Thuở
cắp sách đến trường, tôi được học bài "Lê
Lai liều mình cứu chúa". Mấy chục năm sau, tình cờ
đọc sử biết thêm chuyện "Lê Lợi giết
Lê Lai". Chính sử không viết rõ hai ông Lê Lai là hai
người khác nhau hay là cùng một người. Bán tín bán nghi,
tôi tò mò đi kiếm sách đọc thêm.
Xin đem những điều học thêm
được ra bàn luận.
Tài liệu viết về Lê Lợi
và Lê Lai tương đối nhiều. Để cho dễ theo dõi vấn đề,
đề nghị chúng ta cùng đọc lại mấy bộ sử theo trình tự
thời gian.
Sách đầu tiên viết về Khởi
nghĩa Lam Sơn còn lưu truyền đến ngày nay là Lam
Sơn thực lục (LSTL) của Lê Lợi, viết năm 1431.
Con cháu công thần Lê Sát còn cất giữ được một bản sao
chép sách LSTL này (Nguyễn Diên Niên và Lê Văn Uông, Lam
Sơn thực lục, Ty văn hóa Thanh Hóa, 1976, viết tắt
LSTLTH).
Bài này sẽ dùng bản LSTL của
dòng họ Lê Sát (gọi tắt là bản Lê Sát, được sao chép
vào khoảng năm 1715) làm tài liệu gốc để đối chiếu với
các sách khác.
*
Bản Lê Sát gồm hai phần viết
khác nhau :
- LSTL do Lê Lợi viết, dùng
đại danh từ "trẫm".
- Những lời chú do người
khác viết, dùng đại danh từ "vua".
Chuyện Lê Lai và mấy chuyện
khác (Lê Thận được gươm thần, thần áo trắng v.v.) nằm
trong phần chú, nghĩa là do người khác viết.
1) Chuyện Lê
Lai cứu chúa trong bản Lê Sát như sau:
(…) "Vua
thoát nạn đi thẳng đến Trịnh Cao là đất giáp giới Ai
Lao, đồn trú lại. Lương thực ít ỏi, tuyệt đường đi
về Linh Sơn, Mường Cốc? Quân lính chịu khổ, đói rét vất
vả hàng mười ngày liền, đào củ nâu ăn cầm hơi, tìm mật
ong làm nước uống, người ngựa đều đói khốn. Vua hỏi
ai là kẻ bề tôi tận trung, hết lòng lo việc nước. Lúc
đó, có Lê Lai vốn người thôn Dựng Tú, tính cương quyết,
nghiêm nghị và thẳng thắn, diện mạo khác thường, sức
khỏe và chí khí hơn người, chỉ mình Lê Lai nói:
- Tôi tự
nguyện đổi áo, ngày sau bệ hạ nên nghiệp đế, có thiên
hạ, nhớ đến công của tôi, cùng con cháu tôi muôn đời
sau được chịu ơn nước, đó là nguyện vọng của tôi vậy.
Vua vái trời
khấn rằng:
- Lê Lai có
công đổi áo, mai sau, Trẫm và con cháu Trẫm, con cháu các
công thần tướng tá, nếu không nhớ công ơn ấy thì nguyền
đền cỏ này hóa thành núi rừng, ấn báu này hóa thành cục
đồng, lưỡi gươm thần này hóa thành đao mác thường.
Vua khấn
xong, Lê Lai cưỡi ngựa phi ra, thay vua cứu nước, tự xưng
là vua Lê. Giặc Minh tưởng là thật, trói bắt về tâu lên
vua nhà Minh. Do đó, tình thế hòa hoãn, Vua được tạm yên
". (LSTLTH, tr. 241).
Lê Lợi tìm người
hết lòng lo việc nước. Lê Lai tự
nguyện đổi áo và bị quân Minh trói bắt về tâu lên
vua nhà Minh.
*
2) Đại
Việt sử ký toàn thư (gọi tắt là Toàn Thư (TT),
Khoa Học Xã Hội, 1968), bộ sử của nhà Lê do Ngô Sĩ Liên
soạn năm1479, không chép chuyện Lê Lai đổi áo, thay vua cứu
nước.
*
3) Phạm Phi Kiến (đậu tiến
sĩ năm 1623) chép trong sách Thiên nam Trung
nghĩa thật lục :
(…) "Lai
bèn đem binh đến thành Tây (Tây đô), hô lớn khiêu chiến,
tự xưng là Bình Định Vương. Người Minh vây bắt, gia cực
hình. Sau vua phong hai con là Bá và Viện làm trung lang tướng.
Khi vua lên ngôi, tặng Lai hiệu Thái thượng quốc công nguyên
huân công thần; lại ban thụy Trung dũng đại vương; đưa
tùng tự ở Thái miếu. Đến đời Gia Tông (Dương Hòa năm
đầu 1635) cấp một trăm mẫu ruộng tế". (theo bài Những
lời thề của Lê Lợi của Hoàng Xuân Hãn, trong Hoàng
Xuân Hãn (HXH), tập 2, Giáo Dục, 1998, tr. 599-633).
Hoàng Xuân Hãn cho rằng Phạm
Phi Kiến đã dùng tài liệu khác ngoài LSTL, như phần phổ
(dòng họ Lê Lai) để viết.
Chưa chắc Phạm Phi Kiến đã
dựa vào phần phổ của dòng họ Lê Lai vì Phạm Phi Kiến
chép các mĩ tự của Lê Lai và tên các con của Lê Lai không
giống LSTL của Lê Lợi và tất cả các bộ chính sử đời
sau.
Phạm Phi Kiến đã thêm chi
tiết Lê Lai bị gia cực hình. Nếu cho rằng gia cực hình có
nghĩa là giết chết thì, theo Phạm Phi Kiến, Lê Lai bị quân
Minh giết tại Tây đô.
*
4) Đến đời Vĩnh Trị (1676-1680),
Hồ Sĩ Dương vâng lệnh vua Lê Hi Tông sửa đổi, trùng san
LSTL của Lê Lợi.
Sách LSTL trùng san của Hồ
Sĩ Dương (gọi tắt là bản Hồ Sĩ Dương) (Nguyễn
Trãi toàn tập (NT), Khoa Học Xã Hội, 1976) có nhiều
điểm không còn giống LSTL của Lê Lợi. Hồ Sĩ Dương thay
đổi bố cục của LSTL. Chuyện Lê Lai và tất cả các chuyện
khác, trước kia được chép trong phần chú, bây giờ được
đưa vào nằm trong LSTL. Quan trọng hơn nữa là Hồ Sĩ Dương
đổi đại danh từ "trẫm" (vua tự xưng) thành "vua"(lời bề
tôi). Vô tình hay cố ý, Hồ Sĩ Dương đã phủ nhận Lê Lợi
là tác giả LSTL.
Chuyện Lê Lai của bản Hồ
Sĩ Dương như sau:
"Bấy giờ
quân ta mới thắng nhỏ, mà thế giặc lại đang lớn mạnh,
vua liền vời các tướng lại nói rằng :
- Ai có thể
mặc áo hoàng bào thay ta đem năm trăm quân và hai thớt voi
đi đánh thành Tây Đô, thấy giặc ra đánh thì tự xưng "ta
là chúa Lam Sơn", để cho giặc bắt được, cho ta có thể
ẩn náu nghỉ binh, thu nhặt binh sĩ mưu cử sự về sau ?
Các tướng
đều không dám nhận lời. Chỉ có Lê Lai nói :
- Thần nguyện
đổi lấy áo bào. Ngày sau Bệ hạ thành nghiệp đế, có được
thiên hạ, nhớ đến công thần mà cho con cháu muôn đời của
thần được chịu ơn nước. Đó là điều thần mong ước.
Vua vái trời
mà khấn rằng :
- Lê Lai có
công đổi áo, sau này trẫm cùng con cháu trẫm và các tướng
tá công thần cùng con cháu họ, nếu không nhớ đến công
ấy, thì xin điện cỏ này hóa thành rừng núi, ấn báu hóa
ra cục đồng, gươm thần hóa ra dao thường.
Vua khấn
xong, Lê Lai liền đem quân đến cổng trại giặc khiêu chiến.
Giặc cậy binh mạnh xông ra đánh. Lê lai cưỡi ngựa phi vào
trận giặc, nói rằng:
Ta là chúa
Lam Sơn đây !
Giặc liền
vây và bắt trói đem vào trong thành xử bằng cực hình khác
hẳn các hình phạt thường dùng". (NT, tr. 50, 51).
Hồ Sĩ Dương cho biết:
- Lê Lợi đưa ra ý đổi áo.
- Lê Lai bị quân Minh bắt
trói đem vào trong thành (Tây Đô) xử bằng cực hình khác
hẳn các hình phạt thường dùng.
Lê Lợi chủ động nghĩ ra
kế hay. Cái chết và nơi chết của Lê Lai được xác định
giống Phạm Phi Kiến.
Như vậy là bản Hồ Sĩ Dương
đã khác bản Lê Sát về cả nội dung lẫn hình thức.
*
5) Đại
Việt thông sử (1759, đời Lê Hiến Tông) của Lê
Quý Đôn (gọi tắt là Thông Sử (TS), KHXH, 1978) chép trong phần
Đế
kỷ :
" Lúc ấy,
binh tướng của ta đương thời kỳ ban đầu, còn rất ít
ỏi, thế mà quân Minh có tới hơn 4 vạn rưởi tên (…)
Vua bèn hỏi
các tướng:
" Có ai dám
bắt chước việc Kỷ Tín thời xưa không ?".
Người ở
thôn Dậng Tú là Lê Lai khảng khái vâng mệnh, tự nguyện
thay đổi mặc áo bào nhà vua, xưng là vua Lê ở Lam Sơn, dẫn
quân ra đánh nhau với quân Minh. Tướng Minh mừng rỡ, liền
dồn cả quân vây chặt Lê Lai, Lê Lai chống cự đến kiệt
sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông Quan
giết chết, chúng bèn lui binh, ta được thoát nạn".
(TS, tr. 35).
Lê Quý Đôn là người đọc
nhiều sách, biết nhiều điển tích, đã thêm chuyện Kỷ Tín
vào LSTL và cho biết rõ là quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông
Quan giết chết.
Cái chết của Lê Lai lại một
lần nữa được xác định, nhưng khác bản của Phạm Phi
Kiến và Hồ Sĩ Dương. Tuy vậy, ở mục Liệt
truyện của Thông Sử, Lê
Quý Đôn lại viết:
" Khi (Lê
Lai) đã kiệt sức, ông bị địch bắt, xử cực hình. Sau
đó giặc lui quân về thành Tây Đô, việc phòng bị của chúng
mới hơi sơ hở, vua (Lê Lợi) có thời cơ, nghỉ binh, nuôi
chứa nhuệ khí, để có thể trăm trận trăm thắng, và lấy
được thiên hạ ". (TS, tr.157).
Xử cực hình Lê Lai rồi sau
đó quân Minh rút vào trong thành Tây Đô. Vậy Lê Lai bị xử
cực hình ở đâu ? Nếu ở Đông Quan (như Lê Quý Đôn viết
ở đoạn trên) thì chúng ta phải hiểu là quân Minh phải ở
ngoài thành Tây Đô để chờ tin giết Lê Lai. Cứ cho là Tây
Đô–Đông Quan–Tây Đô đi về mất độ 4, 5 ngày. Quân Minh
phải đóng ở ngoài thành 4, 5 ngày, không đánh nhau, trước
khi rút vào trong thành. Chuyện vô lí, chả lẽ quân Minh lại
ngu xuẩn đến mức như vậy. Chỉ còn lại giả thuyết là
Lê Lai bị xử cực hình tại trận hoặc trong thành Tây Đô.
Đối chiếu hai đoạn viết
của Lê Quý Đôn chúng ta không khỏi phân vân, bối rối. Lê
Lai bị giết ở Tây Đô hay Đông Quan? Phải chọn một trong
hai nơi chứ không thể chấp nhận cả hai được ! Phải chăng
Lê Quý Đôn đã tham khảo cả bản Phạm Phi Kiến hoặc bản
Hồ Sĩ Dương để viết rằng Lê Lai bị xử
cực hình (tại Tây Đô) mặc dù chính Lê Quý Đôn đã
phê bình bản Hồ Sĩ Dương là do "các nho
thần đã vâng mệnh vua đính chính, chỉ căn cứ vào hiểu
biết của mình, lấy ý riêng mà sửa chữa, thêm, bớt, sai
mất cả sự thực, không phải là nguyên bản sách cũ"
(TS, tr. 110), nên mới viết mâu thuẫn như vậy ?
*
6) Đại
Việt sử ký tiền biên (1800, nhà Tây Sơn) của Ngô
Thì Sĩ (gọi tắt là Tiền Biên (TB), KHXH, 1997) chép cũng không
rõ ràng, dứt khoát :
"Lê Lai bèn
đem quân đến thành Tây Đô khiêu chiến, tự xưng là Bình
Định Vương. Giặc Minh dốc quân ra bao vây, bắt về xử cực
hình. Từ đấy các nơi thuộc thành Đông Quan đều truyền
tin là Bình Định Vương đã chết…".(TB, tr. 552).
Lê Lai bị giết ở Tây Đô,
nhưng tin lại từ Đông Quan được truyền đi.
*
7) Việt
sử tiêu án cũng của Ngô Thì Sĩ (Văn Sử, Hoa Kì,
1991, tr. 298) chép :
"Lê Lai liền
tự xưng là Bình Định Vương, khiêu chiến với quân Minh rồi
chết. Đâu cũng truyền đi là Bình Định Vương chết rồi,
người Minh cũng tin là thật, không lưu ý…".
*
8) Lịch
triều hiến chương loại chí (1821, đời Minh Mạng)
của Phan Huy Chú (tập 1, Sử Học, 1960) sau lời án công nhận
Lê
Lai vì nước bỏ mình, có thêm lời chú :
(…) "Lúc
mới khởi binh, bị tướng Minh vây ngặt, vua hỏi các tướng,
bàn xem có ai đổi áo đánh lừa giặc, như việc Kỷ Tín ngày
xưa. Ông xin đi. Bèn mặc áo bào, đem quân xông vào hàng trận
của giặc, đánh đến đuối sức, bị bắt. Vua nhân dịp
trốn thoát." (tr. 266).
Ở đây, Phan Huy Chú chép lại
việc Kỷ Tín của Lê Quý Đôn nhưng chỉ nói Lê Lai bị
bắt, như bản Lê Sát.
*
9) Khâm
định Việt sử thông giám cương mục (1881) (gọi
tắt là Cương Mục (CM), Giáo Dục, 1998), bộ sử của nhà
Nguyễn lại thêm vài chi tiết mới, rõ ràng :
" Vương chạy
vào Trịnh Cao, rồi lui giữ núi Chí Linh. Quân Minh thường
đến đánh úp: tình hình phía Vương khốn quẫn quá ! Vương
phải nhóm họp các tướng, dụ bảo họ rằng: "Bây giờ ai
có thể làm như Kỷ Tín xưa, để ta ẩn náu trong rừng núi,
mưu tính cử sự về sau ?" Trong các tướng chẳng ai đáp ứng
cả. Riêng có Lê Lai khảng khái xin vâng, tình nguyện trao đổi
đồ mặc với Vương để đi chết thay.
Lê Lai liền
cho sắp xếp nghi trượng chỉnh tề, chính mình đem quân và
voi, hướng ra phía địch, chỉ huy các tướng chia đường
khiêu chiến. Tướng Minh lấy thêm quân bao vây Lê Lai. Lai chiến
đấu kiệt sức, bị người Minh bắt và giết chết. Địch
bèn rút quân về Tây Đô ". (CM, tập 1, tr. 770).
Lê Lai biết trước là đi
chết thay Lê Lợi. Hậu quả tất yếu là Lê Lai bị
người Minh bắt và giết chết. Lê Lai chết ở đâu ? Cương
Mục chép giống Thông Sử, chỉ
cho phép suy ra là Lê Lai bị giết ở Tây Đô.
*
10) Lịch
sử Việt Nam của Uỷ ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam
(KHXH, 1971, tr. 244) chép:
"Quân Minh
tập trung lại bao vây để bắt sống Lê Lai và tiêu diệt
đội quân cảm tử. Nhờ đó, cuộc khởi nghĩa thoát khỏi
một cơn hiểm nghèo.
Hành động
xả thân vì nước của Lê Lai đã trở thành một hình tượng
anh hùng không bao giờ phai mờ trong ký ức của dân tộc ta".
Đoạn trên thì Lê Lai bị bắt
sống, đoạn dưới thì Lê Lai có hành động xả
thân vì nước. Tuỳ người đọc muốn hiểu sao thì
hiểu.
Trên đây là 10 sử liệu quan
trọng của ta. Có thể kể thêm Việt
Nam sử lược của Trần Trọng Kim (Trung tâm học
liệu, 1949, tr. 219), Việt sử toàn thư
của Phạm Văn Sơn (Khai Trí, 1960, tr. 360) nhưng 2 bộ sử này
chép tương tự sử của nhà Nguyễn.
Nhận xét đầu tiên là chuyện
Lê
Lai cứu chúa rõ ràng đã bị đời sau sửa đổi. Lúc
Lê Lợi còn sống (1431), văn bản chỉ kể rằng Lê Lai bị
quân Minh trói bắt
về tâu lên vua nhà Minh. Hơn 200 năm sau, Phạm Phi Kiến
(khoảng 1635) xướng lên rằng Lê Lai bị quân Minh gia
cực hình. Hơn 300 năm sau, Lê Quý Đôn (1759) đi xa hơn
một bước nữa, không những Lê Quý Đôn chép rằng Lê Lai
bị quân Minh giết, ông còn ví Lê Lai với Kỷ
Tín. Tiếc rằng Lê Quý Đôn đã chép Lê Lai bị giết
lúc thì tại Tây Đô, lúc thì tại Đông Quan. Các sử gia đời
sau thường dựa theo chuyện Kỷ Tín của nhà bác học Lê Quý
Đôn để kể chuyện Lê Lai cứu chúa.
Trở lại bản Lê Sát.
Lê Lai bị quân Minh trói
bắt về tâu lên vua nhà Minh nghĩa là gì ?
Toàn Thư
và Tiền Biên cho biết rằng từ trước
cũng như trong thời kì Khởi Nghĩa Lam Sơn, nhà Minh đã nhiều
lần đưa ra chính sách chiêu dụ để dụ dỗ vua quan của
nước ta ra hợp tác với chúng. Có nhiều dấu hiệu tỏ rằng
quân Minh chấp hành chính sách này. Cụ thể là vua Trần Quý
Khoáng, cha con Hồ Quí Ly, Nguyễn Phi Khanh, Trần Nhật Chiêu…,
các tướng Nguyễn Xí, Đỗ Bí của Lê Lợi, khi bị quân Minh
bắt đều được đưa về Đông Quan, trước khi bị giải
sang Yên Kinh. Quân Minh chỉ giết ai chửi mắng, chống lại
chúng.
Năm 1408 vua Minh xuống chiếu
: " Còn nghĩ bọn thù chúng vốn là ngu dốt,
hoặc bị bách vì cùng đói, hoặc bị kẻ mạnh bắt ép, hoặc
bị bọn gian dụ dỗ, việc không thể đừng, tình đáng nên
thương, nếu nhất khái bắt tội cả, trẫm thật không nỡ.
Ngày chiếu thư này đến nơi đều tha bỏ cả…". (TT,
tập 2, tr. 235).
Năm 1409, "
Kinh lộ lần lượt đầu hàng, những dân còn sót lại bị
bắt làm nô tỳ và chuyển bán đi tan tác bốn phương. Thượng
thư Hoàng Phúc lại đặt quan chia nhậm từ Thanh Hóa trở ra
bắc, người thổ nào có thể chiêu an, hoặc có công chém
giết cướp bóc thì Trương Phụ đều cho làm quan ".
(TB, tr. 535).
Năm 1411 :
"…Trong ấy nếu có người dũng cảm người kiến thức, có
thể bắt được mấy người đem nộp, cũng cho quan to tước
cao; những kẻ làm ác nếu biết gột rửa tâm trí, đổi lỗi
sửa mình, không những là được khoan tha tội lỗi, lại cho
làm quan nữa ". (TT, tập 2, tr. 214).
Năm 1416 : "
Nhà Minh chiêu dụ các quan cũ của triều trước, giả cách
bổ đi các nha môn quân làm việc, rồi đưa về Yên Kinh giữ
lại. Bọn đua chen vốn không phải là quan cũ, chưa được
thực giao quan chức cũng hăng hái ra, trong nước trở nên trống
rỗng. Ở vài năm thấy gian khổ thỉnh thoảng họ lại trốn
về ". (TB, tr. 549).
Năm 1420 :
"Tam ty nước Minh kiến nghị rằng, quan lại quân dân Giao Chỉ
người phạm tội vặt, từ tội chết trở xuống, xin đều
cho nộp thóc để chuộc tội theo thứ bậc khác nhau, để
trữ lương nơi biên giới. Vua Minh nghe theo ". (TT, tập
3, tr. 11).
Năm 1426 : "…
Vậy ban ơn mưa móc, cho đều được nhuần. Phàm quan lại
nhân dân ở Giao Chỉ có can tội phản nghịch, đã kết giác
hay chưa kết giác (phát giác) đã kết chính hay chưa kết chính
(xử đoán) kể từ ngày chiếu thư này ban ra, không kể là
tội lớn hay tội nhỏ, đều tha bỏ cho cả…". (TT,
tập 3, tr.22).
Cùng năm 1426 :"…Xuống
chiếu đại xá cho tội nhân ở Giao Chỉ là Lê Lợi. Phan Liên
hàng, cũng cho quan chức…". (TT, tập 3, tr. 335).
*
Năm 1418, thanh thế Lê Lợi
chưa nổi, nghĩa quân Lam Sơn còn rất ít ỏi, chưa mạnh. Lê
Lai (Lê Lợi giả) bị trói bắt về tâu
lên vua nhà Minh có nghĩa là quân Minh bắt ông tại Tây
Đô, sau đó chúng đưa ông về Đông Quan chiêu dụ hoặc chờ
ngày giải sang Yên Kinh như chúng đã từng làm với vua Trần
Quý Khoáng, với cha con Hồ Quý Ly.
Lê Quý Đôn cũng xác nhận
chuyện quân Minh đưa Lê Lai về Đông Quan, nhưng theo Lê Quý
Đôn thì Lê Lai bị quân Minh giết tại đây.
Bản Lê Sát không chép Lê Lai
bị giết tại thành Tây Đô, cũng không chép Lê Lai bị giết
tại Đông Quan. Không có chữ nào nói rằng Lê Lai bị quân
Minh giết.
Bản Lê Sát còn có hai chi tiết
khác chứng tỏ rằng Lê Lai không bị quân Minh giết :
- Lê Lợi chép tên hơn 40 công
thần bị chết trận, trong đó có tên hai con trai của Lê Lai
là Lê Lộ và Lê Lâm, nhưng không có tên Lê Lai.
- Lê Lợi lập danh sách 35 công
thần tham dự cuộc khởi nghĩa được phong thưởng. Bên cạnh
chức tước được phong Lê Lợi ghi cả công của mỗi người.
Ông Lê Thạch được ghi là
: Người đầu tiên ghi tên vào cuộc khởi nghĩa, làm quân
hỏa thủ thiết kỵ đột. Lương nghĩa hầu, vì đánh Ai Lao
mà trận vong.
Ông Lê Lai được ghi là : phong
làm Diên phúc hầu, nhập nội. Lộ Khả Lam, vì dịch bào thế
quốc sự (vì đổi áo thay việc nước).
Lê Lợi chỉ nói là Lê Lai
có công đổi áo và không nói là Lê Lai bị quân Minh giết.
Theo bản Lê Sát thì không có
bằng chứng nào nói rằng Lê Lai bị quân Minh giết.
*
Toàn Thư
(bộ sử của nhà Lê) không chép chuyện Lê
Lai cứu chúa. Hoàng Xuân Hãn phân tích và phê bình sự
thiếu sót này :
" Sau khi đọc
Thông sử, ta thấy hiển nhiên rằng chuyện Lê Lai hy sinh để
Lê Lợi có thể trốn tránh trong cơn quẫn bách là chuyện
thật, mặc dầu Toàn Thư, theo bản ngày nay còn đã bỏ sót.
Vả về đời Lê Lợi, bản Toàn Thư hiện còn chép chuyện
năm thì nhiều, năm thì ít, khiến ta có thể nghĩ rằng hoặc
vì tài liệu đã mất nhiều trước đời Lê Thánh Tông, hoặc
sử thần cẩu thả, hoặc bản đời sau khắc lại bớt xén
nhiều ". (HXH, tập 2, tr. 612).
Hoàng Xuân Hãn dựa theo Lê
Quý Đôn để phê bình sử gia Ngô Sĩ Liên !
Hơn 200 năm sau Lê Lợi, Phạm
Phi Kiến là người đầu tiên (theo các văn bản hiện có)
chép rằng Lê Lai bị quân Minh xử cực hình tại thành Tây
Đô. Chuyện thêm thắt này vừa hay vừa đẹp nên được nhiều
sử gia đồng tình chép theo, nhất là từ khi nhà bác học
Lê Quý Đôn ví Lê Lai với Kỷ Tín.
Trên đây là chuyện "Lê
Lai cứu chúa".
*
Bây giờ xin đề cập đến
chuyện " Lê Lai bị Lê Lợi giết ".
Toàn Thư
không chép chuyện Lê Lai cứu chúa,
ngược lại lại chép chuyện ông Lê Lai bị Lê Lợi giết:
(Năm 1427, tháng giêng, ngày
13) "Giết tư mã là Lê Lai, tịch thu gia sản,
vì Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn
nên bị giết". (TT, tập 3, tr. 30; TS, tr. 56).
Ông Lê Lai bị Lê Lợi giết
này là ai ? Toàn Thư không cho biết
rõ.
Tiền Biên,
Cương Mục và các bộ sử sau này chỉ chép chuyện Lê
Lai cứu chúa và không chép chuyện Lê Lợi giết tư mã Lê
Lai.
Thông Sử
chép
cả hai chuyện Lê Lai, một ông cứu Lê Lợi, bị quân Minh
giết (chép theo Phạm Phi Kiến hoặc Hồ Sĩ Dương); một ông
bị Lê Lợi giết (chép theo Ngô Sĩ Liên). Hai văn bản khác
nhau được Lê Quý Đôn ghép lại, tạo ra lôgích có 2 ông
Lê Lai khác nhau.
Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn
(Khởi nghĩa Lam Sơn, KHXH, 1977,
tr. 154-158) nhận định :
"Toàn Thư
hoàn toàn không chép sự việc này (Lê Lai cứu chúa) và đến
tháng 2 năm 1427 có chép chi tiết :" giết tư mã Lê Lai, tịch
thu gia sản vì Lai cậy có chiến công ăn nói ngạo mạn" .
Căn cứ vào chi tiết này có người phủ nhận việc Lê Lai
hy sinh năm 1419. Thực ra không có căn cứ gì để cho rằng
Lê Lai đã bị giết năm 1427 thì không thể có Lê Lai hy sinh
năm 1419 vì rất có thể có hai người cùng tên họ, hay cùng
tên khác họ nhưng được ban quốc tính nên thư tịch cũ chép
thành cùng tên họ. Hơn nữa Lam Sơn thực lục tục biên
(bản
sao năm 1942) lại chép cả việc Lê Lai hy sinh cứu Lê Lợi
và cả việc giết Lê Lai năm 1427. Điều ấy chứng tỏ lúc
bấy giờ có hai người tên là Lai ".
(Sách Lam
Sơn thực lục tục biên này chép Lê Lai bị bắt đem
về thành ở xã Dựng Tú).
Bị vua giết mà vẫn còn được
giữ họ vua (quốc tính) sao? Xã Dựng Tú thời Lê Lợi có
thành không?
Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn
dựa vào Lam Sơn thực lục tục biên
(bản sao năm 1942) để kết luận rằng có 2 ông Lê Lai, một
ông bị giết ở Dựng Tú (?), một ông bị Lê Lợi giết?
Theo Lê Quý Đôn thì có 3 ông Lê Lai: một ông bị giết ở
Tây Đô, một ông bị giết ở Đông Quan và một ông bị Lê
Lợi giết.
Không những thế, Phan Huy Lê
và Phan Đại Doãn (sđd) còn đưa ra thêm mấy tài liệu tỏ
rằng có nhiều ông Lê Lai tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn :
- Nguyễn Ba Lai người huyện
Đăng Cao cũng là Lê Lai.
- Nguyễn Thận ở Mục Sơn
cũng có tên là Lê Lai.
- Lê Văn An ở Mục Sơn cũng
có tên là Lê Lai. Đặc biệt ông Lê Lai này "đã
lấy thân thay Thái Tổ trong cơn nguy hiểm, gần chết mà sống
lại ". Ông Lê Lai này không bị quân Minh giết chết.
Tính tổng cộng ít ra cũng
đã có bốn hay năm ông Lê Lai theo phò Lê Lợi từ ngày đầu!
Thật khác xa với lời than của Nguyễn Trãi:
"Thế mà : Nhân tài lác đác như lá mùa thu,E rằng có hiện tượng thấy người sang bắt quàng làm họ như người xưa thường nói!
Tuấn kiệt lưa thưa như sao buổi sớm…"
Hoàng Xuân Hãn phân vân tự
hỏi :
"Lê Lai (bị
Lê Lợi giết) này là ai ? chắc cũng là một đại công thần.Trùng
tên chăng? hay là kẻ khắc chữ lầm tên ?". (HXH, tập
2, tr. 608).
Hải Dương và Hồ Khang (Lê
Lợi và Thanh Hóa trong khởi nghĩa Lam Sơn, Thanh Hóa, 1988,
tr.77) khẳng định:
"Nghĩa quân
Lam Sơn có 2 người tên Lê Lai. Lê Lai ( bị Lê Lợi giết)
ở đây không phải là Lê Lai đã hy sinh anh dũng để cứu
Lê Lợi ".
Hai tác giả không cho biết
dựa vào tài liệu nào.
Nguyễn Diên Niên thì thắc
mắc :
(…) " Còn
sự hy sinh của Lê Lai thì khác hẳn. Đó là sự hy sinh cao
cả nhất, có thể nói là to lớn nhất trong quá trình khởi
nghĩa. Không có cái chết của Lê Lai thì không còn cơ đồ
nhà Lê. Ấy thế mà Toàn thư, bộ quốc sử của triều Lê
không có một dòng nào chép về cái chết ấy.
Thái độ
đó phải được giải thích như thế nào ? Phải chăng sự
im lặng này có quan hệ đến cái vị trí số 2 của Lê Lai
sau Lê Lợi (trong Hội thề Lũng Nhai) và sự hy sinh của nhân
vật số hai ấy để bảo tồn cuộc khởi nghĩa và người
lãnh tụ tối cao ? Nhưng vấn đề này đã vượt ra ngoài công
trình khảo cứu này". ( LSTLTH, tr. 100).
Dường như Nguyễn Diên Niên
không để ý đến chuyện Lê Lai bị trói
bắt về tâu lên vua nhà Minh nằm trong bản Lê Sát do
ông công bố.
Tiền Biên
và Cương Mục không chép chuyện tư
mã Lê Lai bị Lê Lợi giết. Như vậy đỡ gây thắc mắc cho
người đọc? Trong bản Thông Sử (chữ
hán) được Lê Mạnh Liêu dịch, tên tư mã Lê Lai bị đục
mất chữ Lai. Xoá tên như vậy thì người đọc sẽ không
biết người bị giết là ai?
Xung quanh chuyện ông Lê
Lai cứu chúa còn mấy chi tiết khác cần được xem lại.
Bản Lê Sát có 3 bài văn thề
nằm ngoài LSTL, một bài bằng chữ hán, hai bài bằng chữ
nôm (LSTLTH, tr. 201-203). Bài Thệ Từ ,
còn gọi là bài Thề nhớ ơn Lê Lai
(HXH, tập 2, tr. 600) do Lê Lợi sai Nguyễn Trãi chép năm 1429
bằng chữ nôm, được đời sau sao chép, có đoạn chính như
sau :
"(…) Chúng
bay cũng thời nhớ công Lê Lai hay hết lòng mà đổi áo cho
trẫm chẳng có tiếc mệnh, mà chịu chết thay trẫm, công
ấy cực cả thay. Trẫm đã táng Lê Lai trong đền Lam để
mai sau thời cho con cháu Lê Lai ở hết lòng cùng con cháu trẫm
(…)".
Có lẽ Lê Quý Đôn đã dựa
vào đoạn văn này để viết rằng :
"Vua (Lê Lợi)
cảm động vì lòng trung nghĩa của ông (Lê Lai), trước hết
sai người ngầm tìm di hài ông, đem về mai táng ở Lam Sơn
(…). Tháng 12 năm sau (1429), nhà vua sai Nguyễn Trãi viết hai
bản thề ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai,
để vào trong hòm vàng, lại gia phong cho ông hàm thái úy."
(TS, tr. 157).
Sai người
ngầm tìm di hài có nghĩa là ngầm tìm, lén tìm trong
lúc còn quân Minh. Đọc sử ai cũng thấy rằng từ ngày khởi
nghĩa đến ngày toàn thắng, Lê Lợi luôn luôn phải lo nghĩ
đối phó một mất một còn với quân Minh. Không biết đã
có lúc nào Lê Lợi được rảnh rang để nghĩ đến chuyện
sai người ngầm tìm di hài Lê Lai đem về táng ở Lam Sơn hay
ở đền Lam chưa?
Hoàng Xuân Hãn kết luận về
bài Thề nhớ ơn Lê Lai như sau
:
"(…) Được
nhận là xác thật, bài thề A (tức là bài Thệ Từ) khẳng
định thêm một vài sự kiện lịch sử. Câu Lê Lai hay hết
lòng vì trẫm mà đổi áo cho trẫm, xác nhận chuyện đổi
áo. Câu trẫm đã táng Lê Lai ở trong đền Lam chứng thực
sự Lê Lợi sai lén tìm di hài Lai về táng ở Lam Sơn mà ta
thấy chép trong Thông sử.
(…) Kết
luận đoạn này là có nhiều phần chắc rằng bài A (bài Thệ
từ) nhắc đúng lời Lê Lợi đã thề trước mặt các công
thần về việc báo ơn Lê Lai và đã bắt mọi người thề
theo". (HXH, tập 2, tr.613).
Thế nhưng:
Toàn Thư
(tập 3, tr. 76-78) và Cương Mục (tập
1, tr.864-866) lại cho biết :
"(Năm 1433,
tháng 8) Vua về Lam Kinh. Tháng 8 nhuận, sao chổi mọc ở phương
tây. Ngày 22, vua băng ở chính tẩm.
(…) Mùa
đông tháng 11 ngày 22, rước về chôn ở Vĩnh Lăng tại Lam
Sơn.
(…) Tháng
12, các quan theo hầu về Tây kinh, dựng điện Lam Sơn".
Điện Lam Sơn đọc nôm là
Đền Lam Sơn hay Đền Lam. Điện Lam Sơn được dựng sau khi
Lê Lợi chết, để thờ Lê Lợi. Chuyện Lê Lợi táng Lê Lai
ở đền Lam không thể xảy ra được. Có nhiều khả năng,
nếu không muốn nói là chắc chắn, là đời sau đã không
nhắc đúng lời Lê Lợi, đã chép thêm chuyện táng Lê Lai
ở đền Lam vào bài văn thề. Trừ phi ở Lam Sơn lại có hai
hoặc nhiều đền Lam!
*
Tóm lại, chuyện Lê
Lai cứu chúa có vài điều mờ ám, đáng nghi ngờ.
*
Cho rằng có hai hay bốn năm
ông đại thần Lê Lai, trùng tên trùng họ, cùng theo phò Lê
Lợi, là điều hơi khiên cưỡng, chỉ làm rắc rối thêm chứ
không giải thích được những điều thêu dệt, thậm chí
mâu thuẫn của các sử thần. Vả lại trong dân gian đã có
con cháu một đại công thần cho biết rằng ông tổ của họ
là Lê Lai "đã lấy thân thay Thái Tổ trong
cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại ". Có một ông
Lê
Lai cứu chúa không bị quân Minh giết !
Hay là ông Lê
Lai cứu chúa này chỉ bị trói bắt về tâu lên vua nhà
Minh. Ông "đã lấy thân thay Thái Tổ trong
cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại "? Quân Minh không
chiêu dụ được ông. Ông được hưởng chính sách ân xá
(hay được nghĩa quân Lam Sơn giải phóng?). Nhờ có công cứu
chúa ông được phong tư mã, một chức lớn thời Lê Lợi.
Năm 1427 ông phạm tội ăn nói ngạo mạn, bị Lê Lợi giết.
Đối với quân Minh thì Lê
Lợi "chưa từng giết bậy một người nào,
bắt được viện binh của nhà Minh hơn 10 vạn người đều
tha hết cả ", nhưng đối với các công thần, các nguỵ
quan về đầu hàng, thì Lê Lợi lại "đa
nghi hay giết, đó là chỗ kém" như Ngô Sĩ Liên đã đánh
giá.
Kháng chiến thành công, Lê
Lợi đã bắt giam Nguyễn Trãi một thời gian. Trần Nguyên
Hãn nhận xét rằng Lê Lợi là người "có
tướng như Việt Vương, không thể cùng sung sướng được".
(TS, tr.109).
Lê Lợi sai người bắt Trần
Nguyên Hãn khiến ông phải than trước khi tự tử :"tôi
với vua cùng mưu cứu dân. Nay việc nghĩa lớn đã hoàn thành
vua lại muốn giết tôi, hoàng thiên có biết xin soi xét cho"
(TS, tr. 190). Phạm Văn Xảo cũng bị Lê Lợi giết. Giết hai
ông rồi, "sau này vua Thái Tổ (Lê Lợi)
hối hận, thương hai người bị oan " (TS, tr. 193).
Rất có thể giết Tư mã Lê
Lai rồi Lê Lợi cũng hối hận, cũng cảm động vì lòng trung
nghĩa của Lê Lai nên đã cho tổ chức lễ thề nhớ ơn Lê
Lai. Từ đây trở đi, Lê Lai được tẩy oan, được phong thưởng,
truy tặng, được thờ. Con cháu Lê Lai được các vua đời
sau khen tặng v.v. như chính sử ghi chép.
Dân gian đặt câu
" Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi " cũng không ngoài mục
đích phục hồi danh dự cho Lê Lai bị giết oan, góp phần
làm đẹp thêm trang sử.
Giả thuyết trên đây cần
được các nhà sử học lưu ý, nghiên cứu thêm ngõ hầu làm
sáng tỏ chuyện ông Lê Lai cứu Lê Lợi và ông Lê Lai bị
Lê Lợi giết.
Bài phân tích của học giả Hồ Đắc Duy:
Chuyện Lê
Lai liều mình cứu chúa là một hành động hy sinh vì đại
nghiã rất đáng cho người đời sau ghi nhớ . Ở Thành Phố
H.C.M ,đại lộ Lê Lợi chạy từ Nhà Hát Thành Phố đến
Chợ Bến Thành, nối liền là đường Lê Lai chạy cho đến
Nhà Thờ Huyện Sĩ. Trong nhân gian cụm từ " Hăm mốt Lê Lai,hăm
hai Lê Lợi " cũng nói lên lòng kính trọng đối với ngày
giỗ của hai vị anh hùng này. Những vị cao tuổi bây giờ
, ngày xưa học tiểu học cũng đã từng học chuyện" Lê Lai
liều mình cứu chúa" .Trong "sử ký lớp ba" do sử gia Trần
Trọng Kim soạn, Nha Học Chính Bắc Kỳ ấn hành đã được
dùng làm sách giáo khoa dạy trong các trường . Nếu không nghiên
cứu thêm các sách sử khác mà cứ một mực tin theo như thế
và lòng tin ấy vẫn kéo dài hằng mấy mươi năm ,có thể
cho đến khi chết vẫn yên trí như vậy, không biết điều
đó có thật đúng như vậy hay không?
Với những người yêu môn sử học,có
nghiên cứu thì thấy chuyện này lại khác. Nhiều nghi vấn
được đặt ra:
* Lê Lai cứu chúa ở trận nào,
thời gian nào ?
* Ông có bị quân Minh bắt không
?
* Hay ông còn sống và sau đó chết
vì tay Lê Lợi ?
Về việc này mỗi nhà viết sử
viết một khác.
a. Theo Dực Tông Anh Hoàng Đế
(vua Tự Đức ) trong
Ngự Chế Vịnh Sử Tổng Luận cuốn
5 trang 49 ".....Có lần vua Lê Thái Tổ tiến đóng ở Lạc Thủy
bị quân nhà Minh vây sát, vua yếu thế, lén rút về ở núi
Chí Linh, giặc Minh rút lui để trở lại tấn công xứ Mỹ-Lộng,
sách Hà Đã.
Trong tình cảnh nguy khốn, quân ít
thế cô lại nhiều lần bị quân Minh vây hiếp, vua ban hỏi
các tướng lãnh"trong các tướng có ai bằng lòng đem mình
thay ta ra đánh ở Tây Đô để làm mồi nhử cho giặc bắt,
trường hợp đó ta sẽ rảnh tay chiêu tập quân sĩ để sau
này mưu đồ đại sự."
Lê Lai liền tình nguyện đảm đương
việc này bèn xuất binh đến thành Tây Đô khiêu chiến và
mặc áo Ngự bào, tự xưng Bình Định Vương. Quân giặc trông
thấy người mặc áo vàng tưởng là Bình Định Vương thật,
bèn đem hết quân đến vây và bắt sống; đem về rồi giết
... Nhờ thế Bình Định Vương được nghỉ ngơi vài năm để
lo tích dưỡng binh đội mà quân Minh không hề để ý đến.
b. Theo Ngô Thì Sỹ trong Việt
Sử Tiêu Aùn trang 298 thì " ... Trước Vương khởi binh ở
Lam Sơn, thế quân kém và ít, người Minh lùng bắt mãi, bèn
mưu cùng tướng tá rằng ai có thể đem thân ra thay ta, để
cho ta đi ẩn nấp, giấu tông tích mà cho quân nghĩ để mưu
đồ cử binh lần sau. Lê Lai xin đem thân nhận lấy việc ấy,
Vương lạy khấn trời nói ; "Lê Lai đem thân mà thay chúa,
nếu sau này không nhớ đến công, nguyện cung điện hóa thành
rừng núi, bảo ấn hóa thành đồng, thần kiếm hóa thành
dao cùn". Lê Lai liền tự xưng là Bình Định Vương, khiêu
chiến với quân Minh rồi chết. Đâu cũng truyền đi là Bình
Định Vương đã chết. Người Minh cũng tin là thật không
lưu ý. Đến lúc này Vương rời đồn đến Mang Thôi, ....
Lý Bân Phương Chính (tướng Minh) đem 10 vạn quân đến vây
.Vương phục binh ở Thị Lang tập kích địch....".
c. Theo Phan Huy Chú, trong Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí trang 332, chỉ nói Lê Lai vì
nước bỏ mình... cho nên không riêng chép ra mà chỉ nhân thể
chú phụ vào sau thôi - trong phần chú thích có ghi "Lê Lai là
người làng Dụng Tú huyện Lương Giang. Lúc mới khởi binh
bị tướng Minh vây chặt, vua hỏi các tướng bàn xem đổi
áo đánh lừa giặc như việc Kỷ Tín ngày xưa, Lê Lai xin đi
bèn mặc áo bào đem quân xông vaò hàng trận của giặc, đánh
đuối sức và bị bắt , vua nhân dịp này trốn thoát.
d. Theo Lê Quý Đôn trong Đại
Việt Thông Sử "... Đóng ở Mang Cốc trong núi Linh Sơn
hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ dư lương làm
bữa ăn rất là khốn đốn. Hoàng Đế bèn hỏi các Tướng:
"có ai dám bắt chước Kỷ Tín thời xưa không ?". Người ở
thôn Dụng Tú là Lê Lai khẳng khái vâng mệnh, tự nguyện
thay đổi mặc áo bào nhà vua,xưng là vua Lê Lam Sơn, dẫn quân
ra đánh quân Minh, quân Minh mừng rỡ liền dồn cả lực lượng
vây chặt Lê Lai, ông chống cự đến kiệt sức rối bị bắt,
quân Minh dẫn ông về thành Đông Quan giết chết, chúng liền
lui binh, ta thoát nạn...
e. Trong Việt Nam Sử Lược
của Trần Trọng Kim thấy viết " ... về Chí Linh lần
thứ hai tháng tư năm Kỷ Hợi (1419) quan nhà Minh biết rằng
Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới bèn đem binh đến
vây đánh, Vương bị vây nguy cấp lắm bèn hỏi các tướng
rằng có ai làm được như Kỷ Tín ngày trước chịu chết
cho vua Hán Cao không? Bấy giờ Lê Lai liều mình vì nước xin
mặc áo bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà
Minh tưởng là Bình Định Vương thật xúm nhau lại vây đánh,
bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.
f. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí
lại viết " ... Lê Lai người thôn Dựng Tú huyện Thụy Nguyên,
Thái tổ khởi nghĩa bị quân Minh vây hãm, các tướng bàn
mưu cho một người mặc áo bào giả làm Bình Định Vương
để đánh lừa giặc theo như việc cũ của Kỷ Tín nhà Hán,
Lê Lai xin làm việc ấy vì vậy Thái tổ mới lén ra đi năm
Thuận Thiên thứ nhất được tặng thái ký..."
g.Trong Đaiï Việt Sử Ký Toàn
Thư, cuốn thứ X có lẽ do Phan Phu Tiên viết là chính sau
này các sử quan khác như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm
Công Trứ, Lê Hy nhuận sắc thêm thì chỉ có ghi theo biên niên
các trận đánh mà ở đó Lê Lợi khốn đốn vì bị vây hãm
và hết lương.
1. Mùa xuân tháng giêng
ngày Canh thân, vua khởi binh ở Lam Sơn (1418) , ngày mồng 9
tháng ấy bọn nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem đại binh tới
uy hiếp vua ở Lam Sơn, vua bèn lui quân đến đóng ở Lạc
Thủy, ngày 13 dời quân đến núi Chí Linh. Ngày 16 giặc đi
lối tắt đánh úp đằng sau vua bắt mất gia thuộc của vua
và rất nhiều vợ con của quân dân. Tháng 2 vua hết lương,
không còn gì để nổi lửa gặp khi giặc lui quân bèn về
đắp thành ở đất Lam Sơn.
2. Tháng 4 năm Kỷ Hợi
(1419) vua đánh đồn Nga Lạc, tháng 5 đóng ở sách Đà Sơn,
quân Minh tiến đánh vua phục kích ở Mường Chách... ít lâu
sau dời sang Mường Thôi rồi lại về Vu Sơn.
3. Tháng 10, năm Canh Tý
(1420) quân ta đánh nhau với quân Minh ở Mường Nanh.
4. Từ năm 1420 - 1422
lúc nào cũng có giao tranh với quân Minh.
5." Mùa đông tháng 12 năm Nhâm
Dần (1422) quân ta bị giặc Minh vây ở Sách Khôi, vua
bảo các tướng sĩ " giặc vây ta bốn mặt, có muốn chạy
cũng không có lối nào thoát. Đây chính là tử địa mà binh
pháp đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết.
Vua nói xong chảy nước mắt, các tướng sĩ đều xúc động
tranh nhau liều chết quyết chiến....Vua đem quân về đóng
ở núi Chí Linh, quân lính hết lương, hơn 2 tháng chỉ ăn
rau củ và măng tre mà thôi, vua giết 4 con voi và cả ngựa
của mình cưởi để nuôi quân sĩ...."
Từ trận đó cho đến khi toàng
thắng giặc Minh vào năm 1428 không có trận nào mà Lê Lợi
bị vây khốn nữa.
Theo như lời của vua Tự Đức có
lẽ việc Lê Lai đổi áo bào cho Lê Lợi là trong trận ngày
16 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418) hoặc tháng hai năm đó -
xứ Mỹ công sách Hà Đã có lẽ là vùng thượng lưu sông
Chu, phía trên Lam Sơn.
Theo Ngô Thời sĩ thì có lẽ hành
động của Lê Lai được thực hiện trong trận tháng 5 năm
Kỷ Hợi (1419) khi quân Minh tiến đánh Lê Lợi ở sách Đà
Sơn.
Còn Phan Huy Chú thì không ghi rõ
địa điểm cũng như thời gian của việc này.
Lê Qúy Đôn thì ghi "đóng quân ở
Mang Cốc trong núi Chí Linh hơn 10 ngày hết lương..." và hành
động mặc áo bào của nhà vua xưng là Lê Lam Sơn có thể
vào mùa đông tháng 12 năm1422 trong khi đó Trần Trọng Kim thì
ghi rõ là tháng 4 năm1419.
Một điều đáng ngạc nhiên là
sử gia các đời về sau đều chép truyện Lê Lai liều mình
cứu chúa .Trong khi nhóm sử thần đời Lê lại không ghi chuyện
này.Trong Đại Việt Sử Ký Tòan Thư phần bản kỷ , quyển
số 10, trang 27b chỉ thấy chép : "Ngày 13 tháng giêng năm
Đinh Mùi (1427) giết Tư Mã Lê Lai , tịch thu gia sản vì Lai
cậy có chiến công nói năng khinh mạn "
Điều này cho phép ta hiểu rằng
chuyện Lê Lai đổi áo giả làm Lê Lợi là có thật nhưng
ông đã may mắn thoát khỏi tay quân giặc để trở lại hàng
ngũ kháng chiến .Nghĩa là ông vẫn còn sống cho đến năm
1427 tức là 8 năm sau mới bị Lê Lợi ra lệnh giết chết
" Điểu tận cùng tàng" chim hết
thì cung tên xếp xó; thỏ hết thì chó săn bị bắt ra làm
thịt, việc giết công thần sau khi đã làm nên nghiệp lớn
là việc thường xảy ra dưới thời đại phong kiến.Hán Cao
Tổ giết Hàn Tín, Việt Vương Câu Tiễn giết Văn Chủng ,
Phạm Lãi nhờ trốn sang nươc Tề rồi vào đất Đào, cải
tên là Đào Chu Công mới may còn sống sót.
Theo nhận xét của các tác giả
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư ,quyễn X ,trang 75b viết : "Thái Tổ
từ khi lên ngôi đến nay,thi hành chính sự thực rất khả
quan....song đa nghi hiếu sát là chổ kém ". Khi thành công
trong việc giành lại độc lập - Lê Lợi đã giết chết
nhiều công thần đã sát cánh cùng mình trong gian khổ chiến
đấu. Ngày 10 tháng giêng Mậu thân ( 1428 ) giết Trần Cảo,Năm
1429 giết Trần Nguyên Hãn , Năm 1431 giết Phạm Văn Xảo ...
vì lo rằng sau này họ có chí khác nên bên ngoài thì đối
xử theo lẽ tiết hậu nhưng trong lòng lại rất ngờ vực.
Lê Lợi đã ra lệnh giết chết
Lê Lai cũng nằm trong ý đồ này
Thêm một yếu tố xác định việc
thanh toán này là trong danh sách ban biển ngạch công thần cho
93 người vào ngày 3 tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429 ) không có tên
của Lê Lai và suốt các đời vua Lê về sau trong các lần
phục hồi công trạng cho các công thần bị hàm oan cũng không
thấy có tên Lê Lai mà chỉ nói đến tên của Lê Lâm và Lê
NIệm là con và cháu nội của Lê Lai mà thôi.Mãi cho đến
năm Nhâm Tý (1672) Lê Gia Tông niên hiệu Dương Đức năm thứ
nhất mới thấy phục hồi cho Lê Lai hạ .Lê Gia Tông hạ chiếu
giảm bớt ruộng thế nghiệp của các công thần thời Lê
sơ, ngoại trừ Lê Lai (sách Biên Niên Lịch Sứ Cổ Trung Đại
Việt Nam trang 320 )
Giết một người đã chết thay
cho mình ,để mình được sống mà bảo tòan lực lực lượng,đổi
nguy thành an, sau này lên ngôi Hòang Đế ; giết mà còn tịch
thu gia sản sau khi đã thề thốt nặng lời " Lê Lai đem
thân mà thay chúa , nếu sau này không nhớ đến công, nguyện
cung điện hóa thành rừng núi , bảo ấn hóa thành đồng,
thần kiếm hóa thành dao cùn " quả Lê Lợi đã làm một
việc thật là......... Nếu các tác giả Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư ghi chuyện" Lê Lai liều mình" và sau đó còn ghi việc
Lê Lai bị giết thì khác nào bêu xấu Lê Lợi ,điều mà các
vua Lê không lấy gì thích thú .Có thể các sử gia có chép
chuyện "Lê Lai đổi áo" vì rằng đó là một sự kiện đáng
tự hào, không thể không ghi, nhưng khi dâng vua xem thì e rằng
vua hạ lệnh "biên tập " đi chăng !
Còn tại sao các sử gia như Lê Qúy
Đôn, Trần Trọng Kim và ngay cả vua Tự Đức không ghi việc
Lê Lợi giết Lê Lai vào năm 1427 là vì họ đã cho giặc Minh
bắt và giết Lê Lai ngay lần cứu chúa vào năm 1419 rồi còn
đâu nữa ! Chỉ có Ngô Thì Sĩ là không ghi ai đã giết Lê
Lai , còn Phan Huy Chú thì chỉ nói khaí quát là "Lê Lai vì nước
bỏ mình"...
Trong sách Lịch Sử lớp 7
của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ấn bản lần thứ 9 tháng
7/1996 đang được dạy tại các trường Phổ Thông, trang 69
viết: " Trước tình thế hết sức nguy hiễm,Lê Lai liền cải
trang làm Lê Lợi chỉ huy một đội quân cảm tử xưng là
chúa Lam Sơn, xông thẳng vào vòng vây của địch.Quân Minh
dồn hết sức hướng về phía Lê Lai . Chúng bắt được Lê
Lai và đội quân cảm tử đem giết hết."
Một câu hỏi cần thiết phải đặt
ra: Có nên sửa lại bài học lịch sử này hay không ? và
nếu không thì phải giải thích chuyện Lê Lợi ra lệnh giết
Tư Mã Lê Lai vào ngày 13 tháng giêng năm Đinh Mùi (1427 ) như
thế nào ? Rất mong được các bật cao minh đóng góp ý
kiến ,nhất là các nhà sử học
Sưu tầm: Bài phân tích của học giả Nguyễn Dư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét