Hồ
Nguyên Trừng (1374 - 1446) là con trai cả của Hồ Quý Ly. Tháng
11.1394 lần đầu tiên sử sách nhắc đến Nguyên Trừng với
việc bổ nhiệm ông làm Phán sư tự dưới triều đình của
Thái thượng hoàng Nghệ Tông. Tháng 6.1399 Nguyên Trừng lãnh
chức Tư đồ. Tháng 2 năm 1400 Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần,
trong lòng muốn lập con thứ Hồ Hán Thương (là cháu ngoại
Trần Minh Tông) làm Thái tử, bèn thăm dò ý Nguyên trừng bằng
cách ra câu đối: "Thử nhất quyển kỳ thạch, hữu thì vi
vân vũ dĩ nhuận sinh dân" (Hòn đá lạ bằng nắm tay này,
có lúc làm mây làm mưa để nhuần thấm sinh dân). Nguyên Trừng
khiêm tốn trả lời, ý nói không màng ngôi cao, chỉ mong được
phụng sự đất nước: "Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật
tác đống tác lương dĩ phù xã tắc". (Cây thông nhỏ mới
ba tấc kia, ngày sau làm rường cột để chống nâng xã tắc).
Tháng 12 năm 1400 Hồ Quý Ly tự xưng Thái thượng hoàng và
nhường ngôi cho Hán Thương. Hồ Nguyên Trừng lãnh chức Tả
tướng quốc.
Cuối năm 1405, nguy
cơ xâm lăng của nhà Minh ngày càng rõ rệt. Khi nghị bàn quốc
sự các quan trong triều chia thành hai phái đánh và hòa. Hòa
tức là chấp nhận sức ép của Bắc triều, cắt đất, cống
nộp từ con người đến sản vật. Hồ Nguyên Trừng nói:
"Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi". Hồ
Quý Ly rất tâm đắc ý chí của Nguyên Trừng nên đã thưởng
cho Trừng chiếc hộp đựng trầu bằng vàng.
Giữa năm 1406 Hồ
Nguyên Trừng thống lĩnh binh mã cự 10 vạn quân Minh từ Quảng
Tây đánh sang. Trận đầu ông thất bại ở khu vực Đáp Cầu
Bắc Ninh ngày nay, vì khinh quân địch ít. Sau đó ông cũng
đuổi được chúng ra khỏi bờ cõi. Cuối năm 1406, đợt xâm
lược mới của nhà Minh có quân số lên tới 80 vạn. Tả
tướng quốc Nguyên Trừng chỉ huy một cánh quân tiên phong
dọc sông Cái.
Thất bại này nối
thất bại kia vì giặc mạnh lại biết dùng kế ly gián, chia
rẽ họ Hồ với quân tướng và dân chúng. Giữa năm 1407,
toàn bộ gia tộc họ Hồ, từ Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương,
Hồ Nguyên Trừng đến con cháu đều bị bắt sống và giải
về Kim Lăng, Trung Quốc.
Trên đây là tóm
tắt gốc tích và hành trạng trong nước của Hồ Nguyên Trừng
theo Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXH Hà Nội 1993. Sách
này còn ghi năm 1411 Hồ Ngạn Thần theo lệnh vua Trùng Quang
Trần Quí Khoáng đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) để cầu
phong. Vua Minh sai Hồ Nguyên Trừng gặp Ngạn Thần thu thập
tin tức Giao Chỉ.
Đến Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, NXB Hà Nội 1998, ngoài nội
dung cũ, liên quan đến Hồ Nguyên Trừng còn có các chi tiết:
Vua nhà Minh ngự điện nhận tù binh và hỏi Quý Ly rằng: "Giết
vua, cướp nước, như thế có phải là đạo người bầy tôi
không?". Quý Ly không trả lời được, bèn giao cả xuống giam
vào ngục tù, chỉ tha cho con là Trừng, cháu là Nhuế. Sau,
Quý Ly ở trong ngục được tha ra, bắt đi thú thủ ở Quảng
Tây; Trừng vì lành nghề chế binh khí, dâng phép chế súng
lên vua Minh, nên được tha ra để dùng.
Lời cẩn án
- Sử cũ chép: "Khi Quý Ly đến Kim Lăng, vua nhà Minh giả
vờ trao cho chức tham chính, sai người hộ tống đến nơi
làm việc, rồi giết chết ở dọc đường". Có lẽ nào đánh
bắt được người đầu sỏ của giặc, không đem làm tội
một cách đường hoàng mà lại phải dùng kế giả dối để
giết bao giờ? Thật là vô lý! Nay theo sách Minh sử kỷ
sự cải chính lại.
***
Giai đoạn sau cuộc
đời Hồ Nguyên Trừng không được sử sách chính thống Việt
Nam nhắc đến. Nhiều văn bản Trung Quốc còn lưu lại đến
ngày nay đều thống nhất dùng họ Lê cho Hồ Nguyên Trừng
và con cháu ông, đây là họ của Lê Huấn, cha nuôi Hồ Quý
Ly. Để tiện bề theo dõi, trở xuống xin được đổi lại
họ Hồ trong các đoạn dịch.
Theo Minh Sử [1]:
Vào thời Minh Thành tổ, Giao Chỉ được bình định, kỹ thuật
(chế tạo) thần cơ thương pháo được thu dung, thành lập
và huấn luyện một binh đoàn trang bị súng thần cơ.
Kết nối dữ kiện
trên với tài liệu của Tôn Lai Thần [2] (Sun Laichen) sẽ hiện
ra chân dung nhà khoa học quân sự Hồ Nguyên Trừng: Theo
lệnh vua Minh, các tù binh Đại Việt biết chế tạo vũ khí
như Hỏa súng, Đoạn tiễn, Thần tiễn, Thuốc súng; đã bị
áp giải đến Nam Kinh cùng với nhiều thợ thủ công các loại,
tổng cộng lên đến khoảng 17.000 người. Trong số này có
Hồ Nguyên Trừng. Đại Việt sử ký toàn thư cũng đặc biệt
ghi nhận năm 1407 Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo nhiều súng
ống và tàu chiến để chống lại quân Minh xâm lược. Việc
ngài Tả tướng quốc Nguyên Trừng nắm kỹ năng chế tạo
vũ khí cầm tay cho thấy tầm quan trọng mà Đại Việt gửi
gắm ở kỹ nghệ sản xuất thuốc súng cũng như cuộc cạnh
tranh quyết liệt giữa Đại Việt và các nước láng giềng,
trước hết là với Trung Hoa và Chiêm Thành. Thú vị là sự
tinh thông ấy đã thay đổi vận mệnh Hồ Nguyên Trừng tại
Trung Hoa.... Nguyên trừng được tha bổng và nhậm một chức
quan thuộc Công bộ. Ông chịu trách nhiệm chế tạo hỏa súng,
hỏa tiễn và thuốc súng trong Binh trượng cục (Cục chế
tạo vũ khí) và rồi được thăng chức Thượng thư bộ Công
(tương đương hàm bộ trưởng ngày nay - ND)... Theo một số
sách vở Trung Hoa (Minh sử cảo), triều Minh khi tế thần súng
cũng thường hiến cúng Hồ Nguyên Trừng. 73 tuổi, Hồ Nguyên
Trừng mất, con ông (Lê Thúc Lâm - ND) đã thay ông tiếp tục
chế tạo vũ khí cho nhà Minh đến khi về hưu năm 1470 ở tuổi
70.
Phần lớn ghi chép
ở Việt Nam ngày nay cho rằng Hồ Nguyên Trừng làm quan triều
Minh đến tam phẩm (Công bộ tả thị lang, thứ trưởng). Thực
ra theo bộ Minh sử đầy đủ đã xuất bản ở Đài Loan, năm
1445 Hồ Nguyên Trừng được thăng chức nhị phẩm (Công bộ
thượng thư). Điều này phù hợp với nghiên cứu của Tôn
Lai Thần. Có lẽ làm "bộ trưởng" chưa được một năm thì
họ Hồ mất nên tài liệu Việt Nam sơ suất. Hữu thị lang
Hồ Thúc Lâm, con Hồ Nguyên Trừng đến tuổi hưu trí vẫn
được triều Minh lưu dụng. Thậm chí đến cháu nội ông
là Hồ Thế Vinh, năm 1469 cũng được tuyển làm Trung thư xá
nhân tại Công bộ.
Hiện trên internet
có rất nhiều trang đề cặp đến nơi yên nghỉ Hồ Nguyên
Trừng. Chẳng hạn khảo biện "Hỏa long kinh" [4], thuộc chủ
đề Trung Quốc lịch sử văn vật, tác giả Lý Bân, Đại
học Thanh Hoa xuất bản 1.1.2002 viết: Tháng sáu, năm Chính
thống thứ 10 (1445) thăng (Hồ Nguyên Trừng) làm Thượng thư
bộ công, giữ việc nội phủ, tháng 7 năm sau mất, hưởng
thọ 73 tuổi, an táng tại vùng núi phía tây Bắc Kinh, sườn
núi Ngọc Đài, thôn Nam An Hà.
Từ những dữ kiện
trên đây, có thể khẳng định Hồ Nguyên Trừng và con cháu
ông là những công trình sư có đóng góp nghiên cứu và thực
nghiệm khoa học quân sự lớn lao cho triều Minh. Phải chăng
chính công tác "gián điệp" trong quá trình xâm lăng Đại Việt
đầu thế kỷ 15, nhà Minh đã nhìn thấy "mỏ vàng" nhân lực
trí lực đồ sộ ở nước Nam. Cướp đất và ra sức tiêu
diệt văn hóa chưa đủ, họ còn bắt đi 17.000 trái tim khối
óc người Việt đem về để kiến thiết Trung Quốc. Nguyễn
An, nhân vật tham gia thiết kế và xây dựng Tử Cấm Thành,
và Hồ Nguyên Trừng là những cái tên chói sáng trong số tù
nhân kia. Họ bất tử vì tài năng kiệt xuất, lưu truyền
thiên cổ.
Ảnh minh họa:
Thác bản văn bia [5] nói về việc xây dựng chùa Tú Phong do
Hồ Nguyên Trừng soạn năm 1443. Chùa Tú Phong và mộ Hồ Nguyên
Trừng cùng nằm trong thôn Nam An Hà, xã Bắc An Hà, khu Hải
Điện, TP Bắc Kinh.
***
Cuối đời, sống
trong nhà tù lớn mang tên Trung Hoa, dù chức cao bổng hậu Hồ
Nguyên Trừng vẫn ngóng về quê hương với nỗi niềm sâu
nặng. Phải chăng đấy là lý do Nguyên Trừng lấy bút hiệu
Nam Ông (ông già nước Nam) và viết quyển "Nam Ông mộng lục"
bất hủ.
Trước tác gồm
31 phần, do Hồ Huỳnh, Thượng thư bộ Lễ Minh triều đề
từ năm 1440, có cả hậu tự năm 1442 của Tống Chương. Ở
lời nói đầu, Hồ Nguyên Trừng bảo: Trong xóm mười nhà
thể nào cũng có người tín nghĩa như Khổng Tử, huống hồ
nhân vật nước Nam không kể hết. Thời gian và chiến tranh
làm sách vở tiêu tán hết, nên ông phải viết lưu lại cho
đời. Bằng nỗi niềm thương nhớ cố quốc, hồi tưởng
năm tháng đã qua, Hồ Nguyên Trừng ngỡ cuộc đời là một
giấc mộng dài. Ông giải thích chữ "mộng" [6]: Những nhân
vật trong sách, một thời phồn hoa, rồi thời cuộc biến
đổi không còn để lại vết tích, chỉ còn một mình tôi
biết được và kể ra, như vậy chẳng phải mộng là gì!
Qua "Nam ông mộng lục" người ta phần nào hình dung được
đất nước con người Việt Nam cách đây hơn 600 năm. Các
mảng đời sống, tín ngưỡng, phong tục, lề thói... rất
sinh động và chân thật. Hồ Huỳnh nhận định: "Văn họ
Hồ ngắn gọn mà nghiêm trang, cẩn mật, cao nhã mà uyên bác,
theo tình kể lại, theo nghĩa đặt lời... Ca ngợi sự tiết
nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể uốn nắn phong tục,
biểu dương trước thuật thì siêu thoát, thanh tân, có thể
nuôi dưỡng tính tình...".
Gần đây ở ngôi
làng Nam An Hà, cách Bắc Kinh 30km về phía tây, nơi có mộ
chí Hồ Nguyên Trừng và con cháu ông đang ồn ào vụ kiện
giải tỏa đất đai mồ mả để làm trường đua ngựa [7].
Không rõ khu vực giải tỏa có chạm đến nơi an nghỉ của
Hồ Nguyên Trừng không. Cũng tra internet tôi biết gần đó
hiện còn di chỉ Hỏa khí doanh (doanh trại chế tác/thử nghiệm
vũ khí), phải chăng là nơi ba đời họ Hồ từng làm việc.
Trang viết biên
khảo nhỏ này muốn đưa đến đông đảo người đọc những
chi tiết có chọn lọc, về thân thế và sự nghiệp người
Việt kiều từng giữ chức bộ trưởng, trong triều đình
một cường quốc của thế giới cách nay hơn nửa thiên niên
kỷ. Dám mong một ngày nào đó, nếu lăng Hồ Nguyên Trừng
bị giải tỏa, di cốt ông sẽ được nhân dân Việt Nam đón
về cải táng trong thành đá Tây Đô, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
Tòa thành ấy còn gọi là Thành nhà Hồ, vẫn ngạo nghễ với
thời gian, ghi dấu nỗ lực chiến đấu chống ngoại xâm ngoan
cường của ba cha con Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán
Thương.
Phụ chú : Bia đá
chùa Tú Phong. Ảnh do Trần Quang Đức chụp ngày 30.11.2007 trong
chuyến tìm mộ Hồ Nguyên Trừng đầu tiên nhưng chưa thành
công. Tám chữ bìa trái tấm bia: "Tả thị lang Giao Nam Lê Trừng
soạn".
[1] - Trung Hoa thư
cục, Bắc Kinh 1974, tập 92, trang 2264.
[2] - Tôn Lai Thần, Kỹ thuật quân sự Trung Hoa và Đại Việt từ 1390 đến 1497 (Sun Laichen, Chinese technology and Dai Viet : c.1390 - 1497), Viện nghiên cứu Á Châu (ARI), Đại học quốc gia Singapore 9.2003.
[3] - Dẫn theo Lê Thị Minh Huyền, trang web viethoc.com, Minh sử tân hiệu � quyển 111 � biểu 12.
[4] - http://ch.shvoong.com/social-sciences/business-management/874428-%E7%81%AB%E9%BE%99%E7%BB%8F-%E8%80%83%E8%BE%A8/
[5] - http://res2.nlc.gov.cn/dob/servlet/getDob?id=bj8377&xsltype=0301&type=dob%0D%0A%09%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%09
[6] - Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1884, tập 1, trang 42. Dẫn theo Hồ Bạch Thảo, talawas.
[7] - Lê thị Minh Huyền đã dẫn: http://www.chinacourt.org/html/article/200710/08/268077.shtml, trang web Pháp viện Trung Quốc cho biết ngày 14.11.2007 vụ án này đã bắt đầu bước vào trình tự phúc thẩm do tòa sơ thẩm bác đơn kiện.
[2] - Tôn Lai Thần, Kỹ thuật quân sự Trung Hoa và Đại Việt từ 1390 đến 1497 (Sun Laichen, Chinese technology and Dai Viet : c.1390 - 1497), Viện nghiên cứu Á Châu (ARI), Đại học quốc gia Singapore 9.2003.
[3] - Dẫn theo Lê Thị Minh Huyền, trang web viethoc.com, Minh sử tân hiệu � quyển 111 � biểu 12.
[4] - http://ch.shvoong.com/social-sciences/business-management/874428-%E7%81%AB%E9%BE%99%E7%BB%8F-%E8%80%83%E8%BE%A8/
[5] - http://res2.nlc.gov.cn/dob/servlet/getDob?id=bj8377&xsltype=0301&type=dob%0D%0A%09%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%09
[6] - Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1884, tập 1, trang 42. Dẫn theo Hồ Bạch Thảo, talawas.
[7] - Lê thị Minh Huyền đã dẫn: http://www.chinacourt.org/html/article/200710/08/268077.shtml, trang web Pháp viện Trung Quốc cho biết ngày 14.11.2007 vụ án này đã bắt đầu bước vào trình tự phúc thẩm do tòa sơ thẩm bác đơn kiện.
Sưu tầm: Trương Thái Du
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét