Vì
tôi may mắn nắm được bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển
Sự Lệ - KĐĐNHĐSL (1) cùng bài « La Capitale du Thuân-Hoa »
của Cụ Võ Liêm, đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Huê - BAVH,
tháng Juillet 1916 (2). Nhận thấy những tài liệu rất hiếm
: bài của Cụ Võ Liêm cho tên các nhân vật, các công trình
bằng chử Hán, còn bộ KĐĐNHĐSL thì có nhiều chi tiết về
kích thước, thời điểm, nhân công, lương hướng. Lấy ưu
điểm của hai bên mà bổ sung cho nhau, có thể cho ta một cái
nhìn khá chính xác về việc xây cất Đô-Thành. Cũng vì thế,
tôi đã viết bài nầy, hầu cống hiến qúy vị độc giả
một tài liệu đáng qúy cho ngày nay.
Bài
của Cụ Võ Liêm không viết thẳng tên các vị Chúa, mà dùng
miếu hiệu của các Ngài, như Đức Triệu Tổ, Đức Thái
Tổ …, tôi thì viết rõ trọng húy các Ngài, để người
đọc nhận biết dễ dàng. Nhưng đến các trọng húy, những
miếu hiệu, kỵ húy, tôi đều ghi chú ở dưới.
Tôi đã cố gắng đưa chữ Hán vào bài nầy, vì trong chữ Hán, những chữ đồng âm mà không đồng nghĩa, phần nhiều viết khác nhau, để cho tên các nhân vật, các công trình, các địa danh, trước được nhận biết một cách rõ ràng, sau để độc giả thưởng thức những mỹ tự mà người xưa đã dành cho điện, đài, lầu, các của Đế-Đô.
Tôi cũng dựa vào những tài liệu rải rác khác như Nguyễn-Phúc Tộc Thế Phả, Việt Nam Sử Lược hay những bài báo đăng trên một vài tạp chí …, để sửa những chổ mà tôi cho là sai lầm trong hai tài liệu chính nói trên.
Tuy tôi đã ra sức tra cứu những tài liệu nắm được, nhưng dầu sao những sai lầm, sơ sót vẫn còn, tôi rất mong qúy vị độc giả chỉ bảo để tài liệu được thêm phần hoàn mỹ, để sử sách thêm phần chính xác hơn.
Kinh
thành Huế bây giờ không phải là vị trí đầu tiên của
Đô-Thành Thuận-Hóa.
Sau khi Thái Sư Hưng Quốc Công Nguyễn Kim 阮
淦 (3) mất vào năm
Ất-Tỵ, Nguyên-Hòa thứ mười ba, đời Lê Trang-Tông (1545),
họ Trịnh đã nắm hết quyền chính vào tay mình và ra mặt
uy hiếp nhà Lê. Cũng vì thế mà sự xích mích giữa hai họ
Trịnh, Nguyễn bắt đầu, để rồi đi đến chỗ căng thẳng
với cái chết của Lãng Quận Công Nguyễn Uông 阮
汪 , con trai trưởng
của Nguyễn Kim. Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng 阮
潢 (4) đành nhờ
chị, bà Ngọc Bảo 玉
寶 ,
Thái Phi của Thái Quốc Công Trịnh Kiểm 鄭
檢 , nói giúp với
chồng cho được thuyên chuyển vào Nam. Năm Mậu-Ngọ, Chính-Trị
nguyên niên, đời Lê Anh-Tông (1558), Nguyễn Hoàng được bổ
làm Trấn-Thủ Thuận-Châu 順
州 và Hóa-Châu
化
州 là hai châu Ô 烏
và châu Lý 里
cũ. Nguyễn Hoàng cho xây trấn dinh ở xã Ái-Tử 愛
子 , thuộc huyện
Đăng-Xương 登
昌 , là huyện Triệu-Phong
sau nầy, về phiá bắc thành phố Quảng-Trị.
Thuận-Hóa lúc bấy giờ gồm các tỉnh Quảng-Bình 廣
平 , Quảng-Trị 廣
治 , Thừa-Thiên 承
天 và một phần
Quảng-Nam
廣 南 ngày
nay.
Đến năm Canh-Ngọ, Chính-Trị thứ mười ba (1570), Nguyễn
Hoàng dời dinh đến Trà-Bát 茶
缽 , cũng thuộc huyện
Đăng-Xưong và đặt tên là Cát-Dinh 葛
營 .
Năm Bính-Dần, Vĩnh-Tộ thứ tám, đời Lê Thần-Tông (1626), Chúa Sãi Nguyễn-Phước Nguyên 阮 福 源 (5) dời dinh đến làng Phúc-An 福 安 , thuộc huyện Quảng-Điền 廣 田 , tỉnh Thừa-Thiên bây giờ. Tư dinh được gọi là Chúa-Phủ 主 府 .
Năm Bính-Tý, Duơng-Hòa thứ hai, đời Lê Thần-Tông (1636), Chúa Thượng Nguyễn-Phước Lan 阮 福 瀾 (6) bị thu hút bởi cảnh trí làng Kim-Long 金 龍 , thuộc huyện Hương-Trà 香 茶 , nên đã dời phủ về đó.
Mãi đến tháng bảy, năm Đinh-Mão, Chính-Hòa thứ tám, đời Lê Hi-Tông (1687), Chúa Nghiã Nguyễn-Phước Thái 阮 福 氵 泰 (7) mới dời phủ về làng Phú-Xuân 富 春 cũng thuộc huyện Hương-Trà. Gọi Chúa-Phủ là Chính-Dinh 正 營 , cho xây cung điện, thành quách rất tráng lệ. Lấy ngọn Bằng-Sơn 憑 山 làm bình phong cho Chính-Dinh. Bằng-Sơn chính là núi Ngự-Bình 御 屏 ngày nay. Còn chúa-phủ cũ sửa lại làm Thái-Tông Miếu để thờ Chúa Hiền Nguyễn-Phước Tần 阮 福 瀕 (8).
Năm Nhâm-Thìn, Vĩnh-Thịnh thứ tám, đời Lê Dụ-Tông (1712), Quốc Chúa Nguyễn-Phước Chu 阮 福 氵 周 (9), lập chúa-phủ mới tại làng Bác-Vọng 博 望, thuộc huyện Quảng-Điền, và cho đúc ấn « Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo 大 越 國 阮 主 永 鎮 之 寶 ».
Năm Bính-Dần, Vĩnh-Tộ thứ tám, đời Lê Thần-Tông (1626), Chúa Sãi Nguyễn-Phước Nguyên 阮 福 源 (5) dời dinh đến làng Phúc-An 福 安 , thuộc huyện Quảng-Điền 廣 田 , tỉnh Thừa-Thiên bây giờ. Tư dinh được gọi là Chúa-Phủ 主 府 .
Năm Bính-Tý, Duơng-Hòa thứ hai, đời Lê Thần-Tông (1636), Chúa Thượng Nguyễn-Phước Lan 阮 福 瀾 (6) bị thu hút bởi cảnh trí làng Kim-Long 金 龍 , thuộc huyện Hương-Trà 香 茶 , nên đã dời phủ về đó.
Mãi đến tháng bảy, năm Đinh-Mão, Chính-Hòa thứ tám, đời Lê Hi-Tông (1687), Chúa Nghiã Nguyễn-Phước Thái 阮 福 氵 泰 (7) mới dời phủ về làng Phú-Xuân 富 春 cũng thuộc huyện Hương-Trà. Gọi Chúa-Phủ là Chính-Dinh 正 營 , cho xây cung điện, thành quách rất tráng lệ. Lấy ngọn Bằng-Sơn 憑 山 làm bình phong cho Chính-Dinh. Bằng-Sơn chính là núi Ngự-Bình 御 屏 ngày nay. Còn chúa-phủ cũ sửa lại làm Thái-Tông Miếu để thờ Chúa Hiền Nguyễn-Phước Tần 阮 福 瀕 (8).
Năm Nhâm-Thìn, Vĩnh-Thịnh thứ tám, đời Lê Dụ-Tông (1712), Quốc Chúa Nguyễn-Phước Chu 阮 福 氵 周 (9), lập chúa-phủ mới tại làng Bác-Vọng 博 望, thuộc huyện Quảng-Điền, và cho đúc ấn « Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo 大 越 國 阮 主 永 鎮 之 寶 ».
Dưới thời Vũ-Vương Nguyễn-Phước Khoát
阮 福 氵 闊 (10),
bờ cõi đã mở mang rộng rãi, Đàng Trong có 12 dinh:
Chính-dinh, Cựu-dinh 舊 營 (Ái-Tử), Quảng-Bình dinh, Vũ-Xá 武 舍 dinh, Bố-Chính 布 政 dinh, Quảng-Nam dinh, Phú-Yên 富 安 dinh, Bình-Khang 平 康 dinh, Bình-Thuận 平 順 dinh, Trấn-Biên 鎮 邊 dinh, Phiên-Trấn 藩 鎮 dinh và Long-Hồ 龍 湖 dinh.
Chính-Dinh mới nầy được xây vào năm Tân-Dậu, Cảnh-Hưng thứ hai, đời Lê Hiển-Tông (1741), ở bên tả Chính-dinh cũ và được gọi là Chính-Phủ 正 府 . Cũng tại phủ mới nầy, Chúa Nguyễn-Phước Khoát đã xưng Vương-hiệu vào ngày mười hai tháng tư năm Giáp-Tý, Cảnh-Hưng thứ năm (1744). Vương-phủ 王 府 được đổi thành Vương-Điện 王 殿 , Chính-Phủ được đổi thành Đô-Thành 都 城 . Danh xưng Đô-Thành Phú-Xuân 富 春 có từ đó.
Chính-dinh, Cựu-dinh 舊 營 (Ái-Tử), Quảng-Bình dinh, Vũ-Xá 武 舍 dinh, Bố-Chính 布 政 dinh, Quảng-Nam dinh, Phú-Yên 富 安 dinh, Bình-Khang 平 康 dinh, Bình-Thuận 平 順 dinh, Trấn-Biên 鎮 邊 dinh, Phiên-Trấn 藩 鎮 dinh và Long-Hồ 龍 湖 dinh.
Chính-Dinh mới nầy được xây vào năm Tân-Dậu, Cảnh-Hưng thứ hai, đời Lê Hiển-Tông (1741), ở bên tả Chính-dinh cũ và được gọi là Chính-Phủ 正 府 . Cũng tại phủ mới nầy, Chúa Nguyễn-Phước Khoát đã xưng Vương-hiệu vào ngày mười hai tháng tư năm Giáp-Tý, Cảnh-Hưng thứ năm (1744). Vương-phủ 王 府 được đổi thành Vương-Điện 王 殿 , Chính-Phủ được đổi thành Đô-Thành 都 城 . Danh xưng Đô-Thành Phú-Xuân 富 春 có từ đó.
Một điều đáng tiếc là trong những năm cuối cùng của đời
mình, Vũ-Vương sống xa hoa trong cảnh thanh bình, đâm ra nghe
lời xu nịnh mà say đắm tửu sắc, bỏ rời nhiệm vụ của
đấng minh vương để đưa đến cái đại loạn Trương Phúc
Loan
張 福 巒
sau nầy. Họ Trịnh lấy danh nghĩa « Dẹp ngụy thần, giúp
người thân thích » (11), đem quân vào chiếm Đô-Thành, vào
năm Ất-Mùi, Cảnh-Hưng thứ ba mươi sáu (1775). Tây-Sơn, dưới
chiêu bài « Diệt Trịnh, phù Nguyễn » đã chiếm cứ Phú-Xuân,
vào năm Bính-Ngọ, Cảnh-Hưng thứ bốn mươi bảy (1786). Rồi
từ năm Mậu-Thân (1788) cho đến năm Tân-Dậu (1801), Đô-Thành
Phú-Xuân là Kinh-đô của nhà Tây-Sơn (12).
Vì chiến tranh loạn lạc, Phú-Xuân liên tiếp bị tàn phá
trong 26 năm trời.
Cũng may nhờ tổ tiên, biết chăm lo cho dân, đã đem toàn lực khai khẩn đất đai, biến những vùng đất hoang vu đầy lam sương chướng khí thành một miền Nam trù phú an ninh, nên người Đàng Trong không quên họ Nguyễn mà sát cánh theo giúp Nguyễn-Vương. Cũng vì thế mà Thế-Tổ Cao Hoàng-Đế, sau mấy chục năm gian lao cực khổ, đã thu phục lại Đô-Thành, vào ngày mồng ba tháng năm, năm Tân-Dậu (02-06-1801).
Và mãi đến năm Giáp-Tý, Gia-Long thứ ba (1804), sau khi thống nhất và bình định cả đất nước, Thế-Tổ mới xuống chỉ cho xây lại Đô-Thành.
Cũng may nhờ tổ tiên, biết chăm lo cho dân, đã đem toàn lực khai khẩn đất đai, biến những vùng đất hoang vu đầy lam sương chướng khí thành một miền Nam trù phú an ninh, nên người Đàng Trong không quên họ Nguyễn mà sát cánh theo giúp Nguyễn-Vương. Cũng vì thế mà Thế-Tổ Cao Hoàng-Đế, sau mấy chục năm gian lao cực khổ, đã thu phục lại Đô-Thành, vào ngày mồng ba tháng năm, năm Tân-Dậu (02-06-1801).
Và mãi đến năm Giáp-Tý, Gia-Long thứ ba (1804), sau khi thống nhất và bình định cả đất nước, Thế-Tổ mới xuống chỉ cho xây lại Đô-Thành.
Theo kế hoạch Đô-Thành gồm có Cung-Thành, Hoàng-Thành và
Kinh-Thành.
Cung-Thành
宮 城 (13)
(đến năm Nhâm-Ngọ, Minh-Mệnh thứ ba (1822), danh xưng Cung-Thành
được đổi là Tử-Cấm-Thành
紫 禁 城
) có chu vi tất cả là 307 trượng 3 thước 4 tấc (khoảng
1 229 m), cao 9 thước 3 tấc (khoảng 3,72 m), dày 1 thước 8 tất
(khoảng 0,72 m), xây bằng gạch. Mặt trườc, mặt sau, mỗi
mặt dài 81 trượng (khoảng 324 m), mặt tả, mặt hữu, dài
72 trượng 6 thước 7 tấc (khoảng 290,50 m).
Ở trước có hai cửa Tả-Túc 左 肅 , Hữu-Túc 佑 肅 , lòng cửa đều cao 6 thước 4 tấc (khoảng 2,56 m), ngang 4 thước 5 tấc (khoảng 1,80 m). Bên tả có hai cửa Hưng-Khánh 興 慶 , Đông-An 東 安 ; bên hữu có hai cửa Gia-Tường 嘉 祥 , Tây-An 西 安 ; cả bốn cửa đều có lòng cao 6 thước 5 tấc (khoảng 2,60 m), ngang 4 thước 6 tấc (khoảng 1,84 m). Phía sau có hai cửa Tường-Lân 祥 麟 (dưới triều Thành-Thái được đổi thành Tường-Loan 祥 鸞 vì kỵ húy), Nghi-Phượng 儀 鳳 , lòng cửa đều cao 6 thước 4 tấc (khoảng 2,50 m), ngang 4 thước 1 tấc (khoảng 1,64 m).
Thân của Cung-Thành trong, ngoài đều trát vôi vàng.
Ở trước có hai cửa Tả-Túc 左 肅 , Hữu-Túc 佑 肅 , lòng cửa đều cao 6 thước 4 tấc (khoảng 2,56 m), ngang 4 thước 5 tấc (khoảng 1,80 m). Bên tả có hai cửa Hưng-Khánh 興 慶 , Đông-An 東 安 ; bên hữu có hai cửa Gia-Tường 嘉 祥 , Tây-An 西 安 ; cả bốn cửa đều có lòng cao 6 thước 5 tấc (khoảng 2,60 m), ngang 4 thước 6 tấc (khoảng 1,84 m). Phía sau có hai cửa Tường-Lân 祥 麟 (dưới triều Thành-Thái được đổi thành Tường-Loan 祥 鸞 vì kỵ húy), Nghi-Phượng 儀 鳳 , lòng cửa đều cao 6 thước 4 tấc (khoảng 2,50 m), ngang 4 thước 1 tấc (khoảng 1,64 m).
Thân của Cung-Thành trong, ngoài đều trát vôi vàng.
Hoàng-Thành 皇
城 (14) có chu
vi tất cả là 614 trượng (khoảng 2 456 m), xây bằng gạch,
cao 1 trượng 5 thước (khoảng 6 m), dày 2 thước 6 tấc (khoảng
1,04 m). Mặt trước, mặt sau đều dài 151 trượng 5 thước
(khoảng 606 m). Mặt tả, mặt hữu đều dài 155 trượng 5 thước
(khoảng 622 m).
Ở trước có hai cửa Tả-Đoan 左 端 , Hữu-Đoan 右 端 (sau nầy được phá để xây cửa Ngọ-Môn 午 門 vào năm Qúy-Tỵ, Minh-Mệnh thứ mười bốn (1833)). Bên tả có cửa Hiển-Nhân 顯 仁 , bên hữu có cửa Chương-Đức 彰 德 , đều có hai tầng lầu, và phía sau có cửa Củng-Thần 拱 辰 (sau đổi thành cửa Hòa-Bình 和 平 ), không có lầu . Các cửa đều có ba gian, lợp ngói lưu ly vàng, dài 3 trượng 1 thước 4 tấc (khoảng 4,56 m), ở giữa lòng cửa cao 9 thước 1 tấc (khoảng 3,64 m), ngang 5 thước 5 tấc (khoảng 2,20 m) ; cửa xếp của hai gian hai bên tả hữu có lòng cửa cao 8 thước 5 tấc (khoảng 3,40 m). Ba mặt đông, tây, bắc, mỗi mặt cho xây một cái đài là Đông-Khuyết-Đài 東 闕 臺 , Tây-Khuyết-Đài 西 闕 臺 , Bắc-Khuyết-Đài 東 闕 臺 , đều dài 15 trượng 5 thước (khoảng 62 m), ngang 5 trượng 5 thước (khoảng 22 m), cao 1 trượng (khoảng 4 m). Mỗi đài ở trên có một nhà vuông lợp ngói phẳng, chiều ngang, chiều dài đều 2 trượng 5 thước 5 tấc (khoảng 6,20 m).
Bốn mặt ngoài thành có hào bao vây, rộng 4 trượng (khoảng 16 m), sâu 7 thước 8 tấc (khoảng 3,12 m). Hai bờ xây lan can bằng gạch, còn dưới xây đá. Có 5 cầu bắt ngang; cầu ở hai cửa Tả-Đoan, Hữu-Đoan xây bằng đá, còn cầu ở ba cửa Hiển-Nhân, Chương-Đức, Củng-Thần thì xây bằng gạch.
Ở trước có hai cửa Tả-Đoan 左 端 , Hữu-Đoan 右 端 (sau nầy được phá để xây cửa Ngọ-Môn 午 門 vào năm Qúy-Tỵ, Minh-Mệnh thứ mười bốn (1833)). Bên tả có cửa Hiển-Nhân 顯 仁 , bên hữu có cửa Chương-Đức 彰 德 , đều có hai tầng lầu, và phía sau có cửa Củng-Thần 拱 辰 (sau đổi thành cửa Hòa-Bình 和 平 ), không có lầu . Các cửa đều có ba gian, lợp ngói lưu ly vàng, dài 3 trượng 1 thước 4 tấc (khoảng 4,56 m), ở giữa lòng cửa cao 9 thước 1 tấc (khoảng 3,64 m), ngang 5 thước 5 tấc (khoảng 2,20 m) ; cửa xếp của hai gian hai bên tả hữu có lòng cửa cao 8 thước 5 tấc (khoảng 3,40 m). Ba mặt đông, tây, bắc, mỗi mặt cho xây một cái đài là Đông-Khuyết-Đài 東 闕 臺 , Tây-Khuyết-Đài 西 闕 臺 , Bắc-Khuyết-Đài 東 闕 臺 , đều dài 15 trượng 5 thước (khoảng 62 m), ngang 5 trượng 5 thước (khoảng 22 m), cao 1 trượng (khoảng 4 m). Mỗi đài ở trên có một nhà vuông lợp ngói phẳng, chiều ngang, chiều dài đều 2 trượng 5 thước 5 tấc (khoảng 6,20 m).
Bốn mặt ngoài thành có hào bao vây, rộng 4 trượng (khoảng 16 m), sâu 7 thước 8 tấc (khoảng 3,12 m). Hai bờ xây lan can bằng gạch, còn dưới xây đá. Có 5 cầu bắt ngang; cầu ở hai cửa Tả-Đoan, Hữu-Đoan xây bằng đá, còn cầu ở ba cửa Hiển-Nhân, Chương-Đức, Củng-Thần thì xây bằng gạch.
Kinh-Thành
京 城 (15)
có chu vi tất cả là 2 487 trượng 3 thước 6 tấc (khoảng
9 949 m). Thân dày 5 trượng (khoảng 20 m). Trong ngoài xây gạch,
cao 1 trượng 5 thước 2 tấc (khoảng 8,08 m), trên dày 3 thước
9 tấc (khoảng 1,56 m), dưới dày 6 thước 3 tấc (khoảng 2,52
m), chân sâu 2 thước (khoảng 0,80 m). Mặt tiền dài 641 trượng
(khoảng 2 564 m). Bên tả dài 608 trượng 7 thước 9 tấc (khoảng
2 435 m). Bên hữu dài 625 trượng 8 thước 9 tấc (khoảng 2
503 m). Mặt hậu dài 611 trượng 6 thước 8 tấc (khoảng 2 447
m).
Kinh-Thành có 11 cửa (kể cả cửa Trường-Định), 10 cửa có lầu (cửa Trường-Định không có lầu) đều xây bằng gạch đá và trước mỗi cửa dựng hai cột cờ:
Mặt tiền có 4 cửa là các cửa Thể-Nguyên 體 元 (đến năm Kỷ-Sửu, Minh-Mệnh thứ mười (1829) được đổi là Thể-Nhân 體 仁 , vì kỵ húy), Quảng-Đức 廣 德 , Chính-Nam 正 南 , Đông-Nam 東 南 . Phía đông có hai cửa Chính-Đông 正 東 và Đông-Bắc 東 北 . Phía tây có hai cửa Chính-Tây 正 西 và Tây-Nam 西 南 . Mặt sau có hai cửa Chính-Bắc 正 北 và Tây-Bắc 西 北 . Các cửa đều dài 6 trượng (khoảng 24 m), cao 2 trượng (khoảng 8 m), lòng cửa cao 1 trượng 2 thước 2 tấc (khoảng 4,88 m), rộng 9 thước (khoảng 3,60 m) ; và đều có hai tầng lầu cao tất cả 2 trượng 1 thước (khoảng 8,40 m). Tổng quát các cửa cao tất cả là 4 trượng 1 thước (khoảng 16,40 m) (16).
Góc Đông-Bắc của Kinh-Thành lại cho xây lồi ra phía ngoài một công trình kiến trúc nữa gọi là Thái-Bình-Đài 太 平 臺 , là Mang Cá bây giờ. Trong, ngoài xây gạch, chu vi tổng quát là 246 trượng 7 thước 4 tấc (khoảng 987 m), cao 4 trượng 4 thước (khoảng 17,60 m), thân dày 3 trượng 5 thước (khoảng 14 m), trên dày 2 thước 8 tấc (khoảng 1,12 m), dưới dày 4 thước 3 tấc (khoảng 1,72 m), chân sâu 1 thước (khoảng 0,40 m).
Kinh-Thành có 11 cửa (kể cả cửa Trường-Định), 10 cửa có lầu (cửa Trường-Định không có lầu) đều xây bằng gạch đá và trước mỗi cửa dựng hai cột cờ:
Mặt tiền có 4 cửa là các cửa Thể-Nguyên 體 元 (đến năm Kỷ-Sửu, Minh-Mệnh thứ mười (1829) được đổi là Thể-Nhân 體 仁 , vì kỵ húy), Quảng-Đức 廣 德 , Chính-Nam 正 南 , Đông-Nam 東 南 . Phía đông có hai cửa Chính-Đông 正 東 và Đông-Bắc 東 北 . Phía tây có hai cửa Chính-Tây 正 西 và Tây-Nam 西 南 . Mặt sau có hai cửa Chính-Bắc 正 北 và Tây-Bắc 西 北 . Các cửa đều dài 6 trượng (khoảng 24 m), cao 2 trượng (khoảng 8 m), lòng cửa cao 1 trượng 2 thước 2 tấc (khoảng 4,88 m), rộng 9 thước (khoảng 3,60 m) ; và đều có hai tầng lầu cao tất cả 2 trượng 1 thước (khoảng 8,40 m). Tổng quát các cửa cao tất cả là 4 trượng 1 thước (khoảng 16,40 m) (16).
Góc Đông-Bắc của Kinh-Thành lại cho xây lồi ra phía ngoài một công trình kiến trúc nữa gọi là Thái-Bình-Đài 太 平 臺 , là Mang Cá bây giờ. Trong, ngoài xây gạch, chu vi tổng quát là 246 trượng 7 thước 4 tấc (khoảng 987 m), cao 4 trượng 4 thước (khoảng 17,60 m), thân dày 3 trượng 5 thước (khoảng 14 m), trên dày 2 thước 8 tấc (khoảng 1,12 m), dưới dày 4 thước 3 tấc (khoảng 1,72 m), chân sâu 1 thước (khoảng 0,40 m).
Thái-Bình-Đài có một cửa ra vào là cửa Trường-Định 長 定 , cao 2 trượng 2 thước (khoảng 8,80 m), lòng cửa cao 7 thước 3 tấc (khoảng 2,92 m), rộng 4 thước 7 tấc (khoảng 1,88 m). Trong Thái-Bình-Đài đặt một xưởng súng, một kho thuốc súng và một đồn canh.
Xung quanh Kinh-Thành có đào hào dài 2 503 trượng 4 thước 7 tấc (khoảng 10 014 m), rộng 7 trượng 5 thước (khoảng 30 m), sâu 1 trượng (khoảng 4 m), cách thành một giải đất rộng 2 trượng 5 thước (khoảng 10 m). Trước 11 cửa thành có 11 cầu đá, phía ngoài các cầu xây một cái nhà vuông. Hai bờ hào xây bằng đá.
Ba mặt đông, tây, bắc của Kinh-Thành có Hộ-Thành 護 城 (17), xây bằng đất. Mặt tả và mặt sau, mỗi mặt dài 415 trượng (khoảng 1 660 m), mặt hữu dài 338 trượng 5 thước (khoảng 1 354 m).
Xung quanh Kinh-Thành có Hộ-Thành-Hà 護 城 河 bao vây cả ba mặt đông, tây và bắc, rộng 18 trượng 5 thước (khoảng 74 m). Hai bờ xây đá và ăn thông với Hương-Giang 香 江 . Bờ sông Hương trước mặt Kinh-Thành cũng xây bằng đá. Ngoài ra có sông Ngự-Hà 御 江 , chạy phía trong Kinh-Thành, nối Hộ-Thành-Hà ở hai đầu đông tây, ngang qua cung Khánh-Ninh 慶 寧 và ty Vũ-Khố 武 庫 .
Công trình hết sức lớn lao và đòi hỏi thời gian thích đáng.
Vả lại, một mặt chiến tranh đã tàn phá hầu hết những
thành quách trên cả nước, một mặt phải xây dựng thêm
ở các tỉnh, để đem lại an ninh cho quốc dân, nên triều
đình, trong một lúc cùng xây đắp Đô-Thành, cùng tu bổ và
xây đắp thành đài ở các tỉnh. Cũng vì thế công việc
xây cất Đô-Thành được diễn tiến theo từng đợt và kéo
dài từ đời Thế-Tổ cho đến đời Hiến-Tổ mới xong, và
cọng lại tất cả phải mất gần 40 năm trời.
Tháng ba năm Giáp-Tý, Gia-Long thứ ba (1804), Thế-Tổ xuống
chỉ sai Giám-Thành Nguyễn Văn Yên
阮 文 燕 lo
đo đạt để xây lại Đô-Thành, rộng hơn, lớn hơn. Thế-Tổ
đích thân khảo sát địa hình, địa vật từ làng Kim-Long
金
龍
ở phía tây đến
tận làng Thanh-Hà
清 河 ở
phía đông, cách nhau gần 20 dặm (khoảng 8 000 m), bao trùm một
phần đất của cả tám làng Phú-Xuân
富 春 , Vạn-Xuân
萬 春 , Diễn-Phái
演 派 , An-Vân
安 雲 , An-Hòa
安 和 , An-Mỹ
安 美 , Thế-Lại
世 賴
và An-Bửu
安 寶 . Thế-Tổ
tự tay vạch kích thước các thành trì, sai bộ Lễ chọn ngày
lành để tế cáo Trời Đất và cầu xin cho dự án xây cất
Đô-Thành được thành tựu mỹ mãn. Trước khi khởi công
Thế-Tổ lại cho ước lượng kinh phí, cho sửa chữa đường
sá, triệu tập biền binh thợ thuyền và dụng cụ cần thiết.
Dân của tám làng nói trên, nhận lệnh tạm di chuyển và được bồi thường 3 quan một nhà, 2 quan một ngôi mộ. Đặc biệt dân làng Phú-Xuân, vì trọn đất của làng dùng để xây kinh-sư, nên cho tạm dời đến phần đất còn lại ở làng Vạn-Xuân, và ngoài số tiền dược bồi thường trên, được ban thêm cho 30 mẫu ruộng (khoảng 108 000 m2), 3 sở đất để xây lại nhà cùng cho vay 1 000 quan để làm chi phí di chuyển nhà cửa.
Ngày Kỷ-Mùi, cát nhật, mồng một tháng tư năm Giáp-Tý, Gia-Long
thứ ba (09-05-1804), các quan Phạm Văn Nhân 范
文 仁 , Lê Văn
Chất
黎 文 質 ,
Nguyễn Văn Khiêm
阮 文 謙 phục
chỉ lo việc xây cất Cung-Thành và Hoàng-Thành, cùng bồi đất
để chuẩn bị xây cất Kinh-Thành. Nhân công thì lấy biền
binh ở Kinh. Mỗi tháng, một người được ban cho 1 quan tiền
và 1 phương gạo (18), còn thợ thầy thì kêu gọi người lành
nghề trong cả nước.
Vào tháng tư năm Ất-Sửu, Gia-Long thứ tư (1805), Thế-Tổ
ban chỉ cho xây Kinh-Thành bốn mặt bằng đất. Bờ sông Hương
trước mặt thành dược đắp lại bằng đá. Nhánh sông bên
hữu thành được lấp đi và cho đào một phần sông Ngự-Hà
ở phía trong thành, cùng cho khởi công đào Hộ-Thành-Hà. Nhân
công thì lấy biền binh ở Kinh, Thanh-Hóa
清 化 , Nghệ-An
乂
安 , Quảng-Đức
廣 德 , Quảng-Bình,
Quảng-Trị, Quảng-Nam, Quảng-Nghĩa
廣 義 và
Bình-Định
平 定 . Lương
mỗi tháng là 1 quan 5 tiền và 1 phương gạo.
Tháng bảy năm Bính-Dần, Gia-Long thứ năm (1806), Thế-Tổ xuống chỉ cho phép dân của tám làng nói trên, bị tạm thuyên chuyển lúc trước, được trở về. Người nào muốn ở trong thành thì được miễn dịch vụ suốt đời, còn những người muốn sống ở ngoài thành, thì được miễn ba năm.
Đến tháng tám, công trình xây cất Kinh-Thành đợt đầu đã tạm xong. Thế-Tổ chuẩn thưởng cho, ngoài lương bổng đã định, những người phân quản từ Đội-Trưởng trở lên đều ban thêm 3 tháng lương, biền binh thì 1 tháng lương và cho trở về làng nghỉ ngơi (19).
Tháng sáu năm Đinh-Mão, Gia-Long thứ sáu (1807), Thế-Tổ xuống
chỉ cho hồi Kinh 3 000 lính thuộc doanh Thần-Sách
神 策 ở
Thanh-Hóa và Nghệ-An, 5 500 lính thuộc Ngũ-Quân
五 軍 và
Tượng-Quân
象 軍 ở
Bắc-Thành
北 城 , để
tiếp tục việc xây cất, và đến tháng mười một, cho xây
nền và tầng thứ nhất của Kỳ-Đài
旗 臺 .
Kỳ-Đài có 3 tầng, cao 4 trượng 4 thước (khoảng 17,60 m). Tầng dưới phía nam dựa vào chân thành, cao 1 trượng 4 thước (khoảng 5,60 m) ; tầng giữa cao 1 trượng 4 thước 5 tấc (khoảng 5,80 m) ; tầng trên cao 1 trượng 5 thước 5 tâc (khoảng 6,20 m). Bốn mặt xây gạch. Cửa vòm rộng 5 thước (khoảng 2 m). Cột cờ có hai tầng, cao 7 trượng 3 thước 8 tấc (khoảng 29,52 m). Trên đài có 8 xưởng súng và hai đồn canh.
Thế-Tổ cho tiếp tục xây các cửa của Kinh-Thành, tiếp tục đào Hộ-Thành-Hà và đào hào quanh Kinh-Thành như kế hoạch đã định. Ngoài ra hàng năm phải lo trùng tu sửa chửa những mặt thành bị sụp đổ vì lụt lội nắng mưa, cùng lo nung vôi nướng gạch, tích trữ mật đường, thành đợt nầy kéo dài gần đến 10 năm.
Năm Bính-Tý, Gia-Long thứ mười lăm (1816), nhận thấy công trình xây cất và trùng tu Kinh-Thành quá lớn lao và cực nhọc, nên phải dưỡng sức cho binh lính và thợ thuyền, Thế-Tổ xuống chỉ cho công nhân tạm nghỉ trong những tháng đại hạn và thưởng cho 4 vạn quan tiền (20) sau khi công việc tạm hoàn tất.
Kỳ-Đài có 3 tầng, cao 4 trượng 4 thước (khoảng 17,60 m). Tầng dưới phía nam dựa vào chân thành, cao 1 trượng 4 thước (khoảng 5,60 m) ; tầng giữa cao 1 trượng 4 thước 5 tấc (khoảng 5,80 m) ; tầng trên cao 1 trượng 5 thước 5 tâc (khoảng 6,20 m). Bốn mặt xây gạch. Cửa vòm rộng 5 thước (khoảng 2 m). Cột cờ có hai tầng, cao 7 trượng 3 thước 8 tấc (khoảng 29,52 m). Trên đài có 8 xưởng súng và hai đồn canh.
Thế-Tổ cho tiếp tục xây các cửa của Kinh-Thành, tiếp tục đào Hộ-Thành-Hà và đào hào quanh Kinh-Thành như kế hoạch đã định. Ngoài ra hàng năm phải lo trùng tu sửa chửa những mặt thành bị sụp đổ vì lụt lội nắng mưa, cùng lo nung vôi nướng gạch, tích trữ mật đường, thành đợt nầy kéo dài gần đến 10 năm.
Năm Bính-Tý, Gia-Long thứ mười lăm (1816), nhận thấy công trình xây cất và trùng tu Kinh-Thành quá lớn lao và cực nhọc, nên phải dưỡng sức cho binh lính và thợ thuyền, Thế-Tổ xuống chỉ cho công nhân tạm nghỉ trong những tháng đại hạn và thưởng cho 4 vạn quan tiền (20) sau khi công việc tạm hoàn tất.
Tháng hai năm Mậu-Dần, Gia-Long thứ mười bảy (1818), Thế-Tổ
xuống chỉ cho các quan Hoàng Công Lý
黃 公 理 ,
Trương Phúc Đặng
張 福 鄧
, Nguyễn Đức Sĩ
阮 德 仕 lãnh
trách nhiệm đắp gạch vào mặt ngoài thành cùng xây 24 pháo-đài
ở bốn mặt trên thành. Mặt tiền có 6 pháo đài là Nam-Ninh
南 寧 , Nam-Hưng
南 興 , Nam-Thắng
南 勝 , Nam-Chính
南
正 , Nam-Xương
南 昌 và
Nam-Thanh
南 清 . Bên tả
có Đông-Thái
東 太 , Đông-Trường
東 長 , Đông-Gia
東 嘉 , Đông-Phụ
東 阜 , Đông-Vĩnh
東 永 , Đông-Bình
東 平 . Bên hữu
có Tây-Thành
西 成 , Tây-Tuy
西
綏 , Tây-Tĩnh
西 靜 , Tây-Dực
西 翼 , Tây-An
西 安 , Tây-Trinh
西 貞 . Mặt
bắc Bắc-Củng
北 拱 , Bắc-Định
北
定
, Bắc-Hòa
北 和 ,
Bắc-Thịnh
北 盛 , Bắc-Trung
北 中 và
Bắc-Thuận
北 順 . Ngoài
ra cho đắp đá, lát gạch hai bên bờ hào. Xây cầu ở trước
các cửa thành, cùng tiếp tục đào Hộ-Thành-Hà. Nhân công
thì lấy gần 1 vạn trong hàng ngũ Tinh-Binh
精 兵 , Cấm-Binh
禁 兵 của
quân Võ-Lâm
武 林 và
dân làm thuê.
Đến tháng bảy cùng năm, công việc xây cất hai mặt thành phía nam và bên tả tạm gọi là hoàn tất, Thế-Tổ xuống chỉ ban thưởng đại khái như sau : « Từ xưa, các đế vương có nhiệm vụ lo xây thành trì để giữ gìn kinh đô và đất nước. Vừa rồi, từ mùa xuân đến mùa thu, các biền binh, thợ thuyền được gọi sung vào công vụ đã khá lao lực. Nay thành phía nam và phía tả đã hoàn tất, Trẫm không quên công khó của biền binh và thợ thuyền đã luôn luôn tận tụy với triều đình, ra sức làm việc khó nhọc, xem việc công như chính việc riêng của cha mẹ mình. Vậy nay thưởng 14 vạn quan tiền cho biền binh và thợ thuyền, và cho về làng nghỉ ngơi, còn các quan từ Đốc-Lý trở xuống, tùy theo công việc, sẽ ban cho tiền bạc, áo quần… ».
Cuối năm đó, cho kêu lại biền binh, thợ thuyền để xây mặt thành phía bắc. Mặt thành nầy được xây xong vào tháng ba năm Kỷ-Mùi, Gia-Long thứ mười tám (1819). Thế-Tổ xuống chỉ ban thưởng 14 vạn 3 ngàn quan tiền cho biền binh thợ thuyền, còn các quan thì thưởng cho 5 tháng lương.
Đến tháng bảy cùng năm, công việc xây cất hai mặt thành phía nam và bên tả tạm gọi là hoàn tất, Thế-Tổ xuống chỉ ban thưởng đại khái như sau : « Từ xưa, các đế vương có nhiệm vụ lo xây thành trì để giữ gìn kinh đô và đất nước. Vừa rồi, từ mùa xuân đến mùa thu, các biền binh, thợ thuyền được gọi sung vào công vụ đã khá lao lực. Nay thành phía nam và phía tả đã hoàn tất, Trẫm không quên công khó của biền binh và thợ thuyền đã luôn luôn tận tụy với triều đình, ra sức làm việc khó nhọc, xem việc công như chính việc riêng của cha mẹ mình. Vậy nay thưởng 14 vạn quan tiền cho biền binh và thợ thuyền, và cho về làng nghỉ ngơi, còn các quan từ Đốc-Lý trở xuống, tùy theo công việc, sẽ ban cho tiền bạc, áo quần… ».
Cuối năm đó, cho kêu lại biền binh, thợ thuyền để xây mặt thành phía bắc. Mặt thành nầy được xây xong vào tháng ba năm Kỷ-Mùi, Gia-Long thứ mười tám (1819). Thế-Tổ xuống chỉ ban thưởng 14 vạn 3 ngàn quan tiền cho biền binh thợ thuyền, còn các quan thì thưởng cho 5 tháng lương.
Tháng mười năm Canh-Thìn, Minh-Mệnh nguyên niên (1820), vì lụt
lội, một đoạn thành dài 300 trượng (khoảng 1 200 m) bị
sụp đổ, Thánh-Tổ xuống chỉ cho trùng tu lại.
Tháng hai năm Tân-Tỵ, Minh-Mệnh thứ hai (1821), xuống chỉ cho đào trọn Hộ-Thành-Hà, bọc quanh ba mặt đông, tây, bắc của Kinh-Thành cho đến sông Hương.
Tháng Giêng năm Nhâm-Ngọ, Minh-Mệnh thứ ba (1822), sai Đô-Thống doanh Thần-Sách 神 策 Nguyễn Văn Vân 阮 文 雲 cai quản việc tu bổ một đoạn thành dài khoảng 566 trượng (khoảng 2 264 m), cùng xuống chỉ chỉ định giờ làm việc. Cho phép nghỉ trong những ngày trời xấu. Công việc hoàn tất, Thánh-Tổ ban thưởng 5 vạn 2 ngàn 2 trăm quan tiền cho công nhân, còn từ Đốc-Lý đến Xuất-Đội thì được 5 tháng lương. Đến tháng sáu, thấy trời nóng nực quá, nên cho binh thợ nghỉ đợi sang xuân sẽ xuống chỉ cho khởi công làm tiếp.
Tháng hai năm Tân-Tỵ, Minh-Mệnh thứ hai (1821), xuống chỉ cho đào trọn Hộ-Thành-Hà, bọc quanh ba mặt đông, tây, bắc của Kinh-Thành cho đến sông Hương.
Tháng Giêng năm Nhâm-Ngọ, Minh-Mệnh thứ ba (1822), sai Đô-Thống doanh Thần-Sách 神 策 Nguyễn Văn Vân 阮 文 雲 cai quản việc tu bổ một đoạn thành dài khoảng 566 trượng (khoảng 2 264 m), cùng xuống chỉ chỉ định giờ làm việc. Cho phép nghỉ trong những ngày trời xấu. Công việc hoàn tất, Thánh-Tổ ban thưởng 5 vạn 2 ngàn 2 trăm quan tiền cho công nhân, còn từ Đốc-Lý đến Xuất-Đội thì được 5 tháng lương. Đến tháng sáu, thấy trời nóng nực quá, nên cho binh thợ nghỉ đợi sang xuân sẽ xuống chỉ cho khởi công làm tiếp.
Nhưng mùa đông năm ấy, thành mặt tiền và bên tả bị sụp 2 057 trượng (khoảng 8 228 m) nữa vì mưa lớn, nên vào tháng ba năm Qúy-Mùi, Minh-Mệnh thứ tư (1823) lại sai các quan Trần Văn Năng 陳 文 能 và Nguyễn Văn Vân 阮 文 雲 đốc thúc binh thợ để lo sửa chữa. Tháng năm cho binh thợ nghỉ sức một tháng, nên đến tháng bảy mới xong.
Tháng hai năm Giáp-Thân, Minh-Mệnh thứ năm (1824), cho bồi đắp mặt sau Kinh-Thành, lại cho xây lầu gạch ở hai cửa Chính-Đông và Đông-Bắc, cùng cho thay lại ngói nát gỗ mục ở các công trình như cửa Hiển-Nhân và cửa Chương-Đức.
Tháng năm năm Bính-Tuất, Minh-Mệnh thứ bảy (1826), cho xây cầu Tây-Thành Thủy-Quan 西 城 水 關 , cầu Vĩnh-Lợi 永 利 , cầu Hoằng-Tế 弘 濟 bắt ngang sông Ngự-Hà và cho xây đá hai bên bờ sông, dài trên 580 trượng (khoảng 2 320 m), chạy từ Cung Khánh-Ninh 慶 寧 宮 , gần trường Canh-Nông bây giờ, cho đến Hộ-Thành-Hà.
Năm Đinh-Hợi, Minh-Mệnh thứ tám (1827), cho đắp đài Quan-Tượng 觀 象 ở mặt sau đài Nam-Ninh, góc tây nam thành.
Tháng ba năm Kỷ-Sửu, Minh-Mệnh thứ mười (1829) cho xây lầu ở các cửa Chính-Nam, Đông-Nam, Chính-Tây, Tây-Nam, Quảng-Đức và Thể-Nhân 體 仁 (Thể-Nguyên 體 元 củ).
Tháng chín, lấy 23 mẫu 6 sào (khoảng 85 200 m2) đất ở hai làng An-Ninh 安 寧 và Nguyệt-Biều 月 瓢 để ban cho dân ba ấp Nội-Duệ 內 銳 , Kiến-Trung 堅 中 và An-Tân 安 新 thuộc làng Phú-Xuân, vì dưới thời Đức Thế-Tổ, đất của ba ấp ấy đã sung công để xây Kinh-Thành.
Tháng tư năm Canh-Dần, Minh-Mệnh thứ mười một (1830), cho xây Đông-Thành Thủy-Quan 東 城 水 關 bắt ngang đầu múi đông của sông Ngự-Hà.
Nhân công thì lấy Cấm-Binh và Tinh-Binh của quân Vũ-Lâm cùng dân thuê.
Tháng hai năm Tân-Mão, Minh-Mệnh thứ mười hai (1831), xuống
chỉ cho Tiền-Quân Trần Văn Năng
阮 文 能 ,
Trung-Quân Tống Phúc Lương 宋
福 樑 lo sửa
chữa và xây gạch ở Kỳ-Đài và cho xây tiếp tầng thứ
hai và tầng thứ ba cùng xây hai đồn canh như kế hoạch đã
định. Cho lát đá bên trong mặt trước Kinh-Thành, cùng cho
xây hai cái cầu của hai cửa Chính-Bắc và Tây-Bắc.
Tháng hai năm Nhâm-Thìn, Minh-Mệnh thứ mười ba (1832), xuống chỉ cho Tiền-Quân Trần Văn Năng 阮 文 能 , Trung-Quân Tống Phúc Lương 宋 福 樑 , Hậu-Quân Phan Văn Thúy 潘 文 翠 và Phó-Tướng Nguyễn Văn Xuân 阮 文 春 đốc thúc binh thợ để đắp đá và lát gạch các lan can phía bên trong các mặt tiền, tả, hữu của Kinh-Thành ; còn Thống-Chế Nguyễn Văn Trọng 阮 文 仲 và các quan Phạm Văn Lý 范 文 理 , Đỗ Qúy 杜 貴 , Tôn-Thất Bằng 尊 室 朋 thì lo mặt thành phía sau và các mặt thành của Thái-Bỉnh-Đài. Công việc bắt đầu từ tháng ba đến tháng năm thì xong. Nhân công thì lấy biền binh trong Ngũ-Quân và dân thuê.
Công trình xây cất Kinh-Thành Thuận-Hóa đến đây có thể tạm gọi là hoàn tất. Thánh-Tổ xuống chỉ cho các quan ở Nội-Các đại khái như sau :
« Kinh sư là nơi căn bản của cả nước. Hoàng Khảo, sau khi bình định cả toàn quốc, đã chăm lo thu hoạch những điều kiện thuận tiện nhất để xây cất Kinh sư. Nay Trẫm lên kế nghiệp Ngài, Trẫm quyết chí theo đuổi công trình đó. Trẫm biết công việc càng nặng thì càng phải nghỉ ngơi nhiều, cho nên Trẫm tiếp tục việc xây cất cho chóng được hoàn mỹ.
Kinh phí lên quá 10 triệu quan. Đó là một số tiền rất lớn. Cũng may Kinh sư được xây cất xong, thành trì được vững chắc, chúng ta có thể an hưởng trong mười vạn năm. Trẫm rất vui mừng.
Công việc nặng nề là do các quan, các biền binh, thợ thuyền đảm nhận. Thật là chúa, tôi giống như cha, con một nhà. Thần dân đã nhiều công khó nhọc, vậy triều đình phải biết đến để tuyên thưởng công lao… ».
Thánh-Tổ ban thưởng cho các Đại Thần mỗi người 2 tấm sa ; các Quản-Cơ, Chưởng-Vệ mỗi người một tấm ; còn từ Đốc-Lý đến Xuất-Đội cả thảy 230 người và 9 500 biền binh, thợ thuyền được thưởng, mỗi người 2 tháng lương. Thánh-Tổ lại xuống chỉ cho sắm đủ yến tiệc để các Đại Thần đến khoản đãi những viên chức chuyên biện cùng công nhân và cho họ xem hát trong 3 ngày.
Tháng hai năm Nhâm-Thìn, Minh-Mệnh thứ mười ba (1832), xuống chỉ cho Tiền-Quân Trần Văn Năng 阮 文 能 , Trung-Quân Tống Phúc Lương 宋 福 樑 , Hậu-Quân Phan Văn Thúy 潘 文 翠 và Phó-Tướng Nguyễn Văn Xuân 阮 文 春 đốc thúc binh thợ để đắp đá và lát gạch các lan can phía bên trong các mặt tiền, tả, hữu của Kinh-Thành ; còn Thống-Chế Nguyễn Văn Trọng 阮 文 仲 và các quan Phạm Văn Lý 范 文 理 , Đỗ Qúy 杜 貴 , Tôn-Thất Bằng 尊 室 朋 thì lo mặt thành phía sau và các mặt thành của Thái-Bỉnh-Đài. Công việc bắt đầu từ tháng ba đến tháng năm thì xong. Nhân công thì lấy biền binh trong Ngũ-Quân và dân thuê.
Công trình xây cất Kinh-Thành Thuận-Hóa đến đây có thể tạm gọi là hoàn tất. Thánh-Tổ xuống chỉ cho các quan ở Nội-Các đại khái như sau :
« Kinh sư là nơi căn bản của cả nước. Hoàng Khảo, sau khi bình định cả toàn quốc, đã chăm lo thu hoạch những điều kiện thuận tiện nhất để xây cất Kinh sư. Nay Trẫm lên kế nghiệp Ngài, Trẫm quyết chí theo đuổi công trình đó. Trẫm biết công việc càng nặng thì càng phải nghỉ ngơi nhiều, cho nên Trẫm tiếp tục việc xây cất cho chóng được hoàn mỹ.
Kinh phí lên quá 10 triệu quan. Đó là một số tiền rất lớn. Cũng may Kinh sư được xây cất xong, thành trì được vững chắc, chúng ta có thể an hưởng trong mười vạn năm. Trẫm rất vui mừng.
Công việc nặng nề là do các quan, các biền binh, thợ thuyền đảm nhận. Thật là chúa, tôi giống như cha, con một nhà. Thần dân đã nhiều công khó nhọc, vậy triều đình phải biết đến để tuyên thưởng công lao… ».
Thánh-Tổ ban thưởng cho các Đại Thần mỗi người 2 tấm sa ; các Quản-Cơ, Chưởng-Vệ mỗi người một tấm ; còn từ Đốc-Lý đến Xuất-Đội cả thảy 230 người và 9 500 biền binh, thợ thuyền được thưởng, mỗi người 2 tháng lương. Thánh-Tổ lại xuống chỉ cho sắm đủ yến tiệc để các Đại Thần đến khoản đãi những viên chức chuyên biện cùng công nhân và cho họ xem hát trong 3 ngày.
Năm Qúy-Tỵ, Minh-Mệnh thứ tư (1833), Thánh-Tổ xuống chỉ
sai quan Nguyễn Tăng Minh
阮 增 明
làm Đốc-Lý cho xây Đại-Cung-Môn
大 宮 門
và Ngọ-Môn
午 門 .
Đại-Cung-Môn có 3 gian. Lòng cửa giữa cao 7 thước 3 tất (khoảng 2,92 m), ngang 5 thước 4 tấc (khoảng 2,16 m). Hai cửa giáp hai bên tả hữu, lòng cửa cao 6 thước 4 tấc (khoảng 2,56 m), ngang 4 thước 1 tấc (khoảng 1,64 m).
Cho phá hai cửa Tả-Đoan, Hữu-Đoan và dời điện Càn-Nguyên 乾 元 lùi lại phía sau và đổi tên là Càn-Thành 乾 成 vì kỵ húy, để xây Ngọ-Môn.
Ngọ-Môn (21) được xây bằng đá đưa từ Thanh-Hóa vào và từ Quảng-Nam ra, cùng gạch đúc tại chổ. Ở giữa cao 1 trượng 3 thước 3 tấc (khoảng 5,32 m), ngang 8 thước 2 tấc (khoảng 3,28 m). Cửa giáp hai bên tả hữu đều cao 1 trượng 2 thước 4 tấc 5 phân (khoảng 4,98 m), ngang 8 thước 1 tấc (khoảng 3,24 m). Cửa nách ở hai bên tả hữu đều cao 1 trượng (khoảng 4 m), ngang 6 thước 3 tấc (khoảng 2,52 m). Ngọ-Môn cao suốt từ mặt đất đến trên mặt nền là 1 trượng 4 thước 9 tấc (khoảng 5,96 m).
Trên cửa, dựng Ngũ-Phượng-Lâu 五 鳳 樓 . Lầu có hai tầng. Gian chính giữa lợp ngói lưu ly vàng. Bốn góc ở hai bên tả hữu có bốn xưởng súng. Mỗi xưởng chiếm một gian lợp ngói âm dương. Xung quanh xây lan can bằng gạch hoa.
Trước Ngọ-Môn có ao Kim-Thủy 金 水 và có ba cầu đá bắt ngang. Ba cầu đều có lan can cũng xây bằng gạch hoa.
Đại-Cung-Môn có 3 gian. Lòng cửa giữa cao 7 thước 3 tất (khoảng 2,92 m), ngang 5 thước 4 tấc (khoảng 2,16 m). Hai cửa giáp hai bên tả hữu, lòng cửa cao 6 thước 4 tấc (khoảng 2,56 m), ngang 4 thước 1 tấc (khoảng 1,64 m).
Cho phá hai cửa Tả-Đoan, Hữu-Đoan và dời điện Càn-Nguyên 乾 元 lùi lại phía sau và đổi tên là Càn-Thành 乾 成 vì kỵ húy, để xây Ngọ-Môn.
Ngọ-Môn (21) được xây bằng đá đưa từ Thanh-Hóa vào và từ Quảng-Nam ra, cùng gạch đúc tại chổ. Ở giữa cao 1 trượng 3 thước 3 tấc (khoảng 5,32 m), ngang 8 thước 2 tấc (khoảng 3,28 m). Cửa giáp hai bên tả hữu đều cao 1 trượng 2 thước 4 tấc 5 phân (khoảng 4,98 m), ngang 8 thước 1 tấc (khoảng 3,24 m). Cửa nách ở hai bên tả hữu đều cao 1 trượng (khoảng 4 m), ngang 6 thước 3 tấc (khoảng 2,52 m). Ngọ-Môn cao suốt từ mặt đất đến trên mặt nền là 1 trượng 4 thước 9 tấc (khoảng 5,96 m).
Trên cửa, dựng Ngũ-Phượng-Lâu 五 鳳 樓 . Lầu có hai tầng. Gian chính giữa lợp ngói lưu ly vàng. Bốn góc ở hai bên tả hữu có bốn xưởng súng. Mỗi xưởng chiếm một gian lợp ngói âm dương. Xung quanh xây lan can bằng gạch hoa.
Trước Ngọ-Môn có ao Kim-Thủy 金 水 và có ba cầu đá bắt ngang. Ba cầu đều có lan can cũng xây bằng gạch hoa.
Năm Bính-Thân, Minh-Mệnh thứ mười bảy (1836), vì một đoạn
thành bị lở, lấp một phần hồ Kinh-Bạch
京 白 , nên xuống
chỉ cho xây lại cùng vét hồ sâu đến 5 trượng (khoảng
2 m). Cũng năm đó cho đổi danh xưng Thái-Bình-Đài thành Trấn-Bình-Đài
鎮 平 臺
.
Năm Đinh-Dậu, Minh-Mệnh thứ mười tám (1837), xuống chỉ cho Thống-Chế Lê Văn Thảo 梨 文 草 đem 3 000 biền binh ở Kinh để đắp đá hai bên bờ sông Hộ-Thành-Hà, từ cầu An-Hội 安 會 là cầu Gia-Hội bây giờ, cho đến trước mặt Trấn-Bình-Đài.
Năm Kỷ-Hợi, Minh-Mệnh thứ hai mươi (1839) xuống chỉ cho Giám-Thành đốc thúc 664 biền binh ở Gia-Định 嘉 定 , Biên-Hòa 邊 和 , Vĩnh-Long 永 隆 và An-Giang 安 江 vừa mới đến Kinh tháng trước, lấy hai gò đất ở ngoài thành Trấn-Bình-Đài để lấp vào những chỗ thấp ở trong Kinh-Thành cho bằng phẳng để mưa lũ khỏi lầy lội.
Năm Đinh-Dậu, Minh-Mệnh thứ mười tám (1837), xuống chỉ cho Thống-Chế Lê Văn Thảo 梨 文 草 đem 3 000 biền binh ở Kinh để đắp đá hai bên bờ sông Hộ-Thành-Hà, từ cầu An-Hội 安 會 là cầu Gia-Hội bây giờ, cho đến trước mặt Trấn-Bình-Đài.
Năm Kỷ-Hợi, Minh-Mệnh thứ hai mươi (1839) xuống chỉ cho Giám-Thành đốc thúc 664 biền binh ở Gia-Định 嘉 定 , Biên-Hòa 邊 和 , Vĩnh-Long 永 隆 và An-Giang 安 江 vừa mới đến Kinh tháng trước, lấy hai gò đất ở ngoài thành Trấn-Bình-Đài để lấp vào những chỗ thấp ở trong Kinh-Thành cho bằng phẳng để mưa lũ khỏi lầy lội.
Năm Tân-Sửu, Thiệu-Trị thứ hai (1842), Hiến-Tổ xuống chỉ
cho Thống-Chế Mai Công Ngôn
枚 公 言 ,
Thống-Chế Hồ Văn Lưu
胡 文 劉
và quan Hoàng Đăng Thận
黃 登 慎
lo đốc thúc biền binh và dân thuê để tu bổ chắc chắn
các mặt thành phía sau, bên tả , bên hữu, cùng lo hoàn tất
Trấn-Bình-Đài.
Đô-Thành Thuận-Hóa được Chúa Nghĩa Nguyễn-Phước Thái
dựng lên ở làng Phú-Xuân, rồi được Thế-Tổ và Thánh-Tổ
cho xây dựng lại rộng hơn, lớn hơn. Thành trì đã trải
qua hơn ba trăm năm. Nhiều kiến trúc từ đời Minh-Mệnh, Thiệu-Trị
được sửa đổi lại hay bị phá hủy dưới những triều
Đồng-Khánh, Thành-Thái, Khải-Định, nhưng ba cái thành của
Cung-Thành, Hoàng-Thành và Kinh-Thành mà chúng ta thấy bây giờ
vẫn nằm trên vị trí cũ của chúng, có từ đời Gia-Long.
Thành trì rộng lớn, nhưng không thô kịch. Điện đài uy nghi,
nhưng không bạc khắc. Cung đình tráng lệ, nhưng không loè
loẹt. Kiến trúc lại cân xứng với địa hình địa thế,
để các công-trình tự hòa mình trong cảnh trí thiên nhiên.
Đô-Thành đã tạo cho Huế một hình thái hài hòa, một khí
cách thanh tao ; đã làm cho Huế có một cái đẹp mơ màng,
một cái duyên thầm kín. Người Huế yêu Huế diễm kiều,
người Việt yêu Huế mộng mơ.
Rồi Pháp chiếm cứ Trấn-Bình-Đài. Bóng ngoại bang đã làm
rạn nứt vẻ cổ kính của thành xưa. Chiến tranh trong những
năm 1945-1946 đã tàn hoại Đô-Thành nhiều lắm. Và trong những
năm 1968-1975, bom đạn đã biến Kinh-Thành gần như bình địa.
Hầu hết các cửa, thành đều sụp đổ. Hầu hết các miếu,
điện, cung, đài đều tan nát xác xơ. Người Huế sụt sùi
cho Phú-Xuân đổ nát, người Việt nghẹn ngào cho Thuận-Hóa
điêu linh.
Cũng may mà chính quyền ngày nay đã nhận rõ giá trị văn
hóa, mỹ thuật của đất Thần-Kinh nên đã sát cánh với
các cơ quan văn hóa trên thế giới (22) mà trùng tu lại Đô-Thành
trên bốn trăm năm văn vật, để không những trao lại cho
người Huế một cố-đô thơ mộng, trao lại cho người Việt
một thủ-phủ thanh trang mà còn trao lại cho cả Nhân-Loại
một di-tích quyến rũ.
Ghi Chú :
(1) Bộ KĐĐNHĐSL
gồm có 15 tập do nhà xuất bản Thuận-Hóa dịch và ấn hành
tại Huế năm 1993. Là cả một nguồn tài liệu to tát, dịch
thuật công phu, rất lợi cho những ai muốn sưu tầm lịch
sử. Nhưng rất tiếc là hầu hết mỗi trang đều có in sai,
làm lạc hướng những người muốn nghiên cứu, nếu trong
tay không có nguyên bản chử Hán. Như Tường-Lân lại in là
tường ban, Gia-Tường in là gia đường, Thụy-Thánh in là thụy
khánh, Nam-Ninh in là nam minh… Rồi cứ như thế mà tiếp tục
in mãi cho hàng chục trang sau. Ngoài ra những con số cho kích
thước đôi khi cũng in sai. Thật đáng tiếc ! Rất mong lần
tái bản đến, nhà xuất bản cho sửa chữa kỹ càng hơn.
(2) Bộ BAVH gồm
122 tập, ra từ năm 1914 đến năm 1944. Mỗi năm 4 tập, duy
năm chót 1944 chỉ có 2 tập, do Đô Thành Hiếu Cổ Xã ấn
hành. Hiện nay bộ nầy rất hiếm. Là một kho tài liệu rất
qúy nói về Huế. Cũng may bây giờ bộ nầy đã cho in trên
CD.
(3) Nguyễn-Phúc-Tộc
Thế-Phả cho tên là Cam, dựa theo phiên thiết của Khang-Hi
Tự-Điển, tôi e không đúng. Có nhiều chử Hán mà người
Việt mình có thoái quen đọc (theo âm hán-việt) không sát
theo phiên thiết của KHTĐ. Các sách sử như Việt-Nam Sử-Lược
của Trần Trọng Kim, Đại-Việt Thông-Sử của Lê Qúy Đôn,
BAVH…, đều viết Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng chứ không
thấy viết Nguyễn Cam, Nguyễn Huỳnh. Ở Huế người ta gọi
trái Kim Quất là Cam Quật, vì kỵ trọng huý cuả Ngài chăng
? Miếu-hiệu của Ngài Triệu-Tổ Tĩnh.
(4) Miếu-hiệu là
Thái-Tổ Gia-Dũ. Vì kỵ húy Ngài mà con cháu họ Nguyễn-Phước
và một số lớn người miền Trung và miền Nam thay chữ hoàng
ra chữ huỳnh. Chính Ngài đã ban thêm chữ Phước vào chữ
Nguyễn cho họ Nguyễn của con cháu Ngài. Từ đó con cháu đều
mang họ Nguyễn-Phước.
(5) Miếu-hiệu là
Hy-Tông Hiếu-Văn. Vì kỵ húy Ngài nên chử nguyên được nói
trại ra bằng chữ ngươn, chữ phúc bằng chữ phước, như
Tết Ngươn Đán (Nguyên Đán), Nguyễn-Phước (Nguyễn-Phúc),
Phước-Lộc-Thọ (Phúc-Lộc-Thọ).
(6) Miếu-hiệu là
Thần-Tông Hiếu-Chiêu. Vì kỵ húy nên âm lan thay bằng âm
liên, như hoa Lan, trong Nội nói là bông Liên và Liên Hoa thì
nói là bông Sen (âm hoa cũng kỵ húy).
(7) Miếu-hiệu là
Anh-Tông Hiếu-Nghĩa. Vì kỵ húy nên âm thái được thay bằng
âm thới, như nhân tình thế thái thì nói là nhơn tình thế
thới (âm nhân cũng kỵ húy).
(8) Miếu-hiệu là
Thái-Tông Hiếu-Triết. Vì kỵ húy, âm tần được thay bằng
âm tờn, như rau Tần-Ô thì nói là rau Tờn-Ô.
(9) Miếu-hiệu là
Hiển-Tông Hiếu-Minh. Âm chu được thay bằng âm châu.
(10) Miếu-hiệu
là Thế-Tông Hiếu-Vũ. Chử khoát được thay bằng chử quảng
hay khoáng, như khoát đạt thì nói là khoáng đạt.
(11) Họ Nguyễn-Phước
là họ Ngoại của họ Trịnh. Nguyễn Hoàng là cậu ruột của
Bình An Vương Trịnh Tùng.
(12) Nguyễn Nhạc
nhà Tây-Sơn đóng đô ở Đồ-Bàn gần Quy-Nhơn vào năm 1778,
và vào năm 1788 Nguyễn Huệ nhà Bắc Tây-Sơn mới lấy Phú-Xuân
làm kinh-đô. Đến khi Nguyễn Nhạc mất vào năm 1793 thì Phú-Xuân
mới là kinh-đô của nhà Nguyễn Tây-Sơn cho đến năm 1801.
(13) Xem KĐĐNHĐSL
tập 13, quyển 209.
(14) Như trên.
(15) Như trên.
(16) Một tài liệu
vô danh trên mạng web cho rằng theo Phan Thuận An 2000 thì toàn
bộ chiều cao của mỗi cửa là trên 17 m.
(17) Xem KĐĐNHĐSL
tập 13, quyển 209, trang 119. Thành đất của Hộ-Thành, nay
không thấy nữa và không biết ở đâu. Ở trong thành cũng
có một đường lúc trước mang tên là đường Hộ-Thành,
sau đổi là đường Thượng-Tứ, và bây giờ là đường Đinh
Tiên Hoàng.
(18) Một quan là
10 tiền, nặng 2 cân 4 lượng. Không biết bằng gì, bằng đồng
chăng. Một tiền bề ngang có 5 phân 3 ly. Xem KĐĐNHĐSL tập
5, quyển 53. Mỗi phương là 13 thưng ăn 30 đấu đồng gạt
ngang miệng. Không biết là bao nhiêu kí. Xem KĐĐNHĐSL tập
5, quyển 54. Để có một khái niệm về lương bổng của công
nhân thời bấy giờ, ta hảy xem lương bổng của quan viên
do Đức Thế-Tổ định năm Mậu-Dần, Gia-Long thứ mười bảy
(1818). Chánh nhất phẩm, trong một năm, tiền 600 quan, gạo
600 phương, tiền xuân phục 70 quan. Tòng nhất phẩm, tiền
360 quan, gạo 360 phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh nhị
phẩm (cấp Thượng Thư), tiền 300 quan, gạo 300 phương, tiền
xuân phục 50 quan. Chánh, Tòng cửu phẩm ( Thư Ký…), tiền
16 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan. Xem KĐĐNHĐSL
tập 5, quyển 57.
(19) Xem KĐĐNHĐSL
tập 5, quyển 60, có nhiều chi tiết hơn.
(20) Như trên.
(21) Xem KĐĐNHĐSL
tập 13, quyển 209.
(22) Nghe đâu Cơ
Quan Giáo-Dục, Khoa-Học, Văn-Hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
đã tuyên bố Kinh-Thành Huế là di sản của nhân loại.
Sưu tầm: Nguồn ông Nguyễn Vĩnh Tráng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét