Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Chó đá thờ ở làng Địch Vị, Đan Phượng, Hà Nội

 Từ nhiều đời nay, người dân làng Địch Vị, Phương Đình, Đan Phượng, Hà Nội có bất cứ chuyện sai trái hay oan khuất gì lại tìm đến đền thờ “chó đá” xin chứng giám. Nơi “ngài” ngự, tuyệt nhiên không ai dám xâm phạm… Phong tục lạ kỳ. Bức tượng chó đá ngự uy nghi trên bệ thờ nằm trong quần thể đình chùa của làng Địch Vị ước tính hơn bốn trăm năm nay. Bức tượng được đục đẽo bằng đá thô sơ, cao khoảng hơn một mét, nặng vài tạ, bên cạnh có 13 con chó con quây quần xung quanh ấy được người dân trong làng kính cẩn gọi là Quan lớn Hoàng Thạch. Nhấp ngụm nước chè, ông Nguyễn Hữu Băng, chủ lễ đình Địch Vĩ, nói với giọng kính cẩn: “Từ bao đời nay, việc thờ cúng, nhang khói “ông Hoàng Thạch” cũng trở thành tục lệ không thể thiếu của người dân khắp thôn xóm, thậm chí cả các làng xung quanh mỗi ngày rằm, mùng một, hay lễ Tết. Tuy nhiên, không ai biết chính xác bức tượng này có từ khi nào, chỉ biết rằng, từ khi tôi lớn lên đã thấy “ngài” ngự ở đình làng. Dân trong làng, có bất cứ chuyện gì cũng tìm đến “ngài” để cầu khấn. Chẳng hạn, hai người xảy ra tranh chấp hay mâu thuẫn cũng kéo nhau đến đền thờ Quan lớn Hoàng Thạch để thề bồi. Trước mặt Quan lớn, một người sẽ chặt đứt cây chuối hoặc đập vỡ bát và cất lời thề để ngài chứng giám. Nếu lời người thề bồi mà sai trái ắt sẽ bị thần quở mà gặp tai ương, tính mạng khó giữ. Chính vì thế, nhiều mâu thuẫn của dân làng cũng nhờ ngài mà được hóa giải.

Những người lỡ làm chuyện không tốt cũng tìm đến đền thờ Hoàng Thạch để sám hối, nếu không tâm cũng không yên mà trong lòng áy náy, day dứt rồi sinh bệnh tật”. Theo lời ông Băng, cũng chính bởi những câu chuyện linh thiêng về Quan lớn Hoàng Thạch mà dân làng tuyệt nhiên không ai dám xâm phạm đến nơi “ngài” ngự. “Đợt gần đây, trong khi tu sửa lại đình chùa, chúng tôi có xin chuyển ngài sang bệ thờ mới cách đấy vài mét. Cây đinh lăng già nằm sát nơi ngài ngự vì thế mà cũng phải chặt bỏ, đào rễ để tiện cho việc xây bệ mới.

Nghĩ bỏ đi thì phí nên vài người làng đã mang rễ đinh lăng về nhà để ngâm thuốc. Vậy mà chỉ trong vòng chưa đến một tuần, tất cả những người ấy đều lăn ra ốm. Người thì nằm liệt giường, người sốt hầm hập ăn nói lảm nhảm. Người nhà bệnh nhân chạy chữa, khám xét mãi cũng không khỏi, chẳng ai hiểu thực chất là mắc bệnh gì. Sau có cụ già trong làng đến thăm có hỏi: “Có phạm gì chỗ đền “ông Hoàng Thạch” không? Nếu có thì phải đem trả mau”. Người nhà nghe vậy mới vội vàng làm lễ dâng ngài xin thứ tội, những người bệnh cũng tự nhiên mà khỏi, chốc lát lại khỏe mạnh bình thường.

Sau chuyện này, ai ai cũng lấy đó mà nể sợ. Chính vì thế, củi rả trong đình chất hàng đống nhưng không một ai dám mang về nhà. Cũng có người “liều” mang về nhà làm củi đun. Nhưng củi lửa thì cháy bùng bùng mà cơm nấu không tài nào chín. Đến bây giờ, có cho cũng không ai dám lấy”, ông Băng kể. Theo lời ông Băng, nhiều người dân trong làng mắc bệnh nan y, “bệnh viện trả về” mà ra cầu khấn với “ông Hoàng Thạch” bỗng chốc lại đi lại bình thường, sức khỏe hồi phục. “Chẳng hiểu vì ngài linh thiêng phù hộ cho khỏi bệnh, hay nhờ cầu khấn ngài mà tâm lý người bệnh được thanh thản, tinh thần phấn chấn rồi bệnh tình cũng vì thế thuyên giảm hay không. Tuy nhiên, dân làng tôi cũng lấy những chuyện ấy mà càng trọng vọng, tôn kính “ngài” hơn”, ông Băng gật gù.

Cũng theo lời ông Băng, tượng Quan lớn Hoàng Thạch được xây cao, mắt hướng thẳng sang làng Hát Môn (huyện Phúc Thọ, Hà Nội), nhìn về phía Tây, cách khoảng 4km, nằm men theo con sông Hồng thủa trước. Dân làng vẫn thường đồn rằng, tất cả những nhà nằm chắn hoặc che khuất tầm mắt của ngài đều sẽ gặp vận rủi. Vì vậy, ai có phần đất nằm ngang lối ấy khi xây nhà đều gắng xây tránh ra. “Nhà thờ ở Trại Tụt, xã Thọ An, xây bao nhiêu năm nay không được. Cứ xây lên, có hình có khối, có khi sắp hoàn thành lại… tự nhiên bốc cháy, giờ vẫn bỏ dở dang. Người ta bảo, ấy là do chắn tầm nhìn của Quan lớn Hoàng Thạch”, ông Băng cho hay.

Kính cẩn, trọng vọng bức tượng “chó đá” Quan lớn Hoàng Thạch, nhưng những người am hiểu hay biết nguồn gốc của tượng thần trong làng, theo ông Băng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Theo lời chỉ dẫn của ông, chúng tôi tìm đến nhà cụ Nguyễn Văn Toàn, người được cho là am hiểu nhiều về lịch sử của làng và nếu may mắn, chúng tôi có thể tìm hiểu được về nguồn gốc của bức tượng trứ danh kia.

Bức tượng chó đá được thờ tại thôn Địch Vị, xã Phương Đình, Đan Phượng


Tượng được nặn bằng đá và hình khối rất cổ























Cụ Toàn năm nay đã bước sang tuổi 82 và là một trong những người cao tuổi nhất làng, nhưng khi hỏi về bức tượng chó đá, cụ cũng lắc đầu nguây nguẩy. Cụ bảo, nguồn gốc thực sự thì không ai nắm được, cũng không có sổ sách nào chép lại, tuy nhiên, khi còn là một cậu bé, cụ đã được cha ông kể lại một câu chuyện truyền thuyết về “ông Hoàng Thạch”. “Câu chuyện truyền thuyết bắt nguồn từ một gia đình có hai anh em ở Hát Môn cách đây đã ngoài 400 năm. Người anh là một vị quan trong triều đình, ở nhà chỉ còn em trai với chị dâu. Ngăn buồng của chị dâu và em trai là một vách đất thủng một lỗ to bằng nắm tay. Đêm đêm, khi ngủ, người em thường thò tay qua bức vách đặt lên bụng chị dâu vì sợ chị ngoại tình. Thế nhưng, vài tháng sau khi vị quan kia về thì thấy vợ mình có chửa, nghi em trai dan díu với chị dâu, trong lúc nóng giận, vị quan đã sai người giết chết em trai cho hả giận.

Người em sau khi chết oan, về báo mộng cho người làng nỗi khổ của mình và yêu cầu nhân dân dựng cho mình một bức tượng. Bức tượng ấy sau khi hoàn thành thì được thả xuôi theo dòng sông. Bức tượng trôi đến địa phận xã Thọ Xuân, nằm đối diện làng Địch Vĩ, ngăn bởi con sông Hồng. Lúc bấy giờ, dân làng mới đổ ra xem pho tượng lạ. Nghĩ hẳn là pho tượng quý, người dân Thọ Xuân cử hàng trăm thanh niên trai tráng ra khiêng tượng về, nhưng không thể khiêng nổi. Bấy giờ, bốn người thôn Địch Thượng mới hò nhau ra khiêng thử, lạ thay, bức tượng bỗng nhẹ bẫng. Biết là tượng đã chọn làng mình, dân Địch Thượng mới mang tượng “chó đá” mà sau tôn làm Quan lớn Hoàng Thạch và thờ cúng cho đến nay. Đôi mắt tượng được dựng hướng về Hát Môn cũng chính là hướng về quê hương cũng là vì lẽ đó. Tục thờ cúng Quan lớn Hoàng Thạch có từ ngày bấy cho đến nay đó cũng trở thành nét văn hóa tín ngưỡng đặc trưng của làng”, cụ Toàn kể.

Theo truyện cổ tích Việt Nam thì Ngày xưa, có người học trò vào nhà thầy giáo, khi qua cửa thì con chó đá nhỏm dậy tỏ vẻ mừng rỡ. Lấy làm lạ, người học trò hỏi: "Anh em học trò qua đây cũng đông, sao mày chỉ mừng một mình tao?". Con chó đáp: "Khoa thi này chỉ có mình thầy đậu thôi. Số trời đã định, tôi phải kính trọng mừng thầy". Người học trò nghe nói vậy liền kể cho cha mẹ nghe. Từ đó, người cha lên mặt hống hách. Ông ta dắt trâu ra đồng, cho trâu dẫm cả vào lúa non của người khác. Người dân góp ý, ông ta dọa dẫm: "Khoa này con ông đỗ, rồi chúng mày sẽ biết tay ông".  Dân làng nghe ông nói vậy, cũng có lòng sợ, không dám lôi thôi.

Nhưng những ngày sau, người học trò đi qua, không thấy chó đá nhỏm dậy vẫy đuôi mừng. Người học trò hỏi: "Mọi buổi tao qua đây, mày vẫn đứng dậy mừng, hôm nay sao mày không đứng dậy nữa?". Con chó đá nói: "Tại cha thầy lên mặt hách dịch với dân làng nên Thiên Tào đã gạch tên thầy đi, khoa này thầy không đỗ được nên tôi không phải mừng thầy nữa". Người học trò đem chuyện kể lại với cha, người cha lấy làm hối hận, rồi từ đó không những không lên mặt hống hách mà còn xin lỗi những người mà mình đã xúc phạm.

Khoa ấy, người học trò dù đã lọt qua mấy kỳ nhưng không đỗ thật. Tuy vậy, người học trò cũng không lấy làm nản, càng chăm chỉ học hành. Người cha cũng không lấy làm oán hận, càng tu thân tích đức để chuộc lỗi. Ba năm sau, người học trò đi qua chỗ con chó đá, lại thấy nó đứng dậy mừng rỡ như trước. Con chó đá bảo: "Nhà thầy tu nhân tích đức đã ba năm nay, đủ chuộc lại những lỗi lầm trước rồi nên sổ Thiên Tào lại định cho thầy khoa này thi đỗ". Người học trò mừng thầm nhưng không nói cho cha mẹ nghe nữa, chỉ biết ra sức cố học. Khoa ấy quả nhiên thi đỗ cao. Qua câu chuyện cổ tích này có thể nói, tục "nuôi" chó đá đã có từ rất lâu và sâu đậm trong văn hóa người Việt. Các bậc cao niên ở một số vùng quê Bắc Bộ khẳng định rằng tục thờ chó của người Việt được thể hiện dưới hai hình thức: Chôn chó đá trước cổng nhà như là linh vật để canh cổng với ý nghĩa trừ tà, cầu phúc và đặt chó đá trên bệ thờ như một thần linh để cầu cúng, thờ phụng. Không chỉ ở các vùng nông thôn mà ở ngay Hà Nội, khoảng thời gian sau 1954, những người già còn kể rằng, ở mé nam ngã tư Trung Hiền có một con chó đá khá lớn, do đó mà có tên cửa ô Chó Đá. Nhưng bây giờ thì chó đá cũng không còn, mà cái tên cửa ô Chó Đá cũng chỉ còn trong ký ức của số ít người.

Ở đền Hai Bà Trưng (xã Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Tây) hiện vẫn còn một đôi chó đá với vai trò canh giữ. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, phần Dư địa chí, khi chép về trấn Thanh Hóa có ghi rõ: "Cửa nghi môn ở điện Lam Kinh có hai con chó đá rất thiêng". Đại Việt sử ký toàn thư và sách Tây Hồ chí, khi chép về việc trồng muỗm ở đời Trần trên đê sông Hồng, đoạn ở kinh thành cũng đều có nói đến miếu Chó Thần. Còn việc dân chúng chôn chó đá trước nhà mình thì hiện vẫn còn rải rác ở một số nơi.

Về việc thờ chó đá như một vị thần linh thì hiện có hai nơi ở Đan Phượng, Hà Nội. Trước cửa đình thôn Phù Trung, xã Thượng Mỗ (Đan Phượng) có một bệ thờ chó đá đặt ở ngoài vườn. Trên bệ thờ, trước mặt chó đá có đặt bát hương. Theo cụ thủ từ và một số người già trong làng thì chó đá vốn xưa ngự trên gò cao, cách đình vài trăm mét, dưới hai cây gạo to. Sau gò lở, hai cây gạo đổ, dân làng rước "ngài Hoàng Thạch" (chó đá) về bên cạnh đình cho tiện việc hương khói. Các cụ còn cho biết, chó đá ở đây được gọi là Quan Hoàng hoặc Quan Hoàng Ba. Ngày mùng một và ngày rằm đều thắp hương cúng bái. 

Rồi tài liệu thần tích Ngọc phả cổ lục cũng cho biết rằng, bà mẹ vua Lý Công Uẩn tên Phạm Thị Trinh, khi đến làm việc ở chùa Tiêu Sơn, đêm nằm mơ thấy Thần Chó Đá rồi có mang mà sinh ra Lý Công Uẩn. Khi vua Lý Công Uẩn xuất hiện, con chó bằng đồng đã sủa inh ỏi, rồi vua Lý Công Uẩn lại sinh năm Tuất... Chính vì cuộc đời huyền thoại của vị vua này luôn luôn liên quan đến Thần Chó mà khi định đô ở Thăng Long, việc lập miếu thờ chó (Thần Cẩu Mẫu, Thần Cẩu Nhi) để canh giữ, bảo vệ kinh thành là những giả thiết rất phù hợp với quy luật lịch sử, bối cảnh văn hóa nước ta. Bên cạnh huyền sử Lý Công Uẩn, chúng ta còn có lai lịch di tích đền Cẩu Nhi qua sách Tây Hồ chí. Sách này cho biết, miếu thờ thần Cẩu Nhi vốn nằm ở góc Tây Bắc hồ trên bến Châu. Nơi đây đời Trần vẫn gọi là bến Thần Cẩu. Như vậy, có thể nói, trong văn hóa người Việt, việc thờ chó đá là có thực, tuy có rất ít tài liệu ghi chép lại.
Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá

Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá

Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá


Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá

Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá


Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá


Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá


Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá

Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá
Chuyện ít biết về tục “nuôi” và thờ chó đá

Nhà văn Tô Hoài đã từng viết: Chẳng biết từ bao giờ, ở chỗ đường cái vào, áp vách đầu nhà tôi, có con chó đá... Đây là con chó đá canh cổng, nhiều nhà có. Chó đá canh cổng trông quen mắt như cái bình vôi treo ở đám rễ si, rễ đa. Chỉ khác con chó đá nhà tôi bé tí teo, còn bên cổng đình, cổng chùa thì con chó đá lừng lững cao to bằng chó thật. Chân trước đứng, hai chân sau ngồi trên bệ như sắp nhổm lên sủa người lạ vào nhà. Ở chỗ thờ cúng, thế mà trẻ con nghịch ngợm thi nhau xoa đầu chó, rồi doạng chân ra cưỡi chó. Chúng nó chẳng biết con chó đá là thần canh cửa nơi miếu mạo và cổng ngõ nhà có của. Bắt chước nhau, lắm nhà méo mặt chạy ăn từng bữa cũng đẽo con chó đá đem về chôn bên cổng. Ý chừng ao ước rồi cũng có ngày biết mặt đồng tiền, nên rước sẵn chó đá về ngồi ấm chỗ canh cửa, đón tài, đón lộc... Mỗi chiều rằm, mùng một, bà tôi lấy chiếc bát đàn múc trong vại bên gốc cau ra bát nước mưa, một lá trầu không quệt sẵn vôi và miếng cau khô, một nén hương, đem đặt trước mõm chó đá. Bà chắp tay, khấn lâm râm rồi vái mấy vái. Cũng con chó đá bên cổng xây nhà ông Bá giữa xóm thì tuần rằm được hai nén hương, một miếng thịt lợn sống đặt giữa cái đĩa sứ, một cút rượu mở sẵn nút. Nhà có, nhà nghèo đều khói hương những ngày Tết nhất mời ông thần khuyển về "thượng hưởng"...


Sưu tầm

Không có nhận xét nào: