Ông Đinh
Lễ, một tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, là một
trong số 221 người được Lê Thái Tổ ban quốc tính (họ
vua, họ Lê) .
Sử thần đời sau gọi ông là Đinh
Lễ, Lê Lễ một cách tùy tiện, không phân biệt họ Đinh
(họ thật, trước khi được vua ban quốc tính) và họ Lê
(họ vua, kể từ ngày được vua ban quốc tính) của ông.
Chẳng hạn như trong Đại
Việt Thông Sử (Lê Quý Đôn
toàn tập, tập 3, nxb Khoa Học Xã Hội, 1978) chép tên ông năm
1418 là Lê Lễ (tr 35), đến năm 1424 chép là Đinh Lễ (tr 46),
năm 1426 lại đổi thành Lê Lễ (tr 51), và năm 1427 lại trở
về Đinh Lễ (tr 54) v.v..
Sự lẫn lộn này đôi lúc đã gây
thắc mắc và đặt ra cho chúng ta câu hỏi:
Lê Lợi ban
quốc tính, họ vua cho ông Đinh Lễ từ năm nào ? Nói rộng
hơn là Lê Lợi ban quốc tính, họ vua cho các công thần từ
năm nào, từ trước hay chỉ bắt đầu từ năm lên làm vua
?
Trả lời được câu hỏi trên sẽ
giúp chúng ta hiểu thêm được một vài sự kiện của thời
kì Khởi nghĩa Lam Sơn.
Đại Việt
sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (tập 3, nxb Khoa
Học Xã Hội, 1968, viết tắt là TT) , Đại
Việt thông sử (TS) của Lê Quý Đôn (sđd),
Khâm định Việt sử Thông giám Cương Mục (CM) của
Quốc sử quán triều Nguyễn (tập 1, nxb Giáo Dục, 1998), chép
rằng:
- Tháng 3 năm 1427, Đinh Lễ và Nguyễn
Xí đánh nhau với quân Minh ở Mi Động (Hoàng Mai, Hà Nội
bây giờ). Voi của hai ông bị sa lầy. Hai ông bị quân Minh
bắt đưa về thành Đông Quan. "Lễ không
chịu khuất, bị giết chết. Xí về sau nhân ban đêm mưa gió,
dùng mẹo đánh lừa kẻ canh giữ thoát về được, vào ra
mắt vua ở Bồ Đề..."
(TT, tr 33; CM, tr 809). "Đinh
Lễ tử trận, Nguyễn Xí bị giặc bắt "
(TS, tr 58).
-Mùa hạ, tháng tư năm 1427, ghi công
các người ( Đinh Lễ và Lý Triện) đã
hy
sinh về việc nước (TS, tr 60),
chết
vì việc nước
(TT, tr 35; CM, tr 809) : phong cho em Lê
Lễ là Đinh Liệt làm nhập nội thiếu úy á hầu; các vợ
lẽ của Lễ là bọn Hà Ngọc Dung 5 người đều làm tông
cơ (...).
- Tháng 12 năm 1427 quân Minh rút hết
về nước. Lê Lợi gấp rút tổ chức lại guồng máy cai trị
quân dân.
- Tháng 2 năm 1428 Lê Lợi ban thưởng
cho các hỏa thủ và quân nhân quân Thiết đột có công siêng
năng khó nhọc ở Lũng Nhai, chia ra thứ bậc, cộng 221 người
: Công hạng nhất, cho quốc tính,
là bọn Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, Lê Ê 52 người (...); công
thứ hai, cho quốc tính, là bọn
Lê Bố, Lê Liệt, Lê Khảo 72 người (...); công thứ ba, cho
quốc tính, là bọn Lê Lễ 94 người (...) (TT, tr 59;
TS, tr72). CM (tr 833) chép công thứ ba là Lê
Trễ, Lê Nghiễn 94 người.
- Tháng 3 năm 1428, đại hội các
tướng và các quan văn võ để định
công ban thưởng, theo công cao thấp mà định thứ
bực. Lấy thừa chỉ Nguyễn Trãi làm quan phục hầu, tư đồ
Trần (Nguyên) Hãn làm tả tướng quốc, khu mật đại sứ
Phạm Văn Xảo làm thái bảo, đều cho
quốc tính (TT, tr 60; TS, tr 72; CM, tr 835).
- Tháng 4 năm 1428 Lê Lợi lên ngôi
hoàng đế, sai Nguyễn Trãi viết bài Bình
Ngô đại cáo, tuyên bố nền độc lập của nước
ta.
- Truy phong Lê Lễ làm Nhập nội
tư đồ, Lê Triện làm Nhập nội tư mã (CM, tr 839)
- Tháng 9 năm 1428, định lại phẩm
tước của quan chức văn võ. Cho các công
thần được quốc tính (TT,
tr 64 ). Cho các vị công thần được đổi họ nhà vua ( TS,
tr 79).
- Tháng 5 năm 1429, ban biển ngạch
công thần, phong mọi tước hầu ( liệt hầu) cho 93 người
, trong số này có các ông Lê Vấn, Lê Sát, Lê Văn Xảo, Lê
Văn An, Lê Liệt, Lê Lễ, Lê Xí, Lê Trãi v.v.(TT, tr 69; CM, tr
853).
Tóm lại, ông Đinh Lễ có tên trong
số các công thần được vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) ban
thưởng, cho quốc tính (họ Lê) năm 1428, được ban
biển ngạch công thần , được phong tước Đình
Thượng hầu năm 1429.
Nhưng mặt khác, trước đó sử
lại chép rằng ông Đinh Lễ đã bị quân Minh giết tại trận
(TS) hoặc tại thành Đông Quan (TT, CM) năm 1427. Dựa vào sự
kiện ông bị giết năm 1427 và được ban họ vua năm 1428,
nhiều người kết luận rằng:
- Lê Lợi đã ban họ vua cho một
số công thần trước năm 1428, ngay từ ngày còn "nằm
gai nếm mật ", chưa biết sẽ
"được
làm vua " hay "thua làm giặc ".
- Năm 1428 Lê Lợi ban thưởng, ban
họ vua cho cả các công thần đã chết như ông Đinh Lễ.
Đọc tất cả các bản chính sử
đến đây, chúng ta phải công nhận như vậy.
Nhưng ngược lại, chúng ta cũng
có thể quả quyết rằng :
1- Câu hỏi về năm Lê Lợi ban họ
vua cho các công thần không cần được đặt ra bởi vì hiển
nhiên là phải làm vua rồi thì mới có thể ban họ vua cho
người khác được . Như vậy mới danh
chính ngôn thuận . Vả lại tất cả các đệ nhất
công thần cũng chỉ được ban quốc tính từ năm 1428, năm
Lê Lợi lên làm vua, không lẽ có người còn hơn cả đệ
nhất công thần ?
Nếu cho rằng ông Đinh Lễ được
ban họ vua trước năm 1427 thì hóa ra ông được ban họ vua
hai lần , lần thứ nhì vào năm 1428 ?
2- Về mặt chữ nghĩa,
Hán
Việt từ điển của Đào Duy Anh (nxb Trường Thi,
1957) giải thích các từ phong,
tặng,
ban
và truy như sau:
- Phong:
vua đem đất đai và tước lộc cho bầy tôi.
- Tặng:
đem phẩm vật biếu cho người. Phong chức cho người đã chết.
- Ban:
ban cho. Ban ân: vua gia ơn cho thần dân.
- Truy:
tìm trở ngược các việc đã qua. Truy
phong: phong tước cho người đã chết.
Như vậy thì những người được
vua phong thưởng, ban
thưởng, phải là những người còn sống. Những
người được vua truy phong hay
truy
tặng danh hiệu là những người đã chết.
Ông Đinh Lễ được vua
phong thưởng, ban thưởng, cho quốc tính năm 1428, điều
này tỏ rằng ông còn sống.
3- Sau khi ban thưởng các công thần,
nhà vua chỉ huy rằng: " Các chức văn
võ, quan võ từ thượng tướng tước trí tự trước phục
hầu trở lên, đều cho mặc áo màu đỏ tiá, quan văn từ
nhập nội đại hành khiển quan phục hầu trở lên, cũng cho
mặc áo màu đỏ tiá " (TT,tr 70; CM, tr 854).
Các ông quan đại thần được mặc
áo màu đỏ tiá chắc phải là những người còn sống. Trong
số những người này có ông Lê (Đinh) Lễ.
4- " Triều ta
(nhà Lê) lúc mới dựng nước, thiên hạ vừa mới được
bình định, anh em thì ít, các con thì còn bé. Các võ tướng
ai có công thì được ban quốc tính, chia nhau nắm binh mã,
họ hàng liên kết chặt chẽ..." (TS, tr 142).
Lê Quý Đôn cho phép chúng ta nghĩ
rằng Lê Lợi phong thưởng, ban quốc tính cho các công thần
khi " thiên hạ mới được bình định
", tức là năm 1428; và ban thưởng cho những người
"
chia nhau nắm binh mã ", tức là những người còn
sống.
Dựa vào 4 nhận xét, phân tích kể
trên thì lại phải thừa nhận rằng năm 1428 ông Đinh Lễ
vẫn còn sống. Và điều này có nghĩa là Lê Lợi chỉ ban
họ vua cho các công thần bắt đầu từ năm 1428 và chỉ ban
cho những công thần còn sống.
Chả lẽ các sử thần lại ghi chép
thiếu thận trọng như vậy?
Vẫn nói về ông Đinh Lễ (TS, Chư
thần truyện, tr 168) , Lê Quý Đôn lại gây thêm bối rối
cho chúng ta :
"Năm Thuận
Thiên thứ nhất (1428), tặng
ông
(Đinh Lễ) là nhập nội kiểm hiệu tư đồ. Năm Hồng Đức
thứ 15 (1484)
gia tặng là thái
sư Bân quốc công, về sau tấn phong là Hiển Khánh Vương".
Ở đây Lê Quý Đôn dùng chữ tặng,
nhưng ở phần Đế kỷ (tr 71) lại dùng chữ phong.
Một chữ dùng cho người đã chết, chữ kia cho người còn
sống. Dường như có mâu thuẫn trong lối viết của Lê Quý
Đôn.
Dầu sao thì TT , TS và CM cũng đã
để lại cho chúng ta một mâu thuẫn, một thắc mắc có liên
quan trực tiếp đến năm Lê Lợi ban họ vua cho các công thần.
Ông Đinh Lễ
bị quân Minh giết năm 1427 hay ông vẫn còn sống năm 1428 ?
May mắn thay, TT (tr 151-152) và CM
(tr 955) chép về đời vua Lê Nhân Tông có đoạn như sau :
Năm 1449, " Mùa
hạ, tháng 4, khôi phục lại tự hiệu phong hầu và quan tước
nhập nội thị trung cho thái tử thiếu bảo Lê Lễ. Ngày hôm
ấy Lễ chết. Lễ đời làm gia thần của Thái Tổ, rất được
yêu trọng, sớm tối chầu hầu, không lúc nào rời bên cạnh.
Chí dốc trung trinh, có sức khỏe hơn người. Khi Thái Tổ
khởi nghĩa, vợ cả vợ lẽ bị hoạn nạn mà vua vượt ra
vòng vây, thoát khỏi nơi hiểm, công của Lễ rất nhiều.
Thái Tổ thường khen giỏi và từng nói: " Nếu dồn mọi công
lao, thời vị tể tướng chẳng ngươi còn ai nữa. Ta có tiếc
gì với ngươi, chỉ vì tài ngươi không xứng thôi ".
" Đến khi Thái
Tổ sắp băng, khóc bảo rằng: Nếu trẫm không còn thì ai
biết khanh nữa, sợ từ đây về sau sẽ bị giáng truất mà
thôi ". Sau bị Nguyễn Thị Lộ gièm, phải giáng làm thái tử
thiếu bảo, đúng như lời nói của Thái Tổ. Đến đây ốm
nặng, được phục lại chức cũ. Ngày mồng 4 chết, tuổi
82. Tặng hương hầu, thụy là Trung Tiết " .
Các chi tiết chép về ông Lê Lễ,
trải thờ ba đời vua và chết năm 1449 ( làm gia thần của
Thái Tổ, không lúc nào rời bên cạnh, có sức khỏe hơn người,
theo Thái Tổ khởi nghĩa ), đều giống những điều Lê Quý
Đôn viết về ông Lê (Đinh) Lễ trong TS (tr 165).
Những chi tiết này chứng tỏ rằng
ông Đinh Lễ, theo Lê Lợi từ ngày khởi nghĩa, không hề bị
quân Minh giết tại trận hay giết tại thành Đông Quan năm
1427, như chính sử đã chép trước đó.
Cùng năm 1427 còn có ông Đỗ Bí
cũng bị quân Minh bắt. " Sau giặc về
nước, lấy lễ đưa Bí trở lại " (TT, tr 31).
Ông Đỗ Bí cũng được ban quốc
tính, được ban biển ngạch công thần năm 1429 cùng với ông
Đinh Lễ.
Như vậy là TT và CM đã bắt ông
Đinh Lễ chết...hai lần. Hay nói khác đi, hai ông Lê (Đinh)
Lễ của cùng một bản chính sử, chết hai năm khác nhau, thực
ra là cùng một người. TS chỉ chép đến năm 1433 nên chỉ
bắt ông chết một lần, nhưng đó là lần...chết hụt.
Phải chăng các sử thần đã quên
hay cố ý bỏ sót không chép việc ông Đinh Lễ sống sót trở
về với Lê Lợi ?
Các đời sau chép sử về Lê Lợi
và cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn thường dừng lại ở năm 1428
(năm cuộc khởi nghĩa thành công hoàn toàn và Lê Lợi lên
làm vua), hoặc năm 1433 (năm Lê Lợi chết). Vì thế mà người
ta quên mất ông Lê Lễ chết năm 1449, đời vua Lê Nhân Tông.
Và người ta cũng quên cả đính chính một điều sai lầm
của chính sử chép rằng ông Đinh Lễ bị quân Minh giết năm
1427.
Ngày nay chúng ta vẫn còn được
đọc :
"Đinh Lễ bị
giặc giết chết, còn Nguyễn Xí thì sau trốn thoát được.
Đinh Lễ hy sinh là một tổn thất lớn của nghĩa quân vì
ông là một tướng cao cấp (lúc bấy giờ Đinh Lễ giữ chức
nhập nội tư không) và dũng cảm, đã có công lớn trong trận
Khả Lưu năm 1424, trận thành Diễn Châu năm 1425 và nhất là
trận Tốt Động - Chúc Động cuối năm 1426" (Phan
Huy Lê - Phan Đại Doãn, Khởi nghĩa Lam Sơn, in lần thứ ba,
Khoa Học Xã Hội, 1977).
Năm chết của ông Đinh Lễ ( 1449)
được xác định, chính sử trở thành dễ hiểu và hợp lí
hơn. Nhờ đó mà chúng ta có thể kết luận rằng Lê Lợi
phong thưởng, ban quốc tính (họ Lê) cho các
công thần còn sống bắt đầu từ năm 1428, năm Lê
Lợi lên làm vua.
Kết luận trên còn giúp chúng ta
tìm hiểu một vài sự kiện lịch sử khác.
Năm 1427, Lê Lợi "giết tư mã là
Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh giặc, nói
ra những lời ngạo mạn nên bị giết " (TT, tr 30; TS, tr 56).
CM không chép chuyện này.
Ông Lê Lai này là ai ? Có thể nào
là ông Lê Lai liều mình cứu chúa năm 1419 không ?
" Thực ra không
có căn cứ gì để cho rằng Lê Lai đã bị giết năm 1427 thì
không thể có Lê Lai hy sinh năm 1419 vì rất có thể có hai
người cùng tên họ, hay cùng tên khác họ nhưng được ban
quốc tính nên thư tịch cũ chép thành cùng tên họ. Hơn nữa,
Lam Sơn thực lục tục biên lại chép cả việc Lê Lai hy sinh
cứu Lê Lợi và cả việc giết Lê Lai năm 1427. Điều ấy
chứng tỏ lúc bấy giờ có hai người tên Lê Lai "(Khởi
nghĩa Lam Sơn, sđd tr 154).
Cho tới năm 1427 Lê Lợi chưa ban
họ vua cho các công thần, và sau năm 1428 Lê Thái Tổ cũng
không ban quốc tính cho ai đã từng ngạo mạn, bị chính mình
giết
năm trước. Ít ra thì họ Lê cũng phải là họ thật của
ông tư mã.
Trường hợp của ông Lê Lễ bị
chết hai lần vào hai năm khác nhau nhắc chúng ta cần phải
bàn lại ý kiến cho rằng có hai ông quan đại thần Lê Lai.
Chúng ta còn gặp một trường hợp
khác trong chính sử.
Năm 1411 đời Hậu Trần, vua Trần
Quý Khoáng sai Hồ Ngạn Thần và Bùi Nột Ngôn đi sứ cầu
phong. "Trước đây vua sai hành khiển Nguyễn
Nhật Tư và thẩm hình Lê Ngân sang cầu phong, vua Minh giận
bắt giam giết " (TT, tập 2, tr 242; CM, tr 747).
Khởi nghĩa Lam Sơn cũng có một
tướng giỏi tên là Lê Ngân. Ông theo Lê Lợi khởi nghĩa,
tham dự từ trận đánh đầu tiên năm 1418, được phong tước
Thượng hầu năm 1429. Đại đô đốc Lê Ngân bị Lê Thái
Tông giết năm 1437 (TT, tr 125; CM, tr 918).
Thẩm hình Lê Ngân bị vua Minh giết
năm 1411 và Đại đô đốc Lê Ngân bị Lê Thái Tông giết
năm 1437 là hai người trùng tên họ hay chỉ là một người
?
Sưu tầm./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét