Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Sự lừa dối hào nhoáng (Phần 3) - Neil Sheehan

 VII - GIAI ĐOẠN CUỐI CÙNG

 Ngày mồng 3 tháng Tám năm 1965, lần đầu tiên hình ảnh lính thủy đánh bộ cầm đuốc đốt nhiều ấp Việt Nam ở vùng Đà Nẵng được hãng CBS đưa lên truyền hình. Hàng triệu người Mỹ choáng váng thấy rõ khi nhìn lên vô tuyến truyền hình. Vann viết thư cho Bob York “ Nếu đường lối chính trị của chúng ta là như thế, tôi không muốn tham gia một vụ việc nào. Tôi chờ Lodge sang và chỉ phương hướng cho chúng ta”.

Khoảng một năm sau, John Vann có dịp rới Việt Nam . Người ta giao cho anh vị trí chỉ huy Sư đoàn châu Á trong nhóm của McNamara ở Lầu Năm Góc. Dan Ellsberg đã can thiệp và McNamara chấp nhận. Trách nhiệm này có tương lai và tạo điều kiện cho anh gia nhập thành phần tinh hoa trí thức và quân sự. Sau tháng Tám năm 1965, Hải quân cố làm dư luận im lặng về những vụ đốt nhà dân. Nhưng Westmoreland và phần đông các tướng khác tỏ ra đại lượng hơn. Những cuộc hành quân “Zippo”, tên chiếc bật lửa nổi tiếng của lính Mỹ, ở những thôn ấp Việt Nam trở thành quen thuộc đến nỗi khán giả truyền hình ở Hoa Kỳ cũng không phẫn uất nữa. Vann không nói về việc ấy trong những bức thư gửi York. Anh không đi Lầu Năm Góc nhưng dùng đề nghị người ta đề bạt anh để đảm bảo việc bổ dụng anh vào vị trí anh khao khát : giám đốc bình định trong vùng Quân đoàn 3.

Ellsberg chiếm vị trí của Ramsey trong cuộc sống của Vann và họ trở thành bạn thân. Vann và Ellsberg là một đôi đặc biệt, hai người phức tạp, đến từ hai thế giới khác nhau , tìm sự bổ sung cần thiết ở nhau. Lúc Ellsberg mới 5 tuổi, mẹ anh quyết định anh sẽ là một nhạc sĩ dương cầm vĩ đại. Bà bắt anh tập 4 giờ mỗi ngày sau khi đi học vềm ngày thứ bảy tập 8 giờ. Để anh không làm hỏng đôi bàn tay, bà cấm anh chơi thể thao. Nếu thấy anh đang đọc sách bà lấy sách giấu đi để ngăn cản anh quan tâm đến điều gì khác ngoài âm nhạc. Bố anh, người Do Thái gốc Nga, là một kỹ sư kiếm ống vất vả, lúc đầu ở Chicago, nơi sinh ra Dan rồi sau ở Detroit. Khi Dan 15 tuổi, bố anh ngủ gật khi lái xe gây tai nạn. Ellsberg chấn thương ở đầu, hôn mê 36 tiếng đồng hồ và gãy đầu gối. Bố anh bị thương nhẹ nhưng mẹ và chị bị chết vì sự cố đó. Ellsberg theo chế độ mẹ đặt ra cho trong một thời gian ngắn rồi bỏ hẳn dương cầm. Sau này khi trở thành nổi tiếng, trong WHO’S WHO, anh đã bỏ sót điều bí mật : mẹ anh không có tên trong đó.

Anh vào trường Havard năm 1948, năm chiến tranh lạnh trở thành một thực tế âm u với Đảng cộng sản Tiệp Khắc nắm quyền ở Praha và sự phong tỏa Berlin của Stalin. Thời kỳ ấy, Havard là đặc ân mà những trí thức có tham vọng bắt đầu bằng đại học là một phương tiện đạt chức vụ cao trong một nước Mỹ mới. Chiến tranh thế giới lần thứ hai hướng họ trở thành viên chức chính phủ. Chiến tranh  lạnh càng khuyến khích nó, những người trí thức hiểu họ có thể đem lại những hiểu biết và tầm nhìn mà các luật gia, các chủ ngân hàng và những doanh nhân cho đến lúc đố độc quyền chiếm các chức vụ cao đang thiếu hụt. Nhà sử học Arthur Schlesinger và nhà kinh tế học John Kenneth Galbraith, sau này cả hai hợp tác với Kennedy, là giáo sư ở Havard. McGeorge Bundy là người tốt nghiệp an ninh quốc gia, lúc đầu là cố vấn cho Kennedy rồi cho Lyndon Johnson, cũng chuẩn bị dạy ở đấy. Người trí thức sau này vượt những người ngang hàng, Henry Kissenger chậm học vì đăng lính trong Thế chiến thứ hai, là sinh viên năm thứ ba ở Havard khi Ellsberg vào đấy với những nghiên cứu xuất sắc về kinh tế. Sau một năm ở trường Hoàng gia Cambridge Anh, Ellsberg quyết định làm rạng rỡ tên tuổi mình trong một ngày mới.

Trong môi trường đó, anh không cần phải thể hiện những khả năng về quân sự. Anh có thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong sáu tháng trong quân đội để rồi chuyển qua dự bị. Thay vì điều đó, anh chọn đăng ký Hải quân hai năm và tập luyện xuất sắc tất cả các môn. Để nổi lên là người bắn súng cỡ 45 loại ưu cả hai tay, anh rèn luyện đôi bàn tay và cánh tay người chơi dương cầm bằng cách vừa đọc sách vừa cầm vật nặng đưa lên không trong nhiều giờ liền. Người ta nói với anh kim hỏa súng cỡ 45 có thể đẩy một chiếc bút chì bỏ vào nòng rỗng đi cách mấy mét. Ellsberg vẽ một vòng tròn trên tường và tập ngắm tất cả các đêm. Anh học bấm cò súng thật nhẹ để súng tuyệt đối không chệch đường bắn. Những trung úy khác của Sư đoàn 2 Hải quân phải giao lại việc chỉ huy đại đội cho các đại úy nhưng Ellsberg giữ lại đại đội mình vì đấy là đơn vị được nhiều phần thưởng nhất tiểu đoàn và tỏ ra xuất sắc nhất trong các đợt hành quân.

Binh nghiệp của anh kết thúc giữa năm 1956, Ellsberg chuẩn bị trở về Havard để thỏa mãn giấc mơ của mọi trí thức là thành viên Hôi những người đồng hành nổi tiếng thì Nasser chiếm kênh đào Suez. Tiểu đoàn anh phiên chế vào Hạm đội  6 ở Địa Trung Hải. Anh bèn viết thư cho một giáo sư ở Havard để nói Hội  những người đồng hành chờ anh, rồi anh tái nhập ngũ sáu tháng ở Hải quân. Anh rất thất vọng thấy Eisenhower không can thiệp vào vụ kênh Suez.

Năm 1959, anh rời trường Havard vào làm việc ở Công ty Rand, cơ quan nghiên cứu dân sự của Không quân thành lập ở Santa Monica, California. Anh dành ở đấy điều mà anh nghĩ là nhiệm vụ quan trọng nhất thời kỳ ấy : tránh cuộc chiến tranh hạt nhân bằng cách ngăn ngừa một cuộc tấn công bất ngờ của Liên Xô. Với mã hiệu đặc biệt, anh nắm mọi tài liệu tối mật để phân tích những thông tin do máy bay do thám U-2 và các nguồn khác cung cấp. Anh nghiên cứu những qui trình của Hoa Kỳ cho phép máy bay mang bom khinh khí bay sang Nga cũng như việc bắn tên lửa xuyên lục địa và viết những báo cáo tuyệt mật để cải tiến các phương pháp. Ở Lầu Năm Góc, anh biết rõ những tài liệu bí mật ghê gớm nhất thậm chí cà kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Hoa Kỳ.

Ellsberg kinh ngạc trước điều anh biết được. Những người Xô viết không chuẩn bị một cuộc tấn công bất ngờ. Còn việc nói rằng có lợi thế lớn về tên lửa xuyên lục địa, sự chênh lệch về tên lửa mà Kennedy khai thác có lẽ thực lòng trong cuộc tranh cử chống Nixon năm 1960, chỉ là một chuyện bịa đặt. Sự nhục nhã trong vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba lôi kéo người Xô viết tăng cường sản xuất vũ khí hạt nhân. Theo tin tình báo Mỹ, họ có 4 tên lửa xuyên lục địa và 200 máy bay ném bom đường kính hoạt động rộng. Đổi lại, các tướng đô đốc và Hải quân Mỹ chuẩn bị một cuộc chiến tranh nhiệt hạch chớp nhoáng với một số lượng lớn tên lửa ở mặt đất hoặc mang trên tàu ngầm  hay trên hàng nghìn máy bay. Kế hoạch của Bộ tổng tham mưu cho phép giết khoảng 325 triệu dân Liên Xô và Trung Quốc. Nếu thêm vào đó một số vụ tấn công ở Đông Âu, những cơn mưa phóng xạ trong các nước ngoại vi như Phần Lan, Pakistan, Nhật Bản, cộng với số nạn nhân người Nga gây ra cho Hoa Kỳ trước khi bị gạch tên trên bản đồ, số người chết tổng cộng có thể lên đến 500 triệu. Ellsberg nghĩ khi so sánh , các chỉ huy quân sự Mỹ sẽ làm cho lò thiêu người của Hitler trở thành một sai lầm nhỏ. Anh gán kế hoạch ấy cho một lối suy nghĩ “ chó dại” chỉ có trong giới chỉ huy quân sự đặc biệt, các tướng của lực lượng Không quân hoàn toàn tin tưởng vào một cuộc không chiến toàn bộ. Ellsberg không thấy giải pháp nào khác ngoài một cuộc kiểm soát kiên quyết và thông minh hơn của những người thuộc phe dân sự.

 Những người trí thức được trả thù năm 1960 với việc bầu Kennedy khi mà, như Henry Kissenger viết, “ các giáo sư lần đầu tiên thấy trách nhiệm phải chuyển từ lĩnh vực dạy học sang lĩnh vực thực hành “. Kennedy cũng mong muốn thực hiện một sự kiểm soát giới quân sự chặt chẽ hơn. Những hiểu biết và danh tiếng chuyên môn của Ellsberg là giá trị cơ bản cần thiết cho một chính phủ trí thức và đưa anh lên đỉnh cao. Rand cử anh đến Washington chiếm một vị trí thường trực trong chính quyền mới. Anh thảo nhiều giác thư cho McGeorge Bundy và McNamara đề nghị một loạt điều chỉnh chiến lược mà nhiều điều đã được đưa vào áp dụng. Tháng Mười năm 1962 khi cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba nổ ra, anh ở trong bộ phận khắc phục khủng hoảng của Lầu Năm Góc và bộ Ngoại giao. Năm 1964, anh thành công đến mức được chọn làm trợ lý đặc biệt của John McNaughton, nguyên giáo sư luật trường Havard, đã trở thành người có vị trí thứ hai sau McNamara về những vấn đề quốc tế. Anh rời Công ty Rand vào làm việc cho chính phủ với vị trí cao nhất trong cơ cấu hành chính, tương đương một viên tướng cấp cao trong hệ thống quân sự.

Ellsberg càng thành công trong sự nghiệp, cuộc sống riêng tư của anh càng ảm đạm. Vợ anh không yêu anh nữa và đòi ly dị. Họ có hai đứa con. Hôn nhân tan vỡ nhấn chìm Ellsberg trong sự thất vọng sâu xa. Anh hoàn toàn mắc vào cuộc chiến tranh Việt Nam vì công việc với McNaughton và chắc  sớm hay muộn sẽ tham gia vào cuộc chiến đấu vì tính lãng mạn và ý muốn thử nghiệm đã làm anh kéo dài thời gian ở Hải quân. Sự tuyệt vọng trong tâm hồn buộc anh có ngay sự đối đầu với một tranh chấp mới dữ dội. Giữa năm 1965, anh cố vận động để được cử sang Việt Nam làm chỉ huy một đại đội Hải quân. Người ta nói trước vì những chức vụ cao của anh ở phía dân sự, cấp trên chắc chắn sẽ đưa anh vào làm việc ở ban tham mưu, điều mà anh không hề quan tâm. Anh bèn đề nghị Lansdale đưa anh vào  nhóm của ông và Lansdale vẫn luôn nhạy cảm về tính năng động và sự thông minh, sung sướng được tiếp nhận anh. McNaughton không cố giữ anh lại. Ông bắt đầu hơi bực mình về Ellsberg, thỉnh thoảng thiếu kín đáo và cần khoe khoang hiểu biết, một thói xấu mà sự suy sụp tình cảm càng làm cho anh mắc nặng thêm. Cẩn thận là một vấn đề sống còn của mọi chính quyền và sự thiếu kín đáo có thể làm đổ sụp sự nghiệp ở Lầu Năm Góc của McNamara.

Vann là người trong danh sách những người cần gặp mà Ellsberg mang sang Việt Nam . Sau cuộc thăm Hậu Nghĩa đầu tiên với Lansdale, anh trở lại đó vào giữa tháng Mười, ở ba ngày nói chuyện với Vann và tham quan trong tỉnh. Chuyến đi này hoán cải Ellsberg và anh  nhiệt tình say sưa với chiến lược cách mạng xã hội của Vann.

Sự tự kỷ thường kích thích các đồng nghiệp của Ellsberg trong môi trường cạnh tranh gay gắt đã trở nên nhẹ nhàng trong quan hệ của anh với Vann. Những năm ở Việt Nam làm nảy sinh ham muốn phiêu lưu, lòng say mê và tính nhạy cảm trong tính cách phức tạp của Ellsberg. Ba mươi tư tuổi, phong thái nhẹ nhàng, nụ cười thường mỉa mai trên khuôn mặt mỏng, đôi mắt xám xanh ánh lên vẻ tò mò, nét hóm hỉnh chế giễu tạo nên một nhân vật rất dễ mến. Đối với Ellsberg, Vann là một mẫu người hành động. Sự thấp kém của một kẻ nghèo hèn miền Nam lộ ra rõ khi anh ca ngợi thành quả học hành của Ellsberg. Với những người không phải bạn chung, anh nói về anh ta “ ông tiến sĩ Dan Ellsberg”. Hoán cải một người như thế theo ý tưởng của mình làm Vann hoan hỉ. Anh hy vọng một ngày nào đó Ellsberg sẽ cổ động cho những ý tưởng của họ. Nói cho cùng, Ellsberg cùng một giòng giống trí thức như những người gần quyền lực ở Washington. Nhưng tình bạn của Vann đối với Ellsberg vượt ra ngoài tính toán lợi lộc. Anh thích cùng đi với nhau và Ellsberg luôn sẵn sàng đi tới những nơi mà Vann hướng dẫn.

Đấy là sự kiện đặc biệt trong tháng Chạp năm 1965. Thời kỳ ấy Vann được đề bạt làm cố vấn dân sự bên cạnh tướng Jonathan Seaman, chỉ huy lực lượng Mỹ của Quân đoàn 3. Vann đã bắt đầu khảo sát có phương pháp toàn vùng. Cho đến lúc đó, anh chỉ hoạt động ở các tỉnh gần Sài Gòn . Lần này sẽ phải khác.

Ellsberg đề nghị đi cùng anh, họ dự kiến sáng thứ bảy đi sớm, lên xe trước hết đến Xuân Lộc ở trung tâm vùng cao su, cách Sài Gòn 95 cây số về phía đông bắc. Họ phải đến đấy vào buổi trưa, ăn  nhanh, nói chuyện với các cố vấn rồi lại đi 130 cây số đến Hàm Tân, một làng gần bờ biển , là tỉnh lỵ. Họ qua đêm ở đấy rồi trở về Sài Gòn theo đường cũ.

Tối thứ sáu, họ nói chuyện về chuyến đi với một tùy viên sứ quán trẻ có công việc đi thăm Việt Nam nhằm nắm những thái độ chính trị và điều kiện an ninh. Cũng như hầu hết các sĩ quan Mỹ, anh ta chỉ đi bằng máy bay hoặc trực thăng. Do đã từ lâu chưa ra khỏi Sài Gòn anh ta đề nghị Vann và Ellsberg cho đi cùng.

Cho đến Biên Hòa mọi việc đều suôn sẻ. Sau đó họ chỉ còn lại với nhau. Nhân viên ngoại giao trẻ ngạc nhiên nhìn những cọc hàng rào các ấp chiến lược cũ chỉ còn lòng thòng mấy đoạn dây thép gai, những đồn tiền tiêu bị đốt cháy, những băng đất cắt nhựa đường mà lực lượng Sài Gòn lấp hào Việt cộng đào để cản trở giao thông.

-   John, tôi không có quyền tiếp tục như thế này, anh tùy viên Đại sứ quán nói. Chúng ta không được đi trên đường, có lệnh không được để bị bắt làm tù binh. Tốt hơn là tôi lên một chiếc trực thăng.

Vann dừng lại trong một trại quân đội Việt Nam , ủy thác anh cho các cố vấn Mỹ. Họ gặp lại anh ở đợt nghỉ đầu, Xuân Lộc; anh ta đã đến đó bằng trực thăng. Anh có vẻ ngây ngô. Trong bữa ăn trưa, các cố vấn Mỹ đối xử với Vann và Ellsberg một cách tôn kính như cánh quân nhân đối với những người dũng cảm. Họ không ngớt hỏi về những gì các anh thấy trên đường đi. Việc tiếp đón và không khí trong câu chuyện làm anh chàng dân sự bạo dạn lên. Anh nói với hai người :

“Mẹ kiếp, tôi tiếp tục đi với các anh”.

Họ lại ra đi trong chiếc xe bọc thép thám báo. Vann sử dụng nó vì có bốn bánh xe cơ động, khi cần có thể bỏ đường đi và lăn bánh trên mọi địa hình. Anh cầm lái, Ellsberg ngồi bên cạnh, tùy viên Đại sứ quán ngồi ở ghế sau.

Họ vừa ra khỏi Xuân Lộc thì con đường đi sâu vào một trong những khu rừng dày nhất mà Ellsberg chưa từng thấy ở Việt Nam . Qua sự chỉ dẫn của Vann trong những chuyến đi trước, anh biết nên đối phó ra sao. Anh kiểm tra quả lựu đạn trong tầm tay, lắp đạn vào khẩu tiểu liên và ngồi với tư thế có thể bắn ngay qua cửa sổ. Vann chỉ cầm lái một tay và đểu khẩu M-16 tự động sẵn sàng nhả đạn. Nhưng Ellsberg tự hỏi họ sẽ làm thế nào được : từ khi không được chăm sóc, khu rừng lấn ra đường chỉ đủ chỗ cho một chiếc xe. Cây cối um tùm đến nỗi Ellsberg sợ nếu đưa súng ra sẽ mắc vào cành lá. Rồi con đường bắt đầu đi vòng vèo, không còn thấy gì nữa. Ellsberg nghĩ chỉ một mình cô gái 7 tuổi với khẩu súng tự động cũng có thể phục kích cả một trung đoàn qua khu rừng này.

Hoàn cảnh càng khó khăn, Vann và Ellsberg càng ba hoa. Điều ấy rất quan trọng đối với họ vì họ muốn tự chủ và kích thích giác quan trước nguy hiểm.

Anh tùy viên trẻ câm lặng trong một thời gian. Họ đã đi khỏi Xuân Lộc 20 phút; anh cố gặng hỏi :

-   John, sự an toàn trên con đường này ra so ?
-   Rất xấu, Vann trả lời.
-   Thế thì tôi muốn trở về tốt hơn.

Vann tìm một chỗ quay xe, cau có trở lại Xuân Lộc. Anh chỉ bình tĩnh lại khi ra khỏi con đường trong rừng, lần này cả hai tay cầm lái để đi vòng nhanh và lấy lại thì giờ đã mất. Anh nó với Ellsberg :

-   Này, anh thấy không, tôi nghĩ anh ta không đủ gan đi lại lần thứ hai nữa.
-   Nhưng, lạy Chúa, tại sao anh nói như thế về sự an toàn ? Ellsberg vừa cười, vừa hỏi.
-   Thế anh muốn tôi nói sao khác được ?

Vann phá lên cười, buông tay lái chỉ vào khu rừng đáng sợ hãi ở cả hai phía “

-   Anh nhìn đấy xem !

Về Hàm Tân, họ dừng lại trước ngôi nhà các cố vấn quân sự ở, bước vào và tự giới thiệu. Một sĩ quan trẻ ở bên ngoài quan sát chiếc xem thám báo. Anh nhìn Vann, Ellsberg rồi nhìn vào chiếc xe, nhìn lại hai người và hỏi :

“ Các anh vào trong ấy à ?”

Họ trả lời “ vâng” với giọng hết sức bình thản.

-   Nhưng con đường được mở rồi chăng ?Một sĩ quan khác sửng sốt hỏi.
-   Dù sao thì bây giờ nó đã được mở ! Vann trả lời.

Họ là những người Mỹ đầu tiên đi qua con đường ấy từ một năm nay.

 Tình dục như một mối nguy hại, là một điểm chung khác làm Vann và Ellsberg gần với  nhau. Ramsey chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến điều ấy lắm nhưng nó là sự quan tâm hàng đầu của Vann. Vì thế, Vann nói với anh việc săn lùng gái ở Sài Gòn chỉ là sự tiêu khiển nhất thời của những người chưa vợ ỏ hải ngoại, còn anh là một người đàn ông đứng đắn, đã có gia đình, chỉ lo săn sóc Mary Jane va giáo dục các con. Ellsberg không có nhu cầu như Vann nhưng quan hệ tình dục đối với anh là quan trọng và anh không giấu giếm điều đó. Khi Vann phát hiện ra, anh hỏi bạn chi tiết về những thành công trong tình ái và anh này sẵn sàng thổ lộ. Vì vậy, anh cho phép mình thành thật hơn về quá khứ của mình. Anh tâm sự với Ellsberg cuộc hôn nhân của anh giò chỉ còn là hình thức. Anh tôn trọng Mary Jane nhưng không yêu. Họ không có gì phù hợp với nhau. Anh cũng kể chuyện với Ellsberg vụ quan hệ tình dục với gái vị thành niên và tuy anh đã thắng điều tra viên, người ta đã chặn con đường thăng cấp tướng của anh.

Việc họ ở hai nhà bên cạnh nhau ở Sài Gòn càng củng cố thêm tình bạn của họ. Tuy mùa thu năm 1965, phần lớn thời gian Vann ở nông thôn nhưng AID cho anh có quyền có một ngôi nhà ở Sài Gòn . Anh ở một biệt thự gần biệt thự của Westmoreland cùng một người bạn khác, đại tá George Jacobson. Vann gọi ông ấy là “người sĩ quan hoàn hảo của ban tham mưu” không hề chế giễu vì Jacobson đã chiến đấu trong cuộc chiến tranh Pháp – Đức trong một chiếc xe bọc thép trinh sát. Đây là một người cao lớn, lực lưỡng, 50 tuổi, có ria và giọng nói trầm. Ông có tư thế đáng kính bẩm sinh, nồng hậu và thái độ cẩn trọng. Ông bắt đầu kiếm sống bằng nghề ảo thuật cho đến lúc vào lính từ đầu Thế chiến thứ hai. Trong 24 năm binh nghiệp, ông học theo tính cách và suy nghĩ của cấp trên để tránh bị gán ghép hoặc định kiến. Khi có những khó khăn không nên làm phiền thủ trưởng hoặc ông này không muốn nghe, Jocobson tự giải quyết lấy hoặc gác lại tạm thời. Sau đó, ông tế nhị cố gắng đưa thủ trưởng sang những vấn đề quan trọng khác có lẽ giải quyết được.

Năm 1965, Jacobson thấy đã chiến đấu đủ rồi, xin chuyển sang AID làm công việc bình định. Ông chính thức là cấp trên trực tiếp của Vann và là người bảo vệ không chính thức của anh đối với cấp trên. Quan hệ của họ dễ dàng vì họ bổ sung cho nhau : Vann là sự tiếp xúc trực tiếp của ông với thực tế nông thôn. Một lý do riêng khác làm hai người hòa hợp với nhau khi ở chung nhà. Jacobson từ tốn hơn, không bị ám ảnh như Vann về đàn bà nhưng ông cũng xem việc săn lùng đàn bà là cách sử dụng thì giờ rỗi tốt nhất. Ellsberg may mắn không phải chia sẻ nhà bênh cạnh với ai. Vị trí của anh trong chính quyền cho anh có quyền ở một mình một biệt thự. Anh đưa cho Vann một chìa khóa để anh tự do sử dụng chỗ khi có cuộc hẹn có thể làm phiền Jacobson.

Trước năm 1965, đàn bà và trẻ con ở Việt Nam đã củng cố qui ước đối với quan chức Mỹ cao và trung cấp. Đặc ân trong một nước nghèo châu Á có nhiều con gái rất đẹp cho đến lúc đó chỉ dành cho lính sĩ quan và viên chức dân sự trẻ. Một số người có vị trí dĩ nhiên cũng đôi lúc tham gia. Nhưng để bảo vệ sự nghiệp họ phải rất kín đáo như Vann năm 1962 và 1963 khi anh có những quan hệ ở Sài Gòn hoặc trên bãi biển Vũng Tàu. Khi các gia đình di tản vào đầu năm 1965 để “thoát cầu” như khẩu hiệu của Dean Rusk với dự kiến ném bom miền Bắc, những qui ước đó cũng mất luôn. Người Mỹ trở thành những người đàn ông được hưởng ân huệ tình dục. Một quan chức dân sự cao cấp được nhiều người biết tiếng công khai đưa tình nhâ về nhà, đưa đến các buổi lễ chính thức có phái đoàn ngoại giao và vợ các quan chức Việt Nam . Tư cách của ông ta vừa không được chấp nhận vừa gây thèm muốn. Cũng phải nói tình nhân của ông đẹp đặc biệt. Khi kết thúc, ông ta về Hoa Kỳ với vợ. Cô tình nhân của ông tiếp tục lên giường với những người Mỹ khác cho đến lúc tìm được một người yêu sẽ đưa cô ta đi cùng, sang Paris khi thời hạn phục vụ chấm dứt.

Bây giờ, người ta cho là bình thường khi một cô tình nhân được đưa về làm nội trợ trong nhà, khi đưa một người đàn bà về ban đêm hoặc quan tâm gần gũi với một cô thư ký Việt Nam sau những giờ làm việc mà cô ta không thể từ chối do sợ mất chỗ làm. Hành động ấy coi như hoàn toàn chấp nhận được kể cả đối với những người có gia đình tương đối gần, ở Bangkok hay Philippines hoặc tháng nào vợ cũng đến thăm. Vann thì nêu lên những nguy hiểm của chiến tranh để Mary Jane và con cái thật xa ở Colorado. Cuối cùng những người đàn ông làm việc vất vả cũng có quyền thư giãn một ít. Như Ellsworth Bunker, một chuyên gia trực tiếp nhận xét sự phóng đãng đã nói “ Trong góc, hôn bao nhiêu thì hôn, tôi nghĩ việc ấy cũng có lợi là sẽ làm cho họ cố gắng trong chiến tranh “.

Trong môi trường ấy, Vann có thể thả mình theo xu hướng tự nhiên sống buông thả, điều mà anh không cho phép mình làm ở Hoa Kỳ hoặc ở một nơi nào khác vì sợ ảnh hưởng đến nghề nghiệp. Ellsberg không chỉ là người bạn duy nhất nhận xét Vann mỗi ngày có thể làm tình với hai hay ba người đàn bà khác nhau. Sau lần gặp gỡ cuối cùng trong đêm, anh có thể ngồi vào bàn giấy làm việc, đọc hoặc viết báo cáo, tập trung tuyệt đối cho đến gần sáng.

Ngoài những chơi bời tình cờ không tính xuể, Vann quan hệ lâu dài với hai người đàn bà Việt Nam trong nhiều năm mà nhờ anh khôn khéo người này không biết có người kia. Anh gặp Lee, người thứ nhất, một buổi chiều thứ sáu tháng Mười một năm 1965. Cô đứng trên hè trước nhà mình ở một đường phố chính Sài Gòn chờ gọi taxi đi dạy tiếng Anh tại một trường tiểu học . Anh dừng xe cách cô mấy mét, xuống gỡ chiếc kẹo cao su vừa dính vào đế giày. Đấy là một trong những mưu mẹo của anh. Khi đề nghị được đưa cô đi và cô nhận lời, anh ngạc nhiên thấy cô nói thạo tiếng Anh, nghĩ cô là một sinh viên. Cô ăn bận rất đơn giản, mái tóc đen dài xõa trên vai. Năm ngày nữa cô sẽ 21 tuổi, hơn cô em gái hai tuổi. Anh đã 41. Đưa cô đến trường, anh mời cô đi ăn tối vào chủ nhật tới. Cô đã thấy chiếc nhẫn cưới của anh và trả lời đồng ý. Cô nói rõ anh phải đến cổng trường đón vì gia đình không tán thành cô đi với một người Mỹ và hàng xóm sẽ chê cười.

Khi họ gặp nhau tối chủ nhật, chiếc nhẫn cưới biến mất, cô không bao giờ thấy lại nữa. Sau bữa ăn và buổi tối trong một hộp đêm sang trọng, cô hỏi anh có mấy đứa con. Anh trả lời không có đứa nào vì vợ anh không thể có con. Họ đã chia tay nhau bốn năm nay và anh tìm một ai đó anh yêu và sẽ cưới. Cô hỏi anh bao nhiêu tuổi, anh đáp 36. Cô định thứ tư tiếp đó cô nghỉ một ngày trong ngày sinh nhật của mình. Anh khẳng định hôm ấy anh cũng tự do. Hôm ấy, họ đi bể bơi Chợ Lớn dành cho sĩ quan Mỹ. Khi thấy cô bận đồ tắm anh hiểu mình rất may mắn được gặp cô. Sau bữa ăn tối , họ làm tình trong phòng ngôi nhà anh ở chung với Jacobson.

Lee thuộc về một gia đình trước đây rất thịnh vượng ở Nam Bọ. Ông nội là bộ trưởng Tài chính của Bảo Đại rồi thời Diệm một thời gian phụ trách Nhà băng quốc gia. Bố cô làm ỏ Sở mật thám trước năm 1954 rồi vào nhà băng. Bố mẹ cô giữ quốc tịch và hộ chiếu Pháp. Theo gợi ý của bố, cô học tiếng Anh là ngoại ngữ thứ hai trong những trường Pháp ở Sài Gòn . Cô cũng đã theo học những lớp của Hội Việt-Mỹ. Ở nhà cô nói tiếng Việt lẫn tiếng Pháp và sau này phải học nói và viết tiếng nước mình. Bố cô muốn sau này phải học ở Sài Gòn hoặc ở Pháp về khoa dược hoặc y. Tuy Lee thông minh nhưng không phải là một cô gái trí thức và tương đối sách vở. Cô muốn độc lập về kinh tế. Thời kỳ ấy việc dạy tiếng Anh là một công việc kiếm ra tiền. Hình như mỗi chàng trai thành đạt không phải phục vụ trong Quân lực Cộng hòa và mỗi cô gái có tiền học đều mong biết tiếng Anh để có công việc làm với người Mỹ. Khi gặp Vann, Lee thường xuyên có 50 học sinh và kiếm được nhiều tiền.

Tuy Lee rất ưa nhìn nhưng thân hình không mảnh mai như những phụ nữ Việt Nam điển hình làm những người Mỹ phải quay đầu ngắm. Nhưng cô cũng là một thách thức về sinh lực đối với Vann. Ngoài ra, cô biết tiếng Anh, thông minh và quyết đoán nên sẽ là một người bạn đời thú vị.

Cuộc phiêu lưu tình ái của họ phát triển thành một sự việc nghiêm chỉnh khi Vann được giao chỉ đạo chương trình mới về huấn luyện những nhóm người Việt Nam làm công việc bình định vào cuối năm 1965. Anh thường đi lại giữa Sài Gòn và Vũng Tàu, thường về Sài Gòn bằng máy bay buổi chiều. Anh đến đón Lee ở trường sau giờ học cuối. Họ ăn tối tại nhà anh ở cùng Jacobson, làm tình, đưa cô về nhà rồi trở về nghiên cứu hồ sơ. Cuối tuần anh đưa cô đi ăn tối ở một nhà hàng Pháp hoặc Trung Hoa rồi vào hộp đêm; ngày chủ nhật đôi khi họ đi tắm biển Vũng Tàu. Vann nhờ một anh bạn đại úy Quân lực Cộng hòa làm cho một biển số Pháp cho xe mình và Lee không sợ những quả lựu đạn để trên ghế ngồi cạnh mình. Cô sẵn sàng tiếp tục cho đến khi cưới nhau vì ngay từ khi trưởng thành cô đã quyết định không lấy người Việt. Cô cho rằng, trừ một số ngoại lệ họ đối xử thô bạo với vợ và những người vợ trở thành nạn nhân. Bố cô đã xác nhận cảm tưởng ấy. Ông lấy một người vợ hai và đi lại giữa hai nhà. Lee không có ý định theo con đường của mẹ.

Sau một thời gian, cô bắt đầu tự hỏi Vann có lừa dối mình không. Một số hôm anh đến sớm tìm cô để có thể làm tình cuối buổi chiều rồi đưa cô đến trường dạy lớp tối. Thỉnh thoảng, anh tắm rồi mặc một chiếc quần lịch sự, áo sơ mi trằng, thắt cà vạt. Sơ mi và cà vạt đủ để đi ăn tối trong một nhà hàng ở Sài Gòn , dù có điều hòa nhiệt đội thì mặc áo vét vẫn nặng nề. Gần một tháng sau cuộc gặp nhau lần đầu, anh làm hỏng một phần lời nói trước khi tỏ ra không ngượng ngùng thú nhận mình đã có con. Sau đó, anh công nhận mình già hơn tuổi đã nói với cô. Nhưng anh muốn cô đến mức không ngăn được mình nói dối. Cô tha thứ cho anh. Nhưng anh lại đoán chắc với cô rằng Mary Jane và anh đã chia tay  nhau, trong đợt nghỉ phép tới anh sẽ ly dị. Và mỗi lần chiếc sơ mi trắng à cà vạt gợi lên mối nghi ngờ về cuộc hẹn gặp một người nào khác, anh lại lừa cô, bảo rằng có cuộc họp quan trọng cần ăn mặc tử tế.

Những nghi ngờ của Lee thật xác đáng. Mùa xuân năm 1966, Vann bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới với cô gái sẽ trở thành người tình thứ hai của anh và sau này là mẹ đứa con của họ. Anh dành trí óc cho những hoạt động tình ái dồi dào như trong cuộc đua tranh sự nghiệp. Anh biết chơi trò tình cờ có mặt trong một ngày mưa để dùng xe đưa giúp về nhà. Người Mỹ đã nghiên cứu từng chi tiết một buổi chiều trời nắg dừng lại gỡ chiếc kẹo cao su dính vào đế giàu hoặc uể oải đi dạo chỗ những cô gái trẻ Việt Nam thường tập trung. Một trong những vùng săn mồi là chỗ Hội Mỹ - Việt mở những lớp học tiếng Anh. Buổi chiều thứ báy ngày 2 tháng Tư năm 1966, anh bỗng gặp Annie ở đây.

Một cô gái lãng mãn 17 tuổi, học trường trung học Đà Lạt. Cô đã gặp nhiều chàng trai cùng lứa tuổi ở đây nhưng không anh nào quan tâm đặc biệt đến cô. Cô trở về Sài Gòn trong ba tháng hè và tranh thủ học nâng cao tiếng Anh.

Vann nhìn qua đã biết tìm đúng một tâm hồn đang cô đơn. Anh tiến lại, khen cô đẹp và ăn mặc lịch sự. Anh giải thích mình đến gặp một người bạn đại úy Mỹ tình nguyện dạy học ở đây. Vann nói rất muốn có một người như cô để học tiếng Viêt. Cô cười, trả lời cũng muốn có một người bạn Mỹ dạy cho tiếng Anh. Cô nhận lời để anh đưa về nhà.

Trong xe, cô nghe lại câu chuyện của cô gái trẻ người Đức khóc lóc kể lể với Mary Jane 10 năm trước. Lời than phiền Annie nghe về “ sự chia cắt với vợ và đang tìm một người đàn bà khác để yêu và thành hôn “ ít bịa đặt hơn lời anh đã kể với Lee. Anh thấy không cần thiết phải nói dối về con cái nữa. Anh xin hẹn gặp. Cô từ chối vì thời gian này đang bận nhiều. “ Được lắm, tôi sẽ chờ “. Buổi học tiếp đó, anh lại đã sẵn sàng ở đó để đưa cô về nhà. Cô cho anh số máy điện thoại. Anh gọi cô nhiều lần cho đến khi cô nhận lời anh mời đi ăn tối ở một nhà hàng gần bờ sông. Cô giữ mãi kỷ niệm của “ một người đàn ông lý tưởng, rất đáng yêu, dịu dàng, tế nhị và luôn luôn kiên trì “. Sau bữa ăn, anh đưa cô về nhà mình và gợi ý vào xem chỗ anh sống. “ Không phải bây giờ “, cô nói.

Anh rất ngạc  nhiên khi cô nhận lên giường cùng anh sau nhiều lần đi ăn nhà hàng Pháp hoặc Trung Hoa. Lần này, họ vào nhà Ellsberg vì Jacoboson tối ấy có khách. Do cô dễ dàng lên xe anh lần đầu, anh suy luận cô đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực này nhưng còn rụt rè. Thực ra, cô còn trinh nguyên.

Tháng Bảy , cô trở lại trường học ở Đà Lạt nhưng không thể học hành nghiêm chỉnh được. Vann trở thành mối bận tâm hàng đầu của cô. Cô viết cho anh những bức thư cháy bỏng và anh đã trả lời. Cô ngạc nhiên thấy anh đi máy bay lên Đà Lạt trong một đợt nghỉ cuối tuần. Bố mẹ cô bắt đầu nhận ra có điều gì đấy không suôn sẻ khi thấy điểm của cô trước đó khá cao , bỗng nhiên tụt hẳn xuống. Tháng Chín, cô trở về Sài Gòn đi đám tang bà rồi từ chối không lên Đà Lạt nữa, tuyên bố sẽ tìm việc làm ở Sài Gòn . Bố cô rất khổ tâm. Cô là con trưởng và ông nuôi tham vọng về cô. Gia đình cô khá giả, bố gốc Trung Hoa và mẹ Việt Nam . Bố cô học kinh tế, tài chính ở Pháp và Anh. Ông sống 12 năm ở nước ngoài, nhất là ở Pháp, về Việt Nam sau Thế chiến thứ hai, một thời gian làm cố vấn kinh tế cho Bảo Đại. Sau đó ông làm ở công ty xuất nhập khẩu và bảo hiểm. Annie đã qua tú tài phần một ở Đà Lạt và bố cô muốn gửi cô sang Paris học y hoặc dược khoa sau khi đỗ phần hai.

Vann khuyến khích cô bỏ học, ở lại hẳn Sài Gòn . Những gì anh nói hoặc làm làm cô tin chắc anh cũng yêu cô. Về nhiều phương diện, cô khác hẳn Lee. Cô xinh và thanh mảnh, không quá đáng trong tình dục và không hài hước giễu cợt như Lee. Cô cũng không biết tiếng Anh hoàn hảo như Lee. Annie là một người phụ nữ trẻ dịu hiền và kín đáo, nhẹ nhàng vui vẻ. Ngược lại, Lee hấp dẫn Vann vì mỗi khi làm tình là một cuộc phiêu lưu mới và bởi vì cô là một trong những người phụ nữ hiếm hoi anh có thể nói chuyện thẳng thắn. Nhưng với một người đàn ông như Vann, quan hệ với một người đàn bà có tính cách như Lee luôn có một yếu tố đe dọa. Anh gắn bó với Annie chình vì những đức tính ngược lại của cô.

Khi Annie đột ngột thay đổi, bố cô lo ngại về những gì đã xảy ra, đi hỏi thăm về Vann và biết đó là một tay chạy theo váy đàn bà và đã có vợ con. Một đêm, ông chờ Vann và Annie trước  nhà. Khi Vann xuống xe, ông lại gần và tát vào mặt anh.

“Anh không xấu hổ à ? Người bố kêu lên. Anh không có tí trách nhiệm nào ư ? Anh không biết có thể bị đưa ra tòa vì tội quyến rũ trẻ vị thành niên ?”

Vann không cố tự vệ. Anh nói, mong được giải thích.

“ Không có gì phải giải thích, người bố lại nói. Anh tránh xa con gái tôi ra “.

Ông tát Annie, buộc cô phải vào nhà ngay.

Vann cư xử như chưa bao giờ dám làm như vậy ở Hoa Kỳ . Anh tiếp tục gặp Annie và làm tình với cô. Anh chỉ chú ý tránh bị bạt tai một lần nữa bằng cách để Annie xuống cách nhà một quãng. Khi anh gọi điện cho cô hẹn gặp mà người bố trả lời, Vann bị mắng không ăn thua gì. Bố Annie quá xấu hổ, chỉ còn cách kiện lên đại sứ Cabot Lodge. Ông cố phân tích lý lẽ với con gái, giải thích Vann chẳng có ý định cưới cô và dù sao anh cũng quá già so với cô. Anh ta chỉ lợi dụng sự ngây thơ của cô. Cô đang hủy hoại tương lai, đánh mất sự nghiệp và cơ may có một người chồng tử tế, một gia đình hạnh phúc.

Lý lẽ không có tác dụng. Ông bố bèn dùng biện pháp mạnh. Như các gia đình tầng lớp trên ở Sài Gòn, nhà ông có tường bao quanh. Ông khóa cổng, giữ chìa khóa để cô không ra ngoài ban đêm được. Annie trèo tường. Vann chờ bên ngoài đỡ cô xuống. Giận dữ và thất vọng, ông bố đánh con gái mỗi khi về nhà. Việc đó không cản trở được cô khi có dịp hẹn gặp bằng thư hoặc điện thoai, cô lại trèo tường và bị đánh khi về nhà. Sự ngoan cố xem ra do tính tình một phụ nữ trẻ quen làm điều gì mình muốn. Nhưng nhất là với một cô gái sống hoan lạc trong một giấc mơ lãng mạn. Việc thách đố của Vann đối với bố cô càng chứng minh rõ anh hết lòng vì cô.

Vann nghỉ phép trở về Hoa Kỳ, sau khi trở lại anh nói với Lee anh đã cố thuyết phục Mary Jane ly dị nhưng chị không chịu và đưa ra những điều kiện quá đáng. Anh sẽ phá sản vì cung cấp cho vợ và các con. Lee bảo cô chờ và Mary Jane có thể sẽ thay đổi ý kến. Dĩ nhiên việc  nói chuyện ấy với Mary Jane không hề có. Điều quan trọng hơn cả là những người Mỹ giữ được hình ảnh tôn trọng hôn nhân và gia đình mà vẻ ngoài củng cố tốt hồ sơ cá nhân của họ. Đồng thời Mary Jane cũng cần thiết cho Vann. Một cuộc hôn nhân không tan vỡi ở Mỹ tạo điều kiện cho sự tự do tình dục ở Việt Nam .

Annie mang thai vào cuối năm 1966 và thông báo muốn giữ đứa con. Vann giải thích sự nghiệp của mình sẽ bị ảnh hưởng nếu người ta biết anh là bố của một đứa con bất hợp pháp và nói đến việc nạo thai. Cô bất đắc dĩ phải chấp nhận. Phẫu thuật về thể xác và tâm lý đối với cô rất khó khăn và cô báo trước với Vann sẽ không lặp lại nữa. Anh không khuyến khích cô dùng các biện pháp tránh thai. Về phần Lee, cô đã nạo thai hai lần trước khi dùng các biện pháp tránh thai theo sáng kiến của mình. Hình như Vann tin rằng có thể thuyết phục Annie nạo thai lần thứ hai nếu cô lại mang thai. Đối với anh việc mang thai thuần túy là một việc của đàn bà. Với anh, phụ nữ chỉ là để thỏa mãn và anh lợi dụng quá đáng họ mà mẹ anh, Myrtle là người chịu trách nhiệm.

 Con trai của Myrtle có một thắng lợi tồi đối với bà mẹ vào mùa thu năm 1966. Một chiều tháng Chín, cảnh sát thấy bà nằm dài gần bất tỉnh trên bãi biển Norfolk. Bà sống gần đấy trong một gian phòng cho thuê. Người bà sặc mùi rượu và còn cầm trong tay một chai rượu đầy, chắc vừa mới mua. Cảnh sát cho rằng bà lại say và nhốt bà vào phòng giam dành cho những người nghiện rượu. Đến 4 giờ sáng, có người phát hiện ra bà đang hôn mê và đau đớn bởi bệnh gì đó. Bà chết ngay chiều hôm ấy. Một tên bạo dâm chắc đã đánh đập lúc bà đang uống, làm vỡ trán, dập mắt cá chân và sưng nhiều chỗ. Bà càng nghiện ngập qua năm tháng, càng say thường xuyên và lâu hơn. Đã 61 tuổi, bà quá yếu nên các thầy thuốc không cứu được.

Cuối cùng, ngoài việc xin ăn hoặc đánh cắp, đứa con trai bà đối xử tàn ác nhất là nguồn giúp đỡ tài chính duy nhất của bà. Trong nhiều năm, hàng tháng Vann gửi cho bà một ngân phiếu, thiệt thòi cho Mary Jane là bây giờ anh chỉ cung cấp vừa đủ cho chị sống. Anh tăng tiền gửi vào đầu năm 1960 khi Myrtle ly dị viên hạ sĩ thủy quân mà vì ông này bà đỏ bỏ Frank Vann. Ông lính thủy dữ tợn, đã làm nổ con mắt bên trái của Myrtle bằng cách ném một chai bia vào bàn trong một cuộc ẩu đả và bà phải mang một con mắt giả. Khi về hưu, họ ở Arkansas rồi ông lính thủy bị bắt vì buôn rượu và ăn cắp. Myrtle lợi dụng lúc đó bỏ rơi ông, trở về Norfolk cố uống nhiều với số tiền ít ỏi nhận được từ cuộc ly dị. Trước lúc bà chết, Vann gửi cho bà mỗi tháng 200 đôla.

Anh cũng chi phí cho đám tang, không muốn bà xuống mồ với một chiếc hộp gỗ trắng người ta dùng ở các trang trại khi anh còn trẻ ở Carolina Bắc. Khi người em đầu Frank thông báo cho anh cái chết của Myrtle, anh trả lời sẽ bay ngay về làm tang lễ đúng mức và chắc chắn bà sẽ có một chiếc quan tài tử tế. Anh sẽ chi phí cho tất cả. Vann về Norfolk buổi sáng, kịp nhìn mẹ trước khi đóng quan tài. Sau lễ an táng, anh kết thúc thắng lợi đáng ngờ về mẹ mình với một công bố bất ngờ. Myrtle vẫn giữ họ của ông chồng lính thủy sau khi ly hôn. Cử chỉ đầu tiên của Vann là đưa bà về lại trong gia đình. Tên họ sẽ khắc trên bia mộ, anh cũng trả tiền, là tên họ bà không mang nữa 18 năm nay : Myrtle Lee Vann. Dorothy Lee phản đối : nếu mẹ cô muốn đổi tên họ và lấy lại họ Vann thì bà đã làm rồi. Dorothy tin chắc bà giữ họ của ông thủy thủ vì tuy chia tay nhau bà vẫn thiết tha với ông ấy. Frank và Gene ngả theo ý kiến của John. Họ không chịu đựng được nếu họ của người kia khắc trên mộ mẹ họ.

John thực hiện ý đồ của mình. Vann muốn Myrtle đã chết là người đã từ chối không là mẹ anh lúc còn sống. Anh cho khắc trên tấm bia :

“ Myrle Lee Vann … Mẹ thân yêu của John, Dorothy , Frank và Gene “.

 Trong lúc Myrtle đi tới kết thúc, việc John Vann đi lên trong hệ thống chính quyền ở Việt Nam , không phải không gặp những nguy hiểm vụn vặt thường xảy ra. Việc chỉ định anh đứng đầu chương trình của AID để đưa ra những nhóm cán bộ bình đinh làm anh tranh chấp với CIA, đến mức suýt bị đưa về Hoa Kỳ sớm hơn dự kiến.

Chương trình mới là cố gắng lớn nhất để bình định nông thôn, từ các ấp chiến lược của Diệm. Một trại lớn được xây dựng ỏ Vũng Tàu để đào tạo những đội đặc  nhiệm Việt Nam , mỗi đội 40 người, gọi là những “ Đội hoạt động chính trị “. Đầu năm 1966, CIA đã huấn luyện ở đó 16.000 người Việt. Trại khá rộng, mỗi lần có thể đào tạo được 5.000 người nhằm xây dựng một lực lượng tổng cộng 45.000 người. Họ sẽ bận áo bà ba đen của nông dân, được gọi là “ cán bộ “ bắt chước theo những người cộng sản Việt Nam .

Trùm CIA ở Sài Gòn, Jorgenson và người phó Tom Donohue lầm tưởng những đội bố trí tại chỗ đã gây những tổn thất to lớn cho Việt cộng . Đào tạo xong, những cán bộ bình định được giao cho các huyện trưởng, tỉnh trưởng sử dụng chống du kích. Những người của CIA không đi kèm họ trong hoạt động. Để đánh giá hiệu quả, họ giao cho các quan chức Sài Gòn ở tỉnh, những người chỉ muốn nhận tiền của CIA và được quân đội bảo vệ, đã lừa bịp họ một cách có hệ thống.

CIA xem công việc bình định là một hoạt động rộng lớn nhằm nhận diện và loại bỏ cán bộ của di kích địa phương. Vann không coi trọng cảnh đàn áp ấy và cho là không tránh khỏi được. Anh nghĩ phải kèm theo một sự thay đổi kinh tế xã hội để tranh thủ sự hợp tác của tầng lớp nông dân nên muốn các đội phải bổ sung thành những toán 80 người trong đó có những nhà chuyên môn về chính quyền, về y tế, giáo dục và hiện đại hóa nông nghiệp. Với mục tiêu ấy, dĩ nhiên phải có sự thay đổi về chương trình đào tạo ở Vũng Tàu.

Sự mỉa mai về số phận đưa CIA tranh chấp với sĩ quan chính họ đưa vào cầm đầu chương trình về phía Việt Nam, trung tá Trần Ngọc Châu. Ông này đưa Vann vào đấy và trở thành người bạn Việt Nam tốt nhất của anh. Trần Ngọc Châu là một sĩ quan rất hiếm hoi của Quân lực Cộng hòa đã chống Pháp cùng với Việt Minh trong bốn năm. Ông thuộc một gia đình quan lại Huế bị ngược đãi như thường xảy ra đối với giai cấp này khi hợp tác với thực dân. Trong Thế chiến thứ hai, Châu và hai em theo Việt Minh và Châu nhanh chóng lep lên thành chỉ huy tiểu đoàn. Nhưng ông ta có tính quá ích kỷ, không chịu được sự hy sinh bản thân và kỷ luật tập thể của Đảng cộng sản Việt Nam đòi hỏi ở cán bộ và quá tham vọng , không muốn theo đuổi sự nghiệp đó nữa. Hai người em được kết nạp vào Đảng nhưng Châu không được giải quyết. Ông ta đào ngũ, vào quân đội của Bảo Đại dưới sự chi phối của Pháp.

Những người bạn Mỹ nhận thấy những tính tốt của Châu, không quan tâm đến những lý do ông rời hàng ngũ cộng sản. Họ cho rằng vì những lý do chính trị và nguyên tắc, không phải do thái độ và tính tình của ông. Đối với Vann, Dan Ellsberg cũng như đối với Bumgardner và những người khác, Châu thậm chí là sự mẫu mực của một người Việt Nam “ tốt “. Theo tiêu chuẩn của Sài Gòn , ông trung thực, quan tâm đến sự thăng tiến và tiếng tăm chứ không vì tiền. Ông thực lòng muốn cải thiện cuộc sống của nông dân cho dù hệ thống ông phục vụ không cho phép biến nguyện vọng của ông thành hiện thực. Bốn năm ở cùng Việt Minh và với trí óc nhanh nhạy, tinh tế cho phép ông tranh cãi về chiến tranh du kích, về công việc bình đinh, thái độ của nhân dân nông thôn và những sai sót của xã hội Sài Gòn một cách sáng suốt và thông minh. Vấn đề với những người Sài Gòn , như ông nói, họ là những “ người Việt Nam ngoại lai”.

Châu và Vann gặp nhau lần đầu năm 1962 ở Bến Tre, khi Diệm bổ nhiệm Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hòa, tỉnh lộn xộn nhất ở phía bắc vùng đồng bằng.. Trong năm đầu , quan hệ giữa Vann và Châu không bình lặng, nhất là vì Châu, hào hứng về sự chú ý và đề bạt của tổng thống, là một trong những thuộc hạ trung thành của Diệm thời kỳ ấy. Nhưng hai người xa nhau với một tình cảm mến trọng nhau và năm 1965, khi Vann trở lại, tình bạn của họ phát triển. Ở Kiến Hòa, Châu cũng tiếp xúc trực tiếp với CIA. Ông không đạt kết quả hơn những tỉnh trưởng khác vì trong những ấp chiến lược của ông, Việt cộng tuyển dụng được gần 2.500 người tình nguyện sau trận Ấp Bắc. Nhưng ông là một ngoại lệ vì ông tiến hành việc bình định trong tỉnh rất nghiêm chỉnh. CIA chú ý nhất là Châu đã thực hiện nhiều chương trình thực nghiệm được tài trợ, đặc biệt chương trình loại trừ những thành viên chính quyền Việt cộng bí mật bằng những đơn vị giống những toán ám sát của CIA gọi là đội “ chống khủng bố “. Vì vậy, cuối năm 1965, khi Gordon Jorgensen, trùm CIA Sài Gòn cần một giám đốc người Việt Nam về dự án đào tạo những đội bình định, ông ta quan hệ với AID và Châu được chọn một cách hợp lý. Châu đưa Vann vào guồng máy và đề nghị anh là cố vấn Mỹ của ông.

Tháng Ba năm 1966, người ta tìm được một thỏa hiệp về tính chất và qui mô những đội bình định, quân số ấn định lên 59.000 nhưng với biết bao tranh luận khiến Jorgenson và Donohue tự nhủ vì sao họ đánh giá Châu cao đến vậy. Về phần mình, Vann tranh thủ được tình bạn của Donohue mặc dù họ khác biệt nhau còn Jorgenson thì đã ngán kẻ gây rối hỏng việc ấy. Phải có một trọng tài, người đó là William Porter, người số hai sau đại sứ Lodge, giám sát tất cả chương trình bình định như tổng thống Johnson yêu cầu. Jorgensen phàn nàn với Porter, Vann là một người vô trách nhiệm làm rối tung một chương trình tốt đẹp để tự mình kiểm soát. Porter, 51 tuổi mà 30 năm làm Ngoại giao, không biết rõ về Việt Nam và châu Á; ông theo đuổi sự nghiệp ở Trung Đông và chức vụ trước đây là đại sứ ở Algeria. Có thể ông sẽ ngả theo quan điểm của CIA nếu Vann không biết về những việc lạ lùng xảy ra ở trại Vũng Tàu.

Richard Holbrooke, người tập sự của năm 1963, đã trở thành trợ lý của Porter vì là một trong những nhà ngoại giao hiếm hoi có kinh nghiệm về bình định trên thực địa. Khi Vann vào văn phòng kể chuyện, Holbrooke không muốn tin. Thật quá sửng sốt.

Chương trình huấn luyện đặc vụ của CIA, Vann kể, bị “đổi hướng” bởi một thành viên nhóm chính trị mờ ám Việt Nam dùng làm vỏ bọc tuyên truyền chống cộng sản và cũng chống Sài Gòn . Thủ phạm là người chỉ huy trại, chịu trách nhiệm về chương trình học, đại úy Quân lực Cộng hòa Lê Xuân Mai, nhân viên CIA những năm 1950. Không chỉ tuyên truyền trong những người thực tập bằng sự khóe léo trong các bài học chính trị, ông ta đưa vào mỗi đội một nhóm bí mật bốn thành viên của ông. Ông ta làm điều đó tự do trước mắt các chỉ huy CIA và trợ lý vì không một ai trong trại nói được tiếng Việt. Mặt khác, không người nào kể cả Jorgenson và ai đó dưới quyền ông tò mò đọc báo dịch những gì người ta dạy. Châu phát hiện ra điều đó và cảnh báo với Vann.

Holbrooke xác minh lại câu chuyện này và khi thấy đúng, đã thu xếp một cuộc hẹn gặp Porter. Vann đã gặp ông này một lần trước đây để trình bày quan điểm của mình về các bài giảng và không may cho anh, Porter đã được Jorgenson phỉnh phờ nói trước những điều không tốt về anh. Cuộc hẹn gặp lần thứ hai ấn định vào cuối ngày. Porter ra khỏi văn phòng, nói với Holbrooke ông về nhà. Vann theo ông, vừa đi vừa nói.

Hôm sau, Porter trở về Đại sứ quán, kinh ngạc và thích thú. Ông kể Vann không rời ông một giây, theo ông trong thang máy rồi ra đến xe vừa không ngừng nói. Anh bảo có thể lên chỗ ông vì còn nhiều điều cần nói. Porter đồng ý và Vann ngồi vào ghế sau bên cạnh ông vừa tiếp tục giải thích. Một lúc sau, chiếc xe limousine dừng lại vì tắc nghẽn giao thông. Vann đột ngột nói “ Xin cám ơn nhiều, thưa ông đại sứ “ và mở cửa xe, biến mất trong đám đông. Porter bắt đầu hiểu rõ hơn những đức tính của con người khá lập dị này.

Tình bạn và sự thán phục của Dan Ellsberg đối với Vann dựa nhiều vào sự việc tình cờ đó. Lansdale để cho Ellsberg tùy ý hoạt động vì nhiệm vụ lần thứ hai của anh ở Việt Nam thực ra là một thất bại trong năm 1966. Anh trở lại để nhận một vai trò hoàn toàn buồn cười : tổ chức lại từ chóp chế độ Sài Gòn bằng sự thuyết phục và hấp dẫn của những lý tưởng cuộc cách mạng Mỹ. Westmoreland, tổng chỉ huy có thể được Kỳ, Thiệu và những người khác lắng nghe vì ông có những nguồn cho phép họ làm giàu. Lodge, đại sứ, cũng là một kẻ đối thoại có giá trị vì ông nắm quyền lực, họ có thể tác động để thỏa mãn tham vọng cá nhân về chính trị. Lansdale không có gì để thương lượng, và các quan chức Sài Gòn bỏ mặc ông với  những bài thuyết giáo. Hơn thế, nhiệm vụ chính trị của ông là liên lạc giữa Đại sứ quán và Bộ Kiến thiết nông thôn không còn lý do tồn tại từ khi Johnson quyết định giao cho Porter giám sát chương trình bình định. Do vậy, Lansdale ở trong một tư thế mơ hồ và đi đến thất bại trong việc cố vấn những vấn đề bình định bên cạnh Đại sứ quán. Điều tích cực duy nhất ông có thể làm trong những hoàn cảnh đáng ngờ ấy là dùng uy tín vốn có để tác động dư luận về hướng này hoặc hướng khác. Nhiệm vụ của nhóm ông cho phép Ellsberg chõ mũi vào cuộc tranh cãi về công việc bình định và hoạt động của trại Vũng Tàu. Và anh không bỏ qua ! Những báo cáo của anh với Lansdale là những bản trình bày rõ ràng, ngoạn mục luận thuyết của Vann, thuyết phục được Lansdale và gây ấn tượng cho Porter.

Tuy tình hình tồi tệ, phải để nhiều tháng, đến tháng Sáu năm 1966, người ta mới rũ bỏ được Mai, chỉ huy của nhóm trong trại. Jorgenson không muốn mất mặt khi thừa nhận trùm CIA và tất cả những công việc tình báo của ông bị một trong những nhân viên trung thành của họ lừa. Dù sao ông cũng  đủ độc lập vì là trưởng chi nhánh ở Sài Gòn để thu xếp mọi việc theo ý mình.

Vann bắt đầu sợ mình la một người bị theo dõi. Tháng Tư, anh được bổ nhiệm phụ trách các kế hoạch và dự án có quyền giám sát tất cả những chương trình khác về chống nổi dậy cũng như việc huấn luyện các đội bình đinh. Tuy vậy, anh sợ bạn bè của Jorgenson than phiền vê anh khá mạnh ở Washington làm ảnh hưởng đến bước tiến của anh. Khi nghe tiếng đồn về trường hợp ấy, anh tìm một khả năng khác tránh việc đáng sợ là phải trở về Colorado.

Cũng thời kỳ đó, McNamara muốn kiểm soát chặt chẽ hơn các lực lượng quân sự, thành lập một nhóm dân sự ở Lầu Năm Góc cung cấp cho ông những phân tích không thiên vị về chiến lược và chương trình trang bị vũ khí. Văn phòng phân tích này gồm một nhóm trí thức khác thường kiểu Ellsberg. Hai người chịu trách nhiệm, Alian Enthoven, trước đây cũng ở Công ty Rand và người phó Fred Hoffman, đều là bạn của Ellsberg. Cho đến lúc đó, văn phòng phân tích bỏ quan châu Á để tập trung vào chiến lược hạt nhân và Liên minh Đại Tây Dương. Bây giờ, McNamara muốn họ nghiên cứu về việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam . Ông tìm một người không bảo thủ có kinh nghiệm về thực địa và khả năng trí tuệ cần thiết để phân tích về số lượng chủ yếu dựa trên thống kê. Một trong những bạn bè họ gặp Vann ở Sài Gòn, nghĩ anh có thể phù hợp với vị trí này.

Tháng Năm, Hoffman viết thư cho Vann, gợi ý trong đợt nghỉ phép tới, đến Lầu Năm Góc nói chuyện về việc phụ trách bộ phận châu Á đang hình thành. Vann trả lời sẵn sàng và Ellsberg gửi một bức thư ba trang giới thiệu một cách ca ngợi và thuyết phục. Công việc mới này cho phép Vann có khả năng gần gũi với McNamara và tiếp tục đi sâu về vấn đề anh đã ấp ủ từ lâu. Là thành viên của nhóm tinh hoa phục vụ quyền lực của Washington , một ngày nào đó anh có thể trở lại Việt Nam với trách nhiệm cao hơn. Và vì Mary Jane cùng các con đã ở Colorado, anh không cần phải đưa họ lên Washington.

Anh trao đổi với Hoffman và Enthoven trong tháng Sáu, cố sức gây cho họ cảm tưởng có thể chờ đợi nhiều ở anh. Enthoven nhấn mạnh việc McNamara để cho Văn phòng phân tích tự do hoàn toàn nên các thành viên phải trung thành tuyệt đối với bộ trưởng Quốc phòng nếu một ngày nào họ không tán đồng đường lối của ông ấy. Vann hứa triệt để kín đáo và im lặng. Anh cho rằng vị trí người ta dành cho anh là dịp tốt, nhất là, sau khi anh trở lại Việt Nam một người bạn viết thư cho anh biết trưởng cơ quan AID của Đông Nam Á bắt đầu nghi ngờ anh qua những khiếu nại của CIA và định giữ chân anh ở vị trí bàn giấy không quyền lực.

Việc Enthoven được McNamara đồng ý, đưa anh vào vị trí này là một vinh dự và chứng tỏ tiếng tăm của Vann, sự tôn trọng sự thật, tinh thần dũng cảm và ý thức phục vụ được trung tâm hệ thống cầm quyền biết đến. Nhưng vào cuối tháng Chín, khi Enthoven quyết định có sự điều động nghiêm chỉnh thì việc tín nhiệm ban đầu của Vann ở vị trí này kém hẳn. Một cách nhìn khác và một truyền bá hơi rắc rối (mà Vann có tham gia) làm người ta xét lại vị trí của anh vì Jorgenson và CIA cho là kỳ cục. Rồi Jorgenson ra đi, việc tranh cãi trước đây chỉ là một chuyện cũ đối với trùm CIA mới dù vẫn còn một ít chua cay. Vị trí của Vann ở Việt Nam được tăng cường đến mức anh có thể đương đầu với những khiếu nại của một số chống lại anh ở Washington. Đầu tháng Mười, khi anh về làm lễ tang Myrtle, anh đã lên một bước trên bậc thang chính quyền, được bổ nhiệm làm phó giám đốc các hoạt động của AID ở Quân đoàn 3.

 Vann biết Washington dự định tổ chức lại việc bình định vì tổng thống và McNamara không hài lòng về kết quả . Họ lựa chọn giữa giao toàn bộ trách nhiệm cho tướng Westomerland hoặc giữ quân sự và dân sự độc lập với nhau nhưng hợp nhất các cơ quan dân sự AID, CIA, USIS dưới quyền của Porter. Một chức vụ lãnh đạo bên trong tập hợp đó sẽ có trách nhiệm lớn hơn là giám đốc vùng củ AID. Vann đã đặt một chân vào vị trí ấy khi hiên nay anh đã có một luật sư đặc biệt tốt là Ellsberg. Do nhóm của Lansdale đã giải thể, bây giờ Ellsberg làm việc cho Porter rồi anh sẽ trở thành phó của ông. Chính chất lượng những báo cáo của anh cho Lansdale rất nhuộm màu chiến tranh, đã đưa anh lên vị trí này. Vann đã dạy cho anh sự mạo hiểm sẽ được trả công rất hào phóng bằng nguồn tin tức dồi dào thu lượm được và sẽ thỏa mãn về cảm giác nên Ellsberg không ngừng một mình đi khắp nước hoặc đi cùng Scotton và Bumgardner khi Vann không rảnh việc . Họ chấp nhận với nhau là thành viên nhóm tinh hoa nhỏ người Mỹ, như Vann, say sưa và táo bạo.

John Vann cũng biết trong quá trình cải tổ như vậy, xu hướng tự nhiên của chính quyền là lựa chọn  những nhân vật không bàn cãi về các vị trí có trách nhiệm. Để tăng thêm vận may, anh chơi trò nhìn vào người cần đến mình : anh viết thư cho Enthoven ở Lầu Năm Góc nói sẽ rất sung sướng được đứng đầu bộ phận châu Á mới của anh và những việc đào tạo chính thức sẽ bắt đầu với sự bô nhiệm mới này. Dĩ nhiên, anh làm cho những người có tiếng nói ở Sài Gòn biết sự tình cờ hấp dẫn ấy đồng thời anh đề nghị với Washington giải quyết công việc tạm thời này biến nó thành vị trí ổn đinh. Như anh đã viết cho một người bạn ở Denver “ Tôi sử dụng Enthoven để gây rắc rối cho AID “.

Porter chắc tán thành Vann đủ để có một quyết định mạnh bạo. Washington chọn giải pháp thứ hai, tập hợp các cơ quan dân sự dưới một mái dù và cuối tháng Chín năm 1966 tuyên bố thành lập Cơ quan các hoạt động dân sự (OCO). Porter được Lodge đồng ý, để cho Vann chọn giữa Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4, chỗ chiến tranh bị đình trệ. Vậy là anh thích Quân đoàn 3 hơn vì những lý do nghiệp vụ và riêng tư. Văn phòng của anh ở Biên Hòa chỉ cần nửa giờ đi xe là đến Sài Gòn. Đấy là trung tâm dễ tiếp cận quyền lực của Đại sứ quán và của Westmoreland, những “ nhà du lịch “ nổi tiếng đến ngó xem cuộc chiến tranh , cũng thuận tiện liên lạc với báo chí vốn không bỏ qua việc bổ nhiệm anh. Ward Just của tờ WASHINGTON POST viết một bài báo đăng lên trang đầu, nói Porter đã chọn “một trong những người Mỹ huyền thoại “.

Việc chọn vị trí này không cản trở gì cuộc sống riêng tư của anh với Annie và Lee, không làm anh mất cảm giác của những đêm Sài Gòn . Bán kính hoạt động của anh trải rộng trên 11 tỉnh xung quanh thủ đô. Anh bố trí tổng hành dinh trong một chỗ trú quân khiêm tốn AID đã làm gần sân bay Biên Hòa và tổng hành dinh của Quân đoàn 3. Sở chỉ huy các lực lượng Mỹ, bốn sư đoàn, thêm một lực lượng quân Úc 45.000 người và một lớp lính mới nhập ngũ người New Zealand, bố trí tại một căn cứ mới rộng lớn ở Long Bình cách đấy không xa.

Vị trí đứng đầu những hoạt động dân sự của Quân đoàn 3 là chức trách đầu tiên quan trọng nhất của Vann kể từ Sư đoàn 7 và anh rất hào hứng. Trong giấy bổ nhiệm chính thức, Porter chỉ rõ anh là “viên chức dân sự Mỹ có cấp bậc cao nhất trong vùng” và anh “ lãnh đạo, giám sát, phối hợp mọi hoạt động dân sự Mỹ”. Việc bổ nhiệm chính thức anh vào phân ban châu Á của Washington đến cùng một lúc với quyết định của Porter. Vann viết thư cho Enthoven tỏ ý tiếc, nói rằng việc đề bạt của Porter là một bất ngờ; để chuẩn bị cho tương lai, anh nói thêm kinh  nghiệm làm việc ở Quân đoàn 3 sẽ chuẩn bị tốt hơn cho một vị trí sau này ở Lầu Năm Góc. Các cố vấn dân sự trong một tỉnh bắt đầu làm việc thành nhóm dưới quyền một người có trách nhiệm có thể thuộc về bất cứ cơ quan nào và sẽ đại diện cho họ trong quan hệ với những quan chức Việt Nam . Tuy vậy, do các cố vấn quân sự tùy thuộc vào một sự chỉ huy khác, những yếu tố an ninh cần thiết cho công việc bình định, các lực lượng vùng và cảnh sát tiếp tục dưới một quyền lực khác.

Những bất cập và yếu kém của Cơ quan hoạt động dân sự mà Vann nhận thức thấy không làm giảm  niềm vui của anh là đảm đương một cấp dân sự tương đương gần như một tổng chỉ huy ở thực địa. Tính tất cả thành viên ban tham mưu của anh, các cố vấn và phó của họ, Vann có dưới quyền của mình 350 người Mỹ, gần 100 người Philippines và Nam Hàn, hơn 550 nhân viên Việt Nam . Tướng Seaman vốn mến anh, tiếp anh ở phòng ăn các sĩ quan, để anh ra vào tự do ở ban tham mưu với lợi thế của một nhân vật quan trọng, đặc biệt được sử dụng tùy ý một trong những chiếc máy bay lên thẳng H-23 dùng cho việc quan sát và liên lạc. Nhờ chiếc máy bay nhỏ hai chỗ ngồi này, Vann đi thăm 11 tỉnh trong một tuần lễ vào tháng Chạp. Ở mỗi tỉnh, anh qua nửa ngày với các cố vấn dân sự, giải thích kế hoạch hành động, hỏi họ và chọn những người phụ trách. Tuần lễ tiếp đó, anh trình bày với Seaman và ban tham mưu của ông tổ chức mới của chương trình bình định và những mục tiêu muốn đạt được. Rồi anh cũng làm thế với các chỉ huy sư đoàn và ban tham mưu. Nói chuyện với những người cầu vai có sao thật là vui thích ! Anh viết thư cho York “ Không cần phải nói tôi hân hoan đến mức nào về công việc mới của tôi “.

Tình hình công việc không làm Vann để mất mục tiêu cuối cùng của anh. Cũng trong bức thư gửi York ngày 23 tháng Chạp, anh viết  “Không may là tôi không thể thông báo cho anh một tiến bộ nào từ khi chúng ta trao đổi với nhau trong mùa xuân. Tôi vẫn luôn lạc quan về điểu có thể làm nhưng vẫn buồn lòng về thực tế thực hiện được ít ỏi “. Cùng thời gian ấy, diễn ra những sự kiện quan trọng. Bây giờ, tướng Westmoreland sử dụng ở miền Nam 385.000 lính Mỹ và đi vào giai đoạn hai cuộc chiến tranh hủy diệt của ông : chuẩn bị cho chiến thắng cuối cùng. Vann không thấy sự tàn bạo ấy có thể giúp xây dựng ở Sài Gòn một chính phủ và một xã hội bền vững ở chỗ nào. Anh viết trong một bức thư khác “ Tôi rất sợ không bao giờ chúng ta phát hiện ra cách có thể thắng ở Nam Việt Nam. Có vẻ tuyệt đối chắc chắn chúng ta tiếp tục leo thang cho đến lúc Bắc Việt Nam buộc phải thương lượng và ở bàn thảo luận, chúng ta sẽ đặt cược vào tất cả những gì chúng ta đạt được, giá của những sinh mạng Mỹ và Việt Nam , không kể đến những tỷ đô la phải đóng góp “. John Vann tôi gặp năm ấy đang sục sôi giận dữ, nhận thấy sự đau khổ vô ích áp đặt lên tầng lớp nông dân Việt Nam , sự tha hóa được người Mỹ khuyến khích, thái độ lơ là của Quân lực Cộng hòa và sự biến đổi xâu xa của đất nước này mà anh đã đầu tư biết bao sức lực với bao xúc cảm.

 Làn sóng những người mất gốc tăng lên theo những dòng suối không nhà cửa như tôi đã thấy ở đồng bằng Bồng Sơn đã lên đến hơn 2 triệu người. Những mất mát dân thường, phần lớn do những “hành động bạn bè”, theo một đánh giá dè dặt, hàng năm đã có 25.000 người chết, bình quân mỗi ngày 68 đàn ông, đàn bà và trẻ con. Mỗi năm khoảng 50.000 người không chiến đấu bị thương nặng. Thôn làng bỏ lại, ruộng lúa không cấy cày đã trở thành quang cảnh quen thuộc ở nông thông. Hơn một phần ba ruộng đồng ven biển miền Trung bỏ hoang. Những vùng tự do bắn phá mà người ta gọi là “ vùng tấn công “ phát triển nhanh chóng trên bản đồ bằng những gạch đỏ không thể đếm được số lượng và diện tích nữa. Những máy bay B-52 của chỉ huy Không quân chiến lược hành quân với mật danh “ Cầu Vồng “ chỉ còn bỏ bom những cơ sở cộng sản ở các vùng tương đối không có người ở vì sức công phá gần như một  máy bay hạt nhân chiến thuật. Máy bay phản lực tám động cơ biến thành những quái vật ném bom hai mươi tấn bom bay. Một đội hình sáu chiếc b-52 bay cao 10.000 mét thực tế có thể phá hủy tất cả trong một chu vi chiều rộng một cây số, chiều dài ba cây số. Mỗi lần “ Cầu Vồng “ ầm ì lúc bình minh quanh Sài Gòn , cả thành phố thức dậy vì rung chuyển.

Máy bay B-52 chỉ thả một phần ba số bom. Hai phần ba kia dành cho máy bay tiêm kích ném bom muốn đánh đâu tùy thích. Cuối năm 1966, mỗi ngày có 400 lần bay. Trong 24 giờ, kể cả B-52, 825 tấn bom đổ xuống một vùng đất rộng bằng một phần ba nước Pháp. Từ cửa máy bay, người ta có thể thấy những vệt nâu lớn hố bom làm biến dạng vẻ đẹp phong cảnh của Việt Nam .

Nhưng máy bay không chỉ ném bom. Năm 1966, những chiếc C-123 dùng thuốc diệt cỏ tiêu diệt gần 350.000 héc ta rừng và hoa màu. Việc rải hóa chất làm trụi lá bắt đầu từ năm 1962 lại là một sai lầm nữa của John Kennedy thuận theo sự độc ác của Diệm và niềm say mê những giải pháp công nghệ của McNamara. Năm 1965, quân đội Mỹ tới Việt Nam , việc làm rụng lá cũng như những việc khác tăng theo con số chính xác và triệt để. Từ năm 1967, 600.000 héc ta rừng và đất canh tác bị phá hủy hàng năm để làm binh lính cộng sản thiếu ăn và không có chỗ ẩn náu. Việc phun hóa chẫt của máy bay C-123 lan theo gió, thuốc trừ cỏ bốc hơi vì nhiệt độ cao làm chết cả cây ăn quả và những vùng trồng trọt không trực tiếp bị đổ xuống. 70 triệu lít thuốc trừ cỏ dội trên 20% rừng miền Nam theo cách như vậy. Chất độc thường dùng nhất có chứa một lượng nhỏ dioxin, một trong những hóa chất nguy hiểm nhất, cuối cùng tích tụ lại trong bùn những con suối và thâm nhập vào toàn bộ hệ sinh thái. Sau chiến tranh những cuộc thử nghiệm chỉ rõ trong cơ thể dân chúng miền Nam có lượng dioxin lớn gấp ba lần liều lượng trung bình.

Khối lượng đạn súng cối và ca nông gần bằng khối lượng bom do máy bay dội xuống. Thông thường quân lực Cộng hòa bắn 1.000 quả đạn trọng pháo Mỹ , gấp mười lần số lượng cần thiêt để chống lại Việt Nam và quân chủ lực Bắc Việt . Mức độ tiêu thụ vượt xa số lượng các cơ quan hậu cần xây dựng theo kinh nghiệm Thế chiến thứ hai và chiến tranh Triều Tiên. Tướng DePuy được Westmoreland khen thưởng vào mùa xuân năm 1966 về việc chỉ huy Sư đoàn 1 bộ binh và nhận ngôi sao thứ hai do sự đóng góp trong cuộc chiến tranh hủy diệt. Ông ta đã bắn đạn súng cối vào vùng trồng cao su đến mức Seaman phải bắt đầu định mức cho ông “ Giải pháp ở Việt Nam là bom nhiều nữa, đạn cối nhiều nữa, napalm nhiều nữa cho đến lúc đối phương gục xuống và bỏ cuộc “, một hôm trong bữa ăn trưa dưới lều bạt, DePuy đã nói như vậy với Ellsberg.

Theo “Qui ước của quân đội chiến đấu 27-10” ký tại La Haye và Geneve khi đăng ký hợp pháp quân đội Mỹ, nói rõ các sĩ quan “phải tôn trọng những nguyên tắc nhân đạo và thượng võ”. Trong cuộc hành quân Máy nghiền ở Bồng Sơn, những người Mỹ có trách nhiệm ở Việt Nam quay mặt đi và những người nông dân bị bỏ mặc cho AID. Một bác sĩ quân ý, trung tướng James Humphreys, cố phát huy tối da lòng nhân đạo. Ông xin hai máy bay vận tải và năm trực thăng để chuyển dân thường bị thương lên bệnh viện tỉnh và đưa những người cần chữa trị đặc biệt lên bệnh viện Sài Gòn . Những người bị thương nặng không có may mắn được trực thăng chở đi chết trước khi được cứu chữa và những người đi xe cấp cứu đến Sài Gòn thì cuộc hành trình dài trên những con đường hư hỏng cũng đủ để kết thúc cuộc đời họ. Trong một nước có những phi đội đầy đủ máy bay vận tải, 2000 chiếc trực thăng năm 1966 và hơn 3000 năm 1967, tướng Humphrey được trả lời những yêu cầu về quân sự không cho phép hai máy bay vận tải và năm trực thăng quay lại để chuyển những người dân thường bị thương.

Humphrey dự định cho xây dựng ba bệnh viên quân y dành cho dân thường bị thương. Ông đã tính hàng năm số lượng người bị thương sẽ lên đến 75.000 người ( năm 1968 có 85.000 người ). Nghị sĩ Edward Kennedy, nhân vật chính trị độc nhất ở Washington không ngừng nêu lên điều kiện đáng buồn của thường dân Việt Nam lên ủy ban Thượng viện về người tị nạn mà ông là thành viên, làm mọi điều cần thiết để Humphreys có thể trình bày kế hoạch lên tổng thống ở hội nghị Guam tháng Ba năm 1967, Lyndon Johnson đã phê chuẩn.

Đáng lẽ những bệnh viên được xây dựng trong ba tháng. Nhưng lề lối quan liêu của các cơ quan y tế trong quân đội không muốn nhận trách nhiệm, làm chậm trễ và phá hỏng kế hoạch. Một nhóm điều tra của các bác sĩ nổi tiếng do phó chủ tịch Hội bảo vệ sức khỏe Mỹ cầm đầu, được cử sang Việt Nam vào mùa hè năm 1968. Nhóm này cũng phản đối kế hoạch vì sợ quân đội không đưa thầy thuốc vào các bệnh viện mới. Tháng Mười năm 1967, Kennedy phải chỉ thị nhiều lần , buộc quân đội dành 300 giường trong những bệnh viên quân y hiện có cho dân thường bị thương, con số này tháng Chạp lên đến 500. Hai bệnh viện đầu tiên do Humphreys dự kiến cuối cùng làm xong vào mùa xuân năm 1968 và bệnh viện thứ ba hoàn thành trong năm. Các bệnh viện chữa trị được khoảng 10% dân thường bị thương trước khi đóng cửa vào năm 1971. Humphreys và người kế nhiệm tổ chức được các đội y tế gồm người Mỹ và một số đồng minh chiến đấu người Úc và người Nam Hàn. AID cũng cử sang những người tình nguyện tuyển dụng ở Hoa Kỳ trong thời hạn hai tháng. Nhưng mọi cố gắng ấy không tránh được việc làm cho những bệnh viện tỉnh thành những nơi chồng chất xác chết.

Vann tin chắc việc nảy sinh dân tị nạn và số lượng mất mát kèm theo không phải do những trận đánh vào quân địch mà là kết quả của một đường lối có chủ đích cảu chỉ huy cấp cao. Mỗi lần chúng tôi nói về điều đó, anh giận dữ như trước đây khi một cố vấn của Sư đoàn 25 tuyên bố rằng nếu nông dân muốn sống với những người cộng sản thì “ họ phải chịu bom đạn “. Khi ấy, cổ và mặt anh đỏ lên vì bực bội và cuộc nói chuyện kết thúc bằng một tràng chửi rủa.

Có thể Westmoreland không có ý định gây ra một làn sóng rộng lớn và những mất mát cho dân thường cao đến vậy. Ông ta bắt đầu cuộc chiến tranh một cách quá đáng vì chỉ nghĩ đơn giản như DePuy phải “ đánh “ cho quân địch đến chết. Nhưng có vẻ dĩ nhiên khi nhận định những hậu quả chiến lược của mình, ông rút ra những gì ông tưởng là lợi thế và ý thức về việc mình làm cũng như những người có trách nhiệm trên và dưới ông. Westmoreland là một người rất lịch sự và cởi mở với báo chí trong những năm đầu chiến tranh này. Khi một phóng viên kết thúc công việc ở Việt Nam, anh không ra đi mà không được đặc ân có một ngày cùng Westmorelan đi trực thăng tham các đơn vị khác nhau. Đấy cũng là trường hợp của tôi trước khi trở về NEW YORK TIMES ở Washington vào tháng Tám năm 1966. Tôi có dịp hỏi vị tướng nghĩ gì trước sự mất mát to lớn của dân thường do máy bay và trọng pháo bắn phá. Ông trả lời :

“ Neil, chắc chắn đấy là một vấn đề. Nhưng việc ấy làm cho quân địch không có sự giúp đỡ của dân chúng, đúng không ? “.

 Việc phá hủy không hạn chế, những mất mát thể xác ấy có hậu quả đến cơ cấu vật chất và tinh thần của đất nước. Việc xây dựng những cỗ máy giết người sẽ trở thành một kết thúc của chính mình. Đất nước nhỏ bé này với nền kinh tế thuần túy nông nghiệp biến thành một công trường rộng lớn nhờ những công trình Westmoreland cho xây dựng : bốn sân bay mới ( Không quân muốn có năm ) thêm vào ba đã có ở Tân Sơn Nhất, Biên Hòa và Đà Nẵng; sáu hải cảng mới với 28 bến tàu hàng ; bốn kho hậu cần; 26 cơ sở thường xuyên cho các đội quân chiến đấu và lực lượng tăng cường; 75 đường băng có thể tiếp nhận máy bay vận tải bốn động cơ C-130 Herculess ( năm 1965 đã có 19 đường băng ); 26 bệnh viện với 8.280 giường; tổng hành dinh của Westmoreland , một tòa nhà lắp ráp một tầng gần Tân Sơn Nhất, trang bị phòng làm việc có điều hòa nhiệt độ cho 4.000 người, tất cả được lắp hệ thống điện tử mới nhất và một hệ thống điện thoại trực tiếp gồm 13.900 mạch điện.

Mỗi cơ sở hàng không là một thế giới riêng, bao gồm một đường băng dài 3 cây số với hàng chục nghìn mét vuông diện tích khởi động và lối vào ( lúc đầu bằng nhôm sau đổ bê tông), các kho hàng, xưởng sửa chữa, văn phòng và trung tâm hoạt động, lều trại tạm, nhà ăn và những cơ sở phụ. Lúc đầu, phần lớn cơ sở là các làng. Ví như Long Bình, tổng hành dinh của Seaman ở phía đông bắc Sài Gòn trở thành một thị trấn thực sự với diện tích 65 hec ta cho 43.000 người Mỹ cùng một trong bốn kho hậu cần lớn nhất ở Việt Nam, là đơn vị hành chính và chỉ huy phụ thuộc trực tiếp vào Westmoreland.

Cảng Cam Ranh, cách Sài Gòn 300 cây số về phía đông bắc, được xem là hải cảng tự nhiên đẹp nhất sau Sydney ở Úc. Người Pháp đã xây dựng một cơ sở nhỏ ở đây với đường băng máy bay hạ cánh. Vùng này luôn ít dân cư vì núi rừng miền Trung ăn xuống tận biển chỉ có một dải đất cát. Người Mỹ đưa từ bờ biển phía Đông Hoa Kỳ sang những ụ nổi đồ sộ tạo nên một hải cảng mới lớn nhất với mười trạm bốc dỡ có thể đón những tàu lớn nhất. Dải đất cát đầy cửa hiệu, kho chứa đạn dược, bình nhiên liệu và một đường băng dài ba cây số. Ở đây bố trí nhà kho thứ hai trong bốn kho hậu cần lớn; hai kho kia ở phía bắc, Quy Nhơn và Đà Nẵng.

Westmoreland cho thực hiện nhanh chóng chương trình xây dựng gồm 950.000 mét vuông nhà kho, 500.000 mét vuông là chỗ để đạn dược, các bể xăng, 39 triệu mét khối đất nạo vét, 4.000 cây số đường cải tạo và 175.000 héc ta đất trồng trọt bị tận dụng.

Toàn bộ kiến trúc ấy cũng là sự nhập cảng nền văn minh Mỹ. Việc đó bắt đầu từ những trại nghỉ của quân đội, nhà gỗ trên nền xi măng, có quạt  máy, nước nóng trong vòi tắm và những nhà vệ sinh chu đáo. Các tướng tá ở Long Bình ở nhà nghỉ lưu động có điều hòa nhiệt độ, xung quanh là thảm cỏ và cây hoa do người Việt Nam chăm sóc. Để nuôi sống hàng trăm nghìn người trong một nước nhiệt đới cách nước nhà mười lăm nghìn cây số mỗi ngày ba bữa ăn có quả tươi, rau, thịt và sản phẩm sữa giống như quân lính ở Hoa Kỳ , phải có một số lượng lớn máy đông lạnh và tủ lạnh. Tháng Chạp năm 1965, xí nghiệp Mỹ Foremost Dairy được quân đội chi tiền xây dựng ở Sài Gòn một nhà máy chế biến sữa. Một công ty khác xây dựng hai nhà máy khác. Để đảm bảo đủ kem lạnh cho quân lính, quân đội cũng cho làm bốn mươi nhà máy nhỏ khắp trong nước. Lính đi hành quân nói chung phải ăn khẩu phần C bình thường thời chiến nhưng có thể họ cũng được trực thăng cung cấp khẩu phần A gồm những món ăn nấu từ căn cứ và vận chuyển đến trong những container cách nhiệt giữ nóng.

Các sĩ quan cao cấp ở trong những khu cấp tướng, những ai có thể đều trang bị nhà ở, phòng ăn, chỗ làm việc có điều hòa nhiệt độ. Với những nhu cầu khác của quân đội, nguồn điện địa phương nhanh chóng quá tải, đến mức phải cắt điện hai ngày một lần trong một số vùng ở Sài Gòn . Do máy phát điện ở nông thôn không đủ, quân đội mua riêng ( 1.300 máy phát rất mạnh của Nhật và Hoa Kỳ ), biến những đèn dầu cũ thời Thế chiến thứ hai thành những máy phát điện nổi và làm nhà máy điện cao thế ở các căn cứ chính.

Tiện nghi cũng đòi hỏi xây dựng cả một hệ thống giải trí : nhà chiếu phim, chơi bowling, câu lạc bộ đầy đủ xô đa, bia, rượu Whisky, kem trứng , nhiều khối đá lạnh để giữ mát những thứ đó, không kể bánh kẹp thịt, kẹp xúc xích nóng bít tết. Không còn là những căng tin bán thuốc lá, lưỡi dao cạo, kẹo bánh mà thay vào đó là những cửa hàng lớn cung cấp cho quân lính đầy đủ vật dụng thích hợp với cuộc sống quen thuộc : đài, máy ghi âm, đồng hồ, quần thể thao, sơ mi mặc trong đợt nghỉ phép nếu họ không bị bắn chết trong sáu tháng đầu năm của họ đến Việt Nam . Ở đấy cũng có những mỹ phẩm cho các bạn gái Việt Nam . Nếu người lính muốn có một chiếc quạt máy, bình cà phê điện, một máy vô tuyến truyền hình, máy điều hòa nhiệt độ hoặc thậm chí tủ lạnh trong cửa hàng không có, anh ta có thể đặt hàng theo bảng mẫu. Lý thuyết chính thống cho rằng, tạo điều kiện cho lính Mỹ bước vào thiên đường tiêu thụ, người ta bớt được việc mua ở chợ địa phương và do đó kiềm chế được sự lạm phát trong nước.

Lý luận ấy không hoàn toàn sai. Lạm phát được giữ đến 50 và 60% hàng năm nhất là khi tăng nhập khẩu do AID tài trợ cho nền kinh tế miền Nam Việt Nam ( 650 triệu đô la trong năm 1966 ) và gửi hàng triệu tấn gạo Mỹ sang một nước năm 1964 còn xuất khẩu gạo. Nhưng nhìn vào tai họa rộng lớn về đạo đức và xã hội một số điểm mà lý thuyết ấy cho phép lạm phát cũng không khác nhau nhiều. Những người miền Nam Việt Nam đứng trước một thế giới lộn xộn. Hàng trăm nghìn người bắt đầu kiếm sống dựa vào việc phục vụ những người ngoại quốc hào phóng này. Và gia đình hàng trăm nghìn người khác sống vào sự ủy thác của người Mỹ. Công việc vệ sinh ở Sài Gòn suy sụp vì những người hốt rác bỏ việc hàng loạt chạy đi làm ở các công trường xây dựng của quân đội lương cao hơn nhiều so với mức lương hội đồng thành phố trả.

Năm 1966, thời kỳ xây dựng phát triển mạnh, các hãng xây dựng lớn của Mỹ liên hiệp làm cho quân đội đã dùng đến 50.000 người Việt Nam . Năm 1967 đã có 8.500 kỹ thuật viên, không kể hàng nghìn người thuộc nhiều tổ chức khác. Quân lính cũng cần người giúp việc nhà, giặt quần áo, đánh giày, lau chùi nhà cửa, làm bếp, phục vụ các nhà ăn và câu lạc bộ. Chỉ riêng Long Bình đã có 20.000 người.

Lại phải có những dịch vụ giải trí cho những người nước ngoài này. Báo chí Sài Gòn in hoạt họa hệ thống xã hội mới theo thứ tự quan trọng đối với người Mỹ. Đầu tiên là gái mại dâm và ma cô, vị trí thức ba thuộc về những lái xe taxi đưa lính Mỹ đi từ chỗ vui chơi này đến chỗ vui chơi khác. Thợ may rẻ tiền và nhà chứa mệnh danh “ nhà tắm hơi “ hoặc “ phòng xoa bóp “ nở rộ ở Sài Gòn và các thành phố lớn hoặc trong những căn nhà tạm bợ bên ngoài các trại lính. Chỉ riêng ở Sài Gòn theo thống kê chính thức có 56.000 gái mại dâm, dĩ nhiên chưa kể những người không chuyên.

Phần lớn gái mại dâm đến từ nông thôn vì sự phá hủy vật chất ở các vùng nông nghiệp đã có một tác dụng gián tiếp khác, giúp lính Mỹ về công việc và giải trí. Những người tị nạn đến chồng chất trong những căn nhà tồi tàn ở các khu phố đã quá đông dân cư, xây dựng những nhà rách nát mới xung quanh các trung tâm đô thị. Nhưng không phải tất cả đều may mắn tìm được việc làm ở những người nước ngoài giàu có hoặc có người bà con giúp đỡ. Miền Nam Việt Nam cũng có hành khất. Trên đại lộ Catinat ở Sài Gòn, người quen nghề, thường là tàn tật, ngày này qua ngày khác chiếm một chỗ đầu hè phố xin người qua lại và sống bằng những của bố thí ít ỏi. Đàn bà góa, trẻ mồ côi, những người què cụt cầu khẩn lòng thương của người Mỹ trở thành một cảnh thường xuyên trong đời sống thành phố.

Rác rưởi ít được thu lượm, chất đống ở Sài Gòn . Đêm khuya sau giờ giới nghiêm, khi không gian tĩnh lặng , những đống rác bắt đầu lay động khi có người đi qua : tiếng chân bước làm chuột bỏ chạy từng đàn. Một hôm, tôi thấy một câu tiếng Việt được viết bằng phấn đậm nét trên hè đường trước một đống rác. Tôi đề nghị nhà báo Việt Nam đi cùng dịch hộ. Câu ấy là :

“ Kết quả sự giúp đỡ của Mỹ là thế đấy “.

Các ông tướng Sài Gòn cùng vợ của mình cũng như các ông tá và vợ của họ , giới tư sản người Hoa Chợ Lớn và những tay lừa đảo cỡ nhỏ đánh chén trong bữa tiệc ăn như hộ pháp của sự tha hóa. Tổng thống Thiệu và vợ đã vơ vét được nhiều triệu đến mức họ mua một nhà băng quản lý tiền lãi cho dịch vụ mua bán của họ. Không phải tình cờ mà phần lớn những ngôi nhà ở Sài Gòn người Mỹ thuê ở, làm văn phòng hoặc kho hàng là tài sản của những gia đình quyền thế của chế độ hoặc của những mối quan hệ của họ. Hai mươi bốn triệu đô la tiền thuê nhà quân đội Hoa Kỳ trả năm 1966 là của bất ngờ Trời cho những chủ nhân có tài sản như tình cờ bố trí nhà cửa. Người Trung Hoa và người Việt Nam giàu có lớn tiếng đòi hỏi và đút lót mạnh để được phép xây dựng những ngôi nhà và khách sạn mới cho người Mỹ thuê. Nhưng để xây dựng những cơ sở mới ấy phải có giấy phép mua xi măng, sắt thép và những nguyên vật liệu về nguyên tắc được định mức để dành cho chiến tranh và nhà ở cho dân tị nạn. Hàng trăm triệu đô la rót vào  nền kinh tế Việt Nam để chống lạm phát tạo điều kiện dễ dàng chi phí cho giấy phép nhập khẩu ở hậu trường.

Dựa vào sự khát uống của lính Mỹ, việc nhượng quyền phân phối bia Nhật hoặc Philippines cũng đặc biệt béo bở. Ngoài 40 nhà máy làm kem đá, quân đội Mỹ đòi gửi sang 40 nhà máy làm đá để tất cả các nhà ăn và câu lạc bộ không thiếu những miếng đá nhỏ bỏ vào cốc. Thế nhưng hình như không đủ. Thiếu tướng Phạm Ngọc Thuần, chỉ huy Sư đoàn 5 Quân lực Cộng hòa trong vùng trồng cao su, vội vã thỏa mãn yêu cầu của họ. Ông cho công binh xây dựng một nhà máy và lao vào kinh doanh đến mức nổi tiếng là “ tướng đá “.

Bảo Đại, những người đồng lõa Bình Xuyên và bạn bè thân tín của họ cảm thấy rất thỏa mãn làm giàu bằng tiền hoa hồng đánh vào nghề mại dâm và những thú vui kèm theo. Những người kế nghiệp họ mở rộng nguồn lợi lớn ấy với hàng đoàn gái đĩ do quân đội của nước mạnh nhất thế giới kéo đến mà quân lính giàu hơn rất nhiều những người lính trơn, lính Lê dương và lính đánh thuê Bắc Phi của quân đội viễn chinh Pháp. Mặt khác chỉ cần có một chút đầu óc kinh doanh để không chỉ hài lòng với kiểu tống tiền truyền thống và đơn sơ trong nghề mại dâm. Những khả năng mới mở ra đặc biệt của chiến tranh Mỹ vì như buôn đồng, mặt hàng hiếm có trên thế giới vì sự tiêu thụ quá mức cho súng đan. Thu nhặt vỏ đạn đồng trở thành nghề rất béo bở của những người bán lại cho nước ngoài với giá như vàng.

Ngoài ra, người Mỹ đem đến một nguồn lợi mới vô cùng tai họa : ma túy. Ở Đông Nam Á, nhiều người hút thuốc phiện và như Vann nhận xét năm 1965, binh lính Quân lực Cộng hòa cũng dùng chất ma túy và rượu để thoát khỏi hoàn cảnh vô vọng. Những người bản xứ ít dùng heroin. Người Mỹ thì khác. Phần đông những người được đưa sang Việt Nam mang theo mình chất ma túy và heroin phát triển ở Hoa Kỳ vào cuối những năm 50.

Những tay trộm cướp người xứ Corse đã có truyền thống xuất khẩu thuốc phiện để biến thành heroin ở Marseille rồi bán sang châu Âu và Hoa Kỳ không có điều kiện tiếp xúc với nhu cầu đột ngột của việc mua bán quan trọng này với người Mỹ. Ngược lại, xã hội sang trọng của những tay trộm cướp Trung Hoa của Chợ Lớn có thể nắm lấy thương trường này. Họ thừa mứa tiền bạc, bố trí một đường dây anh em và bà con suốt miền Đông Nam Á, chưa kể số băng nhóm thuộc hạ theo lệnh họ đảm bảo việc phân phối thuốc phiện ở miền Nam. Những người Corse tiếp tục tìm kiếm thuốc phiện đưa sang Marseille nhưng số lượng lớn nhất được những kẻ mua , biến thành heroin trong các phòng thí nghiệm bí mật ở Miến Điện hoặc Thái Lan. Cây thuốc phiện cho đến lúc đó được trồng một ít trong vùng trở thành một loại cây phát triển mạnh và bắt đầu đến Việt Nam hàng tấn. Những người lái máy bay ở An Khê nhanh chóng biết được trong thôn xóm gần đấy có những căn nhà tạm bợ từ đâu đó xuất hiện, họ có thể mua tất cả “loại cỏ” họ muốn với giá rẻ và nguyên chất hơn, có thể đưa họ lên độ cao, xa hơn loại họ mua rất đắt ở Hoa Kỳ . Để bảo vệ việc mua bán có lợi và tinh tế đó, cần thiết có những khoản đút lót lớn nhưng những con buôn Trung Hoa không cần đổ tiền vào từng viên tướng Sài Gòn : họ chỉ quan hệ với những người có quyền lực bảo vệ họ và những món hàng của họ.

Trừ những tiểu đoàn vận chuyển hàng không và Hải quân mà Westmoreland sử dụng trong những cuộc hành quân, các đội quân thường trực của Sài Gòn cẩn thận tránh đánh nhau sau năm 1965. Vann viết thư cho York ngày 23 tháng Chạp năm 1966 nói :” Tôi cho rằng hiệu nặng của Quân lực Cộng hòa chưa bao giờ kém như vậy”. Vừa rất hân hoan nhận trách nhiêm mới, giám đốc cơ qua hoạt động dân sự ở Quân đoàn 3, anh vừa nhận thấy cuộc chiến tranh không có tiến bộ nào đáng ghi nhận. Anh nêu lên con số thống kê những cuộc hành quân của ba sư đoàn Việt Nam ( thứ 5, 18 và 25 ) của Quân đoàn trong thời gian năm ngày : ngoài 5.237 cuộc tuần tra, chỉ có 13 cuộc tiếp cận với quân địch. Vann bình luận “ Bản thân tôi còn làm hơn thế với ít thời gian hơn”.

Do Westmoreland tiếp tục đòi tăng thêm quân cho cuộc chiến tranh hủy diệt, người ta gây sức ép với ông phải chấm dứt tính không hiệu quả của Quân lực Cộng hòa. Đầu năm 1967, Lyndon Johnson hứa cho ông 470.000 quân Mỹ. Tháng Ba, viên tướng báo cáo với Washington ông còn cần 80.576 người nữa để xây dựng một “ Lực lượng chủ yếu tối thiểu “ là 550.500 quân “càng sớm càng tốt, dù sao cũng trước ngày 1 tháng Bảy năm 1968”. Nhưng ông nói thêm ông mong có sự bổ sung 207.838 quân Mỹ để có một “ Lực lượng tối cần thiết khoảng 678.000 người”. Tổng thống khuyến khích ông “ đảm bảo quân đội Nam Việt Nam có tác dụng tốt trở lại”.

Viên tướng vừa nhắc lại đề nghị tăng cường quân Mỹ vừa bố trí để tự bảo vệ do lời kết tội không chăm lo đến quân lính Việt Nam . Westmoreland bảo ban tham mưu thảo chương trình, một tập văn bản ghi “ Mật “ để cải tiến trang bị và tập luyện lực lượng Sài Gòn , tăng thêm 300 cố vấn quân sự bổ sung. Ông cũng có những chỉ thị hướng dẫn các cố vấn, khi có thể, nêu lên những “yếu tố tích cực về tinh thần chiến” của quân đội Nam Việt Nam và giảm nhẹ những thất bại. Ông lên diễn đàn đề cao họ. Theo sĩ quan đối ngoại của ông, vị tướng muốn “cải tiến hình ảnh của Quân lực Cộng hòa”.

Trong phần lớn trường hợp, binh lính thường trực có thể tránh nhưng quân địa phương, bảo an và cảnh sát tiếp tục bị tiêu diệt ở các đồn tiền tiêu và trong các đợt phục kích : năm 1966, 11.953 người trong bọn họ bị giết, gấp hai lần con số 6.503 của lính Mỹ; năm 1967, họ chết 12.716 người, gần bằng các lực lượng Hoa Kỳ .

Với khuynh hướng hóm hỉnh bi đát, Vann sẽ thấy thật mỉa mai trong lúc anh viết thư cho York nói chẳng có gì thay đổi , anh biết người chống đối anh ba năm trước, Victor Krulak cũng thất vọng và giận dữ như anh. Trí thông minh đặc biệt và tài năng nghề nghiệp của ông cuối cùng đưa vị tướng Hải quân đến chỗ đồng lòng trong cuộc chiến tranh này. Bây giờ, ông khác với những người có trách nhiệm cao khác trong quân đội Mỹ ở chỗ hiểu được tính cách của những người Hà Nội.

Cũng như một luật sư giỏi buộc phải xem mỗi trường hợp như là độc nhất, việc người Mỹ tham chiến năm 1965 buộc Krulak hình dung cuộc tranh chấp ở Việt Nam khác đi. Cuộc chiến tranh hủy diệt của Wasington và De Puy mà ông chấp nhận không đắn đo thời Harkins bây giờ không còn có nghĩa đối với ông, đặc biệt dựa vào tình trạng đất đai và dân cư của năm tỉnh cực bắc vùng bờ biển miền trung ( Quân đoàn 1 ), nơi các đơn vị Hải quân của ông triển khai. Krulak đến đấy tháng Tám năm 1965, một trong nhiều chuyến đi nhân danh chỉ huy trưởng Hải quân Thái Bình Dương, chứng kiến trận đánh của quân lính ông chiến đấu chống Trung đoàn 1 Việt Nam, chết 51 người. Ông đã nghiên cứu báo cáo của Moore và một tiểu đoàn không vận khác bị tiêu diệt ở vùng sông Drang trong tháng Mười một. Những việc đó buộc ông phải đặt lại tất cả vấn đề. Tháng Chạp năm 1965, ông đã có quan điểm rõ ràng. Trong mùa xuân, ông báo cáo những nhận xét của mình trong một loạt giác thư và thư gửi McNamara cũng những người có trách nhiệm khác nhưng không nhận được trả lời như ông mong muốn. Ông quyết định tổng hợp những luận thuyết của mình để lôi kéo sự chú ý ông đang cần. Rõ ràng, Hà Nội không nhượng bộ trước sự tấn công bằng không quân xuống miền Bắc và những cuộc chiến đấu tại chỗ đang đi đến điểm cuối cùng. Krulak muốn người ta nắm lại quyền kiểm soát chiến tranh để tiến tới thắng lợi trong lúc còn chưa muộn.

Ông bắt đầu làm việc ở văn phòng, đặt trên một ngọn đồi khống chế vùng Trân Châu Cảng. Phải mất một tuần lễ viết bằng bút cìh trên giấy kẻ khổ rộng bản trình bày 17 trang đánh máy. Ông nêu chi tiết mỗi lập luận của mình kèm biểu đồ nhấn mạnh những điểm quan trọng. Người ta thấy trong đó nhiều ý tưởng sai đã thành truyền thống của người Mỹ về người Việt Nam và lịch sử của họ.

Cuộc chiến tranh hủy diệ sẽ thất bại. Krulak viết, vì đó là trò chơi của quân địch. Lấy ví dụ như trận Ia Drang, trong bốn ngày có đến 233 nạn nhân Mỹ, ông cho rằng những người cộng sản Việt Nam “ tìm cách hủy diệt lực lượng Mỹ với những cuộc tấn công dữ dội và gần, hầu như giáp lá cà để vô hiệu hóa lực lượng hỗ trợ” nghĩa là trọng pháo và máy bay. Những người có trách nhiệm của Hà Nội cho rằng nếu họ giết và làm bị thương khá nhiều lính Mỹ trong một thời gian nhất định, “họ làm suy mòn tinh thần quốc gia của chúng ta đến mức dẫn chúng ta đến việc chấm dứt giúp đỡ chính quyền Sài Gòn “. Võ Nguyên Giáp “ trong cuộc chiến tranh thứ nhất đã nghĩ nếu cái giá về mạng người và tiền bạc khá cáo thì người Pháp sẽ thất bại ở ngay Paris. Ông ấy nói đúng. Có thể ngày nay ông ta cũng nghĩ như thế về Hoa Kỳ “.

Krulak thể hiện một logic luận thuyết của ông về chiến tranh hủy diệt, chứng minh Hà Nội có thể hy sinh trong cuộc chơi chết chóc này nhiều người hơn Hoa Kỳ . Những người cộng sản Việt Nam có ở miền Bắc cùng Việt Nam ở miền Nam một lực lượng quân sự dự trữ khoảng 2.600.000 lính chiến đấu. Nếu dựa vào tỷ lệ chính thức về mất mát, một lính Mỹ hoặc lính miền Nam bị giết đổi lấy 2,6 Việt cộng hoặc lính miền Bắc, những con số Krulak đánh giá “lạc quan”, cũng phải mất 10.000 lính Mỹ và 165.000 lính Sài Gòn chết “ để làm giảm tiềm lực quân địch với mức khiêm tốn 20%”.

Krulak trình bày kế hoạch của ông để chiến thắng và Vann phải tự hào vì nó rất giống kế hoạch của anh. Vị chỉ huy Hải quân cũng muốn áp dụng chiến lược bình định để tranh thủ sự ủng hộ của tầng lớp nông dân với một chương trình hào phóng cải cách nông nghiệp và những quyền lợi xã hội kinh tế khác. Đấy là vận may duy nhất đi đến thành công. Để đạt được, Hoa Kỳ phải tăng cường ảnh hưởng đến mức nắm lấy quyền hành của chế độ Sài Gòn . Chiến tranh hủy diệt chỉ là một trong những “ mặt kèm theo “ của cuộc đấu tranh thực sự. Cho dù những đơn vị chiến đấu của Việt cộng và miền Bắc “ ngày nay đi đến một hành tinh khác, chúng ta cũng không vì thế mà thắng trong chiến tranh “ vì chính nhân dân Việt Nam là cái giá của cuộc chiến đấu. Không có chỗ dựa của họ, du kích địa phương , chính phủ Việt cộng bí mật, quân đội cộng sản không thể tồn tại. Do vậy, Hoa Kỳ phải sử dụng quân lính đảm bảo sự ủng hộ của dân chúng, tranh thủ được “ lòng tin tưởng và sự trung thành của dân chúng”.

 Nhưng các chiến binh Bắc Việt Nam và Việt cộng không vì thế mà được để yên trong những chỗ ẩn nấp ở rừng núi. Phải có mọi thông tin truy tìm họ và “dùng máy bay tấn công họ không ngừng” trước hết là những vùng ít dân cư, “ Chúng ta có lợ thế lớn vừa tiết kiệm sức lực vừa bảo vệ được những vùng giải phóng”. Nhưng Hoa Kỳ không nên rơi vào trò chơi của quân địch, hành động “ theo sáng kiến của họ hoặc khiêu khích để đánh nhau”. Việc chọn chiến lược phải đưa lại hiệu quả. Công việc bình định và những cải cách xã hội, kinh tế “ phác họa chiến thắng” còn chiến tranh hủy diệt là “ con đường đi đến thất bại”.

Người nói như vậy không phải một anh trung tá bỏ đạo ở miền Nam hoặc một cố vấn ở tỉnh phao đồn những lý thuyết kỳ cục. Lần này là một vị tướng, người đứng thứ ba trong hệ thống Hải quân mà ảnh hưởng dù sao vẫn luôn cao hơn cấp bậc của mình. Vả lại hai người cấp trên là đồng minh của ông. Người thứ nhất, đô đốc Hải quân Ulysses S.Grant Sharp, trong Thế chiến thứ hai chỉ huy một  khu trục hạm, bây giờ là tổng chỉ huy Thái Bình Dương. Người thứ hai, tướng Wallace Greene, chỉ huy các Quân đoàn Hải quân. Trong những năm 60, Greene không ngập ngừng hơn những chỉ huy quân sự khác về cuộc chiến tranh Việt Nam . Thậm chí, ông muốn huy động cả những quân nhân dự bị, gửi sang 500.000 người càng nhanh càng tốt nhưng không muốn sử dụng như Westmoreland đã làm. Hải quân có một quan niệm truyền thống từ sự can thiệp của họ vào Trung Mỹ và vùng Caraibes. Theo họ, những cuộc tranh chấp như ở Việt Nam là những cuộc chiến tranh bình định chứ không phải là sự đụng độ của những đơn vị chiến đấu lớn. Vì vậy, khi Greene nhận được một bản giác thư, ông tán thành ngay.

Trở ngại là ở Westmoreland. Greene đã cố thuyết phục ông ta có quan niệm đúng đắn hơn về công cuộc bình định vào tháng Tư năm 1965. Đô đốc Hải quân Sharp cũng đã thuyết phục ông ta. Kế hoạch của Krulak không cần trung gian, khai thác những quan hệ của ông đã có với McNamara trong những năm dưới quyền Kennedy để khuyến cáo bộ trưởng Quốc phòng. Sharp và Greene đều tán đồng. Krulak bay đến Washington tháng Giêng năm 1966 và thấy McNamara bị tác động mạnh mẽ bở những con tính của Krulak : 20% tiềm lực Hà Nội trả giá cho 175.000 mạng người. Ông ấy nói : “ Tôi nghĩ ông phải nói điều này với tổng thống “. Nhưng ông gợi ý trong lúc chờ đợi, nên gặp Averell Harriman , lãnh đạo những vấn đề chính trị để trao đổi một điểm khác cần tranh luận nhiều do Krulak nêu lên trong giác thư về việc ném bom miền Bắc Việt Nam . Ông cho rằng thật mơ hồ khi cố gắng ngăn chặn việc tiếp tế vũ khí, đạn dược của Liên Xô, Trung Quốc đưa vào miền Nam bằng đường bộ và đường sắt ở Bắc Việt Nam . Ông nói, muốn có hiệu quả, phải ngăn chặn việc đưa vào miền Bắc bằng thả mìn và ném bom Hải Phòng, các hải cảng khác và đường sắt ở biên giới Trung Quốc.

“ Ông muốn đánh nhau với Liên Xô và Trung Quốc à ?”. Harriman hỏi khi họ cùng ăn trưa ở tư dinh Gergetown. Vừa nói ông vừa vung chiếc cùi dìa nặng bằng bạc trước chiếc mũi nổi cao của Krulak làm ông này khó chịu. McNamara không giữ lời hứa cùng nhau gặp tổng thống. Krulak không biết lúc ấy ông có thể làm ông bộ trưởng Quốc phòng chú ý một ít nhưng không giữ ông lại được vì McNamara bị Westmoreland và các tướng khác lôi cuốn, không quan tâm đến lô gic và các con tính sơ cấp.

Greene cố thuyết phục các thành viên Bộ tổng tham mưu các lực lượng quân đội áp dụng quan điểm của Hải quân, ra lệnh cho Westmoreland thực hiện chiến lược mới này. Không người nào theo ông. Họ không phản đối những con số nhưng hành động theo Westmoreland. Các viên tướng trong quân đội , Earle Wheeler chủ trì Bộ tổng tham mưu và Harold Johnson đứng về phía vị tướng trên thực địa của họ. Tướng John McConnell, đại diện Không quân và đô đốc Hải quân McDonald không thấy lý do gì liên kết với những luận thuyết của Greene để chống lại ý kiến quân đội. Vả lại, Không quân và Hải quân đóng một vai trò lớn ở Việt Nam nhờ vào cuộc chiến tranh hủy diệt.

Khác với Vann, Krulak ở vị trí khá cao để có thể đưa vấn đề lên cấp trên có thẩm quyền cao nhất. Ông phải chờ đợi nhiều tháng để có cuộc tiếp kiến tổng thống do Greene đề nghị vào mùa hè năm 1966. Krulak gửi một bản sao giác thư lên Nhà Trắng trước, đủ thì giờ cho Johnson biết vấn đề. Câu hỏi đầu tiên của tổng thống chứng tỏ ông chưa đọc. “ Chúng ta phải trả giá như thế nào để chiến thắng ?”. Krulak bắt đầu giải thích. Johnson để ông nói trong bốn mươi phút. Ông hỏi một số câu nhưng Krulak có cảm giác những gì ông nói không ăn nhập gì. Khi Krulak nói đến việc cần thiết thả mìn ở cảng Hải Phòng, ông nghĩ như “ Johnson ngồi phải một chiếc đinh “. Ông ta đứng ngay dậy, quàng tay vào Krulak, nói ông là một viên tướng tài và đưa ông ra đến cửa.

 Krulak không để bị ket. Ông quyết định dùng Hải quân chứng minh những ưu điểm trong chiến lược của ông. Westmoreland không có sự lựa chọn nào khác là trải rộng quân của ông ra trên toàn bộ Việt Nam . Vùng Quân đoàn 1 giao cho Hải quân về địa dư phù hợp hoàn toàn với kế hoạch của ông. Trong năm tỉnh, gần 2 triệu người sinh sống mà 98% trong số đó nằm trên dải bờ biển rộng 40 cây số, chiếm chưa đến một phần tư diện tích chung. Phần còn lại là rừng dày nhiệt đới của dãy núi Trường Sơn dùng làm chỗ ẩn nấp cho Việt cộng và quân đội Bắc Việt nhưng không sản xuất đủ lúa gạo nuôi sống họ. Lính thủy đánh bộ Mỹ đã xây dựng ba căn cứ, gần Chu Lai, Đà Nẵng và xung quanh sân bay Phú Bài ngay phía dưới Huế. Từ những chỗ đó, họ dự kiến xuyên qua khắp miền biển để hình thành một vùng bình định. Như vậy, nhiều nghìn quân chủ lực Việt cộng chiếm giữ núi rừng không còn quan trọng gì nữa. Họ sẽ tàn tạ tại chỗ, không có thực phẩm, lực lượng tăng cường và tin tức do nông dân địa phương cung cấp; Hà Nội phải đưa từ miền Bắc vào mọi tiếp viện kể cả thực phẩm cho mỗi người lính của họ.

Chỉ huy lính thủy đánh bộ ở Việt Nam do Greene lựa chọn. Lewis Walt, là viên thiếu tướng trẻ của Quân đoàn. Con trai một nhà chăn nuôi gia súc ở Kansas, hai lần anh dùng trong Thế chiến thứ hai, ở tuổi năm mươi hai, ông vẫn có dáng vẻ của một trung vệ bóng đá như lúc ông còn trẻ, tự tin, thân hình cao lớn, vai rộng và đôi bàn tay của kẻ gây gổ đánh nhau. Về lý thuyết, ông ở dưới sự giám sát hành quân của Westmoreland nhưng trên thực tế không một lính thủy đánh bộ nào được miễn trừ dưới quyền của Quân đoàn mình. Walt đồng tình về công cuộc bình định theo quan niệm của Greene và Krulak, người đã sang Việt Nam 45 lần trong bốn năm chỉ huy. Walt và ông này thường nói với nhau qua điện thoại trực tiếp và họ gắn liền với nhau. Greene được thông báo về tất cả và luôn khuyến khích ông.

Lewis Walt dành một phần ba hoạt động đánh nhau với quân đội Bắc Việt và Việt cộng để đuổi họ ra khỏi những vùng đông dân và trừng phạt họ nghiêm khắc trong rừng núi mỗi khi nắm được thông tin có lợi thế như Krulak đã viết. Ông đầu tư sức lực cần thiết trong một chiến dịch có phương pháp để loại trừ khỏi các làng những kẻ nổi dậy Việt cộng và cán bộ chính trị, không chỉ hài lòng giết hoặc cầm tù họ. Một năm trước khi AID tập hợp các cơ quan dân sự và Vann nhận nhiệm vụ ỏ Quân đoàn 2, Walt đã cho áp dụng nhiều chương trình bình định khác nhau dưới quyền Hải quân. Ông đưa các tiểu đội của mình vào từng trung đội lực lượng địa phương của Sài Gòn, dưới sự chỉ huy của hạ sĩ quan Mỹ và người Việt Nam làm phó, sơ đồ ấy lặp lại ở các cấp. Các tiểu đoàn phối hợp những hoạt động quân sự ( đến tháng Tư năm 1966, mỗi tháng có 7.000 cuộc tuần tra và 5.000 cuộc phục kích ban đêm ) với chương trình hoạt động dân sự ở nông thôn.

Walt và Krulak nhanh chóng giao chiến với quan chức Sài Gòn và Washington cũng như bộ binh của họ với quân địch. Westmoreland quở trách Walt nhiều lần để ông bỏ mọi hoạt động bình định và săn lùng Việt cộng địa phương, cán bộ chính trị, để dành cho cán bộ dân sự và quân đội Nam Việt Nam . Ông muốn các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ vào rừng núi tấn công thẳng vào quân địch trong khuôn khổ chiến tranh hủy diệt của ông. Sức ép lúc đầu bằng lời nói và gợi ý những cuộc hành quân đặc biệt, tiếp theo là dọa dẫm bằng văn bản rồi than phiền với McNamara và những người khác có trách nhiệm ở Washington; không phải ru ngủ nông dân mà thắng được chiến tranh, lính thủy đánh bộ rụt ré sợ sệt, trút gánh nặng chiến đấu cho quân đội v.v … Sức ép mở rộng cả trên bàn giấy : dựa vòa số liệu thống kê, Westmoreland đánh giá hiệu quả của các chỉ huy qua số lượng ngày ra trận địa và chỉ tính cho lính thủy đánh bộ thời gian hành quân chiến đấu. Những ngày đêm dành cho công cuộc bình định không nằm trong máy tính.

Krulak phải tiến hành một cuộc chiến tranh tự vệ lên các quan chức để làm giảm áp lực đối với Walt và ngăn cản Westmoreland buộc lính thủy đánh bộ chiến đấu theo cách của ông ta. Tháng Năm 1966, ông trở về Washington tìm thấy một McNamara sẵn sàng lắng nghe ông vì kính trọng ông nhưng dứt khoát đóng kín trước lý lẽ của ông. Bộ trưởng Quốc phòng nói chiến lược của ông quá chậm và cần quá nhiều người trong thời gian quá lâu để thắng cuộc chiến tranh . Trở về Hawail, Krulak viết cho bộ trưởng một bức thư 5 trang đánh máy cố giải thích sự ám ảnh của Hải quân không phải để “ phân phát những miếng xà phòng nhỏ hoặc chui vào rừng rậm tìm kiếm những kẻ nổi dậy gây trở ngại cho những cuộc tấn công vào các đơn vị Bắc Việt “. Vấn đề ai đã nắm được gì trong núi rừng “ không có nghĩa vì dù sao ở đấy không có gì đáng giá “.Krulak ghi thêm một danh sách những đường sá và làng mạc bây giờ an toàn và một số dấu hiệu khác chỉ rõ Hải quân bắt đầu kiểm soát được những gì đáng kiểm soát. Những tiêu chí ấy “ khó nêu số lượng “ là một thước đo tốt nhất những tiến bộ đạt được hơn số xác chết của Westmoreland. “ Con số đơn thuần những Việt cộng chết là một chỉ tiêu đáng ngờ của thắng lợi vì, nếu những người chết ấy kèm theo sự phá nát các vùng, cuối cùng chúng ta sẽ làm điều xấu hơn điều tốt “.

Như Vann đã phát hiện, những người có trách nhiệm về đường lối của Mỹ không hề quan tâm đến những tàn phá đã làm. Tháng Bảy năm 1966, Paul Nitze, thư ký Hải quân đến Sài Gòn . Ông bị Westmoreland, người ông ca ngợi mắng nhiếc. Trên đường trở về ông dừng lại Hawail để nói với Krulak; ông này giận sối lên khi nghe thuyết giáo. Ông vừa ở Việt Nam về, gửi một bức thư cám ơn Walt “ Tôi nhận thấy khắp vùng ông đều có tiến bộ “. Ông lưu ý Walt nhận xét của một đại tướng, nói rắng Hoa Kỳ đang “ thắng lợi về quân sự “ ở Việt Nam . Krulak nói rõ lời tuyên bố ấy “ không có một ý nghĩa gì “ vì “ người ta không thể chỉ thắng lợi về quân sự. Hoặc thắng lợi toàn diện hoặc không được gì cả “.

Thực tế trong mùa hè năm 1966, Hải quân không tiến bộ trong công cuộc bình định như Krulak nghĩ. Tổ chức Việt cộng bí mật bị thiệt hại nhiều nhưng vẫn nguyên vẹn trong vùng đất đai những người Mỹ kiểm soát. Những đại diện chính thức của Sài Gòn trong các làng ấp thỉnh thoảng vẫn bị ám sát ở ngoại ô Đà Nẵng. Đúng là Walt không được cấp cao giúp đỡ. Đại sứ Lodge đã sai lầm cho phép tướng Kỳ đuổi viên tướng chỉ huy Quân đoàn 1 Việt Nam sau một vụ bê bối chính trị. Người có tham vọng nhất trong các nhà lãnh đạo Phật giáo, Thích Trí Quang đã đánh nhau với Diệm, nhân dịp này nhảy lên khoa trương thanh thế và tiếp theo là ba tháng lộn xộn biểu tình, đình công cùng một tuần lễ đánh nhau giữa quân lính ủng hộ giáo phái và người của Kỳ. Qua cơ hội ấy, Huỳnh Văn Cao, người quen cũ của Vann, lấy lại vị trí của mình. Ông buộc phải nhận chỉ huy Quân đoàn 1 mà những viên tướng khác không muốn. Cảnh sát trưởng của Kỳ ra lệnh cho ông tấn công ngôi chùa Phật giáo Đà Nẵng , trung tâm nổi dậy. Tấn công vào một ngôi chùa là điều bất kính đối với Cao nên ông từ chối. Cảnh sát trưởng bèn cho một nhân viên của mình dí súng vào thái dương ông. Cao sắp bị bắn thì một cố vấn Mỹ bước vào phòng và như vậy là cứu được ông. Cao buộc phải từ chức theo lệnh của Kỳ. Sau đó, ông đi vào con đường chính trị, làm đại diện cho cộng đồng Thiên chúa giáo, khuynh hướng phù hợp với ông nhiều hơn binh nghiệp.

Tuy có việc không hay trên, Walt vẫn tăng cường được sự kiểm soát trong vùng. Nếu phần đông nông dân miền Trung ủng hộ ông Hồ Chí Minh thì những người cộng sản cũng có nhiều kẻ thù ở đấy. Không phải tất cả nông dân tôn sùng nền độc lập đến mức chống lại chế độ hỗn  hợp ép buộc và mơn trớn của Hải quân Mỹ. Với thời gian và lòng kiên trì, Walt sẽ làm chủ được, ít nhất là tạm thời, cả miền duyên hải. Trong trường hợp ấy, các đơn vị chủ lực dù nhiều đến mấy mà Hà Nội giữ lại được trong núi rừng bằng tiếp tế thẳng từ miền Bắc, cũng không có cơ hội nào đánh ra nữa. Hải quân sẽ tiêu diệt họ khi họ mạo hiểm xuống đồng bằng. Walt được thăng cấp đại tướng, đến giữa năm 1966 , có 55.000 người chia làm hai sư đoàn. Sư đoàn 1 ở Chu Lai và Sư đoàn 3 ở trong vùng Đà Nẵng với một phi đội máy bay yểm trợ. Đến cuối năm quân số của ông sẽ vượt quá 70.000 người, dù vậy, tướng Lewis Walt không bao giờ có đủ lực lượng để đồng thời đánh trực diện các đơn vị cộng sản và thực hiện chiến dịch bình định.

 Những người có trách nhiệm ở Hà Nội giải quyết vấn đề này và chính Westmoreland giải nguy cho họ mà không biết. Trong mùa hè năm 1966, họ cho Sư đoàn 324B vượt qua vùng phi quân sự. Các đơn vị thám báo của Hải quân đụng độ quân Bắc Việt trong tháng Sáu ở tỉnh Quảng Trị gần Cam Lộ, chỗ con đường của Pháp cũ, đường số 9 đi qua núi sang Lào, bắt đầu leo dốc. Trong tháng Bảy, thông tin nắm được qua tù binh và tài liệu, Hải quân biết các đơn vị tuần tra của họ đụng phải bộ phận tiền phong của một lực lượng ít nhất 5.000 người, có lẽ của một sư đoàn 12.000 lính chiến đấu. Westmoreland vội vã đâm vào bẫy cũng nóng lòng như trung úy của Moore ở lưu vực sông Drang. Ông bay đến Đà Nẵng, khuyến khích Walt tấn công quân Bắc Việt với 8.000 lính thủy đánh bộ. Đối phương chống trả khá quyết liệt để trận đánh có vẻ dữ dội rồi rút lui. Họ trở lại vào tháng Tám về phía tây  và ở trong núi và Westmoreland lại cử Walt đến đánh.

Vùng phi quân sự và phía bắc Quân đoàn 1 là một chiến trường lý tưởng cho quân Bắc Việt, cho phép họ ép quân Mỹ để tiêu hao lực lượng như họ đã quyết liệt chống quân Mông Cổ, quân Minh và mới đây là quân Pháp. Những con đường tiếp vận gần đường ranh giới ngắn hơn nhiều và khi một đơn vị chấm dứt chiến đấu họ dễ dàng sang bên kia vùng phi quân sự hoặc sang Lào. Mặt khác , địa hình hoàn toàn phù hợp với chiến lược cảu họ. Dọc bờ biển phân bố đều đặn đồi, đụn cắt , đầm lầy và đồng ruộng. Cách biển hai mươi cây số bắt đầu là rừng, những dãy núi ngang rồi những dãy núi hoang sơ nhất; một hỗn hợp thời tiền sử những dốc đơn độc, chỏm núi thẳng đứng, những thung lũng ngoằn nghèo và vực sâu kín đáo. Có thể dấu cả một đoàn quân trong một phần cảnh vật bao la ấy. Những bụi tre dày hoặc cỏ cao xen lẫn rừng nhiệt đới cành lá um tùm bao giờ cũng xanh tốt trên ngọn những thân cây cao 20 mét, bảo vệ tầng dưới rậm rạp chỉ nhìn thấy trong vòng năm hoặc mười mét.

Vào mùa mưa ở đấy lạnh buốt, ẩm ướt, ban đêm chỉ còn từ 5 đến 6oC, cũng là một lợi thế cho người lính Bắc Việt . Gió mùa đông bắc từ tháng Mười đến tháng Năm khác hẳn với gió mùa tây nam từ tháng Năm đến tháng Mười ở đồng bằng sông Cửu Long về phía nam, buổi chiều mưa rất to và sương mù dày đặc nhưng nói chung không đều. Phía đông bắc gió mùa phủ một làn mưa phùn lạnh và kéo dài, đôi khi liền hai, ba ngày không ngớt, kèm theo sương mù, cản trở máy bay yểm trợ xuống thấp và trọng pháo khó điều chỉnh tầm bắn. Vùng Quân đoàn 1 chính là vùng gió mùa đông bắc mạnh nhất và mưa nhiều nhất, 3.200 ly ở Huế trong lúc ở Sài Gòn chỉ là 1.900 ly.

Lewis Walt bị kẹt giữa Westmoreland thúc giục ông tấn công quân Bắc Việt và Krulak thúc ông phòng ngự. Wally Greene cố giúp ông trong một đợt đi kiểm tra trong tháng Tám. Như thường lệ, câu chuyện nghiêm chỉnh với Westmoreland xảy ra sau bữa ăn tối vì họ không tranh luận về sự bất đồng trước mặt những thành viên khác trong ban chỉ huy. Greene nhận xét với  chiến thuật hủy diệt không gì khác hơn chiến lược của ông ta. Ông đã đọc báo cáo của một đơn vị phải đánh nhau mở đường lên chóp núi để rồi lại đánh  nhau khi đi xuống. Đấu không phải cách sử dụng hợp lý người lính Mỹ. Nhưng lần này, ôing cũng không có kết quả như những lần trước. Những viên tướng Hải quân này không hiểu đối với Westmoreland , chấp nhận họ có lý sẽ là tước đi của ông ta cuộc chiến tranh ông muốn tiến hành với những hoạt động rộng lớn của quân đội, những hàng rào đồ sộ trọng pháo  dưới bầu trời đầy máy bay lên thẳng, tiêm kích – ném bom và sấm sét B.52.

Tháng Chín năm 1966, Westmoreland công bố đã ra lệnh cho công binh biến đường băng nhỏ  bằng đất nện ở phía tây bắc thành một bãi những tấm nhôm có thể tiếp nhận máy bay vận chuyển C-130. Ông ra lệnh cho Walt cử đến đó một tiểu đoàn. Krulak đã nghe nói đến địa điểm này 29 năm trước. Chỉ huy tiểu đoàn của ông ở Thượng Hải sang Đông Dương đi săn hổ, trở về đã nói với ông về thung lũng nhỏ rất đẹp này trong vùng núi gọi là Khe Sanh. Ông ta có mang theo ảnh chụp mà Krulak còn giữ được, ảnh chụp những người bản xứ và những chủ đồn điền cà phê người Pháp đứng quanh xác con hổ.

Krulak trở sang Việt Nam cố thuyết phục Westmoreland từ bỏ kế hoạch. Họ gặp lại nhau ở Chu Lai trên một chiếc máy bay hai động cơ của tổng chỉ huy . Krulak cho rằng một tiểu đoàn không đủ. Ít nhất phải có một tiểu đoàn khác nữa chiếm giữ các ngọn đồi khống chế thung lũng mà người Pháp đã vạch ra đường băng đầu tiên. Ngoài ra, cần có một số trực thăng cần thiết để tiếp tế cho binh lính. Như vậy là một số lượng người và phương tiện quan trọng phải bỏ chiến dịch bình định để đảm bảo cho một mục tiêu hoàn toàn vô ích.

Đấy không phải là ý kiến của Westmoreland giải thích tính hợp lý của sân bay đơn độc này ,cách Lào 10 cây số và cách vùng phi quân sự 25 cây số. Một trong những sử dụng bất thường có thể làm cơ sở xuất quân trên đường số 9 đi qua thung lung nếu một ngày nào đó ông được phép vào đất Lào để cắt đứt con đường chi viện Hồ Chí mInh. Phải nói rõ là tổng thống, McNamara, Rusk và những thành viên khác của chính phủ phản đối một hành động trên đất Lào vì sợ kéo theo Trung Quốc vào cuộc chiến. Thế nhưng bản thân Westmoreland hình như không cho đó là tầm quan trọng hàng đầu, tuy việc ngăn cản miền Bắc tăng cường cho Việt cộng có thể là một điều kiện thiết yếu cho chiến tranh hủy diệt của ông. Sau này, ông giải thích trong HỒI KÝ là ông không nghĩ có đủ quân để hành quân trước 1968 và ông bố trí ở Khe Sanh năm 1966 để giữ vững vị trí trong lúc chờ đợi.

Trong lúc Westmoreland nói, Krulak biết rằng mục đích của ông ta đưa lính thủy đánh bộ đến Khe Sanh là hy vọng căn cứ đơn độc trong núi rừng này dùng làm mồi đưa hàng nghìn quân Bắc Việt đến và họ sẽ bị nghiền nát dưới sức mạnh của súng đanh Mỹ. Krulak trở về Hawail, công binh và một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đến Khe Sanh; Westmoreland nhất định buộc Walt phải phục tùng, đã tăng cường sức ép với ông. Năm tiểu đoàn lính thủy đánh bộ bổ sung dành cho phía bắc không ngừng tìm cách tiếp cận với quân đội đối phương.

Krulak luôn đòi hỏi Walt chống lại sự điên rồ ấy. Cuối tuần đầu tháng Mười, ông gửi cho Walt bức điện tín đề “ Trường hợp đặc biệt. Tướng Krulak. Hải quân , gửi đích thân tướng Walt”. Đây là một trong những thông tin đặc biệt tế nhị giữa các tướng, sử dụng đường dây riêng để giữ bí mật “ Nếu tôi là quân địch “,Krulak hình dung để giải thích việc ông xem công cuộc bình định và khả năng thành công của Hải quân là “ sự đe dọa lớn nhất cho những hy vọng của tôi trên bán đảo Đông Dương “. Để tránh xa sự đe dọa ấy phải đẩy lùi Hải quân bằng “ áp dụng luận thuyết của Mao : làm ầm ĩ ở phía đông để tấn công vào phía tây “. Sư đoàn 324B có nhiệm vụ đánh lạc hướng như thế. “ Hơn nữa chiến trường phía bắc là sự lựa chọn của quân địch vì thuận lợi cho họ “.Lòng căm giận của Krulak thể hiện rõ trong kết luận của ông “ Việc làm của chúng ta ở Cam Lộ phù hợp hoàn toàn với quân Bắc Việt . Tôi tin chắc họ rất phấn khởi khi thấy một tiểu đoàn của chúng ta ở Khe Sanh và năm tiểu đoàn khác vùng vẫy trong rừng núi thay vì làm công việc bình định … Chúng ta có thể chờ đợi quân địch bám vào chúng ta càng lâu càng tốt trong tỉnh Quảng Trị “.

Westmoreland và những người cộng sản Việt Nam đã làm cho Walt bị việt vị. Vai trò của ông trở thành đơn thuần vâng lời một cấp trên. Nếu Walt tiếp tục chống lại như Krulak thúc giục, Westmoreland sẽ cách chức ông. Xuất phát của những vấn đề nguyên tắc không cho phép ông làm ảnh hưởng đến chiến lược, chưa kể việc làm của ông sẽ không được ai hiểu rõ. Lyndon Johnson không phải là người Mỹ duy nhất tin tưởng ở Westmoreland . Vị tướng này rất chan hòa với báo chí và quần chúng. Ông đã một lần xuất hiện trên bìa tờ TIMES vào cuối năm 1966, được tạp chí mệnh danh là “ người tiêu biểu trong năm “. Walt không có vẻ sáng suốt như Krulak cho rằng nếu Westmoreland chỉ đạo chiến tranh theo cách của ông ta, ngay từ bây giờ Hải quân sẽ tiêu tan theo hướng có lợi cho quân địch. Hình như ông cho rằng có thể khiêm tốn hơn trong công cuộc bình định, vừa tiến hành cuộc chiến tranh hủy diệt dọc con đường ranh giới.

Walt nhương bộ đưa Sư đoàn 3 lên phía bắc, ở đấy Westmoreland cho xây dựng một loạt điểm tựa tăng cường dọc theo vùng  phi quân sự. Những trung đoàn pháo với pháo 175 ly đến tăng cường thế trận bố trí tầm bắn trong toàn đường ranh giới đến tận Khe Sanh và biên giới Lào. Westmoreland giải thích trong HỒI KÝ “ hệ thống điểm tựa được tăng cường nhằm buộc quân địch sử dụng hành lang xác định để máy bay và trọng pháo có thể tập trung toàn lực trước khi các đơn vị bộ binh tấn công “. Ông hình thành một sư đoàn tạm thời,  sau này gọi là “AMERICAN” chịu trách nhiệm phần phía nam của Quân đoàn 1. Như vậy, ông muốn tăng cường cho Hải quân đã quá phân tán nhưng nhất là ngăn chặn sự độc quyền của họ ở vùng này. Chương trình bình định của Walt không bỏ đi nhưng co lại như một miếng da cũ.

Từ Trân Châu Cảng, Krulak theo dõi tất cả những việc ấy với tâm trạng của Vann năm 1963. Ông thấy tai họa đến gần mà không ngăn chặn đượcc. Trong hệ thống quân đội, người ta lắng nghe một người vì cấp bậc và quá khứ nhưng câu trả lời hợp lẽ lại là một vấn đề khác. Greene không thể l àm gì hơn và không dựa vào đô đốc Hải quân Sharp, tổng chỉ huy Thái Bình Dương được nữa. Dưới sức ép của Bộ tổng tham mưu không ngừng hỗ trợ những đề nghị tăng cường của Sài Gòn gửi tới McNamara, Sharp đã nhượng bộ. Westmoreland hài lòng nhìn sự leo thang chiến tranh dọc đường ranh giới khu phi quân sự “ Chúng tôi tiếp tục làm họ đổ máu, ông nói, cho đến khi Hà Nội công nhận chúng tôi đã làm đất nước họ nhợt nhạt trong nhiều thế hệ “.

Mười ngày sau lời huênh hoang ấy của Westmoreland , ngày 24 tháng Tư năm 1967, năm lính thủy đánh bộ ở Khe Sanh đi tuần tra rơi vào một cuộc phục kích ở bụi tre trên đồi 861 phía tây bắc đường băng. Chỉ một người sống sót. Trận đầu tiên và trận dữ dội nhất của những trận đánh ở Khe Sanh, “ trận đánh những ngọn đồi “ vừa bắt đầu.

Krulak đã đúng khi cố gặng để lính thủy đánh bộ chiếm những ngọn đồi khống chế thung lũng. Những người  Việt Nam hiểu điều đó. Một trung đoàn của Sư đoàn 325 C đã lợi dụng sương mù và mấy thấp đợt gió mùa, chiếm cứ đồi 861 và hai đồi khác phía dưới, ngọn 881 nam và 881 bắc. Một trung đoàn thứ hai dự phòng đâu đó xa hơn. Sau này người ta biết các đội công binh Bắc Việt đã làm việc ở trong những ngọn đồi này ba tháng trước khi bộ binh tới mà không bị lính thủy đánh bộ phát hiện. Walt lại giảm quân số tiểu đoàn xuống còn một đại đội vì trong nhiều tháng không thấy một đối phương nào. Westmoreland muốn giữ lại đường băng. Vậy là lính thủy đánh bộ phải đuổi quân lính Bắc Việt ra khỏi những ngọn đồi. Họ không biết rõ tầm quan trọng của những lực lượng họ phải đối đầu và không biết lợi thế địa hình quân địch đã chuẩn bị.

Trong ba ngày, hai đại đội lính thủy đanh sbộ, một đã ở Khe Sanh và một cử đến tăng cường chiếm lấy ngọn đồi 861. Vùng này chi chít những chóp và đỉnh núi cao.

Trên đồi 861 , quân Bắc Việt để cho lính thủy đánh bộ trèo lên cách họ 15, 20 mét rồi mới đồng loạt nổ súng từ những vị trí đào trong đất. Đạn súng cối 82 đặt dấu ở những chỏm đồi khác nổ tung giữa đội  hình lính Mỹ sát thương nhiều người. Họ phản công lai với những tràng đạn nổ và phốt pho trắng của móc chi ê, súng cối từ căn cứ, súng liên thanh và rốc két của máy bay lên thẳng Huey, bom và napalm của phi đội máy ba. Người Việt Nam ngừng lại từng lúc nhưng không nản. Khi lính thủy đánh bộ rút lui, họ bám theo bắn xối xả bằng vũ khí tự động. Lính thủy đánh bộ thậm chí không chuyển được những người bị thương vì mỗi lần họ gọi máy bay lên thẳng đến cứu, phía Bắc Việt lại dội đạn cối vào chỗ hạ cánh.

Hai đại đội của Hải quân tấn công riêng rẽ nhau. Chi huy tiểu đoàn lãnh đạo cuộc hành quân ra lệnh cho đại đội Khe Sanh đang tấn công mặt tây bắc đồi 861 kết nối lại với ông ta. Đại đội trưởng trả lời, sau ba ngày chiến đấu, đến nay ông không có đủ người lành lặn để mang đi những người chết và bị thương. Lính thủy đánh bộ, liên kết đồng đội với ý nghĩa huyền bí, kinh hoàng vì phải bỏ lại người chết của họ. Viên chỉ huy nhắc lại lệnh xuất phát. Đại đội trưởng đáp lại họ không đủ người chuyển thương binh và dù sao cũng không để một lính thủy đánh bộ lại tại chỗ được. Ông nói thêm, ông sẽ đến ẩn dưới một dải sương mù gần đấy tránh đạn súng cối và “ đánh đến người cuối cùng “ với bộ binh Bắc Việt nhất định không bao lâu nữa sẽ tới.

Sĩ quan trọng pháo bảo vệ đại đội ẩn trong sương mù, bắn đạn cối vây quanh họ như trung sĩ Savage đã làm để cứu trung đội thất lạc của Moore, cho đến lúc một đại đội thứ ba được cử gấp đến Khe Sanh, rạng sáng len lỏi đến chỗ họ. Họ dùng áo khoác ngoài làm cáng thương binh và người chết, tập hợp mọi trang bị và vũ khí. Đoàn người bắt đầu đi trong đêm tối dưới trời mưa và sương mù dày đặc vì không khí lạnh ban đêm. Chỉ những người đi đầu và đoạn hậu không mang vác gì. Trời mưa biến đường băng thành bùn trơn. Nhiệt độ cao ban ngày cuối mùa mưa này làm các xác chết phình lên. Từng lúc trong cuộc đi đêm, một người khiêng cáng trượt chân, thây người rơi từ áo choàng lăn mãi xuống dốc. Đoàn người dừng lại. Người ta tìm cái xác rồi lại đi. Cuối cùng đến rạng đông những người lính thủy về nơi an toàn, không bỏ lại người nào phía sau họ.

Đại đội thứ hai cũng rút đi với sự giúp đỡ của lực lượng Khe Sanh, lúc này là hai tiểu đoàn, còn trọng pháo và máy bay làm tan nát, đốt cháy ngọn đồi 861 không ngớt trong một ngày một đêm. Một tiểu đoàn lại lên tấn công. Quân lính Bắc Việt đã bỏ đi, chắc đến đối 881 nam, đúng sau lúc họ xông lên lần đầu và trước đợt ném bom. Họ để lại một số xác chết, ngoài ra như báo cáo đã xác định, “ chiến trường được quân địch dọn sạch : không còn một trang bị hoặc một thông tin nào đáng giá “. Lính thủy đánh bộ thống kê được 25 lô cốt trên đồi, 400 hố cá nhân và những chỗ đặt súng cối ở sườn đồi phía sau. Lô cốt được đắp một lớp dày hai mét bằng tre, đất và cỏ nén chặt đủ chống đạn cối rơi thẳng. Nhìn thấy những bố trí ấy, các sĩ quan lính thủy đánh bộ không tin được.

Sau đợt ném bom mới một ngày một đêm, một tiểu đoàn được tung lên tấn công đồi 881 nam, rơi toàn bộ vào bẫy. Một lần nữa, người Việt Nam không bắn cho đến khi kẻ tấn công xông lên cách họ 15,20 mét để loạt đạn đầu giết được nhiều người nhất. Những tay súng bắn lẻ, trèo lên cây to trụ được với bom, chọn những người giữ điện đài hoặc bắn trọng pháo, hạ chính xác họ với một viên đạn vào đầu hoặc ngực. Cùng lúc ấy, những loạt đạn cối dội vào lính thủy đánh bộ. Quân Bắc Việt có vẻ không sợ để pháo bắn gần họ, thậm chí ngay ở vị trí họ.

Lính thủy đánh bộ Mỹ là những toán tấn công không sánh được, xông vào với tính năng nổ tự nhiên của binh chủng mình. Họ phát hiện thấy càng tiến vào vị trí quân địch càng gặp kháng cự m ạnh và tình thế của họ ngày càng khó khăn. Những người này rồi tiến cũng không được lùi cũng chẳng xong dù vẫn sẵn sàng chiến đấu. Lưới lửa trước mặt họ mỗi lúc càng sát hại nhiều. Đồng thời, người Việt Nam chiếm lại những lô cốt lính thủy đánh bộ đã đi quan, cắt đứt đường rút lui của họ.

Lời cảnh báo của Krulak giải thích những người cộng sản áp dụng “ những cuộc tấn công dữ dội và áp sát “ để “ giảm hiệu quả “ của máy bay, trọng pháo bây giờ hình như dất dưới sự thật. Trong lúc Westmoreland triển khai những cơ sở lớn ở hải cảng và những kho rộng cho chiến tranh hủy diệt, người Việt Nam học được cách đánh Mỹ tốt hơn. Trên đồi 881 nam, người Mỹ thấy không phải họ bố trí gấp đội so với đồi 861 mà là hơn mười lần : khoảng 250 lô cốt to lạ lùng. Những lô cốt bé hơn xem ra dành cho hai, ba người được che mái làm bằng hai hàng xà ngang phủ một mét rưỡi đất. Những cái to hơn cho bốn người được bảo vệ tốt hơn và trước trận đánh dùng làm nơi trú quân chắc chắn với những ngăn đồ đạc, chiếu trải đất và một hệ thống tháo nước để giữ khô. Những lô cốt to nhất, đặc biệt những trạm chỉ huy, được bảo vệ từ bốn đến tám hàng xà ngang với hơn một mét đất nện. Tất cả các bộ phận của lối công sự phức tạp nối với nhau bằng một đường dây điện thoại cho phép mọi người trao đổi với nhau trong lúc chiến đấu và liên lạc với những người quan sát để điều chỉnh chính xác làn đạn súng cối đặt trong các hầm đất xa về phía sau.

Việc ném bom quả đồi suốt ngày đêm của lính Hoa Kỳ mới nhìn có vẻ phá hoại ghê gớm, nhưng không có tác dụng hơn những đợt pháo hoa. Đạn rốc két nổ trên cành cây cao bảo vệ các căn hầm. Napalm đốt cháy cây cỏ. Những loạt đạn cối làm choáng đầu quân Bắc Việt trong lô cốt : họ khó chịu đựng những vụ nổ và thường chảy máu  mũi, máu tai. Nhưng bom đạn không giết hoặc làm bị thương một người nào.

Để đạt kết quả như vậy, máy bay ném bom không thả bom 350 ki lô và rất ít bom 500 và 1.000 ki lô. Hầu như họ chỉ dùng loại 125 và 250 ki lô loại “ mắt rắn”. Chúng có cánh đuôi rộng, xòe ra sau khi thả để xuống chậm lại, cho phép thả ở độ thấp trên một đường paraboon và để thì giờ phi công đủ tránh xa trước khi nổ. Máy bay phản lực có thể đạt mục tiêu tốt hơn với đợt tấn công ngang và ở độ thấp. Phi công của Hải quân và Không quân đã được tập luyện để bay khắp nơi và trong bất cứ điều kiện nào. Ở một đất nước bị gió mùa tác động, họ thường phải hạ độ cao. Cuối tháng Tư đầu tháng Năm ở Khe Sanh trần bay chỉ khoảng 300 mét hoặc ít hơn. Để thả bom hạng nặng được chính xác, máy bay phải bổ xuống thẳng đứng và nhanh chóng trở lại độ cao thích hợp. Người Việt Nam hoàn toàn biết rõ lối đánh ấy của máy bay Mỹ và chỗ ẩn của họ khá vững chắc để chịu đựng được bom 125 hoặc 250 ki lô, trừ phi trúng thẳng vào mục tiêu là điều rất hiếm.

Những công sự nắm trong rừng nhiệt đới ấy được quân Bắc Việt dùng vừa là nơi tấn công vừa là phòng ngự. Trước trận đánh ở đồi 861, họ có thể ra ngoài dùng các bộ phận cánh bao vây đối phương. Họ biết rẫt rõ địa hình để bí mật xây dựng công sự. Về sau, như trong đợt tấn công đồi 881 nam, họ bình tĩnh ngồi trong hầm chờ đợi việc ném bom kết thúc.

Cuối cùng những cuộc dội bom đạt được kết quả mong muốn. Quân Bắc Việt được lệnh giữ vững vị trí và xông ra phản công, cũng chịu tổn thất nặng trong hai tuần rưỡi đánh nhau trên các đối. Nhưng họ bố trí kế hoạch cẩn thận, củng cố vững chắc từ trước và tổ chức trận địa để đưa người Mỹ trở thành nạn nhân của họ trong chiến đấu, quân Bắc Việt đạt được điều quan trọng nhất đối với họ : kéo dài trận đánh và làm thiệt hại nặng nề quân Mỹ đối đầu với họ. Cần phá bỏ lớp cây cối che phủ rồi cả thân cây, bụi rậm dưới rừng để quân lính có thể thấy công sự mà tấn công, phải nhiều ngày liền bắn phá trọng pháo và thả bom 125, 250 ki lô. Tuy đã chuẩn bị tích cực như vậy trên ngọn đồi 881, lính thủy đánh bộ chỉ phát hiện ra những chỗ ẩn nấp của quân Bắc Việt khi đã lên được trên đồi , ở đó vẫn còn đủ cây cối cho những tay bắn tỉa.

Lewis Walt lo lắng cho mạng sống binh lính của mình. Khi biết có trận huyết chiến trên đồi, ông lấy máy bay đi Khe Sanh, mang theo một trung đội bộ binh đến tại chỗ xem sự việc xảy ra như thế nào. Ông nhớ lại mùa thu năm 1944 và trận tấn công của ông vào hòn đảo đầu tiên của Thái Bình Dương, nơi quân Nhật cố nén không điên rồ tấn công tự sát mà rút vào những hầm bê tông và san hô. Ông đã hiểu giới hạn của một trận ném bom theo tập tục vào những lô cốt như ông thấy bây giờ và sự khờ dại đưa bộ binh lên chiếm lĩnh. Ông ra lệnh cho tất cả lính thủy đánh bộ rút xuống khỏi đồi và cho Không quân dội xuống những đợt bom 500 và 1.000 ki lô với những làn phóng chậm lại chỉ làm bom nổ khi đã vào trong đất. Như vậy, những quả không trúng đích vẫn có hiệu lực vì chấn động trong lòng đất, phá hỏng lô cốt và việc chậm lại cho phép phi công có thì giờ thoát ra.

Nhưng Walt can thiệp quá muộn : đã có 99 người chết. Gần một nửa chết trong cuộc tấn công điên rồ và lần này lính thủy đánh bộ buộc phải bỏ lai người chết để cứu lấy những mạng sống. Hai ngày sau , khi họ trở lại để tìm xác và chiếm khu đất hoang vắng ngổn ngang hố bom và cây cối đổ nát, họ thấy 50 lô cốt còn nguyên vẹn. Lần này, quân Bắc Việt cũng không còn ở đấy nữa. Những người sống sót của Trung đoàn 18 Bắc Việt chịu đựng sự dữ dội của trận đánh đã rút lui về đồi 881 bắc, được vực dậy với những đội quân mới của Trung đoàn 95 cho tới lúc đó vẫn còn nguyên vẹn.

Lewis Walt cũng cho đánh bom ngọn đồi 881 bắc nhưng bom 1.000 ki lô không thể làm gì với thời tiết ghê gớm. Đại đội đi đầu tấn công ngọn đồi này cùng ngày với các bạn họ lấn chiếm đồi 881 nam. Họ loại trừ một súng bắn lẻ và nghĩ dễ dàng khống chế lính Bắc Việt. Nhưng họ không tính đến cơn bão nhiệt đới ập xuống với ngọn gió mỗi giờ 60 cây số và cơn mưa tối tăm mặt mũi. Chỉ huy ra lệnh rút lui. Để người của mình cúi xuống xông vào chỗ không biết gì thì quá nguy hiểm.

Quân Bắc Việt tranh thủ đợt nghỉ này tung hai đại đội ra phản công. Họ vào đến chu vi phòng vệ của một trong những đơn vị lính thủy đánh bộ và bố trí trong những lô cốt chưa bị chiếm. Ở đây, với vũ khí tự động và lựu đạn họ liều mình trong một trận đánh quyết tử kéo dài một ngày. Những ngày sau cũng có nạn nhân. Sau hai tuần rưỡi, khi trận đánh trên các đồi kết thúc, lính thủy đánh bộ thống kê được 155 xác chết và 425 người bị thương ở Khe Sanh. Cho đến lúc đó, đây là thiệt hại lớn nhất của Hải quân chỉ trong một trận đánh của cuộc chiến tranh này.

Cũng nhanh chóng như đã triển khai ở phía tây, quân Bắc Việt chuyển trận đánh sang phía đông, dọc theo đường ranh giới khu phi quân sự, tấn công căn cứ lính thủy đánh bộ ở Cồn Tiên vào đầu tháng Năm với 2 tiểu đoàn. Bom đạn nổ là một điều ghê tởm thực sự, tệ hại hơn những đợt tấn công của bộ binh, có những trận phục kích đoàn xe tiếp tế và những cuộc đột kích của đặc công chỉ mặc quần đùi bò qua dây tjép gai, quăng chất nổ vào lô cốt hoặc qua tường các vị trí trọng pháo. Bom đạn nổ còn tệ hại hơn, vì ngoài mối nguy hiểm chết người, nó làm thần kinh không chịu đựng nổi. 4.200 loạt bom đạn được bắn ra từ cả một số lượng rất lớn vũ khí chế tạo từ Liên Xô mà những người Việt Nam có được : ca nông 85, 100 và 122 ly, móc chi ê 120 mà đạn nổ phân tán ra một bán kính rất rộng, rốc két Kachiusa 122 ly dài ba mét. Trong tháng Bảy, họ có thêm ca nông 152 ly, đạn có thể xuyên sâu hơn một mét dưới đất trước khi nổ.

Lính thủy đánh bộ dùng mọi cách làm đối phương im tiếng. Những khẩu “Long Toms” 175 ly của Westmoreland , ca nông của tuần dương hạm và khu trục hạm của Hạm đội 7 bắn hàng trăm nghìn quả đạn. Máy bay ném bom A-4, F-8 và B-52, A-6 của Hải quân mỗi chiếc chở 7 tấn chất nổ thả từng làn hàng chục nghìn tấn. Họ chỉ nhận được một đợt nghỉ tạm thời của pháo binh Bắc Việt .

Người Việt Nam làm mô hình vị trí giả trọng pháo để đánh lừa những tay chụp ảnh trên trời. Họ cho nổ những khối vô hại giả vờ tia lửa ca nông đánh lừa lính quan sát. Họ che giấu ca nông, móc chi ê, súng phun lửa thật trong những hố sâu và hầm, bắn từng đợt không đều để ngụy trang lại sau mỗi đợt bắn. Cuối buổi chiều là lúc thích hợp nhất khi tia lửa nòng ca nông thấy không rõ. Với những móc chi ê hạng nặng, thường họ đào một giếng sâu ở sườn đồi trước  mặt lính thủy đánh bộ. Một lỗ mở đào ở đáy giếng. Như vậy , vũ khí và người được cả khối đất bên trên bảo vệ và họ bắn đạn qua lỗ ngụy trang. Vị trí ca nông, móc chi ê cuối cùng cũng bị phát hiện và vũ khí cùng người bị bom đạn vùi lấp. Nhưng những xưởng vũ khí của Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu sản xuất khá đủ để cung cấp lại cho họ và Hà Nội sẵn sàng thay người. Một nửa thiệt hại của lính thủy đánh bộ do những bom đạn ấy.

Sau hai năm ở Việt Nam , khi Lew Walt trở về Hoa Kỳ , ông biết xử sự như thế nào trước một hệ thống công sự. Nhưng người Mỹ mỗi lần lại phải học bài học với giá những mạng sống con người. Hệ thống quân sự những năm 60 tạo điều kiện cho sự ngu dốt chứ không phải hiểu biết. Thực vậy, Westmoreland qui định sự luân phiên hàng năm vì ông nghĩ như vậy lợi cho tinh thần con người; quân lính ở mọi cấp bậc từ đại tá đến lính thường rới Việt Nam khi họ bắt đầu có một số kinh nghiệm. Sự thuyên chuyển thậm chí nhanh hơn, cứ sáu tháng cho những người có trách nhiệm ở cấp tiểu đoàn, trung đoàn, đúng lúc kinh nghiệm là cần thiết nhất. Sĩ quan nói chung qua sáu tháng khác ở một văn phòng ban tham mưu cùng sự đề bạt. Rất ít ngoại lệ và hiếm có những sĩ quan cao cấp tình nguyện kéo dài quá sáu tháng nhiệm vụ chỉ huy tại chỗ. Đôi khi việc luân phiên nhanh hơn nếu sĩ quan bị thương hoặc đau ốm.

Tệ quan liêu của văn phòng nhân sự coi Việt Nam như một tập dượt đào tạo và thanh minh luật lệ sáu tháng là một cách chuẩn bị nhiều sĩ quan nhất cho “ cuộc chiến tranh lớn “ trong tương lai với người Xô viết ở châu Âu và những cuộc chiến khu vực khác. Nhưng lý do thực sự, cả với lính thủy đánh bộ, là hệ thống được đề bạt mặc nhiên trong quân đội. Để thăng cấp đại tá ,một trung tá phải có ghi trong hồ sơ đã chỉ huy một tiểu đoàn. Đại tá muốn có ngôi sao cấp tướng đầu tiên phải đã cầm đầu một lữ đoàn hoặc trung đoàn. Giữ hơn sáu tháng một sĩ quan cao cấp ở vị trí ông ta chỉ huy được xem là không có lợi cho những người khác. Hệ thống ấy cũng áp dụng cho các tướng nhưng lần lượt trong mười sáu tháng. Thực ra ít người trong bọn họ không chỉ huy một sư hay quân đoàn quá một năm vì rất nhiều người đang xếp hàng để có thêm một ngôi sao. Walt là một ngoại lệ vì ông là chỉ huy kỳ cựu nhất trong lính thủy đánh bộ. Người Việt Nam có thể dự tính những đối thủ Mỹ của họ bao giờ cũng tiếp tục kiểu cách ấy.

Cũng trong mùa hè 1966 này, trong lúc họ lôi kéo Westmoreland vào chiếc bẫy của vùng phi quân sự, người Việt Nam mở một mặt trận thứ hai trên cao nguyên Trường Sơn, nơi Moore bị đánh. Họ lôi kéo người Mỹ quá lên phía bắc phần trên tỉnh Kontum, gần điểm cuối đường mòn Hồ Chí Minh núi non hiểm trở hơn. Năm 1967, những người lãnh đạo Hà Nội đang xây dựng một mặt trân thứ ba ở vùng Quân đoàn 3 dọc biên giới Campuchia. Người Trung Hoa đã ký một thỏa thuận với ông hoàng Sihanouk, qua cảng Sihanoukville đưa tới cho Việt Nam hàng nghìn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men và các thứ khác ( cuối năm 1969 là hơn 26.600 tấn ). Quân đội Campuchia lấy một phần rất ít còn Sihanouk và tướng tá của ông hưởng tiền hoa hồng. Một trong những bà vợ của Sihanoul có một công ty vận tải đưa những thứ viện trợ ấy từ cảng đến các nhà kho Việt Nam .

Thống kê những thiệt hại của Mỹ chỉ rõ chiến lược của Westmoreland có lợi cho quân địch đến mức nào; họ chọn trận địa nào thuận lợi nhất. Gần bốn phần năm lính Mỹ bị giết trong các trận chiến kể từ năm 1967 ( chiếm 77%) chỉ ở mười trong số bốn mươi bốn tỉnh. Và 52% tổng thiệt hại tập trung ở vùng Quân đoàn 1, chủ yếu dọc theo hoặc gần vùng phi quân sự; những thiệt hại khác ở vùng núi rừng gần biên giới Campuchia.

Trong văn phòng của ông trên núi phía trên Trân Châu Cảng, Krulak mỗi buổi sáng đau đớn khi thư ký đặt trước mặt ông báo cáo về những mất mát. Sau những lần viếng thăm thường xuyên các đơn vị, ông nhớ lại tên và những khuôn mặt, biết phần đông các chỉ huy đại đội và trung đội cũng như một số lính thường hoặc những người có cỡ. Ba con trai theo ông vào Hải quân. Người con cả, một mục sư chọn làm tuyên úy Quân đội ở đây; hai người trẻ hơn, là chỉ huy đại đội. Cuộc thử thách chỉ càng cay đắng đối với ông, thế nào mà cả ba cùng đến Việt Nam . Đứa trẻ nhất phục vụ hai lần ở Quân đoàn 1, hai lần bị thương, được thưởng Ngôi sao bạc vì lòng dũng cảm và ba Ngôi sao đồng.

Nếu John Kennedy không chết, Krulak nghĩ cuộc chiến tranh có lẽ đã diễn ra theo một cách khác. Lòng say mê chiến tranh chống nổi dậy và những bài học từ năm 1965 cho phép ông hiểu tầm quan trọng những đề nghị của Krulak đưa lên phòng bầu dục của Nhà Trắng. Ông tổng thống ấy sẽ buộc các tướng tiến hành cuộc chiến tranh này một cách thông  minh.

Nếu Krulak nói đúng về Kennedy và nếu giấc mơ của ông có một số cơ sở thì nó chỉ là một trong nhiều thất bại của ông ở Việt Nam . Trong cuộc chiến tranh này, 14.691 lính thủy đánh bộ bị giết, gấp ba lần số chết ở Triều Tiên, một mất mát nặng nề về mạng sống con người, nặng hơn so với 24.511 người chết trong Thế chiến thứ hai. Krulak đã biết rất lâu trước khi kết thúc , dù sao thì họ cũng chết vô ích.

 Trong lúc những người cộng sản Việt Nam tập trung cuộc chiến ở phía đông vùng phi quân sự vào tháng Năm 1967, John Vann tiến hành một cuộc đấu tranh với nạn bàn giấy để giúp Robert Komer đưa ra một tổ chức mới về bình định có tên gọi kỳ cục là “ Sự nâng đõ những hoạt động dân sự và phát triển cách mạng “, tên viết tắt còn lạ lùng hơn nữa : CORDS ( Civil Operation and Revolutionary Development Support ). Đây là một dịp hiếm hoi trong sự nghiệp mà Vann đạt được một thắng lợi đối với chính quyền, chủ yếu vì Westmoreland đã hiểu không vì lợi ích riêng mà anh chống đối lại cấp trên. Sự liều lĩnh của Komer sau đó bẻ gãy mọi kháng cự.

Quân cảnh bảo vệ tổng hành dinh của Westmoreland lúc đầu không thể ngời con người ấy, 45 tuổi, hơi hói, thắt nơ con buốm và mặc chiếc áo vét ba cúc, là vị tướng hàng đầu bên dân sự. Komer khẳng định điều đó theo cách của ông như khi phải thuyết phục những người khác. Westmoreland đã dành cho ông một chiếc xe nổi tiếng, chỉ có 3 chiếc ở Sài Gòn, hai chiếc kia của bản thân Westmoreland và người phó của ông, tướng Creighton Abrams. Khi Komer ngồi sau lái xe và người bảo vệ Việt Nam đến cổng sắt, quân cảnh đưa tay ngăn lại, đến phía sau Komer vừa hạ tấm kính xuống.

-   Ông là ai, Thưa ông ? Người quân cảnh hỏi.
-   Tôi là người có thế lực cao bên cơ quan bình định, Komer nêu cụ thể chức vụ của mình.
-   Vâng, thưa ông, để tôi đi xem.

Người quân cảnh đi vào trạm bảo vệ, tra cứu danh sách rồi gọi điện thoại chi một người nào đó.

Hai người Việt Nam bắt đầu nói với nhau. Komer đoán họ đang bình luận về sự việc này và ông mất mặt, điều mà ông không bao giờ chấp nhận đối với những người khác quan trọng hơn nhiều ở Sài Gòn . Komer biết nói mạnh, có hoặc không có chiếc tẩu thường xuyên trên miệng. Ông đã thỏa mãn cười ha hả năm 1966 trong lúc đấu tranh cho công việc bình định ở Nhà Trắng, lúc Lodge mệnh danh ông là “ chiếc đèn hàn “ vì nổi nóng khi bảo vệ dự án của mình. Sáng hôm ấy, trong lúc quân cảnh đặt ông vào một tình trạng bối rối, ông nhớ lại một bài báo của Ward Just, phóng viên tờ WASHINGTON POST , đăng mấy ngày trước đó. Anh này nói Komer nghĩ mình rất bướng bỉnh ở Washington nhưng ông sẽ thấy mọi việc rất khác trong chiếc chuồng chim quân sự ở Sài Gòn . Qua đó, anh ám chỉ Komer chỉ là một con gà con giữa đàn diều hâu và các tướng tá trong ban tham mưu của Westmoreland chỉ cần đớp ông một miếng.

Komer quyết đinh chứng minh anh nhà báo là một nhà tiên tri tồi. Trong lúc chờ đợi, người ta để ông vào ,ông để ý thấy quân cảnh đứng nghiêm cháo một chiếc xe limousine maù xanh ô liu phía trước ông. Xe mang biển đó với hai ngôi sao trung tướng.

Khi về đến văn phòng mình, ông gọi người trợ lý của ông, đại tá Robert Montague :

“ Như thế là đủ rồi ! Trên xe của tôi phải có bốn ngôi sao . Westmoreland có bốn sao, người phó Abrams của ông ta cũng vậy. Tôi cũng phải có bốn sao. Anh xoay sở đi !”.

Montague gọi điện thoại. Tổng tham mưu trưởng của Westmoreland , trung tướng Walter Kervin , tránh bị làm nhục khi cãi cọ với Komer, cử sang một người phó, một tướng Không quân.

-   Thưa ông, chúng ta có một vấn đề, ông nói với Komer. Chúng tôi không thể để tấm biển bốn sao trên xe ông.
-   Vì sao vậy ?

Viên tướng giải thích, theo điều lệ, chỉ một quân nhân cấp bậc đại tướng mới có quyền đó.

“ Điều lệ ấy được xây dựng từ khi không ai biết phải tiến hành một cuộc chiến tranh như thế nào. Hãy để biển bốn sao cho tôi !”.

Viên tướng Không quân không có gan gợi ý phải nghiêm chỉnh thực hiện điều lệ. Ông lại bị Komer mắng một trận nữa, vừa rút lui vừa nói “

“ Vâng, thưa ông “.

Một giờ sau, ông trở lại.

-   Thư ông, tôi  nghĩ chúng tôi đã tìm được một giải pháp đối với vấn đề của ông.
-   Thế nào ?
-   Chúng tôi sẽ làm một tấm biển đặc biêt, giữa là một chim đại bàng, bốn góc là những ngôi sao. Như tấm biển của vị chỉ huy quân đội trên đất liền.

Ông nhìn Komer, ngập ngừng mỉm cười.

-   Được lắm, Ông cứ đặt thế đi.
-   Vâng, thưa ông. Viên tướng Không quân trả lời, lần này mỉm cười thẳng thắn.

Nếu những người quân cảnh ở cửa ra vào vẫn luôn tò mò về tấm biển lạ lùng này, họ cũng không ngần ngại đứng nghiêm chào để chiếc xe đi nhanh qua. Họ mau chóng không cần nhìn vào tấm biển con đại bàng và những ngôi sao để biết con người thắt nơ con bướm là Komer.

Vào mùa xuân năm 1966, khị Lyndon Johnson chỉ định ông là con  mắt của Nhà Trắng trong cuộc “chiến tranh khác” này ở Việt Nam, Robert Komer thực tế không biết gì về Đông Nam Á. Đây là  một trong những vùng trên địa cầu ông chưa bao giờ nghiên cứu hoặc đến thăm trong 22 năm làm việc cho chính phủ, bắt đầu là cai của nghiệp vụ tình báo ở Italia trong Thế chiến thứ hai. Komer, con trai một gia đình giàu có ở Middle West, tốt nghiệp xuất sắc trường đại học Havard năm 1942 và sau chiến tranh trở lại Học viện khoa học kinh tế để cuối cùng phát hiện ra mình quan tâm đến khoa tình báo thay vì thế giới thương mại. Là người phân tích ở Văn phòng tổng hợp của CIA, ông chỉ đạo các nhóm Tây Âu, Trung Đông và Liên Xô. Sau khi John Kennedy được bầu, McGeorge Bundy đề nghị ông tham gia nhóm Hội đồng an ninh quốc gia, là người của Nhà Trắng phụ trách Trung Đông. Châu Phi cũng được giao thêm cho ông và ông trở thành phó cho Bundy.

Komer báo trước với người kế nhiệm Kennedy là ông không biết gì về Việt Nam nhưng điều đó không làm Lyndon Johnson bận tâm. Ông ta chia sẻ lòng vững tin của thời đại là một người Mỹ xuất sắc, đặc biệt khi đã được đào tạo ở nhưng trường đại học lớn của bờ biển phía Đông có thể làm bất cứ việc gì. Sự mặc cảm văn hóa thấp vùng Texas chỉ làm tăng niềm tin của ông vào những người đã được đào tạo như vậy. Thường ông nói với Komer với giọng kính nể “ Anh tốt nghiệp Havard”. Nhưng để làm vừa lòng Johnson, Komer có những chủ bài khác ngoài việc học hành : đức tính táo bạo, sự thẳng thắn tàn nhẫn và là một người làm việc có tham vọng. Ông sẽ không ngần ngừ dùng búa đánh vỡ các khuôn mẫu đáng nguyền ruả của tệ quan liêu.

Điều chủ yếu cần học hỏi về Việt Nam và công cuộc bình định ông khai thác ở Vann và những người chịu ảnh hưởng của anh như Ellsberg và Richard Holbrooke. Ngay từ khi được Johnson bổ nhiệm năm 1966, Komer nhận những thông tin từ Ellsberg trong hội những người trí thức của chính  phủ như ông. Holbrooke sau khi rời Porter và Đại sứ quán ở Sài Gòn được Komer tuyển dụng làm phó của mình ở Nhà Trắng. Hai người đã nói với ông về Vann và nhấn mạnh về giá trị của anh. Holbrooke đưa Vann đến Washington để trao đổi với Komer trong ba tiếng đồng hồ. Komer thấy anh “ đáng sợ vì những hiểu biết rộng và cay đắng sâu sắc về chiến dịch thuyết phục vô bổ của anh “. Ông bị tác động về sự nhận định hai mặt của Vann : chiến thắng là một ảo tưởng nếu cứ tiếp tục như người ta đang làm bây giờ, nhưng “ nếu chúng ta thay đổi phương  pháp , chúng ta có thể thắng lợi “. Bao giờ cũng sẵn sàng khai thác những tiếp xúc có thế lực, có ảnh hưởng, mỗi lẫn Komer sang Việt Nam , anh đều đến gặp và luôn gửi thư và báo cáo cho ông.

Tuy những yếu kém cố hữu của mỗi người trong Nhà nước Mỹ đã cản trở tổng thống Johnson nhận thức tình hình khác căn bản với những gì Vann và Krulak khuyến cáo, ông thực sự muốn có một chương trình bình định bổ sung cho cuộc chiến tranh hủy diệt của Westmoreland . Việc cố gắng thứ nhất trong tháng Mười một năm 1966, hợp nhất những cơ quan dân sự khác nhau đã có hiệu quả. Vann bắt đầu tập hợp những cố vấn của Quân đoàn 3 thành một nhóm đồng nhất. Nhưng anh vẫn bị phiền hà rất lớn bởi những cạnh tranh thường xuyên giữa AID, CIA và những cơ quan tình báo cũng như vì quyết định giữ những cố vấn quân sự dưới quyền của Westmoreland . Mùa xuân năm 1967, kiểu chờ thời của tổng chỉ huy có vẻ được trả giá. Tổng thống quyết định giao cho ông toàn bộ trách nhiệm về công cuộc bình đinh. Đồng thời Komer được cử sang Việt Nam tổ chức công việc ấy dưới quyền ông. Đội quân dân sự này, mang tên CORDS thiếu yếu tố chủ yếu là người Mỹ chịu trách nhiệm hoàn toàn ở Sài Gòn , đặc biệt về chương trình cải cách xã hội như Vann nhận thức. Nếu không toàn bộ cơ cấu chỉ huy và tổ chức sẽ dựa rộng rãi vào quan điểm của anh.

Theo nghi thức, Johnson xếp Komer vào hàng ngũ đại sứ nhưng trách nhiệm của ông không dính líu gì về ngoại giao. Ông cũng không là thành viên ban tham mưu của Westmoreland . Bob Komer là chỉ huy phó công cuộc bình định. Sự phân biệt ấy rất quan trọng về mặt quân sự vì như thế có nghĩa là ông trực tiếp thực thi quyền hành đối với tất cả những người làm việc cho ông và chỉ biết có tổng chỉ huy. Ông chiếm vị trí thứ ba trong hệ thống các lực lượng Mỹ ở Việt Nam, sau Westmoreland và người phó Creighton Abrams.

Vann đã nói trước, nếu ông có một quyền lực kém hơn, ông sẽ bị những con diều hâu của ban tham mưu cho ăn đòn. Đấy là kế hoạch Komer trình lên tổng thống và đã được chấp nhận. Ông cũng đồng thời làm cho Westmoreland hiểu đấy là quyền lợi của ông ta. Nếu ông thất bại, ông sẽ chịu những quở trách của tổng thống “ Westy, chính đầu tôi sẽ rơi “, ông nói. Nhưng nếu thành công, tổng chỉ huy sẽ được hưởng vì ông ta là phó. Ông tế nhị nói thêm để kích thích lòng kiêu ngạo của Westmoreland . Ông nhắc lại cả hai đều ở Học viện nghiên cứu kinh tế Havard; vị tướng đã học ở đó trong lúc ông đã ở Lầu năm góc.

Lời nói tế nhị đó cũng vô ích vì Westmoreland luôn thỏa mãn ý muốn của tổng thống nếu không mất gì. Nếu thiếu sáng suốt trong việc chỉ đạo chiến tranh thì ông ta rất thông tỏ những ngoắt ngoéo của phong cách bàn giấy chính trị và đó cũng là lý do ông mau thăng tiến. Ông hiểu ngay tình thế. Bây giờ, quyền của ông đã trải rộng trong toàn bộ chương trình bình định mà ông không phải gánh vác. Ông có thể tiếp tục cuộc chiến tranh hủy diệt của mình và phần còn lại thả cho Komer. VÌ vậy, ông không ngần ngại cấp cho ông này chiếc xe Chrysler màu đen.

Cơ cấu tổ chức của CORDS là một kiểu chỉ huy hỗn hợp dân, quân sự độc nhất. Một người chịu trách nhiệm về bình định được giao đứng đầu trong mỗi Quân đoàn. Quan hệ của họ với viên tướng Mỹ cũng như quan hệ giữa Komer và Westmoreland đồng thời họ báo cáo trực tiếp cho Komer. Trong nội bộ Quân đoàn, các cố vấn quân, dân sự là một nhóm dưới quyền người chịu trách nhiệm địa phưong, có thể là một quân nhân hoặc một đại diên cho các cơ quan dân sự.

Vann may mắn có người chỉ huy mới các lực lượng Mỹ của Quân đoàn 3, trung tướng Fred Weyand ý thức được tính bảo thủ của mình nên hoan nghênh những người vốn có giá trị đưa lại những ý tưởng mới mà mình không có. Nói một cách khác, Komer đã tìm cho anh một sự mến mộ mới mà có lẽ ông đã không thích. Thực ra, Westmoreland đã báo trước với Weyand, Vann thực sự là một loại găng tay lông dài và cứng mà ông không bắt buộc phải nhận. Weyand đã nghĩ khác. Ông có những bước đầu khó khăn trong quân đội, trước hết vào đầu Thế chiến thứ hai trong đội pháo binh miền biển, một vũ khí không có tương lai trong chiến tranh hiện đại và với máy bay. Sau đó, ông phục vụ trong tình báo ở Miến Điện cho đến khi chuyển sang bộ binh thời kỳ xe tăng Kim II Sung vượt qua vĩ tuyến 38 ở Triều Tiên. Ông được giao chỉ huy một tiểu đoàn vào tháng Giêng năm 1951  và tham gia vào cuộc phản công đẩy quân Trung Hoa lên đến đường ranh giới. Sự thành công ở Triều Tiên mà nhờ đó ông được thưởng Ngôi sao bạc và Ngôi sao đồng là tia lửa ánh lên trong sự nghiệp của ông. Sau đó, ông được những bổ nhiệm mà một sĩ quan không từ West Point ra cần có để thăng tiến : làm phó cho chỉ huy một đơn vị chiến đấu ở Berlin và hai năm ở vị trí tế nhị, sĩ qua liên lạc của Nghị viện. Phong thái bên ngoài có lợi cho ông : một người đẹp trao, cao một mét chín mươi , rất lễ độ. Ông cởi mở và trung thực , vừa khôn khéo vừa giản dị và thân mật. Ông không chờ các sĩ quan trẻ hoặc quân lính chào, ông chào họ trước.

Weyand và Vann đã gặp nhau khoảng một năm trước đây, khi Vann tiến hành một cuộc điều tra cố tìm thông tin về chỗ Ramsey bị Việt cộng cầm tù. Weyand vừa đến Hậu Nghĩa cùng sư đoàn bộ binh 25 mà ông chỉ huy và cấp cho ông nhiều thông tin thực tiễn. Nhưng ông không biết gì về lực lượng Việt cộng trong vùng, vả lại cũng chẳng ai biết.

Fed Weyand cho là mình may mắn phát hiện ra Vann. Họ biết rõ nhau hơn qua những cuộc thăm viếng tiếp theo, và khi Vann được bổ nhiệm làm giám đốc các hoạt động dân sự cuối năm 1966, anh thường đến tổng hành dinh của Weyand ngày thứ bảy hoặc chủ nhật chơi bóng chuyền và đêm ở lại để nói chuyện lâu hơn với vị tướng.

Một số sĩ quan nghi ngờ John Vann là một loại trung tá phản chắc. Nhưng Weyand đã xác minh lại những gì anh nói với ông, nhận thấy thường đúng chứ không sai. Ngoài ra, ông thán phục tinh thần can đảm của anh. Ông bị quyến rũ về vô số những chi tiết Vann thu thập ở nhiều bạn bè và người quen Việt Nam ở Sài Gòn , về những chuyến đi trên đường ít bảo đảm và những đêm anh ở lại trong các ấp và đồn tiền tiêu. Weyand không thể cho phép mình làm như thế và không biết có người nào khác làm như thế.

Bruce Palmer, thủ trưởng cũ của Vann ở Đức cầm đầu Quân đoàn 2 vào tháng Ba năm 1967 và Weyand trở thành phó của ông. Rồi Westmoreland điều động ông về gần mình làm ông rất tiếc, phụ trách công việc hành chính của quân đội Mỹ ở Việt Nam và Weyand nắm quyền chỉ huy Quân đoàn. Khi Westmoreland nói trước với ông, Vann không phải là một người dễ dãi. Weyand đã hoàn toàn ý thức được. Nhưng điều ông sẽ nhận được ngược lại, quan trọng hơn đối với ông.

Khi trở thành giám đốc CORDS ở Quân đoàn 2, Vann không cần chuyển khỏi ngoại ô Biên Hòa nơi mình đã ở. Anh nhiều công việc và trách nhiệm hơn nên cho làm thêm một ngôi nhà để làm việc. Weyand hỏi cần làm gì đặc biệt cho anh, Vann trả lời :

“ Có đấy, tôi muốn có một người giúp việc “

Weyand muốn biết anh có nghĩ đến một sĩ quan trẻ nào không.

“ Không, Vann nói, bất cứ một trung úy hoặc thượng sĩ nào cũng được, miễn là anh ta đến với chiếc trực thăng “.

Cho đến nay, anh vẫn được Seaman hoặc Palmer bố trí cho chiếc Raven H-23 mỗi lúc anh cần nhưng có hẳn một phi công lái và một trực thăng là đặc quyền của một viên tướng. Người giúp việc mới sau đó đến với chiếc máy bay hai chỗ ngồi và buồng lái vòm hình cầu. Vann đã có một đường băng nhỏ bằng xi măng bên cạnh văn phòng và anh thu xếp để người lái ở trong một trại lính ngay bên kia đường. Trong mười một tỉnh của Quân đoàn 2, không vị trí nào xa quá một giờ bay. Vann bây giờ chỉ huy 800 người Mỹ tại chỗ và ở những toán của tỉnh, phần lớn là quân nhân. Nếu kể thêm những nhân viên Philippines, Nam Hàn và Việt Nam thì đã có khoảng 2.225 người dưới quyền anh. Những lính Mỹ, trung tá, thiếu tá, đại úy , thiếu úy và trung sĩ lại nhận lệnh của Vann. Anh viết cho các bạn “ Tôi trở lại giữa gia đình quân đội và chính tôi là chỉ huy “.

Tháng Hai anh đọc được một bức thư của Ramsey. Thư viết trên giấy lụa chữ nhỏ bằng bút bi được đưa từ trại tù binh trong rừng ra do binh nhì Charles Crafts, một trong hai lính Mỹ được Việt cộng thả tự do, một cử chỉ tuyên truyền nhân dịp Tết năm 1967. Thư của Ramsey gửi cho bố mẹ ở Nevada, Crafts giấu ở bao kính và đưa lại cho sĩ quan tình báo của quân đội hỏi anh về việc được thả. Vann được triệu tập đến sứ quán, được giao trách nhiệm chuyển bức thư cho bố mẹ Ramsey. Anh vẫn giữ liên lạc với họ, thông báo tin tức ít ỏi anh có được cho họ. Có lúc, anh đã đề nghị giúp họ về tiền nong nhưng họ trả lời không cần thiết. Anh viết thư báo tin cho họ yên tâm. Đại sứ quán giữ bức thư gốc đưa vào hồ sơ Ramsey và gửi một bản sao cho gia đình.

Ramsey, con một , nói với bố mẹ “ Chính ý nghĩ trở về nhà và gặp lại bố mẹ mà con giữ sức khỏe của mình “. Anh hy vọng sống sót, “ nhưng chúng ta phải thực tế “. Anh muốn bức thư này chứng tỏ “ con còn sống đến ngày 13 tháng Giêng “ để bố mẹ có thể lĩnh lương của anh đến ngày “ không quá khó khăn “ nếu anh chết. Anh vừa bị một trận sốt rét thường rồi một trận thứ hai gọi là Falciparum “ xem như 90% trường hợp chết trong vùng này. Nếu thoát khỏi, con tin có thể sống sót qua bất cứ bệnh nặng nào khác. Việt cộng chăm sóc hoàn toàn đúng mực dựa vào điều kiện sống trong rừng … Bố mẹ cũng không phải lo về bom oanh tạc của Mỹ “. Trại đầy hố sâu và người ta đang đào một chỗ ở dưới đất để chứa tù binh. Một trại tương tự vừa bị B-52 dội bom  nhưng “ chỉ một người bị thương nhẹ “.

Vann có thể đọc trong thư nhưng nhất là chuyện kể của hai tù binh được thả tự do cho anh một khái niệm thực tế hơn về việc Ramsey  bị bắt. Anh không hình dung được và cũng chẳng người nào khác có thể, đấy là sự chuộc tội của bạn anh.

Hai người Việt Nam thẩm vấn anh ở trại thứ nhất nơi người ta dẫn anh đến, gần biên giới Campuchia, ngay từ đầu đã xác định anh là một do thám của CIA. Đối với họ, một người Mỹ nói tiếng Việt mặc quần áo dân sự đi với một khẩu AR-15, mang trong người nhiều tiền chỉ có thể làm nhiệm vụ do thám bí mật. Thực vậy, lúc bị bắt anh có 31.000 đồng Đông Dương để trả một hóa đơn xây dựng cho một thầu khoán địa phương. Những người hỏi anh suy luận anh đi trả tiền cho những kẻ giết người của CIA. Ramsey tự bảo vệ về việc đó nhưng những lời thanh minh của anh chỉ làm họ tức giận thêm. Đối với họ, công việc AID ấy chỉ là một vỏ bọc và nhân viên CIA là loại người Mỹ đáng ghê tởm nhất. Vai trò cơ quan tình báo giám sát công việc an ninh của Sài Gòn từ năm 1950, đã góp phần trong chiến dịch chống cộng của DIệm và vai trò của nó trong chương trình ấp chiến lược và những hoạt động khác được Việt cộng coi là những tội ác, phủ lên cơ quan ấy một ảnh hưởng huyền bí chết chóc dưới con mắt của họ.

Những người coi tù có vẻ xem sự hành hạ thể xác không có hiệu quả. Họ hành hạ về tinh thần, canh gác anh chặt chẽ. Để hả giận và giải trí buổi tối, họ sáng tác những màn kịch hài hước. Ramsey được xem là mẫu gốc của quân xâm lược Mỹ “ bàn tay nhuốm máu hàng nghìn người Việt Nam “. Màn kịch kết thúc bằng một chiến thắng : khánh thành một nấm mồ cho cái chết của tên nhân viên CIA này đầy hóm hỉnh. Ramsey bị hành quyết và chôn vào mồ tưới bằng máu. Mỗi người canh gác tham gia cảnh này đề nghị theo ý riêng của mình việc kết liễu anh : xử công khai rồi bắn chết, hành xác hoặc để nông dân đánh đến chết. Trại ở trong rừng nhiệt đới qui mô nhỏ nên Ramsey không tránh được thấy và nghe rõ hết.

Nỗi lo sợ, cô đơn, tội lỗi và hèn hạ từng tháng càng nặng nề khiến Ramsey gần phát điên. Khó ngủ làm thần kinh anh yếu thêm. Trong những trại ở rừng này, thực phẩm cho những người canh gác cũng như tù nhân vốn đã không đủ, đặc biệt thiếu protein và vitamin. Người Ramsey trở nên đầy ghẻ lở. Chỗ ngủ thô thiển làm bằng những tấm tre ghép phủ tấm đan lau sậy nằm rất đau. Anh cũng bị phù chân vì thiếu vitamin. Ánh sáng đèn cũng rất phiền phức, đặt trong một chiếc hộp kim loại mở một mặt để chiếu sáng. Khi nghe tiếng máy bay, những người gác kéo dây đậy nắp đèn, cũng làm anh mất ngũ. Ramsey bắt đầu có những cơn ác mộng và khi thiếp đi anh thường kêu lên.

Vào tháng Tám năm 1966, sau bảy tháng dằn vặt, anh càng lo lắng nhiều. Những người gác tù bảo dù sao cũng phải thanh toán anh đi vì anh đã quá yếu không đi đến trại mới được. Việt cộng đã quyết định di chuyển tù nhân vì những toán quân Mỹ bắt đầu thâm nhập vào trong vùng. Ramsey đã cương quyết hành động. Anh đề nghị và được cho làm việc như những tù nhân khác, bắt đầu tập thể dục trong nhà tù. Khi những đại diện “Hồng thập tự” Việt cộng đến đề nghị phát biểu trên “ Đài phát thanh giải phóng” những tuyên bố lên án cuộc chiến tranh , Ramsey nhận lời sẽ nói. Anh xen vào bài nói của mình những khẩu hiệu có vẻ kỳ quặc đối với một người Mỹ, ghi âm giọng run run hy vọng không dùng được trong việc phát đi. Những người gác không chú ý gì. Họ có vẻ dễ dãi hơn, để anh nói chuyện với những tù nhân khác và tập thể dục với họ.

Cuối tháng Mười, cuộc đi mệt nhọc 14 ngày đường rừng trong tỉnh phía bắc Sài Gòn thêm những vất vả thể xác vào thử thách tinh thần. Trại mới được Việt cộng xem như một chỗ đóng quân ngoài trời tạm thời cho đến khi họ đưa được tù binh lên xa hơn về phía bắc. Nhưng họ ở đây một năm. Để dễ che giấu hơn, những người Việt Nam chọn một chỗ khó khăn nhất trong nước, hiểm trở đến nỗi những người dẫn đường lạc mất vào cuối đoạn đường. Vùng này bị vô số vực sâu chia cắt phải đi qua trên những thân cây phủ rêu trơn. Đường đi quá phức tạp cản trở đoàn người mang vác đủ thực phẩm cho trại. Đất xấu, mưa nhiều và sớm trong năm 1967, tù binh và quân canh giữ không thể có được một ít rau. Đi săn lợn rừng hoặc muông thú không có. Một hôm, người ta phát hiện ra một tổ chuột lớn và nó cũng cung cấp cho họ được thịt tươi và protein. Nhưng nói chung, họ không có gì khác ăn ngoài sắn luộc nước mặn, gạo xấu , măng tre mà vẫn không đủ ăn.

Ramsey bị một cơn sốt rét sau khi đến trại mới một tuần, suốt 19 ngày sốt 40 độ. Trong bốn ngày, anh không ăn gì được và chỉ húp cháo. Buổi chiều lễ Noel, trong lúc anh giúp các bạn tù chuẩn bị làm lễ, anh đột ngột lại bị sốt rét faciparum thể nặng kèm theo rối loạn về não. Bác sĩ của trại  bắt mạch thấy rất yếu bèn tiêm một mũi trợ tim và những người có trách nhiệm bàn xem có nên lấy số thuốc kí ninh dự trữ rất ít cho anh không vì họ cũng bị sốt rét. Một cán bộ cấp trên lúc đó đến kiểm tra trại, cho rằng một nhân viên CIA có thể có giá trị trao đổi trong tương lai, đề nghị giữ mạng sống cho anh. Ramsey thoát khỏi cơn hôn mê sâu mười tiếng đồng hồ trong căn lều dùng làm bệnh xá. Da anh hoàn toàn trắng bệch do bác sĩ cho liều lượng quá cao để cứu anh.

Mưa trong đợt gió mùa như trút nước làm ngập hầm ngủ, những căn nhà mái tranh cũng không khô ráo; đất sũng nước, cây bật rễ đổ xuống làm hư hỏng nhà trong trại. Không ai bị thương nhưng quang cảnh thật đáng sợ. Những con đỉa to bằng ngón tay cái nẩy nở, bám vào chân làm nhiễm trùng nhiều người. Từng đợt Ramsey bị sốt rét định kỳ kéo dài một tuần lễ hoặc hơn. Sau cơn sốt nặng , bác sĩ cho anh ăn chế độ cháo gà và thịt một thời gian. Anh và những tù binh khác được nhận khá đều đặn những viên vitamin nhưng không có gì bù lại nổi việc ăn uống thiếu thốn. Bệnh phù lại bắt đầu xuất hiện. Da Ramsey mất tính đàn hồi và tóc bắt đầu rụng. Đùi trái của anh to ra, bàn chân, cẳng chân cũng phình ra. Thật đau đớn.

Một trong những tù binh của trại, một thiếu tá bị bắt trước Ramsey đã lâu, chết vì ảnh hưởng hỗn hợp của bệnh phù thũng, sốt rét và thiếu dinh dưỡng. Mọi người trong trại đều nghe tiếng khò khè của người hấp hối. Ramsey muốn đưa lại can đảm cho mình đồng thời mang lại can đảm cho bố mẹ trong lúc anh viết thư hồi đầu năm. Anh biết mạng sống của anh có thể chỉ như một ngọn nến trước gió.

Những người coi tù sẽ đưa anh ra khỏi chỗ này và đưa tới nhiều may mắn sống sót nếu anh nhận nói ra trước công chúng bây giờ thực sự anh nghĩ gì về cuộc chiến tranh này. Nhưng ý nghĩ về danh dự cấm anh sử dụng lời nói như một vũ khí chống lại các đồng hương của mình. Điều anh nghĩ không giảm được đau khổ của mình. Anh chỉ có thể tâm sự kín đáo với bố mẹ “ Chúng con tât cả đều hy vọng hòa bình đã gần tới, bản thân con mong các nhà lãnh đạo của chúng ta không ảo tưởng .. và họ không có tham vọng gì hơn là ra đi, vửa đủ khỏi mất mặt cho phép chúng ta rút lui không hại quá đáng đến uy tín quân sự. Mọi giải pháp khác là phủ nhận thực tế và mọi cố gắng theo hướng đó chỉ làm lẫn lộn sự điên rồ của quá khứ với sự vô lý của tương lai “.

 Vann rất yêu mến Komer và tình cảm đối với ông không ngừng phát triển nhưng cuối mùa hè năm 1967, anh viết cho Ellsberg “ Komer làm tôi thất vọng nhiều “. Ellsberg trở về công ty Rand vào cuối tháng Năm , do bị bệnh gan, tránh khỏi bị chết hoặc bị thương. Anh thất vọng vì không thuyết phục được người nào có thẩm quyền áp dụng những biện pháp căn bản mà Vann và anh cho là cần thiết. Ngoài ra, anh cũng thất vọng vì những thất bại liên tiếp trong cuộc sống riêng tư. Vết thương về vụ ly dị nặng nề thêm vì sự phức tạp và không thành công trong một cuộc phiêu lưu với một người đàn bà lai Âu Á, tình nhân của một chủ nhà hàng người xứ Corse ở Sài Gòn . Cũng như vậy với một nữ phóng viên, Patricia Marx, vì họ cãi nhau về cuộc chiến tranh mà Patricia chống đối. Ellsberg suy sụp đến mức cuối năm 1966 anh dự định tình nguyện vào bộ binh để tham gia chiến đấu ở miền Bắc. Bệnh gan đã hạ anh trước khi một viên đạn làm việc đó. Nhưng không vì thế mà anh bỏ rới chiến tranh . Khi đã hồi phục sức khỏe, anh lại muốn nghiên cứu về Việt Nam ở Công ty Rand, gây ảnh hưởng về con đường chính trị dựa vào những giác thư và trao đổi với hệ thống bạn bè, quan hệ anh đã có trong giới cao cấp ở Washington.

Việc bổ nhiệm Vann làm lãnh đạo cơ quan CORDS ở Quân đoàn 3 như một sự kích thích đối với anh, tan biến rất nhanh trong mùa hè năm 1967. Thực tế tấn công anh về mọi phía. Quân đội Nam Việt Nam không làm được vai trò bảo vệ các đội bình định ở các ấp. Các lực lượng địa phương và cảnh sát vẫn thảm hại mặc dù được Vann huấn luyện. Những người Việt được anh tuyển chọn và huấn luyện phần nhiều là những kẻ cơ hội hoặc không ra gì tình nguyện tham gia để tránh vào quân đội. Và cho dù những đội quân bình định có gồm những người chống cộng cuồng tìn hoặc những ông thánh đi nữa, họ cũng không thể bù đắp được thiệt hại do phần lớn các huyện, tỉnh trưởng mà họ phải theo lệnh gây ra.

Vấn đề với Komer đến từ chỗ, tất cả những khái niệm quản lý đập vào mắt mà ông học được ở Havard tự chúng đã có hiệu quả. Ông không thấy những hạn chế của nó. Mặc dù rất thông minh, không bảo thủ, ông cũng nghĩ về ảo tưởng “ trọng lượng của vũ khí và khối đông người “. Tháng Hai năm 1967, sau một trong những đợt đi kiểm tra đầu tiên của ông ở Việt Nam, ông đã nói với tổng thống “ mặc dù có những lãng phí và tốn kém, vấn đề không thể bàn cãi là chúng ta đang thắng cuộc chiến tranh ở miền Nam. Chúng ta đè bẹp quân địch với trọng lượng và khối lượng của chúng ta “. Từ Nhà Trắng qua Sài Gòn để đưa lực lượng ấy phục vụ công cuộc bình định với hiệu quả mà ông rất tự hào, ông không điều chỉnh nhận xét của mình : Hoa Kỳ sẽ thắng cuộc chiến tranh bởi sức mạnh của nó. Ông không hiểu người ta có thể vận dụng sức mạnh bằng cách nhân đôi nó lên và “ bình phương sai lầm lên “ như ngài Robert Thompson, nhà chiến lược Anh chống cách mạng đã nói về thái độ của Mỹ ở Việt Nam .

Tuy thế, Komer vẫn tấn công vào nạn quan liêu. Westmoreland bắt gặp ông gửi một bức điện mật cho tổng thống đề nghị buộc tổng chỉ huy phải thay thế những người chỉ huy bất lực của Quân lực Cộng hòa. Thư ký của Komer đã sai lầm giao bức điện cho bộ phận truyền tin của ban tham mưu thay vì chuyển qua đường dây mật của CIA và bức điện không đi xa hơn văn phòng Westmoreland ; ông này mời Komer lên nói chuyện một lúc. Komer hiểu trong tương lai không nên chơi kiểu hiệp sĩ thì hơn. Dù sao, ông cũng chưa bao giờ đồng ý với luận thuyết của Vann cho rằng kiểm soát và cải tổ chế độ Sài Gòn là điều kiện thiết yếu để chiến thắng. Komer là một trong những người Mỹ ở nước ngoài không chịu đựng được ý nghĩ có hành động “ đế quốc “ theo nghĩa dùng trong thế kỷ XX. Theo ông, việc chính phủ Mỹ để cho Kỳ , Thiệu và những tướng tá khác tự do hành động, là một thể hiện đạo đức và xu hướng “ thực dân “ của Vann là một sai lầm. Cuối cùng, nghị lực của Komer, lòng nhiệt tình, kiểu cách, lương tri trong tổ chức như những nhát kiếm đánh vào những nút tệ hại của nạn quan liêu không đưa lại kết quả gì. Công cuộc bình định thống nhất theo cách của ông kết hợp dân và quân sự tiến hành tốt đẹp nhưng vô nghĩa. Không có gì thay đổi trừ tình trạng ngày càng tồi tệ hơn của những người Việt ở miền Nam.

Tính chất bè bạn và tình cảm của anh nói với người khác dễ làm người ta hiểu mình, kích thích Vann chia sẻ thẳng thắn với Ellsberg sự thất vọng của anh về Komer và nỗi chán nản về con đường Hoa Kỳ theo đuổi ở Việt Nam . Ngày 19 tháng Tám năm 1967, anh viết thư cho bạn “ Chúng ta đang trên con đường phá sản, phải thay đổi hướng và thay nhanh. Thực thà mà nói tôi chưa bao giờ nản lòng như bây giờ khi thấy cộng đồng Mỹ hành động với những mục tiêu trái ngược nhau về mọi phương hướng. Chúng ta đã vô vọng khi cần một đại sứ có sức mạnh , năng động, không thương xót và có tính thực dân với quyền lực cần thiết để quét sạch các tướng, các trưởng phái đoàn và những đồ ngu khác không theo một đường lối xây dựng rõ ràng, đấy là điều tối thiểu Hoa Kỳ có quyền lực lựa chọn và đuổi cổ những người có trách nhiệm Việt Nam “.

Lodge đã từ bỏ sự nghiệp đại sứ, trở về Hoa Kỳ vào tháng Tư, trước khi chiến tranh làm lu mờ nghiêm trọng tiếng tăm của ông. Người kế nhiệm, Ellsworth Bunker còn ít thiên hướng hơn ông, hành động như một tổng đốc theo Vann mong muốn.

Tổng thống đã bác bỏ đề nghị của Westmoreland muốn là người chỉ huy duy nhất của tình thế với một phó dân sự làm nhiệm vụ đại sứ. Việc đối đầu giữa Truman và MacArthur trong cuộc chiến tranh Triều Tiên đã khẳng định với Lyndon Johnson để một viên tướng làm chỉ huy tối cao là thiếu khôn ngoan. Ông nghĩ Westmoreland sẽ làm cạn kiệt tinh thần chiến đấu của những người cộng sản Việt Nam với cuộc chiến tranh hủy diệt của ông ta và muốn bổ sung kết quả ấy bằng hệ luận chính trị của mình ; hợp pháp hóa quyền lực của những người mình bảo vệ ở Nam Việt Nam dưới dạng một chính phủ hợp hiến.

Mọi việc tiến hành được dễ dàng vì những nhượng bộ có vẻ thuận lợi Kỳ buộc phải làm thời kỳ chính trị rối ren năm 1966 : bầu cử một hội đồng lập hiến vào tháng Chín rồi bầu một tổng thống, một phó tổng thống và một hội đồng nhà nước. Hiến pháp mới đã sẵn sàng vào tháng Ba năm 1967  và tháng Chín bầu tổng thống, phó tổng thống và Nghị viện rồi Hội đồng lập pháp vào tháng Mười. Những người cộng sản và “ những người trung lập “ hòa đồng với những người ủng hộ cộng sản, vì chống đối sự có mặt của Mỹ và chế độ Sài Gòn , không có quyền bầu cử.

Ellsworth Bunker là một người lý tưởng cho quy trình dân chủ hóa ấy. Kết quả bình định của ông ở nước Cộng hòa Dominique trong cuộc khủng hoảng năm 1965 được lặp lại trong vai trò mới của ông ở Sài Gòn. Ông sang miền Nam vừa đúng lúc để phát huy tài năng của mình vì trong tháng Năm, Thiệu bỗng làm đảo lộn kế hoạch của Kỳ vì tuyên bố sẽ ứng cử tổng thống. Tuy có nhiều nhà dân sự trên sân khấu chính trị Sài Gòn cũng có ý định ứng cử nhưng ông ta đã báo trước quân đội tiếp tục lãnh đạo đất nước nên tổng thống phải là một quân nhân.

Bunker mời Thiệu, Kỳ và Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng liên quân Việt Nam đến ăn trưa tại tư dinh, cảnh báo ông sẽ không tha thứ những xung đột và cùng với các tướng, họ phải giải quyết những vấn đề giữa họ với nhau. Chắc ông không muốn quyết định Thiệu nhưng đấy là việc đã xảy ra để hạn chế những kình địch về âm mưu và cãi cọ giữa những viên tướng. Vì Thiệu mạnh hơn Kỳ trong trò chơi này tuy một số các đồng sự nhận xét ông ta cũng vị kỷ, vô tình như Kỳ nhưng có khả năng nhìn xa là điều đối thủ thiếu. Một con người quan tâm đến quyền lực và muốn thu nhặt của cải hết sức kín đáo ít bị chống đối bởi những người cùng những tham vọng ấy và được ông ta ưu ái. Kỳ đành bằng lòng với chức vụ phó tổng thống.

Nếu Bunker đến Việt Nam sớm hơn, có lẽ ông đã có một quan điểm riêng hơn. Khi đến Sài Gòn , ông đã 73 tuổi, trở thành hơi kỳ quặc, một nhà triệu phú tiết kiệm, giữ những áo vét thể thao trong khi quần không dùng được nữa. Đôi giày đóng ở thợ tốt nhất nước Anh nhưng đã rạn nứt toàn bộ vì ông thay đế cho đến tây dây buộc. Ông gửi đi máy bay chiếc va li ngoại giao từ thời trang trại Vermont của ông. Ông còn nhanh nhẹn về thể chất và trí tuệ, cao một mét tám mươi lăm, người luôn rất thẳng. Mái tóc bạc, khuôn mặt mỏng, đôi mắt xanh sau đôi kính gọng đồi mồi nêu rõ lòng tin chắc của một nhà quý tộc cổ, càng thể hiện sự thận trọng và kín đáo của ông. Những người Sài Gòn nhanh chóng mệnh danh ông là “ Tủ lạnh “ không biết rằng sự giữ ý bề ngoài tiềm ẩn tài năng kể chuyện và tính dí dỏm đặc biệt trong đời tư.

Và đấy là vấn đề, sau 34 năm kinh doang đường, ý nghĩ thành kiến về châu Mỹ la tinh, sau sự nghiệp thứ hai và được ân huệ hơn trong việc phục vụ chính quyền, trí thông minh của Bunker đã đông cứng. Ông không thể không nhìn Việt Nam theo triển vọng của Caraibes và Trung Mỹ. Sau bao nhiêu thời gian và thành công trong lòng một chính phủ thịnh vượng, ông cũng không thể nghi ngờ những phán xét của các tướng như Westmoreland .

Vann thử nói chuyện với Bunker nhưng anh rất rụt rè. Trong lúc một quý tộc cổ cởi mở như Lodge khuyến khích Vann táo bạo, việc giữ ý của Bunker làm anh thêm cảm giác mình thuộc xã hội lớp dưới. Cuối mùa hè năm 1967, Vann biết mình không hy vọng gì ở vị đại sứ mới. Người bạn cùng nhà với anh, George Jacobson, giữ những công việc quan trọng ở Đại sứ quán. Ông này “ rất hốt hoảng “ thấy Bunker trở thành người tù trí thức của Westmoreland đến mức nào, Vann viết cho Ellsberg ngày 19 tháng Tám như vậy. Vị đại sứ bị tác động vì bị tướng tổng chỉ huy giải đáp nhanh chóng những yêu cầu của ông, thể hiện tin tưởng trong những lời tuyên bố chính thức và những buổi nói chuyện riêng tỏ ra thật sự tôn trọng ông già. Vann nêu lên trong thư lời Jacobson đã nói “ Westy là người phụ thuộc tệ hại vứt đi mà chưa bao giờ Bunker có được “. Westmoreland đã xác định chắc chắn với Bunker ông ta đang đè bẹp Việt cộng và quân đội Bắc Việt , các lực lượng Sài Gòn đã có những “ tiến bộ quan trọng “ đến mức Jacobson “ không thể cho phép mình trình bày một quan điểm ngược lại “ trong những báo cáo gửi đại sứ. Ông báo trước với Vann “ giảm bớt “ lời chỉ trích Quân lực Cộng hòa trước mặt Bunker,

Vả lại Vann đang có những vấn đề riêng. Đầu tháng Tư 1967, Annie lại mang thai và từ chối phá thai. Cô nói với Vann cô không thể chịu đựng sự tổn thương lần thứ hai và những người yêu nhau phải nhận lấy hậu quả, nghĩa là chấp nhận đứa  bé. Vann cố gắng thuyết phục cô, lại đưa ra lập luận lần trước : một đứa con bất hợp pháp làm hại đến sự nghiệp của anh. Cô trả lời việc cô mang thai giúp anh làm điều anh đã tuyên bố : anh nói ly dị để lấy người đàn bà mình yêu. Cô lại được gnhe bài hát nhàm tai anh ca với Lee, lấy lý do anh bị buộc chặt với Mary Jane về tài chính.

Vô tình, bố mẹ Annie lại là đồng minh với Vann. Ông bố biết việc phá thai trước kia của con gái, buộc lòng phải chấp nhận, hy vọng điều đó sẽ làm cô tránh xa Vann hoặc ít nhất cũng giữ gìn được trong tương lai. Ông bà rất giận dữ, khi cô báo tin lại mang thai và lần này cô muốn giữ đứa con. Họ ép buộc cô phá thai và rời bỏ Vann, Cô chỉ mới 18 tuổi và sẽ làm hỏng cả cuộc đời mình, Không một người Việt Nam đáng kính nào sẽ cưới cô, đưa lại một tình yêu đúng đắn và cuộc sống gia đình mong muốn. Nhưng họ phát hiện ra ý muốn ghê gớm của cô con gái họ đã nuông chiều. Annie trả lời cô yêu Vann và anh yêu cô. Dù bây giờ vì sự nghiệp mà Vann bỏ cô, cô vẫn giữ lại đứa con.

Vann rất muốn bỏ rơi Annie nhưng ông bố không để anh làm thế. Ông điện thoại tới tổng hành dinh của anh ở Biên Hòa, hẹn gặp để giải quyết vấn đề ấy. Vann lại lừa ông và không gọi lại nữa. Bố Annie bèn đến thẳng văn phòng anh. Ông buộc anh phải làm theo ý muốn của Annie. Nếu Vann hứa thuê một ngôi  nhà và đảm bảo đúng mức cuộc sống của cô và đứa con, ông sẽ không kiện lên Đại sứ quán. Vann cũng phải cúi mình trước một buổi lễ có mặt cả gia đình để có vẻ tôn trọng việc họ gắn bó với nhau. Vann chấp nhận, cho mình là nạn nhân của một vụ đe dọa và hành xử không có gì đáng chê trách.

Annie ấn định buổi lễ vào 15 tháng Bảy năm 1967, ngày cô vừa tròn 19 tuổi. Buổi lễ tiến hành trong nhà bố mẹ cô, một khu người Âu ở Sài Gòn , pha tạp giữa lễ thành hôn và đám cưới truyền thống Việt Nam với việc trao đổi nhẫn cưới theo kiểu phương Tây. Vann mặc một bộ quần áo lịch sự, thắt cà vạt. Annie đã hướng dẫn anh phải mua những gì đem đến và thực hiện vai trò của mình như thế nào. Anh tặng cô hai đôi bông tai vàng, một cho lễ thành hôn và một lúc đưa dâu theo phong tục. Anh kết hôn với một người giàu có. Nhưng anh không đem đến vật quan trọng nhất vì Annie nghĩ một người nước ngoài như anh sẽ không hiểu được. Cô tự đi mua lấy và đặt lên bàn thờ gia đình. Đấy là một chiếc hộp sơn màu rực rỡ đựng những lá trầu và quả cau mà các bà nông dân thường nhai vì nó có hương vị kích thích. Đấy cũng là biểu tượng của việc hòa hợp chung thủy theo người Việt Nam mà không một đám cưới nào thiếu được. Trầu cau được bày trong hộp đồng sáng loáng bên cạnh những cây nến, hoa quả, rượu nếp và chè, trong mùi hương thơm ngát. Vann đeo nhẫn cưới vào ngón tay Annie, cầm một nén hương quì bên cạnh cô trước bàn thờ và cúi xuống thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên. Trước bữa ăn trong buổi hôn lễ, bố Annie giới thiệu anh với những thành viên trong gia đình vì không có khách mời  nào khác.

Vann không phải trả tiền thuê nhà vì được tính vào kinh phí cung cấp Mỹ. Anh đang ở chung nhà với một đồng sự AID ở Biên Hòa nhưng họ có quyền có nhà riêng. Ít lâu sau hôn lễ, Vann tâm sự với một người có trách nhiệm của AID ở Sài Gòn, thú nhận vấn đề của mình. Người đối thoại với anh tỏ ra độ lượng. Tình thế của Van có thể tuyệt vọng nếu bí mật bị lộ nhưng việc những đứa con không hợp pháp giữa ông bố Mỹ và mẹ người châu Á đã trở thành một hậu quả khác của cuộc chiến tranh này. Có hàng nghìn trẻ em hầu như luôn luôn bị bỏ lại cho mẹ chúng khi người bố trở về Hoa Kỳ . Mặt khác, AID cũng có lợi khi bảo vệ Vann vì anh đã là chuyên gia bình định của họ,có kết quả công việc đáng được chú ý nhất. Ngôi nhà ở Biên Hòa vậy là mang tên người đồng sự kia và người ta thuê cho Vann một ngôi nhà ở Gia Định, ngoại ô phía bắc Sài Gòn .

Cấp bậc của Vann cho phép Annie có một chỗ ở tử tế, một tầng lầu với ba phòng ngủ ở tầng hai, một phòng khách, phòng ăn và bếp ở tầng trệt, một ga ra ô tô liền kề. Tất cả có tường gạch bao bọc, phía trên tường là dây thép gai. AID tu sửa nhà lại như mới, cung cấp những vật dụng cơ bản. Annie đến ở đấy vào tháng Tám. Vann đưa tiền cho cô đảm bảo cuộc sống hàng ngày và thuê một đầy tớ gái. Để phù hợp với qui định của văn phòng, anh đưa ký một hợp đồng ghi nhận cô là người nấu bếp và nội trợ.

Annie cũng như Lee không biết mình có người tình địch kia. Đối với Lee, không có gì thay đổi . Vann và người đồng sự Wilbar Wilson tiếp tục ở chung nhà ở Biên Hòa, thường Lee vẫn ngủ ở phòng Vann. Wilson là một người sống độc thân khổ hạnh, quan hệ với đàn bà giới hạn trong những nhận xét lễ độ và càu nhàu khi đến văn phòng. Nói chung , anh tránh đi với họ và không biết đến Lee khi cô mặc áo ngủ lang thang trong nhà.

Lee là tình nhân của Vann trên danh nghĩa . Bây giờ, cách nhìn đã khác hơn, anh thường dẫn cô đến các cuộc tiếp tân ngoại giao ở Sài Gòn và những cuộc gặp mặt chung khác. Ngược lại, sau lần đi tìm Annie ở trường trung học Đà Lạt, anh cẩn thận không đưa cô ra mặt ở Sài Gòn . Những buổi đi nhà hàng hoặc hộp đêm hạn chế đến mức tối thiểu để quyến rũ cô. Sau lần thứ hai cô mang thai và dàn xếp với bố cô, người ta không bao giờ thấy cô đi với anh. Chỉ những bạn thân như Ellsberg, George Jacobson, Wilson và cô thư ký Mỹ của anh biết có Annie. Lee, tinh tế hơn với vốn tiếng Anh giỏi, đương nhiên được chọn làm vai trò công khai. Vann tương đối hào phóng với cô. Cô có thể thường xuyền sử dụng chiếc Toyota Vann mua năm 1967, đã trở thành thừa vì anh thích chiếc Ford Mustang cơ quan AID dành cho anh.

Tuy tiền bạc không phải là động cơ tiên quyết của Lee, cô cũng có lợi trong quan hệ này. Cô được chuyển nhượng một cửa hàng lưu niệm trong câu lạc bộ sĩ quan Sài Gòn mà Vann không can thiệp hoặc mua chuộc ai. Chỉ việc là tình nhân của anh tạo cho cô những tiếp xúc cần thiết. Cô bỏ trường dạy tiếng Anh để bán hàng và quản lý một quán ăn của một người xứ Corse. Cô cũng hết sức giúp Vann, đi mua bán đều đặn cho anh và làm chủ nhà thu xếp mọi việc khi anh tổ chức tiếp khách ở tư dinh Biên Hòa.

Vann được trực tiếp nói chuyện một mình với McNamara lần đầu tiên vào tháng Bảy khi bộ trưởng Quốc phòng đến mực cả với Westmoreland về việc ông này xin tăng cường lực lượng. Ngày gặp mặt ấy, như anh viết thư cho Ellsberg “ đánh dấu một tảng đá trắng “. Nicholas Katzenbach, thứ trưởng Ngoại giao hỏi anh trong hai tiếng rưỡi. David McGiffert, thứ trưởng Bộ quốc phòng đến Biên Hòa ăn tối với anh, nói chuyện đến khuya rồi cả ngày hôm sau đi kiểm tra Quân đoàn 3 cùng anh. Vann chỉ trao đổi với McNamara trong nửa tiếng nhưng việc bộ trưởng Quốc phòng hỏi quan điểm của Vann đã là một dấu hiệu đối với anh. Thật vinh dự, Robert McNamara đã bắt đầu lo sợ.

Việc thất bại của cuộc chiến bằng không quân trên miền Bắc Việt Nam đã làm cho ông phải mở mắt. Những trận bom “Thần sấm” không ngăn chặn được thậm chí không giảm bớt đáng kể làn sóng người và vật chất đi từ Bắc vào Nam, cũng không làm nhụt ý chí người Việt Nam . Ngược lại, càng làm họ quyết tâm cứng rắn hơn, kích thích họ xây dựng một hệ thống vận chuyển mỗi năm có hiệu quả hơn và ít bị thiệt hại hơn vì những đợt máy bay tấn công. Con đường mòn Hồ Chí Minh mà đầu năm 1965, những nhà bản đồ của CIA vẽ là một mạng lưới đường mòn qua núi và bùn lầy từ thời thực dân, chỉ một số đoạn xe cộ qua lại được trong mùa khô. Tám năm sau, con đường đã trải dài hàng nghìn cây số cứng rắn phủ đã dăm, đá ông hoặc được tăng cường bằng những khúc gỗ tròn, có những chiếc cầu qua vực sâu và sông suối. Con đường ngoằn nghèo từ Bắc vào Nam qua núi rừng với hàng loạt đường nhánh và đường quay.

Trong gần hai năm chiến tranh thế giới thứ hai, lực lượng không quân Mỹ, Anh cố gắng ngăn chặn không được những đoàn tiếp tế của Đức cho Ý qua một số đèo ở dãy núi Alpes. Cuộc hành quân “ Lạ lùng “ ở Triều Tiên để ngăn làn sóng người và đạn dược qua đường bộ, đường sắt xuống phía nam cũng thất bại hoàn toàn. Những người có trách nhiệm về Không quân là những người trong quân đội có trí nhớ ngắn nhất về giới hạn máy bay của họ, đã dẫn những nhà lãnh đạo chính trị đặt lại vấn đề lãng phí tiền và người họ sử dụng.

Đô đốc hải quân Grant Sharp, chỉ huy trưởng vùng Thái Bình Dương, chắc là một thủy thủ tuyệt với nhưng cũng dễ tin vào sức mạnh của không lực, và chiến dịch ném bom phá hoại miền Bắc Việt Nam là cuộc chiến tranh của ông vì Westmoreland chỉ có quyền lực ở miền Nam. Trong đà hào hứng, tháng Ba năm 1965, đô đốc đã tả những máy bay của ông sẽ “cắt đứt mọi đường giao thông”, đường bộ, đường sắt và đường thủy trong vùng bở biển Bắc Việt Nam từ vĩ t uyến 20 đến vùng phi quân sự. Không quân ném bom tất cả các điểm chiến lược, các cầu, bến tàu và đèo. Những cuộc tấn công liên tiếp hai mưới bốn trên hai mươi bốn giờ, ban đêm dựa vào pháo sáng, không cho người Việt Nam sửa chữa những hư hỏng. Sharp nói cụ thể trong một bức điện gửi Bộ tham mưu tối cao “ Tất cả những mục tiêu được chọn rất khó hoặc không thể vòng tránh được. Việc tấn công vào hệ thống đường giao thông làm giảm khối lượng chở đến những thùng phễu ấy và tạo cho chúng ta khả năng chọn lựa rộng rãi những mục tiêu mới như các đoàn xe tăng cường, các kho chứa và người được huy động đến mỗi bên cầu bị phá hủy”.

Kể từ năm 1965, máy bay Không lực Hoa Kỳ và máy bay Hải quân không phá hỏng quá 20 đến 25% xe cộ vận chuyển từ miền Bắc. Người Việt Nam cũng duy trì được việc vận chuyển đường sắt dù đôi khi họ phải thiết lập ô tô chạy con thoi trong những đoạn đường sắt bị phá hủy. Cho rằng những con số phá hủy chưa đúng thực tế và thêm vào 10% nữa vẫn không ít hơn hai phần ba lượng tiếp tế vũ khí, đạn dược và những vật dụng khác vẫn đến nơi, một tỷ lệ rất có thể làm hài lòng các chuyên gia hậu cần. Người bị thiệt hại do máy bay tấn công thấp hơn 20 hoặc 25% vì họ tiến vào Nam qua những vùng hiểm trở hơn để tránh bị oanh tạc. Một đoàn thâm nhập chỉ có khả năng mất mát từ 10 đến 20%, phần lớn do bệnh tật và thất lạc.

Những người lái máy bay không bao giờ tiến hành được một chiến dịch ngăn cản hữu hiệu vì họ đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan không giải quyết được. Những vấn đề thời gian, khoảng cách kết hợp với điều kiện thời tiết và lưới lửa phòng không cũng như với sáng kiến và ý chí quyết tâm của những người dưới mặt đất mà họ cố gắng tiêu diệt đã ngăn cản họ. Điều đã xảy ra ở Italia và Triều Tiên mở rộng thêm bi kịch ở Việt Nam vì mức độ thách thức lớn hơn. Yếu tố thời gian và khoảng cách không khắc phục được vì thực tế đơn giản là số lượng máy bay có hạn cũng như thời gian chúng có thể ở trên không. Năm 1967, trong lúc các đợt tấn công của đô đốc Sharp lên đến cực điểm, Hoa Kỳ tung ra miền Bắc Việt Nam và Lào mỗi ngày 300 cuộc không tập trong khoảng nửa giờ. Hệ thống đường giao thông của địch bắt đầu từ biên giới Trung Quốc , không thể kiểm soát hết đường bộ, đường sắt và phải tấn công khá lâu để làm tắc nghẽn hẳn. Nhiều xe ô tô thoát khỏi sự tiêu diệt, đơn giản vì lúc chạy về phía nam không có máy bay trên trời. Điều kiện thời tiết Đông Dương càng làm vấn đề khó khăn hơn, buộc máy bay chờ trên đường băng hoặc  trên tàu trong lúc đáng lẽ phải lên không trung. Nhưng đúng là người Việt Nam cũng gặp nhiều trở ngại  trong đợt gió mùa tháng Năm đến tháng Mười một, thời gian lâu không sử dụng được đường mòn Hồ Chí Minh.

Người Việt Nam còn làm giảm sức mạnh của không lực Mỹ bằng hệ thống phòng không được bố trí một cách xuất sắc nhờ vào sự trang bị của Xô viết : ra đa, súng phòng không DCA và tên lửa đất đối không SA-2. Họ cũng phân phối súng tự động cho mỗi nông dân để có thể bắn thẳng vào máy bay lúc đang bay. Phi công Mỹ buộc phải tấn công từ độ cao để khỏi bị hạ vì vậy kém chính xác hơn. Để tránh tên lửa, họ phải mất thì giờ. Như vậy, những người phòng vệ không cần bắn máy bay tiêm kích – ném bom cũng giảm bớt số lượng. Những máy bay bình thường tấn công vận chuyển ở mặt đất phải chuyển nhiệm vụ vô hiệu hóa những nơi bắn tên lửa hoặc súng phòng không để bảo vệ những máy bay ném bom khác. Hơn 40% lần ra quân trên miền Bắc Việt Nam và Lào dành cho nhiệm vụ bảo vệ và tháp tùng này.

Những khối óc và đôi tay người Việt Nam chống lại cuộc tấn công bằng máy bay Mỹ một cách tốt nhất. Họ bố trí 300.000 đàn ông, đàn bà tập trung sửa chữa đường bộ, đường sắt , cầu cống và không ngừng mở rộng đường giao thông. Ngoài ra, có 200.000 nông dân tham gia khi xong công việc đồng áng. Người Trung Hoa hỗ trợ 40.000 kỹ thuật viên chuyên trách và pháo thủ phòng không đảm bảo hai con đường sắt từ biên giới về Hà Nội hoạt động. Người Nga cung cấp xe ủi đất để làm lại đường. Nhưng những dụng cụ chính làm đất thuộc loại thân quen hơn với người Việt Nam : thuổng, xẻng, xe đẩy lắp bánh xe đạp lăn tốt hơn kiểu của Mỹ. Và khi không có xe, người ta thay thế bằng đôi thúng với đòn gánh trên vai.

Đối với người Mỹ, con đường bộ hoặc đường sắt là một đường thẳng đi từ điểm A đến điểm B, chỉ đi vòng khi địa hình bắt buộc. Người Việt Nam không muốn hệ thống đường của họ tắc nghẽn nên làm sáu, tám hoặc mười đường khác nhau để đi từ A đến B, thường là những cầu nổi, bắt đầu trời sáng thì chuyển đi để lại đặt vào lúc hoàng hôn xuống. Khi máy bay dội những hố bom cắt đứt một con đường hoặc phá hỏng một chiếc cầu, đoàn xe sử dụng một đoạn đường khác đã được sửa chữa ngay sau đó. Dĩ nhiên, xe được ngụy trang với cành lá và dừng lại chỗ ẩn náu trong trường hợp có báo động máy bay. Nhiều đoạn đường dài cũng được cây cối phủ kín hai bên, máy bay không quan sát được.

 Nhưng cái giá người Việt Nam phải trả cũng không nhỏ. Lái một chiếc xe trong nhiều tháng, năm này qua năm khác có 20, 25, có lẽ đến 30% nguy cơ tử vong. Còn những đội quân bảo dưỡng đường sá cũng gặp nguy hiểm như lính bộ binh. Để giữ cho đường thông suốt, đàn ông, đàn bà phải túc trực gần những điểm thường bị bắn phá và những quả bom không trúng xe và cầu đã không trừ người làm đường. Họ không thể vừa làm việc vừa ẩn nấp để tránh những thảm bom của B-52. Nghĩa trang tưởng nhớ người chết trên đường mòn Hồ Chí Minh rộng 16 héc ta, đặt mộ của 10.306 người Việt Nam , đàn ông và đàn bà mà người ta biết rõ tên họ. Hàng nhiều nghìn những người khác nằm lại tại chỗ, là những chiến sĩ vô danh trong sự lộn xộn của cuộc chiến tranh này.

Việc nhân đôi hoặc nhân ba hệ thống đường đan xen nhau ấy mà ngay trung tâm vận chuyển ở Hà Nội cũng không theo dõi được sự phát triển tăng thêm bao nhiêu cây số cho phi công Mỹ cần nắm. Đường mòn Hồ Chí Minh là ví dụ kỳ lạ nhất trong những chiến công người Việt Nam có thể làm nên. Theo đường thẳng từ đầu con đường ở đèo Mụ Gia, Bắc Việt Nam đến miền Nam ở biên giới chung Việt, Lào và Campuchia chỉ khoảng 400 cây số. Khi đường làm xong, đoạn đường ấy bao gồm 15.400 cây số đường lát đá dăm và đường phụ.

Đô đốc Hải quân Sharp và ban tham mưu liên quân xác định chắc chắn với McNamara và tổng thống có thể ngăn chặn xe ô tô phát triển bằng cắt bỏ nguyên liệu. Chỉ cần dội bom vào những thùng chứa xăng của cảng Hải Phòng và những kho khác trong vùng Hà Nội – Hải Phòng. Walt Rostow, thay thế McGeorge Bundy năm 1966 làm cố vấn cho Johnson về an ninh quốc gia, hồ hởi về ý kiến này làm ông nhớ lại kinh nghiệm của mình trong Thế chiến thứ hai và việc ném bom chiến lược của Đức.

Bầu trời sáng sủa ở Hải Phòng ngày 29 tháng Sáu năm 1966 lúc các phi công Mỹ đốt cháy tất cả những thùng chứa xăng của cảng. Trong một tháng, gần 80% lượng dự trữ xăng dầu miền Bắc Việt Nam bị phá hủy. Thế nhưng, theo người ta biết, không một chiếc ô tô nào thiếu  nguyên liệu. Hơn nữa, số lượng xe do Liên Xô và Trung Quốc cung cấp không ngừng tăng trong năm 1966, lên gấp đôi so với năm 1965. Những người Việt Nam không tự sản xuất và lọc xăng, đã dự kiến những cuộc tập kích này từ lâu, phân tán xăng dầu cần thiết vào những bể ngầm dưới đất và những kho dấu kín. Người Nga nhanh chóng giao bằng thùng để họ phân tán ngay khi tàu thủy đến. Để dễ dàng tiếp tế cho xe, người Việt Nam xây dựng hai đường ống dẫn dầu dọc đường với những nhánh mà một vào miền Nam phía tây thành phố Huế. Một trong những bức tượng tưởng niệm trên đường mòn Hồ Chí Minh khắc họa một người đàn bà đang bơm xăng.

Krulak hóm hỉnh thấy trước việc này khi trong báo cáo chiến lược tháng Chạp năm 1965, ông đã cảnh báo , cố gắng ngăn chặn những đoàn người và sự chi viện choi miền Nam là “ như đánh nhau với một con cá sấu mà chỉ cắn vào đuôi nó”. Sharp, tất cả các đô đốc, các tướng Không quân chúc phúc cho việc làm không tưởng này chứng tỏ nỗi ám ảnh và thất vọng có thể làm sai lạc việc suy xét đến mức nào. Số lượng “ xe ô tô mất đi “ là thước đo hiệu quả của không chiến. Năm này đến năm khác, Sharp và những cấp cao nhất trong Không quân cho mua những chiếc máy bay phản lực, mỗi chiếc giá từ 1 đến 4 triệu đô la ( bây giờ là 4 đến 6 triệu ) và tuyển mộ những phi công can đảm, nàh nước phải đầu tư vào đào tạo và cung cấp hàng nhiều trăm nghìn đô la. Để làm gì ? Để phá hủy những chiếc xe 2,5 tấn và những người lái xe Việt Nam chỉ có lòng can đảm , được đào tạo trên ngay tại hiện trường tránh máy bay. Những chiếc xe bị phá hủy không cân bằng với số lượng máy bay bị hạ. Xe ô tô mỗi chiếc giá khoảng 6000 đô là và được sản xuất thừa thãi bởi nền công nghiệp Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc. Việc thay thế xe không đắt và người Việt Nam tăng thêm phương tiện vận chuyển. Trong báo cáo gửi ban tham mưu cuối năm 1967, Sharp trung thực thừa nhận sau một năm đánh bom, tháng Chạp vấn có số lượng xe ô tô như tháng Giêng trước. Có thể còn nhiều hơn. Theo những quan sát thu thập được, số lượng xe ở Lào năm 1967 tăng 165% so với năm trước; McNamara đánh giá trong năm 1967, những người Việt Nam có từ 10.000 đến 12.000 xe chạy trên đường từ Bắc vào Nam.

Giải pháp không phải bằng thả mìn và bom phong tỏa Hải Phòng và các cảng khác ở miền Bắc như Krulak và Greene đã nghĩ và như bây giờ Sharp và các đồng sự ở ban tham mưu đòi hỏi. Tuy vậy, điều đó hình như là câu trả lời của vấn đề vì, ngoài lương thực và người, mọi phương tiện chiến tranh đến bằng đường biển từ Nga và các đồng minh cộng sản khác. Nhưng thời kỳ ấy, Trung Quốc để cho người Nga chuyển theo đường sắt Trung Quốc. Nếu các hải cảng bị phong tỏa , người Việt Nam được tiếp tế bằng đường sắt và đường bộ từ biên giới Trung Quốc như họ làm sau khi Nixon cấm tàu vào các cảng năm 1972. Ngay từ mùa xuân 1967, mọi thỏa thuận đã được thu xếp cho việc vận chuyển trên đất liền này.

Những hy vọng điên rồ đầu tư vào những trận tập kích vào nguồn dự trữ xăng dầu trong mùa hè 1966 xáo động đến nỗi McNamara bắt đầu phân tích sự thật. Ông ta cảnh báo Johnson từ tháng Mười cách tốt nhất để đạt kết quả quyết định sẽ là đánh vào nhân dân miền Bắc Việt Nam . Ông kết luận “ Ném bom đúng mức ở miền Bắc để có một tác động quyết định về cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội của nông dân đòi hỏi một cố gắng mà về kỹ thuật chúng ta có khả năng nhưng nhân dân chúng ta cũng như dư luận thế giới sẽ không tha thứ. Ngoài ra, chúng ta còn có nguy cơ nghiêm trọng đánh nhau với Trung Quốc “.

Dan Ellsberg góp phần làm McNamara sáng tỏ về những ảo tưởng của mình. Ông nhớ lại câu chuyện như là “ đỉnh cao nghiệp vụ viên chức “ của ông. Việc đó xảy ra ngay trong tháng Mười năm 1966 trên một chiếc máy bay phản lực “ dành riêng cho McNamara” Không quân bố trí cho những chuyến đi dài của các nhân vật và bộ trưởng Quốc phòng thường dùng. Ngoại trưởng mới Nicholas Katzenbach sang Việt Nam lần đầu cũng cùng đi. Ellsberg được chỉ định tháp tùng ông.

Máy bay gồm những phòng cách biệt nhau, có giường ngủ và một khoang trống đặt bàn làm việc hoặc ăn uống. McNamara ngồi đối diện với thứ trưởng phụ trách ngoại giao John McNaughton. Đã có ý định, Ellsberg mang theo một cặp tài liệu đầy báo cáo quan trọng, tất cả hơn 200 trang, trong đó có một chuyện kể rất ấn tượng về ba ngày anh đến Hậu Nghĩa với Vann trong mùa thu trước .. Khi máy bay đã cất cánh, Ellsberg lấy ra một tài liệu đưa cho McNaughton, gợi ý sẽ thú vị khi đọc trong cuộc hành trình. McNaugton nhìn qua rồi đưa cho McNamara đọc. Ellsberg lấy một tài liệu khác và đến lượt McNaugton cũng say sưa đọc.

Hai người đọc rất nhanh và Ellsberg đưa ra hết các tài liệu. McNaugton gặp riêng Ellsberg nói ông bộ trưởng Quốc phòng muốn có một bản sao ghi chép của anh về Hậu Nghĩa, bản viết tốt nhất của anh, nhiều chi tiết về sự hư hỏng tinh thần và hài hước của chế độ Sài Gòn , McNaughton có một cuộc điều tra khác cần làm ; ông đề nghị Ellsberg không đưa tài liệu này cho tướng Wheeler xem.

Không hài lòng khi đã nảy sinh một thôi thúc đặc biệt và bây giờ McNamara không chỉ quan tâm về thất bại của chiến dịch tấn công bằng máy bay. Ông bỗng hiểu ra những sự thật bao nhiều năm ông không biết. Báo cáo ông gửi lên tổng thống Johnson đánh dấu sự tan vỡ. Một năm trước McNamara có thể chịu đựng cơn choáng vì 230 người Mỹ chết trong bốn ngày đánh nhau ở thung lũng IaDrang và vẫn khuyến khích tổng thống ủng hộ cuộc chiến tranh của Westmoreland , “ cung cấp cho ông ta những gì ông cần về người và phương tiện”. Ngày nay, bộ trưởng Quốc phòng muốn xiết chặt lại đối với Westmoreland để chấm dứt “ viễn cảnh leo thang trải rộng các lực lượng Mỹ xem ra không kết thúc”. Ông phải xác định với viên tướng chỉ có 470.000 người không hơn. Còn về cuộc không tập miền Bắc Việt Nam , McNamara không còn lòng dạ nào chơi trò tạm ngừng, tiếp theo là tối hậu thư và leo thang. Ông muốn Johnson cố thuyết phục những người cộng sản Việt Nam thương lượng bằng cách ngừng ném bom trên toàn miền Bắc hoặc nếu tổng thống thấy quyết định ấy quá độ lượng thì cũng trên vùng hình chữ nhật đông bắc Hà Nội, Hải Phòng cho đến biên giới Trung Quốc. Các tướng trong ban tham mưu liên quân lên tiếng họ sẽ nổi dậy nếu tổng thống có một biện pháp loại đó.

McNamara bắt đầu chấp nhận sự thật và càng tiến tới ông càng bối rối. Chắc vì thế mà ông đồng ý triệu tập Vann về đứng đầu bộ phận châu Á ở văn phòng phân tích của ông. Vann đã chọn ở lại Việt Nam , ông tuyển dụng một nhà thống kê trẻ Thomas Thayer, đã ở Sài Gòn hai năm rưỡi làm việc cho Lầu Năm Góc. Đối với anh này, McNamara thừa thãi những con số thật, những con số ông không chú ý khi Krulak đặt dưới mắt ông. Kinh nghiệm của Thayer ở Việt Nam đã dạy cho anh điều gì quan trọng và anh đủ thông minh để kiểm tra thống kê của mình qua lời chỉ trích của những người chiến đấu sáng suốt dựa vào phân tích chiến trường. Anh hỏi Hal Moore sau khi thôi chỉ huy Lữ đoàn 3 Không quân về Washington làm phó cho McNaughton. Moore chắc chắn rằng, người Việt Nam đánh táo bạo và kiên trì như vậy ở vùng Drang và chống cự quyết liệt ở Bồng Sơn vì họ quyết định học cách đọ sức với người Mỹ. Bây giờ, họ đã biết. Đã đến lúc họ buộc đối phương đánh theo cách của họ. Họ dắt mũi quân đội và lính thủy đánh bộ Mỹ.

Mùa xuân năm 1967, khi Westmoreland ở Sài Gòn đòi hỏi tăng quân, ít nhất là 550.000 vào giữa năm 1968 hoặc 678.000 nếu tổng thống muốn đẩy nhanh thắng lợi, Thayer đã sẵn sàng. Với nhóm các nhà phân tích, anh tập hợp ở Văn phòng đặc biệt về Đông Nam Á những cơ sở nghiên cứu khá đủ để chứng minh cuộc chiến tranh hủy diệt của Westmoreland là một sự cố gắng vô lý. Bức giác thư đưa lên McNamara khuyến khích ông chống lại mọi quân số cao hơn 470.000 người.

Nghiên cứu 56 trận đánh trong năm 1966 từ cấp trung đội đến tiểu đoàn chứng tỏ Việt cộng và quân Bắc Việt mở đầu hành động trong 85% trận chiến đấu, hoặc tấn công các đơn vị Hoa Kỳ hoặc chiến đấu từ những vị trí kiên cố; 80 trong 100 lần , quân địch gây được bất ngờ. Chỉ có 5% trường hợp chỉ huy quân Mỹ “ biết được tương đối đúng về vị trí và lực lượng quân địch trước khi trận đánh bắt đầu “. Thayer xác nhận kết quả nghiên cứu với hàng tập báo cáo của các sĩ quan chiến đấu nộp sau trận đánh, so sánh với những việc xảy ra trong năm 1965 và đầu năm 1966. Trong 88% trường hợp, Việt cộng và quân Bắc Việt nổ súng trước.

Để cuộc chiến tranh hủy diệt gặp thuận lợi, một chỉ huy quân sự phải buộc quân địch đánh nhau theo ý mình. Những kết luận của Thayer chứng tỏ Westmoreland không thể buộc quân địch đánh nhau được vì người Việt Nam chủ động ghê gớm trong việc tấn công và kiểm soát được thiệt hại. Hơn nữa, vì Westmoreland cố đánh nhau ở chỗ hoặc lúc họ xuất hiện nên chính người Việt Nam thiệt hại của người Mỹ. Họ có thể làm tăng thêm hoặc giảm bớt tùy theo sự hy sinh của quân đội họ.

Nếu bỏ qua yếu tố khởi đầu những trận đánh và cho Westmoreland tất cả quân lính ông ta đòi hỏi, việc phân tích của Thayer cho thấy chiến lược của ông ta dù sao cũng chẳng có ý nghĩa gì. Cho dù với 678.000 lính Mỹ để duy trì tàn sát và dù người Việt Nam có thiệt hại gấp đôi, mỗi tuần lễ họ cũng chỉ tổn thất thêm 400 người mà những nguồn dự trữ có thể thay thế. Kết luận “ Vậy là chúng ta phải mất 10 năm để đè bẹp họ”.

Robert McNamara, nhà kỹ trị cầm quyền khác thường, tháng Năm năm 1967 thực hiện một hành động dũng cảm về tinh thần đáng nhớ. Ông gửi lên tổng thống Hoa Kỳ một tờ trình nói rằng ông không thắng được cuộc chiến tranh Việt Nam và phải thương lượng hòa bình trong thế bất lợi.

Tờ trình do John McNaughton viết, người đã chia sẻ với McNamara sự lo lắng đồng thời về trách nhiệm của cuộc tắm máu. Thực ra, họ không nói một cách sống sượng rằng cuộc chiến tranh không thắng được ; như thế sẽ ảnh hưởng xấu về chính trị trong hoàn cảnh thời kỳ đó. Nhưng kết luận ấy rõ ràng qua những biện pháp họ kiến nghị và nền hòa bình họ hình dung. Họ muốn tổng thống bỏ mục tiêu chính thức, khắc trên đồng sự thất bại của những người cộng sản Việt Nam xây dựng “ một miền Nam Việt Nam độc lập không cộng sản “, và có sự chỉ đạo mật về “ những mục tiêu tối thiểu mới “. Điều đó trở lại một qui định về tình hình chính trị ở miền Nam cho phép Hoa Kỳ giải ước nhanh chóng. Việc “ hạn chế về những bổn phận của Hoa Kỳ .. chắc sẽ gây ra “một cuộc chạy ra nước ngoài” ở Thái Lan, Lào và trong nội bộ nhiệm vụ Việt Nam “, nhưng ảnh hưởng xấu “ sẽ ít khó khăn hơn mọi cách tiếp cận tình hình khác”. Họ khuyến nghị tổng thống tiến theo hướng ấy, chỉ cho Westmoreland thêm 30.000 quân và ngừng ném bom miền Bắc phía trên vĩ tuyến 20, nghĩa là giới hạn ỏ những con đường thâm nhập gần vùng phi quân sự.

McNamara không còn phát huy ảnh hưởng của mình để tiến hành những sự kiện ông đã mở đầu. Lyndon Johnson đã đầu tư vào chiến tranh Việt Nam 11.000 mạng sống người Mỹ và chỗ đứng của ông trong lịch sử. Ông lắng nghe những người khác như Komer, Rostow và Rusk, không cùng quan điểm với McNamara nhưng ông vẫn sử dụng làm nổi bật phe quân sự. Ông không hề có ý định cho Westmoreland 678.000 người với “lực lượng thích hợp” vì như vậy buộc ông phải huy động quân nhân dự bị về pháp chế sẽ nguy hiểm đối với xã hội và làm sâu sắc dư luận quần chúng chống đối chiến tranh . Ông cũng không muốn cung cấp 550.000 quân của “Lực lượng tối thiểu” vì chuyến về Washington mới đây, Westmoreland không thuyết phục được ông thật cần thiết để chiến thắng. Tổng thống đã đi đến chỗ xem những đề nghị tăng cường của Westmoreland thiên về mặc cả hơn là cần thiết thực sự. Tháng Bảy ông lại cử McNamara sang Nam Việt Nam , Vann có dịp lần đầu tiên thấy ông một mình mặc cả với viên tướng. Cuối cùng, Westmoreland chấp nhận tăng cường 55.000 người và như vậy ông có 525.000 người vào giữa năm 1968.

Được tổng thống ủy thác không có nghĩa là được ông tin tưởng. Lyndon Johnson bắt đầu có những khoảng cách với bộ trưởng Quốc phòng của mình.

Tháng Bảy, McNamara mất người bạn tin cậy John McNaughton và gia đình trong vụ đụng chạm giữa chiếc chuyên cơ và chiếc máy bay thương mại trên sân bây Caronlina Bắc. Ông cảm thấy đau đớn về sự mất mát ấy và bắt đầu tỏ ra xúc động. Trong báo cáo tháng Năm, ông đã lùi bước khi tả với tổng thống việc ném bom miền Bắc Việt Nam “ Không phải một hình ảnh quyến rũ khi lực lượng hùng mạnh nhất thế giới mỗi tuần giết hoặc làm bị thương nặng 1.000 người không phải lính chiến đấu, cố khuất phục một cách tàn nhẫn một nước nhỏ kém phát triển hơn, mà kết quả rất đáng nghi ngờ”.

Nhưng ông không chỉ băn khoăn về sự đẫm máu này. Một trong những trợ lý đã làm việc bên cạnh ông năm 1967 nhớ lại bấy giờ McNamara xấu hổ về những lời khuyên sai lầm ông trình lên hai tổng thống trong những năm trước, xấu hổ vì xem như vai trò quan trọng nhất đời ông là một thất bại. Tháng Sáu, ông cho viết tập “ Hồ sơ của Lầu Năm Góc”, cuộc điều tra tuyệt mật về việc can thiệp của Hoa Kỳ vào Đông Dương từ những nguồn gốc thời Pháp. Có đến 43 tập tài liệu lưu trữ về chiến tranh hơn 7.000 trang. Leslie Gelg, cầm đầu công việc, nhận của ông một danh sách hàng trăm câu hỏi muốn người ta nghiên cứu và trả lời. Một trong những câu hỏi đầu của McNamara qui kết những gì ông này thu thập được là vô ích “ Hồ Chí Minh có phải là một Tito của châu Á không ?”.

Có lẽ vì ông ít chú trọng đến quá khứ, bây giờ ông muốn biết mọi chi tiết về những vụ ám sát và phá hoại. Mùa thu năm 1967, Jonathan Schell, một nhà báo hai mươi bốn năm làm việc ở tờ NEWYORKER, vừa hoàn thành cuộc điều tra về hoạt động của Lực lượng can thiệp Oregon mà Westmoreland cử đến tỉnh Quảng Ngãi, phía nam vùng Quân đoàn 1 trong mùa xuân để thay thế lính thủy đánh bộ. Schell đến đó nhiều tuần trong mùa hè, phần nhiều ngồi ở ghế sau chiếc máy bay thám thính nhỏ L-19, vị trí lí tưởng để nhìn toàn cảnh bị tàn phá.

Hai năm trước như tôi đã nhận thấy vào tháng Mười một năm 1965, năm ấp ven biển bị san bằng , hàng trăm người chết vì bom đạn của Không quân và tàu chiến, sự hủy hoại nông thôn và dân thường vùng này thật nặng nề. Trong năm 1966, lính thủy đánh bộ tổ chức những cuộc hành quân rất tàn ác chống lại sự kháng cự của Việt cộng , những nông dân quyết tâm ủng hộ họ và cả những toán quân Bắc Việt từ dãy Trường Sơn xuống tăng cường. Chiến lược bình định của Krulak và Walt cố gắng triển khai tại chỗ đã kìm hãm các chỉ huy lính thủy đánh bộ lại. Nhưng sự hạn chế ấy biến mất khi lực lượng Oregon đến vào mùa xuân 1967. Đội quân này không quan tâm đến sự an toàn của các làng và sự bảo vệ đất đai. Máy bay được tự do không gò bó và sự tàn phá thật triệt để.

Hai năm trước tôi biết ít nhất hàng chục làng khác bị gạch khỏi bản đồ như năm thôn ấp tôi thấy dọc bờ biển và 25 làng khác bị thiệt hại nghiêm trọng. Năm 1967, Schell phát hiện ra 70% trong số 450 làng trong tỉnh hoàn toàn bị tiêu diệt. Trừ một số thôn ấp dọc đường số 1 quân tuần tra lúc đi lúc không, mặc nhiên sự tàn phá phát triển với một nhịp điệu dồn dập. Ngày này qua ngày khác, ngồi trên chiếc máy bay nhỏ Schell chứng kiến sự bắn phá của trọng pháo và rốc két từ trực thăng chiến đấu cùng những đám cháy bùng lên do lính bộ binh Mỹ đốt phá. Anh tổng kết những đổ nát trên qua dấu vết những ngôi nhà bị phá hủy, cẩn thận kiểm tra những con số với các phi công L-19, các sĩ quan lực lượng Oregon, các thành viên đội CORDS ở địa phưong và các sĩ quan Sài Gòn .

Một số nông dân trở về làng bị tàn phá tuy phần đông bị cấm ở lại trong vùng tự do bắn phá và sống dưới hầm. Họ thà mạo hiểm mạng sống trên đồng ruộng lỗ chỗ bom đạn và đối mặt với làn đạn còn hơn chắc chắn bị đói, bẩn thỉu và bệnh tật trong những trại tị nạn. Từ khi lực lượng Oregon đến, các bệnh viện tiếp nhận bình quân mỗi ngày ba mươi dân thường bị thương. Một bác sĩ tình nguyện Anh đã làm việc ở Quảng Ngãi hơn ba năm tâm sự với Schell : tổng số nạn nhân dân thường, bao gồm chết và bị thương hàng năm lên đến 50.000 người trong tỉnh. Tom Thayer chỉ dựa vào số người nhận vào bệnh viện đã tới con số 33.000.

Schell kể lại những điều mình thấy với Jerome Wiesner , người điều hành Viện kỹ thuật công nghiệp Massachusetts. Quân đội đã tranh thủ tài năng của ông cải tiến ra đa ở phòng thí nghiệm trong Thế chiến thứ hai. Ông đã là cố vấn khoa học của Kennedy và là một bạn thân của McNamara. Ông thu xếp để Schell gặp ông này tại Lầu Năm Góc.

McNamara có thói quen tiếp khách do bạn bè giới thiệu. Ông muốn tỏ ra là người có trí tuệ rộng rãi. Nhưng nói chung, khách mau chóng nhận thấy ông bộ trưởng Quốc phòng bắt đầu cựa quậy và nhìn đồng hồ. Một trợ lý vào đưa cho ông một bức thư hoặc điện thoại gọi có việc trao đổi quan trọng và người khách phải ý tứ ra khỏi phòng. Khi trở lại, McNamara đang đứng sau bàn giấy và không ai có thể cho phép mình làm phiền lâu hơn một người có trách nhiệm nặng nề bận việc đến như vậy.

Schell không bị gián đoạn. Anh vẫn có cảm tưởng đặt vấn đề với một người rất bận mặc dù McNamara không cố thúc dục anh. Ông chú ý lắng nghe anh với nét mặt vô cảm và nêu lên vài câu hỏi. Khi Schell nói xong, ông bảo anh chỉ những vùng anh đã tả trên bản đồ. “ Ông có thể viết tất cả những ấy ra giấy được không ?” McNamara hỏi. Schell trả lời chỉ là viết thảo bằng tay. Ông gọi một trợ lý đến, đề nghị bố trí để Schell có thể đọc cho chép lại bản thảo của mình. Schell cám ơn bộ trưởng và rút lui.

McNamara không hỏi bài viết của anh dài bao nhiêu, thực tế nó bằng một cuốn sách nhỏ. Anh để luôn ba ngày tiếp đó đọc trước máy ghi âm trong phòng một viên tướng lúc đó đi vắng. Những băng ghi âm lần lượt gửi sang phòng đánh máy chữ của Lầu Năm Góc. Người trợ lý cũng thu xếp để Schell ăn uống ở phòng ăn dành cho các sĩ quan và nhân viên cao cấp. Ở đấy có những câu trò chuyện anh thấy có vẻ “ rất kỳ lạ”. Sau ba ngày, anh đi ra với một bản sao đánh máy dành cho báo NEW YORKER. McNamara không tiếp xúc với anh bao giờ nữa để hỏi bản sao cho Lầu Năm Góc ra sao rồi. Mười lăm năm sau gặp ông tình cờ trong sân bay, McNamara có vẻ là một “ người rối loạn quá mức “ nên anh thấy bất lịch sự nếu cứ hỏi.

Rober McNamara gửi thẳng bản ấy sang Sài Gòn cho đại sứ Bunker; ông này đưa cho Westmoreland  xem và với sự đồng tình của vị tướng, ra lệnh tiến hành một điều tra mật. “ Những cảnh tàn phá tác giả mô tả trong bài viết thật quá đáng nhưng không đến mức làm những lời tuyên bố của ông ta mất tín nhiệm, bản báo cáo điều tra kết luận … Những con số ông nêu lên rất đúng … Nhưng có những lý do quan trọng về dân sự và quân sự giải thích qui mô tàn phá trong vùng này. Dân chúng hoàn taòn căm thù chính quyền Nam Việt Nam và không đắn đo cảm tính với Mặt trận giải phóng của miền Bắc “. Việt cộng không chịu phục tùng chính quyền Mỹ, xây dựng vững chắc các làng và tổ chức công cuộc kháng chiến của toàn thể dân chúng. “ Đối với Việt cộng, không có sự phân biệt “ Việt cộng là nhân dân Việt Nam ( chữ LÀ được nhấn mạnh trong bản gốc). Báo cáo phản ánh tầm nhìn bó hẹp của các sĩ quan Mỹ, cố tìm một giải thích hợp lý về những điều Schell đã viết.

Chưa đầy bốn tháng sau việc làm tự biện minh  ấy của ban tham mưu , sáng ngày 16 tháng Ba năm 1968, vụ thảm sát Sơn Mỹ trong tỉnh Quảng Ngãi diễn ra một cách dã man. Tệ hại nhất là ở ấp Mỹ Lai, dưới sự chỉ huy của thiếu úy William Calley, trung đội trưởng của Sư đoàn bộ binh 23 bây giờ gọi là “Sư đoàn AMERICAN”, trước đây là lực lượng Oregon. Việc điều tra hình sự do quân cảnh tiến hành kết luận có 347 người bị giết ở Mỹ Lai. Trong ấp khác, một đại đội nữa giết chết 90 người Việt Nam không có vũ khí trong cùng ngày. Trên bia mộ tưởng niệm sau chiến tranh ghi tên 504 người dân làng Sơn Mỹ bị giết.

Một số quân lính từ chối không tham gia thảm sát nhưng thái độ của họ không kìm hãm những người khác. Lính Mỹ và những sĩ quan trẻ giết người già, đàn bà, nam nữ thanh  niên và những đứa bé. Một anh lính hai lần bắn hụt một đứa trẻ con nằm trên đất ; bạn bè chế giễu anh vụng về, anh bèn lại gần bắn liên tiếp lần thứ ba với khẩu súng ngắn. Lính dùng báng súng đánh đàn bà, hãm hiếp họ trước khi bắn hạ. Chúng giết trâu bò, lợn gà, vứt xác xuống giếng đầu độc nước uống. Chúng vứt những khối thuốc nổ xuống hầm đào trong nhà có phần đông dân làng đang ẩn nấp. Những ai ra được lập tức bị bắn hạ. Tất cả nhà của cửa bị chúng đốt hết.

Thiếu úy Calley dẫn quân đi bắn những nạn nhân trong một hố mương tưới chẳng mấy chố đã đầy xác người. Anh ta là sĩ quan hoặc người lính độc nhất bị buộc tội một mình giết chết 109 người Việt Nam . Thủ phạm dự tính giết ít nhất 22 nạn nhân trong đó có những em bé, bị tòa án quân sự kết tội lao công vĩnh viễn. Tổng thống can thiệp cho được khoan hồng. Calley chỉ bị ba năm tù giam, phần đông bị bắt giữ trong trại ở Fort Benning nhưng được quyền có bạn gái đến thăm.

Các sĩ quan của toàn án quân sự áp dụng hình phạt đúng mức. Nixon thật xấu hổ khi không thừa nhận vụ thảm sát. Tất nhiên, Calley là một tên bạo dâm nhưng chỉ tính cách riêng của anh ta không giải thích được sự tàn sát. Sự khác biệt giữa Calley và những người đồng lõa khác là chúng giết hàng mầy trăm người Việt Nam không vũ khí trong một buổi sáng, bắn bừa bãi với súng ngắn, súng trường và súng máy. Nếu chúng giết nhiều người như vậy trong một không gian rộng lớn hơn, lâu hơn với bất phân là đạn súng cối, bom ,rốc két, phốt pho và bom napalm thì chúng xử sự theo qui định bình thường của quân đội Mỹ. Quân lính và sĩ quan trẻ đã nhận thấy một số trường hợp cấp trên của họ làm đối với người Việt Nam . Không có lý do gì họ cho mạng sống của những người nông dân ấy là quan trọng. Họ trở nên tàn ác hơn vì vòng quay bạo lực ngu ngốc của cuộc chiến tranh toàn diện của Westmoreland . Lòng đầy thù hận vì bạn bè họ chết hoặc bị thương do mìn, bẫy của Việt cộng và các đồng minh nông dân, rất tự nhiên họ xem những người Việt Nam ở nông thôn như một loại sâu bọ cần tận diệt. Cuộc thảm sát ở Sơn Mỹ và Mỹ Lai là không tránh khỏi. Nhưng những người chịu trách nhiệm là các quan chức dân và quân sự của chính phủ Hoa Kỳ đã để cho các tướng lĩnh tiến hành một cuộc chiến tranh như vậy.

McNamara còn cố thuyết phục tổng thống ngày 31 tháng Mười năm 1967 ở Nhà Trắng trong “bữa ăn trưa ngày thứ năm” theo truyền thống dành cho Việt Nam . Ông ta hết sức sốt sắng và hôm sau xác nhận sự bất đồng của mình trong một giác thư. Ông nói trước, cuộc chiến tranh kéo dài 15 tháng tiếp theo nếu Johnson chấp nhận chiến lược của ông cho đến cuối nhiệm kỳ vào tháng Giêng 1969. Lúc đó, Johnson có ý thức về cái chết trong chiến đấu của “ 24.000 đến 30.000” người Mỹ ( thực tế trên 31.000). Đổi lại, tổng thống không cung cấp điều gì quan trọng. Dư luận công chúng đòi rút quân đội về nước. Đồng thời các nhà lãnh đạo quân sự và phái diều hâu ở Nghị viện gây sức ép để thả mìn ở các cảng biển và ném bom dân cư Bắc Việt Nam , mở rộng chiến tranh , chiếm cứ những nơi trú ẩn của cộng sản ở Campuchia, cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào và tấn công ra miền Bắc phía bên kia khu phi quân sự.

Tháng Năm, McNamara mong muốn tổng thống kích thích Hà Nội thương lượng bằng việc giới hạn sự oanh tạc ở vĩ tuyến 20. Bây giờ ông đề nghị chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động tấn công bằng không quân trên toàn miền Bắc vào cuối năm. Buổi chiều ngày văn bản phiền phức ấy được đệ trình, ở Washington có một cuộc họp bí mật những người cũ trong chính phủ và các cố vấn thân cận. McNamara phát biểu nói rằng ông sợ những gì ông và Dean Rusk đã làm từ năn 1961 đến nay để tăng hiệu quả cuộc chiến tranh chỉ dẫn tới sự thất bại.

Sự thay đổi của McNamara làm Johnson ngỡ ngàng. Rusk, người mà bộ trưởng Quốc phòng có những nhận xét thê thảm, chắc chắn không cùng quan điểm của ông, cũng như không ai trong các cố vấn mà Johnson tôn trọng ý kiến. Nhóm người McNamara thường trao đổi ý kiến, người ta đặt tên là “ những nhà thông thái “ thực sự là một chùm sao gồm tất cả những người có kinh nghiệm về quân sự cũng như chính quyền. Trong nhóm có Dean Acheson và Omar Bradley, vị tướng năm sao duy nhất còn sống từ Thế chiến thứ hai. Cũng chiều hôm ấy, họ nghe Earler Wheeler báo cáo về những cuộc hành quân và việc oanh tạc máy bay của Westmoreland  cùng bản tổng kết công cuộc bình định của Komer do George Carver, chuyên gia về Việt Nam của CIA trình bày.

Walt Rostow gửi cho Johnson một báo cáo về cuộc họp ấy trước khi những “ nhà thông thái “ đến Nhà Trắng vào sáng hôm sau để xin đường lối chỉ đạo . Rostow viết “ Tôi thấy những bản báo cáo rất có ấn tượng, đặc biệt bản của Carver đã đối chiếu đúng những tiến bộ chúng ta đạt được và những vấn đề còn phải giải quyết … Không một lời nói ra có thể đưa lên báo chí. Có lẽ ông có thể tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh loại  này do ông chủ trì và sau đó có thể phát lại trên truyền hình … “.

Trong quá trình bàn cãi trong bữa ăn trưa với tổng thống, một trong những nhà thông thái, George Ball, trước kia chống đối chiến tranh, bây giờ đứng đầu một nhà băng lớn ở New York, nói ông không xuất phát từ Việt Nam nữa. Các báo cáo đã “ rất yên tâm rồi’.

Tổng thống cẩn thận đề nghị bình luận về giác thư của McNamara ngày mồng một tháng Mười một với Rostow, Maxwell Taylor và hai trong những người thân tín của ông, Abe Fortas, chủ tịch Hội đồng tối cao và Clark Clifford, một trong những luật gia sáng suốt của Washington, là người có ảnh hưởng nhất. Tất cả đều thống nhất khuyên Johnson đừng chú ý đến những nhận xét của McNamara.

Trong bài bình luận “ tuyệt mật “ của mình, Rostow nói không cần thiết ngừng ném bom để tiến hành thương lượng. Ông nhắc lại chính trong lúc miền Bắc bị đánh căng thẳng nhất là lúc những tiếp xúc bí mật đầu tiên với đối phương bắt đầu. Những tiếp xúc ấy bàn về việc trao đổi tù binh và kết quả là hai quân nhân Mỹ được trả tự do vào tháng Chạp năm 1967. Ramsey và những người khác cũng có thể lợi dụng việc đó sau này nếu chính quyền thực sự quan tâm. Rostow nhìn vào sự tiếp xúc đầu tiên này nhiều hơn việc trao đổi tù binh đơn thuần. Theo ông nghĩ, Hà Nội sẽ bỏ hy vọng chiếm được miền Nam Việt Nam trong tương lai gần. Để cứu Việt cộng khỏi bị tiêu diệt, các nhà lãnh đạo miền Bắc thăm dò người Mỹ có thể thương lượng qui chế hợp pháp nào đối với những người cộng sản miền Nam “ trong thời hòa bình”. Rostow thiết lập ngang bằng với những đàm phán ở Panmunjon về chiến tranh Triều Tiên. “Chúng ta đang ở một tình thế tương tự : nghĩa là những hoạt động quân sự của họ không phải để đưa lại chiến thắng cho họ mà để tăng cường vị trí của họ trong thương lượng, dù bằng cách nào đó, đã bắt đầu “.

Cuối tháng Mười một, McNamara qua một tiết lộ của báo chí, biết mình được bổ nhiệm chủ tịch Ngân hàng thế giới. Johnson đã quyết định bộ trưởng Quốc phòng của ông ở Lầu Năm Góc gần bảy năm, bị gánh nặng chiến tranh làm cho suy nhược. Ông nói với tùy viên báo chí, ông ta “ dễ bị xúc động “ làm ảnh hưởng uy tín của mình. Thế mà Johnson thương mến McNamara, tuy hết lòng với dòng họ Kennedy đã luôn luôn phục vụ ông với một lòng trung thành kín đáo. Nhưng tổng thống không thể giữ ông lại. Cánh ôn hòa của Đảng dân chủ tung ra phong trào “ Loại bỏ Johnson”, đưa thượng nghị sĩ Eugence McCarty đối đầu trong hội nghị Đảng dân chủ năm 1968 ra ứng cử tổng thống.

Sự đe dọa nghiêm trọng nhất theo Johnson nhìn nhận đến từ Robert Kennedy, thượng nghĩ sĩ của bang New York đang chờ thời cơ thuận lợi để tiến lên phía trước. Nếu McNamara suy sụp hoàn toàn và từ chức trong năm bầu cử, Kennedy có thể sử dụng con chủ bài này. Tổng thống nghi ngại McNamara trong lúc tinh thần lo lắng, tậm sự với anh bạn Robert. Ông đã nghĩ đúng. Ở Washington, lúc tôi được điều động về văn phòng NEW YORK TIMES , có tiếng đồn bây giờ McNamara chống lại cuộc chiến tranh . Tôi hỏi Robert Kennedy có đúng thế không. Ông xác định điều ấy với tôi, nói chi tiết với tôi về những tình cảm của McNamara. Khi ấy tôi khó tin vì một xu hướng quay ngược lại như vậy có vẻ rất phù hợp với tham vọng của Robert Kennedy muốn thừa kế anh mình.

Trong tháng Mười một, không nói với đương sự , Johnson kín đáo chuẩn bị bổ nhiệm bộ trưởng Quốc phòng của mình vào Ngân hàng thế giới. Trước kia, hai người đã có bàn với nhau về việc này. Robert McNamara cho cư xử đúng đắn là một điều rất quan trọng. Khi chỉ đạo chiến tranh Việt Nam , ông thực sự nghĩ nó chính đáng. Ngân hàng thế giới hay cụ thể hơn là Ngân hàng quốc tế về tái thiết và phát triển có vai trò vực dậy nền kinh tế của các nước đang phát triển. Tổng thống suy ra, nếu cho ông vận may ấy, McNamara sẽ kín đáo ra đi và giữ im lặng.

Trực giác của Johnson tỏ ra còn đúng hơn ông nghĩ. McNamara không thể dùng tinh thần can đảm khác thường trong việc tôn trọng bí mật quốc gia để tố cáo trước dư luận những sai lầm của cũng quốc gia ấy. Trong những năm chiến tranh tiếp theo , không bao giờ ông nói ra. Cảm giác về tội lỗi và xấu hổ cũng góp phần làm ông không thể đối mặt với việc ông đã làm trong quá khứ. Đến nỗi khi xuất bản những TÀI LIỆU CỦA LẦU NĂM GÓC chính ông cho làm, ông đã không đọc.

Tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Bộ Quốc phòng miền Bắc Việt Nam giải thích, những người lãnh đạo ở Hà Nội đã kéo quân Mỹ ra dọc biên giới phía nam đất nước họ như thế nào và tại sao. Bài viết tiêu đề CHIẾN THẮNG LỚN, NHIỆM VỤ KHỔNG LỒ đăng tháng Chín năm 1967 trên tời Quân đội nhân dân, báo hàng ngày của quân đội và được phát trên làn sóng đài Hà Nội. CIA dịch và chuyển cho cơ quan thồng tin của chính phủ. Ông Giáp kể lại những trận đánh dọc đường biên giới phi quân sự và cao nguyên như một trong những ví dụ chính của chiến lược Bắc Việt Nam .

Trong khi những ý tưởng đinh trước phải đặt lại vấn đề, Westmoreland không chú ý nhiều đến lời của kẻ thù hơn việc ông đã làm với Krulak và York. Đấy là một đặc điểm lịch sử của các tướng như loại ông, tuy người ta có thể đặt dưới quyền họ quân lính được luyện tập, vũ khí hiện đại, thông tin chính xác, những lời khuyên hợp lẽ, thông tin sốt dẻo về chiến lược của kẻ thù, cuối cùng tất cả đều lãng phí.Kẻ thù chỉ có thể xử sự đần độn còn họ là những chỉ huy sáng suốt. Westmoreland đã tư duy vấn đề “ những trận đánh ở biên giới “ trước khi có bài báo của ông Giáp. Cuối tháng Tám năm 1967, ông tiếp các nhà báo ở tổng hành dinh Sài Gòn để khẳng định ông đã làm cho đối phương thiệt hại đến mức nào, những tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt “ bị hạn chế ở ngoại vi Nam Việt Nam “.

Một phóng viên lên tiếng :

-   Nhưng quân địch kéo chúng ta ra biên giới và đang làm chúng ta đổ máu.
-   Họ không kéo chúng ta, vị tướng trả lời. Ngược lại, họ chỉ có thể tổ chức những đợt hành quân lớn ở đó nên chúng ta gây được nhiều tổn thất cho họ hơn họ gây cho ta.

Vấn đề ai gây tổn thất cho ai hơn đã được dứt khoát giải quyết đối với Westmoreland . Cơ quan thông tin đã giữ lại những bản tường trình về những cuộc ông tiếp xúc với báo chí, phản ánh đúng suy nghĩ của ông vì ông nói tự phát với một trò chơi câu hỏi và trả lời; điều ông nói chẳng lạc quan hơn những báo cáo chính thức của ông. Vả lại, ông cũng khôn ngoan hơn đối với các nhà báo, thậm chí hơn cả tổng thống khi thông báo sự đột phá cuối cùng sắp xảy ra : “bước ngoặt quyết định” của cuộc chiến tranh hủy diệt. Đấy là lúc máy móc bắt đầu giết chết Việt cộng và quân Bắc Việt nhanh hơn lực lượng bổ sung và vạch con đường yếu kém của quân thù đến chỗ thất bại hoàn toàn. Tháng Tư, khi Westmoreland gặp tổng thống ở Nhà Trắng đòi một đợt tăng cường nữa, ông đã nói “ hình như trong tháng vừa rồi, chúng ta đã đạt tới bước ngoặt quyết định ở khắp miền Nam trừ hai tỉnh ở phía bắc”. Ngược lại, một tháng sau đó, ông đành nói với báo chí “ Có lẽ chúng ta đã đạt tới điểm mấu chốt nhưng thành thật mà nói, chúng ta không chắc chắn “. Tháng Tám, ông tích cực hơn nhưng vẫn khôn ngoan “ Sức mạnh của các lực lượng quân đội cộng sản đã giảm, không rõ ràng lắm và không chứng minh được bằng con số nhưng mọi cái chỉ ra rằng .. Chúng ta có những bằng chứng đã đạt tới điểm mấu chốt “. Ba tháng sau, tháng Mười một năm 1967, ông có những bằng chứng tính toán quân địch đang thất bại.

Cuộc họp báo qui mô nhất trong cuộc chiến tranh được tổ chức ở “Lầu Năm Góc Viễn Đông”, tổng hành dinh mới có máy điều hòa nhiệt độ cho 4.000 sĩ quan và binh lính Westmoreland vừa cho làm ở gần Tân Sơn Nhất. Westmoreland tự mình nói chuyện với các nhà báo, cũng như các trưởng ban tham mưu của ông và một đại tá tình báo chuyên về tâm lý đối phương. Tất cả những gì họ nói, như thường lệ, sẽ được quy cho những nhân vật quân sự cao cấp từ các cuộc hành quân.

Việc làm này tiếp theo lệnh của tổng thống tung ra một chiến dịch lấy lòng dư luận. Việc ủng hộ của nước nhà về cuộc chiến tranh này bắt đầu giảm đi vì hình ảnh xúc động của bộ binh Mỹ và lính thủy đánh bộ chết trong núi rừng nhiệt đới đâu đó, giữa đồng ruộng đầy hố bom, ở những căn nhà tường đất lợp lá đổ nát mà chẳng ai muốn sống trong đó và hơn nữa chết không có mục đích rõ ràng, không giải quyết được gì trước mắt. Việc thăm dò trong tháng Mười năm 1967 chỉ rõ những người bỏ phiếu rút quân tăng từ 15% lên 30%. Johnson nhớ lại dư luận công chúng làm nghiêng ngả cuộc chiến tranh Triều Tiên nhanh đến mức nào và đã thực sự bận tâm. Thiểu số chống chiến tranh vì những lý do đạo đức cũng đủ để tổ chức những phong trào đáng lo ngại. 50.000 người biểu tình trước Lầu Năm Góc ngày 21 tháng Mười. McNamara nhìn họ từ trên mái nhà và nghe họ hát :

“ Hây, hây, hây !
L.B.J
Hôm nay ông đã giết bao nhiêu người ?”

Bộ trưởng Quốc phòng không quen tiếp xúc với đám đông và quang cảnh ấy làm ông căng thẳng thần kinh.

Dean Acheson và những nhà thông thái khác khuyên tổng thống tung ra một chiến dịch thông tin. Họ nghĩ nếu truyền đạt với công chúng những tiến bộ họ đã biết trong những cuộc họp kín thì có thể làm chậm sự xói mòn lòng tin. Mc George Bundy, chủ tịch hãng Ford và thành viên nhóm thông thái, kết luận “ Hãy nhấn mạnh đến “ ánh sáng cuối đường hầm “ thay vì nói về những trận đánh, người chết và mối nguy “.

Westmoreland không cần nói dối để giúp tổng thống. Trong một vụ xử nổi tiếng sau chiến tranh, vị tướng kiện hãng truyền hình đã kết tội ông mưu mô lừa tổng thống về sức mạnh thực sự của địch. Vị tướng không thắng kiện nhưng ông không làm việc đó vì thế. Vann giải thích ngay cho Ellsberg “ Đấy là một ảo giác tập thể “. Theo vết chân người tiền nhiệm Paul Harkins, Westmoreland cũng như cả hệ thống quân sự mà ông là đại diện tiêu biểu cho rằng việc chinh phục đã được định trước khi Johnson thông báo với ông trong tháng Bảy 1965 sẽ cho 200.000 quân chiến đấu. Ông sẵn sàng tự mình thực hiện sự tiên tri ấy cũng không nghi ngời gì như Harkins, quét sạch hoặc đuổi ra khỏi hàng ngũ kẻ nào nói có lẽ trời sẽ mưa trong lúc diễu hành. Khi trung tướng Joseph McChristian lãnh đạo công việc thông tin mùa xuân 1967, báo là ông đánh giá thấp lực lượng địch ỏ miền Nam, ông thay thế ngay bằng một sĩ quan bảo thủ. Khi chuyên gia về Việt cộng của CIA, Samuel Adams, một trong những người tiên phong trong chiến tranh Độc lập, báo động về mùa hè năm ấy, ông buộc ông ta im lặng. Các sĩ quan trong ban tham mưu của vị tướng khai gian con số địch chết, báo cáo sự đào ngũ và tinh thần sút kém của đối phương để tập hợp bằng chứng chiến thắng không chối cãi được mà Westmoreland công bố với các nhà báo trong cuộc họp báo tháng Mười một.

Vị tướng tỏ ra đặc biệt tự hào với công việc đã làm được ở miền Nam Việt Nam về xây dựng những cảng, sân bay, xưởng tàu, toàn bộ “ cấu trúc vật chất cần thiết trong đất nước kém phát triển” này. Tuy chương trình chưa đầy đủ, mới trong hai năm “ nền tảng chủ yếu đã được thiết lập”. Trong lúc nói ông bố trí một loạt bảng và biểu đồ màu trên một tấm bảng lớn. Qua đấy ông chỉ rõ năng lực hải cảng tăng gấp sáu lần, từ 5 vị trí bến cảng nước sâu vào tháng Chín 1965 lên 32 trong tháng Chín năm 1967. Số sân bay trong hai năm cũng tăng từ 22 mà 3 cho máy bay phản lực, lên 68 trong đó có 8 bệ phóng. Ông công nhận có hơi chậm khi thực hiện lịch trình kế hoạch ba giai đoạn ông đệ trình McNamara và tổng thống hồi tháng Bảy 1965. Nhưng việc đó, ông giải thích, do ông phải đợi đến mùa thu 1966 khi có 350.000, có “ đủ quân, cơ sở hạ tầng và hậu cần để gây sức ép liên tục đối với quân địch “.

Những đồ thị và biểu đồ do cơ quan thông tin của ông xây dựng chứng tỏ sức mạnh của Việt cộng suy yếu đi trong cuộc chiến tranh hủy diệt này : năm 1963, quân số tối đa của họ là 124.000 người sụt xuống 102.000 trong mùa hè vừa qua. Những biểu đồ khác tô màu chỉ những tổn thất của địch nêu con số tăng hơn gấp đôi từ năm 1965 và còn tăng một nửa từ năm 1966. Trong đợt gió mùa từ tháng Tư đến tháng Mười 1966, trung bình số người bị giết hàng tháng từ 4.903 lên đến 7.315 trong mùa mưa năm 1967. Chiến tranh hủy diệt gây ra sự suy sụp cho quân địch, trong quý bốn năm 1966 có tổng cộng 285.000 cộng sản Việt cộng và Bắc Việt ở miền Nam cho bây giờ chỉ còn 242.000. Harkins vẫn luôn luôn tin chắc tinh thần quân địch bị hủy hoại vì những trận đánh của ông ta và nhiều quân lính cộng sản bệnh tật và thiếu đói. Người kế nhiệm ông cũng nghĩ như thế. Ông này nói : Một số đơn vị ở cao nguyên “ chết hầu như vì đoío và ngay phía bắc Sài Gòn cũng có những vấn đề về gạo. Trong số 163 tiểu đoàn Việt cộng và Bắc Việt , gần một nửa, tổng cộng 76 tiểu đoàn “ không còn sức chiến đấu “ vì bị tổn thất nặng nề, tinh thần thấp kém, đào ngũ , đói và bệnh tật.

Việc bình định cũng đạt được thắng lợi như thời người tiền nhiệm. Nông dân Việt Nam , như Harkins gọi là “ những người dân tộc Phương Đông ấy” , với sự tôn trọng sức mạnh, đã hiểu ai là người thắng cuộc và đã thay đổi chỗ dựa. Komer có bằng chứng về điều đó với một chiếc máy tính. Ông đã xây dựng một trình tự rất phức tạp, “ Hệ thống đánh giá các thôn ấp” để hằng tháng cung cấp cho máy hàng nghìn thông tin khác nhau. Máy tính tiếp thu, nghiền ngẫm để cuối cùng thông báo ai kiểm soát từng ấp chiến lược.

Komer cũng như Krulak, quá khôn ngoan không có tầm nhìn hạn hẹp cho đến cuối đời. Nhiều năm sau, ông viết một tài liệu nghiên cứu rất sáng suốt về những gì không đúng nhưng đổ lỗi thực sự cho chính quyền. Vào thời kỳ đó , ông bị giam hãm trong niềm tự mãn mà McNamara đã nhân cách hóa. Ông có mặt ở cuộc họp báo càng củng cố lòng tin của Westmoreland khi thông báo với các phóng viên, máy tính đã phát hiện những gì qua “những phương pháp khoa học và tiêu chuẩn rất cụ thể “. Việt cộng kiểm soát 17% dân số, 16% khác trong “loại tranh chấp”. Như vậy, 67% trong số 16,9 triệu dân miền Nam Việt Nam sống dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn ở thành phố, hoặc ở nông thôn, trong “ an toàn tương đối” của những ấp chiến lược.  Năm 1963, Harkins đã nêu lên con số 67% này. Việc tái xuất hiện thần kỳ của nó không phải một sự trùng hợp. Hoặc là những người lãnh đạo việc đánh giá các thôn ấp có những sĩ quan ban tham mưu tham gia với bút chì và con tính cầm tay hoặc những cố vấn dân sự khoác những tấm bằng đại học điều khiển máy tính đã biết trước họ tìm kiếm gì và bao giờ cũng nhận được câu trả lời mong muốn. Dù sao thì nguyện vọng đó cũng kích thích bút chì và đặt chương trình cho máy tính.

Cho dù Johnson có mất một ít lòng tin, Westmoreland vẫn không suy suyển. Tổng thống triệu tập vì tướng về Washington dự một buổi lễ quan trọng và một loạt họp báo và phát biểu trên radio và truyền hình. Acheson và các nhà “ thông thái” khác muốn có đại sứ Bunker. Johnson biết rõ công chúng phản ứng hàng ngũ ngôi sao và quân đội. Đứng đầu cơ quan thông tin USIS ở miền Nam Việt Nam , Barry Zorthian, một nhà quảng cáo sáng suốt không đến mức nghi ngờ chiến lược của Westmoreland , cũng nghĩ đã đến lúc vị tướng tung ra một cuộc tấn công nhằm bơm căng tinh thần của cánh dân sự ở hậu phương. Ông được chú ý về tài năng quan hệ và lòng tin khi phát biểu ở lưỡng viện trong tháng Tư trước. Zorthian cũng nghĩ vị tướng khá hài lòng khi có thể nói với dân chúng Mỹ. Ông đã thảo luận ở nhà ông này rằng quân đội không đủ để thỏa mãn nữa. Westmoreland không gia nhập một nhóm chính trị nào và về phương diện này thái độ của ông không chê trách được. Ông chỉ đứng vào một vị trí mà sau này nếu muốn, ông có thể lợi dụng tập tục Mỹ bắt đầu với George Washington và gần đây hơn, đã đưa một vị tướng khác , Dwigt Eisenhower, vào Nhà Trắng.

Johnson cũng triệu tập Bunker tham dự cùng Westmoreland cuộc phỏng vấn của hãng truyền hình NBC sáng chủ nhật. Komer cũng được triệu tập để cổ động cho tiếng nói chính thức qua những cuộc phỏng vấn khác. Nhưng chính Westmoreland chiếm trung tâm sân khấu, đặc biệt trong diễn văn của ông trước trung tâm báo chí quốc gia ở Washington ngày 21 tháng Mười một năm 1967.

Ông nói “ Chúng ta đã đạt tới một điểm quan trọng từ đó chúng ta bắt đầu thấy được sự kết thúc “. Bắt đầu sự kết thúc là bắt đầu giai đoạn III, giai đoạn chiến thắng, đẩy nhanh sự tấn công quá khích với cuộc tấn công vào năm 1968. Về tổng thể, ông tóm tắt những điều đã nói với báo chí Sài Gòn , giải thích đã xây dựng các hải cảng, sân bay như thế nào, làm tăng tổn thất của địch vượt quá khả năng họ và đuổi quân chủ lực Việt cộng và quân đội Bắc Việt đến tận biên giới phía bắc. Tuy vậy, ông không nói cụ thể giai đoạn cuối cùng của chiến thắng vào đúng lúc nào, như ông đã nói năm 1965 với McNamara và Johnson khi xác định họ cần “ một năm hoặc một năm rưỡi”. Nhưng ông làm cho người ta hiểu “ Chúng ta đã bắt đầu một số mục tiêu cảu giai đoạn III “ rồi chuyển nhanh qua một giai đoạn mới không có trong kế hoạch năm 1965, “ giai đoạn IV hoặc kết thúc” – sự hủy diệt hoàn toàn những người cộng sản Việt Nam .” Thời kỳ ấy đánh dấu tổng kết kế hoạch của chúng ta làm yếu kẻ địch và làm các bạn chúng ta vững chắc hơn đến lúc sự có mặt của chúng ta trở nên thừa”. Ông phải nói cụ thể điểm ấy sau bài phát biểu khi trả lời câu hỏi của một nhà báo cũng được đưa lên truyền hình “ Tôi nghĩ hoàn toàn chấp nhận được rằng từ nay đến hai năm nữa hoặc ít hơn “ giai đoạn IV sẽ có đủ bước tiến để bắt đầu đưa về nước quân đội Mỹ “ lúc đầu chỉ là một dấu hiệu nhưng hy vọng chúng ta làm tất cả để đẩy nhanh “.

Westmoreland kết thúc bài diễn văn bằng cách kích thích đồng hương tin tưởng ở mình :

“ Chúng ta đang tiến tới. Chúng tôi biết các ông muốn chúng ta đi đến giai đoạn kết thúc nhanh chóng và đầy vinh dự. Con cái các ông muốn như vậy. Và đấy cũng là điều tôi muốn.

Tất cả những cái đó trong tầm tay của chúng ta. Hy vọng của kẻ địch bị phá sản. Với sự giúp đỡ của các ông, chúng tôi sẽ đưa lại một chiến thắng không chỉ vang dội ở miền Nam Việt Nam mà ở tất cả các nước trên thế giới muốn vươn lên từ bóng tối”.

Vann rời Sài Gòn ngày 14 tháng Mười một năm 1967 đi phép tám tuần lễ, đợt nghỉ dài nhất của anh. Anh chán nản đến mức lần đầu tiên ở Việt Nam cảm thấy công việc nặng nề. Ban ngày xuống thực địa anh thoát khỏi cảm giác bị ức chế ấy. Nhưng buổi tối, tập giấy tờ đợi anh ở văn phòng Biên Hòa hành hạ anh. Vann chịu đựng công việc hành chính khi thấy sự cố gắng ấy tăng cường quyền lợi của anh. Bây giờ, những điều đó hình như không còn ý nghĩa gì, hơn nữa gánh nặng càng nặng thêm nhiều vì tổ chức mới CORDS và những trách nhiệm của anh tăng lên.

Những công việc vất vả càng làm anh bực tức vì ảnh hưởng đến cuộc sống tình dục của anh. Mỗi tối, anh thấy trên bàn giấy ba đống tài liệu ghi lần lượt là “ Rất khẩn”, “ Khẩn” và những việc có thể chờ vài ba ngày là “ Cần thiết”. Càng ngày anh càng không khoan dung được và chua cay với công việc quá sức. Đến mười giờ rưỡi hoặc mười một giờ đêm, sau khi nhìn lại đồng hồ, anh kêu lên không chịu đựng nổi một bức thư hoặc một tài liệu nào nữa. Nếu Lee không chờ anh ở Biên Hòa, anh tuyên bố đi Sài Gòn hoặc về nhà Annie ở Gia Định. Các đồng sự cố chứng minh với anh Việt cộng bắt đầu quan tâm tới chiếc xe Ford Mustang màu xanh mỗi tuần chạy ban đêm bốn năm lần trên đường Biên Hòa. Anh cũng có nguy cơ bị những tay thần kinh bắn hoặc súng cướp cò của trung đoàn thiết giáp Mỹ đi tuần tra ban đêm trên xe tăng hoặc M-113. Annie không biết bao giờ anh về, nói chung mỗi tuần hai, ba lần anh đánh thức cô dậy lúc nửa đêm hoặc một giờ, thậm chí đôi khi vào bốn giờ sáng.

Trong đợt đi phép anh bắt đầu sang châu Âu, danh nghĩa là để giải thích cho nhân viên các Đại sứ quán ở Paris và Rome, thực tế chơi nhiều ngày ở Cote d’Azur và Paris cùng với Lee đã đến đấy trước. Sau đó, anh bay sang Washington , ở lại mấy ngày với Komer trong lúc Westmoreland và Bunker ra thành phố. Anh cũng có mấy cuộc trao đổi với ban giám đốc AID, Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao, nói ngược lại những gì Westmoreland và Bunker trình bày. Anh đi Littleton, ở trong những ngày lễ Tạ ơn cùng Mary Jane và các con và cố gắng có một cuộc hẹn gặp với tổng thống nhờ tổng biên tập tờ Denver Post.

Anh không đi xa hơn văn phòng Walt Rostow ở tầng hầm Nhà Trắng. Cuộc trao đổi bắt đầu lúc 14 giờ ngày 8 tháng Chạp. Rostow là một người cởi mở và nhiệt tình. Ông niềm nở tiếp Vann và ngồi bên cạnh anh trên trường kỷ. Hai người khác cũng có mặt : phó của Rostow, William Leonhart và George Christian, ở văn phòng báo chí của tổng thống. Vann quyết định thêm nước vào dấm chua của mình. Anh bắt đầu trình bày những mặt tích cực có thể nghĩ ra được, như những việc thực hiện và tổ chức của CORDS. Rostow cả cười. Ông vỗ thân mật vào đùi Vann và nói “ Tuyệt vời !”. Rồi Vann chuyển qua những việc kém dễ chịu hơn. Rostow từ trường kỷ đứng dậy, lại ngồi sau bàn giấy giở hồ sơ. Ông ngắt lời Vann. Mặc dù những điểm yếu ông cho rằng mình đã khám phá ra, phải chăng ông nghĩ điều tệ hại của chiến tranh đối với Hoa Kỳ sẽ kết thúc trong sáu tháng ?

“ Ồ, không, thưa ông Rostow, Vann mất hết giữ gìn kêu lên. Tôi vốn bản tính lạc quan. Tôi nghĩ người ta có thể kháng cự lâu hơn thế nhiều !”.

Rostow chấm dứt cuộc trao đổi ý kiến, nói một người có trí óc như thế không nên làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ ở Việt Nam . Đã 14 giờ 30 phút, Rostow có một cuộc hẹn gặp khác.

Cô con gái Việt Nam của Vann sinh ra hôm trước lễ Noel trong lúc anh lại về Littleton dự những buổi lễ cùng Mary Jane và gia đình Mỹ của anh. Đứa bé đáng lẽ sinh vào đầu tháng Giêng, ít lâu sau khi Vann trở lại Sài Gòn nhưng Annie trượt chân ở cầu thang nhà ở Gia Định nên đẻ non. Bà ngoại đến chăm sóc con gái. Họ lên taxi về nhà bố mẹ Annie rồi đưa cô ngay vào bệnh viện Saint Paul do các nữ tu sĩ quản lý . Bác sĩ phụ khoa, một người Pháp có thâm niên, đỡ đứa bé lúc 11 giờ 30 ngày 26 tháng Chạp năm 1967. Để tôn trọng thoả thuận với Vann, tên người bố để trắng trong giấy khai sinh. Nhưng Annie đặt tên Việt Nam cho con gái mình là Thúy Vân theo tên một cô gái hạnh phúc trong tập thơ Việt Nam nổi tiếng. Vann có để địa chỉ của mình ở Littleton cho Annie. Anh bảo không ở nhà mình vì đã cắt đứt hợp pháp với Mary Jane và ghi địa chỉ một người là ông chú. Thực tế đấy là một nữ thư ký cũ của xưởng Martin Marieta mà anh vẫn là bạn. Bố Annie gửi ngay cho anh một bức điện. Mary Jane lại một lần nữa chẳng biết gì.

Sau khi dừng chân ở Santa Monica gặp Dan Ellsberg, Vann trở về Biên Hòa ngày 7 tháng Giêng năm 1968. Anh thấy Fred Weyand, tướng chỉ huy Quân đoàn 3 rất bận rộn. Kế hoạch về chiến dịch năm 1968 của Westmoreland dựa vào giả thuyết Việt cộng và quân Bắc Việt không trụ vững nổi những cuộc tấn công trong lòng miền Nam Việt Nam . Cũng vì vậy các tỉnh trung tâm Quân đoàn 3 chuyển giao cho quân đội Nam Việt Nam  ngày 1 tháng Bảy. Cuộc tấn công bắt đầu từ một đợt thả quân dù gây ấn tượng trong rừng rậm tỉnh Phước Long, ở hướng đông bắc cách Sài Gòn 175 cây số, một vùng rất xa xôi nên Việt Nam giấu Ramsey và những tù binh khác ở đấy. Nếu Weyand bố trí quân cho chiến dịch này dọc biên giới Campuchia, phần lớn 43 tiểu đoàn của ông sẽ bị tắc nghẽn trong rừng nhiệt đới vào dịp Tết cuối tháng Giêng.

Weyand không đồng tình với những lý luận của Westmoreland về chiến tranh . Ông thiếu nhiệt tình với lòng tự mãn của chỉ huy cấp cao một phần lớn do ảnh hưởng của Vann. Cũng như anh, ông không cho là quân địch bị tê liệt với một nửa quân số “ không có sức chiến đấu”. Đúng là những tiểu đoàn 600 đến 700 người thời kỳ 1965 bị giảm sút qua hai năm chống cự với người Mỹ và các chỉ huy phải phấn đấu để giữ được 400 hoặc 500 người. Mặt khác đường lối của Westmoreland bốc nông dân địa phương vào các khu biệt lập ở thành thị và những trại tị nạn để “ làm cho địch không có dân chúng giúp đỡ “ làm khả năng tuyển mộ quân ở miền Nam sút kém. Trong ba sư đoàn cộng sản trên đất Quân đoàn 3, Sư đoàn số 7 là đơn vị chủ lực quân Bắc Việt . Hai sư đoàn kia, số 5 và số 9 Việt cộng gồm khoảng một nửa do quân miền Bắc tăng cường. Nhưng hệ thống hoạt động tốt và quân số mỗi tiểu đoàn 400 đến 500 người là một con số đáng ngại, càng ấn tượng hơn là những người cộng sản giữ lại được, tuy tổn thất nặng và tỷ lệ đào ngũ cao vì những mối hiểm nguy và thử thách trong chiến đấu với đội quân hiện đại của Hoa Kỳ .

Ban chỉ huy cộng sản cũng cải tiến nhiều về trang bị vũ khí. 29 tiểu đoàn lần lượt trong mùa hè và mùa thu năm 1967 trở về thánh địa của họ ở Campuchia tích trữ vũ khí người Trung Quốc chở đến Sihanoukville. Họ bỏ lại những vũ khí cũ, nói chung lấy được của người Mỹ và trang bị súng tấn công tự động AK-47, bazooka B-40 vừa dùng bắn xe tăng vừa là ca nông cầm tay và số lượng lớn vũ khí Liên Xô.

Weyan cũng than phiền vì các sĩ quan tình báo của Westmoreland không chú ý đến mối đe dọa của du kích địa phương gồm những đại đội huyện, các trung đội làng và các tiểu đội ấp. Sau khi tự nghiên cứu vấn đề này, ông phát hiện ra có lực lượng bộ binh tương đương gần 40 tiểu đoàn thêm vào các đội quân chủ lực.

Weyand chống lại kế hoạch của Westmoreland từ mùa thu trước. “ Đấy là một kế hoạch rất hay nhưng không tiến hành được”, ông nói với viên đại tá từ tổng hành dinh Sài Gòn đến giải thích cho ông. Ông quan tâm nhiều nhất, khi trở về ông trình bày với Vann, là khi ông phải đến biên giới Campuchia thì quân địch hình như chuyển động ngược lại, vào trong lòng miền Nam. Những thông tin nhận được chỉ rõ ba sư đoàn, cũng như ba trung đoàn lực lượng chính Việt cộng đang bắt đầu rời căn cứ biên giới thâm nhập vào các tỉnh đông dân gần Sài Gòn. Weyand sợ rằng khi ông đã đi khỏi vùng này, các đội quân cộng sản vào chắp nối với du kích địa phương. Như vậy, các đội bình định làm việc trong các ấp, những đơn vị cố vấn dân sự mới và tất cả những dự án Vann và bản thân ông đã đầu tư rất nhiều không có bảo vệ.

Weyand định đi gặp Westmoreland ở Sài Gòn và Vann khuyến khích ông. Ông bắt đầu gặp Creighton Abrams, chỉ huy phó, chăm chú lắng nghe , nói lập luận của ông vững chắc đấy và dẫn đi gặp Westmoreland . Weyand trình bày những thông tin mình có và tóm tắt trên tấm bản đồ. “ Tôi thấy họ từ đây tiến về trung tâm, ông nói và chỉ vào vùng Sài Gòn – Biên Hòa. Tôi không biết họ nghĩ gì nhưng thấy rõ có một cuộc tấn công “. Rồi ông đề nghị việc mở đầu chiến dịch năm 1968 ở Quân đoàn 3 để chậm lại.

Westmoreland luôn cố gắng để một mức độ tự do nào đó cho những mệnh lệnh của mình trên thực địa. Weyand tập hợp nhiều bằng chứng và không đòi hủy bỏ cuộc hành quân mà chỉ đề nghị chậm lại. Tổng chỉ huy chấp nhận. Trong lúc đó, ông có một công việc lớn hơn. Những người cộng sản Việt Nam hình như định làm cho Khe Sanh thành một Điện Biên Phủ thứ hai.

Hà Nội đang đưa hai sư đoàn bộ binh, mỗi sư đoàn tăng cường một trung đoàn pháo, tiến về những dãy núi ngang bao quanh đường băng của thung lũng Khe Sanh và những ngọn đồi lính thủy đánh bộ bị kẹt trong vụ thảm sát tháng Tư, tháng Năm 1967. Sư đoàn 325C mà hai trung đoàn tham gia chiến đấu trên đồi đã trở lại. Sư đoàn 304, một đơn vị chủ lực cũ của Việt Minh, mang tên Điện Biên Phủ trên cờ hiệu. Quan điểm của các tướng lính thủy đánh bộ cố chiếm giữ Khe Sanh không thay đổi từ khi một trong bọn họ nói năm 1966 “ Khi các anh đã ở Khe Sanh, thực sự các anh không ở đâu bằng ! “. Chỉ huy lính thủy đánh bộ ở Việt Nam , Robert Cushman kế nhiệm Walt, tránh những bất bình và thực hiện mệnh lệnh của Westmoreland . Còn Krulak vẫn chỉ huy những lực lượng Hải quân Thái Bình Dương từ Hawail càng ngày càng ít có ảnh hưởng đến các sự kiện và không che dấu sự giận dữ với các nhà báo. Phải nói rằng Lyndon Johnson vừa từ chối không để ông làm chỉ huy tối cao của Hải quân, chắc vì giận ông đã chống đối chiến lược của Westmoreland . Tháng Chạp, khi mây trành nhanh qua bầu trời , sương mù và mưa phùn của gió đông bắc bao phủ Khe Sanh và che giấu hoạt động của địch quân, Cushman tăng cường đơn vị tại chỗ của ông bằng một tiểu đoàn thứ hai.

Việc đụng độ dự kiến vừa căng thẳng thần kinh vừa là việc đón tiếp của Westmoreland . Ông thấy đây là bước đầu thắng lợi lớn của cái bẫy ông trình bày cho Krulak năm 1966 và lấy lính thủy đánh bộ ở Khe Sanh làm mồi nhử quân địch. Ông luôn luôn nghĩ và thường nói công khai, đến một lúc nào đó trong chiến tranh , Hà Nội sẽ làm lại một Điện Biên Phủ thứ hai. Tham vọng của Hà Nội là dịp may cho Westmoreland : một Điện Biên Phủ đảo ngược. Ông sẽ dìm các sư đoàn cộng sản dưới một thác bom và đạn cối trong cuộc hành quân mang tên tượng trưng là “ NIAGARA”. Mọi phương diện thông tin sẽ đưa ra hoạt động để xác định đúng vị trí quân địch và pháo hạng nặng của họ xung quanh Khe Sanh, do thám trên đất liền , chụp ảnh trên không, quan sát bằng tia hồng ngoại , ra đa, bắt làn sóng đài, do thám điện tử máy bay thả xuống những con đường đi vào.

Westmoreland không có ý định chỉ dựa vào máy bay và trọng pháo để đạt đỉnh vinh quang trong cuộc chiến này .Trải qua những cuộc tập kích càng ngày càng gặp chống cự mạnh và Cushman đã tăng cường một tiểu đoàn thứ ba canh gác, Westmoreland ra lệnh toàn bộ Sư đoàn First Calvatry rời bỏ ven biển miền Trung chuyển lên phía bắc Quân đoàn 1. Với đơn vị đáng sợ này, khi cần ông có thể can thiệp nhanh chóng và với lực lượng lớn. Ông tổ chức lại Quân đoàn 1, bố trí bộ chỉ huy quân sự mới với Creighton Abrams cầm đầu, bao trùm tất cả trong đó có lính thủy đánh bộ của Cushman để kiểm soát tốt hơn. Ông có một mối quan tâm khác, sợ những người cộng sản Việt Nam tăng gấp đôi đợt tấn công Khe sanh bằng một cuộc xâm lấn ra ngoài vùng phi quân sự để chiếm hai tỉnh xa nhất ở phía bắc thiết lập chế độ của họ trong “ vùng giải phóng” này. Vì vậy, vào cuối tháng Giêng ông tập trung vào Quân đoàn Một  40 % kể cả lính thủy đánh bộ, toàn lực lượng bộ binh và các đơn vị thiết giáp của toàn miền Nam Việt Nam .

Đầu buổi chiều ngày 20 tháng Giêng, một trung úy quân Bắc Việt ra trình diện ở hàng rào dây thép gai bao quanh đường băng Khe Sanh. Một tay anh cầm khẩu AK-47, tay kia cầm một lá cờ trắng. Anh giải thích mình chỉ huy một đại đội phòng không và muốn đào ngũ vì cấp trên không đề bạt anh ta. Qua thẩm vấn, anh sẵn sàng hợp tác và mô tả kế hoạch đã được chấp nhận để đánh chiếm căn cứ. Tất cả bắt đầu ngay tối hôm ấy, chiếm giữ hai đồn tiền tiêu của Mỹ trên đồi dùng làm vị trí súng cối và ca nông để hỗ trợ những cuộc tấn công khác rải rác ở chu vi phòng vệ. Cuộc tấn công chính do một trung đoàn của Sư đoàn 304 vào những ngày lễ Tết mà Hoa Kỳ và Sài Gòn dự kiến một đợt ngừng bắn 36 giờ và những người cộng sản đã tuyên bố 7 ngày ngừng bắn.

Những sự kiện trong đêm và ngày hôm sau có vẻ khớp với những lời viên trung úy. Quá nửa đêm, một tiểu đoàn quân Bắc Việt tấn công một đồn tiền tiêu và bị đẩy lùi sau khi vượt qua chu vi phòng vệ. Không có gì xảy ra ở đồn kia mà viên trung úy đã nói nhưng một loạt bắn chặn từ đầu của lính thủy đánh bộ có lẽ đã làm những kẻ tấn công rút chạy. Rồi đến năm giờ rưỡi sáng, pháo binh Việt Nam mở đầu cuộc tấn công. Tất cả các loại ca nông , dàn phóng rốc két và súng cối bắn vào đường băng và những vị trí chính của lính thủy đánh bộ trong thung lũng. Hàng trăm rốc két 122 ly rạch bầu trời từ sườn đồi 881 bắc được chiếm lại bằng giá đắt mà lính thủy đánh bộ bỏ lại vì họ thấy quá xa. Khi đạn dược lớn nhất của căn cứ nổ tung ngay từ đầu. Những vụ nổ liên tục rung chuyển hầm trú ẩn như gặp động đất nhẹ trong lúc đạn lửa làm thảm họa nặng thêm. Một tên lửa chui vào hầm chứa hơi cay làm hơi phủ khắp đường băng, đầu độc lính thủy đánh bộ không đeo mặt nạ.

Westmoreland mở van thác “NIAGARA”. Cứ ba giờ mỗi lần, sáu máy bay B-52 ở căn cứ trên đảo Guam và Thái Lan san phẳng mục tiêu với 162 tấn bom. Trong lúc chờ đợi, máy bay tiêm kích ném bom tấn công 15 phút một lần. Máy bay phản lực của Không quân, Hải quân, lính thủy đánh bộ quay tròn ở độ cao 10.000 mét trên Khe Sanh chờ đến lượt can thiệp, 46 súng cối được bảo vệ bằng những bao cát quanh đường băng và súng ca nông 175 ly của Trại Carroll, Rockpile cách đấy 20 cây số góp phần không ít vào trận mưa đạn bom như thác đổ này. Trọng pháo của lính thủy đánh bộ bắn 159.000 loạt. Westmoreland cho máy bay chở quân tăng viện và thêm một tiểu đoàn biệt kích Việt Nam để lá cờ của Sài Gòn cũng có mặt. Chẳng mấy chốc có đến 6.680 người trong các công sự trên đường băng và ở các đồn tiền tiêu. Lính thủy đánh bộ tỏ ra ít tin vào các đồng minh Việt Nam, đưa họ ra phía trước để có thể bắn vào họ đồng thời vào quân Bắc Việt nếu biệt kích rút lui. Và như thường lệ, không có gì buộc trọng pháo, rốc két và súng cối của những người cộng sản phải im lặng; không có gì ngăn cản được súng liên thanh địch bắn vào máy bay vận tải hạ cánh trong thung lũng và vào máy bay lên thẳng cố gắng tiếp tế cho các đồn tiền tiêu và chuyển thương binh đi. Thời tiết ở Khe Sanh rất xấu giữa mùa mưa, may mắn với những ngày thuận lợi có nền trời cao 150 mét trong vài ba giờ. Mặc dù tình báo rất cố gắng, máy bay ném bom phần lớn theo tọa độ bản đồ những chỗ có người nghi ngờ không có địch và trọng pháo chỉ bắn mò.

Các nhà báo tập trung ở nơi tướng tổng chỉ huy cầm cờ hiệu. Cả đất nước đang theo dõi. Những hình ảnh trên các báo, tạp chí , chương trình truyền hình chỉ rõ cho toàn quốc những khuôn mặt hốc hác, lấm lem của lính thủy đánh bộ. Sự chống cự quyết tâm , trả giá bằng cái chết của 205 người trong bọn họ không xóa được nỗi buồn của Khe sanh cũng như không làm tan được nỗi lo của công chúng về pháo đài Mỹ bị vây hãm ở nơi xa xôi hoang vắng ấy.

Nỗi lo lắng ấy được một người có đầy đủ thông tin hơn một công dân thường chia sẻ. Lyndon Johnson cho làm một mô hình Khe Sanh ở tầng hầm Nhà Trắng để Walt Rostow mô tả cho ông thấy diễn biến của trận đánh. Ông bảo Earle Wheeler đề nghị ban tham mưu liên quân chuẩn bị cho ông một giác thư giải thích Khe Sanh có thể bảo vệ như thế nào.

Tướng Weyand và John Vann quá bận bịu về sự đe dọa đang đè nặng lên Quân đoàn 3, không quan tâm được Khe Sanh. Ngày Tết càng đến gần, Weyand càng có cảm giác “ có việc gì đó đang được chuẩn bị, một loại rác rưởi và không phải đâu đó trên biên giới Lào mà ngay trên lưng chúng ta “. Trước cuối tháng Giêng, Việt cộng tấn công trên khắp vùng ông chỉ huy. Họ chiếm đóng Bầu Trại trong lúc tỉnh trưởng chuyển các đội Quân lực Cộng hòa ra khỏi đấy và tổ chức một cuộc tập kích vào Biên Hòa.

Vann viết thư cho York nói hình như những người cộng sản “ có một cố gắng tối đa chứng tỏ sức mạnh quân sự của họ ngay trước đợt ngừng bắn dịp Tết “. Nhưng đối phương làm ngược lại lý luận của anh. Những cuộc tấn công bớt ồ ạt. Tuy vậy, những dự đoán của cơ quan tình báo càng ngày càng đáng lo ngại. Việc do thám điện tử từ những máy bay “ rái cá biển “ với hệ thống nghe nhìn định hướng đã báo trước với Weyand và Vann ba sư đoàn cộng sản đã triển khai theo hình vòng cung phía bắc và tây bắc Sài Gòn . Hai trung đoàn của Sư đoàn 5 Việt cộng chỉ cách Biên Hòa 10 cây số “ chĩa vào như một mũi kiếm “, Vann nói. Các thông tin nhận được thông báo có cuộc tấn công lớn vào sân bay Biên Hòa, một trong hai sân bay quan trọng, cùng với Tân Sơn Nhất bảo vệ Quân đoàn 3 và 4.

Xem ra cũng thấy trước có những cuộc tấn công vào tổng hành dinh của Weyand và một trại bên cạnh để giải phóng tù binh, Weyand cho xe ủi lưỡi thép lớn phá hết cây cối bao quanh những ngôi  nhà của ông. Trại tù binh trong một đồn điền cao su cách đấy một cây số cũng đốn sạch cây bao quanh. Có lẽ để đánh trả mạnh một cuộc tấn công ban đêm, Weyand đặt đội thiết giáp trong tình trạng báo động thường xuyên.

Lệnh ngừng bắn 36 tiếng của Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn bắt đầu lúc 18 giờ ngày 29 tháng Giêng , trước hôm lễ Tết trừ hai tỉnh ở phía Bắc, chỗ Westmoreland lo sợ cho Khe Sanh. Đại tá George Jacobson ở cùng nhà với Vann và vẫn là điều phối viên của Phái đoàn, tối hôm ấy tổ chức một buổi tiếp khách trên thảm cỏ ở tư dinh Sài Gòn . Ngôi nhà ở sau Đại sứ quán mới trên đại lộ Thống nhất, cách mấy nhà là dinh thự sang trọng đến lóa mắt của Thiệu tiếp nhận từ Diệm. Chỗ ở mới của sức mạnh Mỹ là một pháo đài hình chữ nhật năm tầng, bốn phía là tường bê tông chống bom, đạn cối và rốc két. Ngôi nhà ở xa đường, bên trong tường bao, trong đó có nhà của Jacobson, một chỗ ở cũ của người Pháp giữa hai cuộc chiến tranh .

Vann đến dự cuộc tiếp khách cùng với Lee. Anh chú ý về cảnh tương phản lạ lùng ở đây so với không khí tiểu đoàn của Weyand chỉ cách đấy 30 cây số. Theo những thông tin thu thập cuối cùng, viên tướng đang chờ đợi cuộc tấn công vào đêm 30 sáng 31. Các sĩ quan của trung tâm hành quân tổ chức một đợt cá cược về giờ chính xác. Tất cả tiền đặt vào ngày 31 tháng Giêng từ 0 giờ đến 5 giờ sáng.

Jacobson cho đưa tới một ban nhạc. Đại sứ Bunker có mặt cùng nhiều đại diện của xã hội sang trọng Mỹ và Sài Gòn . Một dây pháo dài bảy mét buộc vào cây đốt để đuổi ma quỷ trong năm mới. Đấy là món quà của Nguyễn Văn Lộc, thủ tướng Chính phủ Thiệu vừa thành lập sau khi trúng cử tổng thống hồi tháng Chín. Kỳ được bầu là phó tổng thống, chỉ là một con cừu đực chờ để người ta bẻ sừng. Với 492.900 người Mỹ bảo vệ đất nước, chế độ cảm thẩy đủ yên ổn cho đốt pháo truyền thống ngày Tết đã bị cấm nhiều năm nay để Việt cộng không lợi dụng tiếng nổ át tiếng súng. Vann nói chuyện với đại sứ, phát hiện thấy ông không nghe nói đến những đợt tấn công bước đầu ở Bầu Trại và Biên Hòa. Tổng hành dinh của Westmoreland nắm được thông tin có vẻ cho là báo trước với đại sứ cũng chẳng ích gì. Nhưng nói lại với ông, Vann hình như không làm ông hoảng hốt; thái độ thanh thản chắc do tin tưởng tổng chỉ huy đã nắm tình hình trong tay.

Hôm sau, ngày 30 tháng Giêng, ngày đầu của Tết âm lịch, ở Biên Hòa Weyand tổ chức một cuộc hội ý thường lệ sớm hơn, vào 15 giờ thay vì 17 giờ để sẵn sàng hành động. Theo linh cảm của một cựu sĩ quan tình báo , ông khẳng định những cuộc tấn công vào sân bay, tổng hành dinh của ông và trại tù binh có thể bắt đầu vào ba giờ sáng hôm sau. Một báo cáo của tổng hành dinh Westmoreland tăng thêm căng thẳng : một số vị trí rải rác trong Quân đoàn 1 và 2 đã bị tấn công lúc rạng sáng.

Mặc dù tình hình như thế và những thông tin hận được , Vann khó tin rằng Việt cộng sẽ có một cuộc tấn công lớn vào những ngày Tết. Tuy trước đây vấn có những vi phạm nhưng nói chung lệnh ngừng bắn vẫn được tôn trọng khá lâu để cho phép tổ chức ngày lễ. Điều đó không cản trở anh không ngoan hơn. Anh gửi cho tất cả các đội CORDS một chỉ thị thông báo những tin tức nhận được và ra lệnh báo động tối đa, đặc biệt ban đêm trong dịp Tết. Khi người thư ký truyền tin nói nếu phải đánh mật mã thì chỉ thị sẽ chậm đi nhiều giờ, anh bảo “ Cứ chuyển thẳng “. Rồi anh lên chiếc Ford Mustang đi Sài Gòn , đưa Lee đi ăn hiệu rồi cùng cô trở về Biên Hòa. Họ làm tình với nhau và ngủ sau nửa đêm mội chút, khá sớm so với thói quen của Vann.

Lính thủy đánh bộ canh gác đánh thức đại sứ Bunker đúng sau ba giờ sáng trong phòng ngủ ở tầng hai biệt thự của ông và nói :” Sài Gòn bị tấn công!”. Việt cộng đánh vào tòa nhà Đại sứ quán cách đấy bốn đường phố và tư dinh có thể bị tập kích bất kỳ lúc nào. Một chiếc xe bọc thép chờ trước cổng và lính thủy đánh bộ được lệnh đưa Bunker đến chỗ ở của trưởng ban an ninh Đại sứ quán mà họ nghĩ sẽ ít nguy hiểm hơn. Họ nói ông không bàn cãi gì, không kịp mặc quần áo, chỉ khoác chiếc áo dài trong phòng lên bộ quần áo ngủ đang mặc.

Văn phòng tầng hầm của biệt thự đầy khói vì người ta đốt tài liệu mật. Chiếc tủ két nhỏ ở đấy bị phá để hủy những gì đựng trong đó trong trường hợp những người gác ở lại bị giết và  tư dinh rơi vào tay quân địch. Trong lúc vội vàng lửa làm cháy hai lỗ chiếc cặp da đựng tài liệu sang trọng đại sứ để trên bàn khi đi nằm.

Ellsworth Bunker không phải loại người chống lại những người lính thủy đánh bộ đang làm nhiệm vụ. Ông lên chiếc M-113 chạy ngay trong đêm với tiếng rít bánh  xích, đưa vị đại sứ Hoa Kỳ bận quần áo ngủ khoác áo dài trong phòng, chạy qya đường phố của thủ đô một nước mà 67% dân số được cho là sống trong yên ổn của sức mạnh Mỹ. Tiếng pháo Tết át tiếng súng. Mười lăm tiểu đoàn Việt cộng , khoảng 6.000 người của các đội quân cộng sản vào Sài Gòn và vùng ngoại ô. Bunker lấy chiếc cặp tài liệu bị cháy giữ làm kỷ niệm đêm hôm ấy.

Khe Sanh là mồi lửa lớn nhất trong cuộc chiến tranh này. Những người cộng sản Việt Nam không hề có ý định làm một Điện Biên Phủ thứ hai ở đấy. Mục tiêu của họ là Westmoreland chứ không phải là pháo đài bị bao vây. Chỗ ấy chỉ là một cái bẫy làm viên tướng tổng chỉ huy không ngờ đến mục đích thật sự. Những người có trách nhiệm ở Hà Nội biết rất rõ không thể lặp lại với người Mỹ điều mà họ làm có kết quả với người Pháp , một đội quân viễn chinh là hình ảnh quân đội thuộc địa nhiều thứ tiếng của một đất nước đã yếu đi vì bại trận và bị chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai.Những người Việt Nam có thể tiến lên vượt qua họ. Vì vậy, ông Giáp có trọng pháo ở Điện Biên Phủ nhiều hơn người Pháp, thực tế không có đủ máy bay vận chuyển, tiêm kích và ném bom. Tướng Henry Navarre không có cách nào tiếp tế hoặc tăng cường pháo đài của mình ở trên núi cách chỗ dựa gần nhất , Hà Nội, ba trăm cây số.

Ngược lại, Hoa Kỳ có thể dùng một lực lượng đánh bật ghê gớm nên Việt cộng không hy vọng lặp lại chiến thắng trước. Để tiêu diệt 6.000 lính chiến đấu cứng rắn như lính thủy đánh bộ được một lứa lửa rất mạnh hỗ trợ, phải tồn thất một số lượng điên rồ, lớn hơn nhiều hàng nghìn người hy sinh ở đây vò một mối nguy giả vờ đe dọa. Dù sao thì hoạt động ấy phải trả giá thất bại vì việc bao vây có thể bị bẻ gãy. Khe Sanh chỉ cách Đông Hà và Cửa Việt 45 cây số, với con đường hoàn toàn sử dụng được đến căn cứ trọng pháo Calu, 15 cấy số phía sau hậu cứ. Nếu quân kỵ binh bay không giải phóng được Khe Sanh, Westmoreland có thể gửi tới những sư đoàn khác. Khắp nơi đều thế cả và những người Bắc Việt biết phương trình quân sự ấy cũng có lợi cho người Mỹ. Để giành thế chủ động phải thành công ở một đòn quyết định tác động đến tinh thần đối phương như trận Điện Biên Phủ đã tác động đến người Pháp. Đấy là cuộc tấn công dịp Tết năm 1968.

Đối với  trận đánh này, một trong số những trận quyết liệt nhất trong lịch sử dân tộc, họ phải ngược lại 179 năm trong quá khứ, tới vị anh hùng dũng cảm Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh trong ngày Tết ở kinh đô Thăng Long. Kế hoạch của họ rộng lớn và táo bạo vượt quá mức tưởng tượng của những người nước ngoài và người phục vụ họ. Khắp miền Nam Việt Nam , trong phần lớn các thành phố và thị trấn, hàng chục nghìn chiến sĩ cộng sản tung ra một “ cuộc tấn công toàn cảnh “ theo từ của các chỉ huy hành quân của Westmoreland dùng. Bộ phận lớn của một sư đoàn Bắc Việt có du kích địa phương hướng dẫn đánh vào Huế, chiếm hầu hết thành phố và hoàng cung. Lá cở đỏ sao vàng lại kéo lên trước cửa Ngọ Môn như năm 1945 lúc Bảo Đại thoái vị. Trong những giờ đầu rạng sáng ngày 31 tháng Giêng, các trại và đồn lính, đồn cảnh sát , các trung tâm hành chính, nhà tù, đài phát thanh lần lượt bị tấn công, trong hơn nửa tỉnh lỵ của 44 tỉnh cùng những thành phố, huyện lỵ và căn cứ Quân lực Cộng hòa đơn độc ở nông thôn. Tân Sơn Nhất, Biên Hòa và nhiều sân bay khác cũng là đối tượng tập kích hoặc bắn phá để ngăn cản không quân hỗ trợ hoặc máy bay lên thẳng đưa quân tăng cường cho những nơi trú quân gặp nguy hiểm.

Ở Sài Gòn, Việt cộng cũng cố gắng đánh chiếm dinh tổng thống Thiệu đang vắng mặt về ăn Tết với gia đình, tổng hành dinh lính thủy đánh bộ, trụ sở ban tham mưu hỗn hợp và đài phát thanh. Trừ Đại sứ quán, đặc biệt về trụ sở tuyên truyền và các sân bay, các đội quân cộng sản cố tránh người Mỹ để tập trung sức vào đồng minh của họ. Mục đích là đánh đổ chế độ và khơi dậy một cuộc cách mạng theo kiểu tháng Tám năm 1945 trong dân chúng thành thị các chiến sĩ cộng sản chiếm đóng. Hồ Chí Minh và chính phủ của ông hy vọng hủy diệt chỗ dựa của Mỹ đối với chiến tranh, buộc Hoa Kỳ phải thương lượng với những điều kiện bất lợi và bắt đầu rút quân chiếm đóng. Khe Sanh là một vùng hiếm hoi ở miền Nam không có gì xảy ra ngoài một số trận ném bom kỳ cục.

Nhưng riêng mưu kế ấy không giải thích được sự ngạc nhiên quá lớn. Cách người Mỹ chỉ đạo cuộc chiến tranh tạo nên một khoảng trống ở miền Nam. Việc chuyển dân chúng hàng loạt do đường lối của Westmoreland và sự hấp dẫn về kinh tế đối với những người Việt nghèo khổ vì chiến tranh đến những nơi xây dựng căn cứ mới cùng những lố lăng khác của bộ máy quân sự. Không bao giờ người ta biết được số lượng người tị nạn lên đến bao nhiêu. Tiểu ban của Edward Kennedy đánh giá là 3 triệu vào cuối năm 1967. Một miền Nam Việt Nam nông thôn với tỷ lệ rất lớn 85% dân quê lúc Vann đến năm 1962 đã trơ thành chủ yếu là người thành thị. Dân số Sài Gòn năm 1962 là 1,4 triệu người lên đến 3,5 và 4 triệu, một sự thay đổi lớn đối với tổng số 17 triệu người Nam Việt Nam .

Chen chúc số lượng lớn người như vậy trong và xung quanh thành phố cho thấy một vẻ ngoài lừa gạt, sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn lớn hơn trong lúc thực tế chưa bao giờ họ nắm được ít đến thế vì nền kinh tế và xã hội hỗn độn cùng sự tha hóa chưa từng có. Cảnh sát không hề muốn mạo hiểm với tầng lớp hạ tầng mới này. Họ sợ các băng nhóm vô lại và những kẻ đào ngũ của Quân lực Cộng hào ở đầy những nhà ổ chuột. Việc đốt phá trở nên phổ biến và không có khu nào yên ổn Câu chuyện chính thức về cuộc tấn công dịp Tết , theo lời trung thực của quân đội Nam Việt Nam , chấp nhận những cuộc ám sát và hành động khủng bố khác thường xuyên trong khu đông bắc Sài Gòn ; quân du kích đã đặt rào chắn trên những con đường vắng Chợ Lớn, tấn công những đồn cảnh sát ở đấy. Báo cáo công nhận “ Quân lính địch đã vào đến các cửa ngõ thành phố “.

Annie và bà cô kết bạn với hàng xóm ngôi nhà thuê của Vann ở ngoại ô Gia Định. Họ chỉ cho anh nhà một số gia đình cảm tình với Việt cộng hoặc có người thân đi theo Việt cộng . Cuối tháng Giêng, con gái Vann đã năm tuần tuổi. Sáng ngày 31, Annie dậy sớm cho con ăn bỗng nghe ngoài đường có tiếng kêu “ Chúng ta đi khỏi đây ngay !”.

Cô chạy ra ngoài cùng bà, thấy người ta ùa ra khỏi nhà mang theo những gì đưa đi được để chạy tránh đạn. Một toán Việt cộng chiếm vị trí trong một ngôi chùa cách đấy vài trăm mét. Đã nhiều tuần lễ nay với các nhà sư đồng lõa, họ đã đào hầm dưới chùa để chứa vũ khí và đạn dược.

Phần lớn những tiểu đoàn Việt cộng vào phía tây Sài Gòn tấn công Tân Sơn Nhất, đều đi qua quận Tân Bình. Mùa hè trước, Vann được biết trưởng quận này nhận tiền trả lương cho 592 lính địa phương trong vùng nhưng thực tế chỉ có 150 lính. Một trong những đơn vị ấy nhân danh bảo vệ miền tây Sài Gòn được gọi là “ tiểu đoàn Trung Hoa”. Trên danh sách quân số có tên những người bán hàng quán Trung Hoa nhưng họ không bao giờ rời việc mua bán ở Chợ Lớn. William Westmoreland tưởng làm chủ được toàn miền Nam Việt Nam . Ông ta chỉ có một số đảo nhỏ nơi lính của ông ở đấy.

Vann bị đánh thức dậy đúng ba giờ sáng vì những loạt đạn rốc két 122 ly như sấm và đạn cối 82 bắn vào sân bay Biên Hòa. Anh vội vã mặc quần áo, nói với Lee mình phải đến trại cơ quan CORDS và cô không đi theo được. Dù sao ngôi nhà này là chỗ chắc chắn nhất, cô chỉ ở lại trong phòng, vào ẩn trong tủ nếu có Việt cộng vào. Anh chạy ra xe cùng Wilbur Wilson, phó của mình, cũng đã bị đánh thức dậy và mặc vội quần áo.

Biệt động Việt cộng vào được bên trong đã cho nổ một kho đạn dược ở Long Bình. Làn sóng tiếng nổ đã làm tắt hết ánh sáng và bay tung đồ đạc trong căn nhà tạm Weyand bố trí làm trung tâm hành quân. Viên tướng không bị gì, đội mũ, áo chống đạn, như những sĩ quan thoát chết khác và thắp đèn dầu lên. Đêm ấy, Weyand không ngủ được, đến sớm một tiếng đồng hồ chờ cuộc tấn công. Những chiếc trực thăng chiến đấu ông đã cho lệnh báo động bay đi ngay tìm vị trí súng cối hoặc phóng tên lửa của địch trong lúc những chiếc khác chờ bộ binh đến. Trong đêm lẫn lộn ánh lửa và tiếng ầm, tổng hành dinh của Weyand là mục tiêu của rốc két và đạn cối, hình như Việt cộng tìm cách bắn phá tiêu hủy nó chứ không tấn công chiếm đóng. Máy phát cung cấp khá đủ điện cho các trạm đài, điện thoại, điện tín và Weyand ngõ ngàng biết tin những gì xảy ra ở Sài Gòn và trong tất cả những vị trí xung quanh thủ đô.

Một đơn vị lính Mỹ ở gần đấy bắn mò với súng liên thanh 50. Những viên đạn lớn xuyên qua những tấm ngăn phá hỏng một ít căn nhà tập trung. Weyand cử một đại tá cùng hai quân cảnh đến bảo họ thôi bắn. Mấy phút sau, họ trở về; viên đại tá mà chiếc xe Jeep bị tan tành thành mảnh, thông báo “ Việt cộng ở ngay bên kia đường !”.

Họ rơi vào hai đại đội Việt cộng có nhiệm vụ giải phóng trại tù binh. Người ta bảo trại ở trong đồn điền cao su nhưng vì Weyand cho triệt hạ hết cây nên không tìm thấy. Họ đi vòng quanh xóm nhà đàn bà góa và trẻ mồ côi của lính Quân lực Cộng hòa ngay trước tổng hành dinh.

Những chiếc M-113 và bộ binh được Weyand cử đến nhanh chóng sắp xếp những thân hình bị Việt cộng bắn chết.

Một đơn vị khác đã vào những lô cốt phía đông căn cứ Biên Hòa, triển khai về các kho hàng. Phi công trực thăng bắn liên thanh và rốc két vào họ. Những chiếc M-113 tiến đến giết hoặc đuổi theo. Khắp nơi các đơn vị Việt cộng chống chọi với cuộc chiến không cân sức với lực lượng xe bọc thép và bộ binh Mỹ.

Weyand cứu sân bay Tân Sơn Nhất, cử một đoàn xe bọc thép lao nhanh về thành phố. Để tránh bị phục kích đặc biệt trên đường số 1 có nguy cơ bị cắt đứt, chỉ huy đơn vị bay trực thăng phía trên đoàn xe, bắn pháo sáng hướng dẫn qua những đường vòng ở nông thôn.

Suốt đêm và buổi sáng tiếp đó, Weyand huy động nhiều nghìn quân chiến đấu Mỹ luôn sợ thiếu các đơn vị xe pháo. KHông thể có trường hợp ấy; ông đã chuẩn bị tốt hơn nhiều đối với một trận đánh không bao giờ ông dự kiến. Không lúc nào liên lạc đường không hoặc trên bộ bị cắt đứt và ông tổ chức phản công đủ ngăn cản những người cộng sản có đà tiến cần thiết để chiếm thành phố.

Vann bận liên hệ với các đội CORDS ở các tỉnh đến mức buổi chiều mới lo đến Annie và con gái. Anh lấy trực thăng đi Gia Định, thấy nhà anh ở giữa trận đánh của Việt cộng trong chùa với lực lượng địa phương. Anh bảo phi công vòng xuống rất thấp quanh biệt thự nhưng không thấy một dấu hiệu nào, nghĩ Annie đang ẩn nấp bên trong. Anh cho trực thăng đậu xuống tổng hành dinh và đi bộ một mình với khẩu M-16 qua những đường phố có quân địch. Phi công được chỉ thị tiếp tục quay vòng trên ngôi nhà để khi anh ra hiệu sẵn sàng nhào xuống chở mấy người đàn bà và đứa trẻ. Vann thấy nhà trống không, gọi chẳng có ai trả lời. Đạn súng tự động làm vỡ kính cửa sổ tầng hai. Trở lại tổng hành dinh, anh đột nhiên gặp một Việt cộng và bắn hạ ngay.

Bố mẹ Annie đã nhanh hơn anh. Ngay mới rạng sáng, họ lên xe đến Gia Định, phải bỏ xe lại chỗ rào ngăn của cảnh sát gần chợ trung tâm. Họ đi bộ hai cây số đến nhà , thấy bà nội Annie và người hầu đang chuẩn bị ra đi. Annie chuẩn bị một bình sữa thay đổi, bọc đứa bé vào chăn còn bà và người hầu thu thập một số đồ dùng cá nhân.

Phải gần suốt cả ngày họ mới đến được nhà bố mẹ Annie ở Sài Gòn . Đường sá đầy người chạy khỏi cuộc chiến. Họ bị ngăn lại liên tục ở các hàng rào chắn của cảnh sát sợ Việt cộng thâm nhập, phải trình giấy tờ và để lục soát trong xe. Lính của lực lượng vùng bắn chỉ thiên để cố kiểm soát đám đông.

Vann đến nhà ít lâu sau khi họ về. Anh yên tâm thấy Annie và con gái bình yên nhưng Annie thấy anh cũng bất bình vì cô không ở lại Gia Định để chờ anh giải thoát.

-   Anh đã cố đến cứu em, suýt nữa thì bị chết, anh nói.
-   Nhưng John, em còn con bé, không chờ được , cô trả lời.

Như đối với Peter ở bệnh viện nhi Boston chín năm trước đây, Vann muốn là người hùng trong ngày và đã như thế. Anh kể lại với bạn bè mình đưa Annie và đứa bé đi giữa lúc bắn nhau. Annie giữ ý không nói khác đi.

Tuy tướng Weyand không phải người khoe khoang nhưng ông khẳng định như Vann, rằng Sài Gòn sẽ rơi vào tay cộng sản nếu ông đã không từ chối đưa quân của ông lên biên giới Campuchia. Ông nói “ Sẽ là một thảm họa hoàn toàn vì tôi lúc nào cũng nghi ngờ họ sẽ đánh chiếm Sài Gòn “. Chỉ có tám tiểu đoàn bộ binh Quân lực Cộng hòa trong vùng thủ đô khi xảy ra những cuộc tấn công, mà mỗi tiểu đoàn chỉ còn không tới 50% quân số vì đi phép Tết, một số còn yếu hơn. Hai đơn vị tốt nhất, những tiểu đoàn dù may mà còn ở lại thành phố. Một sĩ quan tham mưu hôm trước mải mê đánh cờ đến nỗi quên ra lệnh cho máy bay vận chuyển đưa họ lên Quân đoàn 1 ở phía bắc để góp phần tăng cường cho vùng Khe Sanh. Đơn vị chiến đấu Mỹ trong thành phố là tiểu đoàn MP vì trong tháng Chạp Westmoreland để việc bảo vệ Sài Gòn cho Quân lực Cộng hòa; trung đoàn 199 bộ binh nhẹ Mỹ được rút đi đặt dưới quyền Weyand.

Mười lăm tiểu đoàn Việt cộng mở đầu đợt tấn công phần lớn là các đơn vị trong vùng vì họ biết rõ xung quanh Sài Gòn hơn. Một trong những tiểu đoàn biệt động gồm 250 người sống trong thành phố làm nghề lái taxi và xe kéo. Việt cộng địa phương được lệnh chiếm các mục tiêu, giữ cho đến khi các lực lượng chủ lực đến cứu. Đa số cuộc tấn công không đạt kết quả mong muốn vì, để gây bất ngờ, mệnh lệnh cụ thể chỉ đưa xuống các đơn vị trước 62 hoặc 48 tiếng, không có những hiểu biết bước đầu cần thiết cho một đội quân ở nông thôn mới hành quân trong thành thị lần đầu. Các tiểu đoàn Quân lực Cộng hòa, dù thiếu quân số, hành động dũng cảm sau nỗi hoảng hốt ban đầu. Họ đã ở sát chân tường ; phần lớn có vợ con ở Sài Gòn . Các đội quân trong vùng, phân bố trong thành phố và ngoại ô, nói chung cũng hoạt động tốt. Tuy vậy, nếu các lực lượng Mỹ không can thiệp ngay, các đội quân chủ lực cộng sản sẽ đến theo chân những người chiến đấu đầu tiên và những đội quân bảo vệ, vượt hẳn về số lượng và hỏa lực, cũng không chống cự nổi sự tấn công của họ. Mấy nghìn quân lính bàn giấy của ban tham mưu Mỹ và Việt Nam , tổ chức và huấn luyện kém, vũ khí không đầy đủ, chỉ là sự trở ngại chứ không phải hỗ trợ.

Fred Weyand và chừng mực nào đó John Vann đã khuyến khích ông giữ lại các đội quân, có lẽ đã cứu Sài Gòn . Nhưng họ không thể cứu được cuộc chiến tranh mà Westmoreland đã mang lại thất bại. Sáng kiến cuối cùng của tướng Weyand có kết quả mỉa mai là kéo dài cuộc đụng độ mà không thể thắng. Hơn 20.000 người Mỹ đã chết và hơn 50.000 thương binh phải vào bệnh viện trong khi một chiếc Peugeot nhỏ và một taxi ọp ẹp lượn vòng ở góc đường Mạc Đĩnh Chi và đại lộ Thống Nhất lúc hai giờ bốn mươi lăm phút sáng ngày 31 tháng Giêng; một trung đội biệt động nhảy xuống, làm thủng một lỗ lớn ở tường ngoài Đại sứ quán mới của Hoa Kỳ.

“Cỗ máy xanh” như người lính Mỹ gọi đúng nghĩa quân đội của mình năm ấy, đã đòi hỏi và nhận được 841.264 lính được gọi ra trận cho đến Noel năm 1967 và 33.000 người khác sẽ được gọi vào tháng Giêng năm 1968. Bây giờ chi phí cho chiến tranh hàng năm lên đến 33 tỷ đô la, sự lạm phát  bắt đầu làm lung lay nền kinh tế Hoa Kỳ . Những khu học xá các trường trung, đại học náo động cả lên. Trước năm 1967, con trai giới tư sản da trắng phần lớn tránh khỏi chiến tranh nhờ phương pháo khéo léo được hoãn là đang học đại học. Những năm 1967, Cỗ máy xanh cần thiết đến mức người ta bắt buộc một số lớn thanh niên trong năm học đăng lính. Sự đe dọa bị gọi đi đánh nha vì cuộc chiến tranh, là đối tượng của sự ghê rợn tinh thần ngày càng lớn biến thành những cuộc biểu tình của những chàng trai trẻ vốn ít quan tâm đến tai họa của một dân tộc châu Á và thịt xương những người nông dân, thợ thuyền Mỹ đại diện các dân tộc thiểu số biến thành súng ca nông. Nữ sinh cũng tham gia phong trào với số lượng và niềm hăng say như thế.

Đại đa số người Mỹ, dân chúng ngây thơ bỏ qua nỗi thống khổ ấy vì những nhà cầm quyền mà họ tin tưởng đảm bảo sự hy sinh là cần thiết để cứu đất nước và chiến thắng đã trong tầm tay. Bây giờ xã hội Mỹ cảm thấy lung lay. Cái giá mạng sống con người và tài chính của chiến tranh hủy diệt lớn đến nỗi khi cuộc tấn công dịp Tết chứng tỏ cuộc chiến ấy thất bại , nó sẽ đưa lại sự suy sụp về tâm lý và khủng hoảng về chính trị. Westmoreland gây ra một loại tai họa như MacArthur khi ông này đưa quân đội Mỹ đến vùng rừng núi Triều Tiên mùa đông năm 1950 nhưng mức độ rộng lớn hơn nhiều vì nó lãng phí ghê gớm trong một thất bại hoàn toàn ở Việt Nam .

Dân chúng Mỹ ít quan tâm đến việc trung đội đặc công không chiếm được tòa đại sứ tuy họ có đủ rốc két B-40 và thuốc nổ để làm việc đó. Nhìn bề ngoài, cộng sản có vẻ lạc hướng vì những người chỉ huy hy sinh ngay từ đầu cuộc tấn công và chỉ đánh chiếm vùng đất xung quanh. Họ đã trụ lại và rút đi sau sáu tiếng rưỡi cho đến lúc rất nhiều người bị giết hoặc bị thương. Cuối trận đánh, một quân cảnh vứt qua cửa sổ cho Jacobson một chiếc mặt nạ và một khẩu súng ngắn để ông bắn hạ một đặc công bị thương trèo lên cầu thang tư dinh ông tránh hơi cay. Jacobson, sĩ quan về hưu, cho rằng một nhà ngoại giao không cần đến vũ khí và ông bị cầm tù suốt đêm ở tầng hai nhà ông chỉ với một quả lựu đạn tìm thấy trong ngăn kéo.

Dân chúng Mỹ cũng không quan tâm đến việc những người cộng sản không thành công trong việc lật đổ chế độ Sài Gòn và khơi dậy một cuộc cách mạng trong nhân dân. Các nhà lãnh đạo Hà Nội đánh giá sai lực lượng quân sự đã nhanh chóng đến cứu chính quyền Sài Gòn và không hiểu tâm lý những người dân thành thị mới vì ép buộc. Nếu một số tích cực giúp đỡ những người cộng sản và đại bộ phận căm ghét người Mỹ và chế độ không chỉ điểm hàng chục nghìn quân cộng sản trang bị vũ khí thâm nhập vào giữa họ, thực ra những người ấy quá bối rối vì mất nhà cửa, đất đai, gia đình và những giá trị tinh thần nên không lao vào một việc nào khác hoặc nổi dậy chống ai đó.

Điều đáng kể đối với người Mỹ là kẻ thù bị đánh bại ấy có thể tấn công vào bất cứ chỗ nào với mức độ quyết liệt hơn trước đây. Chiến tranh ở Việt Nam sẽ không bao giờ thắng được. Chẳng có gì được thực hiện, trừ mạng sống cùng tiền mất đi quá mức và xã hội Mỹ bị chia rẽ. Mọi đảm bảo người ta đưa ra chỉ là sự dối trá và huênh hoang của những kẻ đần độn.

Những gì người Mỹ thấy trong đợt tấn công này càng củng cố cảm giác của họ. Việt cộng ẩn mình trong khu tây Sài Gòn, Chợ Lớn và chống cự ở từng nhà như họ làm ở những thành phố khác. Cấm sử dụng vũ khí hạng nặng và máy bay sẽ đưa lại những tổn thất to lớn về sinh mạng của người Mỹ và Việt Nam trong lúc bộ binh đang gồng mình chịu đựng mọi cú đánh. Không một hạn chế nào, dù tối thiểu được đưa ra, không phải để cứu sống những người đang chiến đấu, mà bởi một loại phản xạ tàn ác làm tan nát nông thôn Việt Nam  nay được vận dụng ở các trung tâm đô thị để “ giết chết địch quân “ .

Những trận đánh tiếp tục ở Sài Gòn trong 15 ngày. Mỗi chiều tối, người Mỹ nhìn vào vô tuyến truyền hình màu thấy hình ảnh đất nước họ cho là được cứu giúp này đang cháy và tung lên từng mảng. “ Tuy thiếu số liệu thống kê cụ thể về đợt tấn công dịp Tết trong toàn đất nước, phát ngôn chính thức của Quân lực Cộng hòa tuyên bố, có khoảng 14.300 đan thường chết, 24.000 bị thương và 627.000 người không còn nhà ở “. Riêng Sài Gòn và vùng ngoại ô, khoảng 6.300 dân thường chết, 11.000 bị thương, 206.000 mất nhà cửa và 198.000 ngôi nhà bị phá hủy. Cảnh tượng ấy tăng cường sự chống đối chiến tranh, trở thành mối lo lắng hàng đầu về tinh thần , ngoài sinh viên, trí thức, mở rộng ra tầng lớp trung lưu dù không có con đến tuổi bị gọi đi lính. Lô gíc của hành vi điên rồ tóm tắt trong lời giải thích của một chỉ huy Mỹ với một nhà báo trước những đống gạch và tro : “ Cần thiết phải phá hủy thành phố để cứu lấy nó “.

Westmoreland đóng vai trò của ông trong đó nhưng vẫn luôn làm như là việc làm của địch. Sáng ngày 31, ông đến Đại sứ quán, kiểm tra thiệt hại và tổ chức một cuộc họp báo giữa những xác chết Việt cộng và quân cảnh. Ông thông báo việc tập kích này và toàn bộ cuộc tấn công chỉ là một đòn đánh lạc hướng cuộc tấn công chính vào Khe Sanh và dọc vùng phi quân sự. Con người nghĩ đã bố trí một cạm bẫy không thể hiểu được chính mình đang mắc bẫy. Ông tiếp tục đưa lính Mỹ lên phía bắc đến một nửa các tiểu đoàn chiến đấu trong Quân đoàn 1. Ông cho đặt một chiếc giường xếp giữa trung tâm hành quân ở Lầu Năm Góc Viễn Đông của mình để ngày đêm theo dõi những gì xảy ra ở Khe Sanh. Trưởng ban tham mưu của ông lo ông thiếu ngủ đến nỗi đề nghị Katherina, vợ Westmoreland từ Phillipines sang để vị tướng có thể qua mấy đêm trên giường ở tư dinh.

Trong lúc những người cộng sản làm viên tổng chỉ huy mê mẩn về Khe Sanh, họ kéo dài cuộc chiến để đánh lấy Huế, bí mật lấy một trung đoàn ở mỗi trong hai sư đoàn bao vây trận địa heo hút di chuyển qua núi rừng đến tăng cường cho các đội quân tấn công kinh thành cũ. Khác với Sài Gòn, Huế là một thành phố nhỏ, khoảng 140.000 dân trong năm 1968. Giải pháp ít tốn kém nhất đối với một đô thị có ý nghĩa lịch sử và chính trị như vậy là chuyển ngay sang tấn công, đuổi các đội quân Bắc Việt trước khi họ củng cố được vị trí. Westmoreland có đủ lực lượng làm việc đó với hai lữ đoàn Kỵ binh bay đóng cách Huế vài chục cây số về phía bắc nhưng ông sợ sử dụng vì nghĩ cần đến họ để giải phóng Khe Sanh. Vậy là , ông để trận địa cho quân đội Nam Việt Nam và hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ.

Phải mất 25 ngày lá cờ Việt cộng mới rút đi và cờ vạch đỏ, vàng của chế độ Sài Gòn lại bay trên cửa Ngọ Môn. Cung điện các nhà vua và những công trình khác bị hư hỏng nghiêm trọng. Nhà ở bị tàn phá hoặc trúng bom đạn nặng nề đến nỗi 90.000 người dân Huế không có chỗ ở trong thành phố của mình. Việt cộng địa phương nhân dịp chiếm đóng thanh toán những món nợ của mình. Viên chức các cấp, cảnh sát và những ai thân với chế độ đều bị bắt giữ và trừ diệt.

Cuối tháng Ba năm 1968, Hoa Kỳ cảm thấy bị tác động vì sự kiện Tết. Thượng nghị sĩ Eugene McCarthy suýt đánh bại Lyndon Johnson ở vòng bầu cử sơ bộ của New Hampshire trong khi đợi sự chỉ định ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ, điều chưa hề xảy ra với một tồng thống sắp ra đi. Robert Kennedy bèn nhảy ra tuyên bố cũng ứng cử tổng thống. Đối với ông không phải là chủ nghĩa cơ hội vì ông thực sự căm ghét chiến tranh . Với tính chất quần chúng và bóng ma ông anh được kính trọng giúp đỡ, hình như ông sẽ chắc chắn chiếm được sự chống đối hòa bình của McCarthy để đưa lại cho Johnson sự nhục nhã cuối cùng.

Westmoreland cũng  hủy hoại mình khi để cho Wheeler cố buộc tổng thống huy động quân dự bị để có 206.756 người bổ sung . Đại sứ Bunker đã mất ảo tưởng về Westmoreland và giận dữ để bị lừa gạt vì một thất bại thảm hại như dịp Tết, tích cực khuyên ông không nên xin lực lượng tăng cường. Ông giải thích bây giờ về mặt chính trị tổng thống không thể kêu gọi quân dự bị cho dù Johnson muốn. Bunker chưa nắm được mức độ rộng rãi của chiến thắng tâm lý những người cộng sản Việt Nam giành được ở Hoa Kỳ nhưng ông cảm thấy đợt tấn công của họ đã bẻ gãy ý chí của chính quyền cũng như của công dân Mỹ. Ông chắc chắn những gì Westmoreland hoặc bản thân ông nói sẽ không còn đáng tin ở Washington nữa. Dean Rusk bình thường là người kín đáo nhất, không ngớt gọi điện thoại hỏi ông. Westmoreland không nghe theo lời khuyên của đại sứ. Ngày 22 tháng Ba, tổng thống đột ngột thông báo Westmoreland trở về Hoa Kỳ làm Tổng tham mưu trưởng quân đội. Bunker sau này bình luận với nụ cười kiểu cách “ Westy đã quay về với việc thăng tiến”.

Đại sứ đã không nhầm khi nhận xét chính quyền. Sau khi bổ nhiệm McNamara vào Ngân hàng thế giới, tổng thống đã nói “ Người duy nhất tôi không phải bận tâm trong cuộc chiến tranh này là Dean Rusk. Ông ấy cứng rắn như trái thông ở Georgia”. Nhưng trái thông Georgia đã vỡ. Từ đầu tháng Ba, bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho chuyển đến những quan chức cấp cao của chính quyền một để nghị làm McNamara bị đưa ra khỏi chức vụ : chấm dứt hẳn việc ném bom miền Bắc Việt Nam trừ hành lang thâm nhập phía nam vĩ tuyến 19, nhằm dễ dàng mở cuộc thương lượng. Rusk không cho rằng Hà Nội trả lời thuận lợi, ít nhất là không đáp ứng ngay. Do không biết rõ người Việt Nam , ông không hiểu tầm quan trọng bài diễn văn của bộ trưởng Bộ ngoại giao miền Bắc, ông Nguyễn Duy Trinh, phổ biến cẩn thận trước cuộc tấn công dịp Tết. Trước kia, các nhà lãnh đạo Hà Nội nói họ “ có thể “ thương lượng với Hoa Kỳ nếu ngừng ném bom. Nhưng cuối tháng Chạp năm 1967, công thức của ông Trinh trở thành chính phủ “ sẽ có những cuộc nói chuyện “ trong trường hợp chấm dứt ném bom không điều kiện. Đấy chính là điều Rusk mong muốn. Clark Clifford ,một nhân vật thuộc phe diều hâu hiếu chiến tích cực, vỡ mộng vì dịp Tết và với trách nhiệm bộ trưởng Quốc phòng mới, chấp nhận lời đề nghị. Ngoài ra, tuy tổng thống không ra mặt nhưng cũng phải được phép của ông, Rusk mới cho chuyển lời đề nghị của mình. Cũng có cái gì đó đã tan vỡ ở Lyndon Johnson.

Những nhà “ thông thái” giúp ông quyết đinh. Johnson họp các cố vấn của mình lần thứ hai ngày 26 tháng Ba năm 1968 tại Nhà Trắng. Hôm trước đó, họ được triệu tập đến Bộ Ngoại giao để chuẩn bị hội nghị này. Những gì họ nghe nói ở đây rất khác với  những gì đã nói trong tháng Mười một. Phần lớn những người có mặt cũng đã thay đổi. Tờ trình do McGeorge Bundy giải thích như sau “ Lần trước họp chúng ta có những lý do để hy vọng “. Cyrus Vance mới vào trong nhóm nhưng đã làm việc với Johnson từ hồi ông là nghị sĩ, đưa ra một lời cảnh báo “ Ít nhất chúng ta phải nhanh chóng làm một điều gì đó, nếu không dư luận công chúng trong nước buộc chúng ta phải giải thể các nhóm”.

Một trong những mỉa mai lạ lùng của cuộc chiến tranh là lại chính Dean Rusk tuyên bố chấm dứt cuộc phiêu lưu ông có trách nhiệm mở đầu. Ông phát biểu với tổng thống :

“ Trong thời gian còn lại, chúng ta không còn biện pháp thực hiện nhiệm vụ chúng ta đã nhận lấy và phải bắt đầu thoát ra thôi”.

Chánh án Tòa án tối cao, Abe Fortas trong nhóm thiểu số hiếu chiến, cố nói ngược lại. Acheson ngăn ông ta :

“ Vấn đề không phải như Fortas đặt ra. Cần biết là chúng ta có thành công trong việc làm ở Việt Nam được không. Tôi nghĩ không được .. Chúng ta có giữ được những người Bắc Việt Nam ở ngoài miền Nam bằng quân sự không ? Tôi nghĩ không được. Họ có thể len lỏi khắp nơi không ngừng săn lùng những người Sài Gòn và đè bẹp những người này “.

Năm ngày sau, 31 tháng Ba năm 1968, tổng thống Lyndon Johnson thông báo trong toàn quốc trên một buổi truyền hình về việc ngừng ném bom miền Bắc từng phần và từ bỏ chức vụ tổng thống để giữ gìn sự thống nhất của nước Mỹ.

Ba ngày sau, mồng 3 tháng Tư năm 1968, những người Việt Nam lại một lần nữa gây ngạc nhiên cho tổng thống và bộ trưởng Ngoại giao của ông. Đài Hà Nội thông báo họ sẽ thương lượng với Mỹ.

John Vann không thể chấp nhận cuộc chiến tranh kết thúc. Anh không cho rằng sự kiện Tết đã viết trang cuối cùng của chiến tranh . Và thái độ của anh trong những năm tới cần điều chỉnh.

Sự kiện Tết cung cấp cho anh những lý do có giá trị để tiếp tục. Chiến thắng chính trị và tâm lý của những người cộng sản phải trả giá bằng sự tiêu diệt của Việt cộng . Trừ phía bắc Quân đoàn 1 và một số vùng cao nguyên, chính Việt cộng miền Nam đã chiến đấu trong dịp Tết vì họ có thể cơ động hơn trong các thành phố. Hàng chục nghìn người chết trong đợt tấn công đầu, rồi đợt thứ hai Hà Nội tung ra ở các trung tâm đô thị trong tháng Năm để giữ sức ép đối với chính quyền Johnson. Đội quân nông dân miền Nam ấy mà những người Việt Minh sống sót vực dậy trong mùa đông khủng bố của Diệm, trở thành những trung đoàn, sư đoàn sau trận đánh ấp Bắc, cũng bị rách nát như đất nước mà họ sẽ giành được nếu người Mỹ không cướp mất chiến thắng năm 1965 của họ. Cuối tháng Sáu năm 1968, Vann đánh giá các lực lượng cộng sản Việt cộng trong vùng Quân đoàn 3 có hơn 20.000 người chết.

Việc bổ sung hoàn chỉnh quân số hầu như toàn bộ bằng người Bắc Việt . Chính phủ Việt cộng bí mật không bù đắp lại tổn thất nhanh đến thế và phong trào du kích ngày càng giảm sút tinh thần. Những chiến sĩ Việt cộng không biết được sự hy sinh của họ đã bẻ gãy ý chí của Hoa Kỳ đến mức nào. Họ chỉ thấy cái chết của các bạn trong nhiệm vụ quân sự đến tháng Năm trở nên ảo tưởng.

Nếu đợt tấn công dịp Tết nhấn chìm tiếng tăm của những người như Komer và Westmoreland , thực tế bị quan mà Vann thấy đấy là xác đáng. Sự đáng tin lớn lên trong chính quyền và các nhà báo. Một người bạn gửi cho anh một nhận xét ví dụ trong bầu không khí cấp cao ở Lầu Năm Góc và bộ Ngoại giao “ Không có điều gì John đã nói tỏ ra quá đáng”. Sự kiện Tết đưa Vann trở lại đắm chìm trong trạng thái của mình. Một hôm, anh nói với Ellsberg điều mà anh vẫn nói đi nói lại về sự yếu kém của Quân lực Cộng hòa và chế độ Sài Gòn “ bởi vì mọi người khác đều khoan khoái thỏa mãn. Nếu họ chán nản, tôi đã nói với họ. Nào, nào, có hy vọng đấy, chúng ta có thể làm như thế này “. Anh nhục nhã vì sức mạnh hỏa lực Mỹ trút không giới hạn xuống các đô thị và thành phố. Ngược lại , bây giờ lính Quân lực Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ cầm súng bắn nhanh, mạo hiểm đi đêm trên đường phố và đạn của bộ binh ở bất cứ trại nào càng làm cho Vann chìm sâu vào công việc của mình. Anh chạy khắp khu vực khuyến khích các đội CORDS của anh, tổ chức lại và chuẩn bị cho họ đánh trả từng cú. Tuần thứ ba của tháng Hai, anh gửi chỉ thị cho tất cả các đội.

“ Bây giờ đã đến lúc, nói thẳng ra là phân biệt rõ người lớn và trẻ con. Tôi thường thất vọng thấy những cố vấn than khóc về mình và vặn tay vặn chân trong suy tư … Hãy đưa những người đồng cấp của các anh và người của họ ra khỏi hàng rào dây thép gai, họ phải năng nổ và tấn công ngày đêm. Kẻ địch chưa bao giờ dễ bị đánh bại như bây giờ”.

Komer không giữ một căm hận nào đối với Vann. Ông khá độ lượng để ca tụng một người khác dù thiệt hại cho ông. Tháng Tư, ông đề nghị ban lãnh đạo AID ở Washington bổ nhiệm Vann vào cấp bậc cao nhất trong công vụ ở nước ngoài, điều ấy được đồng ý ngay. Komer cũng không sẵn sàng từ bỏ chiến tranh và cũng đánh giá việc tiêu diệt Việt cộng sẽ cho phép một cuộc nổi dậy. Thái độ ngập ngừng của ông chấp nhận hậu quả lô gíc của sự kiện Tết là triệu chứng của nhiều quan chức cấp cao trong cơ cấu quyền lực ở Hoa Kỳ . Họ đã già cỗi trong một hệ thống hầu như luôn luôn giải quyết các vấn đề quốc tế theo cách nhìn của họ và khó chấp nhận lần này họ không đạt kết quả. Ý nghĩ về tất cả những gì họ đã đầu tư vào cuộc chiến tranh này càng kích thích họ chống lại. Khi cú choáng sự kiện Tết lu mờ, họ tìm những giải pháp khác.

Đối với Vann, những tổn thất nặng của du kích tạo bước ngoặt dẫn đến chiến thắng của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn . Anh nhanh chóng xác định quân đội Bắc Việt không thể đảm đương gánh nặng Việt cộng đã cáng đáng và đơn độc giành chiến thắng. Anh cho rằng sự đe dọa lâu dài đối với chế độ Sài Gòn là ở Việt cộng và các hoạt động chính trị, quân sự của họ. Quân đội Bắc Việt chỉ là một lực lượng vật chất có thể bị khống chế. Phong trào du kích bây giờ yếu đến mức bản thân anh cũng có thể ngăn cản dễ hơn.

Tổn thất của Việt cộng gây ấn tượng nhất cho Vann không phải vì số lượng người vì với thời gian người ta có thể thay thế những binh lính thường nhưng không bù đắp được các sĩ quan và hạ sĩ quan. Những người này đã có kinh nghiệm. Trước Tết, sự lẫn lộn người Việt miền Bắc miền Nam khiến họ đã hoạt động tốt vì những người miền Bắc chỉ là lính thường và việc chỉ huy do người miền Nam đảm nhận. Mà phần lớn bọn họ đã chết trong dịp Tết và đợt tấn công tháng Năm. Thay thế họ là những người đến từ miền Bắc. Đến cuối tháng Sáu, họ chiếm 70% số sĩ quan và hạ sĩ quan các tiểu đoàn trong vùng Quân đoàn 3. Đấy là những quân nhân quá chính quy không phù hợp với cách đánh du kích và không chủ động trong quan hệ chính trị cần thiết với tầng lớp nông dân miền nam, Vann kết luận như vậy. Những sự khác biệt từng vùng không thể khắc phục được. Anh viết thư cho Bob York “ Thực ra, những người Bắc Việt cũng là người xứ lạ trong xứ này như chúng tôi những người Mỹ và họ được sự ủng hộ, giúp đỡ của dân chúng chỉ vì sợ”.

Với định đề ấy, Vann xây dựng một kế hoạch mới để chiến thắng trong cuộc chiến tranh này. Anh khuyến cáo “ làm dịu dư luận công chúng Mỹ” bằng cách “ giảm từng bước” các lực lượng Hoa Kỳ, chuyển dần cho Quân lực Cộng hòa trách nhiệm chiến đấu với quân đội Bắc Việt và Việt cộng còn lại. Tháng Năm năm 1968 có 536.000 người Mỹ ở Việt Nam ; con số này trong một năm lên đến 553.000 vì việc tăng tượng trưng Johnson đã hứa trong lời tuyên bố ngày 31 tháng Ba để yên lòng các tướng lĩnh. Vann đánh giá có thể nhanh chóng thực hiện một cuộc rút quân quan trọng bằng cách áp dụng cuộc sống khắc khổ hơn và xóa bỏ một số lớn căn cứ như “ việc đặt tổng hành dinh kế tiếp nhau không tưởng tượng được và việc nảy nở vô số đơn vị hoạt động về đời sống “ mà Westmoreland cố giữ. “Tôi cho rằng hoàn toàn có thể giảm cam kết của chúng ta ở đây xuống 200.000 người vào giữa năm 1971 “, trong tháng Tư năm 1968 anh viết cho Edward Kennedy, một trong những nhân vật chính trị đầu tiên anh cố bán kế hoạch của mình vì anh bất bình về những lời tuyên bố của Robert Kennedy.

Cuộc tấn công dịp Tết cũng làm cho kế hoạch của anh dễ thực hiện hơn. Vann tự khẳng định với mình như thế, vì cú đánh choáng váng này làm lay chuyển một số thành viên chính quyền Sài Gòn , họ không thể tiếp tục dung túng sự tha hóa đến thế và sự bất tài của chế độ. Những người cộng sản không muốn nhưng đã tạo ra một không khí làm sức ép Mỹ cuối cùng có tác dụng. Việc giảm từng bước quân số Mỹ “ tạo kích thích cần thiết cho chính quyền miền Nam Việt Nam “ để nghiêm chỉnh tiến lên theo hướng ấy, anh viết cho Kennedy như vậy.

John Vann không muốn rút hết nhân viên quân sự Mỹ. Anh muốn giữ lại một lực lượng còn lại khoảng 100.000 người, chủ yếu là các cố vấn, nhân viên kỹ thuật và những đơn vị máy bay, trực thăng hỗ trợ cho các đội quân Sài Gòn. Qiân đội Nam Việt Nam cuối cùng nhận được súng M-16 số lượng nhiều và sắp tới các Lực lượng địa phương ở các vùng cũng nhận được như thế. Vann đánh giá một Quân lực Cộng hòa trang bị vũ khí tốt hơn, được lãnh đạo tốt hơn với sự hỗ trợ của những B-52 và máy bay tiêm kích ném bom của lực lượng Không quân, Hải quân, sẽ kiểm soát được quân đội Bắc Việt .

Anh không thuyết phục được Dan Ellsberg . Họ có những buổi tranh cãi lâu về cuộc tấn công dịp Tết và những kế hoạch của Vann. Trong tháng Bảy, John về Hoa Kỳ ba tuần lễ dưỡng bệnh. Lee tìm thấy anh bất tỉnh trên một vũng máu trong phòng tắm ở Biên Hòa đếm 30 tháng Năm. Được trực thăng chuyển đến bệnh viện, anh được phẫu thuật một vết rách ở cuống họng sau khi mất bảy lít máu.

Cuộc tấn công Tết đối với Ellsberg là một lý do để thất vọng chứ không thể cố hy vọng. Cú sốc đã đưa anh kiểm tra lại toàn bộ cuộc chiến tranh, một quá trình trí tuệ phức tạp vì những cảm xúc rối rắm anh được biết ở Việt Nam . Anh bắt đầu một cuộc phân tích tâm lý, cố gắng vượt qua sự tắc nghẽn của nhà văn cản trở rất lớn đến công việc của anh ở Công ty Rand và thoải mái chạy theo gái theo kiểu thịnh hành thời kỳ ấy ở California. Một chuyên gia Úc về công tác bình định làm việc ở Việt Nam trở về Rand trong tháng Năm. Ông ta nói về những “ thời cơ thuận lợi “ mà sự yếu đi của Việt cộng đưa lại cho Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn . Ellsberg viết cho Vann “ Ngày nay thái độ của tôi là Việt cộng có lý do để đặt cược rằng chính quyền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ bỏ qua những thời cơ thuận lợi ấy và những kẻ cuồng tín như anh, như tôi ( trong quá khứ ) và bè bạn chúng ta luôn luôn sai lầm khi hình dung khác đi “.

Vann thấy đó là điềm báo trước thuận lợi để những nhân vật xuất chúng của Washington chú trọng đến những đề nghị của anh. Ngay khi về nhà Mary Jane ở Littleton vào tháng Bảy, anh gọi điện thoại cho Harry McPherson, một trong những người hợp tác trực tiếp với tổng thống Johnson. Họ đã gặp nhau ở Việt Nam năm 1967 và McPherson có ấn tượng về tính lạc quan của Vann đến mức viết một báo cáo về cuộc nói hcuyện của ông gửi cho tổng thống.

Sau bài diễn văn ngày 31 tháng Ba, Lyndon Johnson cảm thấy tê liệt, tắc nghẽn vì sự kháng cự đã tác động đến Komer và bao nhiêu người khác. Ông tìm cách cứu vớt ở Paris, nơi Harriman và Vance bắt đầu thương lượng với những người Bắc Việt, điều mà viên tướng của ông đã làm mất đi ở Sài Gòn . Ông để cho Westmoreland tạm thời không có quyền lực kéo dài ở Việt Nam trong lúc tổng chỉ huy mới Creighton Abrams giữa tháng Sáu mới chính thức nhận nhiệm vụ. Johnson muốn thoả thuận việc rút quân lần lượt lực lượng Bắc Việt và Mỹ, xác định đấy là một sự thỏa hiệp có giá trị. Nhưng nếu những người cộng sản sẵn sàng bàn cãi về những điều kiện để người Mỹ ra đi, họ không hề quan tâm đến việc rút quân lần lượt. Họ bình thản ngồi lại mặc cả, họ dự kiến cho đến khi quá trình chiến tranh và sự căm ghét trong dư luận Mũ tăng lên đặt lối thoát cuối cùng cho chiến tranh . Cuối tháng Mười, họ thương lượng miệng, có những lời hứa mơ hồ về giảm bớt căng thẳng dọc vùng phi quân sự, xung quanh Sài Gòn và những thành phố chính, đổi lấy việc ngừng ném bom trên toàn miền Bắc và chấp nhận đại diện Mặt trận giải phóng dân tộc ngồi vào bàn hội nghị Paris.

Việc nhân nhượng ấy của Hoa Kỳ đã đặt ngang bằng chế độ Sài Gòn với Việt cộng . Trong lúc quanh bàn đàm phán Paris kéo dài điệu nhảy về các ghế trong hội nghị, 14.589 người chết ở các mặt trận trong năm 1968, hơn năm trước một nửa. Tuy Lyndon Johnson không quan tâm đến việc rút quân đội MỸ trước khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống vốn không phù hợp với chiến lược thương lượng của ông, ông đang cần có những khích lệ, thì tháng Bảy nhận được báo cáo ghi nhạn của McPherson về cuộc nói chuyện với Vann. Ông sung sướng thấy có người nói thời gian có lợi cho Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn . Ông đọc bản báo cáo về điều Vann đã nói trong một cuộc họp ở văn phòng ông. Vann phấn khởi về vinh dự đó.

Tuy thế, anh suýt bị đuổi khỏi Việt Nam cũng thời gian ấy. Phóng viên Peter Arnett, một buổi chiều vào văn phòng Biên Hòa sau khi Vann trở về một tháng. Anh ta viết một bài về bản chất ngẫu nhiên của sự rút quân sắp tới của quân đội Mỹ - Vann đã quen biết Arnett sáu năm nay, thành thực giải thích vị trí của anh, cho phép nhà báo nêu tên anh trong những nhận xét lạc quan, ví như những hậu quả của đợt tấn công dịp Tết đối với Việt cộng . Anh cho rằng như thường lệ, Arnett sẽ bảo vệ anh trên phần còn lại bằng nói chung chung hoặc dấu tên. Lần này, Arnett không theo qui định và không thông báo với Vann. Hình ảnh anh đưa ra đối với bộ máy chiến tranh Mỹ thật cay độc và nhạo báng. Trong những lời kể trực tiếp, đặc biệt có đoạn Vann giải thích sẽ không khó khăn gì khi rút về nước 100.000 quân lính đầu tiên.

“100.000 người Mỹ đầu tiên không đáng giá gì cả. Đấy là những người cạo giấy, giặt là, thợ nề đang xây dựng các câu lạc bộ sĩ quan khắp cả nước. Tất cả những người làm bên ngoài ấy góp phần làm phình to bộ máy nhân viên vô dụng”.

Hội báo chí cho in bài báo vào cuối tuần đầu tháng Chín. Komer được báo tin bằng điện thoại lúc bảy giờ sáng, ông còn ở nhà. Ông gọi ngay Vann :

“ Đồ ngu, ông kêu lên. Anh đi đứt rồi”.

Vann biết vì sao ông nổi giân, người ta đã báo trước với anh.

-   Bob, ông để tôi giải thích đã.
-   Không cần nói tôi việc gì đã xảy ra. Tôi để thì giờ nói với anh câm miệng lại.

Vann nài nỉ. Komer chưa bao giờ thấy anh ngượng ngùng như vậy.

“Hãy nghe tôi nói, Bob .. “

Komer để anh nói, lại chửi rủa anh và bỏ máy.

Chính xác tám giờ rưỡi, vị tướng tổng chỉ huy Creighton Abrams ngồi vào bàn giấy ở tổng hành dinh Sài Gòn dùng điện thoại nội bộ gọi Komer.

“ Bob, tôi muốn gặp ông ngay “.

Abrams là một sĩ quan thiết giáp, sau Patton là người hung dữ nhất quân Đức gặp phải trong Quân đoàn 3 và tính tình của ông là hình ảnh những cỗ máy đáng sợ mà ông tôn thờ. Ông cho rằng không một nhà báo nào có quyền nêu tên John Vann mà không được ông cho phép và bài báo ấy là một lặng nhục cá nhân.

“ Ông đã đọc … “ ông bắt đầu khi Komer bước vào và đóng cửa lại. Komer ngắt lời ông để cố chủ động tình thế.

-   Tôi đã đọc và thật không tha thứ được. Tôi đã gọi Vann, quát mắng anh ta và dọa có hình phạt.
-   Tôi bất kể ông đã dọa anh ta. Tôi không chịu đựng được điều đó.

Abrams nghẹn lời, đôi mắt long lên.Trong cơn giận, giọng nói thé lên đến mức ông ngạt thở.

“ Không phải vì Vann chỉ trích quân đội. Không phải vì anh ta chỉ trích chính cá nhân tôi. Tôi chẳng làm gì trong việc thối tha đó. Điều tôi không thể chấp nhận là tay ngu ngốc ấy trích dẫn thẳng, trong ngoặc kép “.

Komer im lặng, cho là trong giai đoạn này cố gắng giải thích chẳng để làm gì. Khi đã tuôn ra đủ, Abrams giáng xuống bản án :

-   Tôi muốn con người ấy bị tống ra khỏi cửa.
-   Nào, Abe, chúng ta không thể làm điều ấy.
-   Cứ đuổi hắn ra khỏi cửa. Đấy là mệnh lệnh !

Ông đỏ mặt đến mức Komer sợ ông tấn công.

“Abe,ông nghe cho. Anh ta làm điều ngu ngốc. Đây không phải lần đầu và tôi chắc chắn không phải là lần cuối cùng. Anh ta thiên về loại sự cố như vậy với báo chí, và điều đó đã lâu, từ trận Ấp Bắc năm 1963. Người ta không thể làm gì được nữa. John Vann là người cần thiết cho tôi nhất trong bốn vùng. Thực ra nếu tôi có ba người khác cỡ ấy, chúng ta có thể rút cuộc chiến xuống một nửa. Tôi sẽ không bỏ rơi người tốt nhất của tôi đơn giản chỉ vì anh ta nói điều gì đó với nhà báo “.

Abrams nghi ngờ nhìn Komer và kêu thét lên “

“ Ông chẳng hiều gì cả ! Tôi đã bảo ông tống anh ta ra khỏi cửa ! Và tôi nhắc lại : đây là một mệnh lệnh ! “.

Chiếc xe tăng đang đi và phải có một khẩu ba dô ka lớn chặn nó lại. Komer biết Abrams sợ giới báo chí: ông ta đã thấy các nhà báo khắc nghiệt với Westmoreland sau đợt tấn công dịp Tết và bây giờ sợ họ quay lại chống ông. Cho đến nay, quan hệ ấy còn tốt đẹp vì ông vừa nắm quyền chỉ huy; ông có vẻ là một vị tướng những người khác với hình dáng lòng khòng và thô lỗ. Vả lại, ông đã hiểu bài học về những bất hạnh của Westmoreland và chỉ nói với báo chí những điều vô bổ.

“ Nếu ông ra lệnh dứt khoát phải đuổi Vann, tôi sẽ làm, Komer nói. Nhưng tôi nói với ông điều gì sẽ xảy ra. Tôi không ở quá năm phút trong văn phòng tôi để nói với Vann thì mỗi nhà báo ở Sài Gòn đã điện thoại hỏi tôi vì sao Vann phải đuổi về. Và không đầy một tiếng đồng hồ, một nửa các nhà báo ở Hoa Kỳ cũng hỏi tôi như thế trên điện thoại. Và khi họ hỏi thẳng tôi “ Có phải vì ông đề nghị không ?”. Tôi sẽ trả lời “ Không, tôi nhận được lệnh làm việc ấy”. Họ hỏi “ Lệnh của ai ?”. Tôi trả lời “ Của đích thân tướng Abrams”. Họ bèn hỏi “ Thế còn ông, Bob Komer, ông có đồng tình với quyết định ấy không ?” Tôi sẽ nói với họ ông đã quyết định mặc dù tôi phản kháng dữ dội. Việc đuổi John Vann sẽ trở thành một đầu đề rùm beng cho các bạn anh ta. Và Komer kể tên tất cả những phóng viên quen biết Vann, bắt đầu từ Halberstam – mà tôi không muốn trả tiền cho những chiếc bình vỡ. Tôi báo trước với ông điều ấy sẽ thành một việc đáng kể đấy. Abe, ông sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến thứ hai, tệ hại hơn việc đánh nhau với quân đội Bắc Việt”.

Không thêm một lời, Komer quay gót đi ra, chẳng bận tâm đến những lời chửa rủa Abrams ném theo ông.

Vị tướng không bao giờ nói đến việc ấy nữa. Komer phạt Vann, không liên hệ với anh 24 tiếng đồng hồ trước khi gọi lại anh. Ông bảo có lẽ đã tránh được cho anh khỏi bị hình phạt nhưng không chắc chắn lắm. Ông muốn anh hối hận càng lâu càng tốt. Chỉ rất lâu sau này ông mới cho anh thích thú được nghe kể lại toàn bộ câu chuyện. 

Khi kết quả xác minh giúp cho Vann vượt qua mối nguy, anh phát hiện ra tổng thống mới được bầu cũng cùng xu hướng như anh. Từ khi trở lại Việt Nam năm 1965, việc anh nghiêng về những nhân vật chính trị Hoa Kỳ trở nên chiết trung hơn. Anh nhắm mắt trước một thái độ anh thấy đáng chỉ trích nếu nhân vật chính trị ấy bảo vệ cuộc chiến tranh , sử dụng anh và những lập luận của anh.

Một trong những người tán thành anh nhiệt liệt nhất là Sam Yorty nào đó mà những đức tính về quan hệ quần chúng và những vị thế trong việc chống phân biệt chủng tộc giữ ông ta ở ghế thị trưởng Los Angeles trong 12 năm. Sự độ lượng của những cử tri về việc ông vắng mặt cho phép ông đi nhiều chuyến sang Đông Nam Á và những nơi khác. Trong một lần đến Việt Nam tháng Mười một năm 1965, ông và Vann gặp nhau lần đầu và từ đó họ thường gặp lại nhau. Yorty gửi một bản sao bản báo cáo của Arnett cho một trong những người bạn, nghị sĩ cộng hòa Richard Nixon; ông này gửi thư cảm ơn ông trước cuộc bầu cử 1968 mấy ngày. Khi Vann nhận được một bản sao bức thư, Richard Nixon đã trở thành tổng thống Hoa Kỳ .

Một quá trình loại bỏ đưa lại thắng lợi ấy. Robert Kennedy bị một kẻ cuồng tín A rập giết chết trong tháng Sáu ở Los Angels. Tháng Tám đại hội Đảng Dân chủ Chicago từ chối đề cử Eugene Mc Carty, thay thế bới Hubert Humphrey , phó tổng thống của Johnson. Sự ngờ vực chung đối với Nixon làm ông chật vật mới thắng được đối thủ yếu nhất. Ông trúng cử chính vì gây cho công chúng cảm giác ông có một kế hoạch bí mật nhằm chấm dứt chiến tranh .

Sau này, Nixon công nhận ông chẳng có một kế hoạch nào cả. Bức thư ông gửi Yorty cho Vann hiểu ông không hề có ý định kết thúc chiến tranh . Ông dự tính làm đúng như Vann muốn : tranh thủ thời gian đối với dư luận quần chúng bằng cách vừa rút quân đội về nước vừa sử dụng quân đội Sài Gòn  tiếp tục cuộc tranh chấp. Sau khi nói những ý kiến của Vann “ rất hay “ và nêu bài báo lên với nhóm cố vấn của ông, Nixon giải thích những điểm chung theo luận thuyết của mình :

“ Như các ông biết rõ, vị trí của tôi là phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh càng nhanh càng tốt. Chính quyền Johnson công nhận sự cần thiết ấy độc nhất như là hậu quả của cuộc tấn công dịp Tết thậm chí bây giờ có vẻ không tin tưởng người Việt Nam và khả năng họ đảm nhiệm một phần lớn hơn trong gành nặng chiến tranh”.

Vann viết ngay một bức thư sáu trang rưỡi gửi Yorty nhưng theo ý đó của Nixon. Anh tả chi tiết kế hoạch xóa bỏ dần cam kết và tình nguyện tạm thời phục vụ chính quyền mới như cố vấn của chính phủ giám sát việc thực hiện chiến lược ấy. “ Những vấn đề cũ về tha hóa, gia đình trị và khinh thường những nhu cầu ở nông thôn vẫn luôn tồn tại “. Vann công nhận thế tuy nói cụ thể anh đã thay đổi ý kiến về tầm quan trọng của những tệ nạn ấy. Bây giờ, những cái ấy không còn mấu chốt như trước vì đã có sự điều hòa do đợt tấn công dịp Tết. Với xu hướng nổi bật tự đề cao mình, anh kèm theo một bản sao báo cáo của McPherson gửi Johnson, không quên ghi chú “ đã được tổng thống đọc trước một cuộc họp ở văn phòng “. Anh nói anh đã hiểu thật điên rồ khi đánh đổi những người lính Mỹ với những người dân “ một nước châu Á đông người “. Mặt khác sử dụng những người lính Việt Nam trong chiến đấu sẽ làm dịu dư luận công chúng Mỹ, vì sẽ rẻ hơn rất nhiều, Vann nói cụ thể. Phần lớn nhất trong số 33 tỷ đô la chi phí mỗi năm cho cuộc chiến tranh đổ vào các lực lượng Mỹ. “ Tôi nghĩ chúng ta có thể đạt kết quả như vậy ở miền Nam Việt Nam với 5 tỷ trong năm 1975 “.

Yory chuyển bức thư cho tổng thống được bầu nhưng Vann không nhận được trả lời về đề nghị một vị trí cố vấn trong chính phủ Nixon. Năng lực phong phú và việc theo đuổi ngôi sao cấp tướng đôi khi dẫn anh đến tưởng tượng quá đáng và anh thấy mình đã ở Washington. Thậm chí anh mơ có ngày sẽ được khen thưởng vì việc phục vụ ở Việt Nam với chức vụ tổng chỉ huy quân đội và như vậy trả được món nợ với thể chế anh nghĩ đã loại bỏ mình. Dù không đạt được chức vụ mong muốn, Vann cũng đã góp phần vào hoạch định chiến lược của Nixon nhờ bức thư của anh, bài báo của Arnett và nhờ Henry Kissinger, được bổ nhiệm làm trợ lý đặc biệt của tổng thống về an ninh quốc gia mà đối với ông ta những ý kiến của Vann đã quen thuộc từ khi Vann được đề nghị tham gia chiến dịch bầu cử tổng thống của Nelson Rockefeller, nhân danh là chuyên gia về Việt Nam . Nhưng đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa đã chọn Nixon tahy vì Rockefeller ứng cử tổng thống. Nhân dịp ấy, Kissinger đã chuyển những bản sao thư của Vann cho Edward Kennedy và những chính khách khác.

Chiến lược của Nixon được đặt một cái tên khác hơi hấp dẫn hơn từ “ phi Mỹ hóa “ dùng trong bức thư Vann gửi Yory và trở thành “ Việt Nam hóa “ . Kissinger đưa lại cho Vann một vinh dự không cân đối về tầm quan trọng đóng góp của anh khi nói “ Đấy là đường lối của anh “. Dù anh không được mời về Washington, trong lúc này Vann rất thỏa mãn. Anh tưởng cuối cùng đã tìm được một cách dể thắng cuộc chiến tranh này, đưa anh lên ngang hàng với những người có quyền lực làm chủ được thắng lợi và các bảng thăng tiến.

Anh trở thành hòn đá thử vàng của tinh thần lạc quan và tiến bộ cho tất cả những thành viên về một đường lối khác. Tháng Mười một năm 1968 khi đi nhậm chức đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ, Komer ủy thác Van cho người kế nhiệm William Colby. Ông này đã rời ban tham mưu CIA trở lại Sài Gòn ngay sau đợt tấn công dịp Tết theo đề nghị của Komer làm phó và cũng kính trọng Vann như thủ trưởng của mình. Có vẻ CORDS đạt được kết quả trong công cuộc bình định ở Nam Việt Nam . Dưới sức ép của Johnson, chế độ Sài Gòn đã ra một đạo luật mới tổng động viên hạ thấp tuổi tòng quân. Vì vậy, có thêm 200.000 thanh niên Việt Nam làm đông thêm hàng ngũ Quân lực Cộng hòa, nhất là các lực lượng vùng cho công cuộc bình định.

Komer và Colby, được Vann khuyến khích, thuyết phục tổng thống Thiệu dựa vào quyền lực, bảo vệ một chương trình đặc biệt nhằm loại bỏ cán bộ của chính phủ Việt cộng bí mật. Người ta chọn đặt tên là “ Phượng Hoàng “, một loại chim huyền thoại có thể bay khắp nơi. Tất cả những cơ quan tình báo và cảnh sát Sài Gòn phải tập trung thông tin để làm hồ sơ và sổ đen xác định rõ hơn những cán bộ ấy. Các toán ám sát của CIA, được gọi một cách trong trắng “ Những đơn vị nhận diện ở tỉnh “, ra tay hành động, thường được những Lực lượng vùng giúp sức. Về nguyên tắc, những cán bộ Việt cộng không bị giết mà bị bắt vì một người tù khai ra có thể nêu tên những người khác. Thực tế, các đơn vị nhận diện bắn trước đã, sợ gặp sự kháng cự trong những vùng đáng ngờ. Những người bị bắt nói chung do có tố giác, bị bắt khi cảnh sát đi kiểm tra hoặc trong chiến đấu và sau được xác định là cán bộ Việt cộng . Nếu họ không muốn mạo hiểm bị chết hoặc tù đày, họ vẫn có thể bỏ trốn. Komer ấn định một tỷ lệ cho toàn miền Nam. Ông muốn mỗi tháng” vô hiệu hóa “ được 3.000 cán bộ bí mật.

Đợt tấn công dịp Tết làm suy yếu đáng kể lực lượng vũ trang du kích bảo vệ cán bộ và đấu tranh với Sài Gòn để kiểm soát các làng. Vann xác định việc đó trong những tháng cuối năm 1968 khi anh ở Quân đoàn 3 và di chuyển sang Quân đoàn 4 tháng Hai năm 1969 làm trưởng phái đoàn bình định vùng đồng bằng sông Mekong . Anh chống lại việc thuyên chuyển ấy nhưng Komer kiên quyết. Ông cho rằng đội công tác CORDS vann xây dựng ở Quân đoàn 3 đã khá năng động để bây giờ giao được cho một người khác. Và vùng đồng bằng quan trọng vì từ đây Việt cộng vẫn luôn rút nguồn chủ yếu về người và tiền bạc. Vann để việc ấy kéo dài nhưng cuối cùng phải nhượng bộ vì sức ép của Colby.

Anh phát hiện thấy, trong vùng đồng bằn, phần lớn trong 2.100 ấp được xem lác so với 2.000 do Sài Gòn kiểm soát, thực ra chỉ do khoảng nửa tá Việt cộng nắm giữ. Những đơn vị địch trước đây cảnh giới để trừng phạt lực lượng Sài Gòn đột nhập, bây giờ gồm nhiều anh hùng đã chết hơn các chiến sĩ còn sống. Những quân lính Nam Việt Nam cũng cảm thấy có sự thay đỏi, bầu không khí ngược lại với những ngày hoảng sợ và dọa nạt của năm 1965 khi đặc công Việt cộng thâm nhập vào các thành phố đuổi những người đại diện chính quyền Sài Gòn hàng giờ trên những mái nhà và đường đi. Bây giờ các tỉnh trưởng, quận trưởng sẵn sàng tấn công quân địch khi bị những người Mỹ như Vann thúc đẩy. Việc tuyển mộ có phương pháp các lực lượng vùng để xây dựng đồn phòng thủ và bố trí các nhóm chính quyền ở làng cho phép Vann nhanh chóng vào được các khu vực ở đồng bằng trước đây không có một người của Sài Gòn từ thời Diệm.

Các quan chức của chế độ thấy vàng lấp lánh trên đôi cánh Phượng hoàng nhờ tống tiền người vô tội và buộc những người đáng bị bắt đút lót để được tự do. Để nhanh chóng đạt mức ấn đinh, họ nâng những người nổi dậy bị chết trong phục kích lên chức trưởng ấp hoặc xã trưởng. Nhưng “ Phượng Hoàng “ cũng không kém là một dịp săn mồi. Sau bao nhiêu năm chiến tranh , phần lớn cán bộ Việt cộng được chòm xóm biết rõ. CIA tích cự nhúng tay vào. Hàng nhiều nghìn người bị giết hoặc biến mất trong các nhà tù Sài Gòn . Năm 1971, Colby thống kê trong toàn miền Nam Việt Nam : 28.000 người bị cầm tù, 20.000 bị giết và 17.000 bỏ hàng ngũ.

Việt cộng dĩ nhiên không biến mất, những trận đánh nhau không dừng lại nhưng quân du kích buộc có một đợt nghỉ tương đối. Họ vẫn giữ được một số pháo đài phía nam sông Cửu Long trong bán đảo Cà Mau và một số căn cứ nhỏ hơn ở phía bắc vùng đồng bằng. Vì thế Hà Nội phải cho thâm nhập vào đấy bốn trung đoàn quân Bắc Việt . Phần đông cán bộ Việt cộng sống sót phải ẩn nấp ở vùng sình lầy và rừng núi hoặc giả danh là viên chức Sài Gòn . Nhiều khu vực rộng lớn lần đầu tiên được yên tĩnh , chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng súng. Cầu cống được tu sửa, đường sá kênh rạch từ lâu bị cấm đã mở lại thông thương. Nông dân bám trụ hoặc trở về đất đai của mình sinh sống bình thường. Vô tuyến truyền hình là một trong những món quà của nền công nghiệp Mỹ mà những người mang theo truyền bà những chương trình Mỹ cho quân đội, tạo nên một hệ thống phát tin cho việc tuyên truyền chế độ. Từ trên trực thăng, Vann nhận thấy những giàn ăng ten dựng trên các mái nhà.

Anh kết bạn với những người trước đây chưa từng. Một trong bọn họ, Joseph Alsop, một nhà xã luận nổi tiếng, mùa thu năm 1969 viết thư cho anh “ Anh và tôi … những người bạn khó hình dung là thực “. Họ đã gặp nhau hai năm trước đây theo yêu cầu của Alsop và với sức ép của Komer vì lúc đầu Vann từ chối. Anh cho là anh này cũng khinh thường anh như Halberstam và các nhà báo khác lúc trước đối với anh. Komer bảo anh không thể từ chối nói chuyện với Alsop và nếu anh cương quyết không gặp thì ông ra lệnh phải chấp hành. Vann xiêu lờng và Alsop thỏa mãn được sự tò mò. Trong thư gửi lời cảm ơn, Alsop sử dụng lối nói ít hiểu nhiều ông ít dùng “ Tôi không chắc chúng ta nhìn tình hình Việt Nam trên cùng một góc độ “. Hai năm sau hy vọng anh đặt vào Westmoreland chỉ còn là một kỷ niệm nhưng anh tiếp tục tìm bằng chứng Hoa Kỳ có thể chiến thắng. Góc nhìn của Vann đã thay đổi và đó là điều Alsop cần.

Mùa thu năm 1969, Alsop để gần một tuần lễ đi quanh vùng đồng bằng và viết nhiều bài ca ngợi cuộc phiêu lưu “ trên đất của Vann. Nếu Vann thời xa xưa vô cùng bi quan về Việt Nam , bây giờ đã nói Hoa Kỳ và Sài Gòn có thể chiến thắng cuộc chiến tranh thì việc ấy phải có thực. “ Ít lâu nữa, John Vann nói với tôi, tin tưởng 90% dân chúng vùng đồng bằng sẽ nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính phủ “. John Vann là “ một nhà lãnh đạo tuyệt vời, vô cùng yêu nước, thông minh và dũng cảm “. Tình bạn thành thật đến từ Alsop, khi đã đưa cho ai thì thật hào phóng. Vann đáp lại , ít nhất là vẻ bề ngoài, sung sướng vì sự quảng cáo và lòng kính trọng tình bạn mang đến cho anh, vừa ý thức Joseph là “ nhà báo của tổng thống “.

Lòng kính trọng mở cho anh cửa vào văn phòng tổng thống. Đầu tháng Chạp năm 1969, Colby nhận được điện tín thông báo tổng thống muốn gặp John Vann lúc 11 giờ ngày 22 tháng Chạp. Lúc đó John phải có mặt ở Hoa Kỳ trong đợt đi phép Noel và đã xin hẹn gặp Henry Kissinger. Một người khác trong số bạn mới của anh, Ngài Robert Thompson, nhà chiến lược Anh về chống cách mạng, gợi ý chuyển cuộc gặp mặt lên cấp cao với trợ lý đặc biệt của tổng thống.

Quan điểm của ngài Robert về dịp may của Hoa Kỳ ở Việt Nam thay đổi theo năm tháng và tùy thuộc vào tác giả những lập luận đưa ra. Trong phân tích, ông đã nhầm về Westmoreland . Nhưng cũng như nhiều người đi vào công việc Nhà nước, khả năng chỉ trích không mở rộng theo nhận thức của mình. Richard Nixon đã nghiên cứu tất cả những tác phẩm của Thompson và đã mời ông đến Nhà Trắng. Thompson nói với tổng thống chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh “ có thể có những điều kiện để chiến thắng trong hai năm ( Ông đã khôn ngoan hơn trong cuốn sách ông xuất bản năm 1969 khi nói từ ba đến năm năm ). Nixon bèn mời ông làm cố vấn và cử ông sang Việt Nam để xác định sự phân tích của ông. Thompson cũng cần một tiêu chuẩn cơ bản để hợp thức hóa luận điểm của mình, đã chọn Vann.

Vann đi cùng ông khắp vùng đồng bằng trong ba ngày. Họ cùng nhau lắng nghe bài phát biểu của Nixon ngày 3 tháng Mười một qua radio, nói về bước ngoặt ở Việt Nam . Tổng thống ra lệnh rút về nước 60.000 quân Mỹ để làm dịu dư luận công chúng. Lần này người ta chờ đợi ông tuyên bố một chương trình rút nhanh số còn lại và có lẽ là việc ngừng bắn. Thay vì điều đó, ông kêu gọi “ phần đa số công dân im lặng của tôi “ hãy kiên trì và ủng hộ ông trong khi tiếp tục cuộc chiến tranh cho đến “ một hòa bình trong danh dự “. Việc rút quân vẫn tiếp tục nhưng tuần tự để có thể củng cố vững chác các lực lượng Sài Gòn. Vann mừng rỡ vì như vậy có nghĩa , như anh viết thư cho một người bạn, Nixon đã quyết định “ nói với những người biểu tình đòi hòa bình hãy cút đi “. Được khuyến khích vì những ngày đi cùng Vann, Thompson báo cáo với Nixon mặt trận Sài Gòn đang ở “ vị trí chiến thắng “.

Tổng thống đang đứng cạnh bàn nhìn vườn hoa hồng qua cửa số thì Vann bước vào. Giờ hẹn gặp đã thay đổi, chuyển lại 12 giờ năm phút. Nixon quay lại, bước đến Vann được Kissinger nhiệt tình giới thiệu. Tổng thống ngồi thẳng ở bàn, dấu hiệu lịch sự bình thường đối với khách và có vẻ thành thật lắng nghe Vann nói gì. Ông đã nói trước với những người có trách nhiệm trong Đảng Cộng hòa ở đại hội mùa thu :” Tôi không có ý định là tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ thất bại trong một cuộc chiến tranh “. Ông nói chuyện với Vann gần một tiếng đồng hồ. Sau khi nghe anh nói về công cuộc bình định trong vùng đồng bằng, ông hỏi về những thay đổi anh nhận thấy trong chiến tranh sau bao nhiêu năm và tìm hiểu làm thế nào Vann đi đến những quan niệm hiện nay. Vann viết trong báo cáo về cuộc tiếp xúc :” Ông có vẻ tin tưởng chấp nhận những nhận xét của tôi về tình hình thuận lợi hiện nay “. Anh cam đoan chắc với tổng thống, với vũ khí hạng nặng và không lực Hoa Kỳ , Quân lực Cộng hòa chống chọi được với quân đội Bắc Việt  một ngày nào đó phải đối đầu với họ. Điều tệ hại nhất có thể xảy ra, anh nói thêm, sẽ là chế độ Sài Gòn “ buộc phải bỏ một phần đất đai và dân chúng trong trường hợp có cuộc xâm nhập ồ ạt, nhưng rồi sẽ chủ động được vì quân địch buộc phải kéo dài đường tiếp tế và như vậy trở nên dễ bị sát thương vì bom đạn của máy bay và trọng pháo “. Tổng thống cám ơn Vann và bảo anh trở lại Việt Nam tiếp tục công việc anh đã làm. Ông tặng anh một chiếc bút máy và một quả cầu gôn chính tay ông đề tặng để kỷ niệm buổi gặp mặt.

Thành công không kiềm chế được Vann. Anh lại suýt bị đuổi vì cố cứu người bạn Việt Nam tốt nhất của anh, Trần Ngọc Châu khỏi bị tù.Sau khi cấu kết với CIA và bộ trưởng của Kỳ về những đoàn bình định, Châu cho rằng mình làm hỏng dịp may được đề bạt trong Quân lực Cộng hòa. Ông ta nghỉ việc ở quân đội và mang tham vọng về chính trị, được bầu làm nghị viên của Kiến Hòa trong dịp bầu cử tháng Mười một năm 1967. Ông rất thành công và trở thành tổng thư ký Hội đồng dân tộc. Đợt tấn công dịp Tết đưa ông lao vào những âm mưu tầm cỡ. Ông cố trở thành người trung gian trong những thương lượng hòa bình, sử dụng một trong những anh em vẫn trung thành với ông Hồ Chí Minh, làm liên lạc bí mật với phía bên kia. Anh ông, Trần Ngọc Hiến, là một nhân viên tình báo quan trọng của Hà Nội, ở lại miền Nam từ 1965, với danh nghĩa đại lý thuốc tân dược. Để thực hiện kế hoạch, Châu nhắm vào người bạn cũ và là đồng minh chính trị trong quân đội, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, gián tiếp tấn công bằng cách tố cáo bù nhìn của ông này trong Hội đồng, dược sĩ giàu có Nguyễn Cao Thắng mà vai trò là vỗ béo các nghị sĩ để họ bỏ phiếu theo ý của Thiệu. Châu không âm mưu chỉ vì tham vọng. Đợt tấn công dịp Tết làm ông tin chắc là sai lầm khi buộc dân tộc Việt Nam vào một cuộc chiến tranh “ không có lối thoát “ và ông nghĩ miền Nam Việt Nam có cơ may sống sót với điều kiện thương lượng hòa bình.

Anh của Châu bị bắt mùa xuân năm 1969. Qua kiểm tra, một cảnh sát tinh ranh nhận thấy giọng nói miền Trung của Trần Ngọc Hiến không phù hợp với nơi sinh ghi trong căn cước. Để tránh nguy cơ bị tra khảo để lộ đường dây tình báo quan trọng, Hiến với trí thông minh của một nhân viên tình báo giỏi, đánh lạc hướng những kẻ hỏi cung bằng cách sử dụng em mình. Ông trả lại đạn chĩa vào Thiệu khi nói với cảnh sát những cuộc hẹn gặp với ông em. Những tiếp xúc giữa những người trong gia đình ở miền Nam là bình thường nhưng không hợp pháp.

Vann không tán thành âm mưu bí mật thương lượng của Châu và đại sứ Bunker đã cảnh báo anh không nhúng tay vào việc này; đấy là trong mùa hè trước, khi Vann can thiệp vào để cố gỡ mối xích mích giữa Thiệu và Châu. Bunker cho rằng tổng thống muốn chế độ Sài Gòn bền vững. Ông nghi ngờ Châu là cộng sản thậm chí có thể là một nhân viên mật của Hà Nội, đằng nào cũng là một kẻ quấy rối nguy hiểm, cố liên kết với phía bên kia để có một ghế trong chính phủ tương lai. Vị đại sứ triệu tập Vann để “ xát xà phòng, lễ độ nhưng dữ dội “ theo từ Vann dùng.

“John, Bunker nói, anh dính vào chính trị. Đấy là công việc của tôi. Anh hãy lo về công cuộc bình định vùng đồng bằng, còn tôi, tôi lo về vấn đề chính trị của miền Nam Việt Nam . Mong rằng việc ấy không xảy ra nữa “.

Khi Vann trở lại Sài Gòn vào đầu tháng Giêng 1970 sau đợt nghỉ phép và tiếp xúc nhiệt tình với tổng thống Nixon, Thiệu vốn nghiền ngẫm trả thù, chuẩn bị bắt bỏ tù Châu vì những cuộc gặp gỡ bí mật với anh trai. Ông ta đã mua chuộc một số nghị sĩ để bãi bỏ quyền miễn trừ của Châu. Vann qua trung gian Colby, gửi một đề nghị để cho Châu ra khỏi nước trên một chiếc máy bay Mỹ và cho cư trú ở Hoa Kỳ vì những công việc phục vụ trước đây. Châu không hợp pháp rời bỏ đất nước được vì Thiệu đã rút lại hộ chiếu. Bumgardner, trở lại Sài Gòn làm phó cho Colby tán thành đề nghị ấy. Nhưng Bunker từ chối.

John Vann không chọi đựng được ý nghĩ bỏ rơi Châu, không đơn thuần chỉ vì tình bạn. Đối với anh, Châu luôn đại diện cho “ người Việt Nam tốt “ anh vẫn mơ Westmorelandớc từ đầu, tiêu biểu cho xã hội trong sạch, theo con đường tiến bộ mà bản thân anh, Bumgardner, Ramsey, Scotton và Dan Ellsberg muốn tạo ra ở miền Nam Việt Nam . Anh biết Châu không phải cộng sản , càng không là một nhân viên mật của Hà Nội. Anh ít quan tâm tới việc Châu sử dụng Hiến cũng như Hiến sử dụng Châu trong cuộc chiến tranh . Bumgardner cũng lập luận như vậy. Vann bèn bố trí một kế hoạch để Châu qua Campuchia, từ đó ông ta có thể sang Pháp hoặc Hoa Kỳ . Anh biết lái máy bay lên thẳng, dự định đưa Châu đến làng chài Campuchia gần nhất, xuống sát mặt biển để Châu lên một chiếc ca nô bơm hơi vào đến làng.

Anh tìm được một chiếc ca-nô bơm hơi tự động của Không lực trang bị cho phi công. Bumgardner lái xe đưa Châu đến khu vực máy bay lên thẳng hạ cánh. Vann chờ ở đấy đưa Châu đi Cần Thơ, trên sông Cửu Long. Bác sĩ làm việc với Vann ở Quân đoàn 4 chứa Châu trong căn hộ của mình.

Nếu Châu để kế hoạch tiến hành đến bước cuối,sự nghiệp của Vann ở Việt Nam chắc chắn sẽ kết thúc. Thiệu giận dữ vì việc báo thù thất bại, đến mức đòi hỏi trục xuất Vann. Cảnh sát của ông ta theo dõi Bumgardner và Châu đến sân bay và thấy người Mỹ trở về một mình. Không khó khăn gì để kết luận vụ việc. Sau khi ngập ngừng suy nghĩ mấy ngày, Châu đi đến kết luận bỏ trốn nghĩa là công nhận lời Thiệu buộc tội mình cộng sản . Nhưng nếu ở lại, phản bác lời buộc tội và để cho bắt vào tù, ông ta trở thành kẻ tử vì đạo và giữ được tương lai chính trị của mình. Vann và ông tranh cãi gay gắt trong căn hộ ở Cần Thơ. Vann bảo ông như vậy là điên rồ, Thiệu còn ở đấy lâu vì được Hoa Kỳ nâng đỡ, do đó Châu sẽ ở tù vô thời hạn. Ông đề nghị Vann đưa trở lại Sài Gòn , giấu mặt ít lâu. Rồi ông đến văn phòng mình ở Hội đồng quốc gia, chờ cảnh sát đến bắt.

Bunker lại triệu tập Vann đến Đại sứ quán khi biết anh che giấu Châu. Ông già tỏ ra băng giá khi giận dữ.

“ Nếu là một ai khác, John, thì anh phải ra khỏi đất nước này rồi. Tôi đã cảnh bảo anh nhưng việc đó vẫn bắt đầu lại. Sẽ không có lần thứ ba nữa. Nếu sự việc xảy ra, anh phải ra đi, mặc dù công việc anh hoàn thành rất tốt, và có Trời biết anh có làm việc tốt không “.

George Jacobson chưa bao giờ thấy Vann bị người nào làm cho e sợ trước đây. Ông thấy anh ra khỏi văn phòng Bunker trắng xanh như một chiếc khăn vừa nói :

“ Việc bị đuổi về bây giờ không nằm trong kế hoạch của mình “.

Hình như Vann chưa bao giờ nghĩ anh cũng có thể là nạn nhân của triệu chứng tự mãn vốn có mà anh đã chế diễu Harkins và Westmoreland . Dan Ellsberg chế nhạo anh về cuộc gặp với Nixon , nói “ Cuối cùng anh đã tìm được vài tin tốt lành báo với tổng thống”. Nhưng Vann không tán thành lối mỉa mai ấy.

Tuy vậy, họ vẫn là những người bạn rất tốt của nhau. Khi Vann ở Hoa Kỳ , họ có thể tranh cãi hàng giờ liền mà không ảnh hưởng đến tình bạn nhưng họ ở các cực hoàn toàn đối nhau. Cuộc sống riêng của Ellsberg rõ ràng được cải thiện. Năm 1970, anh cưới Patricia Marx, người đàn bà anh đã cãi nhau nhiều về chiến tranh ở Sài Gòn .

Về cuộc tranh chấp, anh thay đổi hoàn toàn. Anh đã nghiên cứu hồ sơ của Lầu Năm Góc, tối mật, về cuộc điều tra gồm 43 tập McNamara chỉ thị làm và kết thúc vào tháng Giêng năm 1969. Ellsberg đã đọc toàn bộ và đã xác định lý do của Mỹ bây giờ cũng như trước đây, tàn ác và vô ích. Đường lối Việt Nam hòa chỉ như là “ một sự kéo dài đẫm máu, thất vọng, thừa và như vậy là vô đạo đức của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh này “, anh viết cho tổ chức Carnegie vì hòa bình thế giới. Quan điểm có thể thay đổi nhưng đam mê là một tính chất ổn định của con người. Ellsberg trước đây là một trong những môn đồ hăng hái nhất của Vann trong việc theo đuổi chiến tranh , bây giờ cũng sốt sắng ngăn anh lại. Ellsberg tranh luận với bạn về tập hồ sơ, bảo anh này có lẽ cũng thay đổi ý kiến nếu đọc những tài liệu ấy. Không nói ra với bạn, trong mùa thu 1969, anh đã bắt đầu đưa ra ngoài từng phần bản sao tập hồ sơ ở công ty Rand, không quan tâm về việc bảo mật và vẫn đang tiếp tục sao lại.

Vann đi đến chỗ cho rằng những chuyến về Hoa Kỳ của mình là một loạt thắng lợi. Lee dạy cho anh ăn bận tốt hơn. Cô thuyết phục anh mua quần áo sẫm màu cắt may tại Hong Kong, thắt cà vạt đơn giản kẻ sọc. Anh không gặp lại tổng thống nhưng báo cáo đều đặn với Melvin Laird, bộ trưởng Quốc phòng của Nixon. Laird là một phần tử nhiệt tình về Việt Nam hóa và trút phương tiện thừa thãi cho lực lượng Sài Gòn : pháo đủ loại, xe vận chuyển bọc thép, hàng trăm xe tăng, các tiểu phi đội tiêm kích – ném bom phản lực, hơn 500 máy bay lên thẳng Huey và Chinohook, Vann thường cũng gọi cho văn phòng tổng tham mưu trưởng để nói chuyện với Westmoreland vốn nóng lòng hy vọng một lối thoát cho cuộc chiến tranh để xác minh hành động trước đây của mình. Bruce Palmer, phó tổng tham mưu trưởng cũng nằm trong danh sách của Vann. Palmer đã thất vọng vì đợt tấn công dịp Tết. Bây giờ, ông lấy lại niềm tin nhờ tính lạc quan của Vann.

Tuy phần đông các nhà báo anh quen biết trước kia đã không đồng tình với những kết luận của anh về chiến tranh , anh vẫn giữ được một sự đáng tin nào đó đối với báo chí vì anh vẫn thẳng thắn về những sai lầm của Sài Gòn . Dù quan hệ có căng thẳng hơn, tình bạn với Halberstam vẫn tồn tại ; anh này đang viết bản buộc tội những người có trách nhiệm Mỹ đã đưa Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam : “ Người ta nói họ là những người giỏi nhất và thông minh nhất “. Anh chứng minh cho Vann thấy xã hội Mỹ bị xé nát vì phục vụ một cuộc chiến tranh ở nước ngoài không quan trọng gì đối với họ ; Vann phải chú ý tới những sự lộn xộn và cái giá phải trả khác mà cuộc tranh chấp này gây ra cho đất nước. Vann trả lời “ Tôi không quan tâm đến điều ấy “.

John Vann không gặp lại những người bạn cũ ở Việt Nam nữa. Riêng Bob York, tuy đã nhận được ngôi sao thứ ba, vỡ mộng và rời quân đội năm 1968.

Vann sung sướng đến thăm dì Mollie Tosolini. Anh điện thoại cho bà khi ở New york để đến ngôi nhà lớn của bà ở Long Island. Bà thích gặp anh với chiếc cặp hộp và phong thái một nhà ngoại giao. Họ cùng nhau gợi lại thời kỳ Norfolk và anh nói đã rất mong bàn là mẹ của anh. Anh kể về những nhân vật của Washington đã chú ý lắng nghe con trai của Myrtle đến mức nào. “ Dì và cháu, thưa dì Mollie, anh nói, chúng ta đã thành công “.

Việc anh ở Cần Thơ không khuấy động thiên đường bí mật của anh, thậm chí còn thích thú hơn khi có hai người đàn bà mà họ không biết có nhau. Anh để cho CORDS thuê một ngôi  nhà ở Cần Thơ, tân trang lại, sắm sửa đồ đạc, bố trí Annie và con gái ở đó và về ngủ những đêm anh không ở tỉnh hoặc ở Sài Gòn. Tư dinh chính thức của anh ở trong ngôi  nhà một tầng dành cho Wilbur Wilson bên trong trại của CORDS. Anh giữ ở đó một phòng, để quần áo trong tủ, đồ dùng tắm giặt trong phòng tắm và những bức ảnh treo ở tường để người ta biết có người ở. Khi Lee có dịp đến Cần Thơ, họ ngủ với nhau ở đấy.

Trong trò chơi này, Annie không phải một mối nguy vì cô vẫn luôn ngây thơ và không bao giờ đặt câu hỏi. Ngược lại, Lee có tính tò mò và bắt đầu hiểu John lừa dối cô. Anh đã căn dặn người lái xe, phiên dịch và phi công của anh để ngăn ngừa những câu hỏi. Các viên thư ký và những thành viên Mỹ và Việt Nam khác ở văn phòng CORDS của anh cũng bảo vệ anh. Thường Lee gọi điện thoại cho anh từ Sài Gòn . Bọn họ đều chú ý không để cô biết số nhà của Annie khi anh đi vắng. Lee không nghi ngờ lòng không chung thủy của anh đi quá những cuộc vui từng lúc. Gian phòng trong trụ sở CORDS rất có ích cho điều đó.

Năm 1970, Vann cùng với Lee ra mắt tổ tiên. Cô đã đưa anh về phòng mình khi ở Sài Gòn và sẽ mất mặt với gia đình nếu anh không có cử chỉ gì đó đối với cô. Cô khẩn khoản có một lễ đính hôn nhân dịp kỷ niệm ngày sinh lần thứ 26 của cô trong nhà ông nội, trước đây phục vụ chính phủ Bảo Đại và Diệm, bây giờ điều hành Ngân hàng Quốc gia. Cô nói dối với ông nội Vann đã ly dị vợ. Do chỉ là lễ đính hôn, nó đơn giản hơn lúc cưới Annie. John trao tặng đôi hoa tai và một số vật trang sức khác. Ông nội giới thiệu anh với cô chú của Lee và những thành viên khác trong gia đình. Anh cũng tôn vinh linh hồn của bà Lee trong bức ảnh đặt trên bàn thờ. Vann chấp tay cúi đầu trong lúc Lee khấn vái. Rồi mọi người ngồi ăn tối , uống rượu sâm banh. Lần này cũng không có một khách mời người Mỹ nào.

Việc “ phi Mỹ hóa “ của Richard Nixon đã trả giá đắt sinh mạng người Mỹ. Năm 1969 có 11.527 lính Hoa Kỳ chết ở Việt Nam . Năm 1970 còn hơn 6.065 người. Tất cả, trong nhiệm kỳ tổng thống của Nixon, gần 21.000 người chết và 53.000 bị thương, hơn một phần ba tổn thất chung trong chiến tranh .

Việc rút quân đội về nước có điều lợi không dự kiến, ngăn cản được sự tan rã của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam . Lính bộ binh chiến đấu với Hal Moore ở thung lũng Drang và Bồng Sơn không nhận biết được các đội quân năm 1969. Những người thoát khỏi ma túy và những người khác bị giết vì bạn bè mắc nghiện làm giàu cho con buôn người Trung Hoa và các tướng Sài Gòn . Các đơn vị chiến đấu trên bờ nổi loạn ; binh lính chống lại sự hy sinh vô ích của họ bằng cách ám sát cấp trên với một viên đạn tình cờ hoặc một quả lựu đạn vào lưng. Những dấu hiệu mất tinh thần đầu tiên đã thể hiện rất rõ thời kỳ Westmoreland ra đi giữa năm 1968. Tình hình trầm trọng thêm dưới sự chỉ huy của Creighton Abrams vừa cố gắng dùng những chiến thuật mới vừa theo đuổi cuộc chiến quá đáng của người tiền nhiệm. Ông tiếp tục đưa lính Mỹ chống lại những hàng ngũ vững mạnh chết người của quân đội Bắc Việt . Đấy là trường hợp đặc biệt, tháng Năm năm 1969 với ví dụ điển hình của 55 lính thuộc sư đoàn không vận 101 bị chết khi cố chiếm những lô cốt ở thung lũng A Sầu trong rừng núi phía tây thành phố Huế mà người ta đặt tên là “ đồi thịt băm “. Ngôn từ của lính Mỹ chỉ rõ tính chất phù phiếm của cuộc chiến tranh . Người ta không phải bị  giết mà bị “ sút “ hoặc “ tung lên không trung “.

Quân đội Nam Việt Nam cũng không thể hiện tốt như Vann khẳng định. Người phá hoại nổi tiếng Phan Trường Chinh cuối cùng được rút khỏi vị trí chỉ huy Sư đoàn 25 trước Tết nhưng không phải vì lý do bất lực. Đây chỉ là một trong những mánh khóe từng thời kỳ qua quan hệ cá nhân, đút lót và đường lối chính trị. Cũng như Lâm Quang Thọ, tỉnh trưởng Mỹ Tho năm 1963, một “ gái đĩ hèn nhát “ mà Vann cho rằng đã phá hoại trận đánh ấp Bắc, được Thiệu bổ nhiệm làm tướng đứng đầu một sư đoàn. Westmoreland thất bại trong việc cải tổ các lực lượng Sài Gòn và đưa lại một sự chỉ huy có hiệu quả thể hiện ở những tổn thất nặng nề khi Quân lực Cộng hòa được tung ra đánh nhau với quân chủ lực miền Bắc và Việt cộng : 28.000 lính Việt Nam chết trong năm 1968, 22.000 năm 1969 và 23.000 năm 1970.

Các tỉnh trưởng, huyện trưởng Vann đã cùng làm việc cũng không có những đức tính anh hy vọng sau cơn choáng của đợt tấn công Tết. Năm 1970, tổng thống Thiệu chỉ định người anh em họ, trung tá Hoàng Đức Ninh làm tỉnh trưởng Bạc Liêu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ninh tham lam không giới hạn. Ông ta đánh thuế tất cả những gì bán trong tỉnh, từ xăng đến thuốc lá , bắt trả tiền những vật dụng chính phủ cung cấp, bảo lính lấy cắp xăng ông ta đã bán để bán lại lần thứ hai. Danh sách quân lính được thêm vào vô số lính ma. Để tránh nguy hiểm, họ phải mua bằng tiền. Các đội trọng pháo của ông ta quấy rối khắp tỉnh bằng những đợt bắn hành hạ không dứt để ông xoáy được nhiều nghìn vỏ đạn cối bằng đồng. Ông ta lợi dụng chương trình Phượng Hoàng để tống tiền những người vô tội khỏi bị bắt vào tù và thả những Việt cộng chính cống. Không một dịp nào làm tiền thoát khỏi trí tưởng tượng của ông. Ông ta tận dụng đến mức làm những lỗ hổng ở đê biển xây dựng bằng tiền của Mỹ ngăn nước mặn vào ruộng, sau đó bán cho dân chài đặt lưới bắt cá khi thủy triều lên. Dĩ nhiên rồi ruộng của nông dân bị hủy hoại. Ninh cũng vô liêm sỉ như gian tham. Warren Parker , một trung tá về hưu bây giờ là cố vấn chính của Vann trong tỉnh, cố ghìm bớt Ninh, báo trước một sự tha hóa cỡ ấy có thể gặp bê bối với báo chí. Ninh trả lời “ Tôi chẳng sợ các nhà báo Mỹ hay Việt Nam !”. Mỗi lần nói với công chúng, không bao giờ ông ta không nêu lên “ ông tổng thống, anh họ tôi “.

Komer cho ra một chương trình bí mật đấu tranh với nạn tha hóa và Colby áp dụng với phương pháp thường tình. Những tập hồ sơ xây dựng về các nhân vật chính thức tham nhũng nhất của chế độ. Colby đưa những hồ sơ ấy cho thủ tướng chính phủ Thiệu đề nghị đuổi và trừng phạt những kẻ phạm tội. Rồi đại sứ Bunker kiến nghị nhiều lần với bản thân Thiệu. Riêng hồ sơ của Ninh dày 30 trang nêu lên mức độ hoạt động của ông ta. Bunker tính những buổi tiếp xúc với Thiệu nói về những trường hợp tương tự : 78 lần. Thực tế, chẳng ai bị trừng phạt và Ninh được thăng cấp đại tá năm 1971. Đôi khi một trong những kẻ phạm tội bị thuyên chuyển nhưng người Mỹ nhanh chóng phát hiện ra đấy chỉ là mưu mẹo. Người kia được điều về trong bộ máy chính quyền ít lâu rồi được bổ nhiệm đi một tỉnh khác. Nạn tha hóa tham nhũng là chiếc mâm xoay mà không một quan chức Sài Gòn bào bị bắn ra. Tất cả cùng theo vòng quay ấy.

John Vann trước đây biết một chính quyền Sài Gòn tinh thần suy đồi và quân đội do những kẻ trộm cắp bất tài chỉ huy đưa đến thất bại. Anh tức giận điên người với những người lãng phí sinh mạng người Mỹ và Việt Nam với hy vọng hão duy trì tình trạng đó. John Vann của quá khứ tự dối mình và những người khác để thỏa mãn những ám ảnh của mình. Thất vọng đã không ảnh hưởng đến sự toàn vẹn nghề nghiệp của anh. Anh vẫn giữ nguyên sự thật cơ bản của chiến tranh và ý muốn thích hợp với nó tạ cho anh một tính cách tinh thần và trí tuệ cao hơn những tác giả lớn khác của cuộc tranh chấp này. Anh không bao giờ lừa bịp mình hoặc những người mình phục vụ. Những cuộc vận động ở Hậu Nghĩa chống sự tha hóa và chiến lược cải cách xã hội có lẽ là hào hiệp và ảo tưởng nhưng anh thực sự tin chắc nếu chỉ đạo chiến tranh như hiện hành sẽ sai lầm dẫn đến thất bại.

Vì vậy, giải pháp mới của John Vann để chống sự tha hóa của Ninh thật bất ngờ : anh đề nghị giao cho ông ta chỉ huy một trung đoàn. Anh đi gặp Hoàng Đức Nhã, em trai út của Ninh ở phủ tổng thống. Nhã ở nhà Thiệu trong những năm học trung học trước khi đi học ở Mỹ. Thiệu xem anh ta như con trai, sử dụng như đặc trách thông tin, làm cố vấn về cách cư xử với người Mỹ. Vann mời anh ta đi ăn tối ở một cửa hàng ăn Pháp, nói tài năng quân sự của ông anh mà làm tỉnh trưởng rất phí, phải được bổ nhiệm chỉ huy một trung đòa. Nhã rất tự hào về sự đánh giá cao ông anh. Sau này, anh giải thích với Warren Parker “ Ở trong một trung đoàn, ông ta có thể ăn cắp ít hơn “. Cuộc vận động thất bại. Ninh vẫn ở lại Bạc Liêu tiếp tục làm giàu. Về sau, ông ta được giao trách nhiệm đặc biệt chỉ huy liên tỉnh, quan trọng hơn một trung đoàn nhiều, mức độ tham ô tăng lên tương ứng. Ông ta bán những rào chắn pháo cho các đồn bị cộng sản tấn công : không có tiền, không bán.

Dan Ellsberg và David Halberstam không phải là những bạn cũ duy nhất nhận thấy Vann đã mất phương hướng. Đại tá Sam Wilson không trở thành một người theo chủ nghĩa hòa bình bất phục tùng. Mặc dù có những thành công trong tổ chức ở Long An và đóng góp xây dựng CORDS, ông không tin vào chiến thắng của Hoa Kỳ nữa lúc rời khỏi Việt Nam năm 1967. Nhưng ông im lặng và tiếp tục ở trong quân đội vì đó là cuộc sống của ông. Ông chỉ huy trường quân sự Fort Bragg, nơi Vann đều đặn đến nói chuyện trong các đợt đi phép. Wilson mê mải nhìn Vann cầm micro bước ngang dọc trên bệ. Anh tìm cách thu hút cử tọa bằng kể chuyện, nêu con số xen lẫn quan điểm cá nhân và xúc động để thuyết phục họ. Việc đó chẳng có tác dụng đối với Wilson. Không điều nào Vann nói có thể làm ông tin chắc đã có gì chủ yếu thay đổi ở Việt Nam . Wilson cho rằng Vann đã đầu tư công sức vào cuộc chiến tranh này nhiều đến nỗi anh cố tin tưởng sẽ thắng. Ông đập tay vào bụng nói : “ John, anh ở bên ấy. Tôi thì không. Tôi cũng muốn đồng tình với anh. Nhưng trong thâm tâm có cái gì nói với tôi là không thể. “

John Vann mà các bạn cũ quen biết đã biến mất để hòa lẫn trong chiến tranh . Miền Nam Việt Nam năm này qua năm khác đã trở thành một nơi ngày càng lý tưởng đối với anh. Chiến tranh làm anh thỏa mãn đầy đủ đến mức anh không thể xem như tách rời bản thân anh. Cuối cùng anh đã chuyển hướng sự thật về cuộc chiến tranh này như trước kia anh đã làm với những sự thật nhỏ nhặt khác.

Vann giành được những ngôi sao nhờ Fred Weyand và một viên tướng Sài Gòn khác mua bán để nghĩ rằng có thể lợi dụng tài năng của Vann và sẵn sàng để bị điều khiển. Quyết định của Nixon cử quân đội Mỹ và Việt Nam sang Campuchia cuối tháng Tư năm 1970 thúc đẩy nhanh các sự việc.

Tình hình của Norodom Sihanouk, ông Hoàng thừa kế của Campuchia gây ra việc tàn phá đất nước. Ông thích những mưu đồ có lợi cho ông. Tuy ông và người của ông được bù đắp nhiều về việc để sử dụng cảng Sihanoukville và những người cộng sản Việt Nam , khác với Sài Gòn, công khai thừa nhận biên giới Campuchia, bảo đảm với Sihanouk họ sẽ rời đất đai của ông khi chiến tranh kết thúc, ông Hoàng không muốn chờ đợi nữa. Khi Nixon bắt đầu ném bom bí mật  bằng B-52 vào những nơi trú ẩn của Việt Nam trên đất nước ông vào tháng Ba năm 1969, Sihanouk ngấm ngầm khuyến khích họ. Ông cũng kích thích những thành phần cánh hữu của ông đòi người Việt Nam rút khỏi nước họ. Hậu quả mỉa mai là một loạt sự kiện dẫn đến việc thủ tướng chính phủ của ông, tướng Lon Nol lật đổ ông. Nixon bèn can thiệp, hy vọng một cuộc chiến tranh ở Campuchia làm đổi hướng quyết tâm của Hà Nội trong cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam; Nixon khuyến khích Lon Nol, chỉ một đội quân nhỏ chỉ huy kém đánh nhau với người Việt Nam , một việc làm quá sức có hại cho sự an toàn của người Campuchia nhưng Lon Nol khá đần độn, cũng tiến hành. Đồng thời Nixon tìm cách tranh thủ thời gian Việt Nam hóa chiến tranh, ra lệnh cho quân đội Mỹ và Việt Nam phá hủy những nơi trú ẩn của Bắc Việt Nam , chiếm lấy tối đa vũ khí và trang bị dự trữ ở đấy.

Campuchia phải chịu đựng những hậu quả độc ác nhất của cuộc chiến tranh Mỹ ở Đông Dương. Sihanouk quay sang tả, sang Bắc Kinh hình thành một mặt trận liên minh với Pol Pot và những lãnh tụ khác của phong trào cộng sản Campuchia cho đến lúc đó chưa có gì đáng kể. Những người Khmer Đỏ này chưa bao giờ được người Việt Nam bảo trợ vì họ quá cần những căn cứ nên lại thỏa hiệp với Sihanouk, người vẫn hành quyết những đảng viên cộng sản của họ. Hà Nội buộc phải xây dựng và trang bị cho một đội quân cộng sản để đánh Lon Nol; Sihanoul dùng tên tuổi và uy tín của mình để phát động phong trào quần chúng.

Hàng trăm nghìn người Campuchia phải chết trong cuộc chiến tranh nội bộ còn Hoa Kỳ hỗ trợ Lon Nol về vũ khí và lực lượng không quân thừa thãi, đặc biệt là B-52. Những người Việt Nam mất quyền kiểm soát quân đội Khmer Đỏ họ đã xây dựng và Trung Quốc nắm lấy. Những nhà lãnh đạo Hà Nội mau chóng phát hiện ra họ tạo nên một con quái vật, một ngày nào đó sẽ quay lại chống họ. Pol Pot và những người cùng phe cánh trở thành những tuyên truyền viên cuồng tín về một dạng quá khích của chủ nghĩa cộng sản . Sau chiến thắng năm 1975, họ áp đặt luật lệ ở Campuchia với sự giết người bí hiểm giống như của Hitler, đưa tất cả nhân dân ở Phnom Pênh và những thành phố khác chuyển về nông thôn, xóa bỏ tôn giáo dân tộc là Phật giáo, tàn sát các nhà sư, giết thẳng tay hàng ngũ trí thức kể cả các bác sĩ. Những người sống sót bị đưa vào các trạo lao động đào mương máng và làm ruộng. Với một dân số tổng cộng khoảng 7 triệu, người ta ước tính hơn 1 triệu người Campuchia chết vì đói, làm việc quá sức, bệnh tật và bị hành quyết thường xuyên bằng thuổng và búa.

Cho dù năm 1970 không dự kiến được những hậu quả ấy, việc vứt một dân tộc mới vào lò thiêu có vẻ thật ghê tởm. Nước Lào cũng đã hy sinh trong cuộc phiêu lưu Việt Nam này. Những khu vực đường mòn Hồ Chí Minh đi qua không riêng chịu bom Mỹ. Các thành phố và xóm làng ở phía bắc do cộng sản lãnh đạo cũng bị tàn phá. CIA lôi kéo người Mèo, bộ tộc miền núi Lào, đánh nhau với cộng sản Pathet Lào. Một phần tư các bộ tộc bị giết hại, người ta phải đưa những đứa trẻ 12 tuổi ra trận. Ba thành viên trong nhóm Kissinger, William Watts, Roger Morris và Anthony Lake, đã làm việc ở Việt Nam là trợ lý của Lodge hoặc lãnh sự ở Huế, từ chức để phản đối cuộc chiến tranh ở Campuchia. Kissinger hẳn bị cách chức nếu cũng tích cực chống đối nhưng ông tán thành việc làm của Nixon. Lake cố lần cuối cùng dựa vào lý do nhân đạo. Kissinger nói với ông “ Không ai có độc quyền trắc ẩn, Tony “.

Trước đây, John Vann không tán thành những cuộc hành quân ra ngoài biên giới, cho là nó lạc hướng sơ với vấn đề thực sự. Tháng Chạp năm 1967, anh đã nói với nhà xã luận báo Washington Post “ Nếu chúng ta tấn công phía kia, bao giờ cũng có một chỗ trú ẩn khác chỗ chúng ta phá hủy “. Nhưng trong quan điểm mới, anh tán thành nhiệt liệt sự tấn công của Nixon vào Campuchia vì thấy việc ấy có lợi cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam .

Nếu anh biết rõ hậu quả của cuộc phiêu lưu ấy đối với Ramsey, phản ứng của anh chắc giảm đi nhiều. Anh nghĩ Ramsey đã chết bệnh hoặc chết vì bom máy bay. Từ bức thư tháng Hai 1967, anh không còn nhận được thông tin nào khác và chú ý không để bố mẹ Ramsey đoán được điều anh nghi ngờ, hằng năm anh vẫn viết thư một, hai lần động viên tinh thần họ.

Ramsey đã ở Campuchia, buộc dây vào một cây to chỗ khuất nẻo trong rừng, nơi những người canh gác dẫn họ sang cùng với bảy tù binh khác để thoát khỏi người Mỹ ; anh rất yếu vì khẩu phần ăn giảm xuống còn hai phần ba, bị kiết lỵ và lại sưng phù, thậm chí không thể đưa tay điều chỉnh tấm nhựa che làm chỗ ẩn. Anh sống sót qua cái anh gọi là “ Lỗ địa ngục “ ở Bình Dương, đi ngựa di chuyển qua các trại biên giới, thoát khỏi B-52 màu thu 1969 để được đưa vào một trại mới ở sâu mấy cây số trong đất Campuchia. Anh phải hứng chọi ba đêm ba ngày liền Không quân Mỹ ném bom trên những ngọn đồi và thung lũng xung quanh, 15 cuộc tập kích trong một đêm với tiếng nổ, đất rung chuyển và pháo sáng rồi ba tuần lễ sau trong đêm tối và mưa lớn bất ngờ, bom lại nổ trên ngọn đồi gần trại tù, tiếng ầm xé tai, cành lá cây bị bom cắt tung lên qua trại. Anh nhẫn nhục với cảnh ấy rồi trốn vào một chỗ ẩn những người gác đưa anh tới để thoát khỏi bộ binh Mỹ tiến vào, tránh đạn pháo bắn chặn, các đợt súng liên thanh của trực thăng và rốc két nổ. Trong năm tuần lễ, anh bị buộc vào cây to, chỉ được giải phóng đôi lúc để làm việc cần hoặc rửa ráy họa hoằn cho đến lúc những người gác cho là tình hình khá yên ổn để trở về trại.

Ramsey, thiếu thuốc phòng chống sốt rét, bị lên cơn sốt. Thiếu dinh dưỡng , anh luôn bị chóng mặt và rối loạn mắt. Ban đêm , mặt trăng đối với anh đỏ như máu. Anh phải đi bộ mười lăm tiếng đồng hồ để về trại. Trong bóng tối những người gác anh phải dẫn anh. Ở bốn trăm mét cuối cùng anh bị ngã đến sáu lần.

 Ngô Du, viên tướng Quân lực Cộng hòa đóng góp một phần cho Vann được các ngôi sao , chưa bao giờ hình dung có ngày mình sẽ chỉ huy một Quân đoàn. Khuôn mặt tròn, dễ trông với vẻ tinh ranh, ông có mọi điều kiện bình thường để làm sĩ quan quân đội Nam Việt Nam : giáo dân, con trai một viên chức tài chính chế độ thuộc địa, được các giáo sĩ Pháp nuôi dạy ở trường Huế, thông minh, không ngại công việc tuy yếu tim. Không phải một người can đảm nhưng đặc biệt không ngốc, không mưu mô. Ông không có tiếng là một sấm sét của chiến tranh và không đủ trình độ học đòi chính trị hoặc tha hóa để hy vọng đạt đỉnh cao trong ngôi thứ. Những năm trước, ông phục vụ ở văn phòng lên đến phó ban tham mưu hành quân. Với chức vụ này, ông giám sát những kế hoạch tấn công Campuchia. Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh, chỉ huy Quân đoàn 4, một người ngoại lệ Vann thích vì không tha hóa, chết trong một cuộc va chạm trực thăng hai ngày sau đợt tấn công bắt đầu. Tướng tổng chỉ huy Creighton Abrams ép Thiệu thay thế bằng một người nắm kế hoạch tốt nhất và như vậy là Ngô Du chỉ huy Quân đoàn 4.

Vann thuyết phục ông chỉ nên hài lòng giám sát việc hành quân ở Campuchia và có thể nâng cao giá trị của mình bằng việc tiếp tục công cuộc bình định vùng đồng bằng, đưa ra một số dự án mà Du áp dụng không bàn cãi. Họ qua các buổi tối ở nhà viên tướng tại Cần Thơ để bàn chi tiết công việc và hôm sau ra tại chỗ. Du để vợ và mười một đứa con ở Sài Gòn ,tán thành làm việc ban đêm, hơn nữa thích làm việc với một người Mỹ thẳng thắn , đơn giản và coi trọng cá nhân ông. Cứ như vậy, ông để nhiều thì giờ làm việc với Vann hơn với cố vấn chính thức của ông, trung tướng Hal McCown, cấp trên của Vann, chỉ huy các lực lượng Mỹ ở vùng đồng bằng. Điều ấy đúng như Vann mong muốn, có một lý do cụ thể để lôi kéo Ngô Du.

Trong lịch sử Hoa Kỳ chưa bao giờ có một người bên dân sự đảm nhiệm chức vụ một viên tướng và chỉ huy quân đội ỏ mặt trận. Komer là một tướng dân sự, không có quyền hành gì đối với quân đội Mỹ và các đơn vị không quân. Vann có ý định mình là ngoại lệ. McCown sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào mùa xuân 1971, Vann muốn kích thích Du đề nghị để anh thay thế và trở thành cố vấn trưởng của ông. Vann lúc đó hy vọng có thể thuyết phục Abrams để anh có quyền hành đối với mọi hoạt động của Mỹ ở Quân đoàn 4, bao gồm cả không quân và các thành phần hỗ trợ khác ở đấy. Mục tiêu của anh đi xa hơn việc kiểm soát quân đội đang giảm số lượng. Anh đã xác định kế hoạch, nhờ chi phối được Du, mở rộng không chính thức quyền hành đối với tất cả các đơn vị Quân lực Cộng hòa. Thực sự John Vann muốn trở thành tướng tổng chỉ huy vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Kế hoạch ấy phá sản khi Thiệu thuyên chuyển các chỉ huy Quân đoàn trong tháng Tám 1970. Vann gây cho Du một hình ảnh đẹp đến mức Abrams khẩn cầu giữ ông này lại Quân đoàn 4 nhưng Thiệu vì những lý do riêng không muốn để ông ở vùng đồng bằng. Thiệu cử ông ta lên Pleiku phụ trách Quân đoàn 2. Vann chỉ còn tìm cách để cũng được thuyên chuyển lên đấy và chiếm vị trí của viên tướng Mỹ cố vấn trưởng đồng cấp với Du.

Sơ đồ táo bạo ấy được chuyển thành khả thi với việc trở lại Việt Nam mùa thu 1970 của tướng Fred Weyand, bạn và là người thán phục Vann. Nhờ ông này, Vann giành được một vinh quang chưa bao giờ có ở vùng đồng bằng. Weyand về Hoa Kỳ tháng Tám 1968 và thoát được hai lần cho nghỉ việc. Westmoreland đã trở thành tổng tham mưu trưởng quân đội, không khen thưởng ông như ông đã xứng đáng sau khi cứu Sài Gòn trong đợt tấn công Tết. Thay vì bố trí ông ở một trong những vị trí dễ dàng thăng tiến, Westmoreland bổ nhiệm ông đứng đầu một văn phòng chịu trách nhiệm bảo vệ quốc gia và quân dự bị. Lodge rút ông ra khi được Nixon cử làm trưởng đoàn thương lượng hòa bình vào tháng Giêng 1969, đưa tới Paris với nhiệm vụ cố vấn quân sự cho phái đoàn. Vị trí này chấm dứt khi Lodge hết ảo tưởng xin từ chức. Nixon không có đề nghị gì khác Johnson với đối phương về việc hai bên cùng rút quân và Lodge không tiến được hơn Harriman và Vance. Ông Hồ Chí Minh chết vào tháng Chín năm 1969 không làm yếu vị trí của Việt Nam . Chính phủ tập thể ông đã xây dựng để làm tiếp công việc của mình vẫn tiếp tục như khi ông còn sống. Với lý do quan hệ công khai, Nixon thay thế Lodge bằng một người Nhà nước khác có kinh nghiệm, David Bruce, nhưng thực tế ông dựa vào những cuộc tiếp xúc mật Kissinger tiến hành ở Paris với Lê Đức Thọ, trưởng phái đoàn Việt Nam . Mùa hè năm 1970, Weyand lại ở Washington với một vị trí khác không tương lai. Khác với Westmoreland, tướng Creighton Abrams nhận xét tốt về thành công của Weyand trong dịp Tết, có lẽ vì không có hậu quả gì đến sự nghiệp của ông. Mặt khác, hai người tôn trọng lẫn nhau trong những năm Abrams làm phó của Westmoreland. Họ bổ sung cho nhau, Weyand điềm tĩnh tôn trọng, Abrams sôi sục nhưng không lúng túng. Tướng tổng chỉ huy mới cần gấp một người phó vào mùa thu năm 1970. Rất ngạc nhiên, Weyand nhận được lệnh sang nhận nhiệm vụ ở Sài Gòn và Vann có được một người đỡ đầu trong số  những người có quyền quyết định lớn, đúng lúc anh đang cần nhất.

 Đầu năm 1971, Vann bí mật gặp Du ở Đà Lạt. Viên tướng Mỹ đồng cấp với Du ỏ Quân đoàn 2 sang tháng Năm sẽ hết nhiệm kỳ. Vann chỉ đề nghị Du chấp nhận nếu người ta hỏi có muốn Vann làm việc cùng không, còn thì Vann sẽ thu xếp về phần mình. Du không mong gì hơn và hân hoan với mưu đồ ấy.

Weyand không phải mẫu người đánh nhau với cối xay gió bàn giấy. Ông đã nhận biện hộ cho Vann, chỉ ra hình tượng John đã lớn lên đến mức nào và hoàn cảnh chiến tranh đã thay đổi ra sao. Tháng Tư năm 1970, khi Weyand đặt vấn đề của Vann ra với Abrams, thời gian gấp gáp đáng ngại, các đội quân Sài Gòn sẽ phải đương đầu với một cuộc tấn công lớn của quân Bắc Việt , với sự hỗ trợ hạn chế của Mỹ về cố vấn, máy bay trực thăng, không lực và lính thủy đánh bộ. Việc rút quân của Nixon đã giảm một nửa số lượng quân lính cam kết với Việt Nam , gần 270.000 người so với 543.500 người hồi tháng Tư năm 1969.

Việc đánh sang Campuchia cho phép tranh thủ một ít thời gian. Nhưng việc mở rộng chiến tranh đã dấy lên một ngọn lửa chống đối ở Hoa Kỳ đến nỗi Nixon không có sự chọn lựa nào khác là xúc tiến gấp việc rút quân. Đến tháng Tư 1972 phải còn lại ít hơn 70.000 người ở miền Nam, thực tế chỉ là cố vấn và nhân viên hỗ trợ cùng không lực. Những người cộng sản Việt Nam xây dựng lại và mở rộng căn cứ ở biên giới Campuchia trong vòng mấy tháng còn quân đội Bắc Việt và du kích Khmer đuổi quân Lon Nol vào sâu trong nội địa.

Hà Nội bù đắp việc mất cảng tiếp tế Sihanoukville bằng việc mở rộng mạng lưới trên đường mòn Hồ Chí Minh. Việc ngừng ném bom miền Bắc của Johnson năm 1968 không làm giảm những cuộc tập kích trên hành lang đường mòn ở đông nam Lào. Những cuộc tấn công bằng máy bay tăng lên nhiều trong năm 1969 và 1970 với những chiếc C-119 và C-130 trang bị ca nông Bofors 40ly và những Vulcains cực nhanh 20 ly có thể tuôn ra mỗi phút 2.500 loạt đạn. Nhưng chúng không phá hủy đủ lượng xe tải để căn bản thay đổi được tình hình. Với hy vọng lùi cuộc đụng đội quyết định lại ít nhất hai năm, Abrams đưa Quân lực Cộng hòa sang Lào dọc theo đường 9 từ Khe Sanh để chiếm giữ nút đường Tchepone cắt con đường mòn. Kết quả gặp điềm xấu, hơn 3.000 lính Sài Gòn chết trong thất bại. Việc đụng đội không thể lùi chậm hơn được nữa.

Tất cả những tình huống ấy có lợi cho Vann. Anh chỉ còn cãi nhau với các tướng tự mãn, đứng đầu một sư đoàn chỉ quan tâm đến ngôi sao thứ ba của họ. Số lượng lính Mỹ ở Quân đoàn 2 tan rã đến nỗi tổng hành dinh các lực lượng Mỹ trong vùng giảm xuống thành một đơn vị hỗ trợ đứng đầu là một trung tướng. Quan điểm của Abrams về Vann đã chuyển biến và ông khá cởi mở để nghe Weyand khi ông này nói về người bạn mình. Nhưng vấn đề đặt ra là biết được quân lính phản ứng ra sao theo lệnh của một trung tá bỏ quân ngũ trở thành viên chức dân sự. Weyand nhớ lại vấn đề ấy được đặt ra năm 1967 ở Quân đoàn 3 khi hình thành CORDS. Ông nhận xét thấy sự nghi ngờ tan biến khi Vann cầm đầu đơn vị ấy. Những sĩ quan tốt chấp nhận quyền lực của anh và Weyand đảm bảo với Abrams tình hình cũng sẽ như thế ở Quân đoàn 2.

Lập luận chủ yếu của Weyand ủng hộ Vann là ảnh hưởng của anh đối với Du và kinh nghiệm của anh về các lực lượng Sài Gòn . Abrams và những người có trách nhiệm chóp bu chắc chắn đợt tấn công tới của quân Bắc Việt sẽ có hai mục tiêu chính. Đầu tiên dĩ nhiên sẽ là vùng phi quân sự . Thứ hai là vùng cao nguyên ở đầu con đường mòn Hồ Chí Minh, trong khu vực Quân đoàn 2 do Du chỉ huy. Việc tối đa phải làm là bình định vùng ấy và chuẩn bị cho Quân lực Cộng hòa sẵn sàng trong trận đánh lớn sắp tới. Có người Mỹ nào thành thạo trong công việc ấy hơn Vann ?

Ngày 15 tháng Năm năm 1971, viên trung tá bỏ quân ngũ rời Cần Thơ để trở thành tướng tổng chỉ huy vùng cao nguyên của dãy Trường Sơn và những căn cứ nhỏ Việt Minh cả vùng đồng ruộng ven bờ biển miền Trung. Tôn trọng tư cách mới ấy, anh thêm một chiếc cà vạt vào sơ mi ngắn tay và quần thể thao là bộ quần áo làm việc của anh. Người ta không thể gọi anh là “ tướng “ tuy anh đảm nhiệm chức trách trung tướng và mang hai ngôi sao tiềm ẩn trên vai, vậy người ta gọi là giám đốc. Việc “ chỉ huy “ hỗ trợ do anh chỉ đạo được gọi lại là “ toán “ để tránh bàn cãi và để xem một người bên dân sự có thể chỉ huy được không. Chỉ một quân nhân mới có quyền sử dụng quyền lực đối với tòa án quân sự, sức mạnh pháp lý làm tôn trọng các mệnh lệnh. Vì vậy, Vann có một “ phó làm chức trách quân sự “. Anh đã hy vọng sẽ là một trung tướng, điều đó cho phép anh tự phong cho mình một ngôi sao thứ ba về tinh thần. Nhưng anh phải hài lòng với cấp bậc thiếu tướng.

Thực ra , số lượng ngôi sao ít quan trọng , cuối cùng Vann đã là ông chủ. Vả lại, một bức thư của Abrams đã xác định điều đó với anh. Ngôn từ hơi thiếu cụ thể, vẫn là vì những lý do hành chính nhưng John Vann đã quyết định làm cho bức thư được hiểu theo cách của mình.

Viên tướng dân sự không phải đợi lâu để được thử thách. Khi đi nghỉ phép dịp Noel tháng Chạp năm 1971, anh thu xếp với Weyand và George Jacobson đã nối tiếp Colby lãnh đạo CORDS, gửi cho anh một bức thư báo động vào tháng Giêng để anh có cớ bỏ dở đợt phép. Anh cho rằng quân đội Bắc Việt tấn công trong tháng Hai và muốn chuẩn bị sẵn sàng.

Lần đầu tiên trong sáu năm khi về Hoa Kỳ thăm gia đình, anh không ngủ ở nhà tại Littleton. Anh ăn ở đấy với Mary Jane và các con, đến dự lễ Noel, nhưng ở trong nhà gần Mary Allen và Doris Motherland, mẹ và chị của Mary Jane, cả hai đều góa chồng, đến ở Littleton.

John Paul và Mary Jane đã ly dị nhau theo đề nghị của chị vào tháng Mười 1971. Không còn lý do để Mary Jane ly dị năm 1971 hơn dịp nào khác trong 25 năm họ chung sống. Anh vẫn không thôi bảo đảm cho chị và các con, dù rất dè sẻn; chị thì không có ý định tái giá. Chị biết anh có đứa con gái Việt Nam từ năm 1968 khi có lẽ anh cố ý để lộ ra trong ngôi nhà ở Littleton một bức thư của Annie nói về việc ấy. Mary Jane đề nghị sẽ nuôi đứa bé nếu Vann rời bỏ chiến tranh về với gia đình. Sức nặng chồng chất vì giận dữ, thất vọng và chắc chắn cảm giác ly dị là cách duy nhát đã đưa chị đến đề nghị chia tay. Lúc đầu, anh phản đối vì cách sống như vậy đối với Mary Jane rất phù hợp với anh. Rồi anh quyết định đượ tự do về pháp lý, đánh đổi bằng chia nhà cửa và một trợ cấp khiêm tốn cho cuộc sống của chị và hai đứa con trai. Tommy mười bảy tuổi, Peter sáu tuổi vẫn sống với mẹ.

Nhưng anh vẫn luôn là người có vợ. Anh dự tính cưới Annie tuy không vì thế mà bỏ Lee rất nhục nhã và thất vọng khi anh nói với cô dự định về cuộc hôn nhân mới và việc có đứa con gái. Nhưng dần dần anh thuyết phục được cô chấp nhận vị trí thứ hai với danh nghĩa người tình. Trong lúc đó, Annie vẫn không biết gì về Lee.

Quan hệ của anh với Dan Ellsberg trở nên ngày càng phức tạp. Sau việc tán phát hồ sơ của Lầu Năm Góc tháng Sáu năm 1971, anh rất tức giận , chửi rủa và kêu rằng Ellsberg đang bị chính quyền Nixon đưa ra tòa vì phạm pháp, không tôn trọng quy chế tình báo, đánh phải bỏ tù vì phản bội. Không phải vì vi phạm nguyên tắc bảo mật làm Vann tức giận mà do Ellsberg tấn công vào cuộc chiến tranh .Tuy vậy, anh cũng không muốn từ bỏ tình bạn. Mùa thu, anh viết thư cho Ellsberg “ Tôi không thể đồng ý với cách trình bày quan điểm của anh; dù sao, anh cũng đã làm ra một sự hỗn độn lớn “. Sáu nhân viên điều tra của bốn cơ quan chính phủ đến hỏi anh ở Pleiku, anh nói và anh chú ý để họ “ tới chẳng được việc gì “. Anh nói dối; có vẻ anh đã hợp tác với những người điều tra. Anh chũng chuyển đến Kissinger những gợi ý về cách chính quyền nên xử trí đối với Ellsberg.

Trở về Littleton đợt nghỉ phép Noel, Vann xuống sân bay Los Angeles , gọi điện thoại cho Ellsberg và hai người nói chuyện với nhau lâu. Ellsberg kể cho Vann nghr chiến lược các luật sư đưa ra để bảo vệ anh ở tòa án. Sau đó, khi Vann đến Washington để đi tiếp xúc như thường lệ, anh ghé vào Lầu Năm Góc, gặp Fed Buzhardt lúc ấy là cố vấn pháp luật của Bộ Quốc phòng, sau này là một trong những luật sư của Nixon về vụ Watergate. Buzhardt thu thập thông tin để kết tội Ellsberg. Vann gặp ông trong một tiếng rưới, nói rõ chiến lược bảo vệ của Ellsberg và gợi ý để vô hiệu hóa nó.

Tuy vậy, Vann không có ý định vụ việc này kết thúc bởi sự phản bội của một người bạn. Sau khi nhận được của Weyand và Jacobson thư gọi anh trở lại Việt Nam , anh lại dừng chân ở San Francisco trên đường trở về, trải qua nhiều giờ với Ellsberg nói về cuộc chiến tranh và vụ xử án. Ellsberg đề nghị anh làm chứng bênh vực mình vì anh sẽ được bồi thẩm đoàn đặc biệt tin cậy “ Tôi sẽ nói tất cả những gì anh muốn “, Vann trả lời. Chắc chắn anh có ý định giữ lời hứa nhưng không hề có ý nghĩ mình sẽ nói gì cho đến lúc ngồi trên ghế nhân chứng.

John Vann dự tính thắng quân địch như anh đã thấy Walton Walker đập tan quân Bắc Triều Tiên xung quanh vùng Pusan. Anh sẽ không hy sinh bộ binh như Westmoreland đưa quân tiến đánh những vị trí được củng cố mạnh lẩn khuất trong rừng. Vai trò phải đảo ngược lại. Nếu muốn thắng, những người cộng sản Việt Nam phải đến chỗ anh và khi ra khỏi rừng núi, họ sẽ bị đánh tan trước những công sự của anh. Mục tiêu tấn công của quân Bắc Việt trong vùng Quân đoàn 2 xem ra có vẻ là Kontum, nơi đóng quân và là trung tâm thương mại, dân số khoảng 25.000 người, thủ phủ của tỉnh và là đô thị quan trọng nhất phía bắc cao nguyên. Kontum được căn cứ Tân Cảnh trên đường 14 bảo vệ, ỏ 40 cây số về phía bắc. Song song với con đường, về phía tây chạy dài một dãy núi đồi quân đội Mỹ ken đầy những vị trí mạnh sẵn sàng dội đạn vào con đường và đã giao lại cho Quân lực Cộng hòa. Như vậy, trước khi đến được Kontum, những người cộng sản Việt Nam phải đánh chiếm Tân Cảnh và đụng phải lưới lửa dồn dập trên đường 14.

Hà Nội đã tập hợp 35.000 quân, đặt dưới sự chỉ huy của một trong những vị tướng giỏi nhất của họ, Hoàng Minh Thảo, một người tin cậy của ông Giáp sau này trở thành tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam, đã phụ trách khu vực cao nguyên từ năm 1966. Ông có hai sư đoàn bộ binh chủ lực thâm nhập từ miền Bắc vào đầu năm và những trung đoàn độc lập tương đương với sư đoàn thứ ba. Bộ binh có những đơn vị công binh hỗ trợ và được các trung đoàn pháo bảo vệ, trang bị pháo 105 lấy của lính Mỹ, pháo 130 Xô viết, súng cối 120, rốc két và cả một tập hợp vũ khí phòng không.

Ông Thảo tập trung quân ở phía tây Tân Cảnh, nơi ba biên giới Việt Nam ,Lào, Campuchia giao nhau. Điểm cố hữu lâu đời này của người Việt Nam đã biến thành một pháo đài căn cứ 609, một chỗ gây kinh hoàng cho lính Sài Gòn cũng như cho lính Mỹ trước đây. Trên đồi 875 và những công sự gần căn cứ 609, trong tháng Mười một năm 1967 đã có 287 người chết thuộc Lữ đoàn không vận 173 và Sư đoàn 4 bộ binh, hơn 1.000 người bị thương trong lúc Westmoreland huênh hoang về chiến thắng ở Washington. Toàn vùng là sàn diễn của bao nhiêu điểm phục kích mà chỉ một số gan dạ trong lực lượng đặc biệt và tuần tra không vận của Quân lực Cộng hòa mới dám mạo hiểm vào.

Cuộc tấn công không bắt đầu vào tháng Hai như Vann dự tính. Anh tưởng lầm do bị ngăn cản vì hàng chục vụ ném bom B-52 và những phi vụ phản lực không ngớt dọc những con đường kế cận. Thực tế, các nhà lãnh đạo Hà Nội muốn phối hợp việc tấn công Quân đoàn 2 với những cuộc tấn công dự kiến ở các vùng khác và mất thì giờ chuẩn bị.

Lần này, quân Bắc Việt không phòng ngừa cẩn mật. Tiếng vọng lan trong núi rừng ban đêm và ánh sáng thấy được từ xa. Các cố vấn ở những cứ điểm trọng pháo của Quân lực Cộng hòa nghe tiếng máy ủi của địch mở rộng những đường mòn từ thời Pháp thuộc và san lấp những con đường mới trong lúc họ thấy đèn pha các xe cung cấp vật phẩm, đạn dược và kéo pháo trong tư thế bắn. Sư đoàn 2 Bắc Việt tiến đến Tân Cảnh từ hướng tây, Sư đoàn 320 theo đường các chóp núi dọc đường 14 còn bộ binh ngụy trang trong dãy núi đồ sộ mà người Mỹ đặt tên là “ Dãy núi mẹ “ ( Big Mama ).

Cuộc tổng công kích xảy ra ngày 30 tháng Ba năm 1972, người Mỹ gọi là “ cuộc tấn công vào lễ Phục sinh “, lễ chính thức ba ngày sau đó. Việc hành quân bắt đầu từ hướng bắc, phía trước là xe tăng xuất hiện từ vùng phi quân sự để đánh chiếm Trại Caroll ở bắc Khe Sanh và những vị trí khác của Quân đoàn 1 trước đây do lính thủy đánh bộ giữ, bây giờ giao cho Quân lực Cộng hào. Lần lượt các vị trí của Vann dọc đường 14 bị vây hãm. Mấy ngày sau đó, cuộc tập kích đánh vào một chỗ không ai ngờ. Những đơn vị Vann biết từ lúc ở Quân đoàn 3, Sư đoàn 3 và 9 Việt cộng , Sư đoàn 7 Bắc Việt từ Campuchia chiếm lấy tổng hành dinh Lộc Ninh trong vùng đồn điền cao su trên đường 13, tiến đến tận An Lộc, cách Sài Gòn 90 cây số về phía bắc. Ở đây cũng có xe tăng mở đường.

Lúc đầu kế hoạch của Vann tiến hành rất tốt. Tướng Thảo cố phá vỡ hàng Rocket Chỏm đồi bằng cách tấn công vào căn cứ mạnh nhất, cứ điểm Delta do một lữ đoàn không vận bảo vệ. Thảo gặp Vann, vừa đến đó rạng sáng mồng 3 tháng Tư cùng 3 máy bay lên thẳng Huey và hai Cobras vũ trang mấy chục rốc két, một pháo 7,62 bắn cực nhanh và súng phóng lựu tự động 44 ly. Quân tấn công vừa đánh tan lính nhảy dù ở khu bắc căn cứ và tiến lên chiếm lĩnh phần còn lại. Vann có ở đấy để di tản phi hành đoàn một chiếc máy bay bị bắn hạ bốn ngày trước đó khi đến tiếp tế cho Delta. Trong chốc lát, anh không chỉ đến cứu một phi hành đoàn mà cà toàn bộ căn cứ.

Anh cử những chiếc Cobras bắn nát lính bộ binh cộng sản đến hỗ trợ đồng đội đã vào trong vòng phòng thủ của Delta. Anh nắm chỉ huy trọng pháo, máy bay ném bom, và tiêm kích đến từ hàng không mẫu hạm ngoài khơi và những phi đội đóng ở Thái Lan. Trong khi lính dù Sài Gòn phản công, Vann vô hiệu hóa mọi cố gắng của quân Bắc Việt gửi quân đến tăng cường.

Trung úy Huỳnh Văn Cai, trợ lý của Vann đi theo cùng chuyến bay đã biết một trận đánh như thế nào qua tám tháng là trung đội trưởng bộ binh nhưng chưa bao giờ thấy một trận đánh từ trên không. Anh như bị thôi miên về quang cảnh bên dưới : những người chạy lên trước bị bom và đạn súng cối tung lên, đạn pháo xé nát thân hình.

Quân Bắc Việt thâm nhập vào chu vi phòng ngự bị thanh toán hết trong buổi chiều. Nhưng dù sao cũng phải di tản căn cứ đang thiếu đạn dược, nước và thuốc men. Vann tuyên bố tự mình sẽ lo việc tiếp tế. Chỉ huy tiểu đoàn không vận, tuy tình hình khẩn cấp, cảnh báo qua đài Vann sẽ bị sát hại. Quân Bắc Việt bố trí xung quanh Delta nhiều súng liên thanh và một pháo phòng không chống trả máy bay. Chỉ huy lữ đoàn và cố vấn Mỹ ,thiếu tá Peter Kama từng là một đại úy của Vann ở Mỹ Tho, cũng bảo anh là điên rồ. Vann đáp “ Tôi quen rồi “.

Trực thăng Vann sử dụng là mẫu mới nhất do Công ty Bell sản xuất cho quân đội. Chiếc Ranger là một máy bay nhỏ kéo dài phía trước như đầu cá mập vừa nhanh vừa dễ sử dụng rất phù hợp với anh. Có hai ghế ngồi phía trước cho phi công lái, người cùng lái và một khoảng không phía sau, cửa đẩy để chở vật dụng hoặc hai người khác. Vann bao giờ cũng ngồi ở ghế người cùng lái để dễ kiểm soát đường bay hoặc nắm lấy cần điều khiển nếu phi công lái bị trúng đanh. Trung úy Cai cũng có mặt trên máy bay. Khi tới Quân đoàn 2, Vann quyết định lấy một người phó Việt Nam thạo tiếng Anh sẽ có ích hơn một người Mỹ và bớt được một phiên dịch. Du chỉ định Cai cho anh. Cai là con một nhà buôn, được điều động sau đợt tấn công dịp Tết, trung thực, can đảm và tận tụy với Vann. Vann đi đến đâu anh cũng cùng đi tới đó.

Vann kiểm tra việc tiếp tế ở trạm chỉ huy của lữ đoàn không vận. Anh đã xác định qua chuyến bay đầu tiên vị trí súng phòng không và chỉ cho phi công lái Paul Arcement, một thượng sĩ nhất gan dạ, bay theo dọc ngọn cây để tránh làm mục tiêu. Khi chiếc Ranger đã ở phía trên chu vi phòng vệ của căn cứ Delta, Vann và Cai vẫn bỏ xuống những hòm tiếp liệu đạn dược, lựu đạn, mìn, những bình nước và thuốc men cho quân lính dù. Rồi Arcement quay nhanh lên trời, là theo ngọn cây bay đi làm đợt mới.

Khi các sĩ quan ở trung tâm hành quân Pleiku hiểu việc gì đã xảy ra, họ báo động với tướng Du. Hầm cố thủ của ban tham mưu đầy sĩ quan nghe tin qua đài còn chiếc máy bay nhỏ Ranger trở lại xếp những hòm tiếp viện và bay đi Delta, coi thường những loạt đạn của trọng pháo. Họ đi về sáu lần cho đến khi trời tối. Du kết luận :

“ Không một viên tướng Việt Nam nào làm như thế. Và một viên tướng Mỹ cũng không “.

Delta có khá đủ tiếp viện để đứng vững suốt đêm; sáng hôm sau những tiểu đoàn không vận khác đến giải phóng họ.

Quyền lực Vann đối với Du là lý lẽ chủ yếu tin chắc có thể đánh thắng quân Bắc Việt . Du lại có một món nợ đặc biệt, mùa hè trước Vann cứu ông thoát khỏi sự kết tội buôn bán heroin. Viên tướng Quân lực Cộng hòa Du thay thết tìm cách trả thù vì mất vị trí, soạn thảo rất công phu một hồ sơ chứng minh Du là một kẻ buôn lậu ma túy. Ông ta đưa cho một nghị sĩ Mỹ đi qua; ông này tuyên bố chính thức ở một hội nghị ở Washington Ngô Du là một trong những chủ buôn bán heroin ở miền Nam Việt Nam . Lời kết tội vào lúc việc buôn bán ma túy với lính Mỹ trở thành vụ bê bối chung và Thiệu bị đại sứ Bunker ép phải hành động. Thiệu nghĩ Du sẽ là một vật hiến thân tuyệt vời cho những nhân vật chính trị và đối với dư luận quần chúng Hoa Kỳ . Ông ta chuẩn bị cách chức và làm nhục Du.

John Vann không chấp nhận mất đi người anh đã đầu tư bao công sức. Du thề với anh ma túy không phải là một trong những nguồn lợi bất chính của ông và Vann tin điều đó. Anh giải thích với George Jacobson, các tướng cấp cao và đồng bọn người Trung hoa giữ gìn rất chặt nguồn lợi ma túy, họ sẽ không để một nhân vật cấp thấp như Du gặm nhấm tiền lãi của họ. Vann tổ chức một chiến dịch báo chí phản bác những lời kết tội cứu Du. Anh chuẩn bị cho Du một bản tuyên bố và hướng dẫn ông trả lời các câu hỏi. Anh tổ chức một cuộc họp báo, đưa lên truyền hình một loạt phỏng vấn. Du kinh ngạc về việc Vann tập hợp các nhà báo dễ dàng đến thế và bàng hoàng thấy một người Mỹ bảo vệ mình như vậy. Ông nói “ Anh ấy xử sự như anh trai tôi “. Lòng biết ơn Vann càng làm ông tin chắc có thể tiến lên trong sự nghiệp nhờ vào tài năng của người bảo vệ mình. Không phải bao giờ ông cũng làm theo ý Vann nhưng cũng khá đủ để những cộng sự không thích ông chế giễu là “ nô lệ của John Paul Vann “.

Chiến thắng của Vann trong trận Delta phát triển niềm tin của anh đến một cảm giác hầu như không lay chuyển. Anh viết bốn trang rưỡi một giác thư gửi các bạn, chuyển các bản sao cho ngài Robert Thompson, Joseph Alsop và các nhân vật Washington như Melvin Laird. Anh tiên đoán thảm họa của quân Bắc Việt trên tất cả các mặt trận ở miền Nam không chỉ nhờ riêng anh và tuyên bố khi cuộc tấn công kết thúc, vị thế của cộng sản sẽ suy yếu ở Lào và Campuchia. Nếu tháng Chạp năm 1969, anh báo trước với Nixon có lẽ Sài Gòn “ buộc phải bỏ một phần đất đai “ thì bây giờ anh khôn ngoan chối bỏ và công khai cam kết không nhường một tấc đất . “ Cuộc chiến khó khăn và hy sinh nhiều quân lính nhưng chúng tôi giữ được những vị trí chủ yếu trong đó có Tân Cảnh “. Sài Gòn cũng giữ được “ những thành quả khó khăn đạt được từ công cuộc bình định “ ở ven biển miền Trung, nơi Vann tập trung sức từ mùa hè năm 1971 thanh toán Việt cộng và củng cố sự kiểm soát của chế độ ở những huyện không khuất phục ở phía bắc .” Theo những gì đã xảy ra cho đến nay, tôi sẵn sàng đón nhận thách thức bắt đầu từ ngày hôm nay “. Bức giác thư đề ngày 12 tháng Tư năm 1972. Sự thách thức được đưa ra ba ngày trước đó.

Những phiền phức bắt đầu ở chỗ người ta không chờ đợi cuộc tấn công trong tỉnh Bình Định, dọc ven biển miền Trung mà Vann tự hào đã bình định xong trong giác thư của anh. Nơi bị tấn công có vẻ không quan trọng : một căn cứ nhỏ cũ củ Kỵ binh bay gọi là Pony Zone phía tây bắc cách Qui Nhơn 70 cây số, bây giờ do một tiểu đoàn lực lượng vùng đóng giữ. Căn cứ bị ném bom và tấn công ngày 9 tháng Tư, thất thủ vào ngày hôm sau. Những người tấn công mà Vann không xác định đúng được, phản bác niềm tin chắc của Vann cho rằng quân Bắc Việt cũng lạ lẫm ở miền Nam như người Mỹ. Thực ra , đấy là một trung đoàn của Sư đoàn 2 “ Sao vàng “, cũng là đơn vị hỗn hợp quân Bắc Việt và Việt cộng , mà Moore đã đánh bại chỗ này năm 1966. Ngôi sao vàng đã là con phượng hoàng thực sự trong vùng hồi sinh từ những tro tàn thường xuyên hơn những sĩ quan tình bào mong muốn.

Một rồi hai tiểu đoàn của Trung đoàn 40 Quân lực Cộng hòa, được một đại đội M-113 từ phía bắc xuống để chiếm lại Pony và ngăn quân địch tiến xuống phía nam đến tổng hành dinh huyện Hoài An, nơi Vann đến ngày 11 tháng Tư và qua đêm ở đấy. Anh gặp lại ở đây tỉnh trưởng anh quen biết từ nhiều năm, đại tá Nguyễn Văn Chức, một sĩ quan công binh lập dị, môn đồ yoga với nghị lực của một người Mỹ đầy tham vọng. Ở đây cũng có mặt viên chỉ huy Trung đoàn 40, một người Vann đánh giá cai, đại tá Trần Hiếu Đức, đã nhiệt tình tham gia chiến dịch bình định và có vẻ là một người tổ chức giỏi. Vả lại Vann đã đề nghị với tướng Du và ông ta vừa được thăng cấp, Họ để cả đêm nghe các báo cáo và cùng xây dựng một kế hoạch phản công. Vann đưa lại can đảm cho các sĩ quan Việt Nam và cố vấn Mỹ , sáng hôm sau lạc quan ra đi.

Nhưng Đức không muốn đánh nhau. Ông ta không có một cố gắng nào để chiếm lại Pony thậm chí không giữ những ngọn đồi dọc thung lũng. Ngược lại, ông để các tiểu đoàn rút lui. Cố vấn Mỹ của ông, đại tá David Schorr thúc ông không hiệu quả; Chức, người kiểm soát tất cả các đội quân địa phương và Quân lực Cộng hòa trong tỉnh cũng không làm gì hơn được. Vann trở lại Hoài An hai lần dưới lưới lửa súng cối đều vô ích. Trong khu vực này có 29 trung đội lực lượng của tỉnh. Tất cả đang đào ngũ.

Tình hình chẳng tốt hơn ở phần còn lại trong tỉnh, nơi cho là công cuộc bình định tiến bộ nhanh, đột nhiên trở nên thù địch. Ba tiểu đoàn công binh từ miền Bắc vào được Việt cộng địa phương hướng dẫn, bắt đầu gây ra sự lộn xộn. Chỗ này chỗ kia cầu bị phá hỏng, nhiều tiền đồn bị tấn công khắp nơi. Lực lượng vùng và các đội quân của tỉnh lần lượt đào ngũ.

Ngày 18 tháng Tư, sau cuộc họp lạc quan một tuần lễ, Đức không còn giữ được một vị trí khống chế nào. Đêm hôm ấy, ông thông báo sẽ bỏ Hoài An “ Các toán quân của chúng tôi có thể rút bất cứ lúc nào. Đề nghị cho chỉ thị. Nếu các toán quân ra đi trước khi có chỉ thị, chúng tôi cũng cùng đi “. Trong ngày, Đức để quân cộng sản chiếm một bình độ cách tổng hành dinh của ông ta 700 mét, ở đấy họ bình tĩnh dội pháo . Khu vực nào đầy mùi xác lính chết, không ai muốn vào.

Mọi cố gắng thuyết phục Đức trụ lại thất bại. Vann đề nghị Du cho phép rút lui trưa ngày 19 tháng Tư. Anh muốn Đức rút có trật tự thay vì chạy trốn bất kể. Quân Bắc Việt ngăn các đường phụ nối ra đường số 1 nhưng không đủ để cản trở một lối thoát. Những xe vận chuyển bọc thép mở đường, theo sau là ô tô tải, xe jeep và lính đi bộ. Bốn mươi người bị thương của hai tiểu đoàn và lực lượng địa phương được chở trong xe bọc thép. Hai máy bay Cobras theo đoàn quân vừa bắn và bỏ bom xung quanh, còn một chiếc Huey bay trên cùng để điều chỉnh tầm pháo và các đợt tấn công của máy bay tiêm kích ném bom.

Vann không thể xuống khỏi cao nguyên để giám sát việc chuyển quân vì dãy Rockẻ Chỏm đồi bắt đầu có những phiền toái. Quân Bắc Việt đã thay đổi chiến thuật, bây giờ tấn công vào trung tâm phòng ngự. Họ đã chiếm được từng phần căn cứ Charlie bằng cách luân phiên sử dụng trọng pháo bắn chặn và bộ binh tấn công cho đến khi lính dù Quân lực Cộng hòa thiếu đạn buộc phải chuyển đi, để những người bị thương lại. Trong số 471 sĩ quan và binh lính của tiểu đoàn chỉ một nửa có thể rút lui cùng một số lớn bị thương còn đi được. Do không di chuyển được, Vann giải thích qua điện đài kế hoạch rút lui của Hoài An với trung tá Anderson trên máy bay kiểm tra Huey.

Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau giờ rút lui buổi trưa, hai loạt đạn pháo nổ gần điểm tập kết của đoàn quân. Phần lớn những người bị thương chưa đưa vào được trong xe bọc thép. Đức nhảy vào xe gần nhất cùng ban tham mưu của ông ta và đi ngay. Những chiếc M-113 khác, ô tô và xe Jeep vội vã chạy theo. Huyện trưởng, một thiếu tá Quân lực Cộng hòa, nhảy lên xe Jeep bỏ người phó xuống để đưa chiếc tủ lạnh của mình lên. Quân lính Bắc Việt phục kích chờ trong một ấp gần đấy. Người, xe M-113 của Đức và chiếc xe Jeep của huyện trưởng thoát được.

Đại tá Schorr, cố vấn của Đức đáng lẽ cùng đi với ông ta nhưng không muốn bỏ lại thiếu tá Hacker và trung úy Eisenhower đang cần mẫn đốt tài liệu mật và phá hủy điện đài. Ông chờ họ rồi cùng chạy thoát qua đồng ruộng về hướng đông và đường số 1. Xung quanh họ, binh lính Quân lực Cộng hòa vứt bỏ vũ khí, mũ và trang bị quân sự, cởi đồng phục, ủng, để biến thành nông dân thường, mặc quần đùi chạy trân chần. Các cố vấn Mỹ không đi được xa lắm vì Schorr trúng một viên đạn vào chân do quân Bắc Việt đuổi theo bắn. Trong lúc Eisenhower băng bó cho ông, Hacker và hai lính trính sát Việt cộng đào ngũ cũ trở thành vệ sĩ  của các cố vấn, cố gắng chống trả những người đuổi theo. Với những người lính Nam Việt Nam đã cởi bỏ quần áo, Hacker khó phân biệt được bạn, thù. Ông bắn vào mọi người Việt lại gần có vũ khí và không mặc đồng phục Quân lực Cộng hòa. Quân lính miền Bắc bò đến chỗ họ trong lúc đồng đội bắn bảo vệ.

Đại tá Anderson trên chiếc Huey nghe được tất cả những gì xảy ra dưới mặt đất vì ông, bắt làn sóng đài mang theo của Schorr. Những chiếc Cobras không đến được trước buổi trưa quá chậm để cứu các cố vấn đang lâm nguy. Nếu Anderson cố cứu họ và bị bắn hạ, ông, người lái phụ và phi hành đoàn sẽ chết và bị cầm tù tất cả.

Các đơn vị chiến đấu Không quân là những đơn vị duy nhất của quân đội Hoa Kỳ không bị tan rã dưới sức ép của chiến tranh . Gần 6.000 phi công lái và phi hành đoàn máy bay lên thẳng chết nhưng những người bay không bao giờ ngã quỵ. Hầu hết những người bay chuyên nghiệp đều sang Việt Nam hai đợt chứ không phải một. Anderson đang làm nhiệm vụ đợt thứ hai, cao lớn, vững chắc, người bờ biển phía tây, chỉ huy toán thứ 7 của đoàn Kỵ binh Không quân 17. Anh gọi Schorr qua đài hỏi vị trí rồi thông báo với người cùng lái và phi hành đoàn họ sẽ hạ cành.

Anderson bắn khi họ bắt đầu chúc xuống cách mặt ruộng 15 đến 20 mét để tìm nhóm cố vấn. Ông dừng lại phía trên một con đê. Eisenhower giúp Schorr lên máy bay và Hacker cùng hai vệ sĩ vào ẩn bên trong. Hai lính Quân lực Cộng hòa mặc quần đùi đầy bùn từ đồng ruộng lên theo họ. Trong lúc đó , súng liên thanh bắn xả vào quân Bắc Việt cách đấy 25 mét.

Khi trở lại vùng hạ cánh gần Bồng Sơn, họ đếm lỗ thủng trên thân máy bay.Chỉ có 9 lỗ. Trưởng phi hành đoàn làm nhiệm vụ bắn súng bị nhiều mảnh đạn ở chân do một viên đạn trúng két đạn và làm nổ một viên đạn 50.

Mười hai ngày tiếp đó , cả vùng chịu số phận thảm hại như Hoài An. Miền Bắc tỉnh Bình Định với 200.000 dân rơi vào tay những người cộng sản . Mặc dù đang đánh nhau trên cao nguyên, Vann nhiều lần trở lại vùng ven biển để khuyến khích quân lính chiến đấu, làm như anh có thể bảo nước biẻn ngừng cuộn sóng. Lực lượng vùng và quân đội tỉnh đào ngũ hàng nhiều nghìn. Hai tiểu đoàn cuối cùng của Trung đoàn 40 thậm chí không cố gắng bảo vệ căn cứ English của họ.Quân cảnh để những người bị thương chết trên đường băng và bán chỗ cho lính đào ngũ ở những máy bay lên thẳng gửi đến giúp di tản, chia lợi với phi công lái.

Thời gian ấy, một thảm họa còn lớn hơn sắp tới trên vùng núi đồi. Do Vann khuyến khích, Du tập trung quân đội tương đương một sư đoàn, khoảng 10.000 người bảo vệ Tân Cảnh. Thị trấn này là vị trí xa nhất về phía bắc nên rất mạo hiểm. Nếu hàng bảo vệ dãy Rocket Chỏm đồi thất thủ và con đường 14 đi xuống phía nam và Kontum bị cắt đứt, toàn bộ trang thiết bị sẽ bị vây và cách ly. Nếu lực lượng bảo vệ Tân Cảnh hạ vũ khí, các toán quân thiếu ổn định như của Quân lực Cộng hòa không thể tổ chức một cuộc rút lui có trật tự trên con đường núi. Sư đoàn sẽ tan rã toàn diện. Trường hợp đó, nghiêm trọng hơn nữa là lực lượng cần thiết để bảo vệ Kontum không còn.

Người phó về quân sự của Vann, thiếu tướng George Wear bảo anh đang đứng trước một thảm họa. Đấy cũng là quan điểm của tham mưu trưởng, đại tá Joseph Pizzi. Điều khôn ngoan là tổ chức một chiến trường về chiều sâu để tiêu hao lực lượng tấn công và rút dần về các hàng phòng ngự kế tiếp nhau, mỗi lần như thế bắt quân địch phải trả giá đắt khi tiến lên. Nhưng như vậy cũng có nghĩa bỏ Tân Cảnh và tổng hành dinh gần Dak Tô, hy vọng sẽ chiếm lại sau này. Vann không vui vẻ gì khi nghe những gợi ý ấy. Anh nói về Quân lực Cộng hòa “ Lũ lợn con ấy phải chiến đấu hoặc tan xác “. Wear và Pizzi cố gắng thuyết phục, Vann hứa sẽ nêu vấn đề trong cuộc gặp sắp tới với tướng Abramas.

Khi trở lại vấn đề này, anh thông báo với họ câu trả lời là không : Tân Cảnh và Dak Tô phải giữ vì những lý do chính trị. Thực tế, Vann đã nói dối, không trình bày luận điểm của họ một cách vững tin vì anh đã cam kết riêng không bỏ hai thị trấn ấy. Khi Abrams đến Pleiku, Wear xúc động phát triển luận điểm của mình trong cuộc gặp vị tướng chỉ huy, với Vann và Du. Ông nói với Abrams vị trí Tân Cảnh là “ một thảm họa đang treo lơ lửng “. Vann rất mến Wear, đã cố đề nghị ngôi sao thứ hai cho ông này, nóng nảy gợi ý sẽ bàn bạc riêng sau đó. Abrams cũng không bằng lòng. Ông cho những lo sợ ấy là chủ trương thất bại.

Sự may rủi của Tân Cảnh càng đáng ngại hơn vì tính cách chỉ huy sư đoàn, đại tá Lê Đức Đạt, người Vann đã cố làm cho bị cách chức vì tham nhũng khi còn là tỉnh trưởng ở vùng Quân đoàn 3 năm 1967. Đạt bị kết tội trong thời kỳ ấy tuy có quan hệ với cấp cao vì quyền lực của tướng Kỳ yếu đi còn tổng thống Thiệu tăng lên và ông ta không thể xoay xở để phù hợp với hoàn cảnh mới. Sau đó, ông được phục hồi, trở thành chỉ huy phó Sư đoàn 22 vào năm 1970. Hai năm sau, sợ Đạt chiếm vị trí chỉ huy trưởng Vann đẩy anh ta đi với cớ lười biếng, và đề nghị một người khác. Nhưng Du không thể chống đối việc thăng cấp Đạt vốn có những quan hệ khá cao đối với ông. Đạt, một người thanh mảnh, nhanh nhẹn và đa cảm, hút thuốc lá Anh Craven A liên tục. Không bao giờ ông ta có thuốc trong người. Khi muốn hút, ông bật ngón tay và một trợ lý đưa tới, bật lửa cho ông.

Ngày 20 tháng Tư tổng hành dinh báo cho Du sẽ rút lữ đoàn không vận thứ hai của ông. Du và Vann phải giữ Rocket Chỏm đồi ở giữa đã yếu đi vì mất căn cứ Charlie ngày 14, với lữ đoàn còn lại và một toán biệt kích. Lữ đoàn và ban tham mưu sư đoàn không vận được gửi tới Quân đoàn 1 để bảo vệ Huế. Bất kể tính lạc quan trong giác thư ngày 12 tháng Tư của Vann báo trước sự sụp đổ của những người cộng sản trên tất cả các mặt trận, quân Bắc Việt đang chinh phục toàn bộ tỉnh Quảng Trị thuộc quân đoàn 1, phía nam vùng phi quân sự và bây giờ đe dọa Huế.

Nếu king đô hoàng gia cũ mất, Thiệu cũng đổ theo. Vì vậy, phải có những lựa chọn khó khăn. Toán biệt kích chuyển cho Du là đơn vị rảnh rang duy nhất. Tất cả các đơn vị dự bị khác đều bổ sung vào Quân đoàn 1 hoặc mặt trận Campuchia đang đe dọa Sài Gòn .

Ngày 21 tháng Tư, trong lúc Vann đang ở Sài Gòn dự hội nghị chiến lược với Abrams, căn cứ Delta, điểm xa nhất về phía nam của hàng Rochet Chỏm đồi thất thủ. Sức ép của quân Bắc Việt mạnh hơn sự kháng cự của lực lượng không vận. Tình hình Tân Cảnh cũng trở nên bi thảm. Kế hoạch của Vann dự kiến quân địch sẽ bị đập nát trước các công sự của anh không dự kiến Quân lực Cộng hòa ẩn mình và chờ đợi trong các hầm hố và lô cốt. Anh muốn lính Sài Gòn ra tiếp xúc để trọng pháo và máy bay dội bom đạn xuống quân Bắc Việt đang hoạt động, phải chỉ ra những vị trí mấu chốt và phải phản công lấy lại đất đai đã mất. Thay vì việc đó, Đạt chỉ chiếm một số vị trí cao xung quanh thị trấn và ngồi dưới đất. Ông ta không muốn động đậy, thậm chí không cử quân tăng cường hoặc vực dậy một trong những tiểu đoàn bị tấn công. Sư đoàn 2 bộ binh Bắc Việt cô lập dần những vị trí phòng thủ của ông len lỏi giữa các vị trí ấy, mỗi lúc càng tiến gần đến công sự chỉ huy của Đạt.

Khi cố vấn, đại tá Phillip Kaplan bảo ông điều quân ra chiến đấu, Đạt giải thích lính Bắc Việt hơn hẳn lính miền Nam, không thể làm gì được đối với họ. Nếu điều quân họ sẽ bao vây và tiêu diệt hết. Ông ta xử sự như phần đông chỉ huy khác của Quân lực Cộng hòa trong hoàn cảnh ấy : ẩn nấp trong công sự, cho rằng quân của ông giữ được khá lâu để không lực Hoa Kỳ buộc quân địch phải rút lui.

Việc bảo vệ Tân Cảnh có hiệu quả đặt ra vấn đề đánh và đánh trả dữ dội trên một vùng đất khó khăn, một trận đánh mà Quân lực Cộng hòa không tiến hành được. Vann đưa đội quân anh cố sử dụng để thực hiện mục tiêu của mình vào một cuộc đụng độ quá sức. Anh tìm cách kích thích Đạt trở thành một chỉ huy như anh mong muốn. Một tối họ ngồi trong phòng lô cốt trước tấm bản đồ có những chỉ dẫn đáng lo ngại. Vann gõ trên bản đồ, giọng mũi khàn khàn khô khan miêu tả Đạt phải làm thế nào để sống sót.

-   Đại tá Đạt, ông sẽ là người chỉ huy đầu tiên của Quân lực Cộng hòa để mất đơn vị, ông sẽ bận ngập đầu và bị tiêu diệt nếu ông không …
-   Ồ , không, điều ấy không xảy ra đâu. Đạt trả lời.

Điều ấy bắt đầu xảy ra sáng ngày chủ nhật 23 tháng Tư năm 1972. Một tiểu đoàn bộ binh Quân lực Cộng hòa chống lại quân Bắc Việt gần chỗ trú quân Tân Cảnh. Việc bắn phá tăng đều đặn từ thứ sáu bây giờ đạt nhịp điệu mỗi phút một loạt đạn súng cối, trọng pháo và rốc két. Độ chính xác đủ lớn cho thấy có những nhóm nhỏ quân địch vào cách mấy trăm mét làm quan sát viên. Phil Kaplan được báo một xe tăng bị bắn trúng trên đường vào chính. Ông rời boong ke cùng người phó ra xem đi trong đường hầm tránh đạn. Một người lính Quân lực cộng hòa nói tiếng Anh bảo đã thấy một tên lửa bay trên không đâm vào chiếc xe. Tên lửa chống tăng chỉ huy bằng vô tuyến điện, vũ khí đáng sợ vì tính chính xác dù cách xa, được một sĩ quan Không quân Pháp sáng chế những năm 50. Người Nga phát triển thành một loại mạnh hơn gọi là Sagger chưa bao giờ thấy ở Việt Nam . Kaplan đang tiếp tục hỏi người lính thì một Sagger khác bay phía trên, rít lên và đến xuyên thủng một chiếc xe nữa cách đấy khoảng 60 mét phía trong vành đai.

Chậm hơn một ít trong buổi sáng đến lượt trạm chỉ huy. Có cái gì đó, chắc một Sagger khác xuyên qua các bao cát chỗ gần lỗ thông hơi, làm nổ tung phòng điện đài, đốt cháy xà ngang trên trần. Gỗ thấm creosote hoặc chất tương tự tỏa khói đặc ngòm. Không ai nghĩ đến trang bị máy cứu hỏa và trong lô cốt không có thùng nước. Chẳng mấy chốc mọi người ngạt thời, dẫm lên nhau chạy ra cửa.

Ban tham mưu sư đoàn 22 biến thành một đống túi cát bốc khói, xà ngang cháy đổ xuống chiếc này nối tiếp chiếc khác. Một trạm chỉ huy tiếp theo được bố trí trong một hầm tránh đạn gần đấy và những người bị thương được trực thăng đưa đi trong buổi chiều. Kaplan chỉ có một vết rách ngoài da, đại tá Đạt nguyên vẹn nhưng thiếu tá John Wise bị thương nặng ở đầu và cánh tay. Khoảng một chục nhân viên ban tham mưu cũng bị thương nặng, không kể khoảng bốn chục lính ở trong vành đai. Vann từ Pleiku đến ngay giám sát việc di chuyển khó khăn vì không ngớt bị bắn phá. Vann không tìm cách tự bảo vệ. Trước khi anh trở lại Pleiku, Kaplan bảo anh nếu sự việc tồi tệ hơn, các cố vấn sẽ tập hợp lại để di chuyển đi ở một sân trực thăng khác phía tây tuyến phòng ngự mà trước đây máy bay Cobras dùng làm chỗ đỗ.

Suốt ngày chủ nhật, quân Bắc Việt tiếp tục bắn tên lửa vào những xe tăng đậu trong vành đai. Trong số tám xe hoạt động buổi sáng, đến chiều chỉ còn một chiếc. Tối đến Đạt lấy một chiếc ghế, ngồi xuống và nói với Kaplan “ Ngày mai chúng ta sẽ bị chiếm “.

Mười giờ tối, họ được báo cáo các lực lượng tỉnh trong một ấp phía tây bắc gần đường 14 nghe tiếng xe tăng. Rồi một tiểu đoàn đóng trên độ cao nhìn xuống đường thông báo qua điện đài cũng nghe tiếng xe bọc thép và thấy đèn pha của đoàn xe. Kaplan đề nghị Không quân gửi đến một máy bay C-130 Spectre có trang bị do thám bằng tia hồng ngoại. Phi công thông báo “ Trên đường có 11 chiếc xe tăng “. Họ tiến về phía đông Dak Tô. Đại úy Richard Cassidy, cố vấn của huyện chạy vội đến cửa ra vào Dak Tô, thấy ánh đèn pha ngụy trang của xe quân sự cách đấy 500 mét. Chiếc máy bay Spectre thả một chùm pháo sáng; Cassidy thấy đoàn xe tăng ngoằn ngoèo tiến về phía mình. Ông hét lên “ Họ bắn vào chúng ta đấy “. Nhưng những chiếc xe tăng không nổ súng. Cassidy không phải sợ. Xe bọc thép được lệnh bỏ quan nơi đồn trú của ông, đi qua trước mặt không bắn phát nào.

Quân Bắc Việt tiến hành một cuộc hành quân họ gọi là “ đánh vào đầu rắn “. Đây là một chiến thuật cũ thường dùng trong chiến tranh nhưng có vẻ luôn luôn mới khi thực hiện bất ngờ. Các lực lượng cộng sản không quan tâm đến những căn cứ Nam và Sáu cùng tất cả những tiểu đoàn xung quanh mà xông thẳng vào tổng hành dinh của Đạt. Mười lăm chiếc tăng, không phải mười một, tiến xuống phía nam là những T-54 Xô viết của những năm 50, thuộc về Sư đoàn 2. Chúng đi theo đường mòn Hồ Chí Minh trong tháng Hai, kéo theo những rơ moóc đạn dược và các bình đi ê den, chờ ở Lào hai tháng và vào lại Việt Nam hai tuần lễ trước. Những ngày cuối cùng trước cuộc tấn công, chúng giấu mình phía trên Tân Cảnh trong các thung lũng gần những con đường mòn ra đường 14.

Sự hoài nghi không hợp lý của Vann về việc có xe tăng Bắc Việt trên vùng đất của anh, góp phần vào tác dụng bất ngờ. Tuy nhiên thật lô gíc, nếu quân địch dùng xe tăng tấn công ở Quân đoàn 1 và đưa những chiếc khác xuống tận Quân đoàn 3 không có lý do gì họ không làm thế ở Quân đoàn 2.Nhiều bằng chứng xác nhận điều ấy : những tù binh và lính đào ngũ đã nói đến xe tăng, lính tuần tra của Quân lực Cộng hòa tìm thấy dấu vết bánh xích ở Lào và thung lũng phía tây hàng Rocket Chỏm đồi, một tiểu đoàn T-54 khác trong Sư đoàn 320 Bắc Việt đã vào miền Nam Việt Nam .

Thói kỳ quái tự mình xác định mọi báo cáo trở thành một dạng tự phụ của Vann đến mức anh không kể đến việc gì nếu không tự mình thấy. Mỗi lần người ta nói có xe tăng, anh lên máy bay đi tìm, không thấy. Từ đó, anh suy luận những báo cáo ấy dựa vào sự phóng đại của những người sợ hãi và chỉ là những chiếc PT-76, loại xe lội nước nhỏ quân Bắc Việt thường dùng , lớp bọc thép mỏng , không tấn công được.

Thế nhưng trước đó hai ngày, ba chiếc T-54 được sử dụng trong đợt tấn công cuối cùng vào căn cứ Delta; Vann lúc ấy đang ở Sài Gòn và khi về không chú ý vào báo cáo. Khi Kaplan qua đài thông báo với anh máy bay Spectre xác nhận có xe tăng, anh trả lời với lối hóm hỉnh trước cảnh chết chóc và phản ứng tự vệ “ Nếu thế, xin hoan nghênh ! Đây là những chiếc đầu tiên chưa từng thấy ở Quân đoàn 2 “.

Vượt qua tác động của sự bất ngờ không hẳn là thắng trận. Quân lực Cộng hòa có đủ thì giờ cần thiết để ngăn chặn và có đủ vũ khí để tiêu diệt xe tăng. Những chiếc T-54 tiến lên đơn độc không có bộ binh đi kèm, dễ bị sát thương đối với đối thủ trang bị vũ khí chống tăng, đặc biệt về đêm, bô binh di chuyển không bị trông thấy và tổ chức phục kích kín đáo. Tuy nghi ngờ, Vann vẫn chú ý để các đội quân của Sư đoàn 22 và lực lượng huyện Dak Tô được vũ trang hàng trăm súng M-72, loại ba dô ka cải tiến dùng thời kỳ ấy. Binh lính được huấn luyện sử dụng và mỗi đại đội có những toán chuyên dùng. Một trong những ca nông không giật cỡ 106 của sư đoàn, loại tử thần đối với xe bọc thép, được bố trí dọc đường cùng đầy đủ phụ tùng. Trọng pháo của sư đoàn cũng sẵn sàng và Đạt còn những chiếc tăng đậu cách đấy vài cây số thay thế cho những chiếc bị Sagger phá hủy.

Lực lượng cảnh sát tỉnh giữ chiếc cầu đầu tiên xe tăng Bắc Việt phải vượt qua, có súng ba – dô – ka . Họ nhận được lệnh phục kích nhưng bỏ trốn. Khi Kaplan bàn với Đạt cho triển khai các toán chống tăng của Quân lực Cộng hòa, ông ta trả lời :

“ Đồng ý, sẽ làm “.

Nhưng quân lính vẫn bám chặt vào hầm hố.

Khi Kaplam bảo cho gọi những xe tăng khác đến, Đạt trả lời :

“ Tôi ra lệnh rồi “.

Nhưng xe tăng không động đậy. Còn chiếc ca nông 106 đặt ở bờ đường 14 không hề bắn một loạt đạn.

Trong thời gian đó, chiếc máy bay ném bom Spetrec cố làm công việc thay Quân lực Cộng hòa. Các kỹ thuật viên khéo léo đưa lên máy bay một súng cối 105. Khẩu súng bắn rất chính xác vì có máy tính chỉ huy và máy tính được thông báo bằng máy do thám. Bắn ba đợt phi công tuyên bố đã “ bắn trúng “ một chiếc tăng. Nhưng máy bay Spectre không được báo trước, không mang theo vũ khí chống tăng mà chỉ là đạn nổ bình thường. T-54 là một loại xe to khỏe. Ba người trong xe bị thương; chỉ một chiếc bị bỏ lại. Cảnh sát bắt người lái, một người miền Bắc 18 tuổi dẫn vào đồn chỉ huy địa phương. Một nhóm nhỏ quân Bắc Việt đến can thiệp ngay, đuổi lính cảnh sát, đưa chiếc tăng lên đường đi theo những chiếc kia về hướng trạm chỉ huy của Đạt.

Kaplan gọi trọng pháo can thiệp với chiếc Spectre điều chỉnh tầm bắn. Xe tăng tản ra ngay từ loạt đạn đầu. Các quan sát viên Bắc Việt hướng dẫn bắn vào đồn trú quân, bây giờ tổ chức phản pháo. Các pháo thủ Quân lực Cộng hòa chạy vào hầm trú ẩn ngay từ những viên đạn cối đầu tiên.

Người phó của Kaplan kêu lên với Đạt :

-   Đại ts, cho trọng pháo bắn đi chứ !
-   Họ đang bắn đấy, đại tá ! Đạt trả lời.

Trở lại Tân Cảnh sáng ngày 24 tháng Tư năm 1972 là John Vann viết bản di chúc đời mình. Lần cuối cùng anh về thăm em trai ở Norfolk, Frank J. hỏi anh có sợ chết ở Việt Nam không. Vann đã trả lời “ Lạy Chúa, không “. Anh thoát khỏi biết bao tình huống xấu nên tin chắc chiến tranh không bao giờ đòi nợ anh. Nhưng sau bước đầu cuộc tấn công anh bắt đầu đặt lại câu hỏi. Anh viết thư cho Dan Ellsberg nói việc phòng không của quân địch nguy hiểm đến nỗi lần này rất có thể không thoát khỏi.

Anh đã nói nhiều lần với Annie đã bố trí đảm bảo tương lai cho con gái nếu có điều gì xảy ra với anh. Thực tế, anh chẳng làm gì cho cô bé Việt Nam . Vả lại anh chẳng có gì nhiều. Khoản trợ cấp đóng góp cho vợ và các con ở Littleton cản trở anh dành tiền lại. Anh có món bảo hiểm nhân mạng khoảng 85.000 đô la và nếu để lại vợ góa, chị sẽ được lĩnh trợ cấp của quân đội và cơ quan phát triển quốc tế. Nhưng trong tình thế hiện tại, Annie không có quyền gì lĩnh trợ cấp, tốt nhất cũng chỉ được một phần nhỏ tiền bảo hiểm của anh. Bận bịu về cuộc tấn công thậm chí Vann không vận động bước đầu để tuyên bố việc cưới Annie ở Đại sứ quán trong những lần đến Sài Gòn . Hiện tại chị sống với con gái trong một ngôi nhà ở bên bờ biển Nha Trang, tư dinh chính thức của Vann ở Quân đoàn 2. Di chúc mới nhất của anh viết trong cuộc hành quân năm 1968, lúc con gái mới 6 tháng, để lại tất cả cho Mary Jane và những đứa con Mỹ, đăng ký ở Colorado, đấy là bản duy nhất có giá trị.

Hôm ấy, khi đi nằm ở Pleiku lúc hai giờ sáng, rõ ràng anh không thể làm gì để ngăn chặn những chiếc xe tăng và cần ngủ một ít cho ngày sắp sáng. Anh bị đánh thức dậy lúc sáu giờ rưỡi, được biết Kaplan đòi anh lập tức đến Tân Cảnh. Vội vàng mặc quần áo , anh cùng phi công lái chiếc Bell Ranger nhỏ bay đi Tân Cảnh ngay. Có lẽ anh sẽ di tản được các cố vấn trong vòng vây của những chiếc xe tăng đang xông lên. Có lẽ không được.

Vann luôn mang trong túi áo một cuốn sổ tay nhỏ cỡ bảy trên mười phân để ghi chép. Trong lúc bay, anh lấy ra mở trang có tiêu đề in “ Nguyện vọng cuối cùng và di chúc”, viết lúc 7 giờ và ngày tháng ở góc trên bên phải rồi ghi bên dưới “ Vợ tôi … và con gái tôi .. cùng chia sẻ tài sản của tôi. Tất cả những gì tôi có ở miền Nam Việt Nam phải được bán đi và tiền giao lại cho vợ tôi … “ ( Vì những lý do tế nhị, tác giả không để tên gia đình Annie và Lee. Cũng không cho một chỉ dẫn nào về những điều đã biết ). Anh ký tên “ John Vann “ rồi bỏ cuốn sổ vào túi áo. Có vẻ anh nghĩ nếu người ta thấy nó trong người anh, người ta sẽ cung cấp cho cuộc sống của Annie và con gái Việt của anh.

Anh không nói mình đã viết gì với viên phi công , chuẩn úy Robert Richards. Những đám mây lướt nhanh của gió mùa sắp tới, sương sớm và khói cháy do bom đạn che khuất Tân Cảnh. Richards xuống phía dưới mâu. Một chiếc Ranger khác do đại úy Dolph Todd lái ở ngay phía sau máy bay của Vann. Hôm trước, Todd tình nguyện hỗ trợ Vann trong ngày ấy. Anh thích những chuyến bay nguy hiểm nhưng không biết lần này có việc gì đang chờ đợi anh.

Vann nói qua điện đài với Kaplan, Mc Clain và bảy cố vấn khác. Kaplan đã mất hy vọng kích thích một sự kháng cự và ra lệnh cho toán của mình rời bỏ hầm tránh đạn dùng lúc bình minh. Ông kiểm tra hai người trong bọn họ mang điện đài theo trước khi đi để có thể liên lạc với máy bay lên thẳng. Đạt và ban tham mưu theo người Mỹ ra khỏi hầm trú ẩn và sau mấy phút có vẻ lại yên ổn. Để vô hiệu hóa đối thủ, trong lúc xe tăng tiến lên, quân Bắc Việt tăng cường bắn phá mỗi phút đến ba, bốn loại súng cối, trọng pháo và rốc két. Vann, Richards và Todd qua điện đài biết họ có nguy cơ hạ cánh trên mìn. Thực vậy, các cố vấn thông báo họ đang ở giữa một bãi mìn bảo vệ phía tây vùng phòng thủ.

Kế hoạch lúc đầu về di tản của Kaplan tỏ ra không thực hiện được. Vùng đậu máy bay Cobras, chỗ Vann phải đến tìm họ bây giờ dưới lưới lửa của hai chiếc T-54 chốt ở cửa ra vào và bộ binh Bắc Việt đến phía sau. Một chiếc tăng thứ ba tiến lên đúng dưới một bể nước bê tông, cũng đe dọa vị trí của họ. Kenneth Yonan, một đại úy 23 tuổi từ trường WestPoint ra, trèo lên đỉnh bể nước với người đồng chức Việt Nam chỉ đạo bắn vào xe tăng, việc làm trở nên vô ích vì mây và sương mù. Anh bị xe tăng cầm tù trên ấy và không bao giờ người ta gặp lại anh nữa.

Trung sĩ Walter Ward, hạ sĩ quan hành chính, tìm một cách đi qua bãi mìn cách xa chiếc tăng ở bể nước. Trong số 1200 sĩ quan và lính Việt Nam của tổng hành dinh, 900 làm công việc truyền tin, công binh và những công việc phụ. Khi những chiếc T-54 đi về hướng cửa vào vành đai, họ sợ hãi, chạy trốn qua dây thép gai và bãi mìn bao quanh Tân Cảnh. Nhiều người nhảy lên xe riêng của mình. Ward gợi ý dẫm lên bước chân  những người đi ra yên ổn để chắc chắn không bước vào chỗ nguy hiểm. Các cố vấn dừng lại trên  một con đường cũ đi qua khoảng đất chênh cao hơn bãi mìn. Kaplan cho rằng chỗ ấy có thể che dấu một phần máy bay lên thẳng khi đậu xuống. Những người Mỹ nằm xuống đất, xung quanh là lính Quân lực Cộng hòa đang hoảng sợ.

Nhìn từ trên trời, chỗ này xem chừng không phải là nơi ẩn nấp tốt cho Bob Richards. Anh chỉ thấy ống canông 100 ly trên ụ tăng dưới bể nước chĩa thẳng vào chỗ các cố vấn nằm mà anh sẽ hạ cánh.

Có mìn hay không Richard cũng liều mạng đậu xuống, chân máy bay sát mạnh vào mặt đất. Todd đến ngay sau đó, Kapaln đưa ba trong các cố vấn leo lên trong mỗi máy bay. Ông không muốn mạo hiểm chở quá nặng. Kaplan và Mc Clain, sĩ quan cấp trên, ở lại chờ chuyến sau cùng viên đại úy mang điện đài . Richards cất cánh, mắt nhìn vào khẩu ca nông to lớn. Anh rất ngạc nhiên thấy nó không bán, cũng không có ai khác bắn.

Hai lính Nam Việt Nam ở trong bãi mìn bám vào cột ăng ten đài một bên trực thăng khi máy bay cất cánh; hai người khác bám vào càng. Vann thấy cũng cảnh ấy ở máy bay của Todd. Lúc đấu, anh dự kiến chuyển các cố vấn đến trại Lực lượng đặc biệt ở Bến Hét, cách vài chục cây số về phía tây, một trong những hòn đảo nhỏ hiếm hoi lực lượng Sài Gòn còn giữ được dọc biên giới Lào và không bị đe dọa vì một cuộc tấn công sắp tới. Lên trên không những chiếc máy bay chịu được quá tải nhưng Vann sợ những người lính Quân lực Cộng hòa rơi xuống chết nếu đi xa. Anh bèn quyết định để tất cả xuống vùng Dak Tô II chỉ cách đấy hai cây số. Anh biết quân Bắc Việt sẽ đến chiếm nhưng có một chiếc Huey đang bay, sẽ đến trước họ. Vann gọi phi công lái Huey, ra lệnh đến ngay chở các cố vấn đi Pleiku.

Richards và Vann trở lại tìm Kaplan và hai người kia. Nhưng không may. Để chắc chắn, họ bay sát mặt đất và trong mây thấp. Một người lính Bắc Việt thấy họ đến gần ra khỏi bụi cây bắn một loạt với khẩu AK-47 vào buồng lái. Richards giật mạnh máy bay vòng lên những đám mây. Đạn vào buồng lái, phá hỏng điện đài, đâm thủng sàn dưới chỗ Vann ngồi. Anh chắc chắn bị thương hoặc tệ hại hơn nếu không có tay lái nhào lộn của phi công và đạn AK-47 cũng tương đối nhỏ và ít nhanh thoáng, kẹt vào sàn lỗ tổ ong bằng nhôm mất hết sức mạnh.

Vann gọi Todd qua đài cấp cứu để anh ta đi tìm ba người cố vấn cuối cùng chở đến Pleiku, chỗ anh cũng sẽ tới. Trong lúc bay, mức xăng hạ xuống một cách bất thường. Khi hạ cánh xuống tổng hành dinh Quân đoàn 2, Richards thấy chất đốt chảy qua những lỗ thủng ở thân máy bay.

John Vann không chậm trễ. Anh nhảy lên máy bay của Todd ngay khi Kaplan và hai cố vấn vừa xuống. Anh lại đi Tân Cảnh, người trợ lý Việt Nam. Cai nhảy lên ghế sau đi theo anh. Vann bảo Todd hạ xuống gần khu đất Dak Tô II để cứu một thiếu tá Mỹ, cố vấn của tiểu đoàn lính dù địa phương. Trên đường băng bây giờ quân địch đã chiếm, lực lượng Sài Gòn hoàn toàn hoảng sợ. Viên thiếu tá Mỹ và người phiên dịch lên máy bay và trong lúc Todd cất cánh, Vann dùng báng súng đánh những lính dù Việt Nam bám vào càng phía anh ngồi. Nhưng phía sau Todd cũng có nhiều người như thế làm máy bay mất thăng bằng, một trong những cánh chong chóng xát vào đất. Chiếc máy bay lảo đảo, bẹp nát. Cai bị kẹt ở dưới. Vann kéo anh ra, lấy một chiếc đài trong xác máy bay hướng dẫn máy bay tiêm kích ném bom Cobras bắn vào quân Bắc Việt . Những người cộng sản tiến lại gần hơn; Vann bắn liên thanh tưới đạn vào họ để tự bảo vệ. Một phi công Huey đậu xuống được, giải thoát cho Vann, Cai, Todd và hai cố vấn khác khỏi làn đạn của bộ binh Bắc Việt đang tiếp tục bắn vào máy bay.

Vann để Cai lại trạm y tế Kontum chữa vết thương ở vai, lấy một trực thăng khác trở lại Tân Cảnh. Trải qua những lúc nguy hiểm, anh nhớ lại bản di chúc , dừng lại Võ Đình chỗ đại úy Peter Kama, người Hawail , là cố vẫn lữ đoàn. Anh xé tờ giấy trong sổ tay, nhờ Kama ký làm chứng và để lại cho ông này bản di chúc.

John Vann không thể ở lại trung tâm hành quân của Quân đoàn 2 trong công sự Pleiku nghe Du than thở. Anh chỉ đạo trọng pháo tấn công xe tăng, ra lệnh bỏ bom các kho vũ khí xung quanh Tân Cảnh, cho di tản các cố vấn của các căn cứ lân cận và đi tìm hai người ở Dak Tô. Anh phải hoạt động, dù kết quả ra sao, trong thảm họa mà anh đã góp phần gây ra.

Nhiều nghìn lính Quân lực Cộng hòa thoát được chạy về phía Kontum. Họ chạy nhanh đến nỗi dân miền núi chứng kiến gọi là “lính thỏ”. Đạt đã chết. Cuối cùng, ông ta rời bỏ hầm tránh đạn, cầu khẩn Du gửi cho một chiếc trực thăng để di tản không được rồi đến khu Dak Tô II, bị thương ở đó và có lẽ đã tự sát bằng một phát súng ngắn. Kaplan và McClain may mắn vì chức vụ cao phải ở lại đi sau cùng với Steward. Ba trong số sáu cố vấn được Richards và Todd đưa đến Dak Tô II bị tử nạn khi chiếc Huey của Vann cho đến chở bị bắn hạ khi cất cánh. Trung sĩ Ward chở họ qua bãi mìn là trong số người sống sót.

Nếu việc đuổi theo là truyền thống của quân Bắc Việt thì có lẽ quá trình chiến tranh đã thay đổi. Tân Cảnh sụp đổ đã tạo những điều kiện lý tưởng, trong lúc này quân địch mất tinh thần đến nỗi cứ không ngừng chạy trốn mà cũng không biết vì sao. Nếu các chỉ huy quân Bắc Việt củng cố lại đoàn xe tăng trong đêm 24 tháng Tư năm 1972 ấy, chở mấy tiểu đoàn bộ binh bằng xe Jeep,ô tô, xe bọc thép Quân lực Cộng hòa bỏ lại tất cả trong vùng Tân Cảnh gồm 200 xe, và nếu họ thọc vào 40 cây số đường 14 đến tận Kontum, thành phố đã thuộc về họ trong buổi sáng. Hoặc nếu không muốn mạo hiểm với một cuộc hành quân chớp nhoáng, họ có thể đuổi theo quân địch, tranh thủ thời gian bình tĩnh đi xuống Tân cảnh và dãy Rocket Chỏm đồi một số ngày, thậm chí một tuần lễ hoặc mười ngày thì Kountum “ sẽ tự tan rã “, sau này Vann thừa nhận như vậy.

Và nếu Kontum bị mất năm 1972, nỗi hoảng sợ bao giờ cũng ngầm ẩn trong quân đội Sài Gòn sẽ bung ra thành một bệnh dịch không kiểm soát nổi khắp Quân đoàn 2. Cao nguyên sẽ bị mất và phần lớn vùng ven biển miền Trung cũng không giữ được. Tỉnh Bình Định đã chao đảo sau khi thất thủ các huyện phía bắc, những người cộng sản đã có thể chiếm hải cảng Qui Nhơn, đe dọa những thành phố lớn ven biển khác sau khi các Sư đoàn Bắc Việt ở cao nguyên liên lạc với “ Sao vàng “ ở Bình Định. Các đơn vị cộng sản sẽ không bị gián đoạn do thiếu tiếp tế vì đối phương bỏ lại khá đủ cho nhu cầu của họ.

Chính quyền Nixon nghĩ vùng ven biển sẽ được quân lính đánh thuê giữ thật đảm bảo. Với hàng trăm triệu đô la giúp về kinh tế và quân sự cho Nam Triều Tiên. Mỹ đã thuyết phục Seoul để hai trong số các sư đoàn của họ bảo vệ dọc bờ biển từ Nha Trang đến Qui Nhơn. Nhưng lính Triều Tiên không trụ lại một mình nếu các đội quân Sài Gòn tan rã xung quanh họ. Họ đã chối bỏ vai trò lính đánh thuê, vận dụng những chỉ thị mật của Seoul phải hạn chế tổn thất. Thậm chí họ không giữ liên lạc thẳng bằng đường 19 giữa các kho hàng ở bến tàu Qui Nhơn và các kho Pleiku. Hai tiểu đoàn của Sư đoàn Bắc Việt “ Sao vàng “ chiếm giữ con đường qua đèo An Khê vào giữa tháng Tư. Vann phải chửi rủa các tướng Nam Triều Tiên trong hai tuần để làm cho họ mở lại con đường. Trong lúc chờ đợi, anh đành phải tiếp tế hàng không hoặc tho một con đường khác dài hơn nhiều từ Nha Tranh mà cũng có thể bị cắt bất cứ lúc nào.

Việc đàm phán ở Paris đang cầm chừng. Tháng Giêng, Nixon đưa ra công khai những cuộc trao đổi bí mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ để chứng tỏ những người cộng sản Việt Nam ngoan cố. Đúng là họ cứng đầu, họ yên lặng để Nixon tiếp tục thách đố hai bên cùng rút quân. Bây giờ, cuộc chiến diễn ra có lợi , họ càng không lay chuyển hơn bao giờ hết, buộc Hoa Kỳ đơn phương rút quân về nước và xoa bỏ chế độ Thiệu để đổi lấy một thỏa thuận hòa bình. Nixon trở lại tập kích máy bay vào miền Bắc, chuẩn bị thả mìn phong tỏa Hải Phòng và các cảng khác. Nhưng chính kết quả ở miền Nam mới là đáng kể. Kissinger muốn có một sự thỏa hiệp, nếu các sư đoàn cộng sản nối liên lạc giữa cao nguyên và vùng biển, miền Nam sẽ bị cắt làm hai, không còn vấn đề gì lớn để đàm phán.

Joe Pizzi, tham mưu trưởng của Vann nhận thấy không khí hoảng sợ và biết Pleiku sẽ tan rã ngay nếu Kotum thất thủ. Dân chúng thành phố di tản, chỉ còn một phần tư so với trước cuộc tấn công, trong lúc sĩ quan Quân lực Cộng hòa dần dần chuyển gia đình và tài sản của họ trở lại Sài Gòn , Nha Trang hoặc một thành phố xa xôi khác. Để có một vé máy bay thường ngày của Hàng không Việt Nam , phải đút lót nhiều trăm đô la. Máy bay lên thẳng và các loại máy bay của Không quân Việt Nam không sẵn sàng cho các nhiệm vụ quân sự vì những người lái và phi hành đoàn để thời gian chuyên chở người và vật phẩm về vùng biển lấy tiền.

Một buổi sáng Pizzi phát hiện ra các kiểm soát viên hàng không đào ngũ nhiều đến nỗi khó thực hiện việc lần lượt kiểm tra vùng đất chính của Pleiku. Ông ta xây dựng một kế hoạch bí mật di tản tất cả những người Mỹ bằng máy bay lên thẳng và C-130 từ căn cứ Mỹ Holloway phía bên kia thành phố. Vann thán thành kế hoạch ấy vì không có sự lựa chọn nào khác. Pizzi bắt đầu giảm số lượng người di tản bằng cách chuyển đến Nha Trang tất cả những người Mỹ không thật cần thiết ở Pleiku.

Vann giao cho Cai kín đáo lấy những gì thiết yếu trong tủ và những tài sản riêng của anh chuyển theo các chuyến bay hành chính về Nha Trang. Anh cũng gửi đi một chiếc hòm nhỏ, sơn nâu, đóng khóa chỉ riêng anh có chìa. Anh gọi là “ chiếc Hhp “ từ đó không bao giờ rời anh. Nó đựng những album ảnh của anh và các anh chị em ở Norfolk, ảnh anh làm một bước nhảy mạo hiểm trên cát ở Ferrum hoặc mặc đồng phục học sinh sĩ quan máy bay trên một chiếc B-29 cùng những ảnh của Mary Jane và các con ở Rochester, Nhật Bản hoặc Đức. Trong đó có giấy tờ binh nghiệp, huân huy chương và những phần thưởng , chiếc hộp thuốc lá các nhà báo tặng năm 1963 về tinh thần can đảm và trung thực nghề nghiệp. Cũng có những bức ảnh của anh và các bạn làm tình.

Anh vừa cười vừa nói :

-   Nếu xảy ra bất cứ việc gì đối với tôi, nhờ các anh giữ gìn cần thận chiếc hộp này.
-   Có gì trong đó vậy ? Một thuộc hạ hỏi.
-   Có tôi, Vann trả lời.

Quân thù của Vann để chậm cuộc tấn công Kontum sau khi Tân Cảnh bị mất 20 ngày cho anh thời gian đang cần. Kinh nghiệm quân đội Bắc Việt chống lại việc đuổi theo, buộc phải xây dựng một kế hoạch và chuẩn bị có phương pháp cho mỗi đợt chiến dịch. Vann tranh thủ từng ngày một.

Tướng Du, “ nô lệ “ của anh như những người Việt khác gọi làm anh mỏi mệt như Cao đã làm 10 năm trước đây. Tệ hơn nữa, ông ta có ý đồ chống lại anh, bí mật mưu mô bỏ vùng cao nguyên. Tân cảnh tan vỡ được hai ngày thì Thiệu triệu tập Du về Sài Gòn ra lệnh giữ “ Kontum bằng bất cứ giá nào “. Ngay tối hôm đó, trao đổi với Thiệu, ông đến gặp tướng Cao Văn Viên, tham mưu trưởng quân đội hỗn hợp, trong tâm trạng vô cùng bối rối. Ông giải thích, Kontum và Pleiku đều không bảo vệ nổi. Phải bỏ hai nơi này cùng Ban Mê Thuột, trong vùng núi quá về phía Nam và di chuyển tất cả các lực lượng Sài Gòn vùng bờ biển. Du muốn Viên giúp ông thuyết phục Thiệu việc rút lui từng mảng này. Ông nói thêm, rút bảo cao nguyên cũng nằm trong kế hoạch người Mỹ.

Viên trả lời chưa ai nói với mình điều đó và lệnh cho Du trở về Pleiku tìm cách bảo vệ kontum. Du không nói với Vann câu chuyện giữa ông và Viên. Thần kinh quá căng thẳng và không ngủ được, đêm đã khuya, ông điện thoại cho Thiệu và Viên lại đề nghị cho phép rút lui. Thiệu muốn đuổi ông ta ngay nhưng Viên không tìm được một tướng nào khác thay thế. Ông kêu gọi nửa tá viên tướng hai, ba sao nhận chỉ huy Quân đoàn 2. Một số trả lời thầy bói của họ đã nghiên cứu tử vi, thấy năm nay không thuận lợi đối với họ. Những người khác cho rằng mình đang ốm yếu. Không người nào muốn chấp nhận, họ xem tình hình vùng cao nguyên chắc chắn sẽ mất.

Đồng thời lúc đó Du phối hợp một kế hoạch với tỉnh trưởng Kontum và nhiều sĩ quan cao cấp của thành phố xúc tiến gấp việc rút lui. Ông ta suýt thành công vì bản thân Vann cũng chao đảo và thất vọng sau thất bại Tân Cảnh. Nhưng anh phục hồi lại đúng lúc, kịp ngăn chặn mưu đồ của Du. Sau đó, Viên tìm được một người thay thế : tướng Nguyễn Văn Toàn. Toàn đang bị bỏ rơi vì tha hóa quá đáng và có một vụ bê bối với gái đĩ. Vann đề nghị ông ta vớt lại sự nghiệp mình và tranh thủ một ngôi sao mới nếu tình nguyện nắm quyền chỉ huy Quân đoàn 2. Toàn, con người can đảm , đã chấp nhận ; Viên nhắc ông phải lắng nghe Vann.

Cơn giận dữ tăng gấp đôi sức mạnh của Vann. Trong một cuộc tranh luận với Ellsberg sau đợt tấn công dịp Tết, anh thừa nhận, nếu chế độ Sài Gòn không thay đổi trong lúc Hoa Kỳ rút bớt lực lượng ở Việt Nam, “ sẽ dẫn đến một tình hình tệ hại ; chúng ta sẽ bị bao vây khắp nơi và buộc phải tự chiến đấu để sống sót “. Đúng điều đó xảy ra với anh bây giờ. Thất bại làm u ám tình thế, anh không giành giật được những ngôi sao, không dự báo chiến thắng với những quan chức cấp cao được. Một người bị dồn đến bước đường cùng thật nguy hiểm. Vann đã là người như thế.

Weyand bảo anh có thể có một thiếu tướng như anh muốn làm phó, thay thế Wear đã di tản. Vann xin John Hill, xác nhận ông ngày chiến đấu tốt. Họ là người cùng thời, quen biết nhau trong một trại huấn luyện sau chiến tranh Triều Tiên, lúc đó Hill chỉ huy đại đội trong Sư đoàn 1 kỵ binh. Nhỏ người, vai gù, Hill thông minh, sáng tạo, nhất là thích đánh nhau. Thời gian chủ yếu trong sự nghiệp, ông ở đoàn bộ binh cơ giới trước khi được đào tạo về trực thăng và lên cấp thiếu tướng. Vann để Hill tự do trong lĩnh vực thông thạo : tổ chức bay và hỏa lực. Hàng ngày và liên tục, một chiếc Huey chỉ huy, được mệnh danh “ thép của ông chủ “  bay trên vùng trời Kontum để phối hợp những đợt tập kích của máy bay Cobras, những tiêm kích ném bom, những chuyến bay trực thăng quan sát tìm nơi tập hợp quân Bắc Việt chỉ mục tiêu cho B-52, những đợt tiếp tế của C-130 và Chinooks, các kế hoạch nổ súng của trọng pháo phòng thủ. Nguyên tắc của Hill là đảm bảo tất cả sự phối hợp trong sự hoàn hảo và không một cố gắng nào bị lãng phí. Đại tá không quân trong ban tham mưu của Vann muốn ở lỳ trong văn phòng mình tại Pleiku. Ông đuổi ông ta đi, thay thế bằng một người theo sát tất cả những hoạt động trên bầu trời Kontum.

Năm 1965, Vann chửi rủa những nhà lãnh đạo cao cấp Hoa Kỳ vì họ từ chối “ trực tiếp chỉ huy hoàn toàn mọi tạp nham ở Việt Nam “. Đó chính là điều anh đang làm. Anh vứt bỏ việc chỉ huy trên danh nghĩa ở Quân đoàn 2 và hoàn toàn khống chế Du. Bây giờ, anh có một sĩ quan quyết tâm bảo vệ Kontum. Đó là một người quen cũ, Lý Tòng Bá, nguyên chỉ huy những chiếc M-113 ở trận ấp Bắc, nạn nhân sự nóng giận của Vann trong ngày quyết liệt ấy. Họ đã làm việc cùng nhau khi Bá là tỉnh trưởng trong Quân đoàn 3 và Vann nhận thấy Bá không phải một mẫu mực chiến đấu thì ông ta cũng không pahỉ là một kẻ lừa đảo và là người quân nhân tốt nhất trong đa số các sĩ quan quân lực Cộng hòa. Quan hệ mới của họ chứng tỏ Van đồng hóa chế độ Sài Gòn đến mức nào : Bá không có người bảo trợ Việt Nam nào khác và những sĩ quan khác gọi ông là “ người của ông Vann “. Cuối tháng Giêng năm 1972, Vann đưa Bá bấy giờ là đại tá, chỉ huy Sư đoàn 23 bảo vệ phía nam cao nguyên. Một trong những trung đoàn của ông được cử đi bảo vệ Kontum trong tháng Tư; Vann không muốn rút đi của phía nam quá nhiều , khuyên Bá hài lòng trước tình hình đó. Nhưng Bá phản ứng, đòi phải có nhiều người hơn để chống cự. Vann nhướng bước và cử phần còn lại của sư đoàn đi Kontum.

Vann đưa tới một cố vấn Bá tin tưởng : đại tá Rhotenberry, một người Texas giản dị và to lớn, thường trở lại Việt Nam , ở lại bốn đợt, Cao Văn Viên gọi là “ Rhotenberry, con người phiêu lưu “.

Khi ông xuống sân bay Tân Sơn Nhất sáng 14 tháng Năm 1972, một máy bay hai động cơ Beechcraft chờ đưa ông đến thẳng Kontum mà cuộc tập kích đầu tiên, ấn định vào năm giờ rưỡi sáng. Trung đoàn cuối cùng của Bá đã được chuyển đến đấy hai ngày trước. Vann bay trên trận địa trong chiếc Ranger của anh nên Rhotenbery ngủ được mấy tiếng đồng hồ. Người ta đánh thức ông dậy, báo trước Vann sẽ đến tìm đưa đến trạm chỉ huy Bá bố trí trong một công sự của Lực lượng đặc biệt ở phía tây thành phố.

Với đơn vị quan trọng cuối cùng của Quân đoàn 2, mối nguy hiểm rất đáng kể; không người nào ở Sài Gòn , các nhà quân sự Mỹ cũng không nghĩ Kontum chống cự được. Người phó của Bá đào ngũ trong 24 giờ đầu trận đánh, lẩn trốn ở Kontum hy vọng trốn thoát. Vann ý thức được những nguy hiểm nhưng không phải là vấn đề quan trọng nhất đối với anh. Anh nó với Rhotenberry trong máy bay lên thẳng “ Lòng tin của tôi đang được thử thách. Chính tôi bố trí quân ở Tân Cảnh. Tôi bảo có thể phòng thủ được nưhng mặt trận tan vỡ. Bây giờ, sự nghiệp của tôi được thử thách vì tôi  nói chúng ta có thể phòng thủ Kontum. Nếu chúng ta thất bại, tôi sẽ không còn một lòng tin nào và đo đó không còn tương lai “.

Những người cộng sản tấn công với lòng hăng hái không yếu đi qua những năm chiến tranh nhưng họ đụng đầu với trường hợp không ai tự chủ được. Kontum ở trong thung lũng. Để chiếm lĩnh, quân Bắc Việt phải dồn quân trên những ngọn đồi khống chế con sông và vào thung lũng để tấn công dọc những con đường luôn luôn có trực thăng thám thính quan sát. Việc bắt làn sóng liên lạc và trực tiếp xác định vị trí cũng cho phép theo dõi những hoạt động của họ.

Trong giai đoạn chiến tranh mà kinh nghiệm và kỹ thuật công nghiệp đã nâng cao việc sử dụng máy bay ném bom càng làm họ dễ bị sát thương. Cơ quan chiến lược chỉ huy không quân qua việc bao vây Khe Sanh đã rút được bài học chỉ ba chiếc B-52 thay vì sáu chiếc đã có một tác động đủ phá hoại. Một hệ thống Radar mới cho phép đánh dấu các vị trí bạn trong khoảng cách một cây số. Rhotenberry và Bá không ngần ngại giảm xuống bảy trăm mét. Chu vi thả từ trên cao xuống, rộng một, dài ba cây số, có thể thay đổi ba giờ trước cuộc ném bom. Rhotenberry tính toán chính xác chương trình từng chiếc B-52 để có thể điều chỉnh thời gian và địa điểm tấn công khi đang hoặc sắp có một cuộc tập kích của quân Bắc Việt.

Ba tuần lễ thời hạn lùi lại cũng làm cho quân Bắc Việt phải trả giá với sự mất lợi thế từ những chiếc tăng T-54. Bá có thời gian tổ chức các toán quân , huấn luyện họ bắn vào vỏ xe bọc thép bằng súng ba dô ka mới. Trong thời hạn ấy, Lầu Năm Góc, theo yêu cầu của Abrams, gửi gấp một mẫu thực nghiệm vũ khí chống tăng đặt trên trực thăng, TOW, một ống phóng tên lửa điều khiển qua vô tuyến. Hai chiếc Huey được trang bị loại ấy chở trên một máy bay vận tải C-141 ở bang Arizona gửi thẳng đến Pleiku. Các chỉ huy quân Bắc Việt dùng xe tăng tổ chức một cuộc tập kích ban đêm sẽ tiếp tục cả ngày. Những chiếc Huey trang bị tên lửa TOW lao vào Kontum khi trời vừa sáng và mọi chiếc T-54 trông thấy được đều bị tấn công. Một tổ lái đưa con quái vật của họ vào cố lẩn tránh trong một ngôi nhà. Chiếc Huey phóng tên lửa qua cửa sổ bắn trúng nó.

Máy bay ném bom là vũ khí riêng của Vann. Anh có thể để cho người phó, tướng Hill và Rhotenberry kiểm soát B-52 nhưng anh muốn tự mình làm lấy. Tướng Toàn và ban tham mưu Việt Nam ở Pleiku chỉ còn gọi anh là “ ông B-52 “. Cứ ba giờ một cơ quan chiến lược chỉ huy không quân cử đến cho Creighton Abrams ba chiếc B-52 từ căn cứ Guam hoặc phía nam Thái Lan. Giữa tháng Năm, khi cuộc tấn công bắt đầu ở Kontum, tình hình các mặt trận khác đã cải thiện nhiều hơn. Quân lực Cộng hòa đồn trú ở An Lộc trên mặt trận Campuchia vùng đồn điền cao su chống cự tốt. Phía bắc, Quân đoàn 1 trong tỉnh Quảng Trị, sức ép cũng yếu đi dưới áp lực của không lực Hoa Kỳ . Huế có vẻ đang trụ vững. Kontum là cơ may cuối cùng của những người cộng sản Việt Nam biến cuộc tấn công thành mục tiêu quan trọng nhưng hạn chế trong một thành công gây ấn tượng mạnh. Cũng như mối quan tâm chủ yếu của Abrams, Vann có thể nắm tất cả những máy bay ném bom theo anh muốn. Trong đợt đánh cao nhất, Vann bố trí cho riêng anh 21 trong số 24 phi vụ hàng ngày của B-52 trên đất Việt Nam .

Giữa ngày 14 tháng Năm và cuối tuần đầu tháng Sáu, John Vann thả xuống số lượng bom của 300 đợt tấn công B-52 vùng xung quanh Kontum. Để tăng cường an toàn cho các vị trí bạn, cơ quan Chiến lược chỉ huy không quân chỉ thị cho các máy bay ném bom bay chiếc này sau chiếc khác và nhắm vào trung tâm vùng thả bom. Cách này không phủ được một diện tích đủ làm Vann thỏa mãn. Anh điều chỉnh chế độ, cho ba chiếc B-52 bay từng đợt. Chiếc thứ nhất bay gần vị trí Quân lực Cộng hòa nhất để phủ một phần ba vùng chu vi đầu tiên, chiếc thứ hai nhằm đúng từ chỗ ấy để thả vào trung tâm và chiếc thứ ba xa hơn để phủ phần còn lại. Vann bay trên những vùng ấy ngay trước khi B-52 tới và sau cuộc ném bom ; khi khói và bụi đã lan tỏa hết, anh trở lại, bay thấp để xác định kết quả. Để kết thúc công việc, anh bắn từng tràng M-16 vào các hố bom. Không còn nguy hiểm gì nữa, một hôm anh giải thích cho hai nhà báo đi theo như vậy. Nếu có kẻ nào “ còn sống trong đó, anh ta bị choáng đến mức phải nửa giờ sau mới có khả năng bấm vào cò súng “. Một hôm khác, anh thấy khoảng dăm chục lính Bắc Việt quanh hồ bom bèn dùng điện đài gọi Cobras đến tiêu diệt hết.

Lary Stern, phóng viên Washington Post đến Pleiku phỏng vấn Vann, kinh ngạc khi gặp người mình tìm. Anh chưa bao giờ thấy một người năng nổ , hào hứng như vậy. Đôi mắt anh sáng lên khi tả lại đã điều khiển máy bay ném bom như thế nào “ Gió bấc thổi lúc B-52 biến vùng đất thành mờ mịt, người ta biết hiệu quả của cuộc ném bom qua mùi hôi thối của chiến trường. Vann nói với anh. Ngoài Kontum, mỗi lần thả bom, người ta làm bay tung lên những xác chết “.

Nhưng quân Bắc Việt chống chịu được với B-52. Bốn trung đoàn bộ binh, được tăng cường lính công binh, phòng không và hơn một chục chiếc xe tăng trong số bốn mươi chiếc lúc xuất phát , đi vào phía đông Kontum lần lượt từ phía bắc và phía nam thị xã ngày 25, 26 và 27 tháng Năm. Mục tiêu của họ là nối liên lạc giữa hai cánh quân rồi tấn công phía tây, đập tan quân dự bị của Bá và chiếm vị trí chỉ huy. Họ suýt thành công; không nối liên lạc được với nhau vì hai hàng công sự ở mỗi bên sân bay. Những người chiếm được công sự cũng là người Việt Nam ,làm vinh dự cho truyền thống dân tộc của họ. Bá và Rhotenberry tập hợp lại quân lính và phản công. Dần dần, thất vọng, những người lính cộng sản phải bỏ cuộc, rút lui để lại hàng nghìn đồng đội ở chiến trường giữa, trong và ngoại vi Kontum.

Ngày 30 tháng Năm, Thiệu đến nâng tinh thần cho các đội quân tuy ở một vài khu vực trong thị xã còn rời rạc tiếng súng và tiếng bom nổ. Vann đưa tổng thống nền Cộng hòa Sài Gòn lên chiếc Ranger của anh đến tận trạm chỉ huy của Bá rồi sau đó đưa về Pleiku. Bá báo cáo với tổng thống; ông này ghim một ngôi sao lên ve áo trận của ông. Quân đội Nam Việt Nam sáng tạo một cấp bậc chỉ một ngôi sao bắt chước người Mỹ. Danh hiệu chính thức không phải thiếu tướng như trong quân đội Mỹ mà là “ chuẩn tướng “. Dù tính chất ra sao chính cấp tướng mới là quan trọng. Vann được biết Bá sẽ được khen thưởng, anh để dự phòng trong túi một cặp ngôi sao trong trường hợp Thiệu quên.

Vann không hiểu chiến thắng này lừa phỉnh đến mức nào. Anh không biết rằng trong một lúc phấn khích đảm nhiệm sự kiểm soát toàn bộ, anh đồng thời chứng tỏ chế độ Sài Gòn không có quyết tâm cần thiết để sống sót, cũng không nghĩ mình đã đóng vai trò của Weyand và anh trong đợt tấn công dịp Tết : làm chậm sự kết thúc lại. Một lần nữa, anh là người cần thiết. Phó của anh, tướng Hill nhận thấy rõ Vann cần cho chiến thắng đến mức nào. Ông nói “ Mọi tướng lĩnh Mỹ có tài sẽ làm như tôi đã làm nhưng không có Vann thì không có trận đánh Kontum vì không có anh, Bá và những người Việt Nam khác từ Sài Gòn sẽ không đánh nhau “.

Người thành thạo sử dụng những người Việt Nam đến thế vì lợi ích chính phủ Hoa Kỳ sẽ không tán thành cách anh sử dụng chiến thắng của anh bởi những người anh phục vụ. Nixon lợi dụng sự tạm ngưng do chiến thắng Kontum tạo nên để Kissinger đưa ra một thỏa hiệp mang lại cái chết cho chế độ Sài Gòn trong cuộc khủng hoảng tiếp theo. Những thỏa thuận ở Paris ngày 27 tháng Giêng 1973 dự kiến rút các cố vấn và lực lượng Mỹ hỗ trợ chế độ Sài Gòn còn lại, để quân đội Bắc Việt tự do kết thúc nhiệm vụ của họ ở miền Nam. Hoàn cảnh chính trị trong nước Mỹ buộc thực hiện giải pháp ấy. Tổng thống sẽ đứng trước một cuộc tái bầu cử và ông dùng mọi sức lực để tác động dư luận công chúng về chiến tranh . Những người cộng sản Việt Nam không bao giờ chấp nhận một thỏa thuận nếu người Mỹ không rút hết quân đội về nước, để đất đai tự do cho họ. Màn kịch hai bên cùng rút quân đội đã chấm dứt. Nixon và Kissinger tự thuyết phục không vì thế mà họ làm hại những đứa con đỡ đầu ở Sài Gòn . Họ cho rằng lực lượng không quân của Hoa Kỳ sẽ đưa Hà Nội đến thất bại.

Sáng ngày 7 tháng Sáu năm 1972, hai ngày sau khi người lính Bắc Việt cuối cùng chết ở Kontum, John Vann nói chuyện với một toán cố vấn mới. Đây là cuộc hội ý thông thường với những người vừa tới. Anh nói với họ anh “ thường bị tác động vì lòng tin phổ biến “, rằng Việt Nam “ bị đau khổ quá mức “ về cuộc chiến tranh của Mỹ. “ Thực tế nếu miền Nam Việt Nam không tương xứng với cái giá phải trả của Hoa Kỳ thì ngược lại ngày nay dân tộc này tiến bộ hơn nhiều so với khi họ sống trong hòa bình với một chính phủ không cộng sản hoặc sống trong hòa bình với một chính phủ cộng sản . Năm 1962, số người biết chữ chỉ 15%, ngày nay là 80%”. Cuộc cách mạng xã hội anh muốn giành giật của những người cộng sản năm 1965 “ đã được thực hiện, từng phần do những biện pháp sử dụng, nhưng chủ yếu vì những biến cố chiến tranh “. Anh nói về phép lạ của việc trang bị cho đồng ruộng và hệ thống tưới tiêu, về những trạm vô tuyến truyền hình, xe máy Honda. Việc đô thị hóa bắt buộc cũng giúp cho cuộc cách mạng xã hộ tạo một lớp người mới “ tiêu thụ “ có lợi cho nông dân.

Trong lúc anh nói thế, 39.000 lính Sài Gòn đã bị chết trận.

Ngày 9 tháng Sáu 1972, John Vann bay đi Sài Gòn cùng John Hill người mà tổng chỉ huy Creighton Abrams sẽ gắn Huân chương vì đã đóng góp công sức làm nên chiến thắng. Vann ở lại buổi chiều dự một hội nghị chiến lược với Abrams, Weyand và những tướng Mỹ cố vấn của ba Quân đoàn khác. Rồi Vann và Hill trở về Pleiku trong buổi tối với người phó mới của Vann, đại tá Robert Kingston chuẩn bị được thăng thiếu tướng. Hill trở về Hoa Kỳ chậm nhiều tuần sau khi tham gia chiến đấu cùng Vann. Vann ở lại phòng ăn sĩ quan dự bữa ăn tiễn biệt Hill, tắm mình vì rượu và chúc tụng. Vann sẽ đi ngay về Kontum để qua đêm với Rhotenberry và Bá. Anh nói “ Từ khi cuộc chiến bắt đấu, ngày nào tôi cũng ở Kontum “ và anh muốn giữ nhịp điệu ấy. Anh bảo người phục vụ bàn ăn chuẩn bị cho một gói trái cây và bột rán, mang theo một chai rượu cho Rhotenberry và Bá.

Anh mừng rõ khi máy bay lên thẳng cất cánh sau 21 giờ một ít, đã quên hẳn bản di chúc viết sau thất bại Tân Cảnh. Peter Kama trở về đơn vị ở Huế cùng tờ giấy ấy trong ví. Vann gọi điện cho Rhotenberry hỏi về thời tiết ở Kontum. Đêm mồng 9 tháng Sáu ấy , bầu trời trên thị xã sáng sủa nhưng thời tiết những ngày trước đó thật thảm hại vì sương mù và mưa nên Rhotenberry sau khi thông báo thời tiết tốt không ngăn được mình đưa ra một lời hóm hỉnh.

-   Anh không cần bỏ chân xuống tìm chỗ hạ cánh !
-   OK, John trả lời. Tôi sẽ có mặt ở đó sau 15 phút nữa.

Hai con suối Khol và Drou chảy qua đường 14 cách phía nam đèo Chư Pao năm cây số, gần ấp Ro Uay. Những người lính Quân lực Cộng hòa ở trong hầm che những túi cát ở đầu cầu nghe tiếng trực thăng lại gần trong đêm tối thấy lửa kèm theo là tiếng nổ. Một phi công máy bay Cobras tìm được xác trực thăng dưới một bụi cây. Một chiếc Huey đặc biệt “ chim cắt đêm” thả pháo sáng tìm một điểm hạ cánh gần đấy. Trung tá Jack Anderson lái, người đã di tản các cố vấn khỏi Hoài An, trông thấy Vann nằm úp mặt xuống đất. Anh chết ngay vì cú sốc tai nạn, bị gãy xương nhiều chỗ nhưng không có máu hoặc bị cháy. Anh vẫn còn đôi ủng ở chân. Nhưng lính biệt kích của Quân lực Cộng hào ở một căn cứ gần đấy đến trước đó nhận tiền thù lao vì đã mạo hiểm đi tìm nạn nhân trong vùng đã bị quân Bắc Việt đánh bại. Họ tước đồng hồ tay và ví của anh trước khi đưa xác lên trực thăng “ Tôi căm ghét kẻ đã làm cho John Vann bay chuyến cuối cùng “, Anderson nói với người cùng lái và bay tới bệnh viện Pleiku.

Doug Ramsey biết tin Vann chết ở trại thứ bảy, trại cuối cùng của anh ở Campuchia. Tù binh được phép nghe đài Hà Nội và đài Giải phóng, tiếng nói của Việt cộng . Những người cộng sản Việt Nam gián tiếp viếng anh khi hát vang chiến thắng. Họ chú ý nhiều đến cái chết của anh hơn các tướng Mỹ trước đó . “ Vann phạm những tội ác quá mức “, đài Giải phóng nói và việc anh biến mất “ là một đòn nặng nề “ đối với Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn . Tờ báo quân đội Bắc Việt Nam đăng một bài bình luận đặc biệt, đài Hà Nội phát lại, về cái chết của “ trưởng cố vấn phi thường này “. Những người cộng sản cho rằng họ đã bắn hạ chiếc trực thăng của anh. Đài Hà Nội thông báo một bức thư được gửi cho đơn vị phòng không khen ngợi các pháo thủ về “ loạt đạn xuất sắc của họ “.

Nhưng không phải những người cộng sản đã giết chết John Vann. Quân lính Quân lực Cộng hòa ở cầu không nghe tiếng súng bắn trước khi trực thăng bị nạn, ở thân chiếc Ranger cũng không có vết đạn. Sự va chạm mạnh và cách các lưỡi phần quay cắt cành cây chứng tỏ máy bay đâm vào bụi cây với vận tốc lớn. Việc nghiên cứu kỹ thuật về máy và các bộ phận khác xác nhận điều đó.

Cách giải thích tai nạn không liên quan gì đến việc đánh nhau. Với cuộc hành quân Tân Cảnh, Vann đã làm cạn kiệt lòng can đảm của phi công lái, Bob Richards. Anh buộc phải để anh ta lại Nha Trang để thần kinh ổn định lại. Rồi Bob đi nghỉ phép ở Bangkok và đào ngũ. Để thay thế, Vann tuyển dụng một phi công 26 tuổi, trung úy Ronald Doughtie. Đây là một người lái có khả năng và can đảm nhưng thiếu kinh nghiệm và không nhạy bén như Richards. Đêm ấy, ở Kontum thời tiết đẹp nhưng không tốt trong vùng Pleiki; phía nam đèo Chu Pao, có những đợt mưa và nhiều sương mù ảnh hưởng đến tầm nhìn. Kết luận của cuộc điều tra chính thức chỉ rõ Doughtie bỗng gặp một mảng thời tiết xấu, đáng lẽ chuyển qua điều khiển bay bằng máy anh cố tiếp tục nhìn bằng mắt thường. Khi một người lái làm như vậy, anh bị chóng mặt, tưởng mình vẫn bay thẳng trong lúc thực tế, anh quay tròn, xuống rất nhanh trong cái mà các phi công gọi là “ vòng xoắn ốc của nấm mồ “. Việc anh đâm vào bụi cây theo một góc 45 độ xác định điều đó. Đấy cũng là điều đại tá Anderson nghĩ khi nhìn những cành cây gãy nát dưới ánh đèn chiếu của chiếc Huey. Doughtie cũng chết ngay, cả viên đại úy ngồi ở ghế sau đi theo học lái.

Anderson và những phi công khác tự hỏi vì sao Vann chọn đi đường 14 về Kontum, con đường nguy hiểm nhất. Phải bay tương đối thấp để trông thấy đường và nguy cơ bị bắn ở đèo Chu Pao, còn một số quân Bắc Việt trang bị súng phòng không ở đấy. Có con đường an toàn vòng về phía tây ngọn đèo tránh được đạn của quân địch. Một phi công khác theo con đường phía tây cùng đêm ấy với Vann đi ngay sau anh và đến nơi không có vấn đề gì.

Nhưng khi biết rõ John Vann, người ta không đặt câu hỏi nữa. Con đường 14 nhanh nhất và Vann thích chơi trội. Trong trạng thái phấn khích, anh hào hứng thử thách kẻ thù với ngọn đèo khi đi qua đó hết tốc độ trong đêm. Doughtie không biết có những nguy cơ ấy hoặc không  hiểu vì thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, anh không cưỡng lại Vann như Richards chắc đã làm.

Bốn tháng sau khi Vann chết, tôi tìm lại bụi cây. Tôi đã lên cao nguyên phỏng vấn Rhotenberry, Bá và những người tham gia trận đánh cuối cùng với anh, cảm thấy tôi không thể ra đi mà không thấy được chỗ trực thăng của anh bị tan tành. Tôi đã đọc các báo cáo chính thức nhưng không đủ để giải thích về John Vann. Có cái gì đó hơn thế.

Các cố vấn CORDS ở Pleiku đưa tôi đi bằng trực thăng đến căn cứ Ranger gần chỗ tai nạn. Chúng tôi gặp một chuẩn úy, một người miền núi trong vùng nói có biết việc xảy ra ở đâu và chúng tôi xuống con đường đi vào ấp Ro Uay.

Hôm ấy, nắng ấm với nhiều đám mây trắng trên trời, tầm nhìn xa mấy cây số. Bụi cây cách đường 50 mét về phía tây của thôn ấp, là phần còn lại duy nhất của khu rừng. Những người miền núi làm nương trên đất đã bị đốt cháy. Họ chặt và đốt cây cối, bờ bụi, gieo hạt cho đến lúc đất cạn kiệt sau ba, bốn năm. Những cây cối khác xung quanh thấp bé, mọc lên trên những cánh đồng đã bỏ lại. Có vẻ lạ lùng vì chiếc trực thăng của Vann đã đụng phải bụi cây sót lại trong đêm mưa.

Xác máy bay rải rác xung quanh khoảng 50, 60 mét. Tóc độ máy tông vào cây và những thùng nhiên liệu nổ làm chiếc trực thăng nhỏ nát vụn. Phần duy nhất còn nhanạ ra là chiếc đuôi cong. Những cây to nhìn rất đẹp với thân cây sừng sững, phía trên là tán lá dày tỏa bóng dưới những tia nắng mặt trời. Tôi tự hỏi vì sao dân chúng trong bộ tộc để nguyên bụi cây như vậy.

Gần những cây to là những thân gỗ tròn gọt vuông vắn thẳng xuống đất. Tôi hỏi viên chuẩn úy miền núi đấy là gì. Ông quay vòng bàn tay nói đi nói lại :

“ Người chết ở đấy. Người chết ở đấy “.

Tôi trông thấy gần đấy những bức tượng gỗ nhỏa thô thiển cắm vào đất, được chạm trổ thô sơ theo lối người miền núi không xa đây lắm và tôi biết vì sao những cây to được giữ lại. Mảnh rừng này là nghĩa trang của thôn ấp. Nhân dân bộ tộc để nguyên trạng thái tự nhiên để bảo vệ những ngôi mộ và tạo bóng thuận lợi cho nghi thức tang lễ của họ.

Bây giờ tôi đã biết việc gì xảy ra đêm ấy. John Vann đi dọc theo con đường, đùa nghịch trên bầu trời, một lần nữa xem thường cái chết, không biết rằng lần này nó đang chờ anh dưới tán những cây to.

George Jacobson, bạn thân của Vann, ở lại đến cùng. Sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, anh rời mái nhà tòa đại sứ Hoa Kỳ trên chiếc trực thăng ra tránh nạn ở hạm đội 7 trong lúc những chiếc xe tăng quân Bắc Việt tiến vào Sài Gòn . John Vann không phải chạy trốn trên một chiếc tàu biển. Nhưng anh không lỡ cuộc ra đi. Anh chết trong khi tin tưởng đã thắng trong cuộc chiến tranh này.

HẾT 



1 nhận xét:

Angelika nói...

Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple @ gmail)