Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013

Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 1

Lời nói đầu

Đệ nhất phu nhân của Hoàng Trọng Miên là một truyện dài đăng báo, được viết vào năm 1965, hai năm sau khi chế độ Diệm Nhu bị phe quân nhân lật đổ. Thực hiện chính sách "thay ngựa giữa dòng", Toà Nhà Trắng hy vọng tạo dựng được một chính quyền tay sai tin cậy và đắc lực hơn trong công việc thực hiện mưu đồ xâm lược của chúng tại miền Nam Việt Nam.

Tác giả đã dựa vào sự kiện có thực để tiểu thuyết hoá cuộc đời của Trần Lệ Xuân, một người đàn bà đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong chế độ Diệm, từ thời Lệ Xuân còn là cô gái lãng mạn, sống trong gia đình có những sinh hoạt phóng túng thuộc giới gọi là đài các thượng lưu của xã hội cũ, chịu ảnh hưởng đậm đà của văn hoá Pháp, một thứ văn hoá đã được thực dân nhào nặn cho hợp yêu cầu thống trị ở các thuộc địa, đến lúc làm dâu họ Ngô rồi trải qua các biến cố lịch sử đưa đẩy mà thành Đệ nhất phu nhân.

Sống cạnh người chồng cố vấn chính trị gần như bất lực và người anh chồng Tổng thống không vợ, không con, có nhiều mặc cảm đối với phụ nữ, Lệ Xuân đã áp đảo được những kẻ cầm đầu chế độ bằng giới tính của mình, đã đồng hoá những dục vọng dồn nén với khát vọng về quyền hành, biến các phiêu lưu tình ái thành những thủ đoạn chính trị, lấy bản thân mình làm một công cụ xây dựng sự nghiệp mưu bá đồ vương cho gia đình chổng và cho riêng mình. Tất cả những tấn tuồng mà cái động lực chủ yếu, tiềm tàng và sôi nổi là sự đam mê quyền lực, đã xô đẩy những con người của nhà họ Ngô tìm đủ mọi cách choài lên qua những kẽ hở lịch sử, và vượt khỏi những lằn ranh đã được chỉ định để kết thúc bằng một tấn bi kịch, sau khi đã gây biết bao tội ác trong cái thời khoảng chín năm trị vì.

Cuộc đời Đệ nhất phu nhân gắn chặt làm một với chế độ ấy, đã được phát khởi cũng như tồn vong với chế độ ấy, vì vậy nói về người đàn bà này cũng là nói về triều đại tay sai mà Diệm và Nhu là kẻ chủ chốt.


Cuốn tiểu thuyết này lần đầu được in thành sách, sẽ giúp bạn đọc nhìn thấy rõ hơn cuộc đời của một phụ nữ đã bị tha hoá vì sự đam mê quyền lực, một thứ quyển lực chính trị đầy tội lỗi, và cũng qua đó thấy được một cái số phận tưởng như rực rỡ hào quang nhưng rốt cuộc lại là một bóng ma tủi hận. Nhưng điều quan trọng mà cuốn tiểu thuyết có thể đem lại cho các bạn đọc là qua rất nhiều tư liệu xác thực minh hoạ cho từng giai đoạn, chúng ta có thể nhìn lại xuyên suốt một cách cụ thể, sống động cả một chế độ tay sai, một cái thời khoảng lịch sử qua, đổ máu xương của những con người yêu nước và yêu lẽ phải có thể dựng nên cả một trường thành góp phần quyết định cho sự toàn thắng của cách mạng và sự thất bại tất yếu của bọn đế quốc và lớp tay sai.


Mặc dầu tác giả có những hạn chế về mặt quan điểm trong khi giới thiệu sự việc, do cách nhận thức vấn để đã bị khuôn dịch trong xã hội cũ, và sự dễ dãi ở trong bút pháp vốn rất phổ biến trong các truyện dài đăng trên nhật báo ngày xưa, tiểu thuyết ĐỆ NHẤT PHU NHÂN vẫn có được sự hấp dẫn đặc biệt, nhờ sự phong phú của những tinh tiết và sự thuyết phục của những sự thực đã được lịch sử khẳng định.


Rất mong bạn đọc góp ý phê bình xây dựng để Nhà xuất bản có thêm kinh nghiệm trong các công trình sắp tới, nhằm phục vụ bạn đọc được tốt hơn.


Chương 1

Bước đầu chinh phục

Những tràng đạn liên xé tan không khí nồng nực buổi trưa nắng Sài Gòn tăng thêm hơi khét cháy của mùi thuốc súng. Từng lúc tiếng nổ ầm của lựu đạn vang dội nhắc nhở mọi người là đang có đánh nhau giữa lòng thành phố. Chiến cuộc đã diễn ra từ khuya hôm qua giữa binh sĩ theo họ Ngô và nhóm Bình Xuyên.


Tiếng ầm ĩ của máy bay thám thính lượn giữa trời xanh ngắt, đảo quanh trên khu vực trung tâm Sài Gòn - Chợ Lớn, thỉnh thoảng nghiêng cánh liếc qua phía bên kia cầu chữ Y, hướng dẫn cho đạn moóc-chê bay qua địa điểm Tổng hành dinh Bảy Viễn, thủ lãnh Bình Xuyên. Các ổ Công an xung phong Bình Xuyên rải rác khắp đô thành, thưa dần tiếng súng cầm cự, rút về tập trung trấn giữ khu trường Pétrus Ký, án ngay đường chọc thẳng vào trọng tâm vị trí của Bình Xuyên, chống lại các đợt tấn công của tiểu đoàn lính Nùng bao vây mấy mặt, đang dùng bích kích pháo nã ngay vào doanh trại đối phương. Trên đại lộ Trần Hưng Đạo vắng ngắt, các đám cháy hai bên đường còn bốc khói mù mịt, khu lầu Tổng uỷ Di cư trơ những vách tường đen đổ nát vì lửa đạn đêm rồi. Thỉnh thoảng một chiếc xe Jeep cắm cờ tam tài chở mấy quân dân Pháp chạy vụt qua. Tiếng nổ lách tách của đường nhựa mềm ra dưới sức nóng trưa miền nhiệt đới hoà lẫn với tiếng rít của bánh xe hơi chạy hết tốc độ, tiếng rầm rập của xe thiết giáp, tiếng rú của xe cứu thương, tiếng hốt hoảng kêu cháy của xe chữa lửa, tiếng súng trận nổ giòn, tiếng lựu đạn ầm vang, tất cả hợp thành một âm điệu cuồng loạn, quái dị trỗi lên bất ngờ giữa buổi trưa của một thành phố hai triệu người. Từ dinh Tổng tham mưu quân đội Việt - Pháp, một chiếc mô-tô Harley chở một quân dân trẻ tuổi phóng ra đường, ngược đại lộ Trần Hưng Đạo, lao mạnh về phía Sài Gòn. Phố hai bên đường đóng kín cửa, xe xích lô đạp, xích lô máy, xe ba gác chồng chất đồ đạc của dân lánh nạn từ vùng Chợ Quán lếch thếch đi về hướng chợ Bến Thành.


Dưới mái hiên phố đại lộ Bonard ngổn ngang la liệt những gia đình bình dân tránh thoát vùng lửa đạn, đàn bà, trẻ con, người lớn nằm ngồi hỗn độn cả trên hè đường, cạnh những tay xách quần áo, đồ đạc đã chạy được. Vẻ sợ hãi, lo âu, phập phồng còn in dấu trên những khuôn mặt bơ phờ, mệt nhọc của đám người vừa thoát cơn kinh hoàng. Tiếng bàn tán rì rầm xen lẫn với những tiếng khóc than nhà cháy, người hết, tiếng thở dài nhẫn nhục, tiếng nguyền rủa, chửi thề uất hận. Người quân nhân vận quần áo tây trắng cụt, không mang phù hiệu, đầu đội mũ bê-rê lớn, cỡi mô-tô từ dinh Tổng tham mưu phóng đến đường Catinat, thắng xe dựng cạnh nhà hàng Continental, rảo bước tiếng vào. Giữa đám khách hàng hấu hết là người Âu, dân sự lẫn nhà binh đang uống rượu khai vị hoặc ăn bữa trưa, một người Pháp đeo máy ảnh bên vai, ngồi trước quầy rượu nhìn ra ngoài, bỗng đứng vụt lên, đưa tay chào vẫy:


- Đây này, trung tướng!

Rồi không đợi cho người đi mô-tô vào kịp ngồi xuống, anh chàng phóng viên hãng thông tấn Pháp AFP đã lên tiếng hỏi dồn dập, giữa lúc hai ký giả Mỹ ùa tới, vây lấy viên sĩ quan cao cấp người Việt:


- Thế nào, trung tướng Nguyễn? Bỏ rơi nhóm Bình Xuyên à?
- Quân của Thủ tướng Ngô đang thắng thế phải không? Chiến cuộc giữa châu thành, theo trung tướng nhận định còn kéo dài bao lâu nữa?
  Trung tướng Nguyễn Văn Hinh gọi một ly nước suối, im lặng mỉm cười ngả lưng ra ghế bành, thong thả nói:
- Trong lúc này tôi chưa có thể nói một cách dứt khoát được. Lối hai tiếng đồng hồ nữa các ông sẽ biết những tin đích xác. Tôi đang đợi một sự xác nhận quyết định của thượng cấp.
Ký giả Mỹ chen ngay vào:
- Trung tướng chưa nhận được điện của Ba Lê ra lệnh cho quân đội đặt dưới quyền trung tướng không được can thiệp vào cuộc xung đột này sao?
- Tôi không nhận được gì cả. Tôi đang chờ.

Thông tín viên Pháp hỏi:
- Thế thái độ hiện giờ của Bộ Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ra sao?
Trung tướng Hinh lắc đầu:
- Hình như họ đang chờ. Có lẽ các ông cũng nén "chờ xem".

Người Mỹ đeo kính trắng, phóng viên của hãng vô tuyến truyền hình ABC lên tiếng:
- Trung tướng có thể cho tôi vác máy đến quay phim cho rõ là trong lúc này những khẩu đại bác 105 ly của trung tướng đang chĩa về phía dinh ông Diệm phải không?
- Có hay không, đó là bí mật quốc phòng, mà lúc này, tôi rất tiếc không thể làm vừa lòng ông được.

Phóng viên hãng thông tấn xã Ba Lê nói:

- Sáng nay, Bảy Viễn tuyên bố với ký giả là ông ta không hề ra lệnh tấn công và quả quyết rằng không có một viên đạn nào từ khu vực Bình Xuyên bên kia cầu chữ Y bắn qua trung tâm Đô thành. Cùng một lúc, Thủ tướng Diệm lên tiếng trên Đài phát thanh Sài Gòn báo là: "Hồi 12 giờ khuya đêm qua, một phát bích kích pháo đã nổ làm hiệu lệnh cho cuộc tấn công của Công an xung phong Bình Xuyên". Đồng thời, sáng hôm nay, Hộ pháp Cao đài Phạm Công Tắc có đánh một điện văn sang Pháp cho Bảo Đại, nói rằng: "Thủ tướng Diệm đã hạ lệnh tấn công các cơ sở của Bình Xuyên". Như vậy, theo trung tướng bên nào đã khai chiến trước?

 Tướng Nguyễn Văn Hinh nhìn theo những múa tay của người phóng viên Pháp qua sự trình bày hỏi han rất chính xác, thấy khó trả lời dứt khoát được nên thoái thác bằng một câu hỏi úp mở:
- Thế theo các ông, bên nào bắn trước? Hay tự dưng súng nổ?
Ký giả Pháp không chịu thua:
- Xin trung tướng cho biết ý kiến riêng của trung tướng.
Bị dồn vào thế bí, tướng Hinh cười đáp:
- Theo tôi, cả hai bên cùng nổ súng, vì Bình Xuyên và ông Diệm đều muốn thịt nhau cả.
Anh chàng phóng viên Mỹ cao lêu nghêu rút ở túi áo sơ-mi ra một mảnh giấy đánh máy:
- Đây là lời kêu gọi của cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu, nguyên văn tôi đã nhận được sáng hôm nay: "Tôi van xin các bạn. Tôi khẩn khoản yêu cầu các bạn đừng giết hại lẫn nhau giữa các chiến hữu. Các bạn đừng giết nhau để thoả mãn tham vọng của những kẻ mà suốt thời gian các bạn chiến đấu, họ đã trốn tránh trong chờ đợi thuận tiện, tìm an ninh nơi hải ngoại và hoàn toàn vô danh trên đất nước này". Đấy, tiếng nói của một người đại diện cho giới tài chính tư bản Pháp và Nam Kỳ, trung tướng nghĩ là có thể ảnh hường đến thái độ của Bộ chỉ huy Pháp còn đang có thế lực với quân đội quốc gia Việt Nam do trung tướng chỉ huy không?

    Thấy khó thoát được vòng vây của mấy ký giả quốc tế đang tấn công mình khá ráo riết, tướng Hinh đành dùng thế "tránh giao phong" bằng một thái độ lịch sự của con người mã thượng, điểm thêm nụ cười cởi mở hồn nhiên:
- Hỏi tức là trả lời rồi. Các bạn hẳn đã rõ hơn tôi về khía cạnh chính trị - quân sự đó, vậy xin cho phép tôi khỏi phải thành nạn nhân bất đắc dĩ của các bạn..

     Rồi tướng Hinh đứng lên bắt tay, bước mau ra xe mô-tô nhấn mạnh ga về nhà riêng, một biệt thự lịch sự ở trên con dường vắng vẻ Testard. Nhìn thấy chiếc xe hơi lạ đậu ở trong sân, người sĩ quan trẻ tuổi vô cùng ngạc nhiên khi bước vào nhà, đứng trước một thiếu phụ quen thuộc: Lệ, cô em dâu của Thủ tướng Ngô đang một mình ngồi đợi ở phòng khách.
- Tôi đến đây tìm anh và đang đợi gặp anh đấy! Chắc anh cũng đoán rõ là việc gì rồi. Tôi chỉ cần muốn biết: anh có chịu bỏ ý định chống lại chúng tôi không?

   Trước đòn trấn áp khá bất ngờ của thiếu phụ, mà tướng Nguyễn Văn Hinh nhận thấy đang bừng lên một sức quyến rũ mạnh mẽ, chàng im lặng đưa tay ra bắt giữ bàn tay người đẹp trong tay mình, nhìn thẳng vào đôi mắt sắc sảo đong đưa tình tứ, rồi thong thả trả lời cũng bằng tiếng Pháp:
- Bà muốn gì tôi trong lúc này? Nên nhớ rằng có nhiều lúc tôi cũng không nịnh đầm lắm đâu?
Lệ cười liếc rất lẳng, một ngón tay khẽ vuốt mơn man vào lòng bàn tay tướng Hinh đang nắm chặt lấy tay mình, ngẩng đôi môi đỏ mọng lên nói:
- Nhưng với moa thì toa không thể không nịnh đầm được đâu. Toa cũng thừa thông minh để hiểu rằng lúc này kẻ đứng về phía thắng thế không phải là toa.
Tướng Hinh rút tay ra, lấy vẻ mặt nghiêm trọng:
- Moa đã ra lệnh cho tất cả những họng đại bác chĩa về phía dinh Gia Long. Chỉ một tiếng của moa là cả gia đình họ Ngô cùng ghế Thủ tướng của anh chồng toa đổ nhào, tan tành. Quân đội dưới tay moa đã sẵn sàng chỉ còn đợi lệnh moa.
Lệ cười khẩy:
- Cứ việc, nếu toa đã nhất quyết. Này ông tướng của tôi ơi! Moa hỏi thật nhé: liệu toa có thể bắn được mấy phát đại bác? Quân của toa có bao nhiêu đạn dược mà nói chuyện đánh nhau? Và quan thầy của toa có để cho toa tự y giúp lũ Bình Xuyên không? Ấy là moa chưa kể cái "Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia" đã lục đục theo nhau đầu hàng chức tước và tiền bạc của bên moa tung ra: Trung tướng Nguyễn Thành Phương cùng 50 sĩ quan Cao Đài và 5000 tên lính võ trang xin sáp nhập hàng ngũ Quân đội quốc gia; Năm Lửa kéo bộ hạ Hoà Hảo rút về Cái Vồn án binh bất động. Tướng Trịnh Minh Thế đưa lực lượng trực thuộc bốn tiểu đoàn Cao Đài Liên minh giao cho phe moa chỉ huy. Như vậy, bọn giáo phái chẳng còn gì đáng kể nữa, và lũ giặc cỏ Bình Xuyên chỉ đánh cho một hồi nữa là xong. Bảo Đại thì ở bên Pháp, dù có muốn cứu vớt tay chân trên thực tế cũng không làm gì được. Chắc hẳn toa cũng đã biết: Bảo Đại nhân danh Quốc trưởng từ Pháp vừa đánh về hai công điện: công điện thứ nhất triệu Thủ tướng Ngô Đình Diệm sang Pháp để Quốc trưởng tham khảo ý kiến và dự hội nghị đặc biệt ở Cannes; công điện thứ hai bổ nhậm thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia. Bọn moa đâu có dại gì mắc mưu non nớt của Bảo Đại muốn lấy lại toàn quyền quân sự để giao cho tướng Vỹ và triệu Thủ tướng Diệm sang Pháp để lột chức, nên đã chính thức trả lời là "tình hình nước nhà không cho phép Thủ tướng vắng mặt" và nay mai toa sẽ thấy nổi dậy phong trào truất phế Bảo Đại cho mà coi! Đấy, moa nói rõ tất cả tình hình cho toa biết để mà lo liệu.

  Những lời lẽ rành mạch và xác đáng của Lệ chẳng khác nào những gáo nước đá liên tiếp đội xuống đầu tướng Hinh, nhưng lòng tự ái của một vị chỉ huy khiến Hinh gắng gượng giữ lấy một bề ngoài cứng cỏi:
- Toa tin là người Pháp đã nhường miền Nam Việt Nam lại cho Mỹ, và bỏ rơi xứ này cho anh toa cầm quyền hẳn?
Lệ trở nên rắn rỏi, nàng đặt tay lên bàn, nói một cách cương quyết:

- Thế Bộ Tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp chưa cho toa hay à? Phòng Nhì cũng không liên lạc với toa sao. Ba Lê đã bằng lòng chìu theo Hoa Thịnh Đốn rồi mà? Moa cũng chưa rõ là trong vụ này mấy lão chính khách bự của Pháp nhận được bao nhiêu triệu đô-la. Chỉ biết rằng Pháp không để cho quân đội Pháp - Việt can thiệp, đặc biệt là ông tướng trẻ tuổi của moa không được chống lại phe chính quyền của anh chồng moa. Nghĩa là người Pháp "rửa tay", bỏ mặc cho bên moa quét bọn Bình Xuyên cùng mấy giáo phái.
- Merde! 5 tiếng văng tục bình thường của Pháp)

Tướng Hinh phát cáu văng tục bằng tiếng Pháp, rồi nói bằng một giọng gay gắt:
- Như vậy, toa tin chắc là thắng thế rồi thì còn cần gì mà đến gặp moa trong lúc này nữa?
Lệ cười tình tứ liếc nhìn tướng Hinh đi lại như một con thú dữ trong chuồng sắt, rồi uyển chuyển đứng lên đối diện sát người Hinh như muốn thôi miên địch thủ, ngọt ngào nói:

- Lúc này mà moa đến gặp toa chỉ vì moa không muốn cho toa đang hồi kích động để bị lôi cuốn vào những hành động phiêu lưu nguy hại đến tương lai toa. Moa biết là toa cương trực, nhiều anh hùng tính, rồi trong một phút toa bốc lên…
Đợi cho những lời vuốt ve của mình thấm dịu lòng đối thủ, Lệ đưa thêm một câu úp mở kín đáo:
- Moa không muốn cho vị tướng tài trẻ tuổi mà moa vẫn có cảm tình phải làm vật hy sinh vô lối trong cuộc tranh chấp này, mà phần thắng toa đã thấy rõ về bên nào rồi. Hơn nữa moa không bao giờ muốn để toa chiến đấu một cách vô vọng, thành ra người tù của moa.

Lời nói dồn dập của Lệ bị chặn đứng lại bởi những tiếng vang từ chiếc máy thu thanh ở phòng bên đưa ra; giọng xướng ngôn viên người Nam gằn mạnh, oang oang lên.

 Vào lúc 2 giờ chiều giờ Sài Gòn, kim đồng hồ chỉ gần 11 giờ đêm, tại sòng bạc quốc tế Casino bên bờ biển Cannes tiếng người hố ly Pháp ở bàn ru lết vọng lên: "Đánh đi! Đánh đi!" giục giã những con bạc quanh bàn đặt tiền.

Paul Chauvin, một chính khách Pháp, Adam Smith, đại diện Ngũ giác đài và Quốc trưởng Việt Nam ngồi ở bàn sát góc phòng, đang mặc cả một ván bài chính trị. Khí sắc ba tay con bạc thực dân, tư bản và phong kiến đểu có vẻ găng, muốn thấu cấy lẫn nhau, kéo dài giây phút nặng nề tới hồi ác liệt..
- Tôi không thể nhượng bộ được. Tôi đã nhận lời bổ nhiệm cho Diệm giữ chức Thủ tướng là quá rồi, các ngài lại muốn trao cả quyền hành quân sự cho ông ấy nữa, bằng cách triệu tướng Nguyễn Văn Hinh qua đây, có khác nào tôi nhường tất cả xứ sở của tôi lại cho người vẫn không ưa gì tôi, có thể chống lại tôi?
Chauvin bình tĩnh đỡ lời:
- Tâu hoàng thượng, xin ngài nghĩ lại rằng, vị sĩ quan của chúng tôi đào tạo ra thuộc quốc tịch Pháp, là người tin cẩn của quân đội Pháp ở Việt Nam mà chúng tôi cũng phải hy sinh vì đại nghĩa, vậy hoàng thượng cũng nên chấp thuận cho bạn đồng nghiệp của chúng ta gánh vác đầy đủ với trách nhiệm nặng nề bảo vệ cho tiền đồn thế giới tự do ở Đông Nam Á. Ngoài ra, hoàng thượng ở bên này cũng khỏi phải lo cho xứ sở của ngài.
  Sốt ruột trước những lời văn hoa dài dòng của chính khách Pháp, Adam Smith không muốn kéo dài sự giằng co, đưa ra một lối giải quyết gầy gọn kiểu thương mãi:
- Chúng ta hãy đặt cả bài lên mặt bàn, đừng mất thì giờ vô ích nữa.
   Tiếng của người hồ lỳ vang lên "Thôi, không đặt tiền nữa?" như ứng đáp lại khiến Paul Chauvin rút ngay tờ giấy đánh máy đưa ra và mở bút máy sẵn. Adam Smith đặt theo một chi phiếu và Quốc trưởng Việt Nam lặng lẽ ký luôn dưới bức công điện của chính khách Pháp thảo sẵn triệu tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham mưu trưởng sang trong khi các nhân vật chính trường Pháp, Mỹ, Việt nâng ly săm banh trước khi bắt tay nhau bước đến bàn ru-lết.
Vị cựu hoàng đế Việt nam nhìn tấm phiếu chi nặng những đô-la mỉm cười khó hiểu như mấy tháng trước đây khi cầm lấy tấm séc ghi hàng triệu Mỹ kim để đổi lấy đạo dụ bổ nhậm Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng.
Tiếng rao của tay hồ lỳ sòng bạc quốc tế ở Cannes vang lên như một điệp khúc "Đánh đi! Đánh đi!".
Giữa giây phút ấy, Tổng Hành dinh Bình Xuyên ở bên cầu chữ Y bị bích kích pháo bắn trúng phát cháy. Bảy Viễn cùng đám thủ hạ đã bỏ chạy về phía Rừng Sác không kịp mang theo hết những bao đầy giấy bạc thu thập ở các sòng Kim Chung, Đại Thế Giới và xóm Bình Khang Vườn Lài cùng những thùng đầy ắp hộp đồng á phiện của Bình Xuyên độc quyền.

Con cọp ốm ghẻ của thủ lĩnh Bình Xuyên nhốt trong chuồng sắt bị trúng đạn rên hừ hừ trên vũng máu đã khô đặc như hình tượng còn lại của tay anh chị Sài Gòn. Khói lửa đạn trộn lẫn với mùi á phiện cháy mờ mịt cả doanh trại Bình Xuyên. Những giấy bạc rơi vãi từ đại bản doanh Bảy Viễn tung tóe rải rác trên đường bại tẩu hốt hoảng của tán quân Bình Xuyên như mồi nhử binh sĩ truy kích tranh nhau nhặt làm cho hỗn độn hàng ngũ mà chậm bước đuổi theo.
   Một luồng gió lốc thổi cuốn những tờ giấy bạc tung bay lên cao trong nấng trưa, khiến những người vác súng mải mê chụp đuổi, trông xa như một bầy trẻ mặc đồng phục đang săn bắt đàn bướm giấy: Trong lúc binh sĩ thuộc phe họ Ngô đang tiến vào sào huyệt Bình Xuyên, tại dinh Thủ tướng ở đường Gia Lọng, cố vấn Ngô Đình Nhu vớ lấy ống điện thoại ở đầu chiếc sập gụ đặt bàn đèn á phiện, gọi giọng trịch thượng:

- Cho tôi Bộ Chỉ huy một, ông cố vấn Thủ tướng ở đầu dây nói đây. Tôi đang đợi báo cáo khẩn về mặt trận cầu chữ Y. Đã tiến phiếm được Tổng hành dinh Bảy Viễn rồi à? Sao không cho tôi hay liền? Trận đánh đang tiếp diễn hả? Được lắm. Có lời ban khen đó. Bảo Bộ Tư lệnh cứ mỗi năm phút phải liên lạc phúc trình lên cho tôi nghe. Lệnh của Thủ tướng đó!
Vẻ mặt lầm lỳ không giấu nổi sự hân hoan trước tin thắng lợi vừa nghe, Đình Nhu cầm lấy dọc tẩu do Bộ trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa vừa tiêm xong đang nâng, kéo một hơi ro ro, khoan khoái từ từ nhả khói, đôi mắt sáng lên đắc ý. Hữu Nghĩa không bỏ qua dịp tốt để tâu:

- Dạ, thưa ông cố vấn, Bình Xuyên có chạy đường trời cũng không thoát nổi? Quân của tướng Trịnh Minh Thế đã chực bên kia cầu Tân Thuận sẵn sàng chặn đánh tan lũ bại quân của Bảy Viễn. Kế của ông cố vấn thiệt là thần sầu mà cũng phước cho em đây, nhờ chỗ tình nghĩa cũ của ông Thế nên em liên lạc mang đề nghị của Cụ Thủ tướng đến là ông Thế tin mà đưa ngay 4 tiểu đoàn Cao Đài liên minh về với chánh nghĩa, hợp tác xin lập công liền:

- Nhưng Nghĩa có để ý là trong vòng hơn một tháng nay, Trịnh Minh Thế đã hai lần nghe lời các giáo phái không? Tôi nghĩ là tướng Thế còn trẻ quá dễ bị người ta lung lạc, nên lập trường còn chưa được dứt khoát trong khi về hợp tác.

Nhận định của Đình Nhu thốt ra khiến Hữu Nghĩa lo ngại, lấm lét nhìn vẻ mặt lạnh lùng đa nghi của ông cố vấn mà không dám nói gì. Trong thoáng qua, đôi mắt Đình Nhu bỗng tóe lửa rồi dịu lại ngay, như một lần quyết định một điều gì ác liệt. Tiếng nói của Đình Nhu trầm đục buông ra, sau khi hít mạnh một hơi điếu thuốc lá Con Mèo tẩm á phiện:
- Nghĩa yên tâm. Tôi cho Nghĩa giữ luôn ghế Bộ trưởng Lao động trong khi anh em tôi cầm quyền.
Huỳnh Hữu Nghĩa không dằn được nỗi mừng rỡ, ngừng tiêm, ngồi phắt lên, hớn hở gãi một bên tai, cố nhớ lại những lời lẽ văn hoa đã nghe học lõm được để nói ra một câu ý nghĩa cho thông trong giờ phút nghiêm trọng nhất đời đối với y, song chỉ lắp bắp:
- Dạ… dạ… cha mẹ tôi sinh ra tôi cũng không bằng ông cố vấn gầy dựng cho tôi ra đời, coi tôi như tay chân em út trong nhà, tôi xin thề sống chết một lòng một dạ. suốt đời trung thành với ông cố vấn… bà cố vấn… và Cụ Ngô…
  Giọng nói của Nghĩa vì cảm xúc thành ra như lối nói cải lương và tường chừng như sắp hạ qua mấy câu ca vọng cổ, bỗng cụt hứng ngay lại vì Đình Nhu ngắt ngang:
- Thôi tiêm đi!
Nghĩa dạ ngoan ngoãn nằm xuống cuộn người bé lại, tiếp tục cầm lấy cây tiêm nướng thuốc trên ngọn đèn á phiện. Trong tiếng ro ro của Đình Nhu kéo thuốc, một đứa bé từ phòng bên chạy xộc vào, tay cầm phong kẹo cao su, miệng vừa nhai vừa nói:
- Má đi đâu rồi ba?
Đình Nhu chưa kịp trả lời con trai thì thấy anh của y lệch bệch đẩy cửa ngoài vào ló đầu hỏi:
- Chiếm được Tổng hành dinh Bình Xuyên rồi, chú hay chưa? Chắc thím nghe thì mừng lắm. Thím đâu?
- Hai anh em họ Ngô nhìn nhau thắc mắc, bỗng từ bên ngoài tiếng reo mừng của thuộc hạ Cao Xuân Vỹ vừa chạy, vừa thở, vừa kêu to:
- Thắng rồi! Thưa Cụ, thưa ông cố vấn, quân ta chiếm được Đại bản doanh Bảy Viễn rồi.


    Tự ái của dòng máu Việt trong người Hình bị khơi dậy khi nghĩ rằng người ta chỉ xem xứ sở mà chàng giữ địa vị một tướng lãnh chỉ huy không khác nào một ả điếm chuyền tay giữa hai khách làng chơi, mặc dầu trong thực tế tướng Hinh là dân Tây và nhiệm vụ của chàng là phục vụ cho quyền lợi nước Pháp, dưới danh hiệu Tổng Tham mưu trưởng quân đội quốc gia Việt Nam. Trình tự dân tộc trong phút giây cực điểm đã kích động lòng viên tướng trẻ, song chỉ mơ hồ thoáng qua để lại một dư vị cay đắng. Tâm trạng mâu thuẫn đầy oái oăm phức tạp của bản thân tướng Hinh phát bừng lên một luồng tức giận uất nghẹn, giận người, giận mình và đành bất lực mặc cho tình thế cuốn trôi đi. Phản ứng giận hờn bị đè nén của tướng Hinh dường như đã trút tất cả vào trong cơn hỗn chiến vừa qua.

Lệ nhấc tay đang quàng ngang tướng Hinh; chống nửa người dậy, nhìn tận mặt rồi cúi xuống hôn nhẹ, nói thầm bên tai:
- Thế là toa với moa chấm dứt xung đột rồi đấy nhé. Lịch sử xứ này sẽ ghi nhớ là toa đã tránh cho Sài gòn một cuộc đổ máu vô ích.
Tướng Hinh cười khẩy:
- Phải, lịch sử sẽ ghi nhớ cuộc chiến giữa toa với moa trưa nay góp sức củng cố địa vị chính quyền cho họ Ngô.
Hinh trỏ ngón tay vào giữa lòng Lệ nói tiếp:
- Lợi khí này của toa xứng được triều Ngô suy tôn và truy tặng Đệ nhất bảo quốc huân chương với nhành dương liễu!
Lệ ứ lên một tiếng cắn vào vai Hinh:
- Đồ đểu!
Rồi xuống giọng tâm sự:
- Nhưng moa không ghét thứ đểu dễ thương như toa bằng...
- Bằng ông chồng bất lực và ông anh hoạn quan nhà Ngô chứ gì?
   Câu ngắt lời của Hinh bị ngay một cái véo mạnh của Lệ làm nẩy người lên, nhưng chàng vẫn cười mỉa mai:
- Còn ông anh tu sĩ Raspoutine của toa nữa. Cả đám anh em nhà chồng bị dồn nén và bất lực phải không?
Lệ đổi ra mặt nghiêm nghị:
   - Moa không thích trò đùa bất nhã như vậy. Moa muốn nói chuyện nghiêm chỉnh, quan hệ đến chính cuộc lúc này, quyết định số phận của xứ sở đang cơn nguy kịch mà cả thế giới cũng đang nhìn vào chúng ta.
   Tướng Hinh không dằn được ý muốn trào lộng, tàn nhẫn trước tấn bi hài kịch đang sống và không chịu được những lời do từ cửa miệng một người đàn bà như Lệ vừa thốt ra, nên vỗ khẽ vào phía dưới rốn Lệ mà nói:
- Thế cái "nhân vị" này không quan hệ đến chính cuộc, không mật thiết đến địa vị Thủ tướng của anh chồng và cố vấn của chồng toa là gì?
    Bị dồn vào thế nửa đùa nửa thực, và bàn tay tướng Hinh mân mê vết thẹo khâu trên bụng Lệ (dấu tích một lấn giải phẫu vì sanh khó) làm cho nàng nhột nhạt, nên dù bực tức cũng phải đấu dịu, gượng cười. Nghĩ rằng mình đã xô đẩy vị tướng lãnh có thể là một dịch thủ lợi hại vào tình trạng nghiêng ngả tách rời khỏi hàng ngũ đối phương và sắp mắc kế "điệu hổ ly sơn". Lệ phát động tiếp chiến thuật sở trường của mình. Nhất là nàng còn đang muốn được tận hưởng lạc thú mà chồng nàng đã không làm thoã mãn nổi. Cuộc tấn công đợt thứ hai này có hiệu lực mãnh liệt thu hút tướng Hinh vào trong mê hồn trận của người đàn bà hoả diệm sơn có lắm xảo thuật. Cả con người của Hinh trở thành một thứ âm binh đa tình trước bà phù thuỷ ái ân.
    Tiếng súng nổ giòn lẫn tiếng lựu đạn vang dội trong trận tấn công cứ điểm cuối cùng trong thành phố của Bình Xuyên ở miệt Chợ Lớn vẳng đến như một điệu nhạc hỗn loạn, giục giã Lệ và tướng Hinh giữa giấc trưa nồng.
    Tướng Hinh có cảm giác như bị thu hút vào miệng núi lửa đang sôi sục bị Lệ dồn dập nhận chìm, xoáy mạnh cả người chàng vào tận đáy lòng biển sâu cuộn sóng.
    Đang lúc Lệ lôi cuốn tướng Hinh, một phái đoàn gọi là Uỷ ban nhân dân hoà giải của "Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia" với các đại diện Hoà Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên đến dinh Gia Long gặp Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Cuộc hội kiến diễn ra trong một không khí nặng nề, Diệm lầm lỳ thờ ơ vì tự tin đang nắm phấn thắng, muốn kéo dài cuộc thương thuyết để dồn đối phương vào thế bí, giữ vẻ mặt nghiêm lạnh nói:
   - Tôi không công nhận các ông là đại diện có thẩm quyền của các giáo phái, đoàn thể võ trang muốn nói chuyện với tôi. Tôi yêu cầu các lãnh tụ đích thân đến gặp tôi, mới có thể bàn đến việc thương thuyết được.
   Tướng Lâm Thành Nguyên (Hoà Hảo, Long Xuyên) cầm đầu phái đoàn, các đại diện Bảy Viễn, Năm Lửa, Ba Cụt, Phạm Công Tắc đều im lặng nhìn nhau, ngỡ ngàng đứng lên. Diệm kiêu kỳ quay vào, không chào tiễn. Phái đoàn hoà giải uất hận bước ra khỏi dinh Gia Long. Cố vấn Ngô Đình Nhu đọc bản kiến nghị có tính cách tối hậu thư của "Uỷ ban Nhân dân hoà giải" vừa trao tay cho Diệm buộc trong năm hôm phải cải tổ toàn diện nội các họ Ngô, để thay thế vào nội các mới với sự thoả thuận của Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia, thấy có tên thiếu tướng Trịnh Minh Thế, cau mày bảo anh:
- Thằng Thế nó vừa về hợp tác với mình, mà lại sanh tâm muốn đi hai hàng, gia nhập tổ chức của đối phương, như vậy không thể nào để nó lại được, nhất là nó đang có uy tín và binh lực dưới tay. Phải trừ khử nó đi, bất cứ bằng cách nào có thể che mắt được bên ngoài. Càng sớm càng hay, kẻo rồi "dưỡng hổ di hoạ", anh hiểu không?
    Diệm gật gù tán thành luôn kế hoạch của người em cố vấn nêu ra, cho điện thoại triệu ngay tướng Thế vào dinh, phái cấp tốc đi thị sát mặt trận cầu Tân Thuận với mấy sĩ quan hộ vệ của Phủ Thủ tướng, đến nơi tiểu đoàn lực lượng Cao Đài liên minh đang bố trí chân đầu tàn quân Bình Xuyên rút lui.
    Tướng Thế vâng lệnh ra đi, dừng xe lại ở cầu Tân Thuận, có mấy chiếc xe thiết giáp án ngữ, đi bộ qua bên kia bờ Kinh Đôi. Từ trên cầu nhìn xuống phía cầu Hàn yên tĩnh trong gió chiều lên, nhấp nhô những bóng dáng quân nhân của mình dàn trận dọc theo bờ sông, tướng Thế vừa bước lên dốc cầu với mấy sĩ quan của Diệm theo sau, bỗng đâu một viên đạn lẻ loi từ phía bên lưng bay đến trúng ngay màng tang xuyên qua óc trổ ra trước. Vị tướng lãnh 34 tuổi ngã vật xuống chết liền không kịp nhận ra kẻ đã cố tình bắn lén mình.
    Cùng vừa lúc tướng Thế ngã xuống ở đầu cầu ngoại ô phía Đông Sài Gòn, tại phòng tướng Hinh, Lệ choàng tỉnh dậy sau một hồi lịm đi trong ngất ngây, mở mắt nhưng không thấy người tình bên mình.
   Nàng đờ đẫn nằm lắng nghe tiếng nước tuôn ở phòng tắm, đưa mắt nhìn qua cửa kính, thấy những ngọn lá hoàng lan phấp phới trong nắng chiều gió lên rì rào.
   Lệ nghĩ đến chiến thắng sắp mang lại địa vị lớn lao cho anh em chồng nàng, tức là ở trong tay nàng, nhờ nàng đã khéo lôi cuốn tướng Hinh ra ngoài vòng chiến làm nghiêng hẳn ưu thế về phía họ Ngô.
   Nàng sực nhớ đến người tình luyến ái nhất gần đây. Đại tá Đôn có lẽ giờ này đang chỉ huy đánh bật lực lượng Bình Xuyên ra khỏi đô thành mà tối hôm qua, nàng đã có ân ái tỉ tê thúc giục nên thừa dịp tốt này nhảy lên chức tướng (có nàng ủng hộ bên trong) để còn nhiều dịp dan díu với nàng.

   Tưởng đến những ngày mai lừng lẫy của một người đàn bà chiếm giữ một ảnh hưởng mạnh mẽ trong gia đình thống trị cả một quốc gia, Lệ mơ màng nhìn gió thổi đầu ngọn cây hoàng lan.

 Tiếng điện thoại reo ở đầu đi-văng làm Lệ choàng tỉnh, với tay nhấc ống máy trắng lên nghe. Từ đầu dây nói kia tiếng người đàn ông xứ Huế nói trại giọng Sài Gòn:
   - A lô, trung tướng Nguyễn có nhà không? Tôi là đại uý Phan Xuân muốn nói chuyện khẩn với trung tướng. Xin thưa lại giùm là cần lắm, mời trung tướng ngay cho. Dạ, tôi đợi đây.
   - Có điện thoại gấp đây, ông Hinh ơi!
   Lệ vừa lên tiếng gọi thì đã thấy tướng Hinh từ phòng tắm bước ra, chiếc khăn bông lớn khoác trên người ở trần, đi vội lại cầm lấy ống dây nói:
- A lô, tướng Hinh nghe đây! Đại uý Xuân hả? Có việc chi cần đó? Sao, Tổng hành dinh Bình Xuyên bị chiếm rồi hả? Đang họp đợi tôi à? Được rồi, tôi đi ngay. Trong năm phút nữa có tôi.
   Lệ nghe được tin phe mình đã chiếm được doanh trại Bình Xuyên, mừng rỡ nói với tướng Hinh vừa đặt ống điện thoại xuống:
- Đó toa thấy chưa? Toa phải cám ơn moa đã can toa kịp thời đấy nhé?
Hinh lạnh lùng đáp:
- Thôi, toa sửa soạn mà về. Moa phải đi đây.
    Không đợi cho Hinh phải giục, Lệ với lấy quần áo chạy vào phòng tắm, với ý nghĩ đầu tiên đến trong trí nàng lúc đó, đang hân hoan là sẽ gặp đại tá Đôn, người đã lãnh trọng trách đánh bật Bình Xuyên ra khỏi châu thành Sài Gòn - Chợ Lớn.
    Buổi chiều, Sài Gòn đã im tiếng súng, tướng Hinh phóng mô-tô vào Bộ Tổng tham mưu, trong khi Lệ lái xe Mercedes chạy chầm chậm như đi dạo mát hướng về đinh Gia Long. Lệ sung sướng kiêu hãnh nghĩ đến chiến thắng của nàng đã góp sức tạo nên, lòng rộn rã tưởng đến cuộc gặp gỡ tối nay với người tình đại tá mà Lệ sắp đề nghị cho vinh thăng lên thiếu tướng.
Lệ nhấn mạnh ga cho xe vọt mạnh lên, qua đèn đỏ ở ngã tư gần dinh Thủ tướng.

Chương 2

Rừng Sác tứ lộ


     Chiến cuộc tiếp diễn ở phía Đông bắc Sài Gòn, dọc từ sông Sài Gòn đến Vũng Tàu. Bảy Viễn cùng các thủ hạ thân tín chỉ huy cuộc cầm cự, kiểm lại số tàn quân chỉ còn lối một nghìn năm trăm người, với những vũ khí nhẹ, và một tinh thần hoang mang cực độ.
Hôm qua chạy đến núi Thị Vải, tinh sương sáng nay băng sình, đạp bần đi sâu vào. Rừng Sác, thủ lãnh Bình Xuyên như một ác thú bị săn đuổi, thấy nhiều bộ hạ biến mất trên đường bại tẩu, không giấu được vẻ lo âu, e ngại sự phản trắc chung quanh, có thể sát hại hay bắt mình nạp cho đối phương để lãnh thưởng. Vẻ mặt lầm lỳ của tay anh chị trùm sòng bạc và nhà chứa nhuộm đầy sát khí miệng không ngớt chửi thề, khẩu súng ru-lô mạ kền đeo một bên lưng (tặng vật của Quốc trưởng khi Bảy Viễn được Pháp phong chức thiếu tướng), sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ ai nói đến tiếng về đầu họ Ngô. Bảy Viễn đã hạ ngay Sáu Tình ở bìa Rừng Sác, vì đàn em nhớ vợ con ở lại Sài Gòn đã ngỏ ý muốn quay về. Lãnh tụ Bình Xuyên không tin ở đám quân sư chính trị, để họ đi tách riêng một phía và chỉ đi cùng Lại Hữu Tài, cố vấn chính trị Bình Xuyên, đại diện của Phòng Nhì quân đội Pháp và anh ruột Tài là Tư Sang, nguyên Tổng Giám đốc Công an Sài Gòn - Chợ Lớn. Một trung đội cảm tử đã thế "sống chết với anh Bảy" theo hộ tống bộ ba đầu não Bình Xuyên và khiêng vác bốn bao chất đầy giấy bạc cùng hai ba lô vàng, kim cương và của cải quý giá của Bảy Viễn đã chạy được.
Trong cảnh thất thế, biết mình đã bị quân Pháp bỏ rơi, hàng ngũ tan rã thưa thớt dần, không có dân chúng ủng hộ, Bảy Viễn cố giữ cho chung quanh khỏi chán nản rút im, đồng thời cũng tự dối tinh thần bại vong của mình nữa, gượng gạo kêu gọi em út "đánh tới cùng" cho mình là "cọp đã về rừng, phe họ Ngô phải chặt hết cây Rừng Sác mới tìm ra thủ lãnh Bình Xuyên".
Ngày 20-9 năm 1955, năm tiểu đoàn bộ binh phối hợp với hai tiểu đoàn nhảy dù và một sư đoàn thuỷ quân lục chiến mở cuộc tấn công bao vây mấy mặt khu Rừng Sác. Đồng thời máy bay lượn rải truyền đơn kêu gọi binh sĩ và những kẻ theo Bình Xuyên về hàng.
Tại một túp lều giữa khu Rừng Sác, mấy cố vấn chính trị của Bảy Viễn đã bất đắc dĩ theo tướng Bình Xuyên, nhận thấy tình thế tuyệt vọng, bàn tính tìm lối thoát. Hồ Hữu Tường là nhà văn hoá bấy lâu làm chính trị, theo phe Bảy Viễn vào giờ phút chót, vì tính lầm nước cờ là Pháp không bỏ rơi xứ này nhường lại cho Mỹ, và muốn thừa cơ hội lợi dụng thế Bình Xuyên được mưu đồ, rồi miễn cưỡng phải chạy theo đám quân dao búa bại tẩu ngao ngán nhìn con nước rừng đục ngầu phô gốc cây bần, cây đước ở lạch sình trước mắt, buồn bã quay sang nói với Trần Văn Ân. Cố vấn chính trị bên ngoài của Bảy Viễn đang ngồi bó gối nhai mấy con cá lòng tong đuôi dài bò lên rễ cây, sát mặt bùn.
- Chúng mình đi vào tử lộ mất rồi! Tưởng lấy thế bá đạo để chuyển thành vương đạo tung hoành một phen, không ngờ Ba Lê lại đi đôi một chính sách chung với Hoa Thịnh Đốn mà ủng hộ triệt để lá bài Ngô Đình Diệm, khiến người Pháp ở Sài Gòn phải bóp bụng bỏ rơi Bình Xuyên, như vậy mình mắc phải cảnh Hoa Dung tiểu lộ, chết cửa tứ rồi!
Ngừng lại một lúc, Hồ Hữu Tường bỗng đứng lên, với điệu bộ và giọng nói sôi nổi như độ nào diễn thuyết lôi cuốn quần chúng, đóng vai thuyết trình viên để thuyết phục chung quanh:
- Sở dĩ đến hôm nay tôi mới lên tiếng, vì sợ làm mất tinh thần anh em, và không khỏi mang tiếng là chủ bại, song tình thế đã dồn dập bất ngờ tới một độ quá mức; nếu tôi không nói ra, sau này anh em sẽ buộc tội cho là biết mà không nói, cho nên bất đắc dĩ lúc này, trong cảnh tiến thoái lưỡng nan, tôi tự thấy có bổn phận trình bày tất cả sự thật đã xảy ra, để tuỳ anh Bảy và anh em định liệu, rút lấy một kết luận để đối phó với tình thế hiện thời.
Một đại uý Bình Xuyên, phụ trách lò heo Chánh Hưng, Tư Cóc, vốn không thích diễn thuyết, nghe những lời rào đón dài dòng của Hồ Hữu Tường lớn tiếng nói:
- Đ. m, nói gì thì nói phứt đi cho rồi cứ vòng vo Tam quốc mãi! Đương rầu thúi ruột đây!
Hồ Hữu Tường vờ như không nghe thấy và nhằm thuyết phục các thuộc hạ thuộc thành phần trí thức của Bảy Viễn, bình tĩnh đưa ra những sự việc và tin tức ghi chép trong một cuốn sổ tay để làm hậu thuẫn cho luận cứ của mình:
- Trước hết, tôi xin trình bày việc Pháp sang tay lại xứ này cho Mỹ. Pháp phải trút gánh nặng cho Mỹ vì thực dân Pháp không còn đủ sức theo đuổi nữa.
"Tướng Navarre, nguyên Tổng tư lệnh ở Đông Dương đã từng chua cay với người Mỹ trong thời kỳ họ chỉ mới giữ vai trò cố vấn bên cạnh Bộ chỉ huy Pháp, người đầu tiên lên tiếng nói thẳng với Ba Lê rằng ông ta càng ngày càng có cảm tưởng kẻ chỉ huy thực sự ở Đông Dương là phái bộ Mỹ. Người Mỹ mỗi ngày một lấn bước người Pháp, qua sự trung gian của tướng O Daniel". Đó là sự tiết lộ mới đây của tướng Navarre khi tình cờ biết được những sự cam kết của Bộ Ngoại giao Pháp với Mỹ.
"Kế đến tướng Ely hiện thời thay thế tướng Navarra làm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, vừa đã tuyên bố rõ với Pháp tấn xã là mặc dù ký kết hiệp ước Genève với chính phủ Hồ Chí Minh, Pháp chỉ nhìn nhận có một chính phủ hợp pháp trên toàn cõi Việt Nam là chính phủ Diệm. Sự nhượng bộ chính trị ấy đi liền với việc Pháp ký tên vào Hiệp ước Liên minh phòng thủ Đông Nam Á. Rồi một phái đoàn cao cấp của Pháp sang Hoa Thịnh Đốn để bàn với Mỹ chính sách chung của hai nước đối với miền Nam Việt Nam. Chính Tổng trưởng Bộ quốc gia liên kết Guy La Chambre mới đây đích thân qua Sài Gòn để báo cho Diệm và các nhà hữu trách Pháp hay về những quyết định ở Hoa Thịnh Đốn. Pháp đã chấp nhận nguyên tắc triệt hồi quân đội viễn chinh và trao lại những trách nhiệm chính trị cùng quân sự cho Mỹ".

Như vậy, thoả hiệp tối cao giữa Pháp và Mỹ, qua các hiệp ước ký kết giữa Ba Lê và Hoa Thịnh Đốn đã đảm bảo vững vàng cho địa vị của Diệm. Hôm rồi, tướng Collins, đặc phái viên của Eisenhower mang một bức thư riêng của Tổng thống Mỹ gởi cho Diệm đến Sài Gòn tuyên bố rằng ông qua đây để đảm bảo sự ủng hộ tới cùng cho chính phủ Diệm, và chỉ cho một mình Diệm thôi.
Tiếp đó là tướng Nguyễn Văn Hinh bị cắt chức, do thông báo của văn phòng Quốc trưởng Bảo Đại, rồi tướng Ely ký hiệp ước với tướng Collins xác nhận việc Pháp từ bỏ vai trò quân sự ở Việt Nam.
Trong khi ấy, đài VOA phát lời tuyên bố của chính phủ Eisenhower nói rằng nếu Mỹ không hành động cương quyết để ủng hộ Diệm, Mỹ sẽ mất cả Đông Dương.
Căn cứ vào những việc tôi vừa kể lại đó, theo tin tức của các đài ngoại quốc BBC, VOA, Úc Đại Lợi, tôi đã nghe được và ghi lại thì Pháp đã nhường trọn cả miền Nam về tay Mỹ rỗi, nghĩa là Diệm đang giữ ưu thế tuyệt đối.
Những sự thật tuôn ra từ miệng Hồ Hữu Tường như những thùng nước đá dội thẳng xuống lưng mọi người khiến cả Bộ tham mưu của Bảy Viễn đều thấy toát mồ hôi lạnh, im lặng nhìn nhau lo sợ.
Một giọng phản đối bỗng vang lên:
- Đ. m, thây kệ tụi nó có công ký với nhau, mình cứ đánh tới cùng. Chết bỏ!
Nguyễn Đình công tử, quân sư xa lông của Bảy Viễn gượng hỏi:
- Vậy còn Đức Quốc trưởng Bảo Đại?
Hồ Hữu Tường trả lời bình thản đến lạnh lùng:
- Anh, Pháp và Mỹ vừa họp hội nghị ở Ba Lê, đài BBC cho hay bản thông cáo chung kết luận rằng: Pháp chấp nhận chủ trương của Mỹ, nghĩa là ủng hộ Diệm vô điều kiện và bỏ rơi Bảo Đại. Ở Sài Gòn, ba ông tướng Việt trước đây theo Pháp có quốc tịch Pháp đã nghe theo Diệm đánh điện cho Bảo Đại tuyên bố là chỉ nhìn nhận có Diệm. Rồi sau đó Diệm vừa tổ chức một Hội đồng Cách mạng truất phế Quốc trưởng Bảo Đại.

Ngoài ra, tướng Ely sang Hoa Thịnh Đốn trở về đến Cannes thông báo cho Bảo Đại hay ý định của chính phủ Pháp bỏ rơi ngài. Bởi quyền lợi kinh tế ở miền Nam, Pháp buộc cả Bộ Tư lệnh Pháp tại Sài Gòn phải trao lại quyền chỉ huy huấn luyện binh sĩ Việt Nam cho Mỹ, bỏ mặc cho phe Diệm đốt bỏ những phù hiệu quân đội Pháp để thay thế vào những phù hiệu Mỹ, đồng thời công kích lăng nhục Bộ Tư lệnh Pháp ở Việt Nam, khiến cho tướng Ely chịu hết nổi phải đòi từ chức.
Mỹ chẳng những ép buộc được Pháp phải ủng hộ Diệm triệt để, mà còn phá luôn cả phái bộ Sainteny ở Hà Nội, và Pháp cũng chịu nghe theo Mỹ bỏ luôn những hoạt động kinh tế và văn hoá Pháp tại Bắc Việt.
Đại uý Tư Cóc không hiểu được tính cách nghiêm trọng qua nhận định của Hồ Hữu Tường, thấy nóng mắt trước lối trình bày dài dòng của "mưu sĩ mới của anh Bảy", ngắt ngang:
- Đ.m, muốn gì thì nói đại ra cho rồi, cứ diễn thuyết lôi thôi hoài, nghe không vô. Thiệt rầu mấy cha mưu sĩ quá!
Chỉ huy quân sự Bình Xuyên, nguyên Giám đốc Công an Sài Gòn Chợ Lớn, Tư Sang quắc mắt nhìn Tư Cóc, mắng đàn em:
- Tư im đi mấy, nói bậy hoài. Đ.m phải kỷ luật chớ, mấy còn phá ngang, tao "khía" mầy à? Đ.m?.
Hồ Hữu Tường không chú trọng đến sự càu nhằn, gấu ó giữa mấy sĩ quan Bình Xuyên, hướng về dám cử toạ đang lo âu chờ đợi, nói tiếp:
- Như tôi vừa trình bày và dẫn chứng, tình hình chính trị đã tiến triển bất lợi cho cuộc chiến đấu của chúng ta, còn tình hình quân sự của "Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia" chống lại Diệm, thực trạng hiện giờ ra sao? Mỹ đã tung ra nhiều đô-la mua chuộc một số tướng chỉ huy các giáo phái về theo phe Diệm: ở miền Tây, quân của tướng Năm Lửa án binh bất động, các tướng Nguyễn Giác Ngộ và Lâm Thành Nguyên cũng theo nhau im hơi lặng tiếng. Chỉ còn một mình tướng Ba Cụt hoạt động quấy rối. Ở miền Đông, hàng ngũ Cao Đài chia rẽ nội bộ, tướng Nguyễn Thành Phương theo Diệm ngay từ lúc đầu rồi đến tướng Trịnh Minh Thế cũng đem quân về theo, để bị anh em Diệm ám hại, chỉ còn hộ pháp Phạm Công Tắc và tướng Lê Văn Tất với mấy trăm quân đã rút qua bên kia biên giới Cao Miên.
Như vậy, trên chiến trường, chỉ còn có binh sĩ Bình Xuyên đương đầu với phe Diệm. Kiểm điểm lại lực lượng, bên ta đã khuyết mất 20.000 quân của tướng Năm Lửa, 5.000 của tướng Lâm Thành Nguyên, 2.000 của tướng Nguyễn Giác Ngộ và 25.000 của tướng Nguyễn Thành Phương và Trịnh Minh Thế. Dù đó chỉ là những số quân trên giấy tờ và thực tế không quen chiến đấu, song chúng ta thiệt mất hậu thuẫn để quấy phá ở các nơi, mở thêm mặt trận, buộc phe Diệm phải phân tán lực lượng đối phó chớ không tập trung được để đánh vào một chỗ.
Về lực lượng bạn có thể tiếp tay với chúng ta để xoay đổi lại thế cờ thì không hy vọng gì nữa: tướng Nguyễn Văn Hinh bị văn phòng Quốc trưởng ra thông báo cất chức rồi, tướng Nguyễn Văn Vỹ được Bảo Đại cử làm Tư lệnh Quân đội quốc gia đã bị Diệm gạt đi, những tướng tá thân Pháp đều bó tay, và cả đến Pháp cũng hết mong lật được Diệm vì Mỹ nhất quyết ngăn cản. Còn Quốc trưởng Bảo Đại ở bên Pháp lúc này thì không còn vấn đề nữa.
Hồ Hữu Tường ngừng lại, nhìn qua mọi người trong im lặng nặng nề điểm tiếng chim vịt kêu chiều giữa khu rừng bần, thong thả kết luận:
- Thưa toàn thể anh em, trước tình hình vô cùng khó khăn đó, tôi thấy chỉ còn có một giải pháp là điều đình, hưu chiến với Diệm.
Mọi người nhìn nhau và sự im lặng như có ý nghĩa là tán thành.
Không thấy ai phản đối, Hồ Hữu Tường nói luôn:
- Bây giờ chúng ta cần cử người đóng vai sứ giả hoà bình đi về Sài Gòn gặp đối phương.
Không ai muốn tranh lấy công việc hiểm nghèo này. Cố vấn chính trị Lại Hữu Tài đề nghị:
- Anh Hữu Tường đã có sáng kiến thì để anh đóng vai sứ giả luôn.
Hồ Hữu Tường nhìn Trần Văn Ân, cựu Bộ trưởng, đại diện ngoại giao của Bảy Viễn:
- Tôi tình nguyện đóng vai du thuyết, chỉ cần thêm một người nữa, theo tôi thấy, anh Trần Văn Ân xứng đáng đại diện chính thức cho anh Bảy để làm trường đoàn, có đủ danh chính ngôn thuận mà điều đình.
Sau đó, Hồ Hữu Tường và Trần Văn Ân được liên lạc đưa đi gặp Bảy Viễn nhận sự đồng ý của thủ lãnh Bình Xuyên và bàn tính các điều kiện thương thuyết.
Sáng hôm sau, một chiếc ca nô nhỏ cắm cờ trắng chở hai đại diện Bình Xuyên lướt qua các con lạch Rừng Sác, ra sông Bassac nhắm hướng Sài Gòn. Hồ Hữu Tường kéo cổ áo lên trước làn gió lạnh ẩm ướt trên sông âm thầm nói với Trần Văn Ân đang co ro buồn bã:
- Ngờ đâu ngày nay anh em mình sa cơ bị kẹt giữa vòng vây bá đạo: Bình Xuyên muốn khoác áo anh hùng nghĩa hiệp Lương Sơn Bạc song không giấu được cái đuôi thảo khấu; anh em họ Ngô thì mượn danh nghĩa quốc gia dân tộc nhưng không che được cái cốt phong kiến độc tài, nên đều không có hậu thuẫn dân chúng, còn ngoài kia thì Cộng sản đảng trị, trí thức lúc này chỉ đóng vai tri kỷ gượng.
Trần Văn Ân ngó theo làn nước rẽ sóng ca-nô lướt đi, trả lời giọng lo lắng:.
- Có tri kỷ gượng với anh em họ Ngô cũng khó làm. Tôi biết họ rất đa nghi và hẹp hòi, thù dai. Lại có nhiều mặc cảm với những ai có thế hơn họ. Tôi lo chuyến đi này khó thành. Mà điều đình không xong, chúng mình cũng dễ bị lôi thôi, vì họ dám bắt sứ lắm. Chúng mình gặp phải thế liều thì cũng đành liều vậy thôi.
Rồi như để đánh tan nỗi lo ngại đang đè nặng lên lòng mình, Trần Văn Ân cất cao tiếng ngâm:
- Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
Lời thơ cổ và giá lạnh trên sông Sài Gòn khiến Hồ Hữu Tường bỗng liên tưởng đến cảnh tráng sĩ Kinh Kha và Tần Vũ Dương qua sông Dịch ngày xưa. Cảnh huống "tráng sĩ một đi không trở về", Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân không ngờ thành ra sự thật: anh em họ Ngô không nhìn nhận vai trò sứ giả thương thuyết mà cũng không dung cho hai nhà văn hoá bị sa lầy chính trị quy thuận (theo lời kêu gọi của chính quyền họ Ngô) và bắt giữ Hồ Hữu Tường cùng Trần Văn Ân như hai kẻ trọng tội nguy hiểm để kết án tử hình.
Trần Văn Ân linh cảm cuộc đi sứ lần này đầy khó khăn, nhục nhã, và không khỏi nghĩ đến chuyến du thuyết thành công mới đây, trước ngày xảy ra chiến cuộc: Ân đại diện ngoại giao cho Bình Xuyên cùng với cố vấn chính trị Lại Hữu Tài đi Pháp gặp Quốc trưởng, đã trở về với một sắc lệnh đề cử Lê Văn Viễn làm Thủ tướng, lập một Nội các liên hiệp với các đại biểu giáo phái để thay thế chính phủ Ngô Đình Diệm. Nhưng không thực hiện được vì đó chỉ là ý định của vị cựu hoàng đã không được cả Ba Lê và Hoa Thịnh Đốn chấp thuận.
Rồi thời cuộc dồn dập biến chuyển xô đẩy Trần Văn Ân giờ đây phải bắt buộc đóng vai sứ giả trong một cuộc điều đình chênh lệch, giữa lúc đối phương đang hoàn toàn thắng thế.
Nhìn thấy chiếc tàu tuần tiễu của đối phương bố trí đầy súng chĩa về phía mình đang rẽ sóng tiến tới, Trần Văn Ân ngồi cạnh Hồ Hữu Tường bỗng tự thấy mình như cành cây vật vờ trên dòng sông Sài Gòn đục ngầu chảy mạnh, buông trôi cho số phận đẩy đưa.
                                  ***
Tại dinh Gia Long, tiếng điện thoại ở văn phòng cố vấn reo lên, Ngô Đình Nhu nhấc ống nói nghe một hồi rồi lạnh lùng ra lệnh:
- Họ xưng là đại diện của Bình Xuyên muốn điều đình hả? Không có điều đình gì với họ. Bắt cả hai đưa về Sài Gòn giam lại. Sao? Họ xin quy thuận, theo lời kêu gọi trong tuyền đơn của chánh phủ à? Không thương thuyết được rồi mới hàng, cứ bắt giữ lại, coi như giặc cướp bị ta bắt, chớ không đối xử như tù binh hay hàng binh. Phải trị bọn chúng nó mới được? Hai người xưng tên là Trần Văn Ân và Hồ Hữu Tường nói từng quen biết chúng tôi? Họ phản đối là ta bắt sứ giả hoà bình à? Mặc kệ! Bảo các cấp cứ theo lệnh của tôi phải quyết liệt với đối phương. Ta mạnh thế, không cần nhân nhượng tử tế chi cả!
Nhu bỏ ống điện thoại xuống, rút một điếu thuốc "Con mèo" tẩm á phiện trong chiếc hộp lớn để trên bàn, đốt diêm, rồi quay bảo người lính cận vệ đang ngồi ở góc phòng đi lấy cà phê.
Cửa phòng bỗng mở, Lệ hiện ra lộng lẫy tươi cười, đi lại phía chồng, ngồi lên thành ghế, cúi sát mặt Nhu âu yếm nói bằng tiếng Pháp như thói quen thường ngày:
- Chúng mình đã chiến thắng bước đầu. Anh sẽ là hoàng đế của em.
Mộng trở thành Đệ nhất phu nhân của Lệ bắt đầu thành sự thật, nàng nhìn thẳng vào mắt chồng, hồi tưởng đến độ nào mới về làm dâu họ Ngô.
Cả một quãng đời đã qua như một cuộn phim quay ngược lại trong trí óc mơ màng của Lệ.

Chương 3

Đại gia đình phong kiến

Huế, mười năm về trước.
Một buổi trưa hè. Dưới gốc hoàng lan, khu vườn rộng xanh um cây lá của tư dinh cụ Thượng Ngô. Ở Phú Cam, trên bờ sông Bến Ngự, một thiếu phụ lối hai mươi tuổi đang nằm trên thảm cỏ, hai mắt lim dim nhìn lên bầu trờixanh thẫm qua những bóng lá chập chờn.
Ấn tượng ghi sâu trong tâm trí Lệ qua bao nhiêu năm tháng không nhoà, đã xúc động mạnh mẽ bản năng tình dục, ấp ủ tận đáy tiềm thức, kích thích nàng sớm nghĩ đến tình ái, ảnh hưởng chi phối cả quan niệm yêu đương của Lệ. Những hình ảnh về mẹ nàng. Những hình ảnh ác liệt bám chặt vào đầu óc còn thơ dại của Lệ, thỉnh thoảng lại hiện ra xoắn cuộn lấy rung cảm nồng nhiệt của người con gái phát tiết trước tuổi dậy thì.
Bấy giờ Lệ chỉ mới mười một tuổi, cha nàng đang ở Sài Gòn mở văn phòng luật sư dưới lầu biệt thự trên đường Mac Mahon. Vào một buổi xế trưa - buổi trưa ám ảnh Lệ từ đấy, biết bao nhiêu biến cố xảy ra trong đời Lệ vào những buổi trưa - một trưa nắng cháy miền Nam, trong khi ông Trần Văn Chương bận cãi ở phiên toà Đại hình, Lệ lúi húi nghịch các thứ ở trên bàn trang điểm trên phòng mẹ. Bà Trạng từ buồng tắm bên cạnh bước vào. Lệ sợ bị mẹ bắt gặp, vội lẩn nấp vào sau tấm màn cửa, thập thò lén nhìn ra.
Bà Trạng khoác chiếc áo tắm sặc sỡ di đến giường nằm ngả ra để lồ lộ cả người trên tấm áo khoác mở toang. Lệ thấy mẹ mệt mỏi nằm thiếp đi trong không khí trưa nồng, dưới mấy cây quạt trần quay tít không xua nổi sức nóng.
Bỗng có tiếng gõ nhẹ ở cửa buồng, rồi một nửa trên người đàn ông ló đầu ra. Lệ nấp trong bóng tối cánh màn nhận ra ngay là ông Le Beau, luật sư Pháp thường vẫn đến nhà, bạn của cha nàng, vừa mới mang một bó hoa lớn tặng mẹ nàng trong lễ sinh nhật hôm kia.
Lệ nhìn ngay về phía giường, thấy mẹ vẫn nằm yên trong dáng điệu loã lồ, có vẻ đang ngủ thiếp. Cả cái đầu luật sư Le Beau lọt vào khoảng cửa buồng hé mở, ngẩn ngơ lặng ngắm người vợ bạn, rồi lặng lẽ đi vào khép kín cửa sau lưng.
Lệ toan kêu lên vì bản năng bảo vệ cho mẹ trước một người đàn ông không phải là cha mình đang tiến lại giường ngủ của mẹ đang nằm, nhưng hồi hộp sợ hãi chặn ngang họng, Lệ cảm thấy nghẹt thở sau tấm màn, và lại sợ bị bắt gặp, nên cứ im thin thít lén nhìn.
Luật sư Le Beau nhè nhẹ bước đến phía dưới chân mẹ Lệ, đôi mắt sáng rực bốc lửa, nhìn như muốn nuốt chửng cả đối tượng trước mặt, chỉ thều thào thốt ra mấy tiếng:
- Chồng toa đang còn bận ở toà?
Lệ không khỏi ngạc nhiên thấy mẹ chẳng có một phản ứng gì chống cự lại, mà ngoan ngoãn đón chờ những vồ vập của người Pháp, bạn chồng bà.
Hoạt cảnh ái ân của bà mẹ ngoại tình với luật sư người Pháp phô diễn bất ngờ trước mắt, in sâu vào ký ức, đảo lộn cả tình cảm thơ dại của Lệ, ngấm ngầm ác liệt như ung nhọt lẩn lút trong tiềm thức cô gái lên mười, nhiễm độc những tế bào rung cảm bén nhạy ở người Lệ. Những hình ảnh trong buổi trưa hè ở biệt thự đường Testard Sài Gòn theo đuổi mãi Lệ cho đến lúc cha nàng chuyển văn phòng trạng sư trở ra Hà Nội, sau khi thất chức Phó chủ tịch Hội đồng kinh tế và Lý tài Đông Dương. Cuộc phiêu lưu tình ái của bà Trạng Trần Văn Chương là một cơ hội cho đối phương tranh cử đem ra xuyên tạc chế giễu người chồng mọc sừng, thêu dệt nên dư luận bôi nhọ ông Chương. Trong xã hội tự cho là trưởng giả thượng lưu của Sài Gòn trước đây 30 năm, không thiếu gì những kẻ hãnh tiến, tủ sắt đầy bạc và đầu óc rỗng, đâm ra ganh tị với vợ chồng ông Trạng Trần; nhất là bà Trạng vừa đẹp vừa trí thức, đúng là mẫu mực của một người đàn bà thời trang. Hơn nữa bà lại thuộc một gia đình vọng tộc đất Thần Kinh.
Chung quanh chỉ còn chĩa những mũi dùi ganh tị vào điểm yếu tình cảm của ông Chương, và những miệng lưỡi độc ác không ngần ngại tiên đoán đến cả việc tan rã của gia đình luật sư, con vị Tổng đốc Bắc Hà với bà vợ ngoại tình, con gái cụ Đông Các nguyên Thượng thư Bộ học chốn đế đô.
Lệ nhớ mang máng rằng cha nàng trở về Hà Nội là để tránh cái không khí lố bịch khó chịu chung quanh do mẹ nàng gây nên.
Lệ lớn lên qua lớp sóng ngầm tình dục khích động thời niên thiếu, kích thích cơ thể sớm phát triển và tâm trí sớm mơ màng yêu đương, bên cạnh bà mẹ đa tình và người chị ruột sôi nổi. Hoàn cảnh đua đòi tự do mới sống cùng bản chất nồng nhiệt yêu chuộng xa hoa, tạo cho Lệ thành một cô gái cực kỳ tân thời, khiêu khích, kiêu kỳ.
Trước khi biết đến tình yêu, Lệ đã biết qua tình dục trong những cuốn sách Pháp dạy vỡ lòng ân ái mà nàng vẫn rút ở đầu giường ra đọc mỗi đêm trước khi đi ngủ. Cũng như chị, học vấn của Lệ chỉ giới hạn trong việc nói và đọc rành tiếng Pháp để giao thiệp như mẹ nàng và ngoài ra học thêm đàn dương cầm, học múa với nữ giáo sư Parmentier theo đúng thời thượng của một tiểu thư con nhà quý phái bấy giờ ở Hà Nội Lệ giao du với các bạn trai không e dè như thói thường các cô gái đương thời, một phần lớn do không khí cởi mở táo bạo ở khách thính của mẹ nàng tổ chức tại nhà. Một số nhân vật thượng lưu Hà Nội trước chiến tranh thứ hai: luật sư, bác sĩ, giáo sư, hoạ sĩ phần đông là bạn của mẹ Lệ. Thường ngày lui tới biệt thự ở đại lộ Carreaux (cạnh phố hàng Bài), cố tạo nên một khung cảnh mô phỏng Khách thính Ba Lê, với sự nồng nhã của nữ chủ nhân đa tình có hai tiểu thư đến tuổi dậy thì.
Vẻ đẹp quý phái, não nùng của người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, chín thắm như trái mùa thu, ngọt ngào như mọc, thu hút khách trí thức hơn là hai chị em hơ hớ đào tơ, Châu và Lệ. Lệ đâm ra có mặc cảm bực tức với mẹ, được lắm người say mê, nhất là hoạ sĩ Lê Phổ.
Lệ ghét cả chị, đang dang díu với một sinh viên trường Luật, con nhà đại điền chủ Nam Kỳ, si dại chị nàng ngay từ buổi đặt chân đến khách thính.
Trong khi không một ai luyến ái chìu chuộng và còn xem nàng còn dại, lắm phen Lệ điên cả người, sinh sự luôn cả với chị và mẹ, mải mê trong ma mị ái tình, Lệ không tìm được an ủi ở người cha quá hiền lành, mềm yếu, xa rời vợ con. Em trai Lệ ngày đêm áo quần chải chuốt đi ngoài phố và các rạp chiếu bóng, Lệ chỉ thấy mặt mỗi lần cậu tìm gặp để đòi tiền. Không khí cách biệt, xung khắc trong gia đình khiến Lệ luôn luôn oán cha mẹ và chị em ruột thịt. Có lần Lệ đã kêu lên tâm sự uất hận của mình:
- Tuy sung sướng đầy đủ về vật chất, từ thuở bé tôi chưa biết hạnh phúc là gì. Lúc có thai tôi, mẹ tôi đã có một gái rồi, nên bà cầu Trời, khấn Phật xin cho được một con trai. Vì vậy, lúc tôi ra đời bà chán ghét căm hờn tôi. Tôi lớn lên trong bầu không khí thiếu tình thương này. Mẹ tôi và tôi tính tình xung khắc nhau và thường hay cãi lẩy nhau luôn. Vì vậy tôi tìm cách thoát khỏi gia đình sớm ngày nào hay ngày ấy!
Thoát khỏi gia đình? "Ôi gia đình! Ta ghét mi" là điệp khúc của thế hệ thanh niên thời ấy. Tâm trạng thời đại của Lệ càng bị thôi thúc vì bản năng tình dục đòi hỏi, cơn khủng hoảng của tuổi dậy thì phát động mãnh liệt.
Trong thèm khát âm thầm dữ dội, cơ thể nóng bỏng của Lệ như một đồi cây lá khô nỏ nắng hạn chờ một mồi lửa châm vào là ào ào bùng cháy.
Sau đôi kính trắng, đôi mắt lờ đờ của hoạ sĩ Lê Phổ như đọc thấu những ý nghĩ thầm kín của Lệ, bộc lộ từ đầu mày đến cuối mắt qua các cử chỉ, thái độ hơi khác thường của Lệ. Hoạ xong chân dung bà Trạng, Lê Phổ đề nghị vẽ tặng Lệ một bức tranh mà nàng làm kiểu mẫu. Những lời ca ngợi thẩm mỹ của hoạ sĩ vuốt ve lòng tự ái, thích phô bày của Lệ và nghĩ đến mối tình thầm trộm giữa mẹ nàng với Lê Phổ, tự nhiên Lệ có ý tưởng tranh giựt nên không ngần ngại nhận lời ngay.
Qua các buổi ngồi làm mẫu, dần dần Lệ có cảm tình với chàng hoạ sĩ tài hoa, duyên dáng. Khi vẽ tại biệt thự của gia đình Lệ, khi ở xưởng hoạ của Lê Phổ, nàng chịu khó ngồi yên cho hoạ sĩ múa bút ghi lại vẻ đẹp của nàng bằng màu sắc.
Lệ hiện dần trong tranh, linh động tươi thắm khiến người xem có cảm tưởng thèm khát như đứng trước trái đào chín cây vừa tầm tay với. Nhịp độ thân mật nhuốm màu sắc quyến rũ nghệ thuật giữa người mẫu và hoạ sĩ thu hẹp cách biệt tuổi tác của đôi bên. Hôm đắp mẫu màu cuối cùng xong bức tranh, trong im vắng của xưởng vẽ oi nồng nắng hạ, Lê Phổ dịu dàng nói với Lệ:
- Tôi đã ghi được cái khía cạnh đẹp của Lệ trong bức tranh kia, tôi bằng lòng lắm, tặng Lệ giữ làm kỷ niệm. Còn tôi, mong Lệ ban cho tôi đặc ân được hoạ một Lệ demi-nu (1).
Không đợi cho Lệ kịp phản ứng, Lê Phổ tấn công liên tiếp bằng những lời ca ngợi cái đẹp thuần tuý, đồng thời khích Lệ khiếu thẩm mỹ, tâm hồn kiêu hãnh của Lệ để trấn áp bản năng e dè, tự vệ của người con gái. Tính chất kiêu đẹp, phô bày táo bạo, giục Lệ đứng lên, cởi áo ngoài ra một cách tự nhiên, và Lệ chỉ buông câu dặn dò:
- Nhưng tôi cấm không được bày bức tranh này ở phòng triển lãm, mà chỉ được treo ở xưởng hoạ thôi nhé!
- Tôi lấy danh dự nghệ sĩ mà xin theo đúng ý muốn của "công chúa".
Dưới mắt hoạ sĩ, ban đầu Lệ chỉ là một người mẫu tượng hình cái đẹp, tươi sáng, dậy thì của một thiếu nữ cũng như mẹ Lệ đã ngồi cho chàng vẽ chân dung của một người đàn bà quý phái. Nhưng Lê Phổ có một thói riêng, đã thành như cố tật: mỗi lần vẽ về một người đẹp thế nào chàng cũng tìm cách chiếm đoạt xác thịt người mẫu.
Trạng thái dị thường ấy, hoạ sĩ đã giải thích qua lời thú nhận tâm sự:
- Tôi thấy cần phải chiếm lấy người đẹp, sau khi hoạ xong, mới giải thoát được sự đam mê đốt cháy trong lòng mình. Nếu không được thoả mãn trọn vẹn như thế, dễ thường tôi đến hoá điên mất…
Cuộc luyến ái diễn ra trong suốt thời gian Lê Phổ vẽ bức tranh. Lệ không yêu, song người bạn tình từng trải đã để lại cho nàng một cảm giác say sưa cuồng nhiệt. Nhiệt tình ấy, Lệ không tìm thấy ở người chồng cưới nàng một tháng sau.
Tiếng sét ái tình đã tạo nên cuộc hôn nhân chính thức giữa Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân.
Cậu ấm - con cụ Thượng xứ Huế, lớn lên suốt ngày chỉ biết vùi đầu trong sách và tối đến đọc kinh trước khi đi ngủ sớm để sáng mai dậy đi lễ năm giờ, chưa dám biết mùi vị đàn bà là gì, vì nhút nhát và sợ phạm đến điều răn thứ sáu - đã gặp Lệ trong buổi khiêu vũ của bà Trạng Trần tổ chức ở biệt thự mỗi tối thứ bảy, và yêu Lệ ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên ấy.
Đình Nhu ngồi ở góc phòng, trước một ly nước ngọt, cảm thấy tất cả sự thua kém hào hoa của mình với chung quanh. Không biết nhảy, trong khi khiêu vũ là phong trào của giới thượng lưu, không biết tán tỉnh, nịnh đầm, không có bận gái và lại lù đù như một thầy xuất; mặc dù mình là con nhà vọng tộc, các anh đều quan to, danh giá, và chính mình đã học ở Pháp về với mảnh bằng cao, hiện giữ một địa vị ở Thư viện Đông Dương. Nhu đang khốn khổ vì những mặc cảm của một thanh niên đã ngoài ba mươi mà vẫn tự thấy sống xa thời thượng, thì Lệ hiện ra, kiêu sa trong lộng lẫy khêu gợi, như thôi miên cả tâm trí ngây dại của cậu ấm.
Chung quanh vồn vã, săn đón Lệ càng khiến cho Đình Nhu nôn nao, bị thu hút bởi cô gái mới, mà chàng thấy như thần tượng. Qua những lời bàn bạc về chị em Lệ bấy lâu trong giới trí thức Hà thành, giờ đây nhìn thấy con người bằng xương bằng thịt chàng xem như là những áng hào quang phủ quanh người đẹp. Chị Lệ, một sinh viên Luật khoa vừa tốt nghiệp, đã lấy một người chồng thuộc một gia đình giàu có trong Nam. Còn Lệ, mặc dù còn trẻ, hẳn có lắm đám đang ngấm nghé. Ý tưởng chiếm đoạt Lệ trọn vẹn cho mình nảy sinh ra từ giây phút đó, Đình Nhu đã từ một cậu ấm nhu mì ngoan đạo của một gia đình đầy lễ nghi phong kiến đông phương nhảy sang cực đoan muốn làm chủ một cô gái hoàn toàn.
Tiếng sét ái tình quyết định số mệnh của Đình Nhu trong buổi dạ vũ hôm ấy. Và từ đó, Nhu là người luôn luôn có mặt ở khách thính đại lộ Carreaux, để không đầy nửa tháng sau, gia đình Nhu mang đồ sính lễ từ đất Thần kinh ra Hà Nội xin dạm hỏi cô tiểu thư thứ hai nhà họ Trần cho cậu ấm thứ tư nhà họ Ngô.
Ông Trạng Trần thông gia với cụ Thượng Ngô, bề ngoài thật là môn đăng hộ đối, hơn nữa chú rể lại có bằng cấp cao, cô dâu tân thời đúng mực, ai cũng nhìn nhận là xứng đôi vừa lứa. Tuy vậy, bà Trạng vốn tin ở bói toán, thấy cần phải đi hỏi thầy tướng số để xem tuổi cho đôi lứa có hợp nhau không, mới an lòng.
Bà đưa Lệ đi lễ đền Ngọc Sơn trước khi dứt khoát nhận lời nhà trai, dù người mai mối họ Ngô là một vị quan lại quen biết nhiều với họ Trần. Qua cầu Thê Húc, Lệ theo chân mẹ, bắt chước đốt hương, van vái trước bàn thờ thần Bạch Hổ trông ra hồ Hoàn Kiếm, rồi hai tay cầm ống quẻ lắc mạnh để xin xăm. Lời thánh dạy trong quẻ xăm được một ông thầy đọc quẻ ngồi sẵn trước sân thờ giải nghĩa và tán rộng; bà Trần cầm quẻ xăm ra nhờ thầy xem, và đặt trước trên tráp mấy tờ giấy con công.
Năm đồng bạc, theo giá trị thị trường năm 1948, là một số tiền khá bất ngờ đối với ông thầy thường chỉ thu được nhiều nhất là đồng hào, số tiền quá lớn của một vị mệnh phụ phu nhân đi cùng tiểu thư, ông thầy đền Ngọc Sơn đọc qua quẻ xăm, rồi kể lể dài dòng bằng cách tán rộng "lời Thánh dạy" qua hai câu thơ chữ Hán, ông thầy cao hứng đề nghị xem tướng số và bói Dịch để "tạ ơn bà lớn và tiểu thư ; rồi không đợi khách trả lời, ông hỏi qua ngày sinh tháng đẻ của bà Trạng và Lệ, để lấy tử vi.
Lão thầy tướng số nhấc kính trắng lên nhìn thẳng vào mặt Lệ ngắm nghía một hồi rồi bảo nàng đưa bàn tay mặt ra để xem. Đoạn lão lật tráp lấy tập sách chữ Hán ra, đọc nhẩm, tính đốt ngón tay rồi đằng hắng giọng kể lể:
- Bẩm bà lớn, cô nhà ta cao số lắm đấy ạ. Bà lớn xem đôi lưỡng quyền nổi bật cũng đủ thấy phải là người đàn ông nào bản lĩnh lắm mới có thể ăn đời ở kiếp được. Nhìn vào bàn tay đầy đặn đỏ son thế kia, trông rõ số về sau sống trong nhung lụa, lên xe xuống ngựa, đường đường mệnh phụ phu nhân. Chỉ phải cái gia đạo không yên vui mấy, vì những nét phá ngang. Tính theo tuổi, trong tử vi thì "sát phá liêm tham, đào hoa chiếu mệnh", số của cô không phải mười hai bến nước chỉ cặp có một bến, lại thêm Hồng điểm đóng tại Thân, sao Hàm Trì lục hợp với cung Mệnh nữa, đường tình duyên cô có nhiều éo le, song nhờ "tử phù vũ tướng" và "tả phù hữu bật" bên mình, đời cô dù có lao đao về chồng con, rốt cuộc cô vẫn sung sướng thanh nhàn, giàu sang quý phái hơn thiên hạ.
Lệ không hiểu hết những lời dài dòng của lão thầy tướng số, song nghe mình số cao, trắc trở tình duyên hơn người, nàng thấy đúng với lòng tự ái và kiêu hãnh, không khỏi mỉm cười thích thú: Bà Trạng có vẻ nghĩ ngợi, đưa tuổi của chàng rể tương lai ra hỏi.
Sau một hồi tính nhẩm, lật sách ra cứu xét, thầy tướng gật gù nói:
- Số người đàn ông này cũng cao lắm. Có thể sánh được với cô nhà ta đấy. Cung quan lộc của ông này về sau vượng lắm, sao Phá Quân thủ mệnh lại gặp thêm sao Thiên Hình và sao Hoá Lộc thì danh tiếng lẫy lừng. Nhờ đó mà đi đôi với số cao của cô, nên dù đôi tuổi tuy chênh lệch, cách nhau trên 16 tuổi, song có thể phối hợp được thành chồng thành vợ. Trong tử vi người đàn ông có bị phá cánh về sau, có các sao Thất Sát, Đà La, Thiên Hình Lục Hợp với Hoá Ky, song có thể cúng sao giải hạn được.
Lệ không chú ý đến lời bàn về số mệnh người chồng tương lai, nhìn mặt nước hồ Gươm dưới nắng chiều, trong lòng lâng lâng nghĩ đến ngày sắp rời bỏ gia đình không luyến tiếc. Một con chuồn chuồn đỏ bay từ chiếc bèo này sang chiếc bèo kia dập dờn ven hồ, khiến Lệ bỗng ước ao thân mình được thảnh thơi như đôi cánh nhẹ nhàng kia và nàng nhớ đến lời đồng giao của người vú quê mẹ đã hát ru đưa nàng trên võng thời thơ ấu:
Thân em như thể chuồn chuồn
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.
Ý nghĩ thoát ly gia đình đã trở thành một ám ảnh. Không khí xung khắc giữa Lệ và mẹ nàng lại thường xảy ra luôn, và qua những câu cãi lẫy bóng gió, Lệ tinh ý nhận ra mẹ nàng đã biết sự dan díu giữa con gái với hoạ sĩ Lê Phổ, và bà không giấu nổi lòng ghen tuông.
Lệ đã bướng bỉnh đương đầu với mẹ, tỏ ý trêu ngươi. Tình trạng này đưa đẩy Lệ trở thành đối thủ với mẹ; bà Trạng Trần tự tin ở sức quyến rũ sắc đẹp chín thắm của người đàn bà từng trải, Lệ thì cậy vào tuổi trẻ và nhan sắc đang độ của mình.
Lê Phổ khéo léo chối cãi mối tình dan díu với con khi bà mẹ gạn hỏi, song bà Trạng Trần nhất quyết không để kéo dài tình thế bất lợi, nhất là sợ tiếng tăm đồn ra, do thái độ ương ngạnh, bất chấp của Lệ.
Một buổi trưa, vào lúc một giờ, bà Trạng Trần thấy vắng bóng con gái ở nhà, tự tay lái xe hơi đến thẳng xưởng hoạ Lê Phổ. Bà đậu xe phía ngoài, lặng lẽ vào nhà lấy chìa khoá riêng mở phòng tình nhân ra, bắt gặp Lệ trên giường với hoạ sĩ. Bà đi ngang đến tát mạnh hai cái vào mặt Lệ và thốt ra mấy câu đe doạ Lê Phổ:
- Tôi sẽ đưa anh ra toà án về tội dụ dỗ con gái còn tuổi vị thành niên.
                              ***
Buổi đầu Lệ dửng dưng đối với Nhu, gần lớp tuổi mẹ nàng, trông đạo mạo như một thầy dòng, song Lệ đang cần có một người chồng để thoát khỏi gia đình, và khi biết được Nhu đã cầu hôn với cô con gái thứ cụ án Long, em vị Ngự tiền văn phòng Hoàng đế, nàng liền đổi chiến thuật, lôi cuốn Nhu thuộc về nàng.
Cậu cử con cụ Thượng Ngô, tuy đã ngoài 30, song vẫn dại gái, nên ngày càng mê mệt Lệ, bị Lệ dẫn dắt đi đến chỗ phải đích thân đến nhà cụ án, để bãi hôn, và nhắn người nhà từ Huế mang sính lễ ra xin thông gia vôi ông bà Trạng Trần.
Lấy chồng, đối với Lệ lúc ấy, chỉ là cơ hội để rời bỏ không khí nặng nề, xung khắc trong gia đình, và bề ngoài Nhu có thể xứng vai chàng rể đối với nhà nàng là được rồi. Còn vấn đề yêu thương, Lệ đã tâm sự cùng một cô bạn gái, nói rõ lòng mình:
- Tình yêu sẽ đến với hôn nhân, nếu không phải lấy nhau vì tình thì lấy nhau vì lý cũng vậy. Đối với tôi, việc đáng kể là lấy chồng rồi về sau ra. Sao sẽ hay…
Nhu hơn Lệ mười sáu tuổi, song nàng không quan tâm đến tuổi tác chênh lệch, nghĩ rằng một người chồng nhiều tuổi hơn, hẳn chiều chuộng vợ trẻ và có thể làm vừa lòng nàng chắc chắn hơn là thanh niên chưa từng trải. Lệ liên tưởng đến Lê Phổ, người tình của mẹ, lớn tuổi hơn cả Nhu. Huống chi Nhu vừa đậu cử nhân, có địa vị trong xã hội đương thời, thuộc một gia đình quan lại danh giá, và anh chàng luống tuổi này lại tỏ ra si mê Lệ đặc biệt.
- Nhu là chồng con cũng được chứ sao?
Lệ trả lời dứt khoát cùng mẹ trên đường về nhà, sau buổi xin xăm và xem tướng số ở đền Ngọc Sơn. Lệ cũng kể luôn mối tình say đắm của Nhu đã ngỏ với nàng, để xác định hẳn cuộc hôn nhân giữa hai người. Bà Trạng không còn lý do gì để có thể làm trở ngại, nhất là từ đây Lệ sẽ chấm dứt việc dan díu với hoạ sĩ Lê Phổ.
Lệ nóng lòng sớm bước qua cuộc đời khác, nên không thắc mắc vấn vương gì khi phải từ bỏ đạo Phật của cha mẹ để rửa tội theo Thiên Chúa giáo, theo lời yêu cầu của gia đình nhà chồng đạo giòng.
Lệ không tin tưởng ở tôn giáo, nên chỉ xem đấy là hình thức lễ nghi không quan hệ gì đến đời sống tâm tình của nàng.
Hôn lễ của Trần Lệ Xuân và Ngô Đình Nhu cử hành nửa tháng sau ngày dạm hỏi, tại nhà thờ lớn Hà Nội. Phía họ nhà trai nổi bật màu đen áo thâm chùng của nhiều linh mục đến dự, bên nhà gái thì đủ mặt xã hội thượng lưu Hà thành, Việt, Pháp, Nhật, quan khách, bạn hữu của ông bà Trạng Trần. Trong tiếng chuông đổ hồi náo nức, Lệ kiêu hãnh cầm tay chồng từ trong nhà thờ đi ra, toan bước lên xe hoa, bỗng nghe còi rú báo động trỗi lên tứ phía. Cả đoàn người dự lễ cưới đang xôn xao chưa kịp chạy thì đã nghe tiếng ầm của phi cơ Đồng Minh oanh tạc bay trên bầu trời.
Những phát đạn của phòng không Nhật Bản từ phía Gia Lâm bắn lên nổ trắng trên trời Hà Nội, rồi vang ầm những tiếng nổ dữ dội của bom nặng ném xuống rung chuyển cả thành phố. Cuộc oanh tạc đầu tiên của máy bay Mỹ nhằm trung tâm Hà Nội do quân Nhật chiếm đóng đánh dấu ngày Lệ lấy chồng.
Xác pháo nhuộm đỏ một góc đại lộ Carreaux trước biệt thự họ Trần, tiễn đưa cô dâu lấy chồng xứ Huế.
Đối với Lệ, tuần trăng mật trong cảnh thơ mộng miền núi Ngự, sông Hương trôi qua hững hờ, ngao ngán như dòng nước lững lờ, không buồn chảy.
Trong khung cảnh đại gia đình phong kiến của nhà chồng, những nỗi uẩn ức của Lệ bị đè nén vào tận tiềm thức. Không khí sùng đạo, lễ giáo hình thức, thái độ xa cách lạnh lẽo của mọi người và của người chồng đầy mặc cảm dồn Lệ vào cảnh lặng lẽ nặng nề, khiến lắm lúc nàng chỉ muốn gào thét lên cho hả dạ.
Ý nghĩ nổi loạn bừng bừng dấy lên trong lòng Lệ. Tất cả những lớp sơn son thếp vàng, lính hầu con đòi, hình thức lễ nghi quan cách đối với Lệ có ý nghĩa gì đâu? Nàng tự giam hãm mình trong bốn bức thành rêu phủ tư dinh nhà chồng, hy sinh cả cuộc sống đang độ nồng nhiệt cho Nhu để làm gì? Quan niệm của nhà chồng cưới nàng về để làm thêm dài gióng lớn họ, song liệu Nhu có đủ điều kiện để làm nàng sinh con nối dõi được không?
Quãng đời niên thiếu bị tiêm nhiễm lề lối giáo dục tu hành và sự nhút nhát về luyến ái đưa đến hậu quả biến Nhu gần như một kẻ bất lực. Một tâm trí kiêu hãnh lạnh lùng trong một thể xác thiếu nhiệt tình, sống cô lập, mải miết đuổi theo viễn cảnh trìu tượng.
Những khát vọng không được thoả mãn, dồn dập triền miên trong cõi tiềm thức dần dà biến đổi tâm trạng Lệ từ bản chất vui vẻ trẻ trung đâm ra bực tức, phát cáu đối với chồng. Nàng ghen tức với cả những cuốn sách, những câu chuyện đàm luận triết lý, thời cuộc của chồng với bạn hữu, phần lớn là tu hành hay thầy xuất dở dang.
Tự bản năng Lệ thấy ghét những người đàn ông kia, cũng như màu đen áo thâm chùng khoác trên mình họ, lớp người không quan tâm đến đàn bà, không biết đến giá trị của phần xác.
Trong không khí u ẩn như tiếng cầu kinh sớm tối, bên cạnh người chồng lạnh lẽo, trí thức khô khan, giữa dinh thự nghiêm vắng, cách biệt đời sống bên ngoài, Lệ sống với nỗi niềm uất ức chỉ còn biết giải toả sự tù hãm bằng các cuộc phiêu lưu tưởng tượng qua các thiên tình sử, tiểu thuyết diễm tình, và đời sống các nữ nhân vật đa tình trong lịch sử.
Nỗi lòng của Lệ gần như không được chồng tìm hiểu, biết đến để xoa dịu, và nàng phải sống hững hờ, âm thầm giữa khung cảnh khô lạnh của đại gia đình Nhu. Do buông trôi theo thói quen sống chung đôi lứa nhưng lòng tự ái và kiêu hãnh ở Lệ vẫn ấp ủ những mầm mống biệt lập với chung quanh. Lệ không chấp nhận cho nhà chồng xem nàng chỉ là phương tiện để truyền giống như bao nhiêu bạn gái cam chịu số phận hẩm hiu chung của người đàn bà Á Đông.
Lễ giáo phong kiến ràng buộc nặng nề của gia đình nhà chồng không thể giam hãm được bản chất độc lập của Lệ. Nàng ngoan cường đương đầu lại những toan tính khuất phục nàng trong cảnh làm dâu.
Một tối, trong cuộc mạn đàm giữa Nhu với một linh mục đứng tuổi thông Hán học, thường nghiên cứu về Khổng giáo, cha Nguyễn Khắc Từ và giáo sư Cao Văn Luận người ngoại đạo, say mê học thuyết Lão Trang, Lệ ngừng tiếng dương cầm lắng nghe ba người đề cập đến vấn đề luyến ái, nhân vừa nói đến trường hợp một bà cựu thượng thơ đẹp sắc sảo, ham mê lên đồng và nổi tiếng ngoại tình đất Thần kinh.
Cha Nguyễn Khắc Từ nhắc đến quan niệm luyến ái về tình đôi lứa trong tích Sáng Thế và Thánh Ca, nói tới ý nghĩa việc Chúa tạo ra người đàn ông và người đàn bà.
- Chúa đã lấy đất để tạo nên người đàn ông và hà hơi sự sống vào lỗ mũi, rồi thấy người đàn ông sống một mình không phải là một điều tốt, bèn lấy một chiếc sườn của người đàn ông để tạo nên đàn bà, làm thành một đôi lứa. Do đó mà về sau người đàn bà lìa bỏ cha mẹ để theo người đàn ông, bởi cả hai chỉ là một cốt nhục.
Lệ lên tiếng hỏi:
- Thưa Cha, con mới theo đạo từ khi lấy chồng, không thấu lý lẽ của đạo, con thắc mắc tự hỏi tại sao Chúa lại lấy một khúc xương sườn trong cơ thể người đàn ông để tạo nên người đàn bà, mà không phải là một chỗ khác?
Cha Nguyễn Khắc Từ đáp:
- Tại sao Chúa chọn lấy như vậy, thánh François de Sales giải thích là vì Chúa muốn dạy người đàn bà một bài học khiêm nhường: "Người đàn bà thứ nhứt đã được lấy ra ở dưới nách người đàn ông như thế, cốt để người đàn bà hiểu rằng lúc nào cũng phải ở dưới tay người chồng". Chính Chúa đã dạy trong kinh Sáng Thế, bảo Eva rằng "Chồng ngươi sẽ ngự trị ngươi", Thánh Paul còn nói thêm là: "Chúa đã tạo người đàn bà ra ở chiếc xương sườn người đàn ông như thế để chứng tỏ người đàn ông không phải để phục vụ người đàn bà mà người đàn bà được tạo nên do người đàn ông".
Lệ hỏi vặn lại:
- Như vậy vấn đề nam nữ bình quyền, cha nghĩ thế nào? Trước mặt Chúa, không phải tất cả đều ngang nhau hay sao?
- Tôi nói về sự tích Chúa tạo ra con người, còn vấn đề nam nữ bình quyền là thuộc về phần đời.
Lệ thắc mắc:
- Thế đạo với đời không thể đi đôi với nhau được hay sao? Người Công giáo phải yêu thương đúng theo kinh sách của Chúa dạy ư?
Cha Nguyễn Khắc Từ mỉm cười đáp:
- Có những sự khó khăn về thể chất và tinh thần mà người có đạo phải vượt qua. Tôi nhắc lại câu nói sau đây của thánh François de Sales để trả lời chị: "Ngọn núi Calvaire là ngọn núi của những kẻ tình nhân. Song những mối tình nào không lấy cội nguồn ở sự đam mê đấng Cứu Thế thì mối tình đó chỉ là phù phiếm và nguy hiểm".
Lệ nhìn chồng vẫn im lặng hút thuốc lá, ngập ngừng hỏi:
- Lời của cha, chỉ có lẽ thích hợp với các người tu hành, không nhiễm phải tội gốc. Con nhờ cha cắt nghĩa giùm cho một quan niệm về hôn nhân mà con vừa đọc được trong một cuốn sách của nhà văn Anh Lawrence, viết rằng: "Việc hôn nhân chỉ là ảo tưởng nếu hôn nhân không nắm vững được lâu bền tính chất phù hợp sinh lý, nghĩa là hôn nhân phải hoà hợp với nhịp điệu của trời đất trăng sao, năm tháng, bốn mùa. Hôn nhân sẽ thành vô nghĩa nếu không có căn cứ vào sự hoà hợp của giòng máu, vì máu là tinh tuý của tâm hồn".
Câu hỏi của Lệ không làm cho cha Từ hay giáo sư Luận ngạc nhiên bằng Nhu, chàng cho là nó vượt ngoài lề lối yêu đương của người có đạo. Cha Từ im lặng không rõ vì nhận thấy vấn đề ở ngoài thẩm quyền của mình, hay là tránh bày tỏ ý kiến vào một quan điểm tế nhị.
Giáo sư Cao Văn Luận góp lời:
- Nếu tôi không lầm thì vấn đề chị vừa đặt ra là một quan niệm về luyến ái căn cứ vào sự hoà hợp của âm dương, đặt cả đôi lứa ở trong một chân lý chung, tức là sự sống, có thể đạt đến cực độ hoang lạc có tính chất vũ trụ, đưa con người đến gần lẽ Đạo, theo thuyết âm dương là thuần nhất.
Giọng nói của Nhu trầm trầm cất lên:
- Quan niệm về hôn nhân, luyến ái đó của nhà văn Anh muốn lý tưởng hoá tình dục, theo nếp sống vật chất của người Tây phương, tôi cho là trái ngược với tính chất cổ truyền Á Đông, mà tiêu biểu nhất là Khổng giáo, trong đó việc hôn nhân luyến ái chỉ được thể hiện trong nhiệm vụ truyền kế giống nòi ở trong phạm vi lễ giáo mà thôi.
Rồi Nhu quay sang hỏi cha Từ:
- Thưa cha, có phải giáo lý của Khổng Tử về luyến ái, hôn nhân gần gũi với quan niệm về tình đôi lứa của đạo Cơ đốc không?
Cha Từ thong thả nói:
- Cứu cánh của sự luyến ái trong đạo Cơ đốc là hướng thượng, tiến tới tình yêu Chúa, thăng hoa tình yêu đôi lứa thành tình yêu Chúa.
Lệ lại lên tiếng hỏi:
- Sự thăng hoa của tình yêu đôi lứa mà đạt tới được mức cao xa như cha vừa nói thì tình yêu đôi lứa có còn là thứ tình người nữa không, hay đó chỉ là trạng thái xuất thần quá cao siêu của các nhà tu hành?
Câu hỏi của Lệ không được trả lời, và câu chuyện hướng sang một vấn đề khác.
Lệ nhận thấy chồng, cũng như các bạn không muốn đi sâu vào con người và nàng như bị chấp nhận cuộc sống lửng lơ, mờ nhạt.
Không khí tỉnh nhỏ, bình lặng của xứ Huế càng khiến Lệ thêm chán ngán. Song nàng còn phải ở lại gia đình nhà chồng, cho hết vụ nghỉ hè của Nhu theo ý muốn của bà Thượng Ngô, để dạy dỗ nàng dâu vào khuôn phép.
Sau bốn bức tường tư dinh họ Ngô, Lệ nhận thấy gần đây có mấy sĩ quan Nhật thường đi lại và thỉnh thoảng có cuộc hội họp bí mật tại nhà. Người anh cả Nhu là Tổng đốc ở Quảng Nam độ rày hay ra Huế. Người anh cựu thượng thư dự định vào Nam để gặp ông anh thứ hai, tu hành, đang cai quản một địa phận ở lục tỉnh có uy tín trong giới công giáo. Chồng Lệ thì ngày đêm vùi đầu đọc sách chính trị. Hai người em trai sau cũng có vẻ âm thầm hoạt động.
Anh em Nhu đều tỏ ra tin cậy sự giúp đỡ của Nhật để mưu đồ đại sự nay mai. Mộng quyền bính ám ảnh Nhu, không khí gia đình nhiễm thêm mùi chính trị rộn ràng, Lệ cảm thấy mình cũng bị ảnh hưởng của chồng, lôi cuốn nàng theo viễn ảnh một tương lai hứa hẹn với dòng dõi họ Ngô.

Chương 4

Họ ngoại


Dưới ánh trăng chiếu xuyên qua giàn hoa lý trước sân, Lệ ngồi ở chiếc ghế đôn hình voi, nhìn ông cậu ngồi tựa gối dựa đỏ bọc gấm trên sập gỗ, chậm rãi kể cho nàng nghe quá khứ bên dòng họ mẹ.
Ông cậu Lệ, anh em chú bác ruột với mẹ nàng, đã ngoài sáu mươi, tước hầu, sống với một bà công chúa, em vua Thành Thái, trông nom ngôi nhà thờ lớn họ Thân mà ông là trưởng tộc.
Nhà thờ có hành lang chung quanh, nối liền với dãy nhà dưới bằng một quãng nhà vỏ cua, nằm giữa một khu vườn rộng đầy cây trái, ở trên cao hữu ngạn sông Hương, thuộc làng Nguyệt Biểu, trông sang đền Văn Thánh và chùa Thiên Mụ xế bên kia sông.
Ông bà Hầu không con, bà vợ công chúa có lấy thêm cho chồng một người thiếp, cũng vẫn hiếm hoi, song không muốn mua con nuôi để kế tự trông nom hương khói sau này, vì tính ông Hầu rất thận trọng, ngăn nắp, lại hết sức sạch sẽ, sợ có trẻ quấy rầy. Sinh kế trông vào hoa lợi mấy mẫu vườn hương hoả và món phụ cấp tước Hầu của Nam triều còn dành cho ông cứ mỗi kỳ ba tháng, ông Hầu lại ngồi chiếc xe nhà bánh gỗ lọc cọc đi xuống Thành nội để lãnh.
Tình yêu thương của đôi vợ chồng già quý tộc, sống biệt lập, ông Hầu đem san sẻ cho cháu chắt trong họ, không phân biệt nội ngoại.
Lệ cũng rất được quý mến, và thỉnh thoảng bà Trạng Trần về quê ngoại ăn giỗ hay thăm bà con, đều ghé lại nhà ông Hầu.
Trước ngày rời nhà chồng để trở ra Hà Nội, Lệ thuê đò đi ngược sông Hương, lên Nguyệt Biều thăm bên ngoại, ở lại một hôm tại nhà thờ họ. Ông Hầu đã kể cho Lệ rõ về đại gia đình bên mẹ, sau bữa cơm tối đặc biệt quý tộc Huế, mà bà công chúa đã tự tay làm để đãi cháu.
Theo nhịp ngân nga của tiếng chuông rung ở chùa Thiên Mụ bên sông vọng qua, Lệ như bước vào thế giới cổ kính xa xưa, mà ông Hầu đang làm sống lại trước mắt cháu gái:
- Theo gia phả truyền lại thì ngôi mộ Tổ nhà ta phát tích tại núi Đạm dùng núi Kim Phụng và Ngọc Trản làm hai cái án. Khi Tổ mất, con ông ra Đồng Hới ở chực tại ngoài đó tới mấy tháng, rước một thầy địa lý, danh tiếng; thầy địa lý thấy gia chủ có lòng chí thành mới chịu vào. Đến nhà, ông ta ở lại ba hôm quan sát cả vùng đất Cư Chánh, nơi Tổ ta cư ngụ, chỉ dặn ông con là hôm nào thấy có người đội nón sắt đến trước nhà đứng ở đâu, cứ việc đào ngay chỗ đất ấy lên mà để mả chớ không đi đâu xa. Đúng như vậy thì ngôi mộ này sẽ phát như sau: Nhất đại tầm thường, Nhị đại văn chương, Tam đại cận đế vương, Tứ, ngũ đại dĩ hậu thế, thế kỳ xương.
Trưa hôm sau, thấy có người đội chảo đồng đến đứng chờ đò ngang qua sông phía trước nhà, chiếc chảo đồng dùng nấu mật mía, trông xa như cái nón sắt, ông con Tổ ta nhớ đến lời dặn của thầy địa lý đào ngay chỗ đất núi Đạm kia, trông sang hai núi Ngọc Trản và Kim Phụng bên kia sông như hai cái án chầu. Mấy câu tiên đoán năm Ất Tỵ của thầy địa lý hồi đó, dưới triều vua Lê Huyền Tôn niên hiệu Cảnh Trị, tức là 1665 theo dương lịch, đã lần lượt ứng nghiệm qua ba đời họ Thân: đời thứ nhất tuy tầm thường song các vị công tước cũng làm thầy thuốc, dạy học, môn đệ đều đỗ đạt vinh hiển. Đến đời thứ nhì, khoa thi nào cũng có cử nhân tiến sĩ người họ Thân, làm quan đến tuần vũ, tổng đốc, dạy học, danh tiếng đến vua Minh Mạng cũng phải ban khen… dân gian truyền tụng, thành phương ngôn "Ruộng Đồng Di, thi Nguyệt Biều".
Ông Hầu ngừng lại thong thả kéo một hơi thuốc lào ở chiếc điếu bình bằng ngà voi bịt bạc, rồi đưa tay trỏ đôi câu thếp vàng treo ở hai cột lớn gian giữa, rung đùi đọc cho Lệ nghe:
Nan đắc hoa danh truyền lý học
Khả kham tạo vật đố toàn dân
Đó là hai câu của cụ Phan Thanh Giản, viếng ông Cố cháu, khen là bậc khoa cử mà truyền được nghĩa lý lại, thể được lòng Tạo hoá mà không cầu lợi danh. Học trò của Cố ta đậu cử nhân có 9 người, đậu tú tài hơn ba mươi ra làm quan đông vô kể. Đến đời thứ ba "tam đại cận đế vương" ngoài một ông làm ngự y, săn sóc cho vua Hàm Nghi, chữa bệnh cho cả Khâm sứ Trung Kỳ, còn ông ngoại mẹ cháu thì sung Đại thần viện cơ mật lãnh Thượng thư Bộ học kiêm Bộ binh và Đô sát Ngự sử, lại gia hàm Thái tử Thiếu bảo. Bà vợ thứ hai của ông, sinh ra mẹ cháu, là công chúa con ngài Kiên Thái Vương, em gái các vua Kiến Phước, Hàm Nghi, Đồng Khánh.
Như vậy, đến tứ, ngũ đại là đời mẹ cháu và cháu, làm sao cho danh tiếng dòng họ được rạng rỡ, "dĩ hậu thế, thế kỳ xương". Dù họ Thân là bên ngoại của cháu song theo lời truyền của thầy địa lý để lại ngôi nhà mả phát về dòng thứ, như ông ngoại cháu là con bà vợ sau họ Hoàng, mẹ cháu cũng là con bà thứ.
Nghe lời truyền lại, mả Tổ ta còn phát về bên nữ, ảnh hưởng bao gồm cả phía ngoại nữa, kể từ tứ, ngũ đại trở di. Thầy địa lý có cho biết rằng mấy đời sau này có thể thành đế vương chớ không những chỉ gần gũi đế vương như đời thứ ba, song trong gia phả không dám tiết lộ, ghi lại thành văn, sợ phạm tội khi quân, mưu đồ soán nghịch nên chỉ truyền khẩu qua các dòng trưởng tộc họ Thân thôi.
Việc đó nhắc lại đây cho cháu biết, để rồi đời cháu thấy coi có ứng nghiệm hay không? Xét lá số tử vi của cháu có đặc điểm là giống như lá số của bà Lữ Hậu đời Hán, hai sao Hoá Lộc và Lộc Tồn đóng tại cung Dần, đời cháu sẽ có lúc quyền thế nghiêng trời, lệch đất.
Theo lời mẹ cháu nói lại, lúc sinh cháu ở Bạc Liêu, trong khi theo cha cháu dời văn phòng luật sư về dưới đó, có một ông thầy tướng Tàu đã nói là số cháu sau này không hoàng hậu cũng vương phi, song phải tu dưỡng đường phúc đức thì mới hưởng được bền.
Ông Hầu ngừng nói, vừa lúc tiếng chuông Thiên Mụ dứt, mùi hoa bưởi, thanh trà dậy hương thơm dưới ánh trăng khuya. Lệ chỉ dạ rồi im lặng đứng lên, lững thững đi theo con đường lát sỏi trắng đưa xuống bến sông, ngẫm nghĩ về những lời của ông cậu ngoại. Nàng mơ hồ hy vọng biết đâu một mai kia sự tiên đoán của ông thầy địa lý chẳng thành sự thật? Cũng như mẹ, nàng vẫn tin ở sự huyền bí của số mệnh, tử vi, bói toán, cho mầng theo lá số của nàng ban chiều, vừa được ông Hầu giải kỹ cho, sau này thế nào Lệ cũng được phú quý, cao sang tột bực. Lòng tự ái và tham vọng khiến Lệ càng hứng khởi nghĩ đến những mưu đồ đại sự của anh em nhà chồng.
Qua cửa tam quan, trông ra bến, Lệ bước xuống dãy tầng cấp đá chạy thẳng qua mặt nước, lặng ngắm dãy sông Hương sáng bạc. Một chiếc nốt chở củi từ phía nguồn xuôi về, mái chèo đập mạnh, tiếng hò của người sau lái vút lên giữa khoảng trời cao:
A à à… Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của lòng.
Ơ ơ ơ… Gặp nhau còn biết trên sông bến nào… hơ hơ hơ.
Nghe tiếng hò mái đẩy gợi u hoài mênh môn, tự dưng lòng Lệ lâng lâng, cảm thấy lần đầu tiên một nỗi buồn thanh thoát. Nhưng rồi bản tính thiết thực khiến Lệ không thể mơ màng thơ mộng được lâu, đầu óc lại quay về với những ý nghĩ đã nhen nhúm từ khi ông cậu ngoại nói đến ngôi vị đế vương có thể ứng vào đời nàng. Biết đâu thời cuộc hiện giờ biến đối có thể đẩy đưa Lệ đến một địa vị cao sang trên thiên hạ?
Sau vụ hè, Lệ cùng chồng trở ra Hà nội. Về nhà cha mẹ, Lệ cũng nhận thấy một không khí thân hữu với các sĩ quan Nhật, và bà Trạng Trần ra vẻ đóng vai phu nhân một chính khách ngoại giao tương lai. Chung quanh mẹ nàng đang độ xuân sắc đậm đà, dập dìu lắm nhân vật sẵn sàng chiều chuộng để xin một chút tình.
Mối tình ngang trái giữa một thanh niên trí thức đi bên cạnh cuộc đời một thiếu phụ đã có chồng đã làm rộn dư luận thượng lưu trí thức Hà thành một độ, song ông Trạng Trần còn mải bận hoạt động cho bước tiến chính trị của mình, nên cũng chẳng có thì giờ lưu ý đến. Nếp sống lãng mạn của bà Trạng đa tình điển hình cho thời trang của tầng lớp trưởng giả học thức hồi bấy giờ.
Khách thính họ Trần ở đại lộ Carreaux nhuộm thêm màu sắc chính trị ảnh hưởng của thời cuộc đang biến chuyển. Trong khi mẹ con Lệ như đôi bướm bay vờn trong vườn hoa chính khách, trí thức hoạt động chính trị bản xứ và ngoại quốc thì Nhu có vẻ tâm đầu ý hợp với õng bố vợ luật sư.
Một tối, sau buổi tiệc khiêu vũ của ông bà Trạng thết đãi mấy nhân viên phái bộ Nhật và các sĩ quan cao cấp hiến binh, quân đội Thiên hoàng, đã khuya, Lệ thay quần áo ngủ, chùi sạch phấn son hoá trang để lên giường, bỗng có tiếng rì rầm bên phòng chồng. Lệ rón rén đến hé cửa nhìn vào, thấy chồng đang nói chuyện với cha nàng một cách say sưa nghiêm trọng. Ông Trạng vẫn còn mặc bộ dạ phục đen chỉ tháo lơi chiếc nơ trắng, ngồi đối diện con rể vẻ mặt chăm chú.
Bản tính tò mò khiến Lệ đứng yên nghe lóng. Giọng trầm đều của Nhu như đang đọc diễn văn đưa đến tai nàng:
- Trước tình thế đang biến chuyển, con tính là chúng ta không bỏ qua cơ hội, và phải vận động sẵn sàng để nắm lấy dịp tốt. Xét theo những sự việc, những tin tức gần đây, ta thấy rằng công cuộc tuyên truyền của Phái bộ Nhật đã vượt hẳn ra ngoài khuôn khổ ngoại giao, bộc lộ ý; chống Pháp ngày càng rõ rệt. Cuối tháng bảy 1943 vừa rồi, tướng Matsushita, cựu Bộ trưởng chiến tranh và lãnh tụ Tổ chức Đại Đông Á sang viếng Sài Gòn có đọc diễn văn ác liệt, không giấu diếm: "Nhật Bản sẽ giải phóng các quốc gia Á Đông, dù có đi ngược lại ý chí của Mỹ, Anh và Pháp". Nhật đã xúc tiến phong trào chống Pháp do họ nuôi dưỡng từ lâu để chuẩn bị cho một cuộc đổi thay không tránh khỏi. Họ đang đặt tín nhiệm vào các giáo phái chính trị Cao Đài, Hoà Hảo ở trong Nam, viên chỉ huy do thám Nhật Matsushita giám đốc Đainam Koosi, bạn của hoàng thân Cường Để, sống tại Sài Gòn đã lâu, đóng vai trung gian, liên lạc với Cao Đài, do Trần Quang Vinh đại diện. Hiến binh Nhật thì ra mặt che chở cho giáo chủ Hoà Hảo Huỳnh Phú Sổ đang bị Pháp lùng bắt. Chủ trương của Nhật vận động người Việt có hai hình thức: Phái bộ Nhật tiếp xúc với các giới quan lại, trí thức và thượng lưu, hiến binh Nhật liên lạc với những nhóm võ trang. Song chánh sách của Nhật vẫn hướng mạnh về các giáo phái chính trị, vì họ cho rằng người mình sẵn sàng hy sinh cho tín ngưỡng hơn, như những tín đồ Cao Đài, Hoà Hảo, do đó, anh em chúng tôi trù tính thành lập một lực lượng công giáo, do anh Giám mục tôi ở trong Nam bí mật hướng dẫn, liên kết với các vị cầm đầu giáo khu ở Bắc, bao gồm được lối hai triệu giáo dân, hợp tác với các phe quan lại do anh Thượng tôi đại diện, phe trí thức đó do tôi đứng ra tập hợp.
Lực lượng này thành hình sẽ được sự ủng hộ của công giáo trên khấp thế giới, và cả Toà thánh Vatican nữa, nếu khéo lãnh đạo, có thể cầm đầu xứ này, theo ý muốn của Nhật.
Ông Trạng Trần chăm chú nghe chàng rể trình bày, gật gù nói:
- Kế hoạch thành lập một lực lượng Công giáo để làm hậu thuẫn, được lợi thế hơn các công giáo Cao Đài, Hoà Hảo trong Nam, vì dân Công giáo ở khắp cả ba kỳ, song có một điểm yếu là Công giáo đã có nhiều liên hệ mật thiết với Pháp mà người Nhật cảm tình với Phật giáo. Hơn nữa, đa số người Việt đều theo đạo Phật, cũng như hầu hết các quốc gia ở Á Đông, người Nhật phải chú trọng đến yếu tố đó.
Nhu ngắt lời:
- Phái bộ Nhật đã liên lạc với anh Thượng tôi, cho hay ý định của họ muốn tìm những nhân vật tiêu biểu có thể đứng ra lãnh trách nhiệm cầm quyền xứ này, một khi Nhật bắt buộc phải ra tay lật đổ người Pháp. Một nhân viên phòng chính trị Bộ tham mưu Nhật có tiết lộ cho tôi hay là giải pháp dùng võ lực của quân đội đã thắng khuynh hướng ôn hoà của phe Cố vấn. Chỉ còn thời gian thôi… Tôi vừa được tin tức lúc chiều là Nhật ở Huế đã ra mặt bảo vệ cho anh Thượng tôi, ngăn không cho Pháp bắt. Như vậy hẳn ngày giờ biến chuyển quan trọng cũng không còn lâu…
Lệ buồn ngủ díp cả hai mắt lại vì hơi rượu sâm banh ngấm say, cũng cố gượng tựa cửa lóng nghe vì chợt thấy tính chất hệ trọng qua sự tiết lộ của chồng. Nàng không khỏi kiêu hãnh nóng lòng nghĩ đến một ngày mai huy hoàng trong trường hợp mưu đồ của anh em chồng nàng thành sự thật. Không đợi nghe hết câu chuyện bàn bạc đang kéo dài giữa Nhu và ông Trạng, Lệ lảo đảo bước lại giường, ngã mình trên nệm trắng tinh trong một điệu nằm ngả ngớn chờ đợi.
Nhiệt độ cơn sốt chính trị ở Việt Nam tăng cao vào đầu năm 1944. Tại miền Nam, lực lượng Cao Đài và Hoà Hảo được võ trang chuẩn bị chờ thời cơ nối dậy.
Một số chính khách thân Nhật bị Pháp săn đuổi và can thiệp bằng đường lối ngoại giao với Đông Kinh khiến Phái bộ và hiến binh Nhật tại Sài Gòn phải đưa họ sang Tân Gia Ba, như Trần Văn Ân, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Sâm, Trần Quang Vinh - chỉ huy lực lượng Cao Đài - được nhận là Tuỳ viên của Phái bộ Nhật, Huỳnh Phú Sổ, lãnh tụ Hoà Hảo được giải thoát khỏi tạm giam của Pháp tại Bạc Liêu và đưa về Sài Gòn, ở cạnh hiến binh Nhật để khỏi bị rơi vào tay mật thám Pháp. Tại Huế, Ngô Đình Diệm cũng được sự che chở của nhà cầm quyền Nhật. Các nhóm thân Nhật vừa thành lập: Đại Việt Cách mạng, Đại Việt Quốc dân, Thanh niên ái quốc, Quốc xã… rộn rịp trong một không khí sôi động từ Nam ra Bắc.
Chính đảng Việt Nam phục quốc được Nhật đảm bảo ủng hộ và có hậu thuẫn của Cao Đài đặt chi bộ ở Sài Gòn và Hà Nội bắt đầu tuyên truyền cho lãnh tụ kỳ ngoại hầu Cường Để ở tại Đông Kinh sắp trở về nước: Vị hoàng thân nhà Nguyễn bấy lâu lưu vong ở Nhật Bản sẽ là tân hoàng đế của quốc gia Việt Nam độc lập, nhờ quân đội Thiên hoàng giúp sức lật đổ ách thống trị Pháp.
Anh em họ Ngô một mặt vận động giới thân Nhật cử người đi Đông Kinh tiếp xúc với Cường Để, đồng thời xúc tiến công cuộc thực hiện khối công giáo để làm hậu thuẫn trong cuộc tranh chấp chính quyền với các đảng phái đang ráo riết hoạt động.
Trong khi ấy, các chính đảng không thân Nhật cũng không ngừng đấu tranh, liên lạc với phe Đồng Minh mà họ tin tưởng là sẽ chiến thắng. Những lãnh tụ cách mạng này thoát khỏi lưới mật thám Pháp và hiến binh Nhật, vượt biên giới sang Tàu. Họ sống ở Vân Nam, Quảng Tây, Nam Kinh hoạt động chính trị khác biệt, chống đối lẫn nhau, song bị dồn vào thế liên minh bất đắc dĩ, trước thế lực chi phối của đại diện chính phủ Trùng Khánh, tướng Trương Phát Khuê, Tổng đốc Quảng Tây kiêm Tư lệnh Đệ tứ chiến thuật muốn thống nhất các đảng phái Việt Nam để chống Nhật.
Các lãnh tụ lưu vong họp hội nghị đoàn kết tại Liễu Châu ngày mùng 4 tháng mười 1942, thành lập Việt Nam Cách mạng Đồng minh, Liên hiệp Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt minh cùng 8 nhóm quốc gia đặt dưới sự hướng dẫn của nhà cách mạng lão thành Nguyễn Hải Thần, từ Trùng Khánh đến. Chính phủ Tưởng Giới Thạch trợ cấp cho tổ chức này hoạt động do thám và phá hoại ở Việt Bắc, đồng thời huấn luyện chiến thuật du kích, tình báo, chính trị cho những người Việt ở Hoa Nam, do tướng Tiêu Viên, một chuyên viên nghiên cứu về các phong trào chính trị Đông Dương đứng ra phụ trách.
Cuộc thí nghiệm của Nguyễn Hải Thần thất bại, tướng Trương Phát Khuê thấy địa vị của mình lung lay, vì chính phủ Trùng Khánh cho là ông phải chịu trách nhiệm trực tiếp. Ông Nguyễn Ái Quốc bấy giờ đang bị cầm tù ở Hoa Nam, được các đồng chí liên lạc cho hay những nỗi khó khăn của Trương Phát Khuê, mới đề nghị với vị tướng này là nếu được trả lại tự do, lãnh tụ cộng sản Đông Dương sẽ tổ chức cho Trùng Khánh một hệ thống gián điệp ở Bắc Việt để chống Nhật. Tướng Trương nghe xiêu lòng, song e ngại tiếng tăm cộng sản quốc tế của ông Nguyễn Ái Quốc không được Trùng Khánh chấp nhận nên đề nghị với ông Nguyễn Ái Quốc thay đổi cả tên họ. Từ đấy họ sẽ gọi là Hồ Chí Minh. Rồi tướng Trương báo tin cho Thống chế Tưởng Giới Thạch hay là đang có ở dưới trướng một tay chiến sĩ cách mạng Việt Nam rất có khả năng, xin nhận lãnh tổ chức do thám và quấy rối Nhật ở Đông Dương.
Ở Trùng Khánh không một ai biết ông Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc và chính phủ Trung Hoa chấp thuận. Tháng hai năm 1943, được trả tự do, ông Hồ Chí Minh được chính thức cử làm lãnh tụ Việt Nam Cách mạng đồng chí Hội.
Giữa thời kỳ ấy, để phòng ngừa dân miền Bắc nổi dậy, Pháp tung đám tay sai đi khắp nơi vơ vét hết thóc gạo tải về tập trung ở các kho dự trữ riêng, lấy cớ là để tiếp tế cho quân đội Nhật Bản. Hết ép buộc mua rẻ của dân quê, Pháp lại vãi tiền ra mua thóc, ngô bằng một giá cao để thu cho kỳ sạch ngũ cốc hiếm hoi của miền Bắc. Gạo Nam Kỳ thì không được đưa ra Bắc, lấy cớ là phi cơ đồng minh ngày đêm không ngừng bắn phá tàu bè, ghe thuyền, còn đường xe lửa xuyên Đông Dương thì Pháp dành cho Nhật chuyên chở quân sự.
Lúa thừa ở miền Nam chất chứa đầy kho, Pháp đem đốt thay than củi ở các nhà máy điện. Dân quê ở Bắc khởi sự chết đói từ cuối năm 1944. Mùa lúa tháng mười lại bị thất bát. Người có tiền ở thôn quê cũng đành nhịn ăn, vì thóc gạo đã bị lấy sạch, tại thành phố, mỗi khẩu phần người Việt đều phải ăn gạo "bông", ở trong tay chính quyền Pháp phân phát rất hạn chế.
Khắp xóm làng từ thượng du đến đồng bằng châu thổ sông Hồng Hà, ban đầu còn rải rác hàng chục, rồi đến hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn con người chết đói trong cảnh hàng triệu người thiếu ăn. Nạn đói như một bệnh dịch khủng khiếp lan tràn, nhiều vùng đông đảo dân số dần dà vắng hẳn bóng người. Chỉ thấy ruồi nhặng với những xác chết đen gục bên luỹ tre khô héo ngoài bờ ruộng nứt nẻ, cạnh đường cái quan, hoặc giữa khu chợ xã lạnh tanh.
Người ta ăn hết sạch rau cỏ, củ chuối, ăn đến cả đất nhưng rồi cũng lần lượt nằm xuống dưới bầu trời đầy quạ đen chập chờn kêu gọi nhau sà xuống những thây ma rải rác khắp thôn quê giá buốt mùa đông. Những người sống sót chưa kịp đào lỗ vùi lấp kẻ thân yêu đã kiệt sức nhào lịm chết theo. Hàng ngàn, hàng vạn gia đình nông dân nghèo khó gục ngã vì chết đói.
Những người còn chút hơi sống gượng lê đi được, lần mò ra tỉnh để kiếm ăn, một số đông bỏ xác lại hai bên đường liên tỉnh.
Có những xác bà mẹ đã lạnh cứng, còn con nhỏ trên bụng thoi thóp nhai vú mẹ đã khô cạn sữa tự bao giờ. Có những bà mẹ ra đến tỉnh bán con không ai thèm mua, đổi lấy gạo cũng không được, xin đi ở không nhà nào mướn. Có những cô gái quê đem tiết trinh đổi lấy một bữa ăn. Có những người đói không còn đủ sức để cướp giật một chiếc bánh lá, một miếng ăn.
Từng lũ, từng bầy người đói rách rưới, lẩy bẩy trong lớp vải nâu mong manh dưới mưa phùn, gió rét, thất thiểu trên các đường phố đi xin ăn, song chẳng ai cho. Lớp người đói tranh nhau thay chó để giành giựt một mẩu xương thừa quẳng ra đường. Lá gói bánh vứt đi cũng có cả bầy người xúm lại xâu xé để liếm láp. Mỗi hiệu ăn "lổ" phở đều có sẵn hai người khỏe mạnh cầm gậy đứng gác để xua đuổi đám người đói sà vào.
Những người đói sục sạo, moi móc các thùng đựng rác, lúi cúi dọc theo cống rãnh để tìm những hột cơm rơi bỏ, những cọng rau muống, tất cả những gì có thể ăn được để cho ngay vào miệng.
Hình hài những người đói không còn ra nhân dạng nữa, những đôi mắt sâu hoắm đờ đẫn tuyệt vọng, mất hết sinh khí, ngước nhìn chung quanh một cách thảm thiết, nghẹn ngào, uất hận như những con vật đang bị đẩy vào lò sát sinh.
Những thây ma vật vờ trong đói rét cuối đông âm thầm lê đi qua ba mươi sáu phố phường Hà Nội, trước những cái nhìn kinh tởm, lạnh lùng hay thương hại của đồng loại. Cũng có người qua đường chua xót, xấu hổ quay mặt bước đi vội vàng như muốn chạy tránh cảnh tượng ngoắc ngoải của đồng bào, ngày ngày phơi bày trắng trợn ở trước mắt, mà họ đành bất lực, vô phương cứu chữa.
Trong gió rét căm hờn, trong đêm tối mịt mờ của Hà Nội phòng thủ thụ động, lớp lớp người đói lần lượt nằm chết cong queo dưới những hầm cầu, dưới những mái hiên hè phố.
Mỗi sáng xe Hồng thập tự, xe bò lấy rác của thành phố đi hốt đầy xác người chết đói khắp các nẻo đường Hà Nội, chở ra ngoại ô đổ xuống hố chung lấp đi, nạn đói như một bệnh dịch mang từ nhà quê lên Hà Nội, những con người thôn quê tưởng lên tới thành phố thì thoát khỏi chết đói, song giữa đất cố đô, thủ phủ chính trị của Pháp và Nhật tại Việt Nam, chết đói vẫn tiếp diễn ngày này sang ngày khác, còn ghê gớm hơn cả bệnh dịch hạch, dịch tả thực sự nữa, vì nhà cầm quyền vẫn dửng dưng, không muốn ngăn chặn lại.
Cách hoạt động từ thiện, bố thí lẻ loi của người Việt trước thảm cảnh ghê gớm của đồng bào chỉ kéo dài kiếp sống vật vờ của những người bị dồn vào tình thế phải chết đói, thêm được vài hôm.
Giữa Hà Nội sặc mùi tử khí, nổi lên những tin đồn: có người ăn phở vớt lên ở trong thùng nấu xương cả một cánh tay trẻ con, một nhà làm bánh cuốn bị bắt quả tang đang băm một đùi người để làm nhân thịt. Dân Hà Nội đang lo sợ nạn đói lây, càng hết hoảng nhốn nháo. Miếng ăn đã thành vấn đề chính yếu bắt mọi người phải lo lắng hàng ngày. Ở thôn quê, người ta chỉ lo sao cho khỏi chết đói, tại tỉnh thành người ta chỉ nghĩ thế nào cho khỏi thiếu ăn.
Suốt từ Bắc Việt vào đến miền Trung, hầu hết dân chúng đều bắt buộc phải lo nghĩ đến cơm gạo. Mọi hoạt động, sinh lực của hai phần ba dân tộc đều tập trung vào cả một vấn đề sinh tử lúc bấy giờ: Ăn!
Trước nạn đói làm tê liệt những hoạt động mạnh mẽ của các phần tứ yêu nước, viên giám đốc Sở Mật thám Đông Pháp tại Hà Nội, trong một lúc cao hứng trước ly rượu Pernod ở nhà hàng Thuỷ Tạ bên hồ Hoàn Kiếm, thốt ra với một ông bạn già lai Pháp:
- Ngón đòn kinh tế này lợi hại bằng bao nhiêu đạo quân phái đi dẹp loạn cả lũ dân Bắc Kỳ. Không thế này thì chúng nó mượn hơi Nhật, người Pháp cũng khó ăn ngon ngủ yên lắm. Tụi Nhật tuy không nói ra song họ cũng ngầm tán thành kế hoạch của phủ Toàn quyền để còn rảnh tay lo đối phó bên ngoài.
Trong cảnh huống ấy tại biệt thự ông Trạng Trần Văn Chương, khách thính vẫn mở rộng cửa đón tiếp các nhân vật trí thức, thượng lưu và quan khách Nhật Bản. Bà Trạng từ hôm đạp nhằm xác chết đói nằm bên lối quanh bờ hồ Hoàn Kiếm, không còn dám đi bộ ra ngoài nữa, và rồi bất kỳ đi đâu cũng chỉ ngồi trên xe hơi nhà đưa đến tận thềm.
Lệ đang bận rộn tập múa trong một màn vũ sắp trình diễn ở nhà hát lớn, một buổi dạ hội thân hữu Việt - Nhật. Nhu ngày đêm mải miết với mớ sách chính trị, lo thảo chương trình hoạt động cho "Tập đoàn công giáo Việt Nam" để gởi vào cho hai anh ở Huế và Vĩnh Long.
Một hôm, có người bạn giáo sư trao cho Nhu một tờ truyền đơn với những lời kêu gọi "đấu tranh chống phát xít Pháp và Nhật để giải phóng hoàn toàn Việt Nam". Hỏi ý kiến, Nhu cười nhạt đáp:
- Chống Pháp còn có lý, chứ chống cả Nhật trong lúc này là điên. Mình đang cần Nhật giúp để lấy lại quyền hành trong tay Pháp, chớ một mình Việt Nam thì làm gì được?
Trong khi đó truyền đơn của Việt Minh tung ra ở các vùng thôn quê khơi dậy lòng oán hận của dân chúng trước chính sách thu thóc của Pháp đi đôi với Nhật để gây ra nạn đói kém giết hại cả triệu người Việt và giải thích là phát xít Nhật nhất định phải thất bại trước các đại cường quốc Đồng Minh, chế độ thực dân Pháp tất nhiên cũng sẽ phải sụp đổ. Rồi kêu gọi toàn dân chuẩn bị nổi dậy trước cơ hội độc nhất trong lịch sử giải phóng dân tộc:
Cuộc khởi nghĩa võ trang sẽ phát động vào giai đoạn cuối cùng của chiến tranh thế giới khi Anh, Mỹ và Trung Hoa sẽ đến chiếm Đông Dương, khi người Pháp theo De Gaulle và phát xít Pháp sẽ đối đầu ở Đông Dương, khi người Pháp và người Nhật sẽ đánh nhau và khi lũ phát xít Pháp Nhật giao chiến với các nước dân chủ.
Giờ quyết liệt sắp đến… Nước Đức đã gần bị đánh bại, nước Nhật sẽ không kháng cự nổi cuộc phản công của Đồng Minh. Quân đội Mỹ và quân đội Trung Hoa sẽ tràn vào Đông Dương, trong khi người Pháp theo De Gaulle sẽ nổi lên chống người Nhật. Có lẽ người Nhật sẽ ra tay trước để lật đổ phát xít Pháp…
Phải phát triển du kích chiến để biến thành tổng khởi nghĩa.
Phải quấy rối đối phương bằng những cuộc đánh phá liên tiếp và nắm lấy quyền chủ động cho chúng ta. Phải phá hoại hậu tuyến của đối phương với sự giúp đỡ của quần chúng… Mục đích của chúng ta là tạo ra nhiều vùng chính quyền cách mạng để tiến dần đến việc thành lập một chính quyền duy nhất trong toàn quốc.
Đi đôi với những lời tuyên truyền kêu gọi này, các toán du kích Việt Minh bắt đầu đánh phá nhiều nơi ở Việt Bắc.
Phái bộ quân sự Pháp thuộc nhóm De Gaulle, có đặt đại diện ở Côn Minh, bắt liên lạc với Boisanger, trưởng phòng ngoại giao của Toàn quyền Decoux, nhận thấy ảnh hưởng đe doạ của Việt Minh, vội báo cho chính phủ Trùng Khánh hay rằng Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc thật sự chỉ là một, đã lợi dụng sự giúp đỡ của Trung Hoa để phát triển thế lực Cộng sản tại Việt Nam.
Được tin này, tướng Trương Phát Khuê lại dùng áp lực triệu tập một hội nghị các chính đảng Việt Nam một lần nữa ở Liễu Châu.
Tất cả các đại biểu ở Hoa Nam đều đến đông đủ: Bảy đại diện Cách mạng Đồng Minh với Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trương Bội Công, Trương Trung Phụng, Nghiêm Kế Tổ; lãnh tụ Đảng Giải phóng, Lê Tùng Sơn; các đại diện Phục quốc, Bồ Xuân Luật và Trần Đình Xuyên; các đại diện Việt Nam Quốc dân Đảng, Nguyễn Tường Tam (vừa thoát khỏi vòng vây của mật thám Pháp ở Bắc Việt), Nguyễn Thanh Đồng, Hồ Đức Thành, với hai lãnh tụ cộng sản, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, nấp dưới mặt trận Việt Minh.
Những cuộc tranh luận sôi nổi, quyết liệt diễn ra, nhưng rồi toàn thể mọi người đều bắt buộc phải nhìn nhận một sự thật: Nếu không muốn bị bỏ rơi, thì phải theo các điều kiện của Trung Hoa, thành lập một lực lượng thống nhất các đảng phái.
Tướng Trương Phát Khuê không giấu diếm áp lực mạnh mẽ của mình đối với tất cả các đại biểu và nói rõ ý định trong phiên họp bế mạc hội nghị:
- Chính phủ Trung Hoa chỉ cần một sự phối hợp các đảng phái Việt Nam, chịu sự kiểm soát của chúng tôi để gạt bỏ người Pháp ra khỏi Đông Dương, một khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và thực hiện một quốc gia Việt Nam độc lập, giao hảo với Trung Hoa.
Kế hoạch này được các đại diện chính trị và quân sự Mỹ tại Trùng Khánh và Côn Minh lên tiếng ủng hộ. Do đó một chính phủ lâm thời Việt Nam đã thành trên giấy tờ ở đất Trung Hoa, do Trương Bội Công làm chủ tịch, gồm có Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Hồ Chí Minh, Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Nghiêm Kế Tổ.
Hội nghị Liễu Châu vừa xong, các lãnh tụ quốc gia đã phân tán đi nhiều nơi. Sự đoàn kết miễn cưỡng và vội vã của các chính đảng cách mạng, kết quả là chính thức hoá ông Hồ Chí Minh dù chỉ chiếm có một ghế trong tổ chức chính phủ liên hiệp quốc gia, song Việt Minh đã có cơ sở hoạt động tại Việt Bắc, từ sau hội nghị Tân Trào hồi tháng 5 năm 1941 của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Cuối tháng mười 1944, ông Hồ Chí Minh đưa hai trăm cán bộ chia ra làm hai ba toán vượt biên giới Trung Hoa, theo lối Lạng Sơn và Cao Bằng đi về Thái Nguyên, đặt đại bản dinh tại đây. Các toán du kích Việt Minh bắt đầu đánh phá mạnh vùng giáp biên giới và ba khu quân sự ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang.
Quân đội Nhật bấy lâu không chú ý đến Việt Minh, ngỡ ngàng trước các trận thắng liên tiếp của quân du kích. Viên Thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ thoả thuận với Bộ tham mưu, quyết định mang quân đi quét sạch vùng nổi loạn ở thượng lưu. Một tiểu đoàn lính Khố Xanh đồn trú tại Lạng Sơn đã được chỉ định đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp, mở cuộc hành quân càn quét vào hôm 12 tháng ba.
Đoàn quân chưa kịp lên đường thì trong đêm mồng 9 tháng ba 1945 trên toàn cõi Đông Dương, quân đội Nhật nổ súng đảo chánh Pháp.
Anh em họ Ngô mừng rỡ thấy cơ hội đã đến để nhảy ra nắm giữ chính quyền do người Nhật trao cho.
                                           ***
Tối mùng 9 tháng 3 năm 1945, tại dinh Toàn quyền ở Sài Gòn, người hầu bàn vừa bưng món thứ ba đến, Đô đốc Decoux nhấc ly rượu chát đỏ uống một hớp, cầm dao lên định ăn, bỗng thấy viên sĩ quan hầu cận vội vã từ ngoài vào, đứng thẳng chào, rồi hối hả nói:
- Thưa Đô đốc, có một sĩ quan ở Bộ Tổng tư lệnh quân đội Nhật Bản vừa đưa bản thông điệp này, bảo phải trình ngay đến tận tay ngài vì có tính cách tối mật khẩn.
Decoux tự tay xé chiếc phong bì của viên sĩ quan vừa đặt lên bàn ăn đọc qua những dòng chữ Pháp đánh máy dưới hình mặt trời đỏ chói, sắc mặt hồng hào bỗng tái đi. Ông nhìn đồng hồ tay chỉ đúng 20 giờ 5 phút, im lặng bối rối, rồi đứng ngay lên, ra dấu cho viên sĩ quan hầu cận theo mình bước qua văn phòng.
Giọng nói của Decoux không giấu nổi xúc động:
- Gọi ngay điện thoại mời tướng Mordant đến đây gặp tôi lập tức!
Năm phút nặng nề trôi qua, đại tướng Mordant vận quân phục hối hả bước vào, vừa trông thấy mặt vị Toàn quyền đã cảm thấy tình thế nghiêm trọng đặc biệt. Đô đốc Decoux tay cầm bản tối hậu thư, nghẹn ngào nói:
- Tôi vừa nhận được tối hậu thư của Nhật buộc phải đặt ngay tất cả lực lượng quân đội Pháp dưới quyền chỉ huy tối cao của Nhật.
Decoux nói tiếp:
- Họ buộc thêm nữa là ta không trả lời dứt khoát liền thì họ sẽ coi như ta từ chối.
Trong khi viên Toàn quyền và Tổng tư lệnh Pháp bối rối nhìn nhau lo ngại, chưa biết đối phó ra sao trước tối hậu thư khẩn cấp cho đại sứ Nhật Matsumoto vừa trao, bên ngoài chiến xa và binh sĩ Nhật bố trí chu đáo, sẵn sàng đợi giờ tấn công.
Cũng vào giờ này, trên toàn cõi Đông Dương, tất cả đồn trại, vị trí xung yếu của thực dân Pháp đều bị Nhật bao vây.
                                        ***
Tiếng súng đảo chánh bắt đầu nổ tại Huế. Hoàng đế Bảo Đại vừa đi săn về, giữa lúc hai đồn Courcy và Mang Cá cùng trại lính Khố Xanh vang dội tiếng súng và những tiếng hét xung phong của quân Nhật. Hiến binh đón đường đưa Bảo Đại về nghỉ tạm ở Bộ Tư lệnh Nhật ngoài hoàng thành.
Hừng sáng, tiếng súng im dần, Bảo Đại về cung, một đại uý Nhật loan báo cho hay: "Việt Nam đã được độc lập". Đồng thời Hiến binh Nhật liên lạc với Phạm Quỳnh cùng các vị Thượng thư Nam triều để nói rõ ý định của Nhật Bản.
Nội trong một đêm, quân đội Nhật đã bất ngờ đánh chiếm trọn cả Đông Dương. Dân chúng ở Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Hải Phòng, Nam Vang, Vạn Tượng thức dậy sáng ngày mồng 10 tháng ba, thấy không khí thành phố đã biến đổi khác hẳn: tất cả cờ tam tài đều biến mất, nhường chỗ cho cờ mặt trời mọc lên.
Đài phát thanh Sài Gòn đọc bản thông cáo của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Thiên hoàng báo tin cuộc đảo chính đêm qua đã loại bỏ chủ quyền Pháp ở khắp Đông Dương, đem lại độc lập cho Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao trong khối Đại Đông Á.
Chiều lại, tại Huế, đại sứ Nhật Yokoyama cùng viên tư lệnh quân đội Nhật vào điện Kiến Trung, Thượng thư Bộ lại Phạm Quỳnh xuống tận thềm rước, đưa vào yết kiến Bảo Đại; ông đang ngồi ở ngai vàng, vận sắc phục hoàng đế, áo vàng, khăn vàng, dây cường đầu rồng.
Sau lễ nghi ra mắt, vị đại sứ Nhật long trọng nói:
- Tâu Hoàng thượng, trước tình thế mới hiện thời, chủ quyền Pháp ở xứ này không còn nữa, sau cuộc đảo chính của quân đội Thiên hoàng đêm rồi, quý quốc đã thành một nước độc lập, vậy chúng tôi xin Hoàng thượng vui lòng nhận lời hợp tác với Nhật Bản kể từ đây.
Bảo Đại thong thả đáp:
- Trước hết, trẫm có lời khen gợi sự thành công của quân đội quý quốc, và do cuộc đảo chánh đêm hôm qua, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang. Trong những điều kiện đó trẫm sẵn sàng hợp tác với nước Nhật để củng cổ nền độc lập của xứ sở.
Rồi ngay tối hôm ấy, Hội đồng cơ mật nhóm họp, sáu vị Thượng thư thảo một bản tuyên cáo của Hoàng đế Việt Nam công bố vào ngày hôm sau, huỷ bỏ hiệp ước bảo hộ đã ký với Pháp và thâu hồi chủ quyền độc lập, hợp tác cùng Nhật Bản theo đường lối trong bản tuyên ngôn chung Đại Đông Á.
Ở Hà Nội, Sài Gòn rồi Huế, các nhật báo Việt ngữ kế tiếp nhau kịch liệt đả kích thực dân Pháp. Hãng thông tấn Domei và Hiến binh Nhật đưa người vào các toà soạn để hướng dẫn tuyên truyền, cổ võ cho chính sách Đại Đông Á.
Những người không nhận định rõ biến chuyển tình hình quốc tế cũng như những người bấy lâu hy vọng ở chủ trương giải phóng các dân tộc da vàng của Nhật Bản, tưởng cuộc đảo chính của Nhật là cho Việt Nam, đã hăng say lao mình vào chính cuộc quốc gia.
Một tuần lễ sau đêm chính biến, các đảng Phục quốc, Việt Nam quốc gia độc lập kêu gọi dân chúng Sài Gòn xuống đường biểu tình để tỏ lòng tri ân của xứ sở đối với quân đội Nhật đã giải thoát chúng ta khỏi tay quân thù Pháp. Song người Nhật lo ngại dân chúng quá nồng nhiệt sinh ra rối loạn, nên vào giờ chót ra lệnh cấm biểu tình.
Ở Bắc và Trung Việt, đảng Đại Việt quốc xã hoạt động ráo riết. Báo chí và tuyên truyền, dưới sự kiểm soát của Nhật mở một chiến dịch sôi nổi chống quan trường thối nát, tay sai chính của chế độ cai trị Pháp.
Trước phong trào quốc gia ồ ạt, ngày 19 tháng ba, toàn thể các vị Thượng thư Nam triều đệ chung một lá đơn xin từ chức theo lời yêu cầu chính thức của Bảo Đại; ông đích thân đứng ra đảm nhiệm quyền bính.

Biến cuộc dồn dập xảy ra trong khi Ngô Đình Diệm đang ở miền Nam cùng anh hoạt động thành lập lực lượng Thiên Chúa giáo để làm hậu thuẫn chính trị và giao thiệp cùng một số sĩ quan cao cấp Nhật Bản để vận động ra nắm chính quyền.

Được tin toàn thể nội các Nam triều từ chức, Diệm vội từ giã Vĩnh Long lên Sài Gòn. Tại đây, cuộc vận động bên cạnh người Nhật để lập tân chánh phủ Việt Nam của Diệm được bổ trợ song song với các cuộc tiếp xúc của tổng đốc Ngô Đình Khôi ở Huế, với đại sứ Yokoyama, chiến dịch tuyên truyền trên mặt báo ở Hà Nội do Ngô Đình Nhu chủ trương ca ngợi thành tích Diệm. Đồng thời người anh Giám mục bắt liên lạc với giới Thiên Chúa giáo Nhật để gây ảnh hưởng cho Diệm lên giữ chức Thủ tướng tương lai.

Tướng Tsushihashi, tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương, đại sứ Matsumoto ở Sài Gòn, đại sứ Yokoyama tại Huế, thống soái Bá tước Terauchi, Tổng tư lệnh lực lượng Nhật Bản trên các lãnh thổ Nam Á, ở Tân Gia Ba đều tiếp nhận được một chương trình cải cách tỉ mỉ về mọi ngành hoạt động ở Việt Nam do Diệm đề nghị, nếu được Nhật uỷ thác cho cầm quyền.

Đang lúc anh em họ Ngô xúc tiến mọi hình thức vận động cho Diệm ra nắm chính quyền thì nhà học giả Trần Trọng Kim từ Tân Gia Ba theo một nhóm sĩ quan Nhật vượt rừng núi Mã Lai qua Thái Lan và Vọng Các về đến Sài Gòn.

Tướng Tsushihashi đã quen biết trước họ Trần, hay tin ông vừa về tới vội mời ngay nhà học giả và Bộ Tư lệnh để tham khảo ý kiến.

Lúc trở ra, Trần Trọng Kim thấy một người Việt đang ngồi chờ ở phòng khách, đứng lên chào, tự giới thiệu là Ngô Đình Diệm, gợi chuyện:

- Cụ từ Tân Gia Ba mới về?
- Vâng, tôi mới về chiều hôm qua.
Trần Quân nói tiếp:
- Người Nhật vừa cho tôi biết là ông Phạm Quỳnh đã xin từ chức với toàn thể nội các và hình như đức Hoàng đế sắp cho lập tân chính phủ.
Diệm hơi giật mình, hỏi dồn:
- Thế người Nhật có nói ai sẽ được cử không?
- Không.
- Họ có nói chuyện gì với cụ về việc… Huế không.
- Không. Họ chỉ nói họ sẽ đưa tôi qua Huế vì đức Hoàng đế muốn gặp tôi…
Nhận thấy Diệm mắt cứ lén nhìn về phía cửa vào phòng Bộ Tư lệnh Nhật, có vẻ nóng nảy muốn dò hỏi thái độ của mình, họ Trần chậm rãi nói:

- Đức Hoàng đế muốn gặp tôi… nhưng tôi thú thật rằng tôi đã già, lại yếu, hiện tôi bị chứng áp huyết nặng lắm, vào bệ kiến rồi, tôi sẽ ra Hà Nôi ngay.

Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ ấy, Trần Quân ra Bắc, ghé lại Huế, vào yết kiến Hoàng đế Bảo Đại, được giao phó cho việc lập tân nội các.
Nhà học giả họ Trần tự xét mình đã nhiều tuổi lại đau yếu, nên từ khước mà thưa rằng:

- Chúng tôi vừa già vừa bệnh tật, sợ không kham nổi trọng trách, dám mong Hoàng đế triệu một nhân sĩ khác.
- Ai?
- Bẩm như ông nguyên Lại bộ Thượng thư Ngô Đình Diệm chẳng hạn. Hiện ông ở Sài Gòn.
Bảo Đại hơi cau mày lại khi nhắc đến tên cựu thần họ Ngô, liền nói:
- Diệm có đôi mắt không được thẳng thắn. Tôi đã từng nói chuyện với Diệm nhiều lần. Diệm không nhìn thẳng bao giờ. Với lại Diệm có vẻ bất nhất, nhiều khi tôi thấy ông ta như cứng rắn, có lúc lại quá rụt rè, nhưng thôi ông đã đề cử, để tôi cho điện vào Sài Gòn triệu ông Diệm ra Huế. Tuy nhiên ông chưa được về Hà Nội vội, ông đau tôi sẽ cho bác sĩ săn sóc. Ông hãy tạm ở đây với tôi vài bữa vì có nhiều chuyện bàn với ông.

Ngay hôm ấy, văn phòng Hoàng đế đánh điện vào Sài Gòn nhờ Bộ Tư lệnh quân đội Nhật Bản liên lạc với Ngô Đình Diệm và giúp đỡ phương tiện cho ông này ra Huế; 24 giờ sau có điện của Bộ Tư lệnh Nhật trả lời:

"Ông Ngô Đình Diệm không có ở Sài Gòn. Đã điện đi tìm khắp cả các nơi đều được đáp: không thấy".

Sự thật, trong lúc ấy, Ngô Đình Diệm ở đâu?

Tướng Tsushihashi khi nhận được bức điện của Bảo Đại, lật xem hồ sơ Ngô Đình Diệm qua báo cáo của hiến binh, nhận thấy Diệm nhờ sự tín nhiệm của thực dân Pháp mới được bổ làm Tuần vũ Ninh Thuận hồi 30 tuổi, đã tỏ ra tận tâm với chính phủ Bảo hộ trong thời kỳ khủng bố, đàn áp các phong trào cách mạng 1930-1931, nên được thăng giừ chức tối cao của quan trường, Thượng thư Bộ lại.

Rồi Diệm phải từ chức vì xung đột với Thượng thư Bộ học Phạm Quỳnh, và không được Bảo Đại ưa.

Viên tư lệnh Nhật nghĩ là Diệm có nhiều mật thiết với chế độ Pháp, và sẵn không có cảm tình với Diệm qua mấy lần hội kiến vừa rồi, nên trả lời không biết Diệm ở đâu.

Tướng Tsushihashi về sau gặp lại học giả họ Trần, có tiết lộ cho hay:

- Lúc nhận được điện văn của Đức Bảo Đại, tôi biết Diệm ở Vĩnh Long với Đức cha Ngô Đình Thục, nhưng tôi không chuyển bức điện đi, vì nhận thấy Diệm không phải là người của tình thế. Diệm lại có cái nhìn không thẳng thắn, nếu không phải là gian dối. Thực sự, Diệm là người của công giáo thân Tây mà khối Đại Đông Á lại bao gồm toàn những quốc gia theo Phật giáo. Hơn nữa, có vài lần Diệm nói chuyện với chúng tôi lộ ý không phục Đức Bảo Đại, sợ có sự lủng củng rồi đi đến phản trắc chăng. Vả lại, chúng tôi được lệnh phải giữ gìn và giúp đỡ Hoàng đế Bảo Đại.

Giữa tình thế đó, Bảo Đại uỷ thác cho nhà học giả Trần Trọng Kim đứng ra triệu tập tân chính phủ.

Một buổi sáng cuối tháng tư dương lịch, trước một đám đông dân chúng tập hợp tại vườn hoa ở bến Thương Bạc, trước cửa Thượng tứ, một cuộc mít tinh diễn ra hoan nghênh quân đội Nhật Bản trao trả độc lập cho Việt Nam. Trước bàn hương án khói trầm nghi ngút, những lá cờ đuôi nheo và cờ mặt trời phất phới sát cạnh nhau, một vị bô lão vận áo rộng xanh, bịt khăn nhiễu tam giang, đại diện cho dân chúng kinh đô Huế, cất tiếng đọc bài văn tế do thi sĩ Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn làm vào dịp này, tri ân nước bạn Nhật Bản đã lật đổ chế độ bảo hộ Pháp, và giúp cho: "Việt Nam độc lập khắp… Trung kỳ".

Trong khi ở miền Bắc, biến cố lịch sử được dân chúng đón tiếp bằng câu ca dao: "Việt Nam độc lập chết co đầy đường".

Về phần Lệ, tuy không vui khi hay tin anh chồng không được cử ra cầm quyền, song nàng cũng hãnh điện thấy ông Trạng sư Trần Văn Chương được mời giữ chức Tổng trưởng Ngoại giao trong chính phủ mới.

Lệ theo cha mẹ vào Huế, để giúp bà Trạng trong các cuộc tiếp tân ngoại giao, đồng thời vận động cho chồng tiến thân.

Quân đội và các nhà ngoại giao Nhật không muốn có những biến đổi xáo trộn nên vẫn nắm giữ mọi quyền hành về chính trị, kinh tế và quân sự. Việt Nam chỉ độc lập ở trên danh từ.

Tại Nam Việt, Thống đốc Nhật Minoda thay thế viên Thống đốc Pháp, cũng như ở Bắc Việt, Tsukamoto đến ngồi ở dinh Toàn quyền, và tại Trung Việt, đại sứ Nhật Yokoyama bao gồm mọi công việc của viên Khâm sứ, cạnh Nam triều.

Nội các Trần Trọng Kim phải tranh đấu gắt gao để đòi hỏi quyền hành thực sự và thống nhất xứ sở trước thái độ chủ nhân mới của Nhật Bản, họ đang liên tiếp thất bại trước sự phản công dữ dội của Đồng Minh.

Hoạt động của phi cơ Mỹ cắt Việt Nam thành mấy khúc, lìa hẳn miền Bắc về đường bộ, đường sắt lẫn đường thuỷ.

Dịch đói từ mùa thu 1944 bành trướng sự giết hại ghê gớm khắp miền Bắc. Đã có trên một triệu con người chết đói. Giá thực phẩm càng ngày càng một tăng cao, trong khi quân Nhật vẫn tiếp tục đòi hỏi lương thực, và lúc này toà Khâm sai của Huế vừa nhậm chức, phải lo cung cấp thoả mãn những yêu sách lúa gạo cho binh sĩ Nhật.

Chết chóc và căm thù sôi sục thôn quê. Truyền đơn chống phát xít Nhật tung bay khắp nơi, kêu gọi dân chúng nổi lên "đánh phá những đoàn xe chở lương thực, chiếm đoạt những kho thóc gạo của Nhật. Không một hạt thóc, không một đồng xu thuế, không một người lính, không một người phu cho Nhật".

Việt Minh đã khơi đúng ngọn lửa căm hờn, đấu tranh để giành lại quyền sống của con người, non một thế kỷ bị thực dân Pháp chà đạp rồi bị phát xít Nhật dày xéo. Cán bộ Việt Minh len lỏi đi sâu vào các miền quê đói khổ phẫn uất của những con người không tìm thấy con đường cứu thoát nào khác hơn là nổi lên đánh đuổi những kẻ đang dồn ép họ chết dần chết mòn.

Trước cái đói bi thảm, chầm chậm và ác liệt đang xô đẩy hàng trăm vạn con người vào chỗ chết lặng lẽ mà chắc chắn, người dân quê miền Bắc đang khắc khoải, đau xót tuyệt vọng trong cảnh thiếu ăn, bóc lột đủ mọi bề không còn sự lựa chọn nào khác hơn là phải vùng lên, quật khởi, chống chọi lại để thoát chết.

Bản năng tự vệ, giành giựt lại sự sống còn của bản thân gia đình, của họ hàng, của làng xóm, đã thúc đẩy người dân quê hiền lành, nhẫn nhục qua bao nhiêu đời sau luỹ tre xanh, ào ạt theo nhau, lớp lớp lao mình, xả thân theo tiếng gọi quật cường của Việt Minh.

Phái bộ quân sự Pháp ở Côn Minh thuộc phe De Gaulle có hậu thuẫn của mấy ngàn quân theo tướng Alexandrie vượt qua biên giới Bắc Việt sau hôm Nhật đảo chính, và một đơn vị hải quân dưới quyền đại uý Commentri, ẩn ở vùng đảo Hạ Long, đang hoạt động quấy rối trong vùng vịnh Bắc Việt từ đầu năm 1945, đặt dưới sự chỉ huy phối hợp của đại tá Sainteny, một nhân vật nổi tiếng của kháng chiến Pháp, từ chính quốc sang. Sainteny đã hiểu biết Đông Dương trong ba năm trước chiến tranh, khi trở lại xứ này với nhiệm vụ cầm đầu lực lượng Pháp tự do, tập hợp lại tất cả những đơn vị Pháp rải rác ở vùng biên giới Bắc Việt, từ Miến Điện đến vịnh Hạ Long. Sau khi gởi người tiếp xúc với Việt Minh tháng 7-1945, Sainteny nhân danh đại diện của Chính phủ lâm thời Cộng hoà Pháp quốc hẹn ngày đích thân đáp xuống vùng giải phóng ở Việt Bắc để thương thuyết với Việt Minh, sau khi nhận được một bản thông báo của mặt trận này quy định về tương lai Đông Dương.

Trong khi ấy, quân du kích Việt Minh đã từ rừng núi thượng du kéo về hoạt động ở trung du, vào các làng mạc. Chính quyền địa phương đã gần như tan rã, và quân đội Nhật chỉ còn chiếm giữ thành phố và những trục giao thông.

Ngay tại các thành phố, không khí chính trị cũng đã bắt đầu đổi hướng, trước sự thất bại không tránh khỏi của Nhật Bản, và uy thế mạnh mẽ của Việt Minh. Một số Tổng trưởng của nội các Trần Trọng Kim đã bí mật tiếp xúc với mặt trận Việt Minh, vị Khâm sai Bắc Việt âm thầm che chở cho hoạt động của Việt Minh tại Hà Nội.

Những tin tức chiến thắng dồn dập của Đồng Minh đang xô đẩy Nhật Bản vào tình thế tuyệt vọng khiến cho Việt Minh, nhân danh là đồng minh của Trung Hoa, Anh, Mỹ và Nga Xô, càng được nhiều người ủng hộ, hưởng ứng phe thắng thế.

Viễn ảnh thắng lợi của Đồng Minh đã gần kề, số phận những kẻ hợp tác với đối phương sẽ bị chấm hết, thế thắng ồ ạt của Việt Minh chẳng mấy chốc sẽ chinh phục cả Bắc Việt, tràn vào miền Trung. Tình trạng đầu cơ và hỗn loạn về kinh tế và chính trị giữa cảnh dân chúng lầm than, chết đói đầy rẫy khắp châu thổ sông Hồng Hà càng thúc đẩy phong trào Việt Minh lên cao. Mặc dù hiến binh Nhật vẫn còn tiếp tục đàn áp, ngay đến trong các công sở, cơ quan chính quyền, ảnh hưởng của Việt Minh thâm nhập mạnh mẽ. Thanh niên, sinh viên trí thức cũng như mọi tầng lớp dân chúng từ địa chủ, phú hào, nông dân ở nông thôn đến tư sản, thương gia ở thành phố, tất cả những người có lòng yêu nước, đều mong mỏi, chờ đợi một sự đổi mới về thời thế.

Ngày mồng 6 tháng tám, hai quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki buộc Nhật Bản phải xin đầu hàng không điều kiện. Người Nhật giấu kín tin này ở Việt Nam, song không ngăn được những ai nghe tin qua đài ngoại quốc và chỉ hôm sau là các thành phố người ta đã bàn tán đến sự sụp đổ tất yếu của khối Đại Đông Á.

Tại Việt Bắc, một ngày sau khi bom nguyên tử nổ trên đất Nhật, Việt Minh triệu tập hội nghị cử ra Uỷ ban Giải phóng Dân tộc do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, quân du kích lấy tên là Quân đội Giải phóng Việt Nam, và rồi ba hôm sau, lệnh tổng khởi nghĩa ban hành.

Tại Huế, chính phủ Trần Trọng Kim ý thức số phận của một nội các hữu danh vô thực, lệ thuộc Nhật Bản, được tin đầu hàng của Đông Kinh, liền đệ đơn xin từ chức ngay trong ngày hôm sau, mồng 7 tháng tám, song Bảo Đại yêu cầu ở nán lại để tiếp tục những công việc hành chánh.

Người Nhật vẫn không cho phép loan tin đầu hàng, ngày 16-8, Trần Trọng Kim tuyên bố ý định bảo vệ nền độc lập đã thu hồi được hôm mồng 9 tháng ba và kêu gọi toàn thể đoàn kết đấu tranh cho độc lập và hai hôm sau, thành lập một Uỷ ban cứu quốc, tập hợp tất cả các chánh đảng, để hướng dẫn cuộc đấu tranh. Đồng thời Bảo Đại gởi thông điệp liên tiếp cho Tổng thống Truman, Anh hoàng, thống chế Tưởng Giới Thạch, đại tướng De Gaulle, yêu cầu các cường quốc Đồng Minh thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam.

Bấy giờ Ngô Đình Diệm đang ở trong Nam, được tin nội các Trần Trọng Kim vừa đệ đơn từ chức, vội vàng lên đường ra Huế.

Diệm đến Bộ Tư lệnh Nhật ở Sài Gòn, bày tỏ ý định muốn ra Kinh gặp Hoàng đế Bảo Đại, để xin lập nội các mới thay thế nội các vừa từ chức. Tướng Terauchi cho mượn một chiếc xe hơi cùng phái hai sĩ quan và bốn người lính Nhật đưa Diệm ra Huế.

Chiều tối 17 đến Nha Trang, Diệm cùng mấy sĩ quan Nhật ngủ lại ở Bộ tham mưu Nhật. Sáng hôm sau, Diệm tìm đến nhà kỹ sư Đặng Phúc Thông, giám đốc sở Hoả xa Trung Việt, ngỏ ý mời họ Đặng tham chính.

- Tôi ra Huế để lập nội các mới, thay nội các Trần Trọng Kim. Tôi muốn mời ông giữ Bộ Giao thông Công chánh, ông cho biết ý kiến thế nào?

Đặng Quân trả lời không do dự:

- Tôi không có ý kiến. Hiện nay Việt Minh đã cướp chính quyền tại nhiều tỉnh rồi…

Diệm ngắt lời, nói một cách hăm hở:

- Tôi không tin Việt Minh thành công. Ra tới Huế tôi sẽ lật ngược lại tình thế.

Kỹ sư họ Đặng lắng nghe tiếng ồn ào của đám đông đang lũ lượt trên đường trước nhà kéo nhau đi biểu tình hưởng ứng cuộc khởi nghĩa tại thị xã Nha Trang, rồi nhìn họ Ngô ái ngại bảo:

- Tôi chẳng ưa gì Việt Minh, tuy nhiên điều ông vừa nói có vẻ chủ quan tự tin quá.

- Vậy ông không nhận?

Đặng Quân mỉm cười đáp:

- Vâng, đa tạ ông đã nghĩ đến tôi, song lúc này tôi không thể nhận được.

Diệm lộ vẻ không bằng lòng, đứng lên bắt tay từ giã. Kỹ sư Đặng tiễn Diệm ra đến cửa, còn thương hại dặn dò:

- Ông nên thận trọng. Tại đây, dân chúng theo Việt Minh đã đánh mấy binh sĩ Nhật trọng thương và bắt giam nhiều người thân Nhật. Ở Quảng Ngãi, tôi nghe nói phong trào còn ác liệt hơn nữa. Tôi lo cho ông chưa ra tới Huế, đã bị Việt Minh chặn lại ở dọc đường.

Diệm im lặng bắt tay, không nói thêm một lời, bước thẳng ra xe đợi sẵn, cùng mấy quân nhân Nhật, thẳng đường quốc lộ ra Huế. Đang lúc Diệm ngồi trong chiếc xe nhà binh Nhật, lẻ loi chạy trên quốc lộ số 1 vắng vẻ trắng mờ bụi cát, thì tại đế đô, chiếc xe đen bóng của vị Bộ trưởng Ngoại giao cắm cờ quẻ ly phóng mạnh từ hoàng thành ra cửa Thượng tứ, qua cầu Trường Tiền ngược lên phía ga, rẽ vào một biệt dinh rộng lớn bên bờ sông Bến Ngự. Không đợi cho người tài xế vận sắc phục trắng mở cửa xe, ông Trạng sư Trần Văn Chương đã vội bước lên tầng cấp vào nhà. Bà Trạng đang ngồi tiếp chuyện ông Tổng trưởng Giáo dục họ Hoàng, nhìn thấy chồng về với bộ mặt lo âu, vội nhoẻn miệng cười lên tiếng hỏi:

- Thế nào, bữa tiệc của tôi đãi khách hôm nay lại ế nữa phải không?

- Đành phải dẹp thôi, mình ạ. Tình hình nghiêm trọng lắm.

Lệ ở chiếc đi văng gần đấy đứng lên góp chuyện:

- Ba lúc nào cũng thấy tình hình nghiêm trọng làm cho mẹ con mỗi lần mời khách ăn tiệc là y như thế nào cũng xảy ra một việc "nghiêm trọng". Lần trước, thết tiệc mấy cố vấn Nhật, thì ông Bộ trưởng Y tế đi kinh lý bị máy bay bắn chết, vua Bảo Đại cho mời ba vô trong nội bảo phải cáo lỗi vì chính phủ có tang. Lần này, ba bảo cáo lỗi vì tang tóc gì nữa đây?

Ông Trạng không chú ý mấy đến lời con gái trách móc thay cho mẹ, ngồi đối diện Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn, buồn bã nói:

- Lần này thì tang chung đấy. Tôi vừa gặp ông Ngự tiền văn phòng của Hoàng đế cho hay là ông Khâm sai Phan Kế Toại đã giao Bắc Bộ phủ cho một Uỷ ban Cách mạng lâm thời sáng nay. Đức Bảo Đại mới nhận được một điện văn kiến nghị của Tổng hội sinh viên ở Hà Nội đòi ngài thoái vị, trao quyền lại cho một chính phủ Cộng hoà lâm thời do Việt Minh lãnh đạo.

Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn ngắt lời:

- Ông cảm thấy nên chăng?

- Tôi nhận thấy trong thái độ của Nhật, khuynh hướng của phe quân nhân đã lấn át: họ chủ trương là Nhật Bản thua trận phải nhường chỗ cho kẻ nổi dậy cướp chính quyền, cho nên sau khi hãng Domei(2) loan tin đầu hàng hôm 16, Nhật mở cửa khám thả tất cả những chính trị phạm, rồi đóng vai "trung lập" đứng ngoài, vì thế nên Việt Minh mới thành công được một cách dễ dàng.

- Ông có nghe Đức Bảo Đại tính ra sao đối với đòi hỏi của Việt Minh buộc ngài phải thoái vị không?

Ông Trạng Trần lắc đầu:

- Hôm nghe rục rịch Việt Minh sắp nổi lên, cố vấn Yokoyama có đưa ý kiến hỏi ngài có cần quân Nhật giúp để bảo vệ chống lại không, ngài đã từ chối, và sau đó tỏ ý muốn giao cho Việt Minh lập chính phủ mới, thay thế nội các cụ Trần từ chức, bây giờ lại được bức điện văn kia, e rồi ngài cũng đến nghe theo lời ông Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền văn phòng mà nhượng bộ mất thôi. Ông thấy ngài chỉ muốn yên thân, sợ sinh sự lôi thôi.

Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn lặng yên nghĩ ngợi rồi ngước lên hỏi:

- Chúng mình kể như không còn dính líu gì đến chính quyền nữa rồi, ông bà định ở lại Huế hay về Hà Nội?

Vợ chồng đưa mắt nhìn hỏi nhau, bà Trạng lên tiếng nói:

- Tình thế đã như vậy, chúng tôi còn ở lại đây làm gì nữa? Có lẽ đi sớm càng hay, phải không ông? Còn ông thế nào?

- Tôi ở lại đây xem tình thế đã.

Nghe Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn trả lời, không đợi chồng tỏ ý dứt khoát, bà Trạng Trần quay ra bảo con gái:

- Cô về thăm từ giã bên nhà chồng để rồi thu xếp sẵn đợi ba cô định ngày trở ra Bắc.

Ông Trạng Trần tiễn bạn ra cửa, quay vào, thấy vợ đang sai người nhà bưng một cái quả sơn son ra xe rồi tiến lại bảo chồng:

- Tôi vào viếng từ biệt đức Từ Cung, và nhân thể mang biếu bà một cân sâm Cao Ly của bà cố vấn Yokoyama gởi cho tôi hôm nọ.

Lệ theo mẹ đi cùng xe dọc theo bờ sông Bến Ngự ghé lại nhà chồng ở Phú Cam, trong khi chiếc xe chở bà Trạng Trần Văn Chương chạy thẳng vào cung Nội.

Thái hậu Từ Cung tiếp bà Trạng Trần ở điện Thái Hoà, nhận lễ cáo biệt, rồi gọi thể nữ hầu cận lấy năm lạng cao nhung làm quà đặng. Lúc xe vừa vào đến trước thềm điện, bà Trạng Trần thoáng nhìn thấy bóng vua Bảo Đại từ trong nhà Thái hậu đi ra. Một lát sau, bà Trạng đang ngồi hầu chuyện với đức Từ Cung thì có thị vệ vào báo: Đức Hoàng thượng hiện ở Nghênh Phong các nghe tâu là bà cựu Bộ trưởng Ngoại giao sắp về Bắc mời lên hỏi chuyện.

Được vua triệu đến, bà Trạng Trần vội từ tạ đức Từ Cung, theo chân người thị vệ đi dọc theo hành cung quanh co đưa đến Nghênh Phong các, về phía hậu cung. Bà cựu Bộ trưởng không giấu được vẻ hân hoan, bảo người thị vệ đợi bà một lát, dừng lại bên chiếc chậu lớn trồng cây vạn tuế, mở ví soi gương, tô thêm son môi, sửa lại mái tóc.

Vị mệnh phụ phu nhân tươi đẹp đậm đà trong chiếc áo gấm Thượng Hải, run rẩy bước lên lầu trong khi người thị vệ dừng lại bên ngoài để một mình khách vào hầu Hoàng thượng.

Tiếng ngựa hí ở cuối vườn ngự uyển văng vẳng lại gác Nghênh Phong.

Giữa lúc đó, tại tư dinh họ Ngô ở Phú Cam, Lệ nghe ông anh chồng Tổng đốc ngồi trên trường kỷ giữa nhà, dặn dò, nhắn nàng về Hà Nội bảo với Nhu:

- Thím nói với chú là tôi còn đợi chú Thượng ở trong Nam ra, đại cuộc thành thế nào cũng đánh điện ngay cho chú vào. Nhiều hy vọng đảo ngược thế cờ lắm, thím nói dùm với chú như vậy. Có quân đội Nhật ở đây sẵn lòng ủng hộ mình tới cùng.

Tổng đốc Khôi nhìn về phía người sĩ quan Nhật đang chuyện trò tương đắc với con trai lớn của mình ở bộ xa-lông bên cạnh, rồi nói tiếp:

- Thím nói lại với chú là tập đoàn Công giáo làm hậu thuẫn cho mình ở Trung từ Nam Ngãi đến Quảng Bình vững lắm, cháu Huân cũng vừa mới đi La Vang về đó. Còn thím đã nhất định bữa mô đi chưa? Thưa lại, tôi có lời hỏi thăm ông bà Trạng nghe. Chú Thượng với tôi đứng ra lập chính phủ, thế nào cũng nhờ tới ông Trạng, nhờ ông giữ Bộ Ngoại giao đó.

Tiếng cười đắc ý giòn giã của vị tổng đốc họ Ngô bỗng bị phá ngang vì tiếng chó sủa ồn ào phía trước sân. Lệ nhìn ra, thấy có mấy người đàn ông lạ mặt, từ chiếc xe hơi màu xanh đậm ngừng ngang cửa âm thầm bước vào. Theo sau một toán thanh niên mặc đồ đen, võ trang dao găm, mã tấu, súng hai nòng, súng trường ồ ạt kéo qua sân rẽ hai chạy bao quanh khu nhà.

Ngô Đình Khôi vẫn ngồi tựa gối dựa trên trường kỷ, cố giữ vẻ bình tĩnh, nhìn mấy người lạ tiến vào nhà, nghiêm giọng hỏi:

- Các người là ai? Muốn gì?

Người đàn ông ngoài ba mươi tuổi đi giữa hai thanh niên cầm súng lục ở tay hộ vệ, lạnh lùng nói:

- Chúng tôi đại diện cho Mặt trận Việt Minh, được lệnh thượng cấp đến khám nhà này, vì tình nghi có chứa chấp vũ khí và phản động chống lại cách mạng. Yêu cầu ông để chúng tôi làm phận sự.

Rồi, không đợi trả lời, người cán bộ Việt Minh để cho hai thanh niên cầm súng ghìm giữ mấy người trong nhà, quay ra bảo đám võ trang bên ngoài:

- Các đồng chí! Thi hành công tác!

Trong nháy mắt, nhà trên, nhà dưới họ Ngô đều bị lục soát từ trong ra ngoài. Lệ ngồi yên tức tối nhìn mũi súng lục lăm lăm trên tay hai thanh niên thư sinh giữ chừng mọi người trong gia đình bị dồn tất cả vào giữa nhà.

Nàng nhận thấy vắng mặt cậu em áp út: Cẩn có lẽ đã chạy thoát được khi người ta mới đến vây nhà. Ông Khôi đã mất dần bình tĩnh, liên tiếp rít thuốc lào, nhả khói mù mịt làm cho viên sĩ quan Nhật bị ho sặc đến mấy lần. Huân ngồi lặng yên, mím môi tức giận nổi rõ cả đường gân trên trán. Bà Thượng Ngô xúc động, ngoáy ống trầu luôn tay, từng lúc lại hỏi bên tai Lệ:

- Việt Minh là ai mà dữ rứa? Họ không kiêng nể cả Thượng thơ, Tổng đốc nữa à?

Viên sĩ quan Nhật mấy lần sừng sộ đòi đi, bị mũi súng của hai thanh niên cản lại, bực tức đành ngồi xuống ghế.

Lệ lo sợ bị bắt gặp quả tang cất giấu súng ở trong nhà, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn anh chồng rồi nhìn đến võ khí trên tay mấy cán bộ, trong lòng hồi hộp khác thường.

Bỗng có tiếng chân chạy từ nhà dưới lên, một người mặc đồ đen, đội mũ bê rê gắn huy hiệu tròn sao vàng trên nền đỏ, tay cầm mã tấu đứng nghiêm trước mặt cán bộ chỉ huy:

- Báo cáo! Thưa đồng chí, em có tìm thấy một thùng gỗ đựng súng trường chôn giấu dưới đụn rơm ngoài vườn.

Người cán bộ vội vã đi theo kẻ khám phá chỗ chôn súng, trong khi ông Khôi tái mặt nhìn con trai, rồi hướng qua phía mẹ già, đoạn nhìn thẳng như cố dằn nỗi khích động.

Chỉ một lúc, người cán bộ trở lại, đến trước mặt ông Khôi, giọng cương quyết:

- Chúng tôi có tìm thấy võ khí ở nhà này nên bắt buộc phải mời ông cùng cậu con cả ông về Uỷ ban. Chúng tôi thi hành theo lệnh của thượng cấp, ông và cậu hãy đi theo chúng tôi. Còn những người trong nhà này, tôi yêu cầu tạm thời không được liên lạc với bên ngoài, cho đến khi có lệnh mới. Tôi để lại đây hai người để canh gác ngày đêm không cho ai vô ra đây.

- Thế rồi Ngô Đình Khôi và con trai Ngô Đình Huân bị áp giải ra chiếc xe xanh; với hai người võ trang ngồi kèm bên cạnh. Viên sĩ quan Nhật bị mời ra khỏi dinh họ Ngô rồi bỏ mặc cho đi.

Lệ uất ức nhìn theo, trong khi bà Thượng Ngô mếu máo thương xót người con cả, cơ hồ muốn ngất đi.

Cùng lúc ấy, tại biệt thự Hoa Quỳnh bên bờ sông An Cựu, cựu Thượng thư Phạm Quỳnh cũng bị cán bộ và tự vệ Việt Minh đến mời đi.

Tin hai vị quan lại, Tổng đốc họ Ngô và Thượng thư họ Phạm bị Việt Minh bắt mang đi đâu không rõ chẳng mấy chốc đã truyền miệng dân chúng khắp thành phố bé nhỏ đất Thần kinh. Bà Trạng Trần ở nội cung về đến nhà đã xế chiều, hay tin dữ về gia đình họ Ngô và con gái mình bị kẹt lại ở nhà chồng, hốt hoảng giục chồng tìm cách can thiệp.

Ông Trạng đi một hồi lâu, trở về lắc đầu chán nản:

- Tôi đã gặp mấy người Nhật cao cấp, nhờ họ giúp, song tất cả đều lịch sự từ chối, bảo là họ không còn có thể can thiệp được vào việc nội bộ của người mình với nhau. Đến mấy tướng tá có cảm tình ủng hộ họ Ngô cũng vậy, hình như họ đã được lệnh đứng ngoài mọi việc không dính líu gì đến họ nữa.

Bà Trạng sốt ruột vì con, hỏi gạn chồng:

- Thế mình không thể liên lạc với Uỷ ban Mặt trận Việt Minh để xin cho con Lệ nó về với mình sao?

Ông Trạng nhìn vợ, buồn bã nói:

- Người ta đang xem mình là kẻ thù, cho mình là quan lại, phản động, Việt gian nữa, nói chuyện làm sao được lúc này? Tôi nghe nói họ còn tung tin doạ Đức Bảo Đại mà không chịu thoái vị thì cũng sẽ bị chung số phận như hai ông Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi, trước phong trào của dân chúng đang sôi nổi.

Rồi ông Trạng hạ giọng bảo vợ:

- Tin tức nhận được ở đằng trong cho hay rằng tại Quảng Ngãi, Việt Minh đã cướp chính quyền trước Hà Nội và giết chết cả Nhật, những người hợp tác với Nhật, những người làm việc cho Pháp trước đây quan lại, công chức đến cả những người có sách báo Pháp ở trong nhà cũng bị họ gán cho là Việt gian bắt đem đi chém hết. Mả cụ Cần Chánh Đại, Học sĩ Nguyễn Thân ngày trước bị họ đào quật lên đổ xuống sông Trà Khúc, còn con cháu sót lại người nào ở trong tỉnh cũng bị bắt giết cả. Dân họ đang say máu, tôi e rồi ở Quảng Ngãi, Việt Minh còn giết người gấp vạn cuộc Cách mạng Pháp nữa.

Bà Trạng mở lớn đôi mắt, xúc động hỏi chồng:

- Thế Việt Minh họ muốn làm Cách mạng hay là muốn đổ máu, muốn giết người?

- Có lẽ họ nghĩ rằng làm cách mạng thì phải đổ máu nên ở Quảng Ngãi mới lắm người bị giết như thế. Tôi chỉ sợ ở đây, dân Huế tuy hiền, song gần Quảng Ngãi, dễ bị lây phong trào trong đó. Mà dân chúng một khi say máu rồi, dễ gán cho ai cũng là Việt gian, thì nguy hiểm không biết đâu mà lường được.

Bà Trạng càng lo ngại thêm khi nghe chồng nói:

- Có tin là ông Ngô Đình Diệm đi cùng mấy người Nhật từ trong Nam ra, đến Tuy Hoà đã bị Việt Minh bắt giữ lại. Nếu họ dẫn ông ta về giao cho Quảng Ngãi xử thì chết?

- Sao Việt Minh họ ghét anh em họ Ngô thế nhỉ?

Ông Trạng nghĩ ngợi rồi đáp:

- Anh em họ Ngô là quan lại cao cấp, đang còn hy vọng nhờ thế lực Nhật để ra cầm chính quyền, hẳn Việt Minh họ biết rõ, nên mới tìm cách trừ đi. Tôi cũng lo cho tính mạng của bố con Khôi và Diệm lắm, con gái mình lại chẳng may bị lôi thôi vào đó nữa. Mình cũng thật khó hiểu được là họ muốn gì để đối xử cho thích nghi.

- Nếu mình thấy không còn vướng bận gì công việc nữa thì tôi tưởng nên đi Hà Nội sớm, vì ở ngoài ấy, dù sao cũng gần với những người cầm đầu Việt Minh, mình lại có bạn hữu nhiều, đỡ lo hơn tại đây. Còn con Lệ, tôi nghĩ nó cũng chẳng làm gì mà Việt Minh bắt tội được với lại là đàn bà con gái nữa, rồi người ta cũng phải thả cho nó đi. Để tôi bảo người nhà đến Phú Cam, liên lạc hỏi tin con xem sao.

Bà Trạng Trần vừa cất tiếng gọi chị ở lên dặn thì thấy ông Bộ trưởng Thanh niên họ Phan đến.

- Tôi nghe ông Hoàng nói ông bà sắp về Hà Nội, tôi cũng định ngày mai đi, không biết có được hân hạnh đi nhờ xe của ông bà không?

Bà Trạng nghe nói Phan Anh là vị Bộ trưởng độc nhất trong nội các Trần Trọng Kim được cảm tình và có liên lạc với Việt Minh, nên đon đả đáp:

- Chúng tôi cũng định đến mai thì về Bắc nếu ông cùng đi một chuyến với chúng tôi thì hân hạnh lắm.

Ông Trạng hỏi bạn:

- Ông có được tin gì mới ở Hà Nội không?

- Tôi nghe tin là ở Hà Nội, Việt Minh lên cầm quyền được Đồng Minh ủng hộ và đảm bảo cho nền độc lập của Việt Nam. Mỹ với tổ chức chiến lược O.S.S đã công khai bày tỏ cảm tình với Việt Minh: sĩ quan, ký giả Mỹ có mặt tham dự các buổi biểu tình tại Hà Nội. Tướng Patti, lãnh đạo cơ quan O.S.S có tuyên bố là Mỹ sẵn sàng làm hậu thuẫn cho Việt Nam và còn khuyến khích Mặt trận này đoạn tuyệt với Pháp. Như vậy thì cái thế của Việt Minh đối với quốc tế cũng khá mạnh đấy chứ.

Đầu tóc cắt ngắn của họ Phan gật gù như nhấn mạnh thái độ thiện cảm đối với chính quyền mới. Phan Quân nói tiếp:

- Tôi nghĩ rằng trước cao trào của dân chúng, Đức Bảo Đại cũng không nên đi ngược lại trào lưu lịch sử mà cố giữ ngai vàng. Tôi đã tỏ ý kiến này với ông Phạm Khắc Hòe để tâu lại với Ngài. Ông Hòe vừa cho tôi hay là Đức Bảo Đại hỏi ý Đức Từ Cung trước, bà trả lời bảo để tùy Ngài định liệu lấy, hỏi đến Ngự tiền văn phòng là ông Hòe, thì ông này cũng nói như tôi.

Trong giới thân cận với Ngài, có người chủ trương nhất quyết không nhượng bộ yêu cầu Việt Minh, ngài hỏi lại là không bao giờ ngài muốn nhờ đến thế lực ngoại bang, vậy thì lấy gì mà chống? Chưa ai tìm ra câu trả lời; tôi thấy không có câu trả lời nào khác có thể giữ vững được ngai vàng trong lúc này.

Ông Trạng Trần ngắt lời:

- Tôi thấy có một câu trả lời, giải pháp phối hợp quân chủ và chánh quyền Việt Minh, để sớm được quốc tế thừa nhận nền độc lập của Việt Nam. Quân chủ như chế độ ở Anh cũng là lý tưởng lắm chứ!

Bà Trạng đang mải nghe hai ông bộ trường từ chức đóng vai khách quan bàn về chính cuộc đang biến chuyển, bỗng thấy người ở gái hớt hải chạy vào, vừa thở vừa nói:

- Bẩm bà lớn, con đến nhà cụ Thượng Ngô, vừa vô tới sân thì có một người cầm súng gác chặn lại, không cho con vô gặp cô con, họ còn định bắt giữ luôn con lại nữa? Con phải van xin mãi họ mới cho con ra về, sau khi tra hỏi con đủ thứ: làm tay sai cho ai, định liên lạc với ai, tính nói chuyện gì cùng ai... Con nói là con là người nhà ông bà lớn đi thăm cô nhà con, họ nói con là đồng lõa với bè lũ quan lại phong kiến phản động Việt gian tay sai đế quốc phản động thực dân... Họ còn dọa là sẽ bắt luôn cả ông bà lớn đây nữa... mà con còn làm ở nhà này thì thế nào cũng bị bắt, họ nói là "quảng cáo"(3) cho con biết để mà giác ngộ, thôi đi ở nhà quan... Bẩm bà lớn con... con cũng không biết mô tê chi hết, nhưng họ dọa con như vậy, họ lại có dao, có súng... bà thương con, bà cho con nghỉ việc luôn bữa nay.

                                 ***

Lệ trằn trọc nằm bên cạnh bà Thượng, sốt ruột nghe tiếng thì thầm đọc kinh cầu nguyện của mẹ chồng trong đêm khuya vắng, từng lúc lại cao giọng lên kêu than não ruột.

Bên ngoài, mấy người ở lại canh gác nhỏ to nói chuyện, thỉnh thoảng lại lách tách tiếng võ khí, hoặc mã tấu dựng vào vách rơi xoảng xuống nền gạch.

- Bọn phản động Việt gian này sao không cắt cổ đi hết cho xong, để chúng lại làm gì phải canh gác lôi thôi.

- Ừ, đem phay đi cả, như ở Quảng Ngãi là yên chuyện!

- Đồng chí nói chí lý, làm cách mạng thì phải đổ máu, thương tiếc chi bọn tay sai thực dân.

Những lời lẽ đầy đe doạ của đám tự vệ không khỏi làm Lệ phập phồng lo ngại. Tuy không có thiện cảm với anh cả của Nhu, nàng cũng đâm ra lo cho số phận người bị bắt lúc chiều. May mà chồng nàng ở lại Hà Nội, nhưng không biết ở ngoài ấy Nhu có khỏi bị lôi thôi không? Còn cậu em chồng, Cẩn chẳng biết lúc này ẩn trốn ở đâu, liệu rồi có thoát khỏi tay Việt Minh, ở Huế, có lệnh bắt anh em họ Ngô? Với lại người anh cựu Thượng thư ở trong Nam, lúc này ra sao?

Tiếng chim mồ côi kêu khắc khoải sau vườn vẳng đến tai Lệ mà nàng nghe như những tiếng gọi: père, mère, frère, soeus, enfant (cha, mẹ, anh, chị, con) càng khiến Lệ thêm bồn chồn trong dạ. Lệ nằm thấp thỏm mãi không ngủ được, đồng hồ vừa buông 12 tiếng, bỗng giật mình nghe tiếng quát trước sân:

- Ai? Đứng lại!

Tiếng chân rầm rập, tiếng võ khí va chạm, tiếng rì rầm của toán dân canh đổi phiên gác giữa đêm vắng tạo nên một âm thanh rờn rợn, xa lạ đối với Lệ. Bà cụ Thượng lại run người lên, buột miệng kêu "Giêsu! Maria" rồi không ngớt cầu kinh.

Lệ mệt mỏi chợp đi trong tiếng gà gáy sáng canh hai.

Những vụ bắt bớ, mời hỏi và dẫn đi liên tiếp xảy ra cả đêm lẫn ngày. Không khí khủng bố đe doạ trùm lên các giới quan lại thân Pháp, thân Nhật và cả các đảng viên quốc gia. Số phận những nạn nhân sau ngày khởi nghĩa ở Huế đang ở trong tình trạng lo sợ chờ đợi bấp bênh như vận mệnh của vị hoàng đế cuối cùng nhà Nguyễn, trước áp lực của Việt Minh, bỗng trưa ngày 23 tháng tám, một tin làm chấn động cả dư luận đế đô: Phạm Quỳnh, nguyên Thượng thư Bộ lại kiêm Ngự tiền văn phòng Hoàng đế và Ngô Đình Khôi, đương kim Tổng đốc Quảng Nam, cùng con trai là Ngô Đình Huân, quản thủ thư viện Bảo Đại vừa bị xử tử sáng sớm nay tại Hiền Sĩ, một làng ở về phía Bắc kinh thành Huế hơn mười cây số.

Uỷ ban Nhân dân đã họp phiên toà Cách mạng tại địa điểm này, kể tội và tuyên án tử hình ba tên Việt gian tay sai phát xít Nhật và thực dân Pháp rồi đem hành quyết ngay tại trận trước sự chứng kiến của dân chúng, trong tiếng hoan hô "xử tử Việt gian".

Không đầy một tuần lễ, sau ngày khởi nghĩa, vụ xử bắn cấp tốc hai vị quan lại cao cấp cùng một thanh niên thân Nhật, được cán bộ tuyên truyền giải thích như là bước đầu loại trừ những phần tử chống Cách mạng, và Huế có thể theo gương đẫm máu của Quảng Ngãi.

Một đơn vị du kích Ba Tơ, chiếm kỷ lục chém giết Việt gian, được đưa từ Quảng Ngãi ra đến Huế vào ngày hôm ấy, vận toàn đồ đen, võ trang súng trường và mã tấu, đi biểu diễn từ bờ sông Hương vào trong hoàng thành, tăng cường thêm áp lực của Việt Minh, trước thái độ chần chừ của vua chưa chịu thoái vị.

Hành động táo bạo và tuyên truyền mạnh mẽ của Việt Minh có hiệu quả mau lẹ, áp đảo tinh thần giới thân cận hoàng đế và ngay trong ngày hôm sau, 24 giờ sau khi xác hai vị đại thần bị xô vùi xuống hố đất hoang, ngoại kinh thành, Bảo Đại ký tên vào quyết định gởi bằng điện văn ra Hà Nội, đề nghị Việt Minh phái ngay đại diện vào Huế để chứng kiến và dự lễ thoái vị của hoàng đế nhà Nguyễn, trao ấn kiếm lại cho chính quyền mới.

Thế rồi, vào lúc bốn giờ chiều ngày 25 tháng tám 1945, một nghi lễ đơn giản cử hành tại Kiến Trung, chấm dứt một triều đại, đồng thời cáo chung chế độ quân chủ ngàn năm trị vì ở Việt Nam.

Vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn đầu đội khăn vàng, vận quốc phục, áo dài vàng, quần lụa trắng, đi hài vàng, từ nội điện đi ra, nhìn thẳng về phía trước. Theo sau, một thị vệ mang hộp ấn ngọc tỉ và cây kiếm vàng trong bao son đi bên trái, còn bên phải là vị Ngự tiền văn phòng, tay cầm bản diễn từ.

Trên sân điện đã bày sẵn một chiếc bàn với lư trầm ngào ngạt khói hương, trông ra cột cờ Phú Văn Lâu. Hai đại diện chính quyền Hà Nội, Bộ trưởng tuyên truyền Trần Huy Liệu và Bộ trưởng Canh nông Cù Huy Cận, cùng kỳ uỷ Việt Minh Trung Bộ, thi sĩ Tố Hữu, đứng đợi dự lễ. Một quan khách độc nhất có mặt ở sân điện chứng kiến gần buổi lễ, nhà văn họ Hoàng.

Bảo Đại lộ vẻ xúc động, nhìn xuống đám dân chúng tập hợp phía dưới điện, tay hơi run, cầm lấy bài diễn từ của Ngự tiền Phạm Khắc Hòe trao, thong thả đọc. Hai mắt chớp chớp, giọng Bảo Đại trở nên nghẹn ngào khi đến đoạn tuyên bố cuối cùng:

"Hơn hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc, Trẫm đã xiết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay trẫm vui lòng làm một công dân tự do trong một quốc gia độc lập".

Những lời lẽ tình cảm tế nhị bất ngờ, thốt ra từ cửa miệng một ông vua bấy lâu chỉ nổi tiếng ăn chơi và bị xem là hoàng đế bù nhìn, do thực dân giựt dây, trong không khí bừng sôi hưởng ứng cách mạng, được dân chúng im phăng phắc lắng nghe. Trong đám đông bên dưới, có những người đưa tay lên gạt nước mắt cảm động.

Ở phía cuối điện, giữa đám hoàng thân quốc thích khăn đen áo dài, có tiếng khóc thiết tha nổi lên.

Trước máy phóng thanh, tiếng hô của ông vua trẻ tuổi từ bỏ ngai vàng được dân chúng hưởng ứng vang dậy cả khu hoàng thành rêu phủ:

"Việt Nam độc lập muôn năm!"

" Cộng hoà Dân chủ muôn năm!".

Rồi trong lúc lá cờ đỏ sao vàng từ từ kéo lên cột cờ Phú Văn Lâu, giữa tiếng reo hò dân chúng, mấy phát thần công châm ngòi nổ lớn, loan báo cho cả kinh thành đều hay: Hoàng đế Bảo Đại trao ngọc ấn và gươm vàng cho chính quyền dân chủ, sau khi ký tên vào bản tuyên cáo thoái vị.

Bảo Đại ngước nhìn màu cờ mới tung bay trước gió, đưa mắt ngắm lại một lần cuối cùng cảnh hoàng thành, giang sơn ngự trị mấy trăm năm của nhà Nguyễn, từ màu gạch nâu rêu phủ ngã sang màu sẫm trong hoàng hôn đang xuống rồi lặng lẽ lui về từ biệt cung điện, sau lưng còn văng vẳng những tiếng: "Hoan hô công dân Vĩnh Thuỵ!"

Ngay trong hôm Bảo Đại từ bỏ ngai vàng, chính thức trao lại cho Việt Minh, ở Sài Gòn, một cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại của mọi tầng lớp dân chúng từ 9 giờ sáng đến chiều tối hợp thức hoá cuộc cách mạng, đưa Uỷ ban hành chánh lâm thời Nam bộ vào dinh Thống đốc Nam Kỳ.

Mười ngày sau khi Nhật Bản đầu hàng, hôm 25 tháng tám 1945, cờ Việt Minh phất phới từ Bắc đến Nam, trên khắp lãnh thổ Việt Nam.

Một tuần lễ sau, ngày 2 tháng 9, một chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh lãnh đạo ra mắt tại thủ đô Hà Nội, long trọng tuyên cáo chủ quyền độc lập của Việt Nam và chế độ Cộng hoà Dân chủ.

Cựu hoàng Bảo Đại đã trở thành công dân Vĩnh Thuỵ, được mời làm cố vấn tối cao của chính phủ.

Lời mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập lặp lại một câu trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và nhắc đến bản Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1791 của Pháp.

Đang lúc phong trào dân chúng sôi sục nổi lên khắp nơi đòi hỏi Cách mạng, cựu Thượng thư Ngô Đình Diệm vẫn ôm ấp hoài bão phong kiến, tin tưởng ở lực lượng của bại quân Nhật Bản ủng hộ cho chế độ quân chủ để xoay ngược lại tình thế. Trên đường ra Huế, tay ôm chiếc cặp da chứa đựng chương trình xây dựng một chính thể quân chủ lập hiến phỏng theo Anh quốc, Ngô Đình Diệm ngồi bên cạnh thiếu tá Nhật Sato, lầm rầm cầu xin ơn trên phù hộ.

Viên thông ngôn người Bắc Nguyễn Hòe, qua vài lần chuyện trò với mấy quân nhân Nhật ở trên xe, nói lại cho Diệm biết là họ đều lo ngại, sợ có sự bất trắc dọc đường.

Tại Bộ tham mưu Nhật ở Nha Trang, trong đêm ngủ lại hôm qua, họ có nghe đến không khí ác liệt ở Quảng Ngãi, có mấy quân nhân Nhật bị dân chúng chận bắt giết dọc đường. Người lính lái xe đầu tiên tỏ ý muốn quay trở lại Sài Gòn:.

- Nhật thôi đánh nhau rồi, chúng tôi đã thoát chết và sắp được hồi hương mà bây giờ nhỡ ra gặp phải chuyện lôi thôi bỏ mạng thì rõ thật là ngốc!

- Phận sự của Bộ Tư lệnh giao phó cho chúng ta là phải đưa ông này về đến Huế. Tôi chỉ huy thi hành nhiệm vụ này, không một ai được bàn ra tán vào. Lệnh của tôi là tiến lên! Phải ra đến Huế!

Viên sĩ quan trẻ tuổi vẫn ngấm ngầm chống lại việc đầu hàng và bộc lộ sự cảm phục đối với các vị tướng mổ bụng để khỏi nhìn thấy sự nhục nhã trước kẻ chiến thắng, tỏ ý muốn ở lại Việt Nam, và tình nguyện giúp Diệm, đã giận dữ lớn tiếng, khiến người binh nhì tài xế im lìm, nhấn mạnh ga cho xe vượt qua đèo Cù Mông.

Chiếc xe lao xuống khỏi chân đèo một khoảng thì bị mấy tảng đá án ngữ giữa đường ngăn lại. Bốn thanh niên mặc quần áo đen, cầm lao mã tấu và lựu đạn đeo ở lưng, từ một lùm cây bên quốc lộ hiện ra, vây quanh đầu xe hỏi giấy.

Thấy có mấy quân nhân Nhật mang súng và gươm, gã trẻ tuổi vội chạy đến gốc cây lớn bên đường, lấy chiếc mõ tre dựng sẵn dó đánh lên một hồi từng ba tiếng một.

Những người ở trên chiếc xe nhà binh đều bị mời cả xuống: bốn người Nhật, viên thông ngôn Việt và Ngô Đình Diệm.

Nhiều tiếng mõ nổi lên đáp lại báo hiệu của toán tự vệ gác ở dốc đèo, liên tiếp lan rộng cả một vùng. Chỉ trong chốc lát, từ các đường xóm, lố nhố những dân làng võ trang dao, gậy, với một người đi đầu vác súng trường, súng sính trong bộ quần áo lính tây cũ.

Ngô Đình Diệm tự giới thiệu mình được điện của Hoàng đế Bảo Đại đánh vô Sài Gòn, triệu về Huế có việc khẩn cấp, yêu cầu để cho được đi ngay kẻo chậm trễ công vụ. Mấy quân nhân Nhật theo ông là nhân viên của Bộ Tư lệnh Nhật có phận sự hô tống ông ra đến kinh đô.

Người tự vệ xem qua giấy tờ của Diệm đưa, lật ngược quay xuôi, rồi nhìn lại mấy quân nhân Nhật, lắc đầu nói:

- Mời ông với mấy người Nhật kia đến trụ sở; có Uỷ ban quyết định chớ chúng tôi không để cho các ông đi liền được.

Viên sĩ quan Nhật nghe thông ngôn nói lại, thấy đám đông võ trang đang vây quanh, không giấu được vẻ lo ngại, đưa mắt nhìn Diệm. Diệm đâm bối rối, song cố giữ giọng cương nghị:

- Công việc của tôi là việc quan khẩn cấp, không thể trì hoãn được.

Nghe nhắc đến tiếng "quan", nhiều lời phản đối nổi lên chung quanh:

- Quan lại phong kiến à? Bắt đi luôn chớ còn lôi thôi gì nữa!

- Quan trường phản động đi đôi với phát xít đế quốc, tóm cố cả lũ!

- Việt gian đích thị rồi!

Giữa cảnh nhốn nháo, bất ngờ một tiếng quát vang lên:

- Giơ tay lên! Tước khí giới đi các đồng chí!

Trong nháy mắt, mũi súng trường của người cầm đầu tự vệ chĩa về phía sĩ quan Sato cùng ba quân nhân Nhật, đồng thời mấy ngọn lao dí thẳng vào sát lưng họ, hai chiếc mã tấu sáng lòe trước ngực Diệm và viên thông ngôn. Chưa kịp phản ứng, mấy người Nhật đã bị tước mất súng, gươm. Thất thế trước đám đông khí thế dữ dội, họ đành chịu khuất phục.

- Các đồng chí! Trói chúng nó lại!

Sau tiếng hô, sáu người đều bị trói cặp hai tay lại phía lưng và bị giải vào trong làng.

Trẻ con, dân các xóm kéo đi xem mặt "Việt gian và phát xít Nhật vừa bắt được".

Tại đình làng đã biến thành trụ sở của Uỷ ban Cách mạng Việt Minh, tiếng trống nổi lên triệu tập nhóm họp. Ngô Đình Diệm cùng năm người đi với ông bị đẩy ngồi xuống ở thềm đình trước những con mắt tò mò của dân xã tề tựu đông đảo như mỗi lần có hát tuồng.

Từ đám đông vây quanh trước đình, một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi, áo cộc, quần xắn quá gối, vác cây cuốc chim, chân không lấm đất, bước thẳng tới trỏ tay vào mặt Diệm, lớn tiếng nói:

- Đồng bào ở đây có biết mặt thằng cha này không? Hắn ta là quan lại phong kiến chánh cống đó. Tôi biết rõ hắn hồi tôi đi làm mướn ở trong Bình Thuận, bị thực dân bắt cầm tù vì không đóng thuế thân. Hắn tên là Ngô Đình Diệm, khi đó đang làm Tri phủ Hoà Đa, nổi tiếng là tay sai hết sức đắc lực của thực dân Pháp. Mấy nhà cách mạng bị hắn bắt là hắn tra tấn khủng khiếp lắm. Hắn muốn tâng công với thằng công sứ Pháp để được thăng quan tiến chức mà!

Người đàn ông quay lại nhìn dân chúng, cốt để cho người ta chú ý đến, rồi nói tiếp:

- Đồng bào có biết lối tra tấn của hắn ra sao không? Hắn trói thiệt chặt người làm quốc sự hoặc bị tình nghi làm cách mạng, rồi buộc vô một cái ghế có khoét một lỗ bằng bàn tay ở chỗ ngồi, ghế thì cột bốn chân vào bốn cái cột. Người bị bắt phải ngồi lên trên cái ghế có thủng lỗ đó, phía dưới đặt một cây đèn sáp lớn đốt cháy to ngọn.

Lúc mới đầu thì chưa thấy nóng mấy, nhưng một lát là đáy quần bị ngọn đèn bốc lửa lên, khét lẹt mùi vải, cháy thành than, rồi cháy đến da thịt bàn toạ, cháy cả đít. Người bị tra khảo kiểu đốt bằng đèn này ban đầu còn giãy giụa kêu la, rồi vãi cả cứt đãi, ngất lịm đi. Hắn ta biểu lính tát nước vô mặt cho tỉnh, rồi lại cho đốt đèn lên để tiếp tục nung đít người hắn muốn lấy cung. Ai gan mấy cũng không chịu nổi, rồi thì có cũng phải khai, mà không cũng phải khai theo ý muốn của hắn.

Diệm tái mặt, toát mồi hôi trước những lời tố cáo nhắc nhở đến quá khứ ác liệt của mình, đâm run sợ khi nhận thấy những cái nhìn dữ dội của chung quanh.

Bỗng một ông già râu tóc bạc phơ rẽ hàng rào người tiến tới, lặng ngắm Diệm đang cúi gầm mặt, đoạn thong thả nói:

- Tên Ngô Đình Diệm này là anh em với Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng Nam, người đã hại thằng cháu nội tôi năm 1942, thời kỳ đàn áp cách mạng ở Nam Ngãi đó. Chúng cháu tôi bị lão Khôi bắt quỳ lên mảnh chai để hỏi cung, hắn bị toét cả hai đầu gối song cũng không chịu khai, lão ta mới sai lính buộc hai tay nó vào nửa thân cây nứa chẻ đôi, rồi bắt đứng lên một cái ghế để ở giữa, bảo, nếu không khai thì cho đạp cái ghế đổ xuống, hai bàn tay sẽ bị nứa cắt tét ra.

Ông thầy đồ ngừng lại, rồi hạ thấp giọng:

- Thằng cháu nội tôi, cũng như mấy người làm cách mạng bị lọt vào tay lão Khôi mà cứng đầu cứng cổ không chịu khai, cả hai bàn tay bị nứa cắt đứt tét cả gân, có người bị đạp ghế tuột xuống mạnh quá đứt lìa cả ngón tay cái.

Nghẹn ngào trong đau xót gợi lại việc đã qua, ông thầy đồ Cù Mông vẫy tay gọi đứa cháu đứng ngoài vào, chứng minh cho những lời vừa thốt ra:

- Cháu đưa hai bàn tay ra cho bà con nhìn thấy, kẻo lại nói là lão đồ gàn này nói không đúng.

Người thanh niên có vẻ bối rối trước đám đông, ngập ngừng ngửa đôi bàn tay với vết sẹo chạy dài, mất hẳn cả một ngón tay cái bên mặt.

Giữa những tiếng chặc lưỡi xót xa, những tiếng gằn uất hận, Diệm liếc trộm nhìn hai bàn tay rồi gục mặt xuống.

Từ đám tự vệ đứng sắp hàng sau lưng Diệm và mấy quân nhân Nhật, có tiếng thét lên:

- Đả đảo quan lại! Xét tử Việt gian!

Nhiều lời hưởng ứng sôi sục như một điệp khúc khích động đám đông nhao nhao lên đòi hành động quyết liệt:

- Giết Việt gian! Giết phát xít! Giết đi!

Không khí sôi động bùng lên như ngọn lửa bắt cháy bừng bừng lan rộng cả đám đông dân chúng đang hăng say dưới chân đêo Cù Mông giữa trưa nắng rát, gió nồng từ phía Trường Sơn thổi thốc xuống.

Diệm nhắm cả hai mắt lại, miệng mấp máy như đang cầu nguyện. Mấy quân nhân Nhật sợ hãi nhìn nhau, phập phồng trong chờ đợi. Một chiếc mã tấu rơi đánh xoảng ở góc đình khiến người thanh niên thông ngôn giật mình hốt hoảng, tường chừng như sắp bị lôi đi chém, liền đứng lên kêu ca:

- Thưa đồng bào, tôi chỉ vì miếng ăn mà đi làm thông ngôn cho Nhật, xin Uỷ ban xét rõ mà tha cho tôi.

- Làm thông ngôn cho Nhật, tay sai của phát xít mà không phải Việt gian à! Đả đảo!

- Đả đảo! Xử tử Việt gian! Xử tử phát xít!

Những lời hô hào của đám đông cuồng nhiệt như sóng cuộn vây phủ đám nạn nhân đang chờ rủi may quyết định số phận.

Năm người ngồi quanh chiếc bàn của Uỷ ban bàn tán sôi nổi. Họ là những người đầu tiên ra tay cướp chính quyền địa phương và đương nhiên cầm đầu Mặt trận Việt Minh, điều khiển mọi công việc trong xã. Trước sự việc bất ngờ, phải xét xử một viên quan lại, bốn sĩ quan Nhật và một thông ngôn, họ đâm ra luống cuống.

Viên chủ tịch lên tiếng:

- Thưa các đồng chí, chúng ta phải hành động cho đúng với đường lối cách mạng.

- Cách mạng là phải đổ máu! Các đồng chí không thấy tinh thần đồng bào Quảng Ngãi lên cao là vì đã thẳng tay tiêu diệt bè lũ phản động, phong kiến, thực dân phát xít. Địa phương chúng ta cần phải noi theo gương đấu tranh quyết liệt của Quảng Ngãi. Không nương tay với những kẻ thù của cách mạng!

Những lời lẽ bốc lửa của uỷ viên chính trị máy móc được sự tán đồng của đa số trong Mặt trận và người ta quyết định xử chém các nạn nhân ngay tại trận. Người cố vấn của Uỷ ban nguyên là thừa phái tỉnh, thấy tình trạng sắp trở nên ác liệt, vội nêu ra tai hại của việc địa phương tự động xử tử nạn nhân, chưa được báo cáo với cấp trên.

- Người mà các đồng chí định đưa ra chém là nguyên Lại bộ Thượng thơ Ngô Đình Diệm, cần phải báo cáo Kỳ bộ và Trung ương định đoạt chớ đừng làm ẩu.

Lời can thiệp bất ngờ này đã cứu Ngô Đình Diệm khỏi mất đầu.

Một tuần sau, Mặt trận Việt Minh ở Tuy Hoà nhận được điện từ Hà Nội đánh vào bảo giải Diệm ra cho Tổng Bộ định liệu.




Lệ bị giam lỏng tại nhà họ Ngô trong năm hôm, thì được tin Ngô Đình Khôi và con trai bị giết. Một gã tự vệ, có họ xa với nhà chồng nàng cũng là người Công giáo, đã nhận một phiên gác, báo tin này cho Lệ hay. Lệ sửng sốt lặng người đi, giấu nhẹm tin anh chồng và cháu bị hại không cho bà cụ Thượng hay.

Qua giây phút bàng hoàng, Lệ đâm ra lo sợ cho số phận của mình. Các câu chuyện khủng khiếp đã xảy ra ở Quảng Ngãi mà Lệ nghe kể lại càng khiến cho nàng thêm kinh hoảng.

Không khí khủng bố, chết chóc từ trong ấy đã lan ra đến gia đình Lệ. Càng suy nghĩ, Lệ càng kinh hãi chẳng biết rồi nàng có thoát khỏi được không Cái chết đe doạ lởn vởn trong đầu khiến Lệ nghĩ đến cách thoát ly. Hàng rào canh gác của toán tự vệ túc trực ngày đêm chung quanh và trong nhà, Lệ khó thể thoát ra được ngoài đường. Họ đã doạ:

- Ai trong nhà này trốn đi nếu bị bắt gặp sẽ bị bắn liền tại chỗ và tất cả nhà bị bắt nhất vào đề lao.

Lệ tính lại người nhà lúc này chỉ còn toàn đàn bà! Bà cụ Thượng, bà Cả Lễ, chị chồng Lệ, một vú già và hai người đầy tớ gái.

Dù sao Lệ cũng phải tìm cách thoát thân, để tự cứu lấy mình trước đã. Nàng là dâu họ Ngô, biết đâu rồi cũng phải chịu chung số phận như anh cả nhà chồng? Nhưng thoát bằng cách nào đây?

Từ lúc nghe tin anh chồng và con trai bị giết, Lệ chỉ quanh quẩn nghĩ tìm cách trốn. Mỗi lần nghe tiếng ồn bên ngoài của toán tự vệ đến đổi phiên gác, Lệ lại giật mình sợ người ta đến bắt mình đi, như ở Quảng Ngãi. Nàng đưa tay sờ lên gáy mà thấy ớn lạnh cả người.

Những cảm tưởng hùng hãi này, Lệ định tâm về sau, nếu còn sống, sẽ ghi lại trong hồi ký để nhớ đến những giờ phút ghê rợn đã trải qua. Lệ nhận thấy thì giờ nặng nề trôi qua, nóng lòng mong trời chóng tối, để nhờ bóng đêm nàng có thể thực hiện được ý định trốn thoát đêm nay. Khi nghe tiếng chuông nhà thờ Phú Cam ở gần đó đổ chiều tối, Lệ khấp khởi mừng thầm, chạy đến quỳ trước bàn thờ, bên cạnh mẹ chồng để cầu kinh. Lệ không đọc kinh một cách thuộc lòng máy móc như thường lệ, mà suy ngẫm từng lời và ngước nhìn ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mà cầu nguyện xin cho nàng trốn thoát được đêm nay.

Đọc kinh tối xong, Lệ vào phòng riêng lấy hai bộ quần áo và tiền bạc nữ trang buộc chặt lại thành một bọc trong chiếc khăn quàng, gói lớp giấy dầu mỏng bên ngoài. Nàng tắt đèn vờ đi ngủ sớm, mặc thêm một bộ đồ tắm vào trong, rồi lên giường nằm lắng đợi.

Lệ định vào lối khuya, sẽ lẻn ra vườn sau, men xuống bến phà, bơi qua bên kia sông, ghé chỗ bờ tối mà lên, lấy quần áo khô mang theo mặc vào, rồi tìm đến nhà quen ở tạm một đêm, đợi sáng ngày ra đi.

Lệ ban đầu định nói nhỏ cho mẹ chồng hay song lại sợ bà thấy con dâu quá mạo hiểm mà ngăn trở, nên đành im.

Lệ nằm nghe tiếng nói chuyện thưa dần của toán người canh gác bên ngoài đã bắt đầu ngáp ngủ, mới nhè nhẹ đứng lên, ôm bọc quần áo sát vào người, rón rén hé cửa phòng bước ra lối xuống bếp.

Nàng vừa đẩy nhẹ cửa thông với nhà cầu xuống bếp, nhìn ra ngoài xem xét cho mắt quen với bóng đêm và toan bước đi, bỗng nghe tiếng quát:

- Ai? Đứng lại!

Lệ điếng cả người, tựa sát vào sau cánh cửa, không nhúc nhích, nghĩ là mình đã bị lộ.

Nhiều tiếng chân đi rầm rập từ cửa ngõ vào đến sân, tiếp theo tiếng trả lời:

- Đổi gác!

Lệ thoáng nhận thấy đây là dịp tốt nhất để cho nàng len lỏi xuống phía bên, giữa lúc hai toán tự vệ thay đổi phiên gác. Lệ nhẹ nhàng nương theo bóng tối, qua khỏi nhà cầu, vòng ra phía sau bếp, lại len vào giữa vườn cây, dè dặt bước đi. Một tiếng soạt mạnh giữa vườn làm cho Lệ hoảng hồn ngồi thụp ngay xuống, rồi mới nhận ra là chiếc mo cau khô rơi từ trên cây. Mắt đã quen với đêm tối, Lệ nghe ngóng, nhìn quanh quất lần ra phía bến.

Đến cửa tam quan, đóng kín, Lệ loay hoay một lúc mới tháo được then cài chặt, rồi đẩy nhẹ cánh cửa hé ra cho khỏi kèn kẹt lớn. Gió từ mặt sông thổi lên mát rượi cả người Lệ đẫm ướt mồ hôi. Xuống đến cấp đá trên bến, Lệ đứng lại nhìn trên sông vắng bóng đò qua, rồi cởi quần áo ngoài ra, cuộn làm dây khoác chiếc bọc qua vai, đoạn bước xuống nước. Mặt sông rộng trên ba trăm thước, Lệ đã có lần bơi qua lại độ nào, song đêm nay, nàng thấy như xa vời thêm ra trong bóng tối. Lệ từ từ bơi để khỏi gây tiếng động, nương theo dòng nước chảy nhẹ, đâm xuyên qua bờ bên kia. Vừa bơi, Lệ vừa nhìn sợ có đò chèo ngang qua trông thấy và người đi lại trên bờ để ý đến. Quãng sông Phú Cam vắng vẻ, Lệ bơi vào đến bờ đối diện không một ai trông thấy.

Mỗi vòng bơi gạt nước ra đưa Lệ gần thêm tới đích; nàng chỉ thoáng nghĩ đến chồng. Nước sông chảy lững lờ song Lệ thấy thấm lạnh vì ngâm mình bất ngờ trong đêm tối. Lội sát vào bờ, Lệ trượt chân vì bùn trơn không trườn lên được, phải bơi qua xuống một quãng, gặp cái bến đá xây cấp mới ra khỏi nước. Gió đêm thu lạnh, trong bóng tối, Lệ mở bọc quần áo khô ra, cởi thay bộ đỗ tắm quẳng theo dòng nước, vuốt lại mái tóc ướt đẫm sau gáy, rồi dò từng bước lên mặt đường.

Chương 5

Ngoài lề chính quyền

Vừa lên cấp đá cuối cùng, Lệ nhìn hai bên đường vắng vẻ và dưới ngọn điện sáng mờ, nàng nhận ra ngay trước mắt cổng bến trước nhà cụ Thượng Nguyễn, với hai câu đối gắn bằng mảnh sứ xanh. Cụ Thượng Nguyễn là nhạc phụ anh chồng Lệ vừa bị giết, Lệ thoáng có ý nghĩ muốn băng qua đường đẩy cửa vào, song lại sợ nhà vị cựu đại thần này cũng bị canh gác nên vội vã bước đi.
Lệ quàng khăn tùm hụp lên đầu để che giấu hai bên mặt, đi được một quãng gần tới dốc cầu Bến Ngự, thấy một chiếc xe kéo đang đợi khách, liền gọi chở nàng đi về phía ga.
Ngồi trên chiếc xe kéo chạy theo đường vắng dọc bờ sông, với người phu xe già im lặng, Lệ hồi hộp nghĩ đến sự ngạc nhiên của cha mẹ nàng thấy con trở về lúc này. Nhưng rồi Lệ lại lo sợ không biết ông bà Trạng Trần, chính khách của nội các thân Nhật có bị lôi thôi gì không?
Lệ bảo xe đỗ lại gần đến cửa biệt thự, trả tiền rồi lững thững đi vào như một kẻ dạo mát trở về nhà. Thấy bên trong tối im, các cửa đều đóng kín, Lệ đã chột dạ, nghĩ ngay rằng cha mẹ nàng không còn ở đây nữa. Lệ đưa tay bấm chuông một hồi, không thấy ai ra mở cổng, liền cất tiếng gọi, cũng nghe im lìm. Nàng đẩy mạnh cánh cổng ra không được, vì đã khoá bên dưới với dây xích buộc vòng và ống khoá ở phía ngoài.
Lệ thất vọng, sợ hãi khi nhận thấy rõ là ngôi biệt thự ông bà Trạng Trần mới ở hôm nào đây hiện bỏ trống. Nàng lại bấm chuông liền một hồi nữa, chẳng động tĩnh gì, mới đành quay trở ra.
Đi đâu bây giờ đây?
Lệ buột miệng tự nhiên hỏi mình và giữa lúc nàng đang phân vân ngại ngùng thì thấy một chiếc xe kéo đi qua. Nàng vẫy tay gọi bảo kéo về phía Nam Giao. Lệ định bụng tìm đến một nhà bà con bên chồng ở dốc Nam Giao để tạm trú đêm nay và hỏi tin tức rồi định liệu sau. Bỗng dưng Lệ cảm thấy bơ vơ, lạc lõng kinh hoàng giữa khung cảnh hiền hoà, quen thuộc mới hôm nào đây. Người phu xe tưởng nàng là một cô gái ăn chơi, lên tiếng dò dẫm:
- Từ bừa khởi nghĩa đến chừ, ế ẩm quá, ít ai đi xe, mà khách khứa cũng vắng. Thiên hạ cứ lo hết đi biểu tình lại hội họp, không còn ngày giờ rảnh mô nữa.
Thấy Lệ ngồi trên xe im lặng, người phu vừa kéo chạy vừa kể:
- Bây chừ mấy vùng có Tây ở không ai dám tới lui nữa, sợ bị cho là Việt gian liên lạc với thực dân thì chết. Còn Nhật thì họ rút vô đồn trại đi mô hết, không còn chơi bời chi nữa. Đò giang sông Hương đói meo, không còn ai dám đi chơi đêm. Cách mạng rồi mà!
Không nghe khách nói năng gì, người phu xe đổi hướng câu chuyện:
- Cô tới nhà mô ở Nam Giao? Ở vùng nớ, nhà mô tôi cũng biết, tôi có chân trong tự vệ phường mà!
Lệ bối rối, rồi ấp úng không biết trả lời ra sao để khỏi lộ tông tích đối với người phu xe tự vệ, nên chỉ nói:
- Tôi đến nhà người chị em bà con.
Mười lăm phút ngồi trên xe của người phu lắm lời, Lệ sốt ruột, lo ngại, nên vừa qua dốc Nam Giao một quãng, nàng bảo đỗ xuống, rồi đi bộ một đoạn dài tìm đến nhà quen.
Ngôi nhà lớn của ông thầu khoán Nghĩa ở bên đường Nam Giao đã đóng chặt cửa ngoài. Lệ không thấy có chuông bấm, lên tiếng gọi, chó vồ ra sủa, một lúc sau mới có người nhà ra. Ông bà Nghĩa là cậu mợ họ Nhu, sau khi nhận ra Lệ, tỏ vẻ ngạc nhiên lo sợ:
- Nghe nói bên nhà chồng cháu bị canh gác dữ lắm không ai vô ra được, làm sao cháu lại đi được tới đây?
Lệ kể lại việc nàng vừa trốn xong, ông bà Nghĩa đưa mắt nhìn nhau, im lặng một lúc, rồi bà lên tiếng trước:
- Chỗ bà con, thiệt cậu mợ không tiếc chi với cháu, là dâu cụ Thượng Ngô, anh em họ với nhà này, song cháu cũng hiểu là tình thế bây giờ khó lắm, hở một chút chi là Việt Minh họ bắt liền. Cháu coi, ông Khôi chỉ có làm quan thôi mà cả hai cha con đều bị giết, buộc tội cho là Việt gian, vây giữ cả nhà cháu. Bây giờ mà cậu mợ để cho cháu ở lại đây lỡ mà họ biết được thì cậu mợ không khỏi bị họ buộc tội cho là đồng loã chứa chấp Việt gian. Cháu nên nghĩ lại mà thương cho mấy em cháu còn nhỏ, cậu mợ phải sống nuôi các em, chớ thiệt ra cậu mợ không tiếc gì để không cho cháu lánh tạm ở nhà này.
Những lời rào đón đuổi khéo khiến cho Lệ nghẹn ngào tức giận muốn bỏ đi ngay, song thấy nguy nan phải đi ra ngoài trong lúc này, nàng ôn tồn nói:
- Cháu chỉ nhờ cậu mợ cho lánh tạm một đêm nay thôi. Đến sáng ngày cháu ra đi liền, chớ giờ này đã khuya… Cậu mợ nghĩ tình bà con, giúp cho cháu gặp lúc không may này.
Ông Nghĩa vẫn im lặng nhìn vợ. Có tiếng chó sủa trước ngõ, bà Nghĩa hốt hoảng đứng lên, ra ngoài một lúc rồi trở vào, hạ thấp giọng bảo Lệ:
- Vừa rồi cháu vô đây, con ở nó ra mở cửa, biết là cháu đến nhà cậu mợ, nó lại mèo chuột với một thằng tự vệ ở xóm này; hai đứa vừa to nhỏ gì với nhau trước cửa nên chó mới sủa đó, mợ sợ cháu ở lại đây đêm nay không yên đâu. Mà lại còn liên luỵ đến cho cậu mợ với các em cháu nữa. Thôi, cháu cầm lấy một ít tiền cậu mợ biếu cháu đây dể đi nơi khác yên thân hơn.
Lệ không khỏi lo sợ trước những lời đe doạ, song thấy thái độ ích kỷ và giả dối của bà mợ chồng, nàng cười nhạt:
- Cháu không phải đến đây để xin tiền cậu mợ đâu. Cháu không thiếu.
- Thì cháu cũng nên cầm lấy mà đi đường. Lòng thành của cậu mợ biếu cháu mà. Cháu cầm lấy đi!
- Thôi chào cậu mợ.
Lệ tức giận quay ra bước vội khỏi nhà mà nàng bỗng thấy khinh ghét lạ thường. Ra đến ngoài đường vắng lặng. Lệ mới nhận thấy tất cả sự nguy nan đang bao vây mình, với chung quanh đầy những phản trắc đe doạ. Nhưng Lệ đã dấn bước đi rồi, dù sao thì cũng đánh liều.
Thái độ sợ sệt xua đuổi của đôi vợ chồng người thầu khoán khiến Lệ không còn muốn tìm đến nhà bà con bên chồng tại thành phố nữa. Nàng nghĩ ngay tới ông cậu ngoại ở Nguyệt Biều.
Đi bộ đến gần đầu dốc Nam Giao, Lệ lên xe bảo kéo ngược lên đường Huyền Trân Công Chúa. Ngồi trên xe Lệ bỗng lo lắng, trên đường quá năm cây số đưa tới làng bên ngoại, có các trạm canh dọc đường xét hỏi, nàng sẽ bị lộ tung tích và rồi người ta muốn kiếm bắt nàng sẽ tìm ra được dễ dàng. Lệ tính phải mượn con đường sông đánh lạc hướng theo dõi nàng, nên khi xe kéo chạy đến gần Trường súng, nàng bảo đỗ xuống, trả tiền rồi đi bộ trở lại phía bến đò Ga.
Người lái đò có vẻ ngạc nhiên khi thấy một thiếu phụ hỏi thuê đò một mình đi vào lúc nửa đêm, nhưng rồi tươi cười đon đả mời ngay khách trả cao giá xuống thuyền, Lệ thở ra nhẹ nhõm khi nghe tiếng chèo đập nước đẩy chiếc đò đi. Nàng ngồi tựa khoang thuyền lặng nhìn ra mặt sông trong đêm tối. Lệ bỗng nghĩ đến chồng và tuần trăng mật trên sông Hương đã đem lại thất vọng cho nàng, và rồi cũng vì Nhu mà nàng phải gian nguy, khốn đốn lúc này. Lệ đâm ra oán trách chồng. Trong giờ phút này, Nhu có biết là vì nhà chồng, nàng phải trải qua một chuyến mạo hiểm ghê người không?
                                 ***
Ở Hà Nội, Nhu được tin anh cả và con trai bị giết cùng một lúc với cựu Thượng thư Phạm Quỳnh, rồi gặp ông bà Trạng từ Huế vừa ra, cho hay tin vợ nàng bị mắc kẹt tại gia đình đang bị canh giữ, liền chạy đi gặp các bạn học cũ có địa vị trong chính quyền mới để vận động xin can thiệp. Nhu chỉ nhận được vài lời hứa hẹn an ủi thay thái độ lạnh nhạt của mấy người bạn chính khách mới, khiến chàng chán nản, uất hận.
Trong lúc đang lo sợ cho số phận của vợ, Nhu lại được thêm tin người anh em thứ ba nguyên Thượng thư Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt giữ trên đường từ Nam ra. Nhu cảm thấy lo ngại cho cả mình đang bị chung quanh nhìn bằng đôi mắt ngờ vực.
Nghĩ mình có thể bị bắt bất ngờ, Nhu đổi chỗ ở, thuê riêng một căn gác, thu mình lại trong chờ đợi phập phồng giữa mấy chồng sách. Nhu bắt đầu làm quen với á phiện để quên buồn, và đêm đêm chàng đều đặn đến một tiệm hút ở phố Mã Mây cho đến khuya mới về gác trọ.
Giữa lúc ấy, quân đội tiếp thu Trung Hoa tiến vào Bắc Việt, đi bằng đường bộ qua các ngả Lào Cai, Lạng Sơn, Cao Bằng, lối 180.000 người dưới quyền tư lệnh tối cao của tướng Lư Hán ở Vân Nam gồm những binh sĩ bó chân ốm đói, áo quần xốc xếch, lũ lượt từng đoàn mang theo đàn bà, trẻ con rách rưới, bệnh hoạn, tuôn về các thành phố, y như là họ kéo vào một nơi vừa chiếm được. Bốn đạo quân "Tàu Vàng", 93 ở Vân Nam và Quảng Đông chiếm Hà Nội, 63 và 52 chiếm Hải Phòng và miền Duyên Hải, 60 chiếm từ Vinh đến Đà Nẵng. Họ từ những tỉnh đói kém vùng Hoa Nam kéo đến Trung Châu Bắc Việt tung đồng quan kim và quốc tệ ra buộc đổi lấy giấy bạc Đông Dương giá trị hơn, để mua rẻ tất cả những gì họ muốn nhất là thực phẩm. Sau nạn chết đói của dân Bắc, giờ đây đến nạn chết no của những binh sĩ tiếp thu Trung Hoa.
Họ chiếm những dinh thự, nhà cửa rộng lớn sang trọng, mỗi đơn vị công viên ngả bàn đèn hút thuốc phiện tại nơi trú đóng và bày ra luật lệ riêng.
Tướng Trương Phát Khuê nổi tiếng là "Lãnh chúa chiến tranh" ở Hoa Nam, cai quản tối cao đạo quân Quảng Đông với Bộ tham mưu gồm các "tướng lãnh chính trị" như Lư Hán và người anh em chú bác tướng Long Vân, Tổng đốc Vân Nam, đã có nhiều liên hệ mật thiết với các giới mại bản Quảng Đông ở Bắc Việt, muốn biến xứ này thành một hàng tỉnh của Trung Hoa, lợi dụng sự hiện diện của họ dưới trướng tại đây dể thu hoạch những mối lợi chính trị và kinh tế quan trọng.
Uỷ viên chính trị của nhóm tướng lãnh này, tướng Tiêu Viên, vừa lùn vừa qu ỷ quyệt, được bổ nhậm làm Giám đốc mật vụ quân đội tiếp thu, mưu đồ chi phối phong trào quốc gia Việt nam, mà họ đã đỡ đầu trong thời kỳ lưu vong, như Đồng minh hội, Việt Nam Quốc dân Đảng.
Sau khi các toán quân đầu tiên của Trung Hoa vào Hà Nội, tướng Lư Hán cùng Bộ tham mưu đi máy bay đến, đóng ở phủ Toàn quyền, gạt phái bộ Pháp Sainteny ra ngoài.
Trong không khí sôi động của Hà Nội, một tối Nhu gặp một người bạn cũ có chân trong Việt Nam Quốc dân Đảng cho hay:
- Việt Minh lúc này đang lung lay. Anh em quốc gia Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng theo quân đội Trung Hoa về nước đã nhờ cơ hội này mà chiếm lại các tỉnh trung du như Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Quảng Yên… gạt bỏ các Uỷ ban Việt Minh đi rồi. Ở Hà Nội, cụ Nguyễn Hải Thần đòi ông Hồ Chí Minh phải mở rộng chính phủ cho tất cả các đảng phái cách mạng đã hoạt động bí mật. Quốc dân Đảng Trung Hoa không muốn ông Hồ Chí Minh là cộng sản cầm đầu chính phủ, nếu Việt Minh muốn giữ lấy chính quyền riêng cho họ, không tránh khỏi một cuộc đảo chánh. Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng đang được Trung Hoa ủng hộ, nhất định có thể buộc Việt Minh phải nhượng bộ…
Nhu thích thú nghe những tin ấy, rồi từ nhà Thuỷ Tạ ở Bờ Hồ đến tiệm hút đường Mã Mây gặp một đứa bé bán báo, chàng gọi mua một tờ Việt Nam.
Nằm bên bàn đèn, Nhu khoan khoái đọc báo của Việt Nam Quốc dân Đảng tố cáo những vụ "khủng bố đỏ", những sự việc gọi là chà đạp tự do và quyền tư hữu cá nhân của Việt Minh. Những lời đòi hỏi thành lập một chính phủ Liên hiệp quốc gia để "chống lại hiểm hoạ xâm lăng đất nước của đế quốc Pháp", khiến Nhu đâm ra nghĩ ngợi, tiếc rẻ cơ hội đã qua đối với anh em chàng. Suy nghĩ lan man, Nhu hút hết điếu thuốc này qua điếu khác, buồn rầu nhớ đến số phận của vợ mà chàng không được tin tức gì, căm hận nghĩ đến hai anh, kẻ chết, người bị bắt.
Từng lúc, các câu chuyện của khách hút vẳng đến tai Nhu, người ta kháo với nhau về các vụ trả đũa ác liệt giữa các đảng viên Việt Quốc và Việt Minh.
Hà Nội đã trở nên một thành phố hỗn loạn. Ngày đêm, giữa Việt Minh và các đảng phái đối nghịch đang diễn ra những vụ thanh toán, giết chóc lẫn nhau, bằng dao, bằng súng. Đôi bên lại cho người trà trộn vào nhau để do thám phá hoại.
Ám sát, tống tiền, bắt người, thủ tiêu là những việc xảy ra hàng ngày giữa thủ đô Hà Nội đã hoá thành chợ đen của Hoa kiều, được quân đội tiếp thu đồng loã. Nhu bấy lâu giảm mình trên gác trọ, không khỏi ngạc nhiên khi lắng nghe những sự việc dữ dội đã và đang diễn ra quanh mình. Nhu không ngờ ở tiệm hút lại có thể thâu thập được lắm tin tức chàng đang cần biết đến. Nhu gọi lấy thêm thuốc phiện và nằm nghỉ lại ở tiệm hút đường Mã Mây.
Suốt đêm, phần say thuốc, phần nghĩ ngợi, Nhu lơ mơ không ngủ. Sáng sớm, Nhu vuốt qua mái tóc, sốc lại quần áo rồi ra khỏi tiệm, gọi xe đi thẳng đến nhà bố mẹ vợ.
Ông Trạng Trần thấy chàng rể có vẻ bơ phờ, tỏ ý xót thương:
- Mẹ con đã cho người nhà vào Huế hôm qua để hỏi dò tin tức vợ con. Thế nào trong vài hôm nữa cũng có tin trong đó. Con cũng đừng nên lo buồn thái quá.
Rồi ông Trạng nói qua tình thế cho Nhu hay:
- Việt Minh phải nhượng bộ rồi. Hôm qua, Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp hội nghị và tuyên bố tự giải tán. Tưởng Giới Thạch lúc này đang đánh nhau với hồng quân Mao Trạch Đông ở Mãn Châu, lẽ tất nhiên không thể chấp nhận được một chính quyền cộng sản ở bên nách họ được. Việt Minh hẳn biết rõ điều đó nên mới hoà hoãn như vậy, đồng thời để tuyên truyền tranh ảnh hưởng với các đảng phái quốc gia, nhất là lúc này Pháp bắt đâu chiếm lại miền Nam rồi.
Những lời lẽ của ông Trạng Trần làm cho Nhu thấy phấn khởi trở lại, nghĩ đến việc tiếp tục tập hợp lực lượng Công giáo để chờ thời cơ.
Ông Trạng Trần bảo Nhu:
- Ông Hồ Chí Minh đang tranh thủ Công giáo, vì biết đó là một lực lượng vững chắc, có hậu thuẫn quốc tế. Việt Minh đã khôn khéo vận động với Đức Cha J.B. Tòng nhân danh Giáo hội Việt Nam gởi thư cho Giáo hoàng xin ban phép lành và cầu nguyện cho nền độc lập của Việt Nam. Việt minh đã thu hút được một số nhân vật Công giáo như cha Phạm Bá Trực, cụ Ngô Tử Hạ, ông Nguyễn Mạnh Hà… vận động các đức Giám mục nhận chức cố vấn chính phủ, tổ chức giáo dân Hà Nội, Vinh biểu tình ủng hộ ông Hồ Chí Minh… Họ lấy cả ngày Các Thánh tử vì đạo Việt Nam để làm quốc khánh, Tết độc lập… Với chính sách giáo vận của Việt Minh như vậy đó, anh định hoạt động như thế nào để giành lại ảnh hưởng và tập trung được lực lượng Công giáo?
Nhu trầm ngâm rồi chậm rãi nói, giọng đều đều:
- Việt Minh họ có chủ trương như vầy nhưng dễ gì họ kiểm soát và chi phối được lực lượng Công giáo. Các giáo khu Phát Diệm, Bùi Chu, Vinh là những cơ sở chắc chắn, Việt Minh khó lòng thâm nhập được ở miền Trung và trong Nam, đã có anh Giám mục tôi. Hai triệu giáo dân tập họp quanh các nhà thờ với những linh mục trung kiên lãnh đạo có thể trở thành một lực lượng tử vì đạo, một bức trường thành kiên cố ngăn chặn làn sóng đỏ. Ngoài ra, tôi nghĩ có thể tập hợp cùng các tôn giáo khác để lập thế liên tôn diệt cộng có hiệu lực, ủng hộ cho các nhân vật quốc gia đứng ra chia giữ chính quyền, chống đối lại Việt Minh. Mặt khác, liên lạc với một cường quốc đồng minh, như Mỹ, để họ giúp ta đương đầu với Pháp đang mưu toan chiếm lại xứ này. Như vậy đối nội cũng như đối ngoại, ta có thể lấn lướt được Việt Minh và chiếm ưu thế cầm quyền. Ba nghĩ thế nào?
Ông Trạng Trần gật đầu đáp:
- Kế hoạch của anh, về mặt lý thuyết nghe được lắm, song có người để thực hành không? Đó là một vấn đề ta phải nhìn nhận là thua Việt Minh, vì thiếu cán bộ hăng say như họ.
Nhu im lặng nhận thấy nhược điểm khó vượt qua, song cố bám lấy như một hy vọng cuối cùng để khỏi bị đối phương nhận chìm.
- Tình thế tuy khó khăn thực, song chúng ta cũng có hy vọng ở tương lai.
Nhu nói để tự an ủi, đồng thời cũng xoa dịu được lòng tự ái của ông Trạng Trần đang ấp ủ hy vọng tham chính. Sau buổi nói chuyện ấy Nhu say sưa nghiên cứu tình hình, liên lạc với các bạn mà chàng hy vọng có thể liên kết trong một đường lối mà Nhu đã tìm thấy trong chồng sách cũ của lý thuyết gia Pháp Mounier: chủ nghĩa nhân vị.
Lúc bấy giờ, Hà Nội đang sôi sục trong một không khí rối loạn. Nạn đói kém vẫn dai dẳng, những xác người gục ngã vì thiếu ăn còn rải rác khắp các bờ lề đường phố thủ đô. Thêm vào đó, đoàn quân Tàu đói, vung vãi giấy bạc quan kim làm xáo trộn cả thị trường; Chính quyền Việt Minh với ngân khố trống rỗng phát hành giày bạc mới khiến cho tình hình tài chính thêm trầm trọng. Các chi nhánh ngân hàng Trung Hoa mọc lên như nấm ở Hà Nội và Hải Phòng. Làn sóng chợ đen tràn ngập khắp nơi. Giấy bạc 500 đồng bị ngân hàng Đông Dương chối bỏ ở miền Nam, gây ảnh hưởng náo động cả miền Bắc. Những kẻ đầu cơ, những tài sản đầu hôm sớm mai nhờ thời cuộc rối loạn gây dựng nên một cách bất ngờ. Quân đội "Tàu vàng" như đang hoành hành giữa một thuộc địa vừa mới chiếm. Tướng Leclerc được tướng De Gaulle giao phó trách nhiệm tái chiếm lại Đông Dương, đã nhờ quân đội Anh giúp sức trở lại miền Nam, nhận thấy sự có mặt của Trung Hoa ở miền Bắc là một trở ngại lớn lao, đã thốt ra: "Đông Dương, trước tiên đó là một vấn đề Trung Hoa". Nỗi lo ngại của vị Tư lệnh chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đang thực hiện ở miền Bắc.
Nhu theo dõi những chuyển biến từng ngày của thời cuộc, nhận thấy các đảng phái quốc gia nhờ hậu thuẫn của quân đội Trung Hoa gây được áp lực với Việt Minh, không bỏ qua cơ hội tiếp xúc các bạn cũ có chân trong Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Đồng minh Hội, Đại Việt, chủ tâm của Nhu là mong chờ uy thế đối lập Việt Minh để giải thoát cho vợ đang bặt tin ở Huế, và anh là Ngô Đình Diệm đã bị bắt giải ra Hà Nội, rồi đem đi giam cầm tại Thái Nguyên.
Đồng thời với sự vận động của Nhu, bà Trạng Trần lui tới gặp cố vấn Vĩnh Thuỵ, ở cùng một đại lộ Gambetta để nhờ can thiệp hộ cho vị cựu Thượng thư của cựu hoàng Bảo Đại.
Mỗi ngày, Nhu đều đến nhà bố mẹ vợ để bàn bạc, trao đổi tin tức ông bà Trạng Trần nhận thấy thời cuộc chuyển biến có thể trở lại tham gia chính quyền, cũng háo hức chạy lăng xăng tiếp xúc, bày tiệc đãi đằng như độ nào ông chồng vận động ra giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao sau ngày Nhật đảo chánh Pháp. Bà Trạng tin tưởng ở các cuộc tiếp xúc thân mật với cố vấn Vĩnh Thuỵ, hy vọng có thể tiến thân cho chồng trong một chính phủ tương lai do cựu hoàng đế vời ra cầm quyền.
Một tối, vào lúc 10 giờ, Nhu vừa ở tiệm hút Mã Mây đến, thấy cả bố mẹ vợ đều vui tươi, vừa tiếp khách xong, đang có ý đợi chàng.
Ông Trạng Trần lên tiếng trước:
- Anh đã hay tin gì chưa?
Rồi ông quay sang bảo vợ:
- Mình cho mở một chai sâm banh để chúng ta cùng uống mừng tin này mới được.
Bà Trạng Trần gọi người nhà mang rượu và ly ra, trong khi ông Trạng hớn hở nói:
- Cựu hoàng đế Bảo Đại sắp trở lại nắm chính quyền rồi!
Trước vẻ mặt lầm lỳ không giấu nổi ngạc nhiên của chàng rể, ông Trạng Trần cười, nói:
- Anh cũng đã biết: Việt Minh nhường 70 ghế trong số 350 ghế ở Quốc hội cho các đảng phái quốc gia, song Việt Nam Quốc dân Đảng, Đồng Minh, Đại Việt vẫn chưa bằng lòng, rồi ông Hồ Chí Minh định ký hiệp ước với Pháp, bị phe quốc gia liên kết với nhau tố cáo là chính phủ phản quốc, đòi thành lập một chính phủ liên hiệp kháng chiến với cố vấn Vĩnh Thuỵ đứng đầu. Tôi vừa được tin chắc chắn là phe quốc gia đang chuẩn bị tổ chức một cuộc biểu tình lớn lao để đòi trao quyền cho cựu hoàng đế Bảo Đại.
Ông Trạng Trần nâng ly sâm banh cụng với ly vợ và chàng rể rồi nói tiếp:
- Tôi cũng được tin về phía người Pháp ở Sài Gòn; theo ý họ, ngoài hoàng đế Bảo Đại và các nhân vật quan trọng ra, họ không muốn nói chuyện với ai cả. Chủ trương của họ trước hết là lập lại trật tự loại bỏ Việt Minh, rồi phục hồi những kẻ tai mắt cũ. Tôi thấy anh Thượng của anh có nhiều hy vọng lắm đó.
Bà Trạng chen vào:
- Tôi vừa gặp ông Bảo Đại sáng nay, ngài có nhắc đến mình.
Ông Trạng hạ giọng nói:
- Tôi mới được tin của một người bạn Pháp cho hay là chính phủ Pháp thừa nhận cho Việt Nam được quyền thành lập một chính phủ tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Sainteny có nói cho ông Hồ Chí Minh biết rằng Pháp sẽ không ký hiệp ước này với Việt Minh, mà ký với một chính phủ bao gồm các đảng phái đại diện cho toàn thể dân chúng. Cụ Hồ cũng đã trả lời cho Sainteny có lẽ người sẽ đứng ra ký không phải cụ mà là một người khác.
Ngừng lại, ông Trạng Trần hỏi Nhu:
- Anh biết người khác đó là ai không?
- Vĩnh Thuỵ?
- Anh thông minh đấy! Người khác đó tất nhiên là cựu hoàng Bảo Đại chứ còn ai vô đây nữa!
Bà Trạng Trần không giữ được sự hân hoan, nâng ly rượu, hô bằng tiếng Pháp:
- Hoàng đế vạn tuế!
Trong cơn cao hứng, bà Trạng mở ví lấy ra một tập bạc đưa biếu chàng rể:
- Anh cầm lấy để tiêu. Hôm qua tôi mới đổi được mấy vạn giấy bạc 500, tưởng đã bỏ đi. Cũng nhờ ngoại giao với một lão tướng Tàu đấy. Không thì bao nhiêu giấy 500 của nhà này cũng đến quẳng vào sọt rác.
Thấy Nhu có vẻ ngạc nhiên, bà Trạng giải thích:
- Giấy 500 không tiêu nữa, vì Cao uỷ Pháp ở Sài Gòn ra ngôn định hôm 17 tháng mười một, huỷ bỏ tất cả giấy bạc 500 của nhà băng Đông Dương phát hành trong khoảng từ 9 tháng ba - 23 tháng chín 1945, đổ cho là tại Nhật. Song người Tàu họ cất giữ toàn giấy 500 đã mở cuộc vận động phản đối khắp miền Bắc và nhờ quân đội tiếp thu Trung Hoa gây áp lực, nên biện pháp kia không thi hành từ vĩ tuyến 16 trở ra. Giấy bạc 500 bị huỷ bỏ ngang ở trong Nam mang ra đổi bằng giá ở Bắc. Song việc đổi chác không phải là dễ, thiên hạ phải xếp hàng chờ chực ngày đêm ở trước nhà băng, đã có mấy người bỏ mạng vì quân đội Tàu canh gác nổ súng vào đám đông tranh giành chỗ đứng.
- Không phải họ bắn vì dân chúng tranh giành chỗ đứng mà chủ yếu quân đội Tàu muốn khiêu khích Pháp, cốt để phá rối Pháp đang tính đổ bộ lên miền Bắc. Mình không thấy à? Lão Baylin giám đốc ngân hàng Đông Dương ở Hà Nội là người quen thuộc trong giới Hoa kiều nói giỏi tiếng Tàu, vẫn chủ trương thoả hiệp, thế mà bị ám sát ngay trước cửa nhà băng, với một bản án ghim trước ngực: "Bị giết vì lũng đoạn kinh tế Việt Nam".
Hai hôm sau, Nhu ở tiệm Mã Mây về gác trọ vào lúc mười một giờ đêm, được người ở nhà dưới cho hay là hồi tối, khoảng bảy giờ có một linh mục đến báo tin có ông anh ở Thái Nguyên vừa về, dặn Nhu đến gặp ngay tại nhà cha Nguyện.
Nhu ngạc nhiên hỏi đi, hỏi lại, rồi thuê xe kéo chạy thẳng đến phố Hàm Long, sung sướng bất ngờ gặp lại anh đang ở tại nhà linh mục quen cũ của anh em chàng. Nhu nói với anh:
- Anh cả và cháu Huân bị Việt Minh giết ở Huế rồi, cả nhà mình ở Phú Cam cũng bị canh giữ, nhà tôi bị mắc kẹt cả trong đó. Họ trả lại tự do cho anh với những điều kiện nào?
- Anh chỉ biết là được giấy cụ Huỳnh ký tên tha cho về và được lệnh là đến Hà Nội phải vào Bắc Bộ phủ để gặp ông Hồ Chí Minh. Anh cũng chưa biết là về chuyện gì?
Trong khi anh em Diệm và Nhu ở Hà Nội, thì tại Huế, người em áp út Ngô Đình Cẩn, từ hôm chạy thoát khỏi nhà trong khi Việt Minh ập tới bắt Ngô Đình Khôi cùng con trai, rồi canh giữ nghiêm ngặt ngôi nhà, đã lẩn tránh vào khu nhà thờ Phú Cam. Sau đó được cha Sở cho hay những cuộc lùng soát của cán bộ Việt Minh, Cẩn cải trang làm một nông dân, đến ở nhà mụ Quyến, một người bà con bên ngoại đã từng hầu hạ gia đình họ Ngô từ thuở nhỏ.

Chương 6

Anh em nhà họ Ngô


Cẩn tuy tạm yên thân ở nhà vợ chồng nghĩa bộc tại xóm đạo Phường Đúc, song không yên lòng vì xa bà cụ Thượng Ngô, mà sáng chiều Cẩn vẫn quen lệ hầu cơm mẹ.
    Cẩn là con thứ tám trong gia đình chín anh chị em. Người chị thứ ba đã qua đời, còn lại bốn anh và hai chị, cùng một người em trai út. Tất cả các anh em đều sống xa, hai chị ở nhà chồng, chỉ còn lại một mình Cẩn sớm hôm hầu mẹ. Học hành dở dang vì ham đá bóng, đánh lộn hơn là chữ nghĩa, Cẩn bỏ ngang ở bậc trung học trường Pellerin, rồi về nhà mải mê câu cá thổi ống đồng, nuôi chim, săn sóc hòn non bộ. Tính tình thô lỗ, quê mùa, chỉ thích ở nhà, Cẩn được các anh giao phó cho công việc trông nom mẹ già lo giỗ tết, coi chừng mồ mả. Tuy đã ngoài ba mươi tuổi nhưng khi nói chuyện lấy vợ, Cẩn đều nhất mực từ chối, dù các anh khuyên bảo cũng vậy. Cậu Út Một viện cớ là còn mẹ già, sợ gặp người vợ trái tính ngang nết, không chiều được ý mẹ thì cậu không làm sao mà ăn ở được. Do đó mà Cẩn vẫn kéo dài cuộc sống độc thân, không ai còn bàn ra tính vào được nữa.
Sự thật, Cẩn có một quan niệm đặc biệt về tình ái. Bản chất khỏe mạnh, phốp pháp, thích uống rượu, ăn ngon, nhưng hầu như không có một đời sống văn hoá thực sự nên Cẩn chỉ yêu chuộng người đàn bà qua khía cạnh vật dục. Cẩn đã có lần bày tỏ sở thích của mình với bạn bè, nhắc lại câu châm ngôn cũ: "Dâm dê không bằng dâm thiếp, dâm thiếp không bằng dâm nô".
   Thấy Cẩn không vợ, không tình tự giao tiếp với đàn bà con gái trong thời trai tráng, có người lầm tưởng Cẩn phải chứng ái nam ái nữ hay liệt dương, ép xác như các anh, hoặc mắc bệnh nan du, ghét gần phái nữ. Bên ngoài không ai biết được là Cẩn vẫn thực hành thiếu thô bạo về tình dục đối với những đầy tớ gái vào hầu hạ gia đình cụ Thượng Ngô.
    Bốn bức tường thành tư dinh vị đại thần đã che khuất những cuộc cưỡng tình, ức hiếp ái ân của Cẩn với các ả tôi đòi. Cẩn bị ám ảnh bởi không khí hoàn toàn vật dục theo quan niệm "dâm nô" đến độ sinh ra ác cảm với đàn bà con gái chải chuốt; phấn son theo lối tiểu thư đài các; cũng như Cẩn đã quen với rượu trắng, thuốc lá Cẩm Lệ, trầu cau mà không chịu được rượu tây, thuốc lá thơm, kẹo bánh ngoại quốc, những thức ăn mới lạ khác với mắm cà, cá kho khô, nước mắm xé ớt thiệt cay. Nếp sống đặc biệt thuần phác đến mức độ thô kệch, man dại của Cẩn ở trong gia đình được cứu vãn nhờ sự chu đáo hầu hạ mẹ già, trong khi các anh các chị đều vắng mặt.
   Công việc trông nom, hỏi han mẹ già sớm hôm đã trở thành thói quen không thể bỏ qua được đối với Cẩn, khiến trong mấy hôm phải bỏ nhà trốn tránh Cẩn bứt rứt, không ăn ngủ yên.
    Đến lúc được tin mụ Quyến liên lạc được với bà Thượng Ngô cho hay là Lệ, chị dâu Cẩn đã trốn thoát và xem chừng sự canh phòng của Việt Minh cũng đã buông lơi, Cẩn mới định trở về nhà.
   Nghĩ rằng mình cũng chẳng làm gì nên tội, chung quanh ai cũng rõ là Cẩn chỉ biết câu cá, nuôi chim gáy, gà đá, hơn nữa Cẩn ít học, thô lỗ, nên dù là "cậu ấm" cũng chỉ là "ấm sứt vòi", có lẽ rồi Việt Minh cũng không đến nỗi bất tù đâu, Cẩn tính liều quay về với mẹ.
   Trước khi đi khỏi Phường Đúc, Cẩn vào nhà thờ hỏi ý kiến Cha Sở linh mục Nguyễn, trước đây vẫn lui tới nhà họ Ngô.
Cha Nguyễn nói:
- Bây giờ Việt Minh cũng đang ngưng bớt bắt bớ rồi. Ông Tổng đốc Khôi với cậu con trai cũng như ông Phạm Quỳnh, nếu không bị giết sau ngày khởi nghĩa, có lẽ lúc này họ cũng phải đưa ra toà xử như ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể ông Phạm Quỳnh và con nuôi ông cựu toàn quyền Robin. Tình thế đã biến chuyển, Việt Minh họ không còn làm dữ như lúc đầu nữa. Con trở về nhà, nếu có xảy ra việc gì, cha cũng có thể đến thẳng Uỷ ban Trung bộ kêu xin cho con…
     Cẩn xin cha Nguyễn ban phép lành, ra trước bàn thờ Đức Mẹ quì xuống cầu nguyện một lúc, rồi đi thẳng một mạch từ Phường Đúc trở về Phú Cam.
                                ***
    Vào lúc này, Lệ ở tại nhà ông cậu ngoại ở Nguyệt Biều, không hay biết gì về tình hình xảy ra bên ngoài.
    Ông bà Hầu, vốn ít giao thiệp với ai, từ ngày đón cô cháu gái đến lánh nạn, lại càng cửa đóng then gài chặt chẽ ngày đêm. Lệ có cảm tưởng như nàng đang sống giữa một nơi biệt lập, tách rời hắn cuộc đời ở bên ngoài. Lệ nhớ lại hôm nào, nàng vượt qua sông Phú Cam rồi thuê đò vào lúc giữa đêm lên Nguyệt Biều. Lệ cẩn thận bảo đò ghé lại bến Lăng rồi men theo đường tắt trong xóm, đến nhà thờ họ Thân. Ông bà Hầu ngạc nhiên thấy cô cháu ngoại hiện ra bất ngờ giữa lúc gà gáy sáng canh hai.
   Nghe Lệ kể lại cảnh ngộ hiểm nguy vừa thoát khỏi, ông bà Hầu không khỏi lo ngại, nhưng tình thương cháu khiến ông bà không ngại ngùng liên luỵ, cứu giúp kẻ làm nạn.
   Lệ được bà Hầu dọn cho một căn phòng xinh xắn trông ra vườn và ngày ngày xuống dưới gian nhà thuỷ tạ trên bến vắng tránh mọi sự dòm ngó chung quanh.
   Toà nhà thờ họ Thân ở cô lập giữa một khu vườn rộng, cây cối sầm uất, sát cạnh bờ sông Hương, thường ít ai lui tới. Ông Hầu giao du rất thận trọng, thường chỉ làm bạn với bồn hoa trước sân vá tập Đường Thi trên án sách, quanh năm sống cách biệt cùng bà vợ công chúa giữa khu làng thơ mộng Nguyệt Biều.
   Bất ngờ sống giữa cảnh trí bình lặng, cổ kính, sau những biến động kinh hoàng, Lệ cũng đâm lây không khí trầm tĩnh của đôi vợ chồng già quý phái. Nhưng đến đêm, tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga từ bên kia sông, tiếng hò mái đẩy của đò nguồn về, tiếng nết lanh canh rộn rịp trên sông, làm cho lòng dạ Lệ bồn chồn, buồn nhớ mênh mông. Tâm hồn lãng mạn, bản chất phóng túng thích hoạt động của Lệ trái ngược hẳn với không cảnh nhàn nhã lặng lờ thâm nghiêm nơi đây làm Lệ có cảm tưởng là mình như kẻ bị đi đày, bị giam lỏng, trong khi nhựa sống đang dào dạt trong người. Có khi suốt ngày, Lệ không hề mở miệng nói một câu, không hề tiếp xúc với một ai từ hôm nàng đến, trừ ra hai bữa ăn, chuyện trò qua loa với ông bà Hầu.
    Những tin tức rời rạc và thời cuộc từ kinh thành, thỉnh thoảng nghe ông Hầu kể lại, không giúp Lệ biết được rõ tình thế bên ngoài.
Nàng chỉ mơ hồ nhận thấy biến chuyển của phong trào qua những cuộc hội họp, đổi thay ở xã địa phương, những tấp nập của dân làng kéo đi mít-tinh, biểu tình xuống tỉnh, những buổi tập dượt quân sự của thanh niên nam nữ, biến thành tự vệ, dân quân. Và những đoàn thể phụ lão, thanh niên, thanh nữ, thiếu nhi cứu quốc xuất hiện đồng thời với nhiều danh từ mới mẻ.
   Bao nhiêu biến đổi ấy, Lệ nghe ông Hầu kể lại, vẳng đến tai nàng như những vang bóng của một cuộc sống đang đảo lộn mà Lệ đã bị gạt qua một bên lề.
   Lệ nóng lòng trở về Hà Nội, mong tin tức nhà chồng, song chưa biết cách nào liên lạc được. Một hôm, theo lời yêu cầu của Lệ, ông Hầu nhờ một người trong họ xuống qua nhà cụ Thượng Ngô ở Phú Cam, lúc trở về cho hay là thấy có tự vệ canh gác ở cửa, nên không dám vào.
   Lệ muốn viết thư cho chồng và ông bà Trạng Trần Văn Chương ở Hà Nội, song lại sợ thư từ bị kiểm soát, rồi lộ tông tích, nên không dám gởi đi.
Trong cảnh sống cô lập, lo buồn, hồi hộp kéo dài, Lệ đâm ra chán ngán, đôi khi muốn nảy ra ý tưởng cải trang đánh liều ra đi, phó mặc cho may rủi. Ông Hầu phải khuyên can, nói rõ những nguy hại có thể xảy ra mới làm cho Lệ thôi tính chuyện liều lĩnh.
   Song những ngày đêm chờ đợi nặng nề, dài dặc đối với Lệ cũng như những tháng năm tù hãm dồn ép khiến nàng chỉ nghĩ đến sự ra đi.
   Lệ bày ra bói bài tây, nhờ ông Hầu giải lá số tử vi, xem tướng, đoán coi tương lai vận mạng ra sao rồi nàng ra di có bị trắc trở gì không.
   Ông Hấu biết Lệ tin lý số và không muốn cháu mình dấn thân phiêu lưu nên sau khi nhận xét tử vi, bảo nàng:
- Chảu đang gặp vận hạn, có qua khỏi cũng mất vài ba tháng nữa. Trong lúc này, cháu đang bị các sao xấu chiếu mệnh, nên tránh chuyện đi đường sá không hay. Số nói như vậy, cháu không nên cưỡng lại. Hơn nữa, tình hình đang lôi thôi chưa ra sao cả, cháu đừng nóng lòng ra đi, không được đâu. Cháu ở lại đây một ít lâu, đợi coi thời cuộc ngã ngũ thế nào dã, rồi hãy liệu.
   Lệ vâng dạ, nhưng đêm đến nằm một mình trong cô đơn, buồn tẻ xa vắng, nàng lại bị ám ảnh bởi những ý nghĩ muốn đi. Tiếng ễnh ương ngoài đồng kêu lên buồn bã sau buổi chiều mưa giông đến tai Lệ như những tiếng thúc giục lòng dạ nàng đang như nung, như đốt. Lệ nghĩ phải sống chịu đựng những ngày tháng u buồn ngấm đến da thịt như thế này thì nàng đến cũng hóa dại. Tiếng chuông tối chùa Thiên Mụ trầm buồn tha thiết vào tận đáy lòng khiến Lệ muốn gào thét, phá phách để sống. Mới hai mươi tuổi, Lệ đang dào dạt sinh lực, nàng có thể nào kéo dài thêm nếp sống lẻ loi, lạnh lẽo, bị đẩy ra bên lề cuộc đời?
   Nàng đã làm gì nên tội đến đỗi phải chịu đày ải vào cảnh trơ vơ cô độc như thế này! Những ý nghĩ phẫn uất nung nấu khơi dậy nỗi niềm ấp ủ trong lòng nàng bấy lâu: ra đi! Mong muốn ra đi bám chặt lấy đầu óc Lệ, thôi thúc nàng mau từ giã chốn bình lặng triền miên mà đời sống như lún ngập đến độ không thể chịu đựng được nữa.
   Lệ nhất quyết sáng ngày sẽ ra đi sau hai mươi hôm lẩn tránh: suy nghĩ hằn học cho đến gà gáy mới chợp mắt.
   Mai lại, đang lúc ông bà Hầu ngồi uống trà Tàu ướp hoa mộc ở nhà thì thấy một cô gái quê từ trong nhà đi ra, nhìn kỹ lại mới nhận ra Lệ. Nàng đã mượn chiếc áo trắng dài, nối một nửa tay của người tớ gái, mặc quần vâi đen và đội chiếc nón lá cũ, cắp một cái rổ bên hông, đi chân đất, trông bề ngoài y hệt một cô gái quê xứ Huế đi chợ.
- Thưa ôn, mệ, cháu đã nhất quyết rồi. Cháu nhớ ơn ôn, mệ mãi mãi, thương cháu mà cho cháu ở lại đây bấy lâu nay. Bây giờ ôn, mệ cho phép cháu được ra đi, để về Hà Nội với ba má cháu. Cháu nhớ nhà quá!
   Lệ xúc động, nghẹn lời nói, trong lúc bà Hầu rơm rớm nước mắt, ông Hầu im lặng bước lên nhà trên, rồi trở xuống, đưa cho Lệ một ít giấy bạc.
- Cháu đã nhất quyết, ôn, mệ cũng đã nói hết lời để giữ cháu lại mà không được. Cháu cầm lấy một ít tiền của ôn, mệ cho để đi đường. Biết cháu cũng không thiếu mô, cháu nhận đi cho ôn, mệ vui.
   Lệ cảm động, rưng rưng nước mắt, chắp tay vái ông, bà Hầu để ra đi. Ông Hầu tiễn cháu ra tới cửa, trìu mến nhìn Lệ nói:
- Coi cháu ăn mặc như rứa, ai cũng phải lầm là gái làng Nguyệt Biều xuống phố đi chợ Đông Ba. Nhưng cháu đi chân đất không quen, xuống tới mô có xe tay thì kêu mà đi kẻo đường đất xa, phỏng chân nghe không cháu.
    Lệ tính bụng không đi thẳng đường bên này sông xuống ngay Phú Cam, vì sợ ban ngày có người ở các chặn canh gác quen mặt nhận ra nàng chăng, nên ra quá Sở vôi Long Thọ, nàng xuống đò ngang qua phía Kim Long? Lần đầu tiên phải đi chân đất, Lệ không khỏi từng lúc thấy nhói ở lòng bàn chân và giẫm phải đá nhọn hay sỏi trên đường. Nàng bước đi thong thả, mỗi lúc thấy có người thì lấy dáng gái quê, đánh tay đằng xa. Qua khỏi trạm canh ở bến đò đặt chân lên đất Kim Long, Lệ thấy mạnh dạn thêm, rảo bước đi, mặc dầu thấy đau ở cả hai bàn chân vì quãng đường tráng dầu đã bị mưa nắng xói mòn nhiều đoạn lởm chởm đá nhỏ như đâm vào da thịt. Lệ tìm lối mòn sát cỏ bên vệ dường cho dễ đi mau. Quá chợ Kim Long, đến đầu quãng gần nhà thờ, Lệ nghiêng nón che nắng dọi một phía bên mặt, đi chậm lại vì đã vượt hơn bốn cây số, bắt đầu thấy mỏi chân. Lệ đang nhìn xuống mặt đường để tránh sỏi đá, bỗng nghe tiếng gọi từ bên lề vọng ra.
- Đứng lại! Cho coi giấy!
    Lệ giật mình nhìn lên, thấy mấy thanh niên cầm giáo mã tấu đứng trước điếm gác bên đường, vẫy gọi nàng.
Lệ cố làm vẻ thản nhiên, bước về phía điếm canh. Trong thoáng qua, nàng nghĩ rằng nếu mình đưa thẻ căn cước với hình ảnh và tên thật có thể bị lộ dạng trá hình gái quê, nên tươi cười nói với thanh niên cầm chiếc gậy vót nhọn đang chăm chú nhìn mình:
- Tôi đi chợ Đông Ba mà, giấy tờ chi?
- Đi đâu lúc ni cũng phải có giấy má cả. Đồng chí ở mô mà không xin giấy của chủ tịch xã?
Lệ hơi chột dạ, song cố bình tĩnh đáp:
- Tôi ở Nguyệt Biều, có giấy, nhưng sáng nay thay áo vội đi chợ nên quên mang theo.
   Một tự vệ ngồi ở trong điếm đưa mắt ngắm nhìn Lệ, nói vọng:
- Lần này thì cho đồng chí đi, chớ lần sau không được mô!
Lệ tươi cười:
- Cám ơn đồng chí!
Rồi rảo bước đi mau. Song nàng vừa quay lưng ra thì thanh niên hỏi giấy gọi giật lại:
- Này, mang đồ chi ở trong mủng, đưa coi!
Lệ bắt buộc phải đứng lại, mở ra cho thấy gói quần áo. Gã tự vệ sục sạo thấy áo dài tân thời, quần lụa trắng liền hỏi:
- Đồ này của chị hay của ai đây?
Lệ lanh trí trả lời:
- Quần áo của cô tôi bảo đưa xuống phố chợ cho thợ may làm mau.
Chiếc khăn tay buộc giấy bạc và thẻ căn cước của Lệ bị mở tung, gã tự vệ lật đật ra xem, trông thấy ảnh dán ở căn cước, rồi nhìn lại mặt Lệ, tỏ vẻ ngờ vực:
- Có phải bóng của chị đây không?
Lệ chưa kịp đáp thì thấy gã vào điếm, cầm tờ căn cước để nhờ xem.
Lệ chưa kịp đáp thì thấy gã vào điếm, cầm tờ căn cước để nhờ xem.
- Đồng chí coi giấy tờ ni ra răng đây?
Thanh niên chăm chú nhìn ảnh, đọc một hồi lâu, đoạn bước ra nghiêm giọng hỏi Lệ:
- Căn cước của chị đây phải không?
Lệ ấp úng nói:
- Phải.
Giữa lúc ấy, từ con đường nhỏ phía bên kia điếm canh, một người đàn ông đi ra, gã tự vệ đứng nghiêm chào rồi nói:
- Thưa đồng chí, em vừa xét hỏi chị này thấy có vẻ khả nghi lắm, trình đồng chí giải quyết.
Gã đàn ông xem giấy căn cước Lệ, nhìn nàng im lặng, rồi lạnh lùng nói:
- Mời cô về Uỷ ban.
Lệ bắt đầu lo sợ, nhưng cố thản nhiên nói:
- Tôi có việc cần xuống phố, các ông cho tôi đi kẻo trễ.
Gã đàn ông lầm lỳ ngắt lời:
- Không được, tôi được lệnh đề phòng Việt gian, mà coi giấy tờ cô có điểm khả nghi, mời cô về Uỷ ban cho hỏi đã.
    Lệ đành phải theo gã đàn ông và người tự vệ cầm gậy gộc đi sau nàng, theo con đường nhỏ đưa vào làng.
   Đến một ngôi đình, gã đàn ông bảo Lệ đứng đợi, trước những cặp mắt tò mò của mấy người đang ngồi ở bàn giấy Uỷ ban.
   Gã đàn ông mở một cặp giấy ra, lục lạo một hồi, rút ra một công văn rồi lấy giấy căn cước của Lệ đối chiếu, đoạn vẫy nàng đến gần hỏi:
- Cô tên là Trần Thị Lệ Xuân?
- Vâng.
- Vậy có phải cô là dâu của nhà họ Ngô không?
Biết khó thể chối cãi được, Lệ gật đầu.
- Cô ăn mặc quần áo như kia để trá hình phải không?
Trước sự im lặng của Lệ, gã đàn ông lạnh lùng nói:
- Chúng tôi có giấy tập nã cô, phải giữ cô lại đây để đưa lên tỉnh.
                                    ***
Trong giờ phút Lệ bị giữ lại Kim Long, ở Hải Phòng, hạm đội Pháp do tướng Valluy đứng đầu chiến hạm Triomphant đang tiến vào Cửa Cấm.
Dân thành phố Hải Phòng vừa trông thấy đoàn tàu chở quân đội Pháp ló dạng, tướng Mã Châu Vương Hổ Hán chỉ huy quân đội tiếp thu Trung Hoa tại hải cảng, ra lệnh cho trọng pháo đặt trên bờ nhả đạn.
   Một trận mưa đại bác tuôn xuống các chiến hạm Pháp, chiếc Triomphant dẫn đầu cũng bị trúng đạn bốc cháy.
    Bị tấn công bất ngờ, hải quân Pháp vừa lái cho tàu nấp vừa bắn trả lại. Kho súng đạn ở bến tàu, chiến lợi phẩm của tướng họ Vương sắp trở về Mãn Châu bị nổ tung, bốc cháy vang dội cả hải cảng.
   Đến gần 11 giờ, tiếng đại bác đôi bên ngừng nổ, sau cuộc tiếp xúc điều đình.
    Hà Nội được tin xung đột dữ dội ở Hải Phòng, Nhu đến nhà bố mẹ vợ nghe ngóng tin tức.
    Ông bà Trạng Trần chạy đi gần suốt buổi chiều, đến lúc năm giờ trở về nhà, gặp Nhu và Diệm đang ngồi đợi ở phòng khách.
   Ông Trần lộ vẻ thất vọng, mệt mỏi ngồi phịch xuống ghế.
- Họ ký kết với nhau rồi.
Bà Trần tiếp lời:
- Ông cố vấn Vĩnh Thuỵ cho hay rằng hồi 4 giờ, trước sự có mặt của các quan sát viên Anh, Mỹ và Trung Hoa, Sainteny đại diện cho Pháp, ông Hồ Chí Minh và ông Vũ Hồng Khanh đại diện cho Việt Nam đã ký kết một hiệp định sơ bộ.
Diệm hỏi:
- Như vậy là Việt Minh bắt tay với Pháp và lôi cuốn cả Việt Nam Quốc dân Đảng theo nữa?
Ông Trần đáp:
- Nguyễn Tường Tam lánh mặt để khỏi ký kết vào hiệp định 6 tháng ba này, và nghe đâu Việt Quốc đưa ra đề nghị gởi một phái đoàn thân hữu đi Trùng Khánh: Có lẽ cố vấn Vĩnh Thuỵ sẽ cầm đầu đi gặp Tưởng Giới Thạch và tướng Mac Arthur tại đây để yêu cầu Tàu và Mỹ ủ ủng hộ.
Nhu chua chát nói:
- Ủng hộ Việt Minh hay Việt Quốc? Việt Minh mà đi đôi với Pháp để củng cố vững rồi thì chúng sẽ quay lại "thịt" những ai chống đối cộng sản cho mà coi!
Diệm gật gù tán thành ý kiến của em:
- Chú Nhu nhận xét đúng: nếu tình thế này còn kéo dài, chúng ta sẽ khó sống với họ lắm.
Nhu lên tiếng:
- Tình thế này tôi nghĩ không thể kéo dài được, vì không có ai thực lòng cả. Pháp vẫn tiếp tục đánh chiếm lại gần hết trong Nam, và đang dự định lập một chính phủ Nam Kỳ tự trị. Phe quốc gia cũng không thú gì cái hiệp định này đâu. Trước sau họ cũng phải phá cái thế Việt Minh đi đôi với Pháp, không thì nguy về sau, sẽ bị Việt Minh loại trừ dần. Trong lúc này Việt Quốc và Cách mạng Đồng Minh còn có thể nhờ cậy được vào quân đội Trung Hoa, nếu họ không sớm ra tay phá cái thế giữa Việt Minh với Pháp để giành ảnh hưởng thì ngồi khoanh tay chờ tiêu diệt à?
Ông Trần lắc đầu:
- Tôi sợ là Việt Minh họ khôn khéo quá, Pháp thì lo thoả hiệp để tống quân đội Trung Hoa đi, mấy ông tướng Tàu xem chừng dễ bị mua chuộc lắm, nếu các Đảng Việt Quốc và Đồng Minh lừng chừng không chịu sớm ra tay thì khó tránh khỏi các hoạ anh vừa nói đó. Rồi lây đến cả chúng mình nữa. Ông Diệm đây thì bị tiếng là quan lại, tôi thì họ cho là đã hợp tác với Nhật…
- Các ông lo như thế, nhưng đã liệu được lối thoát cách nào chưa?
Anh em họ Ngô và ông Trạng Trần Văn Chương nhìn nhau im lặng.
                                 ***
Lệ ngồi im đợi từ sáng đến trưa ở đình Kim Long, không thấy ai hỏi han gì đến, trong khi các nhân viên Uỷ ban xã lui tới, các tự vệ vô ra như đã quên sự có mặt của nàng. Gã đàn ông giữ giấy căn cước và bảo Lệ ở lại đi đâu mất. Lệ bồn chồn lo ngại, mấy lần hỏi đến một thanh niên có lẽ là thư ký hành chánh thì chỉ thấy y trả lời:
- Tôi không rõ việc này. Cô đợi một chút rồi có người giải quyết.
    Lệ đợi quá trưa, mọi người đã lần lượt ra về, chỉ còn lại hai tự vệ giữ trật tự ở lại canh chừng nàng. Tiếng súng nổ mười hai giờ ở dưới thành vẳng lên, tiếng chuông nhà thờ gần đó đổ được một lúc, Lệ thấy gã đàn ông đến, bảo một người tự vệ đưa nàng đi theo.
   Quanh co theo trong đường xồm, Lệ đi vào một ngôi nhà gạch nhỏ lợp tranh, giữa khu vườn rộng. Gã đàn ông lạnh lùng bảo nàng:
- Cô tạm ở đây, có người mang cơm đến cho ăn, trong khi chờ nhân viên đưa cô xuống tỉnh.
- Tôi có tội gì mới được chớ?
- Có tội hay không, hồ sơ của cô đang được xét đến. Tôi sẽ cho cô biết.
    Lệ không kịp hỏi thêm thì gã đàn ông lầm lỳ bước ra ngoài, dặn dò thanh niên tự vệ đeo mã tấu và lựu đạn giắt ở thắt lưng, rồi bỏ đi.
   Giữa một căn nhà vắng, với người canh giữ thấp thoáng bên ngoài. Lệ trơ vơ cảm thấy mình bị giam lỏng, không biết rồi sẽ ra sao.
   Tiếng hát ru con và tiếng võng kẽo kẹt trong trưa vắng ở nhà vườn gần đó đưa đến tai Lệ, buồn bã, mênh mông như số phận nàng. Lệ bỗng dưng thấy mệt mỏi lạ thường, nằm vật xuống tấm phản giữa nhà. Một thanh niên bưng đến một mâm gỗ cơm gạo đỏ và một đĩa cá khô. Tuy đói nhưng Lệ không ăn được vì lo lắng, uất ức. Nàng nằm nhìn ra vườn vắng vẻ, lan man nghĩ ngợi, trong khi nắng chiếu ngả dài trên nền nhà. Tiếng nghêu ngao một bài hát mới của thanh niên ngồi ở trước cửa lôi kéo Lệ trở về thực tại. Lệ đứng lên mon men đến gần hỏi chuyện.
   Qua câu trả lời của người dân quê trẻ tuổi, Lệ mới hay rằng người ta nhìn nàng là một tay lợi hại, thuộc gia đình Việt gian, đã bị lên án xử tử.
"Xử tử! Việt gian!".
   Những tiếng mới mẻ rùng rợn nhắc đến tai Lệ khiến cho nàng đâm hoảng sợ. Người thanh niên tự vệ có vẻ bí mật tiết lộ cho Lệ biết:
- Nay mai Tây sắp trở lại Huế, cho nên chúng tôi được lệnh bắt giữ hết thảy Việt gian với những kẻ bị tình nghi.
Thấy Lệ có vẻ thích nghe chuyện, gã tự vệ kể lể:
- Ở Huế như ri là hiền lắm, chớ trong Quảng Ngãi, hễ Việt gian là bị đem ra "phay" liền.
- "Phay" là làm gì?
Người thanh niên cười ngất trước câu hỏi có vẻ bất ngờ của Lệ:
- Cô không biết "phay" là gì à?
Rồi đưa tay cầm chiếc mã tấu để lên cổ:
- Chém! "Phay" là chém bay đầu! Ở đây gần trường chém ngày xưa là An Hoà, mà chưa có phay cái đầu nào là hiền quá.
Người thanh niên nhìn Lệ rồi nói một cách hồn nhiên:
- Người đẹp như cô mà bị "phay" là uổng lắm. Có giao cho tôi, tôi cũng không nỡ.
   Tự dưng Lệ thảy nổi rợn người, lạnh cả gáy, cho là một câu nói gở đối với mình, liền quay vào. Nàng thấy hối hận đã không nghe lời căn dặn của ông, bà Hầu để đi liều lĩnh mới ra nông nỗi này. Lệ nghĩ rằng mình không thể chết oan uổng được, song nhớ đến việc ông anh chồng cùng con trai đã bị xử tử, nàng đâm hoang mang, tính đến cách chạy trốn. Sự canh giữ không gắt gao, đối với nàng lúc này, nếu đến đêm mà vẫn thế, Lệ sẽ gạt gẫm anh chàng này, rồi lẻn đi. Tối lại, Lệ vẫn không thấy có ai hỏi han gì và một người khác đã đến thay phiên canh chừng nàng.
Sau bữa ăn, người ta thắp một đĩa dầu lạc đặt ở chiếc bàn con giữa nhà. Trong ánh sáng lung lay, chập chờn của ngọn bấc, Lệ còn lại một mình, sau khi cánh cửa chống hạ xuống. Bên ngoài hè nhà hình như có thêm người gác, theo những tiếng nói chuyện vẳng đến tai Lệ.
   Nàng nằm nhìn ngọn đèn, trong lòng rối loạn, trằn trọc không ngủ được. Gần khuya, Lệ bỗng nghe có tiếng chân đi đến, tiếng quát hỏi của ai đó rồi tiếng nói xì xào, tiếng chân mạnh bước xa dần.
   Cánh cửa sập hé mở ra, một gã thanh niên lách mình vào. Lệ ngồi phắt lên!
- Tôi đến cho cô hay là nay mai phải giải cô về Huế. Tội trạng của cô, cũng như một số người bị tình nghi Việt gian phải đưa vào Quảng Ngãi.
Lệ hoảng hết nghe nói đến Quảng Ngãi, vội hỏi:
- Sao lại đưa tôi vào Quảng Ngãi?
Gã hạ giọng:
- Sắp có quân đội Pháp đến Huế, nên có biện pháp đề phòng phải đưa tất cả những kẻ phản động chính trị vô Quảng Ngãi. Cô cũng có tên trong danh sách đó.
   Lệ lặng người đi, tưởng chừng như nghe lời tuyên án tử hình.
   Gã thanh niên đoán hiểu tinh thần bấn loạn, kinh hoàng của Lệ, lên tiếng khuyên nhủ:
- Cô là đàn bà, nhưng vô đến Quảng Ngãi gặp trường hợp người ta đòi xử, cô có thể yêu cầu trì hoãn bằng cách khai là cô đang có thai. Người ta không giết cả mẹ lẫn con còn trong bụng mẹ đâu. Đã có tội nhân có chửa được kéo dài ngày tử hình cho đến lúc sanh đẻ và rồi được cứu xét tha về. Trường hợp của cô cũng có thể giảm khinh bằng cách tôi vừa bày vẽ cho cô. Cần làm sao cô phải có chửa mới được.
Lệ thực tình hỏi:
- Thế độn giả to bụng có được không.
- Độn giả to bụng, chỉ có thể đánh lừa người ta trong một thời gian thôi, chớ kéo dài sao được, mà để lộ ra thì nguy lắm. Cô nên nghĩ lại mà tính cho kỹ mới được. Đây là việc quyết định cả tính mạng của cô.
   Thái độ tử tế bất ngờ của gã thanh niên tự vệ khiến Lệ đâm ra nghĩ ngợi. Hắn đã giữ nàng lại, để cho nàng sắp phải giải đi Quảng Ngãi, rồi bây giờ lại tính kế muốn giúp cho Lệ trì hoãn khỏi mất đầu trong trường hợp bị đưa ra hành quyết. Như vậy là hắn hối hận hay có dụng ý gì khác, khi đưa ra sáng kiến khuyên nàng có thai, trước nguy cơ đe đoạ ở ngày mai.
   Lệ để ý đến cái nhìn khó hiểu của gã thanh niên đang chú trọng đến mình và nghe hắn đề nghị:
- Tôi có thể cứu cô ra khỏi cơn nguy nan này, cứu được cả tính mạng của cô nữa…
Đợi cho Lệ bị thu hút bởi cáu nói cứu nguy bất ngờ, gã tiếp tục:
- Chẳng những cô không thiệt gì, mà còn có dịp để khỏi chết nữa, miễn là cô chịu nghe theo tôi.
Lệ vẫn còn phân vân. chưa hiểu ý định của hắn muốn gì, nhưng rồi nàng thấy rõ lòng dạ của gã khi gã cầm lấy tay mình. Phản ứng đột ngột, tức giận mà Lệ cũng không ngờ ở nàng trong giây phút ấy là rút ngay tay ra và tát mạnh luôn một cái vào bộ mặt trơ tráo đang cúi xuống đính hôn Lệ.
   Đôi mắt lươn lờ đờ của hắn bỗng tóe lửa lên. Hắn cười nhạt, chụp lấy tay Lệ, rồi như một con thú dữ vồ mồi, vật ngã ngửa người Lệ xuống trên mặt ván, không nói một lời. Lệ vùng vẫy kháng cự được một lúc rồi yếu dần, bải hoải cả tay chân, mặc tình cho gã thanh niên chiếm đoạt…
Gã ngồi dậy, phát vào mông nàng mà nói:
- Hết vùng chưa! Sau này có gì thì phải nhớ là tôi có tài đúc con, tốt giống lắm, nghe không?
   Lệ nghe sự phô phang tự đắc của hắn mà điên tiết lên, muốn túm lấy mặt hắn cào xé cho đã nư, song nhìn lại thấy mình còn trần truồng, vội vớ lấy quần áo che thân.
Gã thanh niên bỗng đổi giọng, nói dịu dàng:
- Cô cũng không mất mát chi hết, mà còn thú vị nữa là khác. Để đáp lại tôi giúp cho cô được ra về nữa, có bằng lòng không?
Nghe nói được ra về, Lệ khấp khởi mừng rỡ, song cố giữ bình tĩnh hỏi lại:
- Sao ông cứ đùa giỡn với người đang khốn khổ lắm chi vậy? Không, tôi nói thiệt đó. Miễn là cô vui lòng ngủ với tôi đêm ni.
   Lệ nghĩ thầm là hắn lại muốn lừa gạt nàng để thoả mãn dục tính, nên vừa tức vừa ngại ngùng, vụt đứng lên, túm lấy ngực áo hắn nói:
- Ông vừa vừa với chớ, ông mới ức hiếp tôi, rồi lại định lừa dối tôi như con nít, tôi la lên cho mọi người biết thì ông tính sao?
   Thái độ, lời lẽ dữ dội của Lệ khiến cho gã thanh niên có vẻ hoảng, song hắn vẫn ôn tồn nói:
- Tôi nói láo với cô làm chi. Nếu không đúng sự thật, cô muốn làm chi tôi cũng chịu hết.
Lệ thoáng nghi ngại, cho là hắn giữ nàng lại, rồi doạ dẫm giải về Công an tỉnh và đưa đi Quảng Ngãi cốt để uy hiếp tinh thần nàng hòng dễ bề lợi dụng. Nhưng Lệ nghĩ lại rằng biết đâu người ta vẫn tầm nã nàng và hắn có thể để cho nàng trốn thoát được? Trong hư thực phân vân, Lệ còn đang lưỡng lự chưa biết nói sao thì gã thanh niên vẫn chòng chọc nhìn nàng, chồm lại, không nói không rằng, ghì riết lấy người Lệ. Hắn làm hỗn Lệ lần thứ hai, rồi đứng lên lấy chiếc áo dài che phủ lên thân hình nàng đờ đẫn nằm trơ vơ, đoạn nhấc cánh cửa không đi ra ngoài.
Một lát sau, hắn quay trở lại, bảo Lệ:
- Dậy, đi theo đây, tôi đưa cho ra đường cái mà về nhà, hay ngủ lại, đợi đến sáng mai?
Lệ như một cái máy, lồm cồm ngồi dậy, với lấy quần áo, rồi lặng lẽ theo bước gã thanh niên tự vệ.
Hắn đưa nàng đi quanh quất theo các đường xóm tối, rồi ra gần tới con đường lớn, hắn dừng lại đưa giấy tờ cho nàng thân mật vỗ vai noi:
- Thôi, đằng nớ tự do đi về nghe!
Rồi hắn vội vã quay vào biến mất trong ngõ tối. Lệ vừa mừng vừa sợ, hối hả bước ra đường cái đưa về thành phố, rảo đi mau. Được một quãng, gặp xe kéo, Lệ bảo chở xuống phố. Ngồi trên xe, gió đêm từ sông thổi lên mát rượi, Lệ tỉnh táo nghĩ đến những việc đã qua nhanh chóng, nhất là sự chung đụng xác thịt với ngã thanh niên mà đâm ra uất hận. Lệ cho là nàng đã bị hắn dối gạt để cưỡng bức, trong lúc nàng hoảng sợ, chớ thực sự Lệ không bị lùng bắt ghê gớm như đã tưởng. Lệ bỗng thấy nơi lòng mình tràn lên nỗi căm tức, uất hận kẻ dung tục đã lạm dụng xác thân nàng trong bước khốn cùng.
   Chiếc xe chạy đến cửa Thượng Tứ, người phu chậm bước lại, quay hỏi nàng đi về đâu, Lệ bảo kéo vào trong thành, đến đường bộ Tham.
   Tại đây, có nhà người bạn quen với chồng Lệ, đã từng liên lạc với Nhu và người anh cựu Thượng thư. Lệ trả tiền xe, mở cổng vào trước sự ngạc nhiên của ông bà Tham Hoàng Xuân Thông. Qua sự vồ vập mừng rỡ của vợ chồng bạn, Lệ kể lại các nỗi gian truân của mình. Hoàng Quân cho nàng hay vừa nhận được thư của Nhu từ Hà Nội nhờ dò hỏi tin tức Lệ cùng gia đình. Lệ được biết thêm là anh chồng nàng hiện cũng ở Hà Nội, sau khi được trả tự do và được mời tham gia chính phủ.
   Hoàng Quân nghe Lệ kể lại những việc hỏi giấy tờ, giữ nàng lại ở Kim Long, doạ giải về Công an tỉnh để đưa đi Quảng Ngãi, cho rằng đó chỉ là sự bắt nạt của nhân viên Uỷ ban xã.
   Hoàng Quân có nhờ một người bà con làm việc tại văn phòng công an Trung bộ dò hỏi về Lệ, cho hay rằng không có hồ sơ tầm nã Lệ, sau khi trốn khỏi nhà chồng. Việc canh giữ nhà họ Ngô ở Phú Cam cũng đã chấm dứt.
   Lệ nghe bạn chồng nói mà đâm ra tức giận, hổ thẹn vì đã mắc bởi gã thanh niên tự vệ khéo bịa chuyện để hăm doạ, cưỡng bức nàng.
   Nhớ lại sự tình ấy, Lệ uất ức, nghẹn ngào tức tưởi kể cho bà Hoàng nghe, mong tìm cách trả hận kẻ đã bắt nàng trải qua những giờ phút hoảng sợ, nhục nhã.
Bà Hoàng chỉ biết vỗ về Lệ:
- Thôi, chị đừng nghĩ đến việc đó nữa. Chẳng qua chỉ là sự rủi ro trong thời loạn. Tôi chắc cái thằng gạt cô cũng là những loại lưu manh cơ hội lợi dụng tình thế rối ren để mà kiếm chác này nọ. Lần sau thì phải tỉnh táo mới được.
   Sáng hôm sau, Lệ thuê xe về Phú Cam, gặp lại bà mẹ chồng đã trở nên ngớ ngẩn kể từ ngày hay tin người con cả cùng cháu nội đích tôn bị Việt Minh giết. Bà cụ Thượng Ngô cười một cách khờ dại, không biết là con đâu mình vừa trải qua nguy khốn, nói những câu lững lờ không đâu. Luôn mồm bà hỏi:
- Tháng Tổng đốc sao ở Quảng lâu không thấy ra? Thằng Thượng đi đâu không về thăm tao? Thằng Nhu, thằng Luyện, con út của mạ làm việc đâu mà không thấy về qua nhà? Còn thằng Thục hắn làm giám mục rồi quên mạ nó hay răng mà biệt vô tăm tín rứa?
   Lệ không khỏi nhói đau lòng trước cảnh bà mẹ già trông đợi các con trai. Cẩn cho nàng hay là vừa được tin Nhu cùng Diệm ở Hà Nội.
   Cậu em út là Luyện đã bỏ sở Đặc điền ở Quảng Nam đi vào Nam, sau khi hay tin ông anh cả bị xử tử. Giám mục Thục người anh thứ hai vẫn cai quản một địa phận ở Vĩnh Long, không có tin tức gì.
   Hai bà chị chồng hay tin Lệ trở về vội đến thăm, tỏ ra quên những tị hiềm cũ đối với em dâu vừa trải qua cơn khốn khó.
   Hôm sau Lệ trở ra Hà Nội.
Nàng về đến nhà cha mẹ vào lúc bà Trạng đi Gia Lâm tiễn đưa cố vấn Vĩnh Thuỵ ở trong phái đoàn thân hữu đáp máy bay Mỹ sang Trùng Khánh.

Chương 7

Những ngày tản cư


Đồng hồ trên tường vừa gõ tám tiếng, Lệ đang khoe với chồng chiếc áo nàng mới lấy về để mặc vào lễ Giáng Sinh tuần tới, bỗng thấy đèn điện vụt tắt. Tiếp theo là tiếng nổ lớn, rồi nhiều tiếng súng nhỏ, liên thanh, lựu đạn vang ầm, chuyển động cả Hà Nội. Nhu bảo vợ:
- Đánh nhau rồi!
Quẹt diêm thắp ngọn nến cắm lên bàn, Nhu thấy Lệ lo ngại hỏi:
- Chúng mình tính sao đây?
Tiếng súng nổ giòn rất gần. Lệ đến cửa sổ nói:
- Nếu đánh nhau kéo dài thì Nô-en này mất vui rồi.
Lệ gấp lại chiếc áo có vẻ tiếc rẻ, thấy Nhu lúi húi xếp mấy cuốn sách ở bàn, liền hỏi:
- Anh định chạy à?
- Nếu đánh nhau kéo dài ở thành phố thì cũng đến lúc phải chạy thôi.
Lệ nói có vẻ trách móc:
- Anh tính chạy sao không liệu trước, có phải em chở đi được nhiều đồ đạc không. Mấy hôm người ta chộn rộn đi tản cư, em có hỏi, anh lại bảo cứ đợi xem sao đã.
- Anh nghĩ là tình hình chỉ găng thế thôi, chớ không đến nỗi xảy ra chiến tranh.
- Thế anh cho là vừa rồi bên nào nổ súng trước?
Nhu chưa kịp trả lời, chợt nghe tiếng loa của tự vệ kêu ở ngoài đường:
"Yêu cầu đồng bào tản cư! Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu! Yêu cầu đồng bào tản cư ra khỏi thành phố!"
Tiếng loa vang xa dần giữa những tiếng súng mỗi lúc mỗi dồn dập thêm lên trong đêm tối mưa rét.
Lệ tỏ vẻ luống cuống khiến Nhu cũng mất dần bình tĩnh.
- Bây giờ chúng mình có thể đến nhà ba mẹ được không?
- Chỗ ba mẹ ở nằm trong khu vực phố Tây, gần nhà ga, chắc bắn nhau dữ, đến làm sao được? Có đi đâu cũng phải đợi đến sáng ngày, chứ giữa đêm hôm mới bắt đầu đánh nhau, đạn lạc nguy hiểm lắm.
Lệ lăng xăng với mớ quấn áo và đồ trang điểm cho vào va-ly bảo chồng:
- Em định nếu sáng mai không đến nhà ba mẹ được thì vào Hà Đông, ở nhờ nơi trại cụ Thiếu…
- Ừ, hay là chúng ta vào khu Nhà Chung có anh Thượng đang ở đấy Anh cho là đánh nhau không lâu đâu. Việt Minh không đủ sức chống nổi lại Pháp. Mình đi xa Hà Nội, ra ngoại ô, dễ gặp chuyện rầy rà lắm.
Lệ nhớ đến lấn nàng ẩn lánh về quê ngoại ở Huế mà sợ, nên tán thành ngay ý kiến của chồng.
- Anh tính phải, nếu chúng mình không đến ở nhà ba mẹ được thì từ phố Đường Thành này đi vòng ra lối Hàng Bông rồi sẽ đến Nhà Chung.
Tiếng súng ầm ì nghe khắp tứ phía và từng lúc đạn bay véo ngang trên mái nhà khiến Lệ lại ngồi sát bên chồng.
Bóng hai vợ chồng in chập chờn lên vách phố lầu trơ vơ. Nhu hé cửa sổ nhìn ra ngoài trời đêm tối, từng lúc lóe lửa đạn trên nền thành phố.
Giữa lúc Nhu đang ngắm nhìn Hà Nội đắm chìm trong khói lửa thì các đoàn chiến xa Pháp rầm rộ chạy đi trợ chiến các vị trí yếu điểm đang bị tấn công. Hồi 6 giờ chiều, một người Pháp lai, nhân viên của sở Phản gián đặc biệt, Fernand Petit mấy tháng nay trà trộn trong tự vệ thành và quân đội Việt Minh… đã chạy đến Bộ tham mưu Pháp hốt hoảng báo động Việt Minh sẽ tấn công đêm nay. Tự vệ thành và ba sư đoàn đã nhận được lệnh!
Những tin tức cấp báo loại này Bộ tham mưu Pháp đã nhận được từ mấy hôm nay, trong tình thế khẩn trương Pháp - Việt tại Hà Nội, song lần này họ đề phòng cẩn thận, gọi tất cả binh sĩ vào ở trong thành, chuẩn bị chiến đấu. Các đoàn chiến xa đến chiếm dõng các trục giao thông, chờ quân sĩ đối phương.
Trước giờ nổ súng, không khí thủ đô Hà Nội đã sôi sục lên từ hôm quân Pháp gây sự, đánh chiếm Hải Phòng và trọng pháo từ chiến hạm nã lên đất cảng, đốt phá nhà cửa, tàn sát thị dân bất kể già trẻ, trai gái, đánh chìm thành phố lớn miền duyên hải trong biển khói lửa, sặc nồng mùi máu. Dân chúng tản cư chạy trên con đường đi Đồ Sơn và Kiến An bị chiến hạm Suffren nã đại bác giết người như phát cỏ; xác chết của đàn bà, trẻ con, ông già, trai tráng nằm ngổn ngang la liệt phơi thây, máu trộn với bụi đường.
Kế hoạch gây hấn của Cao uỷ Pháp ở Sài Gòn muốn dùng võ lực để tái chiếm lại miền Bắc như đã thí nghiệm có kết quả tại miền Nam đang được xúc tiến gấp rút và không khí căng thẳng của phe chủ chiến Pháp được nhem nhúm lên cực độ. Chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ giây phút nào, không ai có thể ngăn ngừa được nữa.
Tại biệt thự ông bà Trạng Trần Văn Chương, hai vợ chồng đang bàn tính ở lại hay tản cư thì thấy cựu Thượng thư Ngô Đình Diệm đến để hỏi tin tức.
Ông Trần nói:
- Tôi hay tin là ông Võ Nguyên Giáp vừa gởi kháng cáo ra lệnh cho binh sĩ, tự vệ thành sửa soạn chiến đấu, và mọi công việc chuẩn bị phải xong trong ngày 12 này. Tổng bộ Việt Minh thì kêu gọi dân chúng sẵn sàng đợi lệnh của chính phủ. Họ còn thúc giục cho dân chúng tản cư, công chức đưa vợ con đi, trong khi những thanh niên ở lại lo đào hầm, đặt chướng ngại vật khắp nơi.
Diệm nói:
- Tôi cũng được tin là Công an Việt Minh đang mở nhiều cuộc lùng bắt những người họ nghi là thân Pháp hay chống lại chính phủ. Nhiều đảng viên Việt Quốc đã bị họ bắt đi, tôi sợ rồi Việt Minh họ cũng không tha, nếu tình thế này kéo đài. Ông tính là có thể tránh khỏi xung đột không?
Ông Trần có vẻ suy nghĩ rồi thong thả đáp:
- Tôi nhận thấy khó khăn lắm. Vì người Pháp ở đây họ chủ trương dùng giải pháp võ lực. Theo chỉ thị của d Argenlieu, tướng Valluy gởi cho ông Hồ Chí Minh một thông điệp có tính cách như một tối hậu thư, đòi binh sĩ và tự vệ Việt Minh phải rút khỏi Hải Phòng. Như vậy có khác nào buộc đầu hàng đâu, tôi chắc là Việt Minh không đời nào họ chấp nhận. Trong khi đó thì nhiều cuộc xung đột xảy ra ở nhiều nơi: một tiểu đoàn Lê dương tự tiện đổ bộ lên Tourane, tự vệ thành Hà Nội và binh sĩ Pháp bắn nhau, lính nhảy dù SAS lục soát các khu người Việt ở, súng và lựu đạn thi nhau nổ, xô xát cứ thế mà tiếp diễn. Việt Minh họ lo ngại Pháp làm lại cú Hải Phòng, giữa lúc có tin nội các Leon Blum phái Cao uỷ d Argenlieu trở lại Đông Dương. Sainteny, người Pháp độc nhất có cảm tình với Việt Minh vừa rồi cũng ra lệnh quét sạch một ổ tự vệ thành, đã xô xát với một chiếc xe nhà binh Pháp đi chợ Đồng Xuân; trước tình thế nguy ngập từng giờ từng phút làm sao tránh được chiến tranh?
Một ông bạn nhân viên cao cấp trong chính phủ sáng nay cũng vừa khuyên tôi nên rời khỏi Hà Nội và cho hay là binh lực Việt tập trung tại Thủ đô và chung quanh đã được lệnh sẵn sàng. Chưa biết giờ họ quyết định vào lúc nào, có lẽ đêm nay cũng nên. Một người bạn công sứ cũ cũng nói cho tôi biết là Bộ tham mưu Pháp nhận được tin tức rằng ông Võ Nguyên Giáp đã tập trung chung quanh Hà Nội ba sư đoàn, mỗi sư đoàn gồm 10.000 người, một đóng ở Hà Đông, một ở gần trường đua và một ở cạnh sông Cái và Hồ Tây. Đến giờ nổ súng họ sẽ đánh chiếm thành Tây, còn tự vệ Thành có nhiệm vụ bắt những thường dân Pháp. Ý định của ông Võ Nguyên Giáp là muốn quét sạch người Pháp trong một đêm, như kiểu đảo chính mồng 9 tháng ba của Nhật vậy. Theo đó tôi thấy nguy cơ chiến tranh gần quá. Chúng tôi cũng tính đến phải tản cư, tạm tránh Hà Nội kéo họ đánh nhau, mình ở giữa vùng lửa đạn, nguy hiểm lắm. Còn ông đã định ra sao chưa?
Diệm đáp:
- Tôi tạm trú ở nhà một vị linh mục, nếu có chuyện gì, tôi tránh vào Nhà Chung. Chớ lúc này cũng không muốn đi đâu nữa. Việt Minh họ không ưa gì tôi, nếu tôi ra mặt họ bắt liền. Có lẽ trong lúc này họ còn bận nhiều việc khác hay quên đi, chớ họ cũng biết rõ mình ở đâu, sẵn trong danh sách, muốn bắt mình lúc nào mà không được! Ông cũng nên cẩn thận, phải dời chỗ ở luôn để tránh các sự rủi ro bất ngờ ta không thể lường trước được.
Diệm đứng lên chào ông bà Trạng Trần trở về chỗ trọ, nhưng khi hay tin có một toán tự vệ vừa vào nhà cha Nguyện hỏi mình, liền vội vàng đi ngay. Diệm hú vía vừa thoát khỏi cuộc bắt bớ, tìm đến nhà một người bạn đồng liêu cũ ở phố Hàng Bột để lẩn tránh.
Chiều đông rét mướt, bóng tối sập xuống rất nhanh, trên đường phố Hà Nội. Các vùng kế cận năm cửa ô ngổn ngang những cây cối đốn ngả cản lối đi lại. Mặt đường đứt quãng, nhiều chặng hầm do thanh niên tự vệ khu phố đào lên. Có nhiều dãy phố vách tường bị đục thủng, thông liền nhau. Không khí chuẩn bị chiến tranh sôi động khắp các ngả đường thủ đô.
Một sự bình tĩnh nặng nề bao trùm lên thành phố đang phập phồng chờ đợi. Thỉnh thoảng một chiếc xe nhà binh Pháp chở đầy quân lính chạy vụt qua trên đường vắng mờ mịt mưa phùn.
Các tiệm rượu, rạp chớp bóng, quán cà phê ồn ào tiếng cười nói của một nghìn hai trăm quân lính Pháp vừa ở Thành ra phố chơi đêm.
Uỷ viên đại diện Pháp, Sainteny lúc này đang ngồi ở phòng giấy, xem lại bức thư của ông Hồ Chí Minh vừa gởi đến lúc chiều.
Sainteny vừa đọc xong, điện thoại reo, tướng Morlière ở đầu dây cho ông hay rằng ông vừa cho gọi tất cả binh sĩ vào trại, và yêu cầu Sainteny loan báo có những thường dân Pháp ở rải rác hãy đi đến các nơi an toàn đã định sẵn, vì tình hình đã trở nên nghiêm trọng.
Sainteny nhìn lên đồng hồ chỉ đúng tám giờ.
Đèn điện bỗng vụt tắt khắp nơi. Sainteny về sau kể lại:
- Từ ban chiều, những tin tức thu thập được mang ra đối chiếu chứng nhận rằng cuộc tổng tấn công xảy ra vào đêm nay. Đây không phải là lần đầu tiên nhận được những tin tức có vẻ đáng tin cậy cho hay là có cuộc tổng tấn công ngay đêm nay. Tôi nhớ lại trong thời kỳ từ tháng tám năm 1945 đến tháng ba 1946, chúng tôi đã nhận được nhiều tin tức loại này, rõ ràng và khẩn cấp. Tin báo động ấy có lẽ là một thứ đột kích phụ trội trong cuộc chiến tranh cân não tàn nhẫn bắt dân chúng phải chịu đựng từ mười bảy tháng nay.
Giờ dự định bao giờ cũng thế hai mươi giờ. Dân chúng Pháp thường lo lắng khi nghe tim đập muốn vỡ, ngừng cả hơi thở. Và rồi tiếp tục sống như thường. Về phần tôi, lo ngại một nỗi là giờ nói kia đã "chính thức hoá" quá đỗi khó mà coi trọng được. Tôi không tin là Việt Minh gây nên sự lầm lẫn theo đúng giờ này.
Tuy vậy, hổi 17 giờ, căn cứ vào những tin tức của các sở quân sự và do thám, binh sĩ lại phải túc trực ở trại và chúng tôi bàn định cùng tướng Morlière rằng có gặp trường hợp cuộc tấn công xảy ra tôi sẽ vào Thành với ông ta để chỉ huy những cuộc hành binh.
Lối 20 giờ, thành phố đắm chìm trong khung cảnh khác thường.
Đồng hồ ở bệnh viện Yersin, kế cận toà uỷ viên Pháp, rò rè chậm chạp đánh tám tiếng. Tôi nói với các cộng sự viên:
- Có lẽ cũng không phải đêm nay đâu. Tôi về qua nhà đây.
Đúng 20 giờ 4 phút, uỷ viên Sainteny vừa bước lên xe hơi thì một tiếng vang ầm dữ dội. Nhà điện trung ương vừa nổ tung. Những tiếng súng đầu tiên xé tan bầu trời đen tối bao trùm thủ đô Hà Nội mở màn cho cuộc chiến tranh thực sự bắt đầu.
Ngồi trên chiếc xe bố trí súng đại liên chạy vào Thành, Sainteny lẩm bẩm:
- 9 tháng ba  1945, 19 tháng chạp 1946, đúng 20 giờ 4 phút, lớp học trò tốt muôn thuở này đã lập lại bài học 21 tháng trước đây của bọn thầy Nhật…
Chiếc xe chạy đến đường Paul Bert, bỗng tung lên vì một quả mìn lớn, rồi đâm đầu húc bật vào gốc cây lớn bên đường. Lựu đạn từ trong bóng tối tung vào chiếc xe bùng cháy như một lò lửa.
Sainteny cùng bốn quân nhân Pháp theo nhau thoát khỏi xe, cả năm người đều bị thương cố bò lê ra bên lề đường tìm chỗ nấp; những mảnh trái phá và những đạn dược trên xe bắt lửa cháy nổ tung ra khắp chung quanh như một trận mưa.
Người ghim đầy mảnh đạn, Sainteny máu me ướt đẫm cùng mình, tay cầm khẩu súng lục, võ khí duy nhất còn lại, nằm dưới trời mưa cùng bốn binh sĩ, kẻ đang hấp hối vì bị thương nặng máu ra nhiều quá, người thì bị cháy trông như bó đuốc sống.
Vị uỷ viên Cộng hoà Pháp cùng binh sĩ tuỳ tùng nằm phập phồng chờ đợi trong vũng máu giữa đêm tối mưa lạnh, dồn dập những tiếng súng nổ không ngừng khắp bốn phía.
Gần hai tiếng đồng hồ sau, một toán tuần tiễu thiết giáp chạy đến cứu đưa họ vào Thành.
Giữa lúc ấy, trên làn sóng điện Đài phát thanh, tiếng nói của tướng Võ Nguyên Giáp sôi nổi kêu gọi tổng tấn công trên khắp các mặt trận. Phủ Lạng Thương, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, những tỉnh có quân đội Pháp trú đóng liên tiếp nổ súng trong vòng đêm ấy.
Trong khi các cuộc giao chiến tiếp diễn ác liệt giữa lòng Hà Nội, Lệ vừa ngủ chợp đi, bỗng choàng dậy vì một tiếng nổ lớn nghe gần.
Nàng tung chăn đến mở hé cửa sổ nhìn xuống đường thấy trời đã mờ mờ sáng.
Trời sáng tỏ, tiếng súng nổ thêm dồn dập. Trên các ngả đường khu vực người Âu, xe bọc sắt, thiết giáp của quân đội Pháp lồng lộn, tuôn ra các phía. Các khẩu đại liên gắn ở đầu chiến xa ằng ặc nhả đạn như mưa về khu vực người Việt.
Lệ giục chồng uống xong cà phê để xuống đường:
- Chúng mình xem đường phố đi lại ra sao, tìm được lối đến nhà ba mẹ thì hay nhất, nếu không cũng phải tính cách nào để thoát ra ngoài, chứ em có cảm tưởng như đang ở trong một thành phố bị bao vây. Mà tình thế này cứ kéo dài thì lương thực đâu để mà sống?
Nhu khoác ba-đờ-xuy đội mũ tùm hụp cùng Lệ trong chiếc áo choàng nhung, cập tay nhau ra đường.
Hà Nội hiện ra trong buổi sáng rét mướt, thê lương qua đêm đầu chiến tranh. Các ngã tư đường vắng lạnh, ngổn ngang những toa tầu điện lật đổ chắn lối. Mặt đường thành phố nhiều quãng bị đào lên, ụ đất, bao cát chất thành chiến luỹ với những bàn ghế, đồ đạc trong nhà quẳng ra làm chướng ngại vật. Cây cối hai bên bị hạ xuống nằm ngang dọc đường, dây điện đứt cuộn vòng mặt đất. Nhà phố cháy vì lửa đạn còn âm ỉ, bốc khói dưới mưa phùn. Đó đây, rải rác những xác chết nằm trơ vơ trên vũng máu bên lề đường.
Đi nấp theo bờ tường dưới mái hiên, Lệ và Nhu lẩn lút, dọc theo tường từ nhà ra tới phố Hàng Bông, nghe tiếng đạn bấn gần quá, vội kéo tay nhau chạy lúp xúp về phía Hàng Gai, trước những căn nhà đóng kín mít cửa.
Mấy lần Lệ suýt ngã vì giày cao gót lướt trên gạch trơn ướt. Thỉnh thoảng có tiếng hét từ trong nhà hé cửa đưa ra.
- Đứng lại?
Rồi thấy một tự vệ Thành chĩa súng về phía hai vợ chồng.
- Ông bà đi đâu lúc này?
Nhu lên tiếng phân trần:
- Hôm qua chúng tôi ngủ nhờ nhà người quen ở phố Đường Thành, đợi bây giờ phải trở về nhà để lấy quần áo di tản cư về Hà Đông.
- Nhà ông bà ở phố nào?
- Ở cuối đường Gambetta, gần ga Hàng Cỏ.
- Khu vực này nguy hiểm lắm, ông bà không biết à? Hiện đang còn bắn nhau dữ dội, ông bà vào đây tức là đi giữa lằn đạn, không được đâu.
Lệ hỏi:
- Thế chúng tôi đi về phố Lamblot, cạnh nhà thờ có được không? Chúng tôi có nhà bà con ở đó.
Người tự vệ thứ hai từ trong bước ra nói:
- Khu vực nhà thờ chỉ yên ở lối sau, chứ phía trước mặt trông ra Bờ Hồ cũng không được an toàn đâu. Đạn vẫn bay vèo qua chung quanh vùng hồ Hoàn Kiếm đấy. Nhưng ông bà không đi khơi khơi ở hè phố thế này được đâu. Nhỡ đạn lạc thì chết? Vào đây này, chúng tôi chỉ cho lối đi ăn thông qua các nhà, ông bà có thể ra đến đường sau lưng nhà thờ.
Người thanh niên nhanh nhẹn trong chiến phục, lưng đeo lựu đạn, tay cầm súng trường chui vào lỗ hổng độc qua các tường ăn thông từ nhà này qua nhà khác, dẫn đường cho vợ chồng Nhu đi theo.
Sau một hồi len lỏi, có quãng phải lòn người chui qua, Nhu và Lệ phải vất vả lắm mới theo kịp người đưa lối.
- Đến nơi rồi, ông bà theo lối này ra sẽ thấy ngay phía sau lưng nhà thờ lớn. Chúc ông bà may mắn.
Người tự vệ tươi cười rồi nhanh nhẹn quay lui, thoáng đã biến mất sau các lỗ hổng trên tường.
Lệ và Nhu vừa ra đến đường, một toán tự vệ từ trước mặt đi tới, bỗng phân tán ra, nhào người nằm rạp xuống, chĩa súng về phía trước. Có thanh niên rút ngay lựu đạn ở lưng ra, lăm lăm cầm sẵn nơi tay. Người chỉ huy quỳ một bên nói lớn:
- Xe quân Pháp đang rẽ đến phía nhà thờ, nếu chúng tiến lại chúng ta, có lệnh tôi, anh em mới được tấn công!
Chiếc xe bọc sắt lù lù tiến tới phía trước nhà thờ rồi quay theo ngã Hàng Trống vòng Bờ Hồ.
Lệ và Nhu thụt lùi núp vào phía trong nhà, ngóng thấy yên bước ra, không còn thấy toán tự vệ tuấn tiễu; họ đã biến đâu mất.
Đường phố trống lạnh dưới mưa phùn. Lệ cùng chồng rảo bước men theo dưới mái hiên đi về phía Nhà Chung.
Nhu vui mừng gặp lại anh đang ở phòng linh mục Nguyện, bàn ngay đến việc hai vợ chồng chàng muốn trú ẩn tại đây, song Lệ tỏ ý không tán thành:
- Em chỉ sợ người ta sẽ đến buộc mình phải tản cư và thường dân không có phận sự đều phải đi khỏi Hà Nội. Chỉ có những người chiến đấu, tự vệ Thành mới ở lại được thôi, người Hoa Kiều ở các phố Hàng Buồm, Hàng Đường không có sao chứ người Việt không có công tác gì dễ bị họ nghi ngờ Việt gian ở lại thông đồng với Pháp. Em lo như vậy nên thà mình đi trước, vào Hà Đông ở tạm ấp cụ Thiếu, đợi tình thế ra sao rồi sẽ liệu.
Nhu chiều theo ý vợ nhưng không muốn xa anh, nên đề nghị:
- Anh đi cùng với chúng em luôn.
- Chú đưa thím đi còn tôi cứ tạm ở lại đây với cha Nguyện, lúc này không ngại họ đến lục soát Nhà Chung đâu. Tôi đã mượn cha Nguyện một cái áo linh mục để nếu cần thì cải trang. Chú thím vào Hà Đông, phải cẩn thận đề phòng bọn cán bộ địa phương, và đi đường sá từ đây nên coi chừng tránh xa những khu bắn nhau mới được.
Tiếng súng lớn, nhỏ không ngớt nổ, vang dội lại bốn bức tường thành Nhà Chung. Nhu thắc mắc hỏi:
- Anh nghĩ về tình hình thế nào?
Diệm đáp:
- Tôi cho là Việt Minh không cầm cự được lâu đâu. Pháp chắc không còn nói chuyện với ông Hồ Chí Minh nữa, sau cuộc tấn công bất ngờ đêm qua. Thế nào họ cũng phải tìm đến các chính khách quốc gia, sau một thời gian dùng đến giải pháp quân sự để đè bẹp Việt Minh. Đô đốc d Argenlieu, Cao uỷ Pháp hiện thời, xuất thân từ linh mục, hẳn nghĩ đến các nhân vật công giáo Việt Nam trước. Anh hy vọng thời cơ thuận tiện đang đến.
Nhu phân vân nói:
- Trong lúc này, dù sao Việt Minh họ có cải chính nghĩa sẽ lôi cuốn được dân chúng theo để kháng chiến chống Pháp. Ai đi lại với Pháp cũng đều bị chúng tuyên truyền gán cho là Việt gian. Công giáo đã bị mang tiếng hợp tác với Tây thời trước, bây giờ nếu Pháp họ mời anh ra chấp chính, anh cũng cần phải dè dặt lắm.
Nhu ngừng lại, nhìn anh im lặng rồi nói tiếp:
- Pháp chẳng qua chỉ muốn có tay sai để họ chiếm lại xứ này thôi, chứ thực lòng hợp tác với họ thế nào được. Hợp tác với Pháp lúc này chỉ có những kẻ tham tiền, ham danh vọng hay muốn trả thù. Trong Nam, chính phủ Nam Kỳ tự trị cũng chỉ gồm toàn các phần tử đốc phủ sứ, dân Tây, bị dân chúng phỉ nhổ.
Chúng mình đang có mối thù của anh cả, song hiện thời chưa phải lúc để đi đôi với Pháp chơi lại Việt Minh. Dù sao, Việt Minh đã có được chính nghĩa chống Pháp; mình lại hợp tác với Pháp làm sao tránh khỏi tiếng Việt gian, dân chúng không theo lại còn mang tai tiếng về sau. Phải chờ đợi lúc thuận tiện khác đã. Việt Minh đã thành công cướp được chính quyền, do nắm đúng thời cơ. Anh cứ giữ mình, rồi thế nào cũng đến lúc người ta phải cần đến. Làm chính trị, tôi thấy không nên nóng ruột mà lỡ việc lớn.
Diệm gật gù nghe những lời nói rành rẽ của em, vỗ vai Nhu bảo:
- Tôi có chú bên mình thì công việc dễ dàng lắm. Sau này tôi ra chấp chính, chú phải làm cố vấn cho tôi mới được.
Lệ cùng chồng tản cư về Hà Đông ở lại ấp Thái Hà của cụ Thiếu Hoàng Trọng Phu, vào lúc vị cựu đại thần vắng mặt một cách bí mật.
Có người bảo cụ đau nặng, ở gần mặt trận không tiện, phải đi xa chữa thuốc. Có dư luận lại nói rằng cụ bị Việt Minh bắt buộc phải tản cư khỏi Hà Đông, sợ Pháp tìm kiếm đến vị công thần trung thành cũ.
Giữa lúc ấy, cố vấn Vĩnh Thuỵ đã từ Trùng Khánh đi thẳng về Hồng Kông đợi chờ.
Qua những chiến thắng buổi đầu, chiếm lại các thành pho và tiếp tục các cuộc hành quân bành trướng khu vực chiếm đóng, Pháp không ngừng ngại tuyên bố ý định muốn tái lập một chế độ quân chủ cổ truyền.
Cao uỷ d Argenlieu gởi phái viên đi Hồng Kông gặp cựu hoàng Bảo Đại để dò hỏi ý kiến. Một số chính khách chống đối Việt Minh bấy lâu theo phò cựu hoàng, thúc giục Bảo Đại cấp tốc thành lập một tân chính phủ Việt Nam, có thể vãn hồi trật tự hoà bình trong nước và hợp tác với Pháp trên căn bản "những hiệp ước bình đẳng" đảm bảo cho quyền lợi chính đáng của đôi bên.
Bảo Đại nghi ngờ sự mời mọc của Pháp chỉ là một thủ đoạn để gây sức ép nào đó với Việt Minh, nên tỏ một thái độ hững hờ và tiếp tục những cuộc hoan lạc trên đất Cảng Thơm trong tình thế trông đợi.
Đồng thời với công cuộc tiếp xúc cựu hoàng Bảo Đại, Cao uỷ Pháp nhờ một linh mục Pháp dò hỏi ý kiến Ngô Đình Diệm tại Hà Nội.
Diệm trở lại nhà cha Nguyện trước giờ nổ súng ở Hà Nội, khoác lấy chiếc áo linh mục đổi tên là Phanxicô Văn để tránh mọi sự lôi thôi có thể xảy ra đối với cựu Thượng thư Bộ lại triều Nguyễn và Thủ tướng hụt dưới thời Nhật Bản.
Những tin tức nhận được về tình hình quân sự khiến cho Diệm hy vọng chờ đợi. Quân đội Pháp dần dà làm chủ tình thế ở các tỉnh Hải Phòng, Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn. Binh sĩ tiếp viện của Pháp từ Nam Kỳ và Pháp cấp tốc đổ bộ lên đất Bắc. Con đường Hải Phòng - Hà Nội mở lại những ngày đầu chiến cuộc mặc dù ở Thủ đô cuộc giao chiến vẫn tiếp diễn ác liệt. Tự vệ thành, Trung đoàn Thủ đô chiếm đóng khu vực Hoa Việt, kháng chiến mãnh liệt, anh dũng cầm cự từng góc phố, từng quãng đường, từng nhà một. Hà Nội đắm chìm trong lửa đạn giao tranh ba tháng trời.
                                         ***
Lệ cùng chồng chạy về Hà Đông, ngày đêm quanh quẩn ngay ấp Thái Hà cùng mấy gia đình thương gia Hà Nội tản cư.
Hai hôm sau đêm chiến tranh bùng nổ, Lệ thấy ông bà Trạng Trần đến ấp cụ Thiếu. Bà Trạng đã nhất định đóng kín cửa ở lại biệt thự đường Gambetta với lương thực tích trữ có thể sống được hàng tháng, không muốn chạy đi đâu, vì ngại ngùng sự xê dịch thiếu tiện nghi. Nhưng rồi bị tự vệ thành đến buộc phải tản cư.
Gặp lại con và rể, bà Trạng đưa chân ra than thở bằng tiếng Pháp:
- Mẹ phải đi bộ mười hai cây số, các con thấy có phải cực hình ghê gớm không? Ra khỏi Hà Nội, ba con tìm mãi không thấy một chiếc xe kéo, cũng không có võng cáng gì nên bắt mẹ phải lê chân đi từ sáng đến chiều mới tới đây. Thật là dã man quá!
Lệ nhắc nhở mẹ:
- Mẹ đừng nói tiếng Pháp nữa, chung quanh người ta để ý. Chúng mình đang sống giữa những người ghét Pháp, chống Pháp.
Bà Trạng lắc đầu chán nản, trả lời bằng tiếng Pháp:
- Chống Pháp, đánh Pháp, người ta cứ việc! Nhưng ghét tiếng Pháp một thứ tiếng văn minh là điều không thể tưởng tượng được. Tôi quen miệng nói tiếng Pháp rồi, cấm đoán thì vô lý quá. Tôi phản đối đến cùng!
Nhu lưu ý bà Trạng Trần về mấy người dân quê ăn mặc quần áo nâu đang nhìn chỉ trỏ về phía mình, hạ giọng nói:
- Những người chung quanh chúng ta không ưa gì những ai ăn mặc sang trọng, sống khác họ. Còn dân quân, cán bộ xã thì rất căm thù Việt gian. Con cũng bảo nhà con phải cẩn thận dè dặt…
Ông Trạng tán thành ý kiến con rể:
- Anh Nhu nói phải đấy. Mình phải sống tuỳ theo hoàn cảnh.
Bà Trạng đưa hai tay lên đầu trong một dáng điệu tuyệt vọng kiểu đào màn ảnh, thốt ra vẫn bằng tiếng Pháp:
- Tất cả mọi người đều chống lại tôi! Tôi chỉ còn biết trông cậy ở Thượng đế cho tôi sớm trở lại Hà Nội, chứ làm sao tôi có thể kéo dài đời sống giữa những người nhà quê khốn khổ kia được!
Rồi bà Trạng nhìn đến Lệ, như vừa khám phá ra một điều thích thú:
- Kìa, con gái tôi, quần đen, áo nâu, cải trang y hệt gái quê, con định thành cán bộ phụ nữ cứu quốc hả?
Những lời nói cười tíu tít không ngớt tuôn ra từ cửa miệng bà Trạng Trần đang vịn vào vai Lệ đi vào nhà:
- Phòng tắm đâu, con chỉ cho mẹ để tắm rửa thay quần áo, chứ suốt một ngày vất vả hôm nay mẹ hết chịu nổi được rồi.
- Ở đây không có phòng tắm riêng như ở Hà Nội đâu, mẹ chịu khó ra bờ giếng, chỗ có mấy tấm cót che cạnh lối bếp kia.
Bà Trạng mở lớn đôi mắt kinh ngạc:
- Trời ơi! Thế này sống làm sao được con.
Lệ nói nhỏ:
- Không lâu đâu mẹ ạ. Chúng mình cũng sắp trở về Hà Nội trong nay mai thôi.
Tiếng súng từ phía Hà Nội vọng lại, Lệ ngước mắt nhìn lên nền trời hoàng hôn đỏ rực ánh lửa xa xa bao trùm lên thành phố, bất giác nhớ đến những ngày sống xa hoa nhung lụa mới thuở nào.
Những ngày sống ở ấp Thái Hà chậm chạp trôi qua. Nhu và ông Trạng Trần thu thập những tin tức lẻ tẻ, hiếm hoi nhận được đem ra đối chiếu để nhận định tình thế.
Câu chuyện bàn luận thời cuộc chính trị đã trở thành lối tiêu khiển hàng ngày của ông bà Trạng Trần và vợ chồng Lệ; họ cùng ngong ngóng sớm trở về Hà Nội. Hôm sau đêm tết Tây, ông Trạng Trần đi thăm mấy người bạn tản cư quanh vùng, trở về báo tin: Leon Blum, Thủ tướng Pháp vừa tuyên bố trước Quốc hội Pháp sẵn sàng chấm dứt tình trạng hiện thời, đã phái Marius Moutet, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại sang Sài Gòn. Blum là một đảng viên xã hội, khuynh hướng mác-xít. Moutet cũng vậy, chắc hẳn họ sẽ thương thuyết trở lại với ông Hồ Chí Minh. Tướng Le Clerc cũng được phái sang Đông Dương để thanh tra về mặt quân sự.
Nhu tỏ vẻ ngờ vực:
- Cao uỷ Pháp ở Sài Gòn vẫn là d Argenlieu và thế lực của phe hữu ở xứ này, thực dân nhà băng và đồn điền cao su vẫn mạnh lắm, tôi không tin là họ chịu thu xếp với ông Hồ Chí Minh đâu, nhất là hiện thời Pháp đang có ưu thế về mặt quân sự.
Ông Trạng Trần nói:
- Moutet vừa tuyên bố hôm cuối năm khi đến Phnôm Pênh là ông ta gạt bỏ giải pháp nối lại cuộc thương thuyết với ông Hồ Chí Minh. Đài phát thanh Việt Minh cũng vừa loan một bản thông điệp của ông Hồ Chí Minh gởi cho Thủ tướng Blum ngỏ lời hân hoan về việc ông Moutet sang đây và yêu cầu quân đội Pháp trở lại những vị trí ngày 17 tháng chạp và đề nghị ngừng bắn. Hôm đầu năm, Đài phát thanh lại loan thêm một thông điệp mới của ông Hồ Chí Minh chúc mừng năm mới chính phủ và dân chúng Pháp, cùng tỏ ý muốn gặp Moutet ở Hà Nội. Tôi cũng nghe nói: biết Moutet ra Hà Nội, ông Hồ Chí Minh cũng có gởi một bức thư nhờ Trường ban liên lạc Pháp Việt đại tá Fonde chuyển giao, nhắc lại những đề nghị này:
1) Ngừng chiến lập tức, binh sĩ trở lại những vị trí cũ. Thả hết tù nhân.
2) Ngưng ngay mọi cuộc tiếp viện quân đội Pháp.
3) Gặp gỡ cấp tốc giữa ông Moutet và ông Hồ Chí Minh để thương thuyết trên căn bản hiệp định 6 tháng ba.
Nhu mỉm cười ngờ vực:
- Tôi nghĩ là trong lúc này Pháp họ không chịu điều đình với Việt Minh đâu mà chỉ tính dùng võ lực để thôn tính lại nước mình, rồi đẻ ra một thứ chính quyền bản xứ kiểu Nam Kỳ tự trị.
Sự dự đoán của Nhu mấy hôm sau được chứng minh qua lời tuyên bố của Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet khi ghé qua Hà Nội:
"Thái độ của tôi bấy giờ rất rõ rệt: Cuộc tấn công hôm mười chín tháng chạp, đối phương đã trù tính trước, bắt buộc chúng ta phải đối phó lại bằng quân sự. Bao giờ quân đội tái lập trật tự xong, bấy giờ mới có thể xem xét đến những vấn đề chính trị…
- Chúng ta không thể tin vào những lời loan báo trên Đài phát thanh Việt Nam".
Những lời lẽ ngờ vực của Moutet thực ra cốt để che đậy việc ông bị phong trào Cộng hoà Bình dân thuộc phái hữu uy hiếp trước ngày ông sang Đông Dương nhận được lệnh không được thương thuyết.
Cao uỷ Đông Dương, Đô đốc d Argenlieu phụ hoạ theo:
- Kể từ đây chúng ta không thể nào nói chuyện với ông Hồ Chí Minh được. Chúng ta sẽ tìm thấy trong xứ này những nhân vật khác mà chúng ta có thể thương thuyết, những người quốc gia thân Pháp hiện đang bị gạt bỏ.
Thế rồi Cao uỷ Pháp bắt đầu mở cuộc dò hỏi cựu hoàng Bảo Đại đang ở Hương Cảng và cho người tiếp xúc với các nhân vật quốc gia "ôn hoà" có mặt tại Hà Nội như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Mạnh Hà, Hoàng Xuân Hãn…
Kỹ sư cầu cống họ Hoàng tuy từng làm Bộ trưởng Giáo dục trong nội các thân Nhật, song uy tín của nhà học giả cương trực miền Nghệ Tĩnh đối với các giới Bắc Hà vẫn còn, song ông nhất quyết trung lập đối với Việt Minh. Nguyễn Mạnh Hà, dù đã giữ chức Bộ trưởng Kinh tế trong chính phủ lâm thời Việt Minh, nhưng có vợ người Pháp và là một nhân vật của thanh niên Công giáo. Hoàng Quân và Nguyễn Quân tuy vậy không được các giới chính trị và mật thám Pháp ở Việt Nam chú trọng bằng Ngô Đình Diệm, nguyên Thượng thư, em của Giám mục hiện ở trong Nam, có một người anh cả và cháu ruột bị Việt Minh giết tại Huế, một người Công giáo cương quyết chống Cộng.
Qua trung gian của một linh mục Pháp, họ Ngô được Đô đốc Thierry d Argenlieu, Cao uỷ Đông Dương, nguyên là thầy dòng xuất thân vời đến phủ Toàn quyền cũ.
Sau mấy câu xã giao, nụ cười tắt hẳn trên miệng móm mém, d Argenlieu nhìn vẻ mặt lầm lỳ của Ngô Đình Diệm, nói thẳng vào vấn đề:
- Giữa chúng ta là những người Công giáo, tôi nói thật với ông, mặc dù Việt Minh là đại diện cho một chính phủ có khuynh hướng mác-xít, được Đảng Cộng sản Pháp ủng hộ, với tư cách Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, tôi nghĩ rằng cuộc chiến tranh thu hẹp hiện thời giữa Pháp và Việt có một tính chất rộng lớn; quốc tế, đích thực là cuộc xung đột giữa hai phe Cộng sản và chống Cộng. Tôi tin là sự chống đối giữa Hoa Kỳ và Nga Xô sẽ không tránh khỏi biến Đông Dương thành chiến trường cho chiến tranh lạnh hiện nay giữa hai ý thức hệ. Tôi thành thật nói với ông rằng vai trò của tôi và sứ mệnh của nước Pháp trước tiên ở Việt Nam là đẩy lùi sự đe doạ của Cộng sản. Tôi mời đến ông vì nghe tiếng ông là một người quốc gia chống Cộng, để nhờ ông đứng ra cùng chúng tôi mang lại hoà bình cho xứ này và thiết lập một sự hợp tác chân thành giữa hai dân tộc chúng ta trong tự do.
Diệm im lặng ngồi nghe, đốt hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác Cao uỷ Pháp nhấp ly nước suối rồi nói tiếp:
- Lúc này quân đội Pháp đã chiếm lại tất cả các thành phố và Chính phủ Việt Nam coi như chạy đi mất rồi. Tôi có ý định thiết lập lại chính thể quân chủ, mời Hoàng dế Bảo Đại trở về ngôi cũ, và cậy ông làm Thủ tướng đứng ra lập một nội các mới…
Diệm không ngước mắt, cất tiếng hỏi:
- Ông có thể cho tôi biết rõ là trong một chính thể như ông vừa nói, Chính phủ Nam Kỳ tự trị của Lê Văn Hoạch sẽ như thế nào, và vấn đề thống nhất ba kỳ ra sao?
D Argenlieu thản nhiên đáp:
- Ấy trong lúc chờ đợi Hoàng đế Bảo Đại trở về, chính phủ Sài Gòn có thể đóng vai trung gian liên lạc.
Diệm hỏi lại:
- Liên lạc với ai?
- Liên lạc giữa chúng tôi với các người quốc gia.
- Ông nghĩ là cần thiết hay sao? Các ông vẫn có thể nói thẳng với chúng tôi kia mà.
Cao uỷ Pháp cười gượng, nói:
- Phải nói thật với ông rằng chính phủ Sài Gòn chỉ là một thí nghiệm buổi đầu, thể theo nguyện vọng của người Nam Kỳ.
Diệm lòng mừng hớn hở, nhưng tỏ ra dè dặt, chỉ vắn tắt trước khi từ giã d Argenlieu:
- Tôi rất hân hạnh trước thịnh tình của ông đã chiếu cố đến tôi. Nhưng tôi chưa có thể trả lời dứt khoát ngay được về lời mời hợp tác của ông. Tôi xin thưa lại với ông sau.
Vị Cao uỷ muốn cho xe đưa Diệm về Nhà Chung, song Diệm đã cẩn thận dặn xe của vị linh mục Pháp đợi, rồi trở ra khoác lấy áo nhà tu mang theo sẵn để tránh mọi sự theo dõi bên ngoài.
Tiếng súng lẻ tẻ ở khu chợ Đồng Xuân vẳng đến tai Diệm từ phủ Toàn quyền chạy thẳng về phía nhà thờ lớn Hà Nội.
                                ***
Tại ấp Thái Hà, Lệ cùng chồng đang bối rối ngồi ở hiên nhìn đám hoa cải vàng dưới mưa bụi đầu xuân cuối vườn, bỗng nghe tiếng chó sủa, nhìn ra thấy một người đàn bà áo đen, quần trắng, đi chân không vào sân.
Sau khi chào hỏi Lệ và nhìn mặt Nhu, người đàn bà tự giới thiệu:
- Tôi ở ngoài Nhà Chung Hà Nội, cha Nguyện bảo vào đây. Ông Diệm nhờ tôi đi gặp ông để nhắn việc nhà.
Nhu nhận thấy người đàn bà tu hành có vẻ dè dặt, liền nói:
- Có việc gì bà cứ nói tự nhiên với vợ chồng chúng tôi, đừng e ngại.
Dì Phước kể lại cuộc gặp gỡ giữa Cao uỷ Pháp và Ngô Đình Diệm, cùng những lời nhắn hỏi ý kiến em trai của họ Ngô.
- Dưới lớp áo tu hành, tôi có thể vô ra Nhà Chung tiếp tế lương thực cho mấy bà Phước và các Cha. Ông muốn nhắn bảo gì, tôi sẽ nói lại với ông Diệm.
Nhu lắng nghe người đàn bà liên lạc thuật hết những lời của anh, quay sang bảo Lệ:
- Em sửa soạn mời dì Phước ở lại xơi cơm, anh gặp ba để bàn bạc rồi nhờ dì mang câu trả lời cho anh Thượng.
Dì Phước nói:
- Cám ơn ông bà. Tôi có việc phải ghé qua Nhà thờ Hà Đông, một lát sẽ quay lại đây, rồi trở ra Hà Nội. Ông có nhắn gì thì chốc nữa.
Dì Phước vừa đi, Nhu và Lệ vội mời ông bà Trạng Trần vừa thức dậy họp lại bàn bạc về đề nghị của Pháp mời họ Ngô chấp chính. Bà Trạng rối rít lên trước tin cựu hoàng có thể trở về và họ Ngô ra lập nội các, lên tiếng trước:
- Đấy, tôi nghĩ có sai đâu, trước sau gì rồi hoàng đế Bảo Đại cũng phải về mới xong.
Ông Trần Văn Chương ngắt lời vợ:
- Mình nói khẽ chứ. Phải bình tĩnh mới nhận định được.
Nhu nói:
- Theo những lời của anh Thượng tôi, chính sách của Pháp lúc này không minh bạch, quan điểm của Cao uỷ d Argenlieu cũng còn mơ hồ, khi họ nói chuyện mời hợp tác mà vẫn khuyến khích Nam Kỳ tự trị. Tôi thấy cần phải dè dặt lắm, vì lực lượng Việt Minh vẫn còn mạnh, danh nghĩa kháng chiến của họ ảnh hưởng mạnh đối với dân chúng. Các đảng phái chống đối Việt Minh ra mặt như Việt Quốc và Đồng Minh cũng không có ý muốn bắt tay Pháp lúc này.
Ông Trần tiếp lời:
- Tôi hay tin là Nguyễn Tường Tam hiện ở Nam Kinh đang chờ Quốc dân Đảng ủng hộ, vừa loan tin sắp thành lập một chính phủ quốc gia để kêu gọi Trung Hoa và Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Lệ ngồi cạnh chồng lắng nghe vừa dứt, hớn hở đứng lên:
- Thế này chắc chắn ông Bảo Đại sắp trở về rồi. Tin của anh Thượng nhắn ra cho mình sắp thành sự thật. Chúng mình phải lo liệu thu xếp vào trong đó sớm mới được.
Thấy vợ tươi cười, sung sướng, Nhu dụi tàn thuốc lá, thong thả noi:
- Tình thế thuận lợi nhất đấy, song mình cũng cần nên dè dặt vì có thể có những sự bất ngờ trong chính trị, nhất là với Pháp, họ nhiều mưu toan lắm. Hồi chiều ba có đưa cho anh tờ Climats, mình xem đây thì rõ, bài có gạch bút chì đỏ đấy.
Lệ cầm tờ báo, đọc qua bài "Trò ngựa về ngược" ký tên Jean Rohoir, chú ý đến những dòng sau đây:
"Giữa giải pháp dân chủ của những người này chủ trương và giải pháp mác-xít của những người kia ủng hộ, có một "con đường trung dung" không? Những thành phần ưu tú "Cộng hoà" của Việt Nam, lực lượng thứ ba sẽ có đủ khả năng ủng hộ cho một nền Cộng hoà Việt Nam xã hội, tiến bộ, phù hợp lý tưởng của một nền Cộng hoà Pháp quốc liên kết mác-xít không? Có một số người có uy quyền ở Paris và Sài Gòn đã nghĩ đến.
Bà Trần phụ hoạ theo lời con gái:
- Tôi thấy ông Ngô nên nhận lời, giúp công Bảo Đại trở về ngôi hoàng đế, từ chối thì Pháp họ cũng sẽ mời đến người khác, bỏ lỡ cơ hội tốt quá!
Nhu có vẻ suy nghĩ, thong thả nói:
- Công việc chưa có thể gấp được đâu. Nếu anh Thượng nhận lời mà không có sự liên kết ủng hộ của các đảng phái quốc gia khác, khó thành công được, nhất là Pháp họ không thực bụng. Tôi thấy cần phải đòi Pháp nhìn nhận độc lập chủ quyền quốc gia và đôi bên hợp tác bình đẳng với nhau thì mới nói chuyện được. Không thì dễ bị rơi vào trường hợp như Laval đã hợp tác với Đức quốc xã, hậu quả tai hại lắm.
Mọi người lặng im nghĩ ngợi sau câu nói của Nhu. Giọng trầm trầm của Nhu bỗng trở nên cương quyết:
- Vội thì hỏng việc. Phải đợi xem tình thế rõ rệt thêm đã. Tôi sẽ nhắn bảo anh Thượng tôi cứ trả lời nước đôi với d Argenlieu trong khi chờ thời cơ thuận tiện.
Bà Trạng có vẻ thất vọng, buồn bã nói bằng tiếng Pháp:
- Chúng mình phải sống kéo dài khốn khổ thế này đến bao lâu nữa? Tôi cũng đến hoá điên mất thôi!
Rồi bà quay sang bảo Lệ:
- Thật tôi không hiểu nổi làm sao thiên hạ có thể sống một cuộc đời thiếu nước hoa, thiếu hoa, thiếu xa hoa được? Thượng đế xin đoái thương đến tôi!
Ông Trần ái ngại nhìn vợ, rồi nói với Lệ:
- Ba có đặt mua hoa cho mẹ, sáng nay người ta đã mang đến chưa?
- Dạ có? Hai chục hoa lay-ơn nửa trắng, nửa đỏ, đẹp lắm, con đã cắm ở bình hoa nơi bàn kia kìa.
Lệ đưa bà Trạng đến ngắm hoa trong khi ông Trần và Nhu tiếp tục bàn bạc.
- Dường như Pháp cũng có tiếp xúc với Nguyễn Mạnh Hà và Hoàng Xuân Hãn đang có mặt ở Hà Nội nhưng hai ông này từ chối.
Bà Trạng nghe nói thế, quay lại hỏi chồng:
- Ông Hãn cũng như mình, người Pháp không thể có thành kiến cho là mình thân Nhật, chống họ. Nếu mình có mặt ở Hà Nội, Pháp cũng tìm đến, như các chính khách quốc gia ôn hoà, phải không?
Trước sự tiếc rẻ của vợ, ông Trần ậm ừ đáp:
- Có lẽ.
Tham vọng làm chính khách phu nhân của bà Trạng lây sang con gái, từ độ bà Trạng đóng vai bà ngoại trưởng ở Huế và trong lúc tản cư này càng ám ảnh tâm trí háo hức của người đàn bà đang bị ép uổng sống những ngày thiếu xa hoa, tiếp tân, tiệc tùng. Giữa cảnh quê mùa ở ấp Thái Hà, mỗi buổi sáng, ngồi trước chiếc gương tạm kê làm bàn trang điểm, bà Trạng cùng Lệ đánh phấn, kẻ lông mày, không ngớt than phiền cho nếp sống tản cư mà cả hai mẹ con đều xem như bị đày ải:
- Bao giờ mới về Hà Nội được?
Câu hỏi này đã thành một điệp khúc không một ngày nào bà Trạng không nhắc nhở với chồng. Ông Trạng cũng như Nhu đều cưng chiều vợ đến mức độ ngoan ngoãn, thụ động trước những mong muốn của hai mẹ con bỗng đâm ra khó tính, khó nết từ ngày bó chân quanh quẩn ở góc trại ngoại ô Hà Nội.
Cuộc sống xa hoa ở thành phố như một thiên đàng đã mất đối với bà Trạng; bà luôn mồm kêu chán ngấy cảnh "ao tù nước đọng" nhà quê. Lệ thì than tiếc những chiều lượn phố, đi dạo quanh bờ hồ thanh lịch.
Một u già và hai chị ở theo bà Trạng từ Hà Nội, suốt ngày không ngừng tay phục dịch hai mẹ con tắm rửa, chải chuốt, ăn uống.
Ông Trạng và Nhu không khỏi sốt ruột trước bà vợ đua đòi ăn diện trái ngược với cảnh ly loạn tơi bời, khói lửa tàn phá chung quanh.
Sống trong cảnh biệt lập, gia đình ông Trần và Nhu chỉ mong sớm im tiếng súng ở Hà Nội để trở về thành phố, nhất là ngày đêm bà Trạng và Lệ luôn luôn bàn tính việc trở về.
Chiến cuộc diễn ra gần một tháng, một hôm Nhu đang ngồi đọc sách ở hiên, bỗng nghe tiếng loa kêu gọi bên ngoài:
- Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Lệnh tiêu thổ kháng chiến bắt đầu thi hành từ ngày mai ở thị xã chúng ta. Đồng bào hãy xung phong phá nhà để cứu nước. Đốt sạch, phá sạch, triệt để áp dụng chính sách vườn không nhà trống chống lại âm mưu của thực dân Pháp muốn đánh chiếm lại đất nước chúng ta. Giờ nghiêm trọng đã đến. Toàn thể đồng bào hãy đứng lên, trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!
Lời hô hào văng vẳng xa dần. Nhu gấp sách định đứng lên, thấy Lệ bước đến phía chàng, vẻ mặt lo âu:
- Anh có nghe họ vừa gọi loa không? Tiêu thổ kháng chiến, đốt sạch, phá sạch, cả trại mình đang ở đây cũng bị san phẳng như mấy nơi khác sao?
- Anh nghĩ có lẽ người ta chỉ phá hoại ở thị xã thôi chứ.
- Họ bảo là triệt để "vườn không, nhà trống" kia mà!
- Đợi cán bộ đến giải thích xem sao.
Lệ bảo chồng:
- Em chỉ sợ họ lại bắt mình phải tản cư đi xa nữa thì phiền lắm. Em tính nếu phải thế, mình tìm lối trở về sớm là hơn. Có người ở Hà Nội mới vừa chạy ra bảo là hiện thời chỉ còn đánh nhau ở gần chợ Đồng Xuân thôi, quân Pháp đã kiểm soát phấn lớn cả thành phố rồi.
Thấy Nhu im lặng nghĩ ngợi, Lệ nói tiếp:
- Giấy tờ của em là dân Pháp, vào đến Hà Nội khỏi lo gì.
- Anh không lo về phía người Pháp, song đường từ đây vào Hà Nội, còn Việt Minh ẩn núp ở lại trong đó nữa. Nhỡ gặp họ xét hỏi, cho mình là Việt gian lúc này nguy hiểm lắm.
- Anh lo xa như vậy cũng phải, nhưng mà ở lại đây họ bắt tản cư đi nữa thì em cũng chịu thôi. Hay là em với má vào Hà Nội trước xem sao rồi anh với ba đi sau. Em sẽ đến Nhà Chung gặp anh Thượng, rồi nhờ dì Phước hôm nọ liên lạc cho anh hay.
Không đợi Nhu trả lời dứt khoát, Lệ đem ý kiến trở về Hà Nội nói với mẹ. Bà Trạng tươi sáng hẳn lên, tán thành ngay, bàn luôn đến cách thức hai mẹ con đi lối nào cho yên ổn.
Đường đi nước bước vô ra Hà Nội gần đây họ đã dò hỏi những người đi lại trên quãng này, biết rõ mấy chặng xét hỏi giấy tờ và nhất là đàn bà, không đến nỗi quá khó khăn mấy. Bà Trạng và Lệ có thể viện cớ, trở lại nhà ở khu phố không có đánh nhau để lấy quần áo tiền bạc mà hôm tác chiến đã vì chạy gấp không kịp mang theo.
Vấn đề được đưa ra bàn tính, mổ xẻ cẩn thận giữa ông Trần cùng Nhu và hai bà vợ nóng lòng muốn trở về Thành. Rốt cuộc bà Trạng và Lệ quyết định hôm sau lên đường, sau khi xin một giấy chứng chỉ của hành khách địa phương để phòng ngừa sự lôi thôi khó khăn của Việt Minh ở dọc đường.
Ông Trần và Nhu lấy làm ngại ngùng lo lắng, song đành chiều theo ý vợ, vì biết cũng không ngăn cản được.
Sáng ngày bà Trạng và Lệ dậy sớm, ăn vận sơ sài theo kiểu tiểu thương, đi ngược đường Hà Đông - Hà Nội. Hai mẹ con như một đôi chim vừa thoát khỏi lồng tù túng tản cư, tung tăng trở về Thành.
Con đường đất lầy lội vì mưa phùn và những đoạn đường đào chữ chi, trơn ướt đất bùn không làm cho bà Trạng than thở như lúc cùng chồng đi tản cư. Bà cùng con gái như muốn thi đua nhau đi mau. U già đi theo hầu bà Trạng không khỏi ngạc nhiên khi thấy bà chủ mình bước thoăn thoắt, không kêu đau mỏi chân, dừng nghỉ từng độ đường như lần rời bỏ Hà Nội. Đến quá trưa, ba người đã đi tới xóm Khâm Thiên, đầu cửa ô vào thành phố. Nỗi phập phồng của bà Trạng và Lệ tan biến ngay khi thấy người tự vệ trong gác chỉ hỏi qua loa.
Đặt chân lên đường Hàng Cỏ, thấy nóc nhà ga Hà Nội, bà Trạng trở lại với tiếng Pháp, bảo Lệ:
- Chúng ta sống lại rồi!
Lệ vui mừng trở về thành phố cũ, song cũng không khỏi ngạc nhiên thấy mẹ bỗng nhiên tíu tít, cuống cuồng như muốn ôm choàng lấy nàng mà đi bước luân vũ giữa đường nhựa.
Tiếng súng rời rạc văng vẳng đâu đây, với quang cảnh tàn phá ngổn ngang trước ga Hàng Cỏ làm cho bà Trạng đang múa may sung sướng bị cụt hứng.
- Chiến tranh bẩn thỉu! Chiến tranh bẩn thỉu!
Bà Trạng thốt ra lẩm bẩm như một điệp khúc trong khi cùng Lệ và U già rẽ về phía đại lộ Gambetta, hướng về biệt thự của mình.
Đường sá vắng ngắt không một bóng người.
Từng lúc, mấy chiếc xe nhà binh gắn súng liên thanh tuần tiễu qua đại lộ. Trong cái hoang lạnh của thành phố, thỉnh thoảng tiếng nổ ầm của lựu đạn, tiếng liên thanh văng vẳng lại như nhắc nhở Lệ đang ở giữa lòng Hà Nội có chiến tranh.
Nàng cùng bà Trạng bước vào nhà ở đại lộ Gambetta, ngỡ ngàng như đến một biệt thự nào xa lạ. Các ống khoá bị phá tung, có vết đạn bắn. Đồ đạc trong nhà ngổn ngang, mất mát, chứng tỏ đã có sự lục soát hôi của trong lúc chủ nhà đi vắng. Đệm giường quẳng cả xuống nền, chiếc gương bầu dục lớn ở bàn trang điểm của bà Trạng bị đập vỡ những mảnh thuỷ tinh tung tóe khắp phòng. Các bức tranh trên tường bị gỡ lấy đi. Những tủ đựng quần áo và tủ rượu đều bị mở toang, vơ vét sạch.
Bà Trạng ngao ngán trước những sự đổ vỡ. Bật đèn điện, không thấy cháy, bà xuống phòng chồng cầm đống điện thoại lên, không gọi được nữa. Máy nước cũng ngưng chảy. Không khí ly loạn hoang phế tràn ngập cả biệt thự rộng lớn giữa khu phố Tây.
Đôi chim bồ câu trắng ở chiếc chuồng cao trên sân thượng là hình ảnh linh động độc nhất còn lại trong hình ảnh tang thương này.
Bà Trần cùng Lệ thay đổi quần áo trong mớ y phục còn sót, trang điểm lại để ra ngoài. Hai mẹ con lần theo ven đường đi ra phía bờ Hồ qua những ngôi nhà đóng kín cửa.
Hồ Hoàn Kiếm với Tháp Rùa trở về dưới mưa phùn vắng lạnh ghê hồn trên những lối đi không một bóng người.
Hai người đàn bà tường chừng như đang lạc vào giữa một khung cảnh chết, thỉnh thoảng giật mình vì tiếng xe chạy vút qua như một con thú dừ đầm sầm trên đường nhựa.
Đến Nhà thờ lớn đóng cửa, Lệ cùng mẹ rẽ tới ngõ Huyện, đi về phía Nhà Chung. Lệ đang hỏi một bõ già đi ra gác chuông, một người vận áo linh mục từ dãy nhà trong bước ra.
- Thím!
Nghe tiếng gọi, Lệ nhìn kỹ vị linh mục béo lùn, nhận ra ngay anh chồng. Diệm mừng rỡ đón rước Lệ và bà Trạng đến phòng riêng để trò chuyện. Qua những câu hỏi han dồn dập, Lệ được anh chồng cho hay:
- Tôi tính nhờ dì Phước hôm nọ vô Hà Đông gặp chú để cho chú thím hay tin trong nhà: chú Cẩn đã đưa mẹ trở về nhà ở Phú Cam sau khi phải tản cư lên nhà họ Phường Đúc. Pháp đã chiếm lại thành phố Huế rồi. Cha xứ Phú Cam nhắn ra đây cho cha Nguyện hay như vậy. Còn anh Giám mục, vẫn thường ở Vĩnh Long. Chú Luyện hiện đang ở Sài Gờn. Tôi cũng tính vô trong đó cho rộng đường hoạt động hơn.
Bà Trạng hỏi:
- Ông có được tin gì về cựu hoàng Bảo Đại không?
- Ông Bảo Đại vẫn ở Hồng Kông. Người Pháp có ý định mời cựu hoàng về nước chấp chính, song ngài chưa quyết định.
Diệm ngừng một lúc rồi nói:
- Hôm nọ Cao uỷ Pháp d Argenlieu có gặp tôi mời tôi ra hợp tác mới đây lại nhờ người giục tôi nữa, song tôi cũng còn đợi cho tình thế rõ ràng hơn. Ông d Argenlieu là người của phong trào Cộng hoà Bình dân, trước cũng có ở dòng tu, có quen với anh Giám mục tôi và có gặp nhau ở Sài Gòn nên muốn cho tôi ra lập nội các lắm.
- Vậy sao anh không nhận? - Lệ hỏi.
- Tôi cũng muốn lắm song chưa gấp được. Tôi định vô Nam xem xét ra sao đã rồi đi Hồng Kông gặp ông Bảo Đại, sau đó mới có thể dứt khoát nhận lời hay không.
Diệm nhìn bà Trạng nói tiếp:
- Tôi định nếu tham chính, thế nào cũng mời ông nhà ta giữ một ghế Bộ trưởng.
Bà Trạng tươi hẳn lên khi nghe địa vị tương lai của chồng mình.
- Ông liệu xem rồi Pháp có điều đình với Việt Minh không?
- Không? Tôi tin là không đâu!
Rồi Diệm giải thích:
- Tôi được tin rằng ông Bộ trưởng chiến tranh Pháp hiện thời là Coste Floret, thuộc phe hữu phong trào Cộng hoà Bình dân sắp qua viếng Việt Nam, chủ trương chống lại mọi cuộc điều đình với ông Hồ Chí Minh. Tuy ngoài mặt, Pháp nói dùng đến giải pháp chính trị để giải quyết vấn đề Việt Nam, song họ muốn dùng quân sự để chiếm lấy ưu thế chớ không nói chuyện riêng với Việt Minh đâu. Đức Bảo Đại được Pháp coi như tiêu biểu cho phe quốc gia và tôi được tin cậy. Cựu hoàng tuy chính thức vẫn là cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh, nhưng ngài vừa tuyên bố với hãng thông tấn Mỹ United Press: không bao giờ ngài đứng ra thương thuyết cho chính phủ Việt Minh đâu.
Diệm ngừng để suy nghĩ, rồi nói tiếp:
- Hiện giờ tôi chỉ ngại phía trong Nam thôi. Phe thực dân và đốc phủ sứ ở Nam Kỳ muốn lập một xứ Nam Kỳ tự trị. Phó Thủ tướng chính phủ này, ông toà Trần Văn Tỷ đã công khai tuyên bố trong một cuộc họp báo, nói rằng: "Nếu có toàn quyền, tôi sẽ xây một bức Vạn lý Trường thành thứ hai ở giữa Nam Kỳ và Bắc Kỳ". Ông ta còn bảo là "Nếu ngày mai Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam, tôi sẽ từ chối!". Ông Tỷ hiện được các giới người Pháp có thế lực ủng hộ và sắp sang Pháp để vận động cho Mặt trận Nam Kỳ quốc. Tuy vậy cái chính phủ Nam Kỳ tự trị của bọn Nguyễn Văn Thinh Trần Văn Tỷ, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Tấn Cường coi bộ lung lay, khó đứng vững được trước mặt trận quốc gia gồm các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Dân Xã ủng hộ đức Bảo Đại. Ở Huế, có ông Trần Văn Lý đứng ra lập một Uỷ ban Hành chính lâm thời. Tại Hà Nội này có ông Trương Đình Tri, cựu Bộ trưởng Y tế của Việt Minh cũng đang rục rịch như vậy.
Bà Trạng Trần không khỏi sốt ruột nghe nhắc đến các tên quen biết đua nhau ra tham chính mà vắng mặt chồng bà, song thấy yên lòng khi nghe Diệm nói:
- Tôi coi hình như Pháp đang cần người có uy tín hơn.
Lệ lên tiếng:
- Anh tính ngày nào vô Nam?
- Tôi cũng còn đợi coi thuận tiện đã.
- Anh đi bằng máy bay chứ?
- Phải. Đi nhờ máy bay Pháp vô Sài Gòn, chớ lúc này còn đường nào nữa? Đi tàu thuỷ thì phải xuống Hải Phòng, mà từ đây xuống đó đường sá bất trắc lắm. Ngay tại Hà Nội bây giờ, có đi ra ngoài thím cũng nên cẩn thận. Bọn lính tráng, nhất là Lê dương, chúng nó hỗn lắm.
Rồi Diệm kể:
- Ngay ở đường Gambetta, ngay sau hôm đánh nhau, cả gia đình bác sĩ Luyện và mấy người con trai bị bọn lính mũ đỏ vào bắn chết và đập phá cả bệnh viện vì chúng cho là tiếng súng từ bên nhà này bắn ra.
Thấy bà Trạng và Lệ có vẻ lo ngại, Diệm khuyên:
- Hay là bà với thím đến ở tạm cùng các bà Phước, tôi nói cha Nguyện thưa lại với Bà Bề trên cho.
Bà Trạng không muốn giam mình giữa chốn tu hành nên trả lời:
- Cám ơn ông. Chúng tôi ở khu phố Tây cũng yên.
Từ giã anh chồng, Lệ cùng mẹ đến nhà Mai Lý, bạn cũ của bà Trạng đã từng giữ chức chánh mật thám thời Pháp ở biệt thự đường Carreaux.
Bà Trạng kinh hoàng nghe người nhà họ Mai kể lại cái chết thảm khốc của người bạn đã có thời đeo đuổi bà, từ một năm nay không gặp: họ Mai đã chết một cách bí mật. Người nhà vẫn không rõ họ Mai đã bị ai ám sát, chỉ biết trong những ngày cuối cùng Mai Lý sống trong sự lo âu đe doạ của những kẻ thù mà trước kia Mai Lý đã bắt bớ tra tấn, tù đày, giết hại. Mai Lý hết sức đề phòng, ngày đêm không bước ra khỏi nhà.
Nhưng rồi một buổi sáng, người nhà thấy Mai Lý nằm chết gục bên cửa sổ với một lưỡi dao cắm phập sau lưng, đâm suốt thấu tim, máu chảy thành vũng đã khô đặc dưới chân. Con chó bẹc-giê to lớn không bao giờ rời xa chủ cũng nằm chết bên cạnh họ Mai, xác bị thuốc độc tím thâm cả lại.
Bà Trạng ra khỏi nhà họ Mai, thờ thẫn như người không hồn, bước đi nặng nề bên cạnh Lệ.
Chiều xuống mau bên những ngọn cây trơ trụi đã chớm đâm lộc non mùa xuân.
Hai người đàn bà lẻ loi trên đường vắng lạnh như hai cái bóng vật vờ trôi giạt trong khung cảnh thê lương của thành phố chiến tranh.
Lệ bỗng nhắc nhở mẹ:
- Mẹ có nhớ ông Jacquet nhà ở phố nào không?
Tâm tạng đang rối bời của bà Trạng đột nhiên bừng lên khi nghe con gái nhắc đến người tình cũ, vội rảo bước tới khu biệt thự Hale hy vọng tìm gặp lại Jacquet giữa giờ phút buồn nản, chơ vơ.
Jacquet, trước đây là chủ tỉnh Bạc Liêu, hồi ông Trần Văn Chương có văn phòng luật sư tại đây. Thuở ấy, bà Trạng mới về nhà chồng, đang sống hờ hững bên cạnh người bạn trăm năm của một cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối, gặp viên chủ tỉnh đẹp trai người Pháp ở giữa tỉnh nhỏ đồng chua nước mặn cuối miền Nam.
Trong khung cảnh buồn tẻ của xứ "dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu" người thiếu phụ đài các lãng mạn đất Thần kinh gặp chàng thanh niên Ba Lê đa tình trong buổi đại tiệc khiêu vũ ở dinh chủ tỉnh.
Hơi rượu sâm banh và âm nhạc dịu ngọt cùng những lời mơn trớn của Jacquet đã làm cho bà Trạng ngây ngất say sưa quên cả chồng đang ngồi trò chuyện với một người Pháp già phó tham biện và kiêu hãnh nhìn vợ mình nổi bật giữa các phu nhân tỉnh nhỏ, được ông chủ tỉnh chú ý mời nhảy liên tiếp hết bản này đến bản nọ.
Trong cuộc dạ hội hôm ấy, bà Trạng được chấm làm hoa khôi, hơn cả mấy bà đầm và các bà đốc phủ sứ, bác sĩ, đại điền chủ tỉnh Bạc Liêu, nổi tiếng giàu có nhất Nam Kỳ.
Ông chủ tỉnh Jacquet đã tặng bà Trạng một chiếc mề đay vàng làm kỷ niệm, tự tay đeo vào cổ người đẹp và hôn tay.
Mối tình nảy nở nhanh chóng giữa người trai Pháp quyền thế và bà Trạng đa tình. Chẳng mấy chốc đồn khắp cả tỉnh. Ông Trần cũng như tất cả những người chồng có vợ ngoại tình trên đời, lẽ tất nhiên bao giờ cũng là người biết đến cuối cùng.
Mỗi chiều thứ bảy bà vợ một mình lên Sài Gòn đến thứ hai mới trở về nhà và trong khoảng thời gian đó, viên chủ tỉnh chưa vợ cũng vắng mặt tại Bạc Liêu. Có khi, Jacquet chở cả bà Trạng đi cùng xe lên Sài Gòn và ông Trần còn lấy làm hân hạnh cho rằng ông chủ tỉnh lịch sự biệt đãi mình có một bà vợ tân tiến, đúng thời trang văn minh Tây phương.
Các nhà hàng sang trọng, nhà khiêu vũ, khách sạn lớn ở Sài Gòn độ ấy, cứ vào cuối tuần lại được dịp đón tiếp đôi trai gái Pháp - Việt sánh vai nhau như vợ chồng trong tuần trăng mật.
Tính dan díu không còn che đậy, những cuộc ái ân không còn giấu diếm đã diễn ra một cách hết sức đều đặn giữa đôi lứa "già nhân ngãi, non vợ chồng" này, không làm ngạc nhiên ai nữa, ngoài người chồng hiền lành đến nhu nhược, bất lực. Ông Trần là người ngạc nhiên sau cùng, song bà vợ còn dành riêng cho ông chồng mọc sừng một sự ngạc nhiên quá trí óc tưởng tượng của nhà luật sư.
Chẳng những người vợ ngoại tình không chối cãi, van lơn chồng tha thứ, trái lại còn ngang nhiên đòi ly dị.
Người vợ đa tình đã thẳng thắn bộc lộ tất cả lòng mình, khi biết chồng mình bắt đầu nghi ngờ lòng chung thuỷ của mình.
- Phải, tôi có tư tình với Jacquet. Hơn thế nữa, tôi cũng muốn chung sống với anh ấy nữa, vì tôi đã yêu và chúng tôi đã yêu nhau. Tại sao chúng ta lại không nói thật tất cả với nhau? Tôi không cần phải giấu diếm gì hết, vì tôi thấy nói dối không có lợi trong lúc này, nhất là sự dối trá đó không mang lại hạnh phúc đến cho tôi. Chúng ta lấy nhau không phải vì tình, mà chỉ là cuộc hôn nhân của lý trí… Như vậy không có lý gì bắt buộc chúng ta phải ăn đời ở kiếp với nhau cả. Tôi không sợ dư luận đàm tiếu vì dư luận không làm cho tôi sung sướng. Hơn nữa, nếu sợ dư luận, tôi đã không làm những việc mà tôi đã làm, và tiếp tục làm. Dư luận là gì mới được chứ? Tôi bất chấp. Tôi thành thật, tôi muốn sống theo tình cảm của tôi. Vì thế, mặc dù mình đối với tôi hết sức tử tế, lịch sự, tôi không oán ghét gì mình cả, song tôi muốn xin ly dị. Tôi không muốn cho mình bị tổn thương đến danh dự vì có một người vợ ngoại tình. Tôi cũng không muốn kéo dài cuộc sống bên cạnh một người chồng mà tôi không yêu.
Những lời lẽ bất ngờ của vợ dồn dập thốt ra làm cho ông Trần choáng váng, không kịp nhận định để phản ứng nên chỉ ngồi yên, sững sờ lặng nghe. Bà Trạng như cởi mở được bao nhiêu nỗi chất chứa bấy lâu, nhìn bình hoa hồng trên bàn thao thác bất tuyệt:
- Tôi mong mình hiểu: chúng ta không chung sống với nhau được nữa thì chia tay như bạn bè. Trong khi chờ ly dị, chúng ta hãy sống ly thân, mỗi người một cuộc đời từ hôm nay.
Ông Trần nghẹn ngào lên tiếng hỏi:
- Mình đi đâu?
- Tôi sẽ bắt đầu sống một cuộc đời mới.
- Sống với Jacquet?
- Phải, chúng tôi sẽ thành hôn sau khi ly dị xong.
Ông Trần nghĩ đến tiếng tăm sẽ gây nên khi vụ ly dị đưa ra toà, những hậu quả đối với đại gia đình họ Trần, những dị nghị ảnh hưởng đến nghề nghiệp luật sư ở trong xã hội mà dư luận còn khắt khe. Nhìn thấy vợ vẫn tươi sáng, thản nhiên, ngang ngạnh, ông Trần nói:
- Để tôi suy nghĩ lại đã.
Trong khi ông Trần kéo dài thì ông bà Tổng đốc thân sinh luật sư Trần Văn Chương ở Hà Nội nhận được một bức thư của người con dâu trưởng trình bày mọi lẽ để xin ly dị.
Ông Trần vô cùng khốn khổ khi tiếp được thư của bà mẹ hỏi về những sự bất hoà ở gia đình và khuyên nhủ con khôn khéo đối xứ với người vợ có thể làm hại đến thanh danh, tiếng tăm họ Trần.
Sự đau khổ, tức giận của người chồng bị vợ ngang nhiên ngoại tình và công khai tuyên bố với nhà chồng để xin ly dị khiến ông Trần trở nên bình tĩnh, chịu đựng khác thường. Với vợ, ông chỉ vắn tắt bảo:
- Tôi không muốn ly dị.
Hôm sau, ông Trần đặt một bữa tiệc lớn tại nhà, mời những nhân vật tai mắt ở Bạc Liêu cùng viên chủ tỉnh tình địch đến dự.
Ông Trần sắp vợ ngồi giữa mình và viên chủ tỉnh, rồi đến tuần sâm banh, ông nâng ly lên tuyên bố:
- Chúng tôi thành thật cám ơn ông chủ tỉnh cùng quý vị đáp lời của vợ chồng chúng tôi đến dự buổi tiệc hôm nay, để chứng kiến cho rành, trái với những dư luận đồn đại, xuyên tạc bên ngoài, gia đình chúng tôi vẫn hạnh phúc đằm thắm, vợ chồng chúng tôi vẫn chung sống vui vẻ bên nhau. Vậy, xin mời ông chủ tỉnh cùng các bạn nâng ly uống mừng cho vợ chồng chúng tôi.
Những người có mặt, nhất là bà Trạng và viên chủ tỉnh Bạc Liêu đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Ông Trần cụng ly với vợ và quan khách xong, uống cạn chén rượu, gọi người hầu bàn rót thêm một tuần sâm banh nữa, rồi trịnh trọng đứng lên nói:
- Lý do thứ hai của bữa tiệc hôm nay là vợ chồng chúng tôi được gặp mặt đông đủ quý vị để ngỏ lời từ biệt. Văn phòng luật sư của chúng tôi dời về Sài Gòn, vợ chồng chúng tôi bắt buộc phải xa nơi này, xa các bạn đã có lòng thương mến chúng tôi trong suốt thời gian ở tại đây. Nhất là ông chủ tỉnh thân mến của chúng ta đã dành cho gia đình chúng tôi một cảm giác đặc biệt.
Thái độ của ông Trần không ngờ đã chiếm được thiện cảm của mọi người, viên chủ tỉnh Jacquet đâm ra ân hận trước tư cách mã thượng của người chồng mọc sừng, bà vợ ngoại tình cũng đành gượng cười gượng nói, đóng vai người vợ có diễm phúc, giữa chồng và tình nhân.
Bà Trạng thôi nói đến việc ly dị và cuộc dan díu với viên chủ tỉnh Bạc Liêu cũng mờ nhạt dần từ sau khi ông Trần dời văn phòng luật sư lên Sài Gòn.
Chuyện tình mười năm cũ như một cuốn phim quay lại cả quãng đời dĩ vãng, làm sống lại không khí nhiệt tình, yêu đương trong lòng người thiếu phụ bốn mươi đang đi trên đường vắng Hà Nội chiến tranh.
Bà Trạng nhìn kỹ tên ở tấm bảng đóng ngoài cửa rồi đưa tay lên bấm chuông. Không nghe chuông rung. Lệ cất tiếng gọi, thấy một con chó Tây lớn sồ ra sủa. Rồi một người Pháp ló đầu qua cửa sổ, nói vọng ra:
- Ai đấy? Muốn gì?
- Tôi muốn hỏi ông Jacquet.
- Ai muốn hỏi?
- Một người bạn gái. Bà Trần Văn Chương.
Bà Trạng trả lời rồi bảo Lệ:
- Đúng là giọng nói của Jacquet rồi. Một người Pháp cao lớn, râu quai nón, trạc ngoài bốn mươi từ từ đi ra, nhìn thấy bà Trạng bỗng tươi cười bước mau về phía cửa:
- Bất ngờ thật! Cơn gió nào đưa bà đến đây. Tôi không ngờ có sự ngạc nhiên thú vị thế này!
Bà Trạng đưa tay ra bắt, giới thiệu Lệ. Jacquet nhìn từ mẹ đến con gái rồi nói:
- Bà có cô con gái lớn đến thế này rồi. Cô ta giống bà lắm, và cũng đẹp như bà. Tôi tưởng là hai chị em mới phải. Xin mời vào nhà.
- Tôi rất hân hạnh được đón tiếp hai người đẹp trong một hoàn cảnh như vầy. Chiến tranh! Thật là một điều ghê tởm!
Jacquet nheo lại một bên mắt, cười hỏi bà Trạng:
- Xứ sở bà đang có chiến tranh chống nước Pháp. Nhưng bà không chống tôi chứ?
- Chống anh? Để tôi còn xem đã.
- Tôi bao giờ cũng sợ các bà thù nghịch, nhất là đối với những người đẹp và thông minh như người bạn cũ của tôi đây. Nào, các bà dùng gì? May ra tôi còn giữ một ít rượu để đãi khách. Ấy, tôi mừng gặp lại bạn cũ mà suýt quên là đang còn một chai sâm banh cất kỹ. Tôi phải mở ra để khao cho cuộc tái ngộ bất ngờ này.
Không đợi ý kiến khách, Jacquet vui vẻ đi vào trong, rồi trở ra với một chai rượu sâm banh lớn cùng ba cái ly pha lê. Chủ nhân trịnh trọng mở rượu rót mời, ba người cùng chạm cốc.
Jacquet nói qua về mình, bị Nhật bắt hôm đảo chánh đang lúc làm công sứ ở Bắc Ninh, được thả về sau ngày Đồng Minh thắng trận, và hiện chưa làm gì, còn đợi tình thế yên đã. Y nhìn bà Trạng, rót rượu châm vào ly khách, hạ giọng:
- Tôi vẫn luôn luôn một mình. Từ độ quen biết bà ở Bạc Liêu cho đến nay.
Bà Trạng hỏi:
- Sao anh không lấy vợ? Anh còn trẻ kia mà?
- Chính tôi cũng vẫn tự hỏi: sao mình không lấy vợ? Và có lẽ vì cứ hỏi như thế mà mãi không có vợ, nên đành mang tiếng là vieux garçon(1). Thú thật là tôi vẫn chưa quên sự thất bại độ nào, định lập gia đình mà không xong.
Nghe nhắc lại chuyện cũ, bà Trạng nhìn Jacquet buồn bã nói:
- Anh nhiều tình cảm quá và hay mơ mộng… thói cũ vẫn không chừa!
- Bà bảo không mơ mộng trong lúc này thì cũng đến điên đầu trước thực tế đang diễn ra chung quanh. Tôi rất yêu xứ này, trong khi tôi là người Pháp… tôi không chịu được việc đôi bên bắn giết nhau… thật là điên!
Lệ mỉm cười ngắt lời:
- Ông thuộc phái chủ trương hoà bình?
- Không, tôi không ưa chính trị, không ở trong đảng phái nào cả. Tôi ghét chiến tranh… con người sinh ra có phải để oán thù, giết nhau đâu! Không! Muốn bảo tôi thế nào cũng được, tôi chỉ muốn thái bình, yêu thương. Nhược điểm của tôi là vậy, bà bạn cũ của tôi có công nhận là đúng không?
Bà Trạng thấy Jacquet xoay câu chuyện chung quanh tình cảm trước mặt con gái mình, đâm ra hơi ngượng.
Tiếng trọng pháo nổ dồn dập theo những tràng đại liên vẳng dội đến lôi cuốn cả ba người trở về thực tại. Jacquet lên tiếng phá tan im lặng nặng nề:
- Xin lỗi, tôi mải vui mừng gặp lại bạn cũ mà quên hỏi thăm tin tức ông nhà hiện giờ ra sao?
Bà Trạng đáp:
- Nhà tôi hiện còn tản cư ở Hà Đông.
- Thế bà và cô đây về từ bao giờ?
- Vừa mới hôm nay.
Jacquet có vẻ ân hận thật tình:
- Rõ tôi thật là ngốc? Thế mà nãy giờ tôi cứ nói những câu chuyện đâu đâu. Một ngàn lần xin lỗi bà và cô. Tôi đi xa rời thực tế quá. Tôi xin sẵn sàng hết lòng, bà và cô cần điều gì cứ bảo.
Bà Trạng nói:
- Chúng tôi mới tản cư về, thấy nhà cửa bị cướp phá, ở giữa một dãy biệt thự vắng vẻ đường Gambetta, trong khu vực Tây, liệu có được an ninh không?
- Nhà bà ở trong khu vực Táy như thế tương đối là yên ổn đấy. Nhưng để tôi nói nhờ quân cảnh bảo vệ cho bà mới được. Còn vấn đề ăn uống ra sao?
- Tôi có tích trữ một số lương thực trước hôm chạy đi, song cũng bị lấy mất gần hết. Kể cũng hơi phiền.
- Không sao cả. Tôi xoay xở cho. Nhà bà có mấy người tất cả?
- Tôi, con gái tôi và một U già.
- Được rồi. Tôi có một người bạn ở sở tiếp tế, sẽ cho xe chở lương thực đầy đủ đến nhà. Cho tôi địa chỉ số nhà đi. Bà và cô có thể yên trí. Còn cần gì nữa, cứ cho tôi được biết. Đây là bổn phận của tôi, bà đừng ngại gì cả.
Sự sốt sắng của Jacquet đối với bà Trạng và Lệ trong mấy ngày đầu trở về Hà Nội đã mở đường cho sự thân tình giữa đôi bạn cũ.
Sống bên lửa đạn những ngày cuối chiến tranh ở Thủ đô, bà Trạng đã trải qua nhiều giờ phút ngất ngây, bốc lửa với người tình cũ Lệ đâm ra khao khát cuộc sống nồng nàn, đắm đuối của mẹ, và tâm hồn cùng xác thịt nóng bỏng của nàng mơ ước gặp lại các bạn trai ngày xưa.
Trong khi bà Trạng nhờ sự giới thiệu của viên cựu công sứ để giao thiệp các nhân vật thuộc phủ uỷ viên Cộng hoà Pháp, chiều chiều Lệ một mình phất phơ bên bờ hồ Hoàn Kiếm, phía hồ Tây yên ổn.
Tiếng súng còn nổ lẻ tẻ khu vực phố khách và chợ Đồng Xuân vẳng lại mặt hồ bình lặng làm rung rinh bóng Tháp Rùa in xuống Hồ Gươm.
Một hôm, đến Nhà Chung thăm Diệm ra về đến đầu phố ngõ Huyện, Lệ gặp hoạ sĩ Phạm, bạn học cũ, đã từng hoá trang cho Lệ thời kỳ nàng múa ở Nhà hát lớn Hà Nội. Qua những lời hỏi han, hoạ sĩ Phạm mời nàng đến chơi ở xưởng hoạ giữa phố Hàng Gai ngoài vòng tàn phá của lửa đạn. Lệ vui vẻ nhận lời ngay.
Nghe Lệ mới trở về Thành và đang rảnh rang, muốn làm việc để khỏi buồn chán vẩn vơ, hoạ sĩ Phạm nói:
- Tôi dành cho Lệ một sự bất ngờ lý thú, hợp với bản tính ưa hoạt động của Lệ.
Lệ tò mò hỏi, Phạm cười không trả lời, đưa nàng đi qua mấy ngả đường vắng tanh. Đến trước một phố nhỏ bên gốc cây bồ đề, ngày trước là ngôi am thờ cúng, Phạm lặng lẽ dắt Lệ đi vào tuốt trong sâu, chui qua lỗ hổng đục ở vách tường, qua một nhà nữa, rồi ngừng lại:
- Đến nơi rồi!
Phạm bật diêm đốt một ngọn nến cắm lên miệng chai rượu đặt trên bàn. Trong ánh sáng chập chờn, Lệ nhìn thấy các bức tranh sơn màu treo, dựng kín chung quanh, rồi nhìn đến nét mặt Phạm bỗng nhiên trở nên rắn rỏi lạ thường. Lệ chưa kịp ngạc nhiên thì nghe bạn nói:
- Tôi nhờ Lệ đến đây để nhờ Lệ một việc hệ trọng. Tôi nghĩ rằng Lệ là bạn cũ, Lệ là người có nhiều tình cảm không thể nào làm ngơ trước những sự đau khổ của kẻ khác, nên đã không ngại ngùng đưa Lệ vào nơi bí mật này. Lệ theo tôi qua đây sẽ rõ.
Phạm cầm cổ chai cắm nến lên, một tay nhấc bức tranh vải chắn ngang mở ra một lối chui vào căn phố bên cạnh. Lệ ngạc nhiên, rờn rợn ngoan ngoãn đi theo. Phạm đưa nàng đến một gian phòng rộng, có ánh sáng lờ mờ qua mấy lỗ nhỏ trên vách.
Trên nền nhà, hình dáng những người đang nằm im như xác chết. Tiếng thở mệt nhọc, tiếng rên rỉ nho nhỏ đưa đến tai Lệ, và mắt nàng đã quen với bóng tối, nhận ra những con người bị thương, băng bó sơ sài. Tiếng nói của Phạm nổi lên trong khung cảnh dị thường mà Lệ không hề ngờ đến:
- Các anh, các chị nằm đây, trong số này cũng có bạn của Lệ như tôi. Tất cả đều chiến đấu mà bị thương. Chúng tôi thiếu thuốc men, băng bó. Có một số đã chết. Chúng tôi phải cực nhọc mới đưa họ luồn qua các phố đến đây. Lệ giúp cho một tay để săn sóc, cứu chữa anh, chị em.
Lòng thương người của Lệ xúc động mạnh, song nàng thấy mình bất lực trước cảnh đau thương ghê gớm kia nên chỉ biết lắc đầu:
- Tôi có quen công việc cứu thương đâu!
Phạm van nài:
- Lệ có thể về xoay cho chúng tôi ít thuốc men cần thiết, loại trụ sinh, có thể cứu được những vết thương chưa đến nỗi tuyệt vọng.
Thấy Lệ im lặng, Phạm nói luôn:
- Tôi không tin rằng Lệ có thể làm ngơ trước những anh, chị em đang như thế kia. Tôi là hoạ sĩ mà lúc này cũng phải vứt bút vẽ đi để săn sóc cho họ.
Phạm cúi xuống hỏi han, rót nước cho vài người rồi cầm đèn đưa Lệ trở về phòng vẽ. Chàng rót một ly rượu mời, Lệ không uống.
Chàng đưa lên nốc một hơi rồi nói:
- Có mấy két Rhum đưa đến đây, tôi vừa dùng để rửa vết thương cho anh em, vừa lấy uống cho ấm bụng.
Đoạn Phạm kể cho Lệ hay rằng những người bị thương kia là anh, chị em ở các phố Hà Nội ở lại chiến đấu từ đêm nổ súng. Họ thay phiên nhau cầm cự, luồn qua các phố đục thủng vách tường, và mặc dầu thiếu võ khí, yếu thế, không một ai muốn rời bỏ thành phố thân yêu, để cho lọt vào tay quân địch.
Lệ thắc mắc hỏi:
- Các anh tin tưởng những gì mà chiến đấu trong tuyệt vọng như thế Định chết cho ai?
- Chúng tôi không tính toán, chỉ biết rằng mình là trai Hà Nội, yêu thương Hà Nội, phải giữ Hà Nội đến cùng, thế thôi! Còn định chết cho ai, như Lệ vừa nói, thật ra tôi cũng như những anh, chị em đang chiến đấu, thật tình cũng không nghĩ đến. Chúng tôi không muốn mất Hà Nội vào tay người khác. Đó không phải là một sự tự vệ chính đáng sao?
Lệ suy nghĩ rồi thong thả nói:
- Anh lý tưởng quá, mơ mộng quá.
Phạm mỉm cười:
- Ít ra con người còn có một lý tưởng để sống, để mơ mộng còn hơn sống mà không biết mình ra sao nữa, phải không Lệ?
Câu nói của người bạn cũ hoạ sĩ lởn vởn trong đầu óc Lệ trên đường về nhà. Những lời dặn dò thuốc men của Phạm biến mất khi nàng thấy một chiếc xe chở lính mũ đỏ mang súng chạy vụt ngang đại lộ trước nhà.
Nàng sực nghĩ đến các cuộc hãm hiếp của lính Tây do U già nghe ngóng kể lại từ sau khi quân Pháp phá vỡ vòng vây, tràn vào các khu người Việt, bắn giết, đốt nhà, cưỡng bức đàn bà, con gái mà chúng vồ bắt được.
Hình ảnh người lính Lê dương mình đầy lông lá, chỉ mặc mỗi một chiếc xì líp, tay cầm súng tiểu liên như những con thú dữ sổng chuồng hơi thở sặc nồng mùi rượu, lăn xả vào các khu phố có người Việt đi lùng đàn bà, con gái… Lệ rùng mình. Tiếp đến là hình ảnh của các nam, nữ thanh niên bị thương nằm rên rỉ trong căn phố tối tăm dưới ánh nến chập chờn ở trong tay người bạn hoạ sĩ. Lệ nằm trằn trọc, bị những hình bóng tối đen ám ảnh, ngồi lên đốt ngọn nến đầu giường, viết vào tập nhật ký mới bắt đầu từ hôm trở về Thành.
Bất giác nàng nhớ đến những lời của bà Trạng thốt ra khi đặt chân trở lại Hà Nội.
-        Chiến tranh bẩn thỉu!

Chương 8

Bắt đầu cuộc phiêu lưu


   Tiếng súng nổ dồn dập trong trận đánh chống giữ cứ điểm cuối cùng của trung đoàn Thủ đô giữa lòng thành phố vang dội đến tai Lệ đang một mình trằn trọc ở biệt thự đại lộ Gambetta. Nàng nhớ đến những lời thành khẩn của hoạ sĩ Phạm mà thấy lòng vấn vương mặc cảm phạm tội.
Giữa Lệ và các nam nữ bị thương đang ở trong tình trạng tuyệt vọng, thiếu thuốc men, thông cảm nào khiến nàng thấy có một bổn phận phải ra sức giúp đỡ. Họ chiến đấu cho những gì, xả thân hy sinh vì đâu. Lệ thấy không quan hệ đến mình. Tại sao lại còn phải thắc mắc?
Họ đứng về hàng ngũ đối phương, phe đã giết hại người trong gia đình Lệ, đã bắt bớ làm nhục nhã nàng. Lệ không tố cáo, chỉ điểm cho Pháp quét sạch họ đi, thế là tốt rồi. Còn nàng cứu trợ cho họ nữa thì thật phi lý? Nhưng tại sao hoạ sĩ Phạm tin cậy ở nàng, đưa nàng đến tận hang ổ, và còn hy vọng Lệ nghe theo nữa? Dù là bạn cũ, nhưng làm sao chàng nghệ sĩ kia lại có thể tin Lệ đến thế? Tin người ở trong một tình trạng xã hội rối ren, giữa lúc thành phố có chiến tranh, mà đôi bên đối địch đang tìm đủ mọi cách để triệt hạ kẻ thủ? Phạm không sợ Lệ có thể là kẻ dọ thám của Pháp, nhận lời hợp tác để trà trộn vào hàng ngũ kháng chiến mà phá hoại chăng?
Bao nhiêu câu hỏi, Lệ đem ra phân tích nhưng vẫn không biết thế nào là đúng.
Hôm sau, Lệ tìm đến địa điểm của Phạm. Bước vào căn phố nhỏ sâu lòng, nàng chui qua hai vách tường đục thủng, đẩy một tấm tranh chắn lối vào đến phòng hoạ. Lệ đằng hắng lên tiếng, không nghe thấy gì, vơ lấy ngọn diêm đốt sáng ngọn nến: Nàng đặt lên bàn gói bông và mấy ống thuốc viên trụ sinh lấy ở nhà bà Trạng, đi lại trong căn phòng âm thầm, bóng mình chập chờn trên những hình ảnh treo quanh tường. Lệ có cảm tưởng như mình đang sống trong một không khí tiểu thuyết quái đản giữa khung cảnh dị thường này.
Vài tiếng nổ ầm ì của trọng pháo văng vẳng lại, nhắc nhở Lệ trở về thực tại ác liệt của chung quanh. Bỗng một tiếng cười trong trẻo, tiếp theo tiếng nói của đàn ông rồi Lệ nhìn thấy một bức tranh dựng bên tường động đậy từ từ đẩy qua một bên, hoạ sĩ Phạm chui ra với một thiếu nữ đi sau.
- Lệ, tôi tin thế nào Lệ cũng đến mà, cô Hạnh phục tôi chưa?
Hoạ sĩ Phạm chưa kịp giới thiệu Lệ đã nhận ra thiếu nữ súng sính trong chiếc áo vá rơi nhà binh, là bạn học có tiếng là tinh nghịch nhất và múa hay nhất của bà vũ sư Parmentier. Cô gái cởi súng các-bin ở vai đặt lên bàn, rồi ôm chầm lấy Lệ, mừng rỡ:
- Trời ơi, Lệ! Mình tưởng "cậu" sống sung sướng quá mà không ra khỏi được "lầu son gác tía" kia chứ!
Lệ không khỏi cảm động trong sự gặp gỡ bất ngờ, nhìn thẳng mặt bạn:
- Tiểu thư Hạnh bỏ múa để vác súng từ bao giờ thế?
- Từ đêm nổ súng ở Hà Nội đấy. Lệ theo bọn mình cho vui nhé?
Lệ ậm ừ đáp:
- Mình có biết bắn súng như Hạnh đâu.
- Cứ nhắm cho đúng đầu thù rồi bấm cò súng nổ là biết bắn rồi. Học bắn không khó bằng học múa đâu, Lệ ạ. Tối qua nghe anh Phạm gặp Lệ, mình vui quá, cả đêm cứ nghĩ tới Lệ, chỉ sợ Lệ không trở lại thì mình buồn ghê lắm. Bây giờ có Lệ đây, mình bắt cóc Lệ đi luôn, để thành lập một trung đội tiểu thư thủ đô đánh Pháp mới được.
Trước sự ríu rít của người bạn cũ chân thành, Lệ đâm ra lúng túng, song bình tĩnh lại ngay, thẳng thắn trả lời:
- Lệ không thể như các anh chị được.
Hạnh có vẻ ngạc nhiên:
- Sao lại không thể được? Lệ không phải là người Hà Nội ư? Có mấy cô bạn cũng tiểu thư khuê các như Lệ ấy, bây giờ hăng ra phết! Hay là… thôi mình hiểu rồi. Lệ bị đức lang quân xỏ mũi buộc ở xó bếp chứ gì?
Lệ cười gượng không muốn nói cho bạn rõ tâm trạng và hoàn cảnh cách biệt của mình, trả lời cho qua chuyện.
- Hạnh đoán đúng đấy. Lệ có còn độc thân để tự do bay nhảy như Hạnh đâu!
Hoạ sĩ Phạm không nói cho Hạnh hay việc Lệ mới trở về thành, và cũng không mong gì lôi cuốn được Lệ theo nên nói chen vào:
- Mỗi người một hoàn cảnh. Giúp cho kháng chiến là được rồi, miễn Lệ có lòng thôi, chứ cô Hạnh muốn cho ai cũng vác súng như cô!
Hạnh ngắt lời:
- Thôi đi anh! Hạnh đang "địch vận" Lệ mà anh nói thế thì hỏng kế hoạch mất rồi.
Qua tiếng cười, Lệ nói:
- Tôi chỉ lấy được có một ít thuốc ở nhà mang biếu anh Phạm đây thôi. Không biết mua ở đâu lúc này, cũng không biết xoay đâu cho có.
- Cám ơn Lệ nhiều lắm. Bây giờ cũng không dám làm phiền Lệ nữa, vì bọn này không còn ở đây lâu.
Hạnh tiếp lời đề nghị:
- Lệ có thể ở lại với bọn này vài giờ nữa để chia tay nhau không?
Lệ chưa biết trả lời ra sao thì Phạm hỏi:
- Lệ không nhận lời cũng không được đâu, vì Hạnh đã lên tiếng mời rồi, Lệ hãy ở lại đây chờ bọn này đi rồi về…
Thấy Lệ có vẻ ngẩn ngơ, Hạnh cất tiếng cười nói:
- Anh Phạm muốn chọc Lệ đấy. Anh ấy tếu lắm, bịa chuyện xin thuốc men để thử xem Lệ thế nào đấy thôi. Anh lại muốn đóng kịch với Lệ nữa, méo mó nghề nghiệp mà. Chẳng là anh Phạm phụ trách về văn nghệ, muốn có Lệ theo để múa. Nhưng gặp Lệ rồi, mình biết Lệ không đi được. Chúng mình đành chia tay.
Hạnh cầm lấy súng, một tay nắm tay Lệ, nhìn thẳng vào mặt bạn:
- Không biết bao giờ chúng mình gặp lại nhau đây! Thôi Lệ về nhé!
- Hạnh đi nhé!
Phạm nói:
- Để tôi đưa Lệ trở ra ngoài. Tôi còn phải từ giã đường phố Hà Nội nữa chứ.
Lệ lặng lẽ ra về, không ngờ rằng nàng vừa từ giã hai người bạn, trong đêm ấy, trung đoàn Thủ đô rút khỏi thành phố, chấm dứt cuộc chiến sau sáu mươi ngày đêm cầm cự giữa lòng Hà Nội.
                                     ***
Tiếng súng, lựu đạn nổ ầm ì một hồi về phía khu chợ Đồng Xuân, tiếp theo là những tiếng đại bác rung chuyển cả thành phố, rồi im lặng bao trùm. Trong im lặng nghe rõ tiếng hơi thở, Lệ nằm yên trên giường, lòng nghĩ vẩn vơ sau cuộc gặp gỡ ban chiều.
Tâm trí nàng đang bấn loạn thì nghe có tiếng chân của bà Trạng đến gần.
- Con chưa ngủ à?
Nàng vờ nhắm mắt không trả lời, lắng nghe tiếng nói chuyện rì rầm ở phòng khách giữa mẹ và viên công sứ Pháp.
Từ hôm trở về Thành, bà Trạng nhiều hôm vắng nhà, ở lại với người tình cũ và thỉnh thoảng Jacquet đến chơi, ngủ lại luôn, vì ngồi nói chuyện quá giờ giới nghiêm.
Có đêm, trong đêm khuya vắng, giữa những tiếng súng nổ vẳng lại Lệ nghe cả những tiếng vẳng lại ở phòng ngủ bà Trạng, nàng lăn lộn không ngủ được. Có lúc nàng muốn kêu thét lên vì ngực nặng thở, nghĩ đến cảnh diễn ra chỉ cách nàng một bức tường và những hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức của Lệ chợt nổi dậy. Lệ lại trải qua một cuộc khủng hoảng tình dục giữa thành phố nặng nề không khí chiến tranh.
Sau hôm trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, viên cựu công sứ Jacquet được tin Pháp cho hay vội đến báo cho bà Trạng và Lệ biết để nhắn chồng trở về.
Bà Trạng có vẻ như tiếc rẻ những ngày vừa qua trong khi bảo người U già vào Hà Đông nhắn ông Trần và con rể vào Hà Nội, rồi bà nói với Lệ:
- Mẹ có nhờ ông Jacquet giới thiệu ba với mấy nhân vật cao cấp trong uỷ viên Cộng hoà Pháp. Chắc chắn thế nào ba về, họ cũng mời tiếp xúc.
Bà Trạng im lặng nhìn con gái hồi lâu, rồi nói tiếp:
- Mẹ thấy rằng chồng con có thể nhờ ở con sự khôn khéo mà làm nên việc lớn, bên cạnh anh Thượng con đang có nhiều hy vọng ra chấp chính. Trái với tục lệ hủ lậu ngày xưa để lại, người đàn bà ngày này không nên ở xó bếp, phải ra xã hội hoạt động. Mẹ tin con cũng không thể sống theo thói thường phụ nữ mình, mà biết nắm lấy cơ hội lập nên sự nghiệp vẻ vang cho mình, cho chồng.
Những lời tâm sự có tính cách giáo hoá của bà Trạng đáp ứng với hoài vọng của Lệ và không ngờ có một ảnh hưởng quyết định trong đời nàng về sau.
Lệ sống trong một không khí hỗn độn giữa một thành phố tràn ngập những dân buôn lậu hàng hoá, đầu cơ chính trị, trung gian đủ mọi thứ. Người ta đua nhau ăn chơi, lăn xả vào cuộc sống vật chất, xa hoa sau những tháng ngày thiếu thốn, nguy hiểm cạnh những chết chóc đang tiếp diễn ở chung quanh còn ngập tràn lửa đạn. Dư âm cuộc kháng chiến và mặt trận bên ngoài thành phố vang dội về như thúc giục người thị dân hối hả tận hưởng cuộc sống trước những ngày mai bấp bênh.
Hà Nội trở nên một thành phố xả hơi cho binh sĩ của đạo quân viễn chinh từ các mặt trận đổ về nghỉ ngơi. Quán rượu, tiệm nhảy, hộp đêm mọc lên khắp nơi, tăng theo quân số. Số gái điếm cũng tràn ngập Thủ đô theo nhu cầu gia tăng của quân đội Liên hiệp Pháp.
Tiền từ các ngân hàng tuôn ra, tương ứng với số người đầu quân và máu đổ ở chiến trường. Người Pháp cố tô vẽ cho một thành phố có một bộ mặt phồn thịnh, xa hoa giả tạo để lôi cuốn những người ở bên ngoài về với cuộc sống bơ sữa, đầy đủ vật chất, trái ngược với cảnh thiếu thốn ở hậu phương.
Đồng thời, những danh từ tự do, độc lập được thổi phồng lên, khoác cho công cuộc tái chiếm thuộc địa một hình thức cám dỗ, mệnh danh là quốc gia, với những nhân vật bù nhìn do Pháp đặt để giựt dây.
Giữa khung cảnh hỗn độn ấy, bà Trạng mãi lo theo đuổi cái ghế nghị sĩ Liên hiệp Pháp tương lai và bận rộn theo các buổi tiệc tùng; khiêu vũ, chỉ mong Bảo Đại trở về ngôi hoàng đế để thực hiện giấc mộng bấy lâu ôm ấp.
Ông Trần mở lại văn phòng luật sư, song cũng bỏ cả thì giờ lo chạy vận động để trở lại chính trường.
Lệ mải lo theo đúng thời trang các kiểu quần áo, phấn son, nước hoa, uốn tóc, mặc chồng vùi đầu bên đống sách. Về phần Nhu từ hôm người anh cựu Thượng thư vào Sài Gòn, ngày đêm mải miết nghiên cứu sách chính trị và giải buồn bằng cách lui tới tiệm hút phố Mã Mây, trong khi chờ tin của Diệm tổ chức nội các.
Mùa thu đã chớm về Hà Nội. Một tối Lệ cùng chồng đi xem chiếu bóng về, thấy người khách lạ đang ngồi đợi ở nhà. Nhu đọc bức thư của khách trao tay, mới biết đây là một linh mục từ Sài Gòn ra, mang những tin tức của Diệm.
Người tu hành trẻ tuổi tự giới thiệu rồi nói:
- Cụ Ngô nhờ tôi nói lại cho ông hay cụ đã gặp đức Tổng Giám mục Spellman, và được sự hứa hẹn ủng hộ của Công giáo Mỹ, cùng như của Pháp và Vatican. Theo lời cụ, chiến tranh Việt - Pháp hiện thời đang chuyển thành cuộc tranh chấp ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ tại Đông Nam Á. Mỹ sẵn sàng ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, với một chính phủ quốc gia không chịu ảnh hưởng của cộng sản. Cụ Ngô có được tin mới nhất, vị đại sứ Mỹ ở Pháp, ông Bullitt nhân vật có ảnh hưởng lớn của Đảng Cộng hoà Mỹ, có ghé Hồng Kông gặp đức Bảo Đại và xác nhận ý định của Mỹ tán thành ngài trở về nước chấp chính.
Linh mục ngừng một lúc, tỏ ra tin tưởng:
- Theo các giới trong Nam, thế nào cụ Ngô cũng được mời ra lập nội các. Vừa rồi đức Bảo Đại có mời những đại diện các đảng phái sang Hồng Kông, cho ngài biết rõ về tình hình nước nhà, hầu tìm phương kế đem lại hoà bình, có 24 đại biểu sang đó. Ở Nam có các ông Nguyễn Văn Sâm, người của Mặt trận Liên hiệp quốc gia, Nguyễn Văn Tâm, Mặt trận Nam Kỳ quốc, Trần Quang Vinh, Tư lệnh giáo phái Cao Đài, Nguyễn Phan Long, chính khách… Ở Trung có các ông Trần Văn Lý, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Huế, Trần Thanh Đạt Chủ Tịch quốc gia Liên hiệp, Cao Văn Chiếu, đại diện trí thức Trung Kỳ, Trần Văn Tuyên, đại diện phong trào dân chúng… Các lãnh tụ lưu vong ở Tàu, Nguyễn Hải Thần, anh em Nguyễn Tường Tam… cũng tề tựu đông đủ về Hồng Kông: Cụ Ngô không đi, bảo là đợi đức Bảo Đại mời thẳng cụ mới qua. Cụ còn nhắn ông bà nên thu xếp để vào Nam, ở Sài Gòn hoặc Đà Lạt cho thuận tiện công việc sắp tới đây ông bà có nhắn gì, ngày mai tôi trở lại; sáng mất tôi sẽ trở vô Sài Gòn. Sau khi tiễn linh mục đưa tin ra về Nhu quay vào vặn radio lên, nghe tin đài Con Nhạn của quân đội viễn chinh Pháp loan báo các sự thắng lợi trong cuộc hành quân đại qui mô vừa diễn ra mấy ngày nay ở vùng Trung du và Việt Bắc mười tiểu đoàn bộ binh, ba đoàn thiết giáp, cùng đại bộ phận nhảy dù đã tung ra ở miền thượng du Bắc Việt, định bất ngờ vồ lấy các nhân vật và cơ sở của chính phủ Việt Minh, tiêu diệt quân đội chính qui và các căn cứ tiếp tế, chiếm đóng vùng biên giới Quảng Tây, từ Lạng Sơn đến Cao Bằng để cắt đường tiếp viện chiến cụ từ Trung Hoa sang. Quân nhảy dù thả xuống Bắc Cạn định đánh cú bất thình lình, nhưng ông Hồ Chính Minh và các yếu nhân quan trọng Việt Minh đã đi khỏi nơi đây hôm trước.
Sau những tin tức thắng lợi của Bộ tham mưu từ Sài Gòn loan ra, cho rằng toàn bộ cơ cấu chỉ huy của đối phương bị tan vỡ, đài Con Nhạn nhấn mạnh rằng mục đích cuộc hành quân lớn lao này là đánh một đòn quyết liệt vào uy thế Việt Minh, đồng thời dọn đường cho cựu hoàng Bảo Đại trở về nước đầu xuân 1948. Tiếp theo, một lời tuyên bố của một nhân vật cao cấp Pháp ở Sài Gòn trả lời cuộc phỏng vấn của thông tấn viên hãng Reuter vang lên:
"Những cuộc hành quân đang diễn ra có mục đích mở đường cho cuộc thương thuyết với Bảo Đại được dễ dàng. Hồ Chí Minh dồn vào cảnh bị bao vây, phải thoát thân để bảo toàn tánh mạng. Nhà cầm quyền Pháp chắc hẳn sẽ chấp thuận lời yêu cầu của Bảo Đại về sự thống nhất và độc lập Việt Nam… Chúng tôi hy vọng chắc chắn rằng những tầng lớp dân chúng khốn khổ bấy lâu, sớm tập hợp lại chung quanh một tân chính phủ quốc gia đặt dưới quyền Hoàng đế Bảo Đại"
Lệ đặt tờ báo xuống bàn, ngước mắt hỏi chồng:
- Người của giải pháp thứ ba Pháp đưa ra là ai, anh có biết không?
- Nguyễn Văn Xuân, trung tướng Pháp. Ba biết rõ về ông này và hình như mẹ cũng có giao thiệp với phe tướng Xuân nữa. Có lẽ Pháp đưa ra thí nghiệm lá bài này, do ảnh hưởng của Đảng xã hội SFIO. Để hỏi lại ba thì rõ về Nguyễn Văn Xuân như thế nào.
Nhu vừa dứt lời, ông Trần trong bộ dạ phục chỉnh tề, sắc mặt hồng đỏ vì rượu, cùng với bà vợ lộng lẫy bước vào.
- Ba, mẹ vừa đi dự tiệc ở Phủ Cộng hoà về, ghé cho các con hay tin ba sắp đi Sài Gòn đây.
Bà Trạng tiếp theo lời chồng:
- Người ta mời ba con tham dự vào chính phủ do ông Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng.
Nhu thắc mắc hỏi:
- Ông Xuân trực tiếp mời ba?
- Không. Một nhân vật ở phủ Cao uỷ giới thiệu ba vào Sài Gòn.
- Ba có rõ chủ trương của ông Xuân thế nào chưa?
Ông Trần Văn Chương dụi điếu thuốc xì gà hút dở, thong thả:
- Nghe nói tướng Xuân định thành lập một liên bang Việt Nam, liên hiệp các nhân vật lãnh đạo ba kỳ; Hồ Chí Minh ở Bắc, Bảo Đại ở Trung, và ở Nam là Nguyễn Văn Xuân.
Nhu mỉm cười nghi hoặc:
- Ông ta có nhiều ảo tưởng quá nhỉ? Ba có biết rõ ông Xuân không?
Ông Trần đáp:
- Theo lời mấy người Pháp có thẩm quyền cho biết, từ ngày ông Lê Văn Hoạch lên làm Thủ tướng chính phủ Nam Kỳ tự trị, ông Xuân sang Paris. Ông ta hợp tác với một bà đầm lai, bà Radigue mở một "khách thính Đông Dương, tiếp xúc với các chính giới Pháp, đặc biệt là các nhân vật trong Đảng Xã hội (SFIO) và tập đoàn phái tả Cộng hoà (R.G.R). Các chính khách cấp tiến và xã hội phái hữu trong chính phủ Pháp thường lui tới xa lông bà Radigue, muốn đưa ra một giải pháp ôn hoà, kiểu dân chủ tư sản, thành lập một chế độ Cộng hoà Việt Nam, với lực lượng thứ ba, trong đó những địa vị chính sẽ dành cho các phần tử gọi là "tiến bộ" chịu ảnh hưởng của SFIO, đảng phản đối việc phục hồi chế độ quân chủ. Ông Nguyễn Văn Xuân được Pháp chọn ra để thi hành chính sách này có tham vọng đứng ra làm trung gian để hoà hợp giữa ông Hồ Chí Minh và ông Bảo Đại cùng nước Pháp.
Nhu thắc mắc hỏi:
- Ông Xuân tính vừa làm trung gian, dàn xếp và trọng tài giữa cánh tả cách mạng của ông Hồ Chí Minh và cánh hữu bảo thủ Bảo Đại? Ba liệu có kết quả không?
Ông Trần nghĩ ngợi rồi nói:
- Một người Pháp đã từng chiến đấu cạnh tướng Xuân hồi đại chiến 1914 - 1918, hiện là cố vấn của ông ta cho ba hay, ông Xuân tin là trong ba người hiện nay: Hồ Chí Minh, Bảo Đại và ông ta, với thành tích quá khứ và giao du rộng với chính phủ Pháp, ông là người có hy vọng nhiều nhất để đòi hỏi Pháp những yêu sách cần thiết mà Việt Nam đang chờ đợi. Ông Xuân định tiếp xúc liền với ông Hồ Chí Minh và ông Bảo Đại, và nhờ đến ba một phần trong công cuộc ngoại giao này, qua sự trung gian của người bạn Pháp ở Cao uỷ. Ba tính đi Sài Gòn để gặp ông Xuân rồi sau đó mới quyết định.
Bà Trạng bảo con rể:
- Mẹ cũng đi với ba. Anh có nhắn gì ông Diệm, mẹ chuyển lời cho.
- Dạ con cũng vừa gặp người mang tin của anh Thượng con ra ban nãy.
Nhu kể lại cho ông bà Trần nghe những lời của Ngô Đình Diệm nhắc qua vị linh mục liên lạc, rồi nói:
- Ba mẹ vào trong đó, đến nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn, sẽ gặp anh Thượng con tại đó. Anh Thượng con cũng sắp đi Hồng Kông để gặp ông Bảo Đại. Ba mẹ gặp anh Thượng con chắc sẽ biết thêm nhiều chuyện nữa.
Lệ mải ngồi nghe chuyện, bắt đầu lên tiếng:
- Ba mẹ đi Sài Gòn ra, có lẽ đến lượt chúng con sẽ vào trong ấy. Anh Thượng nhắn nhà con vào.
Bà Trạng ngắt lời:
- Các con vào có việc cần?
- Dạ, anh Thượng con chắc thế nào cũng ra lập chính phủ, bảo cần có nhà con ở gần để bàn tính công việc.
- Thế con phải cố gắng hoạt động như mẹ đây nhé! Mẹ con mình phải là những người phụ nữ Việt Nam đầu tiên hoạt động chính trị mới được. Mẹ nào con nấy, con có đồng ý không?
Bà Trạng cao hứng đưa tay ra, Lệ cũng đưa tay siết chặt lấy trước cái nhìn vui vẻ của ông Trần và Nhu. Cả bốn người đều hứng khởi trước những viễn ảnh chính trị đầy hứa hẹn cho hai gia đình Ngô - Trần.
                                          ***

Chiếc máy bay bốn động cơ chuyển mình cất cánh từ từ rời khỏi đường vòng sân bay rồi lao mình vào khoảng không. Lệ nhìn theo cho đến lúc chiếc phi cơ chở ông bà Trần mất dạng về phía Nam, mới bước ra khỏi phi trường Gia Lâm.
Ngồi trên xe trở về Hà Nội, qua cầu Doumer (1), Lệ thấy lòng rộn ràng nghĩ đến tương lai:
- Đối với người đàn bà thông minh, nhan sắc là một khí giới lợi hại để chiến thắng, để tạo nên sự nghiệp. Trong lịch sử có nhiều phụ nữ thành công rực rỡ, vì đã biết đem trí thông minh và nhan sắc ra để làm việc. Như Tống Mỹ Linh chẳng hạn… Tưởng Giới Thạch cũng nhờ bà vợ tài sắc đó mà đạt đến địa vị ngày nay.
Những lời lẽ của bà Trạng hôm nào còn vẳng bên tai Lệ, trong khi nói đến vai trò của người đàn bà trong chính trường. Lệ hồi tường lại mà thấy nao nức, phấn khởi. Tại sao nàng lại không bắt chước theo gương mẹ mà hoạt động, bay nhảy để thực hiện những danh vọng, địa vị vẫn mơ ước?
Nhu cũng như ông Trần là những người chồng nuông chiều vợ. Lệ có thể khiến chồng theo ý nàng, chỉ còn chờ cơ hội tốt nữa thôi.
- Cơ hội, người ta phải tạo nên, hoạt động xoay xở cho nó đến với mình, chớ không thể như kẻ nằm dưới gốc cây há miệng để chờ sung rụng trong chuyện cổ tích nữa.
Câu nói ấy, cũng chính bà Trạng đã thốt ra với Lệ. Khi bà nói đến các cuộc giao thiệp vận động chiếc ghế nghị sĩ Liên hiệp Pháp.
Lệ nhớ lại, nàng đã nêu vấn đề tai tiếng và dư luận giới hạn người đàn bà ở trong xã hội Việt Nam còn nặng thành kiến, lễ giáo, bà Trạng đã cười nhạt bảo nàng:
- Nếu chỉ nghĩ đến dư luận và sợ tai tiếng thì không thể làm nên được việc gì cả. Tại sao người đàn bà lại cứ mặc cảm rằng mình không thể như đàn ông? Cần phải thành thật với mình là đủ, còn những thành kiến lễ giáo của người đàn ông ích kỷ đặt ra để ràng buộc hạ giá người đàn bà, ta phải vượt qua. Trong khi người đàn ông ở xã hội này có được quyền năm thê bảy thiếp, ngang nhiên lấy vợ lẽ nàng hầu, tại sao họ lên án người đàn bà có tình nhân và kết tội sự ngoại tình của vợ là một trọng tội ghê gớm? Tại sao chồng làm được? Mà lại cấm đoán vợ? Đàn bà không phải là người như đàn ông hay chăng? Không thể chấp nhận những sự bất công, bất bình đẳng theo quan niệm cổ hủ đó.
Trong khi Lệ nhớ lại những lời nói của mẹ đem ra áp dụng trong đời sống, Nhu đang nằm bên bàn dèn ở phố Mã Mây với một người bạn học cũ, đã chán chường hoạt động chính trị, vùi đầu vào khói thuốc phiện để khuây khoả.
- Tôi nghĩ lúc này chỉ có hai cách: một là cầm súng đi bắn giết, hai là hút thuốc phiện. Chớ sống trong cái cảnh thối nát hỗn loạn này, bảo làm gì hơn nữa!
Nhu nhận thấy tâm trạng ê chề của người bạn đã vùng vẫy khuấy động một thời trong lớp người cách mạng quốc gia mà dâm ra hoang mang. Nhu cũng đã trở lại quen với tiệm hút từ sau khi về Hà Nội, ban đầu chỉ xem là thú giải phiền của kẻ trí thức, rồi dần dà thành ra nghiện lúc nào không hay. Song Nhu vẫn chỉ coi đó là một phương tiện để giúp chàng làm việc về trí óc và làm thoả mãn những đòi hỏi xác thịt của Lệ.
Trạng thái bất lực của Nhu khiến chàng phải luôn luôn nhờ đến sức tăng cường của ma tuý và chẳng bao lâu Nhu trở thành người hút nặng. Nhu vẫn giấu Lệ không cho biết mình vẫn dùng á phiện, nên khi gặp lại người bạn cũ cùng hoàn cảnh hút nặng và thấy bạn ở trong một tình trạng khủng hoảng dữ dội, Nhu liền nghĩ đến việc cai.
Tối hôm ông bà Trần đi Sài Gòn, Nhu đem việc mình nghiện á phiện nói cho Lệ hay và ngỏ luôn ý định cương quyết giải độc.
- Tôi thấy việc anh hút hay không cũng chẳng quan hệ gì.
Nhu không chờ đợi ở Lệ một câu nói thản nhiên đến thế và càng bất ngờ thêm khi nghe người vợ trẻ hỏi:
- Tại sao anh lại muốn bỏ?
Lý do Nhu bỗng dưng muốn giải độc cũng mơ hồ, sau khi gặp người bạn đâm đầu vào thuốc phiện, xem đó là phương tiện để quên thực tại chung quanh, khiến chàng lúng túng không biết trả lời Lệ ra sao.
- Anh muốn bỏ vì anh không muốn hút nữa.
- Thế tại sao anh lại hút?
Nhu càng bối rối trước sự bình thản của vợ, có lẽ chẳng quan tâm gì đến tình trạng nghiện ngập của chồng, nếu không phải để cho Nhu hoàn toàn tự do đắm mình vào chất ma tuý. Lệ đã nghĩ gì khi nói ra một cách dửng dưng đến thế.
Trước vẻ thắc mắc, khó chịu của Nhu, Lệ ôn tồn nói:
- Em nói thế, vì em biết anh làm gì cũng suy nghĩ cẩn thận. Em không cho mong anh sa ngã, như quan niệm thông thường của những người hút thuốc phiện, uống rượu, trai gái… Người ta ai mà không có nhược điểm! Cho nên em không quan trọng hoá việc anh có hút hay không…
Nhu phân vân không hiểu rõ Lệ có tư tường phóng khoáng hay có hậu ý gì khi nói với chồng như vậy? Nhất là những lời ấy thốt ra trước một kẻ thứ ba, người bạn bất đắc chí của Nhu gặp ở phố Mã Mây lúc chiều mà Nhu đã mời về nhà.
- Quan niệm của chị về việc hút thuốc phiện tôi thấy cũng giống như quan niệm của một người bạn tôi đối với việc ngoại tình. Anh ta làm giáo sư triết học, có lẽ vì thế nên có một thái độ phớt tỉnh trước cảnh bà vợ đi chơi với tình nhân.
Lệ mỉm cười khó hiểu, tiếp lời người bạn họ Trần:
- Anh rõ khéo ví von. Thế anh cho người đàn ông hút thuốc phiện cũng giống như người đàn bà ngoại tình sao?
- Cũng tương tự như vậy. Nhưng đối tượng của người hút thuốc là khói thuốc phiện mà thiên hạ gọi là "ả phù dung", còn đối tượng của người đàn bà ngoại tình cụ thể hơn… Một đấng thuộc về tinh thần, còn một đằng về vật chất.
Nhu không muốn câu chuyện đi xa hơn nữa, ngắt ngang:
- Thôi, tạm chấm dứt câu chuyện triết lý của anh đi để chúng ta trở về với thực tại. Anh cũng vừa ở ngoài kia về, anh nhận định tình thế ra sao?
- Anh chị cho tôi là khinh bạc cũng được, song dưới mắt tôi thì trong này hay ngoài kia, cả đôi bên đều khó thở cả. Chiến tranh hiện nay chỉ là một canh bạc mà tay cái là các nước đàn anh đang tranh nhau chia phần, còn Việt Nam chỉ là tốt đen, tốt đỏ để thí quân.
Nhu lắc đầu:
- Anh bi quan quá.
- Anh cho là có thể không bi quan được à? Anh thành thật chỉ cho tôi một con đường sống thực sự, không dối trá, tôi xin sẵn sàng theo anh, dù có phải hy sinh đến đâu chăng nữa.
Nhu im lặng suy nghĩ rồi thong thả nói:
- Lúc này tôi chưa trả lời anh được. Nhưng tôi tin rồi đây tôi sẽ giải đáp được câu hỏi của anh.
                                      ***
Sự im lặng ở gian phòng khách trong khu nhà thờ Cha Tam như tăng thêm vì thái độ lặng lẽ của mấy anh em họ Ngô ngồi chung quanh chiếc bàn tròn mặt đá trắng.
Chuông chiều vừa dứt tiếng ngân nga, lời cầu kinh cũng chấm dứt theo dấu thánh giá, vị cựu Thượng thư Bộ lại kéo ghế lại gần người anh Giám mục và người em út rồi bắt đầu nói:
- Tôi mời anh và chú Luyện để cho hay tôi vừa được điện văn của ông Bảo Đại mời sang Hồng Kông tham khảo ý kiến. Ông Bảo Đại mới hội kiến Cao uỷ Bollaert trên một chiến hạm Pháp tại vịnh Hạ Long. Cuộc gặp gỡ này kéo dài trong hai hôm, ông Bảo Đại đã trở về Hồng Kông và sắp sửa đi Genève nên muốn gặp tôi. Chắc cũng không ngoài việc ngài định trở về nước và nhờ tôi đứng ra lập chính phủ.
Giám mục Thục ngắt lời:
- Chú có rõ ông Bollaert bàn bạc gì với Đức Bảo Đại chưa?
- Dạ chưa, nhưng theo tin tức tôi được biết thì thái độ của Pháp cũng còn mập mờ lắm.
Luyện góp ý kiến:
- Một người Pháp quen em thuộc Đảng Xã hội, viết báo ở Sài Gòn cho em hay là ông Bảo Đại hiện đang chịu ảnh hưởng của dược sĩ Phan Văn Giáo và bác sĩ Trần Đình Quế, những phần tử thân Pháp và Phủ Cao uỷ mới gởi thêm Cousseau, lão trùm mật thám, chuyên môn làm trung gian sang Hồng Kông để dọn đường cho cuộc gặp gỡ tại vịnh Hạ Long. Nếu ông Bảo Đại nghe theo lời bọn tay chân Pháp thì anh sang bên ấy cũng nên cẩn thận.
- Chú khỏi lo, tôi cương quyết đòi cho được Pháp nhìn nhận độc lập thống nhất mới hợp tác.
Giám mục Thục nói:
- Phải, không nên vội mà hư đại sự sau này. Đức Tổng Giám mục Spellman đã nói rõ là Mỹ sẵn sàng ủng hộ cho mình và trong tương lai ảnh hưởng của họ nhất định sẽ lấn át cả Pháp. Lúc này nếu Pháp không nhượng bộ và ông Bảo Đại có nghe theo họ thì chẳng nên dại gì mà ra.
Luyện phụ hoạ theo:
- Bảo Đại và đám tuỳ tùng hiện đang sống ở Hồng Kông bằng tiền trợ cấp của Pháp có thể dễ bị mua chuộc. Pháp vẫn chơi trò đi nước đôi, vừa tính chuyện thương thuyết với Bảo Đại, vừa liếc về phía ông Hồ.
Diệm ngắt lời cậu em út:
- Tình trạng mập mờ này không còn nữa vì phe Cộng hoà bình dân cùng cánh hữu trong Chính phủ Pháp hiện thời đã dứt khoát thôi chủ trương thương thuyết với Việt Minh. Cuộc chiến tranh ở xứ này đã bước vào một giai đoạn mới, biến thành một bộ phận của chiến tranh lạnh giữa hai ý thức hệ tự do và cộng sản. Như vậy, vấn đề chống cộng trở nên yếu tố quyết dính, dù chưa giải quyết được vấn đề quốc gia. Cho nên dù muốn hay không, trước áp lực của Mỹ, kế hoạch Marshall, Pháp cũng không còn bắt tay Việt Minh được nữa.
Luyện tiếp lời anh:
- Tình thế biến chuyển ra thế, chúng ta cần phải chú trọng điều này: cuộc thương thuyết giữa Pháp và phe quốc gia có thể là mầm mống phát sinh cuộc nội chiến. Phải làm sao tránh tiếng đi đôi với Pháp mới được dân chúng nghe theo, và chỉ có như vậy mới đối địch được với Việt Minh, có hậu thuẫn mạnh của quần chúng vì họ có chính nghĩa chống Pháp.
Cuộc bàn bạc giữa ba anh em họ Ngô đến chỗ gay go, ông bà Trần đến, mang ý kiến của Nhu từ Hà Nội nhắn vào cùng Diệm:
- Phải đòi Pháp thừa nhận Việt Nam độc lập và thống nhất mới nên hợp tác với Bảo Đại.
Hôm sau, Ngô Đình Diệm lên đường đi Hồng Kông gặp Bảo Đại.
Các chính khách Trần Văn Lý, Nguyễn Văn Xuân cũng được cựu hoàng mời đến nhượng địa của Anh để tham khảo ý kiến.
Trong cuộc tiếp xúc kéo dài một tuần lễ vào cuối năm 1948, Diệm được Bảo Đại cho hay về cuộc hội kiến tại Hạ Long với Cao uỷ Bollaert, nhận thấy Pháp đã không chịu thoả mãn những nguyện vọng quốc gia, Diệm lên tiếng phản đối:
- Theo tuyên bố chung và bản ngoại đàm dùng làm nền tảng cho cuộc thương thuyết nay mai mà Hoàng thượng đã ký tên vào đó thì độc lập và thống nhất của quốc gia vẫn bị Pháp hạn chế. Tôi thấy không thể chấp nhận được. Lúc này, chỉ có qui chế Dominion kiểu Liên hiệp Anh mới có thể được các khuynh hướng quốc gia và quốc dân ủng hộ. Hoàng thượng đòi Pháp phải nhượng bộ như vậy mới nên trở về nước.
Lời lẽ của cựu đại thần họ Ngô được Bảo Đại gật gù tán thưởng và sau lễ Giáng Sinh, cựu hoàng đáp máy bay Anh từ Hồng Kông bay đi Genève. Trong khi Bảo Đại ở bên kia trời Âu chờ đợi những cuộc mặc cả chính trị để hồi loan. Ngô Đình Diệm từ Hồng Kông trở về Sài Gòn, ráo riết vận động các tổ chức chính trị, giáo phái để ra làm Thủ tướng.
Đến khi Bảo Đại quay trở lại Hồng Kông, thủ đô chính trị của phe quốc gia Việt Nam, Diệm lại từ Sài Gòn sang đây, tiếp tục hoạt động bên cạnh vị Quốc trưởng tương lai.
Nhưng đến khi chính phủ trung ương lâm thời thành lập vào tháng năm, Ngô Đình Diệm không được mời làm Thủ tướng mà dành cho tướng Nguyễn Văn Xuân.
Được tin anh chồng hụt mất ghế Thủ tướng, Lệ tiếc rẻ buồn bã hỏi Nhu:
- Anh Thượng vẫn đi sát với ông Bảo Đại ở Hồng Kông, trước và sau khi ngài ngự qua Âu châu trở về đây, vừa rồi anh lại gặp riêng cả Bollaert, theo lời mời của Cao uỷ Pháp, thế mà sao bây giờ chức Thủ tướng chánh phủ về tay Nguyễn Văn Xuân?
Nhu lạnh lùng đáp:
- Anh Thượng sở dĩ không chịu đứng ra lập nội các, vì Pháp không nhìn nhận độc lập và thống nhất cho Việt Nam.
- Thế ông Bảo Đại có trở về nước không?
- Có lẽ ông ta đợi Pháp nhượng bộ chút ít nữa mới chịu về. Ông ta còn làm cao.
- Thế anh Thượng còn ở lại Hồng Kông chờ ông Bảo Đại à?
- Nghe anh Thượng có tuyên bố: ông.Bảo Đại chưa về nước anh cũng không chịu về.
Lệ suy nghĩ một lúc rồi bảo chồng:
- Ông Bảo Đại dở trò "làm nũng" chính trị với Pháp thì được rồi, Pháp cần đến, còn anh Thượng, liệu thái độ cứng rắn của anh rồi đây có lợi hay không? Bao nhiêu người muốn tranh chức Thủ tướng với bất cứ giá nào…
- Trong tình thế này, dù cho anh Thượng có nhận lời đứng ra thành lập chánh phủ cũng không đứng vững được lâu. Chính trị phức tạp lắm, nhất là vấn đề Việt Nam đang biến chuyển thành một vấn đề quốc tế tranh chấp giữa hai khối, chứ không phải riêng giữa Pháp và Việt làm chính trị phải nhìn xa. Chính anh đã khuyên anh Thượng nên nhẫn nại đợi chờ. Trước sau gì rồi Mỹ cũng nhảy vào Việt Nam. Đến lúc đó anh Thượng mới tính chuyện lâu dài được. Bây giờ cần phải chuẩn bị, dọn đường cho lúc đó.
Lệ không hiểu được những mưu tính sâu xa của chồng tỏ vẻ thắc mắc, tiếc uổng cho anh chồng đã bỏ qua cơ hội tốt. Nhu nghiêm giọng bảo vợ:
- Bảy giờ em lo học tiếng Anh đi, rồi đây sẽ cần dùng đến.
Rồi chàng vạch cho Lệ thấy rõ chương trình sắp thực hiện.
- Anh Thượng nay mai sẽ đi sang Mỹ, Đức Tổng Giám mục Spellman vừa lên chức Hồng Y đỡ đầu cho anh Thượng, thời gian qua bên ấy sẽ vận động chính trị. Còn chúng mình về qua Huế rồi vào Đà Lạt. Chị cả Lễ cho chúng mình mượn một số vốn hùn với người bà con bên anh mở một ga-ra tại Đà Lạt để tạm sống trong khi chờ đợi anh Thượng trở về chấp chính.
- Sống ở Đà Lạt, anh định làm gì?
- Anh sẽ không làm gì cả, chỉ đọc sách nghiền ngẫm kế hoạch để giúp anh Thượng sau này. Anh tin ràng không khí và khung cảnh Đà Lạt nên thơ sẽ làm cho em vừa lòng.
Nhu hạ giọng kể cho Lệ nghe mưu đồ của anh em chàng trong tương lai, vạch cho người vợ trẻ mơ màng đến một ngày mai rực rỡ đối với gia đình họ Ngô.



Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 2
Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 3
Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 4

Không có nhận xét nào: