Ở làng Chùa Vua, nay thuộc làng Thịnh Yên (quận Hai Bà Trưng), hàng năm
có ba ngày lễ hội truyền thống vào ngày mồng 6, mồng 7, mồng 8 tháng
giêng và ngày mồng 9 là ngày các tay cao cờ tranh ngôi quán quân. Làng
Thịnh Yên có tục lệ các cô gái lấy chồng xa và các chàng trai lấy vợ xa
đều phải thu xếp về làng ăn Tết và dự Hội.
Hội có phần lễ,
rước xách và các trò chơi như đấu vật chọi gà và thi cờ tướng. Đất này
thờ Đế Thích một ông vua cờ tướng nên môn cờ tướng được coi trọng đặc
biệt.
Chùa Vua là một quần thể kiến trúc trang nghiêm,
đẹp đẽ và cầu kỳ. Cái độc đáo của quần thể kiến trúc này là có chùa và
đình đều thờ vua Đế Thích. Ngay sau đấy là đền thờ Mẫu, một trong tứ bất
tử và thân phụ Trần Hưng Đạo. Nghĩa là thờ Phật Lão, Nho, Tam giáo đồng
lưu.
Từ đời Lê, quần thể kiến trúc này gọi là Điện Thừa
Lương, là nơi Vua, các hoàng tử, các đại thần, hoàng thân nghỉ lại để
chuẩn bị làm lễ tế ở đàn Nam Giao. Đàn Nam Giao trước đây tướng của ông
trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Khi khởi nghĩa thất bại, ông Điều trốn về
Hà Nội rồi trụ trì chùa. Cũng chính ở đây, đồng chí Nguyễn Phong Sắc,
xứ Bắc Kỳ đã sử dụng các vòm sau bệ tượng vua Đế Thích làm nơi đi về,
hoạt động và ẩn náu. Ngày 10-4-1956, đồng chí Trần Danh Tuyên đưa Bác Hồ
đến thăm chùa. Bác xem lại mấy hố vòm sau tượng rồi đi về phía trước.
Bác đặt mũ lên ngực, cúi đầu. Sau một lúc yên lặng, Bác bảo bà Lê Thị
Hiền là người trông chùa rằng: "Bà trông giúp chùa cho cẩn thận, đừng để
mất mát gì".
Theo huyền thoại, vua Đế Thích là nhân vật
thứ hai sáu Ngọc Hoàng. Ở Ấn Độ và Trung Quốc cũng thờ Đế Thích với
cương vị như vậy. Đế Thích còn là vua cờ tướng.
Từ xa
xưa, đất Chùa Vua đã có những lò cờ tướng hay nhất nước. Các danh thủ
mọi nơi đều phải kéo về chùa Vua để thi đấu và học tập.
Đến
năm 1992, đã có 70 danh thủ đến tranh giải qua các kỳ hội lễ. Mọi người
trầm trồ về tài năng của các danh thủ như Vệ, Ngọc, Lợi, An… Cụ Hứa
Tiến là một trong ngũ tốt, lý kiệt, đã từng là kiện tướng châu Mỹ. Cường
vô địch cuộc thi cờ tướng 1991, Phác là nỗi lo lắng của danh thủ bất cứ
tỉnh nào. Các đại biểu miền Nam cũng đến thăm thú những nước cờ hay
trong trận đấu. Ở đây có cả cờ bơi và cờ bàn…
Hiện nay,
Chùa Vua còn giữ được 14 pho tượng đẹp bằng gỗ hoàng đàn. Nổi bật nhất
là pho tượng vua Đế Thích cao khoảng 1,6m. Một bức cửu long chạm trổ
tinh vi, hai đỉnh đồng thời Nguyễn, một quả chuông nhỏ thời Cảnh Thịnh,
hai quả chuông to thời Lê, hai chóe lớn cao chừng 1,6m được đúc từ thời
Lê. Khu vực chùa Vua, từ mái đình cổ kính đến những cây nhãn, ổi cổ thụ,
bức tượng, đôi chóe, bia ký đến quả chuông…đều toả ra những lời vân vi
khôn nguôi với hiện tại và tương lai…
ĐÌNH ĐẠI
Đình
Đại nằm trong cụm di tích phía Bắc khu vực Bạch Mai, thuộc phường cầu
Dền, quận Hai Bà Trưng, bên cạnh chùa Liên Phái, chùa vương Tuyết, đình
Đông, đình Tô Hoàng, chùa Vua, đàn Nam Giao (nay là nhà máy cơ khí Trần
Hưng Đạo).
Ngôi đình đặc biệt này có kiến trúc giống như
những đình cổ của Việt nam nói chung. Nó được xây dựng với quy mô khá
lớn. Tiền đình cao, rộng, khoáng đạt gồm 5 gian. Hậu cung gồm 3 gian,
Tam quan thoáng, mái đình cong, lợp ngói ta. Sân đình rộng, lát gạch cổ,
có vườn cây, vườn hoa và một giếng thơi hình bầu dục. Khung cửa Đình
Đại làm theo kiểu bức bàn. Kết cấu khung xương đều in bằng gỗ được giữ
vững bởi nhiều cột cái và cột quân to và cao bằng gỗ tứ thiết.
Không
gian Đình Đại được mở rộng, mở ra bốn phương tám hướng chứ không xây
gạch kín xung quanh. Mọi người có thể đến thăm đình từ bất kỳ hướng nào,
qua những con đường tắt và đường lớn. Năm 1592, quân nhà Mạc đã giao
tranh với Trịnh Trọng tại đây.
Ngay sát cạnh cổng Tam
quan là con đường Thiên Lý nổi tiếng. Nối liền Thăng Long với các trấn
và các tỉnh phía Nam là một con đường nhỏ, đài hun hút qua những đồi cây
cối rậm rạp và cả một rừng mai (nay thuộc khu vực Bạch Mai và Trương
Định).
Đình Đại được xây dựng cách đây khá lâu và đã trải
qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa lớn vào những niên hiệu Vĩnh Thịnh
(1705), Cảnh Hưng (1774), Minh Mạng (1840),. Thành Thái, Khải Định.
Thoạt đầu, Đình Đại chỉ có gian giữa thờ. đức Thành Hoàng cao 5m. Đại
vương thần là một trong 50 người con lên núi của Lạc Long Quân và Âu Cơ,
sau này là thuộc tướng thân cận của Sơn Tinh. Bên trái thờ thân mẫu của
Đại Vương ghép với mẫu Liễu Hạnh. Bên phải thờ các cô, cậu của Lão
Giáo, nghĩa là cũng có màu sắc Tam giáo đồng lưu. Đình Đại còn thờ cả
hai ông phỗng là hai người hầu cận của Đại Vương với nét mặt tươi cười,
hóm hỉnh và cũng mang những nét chất phác của con người đồng quê Việt
nam. Đó chính là hình ảnh của các vai "hề chèo" xuất hiện sau này, người
bình dân yêu tiếng cười là vậy.
Các mảng trang trí được
tập trung vào bức cồn nách giữa toà đại đình. Đề tài trang trí là rồng
leo và uốn khúc, vây cá, trăng sao… có dáng dấp từ đời Lê. Bên cạnh có
những bức chạm khắc rồng phượng, âm dươngtương xứng với những hoạ tiết
sông, nước, mây trời, những bức cửa võng, cuốn thư, hoành phi, câu đối…
Tất cả đều được chạm khắc tỉ mỉ và Sơn Son thếp vàng
choáng ngợp, vừa là những bức hoạ, vừa có tiết tấu nhạc điệu với một
nghệ thuật điêu luyện độc đáo. Gian chính giữa phần cung cấm được đặt
một sập thờ Phía trên là ngai của đức Thành Hoàng. Bên cạnh đó là hai
chiếc kiệu bát cống còn nguyên vẹn. Những chiếc kiệu bát cống được chạm,
khắc và sơn son thếp vàng với cơ man nào là những hoa văn sinh động và
duyên dáng, đây là một trong những nét tiêu biểu của niên hiệu Gia Long.
Đình còn giữ được hai hòm đựng 7 sắc phong của niên hiệu Minh Mạng
(1821) và Khải Định (1924); hai tấm bia có niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705)
và niên hiệu đời Nguyễn, bảy bức hoành phi, cuốn thư, bảy đôi câu đối,
ba chiếc hương án…Đình cũng còn giữ được 4 bát hương, trong đó có một
chiếc được làm bằng đá, một bộ bát bửu, một Cồng, một chiêng.
Trước
đây, Đình Đại cũng như các đình làng khác, vẫn có những buổi cúng lễ,
rước xách. Nhưng Đình Đại còn trở thành nơi tập trung tứ chiếng của mọi
người các ngả. Thời đó, cứ 5 giờ chiều là cửa ô Cầu Dền đóng kín lại,
không ai được ra vào thành, chỉ trừ những người cầm hoả bài "Khẩn cấp".
Tất cả những ai muốn vào thành đều phải nghỉ lại ở Đình Đại, đợi đến
sáng hôm sau, khi cửa ô mở, mới được vào. Cũng có một số người buôn bán
muốn tranh thủ thời gian đã vào thành từ lúc 4 giờ chiều, nhưng phải
nghỉ lại ở một cái chợ, ăn uống, nghỉ đêm và sửa soạn lại hàng để sáng
sớm hôm sau có hàng bán ở các chợ và các phố trong thành. Nơi tập trung
này gọi là chợ Hôm (tên này được giữ cho đến tận bây giờ). Vì vậy mà
Đình Đại là nơi dừng chân của đủ mọi lớp người trong xã hội. Ngoài ra,
Đình Đại còn là một khu du lịch, vui chơi sầm uất của một thời mọi người
đến đây có thể tuỳ hứng đi thăm các chùa, đền,đình ở gần đó hoặc xuống
các vườn mơ bát ngát với các quán rượu ven đường, hoặc đến các quán ăn
Vân Hồ. Rượu làng Mơ và nước mắm Kẻ Đô trước hết được đem bán ở đây rồi
mới toả đi khắp nơi và đã trở nên nổi tiếng.
Đình Đại là
một di tích trong quần thể di tích lịch sử văn hoá và du lịch có giá trị
của quận Hai Bà Trưng. Nhưng, cũng như số phận của một số di tích khác,
Đình Đại chưa được chú ý một cách xứng đáng. Một số gian đình bị lở,
sụt, đồ gỗ bị mọt, con người đã dần lấn chiếm, xâm phạm quanh đình. Cổng
Tam quan, sân, vườn cây, vườn hoa, giếng bầu dục… đã không còn nữa làm
cho cảnh quan của Đình Đại bị thu hẹp. Thiết nghĩ cần phải có sự quan
tâm đặc biệt hơn nữa đến việc khôi phục sửa chữa và trùng tu Đình Đại để
hình ảnh về Đình Đại mãi đẹp trong tâm trí bao người.
LỄ HỘI CHÙA TRĂM GIAN
Chùa
Trăm Gian thuộc xã Tiền Phương; huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đây là
ngôi chùa cổ dựng trên quả đồi cao chừng 50 mét, có cây cao bóng cả và
đậm một màu cổ tích. Xung quanh là những ngọn núi Phượng Hoàng vỗ cánh,
núi Hoàng Xá có dáng con voi quỳ núi Đồng Lư, núi Sơn Lộ, núi Trầm. Chùa
có đủ 100 gian. Cứ 4 cột là một gian, có trên 400 cột. Mỗi cột trụ trên
một hòn đá chạm hình cánh hoa sen. Dãy lan can quanh chùa, cũng như các
bậc thềm bằng đá có chạm trổ. Trên các ván long, lá gió, đấu, xà v.v…
có hình: mây, hoa lá, rồng, tiên nữ…
Phía trước chùa có
gác chuông cao hai tầng, chồng diêm, tám mái, nằm trên đồi cao với hàng
trăm bậc đá. Đây là công trình kiến trúc giá trị làm bằng gỗ quý với các
đầu đao cao vút, mềm mại. Trên gác chuông có treo một quả chuông lớn,
đúc vào năm 1794 thời Tây Sơn với bài minh của Trần Bá Hiên, người xã
Vân Canh.
Trong chùa có 153 pho tượng được xây dựng từ
đời Lý. Hầu hết đều bằng gỗ, một bộ bằng đất, sơn son thếp vàng. Đặc
biệt bệ tượng được xây bằng gạch có hoa văn của thế kí 16 - 17. Bên cạnh
có tấm bia đá dựng vào năm Cảnh Thịnh thứ 5 (1794) có ghi lại chiến
công của Đô đốc Đặng Tiến Đông do Phan Huy Chú viết, tất cả đều là những
tác phẩm hiếm có thời Tây Sơn để lại.
Lễ hội chùa Trăm
Gian được tổ chức vào hai ngày của thượng tuần tháng hai âm lịch được
xem là "tốt ngày". Khi đốt xong một bánh pháo treo trên cành đa cao
xuống sát mặt đất, các chân kiệu bắt đầu rước long kiệu từ trong chùa
bước ra, long kiệu ra tới cửa Trung quan, đám rước phải đứng lại, chờ
quan viên và các chân kiệu của xã giao hiếu (kết nghĩa) đến đấy và đứng
vào hàng ngũ chỉnh tề, đám rước mới bắt đầu di chuyển.
Trong
đám rước, xã đàn anh đi đầu, xã này thường là xã thờ thần sớm nhất, có
đông dân nhất, đồng thời cũng là xã đa tài nhất. Các xã bạn cũng phái
kiệu của mình tới hoặc phái một chân kiệu để thay vai khiêng kiệu cùng
với xã chủ nhà.
Đi đầu là hai lá cờ "Tiết Mao". Kế đèn là
5 cờ đuôi nhèo gọi là cờ ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ và những lá
cờ vuông: đen, trắng, vàng, đỏ, xanh… Sau đó là 4 lá cờ tứ linh: long,
ly, quy, phượng. Người cầm cờ đội nón có chóp nhọn hoặc chít khăn tai
chó, thắt lưng bó que xanh đỏ, chân đi xà cạp. Sau cờ là trống cái do
hai người khiêng. Trống cái do thủ hiệu đánh bằng chiếc dùi sơn son thếp
vàng. Một người vác lọng che cho thủ hiệu và trống. Đi sau trống là
chiêng, cũng do hai người khiêng và có lọng che.
Khi đi
rước, thủ hiệu đánh một tiếng trống, lại đánh một tiếng chiêng. Tiếng
trống thúc giục, tiếng chiêng trầm hùng, ngân nga như tiếng của ngàn xưa
vọng về. Sau đoàn trống và chiêng là sự diễu hành của đôi ngựa bạch,
đôi ngựa hồng và đôi voi. Dưới chân những con vật linh thiêng này có
những bánh xe lăn. Mỗi con vật đều được che lọng và có một chiến binh đi
bên cạnh…
Hai chiếc tán thêu long, phượng đi trước mở
đường cho các chấp kích lang nai nịt, mang lộ bộ, kim qua, phủ việt,
chuỳ đồng… Các chấp kích lang đi hai bên. Họ là những chàng trai dũng
cảm, xông pha trận mạc khi xưa, ở giữa họ là một quan viên mặc áo thụng
xanh, có lọng che, mang một chiếc biển có phủ vải đỏ ghi mấy chữ:
"Thượng đẳng tối linh thần“ (thánh tối linh hạng nhất): Sau đoàn chấp
kích là phường "Đồng Văn” gồm 2 người chỉ huy cầm trống khẩu, một người
cầm thanh la, 2 người cầm sênh tiền, 8 người đánh trống bản đeo 8 thắt
lưng. Họ đánh bằng hai dùi nhỏ có hai chàng thanh niên mặt hoa da phấn
đóng giả là hai cô gái đeo hai chiếc trống cơm làm "Con đĩ đánh bồng”.
Họ vừa múa vừa hát, vừa vỗ trống; mắt nhìn ngang, nhìn dọc, lẳng lơ như
nắng mùa xuân. Sau đó, một ông già có dáng tiên phong đạo cốt, mặc áo
thụng độ màu máu, vái lá cờ "vía".
Cờ bằng vóc đỏ viền
vàng có thêu chữ "Lệnh". Lá cờ này cũng được lọng che. Đó là lệnh của
thần linh. Thỉnh thoảng cờ lệnh được phất lên ào ào, nhắc lại thời chinh
chiến oai hùng của thần. Ngay sau đó là màn gươm tuốt trần do ba người
điều khiển. Đến phường bát âm gồm 8 nhạc cụ, phát ra từ 8 hệ thống âm
thanh của 8 vật liệu khác nhau: Bào (quả bấu), Mộc (gỗ thạch (đá), Kim
(kim khí), Ti (sợi tơ), Trúc (tre)… Chúng là những não bạt, đàn, sênh
tiền, kèn, trống nhỏ, nhị, sáo hoặc tiêu…
Phường bát âm
thường có mấy điệu Lưu Thuỷ, Hành Vân, Ngũ Đối trong suất cuộc rước. Khi
trang nghiêm có lệnh thì cử nhã nhạc. Sau phường bát âm là long đình.
Đó là chiếc, nhỏ và cao có mái che. Trong có bày hương án, ngũ quả đỉnh
trầm và bát hương có cắm những nén hương đang cháy nghi ngút. Long đình
có 4 người khiêng và có 4 người đi bên cạnh để thay vai nhau. Họ đều là
những chàng trai trẻ đẹp, có tầm cao ngang nhau. Đi trước long đình có
một người cầm trống khẩu và một người cầm cảnh. Thỉnh thoảng họ lại đánh
lên một hồi trống và một hồi cảnh.
Tất cả những chàng
trai này đều ăn mặc theo kiểu khố bao khăn vắt và đeo trước ngực một
chuỗi vòng tết bằng hoa bưởi toả ngát hương thơm. Hai bên long đình có
tàn, quạt, lọng. Rồi đến một loạt người cầm cờ, vung lên. Họ ăn mặc quần
áo có nẹp xanh đỏ, bó xà cạp đen, hộ vệ cho hai chàng trai cầm lọng
vàng. Hai chàng này là hai anh chàng đẹp trai nhất làng. Họ đi hài và
trên ngực tết một bông hoa lớn.
Tiếp đến là hai long kiệu
bát cống. Mỗi long kiệu có 8 người khiêng và 8 người đi kèm. Đó là long
kiệu của Đức Thánh ông và Đức Thánh Bà. Những người khiêng kiệu, đầu
chít khăn xanh, mặc quần xanh, thắt lưng bao vàng, đi ủng. Các bô lão,
các quan viên đi hộ giá kiệu đều mặc áo thụng, khăn xếp… Không khí tưng
bừng náo nhiệt, hương khói mù mịt, tiếng chiêng trống, đàn sáo nổi lên
làm cho mọi người như say rượu. Thỉnh thoảng, những chàng trai khiêng
kiệu lại đi nhanh, tăng tốc độ và reo vang lên. Lúc này người ta gọi là
kiệu bay… rước, sau và xung quanh đám rước người đông nghìn nghịt…
Đám
rước đi vòng quanh xóm chùa rồi trở về chùa. Lúc đó là lúc bắt đầu có
những cuộc tế lễ. Mọi người vào lễ, kẻ trước người sau hoặc vào cùng một
lúc. Sau khi đám rước ngừng lại trước cổng chùa, người ta tổ chức các
cuộc vui chơi, mở hội. Có phường hát Rô ở Quốc Oai đến, phường chèo tàu
từ Đan Phượng sang. Có cả đặc sản “Xẩm chợ” Hà Đông.
Chùa
Trăm Gian là một trong những ngôi chùa cổ nhất miền Bắc. Mở hội ở chùa
là hình thức tổ chức sớm hơn kiểu tổ chức ở đình. Do vậy, lễ hội chùa
Trăm Gian còn vọng lại nhiều âm thanh và màu sắc điển hình của một quá
khứ xa xưa với những nét hùng tráng mang tính nghệ thuật.
CHUYỆN NGÔI ĐÌNH
Ở
các làng, xã Việt nam xưa, hầu như làng nào cũng có một ngôi đình. Có
ngôi đình chung cho cả mấy xã hoặc huyện. Đình nằm ở một không gian
trung tâm, rộng lớn và có phong cảnh đẹp của làng quê Việt nam. Mọi sinh
hoạt chính trị, kinh tế và xã hội của cộng đồng thời Lý thường diễn ra ở
chùa. Nhưng từ giữa đời Trần, các sinh hoạt đó được chuyển sang đình và
truyền thống đó được giữ cho đến tận đời Nguyễn.
Đình
còn là nơi nghỉ ngơi, dừng chân của vua hoặc các quan lớn đi vi hành,
tuần du. Đình làng là nơi tụ họp, bàn bạc công việc và là nơi thờ cúng
Thành Hoàng. Chùa dùng nhân, nghĩa để trị dân, đình dùng pháp trị đối
với dân. Đình còn là nơi thực thi lệ làng: thu thuế, xét xử khao vọng,
ngả vạ… Con gái trong truyện xưa, không chồng mà chửa, bị mang ra đình
ngả vạ. Những dịp lễ tết, hội hè, diễn xướng v.v… đều diễn ra ở đình và
sân đình. Với người bình dăn, đình cũng là nơi giao tiếp gặp gỡ, trao
đổi kinh nghiệm làm ăn. Đình là một tập hợp kiến trúc mở, chứ không khép
kín như chùa. Đình không có tường bao quanh. Từ bốn phương, tám hướng
đều có thể đến với đình. Nội thất, ngoại thất của đình được trang trí
nguy nga, độc đáo. Có những bức tượng, phù điêu được chạm trổ công phu
đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong giới mỹ thuật trong và ngoài nước như ở
đình Liên Hiệp (Hà Tây), đình Phù Lão (Hà Bắc đình Tam Canh (Vĩnh Phú),
đền Giá (Hà Nội) v.v…
Vào đình phải qua cổng tam quan và
sân đình. Đình thường được dựng lên bằng nhiều cột gỗ to và dài. Người
ta thường nói: "To như cái cột đình". Còn câu: "bao giờ cây cải làm
đình" là chỉ cái điều không bao giờ có thể xảy ra. Cổng đình thường rất
rộng, có bể nước mưa và hòn non bộ. Nối tiếp sân là mấy bậc đá lát thềm
dẫn vào đình gồm ba gian dài. Gian dài ở chính giữa gọi là chính tẩm.
Bên trong gian giữa là nơi đặt bệ thờ, trên có bát hương, đỉnh trầm, cây
nến, bài vị của Thành hoàng, lọ độc bình cắm hoa v.v… Sau bệ thờ là hậu
cung đặt tượng Thành hoàng ngồi trên ngai sơn son thếp vàng.
Mái
đình lợp ngói âm dương, viên nọ ốp lên viên kia, rủ nhau bò lên nóc
cao, kéo lên 4 góc cong vút với những ngọn đao trang trí khoẻ mạnh mà
bay bổng. Loại ngói này được gọi là ngói âm dương là ngói "cuộc đời”.
Đôi vợ chồng nào đó thường giãi bày: "Ấy đấy, chúng ta ăn ở với nhau có
đủ cả giận, hờn, đau khổ, sướng vui và yêu thương… Tất cả cứ lợp vào
nhau như mái ngói âm dương…".
Hai bên đình còn có hai dãy
nhà phụ để chứa kiệu bát cống, long đình, cờ, biển, trống, chiêng,
quạt, những đồ tế lễ rước xách… Đình còn ngăn riêng một gian để cúng hậu
gọi là nhà hậu. Có nơi, trước mặt đình còn có một công trình kiến trúc
nhỏ gọi là "phương đình" hoặc "bái đình".
Mọi việc lớn,
nhỏ trong làng được quyết định ở đình do một hội đồng kỳ mục điều khiển.
Lý trưởng là thành viên cao nhất trong việc chấp pháp. Vai vế cao hơn
lý trưởng có tiên chỉ. Ông ta là người đứng đầu một làng, xã Thường là
người có danh vọng, nhiều chữ nghĩa và được mọi người kính trọng. Tiên
chỉ ngồi riêng một mình một chiếu ở đình. Nếu vị nào có cỡ khoa bảng cao
hơn tiên chỉ thì được ngồi chiếu trên của tiên chỉ. Dân gian đã tả một
cách châm biếm chân dung của tiên chỉ như sau: "Người đứng chiếu ngang,
người sang chiếu dọc, người đọc văn tế, người bệ bát nhang, người mang
cỗ đài, người nhai thủ lợn, người trợn mắt lên…"
Tiên chỉ là người có quyền thế nhất làng. Phần riêng của ông bao giờ cũng phải có miếng thịt thủ.
Ngày
xưa, người ta rất chú ý đến việc chọn lựa hướng đình và trồng những cây
cảnh to, nhỏ để tô điểm cho cảnh quan của đình. Về tổng thể, đình và
những công trình phụ là những công trình xây dựng choáng ngợp và hoa mỹ.
Trong dân gian, đình là một hình ảnh quen thuộc và gắn bó trong tâm hồn mỗi người dân Việt nam:
"Qua đình ngả nón, trông đình
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu".
Hoặc như:
"Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh"
Nam nữ tình tự với nhau ở đình:
"Bên đình tôi đã si mê.
Tôi yêu người lắm, xin thề đình ơi"…
Có
anh chàng kể lể: "Hôm qua tát nước bên đình với em…" Sân đình thường có
những cây cổ thụ, cây đại, cây si cây táo v v… Thị Mầu trong vở chèo
Quan âm Thị Kính hát rằng:
"Tiểu như táo rụng sân đình
Em như gái dở đi rình của chua".
Đình
là ngôi nhà đẹp đẽ, trang nghiêm, to lớn nhất làng. Nó thường được ví
với những gì to lớn. Cái nồi đình là nồi to. Cô gái có "một đình duyên"
là Cô gái duyên dáng có thừa. Trong gam màu folkhor Việt nam, người xưa
cho rằng bộ ngực và mông của cô gái càng to thì càng đẹp. Người ta nói:
“Hai phần to được tày đình, thì con người ấy càng xinh càng giòn". Câu
ca dao này phù hợp với quan niệm thẩm mỹ ngày nay, khi nhấn mạnh vòng đo
số 1 và vòng đo số 3 của người phụ nữ càng lớn thì giá trị thẩm mỹ càng
cao.
Tiếng trống đình là tiếng trống đánh rất to, báo
một điều gì quan trọng. Người quản lý, trông nom đình là ông Từ. ông
thường là người có tuổi, hiền lành, chất phác, được mọi người quý mến,
có khi lại là người chay tịnh, không có vợ ông trông nom đình, thắp
hương đón khách đến lễ đình trông nom vườn cây cảnh. ông cũng trồng thêm
cây ăn quả để thêm vào thu nhập của cuộc sống đạm bạc, thanh bạch.
Những
năm trước cách mạng tháng Tám, đình là nơi đi lại, hoạt động của một số
chiến sĩ cách mạng. Từ năm 1945 trở đi, sân đình là nơi luyện tập quân
sự tuyển quân, tổ chức những cuộc họp mặt hoặc mít tinh kêu gọi dân làng
hưởng ứng những phong trào yêu nước, cứu nước, đồng thời cũng là nơi
tập trung của các thanh niên nhập ngũ, là nơi người thân đưa tiễn con em
lên đường ra mặt trận.
Trong làng có hai âm thanh đặc
biệt khắc sâu trong tiềm thức mỗi người, đó là tiếng chuông chùa và
tiếng trống đình. Tiếng trống đình báo hiệu lễ cơm mới sau mùa gặt,
tiếng trống mừng quân hoặc tiễn người ra tiền phương v.v… thật là xúc
động. Đình là nơi thờ Thành hoàng, có thể là tổ sư các ngành nghề, là
người có Công với dân làng, là liệt sĩ, anh hùng. dân tộc như Hai Bà
Trưng, Phùng Hưng v.v… và có khi cũng là một con người bình thường.
Ở
nước ta còn giữ lại được nhiều ngôi đình lớn hoành tráng, tiêu biểu cho
nền nghệ thuật kiến tạo đình chùa truyền thống của Việt nam như: đình
làng Đình Bảng, đình Chu Quyến, đình Tây Đằng, đình Triều Khúc, đình Kim
Liên, đình Chèm… đó là những di sản văn hoá vô giá của dân tộc. Tiến sĩ
A. Samadi, nhà nghiên cứu mỹ học người Philippine đã viết: "Đến Việt
nam mà không đến thăm mấy ngôi đình là chưa biết gì về Việt nam".
Ngôi đình, một vang vọng của tâm hồn Việt nam, từ ngàn xưa cho tới hôm nay.
CHUYỆN CÁI AO LÀNG
Một
trong những hình ảnh thân thương, ăn sâu vào trí nhớ con người ở các
làng quê từ thời thơ ấu cho đến lúc về già là hình ảnh những cái ao
làng. Câu "còn ao rau muống, còn đầy chum tương” nói lên một cuộc sống
thanh đạm mà ung dung trong cảnh thanh bần.
Những ngày
giáp Tết Nguyên đán, ở bên bờ ao thường diễn ra nhiều hoạt động náo
nhiệt, ồn ào mà đằm thắm. Người ta tát cạn ao rồi chia phần cá cho nhau,
có những người vớt từ dưới ao lên những cây gỗ xoan ngâm trong bùn từ
tháng giêng để chuẩn bị làm nhà hoặc sửa nhà. Nhiều người chung nhau một
con lợn và mổ thịt ngay bên bờ ao, chia thịt, luộc lòng… Người ta rửa
lá dong để gói bánh chưng… thật tấp nập và nhộn nhịp. Phong cảnh cái ao
thật đẹp.
Mùa xuân, các đám cưới đủ màu sắc ngả bóng xuống
ao làng với những tà áo, khăn, nón xênh xang. Dáng đi của những người
dự đám cưới in xuống nước như say như tỉnh. Mùa hạ, trên mặt ao có sen
quỳ trắng, sen diệp hồng hoặc hoa súng…toả ra một mùi thơm nhẹ. Bên cạnh
những bông hoa súng thường có những con chim cuốc đen lủi thủi. Lại có
câu: “Ao cá trê, êm ả ngủ chờ sung" hoặc: "bèo lạnh cầu ao, ai đợi
chờ?…" Cái ao cũng dự báo mùa thu đến: Bờ ao hiu hắt, nước trong xanh,
hay: "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo".
Đó là lúc cuối thu
đầu đông. Bờ ao thường được "trang điểm" bằng các loài cây quen thuộc
như cây vối, cây sung, rặng cúc tần cổ tích, vương vít những đàn gà con
có màu hoàng yến. Bờ ao trong sáng như ca dao. Một góc ao được bắc giàn
mướp để cho những quả bầu, quả mướp rủ xuống. Những khi hoa mướp nở làm
vàng rộm cả một góc ao với những cánh bướm bay đi, bay lại. Năm 1937 -
1938, ở bìa một số báo Tết có đăng ảnh một cô gái duyên dáng cùng với
mấy lời chú thích: "Thoảng tiếng vàng thanh tao Bên gốc mai, bờ ao Một
nàng xinh như liễu. Ngồi ngắm bông hoa đào…". Không phải chỉ có thế, cô
gái đẹp trong ảnh bên bờ ao này còn đang mơ màng ngắm nhìn những đám mây
phiêu lưu trên khung trời in bóng xuống mặt ao.
Khi có
khách quý đến, chủ nhà lấy vó cất một vài con cá tươi, xử lý thật nhanh,
uống rượu ngay bên bờ ao đó là một "bữa tiệc" khó quên. Nhưng cũng có
khi ở vào hoàn cảnh: "Ao sâu, nước cả khôn chài cá" thì chủ và khách chỉ
uống rượu suông với nhau cũng vẫn rất thân tình.
Ao cũng
là nơi hẹn hò, gặp gỡ của trai gái trong làng. Họ hẹn hò và thề thốt
với nhau bên bờ ao vào những buổi chiều tối, những đêm trăng hoặc những
buổi sáng sớm. Những cuộc tình này cũng rất nên thơ và lãng mạn. Các cô
gái trong lễ vu qui, qua chiếc ao làng, lòng lại bồi hồi nhớ những đêm
hẹn hò. Tuổi thơ của nhiều người còn gắn liền với những kỷ niệm khó
quên: "Nhớ những ngày trốn học đuổi bướm cầu ao, Mẹ bắt được… chưa đánh
roi nào đã khóc! " (Quê hương Giang Nam)
Họ hàng của ao
có đầm, có hồ, kênh, lạch. Ao cũng có luật âm thầm mà chặt chẽ của nó.
Tầng nước trên thường là cá riết. Tầng giữa có cá trắm, cá chép, cá quả
cá sộp. Lớp dưới cùng là cá trê. Riêng có "cá chuối đắm đuối" thì hoạt
động ở tất cả các tầng nước ở trong cái ao, xã hội cá giống hệt như xã
hội loài người. Cá tranh ăn, xô xát, đánh nhau, nhường nhịn, sống có
đàn…
Ao có nhiều tên tuỳ theo vị trí địa dư, dáng dấp
hoặc đặc trưng riêng như: ao cầy vối, ao cây sung, ao chùa, ao đình, ao
xóm, ao cây gạo, ao bèo, ao thả cá, ao thả rau cần, ao nuôi vịt, ao
ngang…
Ao cũng là nơi dân làng gặp gỡ, tán gẫu để có
những thông tin như: Cô A xóm Hạ sắp cưới chồng, bà B đi ra tỉnh thăm
coi trai hoặc ông C lên lão bảy mươi… Một vài cô gánh lúa, nghỉ bên bờ
ao, xuống ao khoả nước, nhúng cái nón xuống nước cho mát nón hoặc sẵn
tay ướt vuốt tóc và vuốt lông mày để cho các chàng trai có câu ca dao: "
Có rửa thì rửa chân tay, chớ rửa lông mày chết cá ao anh". Đứng ở bờ ao
một mình, nhất là trong những lúc thanh vắng là có sự mong, nhớ, tơ
tưởng… Như trong câu ca dao: "Đêm qua ra đứng bờ ao, trông cá, cá lặn,
trông sao, sao mờ”: Tâm trạng con người trong lúc này là nói buồn trong
cõi nhớ. Trần Phương trong tích chèo "Suý Vân giả dại" là một tay nổi
tiếng về khoe khoang và nói khoác, đã nói dựng lên: "Sông Tô Lịch là ao
anh thả cá". Nghĩa là ngay cả cái con sông Tô Lịch xưa rộng, dài là thế
mà cũng chỉ là cái ao thả cá của nhà anh ta mà thôi.
Người
phương Tây thấy từ "ao" rất thân mật với họ nên gọi biển Caspienne là
cái ao của người Sa La. Người đi xa trở về, thấy chốn quê hương là đẹp
hơn cả, cũng bồi hồi: “Ta về ta tắm ao ta; dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn". Ao nhà ta tuy không phải là đẹp lắm, nhưng nó là cái của ta, cái
của mình nên nó đẹp và quý vô cùng.
Ngày xưa, hồi kháng
chiến chống Pháp, đâu đâu cũng có những mẩu chuyện bi hùng gắn với cái
ao làng gọi là ao kháng chiến. Đó là những cái ao được đào sâu vào bên
trong thành những hàm ếch làm chỗ ẩn náu cho du kích. Từ những hàm ếch
đó lại còn được đào sâu vào bên trong, xuyên vào các đường ngầm trong
xóm. Cho nên, trong những trận càn hoặc những trận chiến đấu, du kích
nhảy xuống ao là địch không thể tìm thấy được. Và những du kích nấp ở bờ
ao lại xông lên đánh địch. Có những cái ao nhuộm máu sau những trận
chiến đấu, được gọi là ao thiêng hoặc mang tên những người nữ du kích
anh hùng như: ao chị Chiên, ao chị Mạc Thị Bưởi…
Người ta
chê một người nào đó có cái cười nhạt như “nước ốc ao bèo" là có cái lý
của nó. Vì rễ bèo cái trong ao hấp thụ mạnh mẽ những chất khoáng cần
thiết để hình thành chất prôtêin trong cơ thể ốc. Do ốc thiếu chất đạm
trầm trọng nên thịt ốc nhạt nhẽo. "Ăn mày đánh đổ cầu ao” là nói lên
hiện tượng một người nào đó rất khó khăn mới ky cóp được một chút gì đó
mà lại bị mất đi sạch sành sanh.
Với nhịp độ đô thị hoá
chóng mặt như ngày nay, trong một ngày gần đây, mỗi người trong chúng ta
sẽ “thèm" một cái ao, một phong cảnh, một hương vị, một chuyện Cổ tích
về cái ao".
BA NGÔI MỘ "HỒNG NHAN"
Có
một người đàn bà khốn khổ nào đó đã đặt gói tã lót bọc một bé gái đỏ
hỏn ở ngay góc ngôi đền nhỏ. Một bà đi qua, ẵm lấy cái bọc, dừng trước
cửa đề nhận đứa bé là con nuôi và xin thần làm chứng cho mình đã có một
đứa con trời cho. Nhưng bà bỗng khóc lên nức nở vì bà quên rằng bà quá
nghèo, nuôi miệng mình cũng còn khó khăn. Bà liền gạt nước mắt, truyền
cái bọc ấy cho một người đàn bà khác nuôi làm phúc.
Cô bé
không cha, không mẹ nhận đủ mùi đói rách ấy lớn lên có tên là cô Tư
Hồng. Người chồng của cô tên là Hồng đã trở về Trung Quốc, cô lấy một
viên quan tư người Pháp. Và trước đây, cô đã có những cuộc tình duyên
ngoài khuôn khổ với nhiều người. Cô không có "sắc" lắm nhưng có "thanh",
duyên dáng, ăn nói khéo và đầy sức thuyết phục. Người ta bảo đôi mắt
của cô là đôi mắt “nhãn trung hữu thuỷ" (trong mắt có nước) làm cho đàn
ông nhìn vào là tự nguyện khuất phục.
Cô đã thầu các vật
liệu xây dựng, lại thầu cơm tù cho các trại giam, nhà tù cô kinh doanh
xây dựng nhà ở, dinh thự, cầu cống, mở các hãng buôn lớn. Vì có tài kinh
doanh, cô nhanh chóng trở nên nổi tiếng về giàu có và thế lực. Cô có
lòng thương đối với những người bị tù tội nên luôn can thiệp để làm cho
các bản án của họ được giảm nhẹ. Với những người mang án từ 10 năm đến
15 năm tù, cô cũng xin được tha bổng như không. Bất cứ ở nơi nào trong
toàn quốc bị mất mùa, bão lụt cô đều cho chở gạo, ngô đến phát cứu tế
cho các nạn nhân với số lượng rất lớn. Thỉnh thoảng cô lại đi xe ngựa,
rải những gói thịt bò chừng một lạng với những gói lạc tới những người
dân nghèo ở hai bên đường những lần phát chẩn như vậy, cô đã giết hàng
chục con bò lớn. Cô phát cho mọi người nhưng không bao giờ cao ngạo mà
thường cúi xuống với nét mặt trầm tư. Có người nói lớn lên: "Cô ném sang
bên này thêm đi!" "Vâng" cô đáp.
Cô được vua nhà Nguyễn
tặng cho bốn chữ "Tiết hạnh khả phong" với hàm ý rộng của chúng. Nhưng
về sau cô can thiệp nhiều vào việc giảm án cho cả những người tù bị nhà
chức trách cho là nguy hiểm, có tinh thần dân tộc nên cô cũng bị liệt
vào "thành phần nguy hiểm". Từ đó, cô bị nhà nước bảo hộ không cho cô
liên lạc gì với các cơ quan, họ tẩy chay cô, không cho lập các hãng buôn
và cản trở những hoạt động của cô. Thế là cô đành phải rút lui về nhà
sống những ngày còn lại với một cuộc sống khá phong lưu. Cô vẫn rộng rãi
và làm những việc từ thiện không mệt mỏi khi chết. Bia có đề chữ “ Cô
Tư Hồng”.
Năm 13 tuổi, cô Tý (người Hải Dương) đánh vỡ
chai dầu do cha sai đi mua. Về nhà sợ cha đánh cô đã bỏ nhà đi. Ông bố
đi tìm con mãi không thấy nên đi xem bói. Thầy bói ở đầu cầu Hải Dương
bảo: “Phải 13 năm sau ông mới thấy được con gái”. Ông cũng không tin và
quên hẳn chuyện này.
Hơn 10 năm sau, cô Vũ Thị Tý đã trở
thành bà chúa Hàng Bạc, có hẳn một cái động bà chúa nay ở khoảng gần rạp
Chuông Vàng). Đó là một ngôi nhà rộng lớn, lộng lẫy bày đặt nhiều đồ
vật đẹp và lạ kỳ, mở cửa rộng cho mọi khách thập phương xa gần đến xem.
Nơi đây có đủ những đồ quý hiếm, những cổ vật vô giá như đỉnh, bầu rượu,
đôi ngà voi của vua Hàm Nghi, nhiều lọ độc bình, sập gụ chạm trổ đủ 100
con phượng v.v… Lại có cả những con vật hiếm như gà ba chân, rùa hai
đuôi, cá vừa là chép vừa là trắm, chó huyền đề, sóc bay, khỉ bạc má,
phượng hoàng đất v.v…
Một ông lão nhà quê lần đầu tiên ra
Hà Nội cũng ngơ ngác vào thăm động “Cô Ba Tý”. Ông lóng ngóng cái ô thế
nào mà móc ô kéo giật làm vỡ chiếc lọ độc bình đời Khang Hi. Gia nhân
lôi ông ra, đánh một trận. Cô Ba Tý mặc bộ áo dài sang trọng, đầu chít
khăn vành dây, chân đi hài thêu phượng, thấy nhốn nháo liền ra can. Qua
sự việc không may này, cô Ba Tý nhận ra ông lão nhà quê kia chính là bố
của mình đã 13 năm xa cách.
Cô đã qua mấy đời chồng và
quan hệ với toàn những người có vai vế cao trong xã hội. Cô thích giữ
gìn những cái đẹp độc đáo trong di sản văn hoá dân tộc. Nhiều khách
phương Tây đã trả những món tiền rất cao cho những đồ vật quý hiếm,
nhưng cô cũng không bán. Cô đối đãi với mọi người thật nhân hậu, rộng
rãi, hay làm những việc phúc đức, từ thiện nên cũng được vua ban cho bốn
chữ “Tiết hạnh khả phong”. Cô không đẹp rực rỡ nhưng thân hình khoẻ
mạnh, chắc mà hơi thô. Nhưng dáng vẻ thô này chính là cái vẻ thô mà danh
hoạ Picasso say sưa lắm. Thân thể cô đúng là một cơ thể "lên tiếng
gọi". Nhiều nhà chức trách cao của Pháp ganh tị, sát phạt nhau chỉ để
được cô chú ý đến.
Cô xây cho mình một cái sinh phần.
Trên bia đá có dòng chữ Madame Becty (vì người chồng Pháp của cô tên là
Becty), hàng chữ dưới đề: “cô Vũ Thị Tý”…
Một người đàn
bà đáng lưu ý nữa là cô Vương Thị Phượng. Cô người Hàng Đào, lấy chồng ở
Hàng Ngang. Cô đẹp đến nỗi bất cứ ai đi qua cửa hàng cũng phải ngoái
đầu lại hoặc đi đi lại lại vài lần để ngắm cô. Người Hoa kiều ở Hàng
Ngang nói rằng đôi mắt của Thị Phượng là đôi mắt “Hoàng diệp lạc". Đối
tượng nhìn vào đôi mắt ấy tự thấy mình như một chiếc lá vàng rơi…
Cô
dám tìm đến tự do trong tình yêu và thực hiện ý định đó. Nhưng không
được. Cô phản đối cuộc sống bắt người đàn bà làm nô lệ. Cô đã bỏ chồng
đi theo tiếng gọi của một anh chàng nhà báo trẻ đầy tài hoa. Sau đó, vào
những năm 1927 -1928, cô phải chống trả hàng loạt những sự đả kích tới
tấp của gia đình và xã hội. Cô đã chịu sự lừa dối của nhiều kẻ giăng
bẫy. Cô đã chịu những nỗi cơ cực suốt. cả những tháng năm vào Nam ra
Bắc. Cô đã qua tay nhiều người đàn ông vì sự tồn tại và vì cuộc đời xô
đẩy. Nhưng đến khi chết cô không còn đồng xu dính túi, phải nằm chết một
cách ê chề, điêu đứng ở nhà thương làm phúc. Đám tang chỉ có một người
tình cũ rủ lòng thương, đưa xe cô đến mộ và sau đó khắc cho cô một tấm
bia đề: “LC Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng”. Cái chết của người đẹp
có hành trình số phận mà cả ba cuốn sách "Ana Karenina" "Phục sinh" và
Trà Hoa Nữ cộng lại mới nói lên được, đã làm nao núng cả Hà Nội và khắp
nơi trong nước.
***
Ngôi mộ cô Tư Hồng ở
phía tay phải, cách cổng chùa Hai Bà chừng 150 bước chân. Nay ở khoảng
mảnh đất của trường PTCS Bạch Mai.
Mộ của Vương Thị Phượng đối diện với cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Đường thẳng từ ngôi mộ đến cổng bệnh viện chừng 150 mét.
Phần
mộ cô Ba Tý ở cách Tháp Bút chùa Liên Phái Bạch Mai chừng 100 bước. Nay
hãy còn vòm của sinh phần và một tấm bia. Ba ngôi mộ "hồng nhan" nổi
tiếng của Hà Nội, của Việt nam ở vào những thời kỳ khác nhau. Ba số phận
độc đáo có thể ca ngợi được, cũng có thể khóc được lại có những điểm
rất giống nhau: nằm ở cùng một khu vực gần nhau ở Bạch Mai quận Hai Bà
Trưng. Ba ngôi mộ lại là ba góc nhọn của một hình tam giác cân, rất cân.
Phải chăng là một sự diệu kỳ của số phận?
CHUYỆN CON TRÂU
Trước
hết, ta hãy nói về con trâu hiến sinh trong lễ Trâm trâu của các dân
tộc Tây Nguyên, cũng như ở Indonesia, Malaysia. Con trâu trong lễ hiến
sinh biểu thị tình nghĩa mẹ con muôn đời. Con trâu chết cho mẹ, cho cộng
đồng. Trâu biểu hiện cuộc sống bản thể, tự nguyện phục hồi năng lực
sinh sản của mẹ Đất đã mòn mỏi do con người bòn rút máu thịt của mình để
sinh sống. Trâu hiến mình để cho yên lòng mẹ Đất góp vào sự sinh tồn và
vĩnh cửu.
Trong lễ đâm trâu, người ta làm cho trâu chết
dần chứ không cho trâu chết hẳn ngay để làm cho trâu trở nên "anh hùng".
Vì trâu hiến sinh nên khi chết, trâu thành vật tổ (totem). Con trâu bị
phân thành nhiều mảnh, bón cho đất Mẹ. Hiến sinh là đức của con người
muôn thuở. Đường đi của trâu là luống cày, là đường đi của ngũ Cốc của
văn minh. Con sông Kim Ngưu từ Hà Bắc lượn về từ núi Trâu Sơn ở giếng
Việt, ôm lấy Thủ đô Hà Nội,làm nên đế đô Phồn vinh. Ở làng Phật Tích (Hà
Bắc) còn có nhiều di tích trâu đá… Trâu là loài nhai lại, ăn giả làm
thật, ở Việt nam có rất nhiều giống trâu. Con trâu đại diện cho lòng tốt
sự bình yên,sức mạnh, sự bình tĩnh, là tượng trưng cho sức lực và sự hy
sinh. Trâu là một trong 12 con giáp, là một trong lục súc gồm: ngựa,
dê, trâu, gà, chó, lợn… gần gũi nhất với con người.
Trâu
thuộc âm. Người ta gọi con trâu rất thân mật: "Trâu ơi ta bảo trâu này…"
Năm Sửu là năm con trâu. Giờ sửu là từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, là lúc
trâu bắt đầu công việc hàng ngày, kéo cày hoặc bừa. Người đẻ năm Sửu
thường có tài năng và có cường độ lao động tất. Đó là những đức tính rất
cần thiết đối với bất kỳ ai. Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm
Kỷ Sửu (1889). Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, sinh năm Đinh Sửu (1937). Đời
trâu làm thật, ăn giả, cổ cày vai bừa. Nó làm việc cật lực cần cù, nhẫn
nại, kéo cày trả nợ (nợ đời): “Bao giờ cây lúa thành bông, thì còn ngọn
cỏ ngoài đồng trâu ăn “ Nó chỉ ăn cỏ và rơm. Xưa kia, người chịu ơn nói
với người tạo ơn cho mình rằng: "Xin làm trâu ngựa đền nghìn công ơn…"
Trong Truyện Kiều có câu: Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai"?… Đó là
lời thề của người chịu ơn kiếp này nguyện đến kiếp sau xin trả nợ. Với
xã hội nông nghiệp, con trâu là đầu cơ nghiệp. Nó góp phần quyết định
việc đẩy mạnh sức sản xuất và năng suất lao động. Trâu rất khoẻ: khoẻ
như trâu mộng, yếu trâu còn hơn khoẻ bò. Con gái ở tuổi thanh xuân cũng
là lúc xuân tình thịnh vượng nhất và có sức mạnh dữ dội, hăng hái nhất
được gọi là: Gái 17 bẻ gãy sừng trâu". Câu nói này có hai ý nghĩa, chỉ
người con gái có dư sức làm việc và cũng có dư sức trong "chiến trận yêu
đương…". Con trâu có tai lá mít, đít lồng bàn là con trâu hay. Mắt trâu
hơi lồi, lờ đờ, nhìn chằm chằm, rộng lượng, cam chịu duyên phận, hiền
từ… Khi người ta yêu nhau, nhìn nhau bằng đôi mắt trâu đờ đẫn, thẫn thờ
là như vậy đó. Con trâu si tình, rất kín đáo nên chẳng mấy ai để ý. Vì
họ không nhìn thấy con trâu liếc.
Hàng năm ở Đồ Sơn vào
hội chọi trâu truyền thống rất náo nhiệt. Nhưng ta chỉ thấy có hai con
trâu chọi nhau mà thôi. Cụ Thìn, 91 tuổi, ở chợ Đồ Sơn cho biết: “Khi
xưa, ở mỗi bên bãi chọi trâu đều cỏ buộc một con trâu cái “ngon lành"
bằng một dải lụa đỏ để động viên tình lang của mình quyết đấu”. Như vậy
là những cuộc chọi trâu xa xưa cũng phải có chuyện "mái suy" mới trở nên
quyết liệt. Trời sinh ra thế mà… Con trâu có ích cho công việc nhà nông
đã đành. Người ta cũng còn có thề sử dụng tất cả những gì ở con trâu:
thịt, xương, da, lòng… Ngay lông trâu, móng trâu, sừng… đều có thề được
axit cho hydrich (HCl) thuỷ phân rồi cùng với một số hoá chất khác để
chế thành xì dầu, magi, bột ngọt hoặc mì chính. Sừng trâu còn dùng làm
cốc uống rượu theo kiểu dân dã ở miền núi. Nó cũng là cái tù và truyền
lời kêu gọi và bản thân nó cũng là một nhạc cụ hoành tráng. Da trâu bịt
mặt trống cho các loại trống như: trống chèo, trống tuồng, trống chầu,
trống trong hát ả đào, trống cơm, trống bồng trong đám ma…đã làm náo nức
tâm hồn bao người. Huyền thoại kể về chuyện tình của Ngưu Lang và Chức
Nữ. Sự thực thì hậu duệ của họ là chàng chăn trâu và cô gái trồng dâu,
dệt vải. Đó là hai mặt của âm và dương, là chàng và nàng. Gần đây nhất
là chàng công nhân lái máy cày và cô gái làm trong xưởng dệt. Trong vở
Quan âm Thị Kính, sau khi thị Mầu bị thất vọng không "ăn thịt” được Thị
Kính, đã yêu anh Nô theo kiểu: "Trâu ta ăn cỏ đồng ta” và dạy cho anh Nô
cách thắp hương khi thấy oản chùa… ở nước ta xưa, nhà nào có 9 đụn 10
trâu là nhà giầu. Đường sống là đường nhỏ, gồ ghề, cao lên ở phía giữa.
trâu chậm uống nước đục là nói người đến sau bao giờ cũng chỉ thu hoạch
được những gì còn lại.
Đầu trâu mặt ngựa là chỉ những kẻ
đáo để, hung dữ mà ai cũng muốn tránh mặt. Những người cùng hoàn cảnh,
cùng khả năng, nhất là có tính tình giống nhau, kết bạn với nhau gọi là
trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa. Những câu nói này dùng trong trường hợp
không mấy tất đẹp. Trâu trắng đi đâu mất mùa đấy là chỉ sự vô duyên vậy.
Người ta bạc đãi và ghét con trâu trắng chỉ vì nó không giống đồng loại
của nó có màu đen.
Lại có câu: "Có ăn có chọi, mới gọi là
trâu" khuyên mọi người hãy mạnh dạn đấu tranh trong cuộc sống. Ngày 23
tháng chạp hàng năm, ở chợ Bưởi có phiên chợ trâu náo nhiệt. Người ta
thường bảo: "Thật thà cũng thể lái trâu". Câu nói này còn có vấn đề phải
bàn.
Thách cưới 3 bò 9 trâu là thách cưới nặng mà bên trai khó lòng đáp ứng nổi…
Con
trâu! Con trâu trên cánh đồng cò bay mỏi cánh của Việt nam. Con trâu
trong huyền thoại: "Trâu vàng Hồ Tây", trong giấc mơ của cái tuổi: "Ai
bảo chăn trâu là khổ con trâu còn có trong những câu hát ru: "trâu ta,
ta buộc bờ ao". Dặn dò to nhỏ… làm sao tao cũng bằng lòng con trâu là
hình ảnh thân thương và gầngũi trong cuộc sống của làng quê Việt nam.
CÂY ĐA
Xung
quanh Đền Bà ở làng Ỷ La, Tuyên Quang có mấy cây đa khổng lồ nổi cộm
lên như những ngôi nhà lầu nối tiếp nhau. Chúng đan kết lại với nhau
bằng những chùm rễ phụ bạt ngàn, bao la. Chúng đu đưa trước gió như
những chiếc võng treo thờ ở các đền Mẫu, phủ Mẫu. Đây là hình tượng gợi ý
cho các bà mẹ thời xa xưa làm ra lưới bắt cá, tết võng và làm nghề dệt
vải Thạch vải. Thạch Sanh ngày xưa có một túp lều tranh dưới gốc cây đa.
Ông Bụt nhân từ cũng từ những cây đa hiện ra.
Cây đa bề
thế, bệ vệ, to cao vời vợi. Các cành cao thả dài xuống đất rồi lại sinh
ra rễ mẹ, rễ con, bền vững và đầy sức sống. Cây đa yêu đời, đẹp đẽ và nó
tượng trưng cho sự phồn sinh và tuổi thọ Biểu tượng của " Hội những
người cao tuổi thế giới" được thể hiện qua hình ảnh một cây đa cổ thụ.
Cây
đa trần trụi với vẻ nguyên thuỷ, có những điều ẩn chứa, có những điều
rối rắm và huyền ảo. Nó tượng trưng cho sự trống trải, cho sức mạnh vật
lý và địa lý. Nó thu hút vào mình những tia sét, những dòng điện trường.
Những đêm mưa to gió lớn, cây đa đã chống chọi lại với gió bão, dũng
cảm phi thường.
Cây đa xòe tán xanh và rộng ra để che
nắng, che mưa cho mọi người. Nó che chở cho mọi người. Nó là cây mẹ, làm
cho con người yên tâm với nụ cười, nước mắt, hướng về vĩnh cửu. Người
ta gọi cây đa làng, cây đa huyện, cây đa bãi, cây đa bến sông, cây đa
xóm, cây đa chợ v.v…
Cây đa là điểm ghi nhớ, điểm đánh
dấu nổi bật, đại diện cho một nơi chốn đáng được lưu ý. Cây đa chứng
kiến những thăng trầm của các lớp người, trong tín ngưỡng dân gian, có
tục thờ cây đa. Bên gốc đa thường có một cái miếu nhỏ đặt bát hương,
những chiếc bình vôi để hương khói cho thần cây đa: “Thần cây đa, ma cây
gạo”… Chàng và nàng gặp gỡ hẹn hò, thề thốt với nhau bên gốc cây đa. Họ
bảo: “Có cây đa biết mối tinh đôi ta”.
Cây đa tha thiết
và thiêng liêng: "Trăm năm, đành lỡ hẹn hò…Cây đa bến cũ, con đò năm
xưa”? Cây đa cũng là nhân vật, là thành viên của xóm làng: "Giếng nước,
cây đa tiễn chàng trai ra trận"! Cây đa là hình ảnh cao đẹp, là cả một
bức tranh hoành tráng gắn bó với mái đình, chùa, miếu, giếng thơi v v…
dựng nên cả một thế giới tinh thần bền vững cho mọi người từ khi còn trẻ
thơ cho đến lúc về già.
Cây đa tượng trưng cho vẻ đẹp
quê hương. Nó góp thêm màusắc, âm thanh cho làng quê êm đềm. Nó vẫy gọi
những đàn chim nhiều màu đến hội tụ, làm tổ rỉa quả đa chín. Và thỉnh
thoảng vào những buổi đẹp trời từ những cành đa nhằng nhịt, tung ra
những trận mưa chim. Người ta nhìn lên mặt trăng huyền ảo, thấy những
nét đậm nhạt mà nghĩ ngay ở nơi đó có hình ảnh cây đa và chú cuội. Thế
rồi cái huyền thoại ấy ăn sâu vào lòng người: "ánh trăng trắng ngà, có
cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ".
Ngày xưa, ở
trên thân cây đa thường có những tờ cáo thị, yết thị. Thời kỳ cách mạng
xuất hiện những tờ hiệu triệu đồng bào sản xuất, chiến đấu, đoàn kết…
Người quan họ có bài "Lý cây đa” nổi tiếng. Đó là một bài hát rất hay
nói về anh trai làng đi đến gần gốc đa, nhìn thấy cô gái thắt lưng xanh
mà đem lòng yêu mến… Sau một ngày làm việc vất vả buổi chiều mát mẻ,
người ta thường tụ tập nhau bên gốc đa. Họ uống chè vối hút thuốc lào
rồi kể chuyện với nhau, bàn bạc và bình luận về cuộc sống. Đôi khi, bên
quán nước nhỏ cạnh gốc đa có đôi vợ chồng xẩm kéo nhị, hát lên bài "Anh
khoá" làm bâng khuâng cả đám đông người nghe. Nhà nghiên cứu người pháp
M. Colami đã viết hẳn một cuốn sách về cây đa ôm tảng đá tại làng Thanh
Khê huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Cây đa Tân Trào là hình ảnh quê hương
cách mạng mùa thu không bao giờ phai mờ trong tâm trí người Việt nam
qua câu thơ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào". Người Hà Nội thường
hay nhắc đến cây đa Cổ thụ nổi tiếng: cây đa nhà Bò. Xưa kia, ở ngay
cạnh nó là nhà đúc tiền. Bây giờ có một nhà hộ sinh. Qua hai cuộc kháng
chiến trường kỳ, cây đa cũng gánh chịu trên mình đầy những vết thương
chiến tranh. Cây đa cửa quyền ở phố Hàng Bông có những chuyện kể quái dị
kiểu Liêu trai chí dị. Chuyện kể rằng cứ chập tối, thỉnh thoảng có
những cô gái rất đẹp ngồi trên những chiếc xe tay có người kéo, đi thăm
các cây đa quanh vùng Hà Nội rồi biến mất lúc nào không biết. Ngày hôm
sau, người phu xe sẽ rất đắt khách.
Cây đa chùa Hai Bà ở
Đồng Nhân phải cần đến hơn mười sải tay mới ôm xuể. Cây đa ở làng Vân Hồ
có hàng trăm rễ rủ xuống đất như một chiếc mành mành lớn, đeo trên mình
hàng trăm chiếc bình vôi cổ kính và những bát hương lập lòe ánh lửa và
khói ở quanh nhà Bác cổ (nay là Viện Bảo tàng lịch sử) có 6 cây đa lớn.
Gần Hồ Tây, quãng đầu Thuỵ Khuê có cây đa gọi là cây đa cô Son bên cạnh
miếu cô Son. Đó là nơi xưa kia anh khoá Hồng và cô Son gặp nhau và chia
tay nhau. Cây đa chùa Bà Đanh nguy nga như một lâu đài. Tại phố Quán
Thánh có ba cây đa chụm lại gần nhau, rợp bóng cả một khu phố. Người ta
dựng ngay cạnh đó một quán cà phê gọi là quán cà phê Quán Thánh người ta
cũng thường nhắc đến cây đa làng Lủ, cây đa sông Tô Lịch, cây đa Hàng
Gai v.v… Những vị cao tuổi uyên thâm, đức độ, được mọi người tôn kính
gọi là các vị cây đa cây đề. Lại có cả những cụm từ cửa miệng như: cúng
cháo lá đa, trạch đẻ ngọ đa, con nhà sãi chùa đi quét lá đa, cậy thần
phải nể cây đa. Cây đa là một vẻ đẹp, là biểu tượng, là hình ảnh sinh
động của làng quê Việt nam. Nó góp Phần làm cho văn hoá làng xã thêm đậm
đà, lấp lánh.
Sưu tầm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét