với các nhà nho ở Thái Bình (khi đó còn là phủ Thái Bình, thuộc tỉnh Nam Định) và huyện Duyên Hà (khi đó thuộc Hưng Yên).

Sau khi Kỳ Đồng về nước và tổ chức một cuộc gặp mặt anh em, đồng bào, Mạc Đình Phúc trở về Thanh Hà gấp rút chuẩn bị cho sự ra đời của tổ chức Mạc Thiên binh. Ông triệu tập gấp cuộc họp với Nguyễn Văn Viễn, Phạm Ngọc Bài, Phạm Huy Thiện, Đội Khánh, Quản Hà phát động phong trào Mạc Thiên binh, Phan Cung cũng rời Nam Định sapg Thanh Hà với danh nghĩa thầy đồ đi mở trường dạy học để giúp Mạc Đình Phúc thảo hịch, mệnh lệnh, thư từ giao dịch với thủ lĩnh các tỉnh.

Mạc Đình Phúc giao cho Nguyễn Văn Viễn, Phạm Ngọc Bài, Phạm Huy Thiện phát triển lực lượng ở Hải Dương còn ông tới Hải Phòng, bí mật liên hệ với tri phủ Kiến Thụy Phạm Huy Du và các thủ lĩnh ở Kiến An như Lãnh Mộc, Tổng Tốn...

Tại Thái Bình, ngoài việc gặp gỡ chủ súy Nguyễn Bá Ôn, Mạc Đình Phúc thường đến chùa Lãng Động ở huyện Trực Định (Kiến Xương) bàn bạc với sư Thụ người chỉ huy quân sự cao nhất ở Thái Bình tuyên truyền chống Pháp. Ông phát cho nghĩa đảng của mình một thẻ tre có chữ Mạc Thiên binh.

Mạc Đình Phúc loan truyền tin, ông được trời cho chức “Mạc thị khâm sai trừ Tây, diệt Nguyễn” do đó ông có nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân chống Pháp, đánh đuổi, tiêu diệt chúng, lật đổ vua quan nhà Nguyễn. Phong trào Mạc Thiên binh từ Thanh Hà lan rộng ra các huyện.

Cùng với việc tuyển quân tại chỗ, Mạc Đình Phúc, Nguyễn Bá Ôn, Bùi Tam Đồng, Phan Cung... còn tích cực vận động người di dân lên Yên Thế xây dựng đồn điền chợ Kỳ cho Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm, thực tế là để dự các lớp huấn luyện quân sự do Kỳ Đồng trực tiếp giảng dạy.

Pháp giao cho tri phủ Lê Văn Thức đánh dẹp nghĩa quân ở Thanh Hà. Sau khi Tuần Thức bắt được Mạc Đình Phúc, chúng giải ông về thị xã Hải Dương và xử tử ông vào ngày 29 tháng 12 năm 1897.

NGUYỄN BÁ ÔN

Nguyễn Bá Ôn quê ở làng Nguyệt Lâm, nay là xã Minh Tân, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông là một nhà nho, không đỗ đạt, nhưng nổi tiếng về phương thuật.

Ông tự xưng là Thiên thần giáng sinh. Bấy giờ bệnh dịch tả hoành hành ở khắp các tỉnh, người ta mang kiệu tới rước ông đi trừ dịch, có khi vào đến Thanh Hóa, Nghệ An. Nhưng thực ra đó chỉ là một tấm bình phong cho hoạt động tuyên truyền chống Pháp của ông.

Ông có mối quan hệ mật thiết với Tạ Hiện, Bang Tốn. Ông đã cùng với Phó bảng Trần Xuân sắc cử nhân Bùi Tam Đồng dạy dỗ thơ văn và truyền cảm lòng yêu nước cho thần đồng Nguyễn Văn Cẩm truyền bá rộng rãi những “câu sấm” và văn thơ của Kỳ Đồng ra quảng đại quần chúng.

Nguyễn Bá Ôn và một số đồng chí đã quyết định xây dựng lực lượng chiến đấu do Mạc Đình Phúc làm minh chủ, Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm làm quốc sư, Nguyễn Bá Ôn làm chủ súy.

Tháng 12/1896, Kỳ Đồng với tư cách là Quốc sư, Nguyễn Bá Ôn với tư cách là chủ súy đã bí mật sang Bình Hà (huyện Thanh Hà) Hải Dương cùng Mạc Đình Phúc thảo luận cụ thể kế hoạch chiêu mộ, huấn luyện quân sĩ, xây dựng căn cứ, chuẩn bị vũ khí quân lương ở các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ để khởi nghĩa khi có thời cơ.

Với ý định xây dựng căn cứ quân sự để mưu việc chống Pháp, tháng 9 năm 1897 ông phối hợp với bác sĩ Ghia mở đồn điền ở Yên Thế, gần căn cứ Phồn Xương của Hoàng Hoa Thám. Theo báo cáo của mật thám thì đồn điền có từ 2500 đến 3000 người. Ông vẫn giữ vững mối liên lạc với Mạc Đình Phúc và Nguyễn Bá Ôn chỉ đạo tích cực chuẩn bị khởi nghĩa.

Trong khi Kỳ Đồng ở Yên Thế thì Nguyễn Bá Ôn khẩn trương cùng các tướng là Sư Thụ chùa Thuyền Quan, Lãnh Chuẩn khẩn trương tổ chức nghĩa quân, trang bị vũ khí, điều tra sự bố phòng của giặc cho trận đánh sắp tới. Nguyễn Bá Ôn cũng tới Bình Hà với tư cách là chủ súy cùng Mạc Đình Phúc đi Hải Phòng, Kiến An khích lệ tướng sĩ làm tốt công tác chuẩn bị khởi nghĩa. Ông chăm chú nghe các tướng báo cáo mục tiêu, kế hoạch tấn công, huy động lực lượng một cách cụ thể.

Giặc Pháp lo sợ những hoạt động của Kỳ Đồng nên bắt cóc ông song kế hoạch khởi nghĩa vẫn được Mạc Đình Phúc và Nguyễn Bá Ôn thực hiện.Cuộc khởi nghĩa của phong trào Kỳ Đồng - Mạc Đình Phúc ở các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình nhanh chóng bị giặc Pháp đàn áp. Mạc Đình Phúc bị bắt và bị xử tử vào ngày 29/12/1897, Sư Thụ bị thương, bị bắt cũng bị chúng tử hình. Nguyễn Bá Ôn bị bắt, giam ở đề lao Thái Bình, bị tên công sứ David xử tử ngay tại đề lao. Có tài liệu lại viết ông bị quân Pháp đưa về làng Nguyệt Lâm chém đầu ông trưóc đền Tam Thánh để uy hiếp dân chúng. Dân làng xô nhau vào lấy vải xô màn thấm máu ở cổ ông đưa về thờ.

NGUYỄN THÁI PHÚC

Nguyễn Thái Phúc quê ở tỉnh Hải Dương là một chiến sĩ chống Pháp kiên cường; Giặc Pháp và chính quyền Nam triều truy nã gắt gao, ông phải cải trang là nhà sư để che mắt giặc. Ông đến tu ở chùa Nham Chàng, tên Nôm là làng Chàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam với pháp danh là Sư So. Sư So tham gia nghĩa quân của Đinh Công Tráng, lo việc huấn luyện quân sự, quyên góp, sản xuất lương thực làm quân lương, lo cứu chữa thương binh, chôn cất tử sĩ. Ông còn trực tiếp tham gia các trận đánh lớn ở căn cứ Rừng Chàng, Bưởi, Tâng, Sở Kiện (Hà Nam), chợ Dầu (Vụ Bản, Nam Định)...

Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Triều đình Huế ký Hiệp ước mang tên ''Hiệp ước Hòa bình liên minh” bán rẻ chủ quyền đất nước cho giặc Pháp, Đinh Công Tráng trả chức quan cho triều đình về tuyển mộ quân sĩ, trang bị vũ khí xây dựng căn cứ chống Pháp ngay ở làng Chàng và rừng Chàng. Nghĩa quân do Đinh Công Tráng chỉ huy lên tới 2000 người, chia thành 5 đạo trung quân, tiền, hậu, tả hữu. Sư So tham gia nghĩa quân lo việc huấn luyện quân sư quyên góp, sản xuất lương thực làm quân lương, lo cứu chữa thương binh, chôn cất tử sĩ. Ông còn trực tiếp tham gia các trận đánh lớn ở căn cứ Rừng Chàng, Bưởi, Tâng, Sơ Kiện (HàNam), chợ Dầu (Vụ Bản, Nam Định)...

Khi giặc Pháp tập trung quân đàn áp khốc liệt các căn cứ của Đinh Công Tráng ở Hà Nam, Đinh Công Tráng rút quân về Ninh Bình rồi cùng các tướng lĩnh ở Thanh Hóa xây dựng căn cứ Ba Đình ở Nga Sơn, Thanh Hóa thì Sư So đổi tên là Sư Thọ, giặc Pháp truy lùng ông đổi tên là Sư Dù. Không thể ở Hà Nam, Ninh Bình được, ông về tỉnh Nam Định đến tu ở chùa Lãng Động huyện Trực Định, nay thuộc xã Trà Giang, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình và đổi pháp danh là Sư Thụ. Ngay khi về Trực Định, sư Thụ đã mộ quân tham gia phong trào kháng chiến do Tạ Hiện lãnh đạo. Ông đã đem quân phối họp với Lãnh Bon đánh quân Pháp trong trận Tống Vũ, huyện Trực Định, nay thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Phong trào Cần Vương thất bại, Sư Thụ liên lạc với Mạc Đình Phúc, người làng Bình Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương thủ lĩnh phong trào Mạc Thiên binh để phát triển phong trào ở Thái Bình.

Sư Thụ là người chỉ huy cao nhất của phong trào Mạc Thiên binh tại Thái Bình. Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 12 năm 1897, một đội nghĩa binh gần 200 người do sư Thụ trực tiếp chỉ huy theo đê sông Trà Lý tiến về đánh chiếm Phủ Bo. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân ở dinh công sứ đang diễn ra quyết liệt, nghĩa quân chiếm ưu thế áp đảo quân Pháp thì tên giám binh Lit tây (Littaye) mang lính đến bắn mạnh vào phía sau nghĩa quân. Vì không có phòng bị từ trước, nhiều nghĩa quân hy sinh, hàng ngũ nghĩa quân rối loạn. Lợi dụng cơ hội đó, bọn lính mở cổng dinh đánh ra nghĩa quân bị kẹp vào giữa, nên phải rút lui. Sự Thụ trốn lên Kỳ Bá, giặc Pháp kéo tới bao vây. Sư Thụ chỉ huy nghĩa quân
đánh trả quyết liệt, ông bị thương và bị chúng bắt. Các tướng như Lãnh Chuẩn, tức Đỗ Đình Chuẩn cũng lần lượt bị quân Pháp và quân Nam triều bắt. Sau khi quân Pháp bắt được Sư Thụ, Công sứ David sai Tri phủ Kiến Xương Phạm Văn Thụ đem lính về làng Lãng Động, căn cứ của Sư Thụ tịch thu ấn tín, bằng sắc, bắt thêm một số người nữa, giải về tỉnh. Giặc Pháp xử chém ông ở Gò Muống nay là bãi đất lương thực thị xã.

Về sự kiện này, Giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm viết: “Cùng lúc với các cuộc tấn công vào Hải Dương, thành phố Hải Phòng, nghĩa quân Thái bình do Nguyễn Thái Phúc chỉ huy vào đêm 15 rạng ngày 16 tháng 12 năm 1897 theo đê Trà Lý tiến về đánh chiếm tỉnh lỵ”.

Cuộc chiến đấu do Sư Thụ chỉ huy trong phong trào chống Pháp Kỳ Đồng - Mạc Đình Phúc đã chứng tỏ các hòa thượng, sư sãi tuy gửi thân nơi cửa Phật, nhưng vẫn không thoát li cuộc chiến đấu của dân tộc chống ngoại xâm, sẵn sàng cởi áo cà sa cầm vũ khí đánh giặc, nhiều vị đã anh dũng hy sinh da ngựa bọc thây nơi chiến địa.

BÙI TAM ĐỒNG

Bùi Tam Đồng người làng Thượng Hộ, tổng Thượng Hộ, huyện Duyên Hà, nay thuộc xã Minh Hồng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đậu cử nhân khoa Bính Tý (1876).   

Bùi Tam Đồng có thời làm huấn đạo huyện Duyên Hà, Hưng Nhân; có thời gian được Tự Đức cử làm Hà đê phó sứ chuyên lo chỉ huy đắp đoạn đê Văn Giang. Ông là một nhà Văn thân chống Pháp. Khi ông làm Huấn đạo huyện Duyên Hà, nghe đồn về cậu bé kỳ tài Nguyễn Văn Cẩm, ông đã cùng hai người bạn đến xem mặt và thử tài. Khách đến nhà, Kỳ Đồng đang chơi trò thuyền vỏ trứng ở ngoài ao. Thấy Kỳ Đồng có cái chỏm và hai trái đào ông Huấn đạo liền đọc: “Một thằng ba chỏm tóc”'. Không cần suy nghĩ, Nguyễn Văn Cẩm ứng khẩu đáp: “Ba cụ chín chòm râu”. Cử nhân Bùi Tam Đồng phải phục là tài. Từ đó cử nhân Bùi Tam Đồng cùng với Phó bảng Trần Xuân sắc, cử nhân Nguyễn Bá Ôn đã cùng nhau dạy dỗ, giúp cho tài năng thần đồng của Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm ngày càng bay cao, bay xa.

Trong đám giỗ do Kỳ Đồng tổ chức, đã tụ họp các văn thân, phát động nhân dân các tỉnh đồng bằng khởi nghĩa và đưa ra việc mở đồn điền ở chợ Kỳ (Yên Thế, Bắc Giang), các ông đã phân công Bùi Tam Đồng giúp Kỳ Đồng vận động người và của đi mở đồn điền, còn Nguyễn Bá Ôn, Phan Cung giúp Nguyễn Khắc Tỉnh xây dựng lực lượng vũ trang.

Việc Kỳ Đồng trở về nước, mở đồn điền ở chợ Kỳ, Yên Thế và cùng những sĩ phu ủng hộ Kỳ Đồng đi khắp các tỉnh tập hợp quần chúng, làm cho nhà cầm quyền Pháp lo lắng, tìm mọi cách để bắt. Bùi Tam Đồng hiểu rõ việc Kỳ Đồng lập đồn điền chỉ là cái cớ để xây dựng căn cứ quân sự ở Yên Thế bên cạnh căn cứ của Đề Thám. Bùi Tam Đồng còn hiểu rõ ý nghĩa này trong bài thơ: “Niềm vui vỡ đồn điền” trong đó có câu: “Lấy Nông nghiệp tạo thành quân nghiệp”. Vì vậy Bùi Tam Đồng đã cùng các nhà nho ở trong nhóm văn thân trước đây như các ông Trần Hữu Giảng, Trần Văn Gia, Trần Xuân Tuyên ở thôn Quần Anh... (nay thuộc xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định tuyên truyền vận động nông dân và cả các nho sĩ, nghĩa quân của các cuộc khởi nghĩa trước, một số tổng lý yêu nước có những nhà rất giàu, tham gia.

Khi Kỳ Đồng bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày ở đảo Hahiti, cuộc khởi nghĩa do Mạc Đình Phúc lãnh đạo bị đàn áp, thực dân Pháp điên cuồng khủng bố bắt những người có liên quan, cử nhân Bùi Tam Đổng cũng bị bắt giam giữ một thời gian dài, sau không đủ chứng cớ buộc tội, chúng phải thả.

TRẦN XUÂN SẮC

Trần Xuân sắc tự là Trọng Ôn, hiệu là Đông Viên, biệt hiệu là Đông Hải tiên sinh, sinh năm Đinh Mùi (1847). Ông là người xã Đông Thành, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, nay Đông Thành thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

Năm Quý Mùi (1879) ông đỗ phó bảng, lúc 33 tuổi. Ông được làm tri huyện huyện Tiên Lữ là một huyện nghèo ở trên bờ Hữu ngạn sông Luộc, tỉnh Hưng Yên.

Năm 1882 quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai, một số quan lại vô liêm sỉ trở thành tay sai của giặc Pháp, đàn áp nhân dân như Nguyễn Chính, Trần Đình Túc, Hoàng Cao Khải. Ông chán nản bỏ quan về nhà ở xã Đông Thành dạy học.

Tại đây, ông có mối liên hệ chặt chẽ với những nhà nho yêu nước thuộc phe chủ chiến như Nguyễn Quang Bích, Tạ Quang Hiện, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Hữu Đức...

Giặc Pháp và tay sai cho Pháp như Tổng đốc Nam Định Vũ Văn Báo cho mật thám theo dõi ông. Ông là người có nhân nghĩa, khảng khái, sống thanh cao, nên được các nghĩa sĩ và nhân dân mến phục, hết lòng bảo vệ, nên tránh được nhiều phen nguy hiểm.

Ông không chỉ dạy văn chương, chữ nghĩa mà còn truyền cho học trò tinh thần yêu nước, thương dân. Nhiều học trò của ông trở thành những chiến sĩ cách mạng kiên cường.

Nghe tiếng Kỳ đồng Nguyễn Văn cẩm, ông đã gặp và thử tài của cậu, ông ra cho Kỳ Đồng một vế đối:

Ngữ bá tự xưng ngũ xích đồng.

Nghĩa là: đứa bé 12 tuổi (5 thước) cũng thấy xấu hổ khi nói đến dạo Ngũ Bá.

Vì thế thực dân Pháp cho người theo dõi ông.

Từ khi được gặp mặt và trò truyện với cậu bé thông minh, xuất chúng, ông thường xuyên đến Ngọc Đình để bồi dưỡng một cách có hệ thống và cơ bản về kinh sách, về đạo làm người cho cậu bé thông minh này. Trần Xuân sắc quả không lầm, Nguyễn Văn Cẩm không hề tự phụ, kiêu căng về sự thông tuệ khác thường của mình, mà đã chăm học học tập bài thày giảng, kể cả những điều mình đã biết. Trần Xuân Sắc đã cùng Nguyễn Bá Ôn, cử nhân Bùi Tam Đồng đã góp một phần vào việc hun đúc nhân tài Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm.

Năm 1907, Trần Xuân sắc cùng các nhà nho Nguyễn Hữu Cương, Ngô Quang Đoan ở huyện Kiến Xương, Lý Thoa mở trường dạy học chữ quốc ngữ theo chương trình của trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Trần Xuân sắc dạy học suốt 40 năm, đào tạo rất nhiều nhân tài cho đất nước. Ông mất ngày 30 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1919) thọ 72 tuổi.

SƯ CỤ VƯƠNG QUỐC CHÍNH

Sư cụ Vương Quốc Chính là một nhà nho yêu nước ở làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, phủ Kiến An tỉnh Hải Dương, nay thuộc quận Kiến An, thành phố Hải Phòng. Cụ là một nhà sư uy tín trụ trì và thuyết pháp ở nhiều chùa tại phủ Kiến An, trong đó có chùa Hoa Long ở núi Voi, huyện An Lão, phủ Kiến An. Cụ là bạn thân của Tổng đốc Hải Yên kiêm Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật. Khi ông Thuật từ quan, dựng cờ khởi nghĩa ở Chí Linh, Đông Triều, sư cụ Vương Quốc Chính cùng một số đồ đệ đã có mặt dưới cờ. Sư cụ được chủ tướng giao cho về Kiến An phát động các tầng lớp nhân dân khởi nghĩa chống Pháp.

Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật nhận được chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi về nước nhận nhiệm vụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thì Vương Quốc Chính gia nhập cuộc khởi nghĩa do Cử Bình, Nguyễn Văn Tư quê ở huyện An Lão phát động. Các thủ lĩnh nghĩa quân An Lão xây dựng căn cứ ở chùa Hoa Long - nơi sư cụ Vương Quốc Chính tu hành. Nghĩa quân đã đánh nhiều trận, gây thiệt hại nặng nề cho quân Pháp. Chúng cho quân vây ráp, sư cụ phải đi lánh nạn ở Hương Sơn một thời gian, khi giặc Pháp rút lại trở về chùa và tiếp tục tu hành.

Tháng 7 năm 1889, sư cụ Vương Quốc Chính dẫn một số nghĩa quân chạy sang huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh để nhập vào đạo quân do Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh chỉ huy. Nhưng quân Pháp đã chiếm hết các ngả đường sang Lang Tài, Thuận Thành. Sư cụ tìm về căn cứ Hai Sông ở Thủy Nguyên do Đốc Tít chỉ huy thì căn cứ đã bị 4 cánh quân của Giám binh Blancha và giám binh Lannan, Tán lý Đào Trọng Kỳ, Tán lý Cao Xuân Dục và Hoàng Cao Khải Tư lệnh binh đoàn cảnh sát vây đánh. Ông bèn rút về căn cứ Bãi Sậy ở Khoái Châu nhưng căn cứ này cũng bị quân Pháp vây chặt để triệt đường nghĩa quân đi ứng cứu ở các nơi khác. Sư cụ Vương Quốc Chính được sư ông ở chùa Khúc Lộng (Văn Giang) là trạm liên lạc bí mật của Nguyễn Thiện Thuật, thì được sư ông cho biết Đề Yêm - người mà sư cụ từng gặp trong các cuộc họp tướng lĩnh đang xây dựng căn cứ ở Chùa Tuyết Sơn động trên núi Bảo Đài, chùa Hương Sơn. Sư cụ đã từng hành Hương tới chùa theo lối tắt Phủ - Lý - Ba Sao, liền cho quân lính cải trang thành phường thợ gặt, thợ sơn tràng đi làm nhiều tốp nhỏ, đến tập kết ở chùa Hương Sơn.

Đề Yêm vui mừng đón nhận vị sư yêu nước vào bộ chỉ huy và còn yêu cầu cụ trụ trì chùa Ngọc Long Động vì sư ông ở đây vừa viên tịch.
Tuy nương thân nơi cửa Phật, nhưng sư cụ Vương Quốc Chính vẫn bí mât liên lac với các đồng chí mưu viêc cứu nước. Ngày rằm tháng 4 năm 1895 họ cùng về chùa Tuyết Sơn họp bàn việc thành lập tổ chức cứu nước, lấy tên là hội Thượng Chí. Cuộc khởi nghĩa đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất rất lớn, chúng thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sư cụ Vương Quốc Chính và nhiều nhà sư ở Sơn Tây, Hà Đông bị giặc Pháp giết hại.

Cuộc vũ trang chống xâm lăng của sư cụ Vương Quốc Chính khởi xướng, tuy thất bại, nhưng vẫn nêu một tấm gương sáng chói lọi trong cuộc chiến đấu cứu nước quật cường của dân tộc Việt Nam.

ĐỖ ĐỨC KIÊN

Đỗ Đức Kiên người làng Đăm Giữa, xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, từng làm Chánh tổng.

Khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2 (1882), Đỗ Đức Kiên cùng một số trai làng gia nhập đội dân binh, hỗ trợ cho đạo quân của Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết, quân Cờ đen do tướng Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đánh quân Pháp ở Cầu Giấy giết chết tên đại tá Franci Garnier. Sau trận này ông lấy danh nghĩa là chánh tổng tuyển mộ tuần đinh, rào làng chống cướp để xây dựng lực lượng nghĩa quân.

Biết ông là người có nghĩa khí, căm thù giặc Pháp, sau lần tiếp xúc với sư cụ Vương Quốc Chính, sư ông Thích Thanh Trang đã tuyên truyền, vận động ông tham gia hội Thượng Chí do sư cụ Vương Quốc Chính tổ chức và lãnh đạo. Đỗ Đức Kiên hăng hái hưởng ứng và đã vận động nhân dân ở ba làng Đăm thuộc xã Tây Tựu gia nhập hội Thượng Chí.

Năm 1887, sư cụ Vương Quốc Chính nhận thấy số hội viên đã đông đảo, nhất là ở hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây, nên quyết định thành lập lực lượng vũ trang.

Tại cuộc hội nghị thành lập lực lượng vũ trang, Đỗ Đức Kiên được giao chức Chánh Để đốc. Sau khi được phong chức Chánh Đề đốc Đỗ Đức Kiên cùng các ông Tán lý quân vụ phát động toàn dân Tây Tựu, kế cả hào lý gia nhập nghĩa quân hoặc ủng hộ nghĩa quân. Núp dưới danh nghĩa rào làng chống cướp. Đề Kiên đã biến làng Đăm Giữa và cả xã Tây Tựu thành làng chiến đấu trong lũy, ngoài hào.

Đề Kiên đã cùng với nghĩa quân đánh và đẩy lùi được một số cuộc tiến công của giặc. Chúng điên cuồng truy sát, bắt được Đề Kiên, chúng dùng mọi cực hình tra tấn ông, để bắt ông khai ra những cơ sở, những thủ lĩnh cùng nghĩa quân của Hội Thượng Chí. Song ông bền gan vững chí cắn răng chịu đựng không khai nửa lời. Chúng đem ông ra Chợ Nhổn chém cắm đầu vào cọc bêu ở chợ. Nhân dân thương tiếc vị Chánh Đề đốc đang đêm lén lấy được thi hài ông về chôn cất, không đắp nấm, xóa dấu vết.

NGUYỄN HANH

Nguyễn Hanh - còn gọi là Tú Hanh, quê ở làng cổ Nhuế thuộc huyện Từ Liêm là một người hăng hái nhiệt tình chống Pháp. Ông đã cùng các nhà sư có lòng yêu nước như Vương Quốc Chính, Thích Thanh Trang lập nên hội Thượng Chí. Sau một thời gian hoạt động, Hội Thượng Chí đã gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề... Sau cuộc tiếp kiến với sư cụ thủ lĩnh hội Thượng Chí, Nguyễn Quý Hoan đã cùng Nguyễn Hanh xây dựng lực lượng quân sự bí mật ở Hưng Hóa, Sơn Tây, Bắc Ninh và Hà Đông...

Năm 1897 Vương Quốc Chính thủ lĩnh hội Thượng Chí chính thức thành lập lực lượng vũ trang có năm quân là Trung quân, Tiền quân, Hậu quân. Tả quân, Hữu quân, Nguyễn Hanh được cử làm Tiền quân Nguyễn Quý Hoan được cử làm Tiền quân Hộ lý. Các ông cùng chỉ huy của bốn quân tích cực xây dựng lực lượng, huấn luvện quân sự, trang bị vũ khí, tích trữ lương thực đợi thời cơ khởi nghĩa.

Tháng 10 năm 1898 Trung quân Trương Công Bỉnh cùng một số nghĩa quân bị quân Pháp bắt ở Hà Nội. Trước tình hình đột biến không có lợi cho nghĩa quân, Vương Quốc Chính đã triệu tập cuộc họp chỉ huy năm cánh quân họp ở nhà Tiền quân Nguyễn Hanh ở làng Cổ Nhuế để bàn cụ thể kế hoạch khởi nghĩa. Hội nghị quyết định khởi nghĩa vào 10 giờ đêm ngày mùng 5 tháng 12 năm 1898. Hiệu lệnh là khi nhà máy điện bị
đánh hỏng, điện tắt thì khởi sự. Cũng trong cuộc họp này chỉ huy các cánh quân đã cử Tiền quân Nguyễn Hanh giữ chức chỉ huy Trung quân, Tổng chỉ huy cả năm cánh quân, Tiền quân Hộ lý Nguyễn Quý Hoan được cử giữ chức chỉ huy Tiền quân.

Chập tối ngày 5 tháng 12 năm 1898, theo sự phân công của Vương Quốc Chính và Trung quân Nguyễn Hanh, chỉ huy các cánh quân dẫn quân vào mai phục ở các vị trí được chỉ định trước. Trung quân Nguyễn Hanh, Trung quân Hộ lý Trương Công Xán, cùng Tiền quân Nguyễn Quý Hoan cùng các ông Hoa Văn Trứ, Hoa Văn Châu, Hoa Văn Hưng đưa quân đã tập trung ở Cổ Nhuế, Nguyễn Văn Khuyến đưa quân từ Chèm lên phục sẵn trong thành Hà Nội để đánh chiếm các cơ quan, đặc biệt là nhà đèn. Song kế hoạch đánh thành Hà Nội bị bại lộ, trước đột biến đó Nguyễn Hanh cho liên lạc đi báo cho các cánh quân rút lui? nhưng các liên lạc phái đi đều bị giặc bắt, ông đành lệnh cho Trung quân rút lui. Song việc vượt ra khỏi thành lúc này rất khó khăn vì khắp các đường phố, cửa ô đều có quân giặc chặn đường, nghĩa quân lại không quen đường phố nên phần lớn bị bắt. Sau vài ngày lẩn trốn Trung quân Nguyễn Hanh bị giặc Pháp bắt giết ở cổ Nhuế chặt đầu cắm cọc bêu ở chợ. Giặc Pháp triệt hạ làng cổ Nhuế, truy lùng họ Nguyễn và họ Hoa. Hai họ phải chạy rải đi các nơi, một chi nhánh đổi thành họ Văn. Một chi họ Hoa chạy sang làng Quảng Bá đổi là Vũ Hoa.

SƯ CỤ THÍCH THANH TRANG

Sư Thích Thanh Trang tên thật là Nguyễn Trang, quê ở tỉnh Hải Dương, nhà sư đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo.

Năm 1890 trước tình hình khó khăn, Nguyễn Thiện Thuật sang Trung Quốc cầu viện, giao binh quyền lại cho em trai là Nguyễn Thiện Kế. Giặc Pháp huy động lực lượng lớn quân đội : đánh phá các căn cứ của nghĩa quân, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân hy sinh, Nguyễn Trang phải lánh lên Hạ Mỗ, nương nhờ cửa Phật lấy pháp hiệu là Thích Thanh Trang tu ở chùa Hạ Mỗ chờ thời cơ khởi nghĩa đánh Pháp.

Đầu năm 1895, ông liên lạc được với sư cụ Vương Quốc Chính, nhà sư Thích Thanh Hữu ở phủ Hoài An thành lập một tổ chức đánh Pháp lấy tên là Hội Thượng Chí. Các ông họp toàn dân tố cáo tội ác của giặc Pháp, phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa, làm lễ tế cờ ở chùa Hạ Mỗ, thề tiêu diệt hết giặc Pháp đem lại cuộc sống tự do cho dân, độc lập cho nước.

Vương Quốc Chính và các tướng đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa thì tháng 10 năm 1898, Trung quân Trương Công Bỉnh và một số đồng chí của ông bị giặc Pháp bắt ở Hà Nội.

Ngày 1 tháng 12 năm 1898, các tướng họp ở nhà Tiền quân Nguyễn Hanh ở làng Cổ Nhuế quyết định khởi nghĩa vào đêm 5 tháng 12 năm 1898, cử Tiền quân Nguyễn Hanh chỉ huy Trung quân thav Trương Công Bỉnh. Mục tiêu nổ súng là Hà Nội và Sơn Tây cùng đánh. Hiệu lệnh là đèn điện tắt. Hữu quân Chánh tướng Thích Thanh Trang nhận nhiệm vụ chỉ huy cánh quân từ Nam Định lên tập kết ở huyện Thường Tín hành quân qua Văn Điển tiến vào Hà Nội. Vương Quốc Chính và các tướng đã quá lo xa cho rằng Trương Công Bỉnh và một số tướng của ông bị bắt thì kế hoạch khởi nghĩa bị bại lộ. Nhưng Trương Công Bỉnh và các tướng của ông bị bọn thống trị Pháp tra tấn cực kỳ dã man, song vẫn không khai báo về tổ chức Thượng Chí. Vì vậy đến lúc đó bọn thống trị Pháp chỉ được bọn quan lại tay sai như Lê Hoan, cố đạo Vallexô ở nhà thờ tỉnh lỵ Bắc Ninh cũng chỉ nghi ngờ có một tổ chức chống Pháp mới được hình thành ở Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương. Còn về ai là người đứng đầu tổ chức đó, mục tiêu của tổ chức đó là gì thì chúng chưa hề biết. Còn về cuộc bạo động, tướng Bichot chỉ biết 1 giờ trước khi nổ súng. Hắn lập tức cho quân phong tỏa các ngả đường vào Hà Nội. Hữu quân Thích Thanh Trang chờ đợi, đã quá giờ mà đèn điện vẫn chưa tắt. Các hiệu lệnh khác như trống chiêng không có. Ông phái liên lạc đi gặp trung quân Nguyễn Hanh, thì khắp Hà Nội chỗ nào cũng có lính Tây, lính ta chặn các ngả đường và tuần tra trên các phố. Ông biết cuộc khởi nghĩa đã bại lộ, hạ lệnh rút quân. Nhưng đã quá muộn, bọn thống trị Pháp huy động tất cả lính Âu - Phi, lính Nam, cảnh sát, chặn tất cả các đường ra khỏi thành phố khám xét. Hữu quân Thích Thanh Trang và nhiều nghĩa quân bị giặc Pháp bắt. Chúng biết sư ông Thích Thanh Trang chỉ huy Hữu quân Chánh tướng, nên tra tấn vô cùng tàn bạo, song không moi được ở nhà sư lời khai nào. Giặc Pháp đưa sư ông về chùa Hạ Mỗ, bắt nhân dân ra điểm mục, tiếp tục tra tấn, bắt nhà sư phải chỉ mặt những người đã tham gia vào đội nghĩa quân và những người giúp đỡ hội Thượng Chí. Chúng chém ông tại gốc duối.

ĐỒ MẬU

Đồ Mậu tên thật là Vũ Như Đẩu, sở dĩ có tên gọi là Đồ Mậu vì ông nối nghiệp cha là cụ Tú Phác ngồi dạy học ở “Mậu Hòa giảng thất”, huyện Đan Phượng gần Cầu Đơ thị xã Hà Đông, nay Mậu Hòa thuộc xã Minh Khai, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Nối chí lớp Văn thân đàn anh như Vũ Như Cầu, Vũ Duy Ninh, Nguyễn Tư Giản, Lê Văn Diên, Ngô Văn Dạng... năm 1896 Đồ Mậu Vũ Như Đẩu đã gia nhập hội Thượng Chí do Sư cụ Vương Quốc Chính tu ở chùa Ngọc Long Động, khu Hương Tích tổ chức.

Khi Sư cụ Vương Quốc Chính thành lập lực lượng vũ trang chống Pháp thì nhà thờ họ Vũ ở làng Mậu Hòa được chọn làm nơi hội họp, làng Mậu Hòa là địa điểm tập trung nghĩa quân vùng Cầu Đơ quanh thị xã Hà Đông hiện nay.

Theo sách “Chống xâm lăng” của Giáo sư Trần Văn Giàu có đoạn như sau:

... Đồ Mậu được phong làm Tán tương quân vụ nghĩa quân. Trước khi xuất phát, ông làm lễ Tế cờ ở đình làng Mậu Hòa, ứng tác một bài vè cổ động tướng sĩ, rồi mới kéo quân đi về phía Cẩu Đơ.

Khi phiên chế 5 cánh quân, Đồ Mậu dược phong làm Tán tương quân vụ của Trung quân Trương Công Bỉnh. Sau một thời gian chuẩn bị. Vương Quốc Chính nhận thấy chưa đủ vũ khí (cần chuẩn bị thêm) và thời cơ khởi nghĩa vào tháng 12/1898. Nhưng các thủ lĩnh nhận được tin giặc Pháp ở Hà Nội và các tỉnh đánh hơi đang có sự chuẩn bị cho cuộc khởi nqhĩa ở nhiều tỉnh. Đến tháng 10/1898 xảy ra sự kiện là Trung quân Trương Công Bỉnh và một số nghĩa quân bị giặc Pháp bắt ở Hà Nội. Vì vậy, ngày 1/12/1898, Lãnh tụ 5 quân họp tại nhà Tiền quân Nguyễn Hanh ở làng Cổ Nhuế để bàn kế hoạch khởi nghĩa. Sau một hồi thảo luận, Hội nghị đỡ nhất trí phải khỏi sự sớm vào giờ đêm ngày 5 tháng 12 năm 1889 tại Hà Nội đang có Hội chợ, có nhiều người đi lại, giặc Pháp không để ý”.


Hội Thượng chí đã tổ chức một cuộc khởi nghĩa. Theo đúng mệnh lệnh tác chiến, Đồ Mậu chỉ huy các cánh quân ở phía tây huyện Đan Phượng và vùng chung quanh Cầu Đơ (thị xã Hà Đông và vùng phụ cận ngày nay) về đình Mậu Hòa làm lễ Tế Cờ sau đó tiến ra Cầu Đơ thẳng đường về tập kết ở Ngã Tư Sở. Do cuộc khởi nghĩa nổ ra trước kế hoạch, vũ khí trang bị chưa thật đầy đủ, việc trinh sát các mục tiêu tấn công chưa được chính xác, và kế hoạch đánh Hà Nội bị bại lộ trước giờ nổ súng 1 tiếng đồng hồ. Nên quân Pháp có đủ thời gian bố phòng các mục tiêu, tổ chức lực lượng cơ động phản kích. Hơn nữa, chỉ có hiệu lệnh tấn công duy nhất là đèn điện thành phố tắt thì nổ súng, không có hiệu lệnh thứ hai như pháo lệnh, trống, chiêng nên khi giặc Pháp phát hiện ra cuộc tấn công bắt hết kíp thợ điện, đưa lính vào nhà máy, không tắt điện, thì các cánh quân chuệch choạc người đánh người rút. Đồ Mậu chờ đợi tới gần 12 giờ đêm, thấy đèn điện vẫn sáng thành phố vẫn yên tĩnh, đành phải ra lệnh rút lui. Nhưng khi đó đã quá chậm, quân Pháp đã bịt kín con đường từ Ngã Tư Sở về Hà Đông bằng rất nhiều toán quân mai phục và tuần tiễu. Đồ Mậu cùng nhiều nghĩa binh bị quân Pháp bắt, chúng xích tay chân ông cho vào cũi rồi đem đi đày ở Côn Đảo.

Vũ Thế Khôi viết về sự kiện này trong “Vũ Tông Phan với Văn hóa Thăng Long” như sau: ''Theo vài người cùng đi tù với Đồ Mậu ở Côn Đảo mãn hạn trở về nói với thân nhân ông Đồ Mậu thì sau một thời gian ra đảo, ông cùng một số đồng chí đóng bè vượt ngục, nhưng đã hy sinh ỏ giữa biển. Họ dặn thân nhân ông Đồ lấy ngày ông đồ xuống mảng vượt biển làm ngày giỗ và đưa một ít tiền quyên góp cho vợ ông Đồ Mậu và khuyên bà nên đưa con trốn đi xa tìm kế sinh nhai”.

LANG XÁNG

Lang Xáng tên thật là Lý Diễm, người làng Bồng Lai (khu vực Hồ Tây, Hà Nội). Ông nguyên là dũng tướng của Sư cụ Xướng tu ở chùa Đạm Nội, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên là thủ lĩnh nghĩa quân đánh Pháp ở huyện Bình Xuyên.

Khi quân Pháp tập trung quân đàn áp được các cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Yên, Phú Thọ, nghĩa quân của cụ Xướng tan rã. Sư cụ Xướng trở về chùa đau buồn vì cảnh nước mất nhà tan, nhịn ăn mà hóa. Tướng của sư cụ là Lang Xáng (tức Lý Diễm) đến làm thày tự ở chùa Đạm Nội để hương khói, chăm lo phần mộ cho vị thủ lĩnh nghĩa quân.

Tuy nương nhờ cửa Phật, nhưng Lang Xáng vẫn bí mật liên lạc với nghĩa quân của Sư cụ Xướng đang tản mát ở các nơi, động viên anh em giữ vững ý chí chờ thời cơ đánh Pháp. Đối với anh em túng thiếu ông còn chu cấp gạo tiền. Lang Xáng cũng biến chùa Đạm Nội thành nơi trú chân an toàn cho các tướng lĩnh, nghĩa quân của sư cụ Xướng đang bị giặc Pháp truy nã.

Sau khi biết Hội Thượng chí được thành lập, Lang Xáng đưa hơn 20 nghĩa quân cũ của mình về chùa Ngọc Long Động gia nhập nghĩa quân. Vương Quốc Chính giao cho Lang Xáng và anh em cùng đi lo việc huấn luyện quân sự, sử dụng vũ khí cho tân binh, sau đó giao cho mỗi người chỉ huy một toán quân.

Khi phiên chế năm cánh quân: Trung quân, Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân thì Lang Xáng được cử làm Tả quân Hộ lý, làm phó tướng cho Tả quân Nguyễn Đăng Quế.

Trong khi Vương Quốc Chính và bộ Tham mưu khẩn trương chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa thì chỉ huy Trung quân Trương Công Bỉnh và một số nghĩa quân bị bắt ở Hà Nội hồi tháng 10/1898.

Các tướng lĩnh lo kế hoạch bị bại lộ, nên tại Hội nghị các chỉ huy các cánh quân họp ngày 1 tháng 12 năm 1898 tại nhà Tiền quân Nguyễn Hanh ở làng Cổ Nhuế, đã quyết định khởi nghĩa vào 10 giờ đêm ngày 5 tháng 12 năm 1898, hiệu lệnh là nhà máy đèn bị phá, điện tắt. Lang Xáng được giao nhiệm vụ cùng Đề đốc Hoành, Chánh Đề đốc Đỗ Đức Kiên đưa quân về tập kết ở Cầu Giấy chờ lệnh. Song bọn cầm đầu quân sự Pháp là trung tướng Bichot đã biết trước kế hoạch đánh Hà Nội của nghĩa quân một tiếng đồng hồ, nên đã lệnh cho quân Pháp ở Hà Nội đối phó.

Cuộc khởi nghĩa thất bại, quân Pháp truy kích lùng sục khắp nơi để bắt nghĩa quân. Lang Xáng trốn tránh được ít ngày thì bị chúng bắt và giết hại.

Lang Xáng xứng danh là một dũng tướng trong cuộc khởi nghĩa của sư cụ Xướng và trong cuộc khởi nghĩa Vương Quốc Chính.

HOA VĂN TRỨ - HOA VĂN CHÂU - HOA VĂN HƯNG

Trong Hội Thượng Chí thành lập năm 1895 và lực lượng vũ trang của Hội thành lập năm 1897 do sư cụ Vương Quốc Chính làm thủ lĩnh có ba anh em ông Hoa Văn Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Hưng đã từng tham gia chặn đánh quân Pháp ngày 7/6/1883 làm thất bại âm mưu đánh tỉnh thành Sơn Tây của chúng.

Ba ông còn đi gặp bạn bè cùng chí hướng trong vùng tuyên truyền mục đích tôn chỉ của hội Thượng Chí rồi giới thiệu với ông Tú Hanh kết nạp.

Năm 1897 khi lực lượng hội Thượng Chí đã mạnh, Vương Quốc Chính quyết định thành lập lực lượng vũ trang Hoa Văn Trứ - Hoa Vãn Châu đã tuyển chọn các hội viên tích cực hăng hái, trung thành để thành lập đội nghĩa binh vùng cổ Nhuế. Hoa Văn Hưng làm nhiệm vụ trang bị vũ khí và quyên góp quân lương.

Các ông đã chọn chùa Sùng Quang một ngôi chùa được mở rộng từ thời Lê rộng tới 5 mẫu để làm nơi luyện tập quân sự cho nghĩa binh. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa đang tiến hành khẩn trương thì Trung quân Trương Công Bỉnh bị giặc Pháp bắt ở Hà Nội- Hội nghị các tướng lĩnh họp ở nhà Nguyễn Hanh đã cử ông giữ chức chỉ huy Trung quân, cử Nguyễn Quý Hoan giữ chức Tiền quân thay Nguyễn Hanh, Hoa Văn Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Hưng giữ chức Hộ lý Tiền quân.

Chuẩn bị cho trận đánh đêm 5/12/1898, các Hộ lý Tiền quân Hoa Văn Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Hưng đưa quân từ vùng Cổ Nhuế, Nguyễn Văn Khuyến đưa quân từ Chèm lên phục  sẵn trong thành phố Hà Nội để đánh chiếm các cơ quan, đặc biệt la phá nhà máy đèn. Song kế hoạch trận đánh đã bị bại lộ trước 1 tiếng đồng hồ, giặc Pháp kị.p thời đối phó, bắt hết kíp thợ điện làm nội ứng thay vào đó là lính thợ. Hầu hết các mục tiêu tấn công của nghĩa binh đều được phòng thủ chắc chắn. Cuộc tấn công không thành chỉ có mũi đánh đồn Ngọc Hà, mặc dù điện không tắt vẫn tấn công đồn và nhà tên chỉ huy Cátxiê. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, giặc Pháp bắt được cả ba anh em họ Hoa. Chúng giết Hoa Văn Trứ chặt đầu treo ở cây gạo làng Cổ Nhuế. Còn ông Hoa Văn Châu và Hoa Văn Hưng cùng một số thủ lĩnh khác chúng đày ra Côn Đảo. Hai ông bị chúng hành hạ đã hy sinh ở đó.

Về sự kiện cuộc khởi nghĩa Vương Quốc Chính đêm 5/12/1898 ở Hà Nội được Lịch sử cách mạng xã cổ Nhuế (1930- 1992) viết như sau:

 “...Ở Cổ Nhuế, phong trào chống thực dân Pháp rất sôi động, đứng đầu là các ông Hoa Văn Trứ - Hoa Văn Châu - Hoa Văn Nhung trong nghĩa đảng Vương Quốc Chính có kế hoạch đánh chiếm thành Hà Nội, đầu não của giặc Pháp. Đêm ngày 5 tháng 12 năm 1898 cuộc bạo động đã nổ ra. Cánh quân Cổ N huế do ông Hoa Văn Trứ chỉ huy đã đánh chiếm được đồn Ngọc Hà. Cánh quân Đỗ Đắc Kiên ở Tây Tựu đã kéo vào Cầu Giấy, các cánh quân ở Hà Đông, Sơn Tây đã kéo vào nội thành nhưiĩg do các cánh quân đã không liên lạc được với nhau, không cố sự phối hợp hành động nên cuộc khởi nghĩa thất bại.

Thực dân Pháp ra sức đàn áp, các ông Hoa Văn Trứ, Hoa Văn Châu, Hoa Văn Nhung bị bắt. Ông Trứ bị giặc đưa về làng, chúng chém ông rồi bêu đầu lên cây gạo đầu làng, các ông khác bị đầy đi Côn Đảo rồi không thấy trở về”
.

Sau vụ này giặc Pháp triệt hạ làng Cổ Nhuế, truy lùng những người họ Nguyễn và họ Hoa. Hai họ phải chạy dạt đi các nơi, một chi nhánh đổi thành họ Văn, một chi họ Hoa chạy sang làng Quảng Bá đổi là Vũ Hoa.

VUA THÀNH THÁI

Hoàng tử Nguyễn Phước Bửu Lân con thứ bẩy của vua Dục Đức và bà Từ Minh Phan Thị Điểu lên ngôi vua ngày Mậu 1 Thân, tháng giêng, năm Kỷ Sửu (01/2/1889) lấy niên hiệu là Thành Thái.

Thành Thái vốn là ông vua thông minh và có khí phách anh hùng. Nhà vua hiểu rõ muốn đánh thắng Pháp thì phải hiểu rõ lịch sử, sự phát triển xã hội, cả về kinh tế, quân sự của Pháp. Vì vậy ông rất chăm chỉ học tiếng Pháp, chữ Pháp, đọc nhiều tân thư của Pháp, Nhật, Anh được dịch ra tiếng Hán. Vua Thành Thái chịu ảnh hưởng tư tưởng của các nhà cách mạng Nhật, Trung Hoa. Ngài tìm hiểu phong trào Duy tân của hai nước này và khao khát cải cách quốc gia về mọi mặt, những mong đưa đất nước đến chỗ phú cường, thịnh trị. Ngài bắt các hoàng thân, quốc thích học theo hướng của Trung Hoa, Nhật Bản. Nhưng những ý tưởng, chủ trương của Ngài đều bị tòa Khâm sứ ngăn trở. Vua Thành Thái có đầu óc Duy tân, không thủ cựu như các tầng lớp vua, quan thời đó.

Vua Thành Thái có nhiều lần phát ngôn chống đối người Pháp, phê phán bọn quan lại theo Pháp, quên cả Tổ quốc, quên nhân dân. Bọn cầm quyền Pháp thấy để nhà vua tồn tại không có lợi cho sự thống trị của chúng, muốn phế truất song chưa tìm được chứng cớ.

Những hành động yêu nước của Vua Thành Thái đều không qua được những cặp mắt chó săn của Trương Như Cương, Thượng thư bộ Lại, cầm đầu Viện Cơ mật ton hót với Khâm sứ Pháp để lật đổ vua Thành Thái, đưa Bửu Đảo (sau là Khải Định) con rể hắn lên làm vua. Trương Như Cương cho tay chân dò biết vua “bắt” con gái nhập cung không phải để múa hát mà là bí mật thành lập đội nữ binh, hắn ton hót với Khâm sứ. Khâm sứ Pháp cài mật thám vào nội cung. Chúng phát hiện ra một hệ thống đường ngầm dưới những đền đài, lầu các, trong ấy có bia để tập bắn cung, bắn súng. Trong số gươm, súng của đội hát để công khai trên nhà có gươm, có súng, có vũ khí thật xen lẫn vũ khí giả. Trong đại nội lại có nữ võ sư túc trực luyện tập cung kiếm cho cung nga thể nữ.

Ngày 29/7/1907 Tòa Khâm sứ bàn với Hội đồng Thượng thư thăng bổ một số quan lại, Thành Thái không phê chuẩn. Le Vecquet được dịp tuyên bố “Nhà vua không thành thật với Chính phủ Bảo hộ thì từ nay mọi việc Hội đồng thượng thư cứ tùy nghi mà làm”. Le Verquet cũng báo cho vua Thành Thái: “Từ nay nhà vua không còn quyền hành gì và không được ra khỏi nơi ở đã dành cho mình trong Đại nội”. Một Hội động phụ chính được thành lập do Trương Như Cương cầm đầu. Cái Hội đồng toàn là bọn Việt gian bán nước này cùng với Tòa Khâm sứ đưa ra bản Tuyên bố chung “Vì Thành Thái mắc bệnh điên nên hai Chính phủ đã quyết định để bảo vệ lợi ích của quốc gia cũng như của chính bản thân nhà vua”.

Vua Thành Thái bị giam ở điện Càn Thành từ ngày 30 tháng 7 năm 1907. Mùa thu năm 1907, Toàn quyền Brôni và Khâm sứ Trung Kỳ Leveque rất e ngại về vua Thành Thái, chúng đã đày vua ra Cáp Sanh giắc cơ (Capsain Jacque - Vũng Tàu). 9 năm sau, vua cùng với vua Duy Tân bị đi đày ở đảo Réunion.

Năm 1947 vua Thành Thái đã già yếu thực dân Pháp mới cho nhà vua về sống ở Vũng Tàu và chỉ được sống ở Nam Bộ. Năm 1953 ông được ra thăm Huế lần cuối, sau đó ở lại Sài Gòn. Nhà vua mất ngày 24 tháng 3 năm 1954, thọ 76 tuổi. Thi hài của nhà vua được đưa ra táng ở An Lăng gần lăng mộ vua cha Dục Đức.

ĐOÀN VĂN CỰ

Đoàn Văn Cự sinh năm 1835 quê ở làng Bình An, Thủ Đức tỉnh Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Cha ông là một nhà nho có lòng yêu nước nồng nàn. Ông bị thực dân Pháp theo dõi rời quê hương đến ở rừng Bưng Kiện, thôn Vĩnh Cửu, nay thuộc phường Tam Hoà, tỉnh Đồng Nai.

Đoàn Văn Cự là người thông minh, học giỏi. Nhưng ông không ra làm quan mà theo nghề cha làm thuốc, cứu chữa cho dân. Khi đã về già 67 tuổi, Đoàn Văn Cự đã tập hợp những người yêu nước trong tổ chức “Thiên địa hội”, bề ngoài mang tôn chỉ tôn giáo, song nội dung lại là hoạt động yêu nước, vì vậy dân Nam Kỳ gọi là “Hội kín”.

Ông có quy định chặt chẽ trong liên lạc, thông tin, dùng dù làm tín hiệu liên lạc như:

Dù mang bên Tả, Đảng viên
Đi việc cơ mật nói riêng chủ nhà
Dù mang cái móc trở ra
Bàn sơ chút việc ghé qua đi liền
Dù mang cái móc trở vô
Phải lo cơm nước với đồ nghỉ ngơi.


Đoàn Văn Cự còn xây dựng Bưng Kiện thành một căn cứ kháng chiến, ông đã chiêu mộ nhiều danh tài hảo hán, tinh thông võ nghệ, coi việc nghĩa là việc đại sự, một lòng vì nước, vì dân.

Lợi dụng những buổi giảng đạo, ông khơi dậy lòng yêu nước, căm thù giặc trong các “tín đồ”, đã thành lập lực lượng nghĩa quân bí mật với một lực lượng đông đảo, được trang bị vũ khí và có lương thực dự trữ.

Trong vòng ba năm (1902-1905) lực lượng “Hội kín” của Đoàn Văn Cự rất đông đảo ở khắp các tỉnh Miền Đông. Nơi có tổ chức Hội mạnh nhất là từ Bình Da Chợ Chiếu, (Hiệp Hoà) đến núi Nứa (Bà Rịa).

Để chuẩn bị khởi nghĩa, ông mua súng, lập lò rèn gươm giáo. Ông thường xuyên tập dượt binh pháp cho nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân mau lớn mạnh hoạt động mạnh ở rừng Bưng Kiện.

Ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch (khoảng 5/5/1905), quân Pháp do một tên đại uý chỉ huy, bao vây, mai phục tới bờ suối cầu Khỉ...

Vòng vây ngày càng thắt chặt. Đoàn Văn Cự như có linh tính báo trước sự việc nghiêm trọng sắp xảy ra, ông lệnh cho hai tướng Hoàng Mè, Hoàng Giáp tập trung hàng trăm nghĩa quân bố trí lực lượng bảo vệ căn cứ. Đội quân mai phục từ sáng đến tối không thấy động tĩnh gì, ông cho rằng quân Pháp đã rút liền cho nghĩa quân giải tán về ăn cơm. Nhưng nghĩa quân vừa rút thì quân Pháp thắt chặt vòng vây, khi biết rõ trong nhà cụ không có ai, tên đại uý cùng vài tên lính hộ vệ tiến thẳng vào nhà cụ. Khi đó Đoàn Văn Cự đang gọn gàng trong bộ quần áo uy nghi, lẫm liệt, đầu chít khăn lụa điều, lưng thắt dây lưng vải hồng, dắt đoản đao chuôi đầu hổ đang đứng trước bàn thờ tổ, thấy tên đại uý Pháp cùng hai tên lính xộc bước vào, nhanh như cắt cụ xoay người rút đao chém xả vào đầu tên chỉ huy Pháp. Nhưng hắn né tránh kịp nên chỉ đứt mép tai và bị thương ở tay trái. Tên này thoát chết lập tức rút súng bắn vào Đoàn Văn Cự mấy phát, ông chết ngay trước bàn thờ Tổ.

PHAN BỘI CHÂU

Phan Bội Châu trước năm 1900 có tên là Phan Văn Son, hiệu Hải Thụ, sau hiệu là Sào Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông còn có nhiều tên hiệu, bút danh như Thị Hán, Thiên Phú, Độc Tinh Tử, Cây Sung...

Ông sinh năm 1867 trong một gia đình nhà nho nghèo quê ở làng Đan Nhiễm, tổng Xuân Liễu, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nay là xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tháng 10/1900, sau khi cụ thân sinh mất, Phan mới có điều kiện hoạt động cách mạng.

Năm 1901, Phan Bội Châu cùng một số đồng chí chiêu tập nghĩa binh đánh thành Nghệ An, việc không thành. May nhờ có Tổng đốc Đào Tấn che chở, nên không bị thực dân Pháp bắt.

Năm 1903 Phan Bội Châu đến kinh thành Huế đọc sách ở Quốc Tử giám, đã gặp Phan Chu Trinh. Từ đó về sau, hai người còn gặp nhau vài lần nữa, trao đổi chính kiến với nhau. Hai ông thống nhất với nhau là muốn cứu nước thì phải mở mang dân trí, coi trọng giáo dục, đưa thanh niên đi du học ở nước ngoài, mở mang việc tuyên truyền văn hóa mới. Phan Chu Trinh rất khâm phục con người và tài trí của Phan Bội Châu.
Tháng 2/1905, Phan Bội Châu ra Bắc gặp Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can bàn việc phát triển Duy tân hội và tổ chức Đông du. Việc Đông du được thực hiện ngay, chuyến đi này ông đem theo bốn học sinh trong đó có hai con trai của cử nhân Lương Văn Can là Lương Nghị Khanh và Lương Lập Nham (Lương Ngọc Quyến)

Ngày 25/02/1905, Phan Bội Châu sang Trung Quốc gặp Lương Khải Siêu và Tôn Dật Tiên, Tại đây ông viết '”Việt Nam vong quốc sử” ( Lịch sử mất nước Việt Nam), lời tựa do Lương Khải Siêu viết.

Tháng 7 năm 1905. Phan Bội Châu về nước tiếp tục đưa thanh niên sang Nhật. Tháng 9 năm 1905 (tháng 8 năm Ất Tỵ) Phan Bội Châu về nước sau đó gặp gỡ Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, Phan Bội Châu về nhà cử nhân Nguyễn Văn Đảng ở làng Nội Duệ, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh bàn việc tổ chức các nhóm “ Minh xã” “Ám xã” và lập các hội Nông, Công, Thương, Học.

Tháng 3 năm 1907 trường Đông Kinh Nghĩa thục thành lập ở Hà Nội, thì văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu được đưa vào chương trình giảng dạy ở trường số 4 Hàng Đào và các phân hiệu và trong các buổi diễn thuyết bình thơ văn cho đông đảo công chúng nghe. Trên cơ sở hiểu biết về trường Khánh Ưng Nghĩa thục ở Nhật Bản mà Phan Bội Châu trao đổi với các sĩ phu Hà Nội, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đỗ Cơ Quang, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc... đã quyết định thành lập trường Đông Kinh Nghĩa thục.

Văn thơ Phan Bội Châu sôi sục tinh thần cách mạng đã từ trường Đông Kinh Nghĩa thục nhanh chóng phát triển trong nhân dân, trở thành một phong trào.

Từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Phan Bội Châu và nhiều chí sĩ Việt Nam lại nhìn sang Nhật Bản, mong được sự viện trợ “một nước da vàng tiên tiến” để ca ngợi sự nghiệp Minh Trị Duy tân của Nhật và việc Nhật đánh bại Sa hoàng Nga, chủ trương đưa Nhật Bản theo con đường Duy tân.

Việt Nam Duy tân hội sau khi được thành lập cũng đề ra phương châm tranh thủ sự viện trợ của nước ngoài. Phan Bội Châu đích thân đi Nhật và phát động phong trào Đông du. Ông cho rằng Nhật Bản là một nước Châu Á cùng máu đỏ, da vàng và cùng có một nền văn hóa như Việt Nam, “thường lấy việc lợi hại khuyên răn ta, họ nhất định sẽ vui vẻ giúp đỡ chúng ta” .

Nhưng tới giữa năm 1908, đầu năm 1909, Pháp và Nhật cấu kết với nhau giải tán các tổ chức học sinh Việt Nam tại Nhật Bản như “ Công Hiến hội” “Đông Á Đổng văn thư viện”... trục xuất lưu học sinh Việt Nam khỏi Nhật, Phan Bội Châu, Cường Để cũng bị trục xuất. Bấy giờ Phan Bội Châu mới nhận thức được rằng không thể dựa vào Nhật Bản, nên ông chuyển hướng sang đảng cách mạng Trung Hoa và những nước những dân tộc trên thế giới "có căn bệnh giống ta”.

Năm 1911 cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công, Tôn Trung Sơn được bầu làm tổng thống. Đây là cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.

Năm 1912 Phan Bội Châu tuyên bố giải thể hội Duy tân thành lập Việt Nam Quang phục hội. Tháng 1 năm 1914, thực dân Pháp thỏa thuận với nhà cầm quyền Quảng Đông bắt Phan Bội Châu giải về Đông Dương giao cho thực dân Pháp. Tuy ở trong tù nhưng Phan Bội Châu vẫn tìm mọi cách liên lạc với các đồng chí chỉ đạo công việc của cách mạng như đối với cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ tháng 5 năm 1916, Phan Bội Châu cũng đã ủy quyền cho Nguyễn Thượng Hiền tới đại sứ Đức và đại sứ Áo ở Xiêm La nhận tiền để mua vũ khí cho quân cách mạng Việt Nam. Ông bị giam ở núi Quan Âm mãi đến năm 1917, quân cách mạng tấn công Quảng Đông, Long Tế Quang bỏ chạy ông mới được giải thoát.

Từ năm 1920 trở đi Phan Bội Châu về Hàng Châu cộng tác vói tờ “Bình sự tạp chí” ông đi lại nhiều ở Trung Quốc.

Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu tới một bưu điện Thượng Hải gửi tiền cho một du học sinh đang học ở Đức, thì bị một kẻ phản bội chỉ điểm báo cho mật thám Pháp bắt cóc. Chúng bí mật giải ông về Hồng Kông , rồi từ đó đưa ông về Hải Phòng trên tầu Ăng Co, rồi bị áp giải về Hà Nội giam ở nhà lao Hỏa Lò. Để tránh dư luận lên án và bí mật hãm hại ông theo bản án tử hình vắng mặt đã có sẵn, chính quyền thực dân bưng bít và đặt cho ông một cái tên giả là Trần Văn Đức. Song âm mưu của chúng đã bị bại lộ. Quần chúng nhân dân kịch liệt lên án phản đối, đòi trả tự do cho ông.

Trước sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân Hà Nội và nhân dân cả nước phản đối nhà cầm quyền Pháp kết án Phan Bội Châu. Hội đồng bảo hộ Pháp phải họp ngay tại phủ Thống sứ để xét lại cái án đó. Toàn quyền Varen phải gửi điện về Pháp xin ân xá cho ông.

Ngày 22/12/1925, toàn quyền Varen phải ký giấy trả tự do cho nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu. Ngày 29/12/1925, Tổng thống Pháp cũng phải ký uỷ quyền cho Varen tuyên bố tha bổng Phan Bội Châu, sau đó an trí ông ở Huế. Tại nơi an trí Phan Bội Châu không hoạt động chính trị được nhưng ôngđặc biệt quan tâm đến thời cuộc. Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 10 năm 1940.

TĂNG BẠT HỔ

Tăng Bạt Hổ tên thật là Tăng Doãn Văn, hiệu là Sư Triệu, sinh năm Mậu Ngọ (1858). Ông quê ở An Thường, xã Ân Thạch, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Ông là người học hành thông minh, thông hiểu kinh sách, từmg luyện tập võ nghệ, can trường. Năm Ất Hợi (1876) dưới triều Tự Đức, ông vừa 18 tuổi đã thay anh đi lính, trước năm 1883 đã thăng suất đội.

Nghe tin vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, Tăng Doãn Văn bỏ quân ngũ kêu gọi đồng đội chiêu mộ nghĩa quân lập chiến khu tại núi Kim Sơn gọi là Tổng dinh chống Pháp. Lực lượng nghĩa quân của Tăng Doãn Văn phát triển nhanh, thực dân Pháp và bọn tay sai biết ông là người đứng đầu phong trào Cần vương ở tỉnh Bình Định đã đánh phá căn cứ của ông rất ác liệt.

Tháng 8 năm Bính Tuất (1888) tên Việt gian Nguyễn Thân kéo quân vào Bình Định, đóng quân tại đồn Lại Giang xã Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn để tiến đánh đồn Tổng Dinh và lực lượng kháng chiến ở Kim Sơn. Phán đoán trước ý đồ của giặc, ông mật ước với Thống trấn Bùi Điền lợi dụng đêm tối tấn công vào đồn Lại Giang trrước. Tướng Bùi Điền lầm tưởng Lại Giang là Lộc Giang thuộc xã Ân Tường, huyện Hoài Ân vào đêm đó lực lượng phân tán, ông bị quân địch phản công nên bị thiệt hại nặng nề, đối phó với giặc rất khó khăn.

Mùa xuân năm 1887, Tăng Doãn Văn cùng một số đồng chí sang Xiêm La toan tính cầu viện cứu nước. Khi đi đến dốc Đót giáp với cao nguyên An Khê tỉnh Bình Định gặp con cọp đứng chắn đường, mấy người đi theo ai nấy run như cầy sấy. Tăng Doãn Văn không chút sợ hãi, ông nhìn thẳng vào con cọp nói: “Này chúa Sơn lâm! Ta đi đây là vì đại nghĩa, chứ không phải việc riêng tư nào khác. Xin chúa Sơn lẩn tránh ra một bên để cho kẻ vong quốc này lên đường cho sớm!”. Con cọp như hiểu được lời ông liền tránh sang một bên, nhường đường cho ông đi qua. Những người cùng đi vô cùng cảm phục ông và tôn ông là Tăng Bạt Hổ. Từ đó ông mang tên này.

Tăng Bạt Hổ ở Xiêm La vài tháng rồi sang Trung Quốc. Ông tới nhiều vùng của hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gặp gỡ Việt kiều để gây dựng cơ sở. Khi Tăng Bạt Hổ ở Trung Hoa, người Pháp xem ông là một phái viên rất đắc lực của Tôn Thất Thuyết bấy giờ đang bị an trí ở Triều Châu. Tăng Bạt Hổ có tài nguỵ trang, ông đi về thường xuyên giữa Quảng Đông và Huế biết được biến động chính trị ở các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Dương (Indonexia) nơi mà Tăng Bạt Hổ đã đến tận nơi khảo sát tình hình chính trị, kinh tế.

Trong những chuyến từ Trung Quốc về nước Tăng Bạt Hổ còn đem theo các sách Tân thư, Tân văn của Trung Hoa và Nhật Bản về nước. Tăng Bạt Hổ đã có mối liên hệ mật thiết với Nguyễn Thượng Hiền.

Về nước một thời gian, nhưng cơ hội chưa đến Tăng Bạt Hổ thấy chỉ có con đường đi Nhật như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi đã nói. Để đỡ tốn tiền, ông xin làm thuỷ thủ cho một tàu buôn sang Nhật.

Tháng 10/1904, Tăng Bạt Hổ từ Nhật trở về nước gặp Phan Bội Châu. Ông cùng Phan Bội Châu bàn thành lập phong trào Đông du với sự có mặt của Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền.

Tháng giêng năm Ất Tỵ (1905) Tăng Bạt Hổ vừa là người đưa đường, người phiên dịch tháp tùng Phan Bội Châu sang Nhật.

Tháng chạp năm 1905 ông từ Nhật về mang theo thư của Phan Bội Châu nhan đề “Khuyên Thanh niên Du học”. Sau đó ông lại cùng Nguyễn Quyền xúc tiến thành lập Đông kinh nghĩa thục.

Mùa Đông năm Đinh Mùi (1908), ông từ Bắc Kỳ trở vào miền Trung, ông dừng chân tại Huế cổ động cho phong trào Đông du thì lâm bệnh. Bệnh ông quá nặng, thuốc thang không giảm, ông mất trên thuyền. Các đồng chí an táng ông trên bờ sông Hương.

VƯƠNG THÚC QUÝ

Vương Thúc Quý sinh năm Nhâm Tuất (1862) là con trai độc nhất của tú tài Vương Thúc Mậu, người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Vương Thúc Quý từ nhỏ đã là người học giỏi, tài hoa. Vùng Nam Đàn có bốn người học giỏi nổi tiếng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được mệnh danh là “Tứ hổ” thì làng Kim Liên chiếm tới ba người là Vương Thúc Quý, Nguyễn Sinh Sắc, Trần Văn Lương, chỉ còn lại Phan Bội Châu người làng Đan Nhiệm:

   Uyên bác bất như San
   Thông minh bất như Sắc
   Tài hoa bất như Quý
   Cường ký bất như Lương


Nghĩa là:

   Không ai hiểu biết rộng như Phan Văn San (tức Phan Bội Châu)
   Không ai thông minh như Nguyễn Sinh Sắc
   Không ai tài hoa như Vương Thúc Quý
   Không ai nhớ giỏi như Trần Văn Lương

Khoa thi Hương năm Tân Mão (1891), Vương Thúc Quý đi thi đậu cử nhân. Mang nặng mối thù nhà, nợ nước, ông không ra làm quan, cũng không đi thi Hội ở nhà dạy học, cùng Phan Bội Châu hoạt động cách mạng cứu nước.

Ngày 14 tháng 7 năm 1901, lợi dụng ngày Quốc khánh nước Pháp có nhiều người đi lại trong thành Nghệ An, Vương Thúc Quý, Trần Hải đã theo Phan Bội Châu chỉ huy khoảng 20 người, bí mật tập trung trong thành Nghệ An định dùng giáo mác để cướp vũ khí giặc rồi đánh úp tỉnh thành Nghệ An. Việc không thành vì tên Nguyễn Điềm phản bội mật báo với thực dân Pháp. Tổng đốc Nghệ An Đào Tấn hết lòng che chở, nên Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Trần Hải và những người tham gia đều thoát nạn.

Năm 1904 Phan Bội Châu thành lập hội Duy tân ở Quảng Nam, năm 1905 phát triển ra Nghệ An, Vương Thúc Quý trở thành người tích cực hoạt động cho hội Duy tân. Ông tổ chức cho nhiều thanh niên Nghệ An xuất dương sang Nhật du học và vận động tài chính cho Hội. Năm 1907, trường Đông Kinh nghĩa thục được thành lập ở Hà Nội, Vương Thúc Quý thành lập phân hiệu Đông Kinh nghĩa thục ở làng Sen xây dựng tủ sách Tân thư.

Giữa năm 1907 Vương Thúc Quý trên đường ra Hải Phòng để sang Nhật. Ông tới Nam Định, bị ốm nặng phải trở về quê nhà. Bệnh tình ngày càng trầm trọng, ngày 19 tháng 7 nãm 1907, Vương Thúc Quý cố gắng ngồi dậy, bảo người bên cạnh đưa giấy, bút, viết mấy chữ : “Phụ thù vị báo, thử sinh đồ” (Nghĩa là: thù cha chưa báo được đời này thật uổng, rồi trút hơi thở cuối cùng.


PHAN CHU TRINH

Phan Chu Trinh tự Hy Mã, hiệu Tây Hồ, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Quảng Nam.

Năm 1900, Phan Chu Trinh thi đỗ cử nhân, năm sau thi hội đỗ Phó Bảng, được bổ làm Thừa biện bộ Lễ. Năm 1903 kết giao với Phan Bội Châu.

Năm 1904 Phan Chu Trinh từ quan tham gia cuộc vận động Duy tân. Năm 1905 ông vào Bình Định cùng với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng viết Chí Thành thông thánh. Năm 1905 sang Trung Quốc rồi sang Nhật trao đổi chính kiến với Phan Bội Châu, nhưng ông không đi theo con đường vũ trang của Hoàng Hoa Thám và Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh muốn lợi dụng chiêu bài khai hóa của thực dân Pháp để đấu tranh hợp pháp, trước hết là mở mang trường học để khai hóa dân trí.

Năm 1906, Phan Chu Trinh ra Bắc gặp Lương Văn Can bàn việc mở một trường học tại Hà Nội để làm kiểu mẫu, rút kinh nghiệm mở các trường trong toàn quốc. Sau khi gặp Lương Văn Can, Phan Chu Trinh bí mật dời Hà Nội lên Phồn Xương gặp Hoàng Hoa Thám.

Đầu năm 1907 Phan Chu Trinh trở về Quảng Nam cùng các ông Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng thực hiện chủ trương khai hóa dân trí đã bất chấp sự cấm đoán của bọn cầm quyền Bảo hộ Pháp và chính quyền Nam triều, các ông đã đi vận động mở nhiều trường học ở Quảng Nam như trường An Phước (Hoa Phụng), Tân Thạnh (Hòa Phước), Hòa An (Hòa Phát) đều thuộc huyện Hòa Vang ra đời. Sau khi hàng chục trường học ở Quảng Nam ra đời thì tại Hà Nội, ông cử Lương Văn Can, Đốc học Nguyễn Quyền cùng nhiều nhà nho khác đã thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Lương Văn Can đã mời Phan Chu Trinh ra dạy ở trường Đông Kinh nghĩa thục. Phan Chu Trinh đã nhiều lần diễn thuyết về phong trào Duy tân trước công chúng Hà Nội tại trường Đông Kinh nghĩa thục và các phân hiệu như ở Chèm, Hà Đông. Ông cổ động cho lối sống mới ở Hà Nội. Phan Chu Trinh rất quan tâm đến việc đào tạo cán bộ chuyên môn cho từng ngành nghề khuyến khích việc học nghề. Trong phong trào Duy tân, Phan Chu Trinh chủ trương không tán thành bạo động vũ trang mà ông chủ trương cải cách là "khai thông dân trí, mở rộng dân quyền" trái ngược với chủ trương bạo động của Phan Bội Châu. Từ chủ trương cải cách của Phan Chu Trinh đã dẫn tới cuộc đấu tranh "xin xâu, chống thuế ở Trung Kỳ".

Phan Chu Trinh với chủ trương ''Pháp - Việt đề huề” đã có nhiều hoạt động trong giới Việt kiều và vận động các chính khách tư sản, hội Nhân quyền và Chính phủ Pháp thực hiện những cải cách ở Đông Dương trong khuôn khổ cải lương tư sản.

Ông bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo. Phan Chu Trinh khi ở Côn Đảo làm rất nhiều thơ, trong đó có bài:

        CÔN LÔN TỨC CẢNH

   Biển dân đời đổi mấy thu đông
   Cụm núi Côn Lôn đứng vững trông
   Bốn mặt dày vò oai sóng gió
   Một mình che chở tội non sông
   Cỏ hoa đất nở cây trăm thước
   Rồng cá trời riêng cả một vùng
   Nước biếc non xanh thiêng chẳng nhĩ
   Gian nan xin hộ khách anh hùng


Năm 1911 ra tù ông sang Pháp, hoạt động trong Việt kiều yêu nước. Năm 1912, Phan Chu Trinh gặp Phan Văn Trường sang Pháp từ trước. Đầu năm 1914 ông và Phan Văn Trường thành lập ''Hội người Việt Nam yêu nước" tại Pháp. Tháng 4/1914 ông và Phan Văn Trường bị bắt vì bị vu cho là "Mật thông với kẻ thù của nước Pháp" (nước Đức). Phan Chu Trinh cũng đưa con là Phan Châu Dật là con thứ ba và là con trai duy nhất sang Pháp học. Trong thời gian Phan Chu Trinh bị giam ở ngục Săng đê, Châu Dật được phép mỗi tuần đến thăm cha hai lần chờ ở phòng khách thăm tù. Tháng 4/1914 chúng phải thả hai ông vì không có đủ chứng cứ buộc tội.

Ngày 3/2/1925, Phan Chu Trinh diễn thuyết lần cuối cùng ở hội Nhân quyền Paris. Ngày 28/5/1925 ông cùng Phan Văn Trường đi Mác Xây rồi về Sài Gòn.

Tháng 6/1925 Phan Chu Trinh về đến Sài Gòn. Ngày 24/3/1926, Phan Chu Trinh đột ngột qua đời tại Sài Gòn.

HUỲNH THÚC KHÁNG

Huỳnh Thúc Kháng thuở nhỏ tên là Huỳnh Hanh hiệu Minh Viên, sinh năm Bính Tý (1876), ở làng Thanh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Ông nhà nghèo, học giỏi.

Năm Canh Tý (1900) ông đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương. Năm Giáp Thìn (1904), ông 29 tuổi, đỗ đầu kỳ thi Hội (Hội nguyên) rồi đỗ Tiến sĩ Đệ Tam giáp ở kỳ thi Đình. Ông được giới sĩ phu và nhân dân xếp là "Tứ Hổ" ở đất Quảng (bốn người học giỏi là Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiên, Phạm Liệu). Huỳnh Thúc Kháng đỗ tiến sĩ, nhưng không ra làm quan, mà ờ nhà đọc tân thư, giao du với các nhà yêu nước như Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh.

Đầu năm 1905, Huỳnh Thúc Kháng tham gia "Duy tân tự cường" cùng Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế. Khác với Phan Bội Châu theo chủ trương bạo lực cách mạng, Huỳnh Thúc Kháng vận động phát khởi phong trào Duy tân cải cách văn hóa xã hội theo hướng ''khơi dân trí, chấn dân khí, hào dân sinh" (khẩu hiệu và mục tiêu của phong trào Duy tân do Phan Chu Trinh đề xướng), Huỳnh Thúc Kháng không phản đối đường lối “bạo động xuất dương cầu ngoại viện" của Phan Bội Châu, cũng không hoàn toàn tin theo đường lối "bất bạo động, bất ngoại vong" của Phan Chu Trinh. Nếu Phan Chu Trinh tỏ ra là người cực đoan thì Huỳnh Thúc Kháng lại là người có vai trò: "điều hòa mâu thuẫn" giữa hai đường lối của hai nhà yêu nước họ Phan.

Ngay sau khi thi đỗ tiến sĩ, Huỳnh Thúc Kháng không ra làm quan, tháng 10 năm Giáp Thìn (1904), Huỳnh Thúc Kháng cùng Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp đi khắp nơi trong tỉnh Quảng Nam cổ động cho phong trào Duy tân. Tháng 2 năm Ất Tỵ (1905), Huỳnh Thúc Kháng lại cùng Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp thực hiện cuộc "Nam du". Đến nơi nào ba nhà Duy tân cũng "cổ xúy tân học không chán''.

Ông cùng các bạn tù bị thực dân Pháp giam ở Khám Lớn, Sài Gòn chờ đi Côn Đảo. Huỳnh Thúc Kháng bị giam ở Côn Đảo từ năm 1908. Tháng 2/1921 ông được tha.

Tháng 12/1926 ông vận động thành lập một công ty tập hợp những người yêu nước tìm vốn kinh doanh để tài trợ cho những hoạt động chính trị.

Tháng 4/1927, công ty Huỳnh Thúc Kháng được thành lập ở Đà Nẵng với sự tham gia của nhiều nhân vật như Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Xương Thái... chuyên ngành in và báo chí. Huỳnh Thúc Kháng lấy tư cách là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, đã xin phép xuất bản tờ Tiếng Dân mà ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.

Ngày 10/8/1927, báo Tiếng Dân ra số đầu tiên. Tờ báo được coi như cơ quan ngôn luận của Viện dân biểu Trung Kỳ, nhưng trên thực tế, cụ Huỳnh đã sử dụng tờ báo này làm diễn đàn đòi một số quyền tự do dân chủ trong khuôn khổ những cải cách có tính chất tư sản và hợp pháp.

Sau những lần xô xát với Phạm Quỳnh và Bùi Quang Châu tại kỳ hợp thường niên ngày 2/10/1928, Huỳnh Thúc Kháng đã lên tiếng chỉ trích kịch liệt đường lối phản dân chủ của bọn thực dân và ông tuyên bố từ chức. Việc ông từ chức đã dẫn theo sự ly khai của hàng loạt các dân biểu tiến bộ. Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Huỳnh Thúc Kháng đã gần 70 tuổi. Được sự tin cậy của Hồ Chủ tịch, ông đã giữ chức Quyền Chủ tịch nước (và cũng là Quyền Thủ tướng) trong hơn 5 tháng, giữa lúc đất nước vẫn bị nạn đói đe dọa và có nguy cơ mất vào tay giặc Pháp và bọn Việt Quốc, Việt Cách, tay sai của Tưởng Giới Thạch. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, ông đi thanh tra ở tỉnh Quảng Ngãi với tư cách là đại diện Chính phủ. Ông đột ngột mắc bệnh rồi qua đời tại nhà một người dân dùng làm trụ sở Ủy ban kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ (chợ Chùa) ngày 21 tháng 4 năm 1947.


NGÔ ĐỨC KẾ

Ngô Đức Kế hiệu Tập Xuyên, sinh năm Kỷ Mão (1879) (có sách viết ông sinh năm Mậu Dần (1878). Ông người xã Trảo Nha, tổng Đoài, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh, nay là thôn Nam Sơn, thị trấn Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (Có sách viết nay là xã Đại Lộc, huyện Can Lộc. tỉnh Hà Tĩnh). Ngô Đức Kế bẩm tính thông minh, học giỏi từ nhỏ. Khoa thi năm Đinh Dậu (1897), khi mới 19 tuổi, ông đỗ cử nhân, khoa thi năm Tân Sửu, Thành Thái thứ 13 (1901), đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ khi mới 23 tuổi.

Ngô Đức Kế không ra làm quan, đề xuất lối học mới, vận động bỏ khoa cử, hô hào thực nghiệp. Ngô Đức Kế có mặt ngay từ khi Duy tân hội được thành lập, hoạt động trong phái "Minh Xã". Phái này hoạt động công khai, hợp pháp chuyên lo mở trường học, lập hội buôn, mở xưởng thủ công nghiệp để chấn hưng kinh tế đưa phần lớn tiền lãi vào quỹ hội Đông du. Ngô Đức Kế cùng em trai là Ngô Đức Thiệu mở một hiệu buôn ở Nghèn. Đến khoảng năm 1906, ông lại cùng với Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân thành lập Triêu Dương Thương điếm ở Vinh chuyên lo buôn bán đường mật, tơ lụa. Khi Phan Bội Châu xuất dương, ông cùng với các đồng chí đảm nhiệm cổ vũ phong trào Đông du. Thương điếm cũng là trạm liên lạc của hội Duy tân, có quan hệ với các hiệu buôn khác cùng mục đích vận động Duy tân như Hồng Tân Hưng, Quảng Hương Long, Quảng Nam Hiệp thương công ty. Năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục thành lập, Ngô Đức Kế ở Vinh nhưng cũng tham gia ban Tu thư của trường cùng với Lương Văn Can, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu, Phan Chu Trinh. Ban này chia làm hai bộ phận: biên soạn và dịch thuật. Ngô Đức Kế ở ban biên soạn. Ông đã soạn được nhiều sách, trong đó có các cuốn: "Quốc dân độc bản", "Nam quốc giai sự”, "Nam quốc địa dư", "Quốc văn giáo khoa thư", "Luân lý giáo khoa thư"...

Đầu năm Mậu Thân (1908) cuộc xin xâu nổ ra ở Quảng Nam, Quảng Ngãi rồi lan đến Nghệ Tĩnh. Các Hội viên hội Duy tân như Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập đứng lên lãnh đạo và hô hào đồng bào "xin xâu". Ngô Đức Kế cùng một số yếu nhân như Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân... đều tích cực tham gia. Các ông bị nhà cầm quyền bắt vào tháng 3, tháng 4/1908, bị đưa về giam ở nhà lao Hà Tĩnh. Tòa án Nam triều do Án sát Cao Ngọc Lễ, Lãnh binh Ngụy Tác Hạ theo lệnh của công sứ Pháp Đuxê (Doucet) đã tuyên án tử hình Nguyễn Hằng Chi, Trịnh Khắc Lập. Ngô Đức Kế, sau đổi làm tội đồ (đi đày) chung thân, rồi giảm xuống 13 năm đày ra Côn Đảo.

Ở Côn Đảo Ngô Đức Kế đã gặp Huỳnh Thúc Kháng và hai ông đã trở thành bạn thân thiết cũng như với Đặng Nguyên Cẩn và Phan Bội Châu. Bốn nhà chí sĩ cùng có một tâm huyết đánh đuổi giặc Pháp, cùng gắn bó với nhau trong sự nghiệp văn chương trong dòng thơ văn yêu nước.

Hết hạn đi đày, năm 1921, Ngô Đức Kế về quê nghỉ ngơi ít lâu, rồi cuối năm 1922 ra Hà Nội chủ trương báo Hữu Thanh, nguyên là cơ quan Ngôn luận của Hội Trung Bắc nông công thương tương tế, lúc mới lập do nhà thơ Tản Đà làm chủ bút. Ông còn mở hiệu đối trướng ở phố Hàng Điếu, Hà Nội. Ngô Đức Kế là nhà cựu học tiếp cận được với trào lưu mới, ông giao tiếp nhiều, kiến văn rộng.

Năm 1926, Ngô Đức Kế mở "Giác quần thư xã", xuất bản một số thơ văn của Phan Bội Châu, Phan Tây Hồ di thảo... Ông đọc sách Bách khoa toàn thư, viết cuốn "Đông Tây vĩ nhân" trong đó có Tôn Dật Tiên, Găngđi.

Ngô Đức Kế làm sách chưa được bao lâu thì ông ốm nặng và mất vào ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Tỵ (10/12/1929), tại Bạch Mai, Hà Nội.

ĐẶNG VĂN BÁ

Đặng Văn Bá tự Thanh Bình, hiệu Nghiêm Giang, sinh năm 1873, người làng Phất Lão, nay là xã Thanh Bình, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Ông thi đỗ cử nhân khoa Canh Tý(1900), nên thường gọi là Cử Đặng. Ông tham gia Duy tân hội và phong trào Đông du từ năm 1905 thuộc phái "Ám xã". Ông có quan hệ mật thiết với Lê Võ và Trần Văn Bỉnh một người Thiên chúa giáo yêu nước cùng tham gia Duy tân hội với ông. Đặng Văn Bá thuộc phái “Ám xã” tức là phái vũ trang bạo động. Ba ông có dự mưu khởi nghĩa vũ trang từ năm 1905, ông và Lê Võ chịu trách nhiệm tổ chức lực lượng, xây dựng căn cứ, Trần Văn Bỉnh là người có năng khiếu về cơ học, từng nghiên cứu cách chế tạo súng đạn lo việc quân giới.

Khoảng năm Bính Ngọ ( 1906), năm Đinh Vị (1907), Đặng Văn Bá muốn khởi sự ở Trung Kỳ, ông đã đầu tư tiền bạc giao cho ông Trần Văn Bỉnh đưa hơn 10 đệ tử đến tỉnh Phương Lâm (Sau đổi là tỉnh Hòa Bình) ở xứ Bắc Kỳ là nơi đồng bào dân tộc có nhiều súng cũ hỏng, nơi có rừng núi hiểm trở thành lập xưởng đúc súng. Trong khoảng nửa năm. Trần Văn Bỉnh chế tạo súng đã dùng được, nhưng còn thiếu đạn, Ông Bỉnh đang nghiên cứu chế tạo thì lâm bệnh nặng rồi mất. Đặng Văn Bá cùng Lê Võ tiếp tục chiêu mộ quân, xây dựng căn cứ hoàn chỉnh việc chế tạo súng đạn, thì năm 1908 nổ ra cuộc xin xâu, chống thuế từ Quảng Nam lan ra Hà Tĩnh, Nghệ An, Đặng Văn Bá cũng bị thực dân Pháp bắt với Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, các ông bị đầy ra Côn Đảo.

Trần Văn Bỉnh mất, Đặng Văn Bá bị mất, số vũ khí tinh xảo do Trần Văn Bỉnh chế tạo ra cũng mất theo. Sau một năm giam cầm trong nhà tù với cảnh “ngậm đắng, ăn cay đợi bữa luôn” giữa “Sóng khoá chân thần sau mặt khuất, Biển dăng hơi quỷ khiến người nôn” của cảnh tù đày Côn Đảo, địa ngục trần gian, Đặng văn Bá đã khẳng định:

   Trải nhiều gian khổ thêm can đởm (đảm)
   Biệt cảnh quê hương rối mộng hồn.
   Lá rụng một đêm theo gió cuốn
   Non sông khắp xứ thu vòng tròn.


Ông bị đày 1 năm rồi 2 năm, 3 năm, tìm mưu tính kế bao lần các sĩ phu không vượt được ngục vẫn phải âm thầm sống trong tù đày. Các sĩ phu yêu nước lại động viên nhau: Chớ ngại tóc sương khắp mái.

Đến năm 1921 (Có tài liệu viết năm 1916) ông được tha. Ông về ở Sài Gòn. Năm 1925 Phan Bội Châu bị an trí ở Huế thì ông về Huế cùng ở với Phan Bội Châu, sau một thời gian ở Huế, ông về quê, mất năm 1931. Đặng Văn Bá sáng tác nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. Xin giới thiệu một số bài để thấy rõ tâm tư cùng hoài bão của một người yêu nước, căm thù giặc sâu sắc:

        TÍCH NIÊN KIM NHẬT ĐÁO CÔN LÔN

   Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn
   Nhữ khổ hàm tân bất đãi luân
   Cựu mục thần châu ba lãng viễn
   Bức nhân quỷ khí hải đào hôn
   Thường đa gian khổ tăng can đảm
   Biệt cửu gia sơn nhiễu mộng hồn
   Nhất dạ thu phong tồi lạc nghiệp
   Thiên sơn vận hái kiến triêu đôn


Dịch thơ:

        NGÀY NÀY NĂM TRƯỚC ĐẾN CÔN LÔN

   Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn
   Ngậm đắng ăn cay đợi bữa luôn
   Sóng khỏa châu Thần trong mặt khuất
   Biển giăng hơi quỉ khiến người nôn
   Trải nhiều gian hiểm thêm can đảm
   Biệt cách quê hương rối mộng hồn
   Lá rụng một đêm theo gió cuốn
   Non sông khắp xứ thấy vừng tròn.


                             Huỳnh Thúc Kháng dịch
                            (Theo Thi tù tùng thoại,
                        Nxb Nam Cường, Sài Gòn, 1951).

NGUYỄN AN KHƯƠNG

Nguyễn An Khương người làng Mỹ Hòa (Quán Tre) huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Ông là thân phụ nhà cách mạng Nguyễn An Ninh.

Khi Phan Bội Châu và các đồng chí phát khởi phong trào Duy tân, thì Nam kỳ là nơi phong trào phát triển nhất. Ngoài số thanh niên xuất dương, còn có các nhân sĩ yêu nước, các phú hào, các đại điền chủ ủng hộ tài chính.

Trong số những người tham gia Duy tân hội ở Nam Kỳ ( Nam Kỳ gọi là Minh tân) phải kể đến các nhân vật Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thần Hiến...

Nguyễn An Khương là chiến sĩ cách mạng, thủ lĩnh phong trào Duy tân ở Nam Kỳ. Ông vận động nhiều thanh niên xuất dương, quyên góp tiền bạc cho phong tràoo Khi trường Đông Kinh nghĩa thục thành lập ở Hà Nội, ông là người đầu tiên hưởng ứng và tích cực mở trường nghĩa thục ở Nam Kỳ.

Ông mở khách sạn Chiêu Nam Lầu tại số 49 đường Kinh Lấp (Boulevard Charner) Sài Gòn. Khách sạn này kinh doanh dịch vụ khách sạn nhà hàng, cạnh tranh công khai với cơ sở nhà hàng của Hoa Kiều. Ông lấy tiền lãi cung cấp cho thanh niên Đông du vừa là nơi in lại sách của trường Đông Kinh nghĩa thục, cung cấp cho các trường nghĩa thục ở Nam Kỳ. Khách sạn còn là nơi các nhà yêu nước gặp gỡ nhau bàn định công việc cứu nước.

Năm 1908, Nguyễn An Khương cùng các đồng chí Nguyễn Quang Diêu, Nguyễn Thần Hiến, Bùi Chí Nhuận vượt biên giới sang Cao Miên rồi từ đó qua Xiêm La để sang Trung Quốc. Tại Trung Quốc, Nguyễn An Khương tích cực hoạt động cho phong trào Đông du. Ông được tổ chức phân công về hoạt động ở Nam Kỳ. Tại Củ Chi, nhà ông là nơi liên lạc bí mật của các chí sĩ. Trong thời gian ở Củ Chi, Sài Gòn, Nguyễn An Khương dịch các sách Trung Quốc như Tam Quốc chí, Thủy Hử, Phấn Trang Lầu từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ. Ông cũng là trợ bút đắc lực cho tờ "Nông Cổ Mín đàm''. Tờ Nông cổ Mín đàm trước của một người Pháp tên là Canavaggiô, sau giao cho các ông Gilbert Chiểu, Đỗ Thức, Lương Khắc Ninh, Nguyễn Chánh Sắt quản lý. Năm 1902, Canavaggiô qua đời thì Nguyễn Chánh Sắt làm chủ bút. Ông đã cho in những văn thơ yêu nước, viết và đăng những lời cổ động cho phong trào Minh tân. Nguyễn An Khương là trợ bút đắc lực cho tờ báo này.

ĐẶNG TỬ KÍNH

Đặng Tử Kính người làng Hải Côn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, ông là chú ruột Đặng Thái Thân. Ông là một trong năm thành viên sáng lập ra Duy tân hội.

Tháng giêng năm Ất Tỵ (1905) ông cùng Tăng Bạt Hổ tháp tùng Phan Bội Châu sang Nhật với mục đích là cầu ngoại viện. Đặng Tử Kính mới qua Nhật, nhưng qua Tăng Bạt Hổ và các nhân sĩ Trung Quốc ông đã có mối quan hệ rộng rãi với chính khách Nhật. Phan Bội Châu giữ ông ở lại Nhật giúp bố trí nơi ăn ở, học tập ở các trường cho lưu học sinh Việt Nam, giao tiếp với các chính khách Nhật và các nhà cách mạng Trung Hoa đang ở Nhật.

Khi Phan Bội Châu có việc về nước lần thứ nhất (1905) lần thứ hai (1906) thì toàn bộ công việc đối nội, đối ngoại ở Nhật đều do Đặng Tử Kính lo liệu. Cuối năm 1908, Chính phủ Nhật thông đồng với nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương trục xuất lưu học sinh Việt Nam chủ yếu ở Nam Kỳ về nước thì ông cũng là người đứng ra lo tiền bạc cho lưu học sinh.

Đến năm 1909 Chính phủ Nhật thực hiện Hiệp ước ký với Pháp đã ra lệnh trục xuất Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính cùng toàn thể cán bộ, lưu học sinh Việt Nam ở Nhật. Cán bộ, học sinh đành phải về Trung Hoa. Đây là thời kỳ cực kỳ khó khăn của lưu học sinh, vì tiền bạc trong nước bị nghẽn không gửi sang được. Ông cùng Phan Bội Châu và những đồng chí đang hoạt động ở Trung Quốc phải dựa vào mối quan hệ với các nhân sĩ Trung Quốc, những người dân Trung Quốc ủng hộ cách mạng Việt Nam, kiều bào Việt Nam ở Trung Quốc lo tiền ăn học cho anh em.
Năm 1911 cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc) thành công, đây là cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Đặng Tử Kính liền từ Xiêm về Quảng Đông.

Năm 1912, Phan Bội Châu triệu tập cán bộ ba kỳ và cán bộ đang hoạt động ở Trung Quốc, Xiêm La họp ở Quảng Đông tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Đặng Tử Kính được bầu vào ban chấp hành, phụ trách kinh tế.

Từ năm 1914 khi Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng bị nhà cầm quyền Quảng Đông bắt giam thì Đặng Tử Kính và Nguyễn Thượng Hiền lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội.

Tháng 3 năm 1915, ỏng và Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm vận động công sứ Đức, Áo viện trợ 10.000 đồng tiền Xiêm. Hai ông chia làm 3 phần giao cho ba nhóm Quang Phục quân mua vũ khí để đánh vào Móng Cái, Hà Khẩu, Lạng Sơn. Song đáng tiếc những hoạt động quân sự trên không thành công.

Năm 1925 khi Phạm Hồng Thái trong nhóm Tâm Tâm xã, ném tạc đạn ở Sa Điện Trung Quốc, ám sát hụt Toàn quyền Méc Lanh. Mật thám, lính Pháp truy kích gắt gao, ông nhẩy xuống sông Châu Giang để thoát thân, không ngờ dòng nước chảy xiết, cuốn trôi ông. Đặng Tử Kính cảm phục tinh thần dũng cảm của Phạm Hồng Thái, ông làm bài thơ:

KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN LIỆT SĨ PHẠM HỒNG THÁI
(Trích đoạn cuối)

... Bây giờ cơ đã đến nơi
Lòng người có chí thì trời cũng bênh,
Ông khi ấy một mình len lỏi
Một chiếc thuyền theo dõi bờ sông
Toàn quyền Đông Pháp Mặc Lanh
Hắn lên xe điện thẳng dong hàng
Thành Sa Điện
(*) phố phường đón rước,
Mời vào nhà thết tiệc hoan nghênh,
Ông vào thám thính phân minh
Lại gần chú lính đang canh nạt dồn
Tám giờ tối bàn hoàn chưa định,
Việc gấp rồi phải tính mau mau
Khen người kế hoạch mưu cao
Tới ngay cửa sổ ném vào một khi
Người trong tiệc còn chi đâu nữa
Chúng kinh hoàng hồn rữa, phách tan
Tây kia mới hết khoe khoang
Xương tan xác pháo, thịt tan bụi hồng
Chốn Sa Điện một vùng tối mịt
Thuyền Châu Giang trăm chiếc đón đưa
Hy sinh cứu nước bây giờ
Hồn thiêng cao phất, ngọn cờ tự do.
"Anh hùng vị quốc quyên khu"
(**)
Sông Châu Giang ấy nghìn thu lưu truyền


(Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX)

Ông mất tại tỉnh Phi Chịt nước Xiêm năm 1928.

(*) Sa Điện tên đất thuộc Quảng Châu (Trung Quốc) tô giới nước Pháp
(**) Người anh hùng vì nước hy sinh thân mình.



NGUYỄN THƯỢNG HIỀN

Nguyễn Thượng Hiền tự Đỉnh Nam, Đỉnh Thần, hiệu Mai Sơn, sinh năm 1866 trong một gia đình phong kiến quý tộc, quê ở làng Liên Bạt, tổng Xà Cầu, huyện Sơn Lãng, sau đổi là huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, nay là xã Liên Bạt, huyện úng Hòa, tỉnh Hà Tây.

Ông là người thông tuệ, lại chăm chỉ học ở trường và đọc sách. Năm Giáp Thân, Kiến Phúc thứ nhất (1884), ông 19 tuổi đỗ Cử nhân. Ông đỗ cử nhân, nhưng bỏ nhà đi tu. Sau vì anh ông mất sớm, gia đình đón về bắt lấy vợ. Ông kết duyên với con gái Tôn Thất Thuyết.

Ất Dậu, năm đầu Hàm Nghi (1885), ông 20 tuổi thi Hội trúng cách, chưa kịp truyền loa thì kinh thành thất thủ, nên chưa được công nhận chính thức. Ông ở lại Huế học tập.

Khoa thi năm Nhâm Thìn thành Thái thứ 5 (1892) ông đi thi Hội, vì đã trúng cách trước, nên ông được vào thi Đình, đỗ Hoàng giáp, bấy giờ ông mới 27 tuổi.

Ông đỗ cao nhưng đau xót cảnh đất nước rơi vào tay giặc Pháp, nên không chịu ra làm quan, dâng sớ xin nghỉ 10 năm để đọc sách tu dưỡng. Triều đình chỉ cho nghỉ 3 năm. Hết hạn nghỉ, ông ra nhận chức Toản tu quốc sử quán, sau đổi làm Đốc học Nam Định - Ninh Bình.
Trong thời gian ỉàm việc ở Huế và ở Nam Định, Nguyễn Thượng Hiền được đọc nhiều tân thư của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vy (Trung Quốc).

Sau đó lại được tiếp xúc với nhà cải cách Nguyễn Lộ Trạch, sư Viên Giác và các nhà chí sĩ Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, nên ông có cảm tình sâu sắc với phong trào chống Pháp. Ông từ quan về núi Nưa (Thanh Hóa) ở ẩn.

Năm 1907 thân phụ mất, ông tìm đường xuất dương hoạt động cách mạng. Ông tham gia phong trào chống thuế ở miền Trung bị bọn cầm quyền Pháp kết án tử hình vắng mặt.

Năm 1908, ông xuất dương sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu. Năm 1912, Nguyễn Thượng Hiền tấn thành tôn chỉ bỏ quân chủ của Việt Nam Quang Phục hội. Ông là đại biểu cho Bắc Kỳ trong bộ Bình nghị của Việt Nam Quang Phục hội.

Năm 1914 Phan Bội Châu bị quân phiệt Trung Hoa bắt giam, mọi công việc của Hội đều do ông lo liệu, ông lại thực hiện kế hoạch ba mũi tiến công vào Bắc Kỳ mà ông trực tiếp chỉ huy một đội quân mưu việc đánh úp Lạng Sơn, song việc không thành. Giặc Pháp ráo riết truy bức các nhà cách mạng Việt Nam Quang Phục hội. Nguyễn Thượng Hiền phải bôn tẩu khắp nơi, khi ở Quảng Đông, Quảng Tây, khi ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu, có lúc lại sang Xiêm La.

Năm 1915 ông đi Xiêm La liên hệ với hai viên công sứ Đức và Áo, yêu cầu họ giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Họ giúp cho một số tiền để mua vũ khí về nước đánh Pháp. Trung Quốc tuyên chiến với Đức và Áo, khủng bố các nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc.

Đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc nước Pháp thắng trận, năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt đưa về nước rồi bị quản thúc ở Huế. Nguyễn Thượng Hiền nản chí bỏ đi tu ở một ngôi chùa ở Hàng Châu (Trung Quốc).

Nguyễn Thượng Hiền sáng tác rất nhiều văn thơ yêu nước, bài văn, thơ nào cũng cháy bỏng lòng yêu nước thiết tha, ca ngợi những người vì nghĩa quên mình, kêu gọi mọi người mở mang công nghệ, lập hội buôn, mở trường học để chấn hưng đất nước Nguyễn Thượng Hiền là một nhà văn, nhà thơ xuất sắc. Ý chí bất khuất của ông được thể hiện rõ nét trong văn thơ:

               ĐỀ MIẾU MÃ VIỆN Ở LONG THÀNH

      Trèo non vượt bể biết bao công
      Một trận Hồ Tây chút vẫy vùng
      Quắc thước khoe chi mình tóc bạc
      Cân đai đọ với khách quần hồng
      Dèm chê đã chán đầy mâm ngọc
      Công cán ra chi mấy cột đồng
      Ai muốn chép công, ta chép tội
      Công riêng ai đó oán hờn chung


Khi được tin vợ mất, ông làm câu đối khóc vợ:

"Ngưỡng quan thiên, thiên dĩ vân mai tứ tắc, phủ quan địa, địa dĩ kinh cức hoàng sinh, bôn trì thiên vạn lý, khiết tiết thôn chiên, thượng hải vị năng điền, thệ ngã thử tâm, trường đối, giang sơn oanh lữ mộng;

Thiếu tòng phụ, phụ dĩ vương mệnh xuất bôn, tưởng tòng phu, phu dĩ quốc nạn viễn tỵ, tiền hậu tam thập niên, hàm tân nhữ khổ, bạch đầu ưng cách thậm, đa quản tiên giác, tảo ly trần giới đoạn sầu căn".


Dịch:

Ngẩng trông trời, trời đã mây mù che kín, cúi xem đất, đất đã gai góc mọc đầy, chạy vạy ngàn muôn dặm, ăn tuyết, nhai tanh, bể xanh còn chưa lấp, thề tớ lòng này, đất khách mơ màng non nước cũ;

Trẻ theo bố, bố vâng lệnh chúa ra đi, lớn theo chồng, chồng vì nạn nước xa lánh, sau trước ba mươi năm, nuốt cay, ngậm đắng, đầu bạc lại thêm thương, may bà biết trước, suối vàng dứt hẳn mối sầu xưa.


                                                                       Lê Thước dịch in trong Hợp tuyển thi văn Việt Nam
                                                                         (1858 - 1920) quyển II, Nxb Văn học, Hà Nội, 1985).

Ông sống lưu vong ở Trung Quốc song vẫn hướng về quê cha, đất tổ Việt Nam, vẫn không ngừng cổ động, khuyến khích lớp lớp con cháu làm cách mạng đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Sức ông yếu, lại sót sa, nỗi buồn mất nước, nặng lòng thương cảm các đồng chí lần lượt hy sinh, do vậy sức khỏe của ông ngày càng suy sụp. Ông ngã bệnh nặng rồi mất ngày 28 tháng 12 nãm 1925 tại chùa Thường Tịch Quang trên núi Cô Sơn giữa Tây Hồ, tỉnh Hàng Châu, Trung Quốc, thọ 57 tuổi. Thi hài của ông được hỏa táng, rắc tro xuống sông Tiền Đường theo lời Di chúc của ông.

PHẠM VĂN NGÔN

Phạm Văn Ngôn còn gọi là Phạm Ngôn, hiệu Tùng Nham, sinh năm 1881, quê ở thôn Yên Nội, xã Việt Yên hạ, huyện La Sơn, phủ Đức Phong, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Tháng 12 năm 1906, Phan Bội Châu từ Nhật trở về nước đến đồn Phồn Xương lần thứ hai gặp Hoàng Hoa Thám. Hai ông thỏa thuận lập một "Đồn điền Tú Nghệ" ở Yên Thế làm nơi ẩn náu cho các nhà cách mạng Nghệ An, Hà Tĩnh.

Năm 1907 giặc Pháp đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh, Tú Ngôn đưa một số đồng chí ra ẩn náu ở đồn điền Tú Nghệ ở Yên Thế chờ thời cơ.

Đầu năm 1909 trước âm mưu chuẩn bị tiến công căn cứ Đề Thám ở Yên Thế của giặc Pháp ngày càng lộ liễu, Tú Ngôn trở về Hà Tĩnh để vận động binh lính nổi dậy chống Pháp phối hợp tác chiến với Đề Thám. Cuộc vận động xây dựng đồn điền Tú Nghệ ở Yên Thế không thành vì không có kinh phí. Tại Nghệ An cũng có cuộc nổi dậy chống Pháp phối hợp với Đề Thám nhưng thất bại. Giặc bao vây nơi các ông hội họp, các ông chống cự kịch liệt và bị đàn áp dã man. Phạm Văn Ngôn bị giặc bắt, chúng đánh ông gẫy hai cái răng cửa, mình mẩy thâm tím. Chúng giam ông ở nhà lao Đà Nẵng chờ ngày ra Côn Đảo cùng với nhiều đồng chí khác, trong đó có em ruột ông là Phạm Văn Thản.

(Việt Nam nghĩa liệt sử viết: “Phạm Văn Ngôn ở Nghệ An nghe tin quân Pháp tuyên chiến với tướng quân Hoàng Hoa Thám, ông dẫn một số đồng chí ra Bắc định vào đồn giúp Hoàng Hoa Thám đánh giặc. Nhưng đồn bị vây tứ phía. Hoàng tướng quân cũng giữ đồn chống giặc, trong ngoài không thông được tin tức với nhau. Ông mạo hiểm tìm đường mà tiến. Giặc thì đóng, đường mắc nghẽn, ông bị giặc vây đánh và bị bắt giải về Nghệ An. Bọn chó săn cho Pháp dùng nhục hình tra tấn ông hòng tìm ra chứng cớ đảng”).

Tại nhà lao Đà Nẵng, Phạm Văn Ngôn vẫn kiên cường đấu tranh bất khuất. Khi bọn cai ngục đàn áp, ông lấy thân mình đỡ đòn cho các đồng chí bị đau yếu. Ông mất tại nhà ngục không rõ thời gian. Nhưng theo bài "Văn tế anh'' của em trai ông là Phạm Văn Thản, còn gọi là Đồ Thản, tham gia phong trào Duy tân rồi cùng Đội Quyên lập đồn Bố Lư ở huyện Thanh Chương rồi bị bắt đầy ra Côn Đảo (Phạm Văn Thản bị chết ở Côn Đảo năm 1920) thì ông mất vào ngày 15 tháng 2 (không rõ năm), nguyên văn câu đó như sau:

"... Mang tu mi đứng giữa cõi đời, tuổi ba mươi lăm lẻ
Đem tính mệnh thác ngoài Côn Đảo, ngày mười sáu tháng hai”


HỒ HỌC LÃM

Hồ Học Lãm còn có tên là Hồ Xuân Lan, sinh năm 1848 tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Xuân Lan là người học hành thông tuệ, lại tiếp thu được truyền thống cách mạng của gia đình, nên sớm có hành động yêu nước. Khi xuất dương "Đông du" sang Nhật ông đổi lên là Hồ Học Lãm. Sang tới Tôkyô (Nhật Bản), ông được Phan Bội Châu bố trí vào học ở trường Chấn vỗ học hiệu. Ông lại đổi tên là Hồ Hinh Sơn để đăng ký với nhà trường.

Đầu năm 1909, Chính phủ Nhật Bản trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam. Học sinh Việt Nam bị giải tán, một số về lại Việt Nam còn phần lớn về Trung Quốc, Xiêm. Hồ Học Lãm cùng Lương Lập Nham, Lâm Quảng Trung... học ở Bảo Định sĩ quan học hiệu.

Cách mạng Tân Hợi (1911) nổ ra thì Hổ Học Lãm tốt nghiệp mãn khóa. Ông được phiên chế về bộ Tổng Tham mưu quân cách mạng do Tưởng Giới Thạch làm ủy viên Tổng tài. Ông từng tham gia nhiều trận Quốc Dân Đảng đánh lại Viên Thế Khải.

Năm 1912, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục hội trên đất Trung Hoa. Hồ Học Lãm có mối quan hệ mật thiết với những người lãnh đạo của Hội. Năm 1916, Hồ Học Lãm phụ trách biên tập tờ Bình sự tạp chí ở Hàng Châu cho tới năm 1929. Ông đã viết nhiều bài luận văn quân sự quan trọng, nội dung các luận văn quân sự đã bộc lộ rõ tâm tư ông luôn hướng về Tổ quốc.

Gia đình Hồ Học Lãm ở Hàng Châu là cơ sở rất tin cậy và an toàn cho các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong sang Trung Quốc hoạt động từ năm 1914 đến 1918.

Từ cuối năm 1925 đến năm 1927, Hồ Học Lãm chuyển đến công tác ở Nam Kinh và vẫn hoạt động trong quân đội Quốc Dân đảng. Gia đình ông vẫn là cơ sở tin cậy của các nhà cách mạng Việt Nam, của các chiến sĩ cộng sản Việt Nam hoạt động ở Trung Quốc. Nhiều tài liệu đã ghi nhận sự đóng góp lớn lao của gia đình ông đối với cách mạng như:

"Có thể nói trong nhiều năm, ngôi nhà của ông ở Nam Kinh, theo cách nói của anh em ta lúc bấy giờ hệt như một trạm đón tiếp nồng hậu, một trạm xá tận tình chữa bệnh. Lúc ít cũng hơi, ba đồng chí; lúc đông tới mười, mười lăm người. Có đồng chí dừng chân vài ba ngày. Nhung cũng có những đồng chí một hai, ba tháng. Ngoài ăn uống, thuốc men, đồng chí nào sức yếu, mùa đông lạnh, còn có cả áo "ba đờ suy'' bằng len dạ. Ông bà coi như một nghĩa vụ của mình đối với cách mạng”.

(Theo Siêu Hải: Người mang biệt danh cây gỗ mun,
Nxb Hải Phòng, 1993, tr. 153).

Năm 1928, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã cử Lê Thiết Hùng đến Nam Kinh gặp Hồ Học Lãm nhờ ông bố trí cho Lê Thiết Hùng vào công tác ở ngay trong quân đội Quốc Dân đảng và giữ mối liên lạc giữa đồng chí Nguyễn Ái Quốc với Hồ Học Lãm và Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Từ năm 1930 đến 1935, Hồ Học Lãm đã vượt qua biết bao nguy hiểm thu thập được tư liệu 5 lần quân Quốc Dân Đảng tấn công vào khu vực Xô Viết thông qua Lê Thiết Hùng để báo cho đảng Cộng sản Trung Hoa biết.

Khoảng cuối năm 1935, Hồ Học Lãm cùng một số ngưòi yêu nước chân chính lập ra "Việt Nam Độc lập vận động đồng minh hội'' gọi tắt là Việt Minh. Hồ Học Lãm được bầu làm Chủ tịch và được chính quyền Tưởng Giới Thạch công nhận, cấp giấy phép hoạt động. (Việt Nam độc lập vận động đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, nhưng không phải là Việt Nam độc lập Đồng minh (Việt Minh thành lập ngày 19/5/1941).

Năm 1937, Hồ Học Lãm theo bộ Tổng tham mưu về Trùng Khánh, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bí mật đến gặp Hồ Học Lãm, yêu cầu cho Lê Thiết Hùng giải ngũ về nước.

Bước sang đầu năm 1943, bệnh tình ngày càng trầm trọng và ông đã qua đời vào ngày 12/4/1943 tại Quế Lâm.

Thiếu tướng Lê Thiết Hùng kể lại lời Bác Hồ nói về Hồ Học Lãm như sau: "Ông Hồ Học Lãm là người yêu nước cùng thời với Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân là những bậc lão thành cách mạng, hết lòng vì nước vì dân. Tuy chưa phải là người cộng sản, nhưng chúng ta cũng coi ông Hồ Học Lãm như một người trong tổ chức chúng ta. Nếu ông còn sống, có thể mời ông tham gia Chính phủ, làm Chủ tịch nước năm 1945..”.

TRẦN HOÀNH

Trần Hoành (Cửu Cai) hiệu Phước Bình, sinh năm 1878, quê ở làng Phương Sơn, xã Triệu Sơn, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (Sách "Phong trào Duy tân” của Nguyễn Văn Xuân, Nxb Đà Nẵng viết quê ông ở làng Phước Bình, huvện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam).

Năm 1902 Trần Hoành làm thông ngôn ở mỏ than Nông Sơn tỉnh Quảng Nam. Năm 1905, ông tham gia phong trào Duy tân cùng với Phan Chu Trinh. Trần Hoành hoạt động trong nhóm Minh Xã do Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương, hoạt động theo đường lối ôn hòa như tích cực vận động mở trường học chữ quốc ngữ, dùng hàng nội hóa, chống mê tín dị đoạn, đàn ông cắt tóc ngắn. Trong việc mở mang Tân học, ông hăng hái cổ động học chữ quốc ngữ, chữ Pháp.

Năm 1906, ông là người mở trường và là giám đốc trường Phước Bình. Trường lập ở Quế Sơn gần Đèo Le, cạnh làng Trung Lộc không xa khu vực Tân tỉnh của nghĩa quân Cần vương Nguyễn Duy Hiệu. Đầu năm 1908, Quảng Nam, Quảng Ngãi phát động phong trào xin xâu, chống thuế. Đến tháng 3/1908 phong trào lan ra Quảng Trị đã được Trần Hoành hưởng ứng. Ông bị mật thám truy lùng ráo riết, nên chuyển vào hoạt động bí mật ở Quảng Trị, Quảng Nam và ở cả Nam Kỳ. Năm 1912 ông bị thực dân Pháp bắt ở Mỹ Tho và đầy ra Côn Đảo. Ngày 20 tháng 8 năm 1917, Trần Hoành, Phan Kim Đài, Nguyễn Đình Kiên đóng bè vượt ngục Côn Đảo, hoạt động ở tỉnh Bình Thuận. Trên đường ông vào Nam Kỳ cổ động cho cách mạng, ngày 25 tháng 9 ông lại bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo.

Trần Hoành là một trong những người hăng hái tìm cách vượt ngục Côn Đảo trở về đất liền phục hồi phong trào cách mạng. Ngày 20 tháng 8 năm 1917, Trần Hoành, Phan Kim Đài, Nguyễn Đình Kiên đóng bè vượt ngục Côn Đảo. Năm, sáu ngày đêm liền, sáu ngày lênh đênh giữa biển cả, trên trời, dưới nước. Đồ ăn không còn, không đói lắm nhưng nước ngọt cạn kiệt. Khát quá mọi người phải nhúng người xuống biển cho đỡ khát. Mấy anh em tuyệt vọng chờ chết. Đến ngày thứ 6 thì nhìn thấy núi và đất liền, nhưng còn xa bờ. Anh em cố chèo, nhưng còn cách xa bờ. Gọi cứu, người trong bờ nghe tiếng, nhưng không ai ra cứu. Cuối cùng lợi dụng sóng to, anh em cố chèo lái cùng vào được bờ. Mọi người vừa đói, vừa mệt, họ nằm ngay trên bờ ngủ say như chết. Sau khi hỏi thăm thì được biết đây là một huyện thuộc tỉnh Bình Thuận, từ bãi biển ra tới đường xe lửa phải đi một ngày đường. Sáu người tìm vào một nhà dân mua gạo nấu cơm ăn. Khi đó thực dân Pháp đã thông báo cho các tỉnh, các bến xe, ga tầu hỏa truy nã các ông. Những người dân nghi ngờ các ông là tù vượt ngục, may là trong anh em có người mang trong mình một tờ giấy chữ Tây có dấu của Tham biện nên dân bán gạo và cho nấu cơm nhờ. Sau khi ăn uống nghỉ ngơi, ba người trở về lục tỉnh, còn hai người trở ra bắc Trung Kỳ, Cửu Cai cũng đi tầu hỏa cùng với hai người ra bắc Trung Kỳ, nhưng ông ở lại hoạt động ở tỉnh Bình Thuận. Trên đường ông vào Nam Kỳ cổ động cho cách mạng, ngày 25 tháng 9 ông lại bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo, ông lại vượt ngục lại tổ chức vượt ngục, lại bị bắt. Ông được anh em tù chính trị gọi là "Vua vượt ngục".

Từ năm 1927 đến năm 1930, ông làm quản đốc nhà in báo Tiếng Dân cho cụ Huỳnh Thúc Kháng. Ông mất năm 1945.


ĐẶNG THÁI THÂN

Đặng Thái Thân sinh năm 1873, tên hiệu là Ngư Hải, người làng Hải Côn, huyện Nghi Lộc (nay là xã Nghi Thái huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) là học trò và là đồng chí của Phan Bội Châu. Ông thông minh, học giỏi, đỗ Đầu xứ.

Năm 1901, cử nhân Vương Thúc Quý người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mở trường dạy học ở làng, Nguyễn Tất Thành (sau này là Nguyễn Ái Quốc) cũng theo học thì Đặng Thái Thân cùng với Phan Bội Châu là khách thường xuyên tới bàn chuyện cứu nước.

Tháng 5/1904, Phan Bội Châu, Nguyễn Thành thành lập hội Duy tân ở Quảng Nam ông là người đầu tiên tham gia. Khi Phan Bội Châu xuất dương (1905), thì ông là người tổ chức lực lượng ở trong nước, và quyên góp tiền gửi sang Trung Hoa và Nhật cho các du học sinh Việt Nam. Ông thường bí mật sang Trung Quốc, Nhật Bản gặp Phan Bội Châu để bàn bạc, thống nhất chủ trương hoạt động của hội, phối hợp nhịp nhàng các hoạt động của hội ở trong nước và ngoài nước. Phan Bội Châu coi ông là người cộng sự xuất sắc, một đồng chí trung thành, hăng say và là một đồng chí tri kỷ.

Mùa đông năm 1906, Đặng Thái Thân nhận nhiệm vụ của Duy tân hội đem Hội chủ Kỳ Ngoại hầu Cường Để xuất dương.

Ông định đến Đà Nẵng đi thuyền ra Bắc, nhưng gặp sóng to không đi được, lại sợ mật thám theo dõi phát hiện ra mình, ông làm bài thơ:

                 ĐỢI THUYỀN

      Thiên lý nhăn tâm bước lộ trình,
      Chết rồi sống lại các sinh linh
      Đông cung sáng suốt treo vừng nhật
      Kịp gửi thuyền Tây
(*) để tới Kinh

                  1906
      (Theo Đặng Đoàn Bằng: Việt Nam nghĩa liệt sử,
         Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1955).

Năm 1910, Đặng Thái Thân cùng Lê Khánh đến cơ sở ở làng Phan Thôn (nay là xã Nghi Kim huyện Nghi Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Cơ sở này bị lộ, mật thám Pháp và tay sai đem lính đến vây bắt. Đặng Thái Thân cùng Lê Khánh bắn trả bọn giặc. Lê Khánh bị chúng bắn chết. Đặng Thái Thân nhẩy lên mái nhà bắn chết 2 tên mật thám, còn viên cuối cùng bắn vào thái dương tự sát.

Cái chết của Đặng Thái Thân đã gây niềm tin lớn cho đồng bào là Việt Nam vẫn còn nhiều người dám hy sinh thân mình để cứu nước..

(*) Tức thuyền máy

TRẦN KỲ PHONG

Trần Kỳ Phong tự Nghĩa Bình sinh năm 1872 người Chu Me, xã Bình Châu, huyện Kim Sơn, tỉnh Bình Định. Ông đỗ tú tài năm Nhâm Dần (1902) nên thường gọi là Tú Trần. Ông tham gia phong trào Cần vương từ khi còn rất trẻ. Năm 1905 ông tham gia hoạt động cho Duy tân hội, hoạt động liên tục trong các cuộc vận động mở trường dạy chữ quốc ngữ chữ Pháp, cắt tóc ngắn, đùng hàng nội hóa.

Năm 1906, Trần Kỳ Phong và một đồng chí ở Quảng Ngãi vượt biên sang Trung Quốc để sang Nhật du học. Các ông đi tới Quảng Đông thì gặp Phan Bội Châu. Phan Bội Châu đã biết ông là người có lòng nhiệt thành, có dũng khí, có thể đương được gánh nặng, Phan nói với ông rằng: "Mục đích của chúng ta ngày nay là cốt ở cách mệnh, mà cách mệnh sở dĩ thực hành được tất ở trong nước có người vận động, cẩn thiết hơn tại ngoại du học nhiều lần. Bởi vì du học chỉ là bồi dưỡng nhân tài kiến thiết, mà nhân tài thuộc về phần phá hoại thì không thể chỉ dựa vào nhân tài du học được”.Hai ông nghe lời Phan Bội Châu vui lòng trở về nước vận động.

Năm 1908 Trần Kỳ Phong tích cực tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Phong trào chống thuế bị đàn áp dữ dội, người bị bắn chết, bị tra tấn đến tàn phế, bị đầy đi Lao Bảo, Buôn Ma Thuột, Côn Đảo. Tòa án Nam triều tỉnh Quảng Ngãi kết án ông vắng mặt với án bắt được chém lập tức. Ông rút vào hoạt động bí mật.

Ngày 5/11/1908 Trần Kỳ Phong bị chính quyền thực dân bắt ở Cửa Đại (Quảng Nam). Thực dân Pháp và Nam triều đã hai lần xét lại bản án, cuối cùng tuyên án ông 13 năm tù khổ sai. Ở trong nhà tù của đế quốc, Trần Kỳ Phong vẫn kiên cường bất khuất, liên tục đấu tranh. Ông luôn luôn sẵn sàng hy sinh thân mình cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc với quan niệm: "Góc biển rừng hoang xương anh hùng không cần lựa chỗ”.

Khi mãn hạn tù trở về, tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1923 ông lập "Hội Thiếu niên ái quốc", năm 1925 ông thành lập "Công ái đảng”. Khi hội Phục Việt do Tôn Quang Phiệt, Trần Phú thành lập ở thành phố Vinh sau đổi thành Đảng Tân Việt, ông tham gia với kinh nghiệm hoạt động dày dạn của mình, ông đã cùng Tú Kiên, Giải Huân truyền lại cho lớp trẻ như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Sỹ Sách.

Năm 1925, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về Trung Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội.

Năm 1926 ông tham gia đảng Tân Việt rồi Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Cuối năm 1929, ông bị thực dân Pháp bắt.

Khi mãn hạn tù, mặc dù tuổi già, sức yếu ông vẫn tận tụy, trung thành với Tổ quốc. Khi ông ra tù thì Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập, ông thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng như những chiến sĩ cộng sản.

Trần Kỳ Phong mất năm 1941.


NGUYỄN THẦN HIẾN

Nguyễn Thần Hiến còn có tên khác là Nguyễn Như Khê, bút tự Phác Đình, biệt hiệu Chương Chu và Hoàng Xương, tục gọi là Hội đồng Hiến. Ông sinh năm 1856. Ông vốn gốc người Quảng Trị, tổ làm quan đời Gia Long.

Nguyễn Thần Hiến có mối quan hệ với Phan Bội Châu từ tháng giêng năm 1904 ở Sa Đéc khi Phan Bội Châu vào Nam Kỳ kết giao với cắc đổng chí. Vì vậy tháng 5/1904, hội Duy tân thành lập, Phan Bội Châu đã giao cho Nguyễn Thành vào Hà Tiên bàn bạc với Nguyễn Thần Hiến để phát triển hội ở các tỉnh Nam Kỳ.

Nguyễn Thần Hiến hăng hái tham gia và trở thành một yếu nhàn của Duy tân hội. Ông đã sáng lập "Khuyến du học hội" và đã đem một phần tài sản riêng với số tiền 20.000 đồng sung vào quỹ Hội. Việc làm của ông đã gây thành phong trào quyên góp, ủng hộ quỹ của phong trào Đông du do Duy tân hội tổ chức ở các tỉnh Nam Kỳ.

Năm 1908 ông lên Sài Gòn tiễn chân con trai duy nhất là Nguyễn Như Bích Đông du sang Nhật. Nguyễn Thần Hiến đã bị mật thám Pháp theo dõi từ lâu, nên sau việc này ông bị nhà cầm quyền Pháp truy nã gắt gao.

Cuối năm 1908, Nguyễn Thần Hiến phải cùng Nguyễn Quang Diêu, Nguyễn An Khương (thân phụ Nguyễn An Ninh), Bùi Chí Nhuận chạy vào Cần Thơ, ra biển trốn sang Cao Miên rồi đi Xiêm La nơi có cơ sở của những người Việt Nam yêu nước. Các ông ở Băng Cốc hơn một năm rồi sang Trung Quốc, hoạt động ở các tỉnh Quảng Đông, Hồng Kông, Thượng Hải, Hàng Châu sau đó sang Nhật Bản, hoạt động trong phong trào Đông du của Phan Bội Châu.

Tháng 5/1912 Phan Bội Châu tuyên bố giải tán Duy tân hội thành lập Việt Nam Quang Phục hội, chủ trương chống thực dân Pháp với tôn chỉ độc lập, dân chủ. Nguyễn Thần Hiến được cử giữ chức Tổng ủy viên Sự vụ trong Chính phủ lâm thời giải phóng dân tộc. Nguyễn Thần Hiến đại diện cho Nam Kỳ ở bộ Bình nghị. Ngoài các nhiệm vụ ở bộ Sự vụ và bộ Bình nghị, Nguyễn Thần Hiến còn lo quyên góp tiền dùng vào công cuộc cách mạng cứu nước.

Để có vũ khí chuyển về nước đánh Pháp, Nguyễn Thần Hiến cùng các ông Nguyễn Quang Diêu, Huỳnh Hưng, Đinh Hữu Thuật tổ chức sản xuất tạc đạn trong tô giới Anh ở Hồng Kông. Không may, một người sơ ý để tạc đạn nổ, các ông bị cảnh sát Anh ở Hồng Kông bắt ngày 5 tháng 6 năm 1913. Bọn cầm quyền Pháp ở Việt Nam yêu cầu cảnh sát Anh giao cho Pháp để đưa về xét xử tại Hà Nội. Các ông bị giải về Hà Nội giam ở nhà lao Hỏa Lò, bị chúng tra tấn cực kỳ dã man, tàn bạo. Nguyễn Thần Hiến đã bước vào tuổi 58, sức yếu không chịu được đòn đã bị liệt nửa người, thổ huyết, bọn Pháp đưa ông vào nhà thương của nhà lao. Tại đây ông tiếp tục tuyệt thực.

Ông mất vào ngày mồng 1 tết Nguyên đán năm Giáp Dần (ngày 26 tháng Giêng năm 1914) Bọn cầm quyền Pháp không chôn cất ông, mà đưa ông qua trường Thuốc cho sinh viên giải phẫu. May sao có mấy sinh viên Nam Kỳ như Nguyễn Tấn Đởm, Võ Xuân Hoành nhận diện được ông và giữ nguyên thi hài và báo cho gia đình. Một tháng sau, cháu ruột gọi ông bằng chú từ Hà Tiên ra xin xác nhà cầm quyền, đưa về táng ở nghĩa trang Nam Việt ở Hà Nội (Sau năm 1954 nghĩa trang này dời đi, nay không rõ mộ ông chuyển đi đâu).

TRẦN CHÁNH CHIẾU

Trong số người hoạt động công khai cho Hội Minh tân ở Nam Kỳ, hăng hái, có hiệu quả nhất là Gilbert Trần Chánh Chiếu, sinh năm 1867. Ông còn có nhiều bút danh, bút hiệu, nhưng bút danh thường ký là Trần Tứ Duy, Trần Thiếu Chánh, Gilbert Chiếu. Ông là con cụ Tú tài Trần Hữu Thường một nhà giáo mẫu mực và nhiệt tình yêu nước. Quê ở xã Phú Thuận, quận Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ông làm quan phủ, nhưng hoạt động tích cực cho phong trào Minh tân, nên được gọi là quan phủ Minh tân.

Hoạt động của Trần Chánh Chiếu trên hai lãnh vực kinh tài và báo chí. Hoạt động kinh tài của ông chủ yếu gây quỹ cho Hội Minh tân, gửi sang Nhật nơi học sinh du học.

Hội Minh tân khuyến khích lập các hãng buôn, công ty, nhà hàng, khách sạn. Riêng Trần Chánh Chiếu đã đứng chủ hoặc hùn vốn với người khác kinh doanh như:

- Nam Trung khách sạn ở đường Amiral Korantz (sau đổi là Phan Văn Hùm) do Trần Chánh Chiếu làm Tổng lý.

- Minh tân khách sạn ở Mỹ Tho, cơ sở của Huỳnh Đình Điển, nhân sĩ yêu nước ở Gò Công, là sáng lập viên của Nam Kỳ Minh tân công nghệ, cho Trần Chánh Chiều mượn làm nơi đứng tên hội họp, do Trần Chánh Chiếu quản lý. Sau vì ông bận quá nhiều việc phải giao cho Huỳnh Đình Điền quản lý.

- Nam Kỳ Minh tân công nghệ do Trần Chánh Chiếu và Nguyễn Thành Út sáng lập ở Chợ Lớn do Trần Chánh Chiếu làm Tổng lý. Cơ sở chuyên sản xuất xà bông, diêm quẹt, dệt vải.

- Mỹ Tho Minh tân túc mễ Tổng cuộc Mỹ Tho chuyên mua lúa. Trần Chánh Chiếu lấy danh nghĩa là phủ hàm hùm vốn 1 000 đồng.

- Công ty Nhàm ở Sài Gòn lập nhà in nhật trình, sách vở do một người Pháp là Pirre Jeautet làm Tổng lý, Trần Chánh Chiếu làm phó.

Những người tham gia Minh tân hội còn thành lập rất nhiều công ty, khách sạn, nhà hàng, thương cuộc như Minh tân thương cuộc ở Tầm Vu, Tân An; Nam Mỹ thương quán ở Vĩnh Long; Nam Mỹ Thanh thương quán ở Vĩnh Long; Nam Hoà Lợi ở Bến Tre, kinh doanh rượu, thuốc tây, dụng cụ học trò...Tế Nam khách sạn ở Sài Gòn; Nam Đồng Hướng Lữ quán ở Cao Lãnh; Y dược công ty ở Sài Gòn; Nam Hoà buôn bán lúa gạo ở Bến Tre và rất nhiều cơ sở kinh doanh ở Nam Kỳ.

Trần Chánh Chiếu và các đồng chí của ông trong phong trào Minh tân còn tích cực hoạt động trên lãnh vực báo chí. Các tờ báo Nông Cổ mín đàm, Đại Nam Đồng Văn nhật báo, Lục tỉnh tân văn đã có rất nhiều bài xã luận, bình luận, tường thuật... cổ động cho phong trào Minh tân. Đáng chú ý là hai tờ báo lớn:

- Nông cổ mín đàm vốn là của Canavaggio người Pháp, hội viên Hội đồng quản hạt. Sau giao cho các ông Đỗ Thúc, Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Tấn Phong. Khi Canavaggio qua đời thì Nguyễn Chánh sắt làm chủ bút. Năm 1905 báo Nông cổ mín đàm thường xuyên hô hào canh tân, cải cách nông nghiệp, công nghệ... Trong các năm 1906, 1907 khi Trần Chánh Chiến làm chủ bút, ông đã đăng trên báo này chủ trương Minh tân kêu gọi các nghiệp chủ, điền chủ, tổng lý gia nhập Hội Minh tân. Sau đó lại tập hợp các bài mình viết in thành một tập sách với nhan đề “Minh tân tiểu thuyết”.

- Năm 1907 tờ Đại Nam Đồng văn Nhật báo đổi thành Đông cổ tùng báo. Tờ báo này là của người Pháp tiến bộ là Francois Henry Schneider. Tờ Đông cổ tùng báo đã đăng nhiều bài kêu gọi lòng yêu nước, chống phong kiến góp phần hỗ trợ phong trào Duy tân. Báo tồn tại được 8 tháng, thì ngày 11/11/1907 bị đóng cửa.

- Báo Lục tỉnh tân văn, chủ nhiệm là Pierre Jeantet là người Pháp tiến bộ, chống thực dân Pháp. Báo do Trần Chánh Chiếu làm phó chủ bút. Lục tỉnh tân văn công khai lập trường chính trị và hoạt động của hội Minh tân. Báo còn có các chuyên mục về văn nghệ, thơ, nhạc, tuồng, cải lương của các cây bút tiến bộ như Đặng Thúc Liêng, Hoàng Thế Trạc. Đến số 51 thì Trần Chánh Chiếu bị bắt, Lương Khắc Ninh thay thế, ra tới số 52 thì bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa. Đây là báo công khai chống thực dân Pháp


NGUYỄN HÁO VĨNH

Nguyễn Háo Vĩnh sinh ngày 19 tháng 2 năm 1893 tại làng Bình Đức, Long Xuyên. Theo chủ trương của Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Thành, năm 1905 đưa thanh niên Việt Nam “Đông du” sang Nhật học.

Nguyễn Háo Vĩnh khi đó ở vào tuổi 13 nhưng tác phong nhanh nhẹn, học hành thông minh, sớm căm thù giặc Pháp cướp nước nên được cử đi học đợt đầu ở Nam Kỳ.

Sang Nhật, Nguyễn Háo Vĩnh vào học trường công nghệ, song hoạt động của phong trào Đông du đã bị mật thám Pháp theo dõi chặt chẽ.
Năm 1909 nhà cầm quyền Pháp thông đồng với chính quyền Nhật Bản trục xuất Phan Bội Châu, Cường Để và du học sinh Việt Nam tại Nhật. Phần lớn học sinh chạy về Trung Quốc, Xiêm La. Riêng Nguyễn Háo Vĩnh được ông Nguyễn Háo Văn đón về Hồng Kông tiếp tục học ở trường Saint Joseph English.

Khi Nguyễn Háo Vĩnh về nước thì xảy ra việc Minh Tâm công nghệ do các ông Trần Chánh Chiếu, Đặng Thúc Liêng đang xúc tiến xây dựng nhà máy diêm quẹt ở Mỹ Tho phải ngừng lại vì không được nhà cầm quyền cấp phép.

Trước tình hình đó Nguyễn Háo Văn dẫn Nguyễn Háo Vĩnh đến trình diện Toàn quyền Klobukowski. Nguyễn Háo Vĩnh bị Toàn quyền Đông Dương tra hỏi anh sang Nhật học do ai cung cấp tiền. Nguyễn Háo Vĩnh bình tĩnh trả lời: “Tôi đi Nhật học do tiền của công ty Minh tân cung cấp để sau này trở về trông nom xưởng diêm quẹt của công ty”.

Với ý đồ gài Nguyễn Háo Vĩnh vào tổ chức Minh tân để thực hiện âm mưu phá tổ chức yêu nước từ trong phá ra, Toàn quyền Klobu Kowski hỏi ông Nguyễn Háo Văn có muốn mua lại cổ phần Minh tân công nghệ không? Ông Nguyễn Háo Văn trả lời là muốn mua phần lớn cổ phần công ty Minh tân để Nguyễn Háo Vĩnh nắm quyền kiểm soát nhà máy diêm quẹt Mỹ Tho. Toàn quyền Đông Dương bắt Trần Chánh Chiếu giao quyền điều khiển nhà máy hợp quẹt cho Nguyễn Háo Vĩnh, không giao cho Đặng Thúc Liêng nữa. Trần Chánh Chiếu thực hiện ngay lệnh của Toàn quyền Đông Dương.

Từ đó Nguyễn Háo Vĩnh tiếp tục xây dựng và quản lý nhà máy diêm quẹt. Khi nhà máy đã đi vào hoạt động có nền nếp, Nguyễn Háo Vĩnh tuyên bố xưởng bị thua lỗ xin toà phát mãi để giao tiền lại cho Minh tân.

Từ ngày 3/11/1909 Kỳ Ngoại hầu Cường Để bị Chính phủ Nhật trục xuất, Cường Để về Hồng Kông. Năm 1913, chí sĩ Nguyễn Thần Hiến từ Nam Kỳ vượt biển sang Hồng Kông mời Kỳ Ngoại hầu Cường Để về Nam Kỳ để lòng dân tin tưởng. Cuối tháng 5/1913 Nguyễn Háo Vĩnh khi đó đang học ở Hổng Kông đã giúp Kỳ Ngoại hầu về Nam Kỳ. Cường Để trở lại Hồng Kông cũng bị mật thám Anh bắt, ông Nguyễn Háo Vĩnh và ông Lâm Cần ở Hồng Kông thuê luật sư bào chữa với tiền thế chân là 2000 đồng, nên Cường Để chỉ bị giam 8 ngày thì được tha. Sau đó Cường Để đi Anh, đem theo ông Trương Duy Toản giỏi tiếng Pháp, Đồ Văn Y giỏi tiếng Đức, Lâm Tỷ giỏi tiếng Anh từ Singgapor đi Luân Đôn (Anh). Nguyễn Háo Vĩnh sau khi tốt nghiệp ở Hồng Kông cũng đi Luân Đôn liên lạc với Cường Để.

Năm 1916 Nguyễn Háo Vĩnh bị mật thám Anh bắt ở Hồng Kông giao cho mật thám Pháp ở Sài Gòn. Toà kết án tử hình, sau nhờ cụ Nguyễn Háo Văn chạy chọt, nên được giảm án. Khoảng năm 1923 được tha, ông trở về Sài Gòn làm báo. Ông là sáng lập viên của hai tò báo Hoàn Cầu tân văn và Nam Kỳ kinh tế báo. Ông cũng là chủ nhà in Xưa Nay ở Sài Gòn.

Năm 1928, Nguyễn Háo Vĩnh bị bắt giải ra toà về tội “rải giấy in nói chuyện” tầm bậy (thực ra là chuyện chính trị).

Ngày 29/7/1934 Nguyễn Háo Vĩnh thọ pháp pháp (tu theo pháp môn Cao Đài Chiếu minh tam thanh).

Nguyễn Háo Vĩnh mất ngày 19 tháng 6 năm Tân Tỵ (1941). Mộ phần xây có tháp tại trước nhà đàn mang tên “Trước Tiết Tàng Thơ” tại Thủ Thiêm, Thủ Đức nay là phường An Khánh quận 2 thành phố Hồ Chí Minh mà ông xây dựng từ khi chưa theo đạo Cao Đài.

ĐẶNG THÚC LIÊNG

Đặng Thúc Liêng sinh năm 1867, thuở nhỏ tên là Đặng Văn Huấn, năm 18 tuổi ông lấy biệt hiệu là Trúc Am, năm 30 tuổi ông đổi tên là Đặng Thúc Liêng, biệt hiệu Lục Hà Tẩu, bút tự Mộng Liêm. Ông nguyên quán ở làng Tân Phú Trung, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định nay thuộc xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 1904, Phan Bội Châu, Nguyễn Thành... thành lập Duy tân hội, phát động phong trào Đông du. Phong trào từ miền Trung nhanh chóng phát triển vào Nam Kỳ. Những người hưởng ứng phong trào Đông du đầu tiên là Trần Chánh Chiếu (Gibbert Chiếu) Đặng Thúc Liêng, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương... Đặng Thúc Liêng đã tích cực trong việc vận động tuyển chọn thanh niên đi du học, quyên góp tài chính cho phong trào Đông du. Đặng Thúc Liêng hoạt động trên nhiều lãnh vực: báo chí, văn, thơ, dịch thuật, phê bình văn học, sân khấu, y dược. Ông còn là người tích cực cổ động cho việc học chữ Quốc ngữ.

Đặng Thúc Liêng với bút danh Lục Hà Tẩu, Mộng Liêm, Phụ viên thập bát (18 thôn vườn trầu), ông đã viết cho các tờ báo Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đại Việt Tạp chí, Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn, Thần chung, Công luận báo. Từ chỗ tham gia viết báo, Đặng Thúc Liêng đã giữ vai trò người chủ trương ra báo chí. Năm 1933, ông sáng lập và làm chủ bút báo Việt Dân, xuất bản ở Sài Gòn, công kích bọn tay sai, thân Pháp, đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu thân Pháp. Tháng 1 năm 1938 khi nhà cầm quyền Pháp đóng cửa báo Việt Dân, ông chuyển sang phụ trách biên tập tờ Tạp chí Văn học Đông Phương.

Trong hoạt động báo chí của ông có những bài xuất sắc, nêu cao tinh thần tự chủ dân tộc như bài xã luận “Quốc văn hồn” đăng ở Đông Pháp thời báo số tháng 5/1926, đăng lại trên báo Đông Phong số 31 tháng 12 năm 1943.

Trong văn học, Đặng Thúc Liêng sáng tác, biên khảo, dịch thuật, làm thơ, bình luận. Trong đó sách văn học có Quốc văn hồn, Hán văn thi tập, Việt âm thi tập, Tiểu Phù viên thi văn toàn tập, Trương Vĩnh Ký hành trạng, Việt Nam Trung lương công thần, Lê Văn Duyệt. Sách khuyến nông có các quyển Tâm bổn mễ thượng, Canh hoang biến pháp. Sách giáo dục đạo đức có Tâm quyền giải, Tu lưỡng học dĩ phục nhơn tâm... Sách Tôn giáo có Cao Đài đàm quái giáo nghị...

Trong hoạt động văn học, thơ của Đặng Thúc Liêng cũng được độc giả đương thời ca ngợi. Đặc biệt thơ của ông ca tụng những canh tân của đất nước theo chủ trương của Duy tân hội. Ông có bài thơ trên báo Nông cổ mín đàm ca ngợi báo có ích đốivới quốc dân. Báo Nông cổ Mín đàm mở cuộc thi thơ cũng lấy bài thơ “Sùng tu VănThanh miếu” của ông làm đề tài cho cuộc thi thơ. Trong số những người hưởng ứng có nhà văn yêu nước Nguyễn Chánh Sắt mà hai năm sau, ông cùng với Trần Chánh Chiếu là yếu nhân của phong trào Duy tân và Đông du. Đặng Thúc Liêng cũng sáng tác cổ vũ cho phong trào thơ mới. Ông còn phê bình thơ như bài: “Đọc Thanh quan thi hữu cảm thỉnh dẫn” đăng trên “Đại Việt tạp chí” năm 1918. Ông quan niệm: “Thi ca là để tỏ cái chí khí và ý thức của người, chẳng phải để làm trò vui về lối văn chương... Vậy mới biết người mà không chí khí, không ý thức, thời có thể làm được thi ca gì”.

Về sân khấu, Đặng Thúc Liêng đã có công phục hồi, chấn hưng loại hình hát tuồng, hát bội, hát cải lương. Ông soạn sách Tuồng “Trưng nữ vương” ca ngợi khí phách chống giặc ngoại xâm của Trưng Trắc, Trưng Nhị.

Với chủ trương “Người Nam dùng thuốc Nam”, năm 1934, Đặng Thúc Liêng sáng lập “Việt Nam y dược hội”.

Đặng Thúc Liêng còn là một nhà từ thiện, năm 1926, các tỉnh Bắc Kỳ bị vỡ đê, lụt, Đặng Thúc Liêng đã đi khắp nơi diễn thuyết “Quốc văn hồn” kêu gọi đồng bào lạc quyên, cứu trợ...

LÊ CƠ

Lê Cơ sinh năm 1870 là con ông Lê Tuân ở Quảng Nam thuộc dòng dõi vua Lê Thánh Tông. Ông sinh quán ở làng Phú Lâm, huyện Lễ Dương, sau đổi là Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Lê Cơ là người có khí phách, ngang tàng, sẵn sàng đương đầu với cường quyền, đấu tranh cho công bằng xã hội. Ở làng Phú Lâm, chức Lý trưởng từ xưa đến nay không ai muốn làm, vì thế đã ba năm liền, Phú Lâm không có lý tưởng. Tri phủ Thăng Bình ép ông ra làm lý trưởng. Từ đó ông còn có tên là Lý Cơ hay Lý Sáu. Lý Cơ đã thực hiện cải cách, xóa bỏ những bất công ở làng Phú Lâm tồn tại từ nhiều năm nay.

Những cải cách của Lê Cơ lại đi đúng đường lối của nhóm Minh tân xã trong hội Duy tân do Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương là chấn hưng kinh tế, lập hội buôn, bài trừ hủ tục, mở mang việc học để khai hóa dân trí làm cho quốc phú, dân cường. Đó là điều thực dân Pháp và bọn quan lại Nam triều làm tay sai cho chúng đang thực hiện một chính sách kìm hãm kinh tế, ngu dân để chúng dễ bề thống trị.

Trong buôn bán, Lê Cơ cũng thực hiện có bài bản, xin bằng của quan phủ rồi mới lập Hội buôn. Hội buôn này theo Huỳnh Thúc Kháng chỉ: “mua giấy bút bán cho học trò, cùng mắm muối bán cho dân cày, như một cái quán trong nhà quê”. Nhưng thực ra đó là một đại lý cho người nghèo đến nhận hàng đem đi bán rồi ăn hoa hồng. Hội buôn mà lại có cả lò rèn rèn nông cụ và cả lập vườn trồng quế. Lê Cơ đã biến hội buôn thành nơi hội họp công khai. Vì thế quan phủ đòi lại bằng Lê Cơ không chịu trả cứ thế dằng co mãi. Cuối cùng quan phủ kiện Lê Cơ lên toà sứ. Sứ gọi hai người lên hầu toà. Quan phủ cay cú lắm, còn quan sứ đâu cũng có thực lòng xử cho Lê Cơ được kiện. Lê Cơ biết như vậy, song ông không chịu lùi mà hội lập hội Bảo hiểm vườn quế với quy mô lớn có trạm gác, có cắm cờ biển, tất nhiên các chi phí đó các chủ vườn quế phải đóng góp. Điều đó làm cho quan phủ và tổng lý, chức dịch tay chân của quan phủ tức muốn chết. Song Lê Cơ không sợ, vẫn dũng cảm trong cuộc chiến. Đang kỳ thu thuế, các chánh tổng 4 tổng mở cuộc hát bội để thu tiền của các xã. Lê Cơ viết câu đối trên vải điều treo công khai trong đám hát bội:

Dịch:

Tổng thời thuế chưa xong, xâu chưa hết, lợichưa hưng, hại chưa trừ, vui gì vậy?   
Xã thì gia chẳng an, trẻ chẳng học, trai chẳng cày, gái chẳng dệt, hát làm chi.


Chánh tổng tức lắm, thu đôi câu đối. Những cải cách của Lê Cơ được phe Duy tân ca ngợi, nhưng bọn cầm quyền Pháp và Nam triều thì bầm gan, tím ruột. Chúng ton hót về mối nguy cơ đối với nền bảo hộ của Pháp quốc ở Việt Nam, đến nỗi công sứ Pháp xưa xử cho ông được kiện nay cũng phải đề phòng. Công sứ phải cho mở một con đường chiến lược từ phủ Thăng Bình qua Phú Lâm tới huyện Tam Kỳ để chở quân đối phó với loạn Lê Cơ - một cuộc nổi loạn tưởng tượng đó, thực dân Pháp đóng một đồn binh ngay giữa làng Phú Lâm, cái lô cốt cao nghện chĩa nòng khẩu súng máy vào nhà Lê Cơ.

Lê Cơ đâu có sợ cái đồn đó, ngay từ khi bọn giặc mới tới, đi chặt tre, cắt gianh của dân, đã bị Lê Cơ sai tuần đinh lấy gông, gông cổ lại. Tên thiếu uý phải đến xin lỗi. nhận đền mỗi cây tre theo thời giá là hai giác. Chưa hết, tên đồn trưởng nuôi dê, dê chạy sang phá vườn nhà Lê Cơ. Hai lần đầu, ông trói lại đem trả. Lần thứ ba, ông chặt chân dê rồi kêu đồn trưởng ném trả. Tên thiếu uý đồn trưởng cũng không dám làm gì ông.

Tháng 3 năm 1908, nổ ra cuộc cự sưu, kháng thuế của nông dân huyện Đại Lộc rồi nhanh chóng lan ra cả tỉnh Quảng Nam, rồi tới Thừa Thiên. Thực dân Pháp bắt các ông Trần Quý Cáp cùng nhiều yếu nhân khác xử chém. Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng bị đầy ra Côn Đảo. Lê Cơ và anh rể là Lê Lương bị kết án 3 năm tù. Lê Cơ ở tù về vẫn nuôi ý chí chống Pháp, song có một điều ông giác ngộ là không thể chấn hưng kinh tế, thực hiện dân quyển, khai hóa dân trí khi đất nước bị giặc Pháp đô hộ, mà trước hết phải vũ trang đánh đuổi giặc Pháp trước. Vì vậy năm 1914 ông đã bí mật gia nhập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Ngãi do các chí sĩ Lê Ngung, Lê Đình Dương, Nguyễn Thuỵ, Nguyễn Suý lãnh đạo (*). Trong cuộc khởi nghĩa này, Lê Cơ được cử giữ chức Ngự tiền hộ giá Đại tướng quân (đặc trách hầu cận vua Duy tân) kiêm Tổng đốc Nam Ngãi Lưỡng Quảng (Quảng Nam - Quảng Ngãi). Ông được phân công cùng Thái Phiên nổ phát súng lệnh ở đồn Mang Cá trong kinh thành Huế.

Khởi nghĩa được quyết định nổ ra vào tối mùng 3 rạng ngày mùng 4 tháng 5 năm 1916. Song các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không ngờ rằng cuộc khởi nghĩa đã bị tiết lộ trước 2 tiếng đồng hồ. Giặc Pháp đã thu súng của lính khố xanh, khố đỏ, cấm trại, giặc Pháp đã điều động lính Âu - Phi, lính Lê dương chặn các ngả đường, bao vây các trung tâm khởi nghĩa.

Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Để, Nguyễn Duy Siêu, Phan Thành Tài, Lê Cơ bị giặc Pháp bắt. Giặc Pháp đã xử chém các ông Thái Phiên,Trần Cao Vân, Tôn Thất Để, Nguyễn Quý Siêu, Phan Thành Tài ở An Hoà, đày vua Duy Tân sang đảo Reunion. Lê Cơ, Trần Huỳnh, Trần Tùng Vân bị đày đi Lao Bảo cùng với 60 đồng chí. Ngày 21 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1918), bọn cai ngục bắt các tù nhân đi lao dịch. Lê Cơ được chứng kiến tên quản ngục hành hạ dã man một người tù bị bệnh kiết lỵ, ông vô cùng phẫn uất, sẵn con dao vót nan cầm trong tay, ông lao vào đòi chặt đầu tên quản ngục, lập tức một tên lính đứng gần đó xả một loạt đạn vào người ông, ông hy sinh.

(*) Họ Lê dòng dõi Lê Thánh Tông ở tỉnh Quảng Ngãi có rất đông người tham gia Việt Nam Quang Phục hội như Lê Đình Dương con cụ Lê Đĩnh, Lê Bá Trinh, nay thuộc quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, hai anh em Lê Chân Hàn (Lê Cảnh Thái), Lê Chân Nam (Lê Cảnh Vận)... đều là những yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội.

ĐẶNG NGUYÊN CẨN

Đặng Nguyên Cẩn tên cũ là Đặng Thúc Nhận, lại có tên là Đài Nhận, hiệu Thai Sơn, sinh năm Đinh Mão (1867).

Ông là người thông tuệ, học giỏi, thi đỗ cử nhân khoa Mậu Tý (1888), đỗ phó bảng khoa Ất Mùi (1895), năm 29 tuổi. Ông được bổ làm giáo thụ huyện Hưng Nguyên, sau thăng Đốc học Hà Tĩnh.

Năm 1906, Đặng Nguyên Cẩn xin phép nhà cầm quyền Pháp mở trường tư thục dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp ở huyện Thanh Chương, Nghệ An. Ông còn thành lập nhiều hội buôn, trong đó có Triều Dương thương quán để lấy tiền lãi ủng hộ quỹ Đông du và là nơi các đồng chí hội họp. Các hoạt động yêu nước của ông ảnh hưởng sâu rộng trong các giới đồng bào Nghệ Tĩnh. Nhà cầm quyền Pháp và Nam triều lo sợ ảnh hưởng của ông ngày càng lan rộng gây khó khăn cho sự cai trị của chúng, nên đổi ông vào Bình Thuận và giám sát ông chặt chẽ. Tuy ông đã đổi vào tận Bình Thuận nhưng Cao Ngọc Lễ tên phản bội đã giết chết Tống Duy Tân và nhiều nhà hoạt động cách mạng khác, nay được Pháp cho làm Án sát Nghệ Tĩnh vẫn cho người giám sát ông, kiểm soát các thư từ của ông gửi về Nghệ Tĩnh và của các bạn ông từ Nghệ Tĩnh gửi vào Bình Thuận.

Năm 1908 nhân phong trào chống thuế ở Trung Kỳ, thực dân Pháp vu cáo cho ông âm mưu nổi loạn, bắt ông đày đi Côn Đảo. ít lâu sau tên Cao Ngọc Lễ cũng bắt Ngô Đức Kế đưa đi đày ở Côn Đảo cùng với nhiều nhà cách mạng khác. Đặng Nguyên Cẩn không những là một nhà sư phạm tài giỏi, một nhà hoạt động chính trị nhiệt thành mà còn là một nhà văn hóa. Đặng Nguyên Cẩn không những là một nhà sư phạm tài giỏi, một nhà hoạt động chính trị nhiệt thành mà còn là một nhà văn hóa. Ông được giới sĩ phu Nghệ Tĩnh đầu thế kỷ XX suy tôn là bậc đàn anh về đạo đức và trình độ uyên tâm Hán học. Một số bài thơ của ông được in trong tập “Thi tù tùng thoại” và “Thi tù thảo” của Huỳnh Thúc Kháng. Trong đó có một số bài được liệt vào loại xuất sắc như:


   TIỄN PHAN SÀO NAM NAM DU (1)

   Bắc châu vị dĩ phục Nam châu,
   Hồ hải hào tâm bất khẳng thâu
   Tự tiếu thử sinh do bạch diện(2)
   Khả vô kỳ khí ngạo thương châu
   Thai Dương(3) thái được tầm cao sĩ,
   Trường Lũy(4), quan bi điếu cổ hầu
   Độc hữu Tam Thai(5) nhàn tàn hữu;
   Tương tư tịch tịch ỷ giang lâu


Dịch thơ:

   TIỄN CỤ PHAN SÀO NAM VÀO NAM

   Vừa ra Bắc đó lại vào Nam
   Hồ hải lòng hăng bước chửa nhàm
   Tự nghĩ thân này còn mặt trắng
   Há không khí lạ ngạo đời phàm
   Cổ hầu lũy nọ tìm bia đá,
   Cao sĩ làng kia hái thuốc thơm
   Lựa có Tam Thai người bạn cũ,
   Giang lầu ngồi dựa ngóng thâu đêm.


            Huỳnh Thúc Kháng dịch
         (Thi tù tùng thoại - Nxb Nam Cường Sài Gòn, 1951)

Do chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc Pháp nên năm 1921, sau 13 năm bị đày đọa ở nhà tù Côn Đảo, thân hình ông tiều tụy, chỉ 2 năm sau, năm 1923 ông mất.

(1) Vào khoảng năm 1904 Phan Bội Châu sau khi ra Bắc gặp gỡ các chí sĩ Bắc Kỳ, trở vào Nam kết giao với các nhân sĩ lục tỉnh.
(2) Chỉ học trò, ý nói mình chưa làm nên sự nghiệp gì.
(3) Gần cửa Thuận An, quê của Hoàng Quang tác giả của bài Hoài Nam khúc
(4) Trường Lũy: Lũy Trường Dục, cũng gọi là Lũy Thày do Đào Duy Từ đắp ở Quảng Bình.
(5) Tam Thai: tên một ngọn núi quê của Tác giả. Biệt hiệu Thái Sơn của tác giả lấy từ núi này.


LÊ KHÁNH

Lê Khánh sinh năm 1886, người huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình công giáo. Ông học trường Tiểu chủng viện Xã Đoài, sau khi tốt nghiệp ông được vào học trường Đại chủng viện. Những sinh viên học trường Đại chủng viện được coi là Thày già, vì chỉ học trong vài năm là được phong Linh mục. Song Lê Khánh cảm thấy nỗi nhục nhã của người dân mất nước, trong khi cả dân tộc đang phải hy sinh cả núi xương, sông máu để đánh đuổi giặc Pháp thì mình lại đi tu. Ý chí chống giặc Pháp, muốn xả thân cứu nước thôi thúc trong tâm can Lê Khánh đã lâu, song quy định nghiêm ngặt của nhà trường là sinh viên không được tiếp xúc với bên ngoài, không được đọc các sách báo ngoài kinh sách của Giáo hội, nên không rõ tình hình trong nước và trên thế giới. Lê Khánh chỉ biết tâm sự cùng Lưu Song Tử những nỗi căm thù người Pháp của mình, nhưng cả hai người đều không biết hành động ra sao. May sao trong số những người truyền giáo châu Âu có một người tên Việt gọi là Bạch Nhị Nghĩa đã đem tình hình Nga - Nhật chiến tranh và các phong trào cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong đó có tổ chức Duy Tân hội và phong trào Đông du do nhà chí sĩ Phan Bội Châu tổ chức và lãnh đạo.

Bạch Nhị Nghĩa cũng vì mối quan hệ trên với Lê Khánh và Lưu Song Tử mà ngay trong năm đó bị bãi chức truyền giáo. Tuy nóng lòng yêu nước, nhưng Lê Khánh cũng như Lưu Song Tử phải đợi đến năm Bính Ngọ và năm Kỷ Vị (1906 - 1907), tốt nghiệp được cử làm thày giảng ở Tòa Giám mục mới thoát được sự khống chế của các linh mục người Pháp, được tiếp xúc với những người ngoài tôn giáo, trong đó có ông Trần Văn Bỉnh là giáo dân tham gia Duy Tân hội, đã giới thiệu Lê Khánh với ba vị Linh mục là Nguyễn Trường, Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thận Đồng và thày già Mai Lão Bạng đều là chức sắc trong Tòa giám mục địa phận Vinh. Ba vị Linh mục yêu nước đã theo dõi từng bước đi của hai sinh viên Đại chủng viện, nên khi được ông Trần Văn Bỉnh giới thiệu ba vị linh mục đã giao nhiệm vụ cho hai thày già Lê Khánh và Lưu Song Tử.

Khi Lê Khánh và Lưu Song Tử tham gia hoạt động hội Duy Tân thì ba vị linh mục phân công Mai Lao Bạng xuất dương sang Nhật giúp đỡ Hội chủ, cử Lê Khánh vận động thanh niên, giáo dân ở huyện Hương Sơn. Sau đó Lưu Song Tử được cử sang Nhật học, Lê Khánh cùng hoạt động với Đặng Thái Thân.

Lê Khánh cùng Đặng Thái Thân tiếp tục vận động thanh niên công giáo sang Nhật và quyên tiền gửi sang Nhật. Lê Khánh bị địch truy nã gắt gao, nhưng ông vẫn cùng Đặng Thái Thân cố gắng gây dựng lại cơ sở. Ông cùng Đặng Thái Thân dự định vũ trang khởi nghĩa vì sợ rằng nếu cứ để cho địch khủng bố thì dần dần phong trào sẽ đi đến chỗ tan rã. Thực dân Pháp đàn áp Duy Tân hội và phong trào Đông du ngày càng khốc liệt, nhiều hội viên bị bắt. Trong một chuyến công tác, Lê Khánh bị bắt, bị giam ở nhà lao Vinh. Giặc tra tấn ông vô cùng dã man, nhưng ông kiên trinh bất khuất, giặc không khai thác được tài liệu gì. Ông đã nhặt nhạnh, tích trữ lạt gói bánh tày bện lại thành dây để leo leo lên mái nhà, dỡ ngói trốn khỏi nhà lao. Năm 1910 Lê Khánh cùng Đặng Thái Thân đến họp ở làng Phan Thôn. Thực dân Pháp cho quân đến bao vây làng rồi xông vào bắt, Đặng Thái Thân nấp ở máng nước giữa hai mái nhà, dùng súng lục bắn trả bọn mật thám, giết chết được mấy tên, dành viên cuối cùng tự bắn mà chết, quyết không để cho giặc bắt. Lê Khánh thu hút giặc về phía mình để cứu Ngư Hải, bị trúng đạn chết, năm đó ông mới 25 tuổi.

HỒ SĨ TẠO

Hồ Sĩ Tạo sinh năm Kỷ Tỵ (1869), người thôn Hòa Cư, làng Nhơn Hưng, tổng An Mỹ, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nay là xã Hòa Cư, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Hồ Sĩ Tạo đậu Tú tài tại trường thi Hương Huế, năm 19 tuổi. Năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891), ông đỗ cử nhân ở trường thi Bình Định. Ông được bổ làm giáo thụ ở Tuy Hòa. Vừa làm quan, ông vừa học, khoa thi Giáp Thìn, Thành Thái thứ 16 (1904), ông đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, năm 36 tuổi. Được bổ làm Thừa phái ở bộ Lại 4 năm, rồi bổ Tri huyện Tân Định, tỉnh Khánh Hòa.

Năm 1905, Hồ Sĩ Tạo, Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Tôn Thất Doãn đã bí mật tiếp xúc với Phan Chu Trinh trong chuyến đi vào Nam tìm bạn đồng tâm. Tuy vậy bọn mật thám Pháp cũng dò xét được cuộc gặp gỡ bí mật của các ông, báo cho Khâm sứ Trung Kỳ và triều đình Huế biết.
Hồ Sĩ Tạo hưởng ứng phong trào Duy tân và hoạt động tích cực cho hội. Đầu năm 1908, Hồ Sĩ Tạo về quê cư tang mẹ. Trong lúc ông đang ở quê thì ở Quảng Nam, Quảng Ngãi nổ ra vụ ''chống thuế, xin xâu". Theo gương các nhà chí sĩ ở Nam - Ngãi, Hồ Sĩ Tạo phát động nhân dân Bình Định noi gương 2 tỉnh Nam Ngãi chống thuế. Tại đây ông kết thân với Tiến sĩ Trần Quý Cáp. Ông đã phát động được phong trào chống thuế, xin xâu rộng lớn ở Bình Định. Nhân dân tín nhiệm mời ông làm minh chủ. Xúc động trước sự tín nhiệm của nhân dân, ông đã từ quan về quê gánh vác công việc nhân dân giao phó.

Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị bọn cầm quyền Pháp đàn áp khốc liệt, hàng trăm người bị bắn chết, bị giam, Hồ Sĩ Tạo cùng nhiều nhà lãnh đạo khác và nhân dân tham gia chống thuế bị thực dằn Pháp bắt. Bùi Giản, Tổng đốc Bình Định tay sai đắc lực của thực dân Pháp khép ông vào tội chết song ông chỉ bị án 12 năm tù giam ở nhà lao Bình Định.

Khi ở trong tù, Hồ Sĩ Tạo làm nhiều thơ, trong đó có bài "Xuân Nhật ngẫu cảm'' như sau:

   "Năm mới ngày xuân cha chả vui
   Vui rồi nghĩ lại vẫn bùi ngùi
   Một thân võng lọng, gông cùm đủ
   Nửa áng xuân thu khổ xướng rồi
   Chương chướng ngoài tai trâu ngựa gọi,
   Khăng khăng trong dạ đá vàng trui
   Từ đây cho đến về sau nữa
   Sau nữa ra răng để thử coi".


Mãi đến năm 1920 ông mới được ra tù. Ông không ra làm quan, ở quê nhà mở trường dạy học, giữ trọn tấm lòng son sắt với đất nước. Ông mất năm Giáp Tuất (1934) tại quê nhà.

LÊ THỊ ĐÀN

Lê Thị Đàn người xóm Chỉ, thôn An Hòa, làng Thế Lại Thượng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình khá giả, có truyền thống yêu nước. Lê Thị Đàn thông minh từ nhỏ, nết na, đức hạnh. Bà được cha mẹ cho theo học chữ Hán, nên sớm hiểu đạo lý làm người.(Việt Nam Danh nhân từ điển của Nguyền Huyên Anh, nhà sách Khai Trí, 62 Lê Lợi, Sài Gòn viết là Nguyễn Thị Đang, có bản chép là Lê Thị Đàn: Trong Tái sinh sinh (Sống trở lại). Phan Bội Châu lại viết là Âu Vân phu nhân - Bài này Phan Bội Châu viết trước khi ông bị bắt (năm 1925).

Tháng 5 năm 1904, hội Duy tân thành lập, Lê Thị Đàn cũng tham gia hoạt động. Phan Bội Châu đã đặt bí danh cho Đàn là Ấu Triệu - tức là "Bà Triệu nhỏ".

Ấu Triệu đã liên hệ mật thiết với Nguyễn Thành, Đặng Thái Thân và các yếu nhân khác của hội Duy tân. Ấu Triệu đã lựa chọn những chị em là họ hàng, bạn bè thân thiết, nhưng phải là người chung thủy, dũng cảm thành lập ra các chi hội phụ nữ ở các tỉnh để lo từng việc của nhiệm vụ giao thông, liên lạc. Ấu Triệu đã học tập được ở các vị tiền bối phương pháp tuyên truyền, giáo dục đến tuyển chọn người vào tổ chức, đặc biệt là công tác giữ bí mật. Ấu Triệu đã cùng các chi hội phụ nữ đi buôn, khi là người vợ thăm chồng đang đi lính cho Chính phủ bảo hộ, lại có khi trong vai người gồng thuê, gánh mướn, áo quần tả tơi đi công khai trên đường, vượt qua các trạm kiểm soát, qua mắt các tên mật thám nhà nghề một cách an toàn. Có những việc cần kíp bà phải nhịn đói đi suốt đêm để tránh sự kiểm soát của địch. Lại có khi phải lẩn trốn trong rừng sâu hoặc trong buồng tối của các cơ sở tránh sự truy lùng gắt gao của mật thám. Chị em trong các chi hội cũng học tập được ở bà đức tính kiên trì, lòng quả cảm tận tụy để hoàn thành nhiệm vụ. Nhờ đó trong hơn bốn năm trời sự liên lạc giữa ba kỳ Bắc - Trung - Nam được thông suốt, tiền gửi sang Nhật, tài liệu của Phan Bội Châu, Mai Lão Bạng từ Nhật gửi về nước được đưa đến đúng địa chỉ không hề mất mát.

Bà đã cùng với Nguyễn Đình Tiến vận động thí sinh bỏ kỳ thi khóa sinh ở huyện Hương Trà để phản đối thực dân Pháp và Nam triều.
Trong phong trào chống thuế nổ ra ở Quảng Nam, Quảng Ngãi năm Mậu Thân (1908) bà đã cùng các ông Khóa Mãnh, Khóa Mộng kêu gọi nhân dân Thừa Thiên hưởng ứng. Căm thù giặc Pháp xâm lược và triều đình Huế, tay sai cho Pháp, Ấu Triệu không giữ nổi bình tĩnh và bí mật đã công khai chửi rủa thực dân Pháp và triều đình Huế, nên bị chúng bắt.

Bọn mật thám dùng đủ mọi cực hình tra tấn, nhưng bà vẫn không hề hé răng khai báo một lời. Chúng giải bà đến nhà lao Thừa Phủ (Huế), giao cho tên Trương Như Cương, Thượng thư bộ Hình, con chó săn trung thành của giặc Pháp, tên này lại biết rõ thân phận của bà. Trương Như Cương mất hết tính người, không cần giữ thể diện là đại thần của triều đình, tự tay tra tấn, hỏi cung bà, khi thì dụ dỗ ngon ngọt để bà khai ra tổ chức và những người có liên quan. Song Ấu Triệu là một nữ đảng viên trung kiên, có đạo đức. Bà là người đã từng ngược xuôi Nam Bắc, rèn luyện mình trong chốn gian nan. Mặc cho Trương Như Cương và bọn chúa ngục tra tấn cực kỳ dã man, bắt khai báo các đồng chí và kế mưu của Đảng, nhưng trước sau bà không chịu nói câu nào. Bà biết giặc không để cho mình sống, liền quyết định chọn lấy cái chết thanh thản, để đền nợ nước, liền đánh lừa Trương Như Cương.

- Người trong Đảng và mọi việc của Đảng, tôi đều biết hết. Muốn lấy cung thì không thể trong chốc lát mà tôi nói ra đầy đủ. Bây giờ tôi đang đau lắm, miệng không thể nói ra được. Xin cho tôi được đến một căn phòng yên tĩnh để nghỉ ngơi một đêm rồi đem đến cho tôi giấy bút, tôi sẽ ghi cho những gì tôi nhớ được, tôi sẽ ghi hết cho mọi sự việc, để các người xem khỏi phải tra tấn làm gì cho mệt, mà tôi cũng đỡ đau đớn. Các người có bằng lòng cho tôi được như vậy không? Nếu không thì tôi sẽ chết dưới kìm hẹp của các người, thì các người cũng chẳng có lợi gì!

Trương Như Cương tin là thật, làm theo mọi yêu cầu của bà, chỉ cho lính gác chặt chung quanh phòng bà ở. Được tự do, có nước sạch bà gội đầu, tắm rửa, mặc quần áo tươm tất. Bà bèn trải giấy ra dưới đèn, cắn tay hòa máu tươi, chấm bút viết rất nhanh, lời lẽ thao thao đến vài ngàn chữ. Bà tố cáo tội ác trời không dung, đất không tha của giặc Pháp xâm lược và tội dâng đất cầu hòa cam tâm làm chó săn cho giặc giết hại giống nòi của vua quan triều Nguyễn. Viết xong, bà dán lên tường. Rồi bà lại cắn lưỡi lấy máu đề luôn ba bài thơ tuyệt mệnh. Xong đâu đó, bà đập đầu vào tường chết.

Trời sáng rõ, bọn lính canh mở cửa phòng, thấy sự việc như vậy, liền hô hoán lên, báo cho Trương Như Cương biết. Tên thượng thư Việt gian vô cùng tức tối vì "thấp mưu, thua chí đàn bà" sai đem thi thể bà cùng những lời lẽ bà tố cáo bọn giặc viết ra đem thiêu hủy. Riêng mấy bài thơ bà viết trên tường bọn giặc không nhìn thấy. Những lời thơ đó như sau:

      I.
Thê lương ngục thất mệnh chung thi
Hải khoát sa không khốc tự tri
Tử quốc đáo mùng thiên hữu phận,
Thương tâm quan lũ kỷ nam nhi
     
      II
Trùng tuyền yểm lệ kiến Trưng Vương
Đề huyết thư quyên chỉ tự thương
Bằng tạ Phật linh như tái thế,
Nguyên thân thiên lý, lý thiên sang

      III
Huyết khô lệ liệt hận non tiêu,
Trường đoạn Hương Giang nhật dạ trào
Ngô đảng táo thanh cừu lỗ nhật,
Phần tiền nhất chỉ vị nung thiêu
Dịch:

      I
Lạnh lùng cảnh ngục lúc quyên sinh
Biển rộng đồng không mình biết mình...
Chết với non sông em tốt số,
Trạnh lòng tủi hổ lũ trâm anh!

      II
Suối vàng gạt lệ gặp Bà Trưng,
Máu thắm hồn quyên khóc thảm thương.
Lạy Phật: thân này còn hóa kiếp,
Tay xin nghìn cánh, cánh nghìn thương

      III
Huyết lệ dầu khan, giận chửa sờn,
Chiều hôm tê tái nước sông Hương
Đảng ta khi quét xong quân giặc,
Trước nấm mồ em đốt bó nhang

     
         Đặng Thai Mai dịch
         (Thơ văn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX)

NGUYỄN QUANG DIÊU

Nguyễn Quang Diêu hiệu Tử Ngọc, biệt hiệu Trần Cảnh Sơn và Nam Xương, sinh năm Canh Thìn (1880) trong một gia đình khá giả; quê ở xã Tân Thuận, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là Nguyễn Quang Huy (tức Hội đồng Sách) và Thân mẫu là Nguyễn Thị Huệ.

Nguyễn Quang Diêu có tư chất thông minh từ nhỏ, đặc biệt là tính tình khoan dung, điềm đạm nhưng ngay thẳng và dũng cảm, có tâm hồn yêu nước dạt dào. Khi phong trào Duy tân lan rộng vào Nam, ông hăng hái gia nhập và hoạt động cùng các chí sĩ Nguyễn An Khương ( cha Nguyễn An Ninh) Nguyễn Thần Hiến, Bùi Chí Nhuận. Năm 1907, ông đặt trụ sở bí mật ở chùa Linh Sơn (Cao Lãnh). Từ chùa này ông phát triển tới chùa Kim Quang và các chùa khác.

Năm 1912, Phan Bội Châu giải tán Duy tân hội thành lập Việt Nam Quang Phục hội thì ông và hầu hết các đồng chí lại chuyển sang hoạt động cho Việt Nam Quang Phục hội. Tháng 5 năm 1913, Nguyễn Quang Diêu dẫn đầu một đoàn 12 người, vượt biên giới sang Cao Miên, tới Xiêm La để từ đó đi Trung Hoa liên lạc với Phan Bội Châu và các đồng chí trong Tổng bộ. Đến Hương Cảng, các ông chưa kịp hoạt động thì cảnh sát Anh khám thấy tạc đạn và giấy tờ quan trọng tại nơi phái đoàn ở, nên ông và các đồng chí đều bị bắt. Nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng trục xuất, giải các ông về Hà Nội, giao cho mật thám Pháp.

Trong phiên tòa xét xử, chúng coi ông là người cầm đầu, kết án 10 năm khổ sai, đầy sang Guyane (Nam Mỹ). Trên đường đi Guyane qua Pháp, chúng giam ông ở nhà ngục Mác xây. Thực dân Pháp đầy Nguyễn Quang Diêu đến một hòn đảo hoàn toàn xa lạ, sống giữa những người ngoại tộc, ông không hề biết tiếng nói, phong tục tập quán, không được nghe tiếng nói thân thương của đồng bào, đồng chí, cách Việt Nam nửa vòng trái đất. Đế quốc Pháp tin rằng ông sẽ phải chịu chết già trên hòn đảo đó, xong với ý chí quật cường, quyết tâm vượt ngục trở về nước hoạt động như ông đã bộc lộ trong bài thơ Bị giam ở MácXây cảm tác:

...Nếm mật nằm gai đành tạm lúc,
Sổ lồng tháo cũi hẳn chờ khi... ”


Đầu năm 1917, Nguyễn Quang Diêu vượt ngục trốn sang đảo Trinidat thuộc Anh. Ông khi đó đã giỏi tiếng Pháp, tiếng Hoa, ông sống trà trộn trong đồng bào Hoa, học tiếng Hoa, tiếng Anh. Bằng sự ngụy trang khéo léo để giấu tung tích, cuối nãm 1920, Nguyễn Quang Diêu trở về Hồng Kông rồi tới Quảng Châu liên lạc với Phan Bội Châu. Bạn bè, đồng chí vô cùng kinh ngạc thấy ông xuất hiện, ông rất đau buồn khi biết tin nhiều đồng chí thân thiết đã hy sinh hay còn nằm trong nhà tù đế quốc. Được trở về hoạt động cùng các đồng chí được nghe tiếng nói thân thương của đồng bào. Ông dồn hết sức lực, tâm chí cho công tác cách mạng, bù đắp cho thời gian ông bị đế quốc Pháp cầm tù ở nơi xa xôi.

Đầu năm 1927, Nguyễn Quang Diêu về nước để khôi phục phong trào với cái tên mới là Trần Văn Vẹn. Thực dân Pháp đánh hơi thấy các hoạt động cách mạng của Nguyễn Quang Diêu, chúng tung mật thám đi dò la tung tích của ông, lùng bắt rất gắt gao, ông phải thường xuyên thay đổi chỗ ở. Do Nguyễn Quang Diêu tham gia phong trào Đông du, Việt Nam Quang phục hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên, nên ông đã dịch các sách Tam dân chủ nghĩa, Ngũ quyền hiến pháp của Tôn Dật Tiên.

Sau một số người có cảm tình với ông, lại có thế lực đối với Pháp đứng ra bảo trợ, ông đến làng Vĩnh Hoà gần Tân An dạy học và bốc thuốc. Ông cũng sáng tác nhiều văn thơ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự của mình.

Đến nay các đồng chí, dòng họ của ông còn giữ được nhiều thơ văn của ông, trong đó có các bài: Viếng Hoàng Hoa Cương, Viếng mộ Phan Tây Hồ, Sầu Non nước, Hà Thành lâm nạn, Tự do diễn ca, Chiêu hồn dân ruộng, Ngỏ cùng nữ giới...

Mùa hè năm 1935, Nguyễn Quang Diêu nhuốm bệnh rồi mất, thọ 57 tuổi.

MAI LÃO BẠNG

Mai Lão Bạng là người theo đạo Thiên chúa, quê ở làng Vang, nay thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Sau mấy năm học chữ Nho, gia đình gửi ông vào học trường Đại chủng viện Đoài để trở thành linh mục. Thời gian học ở trường, ông thấy những cha cố người Tây cấm không cho học sinh đọc Tân văn, Tân thư từ ngoài xã hội đưa vào và khinh thị người dân Việt Nam.

Năm Mậu Thân (1908) Mai Lão Bạng liên lạc với những người phụ trách phong trào Đông du ở trong nước đưa học sinh người công giáo Đông du. Từ đó Mai Lão Bạng ở lại Tôkyô cùng Phan Bội Châu gánh vác công việc ở Nhật. Mai Lão Bang là người giúp Phan Bội Châu làm công tác vận động công giáo trước hết là “Kêu gọi sự đồng tâm của giáo đổ Thiên chúa”, như trong Hải ngoại huyết thư đã nêu rõ:

... Khắp đến kẻ hành nhân tẩu tốt,
Cả giáo đồ khắp suốt nơi nơi,
Đội trời đạp đất ở đời,
Sinh ra Nam quốc là người trượng phu
Ai cũng bụng phục thù, báo quốc,
...Dẫu rằng là đạo bất đồng,
Nhưng cùng đất nước, cùng chung giống nòi,
Quyết không có thể nào không vì mình
Chớ thấy khác mà sinh hình tích,
Để cho rằng cừu địch Nam nhân,
Chữ rằng đồng loại tương thân
Giáo dân xem với lương dân khác gì.


Để vận động đông đảo đồng bào công giáo tham gia vào công việc cứu nước, Lão Bạng sáng tác bài ca nhan đề: “Lão Bạng phổ khuyến” (Bài ca của Lão Bạng khuyên chung mọi người). Bài thơ “Lão Bạng phổ khuyến” có tác dụng giáo dục lòng yêu nước rất to lớn đối với đồng bào công giáo.

Năm 1909, Phan Bội Châu, Mai Lão Bạng cùng học sinh Việt Nam bị Chính phủ Nhật trục xuất, phải trở về Trung Quốc, Mai Lão Bạng từ Trung Quốc sang Xiêm La, mưu về nước, nhưng chính quyền Pháp ở Đông Dương yêu cầu Chính phủ Xiêm La bắt các nhà cách mạng Việt Nam. Ông bị bắt giam 8 tháng mới được trả tự do. Ông sang Hương Cảng, song chính quyền Hương Cảng cũng theo ý của bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương bắt giam ông 3 tháng. Mai Lão Bạng cùng với Phan Bội Châu sang Quảng Đông.

Để phù hợp với thời cục chính trị mới năm 1912 Phan Bội Châu họp các đồng chí tuyên bố giải tán Duy tân hội thành lập tổ chức cách mạng mới là Việt Nam Quang Phục hội. Hội nghị bầu Phan Bội Châu làm Tổng lý của Chính phủ nước Việt Nam Quang Phục, Mai Lão Bạng được bầu làm uỷ viên bộ chấp hành cùng Đặng Tử Kính phụ trách kinh tế.

Việt Nam Quang Phục hội thực hiện đường lối bạo động phái một số hội viên về nước đánh úp các đồn binh, ám sát một số tên cầm đầu cai trị Pháp, Việt gian, song kết quả không lớn, Việt Nam Quang phục hội bị khủng bố dữ dội, nhiều cơ sở ở trong nước, nhiều hội viên nòng cốt bị giặc Pháp bắt xử tử hình và đưa đi đầy.

Ngày 30 tháng 6/1925 do sự phản bội của Phan Bá Ngọc báo cho mật thám, Mai Lão Bạng cùng bị bắt với Phan Bội Châu ở Thượng Hải, mật thám Anh dẫn độ ông cho mật thám Pháp giải về nước. Chúng giam ông ở nhà lao Vinh một thời gian rồi đày ra Côn Đảo 15 năm, đến năm 1933 mới được tha về.

Mai Lão Bạng về quê sau đợt khủng bố đẫm máu của giặc Pháp trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh khiến ông đau đớn. Bạn bè giúp ông dựng cái quán thuốc bắc “Lão Bạng y quán” ở chợ Vinh kiếm ăn. Vài năm một lần ông đáp tàu hoả vào Huế thăm Phan Bội Châu bị giam lỏng ở Bến Ngự.

Mai Lão Bạng mất vào năm 1942 ở Vinh trong sự thương tiếc của nhân dân.

NGUYỄN QUỲNH LÂM

Nguyễn Quỳnh Lâm người huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1891, đất nước đã mất, bị người Pháp cai trị, đồng bào cơ cực lầm than. Mùa đông năm 1906, ông mới 15 tuổi, nhưng chí khí cương quyết. Khi Phan Bội Châu cử người về nước lấy thanh niên xuất dương Đông du, ông hăng hái lên đường. Ông cùng với Đặng Bằng Đoàn vào học ở ban đặc biệt của Đồng thư xã học. Ông ít nói ham học, tiến bộ rất nhanh. Học được gần 2 năm thì hết tiền học, ông bỏ Nhật về Xiêm La rồi từ đó về Hà Tĩnh mưu vận động binh lính khởi nghĩa. Thực dân Pháp phát hiện được, lùng bắt ông ráo riết, ông lại phải chạy sang Hương Cảng. Ông xin vào binh dinh Quảng Đông, tập luyện những việc ở chiến địa. Sau khi ra khỏi binh dinh, ông lại nghiên cứu những cách chế tạo hoả khí chủ yếu là chế thuốc súng và thuốc tạc đạn. Ông dày công nghiên cứu, chế tạo được “vô yên hoả dược” (thuốc nổ không khói).

Tháng 2 năm Canh Tuất (1910) Phan Bội Châu giao cho Nguyễn Quỳnh Lâm áp giải rương súng đạn chở đi Băng Kốc. Cảnh sát Hương Cảng thấy rương nặng mở ra khám thấy súng liền tịch thu, Nguyễn Quỳnh Lâm bị giam mấy tháng. May Chính phủ này có cảm tình với Việt Nam, Quỳnh Lâm là người cách mạng nên ông được tha.

Năm 1912, Việt Nam Quang Phục hội được thành lập, ông hết sức giao dịch với Trung Hoa Quốc dân đảng mong được viện trợ súng đạn.
Năm Quý Sửu (1913) tháng 5, cách mạng lần thứ hai ở Trung Hoa nổ ra. Ông nói với các đồng chí: “Đây không phải là trường thử nghiệm của ta hay sao. Trời sinh ra ta có bộ gân đồng, xương sắt, mà cứ ngồi ăn uống thong thả, để ngày tháng qua làm gì?”. Anh em can ngăn ông vì đây là việc của Trung Hoa, ông không nghe. Ở Nhật ông đã quen Hoàng Khắc Cường (Hoàng Hưng) chỉ huy phòng thủ Nam Kinh. Ông gặp Hoàng Khắc Cường trình bày. Hoàng Khắc Cường hết sức khen ngợi, cử ông làm trung đội trưởng. Ông xung phong vào đội tiên phong. Khi ra trận luôn động viên chiến sĩ chiến đấu, tự mình xông lên trước làm gương. Quân cách mạng thiếu súng đạn nên tan rã, thành Nam Kinh sắp bị hãm, quân Viên Thế Khải hãm thành, Hoàng Khắc Cường khuyên ông bỏ chạy, ông gạt nước mắt nói: ‘Tôi là một người vong quốc, sau này tôi sẽ đánh giặc cứu nước, nay lại làm ông tướng bại trận thì chạy đi đâu? Vả lại đại trượng phu sao có thể bỏ chạy để mà sống?". Hoàng Khắc Cường bỏ chạy, các binh quan Trung Hoa vẫn biết ông là người đảng cách mạng Việt Nam, khuyên ông: “Việc này không can thiệp gì đến việc cách mạng đảng, ông nên lưu tính mạng lại để đợi thời cơ”. Ông trả lời một cách can đảm: “Người ta đem quân giao cho mình là nghĩ mình giết được đồn giặc kia cơ mà! Bây giờ thấy giặc mà trốn, mặt mũi nào làm con trai nữa”.

Ông tiếp tục chỉ huy chiến đấu, bị trúng hai mồi đạn ở ngực và cánh tay, chết ở giữa trận.

LÊ VĂN HUÂN

Lê Văn Huân hiệu Lâm Ngu, sinh năm 1867 (Có sách viết ông sinh năm Ất Hợi (1875) người làng Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống nho học, nhưng ông mồ côi cha từ nhỏ, được mẹ cho ăn học đến nơi, đến chốn, ông thi Hương tại trường thi Nghệ An khoa Bính Ngọ (1906) đậu Giải nguyên, nên thường gọi là Giải Huân.

Ông tham gia phong trào Đông du cùng với tiến sĩ Ngô Đức Kế, Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, tú tài Nguyễn Đình Kiên. Ông hoạt động rất tích cực trong nhóm "Minh xã", khác với nhóm "Ám xã". Ám xã chủ trương bạo động, còn nhóm Minh xã do Ngô Đức Kế đứng đầu chủ trương cải cách văn hóa, phát triển công thương nghiệp.

Khi Phan Bội Châu từ Nhật Bản bí mật về nước thảo luận với các sĩ phu trong nước, trong đó có Lê Văn Huân bàn kế hoạch: "khai dân trí - chấn dân khí - đào tạo nhân tài'' thì các sĩ phu nhiệt liệt hưởng ứng và bàn kế hoạch thực hiện. Năm 1907, Lê Văn Huân cùng với Tiến sĩ Ngô Đức Kế, Phó bảng Đặng Nguyên Can, tú tài Nguyễn Đình Kiên, Đặng Văn Bá, bà Trần Thị Trâm lập "Triêu Dương thương điếm” công khai ở thành phố Vinh, lấy tiền lãi sung vào quý Đông du cấp cho thanh thiếu niên du học ở Trung Hoa, Nhật Bản. Theo chủ trương của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Duy tân hội đã cử một số sĩ phu ra Bắc Kỳ tới căn cứ Yên Thế gặp tướng quân Hoàng Hoa Thám, trong số đó có Lê Văn Huân.

Tháng 5 năm 1908, theo lời kêu gọi của Nguyễn Hàng Chi, Nguyễn Hiệt Chi, Trịnh Khắc Lập các sĩ phu yêu nước và nông dân nghèo ở các huyện trong tỉnh Hà Tĩnh đã kéo nhau về thị xã Hà Tĩnh biểu tình đòi giảm sưu khất thuế. Lê Văn Huân đã cùng Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Cẩn dẫn đầu các cuộc biểu tình tuần hành của nông dân kéo vào thị xã đòi nhà cầm quyền Pháp, Nam triều đòi giảm thuế, khất thuế. Phong trào chống thuế phát triển rầm rộ nhất là ở các huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Đức Thọ, Nghi Xuân (Hà Tĩnh), Lê Văn Huân dẫn đầu hàng trăm nông dân các làng Đông Thái, Yên Vượng, Trung Lễ, Đông Khê, Văn Xã... Bọn cầm quyền Pháp và quan lại Nam triều đã đàn áp khốc liệt phong trào chống thuế ở Hà Tĩnh, Nghệ An cũng như những tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ở tỉnh Hà Tĩnh hàng trăm người bị bắt trong đó có Lê Văn Huân, Phạm Văn Ngôn, Nguyễn Duy Phương. Cũng trong năm 1908, Lê Văn Huân bị thực dân Pháp bắt đầy ra Côn Đảo.

Năm 1917 hết hạn tù, ông được tha về, lại tiếp tục hoạt động. Ông cùng với Nguyễn Đình Kiên và một số đồng chí bị tù đầy lập ra nhóm "chính trị phạm Trung Kỳ”.

Ngày 14 tháng 7 năm 1925, Lê Văn Huân cùng một số trí thức tân học ở Hà Tĩnh như Tôn Quang Phiệt, Trần Mộng Bạch, Trần Phú... đã nhóm họp ở thành phố Vinh thành lập nhóm "Phục Việt" để truyền bá tư tưởng yêu nước và tập hợp lực lượng chống Pháp, Nghệ Tĩnh trở thành trung tâm của Hội”.

Năm 1929, Lê Văn Huân bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh. Trong tù, Lê Văn Huân đấu tranh quyết liệt với bọn chúa ngục. Chúng đàn áp tàn bạo ông phản đối cùng các tù nhân tuyệt thực, sau đó ông rạch bụng hy sinh.

Lê Văn Huân là một nhà nho yêu nước thức thời, ông còn là một nhà thơ tài hoa, đồng thời là lý thuyết gia thành lập chính đảng dân chủ đầu tiên ở nước ta hồi đầu thế kỷ XX, ông cũng là liệt sĩ cách mạng đầu tiên của tổ chức tiền thân của Đông Dương cộng sản Đảng.

ĐẶNG ĐOÀN BẰNG

Đặng Đoàn Bằng tức Đặng Hữu Bằng tên chính là Đặng Tử Mẫn, năm 1906 xuất dương lấy tên là Đặng Xung Hồng. Ông là con cụ nghè Đặng Hữu Dương, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, nay là huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đặng Đoàn Bằng thông minh từ nhỏ, giỏi sáng tác thơ văn, phú, câu đối, tính khí cương cường.

Ông xuất dương sang Nhật, theo học trường Chấn Võ giỏi tất cả các môn quân sự, giỏi chữ Hán, chữ Nhật. Năm 1909, ông đậu Thủ khoa. Minh Trị Thiên hoàng (Mút su Hi tô Meifi) là bậc anh hùng canh tân nước Nhật chủ toạ lễ mãn khoá đã tặng riêng ông một chiếc đồng hồ bỏ túi có khắc tên, chữ ký của nhà vua. Khi thực dân Pháp cấu kết với Chính phủ Nhật trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam, ông trở về Trung Quốc học một trường quân sự.

Thượng tuần tháng 2/1912, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Quốc, ông tham dự và được bầu vào bộ chấp hành có 10 uỷ viên. Ông cùng Mai Lão Bạng phụ trách kinh tế. Ông còn giữ chức cố vấn quốc gia, uỷ viên vận động Bắc Kỳ của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Quang Phục hội thành lập hồi tháng 5 năm 1912. Ông là một yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội.

Năm 1913 Đặng Đoàn Bằng cùng Nguyễn Thượng Hiền vượt biên giới về Lạng Sơn vận động lính dõng quê ở tổng Nhân Lý, châu Văn Uyên nổi dậy tấn công đồn Đồng Đăng. Sau trận giao chiến với quân Pháp ở vùng Pắc Luống, nghĩa quân bị thua, nhiều người bị bắt. Ông cùng Nguyễn Thượng Hiền chạy thoát sang Trung Quốc.

Năm 1913 ông tham gia chế bom, lựu đạn trong tô giói Anh ở Hương Cảng. Lựu đạn nổ, ông bị cụt ba ngón tay. Ông trốn thoát chạy về Quảng Đông, Quảng Tây.

Trong mấy năm nương náu ở Quảng Đông, Quảng Tây, ông đã nghiên cứu, tập trung tài liệu viết cuốn “Việt Nam nghĩa liệt sĩ” năm 1918. Ông ghi chép 50 chí sĩ hi sinh cho đất nước như Đặng Thái Phiên, Trần Văn Bình, Trần Đông Phong, Phan Lại Lương, Nguyễn Quỳnh Lâm, Cao Trúc Hải, Hồ Bá Kiện, Hồ Bá Phiến, Phạm Văn Ngôn... Quyển sách này được Phan Bội Châu sửa chữa kỹ, Nguyễn Thượng Hiền đề tựa, in năm 1918 ở Trung Quốc. Sách đã được dịch ra chữ Quốc ngữ, Nhà xuất bản Văn hóa xuất bản năm 1960. Sau đây là một đoạn trong mục “Chép chung chuyện Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thức Đường".

... “Nước mất, giặc hoành hành, nhưng bọn vô liêm sỉ đang đua nhau làm nô lệ, ông rất lấy làm thẹn, lúc 15, 16 tuổi, ông đã nuôi cái chí đánh giặc phục quốc, nhưng chưa biết làm với ai. Một hôm ông đến nhà Sào Nam, Sào Nam đưa ông xem bản “Lưu cần huyết lệ tân thư” Ông rất phấn khởi đem về nhà suốt đêm đọc không ngủ. Từ đó bỏ nghê học cũ, chuyên giao kết với các khách gươm rượu. Ông thân dỏ biết, nhưng cũng không ngăn cấm được...

Sau đây là một đoạn trong mục “Lê Khiết”.

... Nguyễn Thân đã đánh dẹp đảng ở Nam Ngãi nên người Pháp cho Thân là giỏi, mới bổ Thân làm kinh lược tiết chế đợi sứ Nghệ Tĩnh. Thân đem Lê Khiết đi theo làm Tán tương, Lê giúp Thân dẹp đảng Nghệ Tĩnh và được bổ chức Bố chánh quyền việc Tổng đốc. Lúc đó Phan Thị Hán bị tình nghi và theo dõi, ông vì mến phục Phan mà hết sức che chở...

Đặng Đoàn Bằng còn có nhiều thơ Điếu các chí sĩ như: Điếu Tăng Bạt Hổ, Điếu Nguyễn Đức Công, Điếu Đỗ Cơ Quang, thơ điếu Hoàng Văn Kỷ, Hà Thành tuấn nghĩa chư liệt sĩ Điếu nghĩa sĩ dân (các tỉnh Trung Kỳ) chống thuế bị hại.

Mùa hè năm 1923, Đặng Đoàn Bằng cùng với Hồ Tùng Mậu, Lê Văn Phan (Lê Hồng Sơn) Nguyễn Giản Khanh (con nuôi cụ Nguyễn Thiện Thuật) Trương Quốc Uy, Lê Cầu (Tống Giáo Cầu), Nguyễn Công Viễn (Lâm Đức Thụ) cùng có chung một chí hướng, cùng sinh sống, học tập tại Hàng Châu sáng lập ra Tân Việt Thanh niên đoàn (còn gọi là Tâm tâm xã).

Khoảng năm 1924, Đặng Đoàn Bằng bị thổ phỉ ở Nam Ninh giết chết, chặt bàn tay phải thành tật của ông bán cho thực dân Pháp ở Bắc Kỳ.

BÙI CHÍNH LỘ

Bùi Chính Lộ còn có tên là Lê Mai Tử. Ông người xã Thanh Thuỷ, nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sớm tham gia phong trào Duy tân, Đông du do Phan Bội Châu, Nguyễn Thành, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân sáng lập. Khi Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Mãi Lão Bạng xuất dương thì ông làm công tác vận động thanh niên xuất dương và vận động tài chính.

Từ sau vụ "Hà thành đầu độc” thất bại thì các công ty buôn bán, thương quán, nhà hàng do Đông du và Đông Kinh nghĩa thục chủ trương đều bị bọn cầm quyền Pháp triệt phá, nếu không triệt phá được thì bao vây cô lập làm cho phá sản, do đó tài chính gây quỹ cho Đông du càng khó khăn hơn. Song Bùi Chính Lộ đã khôn khéo, mưu trí lọt qua được tất cả sự do thám của giặc, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Trong một chuyến đi quyên tiền vào khoảng cuối năm 1911, đầu năm 1912, kịp chuyển ra Hải Phòng để liên lạc gửi sang Trung Quốc cho Phan Bội Châu chi vào việc nuôi anh em ăn học và mua sắm vũ khí. Phan Bội Châu đã biểu dương Bùi Chính Lộ - Lệ Mai Tử trong “Tái sinh truyện” (sống, trở lại) như sau:

Sự nghiệp kinh doanh của cấc đồng chí tôi, nếu không liên lạc vận động thì không thể nào thành công, nhưng liên lạc, vận động lại là việc rất khó khăn, nguy hiểm. Người gánh vác cái trách nhiệm vô cùng khó khăn gian khổ dó chính là Lệ Mai tử. Vì Lệ Mai là người có nhiệt thành, có học vấn, có đảm lược lại có cơ mưu và sở trường về khoa ngôn luận. Giữa trách nhiệm đó là người của Đảng ngày một tiến bộ, tiếng tăm lừng lẫy, kẻ thù rất khiếp sợ, chỉ muốn bắt bằng được ông mới yên lòng”.

Bùi Chính Lộ bị mật thám bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh. Sau đó ông giả chết để thoát khỏi nhà lao.

Tổ chức quyết định đưa ông sang hoạt động ở Xiêm La. Tới Xiêm La ông đã cùng Đặng Thúc Hứa xây dựng cơ sở Trại Cày Bạn Thầm làm nơi sản xuất ra lúa gạo, nơi dừng chân cho các nhà cách mạng Việt Nam từ trong nước trốn qua để xuất dương.

Bùi Chính Lộ đã tuyên truyền, khích lệ bà con thương yêu, giúp đỡ nhau ở nơi đất khách quê người, luôn luôn hướng về Tổ quốc. Mở trường dạy con em Việt Kiều học tiếng Việt, học lịch sử Việt Nam và cho các cháu biết Tổ quốc đang bị giặc Pháp giày xéo. Lớn lên phải có nghĩa vụ giải phóng Tổ quốc.

Bùi Chính Lộ theo đường Xiêm La sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu và các đồng chí. Khi đó Tổng bộ Việt Nam Quang Phục hội chủ trương tổ chức nhiều cuộc bạo động, gây những tiếng vang kinh thiên động địa để kích thích lòng yêu nước của đồng bào.

Mục tiêu là gây tiếng nổ ở cả ba kỳ: Bắc - Trung - Nam. Khi đó Bùi Chính Lộ vừa vượt biên mới sang Xiêm, ở Xiêm La một thời gian rồi sang Trung Quốc, liền xung phong đi. Phan Bội Châu biết rõ ông là người hiểu tình hình địa dư Nam Kỳ liền chấp nhận cho ông đi.

Bùi Chính Lộ đi đường Xiêm La - qua Cao Miên để về Nam Kỳ. Nhưng ông tới Băng Kốc (Xiêm La) thì bị bọn chó săn bám riết, không sao dứt ra được, không thể thoát được, ông liền rút lựu đạn ném giết chết hai tên mật thám. Bọn chúng xô vào bắt, đưa vào nhà lao thì ông tự sát.

NGUYỄN THỨC CANH

Nguyễn Thức Canh sinh khoảng năm 1884 hay 1885, là con trai Sơn phòng sứ Nguyễn Thức Tự và cụ bà là Lê Thị Huệ. Vì ông là con cả, nên còn gọi là Cả Canh, hiệu là Trần Hữu Công, Trần Trọng Khắc. Ông là anh các ông Nguyễn Thức Đường, Nguyễn Thức Bao và Nguyễn Thức Độ.

Ông tham gia phong trào Duy tân hội, xuất dương sang Trung Quốc rồi sang Nhật học khoa văn chương trường Cao đẳng Sư phạm Tôkyô. Học xong ông trở về Trung Quốc. Em ông là Nguyễn Thức Đường (tức Trần Hữu Lực) và Nguyễn Thức Bao cũng xuất dương sang Nhật.
Vì vậy ngày 7/2/1910, Toà án Nam Nghệ An, Chánh án là Trần Đình Phác (Tổng đốc An Tĩnh), Tôn Thất Đạm (Bố chính), Đào Phan Duẩn (Án sát) đã luận tội các bị cáo chạy ra nước ngoài gồm có: Phan Bội Châu, Đặng Thúc Hứa, Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Thức Đường. Sau khi Nguyễn Thức Đường (Trần Hữu Lực) bị bắt ở Xiêm đưa về Hà Nội xử bắn cùng Hoàng Trọng Mậu ở trường bắn Bạch Mai, tháng 6 năm 1915 thì bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương nhận được tin mật báo từ Nhật về cho biết: “Trần Hữu Công chính là Nguyễn Thức Canh, là anh của Trần Hữu Lực, đã ở Nhật nhiều năm, có nhiều bạn bè trong quan chức Nhật”.

Ngày 19/7/1923, Viện cơ mật Nam triều đã ra lệnh truy nã Nguyễn Thức Canh dẫn về giao cho nhà chức trách để luận tội theo luật của triều đình.

Năm 1924, mật thám Pháp ở Vinh có được một nguồn tin rằng Trần Hữu Công từ Berlin đã gửi một thư về Quảng Châu bàn về việc giúp đỡ Hồ Tùng Mậu. Phong bì mang tên Đức là Kranzlin, số nhà 2 Guthestrasse, Berlin Licheter - Felde, chính quyền Pháp đã nhờ chính quyền Đức điều tra và được biết đó là nhà một ông cách mạng mang tên là Nuchaellis. Tin này sau được xác nhận có Trần Hữu Công quốc tịch Trung Hoa ở nhà người Đức tên là Kranzlin”.

Việc này cũng được Phan Bội Châu xác nhận trong cuốn Phan Bội Châu biên niên như sau:

Mấy năm nay tôi ở Hàng Châu, vì có gánh một việc, tức là giúp cho ông Trần Hữu Công, tức là Trần Trọng Khắc tiên sinh. Ông lưu học ỏ Béc-lin nước Đức. Tôi phải một năm hai lần tháng sáu và tháng chạp, lén lên Thượng Hải để gửi bạc học cho ông Trần.

Và cũng vì chuyến đi này Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giải về Hà Nội.

Tháng 6/1930, mật thám Pháp ở Vinh biết rõ lai lịch của Nguyễn Thức Canh đã từng học ở Nhật, khi học ở Đức có liên lạc với Hồ Tùng Mậu, sau đó gặp Nguyễn Ái Quốc ở Berlin.

Năm 1932, mật thám Pháp lại được tin Trần Hữu Công là quan chức cao cấp của phái đoàn Trung Quốc tại đã trở về Viễn Đông, hiện hành nghề bác sĩ trong một quân cảng ở Thượng Hải, hiện đang ở Hàng Châu, rồi lại có tin ở Nam Kinh.

Năm 1934 sau khi Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần... tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh hội có ra tờ báo lấy tên là “Việt Nam thanh” (Tiếng nói Việt Nam). Những công tác viên chính của tờ báo là Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Trần Hữu Công, Vi Bình Di, Vi Chính Nam...

NGUYỄN THỨC ĐƯỜNG

Nguyễn Thức Đường, hiệu Càn Kiệm, khi đi du học thì đổi là Trần Hữu Lực. Ông sinh năm 1885 tại làng Đông Chữ, nay là xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là con cụ Nguyễn Thức Tự, giữ chức Sơn phòng sứ. Khi Tự Đức kí Hòa ước với Pháp, cụ cáo quan về quê dạy học, Phan Bội Châu cũng theo học cụ. Ông là em trai Nguyễn Thức Canh, anh trai Nguyễn Thức Bao, cũng xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản, Đức du học. Nguyễn Thức Đường từ thuở thiếu niên đã là người tuấn tú, thông minh, một người có bản lĩnh, có ý chí. Ông được Phan Bội Châu, học trò của cha mình dìu dắt. Phan Bội Châu viết về ông có đoạn: "Ông Trần Hữu Lực, người Nghệ An, nguyên tên là Nguyễn Thức Đường, con trai Đông Khê tiên sinh là thày học của tôi. Nhà đời đời nghiệp nho, mà tính chất ông khác một cách, có thái độ như một nhà võ sĩ đời xưa. Lúc ông 15 tuổi, thấy được quyển Lưu cần huyết lệ của tôi làm, bèn lấy trộm về nhà, đọc lén một mình, từ đó bỏ quách văn cử nghiệp, không chịu tập nữa, chuyên theo các anh em du hiệp học những việc múa gậy, đánh gươm, đã từng giết một tên cử nhân mà ăn lương chó săn tức là Nguyễn Điềm”. Giết Điềm chết rồi, ông chuyên làm những chính sách bạo động ở trong nước. Ông Ngư Hải sợ làm mất tiền đồ của ông, mới cưỡng bức ông xuất dương. Ông sang Nhật vào học trường Đồng Văn thư viện, và nhanh chóng trở thành một học sinh xuất sắc. (Nguyễn Điềm là tên năm 1902 đã tố cáo với Pháp việc Phan Bội Châu định lấy tỉnh thành Nghệ An).

Sau khi thực dân Pháp ở Đông Dương thông đồng với Chính phủ Nhật trục xuất Phan Bội Châu và học sinh Việt Nam khỏi Nhật Bản, Trần Hữu Lực cũng như Hoàng Trọng Mậu và nhiều học sinh khác về Trung Quốc, ông vừa lao động kiếm sống, vừa học tiếng bạch thoại, tiếng Hoa Bắc, Hoa Nam.

Đúng lúc đó Thái Tùng Ba ở Quảng Tây đương huyện binh có nhà Lục quân cán bộ học đường (còn gọi là Quảng Tây học hiệu) chiêu sinh. Trần Hữu Lực đổi tên, mang quốc tịch Trung Hoa cùng Nguyễn Tiên Đầu, Nguyễn Thái Bạt ba người cùng đồng thời vào nhà quân hiệu học tập nghề làm tướng. Ba năm ở nhà Học hiệu thường hăng hái như tới giữa chiến trường. Sau khi tốt nghiệp trở về Quảng Đông, được bổ làm thiếu úy, xuất lĩnh một đội nhỏ, hễ đến lúc thao luyện, quân sĩ đều kinh sợ lắm”.


(Nguyễn Tiêu Đầu tức Nguyền Bá Trác, về sau đầu thú giặc, viết báo Nam Phong, cuối cùng ra làm quan đến chức Thị lang của triều đình Huế, tay sai đắc lực của thực dân Pháp).

Cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, là cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Phan Bội Châu, Nguyễn Thức Đường và nhiều nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc, ở Xiêm đều trở về Quảng Đông. Năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập một tổ chức cách mạng mới là Việt Nam Quang Phục hội. Trần Hữu Lực được ủy nhiệm cùng Hoàng Trọng Mậu ủy viên trưởng phụ trách Quân vụ viết Tuyên cáo của Việt Nam Quang phục hội và Thư gửi đổng bào Nghệ Tĩnh trong dịp thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Nhưng bọn cai trị Pháp ở Đông Dương đã cấu kết với Long Tế Quang, Tổng đốc Quảng Đông bắt những nhà cách mạng Việt Nam nộp cho Pháp.

Trước tình hình đó, Trần Hữu Lực tự nguyện sang Xiêm La, tổ chức toán quân Việt kiều quang phục. Phan Bội Châu lấy danh nghĩa Quang Phục hội Tổng lý ủy ông làm Trú Xiêm Quang Phục hội chi bộ bộ trưởng. Ông bôn tẩu trên đất Xiêm, hễ chỗ nào có kiều dân Việt Nam là đến tuyên truyền, vận động. Kết quả ông thành lập được đội quân trên 60 người, trang bị vũ khí đầy đủ, dự định vượt biên giới qua Lào đánh vào Nam Trung Bộ. Chính phủ Xiêm đã thỏa thuận với nhà cầm quyền Pháp bắt các nhà cách mạng Việt Nam. Hai tên mật thám Pháp, một tên là Hùng người Bắc Kỳ, một tên người Trung Kỳ được cảnh sát Xiêm giúp sức lùng sục ông ở khắp nơi. Chúng bắt được ông trên một chuyến tầu và được trao cho chính quyền Pháp để đổi lấy tù chính trị người Ấn Độ ở Sài Gòn. Giặc Pháp đưa ông về Hà Nội, giam ở nhà lao Hỏa Lò, chúng biết ông là một nhân vật quan trọng trong tổ chức Việt Nam Quang phục hội, đang chỉ huy một đội quân ở Xiêm nên ra sức dụ dỗ: "Nếu ông thu phục thì sẽ được tha tội". Ông giữ vững ý chí. Bọn mật thám dùng đủ mọi cực hình tra tấn ông, song ông vẫn bền gan, vững chí, không tiết lộ bí mật của tổ chức không hề khai báo một người nào đã về nước và cơ sở của Hội ở trong nước cũng như ở Xiêm.

Không khai thác được gì ở ông, ngày 20 tháng 12 năm Ất Dậu (22 tháng 1 năm 1916) chúng đưa ông cùng với Hoàng Trọng Mậu vừa là bạn, vừa cùng quê, vừa là đồng chí thân thiết của ông, ra bắn ở trường bắn Bạch Mai.

LÝ LIỄU

Lý Liễu quê ở Tam Bình (Vĩnh Long), từ nhỏ đã được sống trong không khí sôi sục cách mạng của gia đình, lại bẩm tính thông minh, nên được cha cho đi học đến nơi đến chốn.

Năm 1907, Phan Bội Châu cho Bùi Chí Nhuận về Nam Kỳ kêu gọi thanh niên xuất dương du học. Lý Liễu khi đó mới khoảng 14-15 tuổi cùng với Nguyễn Truyện, con cụ xã Trinh tuổi cũng xấp xỉ như vậy xuất dương ngay đợt đầu tiên. Sang tới Trung Quốc, Lý Liễu và Nguyễn Truyện được đưa tới Hồng Kông học tại trường Trung Anh học đường.

Lý Liễu vốn bẩm tính cực kỳ thông minh từ nhỏ, lại say sưa học tập nên ngoài chuyên môn, Liễu còn giỏi tiếng Anh, tiếng Trung và biết tiếng Pháp. Lý Liễu hết sức học tập, chờ ngày về nước Việt Nam độc lập thi thố tài năng giúp nước. Nhưng mơ ước đó vĩnh viễn không thành.
Nguyên là cuối tháng 5 năm 1913, một phái đoàn Nam Kỳ do ông Nguyễn Quang Diêu dẫn đầu sang Hồng Kông với mục đích lãnh tín phiếu, mua vũ khí đưa thêm vài học sinh sang du học. Đoàn ngụ ở nhà ông Huỳnh Hưng ở ven đảo Cửu Long. Hai vợ chồng ông Huỳnh Hưng sang Cửu Long ở rất lâu giữ đầu mối liên lạc giữa các đồng chí ở Trung Quốc với các đồng chí ở trong nước. Vì vậy khi nghe tin phái đoàn đến, Lý Liễu và Nguyễn Truyện sang nhà Huỳnh Hưng hỏi thăm tin tức gia đình.

Ngày 16 tháng 6 năm 1913 do có kẻ chỉ điểm, mật thám Anh ập đến nhà Huỳnh Hưng khám xét, bắt được 13 quả tạc đạn, bắt hết những người có mặt. Lý Liễu vừa đến cũng bị cảnh sát bắt, Huỳnh Hưng nhận mình mua số tạc đạn đó, những người khác không biết. Tòa án Anh ở Hồng Kông xử Huỳnh Hưng án tù, còn những người khác bị cảnh sát Anh giao cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương.

Mùa đông năm 1913, Lý Liễu và các đồng chí bị cảnh sát Anh giao cho cảnh sát Đông Dương. Mọi người bị bọn mật thám tra tấn cực kỳ dã man. Cuối năm 1913, Tòa án Đại hình đặc biệt xử tại Hà Nội, trong đó Lý Liễu bị án nhẹ nhất là 5 năm khổ sai. Nguyễn Truyện tự tử, Nguyễn Thần Hiến nhịn ăn chết. Lý Liễu, Nguyễn Quang Diêu, Đinh Hữu Thuật, Trần Ngọ đều bị đầy đi Guyane (Nam Mỹ). Tại đây, ông là người thông báo tin tức, đấu tranh đòi quyền lợi như quần áo, thuốc men, nhận thư từ từ trong nước gửi sang, và chuyển thư của anh em về nước.

Do Lý Liễu quen biết thân thiết với nhiều kiều dân Hoa sống ở Guyane, ông ngỏ ý vượt ngục và nhờ họ giúp đỡ. Họ đã giúp ông trốn sang Trinidad và được kiều dân Trung Hoa ở đảo Trindad sắp xếp công ăn việc làm ổn định, lo giấy tờ hợp pháp: quốc tịch Trung Hoa.

Lý Liễu ở trong thương hội một thời gian rồi lấy vợ người Anh. Mặc dù sống nơi đất khách song ông vẫn không nguôi nhớ về quê hương. Ông tìm cách trở về Việt Nam Đổi tên là Lý Phùng Xuân. Thực dân Pháp biết ông trở về, sai người chiêu dụ ông ra đầu thú sẽ được làm quan. Ông phản đối, phải trốn về vùng quê hoạt động vẫn vững vàng một lòng tranh đấu.

Khoảng năm 1933 - 1934, ông đang lẩn trốn trong một căn nhà lá nhỏ bên Lộ Kế Ông tỉnh Vĩnh Long, cách quận lỵ An Hóa không xa thì bị lính Pháp đến bao vây bắt được.

Tòa án thực dân Pháp gán cho ông tội gây loạn, phá rối trị an, lại truy cái án vượt ngục ở Guyane ngày trước, kết án tù 15 năm khổ sai, đầy ra Côn Đảo. Lý Liễu không chịu đựng được sự khổ sở nhọc nhằn trong cảnh lao tù, ốm đau trong thời gian dài. Cách mạng tháng Tám ra rước tù chính trị về, ông được cử làm Chủ tịch huyện An Hóa, tỉnh Vĩnh Long.

ĐỘI PHẤN

Đội Phấn tên thật là Hồ Trọng Phấn, còn gọi là Hồ Bá Phấn, Hồ Sỹ Phấn, tên chữ là Càn Thái, ông quê ở xã Nghi Vạn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông xuất thân từ một gia đình nông dân, ít được học hành, nhưng bản tính ông cương dũng, chuộng làm việc nghĩa, giàu lòng yêu nước. Khi giặc Pháp hạ thành Nghệ An, tuy còn ít tuổi nhưng ông đã theo nghĩa quân chiến đấu.

Hồ Trọng Phấn nhận thấy muốn đánh thắng quân Pháp thì phải học cách cầm quân, biết cách sử dụng binh khí hiện đại của quân Pháp thì mới đánh thắng được chúng. Nghĩ vậy ông trở về làng, xin vào lính bản địa (còn gọi là lính khố xanh). Ở lính vài năm, ông lập được nhiều công trạng, quan binh Pháp thấy ông tài giỏi lại có lòng trung thành với mẫu quốc, nên cho làm chức đội trưởng, được chỉ huy một tiểu đội lính tập, tiểu đội thời đó có đến 50 người. Vài năm sau, ông được lên tới chức Chánh đội trưởng, chỉ huy 100 lính tập được học tập, nghiên cứu, tìm tòi chiến lược, lập kế hoạch đánh trận. Ông cùng binh lính gần gũi nhau giúp đỡ nhau trong cuộc sống khi phải xa nhà, vì vậy binh lính quý mến ông, coi ông như người anh cả và nghe lời ông.

Năm 1907 phong trào Duy tân phát triển mạnh mẽ ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Một số nhân vật thuộc phái "Ám xã" như Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thị Thanh biết Hồ Trọng Phấn tuy đi lính cho Pháp, làm tới chức Chánh đội trưởng, nhưng là người yêu nước, xưa đã từng ở hàng ngũ nghĩa quân, chưa gây tội ác với nhân dân, nên đã gặp gỡ tuyên truyền bí mật gia nhập Duy tân hội. Nhằm huấn luyện cho các hội viên hội Duy Tân biết kỹ thuật quân sự và sử dụng vũ khí mới, ông lấy lý do thu nhận ỉính mới để bổ sung cho lính già yếu. Ông tận tâm huấn luyện quân sự cho anh em để anh em nhanh chóng có khả năng chỉ huy một đội nghĩa quân. Anh em cũng hiểu rõ mục đích vào lính của mình nên tất thảy đều cố gắng học tập, tiến bộ rất nhanh.

Tháng 5 năm Mậu Thân (1908) phong trào "Xin xâu”, "Chống thuế" từ Quảng Nam lan ra Nghệ An, Hà Tĩnh khiến cho nhà cầm quyền Pháp và Nam triều phải đối phó. Đội Phấn nhận định thời cơ khởi nghĩa đã đến, ông chỉ huy trên 100 lính phản chiến, phối hợp với quân của Quản Truyền, Quản Lại cũng bí mật gia nhập Duy tân hội như ông nổi dậy cướp thành Hà Tĩnh là nơi ông đóng quân.

Song vào thời điểm 1907, 1908 thực dân Pháp và Nam triều đã ổn định được bộ máy cai trị ở các tỉnh Trung Kỳ, Bắc Kỳ, vì vậy quân khởi nghĩa chiếm thành được vài tiếng đồng hổ thì quân Pháp kéo đến phản công, bao vây, tấn công quân khởi nghĩa quyết liệt. Quân khởi nghĩa ít, trang bị kém nên chỉ cầm cự được vài tiếng, đồng đội của ông một số hy sinh, một số bỏ chạy. Khi quân Pháp tràn được vào thành, Đội Phấn cùng một số quân khởi nghĩa chạy thoát, đến ở một cơ sở bí mật của Duy tân hội ở ngoài thành. Đội Phấn cùng các ông Lê Quyên, Ngô Đảng bí mật chiêu mộ quân. Đội Phấn còn bí mật trở về Hà Tĩnh chiêu tập lính khố xanh, khố đỏ Pháp cho giải ngũ và thanh niên yêu nước về căn cứ Bố Lư ở huyện Thanh Chương để huấn luyện quân sự.

Sau những năm ở trong quân đội Pháp, Đội Phấn đã rút ra bài học là quân không cốt ở đông, mà cốt ở tinh luyện, thành thục các động tác chiến đấu biết lợi dụng địa hình, địa vật để bố trí trận đánh cho phù hợp để lấy ít địch được nhiều, lấy vũ khí thô sơ thắng vũ khí hiện đại, vì vậy ông rất coi trọng việc huấn luyện quân sự cho nghĩa quân. Đội Phấn còn đặc biệt quan tâm đến trang bị vũ khí hiện đại cho nghĩa quân. Trong một trận chiến đấu tại một đồn binh Pháp ở huyện Thanh Chương do Đội Phấn chủ quan nên bị quân Pháp bắt. Song ông đã mưu trí đánh lừa giặc, giết lính canh rồi trốn thoát. Ngày 16 tháng 2 năm 1910, Tòa án binh của thực dân Pháp kết án ông tử hình vắng mặt.

Ông nhận thấy chiến đấu với quân Pháp nếu lực lượng của ta nhỏ không thể thắng được, nên đã bàn với các ông Lê Quyên, Ngô Đảng sáp nhập vào lực lượng nghĩa quân do Đặng Thái Thân lãnh đạo. Ồng đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu với quân Pháp rất nhiều trận. Nghe đến tên Đội Phấn là quân Pháp và quân Nam triều rất kinh hoàng.

Năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải thể Duy tân hội, thành lập Việt Nam Quang Phục hội, Hội thành lập Phục quốc quân, Đội Phấn, Đội Quyên chuyển sang hoạt động cho Việt Nam Quang Phục hội. Đội Phấn, Đội Quyên đang tập hợp lực lượng để đánh thành Nghệ An, nhưng súng đạn chưa đủ, còn phải đợi hàng tuần nữa để tìm cách cướp xưởng binh khí của địch. Mật thám Pháp dò biết đem đại binh đến bao vây đồn bắt được ông.

Ngày 3 tháng 7 năm 1916, giặc Pháp chém ông ở quán Thầu Dầu, thành phố Vinh. Lúc ông bị giết có một người lính vệ binh tự tử theo.

HỒ PHI HUYỀN

Hồ Phi Huyền còn gọi là Hồ Phi Thống, ông là cháu năm đời Hồ Phi Tích, là cháu ngoại tiến sĩ Văn Đức Giai, là con cử nhân Hồ Phi Tự - một nhân vật quan trọng trong phong trào Cần vương ở Nghệ An.

Ông sinh năm 1879 tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Phi Huyền sớm nổi tiếng thông minh và cương trực.

Ông đậu cử nhân khoa thi Hương ở Nghệ An năm Canh Tý (1900) khi 21 tuổi, đồng khoa với Phan Bội Châu.

Ông không ra làm quan mà hoạt động trong Duy tân hội và phong trào Đông du do Phan Bội Châu khởi xướng và lãnh đạo. Ông bị thực dân Pháp bắt và kết án tù.

Ra tù, khoảng từ 1910 đến 1915, Hồ Phi Huyền dạy học, làm thuốc và viết sách.

Ông tổ chức các lớp học kiểu mới dạy cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ, toán, vẽ, thể dục, âm nhạc, đánh cờ. Thông qua sách báo của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vy là các nhà cải cách lớn ở Trung Quốc, ông truyền bá tư tưởng dân chủ và tinh thần yêu nước cho học sinh. Hồ Phi Huyền còn là một nhà một nhà trước tác chủ yếu là về triết học, y học, văn học. Trong đó "Nhân đạo quyền hành'' do ông soạn thảo từ năm 1920 bằng Hán văn đăng trên Nam Phong, nãm 1929 dịch ra tiếng Việt đăng trên báo Thanh - Nghệ - Tĩnh năm 1934, in thành sách năm 1936. Quyển sách mỏng có 100 trang nhưng có tầm tư duy cao. Sách ra đời được nhiều người chú ý.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao phẩm chất và tư tưởng cũng như trước tác của Hồ Phi Huyền.

Nhà văn Sơn Tùng đã ghi lại Hồi ký của ông Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Hồ Chủ tịch từ Hội nghị Tân Trào.

Chuyện này xảy ra vào năm 1946 khi đất nước đang bị lâm nguy. Ở phía Bắc thì từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16, 20 vạn quân Tưởng, kéo theo bọn phản động tràn vào với âm mưu lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh; ở phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào thì giặc Pháp núp sau quân Anh - Ấn gây hấn ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Giữa lúc đất nước đang lâm nguy như vậy, Hồ Chủ tịch tìm đến tận phòng làm việc của ông Huỳnh. Bác bảo: “Lần này có việc ủy thác chú đi mời đón một nhà túc nho thông thiên địa nhân. Bậc nho sĩ này đồng khoa, đồng đạo với các cụ Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế”. Tôi (V.Đ.H) đi đón khách... Bữa cơm đãi khách thật đạm bạc mà ngon lành thanh khiết. Hồ Chủ tịch đón tiếp cụ Hồ Phi Huyền không đơn thuần như một vị nhân sĩ, mà còn là một bậc thân tri cố cựu... Mời cụ ra giúp nước, nhưng cụ biết mệnh phận không còn. Cụ phải thốt ra: "Quốc gia đa cổ, các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Đoàn đều ra gánh vác việc nước với cụ Hồ, tôi thì mệnh tận”. Tuy mệnh tận, ra gặp Bác Hồ, khi bái biệt, cụ còn thưa: "Xin Chủ tịch lưu tâu, thời mệnh trong thế cực này, chúng ta phải trải qua: thiên đô bảo chủ quốc tôn, độn thổ trường kỳ kháng địch”. Sau đố cụ Hồ Phi Huyền trở về quê và mất ngày 25 tháng 12 năm 1946, lời tiên tri bỏ thủ đô và kháng chiến trường kỳ là đúng".

Ngoài tác phẩm "Nhân đạo quyền hành” Hồ Phi Huyền còn có các tác phẩm "Y học toát yếu", "Đạm Trai văn tập", "Kỳ thuật" (dạy đánh cờ).

TÔN THẤT DOÃN

Tôn Thất Doãn sinh năm 1858. Sau khi học xong trường Quốc Tử giám, ông được bổ nhiệm làm Thông phán ở dinh Tuần vũ Bình Thuận. Năm 1905, Tôn Thất Doãn, Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang mà một số nhà nho khác đã bí mật gặp gỡ Phan Chu Trinh trong chuyến cụ Phan vào các tỉnh phía Nam tìm bạn đồng tâm.

Năm 1906 Tôn Thất Doãn được bổ làm Tri phủ Hòa Đa ở tỉnh Bình Thuận. Cũng năm đó phong trào Đông du do Phan Bội Châu phát động, phong trào Duy tân do Phan Chu Trinh phát động từ Quảng Nam lan tới tỉnh Bình Thuận. Tôn Thất Doãn đã bí mật tham gia cả hai phong trào đó và đã nhanh chóng trở thành một trong những người lãnh đạo phong trào Đông du và Duy tân ở miền Nam Trung Kỳ. Tôn Thất Doãn là người lập danh sách, cũng là người bảo quản danh sách những người tham gia phong trào Đông du và phong trào Duy tân ở các tỉnh Nam Trung Kỳ đồng thời quản lý phân phối các tài liệu bí mật như Hải Ngoại huyết thư, Lưu cầu huyết lệ tân thư của Phan Bội Châu, Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch.

Nắm vững phương châm hành động của phong trào Duy tân là: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", Tôn Thất Doãn đã cùng các ông Trương Gia Mô, Hồ Sĩ Tạo, Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh đứng ra mở trường Dục Thanh và thành lập công ty Liên Thành ở Phan Thiết.
Năm 1908, Tôn Thất Doãn được Triều đình Huế bổ nhiệm làm tri huyện Ninh Hòa. Cũng vào thời điểm đó, Trần Quý Cáp giáo thụ huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam được điều về làm giáo thụ huyện Tân Định cũng thuộc tỉnh Khánh Hòa. Từ đó hai người quen biết nhau và trở thành đôi bạn thân thiết, thường cùng nhau bàn luận về thời cuộc, kể cho nhau nghe những thủ đoạn áp bức, bóc lột nhân dân của thực dân Pháp và bè lũ tay sai và bàn kế sách vận động nhân dân đấu tranh.

Thực dân Pháp giết hại Trần Quý Cáp, bắt giam các nhà yêu nước, Tôn Thất Doãn vẫn bền bỉ, củng cố, phát triển phong trào Đông du và Duy tân. Bọn cai trị Pháp biết ông vẫn hoạt động trong phong trào yêu nước, song không có chứng cớ để bắt giam, liền buộc triều đình Huế đổi ông đi nơi khác.

Đầu năm Tân Hợi (1911), Triều đình Huế bổ nhiệm ông làm tri phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Tôn Thất Doãn đã ủng hộ nông dân chống cường hào địa chủ bóc lột tô tức. Những hành động bảo vệ dân của ông không lọt qua được mắt chúng, Khâm sứ Trung Kỳ đòi Triều đình Huế cách chức ông để có cớ bắt giam. Song ông nhờ có người em thúc bá là Tôn Thất Hân làm Thượng thư Bộ Hình, phụ chính đại thần can thiệp với tòa Khâm sứ, nên năm 1913 ông bị điều về kinh giữ chức Thừa chỉ Hàn lâm viện. Tại đây ông lại chắp mối liên lạc với Phan Bội Châu đang ở Trung Quốc và các hội viên Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ.

Năm 1914, Tòa Khâm sứ Trung kỳ buộc triều đình Huế cách chức ông. Trở về sống ở làng Kim Long, Tôn Thất Doãn lại bí mật liên lạc với Thái Phiên, Trần Cao Vân... cùng những yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội ở Nam Trung Kỳ.

Ngày 3 tháng 5 năm 1916, cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế do Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo, có sự tham gia của vua Duy Tân thất bại, Thái Phiên, Trần Cao Vân và nhiều yếu nhân khác của Việt Nam Quang Phục hội bị xử chém. Vua Duy Tân bị đầy đi đảo Reunion. Tôn Thất Doãn chán nản, âu sầu vì cảnh mất nước, dân làm nô lệ ông lâm bệnh. Ngày 12 tháng Chạp năm Đinh Tỵ (1/2/1918) ông mất ở tuổi 61.

VÕ HOÀNH

Võ Hoành hiệu Ngọc Tiên, sinh năm 1867 thuộc dòng dõi thế gia quê ở làng Thịnh Liệt, tục gọi là làng Quang, huyện Thanh Đàm, tỉnh Hà Đông, nay Thịnh Liệt thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Võ Hoành đi thi mấy khoa nhưng không đỗ. Ông tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục, là hội viên Tán trợ, lãnh trách nhiệm cổ động và quyên tiền cho trường. Ông còn giữ đầu mối liên lạc với các đồng chí ở trong nước với nước ngoài.

Trường Đông Kinh nghĩa thục được thành lập từ chủ trương của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh hai yếu nhân của hội Duy tân, nhưng cũng là thủ lĩnh của hai xu hướng: bạo động và cải cách, nên trường cũng tập hợp người của hai xu hướng đó. Võ Hoành được coi như người đứng đầu phái theo xu hướng bạo động. Các ông không chỉ đơn thuần là dạy học trò nâng cao kiến thức, mở mang dân trí, mà còn khơi dậy lòng yêu nữớc, căm thù giặc hướng quốc dân đồng bào đi vào con đường vũ trang khởi nghĩa

Những hoạt động tích cực của Võ Hoành đối với trường Đông Kinh Nghĩa thục và trong các tầng lớp nhân dân như truyền bá văn thơ yêu nước trong trường Đông Kinh Nghĩa thục, ngoài xã hội; quan hệ mật thiết với những người có xu hướng bạo động, quyên góp tiền cho trường, ngợi ca cuộc chiến đấu của Đề Thám của ông đã bị mật thám Pháp theo dõi. Sách Đông Kinh nghĩa thục của Chương Thâu đã dẫn nhận xét về ông của thực dân Pháp:

"Một phần tài liệu giảng dạy quan trọng ở trường Đông Kinh từ nước ngoài gửi về, trong đó có những tác phẩm của Phan Bội Châu như Hải ngoại huyết thư được nhà trường dịch ra ba thứ tiếng Hán, Nôm, Quốc ngữ phổ biến rộng rãi. Theo dõi hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục, bọn mật thám phát hiện: "Cứ ba, bốn ngày một lần, Võ Hoành bí mật tập hợp một số người tại nhà riêng để đọc tài liệu từ Hải ngoại gửi về và mưu toan hưởng ứng cuộc bạo động của Phan Bội Châu tổ chức”.

Khi trường Đông Kinh nghĩa thục bị Phủ Thống sứ Bắc Kỳ giải tán, Võ Hoành vẫn bí mật phân phát những tài liệu giảng dạy ở trường trong các tầng lớp nhân dân ở Hà Nội. Cuối năm 1907 khi Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám cử Đội Hổ, Chánh Tỉnh, Chánh Song về bắt liên lạc với ông và các ông Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền, Đồ Đàm, Đội Bình, Đội Nhân thành lập đảng Nghĩa Hưng ở Hà Nội thì Võ Hoành có nhiều đóng góp quan trọng.

Khi vụ "Hà thành đầu độc" năm 1908 nổ ra Võ Hoành cũng nhiều yếu nhân của trường Đông Kinh Nghĩa thục tham gia. "Vụ Hà Thành đầu độc” thất bại, giặc Pháp bắt Võ Hoành kết án chung thân khổ sai đầy ra Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn, năm 1909 nhưng bị bọn Pháp an trí ở Sa Đéc. Tuy bị Pháp an trí, nhưng vẫn hăng hái hoạt động cách mạng. Mặc dù bọn cầm quyền Pháp kiểm soát rất ngặt Võ Hoành vẫn liên lạc được với Nguyễn Quyền bị an trí ở Bến Tre, Dương Bá Trạc bị an trí ở Long Xuyên, Lương Văn Can bị an trí ở Nông Pênh. Năm 1914 cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chủ tịch đã tới Sa Đéc gặp Võ Hoành, cùng gặp gỡ các nhà chí sĩ ở Bắc Kỳ bị an trí ở Nam Kỳ để bàn kế hoạch tổ chức lực lượng yêu nước và cũng để hỏi thăm tin tức của Nguyễn Ái Quốc...

HOÀNG TĂNG BÍ

Hoàng Tăng Bí tự là Nguyên Phu, sinh năm Tân Tỵ (1833) tại làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội.
Ông thi đỗ Á nguyên khoa Bính Ngọ (1906), song không ra làm quan mà tham gia phong trào Duy tân, đi các nơi diễn thuyết, hô hào Duy tân.

Ông tham gia Đông Kinh nghĩa thục từ đầu, sung vào ban giáo dục. Ban này chia làm ba môn: Việt văn, Hán văn, Pháp văn. Hoàng Tăng Bí cùng các ông Nguyễn Quyền, Vũ Trác, Hoàng Tích Phụng, Dương Bá Trạc, Lương Trúc Đàm, Đào Nguyên Phổ dạy Hán văn.

Hoàng Tăng Bí còn tham gia giảng bài, bình thơ vàn yêu nước, diễn thuyết ở trường Đông Kinh nghĩa thục, các phân hiệu ở Hà Nội, Hà Đông về văn thơ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền và của nhiều nhà hoạt động cách mạng khác từ Trung Quốc, Nhật Bản gửi về. Các ông cũng đưa những bài văn thơ đăng trên Đăng cổ tùng báo và Đại Việt Tân báo là cơ quan ngôn luận của trường. Ông là một diễn giả nổi tiếng của Đông Kinh nghĩa thục.

Hoàng Tăng Bí cổ động cho việc phát triển công nghiệp thương nghiệp để phát triển kinh tế của đất nước và là người thực liệm đã cùng với Nguyễn Quyền mở cửa hàng Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai vừa buôn bán, vừa làm công nghệ. Ông là người đầu tiên dùng những khung cửi rộng dệt xuyến hoa phù dung lớn rồi nhuộm đen. Hiệu buôn của ông còn sao tẩm chế ra trà Tàu, trà mạn, trà hộp ướp sen và giấy hoa tiên để cạnh tranh với hàng của Hoa kiều.

Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, ông thôi dạy học vẫn tiếp tục mở mang thủ công nghệ, buôn bán và vẫn giữ liên lạc với các yếu nhân, giảng viên Đông Kinh nghĩa thục đàm luận thời cuộc.

Khi vụ "Hà Thành đầu độc" nổ ra, thực dân Pháp đã gán cho những yếu nhân của Đông Kinh nghĩa thục có liên quan chủ mưu trong vụ đầu độc và liên kết với nghĩa quân Yên Thế đánh úp Hà Nội để bắt đưa đi đầy ở Côn Đảo, an trí ở các tỉnh thuộc Nam Kỳ, Cao Miên. Hoàng Tăng Bí cũng bị bắt, nhưng nhờ có nhạc gia là Cao Xuân Dục, Thượng thư bộ Hộ bảo lãnh, được tha, chỉ bị an trí ở Huế. Tại đây ông học tiếng Pháp và Toán, trở thành tinh thông.

Năm 1915 ông ra Hà Nội mở trường dạy học Pháp văn, Toán học, Khoa học thường thức. Ông cũng dạy Việt văn ở trường Tư thục Gia Long (sau đổi là Thăng Long).

Năm Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân (1910), ông thi Hội, đậu Phó bảng, nhưng không ra làm quan.

Ông viết báo và dịch các tiểu thuyết của Pháp như Paul et Virginie của Bemadin de Saint-Pierri. Le conte de Monte Cristo đăng trên báo Trung - Bắc tân văn mà ông làm trợ bút. Ông còn soạn các vở tuồng Đệ bát tài tử hoa tiên ký (1913), Nghĩa nặng tình sâu (1926), Thù chồng nợ nước (1927). Các vở tuồng của ông đều mượn tích xưa để kêu gọi đồng bào vùng lên đánh đuổi quân thù.

Hoàng Tăng Bí qua đời năm 1939.

TRẦN QUÝ CÁP

Trần Quý Cáp còn có tên là Nghị, tự Dã Hàng, lại tự là Thích Phu, hiệu Thai Xuyên. Ông sinh năm Canh Ngọ (1870), quê ở thôn Đài La, làng Bát Nhị, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông thông minh, học giỏi, nhưng thi Hương ba khóa chỉ đậu Tú tài. Vì nhà nghèo, ông phải đi dạy học thêm ở nhà Bố chính Nguyễn Mại.
Trần Quý Cáp đỗ tú tài liền ba khóa, theo lệ coi như đã đỗ cử nhân, được vào thi Hội. Ông đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Giáp Thìn (Thành Thái 16 năm 1904).

Trần Quý Cáp không muốn làm quan, mà dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng. Thời gian đầu Trần Quý Cáp thuộc nhóm Duy tân hội (bạo động - cầu ngoại viện) của Phan Bội Châu. Song vì ông còn mẹ già nên không theo Phan Bội Châu sang Nhật Đông du được. Trần Quý Cáp hưởng ứng phong trào cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng và trở thành một nhân vật nhiệt thành với sự nghiệp cải cách.

Năm Ất Tỵ (1905), ba nhà ái quốc Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng lên đường vào Nam du để tuyên truyền cách mạng, quyên góp tiền vào quỹ Đông du.

Trường Thăng Bình là nơi Trần Quý Cáp được cử đến làm giáo thụ, ông mở ngay lớp trong trường của nhà nước, mời thày về dạy chữ quốc ngữ, chữ Pháp, học trò có vài trăm. Các hoạt động mở trường, diễn thuyết do Trần Quý Cáp chủ trương diễn ra sôi động ở tỉnh Quảng Nam, khiến cho bọn cầm quyền Pháp lo ngại.

Ngày 15 tháng 12 năm Duy Tân Thứ nhất (cuối tháng 1/1908), Tổng đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung có trát cho các tổng, xã trong tỉnh là theo lời công sứ, Trần Quý Cáp, giáo thụ ở phủ Thăng Bình thường vận âu phục, đi lại các xã đánh trống, tụ tập dân chúng diễn thuyết, từ nay cấm Trần Quý Cáp không được làm như thế nữa. Đồng thời lệnh cho các tổng lý thông báo cho dân biết từ nay không được đánh trống, tụ tập diễn thuyết, ai trái lệnh sẽ bị nghiêm trị theo pháp luật, những lý dịch không thực hiện nghiêm lệnh này cũng bị xử phạt. Ngay sau đó nhà cầm quyền Pháp đổi Trần Quý Cáp vào Khánh Hòa.

Đầu tháng 5/1908 xảy ra việc chống thuế ở Quảng Nam. Giữa tháng 5/1908, Trần Quý Cáp từ Nha Trang gửí thư về cho bạn ở Quảng Nam, trong đó có đoạn: "Cận văn ngô châu cử nhất, khoái sự ngô văn chi. Khoái thậm! Khoái thậm!” (Gần đây tôi nghe ở tỉnh nhà, có làm được một việc rất thú. Tôi nghe tin lấy làm khoái lắm! Khoái lắm).

Không ngờ thư bị kiểm duyệt, Phạm Ngọc Quát, Án sát Khánh Hòa vốn xuất thân tú tài bị ông khinh miệt, tìm cách trả thù. Hắn báo việc này với công sứ tỉnh Khánh Hòa là Bréda là nhân vụ chống thuế bắt ông. Hắn không trình lên triều đình Huế, muốn nhân dịp này trừ ông để đánh phá phong trào, vừa để trả thù ông khinh miệt hắn. Hắn thông đồng với công sứ Bréda quan thày của hắn cho lính khám nhà ông. Chúng chỉ bắt được một tấm bản đổ thế giới treo trên tường và tìm được bản "Hải ngoại huyết thư" ở trong tráp. Tội trạng như thế cũng chưa đủ để kết án, song tên Việt gian này đã làm án: "Gia trung quốc thế giới địa đồ bức, ý dục hà vi Sương nội tàng Hải ngoại huyết thư nhất phong tịnh kỳ khả biến. Truy bạn trọng vị hình, nhi bạn tâm dĩ súc kĩ. Kỳ y Trần Quý Cáp, nghĩ ưng xử trảm dĩ vi mưu bạn giả giới” (Trên tường treo một bức bản đồ thế giới, ý muốn làm gì? Trong tráp giấu một phong "Hải ngoại huyết thư" tình đà đủ thấy. Tuy việc phản chưa hình thành nhưng lòng phản đã sẵn. Nghĩa nên xử chém, để những bọn mưu phản làm gương).

Trần Quý Cáp bị bắt khiến dư luận phản ứng mạnh mẽ đòi đưa Trần Quý Cáp ra xét xử công khai. Song tên công sứ Bréda và Phạm Ngọc Quát đã vu khống cho Trần Quý Cáp tội "Có hành động tạo phản chống Nam triều và Chính phủ Bảo hộ".

Phạm Ngọc Quát biết rõ với chứng cớ và lời lẽ trong thư, tấm bản đồ và bản "Hải ngoại huyết thư" chưa thể xử chém, thế nào Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, Bộ Hình cũng can thiệp, hắn tính: “Làm sự đã rồi”, ngày 17/5/1908 nghĩa là 2 ngày sau khi Trần Quý Cáp bị bắt, hắn thông báo sẽ xử theo hình thức "yêu trảm" nghĩa là chém ngang lưng ở bãi Sông Cạn bên cầu Phước Thanh, tục gọi là "Gò chết chém", nơi mà 23 năm trước (1885), giặc -Pháp đã chém Đề Phong (Trịnh Phong) thủ lĩnh phong trào Cần vương tỉnh Khánh Hòa.

Trước khi bị chém ông ung dung đọc bài thơ Tuyệt mệnh.

   "Ai mà sợ chết, chết như chơi
   Chết cũng vì vua, chết bởi thời
   Chết hiếu đã đành xương thịt nát,
   Chết trunq bao quản cổ đầu rơi
   Chết nhân tiếng để hiền muôn thuở
   Chết nghĩa danh nêu biết mấy đời
   Thà chết, chết trong hơn sống đục,
   Ai mà sợ chết, chết như chơi.


Hôm đó là ngày 5 tháng 5 năm 1908, khi đó ông mới 38 tuổi.

TRƯƠNG GIA MÔ

Trương Gia Mô hiệu Cúc Nông, tự là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản, biệt hiệu Hoài Huyền Tử, sinh năm 1806. Ông quê ở Gia Định, nhưng sinh tại làng Hương Điểm, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Tuy sinh ở Bến Tre, nhưng từ thời niên thiếu, Trương Gia Mô sống ở Bình Thuận là chính khi cha ông đương chức Tuần vũ Thuận - Khánh.
Trương Gia Mô bẩm tính thông minh, học giỏi từ nhỏ và tìm đọc rất nhiều loại sách, kể cả sách khoa học, công nghệ, ngoại thương của phương Tây được dịch ra tiếng Hán. Nhờ đó ông tinh thông văn thơ, sử địa, kinh tế, quân sự. Chính vì vậy mà nhân dân gọi ông là Nghè Mô.
Năm Nhâm Thìn (1892), Trương Gia Mô ra Huế được bổ làm thừa phái bộ Công.

Tại bộ Công, ông có điều kiện tiếp xúc với các loại sách do các đoàn đi sứ Trung Quốc, Pháp, Xingapo, Hương Cảng, Hồng Kông mang về. Nhân thượng thư Nguyễn Trọng Hợp được cử đi Pháp đàm phán, Trương Gia Mô gửi bản Điều trần lên vua Tự Đức xin triều đinh cải cách 5 việc:

1. Mở trường dạy học chữ Pháp ở các tỉnh. Dịch sách chữ Pháp và chữ Trung Quốc ra chữ Quốc ngữ để phổ biến rộng rãi ra dân chúng.

2. Chấn hưng công nghệ thực nghiệp, mở rộng việc khai hoang, chăm sóc, chữa bệnh cho bệnh nhân nghèo.

3. Cách chức bọn quan lại tham nhũng, sàng lọc bọn vô dụng trong bộ máy công quyền.

4. Lập Nghị viện, mở báo quán để rộng đường dư luận.

5. Chỉnh đốn hương tục, đẩy mạnh việc giáo hóa trong xã hội, ngăn ngừa sự đồi bại.

Để được trực tiếp quan sát, học hỏi kỹ nghệ phương Tây, đưa về ứng dụng ở Việt Nam, ông làm đơn sung vào sứ đoàn đi Pháp, nhưng cả hai việc ông đề xuất đều không được triều đình chấp nhận. Ông bất mãn, trao trả ấn tín, từ quan về sống ở Lục tỉnh, sau đó lại trở ra Bình Thuận. Ông đã cùng với Nguyễn Lộ Trạch mưu tính việc xuất dương nhưng việc không thành.

Năm 1904, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng "Nam du" để liên kết đồng chí chuẩn bị cho ra đời Hội Duy tân đã dừng chân ở Bình Thuận giao kết với Trương Gia Mô, cùng các thân sĩ hô hào Duy tân, cải cách, tổ chức công ty Liên Thành, thành lập trường Dục Thanh.

Năm Mậu Thân (1908), sau vụ chống thuế ở Quảng Nam, ông bị bọn cầm quyền Pháp kết tội, tham gia vào tổ chức bí mật "đảng hội", bị chúng bắt giam ở nhà lao Khánh Hòa. Nhà ông cũng bị lính của Án sát tỉnh Khánh Hòa Phạm Ngọc Quát lục soát. Phạm Ngọc Quát không tìm được chứng cớ buộc tội ông, nên phải thả ông. Ông trở về nhà lúc đã ngoài 40 tuổi, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Song ông vẫn bí mật liên lạc với Tri phủ Tôn Thất Doãn và các đồng chí trong Duy tân hội ngấm ngầm xây dựng lại phong trào.

Bình sinh Trương Gia Mô rất ghét giặc Pháp, ghét triều đình suy tàn. Khoảng năm 1928 - 1929 ông tiếp xúc với Nguyễn Sinh Sắc. Theo nhân dân miền Nam truyền lại thì khi Bảo Đại ở Pháp về làm vua, ông đi sắm súng sáu để đón đường bắn chết. Việc không thành, ông bị giặc Pháp truy bắt, ông ẩn mình ở núi Sam, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc tỉnh An Giang. Ông muốn tự tử, đốt cả thơ mình. Bị mật thám truy bức ráo riết ông không muốn mình lọt vào tay chúng, đã leo lên tháp cao của pháo đài cổ, gieo mình xuống vực sâu tự tử. Sự việc đó xảy ra vào năm 1929. Các báo Thần Chung, Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn đưa tin và bình luận cái chết của ông với sự kính trọng và thương tiếc. Mộ ông chôn ở chân núi Sam.

BÙI LIÊM

Bùi Liêm sinh năm 1881, người làng Giáp Nhị, xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, song ông dự một khoa thi Hương nhưng không đỗ. Họ hàng có nhiều người làm quan, đưa ông vào học ở trường Hậu bổ, nhưng ông từ chối, liên lạc với các nhà nho yêu nước tìm đường cứu nước. Ông kết bạn với Phan Tuấn Phong ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm.

Năm 1907, Phan Tuấn Phong giới thiệu Bùi Liêm tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Bùi Liêm nhận thấy Thái Bình là nơi có phong trào Văn thân chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX, phong trào Đông du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục phát triển, nơi có nhiều trường học dạy theo chương trình của trường Đông Kinh nghĩa thục, nên liền về huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình mở một cửa hàng Tạp hóa vừa để kinh doanh sinh sống, vừa là nơi liên lạc với các nhà nho yêu nước ở Thái Bình, Nam Định, vừa lấy tiền ủng hộ những người xuất dương Đông du. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, Bùi Liêm tham gia phong trào Đông du của Phan Bội Châu.

Giữa năm 1912, nghe tin Việt Nam Quang Phục hội thành lập, Bùi Liêm cùng Đinh Trọng Liên, Nguyễn Quang Uyên (tức Hồ Hải Thu)... trốn sang Trung Quốc tham gia Việt Nam Quang Phục hội.

Năm 1913, Trung ương Quang Phục Hội cử Nguyễn Trọng Thường, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng về nước ám sát Toàn quyền Albert Sarraut, Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hàn không đạt kết quả mĩ mãn. Năm 1915 Quang Phục Hội lại cử Hoàng Trọng Mậu (Nguyễn Đức Công), Nguyễn Hải Thần, Trần Hữu Lực (Nguyễn Thúc Đường)... về đánh đồn Tả Lùng. Vì sai lầm của Nguyễn Hải Thần trận đánh thất bại, Trần Hữu Lực bị bắt ở Hương Cảng, Hoàng Trọng Mậu bị bắt ở Băng Cốc, rồi hai ông bị xử bắn ở Bạch Mai.

Sau một số lần thất bại, năm 1916 Việt Nam Quang Phục hội lại cử Bùi Liêm và một số đồng chí về nước gây dựng phong trào, nhưng trên đường về nước Bùi Liêm tới Quảng Châu thì bị mật thám bắt giải về nước.

Tại Tòa án Đại hình ngày 6 tháng 11 năm 1916, Bùi Liêm bị giặc Pháp xử bắn tại thành phố Nam Định - là nơi ông tham gia hoạt động.
Trước khi chết ông có thư tạ tội cùng bố, vì đã không giữ trọn đạo hiếu phụng dưỡng cha già. Trong thư có hai câu nói lên chí hướng của mình:

      "Sinh bất tiêm cừu chung hữu hậu
      Tử nhu đắc sở thị hoàn danh"


Dịch:

      Sống chẳng diệt thù ôm hận mãi
      Chết mà đúng chỗ ấy danh thơm.



LÊ ĐÌNH CẨN

Lê Đình Cẩn còn gọi là Lê Cẩn sinh năm Canh Ngọ (1870), người xã Hòa Vinh, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, nay Hòa Nghĩa thuộc huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi.

Lê Đình Cẩn là người thông minh, hiếu học. Ông đậu cử nhân khoa thi Hương năm Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903) tại trường thi Bình Định, năm 34 tuổi, cùng khóa với Nguyễn Thụy (Nguyễn Sụy). Ông được bổ làm Huấn đạo huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

Sau ông chán cảnh triều đình Huế ngày càng lệ thuộc vào thực dân Pháp, tiếp tay cho chúng đàn áp các phong trào chống Pháp của nhân dân. Vì vậy ông từ quan trở về kết giao với các nhân sĩ mưu việc cứu nước. Ông hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa do Trần Du lãnh đạo.

Năm 1905, 1906, Lê Đình Cẩn tham gia phong trào Duy tân và Đông Du. Ông là một trong số ít người được Phan Bội Châu bàn bạc về Cương lĩnh chương trình hoạt động của Hội và có nhiều đóng góp tích cực cho sự ra đời của Duy tân hội và phong trào Đông Du.

Năm 1908 nổ ra cuộc chống thuế quyết liệt ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, ông tích cực tham gia, trở thành một trong số người lãnh đạo chủ chốt của phong trào này. Lê Đình Cẩn đã cùng Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan, cử Thụy, Tú Chẩm... đi khắp 6 phủ huyện phát động nhân dân nổi dậy chống thuế rầm rộ ở Quảng Ngãi, trở thành cao trào kéo về vây thành Quảng Ngãi tới 10 ngày và trừng trị bọn tay sai của giặc Pháp.

Khi giặc Pháp đàn áp, ông bị giặc Pháp bắt cùng với các ông Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan, cử nhân Nguyễn Thụy, cử Quảng, tú tài Nguyễn Cao Chẩm... Khi bị bắt, ông vẫn ngang nhiên chửi thẳng vào mặt tên tay sai đầu sỏ Nguyễn Thân. Giặc Pháp đưa ông về giam ở nhà lao Quảng Ngãi cùng với Cử Thụy, Tú Chẩm, Tú Tuyên, Cử Quảng, huyện Mai để chờ đưa đi đầy ở Côn Đảo. Tại nhà lao, Lê Đình cẩn làm bài thơ chữ Hán:

   "Cố quốc sơn hà trọng
   Tân triều thế lực khinh
   Hùng tâm vinh đỉnh hoạch
   Tô mộng đoạn nghê kình
   Dục liệu Cao trường khấp
   Ninh tri Cát bất thành
   Túng nhiên lưu nhiệt huyết
   Đồng loại hấp văn minh"


Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch và in trong tập Thi tù tùng thoại:

      "Non sông ơn vẫn nặng
      Sóng gió cuộc vừa xoay
      Vạc lửa lòng quên sợ
      Tăm kình mộng đuổi ngay
      Khóc đời Cao chư chán(1)
      Hỏng việc Cát nào hay(2)
      Máu nóng đầu trôi chảy
      Văn minh hấp cả bầy".


   (1) Cao Sơn Chinh Chí
   (2) Cát Điền là nhân vật Duy tân Nhật Bản.

Lê Đình cẩn bị chết ở Côn Đảo năm 1915 (Tú Quang cũng bị chết, Nguyễn Cao Chẩm bị bọn chúa đảo sát hại tại đảo).

HOÀNG XUÂN HÀNH

Hoàng Xuân Hành còn gọi là Giám Hành vì con đầu ông tên là Giám, nhân dân thường gọi là cố Giám Hành. Quê ông ở làng Hoàng Trù tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Thanh, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hoàng Xuân Hành thông minh, văn thơ hay, nhưng mấy lần lều chõng đi thi đều bị trượt vì phạm quy. Ông làm thày đồ ở các làng Dương Phổ, Phù Long.

Nam Đàn là địa phương đầu tiên ở Nghệ An có tổ chức Duy Tân hội do các ông Hoàng Xuân Hành cùng các ông cử nhân Vương Thúc Quý, Trần Văn Lương, Vương Thúc Nghiêm... thành lập. Hoàng Xuân Hành là người dìu dắt Nguyễn Thị Thanh, con của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh sắc vào tổ chức Duy Tân hội.

Ông được Phan Bội Châu tin cậy cử đi Yên Thế cùng với các ông Phạm Văn Ngôn, Vương Thúc Nghiêm, xây dựng đồn điền Tú Nghệ. Ít lâu sau Phan Bội Châu lại điều ông về Nghệ An cùng với các ông Đội Quyên, Đội Phấn, Thần Sơn Ngô Quảng, Lang Sơn... xây dựng căn cứ chống Pháp ở Bố Lư (Thanh Chương) và Đông Hồ (Tân Kỳ). Hoàng Xuân Hành cùng các đồng chí đã phân phát những lời kêu gọi, những vần thơ ứa máu và nước mắt của cụ Phan như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Khuyến quốc dân trợ tư dư học... đã khơi dậy lòng căm thù giặc Pháp, lòng yêu nước thiết tha của các nho sinh, thanh niên, nhân dân huyện Nam Đàn.

Hoàng Xuân Hành cùng các yếu nhân khác của Duy tân hội và phong trào Đông du đã vận động được nhiều thanh niên xuất dương như Vương Thúc Thoại, Vương Thúc Oánh, Nguyễn Sinh Khánh, Hoàng Tộ...

Năm 1911 cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thành công, năm 1912, Phan Bội Châu triệu tập các yếu nhân của Duy tân hội và phong trào Đông du ở trong nước, ở Trung Hoa, Xiêm La thành lập Việt Nam Quang Phục hội, Phục Quốc quân xây dựng lực lượng vũ trang ở trong nước và ở Trung Hoa. Hai căn cứ Bố Lư và Đông Hồ được củng cố. Hoàng Xuân Hành tích cực hoạt động trong tổ chức này. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ngày càng quyết liệt, nhất là ở làng Dương Phổ nơi ông ngồi dạy học.

Năm 1914 ở đây đã nổ ra phong trào đánh Tây chống áp bức bất công. Phong trào công khai chống thực dân Pháp và Nam triều ở Dương Phổ được các làng Mỹ Thiện, Vạn Lộc, Xuân La noi gương.

Năm 1915 Hoàng Xuân Hành về hoạt động ở thôn Mỹ Thiện, xã Tràng Cát, nay là xã Nam Cát, giáp xã Kim Liên về phía Đông. Do một học trò cũ phản bội chỉ điểm cho giặc Pháp, Hoàng Xuân Hành bị mật thám bắt giải về Vinh. Khi chúng giải đến địa phận huyện Hưng Nguyên, ông cắn lưỡi tự tử, song không chết. Chúng giải ông đến nhà lao Vinh, ông tuyệt thực luôn 9 ngày đêm. Giặc tra tấn ông bằng những đòn dã man, tàn bạo, cũng không lấy được một lời khai. Ngay kẻ thù cũng phải khiếp phục lòng kiên trinh, bất khuất của ông. Tòa án thực dân kết án ông tù 10 năm, đầy đi Lao Bảo.

Năm 1925 Hoàng Xuân Hành được trả tự do. Nghe tin Phan Bội Châu bị quản thúc ở Huế, ông vào ngay Huế thăm người lãnh tụ của phong trào chống Pháp đầu thế kỷ XX.

Hoàng Xuân Hành đã cùng các ông Huỳnh Thúc Kháng, Trần Hoành, Phạm Nghị, Trần Đình Phiên và hai con trai của ông là Phan Nghi Huynh, Phan Nghi Đệ khâm liệm chôn cất ông Phan chu đáo. Ông còn ở lại chăm sóc phần mộ cho cụ Phan cho đến khi cải táng mới trở về quê. Về tới nhà được ba tuần, đúng ngày rằm tháng 10 năm Nhâm Ngọ (22/12/1942) Hoàng Xuân Hành từ biệt cõi đời.

LƯƠNG VĂN CAN

Lương Văn Can tự là Hiếu Liêm, hiệu Ôn Như sinh năm 1854, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông nay là huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây.

Ông sinh trưởng trong một nhà nho có truyền thống khoa bảng. Gia đình có nhà ở số 4 Hàng Đào, Hà Nội, mặt sau là số 10 phố Hàng Quạt.
Lương Văn Can thông minh từ nhỏ theo học cử nhân làng Vũ Thạch là một trường rất nổi tiếng, có đến hàng ngàn học trò (nay là số 7 Tràng Thi).

Năm Lương Văn Can 17 tuổi đã thi Hương vào Tam trường, năm 1871 đỗ cử nhân. Năm 1872 ông thi Hội không đỗ. Triều đình cử làm giáo thụ phủ Hoài Đức, ông không nhận.

Khi thực dân Pháp ổn định được bộ máy cai trị ở Hà Nội mời ông ra làm uỷ viên Hội đồng Thành phố, ông cũng không nhận, ở nhà dạy học, nuôi chí.

Lương Văn Can thấy đất nước ngày càng suy vong, ông mở trường dạy học ở số 4 phố Hàng Đào. Đây cũng là nơi lui tới của các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Dương Bá Trạc... thường đến xướng hoạ văn thơ, đọc tân thư, tân văn, đàm đạo công việc cứu nước.

Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc... cùng các yếu nhân khác đã tích cực triển khai việc mở trường Đông Kinh Nghĩa thục ở Hà Nội...

Cử nhân Lương Văn Can, 53 tuổi là người nhiều tuổi nhất trong số sĩ phu sáng lập được bầu làm Thục trưởng phụ trách Ban Tu thư, Nguyễn Quyền được bầu làm Giám học.

Tháng 12 năm 1907 Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh đóng cửa trường. Năm sau chúng bắt các ông Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Lê Đại, tịch thu sách vở, tài liệu của trường. Tuy vậy thực dân Pháp không đủ chứng cứ kết tội nên phải thả. Song chúng vẫn cho mật thám giám sát chặt chẽ.

Năm 1908 nhân Vụ Hà thành đầu độc, thực dân Pháp liên tục bắt Lương Văn Can, giám học Nguyễn Quyền cùng các giảng viên khác xét hỏi ở Sở Liêm phóng. Chúng căn vặn Lương Văn Can nhiều vấn đề, nhưng trước sau ông chỉ ôn tồn đáp: "Chúng tôi mở trường Nghĩa thục để giúp Chính phủ khai hóa dân trí và Chính phủ đã cho phép. Từ khi Chính phủ rút phép, thì chúng tôi không hoạt động gì nữa!”'. Không có lý do để bắt giữ ông, hơn nữa trông ông đã già, râu tóc bạc trắng như đã 70 tuổi, chúng buộc phải thả, nhưng vẫn giám sát chặt chẽ.

Năm 1913 sau vụ chiến sĩ Việt Nam Quang Phục hội ném bom vào khách sạn "Con gà vàng’’ (ngày 23 tháng 4), thực dân Pháp bắt giam tới mấy trăm người, chúng cho là do nhóm Đông Kinh nghĩa thục chủ trương, nên bắt giam Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Dương Bá Trạc, Nguyễn Cảnh Lâm và nhiều giảng viên khác. Chúng kết án Lương Văn Can 10 năm biệt xứ, đưa đi an trí ở Phnom Pênh.

Năm 1924, sau 9 năm bị an trí ở ông mới được trở về nước. Trong thời gian trở về Hà Nội, Lương Văn Can để hết tâm lực vào soạn các bộ sách: Quốc sự phạm lịch sử ấu học, Tùng đàm và dịch các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử. Ông còn có mối liên hệ mật thiết với các nhà cách mạng như Nguyễn Mậu Cường ở Thái Bình, Phan Bội Châu bị an trí ở Huế, Huỳnh Thúc Kháng...

Sáu giờ sáng ngày 13 tháng 5 năm Đinh Mão (12/6/1927), Lương Văn Can mất đột ngột.

NGUYỄN QUYỀN

Nguyễn Quyền sinh năm 1869, quê ở làng Thượng Trì, tục gọi là làng Đìa, tổng Thượng Mão, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Hoài Thượng huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông thi đỗ tú tài khoa Tân Mão (1891).

Cuối năm 1905, ông được bổ nhiệm làm Huấn đạo Phủ Lạng. Gọi là Phủ, nhưng chỉ là tỉnh nhỏ Lạng Sơn, vì quan Tổng đốc Lạng Sơn là Vi Văn Lý (con trai Vi Văn Định) tư xin phủ Thống sứ bổ cho một quan giáo chức là dạy học trò bản tỉnh. Vì vậy phủ Thống sứ mới bổ nhiệm ông. Nguyễn Quyền dạy học, nhưng học trò ít lắm, nên có thời giờ đọc Tân thư của Trung Quốc, do chí sĩ Duy tân Trung Quốc soạn hoặc dịch của các nước châu Âu, châu Mỹ như "Trung Quốc hồn”, "Quần kỹ quyền giới luận”. Ông cũng đã tiếp thu được những tư tưởng tân tiến trong Tân thư.

Qua một số lần tiếp xúc của Nguyễn Quyền với Lương Văn Can và một số nhà nho yêu nước khác, các cụ đã quyết định mở trường nghĩa thục tại Hà Nội, đặt tên là Đông Kinh nghĩa thục. Với lòng thiết tha đào tạo nhân tài cho đất nước, Nguyễn Quyền từ chức đốc học Lạng Sơn về Hà Nội tổ chức trường. Lương Văn Can được cử làm thục trưởng, Nguyễn Quyền khi đó 38 tuổi được cử làm giám học. Hai ông là những người đứng mũi chịu sào, chèo lái con thuyền Đông Kinh nghĩa thục.

Những hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục khiến cho thực dân Pháp tức tối.

Vì vậy cuối năm 1907, phủ Thống sứ Bắc Kỳ đã ra quyết định rút giấy phép của Đông Kinh nghĩa thục lấy cớ trường này đã làm náo động lòng dân, cấm các cuộc diễn thuyết bình văn, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục bị tịch thu. Đông Kinh nghĩa thục giải tán ít lâu, Thống sứ Bắc Kỳ buộc Nguyễn Quyền trở lại ty giáo huấn với chức vụ giáo thụ phủ Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Nguyễn Quyền về nhận chức giáo thụ ở Phù Ninh được một tháng thì bị giặc Pháp bắt giải về Hà Nội, giam ở Hỏa Lò. Các ông Lê Đại, Võ Hoành, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí... cũng đều bị bắt. Nguyễn Quyền bị giam ở Hỏa Lò 9 tháng thì cùng các ông trên bị Pháp đưa ra Hội đồng Đề hình (Comission criminelle) xét xử. Hội đồng này khép Nguyễn Quyền vào án "Trảm giam hậu” sau đổi thành án khổ sai chung thân đầy ra Côn Đảo vào năm 1909.

Năm 1930, Nguyễn Quyền được trả tự do được coi là "Cứu xét vô can" (Xét ra không can phạm tội gì) nhưng bị an trí ở tỉnh lỵ Bến Tre, Dương Bá Trạc ở Long Xuyên, Võ Hoành ở Sa Đéc, Hoàng Tăng Bí ở Huế, Phan Chu Trinh ở Mỹ Tho.

Nguyễn Quyền bị an trí, song vẫn nặng lòng yêu nước, vẫn giao du với những nhà chí sĩ yêu nước trong vùng lục tỉnh, mở tiệm may tại thị xã Bến Tre làm nơi giao thiệp, liên lạc với bên ngoài, vận động quần chúng góp tiền bạc gửi sang Nhật giúp Phan Bội Châu.

Năm 1941, Nguyễn Quyền bị bệnh bướu ở cổ. Vào 12 giờ đêm ngày 24-6 năm Tân Tỵ (18-7-1941) ông từ trần. Mộ táng ở làng Tân Xuân gần xã Rạch Vạc, tỉnh Sa Đéc).

PHẠM TƯ TRỰC

Phạm Tư Trực hồi nhỏ có tên là Phạm Đăng Thê, tự Bang Phu, hiệu Trọng Thăng Tử, là con ông Phạm Hải, sinh quán ở làng Hoàng Xá, nay thuộc xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Thuở nhỏ Phạm Tư Trực chăm học, lại chăm lo việc nhà nông. Ông đỗ tú tài liền hai khoa Canh Tý (1900) và Quý Mão (1903). Đến khoa Bính Ngọ (1906) ông đỗ cử nhân thủ khoa. Thấy ông là người tài giỏi, chữ đẹp, Hoàng Cao Khải mời ép ông về tư dinh ở Thái Hà ấp chép hộ tập thơ chữ Hán, nhưng thực ra là dụ dỗ ông là làm quan dưới quyền hắn. Phạm Tư Trực lấy cớ còn mẹ già, kiên quyết từ chối xin về. Phủ Thống sứ Bắc Kỳ bổ nhiệm ông làm huấn đạo huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Vốn sẵn lòng yêu nước, ông đã bí mật liên lạc với cử nhân Lương Văn Can, huấn đạo Nguyễn Quyền, hoàng giáp Đào Nguyên Phổ và một số nhà nho khác thành lập trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Ông được cử vào ban Tu thư viết và dịch sách giảng dạy ở nhà trường và dùng làm tài liệu trong các buổi diễn thuyết cổ súy tân học, bình văn thơ yêu nước. Phủ Thống sứ Bắc Kỳ cấp giấy phép cho trường không thể vừa cấp xong đã thu hồi, để đối phó, phủ Thống sứ cũng thành lập ban tu thư, do ông làm trưởng ban, buộc ông viết một cuốn Lịch sử Việt Nam.

Ông đã làm bài thơ chứa chan niềm tự hào dân tộc trong các cuộc chiến thắng ngoại xâm trong lịch sử, thực dân Pháp bèn cách chức trưởng ban tu thư ở phủ thống sứ của ông trả về làm huấn đạo huyện Thanh Miện.

Trong khi giữ chức Huấn đạo ở huyện Thanh Miện, Phạm Tư Trực vẫn làm nhiệm vụ ở ban tu thư. Ông sáng tác thơ văn theo tôn chỉ của trường là ca ngợi tinh thần bất khuất của Tổ tiên trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước, khuyên mọi người đồng tâm đồng sức cứu nước.
Lời thơ của Phạm Tư Trực có những câu cứng như thép, quyết liệt được thể hiện trong bài Cải cách lối học:

   Chí làm trai đứng trong trời đất
   Phải sao cho tỏ mặt non sông
   Kìa kìa mấy bậc anh hùng
   Cũng vì thuở trước học không sai đường
   Cuộc hoàn hải liệt cường tranh cạnh
   Mở trí dân giàu mạnh biết bao
   Nước Nam học vấn thế nào
   Chẳng lo bỏ dại lẽ nào còn khôn
   Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
   Phải đem ra tỉnh trước dân ta
   Sách các nước, sách Chi-na
   Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường.


Nhưng trong bài thơ "Mẹ khuyên con'' thì lời thơ lại nhỏ nhẹ, tâm tình, đúng là tiếng tâm sự thủ thỉ của mẹ hiền:

   Con làm sao cho thù báo nghĩa đền
   Cho yên việc nước kẻo phiền mẹ cha
   Con làm sao cho ích nước lợi nhà
   Nước kia có vẹn thì nhà mới xong
   Con làm sao, cho nổi tiếng Lạc Hồng
   Văn minh đôi chữ đọ cùng Á, Âu.


Phạm Tư Trực còn dịch nhiều sách chữ Hán ra chữ Nôm như sách Đại học, Luận Ngữ, Kinh thi. Ông biên soạn các sách Ấu tân học thư, Nam quốc lịch sử giáo khoa thư, Tu thân, Luân lý giáo khoa thư.

Trong khi tham gia hoạt động ở Đông Kinh nghĩa thục, Phạm Tư Trực vẫn bí mật liên lạc với phong trào Đông du do Phan Bội Châu tổ chức.
Phạm Tư Trực mất ngày 15 tháng 3 năm Tân Dậu (1921) tại quê nhà, thọ 53 tuổi.

PHAN TUẤN PHONG

Phan Tuấn Phong là anh cả Phan Văn Trường quê ở làng Đông Ngạc (Vẽ) huyện Từ Liêm, Hà Nội, ông cùng là Phan Trọng Kiên tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục.

Sách "Đông Kinh nghĩa thục" của Chương Thâu viết về hoạt động của Phan Tuấn Phong đối với trường Đông Kinh nghĩa thục như sau:

"...Ngoài ra còn có nhiều hội viên tán trợ như: Đào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Lê Đại, Vũ Hoành, Nguyễn Hữu Cầu, Phạm Tất Tuân v.v...”

Phan Tuấn Phong thường có mặt ở Chèm, nơi có đông đảo nhân dân tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Đề phòng bọn cầm quyền Pháp khủng bố những người tham gia, lập một tổ chức bí mật ở một hiệu thuốc Bắc trên bờ đê sông Hổng, làm nơi hội họp nghe bình thơ văn, diễn thuyết. Phan Chu Trinh, Lương Trúc Đàm thường về diễn thuyết bình văn.

Khi Bùi Liêm về Thái Bình cùng các ông Đào Nguyên Phổ, Ngô Quang Đoan, Phạm Tư Trực mở một trường Đông Kinh nghĩa thục ở Thái Bình, Phan Tuấn Phong cũng hết sức khuyến khích, cung cấp một số tài liệu giảng dạy, học tập.

Để có tiền ủng hộ những người xuất dương Đông Du, Bùi Liêm về huyện Thụy Anh mở cửa hàng Tạp hóa thì Phan Tuấn Phong cũng về giúp ông tiền vốn, kinh nghiệm kinh doanh.

Phan Tuấn Phong là một trong những người phụ trách phân hiệu Chèm-Vẽ. Sách Đông Kinh nghĩa thục của Chương Thâu viết: "Ở làng Chèm (Từ Liêm) nhân dân tham gia phong trào khá đông. Họ tổ chức những buổi bình thơ văn, kích động lòng yêu nước. Ở đây họ lập một tổ chức yêu nước hoạt động bí mật đặt trụ sở ở hiệu thuốc Bắc ngay bờ để làm nơi tụ họp. Phan Chu Trinh, Hoàng Tăng Bí cũng thường về đây diễn thuyết, bình văn".

Phan Tuấn Phong là bạn thân với Bùi Liêm quê ở xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì. Biết Bùi Liêm không vào học trường Hậu bổ để ra làm quan, từ năm 1907, Tuấn Phong đã giới thiệu Bùi Liêm vào Đông Kinh nghĩa thục. Sau Bùi Liêm sang Trung Quốc tham gia Việt Nam Quang Phục hội. Năm 1916 nhận lệnh về nước hoạt động, đến Quảng Châu thì bị mật thám Pháp bắt và xử tử hình ngày 6/11/1916 tại thị xã Nam Định.
Sau khi Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh giải tán Đông Kinh nghĩa thục, hiệu thuốc bắc ở làng Chèm cùng nhà nhiều hội viên bị khám xét.
Sau vụ Hà Thành đầu độc ngày 27/5/1908, thực dân Pháp bắt hết các nhà sáng lập, giảng dạy, ủng hộ Đông Kinh nghĩa thục. Phan Tuấn Phong cùng với anh trai là Phan Trọng Kiên bị bắt.

Lịch sử Việt Nam từ năm 1897 đến 1918 cũng viết: "Hoàng Hoa Thám đã lập ra đảng Nghĩa Hưng gồm những nhân vật chủ yếu như Chánh Tỉnh (tức Chánh Sòng), Nguyễn Viết Hanh, tức Đội Hổ, Lý Nho, Đỗ Hà Nam tức Đồ Đản, Nguyễn Văn Phúc, tức Lang Seo. Họ tản về các tỉnh, nhất là về Hà Nội bắt liên lạc với các nhà yêu nước của Đông Kinh nghĩa thục như Lê Đại, Phan Tuấn Phong, Hoàng Tăng Bí, Vũ Hoành".

Phan Tuấn Phong bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo từ năm 1909, đến năm 1911 thì được tha, đưa về đất liền, xác bị quăng xuống biển.

NGHIÊM XUÂN QUẢNG

Nghiêm Xuân Quảng sinh năm 1869, người xã Tây Mỗ nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Ông đỗ cử nhân khoa Giáp Ngọ (1894), đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái 7 (1895) năm 26 tuổi.
Lúc đầu bổ làm tri huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Hai năm sau, năm 1897 ông cáo quan về rồi lại ra Hậu bổ Hưng Hóa, lần lượt giữ các chức đốc học Hưng Yên, Án sát Lạng Sơn. Nghiêm Xuân Quảng là một trong bốn người sáng lập ra Đông Kinh nghĩa thục.

Đông Kinh nghĩa thục thành lập ở Hà Nội, Nghiêm Xuân Quảng đang làm Án sát tỉnh Lạng Sơn, từ quan về Hà Nội cùng Lương Văn Can và các yếu nhân khác xây dựng trường. Các ông chủ trương xây dựng trường nghĩa thục ở Hà Nội thật tốt, rồi mở rộng ra chung quanh. Nghiêm Xuân Quảng thành lập một phân hiệu Đông Kinh nghĩa thục ở Tây Mỗ, làng của mình. Phân hiệu do các ông Tú Kình, Đỗ Đàm, Nguyễn Hữu Đạm, Bá Quýnh, Nguyễn Văn Khuyên phụ trách.

Nghiêm Xuân Quảng xuất thân nhà nho, làm tới Đốc học, Án sát, nhưng do đọc nhiều tân thư, tân báo, tiếp xúc với các nhà nho tiến bộ như Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can, Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền... nên có lòng yêu nước. Ông quan điểm muốn cho dân giầu nước mạnh, thì phải mở mang công nghiệp, thương nghiệp. Đó cũng là mục hàng đầu trong cuốn "Quốc dân độc bản”, tài liệu giảng dạy của Đông Kinh nghĩa thục. Vì vậy mà các yếu nhân của Đông Kinh nghĩa thục, các sĩ phu yêu nước từ Nghiêm Xuân Quảng, Đỗ Quang Cơ, Ngô Quang Đoan, Hoàng Tăng Bí... chẳng những chỉ giảng dạy về phát triển công nghiệp, thương nghiệp mà chính các ông cũng mở xưởng công nghệ, mở công ty thương nghiệp như Nghiêm Xuân Quảng thành lập công ty Nghiêm Xuân Quảng ở Thái Bình, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Quyền mở hiệu Đông Thành Xương.

Gương Án sát Nghiêm Xuân Quảng từ quan về tham gia Đông Kinh nghĩa thục và mở hiệu buôn đã lôi cuốn nhiều nhà nho thức thời như Nguyễn Trác mở hiệu buôn sơn ở Việt Trì. Tại Thanh Hóa, công ty Phượng Lâu có từ trước cũng mở rộng kinh doanh, có chi nhánh ở Vinh, Hà Tĩnh. Ở Quảng Nam - Quảng Ngãi có Liên Thành công ty. Ở Nam Kỳ, Nguyễn An Khương (thân sinh Nguyễn An Ninh) - một thủ lĩnh phong trào Duy tân ở Nam Kỳ mở công ty Chiêu Nam Lầu...

Mặc dù làm chủ công ty kinh doanh tơ lụa, nhưng Nghiêm Xuân Quảng vẫn cùng các nhà yêu nước ở Thái Bình như Nguyễn Hữu Cương, Ngô Quang Đoan, Lý Thoa ở huyện Kiến Xương, Tiền Hải, Tú Phan, Lý Bội, Dương Xuân Ngại ở Đông Hưng, Thái Bình vẫn đứng ra mở trường dạy học chữ quốc ngữ cho thanh, thiếu niên. Nội dung dạy theo chương trình của trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.

Cũng như những nhà nho yêu nước, tiến bộ khác, Nghiêm Xuân Quảng mở công ty tơ lụa với mục đích làm gương, khuyến khích nhân dân làm theo. Tại công ty của ông cũng là nơi nhà yêu nước bàn đinh kế sách cứu nước. Lợi nhuận của các cửa hàng, công ty trên phần lớn tài trợ cho thanh niên xuất dương Đông du.

Khi trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội bị Thống sứ Bắc Kỳ bắt đóng cửa thì các công ty, hiệu buôn, nhà hàng cũng bị nhà cầm quyền Pháp gây khó khăn, một số phá sản, một số phải tự đóng cửa. Công ty Nghiêm Xuân Quảng cũng nằm trong số phận đó. Sau khi Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, Nghiêm Xuân Quảng nghỉ tới 10 năm, sau đó lại ra làm quan và mất vào ngày 8 tháng 5 năm 1941.

LÊ VÕ

Lê Võ còn gọi là Ấm Võ, tên chữ là Ngoạn Ngọc, hiệu là Trúc Khê tiên sinh lại có hiệu là Dạt Trúc tiên sinh. Ông là con trai quan Bố chính Lê Khanh và bà Nguyễn Thị Thục.

Ông sinh năm Giáp Tuất (1871), người làng Trung Lễ (Lạc Thiện), nay là xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh. Lê Võ vốn là dòng dõi con nhà tướng bốn người anh đã chết vì nước. Ông có tướng lạ: tay vượn, mày diều, mặt mũi sắc sảo. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng cùng với anh trai là Lê Trực. Năm 1887, Lê Trực tử trận ở Trung Lễ, ông được cử thay anh giữ chức Thương biện quân vụ khi còn rất trẻ.

Năm 1891, phong trào Cần vương ở Nghệ An, Hà Tĩnh bị đàn áp, ông về sống ở quê, năm 23 tuổi, ông vào Huế xin khai ấm sinh nhưng vì ông tham gia phong trào Cần vương nên không được xét. Lê Võ nghe tin ở Quảng Nam có nhiều danh sĩ, liền lẻn vào Quảng Nam xin vào học quan Đốc học Quảng Nam là Trần Đình Phong. Tại đây ông kết bạn với các danh sĩ nổi tiếng như Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng.

Năm 25 tuổi, ông vào Huế được tập ấm vào học ở trường Quốc Tử giám.

Năm 1905 Phan Bội Châu vào khuyên ông không nên theo con đường cử nghiệp mà nên mở một cuộc vận động lớn trong nước theo con đường Tân học. Phan Bội Châu trở ra Bắc bàn bạc với các đồng chí, Lê Võ vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nam Kỳ vận động. Chuyến đi của Lê Võ có kết quả là cùng các ông Hội đồng Hiến, Thần Sơn Ngô Quảng đứng ra quyên góp được tới 20.000 đồng và tìm được một số đông đảo thanh niên để xuất dương. Sau khi tập hợp được các đồng chí ở cả Trung, Nam, Bắc Kỳ, Phan Bội Châu, Lê Võ lại gặp nhau và quyết định hai ông cùng Cường Để xuất dương. Kết quả chuyến đi Trung Quốc của Phan Bội Châu, Lê Võ, Cường Để đã bàn bạc với các nhà cách mạng Trung Hoa là Tôn Văn, Hoàng Hưng thành lập được trường "Đồng Văn học hiệu" ở Trung Hoa, do người Nhật quản lý, đào tạo học sinh cho Việt Nam và Trung Quốc.

Các ông phân công nhau, Phan Bội Châu lưu trú ở Đông Kinh, (Nhật Bản) sắp xếp công việc ngoại giao, Lê Võ sang Tàu và sang Xiêm cổ động Việt kiều đi học.

Lê Võ ở Xiêm La một thời gian, sau đó ông qua Lào trở về Thanh Chương (Nghệ An), ông tìm các đồng chí. Khi đó mới biết sau vụ chống thuế ở Quảng Nam - Quảng Ngãi thì "Việt Nam Duy tân hội" và "Đông du" ở trong nước bị nhà cầm quyền Pháp đàn áp, bị tổn thất nặng nề. Lê Võ lên Yên Thế Bắc Giang (trước đó Phan Bội Châu đã thảo luận với Hoàng Hoa Thám) về việc lập đồn điền "Tú Nghệ" ở Yên Thế và lập căn cứ kháng chiến ở Nghệ Tĩnh để làm thế ỷ dốc với nhau.

Song công việc tiến hành gặp khó khăn vì thiếu vốn để mở đồn điền "Tú Nghệ” ở Yên Thế, các chí sĩ ở Nghệ An người bị hy sinh, người ở trong tù nên kế hoạch lập căn cứ ở Nghệ Tĩnh cũng không thực hiện được.

Năm 1909, Lê Võ ra Bấc liên hệ với các đồng chí chưa bị bắt để tiếp tục vận động thanh niên xuất dương. Song Lê Võ bị ốm kéo dài nên phải ở lại Đại Đồng, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh dưỡng bệnh tới 6 tháng trời mới bình phục.

Cuối năm 1910, Lê Võ ra Hà Nội để liên lạc với các đồng chí. Ông không thể ngờ có một kẻ phản bội đã bám theo ông, ngầm báo với Pháp lập mưu bắt ông ở phố Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chúng giải ông về Nghệ An, giam ở nhà lao Vinh. Tổng đốc Nghệ An Đoàn Đình Nhân thân hành hỏi cung và tra tấn ông. Song ông kiên trinh sắt đá không hề khai ra đồng chí của mình

Lê Võ bị nhà cầm quyền Pháp và Nam triều ở Nghệ An kết án tử hình. Toàn quyền Albert Sarraut giảm án tử hình đầy ông ra Côn Đảo.
Ông bị tù 15 năm ở Côn Đảo, năm 1926 được ân xá, bị an trí ở Hà Tĩnh.

Năm 1927 ông đi khẩn hoang mở trang trại ở Công Khanh, huyện Nghi Xuân. Song những năm hoạt động bí mật và tù đầy đã làm sức khỏe ông suy giảm.

Đầu năm 1941 thì ông bị xuất huyết dạ dày, ông mất ngày 12 tháng 3 năm Tân Tỵ (Bảo Đại thứ 6-8/4/1941) thọ 68 tuổi.

N' TRANG LƠNG

N'Trang Lơng tên thực là N'Trang, vợ là Lơng, phong tục người Mơ Nông gọi tên vợ sau tên chồng, nên gọi là N'Trang Lơng, Ama Trang Lơng, Pu Trang Lơng, gốc bộ lạc Biệt. Ông sinh năm 1870 "đầu làng" của làng M' Nông. Vừa đứng lên đánh Pháp, N'Trang Lơng đã tập hợp được chung quanh mình nhiều "đầu làng", tù trưởng trong và ngoài dân tộc M'Nông.

Theo Henri Bernard và một số tác giả khác trong những năm nổ ra cuộc khởi nghĩa, đồng bào M'Nong chỉ có khoảng 3 000 người sống trên cao nguyên. Ngay từ khi mới phát động khởi nghĩa, N'Trang Lơng rất chú trọng đến công tác tuyên truyền. Trong bài thơ kêu gọi dân tộc M'Nông khởi nghĩa có đoạn:

   Dân M'Nông ơi! Vùng lên đi
   Con gái đánh bằng chày giã gạo,
   Con trai cầm dao găm, giáo mác,
   Tất cả giơ lên như bông lau lách,
   Giết cho được tên Hăng ri mét đồn trưởng đồn Bát mô ra...


Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ lĩnh N'Trang Lơng, nhân dân M'Nông, XTiêng dân tộc anh em ở Tây Nguyên đã xiết chặt đội ngũ theo thủ lĩnh N'Trang Lơng bền bỉ chống Pháp suốt từ năm 1912 đến năm 1935 và đã thực hiện được mục tiêu giết tên Hăng ri mét. Phong trào phát triển rộng rãi tới hầu hết các buôn làng M'Nông, XTiêng. Ông chia nghĩa quân làm hai lực lượng: Lực lượng tập trung, cơ động và chiến đấu tại chỗ. Ông còn tổ chức một lực lượng đặc biệt làm nhiệm vụ tuyên truyền và thám báo (Bal Ty Lah Bôn Lan). N'Trang Lơng trực tiếp chỉ huy 150 tay súng, gồm những nghĩa quân Biệt, Nông đóng tại căn cứ Bu Siết, Bu Luk. Thủ lĩnh Amprad, chỉ huy nghĩa quân R'Hong, Biệt tại căn cứ Dak Huich. Thủ lĩnh B'Heng Reng chỉ huy nghĩa quân Bunor ở căn cứ Bupa Man... Khi tác chiến các thủ lĩnh tác chiến độc lập hoặc phối hợp với các thủ lĩnh khác, hoặc do N'Trang Lơng điều động. Khi truyền lệnh từ thủ lĩnh N'Trang Lơng đến các thủ lĩnh địa phương các buôn làng về lệnh chiến đấu, giao lương, tiếp tế đều có hiệu lệnh riêng theo truyền thống của người M'Nong. N'Trang Lơng rất coi trọng công tác này, ông đã cùng vợ, con và viên đội Bal Ty Lah đến buôn Tauch là một buôn có tên Rad làm tay sai đắc lực cho tên Henri Matre, tên Rad đe dọa buộc đồng bào phải phục tùng tên Henri Matre. Sau khi N'Trang Lơng đến, dân làng đã theo nghĩa quân.

N'Trang Lơng còn tổ chức hậu cần, cứu thương rất chu đáo ở từng khu vực và riêng từng trận đánh.

Nghĩa quân N'Trang Lơng mở đầu trận đánh vào đồn Bou Pustra đầu năm 1912, chỉ huy sở của quân Pháp đặt ở chân núi Nam Lyr. Quân Pháp bị thất bại hoàn toàn.

Trong 2 mùa khô 1912 - 1914 nghĩa quân N'Trang Lơng liên tiếp bẻ gẫy các cuộc hành quân của quân Pháp vào các đơn vị quân đồn trú Pháp và các đoàn khảo sát vũ trang tìm cách xâm nhập vào Tây Nguyên.

Đầu tháng 8/1914, lợi dụng việc tên Hăngrimet chỉ huy đồn Bumêra bày trò đầu thú, ngày 2/8/1914 N'Trang Lơng bố trí người trá hàng, dụ Hăngrimét, chỉ huy đồn Bumêra đến Buno. Tại đây, bất thình lình N'Trang Lơng xông vào giết chết Hăng ri mét tên xâm lược có nợ máu với nhân dân M'Nong. 40 tên lính khố xanh đi theo cũng bị diệt hết. Thừa thắng, tới 4/8, nghĩa quân lại đột nhập vào đồn Bumêra tiêu diệt số lính còn lại trong đồn và phóng hỏa đốt đồn.

Từ đó thanh thế của N'Trang Lơng vang dội khắp miền Nam Tây Nguyên, người gia nhập nghĩa quân càng đông.

Cuộc chiến đấu của nghĩa quân N'Trang Lơng trong giai đoạn này rất quyết liệt và cũng vô cùng dũng cảm, và đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất. Cuộc chiến đấu kiên cường dũng cảm của nghĩa quân N'Trang Lơng khiến giặc Pháp phải thừa nhận: "Tất cả đều quyết tâm một lần nữa đánh đuổi chúng ra ra khỏi Cao nguyên M'Nông".

Trong trận quyết chiến ngày 23/5/1935 NTrang Lơng bị trọng thương, bị bắt và hy sinh ngày 25/6/1935, chấm dứt cuộc khởi nghĩa chống Pháp của đồng bào M'Nông Tây Nguyên kéo dài 23 năm.

HOÀNG TRỌNG MẬU

Hoàng Trọng Mậu tên thật là Nguyễn Đức Công, tự là Báu Thụ, cũng gọi là Trần Báu Thụ, sinh năm 1874, quê ở làng Cẩm Trường, nay là xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hoàng Trọng Mậu là con trai thứ tư trong gia đình cụ Cử Tân. Ông thông minh và đã đậu Đầu xứ nên còn gọi là Đầu xứ Công.

Tháng 2 năm 1908 Hoàng Trọng Mậu được Ngư Hải Đặng Thái Thân trao cho thư kêu gọi Đông du của Phan Bội Châu từ Nhật Bản gửi về.
Tháng 4/1908 ông tức khắc từ bỏ cử nghiệp, đem hết của riêng mình từ giã vợ và bốn con lên đường sang Nhật. Hoàng Trọng Mậu được vào học trường Đồng Văn thư viện. Ông vào học chậm nửa năm, song ông nghiên cứu các sách chữ Nhật thuộc các môn khoa học, không thòi giờ nào nghỉ ngơi, ông lại chú ý nghiên cứu các sách về quân sự và còn tập luyện. Ông tham gia Công Hiến hội với cương vị ủy viên Bộ văn thư.

Song Chính phủ Nhật thông đồng với thực dân Pháp ở Đông Dương, giải tán phong trào Đông du, trục xuất Phan Bội Châu và lưu học sinh Việt Nam. Hoàng Trọng Mậu về Trung Quốc tiếp tục học tập, nghiên cứu.

Đầu năm 1909 nghe tin trong nước cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám được phục hồi, Phan Bội Châu giao cho ông chuẩn bị lực lượng về nước tiếp ứng.

Khoảng đầu tháng 3 năm 1912, Phan Bội Châu tuyên bố giải tán hội Duy tân, thành lập một tổ chức cách mạng mang tên "Việt Nam Quang Phục hội". Bộ Chấp hành có mười ủy viên, Hoàng Trọng Mậu được cử làm ủy viên trưởng phụ trách Quân vụ. Ông cùng với Nguyễn Thức Đường (tức Trần Hữu Lực) được ủy nhiệm viết lời "Tuyền cáo của Việt Nam Quang Phục hội". Ông viết ba chương cuốn "Việt Nam Quang Phục quân sách lược", hai chương đầu do Phan Bội Châu viết. Hoàng Trọng Mậu còn tham gia chọn Quốc kỳ và quân kỳ. Quốc kỳ hình ngũ tinh liên châu (hai chuỗi năm ngôi sao), nền vàng, sao đỏ làm Quốc kỳ, nền đỏ sao trắng làm quân kỳ. Vàng là thể hiện giống người nước ta; đỏ là thể hiện nước ta ở phương Nam thuộc hỏa, hỏa sắc đỏ. Sắc trắng thuộc về kim giữa việc sát phạt cho nên chọn làm quân kỳ. Việt Nam Quang Phục Hội in Quân dụng phiếu ký tên Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu.

Việt Nam Quang Phục hội không được sự ủng hộ của chính quyền Quảng Đông nên gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, thiếu thốn tài chính, giấy tờ tùy thân hợp pháp. Trong khi đó thì ở trong nước, sau vụ Phạm Văn Tráng và Nguyễn Khắc Cần ném tạc đạn ở khách sạn ''Con Gà vàng", giặc Pháp điên cuồng khủng bố tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở trong nước, bắt và phá vỡ nhiều cơ sở.

Ngày 19/1/1914, Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng bị chính quyền Quảng Đông bắt giam. Đứng trước khó khăn chồng chất đó, Hoàng Trọng Mậu vẫn kiên trì liên kết với đảng cách mạng Trung Hoa, tổ chức lực lượng quân cách mạng về nước đánh Pháp.

Ông chủ trương sang Thái Lan để chuẩn bị vũ khí, tiền bạc cho các trận đánh tiếp theo. Việc đi này rất nguy hiểm vì mật thám Pháp và chính quyền của Long Tế Quang bủa lưới bắt các nhà cách mạng Việt Nam ở khắp nơi. Song ông vẫn kiên quyết đi, xuất phát từ Ung Châu đến Hương Cảng đợi tầu đi Thái Lan thì các ông bị cảnh sát Anh bắt giao cho cảnh sát Pháp giải về giam ở Hỏa Lò, Hà Nội. Trong nhà tù, Hoàng Trọng Mậu vẫn lạc quan ngâm thơ:

   "Thiên niên cố quốc quyên đề thảm;
   Vạn lý cô thần hạc khiếu ai"


Tạm dịch:

   "Nghìn năm nước cũ quyên kêu thảm;
   Muôn dặm tôi xa hạc khóc thương"


Thực dân Pháp tra tấn dã man, rồi lại mua chuộc, ông vẫn hiên ngang bất khuất, chúng kết án tử hình ông với tội danh: "Việt cảnh quán thông, mưu đồ phản nghịch" (Vượt biên ra liên hệ với nước ngoài để mưu đồ phản nghịch) và xử bắn vào ngày 20 tháng 12 năm Ất Dậu (22/01/1916) tại trường bắn Bạch Mai (Hà Nội).

NGUYỄN KHẮC CẦN

Nguyễn Khắc Cần tức Nguyễn Văn Túy, quê ở xã Yên Viên, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Hà Nội. Ông là hội viên Việt Nam Quang phục hội. Mùa đông năm Nhâm Tý (1913), Nguyễn Khắc Cần sang Trung Quốc nhận mệnh lệnh của Trung ương Việt Nam Quang Phục hội thi hành bản án tử hình đối với tên trùm thực dân Abbert Sarraut và các tên tay sai đầu sỏ Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hàn.

Ngày 25/4/1913, Nguyễn Khắc Cần và Nguyễn Văn Thụy điều tra biết bọn sĩ quan Pháp thường tụ tập ăn uống ở khách sạn Hotel tại đường Paulbert, nay là phố Tràng Tiền. Nguyễn Văn Thụy cảnh giới Nguyễn Khắc Cần liệng bom vào, giết chết hai trung tá Pháp là Monggơra và Sapuy (Chapuis) chết tại chỗ, một số tên Pháp và tay sai người Việt bị thương(1). Thi hành xong bản án lợi dụng lúc bọn giặc đang hoảng loạn, la hét, hai chiến sĩ ung dung đi bộ trên đường rồi lên một chiếc xe tay kéo nhanh qua Gia Lâm về Yên Viên. Hai anh em ẩn náu ở Yên Viên, vài hôm thấy giặc không lùng sục, Nguyễn Khắc Cần và Phạm Văn Thụy được lệnh trở về Trung Quốc nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi, ngày 7/5/1913, hai ông vừa từ trên ga xe lửa bước xuống một ga xép thì bị lính kín áp tới lục soát. Vì trong người hai ông có một số giấy tờ khả nghi, nên chúng bắt cả 2 người giải về Hà Nội.

Sau hành động làm kinh hoàng giặc Pháp và bọn Việt gian bán nước ở Thái Bình và Hà Nội, giặc Pháp điên cuồng khủng bố các cơ sở Việt Nam Quang Phục hội ở trong nước. Chúng bắt cả những người chúng nghi ngờ có liên quan đến phong trào Đông du và vụ Hà Thành đầu độc. Tại các tỉnh Bắc Kỳ, các nhà tù chật ních các chiến sĩ cách mạng. Tổng số chiến sĩ Việt Nam Quang phục hội ở Hà Nội và những người có liên quan lên tới 254 người. Tất cả những người bị bắt đều bị chúng tra tấn dã man để ỉấy khẩu cung.

Ngày 5/9/1913, Hội đồng Đề hình Pháp họp mở phiên tòa tra hỏi 84 người trong số 254 người được coi là liên quan. Chúng xử tử 7 người với tội danh: âm mưu ám sát hoặc đồng lõa ám sát là: Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng, Phạm Đệ Quý, Vũ Ngọc Thịnh, Phạm Hoàng Khuê (Quế) Phạm Hoàng Triết, Phạm Văn Tiên - người ám sát chủ đồn điền Đặng Vũ Hành ngày 25/5/1913. Lương Văn Phúc bị kết tội đồng mưu trong vụ ném bom ở Thái Bình chỉ bị kết án khổ sai chung thân vì mới 18 tuổi. 8 người bị lưu đày trong đó có ông Tư Diếc ở Quan Nhân, 5 người phát phối, 2 người bị kết án 5 năm, 11 án khổ sai hữu hạn, 5 án cầm cố, 9 án tù từ 20 tháng đến 2 năm.

Nguyễn Khắc Cần, Phạm Văn Tráng và các đồng chí của hai ông tuy chưa đạt được mục tiêu mà Trung ương Việt Nam Quang Phục hội đề ra, đế quốc Pháp khủng bố, lực lượng Việt Nam Quang Phục hội bị thiệt hại nặng nề nhưng đã thức tỉnh lòng yêu nước của đồng bào Hà Nội cũng như đồng bào cả nước.

 (1) Sách "Nhân Chính trên những chặng đường lịch sử”, Nxb Chính trị quốc gia viết quả bom (lựu đạn) do Nguyễn Khắc Cần ném là do ông Tư Diếc (Nguyễn Vãn Diếc) ở làng Mọc Quan Nhân chế tạo, giặc Pháp bắt ông đày đi Côn Đảo.

Sách Việt Nam nghĩa liệt sử, Đặng Đoàn Bằng viết "Hiệp sĩ Nguyễn Khắc Cần" viết quả tạc đạn ném ở khách sạn Hà Nội là do Hán Minh (?) ném nhầm vào quan binh Pháp. Pháp truy nã ráo riết người đảng, bọn chó săn cũng đề phòng rất nghiêm ngặt, nên ông không thục hiện được kế hoạch của mình. Ông lại cùng Nguyễn Thế Trung định ra ngoại quốc. Đến Lạng Sơn thì gặp phải người Pháp, nên cả hai bị bắt. Nguyễn Khắc Cần muốn cho Hán Minh chạy thoái cho nên mới nhận với người Pháp chính ông là người ném tạc đạn ở khách sạn. Vì vậv ông bị giết cùng Nguyền Thế Trung.

NGUYỄN THẠC CHI

Nguyễn Thạc Chi còn có các tên là Hai Thạc, Nguyễn Quýnh Chi, Nguyễn Trọng Thường, Nguyễn Trung Thường, Nguyễn Trọng Thạc, Nguyễn Mạnh Hiếu, tự là Thường Sinh. Ông là con thứ hai quan Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật, quê ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục huyện Mỹ Hào tỉnh Hải Dương, nay là xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông là người trầm tĩnh, khoan hòa, học rộng, nghe nhiều. Khi cha ở Trung Quốc, anh trai là Nguyễn Tuyển bị đày ra Côn Đảo, Nguyễn Thạc Chi còn ở tuổi thiếu niên, phải theo người nhà đi trốn tránh. Vào tuổi thanh niên, ông cùng chú là Nguyễn Thiện Kế sang Trung Quốc Đông du và quyên tiền cho thanh niên du học.

Nguyễn Thạc Chi cùng chú thường xuyên Hoa - Việt đi về để vận động và đưa thanh niên Bắc Kỳ sang Trung Quốc du học.

Mùa thu năm 1912 Nguyễn Thạc Chi dự Hội nghị với Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Ngọc Quyến, Mai Lão Bạng, Hoàng Trọng Mậu... thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Hội nghị phân công Nguyễn Thạc Chi làm nhiệm vụ vận động cách mạng ở trong nước.

Năm 1912 Nguyễn Thạc Chi cùng Nguyễn Hải Thần đem 6 quả tạc đạn, 300 đồng Đông Dương theo đường Lạng Sơn đánh vào Bắc Kỳ với nhiệm vụ giết tên Toàn quyền Abbert Sauaut; phá khoa thi Hương ờ trường thi Nam Định (11/1912). Việc không thành ông phải quay trở về Trung Quốc.

Năm 1916 chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Những người lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội nắm lấy cơ hội đó yêu các đại sứ Đức ở Xiêm giúp vũ khí, tiền bạc cho Việt Nam đánh Pháp. Nguyễn Thạc Chi cùng Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm liên lạc với công sứ Đức - Áo giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp. Việc chưa có kết quả, hai ông trở về Trung Quốc.

Sau đó ít lâu ông nhận nhiệm vụ về nước tập hợp những người cùng chí hướng chống Pháp. Ông dự Đại hội ở nhà ông Lý trưởng xã Đồng Trung tục gọi là làng Chuôm, nay thuộc xã Việt Hưng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên gần ga Xuân Đào thì bị giặc Pháp bao vây làng rồi ập vào bắt. Nguyễn Thạc Chi bị đế quốc Pháp kết án tù chung thân đầy ra giam ở nhà tù Côn Đảo.

Cuộc nổi dậy chống chế độ nhà tù đế quốc nổ ra vào 14 giờ ngày 14/2/1918, tức là ngày mùng 4 tết năm Mậu Ngọ, Nguyễn Thạc Chi cùng Phạm Cao Chẩm lãnh đạo 89 tù nhân banh II dùng búa đập chết tên giám ngục Simon và 2 tên lính mã tà. Nguyễn Thạc Chi còn hô mọi người cướp súng của lính gác, nhưng tên hạ sĩ quan là Larmierrier phản kích kịp thời. Lát sau tên quản đốc Andouard dẫn lính đến chi viện. Hắn ra lệnh cho lính xả súng vào đám đông và truy sát tận tuyệt. Nguyễn Thạc Chi và Phạm Cao Chẩm cùng 89 người bị chúng giết chết.

Nguyễn Thạc Chi không những chỉ là một nhà cách mạng kiên cường, mà còn là một nhà thơ, nhà giáo dục. Đến nay gia phả còn chép một số thơ của ông, con cháu nội ngoại cũng thuộc nhiều thơ của ông như: Thơ từ Côn Đảo gửi về, Bài ca chúc Cha thượng thọ, Năm bài ca Luân lý.

THÁI PHIÊN

Thái Phiên hiệu Nam Xương, sinh năm 1882 quê ở làng Nghi An, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Ông sống và làm việc ở Đà Nẵng từ nhỏ. Ông là người yêu nước thiết tha, tính tình cương trực, căm thù giặc Pháp cướp nước và bè lũ Việt gian tay sai của giặc Pháp    Tháng 5/1905, Thái Phiên cùng với Tiểu La Nguyễn Thành, Đỗ Đăng Tuyển tham gia thành lập Duy tân hội. Ông trở thành một yếu nhân của Duy tân hội ở Quảng Nam, hoạt động có nhiều hiệu quả, được Phan Bội Châu tin cẩn. Thái Phiên cũng như Trần Cao Vân, Lê Ngung, Phan Thành Tài đều là những yếu nhân của phái Duy Tân với xu hướng Duy Tân tự cường rồi mới "dần mưu tính việc khác".

Từ năm 1909 trở đi, nhất là sau khi Đỗ Đăng Tuyển một yếu nhân của Duy Tân hội ở Quảng Nam bị bắt thì một mình Thái Phiên phải lo gây dựng lại tổ chức Duy tân hội ở Quảng Nam, đồng thời bắt liên lạc vói Lê Ngung để gây dựng lại tổ chức Duy tân hội ở tỉnh Quảng Ngãi.
Chủ trương của Phan Bội Châu chuyển Duy tân hội sang tổ chức Việt Nam Quang Phục hội. Năm 1914, Thái Phiên cùng Lê Ngung tổ chức một cuộc họp các nhà yêu nước tại Trung Kỳ tại thành phố Đà Nẵng. Thái Phiên và Trần Cao Vân nhiều lần cử người sang Trung Quốc, Xiêm La để đặt kế hoạch phối hợp.

Sau cuộc tiếp xúc với vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân triệu tập các yếu nhân Việt Nam Quang Phục hội ở các tỉnh Trung Kỳ họp Đại hội lần thứ hai vào trung tuần tháng 3 năm Bính Thìn (1916) tại nhà một đảng viên ở chợ Cầu Cháy làng Xuân Yên, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Đại hội kiểm điểm lực lượng cách mạng quyết định kế hoạch khởi nghĩa với danh nghĩa: "Việt Nam quân Chính phủ".

Ngay sau khi nhận được mệnh lệnh của vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân thông báo cho các ủy viên ủy ban khởi nghĩa quyết định vào giờ Tý ngày 2 tháng 5 năm Bính Thìn, tức 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 1916. Mật hiệu khởi nghĩa là "Năm Thìn, tháng Tỵ”. Tại Huế, Thái Phiên, Trần Cao Vân bị mất liên lạc với các trại lính, nhưng vẫn quyết định điều động thuyền đến bến Thương Bạc rước vua Duy Tân ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Vụ mưu khởi nghĩa không thực hiện được, vì không nổ được pháo lệnh, không đốt được lửa trên đèo Hải Vân, nên các nơi đều phải rút. Chỉ riêng ở phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, dân binh dù không có lệnh, vẫn bao vây tòa Đại lý Pháp, phá kho thu được hai khẩu súng trường rồi kéo vào phủ đường, nhưng tri phủ đã bỏ trốn. Ngay ngày hôm sau giặc Pháp thẳng tay đàn áp, chém giết nghĩa quân, hầu hết các thủ lĩnh nghĩa quân đều bị bắt. Tại Quảng Ngãi, Lê Ngung tự tử trước khi bị bắt vây mà chúng vẫn chặt đầu ông đem bêu. Các ông Nguyễn Thụy, Trần Thân, Võ Cầu, Mai Tuấn, Hứa Thọ đều bị chém. Ở Quảng Nam số người bị chém lên đến hàng trăm. Thái Phiên, Trần Cao Vân rước vua ra khỏi thành, định đưa về Nam Ngãi. Nhưng ngày hôm sau vua tôi mệt nhọc vào nghỉ ở chùa Ngũ Phong thì giặc Pháp ập vào bắt.

Ngày 17 tháng 5 năm 1916, giặc Pháp chém các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu ở An Hòa (Huế), cách kinh thành không đầy 1 cây số. Chúng chôn hai ông Thái Phiên, Trần Cao Vân một hố. Sau một nữ đồng chí là Trịnh Thị Hưng (hay Hương) bí mật dời hài cốt từ nơi xử án về an táng tại khu rừng gần chùa Châu Lâm ở Kinh thành Huế.

VUA DUY TÂN

Năm 1907 vua Thành Thái yêu nước bị giặc Pháp phế truất đầy ra Vũng Tầu. Hoàng tử Vĩnh San khi đó mới lên 8 tuổi được thực dân Pháp đưa lên làm vua, đặt niên hiệu là Duy Tân, vì chúng hy vọng nhà vua ít tuổi chỉ ngồi làm bù nhìn. Sọng trái với sự mong đợi của chúng, vua Duy Tân bẩm tính thông minh, giỏi đối đáp, có lòng yêu nước từ nhỏ.

Biết được những thông tin đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ là Thái Phiên, Trần Cao Vân đã thực hiện bằng mọi cách tiếp xúc với nhà vua. Kết quả vua Duy Tân nhận lời tham gia cuộc khởi nghĩa. Đầu năm 1914, Thái Phiên triệu tập cuộc họp các yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội của 5 tỉnh miền Trung quyết định khởi nghĩa. Vua Duy Tân báo cho Thái Phiên, Trần Cao Vân biết là đến hết ngày 10/5/1916 thì 2500 lính mộ tập trung ở Huế sẽ phải sang Pháp, nên phải khởi sự ngay. Thái Phiên, Trần Cao Vân quyết định khởi nghĩa vào tối ngày mùng 3 rạng ngày mùng 4 tháng 5/ 1916 ở 5 tỉnh. Song các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không biết rằng quân Pháp đã biết cuộc khởi nghĩa từ 2 ngày trước nên đã có kế hoạch ngăn chặn. Kẻ địch khẩn trương nhưng bí mật đối phó, ra lệnh giới nghiêm ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Huế tước vũ khí của lính khố xanh, cho lính Pháp, lính khố đỏ tuần phòng nghiêm ngặt.

Theo lời hẹn trước của Thái Phiên và Trần Cao Vân, vua Duy Tân cải trang như người bình dân: đầu chít khăn đen, mặc áo ngắn màu đỏ, quần vải trắng, chân đi đất, cùng bốn thị vệ tin cậy ra khỏi thành. Kế hoạch bị lộ, quân Pháp kịp thời đối phó, nhiều cánh quân khởi nghĩa chưa xuất phát đã bị bao vây, bị bắt. Vua và tùy tùng đi về hướng Tây - Nam Thừa Thiên, song vì có kẻ làm phản nên cả đoàn Khâm sứ Charles buộc triều đình Huế khép vua vào tội: "Vua một nước dưới quyền bảo hộ của Pháp đang chiến đấu với kẻ thù là Đức mà khởi loạn chống lại Pháp là phản bội, phải tội tử hình". Song bọn cầm quyền Pháp vẫn thuyết phục Duy Tân làm vua bù nhìn cho chúng. Khâm sứ Trung Kỳ điện ra Hà Nội mời Toàn quyền Đông Dương vào thuyết phục. Nhà vua vẫn trả lời: "Nếu ông buộc tôi tiếp tục ở lại ngôi vị Hoàng đế An Nam. Ông cần xem tôi như một vị hoàng đế đã trưởng thành. Tôi không cần cả Hội đồng Phụ chính lẫn lời khuyên của ông. Tôi sẽ điều hành công việc của đất nước tôi trên cơ sở như các quốc gia khác, trong đó có nước Pháp".

Bọn cầm quyền Pháp giao cho Thượng thư bộ Hộ là Hồ Đắc Trung thi hành án tử hình. Ông Trung bàn với các quan không nên tử hình vua, triều đình tán thành, làm vãn bản cứu vua. Nhờ đó vua Duy Tân chỉ bị đưa đi đày ở đảo Reunion ở Ấn Độ Dương.

Năm 1936 mặt trận Bình Dân Pháp do Đảng Cộng sản và các đảng cánh tả ở Pháp thành lập, lập Chính phủ thực hiện nhiều cải cách như phóng thích tù chính trị ở chính quốc và các thuộc địa. Cựu hoàng Duy Tân nắm lấy thời cơ đề cập đến quyền tự chủ của đất nước. Nhà vua dự cuộc mít tinh do Mặt trận Bình dân tổ chức tại cảng La Pointe des Galets, phát biểu tại diễn đàn, phía sau là lá cờ đỏ búa liềm. Ông yêu cầu Bộ trưởng Thuộc địa trả tự do cho ông, chuyển ông về sống tại Paris. Song yêu cầu này không được Chính phủ Pháp đáp ứng. Do bị sức ép của giai cấp tư sản và các thế lực cánh hữu cùng những biến động do phát xít Đức và Chủ nghĩa phát xít Ý gây ra, Mặt trận Bình dân phải tự giải tán, Chính phủ Bình dân đổ. Giấc mơ của cựu hoàng Duy Tân về độc lập dân tộc cũng bị dập tắt.

Năm 1939, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ngày 18/6/1940, vua Duy Tân nghe được bản Hiệu triệu của Đờ Gôn người đứng đầu phe kháng chiến. Trong 2 năm sau, vua Duy Tân liên lạc được với tổ chức Pháp Tự do ở trong vùng, và bị chính quyền thân Đức bắt giam một tháng. Mùa thu năm 1942, phái Đờ Gôn chiếm được đảo Reunion, để thoát khỏi đảo, nhà vua đăng lính và làm điện báo viên trên tầu Léoperd. Do có sự can thiệp của Đờ Gôn ngày 18/6/1945, nhà vua được đưa về Paris. Tại đây nhà vua có các cuộc đi thăm Việt kiều, thăm lính thợ bị giam ở Kelarman... Nhà vua luôn luôn đả kích các lỗi lầm của Pháp ở Đông Dương... Quan điểm yêu nước của nhà vua đi ngược với âm mưu sử dụng nhà vua vào mục đích xâm lược Việt Nam. Vì vậy chúng đưa ông sang sư đoàn 9 bộ binh đóng ở Đức để chuẩn bị sang Viễn Đông tham chiến. Tại đây các hoạt động nhằm mượn đường quân sự trở về nước của nhà vua quá lộ liễu, bọn Pháp chuyển nhà vua qua trung đoàn thiết giáp cũng đóng ở Đức để cách ly.

Ngày 29/10/1945, Đờ Gôn ký Nghị định đặc cách cho vua Duy Tân lên cấp tiểu đoàn trưởng. Ngày 14/12/1945, Đờ Gôn gặp nhà vua. Nhưng vua Duy Tân sau cuộc gặp đó đã tuyên bố rằng Chính phủ Pháp đã công nhận nền độc lập của Việt Nam, chờ cơ hội để ký kết việc thống nhất ba kỳ, viện trợ kinh tế và quân sự, cũng như giúp Việt Nam về phương diện ngoại giao và quốc phòng. Nhà vua không biết ngày 3/12/1945 bộ Thuộc địa Pháp đã ký Quyết định số 7312/102 trả Hoàng tử Vĩnh San về lại đảo Reunion, tiếp tục cuộc sống lưu đày từ năm 1916.

Ngày 24/12/1945, vua Duy Tân rời Paris bằng chiếc máy bay Lockheed Lodester kiểu C60 và chiều 26/12/1945 trên chặng đường thứ hai từ Ford Lamy hướng về Bangui, phi cơ hết xăng (?) phải hạ cánh khẩn cấp xuống vùng đồi ở làng Bossakô và máy bay vỡ nát bốc cháy. Vua Duy Tân, hành khách và cả phi hành đoàn đều chết. Như vậy việc vua Duy Tân trên đường về đảo Reunion từ biệt vợ con để trở lại Paris chuẩn bị về "cầm cờ tái chiếm Việt Nam cho Pháp" không hề có. Trước sau vua Duy Tân vẫn là người yêu nước, chống Pháp.

LÊ ĐÌNH DƯƠNG

Lê Đình Dương quán làng Đông Mỹ (Na Kham có sách viết là La Kham), tổng Khương Thượng (Gò Nổi, Phù Kỳ), huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là con Thượng thư Tổng đốc Hà - An (Hà Nội - Hưng Yên) Lê Đình Đĩnh. Lê Đình Dương là y sĩ, ông là anh em ruột với y khoa bác sĩ Lê Đình Thám, bác sĩ Lê Đình Kiền, bác sĩ Lê Đình Củng, thạc sĩ y khoa Lê Đình Quy.

Lê Đình Dương tham gia tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở tỉnh Quảng Ngãi ngay từ khi mới thành lập. Ông cùng với Lê Ngung, Nguyễn Súy là yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Ngãi. Lê Đình Dương còn là một trong những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh miền Nam Trung Kỳ trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất.

Tháng 9/1915, Thái Phiên triệu tập các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ họp Đại hội lần thứ nhất tại Huế để thảo luận kế hoạch bạo động. Tại cuộc họp này, Lê Đình Dương và Nguyễn Thụy tìm gặp, tiếp xúc với viên trung tá người Đức là Harmaudes chỉ huy đội lính Lê dương đóng ở Bình Đài (đồn Mang Cá) để vận động hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Nhờ cố đạo Bàn Gốc cũng là người trong tổ chức Việt Nam Quang Phục hội làm môi giới, Lê Đình Dương và Nguyễn Thụy đã thỏa thuận được với thiếu tá Harmandes khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, họ sẽ hưởng ứng. Ông cũng thuyết phục được các đội trưởng người Việt dưới quyền Harmandes như Đoàn Văn Còn, Nguyễn Đình Trứ, Hà Lại, Đào Duy Phong nhận làm hậu thuẫn cho cuộc khởi nghĩa. Trong đó Nguyễn Đình Trứ, Hà Lại sẽ cùng Phạm Thành Chương chỉ huy công phá trấn Bình Đài. Không bao lâu, trung tá Harmaudes được thăng hàm đại tá, Tổng chỉ huy quân đội toàn miền Trung đã lên kế hoạch lấy cớ đi phát lương để ngầm cổ vũ tân cựu binh người Việt hưởng ứng khởi nghĩa. Nhờ có sự vận động tích cực của Lê Đình Dương và các ông Phan Thành Tài, Trương Bá Huy, Đỗ Tự nên lực lượng khởi nghĩa ở Quảng Nam mạnh hơn các tỉnh. Đến trước ngày khởi nghĩa, tỉnh Quảng Nam đã vận động được khoảng 80% lính tập tham gia. Chỉ tính riêng ở tổng Phước Lợi, phủ Tam Kỳ đến trước ngày khởi nghĩa đã có 240 Phục Quốc quân, 200 tân binh. Các ông còn vận động đổng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi Phú Túc, Bà Nà ở Hòa Vang và Nước Hai ở Trà Mi để xây dựng khu căn cứ. Lê Đình Dương đã đóng góp phần tích cực vào công việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở tỉnh Quảng Ngãi.

Song cuộc khởi nghĩa bị bại lộ không thực hiện được, chỉ riêng ở phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, dân binh dù không có hiệu lệnh vẫn bao vây tòa đại lý Pháp, phá kho thu được một số đạn và 2 khẩu súng trường rồi kéo vào phủ đường nhưng cũng như đại lý Pháp, tri phủ đã bỏ trốn. Ngay đêm đó Phục Quốc quân và dân binh rút lui. Tại Huế, vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân và hầu hết các thủ lĩnh đều bị bắt, bị giết hại. Lê Đình Dương cũng bị giặc bắt. Chúng dùng đủ cực hình tra tấn ông, song không moi được ở ông lời khai báo nào. Giặc đày ông lên nhà lao Buôn Ma Thuột ông vẫn kiên cường đấu tranh.

LÊ NGUNG

Lê Ngung còn gọi là Tú Ngung vì ông đỗ tú tài, quê ở tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1908 các thủ lĩnh Duy tân hội phát động phong trào "chống thuế" "xin xâu" ở Quảng Nam, Quảng Ngãi thì hầu hết các yếu nhân của Duy tân hội người bị xử chém, người bị đày ải ở các nhà tù. Tuy nhiên ở Quảng Nam vẫn còn Thái Phiên, ở Quảng Ngãi vẫn còn Lê Ngung. Vì vậy từ năm 1909, Thái Phiên cùng Lê Ngung thường xuyên gặp gỡ nhau để phục hồi phong trào.

Việt Nam Quang Phục hội được thành lập thay thế Duy tân hội, và phát triển về nước một cách nhanh chóng. Lê Ngung có nhiều đóng góp vào sự trưởng thành của tổ chức Việt Nam Quang Phục hội các tỉnh Nam Trung Bộ và cùng với Thái Phiên trở thành thủ lĩnh của tổ chức này.
Đầu năm 1914, Lê Ngung đã cùng Thái Phiên tổ chức một cuộc họp mặt các nhà yêu nước ở Trung Kỳ tại Đà Nẵng. Hội nghị nhất trí phải gấp rút khởi nghĩa, nên đã phân công người chuẩn bị lực lượng, xây dựng căn cứ ở các tỉnh từ Quảng Bình trở vào. Trong số các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa thì Lê Ngung là người nôn nóng khởi nghĩa nhất. Ông cho rằng Thế chiến thứ nhất nổ ra, Đức đánh Pháp, Pháp phải rút lực lượng ở Đông Dương về phòng thủ là cơ hội tốt nhất để khởi nghĩa đánh Pháp. Tháng 8 năm 1914, khi Đức bắt đầu tiến quân đánh vào nước Pháp, ông đã viết thư gửi Thái Phiên nói rõ: "Ngày Đức - Pháp đánh nhau chính là thời cơ độc lập của nước Việt Nam". Nhưng đề nghị của Lê Ngung không được Thái Phiên và các nhà lãnh đạo khác chấp nhận, vì cho rằng lực lượng khởi nghĩa chưa mạnh, lực lượng quân sự của Pháp chưa thật suy yếu.

Trước tình hình chiến tranh xảy ra ngày càng ác liệt, tháng 01 năm 1915 Lê Ngung lại viết thư lần thứ hai đề nghị tiến hành khởi nghĩa. Tuy nhiên Thái Phiên và các nhân vật chủ chốt khác vẫn chưa đồng ý vì lực lượng quân Pháp còn mạnh, lực lượng vũ trang ở các tỉnh vẫn chưa phát triển đều.

Lần thứ ba, ngày 3 tháng 7 năm 1915 Lê Ngung biết được tin, quân Đức đang tiến đến gần Paris, Chính phủ Pháp phải rút một bộ phận quân đội viễn chinh ở Đông Dương về bảo vệ nước Pháp. Lê Ngung lại gửi thư cho Thái Phiên và gửi ra nước ngoài cho Phan Bội Châu thúc giục khẩn thiết: "Thời hồ, thời hồ, thời bất tái lai! Kim trì bất phấn cô đãi hà thời?” (Thời cơ! thời cơ! Thời cơ không trở lại. Ngày nay không phấn đấu đợi đến lúc nào?).

Lần này thì Thái Phiên và các đồng chí chấp nhận và quyết định triệu tập Hội nghị các nhà yêu nước các tỉnh miền Nam Trung Kỳ tại Huế để bàn định. Kế hoạch được lập ra, nhưng lại bị bại lộ từ hai ngày trước, mà ủy ban khởi nghĩa không hề biết. Kết quả là toàn bộ ủy ban khởi nghĩa và vua Duy Tân bị bắt.

Giặc Pháp bắt được hầu hết các ủy viên ủy ban khởi nghĩa và nhiều binh lính, dân binh ở Quảng Ngãi. Lê Ngung bị bao vây, chiến đấu tới cùng rồi uống thuốc độc để sẵn trong người tự tử. Tuy vậy giặc vẫn lập Tòa án kết án ông ''Lục thi trảm niên", nghĩa là dù chết rồi vẫn đem thi hài ra chém bêu đầu ở làng Cam Lê cùng 13 đồng chí của ông. Các thủ lĩnh khác như Nguyễn Thụy, Trần Thiểm (Thêm), Võ Cần, Mai Tuấn, Hứa Thọ bị bắt và bị chém đầu. Phạm Cao Chẩm cùng nhiều binh lính người Việt bị đày đi Côn Đảo, Châu Doãn Địch và 25 người khác bị đày ở nhà lao Thái Nguyên.

NGUYỄN THỤY

Nguyễn Thụy còn có tên là Nguyễn Sụy, sinh năm Canh Thân (1880), quê tại thôn Hổ Tiếu, xã Tư Nghĩa Hạ, nay là ấp Hố Thanh, xã Tư Nguyên, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Ông xuất thân từ một gia đình bá hộ nổi tiếng trong vùng. Ông là người thông minh, giao du rộng, tính tình khảng khái, cương trực.

Nguyễn Thụy đỗ cử nhân Hán học khoa Quý Mão (1903) tại trường thi Bình Định. Ông cũng giỏi chữ Quốc ngữ, học rộng, đọc nhiều tân thư của Trung Quốc, giao du với bạn bè ở nhiều tỉnh, tính tình khảng khái, cương trực và rất trung hiếu. Mặc dù thi đỗ cử nhân, bạn bè rủ ra làm việc nhưng ông đều từ chối, mà nói: "Nước có đạo, nên ra làm quan, nước vô đạo nên ở ẩn".

Để góp phần truyền bá lòng yêu nước trong nhân dân, ông làm giáo viên dạy chữ Quốc ngữ ở trường Vạn Tường. Cũng trong thời gian dạy học, ông hưởng ứng phong trào Duy tân do Phan Bội Châu sáng lập. Ông cắt tóc ngắn, bắt học trò cũng cắt tóc ngắn và thường ra Hà Nội mua sách Tân thư về đọc. Đầu năm 1908 phong trào "khất thuế" "xin xâu" của nhân dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam lan nhanh khắp tỉnh rồi lan sang tỉnh Quảng Ngãi.

Tháng 3/1908, Nguyễn Thụy cùng với Nguyễn Bá Loan (ấm Loan) và Lê Khiết đứng ra vận động phong trào chống Pháp như ở Quảng Nam dưới chiêu bài "xin khất thuế". Cử nhân Nguyễn Thụy làm tân thơ khích lệ đồng bào đấu tranh. Thơ của ông được hàng vạn đồng bào học thuộc lòng cùng đồng thanh ca vang như sấm dậy, khiến bọn Pháp và lũ tay sai run sợ, chúng đóng chặt các cổng thành. Lực lượng nhân dân đến bao vây càng đông, Nguyễn Thụy cùng ban lãnh đạo liền rút bớt lực lượng bao vây thành, phân tán thành những nhóm nhỏ, đi lùng bắt bọn Việt gian, tay sai của Pháp. Giặc Pháp bắt được hầu hết những người lãnh đạo phong trào "xin xâu" như Cử Thụy, Cử Quảng, tú tài Phạm Cao Chẩm, Tú Huyên, đi đày Côn Đảo. Sau khi mãn hạn tù, ông đã nhanh chóng trở thành yếu nhân của Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Ngãi. Ông cùng Lê Ngung, Võ Cầu, Mai Tuấn nhanh chóng phát triển tổ chức của hội ra toàn tỉnh.

Cuối năm 1915 Pháp thua Đức trong chiến tranh châu Âu, quân Đức tấn công thủ đô Paris. Bọn Pháp ở Đông Dương ráo riết bắt lính, lính thợ sang Paris làm bia đỡ đạn cho chúng, vơ vét tài nguyên ở Đông Dương chở về nước phục vụ chiến tranh. Các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, Nguyễn Thụy... nhân cơ hội này mưu tính cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Hầu hết đồng bào, thân sĩ đều hưởng ứng, một phần ba người Việt trong quân đội Pháp tình nguyện làm nội ứng cho quân khởi nghĩa. Cử Thụy đã bí mật tổ chức nghĩa binh, vận động dân chúng quyên góp rất có kết quả. Nhưng đại sự đã lộ ở Quảng Ngãi từ ngày 29 tháng 3 năm Bính Thìn (chiều 1/5/1916). Việc bại lộ, Cử Thụy lệnh cho các toán nghĩa đang tiến về thành Quảng Ngãi rút lui để bảo toàn lực lượng. Nghĩa quân bỏ lại nhiều gươm giáo Trong mấy ngày liền, lính Pháp và bọn tay sai tầm nã khắp nơi bắt trên 100 đảng viên Việt Nam Quang Phục hội đầy đi Côn Đảo. Tri phủ Tư Nghĩa Nguyễn Mậu dẫn tổng lý, tập binh bao vây, đóng tại nhà Cử Thụy, bắt mẹ ông làm con tin, kê khai tài sản, tầm nã Cử Thụy gắt gao. Thương mẹ và để giặc không bắt thêm các đồng chí, đêm hôm ấy Cử Thụy lẻn về nhà tắm rửa sạch sẽ. Ngay 5 giờ sáng chúng giải ông về tỉnh. Dọc đường ông nằm trong võng vén màn cho đồng bào xem mặt.

Ngày 10 tháng 5 năm 1916 (tức ngày 9 tháng 4 năm Binh Thìn) giặc Pháp và bọn tay sai Nam triều đưa Cử Thụy, Lê Triết, Trần Thân, Mai Tuấn, Hứa Thọ và một số đồng chí ra cửa bắc thành Quảng Ngãi chém đầu. Đồng bào, đồng chí bí mật quyên góp làm lễ truy điệu và để tang ông.

PHAN THÀNH TÀI

Phan Thành Tài, hiệu Đức Đạt sinh năm 1869 người làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phan Thành Tài rất nhiệt huyết với Tân học do Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp chủ trương. Năm 1906 Trần Quý Cáp được bổ nhiệm làm giáo thụ phủ Thăng Bình. Theo Tiểu sử Trần Quý Cáp viết: "... Đến nơi (Thăng Bình), Tiên sinh mở lớp Tân học ngay trong trường giáo, rước thày về dạy chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, học trò xa gần đến học có hơn đôi trăm người".

Cùng với trường Thăng Bình, ở Quảng Nam còn có nhiều trường nữa, trong đó có hai trường lớn, nổi tiếng là trường Diên Phong mở tại Phong Thử huyện Điện Bàn (sau dời về Phước Bình). Giáo sư của trường có Tiến sĩ Trần Quý Cáp, cử nhân Phan Thúc Duyên, Mai Ái và Phan Thành Tài. Ông Tài là người tổ chức, quản lý và là giáo viên chính của trường. Trường Diên Phong cũng như các trường ở Quảng Nam, Quảng Ngãi... chỉ tồn tại đến năm 1908 khi phần lớn cán bộ giảng dạy của trường như Trần Quý Cáp, Phan Thành Tài, tham gia lãnh đạo phong trào chống thuế bị bắt. Trần Quý Cáp bị xử chém, Phan Thành Tài bị bắt đi đày...

Sau khi ra tù Phan Thành Tài lại bí mật cùng các đồng chí hội họp để thành lập tổ chức yêu nước chống Pháp mới. Năm 1912, Việt Nam Quang Phục hội thành lập ở tỉnh Quảng Đông phát triển về trong nước. Quảng Nam là nơi có phong trào mạnh thì Phan Thành Tài lại tham gia và trở thành một yếu nhân trong tổ chức này. Chiến tranh lần thứ nhất bùng nổ, Đức đánh. Pháp phải rút bớt lực lượng quân đội Pháp ở Đông Dương, bắt lính khố đỏ, lính thợ người Việt sang Pháp đánh Đức. Trước tình thế đó, những người đứng đầu tổ chức Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Kỳ muốn nhân cơ hội này tổ chức lực lượng vũ trang đánh đổ Pháp.

Tháng 9 năm 1915 tại cuộc họp ban Lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội toàn Trung Kỳ. Dự cuộc họp có Thái Phiên, Trần Cao Vân, Đỗ Tự, Phan Thành Tài, Lê Đình Dương, Lê Ngung, Nguyễn Thụy, Võ Văn Trứ để bàn việc khởi nghĩa và thống nhất mời vua Duy Tân tham gia.
Sau cuộc tiếp xúc giữa vua Duy Tân với Thái Phiên và Trần Cao Vân vào ngày 12 tháng 3 năm Bính Thìn (1916) nhà vua nhận lời tham gia cuộc khởi nghĩa. Từ đó Phan Thành Tài luôn luôn ở bên cạnh Thái Phiên, Trần Cao Vân cùng vạch phương hướng hành động, chỉ đạo cho các tỉnh tích cực chuẩn bị cuộc khởi nghĩa.

Trong một cuộc Hội nghị của Việt Nam Quang Phục hội Trung Kỳ đã quyết định bầu ủy ban khởi nghĩa có Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Lê Ngung, Đỗ Tự và Nguyễn Thụy. Theo Việt Nam Pháp thuộc sử của Phan Khoang thì Phan Thành Tài được cử làm Nam - Nghĩa kinh lược. Ông được ủy ban khởi nghĩa giao nhiệm vụ chỉ huy nghĩa quân đánh chiếm tỉnh Quảng Nam nơi có căn cứ để đón vua Duy Tân. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, quân Pháp và quân Nam triều chiếm đóng làng Bảo An, tàn sát dân chúng, đốt phá nhà cửa. Chúng đe dọa nếu Phan Thành Tài không về hàng thì chúng giết cả làng. Thương dân, ông tự về làng cho chúng bắt. Giặc Pháp xử tử ông vào ngày 9 tháng 7 năm 1916.

LÊ CHÂU HÀN

Lê Châu Hàn còn có tên là Lê Cảnh Thái hay Ấm Hàn (có tư liệu viết là Hàng) và em là Lê Châu Nam, còn có tên là Lê Cảnh Vạn hay Viên Thông con cụ Lê Hữu Khánh làm quan tới Quang lộc Tự khanh, Triều liệt đại phu Đông các đại học sĩ, quê ở làng Mỹ Thị, huyện Diên Phước, sau thuộc xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, nay thuộc khối Đa Mỹ Tây, phường Bảo Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Lê Châu Hàn đỗ tú tài dưới triều vua Thành Thái, song ông là người yêu nước, thiếu thời đã cùng em là Lê Châu Nam (tức Lê Cảnh Vạn) gia nhập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội, hoạt động tại các tỉnh Nam Trung Kỳ do hai ông Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo. Hai ông Hàn, Nam trở thành những yếu nhân của tổ chức Việt Nam Quang Phục ở Nam Trung Kỳ.

Đầu năm 1914, Thái Phiên cùng với Lê Ngung một người yêu nước ở tỉnh Quảng Ngãi tổ chức cuộc họp mặt các nhà yêu nước ở Trung Kỳ tại Đà Nẵng. Lê Châu Hàn, Lê Châu Nam cũng dự hội nghị đó. Hội nghị nhất trí phải chuẩn bị khởi nghĩa. Hai ông có cha làm quan to trong triều, có cơ hội gần gũi vua Duy Tân một ông vua yêu nước, nên được Thái Phiên và Trần Cao Vân giao cho tiếp xúc. Sau mấy lần trò chuyện với anh em họ Lê, vua Duy Tân hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, giao cho hai ông bố trí cho nhà vua gặp hai nhà cách mạng Thái Phiên, Trần Cao Vân.

Lê Châu Hàn đã bố trí cuộc gặp gỡ đó một cách an toàn ở Cửa Tùng, nhà vua đã tán thành và tham gia cuộc khởi nghĩa.

Song cuộc khởi nghĩa thất bại, hầu hết các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội ở Nam Trung Kỳ trong đó có Lê Châu Hàn, Lê Châu Nam bị bắt. Các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân bị xử chém. Vua Duy Tân đưa đi đày, Lê Châu Hàn, Lê Châu Nam nhờ có thế lực của cha nên chỉ bị giam ở nhà tù 10 năm thoát khỏi án tử hình.

LÊ CHÂU NAM

Lê Châu Nam còn có tên là Lê Cảnh Vận, Lê Cảnh Thông. Ông là con quan Triều liệt đại phu Lê Hữu Khánh, là em trai Lê Châu Hàn. Ông sinh ra trong một gia đình cự tộc họ Lê ở Quảng Nam - Đà Nẵng.

Mặc dù là con quan đại thần, nhưng trước nạn đất nước bị giặc Pháp thống trị, cả dân tộc bị trói buộc trong vòng nô lệ, ông đã cùng với người anh trai là Lê Châu Hàn gia nhập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội Trung Kỳ do Thái Phiên, Trần Cao Vân khởi xướng. Nhờ uy tín của cha từng là thày dạy học cho vua Thành Thái và vua Duy Tân khi còn là Hoàng tử, nên ông có dịp thân cận với nhà vua. Hai thủ lĩnh Thái Phiên, Trần Cao Vân giao phó đặc trách công tác tư tưởng cách mạng với vua Duy Tân. Nhà vua yêu nước đã hưởng ứng và trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa Bính Thìn (1916). Lê Châu Nam được tham đự bàn cơ mun hành động với các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, Lê Cơ, Nguyễn Sụy (Nguyễn Thụy), Phan Thành Tài, Lê Đình Dương, Lê Châu Hàn, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu. Ông được giao cho giữ mối liên lạc giữa nhà vua và ban lãnh đạo khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa vào ngày mùng 3 tháng giêng năm Bính Thìn quyết định khởi sự vào 9 giờ đêm hôm đó. Song do sự phản bội của những tên Việt gian bán nước mà cuộc khởi nghĩa bị lộ, giặc Pháp đã kịp thời đối phó. Các ông thấy đã đến giờ mà không thấy súng thần công nổ làm hiệu lệnh thì bỗng nhiên giặc Pháp kéo đến, đồng thời nghe tiếng kêu khói ở trong cung vang động. Thái Phiên biết đại sự đã đổ vỡ, ông Thái Phiên bèn bảo Lê Châu Nam qua bến Ngự báo hung tin. Nhà vua nghe xong thở dài: "Thôi việc như rứa thì hay rứa, chừ thày đi tìm mời thày phó" (tức Thái Phiên đến nhận mệnh). Ông vội ra đi và liền ngay sau đó, ông lại đến gặp lại nhà vua với hai thị vệ thân tín là Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu phò vua Duy Tân xuất bôn. Chính ông là người cõng vua Duy Tân băng thành trong đêm khởi nghĩa năm Bính Thìn (1916). Vì thế ông bị giặc Pháp bắt cùng vói các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu. Tất cả đều bị kết án tử hình, hành quyết vào ngày 17 tháng 5 năm 1916. Riêng ông may mắn thoát chết nhờ uy thế của thân phụ và Thượng thư Bộ Hình Hồ Đắc Trung mà chỉ bị án tù 10 năm, nhưng thực dân Pháp giam giữ ông tới vài chục năm mới thả. Ông trở về thì phong trào Việt Minh đang lên cao, ông tích cực hoạt động và tham gia Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Đêm 1 tháng 8 năm Giáp Thìn (1946) ông bị chết một cách thê thảm. Ông được táng ở nghĩa địa Lê tộc cùng với cha mẹ, anh là Lê Cảnh Hàn tại phường Bắc Mỹ An, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

HẾT
 
 

Không có nhận xét nào: