Khu Am Tiên nằm trên núi Nưa thuộc xã Tân Ninh (Triệu Sơn, Thanh Hóa). Quần thể bao gồm "Núi Nưa - Đền Nưa - Am Tiên" với tổng diện tích 100 ha, riêng khu vực đền Am Tiên là 4 ha.
Am Tiên đã có từ lâu đời nhưng mãi đến năm 2006
vẻ đẹp tiềm ẩn của vùng đất địa linh nhân kiệt này mới được khai thác. Lễ hội đền Nưa - Am Tiên bắt đầu từ 15 - 20 tháng Giêng hàng năm. Theo
tín ngưỡng dân gian: Huyệt đạo trên đỉnh núi này là huyệt khí thiêng!
Ngày 9 tháng Giêng hàng năm là ngày mở cửa trời. Người dân hành hương về
đây cầu cho quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc, người người khỏe mạnh,
tài năng tiến tới, công thành danh toại.
Bãi huyệt đỉnh Ngàn Nưa |
Am Tiên - núi Nưa gắn liền với cuộc khởi nghĩa
năm 248 của Bà Triệu chống giặc Ngô xâm lược. Bởi vậy Am Tiên còn có tên
gọi khác là Kinh Triệu Quận (tức là Kinh đô của Bà Triệu). Ở đây có dãy điện thờ Bà
Chúa Thượng Ngàn, vua Bà, đền thờ ông Tu Nưa. Đoạn đường lên Am Tiên dài hơn 3km đường núi quanh co, hai bên
đường sương mù che phủ.
Chủ trì hiện tại đền Am Tiên là ông Lê Bật Sơn,
ông là chủ trì đời thứ 3. Hiện tại ông Sơn cùng người dân địa phương
đang tích cực xây dựng con đường lên Am Tiên để người hành hương thuận
tiện đi lại. Dọc lối đi trong khuôn viên đền mang đậm giá trị văn
hóa tâm linh bởi chiếc chuông đồng cổ và những tán đa, bồ đề đẫm mình
trong sương sớm.
Đền thờ bà chú Thượng Ngàn đỉnh Ngàn Nưa |
Từ
cổng đền Am Tiên đi sâu vào 150m sẽ thấy huyệt thiêng. Đó là khoảng đất
rộng hơn 100 mét vuông được rào chắn kỹ lưỡng. Ngay lối vào là phiến đá
trắng có khắc dòng chữ "Cầu cho quốc thái dân an". Ông Lê Bật Thắng, trợ
lý cho chủ trì chùa dẫn tôi lên huyệt thiêng đền Am Tiên và giới thiệu:
"Đất nước ta có 3 huyệt đạo thiêng. Một là ở núi Đá Chông (Ba Vì, Hà
Nội), hai là ở núi Bà Đen (Tây Ninh) và ba chính là chỗ này (tức Đền Am
Tiên, Núi Nưa- Thanh Hóa). Theo sử sách để lại, đây chính là 1 trong
những huyệt đạo quan trọng nhất của nước Nam, mà tướng Cao Biền không
thể trấn yểm nổi...".
Đây chính là đỉnh cao nhất của ngọn núi Nưa. Huyệt
thiêng chính là nơi giao hòa giữa trời và đất. Giếng tiên có độ sâu
khoảng 5m, rộng 4 m, phần lộ thiên của giếng được xếp bởi 3 lượt đá.
Ngay tại nơi này ta có thể cảm nhận được sự chuyển động của vũ trụ. Ông Thắng chỉ dẫn: "Bây giờ mời các vị nhắm mắt lại, thả lỏng cơ thể, tập trung mọi suy nghĩ lên đôi mắt, lúc đầu các vị sẽ thấy có màu đỏ, rồi chuyển sang màu da cam, cuối cùng là màu trắng xanh và đợi một chút quý vị sẽ thấy trong màu trắng xanh có lẫn các hạt bụi.
Đó
chính là các hạt bụi đang chuyển động trong vũ trụ này!". Thật kỳ lạ,
bởi làm theo chỉ dẫn tới đâu thì mọi người sẽ cảm nhận được sự khác lạ đến đó.
Trong một khoảnh khắc con nguời ta sẽ thấy mình như đang bay bổng giữa trời đất bao
la và đang hòa cùng với những chuyển động của vũ trụ. Cảm giác thư thái,
nhẹ nhõm ấy quả không dễ nào có được.
Trên khoảng bằng phẳng độ hơn hai trăm mét vuông
là những gốc lộc vừng đa si sanh thứ mới trồng hoặc trồng đã hơn năm vây
bọc lấy một cây hương đứng sừng sững. Bát hương đặt trên cây hương chi
chít những chân hương tàn chưa lâu. Bên một gốc đa mới trồng, có một
phiến đá trắng hình lá đề khắc hàng chữ cầu cho quốc thái dân an. Đây chính là huyệt đạo quan trọng của nước Nam, nơi Trời
chọn để mà giao hòa mà thông điệp với Đất. Đây là huyệt đạo mà nghe nói
Cao Biền không thể trấn yểm nổi!? Sách Đại Nam thống nhất chí (thời Nguyễn) chép Núi Nưa tức Na
Sơn ở huyện Nông Cống. Mạch núi từ Phủ Thọ Xuân kéo đến chạy dài vài ba
mươi dặm. Đến địa phận Tổng Cổ Định thì nối vọi lên nhiều ngọn, ngọn
cao nhất là núi Nưa... Vậy mà đã chẵn 1760 năm, biết bao dâu bể tao loạn
tính từ thời điểm năm 248, người con gái xứ Thanh Triệu Trinh Nương dựa
vào địa thế hiểm yếu của Ngàn Nưa để dấy binh khởi nghĩa chống lại nền
thống trị đô hộ hà khắc của nhà Hán thời Bắc thuộc, Ngàn Nưa vẫn nguyên
vẹn cái thế hiểm yếu của nước Nam. Ngàn Nưa vẫn thăm thẳm vẫn bí hiểm và
phong kín bao huyền thoại về vị thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa năm xưa.
Sau đó là vào giếng Tiên.
Hai bên lối đi được phủ kín một màu hồng đào của những cành đào phai nở
rộ sau Tết đẹp đến say lòng người. Những cánh đào hồng tươi rớt xuống
tựa như tấm thảm nhung. Người ta gọi đó là Động đào. Tương truyền khi
xưa trên vùng đất này bạt ngàn đào. Tới giờ nơi đây vẫn còn hơn 1.000
gốc. Cứ đến đúng dịp lễ hội, hoa đào lại đua nhau khoe sắc. Truyền
thuyết kể rằng các tiên nữ xưa kia thường xuống đây hái đào và tắm nước
giếng, vì thế mới gọi là giếng Tiên.
Ông Lê Bật Thắng cho biết: "Không ai xác định được giếng này có từ khi nào. Dân gian vẫn tương truyền: Từ khi vũ trụ sinh ra giếng đã có rồi! Sự chuyển động của vũ trụ đã tạo ra vết nứt trên đá và dần dần vết nứt rộng ra tạo thành giếng". Nước giếng từ trong núi chảy ra nên rất tinh khiết, người ta gọi nguồn nước chảy vào giếng là Long mạch. Lòng giếng rất cạn, từ trên nhìn xuống đã thấy ngay, nhưng lạ kỳ thay nước giếng không bao giờ vơi dù cho hạn hán kéo dài. Các sư thầy vùng lân cận thường tới đây xin về làm nước cam lồ dùng trong các dịp lễ tế, còn du khách tới xin về để thờ cúng tổ tiên.
Bên Đền còn có chùa và nơi thờ Bà Chúa Thượng Ngàn nghe nói cũng là thờ Bà. Sinh vi tưởng tử vi thần, khi mất, Bà đã hóa thân thành Chúa Thượng Ngàn. Từ một nhân vật lịch sử, Bà Triệu của chúng ta thoát trở nên lung linh trong tâm thức dân gian và trở thành vị trí xứng đáng trong hệ thống thờ Mẫu của người Việt! Chưa hết, trên đỉnh còn Am Tiên. Am Tiên đã bị phá không còn dấu tích nay chỉ có một tấm biển xi măng ghi là di tích lịch sử văn hóa. Dân Nông Cống Triệu Sơn lập am từ thuở lẩu lâu. Dân cứ thấy một người đẹp như... tiên cứ đêm trăng thanh vắng hay trưa nắng là xuất hiện. Ấy là Bà về. Vào am khấn cầu, mọi việc đều linh ứng... Cũng phải thôi, ngay cả ông vua thi sĩ Lê Thánh Tông từng kính cẩn trước anh linh Bà trong đôi câu đối còn lưu ở Đền Bà tại Hậu Lộc (Ngoài đền bà đây, Bà Triệu còn được thờ ở Phủ Na (Như Thanh) và Phủ Nưa (Triệu Sơn) nơi bà tuẫn tiết:
Thiên thượng tinh anh vạn nhẫn
thanh sơn hiển thánh.
Nữ trung hào kiệt, thiên thu bạch tượng truyền
thần
(Tinh anh ở trên trời, vạn bậc non xanh hiển thánh
Hào kiệt trong
nữ giới, nghìn thu voi trắng truyền thần)
Nói đâu xa ngay cả chính sử của phương Bắc tuy tức tối, hằn học nhưng cũng phảng phất sự sợ hãi kính cẩn trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu vú dài 3 thước, không lấy chồng họp đảng cướp bóc các huyện trong quận, thường mặc áo ngắn sắc vàng, đi guốc gỗ, ngồi đầu voi đánh nhau, sau chết làm thần (sách Giao chỉ dẫn). Sải bước chầm chậm trên đỉnh Ngàn Nưa. Ở xứ Bái Trang vùng Yên Định cách Ngàn Nưa hơn bảy chục cây số. Có thể gọi là linh địa được lắm. Ấy là mấy cái làng gần Ngã Ba Bông nơi hợp lưu của sông Mã sông Cầu Chày. Trước nhất là làng Quan Yên. Về sau này dưới chế độ mới có tên mới là Định Công từng là điển hình tiên tiến về mô hình HTX nông nghiệp. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm xứ Đoài nhưng từ nhỏ đã được thân phụ đưa về Quan Yên làm con nuôi của Dương Đình Nghệ. Được Dương Đình Nghệ nuôi ăn học dạy võ nghệ và gả con gái cho. Bên làng Quan Yên có một làng tên cũ là chi không rõ nhưng tên mới bây giờ là Định Thành thời Bắc thuộc từng góp cho triều đình phương Bắc một vị tể tướng ấy là Khương Công Phụ. Từ làng Quan Yên nhảo chỉ ít bước chân là chạm với rệ tre của một làng, tên cũ cũng chưa rõ nhưng tên mới là Định Hòa từng góp cho triều Lê Trung Hưng của Đại Việt một người con gái.
Sau đó được tuyển vào cung làm vợ vua về sau là thân mẫu của vua Lê Thánh Tông. Nhưng vùng địa linh Bái Trang, danh nhân phát về đường âm vẫn nổi trội một người sinh ra ở làng Quan Yên: Triệu Thị Trinh hay là Triệu Trinh Nương. Nàng bỏ mình vì việc nước khi mới đôi mươi nhưng hậu thế nước Nam xưa nay đều nhất tề tôn là Bà. Bà Triệu! Trong sách Việt sử lược : “Năm Mậu Thìn ( 248 ), vì quan lại nhà Ngô tàn ác, dân gian khổ sở. Triệu Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu chân. Bà ấy (Bà Triệu) đem quân ra đánh giúp anh, quân sỹ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm bèn tôn lên làm chủ”. Nhận định ấy là chí lý lắm bởi sau này có không ít học giả cho rằng bởi thời mẫu hệ nên mới có sự đổi thay minh chủ thế!?
Sưu tầm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét