Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Gió lửa (Phần 2) - Nam Giao

Chương 8
Nước đục

Gió ngã ba sông vào buổi đầu hạ đã thoáng chất nồm thổi từ phía Nam về. Cơn lụt lội tháng trước vứt lại những đụn đất rải rác trên mạêt đồng còn sũng nước nằm nghiêng nghiêng xoãi xuống triền sông. Nắng sớm trong veo. Gió lao xao trên đầu những bụi tre già thân óng màu ngà, đu đẩy đùa nghịch với đàn bướm trắng ở đâu bay lại. Xa xa, dăm chiếc nón ba tằm ẩn hiện thấp thoáng, nhắc nhở đời sống triền miên nhẫn nhục của những con người lại vừa trải qua một cơn cơ cực, nhưng chẳng làm sao hơn được là tiếp tục bám vào đồng nội trơ trơ lớp đất vừa bồi trông lì lợm thách thức. Nhật để tay lên vai Du, ngần ngừ :

- Rẽ trái, theo triền nước sông Luộc xuôi xuống thì quãng non một ngày đường là tới Quỳnh Côi.

Bần thần nhìn theo dăm con chuồn kim đáp xuống mặt sông lăn tăn nước, Du xa vắng thốt lên :

- Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.

Ðẩy cho Du bước lên đường, Nhật vừa nói vừa cười, giọng bùi ngùi :

- Thôi nhé. Ta sẽ chuyển lời thăm thầy cho.

Ðợi cho đến khi bóng Du chỉ còn thấp thoáng trong đám ruộng xanh non xa tít, Nhật mới xốc lại tay nải, thẳng bước về hướng Thanh - Nghệ. Chiếc nón mê úp che nửa mặt, chàng cắm cúi bước, lòng mong sớm về Bùi Phong.

Hai ngày sau, Nhật đã đến chân đồi. Chàng lẳng lặng tìm suối nước đã tắm gội chàng suốt một thuở niên thiếu, vục đầu xuống uống cho no nê, rồi rửa mặt mũi, miệng hát nho nhỏ những câu hát trẻ thơ. Một đàn bướm trắng ở đâu bay ra, vờn trên những ghềnh đá non chào kẻ trở về, rồi lại thấp thoáng chập chờn lẩn sau những bụi rạc mọc chĩa ra ven bờ suối. Ngồi trên bờ cỏ, Nhật thở ra khoan khoái, nhìn về phía đám mây trắng đang vờn trên đỉnh núi Thiên Nhận. Chàng bứt một cọng cỏ bỏ lên miệâng cắn, vươn vai hít đầy lồng ngực mùi thơm của cỏ cây quen thuộc, rồi xách tay nải cắm cổ chạy một mạch lên đồi.

Toàn Nhật về Bùi Phong chưa được một tuần trăng thì có người do Trần Danh Kỷ phái đến hỏi dò xem Trọng Thức đã lên đường vào Ðàng Trong chưa. Thời gian đó, tính ra lúc Thức chia tay với Nguyễn Thiếp và Ngô Thì Nhậm thì đã quá nửa năm rồi. Ðặng-thị lo âu, thở dài nói như than :

- Ðường vào có tiếng là lắm hổ báo. Hay là ...

Quay sang Thiếp, bà nhỏ nhẹ :

- Thầy nó lại xem cho một quẻ đi !

Thiếp bước ra vườn chè, tay rút một đọt lá, nhìn chăm chú. Ðặng thị đến sau lưng hỏi :

- Thế nào ?

- Quẻ Lữ !

- Lại quẻ Lữ ?

Nhìn Thiếp lặng lẽ gật đầu, Ðặng-thị nhớ lại ngày nào Hà công lên Bùi Phong với cả bầu đoàn thê tử và xác cô con gái vắt nằm ngang trên lưng ngựa. Hôm ấy, Thiếp cũng bói ra quẻ Lữ, rồi chỉ đường cho Hà công đi về phía Nam, tìm chỗ cho đủ lửa đặt mả họ Hà cho rồng bay lên. Ðặng-thị lại văng vẳng nghe, sau quẻ Phong là Lữ, nghĩa là đã đến lúc đi làm khách. « Tượng viết, Sơn thượng hữu hỏa, Lữ quân tử, di minh thân, dụng hình, nhi bất lưu ngục. Bắt chước núi có lửa soi, làm việc bằng hình luật, soi xét minh đoán, phán quyết cẩn thận. Cứ lấy hai chử Trung, Nhu làm bùa hộ thân. Muốn vượng phải lấy lòng trung thực làm gốc ».

Ðặng-thị bỗng xót xa cho Thúc Khải, đứa con bị Hà công cướp mang theo. Nay Thúc Khải ở đâu ? Tiếng Hà công ngày xưa quát lại vang lên : «... nếu nghiệp Ðế mà thành thì nó sẽ được phong Vương, còn không ta xé xác nó ra băm thành trăm mảnh. ». Ðàng Trong đã có Nguyễn Nhạc xưng Ðế bảy năm rồi ! Liệu Nhạc có phải là dòng dõi họ Hà ? Ứa nước mắt, Ðặng-thị nhìn về phía Nam rồi lặng lẽ bỏ vào nhà. Bà đến cạnh Nhật,
miệng nhỏ nhẹ :

- Mợ lo cho Thức, có lẽ con phải vào trong đó xem sao ?

Tối hôm ấy, Ðặng-thị kể cho Nhật nghe về Thúc Khải. Khi bị bắt đi, Khải mới chưa đầy ba tuổi, sau gáy có
một cái bớt đỏ to bằng nửa bàn tay. Ðặng-thị nhắc đi nhắc lại :

- Nhân tiện, con xem có ai có vết bớt đó không. Nếu quả Nhạc gốc từ họ Hà, thì để ý đám vương hầu, nếu Khải còn sống ắt là trong số đó !

Nguyễn Thiếp ngồi nghe, trầm ngâm, lắc đầu :

- Hãy khoan, đừng vội. Nay Phạm Ngô Cầu ở Phú Xuân có Hoàng Ðình Thể là tướng.Thể lại cũng là tâm phúc của Hoàng Tế Lý. Việc Toàn Nhật dãn binh Nội Phủ không cứu Lý chẳng phải là chuyện bí mật gì. Vậy Thể sẽ đối xử ra sao với Nhật ?

Ðặng-thị cắt ngang, giọng có chiều bực bội :

- Nhật có vào PhúXuân khai tên ra đâu màsợ !

Thiếp ngẩn người ra trước lý lẽ hiển nhiên của vợ, ngượng nghịu hớp sạch chén trà, rồi nhìn đăm đăm vào đáy chén, vẻ như muốn tìm ra quẻ dịch từ hình thể cặn trà bám lại. Ðặng- thị nhìn Nhật:

- Con có định đi không ?

Nhật gật đầu. Ðứng lên, Ðặng-thị khêu đèn, miệng nửa đùa nửa thật :

- Thầy nó chắc lại tìm ra quẻ Lữ rồi nhỉ !

Chưa dứt lời, một tiếng chó tru lên kéo dằng dặc nghe nổi gai ốc. Thiếp nhồi thuốc vào điếu, lấy chiếc đóm châm lửa, miệng lẩm bẩm :

- Lại tru lên gọi ma ...

Rít thuốc sòng sọc, Thiếp từ từ thở ra, mắt lim dim, tay đánh nhịp xuống mặt bàn, bâng quơ :

- ... Danh Kỷ cho người đi tìm Nguyễn Huy Tự ở Trường Lưu. Ta có thơ mời Tự ghé đây. Con có đi, cứ thư thả xem Tự có vào cùng hay không !

Chó lại tru lên, lần này hàng loạt, hết con này đến con kia. Toàn Nhật lẩm nhẩm « ... thời buổi ma quỉ
nhiều thế này, gọi một lần là đủ, việc gì phải tru lên lắm thế ».

Ðợi thêm nửa tháng, người do Kỷ phái lên Bùi Phong báo rằng Tự từ tạ đi trước, và nay đang trên đường đến Bùi Chu. Toàn Nhật vội vã xuống trại theo ngay, và chỉ tối hôm đó là bắt kịp Tự, kẻ vang danh một thuở là đệ nhất tài danh xứ Nghệ.

Tự tầm vóc trung bình, mặt xương, mắt sâu, mũi cao và nhọn như mũi chim, miệng lúc nào cũng trễ xuống vẻ khinh mạn, hơn Nhật chắc chừng một giáp. Lúc giới thiệu xong, Tự thân mật nói :

- Chú đi cùng cho vui. Kỷ cũng mời chú à ?

Nhìn Nhật lắc đầu, Tự đùa :

- Thế vào Ðàng Trong kiếm tí công danh ư ?

Lại lắc đầu, Nhật đáp :

- Ðệ vào tìm người anh tên là Trọng Thức.

- À, cái anh chàng thầy đồ « cứng cổ » ấy! Cũng là cố tri của ta, mình cùng đi tìm hắn vậy ...

- Nguyễn huynh vào gặp Kỷ ? - Toàn Nhật vui miệng trả miếng - Chắc rắp tâm kiếm tí công danh ?

Cười lên ha hả, Tự vỗ vai Nhật :

- Cũng chẳng biết được. Nhưng người ta muốn gặp là giáo Hiến để hỏi itù câu chuyện.

Nhìn ánh mắt dò hỏi của Nhật, Tự tiếp :

- Giáo Hiến xưa bỏ Chúa Nguyễn vào Qui Nhơn mở trường dạy học, có Huệ và Lữ là học trò ... Không có
Hiến thì chắc Biện Nhạc vẫn còn xuôi ngược đi buôn trầu nguồn chứ đâu lại thành ông « vua Trời » như ngày nay. Cái lược « giận quốc phó ra lòng bội bạc » là lược giáo Hiến đấy ...

Thoáng thấy kẻ dẫn đường chợt nhăn mặt, Tự im ngay, nói lảng sang hỏi thăm sức khỏe Nguyễn Thiếp. Lát sau, Tự khéo léo nhờ người đó về trước nhắn hộ Kỷ là vì có việc riêng, Tự sẽ tới Qui Nhơn muộn dăm ngày. Nhìn người dẫn đường thấp thoáng cuối dốc, Tự thở ra :

-Như thế này mình tự nhiên hơn, nói chuyện với nhau cho sướng miệng, chẳng phải e dè kiêng cữ gì.

Theo con đường dọc biển, Tự và Nhật đi vào, vừa đi vừa nghỉ, đến đêm lại đậu lại ngủ ở những ngôi chùa rải rác trong các thôn làng. Qua khỏi Bố Chính, sự khác biệt với Ðàng Ngoài bắt đầu khởi nét. Ðồng ruộng hẹp, đất lẫn sỏi cằn hơn, lúa mọc cao không vượt quá được đầu gối. Mươi năm trước, sau khi chiếm lấn Phú Xuân, Chúa Trịnh đã ra lệnh bắt dân ăn mặc như Ðàng Ngoài. Tuy vậy, vẫn còn nhiều người giữ nếp cũ, y phục giống Trung Quốc, lại lẫn lộn với y phục Chàm, màu sắc rực rỡ hơn. Tự bảo :

- Chú xem, cách đây gần trăm năm chúa Nguyễn Phúc Chu năm Nhâm Ngọ đã sai người xin cầu phong với nhà Thanh làm phiên thần như vua Lê. Ðến con là Võ Vương năm Mậu Ngọ, lại bắt dân đổi phong tục, trang phục bắt chước hệt như Trung Quốc... Cái ý đồ chia cắt thành hai nước Nam, Bắc trên đất Ðại Việt này đã manh nha từ xưa nơi đám người nắm giữ quyền thế. Buồn cười thay, Ðàng Trong muốn thành một nước riêng, lại xây cái nước ấy trên một mẫu mực ngoại bang.Trước mắt thì quả có lợi, dùng sức ngoài để ép vua Lê - chúa Trịnh. Nhưng dài hạn, làm thế thì chính mình đi trước đọat bản sắc của mình, biến mình thành quận huyện Trung Quốc, dân mình thành dân Trung Quốc ... Hà hà, rõ là thiển cận : cái nước riêng ấy kết cục thành của người ta. Từ cổ chí kim, sự tồn tại của một quốc gia chính là sự tồn tại của một nền văn hóa cá biệt. Ðám thế quyền xưa nay chỉ nhìn thấy đất đai, biên cương. Vì sao? Là vì có ruộng, có rừng. Và có dân nai lưng làm ruộng làm rừng để đóng thuế cho vua quan, củng cố thế quyền đã sẵn đấy ...
Nhật ngắt lời Tự :

- Văn hóa Ðại Việt ta thì khác gì văn hóa Trung Quốc ? Cái trật tự xã hội, luân lý trong dân gian chẳng phải là cũng từ Nho giáo mà ra à !

- Nho giáo ? Ðúng, nhất là đám quan lại trung gian giữa vua chúa và nông dân. Ðó là một thiểu số đi học đỗ đạt, được thế quyền lựa vào để cai trị dân.

Nhìn lên trời, Tự như nói với chính mình :

- Ðám trung gian đó chẳng qua chỉ lập lại lời xưa, vong thân, tha hóa cho cái công cụ của thế quyền. Nhưng văn hóa rộng hơn là mớ chữ nghĩa thi phú và dăm lề luật gắn vào miệng thánh hiền.Văn hóa bao gồm cách sinh sống làm ăn, cách vui đùa hội hè…tóm lại, là cách sinh tồn. Cứ lấy ca dao ra xem, tất biết phần lớn văn hóa dân gian: họ đâu có lập lại luân lý của ông Khổng, ông Mạnh, ông Trình, ông Chu.

Nắm cánh tay Nhật, Tự trầm giọng :

-...Họ chống lại là đằng khác, chống lại bằng cách vạch ra cái giả tạo giả hình ... Ðồng bằng sông Nhị cằn cỗi rồi, lại sưu cao thuế nặng, dân phiêu tán vào trong. Thế quyền nương theo, chiếm lấy Chàm. Dân lại tiếp tục đóng thuế, nai lưng ra, và sống cùng điều kiện với những kẻ mất nước. Tự nhiên, họ hòa đồng với nhau. Ở Bố Chính này, dân ta gốc là Thanh - Nghệ. Họ thay đổi áo quần, lấy phần này là người Chàm, phần kia của người Kinh, và đến khi bắt buộc phải ăn mặc y phục kiểu Tầu, họ cũng lại linh hoạt chế biến ra một thứ tổng hợp mới. Ðấy, biểu hiện của một sinh khí dẻo dai là thế ... Ðến đâu, nông dân linh động uốn mình vào đất đai, vào con người bản địa, vào phong tục mới để sinh tồn với một tổng hợp giá trị và thực tế, tạo ra nếp văn hóa mới. Nó sống động, không ù lì như mớ chữ nghĩa trong kinh sách của Nho giáo. Nho giáo chỉ chạy theo, rồi bằng chế độ quân chủ chuyên chính, áp đặt khuôn mẫu cũ vào những người dân.

Tự ngưng nói, chép miệng, rồi đăm chiêu một lát. Nhìn theo những cánh chim lượn trên trời cao, Tự lẩm bẩm :

- Chúa Nguyễn hơn trăm năm nay đã làm thế. Nhưng ngày nay, ta tự hỏi, Tây Sơn liệu có thể sẽ khác đi không ? Và khác đi thì khác như thế nào ?

Tránh đường bộ qua Thuận Hóa, Tự và Nhật tìm thuyền buôn ven biển đi nhờ vào Nam - Ngãi. Nhà thuyền người Thanh Hóa, làm cho những tay lái ở hai trấn Thanh - Nghệ, chở vải vóc và vật dụng bằng sành vào bán. Khi ra Ðàng Ngoài, họ lại mua trầm, hương, sừng tê, ngà voi, vây yến và trầu nguồn. Nhìn trời nước mênh mông, Tự bâng quơ :

- Từ Ngoài vào Trong, có đi lại với nhau thì mới học hỏi, giao hòa được kiến thức của vùng này với vùng kia. Tổng hợp văn hóa làm nền tảng cho một quốc gia chỉ thành hình khi có giao lưu. Ðường biển ở Ðại Việt ta sẽ giữ vai trò thống nhất đất nước. Ðường bộ thì gian nan quá, chỉ một khi đã thống nhất mới có thể ổn định, đặt ra trạm ngựa, trạm nghỉ, lúc thanh bình mà thôi…

Chợt người trèo buồm trên thuyền chen vào :

- Ông bảo thế, hóa bọn thương dân chúng tôi đang lập công lớn đấy ! Thế mà sao sổ toẹt chúng tôi xuống dưới cùng ? Này nhé, sĩ đến nông, công rồi mới đến thương. Hết gạo chạy rông, thì nhất nông nhì sĩ.Khi đói, người ta đến cướp bóc đám thương nhân, lột cho đến trần truồng, lắm khi đuổi đi tha phương cầu thực ...

Nhật ngạc nhiên ngẩng lên nhìn. Người ấy tiếp :

- Các tay lái nếu có thuê tráng đinh trang bị giáo mác để phòng vệ thì quan quân gọi là giặc ngay. Thế là lại phải lụy vào các quan Trấn Thủ, quan Phủ, quan Huyện. Chia chác cho vừa lòng, thì sống. Không, thì cướp. Chính tôi đây, phá sản lần cuối là lần thứ ba rồi, mỗi lần đều trắng tay nên cứ lại phải làm lại từ đầu.
Tự lắc đầu, nhìn ra xa. Một lúc sau, Tự thủng thẳng :

- Rồi thì sẽ đổi. Tây Sơn với Nhạc, Tập Ðình là đám thương dân. Ở Phú Yên, Chu Văn Tiếp cũng là thương dân ... Cống Chỉnh từ Ðàng Ngoài vào với Nhạc cũng gốc con buôn, cha hắn là tay lái nổi tiếng ở Nghệ. Họ đang làm loạn để đổi đời. Tầm nhìn của họ liệu có khác đám Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất xưa kia kéo nông dân dấy binh thì còn phải chờ xem !

Quay sang Toàn Nhật, Tự hỏi :

- Ðệ hẳn có biết Chỉnh ?

Nhật thuật lại lần gặp Chỉnh ở Phố Hiến khi Chỉnh đón Hoàng Tế Lý đưa về Kinh. Tự trầm ngâm :

- Chuyện đệ không cứu Lý, ai cũng biết. Liệu có vì thế mà Chỉnh, hiện là một cánh tay đắc lực của Nhạc ở
Qui Nhơn, để tâm không ?

Cúi đầu suy nghĩ, Nhật ngửng lên lắc đầu.

- Tại sao ?

- Nguyễn huynh nghĩ xem. Sau khi Hoàng Tế Lý chết, tại sao Chỉnh không kéo quân về hàng chúa Nguyễn mà lại ra Qui Nhơn với Nhạc? Hàng Nguyễn, chắc chắn sẽ theo nếp cũ, Chỉnh lại quan nha bổng lộc. Theo Nhạc, hắn thành giặc. Chỉnh làm giặc vì Chỉnh có tham vọng khác người. Ðường đường là ông cống, rồi ông quan Ðàng Ngoài, bụng hắn coi thường chúa Tây Sơn. Hắn tính toán không tẹp nhẹp, xưa phò Tế Lý là để làm bàn đạp đi xa. Khi Lý chết, hắn đã xúi bẩy mang quân Thanh - Nghệ về dẹp Kiêu binh nhưng đám quan hai Trấn sợ sệt không dám. Vì thế, hắn mới vào Qui Nhơn, chắc cũng lại tính toán đường về Bắc hà một ngày nào đó thôi. Hắn thế, đâu có để tâm vào những chuyện thù hằn vô bổ !

Tự gật gù :

- Ừ, hắn ví mình như chim Bằng, lẽ đâu lại xử sự như con quạ được.

Nhật nghe lơ đãng, mắt nhìn theo hai chiếc thuyền chở muối đi ngược chiều ra Ðàng Ngoài. Tự bỏ ra đầu thuyền, tò mò thăm hỏi công việc bán buôn, thỉnh thoảng lại cười ha hả.

Khi thuyền sáp vào đầm Nước Ngọt, mặt trời sà xuống biển như một chiếc nong lửa, vất lại trên sóng nước bao la những ráng hồng tía lịm dần trong màu xanh đen thăm thẳm. Nhìn vào đất liền, những hàng dừa vươn lên cao, chao động trong gió chiều. Nhà thuyền hò nhau sửa soạn cặp bến. Trên bờ, thấp thoáng có bóng người giơ tay vẫy. Người giữ tay buồm trên thuyền tiễn Tự và Nhật xuống bến. Ông ta tay trỏ, miệng nói :

- Ði chếch về bắc, là Phù Lý. Xuôi xuống nam là Phù Cát, rồi Thốc Lốc. Trời sắp tối, hai ông cứ đường chính mà đi, tới Phù Cát là vừa.

Tự và Nhật lần đến một dãy nhà phía đông chợ Qui Nhơn. Tìm đến căn chỗ đối diện một cây dừa, đúng như lời dặn dò, hai người dừng lại, Tự xốc khăn, sửa áo rồi nhẹnhàng gõ cửa. Một người già nua thò đầu ra, mắt nhướng lên, nhìn dò hỏi.

- Phiền lão ông, đây có phải là nhà ông Kỷ ?

Khịt khịt mũi, rồi lại nhìn Tự và Nhật từ đầu đến chân, ông lão lắc đầu, vừa sẵng giọng vừa sập cửa :

- Không biết Kỷ là ai cả. Ði đi !

Ngẩn người ra nhìn nhau, Tự bảo Nhật : « Lạ nhỉ ? ». Nhật kéo Tự đi ngược về phía chợ, chép miệng nói :

- Chắc họ chỉ nhầm nhà. Hỏi lại cho kỹ, ta lại tìm chiều nay.

Hai người kéo nhau vào ngồi trong một cái quán ngay ven chợ, Nắng chói đã lên ngang đọt dừa, chụp xuống những mái gianh sáng lóa. Mồ hôi vã ra như tắm, Tự lấy khăn lau mặt, rồi nâng cốc nước dừa uống một hơi. Nhật nhìn quanh quẩn. Dăm ba người trò chuyện nói cười với nhau trong góc quán. Một đứa bé tuổi chạc mười lăm đi vào ngồi xệp xuống cạnh bà chủ quán, một tay xòe ra hai đồng chinh, tay kia bốc chiếc bánh lá. Nó lẳng lặng bóc lá, ăn ngốn nghiến, rồi xin một bát nước. Tự lên tiếng :

- Ðây cũng chẳng khác gì cho lắm ở Ðàng Ngoài. Cũng nghèo. Ðược cái hàng dân trông vui vẻ hơn. Chú em để ý nhìn, đàn bà đông hơn đàn ông. Binh dịch ở Ðàng Trong có tiếng là nặng nề, lắm buổi cứ hai đinh lấy một lính ... Và xem ra thì dân ta chỉ một nửa, còn lại là Chàm, là Thượng. Này, y phục của họ nhìn rõ là lai ta, lai tầu vào cái gốc Chàm là chính.

Nhật vui vẻ chêm vào :

- Ta cũng phải bắt chước họ lấy khăn trùm từ đầu đến cổ che nắng. Nguyễn huynh có thấy lạ không, trời nắng thế sao họ lại choàng hai ba lượt áo thụng ?

- Ðể giữ cho thân nhiệt không đổi. Như thế họ không mất sức chống chỏi với cái nóng. Chú biết là dân du
mục ở sa mạc vùng ngoại Mông cũng ăn mặc như vậy không ... Hà hà, Tự đùa- còn chống với cái lạnh, cứ
cởi hết ra ...

Nhật bật cười phụ họa. Bước ra khỏi quán, hai người nghe tiếng thằng bé chạy theo gọi :

- Hai ông, đợi cháu.

Ðến bên Nhật, nó kiễng chân lên nói nhỏ :

- Hai ông tìm quan nhà cháu là Kỷ thì theo cháu. Chính lão bộc sai cháu chạy theo hai ông đấy.
Nhật và Tự đưa mắt nhìn nhau ra hiệu, chân bước theo thằng bé. Nó lầm lũi quay vào chợ, đi dọc theo những dãy bán rau, rồi vòng vèo một lúc mới ra cổng đi về phía Nam. Ðến ven sông Côn, thằng bé lẳng lặng kéo thuyền, vẫy hai người lên, rồi đẩy khỏi bờ. Lúc đó, nó mới nói :

- Quan nhà cháu ở tư dinh quan Tiết Chế ! Bên kia là An Thái, chỉ lát nữa là đến. Lão bộc gửi lời xin lỗi hai ông, gặp quan nhà cháu tất hai ông hiểu cho.

Tự nhìn Nhật, mỉm cười rồi bảo : «... chúng ta hiểu rồi, nói lại là lão chẳng cần áy náy làm gì. » Lên bờ, hai người vui vẻ hỏi chuyện nó. Nó kể :

- Sang năm cháu mười sáu, cháu sẽ đăng lính ông Long Nhượng !

- Mày không sợ chết à ?

- Không chết được. Lính ông được thoa thuốc, cung tên bắn không trúng, đao kiếm chém không đứt !

- Thế đi lính thì được gì ?

- Lập công lớn thì được lên cai, lên đội, rồi thành cơ thành úy không chừng. Này nhé, không phải Ðàng
Ngoài mới biết đâu. Trong này, bọn trẻ cũng nói « làm trai cho đáng nên trai. Xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài tan ... ».

- Mày đi lính, ai giúp đỡ cha mẹ mày cày bừa ?

- Cha cháu chết rồi, chết ở Gia Ðịnh khi đánh Vĩnh Trấn đấy. Còn mẹ cháu, mẹ cháu đi lấy chồng, mang theo con em nhỏ. Cháu đi ở đợ, đất đai đâu mà cày bừa.

Thằng bé nhảy quẫng lên múa tay, xoay một vòng, la lên như trong một vở hát bội.

- « Ðợi ngày ta mũ đáo thành công, dâng lên Ðức Vua mười thành, tám ải, thời ta sẽ về khoa đại đao giết thằng già dượng dám mang đồng bạc trắng ra ép buộc kẻ góa bụa trung trinh ... »

Nghe thằng bé hát, lòng Nhật bỗng tràn ngập một niềm thông cảm. Thì ra nó mang tâm sự u uẩn của đứa trẻ cha chết, mẹ đi thêm một bước, biết đâu chỉ vì phải kiếm người để chung lưng đấu cật mà sinh nhai.Nhật vỗ vai nó, bảo :

- Thuốc thoa không chống được cung tên đao kiếm đâu. Sau này, có dịp ta dạy cho dăm ngón nghề giữ thân.

Nó ngước nhìn Nhật, ánh mắt nghi ngờ, miệng cãi :

- Thiệt chớ, cháu thấy tận mắt mà ...

Vừa lúc đó, hai người lính mang dáo dài đầu có buộc tua đỏ bước ra hỏi. Một người vào báo, và chỉ chừng
dăm phút lại ra, theo sau là Trần Danh Kỷ. Kỷ reo :

- Nguyễn huynh, đường xá xa xôi mà đến được, quí hóa quá!

Quay sang Toàn Nhật, Kỷ nheo mắt :

- Lại có cả Võ tướng quân đi cùng, thế này thì là một cuộc hội ngộ nghìn năm một thuở. Chắc tướng quân còn nhớ Kỷ ngày đến qua dinh Khương Tả hầu ở Thăng Long ?

Không đợi trả lời, Kỷ quàng tay đẩy Tự và Nhật đi vào dinh quan Tiết Chế, miệng vui vẻ :

- Xin mời vào. Ðây là chỗ đệ tạm trú dăm bữa nửa tháng nữa thôi.

Thế là Tự và Nhật thành môn khách của Tiết Chế Nguyễn Lữ. Trạc tuổi Nhật, Lữ vẻ già dặn và trầm tĩnh hơn, lấy lễ đãi khách vừa tế nhị, vừa chu đáo. Khi Nhật hỏi, Kỷ đáp :

- Hai tháng trước, đã có Ðặng tiểu thư đến Qui Nhơn tìm Thức. Ở Qui Nhơn, chúng tôi đã dò xét nhưng tin tức vẫn chưa xác định được. Khi Thức vào đây khoảng tháng ba năm ngoái, tôi theo hầu Tiết Chế và Long Nhượng tướng quân chinh chiến trong Gia Ðịnh. Lúc ra, không thấy Thức đâu. Nay Ðặng tiểu thư về Nghệ, tôi đã hẹn là lành dữ thế nào tôi cũng báo một khi có xác tín ...

Lữ nghiêm nghị xen ngang :

- Võ tướng quân cứ yên chí, chính ta sẽ điều tra hình tích của Trọng Thức. Việc mời Thức theo quân vào Gia Ðịnh là có ý của ta, nên ta có trách nhiệm. Nhưng là đường đệ, Võ tướng quân có nghe Thức nói gì để lần dò ra không ?

Chau mày, Nhật ngần ngừ :

- Người anh của tôi có liên hệ đến giáo sĩ Sieyès và nhắc tới một trường đạo ở Mạc Bắc.

Xoa tay vào nhau, Lữ nhìn Nhật rồi chậm rãi nói :

- Trường đạo này do Liot đứng đầu đã tản qua Xiêm rồi ! Ðể việc tìm kiếm cho dễ, xin Võ tướng quân tả lại hình dáng của đường huynh cho.

Nhật bắt đầu nói, nhưng biết là tả như vậy thì làm sao nhận dạng được. Tự khề khà xin giấy bút, đưa tay vẽ theo lời Nhật. Vẽ xong, Nhật lắc đầu. Tự lại vẽ nữa. Nhật lại thở dài lắc đầu thêm một lần, nhưng khuyến khích « ... đã gần giống rồi ». Tự cặm cụi, mỗi lần sửa một nét lại hỏi Nhật « ... được chưa ? ».
Ðến lần thứ năm, Nhật reo « Ðây, đúng đây là Trọng Thức rồi». Lữ đưa tay lấy bản vẽ, ngắm nghía, rồi cười bảo :

- Tôi sẽ cho khắc, in ra chia cho lính mang yết trong doanh trại. Chắc thế nào cũng sẽ ra tăm tích.

Nhật vái tạ. Lữ lại cười :

- Võ tướng quân cám ơn suông thôi à ?

Lữ quay đi, nói với lại :

- Một lần vô tình tôi bắt gặp Võ tướng quân chỉ mấy miếng vật cho thằng bé gia nô nhà Trần Danh Kỷ. Người Tây Sơn vốn chuộng võ, phải chi ngài chỉ giáo thêm cho ít tráng đinh thì tốt biết mấy !

Ðến tháng chạp năm Giáp Thìn, Nguyễn Huệ mới quay về Qui Nhơn sau chiến thắng trận Rạch Gầm- Xoài Mút phá tan hai vạn quân Xiêm ở Gia Ðịnh. Dịp đó, Kỷ rời tư dinh quan Tiết Chế và rủ Tự theo. Toàn Nhật vẫn ở lại An Thái, tiếp tục việc đào luyện một nhóm du binh theo phương pháp chàng đã từng làm với đám lính Trịnh khi còn ở Thăng Long. Chính Lữ cũng xuống bãi quần thảo với đám du binh mỗi khi được rỗi. Lữ còn bàn thêm cách tiến thoái làm thế trận tam giác của Toàn Nhật mang tính động, có thể di chuyển tứ phía mà vẫn công thủ rất nghiêm mật. Gần gũi với Lữ hơn, Nhật một hôm bạo dạn nói :

- Việc Kỷ ở tư dinh quan Tiết Chế khi Long Nhượng vắng mặt, rồi Nguyễn Huy Tự và tôi cũng đến nhờ vả ngài, lờ mờ cho thấy rằng Ðức Vua chắc không coi Kỷ là người nhà, nên vạ lây đến những ai ở Ðàng Ngoài vào đây qua sự liên lạc của Kỷ. Trọng Thức phải chăng cũng rơi vào trường hợp này ?

Lữ nhìn thẳng vào mắt Nhật :

- Võ tướng quân xét việc có hơn người, nhưng chỉ thấy một, chưa thấy hai. Long Nhượng là em của Ðức Vua, rõ là có bao dung Kỷ. Nhưng để Kỷ sống là Ðức Vua cho sống, có bắt chết thì Long Nhượng cản cũng không được. Lần sau, xin tướng quân lựa lời chớ gây hoang mang kẻo sĩ tốt Tây Sơn hiểu lầm, chỉ hại mà không lợi ...

Ðúng lúc đó, một giọng lanh lảnh cất lên :

-...và chỉ thêm một lần sơ xuất, chính Chúa Út ta đây lấy đầu Võ tướng quân !

Máu mặt dồn lên, Nhật quay lại. Một thiếu nữ quần chẽn màu đen, áo bó bằng vải đỏ, tóc đen nháy xòa xuống ngang lưng không biết đã đến tự lúc nào. Miệng cười lộ ra một chiếc răng khểnh trông như trêu chọc, thiếu nữ giơ cao bản vẽ mặt Trọng Thức, tiếp :

- Mặc dầu ba chiêu kiếm của tướng quân quả tuyệt diệu, ta đã xem và nghĩ ra cách trị nó rồi !

Nhật cắn răng, nghiêng mình cúi đầu chào. Thiếu nữ lại cao giọng :

- Chào Chúa Út, người ta khom lưng thấp xuống nữa. Võ tướng quân chỉ khẽ nghiêng mình, vậy là chưa đủ lễ.

Lữ vội gạt đi :

- Bậy nào, Võ tướng quân là khách của ta, cô là em phải biết giữ lễ.

Vênh mặt lên, Chúa Út lại lanh lảnh :

- Môn khách thì không phải là thuộc hạ. Nhưng ăn dầm ở dề thì rồi cũng phải đền đáp, mà đã đền đáp thì khác chi thuộc hạ. Anh chàng rậm râu này cũng như mọi người thôi, bất tất phải giữ lễ giữ nghĩa gì cho nó phiền phức.

Nhật bỗng thốt nhiên cất tiếng cười. Chàng cười mỗi lúc một lớn, rồi thốt nhiên ngưng lại, giọng cố dấu sự phẫn nộ :

- Công nương nói thế rõ ra người nghĩa lý nông nổi, Nhật này trả ơn Tiết Chế giúp tìm đường huynh nên có tập luyện đám du binh, vừa vui lại vừa dưỡng sinh cho khỏe mạnh. Khi nào có tin đường huynh, dẫu lành, dữ, sống, chết gì thì Nhật sẽ lại cúi đầu vái Tiết Chế cáo từ. Lúc ấy, ai giữ cũng chẳng được. Công nương cho là thuộc hạ ư ? Tùy. Thế nào cũng được. Nhưng xem trộm Nhật tập kiếm vào đêm hôm khuya khoắt thì công nương quả là một phụ nữ thiếu ... bình thường, không làm sao giống được một ... vì công chúa.
Kéo dài giọng ra mai mỉa, Nhật quả đã chọc đúng vào chỗ hiểm. Mặt Chúa Út tái mét đi. Tay run run, nàng giơ cao bản vẽ, gằn giọng :

- Ai cho mi biết tin Trọng Thức, mi có chịu làm thuộc hạ cho người đó không ?

Lữ chặn ngang :

- Ðăng Vân, im !

Quay sang Toàn Nhật, Lữ dịu giọng :

- Võ tướng quân thứ lỗi. Em tôi tính như con trai, hay bốc đồng nói bậy ...

Chúa Út vùng vằng đi ra. Ðến cửa, nàng bỗng quay phắt lại, nước mắt chạy quanh :

- Ðược rồi ! Quí báu gì ba đường kiếm mà ta phải xem trộm. Ðể khuất phục nó, ta sẽ dùng roi. Có nghe « Ai về An Thái mà coi. Ðàn bà con gái đánh roi đi quyền » chưa ? Còn tin về Trọng Thức, muốn thì phải hỏi ta ! Và ta chỉ cho biết khi cúi đầu lạy ta xin làm thuộc hạ. Này, anh chàng rậm râu ! Ta có coi ra gì một vị công chúa mà phải giống cho được. Mi khi ta thế ư ?

Toàn Nhật nhìn giọt nước mắt trên mi Chúa Út, động lòng thấy mình hẹp hòi cố chấp. Chàng bước theo, gọi
với « ... Công nương, công nương ! » nhưng Chúa Út đã biến sau khung cửa.

Nai nịt xong, Toàn Nhật bước ra sân nhảy lên con ngựa chiến. Ðó là một con ngựa đen tuyền Lữ mới bắt được trong rừng chồi. Từ chối không được, Nhật nhận món quà của Lữ, cảm tạ và hẹn sẽ trả lại khi rời Qui Nhơn. Con ngựa này quả là quí, Nhật đặt tên là Hắc Phong. Khi đã trị đến thuần phục, không cần buộc cương, Hắc Phong chỉ chạy lanh quanh rồi lại về, mũi khụt khịt như khoe sự trung thành với chủ.

Theo đoàn người ngựa lên đường, Nhật thúc chân giục ngựa đi về phía thành. Sau những ngày bận rộn báo tình hình Gia Ðịnh cho Ðức Vua, Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ xếp hẳn một ngày để tiếp Nhật và Tự.

Huệ to ngang, hơi thấp, tay dài đến đầu gối, di chuyển vừa nhanh vừa chắc như một loài nửa gấu nửa vượn. Mặt nổi mụn, mũi sư tử, một mắt to một mắt nhỏ, Huệ nhìn ai cũng tựa như chọc gươm vào đồng tử người đối thoại. Khi nói, miệng Huệ nhếch lên vẻ diễu cợt, nhưng giọng oang oang như trống trận thúc vào tim vào gan khiến nhiều kẻ mất tự chủ, óc tê điếng đi, chân tay bủn nhủn.

Lúc Nhật bước vào thì cả Kỷ và Tự đã có mặt. Huệ đưa tay vẫy, mắt quét một cái nhìn sắc như dao bổ cau, miệng nói như nói với kẻ cố tri khi tái ngộ :

- Toàn Nhật đó hả. Vào đi. Ta đợi lâu rồi !

Nhật khom người, miệng nói :

- Kính chào Thượng công.

Ðứng dậy, Huệ bước lại nâng Nhật lên, nhìn vào tận mặt, cười :

- Tướng quân làm gì mà Chúa Út rủ ta lập hội thí võ để có dịp thử với ba đường kiếm của tướng quân ?

Mỉm cười, Nhật kể lại và nhắn xin Chúa Út tha lỗi. Huệ như không biết có Kỷ và Tự ngồi đó, bảo :

- Múa thử cho ta xem !

- Ngay tại đây ?

Huệ gật đầu. Nhật lại nghiêng mình như để xin phép, rồi bước lùi ra ba bước. Nhìn Kỷ, Nhật bảo:

- Phiền đại huynh ném cho Nhật một quả cau.

Kỷ chọn một quả, bất ngờ tung về phía Nhật. Ba làn hào quang lóe lên. Cây kiếm đã thu về bỏ vào vỏ, người ta mới nghe thấy ba tiếng động. Quả cau bị chém thành ba mảnh, rơi xuống đất. Huệ cúi nhặt, ghép lại, sửng sốt :

- Nhanh thật. Võ này từ đâu ra ?

Toàn Nhật kể lại cái duyên mình gặp gỡ Mishima ở Phố Hiến. Khi nói đến nhát kiếm ân sủng cho Mishima để hoàn thành phép Seppuku, nước mắt Nhật ứa ra.

Huệ hỏi :

- Tại sao Mishima tự tử ?

- Mishima lấy cái chết để thuyết phục thầy mình đổi ý, bỏ cổ đại học dựa trên lý tưởng Ðại Hòa tâm, đừng khinh khi giai cấp thương nhân là giai cấp sẽ thay đổi tương lai nước Nhật Bản. Gửi lại cho thầy mấy chữ viết trên mảnh vải bọc đoản kiếm rạch bụng mình : « Ðại Hòa tâm là quá khứ, còn tương lai của Nhật Bản ở phía trước ... », Mishima hiến thân để vừa trọn nghĩa với thầy, vừa lại trung trinh với chính mình.

Huệ trầm ngâm, rồi nhẹ giọng :

- Ba đường kiếm này ta đặt tên là Chiêu Hồn kiếm. Ta cầu chúc cho vong hồn Mishima được về nơi cực lạc
...

Quay sang nhìn Tự, Huệ bỗng hỏi :

- Ðiều Mishima tin chẳng khác chi với điều thầy vừa nói cho ta nghe là bao nhiêu. Thầy có dám chết cho
tư tưởng thầy không ?

Câu hỏi đến bất ngờ như một cơn bão. Kỷ mấp máy môi định đỡ lời thì Huệ trừng mắt. Huy Tự cúi xuống nhìn sàn nhà, lấy chân di lên, im lặng một hồi lâu. Huệ thản nhiên đợi. Tự cuối cùng thua, lên tiếng trước :

- Thượng công hỏi, nếu ý muốn Tự này trả lời là dám chết như Mishima thì Tự bảo không. Không bao giờ. Nhưng nếu câu hỏi của Thượng công là có dám sống cho tư tưởng của mình không thì Tự xin nói ngay là dám. Sống như vậy khó lắm, nhiều khi khó hơn cái chết !

Vỗ bàn cười ha hả, Huệ kêu lên :

- Thầy nói trúng ý ta mất rồi. Phải, ai cũng chết thì ta làm sao một mình làm hết được. Ðúng, dám sống để làm ... Ðược, được lắm !

Nhật ngước mắt nhìn Huệ. Ðược, được lắm ! Câu nói bật ra khỏi miệng như lời kẻ cả, dưới mắt là đám thuộc
hạ vì « ta làm sao một mình làm hết được ». Nhật lạnh lùng :

- Nhưng Thượng công muốn làm gì mà sao lại một mình thì không làm hết được ?

Huệ không cười nữa, nghiêm nghị nói :

- Ðầu tiên, ta muốn chấm dứt cuộc nội chiến Nam - Bắc đã hơn trăm năm nay. Yên được cũng mất năm đến mười năm. Còn lại, ta chỉ sống có thêm mười năm để đặt những hòn gạch đầu cho một kỷ nguyên mới
...

Tự cắt lời :

- Một kỷ nguyên mới hay một triều đại mới.

- Kỷ nguyên mới. Còn một triều đại, dẫu vua quan có mới, thực chất vẫn là cũ. Vì thế, thầy phải giúp ta !
Huệ quay sang nhìn Kỷ, nói như dặn dò :

- Ông xếp đặt cho tôi thế nào để thầy Tự và « anh chàng rậm râu » này hễ vời vào là phải có ngay.

Cặp mắt lóe lên như thép tôi, Huệ nhìn về phía Tự và Nhật, giọng khẩn khoản nhưng ẩn ý buộc người nghe vào điều mình muốn :

- Ðừng phụ lòng ta nhé ...

Ôm vai Nhật, dùng cách gọi của Chúa Út, Huệ nói nhỏ : « ... này «rậm râu », có thí võ thì nhẹ tay cho đứa em gái độc nhất của ta. Tốt nhất là thua nó. Bề ngoài nó cường ngạo, nhưng trong thì ... »
Quân hầu bỗng xộc vào, ghé nói nhỏ vào tai Kỷ. Kỷ đến bên Huệ, báo :

- Hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh xin tiếp kiến.

Thoáng cau mày, Huệ lẩm bẩm « ... lại nói chuyện đánh Phú Xuân chứ gì ! ». Nâng Tự và Nhật đứng dậy, Huệ cười như không có chuyện gì, dắt tay hai người đi về phía cửa sau, vừa bước vừa nói :

- Mới bắt được một con trăn, ta bảo nội nhân làm một bữa để chúng mình đánh chén tối mai. Nhớ nhé - Huệ lại nói - đừng có phụ lòng ta...

Ði ra khỏi tư dinh Long Nhượng, hai người thả bộ lững thững, giắt theo con Hắc Phong theo. Nhật hỏi :

- Nguyễn huynh đã gặp giáo Hiến chưa ?

Tự lắc đầu. Nét mặt đăm chiêu, Tự nói nhỏ :

- Nhưng chắc không cần nữa ! Huệ nhìn xa như thế thì điều giáo Hiến nghĩ ở đằng sau như quá khứ - nhếch miệng cười, Tự mượn lời Mishima - mà tương lai Ðại Việt thì ở trước mặt ...

- Nguyễn huynh định thế nào ?

- Ta vốn là người tự do, chịu ràng buộc vào Tây Sơn là vì mong xây một kỷ nguyên mới. Huệ nói đúng. Có làm được thế thì cũng phải trên dưới mười lăm, hai mươi năm. Còn chú em ? Chẳng lẽ bỏ cả đời để đi tìm Trọng Thức à ?

Chỉnh che miệng nhổ bã trầu, tay với cốc nước chiêu một ngụm, rồi thủng thỉnh :

- Trình Thượng công, Bắc hà như sung ủng vắt vẻo trên cây, chỉ với tay khẩy là rơi. Việc đánh Phú Xuân quá dễ. Ba vạn quân Trịnh dưới tay Phạm Ngô Cầu không khác một lũ phường tuồng. Có đánh chác được chăng liệu chỉ một mình Hoàng Ðình Thể. Thể xưa kia dưới trướng quận Việp rồi quận Huy nên Chỉnh biết rõ như người trong nhà. Thượng công giao phó, tôi sẽ kéo hắn về, không mất một mũi tên, một hòn đạn
...Cánh quân của Tiết Chế đi đường biển vòng ra chặn đường về Bắc ở Bố Chính đủ để khiến họ hàng ta.
Xung lính vào cơ ngũ Tây Sơn, nhưng cắt họ mỏng ra ráp vào từng bộ phận để ngừa, cho phép ta lập một đạo binh từ sáu đến bảy vạn người. Chỉ nghe tiếng chân quân ta, quả sung kia tự nhiên sẽ rụng ...

Huệ đăm chiêu, rồi hỏi :

- Cơ nghiệp người ta đã hai ba trăm năm nay, lấy làm sao lại dễ như quan Hữu quân nói ? Ta không lo chuyện quân, nhưng lo là lo bình định yên lòng người ... Cổ ngữ bảo « con ong có nọc » chớ nên khinh thường !

- Phất ngọn cờ « phù Lê - diệt Trịnh », Thượng công ắt mang chính danh về mình.Ai cũng biết Chúa ép Vua hai trăm năm nay. Hiện giờ, Trịnh Tông vừa yên được lũ Kiêu binh, nhưng trái lời cha, giết em là Cán, tức cũng chẳng khác gì tiếm ngôi chúa.

Huệ ngắt lời :

- Ðám võ quan có Ðinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ là đáng kể. Về phần quan văn, có ai ?

Chỉnh ung dung :

- Nhưỡng hữu danh vô thực, lại cho lính đi cướp bóc, không khác gì một tay lục lâm. Cơ khá hơn, nhưng nay già rồi, cả đời phải làm ngơ chuyện Chúa ép Vua vì sợ oai Trịnh Sâm. Tông nông nổi, lại không có dũng, chẳng thể nào áp đặt được Cơ. Quan văn có Phan Huy Ích, Nguyễn Ðình Giản và Bùi Huy Bích. Họ là loại thầy đồ nói khoác, chuyên về từ cú, bẻ nét chữ uốn câu văn .

Huệ lắc đầu :

- Không, không được. Lấy Thuận Hóa và Bố Chính, ta chỉ dựng lại cái giới biên Nam - Bắc ở sông Gianh,
chẳng một ai dị nghị. Ði xa hơn thế việc chẳng đơn giản...

Chỉnh hấp tấp :

- Thượng công không phải ngại một ai. Chỉnh này về đây thì Bắc hà là nước bỏ trống ...
Nhìn tia mắt Huệ lóe lên, Chỉnh biết mình lỡ lời. Huệ đứng dậy, bước ra cửa sổ, mắt hướng về phía núi
Chúa. Chỉnh bước theo, hạ giọng :

- Trước đây, những Lê Duy Mật, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất có dấy binh phù Lê, nhưng số họ
Trịnh chưa hết nên không ai công thành. Nay xét trong địa ký họ Trịnh, có câu « Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ. Truyền hai trăm năm, buồng nhà dấy vạ ». Từ Thái Vương Trịnh Kiểm cho đến Tĩnh đô Trịnh Sâm là vừa đúng hai trăm năm, rồi tiếp đến là việc phế Tông lập Cán, vạ đã dấy lên. Phép dụng binh có ba : một là thời, hai là thế, ba là cơ. Cả ba đều trỏ đường quân ta ra Bắc hà, Thượng công chớ bỏ lỡ dịp ...

Huệ bất thần quay lại :

- Dụng binh thì thế, dụng nhân thì sao ?

Ngạc nhiên, Chỉnh lùi lại một bước, cúi đầu thưa :

- Kẻ ngu hèn này chưa hiểu ý ngài !

Cười giả lả, Huệ chậm rãi :

- Lấy Bắc hà thì được. Ở lại Bắc à, khó. Ta ra nước ông rồi về, nước ấy trống, chắc ông chẳng theo ta, ở lại mà trông nom. Ta lấy được gì ? Còn ông, ông lấy cả nước ... Thế ông có chia gì cho ta không ?
Không đợi Chỉnh trả lời, Huệ nhỏ nhẹ :

- Ấy là vui miệng nói đùa thôi. Việc trước mắt là Phú Xuân, lần này để ông lập công lớn đã rồi hãy tính về sau ... Ông cứ tiếp tục việc đã bàn, tối mai ta đãi ông một bữa thịt trăn. Ông sẽ gặp lại dăm ba cố nhân, chắc lẽ vui lắm !

Ðúng lúc đó, Kỷ vào báo việc Phú Xuân. Quay ngoắt bước ra ngoài , Huệ nói với vào :

- Quan Hữu quân, ông đến đây là trời cho Tây Sơn, đừng phụ lòng ta nhé ...

Kéo Kỷ theo, Huệ nhăn mặt, nghĩ thầm « Nó coi ta như thằng ngu hay sao mà bẻm mép để trục lợi ! ». Bước dăm bước, huệ quay sang Kỷ, vỗ vai dặn :

- Ta sẽ có mấy tháng tới này không phải xuất chinh. Những gì ông cho là hay ho nhưng thực dụng trong sách vở Nho gia, ông chép lấy rồi mang lên đọc cho ta nghe. Sách về binh pháp và thuật Hàn Phi - Thương Ưởng thì khỏi, ta đã nằm lòng rồi. Nhưng cấm không được mang thơ phú ra làm loạn đầu ta. Nhớ đấy, phải thực dụng ...

Mùng ba Tết, hàng dân Qui Nhơn lũ lượt kéo nhau đến quảng trường nằm ven bờ sông Côn để xem diễn võ. Khán đài quay mặt ra sông, chung quanh có cắm những bức trướng toàn một màu đỏ của binh đội Tây Sơn. Giữa khán đài, người ta đặt một cái ngai phủ da báo để Vua Thái Ðức ngự, chung quanh xếp những hàng ghế dành cho thân hào và những võ quan của triều đình theo thứ bực trong quân ngũ. Khi Ðức Vua đến, tiếng trống trận liên tu nổi lên làm vang động núi rừng. Tiếp đó, là tiếng quân reo, hết binh đội này đến binh đội kia, cứ từng chập rộn rã, kiêu hùng. Nhạc mặc hoàng bào, đai giắt kiếm, tay cầm binh phù, đứng lên chúc Tết quân dân Qui Nhơn. Dứt lời, dân cùng nhau hò lên « Vạn, vạn tuế ». Hai bên Nhạc là Lữ và Huệ, người anh hùng vừa đuổi hai vạn quân Xiêm. Khi Huệ bước ra hô quân, dân Qui Nhơn lại hò lên reo mừng. Nhạc giơ tay ra lệnh cho hội diễn võ bắt đầu.

Phần khai mào, là thi đánh trống trận. Người ta đánh bảy trống, rồi chín cho đến ba mươi sáu chiếc trống lớn, trống con được xếp cao thấp khác nhau, theo những bộ vị mỗi lúc một phức tạp. Người dự thi cầm hai chiếc dùi, nhưng có thể dùng cả đầu, khuỷu tay, chân và đầu gối để thúc vào trống theo những bài võ. Tiếng trống lúc khoan, lúc nhặt, lúc lại ầm ầm như sấm động. Kèm vào là tiếng hét của võ sĩ, tiếng hò của lính khiến người nghe choáng váng, có kẻ chịu không nổi ngã phục xuống đất.

Ðến phần biểu diễn trận thế, Nguyễn Lữ giới thiệu đội Du binh Tiền kích dưới quyền chỉ huy của Võ Toàn Nhật. Du binh bày thế tam giác, dùng dáo dài buộc tua đỏ, tiến thoái rất nhịp nhàng. Thằng bé gia nô nhà Danh Kỷ, tên là Thuấn, cũng được tham gia. Nghe nó hô lên một tiếng, người ta thả một con chồn vào giữa trận. Con chồn chạy lồng lên, nhưng chạy đến đâu cũng bị những mũi dáo chìa ra chặn đầu. Từ số hai mươi mốt người, phạm vi của tam giác thu hẹp dần, còn mười lăm, rồi chín ... cho đến khi chỉ còn ba người thì con chồn bị ba mũi dáo kề vào, không còn nhúc nhích được. Hàng dân vỗ tay nổ như bắp rang, miệng hò lên tán thưởng.

Nhật cúi đầu cảm tạ, rồi lại phẩy tay ra lệnh. Lần này, du binh biểu diễn cách đánh trên cao. Ðối tượng phải đạt đến là đốt những bánh pháo cao bảy tám đầu người. Sau tiếng quát của Nhật, một toán mười ba du binh thoăn thoắt chạy đến trước một chiếc sào. Bốn người dang tay tạo thế để ba người khác nhảy lên vai. Những người sau phóng theo, nắm lấy tay những kẻ ở dưới, nhẹ nhàng đặt chân lên vai kẻ ở trên cho đến khi chỉ còn đúng một người, miệng ngậm bó đuốc, tay cầm lấy châm vào dây pháo. Họ lại thoăn thoắt nhảy xuống, và tiếp tục chạy đến chiếc sào thứ hai. Cứ thế, pháo liên tiếp nổ không ngừng, xác đỏ bay tung lên trời lả tả tựa những bông đào rơi xuống như mưa.

Ghé vào tai Lữ nói xong, Nhạc nhìn về phía Toàn Nhật, quát lớn :

- Lại đây !

Cúi đầu vái Nhạc, Nhật giữ lễ không nhìn lên. Nhạc bước xuống, đưa một chén rượu cho Nhật, miệng nói :

- Giỏi, giỏi lắm !

Ðứng bên cạnh Chúa Út, Huệ cười ha hả, nói :

- «Vua anh » chưa biết, tí nữa Võ tướng quân sẽ thi võ với Chúa Út đấy !

Nhật khẽ ngước lên nhìn. Ðăng Vân chu miệng, chiếc răng khểnh lại lộ ra trêu chọc, nhìn lên trời, khinh khỉnh :

- Bây giờ rõ là thuộc hạ nhà Tây Sơn, nói không nghe thì nọc xuống đánh !

Nhật bực mình, sẵng giọng :

- Võ nghệ là để dẹp giặc cứu đời, không phải là trò trẻ. Tôi không thí võ.

Chúa Út ghé vào tai Nhạc, phụng phịu, tay giựt áo. Nhạc nhìn Huệ, nhìn Lữ. Vẫy tay lấy thêm một chén rượu, Nhạc đưa cho Nhật, nói lớn :

- Phải thí võ. Mi không nghe Vua mi à ?

Huệ nháy mắt với Nhật, diễu cợt :

- Hay là tướng quân khinh đàn bà con gái nhà ta ? Ðăng Vân đánh roi nổi tiếng cả một vùng, tướng quân không thí võ thì chắc nó nọc xuống đánh thật đấy. Giọng khích bác, Huệ tiếp - mà có thí võ, chắc tướng quân cũng bị nó quất vào đít. Ðằng nào cũng vậy, chỉ bị đánh nhiều hay ít mà thôi !
Không nói không rằng, Chúa Út nhảy xuống đất, tay cầm cây roi vút vào không khí, đi một mạch bước lên võ đài đứng chờ. Tiếng loa gọi tên Nhật vang lên. Nhật vẫn đứng đó, không biết tiến thoái thế nào. Hàng dân đợi lâu la ó. Nhạc giục, Lữ đành ra lệnh :

- Võ tướng quân ! Ðây là quân lệnh : mời tướng quân lên võ đài ...

Ði qua mặt Huệ, Nhật lại nghe tiếng diễu cợt «... nhẹ tay nhé, có đánh thì đánh yêu thôi. Ta có mỗi một đứa em gái đấy ! »

Quả khế bằng sắt buộc đầu roi của Ðăng Vân được gỡ ra thay bằng một quả cầu bằng gỗ để tránh gây thương tật. Về phần Nhật, người ta đã làm sẵn một thanh kiếm gỗ, sống kiếm làm bằng những thanh nứa buộc tròn lại với nhau. Giám võ dặn dò, chỉ được đánh tới là ngừng, không hạ thủ, rồi đứng sang một bên.
Nhìn Ðăng Vân vênh váo, tay cầm roi, Nhật trêu :

- Công nương có roi thật, thuộc hạ thì kiếm giả, bất công thế mà coi được à ? Nếu thuộc hạ có kiếm thật thì cái roi kia chỉ chớp mắt thành ba khúc, công nương thành tay không ngay ...

Vứt thanh kiếm gỗ vào góc đài, Nhật tiếp :

- ... cái này vô dụng, chỉ vướng tay. Thôi, Công nương ra tay đi, Nhật này xin bồi tiếp.

Chúa Út không ngờ diễn biến, bực bội quát :

- Ðưa cho hắn một cây kiếm thật !

Giám võ quì xuống, lắc đầu :

- Lệnh của Long Nhượng tướng quân, không được ...

Chúa Út nghiến răng, vứt roi xuống đất, gằn giọng :

- Ðánh tay không vậy. Công bằng chưa ?

Nhật nhảy lùi ra sau, lại trêu :

- Ở nước tôi, « nam nữ thụ thụ bất thân ». Vậy cũng không được !

Hàng dân đợi, sốt ruột, lại rủ nhau la ó. Ðăng Vân nhặt roi, giận quá, vung lên thì Toàn Nhật đã nhập nội khiến roi mất tác dụng. Vân lùi, Nhật lại tiến, giữ khoảng cách vừa đủ để Vân không thể vung lên đánh. Hai người cứ xoay qua, xoay lại mà Vân không ra được đòn, nhìn từ xa như đang chơi trò múa may. Hàng dân lại la ó. Nhật cười, mình tựa vào roi, bỗng hất người nhảy lộn một vòng xuống đất như bị roi gạt ngã. Hàng dân vỗ tay. Nhật lùi ra, nghiêng mình, nói mỉa :

- Công nương đã thắng thuộc hạ thật là vinh quang. Giả sử thuộc hạ có kiếm, cũng đành phải bó tay.
Giận quá, Vân nhổ vào Nhật. Chàng vừa đảo người đi tránh nước bọt thì Vân đã bổ một roi vào đỉnh đầu. Nhật sợ, đưa tay lên bắt quả cầu gỗ, xoay tròn người theo vòng cong chiếc roi, không ngờ Vân cũng lao vào, bỏ roi, thúc khuỷu tay phải vào họng Nhật, tay trái tát vào thái dương. Nhật tắc thở, mắt nổ đom đóm, quay lơ một vòng rồi ngã xuống đất.

Giám võ chưa kịp nhảy lại thì Ðăng Vân đã la trời lên, hốt hoảng nhảy đến bên Nhật. Nhũn người ra, Nhật mấp máy môi như muốn gọi. Ðăng Vân gào :

- Y quan, đến mau, đến mau lên !

Nước mắt vòng quanh, Ðăng Vân xốc đầu Nhật lên, miệng gọi :

- Dậy đi, dậy đi ... Cho ta xin lỗi.

Lúc ấy, Huệ cũng đã nhảy lên võ đài. Vạch mắt Nhật ra, rồi bất ngờ thò tay kẹp vào mạch môn, Huệ thấy rõ ràng nội lực phản kháng của Nhật theo bản năng bật ra. Ðẩy Ðăng Vân ra, Huệ quát nhỏ :

- Làm hại một võ tướng của ta mất rồi ! Mau sai người khênh Nhật về nhà ...

Ðăng Vân luống cuống khóc òa lên rồi chạy đi gọi gia nhân. Lúc ấy, Huệ mới ghé tai Nhật thì thào :

- ... Cứ giả vờ thêm chút nữa. Ðợi về gặp mẹ ta rồi hãy tỉnh lại. Nhớ nhé. Ðừng có phụ lòng ta ...

Nhật mở mắt nhìn Huệ, cắn răng lại nhịn cười, rên hừ hừ, mặc cho người ta cáng đi.

Nhìn người thứ thiếp tên là Thược nằm thoi thóp, mặt tái bệch, mắt nhắm nghiền, Phạm Ngô Cầu buông một tiếng thở dài. Ðã ba tháng nay, Cầu chạy hết thầy hết thuốc mà bệnh tình Thược vẫn không hề giảm thuyên, lại như có phần mỗi lúc một nguy kịch. Sáng nay, một chiếc thuyền khách từ Ðàng Ngoài chở theo trà, cao hổ cốt và thuốc men vừa ghé vào bến sông Hương. Chủ thuyền là Hồ Cẩm, một người Hoa ngụ ở phố Thuốc Bắc trong Kinh, vào thành bắt mạnh cho Thược. Ông ta lắc đầu, nhìn chăm chăm vào mặt Cầu, rồi nói :

- Bà đây bệnh là đang ghé vai chịu gánh nặng cho đức Thượng quan. Hắc khí ở gò Thái âm trên mặt Thượng quan đang từ từ sang đóng vào cung Ách, bà không bệnh nặng thì mạng Thượng quan chắc đã nguy rồi...

Cầu hốt hoảng :

- Vậy phải làm sao ?

Hồ Cẩm hỏi xem lá số tử vi của Cầu. Ngồi chép miệng, bấm ngón tay tính đi tính lại, Cẩm gật gù :

- Mệnh của Thượng quan chủ là Liêm - Sát, chính chiếu có Tham Lang, Vũ Khúc đều đóng ở cung Sửu, phụ chiếu có Phá Quân ở Dậu. Ðại hạn này vào Hợi, chính tinh là Thiên Phủ, trên có Tử Vi chiếu vào. Ðó là thế Tử Phủ triều viên. Mệnh Sát Phá Liêm Tham, làm quan biên phòng, oai trùm một đất là đúng. Ðại hạn đẹp như thế, nên mười năm nay, tài vận, lộc lợi vào như nước chảy chỗ trũng. Xét đến tiểu hạn, đóng cung Nô, quả là có Kình, Ðà ở giữa, Phục Binh, Ðịa Không, Ðịa Kiếp bàng chiếu rồi lại thuộc Mộc, nên khắc với Hỏa là hành của cung Mệnh. Cung Nô là nơi bà thứ thiếp cư, kỵ với Mệnh của Thượng quan vốn quá mạnh, lại thêm Kình Ðà, Không, Kiếp nên ốm mà chưa chết là còn may. Muốn cứu mạng, chẳng thuốc thang gì được ! Phải cúng giải sao đi, nhưng tốn kém phiền phức lắm ! Thượng quan cũng cẩn thận, sao Phục Binh đóng ngoài, lại chính chiếu, dễ bị phản. Nhưng chắc không sao, binh ngoài tướng trong. Phục Binh đóng ở Tiểu hạn phá phách một tí, chẳng có gì là đáng ngại.

Nắm lấy tay Hồ Cẩm, Cầu rối rít :

- Thầy giúp cho, tốn kém bao nhiêu tôi cũng chịu.

Cẩm lại lắc đầu :

- Trình với Thượng quan, sức tôi một mình không đủ. Tôi phải đi cầu thêm một người đồng môn là Trương
Tú Anh. Vả lại giải Không, Kiếp, Kình, Ðà phải trấn ở ngũ hành, cần người làm âm binh chận ma quỉ ...

Gần như van lơn, Cầu thì thào :

- Ông đừng lo, người thì quân lính Phú Xuân thiếu gì, ông cần bao nhiêu cũng có ...

Lúc ấy, Hồ Cẩm mới nhận giúp, với điều kiện là Cẩm được phép độc quyền bán thuốc ở Phú Xuân. Chia tay, Cẩm vái Cầu, hẹn đợi đến trăng tròn, rồi cắt đặt công việc làm đàn giải sao trước khi đi vời Tú Anh. Phạm Ngô Cầu mừng lắm, lại nhớ lại bức thư vừa bắt được tuần trước, lòng hết sức bội phục Cẩm. Bức thư đó do Cống Chỉnh, kẻ đã hàng Tây Sơn, viết gửi cho Phó tướng Hoàng Ðình Thể. Miệng lẩm bẩm « ... Ðúng là sao Phục binh ! », tay lại mở bức thư ra, Cầu lẩm nhẩm đọc lại : « ... Nay khí vận họ Trịnh đã kiệt, Tây Sơn là đất có mạch đế vương. Ta đã như lời tiến dẫn Hoàng lão hữu, nhớ tình xưa cùng hãn mã dưới trướng Huy quận công, từng ngày từng giờ mong sẽ lại cùng nhau dựng lên nghiệp lớn ». Châm nến lên đốt bức thư đi, Cầu chậm rãi đến bên giường Thược ngồi xuống, tay vuốt má, bần thần, im lặng.

Vào trung tuần tháng năm, Cẩm kéo Tú Anh vào dinh Phạm Ngô Cầu. Theo lệnh Cầu, năm đội quân mỗi đội gồm chín mươi chín người trai tráng ra đóng ở chung quanh chùa Thiên Mụ đúng bộ vị theo ngũ hành. Cẩm ngồi ở trung ương đàn giải sao, phất cờ cho quân di chuyển, theo âm dương phù hợp với đồ hình bát quái. Họ thao tập như vậy hai ngày liền. Ðến ngày trăng tròn, đàn giải sao chăng đèn kết hoa, vàng mã, hương trầm đốt lên, ngựa giống, voi giấy sắp đầy sân, cứ mỗi thứ có bốn mươi chín con đủ loại. Trương Tú Anh là con đồng trung gian giữa thượng thiên và hạ giới, tóc xõa dài đến gót, ngồi đảo theo tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng phách và tiếng kèn tầu. Lễ giải sao bắt đầu từ giờ Hợi, kéo dài suốt đêm cho đến giờ Mão hôm sau, và cứ như thế bảy ngày bảy đêm liền. Vào giờ Tí, Phạm Ngô Cầu và Thược phải ra trình thượng thiên, mặc áo trắng, tóc trần, ngồi đọc thần chú cho đến giờ Dần. Sau đó, quân ở bộ vị Kim, Mộc, Thủy, Hỏa cho đến Thổ cứ lần lượt đồng thanh hét vang những câu chú cho đến giờ đầu giờ Sửu. Thành Phú Xuân gần như chẳng ai ngủ được, trong khi đó, mặt trăng lu dần nhường chỗ cho cả một trời sao óng ánh sáng long lanh mê hoặc.

Ðến ngày thứ năm lễ giải sao, thám báo về trình rằng quân Qui Nhơn chiếm đỉnh Lũy đèo Hải Vân. Lúc ấy, không ai biết rằng đội Du binh Tiền kích đã vào bám chặt lấy những trọng điểm của Phú Xuân từ lúc Hồ Cẩm và Tú Anh vào thành. Hoàng Ðình Thể vào dinh đòi gặp, nhưng Cầu quá mệt mỏi vì tế lễ, không cho vào. Thể quát lớn : « ... giặc Quảng vào, phải kéo cờ điều, và đánh ».

Súng đặt trên mặt thành bắn ra khiến chiến thuyền Tây Sơn trên sông Hương không vào sát được chân thành. Huệ lùi quân, ra lệnh đợi nước triều dâng lên ban đêm. Trong khi đó, quân bộ Tây Sơn đã vượt Hải Vân bao vây bốn mặt.

Thể quyết định mang một số quân ra đóng ở ngoại vi Phú Xuân. Nửa đêm, hàng trăm chiến thuyền Tây Sơn theo nước triều dâng nhắm chân thành tiến vào. Súng thần công đặt trên thuyền cứ từng đợt bắn ào ạt, tiếng nổ như sấm động làm hàng dân hoảng hốt xô nhau chạy. Quân Tây Sơn đổ bộ lên mặt thành phía đông, đẩy lùi lính Trịnh vẫn còn ngơ ngác trước diễn biến đột ngột. Thể cố sức đánh, nhưng thế yếu, phải xoay lưng vào thành tìm thế cố thủ.

Phạm Ngô Cầu như tỉnh một giấc chiêm bao, đi tìm thì Hồ Cẩm và Tú Anh thì họ đã đi đâu mất. Ðứng giữa đám ngựa giấy, voi giấy và đám chiến binh đã kiệt sức sau bảy đêm quần nhau với âm binh chặn đóng ở ngũ hành, Cầu tái mặt, chợt hiểu là sao Phục binh đóng ở cung Nô quả là có độc.

Chạy vào dinh trung quân, Cầu có cảm tưởng như đám vệ sĩ đã thay hình đổi dạng. Toàn Nhật bỗng xuất hiện như một vị thiên tướng, xốc lại, tay nắm vào yết hầu Cầu, miệng nói rành rọt :

- Xin ngài yên tâm, tùng phục thì ngài bình yên. Quân Tây Sơn đã vây chặt thành, ngài theo ta, mang theo cờ bạc, phất lên thì ngài an toàn, lại cứu vớt được sinh mạng của lính ...

Hoàng Ðình Thể chống cự kịch liệt, bỏ mạng sau khi quay vào, nhưng cửa thành Phú Xuân đã đóng chặt. Ðội Du binh tiền kích dàn ra giữ cửa dưới, trong khi trên mặt thành, cờ bạc phất lên trong tiếng khóc nức nở của một vị tướng già bị sao Phục binh ở cung Nô đánh gục.

Dưới chân đèo, những cơn gió như đeo đá trĩu nặng lùa cái nóng hầm hập làm sôi da bỏng thịt. Mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu làm búa giáng thẳng xuống thế gian cho xây xẩm mặt mày. Ðám cận vệ kéo áo hở phanh, mắt nhìn về phía có khói bốc lên, miệng reo « Thành cháy, thành cháy rồi ! ». Thản nhiên như chẳng có chuyện gì, Huệ kéo Tự bước đi dăm bước. Ðưa mắt nhìn giải mây trắng bồng bềnh trên trời, Huệ hỏi Tư, giọng trầm ngâm :

- Thầy tính thử xem bao giờ thiên hạ mới thái bình ?

Lắc đầu, Tự mỉm cười. Nhìn nước suối chảy xoáy vào những tảng đá nằm dọc ven sông, Tự thủng thẳng, nhìn sang Huệ, nói :

- Thượng công nhìn xem, cũng dòng chảy này, cũng tảng đá đấy, mà xoáy nước thì khi to khi nhỏ, khi tròn khi méo. Cũng như việc đời, ai mà tính toán hết được. Nhưng có một lẽ không sai được : nước xuôi xuống dưới không bao giờ ngược nguồn đi lên.

Triều đại quân chủ nào, Tự nghĩ thầm, xưa nay cũng chỉ tồn tại được hai, ba trăm năm. Thăng Long thì cằn cỗi, sinh khí không còn, chỉ độc mưu mô mua danh chuộc lợi lòng vòng trong đám quan chức. Phú Xuân lại buông tuồng, xa hoa, cũng theo vết xe đổ mà đi. Trong khi đó, hàng dân xiêu tán, nghề nông không còn khả năng nuôi miệng, chỉ còn đường Nam tiến. Nhưng đất đai từ Bố Chính đến Phú Yên chẳng được mầu mỡ, dân số lại tăng lên vùn vụt, nông nghiệp thế nào rồi cũng chỉ đến mức tự cung tự cấp, tay làm hàm nhai là hết. Làm dân, rốt cuộc là không có gì. Vậy thì làm giặc là có hy vọng, hễ được thì nên vua, mà lỡ thua thì nào có gì để mất ! Thiên hạ muốn thái bình ? Thái bình sẽ chỉ có được khi hàng dân còn cái gì để mất khi bỏ đi làm giặc. Nghĩa là họ phải giàu có lên. Chỉ nghèo đói mới thành giặc dã. Muốn giàu lên, phải làm sao ? Ði tìm đất mới để làm nghề nông. Cuộc Nam tiến là sự kiện hiển nhiên, gần như là việc buộc phải làm vì lẽ tồn sinh. Nhưng không chỉ có vậy. Tự hắng giọng :

- Miền Nam đất còn rộng, người lại thưa. Ði về đó, tựa như nước xuôi xuống dưới hạ nguồn. Nhưng ta không thể chỉ dựa vào nghề nông. Ở đó, sẵn có số người Minh Hương, một ít giáo sĩ Tây dương, và thuyền bè Anh, Bồ, Hà Lan đã lui tới. Như vậy, điều kiện mở rộng thương nghiệp tương đối thuận lợi. Nền thương nghiệp đó tương trợ, thúc đẩy nền công nghiệp theo thế ỷ giốc, làm đòn bẩy đẩy cả nước tiến theo ...
Huệ nhìn lên thành Phú Xuân, triền miên trong niềm suy tư, tay mân mê đốc kiếm. Trên đỉnh thành, cờ đỏ Tây Sơn đã phất phới bay. Chợt Trần Danh Kỷ cùng hai tên quân tới. Danh Kỷ vừa cười vừa nói :

- Rước Thượng công vào thành.

Huệ khẽ gật đầu, quay sang, nói vào tai Tự :

- Thầy nhìn đúng, nhưng phải cho ta thêm dăm ba năm. Dựng nước khác, dĩ nhiên. Nhưng cũng giống đánh bạc, đi buôn, ở chỗ cần có vốn. Ta hiện nay vẫn còn trắng tay nên phải đợi ...

Dẫn đầu đám cận vệ, Huệ phóng ngựa, chân thúc vào hông không thương xót, miệng mím chặt. Khi cả đoàn vào đến cửa thành, lính Tây Sơn vừa reo vừa đánh cồng, tiếng vang vọng đến tận ngả Ba Sình. Bước lên thềm vào chính điện, Huệ theo Kỷ đi thẳng đến chiếc ghế bành, mắt đảo một vòng, rồi ngồi xuống.
Quay sang nhìn Kỷ, Huệ nói:

- Này, ông theo phò ta bao lâu rồi nhỉ ?

- Trình Thượng công, xấp xỉ năm năm…

- Vào đến đây rồi, ông đâu cần che dấu ai nữa. Từ nay ta phong ông là Trung Thư, lệnh ta ông truyền xuống, đừng phụ lòng ta !

Như không nhìn thấy Phạm Ngô Cầu đứng ủ rũ bên cạnh hai du binh, Huệ cất lời khen thưởng quan quân
Tây Sơn, tiếng oang oang như trống trận. Vẫy tay cho điệu Cầu đến trước mặt, Huệ hỏi :

- Quân Bắc Hà từ Phú Xuân đến Bố Chính có bao nhiêu ?

- Hai vạn.

- Sai ! Còn một vạn mốt. Quân của Tiết Chế Nguyễn Lữ đã lấy Bố Chính cách đây ba ngày, có năm nghìn đã xung vào đội ngũ Tây Sơn rồi.

Huệ đứng dậy, đến bên Cầu, mắt nhìn tròng trọc :

- Bây giờ ta có để ngài đi, ngài cũng chẳng thể tụ quân chống ta được. Cho ngài về Bắc, chắc cái tội để mất Thuận Hóa khiến Chúa Trịnh chém đầu ngài. Phải chi ngài theo ta, vẫn giữ được quan tước, lại tránh cho máu đổ trên đường quân ta đi ...

Ngước mắt lên nhìn Huệ, Cầu cắn môi, khe khẽ lắc đầu, nước mắt nhỏ ròng ròng, chảy xuống đọng trên chòm râu bạc cứ tức tưởi rung lên. Nhìn theo Cầu cúi đầu uể oải bước đi, Huệ lắc đầu chép miệng. Kỷ đã làm sẵn, mở ra đọc chiếu « Chiêu An » gửi đến dân quân Thuận Hóa, kêu gọi lính Trịnh bỏ giáo qui hàng, kẻ nào muốn về quê quán thì cấp lương cho về. Nhìn tả hữu, Huệ hỏi :

- Quan Hữu quân, ông thấy tờ chiếu viết thế được chưa ?

Chỉnh ngẫm nghĩ :

- Trong chiếu chỉ nói đến diệt Trịnh, chưa đả động đến phù Lê !

- Ta lấy Thuận Hóa là đất Nam Hà từ trăm năm nay, có dính gì đến bờ cõi của nhà Lê mà phải phù ? Còn quan Tả quân nghĩ thế nào ?

Kẻ đứng bên trái là Vũ văn Nhậm, người cao lớn, râu mép lưa thưa, bước lên một bước rồi vòng tay thưa :

- Nhậm này thấy rằng có thêm chữ phù Lê cũng hay !

Huệ bật cười sang sảng, vỗ tay :

- Ta đang muốn ngao du một chuyến, thế là cũng đúng ý hai ông. Phiền nỗi là mệnh của « Vua anh » lại không cho phép !

Chỉnh nhỏ nhẹ :

- Cổ nhân có nói « Tướng ngoài, mệnh Vua có khi không cần theo ». Ra Bắc hà, Thượng công dựng công nghiệp không mấy đời có. Ấy là công lớn, nằm trong tay mà bỏ lỡ, sau đây anh hùng trong thiên hạ nghĩ thế nào ?

- Vậy thì ta thêm vào hai tiếng phù Lê, «Vua anh » có bắt tội, các ông phải chịu chung với ta nhé ! Ha, ha ... Phiền Hữu quân sửa soạn, ta trù hai ngày nữa Hữu quân đem đội Tuyển Phong vượt vào cửa Ðại An, đánh lấy kho lương Vị Hoàng. Qua Thanh - Nghệ, Hữu quân tung du binh, gây thanh thế, kìm chân quân Bắc không cho điều động.

Tối hôm ấy, sau khi hội ý với Nhậm và Chỉnh, Huệ một mình bước ra mặt thành Phú Xuân. Trăng treo trên trời, tròn vành vạch như chiếc đèn lồng, hắt xuống mặt đất bóng những rặng cây vừa chứng kiến thêm một chiến tích trên mảnh đất tôi bằng máu lửa này. Hít làn gió đêm mát rười rượi, Huệ gật gù cười nhìn về phương Bắc, chặc lưỡi :

- Nước đục lắm rồi. Ai thò tay xuống trước, kẻ đó có nhiều may mắn vớ được con cá độc nhất sống trong bùn. Có lấm tay, chờ nước trong rồi lại rửa, có sao đâu !

Gọi Toàn Nhật đến, Huệ dặn :

- Võ tướng quân mang đội Tiền Kích, giả làm thường dân, đột nhập Thăng Long nằm yên đó chờ đại quân. Cần thì lại lập lại cái mẹo vừa làm ở Phú Xuân, nhưng để ý trấn giữ thế nào dẹp ngay được đám Kiêu binh
... Xưa, tướng quân đã chỉ huy chúng, nay đánh thắng chắc là chuyện dễ dàng !

Nhật vái Huệ kiếu từ, nhưng đến cửa bị gọi giật lại. Vừa cười diễu cợt, vừa thân mật, Huệ nắm vai Nhật :

- Này, anh chàng rậm râu. Mẹ ta bảo rằng Ðăng Vân đến tuổi phải gả chồng. Lẽ ra, nhà trai phải đến hỏi. Nhưng thôi, ta sẽ ghé thăm La Sơn Phu tử, ớm tiếng xem ... Ðược không ?

Nhật đỏ mặt, lắc đầu :

- Tại sao ?

- Thượng công hiểu cho - Nhật ngập ngừng - Ngày nào tôi chưa tìm ra Trọng Thức, tôi không nghĩ đến chuyện tư riêng. Vả lại ...

- Vả lại làm sao ?

- ...

- À, ta hiểu rồi. Nguyễn Thiếp vẫn coi Tây Sơn là mấy tay ấp trưởng như giặc cỏ phải không ? Ðược, được
...

Nhật bước ra, mũi chợt thoáng một mùi hương quen thuộc. Nấp sau tấm trướng, Ðăng Vân thở dài, nước mắt bỗng ứa ra ướt má. Vừa lúc đó, cánh chim ăn đêm ở đâu đập trong gió khua xào xạc, đánh thức nỗi cô đơn của kẻ mới chớm yêu nhưng chưa biết thế là rồi phải chờ, phải đợi ...

Ðứng trên lũy Thầy, bóng Huệ đổ dài, phình ra như bóng một người khổng lồ, chân đạp lên mặt đất nứt nẻ. Từ Bố Chính trở ra, năm nay lại hạn hán, dân đói đã hàng đoàn từ Nghệ An chạy vào, mắt trắng dã, thất thểu dìu nhau đi như những kẻ không hồn. Chẳng cần bắt, đám đàn ông xin xung quân, ít ra là cũng có ngày hai bữa. Ðàn bà trẻ con mất chồng, mất bố đứng nhìn, kiệt lực, khóc không thành tiếng, nước mắt ròng ròng. Tự thưa :

- Thượng công, chiếm Vị Hoàng ta sẽ đủ quân lương. Giờ chia cho dân một ít.

Hướng về phương Bắc, Huệ lạnh lùng lắc đầu, mồm lẩm bẩm : « Nhỡ quân không đủ lương thì đánh chác thế nào. Thừa hơn thiếu, có hơn không ». Nhìn khuôn mặt Huệ gồ lên, cằm bạnh ra như cằm hổ mang, mắt rừng rực lửa có mầu đỏ của máu, Tự biết có nói thêm cũng vô ích. Con người đã dầy dạn chiến trận đứng cạnh căng bật như cánh cung để phóng đến mục tiêu của mình theo đường thẳng của mũi tên bay đi, không mủi lòng quan tâm đến bất cứ gì khác sự chiến thắng. Ðánh cho chắc, thắng cho nhanh, ai chia lương cho kẻ đói để phải chấp nhận may rủi ? Bỗng nhiên, Tự xót xa và thấy mình như lạc lõng.

Từ hai hôm nay, Huệ trừng trừng nhìn ra ven biển, miệng thỉnh thoảng lại lẩm bẩm : « Lửa đâu, cháy lên ! ». Hữu quân Chỉnh có lệnh đốt lửa làm hiệu, đã cắm những chòi cao chạy dọc vào đến Bố Chính. Quay nhìn
Lữ, Huệ thủng thẳng :

- Chú về giữ Phú Xuân. Ta để Huy Tự theo, hai người bàn định việc phía Nam. Ở đó, an dân là chính. Nay
Chủng ở Xiêm, thế cùng lực kiệt rồi ...

Nhìn vào mắt Tự, Huệ tiếp :

- Vào Nam làm kế lâu dài là ý thầy. Còn ra Bắc, việc đầu là ta thu kho tàng Phủ Liêu làm vốn lớn. Sau, ta sẽ tạo ra cái thế dẫu có vào Ðàng Trong, lúc nào ta cũng có chính danh để trở ra Ðàng Ngoài.

Hôm sau, Huệ không đợi lửa hiệu, ra lệnh phát quân, theo đường thủy đi vào. Ði được nửa ngày, quân Tây Sơn hò reo khi nhìn thấy lửa cháy trên những chòi dọc ven biển. Quân chủ lực đến Vị Hoàng sáu ngày thì gộp lại đông đủ. Trận cửa Luộc, Huệ đánh tan quân thủy của Ðinh Tích Nhưỡng và quân bộ của Ðỗ Thế Dân. Tiến vào phòng tuyến thứ hai, Huệ chỉ huy trung quân, bất ngờ tập kích vào đội lính Trịnh đóng tại bến Thúy Ái. Không đuổi theo đám quân dưới tay Trịnh tự Quyền đã tan rã, Huệ sai Nhậm và Chỉnh tập trung chủ lực thọc mạnh vào Thăng Long.

Ðoan Nam Vương Trịnh Tông tức giận cách chức Tể Tướng Bùi Huy Bích, bắt phải ra trận đốc chiến. Nhìn một ông nghè đầu bạc run rẩy lên đường, lòng người lại nôn nao. Tông muốn ra khỏi thành lánh giặc, nhưng bồi tụng Trần Công Sán cản lại, và khuyên Tông kéo Quận Thạc Hoàng Phùng Cơ từ Sơn Tây về. Là hổ tướng, Cơ liền lấy trước năm nghìn lạng bạc để chiêu quân, gọi được hơn nghìn thủ hạ ra đóng ở hồ Vạn Xuân. Tây Sơn đổ quân đến bến Nam Dư. Cơ biết, nhưng cho phép quân nghỉ ăn cơm trưa. Thình lình hai đạo Tây Sơn từ tả hữu ập vào đánh. Cơ có tám người con đi theo, chết mất sáu, nhảy xuống chân voi cướp đường tháo chạy. Mật lệnh đưa vào, lập tức Toàn Nhật và đội du binh Tiền Kích chiếm phủ chúa Trịnh. Từ bến Tây Long, Huệ chính mình điều quân đánh vào lầu Ngũ Long, bản dinh của Trịnh Tông. Nhìn quân mình tan tóc, Tông khóc, đổi y phục, đóng khăn hình chữ đinh, kéo voi lùi ra ô Yên Phụ chạy trốn.
Bước vào phủ Chúa, Huệ đi đến chiếc ngai thẳng chân đạp đổ, rồi gọi tả hữu, giọng sang sảng truyền :

- Ta ra đây là dẹp loạn nhà Trịnh. Nay mai ta vào vấn an Ðức Thượng Hoàng, dâng biểu phù chính. Từ phút này, quân binh phải nghiêm ngặt với bọn cướp bóc, phản tặc. Nhưng đối với hàng dân, cấm không được xâm phạm đến tài vật, của cải. Cái ăn, cái ở ta đã lo hết, ngay một hạt cơm của dân ta cũng cấm nuốt. Trái lệnh, ta cho phép làm giảo hình giữa chợ để hàng dân trông mà cậy vào phép nước.

Tối hôm chiến thắng Thăng Long, nghĩa là chỉ hai mươi ngày sau khi xuất quân từ Qui Nhơn, Huệ gọi con nuôi là Nguyễn Ðằng, ra lệnh cho kiểm kê, gói ghém tất cả châu báu, ngọc ngà và vàng bạc của Chúa Trịnh đã tích tụ hai trăm năm nay, cộng thêm vào với kho tàng Trịnh Sâm cướp được ở Phú Xuân cách đây trên chục năm từ tông tộc Chúa Nguyễn. Trong lúc hàng dân cũng như quan quân cựu triều còn hoảng hốt, Huệ ra lệnh cho Ðằng bí mật chở ra thuyền, mang tất cả về Ðàng Ngoài, cất ở một nơi không ai biết rõ. Ðoàn thuyền đó gồm hai mươi chiếc, hai ngày sau lẳng lặng rời bến Tây Long, có một đội du binh do Ðằng chỉ huy đi kèm để bảo vệ.

Nằm trên tấm đệm giường Chúa Trịnh, Huệ thấy như nằm trên bông, có cảm tưởng cứ bồng bềnh, không sao ngủ được. Khoác lên vai chiếc Vương bào có thêu hình một con cọp ở giữa ngực, đang nhe nanh vuốt, mắt trợn trừng như chực nhảy xổ ra, Huệ đốt một cây bạch lạp, đi khắp nơi, mắt nhìn lên những chiếc cột lim nghễu nghện trên có khắc chữ. Huệ cố đọc, nhưng chữ được chữ không, bực mình nhổ toẹt xuống thềm, bật mồm chửi tục. Bỗng có tiếng cười nhẹ sau lưng. Huệ quay lại. Một bóng đàn bà mặc toàn trắng thoắt biến vào gian phòng bên trái. Huệ gọi giật giọng :

- Ai, đứng lại !

Băng mình đuổi theo, Huệ chúi người, chân vấp vào ngưỡng cửa. Nhìn vào, vẫn không một ai. Nhưng tiếng cười lại cất lên, như gió thoảng, làm lạnh gáy. Huệ ngước lên. Bóng trắng lại chập chờn như trêu ghẹo, thoáng một cái đã lẩn vào gian sau. Huệ lồng dậy, cơn thèm xác thịt đã bị đè nén từ ngày xuất chinh bỗng nổi lên. Xông người đuổi theo, Huệ lại vấp, ngã chúi xuống. Một bàn tay mát rượi ép lên má Huệ mơn trớn, tiếng nói như từ cõi nào, văng vẳng :

- Ta đây. Chúa Chè đây. Nằm yên ... Ngoan nào !

Huệ tì tay xuống đất, tung người lên. Nhưng vô vọng. Toàn thân như tê điếng, Huệ mê đi trong mùi hương hăng hắc, trừ phần dưới cơ thể cứ rung lên bần bật như dùi đập vào mặt trống, Thở hắt, tứ chi nhũn ra, mắt hé mở, Huệ lờ mờ thấy gương mặt một người đàn bà rất đẹp, tươi cười bảo :

- Gặp mi muộn quá rồi ... Nếu ta biết thì xưa ta đã bỏ ra Ðàng Ngoài tìm mi.

Bỗng lưỡi người đàn bà thò ra, một gang tay rồi hai gang, đỏ loét, mỗi lúc mỗi dài, quấn lấy cổ Huệ xiết lại. Huệ vùng vẫy, tai nghe rành rọt từng câu :

- Cái phòng này là phòng con ta đã ở. Ðồ đạc của nó trong phòng, đâu phải trả vào đó. Mi đã ăn cướp được nhiều rồi, tham thì thâm ... Nghe rõ chưa ?

Huệ hét lên : « Rõ, rõ rồi ! », tim như sắp căng đứt. Huệ mở mắt khi Danh Kỷ lay gọi, thở phào, lấy tay lau mồ hôi, tay kia sờ xuống hạ bộ. Danh Kỷ khẽ nói :

- Thượng công la hét ầm lên, tôi vội chạy vào...

Huệ phẩy tay :

- Ðược, được rồi. Trong phòng này, đồ vật để yên không cho ai đụng vào... Thôi, đi ngủ !

Mặc Kỷ ngẩn ngơ không hiểu gì, Huệ lại bảo :

- Ông sai quân dọn cho ta cái phòng khác. Ta ngủ đất, chẳng cần phải chăn nệm gì ... Nhớ để cho ta một cái đèn dầu. Ðêm Bắc hà ngủ nhắm mắt quả thật là ... nguy hiểm ... Mà này, ông có biết Chúa Chè là ai không ?

Từ ngày Chỉnh đặt chân đến Thăng Long, bao nhiêu công việc đổ lên đầu, khiến Chỉnh cứ quay về nơi cư ngụ ở chùa Thiên Tích là quạu quọ. Sau buổi Huệ đến vấn an Lê Hiển Tông ở điện Vạn Thọ, Chỉnh phải chọn ngày lành để Huệ làm lễ triều kiến Hoàng thượng báo thiên hạ rõ nghĩa tôn phù. Nhưng triều đình nhà Lê nay chẳng còn ai. Chỉnh đi tìm những vị cựu thần, được sáu người, nhưng chỉ có bốn chịu vào triều, đều là những kẻ già nua không được việc gì. Trong buổi vấn an, Hiển Tôn ý sợ nhưng coi Huệ như kẻ cướp, mở miệng lần đầu đã nói ngay :

- Quả nhân làm vua thanh cần, giản dị, không có vật gì để biếu tặng.

Huệ trả lời như quên hẳn việc đã cướp sạch kho tàng nhà Trịnh, miệng ráo hoảnh :

- Thần vì nghĩa tôn phù mà tới đây, đâu dám kể công lao.

Quay sang Chỉnh, Huệ tiếp :

- Ðây là bề tôi cũ của bệ hạ đấy.

Chỉnh ra trước sập ngự lạy chào. Huệ lại nói :

- Người này dẫu tước lộc của bệ hạ cho chưa nhiều, nhưng lòng trung khó có kẻ thứ hai. Thần ra được đây cũng là nhờ hắn.

Biết Huệ mỉa mình, Chỉnh cắn răng, nhưng máu bốc lên mặt khi nghe Hiển Tông dụ :

- Chỉnh biết trung nghĩa, đấy là do công ông gây dựng cho.

Khẳng định mình nay không còn là kẻ bầy tôi nhà Lê, Chỉnh dập đầu tạ :

- Thật đúng như lời « bề trên ».

Lễ triều kiến vào ngày bảy tháng bảy ở điện Kính Thiên. Huệ tự đem tướng sĩ từ cửa Ðoan Môn đi vào. Sau khi lạy năm lạy, vái ba vái, Huệ dâng tờ tâu diệt Trịnh và sổ sách dân quân. Hiển Tông phong Huệ là Nguyên soái, tước Phù - Chính dực-vũ Uy-quốc công.

Về đến phủ Chúa, Huệ gọi Danh Kỷ, Văn Nhậm và Chỉnh vào, mặt mũi cực kỳ giận dữ. Huệ dang tay đập chén nước trà xuống đất, hầm hè :

- Ta đánh một trận, dẹp yên thiên hạ thì một hòn đất, một tên dân nước này là của ta, ta muốn xưng đế, xưng vương thì xưng, ai cản được. Cái chức Nguyên soái quốc công với ta là cái gì ? Muốn lấy tiếng hão để lung lạc một kẻ mọi rợ à ? Ta nhận, nhưng phải nói ra cho « đám thây ma » ở triều đình đó biết.

Mặt Chỉnh tái mét, không biết Huệ định làm gì. Danh Kỷ nói nhỏ vào tai Chỉnh. Chỉnh lắc đầu, lúng túng đáp: « ... để xem, để xem sau ! ». Nhìn Chỉnh, Huệ gằn giọng :

- Việc giao dịch với triều đình nhà Lê, ta đã giao hết cho ông. Ông làm thế nào mà « đám thây ma » đó khinh ta như vậy ! Nay, ta cho đi tìm Trịnh Tông, lập lại xem họ xử ra sao.

Nói xong, Huệ quày quả bước ra sau, mặt mũi hầm hầm. Về chùa Thiên Tích, Chỉnh bóp trán suy nghĩ. Chỉnh thừa biết là Danh Kỷ chỉ nói lại bụng dạ của Huệ, không thể không bàn tính với nhau trước.
Hôm sau, lính đến báo. Chỉnh vội ra cửa Tây. Lật vuông vải đậy mặt, Chỉnh nhìn kỹ, đúng là Tông. Tông tự tử, lấy đũa đâm họng rồi dùng tay tự xé cổ ra. Tuần huyện Trang, kẻ bắt Tông mang về Kinh, quì xuống thưa :

- Bẩm quan Hữu quân, muốn cứu Ðoan nam vương mà không kịp ...

Chỉnh thở dài, lẩm bẩm, rồi nhìn Trang khinh bỉ :

- Ông ăn lộc Chúa, nay phản bội, lại quay về cái bản chất cướp vặt của ông. Chỉ tội cho Lý Trần Quán, thầy ông, là kẻ nhờ ông bảo vệ Chúa. Nay Quán ra sao ?

Trang tái mặt không đáp. Chỉnh lại nhìn xung quanh, một người chắp tay thưa rằng Quán đã tự chôn sống để chuộc tội. Chỉnh nhìn vào mặt Trang, gọi lính lấy một chiếc đũa, ném xuống đất :

- Mày nhặt rồi tự xử hay bắt ta ra tay ?

Oằn người như con giun bị xéo, Trang khóc lớn, tay chắp lạy Chỉnh như tế sao. Chỉnh sai chém, rồi bêu đầu ở cửa ô, dán một tờ giấy viết rõ « Phản Chúa, hại thầy, đầu bêu ba ngày, thây phanh ra cho chó ăn. Nay thông báo cho thiên hạ. Hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh ». Về báo Huệ, Chỉnh lại xin tang ma trọng thể cho Tông theo đúng vương tước. Huệ gật đầu. Khi Chỉnh ra, Huệ nói nhỏ với Kỷ : « ... hắn muốn gột cái tiếng phản phúc đấy. Như vậy, hắn sắp phản ta rồi. Thế là hắn làm trúng ý ta. Từ nay, ông với bộ Lễ của triều Lê lo việc nghi thức cho ta ở Bắc Hà ».

Chỉnh sai anh em, con cháu bí mật lẻn về trấn Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương... gặp gỡ các hào trưởng và thương nhân giàu có, ý chiêu dụ về việc gây dựng lại Ðàng Ngoài. Lúc đó, súng ống gươm giáo lính Trịnh đều bị Huệ thu lại. Bọn quan quân và đám Kiêu binh nhà Trịnh đi đến đâu là hàng dân xúm lại đánh và cướp hết binh khí, của cải. Ðánh cướp cho thỏa cái uẩn ức kinh niên, chẳng ai nghĩ quân Tây Sơn là quân « nước ngoài ». Họ lại còn cảm phục vì những người lính đến từ phương Nam kỷ luật, không o ép, ức hiếp, đến một miếng nước lạnh của dân cũng chẳng dám tơ hào. Không biết Tây Sơn còn ở lại đến bao giờ, bọn phú hào phú thương nói nước đôi, chủ tâm là chờ đợi diễn biến. Chỉnh thất vọng, nói với Ðỗ Thế Long, người gốc Thanh Trì.

Long là người lanh lợi, xưa kia có tội đã từng bị giam với Chỉnh trước khi Chỉnh về dưới trướng Hoàng Tế Lý. Lúc vào Thăng Long, Chỉnh sai người thả cho Long ra khỏi ngục, mang về chùa Thiên Tích đãi như thượng khách, công việc Bắc hà có gì khúc mắc đều hỏi han. Chỉnh tâm sự :

- Nếu Chúa còn sống, chắc tôi sẽ đặt vào địa vị thanh nhàn, không để phải mất danh tộc. Bây giờ thì khó quá. Huệ ý o ép Vua bắt gả con gái cho rồi mới tính chuyện rút quân về, tôi chẳng biết còn phải làm sao.

Long nhẩn nha :

- Hắn muốn thành chàng rể, để hễ động tĩnh gì ở Bắc hà là kéo ra, tiếng là giúp bố vợ, mà thực là cướp nước ta. Còn chúa Trịnh, thì việc không phải chỉ đơn giản thế. Nước này, dẫu sao cũng là đất của cả Lê lẫn Trịnh. Xưa, cái sách « phù Lê- diệt Trịnh » cũng có cái dở. Nhà Chúa có hiếp chế Vua thật, nhưng vẫn có cái công tôn phù hai trăm năm. Ông dựa thế « nước người », nay nghiêng non lật biển được, nhưng khi Tây Sơn về thì ông tính sao. Theo chủ mới, ông phản Trịnh là chủ cũ đã để ông được phong hầu phong công, ấy là bất nghĩa. Bới lỗi ức hiếp làm lấp cái công tôn phù, ấy gọi bất nhân. Bất nhân bất nghĩa là tàn tặc, kẻ trượng phu lập thân quyết chẳng để mình vào thế đó được !

Mặt hơi tái đi, Chỉnh giả tảng nghĩ ngợi, mồm nhai bã trầu một hồi lâu, rồi đáp :

- Gây dựng là ơn riêng của một người. Cương thường là nghĩa lớn của thiên hạ. Tôi phù Lê là chống đỡ cương thường, chí nhân đại nghĩa, sao lại gọi là tàn tặc ?

Long được dịp, tiếp :

- Vua Lê vẫn đó, đã được tôn sẵn rồi, đâu có đợi ông tôn phù. Ðó là cái cớ ông đưa người ngoài tới đây, làm nhà nước như bình vàng bỗng mẻ, Chúa chết, Vua thì có cũng như không, quân quyền nằm hết trong tay giặc Quảng. Như vậy, gọi là tàn tặc vẫn còn nhẹ. Nay nếu ông xoay lại, khéo điều đình để Huệ no nê ước muốn mà rút quân, rồi ông chọn trong tôn thất họ Trịnh một người lập lên làm Chúa. Ông là phò tá cho Chúa, tạo ra cái cớ không để chàng rể nước Tây tự tiện muốn kéo quân ra là kéo... Mà bố vợ lại già rồi, lập Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ lên là một vì vua khác, nên cái thế bố vợ - chàng rể chắc không lâu. Ðây là cái công không mấy đời có được.

Chỉnh vái tạ :

- Tôi xin nghĩ thêm.

Long ra khỏi, Chỉnh vẫy người nhà, dặn :

- Tên hắn là Long. Rồng thì phải đưa xuống nước không để sống trên cạn làm mê loạn thiên hạ được.
Ðêm hôm đó, Long bị trói mang ra sông Nhị Hà, rồi chết đuối như người ta kháo lại.

Ba ngày sau buổi đại triều, Vua Lê Hiển Tông hạ chỉ dụ gả Ngọc Hân, năm nay mười sáu tuổi, cho Nguyên soái Uy - quốc công. Ngay hôm đó, Huệ sai Hình bộ thượng thư mang một tờ tâu, hai trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai chục tấm đoạn vào điện Vạn Thọ, xin hôm sau rước dâu ngay, ai cũng biết là cưới chạy tang vì Hoàng Thượng nay như ngọn đèn trước gió. Sáng sớm hôm sau, Huệ sai quân đệ vào tờ tâu làm lễ nghênh hôn. Quân lính Tây Sơn đứng sắp hàng, gươm giáo sáng loáng, cờ quạt đủ màu phất phới bay từ cửa phủ Liêu đến điện Vạn Thọ. Hàng dân xô nhau đi xem đứng chật như nêm cối trên đường phố, ai nấy đều mong được nhìn thấy một cuộc hôn phối không tiền khoáng hậu.

Danh Kỷ tất bật, lo liệu từng li từng tí, quyết không để ai chê là nước Tây không biết lễ nghĩa. Các hoàng thân, hoàng phi và quan văn võ đều chực sẵn ở cửa điện, sắm sửa ngựa xe, để đi đưa dâu. Khi công chúa đến cửa phủ, Huệ ngồi kiệu rồng thếp vàng ra đón. Chợt có ai đó trong đám dân giã la to : « Tiếc thay cây quế giữa rừng... », ý nhắc chuyện vua Trần ngày xưa gả công chúa Huyền Trân cho Chiêm vương là Chế Mân. Huệ mím miệng, mắt quắc lên, nhưng sau lại làm như không nghe thấy. Ðưa công chúa vào cung, Huệ thết tiệc, rồi sắp hai trăm lạng bạc sai quân đưa ra tặng các vị nhà gái. Chỉnh thầm nhủ trong bụng : « ... Vàng bạc của nhà Trịnh cả. Mất con nhưng nào có được mảnh đất nào như Ô, Rí đâu ! ». Nhưng mặt mũi vẫn tươi vui, Chỉnh theo các quan về công đường bộ Lễ, đứng ra chúc mừng, khen Vua kén được giai tế, và từ nay nước An-Nam ta có được một nước dâu gia. Hiển Tông ngồi trên ngai, thều thào đáp lễ rồi nhắn: « Ta tuổi già, không thể nương tựa vào ai. Nay công chúa nương bóng hậu dinh, hầu hạ khăn lược, để cho khi hai nước thành nghĩa thông gia, đời đời hòa hiếu, ta có nhắm mắt cũng an lòng ».

Nghe Chỉnh thuật lại, Huệ chiều hôm đó ngồi xuống uống rượu với đám tả hữu, đã ngà ngà say, nói lớn :

- Hoàng thượng quả là « lão mưu đa kế ». Kẻ mọi rợ này nay bám vào cành vàng lá ngọc, thật là « thiên tải kỳ duyên ». Ha ha, em vua nước Tây làm rể Hoàng Ðế nước Nam, môn đăng hộ đối thế, hiện ở đời này đã có mấy phen ?

Bá vai Toàn Nhật, Huệ tiếp, giọng sặc mùi rượu :

- Này chú em « rậm râu », sau này xin làm rể Tây Sơn, liệu chú em có hai mươi lạng vàng, hai trăm lạng bạc không ? Ta thật ra chẳng bỏ một chinh. Ðến vũng nước đục, ra khoắng chân quậy một cái. Rồi thò tay móc lên, nào là vàng, là bạc, là châu ngọc ... và sau cùng là ... là trái tim người đẹp.

Ngượng nghịu, Nhật khẽ nói :

- Thượng công, xin thượng công ...

Cả bọn tả hữu phá lên cười, vỗ tay. Huệ lại tu rượu ừng ực, rồi lè nhè :

- A, cái trái tim đàn bà. Ha ha, nó kỳ lạ lắm. Ta ra vì loạn, về lại đèo bồng thêm một đứa gái tơ, trẻ con nó chắc bụm miệng cười ! Mặc nó, ta chỉ quen gái Nam hà, chưa biết mùi gái Bắc. Hà hà, phải thử một chuyến xem tròn hay méo...

Danh Kỷ biết Huệ đã say lắm, phất tay ra hiệu cho mọi người lui ra. Huệ lại níu Toàn Nhật, mồm rớt rãi, nói chữ đực chữ cái :

- Chú em rể « rậm râu » ở lại ... ta ... ra lệnh ... Ba đường kiếm ... Chiêu Hồn đủ bảo vệ cho An-Nam nguyên soái. Nhưng không chống được ... trái tim đàn bà đâu ...

Bước đến cửa, Chỉnh nhìn xéo, lầm bầm buông thõng một câu :

- ... Say như thế thì méo cũng thành tròn.

Nhậm nghe thấy, mắt cau lại, chẳng kiêng nể nhìn tròng trọc vào mặt Chỉnh nhưng không nói năng gì.
Trong phòng chỉ còn Nhật và Huệ. Nhìn ra cửasổ, mặt trời yếu ớt lui dần, để vướng lại một thoáng đìu hiu trên những vạt cỏ ủ dột. Mùa mưa dầm bắt đầu từ mấy ngày rồi, tưới nước xuống như nước mắt thiếu phụ khóc chồng, thây bọc còn cuộn tròn trong những chiếc chiếu thâm sì ẩm ướt người ta bỏ nằm vất vưởng trên bờ bãi ven sông Nhị. Nhật đốt bạch lạp, kéo Huệ nằm lên sàng gỗ gụ, nhét chiếc gối mây dưới gáy. Huệ bỗng nắm lấy áo Nhật, mắt nhắm nghiền, mồm lẩm bẩm :

- Ðừng bỏ ta. Ta có tội tình gì An ơi !

An là con gái giáo Hiến, người thiếu nữ đã gieo vào Huệ những tình cảm trai gái khi vừa lớn để biết yêu. Thuở đó, Huệ mới mười bốn. An hơn Huệ một tuổi, đã nhuộm răng và biết ăn trầu, tóc để dài chấm vai, lưng ong, lúc đi quần phủ trên đất lượn lờ như là bay là nhẩy. Dù đi học, Huệ chẳng coi chữ nghĩa ra gì, mặc dầu không nói nhưng giáo Hiến cũng biết. Trong số học trò, Huệ lại sáng dạ nhất nhưng rất lười. Hễ có dịp, Huệ chòng ghẹo bạn đồng môn, thường đầu têu dẫn đi phá làng phá xóm. Một hôm, đối tượng của những trò nghịch ngợm là An. Bọn học trò đố nhau đứa nào sẽ thành giai tế của thầy. An nghe biết, chỉ mỉm cười, đùa bảo một đứa hiền lành :

- Ðứa nào biết thầy muốn gì, tao sẽ gọi bằng chồng. Mỗi đứa chỉ nói được một lần, và cố mà viết ra giấy, chữ xấu không được tính.

An thường giúp cha chấm quyển học trò, bụng chỉ muốn ép chúng tập viết cho đẹp, chẳng có hậu ý gì. Ðến ngày, mỗi đứa kèm vào tập quyển một tờ giấy nét chữ nắn nót. Giáo Hiến bắt được, truy ra việc An đùa, quẳng lên chõng hai tờ. Tờ thứ nhất, viết « Giết quyền thần Trương Phúc Loan » ký tên Huệ. Tờ thứ nhì, ghi vỏn vẹn « Thầy muốn cho chị An được sống hạnh phúc ». Giáo Hiến mắng con, song lại bảo « Huệ nó nói đúng điều ta muốn ». Hiến thâm thù Loan, vì người tri kỷ mình là quan Nội hữu Trương Văn Hạnh đã bị Loan hãm hại giết chết. Vì thế, Hiến phải bỏ Phú Xuân chạy về An Thái mở trường dạy học.

Vo viên tờ giấy Huệ viết, giáo Hiến bỏ vào mồm nuốt đi. Sau đó, trong liền hai năm, giáo Hiến giảng riêng cho Huệ một số binh thư, không bắt học những tứ thư ngũ kinh như mọi đứa trẻ khác. Huệ nghe giảng đến đâu, chẳng những nhớ mà còn tự mình sáng tạo ra những phương thức như thuật yểm kích và lối đánh vu hồi. Thấy cha mình đặc biệt lưu tình Huệ, cô thiếu nữ An không khỏi băn khoăn vì trò đùa năm nọ. Nhưng tờ giấy viết « ... cho chị An được sống hạnh phúc » ám ảnh An, bắt An hỏi hạnh phúc là gì, câu hỏi phần đông người thế gian này trốn tránh. An tất nhiên chưa biết kẻ nào đã viết câu đó mà không để tên lại, vì nào An có biết tờ giấy kẹp trong tập quyển của ai.

Năm Huệ mười sáu, mụn nổi đầy mặt, vỡ tiếng nên mỗi lần cất giọng, ai nghe cũng giật mình. Một buổi sáng, An ra cầu ao giặt áo, bỗng linh tính có người rình mình. Nàng quay lại, bắt gặp ánh mắt tóe lửa của Huệ. Huệ mím miệng, đến cạnh An, định nói nhưng lại ấp úng, ngạc nhiên thấy lưỡi mình tê cứng, tim đập như vỡ lồng ngực. Huệ nhút nhát, nói trong cổ:

- An đang làm gì đấy ?

Hiểu rằng Huệ vừa bỏ được tiếng chị, chị An như Huệ thường gọi, An dịu dàng :

- An đang bắt bóng mình trong nước...Ðấy, cứ tan đi, rồi lại hiện ra. Xem này.

Huệ ấp úng :

- Như tiên, phải, cứ như tiên ấy...

Lần sau, Huệ lại ra cầu ao. An giặt áo, Huệ ngồi cạnh say mê, hít hơi An trong gió, rồi bỗng chụp lấy tay An. Khẽ giằng ra, An cúi đầu hỏi nhỏ :

- Còn muốn giết Trương Phúc Loan không ?

Huệ quả quyết gật đầu. An buồn rầu, nhỏ nhẹ :

- Thế thì ... có làm cho An hạnh phúc không ?

Ngạc nhiên, Huệ đớ người ra. Rồi Huệ lắc đầu. An vùng đứng dậy, nước mắt ứa ra, chạy vào nhà. Hai tháng sau, An tìm người viết tờ giấy rằng « Thầy muốn cho chị An được sống hạnh phúc ». Ðó là cậu bé hiền lành ngày xưa, nay cũng đã mười bảy. An hỏi :

- Thế nào là sống hạnh phúc ?

- Sống hạnh phúc là sống một cuộc đời bình thường. Bình thường ở chỗ sáng cũng cười, tối cũng cười. Dĩ
nhiên, no thì cười, đói chắc khó. Hạnh phúc bình thường là bụng no, còn đầu thì vui.

- Không quyền uy, quan tước, danh vọng, phú quí ?

- Nhất định không !

An bỗng chép miệng, rồi cương quyết :

- Cứ cho cha mẹ đến hỏi, An xin về nhà anh.

Mấy tháng sau là đám cưới An. Hôm ấy, Huệ chạy ra hét như người hóa dại, rút dao đâm vào đùi mình, máu chảy lênh láng, kêu ầm lên :

- Chỉ vì mặt ta có mụn, chỉ vì mặt ta có mụn ...
Huệ ốm liệt giường. An và giáo Hiến vào thăm. Khi đi về, An đợi giáo Hiến ra trước, kịp nói riêng với Huệ :

- Chẳng phải vì mặt Huệ mụn, mà vì Huệ không biết thế nào là hạnh phúc. Thứ hạnh phúc bình thường ...

Ðầu giờ Tuất, Huệ tỉnh dậy đòi ăn cháo. Toàn Nhật lặng lẽ nhìn, thấy Huệ đăm chiêu. Hai lần lấy vợ trước, cũng hệt vậy. Hình ảnh An, cái cầu ao, bóng nước khi hiện khi tan, rồi câu nói cuối cùng An trách Huệ không biết thế nào là hạnh phúc lại văng vẳng trong tai. Huệ bước ra lan can, mặt ngửa hứng lấy những giọt mưa hắt qua mái các. Cắn môi, nhìn vào màn đêm trắng đục, Huệ vẫn chỉ thấy một mình An, cô thiếu nữ dạo nào. Vẫn là An giằng tay không cho Huệ nắm. Vẫn là An, đã tưởng xa đi nhưng sao vẫn đấy, ám ảnh, mê hoặc, giăng những sợi tơ nhỏ nhoi nhưng bền vững giam hãm linh hồn Huệ gần hai mươi năm nay.
Nhật lên tiếng :

- Thượng công thấy mình ra sao ?

Nhìn thẫn thờ vào khoảng không, Huệ gạt tay, đáp :

- Ta không sao, chắc vui nên quá chén.

Niềm vui của Thượng công - Nhật nghĩ thầm - quả là khác người. Trong giấc ngủ vùi, Huệ thỉnh thoảng co dúm người lại, rên xiết, nước mắt ứa ra, tức tưởi gọi An, An ơi ... An là ai ? Người nào mà lại có cái quyền năng làm một vị tướng bách chiến bách thắng gập người xuống lạy van ngay cả trong một giấc mơ ?
Gió lạnh thốc vào. Ngọn nến lung linh cháy, soi mặt người bằng thứ ánh sáng cong đi rồi thẳng lại, khiến những đường nét chốc chốc lại gẫy vụn ra, đổ gục xuống. Lấy tấm Vương bào trên ghế, Nhật mang lại hai tay dâng lên. Huệ cầm, nhìn Nhật, rồi nhỏ nhẹ :

- Tướng quân về nghỉ. Ta phiền tướng quân nhiều rồi.

Vái Huệ, Nhật lùi ra, nhìn lại cái khối cô đơn khủng khiếp lặng lẽ đứng dậy xua tay, miệng cố mỉm cười, cái cười trông tội nghiệp.

Ngồi một mình trong ánh nến chập chờn, Huệ nhắm mắt lại, hình dung ra khuôn mặt An thuở ngồi bên cầu ao, lại tự hỏi mình thế nào là hạnh phúc. Có phải chăng là những giây phút rạo rực, tung quân vào yểm kích, tính toán đường đi nước rút của địch, công thành, phá ải ? Có phải chăng là khi thu quân lương, vàng bạc châu báu chiếm được ? Có phải chăng là chỉ một câu nói lớn, một cái trừng mắt, một lời diễu cợt mà đủ làm đám bề tôi cứng họng, thắt tim, gập đầu vâng dạ ? Ðó là, nói gọn lại, quyền uy. Nó thể hiện con người Huệ, nhưng tại sao khi diệt xong địch, chiếm xong thành, thu vào tay châu báu, quát gọi cho người ta vâng dạ, Huệ lại cảm thấy trống rỗng, để một nỗi cô đơn mênh mang ập vào làm tan đi tất cả những cái gì vừa tạo ra, biến chúng thành vô lý vô nghĩa ?

Huệ lại với tay lấy rượu, tu ừng ực, để cái chất rát nóng tràn vào cơ thể mình, bốc ngược lên đầu, làm tê liệt những câu hỏi không có lời đáp. Rồi Huệ cười lên sằng sặc, nghêu ngao hỏi như có người trước mặt : « ... Này An, thế nào là hạnh phúc ? ». Chỉ tay vào bóng mình, Huệ rít lên : « ... trả lời đi, đợi gì nữa An ơi... Thế nào là hạnh phúc bình thường ? Ta có khả năng trở nên bình thường không ? Hay muộn quá rồi ! »
Huệ lảo đảo đứng dậy, tay lấy chiếc roi móc trên giá vũ khí, vung một đường vòng, rồi ném xuống đất. Ngồi xuống, Huệ lại uống, rồi cởi áo ra, vai nổi lên những bắp thịt làm bằng đồng nguội. Huệ gào : « Ta hành nó cho em sướng nhé ! », rồi mím môi vớ roi đánh vòng vào lưng mình, tiếng nghe chan chát như tiếng đập áo quần sũng nước ở một bờ ao vùng An Thái. Ðánh đến mỏi tay, Huệ gục xuống, nằm xoài ra trên thềm gạch, miệng thở khò khè. Trống điểm canh dinh trại Tây Sơn vang lên trong đêm tối khiến Huệ nhổm dậy, với tay khoác chiếc Vương bào vào người, chập choạng mở cửa phòng bước ra, miệng lẩm bẩm : « Ðêm nay động phòng. Xem con ranh nó tròn hay méo ... »

Ðạp cửa, Huệ chệnh choạng bước vào, nhìn chiếc giường giải đệm trắng đặt ở giữa, xung quanh có màn rủ. Vạch màn ra, Huệ nhìn vào. Ngọc Hân không có đó. Mặt giường bỗng trải rộng ra, lăn tăn sủi sóng, như biển nhìn từ cửa Thị Nại. Huệ vặn bấc đèn lên.

Trong một góc phòng, Ngọc Hân ngồi nép vào tường, lặng yên, mắt hoảng dại nhìn Huệ, mắt con mồi bị săn đuổi vào đường cùng không còn nơi nào để ẩn nấp. Huệ lè nhè, tay vẫy. Hân thấy bụng mình thót lại, tứ chi nhũn ra, lòng trống tênh, đầu cứ mụ dần đi như vào cơn mê ngủ. Huệ tiến lại, mắt đỏ lừ lừ như mắt cọp. Thình lình, Huệ nắm vào ngực xiêm, kéo mạnh rồi xé ra, tiếng lụa nghe soàn soạt hệt tiếng dao chém. Thò tay bóp vỡ chiếc trâm cài đầu Ngọc Hân, Huệ ngẩn ngơ nhìn suối tóc chảy xuống đến ngang vai, miệng rên rỉ : « ... hạnh phúc, mi đâu hả hạnh phúc ». Ném tấm Vương bào, rồi từ từ cởi chiếc cạp quấn lưng quần, Huệ trần truồng đứng, quát Hân : « Này, nhìn đi ». Nàng công chúa mới mười sáu tuổi co dúm người, nhắm mắt lại. Huệ xé mảnh vải cuối cùng trên hạ thể Hân, xoay người Hân lại, bắt quì xuống. Hai tay nắm vào hai núm cau vừa đủ to để hái, Huệ lại rên : « ... hạnh phúc à ...». Kéo cho mông Hân chổng lên cao, Huệ thúc vào từ phía sau, vừa thúc vừa kêu : « Hạnh phúc này, hạnh phúc », mỗi lúc một mạnh, hệt như khi Huệ thúc voi vào cửa ô Trường Bản thành Thăng Long cách đây vừa năm ngày. Ngọc Hân oằn người, thét lên một tiếng nhỏ, rồi mặc cho sự đau đớn đến chảy nước mắt, nàng nghiến răng, đầu thầm nhủ lời cha dặn dò « ... nghiệp nhà Lê trong tay con ». A, cái cơ nghiệp bốn trăm năm cứ trồi cao trụt thấp cho đến khi Huệ kêu hự lên một tiếng, rồi ngả người nằm xấp mặt xuống thềm.

Ngọc Hân đợi một lát, rồi co chân ngồi dậy. Trên mặt gạch hoa trắng bóng, một vệt máu chảy từ đùi Hân xuống đọng lại. Máu đỏ màu gụ, có mùi tanh, đánh dấu phút cuối đời con gái. Ðời con gái của một thiên kim tiểu thư cành vàng lá ngọc trao vào bàn tay man dại của vị nguyên soái bách chiến bách thắng. Nàng cắn răng ghìm cơn đau đớn, nhìn sang Huệ. Lưng Huệ hằn những vệt roi rướm máu, bầm tím, hệt như vết vằn trên da hổ. Lẳng lặng nhếch mép, Hân bỗng thỏa mãn, thầm nhủ « ... ta đâu có cần chi hạnh phúc ».

Chương 9
Bờ xa

Trong cơn sóng vật vã quăng thân xác mình lên cao rồi lại quật xuống thấp, Trọng Thức gần mê man đi giữa biển nước mặn chát lều bều nổi bọt. Ðưa tay lên ngực, Thức nắm lấy phiến đá. Chàng nhắm mắt lại, tay lạnh buốt, thầm gọi tên Băng Vân. Phải chăng từ đây chàng sẽ dật dờ một mình trên nẻo dương gian, không còn một hy vọng gì tìm lại được tình yêu kia, cái tình yêu với người đàn bà sẽ muôn đời bị giam hãm giữa những phân tử lạnh tanh mang kiếp đá. Tai lại nghe tiếng cười man rợ đâu đây, rồi tiếng nổ, tiếng rú, Thức cố giằng tay nhưng sợi dây trói chàng vào cái cột gỗ trên chiếc tầu biển Bồ đào Nha giật lại, xiết vào đau nghiến. Nước tứ phía tràn vào. Lại tiếng nổ. Sàn tàu vỡ tung ra. Chàng bị bốc bổng như mọc cánh bay lên. Rồi rơi xuống. Rơi vào một khoảng đen ở đâu ùa đến, xoáy tròn chôn ốc, cắm vào cái trũng sâu không đáy.

Sau bao nhiêu lâu, chàng không rõ, khoảng đen đó bắt đầu lờ mờ sáng. Nuốt ngụm nước dịu ngọt không biết ai đổ vào miệng, Thức cảm thấy sự hồi sinh đang cứ từng giọt thấm vào những tế bào rời rã. Chàng nghe như đến từ một nơi nào xa lắm dăm tiếng người. Chàng thu hết sức cất tiếng gọi. Người đỡ đầu Thức lên cho uống reo nho nhỏ “ ... tỉnh rồi. Không chết đâu ”. Thức rên một tiếng, mở mắt ra. Nhìn chung quanh, chàng mỉm cười, ra dấu rồi lại nhắm mắt lại. Ðến lúc tỉnh hẳn, chàng thấy mình nằm trong khoang một chiếc thuyền khá lớn. Một người đeo gươm đến hỏi. Chàng thều thào kể lại từ lúc bị Tây Sơn bắt cho đến khi được chiếc tầu Bồ đào Nha cứu thoát khỏi cơn bão biển.

Hôm sau, chàng biết mình đang xuôi về phương Nam, trong một đoàn sáu chiến thuyền đang chạy theo chúa Nguyễn. Hỏi ra, thủy binh Tây Sơn tập kích lực lượng chúa Nguyễn đã bất ngờ vây tầu chiến Bồ, rồi dùng hỏa công đánh đắm. Khi đoàn sáu chiến thuyền này đến giải cứu thì hai chiến thuyền Tây Sơn lại tản ra, đi vòng về phía sau. Ðoàn chiến thuyền vớt được Thức và hai người Bồ, rồi tiếp tục chạy ra khơi.

Tháng ba năm Quí Mão 1783, Huệ và Lữ tiến đánh Gia Ðịnh trong khi Thức bị Nhạc bắt giữ. Bộ binh Tây Sơn tiến đến Bình Thuận chỉ là nghi binh, khiến cho Nguyễn Ánh tính sai thời gian Gia Ðịnh bị tấn công. Quân bộ Tây Sơn bất ngờ lên một số chiến thuyền đã sắp sẵn ở Phú Yên, chở được voi, theo đường thủy vào cửa biển Cần Giờ. Ánh xếp đặt một khu vực hỏa công, dùng “ bè hỏa ” và “ rồng cỏ ” định phục kích để tiêu diệt chiến thuyền Tây Sơn, sai Lưu thủ Thăng và Tiên phong Túy đem kỳ binh ra nghênh chiến rồi chạy để nhử. Nguyễn Huệ chọn lúc thủy triều lên mới xuất quân, dùng sức gió và sức nước xua thuyền ào ạt tiến lên đánh thẳng vào khu vực hỏa công. Giám quân Tô, người điều khiển hỏa công của quân chúa Nguyễn, luống cuống hạ lệnh phóng hỏa. Nhưng vì ngược chiều gió và chiều nước, chính những bè hỏa công lại trôi ngược lại đốt cháy chiến thuyền Nguyễn. Quân Nguyễn cuối cùng tan vỡ rồi rút chạy dưới hỏa lực dữ dội của Tây Sơn. Gia Ðịnh không thể giữ nổi. Cánh quân chủ lực do Chu Văn Tiếp bị đánh tan hoang, bỏ chạy theo đường sang Cao Man. Nguyễn Ánh hoảng sợ, đem gia đình, năm sáu tướng lĩnh tùy tùng và không đầy một trăm lính còn xót lại chạy về Ba Giòng rồi tiến lên đóng ở Ðồng Tuyên bố trí phòng ngự.

Lúc ấy, Nguyễn Lữ giao ấn Tiết Chế cho anh mình là Nguyễn Huệ, tập trung sức vào tổ chức bình định miền Nam. Huệ hoàn toàn trách nhiệm việc quân sự, đưa tượng binh lên tấn công Ðồng Tuyên. Trước sức mạnh của Tây Sơn, toàn bộ quân chúa Nguyễn tan rã, phần lớn các tướng lãnh hoặc bị bắt, hoặc chết trận. Ánh mang tàn quân cùng năm mươi chiến thuyền chạy xuống Lật Giang, qua Mỹ Tho, rồi ra cửa biển Ba Thắc. Tại đây, Thầy Liot cùng Giám Mục Bá đa Lộc và một số Thừa sai đã mang trường đạo Mặc Bắc ở Trà Vinh đến ẩn. Sau đó, Ánh lại chạy ra tận Phú Quốc, nhưng tướng Tây Sơn là Phan Tiến Thận vẫn truy kích và tiêu diệt một phần lớn chiến thuyền quân Nguyễn ở đảo Diệp Thạch.

Chạy đến đảo Cổ Long, Ánh chỉ còn một tầu Tây, mười lăm chiến thuyền và hơn sáu trăm quân, lại gặp bọn Bá đa Lộc. Nhờ hai giáo sĩ Ypha Nho dẫn đường, Ánh xuất tiền mua lương thực và viết thư cầu viện Ypha Nho lúc ấy đương thống trị Phi luật Tân. Chưa kịp đi, Tây Sơn cử phò mã Trương Văn Ða mang thủy quân đến vây Cổ Long. Hai giáo sĩ Castuera và Ginestar vội vàng xuống chiếc ghe bầu vào đất liền nhưng bị quân Tây Sơn bắt lại. Ða dàn chiến thuyền thành ba vòng vây chặt Cổ Long, nhưng ngày sau bị bão lớn, thuyền phải dồn lại ghì chặt với nhau để chống đỡ gió to sóng lớn. Nhân cơ hội đó, Ánh đem tàn quân chạy trốn sang đảo Cổ Cốt. Chính trong cơn bão ấy, Trọng Thức được một tầu chiến Bồ đào Nha cứu, và mươi hôm sau, tầu đó bị thủy quân Tây Sơn đánh chìm. Lên Cổ Cốt được đúng một ngày, biển lại thấp thoáng bóng cờ đỏ giăng trên chiến thuyền Tây Sơn đuổi tới. Ánh ra lệnh cho tầu tàn quân giong buồm chạy về Thổ Châu.

Hai ngày sau khi đặt chân lên Thổ Châu, một hòn đảo cách đất liền đến gần năm trăm dặm, Thức được lệnh gọi lên gặp Ánh. Ðó là một thanh niên tuổi trên hai mươi, người tầm thước, mặt vuông, cằm bạnh nhưng dáng mảnh khảnh, khi nói mắt vu vơ nhìn vào khoảng không, lúc nào cũng nắm tay lại như sắp đánh sắp đỡ. Ánh ngồi trên nắp một thùng thuốc súng, mặt mũi đen xạm, hốc hác, nhưng tóc vẫn búi gọn ghẽ, đầu đội mũ, đai lưng đeo một thanh kiếm ngắn. Ánh hỏi trống không :

- Mi từ đâu đến ?

Thức chậm rãi kể chuyện đi vào Ðàng Trong, bị Tây Sơn bắt, gặp bão dạt trên biển, được tầu Bồ cứu xong lại gặp thủy quân Tây Sơn đánh phá. Ánh lẳng lặng nghe, ngắt lời :

- Mi người Ðàng Ngoài vào Ðàng Trong làm chi ?

Thức thuật chuyện bị giam trong vụ án năm Canh Tý, rồi phiêu dạt đến Phố Hiến quen giáo sĩ Sieyès, và sau đó Sieyès đã dâng mình tử vì đạo ở Ða Phạn. Ánh đột nhiên xen vào :

- Mi có là thầy dòng không ?

Thức lắc đầu. Ánh liếc mắt, miệng trề xuống :

- Mi làm gì với Sieyès ?

Thuận miệng, Thức kể là mình đang tu chỉnh cuốn từ điển Việt - Pha Lang Sa - Latinh, việc còn dang dở nên muốn gặp thầy Liot để tiếp tục. Ánh lạnh lùng :

- Ta có thư cho Thầy Liot. Ta đọc, mi dịch ra tiếng Pha Lang Sa ...

Ánh im lặng mở một phong thư, chậm rãi từng tiếng :

Gởi Thầy Cai trường, tôi hiện ở Thổ Châu, thế giặc mạnh, phải tạm lánh mình, quân lương không đủ, chỉ còn dùng cho mười hai ngày. Nay sai Sùng Ðức Hầu cầm thơ và mười nén vàng, kính xin Thầy mua hộ và giúp thêm cho lương thực, nước uống ...

Thức hí hoáy viết rồi dịch. Mắt Ánh nhìn trừng trừng bất động. Thò tay cầm lấy bản dịch, Ánh vẫy tay gọi
một người tùy tùng :

- Kêu thầy Tân tới gấp.

Một lát sau, một người quãng trung niên lù khù chạy tới. Ánh ngước lên, tay đưa bản viết của Thức :

- Thầy đọc ra tiếng ta cho nghe coi.

André Tân cầm, rồi dịch lại. Ánh gật gù :

- Ðược ! Hiện Thầy Cai trường Liot và trường đạo đang ở Chantabun thuộc Xiêm La. Quay sang người tùy tùng, Ánh trầm ngâm - Sai cho ta Sùng đức Hầu đi ngay. Còn mười hai ngày lương nên ta cũng không thể châàn chừ, cho quân nghỉ thêm một vài ngày rồi giong thuyền ra khơi ...

Nhìn ra biển, Ánh thở dài im lặng. Lát sau, Ánh quay sang Thức, dịu giọng :

- Còn thầy, thầy theo ta thì sẽ gặp Cai trường Liot. Muốn thế, thầy phải trả lời ta cho thật ... Nói ngoa, ta
sẽ bỏ thầy cho chết đói trên đảo này !

Thức nhìn Ánh, chờ đợi, ung dung :

- Bẩm Vương công, xin cứ hỏi ...

- Thầy làm từ điển có mục đích gì ?

Khẽ ngửng lên nhìn, Thức từ tốn :

- Vương công xét cho, tầu Tây tầu Bồ đến xứ ta. Còn thuyền ta, có đến Tây đến Bồ được không ?

Ánh lắc đầu.

- Ta phải mua súng thần công châu Âu, còn người Âu có mua súng ta làm không ?

Ánh lại lắc đầu. Thức liền nói :

-Muốn học họ, phải biết tiếng họ. Làm từ điển là vì thế, để cho người mình có phương tiện học hỏi kỹ thuật
Tây phương !

Ánh trầm giọng :

- Nhưng họ có thể dùng từ điển đó để đi giảng đạo Gia Tôâ của họ !

Thức nhướng mắt :

- Dám hỏi Vương công, đạo Gia Tôâ có dạy cho dân ta ăn gian nói dối, giết người cướp của không ?

Ánh lắc đầu, nhưng hỏi lại :

- Ðạo của họ chỉ độc tôn Thiên Chúa, cấm cả thờ cúng tổ tiên, rồi nay mai sẽ thay đổi trật tự vua tôi,
phụ, tử ? Thế chẳng phải là rối ư ?

Thức ngẫm nghĩ rồi lựa lời :

- Thưa Vương công, nay cứ mười người ta thì đã có một giáo hữu Gia Tôâ. Ðàng Trong, họ khoảng tám vạn. Ðàng Ngoài, trên hai mươi vạn. Có hay không có từ điển, cũng là thế. Họ là giáo hữu nhưng nào lòng họ có bỏ ông bà tổ tiên đâu ! Vì thế, đâu chỉ có việc thờ cúng mà quên đi cái dụng của kỹ thuật Tây phương. Lại xin hỏi, nếu như ta có kỹ thuật đó, Vương công nào đâu còn phải cậy đến họ mua cho tầu bè, súng ống ? Kẻ hèn này nghĩ đã kỹ, lợi nhiều hơn hại, ta phải đi học Tây phương. Sau này, không nước nào, kể cả nước ta, lại có thể bế quan tỏa cảng được ! Còn như mở ra, nhưng lại tụt hậu về kiến thức, thì là đặt nước mình vào thế yếu, thế hèn, thế bị trị, dẫu rằng ta vẫn có Vua, có Quan ... Ấy là Vua, Quan với nhau như bù nhìn mà thôi, còn trên thực tế, chính là lệ thuộc vào cái mạnh bên ngoài nó chi phối, kiềm chế, thậm chí điều hành mình ...

Ánh đưa tay ngắt lời Thức, rồi chán chường nói :

- Thầy nói thế, Chủng này không phải không hiểu. Nhưng Chủng làm thế nào được! Cơ nghiệp ông cha tiêu vong, bọn giặc Tây Sơn thì quỉ quyệt hung hãn, chúng lại bị đám quyền thần chúa Trịnh đẩy vào cái thế phải đi đầu cướp đất nhà Nguyễn, nên Chủng mới nên nông nỗi này ...

Im lặng một hồi lâu, Ánh nghiến răng, mắt lóe lên ánh căm hờn có thể làm chết sữõng những kẻ yếu bóng vía, gằn giọng :

- Ðược! Thầy nói nghe cũng được. Ta cho thầy theo để thể hiện ý nguyện thầy. Ngược lại, ta cũng xin thầy giúp cho một việc…

Quay sang tên tùy tùng, Ánh nói nhỏ vào tai, rồi lại im lặng nhìn những đợt sóng trắng xóa vỗ vào bờ cứ ì ầm như tức giận. Một lát sau, tên tùy tùng bế một đứa con trai độ lên năm ra. Ánh ôm lấy đứa bé, rồi đột nhiên ngửa mặt lên trời, hú lên một tiếng dài như tiếng một con thú ở bước đường cùng. Nước mắt lã chã rơi ướt nhòa mặt mũi, Ánh ngào nghẹn quát nhỏ:

- Thầy sẽ cùng con ta sang Pháp lan tây, đi không biết bao lâu, nhưng chắc sẽ về ... Ta sẽ ủy thác nó cho thầy ... Phụ ta, thì dẫu thầy có xuống hỏa ngục ta cũng sẽ xuống theo tự tay bỏ thầy vào vạc dầu.

Ngưng nói, Ánh nhìn thằng bé co người lại vì sợ, lẩm nhẩm :

- Ta phải cầu viện người, con ạ. Nhưng nhất định là ta không bao giờ vì thế mà mất ta đâu ! Cha con ta sẽ xa cách, nhưng để một ngày chính ta sẽ bêu đầu thằng Huệ thằng Nhạc, lấy sọ chúng nó làm bô nước tiểu, đái vào mười năm để trả cái thù ly biệt này !

Quay sang Thức, Ánh lấy lại bình tĩnh :

- Ta sẽ mang thầy giới thiệu cho cố Bá đa Lộc. Nhưng thầy coi chừng, ông ta sẽ thử thách thầy. Nếu thầy chỉ nói là thầy tìm cách học hỏi Tây dương thì chắc không xong đâu ! Tốt nhất là thầy ít nói, và tỏ ra ngoan đạo. Từ nay, thầy học Kinh E-van cho thuộc. Thầy Tân sẽ giám thị việc học Kinh này. Học không xong thì thầy biết đấy, thầy chỉ còn đường đi chầu hà bá mà thôi !

Trong ba anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Lữ nhỏ tuổi nhất nhưng lại thâm trầm hơn hai anh. Lữ gần gũi mẹ, chịu khó học nên năm lên mười đã đọc được Tứ Thư, chữ nghĩa khá hơn cả nhà. Năm mười lăm, Lữ quan sát gà chọi, nghĩ ra mười bảy thế võ kim kê. Trong quân, Lữ lại sáng tạo các thế trận đánh giáp lá cà, dùng sức phối hợp của các loại khí giới trường đoản khác nhau. Năm Lữ mười tám tuổi, Nhạc trao cho Lữ trách nhiệm dẫn quân vào tập kích Gia Ðịnh. Dùng yếu tố bất ngờ, Lữ đuổi chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy ra Long Hồ, rồi truy kích cho đến Bà Rịa. Tại đây, Thuần có lần phải trốn vào nhà thờ do một giáo sĩ Ypha Nho là Diego de Jumillia quản trị. Lữ bao vây, nhưng cấm quân lính không được xâm phạm đến nơi thờ phụng tôn giáo. Vây hai ngày, nghĩ thế nào Lữ cho người vào bảo Jumillia: “ Xin đừng xen vào việc của người chúng tôi ” rồi rút quân tha cho Thuần. Thuần thoát chết, gọi Ðỗ Thanh Nhân hiệu triệu cần vương, dấy được ba nghìn quân gọi là quân Ðông Sơn từ Mỹ Tho tiến về Gia Ðịnh. Phía bắc, Tống Phúc Hiệp và Lý Tài, một tướng Tây Sơn đã hàng quân chúa Nguyễn, cũng từ Phú Yên kéo về đến Trấn Biên. Lữ hạ lệnh rút quân theo đường thủy về Qui Nhơn, mang theo toàn bộ kho tàng chiếm được sau khi tiêu hủy khí giới, quân lương và đồn lũy thành Gia Ðịnh. Về đến nơi, Nguyễn Nhạc gọi Lữ vào quở :

- Sao mi tha cho thằng chó đó ?

Lữ mỉm cười rồi đáp :

- Xin đại huynh là nay tha cả hoàng tôn Dương cho đủ cặp.

Từ ngày khởi nghĩa, anh em Tây Sơn mang danh nghĩa phò hoàng tôn Dương chống lại quyền thần Trương Phúc Loan, đã lưu Dương lại Qui Nhơn đãi như thượng khách. Nhạc nghe Lữ nói, lắc đầu không ưng ý. Lữ lại nhắc : “ ... Lý Tài bỏ ta, gặp Nguyễn Phúc Dương chắc thế nào rồi cũng có sự quấy quá ”. Huệ nói vào nhưng Nhạc gầm gừ, nhất định không nghe.

Ðêm hôm đó, Huệ bảo Lữ “ ... có chi thì ta chịu ” rồi thả cho Dương vào Phú Yên. Tháng mười năm Bính Thân, Dương liên lạc với Lý Tài vốn đã quen biết nhau khi cùng ở Qui Nhơn. Quả nhiên, Lý Tài tiến quân về Gia Ðịnh uy hiếp khiến Ðỗ Thành Nhơn phải chạy về Ba Giòng. Tài lại ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi chúa cho Dương. Thuần và bọn cháu là anh em Nguyễn Ánh trốn về Ba Giòng. Không may, Thuần bị bắt lại. Như vậy, đúng theo dự tính của Lữ, quân chúa Nguyễn chia thành hai phe. Phe Lý Tài và quân Hòa Nghĩa ủng hộ Dương được dịp tự xưng là Tân Chính Vương, chống với phe Ðỗ Thành Nhân và quân Ðông Sơn vẫn trung thành với Thuần, nay được Dương phong làm Thái Thượng Vương nhưng không có quyền hành chi cả.
Nhạc nghe tin quân chúa Nguyễn đánh lẫn nhau, hể hả lắm, ôm Lữ bảo: “ ... mi vậy mà thâm ”. Năm sau, Nhạc kêu ầm lên là thấy rồng bay từ cửa Thị Nại vào Qui Nhơn, tự mình lên ngôi, xưng là Thái Ðức Hoàng Ðế, rồi phong cho Lữ làm Tiết Chế coi tất cả việc quân. Vẫn còn bực Huệ về việc không nghe lời mình, Nhạc chỉ cho phong Huệ chức Long Nhượng tướng quân. Vỗ vai Lữ, Huệ phá lên cười, tay chỉ lên mây, nói lái “ ... ta nay lại thấy rồng lộn từ Qui Nhơn ra Thị Nại ! ”.

Giải hai giáo sĩ Ypha Nho mang thư cầu viện của Nguyễn Ánh bắt được về Gia Ðịnh, Lữ thừa biết rằng dẫu thoát, Ánh chẳng còn lực lượng gì đáng kể. Huệ vắng mặt, Lữ một mình chống cằm ngồi tư lự hàng giờ, cuối cùng cho gọi hai vị giáo sĩ lên. Từ tốn hỏi về tình hình bọn Ánh và Bá đa Lộc, rồi chìa bức thư ra, Lữ nói :

- Hai vị biết, Tây Sơn chúng tôi trọng những người giáo sĩ Gia Tôâ đi giảng đạo. Xưa, chính tôi đã tha cho Nguyễn Phúc Thuần, lại xin với giáo sĩ Jumillia là đừng can thiệp vào nội bộ chúng tôi. Ngày nay - Lữ nhướng mắt lên, chậm rãi - Hai vị cầm thư này thì không thể nói như Giáo sĩ Jumillia là vì tấm lòng người Gia Tô nhân đạo ... Tôi phải xử hai vị thế nào đây ? Chúng tôi có thể cho voi dầy hai vị, ngựa xé hai vị, hay là giảo hình tùng xẻo hai vị. Tiếc thay, hai vị không thể cho rằng mình tử vì đạo để chết yên ổn ... Hai vị chết vì a tòng với bọn giặc phản loạn chống Hoàng đế nước tôi !

Giáo sĩ Castuera và Ginestar run bắn lên, mặt tái nhợt. Ginestar sợ quá, nhũn chân ngã khuỵu xuống, không đứng lên được, ú ớ nói như mê sảng. Lữ phẩy tay cho lôi bọn họ ra, dặn chỉ giam lại.

Ba ngày sau, Huệ từ Vĩnh Trấn về Gia Ðịnh. Nghe Lữ kể xong, Huệ biết ý, bảo ngay : “ ... chú định tha họ ? ”. Lữ gật đầu, nói :

- Phía Bắc, quân chúa Trịnh đóng đấy đợi thời cơ là kéo vào ép đánh Qui Nhơn và Quảng Ngãi. Từ Phú Yên đến Bình Thuận, quân ta mới chiếm, vẫn phải dàn mỏng ra để giữ. Vào miền Nam này, dẫu nay ta có chiếm được toàn bộ thì vẫn không đủ sức giữ hết, giỏi là phòng bị được Gia Ðịnh trở ra. Ánh nay lại xin cầu viện với Xiêm La và với Pháp. Xiêm ở gần, kéo sang tới nước ta chỉ hai ngày. Nếu hắn lại có thêm Ypha Nho từ Phi luật Tân đến giúp, thuận buồm xuôi gió thì chắc ba ngày hai đêm là có thể đổ bộ vào. Lại nghe quân Mã vừa sục đến đánh Cao Man, sự thể không biết sẽ ra sao ! Vì vậy, ở thế ta, bớt được kẻ thù, thêm được đồng minh là thượng sách.

Huệ cười : “ ... ừ thì tha, nhưng cứ giam cho đến khi nào ta về Qui Nhơn đã ”. Ngay hôm đó, Huệ dặn Trương văn Ða sửa soạn chuyển quân sang cứu Cao Man. Một tuần sau, Huệ cho gọi hai giáo sĩ lên. Ngồi bên Lữ, Huệ quắc mắt hỏi :

- Hai vị muốn sống hay muốn chết ?

Castuera cúi đầu, gập người xuống, miệng khẩn cầu :

- Chúng tôi mắc tội, chót lỡ lầm. Nay làm gì chuộc được, chúng tôi sẽ xin hết lòng.

Huệ đưa một phong thư đã viết sẵn, rành mạch :

- Một trong hai vị mang phong thư này sang Phi luật Tân đệ trình cho quí Vương rõ : Tây Sơn chúng tôi để mọi giáo sĩ tự do đi lại truyền đạo từ Qui Nhơn vào Hà Tiên, sẵn sàng mở cửa khẩu Thị Nại và Cần Giờ để thông thương buôn bán với quí quốc Ypha Nho. Phép độc quyền đặt thương quán tại hai nơi đó có thể dành cho quí quốc sau khi hai bên thỏa thuận.

Ngừng nói, Huệ quay sang Ginestar ra lệnh :

- Còn một vị ở lại nước này, cứ đi rao giảng nhưng nói lại với giáo hữu rằng họ sẽ được miễn sưu miễn thuế trong ba năm tới đây nếu như họ vào sổ đinh và chịu binh dịch, cứ năm đinh bắt một lính.

Chỉ hai tháng sau khi Huệ và Lữ rút quân về Qui Nhơn, để Gia Ðịnh cho Trương Văn Ða giữ, thì tướng tá quân chúa Nguyễn lại xuất đầu lộ diện. Hồ văn Lân tiến chiếm Cần Thơ, bắt được mười ba chiến thuyền đi biển của Tây Sơn. Lê Văn Quân mộ quân giữ sông Tân Hòa. Tôn Thất Hội thu thập tàn binh cướp đồn Tinh Phụ. Trong khi đó, đoàn thuyền Nguyễn Ánh lại từ Thổ Châu giong về đất liền. Men vịnh Xiêm La, thuyền phải ghé vào những cù lao rải rác để hái rau đào củ ăn cho qua ngày. Tháng giêng năm Giáp Thìn, Ánh ghé vào một hòn đảo cách Chantabun hơn một dặm. Cùng lúc đó, đám tướng Nguyễn bị Tây Sơn vây đánh. Lê văn Quân và Tôn thất Hội lại thua, cùng đường cũng chạy sang Xiêm.

Ngồi bất động nhìn vào đất liền, Ánh như một bức tượng đổ bằng thạch cao, phần hồn chỉ lóe lên qua tia mắt u uẩn thỉnh thoảng lại rực lên ánh căm hờn. Giơ tay vẫy, Ánh gọi tên con. Mấy tháng nay, Ánh sai Thức dạy vỡ lòng cho Hoàng tử Cảnh, cứ hai ngày lại chính mình xem Cảnh tiến bộ thế nào. Mỗi lần Cảnh không nhớ mặt chữ, Ánh quát tháo, lắm khi tiện tay là tát, miệng lầu bầu “ ... còn nghiệp nhà đó, mày làm sao cho tao thì làm ! ”. Thức dắt tay Cảnh đến gần.

Ánh nhìn Cảnh, rồi nhìn Thức. Một lúc sau, Ánh thở ra, bất ngờ hỏi :

- Thầy xem nghiệp nhà ta có cứu vãn được không ?

Thức thận trọng, trả lời :

- Trong quân họ đồn với nhau lời sấm ký, bảo rằng Song Ngư nước cạn, cơ nghiệp nhà Nguyễn lại về tay
nhà Nguyễn ...

Ngửa mặt lên cười u oán, Ánh nhìn ra xa :

- Thày tin sấm ký à ? À, phải đấy. Thầy là học trò La Sơn Nguyễn Thiếp thì tin cũng đúng. Mà thầy có tin thật không ?

- ...

Ánh chợt gằn giọng, nhìn xoáy vào mắt Thức :

- Chính ta đặt điều nói ra thế ! Kẻ theo ta bôn tẩu phần lớn đều tin như vậy mà giữ hy vọng !

- ...

- Thầy có nghe Bắc hà mắc loạn Kiêu binh không? Tay vỗ xuống cát, Ánh nhẩn nha - Chúa Trịnh yếu đi thì mặt Phú Xuân không còn là mối nguy của Tây Sơn, nên có hai khả năng. Hoặc nó tập trung đánh ta, hoặc giả nó ngó ngàng muốn cướp đất Bắc, giảm áp lực trên đất Gia Ðịnh. Thầy thấy tình huống nào sẽ xảy ra?

Thức chần chừ rồi đáp :

- Tôi không biết. Nhưng trong tình huống nào cũng vậy, Vương công muốn giữ nghiệp nhà Nguyễn vẫn chỉ có một lối, đó là xây dựng binh lực. Cứ thếâ yếu thì rút, thế mạnh lại tiến lên giữ.

Ánh nghe, nhìn khuyến khích cho Thức nói thêm. Thức trầm ngâm :

- Nếu Tây Sơn dòm ngó Bắc hà, Vương công xin hòa, cướp thời gian để củng cố. Nếu họ tấn công Gia Ðịnh trước, Vương công cố thủ, không chống được thì rút, mặt khác liên kết với Chúa Trịnh tạo ra áp lực trên Tây Sơn từ phía Bắc ...

- Nhưng Trịnh mạt rồi, quân đội trong tay Hoàng Phùng Cơ và Ðinh Tích Nhưỡng không có uy vũ gì cả ! Ánh thở dài tiếp - ... ta đã liên lạc với bọn Lê văn Quân và Tôn thất Hội hiện đang lưu vong ở Vọng Các, và đệ thư xin Xiêm vương cứu viện đưa quân vào đánh Tây Sơn !

Cau mày, Thức can :

- Vương công hẳn biết, cái gương Trần Ích Tắc còn đấy, việc cõng rắn cắn gà nhà vẫn là hạ sách.

- Ta hiểu - Ánh ngắt lời - vì thế ta chống việc đi cầu viện nhà Thanh. Ðó là con rắn lớn. Còn Xiêm La, chỉ là con rết nhỏ, may ra thì giúp ta lúc khốn cùng này chút ít thời gian để góp quân, gom của mà thôi.

- ...

- Ngoài Xiêm, còn Ypha Nho và Pháp-lan-tây là có thể cầu viện được. Nợ xa, đòi nợ có thúc cũng không bằng nợ gần. Nhưng chủ nợ là bọn da bệch mắt xanh, ta vẫn ngại họ hơn người Xiêm. Mà lạ thật, Tây Sơn cho truyền đạo tự do, đám giáo sĩ Pháp không hiểu sao cứ trốn chui trốn nhủi không chịu ra mặt, ngấm ngầm rời các trường đạo sang Xiêm La, Cao Man ...Thày có hiểu gì không ?

- ...

- Sắp tới, Giám Mục Bá đa Lộc và Cai trường Liot sẽ đến đây với ta. Thày xem, liệu tìm hiểu ý họ... - Ánh bật cười chua chát - Sao họ lại đi giúp cho một kẻ bại hết trận này sang trận khác như ta !

Ðứng lên, bỗng nhiên Ánh nắm vai Thức, hỏi :

- Còn thầy, có phò nhà Nguyễn ta không ?

Sững người ra, Thức mím miệng, nhưng Ánh đã nói ngay :

- Cứ tiếp tục dạy Hoàng tử, đừng quên là thày còn nợ ta một câu trả lời đấy.

Trái với dự liệu của Thức, gặp lại Bá đa Lộc và Liot nhưng Ánh lại không nhắc gì đến việc Thức muốn theo trường đạo để tiếp tục việc làm từ điển, cũng như ý định để Thức đi kèm Hoàng tử Cảnh sang Pháp. Ở với Ánh độ nửa tháng, Bá đa Lộc lại từ tạ, mang tám mươi giáo hữu chạy ra Thổ Châu rồi cuối cùng đến ở đảo Poulo-way. Tháng hai năm Giáp Thìn, Ánh hẹn Chu văn Tiếp cùng đến Vọng Các. Vua Xiêm cho hai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem hai vạn thủy binh và ba trăm chiến thuyền tiến vào Gia Ðịnh.

Tháng bảy, liên quân Xiêm - Nguyễn đổ bộ lên Rạch Giá. Ánh không vội công thành Gia Ðịnh, từng bước chiếm các vùng từ vịnh Xiêm La đến Tiền Giang, đánh ăn chắc, và đến đâu là củng cố đến đó. Với lệnh miễn sưu, thuế, lại năm đinh mới bắt một lính của Tây Sơn, Nguyễn Ánh quả lúng túng, không biết thế nào để lấy lòng dân mà đồng thời lại có thể chiêu binh, góp của. Trong vòng hơn ba tháng, quân Xiêm - Nguyễn mới lên được Cần Thơ, chiếm đồn Ba Thác, Trì Ôn rồi tiến về Sa Ðéc. Nhưng ở lâu, lính Xiêm sinh ra khinh mạn, giết người cướp của, làm dân oán thán. Ánh hoảng sợ, viết thơ mời Bá đa Lộc về, trong khi đó tướng Tây Sơn Trương văn Ða đem quân án ngữ Long Hồ để phòng thủ. Liền sau đó, Chu văn Tiếp chết trong trận Mang Thít, quân Nguyễn thắng nhưng không tiến thêm được một bước nào cho đến cuối năm.

Bá đa Lộc vào đến quân dinh khoảng đầu giờ Ngọ. Nguyễn Ánh đích thân chạy ra, ôm hôn tay như người có đạo, rồi mời lên ghế cao, tự mình ngồi xuống thấp, thái độ vô cùng kính cẩn. Bá đa Lộc cười hể hả, nói tiếng Việt làu làu :

- Thấy Vương công khỏe mạnh, tôi mừng lắm.

Lộc trên dưới năm mươi, béo phệ, lông mày như hai con sâu róm châu đầu vào nhau, miệng lúc nào cũng như cười, đôi mắt đen nâu thỉnh thoảng lại có tật cứ nháy nháy giựt lên từng chặp. Ánh đưa Thức ra giới thiệu là Tư giảng của Hoàng tử Cảnh, lại khoe rằng Thức đã từng cùng giáo sĩ Sieyès làm từ điển. Bá đa Lộc nghe xong, quay sang Thức hỏi về những ngày cuối cùng của Sieyès, làm dấu thánh giá, rồi cầm tay
Thức, ân cần :

- Hy vọng rằng ông cũng sẽ giúp tôi như giúp Sieyès. Tôi cũng đã từng làm một cuốn từ điển sơ lược cách đây mươi năm. Chẳng hiểu ông có còn bản nháp đã làm với Sieyès không ?

Thức lắc đầu, buồn bã kể lại là đã thất lạc tất cả từ ngày bị Tây Sơn bắt giam ở Qui Nhơn. Lộc an ủi, cười nói :

- Rồi ông xem, ta sẽ làm lại. Nhưng với ông, bước khởi đầu như vậy là đã đi được xa rồi, phải không ?
Ba hôm liền, Bá đa Lộc và Ánh bàn bạc suốt ngày, nét mặt nghiêm trọng. Ðến ngày thứ tư, Ánh trao cho Lộc một phong thư và chiếc ấn tín bằng ngọc tỉ. Tay dắt hoàng tử Cảnh, Ánh nhìn Lộc, giọng thỉnh cầu :

- Con tôi, tôi xin giao cho cố giữ nó, dạy nó giúp tôi. Nó còn là Hoàng tử của cả nước tôi, sau này thế nào là tùy cố ...

Quay sang Thức, Ánh tiếp :

- Ta cũng xin cho thầy đi kèm Hoàng tử, phụ cố một tay trông nom cho Hoàng tử.

Tối hôm ấy, Thức đang sửa soạn cho chuyến đi thì Ánh bước vào. Nhìn Thức chằm chằm, Ánh buồn rầu :

- Ta mang con đi gán, mong vay được bốn tầu chiến và một nghìn rưởi quân Pháp, chẳng biết họ có cho nợ không ? Thầy kèm Hoàng tử, đừng để ảnh hưởng Tây dương xâm nhập quá độ vào cái trí óc còn ngây thơ. Sự mong muốn xưa thầy nói, nay có cơ thành tựu. Nhưng thầy còn nợ ta một câu trả lời ... Thầy nghĩ ra chưa ?

Thức chột dạ. Chàng ngập ngừng, rồi thành thật :

- Tôi là kẻ tiện dân học đòi chính giáo, đã mấy đời nay là tôi của vua Lê. Dưới Vua, thì có Chúa. Ở đất Ðàng Trong, Chúa là nhà Nguyễn nên trung với Vua ai lại chẳng phò Chúa. Nhưng thế sự này thì cuộc đổi đời xem ra như không còn xa ... Nghiệp nhà của Vương công cũng vì thế mà sẽ không là nghiệp xưa. Thời gian tới đây, sự nghiệp lớn lao là sự nghiệp canh tân đất nước, bình định cho yên giặc giã, hết chiến tranh, để dân nhà nhà được yên ổn làm ăn, được học hành cho mở rộng tầm mắt. Vương công làm như thế, tôi xin phò ...

Ánh chặn tay, ngắt ngang :

- Ta vẫn còn ở thời phải bình định ... Giặc đánh, ta phải chống, thời giờ nào mà nghĩ xa nghĩ xôi.

Ánh im lặng, mắt nhìn vào bóng đêm, búng tay rồi nói :

- Ta không ép thầy. ý chí canh tân cũng là ý chí ta, nhưng trước mắt ta không làm ngay được. Vậy thầy cứ đi, thấy cái hay về bảo cho ta !

Cười nhạt rồi đưa tay bóp trán, Ánh trầm giọng:

- Người Tây dương thấy ta còn trẻ, lại có cái thế chính danh, nên vun xới vào để mưu đồ việc họ qua ta, rồi về sau sẽ qua Hoàng tử Cảnh. Thầy thừa biết. Ta biết. Họ cũng biết. Nhưng cứ như đánh cờ, biết thế vẫn phải chịu thế.

Ánh đột nhiên đứng dậy, quay ngoắt đi ra ngoài, không nói thêm một tiếng. Thức nhìn theo, lòng bâng khuâng chút thương cảm. Từ năm mười lăm tuổi, Ánh đã xuôi ngược bán chết bán sống chạy chí mạng. Bảy năm qua, Ánh cứ đụng trận là thua, đánh đâu bại đó, lắm khi trốn lênh đênh trên biển phải nhịn đói chịu khát sáu bảy ngày liền. Sức mạnh nào khiến Ánh cứ tiếp tục một cuộc chơi lạ lùng cứ ngã xuống lại đứng lên ? Thức nhớ lại, một hôm Ánh ví von, nói đùa với đám tướng sĩ tùy tùng : “ ... thằng Huệ trời sinh nó là con cọp, nó tát nó quào rồi nó bỏ đi. Còn ta, trời sinh ta làm con sói. Ta không tát, không quào, chỉ biết cắn. Nhưng khác nó, ta đã cắn vào con mồi rồi thì nhất định ta không nhả răng ra, dù trời có sập cũng vậy ! ”

Thức ngước lên nhìn sao trời. Mai đây, ở bên trời Tây, liệu Thức có thấy cũng những vì sao lấp lánh kia hay là những vì sao khác ? Bùi ngùi lấy tay gạt những hạt cát bám trên áo, Thức thầm hứa với mình là dù có đến chân trời góc biển nào đi nữa, mảnh đất mẹ vẫn là chốn cuối cùng buộc chàng vào cõi nhân gian oái oăm đa sự này.

Hai tháng sau khi đến Pondichery, Bá đa Lộc được công ty Ðông Ấn chuyển thư của giáo sĩ Liot báo cho biết là Nguyễn Huệ lại vừa đánh tan liên quân Xiêm - Nguyễn ở Rạch Gầm và Xoài Mút và truy lùng Ánh đến tận Thổ Châu. Ánh dẫn năm chiến thuyền và hai trăm quân chạy sang Xiêm, xin vua Xiêm cho trú tại Ðồng Khoai ở ngoại thành Vọng Các. Ở đấy, Ánh sai quân làm rẫy khẩn hoang, nhưng vẫn phái người lẻn về Gia Ðịnh âm thầm chiêu mộ để tìm thế khôi phục. Bá đa Lộc lồng lộn, đập bàn, hét tướng lên rồi uống rượu say hai ngày liền, mắt đỏ ngầu ngầu nhìn như muốn ăn sống mọi người. Sau, Lộc gọi thầy Paul, tên ta là Hồ văn Nghị, bảo :

- Bọn ta đến đây có ba mươi bốn người, tiền mang theo lại sắp hết. Thầy hỏi xem ai muốn về Gia Ðịnh, ai muốn ở lại đây ?

- Cố làm thế, có vội vã quá chăng ? Người An Nam chúng tôi bảo còn nước là còn tát !

Nhìn Nghị, Bá đa Lộc trợn mắt :

- Ánh lại chạy sang Xiêm rồi ! Thở dài, Lộc lẩm nhẩm - ... Cứ đánh là thua, thế thì ai làm gì giúp được ? Ta có cảm tưởng là ta đang tát nước cạn. Bây giờ, thầy bảo phải làm sao ?

Nghị cúi đầu nghĩ ngợi một lát rồi nói :

- Trước hết, tin nhà Chúa thua chạy, ta hãy tạm giữ kín. Sau là Cố viết thư xin Hội Truyền Giáo giúp phương tiện để ở lại Pondichery thêm một thời gian, tìm cách gặp quan Toàn Quyền Souillac hòng thuyết phục ông ta can thiệp ...

Lộc lắc đầu :

-Ta gặp rồi, không đi đến đâu ! Sáng mai, ta sẽ trình bày với tướng Coutanceau, may ra ta có thể...
Bước ra ngưỡng cửa, cái nóng hừng hực làm Lộc choáng váng. Trời oi bức nhưng ẩm áp, tay sờ vào đâu cũng nhớp nháp. Nắng đổ trắng xóa lên tháp chuông, lóe lên ánh phản chiếu trên kim loại chói lòa mắt. Lấy tay che, Lộc lẩm nhẩm, rồi nói với lại :

- Hãy thay ta làm lễ sáng mai là ngày thánh St-Joseph.

Về đến phòng, Lộc lôi giấy trắng ra ngồi hí hoáy viết. Ðoạn chót, Lộc cắn tay suy nghĩ, rồi đặt bút :
“ ... điều khác tôi khẩn cầu là lo việc giáo dục cho Hoàng tử mà tôi đang chịu trách nhiệm. Tôi muốn rằng, dẫu chuyện gì xảy ra cũng vậy, dạy dỗ nó trong đạo; như vậy là để bù đắp vào cái mất mát ngai vàng vốn chỉ là cái mất nhất thời bằng sự sáng quí báu và hằng vĩnh ... Nó mới sáu tuổi, nhưng đã biết cầu nguyện, tâm linh sẵn hướng về siêu nhiên tôn giáo. Một điều lạ là nó gần gũi tôi đến độ chẳng luyến tiếc gì bố mẹ nó, bà nó, vú em và hơn năm trăm nhân mạng đổ nước mắt ra khóc khi nó theo tôi lên tầu. Giáo hữu đều cho rằng đó là ơn thiêng liêng của Chúa, nhưng người ngoài đạo bảo rằng tôi đã đánh bùa bỏ ngải ...”.

Tờ mờ sáng hôm sau, Lộc một mình vào gục đầu lẩm nhẩm đọc Kinh trong nhà nguyện. Sau đó, Lộc gọi Tân và Thức đi cùng, lên xe do hai ngựa kéo, chạy qua những đường phố đã đầy ắp người quấn sa-ri, đi chân trần, rao hàng inh ỏi. Ðến phủ Toàn Quyền, cả bọn được mời vào phòng khách dành cho khu quân sự. Một lát, tướng Coutanceau bước ra. Sau khi giới thiệu là Tân và Thức đều là người phù tá Nguyễn Ánh và dăm câu mào đầu, Lộc đi thẳng vào vấn đề :

- Thưa thiếu tướng, đánh và thắng bọn giặc tiếm ngôi Quốc Vương An Nam không cần đông quân. Thứ nhất - Lộc nhìn về phía Thức, tiếp - dân họ biết là văn minh thua kém ta, nên cứ thấy da trắng là đã hàng phục. Thứ nhì, giặc chuyên dùng đao kiếm. Còn súng, cứ năm đứa mới có một, súng lại xấu, bắn chậm và không có tầm xa. Giặc không sử dụng súng thần công trên bộ, chỉ đặt ở thuyền, lại chưa biết dàn trận theo kỹ thuật mới là dàn dựng hỏa lực từng đợt, nên không phát huy hết tiềm năng được. Thứ ba, thủy quân giặc chỉ có thuyền chiến, cỡ to nhất thì cũng chỉ nhỏ như loại tầu chasse - marée của ta. Tôi từng thấy một tầu chiến với mười khẩu súng ca-nông và một chục người của ta đã đương đầu suốt một ngày với cả đọâi hàng trăm chiến thuyền của giặc ...

Bá đa Lộc ngừng nói, rồi say sưa mở một tấm bản đồ, trải ra tay chỉ vào Hội An, miệng reo :

- Ðây, đây ... Ðổ bộ vào đây, ta lập tức đánh lùi giặc, lập phòng tuyến để giữ đường ra biển. Bao giờ cũng vậy, phải không thưa thiếu tướng, luôn luôn nên tính đến cách rút khi cần. Hà hà ... Phòng tuyến này sẽ là lũy đắp bằng đất thó trộn với lá dừa như quân Pháp đã từng làm ở Ấn Ðộ, đạn ca-nông bắn vào cũng chỉ xoáy thành lỗ, không phá được. Ở đây, ta để hai trăm lính giữ. Còn lại, là xung phong vào rồi quay sang phía Nam tiến về Qui Nhơn, sào huyệt bọn cầm đầu đám giặc. Trong khi đó, Quốc Vương Cochinchine mang quân từ Gia Ðịnh xông lên, hai mặt đánh vào ...

Coutanceau vẫn im lìm nghe, bỗng ngước mắt, rồi hỏi :

- Thưa giám mục, ngài nghĩ đội quân đánh Qui Nhơn phải bao nhiêu người ?

- Một nghìn, một nghìn là đủ !

- Có cần pháo binh không ?

- Có chứ, bộ binh có trọng pháo là cái mạnh của ta !

- Vâng, thế lấy bò ở đâu để kéo pháo đi ?

Bá đa Lộc ngẩn ra, rồi đáp :

- An Nam không có bò, chỉ có trâu !

Coutanceau tiếp :

- Cho một nghìn quân bộ, như thế cần khoảng trên một trăm con trâu để kéo pháo ! Thế tìm đâu ra trâu ?
Lộc ngần ngừ :

- Ta chở từ Côn Ðảo tới bằng tầu !

- A, thật là tuyệt diệu. Vậy là cần thêm hai tầu chiến để trở có trâu thôi ! Coutanceau cười, tay chỉ vào Phú Xuân nằm sát ngay Hội An trên bản đồ, hỏi tiếp - Thế đây là chỗ quân đội Tonkin đóng. Thưa giám mục, ngài nghĩ là họ sẽ để yên, không kéo quân xuống ?

Mím miệng, Lộc lắc đầu :

- Chắc là không ! Ranh giới nước họ đến đấy thôi !

Coutanceau nghiêm giọng :

- Thế ranh giới nước Pháp ở đâu mà ta lại đến đánh Hội An đây ?

Lộc ngẩn người ra, chưa biết đối đáp thế nào thì Coutanceau, để tránh căng thẳng, quay sang Thức và
Tân hỏi lấy lệ :

- Quí vị nghĩ thế nào ?

Tân thở dài sườn sượt nhìn xuống đất không nói gì. Thức đành trả lời :

- Tôi vốn không biết gì về quân sự, mọi việc đều tùy Ðức Giám Mục.

Bá đa Lộc hắng giọng chen vào :

- Nhưng thiếu tướng, ngài vẫn chưa hỏi rằng đánh Hội An thì nước Pháp của chúng ta sẽ được những gì ?
Coutanceau giơ tay chặn Lộc, miệng tươi cười, lịch sự nói :

- Bây giờ là giờ dùng trà ở Ấn Ðộ. Xin mời quí vị sang phòng bên.

Quay về phía sĩ quan tùy tùng, Coutanceau đưa mắt nhìn. Người này đi ra mở cửa. Contanceau nháy mắt, hóm hỉnh nói nhỏ : “ ... ông kiếu họ cho tôi. Cứ tiếp cho chu đáo. Nhưng chớ có học về chiến thuật quân sự với Ðức Giám Mục. Cần thì chỉ nên hỏi ngài về lối nào lên thiên đường cho nhanh nhất mà thôi ! ”.

Buổi đi thăm sáng hôm ấy nhất định không thể gọi là một thành công trong chuyến vận động của Bá đa Lộc cho một cuộc viễn chinh của Pháp ở Ðàng Trong xứ Ðại Việt. Về đến nhà dòng, Lộc bực bội ra mặt, gọi Paul Nghị lên thì thầm rồi đi ngủ trưa. Hôm ấy, Thức hẹn mang Hoàng tử Cảnh ra phố xem mấy tay fa-kia thổi sáo cho rắn hổ mang ngửng đầu lên múa. Vào phòng Cảnh, Thức chỉ thấy Bạch, người anh họ của Cảnh năm nay đã mười tám tuổi, đang ngủ gà ngủ gật. Hỏi, Bạch chỉ tay về phía phòng ngủ của Bá đa Lộc. Cửa phòng khép hờ. Thức đẩy nhẹ, nhìn vào. Bá đa Lộc lõa lồ, miệng ngáy pho pho, bên cạnh Hoàng tử Cảnh nằm trần truồng như nhộng. Thức lặng người, tay đóng nhanh cửa phòng lại. Bước ra ngoài nắng, Thức tự nhủ rằng Hoàng tử chẳng cần đi đâu xa để mà coi rắn múa.

Ðứng trên boong chiếc tầu buôn Malaban, Thức nhìn bờ nước xa dần. Sáng nay, chuyến đi Ấn từ tháng hai năm 1785 coi như kết thúc, sau thời gian gần một năm chạy chọt không kết quả với đám quan chức Pháp. Ðến khi tiếng kèn và tiếng sáo trên đất liền nghe chỉ còn văng vẳng, Thức ngửng lên trời, ngắm những cánh hải âu lượn qua lượn lại trong ánh nắng chói chan. Thầy Nghị đến cạnh Thức, trầm ngâm không nói năng. Không còn thấy Pondichery trong tầm mắt, Thức mới quay lại hỏi :

- Thưa Thầy, tầu chạy bao lâu mới đến nước Pháp ?

Nghị gật gù :

- Nếu đi thẳng thì chưa đầy hai tháng. Nhưng tầu này là tầu buôn, còn ghé chỗ này chỗ kia, chắc phải bốn
tháng hay hơn thế nữa.

Tiếp tục tán gẫu, Thức mới biết là Nghị người gốc Nghệ An, trước có học chữ Hán rồi sau vào chủng viện ở giáo phận Tây Ðàng Ngoài. Nghị ít nói, thường lánh chỗ đông, tay lúc nào cũng lần tràng hạt. Nhìn ra tít tắp chân trời, Nghị bỗng hỏi :

- Thầy bỏ lỗi, tôi cứ băn khoăn không biết thầy ... thầy định gì, chí hướng ra sao ?

Thức ngạc nhiên, nhìn dò hỏi. Nghị thủng thẳng :

- Thầy là tư giảng cho Hoàng tử, phàm thì phải là người tin cậy của Chúa Nguyễn. Muốn thế, ắt là người Ðàng Trong ...

Mỉm cười, Thức bình tĩnh đợi, mắt nhìn Nghị. Hơi bối rối, Nghị ngần ngừ :

- ... nhưng không, thầy bỏ lỗi, tôi biết thầy chính là “ anh thầy đồ cứng cổ ” xứ Nghệ nhất định dạy chữ Nôm, không chịu dạy chữ Hán. Miệng cười nhẹ, Nghị tiếp - Thế thì trái ngược thật, Chúa Nguyễn có coi
chữ Nôm ra gì đâu !

Thức bật cười rồi cao giọng :

- Thầy vậy là rõ thân thế tôi, thế Thầy có biết tôi còn bị cả chúa Trịnh lẫn Tây Sơn bỏ vào ngục không ?

Gật đầu, Nghị thủng thỉnh :

- Biết, tôi biết. Nhưng tìm chỗ dung thân ở nơi Chúa Nguyễn thì khó hợp lý. Ðấy, thầy rõ rồi, cứ đánh đâu thua đó ! Vả lại, tôi cũng biết thầy đâu có ham gì quan tước, nếu ham thì thầy đã chịu ra đi thi rồi, đâu có mắc tiếng “ cứng cổ ” ...

Biết không thể nói quanh mãi, Thức kể việc làm từ điển và cái chí đi tìm học ở Tây phương chẳng những kỹ thuật mà còn cách tổ chức và cái tôn ti trật tự của xã hội của họ. Nghị nghe Thức nói xong, lại hỏi :

- Học được, thầy rồi làm gì ?

- Tôi mở trường học, viết sách, đi du thuyết ...

Bật cười, Nghị cắt ngang :

- Thầy cho rằng đám sĩ phu hủ học khoanh tay ngồi nhìn thầy ? Thầy quên là chỉ dạy chữ Nôm của ta thôi mà họ đã xuýt bỏ thầy vào tù qua tay quan Hiệp Trấn Nghệ An à ?

Thức chưa biết nói gì thì Tân đi đến. Nghị chào, rồi lái ngay câu chuyện sang sức khỏe của Hoàng tử và đám tùy tùng. Ðợi Tân đi ra xa, Nghị tiếp tục câu chuyện nói dở :

- ... những điều mới mẻ không cứ thế mà mang vào được, phải hội nhập và thích ứng từng bước vào xã hội
với những nền nếp xưa cũ, chẳng thể thay đổi toàn bộ ngay được. Cách tân, tất gặp sự ù lì đối kháng lại ... Thầy có nghĩ là một thân thầy không thể kham hết, mà thầy phải có những kẻ ủng hộ thầy, tập hợp đứng đằng sau không ? Người đồng chí với thầy, thầy thấy ở đâu ? Thầy làm gì để tiếp cận với họ rồi sau đó mới nói đến mở trường, viết sách ...

Thức ngạc nhiên, không ngờ một kẻ tu hành như Nghị lại có cái nhìn sâu sát thực tế. Chàng xoa tay rồi trầm giọng :

- Thưa Thầy, tôi xin trân trọng những lời Thầy dạy. Nhưng hiện tôi phải biết cái kiến thức Tây phương đã.
Chưa biết, nói gì đến bước sau! Nhưng còn phần Thầy, xin cho tôi hỏi một câu ...Tây Sơn cho giáo sĩ Gia Tô tự do đi truyền đạo. Vậy lý do gì cố Bá đa Lộc cứ một mực phò Nguyễn Ánh ?

Ngần ngừ, Nghị nhìn ra xa :

- Cố là người kín đáo, khi nói chỉ nói một nửa sự thật. Ðấy là điều cố lại không nói, tôi làm sao biết được.
Thức không ép, mỉm cười, nghĩ thầm đến vai trò của Nghị như cánh tay phải cúa Bá đa Lộc. Nhớ lại buổi gặp thiếu tướng Coutanceau, Thức có cảm tưởng như Lộc đang đánh bạc. Lại đánh lớn, mang cả đời mình ra để đặt cược. Rồi đặt vào cửa khó trúng nhất, chắc để “ được ăn cả, ngã về không ”. Nhưng ăn gì ?

Nhất là đối với một kẻ tu hành như Lộc? Nghị bỗng lên tiếng :

- Chắc thầy cho rằng tôi biết mà không muốn nói. Thế, cũng đúng nhưng chỉ đúng một nửa. Lạy Chúa, ngày nào tôi biết hết, tôi sẽ không quên câu thầy hỏi hôm nay.

Nói xong, Nghị bước về phía cuối boong, tà áo chùng thâm phần phật tung bay trong gió biển. Thức nhìn theo, lòng thoáng một niềm lo âu. Ðã một năm rưỡi nay, chàng sống cạnh Nghị ở Pondichery, ra vào hàng ngày gặp mặt, thường chỉ chào nhau và nói dăm ba câu thăm hỏi. Chàng không hề biết gì về Nghị, nhưng ngược lại, Nghị biết gốc gác chàng. Nghị đã nói gì với Bá đa Lộc ? Câu Nghị hỏi, là hỏi cho Lộc hay cho Nghị ? Sao lại đợi đến lúc ở trong boong tầu chạy về Pháp thầy Nghị mới mớm lời dò xét ý định và chí hướng chàng ?

Thức ngẫm lại những biến cố một năm vừa qua. Sáu tháng sau khi đến Pondichery, Bá đa Lộc không thuyết phục được Coutanceau, nản lòng đến độ viết thư về Macao, sẵn sàng giao lại Hoàng tử Cảnh cho Toàn Quyền Ypha Nho ở Goa. Việc này dẫn đến sự kiện là hơn một năm sau, vị này đã sẵn sàng gửi giúp Nguyễn Ánh 56 tầu chiến và lính tráng. Nhưng sau khi gửi thư đi ít lâu, Cossigny và d’Entrecasteau qua thay Souillac và Coutanceau. Lộc lại lấy lại hy vọng, năm lần bảy lượt lên gặp quan Toàn Quyền mới, hết sức vận động sự can thiệp quân sự giúp Nguyễn Ánh. Nhưng dù không hẳn là không đồng lòng, đại tá Cossigny vẫn do dự, chỉ cử một chiến hạm đến vịnh Xiêm La thăm dò và tìm cách bắt liên lạc với Ánh. Cuối cùng, Lộc cho rằng phải về Paris thì mới hòng được việc, vì đám quan chức ở đây dẫu cao cấp cũng chưa đủ thẩm quyền để tự quyết định gì theo ý mình. Chắc là Nghị cũng đồng lòng, nên tháng sau cả bọn đều lên tầu sang Pháp. Thức chép miệng, định bụng có một lúc nào sẽ hỏi lại Nghị câu Nghị hỏi chàng. Ngẫm nghĩ rồi biết là chẳng bao giờ Nghị đáp, chàng cười mình vẩn vơ, chân chưa bao giờ đạp hẳn xuống đất để sống trong thực tế. Niềm lo âu trong lòng Thức dần dần tan như những sợi mây vào bầu trời trên cao xanh ngắt. Nếu như Nghị có ác ý, Thức thầm nhủ, thì dễ gì mà chàng đang đứng trên boong tầu này và ngắm những sợi mây kia.

Mất ba tuần lễ, Trọng Thức mới tìm được Emmanuel Sieyès. Dẫu là gặp lần đầu, Thức có cảm tưởng gần gũi vì hình dạng Emmanuel giống hệt người anh song sinh là Charles-Antoine. Nghe chàng kể lại những phút cuối cùng trong đời Charles-Antoine ở Ða Phạn, Emmanuel lặng người đi, ngơ ngác, mắt như vô hồn thả vào khung cửa sổ nhìn ra Thánh đường Notre Dame. Emmanuel đứng dậy, bước ra đẩy cửa. Một đàn chim bồ câu ở đâu bay lên, cánh trắng chao nghiêng dưới ánh nắng vàng nhạt của buổi chớm xuân.

Hai người đi dọc đường St-Jacques về phía sông Seine. Bờ sông thấp thoáng những bông mimôsa vàng tươi đang độ đâm ra chào chúa Xuân của muôn loài tạo vật. Chỉ tay, Emmanuel buồn rầu nói :

- Anh tôi rất thích mimôsa. Chẳng hiểu có loại hoa này trên thiên đường cho anh không ?

Ngồi xuống ven bờ, Emmanuel nhặt dăm viên sỏi trắng ném xuống dòng sông. Một lát sau, Emmanuel hỏi :

- Chắc anh cũng đi tu như anh tôi ?

- Không, tôi không theo đạo.

Emmanuel ngạc nhiên, nhìn Thức, nói :

-Lạ nhỉ. Vậy mà anh ở Ða Phạn với Charles-Antoine và giáo hữu ?

Thức thuật lại chuyện trốn tránh lính Chúa Trịnh, nhưng không nhắc đến Mai và những chi tiết dính dáng.
Emmanuel nói trống không :

- Cứ gần đám có quyền hành là thế nào cũng có chuyện, trừ phi anh chịu chúng chi phối. Chắc anh làm chính trị ?

Thức không rõ Emmanuel nói làm chính trị là làm gì. Emmanuel giải thích :

- Nghĩa là tổ chức và vận động mọi người cùng một cách nhìn những vấn đề chung có tính xã hội.

Thức nghe, lắc đầu :

- Ở xứ tôi gọi thế là làm giặc. Và thường như vậy là phải sắm binh khi vì thế nào quan quân nhà Vua nhà Chúa cũng đến đánh giết !

Emmanuel gật gù :

- Âu châu cách đây trăm năm cũng vậy. Nhưng nay thì có khác đi được đôi chút, nhưng vẫn phải đề phòng bọn cảnh vệ khủng bố.

Thức hỏi :

- Chẳng hạn viết sách như viết cuốn “ Công Ước Xã Luận ” của Rousseau có phải là làm chính trị không ?

- Có chứ. Nhưng chưa đến mức tổ chức. Chính quyền để Rousseau yên, nhưng đẩy cho ông ta bỏ xứ, tự lưu đầy, cuối đời phải đi chép tay những bản nhạc để kiếm ăn, rồi chết trong bệnh hoạn, đói nghèo ...

- Bên xứ tôi, sách có viết cũng chẳng thể in để phổ biến được. Thức thở dài, nói như than - ... mà dẫu có in, ngay những kẻ biết chữ cũng sẽ kéo bè để kết tội, bịt miệng người nghĩ khác, nói khác mình. Và thậm chí bọn có chữ nghĩa còn bóp cổ những người suy nghĩ độc lập cho đến đứt hơi mà chết ngạt chứ chẳng đợi cho chết trong bệnh hoạn và đói nghèo. Bọn đó, chúng có biết chữ là chỉ biết có mặt chữ, chẳng cần chi đến nghĩa của chữ, bởi xưa nay chúng chuyên sáo tụng những cái hữu danh vô thực.

Nhìn Thức, Emmanuel chợt hỏi :

- Ở xứ anh, có được nửa số dân đi làm giặc không ?

- Không !

- Thế họ khoảng bao nhiêu ?

- Hai trăm năm nay, đời nào họ cũng khoảng mười phần trăm. Họ dấy quân, sắm vũ khí, không chịu sưu thuế, chống lại triều đình.

Emmanuel lắc đầu :

- Thế chín mươi phần trăm còn lại là một đàn cừu dễ bảo ?

- Dễ bảo ư ? Vừa đúng, vừa sai. Ở trên cao, Vua Chúa thì huých tay đạp chân nhau. Nhưng từ Vua xuống đến quan thì đúng. Rồi giữa các quan, họ đối kỵ rình mò lẫn nhau để hất cẳêng nhau? Từ tỉnh, huyện xuống đến thôn làng, cũng dễ bảo! Nhưng trong mọi thôn làng, họ cũng lại so đo nhòm ngó, ai cũng cố chiếm cái miếng to trong đình làng. Người ta bảo “ một miếng giữa làng bằng một sàng ở chợ ”.

Thức chua chát cười, tiếp :

- Anh có biết không, ở nước tôi, những kẻ thứ hạng cao trong làng chia nhau từng miếng cái đầu một con gà ngày đình đám. Chúng tôi nhân phong tục này phát huy một nghệ thuật rất tinh xảo. Một cái đầu gà, chúng tôi có thể chặt thành ba mươi sáu miếng, từ miếng to đến miếng nhỏ. Miếng to nhất, dành cho tiên chỉ, thứ đến, là loại có đỗ đạt, rồi lần lượt lý trưởng, hương tuần ...

Ngẫm nghĩ, Emmanuel nói :

- Như vậy, dân tộc của anh là một đàn cừu có thứ bậc. Một tập đoàn nô lệ nhưng lại tôn ti trật tự ! Lặng lẽ nhìn Thức gật đầu, Emmanuel tiếp - Giá mà ngược lại, đàn cừu chỉ có mười phần trăm, còn lại làm giặc, nhưng không sắm khí giới, mà chỉ dùng lý lẽ thì xứ các anh sẽ khá hơn nhiều ...

Emmanuel bâng quơ :

- Anh có đọc “ Emile ” của Rousseau chưa ? Nếu chưa, tôi đọc một đoạn anh nghe nhé ?

- ...

- “ Thầy bảo : không được làm thế này - Ðứa trẻ hỏi : tại sao không được làm thế này ? - Bởi vì làm thế là xấu - Xấu, làm gì là xấu ? - Làm xấu là làm những gì người ta cấm không cho làm - Làm những gì cấm thì làm sao ? - Người ta sẽ hành phạt vì bất tuân - Tôi sẽ làm sao cho người ta không biết - Người ta sẽ rình mò - Tôi sẽ giấu - Người ta sẽ hạch hỏi - Tôi sẽ nói dối - Không được nói dối - Tại sao không được nói dối

- Vì thế là xấu, v.v... Ðó là vòng luẩn quẩn tránh không được ” .

Thức ngẫm nghĩ, rồi nói :

- Viết như thế, ở xứ tôi chính quyền nào cũng sẽ chu di tam tộc kẻ viết. Toàn là những vấn đề không ai có quyền đặt ra mà hỏi. Chẳng đứa trẻ nào dám nói ngược lại thày cả. Cái khuôn đời trước đặt lên đời sau, không cho cựa quậy, trói con người trong trăm thứ bổn phận, cuối cùng tất cả thành nô lệ.

Nhìn Thức, Emmanuel thủng thẳng :

- Cái ghê gớm nhất là sự nô lệ của mình với chính mình. Một thứ nô lệ nhưng cứ có ảo tưởng là chủ nhân ông. Tôi lại đọc Rousseau để anh nghe nữa :

“ Con người sinh ra vốn tự do, nhưng rồi sống trong kìm kẹp ở khắp nơi. Kẻ nghĩ mình là chủ tể của người
khác cũng nô lệ không kém gì những người nô lệ cho họ. Làm sao sự chuyển hóa đó thành hình ? Tôi không biết. Nhưng cái gì đã khiến sự chuyển hóa có cơ sở lý lẽ của nó ? Tôi nghĩ rằng có thể giải quyết vấn đề này ”

Thức đứng lên, bước về phía nhà thờ, đầu mông lung. Emmanuel đi bên cạnh, miệng vui vẻ :

- Này anh bạn, cả nước Pháp sẽ gặp một cơn địa chấn vì những lời tôi vừa đọc đấy. Không chừng cơn địa chấn này lây qua cả Âu châu nữa. Nó đặt thành vấn đề cái trật tự của thời kỳ trung cổ trước bước tiến của tư duy hiện nay.

- ...

- Tôi sẽ mua tặng anh cuốn “ Phương pháp luận ” của Descartes. Anh có đọc chưa ?

Thức lắc đầu. Vỗ vai Thức, Emmanuel kéo vào một nhà bán sách ở Place St-Michel rồi chúi đầu lục lọi trên những kệ xếp đầy ắp sách. Thức nghĩ trong bụng, bao giờ mới có một nhà bán sách ở Thăng Long? Sách vở trong nước chép tay truyền nhau, đem ra gom qua góp lại chẳng có được bao nhiêu, lại là loại sách Tống nho đã mang những lớp bụi bặm của năm trăm năm về trước rồi. Chàng mủi lòng, để mặc Emmanuel loay hoay, buồn bã bước ra cửa. Emmanuel chạy theo, gọi :

- Anh bạn, chờ một tí. Tôi tìm ra sách rồi. Thêm được cả cuốn Tư Duy của Pascal. Giúi sách vào tay Thức, Emmanuel thành khẩn nói - ... đây có lẽ lả những món quà quí nhất nước Pháp chúng tôi dành cho bạn.

Sau khi sắp đặt nơi ăn chốn ở cho mọi người ở tu viện St-Victor, Nghị đốc thúc một số người trong đoàn đi học. Qua trung gian của tu viện, Nghị ghi danh cho Thức tham dự những buổi giảng triết học và thần học ở Sorbonne. Về phần Bạch, sau khi thụ lễ rửa tội, Bạch được cho đi học về Vật lý và Thiên văn. Tình cờ một hôm bắt gặp Thức đang cầm cuốn “ Phương pháp luận ” trong tay, Nghị giở sách, trầm ngâm một lát rồi bảo :

- Thầy đọc sách này nên kín đáo, đừng phô ra mà gặp khó khăn.

Hỏi lý do, Nghị không nói, dặn Thức là muốn dùng thời gian đi nghe giảng ở Sorbonne hay làm gì cũng được, chỉ nhớ là tối phải về tu viện, tiếp tục dạy Hoàng tử Cảnh chữ Hán.

Trong thời gian đó, cố Bá đa Lộc đã bắt liên lạc với Ðức Cha Vermont xưa kia ở Áo đã kèm dạy Marie-Antoinette, hôn thê của Ðức Vua. Lộc tranh thủ được sự ủng hộ của Giám Mục Dillon và quan Kiểm Sát Loménie trong triều đình Pháp. Dẫn Cảnh đi đây đi đó trong những buổi họp mặt của đám quí tộc, cuối cùng Lộc được Ðức Vua Louis XVI nhận cho tiếp kiến vào đầu tháng 5 năm 1787, mặc dầu lúc ấy tình hình chính trị nước Pháp đang sôi nổi vì những buổi nghị họp của Ðại Hội Thân Hào Quí Tộc.

Sau những giờ nghe giảng ở Sorbonne, Thức thường ghé thăm Emmanuel, nhiều khi đi với nhau cả ngày, gặp gỡ chuyện trò với rất đông người. Nước Pháp đang sống những giờ phút báo hiệu một cơn giông bão mà ngọn gió đầu thổi lên từ những tư tưởng reo mầm trong thời kỳ Phục Hưng. Hàng tuần, một số người trí thức tiến bộ gặp nhau ở chủng viện Jacobin nằm góc đường St-Honoré. Họ gọi nhau là công dân. Công dân Emmanuel Sieyès, công dân Saint-Just, công dân Dumas ...Họ tập hợp lập “ Hội bằng hữu cho Hiến Pháp ”. Hội sau này nhận cả “ công dân ” Trọng Thức. Thức rất ngạc nhiên, bảo mình đâu phải người Pháp. Họ cười. Công dân trừu tượng hơn Thức tưởng : công dân là người sống trong một xã hội họ đồng thuận, không phải đơn thuần chỉ là một cá nhân có gốc gác chủng tộc. Vì thế, công dân Thức có quyền cũng họp cũng bàn về cái xã hội anh đang sống trong đó. Thời gian đó, họ luận về “ Quyền con người và Quyền công dân” mà theo Sieyès phải là những quyền hạn cơ bản “ ... cho bất cứ quốc gia nào, ở bất cứ thời điểm nào ”.

Ðối với những hội viên của câu lạc bộ Jacobin, người ta sinh ra vốn tự do và bình đẳng, và từ đó có những quyền tự nhiên không một quyền lực nàotước đoạt được. Ðây là điều ai cũng coi như lẽ hiển nhiên không cần phải bàn cãi, và là điều căn bản trong Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Mỹ quốc vào năm 1776. Nhưng Emmanuel Sieyès không chịu ngừng ở đấy, cho rằng bản Tuyên Ngôn trên vẫn giữ hình ảnh những quyền lực của chế độ cũ, không thể phù hợp với “ một nhân dân có chủ quyền tối thượng toàn diện ”. Trong điều kiện này, cần “ phải đổi hoàn toàn bản chất và tinh thần của một bản tuyên ngôn mới. Bản tuyên ngôn này không là một sự nhượng bộ, một trao đổi, một thoả hiệp hay một khế ước giữa một quyền lực với một quyền lực khác ... Chỉ có một quyền lực, là quyền lực của của nhân dân mà thôi ”.

Cách nhìn của Sieyès khiến nhiều người ngỡ ngàng. Ông nhấn mạnh sự phân biệt quyền tự nhiên của cá nhân và quyền công dân, con người tham gia tích cực vào xã hội. Vì vậy, quyền tự nhiên dẫu căn bản, nhưng không thể đồng hóa với quyền xã hội của công dân. Ở đây, xã hội dựa trên Hiến chương, một công ước của tập thể cá nhân tạo ra xã hội. Theo Sieyès, Hiến chương này thể hiện dân ý, nghĩa là cái ý chí phổ quát và toàn diện tạo ra xã hội. Tự thân nó chính là chủ quyền, một quyền tối thượng không tước đoạt, phân chia hay hủy diệt được. Dân ý, thể hiện qua Hiến chương, giữ vai trò cơ bản trong phương thức Lập pháp, tách bạch phân quyền với Tư pháp và Hành pháp.

Nghe Sieyès trình bày ý kiến của mình xong, một người mặt mũi xương xẩu, để ria mép, nhẹ nhàng hỏi sau khi tự giới thiệu tên mình là Condorcet :

- Chủ quyền tối thượng đó nếu là chủ quyền toàn dân, thì làm cách nào biết được là dân ý nếu không dùng thể thức trưng cầu. Như vậy, rất là ôm đồm và phức tạp, làm sao điều hành xã hội được ?
Sieyès ngẫm nghĩ rồi trả lời:

- Nếu chủ quyền là chủ quyền quốc gia, thì dân bầu ra đại biểu, đại biểu họp nhau lại soạn thảo Hiến chương và quyết định Luật pháp.

Người để ria mép lại lên tiếng :

- Theo Rousseau, chủ quyền và dân ý là một. Dân ý không thể chuyển nhượng ; vì thế chủ quyền chỉ có thể tự nó đại diện cho nó. Hiến chương và Luật pháp là tuyên chỉ của dân ý cho nên không thể dùng thể thức đại biểu nghị viện để xác định ra... Và chỉ có một chủ quyền là chủ quyền của toàn dân. Có toàn dân, rồi mới có quốc gia. Quốc gia chỉ thành một thực tế như là sự thể hiện của dân ý.

Cuộc tranh luận về dân chủ có thể qua hệ thống đại biểu hay bắt buộc phải là dân chủ trực tiếp diễn ra sôi nổi. Nó kéo dài cả tháng. Thức ngạc nhiên thấy mỗi diễn giả đều có thời gian nói hết điều mình suy nghĩ. Những điều này được đào sâu, phê bình, phán xét dưới mọi góc độ. Kẻ chê, người khen, kẻ chống, người theo, đều không vì thế mà mất đoàn kết, vẫn luôn luôn lịch sự, thẳng thắn chỉ trích, vui lòng nhận thiếu xót, và cùng nhau đúc kết những tư tưởng, quan điểm làm của chung. Họ không tị hiềm đố kỵ - Thức thầm nhủ trong bụng - và không hẹp hòi hợm hĩnh như những kẻ sĩ hám danh lợi Thức đã gặp suốt từ Ðàng Trong ra Ðàng Ngoài.

Một tối, khi ra về với Sieyès, Thức nghe tiếng gọi sau lưng. Condorcet vui vẻ mời hai người đi ăn tối. Thức
lại càng ngạc nhiên khi biết Condorcet là hầu tước, người thuộc đẳng cấp quí tộc tức là đẳng cấp đang thống trị ở nước Pháp. Condorcet tinh nghịch hỏi Sieyès : “ ... ông bạn giấu chiếc áo chùng tu hành đâu rồi ? ”. Emmanuel hóm hỉnh trả lời : “ ... tôi gửi lại thiên đường, đợi sau này mới đến lấy ”. Thì ra chính Sieyès là một tu sĩ cấp cao ở tu viện Charte mà chàng không biết. Ông thuộc đẳng cấp tăng lữ, tức cũng là đẳng cấp đang thống trị.

Trong gió đêm thốc cái lạnh bên bờ sông Seine, Thức mủi lòng nhớ đến đất nước mình, nước mắt ứa ra chảy ròng ròng. Chàng kín đáo đưa tay quệt, vẫy tay chào bạn, rồi tách ra men theo đường St-Jacques quay về tu viện St-Victor.

Sau khi triều kiến Vua Louis XVI, Bá đa Lộc tìm cách làm thân với đám sĩ quan, viên chức và một số quí tộc kề cận Vua. Hoàng tử Cảnh mặc trang phục kiểu Âu, trở thành một nhân vật thu hút những tò mò, được hoàng hậu Marie-Antoinette vời đến làm vui cho đám khách khứa ở điện Versailles. Khách đến từ mọi nơi, nhiều nhất là từ Áo. Cả đàn ông lẫn đàn bà, họ đội tóc giả, má phấn môi son, xông nước hoa ngào ngạt. Họ thường ăn tối rất muộn, thức khuya uống rượu, rồi nhảy múa theo tiếng nhạc hòa âm của dàn nhạc gồm ba chục nghệ nhân. Trưa trưa, họ ngồi tán chuyện gẫu, trầm trồ khen lẫn nhau về những món trang sức hiếm hoi, những kiểu mũ, hoặc những kiểu áo quần mới. Thỉnh thoảng lắm họ mới bàn đến chính sự, nhưng chỉ xoay quanh chuyện Hội Ðồng Thân Hào Quí Tộc vừa họp đã nhất định không chịu nộp thêm thuế cho Vua đang ở trong một tình trạng tài chính thâm thụt. Họ trách đẳng cấp tăng lữ, và phàn nàn rằng chính những thầy tu là những kẻ trách nhiệm làm mất ổn định của Vương Quốc.

Hồ văn Nghị thường tránh mặt mọi người ở điện Versailles, chỉ cặm cụi làm việc với Bá đa Lộc. Phần Trọng Thức, Bạch và André Tân, họ phải tháp tùng Hoàng tử Cảnh. Riêng Thức và Bạch, Bá đa Lộc ép họ ăn mặc kiểu triều phục, đội mũ cánh chuồn, mặc áo thắt đai, đi ủng, để “... gây thích thú cho quan khách ” như Lộc vừa cười vừa nói. Thức phải nghe, nhưng có cảm tưởng mình chẳng khác gì một con khỉ làm trò mua vui cho thiên hạ.

Buổi đầu thu, lá đã loáng thoáng chớm vàng trên những ngọn cây mọc ven rừng ở quanh điện. Từ dãy phòng dành riêng cho đám khách đến “ từ Viễn Ðông ” nhìn xuống là vườn tược được cắt tỉa gọn ghẽ theo những đồ hình đối xứng rất đẹp mắt. Phía sau vườn, một ao nước hình tròn có vòi phun nước lên cao, chung quanh ao là những bức tượng đàn bà khỏa thân to bằng người thường, nằm ngửa ra trong tư thế mời đón. Mỗi lần dẫn Hoàng tử Cảnh đi qua, Lộc lại trỏ tay vào những bức tượng, tay khẽ béo tai, miệng cười khềnh khệch.

Vào giữa trưa, Bá đa Lộc và Nghị hộc tốc lên chiếc xe bốn ngựa kéo chạy vào điện Tuileries trong Paris, chỉ dặn Thức cứ lưu lại với Hoàng tử Cảnh ở Versailles đợi. Cảnh đứng vẫy tay, mếu máo nhìn theo. Hoàng hậu Marie-Antoinette cho gọi, Thức lại cùng Bạch đưa Hoàng tử lên. Marie-Antoinette xoa đầu Cảnh, vừa
cười vừa nói :

- Ta nghe nói cậu bé sắp phải về Vương quốc của cậu rồi. Bây giờ, cậu muốn gì, ta chiều lòng cậu.

Cảnh ngước mắt, bập bẹ :

- Kẹo, cho tôi kẹo !

Thị tỳ bưng ra một hộp vuông đầy những viên kẹo bọc đường, tròn nhỏ như đầu ngón tay cái, đủ màu sắc, thơm mùi bạc hà. Cảnh nhón một viên, mắt sáng lên, bỏ vào miệng mút. Marie-Antoinette cười :

- Cứ ăn nữa đi, của cậu cả đấy ...

Cảnh cám ơn, tay lại thọc vào hộp kẹo, bỏ lên miệng. Bỗng Cảnh ngã ngửa ra, ú ớ, rồi khò khè như tắt thở. Tham ăn quá, Cảnh nghẹn. Bạch cuống lên, chạy lại lấy tay vỗ vào lưng Cảnh. Nghe Marie-Antoinette kêu, bọn thị tỳ đùng đùng xô nhau kéo vào. “ ... Lấy cho chút nước, nước đâu cho nó uống ?”. Không có nước, họ đổ rượu chát. Một người đứng tuổi, cao lớn, nắm lấy chân Cảnh xách lên, đầu quay ngược xuống đất. Cảnh ọe ra, thoát chết ngạt. Marie-Antoinette phe phẩy quạt, miệng nói “ Lạy Chúa tôi, may quá ...”.
Tối hôm ấy, Cảnh sợ không dám ăn gì nữa, đòi đi ngủ sớm. Thức ra đứng ở hành lang, nhìn ánh trăng trong xanh vừa vặn treo lơ lửng ngang đầu. Thế là đã bảy tháng chàng đặt chân đến Paris. Bỏ những buổi giảng nhàm chán ở Sorbonne, về sau chàng thường cả ngày ở Câu lạc bộ Jacobin, thảo luận với những hội viên kéo đến từ khắp nơi. Gần gũi với Marat, nhà báo in tờ “ Bạn Dân ”, chàng ban đầu ngạc nhiên, rồi sau cảm thấy sức mạnh của phương tiện truyền thông này. Báo ra hàng tuần, vừa thông tin, cũng lại vừa đem những vần đề lớn ra viết một cách dễ hiểu để quảng bá những tư tưởng mới. Marat bảo : “ ... chúng tôi là chất xúc tác, những con người thật sự thay đổi xã hội Pháp là những kẻ không có bánh mì ! ” .

Thời đó, nạn đói kém khá phổ biến không những ở nông thôn mà ngay trong thành thị với nạn thất nghiệp tràn lan. Nông dân đóng từ 40% đến 60% địa tô cho chủ đất, từ 10% đến 30% thuế thập phân cho nhà thờ, và thêm một khoản thuế cho nhà nước đôi khi cũng xấp xỉ khoản địa tô. Tóm lại, họ trắng tay, chỉ đủ ăn cho nửa năm ! Ðó là đẳng cấp bị trị - Sieyès gọi là “ đẳng cấp thứ ba ” - chiếm tuyệt đại đa số. Tầng lớp thống trị gồm đẳng cấp quí tộc và đẳng cấp tăng lữ. Họ vừa từ chối chính sách thuế mới có phần phụ thu lãnh thổ. Marat tiên đoán là Vua Louis XVI phải tranh thủ “đẳng cấp thứ ba” để tìm cách ép buộc đám quí tộc và tăng lữ. Sieyès ngờ vực, bảo : “ Ðẳng cấp thứ ba là cả một dân tộc bị xiềng xích và áp bức. Làm sao họ có thể thỏa hiệp với kẻ đi xiềng xích họ được ? ”. Saint-Just trầm ngâm, giọng cương quyết : “ Phải sửa soạn. Ðến lúc đó, ta sẵn sàng cướp lấy thời cơ xây dựng một xã hội mới, một thể chế mới, một quyền lực mới ... ”. Những ngày sau đó, vần đề được thảo luận xoay quanh hai sự việc : tu chính bản “ Tuyên ngôn Quyền con người và Quyền công dân ” và hình thành một quan điểm chung về Hiến chương.
Không biết từ đâu đến, bìa rừng cạnh Versailles vang lên tiếng từng đàn cú rúc nghe nổi gai ốc. Tiếng cú ngưng lại, một lúc sau lại nổi lên, kéo dài ra, đập vỡ cái yên bình sang trọng của nơi quyền quí. Thức bỗng nghe văng vẳng tiếng thút thít. Chàng lần đến, đẩy cửa phòng bước vào. Hoàng tử Cảnh thức giấc, lao xuống giường rồi chúi vào một góc, khóc một mình. Thấy Thức vào, Cảnh nức nở hỏi :

- Cố ở đâu ?

Cảm thấy xót thương trong lòng, Thức từ tốn :

- Cố vào Paris ! Thôi đi ngủ đi, khuya rồi ...

Thức đến, hai tay bế Hoàng tử Cảnh lên, tiếp :

- Mai Cố sẽ về, ngủ đi.

Vừa lúc đó, Tân và Bạch nghe lịch kịch cũng bước vào. Bạch ở lại phòng, dỗ Cảnh, và ngủ lại luôn tại đó.
Thức quay ra hàng hiên, tay cầm ngọn nến đang cháy, trở về phòng mình. Lật đật theo sau, Tân gọi Thức rồi rảo bước đi cùng.

- Lạy Chúa, chắc sắp về nước rồi, ông Thức ạ ! Cố Bá đa Lộc vui vẻ lắm, thế nào Ðức Vua ở Pháp đây cũng sẽ ủng hộ Vương công ta ...

Thức lẳng lặng mỉm cười không đáp. Tân lại nói :

- ... và thế là chẳng có khó gì đuổi Tây Sơn lấy lại cơ đồ họ Nguyễn.

Nghĩ đến mảnh đất từ Thuận Hóa vào đến Gia Ðịnh - cái cơ đồ ấy nói ra miệng cứ như là của riêng một họ tộc - Thức bực mình, định hỏi Tân là lấy lại cơ đồ để cho ai thì tiếng cú lại rúc lên, lần này nghe như một bản đồng ca lạc điệu.

Bá đa Lộc cho xe lên đón Hoàng tử Cảnh về Paris hai ngày sau, gấp làm một số việc theo lời yêu cầu của quan chức ở điện Tuileries, nhất là việc ước tính chi phí cho cuộc viễn chinh của Pháp ở Cochinchine. Vừa vào sân tu viện St-Victor, Nghị xuống đón, kéo Thức ra một chỗ rồi nói nhỏ :

- Việc xưa thầy có hỏi, nay mười phần tôi biết được quá tám, để thuận tiện sẽ nói lại ...

Ðến trưa, Thức rời tu viện đi đến nơi hội họp của Câu lạc bộ Jacobin. Không khí ở đấy hôm nay nghiêm trang hơn bình thường, ai nấy đều như chờ đợi một sự việc quan trọng. Nhìn quanh, những nhân vật chủ chốt của hội đều có mặt, kể cả những người vốn ít kề cà như Robespierre, Danton ... Ngoài ra, còn có cả một số những nhân sĩ có tiếng nhưng là người ngoài hội được mời tham dự. Trong đám đó, phải kể Lafayette, đi kèm có Thomas Jefferson, hiện làm lãnh sự Mỹ ở Paris, là kẻ đã soạn thảo Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Mỹ quốc mười năm về trước.

Ðang đứng một góc, Condorcet đến sau lưng Thức, tay vỗ vai, miệng tươi cười :

- Chào bạn, bạn đến nghe bản Tuyên Ngôn nhưng chắc thân với Sieyès, bạn đã rõ nội dung rồi ...

Thức bắt tay Condorcet, lắc đầu. Mắt hướng lên bục, Condorcet nhếch mép, nói vào tai Thức :

- Ðây là kết tinh của tư tưởng Khai Sáng, và sẽ đánh thức toàn cầu trong ba thế kỷ tới ...

Ðúng lúc ấy, Sieyès bước lên bục, cười vẫy tay chào Thức, rồi lẳng lặng đeo kính, mở chiếc cặp bằng da. Người đứng ra giới thiệu là Marat. Ông ta người tầm cỡ, tóc đen nháy, mắt trông như lúc nào cũng mơ mộng, nhưng giọng nói chậm rãi chắc nịch :

-Bản dự thảo của “ Tuyên ngôn Quyền con người và Quyền công dân ” là công trình tổng hợp những buổi hội thảo tại câu lạc bộ từ một năm nay. Nó dựa trên nguyên lý sau : con người vốn tự do; con người dấn thân vào xã hội không mất tự do tư riêng, lại còn tự do hơn cả sự tự do ở trạng thể tư riêng. Sự tự do đó là kết quả của tiến trình mang quyền tự nhiên của mỗi con người ra để mọi người trong xã hội bảo đảm thành những quyền “ xã hội ”. Từ sự chấp nhận tha nhân có cùng một số quyền đó như bản thân mình, mỗi người công dân đã đồng thời tự giác những nghĩa vụ của mình đối với xã hội.

Ðến lượt mình, Sieyès nhìn cử tọa, rồi đọc bằng một giọng trang nghiêm:

“ Con người sinh ra và có quyền sống tự do, cũng như bình đẳng. Mọi phân biệt xã hội chỉ có thể dựa trên cơ sở ích lợi chung cho xã hội.

- Mục đích của mọi hội đoàn chính trị là gìn giữ những quyền tự nhiên không hủy diệt được của con người.
Quyền đó là quyền tự do, tư hữu, an ninh và quyền chống trả áp bức.

...

- Tự do có nghĩa là có thể làm tất cả những gì không phương hại đến người khác : như vậy, thể hiện quyền tự nhiên của mỗi người chỉ có giới hạn ở chỗ nó bảo đảm cho mọi người trong xã hội cùng thụ hưởng quyền tự nhiên đó. Giới hạn đó được xác định bằng luật pháp.

...

- Luật pháp là biểu hiện của dân ý ... và áp dụng cho mọi người như nhau.

...

- Ai cũng phải được coi là trắng tội khi chưa đem xét xử và bị kết án.

...

- Tự do thông tin tư tưởng là một quyền quí báu nhất của con người.

...

- Mọi xã hội trong đó không có sự bảo đảm về quyền con người, không xác định sự phân quyền, là xã hội không có hiến pháp.

... ”

Sieyès đọc xong, bỏ kính xuống. Trong phòng, sự im lặng bao trùm lấy gần trăm con người, nét mặt khẩn trọng, nghiêm trang. Từ góc phòng, một người râu ria xồm xoàm bật dậy, miệng hô lớn “ nước Pháp muôn năm ! ”. Mọi người vỗ tay, kéo ghế, đứng lên. Có kẻ chạy lại ôm hôn Sieyès, nước mắt đầm đìa. Một người đề nghị kéo chuông nhà thờ, nhưng Robespierre cản lại. Ông lạnh lùng bảo : “ ... không thể báo cho nhân loại một thời đại mới bằng những tiếng chuông cũ đã hoen rỉ !”.

Tối hôm đó, từng đám kéo nhau lên xe đi về tư dinh của hầu tước Condorcet ở vùng Bourg- la Reine, để chào mừng ngày lịch sử vừa mở ra cho xã hội Pháp một kỷ nguyên mới. Lafayette, người anh hùng đã tham dự chiến tranh đòi độc lập của Mỹ, rủ Jefferson đi theo. Nâng cốc rượu, Jefferson trịnh trọng :

- ... Xin thêm vào bản Tuyên Ngôn là xã hội có nghĩa khi nó nhằm mục đích mưu cầu hạnh phúc cho mọi con người đã đồng thuận cùng nhau lập ra xã hội.

Sieyès trầm ngâm, nhìn Saint-Just, rồi nói :

- Tôi vẫn băn khoăn, sợ rằng đôi khi quyền tự do tư riêng có thể mâu thuẫn không khoan nhượng với quyền tự do đặt trên bình diện một tập thể như quốc gia chẳng hạn. Trong trường hợp đó, ai giải quyết ? Giải quyết làm sao ?

Chen vào, Marat vừa vỗ vai Sieyès, vừa lạc quan :

- Quyền tự do khi đã thành quyền xã hội, thì tất nó là dân ý. Ðã thế, cái mâu thuẫn bạn vừa đề cập không thể có được về mặt thuần lô-gích.

Condorcet nhìn ngờ vực, hỏi :

- Làm thế nào biết là dân ý ? Bản Tuyên Ngôn dựa vào sự hiển nhiên và tính phổ quát, nên nếu mang nó ra trưng cầu ý kiến trực tiếp, có thể nó được nhất trí thông qua. Nhưng điều hành bộ máy xã hội không thể ngưng ở những nguyên tắc tổng quát. Khi lập hiến, ta phải đào sâu chi tiết. Khi lập pháp, cũng vậy. Với lập hiến - lập pháp, vấn đề kỹ thuật còn lại là làm sao có được một thể chế để xác định dân ý...

Cuộc thảo luận tiếp tục, càng lúc càng sôi nổi. Thức có cảm tưởng là cái nhìn của hội viên Câu lạc bộ Jacobin tương đối cực đoan, đặt xã hội nặng cân hơn là cái tổng số trọng lượng của mọi cá nhân cùng nhau tạo ra xã hội. Câu nói của Jefferson bỗng lại vang lên trong tâm trí Thức. Chàng hồi tưởng đến Dương Quang. Phải chi Quang có mặt hôm nay ! Vết sẹo đâm xuống chân mày bỗng nhiên giựt lên, Thức thoáng nghe tiếng rì rầm : “ Ta có ở đây chứ, chú em không biết à ? Ta có, vì là chú em ở đây đấy ... Hát đi, này con chim cánh đen, mỏ vàng mày nhọn. Cựa vàng mày sắc. Cái lồng nhốt mày làm bằng nan mục nát. Cứ phá cho tan, rồi bay ra, bay xa”.

Ngửng mặt lên nhìn những ánh sao lóng lánh ở chân trời tím thẫm, Thức bồi hồi. Chim muốn bay ư ? Phải biết cách đập cánh. Và đừng sợ khoảng không. Hãy lao mình lên, bằng tình yêu công lý và lòng can đảm. Ðó là điều kiện cần. Nhưng để đủ, phải đắp cánh bằng trí tuệ. Âu Châu đã xây dựng một nền văn hóa nhân văn cách đây hai thế kỷ. Một trăm năm nay, văn hóa đó thăng hoa bằng triết học duy lý. Và sau đó, tư tưởng thời Khai Sáng đã thực sự mở ra một kỷ nguyên mới. Như vậy, chim đã đủ khả năng bay chưa ? Những cái nan tre đan lồng chim đang từng cái một mục ra, xiêu vẹo rồi gẫy đổ trước đôi cánh của loài chim tự do đập lên tìm hạnh phúc trong một xã hội tôn trọng công bình và nhân phẩm.

Thức thấy thân mình bốc lên không trung, bay về hướng một vì sao sáng nhất ở góc trời Ðông.

Sáng hôm sau, Thức rời Bourg-la Reine quay về Paris. Vừa bước chân vào tu viện, Nghị gọi giật giọng, mặt hầm hầm :

- Thầy vào đây ! Vào ngay !

Trong phòng làm việc dành cho Bá đa Lộc, Tân và Bạch đã ngồi sẵn đấy, trông vẻ không vui. Lộc vừa nổi một trận lôi đình, mắng mỏ mọi người, rồi lại tất tưởi lên xe ngựa chạy vào điện Bourbons, giao cho Nghị khu sử những việc còn lại. Không mời Thức ngồi, Nghị quát :

- Ðêm qua thầy ở đâu ? Ðã dặn là đi đâu thì đi, cứ tối thì phải về tu viện rồi! Thầy ở đâu ?

- ...

- Thầy ở đâu, tôi không biết nhưng tôi biết thầy giao thiệp với ai, đi lại với bọn vô thần, lăng nhăng lít nhít

...

Làm như chợt nhìn thấy Tân và Bạch, Nghị dịu giọng, rồi xua tay mời họ ra. Sau đó, Nghị ghé sát vào tai
Thức, thì thào :

- Tại sao người Pháp cứ một mực phù trợ cho Nguyễn Ánh là nằm trong này ! Ðây, thầy xem ...

Thức mở ra. Ðó là một tờ trình của Bá đa Lộc, đề tựa là “ Ghi nhớ về ủng hộ việc thường trú ở
Cochinchine”. Thức chăm chú đọc :

“...Cán cân chính trị ở Ấn độ có vẻ đã nghiêng hẳn về phía Anh quốc, có thể coi như rất khó mà kéo về thế quân bình. Cho nên, có lẽ thường trú đóng ở Cochinchine sẽ là, trong số các đề án, một đề án chắc chắn và hữu hiện.

...

1- Ðó là cách phá hại để làm yếu đi thương mại của Anh quốc. Ở thời bình, chúng ta làm giảm lợi nhuận người Anh làm được qua thương mại với Trung Hoa, bởi vì ở Cochinchine, ta có thuận lợi thông thương với Trung Hoa nhưng chi trả tốn phí rẻ hơn.

2- Ở thời chiến, từ Cochinchine ta có khả năng dễ dàng cấm thương vận của các quốc gia Âu châu thù nghịch với ta; bởi vì đóng giữ cửa Vịnh, hay chắc hơn nữa giữ cửa khẩu tiếp liên với Quảng Ðông, chúng ta có thể ngăn cản xuất cũng như nhập của bất cứ ai.

...

6- Chúng ta ngăn chặn dễ dàng dự án của Anh Quốc là phát triển về phía Ðông.

... ” .

Trả lại tờ trình, Thức xoa tay, nói nhỏ trong miệng điều gì nghe không rõ. Nghị trầm ngâm, đến bên cửa sổ, khẽ hé mành nhìn ra ngoài. Quay trở lại, Nghị nhìn Thức, trầm trọng nói :

- Nhưng đây, đây mới là điều tôi không ngờ tới ...

Nghị chìa tay đưa cho Thức một văn bản viết tay. Thức ngần ngại đỡ lấy, nhìn Nghị dò hỏi.

- Thầy cứ đọc đi. Ðây là dự thảo tôi mới chép lại. Rồi thầy cho tôi biết ý thầy ...

Bản văn mang tên “ Ðề ước Liên Minh ... ” gồm mười điều, trong đó Vua nước Pháp sẽ gửi qua bốn tầu chiến, một nghìn hai trăm lính bộ, hai trăm pháo binh và hai trăm năm mươi lính Phi Châu được trang bị đầy đủ. Ngược lại Vua Cochinchine sẽ nhượng hẳn chủ quyền của cảng Hội An và Côn Ðảo cho nước Pháp. Khi nước Pháp có chiến tranh với bất cứ nước nào, Cochinchine phải giúp lại nước Pháp lính bộ, lính thủy, tầu chiến ,vv... Ngoài ra, nước Pháp độc quyền thương mại ở mọi nơi trên lãnh thổ, không phải trả bất cứ lệ phí nào, và có quyền cấm tất cả tầu ngoại quốc - tầu buôn cũng như tầu chiến - vào lãnh thổ Cochinchine trừ phi được nước Pháp cấp thông hành.

Ngửng lên nhìn Nghị, Thức thở dài :

- Nhưng chắc gì Nguyễn Ánh lại chấp nhận Ðề ước này ?

Nghị nói, tay vân vê tràng hạt, mắt nhìn xuống đất :

- Ánh đã nhận nhượng chủ quyền Hội An và Côn Ðảo cho Pháp. Tôi có hỏi André Tân. Chính Tân đã dịch tờ
ủy nhiệm này của Nguyễn Ánh cho cố Lộc và khẳng định là trong đó có ghi rõ những điều này.

- Ngoài độc quyền thương mại, nước Pháp lại còn có thể cấm mọi tầu buôn và tầu chiến nước ngoài đến nước ta thì vấn đề mất chủ quyền rộng hơn là nhượng hẳn Hội An và Côn Ðảo ...

Nghị thì thào :

- Ánh chỉ nhận độc quyền thương mại của nước Pháp trên lãnh thổ, không nói đến chuyện bắt tầu bè phải có thông hành của Pháp mới được nhập cảnh.

Im lặng một lúc lâu, Nghị lo âu, hỏi :

- Thầy nghĩ sao ? Phải làm gì ?

Thức trấn an Nghị, nói rằng nước Pháp đang bước vào một giai đoạn chuyển đổi quyết liệt. Ngoài ra, nền quân chủ đang khủng khoảng tài chính, nên dẫu có ký kết đề ước gì đi nữa thì chắc là cũng vô hiệu vì không thi hành được. Nghe Thức nói, Nghị cứ lắc đầu thở dài sườn sượt. Một lát, Thức hỏi :

- Ngoài vấn đề chủ quyền, Thầy còn lo gì ?

Làm dấu thánh giá, Nghị rầu rầu :

- Lạy Chúa, đừng để cho giáo hữu mắc vào cái tiếng là cấu kết với ngoại nhân mang nước ta đi bán rẻ !
Chỉ việc này xảy ra, tất sẽ hại đến danh Chúa cả sáng không biết đến bao nhiêu đời sau.

Vừa lúc đó, có tiếng xe ngựa lọc cọc lăn trên sân gạch. Nghị lại vén mành cửa sổ. Trong sân, Bá đa Lộc vừa xuống xe, nét mặt rạng rỡ, bảo phu đợi để đi ra điện Versailles. Nghị khẽ đẩy Thức ra ngoài, hẹn sẽ cho Thức biết diễn biến, và dặn “... thầy nghĩ hộ, làm sao để chuyện ký kết Ðề ước đừng xẩy ra ”.

Thức lánh vào phòng bên khi Lộc cất tiếng gọi Nghị. Từ tầng trên, Hoàng tử Cảnh chạy xuống thang, miệng reo ầm ĩ. Bá đa Lộc bồng Cảnh lên, âu yếm hôn vào má, rên rỉ “ Quốc Vương bé nhỏ của ta ! Quốc Vương bé nhỏ của ta ! ”. Mắt ánh lên một thứ lửa đang chuyển sang màu đỏ của những ly rượu lễ, Lộc ôm Cảnh chui vào xe, thuận tay dập cửa mạnh đến nỗi con ngựa kéo cất vó nhảy lồng lên.

Nghe Thức trình bày xong, mọi người im lặng. Marat nhồi thuốc vào tẩu, châm lửa, nhả một bụm khói vào khoảng không, đưa mắt nhìn.

- Với tình trạng hiện tại, nước Pháp chẳng có khả năng can thiệp, đừng nói là đi tìm thuộc địa như Anh hay Ypha Nho. Sieyès quay sang Thức, giọng chắc như đóng đinh - ... Vậy bạn chớ lo, ký kết gì thì ký, không thể thực hiện gì đâu.

Người đàn bà trạc ba mươi, phụ tá Marat làm tờ báo “ Bạn Dân ”, chợt lên tiếng :

- Chúng ta tranh đấu cho chủ quyền, và chủ quyền đó chính là dân ý. Dân là công dân, cùng một lãnh thổ có biên giới nhất định. Cho nên một nước đến xâm chiếm nước khác, có nghĩa là tước đoạt chủ quyền của nước ấy ! Công dân Pháp ở kỷ nguyên mới này nhất định không phải là những kẻ đi ăn cướp. Chúng ta phải giúp Trọng Thức, tìm cách ngăn chặn sự ký kết này ! Chẳng phải là vì nó có hiệu lực hay không có, mà là vì bản ký kết “ Ðề ước ” là điều sỉ nhục trí tuệ và lương tâm, làm chứng cho sự mâu thuẫn nhục nhã giữa lòng tham và lý tưởng.

Saint-Just xen vào, giọng khôi hài để làm dịu sự căng thẳng :

- Như các bạn biết, công dân Madeleine nói ba điều thì tôi phản đối mất hai, nhưng khi bà ấy chỉ nói một điều thì tôi đành đồng ý.

Thức quay sang nhìn Madeleine. Chàng đã gặp, nhưng thật sự chưa bao giờ để ý đến người đàn bà tóc óng ánh vàng, mảnh khảnh, mũi cao, môi mỏng, cằm vuông, mắt ánh lên một thứ nghị lực gang thép. Madeleine mỉm cười gật đầu đáp lại cái nhìn hàm ơn của Thức, rồi nói :

- Tôi đề nghị là chúng ta báo động trên báo “ Bạn Dân ”, đồng thời làm áp lực qua những công dân trong đẳng cấp quí tộc, buộc Louis XVI phải ngừng ngay chính sách thuộc địa.

Sieyès vun vào :

- ... và nhờ tăng lữ tiến bộ can thiệp với giáo hội đừng ủng hộ Bá đa Lộc.

Phà khói thuốc, Marat nhịp tẩu vào lòng bàn tay, chậm rãi :

- Bắt đầu, phải có một yếu tố xì-căng-đan nào gây lên tai tiếng, rồi mới vận động được dư luận. Nhưng làm gì thì làm, ta phải tránh được sự khủng bố của bọn cảnh sát.

Tuần sau, Thức mới gặp lại Nghị. Nghị giục “...gấp lắm rồi ! Bên điện Tuileries, quan chức đã đồng ý. Nay chỉ đợi chữ ký của Louis XVI.” Ngồi thần người ra một chập, Nghị cười khan một tiếng, rồi nhắc đi nhắc lại
“... Cái xì-căng-đan ấy, làm gì đây? Làm gì ? ”. Ðến đêm, Nghị gõ cửa phòng Thức, lẻn vào thì thầm. Nhìn theo Nghị co ro xuống những bực thang bằng đá trong gió lạnh vào buổi chớm đông, Thức hoang mang rồi chặc lưỡi, khép nhẹ cửa, cả đêm trằn trọc.

Madeleine giúp Thức sắp đặt mọi chuyện. Nàng lo cho Thức một chỗ trú ngụ gần chủng viện Jacobin, nằm ở góc phố St-Roch và Moineaux. Nếu có chuyện gì bất trắc, Madeleine dự tính sẽ đưa Thức về Marseille ở miền Nam nước Pháp, nơi chôn nhau cắt rốn của nàng. Sự chu đáo của Madeleine làm Thức vững bụng. Nàng tính toán chi ly từng khả năng có thể xảy đến, và sửa soạn sẵn những biện pháp đối phó với sự khủng bố của những cơ quan cảnh sát. Lúc đó, cảnh sát giăng lưới khắp mọi nơi để đề phòng tai biến trong
không khí sôi sục của Paris.

Vài ngày sau, Nghị báo Thức là bốn trong số bảy vị Thừa sai đi theo Bá đa Lộc quyết định không về Cochinchine để phản đối việc ký kết “ Ðề ước ”. Lộc lồng lên như điên dại, yêu cầu Giáo Hội và Hội Truyền Giáo ở Paris phải có thái độ. Ông ta cười nhạt, nói lớn “ ... chó cứ sủa, đoàn xe vẫn qua ”. Sáng ngày thứ hai, mồng tám tháng mười, Nghị chạy hớt hải vào phòng Bá đa Lộc, báo là không thấy Hoàng tử Cảnh đâu. Lộc nhảy ra khỏi giường, hò hét gọi mọi người ra hỏi và đếm mặt. Trọng Thức vắng mặt, không ai biết là đi đâu. Lập tức, Lộc chạy vào văn phòng Tổng Giám Mục rồi hai người cùng lên xe đến Nha Cảnh Sát ở Place Dauphin cạnh Quai des Orfèvres. Hôm sau, trên một trang của báo “ Bạn Dân ”, một hàng tít lớn loan tin “ Hoàng tử Cảnh mất tích : Tại sao ? ”. Bá đa Lộc xé nát tờ báo, quẳng xuống đất, hầm hè chửi bọn “ vô thần ”, “ ngoại đạo ”, rồi lại lên Nha Cảnh Sát. Một sĩ quan cao cấp bảo :

- Chúng tôi cũng đã đọc báo này. Chắc báo có người biết được tin Hoàng tử Cảnh mất tích, nhưng không có một chứng cớ nào để bảo rằng họ thông đồng toa rập. Vì vậy, chúng tôi không thể can thiệp trực tiếp, xông vào Tòa Báo mà tra hỏi.

Lộc gầm lên :

- Các ông cứ thế thì còn gì là phép tắc của nước Pháp. Tôi sẽ vào điện Versailles tâu Vua !

Vị sĩ quan cười khẩy :

- Nếu chúng tôi không thế, thậm chí thì còn gì là nước Pháp nữa. Xin Giám Mục cứ vào Versailles.

Về đến tu viện St-Victor, Lộc gọi Nghị mắng đến độ Nghị xỉu người đi, ngã ngật xuống. Trong thời gian đó,
Thức vừa dỗ cho Cảnh ăn, vừa hứa hẹn :

- Chỉ năm bữa nữa là lại về. Hoàng tử có tôi, đừng sợ gì ! Ăn đi.

Cảnh khóc, kêu ầm lên :

- ... Cho tôi về, sao lại ở đây, vừa tối tăm vừa chật hẹp. Anh Bạch đâu ? Cho tôi về với cố ! Sao lại giữ tôi ở đây ?

Nhăn nhó, Thức đứng lên, miệng dọa:

- Có bọn ăn cướp nó rình, Hoàng tử khóc nó đến bắt được thì chẳng về với cố được đâu. Thôi, nín đi.
Phải đợi đến lúc Madeleine về căn nhà ở phố Moineaux, dịu dàng ôm Cảnh vào lòng, tay lau nước mắt, thì Cảnh mới chịu ăn. Thức nhìn, tự dưng lòng bỗng sóng sánh một cơn ngậm ngùi không hiểu từ đâu ứa ra như nước tràn mùa lũ.

Ðích thân Hầu tước Condorcet đến tòa báo “ Bạn Dân ” cho biết là qua một người họ hàng làm việc trong Bộ Nội Vụ, bọn khủng bố dự tính sẽ vây bắt những kẻ chủ trì tờ báo. Nhắn Madeleine dặn Thức một địa chỉ mật ở Palaiseau phía ngoại ô Paris, Condorcet đi tìm Lafayette rồi cả hai cùng vào điện Tuileries đặt vấn đề với đám quan chức cao cấp của triều đình.

Madeleine lập tức cho người về báo Gilbert Delecourt, một vị tu xuất năm nay đã sấp sỉ sáu mươi. Ông lo việc đảm bảo an ninh cho Trọng Thức và Hoàng tử Cảnh, đã gài một số người xung quanh căn nhà phố Moineaux để báo động khi cần kíp. Việc canh chừng cảnh sát cẩn mật hơn, và Thức cũng sẵn sàng trốn đi bất cứ lúc nào, theo những lộ trình được vạch sẵn tùy theo biến cố có thể dự liệu.

Chần chừ thêm một ngày, Delecourt cuối cùng quyết định rời chỗ ở cho Thức. Họ lên một chiếc xe hai ngựa vào chập tối, lẳng lặng đánh xe chạy ven đường St-Roch rồi rẽ trái trên St-Honoré. Ðược một quãng, người phu đánh xe đập tay vào thành xe. Delecourt kéo chiếc cửa nhỏ sau xe nhìn lại. Một chiếc xe bốn ngựa từ xa chạy tới với một vận tốc nhanh hơn bình thường. Người phu bỗng kêu lên :“ Ðằng trước có xe chặn ta rồi !”. Delecourt nghiêng đầu ra ngoài nhìn. Ông ta bảo : “ Rẽ nhanh về phía tay phải ”. Khi xe chạy thêm năm mươi thước trên con đường hẹp, Delecourt quát : “ Ngừng lại ! ” rồi mở cửa xe, giục Thức “... nhanh theo tôi ! ”. Thức ôm Hoàng tử Cảnh, nhảy vội xuống xe chạy theo, tay bịt miệng Cảnh. Không hiểu chuyện gì xảy ra, Cảnh sợ, khóc inh ỏi.

Ba người len vào những ngách nhỏ ra đến Route de la Monnaie. Họ nhắm Pont Neuf chạy tới, mặc những kẻ bộ hành nháo nhác dạt sang một bên. Ðằng sau có tiếng chân người đuổi theo và tiếng hò hét. Delecourt lại kêu : “ Nhanh lên, qua được cầu thì an toàn ! ”. Thức bế Cảnh, chậm hơn, cắn răng, cắm đầu chạy tới. Ðến giữa cầu, Delecourt thét lên : “ ... ngừng lại ! ”. Ðầu bên kia, bọn cảnh sát vừa mang hai chiếc xe ngựa tới chặn. Mấy tên lính kín mang súng, đeo gươm, xuống xe quát tháo. Delecourt rút ra một khẩu súng lục, miệng thét :“ ... Không dừng lại, ta bắn chết thằng bé này !”. Một người, dáng dấp chỉ huy, quát bảo bọn cảnh sát đang đuổi đằng sau. Họ ngừng lại. Dăm phút sau, Bá đa Lộc hớt hải chạy tới, miệng thở hồng hộc, giơ tay lên trời kêu : “ ... Ðừng, chớ bạo động. Phải bảo vệ Hoàng tử ! ”. Nghị, Tân và Bạch vừa lúc đó cũng ùa đến.

Nghị bảo với Bá đa Lộc : “ Ðể tôi đến gần thương thuyết với Thức ”, rồi chẳng đợi trả lời, lẳng lặng bước tới. Nhìn thẳng trước mặt, Nghị vừa bước vừa nói thầm, cứ bắn đi, có người chết là có xì-căng-đan, ta chết hay đứa bé kia chết cũng được. Bên này, Delecourt nâng súng về hướng Nghị bóp cò. Bốn năm tiếng đùng đùng nổ lên. Trong bọn cảnh sát, có kẻ bắn lại. Ðạn không trúng Nghị. Ông ta đứng sát mép cầu, mặt tái đi. Cạnh Thức, Delecourt ngã quị xuống, ôm lấy ngực. Thức với tay nhặt khẩu súng, kề vào màng tai Hoàng tử Cảnh, nói lớn : “ Ðừng đến gần, đến tôi sẽ bấm cò !” .

Lại có tiếng quát tháo vang lên. Bá đa Lộc nói, nhưng Thức nghe không rõ. Cúi xuống áp tai vào miệng Delecourt, Thức nghe ông ta thì thào. Thức gật đầu. Hoàng tử Cảnh thấy Lộc, vừa réo lên gọi, vừa nức nở. Lộc lại nói với Cảnh : “... cứ yên tâm, con đừng sợ !”. Thức ngửng lên nhìn Nghị, rồi quay ngang nhìn dòng sông Seine. Mắt Nghị không hoảng hốt, nhìn Thức một cách trầm tĩnh như nhắc nhở Thức một điều gì. Lúc ấy, Delecourt thở hắt ra, tay nắm vào áo Thức, đầu ngoặt xuống một bên.

Thức để ngón tay trên cò súng, tay kia vẫn ôm ghì lấy Cảnh đang giãy giụa. Chàng nghĩ là bấm vào cò thì cái bản “ Ðề ước ” kia dẫu có ký cũng chẳng còn gì là giá trị. Cứ tưởng tượng, trong số báo sớm ngày mai ở Paris, trang đầu nào cũng loan cái tin Hoàng tử Cảnh, con tin của nước Pháp, vừa bị sát hại. Cứ tưởng tượng Nguyễn Ánh, ở một góc rừng nào đó, lồng lên giận dữ. Lộc gào lớn : “... Thầy Thức, thương lấy đứa bé, đừng, đừng !” Thức lại nhìn Nghị. Mắt Nghị vẫn trầm tĩnh, nhưng thật là buồn.

Chỉ có một hai phút trôi qua nhưng Thức thấy nó dài hơn cả trăm năm. Tay chàng run lên. Máu của một đứa bé vô tội ! Làm thế nào đây ? Thức nhắm mắt, tưởng tượng những giọt máu từ chiếc đầu nhỏ nhắn đó vỡ toác ra, bắn tung lên, dính vào mặt mũi thân thể chàng. Có gì trên thế gian này đáng giá để đổi lấy những giọt máu này? Chàng chợt cảm thấy mình nhầy nhụa đến độ không có gì, và chẳng bao giờ, gột rửa được. Thức lại nhìn xuống sông Seine. Theo kế hoạch của Delecourt, chàng phải bấm cò súng rồi lao xuống bơi về phía đông, phía sẽ có thuyền đợi vớt chàng.

Nuốt nước bọt, Thức nhìn Cảnh, vết sẹo đâm xuống chân mày giựt mạnh như muốn vỡ toác ra. Miệng mím lại, nhưng tay Thức vẫn run lên bần bật. Cảnh vừa khóc vừa kêu : “... cho tôi về với cố, bỏ tay ra ”. Trong chớp mắt, Thức không nghĩ gì nữa, đẩy Cảnh về phía Bá đa Lộc, rồi tung mình nhảy qua thành cầu phóng người xuống dòng sông Seine. Chàng nghe loáng thoáng có những tiếng súng nổ, lặn xuống thật sâu, mở mắt trong màn nước lúc càng tối om om, trườn người đi.

Nghị chạy tới, theo sau là Bá đa Lộc vừa ì ạch, vừa reo: “ May quá ! ”.

Ngày 28 tháng 11 năm 1787, “ Ðề ước Liên Minh ” giữa nước Pháp và Cochinchine được ký kết, sau gọi là Hiệp ước Versailles trong sử liệu. Theo “ Niên Biểu Lịch Sử cổ trung đại ”, Bá đa Lộc lên tầu Dryade rời nước Pháp ngày 27 tháng 12 năm 1787, và đến Pondichery ngày 18 tháng 5 năm 1788. Lúc đó, Bá tước Conway, Tư Lệnh lực lượng Pháp ở Ấn Ðộ, không đồng lòng với việc gửi tầu chiến và lính Pháp vào Cochinchine. Thật ra, ông ta chỉ làm mệnh lệnh mật do chính Louis XVI trao.

Trong những bức thư trao đổi với Bộ Trưởng La Luzerne, Conway cho biết là Lộc không thành thật, cố tình thổi phồng sức mạnh của Nguyễn Ánh, và chỉ là một kẻ phiêu lưu, tính tình nông nổi, háo chiến. Viết cho Ðức Tổng Giám Mục de Castries, ngày 20 tháng 7 năm 1788, Conway khẳng định : “ ... Chúng tôi không biết Vua nước Cochinchine ở đâu. Dựa trên bức thư ông Vua này viết năm 1786, ông ta không có gì và cũng chẳng có khả năng làm gì. Vả lại, theo lời giáo sĩ Paul Hồ văn Nghị, ông Vua này có thật hay không là một điều đáng ngờ vực ”.

Ngày 16 tháng 4 năm 1789, Luzerne báo Bá đa Lộc là nước Pháp chính thức không cho phép mang tầu và lính vào Cochinchine. Bá đa Lộc dọa sẽ bán Hoàng tử Cảnh cho Anh quốc với giá là một triệu quan. Song không hiểu việc mua bán này có thật hay không, chỉ biết Lộc rời Pondichery vào giữa tháng 6 và đổ bộ vào Vũng Tầu hôm 28 tháng 7. Ngượng nỗi tay trắng không có gì cho Nguyễn Ánh, Bá đa Lộc nằn nỉ Thuyền trưởng Rosily-Mesros. Ông này để cho Lộc một nghìn kilô thuốc súng. Vào những năm sau, Lộc đi chiêu mộ một bọn phiêu lưu đến từ Tây phương làm lính đánh thuê. Ðến thời kỳ Nguyễn Ánh về Gia Ðịnh ba bốn năm sau, đếm ra bọn đánh thuê này vào khoảng trên dưới tám chục mạng.

Chương 10
Bờ xa

Nhật khẽ đẩy cánh cổng, lẳng lặng bước vào, lòng bâng khuâng. Sân gạch đỏ ẩn nhẫn sóng xoài dưới những giọt mưa tí tách rỉ rả. Cỏ ven sân mọc cao, trĩu xuống ủng nước, nằm xòa ôm lấy những mấp mô. Bước vòng ra bờ ao, Nhật đến gốc cây sung, dựa lưng vào, lơ đãng nhìn những gợn nước thoắt hiện thoắt biến theo những giọt mưa, khi nhỏ khi to, khi thưa khi nhặt. Một chớp mắt, đã hơn hai năm. Dinh Khương Tả hầu tàn phế như một người già trước tuổi, mái ngói uốn lượn vòng vèo theo những vết rêu phong ảm đạm. Hoang vắng đè xuống đám kèo cột ngang dọc vô hồn, lạc lõng. Thở dài, Nhật kéo chiếc áo tơi, nhẹ bước về căn phòng chàng đã ăn ngủ suốt gần một năm, hồi tưởng đến nào là Thức, là Mai, là Du. Rồi Tế Lý, Ðăng Khoa, và nhất là lão Hài, người lính già đã bị voi quấn lên rồi quật xuống trong buổi loạn Kiêu binh. Nước mắt rưng rưng, Nhật cắn môi, tay bâng quơ vuốt nhẹ vào vách nhà như vuốt vào một sinh vật.

Bỗng có tiếng khụt khịt sau lưng. Nhật quay lại, tay để lên đốc kiếm như một phản xạ. Hóa ra là lão bộc, xưa sống thui thủi với cái bóng của chính mình, công việc chính hàng ngày chỉ có đun nước pha trà. Ðến gần Nhật, lão đưa cặp mắt toét nhèm, hấp háy nhìn lên, rồi mũi lại khụt khịt như thể đánh hơi. Nhật vừa cất tiếng thì lão reo nho nhỏ :

- À, thì ra là Võ tướng quân ...

Ở lại dinh để « giữ nhà » như lão kể, lão sống một mình đã cả gần một tháng nay. Vừa nắm lấy tay Nhật, vừa run run, lão bảo :

- Khương Tả hầu mang cả gia đình chạy lên Sơn Tây rồi... Giặc Quảng đã vào, nó cướp nước mình, Võ tướng quân nay chạy đâu ?

Nhật không nói, nhưng lão đã thấy cái tua đỏ buộc ở đuôi kiếm để phân biệt quân Tây Sơn. Lão im bặt.
Giọng như khóc, lão cất tiếng :

- Võ tướng quân nay mang giặc vào Kinh à ?

Không biết trả lời thế nào, Nhật đành im lặng. Ấm nước sôi, vung rung lên như gặp cơn sốt. Nghẹn ngào,
lão bộc lấy trà tra vào ấm, động tác như một cái máy, nước mắt ứa ra chảy dài trên má. Nhật để tay lên vai lão, nhẹ nhàng :

- Lão trách tôi à ?

Giật phắt tay Nhật ra, lão bộc đứng lên, mắt lại hấp háy một lúc, miệng ấm ức một điều gì không nói được thành lời. Thảng thốt, Nhật nhẩm lại những biến cố vừa qua, nhớ lại bao nhiêu đưa đẩy khiến chàng trở thành chỉ huy của đội du binh Tiền kích. Ngạc nhiên, chàng ngẫm lại những biến cố xô chàng đi tới, đi khôngtự chủ, thậm chí không mục đích.

Lão bộc lại khụt khịt, đầu cúi xuống, thở than :

- Thằng cháu nội duy nhất của già này vừa chết trên bến Tây Long ... Võ tướng quân nhìn mà xem, mộ nó còn tươi đất ...

Nhìn ra góc vườn, một mô đất mới đắp nhô lên khỏi đám có dại, trên có cắm vài cây hương đã rụi. Lão bộc rên lên nho nhỏ :

- Cháu già chết cho ai, cho cái gì ?

- ...

- Ðất này lắm Chúa lắm Vua. Họ bắt binh bắt lính đánh nhau, độc chỉ làm có cái việc giật qua giành lại uy này quyền nọ. Sinh mạng người ở đây nào khác gì con rận con rệp !

Ôm mặt hu hu khóc, lão nghẹn ngào rống lên từng chặp :

- Ối giời ơi là giời !

Trong đầu Nhật, hình ảnh Nguyễn Huệ lại hiện ra với cặp mắt tóe lửa, miệng vênh lên ngạo mạn thách thức. Hai hôm trước, một viên tả phiên lỡ nhếch cười trong tang lễ vua Hiển Tông. Huệ nhác thấy, bắt lôi ngay ra sân chém vì tội bất lễ, nhưng mục đích là ra oai dọa dẫm. Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ và đám quần thần, mặt cắt không còn máu, quì run rẩy trong điện Kính Thiên. Huệ vờ khiêm nhường, nói :

- Kẻ này vâng mệnh Hoàng huynh mang quân ra làm việc tôn phù đã xong. Ngày mai, làm xong việc tang tế của con rể muốn tròn đạo với bố vợ, thế là trung hiếu vẹn cả hai bề, kẻ này sẽ rút quân về nước.

Ðám triều thần gập đầu vâng dạ, nhưng bụng mừng như mở cờ, vội chọn ngày đưa hài vị của Hiển Tông xuống thuyền. Huệ cưỡi voi, dẫn ba nghìn quân đưa ra bến, chờ cho lễ rước tử cung về đất tắm gội xong, bảo công chúa Ngọc Hân :

- Ngày nay báo hiếu lại là gái, trong khi Tiên Ðế có đến hơn mười người con trai. Thế có phải là « nữ tắc môn my » không ?

Khẽ nghiến răng, Hân dập đầu xuống đất lạy tạ ơn, nước mắt trào ra, lòng lại nghĩ về cơ nghiệp nhà Lê. Huệ đỡ lên, Hân nghẹn ngào :

- Tục ngữ bảo « trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày chồng ». Tôi như hạt mưa bụi ngọc, bay ở giữa trời, may được sa vào hầu hạ khăn lược ông lớn, thế là đủ cho tôi lắm rồi ...

Nhìn vào mắt Hân, Huệ bỗng thấy mình lớn bổng lên như một tên khổng lồ, ngồi trên mình con voi co chân dẫm xuống cả kinh thành Thăng Long. Từ em một tên ấp trưởng buôn trầu nguồn, Huệ đã thành phò mã Vua Lê, mặc sức vần xoay cả một Ðế chế, và tha hồ dầy vò cô công chúa tài sắc đang yếu đuối nép vào lòng mình tìm che chở. Hân lại thủ thỉ :

- Ngày ông lớn về, cho tôi theo với, đừng để tôi lại tôi không chịu được đâu !

Huệ cảm động, vòng tay kéo Hân xuống. Nàng công chúa nhắm mắt lại, đầu ngật ra sau, lòng chỉ mơ ngày quân Tây Sơn rút về Nam, trả cho nhà Lê những tấc đất Ðàng Ngoài đang hoảng hốt oằn mình dưới bước chân võ dõng.

Tiếng khóc của lão bộc lại bất ngờ vang lên như có cơn, kéo Nhật về thực tại. Chàng tự hỏi : « Ta đang về đâu, đi đâu ? ». Nhẹ nhàng, Nhật nhìn lão bộc, nói khẽ như nhận lỗi :

- Tây Sơn sắp rút về rồi…Ðâu sẽ lại đấy, chẳng mất mát gì.

Lão bộc cứ lắc đầu quầy quậy. Nhật buồn bã ra khỏi dinh Khương Tả hầu.

Hai hôm sau, Nhật nhét vào hầu bao bốn lạng bạc mang cho người lão bộc. Gọi lão, không thấy trả lời. Nhật đi quanh tìm. Bước đến cây cổ thụ bên cạnh nấm mộ mới đắp, Nhật nhìn lên chạc cao. Lão bộc đã xé quần áo làm giây treo cổ, thân thể như một cái cành mọc dọc khốn khổ tìm về nơi an nghỉ. Tai Nhật lại văng vẳng : « ... Ối giời ơi, là giời ! »

Tin thám mã báo vua Tây Sơn đang trên đường đến Kinh nổ như một cú sét làm choáng váng cả một triều đình đang chờ ngày lên đường của Uy-dực Quốc công Nguyễn Huệ. Cho yết bảng ở cửa Ðại Hưng để an lòng dân, Huệ nhắc Hoàng Tự tôn Lê duy Kỳ sắm sửa để đón tiếp Nguyễn Nhạc theo đúng nền nếp Ðế vương. Quần thần nhà Lê ngơ ngác, không hiểu ý tứ người Tây ra sao. Lúc đó, Chỉnh lại xin ra mắt Tự Tôn, bàn là dâng ngọc tỉ và thảo biểu xin hàng, khiến ai nấy đều nao núng, và có kẻ đã mang cả vợ con chạy trốn khỏi Thăng Long. Rắp tâm lập công để Nhạc tha cái tội xúi bẩy Huệ xua quân ra Ðàng Ngoài mà không có lệnh, Chỉnh định tâm thu ngay cả Bắc hà về một mối bằng đầu môi chót lưỡi, chẳng tốn đến một mũi tên hòn đạn. Trong đám thần tử nhà Lê, có kẻ chống lại ý hàng. Việc cứ chùng chình nên đến ngày Nhạc vào Thăng Long mà chưa viết cho xong tờ hàng biểu. Hoàng Tự tôn sợ quá, tự ra đón ở phía Nam Giao, sai hoàng thần quì bên đường chào Nhạc. Nhạc giục ngựa đi thẳng, nhắn lại là xin cứ ngự giá về cung, ngày khác thong thả sẽ đến gặp. Thấy yên, không còn ai bàn thêm về việc hàng, bọn quần thần bụng lại càng ghét Chỉnh.

Huệ thân chinh ra cửa ô đón Nhạc, tạ tội đã tự chuyên kéo quân ra Thăng Long, nhưng không giấu nổi người anh ruột thịt sự kiêu ngạo, nhất là khi Huệ mang Ngọc Hân ra chào. Nhạc bảo :

- Em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, môn hộ kể là xứng, người thế này đáng là em dâu nhà ta.

Ðến tối, Huệ sai quây màn ở điện Chính Tâm, còn tự mình lui xuống ngủ ở Lân Các. Nhạc gọi con rể là Tả quân Vũ Văn Nhậm vào hỏi riêng một số chuyện, miệng tấm tắc khen Huệ là quyền biến. Hôm sau, vừa gặp
Huệ, Nhạc hỏi ngay, giọng cố làm ra tự nhiên :

- Chú đưa nộp ta binh phù.

Tia lửa trong mắt Huệ thoáng rực lên, nhưng tắt ngay khi Huệ cả cười, đáp :

- Anh chẳng cần hỏi, Huệ này cũng đã nghĩ đến trước, sẵn đây xin dâng lại.

Nhạc liền gọi cả Nhậm và Chỉnh vào hỏi việc quân. Cách sắp đặt cơ ngũ thay đổi quá nhiều, nhất là trong thủy binh dưới quyền Chỉnh. Nhạc cười xòa, lờ đi, nắm tay hai võ tướng khen ngợi không tiếc lời.

Hôm sau, Huệ sai bầy phủ đường rước Hoàng Tự tôn sang. Ngồi ghế giữa, Nhạc nhìn vị Hoàng tôn, miệng hỏi :

- Tự Hoàng xuân thu được bao nhiêu ?

Một viên trọng thần đáp, rồi nói tiếp :

- Thánh thượng là bậc từ nhân, đại nghĩa đã vì đấng quốc quân chúng tôi chỉnh đốn lại nếp hoàng đồ. Nay, nước Nam là do ngài gây lại, nếu sẵn lòng thu nhậân một vài quận quốc để khao thưởng quân sĩ đã ra công hãn mã thì đấng quốc quân chúng tôi xin vâng mệnh.

Nhạc trợn mắt, đáp ngay :

- Tôi vì giận cường thần áp Vua, nên ra đây làm việc tôn phù. Nếu là đất của họ Trịnh, một tấc tôi cũng không để, nhưng là đất nhà Lê thì một tấc tôi cũng không lấy. Yên ả cho bốn phương bình định - quay sang nhìn Huệ, Nhạc rành mạnh - anh em tôi lại về nước tôi. Mong sao Tự hoàng nhức nhổ rường mối triều đình, để cùng nước tôi đời đời kết nghĩa láng giềng, thì đó là phúc của hai nước.

Viên trọng thần rập đầu, thay Tự tôn, ấp úng nói :

- Thánh thượng mở lòng giúp đỡ, ơn ban cho thật là vô cùng. Quốc quân chúng tôi xin giữ lễ lân bang không bao giờ dám sai trái.

Lên kiệu về cung, Hoàng Tự tôn sai triều thần vào phủ Chúa chào Nhạc. Nhạc nhìn một lượt, hỏi :

- Tôi đột nhiên ra đây, các ông có ai ngờ dạ tôi không ?

Không đợi trả lời, Nhạc tiếp :

- Ai ngờ, kẻ ấy là ngu. Tôi nếu tham nước Nam, dẫu có lấy ngay, thì đến đời con cháu tôi liệu có giữ được không? Chẳng bao lâu, anh em tôi về. Các ông nên phò Vua, giữ yên bờ cõi, hai nước kết nghĩa láng giềng, cùng hưởng thái bình là phúc chung cho thiên hạ ...

Các quan lạy tạ, lại nghe Nhạc nói :

- Tôi nghe nước ông có ông Nghè là quí lắm. Các ông có phải là ông Nghè không? Tôi sẽ xin với Tự hoàng cho năm ba ông theo tôi về dạy người nước tôi, các ông có đi không ?

Các quan lại phủ phục, lí nhí xin tuân mạng, không hiểu anh em Tây Sơn có ý định gì. Riêng Chỉnh, Chỉnh rất ngại vì biết rõ tâm địa Nhạc và tham vọng của Huệ. Nếu quả thật Nhạc về tay không, thì đó là cách Nhạc dùng để tước đoạt thắng lợi của Huệ, sợ cứ để thì uy thế của Huệ như nước vỡ bờ ào ra nhận chìm cái đế vị của Nhạc mà trên thực tế chỉ là làm chủ được thành Qui Nhơn. Trong trường hợp đó, Nhạc làm sao quên được Chỉnh đã xúi bẩy Huệ mang quân ra Bắc Hà ? Còn phần Huệ, Huệ sẽ chẳng ngần ngại gì mà không thí Chỉnh cho Nhạc an lòng, thừa biết là dẫu có dùng Chỉnh, Nhạc xưa nay vẫn coi Chỉnh là kẻ giảo quyệt, lúc nào cũng để ý giá ngự. Và Nhạc sợ để Chỉnh dưới trướng Huệ, vì thế thì có khác gì vuốt móng cho cọp ?

Tối hôm đó, Chỉnh vào cung Vạn Thọ, tâu với Tự hoàng :

- Tôi đem anh em hắn ra là chỉ để tôn phù, việc đã xong, nay tôi xin ở lại. Anh em hắn về, thì Nghệ An là phên dậu của xã tắc. Vậy xin bệ hạ cho tôi vào đó trấn thủ, mặt Nam tôi xin đương hết.

Hoàng Tự tôn lẳng lặng nghe Chỉnh nói. Nghĩ đến việc Chỉnh giục triều đình thảo hàng biểu cách đây mới vài hôm, Tự tôn không dám trả lời, chỉ nói qua loa cho xong chuyện.

Chỉnh ra khỏi điện Vạn Thọ. Ngửng lên nhìn bầu trời dày đặc những vì sao lóng lánh, Chỉnh căng mắt tìm ngôi bãn mệnh mình. Mím môi, Chỉnh lẫn vào trong bóng đêm, lặng lẽ dò dẫm như một con sói tìm đường sống trên bờ tai họa.

Ngọc Hân gọi nhũ mẫu vào Lân Các. Nhũ mẫu nuôi Hân từ ngày lọt lòng, đầu gối tay ấp thay cho mẹ đẻ ra Hân đã lìa dương gian khi Hân vừa dược năm tháng. Mắt nhìn van xin, miệng ngọt ngào, Hân nhắc đi nhắc lại :

- Già vào với bé, bỏ bé một mình sao được ? Phú Xuân nào có xa gì ? Nhé, già nhé !

Biết là nhũ mầu còn lo cho gia đình, Hân đưa vào tận tay một gói bạc bọc bằng lụa điều, tiếp :

- Già mang về nhà, hôm sau già lại vào đây ...

Còn một mình, Hân đứng dựa song cửa, thẫn thờ nhìn xuống khu vườn sau Lượng Phủ. Những cành thược dược xưa nhởn nhơ nay sũng nước chúi đầu xuống đất, chẳng khác gì đám quan lại nhà Lê đang thấp thỏm đợi chờ một biến động chưa ai hình dung ra nổi. Tiếng trống điểm canh bỗng rền rĩ ngân lên ảo não, xua những con quạ giật mình quang quác kêu lên. Hân bồn chồn, chỉ muốn sang cung Vua. Nhưng Huệ đã dặn, cấm không cho đi đâu. Tại sao ? Mấy hôm nay, quân « đầu đỏ » cấm trại, đường phố vắng hẳn, hàng dân xì xào to nhỏ. Ðúng là Huệ và Nhạc đang rục rịch lên đường. Ít ra anh em hắn cũng phải thông báo cho triều thần và Hoàng Tự tôn để sắp lễ tiễn hành cho đúng nghi thức. Lại nữa, chỉ hai ngày tới, Hoàng Tự tôn dự định đặt triều để giáng chiểu chỉ đổi niên hiệu là Chiêu Thống. Nhưng không hiểu sao Huệ và Nhạc vẫn im lìm. Riêng Vũ Văn Nhậm tất bật ở trại quân.

Từ ngày Nhạc đến Thăng Long, Chỉnh không còn dính gì nhiều đến việc quân sự, hiện chỉ còn lũ người nhà cùng ở với mình ở chùa Thiên Tích. Sáng sớm hai ngày sau khi Chỉnh đưa Nhạc vào làm lễ trong Thái Miếu, Nhạc vời Chỉnh vào, bắt ngồi một bên. Nhạc hỏi :

- Tây Sơn về, Bắc hà sẽ ra sao ?

- Bắc hà? Triều đình nhà Lê thành phỗng. Phỗng rỗng ruột, thưa Thánh thượng.

- ...

- Ðầu tiên, bọn Dương Trọng Tế ở bên Gia Lâm sẽ mang quân về Kinh. Thứ là Trịnh Lệ ở Văn Giang sẽ kéo về cướp lại ngôi Chúa. Tế không thể chống nổi, sẽ hàng Lệ, lập công.

- Rồi sao nữa ?

Chỉnh trầm ngâm :

- Bọn Ðinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ cũng sẽ kéo vào Thăng Long. Chúng có phù Trịnh không, ta chưa thể biết.

Cầm cái ống nhổ đưa lên, Nhạc thò mồm vào khạc đờm. Chiêu một hớp nước, Nhạc vu vơ :

- Ðể ông bao nhiêu binh thì ông giữ được nước cho vua Lê?

Chỉnh lòng rúng động, nhưng sợ, không dám trả lời ngay vì chưa rõ bụng Nhạc tính toán thế nào. Thật ra, Chỉnh nghĩ, chỉ với ba ngàn lính thì Chỉnh có thể dường hoàng chiếm Lượng Phủ, và ít thì cũng giữ được một năm, đủ thời giờ gây lực lượng. Nhạc lại nhìn, gặng :

- Ðộ bao nhiêu ?

Vòng tay, Chỉnh nghiêm trang, giọng hơi run:

- Chỉnh vào làm dưới trướng Thánh thượng, xin đi đâu cho Chỉnh theo, chẳng có lòng nào ở lại Bắc hà. Cho nên bao nhiêu lính, Chỉnh chưa hề nghĩ đến !

Nhạc ôn tồn :

- Ðấy là nói thế thôi. Có ở Bắc hà, ta giao cho Chiêu viễn hầu Vũ Văn Dũng, họ hàng bên ngoại nhà ta ...

Chỉnh mường tượng ra Dũng, năm nay độ trên ba mươi, kẻ từ Hải Dương về Kinh xin ra mắt Nguyễn Huệ. Xưng là cháu đích tôn của Nguyễn Hữu Cầu, tức là bác của anh em Tây Sơn, Dũng phải đổi họ để tránh sự truy nã của những đời chúa trước. Huệ mừng lắm, phong hầu cho Dũng, và thưởng cho đám quân do Dũng đưa về với Tây Sơn. Từ đó, chính Dũng đã dần dần thay thế Chỉnh, nay nắm gần như toàn bộ thủy binh.
Chỉnh gật gù, nhưng lòng đau quặn lên, thưa :

- Thánh thượng chọn thế là đúng lắm. Chiêu Viễn vừa dũng lực, vừa mưu trí ...

Nhạc cắt lời :

- Chuyện đâu còn đó. Ta chưa định gì cả ngoài cái việc phải nhờ ông - Nhạc tươi cười, giọng cợt nhả -
Ông lấy vợ cho Huệ, còn ta, ông nghĩ là ta già, không chiều đãi nổi gái Bắc hà hay sao mà ông để ta « phòng không, chiếc bóng » thế này ?

Chỉnh cung tay, miệng nói :

- Thánh thượng không chê gái Bắc thì có khó gì. Ai lại chẳng đợi ơn mưa móc của « Long tòng Ðông Hải »...
Phá lên cười, Nhạc thân mật vỗ vai Chỉnh, rồi bắt rót rượu ra, cứ thế chén tạc chén thù, cùng nhau ôn lại những lần công thành phá ải. Càng uống, Chỉnh càng yên lòng, rồi khi được phép, Chỉnh khật khưỡng bước khỏi điện Chính Tâm, thủ hạ phải dìu mới lên được ngựa.

Trống canh một trong dinh trại Tây Sơn vang lên rộn rã khi Chỉnh về đến chùa Thiên Tích. Sang canh hai, trống chỉ thưa thớt. Lúc đó, Nhạc và Huệ cùng vào điện Vạn Thọ cáo từ Hoàng Tự tôn, rồi đi ra ngay trại quân, phát lệnh xuất hành. Người ngựa ngậm tăm, lẳng lặng kéo nhau đi ngay đêm đó, dân Kinh Kỳ không một ai hay.

Nghe tiếng Huệ giục lên kiệu, giọng cợt nhả : «Bây giờ, công chúa về nhà chồng nhé ! », Ngọc Hân đau thắt bụng lại, nhưng bề ngoài cố mỉm cười. Nàng lẳng lặng cắn răng, nước mắt ứa ra, khi bốn người phu nhắc bổng đòn kiệu để lên vai. Ðằng xa, những mái các của cung Kính Thiên vươn xa như để rồi mất cân bằng đổ xuống, gãy vụn dưới ánh trăng lạnh ngắt phủ lên dương gian màu lợt lạt của những xác chết sắp chôn. Kiệu đi, rập rình như thuyền trên sông. Vén bức mành lụa che cửa, Hân nhìn như chọc thủng đêm đen, khe khẽ rên : « ... Nhũ mẫu ơi, già ơi, thế là bé phải đi một mình mất rồi ! ». Hân biết thân mình nay là bèo bọt trôi dạt. Nhưng cái cơ nghiệp nhà Lê ở đằng sau kia vẫn còn đó, như mặt đất sũng nước của những trận bão bất thần ập xuống Bắc hà.

Mím môi, Hân tự hứa sẽ không bao giờ nhỏ nước mắt khóc gì nữa. Vì mặt đất kia đã sũng nước. Và con cọp lưng vằn vện đã nhảy lên lưng nàng ngày hợp cẩn cũng chỉ là một loài động vật có thể dạy cho thuần. Như voi. Như ngựa. Miễn sao là cái mặt đất đó còn. Còn, rồi sẽ khô đi. Và sẽ vững chắc như mặt đất ngày đức Thái Tổ vừa đuổi được quân Minh ra khỏi Lạng Sơn.

Ngọc Hân thấy miệng mằn mặn. Nàng thè lưỡi ra liếm đôi môi mím đến bật máu. Khi đó, ánh trăng Bắc hà đang chếch về phương Nam như bị nam châm hút đi, nhợt nhạt nhan sắc, không chống cự, mặc cho sức mạnh cường bạo đẩy sâu vào dốc gềnh định mệnh.

Một điệu hò Nam Ai vẳng lại từ đâu đó trên sông Hương mơ hồ sương đục buổi đầu đông. Giọng hò mang âm sắc Chiêm Thành, lê thê não nùng, ê a than kể, rồi trách móc, nguyền rủa và tan biến đi như những vạt áo Chàm chợt lẫn vào rừng sâu núi thẳm. Thành Phú Xuân chơ vơ trên cao, giấu sau những bức tường dày bao nhiêu cơn giận dữ đang làm nổi lên hàng đợt sóng đánh vào xé toạc mặt cát nằm xoài người nơi cửa biển. Huệ ra lệnh bắt lính từ mười sáu đến sáu mươi khắp Thuận Hóa, nghiến răng kèn kẹt, la hét như hóa dại khi thám mã về báo là Nhạc đã đưa quân đến Quảng Nam.

Mẹ anh em nhà Tây Sơn và Chúa Út tất tưởi ra Phú Xuân tìm Huệ. Nguyễn-bà, năm nay thất tuần, vừa khóc vừa nói :

- Bay làm sao mà nát cửa tan nhà, sự nghiệp chưa có gì đã tự mình phá nát ra? Nay còn thằng Toản,
thằng Thùy ở Qui Nhơn, động tịnh gì thì nó giết cả...

Toản và Thùy là con trai của Huệ. Tháng trước, Nhạc bắt vợ Huệ mang hai con lên, bảo :

- Mi nói sao cho thằng Huệ nó về đây gặp ta. Của cải nhà Trịnh nó cướp được, cứ chia cho ta một nửa ta cũng ưng. Nó tham, giữ hết, mặc dầu ta đã hạ chỉ phong nó làm Bắc Bình Vương, cho nó đất từ Thuận Hóa trở ra. Bảo nó, nếu không nghe ta sẽ giết cả ba mẹ con bay !

Run lên cầm cập, Phạm-thị ôm lấy hai đứa con, mếu máo :

- Thánh thượng, tôi phận đàn bà làm sao bức bách được chồng. Thánh thượng là anh, biết tính chồng tôi
...

- Nó không còn là em ta. Hừ ! Làm sao bức bách. Nhạc gầm lên, vẫy tay - Lại đây, lại đây ngay !

Phạm-thị co rúm người lại, miệng van xin « Thánh thượng thương lấy người trong nhà.» Nhạc phẫn uất quát:

- Trong nhà ? Thằng nghịch tặc đó trong nhà ai ?

Nhạc hùng hổ nắm tóc Phạm-thị lôi xềnh xệch, tay phải rút đoản đao, thở khò khè. Mặc cho hai đưa bé khóc ré lên, Nhạc vòng tay ra sau lưng Phạm-thị, lách đao vào áo rạch xuống một đường dài, tay trái nắm xiêm xé ra, tiếng vải rách xoàng xoạc. Phạm-thị mình trần, hai tay để lên ngực, miệng rú lên. Cơn thú tính theo tiếng rú thức dậy khiến Nhạc như điên cuồng, mắt đỏ rừng rực, mồm chảy nhớt nhãi. Lao tới vật ngửa Phạm-thị ra, Nhạc nằm đè lên trên, vừa thúc hạ bộ vừa thét « Thằng nghịch tặc, thằng nghịch tặc ! ».

Sau hôm đó, Nguyễn-bà mang ba mẹ con Phạm-thị về nhà, dặn cứ thấy Nhạc đến là bà sẽ tự đâm dao vào cổ để chết. Mặt đanh lại như thép tôi, Huệ nghe mẹ nói, im lặng một lúc, rồi lạnh lùng :

- Mạ đi, ba mẹ con nó chắc lại nguy. « Vua anh » loạn luân, không là Vua mà cũng chẳng còn là anh với con. Toản và Thùy cứ coi là chết rồi. Nhưng như vậy, kẻ phải chết sau đó là Nhạc !

Ðêm hôm đó, Huệ ngồi tư lự cho đến sáng. Ngày từ Thăng Long về, Nhạc cử Nguyễn Văn Duệ ở lại trấn thủ đất Nghệ mặc dầu đã mạnh miệng nói một tấc đất nhà Lê cũng không lấy. Huệ gài Vũ Văn Dũng đóng quân ngay sau lưng trấn Nghệ, nhưng Nhạc lại sai Nhậm giữ Ðồng Hới, làm thành thế da beo. Duệ là tướng của Nhạc, cái đó đã chắc. Nhậm thế nào ? Hắn là con rể của Nhạc, làm gì chẳng có lưu tình, dẫu hắn chẳng vừa lòng với cái tham vọng hạn hẹp của bố vợ.

Bấy giờ Huệ mới thấy tiếc Chỉnh. Ngay sáng sớm ngày Tây Sơn rút vào Ðàng Trong, Chỉnh hoảng hốt cướp thuyền ở bến Thúy Ái, theo đường biển chạy theo. Khi Chỉnh đến Nghệ An, quân bộ Tây Sơn cũng lục đục kéo tới. Chỉnh xin ra mắt Huệ, nhưng không muốn vào chào Nhạc, biết rõ là Nhạc chẳng có lòng nào cưu mang mình. Huệ bảo :

- Tướng quân ở Nghệ giúp Duệ, Bắc Hà còn Nhưỡng, Cơ là còn loạn.

Nói xong, Huệ để súng ống, một trăm quân và hai mươi lạng vàng cho Chỉnh. Chỉnh lạy tạ, chỉ nhận vàng, giao lại quân cho Duệ nhưng Duệ lờ đi, không giao thiệp với Chỉnh. Chỉ tháng sau, Chỉnh lấy danh nghĩa phò vua Lê tự mình kéo được một vạn quân, về Thăng Long đuổi Ðinh Tích Nhưỡng và Trịnh Bồng. Nay Chỉnh đã thành Bình Chương Ðại tư đồ, tước Bằng Trung công, thực tế là có quyền như chúa Trịnh thuở trước.

Nhưng dẫu tiếc Chỉnh, nay cũng đã quá muộn. Ðiều còn lại khiến Huệ băn khoăn là lá bài Nguyễn Lữ. Khi phong Vương cho Huệ, Nhạc cũng hạ chỉ cho Nguyễn Lữ làm Ðông Ðịnh Vương, cai quản từ ranh giới Bình Thuận cho đến Hà Tiên. Lữ vào Gia Ðịnh, cùng Ðặng Văn Chân lo ổn định an dân, nhưng vừa rồi lại đích thân dẫn thủy binh về đóng ở cửa Thị Nại. Huệ xưa nay tin Lữ, đứa em gần gũi mình, và thừa biết là Lữ dẫu đối xử có trên có dưới, lòng cũng không hẳn là phục Nhạc. Nhưng đó là khi thường. Lúc biến, liệu Lữ có thế chăng ? Lẽ thường, không dụng khi biến. Và ngược lại. Huệ bóp trán, sai quân đi gọi Toàn Nhật vào. Thở dài, Huệ thầm nhủ, Lữ theo ai là người đó thắng. Và nếu Lữ án binh bất động, chỉ lúc cuối mới ra tay làm ngư ông, thì Lữ là người độc nhất thắng, vì cả Nhạc lẫn Huệ đầu là trai, là cò.

Chúa Út dậy sớm, pha trà dâng vào, rồi khép nép ngồi xuống cạnh sập. Nàng đã thay đổi trang phục, nay mặc xiêm dài, tóc vấn lên cài trâm có đính một viên bích ngọc, không giắt roi đeo kiếm như ngày xưa. Huệ tủm tỉm cười, và dắt Ngọc Hân ra cho chị em chào nhau. Khi Toàn Nhật bước vào, chàng ngạc nhiên trước vẻ duyên dáng có hơi chút quê mùa của một tiểu thư mới biết trưng diện, chỉ cúi đầu thi lễ. Huệ đứng lên, đi về phía Nhật, vỗ vai nói thì thầm :

- Chú em « rậm râu » mang đội Tiền Kích về Thị Nại, nơi Ðông Ðịnh Vương trú quân, và ...

Hai ngày trước khi Nhật lên đường, Nguyễn-bà sai người đến vời vào đãi ăn. Ðến nơi, Nhật ngạc nhiên khi thấy mình là người khách duy nhất. Ngày trước, khi Huệ sai khênh Nhật về nhà Nguyễn-bà ở Qui Nhơn, chàng đã giả đau nằm dài cho đến tối. Chỉ hé mắt nhìn, nhưng Nhật vẫn nhớ giọng bà mắng kiểu Ðàng Ngoài : « Con gái con ghiếc, cứ huỳnh huỵch như trai. Mày thế thì ế chồng đấy con ạ ! ». Ðăng Vân thút thít, bỗng òa lên khóc, miệng lập đi lập lại : « Con lỡ tay, liệu anh ấy có chết không mạ ? » Bà lại la : « Chết được thế nào mà chết. Trẻ sức như voi, yên nào ...». Ðến xế chiều, Nhật giả như tỉnh hẳn, Nguyễn -bà ra ngồi bên cạnh, hỏi gốc gác. Khi nghe Nhật kể mình xuất thân ở Bùi Phong xứ Nghệ, bà chớp chớp mắt, rồi bảo :

- Thế cũng là chỗ tôi có chút giao tình. Các cụ khỏe cả chứ ?

Lúc ấy, Nhật lờ mờ đoán hiểu mối liên hệ của anh em Tây Sơn với gia đình Hà Công, kẻ đã lên Bùi Phong trên hai mươi năm trước rồi mới đi vào Ðàng Trong tìm đất đủ lửa cho rồng bay lên. Từ đó, Nhật vẫn để ý xem có ai là người có cái bớt đỏ sau gáy, nhưng tự mình không dám hỏi thẳng Nguyễn-bà về Thúc Khải.

Vẫn cái giọng đặc sệt miền biển Hải Dương, Nguyễn- bà vẫy tay :

- Tướng quân, xin mời tướng quân ngồi xuống cho già hỏi dăm câu chuyện.

Ðăng Vân ra chắp tay đứng sau mẹ, mắt thẹn thùng nhìn xuống đất, chỉ thỉnh thoảng ngửng lên liếc nhanh Nhật. Nguyễn-bà xoay quanh mục đích Nhật mang du binh vào Thị Nại, nhưng Nhật không dám trả lời, chắp tay tạ lỗi, thưa rằng việc quân là việc thố lộ ra tức là bất trung, bất chính. Nguyễn-bà nói thẳng :

- Nhà vô phúc, anh em mới tương tàn. Tướng quân có cứu vãn cho được không ?

Nhật cắn môi, im lặng. Nguyễn-bà lại tiếp :

- Cản đừng để Lữ dây vào, rồi làm sao cho Huệ và Nhạc giảng hòa, ấy là cứu cơ nghiệp Tây Sơn. Tướng
quân nghĩ thế nào?

Nhật vẫn im lặng. Nguyễn-bà thấy không ép được, lại rơi nước mắt, than vãn, thở dài rồi đi vào chái nhà
phía sau. Ðăng Vân bần thần nhìn theo mẹ, nét băn khoăn, không biết phải làm gì. Nàng lúng túng nói khẽ :

- Hay là tướng quân ra vườn dạo mát ?

Nhật bấm bụng cười, nhắc Vân rằng trời đã vào đông, có dạo thì dạo, chứ mát thì không vì nay khá lạnh. Tưởng là Vân sẽ nổi giận, Nhật thích thú khi nàng chỉ cười xòa rồi bước ra.

Hai người bước đi về phía góc vườn. Nhìn xuống dưới, dòng sông uốn quanh như một giải ngọc bích lượn lờ, rải rác điểm dăm ba cánh buồm nâu căng gió trôi xa. Trong màn sương, tháp chùa Thiên mụ khẳng khiu, cô quạnh, trông ngóng một điều gì mông lung bất trắc. Mưa bỗng rơi, dịu dàng và nhẫn nhục. Rơi đi, những giọt nước mắt kiếp đàn bà rõi chồng mang thân lính chiến. Rơi đi, những giọt nước mắt con trẻ hờn khóc đợi cha đi trận, mang về những vết đao kiếm trên da thịt làm quà hồi hương. Mưa bỗng nặng hột, cắm xuống đất như cắm chông, đổ vào lòng sông Hương đang tan thành những mảng nước chập chùng xô đẩy.
Nhật kéo Ðăng Vân vào núp dưới tàn cây cổ thụ, đứng ra ngoài chắn những hạt mưa theo gió hắt vào người. Nhìn mắt Vân xa vắng, Nhật nói nhỏ :

- Công nương đứng sát vào gốc, kẻo ướt ...

Rùng mình vì lạnh, Vân đáp :

- Sao cứ một điều công nương, hai điều công nương ? Gọi bằng tên Vân đi ...

Mùi hương trầm quyện trong tóc Vân thoảng cái ẩm ướt như vướng vào hơi thở, theo âm thanh bay đi, len
lỏi vào tâm trí Nhật, đánh thức một phần linh hồn còn ẩn dưới sâu. Chàng bỗng bồi hồi, nhưng quay mặt nhìn về hướng núi Ngự, không nói gì. Mùi hương lại sực vào khứu giác Nhật, như mời mọc, như van xin. Cái thân thể tròn lẳn đúng tuổi dậy thì kia bỗng nép vào, mềm yếu, ngả ra tìm sự che chở, rồi giả như vô tình, buông xa nhưng không hẳn chia lìa, mà là vẫy gọi, chờ đón. Một động lực không biết từ đâu thúc đẩy khiến Nhật chợt nắm lấy tay Vân. Bàn tay đó cũng níu lấy tay chàng, hoảng hốt như sợ mất, rồi nhẹ nhàng để yên, hiền dịu đến mức thụ động. Nhìn sang, Nhật thấy Ðăng Vân ứa nước mắt, nhưng miệng thoáng một nét cười vì hạnh phúc.

Ðến bữa, Nguyễn-bà ra cùng ăn, nhưng không dấu được sự ưu phiền đang gậm nhấm tâm can. Toàn Nhật thấy mình bất nhẫn, lựa lời nói cho bà yên lòng. Giữa bữa, Ðăng Vân bỗng thốt lên :

- Con phải vào Qui Nhơn. Võ tướng quân cho tôi đi theo !

Nhật giật mình, miệng ngập ngừng :

- Công nương hỏi phép Vương thượng. Nếu được, tôi xin hộ giá cho đến chỗ Ðông Ðịnh Vương.

Ngước mắt đăm đăm nhìn con gái, Nguyễn bà nhận ra cái nét quả quyết của người anh ruột mình. Quận He, tiếng dân ven biển gọi Nguyễn Hữu Cầu, cũng có cách nói như đinh đóng cột, và cái nhìn lên ngang tàng, kiêu hãnh như chim đại bàng trừng mắt trước con mồi. Thầm nhủ rằng Vân không còn bé bỏng gì, Nguyễn-bà lẳng lặng ra dấu ưng lòng, rồi lại nhớ đến những vần thơ trước khi Cầu ra pháp trường đã hát lên, vừa bi ai, vừa hùng tráng :

« Hỏi sao, sao lụy cơ trần

Bận tài bay nhảy xót thân tang bồng

Nào khi vỗ cánh rỉa lông

Hót câu thiên túng trong vòng lao lung ...»

Hai ngày sau, khi đến Bồng Sơn, Nhật và đám Tiền Kích gồm năm trăm du binh gặp một người con gái cưỡi ngựa trắng, mặc áo Chàm, đầu đội khăn tía, vai đeo trường kiếm, tay cầm roi, đứng chờ. Nhật chẳng hỏi xem Chúa Út có được mệnh Vương thượng không, chỉ mỉm cười nghiêng đầu chào, rồi vẫy quân đi.

Nhìn mặt Huệ xám xịt, mắt đỏ ngầu ngầu màu máu tươi, chẳng ai dám hé răng, chỉ lẳng lặng cúi đầu. Huệ đập bàn thét :

- Không bảo hắn là heo chó, là sài lang làm nhơ nhớp triều chính thì bảo hắn là cái giống gì ? Không đánh trước, đợi rồi đánh trả thì lợi gì ?

Huệ gầm gừ, nhưng giọng bình tĩnh hơn :

- Ta vào Gia Ðịnh hai bận, vừa thắng trận, chưa kịp bình định là hắn gọi về kiềm chế ngay. Ta ra Bắc, tháng sau hắn theo đến, lấy binh phù rồi ra lệnh về, để trống cái đất Ðàng Ngoài cho ai muốn làm chi thì làm. Ðó, thằng Chỉnh đã ra « tôn phò » rồi, nay vào phủ Chúa ở. Nó đang bắt lính, lấy chuông nhà thờ nhà chùa đúc súng, đổ đạn. Bắc hà mạnh lên thì ta nằm giữa hai gọng kềm, tiến thoái làm sao? Chỉnh chưa thể đánh ta, nhưng ta ra Bắc thì Nhạc chiếm Phú Xuân ngay. Ta chỉ còn một đường là truyền hịch vào đánh Qui Nhơn, mặt Bắc còn Nhậm, Dũng thì giặc Chỉnh còn e dè, hẳn không dám vọng động. Nếu ta đợi lâu, e tình thế có thể thay đổi bất lợi.

Lúc bấy giờ, Nguyễn Huy Tự đứng dậy, vòng tay thưa :

- Về mặt binh, Vương công hoàn toàn có lý. Nhưng lòng dân Ðàng Trong nghĩ thế nào nếu nhà Tây Sơn đổ máu tương tàn ? Cái chính danh vừa sắp sửa có, không lẽ lại tự phá nó đi ! Rồi chỉ xem binh dịch như thế này, lòng oán hận đã vang ra đầu làng cuối xóm khắp một vùng Thuận Hóa, chẳng lẽ Vương công không nghe thấy hay sao ?

Huệ phất tay, gạt đi :

- Ta biết, ta biết ... Nhưng còn Nhạc ở đó « kiềm chế » thì ta vào Gia Ðịnh không được mà ra Thăng Long cũng chẳng xong, cái sự nghiệp Tây Sơn cứ quanh quanh quẩn quẩn ở một vùng lúa gạo không có, đồng, sắt hiếm hoi ... Giữ chính danh như vậy để làm chi ? Chính danh luôn luôn chỉ giành cho kẻ chiến thắng. Chưa chiến thắng, nói gì thì cũng có đứa bẻ ngược, chính danh là làm sao ? Cứ để ta đánh, ta thắng ... rồi các thầy khéo nói dùng miệng lưỡi tạo cho ta chính danh, không năm, thì bảy năm, thế nào cũng đặng.

Thật ra, Huệ đánh giá quá thấp sự chia rẽ nội bộ Tây Sơn. Vấn đề chính danh trước tiên đặt ra với lũ quân tướng. Thái bảo Chân ở Gia Ðịnh và Trấn thủ Duệ ở Nghệ An được mật lệnh của Nhạc kéo quân về. Trong khi đó, quân Huệ gặp sức phản kháng đáng kể khi vào đến Quảng Ngãi. Ở trận Ðồng Tuyên, Huệ bị cầm chân, lại mất Lại bộ Hồ Ðồng, kẻ đã viết hịch mắng Nhạc là chó heo. Ðồng bị bắt và bị xử cho voi dầy.
Huệ mất gần nửa số quân ban đầu là sáu vạn, lại ra lệnh bắt lính từ mười lăm tuổi trở lên, ngửa mặt than :

- Không có cái khó nào bằng cái khó ta đánh với ta! Chết thế này thì Tây Sơn còn gì nữa ...

Nhưng cũng lúc đó, Huệ lại hy vọng. Phái thủy quân từ cửa Ðại vào đổ bộ ở Phú Yên, quân Phú Xuân chặn được và bắt sống Chân từ Gia Ðịnh đi vào Tiên Châu. Như vậy, Qui Nhơn chịu thêm một áp lực từ phía Nam, khiến Nhạc đã từ từ rút một số quân về để tăng thế phòng ngự. Phía Bắc, Trấn thủ Duệ không dám trực chiến với Vũ Văn Dũng, kéo quân đi theo đường Thượng Lào, chắc chắn không thể nhanh mà tới được. Ở cửa Thị Nại, Lữ giữ khoảng tám nghìn tinh binh, nhưng không động tĩnh gì, vẫn là mối lo ngại.

Huệ cho Tự đến gặp Lữ vì mối giao tình giữa hai người với nhau, nhờ Tự thuyết phục. Nhưng đến nay, Huệ vẫn không có tin tức gì, chỉ phỏng đoán, ngày càng sợ câu chuyện trai cò đánh nhau ngư ông đắc lợi. Trong trường hợp ấy, vai trò của đám du binh Tiền Kích do Nhật chỉ huy trở thành lá bài chìm có thể lật ngược được mọi sự việc. Nhưng khi biết rằng Chúa Út theo Nhật vào Qui Nhơn, Huệ lại đâm lo. Bàn tính với Trần Danh Kỷ, Huệ để Kỷ đi thương lượng với bọn giặc biển Tề Ngôi. Nửa tháng sau, giặc tầu ô đã lảng vảng ngoài vịnh, mục đích làm phân tán lực lượng của Lữ. Nhưng đồng thời, hai chiến hạm Tây dương mang súng thần công cũng tiến tới Thị Nại. Hàng dân khổ vì chinh chiến, kháo rằng ông Chủng lại về.

Tháng giêng năm Ðinh Mùi, đại quân của Nguyễn Huệ đã vượt sông Trà Khúc, chia ra làm hai cánh tiền phong tiến về Bồng Sơn và An Du. Nhạc lùi quân về đóng ở núi Bích Kê và Chà Rang, hy vọng Nguyễn Văn Duệ kịp thời cứu ứng, đánh vào hậu quân của Huệ ở Quảng Nam. Trong khi đó, một đội Tiền Kích của Toàn Nhật đã bất ngờ theo đường biển vào chiếm Gò Bồi ở phía đông Qui Nhơn. Một đội khác lẻn đổ bộ ở Vũng Dừa, đi ngược lên đóng trên Núi Một và núi Kỳ Sơn, đặt đại pháo hòng ngăn đường thủy từ Thị Nại về Qui Nhơn của thủy binh dưới quyền Nguyễn Lữ.

Nhạc cho người vời Lữ về cứu, nhưng Lữ lờ đi, cho một bộ phận quan trọng bất ngờ đổ vào đầm Nước Ngọt, rồi tiến chiếm núi Thốc Lốc. Ðịa điểm chiến lược này khiến Huệ bối rối. Giả thử Huệ thắng Nhạc, lực lượng trung kích có thể bị Lữ cắt thành đoạn, tách rời nó khỏi hậu quân Phú Xuân, làm mất thế liền lạc. Vì vậy, Huệ bắt buộc phải đổi thế tốc chiến vốn là sở trường trong phép dụng binh của mình, cẩn thận tiến từng bước một, chiếm núi Bích Kê, rồi án binh ở Phù Mỹ. Huệ lại phái Danh Kỷ đi thuyền vào Thị Nại gặp Lữ. Ðêm ngày ngóng tin, Huệ bực bội quát tháo khiến đám thủ hạ ra vào chỉ nhìn xuống đất.

Chúa Út đi cùng Nhật đến Gò Bồi rồi một thân một ngựa chạy ra Thị Nại. Khi chia tay, nàng nhìn Nhật, dặn dò :

- Chàng bằng mọi cách tránh đụng độ. Chuyện nhà, em cố gắng lo dàn xếp cho ổn thỏa.

Dăm ngày sau, Lữ đích thân cùng Chúa Út và Nguyễn Huy Tự đến nơi Nhật đóng quân. Lữ vừa cười vừa bảo :

- Võ tướng quân nghe binh lệnh của Vương huynh, nhưng có chặn cũng chỉ là chặn người nhà thôi. Nếu ta manh động, lấy bốn, năm lính của ta đổi một du binh của tướng quân là ta mất già một phần ba lực lượng, hẳn yếu đi để ta có phò Hoàng Ðế, ta cũng chẳng làm gì cản được Vương huynh. Nhưng như thế là Vương lấy bụng mình suy bụng người, và định thí cả tướng quân lẫn đám Tiền Kích.

Nhìn Tự, Lữ tiếp :

- Nay lấy tình xưa, cả ba chúng ta cởi giáp, bỏ đao uống ba chén rượu đã.

Gọi quân sắp rượu, Nhật vòng tay mời. Tự trầm ngâm nhìn triền sóng vỗ trắng xóa dọc theo bờ biển chạy dài ngút mắt, nói :

- Việc ta, Vương công sai ta đã làm. Ðông Ðịnh Vương sẽ không ngả về phía nào. Nhưng như thế, Bắc Bình
Vương sẽ thắng, Qui Nhơn thành một bể lửa. Lửa đó đốt cháy chẳng những Thái Ðức hoàng đế, đồng thời tiêu ma luôn cả sự nghiệp Tây Sơn mới dấy, vì ai còn dám tin dám theo mà phò nữa ... Cái kỷ nguyên do chính Bắc Bình Vương đã nói sẽ là một đám tro nguội trong dăm ba năm mà thôi.

Vì thế, Ðông Ðịnh Vương không ngả về Phú Xuân có nghĩa là Qui Nhơn bị tiêu diệt. Nhưng thế là ngả rồi. Không ngả, là làm sao ngưng được cuộc tương tàn, và Qui Nhơn không thành một bể lửa. Nay chỉ Võ đệ mới có thể giúp được việc này, không hiểu Võ đệ nghĩ sao ?

Ðăng Vân chắp tay đứng sau Lữ nhìn Nhật khẩn cầu. Uống cạn bôi rượu, Lữ nhìn đám mây bồng bềnh nơi chân trời, buồn bã :

- Ta xin Võ tướng quân về với ta, để cùng nhau ngăn cảnh nồi da xáo thịt. Ngần ngừ, Lữ tiếp - Quan trọng hơn nữa, một thời chuyên chế dựa trên nông nô sắp tàn vong để thay thế bằng một kỷ nguyên của công, thương nghiệp dọc theo Ðông Hải, từ Yên Quảng đến Hà Tiên. Tránh được sự đổ vỡ tương tàn, anh em giết lẫn nhau, để không mất chính đạo, nhà Tây Sơn có khả năng gầy nên kỷ nguyên mới này. Vì kỷ nguyên đó là sự nghiệp Tây Sơn mà Lữ này không muốn động quân. Vả lại, nếu muốn thì ta đã chặn Võ tướng quân khi du binh lên chiếm hai núi chốt cửa Thị Nại, chứ chẳng đợi đến lúc này.

Bật cười lên u oán, Lữ nói như than :

- ... Nhưng làm thế, ta giết thêm một tướng quân và mất một người anh em, nên ta không làm. Thế thôi ! Ta biết Võ đệ cương cường, cho nên lấy hết tâm tình ra nói, sau sự thể xảy ra thế nào ta không có gì hối tiếc.

Nhật thần người ra, băn khoăn không biết phải làm thế nào. Theo Lữ, tức là làm trái ý Bắc Bình Vương. Với giáo huấn của La Sơn Nguyễn Thiếp, vừa là thầy, vừa là người nuôi nấng chàng, thế là bất trung, bất nghĩa. Nhưng hai chữ trung nghĩa đó thuộc hệ luân lý cho một thời đại phong kiến. Trong thời đại đó, người dân chỉ là nông nô. Thế sự đổi thay qua sự tranh chấp của Vua này, Chúa nọ. Vua thay Chúa đổi, cứ gọi thế là mệnh trời cho tiện. Nhưng thực ra, như lời Tự đã say sưa suy luận, mệnh trời chẳng qua là nếp suy nghĩ của nông dân. Họ thức dậy với ánh mặt trời, việc đồng áng tùy thuộc nắng mưa lũ lụt. Ai làm ra nắng mưa lũ lụt. Ông Trời. Ông Trời là gì ? Là cái gì con người không chi phối được. Và ngược lại, ông Trời quyết định mùa được, mùa không. Tức là no, là đói. Là sự sống và cái chết. Là định mệnh. Nhạc xưng là « vua trời ». Vua Lê chúa Trịnh đều dành lấy thiên mệnh về dòng họ mình. Cần dân, nên lợi dụng nếp suy nghĩ của dân, và nấp sau lưng danh nghĩa ông Trời là đoạt được quyền cho sống, cho chết, bắt đói, bắt no. Ba trăm năm nay, cả Ðàng Trong lẫn Ðàng Ngoài cứ thế đánh chém lẫn nhau chỉ vì dăm ba kẻ tranh nhau chiếm cái mệnh trời !

Trung nghĩa như vậy là trung nghĩa với máu, với nước mắt, với cái định mệnh khắc nghiệt cứ lập đi lập lại đè lên đám dân đen thấp cổ bé miệng, xả thân ra cho những triều đại phong kiến mãi mãi sao? Trong cái kỷ nguyên Tự mơ ước, một kỷ nguyên mới dựa trên công thương, sự trung nghĩa đó có còn phù hợp nữa hay không?

Nhật cắn môi, nhìn Lữ. Lữ quả khác hẳn Nhạc và Huệ, vai không u, lưng không rộng, tay chân không cuồn cuộn bắp thịt. Và cặp mắt. Cặp mắt như u hoài, lúc nào cũng như mơ mộng về một điều gì xa xôi lắm. Tự không nói gì, tay cầm quạt phe phẩy, lại tự mình rót rượu cho cả ba người. Gió nồm thổi về, rừng rực, khô khốc, và mặn vị biển. Lữ kéo chiếc khăn quàng cổ cho bớt nóng, đầu quay sang nhìn ra khơi. Nhật nhìn vào gáy Lữ và thấy một vết bớt đỏ to bằng nửa bàn tay. Chàng thót bụng, nhớ lại từng lời mẹ nuôi chàng dặn dò khi chàng vào Ðàng Trong. Lữ là Ðông Ðịnh Vương. Cái bớt đỏ này lại bảo Lữ không là Lữ, phải chăng là
Thúc Khải, được phong Vương như lời Hà Công khi rời trại Bùi Phong cách đây ba mươi năm.

Thấy chàng trừng trừng nhìn vào gáy Lữ, Tự ngạc nhiên. Ðăng Vân nâng bôi rượu lên cho Nhật. Có phải Thúc Khải chăng? Mà là Thúc Khải, thì cái tình với chàng gần như tình ruột thịt. Nhật chóng mặt, tay cầm bôi rượu, ngửa cổ uống ừng ực. Uống xong, chàng lại chìa ra cho Ðăng Vân rót thêm, không thấy vẻ ngơ ngác trong mắt người con gái nẫy giờ chỉ lặng im, và kiên nhẫn chờ câu trả lời của chàng. Lữ quay lại, thủng thẳng :

- Võ đệ. Quyết định đi ! Quân Phú Xuân đã rục rịch tiến về Phủ Ly. Có quyết định thế nào đi nữa, ta vẫn giữ những kỷ niệm tốt đẹp từ ngày đệ vào Qui Nhơn lập ra đội Tiền Kích.

Trần Danh Kỷ gặp Lữ, không thuyết phục được, vội vã trở về tâu :

- Ðông Ðịnh Vương chỉ xin tha cho Thái Ðức Hoàng đế, yêu cầu đình chiến, và xin dâng đất Gia Ðịnh và ba trấn Biên, Phiên, Vĩnh nếu Vương công chấp thuận cho.

Huệ một mặt lại sai Kỷ trở vào Thị Nại giả như xếp đặt việc hòa hoãn, mặt khác kéo quân đánh vào núi Chà Rang, phòng tuyến cuối cùng của Nhạc. Quân Qui Nhơn quấn cờ vàng, tháo lui nhắm thành rút về, cơ hồ không thể cứu vãn được thất bại. Toàn Nhật bỏ núi Một và Kỳ Sơn, để thủy binh của Lữ xuôi dòng sông Côn đi ngược lên bảo vệ mặt Bắc Qui Nhơn. Sai quân trương cờ nửa vàng kèm nửa đỏ trên đề thêm hai chữ Ðông Vương, đích thân Nhật mang toàn bộ Tiền Kích đi về phía tây, chiếm chính lộ cản đường tiến của quân Phú Xuân mang cờ đỏ Tây Sơn. Lúc đó, quân Lữ ở Thốc Lốc một phần vẫn đóng chốt, phần khác tiến về Chà Rang, cắt đôi lực lượng quân Huệ, không cho hợp với đạo quân đã chiếm được Phù Mỹ. Trong hoàn cảnh này, Huệ khó tiến thoái, chưa tính toán gì được thì Kỷ lại về. Lữ nhắn Huệ : « Nếu đánh, thì lực lượng Tây Sơn mười phần sẽ mất tám. Tầu Tây dương đã sáp gần Thị Nại, và nghe đâu Nguyễn Ánh cũng sắp sửa tiến vào. Vậy thì anh em trong nhà ai thắng ai, cuối cùng cũng là thua người ngoài. Xin Vương huynh nghĩ lại cho ».

Huệ cắn răng, gọi hổ tướng Phạm Văn Lân đến, giao cho hai nghìn quân Thượng và năm trăm súng hỏa mai, hẹn cho hai ngày phải chiếm được chính lộ dẫn vào Qui Nhơn lúc ấy đã do Toàn Nhật kiểm soát.

Ðội du binh Tiền Kích đóng chính doanh trong nghĩa địa trên một ngọn đồi, rồi giải từng toán năèm hai ven rừng, có khả năng luồn ra đánh sau lưng quân Lân. Nằm bên cạnh nghĩa địa là am Chúng Sinh. Am nổi tiếng là thiêng, do một bà vãi chạc dưới tứ tuần giữ. Bà vãi tóc để xõa, trang phục người Chàm, là một người đàn bà có nhan sắc, khi xưa cả chồng lẫn đứa con trai đều bỏ mạng lúc quân Tây Sơn hai lần vào chinh chiến ở Gia Ðịnh. Từ đó, bà nhất định không mở miệng, đến am giữ đèn hương, sống bằng của bố thí, có thì ăn, không thì nhịn đã đâu năm sáu năm nay. Từ khi đội du binh đến đóng, bà vãi ở chái hậu, chỉ đến đêm mới ra quét dọn bàn thờ am ở mặt tiền. Mỗi lần phải xuất quân, du binh thường đến thắp hương khấn vái.

Quân do Lân chỉ huy phần lớn là người Ra-đê, rất thiện chiến trong rừng, mỗi lúc một thêm đe dọa. Số du binh bị thương phế được cõng về, để nằm la liệt cạnh am, đau đớn rên la có khi suốt đêm. Bà vãi chỉ lẳng lặng ứa nước mắt, miệng lẩm nhẩm đọc kinh sám hối. Một đêm, không ai đánh mà chuông kêu. Rồi bao nhiêu cây hương đã rụi trên bàn thờ am bỗng nhiên cùng cháy lên, lửa có ngọn, thổi nhất định không tắt.
Cũng tối đó, một đội ba mươi lính Tiền Kích do chính Nhật dẫn đầu phải cấp tốc đi cứu viện. Họ xin vào am cúng vái trước khi lên đường. Nhật ngồi trên mô đất đối diện với am, lẳng lặng đợi. Trái với lệ thường, bà vãi cất tiếng, giọng lanh lảnh, nghe rợn tóc gáy :

- Lần này chết bảy còn ba. Không đứa nào muốn sống nữa à ?

Trong am, bà vãi cười ngặt nghẽo đến chẩy nước mắt, tay nắm bó hương quay vòng vòng, nhưng lửa châm vẫn mãi không chịu tắt. Bất thình lình, bà cởi hết quần áo, trần truồng như nhộng, kéo tay đám lính, nói như mẹ nói với con :

- Ta làm phúc cho, sống cho thỏa thì chết mới yên ...

Trong số ba mươi người lính, đêm đó hai mươi mốt người đã làm tình, làm lần cuối cùng, vừa hối hả, vừa tận sức cho cùng kiệt cái sinh lực như bốc lên với khói hương mù mịt. Họ lên đường. Chỉ có chín người sống sót, cộng thêm Toàn Nhật là mười.

Mười người đến rạng sáng quay về nghĩa địa nơi đóng quân. Cạnh am, trên cây cổ thụ, một người đàn bà trần truồng thắt cổ. Bà vãi đã chết, mắt mở trừng trừng, không thấy lòng đen đâu, lòng trắng lại phớt xanh như tráng lân tinh. Lạ một cái là bà thắt cổ chết nhưng lưỡi không thè ra. Lưỡi bà vãi rụt lại, đâm sâu vào trong ruột, nên chẳng hiểu bà chết có được yên hay không ?

Nhật ra lệnh hạ xác bà vãi xuống khi vầng dương lừ lừ dâng lên như một cái nia máu từ mặt biển tít tắp cuối chân trời. Với bà, hai mươi mốt lính Tiền Kích vừa tử trận đêm qua là những người cuối cùng chết cho cuọâc chiến nồi da xáo thịt Tây Sơn.

Quân của Nguyễn Văn Duệ từ Nghệ An về cứu Nhạc bị đánh tan tành ở Ðiện Bàn. Bắt được Duệ, Huệ cho voi dầy, trả cái thù Nhạc giết Hồ Ðồng tháng trước. Nhạc vô vọng, vào từ đường lạy tro cốt tổ tiên, rồi lên mặt thành Qui Nhơn đứng khóc, kể lể tình anh em ruột thịt. Phần Huệ, đánh được Duệ nhưng tổn hại không phải là nhỏ. Mặt khác, đám tiền phong do Phan Văn Lân tiến chiếm chính lộ bị đẩy lùi, chết quá nửa, trong khi đó đội tiền kích vẫn bám rừng cố thủ, không thể quét cho sạch được.

Huệ hội tướng lại bàn. Muốn tiêu diệt Qui Nhơn, phải đối đầu với năm nghìn lính dưới quyền Lữ, không kể đội binh ba nghìn người còn giữ từ Thốc Lốc đến Chà Rang, cắt chủ lực quân Phú Xuân làm hai. Nguy hiểm hơn, thám báo về trình là Nguyễn Hữu Chỉnh một mặt sai Trần Công Sán đi xứ vào đòi lại Nghệ An cho Lê triều, mặt khác đang thu chuông chùa, góp sắt, đồng thôi thúc việc đúc súng và bắt lính. Bắc hà như vậy đang trở thành mối lo chính, sợ chỉ một hai năm dưới tay Chỉnh là không còn kiềm chế nổi. Về phần Gia Ðịnh, Lữ bỏ đi, rồi sau đó Ðặng Văn Chân cũng kéo quân về, nay hoàn toàn bỏ trống. Bọn tàn quân của Nguyễn Ánh đã hợp nhau tiến chiếm Vĩnh Trấn và sai người sang Xiêm đón Ánh về. Hai tầu chiến Tây dương là tầu La Dryade và Le Pandour đang lảng vảng bên bờ biển, gặp thuyền Tề Ngôi là nổ súng tấn công.

Giọng nghiêm trọng, Huệ dằn từng tiếng :

- Nếu tiến đánh, mất bao nhiêu thì thắng ?

Ngô Văn Sở, hiện giữ chức Tư đồ, đáp :

- Nếu đánh, thì biến Ðông Ðịnh Vương thành kẻ đối đầu. Ðông Vương đến nay chỉ làm áp lực để giải tỏa chiến trường, chưa khi nào tìm thế công kích quân ta. Và đánh, sẽ không thắng được bởi mất Bắc hà và Gia Ðịnh, quân ta bắt buộc phải chia sức ra thành ba mảnh.

Quay sang Danh Kỷ, Huệ hỏi :

- Còn hòa, hòa thế nào ? Ông sửa soạn cho ta cái thế hòa, nhưng kể từ nay ta không nghe lệnh của ai nữa. Ðể « Vua anh » một mảnh đất cũng được, nhưng tước binh quyền, không cho làm « loạn » nữa ...
Ngay hôm đó, Huệ sai Sở mang kỵ binh một mạch thẳng đến Ðồng Hới, rồi hạ lệnh cho Vũ Văn Nhậm ra đóng tại Nghệ An để chặn Nguyễn Hữu Chỉnh. Sáng sau, Huệ vào bản doanh quân Lữ, theo sau là một đội quân cờ đỏ. Từ Qui Nhơn, Nhạc sai rước tro cốt của cha là Hà công lên kiệu vàng khênh đi đầu, sau lục tục đám vợ con Huệ và một đội quân cờ vàng, cùng nhau đi ra. Lữ sai đặt ba cái ghế, mình ngồi giữa nhưng thấp hơn ghế hai bên dành cho Huệ và Nhạc, và trên cao là bàn thờ tổ tiên. Xin hai anh đến vái tro cốt cha, Lữ mời ngồi, tự mình ra lạy mỗi người ba lạy và vái năm vái, tạ cái lỗi là không làm vừa lòng được một ai. Huệ lên tiếng, lạnh lùng :

- « Vua anh » đã hả chưa ?

Thấy Nhạc ứa nước mắt nghẹn ngào, Huệ tiếp :

- ... Xin đừng lấy nước mắt ra làm võ khí, và chớ đụng đến hai chữ cốt nhục. Mắt quắc lên, Huệ gằn từng tiếng - Nay tôi đã sai làm tờ ước, điều kiện để « Vua anh » vẫn cứ là « vua », Lữ vẫn là Ðông Ðịnh Vương, nhưng giới địa và quyền hạn rõ ràng. Như vậy, không ai lấn ai, kẻ lo mặt nam người lo mặt bắc, nhưng giang sơn cả Ðại Việt này là một, không chia cắt được.

Trần Danh Kỷ ra đệ lên tờ hòa ước. Lữ không nhìn, hạ bút ký và đóng dấu ấn ngay. Nhạc biết thế mình không cho phép mặc cả gì, cắn răng bắt chước Lữ. Huệ thu tờ hòa ước, liếc qua, rồi bảo Nhạc, giọng mỉa mai :

- Hai đứa con tôi, tôi mang về Phú Xuân. « Vua anh » có xin Phạm-thị ở lại hầu hạ, nói một tiếng, tôi cho ...
Ở góc doanh, Phạm-thị bật khóc rồi cắn răng ghìm tiếng nấc. Nhạc cúi đầu không dám nhìn lên lủi thủi đi ra. Ðợi cho Nhạc khuất bóng, Lữ mới nói :

- Lời đệ trình với Vương huynh nhờ Kỷ nói lại là tự đáy lòng. Nay đệ xin Vương huynh nhận lấy đất từ Bình Thuận vào Hà Tiên, đệ không nhận tước Vương, lui xuống làm bề tôi cho Vương huynh.

Ngạc nhiên, Huệ nhìn Lữ chòng chọc :

- Chú nói thật ? Thế quân vừa rồi chú sắp, ta muốn nuốt chú cũng hóc. Nay có tờ ước, chú « trả » ta cả miền nam là lỡm chơi à ?

Lữ cương quyết, hai tay dâng Vương ấn và binh phù, lại lạy ba lạy. Huệ chồm lên, đỡ Lữ dậy, kéo ngồi bên cạnh, miệng nói « ... để ta nghĩ đã ! ». Lừ lừ, Huệ đảo mắt nhìn quanh rồi thình lình cất tiếng gọi Nguyễn
Huy Tự. Giọng lạnh nhạt, Huệ hỏi :

- Sao ông ở lại với Ðông Vương, không về với ta ?

Tự mỉm cười, nhìn Lữ. Huệ lại quát :

- Võ Toàn Nhật đâu ?

Nhật bình tĩnh bước ra, vái lạy, miệng nhếch cười. Huệ nhìn chòng chọc vào mắt Nhật, gằn :

- Phản chúa, bất trung tội phải chết ! Ta để ngươi tự xử !

Lúc đó, Chúa Út Ðăng Vân đột nhiên tiến đến cạnh Nhật, run giọng nói :

- Lỗi tại tôi cũng nhiều. Giết Võ tướng quân thì giết cả tôi đi. Anh ba không thấy là máu đã chảy nhiều rồi sao ?

Nhìn Huệ như thách thức, Vân đằng hắng, nói trống không :

- Giết hết đi thì làm Vua với ai ?

Không có vẻ ngạc nhiên, Huệ nhìn Chúa Út, bình thản bảo :

- Ðược, ta sẽ cho cả hai toại ý !

Thình lình, Tự bước ra, đến trước mặt Huệ, rập đầu nói :

- Chữ trung kia cũng có năm bảy đường ! Vương công đã từng nói mình là người sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn dân Ðại Việt. Trung với điều đó, là trung với Vương công, và đi thuận con đường lịch sử. Cả Tự này lẫn Võ tướng quân đều hành xử theo chữ Trung ấy. Thế gọi là phản, không đúng. Tự này dẫu chết cũng không phục ...

Ngắt lời Tự, Lữ chen vào :

- Vương huynh ! Ðệ đã dâng Vương huynh bốn trấn miền nam, nay chỉ xin tha mạng cho những người này.
Họ là những kẻ đã đồng sự đồng tâm với đệ. Nếu giết, Vương huynh phải giết cả đệ mới phải ...

Huệ bỗng đứng dậy, ngước mắt lên, cười sằng sặc ôm lấy vai Lữ :

- Ta đùa, chú vẫn là Ðông Ðịnh Vương. Ðây, cầm lại Vương ấn và binh phù. Mang quân vào ngay Gia Ðịnh, ta để Tự và Nhật theo phò Vương đệ. Quay sang nhìn Chúa Út, Huệ nháy, miệng trêu - còn mi, chắc ta bắt mi về Phú Xuân để còn phụng dưỡng mạ ...

Trong khi Ðăng Vân chề môi quay mặt đi, Lữ nhìn Huệ nghiêm chỉnh :

- Vương huynh rõ chí hướng đệ, nên thừa hiểu việc đệ trao binh, trao ấn là tự đáy lòng đệ không muốn cáng đáng trọng trách. Ðệ nhận là nhận tạm, để Vương huynh yên mặt bắc, rồi cùng với « Vua anh » bàn nhau, sai phái bề tôi khác thay đệ ...

Huệ ngắt lời Lữ, nhìn về phương Nam :

- Tờ ước nét mực còn chưa ráo, ta cứ y thế mà làm. Nay ta phái Phạm Văn Tham giúp chú việc quân, chắc chẳng có gì đáng lo ngại. Sau trận Rạch Gầm, bọn Xiêm không còn dám bén mảng. Ðám Tây dương tả đạo cho đến nay chưa thấy thực lực, nên bọn thằng Chủng không hơn gì một bó củi khô bẻ là gẫy...
Lử nhỏ nhẹ :

- Ðánh dễ, bình mới là vấn đề của bốn trấn nam bộ. Muốn bình, phải lấy nhân tâm, tạo yên ổn, cho cơm ăn áo mặc đến mọi người.

Nhìn Tự, Lữ trầm giọng nói tiếp :

- Việc này thì phải nhờ sức thầy, xin thầy nhận cho.

Sau năm tháng khói lửa, Qui Nhơn bắt đầu hoàn hồn, lẳng lặng khóc những người chết, và cố chôn sống nỗi xót xa, chua cay cứ chực ứa ra để cào xé. Những người lính Tây Sơn chém giết lẫn nhau, phần lớn là họ hàng làng xóm với nhau, có khi là anh em ruột thịt, hệt như những kẻ cầm đầu họ. Ở chùa Thập Tháp, dân lập đàn giải oan, cúng liếng ba ngày ba đêm. Lời tụng kinh thỉnh thoảng điểm đôi ba tiếng chuông ngân nga bay lên với cánh chim trời, xa đi, không đậu lại như bao nhiêu oan hồn vất vưởng giữa trời và đất.

Theo Lữ, Toàn Nhật và Ðăng Vân đi vòng mé sau, vào chào Phương trượng. Thằng Thuấn cùng dăm đứa đồng lứa trong đội Tiền Kích được phép về quê trước khi đi hộ tống Ðông Ðịnh Vương vào Gia Ðịnh. Thật ra, Nhật biết chúng đi tìm để chào một đám sơn nhân nửa người nửa vượn. Một lần tập võ, bọn thằng Thuấn gặp đám sơn nhân không biết tiếng người, nhưng khá tinh ranh. Chúng bắt chước xô vào vật nhau, và dần dần, bọn thằng Thuấn cũng múa may với sơn nhân, miệng khục khăc nhại, nô đùa ầm ĩ. Ðám sơn nhân đã biết lấy vỏ cây chằng lại che phần dưới thân thể, đập đá nhóm lửa, và dùng lao để săn thú. Bản năng hiền hòa, chúng trở thành thân thuộc với bọn thằng Thuấn, thỉnh thoảng lại mang để bìa rừng một con nai, một con hoẵng làm quà. Sống giữa thiên nhiên, sơn nhân phát huy trực giác đến độ cảm nhậy những nguy hiểm và thay đổi ngay cả một hai ngày trước. Khi bọn thằng Thuấn rời Ðập Ðá vào Phú Xuân với Toàn Nhật, sơn nhân cảm biết, không hẹn mà đã về gần, mũi khụt khịt như khóc, không đùa nô như mọi khi. Bọn Thuấn cũng quyến luyến, chân không nỡ rời.

Ðẩy cửa, Lữ khom người lách vào, miệng kêu :

- A di dà Phật !

Có tiếng reo, và từ bồ đoàn, một người nhổm mình dậy. Ðó là sư cụ Từ Tâm, lông mày bạc thếch xụp
xuống, móm mém cười :

- Hóa ra Vương công, bần tăng cứ thấp thỏm từ sáng. Hoàng đế đã ngự đàn hôm qua. Bần tăng có hỏi
thăm, nhưng ngài chỉ lắc đầu ...

- Bạch thầy, cứ gọi là Lữ như xưa, xin thầy chớ lấy lễ nghĩa, lòng Lữ không yên ...

- Ôi dào, Vương thì là Vương, có sao. Cứ nghĩ Vương là khác người ta thì mới ra chuyện. Thế, bần tăng gọi Vương bằng Lữ cho Vương yên lòng.

Dí dỏm, sư tiếp :

- ...ý hẳn gọi Lữ bằng Vương thì Lữ không yên ... Thế còn những vị nào đây, bần tăng giờ mắt kém.

Ðăng Vân nhí nhảnh chào. Sư nhận ra tiếng, đủng đỉnh mắng yêu :

- Thì ra bé út, mới năm nào Nguyễn-bà còn ẵm ngữa lên chùa ...

Quay sang Nhật, sư nhìn chòng chọc, kêu lên :

- À, Võ tướng quân đây à ? A di dà Phật, bần tăng nhìn râu ria mà cứ tưởng như tượng La Hán. Phúc đức thay, tướng quân sẽ dứt được nghiệp sát, ánh giác ngộ đã lóe lên ở con mắt thứ ba, sáng lắm ...
Nhật khom mình vái ba vái, miệng nói :

- Ða tạ sư cụ !

Từ Tâm là đệ tử của Ðại hòa thượng Từ Chiếu, một trong bốn học trò nổi danh đạo hạnh của thiền sư Liễu Quán, người đã chấn huy dòng Lâm Tế của phật giáo ở Ðàng Trong. Liễu Quán là đệ tử truyền đăng của Nguyên Thiều, người đã sáng lập chùa Thập Tháp hơn trăm năm nay, để lại bài kệ :

Tịch tịch kính vô ảnh ( Lặng lẽ gương chẳng bóng )

Minh minh chân bất dung ( Lung linh ngọc vô hình )

Ðường đường vật phi vật ( Sờ sờ vật chẳng vật )

Liên liên không vật không ( Trống tênh không vật không )

Từ Tâm về tu ở Thập Tháp hai mươi năm nay. Sao bài kệ rồi sai khắc lên bốn cái cột cái ở chùa chính, sư dạy đệ tử rằng thấu được lời kệ là đã trên chặng cuối thành Phật. Có kẻ hỏi sư đã đến đâu, Từ Tâm đáp : « Chữ thứ ba của câu thứ ba, cảm được bằng lý. Ðến đấy, thì tâm lại đưa về hai chữ đầu của câu thứ nhất ».

Nâng chén trà lên ngang mặt, Lữ xin phép, nhắp một ngụm rồi thưa :

- Bạch thầy, Lữ đến xin thầy vẫn một chuyện xưa, có được không ?

Từ Tâm lắc đầu :

- Xưa, bần tăng từ chối bảo Lữ rằng khó lắm, phải đợi. Nay, bần tăng thưa với Ðông Ðịnh Vương rằng còn khó hơn gấp bội. Phật pháp đối với Vương gia đòi hỏi nhiều lắm. Chẳng hạn như là Vương mà giữ giới sát, thì độ được bao nhiêu là người, cứu được bao nhiêu là mạng... Nhưng làm sao giữ được giới khi tay chỉ ra là có người theo, miệng hô là trăm kẻ làm. Ðấy, khó là vì thế ...

Hít mùi hương trầm thoang thoảng đâu đây, Lữ mỉm cười, khoan thai :

- Bạch thầy, Lữ nào muốn ở ngôi Vương, nay chỉ đợi khi xuống ...

Khoát tay, Từ Tâm chặn :

- Bỏ ngôi Vương là bỏ cái địa vị có thể độ cho tha nhân để thu về hỉ xả cho riêng mình, ngài đã bỏ khỏi con đường Phật dạy, làm sao bần tăng nhận lễ qui y cho được ? Tâm Vương công mà thành, xin ngài hoằng dương pháp Phật từ chỗ ngài đứng ngài ngồi, thế là qui y Phật ...

- Xưa Ðức Tất Ðạt bỏ ngôi báu thì sao ?

- Ngài bỏ ngôi để đi tìm đạo. Nay có đạo ba nghìn năm rồi, Vương bỏ ngôi thì đi tìm gì ? Ði tìm hay đi trốn ?

Lữ ngẩn người ra, không biết đối đáp ra sao. Từ Tâm lại vái, rồi thủng thỉnh :

- Mô Phật, Phật ở mọi chúng sinh. Giác ngộ sẵn trong mọi chốn.Bần tăng kể để Vương công và quí vị nghe cho vui. Tri giáo hỏi môn đệ là thiền sư Thủy Nguyệt, thân an mạng lập ở đâu. Ðáp:

Trong gió lửa nổi dậy

Trên sóng nước an nhiên

Tri giáo lại tiếp : « đêm ngày gìn giữ nó ra sao ? » Thủy Nguyệt thưa :

Chính ngọ trăng sao hiện

Nửa đêm mặt trời lên

Ngưng lại, Từ Tâm nhìn Lữ, giọng hiền dịu :

- Vương công đã hiểu chưa ?

Lữ phục xuống lạy.

Người tư lự mãi là Toàn Nhật. Khi Từ Tâm đề cập đến thân mạng với Lữ, Nhật liên tưởng ngay đến cái bớt đỏ sau gáy của Thúc Khải, đứa con lưu lạc của vợ chồng Nguyễn Thiếp. Oái oăm chưa, ai sắp ai đặt ra cái thân mạng con người ? Thấy Nhật bần thần, Ðăng Vân nguýt dài, cười khúc khích rồi nói khi chỉ có hai người với nhau :

- Này, nghe sư mà đi tu làm chú tiểu thì tôi sẽ thành bà vãi tôi vào tôi phá cho mà coi ...

Nhật chợt rùng mình. Hình ảnh bà vãi am Chúng Sinh bỗng đâu lại hiện ra như một lời nguyền độc địa. Chàng lẩm nhẩm « Mô Phật » mà không hề hay biết.

Từ dinh quân nhìn xuống Cầu Sơn, vài trăm mái nhà rải rác đang mọc lên như những chóp nấm rơm lẫn vào màu cỏ xanh mơn mởn chạy cho đến cuối mắt. Nhìn Toàn Nhật, Lữ lẩm bẩm :

- Hàng dân chuyển từ Chợ Lớn về đây vẫn còn thưa thớt. Người Minh hương có Thiên Ðịa hội tìm cách bảo
vệ không chịu nghe, vẫn ngấm ngầm chống lại. Kể thì cũng dễ hiểu ...

Trước ánh mắt dò hỏi của Nhật, Lữ thở dài, nhìn xa xăm :

- Cách đây chưa đến năm năm, « Vua anh » vào Gia Ðịnh trả cái thù Hộ giá Phạm Ngạn bị giết, ra lệnh tàn sát tất cả người Tàu. Ở riêng phiên trấn này, có lẽ có đến bốn nghìn người chết, cả trẻ lẫn già. Vì thế, họ thù Tây Sơn. Số còn sống chạy vào Hà Tiên với con cháu Mạc Thiên Tứ, trở thành hang ổ dưỡng cho Nguyễn Ánh mỗi khi cùng đường.

Tình hình Gia Ðịnh sau khi Ðặng văn Chân rút quân về cứu Nhạc khá rối rắm. Thái bảo Tây Sơn là Phạm văn Tham mang năm nghìn binh vào, từng bước đẩy lui đám tướng nhà Nguyễn, nay mới yên được Trấn Ðịnh và một phần Vĩnh Trấn. Nhân thế nước trống không, Võ Tánh kéo quân ở Gò Công, lực lượng chẳng phải là nhỏ, nhưng không biết có phải là phò Ánh hay có ý đồ riêng tư. Nguyễn Huy Tự cùng Lữ tìm đám xử sĩ ở Bình Dương, gặp Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Ðức ...Rước được Từ Tâm từ chùa Thập Tháp ra Gia Ðịnh, Lữ cho liên lạc với thiền sư Viên Quang ở chùa Tập Phước và thiền sư Ðạo Trung ở chùa Linh Sơn trên núi Ðiện Bà.

Giao hết việc binh cho Thái bảo Tham, Lữ thúc đẩy công việc bình định với Tự và Toàn Nhật. Ðây là lần đầu Toàn Nhật biết rõ rằng sức mạnh không phải chỉ là sống kiếm nối chủ thể và đối tượng thành một theo phép kiếm của Mishima. Bình định không đơn giản phân ra sống - chết, được - thua. Ngược lại chuyện dụng võ, ở đây dụng tâm nên trong sống đã sẵn có chết, ở được mầm mống thua cũng đâm mầm, luôn luôn trong trạng thái bất nhị phân ảo diệu. Lữ sai thêu một bức trướng thêu chữ Tâm bằng chỉ vàng, đặt ngay đại sảnh, vừa tự răn mình, vừa để cho người biết lòng dạ mình.

Ðám xử sĩ phần lớn gốc Minh hương, cách suy nghĩ rập khuôn Chu, Trình, ẩn sau chữ Trung của Nho giáo để mặc cả. Họ khéo léo nhắc đến chính danh của Chúa Nguyễn, giả đề cập đến mối lo Xiêm-quân để phô trương một đồng minh quân sự của Ánh, và thắc mắc về Vương vị đặt trên đất Gia Ðịnh sau này. Khi họ về, Tự thưa :

- Bọn họ cũng chỉ là lớp thừa kế của đám Tống Nho, nhìn xã hội bằng cái phân định sĩ, nông..., tất viện dẫn hệ luân lý xã hội cũ mà căn bản dựa vào nông nghiệp. Lại nữa, đất bốn trấn thẳng cánh cò bay, rút nước cho hết sình lầy sẽ thành một vựa lúa khổng lồ, nên họ vẫn mơ màng quay về đời Nghiêu Thuấn. Hay là ta trực tiếp liên hệ với đám thương nhân ?

Thương nhân gốc Minh ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn thời đó đã đã vững mạnh. Thường, họ độc quyền được lúa gạo, và nhất là kiểm soát toàn bộ những thuyền buôn đến từ vùng Lưỡng Quảng, có khả năng buôn được sắt, đồng, lưu hoàng, diêm sinh để phục vụ chiến tranh. Lữ suy nghĩ, hỏi :

- Dùng họ, được. Nhưng cách nghĩ của họ liệu có khác đám xử sĩ không ?

Xoa tay vào nhau, Tự nhẩn nha đáp :

- Nếu giống như bọn « lái » ở Ðàng Ngoài thì có khác. Cơ sở của doanh thương là thuận mua, vừa bán, không ai áp đặt được ai. Vì thế, sự ý thức về tự do và quyền hạn được nâng lên so với một xã hội nông nghiệp.

Trầm ngâm một lúc, Tự tiếp :

- Ở Ðàng Ngoài, các « lái » không được tham chính nên mỗi khi cần vì loạn lạc đói kém, triều đình đến trưng thu của tư hữu bằng sức mạnh. Vì không bảo đảm được quyền tư hữu, Ðàng Ngoài đâm kiềm chế sự phát triển của thương nghiệp, chỉ ăn bám vào nghề nông mà vẫn không đủ vì đất đai nay mỗi lúc một thiếu, một cằn cỗi. Ở Gia Ðịnh, tình thế khác. Xuất ra là gạo, nên thương nhân mua đất, khẩn hoang ở tầm cỡ lớn, và bán gạo để mua vào đồ đạc công nghệ. Thương nhân như vậy có thực lực. Ta vời vào cho họ tham chính, tức là để họ có phên rào giữ của tư riêng, tất họ sẽ theo. Họ theo ta, Ánh mất một chủ lực để nương tựa !

Ðắn đo thêm vài ngày, Lữ gọi Tự, bảo :

- Thầy lo xúc tiến vời đám thương gia vào tham chính. Ta vẫn lo cái mối hận Tây Sơn vì vụ thảm sát xưa, muốn làm sao giải hóa đi. Nay, ta xin với Hòa thượng Từ Tâm cho lập đàn Chiêu Hồn, rồi riêng mình ta xin thí phát làm đệ tử tại gia của người. Mặt khác, thầy nghĩ thêm hai điều. Một là tìm Ánh ở Xiêm La, đề nghị phong làm Nam An Vương, cùng ta giữ Gia Ðịnh và bốn trấn. Hai là thông báo tự do truyền đạo Tây dương, và miễn thuế cho tất cả tầu bè từ mọi nơi vào giao thương với Gia Ðịnh.

Vào buổi trăng tròn tháng sáu năm đó, tất cả chùa chiền lập đàn cầu an cho chúng sinh trong ba ngày ba đêm. Tiếng chuông tiếng mõ rền vang khắp một vùng, trời nước như nối dương gian này vào thế giới bên kia bằng những âm ba của lời kinh sám hối. Trong chùa Giác Lâm, hai hàng tăng sĩ quì dọc theo chính diện, mắt nhắm, tay lần tràng, miệng tụng kinh Thủy Sám. Thiền sư Viên Chân và Ðạo Trung đã đến từ hôm qua, đang cùng Từ Tâm bàn nhau hoằng pháp thì được báo Ðông Ðịnh Vương xin vào. Vui vẻ, Từ Tâm vẫy tay, nhấp nháy cặp lông mày bạc thếch, miệng bảo :

- Bần tăng biết Vương từ khi ngài mười ba tuổi. Năm mười tám, sau lần cầm ấn Tiết chế vào Gia Ðịnh cách đây mười năm, ngài có vào Thập Tháp, ý nói xin xuất gia qui y pháp. Bần tăng không cho, bắt giữ nhẹm, nhưng cách đây hai tháng, ngài lại nhắc và xin lại. Bần tăng nhủ Vương nghĩ lại, vì Phật pháp cho một vị Vương công khác với cho một kẻ bình thường. Ngài lần này cương quyết lắm, và chỉ xin làm đệ tử tại gia, để ở thế Vương mà phát huy Phật pháp ... Có duyên gặp Vương hôm nay, xin hai vị chỉ điểm thêm cho.
Vừa lúc ấy, Lữ bước vào, theo sau là Toàn Nhật và Ðăng Vân. Khom mình vái xong, Lữ thưa với Từ Tâm :

- Bạch thầy ! Ðệ tử đã trai giới cho thanh tịnh, nay xin được thí phát!

Thiền sư Viên Chân ngắt lời :

- Thưa Vương công, thế nào là trai giới ?

- Là không ăn thịt, không gần gũi nữ nhân, sáng tụng kinh Hoa Nghiêm, đêm ôn kinh Bát Nhã.

- Ðó là sự trai giới của hàng dân. Trai giới của đấng Vương công phải hơn thế.

- ...

Viên Chân thong thả :

- Trai giới cho sạch, đối với Vương công, thì phải sạch cả nơi mình cai trị, nghĩa là không một người nào không ngồi đúng chỗ, không ai chịu oan khiên, đói khổ, tù đầy, ép uổng.

Lữ đập đầu vái tạ. Thiền sư Ðạo Trung nhìn Lữ kêu lên :

- Ðược, được !

- ...

- Vậy Vương công hiểu được cái gì ?

-...

- Không có gì để được. Nên được không có, hiểu làm chi ! Ðó là vô sở đắc, vô sở ngộ, hai phép tu. Với nhân duyên này, bần tăng đọc tặng Vương công bốn câu :

Ưng hữu vạn duyên hữu ( Muốn có, gì cũng có )

Tùng vô nhất thiết vô ( Muốn không, gì cũng không )

Hữu vô câu bất lập ( Có, không khi sụp xuống )

Nhật cảnh bổn đương bô ( Mặt trời lên, ánh hồng )

Thiền sư Từ Tâm vái tạ đạo hữu, rồi lẳng lặng bước ra ngoài hành lang, đi giữa hai hàng tượng La Hán vào chính điện. Lữ bước theo các vị sư, lòng bỗng thanh thản. Quì xuống nhìn lên tượng Tam thế trên bệ cao gần giáp mái chùa, Lữ bỗng nhận ra cả quá khứ, hiện tại và vị lai đang nhập thành một thể. Tượng Văn Thù cưỡi con thanh sư tượng trưng cho trí tuệ và tượng Phổ Hiền ngồi trên con bạch tượng tượng trưng cho chân lý như di động bên cạnh tượng Ðức Thế Tôn, vững chắc, hiền hòa, nhìn xuống chúng sinh với sự
độ lượng vô bờ. Lữ nhắm mắt, tai nghe tiếng Từ Tâm vẳng lại rành rọt :

- Nhập thế và xuất thế không phải là hai nẻo. Bên Nho, Ðường Ngu gọi là Trung, Khổng Khâu cho là Nhất, sách Trung Dung nói là Thành. Danh từ khác, nhưng cội nguồn là một. Ðó là gì ? Là tâm mà thôi vậy. Lấy đó mà tu thân, thân tất tu. Tề gia, gia tất tề. Trị quốc, quốc được trị. Ví như Trời nhờ Nhất mà trong, Ðất nhờ Nhất mà yên, Bậc đế Vương được nhờ Tâm mà thiên hạ thái bình. Qui nguyên là về đó, nhưng phương tiện lại nhiều cách. Ðạo của Nho gia, là pháp hữu vi, kiến lập mà không biện luận. Ðạo của Phật giảng giải lẽ vô thường, biện luận mà không kiến lập. Nhưng chỉ có một, nên kiến lập hay biện luận rồi cũng quay về chữ Tâm ...

Lữ nhận ba chấm hương đốt cháy da nơi đỉnh đầu, mắt hé ra, lờ mờ thấy Nhật, thấy Tự, thấy cả đám xử sĩ được mời đến dự lễ. Mùi hương xông lên ngột ngạt, và tiếng chuông thỉnh ngân nga làm tê cứng sự thức nhận của các tế bào, xô tất cả vào một thế giới mông lung được níu giữ hững hờ giưã những làn khói nhạt trong tiếng tụng kinh gõ mõ. Chợt tất cả nhòa đi. Và bao nhiêu những khuôn mặt đau đớn, sợ hãi, oán hờn ở đâu ập đến từ tứ phía. Rồi tiếng la hét, tiếng khóc than. Tiếng voi rống. Tiếng ngựa rầm rập, hòa vào thanh âm chói tai của đao kiếm loảng xoảng, chát chúa. Cặp mắt Huệ chợt xuất hiện, tóe lửa, đốt cháy một góc thành như hỏa hổ sáp công. Tiếng Nhạc hềnh hệch cười, nhổ bả trầu, và thét : « Cứ giết, thẳng tay mà giết ». Chung quanh Lữ, một biển máu dâng lên, mỗi lúc một cao, sắp sửa ụp xuống ăn sống nuốt tươi. Sợ quá, Lữ lẩm nhẩm « ... quan Thế Âm bồ tát, cứu khổ cứu nạn. » cho đến lúc sư Từ Tâm lay nhẹ :

- Ta ban cho thí chủ pháp danh Chính Tâm, đừng bao giờ sao lãng hoằng pháp, trả cho sạch tiền oan nghiệp chướng, để rồi thân tâm như nhất mà về với an nhiên cực lạc ...

Nửa tháng sau kỳ lập đàn làm lễ ở chùa Giác Lâm, Ðông Ðịnh Vương ra thông lệnh tự do truyền đạo và miễn thuế cho tàu buôn vào Gia Ðịnh. Sư Viên Chân xin vào gặp, thưa :

- Vương công ! Ðạo Tây dương là tả đạo, cấm thờ ông bà tổ tiên, lại cho rằng chỉ có một đấng tối cao là Thượng Ðế của họ. Ngài cho họ tự do truyền đạo, là đem phá mất cương thường cả ngàn năm trước, xin
Vương nghĩ lại !

Lữ chắp tay vái, rồi thận trọng nói :

- Bạch thầy, lời thầy nói quả có đúng. Cũng vì thế, khi hàng dân thấm nhuần Phật pháp, đạo của Tây dương không xâm nhập được. Thầy xem, ở bên Xiêm, họ tự do truyền đạo nhưng có mấy ai theo ! Lý do là Phật tử được dạy dỗ bên Xiêm, không dễ gì lễ giáo ngoại lai xâm nhập được. Ở ta, chùa có, sư có, nhưng liệu giảng dạy Phật pháp có đến nơi đến chốn không? Có bao nhiêu chùa biến thành nơi thờ đồng thiếp, rút sâm, gieo quẻ, bói toán làm mê mị lòng người ? Họ tự do truyền đạo, ta cũng tự do hoằng hóa Phật pháp. Vậy bạch thầy, thầy lo gì ? Trong mười điều cấm của họ, ta thấy ít ra là có bốn điều trong ngũ giới của nhà Phật, cấm họ là thế nào ?

Viên Chân hậm hực ra. Hôm sau, Ðạo Trung vào hỏi :

- Vương công ! Ðạo lớn là gì ?

- Là tri thức, là sự giác ngộ. Là những điều con người sắp xếp với nhau để cùng nhau giác ngộ.

- Ðặt trên đài cao, ta đặt những người mang đến cho toàn chúng sinh sự hiểu biết, sự tỉnh thức ?

- Bạch thầy, đúng vậy ! Chỉ có sự giác ngộ mới mang đến được niềm an lạc. Trên cao đài là những bậc
Thánh, bậc Phật. Họ để lại sự hiểu biết để độ chúng sinh !

Ðạo Trung miệng niệm A di đà Phật, mắt cười với Lữ. Sư phẩy áo về núi Ðiện bà ở Tây Ninh, nói với lại : «
... cái pháp danh Chính Tâm đặt cho Vương công đúng là thiện duyên ! ».

Thời gian đó, Lữ đã phái sứ giả sang Xiêm cầu hòa và liên lạc với Nguyễn Ánh. Ðồng thời, Lữ cho đi tìm Thầy cai trường Liot, mời trường đạo trở lại Mạc Bắc. Việc đi sứ ai cũng biết. Phạm Văn Tham ở Ba Giòng về Gia Ðịnh xin gặp Lữ và tâu :

- Trình Vương công ! Chủng tuyệt đường, quân không tướng không. Chẳng có lý gì phong cho hắn vương tước. Vương công làm vậy, e chẳng phải ý Thái Ðức Hoàng đế, lại cũng không hợp lòng Chính bình Vương !

Lữ cười, tay nâng chén rượu đưa cho Tham, nhẹ nhàng :

- Có hai khả năng. Một là Chủng nhận, về Gia Ðịnh này, tất không còn sợ lấy cái danh nhà Nguyễn để làm giặc, giặc tất ít đi. Hai là Chủng không nhận. Vậy nếu có chiến tranh, hắn mang trách nhiệm, không phải chúng ta. Người oán hắn sẽ có. Từ nay, bắt được bọn giặc, quan Thái bảo ra lệnh đừng giết mà thả, nói cho rõ sách an dân, bình thiên hạ, để nhà nhà ở bốn trấn hết chiến tranh, yên ổn mà làm ăn. Ðó là thượng sách. Nếu một năm nữa mà sách lược của ta không thành, quan Thái bảo sẽ toàn quyền, cứ thẳng tay trừ cho sạch mầm họa chiến tranh !

Thái bảo Tham nghe, bụng bán tín bán nghi, lại quay về Ba Giòng, tiếp tục mở đường tiến chiếm Cầu Thơ, một cứ điểm quan trọng để kiểm soát nhánh sông Cửu Long xuôi ra biển. Nhật được lệnh của Lữ, cùng Ðăng Vân giăng một mạng lưới để nghe ngóng tin tức trong hai trấn Phiên, Vĩnh. Họ kèm sát đám Thiên Ðịa hội, không cho lập ra những hội kín có vũ trang, và đồng thời họ phải tổ chức bảo vệ một hệ thống chùa chiền mang tên Cao Ðài bắt đầu tỏa ra từ Linh Sơn, nơi thiền sư Ðạo Trung trụ trì. Linh mục đạo Gia Tô là Lelabousse đòi gặp Lữ. Ông ta nói :

- Chúa của đạo chúng tôi bị người ta đặt lên Cao Ðài để thờ ở Tây Ninh. Ðó là một sự xúc phạm ...

Lữ hỏi ngược :

- Thờ Chúa là xúc phạm ? Sao vậy ?

Thấy kẻ đối thoại lúng túng, Lữ giả lả :

- Nay tôi có thể làm gì cho thầy ?

- Cấm họ. Cấm họ không được thờ Chúa tôi !

Lữ vờ ngạc nhiên, hỏi ngược :

- Vậy là tôi cho tự do giảng đạo của Chúa các vị, rồi lại đồng thời phải cấm không cho thờ Chúa các vị ư ?

Ðằng khác, về mặt các thương nhân được phong quan chức để tham chính, họ thoái thác xin đợi ít lâu. Nghi ngờ bị bẫy, họ cẩn thận đứng ngoài quan sát, đồng thời nhân thời cơ chuyển của cải tiền bạc về Vĩnh Trấn. Tự lắc đầu, nói với Lữ : « Phải chờ ! Nhân tâm không mua được trong một ngày. Họ chưa tin ta, ta càng xông vào, họ càng lùi ! Vả lại, họ cũng là một sản phẩm của xã hội nông nô. Cũng trung hiếu tiết nghĩa như đám xử sĩ vì có chút học hành, nhưng thật ra, họ chỉ đầu môi chót lưỡi. Tin ta là họ sẽ trở cờ ngay ».

Những bước bình định tuy không thể tiến hành nhanh được, nhưng trên thực tế chưa có đối kháng nào đáng kể. Sự đối kháng gay gắt, như Tự dự liệu, sẽ đến từ vua Thái Ðức. Trong một cách nhìn nào đó, nó cũng có thể đến từ Bắc Bình Vương, nay đổi là Chính Bình Vương Nguyễn Huệ. Quả nhiên, một sự kiện quan trọng xảy ra. Ở Ba Giòng, Thái bảo Phạm Văn Tham bắt giữ hai vợ chồng Hộ đốc Lý từ Qui Nhơn đi vào. Vợ Lý là thị Lộc trình lên Tham một bức thư do Nhạc viết, bảo Lữ dùng mưu giết Tham đi vì Tham kiêu hành, không còn nền nếp qui củ gì. Tham hoảng sợ, vội vàng đem ba trăm quân vào Cầu Sơn, trương cờ trắng đi vào. Lúc ấy, Lữ đang ở gò Mụ Lượng. Tham lên gò xin tương kiến, trình bức thư của Nhạc cho Lữ. Lữ đọc, trầm ngâm một lúc, rồi bảo :

- Cầm thơ bảo Lữ giết Thái bảo mà lại đưa cho Thái bảo là người ta muốn Thái bảo giết Lữ đây. Ai ? Là bọn Nguyễn Ánh ? Ta nghe Chủng đã về, và sắp đổ quân vào Cần Giờ. Nhưng vợ chồng Lý là người Tây Sơn, vậy có thể là ai khác ? Quan Thái bảo nghĩ thế nào ?

- ...

- Dẫu sao, Thái bảo đã tin Lữ mà lên đây tương kiến, tránh được lầm lỡ, nghi ngờ. Ðó là phúc lớn của dân, của lính. Ta định về Qui Nhơn, đích thân hỏi cho ra lẽ. Nên chăng? Một mình, Thái bảo thay ta giữ biên cương có được không ?

Cúi đầu ngẫm nghĩ, Tham gật đầu, nói thẳng :

- Vương cẩn thận dẫn một ngàn binh về.

Lữ gạt đi :

- Không ! Ta chỉ mang một đám tùy tùng. Tướng quân cần binh hơn ta. Ta có đánh nhau với ai đâu !

Nói riêng cho Toàn Nhật biết lý do trở về Qui Nhơn, Lữ dặn giữ kín, kể cả với Ðăng Vân. Lữ giao chính sự cho Tự, phao lên là vào chùa Giác Lâm tĩnh tọa dăm bữa nửa tháng, và dặn Tham mang quân về đóng chốt ở Cần Giờ.

Nhật định mang đội Tiền Kích theo hộ giá, nhưng Lữ gạt đi, sai lấy một toán nhỏ để phục dịch. Ðăng Vân hí hửng xin theo, và bọn thằng Thuấn hớn hở được về quê cũ, hăng hái lên đường. Trầm ngâm nhìn mọi người, Lữ sai đính lên cờ đỏ một chữ Tâm đồ theo nét bút của sư Từ Tâm, kẻ đã làm lễ thí phát cho mình. Khởi hành vào nữa đêm, đoàn người lặng lẽ từ Cầu Sơn di chuyển đến Ðồng Chàm rồi ngược đường sông đi về hướng Bình Thuận. Ở đó, Lữ truyền quan trấn biên cấp ngựa khỏe, ruổi dọc bờ biển đi ra Phú Yên. Trương cờ đỏ Tây Sơn nay có chữ Tâm, đoàn người rong ngựa chạy bên những triền cát trắng xóa dưới ánh nắng chói lòa, áo quần phần phật căng gió nồm.

Cưỡi con Hắc Phong đi đầu cạnh Ðăng Vân, lòng Nhật êm ả một niềm vui nhẹ nhàng tựa những sợi tơ mỏng mảnh xoắn tít vào nhau. Thỉnh thoảng Vân lại cười mỉm, nhìn Nhật không nói. Ruổi rong cho đến quá ngọ, cả đám dừng ngựa khi tiếng đọc kinh của người Chàm từ xa ai oán vọng lại. Dưới chân đồi, nhìn lên là ngôi tháp bằng gạch nung sừng sững, trên cao rễ cây chằng chịt bám vào những nơi đổ vỡ, cành đâm ra chọc vào trời xanh ngăn ngắt. Ðăng Vân đến bên suối rửa mặt, tinh nghịch tát nước vào người Nhật, không để ý đến Lữ đang tư lự nhìn ra rừng xanh ngun ngút. Nàng dịu dàng :

- Võ tướng quân ! Chàng xem ... lần này về Qui Nhơn xin với Hoàng thượng cho em ... về nhà chàng.

Nhật trêu :

- Chết, công nương chớ nói thế, kẻ thuộc hạ này đâu dám vô lễ với đấng Ðế Vương.

Nhớ chuyện xưa đã mỉa mai Nhật là thuộc hạ, Ðăng Vân thẹn đỏ mặt, nhưng vênh váo, trề môi ra :

- Cứ một điều gọi công nương, hai điều gọi công nương. Quả là thủ phận, chắc sau thế nào cũng thành ma không vợ đấy !

Một đàn bướm trắng ngà to bằng bàn tay ở bìa rừng chập chờn bay ra, thấp thoáng bên những ghềnh đá hoa cương long lanh sắc tím đỏ. Tiếng nước rì rào, khoan nhặt ru ngủ, đệm vào tiếng sơn ca lanh lảnh từng chập, tấu lên một khúc nhạc của thiên nhiên cứ nửa hư nửa thực, lúc có lúc không. Bên bờ suối, bọn thằng Thuấn bảy đứa nằm lăn quay ra ngủ. Ðám lính còn lại, kẻ nhắm mắt, người rê thuốc, hút phì phèo.
Ðăng Vân đứng dậy, ngược dòng suối, leo lên đồi. Nhật bước theo, tiện tay hái những bông hoa vàng mọc ven suối. Lên đến chân tháp, hai người nhìn ra xa. Ở tít tắp, thấp thoáng bóng những chiếc áo chùng trắng trên những thửa ruộng vàng tươi. Nhật đưa bó hoa dại vào tay Vân, tim bỗng đập mạnh, miệng tự nhiên ấp úng. Nàng nâng bó hoa lên môi hôn, cười nhẹ, chiếc răng khểnh lại lộ ra như sắp trêu chọc. Nhưng Vân không nói gì. Nhìn Vân, Nhật rõ ràng thấy ánh mắt nàng nửa khiêu khích, nửa mời mọc. Chàng đưa hai bàn tay đỡ lấy mặt Vân, cúi xuống, nhưng Vân chợt đẩy tay ra, khúc khích vừa cười vừa chạy xuống đồi, miệng nói :

- Không biết xấu, mắc cở chưa !

Mặt đỏ lên, Nhật nhìn theo Vân rồi xuống theo, thong thả một cách gượng gạo, có cảm tưởng rằng đến cây cỏ xung quanh cũng đang chế nhạo mình. Chàng lẩn thẩn trách « ... thế là nàng còn hờ hững, a được ! » rồi hằn học « ... để xem, để xem ». Ðến chân suối, bọn thằng Thuấn đã thức giấc, đang xốc súng điểu thương lên vai, sửa soạn lên đường, hồn nhiên cười nói. Lữ vẫy Nhật lại, từ tốn :

- Võ tướng quân, ta cố đi một mạch. Chắc sáng sau thì tới được Qui Nhơn. Cơm chiều nay xong, cho nghỉ lấy sức rồi lại đi tiếp ... Không biết làm sao mà ta nóng ruột, cứ máy mắt !

Nhật cúi đầu nhận lệnh, đáp :

- Vương công yên lòng. Vào đây là đất Tây Sơn rồi, không có gì phải lo. Ở Gia Ðịnh, sắp xếp yên cả. Thái bảo lại là dũng tướng, giặc có đánh cũng chẳng thể làm gì nguy được ...

Ðưa tay vuốt mặt, Lữ lắc đầu :

- Không. Ta không lo chuyện đó. Thế nước nay chia làm ba. Nếu Hoàng Thượng ở Qui Nhơn không thực tâm đồng lòng thì lực lượng Tây Sơn mất thế liền lạc tiếp ứng ỷ giốc cho nhau. Cứ thế, lâu dài sẽ dẫn đến đổ vỡ, nếu không yên được lòng người mà chỉ chú tâm cho việc quân là chính. Bọn Nguyễn Ánh kéo quân vì biết cái thế yếu đó, và đoán là Chính Bình Vương phải đối phó với Chỉnh ở Bắc Hà trước.

Nhật ngẫm nghĩ :

- Hoàng Thượng sẽ nhận ra điều ấy. Vương công mang luận bàn, ngài tất hiểu ...

Phá lên cười, Lữ nhìn Nhật, cắt ngang :

- Võ tướng quân không biết hai anh ta bằng ta. Anh hai ta thích đánh bạc, có lần đã trắng tay, bán hết
ruộng đất. Anh ba ta thì chẳng chịu nhường ai, bất kể trời, bất kể đất ...

Cuối giờ Dậu, đoàn người đến chân núi Chúa. Trời chạng vạng tối, gió xào xạc trong cây và những người tiều phu cuối cùng đã sách rìu trở về làng xóm. Nhìn vầng ô chếch bóng về tây đang nằm ngả dài xuống đất, hắt ráng đỏ lên nền trời tím đậm, Lữ hạ lệnh cho nghỉ ăn cơm. Toán lính buộc ngựa, nhóm củi nấu nước, mệt mỏi tựa mình vào những gốc cây, kẻ vê thuốc hút, người nhai trầu. Bọn trẻ kháo nhau là đường chỉ còn đi độ hai ba canh là về đến Qui Nhơn. Thằng Thuấn nhấp nhỏm, nhắc đến mẹ và đám em, để dành đâu được năm, sáu quan tiền mang về làm quà.

Cơm chưa kịp rỡ, bỗng Nhật thấy rờn rợn, mắt đảo nhanh về phía bờ rừng. Một đốm lửa lóe lên, tiếp đó là một loạt súng điểu thương vang rền thình lình phá toạc không gian. Nhật thét :

- Nằm xuống !

Tiếng súng cứ từng loạt, hết loạt này đến loạt khác. Cách bắn này không phải là cách của bọn cướp ngày. Nhật lẩm nhẩm đếm, ước không dưới một trăm tay súng, hô :

- Quân nghe đây. Nấp kỹ. Chưa có lệnh không được bắn. Bắn theo kiểu liên hoàn, không được phí đạn !

Nhật quay nhìn, thấy Lữ nằêm sau một gốc cây bên cạnh Ðăng Vân, gọi lớn :

- Vương công ! Bình yên chứ !

Lữ ra dấu cho Nhật yên lòng. Ép người xuống đất, Nhật trườn đi như một con trăn, chuẩn bị đội hình phòng ngự. Loạt súng bất ngờ lúc đầu đã hạ mất sáu người lính, trong đó có ba đứa trẻ trong bọn thằng Thuấn. Tính nhẩm, Nhật còn hai mươi tay súng, đạn dược đủ để cầm cự, nhưng phá vòng vây thì quả là chuyện không làm được. Tiếng reo hò la thét, lẫn tiếng hô xung phong nổi lên. Nhật hét :

- Chờ lệnh bắn !

Ðợt xung phong đầu bị đẩy lùi, nhưng Nhật mất thêm hai du binh. Sau đó, hai đợt xung phong sau bị đánh bật trở lại, dằng dai như vậy cho đến cuối giờ Hợi. Lần thứ ba, quân tấn công dùng thêm hỏa hổ. Cây rừng bốc cháy, soi sáng một khoảnh rừng, đưa đám du binh của Nhật vào thế bất lợi. Nhật bò về phía Lữ, nói :

- Quân Tây Sơn ! Dùng hỏa hổ chỉ có Tây Sơn !

Lữ gật đầu, cười chua chát, rồi quát :

- Ta là Ðông Ðịnh Vương ! Quân binh Tây Sơn hãy ngừng bắn. Ai cho lệnh bay làm phản chúa tướng ?

Ðáp lời Lữ, là một loạt tiếng súng điểu thương kèm vào một quả đại pháo nổ xoáy vỡ lòng đất. Lữ tự hỏi : « Nhạc hay Huệ đây ? ». Huệ ư ? Huệ có thể hận mình cản không cho tàn sát Qui Nhơn, giết đi để Phạm Văn Tham là tay chân Huệ chiếm lấy toàn quyền. Nhưng toàn quyền để làm chi ? Chính Lữ đã nhường cả Gia Ðịnh và bốn trấn cho Huệ rồi kia mà. Vả lại, Huệ thừa biết năm Lữ mười tám đã có ý xuất gia, khiến Huệ đã tìm mọi đường ngăn cản, thậm chí đòi đốt chùa Thập Tháp. Ðến khi Lữ lĩnh ấn Tiết Chế trong khi Huệ chỉ là Long Nhượng tướng quân, Lữ đã trao ấn cho Huệ ngay khi đặt chân vào Gia Ðịnh lần thứ hai, có bao giờ tranh giành quyền hành với Huệ đâu.

Vậy là Nhạc ? Nhạc oán Lữ đã trái lệnh, không thành đồng minh để cùng Nhạc tiêu diệt quân Phú Xuân của Huệ. Có thể. Nhưng Lữ cũng đã cứu cho Nhạc khỏi bị đánh cho tan tác. Hay Nhạc được mật báo là Lữ có ý định phong Vương cho Nguyễn Ánh? Nhưng chính Nhạc, khi bị vây hãm, đã chẳng cho sứ giả đi tìm « ông Chủng » để giả lại cơ nghiệp nhà chúa chứ không để đất Nam hà vào tay thằng em « nghịch tặc » hay sao ? Còn bức thư gửi Lữ, lại vào tay Tham, có phải thực sự là Nhạc viết ? ýù đồ là để hoặc trừ Tham, hoặc trừ Lữ ? Lữ chết, ắt Huệ phải giết Tham. Tham chết, ấy là khiến Lữ nghịch với Huệ. Khi ấy, Lữ phải bám vào Qui Nhơn, quyền lại về tay Nhạc?

Ba trái đại pháo lại rơi xuống trận địa, khoảng cách xạ thủ chỉ chừng trên dưới một trăm thước. Nhật không còn cách nào khác, giao nhiệm vụ bảo vệ Lữ cho một viên đội, rồi dẫn sáu người toán tiền kích vòng xuống dưới, bất ngờ xông vào vùng địch tìm phá những khẫu đại pháo. Cả năm nay, Nhật mới phải dùng đến kiếm. Chàng ép người chuyền từ gốc cây này sang gốc cây kia. Mỗi lần di động là lưỡi kiếm lại lóe sáng, chàng nghe tiếng thây người đổ xuống hệt như thân những cây chuối đứt lìa như khi chàng tập kiếm với Mishima ở Phố Hiến. Nhưng lần này, quần áo chàng đẫm máu người, mùi tanh tưởi sực lên mũi khiến chàng chỉ chực nôn mửa.

Nhật là người duy nhất về được lại trận địa mình.

Lửa hỏa hổ vẫn rừng rực cháy, cành khô nổ tí tách, đóm hồng bắn lên như pháo hoa. Bò về, Nhật đến bên Lữ. Tay trái bị thương, tay phải ôm Ðăng Vân, Lữ buồn bã :

- Xem kìa, cái kiếp người !

Nhìn quanh, chỉ hai đứa trẻ trong đó có thằng Thuấn là sống, dăm ba người lính bị thương nằm rên khóc, còn viên đội bị hỏa hổ đốt cháy mặt, xương trắng vều ra, mắt lõm sâu vào bầy nhầy máu me. Lữ nói một mình :

- Thoát kiếp ! Thoát cái kiếp người khốn khổ này, ai ơi !

Nhật nhìn Ðăng Vân, bụng nhói đau, nhảy xổ lại. Ðỡ từ tay Lữ, Nhật ôm lấy Vân đang còn thoi thóp, ngực áo ướt đẫm máu, môi cứ run lên bần bật, nhưng hé cười khi nhận ra Toàn Nhật. Giữa lúc tuyệt vọng đó, bỗng có tiếng khụt khịt, tiếng khục khặc, gầm rú của một loài thú, rồi tiếng người la hét từ trận địa phía địch. Thằng Thuấn đánh hơi, mặt tươi hẳn lên, tay níu lấy Nhật reo :

- Sơn nhân. Sơn nhân đến cứu mình ...

Nhật không nghe thấy gì, ôm xiết Ðăng Vân vào lòng, nước mắt trào ra, miệng rên rỉ :

- Công nương. Công nương đừng bỏ tôi đi !

Vân hé mắt rên lên :

- Lại công nương. Gọi em bằng Vân đi !

- Em, Vân em. Ðừng nói kẻo mệt ...

Vân nhếnh mép, chiếc răng khểnh lại lộ ra. Nhật ghì chặt lấyVân, khóc rưng rức. Lữ nhìn, mắt thương hại,
khe khẽ lùi ra rồi đứng dậy. Ðịch bị sơn nhân tấn công bất ngờ, hoảng hốt bỏ chạy, trả về núi rừng sự bình yên của màn đêm lại lặng lờ sau cơn lửa đạn. Nhật nghe Vân thều thào :

- Mình có biết em tiếc gì không ?

- ...

- ... Em chỉ tiếc hôm qua mình chưa kịp hôn em thôi !

Nhật âu yếm đặt môi mình lên đôi môi Vân đang hé ra chờ đợi. Chung quanh, rừng vẫn bốc cháy, nhưng Nhật cảm thấy đôi môi kia cứ lạnh dần, lạnh dần, trong cõi nhân gian khốn khổ tàn rụi đi giữa một cơn bão lửa.

Lữ trầm ngâm nhìn. Ðám sơn nhân đã đến gần, lại khụt khịt mũi. Thằng Thuấn đâm bổ ra, vuốt tay sơn nhân, vỗ về, miệng cũng khục khặc. Nó nhìn Nhật, miệng nói, giọng ấm ức :

- Thôi, tướng quân ở lại. Con người ác lắm! Tôi vào rừng với đám sơn nhân bạn của tôi đây !

Bất thình lình, Lữ gỡ Vương miện trên đầu ném xuống đất, rồi cởi đai giáp, cởi bào, cởi ủng, đi đến cạnh xác viên đội chết cháy. Với tay lấy lá cờ đỏ, Lữ quấn vào hạ bộ làm khố, lẳng lặng nhìn bọn sơn nhân quây quanh Thuấn. Nhật lại nhận ra vết bớt đỏ sau gáy Lữ dưới ánh lửa. Nhật bảo :

- Vương công. Ngài không phải là Lữ mà là Thúc Khải !

Trước ánh mắt dò hỏi của Lữ, Nhật vắn tắt kể lại lời Ðặng-bà đã nói với chàng. Lữ nghe xong, ngửng mặt nhìn mây trời, mỉm cười :

- Lữ cũng vậy mà Thúc Khải cũng thế. Ta là con Hà công hay là con Nguyễn Thiếp thì có gì khác chi nhau ? Ảo cả, và cái có thật là cái khổ của kiếp phù sinh khốn nạn này !

Nói xong, Lữ rảo bước theo đám sơn nhân và thằng Thuấn đang lên dốc và dần dần khuất nẻo. Nhật nhìn theo, cho đến khi cái khố chỉ còn là một cái chấm đỏ, cái chấm nhỏ nhoi đánh dấu cho một trang sử vừa lật qua.

Dĩ nhiên, sử quan không ai viết về Toàn Nhật và nỗi đau lòng của những kẻ mất chồng, mất cha, mất người yêu trong trận phục kích ở Núi Chúa. Theo sử quan Tây Sơn, « Ðông Ðịnh Vương giao công việc cho Thái bảo Tham rồi về đợi mệnh Vua, chẳng may ốm mà mất ở Qui Nhơn vào tháng tám năm Ðinh Mùi ». Sử quan triều Nguyễn sau này thêm thắt « Lữ nghe đại quân kéo vào Cần Giờ tháng tám, sợ chạy lên gò Mụ Lượng. Vua dùng kế phản gián, giả thư Nhạc dặn Lữ dùng mưu giết Tham vì Tham kiêu hành, nhưng lại bảo thị Lộc là vợ Hộ đạo tên Lý đưa vào tay Tham. Tham mắc mưu, đem quân về thì Lữ chạy ra Qui Nhơn, sợ mà chết» .

Nhưng lý thú hơn cả là truyện thầy giảng Labrecque. Nguyễn Ánh dặn con cháu đợi, đến đời Minh Mạng thì triều Nguyễn mới cấm đạo Gia Tô khiến Labrecque phải trốn vào rừng vùng Tây Nguyên chịu đói khát cả tháng. Ngẫu nhiên, thầy gặp một đám sơn nhân và được mang về cứu sống. Trong hang động, Labrecque thấy sơn nhân thờ một mảnh vải màu đỏ đã chuyển sang sắc đen nâu, trên lờ mờ có nét chữ, hình như chữ Tâm viết theo lối cổ tự thì phải. Sau đó, thầy lại tìm ra một chiếc nồi bằng kim loại, trong khi đó thì sơn nhân vẫn dùng đồ đá được đẽo một cách thô sơ. Thấy liền đưa ra một luận đề về sự tiến hóa của nhân chủng, cam quyết rằng con người có thể đi lùi từ thời đồ đồng về thời đồ đá, từ thời có văn tự về thời không còn giữ được cả tiếng nói. Ðược đưa về Pháp mấy năm sau, Labrecque viết một quyển sách dày ba trăm trang về cái đề án đó và mang trình Hội Truyền Giáo tại Paris vào năm 1838. Hội tịch thu cuốn sách, không hiểu vì sao mang đốt đi cho tuyệt tích. Ðó là một điều đáng phàn nàn vì chưa chắc gì đề án đó đã hoàn toàn sai hẳn. Lý do là có những ngoại lệ. Dẫu ít, nhưng ngoại lệ vẫn có, đặc biệt ở trên đất Ðại Việt. Hình như đi giật lùi là cách bổ báng của thần linh không những đối với kẻ tàn bạo mà còn cả với những người để mặc bị bạo tàn khuất phục.

Chương 11
Gió chướng

Hai hàng bạch lạp hắt lên vách tường bằng gỗ hương những bóng người, hình dạng và kích thước thay đổi tùy theo vị trí, lúc tản ra rồi khi lại tụ lại, như đang chơi trò cút bắt. Tiếng trống canh vẳng lại, xa vắng, tắt lịm trong cơn gió thốc vào cửa thành Nội, nghe u ú như tiếng kêu bị sặc trong cuống họng. Quấn chăn bông chung quanh cái thân thể bé xíu của Quang Diệu mới được ba tháng, Ngọc Hân nhìn bà nhũ mẫu, cười đắc thắng :

- Già xem, lấy chồng sáu năm, đẻ cho ba đứa. Lại ba đứa con trai. Còn sức, còn đẻ. Càng đông càng tốt.
Dẫu mang họ Nguyễn, nhưng một nửa vẫn là dòng máu nhà Lê. Nghiệp nhà không giữ được hết thì giữ một nửa. Mai này vào bình định miền Nam, đất nước gấp hai lên thì dẫu nửa cơ nghiệp bây giờ cũng chẳng mất mát gì so với cả cái cơ nghiệp xưa.

Lẳng lặng đi ra mở cửa sổ, Hân đưa mắt nhìn trời. Xa tít tắp, ngôi sao Bắc đẩu nhấp nháy như chào gọi trong vòm sáng pha lê bí ẩn từ muôn đời vẫn chứa chấp bao nhiêu là toan tính giữa những tình cờ run rủi. Một cơn gió thoáng có chất nồng của muối biển ở đâu thốc vào. Nhũ mẫu đến bên Hân, nói như than :

- Lại gió chướng. Hạâu khoác thêm cái áo, kẻo ốm.

Hân cáu bẳn :

- Dặn mãi, già không chịu nghe ! Gọi Hân, già cứ gọi là công chúa như xưa. Hậu hiếc gì ...

Ðặt tay lên bụng, Hân nhắm mắt, hồi tưởng đến cái đêm động phòng ở lầu Tử Các trong dinh chúa Trịnh. Một đêm hung bạo, dẫu muốn cũng không thể quên. Cái đau làm tê liệt phần dưới cơ thể và những giọt máu trinh tiết ứa ra loang lổ trên sàn gạch trắng vẫn ám ảnh Hân như một vết nhục nhã không gội rửa được.

Hai năm sau khi về Phú Xuân, khi nghe tin Lê Chiêu Thống sai Trần Danh Án sang Tầu cầu viện, Hân ôm Quang Cương, đứa con đầu lòng khóc cả đêm. Miệng lẩm bẩm : « ... thế là hết, nghiệp nhà đến chỗ tuyệt rồi », Hân đã nghĩ đến sự hủy hoại thân mình. Lúc đó, Vũ Văn Nhậm tác oai tác quái ở Thăng Long, đặt Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc. Cẩn chỉ biết than « ... Giám gì ? Ta chỉ là ông từ giữ bàn thờ tổ nhà Lê, thế thôi ! ». Sau lại có mật báo của Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, tin cho Chính bình Vương Nguyễn Huệ về sự lạm quyền và ý đồ của Nhậm. Huệ liền gọi Nhậm về. Nhưng đã hai lần gọi, cả hai lần Nhậm đều viện cớ không nghe. Ðồng thời, Nhậm sai bắt lính và vơ vét thiên hạ bằng sưu thuế đến độ dân gian phải trốn đi, phiêu tán khắp đầu rừng cuối bể để tránh quan quân tróc nã. Hân ôm con, nước mắt ròng ròng, nói với Huệ:

- Bắc hà thuộc nhà Lê, nay nếu không giữ được thì thuộc về Vương. Về sau, đất đó phải về tay Quang Cương, vừa là máu mủ Tây Sơn vừa là huyết thống cựu triều. Thiếp xin theo Vương ra bắc bắt Nhậm, nếu không thì chết không nhắm mắt, chẳng mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên nữa ...

Huệ lúc ấy còn phải toan tính nhiều điều. Từ khi Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ chết đi, Thái bảo Phạm Văn Tham ở Gia Ðịnh lại bị quân Nguyễn Ánh tấn công mọi nơi. Vào tháng hai năm Mậu Thân, Tham cầu cứu nhưng Nguyễn Nhạc án binh bất động khiến Huệ phải phái Nguyễn Văn Hưng mang thủy binh đi đường biển vào ứng cứu, đến nay vẫn chưa có tin tức gì. Kéo quân ra Bắc bắt Nhậm là bỏ ngỏ Phú Xuân, biến nó thành một miếng mồi béo bở kích thích lòng tham vô đáy, sự manh động và niềm hằn thù của Nhạc. Huệ bóp trán, nhìn Hân lắc đầu. Hân gặng hỏi, Huệ không đáp. Sau khi đã thu xếp để đối phó với sự đe dọa của Nhạc, một tối tháng sau, Huệ bất ngờ gọi Hân vào buồng, bảo : « Mai ta lên đường. ». Ðêm hôm đó, để mặc Huệ dày vò, đánh đá trong một cuộc truy hoan trước khi viễn chinh, Hân vừa rên rỉ, vừa thì thào « ... nữa, nữa đi ! » như thánh thức, đầu chỉ tưởng đến cái cơ nghiệp nhà Lê để quên nỗi đau đớn của thể xác.
Cuối tháng tư năm Mậu Thân 1788, đại binh gồm một trăm năm mươi voi với đoàn hộ giá đủ kiệu xe võng lọng đưa Ngọc Hân và Huệ vào Thăng Long, uy thế khiến Vũ Văn Nhậm không dám chống cự. Ngày mùng năm tháng năm, Nhậm bị trói phơi nắng ngoài pháp trường một ngày rồi bị chém đầu. Mười ngày sau, Huệ ra bá cáo trách Lê Chiêu Thống vô ơn bạc nghĩa, kết tội Nhậm là phản phúc, và trưng cầu dân ý theo Lê hay theo Tây Sơn. Nhưng lòng tưởng vọng nhà Lê vẫn còn khiến Huệ vẫn phải giữ Cẩn làm Giám Quốc, để Bắc hà cho Ðại tư mã Ngô Văn Sở trông coi quyền bính với đám tướng là Nội hầu Lân, Ðô đốc Tuyết, và một số hàng thần nhà Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Ninh Tốn ... Thời gian đó, quâân Thanh dưới quyền chỉ huy của Tôn Sĩ Nghị bắt đầu tập họp ở Quảng Ðông, sẵn sàng kéo qua can thiệp theo lời cầu của vua Lê. Huệ trưng mộ lính, định lập một đạo quân trên dưới hai mươi vạn người. Ðồng thời, Huệ bắt chở tất cả đồ đạc, cột kèo ở phủ Chúa về Nghệ An. Sai xử sĩ Nguyễn Thiếp xem đất để xây dựng Phượng Hoàng trung đô, Huệ có ý muốn bỏ kinh thành Phú Xuân để rời ra trông nom trực tiếp tất cả lãnh thổ Ðàng Ngoài.

Về Phú Xuân đầu tháng sáu, Huệ đưa Ngô thì Nhậm vào theo. Nhân dịp, Ngọc Hân đón nhũ mẫu cùng đi, đỡ cho những lúc một thân cô quạnh nơi tha phương. Thái úy Hưng lúc đó từ Gia Ðịnh ra cùng với Nguyễn Huy Tự để báo việc quân, và thay Tham xin với Huệ cho thêm lực lượng để chống giữ. Trước tình thế Ðàng Ngoài đang bị hai mươi vạn quân Thanh đe dọa, Huệ không xoay sở được, sai người vào cầu Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn trợ giúp. Tin rằng Huệ không chống nổi quân Thanh, Nhạc án binh, chủ ý sẽ tập kích sau lưng quân Phú Xuân khi lính Thanh đánh vào miền Bắc, đẩy biên giới mình kiểm soát đến sông Gianh rồi sau đó cầu hòa với Tôn Sĩ Nghị.

Thời gian đầy bất trắc đó cũng lại đúng đầu mùa gió chướng. Gió lắm khi dựng dậy, giần giật quay vòng, bốc tung bụi đất lên trời như thách thức với những đấng thần linh trong đám mây trắng trên cao sững sờ nhìn xuống.

Người lão bộc cúi đầu bước vào. Nhìn Trần Danh Kỷ, ông ta lầu bầu trong miệng :

- ... Hắn chỉ nói là cố nhân, có hẹn cách đây quá năm năm rồi mà không gặp.

Nhăn mặt, Kỷ bước ra. Hé cửa bên quan sát người khách lạ đứng trên thềm, nét phong sương vướng vất trên mái tóc đã chớm bạc búi ngược ra sau, Kỷ bỗng giạât mình. Ðẩy cửa, Kỷ nhìn chòng chọc vào mặt khách. Nhận ra vết sẹo đâm xuống chân mày, Kỷ hỏi, giọng ngập ngừng :

- Có phải là Trọng Thức ?

Khách gật đầu, miệng nhếch lên cười. Kỷ nắm lấy vai, lôi vào nhà, vui vẻ reo :

- Ðúng là hơn năm năm rồi ! Huynh đài già dặn đi, nhưng nhìn kỹ thì vẫn vậy. Dịp hội ngộ này ở Phú Xuân là
kỳ duyên. Có cả Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Huy Tự nữa.

Thức ngửng lên :

- Tự ở Trường Lưu, có phải không ?

Gật đầu, Kỷ đẩy cho Thức ngồi xuống trường kỷ, rồi gọi người nhà nấu nước pha trà.

Thức kể lại những ngày lênh đênh, xô giạt đến Thổ Châu với Nguyễn Ánh, rồi qua Pondichery với Bá đa Lộc và Hoàng tử Cảnh. Hồi tưởng lại không khí cách mạng háo hức mong đổi thay một thời đại, Thức nhắc đến Sieyès, đến Condorcet, đến câu lạc bộ Jacobin trên phố St-Honoré. Kỷ hỏi kỹ về cái Ðề ước Liên Minh ký kết giữa vua Louis XVI và Bá đa Lộc, người toàn quyền đại diện cho Ánh. Thức cặn kẽ phân tích cho Kỷ nghe về tình hình nước Pháp, và cho rằng dẫu có ký kết gì thì khả năng viễn chinh vẫn không có trên thực tế. Tuy nhiên, Thức vẫn cùng một số người tiến bộ lập mưu bắt Cảnh, rắp tâm gây ra một sự rùm beng bất lợi cho triều đình Louis XVI, cản mọi ý đồ xâm lược. Nhắc đến Hồ văn Nghị, Thức bâng khuâng:

- ... Trên cầu Nghị cứ bước, mặc cho Lộc la thét gọi lại, không sợ tôi nổ súng hại tính mạng Cảnh. Ông ta bình tĩnh nhìn như cầu khẩn « Cứ bắn, bắn đi ». Có lẽ lúc đó ông ta cũng sẵn sàng để tôi bắn chính ông ta chết, hầu gây ra sự rùm beng ép Louis XVI bỏ ý định ký Ðề ước ...

Ngưng nói, Thức nhắp một ngụm trà, tiếp :

- Lao mình xuống dòng sông Seine, tôi lặn xuống, triền người bơi đi về điểm hẹn đã định trước, hết hơi mới nhô lên thở rồi lại lặn xuống, tiếp tục ... Lên bộ, bạn bè người Pháp tức tốc đưa tôi vào một căn nhà ở ngoại thành Paris do Hầu Tước Condorcet đã sắp đặt trước, và hai ngày sau họ di chuyển tôi về miền nam. Ở cảng Marseille, tôi phải đợi hai tháng mới có chuyến tầu đi về Á Châu. Lênh đênh gần bốn tháng, tầu cặp
Hương Cảng. Ít lâu sau, tôi tìm được thuyền buôn đi Hội An, về đến nơi mới nửa tháng nay.

Kỷ nhìn Thức, giọng tiếc nuối :

- Huynh quả thật vất vả. Lỗi cũng ở tôi, tôi nào ngờ « người » ta chặn bắt huynh ở Qui Nhơn trước ngày Chính Bình Vương vào Gia Ðịnh, lại mưu giết bằng cách trói cho hổ vồ. May mà Chúa Út cứu kịp ...

Nhân tiện, Thức hỏi thăm về Chúa Út. Kỷ kể việc Toàn Nhật xưa đến Qui Nhơn tìm Thức, sau lại xung quân Tây Sơn và cùng Chúa Út theo Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ vào Gia Ðịnh. Tháng sáu năm ngoái, cả ba cùng về Qui Nhơn nhưng gặp « bọn giặc » phục kích trên đường, bị hỏa hổ đốt, mười phần chắc chết đến chín, vì sau đó chẳng ai nghe biết tin tức gì nữa. Kỷ cũng nhắc rằng Ðặng thị Mai vào tìm Thức một lần cách đây năm năm, hiện bế con về Thanh Hóa, chỗ trú ngụ chính xác thì phải về hỏi gia đình Nguyễn Thiếp trên trại Bùi Phong.

Thức bàng hoàng hỏi :

- Con trai hay con gái ?

- Trai. Năm nay cháu chắc lên sáu lên bẩy rồi !

Thức cắn răng, lòng ngổn ngang mừng vui lẫn thương xót, nước mắt rưng rưng. Phải chăng người em kết nghĩa của chàng là Toàn Nhật đã lìa cõi dương gian bấp bênh trắc trở này? Hình ảnh Nhật với chiếc cằm bạnh và hàm râu quai nón mới ngày nào trong dinh Khương Tả hầu ở Thăng Long lại hiện ra, sinh động. Nhưng cặp mắt ấy mới u uẩn làm sao !

Còn Mai, cuối cùng nàng thoát được kìm kẹp rồi lại cho chàng một đứa con trai. Lạy trời, thế là cả mẹ lẫn con đều sống. Nhưng tại sao nàng không về ở Bùi Phong với gia đình Nguyễn Thiếp, người chẳng những là chú, là thầy mà còn là dưỡng phụ của Thức ? Nàng ở đâu trong trấn Thanh Hóa, làm gì, và liệu có còn đợi chàng không ? Thức bồn chồn, nhìn Kỷ nói :

- Huynh giúp cho đệ về ngay Bùi Phong, có được không ? Từ đây ra Nghệ, đệ nghe rằng phải có phép, không tự tiện mà đi được !

-Quân Thanh đã vào sát biên giới phía bắc Ðàng Ngoài, sửa soạn xâm lăng ... Rồi thì ta sẽ cùng nhau đi, huynh đừng vội vã nóng lòng, sớm muộn một hai tháng nữa thôi.

Nghe Kỷ nói rằng chỉ dăm bữa nữa Ngô Thì Nhậm phải ra Ðàng Ngoài, Thức xin gặp Nhậm cho bằng được mặc dầu Kỷ có ý ngần ngừ, cứ dùng dằng khi nói có, khi nói không. Rốt cuộc, chính Nhậm đến tìm Thức. Nhậm lưng nay hơi gù, mớ tóc túm ra đằng sau đã ngả muối tiêu, lưỡng quyền nhô cao như che cặp mắt sáng long lanh ẩn sau một lớp lũy đắp gồ ghề xương thịt. Hai người nắm tay nhau. Một lát sau, Thức bùi ngùi :

- Ngô huynh già đi một chút, nhưng trông rắn rỏi lắm.

Sau câu chuyện hàn huyên, hai người đề cập đến thế sự. Nhậm chua xót :

- Ta ra Phú Xuân, dẫu Chính Bình Vương bảo với quần thần rằng ta là môn khách, nhưng vẫn có kẻ diễu cợt ta là loại hàng thần lơ láo. Mỉm cười, Nhậm tiếp - Nhưng kẻ sĩ xưa nay chỉ có hai lối, xuất hay xử. Xuất, ta đâu có vì cái chức Tả bộ thị lang của một guồng máy non choẹt đến nay vẫn còn cố xoay sở tìm cho có chính danh. Ta xuất, vì quân Thanh sẽ vào lãnh thổ, mang tiếng phù Lê để xâm lăng. Chúng lại quên rằng « Nam quốc sơn hà nam đế cư. Tuyệt nhiên định mệnh tại thiên thư » rồi. Khi Chiêu Thống đi cầu viện nhà Thanh thì chẳng phải riêng ta mà bọn Ích, Tốn, Lãm ... cũng bỏ Lê theo Tây Sơn. Ngay La Sơn Phu tử cũng đành thế, ai nấy đều biết nhà Lê đến đây là tuyệt. Ngay nhà Mạc, vào lúc quẫn cùng nhất, cũng chưa bao giờ làm cái việc « cõng rắn cắn gà nhà » như Chiêu Thống, thì hỏi cái Ðế nghiệp ba bốn trăm năm nhà Lê giao vào tay một đứa bé bất nhất đó nay có còn gì ?

Thức trầm ngâm :

- Nhưng liệu Tây Sơn có chống được bọn xâm lăng không ?

- Chống được. Vấn đề là trong bao lâu, thế thôi! Nếu quân Thanh vào từng bước, dùng lối sâu gốc bền rễ thì năm, mười năm. Nếu chúng ồ ạt, thì một vài tháng. Bề nào, chúng cũng tạo chính danh cho Tây Sơn khi lấn qua biên giới Ðại Việt. Ðức Lê Thái Tổ xưa dựng đế nghiệp khi quân Minh vào nước ta cũng vậy ...

Bỗng Nhậm nhìn vào mắt Thức, chậm rãi hỏi :

- Ðệ phiêu dạt mấy năm nay mới về, đi xa nhìn rộng, liệu có định mang cái biết của mình giúp đời lúc này không ?

Thức không trả lời, hỏi lại :

- Huệ là người thế nào ?

- Ông ta là một thiên tài về mặt quân sự. Thời chiến, ông ta là con giao long trong nước, vẫy vùng mặc sức.

Thức nhăn mặt :

- Thời chiến nếu phải có cũng không thể cứ mãi mãi. Thế thời bình ông ta ra sao ?

Nhậm lắc đầu, trầm ngâm :

- Trước mắt, là thời chiến, ở Ðàng Ngoài cũng như sau này ở Ðàng Trong. Sau, thời bình thì không còn chỉ tùy thuộc ở một mình ông ấy nữa. Thời đó tùy cái thế hệ sau ta gầy dựng nên. Nhậm nhìn ra xa, tiếp - Ông ta có nói chung quanh ông đều là bọn võ tướng quen sự mạnh bạo, đẩy ra phiên trấn là phên là dậu. Nhưng ông thiếu kèo, thiếu cột để xây rường mối, cần văn quan có tâm có tài. La Sơn phu tử dùng dằng mãi không nhận giúp, đến thế này rồi cũng sẽ xiêu. Nguyễn Huy Tự vừa từ Gia Ðịnh vào, chắc chắn sẽ góp một tay. Thêm vào, có Trần Danh Kỷ và đám Bùi Ðắc Tuyên. Họ đều là người Ðàng Trong nhưng chia ra thành phe thành cánh. Tuyên là phe Phạm hoàng hậu, đã dấy lên cùng Tây Sơn từ lúc khởi nghiệp. Kỷ có đỗ đạt, chỉ đến khi Nhạc xưng là Thái Ðức mới theo, mà lại phò Nguyễn Huệ. Vì Kỷ cần Nguyễn Thiếp, tìm ta, tìm Tự và tìm cả đệ để lôi kéo vào nên Tuyên rất ghét, ngấm ngầm canh chừng. Kỷ nay có một kẻ đồng minh là Tư khấu Dũng, họ ngoại của anh em Tây Sơn, người Ðàng Ngoài, thế mỗi lúc một vững. Gần đây, Kỷ cũng bắt đầu sợ mình mất ảnh hưởng với Huệ, dùng cái địa vị Trung thư lệnh không cho mọi người tự do gần gũi Huệ.

- Huệ có biết không ?

- Biết. Và Huệ tản quyền Kỷ bằng cách dùng ngay Bắc cung hoàng hậu Lê ngọc Hân trong những việc thảo chiếu, biểu ... Ta nói để đệ biết mà cư xử. Dĩ nhiên, ta mong đệ đồng thuận để cùng nhau tìm cách xây lại cương thường !

Ngần ngừ một lát, Thức chân thành nói :

- Ðệ cám ơn Ngô huynh. Nhưng quan niệm về một nền cương thường của đệ dã có những thay đổi không nhỏ. Nói gọn, « ý dân là ý trời », và vì vậy thiên mệnh chính là thể hiện của dân ý…

Nhậm gật gù, lẳng lặng nghe Thức trình bày về những tư tưởng làm nước Pháp đang sôi sục sửa soạn một cuộc vần xoay vĩ đại. Nghe xong, Nhậm thân mật vỗ vai Thức, nhỏ nhẹ :

- Mười năm nay, ta mới lại được nghe những tư tưởng vàng ngọc. Xã hội Ðại Việt có những giới hạn đặc thù của nó về kinh tế, lịch sử và văn hóa. Tất nhiên xã hội này có cưu mang nổi những tư tưởng mới mẻ trên để biến nó thành hiện thực hay không là một vấn đề phải đào sâu. Ta tạm khất, lần sau sẽ thảo luận. Ðệ đi tìm Huy Tự đi. Tự có một số suy nghĩ về tương quan giữa kinh tế và tổ chức chính trị rất đặc biệt. Ta cũng khất hắn, ngày nào giữ vững được cõi bờ phía bắc, ta mới có thể vào cùng hai vị động não trên những vấn đề quan thiết đó. Nhưng ta chỉ dặn đệ một điều : kẻ hiểu đệ nếu có một thì số người không hiểu cả trăm cả ngàn. Số người không hiểu có thể là bạn, là thầy, là anh em ... Vậy đệ cẩn trọng.

Hai người từ giã nhau buổi tối trước khi Nhậm lên đường. Thức chỉ nói, giọng buồn bã :

- Trên đường ra Ðàng Ngoài, Ngô huynh nhắn lên trại Bùi Phong là Thức còn sống, và xin cho đi tìm Mai bảo rằng ngày đoàn tụ hẳn không còn xa lắm.

Lên đến đầu dốc, Tự ngừng chân đợi Thức. Lau mồ hôi trên trán, Tự nhìn xuống ven sông Hương, nói nho nhỏ :

- Hồi Toàn Nhật ở đây, thỉnh thoảng hai anh em lên đây đứng ngắm sông cả buổi. Ai ngờ được rằng sau cái tướng tá võ biền, bộ râu quai nón và ba đường kiếm chiêu hồn, Nhật thật sự lại là một nghệ sĩ !

Thức bâng quơ :

- Mà thế nào là nghệ sĩ ?

- Là kẻ sống thực tại không chỉ bằng ý thức mà còn bằng cả một thứ vô thức vượt bỏ mọi lý lẽ. Khối vô thức ươm hạt mầm đợi đúng dịp sẽ nẩy nở ra cái toàn mỹ, toàn hạnh ..

Giòng sông lặng lờ chuyển sang màu xanh tím dưới ánh tà dương. Một giọng hò từ con đò lênh đênh trên bờ nước vẳng lại như than khóc. Tiếng ngân trong không quyện vào nhau, xếp những nỗi đớn đau, nỗi nọ đè lên nỗi kia, nặng nề, lê thê trong gió chiều. Tự ngậm ngùi :

- Hò này là « hò mái nhì », nhịp hai, ăn với nhịp mái chèo khi đò trôi. Huynh có nghe ra không ?

Thức lắng tai :

« Thuyền từ Ðông Ba, thuyền qua Ðập Ðá

thuyền về Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình

Lờ đờ bóng ngả trăng chênh

Giọng hò xa vọng, nhắn tình nước non.

Bên phú Văn Lâu,

ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm

Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông

thuyền ai thấp thoáng ven sông

Ðưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non ... »

Thức thở dài. Ðột nhiên, Thức hỏi :

- Huynh có nghĩ là Nhật chết rồi không ?

Lòng Thức như cánh chim run rẩy, nhìn chỉ mong Tự lắc đầu, mặc dầu Thức biết đó cũng là một sự dự đoán không có căn cứ đúng sai nào thỏa đáng. Tự im lặng. Lát sau, Tự nói, giọng đanh lại :

- Sống chết ở ngoài ta. Cho sống hay bắt chết, ta nào định được. Huynh cứ tự trói mãi ở trong vòng dây tình lụy đó mãi sao? Với ta, dẫu thế nào thì Nhật vẫn đó. Thế nghĩa là Nhật sống « trong » ta. Ðể ta kể cho huynh nghe việc Nhật không nghe lệnh Nguyễn Huệ, giúp Lữ tránh cho Huệ cái án « giết vua, giết anh ».

Giọng Tự chậm rãi, không cao không thấp, nhắc lại vai trò của Nhật trong thế dàn quân khiến Huệ không thể tiến lên thanh toán Nhạc, nhưng cũng không để Nhạc nhân cơ hội đánh ngược lại Huệ. Tự kết luận :

- Nhật làm thế vì Nhật tin là Huệ có khả năng tạo ra một kỷ nguyên mới. Ðể Huệ vấy máu Nhạc, là mặc cho Huệ tự kết thúc sự nghiệp đó. Ta cũng vậy, và vì thế mới có mặt ở đây hôm nay ...

Thức ngỡ ngàng, đầu như bốc lửa giữa muôn vàn câu hỏi. Một kỷ nguyên mới ? Một thời đại mới ? Thức bồn chồn :

- Huynh nói cho đệ, Huệ định gì để tạo ra một kỷ nguyên mới ?

Nhìn ra mặt sông, dăm ngọn đèn chài ai đốt lên đã loáng thoáng từ ngã Ðông Ba hắt lên vàng vọt, ánh xuống nước thành những giải sáng lấp lánh ẩn hiện. Tự nói như nói thầm :

- Cái cũ thì rõ rồi. Hơn trăm năm nội chiến trên một mảnh đất cằn cỗi với một lượng người sinh đẻ càng lúc càng đông. Con đường Nam tiến gần xong, nhưng ta lại mang cái xã hội cũ ở Ðàng Ngoài vào áp đặt lên Ðàng Trong, sớm muộn cũng sẽ rơi vào những giới hạn và mâu thuẫn cũ. Và thế là lại sẽ bế tắc. Không năm mươi thì một trăm năm nữa, vẫn vậy : hết đời nay qua đời kia, lịch sử là sự cướp bóc giành giựt quyền lực và tiền tài giữa những bạo chúa trên xương máu đám nông dân thuần hòa như gia súc trong chuồng...

Tự nhìn lên trời sao, giọng bỗng cứng cỏi :

- Bây giờ cái cũ, nó phải đối mặt với thương thuyền đến từ Tây dương, với đám thương nhân ngày một mạnh, với tầm nhìn vượt qua sự tự cung tự cấp của một xã hội nông nghiệp. Quan trọng hơn hết là cái mới. Nó đến như thế nào ? Dĩ nhiên, nó « có mặt » qua thuốc súng Tây dương, đại pháo, súng tay, khinh khí cầu. Ta mua ta dùng, ta xuýt xoa là tốt, là đẹp. Vậy là ta chấp nhận những kẻ tạo ra những mặt hàng kia có cái gì đấy « khác » ta, và thậm chí « hơn » ta ở những mặt hàng ấy. Tự nhiên, ta cũng muốn « làm » như vậy. Làm được, nhưng thế là đồng thời tiếp thu được cách nhìn, cách nghĩ, và những giá trị mới. Sự đổi mới đó tất có ý nghĩa tổng hợp và toàn diện. Nó không phải chỉ đơn giản là làm ra mặt hàng giống người ta. Trò đó chỉ là sự bắt chước của loài khỉ. Khỉ bắt chước người vẫn là khỉ, chưa phải là người. Cách nhìn và nghĩ là nền tảng cho phép đi xa hơn sự bắt chước. Ðổi mới là một vấn đề văn hóa, trong đó kinh tế chỉ là một mặt, và là mặt sơn. « Tốt gỗ hơn tốt nước sơn ... ». Kỷ nguyên tới tùy thuộc sự đổi mới đó.

Thức chăm chú nghe Tự nói. Chàng ngẫm lại lời Xuân Quận công khi luận về danh sĩ Bắc Hà : « ... về đạo hạnh, có Nguyễn Thiếp ở La Sơn. Còn văn tự, thì là Oánh. Duy thiếu niên đa tài đa năng thì chỉ có riêng một Nguyễn Huy Tự làng Trường Lưu thôi ».

Thức bước theo Tự. Ðẩy cửa, họ bước vào một căn nhà đã lên đèn. Trên sàn, dăm chiếc bàn kê dọc xung quanh có xếp những cái ghế đẫu làm bằng gỗ mộc. Tự kéo Thức ngồi, bảo :

- Quán cơm này gọi là quán Âm Phủ. Cơm hến ở đây tuyệt diệu. Ta có thể ngồi cả đêm nói chuyện với ma quỉ. Huynh vẫn chưa nói gì cho ta nghe về chuyến phiêu dạt qua Pháp quốc ...

Thức chưa kịp trả lời, tai nghe văng vẳng hai tiếng hò tức tưởi dài dằng dặc :

« Một vũng nước trong, mười dòng nước đục

Một trăm người tục, chưa được một người thanh

Ai đâu tâm sự như mình

Mua tơ thêu lấy bóng Bình nguyên quân

Con chim chuồn nhởn nhơ trên mặt nước

Tiếng ve ve vang vang khắp một phương trời

Lòng vòng dại lắm ai ơi !

Còng lưng xe cát sóng dồi lại tan ... »

Nhìn xuống sân thành, du binh xếp thành đội ngũ đứng im phăng phắc, gươm giáo sáng lòe dưới ánh mặt trời. Theo tiếng trống trận, du binh tiến ra theo thế chữ nhất, cờ đỏ buộc trên đầu kích phất phới bay, chân thình thịch nhịp vào lòng đất đang rung chuyển cùng lòng người. Tiếng Huệ sang sảng như chuông đồng cất lên :

«... trong vũ trụ, đất nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương nam phương bắc chia nhau mà cai trị. Người phương bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác ... Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa ... Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các người đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để xây dựng lên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ biï giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo rằng ta không nói trước ! ».

Tiếng dạ vang rền, sau đó là tiếng quân hô, và tiếng trống lại từng hồi thúc lên hăm hở và hung hãn. Thức nhìn đội du binh cuối cùng ra khỏi cửa thành, rồi quay vào ngồi. Thình lình, cửa chính mở ra, một người bước vào chân đi như có gió cuốn, theo sau là Trần Danh Kỷ. Thức đoán, đứng dậy khom lưng :

- Hạ dân Nguyễn Trọng Thức xin kính chào Vương thượng !

Huệ phất tay, tươi cười :

- Thôi thôi, thầy ngồi xuống đi. Quay nhìn về phía sau, Huệ kêu - Cho ta miếng nước, ta nói đến khô cổ rồi. Nào, bây giờ thì ta nghe thôi, không nói nữa !

Nhìn Thức, Huệ nháy mắt :

- Thầy nói đi. Ðến lượt thầy.

- ...

Kỷ chen vào, đỡ lời Thức :

- Trình Vương thượng, đây là Nguyễn Trọng Thức, người vào Qui Nhơn năm Quí Mão để cùng đại quân đánh Gia Ðịnh. Nhưng chẳng may ...

Huệ ngắt lời, nhìn Kỷ :

- ... Ta biết, ta biết. Thức lạc vào đám tàn quân tên Chủng, ra Thổ châu rồi lưu lạc đến Pháp-lan-Tây, ông đã nói ta nghe rồi.

Quay sang Thức, Huệ đưa tay lên như mời, mồm nói :

- Thầy về Phú Xuân này, hẳn đã thấy là Tây Sơn đang thi hành sách « tận xuất vi binh » để đối phó với họa quân Thanh xâm lăng Ðàng Ngoài. Ta sẽ thắng hay thua ?

- Vương thượng thắng.

- Tại sao ?

- Vì Vương làm đúng ý hàng dân. Cả hai miền Nam Bắc, hàng dân một lòng sẽ chỉ có thể thắng, thua làm sao được !

Nhướng mắt, Huệ ngắt :

- Không có ta, hàng dân cũng thắng được à ?

- Cũng thắng, nhưng chắc lâu hơn. Cuối cùng vẫn thắng.

- Vậy có Huệ hay không, chỉ là mau hay chậm mà thôi ư ?

- Dạ. Nhưng mau, thì dân đen đỡ khổ. Ðó là hồng phúc, không phải đời nào cũng có. Cái chính là làm dân đỡ khổ ...

Huệ đứng lên, lẳng lặng ra đứng bên rèm cửa nhìn xuống. Lúc này, Huệ mất hẳn vẻ bỡn cợt, mắt đăm đăm, mũi phập phồng làm những cơ bắp trên khuôn mặt co lại cứng ngắc như kim loại.

Quay vào, Huệ nhìn Kỷ, rồi nhìn Thức, nét căng thẳng làm da mặt sần sùi kéo lên thành gò đống. Huệ chợt hỏi :

- Thầy nói vậy, nhưng cái lý ở đâu ?

Thức nhỏ nhẹ :

- Bẩm Vương thượng, giả như chỉ ngài đánh quân Thanh mà không ai nghe hiệu lệnh, chắc là không đánh được. Ngài gọi một tiếng, quân dân Trong, Ngoài đều thuận lòng ào lên theo. Theo vì hai lẽ, một là Nam Bắc xưa vẫn nước nào biên cương ấy, gương tiền nhân như Trần Hưng Ðạo, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ đã in vào gan mật hàng dân. Hai là đến nay ngoài Vương thượng thì có ai lúc này để hàng dân tin vào chiến thắng ? Thiếu lòng tin đó, lại phải đợi sự xuất hiện của một người khác hội tụ đủ những yếu tố mà Vương thượng đang có, và vì thế mới chậm đi vài năm.

- Không có Huệ này, thì sẽ có Huệ khác sao ?

Thức gật đầu, tiếp :

- Xưa tôi ở Kinh bị tù trong vụ án năm Canh Tý, gặp được Dương Quang là thủ hạ của Quận He Nguyễn Hữu Cầu. Quang kể đã đến ven Thăng Long và chỉ tiến quân vào là chiếm được. Cầu ngừng quân không tiến. Quang hỏi, Cầu đáp « Ta không muốn làm Vua. Làm Vua bây giờ phải làm gì ? Ta không muốn làm Chúa. Làm Chúa bây giờ người ta chửi cho ! ». Quân rút đi, lúc ấy Quang mới bảo nếu Nguyễn Hữu Cầu làm Vua thì Quang chỉ xin đi đắp đê sông Nhị để hàng năm đỡ lụt lội, cứu mùa màng cho dân. Cầu mắng tại sao vào lúc chiếm Thăng Long dễ như trở bàn tay Quang lại không nói ngay.

Ngừng nói, Thức nhìn vào mắt Huệ, chậm rãi :

- Thưa Vương thượng, ngài đừng đợi đến lúc làm Vua rồi mới hỏi làm Vua để làm gì. Ðó là ý của kẻ hạ dân này, xin tâu lên để ngài rõ.

Nghe Thức nói, Huệ mường tượng ra Nguyễn Hữu Cầu, người cậu ruột đất Hải Dương đã một thời vùng vẫy dọc ngang theo lời kể của Nguyễn-bà. Huệ bỗng nhác thấy bóng giáo Hiến qua hình ảnh Thức, với cái cung cách của một ông đồ giảng đạo nghĩa. Nhưng đạo nghĩa của Thức hình như có khác với những câu Huệ đã từng nghe ở cửa miệng đám quì gối ở cửa Khổng sân Trình. Huệ bất giác nhếch miệng lên cười, hỏi lại :

- Sao thầy biết ta sẽ làm Vua ? Và muốn biết cái phải làm gì khi làm Vua thì làm sao biết được ?

Thức cúi đầu đáp:

- Muốn biết, phải thử sống một cuộc sống bình thường, từ đó mới thấm được niềm hạnh phúc của những kẻ bình thường, thưa Vương thượng !

Huệ tái mặt, bụng bỗng như hụt hẫng, để mặc cho một nỗi cay đắng tưởng như đã nguội lạnh lại trào lên tựa nước âm ỉ nóng bỗng sôi lên sùng sục. Văng vẳng đâu đó lời nói của An, người đàn bà ám ảnh Huệ vào những lúc phải làm những quyết định về hạnh phúc ở đời. Huệ bỗng nhiên thèm được lui vào một mình một chốn. Ðó là cách Huệ để cho quá khứ nguyên vẹn trở lại cõi tâm tư. Nó có lúc hệt như khi Huệ câu được cá, rồi trái với thói quen, động lòng trả nó về lại với dòng sông Côn trong mùa lũ tuồn tuột trôi xuống hạ nguồn.

Cắn răng, Huệ đứng dậy bước ra. Không nhìn Thức, Huệ nói với lại :

- Thầy thảo cho ta một tờ chiếu lên ngôi. Ta lấy hiệu là Quang Trung. Viết sẵn, khi ta lên làm Vua, biết
đâu ta sẽ dùng ...

Ðến bậc cửa, Huệ ngưng bước, quay lại :

- ... và chớ quên là viết rõ cả điều Vua phải làm gì nhé. Ðừng có phụ lòng ta !

Trái với thói thường, giọng Huệ lần này không có vẻ gì là châm biếm mà lại có phần nghiêm trọng.

Quân Thanh xuất phát vào cuối tháng mười năm Mậu Thân. Gồm ba đạo từ Vân Nam, Long Châu và Quảng Ðông - Quảng Tây kéo sang uy hiếp Tuyên Quang, Cao Bằng và Lạng Sơn, số lượng quân bộ trên hai mươi vạn, không kể gần hai vạn lính « cần vương » do cựu thần nhà Lê tập hợp lại làm nhiệm vụ tiên phong. Lập tức, Tây Sơn cử một phái đoàn gồm quan lại cũ của nhà Lê đem bức thư ký tên Giám quốc Lê Duy cẩn và một tờ bẩm văn của hào mục Bắc hà lên biên ải dâng cho Tôn Sĩ Nghị, nguyên soái đại quân Thanh, xin nghị hòa để làm thế hoãn binh.

Ngô văn Sở gọi đám tướng lĩnh về hội bàn tìm cách chống giặc. Nhìn Ngô thì Nhậm, Sở nói, giọng diễu cợt :

- Phiền ông làm một bài thơ để đuổi quân giặc. Nếu giặc không chạy, thì túi đao bao kiếm vẫn là phận sự của lũ võ biền chúng tôi.

Nhậm nghiêm nghị :

- Tướng quân nói đúng một nửa, sai một nửa ...

Sở hềnh hềnh hệch cười :

- Xin nói cho tôi rõ cái phần sai.

- Ðánh giặc phải dụng lực và dụng mưu. Lực từ tay chân, gươm giáo. Mưu từ đầu óc, tầm nhìn. Vì thế, văn võ chẳng qua là hai mặt một đồng tiền, có cái này tất có cái kia. Bỏ đi một mặt là hỏng ...

Sở thót bụng, nhìn Nhậm nghiêng mình rồi mời ngồi. Quân Tây Sơn khi ấy chỉ non một vạn, nhưng nửa số tướng lĩnh vẫn đòi đánh. Có kẻ nói :

- Lấy nghỉ đánh mệt, lấy gần đánh xa, lo gì không thắng !

Nhậm bình tĩnh hỏi :

- Tướng quân chắc biết quân Thanh cứ năm mươi dặm lại lập ra một đồn lương. Ðại quân chúng vừa đi, vừa phá rừng xẻ đường, phạt bụi phát cỏ. Chúng lại đẩy cho tàn quân nhà Lê ra trận địa, cứ từ từ, đợi phía sau, xem có cần mới xuất chiến. Vậy sao gọi là chúng mệt được ? Lại xem tám điều quân luật của chúng, biết chúng đã sửa soạn kỹ lưỡng. Ðiều một, chúng viết : « Ðại binh ra ải, vốn để dẹp giặc an dân. Hễ qua các nơi đều phải nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi, không được quấy nhiễu nhân dân, cướp bóc chợ búa ». Rõ thế là chúng tính kế lâu dài, chiếm lòng người để rồi chiếm đất đai, lại mưu việc sát nhập Bắc hà thành quận huyện. Còn lòng người nay ra sao ? Kẻ làm nội ứng cho giặc phao tin khiến tiếng tăm thanh thế chúng to thêm hầu lòng người sợ hãi lay động. Quân ta sai phái đi đâu, vừa ra khỏi thành là đã bị bắt giết. Số người Bắc hà thuộc sổ quân, cứ sơ hở ra là bỏ trốn !

Ngưng lại, Nhậm nhìn Sở, rồi tiếp :

- ... đem quân ấy đi đánh thì như xua dê vào miệng cọp. Ðem quân ấy giữ thành, thật chẳng khác bỏ một con chạch vào giỏ cua. Rốt cuộc, đánh chẳng được mà giữ cũng không xong. Cả hai chước đánh và giữ đều không phải là kế hay.

Bọn tướng lĩnh nhao nhao lên, có kẻ đứng dậy mạnh bạo :

- Ðánh. Tuần vừa rồi, dân kháo là Rùa thần đã nổi lên mặt hồ Thủy Quân, bơi vòng vòng một ngày một đêm rồi mới lặn đi. Ðó là điềm thắng.

Sở đưa tay chận lại, quay về phía Nhậm hỏi :

- Thế kế nào là kế hay ?

- Như đánh cờ, chịu thua nước trước để ăn nước sau là tay cao cờ. Ðánh giặc cũng vậy, tùy tình thế mà làm, lường thế giặc để hễ đánh là chắc thắng. Tôi thiết nghĩ : truyền cho thủy binh chở thuyền lương thuận buồm ra vùng Biện Sơn mà lánh. Quân bộ thì lui về giữ núi Tam Ðiệp, hai mặt thủy bộ liên lạc chiếm đóng nơi hiểm yếu, rồi cho người về bẩm Chúa công, chờ đại binh ra. Lúc ấy, quyết chiến cũng chưa muộn. Nay ta bảo toàn lấy quân lực, không bỏ mất một mũi tên, một hòn đạn. Cứ cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, đâu mất mát gì ...

Chưởng cơ Nguyễn Văn Dụng đứng lên, miệng chậm rãi :

- Quan Tả bộ thị lang nói thế dễ, nhưng bọn võ tướng chúng tôi thấy giặc mà chạy là mang tội quân, ai chịu cho đây.

Nhậm rõng rạc :

- Việc này, một mình Nhậm xin cáng tội, không ai phải lo gì nữa.

Lúc ấy, mọi người mới đồng lòng, chỉ rải du binh ra tập kích, cản việc bắc cầu qua sông của quân Thanh. Phan Văn Lân xin mang một ngàn tinh binh đi thử lửa ở sông Thị Cầu, mưu đánh thẳng vào núi Tam Tằng là đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị. Ðồng thời, Sở gọi quân từ Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn về đắp lũy sông Như Nguyệt nhưng tình thực là bí mật rút về Thăng Long. Trấn Hải Dương và Sơn Tây mang quân về hội, trong khi đó tiền quân của giặc đã tiến tới Phượng Nhãn. Lân giữ bờ nam sông Thị Cầu, chặt hết cầu, cho đặt đại bác bắn phá khiến quân Thanh không tiến lên được. Qua khúc sông Như Nguyệt vừa hẹp vừa nông, Lân tập kích Tam Tằng. Khi đó một cánh quân Thanh đã sang bờ nam đốt đồn Thị Cầu. Thấy lửa cháy, Lân biết không thể giao chiến lâu, thu quân về xuôi, làm lực lượng cản hậu cho toàn thể bộ binh trên đường rút về Tam Ðiệp. Tây Sơn giải quân thành một chiến tuyến chạy dài suốt từ ven núi Tam Ðiệp cho đến bờ biển Biệân Sơn, nơi tướng Ðặng Văn Chân mang thủy binh về hợp với quân Sơn Nam đóng đồn phòng thủ.

Biết Sở rút quân, Lê Chiêu Thống sai các tướng của mình đến chiếm đóng, chỉ giữ một nghìn lính túc vệ và đi về Kinh Bắc. Ðược tin, Tôn sĩ Nghị quở bọn quan nhà Lê : « Sao mà nhu nhược để chúng chạy trốn một cách rảnh rang ? Ðại binh đã đến, các người vẫn tuyệt nhiên không nên cơm cháo gì ! Như thế, gọi là nước có người được chăng ? ». Nghị nghênh ngang đem quân thẳng từ Tam Tằng xuống Thăng Long. Qua Kinh Bắc, Chiêu Thống mang quần thần ra đón, rồi theo sau. Nghị cho quân đóng trên hai triền sông Nhị, lập bản doanh ở cung Tây Long. Ðội quân « nghĩa dũng » của Sầm Nghi Ðống được lệnh đóng ở Khương Thụy bảo vệ mặt đông bắc Thăng Long, trong khi đó cánh quân Vân Nam do Ô Mã Kính thống lãnh vào đóng ở Sơn Tây. Như vậy, từ khi Nghị xuất quân đến lúc vào Thăng Long vào ngày hai mươi tháng mười một, thời gian tất cả là hai mươi hai ngày. Khi Vua Càn Long nhà Thanh nghe tin, tướng sĩ đều được thăng quan tước và Nghị được phong là Mưu dũng công. Hắn quả quyết : « Quân giặc chỉ như hạng trâu dê, sai một người đem thừng buộc lấy cổ lôi về, hẳn cũng không khó gì. Ðợi quân ta vào Thăng Long rồi nhổ nước bọt xoa tay là làm xong việc ».

Ðêm đầu ngủ ở Tây Long, Nghị nằm mơ thấy một vị thần mặt đỏ như son hiện ra quát : « ... Lại mày, thằng ăn cướp ». Hôm sau, hàng dân ở trong nội thành kháo rằng Rùa thần nghiến răng ken két cả đêm, nhưng không ai thấy bóng dáng Rùa đâu cả.

Ngồi sau lưng Huệ, Hân liếc mắt nhìn xuống đám bề tôi đang chăm chú đọc « Chiếu lên ngôi » đã sao ra làm bốn bản. Chính Hân là người đã du hợp ý kiến để tu bổ cho bản gốc do Ngô Thì Nhậm thảo ra cách đây hai tháng. Viết đi viết lại cho đến khi ưng ý, Huệ mới gọi Danh Kỷ, Bùi Ðắc Tuyên, Thức và Tự vào để tham khảo một lần cuối. Huệ lên tiếng :

- Quân thám báo cho biết hôm qua Tôn Sĩ Nghị đã vào Thăng Long. Các vị có buổi hôm nay để bàn thêm. Lễ đăng quang ta định là ngày mai, rồi ta sẽ lên đường đánh giặc. Nào, các vị nói đi. Mời Thái sư ...

Một ông lão sấp sỉ tuổi bảy mươi chống gậy bằng gỗ mun đỏ sậm chậm rãi đứng dậy, rồi khom người, giọng
run run thưa :

- Kính tâu Vương thượng, thần xưa nay chưa được tham khảo nhiều chiếu biểu có tầm quan trọng, nên không dám mạo muội nói liều. Xin để quan Trung Thư nói trước ...

Huệ cười khẩy, nhìn Danh Kỷ, chờ đợi :

- Trình Vương thượng, « Chiếu lên ngôi » là việc hệ trọng mở ra một triều đại, chẳng chỉ do người mà chính là do trời định. Ðiều này là gốc, sách vở thánh hiền đã lập thành khuôn mẫu. Chiếu có nhắc chuyện phù Lê- diệt Trịnh, rồi trách Lê tự quân ăn ở vô ân bạc nghĩa, bỏ nước bôn vong, nhưng không đã động đến nhà cựu Nguyễn. Thần thiển nghĩ: Tên Ánh vừa rồi sai mang năm mươi thuyền lương đến cống Tôn Sĩ Nghị, vỗ tay reo mừng kẻ xâm lăng. Sao ta không phô trương việc lên ngôi là để giữ gìn bờ cõi ? Ðó là một mũi tên bắn cả hai, một đằng là Lê, đằng kia là Nguyễn, kẻ cõng rắn vào chuồng gà, người lo đút cho rắn ăn ...

Bất ngờ, Ngọc Hân lên tiếng :

- Quan Trung Thư đọc kỹ, chiếu có viết : « Về phần đại huynh có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phần Qui
Nhơn, tự nhún xưng là Tây Vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc hết về trẫm ». Câu cuối, nghĩa là bây giờ không còn có gì gọi là nhà cựu Nguyễn nữa.

Nguyễn huy Tự cúi đầu, mắt khẽ ngước nhìn Huệ. Tại sao Huệ mãi lúng túng về vấn đề chính danh? Tại sao không dùng ngay việc chống xâm lăng để xóa bỏ danh nghĩa cả vua Lê lẫn chúa Trịnh như Danh Kỷ vừa bàn ? Tại sao không ỉm đi cái vị « Vua anh » thực ra cũng không có hậu thuẫn gì của nhân dân, ngoài cái phủ Qui Nhơn cỏn con ? Trong khi đó, vừa từ Gia Ðịnh về, Tự thừa biết là Ánh không phải tay vừa. Khi gặp Huệ lúc vừa chân ướt chân ráo đến Phú Xuân, Tự đã thưa : « Vương công ! Kẻ bị Vương đánh ngã ba, bốn lần mà vẫn cứ đứng dậy, lại còn kéo thêm được người vào chống lại Vương công, tất không phải là đứa tầm thường ». Tự nhớ Huệ cắn môi, rồi trầm ngâm : « Lo việc Bắc hà là phải lo đầu, làm sao lo cho nhanh để còn quay về đối phó với hắn. Ta cũng biết vậy, nhưng không có cách nào làm hơn. » Có lẽ «Chiếu lên ngôi» không đả động đến nhà Lê là vì bàn tay Ngọc Hân. Nhưng Ngô thì Nhậm thừa sắc bén để chẳng những kể Ánh đưa thuyền lương vào tiếp tay quân Thanh xâm lăng, mà còn gợi cả chuyện Ánh đã đẩy hai vạn quân Xiêm vào Gia Ðịnh và ký Ðề ước Liên Minh bán đất đai và quyền tự chủ cho nước Pháp. Sao lại thiếu đi những luận điểm này trong tờ chiếu ?

Huệ im lìm, mặt sắt lại, trừng trừng nhìn trước mặt như không có ai. Bỗng nhiên, Huệ gằn giọng :

- Ta ra đánh quân Thanh, các thầy ước lượng bao nhiêu ngày nữa ta mới về lại Phú Xuân ? Nếu là hai tháng, Nguyễn Ánh không làm gì được. Nếu lâu hơn, nó đánh thì ai giữ được Phú Xuân ? Ta kể tội nó, tất nó phải đánh ngay. Lờ đi, lỡ mà không chiến thắng quân Thanh ngay, ta giữ khả năng chủ hòa, phong Vương rồi tạm giao cho nó đất từ Bình Thuận - Phú Yên trở ra. Các thầy đã hiểu chưa ? Còn nhà Lê, ta nói thêm nữa thì hơn gì ? Chuyện đã rành rành, nói ra chỉ bất lợi cho mấy đứa con ta mà nửa dòng máu là máu họ Lê đó !

Danh Kỷ cúi đầu không nói gì. Bùi Ðắc Tuyên chắp tay vái, miệng trọ trẹ :

- Bẩm Vương thượng ! Vương nói ra, nên mọi việc đều rõ sáng như gương, Tuyên tôi muôn vàn cảm phục, không có ý gì thêm ...

Trọng Thức hắng giọng, vết sẹo đâm xuống chân mày giựt lên, rập đầu nói lớn :

- Làm Vua để làm gì ? Chiếu bảo là để dẹp loạn, mang lại một thời thái bình thịnh trị như thời tam vương ngũ đế cho toàn dân. Trình Vương thượng, thời đó đã xưa cả ba nghìn năm nay. Có thể nào lấy quá khứ để làm mốc cho tương lai không ? Phải chăng ta đang lập lại lối nói sáo mòn của bọn hủ lậu.

Tự đoán Huệ sẽ nổi trận lôi đình. Lạ thay, Huệ chỉ nhìn Thức với cặp mắt buồn bã, nói như thở than với Thức :

- Thầy biết, chỉ có một câu là thực bụng ta vì do tay ta viết : « ... trẫm sẽ dùng xiêm thêu hài đỏ ngao du làm vui mà thôi ». Còn ngoài ra, láo toét hết. Làm Vua để làm gì ? Từ ngày nghe thầy hỏi, ta nghĩ cũng nhiều. Thầy viết chiếu lên ngôi cho ta, ta đọc xong, về câu hỏi làm gì thì ta gần như đồng tâm với thầy đến tám phần mười. Duy có hai phần, ta chưa chịu. Một là thời gian, lúc này nói ra như thầy nói, ai biết, ai nghe ? Hai là nhân sự, nói như thầy thì có ai là người cộng tác với ta, cả quan văn lẫn quan võ ? Mà một mình, ta làm chi được ! Nghĩ kỹ, chiếu lên ngôi thầy viết cho ta chỉ dùng được đến thời con ta, cháu ta. Cho đến lúc đó, nếu chẳng có gì đổi thay mà cứ như lúc này thì cũng không dùng nó được. Phải đổi mới. Ðổi mới nhân tâm. Tức là đổi mới toàn diện. Thầy đọc kỹ, tay ta viết : «... Trời vì hạ dân đặt ra Vua, đặt ra thầy. Trẫm nay cùng dân đổi mới, vâng theo nhân nghĩa trung chính là đạo lớn của người, đem dân lên cõi đài xuân».

Nhìn chòng chọc vào mặt Thức và Tự, Huệ dõng dạc:

- Sự nghiệp đổi mới, ta trông cậy vào các thầy. Nhưng trước mắt, ta phải lo việc yên dân đã. Tóm lại, ta sống làm cái gạch nối từ hiện tại vào một tương lai tươi sáng hơn...

Quay sang Kỷ, Huệ dặn :
- Bốn ngày nữa lên đường ra Bắc như đã định. Quan Trung thư làm cho ta hịch tướng sĩ trong cuộc bình Thanh sắp tới.

Khi bước vào, Huệ không để ý đến gương mặt lầm lỳ của Bùi Ðắc Tuyên sầm xuống như khúc củi lạc lõng cuối dòng. Ngọc Hân bước theo Huệ, miệng cười mỉm, tự hỏi không biết « Chiếu lên ngôi » do Thức viết thế nào mà lại chỉ dùng được cho con, cho cháu Huệ. Nàng chạnh nghĩ đến Quang Cương, đứa con đầu lòng năm nay mới lên ba, mang một nửa dòng máu nhà Lê. Có lẽ phải gần gũi những kẻ đến từ Ðàng Ngoài như Thức và Tự. Nhưng họ chỉ là những cá nhân tay không một tấc thép ! A, có lẽ phải làm thân với vợ Tư khấu Vũ văn Dũng. Phải đấy, Dũng người Hải Dương, lại là anh em con cô con cậu với Huệ, và hiện đang nắm quân đóng từ Bố Chính trở ra.

Hân nhìn bước Huệ, thấy dấu chân mình bước theo hằn lên những vết chân cọp.

Nguyễn Huệ nâng chiếu lên, mắt đảo nhìn một lượt hai hàng quan văn võ quì gối cúi đầu, rồi đọc từng tiếng chậm rãi :

«....Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn,không có một thước đất,vốn không có chí làm Vua,...chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, vì vậy trẫm tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở mang núi rừng, giúp đỡ hoàng đại huynh rong ruổi việc nhung mã,...cố ý quét sạch loạn lạc,cứu vớt dân trong vòng nước lửa, rồi sau trả lại nước cho họ Lê, trả đấùt về đại huynh, trẫm sẽ dùng xiêm thêu hia đỏ ngao du hai nơi làm vui mà thôi. Nhưng việc đời dun dủi, trẫm đã không theo được cái ý xưa đã định. ...Trẫm nay ứng mệnh trời, thuận lòng người,không thể khăng khăng cố giữ sự khiêm nhường. Trẫm chọn ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung...Trời vì dân đặt ra Vua, đặt ra thầy, cốt là để giúp thần thượng đế, yên vỗ bốn phương. Trẫm nay có thiên hạ sẽ dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi đài xuân. Vậy tất cả thần đân đều yên chức nghiệp, chớ có theo đòi những việc sai trái; người làm quan giữ đạo công liêm, người làm dân vui theo tục lệ, giaó hóa thấm nhuần,đi đến con đường chí thận, để vãn hồi lại thịnh trị của năm đời đế ba đời vương, để kéo dài phúc lành của tôn miếu xã tắc, không có bờ bến, chả là tốt đẹp lắm ru ! ».

Niên đại Quang Trung năm thứ nhất hứa hẹn hòa bình cho toàn dân được đánh dấu bằng một cuộc hành quân ba ngày sau đó. Chiến sách « tận xuất vi binh » khiến Nam - Ngãi và khắp Thuận Hóa chỉ có đàn bà trẻ con ở lại. Huệ đưa mười vạn quân đến Nghệ An hôm hai mươi chín tháng giêng, lại ra lệnh cứ ba xuất đinh bắt một lính, xung vào làm trung quân. Chỉ năm ngày sau, Huệ có thêm gần sáu vạn lính. Hiệu lệnh nghiêm ngặt, Huệ bắt tân binh hàng ngày tập trận, tiếng reo hò từng chập vang dội núi rừng.

Ghé lần này, Huệ không còn nhường nhịn gì đám nho sĩ xứ Nghệ, sai vời La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp vào chầu chứ không dùng lễ vấn an như khi Huệ ra Bắc bắt Vũ văn Nhậm cách đây hơn một năm. Trên ngai, Huệ đợi đến khi Thiếp quì gối chào mới đứng dậy, miệâng bảo : « miễn lễ » rồi vẫy tay trỏ chiếc kỷ bên cạnh cho ngồi. Chỉ Trọng Thức đứng đằng sau, Huệ bảo :

- Học trò Phu tử đây, quả nhân đang gây dựng cho. Phu tử có nhận ra không ?

Ngước mắt lên, Thiếp hấp háy nhìn, khe khẽ lắc đầu. Lòng bồi hồi, Thức thấy thâày mình già hẳn đi, mình mẩy ốm o trong chiếc áo nhiễu lam rộng thùng thình, đi đã phải chống gậy. Bước đến gần, Thức cúi xuống, nghẹn ngào :

- Con đây ! Thức đây.

Thiếp nói nho nhỏ :

- À, anh đấy à. Thầy lại cứ ngỡ là Toàn Nhật.

Thức nắm bàn tay xương xẩu của thầy, hiểu là thầy vẫn chưa biết Nhật đã mất tăm mất tích không biết sống chết thế nào. Huệ lên tiếng, giọng rắn rỏi :

- Phu tử xem, giặc đã vào chiếm Thăng Long rồi. Kỳ này ta ra đuổi chúng, cơ được hay thua sẽ ra làm sao ?

Thiếp bóp tay ngẫm nghĩ rồi thủng thẳng đáp :

- Thế này hẳn phải tốc chiến. Quân quan thần tốc. Hoàng thượng đánh chỉ mười ngày là thắng.
Huệ khoan khoái, chẳng phải vì lời dự đoán chiến thắng của Thiếp mà chính là vì Thiếp đã gọi mình là Hoàng thượng, nhận cái đế vị nay là của Tây Sơn chứ không còn là của nhà Lê như từ ba trăm năm nay. Có Thiếp làm bề tôi, Huệ sẽ thu phục dễ dàng đám nho sĩ xứ Nghệ và Bắc hà, đoạt lấy chính danh, không còn có gì ngăn trở.

Giọng dịu xuống, Huệ nhẹ nhàng :

- Quả nhân đã xuống chỉ cho Phu tử xem đất để xây dựng Phượng hoàng trung đô, nhưng sao vẫn dùng dằng, đến nay Trấn thủ Nghệ An vẫn chưa tiến hành cho được việc ? Vậy Phu tử gấp lo cho, kỳ nay đánh giặc xong rồi về Phú Xuân, trẫm mong là Phu tử sẽ làm cho xong.

Nhìn Thức, Huệ tiếp :

- Thầy ở lại Nghệ, đã lâu không có dịp hàn huyên với Phu tử nên nay chẳng cần phải đi cùng trẫm, cứ phụng dưỡng cho đủ đạo thầy trò đã, rồi sau trở lại Phú Xuân. Ta đồ chỉ nửa tháng là thu xếp Bắc hà xong mà thôi !

Hôm sau, Huệ kéo quân vào Tam Ðiệp và Biện Sơn. Ðến ngày ba mươi tháng chạp, Huệ điểm binh, cho sĩ tốt ăn tết Nguyên Ðán trước, và hẹn ngày mùng bảy tháng giêng năm Kỷ Dậu sẽ mở tiệc lớn mừng cuộc đại thắng ở ngay tại Thăng Long.

Chính sử ghi lại khá chính xác chiến công hiển hách phá tan hai mươi vạn quân Thanh của Quang Trung Nguyễn Huệ, duy thiếu có một điều. Ðó là Huệ có thể vào ngay Thăng Long hôm mồng sáu, nhưng quyết định đợi thêm một ngày để khớp với lời hẹn bọn sĩ tốt khi xuất quân tiến công đám quân binh của Tôn Sĩ Nghị.

Ngô Ngọc Du, một nhà thơ sống ở ven đô, kể lại chiến công đó trong bài Long thành Quang phục Kỷ thực:
« ... Hỏa long nhất trận tặc phi mi

Khí thành sang độ tranh đào sanh »

Hai câu cuối, tạm dịch là:

« Lửa rồng một trận tan tành giặc

Bỏ thành, thuyền cướp, trốn cho nhanh »

Ngọc Du chú thích thêm rằng « Quân Tây Sơn tiến công thành Thăng Long, nhân dân chín xã ngoại thành
sôi nổi bện rơm cỏ thành hình rồng, tẩm dầu đốt, đánh trận rồng lửa». Bài thơ kết như sau :

« Ba quân đội ngũ chỉnh tề vào

Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh

Mây tạnh, mù tan, trời lại sáng

Ðầy thành già trẻ mặt hân hoan

Chung vui sát cánh cùng nhau nói :

Cố đô trở lại nước non ta ».

Áo bào đen thuốc súng, Nguyễn Huệ từ cửa Nam cưỡi voi vào, nhìn thấy hàng dân reo hò múa may như vỡ chợ. Huệ chợt hiểu. Ðúng thế, kẻ chiến thắng thực sự là những người dân kia đang cười nói như mở hội, mặc dầu xác người còn đầy ra ở đầu đường cuối phố, và gươm giáo cờ quạt ngả nghiêng khắp nơi. Ðúng vậy. Không có Huệ này thì có Huệ khác. Nhưng nhân dân kia thì chỉ có một.

Dìu thầy bước trên dốc lên trại Bùi Phong, Thức tự nhiên thấy mình nhỏ bé hẳn lại. Cỏ cây trên ngọn Lạp Ðính buổi chớm đông co ro trong cơn gió bấc đến hẹn lại về với nhân gian. Ðằng xa, rặng Giăng Màn trong sương mù ùn lên thành một khối âm u, trông tựa lưng những con voi xám bất động.Sương che lấp những chỏm núi Thiên Nhận, dọa ụp xuống đè những cánh rừng lá rạc chĩa ra như đám nhím xù lông rúc vào bụi. Suốt mười năm nay, Thiếp không lên cơn động kinh nào như thời còn trẻ, nhưng mắt ngày một kém, đi phải lấy gậy dò đường. Từ ngày chiếm Phú Xuân rồi ra Bắc hà, Huệ đã ba lần viết thư cầu Thiếp giúp. Thiếp vẫn tránh, khéo léo chối từ, rồi trả lại tặng vật, không nhận bất cứ thứ gì. Lần cuối, Thức chỉ xin giảm sưu thuế cho dân Nghệ vừa lại mất mùa, dân chết đói xác nằêm đầy đồng. Nhưng nay, dù không nghe Thiếp nói ra miệng, Thức biết là thầy mình không còn có thể tránh né mãi được.

Mở cửa bước vào, Thiếp lớn tiếng gọi :

- Bà ơi ! Thức nó về đây này.

Nhà trống không một ai, nhưng than trong bếp còn hồng. Thức lách tấm liếp bước ra vườn chè. Ðặng-bà đang với tay hái những chiếc lá non, tai giờ ù chẳng nghe thấy gì. Thức chạy ùa lại, run run nắm lấy cánh tay, nước mắt ứa ra. Ðặng- bà sững sờ, tay bíu lấy tay Thức, nghẹn ngào :

- A, con đấy à ! Khốn khổ. Ði đâu mà bây giờ mới về ? Vào nhà, vào mợ pha chè ...

Nâng bát nước chè xanh biếc, Thức đưa tay lên miệng nhấm nháp chất chát đang từ từ chuyển sang vị ngọt. Nhìn Ðặng-bà co ro têm trầu, Thức hỏi tin Mai và đứa con Thức chưa biết mặt. Ðặng-bà chậm rãi :

- Mai có lên Bùi Phong, rồi vào Phú Xuân tìm con. Không được, nó lại ra, cắp con về Thanh Hóa theo mấy
người nữ tu Gia Tô. Cách đây hai năm, nó có ghé chào thầy và mợ, rồi bặt tin…

- Mai hiện ở đâu ?

Ðặng-bà ngần ngừ :

- Mợ không rõ lắm, đâu như ở miệt thượngï nguồn sông Mã.

Ðặng-bà lảng chuyện, hỏi Thức :

- Thế anh trôi nổi đến những đâu, kể lại cho mợ biết với !

Thức nhẩn nha thuật lại bước phiêu lãng năm năm qua, từ việc vật vờ trên biển cho đến lúc giạt vào bờ, gặp Ánh, rồi theo Bá đa Lộc sang Paris. Thiếp hỏi :

- So Huệ và Ánh, ai là kẻ đáng làm Vua ?

Thức ngẫm nghĩ :

- Huệ đánh được xâm lăng nhà Thanh, thì là Huệ đáng. Nếu không, chưa biết được. Về quân sự, Ánh không bằng. Nhưng xem những cải cách mới đây ở Gia Ðịnh, quả Ánh có tầm nhìn rộng rãi hơn người.

Thiếp gãi cằm, lắc đầu :

- Giá họ đừng đánh nhau, thì tốt. Gia Ðịnh mở mang, thì đất từ Bình Thuận, Phú Yên trở ra Huệ cũng phải lo gầy dựng. Nhưng tiếc thay, họ mở mang gầy dựng là nhắm vào thế thắng quân sự như mục tiêu tối hậu. Ta chỉ sợ khi một trong hai thắng rồi, cả cái công trình gây dựng mở mang cũng sẽ bị ách lại vì không còn mục đích nữa. Nhưng đánh quân Thanh, Huệ chắc thắng và thắng to, thắng nhanh ...

Thiếp bỗng ngưng nói, lẩm bẩm một mình :

- Trời ơi đất hỡi, nhà Lê tuyệt số mất rồi ! Có cứu, giờ cũng muộn... Thôi thì đành !

Những ngày sau đó, trong khi đợi tin chiến trận ở Bắc Hà, hai thầy trò ngồi bàn chuyện. Nghe Thức tường thuật về tư tưởng cách tân bên Pháp, Thiếp bảo :

- Dân vi trọng, quân vi khinh, đó là tư tưởng thầy Mạnh, có chi gọi là mới ? Sách ta cũng bảo ý dân là ý
trời !

Thức đáp :

- ý có, nhưng nó chỉ là ý nên thực tại vu vơ, diễn đạt tùy tiện. Hàng sĩ nương vào cách diễn đạt, tạo ra quyền lực của đẳng cấp mình. Cái mới ở nước Pháp là họ tìm ra cơ chế để thể hiện dân ý. Quan niệm Quốc hội, Hiến Pháp và cơ chế Tam quyền phân lập là những điều mới. Khẳng định mỗi con người, không phân biệt đẳng cấp, đều có những quyền công dân cơ bản đặt ra một nền tảng mới cho cơ sở quyền lực.

Thiếp đưa tay ngăn Thức, chậm rãi :

- Xã hội nào, qui củ nấy. Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia thế nào được.

Thức ngẩng lên :

- Xã hội Pháp hiện là xã hội quân chủ. Họ cũng có Vua như ta, và Vua cũng lại dựa vào thiên mệnh. Nhưng ở nước họ, thiên mệnh đó do tổ chức tăng lữ tôn giáo đảm bảo cho, trong khi đó ở ta thì hàng sĩ làm cái chức phận đó từ thời nhà Hán đến giờ. Hai trăm năm vừa rồi ở Âu-la-ba, tôn giáo lùi dần trước trào lưu tư tưởng đặt con người làm trọng tâm, lấy lý trí làm cơ sở. Cùng một lúc, công thương nghiệp phát triển và tạo ra một lớp người mới - lớp tư bản. Họ có khả năng kinh tế, ủng hộ trào lưu này, và tất nhiên là muốn đổi cái cơ cấu quyền lực cố hữu. Ðó là tiến trình vận động xã hội. Thưa thầy, biết được qui luật tiến trình này, ta hẳn không thể xem qui củ của xã hội ta là điều bất biến. Nếu nó đổi, thì nhiệm vụ của kẻ sĩ là làm sao cho sự thay đổi đó tốt đẹp nhất cho hàng dân. Dân có yên, mới giàu. Dân có giàu, nước mới mạnh. Dân giàu nước mạnh mới sinh lễ, nhạc, nghĩa là mới có văn hóa. Dân có văn hóa, biết mình là ai, mới giữ được gốc gác, không sợ mai một như bọt biển trên cơn sóng mà những thương thuyền từ Âu-la-ba đang xô giạt vào bờ đất Ðại Việt ...

Thiếp để học trò nói, bụng tự nhiên xót xa như kẻ đi chậm bị rơi về phía sau. Lẽ nào cái trật tự cũ đang bắt đầu rồi đây thay đổi ? Thế thì tam tòng tứ đức lộn lạo ư ? Còn cái đạo quân tử, nó sẽ đi về đâu ? Thiếp dằn lòng, biết mình chẳng có thêå mang những luận điểm xưa ra tranh cãi, chỉ quơ cái điếu cày lên châm lửa rít xòng xọc. Trong khói thuốc xanh mơ hồ, vừa thật vừa ảo, Thiếp nhắm mắt không nhìn Thức nữa.

Hôm Thức rời Bùi Phong, chàng nắm tay Ðặng-bà nói :

- Con ra Thanh Hóa tìm Mai và cháu !

Hốt hoảng, Ðặng-bà líu nghíu :

- Không được, không được !

Thức ngạc nhiên không biết vì sao, lòng chợt ngại rằng Mai đã có chồng, gặng hỏi. Ðặng-bà cuối cùng vừa khóc vừa nói :

- Mai nó ở trong trại hủi.

Cổ nghẹn lại, mắt hoa lên một nghìn con đom đóm bảy màu, Thức ngã vật xuống đất như một con trâu vừa bị búa tạ bổ vào đầu, vết sẹo trên trán từng hồi giựt lên như sắp lại toác ra để rồi không bao giờ liền lại nữa.

Dặn dò Ngô thì Nhậm về việc cầu hòa và bang giao với nhà Thanh xong, Quang Trung giao tướng ấn cho Ngô văn Sở ở lại Bắc Hà, rồi cấp tốc kéo quân về Phú Xuân hôm mười chín tháng giêng, chỉ ở lại Thăng Long đúng bảy ngày. Bấy giờ, Phạm văn Tham ở Gia Ðịnh đã vào thế cùng lực kiệt, đành tự đóng gông xin hàng với Ánh. Quân Ánh cũng nhân thời cơ Huệ bận mặt Bắc tiến chiếm Trấn Biên và trực tiếp uy hiếp Bình Thuận.

Tuy thế, ngày khải hoàn ở Phú Xuân vẫn được tổ chức long trọng. Ðứng trên lưng voi, Huệ nhìn tứ phía, ngửng mặt cười, tay vẫy đám quân dân chen chúc dọc bờ sông Hương, miệng hò lên mỗi khi ngơi tiếng chiêng tiếng trống.

Ngay hôm sau, toàn thể các quan văn võ vào triều nghị họp để chia công cắt việc. Huệ sai Trần Quang Diệu làm trấn thủ Nghệ An, một mặt canh chừng vương quốc Ai Lao đang bắt tay với hoàng tôn Lê Duy Chi vẫn còn mộ quân mưu khôi phục, một mặt làm hậu thuẫn cho Bắc hà trù bị trường hợp cầu hòa với nhà Thanh không mang đến kết quả tốt đẹp. Dựa theo ý Nguyễn Thiếp và Ngô thì Nhậm, Huệ tổ chức lại hành chính theo kiểu nhà Chu, nhà Hán, cắt đất dành cho các con, lấy quan võ phong làm Trấn thủ, quan văn phụ tá làm Hiệp Trấn. Thiên tai, nạn đói lại hoành hành. Huệ ra lệnh miễn thuế ruộng, và xá cho thuế còn thiếu ở bốn trấn. Tháng ba, Huệ xuống chiếu cho khắc in sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và các bộ sử để lưu hành trong dân chúng. Tháng năm, Huệ lại ban chiếu « khuyến nông » và « lập học ».

Chiếu « khuyến nông » kêu gọi dân phiêu tán trở về làng mạc, cấp thiết khẩn hoang, nhằm khôi phục sản xuất nông nghiệp trên những vùng đất bị bo phí. Huệ cấp tín bài « Thiên hạ đại tín », bắt làm lại sổ đinh, sổ điền hòng quản lý chặt chẽ nhân đinh. Thuế má cũng đơn giản đi nhiều. Ruộng công hay tư đều phải nộp thuế theo ba hạng, bỏ hết phần phụ thu, chỉ giữ lại tiền thập vật, khoán khố và cước mễ. Về nhân đinh cũng vậy, bãi hẳn thuế điệu, chỉ giữ thuế dung.

Chiếu « lập học » do Thức và Tự đề ra, gặp rất nhiều đối kháng của quan lại chẳng những ở Phú Xuân mà còn ở khắp các trấn. Lúc bấy giờ, Thức đã hoàn chỉnh cách phiên âm tiếng ta bằng mẫu tự La-tinh và gọi là chữ « Quốc ngữ ». Như vậy, có chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ để chọn cho việc học.Thức tâu :

- Chữ viết làm sao cho giản tiện, hàng dân học cho dễ dàng, nhanh chóng, tất nghĩa lý được ban ra vừa rộng vừa xa. Thần xưa đã bỏ chữ Hán, dạy học dạy bằng chữ Nôm, ý là phân biệt ta hẳn ra với nước Tầu phương Bắc, giữ lấy tinh thần độc lập. Nhưng thật ra, chữ Nôm phức tạp, phần hình tượng của chữ Hán vẫn có, lại đèo phần âm vận đặc thù, nên muốn học cho nhanh, truyền cho rộng vẫn là chuyện khó khăn. Chữ Quốc ngữ đơn giản, tiện lợi hơn, hẳn là nên chọn.

Trong triều, Bùi Ðắc Tuyên chống lại, đề nghị giữ chữ Hán. Tuyên khấu đầu thưa :

- Xưa nay, từ Ðàng Trong ra Ðàng Ngoài, phép tắc thi cử học hành mấy trăm năm nay vẫn vậy. Tân triều giữ lệ cũ, không mắc tiếng « nôm na », lại chẳng dấy vào điều thị phi là chạy theo Tây dương và bọn tà
đạo Gia Tô.

Trần Danh Kỷ không đồng lòng với Tuyên, tâu Vua nên đổi sang dùng chữ Nôm. Kỷ nói :


- Từ thời Hàn Thuyên, chữ Nôm đã có, nhưng cái tinh thần bảo thủ đời Trần đời Lê thời trước còn nhiều nên không đổi được, vẫn lấy chữ Hán làm mẫu mực. Cứ mỗi lần đuổi được giặc Nguyên giặc Minh, những triều đại trước đây, một khi dành được độc lập rồi đều muốn tránh việc phải tiếp tục binh đao. Chứng tỏ rằng nước ta có lòng thần phục để hòa hoãn, các vị Tiên Vương đều triều cống rồi ban hành luật lệ giống Trung Quốc, bắt chước sự học cũng như về tổ chức chính trị. Lấy thí dụ luật Hồng Ðức chẳng hạn.

Nhìn Huệ, Kỷ khích :

- Nay Hoàng thượng đuổi hai mươi vạn quân Thanh như một đàn ruồi, thế ta khác hẳn, đâu có thể nào bị ràng buộc o ép như xưa.

Quay sang Trọng Thức, Kỷ tiếp, giọng bực bội :

- Còn về chữ Quốc ngữ, tôi đồng lòng với Thái sư, và xin thêm rằng sự học cho nhanh, hơn kém thế nào chưa biết. Vả lại, giả thử như ai cũng biết đọc biết viếât, lãng chuyện làm ăn, lời ra tiếng vào thì chỉ « lắm thầy thối ma », lẽ lợi hại cũng không phải là không đáng bàn.

Câu cuối Kỷ nói làm Tự nhăn mặt. Ngước lên nhìn Huệ, Tự chậm rãi :

- Kính tâu Hoàng thượng, thần trộm nghĩ nước muốn mạnh, dân phải hiểu biết. Xưa nay, dân ngu mà nước mạnh là điều chưa có. Cái học càng quảng bá, càng hay, chữ nào tiện thì dùng. Việc chính là quảng bá gì ? Dĩ nhiên, có đạo nghĩa, rồi đến những điều thực dụng, nhằm canh cải nông nghiệp và công thương nghiệp.

Tự khôn khéo, nói tiếp :

- Nay thần cúi đầu xin Hoàng thượng xét việc chạy theo Tây dương và đạo Gia Tô, mặc dầu là chọn thứ chữ nào thần vẫn còn lưỡng lự. Giả thử ta chọn chữ Hán và cùng cách nghĩ như Thái sư, vậy là ta chạy theo Tầu chăng ? Nếu thế, thần đồng ý với Quan Trung thư Danh Kỷ. Lại xin thêm vào : theo đúng như lệnh Hoàng thượng, thần đã gặp thầy Labartette và De la Bissachère bàn về việc tự do truyền đạo, và nhất là qua sự trung gian của họ, nước ta sẽ giao thương với Pháp quốc và các nước Bồ đào Nha, Ypha Nho, Hòa Lan và Anh quốc. Như vậy, thế là ta đã chính thức giao thiệp với Tây dương và các giáo sĩ đạo Gia tô, đâu có gì mà gọi là điều thị phi nữa. Vậy tóm lại, sự chọn lựa thì cứ chữ nào tiện là ta dùng. Tiện, dễ, tất học nhanh. Muốn biết không phải là việc khó. Cứ lấy ba đứa trẻ cùng lứa, dậy mỗi đứa một thứ chữ rồi cho thi với nhau là xong.

Huệ giơ tay ngắt lời Tự, thủng thẳng :

- Phải, cứ cho thi thì biết ngay ! Nhưng việc học, ta muốn rộng rãi, đến tổng đến xã, chỗ nào cũng phải lập ra trường. Chọn chữ, ta sẽ hỏi thêm đám bề tôi ở mọi nơi đã rồi mới định được.

Ðắc thắng, Tự nháy mắt với Thức, không để ý cặp mắt đục ngầu của Tuyên nhìn trộm mình hằn học. Tan
triều, Huệ giữ Thức và Tự lại, bảo :

- Việc lập trường, ta bắt làm ngay. Hiện nay giáo thụ nào mấy ai biết Quốc ngữ ? Lại sách vở đã chuyển ra Quốc ngữ đâu mà lấy để học ? Về việc chọn chữ, ta sẽ hỏi ý La Sơn Phu tử, khiến không ai nói gì nữa. Nhưng thi, ta cứ chọn ba đứa trẻ bắt học cho thi với nhau để mọi người cùng biết, sau này không còn dị nghị. Nhưng hai thầy phải sửa soạn, cho chép lại Tứ Thư, Ngũ Kinh bằng Quốc ngữ và tìm ra người dạy học. Chắc cũng năm bảy năm nữa mới chuyển đổi được !

Quay sang Tự, Huệ tiếp :

- Còn học cái gì, cũng vậy. Thầy và Thức lo bổ túc kinh nghĩa bằng các thứ sách về kiến thức thực dụng, và cấm ngặt sách bói toán, mê tín, đồng bóng chỉ rặt làm hư con người.

Ngọc Hân được Huệ giao cho việc tìm ba đứa trẻ bắt học ba thứ chữ rồi thi với nhau. Nàng dò hỏi mãi mới kiếm được một gia đình sinh ba, hai trai một gái, nay đều lên bảy tuổi. Tư chất chúng gần như nhau, song Danh Kỷ và Bùi Ðắc Tuyên dành chọn hai đứa trai, để cho Thức đứa con gái. Ngọc Hân hỏi cần dạy bao lâu để những đứa trẻ đó có thể chép lại một bài văn, hay dăm câu thơ mà nàng sẽ giữ kín. Tuyên đòi tám tháng, Kỷ đòi cũng tám tháng, nhưng Thức chỉ xin đúng ba tuần trăng. Ðến ngày thi, Tuyên và Kỷ đều vào chầu nhưng không mang hai đứa trai theo. Hỏi ra, Tuyên bắt một đứa học ngày học đêm, đánh đập đến độï nó hóa câm. Về phần Kỷ, Kỷ chịu thua, nhưng giao hẹn là nếu đứa bé gái không chép được mấy câu thơ thì coi như là Thức khoác lác, không tiếp tục thi nữa.

Hân dâng lên bốn câu thơ mình làm ca tụng Huệ. Huệ đưa lại, bảo đọc. Giọng Hân thánh thót :

« Nghe trước có đấng vương Thang Võ

công nghiệp nhiều, tuổi thọ càng cao

Mà nay áo vải cờ đào

giúp dân dựng nước xiết bao công trình... »

Ðứa bé gái hí hoáy chép bằng chiếc bút lông ngỗng chấm mực, xong lại hai tay đưa lên cho Ngọc Hân. Khốn nỗi không đọc được, Hân lại phải trao lại cho Thức đọc. Danh Kỷ lắc đầu :

- Không ! Nhỡ thầy Thức nghe, nhớ mà đọc lại thì sao ?

Huệ cười, giọng mỉa mai khen :

- Quan Trung Thư tinh tường thật. Thầy Thức ra ngoài ngay, đợi gọi mới được vào.

Ðợi Thức ra xong, Huệ ra lệnh :

- Quan Trung Thư đọc cái gì thì đọc đi, Thức không ở đây, không nhớ được gì hết !

Kỷ ân hận, biết mình quá lố lăng, nhưng đặng chẳng đừng phải nói:

- Ðấy là thần nói vui, đâu có ý gì. Nhưng Hoàng thượng đã dậy, xin tuân lời.

Nói rồi, Kỷ đọc :

« Thiên địa phong trần

Hồng nhan đa truân

Du du bỉ thương hề thùy tạo nhân »

Ðứa bé gái lại hý hoáy chép. Ngọc Hân trong bụng bực mình, nhưng vẫn nhỏ nhẹ nói:

- Ðó là thơ là của Ðặng Trần Côn. Ðoàn phu nhân đã dịch nôm là :

« Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm từng trên

Vì đâu gây dựng cho nên nỗi này »

Bé, chép đi !

Ðứa bé lại cắm cúi viết. Thức được gọi vào, và đọc rành rọt hai đoạn thơ. Mọi người đều trầm trồ. Bỗng
Thức nói, giọng có chút châm biếm :

- Dịch nôm thế, Quan Trung Thư thấy thế nào ?

Kỷ ngượng ngập, cúi nhìn xuống, không nói gì. Thức cười, tiếp :

- Dịch thoát lắm, nhưng có một điều là âm vậân không phải như nguyên bản Hán văn. Ðể mua vui hầu
Hoàng thượng và nhị vị Hoàng hậu cũng như chư quan, tôi xin dịch lại thế này :

« Ðất trời gió bụi

Má hồng nổi trôi

Nỗi đắng cay ai chuốc phận người »

Vừa dứt lời, Thức lại liên tưởng đến ngày đầu gặp Mai ở Khiêm Các đất Kinh Kỳ cách đây đã gần mười năm, khi nàng luận về thơ dịch và ngâm bản dịch « Phong kiều dạ bạc » của nàng. Lòng buồn bã, chàng cúi xuống không để ý đến tiếng khen của Ngọc Hân và tiếng vỗ tay của Huệ. Chỉ một mình Phạm hoàng hậu là khẽ trề môi, lầm bầm chửi trong bụng :

- Cha chúng nó cái bọn Ðàng Ngoài, văn mới chẳng chữ !

Nhìn Ngọc Hân tươi cười, Phạm-thị thầm rủa: « Con mẹ mi, năm nào cũng đẻ, như heo nái ...» rồi đứng lên theo chân Bùi Ðắc Tuyên ra. Ðến ngoài cửa điện, Phạm-thị chợt dừng bước hỏi :

- Cậu ơi ! Việc phong Thái tử và Vương tước tới đâu rồi ?

Tuyên nhăn mặt, nói nhỏ :

- Chưa định gì ! Nhưng đám quan võ Tây Sơn đã chịu làm hậu thuẫn để xin với Hoàng thượng. Chắc nội nhật năm nay là thành. Trần Quang Diệu cũng đồng tình, nay chỉ đợi tin Ngô Văn Sở.

Huệ truyền cho Phạm-thị hôm sau đặt tiệc đãi món « óc nghé » cho bọn quan văn võ đến từ Ðàng Ngoài,
trong đó có Phan Huy Ích đích thân mang thư của Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân cho Huệ. Món « óc nghé » là một món chỉ Phạm-thị làm mới mang đủ hết cái hương vị đặc biệt của vùng An Cựu phủ Qui Nhơn. Nghé không được quá non, quá già, phải đúng năm tháng, và là nghé đực. Óc lấy ra làm thế nào cho nguyên lành, được ướp bằng những loại rau thơm ép thành nước, trộn với sả và những gia vị mà Phạm-thị nhất định không chỉ dẫn cho một ai biết. Ngày trước, Phạm-gia đãi Huệ món này sau chiến thắng Phú Yên cách đây một giáp. Huệ khen ngon thì Phạm-lão gọi con gái ra, bảo : « ... nó làm đấy. Tướng quân thích, lão cho nó về hầu, muốn ăn lúc nào cũng được ! » Huệ gật đầu chịu. Sau này thoát được bàn tay Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn, Phạm-thị về Phú Xuân nhưng chỉ gặp Huệ mỗi lần Huệ thèm món « óc nghé ». Có lần trộn gia vị, Phạm-thị bỏ cả các chất khích dương, nhưng ăn xong Huệ lại hấp tấp bỏ về ngay, chuyện chăn gối ăn nằm với Phạm-thị từ ba năm nay không có. Trong khi đó, Ngọc Hân đẻ cứ ba năm đôi, nay lại có mang, nhìn đã thấy bụng. Phạm-thị than thân trách phận, rồi đem dạ căm thù chẳng những chỉ Ngọc Hân mà còn tất cả những ai đến từ Ðàng Ngoài. Và Ðàng Ngoài đối với nàng là kể từ Quảng Ngãi trở ra, vì đó là nơi chôn rau cắt rốn của họ Bùi bên ngoại nhà nàng.

Trong bữa tiệc ở Tây cung, Huệ gọi Ngọc Hân đi theo, cho vời cả Danh Kỷ và Bùi Ðắc Tuyên, cùng với bọn Dũng, Tự, Thức và Phan Huy Ích. Huệ cầm bức thư của Nguyễn Thiếp, nốc một chén rượu, nói lớn:

- Tốt thay ! La Sơn phu tử đã nhận làm đề điệu kỳ thi tháng tám năm nay ở Nghệ An. Lần này thi, thi bằng chữ Nôm. Ngoài ra, ta phong Phu tử làm Viện trưởng viện Sùng Chính, phải huy động người dịch ngay ra Nôm các sách Luận ngữ, Ðại học, Trung dung...

Nheo mắt nhìn Kỷ, Huệ gật gù :

- Chữ Nôm, ấy là ý quan Trung thư, mà cũng là ý ta và ý Phu tử. Thái sư thấy có gì phải bàn lại không ?
Tuyên cúi mặt lắc đầu. Huệ nhìn mái tóc bạc của Tuyên, lòng bỗng thương một ông già đã thi sáu lần cho đến năm sáu mươi tuổi mà vẫn không đỗ, suốt đời bực dọc về chuyện cử nghiệp dở dang. Gắp vào bát
Tuyên một miếng óc rán cháy xém, Huệ thân mật :

- Tháng nào Thái sư được thất thập, vào cái lớp người cổ lai hy nhỉ ? Dịp đó, để ta làm lễ thượng thọ cho, đừng từ chối phụ lòng ta ...

Huệ vui, lại uống rượu ừng ực, đùa bắt Ngọc Hân phải nếm « óc nghé ». Phạm-thị cười tươi như hoa, xẻ vào bát Hân, miệng nói :

- Nào, mời Bắc cung Hoàng hậu, xem bọn người man rợ chúng tôi ăn uống làm sao !

Hân không biết Phạm-thị chợt nghĩ đến một miếng óc nghé có thêm chút thuốc độc của bộ lạc Sa Huỳnh, uống vào không chết ngay mà cứ chết từ từ, chết không cứu được. Nhưng Phạm-thị cũng chẳng ngờ là Hân ngọt lời vâng dạ, nhưng trong bụng lại thầm nhiếc : « Bắc với Tây, cung với điện. Ta là công chúa nhà Lê tên Ngọc Hân, trả cho bọn mọi rợ bay cái ngôi Hoàng hậu ! »

Huệ tự mình chống sào đẩy thuyền ra, rồi lấy mái chèo chọc xuống nước, bẩy lên, chân đạp vào chiếc then gỗ ngang, thái dương hằn lên những gân máu chạy chéo xuống tai, phập phồng theo nhịp tay đều đặn. Nắng đã lên ngang đầu những ngọn cây, nhuộm một màu vàng tươi trên những mái dạ thấp thoáng nằm an bình tựa những thớt voi còn ngủ. Thôn Vĩ xanh mướt như một viên ngọc nằm ngoan ngoãn trên lồng ngực phập phồng một nàng ca kỹ vừa quá đi cái tuổi chỉ mơ mộng. Tuổi của thành Phú Xuân, hết mơ mộng sau những chiến thắng nhanh chóng và hiển hách, đã bắt đầu biết tính toán, mưu đồ, biết ngó trước nhìn sau, và biết nghĩ đến những điều xa xôi qua từng bước cụ thể, từng liên minh quyền lợi, gốc gác. Phần Huệ, Huệ không chỉ còn là một ông tướng bách chiến bách thắng. Huệ nay là Vua. Là Quang Trung Hoàng Ðế với mọi cái rối rắm của quyền lực nội bộ. Lắm lúc, Huệ bực mình, dọa rằng sẽ đòi Lưỡng Quảng bằng đường quân sự, gây sự can qua với bên ngoài để yên bên trong. Vả lại, Huệ nhắc, miền Nam vẫn còn dưới tay bọn giặc Ánh. Những dịp ấy, Huệ gắt với bọn bề tôi : « Thế mà các ông chưa dẹp xong giặc, đã chỉ nghĩ đến tranh giành với nhau ư ! ».

Hôn nhân gán ghép giữa đám quân tướng Qui Nhơn bơ vơ đi tìm một ý thức hệ và bọn sĩ phu vẫn chênh vênh trên bờ vực. Sĩ phu dưới trướngï, chỉ trừ Kỷ là người Ðàng Trong, đều gốc từ Bắc hà. Ngay giữa họ với nhau, cách nhìn chung cũng đòi hỏi nhiều nhượng bộ từ mọi phía. Huệ bảo với Ngọc Hân :

- Về văn thần, Nhậm và Thiếp giúp ta giữ bờ cõi, dựng nên nghiệp đế. Chuyện mười, mười lăm năm sau giữ được nghiệp là nhờ tay Nguyễn Huy Tự. Còn Ðế nghiệp Tây Sơn từ đó có thêm một vài trăm năm nữa hay không, cái đó tùy vào trí tuệ của Trọng Thức.

Ngọc Hân ngước lên, mắt dò hỏi. Huệ trầm giọng:

- Thức đề ra chế độ gọi là Quân Chủ Lập Hiến. Dân ý phải làm thế nào phản ánh trong Hiến Pháp, và Vua dẫu có, nhưng chỉ có để thể hiện dân ý, có như biểu tượng một quốc gia. Một khi thiên hạ yên ổn, thể chế đó có khả năng giữ được rường mối thái bình cho hàng dân. Có Hiến Pháp là quan trọng, rồi có tinh thần thể hiện Hiến Pháp, tạo điều kiện cơ bản để thực sự tạo ra một kỷ nguyên mới. Vua trở nên thứ yếu. Một kẻ quá nhiều cá tính, như ta chẳng hạn, không phải là một vị Vua tốt trong kỷ nguyên đó. Vì thế, ta mới chọn Quang Toản làm thái tử. Nó kém nhất trong đám anh em...

Hân nghe Huệ nói, thấy bóng cha mình là Lê Hiển Tông lại chập chờn đâu đây, buồn bã thốt lên :

- Thế thì như Phụ Vương tôi à ? Là Vua nhưng suốt đời người chỉ mong thực sự thành Vua. Nhớ đến nhà Trịnh, Hân rơi nước mắt, tiếp - Vua mà bị ức hiếp thì làm Vua làm gì ?

Nhìn Hân, Huệ chậm rãi :

- Ở kỷ nguyên mới thì khác, làm gì có chuyện đó. ý dân nào ức hiếp ai ? Vua tốt là vì Vua không tùy tiện làm gì thì làm.

Hân xin phép lui ra, cắn răng nghĩ đến con mình là Cương, thầm nhủ : «... không, không thế ! Nhà Lê dẫu chỉ có nửa dòng máu, con vẫn sẽ là một ông Vua, như đức Thái Tổ. Không cần Chúa, và cái Hiến pháp gì đó... »

Huệ ngừng tay bơi, nhớ lại lời mình nói với Ngọc Hân, bất chợt hiểu rằng muốn thành một vị Vua tốt - một minh quân - thì phải biết làm gì để định ra cái giới hạn giữa uy lực và quyền lợi của mỗi người dân. Mặc cho con thuyền lênh đênh không định hướng, Huệ ngả mình xuống nằm, ngửa mặt nhìn lên trời xanh lồng lộng.

Hồi tưởng lại hai năm vừa qua, Huệ nghiêm khắc đánh giá lại chính bản thân mình và những quyết định đã làm. Cắt đất phong cho Quang Thùy, Quang Bài ? Danh thế nhưng thực là để thưởng công cho Trấn thủ Bắc thành và Trấn thủ Thanh Hóa. Không sao. Chính quyền trung ương mạnh, không thể có vấn đề. Ðuổi quân Ánh khỏi Phan Rí ? Chuyện đó phải làm để lấy lại lòng tin cho đội quân Nhạc chỉ huy. Sai Diệu đánh đến Ai Lao ? Ðó là phá tan ý đồ của em Lê chiêu Thống là Duy Chi cầm quân Cần Vương ở Cao Bằng. Thế là vừa dẹp cho sạch mầm mống, vừa nhân tiện bắt voi, cướp vàng bạc, ngọc ngà mang về. Giao thiệp với Tây dương ? Chưa đến đâu ! Việc Nhạc đánh phá Hội an khi xưa cũng như lần tàn sát người Tầu ở Gia Ðịnh vẫn còn làm cho họ ngần ngại. Ðến nay, chỉ có dăm ba thuyền Bồ đào Nha vét hàng ở Quảng Châu mang đến bán mà thôi ! Mở cửa thông thương ? Phía biên giới Bắc hà, chợ búa đã mở lại tại bốn nơi, hàng hóa lưu thông. Chính sách khuyến nông ? May được mùa, dân khí có hưng lên, nhưng nạn đói năm nào cũng đe dọa vì lụt lội ! Có lẽ phải thẩm xét việc thủy lợi cho vùng đồng bằng sông Nhị. Chính sách lập học ? Việc học là lâu dài, nhưng Sùng Chính viện đã dịch được bộ Tiểu học và Tứ thư gồm ba mươi hai tập ra chữ Nôm, và nay đang tiếp tục dịch Kinh Thi, Kinh Thư và Kinh Dịch. Ðồng thời, Trọng Thức cũng chuyển tất cả ra chữ Quốc ngữ, mặc dầu đám nho sĩ vẫn ngấm ngầm tẩy chay.

Trong triều, nội bộ Phú Xuân vẫn chưa vào thể thống nhất. Văn quan người Ðàng Trong quá ít, trong khi đó thì ngược lại, võ quan quá đông. Gia đình họ Phạm, đứng đầu là Phạm công Hưng, liên minh chặt chẽ với Bùi Ðắc Tuyên. Trần Quang Diệu có người vợ họ Bùi, tên thị-Xuân, hẳn là hậu thuẫn cho hai nhà Phạm - Bùi, đang dần dần kéo về phía mình những hổ tướng như Lê Trung, Nguyễn văn Hưng.

Chính dưới áp lực của đám võ biền này mà Huệ đã lập Quang Toản mới chín tuổi lên làm thái tử vào cuối năm Canh Tuất. Việc này, Trần Danh Kỷ và Vũ văn Dũng đã can gián hết lời. Sau lễ tấn phong, Ngọc Hân có vẻ giận, xin được lui về Bắc cung không dính dáng đến việc thảo chiếu biểu như xưa. Về phần Tự và Thức, họ dẫu khôn ngoan tránh né, nhưng vẫn là hai cái gai dưới con mắt Bùi Ðắc Tuyên, lúc nào cũng bị coi như người « nước ngoài », và có dịp là dè bỉu ra mặt, chẳng nể nang gì.

Ngoài cõi, việc bang giao với nhà Thanh thành công qua sự khôn khéo của Ngô Thì Nhậm. Vấn đề phải giải
quyết là miền Nam còn dưới tay Nguyễn Ánh. Không phải là tay vừa, Ánh tổ chức lại Gia Ðịnh một cách chặt chẽ, mộ dân lập các nậu, đồn điền, mở xưởng đúc súng, đóng tầu, xây lại thành Gia Ðịnh, thi hành lệnh khuyến nông và tập hợp được đám xử sĩ Gia Ðịnh thành một khối đoàn kết. Dùng chính sách « tự thực kỳ lực » bắt lính lập đồn điền cày cấy, rồi lại mang kỹ thuật quân sự Tây dương do Bá đa Lộc và đám đánh thuê du nhập vào, Ánh tạo được một lực lượng khá hùng mạnh, nhất là đội thủy binh rõ ràng có khả năng áp đảo được Tây Sơn. Ðể đối phó, Huệ cho chiêu dụ bọn thủ lãnh cướp biểàn Tề Ngôi, tục gọi là Tầu Ô, phong làm Thống binh. Ra công làm những « Ðại hiệu thuyền » chở được voi, trọng tải lên đến một trăm năm mươi tấn, rồi loại thuyền « Ðịch quốc » có trang bị đại pháo, Huệ nhằm khắc phục yếu kém của mình trong một trong một thời gian ngắn. Ðến tháng hai năm Nhâm Tý, Huệ chuẩn bị được hai mươi vạn quân, sẵn sàng vào đánh Gia Dịnh. Lực lượng Ánh lúc đó quân bộ có mười một vạn và thủy binh có hai vạn sáu nghìn người. Tháng trước, Ánh đánh trước, bất ngờ mang một trăm hai mươi tám chiến thuyền đột kích đốt thủy trại Thị Nại, thu vũ khí, lương thực rồi rút về. Nhưng lần này Huệ sợ. Sợ chẳng phải là vì lực lượng của Ánh mà là vì Nhạc viết thư báo rằng quân dân hai phủ Quảng Ngãi và Qui Nhơn không dám phản công, thấy giặc là bỏ trốn.

Huệ ngồi dậy, tay với lấy mái chèo, khuấy vòng cho thuyền quay mũi, nhắm bờ chèo vào. Quân dân hai phủ sợ giặc ? Không có lý, dân Qui Nhơn xưa nay vốn là dân thượng võ, chuyện sợ chắc là không ! Hay họ mất tin tưởng vào Nhạc. Có thể. Nhưng đất là đất Ðại Việt, đâu phải chỉ là đất của Nhạc. Hay họ ngỡ là Nhạc thua, Huệ sẽ không cứu. Ðúng, chắc thế. Và vì vậy họ mất tinh thần. Nếu Huệ để mặc cho Nhạc chết, thì việc gì đến họ mà họ phải liều mình.

Ngẫm nghĩ, Huệ càng thấy thấm thía hậu quả của việc nồi da nấu thịt hơn ba năm trước. Tướng Tây Sơn có kẻ đi hàng Nguyễn Ánh, có người xin lui về cày ruộng. Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, Tiền kích Du tướng quân Võ Toàn Nhật và cả Chúa Út chắc cũng đều chết oan vì vụ tương tàn nhà Tây Sơn. Huệ cắn răng, chèo mỗi lúc một nhanh, môi mím chặt, mặt bạnh ra, những sợi tóc quăn cứng ánh lên như giây thép dưới ánh mặt trời.

Khi đã quyết những việc phải làm, Huệ như mũi tên bật tới phía trước, có phương có hướng chứ không để như con thuyền lênh đênh không lèo lái trên dòng sông Hương mới cách đây chừng dăm khắc.

Ðợi đến khi Ngọc Hân đọc xong, Huệ nhìn Thức và Tự, giọng diễu cợt :

- Thế nào ? Các vị thấy thế được chưa ?

Tự vui miệng :

- Bắc cung Hoàng hậu chữ nghĩa tôi luyện đã công phu lắm, thần không thêm được gì.

Ngọc Hân cười :

- Không phải tôi viết. Chính tay hoàng thượng đã thảo ra hịch này.

Mới năm trước, Huệ viết lách còn như người ta vật lộn, sáng sáng vẫn ngồi học chữ, đọc những bản dịch Nôm, sách Tiểu Học và Tứ Thư do Nguyễn Thiếp đưa vào. Thức và Tự đều ngỡ ngàng, chưa biết nói gì thì Huệ cất tiếng :

- Các thầy xem lại, đoạn ta viết: ...Như tên Chủng đê hèn kia đã phải lẩn trốn sang những nước tầm thường phương Tây, thì có gì là đáng kể. Còn như đám dân ươn hèn Gia Ðịnh, nay dám ngóc đầu dậy mộ binh, tại sao các người sợ hãi chúng như vậy, tại sao tinh thần các người khiếp đảm đến thế ?

Thức hắng giọng:

- Mắng thế, nhưng sau lại khích lên, cũng được! Duy có đoạn sau - Thức đọc - «...Trẫm sẽ đập tan bọn giặc cựu Nguyễn dễ dàng như bẻ một cành củi khô, đập một cây gỗ mục...Như thế để ai nấy hiểu rõ là trẫm cùng Hoàng đại huynh là hai anh em ruột, là cùng chung một dòng máu. Trẫm không bao giờ quên điều đó »- liệu có nên chăng? Nhắc lại chuyện tương tàn khi xưa lại khơi ra ân oán, có được lợi gì ?

Huệ cúi đầu ngẩm nghĩ, rồi chặc lưỡi, thở dài :

- Ta chỉ muốn cho quân dân hai phủ rõ rằng nhà Tây Sơn là một. Bất trung với Nhạc cũng là bất trung với ta. Ðiều làm cho ta lo hơn cả là lần đầu quân dân Qui Nhơn hèn nhát bỏ trốn... Sự khiếp đảm ấy phải chăng là dấu hiệu đầu tiên của tinh thần suy nhược ? Vì thế ta không thể chần chừ được. Dẫu mùa này gió chướng không thuận lợi cho đường tiến quân của thủy binh, ta vẫn phải đánh ngay.

Huệ ngưng nói, nhìn vào khoảng không, rồi nghiến răng :

- Cũng vì sợ quân dân hoang mang, ta thêm «...các người chớ nhẹ dạ nghe những lời phao đồn về bọn người Tây dương. Tài giỏi gì bọn chúng ? Mắt chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ là những xác chết trôi từ biển Bắc về đây, các người nên hiểu như thế ! Những tầu bằng đồng, những khinh khí cầu của chúng thì có gì kỳ lạ mà phải đệ trình lên trẫm biết ? ...»

Thức nhìn Huệ, ngập ngừng:

- Về khinh khí cầu, để một tháng thì thần cũng chế tạo ra được. Nhưng đúng là tầu bằng đồng của chúng có lợi hại, và nhất là thuốc súng Tây dương bắn mạnh và có tầm xa hơn của ta. Hoàng thượng đợi thêm dăm tháng cho đến mùa thuận gió, chỉnh đốn lại thủy binh vừa bị thiệt hại ở Thị Nại, dùng thời giờ đó tìm cách chế thuốc súng tốt hơn, thế có phải là diệu sách không ?

Mắt cau lại, Huệ nắm thành ghế bóp như muốn nghiến vụn ra, quay hỏi Tự :

- Thầy nghĩ sao ? Thầy đã từng chạm trán với chúng ở Gia Ðịnh, nói cho ta nghe.

Tự đáp, giọng trầm tĩnh :

- Thủy quân của chúng mạnh, nhưng bộ binh không phải là đối thủ của ta. Duy có thành Gia Ðịnh, bề ngoài hình thể theo bộ vị bát quái, nhưng ở trong chúng phòng ngự theo cách Tây dương, chưa biết đánh phá có nhanh được không ? Nhưng giả thử ta vây để tuyệt lương, thì chỉ ba bốn tháng cũng lấy được Gia Ðịnh. Ðám đánh thuê Tây dương nay bỏ đi khá nhiều, chỉ còn Bá Ða Lộc và dăm tên, không đáng kể. Ðánh lần này, Hoàng thượng phải như đánh rắn, đánh cho dập đầu. Thần thiển nghĩ, quân bộ ta chia làm hai đạo, một từ Bình Thuận xuống, và mượn đường Chân Lạp đi vào biên giới, đạo thứ hai đánh thốc lên, hai mũi kìm tiến vào vây Gia Ðịnh thì chỉ sáu bẩy tháng là bình định được...

Huệ mừng rỡ reo :

- Ðúng như lời Ngô thì Nhậm, văn và võ là một. Thầy chuyên cầm bút mà nghĩ hệt như ta là kẻ chỉ biết cầm gươm. Vì quân bộ là chính nên xuất thủy binh mùa gió chướng là nhằm tạo bất ngờ, giặc không tính đến nên ta mới có cơ thắng...

Ra lệnh truyền hịch đến quân dân hai phủ Qui Nhơn và Quảng Ngãi, Huệ chỉ cho Thức chiếc kỷ bên cạnh bắt ngồi. Huệ nhỏ nhẹ :

- Thầy Thức, xưa thầy xin dùng Quốc ngữ, nay thầy đề nghị đợi đến gió mùa mới xuất quân. Cả hai sách ta đều bác đi, thầy có oán ta không ?

- ...

- Hai tháng nữa, hết gió chướng nhưng lại đúng gió ngược, ta để thủy binh đi trước rồi mới cho bộ binh xuất trận. Từ nay đến lúc đó, ta sẽ nghe thầy, và lại nghe một việc quan trọng nhất. Thầy từng bảo ta, đừng đợi đến lúc làm Vua rồi mới hỏi làm Vua để làm gì ? Thầy còn nhớ không ?

Thức gật đầu. Huệ lại cười, tiếp :

- Rồi khi ta hỏi làm sao để biết cái phải làm gì thì thầy đáp «...phải sống một cuộc sống bình thường, từ đó mới thấu hiểu được niềm hạnh phúc của những kẻ bình thường ». Bây giờ ta muốn thử một cuộc sống bình thường, ta phải làm thế nào ?

Thức nhìn lên , ngẫm nghĩ rồi đáp :

- Người ta quí nhất là tính mạng. Kẻ bình thường sợ đao binh, nhưng Hoàng thượng thì lại thừa biết chuyện sống chết với binh đao rồi. Kẻ bình thường còn sợ mất mạng vì đói. Chắc Hoàng thượng không biết thế nào là sợ chết đói, và có biết thì mới hiểu miếng ăn thực sự là gì !

Gật gù, Huệ lẩm mhẩm :

- Ðược, ta nhịn ăn ư, được...

Ngọc Hân bật cười :

- Nhưng khi Hoàng thượng muốn ăn lại gọi. Thế thì làm sao biết được cái sợ chết đói ?

- Ðúng ! Ðói đến có thể chết mà không làm gì được thì mới là sợ chết đói.

Nhìn Tự cầu cứu, Huệ tiếp :

- Nhưng ta, ta làm thế nào ?

Ngẫm nghĩ một chặp lâu, Tự cúi đầu thưa :

- Làm thế này ! Hoàng thượng nhịn, nhưng không được gọi ai, giao tính mạng mình vào tay một người như kẻ bị đói phó thác sự sống chết cho cơ may do trời định. Cứ đánh một cái chìa khóa nơi Hoàng thượng nhịn ăn, giao cho một ai đó. Khi đến cái giới hạn của sự sống và cái chết, chỉ có người đó có thể cứu Hoàng thượng, hoặc để mặc cho Hoàng thượng chết đói...

Cười lên ha hả, Huệ nhìn Ngọc Hân, nói lớn :

- Thế thì Hoàng hậu giúp ta làm việc này nhé ! Ðừng có phụ lòng ta.

Giao Quang Cương vào tay nhũ mẫu, Ngọc Hân lẩm bẩm : « Ta xuống cung Long Chính. Hoàng thượng đã nhịn ăn được năm ngày rồi ! ». Nói xong, Hân biết mình hớ miệng, dối :

-...nhịn ăn để chữa bệnh mà !

Chỉ có Thức, Tự và Hân biết việc Huệ nhịn ăn để hiểu thế nào là nỗi sợ chết đói của những kẻ bình thường. Ngay cả với Phạm Hoàng hậu, Huệ nói thác là Thái Y mách cách trị những cơn đau ruột thỉnh thoảng Huệ lại bị. Hân bước ra ngoài, tay nắm chặt chiếc chìa khóa, chân men theo ven hồ, thầm nhủ cả tính mạng mình lẫn ba đứa con đều nằm trong tính mạng của Huệ ở Phú Xuân này. Thức đợi sẵn, đi đến mở một ô vuông trên cánh cửa bằng gỗ gụ, rồi lách sang đứng một bên.

Nhìn qua ô cửa, Hân thấy Huệ bất động, lưng dựa vào tường, hai mắt nhắm nghiền dưới ánh sáng ngọn bạch lạp hiu hắt vàng bệch. Ngước lên, Hân nghe tiếng Thức thì thầm :

- Hai hôm trước, Hoàng thượng còn bò đi lùng dán, thạch thùng... trong điện. Ngài bắt được, ăn sống, nhưng lại nôn mửa ra. Hôm qua, ngài chỉ uống nước, cả ngày chỉ đủ sức chửi có ba câu, không như mấy hôm đầu la hét quát mắng...

Hân bỗng thỏa mãn, miệng nhếch lên cười. Thức tiếp :

-Tâu Hoàng hậu, hôm nay Hoàng thượng ngồi một góc, chỉ thỉnh thoảng tay chân mới đụng đậy. Tôi nghĩ chắc thế là đủ rồi...

Bỗng Huệ như trực giác thấy Ngọc Hân ở đâu đây, quơ tay lên vẫy, rồi lại mệt nhọc lả ra, miệng mấp máy
cầu khẩn. Hân thầm nghĩ, thế là hết oai phong nhé ! Nhớ lại đêm động phòng ở lầu Tử Các và cái đau đớn tủi hổ khi Huệ đẩy mình chúi xuống, xách cho chổng mông lên rồi đâm vào như thúc kích để trả thù, Hân
trả lời Thức, giọng ráo hoảnh :

- Tôi lại không mang theo chiếc chìa khóa !

Huệ bỗng cựa mình, lết dần về phía cửa, hổn hển, cứ được dăm ba thước lại phải nghỉ để thở. A, cái đói. Bây giờ mi là địch thủ của ta. Xưa nay, ta luôn luôn nhủ mình rằng khóc nhục, than hèn, rên yếu đuối. Ðến ngày thứ tư, ta khóc, than và rên rỉ. Ta lại còn sợ nữa. Ta biết là ta chết thì cả triều đại Tây Sơn này cũng sụp, và bọn chúng bay phải chết theo ta. Vậy, đứa nào dám giết ta ? Không. Không một đứa nào ! Nhưng ta vẫn sợ. Sợ chúng bay nhân ta vắng mặt, gây gỗ can quan, đánh lộn bậy, đốt phá, để mất chiếc chìa khóa. Sợ con mụ họ Phạm nổi cơn ghen và giết Ngọc Hân. Ta lo. Ta lo nhỡ Hân để cho đám con ta là Cương, là Quí chơi, lỡ tay vứt mất chiếc chìa khóa thì sao.

Ô, đầu ta, cái đầu ta bắt đầu loạn rồi. Này, có chất gì ứa ra làm xót ruột thế này. Quan thị y đâu ? Thị dược đâu ? Bay để Quang Trung Hoàng Ðế khổ thế này à ? Thôi, cho ta đánh đổi. Ta đổi Vĩnh Trấn lấy một đĩa óc nghé. Không à ! Vậy thì Cao Bằng - Lạng sơn lấy ba bát cơm trộn mắm. Còn Thanh - Nghệ, ta không đổi đâu ! Ta định xây Ðế đô ở Nghệ. Ðất đó là đất tổ ta họ Hồ, sau đổi ra Hà, và lưu lạc vào Tây Sơn thì lại thành họ Nguyễn. Họ mẹ ta. Bác ta là Quận He đấy. Cũng công hầu nhà Lê, có kém ai. Còn ta, ta là phò mã, lấy Ngọc Hân về hầu hạ, quắc mắt lên là cha con Lê Hiển Tông xám mặt cúi đầu.

Thanh - Nghệ và thêm cho cả Quảng Bình, đổi lấy một miếng cháy bôi mỡ nhé ! Thế mà bay cũng nói không à ? Ta sắp chết sao ? Bớ Ngọc Hân. Chìa khóa đâu, mở cho ta ra. Hay mi cũng phản ta rồi. Tự và Trọng Thức lập mưu giết ta với mi chăng ? Ðúng, đúng rồi. Thị vệ, có bọn tạo phản, giết chúng cho ta... Nhưng giết chúng để làm gì ? Huệ mơ màng tự hỏi mình thì mắt hoa lên, thấy Vũ văn Nhậm bị trói ở bãi Tây Long. Nhậm trợn mắt :

- Giết ta để làm gì ?

Huệ nghiến răng :

- Ðể từ rày ta chỉ lo một mặt phía nam Phú Xuân vì bố vợ mi ở Qui Nhơn. Còn mi là chàng rể, mi còn sống ở phía bắc là ta còn phải lo thế gọng kìm. Vì thế ta phải giết mi !

Nhậm hét lên, và Chỉnh ở góc phòng, mặt mũi máu me hỏi :

- Thượng công sai Nhậm giết tôi. Tôi phản hay chính Thượng công phụ tôi ?

- Mi không phản lúc đó, nhưng để mi ở Bắc hà hai năm sau thì mi cũng sẽ phản. Còn ta phụ mi ? Biết mi sẽ phản thì ta có phụ cũng là luật chơi mà thôi. Giá khi mi dẹp được Trịnh Bồng, mi đừng chịu nhận tước Quốc công của nhà Lê, vẫn cứ nhân danh Hữu quân Tây Sơn rồi đợi lệnh ta, thì ta lấy danh nghĩa gì mà giết mi được ? Giết mi, ta tiếc lắm chứ. Giả thử có mi, thì về thủy binh ta có lo gì thằng Chủng. Thủy binh ta mạnh, tiếp ứng được Gia Ðịnh thì ta đâu có mất Thái bảo Phạm văn Tham. Chính mi, mi chết là phụ ta ... Mà ta đói thế này, chắc cũng sắp gặp mi ở dưới tuyền đài rồi.

Huệ lại thở, nước mắt ứa ra đầm đìa, tay cố vẫy, giơ lên rồi lại rơi xuống tuyệt vọng. Thức nói lớn, giọng hoảng hốt :

- Hoàng hậu đi lấy chìa khóa đi. Không đợi được thêm nữa đâu ! Có mệnh hệ gì thì chúng ta đều chết hết.

Nhìn Huệ lả người trên mặt đá hoa lát điện, mắt đã nhắm nghiền, thở thoi thóp, Hân lạnh lùng :

- Hoàng thượng muốn đến ranh giới sự chết, để hiểu cái đói và nỗi bấp bênh của sinh mạng đám hàng dân. Ngài chắc sẽ được như ý. Tôi về, sáng mai quay lại, bây giờ khuya rồi đi tới đi lui sợ điều tiếng dị nghị.
Một đứa thị nữ nấp sau bức trướng nghe rồi vội vã chạy về Tây cung báo. Phạm hoàng hậu nghe xong, rủa « ...con khốn nạn, được rồi ! »

Sau sáu hôm không được ăn, Huệ rạc người đi, nhưng chỉ được uống cháo có đổ sâm trong hai ngày liền. Ngày thứ ba, Huệ mới bắt đầu ăn cơm, dần dần lại sức, sai người qua Tây cung bảo Phạm hoàng hậu làm cho món óc nghé. Huệ nhìn Thức, trầm ngâm :

- Bài học đói là bài học lớn nhất của trẫm, cám ơn thầy. Từ nay, trẫm biết bụng hàng dân, hiểu ra cái lẽ thịnh, loạn. Khi đói, quả người ta mất hết nhân phẩm và lý lẽ. Thầy biết không, trẫm đói quẫn trí oán cả thầy, cả Tự, rắp tâm sẽ chém cả hai. Thế thì nói gì đến dân chúng. Họ đói, họ oán trời, rồi tất nhiên oán trẫm, có làm loạn cũng không lấy gì làm khó hiểu ! Họ lại đâu chỉ đói một mình. Cả nhà đói. Cả làng, cả huyện đói. Ghê thật, và trẫm hiểu được những cái quyền dân thầy từng nói, không còn lờ mờ như trước. Ðúng. Cái quyền tối thượng của mỗi người dân là quyền sống. Và sống có nhân phẩm thì không phải đói, phải xin, phải cầu cạnh gì ai. Câu thầy bảo làm vua phải biết là để làm gì nay trẫm đã hiểu ...
Huệ đứng dậy vái, nhưng Thức đã vội nghiêng mình chắp tay vái lại, miệng kêu :

- May thay. May cho thiên hạ !

Thời gian sau đó, mắt Huệ bớt rừng rực lửa, cung cách độ lượng, không bàn chuyện vào Gia Ðịnh dẹp lực lượng Nguyễn Ánh, bỏ ra mấy buổi liền để bàn với Tự về cách chống đói và tiềm năng kinh tế của Ðại Việt. Về phần Thức, Huệ giao cho trách nhiệm tìm những kẻ còn trẻ cầu học cầu tiến, dự định gửi họ sang Pháp lan tây và Anh quốc. Gọi Kỷ và Tuyên vào, Huệ ướm hỏi họ về vấn đề cho giáo sĩ tự do giảng đạo, và để cho giáo hữu mở trường dậy học ở mọi huyện.

Xế chiều, Huệ sang Tây cung, cho Tự, Thức và Ngọc Hân đi theo. Trầm tĩnh hẳn, Huệ nhẹ nhàng phủ dụ Phạm hoàng hậu chứ không hắt hủi như xưa, gọi đám Toản, Thùy và Bàn ra hỏi việc học, lòng có chút ân hận đã sao nhãng con cái những năm vừa qua. Ðến khi dọn tiệc ra, Phạm hoàng hậu chắp tay thưa :

- Vì Hoàng thượng gọi gấp, lại chỉ tìm được có một con nghé, cho nên tôi làm thêm món miến gà là món Ðàng Ngoài để khoản đãi Bắc cung hoàng hậu và các vị văn thần Bắc hà. Xin cứ tự nhiên.

Ðang mải nghĩ ngợi về phản ứng của đám quan võ đối với sự hòa hoãn khoan nhượng các giáo sĩ Gia Tô, Huệ chẳng nói chẳng rằng, cắm đầu ăn ngấu nghiến, nhưng mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không. Chưa thấy Huệ cho phép, mọi người cúi đầu lẳng lặng đợi. Miệng khô, Huệ với một bát miến, húp nước. Tiếp tục ăn được dăm ba miếng, Huệ bỗng kêu nhức đầu. Thế là không một ai đụng đến những bát miến gà còn nóng, và cũng chẳng có người nào để ý thấy Phạm hoàng hậu mặt tái mét, cúi mặt không nhìn lên.

Về đến cung vua, Huệ sai đóng cửa lại, kêu :

- Gió chướng độc lắm. Khéo không lại bệnh đấy !

Trên thành Phú Xuân, gió khi thổi khi ngừng, không có phương hướng nhất định, lắm lúc lại xoắn vào nhau quay cuồng gào lên điên dại.

Quả gió chướng là gió độc. Huệ ngã bệnh tối hôm đó, đầu nhức, người ra mồ hôi như tắm. Y quan vào bắt mạch, cho thuốc. Thuốc uống xong, Huệ đỡ. Nhưng mấy ngày sau, những cơn nhức đầu lại quay lại. Rồi kèm với nhức đầu là những trận đau bụng. Y quan không chẩn được bệnh, cầu cứu bọn đồng cốt. Huệ đuổi ra. Mấy ngày sau, Phạm hoàng hậu treo cổ tự vận nhưng ai cũng dấu, không cho Huệ biết. Lúc đó, có những cơn đau làm Huệ bất tỉnh, mặt cứ sạm dần đi, miệng lở, môi khô, hai con mắt lồi ra nhìn như hai cục máu đông lại. Cho người về Qui Nhơn tìm An, người bạn gái thuở niên thiếu, Huệ đợi từng ngày. Có lẽ lúc đó, Huệ biết mạng của mình đã đến chỗ tuyệt.

Phạm hoàng hậu rắp tâm đánh thuốc độc giết cả bọn «nước ngoài » vào chiếm chồng, chiếm vua nước Ðàng Trong, mê hoặc triều đình bằng những luận điệu huyễn hoặc. Mưu ấy, chỉ một mình Bùi Ðắc Tuyên biết. Nhưng oái oăm thay, chút nước trong bát miến gà ngay tầm tay Quang Trung trong bữa ăn ở Tây cung không hại được một ai khác ngoài vị Hoàng Ðế cầm hết vận mệnh nhà Tây Sơn. Có lẽ Huệ biết mình bị đánh thuốc độc vì một hôm Huệ hỏi Tự :

- Cùng đi ăn ở Tây cung, có ai làm sao không?

Nghe Tự nhắc lại là hôm ấy chẳng có ai kịp đụng đũa, Huệ chỉ à lên một tiếng rồi không đả động gì đến nữa.

Huệ sai gọi Trần Quang Diệu ở Nghệ An và Vũ văn Dũng đang trên đường đi sứ sang Trung Quốc về gấp. Ngọc Hân ngày đêm bên cạnh Huệ, khóc thưa :

- Hoàng thượng có mệnh hệ gì thì mấy mẹ con thiếp trông cậy vào đâu ?

Ngậm ngùi, Huệ nhỏ nhẹ :

- Trông vào Dũng, về Bắc Hà, đừng ở đây nữa!

Gọi Thức và Tự vào đứng bên giường, Huệ gượng cười :

- Ðến ranh giới cuối của sự sống với cái đói, nay ta ghé lằn mức đầu tiên của sự chết bằng mấy miếng óc nghé và chút nước miến gà. Thầy thấy có buồn cười không ? Cái quyền lực ta còn đây, ta cũng chẳng biết làm gì với nó ? Ta giết kẻ hại ta, cũng chẳng thay đổi được gì, chỉ phá cho nát ngay cái sự nghiệp Tây Sơn mà thôi !

Ngừng lại để lấy sức, Huệ tiếp như than van, mắt nhìn Tự :

- ...Có cứu lấy gì được không ?

Tự ngẫm nghĩ rồi đáp :

- Rút về Ðàng Ngoài, có Thiếp, Nhậm và bọn quan võ như Dũng, Huấn, Sở, Lân thì còn giữ được lâu ! Ðàng
Trong chưa đủ sức để đánh ta ngay...

Huệ buồn bã ngắt lời Tự :

- Kẻ làm được việc này là Diệu. Chỉ Diệu mới khiến được đám cựu thần Qui Nhơn thôi. Nhưng để làm chi ? Không nhẽ lại phân ra Trong, Ngoài, Nam, Bắc đánh nhau thêm một vài trăm năm nữa ? Bài học về cái đói đã dạy ta điều ngược lại, nghĩa là phải tìm cách cứu vãn hòa bình, chứ không phải là tiếp tục cuộc nội chiến đã manh nha từ thuở Mạc triều. Còn cắn cấu lẫn nhau, còn nghèo, còn đói ...

Ngừng một lát, Huệ dặn Tự và Thức :

- Ta đi rồi, cả hai vị phải rời ngay Phú Xuân tránh nạn. Chúng sẽ ăn sống hai vị ngay !

Trần Quang Diệu về tới Phú Xuân, vội vào cạnh Huệ. Huệ thều thào :

- Ngươi gấp xây Trung đô ở Nghệ rồi kéo ra đó, nếu không thì bọn giặc Gia Ðịnh vào, lũ các ngươi chết không có đất mà chôn. Việc tang ma, lẳng lặng làm cho nhanh, và hai ba tháng sau hãy báo cho thiên hạ rõ.

Gọi Ngọc Hân đến bên giường, Huệ ứa nước mắt :

- Duyên ta với nàng có thế. Nghĩ lại, tội cho nàng. Ta không nghĩ là nàng yêu ta. Nhưng dẫu sao, nàng cũng cho ta mấy mụn con đáng mặt vương đế. Phần ta, ta chỉ quí nàng, và cũng xin nàng quí ta là đủ.
Người ta yêu - Huệ bật cười - chỉ muốn ta là một kẻ bình thường. Suốt đời, từ năm mười bảy đã làm tướng cầm quân cho đến nay là trên hai mươi năm, ta mới sống được sáu ngày nhịn đói có thể tạm gọi là bình thường. Nhưng khi chết, tất là ta chết như mọi người. Gọi người ta yêu đến để nàng thấy lúc cuối cùng này ta cũng trở thành bình thường như mọi người trước cái chết, nhưng sao nàng vẫn không đến ...
Bỗng từ ngoài không biết bao nhiêu là những con dán cánh vàng mật ong ở đâu bay vào điện nơi Huệ đang thoi thóp thở. Dán bay, cánh đập rào rào như tiếng mưa, khiến Huệ mở mắt, thều thào trong cơn mê sảng :

- Ai đấy ! An, An phải không ?

Chỉ có mái tóc Ngọc Hân run rẩy dưới ánh bạch lạp đang ngả nghiêng hắt lên tường bóng những con dán bay toán loạn. Tiếng Huệ nhỏ dần :

- An xem, chết thế này bình thường chứ hả ...

Ðêm hôm ấy là đêm hai mươi chín tháng bảy âm lịch năm Nhâm Tí. Trên trời Phú Xuân, sao lấp lánh rồi từng trăm vì sa xuống. Ðó là những vì sao chết cách đây hàng vạn năm ánh sáng, chờ đúng lúc rủ nhau về đón một linh hồn vừa rời thế gian. Như mọi người, rất bình thường. Kể cả chuyện đến phút cuôí cùng vẫn chỉ chờ đợi bóng người yêu. Nhưng nàng không bao giờ đến.

Ngọc Hân lủi thủi về Bắc cung, lấy bài thơ làm dở cho Huệ ra ngắm nghía. Nàng nhanh tay thảo ba chữ Ai
Tư Vãn, rồi viết tiếp :

« Công dường ấy mà thân nhường ấy

Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công

Rộng cho chuộc được tuổi rồng

Ðổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi »

Ðó là bài văn tế chẳng phải cho riêng Quang Trung mà là cả cho triều đại Tây Sơn. Cái kỷ nguyên mới kia chỉ còn là một giấc mơ bám bụi. Ngay sáng hôm sau, Bùi Ðắc Tuyên vây bắt Nguyễn Huy Tự rồi mang dìm xuống sông ở ngả Ba Sình. Tự cười ằng ặc, chẳng phải là chỉ vì bị sặc nước.

Hai trăm năm sau, một học giả tìm ra nguyên bản Hoa Tiên do Tự trước tác, một tập thơ truyện bằng chữ Nôm đặt tình yêu lên trên vòng ràng buộc của luân lý phong kiến. Sau đó, một dị thuyết cho rằng Tự trốn chứ không bị Tuyên bắt, rồi già mà chết.

Chương 12
Ðòn thù

Chợ Hương-qua sau mười năm binh lửa nay chỉ còn là một mảnh đất ven sông rải rác trên dưới độ hai chục hàng quán. Sáng tinh mơ, chợ còn thưa. Ðâu đây, tiếng chửi bới dành chỗ của những người gánh hàng, tiếâng can gián, trộn vào tiếng ê a rao bán quà rong, là khúc mở đầu của một bản giao hưởng họp chợ ở nơi nào cũng có. Dòng sông Lam uốn vòng như ôm lấy bến Lịch dưới kia lững lờ trôi. Dăm ba con thuyền cặp bến, rồi nào là tiếng gà quang quác, tiếng chào hỏi, tiếng cười, tiếng nói bỗng chốc nhộn nhạo hẳn lên. Qua những tàn cây cành lá xum xê, ánh dương ló ra, ngần ngừ, uể oải như người đêm trước uống rượu say sáng phải dậy sớm.

Ngay chân chiếc cầu nổi dùng làm chỗ buộc neo thuyền, nhà sư ngồi đó như một pho tượng làm bằng đất thó. Chân đất, tay bưng bình bát, sư nhìn sông, nhìn nước, miệng mủm mỉm cười, hàm râu quai nón ngả mầu bạc phập phồng trên khuôn mặt thanh thản hồn nhiên. Một lũ trẻ từ góc chợ vừa reo vừa chạy lại.
Ðợi sư ngồi xuống, bọn trẻ con đến bâu chung quanh, mắt hau háu nhìn, rồi xô đẩy tranh chỗ, cãi nhau chí chóe. Vân vê bộ râu quai nón, sư khẽ rầy :

- Này, cứ cãi nhau đánh nhau là ta không kể đâu. Có yên đi, ta mới kể.

Khoác tấm áo sòng màu xám, người dềnh dàng nhưng tay thoăn thoắt, sư xếp hai cái bát không bên cạnh chỗ ngồi, rồi lần tràng, mắt nhắm lại. Ðợi đến lúc đám trẻ con đâu đã ngồi vào đấy, sư mới mở mắt ra, miệng chậm rãi, ề à :

- Hôm qua, kể đến đâu nhỉ. À, có phải là Hứa Sử đang hỏi Diêm Vương không? Ðúng, có đứa nào nhớ hỏi
thế nào không?

Trong số bọn trẻ đang nhao nhao lên, một đứa cao giọng đọc:

Xà vương giết hại vua cha

Qui y niệm Phật đạêng tha tội này

Có một tội, tội phụ thầy

Phật không cứu đặng, ta rầy khó bênh

- Ðúng rồi. Thế là Hứa Sử hỏi :

Làm tôi buông thói chẳng ngay

Làm con không thảo giết, đầy vua cha

Lẽ thời tội ấy chẳng tha

Qui y sao lại thoát ra tội này ?

Ðệ tử nếu phụ ơn thầy

Phật không cứu đặng lệnh rầy chẳng tha

Sư ngừng đọc, đưa mắt nhìn lũ trẻ, rồi ê a, tay nhịp vào mõ :

- Vậy thì thầy hơn vua, cha

Tôi nghe lẽ ấy lòng mà chưa thông ?

Bọn trẻ con lại kêu lên hỏi tại sao. Nhà sư giơ tay cho chúng im, bảo :

- Diêm vương trả lời Hứa Sử thế này :

Tớ thầy, tôi chúa, con cha

Cả ba điều ấy thật là trọng thay

Sinh con nhưng chẳng có thầy

Lấy ai giáo hóa cho rày nên thân

Cùng là tiết nghĩa phò vua

Trạch dân trí chúa cơ đồ đặng yên

Vua cùng cha mẹ rõ ràng

Có cơ thành tựu nhờ ơn của thầy.

Lúc ấy, người đi chợ cũng đến đứng xung quanh nghe nhà sư kể chuyện. Có kẻ hỏi :

- Thế là lộn tùng phèo Sư, Quân, Phụ chứ không phải Quân Sư Phụ nữa à ?

Sư chỉ ngoác miệng ra cười hiền lành, không trả lời, tay chỉ vào hai cái bát không. Người ta bỏ cho ăn, sư niệm Nam Mô, rồi đứng lên cầm đồ ăn ra bờ sông Lam. Bọn trẻ con đi theo, sư lại vẫy tay đuổi, nhưng dịu dàng nói :

- Truyện còn dài, còn dài mà ...

Lặng lẽ ngồi cạnh bụi rạc nhìn ra sông, sư lẩm nhẩm một mình không biết nói điều gì. Nhìn ra xa, ngọn Hồng Lĩnh đâm lên trời ngạo nghễ đùa cợt với những cụm mây trắng theo gió lềnh bềnh trôi xa. Ăn xong, sư đứng dậy men bờ đi ngược lên, nải vắt lưng, tay chống gậy. Gặp thuyền đi cùng hướng, sư vẫy, miệng kêu :

- Làm phúc cho quá giang với ...

Ngồi đầu mạn thuyền, sư nhìn về hướng Nghi Xuân, hỏi :

- Nhà thuyền có lên đến Tiên Ðiền không ?

- Có.

- Nam mô a di đà Phật. Cho tôi xuống đấy nhé. May quá.

- Sư đi tìm ai ?

- Một người em họ, tên là Nguyễn Du.

- A, vậy thì tôi biết, tôi chỉ đường cho.

- Nam mô a di đà Phật !

Thuyền trôi đi, nửa ngày sau cặp vào bến. Sư lên bờ, miệng lại cười, vẫy tay rồi đi. Mặt trời lúc đó đã đứng bóng, tiếng gà gáy trưa buồn nản vang lên trong những cơn gió nóng như đổ lửa. Sư lau mồ hôi, lững thững bước, miệng lẩm nhẩm. Qua lũy tre đầu làng, rẽ vào tay trái. Căn nhà thứ năm, hàng dậu có dàn bìm bịp. Sư ngừng bước, hỏi lớn :

- Có ai trong nhà không ?

Cánh cửa hé mở, rồi một giọng ồ ồ như vỡ tiếng cất lên:

- Mời sư ngồi sơi chén nước. Ðể cháu đi tìm cha cháu về !

Nói xong, cậu bé chặc mười lăm tuổi chạy vụt ra ngoài. Một lát sau, có tiếng chân người và tiếng bản lề cánh cửa nhọc mệt nghiến răng như rên rỉ. Sư đứng dậy.

Một người lưng hơi gù, quần sô, áo vải, tay còn cầm chiếc cuốâc chim, bước từng bước lại, dáng e dè. Sư chào, miệng cười :

- Nam mô a di đà Phật ! Du đấy à ?

Người vừa vào mừng rú lên, chạy lại nắm tay, reo :

- Nhật huynh ! Cháu nó bảo là một vị sư. Ðệ cứ ngỡ là ai chứ, vì thỉnh thoảng cũng có một vài vị quanh đây đến chơi nói chuyện.

Hai người ôm chầm lấy nhau. Nhật đẩy Du ra, ngắm nghía, lắc tay nói :

- Thấm thoát từ lần ở Quỳnh Côi đến giờ là bao nhiêu năm rồi nhỉ ?

- Gần mười năm. Nhanh thật ! Mỉm cười, Du tiếp - may ra chỉ có sự chết chứ ngoài nó ra có gì chống được thời gian không nhỉ ?

Lần Toàn Nhật gập Du ở Quỳnh Côi là vào năm Quí Sửu, sáu tháng sau ngày vua Quang Trung băng hà. Ở Phú Xuân, Quang Toản mới gần mười tuổi lên ngôi, lấy hiệu Cảnh Thịnh, nhưng quyền hành nằm hết trong tay cậu ruột là Thái sư Bùi Ðắc Tuyên. Lập tức, Tuyên giết Nguyễn Huy Tự, truất Trần Danh Kỷ, đánh xuống làm lính, đầy ra trạm Mỹ Xuyên. Mâu thuẫn Bắc - Nam ngấm ngầm cho đến khi đám quan văn võ gốc Bắc hà lần lượt bị mưu đẩy ra Ðàng Ngoài, kể cả những trọng thần như Vũ văn Dũng. Tuyên đi ngược lại mọi chính sách của Quang Trung, ra lệnh ngăn giao thương ở Hội An, và gây khó dễ cho những người truyền đạo Gia-Tô trong suốt hai vùng Thuận Hóa và Nam - Ngãi. Sau, Tuyên công khai đàn áp giáo hữu, để lại những vết tích khủng bố khá tàn bạo đã gây mầm mống cho sự sụp đổ của Tây Sơn sau này. Vì thế, « xứ xứ tịnh khởi », cả Ðàng Trong lẫn Ðàng Ngoài giặc dã nổi lên, không còn ai e dè gì.

Nhà sư Toàn Nhật, một thời đã là vị tướng suất sắc cầm đầu đội Tiền Kích của du binh Tây Sơn, khi đó đi hoằng pháp đến tỉnh Thái Bình. Vào đến huyện Hải An, Nhật gặp lại huyện quan vốn là một tướng cũ dưới quyền mình. Huyện quan than rằng ngay chính ở Quỳnh Côi cũng đã có một số người tạo phản, tập hợp hào mục đánh lại, cứ như cái dằm đâm vào ngón tay mà không nhổ ra cho được. Nhật hỏi, biết người kêu gọi khởi nghĩa Cần Vương chính là Nguyễn Du. Tối hôm đó, Nhật bảo huyện quan :

- Ông có muốn tôi nhổ cho ông cái dằm đâm tay không ?

Huyện quan còn ngơ ngẩn, Nhật tiếp :

- Phiền ông đi với tôi đến Quỳnh Côi !

Dĩ nhiên Huyện quan giẫy nẩy lên từ chối, sợ bị giặc bắt. Nhật lảng chuyện, mượn một chiếc xe bò, và mua lại ít lương thực mắm muối, để chở vào chùa Trí Ấn. Khi việc đã xong xuôi, Huyện quan cáo từ, vái Nhật. Miệng đáp « A di đà Phật », Nhật thình lình đưa tay điểm huyệt, rồi nhanh như cắt vật Huyện quan xuống trói lại. Bỏ vào chiếc bao tải, Nhật ôm Huyện quan đặt lên xe bò, dặn đám người nhà đang sợ đến ngây người :

- Tôi là kẻ tu hành. Ðừng động tĩnh gì, mai tôi lại xe ông ấy về đây.

Nhật đánh xe bò thẳng đường đến Quỳnh Côi, tìm ra chỗ ở của Du vào nửa đêm, gõ cửa nói :

- Ta nghe đệ dấy quân Cần Vương, nên có chút lễ mang đến, gọi là góp vào nghĩa cử.

Du mừng rỡ. Uống được dăm chén trà, Nhật hỏi :

- Thế kế hoạch Cần Vương của đệ thế nào ?

Du thưa :

- Ðánh phá huyện, chém huyện quan ra oai, rồi từ đó tiến lên trấn Sơn Nam.

Nhật vỗ đùi kêu :

- Hay. Tuyệt lắm. Chiếm Sơn Nam rồi làm gì ?

Du hăng hái :

- Có thanh thế, ta kêu gọi các trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây ... cùng nổi lên, tìm con cháu nhà Lê lập lại, rồi vây Thăng Long. Thế huynh giúp cho một tay nhé ?

Lắc đầu, Nhật thủng thẳng :

- Ði tu rồi, ai còn muốn tay mình vấy máu. Người nào có mệnh nấy. Trời cho thanh cao, ai lại thích bụi bậm phong trần ?

Miệng cười tủm, Nhật hỏi :

- Du đệ. Ðệ đã chém ai chưa ?

- Chưa !

- Ðệ chắc đã chọc huyết heo, cắt cổ gà ?

- Cũng chưa !

- Thế à ! Vậy thì phải tập. Văn ôn võ luyện, con nhà võ mà không biết máu me thì không được.

Tay chỉ vào chiếc bao tải, Nhật bảo :

- Còn món quà chót này.

Du hỏi:

- Gì đấy ?

- A. Ðấy là món quà Du đệ đang trông đợi. Chuyến này chẳng cần đánh huyện Hải An làm gì. Ta cứ trẩy thẳng lên trấn Sơn Nam nhé !

- ...

Nhật bất ngờ vòng tay rút thanh kiếm Du đeo ngang lưng rồi chém vào chiếc dây buộc bao tải, vừa nhanh, vừa gọn, và chính xác đến độ chỉ có sợi dây đứt làm hai đoạn. Xé chiếc bao tải thành hai mảnh, Nhật cười, giọng tỉnh khô :

- Ðây, Huyện quan Hải An đây.

Tội cho quan huyện, miệng bị nhét giẻ không kêu được nhưng tai nghe thấy hết, sợ đến độï run như đỉa
phải vôi, mắt ngước lên nhìn sợ sệt. Nhật lại tiếp :

- Du chém kiểu nào. Ðể hắn đứng lên hay bắt hắn quì đưa cổ ra. Không đợi Du trả lời, Nhật tiếp - Quì chém
ngọt tay hơn.

Ðẩy Huyện quan quị xuống, Nhật ấn cho đầu cong ra, thuận tay xé chiếc áo ngoài, khiến cổ Huyện quan lộ ra trắng hếu như một khoanh giò lụa. Tay đưa kiếm cho Du, Nhật lại cười :

- Ðây. Chém đi ta xem.

Lúc ấy, năm sáu đứa con Du và Ðoàn-thị, là vợ Du, đã ra ngoài đứng vây quanh, mặt mũi tái mét không còn đến một giọt máu. Ðứa con gái bé nhất khóc thét lên. Du cầm kiếm, vụng về, thõng tay bỏ xuống.
Nhật quát nhỏ :

- Chém đi. Còn đợi gì ?

Du nhìn vợ con, ném cây kiếm xuống đất, lắc đầu. Bấy giờ, Nhật mới nhẹ nhàng :

- Cái nghiệp máu không phải là nghiệp của đệ. Ta vẫn còn nhớ những câu văn tế cô hồn đệ đọc khi mình đến viếng mộ lão Hài năm xưa. Ðệ sinh ra là để làm những câu văn cho cuộc đời đẹp đẽ hơn, cho con người
yêu thương nhau hơn. Năm xưa, chẳng phải chính đệ đã đọc :

« Bắt phong trần, phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao »

cho Trọng Thức nghe à ? Nay, ai bắt mà đệ muốn giây vào bụi bậm ? Ðệ sinh ra, tâm hồn được cái đẹp cứu rỗi. Ðời này có thể cứu rỗi bằng cái đẹp. Cho nên muốn cứu thiên hạ, đệ cứu bằng cái đẹp. Cứu như thế là cứu cả thiên hạ không những chỉ đời này, mà cho cả những đời sau ...

Nhìn Du ngẩn ngơ như còn mộng mị, Nhật ôn tồn :

- Cứu thiên hạ chúng sinh ư ? Là làm sao cho chúng sinh phải biết tự cứu mình. Cứu bằng sự hiểu biết, nhà Phật gọi là tỉnh thức. Ðã gọi là tỉnh thức, thì không có gì là mệnh nữa ...

Cởi trói cho Huyện quan, Nhật quì xuống vái :

- Ðã phạm đến ông, thật có lỗi. Mong ông quên đi cho !

Huyện quan mừng, nhưng vẫn sợ. Cái tăm tiếng sấm sét của Du binh Tiền Kích tướng quân Võ Toàn Nhật
vẫn còn đủ sức làm kinh hoàng một viên võ tướng Tây Sơn. Huyện quan vái lại, miệng lắp bắp, tay chỉ Du :

- Ông đây, tôi muốn thì đã bắt từ lâu rồi ! Khốn nỗi là quan Thượng Thư Ngô Thì Nhậm đã cấm quan Trấn Thủ Sơn Nam động đến, lại lệnh cho chúng tôi phải dè chừng bảo vệ ...

Du vỡ lẽ ra, bấy giờ mới hiểu chẳng phải là quân Tây Sơn trở thành vô dụng. Nhật tươi cười :

- À, là thế. Ông nói trước, có lẽ tôi đã chẳng dám manh động đưa ông đến Quỳnh Côi. A di dà Phật ! Nhân tốt thì quả lành.

Khi Nhật và Huyện quan từ giã về Hải An, Du vái rồi nói « ...Ơn mở mắt cho Du, Du không quên ! ».

Nhìn đám trẻ nheo nhóc, Nhật bùi ngùi :

- Lần này, ta chẳng có gì mang đến cho các cháu.

Du cười, miệng đùa :

- Ai lại đi ăn hớt của sư. Huynh đến thăm đệ, đệä chỉ có cơm chay, rau dưa là chính, thế đã mười lăm năm nay rồi.

Vừa kể rằng Thiếp sai mình từ trại Bùi Phong xuống tìm, Du đã đưa ra cho Nhật xem một tờ chỉ, lệnh bắt Du đến gặp Trấn thủ Nghệ an để nhậm quan, dưới đề Gia Long năm thứ nhất. Nghe Nhật dí dỏm «... thế là sắp hết chay tịnh rồi !», Du mặt vẫn đăm đăm, thở dài, nói nhỏ :

- Chắc thầy dặn là đệ phải nhận !

Nhật gật đầu, chậm rãi :

- Thầy chỉ bảo ta kể cho Du nghe chuyến gặp gỡ giữa Ánh và thầy. Tháng năm năm ngoái, thầy tuân mệnh Cảnh Thịnh ra Phú Xuân. Bất ngờ, quân Ánh đánh vào chiếm kinh, thầy bị kẹt ở lại đó. Ánh gọi thầy vào sẵng giọng : « Người làm thầy bọn giặc Tây Sơn, sao lại để ta vào đến đây ? ». Sau đó, thầy chứng kiến Ánh quật mả Quang Trung, lấy hài cốt bỏ vào ngục và cưa sọ làm đôi, dùng làm bô nước tiểu !

Nhăn mặt, Du quay đi. Nhật từ tốn, nói như nói một mình :

- Thầy bảo, xưa Nguyễn Nễ là anh của đệ theo Tây Sơn mà cứu được đệ bị Trấn Thủ Nguyễn Thận bắt giam. Song ngư nước đã cạn rồi, đất nhà Nguyễn về lại chủ cũ. Lê triều nay đã mạt, đệ nhận quan là cứu Nễ, và biết đầu còn cứu cả được đám nho sĩ Bắc hà đã theo Tây Sơn. Ðó là lý do thầy không đưa đệ vào làm Sùng Chính viện dưới thời Quang Trung đấy !

Du lắc đầu :

- Việc ai nấy đều biết, là từ một thiếu niên mười sáu tuổi được Ðỗ Thành Nhân cứu vớt tới lúc trưởng thành, Ánh đã lập kế phục người giết ân nhân mình ba năm sau. Rồi mới đây, con của Ðệ nhất công thần Nguyễn Văn Thành tên là Thuyết bị Ánh xử tử hình vì đã làm thơ xướng họa với bọn danh sĩ xứ Nghệ. Ðó chỉ là cái cớ để sau đó Ánh nhẫn tâm bỏ Thành, một trong Gia Ðịnh tam kiệt đã phò mình suốt mười mấy năm, bị vây hãm ở Vân Sơn, cuối cùng phải tự tử để khỏi chết nhục với quân Tây Sơn.

Mân mê tờ chỉ trong tay, Du thở dài. Lát sau, Du nhìn Nhật, hỏi :

- Huynh nghe gì về cái chết của Ðông cung Cảnh ?

- Ta bôn tẩu khắp nơi, nghe thì có nghe, nhưng tin thì biết thế nào mà tin !

- Huynh nghe gì ?

- Ta nghe Cảnh sang Pháp, bị Bá đa Lộc huyển hoặc theo Gia-Tô giáo, về không chịu lạy bàn thờ tổ tiên, cho thế là lạy xác, một hủ tục mê tín. Bá đa Lộc bị bọn quyền thần bảo thủ trong triều ghen ghét, tìm cách kéo Cảnh khỏi tay, nhưng việc nhập nhằng vì Ánh còn cần đến Lộc. Sau Lộc chết rồi, triều thần vẫn tiếp tục dị nghị. Chiến thắng càng kề, thì Cảnh là Ðông cung càng thành một vấn đề đưa đến chia rẽ, đổ vỡ trong nội bộ Ánh. Bỗng nhiên Cảnh lăn ra chết, phao là bị bệnh đậu mùa. Vì thế hàng dân xôn xao, đồn là cái chết có gì mờ ám ...

Du lại lắc đầu. Nhật trầm tĩnh, nhìn Du, tiếp :

- Những kẻ đoạt được Ðế vị chỉ biết có quyền lực . Muốn có quyền lực, phải nhẫn tâm, phải sẵn sàng dày xéo lên mọi sự và mọi người. Người đời muốn sống yên với quyền lực, thì nên tránh nó cho xa. Nhưng khi không còn tránh được, thì lại phải lăn vào mới có thể tồn tại.

Hai người bước ra vườn. Tiếng côn trùng nỉ non than khóc văng vẳng tứ bề. Bỗng Du xa vắng :

- Huynh còn nhớ hôm chúng mình rời Thăng Long, qua sông Nhị không ? Huynh nhảy xuống sông bơi rồi hỏi
đệ « Xem ta đã sạch bụi chưa ? ». Những ngày tới, đệ sắp phải vấy bụi rồi, chẳng hỏi được câu huynh hỏi đệ.

Thở dài, Du ngậm ngùi :

- Nhà đệ ba đời ăn lộc nhà Lê. Bây giờ, cái phận đệ là phận hàng thần ...

Nhật chưa biết nói gì thì Du, giọng ai oán, than :
« Bó thân về với triều đình

Hàng thần lơ láo phận mình ra sao ? »

Im lặng một lúc lâu, Nhật nắm lấy cánh tay Du lắc nhẹ rồi bảo :

- Mai ta lên đường. Thầy bảo ta ra Thăng Long xui Ngô Thì Nhậm trốn đi thì mới sống được ! Quân Nguyễn Ánh sắp sửa tấn công Bắc hà rồi. Ta cũng lo cho Trọng Thức. Không hiểu lúc này anh ấy thế nào ?

Du kể là năm năm trước Thức có ghé về Nghệ An thăm. Lúc đó, Thức ở trong trại hủi với Mai trên bờ sông Mã, và dẫu cường thần Bùi Ðắc Tuyên đã chết, Thức vẫn từ chối không ra giúp Tây Sơn dưới đời Cảnh
Thịnh. Du buồn bã :

- Anh ấy đã đi quá xa rồi, và thành ra một người cô đơn nhất trong tất cả chúng ta. Anh ấy về Thanh Hóa, đệ có làm một bài thơ tiễn, nhưng vẫn chưa đưa đến tay được ...

- Thơ thế nào ?

Du chậm rãi đọc bài « Biệt Nguyễn đại lang » :

« Tống quân qui cố khâu (Tiễn người về chốn cũ )

Ngã diệc phù giang hán (Sang sông, ta sang sông)

Thiên lý bất tương văn (Trùng xa, tin chẳng đến)

Nhất tâm vị thường gián (Ngổn ngang, sóng ngập lòng )

Dạ hắc sài hổ kiên (Ðêm về, beo hổ tới )

Nguyệt mình hồng nhạn tán (Trăng lên, cánh nhạn hồng)

Luồng địa các tương vương (Ðôi nơi, cùng trông ngóng )

Phù vân ưng bất đoạn» (Mây nối trời mênh mông )

Nhật ngậm ngùi thở dài :

- Gần hai mươi năm rồi ta không được gặp Thức. Bây giờ lại phải đi gấp kẻo không kịp báo Ngô thì Nhậm. Ðệ mang thơ cho Thức, bảo là ta nhớ lắm ...

- Xin vâng. Và cũng nhờ huynh cám ơn Nhậm ngày xưa đã lưu tình ở Quỳnh Côi ...

Nhật nhìn lên, rưng rưng nước mắt, rồi bỗng phá ra cười :

- Ô hay, ta sao còn trần gian thế nhỉ ? Nam mô a di đà Phật.

Thiên tài của Nguyễn Ánh ở chỗ Ánh là kẻ biết đợi. Muốn được vậy, phải có hai thiên chất bẩm sinh. Một là sự kiên nhẫn. Và hai, là biết nhát. Nhát, dễ lắm. Nhưng biết nhát thì khó. Kẻ biết nhát, lúc cần có thể chủ động. Chỉ nhát không thôi thì đó là người lúc nào cũng bị động. Vì thế, suốt thời gian Bá đa Lộc sống kề kề bên cạnh, Ánh đã đi ngược lại sự tính toán vội vã, lòng háo chiến của Lộc, nhất định trù trừ không xuất quân đánh Tây Sơn. Chán nản, một số không nhỏ bọn đánh thuê Tây dương đã bỏ đi một năm trước ngày Huệ chết. Sau đó, Lộc năm lần bảy lượt dụ Ánh, dọa bỏ đi mấy bận, nhưng Ánh vẫn cương quyết giữ thế thủ, củng cố quyền lực đã nắm được, và chờ. Ánh nói với quần thần, mặc dầu bụng vẫn bán tín bán nghi, rằng « bất chiến, chiến công thành », không đánh mà thắng, mới thực sự hiển hách.

Dĩ nhiên, nếu Huệ sống thì khác. Nhưng khi ông lão gần tám mươi Bùi Ðắc Tuyên dọn ra ở chùa, rồi một mình chỉ trỏ tác oai tác ách, đuổi Danh Kỷ, giết Huy Tự và truy lùng Trọng Thức thì Tây Sơn đã tự tay châm lửa đốt nhà mình. Ðám quan võ quen chiến trận bực bội, giữ quân lo cho phận mình, xì xào rằng Tuyên có thể sẽ phế Quang Toản để lập con đẻ của mình lên ngôi. Lập tức, Ánh cho người vào mật xin với Tuyên chỉ giữ bốn trấn Gia Ðịnh, và chịu làm Vương, nhường Ðế vị cho Tây Sơn. Tuyên đắc chí, mũi dùi chính trở thành ra Qui Nhơn hất Nguyễn Nhạc. Sau đó, Vũ văn Dũng cùng hộ giá Huấn vào bắt Tuyên giết đi, và thế là phải triệt hạ cả Ngô Văn Sở và hàng chục võ tướng khác. Ðang vây quân Nguyễn ở Diên Khánh, Trần Quang Diệu được tin, quyết định rút về đánh Dũng. Hai bên đã dàn quân hai bờ sông Hương, may có Phan Huy Ích thay Quang Toản viết chiếu giảng hòa nên việc binh biến mới thôi. Ánh nghe tin, hậm hực bảo Nguyễn Văn Thành « ... giá ta giả thua Diệu ngày trước để cho quân nó mạnh, thì chắc nó đã đánh thằng Dũng rồi, tiếc quá!» .

Nhưng Ánh đã hiểu. Tây Sơn là một con trăn lớn ngu ngơ với ba bốn cái đầu rắn hổ không có cái nào nghe cái nào. Ðể lâu, chính con trăn tự kẹp lấy mình, đuôi lộn lên đầu, để chết rục, chết ngạt. Ðó, thiên tài của Ánh là hiểu, và đợi. Ðánh ư ? Chắc thắng mới đánh. Ðánh xong, phải giữ. Giống như loài sói, đã cắn là không nhả. Ánh đã làm như vậy mười năm liền từ ngày Huệ chết.

Tháng giêng, Quang Toản và Quang Thùy xua quân Tây Sơn đánh lũy Trấn Ninh. Ðó là trận đánh cuối cùng của hai con cừu trước chủ tể loài sói. Ánh chặn đường Trần Quang Diệu tìm cách ra Bắc hà, bắt sống được Diệu và cả Bùi Thị Xuân, nữ tướng chỉ huy đội tượng binh. Ánh đuổi Vũ Văn Dũng. Ðến đường cùng ở Nông Cống, Dũng tự sát. Về Phú Xuân, Ánh lên ngôi lấy Ðế hiệu là Gia Long, sửa soạn ra Bắc hà bấy giờ chỉ còn cái thây tàn Tây Sơn đang thoi thóp, yếu ớt, đợi giờ vĩnh viễn cáo chung.

Trên đường từ Thanh Hóa ra, hàng dân xôn xao biết là sắp chiến tranh để cho một con rồng mới bay lên ngôi chí tôn. Họ giấu gạo khoai, trữ mắm muối, và mang con em trốn vào những cánh rừng. Lúc này, thà ở với dã thú còn yên lành hơn là chung đụng với những con người gươm giáo đã mài sắc cho một chuyến viễn chinh.

Toàn Nhật đi cùng Du đến sông Mã rồi chia tay. Du lấy thuyền ngược lên thượng nguồn, tay đưa lên vẫy, nước mắt rưng rưng. Quày quả quay lưng bước, Nhật không nhìn lại, cắm cúi xuôi về hướng Ninh Bình. Qua các dinh trấn, phủ, huyện trên đường, cờ đỏ Tây Sơn nay ủ rũ buông xuống như cờ tang. Lính trốn tiệt, đám còn lại thưa thớt lơ ngơ nhìn ra ngoài đồn canh, mắt hoảng hốt sợ sệt. A, thời oanh liệt nay còn đâu ? Cái thời quân Tây Sơn, hàng dân gọi là quân ó vì mỗi khi ra trận họ cùng nhau hét lên dũng mãnh. Cái thời quân ó là đội quân kỷ luật, lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Cái thời xuất trận thần tốc, chỉ tiếng quân đi là đủ làm tan tành những binh đội nào là của Mãn Thanh, của Xiêm La, Ai Lao, của vua Lê chúa Trịnh ... ! Thời đó như bóng câu qua cửa, chưa được mười năm sao nay chỉ là chút bụi bậm nhạt nhờ quá khứ.

Ánh truyền hịch :

« Trước để sanh hồi miếu xã- sau là chửng cứu sinh linh

Khuyên người trung nghĩa ngoài này - rõ ý khuông phù trong ấy.

...

Nghe rõ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn đông lạc trùng hưng

Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thuở sơn man thất thế. »
Nhắc chuyện bạo Tần, ý gán cho Tây Sơn là giặc. Nhưng tuyên xưng một phía cho nhà Hán, có nghĩa là mở ra một triều đại mới, chấp nhận rằng nhà Lê bây giờ chỉ còn là vết bụi mờ của lịch sử. Giả nhân hậu, Ánh hỏi « Bắc hà vốn là đất nhà Lê ... » để bọn quần thần gốc Ðàng Ngoài vội vã lý luận « ... đất Bắc hà của Tây Sơn rồi. Lấy là lấy của Tây Sơn chứ có lấy gì của nhà Lê ! »

Xuôi theo sông Nhị, Toàn Nhật bỗng động lòng nhớ đến Phố Hiến, nơi chàng đã ăn dầm ở dề suốt mấy tháng ròng với Koji Mishima ở Nhật Bản Thương Cục. Khi nhìn lên thấy bờ đê Phi Liệt, Nhật bảo nhà đò :

- Bác cho tôi xuống nhé !

Nhảy lên bờ, Nhật xoài người bước, mắt nhìn chung quanh, tìm lại cái quán của lão Thuyết ngày xưa dựng ở ven đê để đón khách thương. Bây giờ, chỉ có cỏ lau mọc um tùm, đánh bạn với những cơn gió hoang dã từ phía Nam thổi về, xào xạc những nỗi niềm thế gian này chẳng ai muốn hiểu.

Nhật đi một mạch đến Nhật Bản Thương Cục. Ngơ ngác, Nhật chỉ thấy vườn chuối, chỗ ngày xưa mình và Koji tập kiếm. Bên cạnh, ba gian nhà với hòn non bộ, sân sỏi, và cây đào mọc ở góc hồ không còn một chút dấu vết nào. Tất cả đã thành cỏ hoang mọc đến ngang lưng, tàn nhẫn chôn vùi mọi vết tích của một thời đã qua, một thời còn văng vẳng đâu đây giọng khàn đặc của Koji lẫn với tiếng đàn Koto, ề à hát khúc Haiku :

« Những con kiến nhỏ nhoi

chạy hàng dọc trên cành đào gãy

Ai bỗng ngừng tay thoi »

Bỗng Toàn Nhật đau thắt trong bụng. Hai mươi năm trước, chàng đã nghe tiếng sáo diều trên đê, trong khi Koji làm phép thiết phúc. Koji vẫn ề à « ... những con kiến nhỏ nhoi » trong khi đoản kiếm đâm sâu vào, rồi kéo ngược lên, để máu thấm ướt bụng đã quấn chặt bằng những vòng vải trắng. Koji thét, để Nhật phát ra đường gươm thứ nhất trong ba chiêu kiếm chiêu hồn, chém cổ theo truyền thống võ sĩ Phù Tang. Koji chết, để nói với thầy mình một sự thật. Cái sự thật quan thiết đến tương lai Nhật Bản là phải mở ra, phải tiếp đón thế giới, không phải chỉ như kẻ thù mà có khả năng là bạn. Koji chết, nhưng chết vì tin tưởng vào một tương lai và tìm cách thể hiện nó ngay trong sự sinh diệt của chính mình. Cái chết đó không vô lý.
Người chết đi chẳng phải chết mà không hạnh phúc.

Toàn Nhật lặng lẽ đi quanh. Bước vòng xuống, khu phố người Hoa nay lưa thưa còn độ ba bốn chục nóc nhà nằm ngất ngưởng bên cạnh những đống cột kèo ngổn ngang cháy xém thành than sau những cơn binh lửa. Lòng bâng khuâng, Nhật đi lên miếu Ba Cô, đặt mình nằm xuống, nhắm mắt hồi tưởng thuở chàng mới đến phố Hiến cách đây hơn hai mươi năm. Chính ở đây, Nhật đã mơ mơ màng màng thấy một người đàn bà, lưng quay về phía chàng, đưa tay ra quạt và gọi chàng là con. Lại cũng bóng dáng ấy sau đó hiện ra khi chàng ở dinh Khương Tả hầu, nhắc cho chàng một cái chết tức tửi. Mẹ trầm mình vì tình phụ, và cha phụ tình chỉ vì hám danh chuốc lợi, rồi mưu cướp ngôi Chúa, mưu thoán cả ngôi Vua? Hậu quả là đầu rơi máu đổ, là cái chết của lão Hài, là loạn Kiêu binh. Ðau xót thay, bao nhiêu người chết vì con đường ngoắt ngoéo của một vài kẻ đi tìm quyền lực chỉ vì quyền lực, ngụy trang nó bằng nào là nhân nghĩa, nào là lý tưởng, cửa miệng lúc nào cũng hô là vì người khác.

Nhật bâng khuâng nhớ đến Chúa Út, nạn nhân của sự tranh giành quyền lực giữa những kẻ ruột thịt. Chàng ứa nước mắt. Nếu Ðăng Vân còn sống, giờ này chàng ra sao ? Chắc không phải là một thiền sư. Là gì ? Và là ai ? Nhật ngửng lên nhìn những đám mây bồng bềnh, những đám mây lạnh nhạt làm chứng cho bao đổi thay. Lại một tiếng sáo diều ở đâu đấy vẳng lại khiếân nỗi ngậm ngùi bay xa, thấm vào lòng thế gian như những hạt nước mưa ngấm vào lòng đất.

Tay lần tràng hạt, Nhật lẩm nhẩm tụng :

- « Con người vì ham muốn, tham cầu dưỡng lợi nhiều nên khổ não càng nhiều. Phép sám hối chính là rửa ác làm lành. Bậc La Hán có lúc kết tập phát khởi cũng còn phạm phải những nghiệp thân, khẩu, ý huống kẻ phàm phu sao khỏi tội lỗi ... »

Ba ngày ở cạnh Thức, Du nói và Thức chỉ nghe lơ đãng, thỉnh thoảng lại cười mỉm, mắt nhìn Du trìu mến như khi Du đưa tặng bài thơ « Biệt Nguyễn đại lang ». Như một hòn đá bị nước mài đến phẳng lì, Thức co mình vào cô đơn như nham thạch. Thỉnh thoảng lắm, Thức mới bật lên một tiếng, lắm khi vu vơ, lắm khi không một ai hiểu nổi. Ngày thứ tư, bất thình lình, Thức bảo :

- Này Du, hay là ta cùng đi tìm Toàn Nhật ?

- ... ?

Thức bật cười :

- Chuyến này « xuống núi » là lần cuối cùng. Sau, muốn cũng chẳng được ! Ði, đi ra Thăng Long với ta !
Du ngẫm nghĩ rồi lắc đầu. Thức không ép, sáng hôm sau đã sẵn sàng tay nải ra đi. Chào Mai xong, Du theo Thức lên đường. Hai người đi bộ lên Cẩm Thủy rồi lại ngược sông Mã xuôi xuống Hà Trung. Những bông hoa dại ven sông bay như bươm bướm mỗi khi gió lên, nhẹ nhàng đáp xuống mặt nước, rồi trôi ngược phía thuyền đi. Thức khe khẽ đọc :

- « Buồn trông mặt nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu »

Du cười, buồn bã :

- Thế ra huynh cũng nhớ mấy dòng chữ quê mùa của đệ !

Thức nhìn ra xa, trầm ngâm rồi nói hẳn một câu chứ không ừ à như những ngày qua :

- Nhớ chứ, nhớ gần toàn bộ « Ðoạn trường tân thanh » của đệ. Ba trăm năm nữa, người sau này vẫn nhớ !

- Chẳng chắc ! Du ngập ngừng - Không biết được ! Nhưng có hề gì, lúc đó đến mộ cháu chắt chúng ta cũng xanh cỏ từ lâu rồi.

Hai người lại im lặng. Một lát sau, Du nhút nhát hỏi:

- Còn việc của huynh ? Ðến đâu rồi ?

Thức nhìn Du, trầm tĩnh :

- Cái việc làm sao xã hội có được một cơ chế để nắm bắt dân ý và thể hiện nó ? Chỉ thuần dựa trên lý luận, chắc không đủ. Phải kèm thêm vào hệ thống lý luận về quyền lợi mỗi công dân một số khái niệm về sự tương tế, tương trợ và tương tác của xã hội. Ta vẫn chưa nghĩ được cách giải quyết thỏa đáng.
Nhưng đó là vấn đề tư tưởng về lâu dài, còn trên thực tế của thời ngay trước mặt, nghĩa là thời của các vị chúa tể xây dựng quyền lực của họ bằng sự khôn ngoan, sự may mắn, và nhất là sức mạnh của đầu thương ngọn dáo, việc cấp bách là làm thế nào họ không thể trở thành những bạo chúa !

Du ngước mắt, hỏi :

- Làm thế nào ?

Thức cắn môi, mắt nhìn xa xăm, chậm rãi :

- Không tập trung quyền lực vào tay một vị mà phải có nhiều vị tiểu chúa. Quan trọng là không một ai trong những vị đó kiểm soát được quân đội. Quân đội đứng ngoài vòng chính trị, hành chính và kinh tế. Song song với nhiệm vụ bảo vệ biên cương, làm trọng tài giữ hòa bình là nhiệm vụ chính của quân đội.

Du thở dài :

- Mà thôi ... Ðệ nhắm mắt lại, có phải ra làm quan thì cũng mũ ni che tai. Thời thế này, điều huynh vừa bàn sẽ không thể có được. Bạo chúa nào, dân tộc nấy. Nghiệp phải chịu nằm ở chính tầm vóc của chúng ta.

Thức ngẩn ngơ nhìn dòng sông, khẽ nói :

- Trôi đi mãi sao nước ơi ...

Ðến cuối sông, hai người nhìn nhau, kẻ đi ra Ngoài, người xuôi vào Trong. Thức mỉm cười, giọng ngậm ngùi :

- Ðừng ai nói câu từ biệt nhé !

Nhìn cho đến khi Du khuất bóng, Thức mới quay người mải miết đi trên con đường cái quan dẫn lên Biệân Sơn. Qua Sơn Nam, Thức quá giang thuyền buôn trên sông Nhị xuôi vào Kinh. Thời gian đó là lúc Nguyễn Ánh đã ra lệnh xuất quân Bắc phạt. Ðể diễu võ giương oai, Ánh cho hai mươi vạn quân bộ và năm vạn quân thủy, với năm mươi tầu chiến, tám trăm chiến thuyền có đại bác và năm trăm thuyền nhỏ, ồ ạt kéo ra Ðàng Ngoài. Quân đi đến đâu, hịch dán đến đó, và hầu như không gặp một sức chống cự đáng kể nào.

Ðầu tháng bảy âm lịch, Thức vào tìm nhà Ngô thì Nhậm ở phường Bích Câu. Trong thành Thăng long, hàng dân rủ nhau chạy loạn, không khí nhốn nháo, tiếng đồn chỉ ngày một ngày hai là đại quân của Nguyễn Ánh sẽ tới. Thái úy Tây Sơn là Nguyễn văn Thọ ra lệnh cấm dân chạy. Họ tập hợp nhau tấn công những trạm canh ở năm cửa ô.

Lần mò một ngày, Thức mới hỏi ra được chỗ ở của Nhậm. Gõ cửa hỏi thăm, một bõ già ra mở, nhìn Thức từ đầu đến chân rồi đáp :

- Không có ai tên như vậy. Ở đây là chỗ tu hành của thiền sư.

Thức gặng :

- Vậy bõ có thấy một nhà sư có râu quai nón ghé đây không ?

Bõ già chớp mắt, gãi đầu rồi nói :

- Có, sư đến cách đây hai hôm, không gặp ai nên đi ngay.

- Sư có hẹn gì không ? Nay ở đâu ?

Bõ già ngần ngừ, lại gãi đầu, giọng có thiện cảm hơn :

- Chắc mấy hôm nữa sư sẽ quay lại. Nhưng sư ở đâu, tôi không rõ ! Ông thử ra chùa Quan Thánh mà xem.

Hỏi chùa Quan Thánh, vị sư ông tiếp khách thập phương chỉ nói rằng sư Toàn Nhật có ghé vào thỉnh Phương Trượng rồi lại đi. Thức không thể biết gì hơn, định cứ một hai hôm lại ghé phường Bích Câu. Trong thời gian chờ đợi, Thức nhẩn nha đi lòng vòng trong Kinh, mang niềm hy vọng nhỏ nhoi gặp Nhật trên đường. Ra chợ Hôm, Thức đi về phía cửa Nam, rồi vòng lên phủ Chúa. Bây giờ phủ Chúa chỉ còn dấu vết những nền đá bị cậy lên từ dăm năm nay. Ra Thăng Long lần thứ nhất, Huệ mang kho tàng nhà Trịnh về Phú Xuân. Lần thứ hai, Huệ cho dỡ mái, cột kèo, cửa chạm phủ Chúa chở hết về Nghệ An để xây Trung đô. Ra lần thứ ba, sau khi đại thắng quân Thanh, Huệ rỡ điện Vua, chất ngai vàng và đồ đạc quí báu, phần đem ra Phú Xuân, phần để lại trấn Nghệ. Cung vua điện chúa nay xác xơ tiều tụy, gạch ngói còn bao nhiêu hàng dân tranh nhau đến hôi về làm của tư riêng.

Ðứng giữa hoang tàn, Thức chạnh tưởng đến bao nhiêu cung điện, đền đài từ ba trăm năm nay đã bị tàn phá chỉ trong có trên dưới mười năm. Xây khó, nhưng phá thì dễ. Xây rất lâu, nhưng phá chỉ chớp mắt. Dấu tích văn hóa cứ mất đi, tàn lụi đi, và cứ như thế, không đảo ngược được. Xưa là những con đường sỏi trắng chung quanh trồng những loài hoa hiếm. Nay, đường những lỗ chỗ bùn đất. Hoa tàn không biết tự bao giờ, nay chỉ còn cỏ dại, bìm leo, và loài hoa xấu hổ không biết ở đâu bay tới, mọc đầy rẫy như muốn phỉ nhổ một thời mạt vận vô văn hóa. Sự tổn thất đó là tổn thất chung, chẳng phải cho một thế hệ này, mà còn là cho tất cả những thế hệ mai hậu. Con em ngày sau ngỡ ngàng chẳng thấy ông cha mình đã xây dựng được gì, đã tích tụ được gì, ngoài những trang sử tô hồng chiến thắng này, nhuộm đỏ chiến thắng kia.

Có gì gọi là chiến thắng mà chỉ để lại đằng sau có đổ vỡ, nghèo đói ? Có gì gọi được là vinh quang khi rút cuộc cả nước có được đôi ba nét thủy mạc của cái tập hợp trí tuệ mỗi ngày một mai một đi vì kìm kẹp tư tưởng, bị đánh lận lịch sử đến độ mất cả quá khứ ? Trên bước đường tương lai, những kẻ mất quá khứ thường là đặt chân đi lại những bước lầm lẫn đáng lẽ ra có thể tránh được. Lịch sử lập lại ? Có thể. Lần đầu, hay lần thứ hai : đau xót lắm ! Nhưng khi lập lại lần thứ ba, thứ tư, nó thành một trò hề nhạt đến độ làm cho kẻ nào vô tâm cố lắm thì mới cười gượng được.

Thức lần bước đi về dinh Khương Tả hầu. Ðó là nơi Ðặng thị Mai đã thụ thai đứa con với Thức trong một đêm đánh dấu cuộc đời lẽ ra êm đềm nhưng rốt cuộc lại đầy sóng gió của nàng. A, đàn bà ! Họ là những người kỳ lạ. Ngày xưa, nếu Mai muốn thành một bà Hoàng Hậu, nàng chỉ gật đầu là xong. Ngược lại, nàng đến trao thân xác mình cho một anh đồ kiết xác, rồi sau cắn răng chịu cảnh tù ngục, nhất định dâng hiến cả đời mình vào một cuộc tình rõ là trắc trở. Là kẻ phát hiện ra tình yêu, chỉ đàn bà mới hiểu và biết yêu đến cùng. Và cũng biết không yêu. Vì thế có kẻ dám sống và dám chết cho tình yêu. Còn đàn ông, phần lớn họ lẫn lộn cả. Lẫn lộn như vậy, đến nay thú thật họ chưa chắc đã biết thế nào là tình yêu. Khốn khổ thay cho họ ! Và có thể vì thế mà họ chạy theo danh vọng, tiền tài, quyền uy với tất cả cái mù quáng mà hiếm có người đàn bà dại dột như vậy.

Ðẩy cánh cổng nay đã mục nát, Thức bước vào. Vết sẹo đâm xuống chân mày bỗng giựt lên, chàng cất tiếng gọi. Hồi hộp đợi bóng người từ hàng hiên bước ra, Thức ngập ngừng :

- Ngày xưa tôi ở đây, nay ghé lại, phiền cụ !

Bà cụ già chống gậy nhìn Thức, rồi nói :

- Không sao ! Mà lạ thật, hôm qua có một nhà sư cũng nói như vậy !

Thức mừng quá, hỏi :

- Thưa cụ, thế nhà sư đi đâu rồi ?

Bà cụ già bảo, tay chỉ vào vườn :

- Trong kia kìa, sư xin trú lại dăm bữa ...

Thức giật giọng rú lên :

- Toàn Nhật, Nhật ơi ...

Chạy vội vào, Thức thấy một nhà sư bước nhanh ra, bộ râu quai nón nay đã tua tủa chớm bạc, hai tay giơ lên trời.

Hai người dẫn nhau ra ngồi ở ven ao, dưới gốc một cây sung cành lá rườm rà, đâm chòi về phía mặt trời mọc. Cá quẫy làm ao sủi bọt, và vào đúng hè, trời nóng đến độ bọt sủi như là nước ao đang sắp sửa sôi. Cởi chiếc áo ngoài, Thức ngả mình dựa gốc cây, lặng lẽ ngắm Toàn Nhật, lòng rộn lên một niềm vui nhẹ nhàng. Mắt Nhật hõm sâu, không còn ánh lên lòng đam mê quyết liệt của một võ tướng, nay hình như lúc nào cũng mơ màng đến một cõi hiền hòa tịch mịch như thế giới thảo mộc. Ném một hòn sỏi, Thức lặng lờ nhìn những gợn nước hiện lên rồi tan đi, trả lại mặt ao phẳng lặng cho những con chuồn chuồn kim màu xanh lá cây đang chờn vờn với đám bèo giạt ven bờ. Mùi ẩm ướt sực lên lẫn với mùi bùn. Trong gió thoang thoảng hương những bông sen mọc ở giữa ao, cánh hoa trắng tinh khiết ấp nhụy vàng dật dờ xao động.
Hai mươi năm xa cách ! Người em nuôi của Thức đã thành thiền sư Toàn Nhật, lang thang khắp nơi hoằng Phật pháp, ngủ bờ ngủ bụi, ăn cơm thừa canh cặn, nhưng mặt lại sáng lên một niềm an bình hạnh phúc. Ai ngờ được là con người đó đã từng chỉ huy đội Trung Kính và Thị Nội của phủ chúa Trịnh, đã từng cầm đầu quân Tiền Kích khét tiếng của du binh Tây Sơn, và chỉ suýt nữa là thành em rể của Quang Trung Hoàng Ðế. Nhật bỗng cất tiếng:

- Nghe anh kể lại những bước luân lạc, Nhật chỉ xin hỏi một câu. Sống cật lực bằng trí uệ, vắt óc ra tìm lấy lối đi cho cả một xã hội hiện đầy những hận thù, ngu dốt, lại bảo thủ và tàn bạo, anh có phút nào thấy mình hạnh phúc và thấy cuộc đời anh là đáng sống không ?

- Ðáng sống ? Ðáng chứ. Còn hạnh phúc ...

Thức ngần ngừ, thở ra :

- Hừ ... Ðôi khi thôi. Khi thấy con mình lớn lên, hồn nhiên sống, chẳng hạn ...

Thức bâng khuâng :

- Ngày còn ấu thơ, cho cả đến những năm mười sáu, mười bảy, những phút hạnh phúc huyền diệu đó có. Nó chợt hiện ra, khi thì với nắng gió, khi thì với giọng hát câu hò của thợ găït, có khi thì ngay cả lúc đi bắt cào cào, châu chấu. Trong những phút thần tiên đó, cái bản ngã Ta như nhập vào thành Một với thiên nhiên, và hòa đồng để tan biến vào vũ trụ. Càng lớn, những phút đó càng hiếm hoi. Già đi, hình như nó đã biệt tăm hơi ...

Nhật dịu dàng :

- Phải chăng nó biến đi cùng với sự hồn nhiên ? Chính sự hồn nhiên là điều kiện để trực giác nhận biết
Chân, Thiện, Mỹ. Nhà Phật gọi thế là đốn ngộ.

Thức mỉm cười, hỏi bâng quơ :

- Còn Nhật ? Yêu gì nhất, ghét gì nhất ?

Nhật nhìn những quả sung chín đỏ nằm trên đầu, vắt vẻo ở đầu cành, chậm rãi :

- Ðệ nay không yêu gì. Còn ghét, cố mãi cho đến nay để không ghét gì nữa, nhưng vẫn chưa được. Ðệ còn
ghét một điều duy nhất ...

- ? ? ?

- Quyền lực !

- Tại sao ?

- Chắc anh còn nhớ Trịnh Bồng ?

- ...

Nhật mỉm cười, hồi tưởng lại ngày còn ở Kinh hai mươi năm trước, tiễn Trịnh Bồng trên con đường đi ra sông Nhị. Bồng đi để tránh sự đồn đãi là Kiêu binh đang tính phế Trịnh Tông để lập Bồng vào ngôi Chúa. Chia tay, Bồng nhìn Nhật nói « Còn duyên là còn gặp ». Cái duyên đó có thật.

Tám năm trước, Nhật ghé vào Ðền Sòng ở Thanh Hóa, vì nghe có thầy Trước là linh mục đạo Gia-Tô vào đó bắt quỉ. Người ta kể lại là ở Ba Làng, một gia đình nghèo có một đứa con gái độc nhất được mười bốn tuổi bỗng nổi cơn dại, lúc cười lúc khóc, bụng tự nhiên phồng to lên như bị ủng nước. Con bé con cứ réo tên Bá Cẩn, viên chánh tổng, ra chửi, rủa cho chết cả làng cả họ. Không biết tại sao, bà Bá Cẩn treo cổ tự tử. Sau đó, chính Bá Cẩn ốm nằm liệt giường. Và rồi là đến đứa con trưởng bị trâu húc, ruột lòi ra, chết tươi ngay trên bờ ruộng. Người trưởng tộc của Cẩn sợ quá, mời được thầy Trước về để bắt quỉ. Thầy cho trói con bé lại, một tay cầm Thánh Giá, tay kia vẩy nước thánh, miệng hỏi bằng tiếng La-tinh. Nó ú ớ. Thầy Trước thét lên, tay cầm cây thánh giá dí vào. Nó gào lên thất thanh, chẳng một ai hiểu gì. Sau thầy bảo là quỉ trả lời bằng tiếng La-tinh, lại nói không đúng văn phạm, câu trước lẫn câu sau. Thế nhưng thầy hiểu là con quỉ ở Ðền Sòng, không đến đó bắt không được. Thế là người Ba Làng rủ nhau đi, có thầy Trước dẫn đầu. Ðến nơi, người thủ đền không bằng lòng, bảo :

- Ðây là chỗ thờ Phật, thờ Thánh. Ma quỉ nào vào đây được ! Có bắt thì cứ bắt ở ngoài, chứ vào trong chính điện để bắt thì ra là bắt Phật, bắt Thánh à ...

Người Ba Làng hò hét. Dân chúng quanh đền Sòng cũng kéo đến, trong số đó có Toàn Nhật. Lời qua tiếng lại, không ai chịu ai, và đã xô đẩy nhau thì một sư ông trạc lục tuần cười hề hề đến bên thầy Trước. Sư ông nói :

- Thưa thầy, ở vũng lội làng Do Xuyên từ biển vào, có một cặp ma, xưa ở Kinh đôi Ma bị quân Tây Sơn đuổi chạy về đây. Chính tôi đến bắt để chúng khỏi tác oai tác quái vật chết trâu bò, sinh dịch sinh bệnh, đến cả năm nay rồi. Nhưng mỗi lần, cứ đuổi nó đến Nhà Thờ Kẻ Bền là nó lánh vào, tôi đành phải đứng ngoài mà chờ, không dám tự tiện xúc phạm chỗ linh thiêng. Bây giờ, nếu thầy kiên trì, thì thế nào cũng bắt được quỉ ở ngoài này, tôi xin giúp thầy một tay ! Tôi đồ chừng là chỉ hai ba đêm nữa, nó phải ra mà thôi ...
Dĩ nhiên, thầy Trước không biết nói thế nào, đành bảo chờ. Hai hôm sau, muỗi quá, ai cũng giục. Sư ông lại hềnh hệch cười « nó sắp ra rồi đấy ! » và chắp tay, miệng niệm Nam mô, mắt nhìn thầy Trước. Ðến hôm thứ ba, có người ở Ba Làng bảo con bé con bị chửa hoang đấy, quỉ bây giờ ở trong cái bào thai được năm tháng rồi. Thầy Trước lại dẫn đầu giáo hữu trở về bắt con quỉ đã trốn từ Ðền Sòng chui vào cái bụng của một đứa bé gái không may làm thuê cho Bá Cẩn.

Vị sư ông đó chính là Trịnh Bồng. Nhận ra Nhật, Trịnh Bồng reo lên :

- Ðấy, tôi đã nói rồi, còn duyên là còn gặp.

Ðời Bồng là một cuộc đời không bình thường. Là cháu gọi Trịnh Sâm bằng chú ruột, một người đã giết bố mình để tiếm ngôi chúa, Bồng chẳng thù oán gì Sâm. Ăn ở hiền lành đến độ khi Sâm phế con trưởng là Tông, Sâm đã có ý cho Bồng nối ngôi chúa khi thấy con thứ là Cán cứ ốm đau chữa mãi không khỏi. Một hôm, Bồng bỏ Kinh đi về vùng Yên Quảng - Hải Dương, tu trong một ngôi chùa hẻo lánh. Sau loạn Kiêu binh, Tông lên ngôi chúa, gọi mãi Trịnh Bồng mới chịu về giúp Tông định đặt lại công việc Phủ Liêu lúc bấy giờ bị bọn Kiêu binh khống chế. Thấy Bồng lành, Kiêu binh lại rắp tâm phế Tông lập Bồng. Bồng vào thưa với Tông, rồi trốn đi ngay.

Khi Tây Sơn ra Bắc lấy tiếng là phù Lê - diệt Trịnh, giết được Tông rồi bỏ về Ðàng Trong, Bồng sống ở Chương Mỹ lẫn trong dân gian nên ít ai biết, trừ đám thủ hạ xưa nay trong Phủ Chúa. Chúng xui, rồi viết sẵn một tờ tâu vào Vua Lê «...Ðến đời gần đây, nhà thần dần dần cậy thế chuyên quyền, làm trái lẽ thường khiến mất cơ nghiệp tổ tông. Nay thánh thiên tử lấy lòng trời làm lòng mình, thần thẹn là phái trưởng nhà Trịnh, lánh nạn nấp trong dân gian, cái bụng mến nhớ tông miếu khắc khoải, chỉ vì chưa được chiếu chỉ nên chưa dám vào thành. Vậy xin mạo muội mấy hàng, dâng trước ngai rồng, cúi chờ tiến lên ngự lãm ».

Triều thần đình nghị, và vì Bồng là kẻ nhân hậu nên đều một lòng ủng hộ, Lê Chiêu Thống giáng chỉ cho vào. Tiếp được chỉ, Bồâng ngần ngừ mãi rồi mới lên đường. Nhưng cùng lúc đó, Trịnh Lệ là em Trịnh Sâm, vai chú của Bồng, được một võ quan là Thì Trung phù tá, và có Dương Trọng Tế cầm quân ở Gia Lâm trợ giúp. Về đến bến Tây Long, Lệ thảo một từ tâu «... Mồng mười tháng này thần sẽ vào ở Chính phủ. Cúi xin ban hạ sắc dụ cho thần được nối ngôi Chúa, đời đời tôn phù để giữ cái nghiệp duy đế duy vương trong muôn năm ».

Cuộc tranh chấp giữa Lệ và Bồng xảy ra nhưng kết thúc rất mau chóng. Tế phản Lệ theo Bồng nên quân của Thì Trung bị phá tan ở Nam Ðồng, Lệ phải cắm đầu chạy ra phía ô Ông Thánh. Bồng kéo quân vào Thăng Long, thanh thế rất lớn, đến ra mắt vua ở điện Vạn Thọ. Lê Chiêu Thống bảo :

- Nhà Chúa trải hai trăm năm tôn phù, cái công không nhỏ. Trẫm xét trong nhà Chúa, không ai được hiền như ông, lại ngành trưởng, nên việc nối dòng tế tự vẫn để dành cho ông.

Bồng thưa :

- Thần vốn ươn hèn, tính lại ưa tịch mịch, chẳng may gặp lúc suy bỉ, đã cam phận bỏ đi tìm một nơi chùa chiền mà sống cho hết tuổi thừa. May nhờ hoàng ân, vận hội đất trời xoay lại, thần lại thấy bóng mặt trời. Nặn đúc cho thần kiếp này là ơn của Hoàng Thượng.

Chiêu Thống vui lòng hỏi :

- Thế đã chọn nơi nào để ở hay chưa ?

- Tâu Hoàng Thượng, tòa Lượng Phủ còn có thêå che mưa gió, thần xin về đấy.

Sau đó, Bồng đến Thái miếu, thắp hương, nước mắt ràn rụa rồi định về Lượng Phủ. Bọn thủ hạ kêu :

- Thiên hạ đón ông về là mong ông làm Chúa cho họ công danh. Nay ông không về Chính phủ, nhân đinh sẽ nản, đại binh sẽ tan, không còn thế nào mà thu lại được. Về Lượng Phủ, chẳng bằng cứ ở Chương Mỹ mà làm một người an nhàn, cần gì phải dìu dắt bao nhiêu người đến đây cho nhọc !

Nói xong, chúng cứ rước kiệu Bồng về Chính phủ. Chiêu Thống bực bội, bảo tả hữu «... Ở Phủ thì làm Chúa. Tiếc rằng khi Tây Sơn đi, ta không cho mớ lửa cho rảnh. ». Hôm sau, Vua sai triều thần bàn việc sắc phong cho Bồng. ý Vua chỉ muốn phong làm quốc công. Có người nói nhà Chúa xưa bắt đầu được phong là Tiết Chế thủy bộ chư-danh binh chương quân-quốc trọng-sự. Vua bắt bớt đi chữ Tiết Chế.

Chưa bàn định xong, có tin báo Liễu trung hầu Ðinh tích Nhưỡng vâng sắc đã tới. Bồng mời Nhưỡng, nhưng Nhưỡng từ, nói rằng tránh mang tiếng, không muốn gặp trước khi việc phong tước chưa xong. Vua Lê mừng lắm, xuống chỉ phong cho Nhưỡng tước Quận Công. Nhưỡng lạy tạ, từ chối nói rằng việc nối ngôi Chúa chưa xong, công nghị sẽ xì xào nếu Nhưỡng chịu nhận tước. Cuối cùng, Vua Lê phong cho Côn quận công Trịnh Bồng tước Quốc Công, nhưng tờ sắc nói rõ từ nay về sau đời đời chỉ nối làm tước ấy.

Nhưỡng giận, cho là không công bằng, làm một tờ yết thị « Nay vâng sắc chỉ cho lập quốc công để nối dòng dõi nhà Chúa. Nếu như lòng người đều thuận, thì đến phủ lạy mừng. Bằng không, xin đến cung Tây Long họp để thảo biên dâng lên Hoàng Thượng cúi nhờ xét định cho thỏa lòng thiên hạ ». Quan triều sợ Nhưỡng, thảo biểu xin cho Côn Quốâc công tước Vương như xưa. Chiêu Thống chửi « Chúng coi ta là con trẻ, vừa ban lệnh xuống đã đòi đổi. Nếu yên phận thì « Vương » hay « Công » có khác gì ! Nếu không, chắc lại lấy Chúa hiếp Vua à ? ». Sợ cái gốc sinh loạn đã nẩy, có người đến khuyên Bồng tự mình lui xuống. Bồng đáp :

- Việc này là do Liễu trung hầu, tôi không can dự. Xử trí thế nào tùy lượng bề trên, xin soi xét lòng đó cho tôi.

Mấy hôm sau, Chiêu Thống nhượng bộ, phong Bồng làm Nguyên úy phụ Quốc Chính, tước Án-đô Vương. Lúc ấy, Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An đùa, nói lái là « Ðố an » Vương. Quả thế, Hoàng Phùng Cơ đã mang hai vạn quân từ Sơn Tây về đóng tả ngạn sông Nhị. Trong dinh nhao nhao tiếng đồn Cơ vào bè Vua, Nhưỡng ở phía Chúa, chắc sẽ đánh nhau to.

Bồng quyết định bỏ ngôi Chúa trốn đi để tránh việc binh đao. Một mình lần ra bến Thúy Ái, Bồng bị bọn thủ hạ chạy theo níu lại rồi báo cho Nhưỡng. Nhưỡng sai đưa Bồng về Phủ rồi cắt người canh giữ. Về phần Hoàng Phùng Cơ, vì thấy là dù sao ngôi Chúa cũng đã định rồi, Cơ liên minh với Nhưỡng chia thực quyền. Hai người cùng nhau sắp đặt bổ nhiệm các quan, khiến vua Lê chỉ biết than trời, và có ý vời Nguyễn Hữu
Chỉnh ở Nghệ An về giúp.

Chỉnh lúc đó đã bị Tây Sơn bỏ rơi, chỉ còn vài chục thủ hạ. Mạo là có chiếu của Vua phong Chỉnh làm trấn thủ Nghệ An, tước Bằng lĩnh hầu, Chỉnh giả làm lễ bái mạng rồi truyền hịch hiệu triệu hào mục và quân lính. Trong vòng mươi ngày, Chỉnh mộ được hàng vạn quân, tuyên cáo : « Bọn Nhưỡng cầm quân ngầm mưu việc đại nghịch. Nay vâng mật chỉ đem quân về triều để quét sạch giặc đang hiếp chế nhà Vua », rồi kéo quân lên đường. Quân Chỉnh mới mộ, nhưng đội ngũ tề chỉnh, hiệu lệnh nghiêm ngặt, đụng với quân nhà Chúa ở khúc sông Hoàng Mai huyện Quỳnh Lưu, đánh một trận toàn thắng dễ dàng.

Ở Thăng Long, Nhưỡng sợ Chỉnh kéo quân chạy về Yên Quảng. Cơ thấy vậy, rút lên Sơn Tây, ý nuôi oai dành sức, từ từ coi thiên hạ ngả về Vua hay về Chúa. Trịnh Bồng gọi Dương Trọng Tế, hốt hoảng hỏi :

- Làm thế nào ?

Tế mang quân ra cản Chỉnh, như sang bến Thanh Trì lại chạy thẳng sang hạt Kinh Bắc. Bồng khóc :

- Ta chẳng may đẻ vào nhà Chúa, lại bị một lũ tiểu nhân xui khôn xui dại, làm lỡ mọi chuyện, ngay đến chuyện làm một ông sư già chống gậy dạo trong vườn thiền cũng không được !

Bồng cùng tả hữu bỏ Thăng Long chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh vào, được Vua Lê phong làm Bằng trung công, nắm mọi việc. Vua Lê lại sợ Chỉnh lấn ép. Khi Chỉnh định xuất quân đánh Bồng, Vua sai người bảo :

- Bất nhượng hãy làm lời dụ bảo hắn đường họa phúc, tránh tuyệt tự họ Trịnh đã nhiều đời tôn phù. Hắn cứ mê muội, thì hãy kéo quân đánh. Ta cứ giữ niềm trung hậu, không ai nói vào đâu được !

Chỉnh sẵng giọng :

- Anh hùng làm việc há theo cái nhân đức của đàn bà ?

Mang quân qua Nhị Hà, Chỉnh bắt giết Dương Trọng Tế. Bồng chạy thoát, ra miệt Hàm Giang nương tựa vào Ðinh Tích Nhưỡng, thủ hạ chỉ còn độ một trăm người. Nhưỡng tiếp, nhưng ý bạc bẽo, không nói gì đến việc quân, việc nước, lại thưa :

- Trời thanh, trăng sáng, vẻ thu rất đẹp. Thần đã đem rượu lên thuyền, xin Chúa đi chơi ngắm nhìn phong cảnh cho khuây khỏa.

Bồng nghẹn lời :

- Phong cảnh vẫn xưa nhưng non sông khác trước. Bơi thuyền uống rượu, ta chẳng có lòng nào. Xin tướng
quân cứ đi chơi.

Ðêm hôm đó, Bồng thảo một bức thư cho Trương Ðăng Quĩ, nhờ tâu lên Vua « ... Lúc mới đến Kinh chỉ lo giữ lấy công việc thờ cúng cho trọn đạo hiếu, thật không có bụng chuyên quyền. Chẳng ngờ thế sự đẩy xô, lại gặp các tướng ép uổng, thành ra trái ý Vua. Chỉnh vào, cung khuyết đã bị đốt tiêu, nên thần như con chim cháy tổ bay quanh không chỗ nương thân, xiêu bạt nay Quế Ổ, mai Hàm Giang, hóa ra mang tiếng kháng mệnh, tấm lòng kính thuận không còn cách nào bày tỏ được ... » Vua sai Quĩ đi đón Bồng về triều, nhưng vì sợ Nhưỡng thông đồng với Chỉnh bắt mình, Bồng đã cùng mấy người hầu cận thuê thuyền buôn giương buồm chạy xuống Sơn Nam. Sáng ra, Nhưỡng biết chuyện, liền kéo thuyền chạy theo, bụng bảo dạ nếu không theo Chúa, thiên hạ sẽ bảo mình là loài phản tặc.

Hợp với quân chủ lực của Lân, một thổ hào, Nhưỡng đánh lại tướng của Chỉnh là Hoàng Viết Tuyển, nhưng vì ô hợp nên thua tan nát. Lân cướp thuyền đưa Bồng chạy về Bái-Hạ. Ở vùng ấy, Khuông dấy quân Cần Vương, cùng Lân ra sức chống giữ. Bị Chỉnh vây chặt, quân đói phải đào củ chuối để ăn. Bồng nói với Khuông và Lân để Bồng tự trói ra hàng, tránh đổ thêm máu. Không chịu, Khuông và Lân phá vòng vây mang Bồng chạy về được Hải Dương rồi lên Yên Quảng. Lân xin về, rồi Khuông chết bệnh ...

Nói đến đây, Nhật bỗng im lặng, hồn lắng vào một cõi riêng, không biết đến gì xung quanh. Nghe Thức giục, Nhật thốt lên :

- Cái nghiệp quyền lực ! Gỡ ra không phải là dễ.

-…

Chậm rãi, Nhật tiếp tục kể :

- Trốn thủ hạ, Bồng một mình lên núi. Ðêm ấy, Bồng kể cho đệ nghe là nằm mãi, cứ nửa ngủ nửa thức, mơ mơ màng màng, bỗng thấy một góc núi sáng rực. Giọng đàn bà ở đâu cất lên, bảo Bồng từ nay tên là Ðạt Hải thiền sư, đã sắp tận được nghiệp rồi ... Bồng tỉnh ra, nghĩ « ... cõi phù sinh chỉ là giấc mộng, sao chúng sinh cứ chìm đắm vào bể khổ. Thôi, quay về là hơn, về cái thuở chống gậy dạo cửa thiền ».

Lấy kiếm gọt đầu, Án đô Vương Trịnh Bồng thỏa giấc mộng trở thành một vị thiền sư, từ đó lang thang hết chùa này đến chùa nọ. Nhưng nghiệp vẫn chưa dứt. Ở chùa Tam Giáo, có kẻ tên Vũ Kiều, đã từng là học trò ở trong Kinh, nhận ra Ðạt Hải chính là Chúa Án đô. Bảo với bọn phiên thần là Kỳ và Trân, Kiều đến lạy Bồng năm lậy, và xin tôn phù. Bồng kêu « ... Các vị nhầm rồi ! » nhưng họ không đứng lên, khóc kêu đòi dựng lại cơ nghiệp nhà Chúa. Bồng mềm lòng, nước mắt ràn rụa, nói «... Cái cảnh « thử ly », «mạch tri » trông mà nát lòng. Ta không phải gỗ đá, lẽ nào lại không đau xót ? Nhưng đã kiệt sức, ta vẫn chẳng tranh lại với trời nên phải nín nhịn giữ mình, không mưu tính để lại lầm lỡ thêm một lần. Gầm trời này ai Vua ai Chúa đã có chân mệnh, ta đã định chống gậy trong chốn sa môn mà rồi cũng chẳng được ! ».

Chưa đánh chác được gì, bọn Kỳ và Trân đã ngỡ là con đường công danh sắp đạt được, xin phong tước. Bồng lúc ấy cảm thấy cái bóng danh lợi vẫn là cái động cơ của sự mê muội, nên rắp tâm bỏ đi. Chưa đi được, cả Bồng lẫn Kỳ và Trân lại bị đám nông dân bắt nộp để lấy tiền thưởng. Chỉnh đích thân xuống trấn Kinh Bắc tra xét, sai chém đầu Kỳ và Trân ra oai ...

Nghĩ đến Chỉnh, một kẻ người đời gán cho hai chữ gian hùng, và là kẻ đã từng đối đáp chèn ép mình ngày Chỉnh còn phò Hoàng Tế Lý ở Nghệ An, Thức ngạc nhiên hỏi sao đã bị bắt mà Bồng còn toàn vẹn để sau này gặp được Nhật ở Ðền Sòng ? Nhật xuề xòa cười, rồi thủng thẳng :

- Anh đoán chắc không ra ! Chỉnh hỏi Bồng : « ... Sao mi chửi ta là giặc? ». Bồng đáp : « Nam mô a di đà
Phật, quả bần tăng đã phạm khẩu nghiệp ». Chỉnh lại trêu : « ... Rước về làm Chúa, mi có nhận không ? ». Bồng cười hềnh hệch : « Eo ôi, cái nghiệp ấy thì chịu. Xưa, bần tăng như khúc gỗ tròn, cứ bị bọn mê muội thèm muốn danh vọng xô đẩy nên mới lăn lóc thế. Nay, chẳng dại nữa, làm Vua làm Chúa thì thà chém chết ngay đi còn hơn ! ». Chỉnh hỏi tại sao ? Bồng nhẹ nhàng : « Nghiệp quyền lực là cái nghiệp của Quỉ Vương. Nó sai khiến hằng hà sa số ma quỉ, căng chặng bẫy ở ngay nhân tâm. Bây giờ nay bần tăng đã hiểu mà tránh được, dại gì lại dính vào nữa ! ». Chỉnh ngẫm nghĩ rồi quát thủ hạ : « Sao chúng mày bắt nhầm ông sư gàn gàn ương ương này vào đây ? » rồi ra lệnh đuổi Bồng ra ngoài. Sau đó, Chỉnh làm tờ cáo, bảo rằng Trịnh Bồng đã chết và cấm không cho ai được nói thêm để làm náo loạn lòng người ...

Thức mỉm cười :

- Làm thế, Bồng sau này khỏi cứ vất vả trốn tránh bọn tham tiền lừa bắt để lấy thưởng. Kể ra, thế là Chỉnh
cũng có chút lòng...

Nhật chợt buồn bã, nhớ đến cái chết của Chúa Út, nhẹ nhàng :

- Ðấy, cái nghiệp quyền lực nó thế. Bồng thoát ra, phải trả giá bao phen, sống đi chết lại mới thành được Ðạt Hải thiền sư. Chỉnh chạy theo quyền lực, nhưng tha Bồng. Ðến lượt Vũ Văn Nhậm, Nhậm ra giết Chỉnh. Rồi sau, Huệ lại ra giết Nhậm. Bao nhiêu sinh mạng khác, cũng chỉ vì quyền lực, chết tức tưởi. Và chết, vô nghĩa.Vì vậy, đệ cố gạt mọi chuyện yêu ghét, nhưng vẫn chưa thể nào chấp nhận được một thứ quyền lực nào !

Quay lại phường Bích Câu hai ngày sau, Toàn Nhật vừa gõ cửa thì bõ già đã vui vẻ nói :

- Ông tôi về rồi, rước sư vào !

Nhìn thấy Thức bên cạnh, bõ có vẻ ngần ngại, nhưng Nhật biết ý, lên tiếng :

- Mô Phật, vị này là anh tôi, cũng quen biết ông nhà ...

Bỗng một giọng khàn khàn cất lên :

- Bõ mời các vị vào, xin vào ...

Nhận ra Thức, tiếng như reo, nghe vẫn khàn khàn :

- Trọng Thức, có phải không ?

- Chào Ngô huynh. Bao nhiêu năm rồi !

Nắm tay Thức, Ngô Thì Nhậm nhướng mắt nhìn vào tận mặt. Lưng gần như còng xuống, tóc nay bạc phơ, Nhậm gầy như hạc, mảnh mai trong tấm áo thụng màu xám nhạt. Mắt sáng lên nhìn Thức, Nhậm tươi cười :

- Phải nói bao nhiêu đổi thay rồi ! Chứ không có đổi thay, năm tháng chỉ hệt nhau, bao nhiêu ta cũng chẳng đếm !

Quay sang nhìn Nhật, Nhậm từ tốn :

- Nam mô a di đà Phật !

Thức nhỏ nhẹ giới thiệu :

- Võ Toàn Nhật, đồng môn với đệ, lại như anh em một nhà.

Nhậm à một tiếng, rồi cười :

- Có phải Võ tướng quân của đội Tiền Kích không ? Người ta lại đồn là chết rồi, thế có lạ không ?

Nhật thủng thẳng :

- Lạy Phật, đúng đấy chứ ! Bây giờ chỉ có một vị sư đi cầu của bố thí của thiên hạ thôi, Võ tướng quân gì đó chết hẳn rồi. Ðệ ra tìm Ngô huynh vì thầy đệ có một lời nhắn ...

Nhậm cắt lời Nhật, nhại lại :

- Vô lượng thọ Phật ! Ngô huynh gì đó cũng không còn. Bây giờ chỉ có một vị sư già tên là Hải Lượng đây !
Nhậm bước vào, gọi bõ già nấu nước pha trà, tay đẩy Thức và Nhật vào chái bên, rồi kéo xuống ngồi trên bồ đoàn. Lấy bộ chén chè ra lách cách lau chùi, Nhậm tươi tắn :

- Này, ở đây đến xế trưa là gặp cả Phan Huy Ích và Vũ Trinh. Họ nghe bần đạo từ Thanh Oai về, chắc sẽ lục tục kéo đến chuyện vãn.

Nhìn Toàn Nhật, Nhậm tiếp :

- Nào, nói ta nghe xem La Sơn Phu tử nhắn gì?

Nhật thuật lại lời Nguyễn Thiếp. Nhậm trầm tĩnh :

- Ta về làng, lạy tổ miếu. Mấy hôm sau, quân Nguyễn Ánh đánh lấy Thanh Hóa. Khi ta từ Sơn Nam về, thì quân Nguyễn đi phía sau chừng một hai ngày đường, nay mai sẽ vào Thăng Long chấm dứt triều đại Tây Sơn ...

Thở dài, Nhậm đổ trà vào chén chuyên, tay rót, miệng khẽ nói :

- Trốn, ta không trốn ! Nhìn Thức, Nhậm trầm ngâm - ta trốn thì còn gì cái tiếng danh giáo của Ngô thì Nhậm ? Ta trốn thì sau này ai hiểu làm sao cho được cái việc chấn hưng Trúc Lâm Thiền Pháp của Hải Lượng ?

Thức hỏi, Nhậm nói rằng từ mấy năm nay, Nhậm đang cùng môn đồ hoàn thành « Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh ». Tập này gồm hai mươi bốn thanh, tương ứng vào hai mươi bốn khí của trời đất, là những giáo lý tổng hợp Nho và Thiền thành một khối. Nho và Thiền theo đó là cùng nguyên tắc, chỉ khác về cách ứng phó « ...Xử thế bằng Nho, xuất thế bằng Thiền, ... ung dung thoải mái trong cái lý ấy mà cũng vượt lên trên và ra ngoài cái lý ấy ».

Cuối giờ Thân, Ích và Trinh đến. Sau đó có thêm Nguyễn hữu Ðàm, Ngô thì Hành và Nguyễn đăng Sở, đều là những nhà nho nhưng nay mang pháp danh Hải Ðiền, Hải Huyền và Hải Hòa. Cuộc đàm đạo xoay quanh giáo lý, nhưng tất cả đều cuối cùng qui về Nho học. Ðề cập đến «không» và «ngộ», vấn đề được trình bày như mối quan hệ giữa «lý» và « dục» trong hệ thống Tống nho. Khi nói về « minh tâm » và « kiến tính » của nhà Phật, họ qui trở lại « chính tâm » và « thành tính », cho rằng đều là « đạo người quân tử rộng khắp và kín đáo ».

Hải Lượng thiền sư không vất bỏ nổi Ngô thì Nhậm. Dấn thân vì có ý thức xã hội, nhưng vốn là một nho gia theo dòng danh giáo, Nhậm dẫu muốn hóa ra Hải lượng nhưng vô hình chung vẫn bó buộc tư tưởng của mình trong một khuôn khổ nhất định. Chẳng hạn, Hải Lượng cho rằng: « Ðại bồ tát vô lực lượng không xuất gia mà tế độ được vô số trăm nghìn chúng sinh ». Khi bàn «... tinh thần cất giấu ở trong thân thể, thân thể là đồng một chất với trời đất », Hải Lượng thừa nhận sự tồn tại của thân và sự phụ thuộc của tinh thần vào cái thân vật chất đó. Nói về « luân hồi » trong sáu cõi của nhà Phật, các vị thiền sư ở phường Bích Câu lại xem như là luật « Tuần Hoàn » của nhà Nho. Ðề cập đến « Thiền » là một cách tu tập, họ cho là « Thiện Vị », tức là nhường ngôi kiểu Nghiêu, Thuấn...Tóm lại, việc động não ở phường Bích Câu thể hiện sự tìm kiếm lý lẽ giải thích những bế tắc xã hội, chỉ ra thái độ cần có và vạch rõ con đường đi tới. Dựa trên cơ sở « Tam giáo đồâng nguyên » đã có từ 10 thế kỷ trước, Nhậm và những người đông môn, đồng chí, vô hình chung mang Nho ra thay cả Phật lẫn Lão học, không đề ra được sự tương hỗ của ba cách nhìn có thể bổ sung cho một thế giới quan toàn diện hơn, tinh tiến, ảo diệu hơn cách nhìn của Nho giáo.

Chiều tối, Thức và Nhật kiếu từ. Ngô thì Nhậm tiễn ra tới cửa, nói với Nhật :

- Ta có nghe đệ kể « Hứa Sử truyện vãn » trong nhân gian, hôm nào đệ ghé, có dịp cùng nhau bàn thêm..

Nhật buột miệng nói theo kiểu Trịnh Bồng :

- Còn duyên là còn gập...

Trên đường về, Nhật chép miệng nói với Thức :

- Ngô huynh vẫn đời lắm, có đạo được chút nào đâu !

Thức không trả lời, bước đi trong im lặng. Lòng chàng nặng chình chịch sự thất bại và niềm tuyệt vọng của những người có lòng, nhưng tư tưởng lại chỉ hạn hẹp trói buộc trong cái hệ tư tưởng phong kiến. Hệ tư tưởng đó nay quá lạc điệu, khi mọi con người trên thế giới này đã đến gần nhau hơn bằng những con tầu vượt đại dương gắn đại lục này vào những đại lục khác.

Hạ tuần tháng tám năm Nhâm Tuất , Thái Úy Nguyễn văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng. Năm ngày sau Nguyễn Ánh đặt chân vào thành. Quang Toản cùng với hai em là Thùy và Thiệu, cùng Ðô Ðốc Tú, Ðô Ðốc Dụng vượt sông Nhị chạy sang Kinh Bắc. Ðêm ở Xương Giang, dân đến vây, Thùy và Tú tự vẫn. Toản bị dân Phượng Nhỡn bắt mang về nộp lấy thưởng. Sự nghiệp nhà Tây Sơn cáo chung sau khi Nguyễn Huệ xưng đế được đúng mười bốn năm.

Nguyễn Ánh tiến hành một loạt biện pháp để bình định Bắc hà. Như cô gái giang hồ đã quá tuổi, Bắc hà lại ỏn ẻn ton hót về sự trinh bạch, sắc đẹp, và gốc gác quí phái lương thiện của mình. Ánh chiêu dụ cựu thần nhà Lê, đặt lại các chức quan văn võ, dùng luật Hồng Ðức trị dân. Ðối với đám quan theo Tây Sơn, Ánh cho truy nã, bắt bớ, và đặt các trạm canh khắp nơi để thu hồi quyền uy.

Sau đó, Ánh mang quân thù ra xử. Tài liệu do giáo sĩ De la Bissachère lưu ở Hội Truyền Giáo Paris kể lại như sau :

«...vị Vua Tây Sơn là Quang Toản phải chứng kiến một cảnh đau lòng. Thi hài của cha, mẹ, ông bà đã chôn đều bị khai quật, xương cốt mang xẻ vụn ra để, theo dị đoan, không có thể mang lại phúc đức cho con cháu. Sau đó, những xương cốt đó đem đổ vào một cái chiếc vại sành rất lớn để cho quan quân đến đái vào. Tiếp theo, xương cốt lại bị nghiền thành bột đổ vào một cái uôm để trước mặt vị Vua trẻ. Người ta mang đến một mâm cơm thịnh soạn, một phong tục đối xử tử tù ở đất nước này trước khi thi hành quyết. Người em vua, can đảm hơn, trách anh đã ăn. Sau bữa, người ta bịt miệng Vua, để tránh vị này có thể chửi vị Tân Vương. Rồi họ cột tay và chân Vua vào bốn con voi để xé xác. Hai con chạy, làm rách toạc một chiếc đùi, gân lòi ra. Vị Vua bị hành quyết vẫn còn sức quay lại nhìn cái uôm có xương cốt của cha mẹ mình. Ðám hành hình dùng một thứ dụng cụ không thấy ở Âu châu, xẻ xác Vua ra làm năm mảnh, đem cắm trên những chiếc cột cao đặt ở năm cái chợ đông người, và đợi thịt rữa ra hay là bị diều quạ ăn hết.

Về phần Ðại tướng Thiên Phổ (Trần Quang Diệu), người mà ai biết cũng quí mến, ông ta xin vị Tân Vương tha chết cho mẹ ông nay đã tám mươi tuổi, không có thể làm gì hại đến chính quyền mới. Ông bị xử chém.
Ông ta có đứa con gái độ mười bốn, mười năm tuổi, nay đã đúng độ thiếu nữ, bị xử voi dày. Khi cô ta thấy một con voi lù lù tiến lại để cuốn lấy, cô ta quay nhìn mẹ, thét lên thảm thiết : « Mạ ơi, cứu con ! ». Mẹ cô ( nữ tướng Bùi Thị Xuân ) đã từng chỉ huy đội tượng binh đáp : « ... Làm sao cứu con khi chính mạ, mạ chẳng cứu được mạ. Thà con chết với cha với mạï còn hơn là sống với lũ người như chúng nó ! ». Trong số những người chứng kiến, nhiều kẻ quay mặt đi không dám nhìn. Con voi cuốn cô bé hất lên cao, rồi ngửng lên lấy ngà đâm vào thân xác cô rơi xuống, hai lần tất cả.

Khi đến lượt hành quyết vị nữ anh hùng, vợ của Ðại tướng Thiện Phổ, bà ngang nhiên đi vào, dáng kiêu hãnh, đến ngay trước mặt voi. Bọn hành hình hét bắt quì, nhưng bà không, cứ đứng sừng sững. Con voi không làm gì, hình như nhận ra chủ, mãi sau bị thúc nó mới cuốn lấy bà ...

Bọn hành hình, để có được sự can đảm của bà, đã móc tim, gan, phổi, và tay của bà để ăn ...».

Có một chi tiết nhỏ còn nghi vấn.Giáo sĩ De la Bissachère kể là Trần Quang Diệu bị xử chém, trong khi đó, sử ta lại viết là Ánh chỉ bắt Diệu uống thuốc độc, vì xưa Diệu đã đối xử với bọn tướng của nhà Nguyễn là Võ Tánh và Ngô Tòng Chu một cách cao thượng. Một điều không có nghi vấn gì là Diệu trước khi chết, sắc mặt không đổi. Và hình như Diệu có cười một tràng dài.

Về phía bọn văn thần phò Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan và khoảng mười lăm người bị đóng gông mang bêu. Hôm đó, trời đã sang đông, đêm xuống rất sớm và không hiểu ở đâu chim cuốc bay về đậu trên những hàng cây bàng trong Kinh. Sáng hôm sau, họ điệu đám văn thần sang Văn Miếu. Ðàn chim cuốc bay theo, tiếng kêu quốc, quốc vang động khắp một vùng hồ Thủy Quân. Những kẻ tò mò lũ lượt kéo nhau đi xem. Trong đám đông, Toàn Nhật cùng Trọng Thức chen vai thích cánh, nghe hàng dân bàn tán cách hành tội rồi đánh cược với nhau. Cứ như là đi xem hội, họ nói cười, thản nhiên, nhìn đám văn thần nay đã lụ khụ, còng lưng dưới những chiếc gông làm bằng gỗ lim, bước im lìm, mắt nhìn xuống đất. Duy một mình Nhậm, Nhậm ngửa mặt lên trời, miệng tủm tỉm, thỉnh thoảng đưa mắt hiền hòa nhìn thiên hạ.

Bọn lính đưa đám tội đồ vừa bước vừa dọa nạt, tay cầm roi vút vào không khí, mở đường đi trong tiếng chiêng trống ầm ĩ. Nhậm quay lại nhìn đồng bọn. Thấy họ vẻ ủ rũ, Nhậm bỗng chạnh lòng. Ðấy, tinh anh của đất nước cả đấy ! Bây giờ, họ là gì ? mình là gì ? Tặc loạn ? Phản quốc ? Không ! Mình chỉ là kẻ đứng về phía cái quyền lực bị đánh sụm. Thế thôi. Cái quyền lực chiến thắng kia làm ra danh nghĩa bằng chiến thắng. Vì đã chiến thắng, nó có thể sắp xếp lại hết, kể cả lịch sử. Và kết tội kẻ chiến bại thế nào thì kết, ai làm gì được !

Bị điệu vào sân Văn Miếu, bọn văn thần đứng lơ ngơ, đợi đọc chiếu hạch tội của Vua Gia Long. Dưới thời Cảnh Thịnh, Nhậm khuyên Quang Toản không được, đành rời chính sự, lui về coi sóc Văn Miếu này. Biết từng con ngựa đá cho đến hòn gạch, viên ngói và những tấm bia Tiến Sĩ sắp hàng từ mấy triều đại nay, Văn Miếu là nơi Nhậm tôn kính còn hơn Từ đường của gia đình mình. Trên những cành cây đại, chim cuốc lại đến đậu đông nghịt, thỉnh thoảng ùa nhau cất cánh bay, tiếng đập cánh như gõ cửa một mùa xuân chậm đến.

Từ một chiếc ghế bành phủ gấm, Ðặng Trần Thường, kẻ được Gia Long dành cho cái niềm vui gặp lại bạn đồng liêu ngày xưa, loắt choắt kiễng chân đứng dậy. Lời hạch tội đám văn thần khá tầm thường, đại khái cho rằng biết lễ nghĩa mà lại theo ngụy Tây Sơn, tội đáng nọc ra đánh để lấy đó làm gương cho thiên hạ. Nhậm lại cười ! Ai chả biết được làm vua, thua làm giặc. Kẻ nào thua, tất là ngụy. Lời hạch lại nhiếc móc bọn văn thần là tiếm nhà Lê để tâng công. Nhậm tự hỏi, thế bay đang làm gì đây ? Khi xưng đế hiệu, bay không tiếm ngôi đấy à ?

Bọn văn thần từng người một phải ra quì nhận tội rồi nằm dài mặt úp xuống sân để cho bọn hành hình đánh vào lưng. Nguyễn Gia Phan, rồi Phan Huy Ích. Tiếng roi vun vút quật xuống. Tiếng rên hừ hự. Hàng dân im lặng, không còn ồn ào. Chỉ có tiếng chim cuốc kêu. Rồi tiếng quát.

Ðến lượt Nhậm, Thường trừng trừng nhìn, rồi vênh váo :

- Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai

Nhìn những cánh chim chao ngang đảo dọc trong bầu trời ẩm đục buổi đầu đông, Nhậm bỗng chỉ thấy một sự thương hại tràn ngập tâm tư. Giọng tự mãn, Thường mỉa mai « Theo giặc, Hy Doãn quên hết chữ thánh hiền rồi sao? ». Cười hiền hòa, Nhậm rành mạch :

- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

Khinh khỉnh, Thường vẫy tay ra lệnh bắt quì. Nhậm vẫn đứng trơ trơ, khẽ lắc đầu. Viên quan có nhiệm vụ
hành pháp quát:

- Quì xuống !

Nhậm điềm tĩnh, lại lắc đầu. Một tiếng bốp vang lên. Ðó là tiếng cây côn đập vào đầu gối Nhậm. Nhậm cắn răng, chúi người ngã, nhưng lại cố đứng dậy. Lại một tiếng bốp nữa. Nhậm lại ngã, rồi xiêu vẹo, vùng người lên. Ðến lần thứ năm hay thứ sáu, Nhậm không đứng được, nằm trên sân đá, nhưng không rên la, kêu ca gì cả. Không nghe thấy tên pháp quan la hét những gì, Nhậm lẩm bẩm một lời tự vãn khi xưa :

« Tiên ? chẳng thể thành tiên

Phật ? cũng không đắc đạo

Chí theo hướng Thi, Thư

Khỏi trái dường danh giáo »

Một trận mưa roi ập xuống mình mẩy Nhậm. Pháp quan quát :

- Không sợ à ?

Nhậm lại cười :

- Thuận lý mà sống thì có dẫm lên đuôi cọp cũng chẳng có gì là đáng sợ !

Tiếng roi, tiếng gậy lại vang lên. Trong hàng dân, có kẻ la khóc. Vẫn tiếng chan chát, tiếng bôm bốp, và tiếng chim cuốc kêu lên thất thanh. Vết sẹo đâm xuống chân mày trên trán lại giựt lên, Thức nghiến răng nói nhỏ vào tai Nhật :

- Ðòn thù !

Nhắm mắt niệm Phật, Nhật nói thầm :

- Trời cao đất dày ! Tham là cái nền, tàn bạo là kèo cột, và xương máu là đồ trang trí của tất cả những lâu đài quyền lực.

Nhậm bị đánh như vậy cho đến lúc thình lình cả đàn hàng trăm con chim cuốc vỗ cánh bay lên, không ngớt kêu quốc, quốc, và bay về hướng biển. Ðúng lúc đó, Nhậm thở hắt ra, giẫy nhẹ, rồi bất động.

Chuyện chim cuốc kêu ngày xảy ra trận đòn thù trong sân Văn Miếu được truyền tụng đi khắp nơi. Hàng dân kháo rằng chim kêu ác, ác chứ không phải là quốc, quốc như thường lệ. Thật ra, rất dễ nghe lẫn tiếng quốc ra tiếng ác, hay ngược lại.

Kẻ nào nọc người ra đánh cho đến chết cũng sẽ chóng chầy bị quả báo. Chỉ hai năm sau, chính Gia Long
đã bắt giết Ðặng Trần Thường.

Triều đại nào nọc kẻ sĩ của đất nước ra đánh là triều đại không thể khá được.

Quả nhiên, chỉ xấp xỉ năm mươi năm sau trận đòn thù, hậu duệ của Nguyễn Ánh đã khờ khạo làm mất nước
Việt Nam trong gần một thế kỷ.

Chương Kết
Bọt nước sông Mê

Quay người lại, Nhật mỉm cười nhìn Mai đang vén áo ngồi xuống mỏm đá chênh vênh bên bờ sông. Mai nhỏ nhẹ :

- Ở khúc sông này, nước xô vào ghềnh, bọt sủi trắng gào như người giận đến sùi bọt mép. Thời gian anh Thức chưa về đây, cứ vào ngày nghỉ, tôi bế cháu Thư ra ngồi lắm khi từ sáng đến tối. Chờ đợi. Ðợi một cánh thư. Ðợi một lời nhắn. Cứ thế năm này đến năm nọ. Nhìn bọt nước, nghĩ mãi. Rồi tôi học được một
điều : ở mức cuối cùng của mọi chờ đợi, có hay không chung cục chẳng khác gì nhau.

Ánh nắng mai vừa đậu cánh óng ánh vàng trên những tàn cây muốt màu ngọc bích. Mây lưng chừng hòn núi chắn cuối sông lững lờ tách ra thành những sợi bạc mỏng mảnh tan lẫn vào màu da trời. Vết sẹo dài trên má Mai khơi nhắc Toàn Nhật thuở sống ở Kinh Kỳ, trước buổi loạn kiêu binh lập Tông phế Cán thời Chúa Trịnh.Vết sẹo ấy do chính bàn tay Tuyên phi Ðặng thị Huệ quào vào mặt em mình vì Mai trốn khỏi Cấm cung, nhất quyết không chịu lấy Thái tử Lê Duy Cẩn, chỉ một lòng dâng hiến đời mình cho Trọng Thức.
Vừa lên ngôi Chúa, Tông bắt giam Huệ. Cán lên sáu, sợ quá cấm khẩu, lại nóng sốt li bì, chỉ khóc ư ử trong họng. Rêu rao thưởng một trăm lạng vàng cho ai chữa được Cán xong, mẹ Tông là Ngọc Hoan vào, thò hai tay ra bóp mũi Cán. Rồi Hoan bắt Huệ đến quì trước mặt. Huệ cắn răng đứng lên, bị đánh vỡ đầu gối, nhưng ngạâm miệng nhất định không rên rỉ. Sau, Ngọc Hoan bắt Huệ lên lăng Thịnh Phúc, nơi chôn cất Chúa Trịnh Sâm. Ngày Huệ vào lạy bài vị, đồ thờ bằng vàng chảy ra như bị thiêu, đồ thờ bằng gỗ mủn đi hóa thành bụi. Ba ngày sau, Huệ tự thắt cổ, chết lưỡi thè ra dài chấm đến bụng dưới.

Nhật bất giác mỉm cười. Nhìn kìa, những bọt nước giữa dòng kia vỡ thành nghìn hạt li ti, mỗi hạt đều phản chiếu hình ảnh núi, rừng, cây cỏ, và cả hình ảnh Mai lẫn Nhật. Có hạt rơi trên đá, bốc hơi thành mây, mây bay đi gặp lạnh hóa mưa, mưa rơi trên núi cao, trên đồng ruộng. Có hạt rơi trên nước, theo dòng luân lưu, về sông Nhị hay sông Ðà, lúc bồi vào đất, khi ra biển rộng. Không có gì tự sinh, không có gì tự diệt. Hạt nước đó đã có từ nghìn vạn đại, mang vô số hình tướng trong cái lẽ biến dịch bất thường từ những duyên khởi vô thủy vô chung. Chỉ một hạt nước, đã là vạn vật, đã có nắng, có mưa, có đất, có Mai, có Nhật, có những kiếp người từ trăm nghìn năm trước, có rừng núi từ thuở nguyên sơ. Như vậy, hạt nước làm gì có tự ngã. Như vậy, Huệ, Sâm, Tông, Cán ... làm sao có thể có gì gọi là tự ngã. Mà đã không có ngã, thì phế - lập - đánh - giết - ... để làm gì ? Tạo nghiệp. Chỉ là tạo nghiệp. Rồi nghiệp sinh nghiệp. Vòng vô minh rộng ra, phủ xuống cõi nhân sinh u mê đắm đuối.

Nước mắt bỗng rưng rưng, Nhật nói nhỏ nhẹ :

- Mô phật. Chị nói phải. Có - Không là hai mặt của một đồng chinh ta cầm trong tay. Ta nhận thức, phân biệt ra cái ta gọi là Có, cái ta gọi là Không. Nhưng vẫn chỉ là một đồng chinh.

Mai tần ngần :

- Lúc ấy, tôi tỉnh ra. Ôm cháu vào lòng, tôi nhủ rằng sống là sống với hiện tại. Cứ thế chục năm ròng, sự sống đó đối với mẹ con tôi ở trong kia ...

Tay chỉ, Mai đứng lên tiếp :

- ... là cái cưu mang được phần hồn. Chú vào với tôi, chú sẽ thấy. Cháu Thư đã vào thưa với Mẹ-bề trên rồi.

Quanh co sau hai cái dốc, những mái nhà lợp lá cọ thấp thoáng hiện ra trong tầm mắt. Chạy lên đón Mai và Nhật, chàng thanh niên tên là Quốc Thư, có cái miệng giống hệt miệng Trọng Thức, tươi cười :

- Chú với mẹ đến vừa lúc ăn sáng. Con đã xin thêm một xuất và báo là cha con hôm nay nghỉ không lên trại được...

Ðưa tay đỡ cái giỏ cho mẹ, Thư hồn nhiên :

- Chú đến đây là thật là hi hữu, lần đầu một nhà sư vào thăm trại đấy ! Giê-su-ma, Mẹ-bề trên cứ hỏi đi hỏi lại, sợ cái này cái nọ - Thư cao giọng, vừa cười vừa nói - lại còn bắt cả trại quét dọn cho sạch sẽ để tiếp khách. Con có thưa là chú Nhật thay cha làm việc thường ngày nhưng Mẹ-bề trên không bằng lòng đâu.

Thân ái vòng tay ôm vai Thư, Nhật xuống dốc, nghe Thư láu táu :

- Biết con từ ngày con còn trong bụng mẹ con - Thư ranh miệng, đùa - chú có thấy con lớn lên không ?

Nhật vui vẻ, đùa lại :

- Có, nhưng hình như chỉ một tí ! Cha con đi đâu ?

- Cha con có chú vui hẳn lên. Cha con ở nhà viết lách cái gì cho chú đấy.

Vào đến trại trong, một người đàn bà đã cao tuổi mặc áo thụng màu xám, đầu đội mũ rộng vành kiểu các

bà sơ, chạy ra đon đả :

- Xin chào thầy. Thầy quá bộ đến thăm thật là quí hóa. Trại chúng tôi nghèo, chẳng làm sao tiếp thầy cho
trịnh trọng, thầy đừng lưu tâm, bỏ qua cho.

Nhật chắp tay, cúi đầu :

- Cám ơn Mẹ. Kẻ xuất gia đâu có giàu hơn ai. Mẹ đừng bận lòng. Cũng xin phép Mẹ cho được làm cái việc của anh tôi là Trọng Thức hôm nay không lên trại...

- Úi giào ! Cái đó thì thầy để khoan cho. Xin thầy dùng bữa sáng với chúng tôi đã.

Bước theo Mẹ-bề trên, cả bọn vào một căn nhà sáu gian, nơi trại dùng làm phòng ăn. Nhật thót bụng nhìn.
Trên những dãy bàn là những người mà xã hội xua đi. Kẻ mất mũi chỉ còn hai lỗ thở sâu hoắm. Người bị rụng ngón, bàn tay bàn chân nay chỉ còn hai ba ngón, chốâng nạng lết đi ... Họ đứng cả dậy để chào, ngượng nghịu cười, rồi lại lục đục ngồi xuống.

Trại có lẽ có đến gần hai trăm người. Bệânh còn nhẹ, măït họ chỉ sần sùi, mắt sưng lên, da dẻ như bị ban ửng đỏ rồi thâm sịt lại sau một thời gian. Nặng hơn, bệnh đục vào ăn xương ăn thịt, làm lở loét, khoét vào mồm vào mũi, rồi chân tay. Trại tự lực cánh sinh. Những người bệnh nhẹ có sức phải canh tác, phạt rẫy trồng trọt ngô, khoai, cấy mười mẫu ruộng nằm ở tả ngạn sông Mã. Những người sức đã yếu thì thêu may hoặc đan rổ đan rá, gộp lại nhờ mang bán ở chợ trên vùng Nghĩa Bình không ai biết đến trại hủi ở xa mãi tít sông Mã. Còn lại, người bệnh nặng kiệt sức chỉ lo những việc nhẹ, nấu nước, lau chùi. Khi lập gia đình, họ ở riêng. Nếu không, họ tụm vào cứ năm sáu người một nhà. Tất cả đều ăn chung với nhau, việc củi lửa nấu nướng tập trung cho toàn trại để tiết kiệm nhân lực và thời giờ. Thuốc men thật không có gì, chỉ toàn là lá và rễ cây theo những bài thuốc Nam nhặt nhạnh được. Không hy vọng khỏi, họ yên phận, hẹn với nhau là có đau đớn thì tìm chỗ riêng mà rên rỉ để khỏi làm nhụt lòng những kẻ đồng bệnh. Và họ sợ nhất là tuần trăng lên. Trăng lên khiến họ có cố nhịn mà vẫn không kìm được, tiếng rên la kêu đau và tiếng cầu kinh om lên một vùng. Mai vào Hương Sơn tìm Hải Thượng Lãn Ông, tạ ơn đã cứu cái bào thai trong bụng mình ngày còn bị giam hãm ở kinh kỳ, rồi xin Lãn Ông một bài thuốc. Lãn Ông đích thân vào trại, ở suốt một tháng, đi quanh kiếm cỏ kiếm lá rồi sao rồi sắc, hì hục cả ngày. Bài thuốc tìm ra xong, Lãn ông giao cho Mai, dặn dò kỹ lưỡng rồi về. Từ đó, dẫu bệnh chưa chữa được khỏi, đã bớt đi dăm phần đau đớn, những tuần trăng lên không còn là một nỗi kinh hoàng cho cả trại.

Mẹ-bề trên kéo ghế mời Toàn Nhật, rồi thì thào :

- Bệnh phong cùi này nếu biết chống thì không lây được - Nắm tay Mai, Mẹ nói tiếp - đấy, dì Mai ở đây đã
gần hai mươi năm nay mà có sao đâu ! Thầy đừng sợ, cứ ăn nhé !

Nói xong, Mẹ Bề trên cúi đầu, mắt nhắm lại, miệng đọc kinh :

« Lạy Cha chúng con ở trên blời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên blời vậy... »

Mọi người đều lẳng lặng, nghiêm trang. Nghe xong, họ đưa tay làm dấu thánh giá.

Với tay cầm một khúc sắn luộc nóng, Nhật từ tốn ăn, mắt nhìn Mai, lòng cảm phục pha với chút ngậm ngùi. Sau khi sinh hạ Quốc Thư ở quê nội làng Phù Ðổng, Mai gửi con cho một bà cô rồi lên đường lặn lội đi tìm Thức. Thời gian đó, Thức đã lưu lạc qua Pondichéry bên Ấn Ðộ, rồi phiêu dạt đến Paris, nhưng chẳng một ai biết tin. Ngày Mai gặp được Trần Danh Kỷ ở Phú Xuân, Kỷ không nỡ kể chuyện Thức bị đẩy ra biển, chỉ nói là đã gặp Thức, sau đó thì bặt vô âm tín. Mai khóc, nhưng linh tính rằng còn có ngày thấy mặt Thức. Về Phù Ðổng được ít lâu, Mai bế con lên trại Bùi Phong chào gia đình La Sơn Phu tử. Sau đó, Mai lại quay lại Ða Phạn, vùng Thức đã lẩn trốn sau ngày bị Tế Lý lùng bắt. Giáo hữu đón tiếp mẹ con Mai như ruột thịt. Ai cũng gọi Mai bằng « cô », nhắc đến « thầy » Thức bằng những lời trìu mến trang trọng, mặc dầu không phải không có người biết Mai là em Ðặng thị Huệ và Ðặng Mậu Lân, kẻ bàn dân Kinh Kỳ gọi là « hung thần mắt cú » đã từng thiêu sống những người cùi hủi.

Giáo hữu ở Ða Phạn tản đi, có kẻ tạt xuống Hải Hưng, có kẻ suôi vào miệt Bùi Chu, phần để tránh bị vây hãm bởi đám quân quan thời Nam đoan Vương, phần muốn tạo thế ỷ giốc để nương tựa vào nhau. Từ khi giáo sĩ Seiyès đã tử vì đạo, chỉ còn có Thầy Xứ dẫn giắt giáo dân trong vùng kéo vào Hưng Nguyên. Thời đó, số người bị bệnh hủi từ Kinh Kỳ bị đẩy đi vẫn còn sống tụ tập ở thôn Bùi Ngõa phía đông kênh Sắt. Mẹ-bề trên, thuở còn trẻ tên gọi là dì Phước, một mình cưu mang đám người tật bệnh, tất bật từ sáng đến tối. Khi Mai vào thăm trại hủi, một thằng bé chừng mười hai mười ba, hai bàn tay ngón bị rút cụt hết, xỉa xói vào mặt, thét : « ... thằng anh mi đã thiêu sống cả gia đình nhà tao », mắt trợn trừng đỏ ngầu màu máu. Mai sợ run bắn lên, ôm chặt con vào lòng, lùi ra. Ðêm hôm ấy, Mai không chợp mắt, thao thức tưởng tượng ra cái cảnh Lân quây người hủi đem đốt sống. Sáng ra, Mai nói với dì Phước «... cho tôi ở lại đây giúp dì một tay ». Dì ngần ngại cười : « nhìn thấy bệnh tật mà «cô» không hãi à ? ». Mai lắc đầu. Dì làm dấu thánh giá, rồi nói « Giê-su-Ma lạy Chúa, khi nào «cô» không chịu được nữa thì phải nói ra nhé ...».

Ở trong trại phục dịch được nửa năm, Mai vất vả nhưng lại cảm thấy mình đâm gốc mọc rễ chứ không như thuở trước, cứ lênh đênh dẫu là sống trong nhung lụa ở Kinh Kỳ. Bé Thư nay đã đi chập chững, bập bẹ hỏi mẹ cha đâu. Những lúc đó Mai chỉ tay lên trời bảo con là « cha ở trên cao kia kìa ! » , lòng lại gợn lên những ngậm ngùi. Ðùng một cái, trại nhốn nháo. Nghe đâu tiền quân Tây Sơn từ Ðàng Trong đi đường biển đã vào chiếm lấy Vị Hoàng. Chưa thấy bóng dáng quân bộ, lính nhà Trịnh ở huyện Hưng Nguyên vừa vội tháo chạy, vừa cướp bóc hệt một đàn chó đói vô chủ. Những người cùi hủi bỗng nhiên biến thành nạn nhân của những cuộc chém giết dã man phát xuất từ sự tự ti của những kẻ đào binh hèn nhát. Dì Phước bàn với Mai mang cả trại chạy về phía tây bắc. Ðến bờ sông Mã, họ gom góp tiền mua được sáu chiếc thuyền, rồi chặt cây đóng bè, theo triền sông đi ngược lên thượng nguồn.

Thuyền bè cứ thế chống đi hai ngày đêm. Gió đông se sắt đầu tháng chạp trên sông lạnh thấu xương. Trăng thượng tuần đã xế đầu trải một lớp sáng xanh ma quái lên bìa rừng âm u. Thỉnh thoảng, những cặp mắt hươu nai xanh lè, những cặp mắt hổ báo đỏ rực, vàng khè, thấp thoáng ẩn hiện cạnh bụi cây, bờ cỏ. Mai ôm bé Thư, ấp hơi nóng của mình cho con, răng đánh cầm cập. Nàng bỗng nghe tiếng rên, rồi tiếng khóc thút thít. Men đến cuối bè, nàng thấy thằng bé độ nọ đã thét vào mặt mình, nhắc chuyện Ðặng Mậu Lân đem thiêu sống không biết bao nhiêu người hủi năm Canh Tý ở ven đô. Nó nhìn Mai, răng nghiến lại, nhưng lạnh quá, lại lập cập đánh vào nhau nghe lách cách. Mai ngồi xuống bên cạnh nó. Hình ảnh những thân người bốc lửa lên như đuốc, mỡ cháy xèo xèo, mùi thịt nướng, tiếng la hét hãi hùng, tiếng gào thét thất thanh, cùng một lúc ập về làm đầu óc Mai căng ra đong đưa như cái màng nhện mảnh mai trước gió. Mắt Mai cay sè, cổ họng nghèn nghẹn. Nàng cởi chiếc áo bông, đưa cho thằng bé. Nó vẫn run cầm cập. Ðặt bé Thư xuống một bên, Mai nằm vào giữa, đắp thêm chiếc chăn rồi một tay ôm con, một tay ôm thằng bé. Ủ hơi nóng thân thể mình vào cái thân thể cùi hủi bệnh hoạn bên cạnh đang run rẩy co quắp, nàng nhắm mắt quên đi những vết ghẻ lở tàn phá, miệng nho nhỏ nói « ... ngủ đi, ngủ đi ! »

Thư vất chiếc cuốc vào gốc cây, mồ hôi nhễ nhại, đến với ống nước tu ừng ực. Nhìn lên trời, Thư vui vẻ :

- Sắp Ngọ rồi, chú nghỉ tay đi. Ta bới cơm ăn.

Phạt nốt cho xong đám cỏ tranh, Toàn Nhật lững thững xuống suối rửa tay. Vừa ăn, Thư vừa rủ rỉ kể cho Nhật nghe về cuộc sống gia đình mình. Trốn khỏi Phú Xuân cách đây đâu gần mười năm, Thức trở lại trại Bùi Phong. Sau đó Thức ngược dòng sông Mã đi tìm mẹ con Mai. Thư gặp cha lúc đã lên mười, vẫn còn nhớ cảnh mẹ mình cuống quít lên gọi tên cha rồi ngã bất tỉnh. Từ đấy, cuộc sống an vui cho đến ngày Thức nhận được tin đến từ Pháp qua một linh mục ghé thăm giáo phận Tây Ðang Ngoài. Người bạn Thức rất quí là hầu tước Condorcet - kẻ đã cưu mang và giúp Thức từ Paris trở về nước - nghe đâu bị chém cổ. Một số những người lãnh đạo Cách Mạng Pháp cũng lần lượt lên đoạn đầu đài. Nước Pháp hỗn loạn rồi từng bước được ổn định dưới thời Tam đầu chế, nhưng bao nhiêu lý tưởng xã hội Cách Mạng cứ dần dần tiêu vong. Sáu bảy năm trở về đây, Thức trở nên thầm lặng, có khi cả ngày không mở miệng. Nhiều hôm, thình lình Thức nói một mình cả buổi bằng tiếng Pha-Lang-Sa. Mẹ-bề trên đến lắng nghe ở cửa, lắc đầu không hiểu gì. Từ ngày nghe tin Nguyễn Ánh chiếm lại được Phú Xuân, Thức thỉnh thoảng nổi cơn lên đập phá, miệng quát « ... thế thì còn hy vọng gì ! ». Sau thời gian đó, hễ có dịp là Thức lại dọ hỏi tìm tin tức của Toàn Nhật.

Nhìn ra xa, Thư cười :

- ... mà chú thì như cánh nhạn đầu trời cuối bể. Lạy Chúa tôi, mẹ cháu cầu xin với Ðức Mẹ mãi, cho đến
ngày biết rằng chú về Thăng Long là bố cháu đòi lên đường đi gặp chú ngay.

Toàn Nhật nhắm mắt, hồi tưởng lại ngày mình bỏ Qui Nhơn, ôm xác Chúa Út chạy một mạch vào rừng cho đến lúc chân nhũn ra khuỵu xuống. Khi Nhật tỉnh lại, Nhật thấy cặp mắt một nhà sư hiền lành nhìn mình, không nói, không hỏi, thản nhiên như chẳng có chuyện gì. Nhật bật khóc hu hu. Nhà sư ngồi yên, vẫn nhìn hiền dịu.

Ðợi Nhật khóc xong, nhà sư hỏi trống không : « ... đỡ khổ chưa ? ». Chẳng đợi trả lời, nhà sư đứng dậy lấy một cây thuổng ra lặng lẽ đào huyệt. Cởi bộ áo giáp võ quan ra bọc lấy xác Chúa Út, Nhật ôm đặt vào lòng huyệt, quơ tay vun đất. Nhà sư giọng đều đều, tụng kinh cầu siêu trong tiếng khóc rấm rứt của Nhật. Một lúc sau, nhà sư lên tiếng: « ... vợ của thí chủ? ». Nhật lắc đầu. « Vậy sao lại khóc thảm thiết thế ? ». Nhật nhìn nhà sư, không biết nói gì, gật đầu. « ... Ðỡ khổ chưa ? ». Nhật lại lắc đầu. Nhà sư đứng dậy vừa đi vừa hỏi : « Có muốn dứt được khổ không ? ».

Nhật bước theo, từ đó trở thành vị pháp tự truyền đăng thứ hai mươi hai của Diệu Nguyên thiền sư. Sau hai năm tu tập cạnh thầy, Nhật xuống núi đi hoằng pháp. Nay đây mai đó đã mười lăm lần xuân về rồi lại xuân lại đi, lấy gió trăng làm bầu bạn, thiên hạ làm anh em, và đất trời làm nhà cửa, Nhật chẳng đậu ở chùa chiền nào hơn dăm ba tháng.

Thư tưởng Toàn Nhật ngủ, định đứng lên, bỗng nghe hỏi về quyển từ điển Việt - Pha Lang Sa - Latinh ngày xưa Thức đã bỏ công ra tu sửa. Thư đáp :

- ... quyển ấy thì xong lâu rồi, cháu không nghe thấy cha cháu nhắc. Từ ngày ở trại đây, cha cháu soạn quyển từ điển Pha-Lang-Sa -Việt - Pha-Lang-Sa. Riêng phần cháu, cha cháu bảo cháu dịch quyển « Về tinh thần luật pháp » của Montesquieu và quyển « Công ước Xã hội » của Rousseau, mười phần nay đã được bảy.

Nhật trầm ngâm :

- ... còn cha cháu cặm cụi viết lách cả ngày, chắc cháu biết viết gì chứ ?

- Vâng, cha cháu đang hoàn thành một trước tác gọi là « Tề Nhân Thế Ðạo », chỉ thỉnh thoảng mới nói đến
với mẹ cháu. Cha cháu thảo ra cả mấy thếp giấy, nhưng cháu chưa được đọc ...

- Sao lại « Tề Nhân » ? Con người như nhau, bằng nhau là thế nào ?

Thư lắc đầu :

- Chú phải hỏi cha cháu - Thư cười - Ngày rộng tháng dài, chắc cha cháu chỉ đợi chú hỏi là nói. Mấy năm
nay cha cháu có nói được với ai đâu.

Chợt có tiếng chân người bước lại. Mẹ- bề trên cùng Mai bước lại, miệng tươi cười :

- Thầy vất vả, làm chúng tôi không yên tâm. Lên đây xin thầy giúp cho một việc. Trong trại chúng tôi, vừa có con chiên của Chúa, lại cũng vừa có người bên lương. Người lương vẫn theo đạo Phật, nhưng cho đến nay không có duyên được gặp một nhà sư nào viếng thăm. Run rủi thế nào mà có thầy ở đây, vậy tôi xin thầy gặp họ giúp họ tu tiến phần tâm linh ... Nếu được như thế thì quí hóa lắm !

Nhật ngạc nhiên đứng sững người ra. Bỗng dưng, những lời đồn đại về sự hẹp hòi của người bên giáo không có cánh mà bay tuyệt tăm hơi. Trước mắt, Nhật chỉ thấy một người đàn bà độ lượng mỉm cười chờ câu trả lời. Chắp tay, cúi đầu, Nhật vui vẻ :

- A di đà Phật, kẻ tu hành này xin hết sức mình.

Một trong ba gian nhà dùng làm thư phòng, là nơi Trọng Thức viết lách sau công việc ở trại hủi. Sau khi Mai và Thư cầu kinh rồi đi ngủ, Thức pha nước, nhắc Nhật kỷ niệm vào trà thất uống tràvới Koji ở Phố Hiến đã gần hai mươi năm trước. Tiếng thác đổ sau nhà nhặt khoan như ru như hát trong âm thanh rủ rỉ của muôn vàn loài côn trùng hòa tấu đón buổi đông về. Ðêm co lại dưới những cơn gió bấc lạnh lùng. Khêu đèn lên, Thức lẳng lặng rót nước vào ấm trà nhỏ bằng nắm tay. Ðợi một lát, Thức đổ sang chén tống, sau đó san trà qua chén con đưa cho Nhật. Hai tay đỡ lấy, Nhật nhắp uống, mũi phập phồng hít hương trà ngan ngát xông lên. Nghe Nhật hỏi, Thức chậm rải :

- Thế nào là Tề Nhân ư ? Con người ta dĩ nhiên là khác nhau. Từ trong bụng mẹ, cái bào thai đã có cái mạnh, cái yếu, cái khôn, cái dại. Sinh ra, có đứa sinh trong nhung lụa ngọc ngà, có đứa mới vào đời đã chịu ngay sốù phận cơ cực cùng với cha mẹ mình. Mạnh, yếu, khôn, dại phát triển trong những điều kiện dị biệt, ắt chúng lớn lên, lại càng khác nhau. Nhà nghèo thì chết non, thất học, sau làm thân tôi mọi để có mà ăn. Nhà giàu, ngược lại, bệnh thì có thuốc, được học hành, rồi sau thi cử đỗ đạt, thành quan thành tướng, tự xưng mình là phụ mẫu, cha mẹ bàn dân để đè đầu cưỡi cổ. Ngẫm cho cùng, xã hội phân hóa như vậy thành những đẳng cấp. Nếu cứ thế, những đẳng cấp đó tiếp tục tồn tại, bất dịch, cho nên đại thể « con vua thì lại làm vua ...».

- Nhưng phải chăng thân mệnh khác nhau là từ đấng Hóa Công mà ra ? Nhật ngắt lời - Cái bào thai trong bụng mẹ có là từ duyên nghiệp ...

Thức khẽ giơ tay, chặn ngang :

- ... Khoan vào vòng siêu hình vội. Này nhé : mẹ cái bào thai cũng từng đã là một bào thai, nó có mẹ nó, rồi mẹ nó cũng từng đã là một cái bào thai. Cứ thế đi ngược lên, số người ít dần, cho đến khi có đúng một cặp đàn ông đàn bà thuở nguyên thủy. Con cái họ chắc là cũng khác nhau. Nhưng khác bao nhiêu ? Hẳn là phần dị biệt nếu có không thể có nhiều như xã hội bây giờ. Ðám con cái đó cùng một giống di truyền, sinh hoạt trong cùng một điều kiện vật chất lẫn tinh thần, dẫu có phát triển khác nhau thì sự khác biệt trên cùng một cơ sở vẫn ít hơn là sự khác biệt trên những cơ sở đối chọi nhau như giàu nghèo chẳng hạn. Từ Hóa Công sinh ra ở lúc khởi đầu, con người gần như nhau, gần bình đẳng như nhau, đó là lẽ Tề Nhân từ nguyên thủy.

Về sau, con người tổ chức thành xã hội với nhau, tạo ra thế sự bằng luật lệ, tư tưởng, chính trị của mình thì mỗi ngày con người một khác nhau, phân chia ra, đối kháng, đàn áp nhau, đi ngược hẳn lại sự bình đẳng nguyên thủy. Thế sự là do người, không phải do Hóa Công. Vậy, có thể quan niệm một thế sự nào đó có khả năng trả lại và thể hiện ý thức công bình không ? Ðó là vấn đề đặt ra trong « Tề Nhân Thế đạo » ...
Chữ « Thế » là hàm ý đó.

- Theo lẽ biến dịch, người ta phát triển tiến hóa không thể cứ như nhau. Dị biệt là tất yếu. Vậy công bình là ý niệm không loại bỏ, thậm chí phải chấp nhận tính dị biệt - Nhật điềm tĩnh hỏi - Thế thì công bình cho đồng loạt chúng sinh là thế nào ?

- Công nghĩa là chung, vậy ý thức công bình là một ý thức chung về sự bình đẳng đặt ra như một ước lệ được mọi người chấp nhận. Ước lệ đó tự thân là một Công ước: nó dựa trên ý chí của mỗi con người tự do nhận mình là một thành viên xã hội. Nó là ý chí phổ quát trên cái chung, tức là trên phạm trù xã hội. Xã hội đó, mỗi người ở vị thế tư riêng có hoàn toàn tự do trong sự chọn lựa tự ràng buộc mình vào người khác qua cái Công ước nói trên. Chính cái Công ước là nền tảng của ý thức công bình được xác định.

- ...

- Trước hết, mỗi người khi sinh ra đã có một số quyền căn bản không ai xâm phạm được. Bất luận sang hèn, giàu nghèo, trai gái, lương giáo, họ đều tự do và bình đẳng về quyền hạn trước pháp luật. Một số quyền cơ bản là quyền được sống, quyền tự chủ, quyền bất khả xâm phạm về tinh thần cũng như thể xác

... Ðể phát huy tính công bình xã hội, lại phải khẳng định thêm một số thứ quyền cho tất cả mọi người như quyền đi học, quyền có công ăn việc làm, quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, quyền chuyển hoán bổ nhiệm những kẻ được cử ra quản lý guồng máy xã hội ...

Thức chậm rãi, nói như thì thầm :

- Công ước xác minh những quyền hạn ấy làm khung cho luật pháp. Làm sao biết đó là từ ý bàn dân và do chính bàn dân định ?

Ðưa tay lên bóp trán, Thức im lặng một lúc lâu. Uống xong chén trà, Thức từ tốn tiếp :

- Làm sao ư ? Phải nghĩ ra cái cơ chế để thể hiện ý bàn dân hầu có một xã hội mà luật lệ ràng buộc là do dân định. Nhưng dân đông, lại ở rải rác khắp nơi. Hội ý dân bằng cách nào ? Có người, như Emmanuel Sieyès, cho rằng bàn dân có thể cử người đại biểu, rồi những người đại biểu này họp nhau lại soạn ra và tu chính công ước từng bước một. Có người chống lại, như học giả Rousseau, không chấp nhận nguyên tắc đại biểu, đòi hỏi một nền dân chủ trực tiếp. Nhưng dẫu có hội ý được mà rồi mỗi người một phách thì làm sao ? Bàn dân có thể hợp lại thành những tập đoàn đảng phái để gây ảnh hưởng lớn hơn so với mỗi cá nhân lẻ tẻ. Vì thế, cái đề nghị một nền dân chủ trực tiếp cũng vẫn dẫn đến có kẻ lợi người hại, kẻ theo người chống, và khả năng họ tập hợp với nhau ... Còn chấp nhận nguyên tắc đại biểu ? Ðiều này có nghĩa là chấp nhận những tiểu tập đoàn, và chính vậy mà cũng đưa đến cùng một hệ quả tương tự với nền dân chủ trực tiếp!

Thức đứng dậy ra đứng cạnh cửa sổ. Sương núi buông xuống mờ mịt như vây hãm thế gian trong vòng đen đặc của kiếp phù sinh. Ðóng cửa xong, Thức quay vào ngồi, tiếp :

- Người bạn quá cố ta là Condorcet cũng mang vấn đề này ra bàn trên mặt lý học.

Trầm ngâm, tay chấm vào chén nước trà, Thức vẽ lăng quăng lên mặt bàn, rồi chậm rãi :

- Chẳng hạn như bầu người đại biểu dựa trên sự chọn lựa của mỗi cá nhân hợp với nhau thành một tập thể. Giả dụ có ba người, ông A, B hay C để chọn. Giả dụ ba người đó có quyền bầu. Sự chọn lựa của tập thể ba người đó phải thế nào ? Lại giả dụ rằng người thứ nhất ít nhất là thích ông A hơn ông B; ông B hơn ông C. Người thứ nhì, ông B hơn ông C, ông C hơn ông A; và người thứ ba, ông C hơn ông A, ông A hơn ông B. Trong thứ tự chọn lựa đó, nếu ta để ba người đi bầu hoàn toàn bình đẳng, nghĩa là không ai có cái quyền độc đoán áp đặt cách xếp hạng của mình lên tập thể ba người, thì A hay B, hay C hoàn toàn tương đương. Vậy sự chọn lựa tập thể trong trường hợp này là không xác định được ! Dĩ nhiên, thí dụ này là một thí dụ đặc thù chỉ nhằm biểu trưng sự khó khăn tạo ra cơ chế chọn lựa hợp lý của một tập thể.

Nhưng không phải xã hội nào cũng rơi vào cái trường hợp trên để biện minh cho sự độc đoán độc tôn. Môät xã hội chấp nhận sự độc đoán độc tôn của ông A chẳng hạn, xếp ông ta lên trước nắm quyền, tô vẽ nó như thiên mệnh theo kiểu quân chủ phong kiến. Ép cả thiên hạ phải tuân mệnh, công nhận sự sắp xếp đó vô thời hạn là việc không thể làm mãi được. Sớm muộn cũng có người dặt lại câu hỏi, thậm chí chống lại. Nhưng nếu chống lại sự độc tôn độc đoán ở xã hội này, thì chỉ có một cách là nổi loạn ... Ðấy, đất nước ta là như vậy đấy. Mấy trăm năm rồi, giặc dã liên miên vì thế ...

Nhật ngửng đầu nhìn lên những chiếc kèo ngang dọc trên trần nhà, lẳng lặng nghe tiếp hệ tư tưởng Thức dày công đặt từng viên gạch xây nền đắp móng. Uống một ngụm trà, Thức gõ nhẹ lên mặt bàn, rồi trầm giọng :

- Gạt tạm sang một bên cái thực tế nước ta, hãy tiếp tục xét mặt lý của vấn đề tổ chức quyền lực một cách tổng quát. Trở về thí dụ trước, và cứ ba người bầu ra một để đại biểu cho hai người kia. Người thứ nhất là ông A, thứ hai là ông B, thứ ba là ông C. Bây giờ, giả thử chọn A, dĩ nhiên, người thứ hai xếp B trên C, C trên A là kẻ bất đạt nhất. Vậy nếu chọn lựa có định kỳ thì sau khi A là đại biểu, ta chọn B. Cứ thế, sau B thì chọn C, sau C thì lại chọn A. Ðúng một vòng luân chuyển đại biểu, tính công bình được tái tạo lại. Rút cục, quyền lực đại biểu phải luân hoán ở trong một cơ chế trong đó đa nguyên được bảo đảm thì tính công bình xã hội mới khả thi. Nếu không, công bình chỉ là sáo ngữ rỗng tuếch ...

Thức lại im lặng, tay đốt đóm châm vào chiếc điếu cầy, rít sòng sọc. Những sợi tóc bạc rối bù như đang nổi loạn trên mái đầu Thức, trắng toát, cô đơn, ngạo nghễ chổng ngược lên trời. Thức lẩm nhẩm nói một mình :

- Ở mức độ trừu tượng vừa đề cập, bài toán chọn lựa tập thể đã khó. Vào thực tế, lại càng khúc mắc. Tập thể bắt đầu là gia đình. Lúc ấy, sự chọn lựa là ăn chung, ngủ chung, nuôi con dạy cái. Sau gia đình là thôn xóm, rồi làng xã. Sau làng xã là tổng, là huyện, là tỉnh rồi đến trấn, đến vùng cho đến cả nước. Ở mỗi mức, sự chọn lựa tập thể lại khác. Làng có việc làng, tỉnh có việc tỉnh. Nước có việc nước. Làm sao để trong mọi việc, từ việc làng xã đến việc đất nước, mỗi người đều có một tiếng nói bình đẳng với mọi người ? Cái cơ chế đó phải được định đoạt thế nào trong Công ước ? - Thức ngừng nói, rồi mơ mộng - một mẫu hình Công ước có cơ cấu chồng chất lên nhau, sắp xếp trong nhau như dạng một bài toán đố.

Ngập ngừng, vết sẹo đâm xuống chân mày giựt lên, Thức thầm thì như chỉ để cho mình nghe :

- ... Một bài toán đố ta vẫn chưa giải được .

Thư đến tìm Nhật vào buổi xế chiều, vừa đúng lúc Nhật làm xong nghi thức tụng niệm cầu an cho Phật tử trong trại hủi. Với những con người mà thể xác bị đày đọa cùng cực, phần tâm linh tự nhiên trở thành cái phao cứu độ trong dòng nước trầm phù của cuộc sống. Luận về luân hồi mở ra cho họ con đường chấp chế khổ đau, thôi oán thán, mở tâm thức đón nhận từng ngày từng giờ niềm an lạc ở trong điều kiện của họ. Niết bàn ở ngay đây, và Phật là chính trong ta, sao hoài công kiếm gì ở những đâu xa, như kẻ trên thuyền trôi đi mà vẫn lao tâm khổ trí nhìn trời hỏi tìm ra nước ?

Hai chú cháu thư thả xuống dốc về nhà, vừa đi vừa đợi Mai còn bận bịu chút việc. Nhật điềm đạm :

- Cháu ạ, bố cháu lao tâm vào cái việc viết Tề Nhân Thế đạo, vận trí tìm cho xã hội một phương thức điều hành dựa trên công bình bác ái. Nếu thành, thì con người ta sẽ sống với nhau yên vui hài hòa hơn, thôi ức hiếp, cướp bóc lẫn nhau, và hẳn sẽ bớt giặc dã chiến chinh ... A di đà Phật, cái tâm lớn thế, chú cầu xin cho bố cháu đủ trí lực để hoàn thành mãn mỹ cái quan niệm xã hội cộng hòa đó cho thế nhân... Nhưng chú ngại vì thế nhân trong tư tưởng của bố cháu khác xa với người đời trong thực tế...

Nhật tiếp, giọng trầm xuống như nói cho chính mình nghe :

- Người đời xử thế không hẳn thuần lý. Cho nên dẫu sự công bình và lòng bác ái đến từ lý lẽ, nó chưa đủ là mẫu mực cho hành vi con người, vốn còn bị chi phối bởi hỉ nộ ái ố lạc dục. Hành vi đó phát xuất từ lục căn, ngũ uẩn nên tham - sân - si làm bức màn vô minh ngăn sự tỉnh thức.

Thư xen vào, giọng đầy phấn khởi :

- Cũng chính vì thế mà giáo dục là một thứ quyền hạn cơ bản cho mỗi con người. Có biết, làm mới tốt. Làm
tốt dân sẽ giàu. Dân giàu, nước phải mạnh. Lẽ tư riêng và lợi ích chung dựa vào nhau, không có cái nọ là
chẳng có cái kia ...

Nhật mỉm cười, nhớ rằng việc Thư nhận là cứ mỗi tuần dạy ba buổi học cho những người cùi hủi trong trại. A, cái tuổi trẻ kỳ diệu, như trồi cây non tìm ánh sáng mặt trời, nhú ra và vươn lên như lẽ tất nhiên. Dịu giọng, chàng hỏi :

- Nhưng còn cái quyền hạn tự do. Giả thử có một người không chịu sự giáo dục, cháu làm thế nào? Bắt người ta đi học à?

- Vâng. Quyền hạn đi đôi với bổn phận. Cái học để biết, biết để không nhiễu người khác, là bổn phận. Pháp
luật nhằm bảo vệ lẽ chung khi cái riêng tư của mỗi con người đối chọi lại nó. Tự do cá nhân ngừng ở ngưỡng cửa quyền lợi của tha nhân. Kẻ canh cửa là pháp luật định trong Công ước.

Nhớ buổi nói chuyện tối qua, Nhật nhủ thầm rằng Thư chắc hẳn chưa rõ hết vấn đề thuần lý khúc mắc để xác định ra cái Công ước kia đang dày vò Trọng Thức. Chàng bỗng rùng mình. Một nỗi sợ ùa đến. Sợ những khẳng định cực đoan về cái cơ chế chi phối nhân và thế. Sợ những nề nếp con người đặt ra để trói buộc con người trong cách tư duy giản lược rút về một mối. Ngừng chân, Nhật nhìn vào mắt Thư, hỏi :

- Dạy người, cháu dạy đọc, dạy viết, dạy nghĩa lý, dạy trồng trọt ... Cháu có dạy họ yêu thương được không ?

Thư lạc quan, nhanh nhảu đáp :

- Thưa được ! Yêu người rút cục là một cách yêu mình. Ðắc nhân tất đắc kỷ.

- Tất cả là do vị kỷ mà ra ?

Ngần ngừ, Thư gật đầu. Nhật trầm giọng :

- Chú nghe Mẹ-bề trên giảng : « Chúa Giê-Su dạy : Ta không bảo các người chỉ yêu cha, mẹ, anh em, vợ con. Ta bảo các người hãy yêu lấy kẻ thù của các người. Hãy thi ân, cho vay mượn cho dù không có báo đền. Các người sẽ là những người con của Ðấng Tối Cao, vì người nhân lành với những kẻ vô ơn độc ác.
Các người hãy biết thương xót, như Cha các người là Ðấng thương xót ».

Thư lặng im. Nhật đẩy cửa vào nhà đi rửa tay, lòng bâng khuâng. Một lát sau, Mai cũng về, miệng nói :

- Không hiểu sao cứ máy mắt.

Ánh nắng tà giữa mùa đông nhuộm cây cỏ một màu vàng pha sắc tái trông như nước da người sốt rét. Thư lúi húi nhóm lửa trong bếp, xuýt xoa kêu lạnh. Bỗng nhiên, Mai thét lên. Nhật chạy vội vào chái nhà bên cạnh. Mặt tái nhợt, Mai không nói được, tay quơ quơ một tờ giấy, rồi ngã chúi xuống chân giường. Thư cũng vội vã chạy vào đỡ lấy mẹ. Nhật đưa tay lấy tờ giấy. Nhìn nét chữ của Thức, mực chắc vừa khô, Nhật thảng thốt. Không nói không rằng, Toàn Nhật bung cửa chạy sổ ra ngoài. Như một vết khói màu xám khổ hạnh, chàng thoắt biến thoắt hiện trong rừng cây xào xạc gió.

Cứ thế, Toàn Nhật chạy lên núi, theo con đường chàng đã nhiều lần đi dạo với Trọng Thức, như bị hút tới phía trước bằng một sức kéo vô hình. Manh áo sồng bay về đằng sau như cánh chim giạt gió, chàng co chân sải như hươu nai, đầu óc tê liệt đến trống không, mặc cho linh tính dẫn dắt. Nhật chạy, cứ chạy, rồi bỗng nhận được ra một cái cây bị chặt cành, nhựa ứa trắng chỗ dao chém. Thêm vài bước, lại một cái cây khác cũng hệt như vậy. Theo những thân cây có vết chém, Nhật tiếp tục chạy, mũi bỗng ngửi thấy mùi củi đốt. Chàng bỗng chột dạ. Phải thế chăng ? Theo mùi củi cháy, Nhật leo lên. Trên cao, trong tầm mắt Nhật, khói bay lên lững lờ rồi loãng dần, tan biến trong cơn gió bần bật. Lúc này, Nhật không còn nghi ngờ gì nữa, trống ngực đánh như muốn phá bung cơ thể, tim nhói lên một niềm đau đớn xé ruột xé gan. Rẽ vào khúc ngoặt dẫn lên đỉnh núi, một con chim bàng ở đâu xổ ra, bay lên, rồi lượn vòng trên đầu. Mùi củi đốt nồng hơn. Ðến chỗ chàng thường ngồi trò chuyện với Thức những ngày vừa qua, Nhật ngừng chạy, nhìn chằm chặp vào mỏm đá cao quay ra phía cuối sông. Cạnh đấy, những nhành cây đã cháy thành than vẫn còn bừng đỏ lách tách nổ . Nhật hiểu.

Thức đã hóa thân thành đống tro tàn nằm kia, lặng lẽ không một lời, đón Nhật từ nay cho đến mãi mãi sau này bằng cách trả lại tịnh không cái nín im ở phút giây đầu tiên tạo thiên lập địa.

Nhật hổn hển, chúi chân xuống đất, miệng mặn chát, chẳng hiểu là vì mồ hôi hay vì nước mắt. Gió, lại gió.
Cứ từng cơn thốc tháo vào cõi nhân gian. Bụi, lại bụi. Ta cũng là cát bụi. Bụi mịt mù xoáy tròn một cơn lốc phù sinh. Nhật quì xuống xếp chân tọa thiền, nhập vào cõi không, miệng niệm :

« Sắc bất dị không, không bất dị sắc .....

Sắc chẳng khác không, không chẳêng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế....Tướng không của vạn pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt cho nên không có sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức...»

Như một hòn giả sơn, Nhật bất động, mặt hướng về mỏm đá nơi Trọng Thức đã chặt cây xếp củi, sửa soạn lưu huỳnh và diêm sinh rồi tự mình châm lửa, cháy bùng lên như một ngọn đuốc cô đơn trên đỉnh núi cao. Con chim bàng vẫn lượn đi lượn lại thảng thốt kêu tiếng kêu thương. Nắng đã tắt trên đầu những chòm cây lặng lẽ. Sương muối thấp thoáng ẩn hiện dần dà bốc lên lơ lửng. Thinh không bỗng nhầu nát quặn mình qua tiếng hát giọng đàn bà kéo dài dằng dặc. Hát rằng :

Anh nằm xuống

sau một lần, đã đến đây

đã bay cao trong bầu trời này

đã đi xa trong cuộc đời này ...

Rồi nằm xuống

không nói năng

không tiếng tăm....

Như giọt nước kia, về cội nguồn.

Như áng mây xa, quay lại nhà,

rồi nằm xuống

trong tiếng ru người, đến từ thinh không...

Mở mắt ra, Nhật thấy Mai mình dựa vào gốc cây, miệng hát, tay giơ cao lên trời, mặt chan hòa nước mắt, không biết đã đến mỏm đá này từ lúc nào. Thư hai tay ôm vai mẹ, miệng mím chặt, mặt căm lại như khắc vào đá.

Gió, lại gió. Cơn gió bần bật thổi tung đống tàn than đang cháy, thổi những tàn tro còn đốm lửa bốc lên cao, kết thành những bông hoa rực đỏ bay tản ra, tắt dần, rắc trên sông Mã chút bụi xót lại của một cuộc đời. Từ tro bụi mà ra, sẽ rồi lại trở về với tro bụi. Sống ở, chết về. Trên bước về, dấu vết mà làm chi ? Danh vọng mà làm gì ? Phú quí ư, rồi cũng đến thế ! Sự nghiệp ư, có hơn chi một cơn gió giữa bao la.
Thư lên tiếng đọc kinh. Mai ngưng hát, đọc theo :

« Con lậy Chúa con, con ở dưới vực sâu kêu lên Chúa con, xin Chúa con hãy thẩm nhận lời con kêu van: hãy lắng nghe tiếng con cầu xin. Nếu Chúa con chấp tội, nào ai được rỗi bởi Chúa con hằng có lòng lành cùng vì lời Chúa con phán hứa. Con đã trông cậy Chúa con. Linh hồn con cậy vì lời hứa ấy, vì đã trông cậy Chúa con...Lậy Chúa con ! xin ban cho linh hồn chồng con được nghỉ ngơi đời đời và được sáng soi vô cùng »

Trời tối dần. Thư dìu mẹ đến cạnh, tay đưa cho Nhật một bọc vải có buộc phong thư. Nhật dịu dàng nhìn Thư, nhìn Mai, đỡ lấy rồi đứng lên. Chàng khẽ nắm lấy bàn tay Mai vẫn run run như một cánh chim non lìa tổ. Gió, lại gió. Ðám tro tàn lại bốc lên bay về phía sông Mã đang gầm gừ khúc biệt hành. Trong vũ trụ này, thực ra vật chất bất sinh, bất diệt. Những tàn tro nay không còn đốm lửa nào, dẫu có xóa chỉ xóa đi hình hài, nhưng hẳn giữ Thức nguyên lành trong bao la.

Phong thư của Thức gửi Nhật vẻn vẹn :

« ... duyên anh em mình có vậy, đến lúc cuối còn gặp được nhau là đã thỏa lòng ta. Nhờ Nhật chu toàn cho mấy việc. Thứ nhất là lên Bùi Phong tạ từ thầy hộ cho ta. Thứ nhì, giúp cho chị và cháu về giáo phận Bùi Chu. Nguyễn Ánh hàm ơn giám mục Bá đa Lọâc chắc không hại đến giáo hữu ở đấy, hẳn chị và cháu đặng an bình. Dặn Quốc Thư rằng chỉ đến đời vua sau, tất nếp cũ lập lại, người giáo phải lo trước để cẩn thận giữ gìn. Thứ ba, ta gửi phiến đá Băng Vân và sách Tề Nhân Thế đạo. Sách chỉ một mình Nhật được mở ra, xong rồi đem cả đá lẫn sách chôn vào huyệt tổ họ Hà trên bờ sông Mê thuộc bản Mê Hạ, dưới giặng Giăng Màn, từ Bùi Phong đến mất ba ngày đường. Thứ tư, xin dặn lại rằng ai nhớ ta, hãy hãy ném một cánh hoa xuống dòng sông Mã là đủ đẹp. Khi ném, chớ quên nhắc ta « đừng lấy trí nhân ra mà kiêu mạn ! » là đủ tình. Trí nhân dẫu cần, nhưng không đủ để con người đạt hạnh phúc. Cái cần, cả đời ta, ta cũng chưa đạt, nói chi đến đủ. Vì vậy, ta đành khất nợ kiếp này, cúi lạy chư vị Chúa, Phật, Thánh thần trên trời, cùng lạy toàn thể chúng sinh trên trái đất này mà ta hằng yêu quí. »

Nhật thẫn thờ, đọc đi đọc lại. Ở gian bên, Thư trằn trọc sột soạt đi đi lại lại. Nhật khêu đèn, tay mở bọc vải Thức trao lại. Quyển sách được bọc kỹ càng trong giấy có thoa sáp chống nước, để dưới một phiến đá to bằng nắm tay. Nhật cầm hòn đá lên. Nó lạnh một cách không ai tưởng tượng ra nổi, ánh lên mầu xanh nhờn nhợt như mặt mũi người thiếu máu. Thắp hương, Nhật thì thầm khấn rồi mở bọc giấy. Quyển sách gáy da xông lên mũi một mùi hương âm ẩm. Trang đầu, tựa đề Tề Nhân Thế Ðạo viết theo kiểu đại tự bằng son, nét có đôi phần ẻo lả chứ không rắn rỏi chắc chắn như nét chữ của Thức. Nhật hồi hộp. Nhớ lại những buổi luận bàn với Thức, Nhật chắc rằng những dòng chữ trong mấy chục trang sau là những công thức gom hết trí lực một đời người bỏ ra để tìm kiếm những cơ chế an sinh và công bình xã hội, điều kiện Thức cho là cần để mỗi người trong đó đạt được hạnh phúc. Nhật giở trang sau, rồi trang sau nữa. Mắt trợn lên, môi run bần bật, cứ thế Nhật vội vã giở cho đến trang cuối cùng. Trong nước mắt nhạt nhòa, chỉ vỏn vẹn đúng bốn chữ đú đởn, nhẩy múa với nhau :

« TỀ NHÂN THẾ ÐẠO »

Ðưa quang gánh xuống con thuyền đang dập dềnh quay quanh sợi chão neo vào chiếc cầu gỗ ven bến, Nhật lại chạy lên đón lấy hai tay nải Mai khệ nệ tay xách nách ôm. Ở đầu dốc, Thư ngả người về phía sau, tay ghìm đòn xuống giữ thăng bằng, chân từng bước đi xuống. Nhà thuyền hò lên : « Mau lên, nước lên rồi ! » Mai ngửng đầu nhìn. Bên kia, mặt trời đã ló ra khỏi mỏm núi. Trời xanh vắt điểm dăm ba đám mây nhè nhẹ trôi dài ra kéo thành những sợi trắng dần dần mất hút vào tít tắp xa xôi. Khi Thư xuống đến bến thì có tiếng gọi. Mẹ-bề trên cùng hai ba người phụ việc trại tất tả xuống dốc :

- Ðừng đi đâu mà vội ... Ðợi chúng tôi một tí nhé !

Ðến ven bến, Mẹ chạy đến, đưa hai tay nắm lấy tay Mai, vừa lắc vừa nói :

- Khổ thân, chúng tôi đến giúp gồng gánh thì đã đi cả rồi ...

Lấy tay lau vệt mồ hôi trên thái dương Mai, Mẹ xuýt xoa :

- Ði đường xa, còn là mệt - Quay nhìn nhà đò, mẹ tiếp - thư thư cho nhé, ngày rộng tháng dài mà.

Quay sang nắm lấy tay Thư, Mẹ nhìn Toàn Nhật :

- Xin Chúa ban phúc lành. Dịp tiễn thầy, tôi lại xin mời. Bao giờ thầy lên được trại thì xin cứ lên. Thầy chăn
dắt chính quả chính giác giúp người trên trại chúng tôi thì chúng tôi đội ơn vô cùng ...

- A di đà Phật.

Mai nhìn quanh. Nàng biết là những người cùi hủi trong trại không ra bến vì có lệnh cấm họ gần gũi người lành lặn. Thật ra, chẳng cấm họ cũng tránh để khỏi lại ngậm ngùi về thân phận mình. Mai nhìn Mẹ-bề trên, búi tóc bạc xòa ra dưới chiếc mũ rộng vành, nước mắt rưng rưng. Mẹ-bề trên lắp bắp :

- Cấm dì khóc. Dì khóc tôi cũng khóc. Già mà khóc người ta cười cho ...

Mắt đã đỏ hoe, Mai ôm lấy Mẹ bề trên, nói nhỏ :

- Mẹ chào tất cả anh chị em trong trại hộ con. Rồi con cũng sẽ về thăm. Ơn Chúa, thế nào con cũng về.

Mai quay sang các dì phụ việc trại, nắm lấy tay từng người, cổ họng tắc lại. Có dì khóc rưng rức, có dì cứ níu chặt tay, không chịu bỏ ra, Mẹ-bề trên phải gượng mắng bằng giọng yếu ớt cũng đã chớm vị mặn của nước mắt.

Nhà thuyền chống sào đẩy ra, theo triền sông xuôi xuống. Trên bờ, Mẹ-bề trên lại tất tả leo lên dốc.
Thuyền đi được vài trăm sải, Nhật vỗ nhẹ vào Mai rồi đưa tay chỉ. Bìa rừng dọc ven sông, thấp thoáng bóng người. Nhìn kỹ, có cả bóng áo chùng xám của Mẹ-bề trên, của các dì. Vang lên trong không trung lời câu kinh của hàng trăm người cùi hủi đã bỏ trại kéo nhau ra :

« ... Lậy ơn Ðức Chúa Blời, xin ban bình an trong đời chúng tôi, vì đừng kể một chúa tôi, chẳng ai cứu giúp bênh vực chúng tôi...Chúng tôi cầu xin cùng Ðức Chúa Blời là Ðấng hay ban lòng muốn thanh sạch, trí luận ngay chính cùng sức làm việc công bình, xin rủ lòng thương ban cho chúng tôi được sự bình an thế gian chẳng thể ban được...»

Nhìn xuống mặt sông, muôn vàn cánh hoa dại màu vàng được thả trôi theo dòng nước lờ lững trôi, trôi đến cho Trọng Thức, trôi xa để sang một thế giới nào đó, có thực đấy, nhưng nào ai hay biết. Mai nắm tay con, nước mắt chan hòa. Hai mẹ con đọc theo :

«...thì lòng chúng tôi mới dễ chiều về đàng lành mà giữ cho nên các điều Chúa tôi răn dạy. Chúng tôi xin bấy nhiêu sự vì Ðức Chúa Giê-Su Kirixitô là Chúa chúng tôi. Amen »

Nhật dõi mắt nhìn. Người trong trại đưa bàn tay cụt ngón lên vẫy. Họ kẹp những chiếc khăn trắng lắc qua lắc lại, thả hoa vàng xuống nước, đọc kinh xong lại cùng nhau hát những bản Thánh ca. Giọng họ cao vút lên đến đỉnh trời, xa đến tận cuối đất, chở đi niềm ước vọng dầu thế nào cũng không bao giờ mất được trong mỗi cuộc sống.

Nhật ngồi xuống bên cạnh Thư, lặng lẽ ngắm những cánh hoa vàng. Một lát sau, Nhật dịu dàng :

- Cháu ơi, cha cháu tự thiêu mình đi như vậy là vị kỷ hay vị tha? Nếu chỉ vị kỷ, làm sao có được những cánh hoa trên sóng nước?

Thư lặng người đi. Chàng biết là Nguyễn Ánh xưng đế và chính quyền mới lập chắc chắn sẽ truy nã cha mình. Chàng biết là cha mình chết đi thì mẹ con chàng sẽ an lành. Chàng hiểu ý cha, mẹ con chàng về Bùi Chu là tạo cơ hội cho tương lai của chính chàng, khỏi phải chôn vùi trong rừng sâu núi thẳm. Vả lại, dưới mắt chàng, những cánh hoa vẫn bập bềnh trôi theo mạn thuyền. Thư lẩm nhẩm « Lạy vong linh cha, tha cho con tội lầm lẫn » rồi nắm lấy tay Nhật.

Nhìn Thư, Nhật bỗng thấy đó chính là Thức. Vẫn chiếc hàm cương nghị bạnh ra và đôi môi lúc nào cũng hơi mím lại. Vẫn cặp mắt có chút lo lắng dọ hỏi. Vẫn nụ cười bướng bỉnh như thách thức. Thiếu chăng, nhưng may thay, là vết sẹo đâm xuống chân mày, dấu vết của tù ngục để lại trên trán Thức trong vụ án năm Canh Tý. Mầu nắng giữa trời cao lồng lộng vàng óng như mầu lụa mỡ gà dệt mẻ đầu mùa, vừa tươi vừa thơm tho. Bất giác, Nhật muốn ôm cả vũ trụ này vào lòng mình bỗng nay chẳng còn bất cứ một giới hạn nào nữa.

Rời Bùi Chu, Toàn Nhật xuôi về phía sông Lam bằng đường bộ. Ðã cuối đông, trời vẫn rỉ rả trút xuống những cơn mưa kéo dài cả tuần lễ. Ðường đi lầy lội, làng xóm vắng lặng, mỗi lần ghé vào Nhật chỉ nghe thấy tiếng chó sủa và những cặp mắt trắng dã thập thò ngó ra từ những cánh liếp đóng không chặt. Nhưng không ai mở cửa cho một nhà sư. Năm nay, nước sông tràn lên làm úng lúa, mót về được hột đực hột cái, bở bùng bục, sấy lên không đầy được một vốc.

Dân đói lại lũ lượt hàng đàn lê chân về phía bắc. Quan quân của tân triều nhà Nguyễn chặn lại, hỏi « ... định đi làm giặc hả ? ». Ðó là dân Thanh - Nghệ, đất «tắm gội » của vua Lê - chúa Trịnh, xưa nay xung quân đều thuộc những đội quân ưu tú được cựu triều tin tưởng. Dân kêu « ... đói thì đầu gối phải bò ! ». Quan quân, phần lớn là người gốc Bình Thuận được phái vào trấn giữ và chia cắt Ðàng Ngoài ra làm hai, nạt nộ « ... bò ra để rồi quay vào giết chúng tao hả ? ». Quan ra lệnh cho lính từ đằng sau lũy bắn quàng ra. Có kẻ trúng đạn, rú lên « ... mới lên ngôi vua đã bắn vào dân đen, ối trời ơi, trời có mắt không hả trời ! ».

Thế là lại giặc dã. Ðã hơn hai trăm năm đánh nhau, tưởng yên, nhưng rồi lại phải làm giặc, trước tiên là để có miếng mà ăn. Ăn chỉ cần cơm, cơm hẩm ăn với những con cá đẽo bằng gỗ. Cá gỗ chấm nước mắm ớt để mút. Phải thật cay, cá gỗ mới ngon, cay đến cháy rát lưỡi khiến chẳng cần ăn nhiều cơm. Quan quân binh lính cười bảo nhau « Bọn ăn cá rô cây ! Cấm chúng vào Nam, bọn ma đói đó cái gì cũng ăn ... ». Người chết đói, xác còng queo nằm rải rác trên đường. Không ai còn sức mà nghĩ đến chuyện chôn cất. Có khi cả làng cùng ôm nhau chết đói chết lạnh, lấy ai mà chôn. Quan quân sợ dịch, ra ruộng đào đất úng, rồi chở hàng xe bò xác người, vừa quẳng xuống vừa chửi « ... làm các ông một phen khó nhọc, bón thế này thì sang năm lúa tốt, tha hồ mà ăn ! ».

Luồn lách tránh né đám quan quân, Nhật cuối cùng đến sông Lam, xin nhà đò cho xuôi xuống Tiền Khẩu, định từ đó men sông Ngàn Cả về Thanh Chương. Ngồi góc khoang thuyền, Nhật ngửng lên. Người lái đò tay cầm đĩa khoai lang luộc chìa ra :

- Sư ông, mời sư ăn khoai.

Nhật nhìn đám năm đứa con ông gày gò hốc hác mắt đang hau háu, mỉm cười :

- A di đà Phật, sáng nay tôi đã ăn lót dạ rồi. Ông mời bà và các cháu ăn đi, cám ơn ông.

Bụng Nhật bỗng cồn cào chất chua. Thứ phản ứng của thân thể đang cần chất sống làm chàng khẽ nhăn mặt, rồi vừa cười vừa nhủ lòng « Thân ơi, xác ơi. Mi đừng dày vò ta nữa ... ». Nhật tưởng đến những vị sa môn ngồi kiết già trên những rặng núi Hy Mã Lạp Sơn chót vót cao, tê tái lạnh. Họ không ăn cả tháng. Họ thấy gì ? Cảm gì ? Biết gì ? Tìm ra được gì ? Mũi Nhật đánh bắt mùi bát sữa dê nóng bốc mùi hôi nồng nặc, thấy rõ ràng sữa đang trôi qua cổ họng chàng như đãù đang trôi qua cổ họng Sa môn Gotama sau ngày đắc quả thành Phật. Nhật soi mắt xuống nước. Nước vẫn trôi, dòng sông Lam vẫn chảy, xưa đã bềnh bồng xác mẹ chàng trầm mình vì tình phụ. Dòng sông xanh dập dềnh những bóng mây trắng bay ngược phía thuyền trôi, lâu lâu lại điểm dăm cánh én nháo nhác đi tìm mùa xuân muộn màng chưa tới. Bóng mây lúc vỡ thành muôn vàn xoáy nước, lúc lại hợp lại thành những khuôn mặt người, nào là Huệ, là Lữ, là Chúa Út..., nhưng chỉ thoáng sau đã tan ra, giạt theo dòng nước chở về đủ mọi hình tướng từ thời vô thủy.

Tự bản thể, tất cả đều là vô thường. Ðến hay đi, đi hay đến, là một. Từ Chân Như đi, về lại Chân Như, chẳng quá nửa sát na. Nào là tham - sân - si, nào là bi - trí - dũng, rồi thậm chí thấp hơn ở mức nhân - lễ
- nghĩa - trí - tín cũng vậy. Có, khác gì không ? Từ không thành có, rồi có lại hóa ra không, chỉ là chuyển động về Chân Như - tathatha- vốn là tự thân nhiệm mầu của vạn pháp. Tùng vô sở lai, diệc vô sở khứ. Vậy còn lấy gì để phân biệt ra sướng - khổ, ân - oán, trắng - đen, phải - trái, quân - thần, phụ - tử ?
Toàn Nhật cảm thấy lòng thư thái, bất giác mỉm cười. Gió lại thổi. Lá rừng rơi xào xạc, rồi chim cất cánh bay. Nắng lên huy hoàng. Có phải những chiếc lá kia chính là lá Pippola đã giúp sa môn Gotama tỉnh thức? Chỉ một chiếc lá Pippola đã đủ mang cái thực tại mầu nhiệm thể hiệân trùng trùng duyên khởi. A, một chiếc lá tưởng như nhỏ nhoi mà quán chiếu được chân lý vô ngã trong cõi vô thường.

Ðứng dưới chân đồi, Nhật ngửng lên nhìn lòng lắng xuống một niềm bình thản. Trên kia là nơi Nhật trải qua cả một thời niên thiếu. Vẫn mái tranh lợp ẩn dưới vòm cây đề nay đã thành đại thụ xum xuê lá. Vẫn những gốc chè thoai thoải lưng đồi đang trồi nụ. Vẫn con đường đất nện, hai bên hoa dại trắng xóa, dẫn lên cái thiên đường của tuổi thơ đầy bươm bướm, chuồn chuồn, cánh cam, bọ ngựa ... Vẫn mùi hương của đất, của cây, của cỏ, tỏa ra ướp thơm vạn vật, nhắc nhở cho con người sự có mặt của cuộc sống bùng lên từ những mảnh đất dẫu là khô cằn sỏi đá nhất.

Nhật hít đầy hơi vào lồng ngực, hình như có nỗi nỗi hân hoan nào đó bỗng ùa đến phá sự an nhiên vô tư lự của chàng. Tự cợt mình, chàng cười ha hả, ừ thì thế, có sao đâu ! Vắt chân lên cổ, Nhật vừa chạy lên đồi vừa gọi « Mợ ơi ! mợ ... » như một đứa trẻ con. Tiếng guốc lẹp kẹp, rồi tiếng xô cửa. Lưng còng, búi tóc bạc xổ tung, một người đàn bà mắt đã lòa, tay chống gậy chạy vội ra, rối rít :

- Ai, ai đấy?

Nhật đứng sững lại, hai tay nắm lấy bàn tay lão bà, miệng reo :

- Con đây mợ, Nhật đây.

Lão bà quơ tay lên sờ vào mặt, vào mũi, vào cổ, vào vai Nhật, miệng líu ríu :

- Mắt mợ lòa rồi, chẳng thấy được con nữa. Ðầu không tóc thế này ... Mợ biết là con đi tu, nhưng lắm lúc lại quên mất, lẫn rồi con ạ !

Mạnh Thuyên, người con trưởng gia đình La Sơn Phu tử từ trong nhà bổ ra ôm chầm lấy Nhật, mừng mừng tủi tủi :

- Chú tệ thật, hẹn về sớm mà sao mãi đến nay mới thấy mặt.

Ðặng-bà xua tay :

- Ối dào, đừng trách em - Tay lôi Nhật, Ðặng-bà tiếp - vào nhà, vào nhà đã.

- Thầy đâu anh ? Nhật quay sang Thuyên.

- Trong kia, nhưng thầy không khỏe, còn nằm ...

Nhật bước theo Thuyên vào một căn phòng kín cửa, bước đến cạnh giường, nhìn xuống. Phu tử nay chỉ còn da bọc xương, cặp mắt lờ đờ bỗng sáng lên, miệng chậm chạp từng chữ :

- Anh về, thầy mừng lắm. Có nhắn được lời thầy cho Nguyễn Du và Ngô Thì Nhậm không? Còn Thức, anh có tin gì của Thức không ?

Nhật nhói đau trong dạ, nhìn thầy, nhỏ nhẹ :

- Thưa thầy, Du sẽ nhận ra làm quan với Tân Triều. Nhậm bị đánh chết ở Thăng Long. Anh Thức con cũng mất rồi. Mất cách đây hai tháng ...

Nghe một tiếng như tiếng nấc, rồi Phu tử lả người ra, thở dốc. Mạnh Thuyên xốc bố ngồi lên, tay với bát thuốc đổ vào miệng. Ðặng-bà nhìn xuống cái ghế đẩu, lặng lẽ không nói, nước mắt rỉ qua cặp con ngươi trắng dã, méo mó nhướng lên, cứ giật giật từng chập.

Tối hôm đó, Nhật kể lại cho gia đình Phu tử những chuyện xảy ra trong trại hủi nằm ở thượng nguồn sông Mã ngoài Thanh Hóa. Bức thư tuyệt mệnh của Trọng Thức gửi vợ con rất ngắn, vẻn vẹn như sau:

« ... suốt đời vì anh mà em khổ. Khổ chia ly. Rồi lại khổ cả đoàn tụ. Nhìn cảnh Hy Doãn Ngô Thì Nhậm bị đánh đến chết trên sân Văn Miếu, anh hiểu là tân triều nhà Nguyễn sẽ truy lùng tróc nã anh. Ðể lụy cho em và con, anh nào đành lòng. Sức anh so với điều anh mong thực hiện quả là không tương xứng. Than ôi, lực bất tòng tâm. Vậy xa em và con bây giờ, hay một vài năm nữa có lẽ không khác gì được.

... Quốc Thư con, cha mong con về giáo phận Bùi Chu là để con thêm điều kiện học hỏi và khỏi bị gạt ra rìa đời. Chí tiến thủ, đừng sờn. Ðiều cha không đạt, con - hay là sau này, con của con - sẽ có cơ thành. Ðẻ con trai, con đặt tên nó là Nguyễn Trường Tộ. Tộ có nghĩa là vận may cho cả quốc gia xã hội. Vận may đó các con hãy vun đắp lên, làm mát lòng ta nơi chín suối. »

La Sơn Phu tử nghe, không một lời, cười mếu máo rồi vẫy Mạnh Thuyên dìu mình lên gường nằm. Ðặng-bà dựa lưng vào vách, lẩm bẩm một mình, thỉnh thoảng lại thở dài. Một lát sau, Ðặng-bà lên tiếng hỏi tin Mai và Quốc Thư. Nghe Mai nhắn là qua tết hai mẹ con sẽ lên thăm, Ðặng-bà tươi lên, rồi hỏi :

- Mẹ con nó chắc có giữ được tập sách Trọng Thức lao tâm lao lực viết từ gần chục năm nay ? Tên tập sách là « Tề Nhân Thế Ðạo ».

Nhật ngạc nhiên, lần mở tay nải.

- Tựa tập sách là do chính mợ đề cho Thức bằng mực son đỏ...

Những vết nhăn chi chít ở đuôi mắt hằn lên như vết chân chim, Ðặng-bà lim dim chìm vào một cõi xa vắng. Bà hồi tưởng lại thuở Hoàng đế Quang Trung mới băng hà, Trọng Thức trốn khỏi Phú Xuân, lật đật trở về Bùi Phong, cùng Nguyễn Thiếp xì xào to nhỏ ba ngày liền. Lúc ấy, Thái tử Quang Toản còn nhỏ, cậu là Bùi Ðắc Tuyên phụ chính, vừa nắm quyền đã bắt giết Nguyễn Huy Tự và hục hặc ngay với Tư đồ Vũ Văn Dũng. Tây Vương Nguyễn Nhạc cũng có ý soán ngôi, gọi đám thủ hạ ở Qui Nhơn sửa soạn giáp mã. Ðồng thời, Nguyễn Ánh ở Ðàng Trong hớn hở mang quân uy hiếp Bình Thuận. Thiếp hỏi :

- Danh Kỷ nghĩ thế nào?

- Kỷ kết với Dũng, không khéo nay mai sẽ đụng độ với Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân. Nhưng chẳng ai bảo được ai, cũng chẳng ai nghe ai ! Lại có tin đồn chiến hạm Ypha Nho và Pha-Lang-Sa đang đến cửa Thị Nại ...

Thiếp thở ra, thản nhiên :

- Song Ngư nước cạn, non sông chúa Nguyễn lại về tay chúa Nguyễn, cứ chờ ...

Trọng Thức cắt ngang :

- Về tay chúa Nguyễn là về luôn tay cả một đám phiêu lưu xâm lược, trục lợi cho Công Ty Ðông Ấn. Thưa thầy, nếu thầy đến Phú Xuân thì lại khác. Ðức hạnh của thầy sẽ làm những kẻ tham quyền chỉ tìm phú quí danh vọng chùn lòng, chùn tay. Có thế mới giữ được công chính, tiếp tục khai mở công việc của Tiên Hoàng...

- Ðức hạnh ! Xưa Danh Kỷ ton hót với Nguyễn Huệ muốn lấy cái đức hạnh của thầy hầu yên đám sĩ phu Bắc Hà. Ngày nay, thu phục được Ngô Thì Nhậm làm việc đó, họ còn cần chi ta ! Anh không thấy họ chỉ giao cho thầy Sùng Chính Viện, dịch sách Tiểu Học, dịch Kinh Thi, Kinh Thư ra tiếng Nôm sao ?

- Thưa thầy, công việc đó tối quan trọng chứ đâu là nhỏ. Thầy lại là Chánh khảo kỳ thi Hương đầu tiên bằng chữ Nôm, để lại vết xe cho hậu thế làm theo. Ðó là chuyện trăm năm hi hữu ...

- Hừ ! Thầy cũng biết là anh có nhúng vào việc này với Danh Kỷ. Quả hắn cũng có tâm phục thầy thật. - Nguyễn Thiếp cười tủm - Huệ chữ nghĩa ít, bám vào Kỷ nên sợ đức hạnh. Nay hắn chết đi rồi, Kỷ vẫn còn đó, có gì đáng lo ?

Thức chột dạ. Thầy chàng chỉ hiểu Huệ qua thủ đoạn của Kỷ, còn trước sau chưa thấy tầm nhìn của một kẻ mà sự hiểu biết không có bó buộc trong vòng chữ nghĩa. Chàng kể cho thầy nghe những giằng co giữa quan niệm chính trị và xã hội của Kỷ và đạo Tề Nhân mang cách nhìn đã nhen nhúm trong cuộc cách mạng của những nước Âu Tây. Thiếp hỏi :

- Huệ có định đổi đạo, theo phép Tề Nhân không ?

Thức đáp :

- Thưa, không hẳn là rõ rệt, nhưng chỉ bảo « Ðừng vội, lịch sử đi bước của lịch sử, chậm nhưng chắc. Lớp kẻ sĩ thường to miệng, nói ra là đốt giai đoạn, nhưng khi đưa việc cho làm thì lại trì hoãn neo kéo về phía sau. Nếu không tiến, thế là lùi đấy. Chẳng dân tộc nào dậm châm tại chỗ được nữa ».

Thiếp hắng giọng, vẻ khó chịu :

-Tề nhân ? Thế nào mà tề nhân cho được ? Thượng hạ bằng đẳng, quân thần phụ tử lộn xòng, ông cũng như thằng à ?

Thức giải thích. Thiếp nghe, bàn cãi nhưng khi đuối lý lại mang tư cách là thầy ra để chặn họng. Hai thầy trò lời qua tiếng lại hai ngày, không ăn không ngủ, chỉ uống nước vối và hút thuốc lào, tiếng sòng sọc rít qua khe cửa. Ðặng-bà lo, cứ nhấp nhổm bên ngoài. Tối hôm cuối cùng, Thiếp mở cửa phòng, tay đẩy
Trọng Thức ra, miệng gầm gừ :

- Anh nay khôn lớn, có cánh cứ bay. Bay cho đến cái xã hội cộng hòa gì gì đó, nào có cần chi đến tôi nữa !
Tiếng sập cửa sắc gọn như tiếng sập của lưỡi dao treo trên máy chém. Nó quyết liệt cắt đứt những gì làm cho Thức chảy nước mắt, ngồi im trên góc phản kê gian ngoài. Ðặng-bà nhìn Thức ngậm ngùi. Bà vào, tìm dưới gầm giường, lục lọi một lúc rồi ra ngồi cạnh Thức. Bà kể chuyện nàng Mây, con gái Hà Công, đã trộm mật kíp, quyển sách tiên tri mọi việc nơi trần thế của bản Mê Thượng, giúp Ðèo Kha tìm đường « kíu» nước cho Mê Hạ thế nào ba mươi năm về trước. Kha trúng độc chết. Mây đến Bùi Phong. Mở ra thì cuốn mật kíp chỉ toàn giấy trắng, trừ một trang có vẽ cái đồ bản đập chặn nước mà Thiếp đã bỏ công tìm ra. Rồi đập bị phá, sau đó Hà Công đến Bùi Phong bắt Thúc Khải vào Ðàng Trong, đợi rồng bay để tạo nghiệp đế. Trên đường, Hà công vứt xác Mây khi đi qua chân núi Bạch Tượng. Từ đó, dân xã Nam Hoa hàng đêm nghe tiếng đá rền rĩ như than khóc trong hai mươi năm liền. A, thì ra đó là chân núi Bạch Tượng, nơi Thức đã gặp Băng Vân, người con gái muốn thoát kiếp đá trở về làm người, nhưng nay đã bị chôn chặt vào những tinh thể nham thạch trong phiến đá chàng vẫn đeo theo trên mọi bước đường luân lạc. Nhìn Thức nước mắt lại rưng rưng, Ðặng-bà đặt cuốn mật kíp lên phản, nhẹ nhàng bảo :

- Ðể con ghi chép cho đời sau những điều con ấp ủ !

Bà nắn nót tô bốn chữ « Tề Nhân Thế Ðạo » rồi hai tay đưa cho Thức, tiếp :

- Thầy không làm được việc của con. Ai có thời người nấy ! Thở dài, Ðặng- bà nói như than - Và ai rồi cũng có phận nấy, con ạ !

Nghe kể xong, Nhật cầm sách « Tề Nhân Thế Ðạo » trân trọng đưa gần mắt Ðặng-bà. Lấy tay sờ soạng rồi đưa lên mũi ngửi mùi mực, Ðặng-bà mắt lòa nên không biết sách vẫn như xưa, chỉ cứ là một thếp giấy trắng chưa có đến một chữ.

Xuống trại, Toàn Nhật nhắm phía rặng Giăng Màn thẳng bước. Chiếc áo nâu sồng thấp thoáng trong rừng cây rạc, lá nhọn tua tủa chĩa ra như những vạt dao sắc, xanh nhờn nhợt thứ màu đến từ nơi không có sinh khí. Sau hai ngày đường, bản Mê Thượng hiệân ra trong tầm mắt. Bản vắng hẳn người từ thời Nguyễn Nhạc xưng là Thái Ðức Hoàng đế ở Qui Nhơn. Dạo sau này, một số người vùng đó lại kéo về, hẳn để tránh tai vạ từ ngày triều Tây Sơn sụp đổ. Hỏi thăm, Nhật lần đến đập Cheo Reo. Ðập nay chỉ còn là những phiến đá ngổn ngang trong dòng nước sông Mê đã nối liền Mê Thượng và Mê Hạ, cuồn cuộn xuôi xuống hạ lưu, nước nổi bọt trắng xoá hai bên bờ.

Nhật lần bước trên ven sông, nghe trong đáy nước có lời than khóc, oán hờn, căm giận của đám tráng đinh bỏ mình, kẻ để « chặn » nước, người để « kíu » nước, tất cả chỉ vì ai đó trong tộc họ Hà năm xưa đã táng mả vào hàm rồng. Nhưng đất phải cằn, cằn đến độ đạp chân vào là tóe lửa, để rồng bay lên. Thế là để rồng bay, đập Cheo Reo xây ra để chặn nước. Nước đã «chặn» rồi, tất có kẻ « kíu » ! Tất có Ðèo Kha. Tất phải đoạt mật kíp mới tìm được phép phá Cheo Reo. Phá rồi, xương cốt ông tổ họ Hà, từ họ Hồ, rồi lại thành họ Nguyễn phải mang vào Ðàng Trong. Vùng Tây Sơn chọn chỗ đất cằn không khó. Nắng đổ lửa làm cháy tóc. Rồng bay, Biện Nhạc reo lên. Ðúng, kia kìa, rồng bay trong mây đó. Khổ thay, sông Ngư nước sắp cạn rồi. Con rồng ấy lại xà xuống. Ðể con rồng khác bay lên. A ha, con cháu nhà rồng vốn đâu có phải chỉ một. Những con rồng con cùng giống với giun sán trong bụng mọi người lúc nào mà chẳng toan tính bay lên. Từ Ðàng Trong cho đến Ðàng Ngoài, ở trên rừng, ở dưới biển, rồng con mai phục với giun sán trong cả đại tràng lẫn tiểu tràng. Rồng muốn gặp Tiên nên thập thò, chỉ đợi dịp là tung cánh đập vào bầu trời bỏ ngỏ.

Nhật men đến cồn sông, đảo mắt tìm một ngọn đồi trọc phía tay phải nhìn từ phía thượng nguồn. Từ gốc một cây đề, sáu bộ về phía đông và tám bộ phía nam là nơi họ Hà xưa để mả. Giữ chắc tay nải, Nhật cẩn thận tuột xuống dò dẫm. Ðúng là đây. Một hõm đất rộng bằng hai lần cái nia. Lạ chưa, đất như đất sình lõm sâu xuống, chung quanh lá rạc xỉa ra như chĩa dao canh gác.

Bật hồng thắp hương, Nhật mở tay nải, để phiến đá Băng Vân lên trên sách Tề Nhân Thế Ðạo vẫn còn trắng chữ. Phiến đá đổi màu, từ xanh sang trắng bệch, rồi trong suốt, ở giữa là một giọt máu đỏ lồng lộn như muốn phá chạy. Trời bỗng tối xầm xuống. Lá rạc mọc quanh mả sao bỗng ngả nghiêng xô đẩy dẫu chẳng có lấy một cơn gió. Có tiếng gầm gừ hầm hè lạ hoắc. Rồi một tiếng sét. Trời rách toạc làm hai mảnh. Ở giữa ánh xanh lè, lân tinh từng đợt nối nhau chớp lóe lên từ cuối đất. Nhật hoảng sợ. Lần đầu chàng mất tự chủ, hai tay nắm chặt, chân cứng ra như bị vọp bẻ. Nhật khẽ niệm :

- A di đà Phật.

Dứt lời niệm Phật, Nhật tập trung tinh thần, trân trọng tưởng đến lời tuyệt mệnh của Trọng Thức, hai tay nâng phiến đá và sách Tề Nhân lên ngang mày, rồi ném xuống lỗ huyệt. Một tiếng cười đinh tai nhức óc bỗng vang lên lanh lảnh.

Nhật mở choàng mắt, nhìn xuống. Giữa lỗ huyệt, trên mặt đất sình, một người đầu đội mũ đỉnh nhọn có đính hồng ngọc, thân phủ mấy lớp áo choàng đủ màu, cái nọ so le với cái kia, cổ tay đeo vòng dát vàng,
cầm một chiếc roi cá đuối quật vùn vụt vào một người đàn bà lõa lồ nằm dưới chân, miệng hét :

- Mở mắt ra mà xem. Chế Mân đây, hỡi Huyền Trân. Ta chết, tro xác hỏa thiêu còn nóng, mà mi đã bỏ ta theo trai, dập dờ ba tháng liền trên sóng nước với thằng Trần Khắc Chung. Thế mà cành vàng với lá ngọc
...

Chưa dứt lời, Chế Mân lại quật roi xuống. Huyền Trân, chắc vậy, quặn người rú lên não nùng, miệng khóc thét, chắp tay cuống quít lạy.

- Bay bảo nhập gia tùy tục. Tục lệ nước ta là chết theo chồng thì bay kháo nhau thế là mọi rợ, rồi sai người đi cướp con gái về. Lấy nó, ta đã dâng hai châu Ô, Rí để dẫn cưới, lòng chân thành mong mỏi từ nay hai nước hết can qua chinh chiến. Nhưng gả con cho ta, phải chăng bay chỉ rắp tâm lấy đất của nước ta? Không phải ư ? Sao con gái bay trốn về rồi bay lại không biết trả lại ta hai châu Ô, Rí ? Bay là loài người hay là hổ beo, rắn rết ? Từ vua đến quan, bay độc chỉ còn trái tim dã thú, mưu quyền trục lợi, chẳng sá gì đến xương máu con người ...Tiến hành chiến tranh diệt chủng, bay gọi thế là tầm ăn dâu, dần dần lùa dân ta vào Phan Rang, Phan Rí, đốt cho tan hoang thành Ðồ Bàn, đập vỡ tượng Brahma, Vishnu và Shiva, tiêu hủy dấu vết văn hóa Chàm.

Vì thế, ta nguyền :

Chính bay sẽ tiêu hủy sách vở, gia phả, đền đài do chính tay bay làm nên, vì đứa nào đứa nấy chỉ tẹp nhẹp bòn rút của riêng mà không biết đến của chung. Bởi vậy bay sẽ không có quá khứ. Không quá khứ, bay mù mờ trong hiện tại, luẩn quẩn hỏi bay là ai. Cũng vì thế bay không thể biết tương lai của bay ra sao, suốt hai trăm năm nghi hoặc, vòng vo đi rồi để lại trở về nơi khởi điểm.

Ta nguyền cho bay đi cướp nước người thì hai trăm nữa lúc nào cũng có kẻ dòm ngó cướp nước bay. Ðường dọc đất nước ta, từ Thuận Hóa trở vào châu Ô, cho đến Rang, Rí vốn là vương quốc Chàm, sẽ đầy Thần Sấm, Con Ma để rải mưa bom nắng lửa vào rừng, vào núi, trên sông, dưới biển...

Muốn hóa giải lời nguyền, mỗi đứa bay phải đọc một vạn lần Kinh sám hối.

Toàn Nhật run rẩy chắp tay, mồm tụng:

« Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Lại từ vô thủy đến nay, chúng con chất chứa nghiệp ác nhiều như cát sông Hằng, gây tội lỗi đầy cả đại địa, hết bỏ thân này lại thụ thân khác. Ba nghiệp của thân, thứ nhất là nghiệp giết hại...Kinh dạy : Nghiệp này làm chúng sinh đọa vào địa ngục, ngã quỉ để chịu khổ.Khi có tâm thức này, thường ôm lòng thâm độc, không dạ xót thương, hoặc vì tham lam mà giết, hoặc vì si mê giận dữ khinh mạn mà giết, phá hồ tháo nước, nhân gió phóng lửa...

Lại từ vô thủy đến nay, hoặc khởi binh đánh nhau, giao tranh nơi biên trường, hai bên giáp mặt giết hại lẫn nhau, hoặc tự mình giết, hoặc sai người giết, hoặc nghe ai giết sinh tâm vui mừng, hoặc giận dữ khoa mác múa đao, hoặc chém, hoặc đâm, hoặc xô xuống hầm hố, lấp hang phá ổ, hoặc dùng xe, ngựa lăn cán dày đạp chúng sinh, gây ra tội vô lượng vô biên...

Lại từ vô thủy đến nay, đối với chúng sinh, hoặc dùng roi gậy, gông xiềng, hoặc kìm kẹp tra khảo, hoặc trói buộc giam cùm, tuyệt cơm tuyệt nước, dùng những cách ác độc làm khổ ải chúng sinh...



Ngày nay chí thành hướng về mười phương chư Phật, Tôn Pháp, Thánh chúng, cầu xin hết lòng sám hối.»
Ðột nhiên, trời bỗng sáng rỡ nhưng không thấy mặt trời. Mở mắt ra nhìn, không còn Chế Mân mà nay là Ðèo Kha, chàng thanh niên thân hình như đồng mun, lưng quấn khố, tay đưa sáo đinh bia lên ngang miệng. Dưới chân, không còn Huyền Trân mà là nàng Mây, tim còn ghim mũi tên do chính cha mình bắn ra, tóc xõa xuống đất sình, miệng vẫn nhếch ra để lộ chiếc răng nanh khểnh như thể thách thức.

Tiếng nói lại cất lên :

- Chế Mân sinh ra Ðèo Kha, Huyền Trân sinh ra nàng Mây. Rồi ngược lại. Nhân và quả là vậy. Thật ra, nếu từ nhân đến quả là bất dịch thì làm gì có thời gian. Thời gian qua cảm thức của hình tướng vô thường, không tồn tại trong sự bất dịch. Vậy nhân - quả có ngay trong kiếp này, không đợi đến kiếp sau. Ác giả ác báo. Nghe đây :

Ta nguyền cho bay đắm đuối vào vực sâu của quyền lực và danh lợi. Triều đại nào cũng vậy, chỉ hai đời sau là vua bay hóa cọp, quan tướng thành rắn rít, cả bọn chúng đều biến thành đĩ bợm để đánh lừa dân bay. Vua quan mà đĩ bợm, hàng dân trông vào đâu ? Dần dà, để tồn tại, đi với ma phải mặc áo giấy cho nên dân bay rồi cũng phải đánh đĩ. Trong cái vực sâu đó, lòng tham lam và tính tàn bạo sẽ khiến cha giết con, vợ phản chồng, anh em đâm chém nghi kỵ nhau, máu chảy hai trăm năm đất có thấm cũng chẳng thể khô. Muốn hóa giải lời nguyền này, mỗi đứa chúng bay phải tụng một vạn lần Kinh sám hối ...

Toàn Nhật như bị thôi miên, mấp máy miệng, bắt đầu tụng:

« Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô quán Tự Ðại Bồ Tát

Sở dĩ ngày nay chúng con sám hối chính vì là từ vô thủy nhẫn lai, còn ở địa vị phàm phu bất cứ sang hèn tội. lỗi khôn lường...Mười điều ác nghiệp, tám vạn bốn ngàn trần lao...tuy nhiều nhưng không ngoài ba chướng : phiền não, nghiệp chướng và quả báo...Nay đem hết lòng thành, vận tâm thù thắng sám hối ba chướng. Muốn trừ diệt ba chướng phải phát bẩy tâm.

Thứ nhất, tâm tủi hổ, là tự nghĩ ta với đức Thích Ca đồng là phàm phu, mà đức Thế Tôn đã thành đạo đến nay trải qua số kiếp nhiều như cát bụi, chúng ta thì lại cùng nhau say đắm lục trần trôi lăn trong vòng sinh tử, chưa biết bao giờ ra khỏi...

Thứ hai, tâm e sợ, đã là phàm phu thì thân khẩu ý nghiệp thường thuận ưng với tội lỗi...

Thứ ba, tâm lìa dứt, vì đường sinh tử chỉ là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, hư giả như bọt nước nổi, tan, xoay vần qua lại như bánh xe lăn; còn thêm sinh, lão, bệnh, tử và tám điều khổ nung nấu không dừng...

Thứ tư, tâm phát Bồ Ðề. Kinh dậy « Pháp thân do vô lượng công đức trí tuệ sinh ra, do tu sáu pháp Ba la mật sinh ra, do từ, bi, hỉ, xả sinh ra, do tu 37 pháp trợ Bồ Ðề sinh ra. Muốn được thân đó thì phải phát tam Bồ Ðề, cầu được nhất thiết chủng trí, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, chứng quả Tát bà nhã, thanh tịnh Phật độ, thành tựu chúng sinh, chẳng tiếc thân mệnh tài sản »…

...Thứ bẩy, tâm quán xét tội tính. Tội không tự tính, do nhân duyên sinh, do điên đảo thành. Ðã do nhân duyên sinh thì cũng do nhân duyên diệt. Sinh tội tức gần gũi bạn ác, diệt tội tức tịnh tâm sám hối...Khởi bẩy tâm, tưởng mười phương chư Phật, ngày nay cung kính chắp tay, phơi bày tâm can, cầu khẩn tỏ lòng sám hối.

Một cơn lốc không biết ở đâu bất ngờ ụp xuống xoáy tròn. Ðất đá bay tứ tung, va chạm vào nhau nghe ầm ầm đinh tai nhức óc. Tiếng Chế Mân lại thét lên đến rách màng nhĩ :

-Ðã huyễn hoặc, bay lẩn quẩn tô vẽ ngay cả cái thảm kịch chém giết lẫn nhau, tự lừa chính mình bằng cách kiêu mạn đòi làm đỉnh cao cái này, tiền đồn cái nọ. Ngoài sự hợm hĩnh không coi ai ra gì, tưởng mình hơn thiên hạ mà thật chỉ hơn ở chỗ lắt léo vặt vãnh, ta lại nguyền cho bay thêm căn bệnh anh hùng. Bởi anh hùng nên chỉ thấy sức mạnh. Chỉ thấy sức mạnh nên kéo dài thảm kịch chiến tranh chém giết. Bay không biết rằng một đất nước hạnh phúc có nhiều hiền triết hơn anh hùng. Một đất nước may mắn là một đất nước không có anh hùng. Không cần anh hùng. Nơi nào anh hùng quá nhiều, nơi ấy không dung kẻ hiền triết. Người có lòng tử tế, tâm ngay thẳng, tránh phải nhìn, phải nghe, đành tìm nơi rừng sâu, núi cao, hay biển vắng mà ẩn trốn.

Thế là bay cứ thế hệ trước hô anh hùng để giết thế hệ sau. Ông cha bay ngoa ngôn đặt bẫy xập con cháu, đời nối đời triền miên u mê, máu vấy tay mình lại đem lên tô cờ tô quạt, cứ hết đánh đứa này đến đuổi đứa nọ, bỏ sức vào những việc vừa hàm hồ, vừa giai đoạn...

Thế là, ha ha, anh hùng nhưng nghèo, đói và dốt . Vì thế nên nhục. Nhục lắm nên lại căm, lại hiềm, lại luẩn quẩn trò khôn vặt, chỉ đợi dịp là hò hét rủ nhau làm anh hùng. Dịp nào? Cứ đợi ngoại bang đến là đất nước bay sinh ra anh hùng. Anh hùng tập hợp bay lại. Bay đoàn kết với nhau để đánh đuổi cho đến lúc ngoại xâm kéo nhau ra. Sau chiến thắng vẻ vang, bay hô hào xây dựng lại bằng năm, bằng mười khi trước ? Nhưng không, từ máu tham và sự mê đắm quyền lực, bay hục hặc, chia rẽ, kéo bè, kết đảng rồi sâu xé lẫn nhau. Kẻ bên ngoài thấy thế lại dòm ngó hòng trục lợi. Chính vì lẽ ấy mà lại sẽ có ngoại xâm ! Thế là tiếp tục loanh quanh cái vòng đánh đuổi, nhưng không thoát ra được nghèo, đói và dốt ...

Tụng đi, muốn hóa giải căn bệnh anh hùng hão huyền, mỗi đứa bay phải tụng một vạn lần Kinh sám hối.
Toàn Nhật tụng :

« Quán tự tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách.

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất diệt, bất sanh, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ,tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Bỗng tiếng Chế Mân lại ồm ồm vang lên:

- Còn bọn sĩ phu nước bay, chúng chỉ biết ngâm vịnh và lừa dối. Khi Huyền Trân sang Chiêm, chúng dè bỉu chép miệng «Tiếc thay cây quế giữa rừng. Ðể cho thằng Mán thằng Mường nó leo » . Cướp được đất, chúng lại hợm hĩnh xướng họa là « Hai châu Ô Rí vuông nghìn dặm. Một gái thuyền quyên có mấy mươi ». Ðể che cái tội phỉnh lừa để cướp đất, chúng lại ngụy tạo ra cái huyền thoại tình yêu Huyền Trân - Khắc Chung lãng mạn mà quên bẵng đi mụn con ta và tình vợ chồng giữa ta với Huyền Trân. Bọn đó, ta nguyền
cho chúng mắc hai căn bệnh.

Thứ nhất là bệnh chỉ nhìn thấy chóp mũi, hời hợt với cả người lẫn mình.

Thứ hai là bệnh đại ngôn, gì cũng hô lên là biết, là có, cứ thế tự ru ngủ mình cho đến độ tin là biết thật, có thật.

Hai trăm năm nữa, chúng thời nào cũng phải sống nhục nhã, rồi chết nhục nhã. Nhục nhã sống vì hèn, cong lưng tùng phục, giả đạo đức, miệng một đằng lòng một nẻo. Nhục nhã chết vì hèn, bỏ vào quách rồi lưng vẫn không thẳng. Cả đời chúng không để lại được dăm chữ dẫu cứ mở miệng là ngâm là vịnh, kiêu căng cho mình hơn người, song thật ra chúng chỉ lặp lại bắt chước chẳng khác gì loài khỉ.

Nghe đây :

Muốn hóa giải lời nguyền, chúng nó phải làm việc trí tuệ ... và phải tụng một vạn lần Kinh sám hối.

Toàn Nhật lại tụng :

« Nay xin sám hối bốn nghiệp của miệng...Từ vô thủy đến nay, nghiệp ác khẩu ở trong bốn nẻo, sáu loài, tạo nhiều tội lỗi. Lời lẽ hung bạo, mắng nhiếc, hủy nhục, gây họa kết thù, oán thán trời đất, trách móc quỉ thần, chê bai hiền thánh, vu oan giáo họa gây ra tội nghiệp vô lượng vô biên.

Lại từ vô thủy đến nay, nghiệp vọng ngữ nói gian nói dối trong ý mưu cầu lợi dưỡng, danh dự, khiến dấu diếm tình thực, man trá đủ điều, trong tâm mê muội, ngoài mặt dạn dầy, chuyện có nói không, chuyện không nói có, ...lường đảo dối hoặc người đời, đến như cha con, vua tôi, bè bạn mà nói năng gì cũng không khi nào thành thực, khiến người khác lầm nghe mình mà phải tan nhà mất nước. Ðã thế, còn trò yêu thuật, thường tự khen tự khoe đã chứng tới bực tứ thiền, tứ vô sắc định, an na bát na,...bày trò lạ mê hoặc để mong người cung kính cúng dâng.

Lại từ vô thủy, vì nghiệp ỷ ngữ, nói năng thêu dệt tạo ra bao nhiêu tội lỗi. Dùng âm từ hoa mỹ, văn chương bóng bẩy, xuyên tạc sai lầm, trang sức cho trái quấy, khéo đặt chuyện dâm ô, phóng túng tư thù, không kể lời nghị bàn công chính, dẫu người ta là trung thần, hiền nhân hay chí sĩ vẫn cứ làm văn thêu dệt cho nên tội, để người đời sau tin cho là thật...

Lại từ vô thủy, khen trước mặt, chê sau lưng, tới người kia nói chuyện người này, chỉ biết lợi mình, không nhìn thấy hại đến kẻ khác, dèm siểm để ly gián, vu oan khiến vua tôi nghi kỵ nhau, cha con bất hòa, vợ chồng ly tán, họ hàng thân thích xa nhau, mất nghĩa thầy trò, đoạn tình bè bạn, cả đến hai nước đang giao hảo mà phải hủy bỏ minh ước, gây sự oán thù đem binh đánh nhau giết hại trăm họ.
Những tội gây ra như thế vô lượng vô biên, ngày nay xin chí thành lập tâm sám hối. »

Trời bỗng tối xầm khiến trái đất như trôi vào một thứ chất lỏng đen như mực. Tất cả đắm chìm vào sự im lặng tuyệt đối không thể tưởng tượng nổi. Thời gian cong đi rồi biến mất, chẳng còn để lại bất cứ dấu vết nào kể cả trong ý niệm. Ðột nhiên, Chế Mân lại quát:

- Ta chưa thấy từ cổ kim có giống nào như bay. Bay huyễn hão, rồi sinh ra tị hiềm đố kỵ. Ta không cần nguyền, bay cũng đã sa vào cái mẽ bề ngoài, cái nhỏ nhen bên trong.

Có tám cảnh thiên đường, chỉ cần bay có ba đứa là chẳng đứa nào trong bọn bay lên được vì thằng nọ đạp vào đầu thằng kia.

Có bảy tầng địa ngục, không cần ai bảo, bọn bay đứa này lôi đứa kia, rồi xuống đấy cả...

Buồn cười lắm, thằng tầng số sáu khinh thằng tầng số bảy, thằng tầng số năm hài lòng vì thấy có thằng ở tầng số sáu, và chỉ biết tiên tiến vươn lên tầng số bốn. U mê như thế, làm sao ra khỏi địa ngục cho được.
Nay ta làm phúc bảo cho : muốn ra khỏi địa ngục, mỗi đứa bay phải đọc một vạn lần Kinh sám hối. Ðừng
hẹp hòi, tụng Kinh của bất cứ tôn giáo hay quốc gia nào cũng được ...

Nhật lẩm nhẩm A di đà Phật, rồi tụng những bài kinh học được ở trại hủi ven bờ sông Mã :

«Lạy Chúa con, là Ðấng rất trọng, rất công thẳng phép tắc vô cùng, có quyền phạt linh hồn và xác con xuống luyện ngục cùng mất sự vui trên Thiên đàng đời đời. Con nguyện dốc lòng từ nay về sau giữ mười sự răn, chừa mọi sự dữ, mà con cầu cùng Ðức Chúa Trời tha tội cho con, vì con cậy đã có công Chúa Giê-Su là Con một Ðức Chúa Trời đã chuộc tội chịu chết cho con.

Lạy ơn Ðức Chúa Trời chỉ một lòng tha thứ liên mãi, chúng con sấp mình kêu xin Chúa cho linh hồn ngườichúng con, xin Chúa chớ để các linh hồn ấy phải tay ma quỉ , cho các linh hồn ấy được nghỉ ngơi đời đời và được sáng soi vô cùng.

Lạy ơn Ðức Chúa Giê-Su ! Chúa con đã phán rằng : bay hãy xin thì bay sẽ được, vậy con xin Chúa con lòng lành vô cùng thương đến các linh hồn nơi luyện ngục, xin Chúa con nghe lời con cầu xin kêu van Chúa con mở cửa cho các linh hồn ấy được vào và được sự sáng vô cùng hằng soi cho liên. Amen.

Nhật mắt nhắm, tay chắp, cứ thế tụng niệm. Ban đầu, tất cả mọi nhận thức rã thành từng mảnh lềnh bềnh trôi qua sông Mê, về sông Lam, rồi ra cửa Hội để thấm chất mặn của cả một đại dương nước mắt. Về sau, những nhận thức đó lại tụ lại, thu về một, sáng lên bảy sắc xong là tan ra, trở thành không hình, không thể, không tướng, không có, không không ... Cứ thế, chỉ một chớp mắt là rã ra rồi chỉ một chớp mắt là tụ lại.

Nghĩ về những bước đường vào Ðàng Trong, Nhật ngậm ngùi tưởng đến những vạt áo chàm thấp thoáng bên những ngôi cổ tháp rải rác suốt từ Bố Chính vào tới Phú Yên, chứng tích một nền văn hóa đã có thời vô cùng rực rỡ. Từ đồng bằng sông Nhị đã cằn cỗi không còn đủ sức nuôi cho đủ ăn, con đường Nam tiến của cư dân Ðàng Ngoài gần như là một sự bó buộc của thiên nhiên khắc nghiệt. Vì thế, máu đổ nhưng làm sao mà tránh được. Vậy thì họ tội tình gì ? Nhưng có hay không cũng thế. Có, sám hối. Không, cũng sám hối. Bởi trên con đường đó đã có kẻ thua người thắng, kẻ được người mất. Khi vào, người dân Ðàng Ngoài không hề mang sự chiến thắng làm vật cản để họ hòa mình vào dân tộc Chiêm. Họ tiếp thu phong tục, quần áo, văn ngữ, âm nhạc để cùng chung sống và gầy dựng tương lai qua đàn con cháu đã cộng sinh hai chủng tộc. Nhưng thế quyền lại khác ! Ðám Tốâng nho hoành hành bằng thứ ý thức hệ cặn bã của phong kiến lại buộc hàng dân vào cái nề nếp trói buộc đệ ổn định thứ Ðế quyền cũ rích. Ðến thời Võ Vương, chúng bắt người Ðàng Trong ăn mặc kiểu người Tầu, chứ chẳng phải là cách trang phục của dân Ðại Việt ở Ðàng Ngoài.

Nhật chạnh lòng hồi tưởng hình ảnh Chế Mân quất roi vào Huyền Trân, rồi Ðèo Kha quất roi vào nàng Mây. Sợi ân ân oán oán cứ ràng buộc lấy nhau như dây kết rối. Mây đã chết cho Ðèo Kha mà vẫn chưa trả hết nghiệp của Huyền Trân cho Chế Mân sao? Chiếc răng khểnh cứ như trêu chọc nhắc Nhật hình bóng Chúa Út, kẻ chẳng phản bội một ai, đã yêu, đã sống. Rồi nàng chết, và chỉ xin chàng gọi nàng bằng cái tên thật, là Khinh Vân, nhẹ hơn một đám mây bay nhanh qua đời. Cái chết của nàng là chuyện anh em Tây Sơn đâm chém nhau. Còn cha giết con, vợ phản chồng ? Thì đã có Hà công, có Hoàng Tế Lý, Ðặng Thị Huệ, Trịnh Sâm...Rồi Ðàng Trong đánh Ðàng Ngoài, rồi dân giáo chốùng dân lương...Quả là có, có hết, và cứ tiếp tục có.

Có những kẻ sống trong vực sâu của quyền lực và danh vọng hão huyền. Chúng nhan nhản trong chính sử, chẳng ai cần kể tên. Nhưng bên cạnh chúng vẫn có những Nguyễn Lữ, những Trịnh Bồng, thẳng tay vất bỏ quyền lực. Có những Ngô Thì Nhậm, chịu chết vì trận đòn thù trên sân Văn Miếu chứ không trốn chạy, chết để bảo vệ lý tưởng của mình. Có những Trọng Thức, suốt một cuộc sống chỉ lao tâm vào một việc là tìm ra phương pháp mang lại cho xã hội cách xây dựng nền công chính. Có những Dương Quang, kẻ hát lên giục những con chim đập cánh sổ lồng để bay cao, bay xa. Có những Ðặng Thị Mai bỏ cả đời mình vào để xoa dịu nỗi đau đớn bất hạnh của những người cùi hủi.

Ðẹp thay, có biết bao nhiêu những người vô danh mang tình nhân ái đùm bọc con người. Hy sinh thân mình cho con người, kể cả những kẻ cùi hủi, sự hy sinh đó cao quí và thiết thực chứ chẳng mù mờ như là hy sinh cho quê hương đất nước, cho tổ quốc thiêng liêng, cho lập trường ý thức… Ðó là loại ngôn từ khẩu hiệu, nhiều khi chỉ ngụy trang tư lợi, dễ mang ra đánh lận người đời đưa họ sa vào cảnh máu rơi lệ đổ để phục vụ cho những thế quyền... Và quan trọng trên hết mọi sự là có những Quốc Thư, cái tuổi trẻ kia, lớp kế thừa và đồng thời là động cơ thúc đẩy sự sống còn của cả dân tộc. Nghe lời cha, Thư sau này đặt tên con trai là Nguyễn Trường Tộ. Ðến thời Tự Ðức, Tộ đã dâng lên triều đình nhà Nguyễn hàng loạt những bản điều trần để canh tân đất nước. Rồi sau Tộ, biết bao nhiêu là những người con khác tiếp tục dấn thân cho một tương lai sáng sủa và tốt đẹp hơn.

Vì tương lai ấy, với mỗi người trong chúng ta, sự sám hối không thừa. Dẫu chỉ là sám hối trong một khoảng khắc, ta sẽ thấy được chính ta. Và giây phút kỳ diệu đó đủ gột sạch những nơi tâm tư còn mang nỗi ân oán có vấy dăm ba lớp bụi lầm của lịch sử.

Nhật tiếp tục tụng niệm những lời Kinh sám hối của mọi tôn giáo, mọi ngôn ngữ. Thoáng ngửi thấy mùi hương của một loài hoa lạ, chàng hé mắt ra nhìn. Ơ kìa, râu tóc chàng đã trắng xóa, rủ xuống dòng sông Mê tung tóe bọt nước trên hai bờ, trôi đi, trôi đi. Lỗ huyệt xưa để mả tổ tiên họ Hà nay đã lấp đầy đất, những cây rạc cao lên quá đầu người. Nhưng sao lại có hoa ? Hoa gì mà lạ thế ? A di đà Phật. Nhật lại nhắm mắt, tiếp tục tụng niệm, lòng thanh thản dần, nhẹ hững đi như ánh nắng vàng mầu nhiệm khiến muôn loài tái sinh. Cứ thế, dễ đến hai trăm năm. Lần sau cùng, khi Nhật hé mắt nhìn, những cây rạc trên bờ huyệt đang hóa thân thành một loại cây đong đưa những cánh hoa cong mình vươn lên phía có ánh sáng.
Nhập thành một với vũ trụ, Nhật nghe âm vang trong lòng lời kinh mỗi lúc một thiết tha :

Nam mô quy y Kim Cang Thượng Sư

- Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sinh thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

- Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sinh thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.

- Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sinh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.

Trời cao vút xanh, xanh biếc. Mây trắng trôi theo nhau, lơ lửng, khoan thai, quyện vào rồi lại tan ra. Ðằng xa, một đàn chim âu cả trăm con tung bay, cánh óng ánh màu lửa thắp sáng không trung. Văng vẳng có tiếng sáo. Lại tiếng sáo diều hệt như tiếng sáo xưa ở Phố Hiến. Trong không trung, tiếng ai từ trên cao vọng lại :

Mi nghe tiếng sáo người mà chưa biết nghe tiếng sáo đất ? Mi nghe tiếng sáo đất mà chưa nghe biết tiếng sáo trời ? Kìa gió thổi nên muôn tiếng nghe không giống nhau. Nhưng mà khiến cho nó tự thôi đi, hoặc nó tự gào lên, ấy là ai ?

Rừng rạc lá sắc như dao đã lác đác hồng. Hoa gì đây ? Lạy đấng Hóa Công, trời đã vào Xuân. Kìa, cả một rừng lá rạc đã hóa thân thành rừng hoa đào. Ô hay, lá rạc có thật hay không? Tên nó không thấy có trong bất cứ quyển từ điển Thảo Vật nào. Nhưng hề chi, vì hoa đào có thật. Còn loài hoa mầu hồng thắm kia, vào mùa Xuân, ta cứ gọi nó là hoa đào, mặc dù hoa ngào ngạt thoảng về một mùi hương rất lạ.

Cùng những lời Kinh sám hối, nước cứ trôi về cuối sông Mê rồi ra biển rộng. Nếu đúng vậy, lời nguyền của Chế Mân hẳn sẽ hóa giải vào năm hai ngàn lẻ hai hay lẻ ba.

Huyền Trân là một nhân vật có thật trong lịch sử. Chế Mân cũng có thật. Vì thế, những lời nguyền không phải là chuyện tưởng tượng mà là có thật. Thật như xác quyết rằng chỉ có sự tỉnh thức mới làm tiêu ma đi cái nghiệp chướng đã từ hai trăm năm qua vẫn cứ đâu đây ám ảnh. 

HẾT