Chương 1
HỘI NGHỊ HONOLULU
1.
Từ ngày Hai Long
vào dinh Độc Lập, Hòe đã mấy lần nhắc:
- Sao anh Hai cứ ăn ở, trang phục như
vậy hoài? Chỉ còn thiếu đôi dép râu nữa là... Đã tới lúc phải quẳng chiếc
mô-bi-lét đi rồi!
- Mình là thầy tu mà!
Anh chỉ trả lời cho qua. Anh rất
ít dùng tới bộ đồ lớn mà Hòe đã sắm cho. Thường ngày anh chỉ mặc một chiếc sơ mi
sạch sẽ, khi có những cuộc tiếp tân long trọng, anh mới thắt thêm chiếc cà vạt.
Anh chủ trương dù bất cứ ở đâu cũng giữ nguyên vẹn hình ảnh quen thuộc của mình.
Trong ứng xử, lúc nào anh cũng tỏ ra khiêm tốn, hòa nhã, hào hiệp, sẵn sàng giúp
đỡ mọi người. Một nhà tu hành chân chính, một quân tử Nho giáo, một hiệp sĩ
phương Tây thời trung cổ... Những người có thiện chí thường nghĩ về anh như
vậy.
Anh rất ít từ chối lời mời tham gia vào những tổ chức tôn giáo. Với
cương vị cố vấn của tổng thống, anh càng được nhiều nơi mời chào. Anh đã là
thành viên của Hiệp hội các trường Công giáo, là sáng lập viên và cố vấn của Hội
những người nghèo được giáo hoàng Paul VI ban phép lành, là ủy viên của tổ chức
Viện trợ Công giáo quốc tế. Anh còn lả cha dỡ đầu của 6 tổ chức từ thiện Công
giáo như Cô nhi viện, Viện dưỡng lão, Trại phong hủi, trường Những người mù...
là thầy linh hưởng của Đạo binh Đức Mẹ, Đạo binh xanh[1] tôn sùng Maria, là ân
nhân của nhiều xứ đạo trong việc quyên góp xây dựng nhà thờ, trường học Thiên
chúa giáo. Đặc biệt, anh được tuyền chọn vào Tu hội Cursillo[2] gồm những giám
mục, linh mục thánh thiện hiến thân trọn đời cho đạo, và được phong làm vệ sĩ
Tòa thánh. Đây là tổ chức khoa học tĩnh tâm về Ki-tô giáo nhằm mục đích đào tạo
một lớp người có tư cách để làm nên xương sống cho xã hội, cung cấp cho Hội
thánh một dụng cụ canh tân Ki-tô hữu, với khẩu hiệu: “Lý tưởng, hiến thân, bác
ái”. Người được tuyển vào Tu hội không gia nhập một đoàn thể nào nếu không được
tổ chức này chấp thuận. Họ có cam kết điều gì, thì chỉ cam kết với Chúa.
Những chức vị và những hoạt động loại này giúp anh khẳng định vai trò một
nhà lãnh đạo phong trào Công giáo, gây thêm uy tín và sự yêu mến trong đông đảo
giáo dân. Anh phải dành nhiều công sức và thời gian nghiên cứu về thần học và
Ki-tô giáo. Càng củng cố được vị trí tôn giáo, anh càng được các đối tượng trọng
nể và tránh được sự nghi ngờ.
Hàng tuần, Hai Long đều tới gặp Khâm sứ Tòa
thánh Palmas báo cáo tình hình. Anh đề nghị Khâm sứ kịp thời chuyển tới Đức
Thánh Cha để người trù liệu kế hoạch vận động cho hòa bình ở Việt Nam, nếu Vatican có
khuyến cáo gì thì cho anh biết sớm. Vatican khen ngợi anh rất khôn
lanh, nhạy bén đối với những vấn đề liên quan tới cả giáo hội La Mã và động viên
Hai Long hãy vì giáo hội mà tạo điều kiện thường xuyên tiếp xúc thật chặt chẽ
với bạn bè người Mỹ để thông báo kịp thời cho Tòa thánh những tin tức cần
thiết.
Những quan hệ mở rộng này mang lại cho anh một vốn liếng thực sự khiến
Thiệu phải trọng nể. Anh trở thành người không thể thiếu một khi Thiệu có chuyện
cần trao đổi.
Ngay từ những lần tiếp xúc đầu tiên với Thiệu, Hai Long đã nhận
thấy nếu so sánh giữa Thiệu với Nhu, thì không chỉ là sự khác nhau về cá tính mà
còn cả về đẳng cấp. Nhu với Thiệu đều là những con người đầy tham vọng và thủ
đoạn. Nhưng mọi việc Nhu làm đều gắn với một triết thuyết (dù có tính cóp nhặt),
gắn với sự bảo vệ quyền lợi của gia đình họ Ngô, được Nhu coi như sự tập trung
toàn bộ trí tuệ chống Cộng của người Việt Nam. Nhu có gan chống lại bất cứ kẻ
nào đi ngược lại quyền lợi của anh em y. Thiệu trái lại, bao giờ cũng chỉ đơn
thuần nghĩ tới quyền lợi, địa vị của cá nhân mình. Ở Thiệu không có vấn đề lý
tưởng hoặc niềm tin, mà chỉ là những tham vọng mang nặng tính vật chất, và những
thủ đoạn nhằm đạt được tham vọng đó. Nhu có cốt cách một kẻ cầm đầu chống Cộng,
Thiệu chỉ là một tên tay sai hãnh tiến. Gần Nhu, anh luôn luôn cảm thấy nguy
hiểm vì không bao giờ nắm được hết những suy tính của y. Gần Thiệu, anh không có
gì phải lo, anh dễ nhìn thấy mọi mưu toan, thủ đoạn của Thiệu. Nhưng anh khai
thác được ở Nhu những điều mình cần biết mà ít tìm kiếm được gì ở Thiệu. Vào
giai đoạn này, anh biết nhiều điều trước Thiệu. Nội dung những cuộc gặp gỡ giữa
Thiệu với các nhân vật cao cấp Mỹ mà Thiệu kể lại, không giúp anh hiểu thêm về ý
đồ chiến lược của Mỹ bao nhiêu. Anh hiểu rằng chính vì vậy mà Thiệu không thể
thiếu mình.
Thiệu khá lỳ lợm, biết lúc tiến, lúc thoái, kiên trì đạt tới mục
đích. Thiệu không từ bất cứ thủ đoạn nào để thực hiện được tham vọng của mình.
Cách tính toán của Thiệu bao giờ cũng mang tính thực dụng. Không thể gắn bó với
Thiệu bằng đạo lý. Thiệu chỉ quan hệ với những ai mang lại địa vị, quyền lợi cho
mình. Vì vậy, Thiệu sử dụng họ bằng quyền lợi địa vị hoặc vật chất. Thiệu không
có bạn. Những người có quan hệ với Thiệu phải hoặc là thầy, hoặc là đầy tớ của
y.
Đối với Thiệu, Hai Long chủ trương giữ vững bộ mặt tinh thần của mình. Anh
luôn tỏ ra mình là người được giáo hội cử ra đỡ đầu, xây dựng và bảo vệ Thiệu.
Điều này anh không nói ra, mà chứng tỏ bằng công việc hằng ngày của mình. Thiệu
không thể mua chuộc được anh, vì anh không màng danh vọng, địa vị, tiền tài. Anh
“chân thành” và “hết mình” phò trợ Thiệu. Nhưng anh không để cho Thiệu được trả
ơn. Anh ngày càng được Thiệu trọng nể.
Cương vị mới ở Phủ tổng thống đã mang
lại cho anh một thuận lợi hiếm có trong công tác, với tư cách là cố vấn của
Thiệu, anh hoàn toàn tự do khai thác, tìm hiểu những chủ trương chiến lược mà
không sợ ai nghi ngờ.
2.
Trung tâm chỉ thị cho Hai Long tìm cách thúc
đẩy Thiệu cử người tới dự cuộc hòa đàm tại Paris.
Ông linh mục Mỹ
củng ngửa lá bài. O’Connor nói rõ tình hình chính trị ở Mỹ buộc Johnson phải
thay đổi chiến lược chiến tranh tại Việt Nam. Ông đề nghị thẳng
với Hai Long, khuyên Thiệu hưởng ứng cuộc vận động hòa bình của Johnson bằng
cách cử một phái đoàn tới Paris. Phó đại sứ Mỹ Berger
nhiều lần tới thúc ép Thiệu về vấn đề này. Berger là người nói năng thô bạo nên
không đạt kết quả. Thiệu vừa sợ vừa ghét Berger. Ông linh mục Mỹ nhờ Hai Long
tìm cách giảng giải thuyết phục Thiệu.
Thiệu tỏ ra rất lo lắng, nhưng vẫn
nhất mực từ chối không chịu tham gia hòa đàm.
Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương,
Thiệu tuyên bố tại vườn hoa Tao Đàn, sẽ ra sắc lệnh tổng động viên và dồn mọi nỗ
lực của Việt Nam cộng hòa cùng với Mỹ gánh vác nhiệm vụ bảo vệ Việt Nam. Ông
linh mục tới tìm Hai Long, khen ngợi là nhờ có anh mà Thiệu đã trở nên biết
điều, thông cảm với những khó khăn của tổng thống Johnson hơn. Ông muốn anh sẽ
trở thành người trung gian giữa Thiệu với Mỹ, và ngược lại, trong trường hợp đôi
bên gặp vướng mắc.
Ngày hôm sau, Thiệu hớn hở bước vào phòng của Hai Long,
khoe bức điện Johnson mới gửi, hoan nghênh những lời Thiệu vừa tuyên bố, cảm ơn
Thiệu đã tỏ ra thông cảm với mình.
Thiệu nói:
- Tôi rất suy nghĩ về những
lời khuyến cáo của anh bữa trước. Mình làm như vậy đó, anh coi được
không?
Hai Long đáp lại bằng nụ cười tán thưởng.
- Bây giờ tới chuyện thứ
hai. Mỹ muốn chính phủ Việt Nam cộng hòa phải mạnh, ta thay Lộc được chưa?
-
Cũng đã tới lúc.
- Ta lấy lý do nào để gạt Lộc?
- Người Mỹ đã giúp ta lý
do: nội các của ông Lộc quá yếu, nửa năm qua chưa làm được gì, đô thành hoàn
toàn rối loạn qua hai đợt tiến công của Việt Cộng.
- Được rồi. Nhưng thay Lộc
bằng ai? Bữa trước, anh muốn là Hướng.
- Đó là tôi nói vào thời gian sau khi
anh trúng cử. Anh buộc phải chọn Lộc vì tướng Kỳ. Bây giờ thay Lộc, anh phải
nghĩ tới chuyện đó. Không nên làm cho ông Kỳ quá mất mặt!
- Rất trúng ý
tôi... Ta đưa già Hương được không? Già Hương không phải người của tôi, mà lại
có khả năng chống đỡ với tướng Kỳ. Mình dùng ông già làm cái khiên hứng chịu,
còn ta đứng đằng sau giật dây. Ta sẽ rảnh tay làm việc của ta.
- “Một hòn đá
hai con chim”, chọn giải pháp như vậy là khôn ngoan!
- Có vậy tôi mới vô
ngồi được đây chớ!
Thiệu cười lớn rồi nói tiếp:
- Nhờ anh đóng vai Tô
Tần, mời “già gân” ra làm thủ tướng lần nữa.
Cuối tháng 5, Thiệu gạt Lộc và
chính thức yêu cầu Trần Văn Hương thành lập nội các mới. Hương chấp nhận đưa vào
nội các tất cả những người Thiệu đề ra. Trong tháng 6, Thiệu say sưa củng cố
quyền lực. Đầu tháng 7, Thiệu lại tuyên bố, do có tổng động viên và tăng cường
quân lực Việt Nam cộng hòa, quân Mỹ có thể rút dần từ năm 1969. Thiệu tin rằng
với những việc làm này, mình có thể phớt lờ cuộc hòa đàm ở Paris.
O’Connor gọi điện
cho Hai Long mời tới dự bữa cơm trưa lại Nha tuyên úy Hải quân Mỹ. Anh sang báo
với Thiệu trước khi đi. Thiệu vui vẻ nói:
- Có hỏi chi về già Hương, anh đề
cao chút xíu nghen! Ông già giỏi hành chánh. Việc chống Cộng, quân sự thì đã có
tôi.
Nhưng suốt bữa ăn, ông linh mục chỉ nói về cuộc hòa đàm Paris, và tỏ vẻ
không hài lòng vì Thiệu chưa cử người tới tham dự.
O’Connor bỗng nói:
-
Tổng thống Johnson dự tính sẽ gặp ông Thiệu trong một ngày không xa. Rất may là
Mỹ đã có một người bạn kề cận bên tướng Thiệu. Nhờ giáo sư chuẩn bị cho ông
Thiệu trước khi tới cuộc họp thượng đỉnh.
- Nội dung cuộc gặp gỡ nhằm giải
quyết vấn đề gì? - Hai Long hỏi.
- Những vấn đề mà giáo sư đã biết. Ông
Johnson sẽ nói rõ đã quyết định xuống thang chiến tranh để tìm một nền hòa bình
trong danh dự, sẽ ủng hộ tổng thống Thiệu tăng cường sức mạnh quân sự, và chấp
nhận một giải pháp chính trị với Mặt trận Giải phóng.
- Tôi muốn biết những
dự kiến của phía Mỹ về nội dung giải pháp chính trị để chuẩn bị thái độ cho tổng
thống. Nếu cha thấy cần, tạm thời tôi chưa nói những điều cụ thể với ông
Thiệu.
- Tất nhiên nếu thực sự muốn đạt được một giải pháp chính trị, thì đôi
bên đều phải biết nhân nhượng. Tổng thống Johnson muốn ông Thiệu sẽ tiếp xúc với
Mặt trận Giải phóng để đi tới một chính phủ liên hiệp ở Nam Việt
Nam...
O’Connor nói tiếp:
- Rất tiếc là nếu Mặt trận có một chính phủ thì
cuộc dàn xếp giữa hai phe lâm chiến tại Nam Việt Nam thuận lợi hơn. Nhưng ông
Thiệu vẫn có thể tiếp xúc với cá nhân những người lãnh đạo Mặt trận, mặc dù chưa
thừa nhận họ. Vì nếu không gặp gỡ nhau thì không thể nào kết thúc cuộc xung đột.
- Ông linh mục nhìn Hai Long mỉm cười - Tôi nghĩ rằng điều này rất phù hợp với
quan điểm vận động cho hòa bình của Vatican.
- Giáo hoàng Paul VI thừa nhận
có hai bên tham chiến ở Nam Việt Nam! - Hai Long nói.
O’Connor hỏi:
-
Giáo sư đánh giá khả năng tiếp nhận của tổng thống Thiệu đối với những dự kiến
này ra sao?
- Chắc chắn là không dễ dàng. Nhưng trước đây đã có lần ông
Thiệu lúc đầu không đồng ý với khuyến cáo của giáo hội, nhưng sau đó đã thay đổi
ý kiến.
- Chúng tôi trông cậy nhiều ở giáo sư. Chúng tôi thấy đó là giải pháp
thực tiễn...
Thiệu có vẻ trông chờ khi Hai Long quay về. Hai Long thuật lại
câu chuyện với ông linh mục. Nét mặt tươi tỉnh của Thiệu xịu dần. Thiệu đang chờ
những lời tán thưởng của người Mỹ sau khi mình thay đổi nội các và tuyên bố thời
hạn Mỹ có thể rút quân. Ngờ đâu lại là chuyện này.
Hai Long làm như không
biết. Khi anh nói tới ý của Johnson muốn Thiệu tiếp xúc với Mặt trận Giải phóng
thì Thiệu vùng lên, cắt ngang:
- Không thể như vậy được! Tôi là tổng thống
của một quốc gia có trên 50 nước trên thế giới công nhận, không bao giờ tôi lại
nói chuyện với Mặt trận. Cùng lắm tôi chỉ có thể nói chuyện với chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặt trận Giải phóng là cái bóng của Bắc Việt, mình ngồi
với người chớ không ngồi với bóng! Dứt khoát là như vậy!
Hai Long không nói
thêm nữa.
Vài ngày sau, Berger tới, đưa thư của Johnson mời Thiệu tới dự cuộc
họp thượng đỉnh giữa Mỹ và Việt Nam cộng hòa tại Honolulu
vào trung tuần tháng 7.
3.
Hai ngày nay Hai Long không tới dinh Độc
Lập. Anh lấy cớ mình phải vào làm việc ở Bình An. Anh thảo một bức thư ngắn, yêu
cầu cha Nhuận xem kỹ, nhớ nội dung, nói lại cho Thiệu nghe, và đề nghị Thiệu
viết thư gửi cho mình. Ngay buổi chiều, cha Nhuận mang về lá thư do Thiệu tự tay
viết:
“Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Ngày 3 tháng 7 năm 1968
Anh Nhạ
thân,
Mấy bữa nay không có dịp gặp Anh. Tôi nhờ anh chuyển lời cảm ơn Cha và
những người bạn Mỹ đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều. Những lời khuyến cáo của Cha
và những bạn thân của chúng ta rất quý báu đối với tôi và nhân dân Việt
Nam.
NGUYỄN VĂN THIỆU
(Ký tên)”
Hai Long hỏi cha Nhuận:
- Ổng có
hỏi gì cha trước khi viết thư này không?
- Không. Mình nói thầy yêu cầu, ổng
lấy giấy viết luôn, không sửa một lời. Chỉ có điều, ổng mời mai thầy gắng vô
dinh, có việc gấp lắm.
- Thưa cha, có chuyện chi vậy? Đã lâu mới về Bình An,
con tính ở thêm đôi ngày nữa với cha Tổng.
- Nghe đâu ông Johnson mời ổng tới
gặp tại Honolulu. Ổng lo lắm. Thầy nên vô sớm.
Hai Long dùng lá thư để cảm ơn
những người đã giúp đỡ Thiệu, đặc biệt là mấy vị linh mục.
Sáng hôm sau, anh
vào dinh Độc Lập. Thiệu gặp anh ở hành lang mừng rỡ, kéo về luôn nơi làm việc
của mình.
Thiệu nói:
- Anh thứ lỗi cho tôi, bữa trước tôi quá nóng, ngắt
lời anh giữa chừng. Bữa nay, đề nghị anh thuật nốt tôi nghe, các cha Mỹ còn nói
tiếp với anh những điều chi?
Hình như Thiệu nghĩ anh giận y nên bỏ về Bình
An mấy ngày.
- Anh nên bình tĩnh. Mình có hiểu hết lòng dạ của Mỹ thì mới tìm
ra đối sách đúng đắn.
- Dạ...
Vẻ mặt Thiệu trở nên nhu mì. Anh biết Thiệu
đang rất lo. Và giờ đây, y còn phải nuốt thêm một miếng đắng bội phần hơn bữa
trước. Anh thuật tiếp lời của ông linh mục, là Johnson muốn chấp nhận một chính
phủ liên hiệp giữa Mặt trận Giải phóng và chính quyền Việt Nam cộng hòa. Anh
mượn lời vị linh mục để giải thích đấy là giải pháp thực tiễn, duy nhất để chấm
dứt chiến tranh.
Mặt Thiệu dần dần tối sầm. Nếu không có lời dặn trước của
anh thì y đã nổi nóng. Y chịu đựng một cách rất khó khăn. Hai Long thấy cần
tranh thủ cơ hội này nói hết những điều mình muốn nói.
- Trong số đặc phái
viên của ông Johnson, có những người tôi dã biết là rất trung thực. Nhưng sự tìm
hiểu tình hình của tôi không dừng lại ở các ổng. Tôi nghĩ có thể vì quá gắn bó
với tổng thống mà các ổng mất đi phần nào tính khách quan. Tôi đã nêu vấn đề với
nhiều người bạn Mỹ khác, chú ý tới những người thuộc phái Diều hâu. Anh hãy coi
lá thư của linh mục Raymond De Jaegher, đã từng là cố vấn hàng chục năm cho tổng
thống Tưởng Giới Thạch, cho tổng thống Ngô Đình Diệm, hiện là chủ tịch Hội Thái
Bình Dương tự do, vừa gửi cho tôi ít ngày nay.
Hai Long chuyển cho Thiệu xem
lá thư của De Jaegher. De Jaegher buộc phải thừa nhận rằng một làn sóng chính
trị rất mạnh đang dâng lên tại nước Mỹ, đòi nhà cầm quyền phải chấm dứt ngay
chiến tranh ở Việt Nam. Người Mỹ không bỏ rơi Việt Nam cộng hòa, nhưng họ
buộc phải xúc tiến kế hoạch nhằm giúp người Việt Nam tự mình tiến hành
hữu hiệu cuộc chiến tranh cho quân Mỹ rút về nước. Ông ta còn nói thêm là lời
tuyên bố của Thiệu ngày 10 tháng 5, phản đối ngừng oanh tạc miền Bắc và không
chấp nhận thương lượng với Mặt trận Giải phóng không có dư luận thuận lợi trong
người Mỹ.
Thiệu đọc thư xong, thở dài rồi nói:
- Lo phát ốm cả người! Họ
dàn xếp với nhau về số phận của mình mà mình không biết chi. Ngã giá rồi họ mới
cho mình hay, trói tay trói chân mình lại, bắt mình phải chấp nhận. Berger vừa
đưa thư của Johnson mời tôi tới gặp tại Honolulu...
- Bữa trước tôi đã nói
chuyện này với anh.
- Họp để giải quyết vấn đề chi?
- Tất cả những vấn đề
tôi vừa nói. Riêng chuyện chính phủ liên hiệp có thể họ còn tạm gác lại. Trước
mắt, họ cần ta tới ngồi cùng bàn với Mặt trận Giải phóng tại Paris.
- Nếu ta kiên
quyết bác bỏ? Tất cả những giải pháp này đều là sự đầu hàng Cộng sản, là sự cáo
chung của nền Đệ nhị cộng hòa.
- Trong trường hợp đó phải có một đối sách rất
khôn ngoan! Không ai trong chúng ta có thể công khai chống lại Mỹ! Mỹ nắm mọi
yết hầu của ta, về quân sự, chính trị cũng như kinh tế.
- Tôi chỉ chấp nhận
một điểm. Mỹ tăng cường sức mạnh quân sự cũng như kinh tế cho Việt Nam cộng hòa và rút quân
dần dần.
- Nếu anh thuyết phục được tổng thống Mỹ đồng tình như vậy thì sẽ là
thắng lợi tối đa đối với cuộc gặp gỡ này.
- Nhưng theo anh, khả năng đó có
không?
- Nếu có thì chỉ rất ít. Như vậy, anh được cả mà Johnson mất cả.
Johnson đã từ bỏ ghế tổng thống, ông muốn vớt vát lại bằng cách đi vào lịch sử
như một tổng thống hòa bình.
- Nhưng ông ta không còn ở Nhà Trắng bao lâu
nữa!
- Từ nay đến hết năm, ông ta vẫn còn đủ quyền hành và có thể làm mọi
chuyện mà ông ta muốn.
Hai người cùng ngồi im lặng một lúc. Mặt Thiệu già hẳn
đi.
Rồi Thiệu hỏi:
- Theo anh, tôi ra đi lần này có về nữa không, hay là
đi luôn?
- Anh cần phải quyền biến, tìm mọi cách để trở về. Vì anh là người
đang nắm vận mệnh quốc gia.
- Họ có làm đảo chính ở Sài Gòn lật đổ tôi trong
khi tôi đi khỏi không? Hoặc họ lại tái diễn cái trò tháng 5 vừa rồi.
- Tôi
nghĩ là không. Anh chưa trở thành một trở ngại mà người Mỹ buộc phải loại bỏ. Họ
chưa bằng lòng anh, nhưng họ còn hy vọng ở anh vì vừa qua anh đã có những đối
sách rất khôn ngoan. Nhưng... không mấy ai hiểu được hết người Mỹ! Tôi muốn
khuyên anh một lần nữa, phải hết sức quyền biến. Anh giống như người ngày xưa đi
phó hội, khi cần, phải trí trá mà trở về. Tôi rất tin ở sự nhạy cảm, khôn lanh
của anh.
Nghe Hai Long nói vậy, Thiệu càng lo lắng hơn.
4.
Vợ
chồng Thiệu đã có một nhà nguyện riêng trên lầu 4. Đây là một điều mà cả Tòa
Khâm sứ và Tòa Tổng giám mục đều rất hài lòng. Sau ngày tổng thống Ngô Đình Diệm
bị sát hại, lại có một nhà nguyện ở ngay trong dinh nguyên thủ quốc gia. Thiên
chúa giáo đã chứng tỏ quyền uy của mình ở cơ quan lãnh đạo cao nhất, nhân vật
lãnh đạo cao nhất tại Việt Nam cộng hòa.
Gần đây, vợ chồng Thiệu đề nghị cha
Nhuận tới dinh làm lễ hàng ngày. Cả hai người bề ngoài đều tỏ ra ngoan đạo,
siêng năng cầu nguyện, chăm lo xưng tội, rước lễ, chăm sóc phần hồn. Hai Long
rất ngờ vực đức tin Công giáo của Thiệu. Anh đã nhiều lần gợi chuyện về giáo lý,
về thần học, nhưng thấy Thiệu tỏ ra cố giấu vẻ thờ ơ. Thiệu thuộc loại người
muốn vô cửa Thiên đàng cũng khó như con lạc đà phải chui qua lỗ trôn kim. Thiệu
dùng tôn giáo như một thứ thời trang. Trước đây, tổng thống Ngô Đình Diệm là một
giáo dân ngoan đạo. Thiệu tin rằng Thiên chúa giáo đã đưa mình lên địa vị hiện
nay. Thiệu cần có sự ủng hộ của Tòa thánh, của giáo hội Mỹ, giáo hội Việt Nam để
duy trì quyền hành. Thiệu còn bắt chước Diệm cả cách mặc quần áo ta. Nhưng Thiệu
đi xa hơn Diệm nhiều về mặt này. Diệm chỉ mặc áo the đen, còn Thiệu mặc áo gấm
màu đỏ thêu rồng. Thiệu rất thích con rồng là biểu tượng đế vương. Thiệu chọn
quốc huy có hình hai con rồng cuộn. Trong phòng trình quốc thư của Phủ tổng
thống, riêng ghế ngồi của Thiệu là có chạm rồng. Bộ áo dài khăn đóng phần nào
phù hợp với dáng người, phong thái của Diệm, vốn là một ông quan thời xưa, khi
khoác lên người Thiệu, trở nên kệch cỡm, khó coi. Dinh Độc Lập thời Thiệu đã
nhanh chóng được dân Sài Gòn đặt cho một cái tên châm biếm: Phủ Đầu
Rồng.
Cũng trong thời gian gần đây, vợ chồng Thiệu rất năng mời những thầy
coi tướng hoặc xem số tử vi có tên tuổi nhất ở miền Nam, và cả ở nước ngoài, tới
hỏi xem số phận của mình ra sao. Riêng về mặt tướng số, Hai Long nhận thấy cả vợ
chồng Thiệu đều có lòng tin thực sự. Mỗi khi đi xa, Thiệu đều bắt coi ngày, coi
giờ. Thiệu sai ai đi làm việc gì quan trọng cho mình, củng chọn ngày, chọn
giờ.
Một buổi sáng, vợ Thiệu vui vẻ khoe với cha Nhuận:
- Bữa qua, ông
thầy Diễm vừa tới coi tử vi cho chồng con. Cha có biết thầy Diễm không? Thầy là
người coi tử vi giỏi nhất Sài Gòn đó, thưa cha.
- Tôi có nghe tiếng thầy
Diễm. Thầy nói chi?
Vợ Thiệu thầm thì:
- Theo thầy Diễm, trong tử vi của
ảnh năm nay sắp gặp hạn lớn. Con lo quá. Nhưng thầy lại nói số của anh có quý
nhơn phò trợ, may ra sẽ tai qua nạn khỏi. Thầy còn nói, quý nhơn có tầm vóc như
cố tổng thống Ngô Đình Diệm... Con mạn phép hỏi cha, có phải vị đó là ông giáo
không?
Cha Nhuận không trả lời thẳng vào câu hỏi của vợ Thiệu, chỉ ậm ừ ra vẻ
tâm đắc:
- Hay quá! Hay quá!
Cũng ngày hôm đó, Thiệu tới gặp Hai
Long.
- Tôi năm nay sắp gặp nạn lớn, lần này “phó hội Kỳ Bàn” lành ít dữ
nhiều. Anh đã coi tôi như anh em, xin anh đi cùng tôi. Anh đã nhắc tôi mấy lần,
nhập cuộc phen này phải hết sức quyền biến thì mới thoát. Phải có anh ở bên, tôi
mới an tâm. Bà nhà tôi cũng rất mong anh đi cùng. Anh cố đi với tôi, bả ở nhà
mới vững bụng.
Hai Long rất phân vân. Đi với Thiệu, anh có điều kiện hiểu cặn
kẽ về cuộc hội đàm này. Thời gian chỉ có vài ngày. Nhưng anh chưa biết ý kiến
của trung tâm ra sao.
Thấy anh chưa trả lời, Thiệu cố gắng nài nỉ:
- Tôi
biết tính anh thích đứng ở hậu trường. Lần trước, anh đã từ chối chuyến công du
Mỹ quốc mà tôi có chủ ý dành cho anh. Lần này sẽ không làm rầy anh. Anh đi một
cách incognito[3] như một chuyên viên kỹ thuật trong đoàn, ngay ở Phủ tổng thống
cũng không cho ai biết. Mỗi buổi hội đàm có điều chi khó giải quyết, tôi hứa sẽ
trả lời sau, khi về sẽ cùng bàn bạc với anh. Vậy là anh ưng chớ?
- Tôi sẵn
sàng làm tất cả mọi việc mà anh yêu cầu. Nhưng dù sao anh cũng chờ tôi thưa qua
với các cha.
Thiệu có vẻ không hài lòng nhưng chỉ năn nỉ:
- Anh ráng thưa
cùng các cha giùm tôi.
Ngày 17 tháng 8, Hai Long lên đường cùng Thiệu đi
Honolulu.
Thủ phủ của quần đảo Hawai cách xa Sài Gòn khoảng 10.000 km, là một
ngã năm ở giữa Thái Bình Dương. Thành phố nằm trên một bình nguyên nhỏ, chan hòa
ánh nắng và gió, đầy rẫy những khách sạn tân kỳ dành cho khách du
lịch.
Johnson tới Honolulu với vẻ mệt mỏi, suy
sụp vì những căng thẳng quá sức chịu đựng đối với một ông già. Mái tóc mỏng và
thưa, hai bên mái bạc trắng. Cặp kính lão trễ trên bộ mặt mặt có những nếp nhăn
hằn đậm trên trán, khắc thành hai nét sâu và dài từ cánh mũi tới cặp môi rất
mỏng. Ông ta giương to đôi mắt bạc màu khi gặp Thiệu, rồi nhếch mép gượng cười
bắt tay y.
Thiệu nói nhiều lúc cảm thấy người đối thoại với mình không phải
là Johnson mà y đã gặp cũng chính tại đây 2 năm trước.
Johnson nêu lên những
điều đúng như Hai Long đã nói với Thiệu. Ông già cố gắng dùng những lời lẽ mềm
mỏng thuyết phục Thiệu cử người tới dự cuộc hòa đàm Paris. Johnson không biết
cách làm như vậy là khuyến khích Thiệu giữ những lý lẽ của mình. Những chuyên
gia của tổng thống Mỹ đã không nhận ra không bao giò có thể thuyết phục Thiệu
bằng lý lẽ nếu đụng tới quyền lợi của y. Họ chưa nắm được yếu huyệt của Thiệu.
Thiệu tỏ ra rất chì. Johnson đành chịu.
Sau buổi họp cuối cùng, Thiệu hấp tấp
với tìm Hai Long, nói với vẻ nhẹ nhõm:
- Xong rồi! Trong thông cáo chỉ nêu
một câu chung chung: “Đôi bên đã giải quyết những sự cần thiết cho một cuộc chấm
dứt hoàn toàn những hành động thù nghịch ở Nam Việt Nam”.
- Nhưng người Mỹ
sẽ giải thích và cụ thể hóa những điều này theo quan điểm của họ?
- Chỉ có
thể được chừng đó thôi... Tôi không chịu đưa bất cứ vấn đề cụ thể nào vào thông
cáo.
- Anh đã đạt được một thắng lợi. Phải chờ xem ông già sẽ chơi tiếp những
trò gì?
---
[1]
Blue Army
[2] Cursillos de Christiandad
[3] ẩn danh
Chương 2
PHÁl ĐOÀN CÔNG DU MỸ
QUỐC
1.
Cụm tình báo A.22
đã cắm được khá sâu và vững chắc trong những cơ quan đầu não của chính
quyền.
Với cương vị một nhà lãnh đạo phong trào Thiên chúa giáo, cố vấn đặc
biệt của đương kim tổng thống, Hai Long đã triển khai rất rộng những quan hệ và
ảnh hưởng của mình.
Hòe vừa là chủ nhiệm một tờ báo kinh tế, vừa là chánh sự
vụ Tổng đoàn Công Kỹ nghệ gia, vừa là công cán ủy viên Phủ tổng thống, có điều
kiện nắm khá đầy đủ các chương trình và kế hoạch tài chính, kinh tế của chính
quyền cùng với diễn biến những sự kiện chính trị, quân sự lớn qua Phòng tổng thư
ký phủ tổng thống.
Thắng là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ báo, đồng thời là
một ký giả có những quan hệ bạn bè rộng rãi trong bộ máy chính quyền, quân đội
và các giáo phái ở miền Nam. Với Thắng và Hòe, cụm
A.22 có hai tờ báo cùng với hai nghiệp đoàn ký giả công khai truyền bá những
điều có lợi cho đường lối, chủ trương của cách mạng.
Ruật là phó tổng thư ký
Liên minh dân tộc cách mạng dân chủ xã hội của Nguyễn Văn Hướng, lực lượng hậu
thuẫn trực tiếp về chính trị cho Thiệu. Ruật nắm rất vững hoạt động của các đảng
phái ở miền Nam Việt Nam.
Cụm cũng thu hút thêm một số cộng tác viên mới có
địa vị cao trong chế độ.
Trọng là phụ tá của tổng thống, được trao nhiệm vụ
đặc trách về chính trị, ngoại giao, và liên lạc với Tòa đại sứ Mỹ.
Cụm còn có
thêm Đồng, em ruột của Hòe, là sĩ quan của ban thanh tra bộ Xây dựng nông thôn,
nơi theo dõi công tác bình định. Đồng đã tham gia công tác từ lâu. Anh có một
cương vị khá lợi hại. Tiếc là gần đây Đồng bị diều ra miền Trung.
Những diệp
viên của Cụm A.22 đều có quan hệ rộng rãi trong bộ máy chính quyền, quân đội và
những tổ chức chính trị, tôn giáo.
Điều khiến Hai Long suy nghĩ nhiều là do
yêu cầu trực tiếp tham gia chiến đấu, qua 2 đợt tiến công vào thành phố đã xuất
hiện dấu hiệu một đôi người trong lưới bị kẻ địch chú ý. Cách đối phó của anh là
luôn nhắc nhở mọi người, nhất cử nhất động đều phải thận trọng, giữ vững nguyên
tắc bí mật trong liên lạc, tiếp tục củng cố bình phong cho thật vững
chắc.
Trung tâm khen ngợi lưới Hai Long về thành tích trong các đợt tổng tiến
công, đồng thời chỉ thị cho anh nắm chắc tình hình hòa đàm ở Paris, tác động
mạnh vào chính giới và dư luận Mỹ một cách có lợi cho ta, hối thúc Thiệu chấp
nhận tham gia hòa đàm. Trung tâm trao cho anh thêm một nhiệm vụ mới: “Khẩn
trương tìm cho được kế hoạch Bình định cấp tốc và kế hoạch Bình định năm
1968-1969 của Mỹ”.
Yêu cầu mới của Trung tâm khiến Hai Long lo lắng. Anh đã
hiểu vì sao ta cần có sớm bản kế hoạch này. Hai đợt tổng tiến công trên toàn
miền Nam đã giành được thắng lợi rất lớn là làm tan rã ý chí xâm lược của Mỹ,
nhưng lực lượng của ta có thể cũng bị thiệt hại nhiều. Phần lớn những cơ sở của
ta đều bị bộc lộ, địch đã nhìn thấy điều đó, và chúng quyết tâm lợi dụng cơ hội
này để càn quét đánh phá ác liệt những cơ sở, những vùng căn cứ của ta, gây cho
ta những khó khăn lâu dài về sau này, kể cả khi Mỹ đã rút quân.
Hai Long đã
hỏi Thiệu về kế hoạch bình định. Thiệu nói Mỹ chỉ mới làm xong dự thảo, và chưa
chuyển cho mình. Anh trao nhiệm vụ cho Trọng tìm kiếm bản dự thảo ở tòa đại sứ
Mỹ. Trọng trở về với về thất vọng.
- Tôi thăm dò biết bản dự thảo còn nằm ở
chỗ Komer, phụ trách công tác bình định. Tôi lại chưa quen ai trong chỗ Komer.
Anh Hai thử tính xem có cách chi để tôi tới chỗ Komer không?
- Việc này phải
do chính Thiệu trao cho anh.
- Dạ, đúng như vậy đó.
Hai Long cũng không
nghĩ ra cách nào để nói với Thiệu trao nhiệm vụ cho Trọng tới gặp Komer xin bản
dự thảo này. Thiệu không quan tâm đến nó. Gần đây, Thiệu chỉ lo lắng về việc Mỹ
và Mặt trận Giải phóng đã ngồi với nhau tại Paris, Mỹ sẽ đối xử với y ra
sao.
- Đành chậm lại một chút vậy. Cả anh và tôi cùng nghĩ xem có cách nào
không?
- Từ khi tôi vô phủ tổng thống đã 5 tháng. Ông Thiệu chưa chuyện trò
riêng với tôi lần nào! Chỉ gặp ông trong những buổi họp chung với tất cả các phụ
tá.
Tính Thiệu như vậy. Thiệu chỉ săn đón người nào khi có việc lợi cho y.
Trường hợp Trọng không phải là đặc biệt. Nguyễn Văn Hướng, người đã xả thân làm
đủ mọi việc đưa Thiệu lên ghế tổng thống, cũng than phiền là Thiệu lạnh nhạt với
mình. Hòe cũng như vậy. Thiệu có ba phụ tá đặc trách là Nguyễn Cao Thăng, Uông
Ngọc Thạch và Huỳnh Văn Trọng. Nhưng Thiệu chỉ gần gụi có Nguyễn Cao Thăng, vì
Thăng là một tỷ phú. Thăng dựa vào Thiệu để làm giàu thêm, nhưng khi Thiệu cần,
Thăng cũng có thể vãi tiền khắp nơi để được việc cho Thiệu. Sự có mặt của Hai
Long ở kề cận bên Thiệu đã làm cho y không cần tới một số người vẫn giúp đỡ cho
mình.
- Tôi tin rằng Thiệu đã tới lúc cần sự giúp đỡ của anh.
Hai Long mỉm
cười nói với Trọng. Lời than phiền của Trọng vừa làm anh nảy ra trong đầu một kế
hoạch mới.
2.
Hai Long vừa ngồi xuống ghế, Thiệu đã hỏi luôn:
- Anh có được tin cuộc mặc cả tay đôi ở Paris tới đâu rồi không?
- Đó là
chuyện cơ mật giữa những người đại diện cho Johnson và Bắc Việt. Tòa đại sứ Mỹ ở
Sài Gòn không biết gì hơn ngoài những tin tức của các hãng thông tấn.
- Nhưng
còn các cha Mỹ?
- Gần đây chưa cha nào về Mỹ nên cũng không biết gì
thêm.
- Tính cách sao đây, không lẽ cứ để mặc cho Mỹ và Cộng sản giải quyết
số phận của mình?
- Đó là vấn đề tôi định bàn với anh sớm nay.
Thiệu nhìn
Hai Long chờ đợi. Anh nói tiếp:
- Từ trước tới nay, ta quá trông chờ vào sức
mạnh quân sự Mỹ để giải quyết mọi vấn đề, nên ta buông lơi nhiều mặt công tác
quan trọng. Đối phương vừa đánh, vừa vận động chính trị, vừa tuyên truyền, nhưng
ta chỉ biết đánh! Bây giờ Mỹ đã quyết định xuống thang chiến tranh, chỉ còn đánh
cầm chừng, đợi ngày rút quân về nước. Hơn thế, họ còn phụ họa với đối phương
công khai tuyên truyền tìm kiếm hòa bình. Bắc Việt ngồi với Mỹ giữa thủ đô Pháp,
hàng tuần họp báo đả kích ta hiếu chiến, phản dân tộc. Không ai bênh vực ta, mà
ta thì cứ lặng thinh!
- Đúng quá!
- Tôi không nghĩ là ta đã vô kế khả
thi, chỉ còn biết ngồi chờ số phận mình ngã ngũ ra sao. Thành bại của chiến
tranh Việt Nam gắn liền với danh dự của nước Mỹ. Không lẽ nào ở nước Mỹ không
còn ai ủng hộ ta! Johnson dù sao cũng là một kẻ thất thế, sắp khăn gói ra đi. Ta
cần biết chính giới Mỹ hiện thời có những khuynh hướng nào, mỗi khuynh hướng do
nhân vật nào cầm đầu, rồi đây ai sẽ thay thế Johnson.
- Cụ thể ta phải làm
chi? - Thiệu hấp tấp hỏi.
- Tại sao tổng thống lại không cử một phái đoàn qua
Mỹ để trực tiếp tìm hiểu tình hình tại chỗ, và chủ động tác động vào chính giới
Mỹ một cách có lợi cho mình? Ta là đồng minh của Mỹ, một năm Mỹ cử qua ta bao
nhiêu phái đoàn, sao tổng thống lại không tạo sự hiện diện của Việt Nam cộng hòa
ngay tại nước Mỹ? Ta cũng phải có người của mình nói cho cả nước Mỹ nghe, chứ
đâu cứ ngồi chờ ông Johnson đưa người sang huấn thị!
Thiệu im lặng, suy nghĩ
rồi nói:
- Trước đây, Johnson cũng đã đề nghị ta cử một phái đoàn qua Mỹ,
tiếc rằng hồi đó cha Tổng và anh đã không nhận lời đi giùm cho.
- Đi bây giờ
cần hơn hồi đó.
- Mình nên lấy lý do gì?
- Muốn Johnson dễ chấp thuận, ta
sẽ nói là cử một phái đoàn sang Hoa Kỳ để tham khảo ý kiến với các nhân vật
trong chính quyền và các giới chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội để
xây dựng Việt Nam cộng hòa trong giai đoạn chiến tranh và giai đoạn hậu chiến.
Cách đặt vấn đề là như vậy, nhưng công việc thực sự của phái đoàn là thăm dò
thái độ Mỹ đối với Việt Nam cộng hòa nói chung và tổng thống nói riêng, trong
thời kỳ hiện nay cũng như sau bầu cử tổng thống Mỹ. Phái đoàn phải gồm những
người có uy tín, trình độ, khôn lanh, và đặc biệt là hết lòng phò trợ tổng
thống.
Đôi mắt Thiệu sáng lên. Thiệu đập rất mạnh nắm tay trái vào lòng bàn
lay phài, thói quen khi Thiệu có điều gì thật ưng ý:
- Trúng phóc! Nhờ anh
thành lập ngay cho một phái đoàn, đặt kế hoạch làm việc và chỉ đạo mọi hoạt động
của phái đoàn. Anh tính ai có thể là trưởng phái đoàn.
- Trưởng phái đoàn
cần là người có uy tín, trình độ, đã thực sự gắn bó với ta, và phải có cảm tình
của người Mỹ. Không phải không tìm được người hội tụ cả ba điều kiện này, nhưng
anh để tôi cân nhắc chút nữa rồi sẽ trả lời sau.
Buổi chiều, Hai Long trở lại
nơi làm việc của Thiệu.
- Tôi tới trả lời anh về vấn đề chọn ai làm trưởng
phái đoàn.
- Ai? - Thiệu sót sắng hỏi lại.
- Tôi đã cân nhắc, với công vụ
này không ai hơn Bernard Trọng.
- Hả! Bernard Trọng, được quá!
- Ông
Trọng là người từng trải, có nhiều kinh nghiệm về chính trường, văn hóa cao, đã
tốt nghiệt tú tài triết học và cử nhân luật khoa, đủ trình độ giao dịch với mọi
giới. Ông Trọng lại có những quan hệ đặc biệt với người Mỹ. Và ông Trọng đã đặc
biệt gắn bó với ta qua cuộc vận động bầu cử vừa rồi. Ông Trọng có thể hoàn thành
sứ mệnh khó khăn mà anh trao phó.
- Vậy mà tôi không nghĩ ra!
- Cũng có
một đôi người nói tổng thống bận quá nhiều việc nên hay quên... - Hai Long nhắc
khéo.
- Rất trúng, rất trúng, anh giáo à. Bao việc dồn tới, đối phó bù đầu,
quên cả anh em. Anh nói giùm Bernard Trọng thông cảm cho. Nhờ anh nhắc mà tôi
sửa được khiếm khuyết này.
- Thành phần phái đoàn không cần nhiều người. Quý
hồ tinh bất quý hồ đa! Miễn là đáp ứng được nhiệm vụ của tổng thống trao. Anh
coi thời gian ở Mỹ của phái đoàn chừng bao lâu?
- Bao lâu cũng được. Hai
tháng, ba tháng miễn là được việc và phải thông báo thường xuyên, kịp thời tin
tức về nhà. Anh xem có thể cho thằng Xuân đi không? Nó là phụ tá đặc biệt về
kinh tế, tài chính và phụ trách viện trợ kinh tế hậu chiến đó!
- Tôi xin lưu
ý, có thể phái đoàn sẽ chừng bốn người.
Hai Long trở về nơi làm việc được một
lát, thì vợ Thiệu cho người tới mời lên phòng khách của gia đình Thiệu dùng cà
phê.
Bà tổng thống đón anh với nụ cười khả ái. Thiệu không có mặt trong
phòng. Ly cà phê Buôn Ma Thuột thơm phức.
Vợ Thiệu nói với vẻ rụt rè:
-
Trưa nay, em nghe anh Thiệu nói ông giáo đang lập danh sách phái đoàn qua Mỹ. Em
muốn đề nghị ông giáo dàn xếp cho Nguyễn Duy Xuân vô đó. Em có chút việc riêng
muốn nhờ Xuân ở Mỹ. Với ông giáo, em cũng coi như cha bề trên, không có chi giấu
giếm. Em phải chạy một vài áp phe để kiếm chút đỉnh, nếu quân Mỹ rút thì ông
Thiệu cũng rút lẹ, kẻo nước tới chưn, nhảy đâu kịp!
Biết vợ chồng Thiệu đã
bàn với nhau, Hai Long vui vẻ:
- Tôi cũng đã tính đưa ông Xuân vô phái đoàn.
Ông Xuân phụ trách kinh tế hậu chiến, nằm trong phái đoàn rất hợp. Chị cứ yên
tâm. Còn nếu quân Mỹ có rút thì nước Mỹ và giáo hội Mỹ vẫn phải có trách nhiệm
với Việt Nam cộng hòa, anh Thiệu chẳng vội vã gì mà phải từ bỏ ngay chức tổng
thống.
Ngoài Trọng và
Xuân, anh lấy thêm Vũ Ngọc Tuyến, chuyên viên về luật pháp của phủ tổng thống,
phụ trách Viện nghiên cứu xã hội. Tuyến đã học ở Mỹ, đỗ tiến sĩ luật, được bầu
làm hội viên danh dự của Đoàn luật gia Mỹ. Tuyến rất cảm ơn anh. Hai Long muốn
nắm Tuyến, sử dụng Tuyến làm người liên lạc giữa mình với cha cố và giáo hội Mỹ.
Trọng đề nghị đưa thêm một người bạn cũ làm thư ký cho phái đoàn. Đó là Nguyễn
Bích Liên, công chức cao cấp thuộc bộ Ngoại giao. Thiệu đồng ý ngay với danh
sách này.
Hai Long bảo với Trọng làm một bản phúc trình đề ra những dự kiến
của mình trong cuộc công du, sẽ đưa Thiệu trước ngày phái đoàn lên đường. Qua
bản phúc trình, Thiệu có thể hiểu về trình độ, nhãn quang chính trị, những biện
pháp phong phú cũng như các mối quan hệ rộng rãi của Trọng trong chính giới
Mỹ.
Hai Long cho người mời Tuyến tới, nói về nhiệm vụ của Tuyến trong phái
đoàn. Tuyến rất phấn chấn, hứa sẽ hoàn thành tốt mọi việc mà anh ủy thác. Hai
Long bàn thảo một ủy nhiệm thư, giới thiệu trưởng phái đoàn để đưa Thiệu
ký.
Anh nói:
- Ủy nhiệm thư này phải có đầy đủ tính chất một văn thư
ngoại giao của Nhà nước, đồng thời lại mang tính chất thư riêng của tổng thống
thì mới có thể sử dụng rộng rãi với nhiều đối tượng khác nhau.
Tuyến mỉm
cười:
- Xin chịu ông cố vấn.
Hai người cùng trao đổi, thảo thành một bức
thư bằng tiếng Anh, với nội dung như sau:
“Sài Gòn, ngày 29 tháng 8 năm
1968
Thưa quý vị,
Tôi trân trọng giới thiệu cùng quý vị ông HUỲNH VĂN
TRỌNG, phụ tá đặc trách của tôi, người được tôi ủy thác và trao quyền tiếp xúc
với các tổ chức chính quyền và tư nhân Mỹ quan tâm tới chương trình phát triển,
nghiên cứu xã hội và kinh tế hậu chiến tại VIỆT NAM CỘNG HÒA. Ông HUỲNH VĂN
TRỌNG sẽ cung cấp cho quý vị những tin tức, tài liệu liên quan tới chương trình
trên đây. Ông sẽ thảo luận với quý vị về triển vọng tiếp nhận sự giúp đỡ của quý
vị đối với chương trình này.
Tôi hy vọng rằng quý vị sẽ vui lòng hợp tác với
ông HUỲNH VĂN TRỌNG và nhờ đó những mối liên lạc tốt đẹp sẵn có giữa quý vị và
dân tộc chúng tôi sẽ nảy nở thêm ngõ hầu phục vụ cho quyền lợi chung của hai
quốc gia chúng ta.
Chân thành kính chào quý vị.
NGUYỄN VĂN THIỆU
(Ký
tên và đóng dấu)
Hai Long bảo Tuyến:
- Anh đưa trình ủy nhiệm thư này cho
tổng thống, nói do anh thảo, và xin chữ ký. Nếu tổng thống có hỏi gì thì anh trả
lời như chúng ta đã thống nhất. Trường hợp tổng thống đắn đo, hỏi tôi đã coi
chưa, thì anh mới nói, tôi đã coi kỹ rồi và đồng ý. Tôi không muốn nói thư này
do tôi và anh cùng thảo, vì như vậy có vẻ như làm áp lực với tổng
thống.
Tuyến mang lá thư lên chỗ làm việc của Thiệu, hồi lâu mới quay xuống,
tươi cười nói:
- Ông cố vấn biết trước mọi chuyện. Tôi trình thư nói do mình
thảo, tổng thống đọc xong. hồi lâu không chịu ký, rồi hỏi: “Ông cố vấn coi
chưa”. Tôi thưa: “Đã coi rất kỹ", bấy giờ tổng thống mới kêu người đánh máy và
ký.
Anh cầm lá thư ủy nhiệm đã có chữ ký của Thiệu và dấu triện hai con rồng,
ráng kìm nỗi hân hoan trước mặt Tuyến.
Anh vội đi tìm Trọng. Anh trao cho
Trọng lá thư, chờ Trọng đọc xong rồi nói:
- Ủy nhiệm thư này sẽ giúp anh tới
Tòa đại sứ, tới chỗ Komer lấy được mọi thứ mà chúng ta cần.
- Và ở trên đất
Mỹ có lẽ cũng như vậy. - Trọng hào hứng tiếp lời anh.
Với tờ ủy nhiệm thư
của Thiệu, Trọng được Tòa đại sứ Mỹ đón tiếp rất nhiệt tình, và hết lòng phục vụ
cho chuyến công du của anh.
Trọng mang về bản dự thảo Kế hoạch Bình định
1968-1969, chương trình Phượng hoàng[1] của Komer, chương trình Phượng hoàng
1968, chương trình xây dựng nông thôn 1969 và kế hoạch bình định cấp tốc.
Hai
Long tin rằng với chuyến đi Mỹ của Trọng, anh sẽ có một bản báo cáo xác thực và
phong phú về tình hình chính trị ở Mỹ đối với chiến tranh Việt Nam và cuộc hòa
đàm ở Paris.
Thư ủy nhiệm của Thiệu còn giúp Trọng lấy được thêm nhiều giấy
tờ giới thiệu của những nhân vật quan trọng trong Tòa đại sứ Mỹ, của Bộ tư lệnh
viện trợ quân sự Mỹ với nhiều cơ quan chính quyền, những nhân vật quân sự, dân
sự Mỹ ở Washington mà Trọng cần tiếp xúc.
Hai Long cũng nhân danh phong trào
Thiên chúa giáo ở Nam Việt Nam, cố vấn đặc biệt của tổng thống Thiệu, viết thư
giới thiệu Trọng với những bạn bè của mình ở Mỹ.
Hai Long nói với Trọng đưa
Thiệu xem bản dự thảo Kế hoạch bình định và một số giấy tờ giới thiệu để nâng
cao vị trí của anh trước con mắt Thiệu.
Bản phúc trình của Trọng đưa cho
Thiệu, gồm 4 phần:
1. Nhận định về lập trường hòa đàm của Hoa Kỳ.
2. Theo
dõi chính sách hòa đàm của Hoa Kỳ.
3. Vấn đề tác động tới nhà cầm quyền và cử
tri Hoa Kỳ.
4. Lập trường hòa đàm của Việt Nam cộng hòa.
Trọng đã nêu lên
sự nhận định, đánh giá, phân tích lập trường, đường lối của Mỹ từ trước tới nay
đối với chiến tranh Việt Nam, dẫn tới cuộc hòa đàm Paris, dựa trên cơ sở theo
dõi lâu dài của anh, những cuộc tiếp xúc trực tiếp với nhiều yếu nhân trong
chính giới Hoa Kỳ, và mối quan hệ chặt chẽ với Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Anh đề
ra những biện pháp cụ thể, phân loại những nhân vật cần được theo dõi với tên và
chức vụ của từng người, và những việc cần làm để tác động một cách có lợi cho
Việt Nam cộng hòa đối với họ. Anh đề nghị một kế hoạch lâu dài, dược tiến hành
bằng những hình thức chính thức và bán chính thức, có sự hỗ trợ của cơ quan tình
báo trung ương theo chỉ thị của tổng thống.
Nội dung bản phúc trình của Trọng
không hạn chế trong nhiệm vụ của chuyến công du lần này. Nó đã mang lại cho
Thiệu nhưng ấn tượng tốt về anh. Thiệu bắt đầu nhìn Trọng với cặp mắt trọng nể
hơn.
Hai Long lập xong danh sách phái đoàn.
Thiệu yêu
cầu Hai Long tổ chức một cuộc gặp mặt để trao nhiệm vụ trước khi phái đoàn lên
đường. Công việc của phái đoàn là điều tra, thăm dò, nên mọi hoạt động của nó
đều được tiến hành lặng lẽ. Thiệu bàn với Hai Long, ngoài Thiệu và anh, cùng với
phái đoàn, chỉ mời cha Nhuận và anh của Thiệu là Kiểu, vừa từ Đài Loan về. Hai
Long đề nghị nên mời thêm cha Hoàng. Giấy mời cha Hoàng do cả Thiệu và Hai Long
cùng ký. Thiệu phân công Hai Long là người điều khiển cuộc họp.
Đúng 8 giờ
sáng ngày 4 tháng 9, phái đoàn và những người được mời đều có mặt tại phòng họp
riêng của tổng thống. Hai Long ngồi ở ghế chủ tọa. Anh mở đầu bằng những lời
không theo nghi thức:
- Cuộc họp mặt này bề ngoài là lý, bề trong là tình.
Chúng ta đang họp tại phòng hội riêng của tổng thống theo tinh thần “đào viên
kết nghĩa”, có sự chứng giám của Chúa mà đại diện là những vị linh mục thân
thiết nhất của tổng thống...
Anh phác qua một vài nét về tình hình trong và
ngoài nước, rồi nói tiếp:
- Với tinh thần đặc biệt của cuộc họp này, tôi có
thể nói thẳng là thế nước của Việt Nam cộng hòa đang chông chênh, ngôi vị của
tổng thống có phần nghiêng ngửa, trách nhiệm của chúng ta đối với vận mệnh quốc
gia, đối với việc phò trợ tổng thống lúc này rất nặng nề. Hội nghị này là hội
nghị đồng tâm, mỗi người chúng ta đều phải dốc lòng, dốc sức hoàn thành sứ mệnh
thiêng liêng đối với đất nước và với đương kim tổng thống. Người đi cầu viện cần
yên tâm, vững lòng lo tròn nghĩa vụ của một Lê Lai liều mình cứu Chúa, của một
Mạc Đĩnh Chi đem chuông đi đánh nước người. Người ở nhà chu toàn sứ mệnh trị
quốc yên dân, bình thiên hạ. Còn gia đình của những người đi sứ, kẻ tại triều là
tôi, xin gánh vác hết.
Những người có mặt, kể cả Thiệu, đều bỡ ngỡ trước
không khí này, và lộ vẻ xúc động.
Hai Long hướng về cha Hoàng:
- Xin cha
cầu nguyện cho tổng thống tai qua nạn khỏi và phái đoàn đi sứ thành công.
Cha
Hoàng đứng dậy dọc kinh cầu nguyện. Vẻ mặt thành kính cùng với giọng trầm và
vang của ông linh mục có tuổi tạo nên một bầu không khí trang nghiêm.
Hai
Long quay về phía Trọng:
- Đề nghị ông trưởng phái đoàn báo cáo để tổng
thống nghe công việc chuẩn bị của đoàn.
Trọng đứng lên, thu hút mọi người
bằng dáng vẻ của một nhà chính khách già dặn, phong thái lễ độ, kín đáo, tự tin.
Biết mình được chăm chú lắng nghe, anh báo cáo ngắn gọn mọi công tác chuẩn bị
của từng người trong phái đoàn đã hoàn tất. Anh nhấn mạnh vào nhiệt tình của Tòa
đại sứ Mỹ từ việc cung cấp đầy đủ tài liệu, cấp cả những thư giới thiệu đoàn
vượt qua quy tắc ngoại giao, đến việc tạo điều kiện cho phái đoàn lên đường sớm
nhất theo đúng ngày giờ mà ta yêu cầu. Theo lời dặn của Hai Long, Trọng đưa ra
hàng loạt giấy tờ giới thiệu, những thư riêng của nhiều nhân vật quan trọng
trong tòa đại sứ Mỹ và Bộ tư lệnh viện trợ quân sự Hoa Kỳ, khiến cho nhiều người
trố mắt vì ngạc nhiên. Anh kết thúc:
- Tôi xin thay mặt đoàn cam kết tuân
theo lời dặn dò của ông cố vấn, hết sức cùng nhau chung lưng đấu cật, dốc lòng
phò trợ tổng thống, hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng mà tổng thống đã trao
phó.
Thiệu cũng bị cuốn theo không khí cuộc họp, nói với giọng xúc động:
- Việc tổ chức phái đoàn qua Mỹ này là do sáng kiến của ông cố vấn. Tôi đã
ủy thác ông cố vấn lo tổ chức và chỉ đạo đoàn. Cha đã cầu nguyện cho tôi và cho
đoàn hoàn thành sứ mạng lịch sử. Ông cố vấn đã nói rõ tinh thần chuyến đi sứ lần
này của quý vị. Tôi chỉ có vài lời nhắc nhở quý vị về nhiệm vụ. Các vị ráng
nghiên cứu, tiếp xúc, hội thảo sao cho đạt được yêu cầu Mỹ viện trợ kinh tế hậu
chiến cho Việt Nam cộng hòa, Mỹ viện trợ cho chương trình xây dựng nông thôn sau
khi đã bàn giao lại cho Việt Nam, và Mỹ viện trợ cho Việt Nam cộng hòa thành lập
Viện nghiên cứu xã hội như ở Mỹ...
Khi cuộc họp đã kết thúc, Thiệu giữ Trọng
lại dặn thêm phải hết sức kín đáo tìm hiểu sự thật nội tình Mỹ đối với chiến
tranh Việt Nam, thái độ của Johnson và chính phủ Mỹ đối với chính phủ Việt Nam
cộng hòa và cá nhân mình, tìm hiểu cho được ai là người sẽ thay thế Johnson ở
Nhà Trắng, và tha thiết yêu cầu Mỹ viện trợ mạnh về quốc phòng cho Việt Nam sau
khi rút quân.
Thiệu thân mật nói với Hai Long:
- Anh dặn kỹ thằng Tuyến
nhà anh cẩn thận về lối chơi chữ của bọn Mỹ ngoại giao, và níu áo mấy cha cố Mỹ
cho chắc.
Cha Hoàng lần đầu trực tiếp chứng kiến một buổi làm việc của Hai
Long ở Phủ Đầu Rồng, tỏ vẻ hài lòng về vai trò của anh. Sau cuộc họp này, cha
Nhuận kể lại, Thiệu đã thú nhận với ông: “Gần đây con lo lắng nhiều, nhưng thái
độ trầm tĩnh, lạc quan của ông cố vấn và khí thế của phái đoàn làm cho tâm hồn
con trở lại bằng an”.
Hàng
ngày, Hai Long bị bao vây ở khắp nơi vì những người tìm anh nhờ vả. Thiệu đang
gấp rút củng cố bộ máy chính quyền. Hương giúp Thiệu thực hiện ý đồ một cách đắc
lực. Kỳ rất hậm hực, nhưng trước mắt đành thúc thủ vì Thiệu đã thu tóm được
quyền lực trong tay. Nhiều người thấy đây là thời cơ tốt để giành giật lấy một
địa vị trong chính quyền. Họ nhờ người môi giới, viết thư xin gặp Hai Long. Đúng
là anh đang ở vào cái thế có thể giúp đỡ được cho nhiều người. Anh không thể từ
chối những cuộc tiếp xúc. Trong những cuộc gặp, trước thái độ nghiêm chỉnh của
anh, không có chuyện trả giá trắng trợn, nhưng ai cũng nhắc tới sự biết ơn hoặc
trả ơn. Hai Long hào hiệp giúp đỡ mọi người mà không nhận trả ơn. Những chức vụ
bộ trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng ở những quận quan trọng tại Sài Gòn thường
được tính bằng nhiều cây vàng. Không ai dám phớt lờ khi đã toại nguyện. Hai Long
đẩy họ tới gặp vợ Thiệu. Bà tổng thống, dân Mỹ Tho, hiền dịu, thu nhận tất cả,
không bao giờ nói là quá nhiều. Người được giúp đỡ biết ơn anh, và vợ Thiệu càng
quý mến, trọng nể anh hơn.
Hai Long vừa dựng xe trước cửa tiệm phở ở đường
Pasteur định vào ăn điểm tâm buổi sáng thì Hòe từ bên trong chạy ra.
- Anh
Hai linh quá, vừa nhắc tới anh xong. Có một vị luật sư, dân biểu, nói là bà con,
đang muốn được gặp anh Hai. Ảnh ở trỏng.
- Bà con với tôi ư?
- Dạ. Luật
sư Trịnh Ngọc Tường. Ảnh cũng nói chưa gặp anh bao giờ. Anh vô cùng ăn sáng với
ảnh luôn.
Một thoáng gợn trong tình cảm của anh. Luật sư Tường là chồng của
Tú Uyên. Chị đã nói tới tên của chồng mình khi gặp cha Hoàng ở Đà Lạt. Từ ngày
đó, anh đã cố tình không gặp lại Tú Uyên. Nhiều lần, anh đi ngang ngôi nhà vuông
vức quét vôi màu vàng, nơi ở của vợ chồng chị. Những cánh cửa sổ màu xanh trên
lầu ba thường hay mở rộng như mời đón anh. Anh phải kiên quyết gạt bỏ ý muốn vào
thăm chị. Cuộc đời họ từ lâu đã chia thành đôi ngả quá xa nhau. Chỉ cần giữ lại
ở nhau một vài kỷ niệm đẹp. Không nên vớt vát gì thêm. Mối quan hệ với chị có
thể dẫn tới những điều bất lợi cho công tác của anh hiện nay. Nhưng vẫn không
tránh khỏi. Chắc chị vẫn thường xuyên theo dõi anh. Anh đã nổi cộm lên trên
chính trường Sài Gòn từ ngày Thiệu cầm quyền. Chị hẳn đã kể chuyện với chồng
mình về anh.
Hai Long giữ thái độ tự nhiên khi bước vào quán. Anh nảy ra ý tò
mò muốn biết chồng Tú Uyên là người như thế nào. Đó là một người cao lớn, vóc
đáng thô, diện một chiếc áo nịt bó sát người, đi dôi giày vải thể thao. Trông
anh có vẻ như những nhà trưởng giả thích xuất hiện trên sân quần vợt, nhưng
không bao giờ có được một đường ban hay. Chiếc đồng hồ vàng đắt tiền trên cổ tay
rất to xương, gợi Hai Long nhớ tới cổ tay Spellman, khi ông tháo chiếc Boulevard
trao cho mình. Bàn tay nhỏ bé của anh lọt trong bàn tay to lớn của ông luật sư.
Anh hơi ngỡ ngàng vì Tú Uyên đã lựa chọn một người có hình dáng trái ngược với
mình.
Tường mừng rỡ hồ hởi:
- Hên quá chừng! Ai ngờ vừa nhắc tới anh thì
anh xuất hiện ngay. Biết xưng hô thế nào cho phải đây... - Tường quay sang Hòe -
Anh Hai đây là thầy học của bà nhà tôi.
- Anh đừng bận tâm về chuyện đó. Tôi
chỉ là người kèm chị Uyên học thi một thời gian thôi.
Trong khi ăn, Tường
nói:
- Nhiều lần định mời anh Hai tới nhà chơi, nhưng bà xã nhà em gạt đi,
biểu “Đừng thấy người sang bắt quàng làm họ!”. Sau đây, mời quý anh đi dùng cà
phê, em hầu chuyện một lát được không?
Hai Long nhận lời. Anh cần biết vì
sao chồng Tú Uyên muốn gặp mình.
Tường chọn một Snack bar vắng người, mời Hai
Long và Hòe vào. Biết Tường muốn nói chuyện riêng với Hai Long, Hòe viện cớ cần
vào dinh ngay để làm việc, kiếu từ.
Tường kêu hai phin cà phê, một hộp thuốc
lá Craven A, ra dấu cho nhà hàng giảm bớt âm thanh tiếng nhạc chát xình ồn ào,
rồi chuyện trò với Hai Long một cách cởi mở.
- Không biết ngày còn nhỏ tuổi,
tánh tình bà xã em ra sao, nhưng ở với nhau nhiều năm rồi, em thấy tánh nết bả
rất kỳ! Hồi em ra tranh cử nghị viện, bả phản đối kịch liệt. Anh Hai có ngờ rằng
mới vài tháng gần đây bả mới nói anh Hai đã dậy bả học, và đã sống hàng năm ở
nhà ông già vợ em! Đó cũng là do tình cờ một hôm, cha Hoàng hỏi em: “Vợ thầy
ngày xưa là học trò của Hai Nhã à?”. Khi đó em hỏi, bả mới chịu nói. Bao nhiêu
người chẳng quen thuộc chi, còn chạy tới cầu cạnh, huống hồ anh Hai là người
nhà!
Hai Long hiểu Tường cần mình để nhờ vả công việc. Anh có thể giúp đỡ
mọi người, thì sao lại không giúp cho người là chồng của Tú Uyên. Anh mỉm cười
nói:
- Ngày đó em Uyên còn ít tuổi, cá tính chưa bộc lộ rõ. Tôi chỉ nhận
thấy cô thông minh, nhận thức nhanh, khi có điều gì không bằng lòng chỉ lặng
thinh không nói.
- Chà, đúng vậy đó, anh Hai.
Tường chuyển sang chuyện
thời sự:
- Từ hồi anh Hai vô dinh, thế ông Thiệu ngày càng vững như bàn
thạch. Biết dựa vào anh Hai, người ta khen ông Thiệu là tổng thống khôn ngoan
nhất từ xưa tới nay. Ai cũng nói tướng Khánh khờ, nếu biết làm như tướng Thiệu
thì đâu tới nỗi phải đi tha phương...
Tường tán dương anh một hồi, ca ngợi
anh là bộ óc của Việt Nam cộng hòa. Rồi Tường quay sang chê bai những người
khác:
- Thay ông Lộc thì phải rồi, nhưng em thấy đưa già Hương trở lại vẫn
chưa hay. Già Hương quá yếu! Thuần túy là một tay thơ lại, bắt đầu lẩm cẩm, giúp
quý anh được việc chi? Đa số các ông bộ trưởng, tổng trưởng cũng chưa đảm đương
được vai trò...
Tường kể tên một loạt người, nếu không chê là tham nhũng,
nhiều tai tiếng thì cũng chê là dốt nát, bất lực.
Hai Long nói:
- Mọi
chuyện không thể làm xong một sớm một chiều. Nhưng điều anh vừa cho biết rất có
ích cho tôi.
- Dạ, dạ..., em biết, nhưng cần nói thì cứ nói: Em biết anh Hai
đang giúp ông Thiệu sắp xếp lại bộ máy. Phải củng cố nhanh anh à. Bọn chống phá
còn nhiều. Chánh sách dùng người của Mỹ dở lắm, họ chia để trị. Bọn hoạt đầu rất
nhiều. Ông Nhu ngày trước dựa rất chắc vào Công giáo ta. Ông Thiệu chưa làm được
việc đó! Phải có người ruột ở những nơi quan trọng. Anh Hai thấy nơi nào cần, em
xin giúp anh hết mình.
- Cảm ơn anh. Trong công việc phải biết dựa vào nhau.
Anh xem nơi nào có công việc gì thích hợp, cho tôi biết để tôi lo.
- Dạ...
thưa thiệt với anh Hai, em đã là một người con hư của phía bên kia. Em tham gia
kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu tiên. Cách mạng trọng đãi em, nhưng rồi
em tiếc cái bằng cử nhân luật khoa, bỏ vô thành. Nếu cách mạng thắng, kéo vô
đây, người ta tội một, em tội mười!... Bữa mô mời anh Hai qua chơi với vợ chồng
em. Anh nhớ “phôn” cho chúng em biết trước.
Tường đưa cho Hai Long một tấm
danh thiếp.
Hai Long linh cảm thấy Tường biết nhiều hơn anh tưởng, ngoài mối
quan hệ thầy trò giữa anh với Tú Uyên.
3.
4.
Thiệu nhờ người chọn ngày lành tháng tốt và giờ hoàng đạo cho
phái đoàn lên đường. Xem cung cách của vợ chồng Thiệu, Hai Long nhận thấy cả hai
người đều đặt kỳ vọng vào chuyến công du. Ngoài mục đích chính trị và kinh tế,
vợ chồng Thiệu còn trao cho Xuân cả nhiệm vụ chuẩn bị cơ sở đề phòng khi cần, có
thể chuồn ra nước ngoài. Ngày được chọn là mồng 7 tháng 9 năm 1968.
---
[1]
Phoenix
Chương 3
HÒA GIẢI
1.
Hòe là người đầu
tiên cho Hai Long biết có những dư luận xấu đang nhằm vào anh. Thoạt đầu, anh
nghe xong chỉ mỉm cười. Anh cho rằng trong một đôi chuyện mình bị hiểu lầm, và
mình đã trở thành đối tượng ganh ghét của một số người. Dư luận sẽ tan đi khi
người nghe tìm hiểu thấy đó không phải là sự thật. Mình cần tỏ ra tự tin, không
quan tâm tới những dư luận không chính đáng dù có phương hại tới uy tín của
mình.
Những dư luận này lúc đầu còn lác đác, rỉ rả, nhưng mỗi ngày càng rộ
lên thành những luồng gió độc vây bọc lấy anh. Nó thêu dệt cho anh một hình ảnh
mới trái ngược với hình ảnh của anh trước con mắt mọt người. Nó bám lấy một vài
sự thật rồi từ đó xuyên tạc, bóp méo đi thành những điều phản lại anh. Mỗi ngày
nó lại được nâng lên thêm, do đó càng xa sự thật. Nó thường mâu thuẫn nhau và
trở nên rất phi lý. Nhưng nó lại rất hấp dẫn với những người nhẹ dạ, cả tin, họ
coi đó là những “khám phá” về một con người được họ quan tâm và có cảm tình.
Điều nguy hiểm là những dư luận này không bao giờ được làm sáng tỏ. Trong nhiều
chuyện anh không bị kết tội, nhưng anh không còn giữ được bộ mặt tinh thần của
mình.
Theo lời đồn đại: Hai Long là con hoang ở Viện trẻ mồ côi. Hai Long đã
đi tu học tới năm chức, sắp ra làm linh mục, nhưng vì mê dì phước ở Pháp nên bị
đuổi khỏi tu viện... Hai Long đã có vợ đầm, với hai con, bị Pháp trục xuất về
nước... Hai Long là nhân viên tình báo quân đội Mỹ OSS trước đây... Hai Long là
lê dương, là nhân viên Phòng nhì của Pháp, cài vào bên cha Hoàng... Hai Long là
sĩ quan biệt kích của CIA phóng ra miền Bắc, bị Cộng sản mua chuộc, vừa ném trở
lại miền Nam... Hai Long là người
của Nguyễn Cao Kỳ cài vào bên Thiệu để phá Thiệu... Hai Long là người của cha
Hoàng bị Thiệu mua chuộc để phá cha Hoàng...!
Đó là những điều đã tới tai Hai
Long. Những người cho anh biết dư luận này hoặc là có thiện chí muốn bảo vệ anh,
hoặc là muốn mang câu chuyện làm quà để nhờ vả, và cũng không thiếu kẻ muốn mượn
dư luận này để gây sức ép đối với anh. Cũng may, chưa có điều gì đụng tới thời
kỳ anh bị bắt ở trại Tòa Khâm, hay những chuyện dính dáng tới gái, tiền, địa
vị...
Hai Long thường lắng nghe một cách bình tĩnh, không vội vàng thanh
minh, và suy nghĩ xem những dư luận này xuất phát từ đâu. Anh nhận thấy nó có
thể bắt nguồn từ nhiều nơi. Đầu tiên là từ những bộ hạ thân tín của cha Hoàng và
những kẻ đang chống phá ông. Rồi tới những tay chân của Thiệu và những kẻ đang
rình rập lật đổ Thiệu. Sau đó là những thế lực tôn giáo chống đối nhau, thân
chính quyền hay đối lập với chính quyền, những kẻ thân Pháp, thân Mỹ hoặc là tay
sai của những tổ chức tình báo Pháp và Mỹ.
Anh lo ngại vì nó ngược lại với
điều mình mong muốn, bỗng nhiên chuốc lấy quá nhiều kẻ chống đối, chủ yếu bắt
nguồn từ lòng đố kỵ, ganh ghét. Anh đã bị quá nhiều người chú ý bàn tán, một
điều tối kỵ đối với nhiệm vụ của anh. Nhưng trước mắt, anh tiếp tục giữ im lặng.
Mỗi khi nghe kể những điều này, anh chỉ mỉm cười rồi lảng qua chuyện khác. Phải
có thời gian và cơ hội mới giải quyết được dư luận. Anh càng cải chính, càng
kích thích bọn chúng bịa đặt những chuyện mới để bôi nhọ thêm anh. Cơn gió mạnh
sẽ thổi qua không trở thành cơn lốc nếu nó không gặp sức cản.
Nhưng luồng dư
luận độc địa này có thể quật ngã anh nếu như không sớm chặn nó ở những nơi anh
đang đứng chân.
Anh thuật lại với Thiệu những dư luận đang nhằm vào mình,
đánh giá đó là một áp lực ghê gớm nhằm tách anh ra khỏi Thiệu, và tách Thiệu ra
khỏi khối Thiên chúa giáo.
Hai Long nói:
- Tôi phân vân nhiều trước khi
vào Phủ tổng thống, chính vì lo ngại những dư luận xấu có hại cho anh cũng như
cho tôi. Cuối cùng, tôi nghĩ nếu mình giữ được tấm lòng trong sạch, ngay thẳng,
không mảy may có tham vọng cá nhân, thì kẻ xấu không dựa vào đâu để xuyên tạc
mình. Nhưng bây giờ tôi mới hiểu không hẳn như vậy.
Thiệu an ủi:
- Làm
chánh trị tránh sao khỏi kẻ ưa người ghét! Cứ thây kệ, mặc cho chó sủa, ta vẫn
đàng ta, ta đi!
- Tôi muốn thời gian trước mắt, hãy thưa vào dinh, bớt gần
gụi anh, cho dư luận này qua đi. Dù có ít vào dinh, tôi vẫn tiếp tục giúp đỡ anh
mọi việc như hiện thời.
Thiệu hăng hái:
- Thường anh nói chi tôi cũng
nghe, nhưng ý kiến vừa rồi thì tôi không chịu. Kẻ thù của chúng ta đang nhằm
chia rẽ tôi và anh, giờ mình rụt lại, là chúng thắng. Mình sẽ tìm ra những đứa
tung dư luận, trị thẳng cánh làm gương cho những đứa khác. Anh cứ ở hẳn đây, mối
thân tình giữa chúng ta càng keo sơn hơn xưa, thì mọi cái miệng sẽ câm như
hến.
- Điều tôi lo ngại là dư luận này lại có ngay trong một đôi người thân
cận của anh, e lâu ngày sẽ dẫn tới sự hiểu lầm giữa chúng ta?
- Làm sao lại
có sự hiểu lầm? Tôi ít tin người lắm! Không khi nào tôi tin vào lời nói suông.
Kẻ nào xúc xiểm, tôi biết liền. Anh cho tôi hay đứa nói bậy? Tôi cắt chức, đuổi
khỏi dinh ngay. Hắn phá anh là phá chính tôi!
- Chỉ cần anh nghĩ như vậy là
đủ. Anh luôn gần gụi, hỏi han tôi, gây nên sự đố kỵ, ghen ghét cũng là thường
tình. Có thêm chuyện gì thật gay cấn, tôi sẽ trình với anh. Ta bỏ qua chuyện đó
vì còn bao việc lớn phải lo...
Hai Long vào Bình An, kể với cha Hoàng toàn bộ
những dư luận, và thuật lại cuộc nói chuyện giữa anh với Thiệu.
Cha Hoàng
phẫn nộ:
- Sao không chỉ thẳng mặt mấy thằng cho Thiệu trị đi? Đi với ma
phái mặc áo giấy! Ở đây, cũng có đôi ba đứa nói nhăng nói cuội, mình đã trị cho
rồi. Mình bảo thẳng, mấy ngày Việt Minh tràn ngập xứ đạo, các anh đi đâu ráo,
chỉ có mình Hai Nhã là lặn ngòi ngoi nước đi tìm cha. Đừng có nghe kẻ xấu đặt
điều bôi nhọ người ta! Anh nào muốn giữ tình cảm cha con, thấy đứa nào nói xấu
Hai Nhã thì phải khớp miệng nó lại!
Rồi ông an ủi:
- Chúa Giê-su còn bị
vu khống, xỉ vả, còn có kẻ thù ghét huống chi mình! Trò đời như vậy, bận tâm làm
chi!
Khâm sứ Palmas ngồi nhìn Hai Long với cặp mắt thương cảm. Ông không hỏi
lại, vì không muốn nghe thêm lời những kẻ đặt điều. Ông vỗ về Hai Long:
-
Cha đã biết tình hình chính trường Sài Gòn rất gay go, phức tạp, đầy rẫy những
cạm bẫy. Đưa con vô đó là bắt con gánh chịu vô vàn thử thách. Con đã có tinh
thần tử vì đạo, lẽ nào không bỏ qua được những lời thị phi? Con đã trở thành vệ
sĩ của Tòa thánh, Tòa thánh lúc nào cũng ở bên con. Thử thách với con sẽ còn
nhiều, không phải chỉ từng này. Hãy giữ vững đức tin! Chúa luôn luôn ở bên
con.
Những chức vị mà anh định dùng làm chiếc lá chắn, đã trở thành cột thu
lôi hút mọi sấm sét. Nhưng anh đã nối dược một đường dây tiếp đất để giữ an toàn
cho mình.
2.
Vai trò một nhà chân tu thánh thiện thật ra không phù
hợp với công việc của anh ở dinh Độc Lập. Thiệu không cần người thuyết giảng
giáo lý và đạo đức. Để tạo cho Thiệu bộ mặt một tín đồ Thiên chúa giáo ngoan đạo
như cố tổng thống Diệm, Thiệu đã có cha Nhuận hàng ngày ra vào dinh và nhà
nguyện trên lầu 4. Thiệu cần ở Hai Long những thế lực chính trị dựa vào Mỹ và
Vatican, một mưu sĩ sắc sảo giúp cho y đạt được những mưu đồ, tham vọng của
mình. Anh sẽ không thể tâm đầu ý hợp với Thiệu nếu chỉ giải quyết mọi vấn đề dựa
trên cơ sở đạo lý. Như vậy, anh sẽ trở nên lạc lõng giữa môi trường này.
Anh ra
mở cửa, không hiểu có chuyện gì.
Thiệu đứng trước cửa, vẻ mặt hớt hải:
-
Anh cho cô này vô phòng anh ngồi chơi một lát! Bà xã tôi đang rượt theo kiếm
tôi.
Không đợi Hai Long trả lời, Thiệu đẩy vô phòng anh một cô gái. Đó là một
nhân viên điện thoại của Phủ tổng thống.
Cô gái có thân hình phát triển, khỏe
mạnh và mềm mại như một diễn viên xiếc. Dấu vết cuộc truy hoan còn hiện trên bộ
mặt phấn son lợt lạt. Cô gái nhìn quanh căn phòng trống trải, đôi mắt bạc đi vì
không biết ẩn náu vào đâu.
- Ngài cố vấn, cứu em với!
Hai Long quay ra
gài chốt cửa rồi kéo tấm màn màu nghệ che toàn bộ ô kính.
Anh nói:
- Cô
vô toa-lét trang điểm lại đi, rồi ra ngồi ở xa-lông, cứ bình tĩnh.
- Lỡ bả vô
đây thì sao? Ngài cố vấn, ngài thương em!
- Tôi như người tu hành, phụ nữ
không vô phòng tôi bao giờ. Bà Thiệu cũng vậy. Nếu có người tới kiếm tôi thì cô
tạm lánh vô toa-lét chút xíu rồi ra ngay.
- Ông Sáu nài nỉ em quá! Bả biết
thì em bị đuổi mất!
Thiệu vốn nổi tiếng về “hảo ngọt”. Y có thể làm tình ở
bất cứ nơi nào, kể cả lúc đang đi trên xe hơi. Bạn bè đã đặt cho Thiệu biệt hiệu
là “Ép Em Đầu Bạc”[1]. Cô gái trực máy đêm qua, đang chờ người tới thay phiên.
Thiệu xuống nơi làm việc sớm, kéo cô vào phòng. Không hiểu sao vợ Thiệu biết,
xuống tìm, Thiệu bí quá, đẩy cô gái vào phòng Hai Long. Người ta nói, vợ Thiệu
biết tính chồng, đã bí mật đặt camera theo dõi phòng nơi Thiệu làm việc.
Lát
có tiếng gõ cửa. Hai Long vẫy tay cho cô gái lánh vào toa-lét. Anh tự hỏi, mình
sẽ đối phó ra sao nếu đây lại là một âm mưu nhằm bôi nhọ mình?
Vẫn là Thiệu
đứng trước cửa, vẻ mặt cầu khẩn:
- Anh qua phòng tôi một lát. Bả đang lu loa
ở bên đó. Nhân viên Phủ tổng thống sắp tới rồi!
- Anh tạm lánh mặt đi đâu
đó, để mình tôi nói chuyện với chị.
Thiệu biến ngay xuống cầu thang.
Trong
phòng của Thiệu, vợ Thiệu đang ngồi gục đầu trên bàn nức nở.
- Chị Sáu! Chị
Sáu!
Nghe rõ tiếng Hai Long, vợ Thiệu mới ngẩng đầu lên, tóc dính bết trên
mặt vì nước mắt. Chị ta còn bận đồ ngủ và chưa kịp trang điểm. Vợ Thiệu gào lên:
- Ông giáo ơi? Cha ơi?
Hai Long chắp chéo hai bàn tay, giơ cao trước
ngực:
- Chị cần bình tâm. Có chuyện chi giữa vợ chồng, anh chị nên giải
quyết sau với nhau trong nhà. Nhân viên sắp tới cả rồi.
Vợ Thiệu vẫn ngồi lỳ
như không còn thiết gì mọi chuyện. Hai Long tiếp tục khuyên giải:
- Tôi biết
chị lo lắng ngày đêm cho công việc của anh. Người chống đối, đố kỵ với anh không
thiếu, họ chỉ chờ anh có một chút sơ hở nhỏ là sẻ phá ngay. Chị nên hết sức tỉnh
táo, không mắc vào âm mưu của họ. Nếu để việc này đổ bể ra, thì không chỉ khó
khăn cho anh Thiệu, mà cả cha Nhuận và tôi cũng khó tiếp tục lui tới Phủ tổng
thống.
Vợ Thiệu lấy khăn chùi mắt rồi đứng dậy.
- Không có âm mưu của ai
trong chuyện này đâu, ông giáo à. Em khổ sở vì ảnh nhiều lần lằm rồi. Em chỉ
muốn chết cho rảnh thôi.
Vợ Thiệu nghiêng người lảo đảo rời khỏi nơi làm việc
của chồng.
Hai Long quay về phòng mình bảo cô gái biến cho nhanh, rồi đi tìm
Thiệu.
Thiệu đứng ở cửa dinh, nhìn thấy Hai Long xuống cầu thang, rảo bước
quay vào.
- Tạm yên! Chị đã lên trên nhà. Tôi cho cô gái đi rồi.
Thiệu
hoàn hồn, mỉm cười, ghé tai Hai Long:
- Con nhỏ khoái tôi quá anh à. Nó nhào
đại vô phòng tôi. Vui chơi chốc lát thôi, chớ tôi mê ai hơn mê bả! Không có anh
hôm nay, bả sẽ ngồi lỳ ở phòng làm việc của tôi.
- Anh còn rầy rà với chị về
chuyện này. Tôi chỉ mới khuyên được chị ấy phải giữ uy tín cho anh ở nơi làm
việc.
- Anh đừng nói cho các cha hay. Thằng Kỳ còn quá xá hơn tôi. Bữa trước,
ông nội nói xạo với vợ đi Cần Thơ, rồi kéo bồ bay ra Nha Trang, bà Mai bắt cả
một phi đội trực thăng rượt theo đánh ghen đó!
- Anh yên tâm. Vừa rồi tôi
cho cô gái vô phòng, có xảy ra chuyện chi thì tôi sẵn sàng gánh chịu, chứ không
để anh phải chịu đâu!
Thiệu gọi xe vào làm việc trong Bộ Tổng tham mưu, lánh
mặt ở phủ tổng thống ngày hôm đó.
Buổi chiều, vợ Thiệu cho người xuống mời
Hai Long lên nhà. Chị ta kể những chuyện trăng hoa của Thiệu từ trước tới nay,
nói mình không thể sống chung với Thiệu được nữa, và cho hay ngày hôm sau sẽ bay
đi Thụy Sĩ. Hai Long khuyên ngăn hồi lâu, nhưng vợ Thiệu không chuyển. Chị ta
nhờ Hai Long trông nom, theo dõi Thiệu, và hẹn chỉ trở về khi nào nhận được điện
của chính anh.
Thiệu ở Bộ Tổng tham mưu về thì vợ đã đi. Y rầu rĩ nhiều ngày
và liên tiếp gởi điện tín khuyên vợ quay trở về. Hai Long nhận thấy rõ y rất yêu
vợ. Nhưng cô gái điện thoại viên có thân hình hấp dẫn, lại vẫn thường xuyên ra
vào phòng. Và “Ép Em Đầu Bạc” không phải chỉ có một cô gái này trong khi vợ vắng
nhà.
Anh quyết định để mặc Thiệu tiếp tục gửi cho vợ những lá thư và những
bức điện vô ích.
Tối hôm trước, sau khi làm
việc khuya với Thiệu, Hai Long ở lại Phủ tổng thống. Buổi sáng, anh vừa thay
quần áo xong thì nghe tiếng chuông réo kèm theo tiếng gõ cửa rất gấp.
-
Sáng nay, tôi gặp luật sư Tường ở Pasteur, ảnh đưa tôi tờ báo này, bảo nên
chuyển cho anh xem. Bọn chúng bắt đầu dùng tới báo chí công khai bôi nhọ
anh.
Trong tờ báo có bài tố cáo Vũ Ngọc Nhạ - tức Hai Nhã, tức Hai Long, đã
mạo nhận là đại diện cho cha Hoàng xứ đạo Bình An, lãnh hàng cứu trợ của bộ Xã
hội cho giáo dân xứ Bình An trong chiến cuộc Tết Mậu Thân, đem bán bỏ túi mà
không phát cho dân. Người viết bài nêu cả số căn cước của anh.
Hai Long đọc
xong nói:
- Bọn bắn lén đã lộ diện, tuy mới chỉ là một tên. Mình sẽ nhân cơ
hội này làm rõ để giải quyết những dư luận từ trước tới giờ.
- Luật sư Tường
cũng nói, anh phải đưa ra luật pháp. Luật sư tình nguyện xin lãnh làm sáng tỏ vụ
này.
- Để xem có cần tới mức đó không.
Hai Long vào Bình An gặp cha
Hoàng.
- Vừa qua, cha có nghe nói chi về việc có người đại diện cho xứ đạo
Bình An, lĩnh đồ cứu trợ trong chiến cuộc Tết Mậu Thân rồi bán lấy tiền bỏ túi
không?
- Vụ đó giải quyết xong rồi. Hiểu lầm thôi, có gì đâu!
- Xin cha
cho con biết rõ, vì mới đây lại có người thắc mắc.
- Bộ Xã hội và Tổng nha
Cảnh sát cho người vào, mang theo một lá đơn tố cáo thầy đã nhận đồ cứu trợ của
bộ Xã hội mà không chuyển về cho giáo dân. Mình bảo, phải coi lại, không thể có
chuyện đó! Ở bộ Xã hội, có chữ thầy nhận đồ cứu trợ. Nhưng ở ủy ban tiếp nhận
của trại Bình An, thì trong sổ chỉ ghi nhận đồ cứu trợ của tổ chức Viện trợ Công
giáo quốc tế. Cho hỏi cơ quan Viện trợ Công giáo quốc tế, mới biết họ không gửi
đồ cứu trợ cho ta, mà chỉ cho Bình An mượn xe để chở hàng. Coi số lượng trại đã
nhận, thì thấy đúng là số lượng đồ cứu trợ thầy đã lãnh ở bộ Xã hội. Khi đó mới
biết là trại Bình An ghi lộn...
- Bữa đó con nhận hàng cứu trợ của bộ Xã hội
xong, thấy ở đó không có phương tiện vận chuyển, con phải chạy qua CARITAS mượn
xe để đưa về Bình An cho nhanh. Chắc ở trại không xem kỹ giấy tờ, thấy xe của
CARITAS nên tưởng lầm là hàng cứu trợ của cơ quan Viện trợ Công giáo quốc
tế.
- Thế đó, mọi người rõ cả rồi, có chuyện gì đâu!
- Cha coi bài báo
này.
Cha Hoàng đọc xong, ném tờ báo xuống đất:
- Chúng lại phá đây!
-
Thưa cha, điều đáng buồn, đây là anh em trong nhà hại nhau, người ngoài làm sao
biết chuyện này, lại biết cả số căn cước của con?
- Chúng không phá riêng
thầy, mà phá cả mình, vì mình là cha chánh xứ, là trưởng trại! Giáo dân hay ủy
ban cứu trợ muốn tố cáo điều gì, trước hết phải hỏi người chủ trì. Trước khi tố
cáo đã không hỏi, vấn đề rõ ràng rồi, lại còn đưa lên báo bôi bác nhau!
Hai Long cầm ống nghe. Đầu dây
phía bên kia là giọng nói miền Trung của một phụ nữ:
- Tôi đề nghị được gặp
giáo sư Vũ Ngọc Nhạ.
- Dạ, tôi đây.
- Xin chào giáo sư. Tôi là thư ký của
luật sư Trịnh Ngọc Tường. Luật sư nói, đã lâu ngày không được gặp giáo sư, muốn
mời giáo sư ghé qua nhà chơi vào chiều nay hoặc sớm ngày mai.
Anh đã nhận ra
giọng Tú Uyên. Vì sao chị lại mạo nhận mình là thư ký của chồng? Nếu Tường muốn
gặp tại sao không tự mình gọi điện cho anh mà lại phải qua Tú Uyên. Từ bữa gặp
Tường tới nay, đã ba tuần, nhưng anh vẫn nấn ná chưa tới thăm gia đình chị.
-
Nhờ bà nói với luật sư mấy tuần qua tôi quá bận, nhất định chiều nay tôi sẽ ghé
lại thăm luật sư.
- Dạ. Tôi đã nghe rõ. Kính chào giáo sư.
Đã nhiều năm
anh mới có những giây phút bồi hồi như sắp tới một nơi hò hẹn.
Tú Uyên từ
trong ngôi biệt thự đi ra khi anh dắt xe vào. Bữa nay, không có chiếc áo len
khoác ngoài, với chiếc áo lụa dài màu xanh ôm sát người, và một chút phấn son
trên mặt, trông chị còn tươi trẻ hơn lần anh gặp chị tại Đà Lạt.
- Em tưởng
anh đã quên cả đường và số nhà. Bữa đó, em không thấy anh ghi.
Lời chị bao
hàm một sự trách móc.
- Nhờ trời, tôi vẫn còn trí nhớ khá tốt.
- Vậy mà đã
có đôi lần em nhìn thấy anh đi ngang, nhưng anh không ghé vô. Em vẫn tưởng anh
vô tâm, nghe rồi quên ngay. Em ở tận lầu ba, ngó thấy anh phóng xe qua, muốn gọi
cũng không kịp.
Anh nhận thấy mình vừa trả lời một câu dại dột.
- Quả thật
từ bữa gặp anh Tường, tôi rất muốn lại thăm anh chị. Sáng nay nghe tiếng chị,
tôi nhận ra ngay.
- Em cũng nghĩ là anh phải nhận ra. Mời anh lên nhà.
Chi
đi nép về một bên cầu thang, nhường lối cho anh. Nhìn vóc dáng mảnh mai của chị,
anh lại nhớ tới cái cổ tay to xương đeo chiếc đồng hồ vàng của Tường. Từ bữa đó,
anh không tin là chị có cuộc sống hạnh phúc với người chồng mình đã gặp.
Khu
cư xá này khá vắng vẻ. Họ chỉ gặp mấy đứa nhỏ chơi bi ở khoảng trống khá rộng
giữa hai đoạn cầu thang. Những căn hộ họ đi ngang cửa đều khép kín vì bên trong
dùng máy diều hòa nhiệt độ.
Tú Uyên đưa anh vào phòng khách, rồi gọi người
hầu gái pha trà.
- Anh Tường và các cháu đâu? - Hai Long hỏi.
- Cháu lớn
theo ba nó đi Vũng Tàu. Cháu nhỏ đang ngủ trong phòng.
Hai Long cảm thấy lúng
túng. Chị đã chủ động mời anh tới trong khi chồng đi vắng.
Anh làm ra vẻ tự
nhiên:
- Tôi rất muốn gặp anh Tường, bàn xem anh có thể cộng tác với chúng
tôi trong công việc gì. Ông Thiệu đang củng cố bộ máy chính phủ, công việc không
thiếu. Chỉ muốn hỏi xem anh ưng việc chi.
- Em biết anh Tường rất hám một ghế
tổng trưởng, bộ trưởng gì đó, nhưng em cần nói riêng với anh, ảnh có nhờ chi,
anh đừng có giúp. Nếu anh làm theo ý của ảnh, em sẽ giận anh.
- Sao lại như
vậy?
- Em rất ngán cái quan trường Việt Nam cộng hòa này. Tổng thống thì bị
bắn chết. Quốc trưởng thì bị lưu đày. Bữa trước là thủ tưởng, bữa sau đã bị trói
tay dẫn vô Bộ Tổng tham mưu! Ảnh cứ làm luật sư thì lúc nào ảnh vẫn là ảnh. Em
với ảnh luôn bất đồng về chuyện này. Em đã lỡ để ảnh vô cái dân biểu. Nhưng nếu
anh còn lo chức tước khác thì em sẽ phá tới cùng.
- Chắc là chị muốn nhân
chuyện của anh Tường góp luôn ý kiến với tôi chăng?
Hai Long nhìn Tú Uyên
mỉm cười. Chị nghiêm nét mặt, nói:
- Trường hợp của anh thì hoàn toàn
khác.
Hai Long hơi chột dạ. Anh thản nhiên nói tiếp:
- Chắc chị đã biết
tôi vô dinh là do giáo hội cử vô giúp ông Thiệu một thời gian?
-
Dạ...
Người hầu gái mang trà ra. Tú Uyên kéo cô gái ra góc nhà nói nhỏ mấy
câu, rồi quay lại xa-lông dặn với:
- Lấy xe đạp, đi cho lẹ mà về kẻo em thức,
mợ đang bận khách.
Khi người hầu gái đi khỏi, Tú Uyên ra hành lang ngó lui
ngó tới, rồi quay vào chốt cửa.
Hai Long không bỏ qua một cử chỉ nào của
chị.
Chị ngồi vào bàn, mời anh dùng trà, rồi nói như để giải thích việc mình
vừa làm:
- Em biểu nó đi mua kem và ít trái cây về mời anh. Trong tủ lạnh
trống trơn.
Lẽ nào chị mời khách tới nhà lại không chuẩn bị trước? Hai Long
hiểu là chị có chuyện cần nói riêng với anh.
- Em đã coi bài cải chính trên
báo Tự Do về chuyện của anh!... Anh đã đọc chưa?
- Tôi đã có coi.
- Một
chuyện như vậy mà có thể xuyên tạc như vậy! Ở nhà này, các anh ấy bàn tán về anh
luôn.
- Ở nhà này... - anh nhắc lại lời chị - Ngoài anh chị, còn có người
quan tâm đến tôi nữa ư?
Tú Uyên thản nhiên nói:
- Anh có biết anh Tá
không? Anh Tá làm phụ tá cho ông Dương Văn Hiếu ngày trước đó! Cũng có viết đôi
ba bài báo.
- Tôi biết ông Hiếu và anh Tá Đen. Chị cho rằng anh Tá viết bài
báo đó ư?
- Dạ không. Ảnh nói bài báo là do người ở Bình An viết. Ảnh biết
đó là chuyện không thiệt.
- Nhưng tôi vẫn tưởng ông Hiếu và anh Tá còn bị
giữ?
- Được tha cả rồi. Khi ra, anh Tá tới đây ngay. Ảnh là người Đà Nẵng,
cùng đi kháng chiến với anh Tường. Nhà em không chịu được gian khổ, về thành
trước, còn ảnh sau 1954 mới vô. Ảnh nói biết anh từ hồi ở miền Bắc.
- Vì vậy
mà ông Hiếu và anh ấy đã làm tôi phải mất 3 năm ở trại Tòa Khâm. Những người làm
việc cho ông Nhu vẫn bị chính quyền mới giam giữ, không hiểu tại sao anh ấy lại
ra được?
- Em nghe nói ông Trần Kim Tuyến xin cho ảnh. Hình như anh lại tiếp
tục làm việc...
- Cho ai?
- Ảnh không nói, nhưng ảnh có khá nhiều tiền.
Bữa nay, chính ảnh rủ nhà em đi Vũng Tàu. Mọi lần, em cản. Nhưng lần này, em để
nhà em đi với ảnh. Chỉ một lần thôi! Ông luật sư nhà em khá ngây thơ. Em đã bảo
cho ổng biết đừng có quan hệ với những người chó săn, chim mồi! Có lúc họ sẽ bán
cả mình. Tụi em không cho ảnh hay có quen biết anh. Từ bữa ở Đà Lạt về, em rất
mong anh tới. Nhưng bây giờ thì em không muốn anh chạm mặt ảnh ở nhà em. Em phải
đánh liều gọi điện thoại mời anh tới đây. Chuyện anh Tường muốn nhờ vả anh, anh
nên nói chừng chừng, đừng làm ảnh thất vọng ngay. Nhưng em kiên quyết không để
ảnh dính vô chính quyền.
Chị đã nói quá đầy đủ. Hai Long cảm thấy gần chị hơn
rất nhiều so với lúc chị buông những lời xa xôi trách móc anh. Chị đã xử sự mọi
việc khá chín chắn. Những tình cảm còn lại của một muối tình đầu đã thúc đẩy chị
có những hành động này, hay còn cái gì khác? Chị đã cho anh biết một số điều có
quan hệ tới an toàn của anh. Anh cần chị tiếp tục giúp đỡ. Nhưng anh không được
phép thú nhận mình là ai.
- Bây giờ thì tôi hoàn toàn đồng ý với chị. Chính
trường miền Nam đầy rẫy chông gai, cạm bẫy. Và nay mai sẽ còn biến động rất
nhiều. Tôi đã lãnh được nhiều bài học trong thời gian qua. Lúc này anh Tường
chưa nên dính vô.
Tú Uyên không tỏ ra chú ý tới câu nói của anh. Chị nhìn
thẳng vào mắt anh:
- Khi cần, em có thể nhắn tin cho anh ở đâu? Gọi điện
thoại nhiều cho anh ở Phủ tổng thống e không tiện.
Hai Long suy nghĩ rồi
đáp:
- Tôi có một người bạn cùng làm việc trong Phủ tổng thống mà anh Tường
đã biết, chúng tôi gặp nhau hàng ngày. Chị có thể nhắn tin cho tôi ở
đấy...
Hai Long cho chị địa chỉ nhà riêng của Hòe. Chị lẩm nhẩm nhắc lại mà
không hỏi thêm. Cặp mắt thông minh và chăm chú của chị nói rằng chị sẽ không bao
giờ quên.
Từ sau hai đợt Tổng tiến công, Trung tâm đã chỉ thị cho cụm trưởng
duy trì những nguyên tắc bí mật thật chặt chẽ, bỏ những cuộc họp lưới trưởng
kiểm điểm hàng tuần, cắt đứt quan hệ giữa những người không có lý do công khai
tiếp xúc với nhau. Cụm trưởng chỉ gặp trưởng lưới trong trường hợp thật cần
thiết. Cuối tháng 9, Năm Sang phổ biến chỉ thị mới của Trung tâm: “An toàn của
những lưới có người đã bị địch bắt giữ ở trại Tòa Khâm, đang bị đe dọa với việc
CIA sử dụng lại những tên mật vụ của Nhu, Cẩn. Cần phải có kế hoạch đối phó kịp
thời”. Trung tâm cũng chỉ thị riêng cho Hai Long, phải tìm cách có hiệu quả hối
thúc Thiệu cử người tham dự cuộc hòa đàm sắp bắt đầu ở Paris. Hai Long nhận thấy
không riêng Thắng bị chú ý sau hai đợt Tổng tiến công, mà qua những lời của Tú
Uyên, chính anh cũng đã bị chú ý. Họ không thể khoanh tay ngồi chờ mà phải tiến
hành ngay một kế hoạch đối phó.
3.
4.
Hòe vào phòng, cầm trong tay tờ báo Tự Do.
-
Thưa cha, với giáo dân dù sao cũng là việc trong nhà, cha để đó có ý kiến sau.
Nhưng báo chí đưa lên thành công luận, thì ta phải giải quyết sớm, nếu không sẽ
hại tới uy tín của Bình An.
- Kiện hắn ra tòa!
- Con nghĩ trước hết, nên
mời người phụ trách báo Tự Do tới đây, phê bình họ, bắt họ phải xin lỗi và cải
chính trên báo, nếu họ không chịu, ta sẽ tính sẽ làm tới nơi. Con là người của
Bình An, nhưng hiện thời còn là cố vấn của tổng thống, có liên quan tới nhiều tổ
chức chính quyền cũng như tôn giáo. Mình sẽ làm cho họ thấy đây là một vụ mang
tính chất chính trị.
Cha Hoàng lập tức cho người mời chủ báo Tự Do và người
viết bài báo tới Bình An. Ông mắng nhiếc một hồi, rồi dọa sẽ làm to vụ này. Chủ
báo và người viết nhận khuyết điểm thiếu điều tra trước khi đăng tải, hết lời
xin lỗi và hứa sẽ thực hiện ngay tất cả những yêu cầu của cha chánh xứ.
Hai
ngày sau, báo Tự Do đăng bài cải chính sự việc đã đưa, nói rõ nguyên nhân lầm
lẫn, kết thúc với lời xin lỗi giáo sư Vũ Ngọc Nha, xứ đạo Bình An và độc
giả.
Hai Long không dừng lại ở đó. Với những kẻ hám lợi, hám danh, hay ganh
tị, kèn cựa, anh dùng ảnh hưởng của mình đối với Mỹ, Thiệu và cha Hoàng. Không
những không trả thù, mà còn ban phát cho mỗi tên, mỗi phe nhóm chút ít quyền
lợi, như giới thiệu vào bộ máy chính quyền, quân đội, đưa chúng ra thành lập
đảng phái, đoàn thể để moi tiền trợ cấp của Mỹ... Chúng bắt đầu im miệng, tự nộp
mình cho anh sai khiến, và quay lại chống phá, cấu xé lẫn nhau.
Đức Chúa lòng
lành vô cùng, Đức Phật đại từ đại bi từ ngàn xưa tới nay vẫn gắn bó với đời
không phải chỉ vì các ngài đã nêu những tấm gương đạo đức, thánh thiện. Rất
nhiều vị thánh rất thánh đã bị con người quên lãng. Đức Chúa và Đức Phật còn gắn
bó với đời vì còn nhiều người tin là nếu dốc lòng thờ phụng thì sẽ được ban
thưởng những thứ mình cần cho cuộc sống, tai qua nạn khỏi, có được danh vọng,
địa vị, tiền tài. Họ mang cách ứng xử vụ lợi giữa người đời tới cầu xin phước
lộc. Họ không hề nghĩ rằng nếu chiều theo tất cả những lời cầu xin của họ thì
thánh đâu còn là thánh! Con người đến với các ngài càng đông khi họ tưởng rằng
tất cả những tội lỗi mình đã gây ra trên cõi đời, chỉ cần tới phủ phục dưới
tượng, ảnh của các ngài, họ sẽ được gột sạch những bùn nhơ và những vết máu, trở
thành trong trắng như lúc mới sinh.
Hai Long đã học được ở Chúa lòng tha thứ
và sự ban phước lành cho tất cả mọi người, kể cả những kẻ ác.
---
[1]
FM đầu bạc: tên một loại súng trung liên.
Chương 4
ĐÒN PHỦ ĐẦU
1.
Số nhân viên CIA
của Mỹ ở miền Nam đã lên tới 10.000
tên. Nhân dịp Tthiệu củng cố bộ máy chính quyền, chúng đã xâm nhập vào hầu hết
những cơ quan quân đội, chính quyền. Chúng lũng đoạn khắp nơi. Chúng tung tiền,
khuyến khích những chính khách con buôn lập thật nhiều tổ chức chính trị, đảng
phái. Thiệu, Kỳ đều hoang mang vì những tổ chức chính trị mọc lên như nấm mà
chính quyền không sao kiểm soát được. Một bữa, Hai Long hỏi O’Connor.
- Khắp
Sài Gòn, chỗ nào cũng có những tổ chức chính trị nhận tiền trợ cấp của CIA. Rất
nhiều tổ chức ma, chỉ có tên mà không có người. Làm như vậy nhằm mục đích gì?
Ông linh mục lắc đầu rồi giải thích:
- Đây là chính sách dùng ngựa bầy
của ông già Bunker. Ông già áp dụng cái gọi là “majorité des minorités”[1]. Ông
ta muốn có nhiều lực lượng, nhiều lá bài dự trữ để chi phối tình hình theo ý
muốn và không cho ai bắt bí mình.
Điều đáng lo ngại là theo nhiều nguồn tin
của Cụm, CIA bắt đầu nắm chắc bộ máy an ninh mật vụ của Thiệu. Chúng đang dùng
lại những tên mật vụ của Nhu, Cẩn đã bị bắt hoặc thất sủng sau ngày đảo chính
Diệm. Bọn này hầu hết là những tên đầu hàng, đầu thú, rất nguy hiểm đối với các
cơ sở cách mạng trong nội đô. Thắng cho anh biết tin, có người đã gặp Dương Văn
Hiếu và Tá Đen ở Sài Gòn. Hai Long, Hòe, Thắng, Ruật đều qua tay thẩm vấn của
Hiếu và Tá ở trại Tòa Khâm. Chúng không kết tội được họ, nhưng trong đầu óc
chúng chắc còn nhiều nghi vấn. Đáng chú ý nữa, có tin Trần Kim Tuyến đã trở
thành một chuyên viên tin cậy của CIA. Tuyến am hiểu tình hình chính trị miền
Nam, thâm hiểm và có đầu óc tổ chức. Trước đây, khi còn phụ trách sở Nghiên cứu
chính trị thời Diệm, Tuyến đã xây dựng một mạng lưới mật vụ dầy đặc trong toàn
thể bộ máy chính quyền, kiểm soát tới từng người, và nắm khá chắc những biến
động chính trị. Trong thời gian đó, Tuyến đồng thời nắm cơ quan Trung ương tình
báo và chỉ đạo những hoạt động của tổ chức này. Nhu gạt Tuyến vì nghe lời vợ; Lệ
Xuân biết Tuyến đã khuyên Nhu nên cho mình xuất ngoại. Không dùng Tuyến, chế độ
Diệm đã làm tan vỡ cả một mạng lưới mật vụ đắc lực. Tuyến vốn gắn bó với tình
báo Anh, nên một thời gian dài sau khi thất sủng với chế độ Diệm, vẫn không được
Mỹ tin dùng. CIA phải sử dụng Tuyến là chúng đã nắm được vai trò lợi hại của
Tuyến.
Lại có thêm một chuyện khiến Hai Long phân vân. De Jaegher đã viết thư
báo tin, trong tháng 9 sẽ đi công du châu Á, thế nào cũng có dịp ghé qua Sài Gòn
để gặp anh. De Jaegher lúc này là chủ tịch Hội Thái Bình Dương tự do và cố vấn
chỉ dạo của tổ chức Liên minh Á châu chóng Cộng. Khi tới Jakarta[2], De Jaegher
lại báo tin cho Hai Long mình sắp tới Sài Gòn, và thế nào cũng nhờ anh đưa gặp
Thiệu. Từ trước tới nay, những thư từ, sách báo của De Jaegher gửi cho mình, Hai
Long thường đưa cho Thiệu xem. Chính anh đã giới thiệu Thiệu với De Jaegher, anh
cũng báo tin này cho Thiệu hay. Cuối tháng 9, vẫn không thấy De Jaegher xuất
hiện. Anh không hiểu tại sao lại có sự chậm trễ này. Khi hỏi O’Connor, anh mới
biết De Jaegher đã ghé qua Sài Gòn từ trung tuần tháng 9, chỉ ở lại ít hôm rồi
về Mỹ. Ông linh mục cho rằng De Jaegher quá ít thời giờ nên không kịp tới thăm
anh.
Hai Long tìm hiểu, biết rằng khi De Jaegher tới Sài Gòn, Thiệu đã cử
Kiểu ra đón tại sân bay và đưa về dinh quốc khách gặp mình ngay. Chuyện này
Thiệu không hề nói cho Hai Long biết. Và tại sao De Jaegher không thực hiện đúng
hẹn với anh, mà không hề có một lời giải thích? Phải chăng đây là lối xấu chơi
của hai nhân vật chống Cộng? Thiệu muốn hớt tay trên của anh, để giữ độc quyền
quan hệ với một nhân vật cầm đầu chống Cộng. Cũng có thể là, De Jaegher sau khi
tiếp xúc với Thiệu, cảm thấy đã đạt yêu cầu tìm hiểu tình hình, nên thấy không
cần gặp Hai Long nữa. Nhưng anh cũng không thể không nghĩ tới trường hợp CIA đã
thông báo cho Thiệu hoặc De Jaegher những nghi vấn đối với anh nên De Jaegher bỏ
ý định gặp anh...?
Hai Long nghiêng về giả thuyết đầu tiên. Đây là tính lắt
léo cố hữu của Thiệu. Thiệu muốn hạ thấp vai trò của anh trước mắt De Jaegher.
Thiệu muốn giữ riêng những tin tức De Jaegher cung cấp cho mình lúc này, và cả
trong tương lai. Anh ít tin vào giả thuyết thứ hai. Vì Thiệu vẫn tỏ ra hoàn toàn
tin cậy, dựa vào anh trong những việc lớn. Và nếu De Jaegher biết đang có nghi
vấn về anh, thì ông ta chẳng dại gì né tránh để anh cảm thấy nguy hiểm mà đối
phó. Vào trường hợp này, ông ta phải giữ thái độ bình thường, để CIA tiếp tục
dùng những thủ đoạn phản tình báo với anh. Nhưng nếu đây lại là một hớ hênh của
CIA, vì chúng không phải lúc nào cũng tài giỏi...?
Hai Long viết cho De
Jaegher mấy lá thư truy kích tới cùng vì sao De Jaegher đã thất hẹn, tới Sài Gòn
mà không ghé tới gặp mình. Anh cần tìm cho ra nguyên nhân. Và đó cũng là cách
chứng tỏ sự chân thành, thẳng thắn của anh. Nhưng cả mấy bức thư đều chưa được
trả lời.
Hàng tuần, từ Washington, Trọng gửi báo cáo về
đều đặn. Phái đoàn của Trọng được các giới chức Mỹ sốt sắng đón tiếp. Anh đã thu
thập được những thông tin quan trọng. Theo quy ước, những tin tức của Trọng gửi
về, qua những đường khác nhau, đều tới chỗ Hai Long. Báo cáo của Trọng viết
thành hai loại. Một loại Hai Long sẽ chuyển cho Thiệu. Còn một loại, anh giữ
lại. Toàn bộ những tin tức này đều được chuyển về Trung tâm. Hai Long đem tới
cho Thiệu những bản báo cáo chứng tỏ khả năng hoạt động hữu hiệu và cần thiết
của phái đoàn tại Washington, cùng với những tin tức theo chiều hướng Mỹ buộc
phải kết thúc chiến tranh Việt Nam, rút quân về nước, Việt Nam cộng hòa cần có
đại diện của mình tại cuộc hòa đàm Paris, vì nó vẫn được tiến hành dù không có
sự tham dự của Thiệu.
Cùng với sự hối thúc của Tòa đại sứ Mỹ, Hai Long đã tạo
nên một sức ép nữa với Thiệu từ những tin tức của Trọng. Thiệu tỏ ra khá lì lợm.
Thiệu rất lo lắng trong tình hình này Mỹ có thể bất thần xuống tay với mình.
Nhưng y vẫn cho rằng, tới cuộc hòa đàm Paris trong lúc Johnson cần có hòa bình
bằng mọi giá trước ngày rời Nhà Trắng, là một hành động tự sát. Hai Long không
thể vội vã. Nếu không tạo được cớ xác đáng mà cứ thúc đẩy Thiệu thì y sẽ sinh
nghi.
2.
Máy điện thoại réo.
Dinh Độc Lập vốn rất nhạy
cảm với những nguồn tin loại này. Nhiều người tìm gặp Hai Long hỏi tình
hình.
Hai Long nhận thấy Thiệu phờ phạc, gầy hẳn đi. Một tối anh ở lại trong
dinh, Thiệu mời anh sang phòng làm việc trao đổi.
Thiệu kêu nhân viên đưa cà
phê lên, rót rượu cùng uống với anh, vẻ mặt lầm lỳ.
Hai Long băn khoăn:
-
Coi anh dạo này xuồng sắc quá!
Thiệu cạn hết ly rượu, đặt ly xuống bàn.
-
Tôi lo lắm anh à! Các thầy đều nói, đất trong dinh này rất dữ. Kỳ râu kẽm thánh
thần không ngán, mà ngán đất này, cứ lủi trong phi trường Tân Sơn Nhứt, như vậy
mà khôn. Từ ngày tôi vô dinh, chuyện này chưa qua, chuyện khác đã tới, tâm thần
không lúc nào yên! Các thầy nói, đất này không vua chúa nào bền. Ai lâu lắm
không quá 10 năm, thường thì chỉ 1 năm như tướng Minh, tướng Khánh, có người chỉ
mấy tháng... Minh Lớn lại trở về Sài Gòn! Không biết Mỹ định tính chuyện chi với
mình? Anh có nghe ngoài đường họ đồn đại sắp có đảo chính đó không?
- Chả cứ
ngoài đường phố, ngay trong dinh cũng có tin đó.
- Chẳng lẽ Johnson định
loại tôi thực sao? Báo chí Mỹ cũng bàn chuyện này nhiều. Bọn nhà báo ranh ma
lắm! Không có lửa sao cỏ khói?
- Tôi chưa nhận thấy dấu hiệu gì đặc biệt
nguy hiểm. Nhưng ta cứ phải lượng định tình hình một cách thật khách quan, nếu
có dấu hiệu nguy cơ xuất hiện thì ta phải có ngay biện pháp cứu nguỵ.
- Tôi
cho rằng họ bắt đầu chuẩn bị dư luận để lật mình. Johnson cần làm nhanh vì ông
ta không còn thời gian.
- Cứ cho là như vậy. Nhưng muốn tiến hành đảo chính,
Johnson không thể dùng quân Mỹ, mà phải dùng lực lượng chính trị và quân sự tại
chỗ. Vậy, đó là lực lượng nào...? Lực lượng Phật giáo đông nhưng thiếu lãnh tụ,
chia rẽ, qua nhiều lần thất bại không còn khả năng kích động quần chúng. Lực
lượng Thiên chúa giáo thì các cha và tôi đã nắm vững. Đối với các đảng phái quốc
gia thì cũng đã được mình ban phát cho nhiều, chưa thấy có tổ chức nào tỏ ra dám
đối đầu với ta... Chỉ còn ngại số sĩ quan Đại Việt trong quân đội, và cánh Cần
lao cũ của Nhu ẩn náu trong Thiên chúa giáo, nghe nói CIA đã nắm nhiều tên loại
này. Những dư luận thất thiệt đều từ trong đám này mà ra. Dẹp được bọn đó thì sẽ
yên!
- Anh tính dùng cách nào dẹp bọn chúng?
- Chuyện loại này cứ giao
cho công an, tình báo điều tra, nếu thấy nghi vấn, ta tạm thời bắt giữ theo luật
pháp thời chiến.
Thiệu băn khoăn:
- Bọn sĩ quan Đại Việt trong quân đội
thì không khó, nhưng chỗ khó là bọn Cần lao gộc, tóm được chúng không dễ, vì
chúng chui rúc sau lưng các cha.
- Nếu đã là việc an nguy của quốc gia, thì
ta nhờ hẳn các cha giúp cho là xong.
Thiệu uống rượu nhiều và đàm đạo với Hai
Long tới khuya. Cuối cùng, y vẫn phân vân không quyết điều gì.
Vài ngày sau,
lại một tin đồn bay tới tai Thiệu: “Cần lao đã phục hồi sức mạnh từ sau vụ lật
đổ Nguyễn Khánh năm 1965, thời cơ đã tới với Cần lao!”.
Thiệu vội vã mời Hai
Long tới:
- Phải làm gấp thôi anh à!
- Anh chỉ cần gọi phụ trách đặc ủy
Trung ương tình báo và giám đốc Tổng nha Cảnh sát tới, ra lệnh điều tra gấp
những đối tượng đó, anh nào có nghi vấn là bắt giữ. Còn bọn ẩn nấp sau các cha,
anh nên trực tiếp trao đổi với cha Nhuận, đề nghị các cha bàn với nhau, chỉ ra
giúp đó là những tên nào...
Cha Nhuận hấp tấp tìm Hai Long
- Tổng thống
nghi có những phần tử Đại Việt và Cần lao đang âm mưu làm đảo chính. Tổng thống
đã trao cho Nguyễn Khắc Bình, phụ trách phủ đặc ủy Trung ương tình báo làm việc
này. Tổng thống nói với mình, nhờ các cha tiếp tay cho, chỉ ra họ là những ai,
để cứu nguy cho chế độ. Mình báo cáo với cha Hoàng. Cha bảo cứ trao đổi với
thầy. Ta phải làm gì bây giờ?
Hai Long nghĩ xem vì sao Thiệu không trao việc
này cho Trần Văn Hai ở Tổng nha Cảnh sát mà lại chỉ trao cho Nguyễn Khắc Bình.
Anh cho rằng Thiệu sợ Hai làm hỏng việc, vì cả Hai và bọn Cần lao đều đã bị CIA
nắm.
Anh trả lời cha Nhuận.
- Các cha Mỹ đã hứa với giáo hội Việt Nam là
không để tái diễn cảnh ông Diệm trước đây với tổng thống. Việc này phải nhờ các
cha Mỹ giúp. Vì chỉ CIA mới biết rõ những người đó là ai.
- Thầy ráng giúp
tôi việc này.
Hai ngày sau, Hai Long dẫn Thắng tới gặp cha Nhuận.
- Đây là
nhà ký giả Nhị Hà, người đã hoạt động từ lâu trong phong trào các tôn giáo ở Nam
Việt Nam, đã từng làm bí thư cho ông Đỗ Mậu, các cha Mỹ giới thiệu tới để trả
lời cha việc tổng thống nhờ bữa trước.
Cha Nhuận mừng rỡ vì đã biết Thắng từ
lâu. Thắng có quan hệ với giáo dân Phát Diệm từ những năm đầu di cư vào Nam. Cha
Lê, cha Hoàng, cha Nhuận đều biết anh. Cha Nhuận vội vàng đưa Thắng tới gặp
Nguyễn Khắc Bình.
Thắng trình bày rõ ràng lai lịch từng đảng viên Cần lao đắc
lực của Nhu, Cẩn, đã được CIA móc nối, tìm cách đưa ra khỏi nơi giam giữ, và
đang dùng để kích động, gây rối loạn có hại cho chế độ Thiệu. Anh đề nghị nên
bắt một số tên nguy hiểm nhất, trong đó có Dương Văn Hiếu và Tá Đen. Bình trao
đổi với anh một hồi, rồi nói:
- Muốn bắt giữ những người này, chúng tôi cần
được ngài cung cấp cho chứng cứ đầy đủ về hoạt động chống phá hiện hành của họ,
đặc biệt là những bằng chứng cụ thể họ đang có âm mưu lật đổ chế độ.
- Để
ngăn chặn một âm mưu, phải diệt từ khi còn trứng nước, làm sao có thể lấy ngay
được đầy đủ bằng chứng cụ thể?
- Nhưng chánh quyền phải làm theo luật pháp,
không thể vô cớ bắt người.
- Tôi được giáo hội trao nhiệm vụ tới cung cấp một
số tình hình theo yêu cầu của tổng thống, còn giải quyết cách nào là tùy thuộc
trách nhiệm và thẩm quyền của các ngài.
Thắng kiếu từ ra về.
Tin đảo chính
ngày càng lan truyền mạnh mẽ, dồn dập bay tới tai Thiệu. Thiệu lại cầu cứu Hai
Long.
Anh nói:
- Việc này giao cho công an, tình báo từ lâu mà họ vẫn chưa
có hành động gì, hay là lại đồng lõa với bọn phá rối, cứ lơ đi để tổng thống
ngồi mà lo! Cha Nhuận đã đưa người tới, chỉ rõ từng phần tử nghi vấn mà Nguyễn
Khắc Bình không chịu bắt! Không bắt bọn đó thì làm sao tìm ra bọn chủ mưu đảo
chính? Từ ngày thấy anh lo ngại nhiều, tôi đã lưu ý Bernard Trọng ở Washington,
đồng thời tìm hiểu kỹ ở Tòa đại sứ Mỹ, với nhiều nguồn tin kết hợp lại, thấy
hiện Mỹ chưa có chủ trương muốn thay thế tổng thống. Chỉ có bọn Đại Việt, Cần
lao liên kết với nhau gây rối loạn, chẳng qua vì mưu tính quyền lợi cá nhân,
toan đục nước béo cò. Có bắt bọn này thì cũng chỉ nhằm giữ an ninh xã hội, phòng
ngừa trước những điều bất ngờ vẫn có thể xảy ra cho tổng thống và chế độ. Đó là
việc ông Nhu thường làm, mới duy trì được chế độ Diệm suốt 10 năm. Bắt rồi thả,
thả nhưng khi cần lại bắt lại, thời chiến nước nào không phải làm như vậy. Giờ
mình rụt rụt, rè rè, khác nào khuyến khích kẻ làm bậy. Nay họ còn tung tin, mai
họ làm thật thì sao? Nước tới chân, nhảy làm sao kịp!
Thiệu đỏ mặt:
- Ta
sẽ cho quét một mẻ lưới như Nhu làm đêm 28-8-63. Ngoài bọn Cần lao, Đại Việt, ta
chộp thêm một vài tên đầu sỏ chính trị đối lập, là dẹp tan mọi mưu toan, mọi tin
đồn đảo chánh ngay. Ông cố vấn soạn thảo giúp tôi một bài nói trên vô tuyến
truyền hình sau cuộc vây quét, vừa trấn an dư luận, vừa cảnh cáo uy hiếp bọn mưu
toan đảo chánh.
Hai Long điềm đạm nói:
- Làm lớn như vậy, tôi thấy chưa
nên. Mỹ đang tập trung vào hai vấn đề lớn, là bầu cử tổng thống và hòa đàm ở
Paris. Ta làm ồn ào, to chuyện, sẽ bất lợi cho tổng thống trước mắt người Mỹ.
Chỉ cần bố phòng cẩn mật các nơi, bắt cho gọn, cho êm bọn mưu phản là đủ
rồi.
Sau khi Hai Long ra khỏi, Thiệu cho gọi ngay Nguyễn Khắc Bình tới khiển
trách, thét mắng một hồi.
Tin đồn từ những xứ đạo nhanh
chóng lan truyền khắp Sài Gòn, sắp có một cuộc đảo chính lật đổ chế độ Thiệu.
Tin này được bình luận ở nhiều nơi như một chuyện đương nhiên, vô cùng hợp lý,
vì Thiệu là người kiên quyết chống lại cuộc hòa đàm Paris, Johnson cố vớt vát
chút vốn liếng chính trị, trở thành một “tổng thống hòa bình” trước khi rời Nhà
Trắng, buộc phải hất bỏ tảng đá cản đường là Thiệu.
Thiệu mời tướng Dương Văn Minh mới từ Thái Lan trở về, vào dinh hội
kiến. Sau đó, Thiệu tiếp một số cựu tướng lĩnh và chính khách ở Sài Gòn. Giữa
lúc đó, Thiệu cho bắt một số người theo danh sách của Đặc ủy tình báo.
Ngày
hôm sau, Thiệu lên vô tuyến truyền hình phát biểu trấn an dư luận, kêu gọi mọi
người bình tĩnh, chấm dứt những tin đồn nhảm về đảo chính, và tuyên bố, giải
thích về trường hợp một số người bị bắt giữ vì lý do an ninh đang dược xét
xử.
O’Connor tìm gặp Hai Long, hỏi:
- Có chuyện gì mà Thiệu động binh
động tướng ầm ầm như vậy.
- Nhiều tin đồn sắp có đảo chính, Thiệu áp dụng
những biện pháp phòng ngừa.
Ông linh mục lắc đầu:
- Lại ông già Bunker ở
tòa Nhà Trắng đường Thống Nhất bày trò phù thủy! Bảo Thiệu cứ yên tâm, có gì đâu
mà sợ cuồng quít lên như thế!
- Bunker bày trò đó làm gì?
- Johnson muốn
Thiệu phải ngồi vào bàn thương thuyết với Mặt trận Giải phóng Miền Nam trước
ngày bầu cử tổng thống Mỹ. Ông già cho tung tin để dọa Thiệu.
[2] thủ đô Indonéxia
Cha Nhuận khuyên
Thiệu trong thời gian này không nên đi lại nhiều, chỉ cần tĩnh tâm dọn mình, ở
nhà nguyện cầu cho quốc thái dân an, để được Chúa bảo vệ, việc ngoài mặc cho Hai
Long ứng phó. Thiệu nghe lời cha Nhuận, suốt tháng 10 rất ít đi lại. Vợ Thiệu
vẫn ở lỳ tại Thụy Sĩ, không chịu về. Nhà cửa đầy tiện nghi xa hoa, nhưng thiếu
người phụ nữ, trở nên trống vắng. Y càng nhớ và thương vợ. Vào đúng thời gian
này, lại có một vị nguyên thủ quốc gia báo tin sẽ viếng thăm Việt Nam cộng hòa, đem theo cả
vợ. Thiệu ra vào không yên. Y cầu cứu Hai Long:
- Anh làm cách nào giúp tôi.
Người ta tới cả vợ cả chồng, mình ra đón chỉ có một mình, cả nước sẽ biết là vợ
chồng có chuyện ghen tuông gì đây, nên bả giận, bỏ đi ra nước ngoài!
- Anh
đã nói với chị điều đó chưa?
- Bây giờ tôi nói gì bả cũng không tin. Ghen
tuông quá xá! Anh coi từ ngày bà đi, tôi đâu có bồ bịch với ai? Còn mấy cái
chuyện chơi bời chút đỉnh thì kể chi!
Hai Long suy nghĩ một lát rồi nói:
- Anh cứ yên tâm dọn mình cầu nguyện, chị ấy sẽ trở về trước ngày khách tới
Sài Gòn.
- Anh giúp cho được việc đó thì tôi ơn anh không biết chừng
nào.
Hai Long gửi cho vợ Thiệu một bức điện. Ba ngày sau, vợ Thiệu đã có mặt
ở Sài Gòn. Thiệu hết lời cảm ơn anh.
Bunker và phó đại sứ Mỹ Berger thay
phiên nhau gây sức ép với Thiệu, yêu cầu phải đồng ý với việc ngừng ném bom,
pháo kích trên toàn miền Bắc, và chấp nhận hòa đàm ở Paris.
Trong liền một
tuần, bắt đầu từ 15 tháng 10, Bunker tới dinh Độc Lập 6 lần gặp Thiệu. Thiệu
tiếp tục giữ ý kiến không tán thành ngừng oanh kích trên toàn miền Bắc, và nhất
là không chịu ngồi hòa đàm cùng với Mặt trận Giải phóng. Hai Long đã hiểu bản
chất của Thiệu. Y tham lam, xảo quyệt, nhưng đồng thời lại nhút nhát, đa nghi.
Chỉ cần thấy sinh mệnh hoặc chức vụ tổng thống của y thực sự bị đe dọa, y có thể
chấp thuận bất cứ điều gì. Mỹ mới dùng lời lẽ thuyết phục và đe dọa xa xôi, nên
y chưa thật sợ. Thiệu cho rằng, cử người tới dự đàm phán với Mặt trận Giải phóng
là mở cửa cho sự ra đi của mình. Còn khả năng cưỡng lại phút nào, y sử dụng hết
phút đó. Thời gian của Johnson không còn nhiều, Mỹ chắc chắn phải tăng thêm sức
ép. Và Thiệu sẽ đầu hàng.
Cuối tháng 10, thái độ Bunker trong những cuộc tiếp
xúc với Thiệu trở nên rất lạnh nhạt. Rồi cả Bunker lẫn Berger cũng không tới
dinh Độc Lập nữa. Thiệu lo đến bồn chồn, suốt ngày đứng ngồi không yên. Thiệu
thiết tha đề nghị Hai Long ở hẳn trong dinh với mình, đề phòng khi cần, có ngay
người trao đổi. Y luôn luôn ngó chiếc máy điện thoại, mong chờ nó đổ chuông. Y
càng thất vọng, hoảng hốt hơn khi thấy người gọi điện thoại cho mình vẫn không
phải là Bunker. Tóc Thiệu loang lổ trắng từng mảng ở gáy, mắt đỏ lên và lờ đờ,
có quầng thâm. Vợ Thiệu làm những món ăn ngon, hợp với khẩu vị của chồng, ép
Thiệu phải uống những thứ thuốc bổ tốt nhất, nhưng Thiệu vẫn phờ phạc, mỏi mệt,
mặc dù y hầu như suốt ngày chỉ ngồi chờ chuông điện thoại reo, chẳng làm công
việc gì.
Từ Washington, Trọng và Tuyến báo
cáo về sắp hoàn tất nhiệm vụ. Nhờ những giấy tờ giới thiệu, và những bạn học cũ
của Tuyến tại Nhà Trắng và bộ Ngoại giao, hai người đã tiếp xúc được với nhiều
tổ chức chính quyền và tư nhân, cũng như nhiều cá nhân có tiếng tăm. Nhiều nhân
vật Mỹ nhờ họ chuyển sách báo về tặng Hai Long. Hạ tuần tháng 10, Trọng viết thư
cho Hai Long, nói công việc đã xong, phái đoàn sắp trở về, và theo những nguồn
tin đáng tin cậy ở Nhà Trắng, Johnson sắp ra lệnh ngừng ném bom và pháo kích
trên phần còn lại của Bắc Việt Nam, cuộc hòa đàm ở Paris sẽ bắt đầu với sự có
mặt của Mặt trận Giải phóng dù Việt Nam cộng hòa không tham dự.
Dương Văn
Hiếu và Tá Đen đã bị bắt lại trong đợt vừa qua. Hai Long biết đây là một đòn
nặng giáng vào CIA. Chúng sẽ có phản ứng. Tú Uyên chắc cũng biết trong việc này
có bàn tay của anh. Nếu chị là người của bên kia thì anh đã tự tố cáo mình.
Nhưng qua thái độ và hành động của chị, Hai Long tin chị không phải là người
xấu. Chị vẫn chưa tìm cách liên lạc lại với anh. Luật sư Tường đón đường ở nơi
ăn sáng gặp lại anh. Tường ngỏ ý muốn kiếm một ghế trong bộ Xây dựng nông thôn.
Tường cho rằng đó là nơi kiếm ăn được sau khi Mỹ rút quân về nước. Hai Long
khuyên Tường kiên nhẫn chờ đợi một thời gian, khi có cơ hội, chắc chắn anh sẽ
không quên. Tường không gặng mời anh tới nhà. Có lẽ Tường sợ Tú Uyên cản trở kế
hoạch của mình.
Hai Long một mặt lấy Mỹ hù dọa Thiệu, đẩy y tới cuộc hòa đàm
Paris, một
mặt lại phải lên gân cho Thiệu chống lại CIA đang đe dọa an toàn của
mình.
- Ông già Bunker vừa gọi điện thoại cho tôi...
Hai Long biết
Thiệu mong đợi cú điện thoại này cả tuần nay. Nhưng không hiểu sao, Thiệu có vẻ
hốt hoảng.
Anh nói đưa đà:
- Chả lẽ im lặng được mãi!
- Ông già khuyến
cáo tôi giữ bình tĩnh trước mọi luận điệu xuyên tạc, đầu độc tình hữu nghị Mỹ -
Việt... Lời lẽ thiệt khó hiểu! Sao khi không ổng lại nói như vậy?
- Phù thủy
định làm pháp thuật gì? - Hai Long dằn giọng.
- Anh nghĩ coi hắn tính chuyện
chi?
- Chắc Mỹ quyết định làm một việc gì đó mà họ biết là ta sẽ phản ứng
mạnh.
- Đề nghị anh tối nay ở lại dinh với tôi...
Lúc 6 giờ chiều, khi
nhân viên Phủ tổng thống đã ra về hết, Thiệu lại tới, mặt tối sầm.
- Bunker
vừa báo cho tôi, tối nay, ổng và phó đại sứ Berger sẽ vào dinh hội kiến cùng với
cả tôi và phó tổng thống Kỳ! Lành dữ sao đây?
Hai Long làm vẻ mặt lo âu.
-
Tôi không nuốt nổi cơm. Tôi đã bảo bà Sáu nấu súp, mời anh cùng ăn với tụi tôi.
Đêm nay, anh phải ở lại đây.
Tại phòng ăn, vợ Thiệu đã ngồi chờ với đĩa
xà-lát màu sắc tươi ngon hấp dẫn. Chị ta thích tự tay săn sóc bữa ăn của chồng.
Vợ Thiệu đứng lên, vào bếp bưng súp ra. Biết chồng đang lúc không vui, chị ta
ngồi vào bàn, tiếp thức ăn, dỗ chồng ăn ngon miệng. Vợ Thiệu hơi gầy, nói năng
dịu dàng, có dáng dấp của một phụ nữ tỉnh lẻ thuộc gia đình nền nếp. Thiệu quý
và mê vợ là do sự săn sóc, chiều chuộng kiểu này.
Thiệu lầm lỳ ngồi ăn.
Vợ
Thiệu ngọt ngào nói với Hai Long:
- Ông giáo với các cha đưa chồng em ra làm
việc nước, việc Chúa, lúc khó khăn, ông giáo chớ để ảnh một mình tội nghiệp.
- Chúng tôi đã có giao ước với nhau rồi, càng gặp lúc hoạn nạn, càng gắn bó
với nhau hơn.
Vợ Thiệu thở dài:
- Khi chưa được thì ước ao, nhưng lúc
ngồi vô rồi thì mới thấy đâu có sung sướng nỗi gì! Vừa tròn một năm, đầu nằm
chết hụt, cuối năm tính mạng lại treo đầu sợi tóc.
Vợ Thiệu ham làm giàu, ăn
hối lộ, chạy áp phe kiếm nhiều tiền để đề phòng khi chồng sa cơ thất thế, nhưng
không đài các, kênh kiệu, đôi khi lại ruột để ngoài da, vô tình nói toạc móng
heo những điều Thiệu muốn giấu nhẹm để giữ thể diện.
Vợ Thiệu tiếp tục nói:
- Dường như mọi chuyện năm nào cũng xảy ra vào tháng 10, 11. Những cuộc đảo
chánh đều vào tháng 10. Ông Diệm, ông Nhu một lần chết hụt, một lần chết thiệt,
đều vào tháng 11! Em rất sợ cái ngày 31 tháng 10. Ngày 31 tháng 10 năm 63 là
ngày các tướng họp ở bộ Tổng tham mưu quyết định đảo chánh. 31 tháng 10 năm
ngoái, ông Thiệu làm lễ nhậm chức. 31 tháng 10 năm nay, ngồi đây chờ tai họa...
Mảnh đất phủ toàn quyền này dữ thiệt! Chưa có quốc trưởng nào bền. Vô ngồi đây
là phải tính tới lúc ra đi rồi. Ngày mốt là ngày giỗ ông Diệm, ông Nhu. Hai ổng
mất đúng vào ngày lễ Các thánh, mà cũng là ngày lễ cầu hồn cho những kẻ qua đời.
Đúng ngày Fête des Morts phải không ông giáo? Cứ nghĩ tới đó là em muốn
xỉu.
Thiệu ngồi nghe vợ nói, mắt đỏ lên. Y tìm cách trấn an cho vợ và cả cho
mình:
- Tháng 10 thường là tháng dữ. Bão táp cũng từ phía Bắc chuyển vô Nam.
Với tôi, tháng này là tháng sóng gió nhất! Còn vài giờ nữa, mong cho chóng qua
đi?
Vợ Thiệu nói:
- Ông Diệm chết ngày 2 tháng 11 chớ đâu phải tháng
10?
- Nhưng đảo chánh là trưa ngày 31 tháng 10.
- Lỡ đêm nay hắn làm thì
sao?
- Vậy mới mong chóng qua đêm nay.
Hai Long an ủi:
- Cụ Nguyễn Du
đã nói: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!”. Anh chị đừng quá lo. Chung
quanh anh Thiệu còn có giáo hội Việt Nam, giáo hội Mỹ. Già Bunker chưa chắc làm
gì nổi ta!
Vợ Thiệu năn nỉ:
- Ông giáo chớ bỏ rơi anh Thiệu nghen!
-
Chúng tôi sẽ mãi mãi đồng hành bên nhau.
Thiệu được đà nói tiếp:
- Anh
giáo nói đúng đó, bà chớ có lo! Anh giáo là bất khả xâm phạm. Bà chỉ hiểu về
chúng tôi một phần thôi. Từ lâu anh giáo, các cha và tôi đã cố kết với nhau nên
mới dựng nên cơ nghiệp ngày nay. Anh giáo với tôi là đồng tâm, đồng hội, đồng
thuyền, không bao giờ có chuyện xa lìa nhau. Cũng như bà với tôi như chim liền
cánh, như cây liền cành, bà giận tôi, bỏ đi chu du thiên hạ mấy tháng trời, rồi
bà lại về vì nhớ thương tôi, chớ bà có bỏ rơi tôi đâu!
Vợ chồng Thiệu đều
mỉm cười. Cái vui gượng gạo trong lúc tâm trạng đang rối bời.
Thiệu làm ra vẻ
hăng hái, lại nói:
- Bà khỏi lo. Còn anh giáo thì còn tôi. Anh giáo với các
cha biểu tôi lên thì tôi lên, biểu ở thì ở, biểu đi thì đi ngay.
- Tổng thống
cam kết với tôi? - Hai Long nói.
- Parole d'honneur![1]
Hai Long đưa ngón
tay trỏ về phía Thiệu. Thiệu lập tức cũng đưa ngón tay trỏ của mình ra ngoắc
chặt.
Anh nhớ tới một trò tương tự đã diễn ra giữa mình với Cẩn ở đất Phú Cam
cách đây đã lâu.
3.
4.
Ngày 18-10-1968, quân đội được đặt trong
tình trạng báo động. Nhiều biện pháp tăng cường phòng thủ áp dụng tại Sài Gòn.
Những đội pháo phòng không được bố trí trên nóc và chung quanh dinh Độc Lập.
Nhiều người nhốn nháo tưởng lại sắp có một đợt Tổng tiến công lần thứ ba vào Sài
Gòn.
---
[1] đa số của
những thiểu số
Chương 5
MỘT ĐÊM Ở PHỦ ĐẦU
RỒNG
1.
Thiệu lúc nào
cũng bồn chồn, cảm thấy như có tai biến sắp tới với mình.
Anh lo lắng nói với Thiệu:
- Dư luận đảo chính hoàn toàn bị dập
tắt. Mình đã gỡ một số ngòi nổ, nhưng Bunker và CIA vẫn hết sức nguy hiểm, không
thể không cảnh giác được! Không riêng anh, mà cá nhân tôi cũng trở thành một trở
ngại cho họ. Vì họ hiểu muốn gây khó khăn cho anh thì trước hết phải triệt hạ
tôi. Tôi đã biết chắc chắn trong chiến dịch bôi nhọ tôi có bàn tay của CIA. Rồi
đây, không biết họ còn mưu tính triệt hạ tôi bằng cách nào. Chỉ còn thiếu điều
vu cho tôi là Việt Cộng nữa mà thôi! Chuyện này chắc họ cũng không từ, vì trước
đây họ đã từng vu cho ông Nhu đi theo Việt Cộng!
Thiệu có người chia sẻ lo
âu với mình, tuôn ra những lời tâm huyết:
- Anh là người đã góp phần tạo dựng
nên tôi. Người khác giúp tôi một thì họ bắt tôi trả công mười. Riêng anh có nhận
cái chi? Lẽ nào anh đã tạo dựng, đã bảo vệ tôi, mà tôi không biết ơn, không hết
lòng bảo vệ anh? Tôi có sơ xuất là chỉ lo cho mình mà chưa lo cho anh. Vì tôi
nghĩ anh là con người thánh thiện, không dính tới danh lợi, nên không có thù
địch. Nghe anh nói, tôi đâm lo. Đúng là chúng muốn diệt tôi thì trước hết phải
chặt cánh tay mặt của tôi! Từ nay anh đi về khuya, nhất thiết phải dùng xe hộ
tống. Anh chọn ngay một sĩ quan cận vệ, lấy người trong dinh hoặc người của Phát
Diệm. Anh đi đâu, phải có vệ sĩ đi theo.
- Tôi đã phó thác cà hồn xác nơi
Chúa. Nếu có xảy ra điều gì cũng do Chúa. Tôi vẫn sống theo kiểu người tu hành,
bây giờ lại có một sĩ quan đi theo bảo vệ, e khó tránh những lời đàm tiếu, không
thuận cho công việc đang làm. Tôi thường không đi đâu ngoài Tòa Khâm sứ, tòa
Tổng giám mục và một số nhà thờ. Ở những nơi đó, đã có giáo dân che chở.
Hai
Long khước từ được người bảo vệ, nhưng từ đó, mỗi lần anh về khuya, Thiệu đều
bắt dùng xe mô tô Harley đi hộ tống. Anh không tiện từ chối sự gắn bó của Thiệu
đối với mình. Nhưng việc này gây cho anh phiền toái. Không thể đưa đoàn xe
Harley tới căn nhà nghèo nàn của anh ở đường Thị Nghè. Hai Long đành phải bảo
đưa anh tới nhà thờ Phát Diệm hoặc nhà thờ Tân Định. Từ đấy, Hòe lại dùng xe máy
đưa anh về nhà.
Chiều 30 tháng 10, O’Connor tìm Hai Long. Ông linh mục cho
biết người bạn của mình mới từ Washington sang, nói nay mai Johnson sẽ tuyên bố
ngừng oanh tạc, oanh kích toàn miền Bắc, và mời Mặt trận Giải phóng tới dự cuộc
hòa đàm Paris. O’Connor dặn kỹ Hai Long không tiết lộ tin này ra ngoài. Như vậy,
những điều Trọng thông báo cho anh trước dó đột tuần là chính
xác.
2.
Chiều 31 tháng 10, Thiệu bước vào phòng Hai Long, nét mặt hớt
hải, y nói:
- Xin chào tổng
thống và ông cố vấn.
- Xin chào phó tổng thống. - Thiệu và Hai Long cùng
đáp.
- Có chuyện chi mà “thái thú”[2] triệu tập anh em mình vào lúc đêm hôm
nay? Phải vắng canh mạt chược!
- Nào biết chuyện chi? Ông già chỉ biểu xin
gặp cả anh và tôi tối nay. Ông sẽ cùng tới với Berger.
- Hẹn mấy giờ?
-
Không nói giờ giấc chi, chỉ hẹn buổi tối.
Kỳ lẳng lặng ngồi xuống ghế.
Vợ
Thiệu ở buồng trong đã nghe tiếng ba người nói chuyện, tự tay bưng ra ba ly cà
phê, nghiêng đầu tươi cười chào Kỳ.
Kỳ nói:
- Vắng chị, anh Thiệu ở nhà
mong nhớ võ vàng. Chị đi Tây du mấy tháng về, đẹp như bà hoàng hậu. Mà đúng là
hoàng hậu rồi, mình ví von chi vô duyên!
Vợ Thiệu đối đáp ngay:
- Ai nói
chi sắc dẹp của bà già! Hoa hậu là chị Mai, phu nhân của phó tổng thống Kỳ
kia.
Vợ Kỳ ngày còn làm trong Hàng không Việt Nam đã được gọi là “Hoa hậu
chiêu đãi viên”.
Thiệu, Kỳ và Hai Long ngồi tán chuyện phiếm chờ Bunker. Cứ
cách một lúc, vợ Thiệu lại bưng ra, lúc thì chè, lúc thì kem, lúc thì trái
cây.
Nhìn đồng hồ đã gần 10 giờ đêm, Kỳ bỗng hỏi Hai Long:
- Ông cố vấn
thử đoán xem, theo cung cách này thì sẽ có chuyện chi?
Kỳ vốn coi tất cả
những người hợp tác với Thiệu đểu là đối thủ của mình, nhưng với Hai Long, y vẫn
giữ hòa khí. Cha Lãm vẫn ở bên Kỳ. Cả Thiệu và Kỳ cùng trố mắt nhìn Hai
Long.
- Theo tôi thì đây là vấn đề có liên quan đến việc ngừng oanh tạc Bắc
Việt và cuộc hòa đàm ở Ba Lê[3].
Kỳ lại hỏi:
- Liệu ta có phải tử thủ như
Diệm, Nhu hồi tháng 11 năm 1960 không?
- Tôi nghĩ có thể chưa xảy ra chuyện
đó.
- Anh mới nói là “có thể”?
- Đối với người Mỹ, tôi đã có kinh nghiệm
nên dùng chữ “có thể” để không bị bất ngờ. Nếu cần rõ hơn, tôi xin nói lại,
chuyện đó ít có khả năng xảy ra lúc này.
- Tại sao hẹn buổi tối mà tận giờ
chưa thấy mặt.
Hai Long nhún vai không đáp.
Đã 23 giờ 30. Vợ Thiệu lại
bưng súp ra lần thứ hai. Từ chập tối, chị đã 2 lần nhỏ thuốc đau mắt cho
chồng.
Ba người đang ăn súp thì tiếng chuông điện thoại réo. Thiệu, Kỳ đều
buông muỗng, quay mặt về phía máy điện thoại, mắt bừng sáng. Thiệu bảo vợ:
-
Bà nghe xem ai hỏi gì.
Vợ Thiệu lại nhấc ống nghe.
Thiệu muốn giữ thế,
không để Bunker thấy tới giờ này mình vẫn ngồi chờ chực bên máy điện thoại. Tất
cả những cặp mắt đều chăm chú nhìn vẻ mặt vợ Thiệu và cái ống nghe.
Bộ mặt
đang căng thẳng của chị ta trở thành tươi cười:
- Dạ... Dạ... Thưa cha, ông
giáo đang ở đây... Con xin chuyển máy cho ông giáo... Kính chào cha.
Vợ Thiệu
quay về phía Hai Long:
- Cha Nhuận muốn nói chuyện với ông giáo.
Hai Long
nghe tiếng cha Nhuận ở đầu dây:
- Tình hình có được bằng an không thầy?
- Dạ, tới lúc này vẫn chưa có chuyện chi.
- Thầy vẫn ngồi với tổng thống
đó ư?
- Dạ. Có thêm cả phó tổng thống Kỳ.
- Cầu Chúa phù hộ cho tổng
thống, phó tổng thống và thầy bằng an. Sáng mai tôi sẽ vào dinh làm lễ.
Sự
thăm hỏi của cha Nhuận giữa đêm hôm khuya khoắt càng làm cho Thiệu và Kỳ lo
lắng. Thiệu kể lại với Kỳ thái độ lạnh nhạt của Bunker từ cách đây nửa tháng,
rồi suốt một tuần Bunker không tới dinh Độc Lập, những câu nhắn nhủ khó hiểu
chiều nay, tiếp đến sự hẹn hò này. Lần đầu, Thiệu tâm sự cởi mở với Kỳ về thái
độ của quan thầy Mỹ đối với mình.
Kỳ hỏi:
- Anh đã cho tiến hành những
biện pháp an ninh rồi chớ?
- Đã cho báo động quân lính bảo vệ dinh và cho
lệnh các bộ phận phải cử người trực máy suốt đêm chờ lệnh.
- Cả hai lần Việt
Cộng tổng tiếu công, đến lúc rốc-két nã vào đầu mình mới biết! Quân Mỹ thì ngồi
yên coi hai hổ đấu nhau!
Thiệu và Kỳ đều không cởi áo ngoài ngồi ủ rũ, rồi
thay nhau ngủ gục. Vợ Thiệu hết đi ra lại đi vào, hỏi ba người có thích dùng
thêm thứ gì. Tất cả đều lắc đầu. Trên bàn còn đầy những bánh trái mà không ai
đụng tới. Thiệu đã mấy lần giục vợ đi ngủ. Chị ta hãm một ấm sâm để ba người
cùng uống cho đỡ mệt, rồi đi về phòng mình.
Thiệu hỏi Hai Long:
- Làm
chi bây giờ anh giáo?
- Họ đã cầm quân cờ rồi, hãy chờ họ đi nước đầu. Mình
chỉ có thể tính trước mọi thế cờ, nhưng chưa thể đi nếu chưa đến lượt.
Anh
cần tỏ ra mình vững vàng. Nhưng anh cũng không hiểu vì sao Bunker chưa tới và
không báo lại.
Kỳ tựa đâu vào ghế xa-lông thiu thiu ngủ. Thiệu ngồi khoanh
tay trước ngực, đôi mắt lim dim, nhưng chốc chốc lại mở ra liếc nhìn đồng
hồ.
Lại có tiếng chuông điện thoại.
Hai Long đứng lên, lại bàn cầm máy.
Đầu dây đằng kia là tiếng một phụ nữ, giọng lo lắng:
- Tôi ở nhà ông Kỳ tại
Tân Sơn Nhứt. Cảm phiền ông cho hỏi, ông Kỳ có ở đó không?
- Xin chào chị
Mai. Tôi là Hai Nhã đây... Anh Kỳ vừa chợp mắt xong.
- Dạ...
- Chị yên
tâm. Sáng mai anh sẽ về.
Đầu dây có một tiếng động mạnh. Rồi im lặng. Vợ Kỳ
đánh rớt máy. Chắc chị tưởng có một tai ương đã tới với
chồng.
Nguyễn Cao Kỳ từ ngoài lững thững đi vào với nụ
cười ruồi. Kỳ mặc sắc phục không quân màu trắng, đeo lon cấp tướng. Bộ mặt đen
sạm với cái nhìn tinh quái của Kỳ không giấu được vẻ lo âu.
Hai Long gợi
ý nên nghe bản tin buổi sáng của đài BBC.
- Tôi tin rằng chính phủ Mỹ đã có
một quyết định gì mới liên quan tới chiến tranh Việt Nam. Ta hãy thử xem.
Thiệu gọi viên sĩ quan nội thất. Y tròn mắt nhìn cả tổng thống và phó tổng
thống đều quân phục chỉnh tề, không biết đã ngồi đó tự lúc nào, vẻ mặt lộ ra hết
sức mệt mỏi.
Thiệu nói:
- Đưa ra-đi-ô lại đây, lấy làn sóng đài BBC để
đó, rồi ra ngoài.
Tiếng nhạc hiệu nổi lên. Cả ba người đều chăm chú lắng nghe
tới mức căng thẳng khi buổi phát thanh tiếng Việt của đài BBC bắt đầu. Ngay từ
câu mở đầu tóm tắt những tin tức chính, Thiệu và Kỳ đã biết số phận mình gắn với
bản tin sáng nay. Johnson tuyên bố ngừng tất cả những cuộc oanh tạc và pháo kích
trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cuộc hòa đàm nghiêm chỉnh sẽ
được bắt đầu tại Ba Lê ngày 6 tháng 11, với sự tham dự của Mặt trận Giải phóng
miền Nam, chính phử Việt Nam cộng hòa có thể tham dự. Lệnh ngừng oanh tạc và
pháo kích có hiệu lực kể từ 8 giờ sáng, tức 13 giờ, giờ quốc tế, hoặc 21 giờ địa
phương ngày 1-11-1968.
Thiệu hốc hác qua một đêm thức trắng, vừa ngồi nghe
vừa thở phì phì. Bản tin chấm dứt, Thiệu vùng đứng dậy, mặt đỏ tía tai, nói lạc
cả giọng:
- Nó đơn phương ngừng oanh tạc Bắc Việt, nó mời Việt Cộng tham dự
hội đàm Ba Lê mà không thèm hỏi ý kiến hay thông báo cho mình biết trước! Không
franc jeu[4] chút nào! Xấu chơi quá! Chịu không nổi! Mình là tổng thống, là phó
tổng thống một nước đồng minh mà cũng ngồi nghe ra-đi-ô chờ tin như dân chúng.
“Cuộc hội đàm nghiêm chỉnh... Mặt trận Giải phóng sẽ tham dự... Chính phủ Việt
Nam cộng hòa có thể th-a-am d-ư-ự! (Thiệu nhấn mạnh và kéo dài giọng) Nó còn coi
mình, coi đồng minh chiến đấu ra cái quái gì...
Thiệu lồng lộn đi vòng quanh
trong phòng, như con trâu bắt cột vào cọc, muốn thoát ra mà không thoát
được.
Thiệu dừng lại, nắm lấy thành ghế xa-lông, xô tới xô lui vừa thở phì
phì.
- Nó coi mình như con bẹc-giê! - Thiệu trỏ ngón tay vào góc phòng làm bộ
suỵt chó - Ê, ê..., ngồi kia! Ê, ê..., lại đây!
Tiếng Thiệu rít lại. Người
Thiệu mỏi mệt xỉu đi. Thiệu vội dựa vào thành ghế, nền nhà trơn, cái ghế trôi
tuột đụng vào chiếc bàn. Ba ly cà phê vợ Thiệu vừa đưa ra rớt xuống sàn nhà bể
nát. Nước cà phê đen đặc lênh láng trên mặt thảm.
Vợ Thiệu hốt hoảng từ phòng
trong chạy ra. Thiệu vừa đứng thở vừa hậm hực:
- Nguyễn Hữu Thọ bận quần xà
lỏn, trốn chui trốn lủi trong rừng thì được nó kiêng nể, trọng vọng, đặt ngồi
ngang hàng. Mình là quốc gia đồng minh, trên 50 nước công nhận, ngồi giữa thủ
đô, thì nó bảo là “có thể tham dự...”.
Vợ Thiệu đã thu lượm nhưng mảnh ly bể,
đưa ra ba ly cà phê mới chế, khéo léo nhắc chừng:
- Ông mời khách dùng cà
phê đi, hai ổng thắc trắng đêm qua rồi. Cha đã hẹn tới, vì ngày hôm nay là Lễ
Chư Thánh.
Thiệu đã nguôi cơn giận, nét mặt có phần dịu lại. Ba người ngồi
vào bàn.
Vừa nhấm nháp ly cà phê, Hai Long vừa nói:
- Mỹ xấu, Mỹ trịch
thượng hay chơi trò nước lớn thì ai cũng biết. Nhưng những vấn đề Mỹ công bố
sáng nay, với ta không phải là bất ngờ. Bunker và Berger đã gần hai chục lần gặp
tổng thống để trao đổi. Báo chí, các đài phát thanh làm rùm beng cả tháng nay.
Các cha cố Mỹ cũng nói với tôi, sớm muộn Johnson cũng phải tuyên bố ngừng oanh
tạc Bắc Việt để phá vỡ bế tắc, bước vào cuộc hòa đàm Paris. Họ nói Mỹ có cái khó
thực sự của Mỹ. Vì ta nhất mực khước từ hòa đàm, nhất mực phản đối việc ngừng
oanh kích, nên Mỹ phải đơn phương công bố những quyết định của mình. Mỹ nói Việt
Nam cộng hòa có thể tham dự hòa đàm, là do hoàn cảnh của Mỹ không dược phép nói
khác. Vì Việt Nam cộng hòa chưa chấp nhận hòa đàm sau nhiều lần Mỹ đề nghị. Điều
này ta cũng nên thể tình cho Mỹ, vì Mỹ ở vào thế kẹt. Ta cần phải thấy là qua
bản tuyên bố sáng nay của tổng thống Mỹ, một thực tế mới đang đặt ra: Trước đây
chỉ có Bắc Việt ngồi với Mỹ ở Paris. Bây giờ lại có thêm Việt Cộng cùng ngồi với
Mỹ! Một mình Harriman[5] sẽ phải đối phó với hai bộ óc khôn ngoan để quyết định
số phận của ta. Trong khi chính ta là người chủ, thì lại không có tiếng nói.
Trước đây, Việt Cộng ở trong rừng, có gào to lên cũng chẳng ai nghe. Nhưng bây
giờ Việt Cộng có mặt tại Paris, từng câu nói của Việt Cộng chỉ một vài giờ sau
sẽ bay đi khắp toàn thế giới. Vấn đề đặt ra là Mỹ đã cởi bỏ bộ đồ lớn khoác
ngoài đi rồi, nó cũng bận quần xà lỏn để ngồi nói chuyện với Việt Cộng. Mỹ dám
làm như vậy, ta có dám làm không?
Kỳ ngồi nghe, mắt lim dim nhìn Hai Long.
Những cuộc tiếp xúc giữa Thiệu với Tòa dại sứ Mỹ suốt thời gian qua, Kỳ không
được dự. Hai Long vạch ra những cái bất lợi trong việc làm của Thiệu, nhưng
Thiệu vẫn ngồi im.
Kỳ hơi nhếch mép cười:
- Mỹ mời Việt Cộng tới Paris là
Mỹ xấu mặt chớ mình có xấu mặt đâu! Việt Cộng tới Paris trước là chiếm được thế
thượng phong!
Trung tá Hoàn từ lầu thượng xuống báo cáo cha Nhuận đã tới,
mời vợ chồng Thiệu chuẩn bị lên nhà nguyện dự lễ.
Kỳ đứng lên cáo từ trở về
nơi làm việc. Hai Long cũng về phòng mình thay quần áo cùng lên dự lễ.
Kỳ
bước chầm chậm chờ Hai Long đi theo kịp mình ở hành lang. Y ngả đầu vào vai anh
nói:
- Sáu Thiệu sáng nay mần tuồng dở ẹc! Vừa borné[6] vừa hăng máu vịt.
Mất điểm nặng với Việt Cộng rồi. “Moi” chịu “toi” đó!
Kỳ nháy mắt mỉm cười
với Hai Long, khẽ gật đầu rồi rảo bước.
[2] Chỉ đại sứ Bunker
[3] phiên âm của Paris.
[4]
thẳng thắn
[5] Averell Harriman: trưởng phái đoản đàm phán Mỹ tại
Paris.
[6] thiển cận
Hai Long bàn với Trọng những gì nên phúc trình với Thiệu nhằm
thúc đẩy Thiệu nhanh chóng chấp nhận ngồi vào cuộc hòa đàm Paris.
Buổi chiều,
anh được tin, sáng nay Thiệu đã triệu tập hai viện của quốc hội, thông báo về
quyết định Mỹ đơn phương ngừng ném bom và pháo kích Bắc Việt, và yêu cầu Việt
Nam cộng hòa phải tham dự cuộc hòa đàm Paris. Buổi trưa, gần 150 nghị sĩ, dân
biểu vác cờ đi bộ từ hội trường Diên Hồng tới dinh Độc Lập, xin hội kiến với
Thiệu để bày tỏ sự phẫn nộ trước những quyết định đơn phương của Mỹ. Anh nhận
thấy mình đã có sự phán đoán chủ quan. Thiệu ngoan cố và lỳ lợm hơn anh đã
tưởng. Thiệu không phản đối những lời phân tích hơn thiệt của anh, nhưng sau đó
y đã làm theo ý của mình. Anh định hôm sau sẽ vào gặp Thiệu. Cha Nhuận từ trong
dinh về, chuyển lời Thiệu mời anh sáng mai thế nào cũng tới sớm để hội
kiến.
Sáng mồng 3, Hai Long vừa tới nơi làm việc, thì Thiệu sục vào.
- Tôi
mời anh vô sáng nay, vì 9 giờ phái đoàn Bernard Trọng sẽ tới báo cáo. Anh cùng
nghe với tôi. Giờ có mấy chuyện phải bàn gấp với anh.
- Cả ngày qua, tôi phải
làm việc với các cha. Cũng định sớm nay vào gặp anh.
- Anh lên phòng làm việc
riêng của tôi, ta cùng trao đổi.
Tới phòng làm việc của Thiệu, y không hỏi
thăm tin tức như mọi lần, vào chuyện ngay.
- Tôi phải kể lại anh nghe về cuộc
gặp gỡ Bunker. Ông già rất trắng trợn, không phân bua, giải thích về hành động
của Mỹ như mình chờ đợi, mà nói thẳng thừng: “Việt Nam cộng hòa cần phải ngồi
vào bàn thương lượng với Mặt trận Giải phóng, vì Washington và Hà Nội đã thỏa
thuận với nhau như vậy. Mặt trận Giải phóng đã đáp ứng ngay lời mời của Mỹ,
thành lập xong phái đoàn để sang Paris. Còn về phía Việt Nam cộng hòa thì tuy
tổng thống Johnson nói là “có thể tham dự”, đó là theo phép ngoại giao, còn Việt
Nam cộng hòa về quyền lợi của mình, “có bổn phận phải tham dự”! Đó, anh xem...
lão già còn nói, nếu mình không nhận lời thì Mỹ vẫn cứ tiến hành hội dàm, và sẽ
thành hội nghị tay ba! Tôi không chịu nổi, nhưng cố bấm bụng trả lời lão già,
Việt Nam cộng hòa không chống nói chuyện với Mặt trận Giải phóng, nhưng không
tham dự cuộc họp ngày 6 tháng 11 như như tổng thống Mỹ đã quyết định, vì không
thể nào chuẩn bị kịp người đi dự. Lão bảo tôi: “Vấn đề thừa nhận Mặt trận Giải
phóng, vấn đề liên hiệp với Cộng sản thì Mỹ không ép buộc phải có ý kiến ngay,
nhưng riêng việc tới dự hòa đàm Paris thì tổng thống Mỹ đã tuyên bố rồi, Việt
Nam cộng hòa cũng phải tuyên bố chấp nhận nói chuyện với Mặt trận Giải phóng!”.
Tôi làm thinh không trả lời. Lão già tức giận bỏ ra về.
Hai Long lẩm
bẩm:
- Tình hình này ta cũng đã dự kiến. Bunker phải thực hiện bằng được sứ
mạng Johnson đã trao.
Thiệu giận dữ:
- Nó coi mình là bẹc-giê chứ không
phải nguyên thủ một quốc gia đồng minh!... Sáng hôm qua, tôi đã triệu tập lưỡng
viện quốc hội tại hội trường Diên Hồng. Tôi chính thức loan báo những quyết định
đơn phương và những đòi hỏi của Mỹ đối với Việt Nam cộng hòa. Tôi đã tuyên bố là
Việt Nam cộng hòa không nhìn nhận Mặt trận Giải phóng miền Nam, không chấp nhận
giải pháp liên hiệp với Cộng sản, không tham gia cuộc họp 4 bên ngày 6 tháng 11
tại Paris, vì chưa có tiếp xúc trực tiếp với Bắc Việt. Việt Nam cộng hòa chỉ có
thể nói chuyện nghiêm chỉnh với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng trước
hết Bắc Việt phải xuống thang chiến tranh! Tất cả các nghị sĩ, dân biểu, không
trừ một ai, đều nhiệt liệt tán thưởng lời tuyên bố của tôi...
Thiệu chằm chằm
nhìn Hai Long chờ đợi một lời tán thưởng hoặc phụ họa, nhưng anh ngồi im, trầm
ngâm.
Y lại nói:
- Giữa lúc mình tuyên bố như vậy thì Mỹ loan tin rút
chiến hạm New Jersey khỏi vịnh Bắc Bộ, các hàng không mẫu hạm khác của Mỹ ở
ngoài khơi, cũng đang kéo cả về phía Nam!... Ngày hôm qua, hàng trăm nghị sĩ,
dân biểu kéo từ hội trường Diên Hồng về đây tỏ thái độ phản đối Mỹ. Khối độc lập
hạ nghị viện cũng ra thông cáo lên án các quyết định đơn phương của Mỹ, và kiến
nghị ủng hộ lập trường của tôi. Ngày hôm nay, họ sẽ kết hợp với lực lượng Công
giáo đại đoàn kết của thượng nghị sĩ Nguyễn Gia Hiến xuống đường tuần hành chống
quyết định đơn phương của Mỹ.
- Phản ứng của Bunker thế nào? - Hai Long
hỏi.
- Từ chiều qua, Bunker bắt đầu hoảng, liên tiếp gọi điện thoại cho tôi,
hỏi tại sao lại để xảy ra những hành động chống Mỹ như vậy?... Tôi trả lời,
những việc này xảy ra ngoài dự kiến, chính quyền sẽ có biện pháp chấm dứt...
Mình cũng phải làm cho nó biết mặt!
Thấy Hai Long lại im lặng, không tỏ thái
độ, Thiệu gặng hỏi:
- Làm như vậy, anh coi được không?
Hai Long tỏ ra
ngập ngừng một lát, rồi nói với vẻ dứt khoát:
- Tôi thấy cần phải tính lại.
Chống lại ý định của Mỹ lúc này chính là chống Johnson. Johnson còn đầy đủ quyền
lực vài tháng nữa. Trước đây, ta đã chống, nó vẫn cứ làm. Giờ ta tiếp tục chống,
chắc nó cũng chẳng lui! Nhiều nghị sĩ, dân biểu hưởng ứng lời tuyên bố của anh,
vì họ thấy họ chẳng mất gì. Họ biết họ càng chọc tức Mỹ bao nhiêu, thì càng
nhiều sóng gió đổ vào đầu tổng thống. Tôi nghĩ, không thiếu gì kẻ đã tính toán
làm cho anh mất sự ủng hộ của Mỹ, để có lợi cho những mưu đồ riêng tư của họ.
Thời ông Diệm, ông Nhu chống Mỹ, lúc đầu biết bao kẻ hò hét chạy theo các ổng!
Nhưng khi Mỹ quyết định hạ các ổng, thì chung quanh hỏi còn ai? Giáo hội trao
cho tôi nhiệm vụ phò trợ anh, tôi không thể để bị cuốn theo những tình cảm nhất
thời, mà phải tính mọi mặt liên quan tới sự an nguy lâu dài của anh. Ông Diệm,
ông Nhu có 10 năm chuẩn bị thế lực, vây cánh, khi đó Mỹ chưa có quân ở Nam Việt,
chỉ cần mấy tên CIA, Mỹ vẫn có thể làm bay cả chế độ trong vài giờ! Tôi nghĩ,
trong những điều kiện hiện nay, Mỹ không thể nào chịu thua ta. Nó không những dư
sức lật đổ tổng thống mà còn dư sức đánh sụp cả quốc hội!
Hai Long ngừng nói
vì có viên sĩ quan nội thất đi vào.
Viên sĩ quan báo cáo:
- Trình tổng
thống! Ông phụ tá đặc biệt Huỳnh Văn Trọng đã tới theo hẹn của tổng
thống.
Hai Long nói:
- Có lẽ ta nghe Bernard Trọng báo cáo tình hình xong
rồi sẽ trao đổi tiếp.
Thiệu ngần ngừ rồi bảo viên sĩ quan:
- Mời
ông Trọng và phái đoàn lên.
3.
4.
Thiệu, Kỳ và Hai Long đã qua một đêm trắng.
---
[1]
Lời nói danh dự!
Chương 6
KỲ ĐI PARIS
1.
Giọng
khàn khàn, đều đều của cha Nhuận đứng trên bục lễ giảng kinh vang lên trong nhà
nguyện tôn nghiêm, đèn sáng trưng.
Thiệu ngước cặp mắt sùng kính nhìn hình
hài chúa Jésus bị đóng đinh trên cây thập tự giá, đứng lên, quỳ xuống, gục đầu,
làm dấu thánh theo trình tự của Thánh lễ. Buổi lễ kết thúc với lời cha Nhuận cảm
ơn Chúa đã và sẽ che chở cho Thiệu được bình an hôm qua, hôm nay và ngày
mai.
Vừa xong lễ, Thiệu để Kiểu ở lại nhà nguyện với cha Nhuận, bá vai Hai
Long đi một vòng hành lang.
Thiệu hỏi:
- Mỹ có để tôi yên không?
-
Yên chứ! Trong tình hình này nó làm rối anh thì trước hết là hại cho nó.
Trò
thét lác, rên rỉ, đẩy ghế, xô bàn của y sớm nay nhằm che đậy một tâm trạng vừa
lo cho tương lai, vừa mừng vì chưa có chuyện chi trực tiếp đe dọa tính mệnh và
cái ghế tổng thống của y.
- Nó sẽ làm gì tiếp? - Thiệu lại hỏi.
- Ngừng
oanh tạc, rồi hòa đàm, và bầu cử tổng thống. Bầu cử tổng thống xong sẽ tới bàn
giao giữa hai tổng thống cũ và mới. Johnson còn rất nhiều công việc phải
làm.
- Tại sao nó lại phải chơi mình vụ đêm qua?
- Có lẽ nó ngán phản ứng
của ta, nên định thông báo trước rồi lại thôi. Nó bắt mình phải chờ đợi để không
cho mình kịp phản ứng trước khi sự việc xảy ra.
- Đúng! Rất đúng! - Thiệu vỗ
vai Hai Long ra chiều đắc ý. Y ngại nhất là vấn đề Việt Nam cộng hòa phải ngồi
nói chuyện trực tiếp và ngang hàng với Việt Cộng.
Rồi Thiệu lại than thở:
- Đại Hàn vừa đánh điện hỏi tại sao Việt Nam cộng hòa thỏa thuận với Mỹ
ngừng ném bom Bắc Việt và ngồi vô hội đàm với Mặt trận Giải phóng mà lại không
thông báo trước cho Đại Hàn là một đồng minh đang có quân tham chiến tại Việt
Nam? Họ trách mình xấu chơi!
Trong phòng ăn, mọi người đã ngồi vào bàn, chỉ
còn hai ghế trống dành cho Thiệu và Hai Long. Có mặt cha Nhuận, cha Giác, Hiếu,
Kiểu và vợ Thiệu. Thiệu cảm thấy mình đang ở vào giờ phút cam go, nên đã triệu
tập cả hai anh đang làm đại sứ ở Roma và Đài Bắc về.
Bữa ăn vào 8 giờ sáng,
không ra điểm tâm, không ra bữa chính, khá nhiều món. Vợ Thiệu muốn bồi dưỡng
cho chồng sau một đêm thức trắng đầy lo âu. Phở, giò heo hầm, thịt gà xé phay,
thịt bò tái, giò lụa, chả quế... và rượu vang. Ăn hết tới đâu, vợ Thiệu tiếp tới
đó. Các cha và Hai Long được chị Sáu đặc biệt chú ý, luôn tay tiếp thức ăn đầy
chén.
Thiệu nắm lấy cổ tay vợ, nói với cha Nhuận:
- Đó cha coi, cô ấy cứ
tiếp hoài, tiếp hoài cho anh giáo, có ngó ngàng chi tới con đâu?
Thiệu ngẩng
mặt nhìn vợ:
- Coi bộ bà muốn bỏ rơi tôi sao?
Vợ Thiệu nhỏ nhẹ:
- Bỏ
rơi ông mấy tháng, ông sống tha hồ tự do hạnh phước, còn chưa vừa lòng hay sao?
Có cha với ông giáo, tôi mới chịu quay về để châm cà phê cho ông thức với tôi
trọn đêm qua chớ!
Vợ chồng Thiệu đều như cảm thấy vừa tai qua nạn khỏi. Sự
săn sóc dịu dàng này đã làm cho Thiệu, là một tay vốn hiếu sắc, ham của lạ,
không thể nào rời khỏi vợ.
Trung tả Hoàn xuất hiện trước cửa. Mọi người ngừng
ăn. Viên sĩ quan nói:
- Trình tổng thống, đại sứ Bunker đề nghị đúng 8 giờ
30 xin qua hội kiến với tổng thống.
- Với mình tôi?
- Dạ.
Thiệu xẵng
giọng:
- Trả lời, mời đại sứ vui lòng nán lại tới 9 giờ vì tổng thống mắc
làm Lễ Các Thánh.
Miệng nói vậy, nhưng sau khi viên sĩ quan đi khỏi, Thiệu
vội vã ngừng ăn, kéo Hai Long ra ngoài hành lang.
- Anh tính xem lát nữa lão
già sẽ xoay mình vấn đề gì?
- Vấn đề ngừng oanh tạc coi như việc đã rồi, bây
giờ Bunker sẽ tới giải thích cho qua rồi hối thúc anh chấp nhận hòa đàm với Việt
Cộng.
Thiệu khựng lại hỏi:
- Mình trả lời cách nào đây?
- Mỹ muốn là
trời muốn, ta không trốn thoát khỏi lưới trời!
- Nếu ta không chịu hòa đàm
vô điều kiện với Việt Cộng?
- Sẽ rất khó cho Bunker trong sứ mạng đã nhận
với tổng thống Mỹ, là bảo đảm chiến lược tìm kiếm hòa bình trong danh dự. Nếu ta
kiên quyết chống, Mỹ sẽ có biện pháp đối với ta. Anh đã nghe ý kiến tướng Kỳ
sáng nay. Không phải thiếu người sẵn sàng giơ cả hai tay xin thực hiện chiến
lược hòa bình của Mỹ!
Mặt Thiệu khó đăm đăm:
- Có cách hoãn binh nào
không?
- Johnson không còn thời gian, hoãn binh vào lúc này có nghĩa là
chống lại. Theo tôi, ta cứ chấp nhận đường lối chiến lược của Mỹ, cứ “ô-kê,
ô-kê” cho Bunker khoái cái bụng vì đã làm xong sứ mạng, còn biện pháp thực hiện
thì ta sẽ tính sau, gấp gì? Mình có khối bạn bè ở Mỹ, ta sẽ tham khảo những quan
điểm, ý kiến của họ về vấn đề này. Trong một, hai ngày nữa, Bernard Trọng sẽ có
mặt ở Sài Gòn.
Thiệu vẫn lừng khừng, trung tá Hoàn lại chạy lên báo Bunker đã
tới, đang ngồi đợi ở phòng khách.
- Cứ để nó ngồi đợi cho nó biết thân!
Thiệu thủng thỉnh cùng Hai Long đi xuống phòng khách.
Tới cửa, Thiệu quay
lại:
- Hay là anh vào tiếp Bunker cùng tôi?
- Tôi không nên hiện diện
trong lúc phó tổng thống Kỳ không có mặt.
Viên sĩ quan trực ở phòng khách mở
cửa đón Thiệu vào.
Hai Long thoáng nhìn thấy Bunker ngồi bên trong vừa đứng
dậy.
Hai Long cảm thấy mệt bã người. Anh lấy xe quay về nhà thờ Bình An.
Không thể không gặp cha Hoàng khi có một biến cố quan trọng thế này. Ít lâu nay,
vì bận nhiều việc ở dinh Độc Lập, nên quan hệ giữa anh với ông cũng có phần xao
lãng. Anh cũng muốn gặp những cha cố Mỹ tại đây nắm thêm tình hình.
Sau đó,
cần phải ngủ cho lại sức. Anh tin là mình đã chuẩn bị tư tưởng cho Thiệu một
cách khá đầy đủ.
2.
Ngày 2 tháng 11, phái đoàn Huỳnh Văn Trọng từ Mỹ
về. Hai Long gặp Trọng và Tuyến. Hai người đã thu thập được một khối lượng tin
tức đáng kể. Johnson đang nỗ lực vớt vát lại uy tín bằng cách đi vào lịch sử như
một tổng thống hòa bình. Chiều hướng Mỹ phải dần dần rút ra khỏi chiến tranh
Việt Nam là không thể đảo ngược. Sau bầu cử, Johnson vẫn còn 2 tháng với đầy đủ
quyền lực để thực hiện ý định của mình. Nixon chắc chắn sẽ đắc cử. Con diều hâu
này là một trở ngại cho vấn đề sớm đem lại hòa bình ở Việt Nam. Muốn cho cuộc
đàm phán tiến hành thuận lợi, đúng như lời O’Connor nói bữa trước, nhân dân miền
Nam cần phải có một hình thức chính phủ lâm thời để có danh nghĩa ngồi đàm phán
với chính phủ Thiệu. Trọng và Tuyến cũng đã thực hiện tốt kế hoạch của Hai Long
nhằm xây dựng một số quan hệ trong bộ máy chính quyền và những tổ chức Thiên
chúa giáo ở Mỹ.
Thái độ tươi tỉnh, vui vẻ
của những người đi sứ về khiến cho vẻ mặt lo lắng của Thiệu dịu lại.
Trọng
nói:
- Anh em chúng tôi nhận nhiệm vụ của tổng thống trao cho qua Mỹ, nay sứ
mạng đã hoàn thành, chúng tôi tự đánh giá là đã đạt được kết quả khả quan. Chúng
tôi đã thường xuyên gửi báo cáo về. Bữa nay, xin được phúc trình một cách tổng
hợp, và bổ sung thêm những điều mà chúng tôi không tiện viết dài trong
thư.
Thiệu nói:
- Tôi cần phải làm việc với phái đoàn nhiều buổi, nhưng
sáng nay vì vừa có công việc đột xuất nên chỉ gặp phái đoàn được trong vòng một
giờ. Ông phụ tá trưởng đoàn hãy trình bày vắn tắt những điểm chính để tôi và ông
cố vấn cùng nghe.
Trọng nhìn đồng hồ, rồi báo cáo gọn gàng trong 45 phút. Anh
liệt kê những cơ quan quan trọng mà phái đoàn đã có dịp tiếp xúc, như Tòa Bạch
ốc, bộ Ngoại giao, bộ Quốc phòng, và những tổ chức tư nhân, những nhân vật chính
trị, tôn giáo có uy tín, đề nghị tổng thống nên nghe báo cáo kỹ một số cuộc tiếp
xúc này để hiểu rõ những quan điểm cũng như tính cách của nhiều yếu nhân Mỹ. Về
tình hình chung liên quan trực tiếp đến thời cuộc ở Việt Nam, anh khẳng định
Johnson quyết tâm dùng mọi quyền hạn trong những tháng còn ngồi ở Nhà Trắng, để
mang lại hòa bình ở Việt Nam, như người ta đã thường nói, Johnson muốn đi vào
lịch sử như là một tổng thống của hòa bình. Người hầu như chắc chắn sẽ kế tục
Johnson trong nhiệm kỳ tới là Nixon. Nixon hoàn toàn tán thành chủ trương tìm
kiếm hòa bình trong danh dự cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam, vì đây là xu thế
của tuyệt đại đa số nhân dân Mỹ. Nước Mỹ buộc phải rút ra khỏi cuộc chiến tranh
Việt Nam để giải quyết nhiều vấn đề cấp bách ở quốc nội cũng như quốc ngoại. Mặc
dù trái với ý muốn của nhiều nhân vật cầm quyền, họ đều nhận thấy lối thoát duy
nhất trong tình hình hiện nay, là 4 bên tham chiến phải ngồi lại với nhau để tìm
kiếm một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Nhưng quyết tâm của nhà cầm quyền Mỹ
là không rời bỏ Việt Nam cộng hòa, vì đây là danh dự, uy tín của họ trên trường
quốc tế, và cũng là niềm tin của dân chúng Mỹ. Họ cần phải có một Việt Nam cộng
hòa mạnh, đủ sức đương đầu với Cộng sản sau khi quân Mỹ đã rút về nước. Vì vậy,
nên những đề nghị viện trợ quân sự, kinh tế hậu chiến, viện trợ chương trình xây
dựng nông thôn, và đề nghị thành lập viện nghiên cứu xã hội ở Việt Nam cộng hòa
đều được các nơi đáp ứng một cách sốt sắng và thuận lợi. Riêng về thái độ của
nhà cầm quyền Mỹ trước và sau cuộc bầu cử đối với Việt Nam cộng hòa, một trọng
tâm nghiên cứu của đoàn, thì thấy tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang ở trong một
tình thế tốt đẹp. Tổng thống Johnson đã cho biết tiếp tục ủng hộ Thiệu. Vị tổng
thống tương lai của Mỹ là Nixon cũng đã có ý kiến như vậy. Tâm lý chung của cả
hai nhân vật này là trong khi cuộc hòa đàm đã mở ra, không muốn có sự xáo động
trong giới cầm quyền của quốc gia đồng minh.
Thiệu tươi tỉnh hỏi:
- Lỡ
tổng thống mới, chính sách mới thì sao?
Tuyến nói:
- Nixon đã nói không
có thay đổi chính sách với Việt Nam cộng hòa, và muốn có thay đổi gì cũng phải
sau nửa năm.
- Nixon có cảm tình với ta chớ?
Trọng đáp:
- Thưa còn
hơn thế. Nixon đã hết sức chiều chuộng chúng tôi, vì ổng nhờ chúng tôi về nói
với tổng thống vận động giúp cho ổng giành được gần 70 vạn phiếu của cử tri Mỹ ở
Nam Việt Nam. Chúng tôi đã nhận lời, và nói tin rằng tổng thống Thiệu sẽ hết
mình hưởng ứng.
Thiệu cười khà khà:
- Không ủng hộ diều hâu thì còn ủng
hộ ai!
Thiệu nhìn đồng hồ. Trọng biết thời gian đã hết, bèn nói:
- Xin
tổng thống cho tạm kết thúc ở đây, chúng tôi sẽ trình bày tiếp trong những buổi
làm việc sau.
Thiệu vui vẻ nói:
- Tôi còn phải gặp ông phụ tá nhiều.
Thắng lợi của phái đoàn đem về làm cho người tôi tươi trẻ hẳn
ra.
Trọng cùng với Tuyến và Xuân bước vào.
Ba người đều khỏe mạnh, hồng hào sau 2 tháng làm việc ở Mỹ. Trọng ôm theo một
gói quà mang từ Mỹ về, để làm kỷ niệm cho Thiệu.
- Hồi
nãy anh không tán thành cuộc xuống đường sẽ tổ chức vào trưa nay?
- Không cứ
xuống dường, mà tôi thấy cần hết sức thận trọng đối với bất kỳ hành động nào gây
cho Johnson ý nghĩ mình đang chống lại ông ta.
Thiệu lập tức bước tới bên máy
điện thoại, cầm ống nghe và nói:
- Tôi cần gặp ông Nguyễn Văn Hướng.
-
Dạ, xin chào tổng thống. Tôi đây.
- Tình hình thay đổi, anh cho hoãn cuộc
xuống đường trưa nay. Báo tin ngay cho lực lượng Công giáo Đại đoàn kết và lực
lượng Tự do dân chủ của anh.
- Xin tổng thống cho biết lý do để giải thích
với ông Nguyễn Gia Hiến. Các lực lượng đã sẵn sàng.
- Sẽ giải thích sau. Tôi
nhắc lại, dẹp xuống đường ngay! Đang chuẩn bị tuần hành cũng phải giải tán! Chỉ
cần nói là phải tạm dẹp để tránh những phiền phức về ngoại giao...
Thiệu đặt
máy, quay lại đột ngột hỏi Hai Long:
- Nếu bây giờ nhận lời đi Paris thì cử
ai đi?
- Tôi nghĩ tốt nhất là nên cử tướng Kỳ.
Thiệu cười lớn, bắt tay
Hai Long rung rung một hồi:
- Anh giáo hình như đọc được những ý nghĩ của
tôi! Tôi cũng vừa nảy ra ý nghĩ đó.
Thiệu buông tay Hai Long, tươi tỉnh nói
tiếp:
- Tôi sẽ sắp xếp để Bernard Trọng nắm chức thủ tướng chính phủ thay
già Hương vô dụng. Không còn ai hơn anh Trọng lúc này. Trao cho anh Trọng gánh
vác một phần, để anh em ta có thời giờ nghỉ ngơi đôi chút, chớ đầu óc căng thẳng
quá rồi!...
Tuy vậy, mãi 2 tuần sau đó, ngày 17 tháng 11, Thiệu mới họp Hội
đồng an ninh quốc gia bàn việc chấp nhận cuộc hòa đàm bốn bên tại Paris, và cử
một phái đoàn tới tham dự hòa đàm.
Ngày 8 tháng 12, phái đoàn Việt Nam cộng
hòa do Phạm Đăng Lâm làm trưởng đoàn, với Nguyễn Cao Kỳ là cố vấn, mới lên đường
đi Paris.
Noel năm 1968, Thiệu
tổ chức một lễ Giáng sinh thật tưng bừng. Y coi là vận hạn của mình trong năm
Mậu Thân sắp qua. Thiệu lại bắt tay vào việc củng cố quyền lực.
Từ ngày nhận
chức phó tổng thống, Kỳ đã lập ra tổ chức Phong trào thanh niên trừ gian, gây
rối cho Thiệu và những kẻ đang dựa vào chức quyền mặc sức tham nhũng. Sau cuộc
Tổng tiến công Tết Mậu Thân của ta, Kỳ lại tổ chức thêm cái gọi là tổ chức Cứu
trợ nạn nhân chiến tranh, được Mỹ cấp tiền và hàng cứu trợ, Kỳ đi khắp nơi ban
phát ân huệ và gây uy tín cho mình, khiến Thiệu rất khó chịu. Nhân lúc Kỳ không
có mặt ở Sài Gòn, Thiệu xúi Hương giải tán luôn cả hai tổ chức này.
Với lệnh
tổng động viên năm 1968, Thiệu bắt thêm được 20 vạn lính. Quân ngụy phối hợp
cùng quân Mỹ mở những cuộc phản kích đẩy lực lượng ta ra xa những vùng đô thị,
đặc biệt là vùng chung quanh Sài Gòn. Chúng ráo riết tiến hành bình định cấp tốc
tại vùng tạm chiếm. Trong chiến dịch này, địch huy động toàn bộ lực lượng chủ
lực và địa phương quân, phối hợp với những lực lượng chìm của CIA, tình báo,
công an, cảnh sát và bọn đầu hàng, phản bội để chống lại ta. Chúng triển khai
nhiều biện pháp, thủ đoạn về quân sự, chính trị, kinh tế, kết hợp cả với hành
chính, phân tuyến, phân vùng, chà đi xát lại hòng tiêu diệt hoặc đẩy lùi lực
lượng ta ra xa. Ở vùng địch tạm kiểm soát, chúng thay đổi thẻ căn cước, kiểm tra
tờ khai gia đình, vừa để bắt lính đôn quân, vừa để phát hiện và triệt hạ cơ sở
cách mạng.
Tại Sài Gòn, lực lượng công an, cảnh sát chiến đấu phân khu vực,
hành quân rà xét từng gia đình, tổ chức nhiều trạm kiểm soát cố định cũng như
lưu động để ngăn ngừa ta ra vào thành phố. Chúng phối hợp chặt chẽ những hoạt
động giữa các lực lượng CIA, tình báo, công an, mật vụ, chiêu hồi, sử dụng lại
một số mật vụ từ thời Diệm. Trong những cơ quan đầu não, chúng thẩm tra lại cán
bộ nhân viên hòng phát hiện cơ sở nội tuyến của ta.
Ở vùng ven Sài Gòn, quân
Mỹ ủi phá địa hình, thả chất độc hóa học làm trụi lá cây nhằm tiêu hủy những căn
cứ lõm của ta. Địa bàn đúng chân của Cụm tình báo bị đánh phá ác liệt và liên
tiếp.
Tuy vậy, bước sang năm thứ 14 công tác trong vùng địch, lưới của Hai
Long đã có vị trí vững vàng và khá lý tưởng để đáp ứng những yêu cầu nhiệm
vụ.
Anh ngày càng trở thành người tin cẩn của Khâm sứ Palmas. Những tin tức
Hai Long cung cấp rất sớm cho Tòa khâm sứ, được ông đánh giá là đóng góp lớn cho
giáo hội. Ông thường bổ sung tình hình và phổ biến kịp thời ý đồ của
Vatican để
Hai Long vận động Thiệu làm theo. Thiệu chậm chấp nhận hòa đàm với Mặt trận Giải
phóng khiến Palmas lo lắng. Ngày đầu năm 1969, giáo hội sẽ tổ chức lễ cầu nguyện
“Hòa bình cho Việt Nam”. Palmas đã đề nghị
với Vatican, nhân ngày đó, ban phép lành và cầu nguyện cho Hai Long.
Trên chính trường công
khai cũng như bán công khai bắt đầu hình thành 3 khuynh hướng. Thứ nhất là
khuynh hướng chống Cộng, thân chính quyền Sài Gòn. Thứ hai là khuynh hướng lừng
chừng và đối lập. Thứ ba là khuynh hướng tán thành hòa đàm tìm kiếm một giải
pháp chính trị cho miền Nam, được gọi là Lực lượng thứ ba.
Ngày 20-1-1969, Nixon nhậm chức. Y
công bố chính sách mới đối với Việt Nam, kiên quyết triển khai chiến lược Việt
Nam hóa chiến tranh, và cam kết bảo vệ chiếc ghế tổng thống cho Thiệu.
Thiệu
cảm thấy vững chân. Y bắt đầu bộc lộ không che đậy tính cách tham lam, độc đoán.
Tất cả những người thân Kỳ trong chính quyền, quân đội ở cấp trung ương và vùng
chiến thuật đều lần lượt bị thay thế. Những người đã có công giúp Thiệu trước
đây, dù là thân tín, chỉ cần bộc lộ dấu hiệu không đồng tình với việc làm hoặc
cách đối xử của Thiệu cũng bị gạt. Họ được thay thế bằng những tên tay sai mới,
nằm trong bọn giàu có, xu nịnh, và nhất là những kẻ có thể giúp Thiệu làm giàu.
Thiệu thâu tóm mọi quyền lực cho gia đình, họ hàng mình một cách không dè dặt.
Chị Sáu khéo léo, ngọt ngào, chiều chồng, cũng rất khéo léo, ngọt ngào khi giành
giật những áp phe có lời lớn và nhận những khoản hối lộ.
Trước phong trào
chính trị phức tạp và sôi động ở Sài Gòn, Thiệu vội vã nghĩ cách xây dựng lực
lượng chính trị làm hậu thuẫn cho mình. Lực lượng Tự do dân chủ của Nguyễn Văn
Hướng quá yếu ớt. Thiệu bắt Hướng liên kết lực lượng này với Hiệp hội công nông
của Trần Quốc Bửu thành một tổ chức mới, với tên gọi là Liên minh dân tộc xã hội
cách mạng. Thiệu dự kiến thành lập một mặt trận gồm tất cả những đảng phái chống
Cộng, thân chính quyền do mình trực tiếp cầm đầu. Thiệu cho rằng trước kia chưa
có lực lượng, nên phải dựa vào Thiên chúa giáo để lên cầm quyền, nhưng nay đã
củng cố được quyền lực, thì cần mở rộng ảnh hưởng để giành được đa số nếu phải
đi vào một cuộc đấu tranh chính trị.
Trong Thiên chúa giáo cũng xuất hiện xu
hướng phải có một tổ chức chính trị của giáo dân đủ mạnh để đáp ứng với tình
hình mới. Một số giáo sĩ và giáo dân đã đề xướng chủ trương này. Họ cho rằng
đảng Cần lao - Nhân vị thời Diệm, Nhu đã tan rã, mặc dù một số người đã tập hợp
lại dưới cái tên đảng Nhân xã, do Trương Công Cừu cầm đầu, và được giám mục
Nguyễn Văn Thuận là cháu Ngô Đình Diệm đỡ đầu. Còn lực lượng Công dân Công giáo
Đại đoàn kết do cha Hoàng lập nên năm 1964, nhưng lại giao cho Nguyễn Gia Hiến
làm chủ tịch, Hiến đã bán đứng lực lượng này cho Nguyễn Cao Kỳ vì mưu đồ quyền
lợi và địa vị cá nhân. Cả hai tổ chức này đã mất tín nhiệm trong giáo dân, và
gây tai tiếng cho Thiên chúa giáo. Cần phải tập hợp tín đồ Công giáo vào một
đoàn thể chính trị mới, và trao cho một người có tài đức, rất thánh thiện lãnh
đạo.
Từ tháng 11 năm trước, dựa vào thánh chỉ về cuộc vận động hòa bình của
giáo hoàng Paul VI, cha Hoàng nhân danh chủ tịch Mặt trận các tôn giáo (Công
giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành...) đã tổ chức một đại hội nhân dân
toàn quốc thảo luận về vấn đề hòa bình và dân tộc. Đại hội này đã kiến nghị hai
bên tham chiến ở Việt Nam ngồi lại thương lượng
chấm dứt chiến tranh, và dân Việt Nam tự quyết vấn đề Việt Nam. Tòa thánh La Mã
đã khen ngợi cha Hoàng. Nhưng cha Hoàng lại chống việc đặt Việt Nam cộng hòa
ngang hàng với Việt Cộng. Theo ông, Sài Gòn phải thương thuyết với Hà Nội, và Mỹ
thì thương thuyết với Liên Xô (!). Hai Long đã mang ý kiến của cha Hoàng nói với
Khâm sứ. Khâm sứ lập tức mời cha Hoàng lên, và giải thích:
- Muốn có hòa
bình ở Việt Nam thì hai bên tham chiến tại chỗ phải trực tiếp giải quyết với
nhau, chớ không thể nhờ người khác giải quyết thay!
Cha Hoàng buộc phải rút
lui ý kiến của mình. Gần đây, ông rất muốn tổ chức một đoàn thể chính trị mới
nhằm tập hợp đông đảo giáo dân, dưới cái tên là Đoàn Vệ sĩ Công giáo Việt
Nam.
Hai Long đi gặp Cụm trưởng
báo cáo những hiện tượng đe dọa an toàn của lưới đã xuất hiện. Anh nhận định:
- Tình hình không bình thường có liên quan trực tiếp tới cả ba người trong
lưới. Chúng ta phải tính cách đối phó kịp thời. Tôi đã kiểm điểm lại mọi hoạt
động của từng người, chưa thấy có gì sơ hở. Hiếu và Tá Đen chú ý tôi vì chúng
nắm được một phần quá khứ của tôi. Anh Trọng không có gì để chúng phải nghi ngờ.
Anh vẫn giữ cái thế của Tòa đại sứ Mỹ mà Hướng đã trực tiếp chứng kiến. Riêng
anh Hòe, đáng ngại hơn, vì đã có lần bị bắt, và lại là người tôi trực tiếp giới
thiệu với Thiệu. Tôi muốn để anh Hòe rút êm khỏi Phủ tổng thống, trở về Tổng
đoàn Công kỹ nghệ. Anh Trọng sẽ không rút lui. Chưa chắc Thiệu đã dám bãi miễn
anh. Đến nay, chính anh Trọng cũng không biết là đang làm việc cho ta. Có thể
Thiệu sẽ không tiếp tục trao việc cho anh Trọng. Nhưng anh Trọng vẫn cứ quan hệ
với Tòa đại sứ Mỹ như trước. Và anh Trọng sẽ đi sâu vào khối đa số ở quốc hội
của Đặng Văn Sung. Sung là người của CIA. Đi với Sung, anh Trọng sẽ củng cố thêm
thế đứng của mình. Anh Hòe cũng sẽ xâm nhập vào khối này, vì anh vốn quen biết
Sung và được Sung rất trọng nể.
- Đồng chí phán đoán vì sao lưới của mình lại
bị địch chú ý? - Năm Sang hỏi.
- Tôi vẫn nghi ngại về những hoạt động của Cụm
ta trong hai đợt tổng tiến công. Đồng chí Thắng có quan hệ mật thiết với anh
Trọng. Ta đã cắt quan hệ giữa anh Trọng và đồng chí Thắng từ lâu, nhưng bọn địch
vẫn có thể lần ra. Một nhược điểm lớn mà Trung tâm đã lưu ý, là số đông những
người trong Cụm đều đã có lần bị chúng bắt giữ dưới thời Diệm. Bây giờ CIA sử
dụng lại những tên mật vụ cũ của Nhu, là một vấn đề đáng lo ngại.
- Đồng chí
Thắng đã được nhận vào làm tham chánh văn phòng bộ Chiêu hồi.
- Đó là điều
đáng mừng, nhưng vẫn phải hết sức đề phòng những ngón đòn của bọn mật vụ. Riêng
về đồng chí, tôi thấy đồng chí ở trong này đã quá lâu ngày. Anh em trong Cụm đều
sống hợp pháp. Riêng đồng chí sống bất hợp pháp, tôi rất lo. Đồng chí cần báo
cáo gấp và xin chỉ thị của Trung tâm.
Năm Sang kết luận:
- Đồng ý những
biện pháp đối phó như đồng chí đã đề nghị. Giữ vững quy tắc bí mật trong mọi
hoạt động. Cụm sẽ có kế hoạch diệt trừ bọn phản bội đe dọa an toàn của lưới khi
cần. Dự phòng một kế hoạch rút ra khi có nguy cơ bị bắt. Việc này tôi sẽ báo cáo
gấp về Trung tâm để xin chỉ thị.
Năm Sang nắm chặt tay Hay Long hồi lâu trước
khi hai người chia tay.
Cả Trọng và Hòe đã nhanh chóng gây được ảnh hưởng
trong quốc hội. Đặng Văn Sung là một nghị sĩ thân chính quyền, nồng nhiệt đón
nhận sự cộng tác của ông phụ tá Phủ tổng thống và ông công cán ủy viên Phủ tổng
thống (Sung không biết Hòe đã rời khỏi chức vụ này). Hòe được Sung đề cử vào làm
ủy viên của Hội đồng kinh tế quốc gia, một cương vị còn cao hơn chức vụ của anh
trước đây ở Phủ tổng thống. Hạ nghị viện có 4 khối. Khối độc lập của Thiên chúa
giáo vẫn do Hai Long nắm. Trọng nắm được thêm khối Xã hội dân chủ của Đặng Văn
Sung. Hòe nắm được Nguyễn Mậu, trưởng khối Thống nhất. Thiệu chỉ còn nắm khối
Dân tộc qua viên phụ tá Nguyễn Cao Thăng. Hai Long thấy nên thử sức những lực
lượng này trong dịp Thiệu định đưa người nhà của mình làm đại sứ tại Lào. Nguyễn
Cao Thăng vung tiền mua phiếu ủng hộ người của Thiệu trong quốc hội. Hai Long
bàn với Hòe và Trọng cùng mình vận động cho một nhân vật khác là luật sư Hoàng
Cơ Thụy. Khi bỏ phiếu, 3 trong 4 khối bỏ phiếu cho Hoàng Cơ Thụy, người của
Thiệu bị rớt. Phía thân chính quyền lép vế. Sau đó, mỗi lần có đầu phiếu, Nguyễn
Cao Thăng đều phải chạy tới nhờ Trọng và Hòe vận động giúp mình.
Nhưng những
dấu hiệu đe dọa sự an toàn của lưới vẫn tiếp tục xuất hiện.
Trọng băn khoăn
nói với Hai Long:
- Gần đây, có mấy tên lạ mặt thường thay nhau đi theo tôi.
Tôi cảm thấy vì những tin đồn tôi sẽ làm thủ tướng mà có kẻ định ám hại mình
chăng?
Hai Long khuyên:
- Anh nên cẩn thận đề phòng. Không phải có kẻ
định ám hại anh, mà nó đang theo dõi mọi hoạt động của anh. Khi tình hình có gì
bí, ta sẽ xử trí theo phương án dự phòng. Còn hiện nay, cách đối phó tốt nhất là
không để sơ hở gì, tiếp tục củng cố thế lực của anh ở Tòa đại sứ Mỹ và trong
khối nghị sĩ, hướng họ dùng sức mạnh đa số làm áp lực với Thiệu. Chừng đó, Thiệu
muốn làm gì cũng phải nể.
Thắng cũng phát hiện một hôm anh cùng với Năm Sang
về nhà thì có người đi theo. Vợ Thắng nói thỉnh thoảng lại có một tên lạ mặt
lảng vảng trước nhà.
Hai Long rất mừng khi đdược Trung tâm thông báo cụm
trưởng đã rút ra cứ an toàn. Nhưng trách nhiệm của anh lại nặng hơn, vì nhiệm vụ
chỉ huy Cụm được trao lại cho anh.
Nguyễn Văn Hướng trực tiếp gặp cha Nhuận
và Hai Long, đề nghị khuyên Trọng nên từ chức phụ tá Phủ tổng thống, vì cách làm
việc của Trọng không hợp với Thiệu.
Hai Long bàn với cha Nhuận:
- Ông
Thiệu gần đây bộc lộ nhiều nhược điểm, hễ ai nói trái ý thì dù người đó có công
đến mấy với mình cũng tìm cách đẩy đi cho rảnh mắt. Bernard Trọng là giáo dân,
có quan hệ rất tốt với Mỹ, là người đã góp phần đưa ông Thiệu lên ghế tổng
thống, lại vừa củng cố địa vị của ông Thiệu qua chuyến công du Mỹ vừa rồi. Công
chưa được trả, bây giờ chỉ vì đôi lời thất thố mà bị đẩy đi! Thiệu không muốn
trực tiếp nhúng tay vào việc để tránh tiếng thiếu thủy chung, mà gạt trách nhiệm
cho cha con ta! Con sẽ không làm việc này. Phụ tá đặc biệt Phủ tổng thống là do
sắc lệnh của tổng thống bổ nhiệm, ông Thiệu thấy cần loại bỏ thì ông Thiệu cứ ra
sắc lệnh bãi miễn, can chi tới mình!
Cha Nhuận sầm nét mặt:
- Tôi cũng
thấy ông Thiệu thay đổi nhiều, nhiều lời đàm tiếu. Việc để hoặc bỏ ông Trọng,
mặc ông Thiệu và ông Hướng tôi không dính vô!
Tháng 5, Hai Long bất ngờ nhận
được thư của De Jaegher. Từ tháng 10 năm trước, Hai Long đã gởi cho De Jaegher
mấy lá thư, nhưng ông linh mục hoàn toàn giữ im lặng. Quan hệ giữa hai người coi
như cắt đứt. Tại sao De Jaegher lại gửi thư cho anh vào dịp này. Trong thư, De
Jaegher thanh minh là không tới gặp anh trong dịp viếng thăm Sài Gòn vì một điều
khó nói, Thiệu muốn ông chỉ cần gặp mình là đủ. Ít lâu nay, ông ta vẫn liên lạc
trực tiếp với Thiệu hoặc qua trung gian của Kiểu. Ông thấy cần tiếp tục mối quan
hệ thân tình và hữu ích với Hai Long như trước đây... Sự thật đúng như thế
chăng? Hay CIA đã nhận thấy sai lầm vì yêu cầu ông linh mục cắt đứt quan hệ với
anh, nên khuyên ông nối lại, cho chúng tiếp tục giăng bẫy và sập bẫy?
Hai
Long quyết định chuyển lá thư cho Thiệu. Mọi lần nhận được thư hoặc sách của De
Jaegher, anh thường trực tiếp đưa Thiệu xem. Lần này, anh nhờ cha Nhuận chuyển
cho Thiệu. Nếu lý do của De Jaegher đưa ra là bịa đặt, thì đúng đây là một mưu
kế của CIA. Nếu đó là sự thật, thì cũng nhắc nhở cho Thiệu là kẻ xấu chơi. Cha
Nhuận nói Thiệu im lặng sau khi đọc thư. Như vậy, có thể De Jaegher đã nói đúng
sự thật. Nhưng cũng vẫn không loại trừ khả năng cả hai nhân vật chống Cộng này
cùng thống nhất với nhau để đưa anh vào bễy...
3.
4.
Khi còn lại hai người trong phòng, Thiệu hỏi ngay:
Chương 7
MÂY ĐEN
1.
Nixon đắc cử ngày
5-11 nhưng còn 2 tháng nữa mới bắt đầu nhậm chức tại Nhà Trắng. Cơ hội trở thành
tổng thống hòa bình rõ ràng đang tuột khỏi tay Johnson.
Biết rõ
mối cảm tình của Khâm sứ với Hai Long, nên cha Hoàng tiếp tục nhờ anh báo cáo
hoặc thăm dò Khâm sứ về những chủ trương, dự định của mình. Nhiều việc do ông tự
nghĩ ra, cũng có những việc cáe cha cố Mỹ vận động ông làm. Có lần cha Hoàng đã
nói với Khâm sứ:
- Tên thánh của con là Phao-lồ[1], tên thánh của thầy Nhã
là Phê-rô[2]. Phao-lồ có Phê-rô ở bên thì trí óc thêm minh mẫn, tai mắt thêm
tinh thông, tay chân thêm mạnh mẽ...
Hai Long đề nghị Khâm sứ thỉnh cầu
Vatican trợ cấp một ngân khoản đặc biệt để xây dựng nhà thờ xứ Phát Diệm của
linh mục Trần Ngọc Nhuận và nhà thờ Bình An của cha Hoàng. Khâm sứ đồng ý và đề
nghị được Tòa thánh chấp thuận. Những viện trợ của CARITAS, của Công giáo Mỹ cho
Công giáo Việt Nam, Hai Long đều dành ưu tiên cho hai xứ đạo nghèo là Phát Diệm
và Bình An. Anh cũng vận động riêng Thiệu đóng góp vào việc xây dựng lại hai nhà
thờ này. Trước mỗi việc Hai Long giúp cho mình, Thiệu thường tế nhị trả công
bằng cách góp thêm một số tiền cho hai xứ đạo này xây dựng nhà thờ. Hai Long
không bao giờ trực tiếp nhận tiền của Thiệu mà báo cho cha Nhuận và cha Hoàng cử
người tới nhận. Những quyền lợi vật chất Hai Long thu về cho hai xứ đạo Phát
Diệm và Bình An rất đáng kể.
Trọng đã được Thiệu mời tới làm việc thêm nhiều
lần. Những tin tức Trọng đưa về cùng với sự nhận định, phân tích sắc sảo của anh
làm cho Thiệu hài lòng. Trong Phủ Đầu Rồng có nhiều tin đồn Bernard Trọng sắp
thay thế già Hương đã hết thời. Hướng cũng bắt đầu ganh tị với Trọng, không còn
trông chờ chiếc ghế mà Thiệu đã hứa hẹn trước đây. Hai Long hy vọng ngày Thiệu
đưa Trọng lên làm thủ tướng không còn xa.
2.
Bốn bên tham chiến đã có
mặt đầy đủ ở Paris, dấy lên những đợt sóng hoạt động chính trị ở Sài Gòn. Chính
phủ liên hiệp trở thành một cơ hội hấp dẫn đối với các đảng phái và những người
làm chính trị. CIA đã tung tiền khuyến khích thành lập nhiều tổ chức chính trị
để dễ bề lũng đoạn chính quyền. Những tổ chức này vẫn nằm im, nay cảm thấy đã
tới lúc làm ăn. Lại thêm nhũng tổ chức mới xuất hiện.
Tình hình chính
trị ở Sài Gòn sôi động. Nội bộ các phe nhóm, đảng phái, đoàn thể phân hóa, đấu
đá nhau kịch liệt, kể cả thanh toán lẫn nhau. Nhiều vụ mưu sát xảy ra. Thủ tướng
Trần Văn Hương, thượng tọa Thích Thiên Minh, linh mục Mai Ngọc Khuê may mắn
thoát chết qua những vụ mưu sát. Đồng thời, diễn ra những vụ án sinh viên, vụ án
FULRO. Dư luận xôn xao nhiều về vụ mưu sát linh mục Mai Ngọc Khuê. Linh mục Khuê
trước đây là phụ tá của Ngô Đình Nhu, người đã kích dộng giáo dân di cư biểu
tình tại Bộ Tổng tham mưu chống trung lập, đòi Cabot Lodge cút về nước.
Trong
giáo dân lan rộng một tin đồn: Bốn người áo đen là Mai Ngọc Khuê, Trần Đức
Huynh, Vũ Ngọc Tấn và cha Hoàng sẽ bị giết! Bốn linh mục này đều là những nhân
vật nổi tiếng chống Cộng. Nhiều người nói đó là âm mưu Mỹ. Một số người thì cho
đó là chủ trương của Thiệu. Cũng có kẻ đổ cho Việt Cộng.
Hai Long đã quen với
những cơn sốt chính trị ở Sài Gòn. Nó thường bùng lên khi có một sự kiện chính
trị châm ngòi, và cũng tắt đi rất nhanh. Sau ngày Diệm đổ, chưa xuất hiện một
nhân vật chính trị nào có sức hấp dẫn đối với quần chúng. Những đám lửa rơm này
sẽ chẳng tồn tại bao lâu. Nhưng đã lại có những dấu hiệu đáng lo ngại cho sự an
toàn của lưới.
Tú Uyên không liên lạc với anh từ sau khi Tá Đen bị bắt. Luật
sư Tường đôi lần tìm gặp anh. Anh khuyên Tường nên tổ chức một đoàn thể chính
trị đón thời cơ hơn là tham gia chính quyền trong hiện tình. Anh có thể giúp
Tường kiếm được trợ cấp của Mỹ. Anh gợi ý xa xôi cho Tường về triển vọng của lực
lượng thứ ba trong chính phú liên hiệp tương lai. Anh nói mình không muốn Tường
cộng tác với Thiệu, vì gần đây tính tình Thiệu thay đổi nhiều, và sắp tới chính
quyền Nam Việt Nam sẽ có nhiều biến động. Tường tỏ ra bình thản để giấu sự cụt
hứng. Cuối tháng Giêng, Tú Uyên đột ngột tới tìm anh tại nhà Hòe. Chị nói nhân
đi ngang, ghé vào hỏi thăm sức khỏe của anh. Chị kể chuyện Tá Đen mới tới gia
đình mình.
Hai Long báo cho Hòe và Thắng kiểm tra lại tin này. Hai người dò
hỏi, biết đích xác, Thiệu vừa ra lệnh thả tất cả những kẻ bị y bắt hồi tháng 10
năm trước. Chắc Thiệu cho rằng biện pháp phòng ngừa lúc này không còn cần thiết.
Hai Long rất suy nghĩ. Một khi Tú Uyên phải tới tìm anh báo tin, chắc chị biết
có sự nguy hiểm đang đe dọa anh.
Một buổi đang ngồi trao đổi, Thiệu bỗng nói:
- Tay Bernard Trọng rất khó xài! Tài cán đã hơn ai mà lại có thái độ kiêu
căng, hỗn xược.
Hai Long cho rằng nhiều lời gièm pha Trọng đã tới tai Thiệu,
và Trọng có thể đã có những cử chỉ, lời lẽ không khéo trong khi tiếp xúc với
Thiệu. Anh mang chuyện này trao đổi lại với Trọng.
Trọng nói:
- Vì nhiệm
vụ anh trao, tôi đã nhẫn nhục với ổng rất nhiều. Ổng cứ nghĩ mình là tổng thống
thì mọi lời mình nói đều là lời phán bảo của Chúa! Khi tôi làm bộ trưởng dưới
thời Bảo Đại thì Nguyễn Văn Thiệu mới là một anh trung sĩ quèn, bây giờ mình lại
phải cúi đầu cho hắn sai bảo!
Hai Long hiểu rằng quan hệ giữa Trọng và Thiệu
đã trở nên xấu. Một con người như Trọng khó có thể chấp nhận tư cách của Thiệu.
Anh khuyên Trọng vì nhiệm vụ nên ráng bình tâm, hết sức tránh làm mất lòng
Thiệu, và bàn với Trọng những công việc cần làm trong trường hợp Thiệu trở
mặt.
Đầu tháng 3, trên đường đèo Hai Long về nhà, Hòe nói:
- Anh ghé qua
tôi chút xíu, có chuyện cần xin ý kiến anh.
Tới nhà, Hòe đưa anh vào phòng
riêng, kể lại:
- Hôm qua, Nguyễn Văn Hướng mời tôi tới chơi nhà với thái độ
không bình thường. Y nói chuyện vòng vo một lát rồi khuyên tôi nên xin từ chức
công cán ủy viên của Phủ tổng thống.
- Vì lý do chi?
- Hắn nói: Anh làm
việc cùng một lúc ở nhiều nơi, mà phòng tổng thư ký thì theo chỉ thị của tổng
thông cần củng cố lại. Tôi đáp mình cần suy nghĩ trước khi trả lời và phải xin ý
kiến của giáo hội. Hắn lại bảo tôi tới cơ quan bảo vệ Phủ tổng thống làm thủ tục
về hồ sơ cá nhân, vì từ ngày vô đây tới nay tôi chưa làm thủ tục này.
Câu
chuyện của Hòe khiến Hai Long băn khoăn nhiều.
3.
Cụm trưởng Năm Sang
đã qua được những đợt kiểm tra gắt gao của địch.
“Gửi A.22
Theo những hiện tượng đồng chí báo cáo, lưới của
đồng chí đang bị địch bám sát, có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Cần hết sức thận
trọng trong khi di chuyển, bằng mọi cách không để địch bắt cóc bất ngờ không ai
biết, hoặc địch thủ tiêu.
Sẵn sàng rút ra căn cứ tùy theo diễn biến tình
hình, và do đồng chí quyết định.
Yêu cầu cung cấp tin tức về hội nghị Midway
về Việt Nam hóa chiến tranh.
(Cụm trưởng ký tên)”
Hai Long và Hòe ngồi
nhìn nhau.
Hai Long mỉm cười:
- Mình được dành quyền tự quyết định.
-
Không thể rút bây chừ vì cấp trên còn trao nhiệm vụ.
- Ta chỉ rút khi có nguy
cơ trực tiếp sắp bị bắt. Cũng có thể là vào lúc đó... không còn điều kiện. Nhưng
rút ra được cũng như bị địch bắt không khác nhau, đều có nghĩa là kết thúc cuộc
chiến dấu.
Ý nghĩ phải kết thúc sự nghiệp chiến đấu này giữa chừng chợt khiến
lòng anh đau như cắt.
Những dòng chữ hiện
lên trên mảnh giấy nhỏ sau khi được xử lý qua dung dịch. Nét chữ của đồng chí
cụm trưởng.
Cùng lúc, liên minh
đối lập cũng hình thành. Trong liên minh này, những lực lượng đáng kể là Mặt
trận công dân các tôn giáo của cha Hoàng, Mặt trận nhân dân cứu nguy dân tộc của
Trần Văn Đôn, Phong trào quốc gia cấp tiến của Nguyễn Văn Bông.
Tòa Tổng
giám mục và Tòa Khâm sứ tán thành việc tổ chức một đoàn thể lớn, tập hợp đông
đảo giáo dân đáp ứng với tình hình mới, nhưng không đồng ý đặt tên là Đoàn vệ sĩ
Công giáo Việt Nam, khuyên nên đổi là Đoàn nghĩa sĩ công lý Việt Nam. và khuyến
cáo đưa Hai Long làm chủ tịch. Ý kiến này được nhiều linh mục tán thành. Cha
Hoàng từ lâu vẫn rắp tâm muốn đưa Hai Long thành người kế tục mình, khuyên anh
nên nhận lời. Mặt khác, tin đồn lan truyền về chuyện mưu sát 4 linh mục làm
nhiều cha cố e ngại, không muốn xuất đầu lộ diện trong một tổ chức lớn của Công
giáo sắp thành lập với mục đích rõ ràng là đấu tranh chính trị.
Hai Long
nhận lời. Anh cần khẳng định vai trò trong Công giáo để bọn CIA phải e dè khi
định đụng tới mình. Cuộc vận động tiến hành sôi nổi với sự yểm trợ của giáo hội.
Đại hội thành lập được quyết định vào tháng 7-1969, nhân dịp ngân khánh 25 năm
của linh mục Trần Ngọc Nhuận.
Cha Hoàng, cha Nhuận, cha Lãm đều lo lắng cho
sự an toàn của Hai Long, khuyên anh nên hết sức đề phòng. Các cha bàn nhau cử
một nhóm vệ sĩ giáo dân luôn luôn đi sát để bảo vệ cho anh. Anh kiên quyết khước
từ:
- Con đã suốt đời giữ mình trong sạch, chỉ làm điều lành, không làm điều
dữ, không hề gây thù oán với ai. Con đã nguyện tử vì đạo, bây giờ đi tới đâu
cũng có người bảo vệ lo cho mạng sống của mình, e trước mắt giáo dân, sẽ không
còn là người trước sau như nhất. Đã phó mặc hồn xác nơi Chúa, nếu có bị bắt bớ
giam cầm cũng là do ý Chúa, nếu bị giết hại là được trở về nước Chúa.
Các cha
đều tỏ ra cảm phục trước tinh thần quên mình vì giáo hội của Hai Long.
Giữa
tháng 5, cha Nhuận chuyển lời cha Hoàng nhắn Hai Long về gấp nhà thờ Bình An có
việc cần.
Hai Long nhờ Hòe lấy xe của Trọng đưa anh vào Bình An. Theo chỉ thị
của Cụm, đề phòng bị địch bắt cóc hoặc sát hại bất ngờ, gần đây Hai Long hết súc
tránh đi một mình và xuất hiện ở những nơi vắng vẻ. Khi ở Phủ tổng thống về
khuya, anh dùng xe của Thiệu với đội bảo vệ. Những lúc khác, bao giờ cũng có Hòe
ở bên. Hòe cao lớn, có dáng người chơi thể thao, cũng làm bọn côn đồ phải e dè.
Điều quan trọng vẫn là tránh trường hợp bị bắt cóc hoặc thủ tiêu mà không có
người biết.
Cha Hoàng gặp Hai Long với vẻ đặc biệt lo lắng và khẩn
trương:
- Hôm qua có hai tên Mỹ tới đây, hỏi mình về thầy rất nhiều. Bọn hắn
đề nghị mình tả hình dáng rồi hỏi về khả năng, đạo đức, vị trí trong Thiên chúa
giáo, mối quan hệ giữa thầy với mình. Cuối cùng, chúng đề nghị mình đánh giá về
thầy. Cũng đã có nhiều anh tới hỏi mình về những người quen biết nhưng không ai
như mấy tay Mỹ này... Thầy thấy Thiệu có gì khác ý không?
- Thiệu đối với
con vẫn như trước. Nhưng có thể bên trong còn có điều gì mà con chưa nhận ra, vì
Thiệu là người thâm hiểm.
- Sau khi mình đứng vào Liên minh đối lập, Thiệu
nói gì?
- Thiệu có than phiền với con về chuyện đó. Nhưng con giải thích:
cha Tổng làm như vậy để nắm lực lượng này, giúp ông được nhiều hơn.
- Thầy
cần coi chừng Thiệu. Thiệu không có cái đức của Diệm, cái tài, cái chí của Nhu,
cái hiếu của Cẩn, Thiệu chỉ có tham lam và thâm hiểm, bạc nghĩa, bạc tình, nên
làm ăn với Thiệu rất khó. Kỳ tuy lố lăng, cao bồi nhưng về con người vẫn còn hơn
Thiệu.
- Con phải cộng tác với Thiệu vì quyền lợi của giáo hội. Con đã nhận
thấy Thiệu là người thiếu thủy chung, nhưng vẫn lấy nhân nghĩa đãi Thiệu, chỉ
làm lợi cho Thiệu mà không cần trả ơn để cảm hóa Thiệu. Gần đây, Thiệu đã quay
mặt với nhiều người. Nhưng với con, Thiệu còn chưa thay đổi, vì Thiệu vẫn cần
con. Suy cho cùng, Thiệu cần mình, chứ mình cần gì ở Thiệu! Chỉ cần Thiệu hơi
khác ý, là con lập tức trở về Bình An với cha.
- Thày hiền lành, thánh thiện
quá nên không hiểu hết lòng dạ kẻ dữ! Kẻ dữ không phải chỉ không trả ơn, mà còn
muốn hại người làm ơn cho mình... Bây giờ quay lại chuyện hai thằng Mỹ. Thoạt
đầu, mình cứ để chúng hỏi, coi chúng muốn tìm hiểu về thầy những gì, xem chúng
là ai. Mình trả lời chúng, thầy là người có nhiều công lao với giáo dân Phát
Diệm, là phụ tá của cha Lê cai quản giáo khu Phát Diệm từ trước hồi di cư 1954,
nay là cố vấn của mình, cố vấn của tổng thống Thiệu, là một lãnh tụ Thiên chúa
giáo, là chủ tịch Đoàn nghĩa sĩ công lý Việt Nam sắp ra mắt quốc dân. Từ ngày di
cư vào Nam, thầy đã cộng tác với mình như bóng với hình. Thầy là người đạo đức,
thánh thiện, dễ cảm hóa người chung quanh, được đồng bào cảm mến, các cha tin
yêu, và riêng cá nhân mình thì rất trọng nể, tín nhiệm... Chúng hỏi có phải
những văn bản của mình đều do thầy viết ra không? Mình nói có cái mình phác ra ý
kiến cho thầy viết, có cái mình viết rồi đưa thầy góp ý kiến. Chúng lại hỏi sao
thầy có nhiều tên như vậy? Mình nói: Vũ Đình Long là tên cha mẹ đặt, Vũ Ngọc Nha
là tên thầy tự đặt, Hoàng Đức Nhã là tên mình đặt cho thầy theo họ của mình, còn
Hoàng Long là tên gia đình ông Diệm đặt khi thầy làm cố vấn cho Ngô Đình Nhu...
Cuối cùng, mình truy lại chúng, vì sao lại tới hỏi mình về thầy như vậy? Một
thằng trả lời, bọn hắn có nhiệm vụ tìm hiểu kỹ về những người có tiếng tăm trên
chính trường Việt Nam cộng hòa trong lúc đang tìm một giải pháp chính trị cho
Việt Nam. Mình nói: Một người như giáo sư Nhã cũng hiếm có! Chúng cảm ơn mình
rồi ra về. Qua cung cách bọn này thì trăm phần trăm là CIA. Thầy thấy sao?
-
Con muốn được nghe nhận định của cha trước.
- Mình thấy, một là, biết ta sắp
cho ra đời một đảng Công giáo rất lớn, nên Mỹ cho đi điều tra về người cầm đầu;
hai là, Thiệu thấy mình khác ý với nó, đứng về phía đối lập nên nó kiếm cách hại
thầy. Nó lo ta xây dựng lực lượng chính trị để gạt nó trong giải pháp chính trị
sắp tới nên nó vu cáo cho thầy điều gì đó, mượn tay CIA hãm hại. Thầy cần dò xét
và hết sức tỉnh thức!
- Con nhất trí với sự phân tích và phán đoán của cha.
Rõ ràng đang có những âm mưu nhắm vào những nhân vật đứng đầu phong trào Công
giáo. Trước là các cha, bây giờ thì với con. Có thể do Thiệu, như ý kiến cha.
Cũng có thể do chính CIA chủ động làm. Vì Nixon đang có quyết tâm bảo vệ Thiệu.
Nhưng cũng có thể do những phe phái, những phần tử đố kỵ, bầy trò vu cáo như
trước đây chúng đã làm, lần này chúng chuyển sang vu cáo chính trị để mượn tay
CIA hại con. Rồi đây mọi chuyện đều có thể xảy ra.
Cha Hoàng lo lắng:
-
Vậy mình có nên tổ chức sớm đại hội không?
- Con thấy lại cần phải xúc tiến
nhanh. Nếu mình lùi, nó biết mình sợ, càng làm tới. Chỉ có sức mạnh của toàn thể
giáo dân mới làm chúng chùn tay.
- Nhưng chúng sẽ dồn cả sự chú ý vào thầy?
- Chắc chắn như vậy. Không thể vì sự đe dọa đối với con mà ảnh hưởng tới
cuộc đấu tranh của cả giáo hội. Nếu con có mệnh hệ nào, thì sẽ có người khác
thay con. Dù có con hay không có con thì cũng phải tiến hành đại hội...
Hai
ngày sau đó, lại đến lượt cha Nhuận kể lại với Hai Long hai tên Mỹ đã tới nhà
thờ Phát Diệm gặp mình, hỏi về anh những điều đúng như chúng đã hỏi cha
Hoàng.
4.
5.
Trong tháng 5, sáu đảng phái chống Cộng
liên kết với nhau thành Mặt trận quốc gia dân chủ xã hội đứng về phe cầm quyền
(trong đó có lực lượng Đại đoàn kết của Nguyễn Gia Hiến và Việt Nam Nhân xã đảng
của Trương Công Cừu), do Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch.
Anh báo
tin mình được đề cử làm chủ tịch một đảng Công giáo lớn sắp thành lập. Hai vị
linh mục đều tỏ vẻ vui mừng, nói chủ trương này được đề ra rất đúng lúc.
Anh
nói tiếp:
- Thiệu lại lo mất ăn mất ngủ về hội nghị Midway! Thiệu hỏi tôi đi
liệu có trở về nữa không, hay là đi luôn như mấy ông tổng thống châu Phi?
-
Người bạn của O’Connor mỉm cười:
- Nói theo kiểu người Á châu thì Thiệu là
một con sư tử có trái tim của con chuột nhắt. Giáo sư nói cho Thiệu yên tâm, là
Nixon sẽ bảo vệ Thiệu như bảo vệ con đẻ của mình. Tại hội nghị sẽ không có gì
khác ngoài những điều chính Thiệu cũng đã biết. Nixon sẽ cụ thể hóa chủ thuyết
về Việt Nam của mình, là chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, đưa quân dội Việt
Nam cộng hòa làm nhiệm vụ chính trong chiến tranh thay thế cho quân Mỹ rút dần.
Mỹ sẽ cam kết tăng cường viện trợ kinh tế và trang bị cho quân lực Việt Nam cộng
hòa để đẩy mạnh công tác bình định. Tóm lại là giải quyết chiến tranh địa phương
bằng lực lượng bản xứ với cố vấn và viện trợ Mỹ...
Đã hai ngày Hai Long không
vào dinh. Anh nhờ cha Nhuận chuyển cho Thiệu bản cương lĩnh của Đoàn nghĩa sĩ
công lý Việt Nam. Thiệu đọc xong nhận xét: “Đoàn này giống như đảng Dân chủ
Thiên chúa giáo ở Tây Đức”. Thiệu nhắc anh hôm nay vào dinh để trao đổi về hội
nghị Midway.
Vợ Thiệu đã lo chuẩn bị cà phê, bánh ngọt và trái cây cho chồng
tiếp khách.
Thiệu ngước cao mặt hỏi Hai Long với vẻ vừa than vãn vừa tự
mãn:
- Anh giáo đã thăm dò giùm tôi cái hội nghị “nửa đường nửa đoạn” này là
cái gì chưa[3]? Hay là gặp gỡ giữa đường rồi “anh đi đàng anh, tôi đi đàng tôi,
tình nghĩa đôi ta có thế thôi!”[4].
- Theo tôi biết thì anh đi chuyến này sẽ
gặp nhiều thuận lợi...
Hai Long nói với Thiệu những điều mình đã nghe về nội
dung hội nghị.
Thiệu tươi tỉnh:
- Nghe anh nói, tôi cũng an lòng. Vừa
qua, nhờ mấy thầy coi tướng ông Nixon, thì đều nói đây là một tay gian hùng và
cuộc đời ông này còn gian truân lắm. Không biết mình cộng tác với ông ta liệu có
bền không?
- Không lâu bền thì cũng phải hết nhiệm kỳ bốn năm...
Cha
Nhuận nói:
- Ông giáo thường nắm tình hình không sai. Tổng thống cứ vững lòng
mà đi phó hội. Ở nhà, các cha sẽ cầu nguyện cho tổng thống...
Thiệu chỉ ở
Midway vài ngày. Khi trở về, vẻ mặt hớn hở. Y đưa những vật kỷ niệm đem từ hòn
đảo này về tặng cha Nhuận và Hai Long
Thiệu hí hửng khoe ngay:
- Nội dung
hội nghị không có gì khác ngoài những điều anh giáo đã dự đoán. Nhưng mình phải
giành cơ hội tốt để lấy điểm với Nixon, ăn thua là điểm cao hay thấp. Thấy trong
bản tuyên bố chung của Nixon dự thảo có câu “quân đội Mỹ rút lui”, tôi đề nghị
sửa là “quân đội Việt Nam cộng hòa sẽ thay thế quân Mỹ triệt thoái”. Như vậy là
quân đội ta đủ mạnh để thay thế quân đội Mỹ rất mạnh, ta thay thế quân Mỹ vì ta
đủ sức chứ không phải vì Mỹ thua mà phải rút lui. Nghe tôi lý giải, Nixon khoái
quá, xoa tay bằng lòng, rồi đứng ngay dậy bắt tay tôi để tán thưởng và cảm ơn
tôi. Thấy Nixon đắc ý với câu này, tôi mới ngoắc ông ta vào cái thế phải cam kết
tăng cường quân đội Việt Nam cộng hòa đủ sức mạnh thay thế quân đội Mỹ, không có
vấn đề liên hiệp với Cộng sản, hiến pháp của Việt Nam cộng hòa sẽ được tôn
trọng. Nixon cam kết ba điều này là phải giữ gìn tôi còn gì! Ông Nixon còn hứa
giúp đỡ về bình định và phát triển kinh tế.
Thiệu vui vẻ kể thêm vài câu
chuyện về cá tính của Nixon. Rồi y cho gọi viên thiếu tá Tôn Thất Ái Chiêu, một
người bà con được chọn làm cận vệ thân tín của Thiệu. Thiệu ghé tai Chiêu nói
nhỏ điều gì. Chiêu đi một lát rồi quay lại với hai bọc tiền lớn, mỗi bọc một
triệu đồng.
Thiệu nói với cha Nhuận và Hai Long:
- Để bày tỏ lòng biết ơn
Chúa và các cha đã cầu nguyện cho con, con có một số tiền nhỏ tiếp tục góp vào
việc xây dựng hai nhà thờ Phát Diệm và Bình An, xin cha nhận số tiền này và nhờ
ông giáo chuyển số tiền này cho cha Hoàng.
Đây là thói quen mỗi lần Thiệu
giành được một thắng lợi.
Hai Long gặp Bùi Diễm, người cùng đi hội nghị
Midway với Thiệu kiểm tra lại những điều Thiệu đã nói, rồi làm báo cáo gửi về
Trung tâm.
[2] Pierre
[3] Thiệu chơi chữ. Midway có nghĩa là “nửa đường”. Hòn
đảo này nằm giữa Thái Bình Dương.
[4] lời một bài hát
Hai Long gặp Khâm
sứ Palmas báo cáo về những nguy hiểm đang đe dọa mình. Anh nói sẽ không bao giờ
rút lui trước bạo lực, sẵn sàng đón các chết không kêu than như Nhu.
Khâm sứ
ân cần khuyên anh phải gắng bảo vệ tính mạng để tiếp tục phục vụ nhiều cho giáo
hội. Khâm sứ cũng trách anh vì sao không nhận sự bảo vệ của những vệ sĩ Côg giáo
như các cha đã đề nghị. Khâm sứ còn viện tất cả giáo lý, nhắc anh phải tỉnh
thức, không nên để mất sáng suốt. Ông nói:
- Biết trước có thể bị kẻ dữ mưu
hại mình, mà không tránh né để bảo vệ sinh mạng thì coi như là một ý nghĩ, một
hành động tự sát vậy!
Đối với tín đồ Thiên chúa giáo, tự sát là một trọng
tội.
Cha Hoàng cũng khuyên Hai Long giống như lời Khâm sứ. Ông bàn chuẩn bị
cho anh một số nơi ẩn náu kín đáo trong tu viện, khi cần có thể đưa anh tới ở đó
mà vẫn tiếp tục trao đổi được cùng mình công việc của giáo hội.
Cha Nhuận
chuyển cho Hai Long bức thư của linh mục Phan Thụ xứ Phát Diệm, khuyến cáo anh
xét lại thái độ nhiệt tình ủng hộ Thiệu là một kẻ không trung thực, hay lừa thầy
phản bạn. Cha Nhuận rất lo ngại cho Hai Long khó tránh được trường hợp của Nhu
hoặc cha Mai Hữu Khuê.
Ngày 22 tháng 6, Hai Long tới dự lễ khánh thành đài kỷ
niệm quốc tế tại đường Duy Tân. Sau buổi lễ, Nguyễn Văn Hướng lại gần, kéo anh
ra một chỗ vắng rỉ tai:
- Xin báo riêng anh biết là anh Trọng đang bị theo
dõi chặt chẽ, vì hình như có liên hệ với lực lượng thứ ba gì đó. Tôi tình cờ hay
chuyện này nên nói để anh dè chừng, lỡ công an nó gây lôi thôi rắc rối, phiền cả
tới các cha.
Hướng có vẻ chân tình. Anh làm ra ngạc nhiên:
- Không hiểu
tại sao lại có chuyện đó? Tôi rất cảm ơn anh có lòng tốt nói cho tôi biết để đề
phòng. Tôi vẫn đinh ninh anh Trọng là người của Mỹ!
- Từ hồi tháng 3, tôi đã
nhờ anh khuyên anh Trọng nên rời khỏi phủ tổng thống theo ý kiến của ông Thiệu,
cũng vì lý do đó anh à.
Ngày 29 tháng 6 là ngày lễ mừng thánh Paul và thánh
Pierre, thánh bổn mạng của cha Hoàng và của Hai Long. Các nhà thờ xứ đạo di cư
đều tổ chức lễ cầu nguyện cho cha Hoàng và Hai Long. Tại hai nhà thờ Phát Diệm,
Bình An, cha Nhuận và cha Hoàng đã cầu nguyện riêng cho Hai Long được “ơn chết
lành”, tức là trước khi chết không phải chịu phép giải tội, phép thêm sức, phép
xác mà vẫn được trong sạch, vô tội để Chúa đón hồn về Thiên đàng không qua trung
gian cầu xin của linh mục.
Cha Hoàng tổ chức tiệc mừng tại nhà thờ Bình An.
Một số người thân thiết được mời dự, như linh mục Trần Ngọc Nhuận, cha tuyên úy
bộ Tổng tham mưu Khổng Tiến Giác, người thường cùng cha Nhuận vào làm lễ tại
dinh Độc Lập, trung tá Nguyễn Ngọc Hoàn, công cán ủy viên Phủ tổng thống, Vũ
Ngọc Tuyến, chuyên viên về luật pháp của Phủ tổng thống. Từ sau ngày đi Mỹ về,
Tuyến bắt đầu gọi Hai Long bằng chú và xưng cháu, bày tỏ tình thân và sự kính
trọng.
Cha Hoàng và Hai Long đều nhận được nhiều quà mừng.
Cha Hoàng chủ
trì buổi tiệc. Sau những lời chúc tụng thường lệ, câu chuyện xoay sang những chủ
đề thời sự có liên quan tới sự an ninh của cha Hoàng và Hai Long.
Cha Khổng
Tiến Giác bỗng nói:
- Từ mấy tháng nay, tôi nghe công an xì xào là ông cố
vấn có dính líu với Việt Cộng.
Lời cha Giác có vẻ quan tâm, chân tình. Hai
Long đang chăm chú lắng nghe thì cha Hoàng lớn tiếng át đi:
- Cha tuyên úy
nói mà không cân nhắc,, suy nghĩ. Hiện nay có nhiều kẻ xấu đang cố tình vu khống
giáo hội, mưu hại các cha và chiên lành. Quân quỷ dữ Phi-la-tô mưu hại thánh
Phê-rô, ly gián Chúa với thánh Phê-rô... “Qui veut noyer son chien, l’accuse de
la rage!”[1]. Mỹ muốn giết Nhu nên đã phao lên là Nhu ngầm liên hệ với Bắc Việt!
Chỉ có điều là khi chúng đã tung ra dư luận như vậy thì càng phải tỉnh thức,
phòng ngừa.
Cha Giác đành phải ngồi im.
Hai Long nói:
- Sau vụ mưu sát
cha Mai Ngọc Khuê, sinh mệnh tôi và cha Hoàng sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách
từ bất kỳ đâu tới. Tôi chỉ cảm thấy buồn vì ông Thiệu thiếu trung tín trong quan
hệ bạn bè. Trình các cha và các ông xem qua đoạn thư này của linh mục De
Jaegher.
Hai Long đặt lá thư trên bàn trước mặt cha Giác. Cha Giác cầm lên
xem rồi chuyển cho cha Hoàng và Tuyến.
Cha Nhuận nói:
- Tôi muốn nhắc
thầy Hai Long lời khuyến cáo chí tình của cha Phan Thụ. Mấy cha đã điều tra gia
đình, họ hàng nhà Thiệu, thấy Thiệu gian manh, vong ân bội nghĩa, Thiệu đặt Đại
Việt lên trên giáo hội, có lẽ Thiệu là Tam điểm! Đã gần Thiệu thì phải hết sức
đề phòng...
Nhiều người khuyên Hai Long thận trọng giữ mình.
Cha Hoàng
bỗng thốt lên:
- Như lời cha Giác, công an xì xào mấy tháng nay thầy Nhã có
liên hệ với Việt Cộng, vậy là Việt Cộng không cao chạy xa bay, cứ ngồi mãi đây
để chờ nó tới bắt à?
Mọi ngươi đều bật cười.
Trung tá Hoàn nói:
- Con
ở phủ tổng thống chỉ nghe thấy xì xào về ông Trọng, tuyệt không nghe nói chi về
ông cố vấn. Tổng thống thì trước sau vẫn kính trọng và biệt đãi ông cố
vấn.
Tuyến phụ họa:
- Con thấy đúng như lời trung tá Hoàn. Tổng thống
cũng có những nhược điểm như các cha đã nhận định, nhưng cả hai ông bà tổng
thống đều trọng nể cái đức của ông cố vấn, coi ông cố vấn như người thân thiết
trong gia đình.
Mọi người đều tỏ ra quan tâm tâm tới sự an ninh của anh và
tin tưởng ở anh. Nhưng Hai Long chỉ thấy có câu nói của cha Giác là đáng chú ý.
Lần đầu anh được trực tiếp nghe nói bọn công an của Trần Văn Hai, có quan hệ rất
mật thiết với CIA, đã chú ý tới anh từ mấy tháng nay...
Truớc khi vào Phủ Đầu Rồng, Hai Long ghé qua Nha tuyên úy
Hải quân Mỹ. Hai ông linh mục không còn giữ vị trí quan trọng như hồi Johnson
đang tại chức. Nhưng họ vẫn là những người rất am tường mọi tin tức.
Sau buổi gặp
Thắng, anh cảm thấy lòng mình thanh thản. Hòe cũng đồng ý với anh tiếp tục cuộc
chơi, và sẽ chơi cho thật đẹp. Anh giũ được những lo âu, phấp phỏng để tập trung
hoàn toàn vào công việc. Đầu óc anh trở nên minh mẫn hơn.
Đầu tháng 7, Hai Long
quyết định vào gặp Thiệu. Thiệu đón anh không vồ vập, vẻ mặt có chiều không tự
nhiên.
Hai Long nói:
- Nhân ngày lễ thánh của cha Hoàng và tôi ở nhà thờ
Bình An cách đây ít hôm, tôi thấy có những điều cần thông báo và trao đổi với
anh.
Thiệu im lặng. Hai Long nói tiếp:
- Từ khi vào Phủ tổng thống, mặc
dù tôi cố gắng không lộ diện, đứng sau lưng anh để phò trợ anh, nhưng tôi vẫn
trở thành mục tiêu của nhiều mũi tên tẩm thuốc độc của những kẻ bắn lén. Tôi đã
có lần trao đổi với anh, nhưng bữa nay cần nêu lại vì kẻ xấu đã chuyển sang
chiến thuật mới. Chắc anh còn nhớ trước đây chúng chỉ vu cho tôi về lịch sử, như
nói tôi là con hoang, tôi mê dì phước Bỉ, tôi từ Pháp về, hoặc tôi là người của
phe này, phái nọ, nhằm ly gián giữa anh và tôi, cuối cùng là chúng vu cho tôi
lạm dụng tiền cứu trợ của giáo hội. Nhưng chúng đã thất bại, vì những điều như
vậy không đánh lừa được ai. Các cha và anh đều khuyên tôi, mặc chó cứ sủa, đoàn
người cứ tiến. Nhưng gần đây, chúng đã chuyển sang vu cáo tôi về chính trị. Các
cha vừa cho tôi biết, từ nhiều tháng nay, chúng tung tin ở bộ Tổng tham mưu và
nhiều nơi, tôi có liên hệ với Việt Cộng và hiện thời là đối tượng của công an.
Tôi muốn hỏi anh có nghe gì về những điều tương tự như vậy không?
Thiệu ngập
ngừng rồi đáp:
- Với anh, tôi nghĩ không có chuyện gì, nhưng tôi băn khoăn về
trường hợp của Bernard Trọng. Tôi sợ rằng những chuyện lôi thôi về anh Trọng đã
ảnh hưởng tới anh.
- Tôi quen biết ông Trọng chưa lâu. Người biết nhiều về
ông Trọng là cha Hoàng. Tôi gặp Trọng chính vì công việc cần cho anh. Theo tôi
hiểu, Bernard Trọng là người của Mỹ. Ta đang cần Mỹ nên ta không thể thiếu
Trọng. Anh đã thấy rõ Trọng giúp đỡ cho ta hữu hiệu thế nào khi ta cần tới sự
yểm trợ của Mỹ?
- Nhưng nếu bây giờ chính Mỹ đặt vấn đề với Trọng?
-
Cũng có thể như vậy, vì nội bộ Mỹ không khi nào thống nhất. Họ vẫn thường loại
trừ tay chân của nhau.
- Hay Trọng là agent doublé[2]?
- Của ai và của
ai?
- Của Mỹ và của... mình chẳng hạn.
Hai Long mỉm cười:
- Chả lẽ lại
như vậy?
Mặt Thiệu tiếp tục đăm chiêu. Hồi lâu Thiệu nói:
- Vấn đề của
Bernard Trọng phức tạp lắm! Song chuyện này anh để tôi lo. Khi cần tôi sẽ trao
đổi với anh.
Đã có một khúc ngoặt trong quan hệ giữa anh với Thiệu. Thiệu bắt
đầu có những cái không thể nói với anh. Và đây là điều chẳng lành.
6.
---
[1]
Paul
Chương 8
TRƯỚC CƠN DÔNG TỐ
1.
Anh đã duyệt lại
toàn bộ những hiện tượng và đi tới một nhận định dứt khoát: toàn bộ lưới đã bị
lộ một cách nghiêm trọng. Nguyên nhân có thể bắt đầu từ một vài sơ hở của họ khi
tham gia chiến đấu trong Tết Mậu Thân. Mật vụ đã theo dõi Thắng, đã giữ Thắng
khi anh tới Thị Nghè, đã bám theo Thắng và Năm Sang khi họ cùng đi với nhau.
Địch đã lần ra mối quan hệ giữa Thắng với Trọng, rồi từ Trọng với anh và Hòe.
Một sơ xuất lớn của anh trong thời gian vừa qua là đã đưa Thắng tới cha Nhuận,
sau đó Thắng đã gặp đặc ủy trung ương tình báo. Chúng đã ngầm theo dõi họ từ
lâu. Nhưng vì sao chúng chưa sập bẫy? Chúng không sợ bọn anh đào thoát ư? Điều
may mắn nhất là đồng chí cụm trưởng đã trở về cứ an toàn. Tại sao Thắng vẫn lọt
được vào bộ Chiêu hồi? Tại sao đường dây liên lạc với căn cứ vẫn thông suốt...?
Có thể vì cương vị của anh và của Trọng trong Phủ tổng thống, mối quan hệ của
anh và của Trọng với Tòa Khâm sứ, Tòa đại sứ Mỹ, các nhân vật Mỹ và giáo dân, đã
làm cho chúng phải e dè, cần chuẩn bị kỹ lưỡng thêm. Nhưng rồi bẫy vẫn phải sập
và ngày đó có thể không còn xa...
Cụm thông báo cho Hai Long về cách thực
hiện phương án 3, rút ra ngoài còn cứ khi anh nhận thấy cần thiết. Anh sẽ tới
hộp thư bà Nhiễm, bắt liên lạc với chị Tư Xung Phong để tới nhà anh Tư Tùng ở
Bình Dương; ở đây có nơi trú ẩn an toàn, anh Tư Tùng sẽ chịu trách nhiệm đưa tất
cả về căn cứ.
Thắng tới gặp Hai Long báo cáo kế hoạch tiến hành phương án 2,
diệt trừ bọn mật vụ đang trực tiếp đe dọa an toàn của lưới. Thắng được phân công
chuẩn bị và thực hiện kế hoạch. Thằng nói:
- Công việc chuẩn bị coi như
xong. Tôi đã điều tra chính xác nơi chúng thường nhậu nhẹt. Một cơ sở của ta sẽ
báo tin khi chúng tới đó vào buổi tối. “Cảnh sát” sẽ ập vào chìa “giấy tờ”, bắt
chúng ra xe và đưa đi. Bọn chúng đã nhiều lần bị bắt, nên chúng sẽ không nghi
ngờ, sẽ thủ tiêu bọn chúng trên dọc đường. Sắc phục cảnh sát, xe hơi, giấy tờ đã
có đủ. Thực hiện nhiệm vụ này là một tổ biệt động gan dạ. Anh Hai đã bật đèn
xanh, chúng tôi sẽ cho nổ trong một vài ngày sắp tới!
Anh biết Thắng bỏ vào
đây rất nhiều công sức. Anh trầm ngâm một lát, rồi hỏi:
- Mấy ngày nay anh
có phát hiện đuôi không?
- Phải khéo lắm mới rời khỏi nhà mà không bị chúng
bám theo. Cũng may là tôi đã vào làm việc ở bộ Chiêu hồi, nên có cớ đi lại để
đánh lừa bọn chúng.
- Chúng đã bám anh Trọng từ lâu. Gần đây tới lượt tôi và
anh Hòe cũng bị bám.
- Phải làm gấp thôi!
- Nhưng liệu diệt một, hai
thằng có giải quyết được vấn đề không, hay là lại “lạy ông tôi ở bụi này”?
Họ ngồi im lặng. Rồi Hai Long nói:
- Chúng đã nghi ngờ và có kế hoạch
theo dõi ta từ lâu. Những tài liệu về chúng ta không chỉ còn nằm trong tay một
vài tên mật vụ. Chúng chưa sập bẫy vì phải đợi thu thêm những bằng chứng cụ thể.
Nếu bây giờ một vài tên phát giác bị thủ tiêu, thì chúng phải nghĩ ngay việc này
do ta làm và từ dó sẽ dẫn đến kết luận mọi nghi vấn về ta là đúng! Ta cần hủy bỏ
phương án này.
- Nếu vậy thì chỉ còn phương án 3?
- Cụm đã gửi cho ta kế
hoạch cụ thể.
Hai Long đưa Thắng xem thư mới của cụm trưởng.
Thắng đọc
rồi ngồi bần thần với mảnh giấy trong tay:
- Tiếp tục làm nhất định sẽ bị
bắt... Nhưng xây dựng nên cơ đồ như thế nầy mà quăng đi cả chạy lấy người thì
tiếc quá anh Hai!
- Rút ra lúc nào Cụm dành quyền cho ta tự quyết định. Rút
êm chắc không có gì khó. Mình đang bị chúng bám sát, nhưng không phải không thể
đánh lừa chúng để về tới Bình Dương. Chỉ còn hai cách. Một là tiếp tục cuộc
chơi. Ta sẽ tiếp tục chui rất nhanh, rất sâu vào trong bình quý, nếu chúng muốn
lôi ta ra thì phải đập bể bình. Hai là rút lẹ, chấm dứt cuộc chơi. Nhưng tôi
nghĩ rút bây giờ không phải là chưa muộn, mà hơi sớm một chút.
- Như vậy có
khác chi chưa đánh đã bỏ chạy!
Hai Long biết mình đã đụng vào tự ái nghề
nghiệp của bạn. Trong cuộc chiến đấu với kẻ địch trên mặt trận này, những người
chiến sĩ với bề ngoài khiêm tốn, đôi khi nhẫn nhục như anh và Thắng đều mang
trong lòng một sự tự ái rất cao.
- Có nghĩa là vẫn tiếp tục cuộc chơi?
-
Tiếp tục chơi cho tới thắng cuộc hoặc không còn mảnh giáp, anh Hai đồng ý với
Thắng chớ. Với lại có bị bắt thì đâu phải lần đầu!
- Sẽ cố gắng không để lọt
vào tay chúng. Và nếu có lọt vào tay chúng thì ta cũng không chịu kết thúc cuộc
chơi. Mình đã có kinh nghiệm lại càng phải chơi cho thật đẹp.
Họ nhìn nhau
rồi cùng nhoẻn miệng cười. Họ đã giải thoát được cái ý nghĩ đau xót nếu giờ đây
phải rời khỏi cuộc chiến đấu như một kẻ bại trận.
2.
3.
Sau hội
nghị Midway, Thiệu cảm thấy không còn những việc khẩn trương, nên không yêu cầu
sự có mặt hàng ngày của Hai Long ở Phủ tổng thống.
- Con cảm thấy cha bữa nay
không được bằng an? - Hai Long nói.
Ông rút từ trong túi ra một cuốn băng ghi
âm đưa Hai Long, chằm chằm nhìn anh rồi bảo:
- Thầy đem về chuyển ngay sang
một băng mới, rồi đem trả lại tôi.
Gia đình Hai Long không có máy cát-xét.
Anh đưa cuốn băng cho Hòe, nhờ Hòe nghe rồi thu lại cho mình... Vài giờ sau, Hòe
mang lại hai cuốn băng:
- Tôi đã nghe kỹ hai lần, không hiểu băng ghi cái
chi! Chỉ thấy những tiếng rào rào, rè rè, thỉnh thoảng xen những tiếng như gõ
trùng thiếc, và tiếng nhạc, tiếng đài phát thanh. Nhứt là máy thu của người thu
băng bị hư, hai là, người thu không nắm được kỹ thuật. Nhưng tôi cứ sang thêm
một băng như lời anh dặn.
Hai Long đem trả cuốn băng cho cha Nhuận nói lại
như những lời của Hòe.
Cha Nhuận chăm chú nhìn anh với vẻ ngạc nhiên:
-
Thầy thấy không có gì ư?
- Con đã nghe kỹ không hiểu là cái gì. Cha xem có
đưa lộn cho con không, vì đây là một cuốn băng thu hỏng?
Ánh mắt cha Nhuận
lộ vẻ mừng rỡ:
- Không lộn đâu! Như vậy thì không có chuyện chi.
- Thưa
cha, từ đâu có cuốn băng này?
- Có người đưa tôi, bảo cho thầy nghe vì tưởng
có liên quan tới thầy. Nhưng không có thì thôi...
Cha vui vẻ chuyển qua
chuyện khác.
Khi mới nhận cuốn băng, anh đồ chừng nó chứa đựng một điều gì
rất quan trọng. Ý kiến của Hòe làm anh yên lòng, Hòe vốn là người cẩn thận.
Nhưng anh vẫn phân vân không biết ai đưa cho cha Nhuận cuốn băng, và vì sao ông
lại chuyển cho anh. Anh không tiện gặng hỏi thêm, cha tỏ ra không muốn nói, và
nó cũng không liên quan gì tới anh. Không bao lâu nữa anh sẽ hiểu cuốn băng
không chỉ liên quan tới anh, mà còn quan hệ tới vận mệnh cả lưới.
Những lần
gặp Thiệu sau đó, Hai Long thấy y vui vẻ, tự nhiên hơn. Tuy vậy, đôi lúc anh vẫn
cảm thấy ở y có cái gì khó hiểu. Một lần, Thiệu hỏi:
- Anh giáo nè, anh thăm
dò các cha Mỹ xem, hay là thằng Mỹ nó sắp định chơi tôi.
- Anh thấy có hiện
tượng gì?
Thiệu ngập ngừng rồi nói:
- Không lý giải được, linh tính báo
cho tôi như vậy.
- Nhiều khi linh tính rất đúng. Không riêng anh, tôi cũng
cảm thấy đang có những kẻ muốn hại mình. Các cha đều khuyên tôi cần tỉnh thức,
và đã bố trí cho tôi cả một đội vệ sĩ, nhưng tôi kiên quyết khước từ. Thậm chí
có người khuyên tôi tạm lánh đi một thời gian! Nhưng anh bảo làm như vậy làm
chi, nếu đó đã là ý Chúa? Tôi thưa với các cha, tôi sẵn sàng đón tiếp mọi thử
thách bất cứ từ đâu tới.
- Cha Nhuận và cha Giác cũng đã nói điều đó với
tôi.
- Nhờ vậy mà tôi cảm thấy trong lòng bằng an. Có sao cũng chỉ là về với
Chúa!... Nhưng vấn đề anh vừa nêu, tôi sẽ thăm dò gấp mấy cha Mỹ...
Hai Long
thuật lại lời của Thiệu với O’Connor. Ông linh mục Mỹ mỉm cười:
- Hội nghị 4
bên đã bắt đầu rồi. Thiệu lại mới tuyên bố ủng hộ đề nghị hòa bình 8 điểm của
Nixon. Giáo sư nói cho Thiệu cứ yên tâm, chừng nào còn Nixon thì còn Thiệu. Đe
dọa sự tồn tại của Thiệu từ nay trở đi không phải là ở phía Mỹ, mà từ phía bên
kia. Thiệu không củng cố chính quyền và quân đội cho tốt, thì chính đồng bào
Thiệu sẽ loại bỏ Thiệu.
Hai Long nói:
- Thiệu thiếu rất nhiều phẩm chất
để trở thành một lãnh tụ xứng đáng trong tình thế hiện thời. Ngay đối với Diệm,
Nhu là những người đã bị Mỹ loại bỏ, Thiệu cũng không thể nào so sánh được. Qua
mấy năm cầm quyền, Thiệu không tạo được sự hấp dẫn nào với dân chúng. Tôi cũng
nghĩ, với Nixon, Thiệu đang có điều kiện để tồn tại. Nhưng là người đỡ đầu của
Thiệu, tôi lại linh cảm thấy hơn bao giờ hết, sinh mệnh của mình đang bị đe dọa.
Thiệu thường xuyên sợ hãi vì Thiệu luôn nghĩ tới quyền lợi, địa vị của mình. Tôi
không phải bận tâm tới những cái đó nên tôi không lo lắng. Vì tôi giữ được đức
tin. Nhưng linh cảm của tôi thường ít khi sai. Cha có điều chi chỉ dẫn cho tôi
không?
O’Connor trầm ngâm một hồi, rồi nói giọng tâm tình:
- Tôi đã có
lần nói với thầy, chính trường Sài Gòn phức tạp lắm, đầy rẫy những cạm bẫy của
CIA, của Pháp, của Cộng sản. Chỉ cần thiếu khôn lanh, cương nghị một chút là rất
dễ sa vào, gỡ không ra như con ruồi sa lưới nhện. Riêng tôi rất tin tưởng thầy
là con người có đủ đức tính để vượt qua những thử thách.
Anh nghĩ có thể
O’Connor không nắm được gì về những nguy hiểm đang chờ đợi
mình.
Cha Nhuận gặp Hai Long, vẻ mặt bần thần rũ rượi. Từ ngày anh biết
ông tới giờ, chưa lúc nào ông có thần sắc như vậy.
Hai Long chỉ đạo
lưới triệt để thực hiện những quy tắc bí mật, đề phòng địch sử dụng những dụng
cụ nghe trộm và thu hình, đồng thời tiếp tục “chui sâu vào bình quý”. Mọi người
vẫn đi làm như thường lệ. Hai Long tiếp tục tới Tòa Khâm sứ, Tòa Tổng giám mục
và Phủ Đầu Rồng. Anh hối thúc cha Hoàng chuẩn bị tổ chức đại hội Đoàn nghĩa sĩ
công lý.
Sáng chủ nhật 13 tháng 7, Hòe lái xe đưa anh vào Bình An.
Dọc
đường, Hòe phát hiện qua kính chiếu hậu một chiếc xe bám theo. Từ vài hôm nay,
Hướng và một người bạn Mỹ đã nhắc anh cẩn thận vì có thể bị CIA gây khó dễ. Anh
không hiểu tại sao chúng vẫn chưa bắt đầu. Đến nhà thờ Bình An, Hòe ngồi ở phía
ngoài cảnh giới.
Cha Hoàng cho Hai Long biết, Hướng nhắn vào, cần gặp anh
ngay. Lát sau, Phạm Hiếu Thuận, bí thư của cha Hoàng, lại chạy vào nói:
- ông
Hướng vừa gọi điện thoại nói có việc rất gấp, muốn gặp ngay ông giáo để trao
đổi.
Hai Long hẹn cha Hoàng, ngày hôm sau vào Sài Gòn cùng anh tới Tòa Khâm
sứ chào tiễn biệt khâm sứ Palmas sắp kết thúc nhiệm kỳ trở về Vatican, rồi cáo
từ.
Hòe ngồi đợi ở một nhà dân trước cửa nhà thờ, chờ anh tới gần, nói nhỏ:
- Một thằng Mỹ bám theo ta, anh Hai à. Khi xe qua đây, hắn nhìn vô nhà thờ.
Hắn đậu xe ở cuối đường, đi bộ lên đây, không biết tôi ngồi bên này, hắn đảo một
vòng quanh nhà thờ, rồi quay lại xe ngồi đợi. Xe mình đi chắc nó lại bám
theo.
- Quay về nhà anh. Ta làm như không biết, để mặc nó bám. Ở quãng đường
vắng, không cho nó vượt lên. Nếu nó cố tình vượt qua thì khi đó phải đề
phòng.
- Không dễ gì vượt qua được tôi. Có cần cắt đuôi không anh?
-
Không cần. Ta cứ đi cho thật đàng hoàng.
Hai người điềm nhiên lên xe chạy về
Sài Gòn. Chiếc xe mượn của Trọng đã được che rèm phía sau và lắp thêm một kính
chiếu hậu bên ngoài. Họ thấy tên Mỹ bám theo với một cự ly không thay
đổi.
Hai Long hiểu mình không còn bao nhiêu thời gian. CIA đã công khai vào
cuộc.
Xe dừng lại trước cửa nhà Hòe. Họ vào nhà thì thấy chiếc xe của tên Mỹ
phóng ngang rồi mất hút.
Hai Long ngỡ ngàng khi nhìn thấy người đàn bà mặc áo
dài màu lam, đang ngồi nói chuyện với vợ Hòe, là Tú Uyên. Chị bất thần xuất
hiện, bộ mặt xanh xao, lo âu, báo hiệu một chuyện chẳng lành.
Tủ Uyên nghiêng
đầu chào anh và Hòe. Hòe rảo bước lại bên chiếc tủ ly, mở máy cát-xét. Một bản
nhạc vang lên với những âm thanh chát chúa. Bản nhạc được dùng khi họ có những
chuyện cần trao đổi riêng. Chị Hòe đứng dậy. Hai Long hỏi nhỏ chị:
- Ngoài
kia có ai không?
Chị lắc đầu.
- Nếu chúng tới, chị cho tôi hay nhé.
Hai vợ chồng Hòe cùng ra nhà ngoài, để lại Hai Long và Tú Uyên trong căn
phòng ầm ĩ tiếng nhạc.
- Em xanh quá!
Tú Uyên không đáp lại lời thăm của
anh, hỏi luôn:
- Anh đã biết chuyện gì chưa?
Anh không trả lời, nhìn
chị, chờ chị nói tiếp:
- Anh vô tình quá!
Lời trách của chị không chỉ
liên quan tới sự thờ ơ đối với an ninh của mình. Lòng anh chợt nao lên. Mình vẫn
chưa có được dòng máu lạnh cần thiết đối với nghề nghiệp! Hơn bao giờ hết, anh
hiểu những tình cảm của chị đối với mình. Những tình cảm đó đã tăng lên khi chị
biết anh là người của phía bên kia. Anh không chiến đấu cô độc. Chỉ sự có mặt
của chị ở đây hôm nay cũng là một an ủi lớn đối với những hiểm nguy mà anh sẽ
phải chịu đựng. Anh tránh cặp mắt hờn dỗi của chị.
Chị tự chế ngự, nói với
một giọng bình tĩnh hơn:
- Em đã báo cho anh từ lâu... Họ sắp bắt anh rồi!
Tá Đen vừa nói với chồng em tối qua.
- Cảm ơn em. Anh đã biết những mối nguy
hiểm đang đe dọa mình.
- Anh cần rời khỏi Sài Gòn ngay.
Chị đứng dậy như
để thúc giục anh thời gian rất cấp bách.
- Vĩnh biệt anh. Cầu Chúa che chở
cho anh.
Anh hỏi chị:
- Em tới đây bằng gì?
- Em đi xe buýt.
- Anh
sẽ nói với chị Hòe cùng đi với em ra chợ Tân Định. Hai chị em mua bán chút gì,
rồi em trở về nhà. Như vậy an toàn hơn. Đề phòng quanh đây có kẻ theo
dõi.
Anh sẽ không tha thứ cho mình nếu vì anh mà chị bị chúng bắt.
Chị
Hòe cầm ra một chiếc làn. Tú Uyên ngước cặp mắt nhìn anh trước khi lặng lẽ rời
khỏi nhà. Anh nghĩ tới cặp mắt của Đức Mẹ. Sẽ không bao giờ anh quên cái nhìn
đó.
Hòe cũng nhận ra ánh mát ấy, và thấy đồng chí trưởng lưới vừa trải qua
những giây phút xúc động. Thì ra anh cũng có những chuyện riêng trong đời sống
tình cảm như nhiều người. Cái gì đã làm anh phải hy sinh một người đàn bà đẹp và
tốt như chị ấy? Vào giờ phút này, anh ấy cũng giống như mọi người. Nhưng Hòe
càng thấy trọng nể và thân thiết với anh hơn.
- Giờ sắp điểm! - Hai Long nói.
- Tôi cũng nghĩ vậy.
- Chúng sẽ không rời mắt khỏi mình. Anh đã xong
xuôi cả chưa?
- Lâu rồi. Làm đúng như lời anh Hai nói: chỉ cho chúng thu
được những cái chi mà mình cần cho chúng biết.
- Tôi nhắc lại lần nữa: Nếu
tôi bị bắt, ngoài việc báo cho tổ chức, anh tin ngay cho cha Hoàng và cha Nhuận
biết. Nếu anh cũng bị bắt, khi chúng đưa ra những bằng chứng quá cụ thể, thì anh
cứ khai cho tôi, coi như mọi việc anh làm là giúp cho một lãnh tụ Thiên chúa
giáo, một cố vấn của tổng thống. Với anh Trọng, ta không ngại vì ta chưa bao giờ
nói với anh Trọng ta là ai... Ta lại sẵn sàng chịu đựng.
- Tôi không muốn kết
thúc sớm như thế này. Nhưng nếu buộc phải kết thúc thì cũng không có gì ân
hận.
- Trừ phi bị chúng thủ tiêu, chứ còn sống thì cuộc chơi của chúng mình
chưa kết thúc. Đây là trận đấu giữa lưới ta với CIA. Không phải ta đã hết cả
những lá bài. Ta sẽ chơi cho thật đẹp.
Một bức điện tối khẩn của Trung tâm
chờ anh ở nhà: “Đồng ý phương án X. Vòng vây đã siết chặt. Nhiều nguy cơ bị bắt.
Tuyệt đối tránh để địch bắt cóc hoặc thủ tiêu. Chúng tôi luôn ở bên các đồng
chí”.
4.
5.
Những tên lạ mặt luôn lảng vảng theo dõi Hai Long, Hòe,
Thắng và Trọng khi họ ở nhà cũng như đi tới bất cứ đâu. Quan hệ giữa Thắng và
Hai Long phải tiến hành qua hộp thư. Chị Hai cũng nhận thấy có kẻ bám theo mình
mỗi lần đi ra ngoài. Riêng bé Liên chưa bị chúng nghi ngờ.
Lòng anh thanh thản. Mọi công tác chuẩn bị đã xong. Anh không bỏ anh
em chí cốt ở lại chiến trường, cũng không rời đối tượng, kiên quyết bám chắc địa
bàn. Anh làm thêm báo cáo bổ sung về hội nghị Midway, kế hoạch chiến lược Việt
Nam hóa chiến tranh, chương trình bình định và kế hoạch bình định. Anh cố gắng
dốc trọn những hiểu biết của mình với ý nghĩ đây có thể là những bản báo cáo
cuối cùng. Mấy ngày qua, anh không vào Phủ tổng thống và cũng không thấy Thiệu
mời. Anh nghĩ mình phải đề phòng trường hợp bị bắt cóc hoặc bị thủ tiêu ngay tại
Phủ tổng thống, vì Hòe đã rời khỏi đây.
Chị Hòe lại cho biết thêm, theo lời
một người bà con là Phan Thụy Dung, làm trưởng phòng chiến dịch JUSPAO[3] ở Tòa
đại sứ Mỹ, thì CIA phát giác một Việt cộng nằm vùng tại Phủ tổng thống, sắp cho
bắt. Nhưng tại sao chuyện đã lộ liễu đến mức này mà chúng vẫn chưa động thủ?
Tình hình chính trị của ngụy quyền chưa cho phép chúng làm việc đó ư? Hay chúng
cố tình tung tin đẩy bọn anh tháo chạy để bắt trên dọc đường, phát hiện tiếp
đường dây giao liên của ta, và sẽ thủ tiêu họ một cách êm thấm như trước đây
chúng đã làm đối với một vài trường hợp nghi vấn?
Thứ tư, 16 tháng 7, Hai
Long cùng cha Hoàng và cha Nhuận duyệt lại chương trình tổ chức đại hội Đoàn
nghĩa sĩ công lý.
Hai Long nói:
- Ngày đại hội càng tới gần, CIA càng cho
người bám sát con không rời nửa bước. Bạn hữu Mỹ, Việt Nam nhiều người gặp con
khuyên đề phòng âm mưu sát hại của CIA.
Cha Nhuận lo lắng:
- CIA sẽ phá
Đoàn nghĩa sĩ công lý như phá đảng Cần lao - Nhân vị trước đây. Tôi đề nghị hoãn
đại hội lại một thời gian, chờ tình hình êm đi rồi sẽ tính.
- Đảng mới của
Công giáo ta phải ra đời là do yêu cầu đấu tranh chính trị. Nếu bây giờ vì khó
khăn chính trị mà hoãn lại, tránh sao khỏi dư luận bất lợi cho việc ta sắp làm!
Càng khó khăn ta lại càng phải kiên quyết tiến hành đại hội đúng như dự định,
như thế mới mang lại sự tin tưởng lớn cho giáo dân và dân chúng miền Nam.
Cha
Hoàng nói:
- Đã làm chính trị thì phải kiên quyết. Tôi đồng ý với thầy Nhã
không lui đại hội, chỉ có điều càng phải tỉnh thức hơn. Để giảm bớt sự hăm dọa
đang nhằm vào thầy Nhã, thầy nên lấy cớ cần tĩnh tâm dọn mình, lánh vào tu viện
một thời gian làm thất bại những mưu toan của kẻ ác. Như vậy vẹn cả đôi đàng,
vừa chuẩn bị được cho đại hội, vừa đảm bảo an toàn.
- Con từ xưa tới nay đi
không giấu mặt, nói không giấu tên, bây giờ trước những lời đe dọa, bỗng dưng
lánh mặt, chắc chẳng tránh khỏi dư luận đàm tiếu là trước sau không nhất quán,
con người không đàng hoàng. Chúa Giê-su biết trước mình sẽ bị sát hại, còn họp
các môn đệ nói rằng: “Giờ sắp điểm!”. Các cha cho con noi gương Chúa. Dù con và
cha Hoàng có thế nào đi chăng nữa, xin cha Nhuận vẫn cứ tiến hành đại
hội.
Hai vị linh mục khuyên Hai Long không được, đành phải thuận theo ý
anh.
Chiều thứ năm, 17 tháng 7, Hai Long rủ cha Hoàng tới Tòa Khâm sứ chào
Henri Lemaitre mới sang nhậm chức Khâm sứ Tòa thánh thay Angelo Palmas. Cha Khâm
sứ tiếp Hai Long rất vui vẻ. Ông nói tuy mới gặp nhưng đã nghe nói về anh nhiều
ở Vatican, và đặc biệt là qua lời giới thiệu của giám mục Palmas. Khâm sứ mong
rằng anh sẽ tiếp tục gắn bó mật thiết với Tòa Khâm như trước đây.
Anh về nhà
làm công việc cuối cùng trong ngày, đưa bản báo cáo thường lệ mỗi tuần hai lần,
cho bé Liên chuyển tới hộp thư.
Tối hôm đó, anh ngủ một giấc thanh thản. Anh
không biết là mình sẽ không được ngủ trọn vẹn hết đêm nay.
[2] gián diệp đôi
[3] Joint US
Public Affairs Office
Với ngoài 20 năm trong
nghề, y hiểu từng tế bào mục ruỗng của CIA. Y biết những mưu đồ tàn bạo, những
thủ đoạn gian manh, cũng như tính kém hữu hiệu của cái tổ chức đã phá hoại rất
nhiều tiền của và thanh danh nước Mỹ. Khi còn một ít năm nữa sẽ được về hưu, thì
người ta đưa y tới nơi nước sôi lửa bỏng này mà nhiều bạn bè y đã ngán ngẩm bỏ
cuộc. Một công vụ chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành để kết thúc cuộc đời nghề
nghiệp đầy rẫy những “sự lừa dối khủng khiếp”[1].
McGahee tới Sài Gòn vào
tháng 10-1968, khi Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã hiểu không thể dùng sức mạnh quân
sự để giành chiến thắng ở Việt Nam. Các bạn đồng nghiệp của y tại đây, với trên
chục ngàn cộng tác viên, đã khẳng định thêm một lần nữa những gì đã trở thành
thuộc tính của CIA. Không nhân viên CIA nào lọt được vào một cơ quan đầu não của
đối phương, kể cả ở cấp tỉnh. Họ không bao giờ nắm được một chủ trương chiến
lược quan trọng. Một ví dụ gần nhất là cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân.
Y
càng chán ngán khi thấy Sài Gòn đã khác hẳn 8 năm trước khi y tới đây lần đầu. Y
còn giữ trong ký ức một thành phố yên tĩnh, êm đềm với những người phụ nữ mặc áo
dài tha thướt, hương thơm của những chợ hoa, những trái cây nhiệt đới, kể cả
những món ăn ngon với đồ gia vị Á đông, đã tạo cho nó một bầu không khí lôi cuốn
huyền diệu. Sài Gòn ngột ngạt những người tị nạn chiến tranh từ nông thôn đổ
vào. Những cô gái đã chuyển sang mặc áo cộc tay và váy ngắn. Đúng hơn, nó đã trở
thành một trại lính. Đi tới đâu cũng gặp lính Mỹ và lính Việt quần áo lôi thôi
lếch thếch, và nhức óc vì những chiếc xe tải nhà binh đầy bụi đất phóng với tốc
độ rợn người.
Đêm đêm, y ngồi trơ trọi trong căn phòng của một tòa biệt thự ở
gần Sài Gòn. Những bức tường quét vôi vàng xỉn. Bức tranh tĩnh vật vẽ mấy bông
hoa chẳng mấy tự nhiên. Đồ đạc nghèo nàn, với chiếc bàn gỗ ghép, mấy chiếc ghế
đệm và một cái đi-văng. Cái giá sách trống trơn. Chiếc cát-xét lặp đi lặp lại
không biết bao nhiêu lần bài hát “Thế giới mới đẹp làm sao” và bản nhạc “Ngày
tận thế” từ một băng nhạc của người chủ cũ để lại.
Hàng tuần, y soạn báo cáo
gửi về chi nhánh CIA ở Sài Gòn, có khi còn gửi cả về tổng hành dinh CIA. Y viết
những điều rút ra từ đống tài liệu do những điệp viên cung cấp, mà y biết phần
lớn là dối trá. Thoạt đầu, y đọc một cách lơ đãng những báo cáo của bộ phận phản
gián về một chiến dịch họ đã tiến hành từ nhiều tháng, được dặt tên là “Địa
Lôi”, nhằm phát hiện một mạng lưới gián điệp Bắc Việt Nam lọt vào tận giới chóp
bu của chính phủ Thiệu. Nhưng rồi trong đám giấy tờ đầy rối rắm, với nhiều tác
giả rất kém văn hóa, con sói già bỗng thấy hơi hướng của con mồi. Một số báo cáo
khẳng định Huỳnh Văn Trọng, phụ tá đặc biệt của tổng thống Thiệu, là điệp viên
Cộng sản! Có những báo cáo lại nhấn mạnh Trọng chỉ là một nhân vật tương đối
mới, và hoàn toàn không phải là nhân vật chính. Cầm đầu mạng lưới là Vũ Ngọc
Nhạ, một nhà hoạt động Công giáo đáng kính trọng, cố vấn đặc biệt của tổng thống
Thiệu, và cũng là bạn thân của ông ta. Một số báo cáo khác khẵng định nhiều nhân
vật tai to mặt lớn và nhiều sĩ quan quân đội cũng đang làm việc cho Việt Cộng.
McGahee dần dần lần ra được một đường dây.
Y thuyết phục người bạn đồng
nghiệp của mình là Herman[2] phải ra tay. Tính chất nghiêm trọng của vụ án làm
Herman run. Y bàn chùn:
- Theo mình thì nên chờ đợi một cách khôn
ngoan.
- Vụ này đã rõ, nếu không làm sớm sẽ tuột khỏi tay.
- Có thể là một
vụ khiêu khích của Cộng sản! Cậu thử hình dung chuyện gì sẽ xảy ra nếu cảnh sát
đặc biệt bắt các nhân vật cao cấp đó, sau mới vỡ lẽ là họ vô tội? Chuyện đó sẽ
gây phản ứng ra sao ở đây và bên nước Mỹ chúng ta? Huỳnh Văn Trọng vừa qua thăm
Mỹ. Ông ta đã gặp gỡ những đại biểu quốc hội và cả những nhà lãnh đạo cơ quan an
ninh của ta. Không, cần phải rất thận trọng. Biện pháp đầu tiên tốt nhất là hãy
gửi một bức điện về tổng hành dinh xem phản ứng ra sao...
Langley[3] phản ứng một cách
rất khó chịu khi nhận được bản báo cáo đầu tiên của McGahee. Đúng như Herman dự
đoán, tổng hành dinh bảo nên dẹp chuyện đó lại. Con sói già tiếp tục đề đạt.
Langley
nói: “Chắc là Cộng sản khéo đánh lừa, chớ có vội vàng đưa ra những biện pháp
quyết liệt”. McGahee vẫn kiên trì không chịu lui. Cuối cùng, Langley đồng ý một
cách miễn cưỡng cho phép kết thúc chiến dịch “Địa Lôi” với những lời đe dọa
không lấy gì là làm kín đáo.
Từ trung tuần tháng Chạp năm 1968, CIA đặt vấn đề với
Thiệu là có một lưới điệp viên của Trung ương tình báo Bắc Việt nằm trong Phủ
tổng thống. Thiệu gọi Trần Văn Hai, giám đốc Tổng nha cảnh sát quốc gia, tới
phúc trình về chuyện này. Hai báo cáo nhiều tháng nay, cơ quan an ninh đã theo
dõi Thắng, một phần tử bị bắt giữ nhiều lần vì tình nghi là điệp viên cộng sản,
thấy những dấu hiệu Thắng đang tiếp tục làm việc cho tình báo Bắc Việt, và Thắng
có liên hệ rất mật thiết với phụ tá Phủ tổng thống Huỳnh Văn Trọng. Thắng thường
đi lại với một người là “anh Tư”, có thể là từ mật khu xuống. Trọng cũng có quan
hệ với Tư qua trung gian của Thắng. Chính Thắng đã yêu cầu, thuyết phục cha Trần
Ngọc Nhuận kiến nghị lên tổng thống làm tê liệt bọn mật vụ Cần lao cũ đang giúp
việc đắc lực cho CIA. Huỳnh Văn Trọng được nhận xét là trong quá khứ đã có những
hoạt động cơ hội và hoạt đầu. Cơ quan an ninh đã tiến hành những biện pháp quan
sát chặt chẽ các phần tử nghi vấn.
Thiệu biết hoạt động này do CIA trực tiếp
chỉ đạo. Ngay sau đó, CIA thường xuyên cung cấp cho cho Thiệu những báo cáo về
vụ này. Danh sách những người bị nghi vấn có liên quan ngày càng nhiều, và trở
nên rối mù. Nguyễn Văn Hướng cũng bị nghi ngờ. Nhưng Thiệu chỉ bàng hoàng thực
sự khi thấy “ông giáo” xuất hiện trong danh sách.
Đơn vị S2/B thuộc khối
cảnh sát đặc biệt ráo riết tiến hành kế hoạch đưa mật viên vào những nơi có phần
tử bị tình nghi đang làm việc. Cho mật viên bám sát, theo dõi, thiết lập hệ
thống giám thị những cuộc tiếp xúc, những quan hệ của những đối tượng, sưu tầm
bằng chứng, sử dụng các dụng cụ điện tử thính thị và máy “khám phá nói
dối”.
Bọn mật vụ bỏ khá nhiều tiền thuê một ngôi nhà tiếp giáp với nơi Thắng
ở tại đường Bạch Đằng. Đây là nơi điều hành việc kiểm thính. Một máy thu phát
tin điện tử Mercury bỏ túi, có khả năng hoạt động liên tục 33 ngày đêm, được đặt
giấu trong phòng khách nhà Thắng. Trong quá trình theo dõi, xảy ra một sự cố.
Tên mật vụ được trao nhiệm vụ đặt máy nghe trộm, dính vào một vụ án mạng. Hắn
giết một bà già, đoạt một số nữ trang rồi bỏ trốn. Người chủ ngôi nhà tới trình
cảnh sát hiện tượng mờ ám của người thuê nhà. Ông ta nhận thấy lúc nào y cũng
đóng kín cửa không bao giờ nấu ăn, và lặng lẽ làm một việc gì bên trong. Báo chí
đã đánh hơi thấy chuyện này. Kế hoạch theo dõi có thể vì đó mà vỡ lở. Toàn thể
cơ cấu cảnh sát đặc biệt được báo động để đối phó. Chúng tung người đi ráo riết
lùng bắt tên mật vụ. Hắn hoảng sợ, phải ra trình diện. Chúng quyết định thủ tiêu
hắn trong nhà giam. Cảnh sát tư pháp giải thích là hung thủ ăn năn vì tội trạng
của mình đã tự vẫn. Tên mật vụ chết đi mang theo cả bí mật về ngôi nhà có thiết
kế dụng cụ kiểm thính. S2/B lại có thể tiếp tục công việc mà không lo vỡ
lỡ.
Tuy nhiên, cuộc điều tra của CIA và cảnh sát đặc biệt không thu thập được
kết quả gì nhiều, ngoài một danh sách ngày càng dài những người có quan hệ với
Thắng và Trọng. Việc đặt máy nghe trộm ở nhà Thắng cũng đạt rất ít kết quả.
Thắng có thói quen hay mở máy cát-xét thu thanh và vô tuyến truyền hình kể cả
trong lúc ngồi nói chuyện. Từ những cuốn băng thu được, chỉ lọc ra được một số
tiếng đứt quãng đáng chú ý: “... liên lạc từ Tây Ninh... Anh Tư nhắn...”. Rồi
nhân vật “anh Tư” biến mất.
Thiệu đặc biệt quan tâm tới trường hợp của “ông
giáo”. Các báo cáo ghi nhận Hai Long có nhiều quan hệ với những phần tử bị nghi
vấn như Thắng, Hòe, Trọng. Anh đã bị giam giữ 3 năm ở trại Tòa Khâm Huế vì tình
nghi Việt Cộng. Hai Long trong lời khai ở trại Tòa Khâm cũng tự nhận trước đây
đã tham gia quân đội Bắc Việt, đã vào Đảng Cộng sản và làm thị ủy ở Thái Bình.
Thiệu đã biết những chuyện về quá khứ của Hai Long. Đây chỉ là một giai đoạn
ngắn ngủi trong cuộc đời anh từ hồi còn trẻ. Cẩn và Nhu còn biết rõ những điều
đó hơn, nhưng đã dùng anh. Hơn thế, Hai Long là người thân tín của cả Đức cha Lê
và cha Hoàng, những người thầy chống Cộng! Không thể đặt nghi vấn vì sự quan hệ
rộng rãi của anh với những con chiên. Nhiều việc anh làm là do chính Thiệu yêu
cầu...
Thiệu quyết định tự bản thân mình kiểm tra Hai Long. Bằng chứng cụ thể
nhất là cuốn băng ghi âm thu được ở nhà Thắng. Thiệu bảo cha Nhuận chuyển cho
Hai Long cuốn băng, và thăm dò phản ứng của anh. Nếu Thắng là đồng bọn với Hai
Long, khi biết Thắng đã bại lộ, Hai Long chỉ còn cách chạy trốn. Và anh sẽ không
thoát. Hai Long đã trả cha Nhuận cuốn băng như một vật không hề có liên quan tới
mình, nói đây chỉ là một cuốn băng thu hỏng. Thiệu đã quan sát, theo dõi kỹ Hai
Long, vẫn không nhận thấy dấu hiệu gì đáng nghi ngờ. Thiệu bắt đầu nghĩ hay là
CIA đang tìm cách chặt tay chân mình để thực hiện một mưu đồ nào đó của Mỹ? Y
chưa biết xử lý chuyện này ra sao.
Nhưng tới tháng gần đây thì CIA ở Sài Gòn
tỏ thái độ kiên quyết, yêu cầu Thiệu phải giải quyết vụ này. Họ bảo đó là quyết
định của Langley...
Tên nhân viên CIA nhận trách nhiệm liên lạc với phủ tổng
thống vốn đã trở thành bồ bịch của Thiệu. Qua y, Thiệu tránh được những cuộc
chạm mặt không vui vẻ gì với Bunker. Y lại là người tính tình cởi mở, dễ chịu.
Nhưng giọng nói của y bữa nay trở nên gay gắt:
- Không thể trì hoãn hơn nữa,
đã tới lúc phải sập bẫy. Dổng thống cần biết: bây giờ mới làm là quá muộn. Tên
cầm đầu đã rời khỏi Sài Gòn từ cuối tháng 3!
- Những bằng chứng cùng với sự
điều tra riêng của tôi khiến tôi rất phân vân.
- Chúng tôi hiểu chuyện này
dính tới những nhân vật chóp bu nên đã rất thận trọng. Chính ông Dale Waites đã
phải trực tiếp dùng máy kiểm tra thành thật Polygraph Toast để làm phối kiểm
Z.23, người điều tra vụ này.
- Chứng cớ còn quá ít ỏi!
- Ông không hiểu
về nghiệp vụ. Những bằng chứng đã là quá đủ để bắt hết bọn chúng, buộc chúng
phải thú nhận toàn bộ tội lỗi.
- Nếu cùng một lúc bắt cả cố vấn đặc biệt, phụ
tá đặc biệt của tổng thống thì uy tín của tôi sẽ ra sao?
- Uy tín của ông sẽ
được củng cố thêm vì đã phát hiện được những tên điệp viên nguy hiểm nhất của
Cộng sản.
- Nhưng một chuyện ầm ĩ sẽ là đòn nặng giáng vào thanh danh của
chánh phủ! Tôi đề nghị một cách giải quyết, nếu cần sẽ bắt ngay tất cả những
phần tử bị nghi vấn, nhưng riêng ông Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng sẽ được đưa
ra khỏi Phủ tổng thống, ta sẽ giải quyết với họ khi họ không còn dính líu chi
tới chánh phủ, chỉ còn là những công dân bình thường.
- Họ không bao giờ là
công dân chiểu theo hiến pháp của các ông! Họ chỉ là những tên gián điệp nguy
hiểm đã lộ mặt, phải bắt tất cả cùng một lúc, hoặc để cho họ chạy thoát! Không
thể có biện pháp nào khác, và không thể trì hoãn thêm.
- Thôi dược, có thể
bắt cả Huỳnh Văn Trọng, nhưng bắt Vũ Ngọc Nhạ sau, vì Nhạ là một lãnh tụ Thiên
chúa giáo ở miền Nam.
- Nhạ chính là tên cầm đầu nguy hiểm nhất mà chúng tôi
cần bắt trước tiên!
- Các ông cũng cho tôi đủ thời gian giải quyết với các
cha?
Tên CIA vung nắm đấm gí sát vào mũi Thiệu:
- Mẹ kiếp! Ông sẽ làm
hỏng hết! Làm sao chúng tôi có thể bù lại những tổn thất nhân mạng và tiền của
nếu như bọn gián điệp Cộng sản đầy rẫy khắp nơi mà không có biện pháp hữu hiệu
nào chống lại chúng...?
Thiệu chỉ còn nói thêm một đôi câu yếu ớt, rồi đầu
hàng.
Ngày 29 tháng 6, Trần Văn Hai vào Phủ tổng thống gặp Thiệu nhận những
huấn thị cần thiết.
Ngày 14 tháng 7, một cuộc họp được tổ chức tại Văn phòng
khối cảnh sát đặc biệt, đi tới những quyết định như sau:
“Đơn vị S2/B chịu
trách nhiệm bắt toàn thể những phần tử được phát hiện trong một đêm.
Dùng
những nhân viên tinh khôn nhất đặt bẫy tại nhà của Lê Hữu Thúy tức Thắng, Vũ
Ngọc Nhạ tức Hai Long, Vũ Xuân Hòe, Huỳnh Văn Trọng và tại các trạm giao liên ở
cầu Bình Lợi và ở Chợ Lớn, kể cả những vùng bất an ninh giữa nơi đồng trống
không có dân cư, dù phải đổi bằng máu..
Đơn vị S2/B sẵn sàng thẩm vấn suốt
đêm, liên tục, kết quả tới đâu trình tới đó để phối hợp khai thác tin
tức.
Mỗi biệt đội tình báo cử về Trung ương 6 nhân viên và một xe Jeep dùng
vào việc truy nã, phục kích, bao vây lục soát và canh giữ can
phạm...”.
Trung tâm đã đề ra phương án chỉ để lại Huỳnh Văn Trọng,
Hoàng Hồ là hai người đã cộng tác với ta, nhưng địch chưa có cơ sở gì buộc tội,
cả lưới A.22 sẽ rút ra để bảo đảm an toàn. Sau khi cân nhắc kỹ, Hai Long đã đề
đạt với Trung tâm: Mặc dù bị CIA theo dõi nhưng anh vẫn là một giáoo dân giữ
được lòng tin trọn vẹn của giáo hội và Tòa thánh, những việc anh đã làm cho tới
nay đều nhằm phục vụ cho quyền lợi của giáo hội Thiên chúa giáo La Mã và đương
kim tổng thống, địch không dễ gì bắt anh, và dù chúng có bắt cũng không dễ làm
gì được anh. Nếu CIA cố tình tách anh ra khỏi Thiệu, anh sẽ trở về Bình An
chuyển sang hoạt động cho lực lượng thứ ba. Sự rút lui của anh lúc này sẽ để lại
một hậu quả lớn đối với phong trào vận động cho hòa bình và hòa giải dân tộc
theo đường lối của Vatican II đang có chiều hướng phát triển tốt, rất phù hợp
với đường lối của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam. Anh xin được ở lại cùng
với cả lưới tiếp tục công tác. Cuối cùng, đề nghị của anh đã được Trung tâm chấp
thuận.
Cả tháng nay, Thiệu nhiều lúc muốn
điên đầu vì tên CIA núp dưới danh nghĩa một sĩ quan liên lạc giữa Tòa đại sứ Mỹ
với Phủ tổng thống.
Vợ
anh đang còn nhè nhẹ lay vai anh. Đã lâu chị mới thấy chồng ngủ một giấc ngon
lành như vậy.
- Ba nó dậy di!
Anh khẽ bấm vào tay ra hiệu cho chị. Tiếng
đập cửa gấp hơn. Đúng là bắt đầu rồi. Anh chợt thấy thương vợ vô chừng. Đã mấy
lần anh định nói với chị về mối nguy hiểm đang đe dọa mình. Nhưng rồi anh vẫn im
lặng. Anh muốn kéo dài được chừng nào hay chừng ấy niềm vui ít ỏi của những ngày
họ được sống bên nhau. Đã tới lúc kết thúc. Anh ghé vào tai vợ nói thật nhỏ:
- Em và các con ở nhà cứ bình tĩnh. Chúng sẽ không làm gì được anh đâu.
Phía ngoài có tiếng quát to:
- Mở cửa mau, cảnh sát tới kiểm tra sổ gia
đình đây.
Bác Kỳ ở nhà ngoài đã ra mở cửa. Vợ chồng Hai Long và các con đều
ngồi dậy.
Một tên vừa bước vào hỏi:
- Ông Vũ Ngọc Nhạ đâu?
Tiếng bác
Kỳ đáp:
- Ông Nhạ ở nhà trong.
Hai Long lên tiếng:
- Tôi mặc quần áo
ra ngay đây.
Nhưng không đợi anh đi ra, một toán chừng sáu, bảy tên đã sục
vào trong nhà. Một số tên trố mắt nhìn cảnh nhà quá bần bách của anh - Gia dình
ông cố vấn của tổng thống! Hai đứa con nhỏ ngủ chung một giường với bố mẹ. Hai
đứa lớn hơn ngủ trên hai tấm phản kê hai góc nhà. Chỉ có độc một cái bàn làm
việc. Trên bàn, giấy tờ thư từ để ngổn ngang bên những chồng sách tiếng Pháp,
tiếng Anh, tiếng Latin xếp ngay ngắn. Dường như chủ nhân đêm nay làm việc khuya.
Chúng không biết đây là sự dàn cảnh sẵn của anh chờ đón những biến cố bất
thường.
Viên dại úy sẵng giọng nói:
- Ông Vũ Ngọc Nhạ bị xét nhà. Mời ông
tới Tổng nha Cảnh sát vì tội buôn hàng lậu. Nhân viên công lực tiến hành khám
xét, tịch thu tất cả những giấy tờ và đồ lưu trữ. Mời ông Nhạ bận quần áo ra xe
ngay về Tổng nha.
Chúng vơ vét tất cả những sách báo, giấy tờ, thư từ trên
bàn và bắt đầu lục lọi khắp nhà. Tên đại úy và hai tên cảnh sát áp giải Hai Long
ra xe.
Một chiếc xe Jeep đỗ sát vỉa hè bắt đầu nổ máy. Tên đại úy đưa chiếc
còng số 8 toan khóa tay Hai Long. Anh phản đối:
- Tôi chưa bị kết án, không
có hành động chống đối nhân viên công lực làm nhiệm vụ thì không được xâm phạm
tới con người tôi.
Tên đại úy cười nhạt:
- Vụ này quá rõ rồi, quá chín
mùi, đã bám sát từ hơn một năm, nay kết thúc cho khỏi tốn thêm thời giờ và công
sức. Tiếc rằng không chờ được tên đầu sỏ quay lại mà hốt trọn ổ.
Hắn cứ tra
chiếc còng vào tay Hai Long và đẩy anh lên xe. Hai Long nhìn lại thấy còn mấy
tên vẫn ở trong nhà. Chắc chúng tiếp tục khám xét và sẽ phục tại đây, hy vọng
chộp thêm người của ta. Những việc chúng làm sẽ vô ích.
Chiếc xe Jeep chạy về
Nha cảnh sát đặc biệt.
Phạm Văn Cung, chủ sự, đang ngồi đợi tại văn phòng tư
pháp. Cung là đảng viên Đại Việt, cùng hệ phái với Nguyễn Văn Kiểu và Nguyễn Văn
Hướng. Y đứng lên chào anh một cách lễ phép, rồi nói:
- Đại úy mở khóa cho
ông Nhạ... Ông thông cảm, đây là việc bất đắc dĩ phải làm trong khi đi
đường.
Chờ Hai Long ngồi xuống ghế xong, viên chủ sự nói tiếp:
- Bây giờ
xin ông khai cho một bản lý lịch đầy đủ theo mẫu đã có sẵn. Đề nghị ông coi qua,
nếu có chi cần hỏi, tôi xin nói rõ.
Hắn đưa anh một tập giấy có những đề mục
đã in sẵn. Hai Long cẩn thận lần đọc từng tờ. Cung kiên nhẫn ngồi chờ. Xem xong,
anh nói:
- Tôi không có điều gì phải hỏi.
Cung đi ra. Còn một mình anh
trong căn phòng rất yên tĩnh, các cửa đều đóng kín mít. Hai chiếc đèn néon bật
sáng suốt ngày đêm.
Không việc gì phải vội vàng. Hai Long chỉ kết thúc công
việc vào cuối buổi sáng hôm sau. Anh khai mình là một tín đồ Thiên chúa giáo,
đạo dòng, thủa nhỏ học ở tu viện, lớn theo giám mục Lê Hữu Từ hoạt động cho Tổng
bộ tự vệ Công giáo ở Pháp Diệm rồi vào quân đội Pháp, cùng rút với quân đội viễn
chinh Pháp vào Nam, qua Pháp một thời gian, rồi lại trở về Sài Gòn làm phụ tá
cho Đức cha Lê và cha Hoàng. Được Đức cha Lê đồng ý, anh nhận làm phụ tá cho cố
vấn Ngô Đình Nhu. Chính quyền Diệm đổ, theo sự phân công của giáo hội, anh vào
Phủ tổng thống làm cố vấn đặc biệt cho đương kim tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Anh trao bản khai cho viên chủ sự. Y bảo anh cứ ở lại chờ ý kiến cấp trên
của hắn.
Hai Long ngồi suốt buổi chiều trong căn phòng vắng lặng, suy nghĩ
về những khả năng xấu nhất có thể đến với mình. Từng lúc, anh lại nghe tiếng
chân bước nhộn nhịp bên ngoài. Có lần, anh nghe rõ giọng một tên Mỹ nói tiếng
Việt: “Làm từng người một!”. CIA đang trực tiếp chỉ huy vụ này, và cuộc thẩm vấn
đã bắt đầu rồi.. Không biết có những ai bị bắt? Theo lời tên đại úy lúc nửa đêm,
chúng đã theo dõi hơn một năm. Và hắn nói “không thể chờ tới lúc tên đầu sỏ quay
lại”... Như vậy, chúng biết khá nhiều. Nhưng anh vẫn chưa có cơ sở để đánh giá
tình hình lưới đã lộ tới đâu.
Gần tối, một tên cảnh sát mở cửa, bảo anh:
- Mời ông Nhạ sang gặp ông chủ nhiệm ở phòng làm việc riêng.
Cung ngồi
chờ anh với bản lý lịch đặt trên bàn. Y đẩy những tờ giấy về trước mặt anh. Cách
nói của y vẫn lễ phép nhưng giọng nói đã trở nên lạnh nhạt, khó chịu:
- Tôi
phải trả lại ông bản khai này. Ông đại tá Trần Văn Hai, giám đốc tổng nha, chê
ông là không biết điều, là không có đảm lược nhìn nhận việc mình làm, phủ nhận
một sự thực mà ông đại tá phải khâm phục. Ông đại tá lấy lễ độ và thông cảm đối
với ông, nhưng ông lại lừa gạt và khinh miệt ổng! Tôi có lời khuyên ông nên nhìn
nhận lại việc đã làm. Tổ chức của ông, chúng tôi đã giám thị chặt chẽ từ một năm
nay, nay đã tới ngày tính sổ. Công việc này chúng tôi coi như đã thanh toán
xong! Affaire réglée! Cần khóa sổ!
- Tôi đã viết dúng sự thật.
- Ông tiếp
tục ngoan cố thì chúng tôi phải dùng sức mạnh!
- Nếư đó là quyền của các
ông...
- Ông cần suy nghĩ kỹ và khai cho thiệt đi. Không có cách nào khác
đâu.
Nói dứt lời, hắn lẳng lặng đứng dậy đi ra.
Tên công an ban nãy quay
trở lại, đưa Hai Long trở về căn phòng anh đã ngồi cả ngày hôm nay.
Chúng cứ
để Hai Long ngồi một mình cho tới quá nửa đêm.
6.
---
[1]
Muốn giết chó thì cứ kết tội là chó dại!
Chương 9
CHIẾN DỊCH ĐỊA LÔI
1.
McGahee chẳng vui
vẻ gì khi y được cử sang chi nhánh CIA tại Sài Gòn.
2.
3.
Hai Long bừng tỉnh vì tiếng gõ cửa gấp bên ngoài.
- Đi theo tôi!
Hắn
dẫn anh tới một căn phòng khá lớn, chỉ có một chiếc bàn vuông với bốn cái ghế.
Vẻ trống trải của nó tạo nên một không khí lạnh lẽo.
Đã có ba người ngồi ở ba
cạnh bàn. Ngoài viên chủ sự mà anh đã gặp, còn có thêm hai người mới là Tước,
chánh sở, và Cò Nhi, trưởng ban thẩm vấn. Nét mặt Cung trở nên lạnh như tiền.
Viên chánh sở lên tiếng trước:
- Theo lệnh thượng cấp, chúng tôi phải làm
nhiệm vụ. Chúng tôi rất kính trọng ông đã hy sinh tất cả cho lý tưởng mà ông
theo đuổi, nhưng phải thi hành phận sự.
Lời nói mở đầu của Tước bao hàm ý đe
dọa. Hai Long hỏi lại:
- Thượng cấp của các ông là ai? Có phải là ông Thiệu
không?
Tước dằn từng tiếng:
- Thân phận ông bây giờ như cá nằm trên
thớt, còn làm “le” cái chi! Cả tổ chức tình báo chiến lược của ông đang nằm gọn
trong tay chúng tôi. Ông đã khai thật hoạt động của ông về mặt quốc gia, tôi
không cần biết phần này. Ông phải khai về hoạt động Cộng sản của ông! Yêu cầu
ông làm nhanh, rõ ràng, chi tiết. Xong việc của chúng tôi, ông lại tiếp tục hoạt
động cho Cộng sản cũng không sao! Phải đụng tới thân thể ông là điều vạn bất đắc
dĩ. Ông được dành chút thời giờ suy nghĩ trước khi chúng tôi tiến hành thẩm
vấn.
Tước cùng Cò Nhi đứng lên đi ra ngoài. Chúng tới phòng tên Mỹ cố vấn cho
Tổng nha Cảnh sát hội ý. Còn lại mình Cung ngồi với Hai Long. Y lại tiếp tục phủ
dụ:
- Các ông ủng hộ tổng thống Thiệu rất đắc lực, các ông phá tổng thống
cũng không biết thế nào mà lường. Các ông đi hàng hai, hàng ba, cái đó là đường
lối của các ông, chúng tôi trọng tự do tư tưởng. Nhưng về mặt chánh quyền, chúng
tôi phải chặn đứng và phá vỡ mọi tổ chức, mọi hoạt động chống phá chánh quyền
hiện hữu. Làm chánh trị thì tù đày không có nghĩa lý gì! Các ông Trần Văn Ân,
Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu... đã từng bị tù đày chung thân, khổ sai, tử hình,
nhưng khi ra tù các vị ấy làm bộ trưởng, quốc trưởng... Ông là bạn của tổng
thống. Ông làm chánh trị lại tính mọi nước cờ. Mặc dù ông có phải ra tòa, có bị
tù dày, nhưng là tù chánh trị, thời thế thay đổi, ra tù làm lớn mấy hồi! Đại tá
Trần Văn Hai và chúng tôi bắt ông, chúng tôi cũng e ngại cho bản thân. Ai bảo
đảm tính mạng cho chúng tôi bây giờ và sau này? Chúng tôi thừa hành lệnh thượng
cấp, chớ không hề thù hằn ganh ghét ông. Tôi biết trong hiện tình đất nước, ông
dám đi nước cờ cao. Chúng tôi không đủ tài đủ sức ngăn ông hoặc khuyến cáo ông
thay đổi chánh kiến. Chúng tôi chỉ mong ông thông cảm mà “gia ơn” cho chúng tôi
có phận nhờ. Tôi xin thề với ông là tôi không kỳ thị Bắc Nam, không kỳ thị tôn
giáo...
Đã một ngày trôi qua mà sao bọn chúng vẫn chập chờn, chưa thẳng tay
với mình, Hai Long tự hỏi. Chúng thanh minh, cầu khẩn. Chúng e ngại thế lực của
mình bây giờ và sau này ư? Hay chúng còn chờ đợi cái gì? Chờ thêm chứng cớ qua
lời khai của những người khác? Hay chờ một kẻ nào đó bật đèn xanh trước lúc ra
tay...? Phải thăm dò viên chủ sự này xem, khi còn nói chuyện được với y, vì sao
mình bị bắt, tổ chức đã vỡ tới đâu... Hai Long nói:
- Tôi là một tín đồ
Thiên chúa giáo, là dân Bắc di cư. Tôi bị bắt đã hơn một ngày. Khối Thiên chúa
giáo và khối di cư tất nhiên sẽ có phản ứng vì người của họ bị bắt. Kể cả Cộng
sản và Mặt trận Giải phóng cũng có thể phản ứng vì đường lối hoạt động của chúng
tôi phù hợp với đường lối sách lược của họ lúc nảy. Những việc tôi đã làm đều vì
giáo hội, có sự khuyến cáo của Giáo hoàng, của Đức Hồng y Spellman, hoặc theo
yêu cầu của tổng thống. Có những việc tối mật, phức tạp vì liên quan tới vận
mệnh quốc gia hoặc cá nhân đương kim tổng thống. Tới giờ phút này, tôi quả thực
chưa hiểu vì sao mình lại bị bắt?
Cung rút từ trong cập ra một bản danh sách
in ronéo, đặt trước mặt anh:
- Đây là bản “phong thần”, có tên ông trong
đó.
Những người trong danh sách được xếp theo thứ tự A, B, C. Có nhiều người
anh đã biết, hoặc nghe nói, như An, Chất... rồi tới Hòe... Tên anh có một gạch
chì đỏ bên dưới. Ruật, Thúy (tức Thắng), lần lượt xuất hiện trong bản danh sách.
Anh nhận ra đây là những người đã bị bắt ở trại Tòa Khâm. Hiếu và Tá Đen như
xuất hiện bằng xương bằng thịt trước mằt anh.
Hai Long trao trả viên chủ sự
bản danh sách:
- Tôi biết mặt số người này hồi ở trại Tòa Khâm thời ông
Diệm.
Cung lần giở tập hồ sơ, rồi đưa tiếp cho anh một số bản giấy viết tay.
Đây là báo cáo của bọn mật vụ đã bám sát anh trên nhiều chặng đường, những cuộc
gặp gỡ với các cha cố, với những nơi có quan hệ, với anh em trong lưới. Anh đánh
giá được mức lộ liễu nghiêm trọng của mình và tổ chức.
Viên chủ sự nói không
úp mở:.
- Những người trong tổ chức đều bị chúng tôi bắt hoặc bao vây, giám
sát chặt chẽ rồi. Không yêu cầu ông khai báo những ai có chân trong tổ chức, mà
chỉ cần nói rõ công tác và chức vụ của từng người theo yêu cầu thẩm vấn. Thượng
cấp ra lệnh cho chúng tôi phải kết thúc nhanh vụ án. Chúng tôi sẽ được khen
thưởng lớn nếu làm vừa lòng thượng cấp. Ông không thể chối bỏ được những điều đã
quá rõ ràng. Vì vậy tôi nói rằng ông nên “gia
ơn” cho bọn tôi...
Hai Long
hiểu đây là những lời động viên cuối cùng của bọn chúng trước khi vào cuộc thẩm
vấn.
Một lát Cò Nhi quay lại. Y đứng dừng trước cửa, gật đầu đưa mắt cho viên
chủ sự ra ngoài. Từ khi viên trưởng ban thẩm vấn xuất hiện, hắn vẫn chưa nói một
lời.
Cả hai tên quay vào. Cò Nhi bắt đầu lên tiếng. Giọng hắn trầm và cục
cằn:
- Ông đứng dậy, đi theo tôi!
Anh tưởng hắn đưa mình tới nơi thẩm
vấn. Nhưng hắn đưa anh xuống dãy nhà giam, mở khóa cửa sắt, đẩy anh vào một căn
xà lim tối đen và lạnh ngắt.
Vẫn tên cảnh sát
lúc chập tối bước vào. Nhưng lần này hắn sẵng giọng:
Người nằm trên sàn xi
măng hỏi anh với giọng ngái ngủ:
- Mới vô ư? Còn ai nữa không?
- Mình
tôi thôi.
- Đêm nay họ còn nhét vô nữa. Nghe nói công an đang bắt một vụ lớn
lắm. Ngày hôm nay, những anh ở đây đều phải chuyển chỗ. Họ nhét bảy, tám người
vô một xà lim, dành chỗ cho người sắp tới.
- Anh bị bắt lâu chưa? - Hai Long
hỏi.
- Ba tháng rồi. Họ thẩm vấn xong, tôi đã ký cung, chỉ chờ ngày ra
tòa.
- Vì tội gì vậy?
- Tôi ở Bình Dương, bị bắt vì làm cán bộ nông hội
cho Giải phóng. Còn anh, họ bắt anh vì tội chi?
- Tình nghi chính trị.
Hai Long nằm xuống bên anh ta. Người đó đưa cho anh một chiếc ca:
- Nếu
anh quen gối đầu thì dùng tạm cái này.
Chiếc ca âm ấm. Nó vừa rời khỏi đầu
anh ta.
- Anh gối bằng chi?
- Tôi không có gối cũng không sao, quen
rồi.
Chiếc ca dù cứng, nhưng có nó vẫn hơn. Người nằm bên lại hỏi:
- Họ
thẩm vấn anh chưa?
- Chưa. Chắc cũng sắp rồi.
- Phải gắng chịu qua mấy
trận đầu. Anh nào nhát đòn vội khai sớm, càng khai nó càng đánh dữ để moi
thêm.
Anh cảm thấy đây là một người bạn.
[2] Bí danh do McGahee
đặt trong cuốn sách để tránh đụng tới nhân vật thực.
[3] Nơi đặt trụ sở Tổng
hành dinh của CIA
Cò Nhi cầm chiếc thước
trong tay, nói như thanh minh:
- Chúng tôi không thù oán chi với anh, chỉ
làm nhiệm vụ của thượng cấp giao cho là nhanh chóng kết thúc vụ án này. Chúng
tôi đã đưa bằng chứng ra trước để anh khỏi quanh co chối cãi mất thời giờ.
Hai Long im lặng.
Cò Nhi quắc mắt hỏi:
- Anh khai hay không khai,
nói mau!
Hai Long ngồi lỳ không trả lời.
Cái thước bất ngờ quật mạnh vào
ngang lưng anh.
- Khai hay không, rồi biết!
Cò Nhi mắm môi hăm dọa. Cái
xác chết là Tư Thiên ngồi cạnh hắn, lúc này mới bật đứng dậy mở miệng:
- Nhẹ
không ưa, ưa nặng! Cố vấn chi mà u mê rứa! Đứng lên, cởi quần áo ra!
Tư
Thiên rút từ ô kéo ra một dải vải đen, sấn lại buộc chặt, bịt mắt Hai Long một
cách rất quen tay, rồi đẩy anh về góc buồng. Hắn bắt đầu lột quần áo anh. Hai
tên cùng nâng anh đặt lên một chiếc ghế đẩu cao. Một tên kéo hai khuỷu tay anh
ra sau lưng, rồi vòng dây cua-roa trói chặt. Tên kia rút chiếc ghế. Bất thần Hai
Long thấy cả người mình lơ lửng giữa không trung. Toàn thân anh co rúm vì bị
treo sấp bằng hai khuỷu tay lên trần nhà. Anh càng cố ngẩng đầu, quờ tay, quờ
chân tìm chỗ bấu víu trong khi hai mắt không còn thấy phương hướng, thì khuỷu
tay, bả vai và lồng ngực càng đau. Anh không hiểu mình có thể chịu đựng trạng
thái treo lơ lửng thế này trong bao lâu.
Nhưng hình phạt này không chỉ có
thế. Cò Nhi lần lượt nhắc lại những câu hỏi ban nãy. Mỗi câu được nhắc lại vài
lần, và mỗi lần đểu kèm theo một cái thước lần lượt đánh vào bả vai, đầu gối,
gót chân, mắt cá chân, thỉnh thoảng lại điểm thêm một cú đấm móc sườn. Khi Cò
Nhi mệt thì Tư Thiên thay phiên. Chúng không dành cho anh một khoảnh khắc để
nghỉ ngơi.
Hai Long giãy giụa trong tư thế treo lủng lẳng, vừa đau vì bị đòn,
vừa đau vì bị treo. Người anh cứ giật thót lên với mỗi đòn giáng vào hệ thần
kinh. Mái tóc anh ướt đẫm. Mồ hôi từ người anh đổ giọt trên nền nhà. Hai lỗ tai
anh u u không còn nghe rõ những câu hỏi của chúng. Anh chịu đòn cho tới lúc ngất
xỉu.
Khi tỉnh dậy, anh thấy Tư Thiên đang đổ nước lạnh vào mặt mình. Hắn dừng
tay, anh nhìn quanh nhận ra vẫn ở trong nhà thẩm vấn. Sợi dây buộc còn lơ lửng
trên trần. Toàn thân anh đau như dần.
Anh lại tiếp tục nghe những câu hỏi:
- Đã thấy thấm đòn chưa? Chịu khai chưa? Anh ở lưới số bao nhiêu?
Chúng
vừa hăm dọa vừa dụ dỗ anh trả lời để chúng khỏi phải tiếp tục tra tấn. Anh bỗng
giận sôi lên. Chúng đã hành hạ mình như một con vật. Anh nghiến răng không nói
gì. Phải cố gắng chịu đựng qua những trận đầu cho tới lúc chúng chịu thua. Phải
lấy sự chịu đựng gan góc của mình làm những đòn đánh trả chúng.
Chúng lại bịt
mắt và tiếp tục treo anh lên.
Lần này, anh cố gắng không giẫy giụa, vì hiểu
rằng càng làm như vậy càng đau. Anh lại nghe những câu hỏi:
- Anh giữ chức
vụ chi trong ngành tình háo chiến lược?...
- Cụm tình báo của anh mang bí số
chi?...
- Có tất cả bao nhiêu điệp viên?...
- Ai tổ chức và trao nhiệm vụ
cho Hòe, cho Thắng, cho Ruật, cho Đồng, cho Trọng?...
Chúng dỗ ngọt anh:
- Khai đi để đỡ đòn cho anh em! Đàng nào thì cũng bị bắt trọn ổ
rồi?...
Những đòn tra tấn lần này ác liệt hơn lần trước. Chúng kết hợp vừa
treo vừa đánh với tra điện làm anh giật bắn người và ngất xỉu khá lâu. Nhưng
đáng sợ nhất vẫn là những cú móc sườn của Cò Nhi. Mỗi trái đấm của hắn làm anh
nghẹt thở và quặn đau trong bụng như bị thắt lại.
Hai Long lại ngất đi một
hồi lâu mới tỉnh. Tư Thiên và Cò Nhi đang dùng khăn ướt lau chùi cho anh. Những
chiếc khăn đẫm máu. Máu dính nhớp nháp khắp người. Cảnh vật chung quanh anh quay
cuồng. Những tiếng ong ong bên tai. Mắt Cò Nhi và Tư Thiên nhìn anh hau háu.
Miệng chúng đôi lúc lại mấp máy. Chúng vừa nói vừa ra hiệu cho anh. Anh ở trong
một trạng thái nửa tỉnh nửa mê, chỉ hiểu một cách lờ mờ những câu hỏi của chúng,
nhưng vẫn nhớ rất rõ là mình không được phép trả lời.
Chúng lại treo anh lên
lần thứ ba. Lần này, chúng không bịt mắt. Chúng vừa hét vừa ra hiệu thêm cho anh
hiểu câu hỏi. Mỗi cú móc sườn của Cò Nhi làm người anh vặn lại. Máu từ miệng anh
xối xuống nền nhà. Chỉ mấy lần nhìn thấy máu như vậy, anh ngất đi.
Lúc tỉnh
dậy, anh thấy xúm xít quanh mình là những nhân viên y tế. Toàn thân hình anh bầm
tím.
Hai tên cảnh sát khiêng anh trả về xà lim.
4.
5.
Hai Long định thần, nhận ra trong xà
lim còn một người khác. Một ý nghĩ nảy ra trong anh như một phản ứng tự nhiên,
phải chăng một người của chúng cài vào để thăm dò anh?
---
[1] Xem Ralph
McGahee, “Sự lừa dối khủng khiếp” (Deadly deceits).
Chương 10
ĐƯỜNG THÁNH GIÁ
1.
Người
nằm bên chỉ khuyên anh một vài kinh nghiệm khi chịu đòn rồi im lặng dành thời
gian cho anh suy nghĩ.
Những hiện tượng mà anh đã thu nhận được cho anh biết
người bị bắt được đưa về mỗi lúc thêm đông và chúng đang tiến hành thẩm vấn suốt
ngày đêm. Chúng còn chưa đụng tới anh chắc để chờ thu thập thêm tài liệu qua
khai thác những người khác. Chúng có thể gọi anh bất cứ lúc nào. Trước hết, anh
phải chuẩn bị lý giải về những mối quan hệ, đặc biệt là với những người trong
lưới đã nêu trong những bản báo cáo. Nhưng không phải chỉ có như vậy. Cung chưa
lật ngửa hết mọi lá bài. Rồi đây, chúng còn thu thập được thêm nữa. Liệu chúng
có phải dè dặt với anh không? Vị trí chính trị, tôn giáo, xã hội của anh ở miền
Nam, cuộc hòa đàm đã mở ra tại Paris có giúp anh thoát khỏi những đòn tra tấn
nhục hình không? Những lời chúng đã đe anh có phải chỉ là hù dọa? Anh phải chuẩn
bị tư tưởng cho trường hợp này. Nhiều người bị bắt, kể cả người đang nằm bên
cạnh, đều nói phải cố vượt qua được những trận đánh đầu tiên. Anh đã từng bị
giam giữ 3 năm ở trại Tòa Khâm. Nhưng anh chỉ mới trải qua những vò xé về tư
tưởng, tình cảm. Còn với sự tra tấn thì đây sẽ là lần đầu.
Có tiếng mở khóa
bên ngoài xà lim. Không biết lúc này là mấy giờ. Đồng hồ, bút máy, dây thắt lưng
của anh đều đã bị tịch thu.
Cánh cửa sắt mở ra. Hơi sương mát mẻ ban đêm ùa
vào cùng với một giọng nói khê khê:
- Vũ Ngọc Nhạ, ban thẩm vấn gọi!
Tên
công an đưa anh trở lại căn phòng mà anh đã vào lúc nửa đêm. Chỉ còn hai tên
ngồi ở chiếc bàn vuông. Cò Nhi và một tên gày gò, da mặt xanh mét, sát tận
xương, gợi cho anh nhớ tới những tên mật vụ thời Diệm. Ít ngày sau anh mới biết
hắn là Huỳnh Văn Tư, tức Tư Thiên, được trao nhiệm vụ thẩm vấn anh. Cò Nhi đã
cởi bỏ áo ngoài, chỉ còn mặc một chiếc áo nịt bó sát người, lộ rõ thân hình to
lớn, đẫy đà của một tên đồ tể. Cánh tay áo thun của y vén lên trên khuỷu. Trời
về đêm mát mẻ nhưng trán y lấm tấm mồ hôi. Dáng điệu của y có vẻ thấm mệt của
một người làm việc căng thẳng thâu đêm.
Cò Nhi trỏ chiếc ghế cho Hai Long
ngồi.
Không một lời rào dón, y hỏi luôn:
- Anh ở lưới tình báo A hai mươi
mấy?
Câu hỏi chứng tỏ hắn đã biết anh ở lưới A.22 và muốn kiểm tra sự thành
thật của anh. Anh biết tổ chức đã lộ. Anh chưa kịp trả lời thì hắn hỏi tiếp:
- Cụm tình báo mới tổ chức là cụm nào?
Đây là vấn đề mà chính một số
người trong lưới cũng chưa biết.
Cũng không chờ Hai Long trả lời, hắn rút từ
tập hồ sơ đặt trên bàn một tấm ảnh đưa cho Hai Long.
- Có biết những tên này
không?
Anh nhận ra ngay Năm Sang và Thắng đã bị chúng chụp trộm khi đi trên
đường phố Sài Gòn. Hắn hỏi tiếp luôn:
- Năm Sang hiện ở đâu?
Anh đang
làm ra vẻ chăm chú như để cố nhận ra người trong ảnh, thì hắn giựt phắt lại,
nhét vào tập hồ sơ hỏi tiếp:
- Ai tổ chức Huỳnh Văn Trọng?
- Anh hay tên
Thắng?
Hắn hỏi dồn một hồi dài, câu nọ tiếp nối câu kia:
- Tư Lê là ai?
- Năm Sang hay anh phụ trách Lê Trung Hiếu?...
- Anh liên lạc và nhận
công tác của Mười Hương trao như thế nào?...
- Mười Hương đang ở đây hay ở
mật khu?...
- Anh nhận vàng và dollar của Trung tâm trao cho mấy lần, nhận
như thế nào?...
- Ông Nguyễn Văn Hướng, tổng thư ký Phủ tổng thống có ở
trong tổ chức của các anh không?...
Thoạt đầu, Hai Long lập trung tinh lực
lắng nghe từng câu hỏi vừa quan sát tên trưởng ban thẩm vấn, vừa tính cách đối
phó trả lời. Mỗi câu hỏi của hắn là một cạm bẫy. Trả lời không xuôi là bộc lộ
gốc gác của mình. Anh chưa nghĩ ra cách trả lời câu trước thì hắn đã nêu tiếp
câu sau. Anh chỉ còn kịp nghe mà không kịp nghĩ. Anh biết rằng những lời chối
cãi quanh co bộc lộ sự yếu kém của mình trong cuộc chiến đấu. Và anh chỉ còn
lắng nghe xem tổ chức của mình đã tan vỡ tới đâu...
Anh bỗng thấy người ớn
lạnh. Do một phản ứng sinh lý tự nhiên, mồ hôi toát ra đầy người như tắm tự lúc
nào.
Anh nhẩm tính: “Thế là hết phần điệp báo!”.
Cò Nhi vẫn tiếp tục hỏi:
- Đường dây giao liên của anh tổ chức ra mật khu như thế nào?...
- Vũ
Thị Kim Huê có bao nhiêu hộp thư?...
- Trần Thị Tâm có bao nhiêu hộp thư?...
- Các anh thường đặt hộp thư chết ở đâu?...
Cò Nhi nhắc từng tên chị
giao liên. Có cả những người anh chưa biết. Anh chỉ còn nghĩ: “Thế là hết phần
giao liên!”.
- Điện đài các anh đặt ở đâu?...
- Cách thức liên lạc với
Trung tâm ra sao?...
Chân tay Hai Long bủn rủn, hai tai ù đi, đầu nhức như
sắp vỡ tung. Anh cảm thấy ngồi không vững, vội khoanh hai tay tì vào mặt bàn.
Phải cố giữ cho tư thế đàng hoàng trước mặt bọn chúng.
Trước khi tới đây, anh
vẫn tin là mình còn có thể liệu bề ứng biến đối phó như mọi lần, và còn hy vọng
vượt qua khó khăn. Giờ phút này, anh không còn lo lắng mà chỉ thấy đau xót trước
cảnh tan vỡ toàn mạng lưới đã mất bao công phu xây dựng. Cả ba nhóm đều bị lộ,
và chắc chắn là đã bị bắt cùng với những người vừa phát triển như Huỳnh Văn
Trọng, Hoàng Hồ... Hai lần xây dựng, hai lần trắng tay! Anh đau đớn đến tê dại
trước sự tan vỡ trong khoảnh khắc. Cảm thấy như một người đứng giữa ngôi nhà
mình đang bốc cháy cả hai đầu, chữa cháy không xong, đồ đạc quý giá đều chìm
trong lửa khói mịt mù, không bỏ chạy cái nào, cứu cái nào! Một sự dày vò cắn rứt
lương tâm anh. Mình là người chỉ huy vì ngu dại, chủ quan đã gây nên cảnh tan vỡ
này! Mình đã đẩy anh chị em vào cảnh bị tra tấn, nhục hình, khó tránh khỏi tù
đày, hành quyết! Mình còn mặt mũi nào nhìn thấy họ!... Một ý nghĩ lóe lên. Anh
rời mắt khỏi cái miệng rắn độc của Cò Nhi đang mấp máy, nhìn bức tường. Mắt anh
bốc lửa. Bức tường chuyển thành màu đỏ. Chỉ còn cách lao đầu vào đó trốn tránh
những đau đớn về tinh thần và thể xác...
Anh chợt nghe tiếng quát. Quay lại.
Cò Nhi đang nhìn anh chòng chọc. Hắn đã nhận ra vẻ xuất thần trong cặp mắt của
Hai Long. Hắn dằn từng tiếng:
- Ông nghe rõ lời tôi hỏi đấy chứ?
- Hỏi
đi!
Cò Nhi nói rất to như hét vào tai một người điếc đặc:
- Từng đó câu
đã đủ cho ông trả lời chưa? Hay ông cần tôi nêu thêm nữa?
Y nhếch mép cười
kiêu ngạo.
- Ông còn đủ tỉnh táo để nghe tôi hỏi chứ?
Hai Long như bừng
tỉnh. Mình vừa trải qua những giây phút yếu lòng. Mình không thể hèn nhát, không
thể trốn tránh trách nhiệm! Không thể bỏ anh chị em trong giờ phút khó khăn.
Việc lớn vỡ lở rồi. Nhưng không thể nào chúng đã biết tất cả. Không thể nào mọi
người đã khai ra hết! Nếu chúng đã biết cả, chúng cần gì thức suốt đêm như thế
này để hỏi mình. Chúng còn cần tới mình vì chúng chưa đủ cơ sở để kết thúc vụ
án. Vì vậy nên tên chủ sự ban nãy đã phải nài nỉ, van xin mình...
Anh trả
lời với giọng nói đã trở lại bình tĩnh:
- Tôi hoàn toàn tỉnh táo. Ông cứ
tiếp tục hỏi.
Cò Nhi nêu thêm một số người mà anh không biết là ai. Anh yêu
cầu y nói rõ hơn từng người ở đâu, làm gì để giúp cho trí nhớ của mình khi trả
lời. Thì ra đó chỉ là một chị bán thuốc lá bên hè đường mà anh đôi khi ghé vào
mua thuốc, một người quen đã lâu ngày mới gặp nhau trong một quán ăn sáng, một
bác tùy phái hay đưa giấy tờ từ Cơ quan từ thiện CARITAS tới cho anh... Anh hơi
mỉm cười. Anh biết những người này cũng sẽ bị chúng gây phiền phức vì mình.
Nhưng rất may, chúng đã không nhắc tới tên Tú Uyên!
Cò Nhi đánh hơi thấy vẻ
coi thường của anh. Hắn không hỏi về những quan hệ của anh nữa, và rút ra một
tập hồ sơ khác rồi dằn giọng:
- Ông gởi kế hoạch kinh tế hậu chiến ra mật
khu từ bao giờ?...
- Ông gởi kế hoạch tuyệt mật Phoenix về Trung tâm khi
nào?...
Tình hình quả là hết sức nghiêm trọng.
2.
Một tên lạ mặt
đẩy cánh cửa đi vào. Nó đưa cho Cò Nhi một cái thước lớn kèm theo mẩu giấy. Cò
Nhi liếc mắt đọc rồi gật đầu. Tên lạ mặt quay ra.
Hình
thức chúng quen dùng là đòn treo mà Hai Long đã biết từ buồi đầu tiên. Đây là
ngón ác nhất vì anh chỉ chịu đựng được một lúc là ngất xỉu. Chúng dùng xen kẽ và
thay đổi những ngón nhẹ hơn. Chúng trói chặt chân tay anh trên một chiếc ghế
dài, lấy khăn phủ lên mặt rồi đổ nước xà phòng trộn với ớt vào miệng anh, cho
tới khi phình bụng, nghẹt thở. Chúng đặt một chiếc máy phát điện chạy ù ù bên
tai, chốc chốc lại cho máy gầm lên từng hồi, khiến cho anh mất thăng bâng ngã ăn
lộn gần như phát điên. Đòn nhẹ nhất là chúng dùng dùi cui cao su mềm đánh vào
gót chân hoặc bàn chân.
Bọn thẩm vấn, giám thị, gác xà lim hung ác, tàn bạo
khi vực xốc anh dậy, khiêng hoặc dìu anh ra sau một trận đòn, đôi lúc cũng tỏ ra
mủi lòng. Có những tên nói:
- Các ông làm to làm lớn trong chánh phủ, còn mơ
ước gì mà theo Cộng sản cho thân tàn ma dại thế này!
- Cộng sản tài giỏi tới
mức nào mà mê hoặc được các ông bỏ cả quyền cao chức trọng đi theo họ, nay là
dịp trở về với quốc gia thôi...
Sau khi tra tấn, chúng chỉ khiêng hoặc dìu
anh về tới đầu hành lang, rồi để anh tự lết hoặc bám tường lần lần đi về xà lim.
Đấy là cách tránh cho khỏi tụ máu.
Cứ mỗi lần tới gần xà lim số 3, anh lại
nghe thấy tiếng gõ lóc cóc ở cánh cửa sắt, buộc anh dù đau tới đâu cũng phải cố
nhìn vào ô hổng trên cánh cửa. Một chiếc đĩa nhôm đã xuất hiện ở đó với dòng chữ
viết bằng gạch non: “Chết bỏ không khai!”. Có khi là những chữ “Chết vinh hơn
sống nhục!” hay “Chiến dấu tới cùng!”. Và mỗi lần bọn nhân viên xuống mở khóa
cửa xà lim gọi tên anh thì từ xà lim số 3 lại vang lên bài hát “Giải phóng miền
Nam”. Tiếng hát của những cô gái. Hơn một tháng sau, Hai Long mới biết trong xà
lim này có bà Cả Nhiễm, hộp thư của anh, và hai cô gái là Út Dẻo, người giao
thông viên thông minh và gan dạ của cụm mà anh đã gặp ở Chợ Lớn, cùng một cô
nhân viên phòng Hậu cần Miền bị bắt trong khi vào Sài Gòn mua hàng. Xà lim số 3
là một nguồn động viên không nhỏ đối với anh.
Trong xà lim số 7 của Hai
Long, anh cán bộ nông hội ở Bình Dương đã được chuyển đi. Thay vào chỗ anh là
một học sinh, cũng ở Bình Dương, bị bắt vì tham gia Đoàn học sinh Giải phóng,
mới từ tiểu khu Bình Dương chuyển lên. Tên người thanh niên là Kiểm. Kiểm đã
nhanh chóng trở thành thân thiết đối với anh. Kiểm kể lại khi ở tiểu khu, bọn
chúng đã tra tấn bằng cách bỏ anh vào một thùng phuy đầy nước, rồi lấy búa đập
xung quanh thùng, làm cho anh hộc máu tươi, máu ứa ra cả những lỗ chân lông. Từ
ngày chúng giài anh lên Tổng nha Cảnh sát để thẩm vấn bổ sung, anh vẫn không
khai, cuối cùng, chúng phải chịu kết thúc hồ sơ. Anh nói:
- Cháu noi gương
các bác, các chú, chết vinh hơn sống nhục.
Chiều thứ tư, hôm đó là ngày 14
tháng 7 âm lịch, Hai Long bị một trận đòn nặng nhất. Bọn gác ngục phải khiêng
anh về tới xà lim. Anh nằm xuống thì mồ hôi toát ra như tắm, lạnh run rồi ngất
xỉu. Kiểm đập cửa ầm ầm, gọi người tới cấp cứu. Hai Long tỉnh được một lát, rồi
lại ngất đi.
Đêm khuya, anh tỉnh lại, nhận ra Kiểm đang ngồi xoa bóp cho
mình, miệng khấn lầm rầm:
- Cô hồn linh thiêng cứu chú Hai cho con, con ra
con tạ ơn cô hồn... Chú Hai ơi! Chú sắp đi rồi, chú tỉnh lại đi, chú ở đơn vị
nào chú cho cháu biết...
Rồi Kiểm lại vùng đứng dậy đập cửa gọi người tới
cấp cứu.
Những trận tra tấn tiếp theo có phần gượng nhẹ hơn. Có lẽ chúng ngại
anh chết ngay tại nơi tra tấn. Bọn thẩm vấn có chiều mệt mỏi. Chúng vẫn đánh
anh, nhưng không dọa dẫm nữa mà chỉ dùng những lời khuyên nhủ, năn nỉ. Rồi tới
lúc nào đó chúng cũng phải kết thúc cái trò này. Nhưng điều đau đớn ngày càng
tăng với anh, là qua mỗi lần địch thẩm vấn, anh lại hiểu thêm chúng đã biết về
các anh quá nhiều. Lưới đã vỡ lở tới mức không còn cơ cứu chữa. Ngoài những
người trong lưới, chúng đã bắt lầm thêm khoảng một trăm người. Rất nhiều người
chỉ vì vô tình đi lại hoặc gặp gỡ các anh mà cũng bị chúng bắt giam và tra tấn.
Qua một tuần, viên chủ sự lại mời anh tới phòng mình.
Y nói:
- Tôi
hiểu là nhiều người làm cách mạng các ông không sợ hy sinh, không chịu khuất
phục. Nhưng chừng nào ông còn chưa chịu nói, cuộc thẩm vấn chưa thể kết thúc.
Nếu chúng tôi còn chưa phối kiểm được lời khai của ông với những người khác, thì
họ cũng như ông còn tiếp tục bị nhân viên thẩm vấn xúc phạm tới thân thể. Đó là
điều mà riêng tôi rất không muốn. Những ngày qua ông không nói điều chi phủ nhận
những câu hỏi chúng tôi đã nêu ra. Chúng tôi không mong ông nhận hết. Nhưng
chúng tôi cần ông nói giúp cho điều nào đúng, điều nào sai để chúng tôi kết thúc
hồ sơ. Thời gian thẩm vấn đã kéo quá dài.
Hai Long vẫn im lặng.
Viên chủ
sự lại năn nỉ:
- Tôi chỉ mong sớm chấm dứt được mọi hình phạt đối với các
ông. Chúng tôi đã có hoàn toàn đầy đủ cơ sở để kết luận về lưới tình báo chiến
lược A.22 do ông cầm đầu, dưới sự chỉ đạo của ông Năm Sang. Nhưng chúng tôi biết
có những người bị bắt oan. Điều đó phải có sự xác nhận của ông. Mong ông gia ơn
cho...
Hai Long đã chịu dựng tới trận đòn thứ mười bốn.
Đã tới lúc anh
phải chấp nhận phương án xấu nhất mà anh và các bạn đồng đội đã bàn, trước khi
chuyển sang một trò chơi mới.
Bấy giờ anh mới lên tiếng:
- Cầu Chúa tha
tội cho các ông, các ông đã có bao lầm lẩn và phạm vào bao tội ác kinh khủng!
Ngày mai, tôi sẽ nói cho các ông nghe sự thật...
Những dụng
cụ tra tấn đã được dọn đi. Trên chiếc bàn vuông, có thêm bộ đồ nước và bao thuốc
lá.
Cung vẫn giữ thái độ lễ phép:
- Xin mời ông ngồi.
Y giấu kín vẻ
hài lòng vì đã chứng minh được mình hơn bọn đàn em một cái đầu. Với loại đối
tượng đặc biệt này đâu có phải cứ dùng biện pháp mạnh là đạt kết quả. Phải dùng
đầu óc kia!
Hai khuỷu tay Hai Long cuốn đầy băng trắng. Dây treo đã nghiến
nát khuỷu tay anh từ lâu. Chúng phải băng thật dầy để lấy chỗ treo. Khắp người
anh đau nhừ và đang lên cơn sốt. Nhưng đầu óc anh hoàn toàn tỉnh táo. Anh bước
vào một cuộc chơi mới. Những ngày qua, anh đã nhận thấy sự háu ăn của kẻ thù.
Chúng vội vã lật ngửa hết mọi lá bài mong giành một kết quả chóng vánh. Chúng đã
bối rối khi không đạt được ý muốn. Đó là cái yếu của chúng mà anh cần khai thác.
Anh không dược phép sơ hở. Anh phải giành chủ động ngay từ khi vào cuộc.
Hai
Long nhận chén trà nóng và điếu thuốc từ tay Cung. Không cần nhìn, anh cũng biết
tất cả những cặp mắt của bọn chúng đang hau háu hướng về mình như những con thú
đang rình mồi. Anh chậm rãi nhấp ngụm nước trà, hút vài hơi thuốc, rồi ôn tồn
cất tiếng:
- Từ lâu, tôi biết sẽ có ngày gặp các ông, và tôi không hề có ý
định né tránh. Để các ông không hiểu lầm là tôi phách lối, tôi cần nói rõ không
phải chỉ vì CIA và nhân viên của các ông đã hoạt động quá lộ liễu, mà tôi còn
được người Mỹ, các cha vô Phủ tổng thống nhiều lần trực tiếp cho tôi biết tin.
Tôi đã biết người của mình bị chú ý khi liên hệ với phái viên từ mật khu vào.
Tôi biết rõ những ai cung cấp cho CIA danh sách những người có quan hệ với mình.
Các ông đã thấy họ đều bị ông Thiệu bắt lại hồi tháng 8 năm trước...
Hai Long
ngừng lời chờ phản ứng của chúng. Nhưng cả bọn ngồi lặng thinh. Chúng không thể
phủ nhận điều anh vừa nói.
Anh hút một hơi thuốc lá, rồi ung dung nói tiếp:
- Nhiều tháng nay, các ông đã cho người bám riết chúng tôi. Cách đây 4
tháng, phái viên của mật khu đã trở về căn cứ vì biết an toàn của mình bị đe
dọa. Vài ba tháng nay, dự kiến của các ông định chộp bắt chúng tôi không còn bí
mật gì! Ở Tòa đại sứ Mỹ, ở Phủ tổng thống, ở Bộ Tổng tham mưu... người ta đều đã
nói: một tổ chức điệp báo của Bắc Việt đang nằm vùng trong Phủ tổng thống, và
tôi là kẻ cầm đầu. Các cha còn đưa cả cho tôi một cuốn băng ghi âm, mà các ông
đã đặt máy nghe trộm ở nhà người cộng tác với tôi. Nhân viên CIA đã trực tiếp
lái xe theo tôi khi tôi vào nhà thờ Bình An. Tôi biết rất rõ là các ông sắp sập
bẫy, và tôi sẵn sàng chờ đợi nếu các ông quyết định làm như vậy...
Cả bọn
ngồi ngây người lắng nghe từng lời cửa anh. Chúng có vẻ hoang mang. Cung
hỏi:
- Vì sao ông biết đã lộ rồi mà lại không chạy trốn?
- Tôi là một tín
đồ Thiên chúa giáo đã sẵn sàng tử vì đạo cũng như vì lý tưởng đánh đuổi ngoại
xâm, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách của Chúa
không né tránh cũng không một tiếng kêu rên. Bữa nay, tôi trình bày mọi chuyện
với các ông không phải vì e sợ những hành động bạo lực, cũng không phải vì nhưng
lời khuyến dụ của các ông, mà vì tôi nhận thấy mình đã đi trọn 14 chặng đường
Thánh giá của Chúa từ dinh Phi-la-tô đến đồi Gôn-gô-ta[1] là nơi Chúa bị đóng
đinh trên giá Thập tự. Tôi không oán thán gì các ông, vì các ông chỉ là những
công cụ của Chúa dùng để thử thách tôi. Tôi sẽ nói rõ với các ông tôi là ai, và
tôi đã làm những việc gì để thực hiện lý tưởng thiêng liêng của mình.
Hai
Long bắt đầu kể, anh xuất thân từ một gia đình đạo gốc, quê cha ở Thái Bình, quê
mẹ ở Phát Diệm, đã biết giám mục Lê từ ngày còn nhỏ, thời thiếu niên học ở tu
viện tại Hà Nội, gặp kháng chiến toàn quốc tại đây, anh tham gia chiến đấu rồi
gia nhập quân đội cách mạng. Được giác ngộ lý tưởng chiến đấu đánh đuổi ngoại
xâm, anh trở thành đảng viên Cộng sản. Sau ngày ký Hiệp định Genève, anh được cử
đi theo quân đội Pháp, theo dõi việc thi hành hiệp định. Quân Pháp rút về nước,
anh sang Pháp một thời gian, mất liên lạc với miền Bắc, gia đình anh bơ vơ ở Sài
Gòn, anh bỏ nước Pháp trở về. Phẫn nộ trước sự bất công của chính quyền Diệm đối
với đồng bào Công giáo di cư, anh tới làm việc với giám mục Lê và cha Hoàng để
phục hồi lực lượng tự vệ Phát Diệm, đối phó với sự đàn áp của chính quyền. Một
cán bộ Bắc Việt hồi chánh tình cờ gặp anh, phát hiện anh trước đây là cán bộ Vệ
quốc đoàn, nên anh bị bắt ra trại Tòa Khâm, Huế. Trong thời gian này, anh đã làm
cho Ngô Đình Cẩn hiểu mình và trở thành người thân tín của Cẩn, rồi của Nhu, của
Diệm. Anh thúc đẩy ba anh em Diệm nối lại hòa hiếu với cha Lê, cha Hoàng, đồng
thời phò trợ chế độ Diệm đối phó với âm mưu xâm nhập và lật đổ của Mỹ. Sau ngày
đảo chính, anh trở về với cha Hoàng chăm lo việc của giáo hội. Anh bắt đầu tiếp
nhận được đường lối vận động cho hòa bình của Giáo hoàng Paul VI và hiểu sâu sắc
thêm về giáo lý Ki-tô giáo. Anh nguyện dấn thân cho đường lối của Vatican II.
Giữa lúc đó, Trung tâm tình báo Bắc Việt cử người tới bắt liên lạc với anh. Anh
ra vùng tự do gặp anh Mười Hương và được trao nhiệm vụ. Đường lối đánh đuổi
ngoại xâm, hòa bình thống nhất Tổ quốc rất phù hợp với lý tưởng của anh và của
Vatican.
Anh nhận lời làm việc cho Trung tâm. Anh có nhiệm vụ cung cấp những chủ trương
chiến lược của Mỹ đối với cuộc chiến tranh Việt Nam, dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của anh Tư (Năm Sang). Do nhiệm vụ phát triển, anh phải mở rộng các quan hệ. Anh
đã móc nối với Thắng, với Ruật, là những người hợp với lý tưởng của mình mà anh
quen biết từ ngày bị bắt ở trại Tòa Khâm. Phái viên từ mật khu vào gặp Thắng
trực tiếp trao nhiệm vụ. Anh sử dụng danh nghĩa một lãnh tụ của Thiên chúa giáo,
một cố vấn đặc biệt của tổng thống để vừa giúp đỡ Hòe và Trọng, vừa yêu cầu hai
người làm một số việc mà mình cần. Họ chỉ biết anh là người của giáo hội và của
tổng thống Thiệu. Giáo hoàng Paul VI, Đức Hồng y Pignedoli, Đức Khâm sứ Palmas
luôn luôn chỉ đạo anh vận động cho đường lối hòa bình của Vatican đối với cuộc
chiến ở Việt Nam...
Anh kể minh đã dựa vào đặc phái viên của tổng thống
Johnson và Hồng y giáo chủ Spellman như thế nào để đưa Thiệu lên cầm quyền. Anh
đã dùng cách nào nắm được những chủ trương chiến lược của Mỹ để báo cho Thiệu và
giúp Thiệu củng cố địa vị của mình. Anh đã khai thác sự mâu thuẫn giữa ý đồ xâm
lược của Mỹ với chủ trương vận động cho hòa bình của Vatican, những mâu thuẫn
trong chính giới Mỹ để vận động cho hòa bình ở Việt Nam. Anh đã tổ chức cho
Huỳnh Văn Trọng đi Mỹ để nắm tình hình chính trị ở Mỹ, tìm hiểu những ý đồ chiến
lược mà quyết định những hành động. Khi thấy sự an toàn bị đe dọa, anh không chủ
trương thủ tiêu những kẻ đã tố giác, vì một tín đồ Thiên chúa giáo không được
phép nhúng tay vào máu, anh đã dùng chính bàn tay Thiệu đưa bọn này vào nhà
giam, triệt tiêu một nguy cơ. Anh kể lại những cuộc chuyện trò riêng với Nguyễn
Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Huyền[2], và mình đã đề cử người giữ những
chức vụ thủ tướng, bộ trưởng cầm đầu chính quyền, quân đội như thế nào, và hiện
anh đang chuẩn bị ra làm lãnh tụ một đảng Công giáo lớn để đấu tranh cho đường
lối vận động hòa bình của Giáo hoàng Paul VI...
Bọn chúng ngồi nghe anh say
sưa, quên cả hận thù lúc tra tấn anh chết lên chết xuống.
Cò Nhi toét miệng
cười:
- Một chuyện ly kỳ, hấp dẫn chưa từng có!
Tư Thiên lẩm bẩm:
-
Nghe ông mà phát ớn xương sống!
Rồi hắn sầm mặt nói tiếp:
- Chỉ có mấy
ông cũng đã phá nát cả chánh phủ Việt Nam cộng hòa chúng tôi, các ông chia nhau
chi phối tổng thống, tội các ông phải xử thế nào cho đáng!
Hai Long nói:
- Làm chính trị thì đi ngược về xuôi, đi xuôi về ngược có gì là lạ!
Anh
đã chắp nối tất cả những việc mà địch đã theo dõi có hệ thống, những chứng cớ
chúng đã nắm được, vào một câu chuyện có mạch lạc với những dẫn chứng mà chúng
không thể hoài nghi, đồng thời với những mẩu chuyện đánh vào sự tò mò của
chúng.
Chúng ngồi im một lát chưa biết hỏi gì thêm. Rồi Cung băn khoăn:
-
Tôi vẫn chưa hiểu vì sao các ông thấy lộ rồi mà không tìm cách rút lui?
-
Tôi tin chắc là không phải chỉ có một số người hận thù mình mà lại không có
những người yêu thương, bảo vệ! Ông Thiệu không dễ quên những gì tôi đã giúp đỡ
ổng. Ổng cũng thừa biết tình hình chính trị đang biến chuyển, ổng rất cần tới
tôi! Tôi đã cung cấp những tin tức chiến lược cho Mặt trận, nhưng tôi cống hiến
cho giáo hội có ít đâu? Tổng thống Mỹ còn phải tìm mọi con đường để gặp được Hà
Nội, Việt Nam cộng hòa cuối cùng đã
phải ngồi nói chuyện với Việt Cộng ở Paris! Tôi vững tin vào
đường lối mà tôi theo đuổi. Đường lối hòa bình thống nhất Tổ quốc Việt Nam đâu
phải chỉ có Mặt trận Giải phóng chủ trương. Tòa thánh Vatican và Mỹ đều tán thành
đường lối đó. Đa số giáo dân và nhân dân Việt Nam cũng vậy. Sẽ không ít người
bào vệ tôi! Tòa thánh, Giáo hoàng, hàng triệu giáo dân và đồng bào, những nhà
linh mục Mỹ chân chính, những bạn bè Mỹ sẽ đứng bên tôi. Tôi không nghĩ rằng cứ
bị các ông bắt là mọi chuyện đã kết thúc.
Lần này, ngồi ở vị trí hỏi cung, ngoài Cò Nhi, Tư Thiên, còn có một tên
cố vấn người Mỹ với bộ ria vểnh lên và cặp mắt nhìn tinh quái.
- Chào ông Vũ
Ngọc Nhạ, nhà tình báo lỗi lạc của Bắc Việt.
- Chào ông.
- Chúng tôi cảm
ơn về những điều ông đã khai. Ông đang giúp chúng tôi kết thúc sớm vụ án. Tuy
nhiên, còn một số vấn đề chúng tôi phải hỏi lại cho rõ.
Hai Long hiểu bữa nay
tên Mỹ sẽ trực tiếp thẩm vấn mình.
- Tôi đã quyết định nói sự thật rồi thì
tôi có thể trả lời ông những điều tôi biết.
Hắn mỉm cười có vẻ chế nhạo:
-
Ông khôn ngoan lắm! Ông trình bày mọi việc với một logic chặt chẽ, không để lộ
chút gì sơ hở. Nhưng trong nghề, chúng tôi cũng có những kinh nghiệm để hiểu con
người và sự việc ông làm. Tôi lưu ý đòn ông đã phao tin đảo chính và xúi tổng
thống Thiệu bắt tất cả những người uy hiếp an toàn của các ông. Những người đó
đều là nhân viên của chúng tôi. Một đòn rất khéo. Nhưng ông đã phạm sai lầm kỹ
thuật là đưa ông Thúy tới để bày mưu cho Đặc ủy trung ương tình báo bắt người
của chúng tôi. Ông không biết là ông Thúy đã bị chúng tôi theo dõi từ lâu!
Hắn nói với vẻ cay cú.
- Ông hãy tự hào về thắng lợi của ông! - Hai Long
trả lời lạnh lùng.
- Bây giờ còn vài điểm chưa rõ. Ông liên lạc với ông Mười
Hương, đặc phái viên của Trung tâm như thế nào?
- Tôi chỉ gặp ông Hương một
lần. Sau đó tôi làm việc với ông Tư.
- Những việc của một điệp viên chiến
lược như ông không thể do một người như ông Tư chỉ đạo. Ông phải báo cáo trực
tiếp và nhận chỉ thị trực tiếp của Trung tâm. Không thể tin rằng ông không có
quan hệ thường xuyên và trực tiếp với Trung tâm hoặc ông Mười Hương.
- Tôi
tin rằng chưa bao giờ điệp viên của ông báo cáo sự xuất hiện của ông Mười Hương
ở Sài Gòn.
- Không nhất định là ông ta phải xuất hiện... Điện đài ông đặt tại
đâu trong thành phố?
- Tôi đã nói rõ vì sao tôi không dùng điện đài. Vì không
cần có nó, liên lạc của tôi với Trung tâm vẫn nhanh chóng. Ông lưu ý là chúng
tôi đang hoạt động ngay trên đất nước của mình, giữa đồng bào của mình.
- Ông
đừng coi tôi như một đứa trẻ ngây thơ. Không thể nào một tình báo viên chiến
lược mà lại không có điện đài ở ngay bên cạnh! Tôi sẽ làm cho ông phải chỉ ra nó
hiện ở đâu...
Con đường khổ nạn của Hai Long không phải chỉ có 14 chặng. Tên
cố vấn Mỹ vì tự ái nghề nghiệp và căm anh đã xúi Thiệu bắt những nhân viên của
nó, đã trực tiếp chỉ đạo Cò Nhi và Tư Thiên tiếp tục hành hạ, hủy hoại thân xác
anh một cách cực kỳ dã man. Hai Long không còn gì để nói thêm. Ở phương án xấu
nhất này, anh đã đi tới giới hạn. Anh cần phải bảo vệ bằng mọi giá những gì ít
ỏi còn lại, để nếu không phải chính anh thì những đồng chí khác sẽ đi những bước
tiếp.
Buổi tra tấn nhẹ đi rất nhiều nếu tên cố vấn Mỹ không trực tiếp có
mặt.
Anh đã nhận được sự động viên ở ngay trong hàng ngũ những nhân viên của
Tổng nha Cảnh sát.
Một nhân viên nói với anh:
- Ở ngoài, các cha khen
phục ông lắm! Nhưng chúng tôi không hiểu sao ông lại bỏ Chúa đi theo Cộng sản vô
thần?
- Tôi không bao giờ bỏ Chúa, nhưng tôi vẫn theo Cộng sản vì lý tưởng
đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp dân tộc của Cộng sản hiện nay phù hợp với lý
tưởng của Chúa. Giáo hoàng Pôn VI đang nói những lời về Việt Nam như Việt Cộng
nói.
Một nhân viên khác dẫn anh đi tắm, nói nhỏ vào tai:
- Các cha cho
rằng ông đã bị CIA giết. Các cha đang cầu nguyện cho ông và làm rùm beng về việc
ông bị Mỹ thủ tiêu.
Hai Long hiểu rằng cuộc đấu tranh để bảo vệ anh ở bên
ngoài đã bắt đầu. Chúng sẽ không thể nào tra tấn anh đến chết.
Trận đòn thứ
32 với sự trực tiếp chứng kiến của tên cố vấn Mỹ là trận đòn tàn khốc nhất. Hai
Long không hé răng nói một lời cho tới khi ngất lịm phải khiêng về nhà giam.
Nhưng sau trận này, tên cố vấn Mỹ hết kiên nhẫn. Hắn bỏ cuộc.
Một buổi, Hai
Long lên gặp Cò Nhi để hoàn chỉnh bản cung. Trước khi anh ra về, y tươi cười
nhìn anh nói:
- Làm cái vụ này tôi cũng sởn tóc gáy! Ông hiểu cho, vì miếng
cơm manh áo mà phải có hành động vô nhân đạo với ông. Nếu không vì mấy ông “xịa”
o ép, chúng tôi chỉ làm chiếu lệ rồi kết thúc cho xong. Tôi rất sợ cái uy thế
của ông! Báo chí làm dữ quá! Ông có muốn coi báo chí nói chi không?
- Khi
tôi ở ngoài, báo chí là thức ăn hàng ngày. Thiếu cơm thì chịu chớ thiếu báo thì
không chịu được!
- Vậy thì để tôi chuẩn bị. Khi nào phòng này không làm
việc, sẽ mời ông lên coi.
Cò Nhi giữ lời hứa. Ngày hôm sau, hắn đã gọi anh
lên.
Hắn bố trí anh ngồi ở một chiếc bàn khuất cửa ra vào. Trên mặt bàn đã
đặt sẵn một tập các loại báo. Hắn đưa anh một tờ khai với những câu hỏi đã viết
sẵn, rồi nói:
- Tôi phải tạm khóa chân ông vào chân bàn, lỡ ai gọi thì ông
không phải ra mở cửa. Chân bị xiềng thì ra thế quái nào được!
Hắn nhoẻn
miệng cười. Khi cười hắn cũng hiền lành như mọi con người.
- Hễ nghe có người
gõ cửa thì ông đẩy những tờ báo về phía bàn tôi, và làm như đang ngồi viết
cung.
Hắn để một mình Hai Long ở lại trong phòng. Tới bữa ăn, hắn quay lại mở
cửa cho anh trở về nhà giam.
Sau hơn một tháng bị giam giữ, Hai Long lại có
dịp biết về thế giới bên ngoài. Vụ bắt giam bọn anh đã làm chấn động dư luận báo
chí, đặc biệt là những tờ báo chịu ảnh hưởng của Thiên chúa giáo, như tờ Hòa
Bình của linh mục Trần Du, tờ Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm, tờ Chính
Luận của Đặng Văn Sung. Mọi người đều như bàng hoàng, ngơ ngác khi cùng một lúc
cả cố vấn và phụ tá của tổng thống đều bị bắt vì tình nghi gián điệp.
Xã
luận của tờ Xây Dựng ngày 31-7-1969 viết: “Có hai dư luận chính được đưa ra. Một
dư luận đã được Pháp tấn xã phổ biến thành tin tức, nói rằng “vụ Huỳnh Văn Trọng
chỉ là một “mission impossible”[3] theo kiểu đài truyền hình của quân đội Mỹ,
nghĩa là một vụ tổng thống Thiệu trao sứ mệnh cho phụ tá của ông liên lạc mật
với giặc để “thăm dò hòa bình”, nay lại tự tay ông phá vỡ để cảnh cáo những kẻ
muốn đi quá xa... Một dư luận khác chỉ nêu lên khía cạnh khó hiểu của vấn đề.
Thật là khó hiểu nếu nghĩ rằng việc bổ nhiệm người vào một chức vụ quan trọng
như chức vụ phụ tá tổng thống (theo dư luận là đặc trách về chính trị, về tình
báo, về chính trị đối ngoại) mà lại không có sự điều tra chu đáo?... Chót hết,
đây là sự khó hiểu nhất: “Chính phú vừa tuyên bố là kiểm soát được 90% dân số”,
vậy đây là một vụ kiểm soát lớn nhất hay đây chỉ là một điểm nhỏ bị bỏ sót?...
Thành thử chưa thể nói chắc rằng dư luận nào đúng, đây quả là một chuyện dụng ý
hay đây chỉ là một chuyện lỡ làng...”.
Báo Hòa Bình ngày 20-8 cũng đưa tin
vụ Vũ Ngọc Nhạ là một “mission impoosible”.
Nhiều báo chí nêu lên những tin
tức giật gân. Báo Xây Dựng đưa tin “Nhạ là phụ tá của giám mục Lê Hữu Từ, đã
từng ra vào Bắc Bộ Phủ, đã từng vượt biển từ Kim Sơn, Ninh Bình ra Hải Phòng chở
súng đạn về Phát Diệm cho cha Lê Hữu Từ và cha Hoàng Quỳnh chống Cộng. Báo Hòa
Bình viết: “Vũ Ngọc Nhạ là một nhân vật ly kỳ, bí mật, Nhạ đã bị hành quyết, sẽ
đăng chi tiết trong số báo ngày mai”. Có báo viết: “Nhạ cùng nhảy dù với đại tá
Lưu Kim Cương, chỉ huy biệt kích tung ra miền Bắc”. v.v...
Qua báo chí, anh
cũng hiểu vì sao lại có tin đồn mình đã bị “hành quyết”? Từ sau khi anh bị bắt,
rất nhiều cha cố đến Tổng nha Cảnh sát đòi gặp anh. Trong lúc dư luận xôn xao,
thì cuối tháng7, tờ Washington Post đưa tin đại tá Robert B. Rhesult, chỉ huy
lực lượng đặc biệt Mỹ mũ nồi xanh, bị cất chức vì liên quan đến vụ sát hại một
nhân viên tình báo Việt Nam ở Nha Trang. Gần một tháng sau, báo chí Mỹ lại xôn
xao về việc Bộ tư lệnh Mỹ loan tin bắt đại tá Rhesult cùng 2 thiếu tá, 2 đại úy,
2 sĩ quan thuộc lực lượng đặc biệt có liên quan tới vụ sát hại Thái Khắc Chuyên,
một nhân viên tình báo Mỹ... Do sự trùng khớp về thời gian, nên nhiều người
tưởng rằng Thái Khắc Chuyên chính là Vũ Ngọc Nhạ...
Một bữa Hai Long đang
ngồi đọc báo say sưa thì Tư Thiên mở khóa bước vào. Y biết Cò Nhi đi vắng nên
không gõ cửa. Y vào quá nhanh, Hai Long không kịp đẩy tập báo về phía bàn Cò
Nhi.
Tư Thiên liếc nhìn, hiểu ra ngay Cò Nhi đã bày trò này. Nhưng y vui vẻ
nói:
- Ông anh thấy báo chí làm vụ này có ghê không? Không riêng báo chí mà
Phủ tổng thống, Bộ Tổng tham mưu, ngay ở Tổng nha này, đâu đâu cũng rùm beng vì
chuyện của ông anh. Tổng giám đốc của chúng tôi, và cả tổng thống nữa, cũng đang
rất đau đầu. Chưa biết rồi nay mai ra tòa án, vụ này sẽ ra sao...
Hằng ngày, cứ
tới 2 giờ chiều, những tên thẩm vấn lại cho gọi Hai Long lên. Chúng bắt đầu bằng
câu hỏi anh đã sẵn sàng trả lời chúng chưa, rồi lại tiếp tục tra tấn.
Nhưng chỉ hai ngày sau, Hai Long lại bị gọi lên phòng thẩm
vấn.
Một hôm, tên gác nhà giam mở cửa, gọi
anh ra cắt tóc.
Cắt tóc cho anh lần này là một người trung niên lạ mặt.
-
Anh mới tới đây ư? - Hai Long hỏi.
- Tôi từ khám Chí Hòa chuyển sang.
-
Sao đã vô Chí Hòa rồi lại còn phải qua đây.
- Vì tham gia vụ để tang Bác vừa
rồi.
Hai Long sửng sốt:
- Để tang ai?
- Anh chưa hay tin ư...? Bác Hồ
mất ngày 3 tháng 9 rồi!
Nước mắt anh ứa ra, rồi chảy ròng ròng. Người cắt
tóc đang kể chuyện tù chính trị khám Chí Hòa tổ chức để tang Bác, thấy Hai Long
khóc, cũng ngừng tay, dùng ống tay áo quệt nước mắt.
Những người con xa ở
miền Nam không còn ngày gặp lại Bác nữa rồi! Anh bỗng cảm thấy mình có
lỗi.
Bữa chiều hôm đó, anh không thể nào nuốt nổi chén cơm và miếng cá khô
đắng ngắt của nhà tù. Đêm, anh nằm kiểm lại quá trình đấu tranh hơn một tháng từ
ngày bị bắt. Chúng đã không lấy được một lời khai nào của anh về tổ chức của
Trung tâm, về tổ chức tình báo ở miền Nam. Anh còn bảo vệ được một số hộp thư ở
nội thành Sài Gòn. Chúng vẫn còn chưa biết gì về vợ anh Đà ở Bà Chiểu, hai chị
em cô Hương bán hàng tạp hóa trước ty bưu điện Gia Định, chị Tám ở cầu Ba Càng,
Chợ Lớn, chị Tư ở vựa củi Phú Nhuận, vợ chồng chị Lý ở khu Canh Nông Thị Nghè,
cơ sở bình phong của anh Tư và chị Mười Thu. Anh vẫn còn vốn liếng. Cơ sở của
anh chưa hoàn toàn tan vỡ hết...
Từng lúc nước mắt anh lại ứa ra. Mình sẽ
phải làm gì để chuộc lại lỗi lầm này? Mình phải làm gì xứng đáng để chịu tang
Bác đây? Những căm thù lại trỗi lên nung nấu lòng anh.
3.
Chươngg 11
THƯƠNG LƯỢNG
1.
Trong phòng thẩm
vấn có đủ mặt những tên Hai Long đã gặp ở đây từ buổi đầu. Cung - chủ nhiệm, Cò
Nhi - trưởng ban thẩm vấn, Tư Thiên - đặc trách thẩm vấn Hai Long.
- Ông thì như vậy, nhưng còn những
ông kia?
- Họ ít nghĩ đến mối đe dọa hơn tôi. Bởi vì họ chỉ làm từng việc do
tôi giao, và nhiều khi không biết đó là những công việc nguy hiểm. Các ông thử
đặt vào địa vị của họ mà xem... Nếu giúp một việc gì đó cho cố vấn của tổng
thống, một người được Hồng y Spellman tin
cậy, một tín đồ Thiên chúa giáo đã
được Tòa thánh Vatican ban phép chết lành thì còn có điều chi phải lo ngại?
Tư Thiên nói:
- Ông cực kỳ nguy hiểm!
Cò Nhi hỏi:
- Thắng, Hòe,
Ruật giữ những chức vụ gì?
Hai Long làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Tôi đã nói
rồi. Anh Tư là cụm trưởng. Tôi là lưới trưởng trực tiếp với anh Tư. Những người
khác là do tôi móc nối vì tôi thấy họ có những cương vị trong chính quyền, hoặc
là tôi có thể sắp xếp họ vào một chức vụ trong chính quyền để đáp ứng những yêu
cầu của tôi. Tôi không phải trả lương cho họ. Cùng lắm, họ chỉ có ý nghĩ tôi là
một người có quan hệ với Mặt trận đang được tổng thống Thiệu sử dụng. Các ông
còn chưa biết, chính ông Nhu và bà Xuân trước đây đã từng nói với tôi: “Bây giờ
mà có sẵn người quan hệ với Mật trận thì rất hay?”. Hồi đó tiếc rằng tôi lại
chưa có liên lạc với Mặt trận.
Y hỏi tiếp:
- Điện đài ông đặt ở đâu?
- Tôi không hề cần tới điện đài. Trung tâm có căn cứ ngay ở ngoại thành Sài
Gòn. Mọi tin tức chuyển theo hộp thư có thể tới nơi trong vòng vài giờ. Dùng
điện đài trong thành phố sẽ bị phát hiện ngay lập tức.
- Đường dây liên lạc
của ông ra sao?
- Rất chặt chẽ. Thay đổi từng chuyến. Chúng tôi chỉ gặp nhau
giữa đường và nhận ra nhau bằng tín hiệu. Tôi và người nhận thư đều không biết
nhau là ai.
- Còn hộp thư cố định thì sao?
- Cũng vậy. Khi tới hộp thư
nhận thư, tôi được báo hộp thư lần sau nằm ở đâu. Nếu có gì trắc trở ở đó, tôi
sẽ nhận được tín hiệu báo động, và sẽ có hộp thư cố định dự bị thay
thế.
Chúng không còn gì để hỏi thêm anh sau một ngày và một buổi tối nghe anh
kể chuyện. Anh hiểu rằng các bạn đồng đội của mình cũng đã phải thực hiện phương
án xấu nhất. Anh tưởng rằng mình đã đi trọn những chặng đường Thánh
giá...
2.
3.
Hồ sơ của Hai Long đã hoàn tất. Bọn thẩm vấn cho anh biết anh sẽ
chuyển sang nhà lao chờ ngày xét xử.
Ngày 6 tháng 9,
một nhân viên Tổng nha xuống xà lim nói một cách lễ phép:
- Thưa ông, ông
James, cố vấn của Tổng nha Cảnh sát đề nghị ông tới văn phòng gặp ổng. Ổng muốn
thương lượng riêng với ông.
Vì sao tên cố vấn Mỹ lại phải cho báo trước nội
dung cuộc gặp? Nó cần mình hiểu đây không phải là một lần thẩm vấn, tra tấn nữa
ư? Nhưng thương lượng về chuyện gì? Mình có gì để buộc chúng phải thương
lượng...? Hai Long tiếp tục tự hỏi trên đường đi gặp tên cố vấn.
James ngồi
chờ ở văn phòng Tổng nha Cảnh sát. Hắn lịch sự mời anh ngồi, rồi nói:
- Toàn
bộ lưới tình báo của ông đã bị phá vỡ. Nội vụ sẽ được đưa ra xét xử một ngày gần
đây. Ông đã biết rõ luật pháp của nước Việt Nam cộng hòa trong trường hợp này?
- Tất nhiên. Tôi còn biết hơn thế, những người như chúng tôi đã bị đặt ra
ngoài vòng pháp luật.
- Tôi đã đọc bản cung của ông. Tôi rất cảm phục tinh
thần thẳng thắn của ông. Ông đã nhận mọi tội lỗi về phần mình.
- Vì thực tế
là như vậy.
- Tôi biết ông có ý thức về mọi việc mình làm. Ông đã lượng định
trước mọi hậu quả. Nhưng bữa nay tôi không có ý định mời ông tới để nói về tội
trạng của ông, mà muốn cùng ông thương lượng.
- Về vấn đề gì?
- An ninh
của cá nhân ông.
- Chắc rằng với một số điều kiện...
- Điều kiện rất đơn
giản. Chúng tôi sẵn sàng trả tự do cho ông và tất cả những người có liên quan
nếu ông chịu tuyên bố trong một cuộc họp báo, rằng ông là nhân viên của chúng
tôi, nói cụ thể hơn, nhân viên của CIA, vì quyền lợi của phe nhóm mà có âm mưu
lật đổ chính quyền, bị phát hiện, bị bắt giữ để điều tra... Tất nhiên là tại
cuộc họp báo sẽ có đông đủ ký giả trong nước, nước ngoài và có nhiều hãng vô
tuyến truyền hình. Họ có thể hỏi một số điều và ông sẽ sẵn sàng trả lời.
Hai
Long ngồi lặng thinh chờ nghe hắn còn nói gì thêm.
James thấy anh chưa đáp
lại, bèn giải thích:
- Ông đã biết vụ này gây nên dư luận quá ầm ĩ, chúng
tôi muốn xếp lại thì cũng phải có một lý do nào thỏa đáng. Chúng tôi đã nhận
trách nhiệm về phía mình. Làm như vậy không mất lòng phe phái nào. Còn một âm
mưu đảo chính mới chỉ nằm trong ý định thì với nước Việt Nam cộng hòa này không
có gì lớn. Chính quyền đã tha bổng cho nhiều người đã mưu toan chuyện đó. Tôi
bảo đảm là sau cuộc họp báo, ông và các bạn sẽ được trả lại tự do.
Hai Long
hỏi lại:
- Ông nói làm như vậy không mất lòng phe phái nào, vậy đối với
Thiên chúa giáo thì sao?
- Ông sẽ không cần nêu phe nhóm nào cụ thể, kể cả
khi trả lời câu hỏi của các nhà báo. Tôi hiểu rằng ngoài Thiên chúa giáo, ông
còn có rất nhiều quan hệ khác, với Mặt trận Giải phóng chẳng hạn... và với cả
chúng tôi. Tôi nghĩ một lởi tuyên bố như vậy sẽ không mất lòng ai.
Những ý
nghĩ lướt nhanh trong óc Hai Long. Chúng muốn dẹp vụ này vì việc đưa ra xét xử
công khai sẽ gây phiền toái cho nhiều thế lực chính trị ở miền Nam, trước tiên
là cho Mỹ và cho Thiệu. CIA sẽ đề cao danh tiếng của mình nếu anh tự nhận là
nhân viên của chúng. Thiệu cũng sẽ đẹp mặt vì đã phát hiện ra một âm mưu lật đổ.
Cũng bằng việc này, chúng sẽ vô hiệu hóa anh, anh không còn vị trí gì trong
Thiên chúa giáo. Đối với cách mạng, anh cũng sẽ trở thành một kẻ phản bội! Và
khi đã thả anh ra rồi, chúng vẫn có thể thủ tiêu anh, hoặc chí ít, chúng sẽ bắt
lại anh khi anh không còn ai bảo vệ...
Hai Long nói:
- Tôi là một tín đồ
Thiên chúa giáo, tôi trung thành với tôn giáo của mình, trung thành với đường
lối của giáo hội La Mã. Tôi nhận lời cộng tác với phía bên kia vì đường lối của
họ phù hợp với đường lối của Vatican, của Giáo hoàng Paul VI mà tôi hằng ngưỡng
mộ. Tôi không thể có một lời tuyên bố phản lại lý tưởng của mình. Tôi đã bị các
ông bắt, tôi yêu cầu được đưa ra xét xử công khai.
James vẫn cố chèo kéo:
- Tôi mong ông nhận thấy đây là một giải pháp rất tốt trong tình thế cực kỳ
khó khăn của ông. Tôi không có ý định yêu cầu ông phải trả lời ngay bây giờ. Tôi
xin dành cho ông một vài ngày suy nghĩ. Ông sẽ trả lời tôi sau. Khi đó chúng ta
sẽ bàn kế hoạch cụ thể. Ông có thể nhận được lời cam kết của chúng tôi trước khi
hành động nếu ông xét thấy chưa đủ tin.
- Tôi không có câu trả lời nào khác.
Mong các ông đưa chúng tôi ra xét xử sớm.
Trước khi Hai Long ra về, James còn
níu thêm:
- Tôi vẫn giữ lời đề nghị này nếu ông nghĩ lại và chấp
thuận.
[2] Chủ tịch Hạ viện
[3] sứ mạng bất khả thi
Trước 9 giờ, hội
trường của Nha quân pháp tại số 3 đại lộ Bạch Đằng Sài Gòn, nơi tòa án quân sự
mặt trận lưu động Vùng 3 chiến thuật mở phiên xử vụ án Huỳnh Văn Trọng, đã đông
nghịt người. Các ghế không còn một chỗ trống. Những người không có chỗ ngồi,
đứng như nêm cối chung quanh. Một đám dân chúng tụ tập trước cửa. Đội ngũ ký giả
trong và ngoài nước đông chưa từng có trong bất cứ một phiên tòa nào, hơn một
trăm người. Một ký giả giơ gói bánh mì khoe với bạn đồng nghiệp:
- Ăn trưa
tại chỗ, vụ này thì không thể bỏ qua giây phút nào!
Suốt mấy tháng nay, việc
bắt giữ một lúc cố vấn đặc biệt của tổng thống và phụ tá đặc biệt Phủ tổng thống
cùng trên một trăm người có liên quan vì tội làm gián điệp cho Bắc Việt, đã làm
xôn xao dư luận Sài Gòn và nước ngoài. Một chuyện chưa từng có trong lịch sử,
hay là một trò chính trị “vắt chanh bỏ vỏ”, một âm mưu vu cáo loại trừ lẫn nhau?
Vậy nội vụ là như thế nào? Lại có tin Nhạ đã bị hành quyết! Nhạ còn sống hay đã
chết? Con người đã làm nên những chuyện động trời đó hình thù ra sao...? Chỉ một
lát nữa, tấm màn bí mật sẽ bắt đầu được vén lên. Phiên tòa hứa hẹn nhiều chuyện
ly kỳ, bất ngờ như báo chí đã nêu. Nó đã tạo nên một sức hấp dẫn đặc biệt đối
với công chúng.
Bé Liên đi cùng với mấy bạn gái học trường Trưng Vương tới
theo dõi phiên tòa, ghé mắt nhìn cuốn sổ đăng đường, rồi kêu lên:
- Bay ơi,
ba tao đầu sổ!
Mấy ký giả nghe tiếng, xô lại, khiến em phải lẩn mau vào đám
đông.
Mọi người đổ ra cửa khi chiếc xe bịt bùng đưa những can phạm từ nhà
lao tới.
Quân cảnh và cảnh sát dàn ra hai bên đường đề phòng, sát khí đằng
đằng. Những cặp mắt đều đổ dồn về cánh cửa sát trên ô tô còn đóng kín. Những
phóng viên lăm lăm chiếc máy ảnh trong tay, chờ cơ hội chớp một tấm hình độc đáo
từ giây phút đầu tiên khi nhân vật chính xuất hiện.
Tên lính quân cảnh mở cửa
sắt.
Một người bé nhỏ khoảng ngoài 40, trán cao, mắt sáng, mái tóc đã bắt đầu
thưa, từ trên xe bước xuống. Anh bận sơ mi trắng, thắt một chiếc cà vạt màu nâu
giản dị, quần đen, vẻ mặt tươi sáng, điềm đạm.
Trong đám đông vang lên nhiều
ti tiếng gọi:
- Ba ơi!
- Thầy Bốn!
- Giáo sư Long!
- Anh Hai
Nhã!
Người ta còn gọi anh bằng những tên khác.
Anh hơi dừng bước đưa cặp
mắt mở to tìm người quen trong đám đông, mỉm cười vẫy tay chào một ai đó, rồi
bước tiếp về phía hội trường.
- Vũ Ngọc Nhạ đây ư?...
Nhiều người hỏi
nhau. Họ đều ngạc nhiên, vì cầm đầu tổ chức gián điệp nguy hiểm của Việt Cộng
lại chỉ là một người nhỏ nhắn có nụ cười lành hiền, bộ mặt trung hậu.
Đi tiếp
sau anh là một người cùng trạc tuổi, tầm thước, đeo cặp kính trắng gọng vàng,
cũng mặc sơ mi trắng, quần xanh đen, đi giầy ba-ta, đôi mắt sắc sảo. Rồi tới một
người khoảng trên 50, cao lớn, đeo kính trắng viễn, chững chạc trong bộ đồ lớn
màu xanh, đi giầy đen, dáng điệu bệ vệ, đàng hoàng như một vị bộ trưởng, mà mọi
người đều đoán ngay là Huỳnh Văn Trọng. Đi sau Trọng là một người còn cao lớn
hơn anh, không còn ít tuổi nhưng với mái tóc cắt ngắn, đen nhánh, gương mặt sáng
sủa, thân hình cân đối, rắn chắc, người ta dễ nghĩ đó là một vận động viên thể
thao đã trải qua một thời thanh niên sôi nổi. Tất cả đều mang dáng vẻ trí
thức.
Qua những tiếng gọi, những nụ cười và những cái vẫy tay đáp lại, đám
đông đã nhận ra đi đầu là Hai Long, rồi tới Thắng, Trọng và Hòe.
Một thanh
niên vui vẻ thốt lên:
- Việt Cộng đẹp trai quá ta!
Nhiều tiếng cười hưởng
ứng.
Với những bộ quần áo chững chạc, những nụ cười, những cái vẫy tay,, họ
giống như một phái đoàn vừa từ trên máy bay bước xuống, đang tươi cười đáp lễ
những người ra đón nhiệt tình.
Trên đường đi vào hội trường, Trọng đã nhẹ
nhàng đưa cho một phóng viên Tây Đức bản tuyên bố của mình. Một số đồng nghiệp
lập tức bu lại quanh người bạn vừa gặp may. Người phóng viên Tây Đức tỏ ra hào
phóng, sẵn sàng cho các bạn đồng nghiệp sao lại bản tuyên bố. Đây là tin tức đầu
tiên của phiên tòa tới tay ký giả.
Hai Long
không hiểu tại sao chúng vẫn chưa chuyển mình về nhà lao.
Ngay 29-11-1969.
Viên trung tá già, bộ mặt sạm đen nghiệt
ngã, ngồi ghế chánh thẩm tuyên bố khai mạc phiên tòa xét xử vụ án gián điệp
Huỳnh Văn Trọng.
Bốn bị can chính là Hai Long, Trọng, Thắng, Hòe; ngồi ở
hàng ghế đầu của những bị cáo. Sau lưng họ còn khoảng 40 người liên can. Thành
phần luật sư biện hộ cho những bị can khá hùng hậu, gồm trên 20 luật sư danh
tiếng của Sài Gòn.
Công tố ủy viên đọc bản cáo trạng dài dằng dặc suốt một
tiếng rưỡi đồng hồ.
Đúng như Hai Long đã dự đoán, tội trạng của anh và các
bạn được tập trung vào việc làm gián điệp với những vụ đánh cắp những tài liệu
cơ mật của Phủ tổng thống, của Tòa đại sứ Mỹ, và chuyển giao cho phía bên kia
những tin tức chiến lược rất nguy hại cho an ninh quốc gia. Người cầm đầu là Vũ
Ngọc Nhạ, một cán bộ tình báo của Bắc Việt được tung vào Việt Nam cộng hòa từ sau
Hiệp định Genève năm 1954. Những bị can chính là Nhạ, Trọng, Thắng và Hòe đều bị
ghép vào trọng tội phản nghịch quốc gia.
Trái hẳn với Hai Long,
bằng một thái độ tỏ ra tự kiềm chế của người bị hàm oan, anh từ tốn và rành rẽ
bác lại những lời hỏi tội của viên chánh thẩm ngay từ đầu.
- Tôi là một tín
đồ Công giáo, một người quốc gia yêu nước. Trong tình hình chiến tranh đã kéo
dài tàn phá đất nước, theo ý tôi, con đường đúng nhất là con đường hòa hợp dân
tộc mà những biến cố gần đây đang và sẽ chứng minh là đúng. Do đó, tôi và một số
bạn bè, đã hy sinh cá nhân, đứng cạnh tổng thống Thiệu, nhận lấy một chức vụ rất
nguy hiểm trong hiện tình, không ngoài mục đích thực hiện đường lối ấy với ông
Thiệu. Tôi đã không ngần ngại hợp tác với bất cứ ai, dù là Hoa Kỳ hay Mặt trận
dân tộc Giải phóng miền Nam, để sớm đem lại hòa bình cho đất nước chúng ta.
Trong mọi sáng kiến, vai trò tiền phong là cần thiết. Vì quyền lợi của Giáo hội
Việt Nam, mà tôi là một con chiên, tôi tự nhận lấy cái nhiệm vụ nguy hiểm ấy
trước giáo hội và trước đất nước. Nếu quý tòa không nhận thấy sự cống hiến của
tôi trong vai trò tiền phong ấy để sớm đem lại một giải pháp hòa bình tốt đẹp
cho miền Nam Việt Nam, thì tôi sẵn sàng lãnh tất cả sự nghiêm khắc của quý tòa,
như một người đã được cái vinh dự tử vì đạo cho tôn giáo của mình trong vụ án
này. Tôi không dám tự so mình với các bậc tiền nhân, nhưng phải chăng tôi đã
đóng vai trò tương tự như Lê Lai trong lịch sử...?
Viên chánh thẩm hỏi:
-
Có phải ông Vũ Ngọc Nhạ đưa ông vào Phủ tổng thống với cương vị phụ tá để phục
vụ cho những mục đích đen tối của mình hay không?
- Tôi cần phải nói rõ trước
tòa là ông Nhạ không hề đưa tôi vào làm phụ tá cho tổng thống. Trước ngày bầu cử
tổng thống, ông Nhạ đã gặp tôi với tư cách một lãnh tụ của Thiên chúa giáo, yêu
cầu tôi dùng những quan hệ đã có từ lâu với Tòa đại sứ Mỹ, vận động người Mỹ ủng
hộ cho ứng cử viên của Thiên chúa giáo đắc cử trong nhiệm kỳ tới. Người đó là
trung tướng Nguyễn Văn Thiệu. Ông Nhạ nói mình đã giành được sự thỏa thuận này
với Hồng y giáo chủ Spellman và đặc phái viên của tổng thống Johnson. Tôi đã
tuân theo chủ trương của giáo hội Việt Nam. Ông Thiệu rất lo lắng liên danh của
mình có thể bị liên danh của ông Sửu và ông Kỳ đánh bại. Tôi cũng chia sẻ sự lo
lắng đó. Ông Nhạ bảo tôi cứ yên tâm vận động Tòa đại sứ Mỹ, rồi ông sẽ tiến hành
mọi việc cần thiết tiếp theo với người Mỹ. Tôi đã tiến hành có kết quả việc ông
Nhạ trao, tổ chức cuộc gặp gỡ giữa đại diện của ông Thiệu là ông Nguyễn Văn
Hướng với tòa đại sứ Mỹ, và đứng ra làm trung gian trong quan hệ giữa ông Thiệu
và Tòa đại sứ Mỹ trong suốt cuộc vận động tranh cử. Sau ngày ông Thiệu đắc cử,
tổng thống đã nhờ ông Hướng chuyển lời mời tôi vào làm phụ tá về chính trị và
ngoại giao, đặc trách quan hệ giữa Phủ tổng thống với Tòa đại sứ. Tôi đã cảm ơn
và từ chối. Chỉ tới 3 tháng sau, khi tổng thống Thiệu ra sức lệnh bổ nhiệm, tôi
mới vô Phủ tổng thống lãnh nhiệm vụ... Tôi biết ông Nhạ trong cương vị cố vấn
của tổng thống, phải góp ý kiến về nhân sự trong bộ máy chính phủ, ông Nhạ đã
từng
đề cử ông Hướng làm thủ tướng, đã từng đề nghị một số người vào các
cương vị bộ trưởng, tổng trưởng..., nhưng trường hợp của tôi không nằm trong
trường hợp những người được ông Nhạ tiến cử.
- Có phải ông được ông Vũ Ngọc
Nhạ trao nhiệm vụ sang Hoa Kỳ điều tra tình hình chính trị Mỹ có liên quan tới
hòa đàm Ba Lê để cung cấp cho Việt Cộng không?
- Thưa quý tòa, tôi buộc phải
nói cách đặt vấn đề như vậy là hoàn toàn không đúng. Sứ mạng mà tổng thống trao
cho phái đoàn do tôi cầm đầu sang công cán tại Hoa Kỳ, là hết sức khó khăn và tế
nhị. Vẻ bề ngoài, phái đoàn lãnh trách nhiệm đi cầu viện hậu chiến, nhưng thực
chất bên trong là tiến hành điều tra, coi một khi đã thay đổi chiến lược ở Việt
Nam, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, Mỹ có âm mưu loại trừ tổng thống
Thiệu, là người có chủ trương cứng rắn, hay không. Tổng thống Thiệu rất lo lắng
về vấn đề này. Chúng tôi có nhiệm vụ phải giải tỏa sự bất đồng giũa ông Thiệu và
ông Johnson, đồng thời phải thăm đò xem người kế vị tại Nhà Trắng là ai, và phải
tranh thủ bằng được sự ủng hộ của tổng thống Mỹ tương lai với cá nhân tổng thống
Thiệu. Tôi nhớ trong cuộc gặp mặt trao nhiệm vụ cho phái đoàn trước ngày lên
đường, có sự tham gia của đích thân tổng thống với bào huynh là ông Nguyễn Văn
Kiểu, cùng với sự chứng kiến của cha Hoàng và cha Nhuận, ông Vũ Ngọc Nhạ ngồi ở
ghế chủ trì đã nói với phái đoàn: “Hiện nay cái thế của Việt Nam cộng hòa đang
chông chênh, ngôi vị của tổng thống có phần nghiêng ngửa, nhiệm vụ của phái đoàn
đối với quốc gia, đối với việc phò trợ tổng thống rất nặng nề...”. Ông Nhạ đã
gọi hội nghị này là hội nghị Đồng tâm, và động viên phái đoàn dốc lòng dốc sức
chu toàn sứ mạng... Khi chúng tôi trở về phúc trình với tổng thống về chuyến
công du, ông Nhạ đã ngồi cùng nghe với tổng thống. Những kết quả phái đoàn đem
về rất khả quan. Chính ông Thiệu đã ngỏ lời tri ân phái đoàn và nói sau bao ngày
lo lắng rầu rĩ, kết quả phái đoàn đem về khiến ông cảm thấy tươi trẻ lại... Tôi
xin khẳng định trước tòa là ông Nhạ không hề trao cho chúng tôi nhiệm vụ thu
thập tin tức cho Mặt trận Giải phóng.
- Vậy ông giải thích thế nào về những
kế hoạch tuyệt mật mà ông đã cung cấp cho ông Vũ Ngọc Nhạ, như kế hoạch Kinh tế
hậu chiến, kế hoạch Bình định và Xây dựng năm 1969, kế hoạch Phượng
hoàng...?
- Tôi vào làm việc với tổng thống mười lần thì có tới sáu bảy lần
thấy ông Nhạ cùng ngồi ở đó với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi không bao giờ
nghĩ rằng ở cương vị của mình, mình lại có được những tin tức cơ mật mà chính
ông Nhạ không biết. Những tài liệu mà quý tòa vừa kể có liên quan tới nhiệm vụ
mà tổng thống đã trao cho tôi bằng văn bản trước ngày đi Mỹ. Trong đó, ông Thiệu
đã ủy thác và trao quyền cho tôi tiếp xúc với các tổ chức chính quyền và tư nhân
Mỹ quan tâm tới chương trình phát triển, nghiên cứu xã hội và kinh tế hậu chiến
tại Việt Nam cộng hòa, và cung cấp cho họ những tài liệu có liên quan. Tòa đại
sứ Mỹ sau khi đọc ủy nhiệm thư, đã trao cho tôi những tài liệu đó. Với ý thức
trách nhiệm, tôi đã đưa trình những tài liệu đó với tổng thống và cố vấn trước
khi đem đi. Tôi có thể trình ngay trước tòa ủy nhiệm thư của tổng thống Thiệu.
- Ông phủ nhận những lời khai đã biết ông Vũ Ngọc Nhạ có quan hệ với Cộng
sản, và cả những cuộc gặp gỡ với Huỳnh Văn Tư từ mật khu vào đã được cơ quan an
ninh chụp hình ghi lại?
- Tôi hoàn toàn không phủ nhận những điều tôi đã
khai. Khi ông Nhạ cho tôi tiếp xúc với ông Tư, tôi đoán ông Tư là người của Mặt
trận Giải phóng, từ đó tôi hiểu ông Nhạ có quan hệ với Mặt trận. Nhưng tôi cho
rằng điều này không quan trọng. Tôi đã trực tiếp nhìn thấy ông Nhạ hàng ngày kề
cận với tổng thống, thì ông Nhạ và tổng thống chỉ là một. Tôi đã có dịp coi thủ
bút của ông Thiệu trong lá thư viết cho ông Nhạ bằng cây viết nguyên tử màu đen,
tổng thống nhờ ông Nhạ cảm ơn các cha và những người bạn Mỹ. Trong lúc đường lối
của Giáo hội Tòa thánh Vatican là tìm cách dàn xếp giữa những phe phái theo
chính sách hòa giải dân tộc, mà bằng cớ mới nhất là những hoạt động vận động hòa
bình của Đức cha Nguyễn Văn Bình và Đức cha Phạm Ngọc Chi do chính tòa thánh
Vatican chấp thuận, thì cuộc tiếp xúc giữa ông Nhạ hoặc chính tổng thống với
người phía bên kia chỉ là hoạt động bình thường. Tôi không bao giờ nghĩ rằng tán
thành hòa bình, liên hiệp là đầu hàng! Là đương kim tổng thống, ông Thiệu phải
tính tới nhiều đường đi nước bước. Tôi không tự cho phép được đi sâu tìm hiểu
vấn đề này, sợ vô tình phanh phui những việc làm tổng thống cần giữ bí
mật...
Trọng đã trả lời trong cả cuộc thẩm vấn bằng một logic chặt chẽ của
một người đã tốt nghiệp đại học Luật và một cựu bộ trưởng Nội vụ. Những phóng
viên, ký giả không ngừng tay ghi chép. Sự hoài nghi trong những người dự phiên
tòa càng tăng trong lúc những can phạm luôn luôn tỏ ra bình tĩnh, tự tin, mà kẻ
thẩm vấn thì không che giấu được sự bối rối.
Phiên tòa ngày 28 đã mang lại
cho báo chí một cơ hội hiếm có. Tất cả những báo chí Sài Gòn ngày 29-11 đều đăng
tin về phiên tòa với những dòng tít lớn ở trang nhất.
Báo Cấp Tiến đưa tít
lớn: “Vụ án chính trị của thế kỷ. Trước tòa án Quân sự Mặt trận lưu động vùng 3
chiến thuật, hơn 100 ký giả trong và ngoài nước theo dõi ngay từ phiên tòa thứ
nhất có thể kéo dài nhiều ngày và có thể có nhiều yếu tố bất ngờ”.
Báo Trắng
Đen đưa tít: “Các bị can tươi cười như đi dự “đám cưới”. Người được các ký giả
chụp hình nhiều nhất là Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng”.
Báo Tia Sáng đưa tít
lớn: “Những sự kiện quá ly kỳ trong vụ án Huỳnh Văn Trọng. Chính Vũ Ngọc Nhạ là
“sếp” của Huỳnh Văn Trọng, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hòe, Lê Hữu Thúy...”.
Báo Thời Thế đưa tít lớn: “Vũ Ngọc Nhạ là cố vấn của tổng thống Thiệu, từng
tiến cử ông Nguyễn Văn Hướng làm Thủ tướng”.
Báo Điện Tín đưa tít lớn: “Vũ
Ngọc Nhạ, một “cây” bất cần đời. Trước tòa, Vũ Ngọc Nhạ luôn luôn tươi cười tỏ
ra “bất cần đời”! Trong lúc được tòa thẩm vấn, Nhạ cũng đã luôn luôn nói “ông
Thiệu” chứ không lúc nào gọi bằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”.
Báo Quyết
Tiến đưa tít lớn: “Sẽ có nhiều bất ngờ trong vụ án Huỳnh Văn Trọng? Vai trò chủ
chốt thật sự là Vũ Ngọc Nhạ chứ không phải Trọng”. Tờ báo viết: “Những bị can
chính đều cho rằng họ là những người theo đạo Công giáo, đều hoạt động theo
đường lối của tòa thánh Va-ti-căng, nghĩa là tìm cách dàn xếp giữa hai phe phái
theo chính sách hòa giải dân tộc... Riêng trường hợp của Nhạ, Nhạ còn nói rõ
rằng ông ta được cả giấy khen của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề cập tới những
việc giúp ích của ông cho quốc gia. Quan trọng hơn, ông Nhạ còn nói rằng có cả
giấy khen thưởng của tòa thánh Va-ti-căng. Vậy thì đâu là sự thật trong vụ
này?..”.
4.
---
[1]
Golgotha
Chương 12
“VỤ ÁN CHÍNH TRỊ THẾ
KỶ”
1.
Hạ tuần tháng 11,
địch mới chuyện Hai Long về khám Chí Hòa. Những anh chị em khác đã về đây trước
một tuần.
Chưa bao giờ lưới lại có một cuộc gặp gỡ đông đủ như vậy. Lòng anh
se lại khi nhìn thấy người nào cũng võ vàng sau những ngày bị giam cầm, tra tấn.
Những người chúng đã nhắc tới tên trong các cuộc thẩm vấn đều có mặt. Tổn thất
quá nặng nề.
Năm cán bộ điệp báo: Hai Long, Thắng, Hòe, Ruật, Đồng.
Ba
hộp thư: bà Cả Nhiễm và anh Hiếu (con trai bà), cô Diệp, cô Lan.
Hai cán bộ
giao thông đầu dây: chị Bẩy Huê, chị Tư Xung Phong.
Một giao thông viên bàn
đạp: cô Út Dẻo.
Một giao thông viên nội thành: Cô Tuyến.
Và một số cơ sở
cách mạng.
Những cán bộ điệp báo được giam chung tại phòng chính trị quốc
gia. Địch không còn e ngại sự trao đổi giữa họ vì toàn bộ hồ sơ vụ án đã hoàn
tất. Có tin phiên tòa án binh sẽ được tổ chức vào cuối tháng.
Hai Long tranh
thủ nắm những lời anh chị em đã khai báo. Các điệp viên đều thực hiện đúng kế
hoạch phương án 3. Không ai khai gì thêm ngoài những điều địch đã phát hiện.
Thắng đã xác nhận cuốn băng ghi âm được lấy ra từ máy nghe trộm đặt tại nhà anh
một thời gian dài. Anh đã có biện pháp phòng ngừa thường xuyên, nhưng vẫn để lọt
vào máy một vài tiếng nói có quan hệ tới công việc. Sơ xuất lớn của họ là đã
không phát hiện được hết bọn mật vụ bám sát nên để lộ quan hệ giữa những người
trong lưới và một số cơ sở. Về tài liệu, địch chỉ mới biết những thứ Trọng lấy
từ Tòa đại sứ Mỹ do chính nơi này phát giác, và bản phúc trình của Trọng sau khi
anh đi Mỹ về do Thiệu nói ra. Địch không tìm hiểu được gì qua họ về tổ chức tình
báo của ta. Một số hộp thư và cơ sở cách mạng vẫn được bảo vệ. Nguyên nhân đầu
tiên là do một vài hoạt động thiếu cảnh giác của họ trong hai đợt Tổng tiến công
Mậu Thân khi nghĩ rằng đây là trận đánh cuối cùng...
Không còn thời giờ để
day dứt, nuối tiếc những sai lầm đã qua. Hai Long khẩn trương bắt tay vào chuẩn
bị cho trận đánh sắp tới.
Một số luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ án đã đánh giá
những can phạm chính khó thoát được án tử hình.
Hai Long thấy chỉ còn cơ hội
độc nhất vùng lên chiến đấu là dùng phiên tòa để nêu cao uy thế cách mạng, khẳng
định thắng lợi cuối cùng, tạo nên một sự rối loạn trong hàng ngũ địch, thể hiện
niềm tin, niềm tự hào, lạc quan của những người chiến sĩ cách mạng, coi cái chết
nhẹ tựa lông hồng. Anh cũng tính toán cách lật ngược ván cờ, dồn địch vào thế
không dễ đưa ra những bản án quá nặng, đồng thời cố giữ cho mình một hình ảnh
tốt về các mặt chính trị, tôn giáo, xã hội... chuẩn bị cho sau này nếu còn có
dịp trở lại công tác.
Anh dự kiến địch sẽ quy vụ án vào những hoạt động gián
điệp trong phạm vi Phủ tổng thống, ghép mình và các bạn vào tội phản nghịch quốc
gia. Để đối phó lại, các anh cần phải chuyển thành một vụ án chính trị mang tính
thời sự, có liên quan sâu rộng tới nhiều nhân vật Mỹ, ngụy cao cấp, tới nhiều cơ
quan đầu não của Mỹ, ngụy như Phủ tổng thống, chính phủ Mỹ, Tòa đại sứ Mỹ, tới
nhiều tôn giáo lớn như Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hòa Hảo..., tới nhiều đảng
phái như Việt Quốc, Đại Việt, Lực lượng Tự do dân chủ, Mặt trận Quốc giá dân chủ
của Thiệu..., liên quan tới đường lối của Mỹ, Pháp, Vatican, giáo hội Mỹ, Mặt
trận Giải phóng miền Nam, Việt Nam dân chủ Cộng hòa..., làm cho vụ án lan rộng
ra phạm vi quốc tế, gắn liền với những giải pháp cho Việt Nam như hòa hợp, hòa
giải dân tộc, chính phủ liên hiệp, lực lượng thứ ba...
Họ trao đổi với nhau
rất kỹ về nội dung biện hộ của từng người tại phiên tòa. Hai Long sẽ nhân danh
một chiến sĩ cách mạng, sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng, một tín đồ Công giáo “tử
vì đạo” phủ nhận quyền xét xử của phiên tòa đối với mình và không cần biện hộ.
Ngược lại, các bạn anh sẽ chuẩn bị thật đầy đủ để nêu ra những sự việc quan
trọng, cơ mật có liên quan tới những vấn đề nội bộ của Mỹ - ngụy, những nhân vật
chớp bu, những cơ quan cầm đầu chính quyền, tôn giáo, đảng phái, những chủ
trương lớn mà họ đã trực tiếp chứng kiến hoặc đích thân tham dự vào.
Họ bàn
bạc từ trang phục, thái độ, cử chỉ ở phiên tòa, đến cách trả lời những phóng
viên, ký giả, trước “quan tòa”.
Hai Long phân công Trọng, Hòe, Ruật là những
người am hiểu luật pháp, cùng với Bửu Chương, Nguyễn Bỉnh Tuyên, hai người bị
tình nghi liên quan, làm việc với các luật sư. Thắng và Hòe vốn là hai ký giả
cùng với hai người bạn bị bắt oan, là nhà văn Cao Trần và nhà báo Phan Nghị sẽ
tiếp xúc với những nhà báo, phóng viên các hãng thông tấn, chú trọng tranh thủ
cảm tình của những nhà báo, phóng viên nước ngoài khi ra tòa.
Các anh chị em
khác trong lưới cũng được bàn bạc chuẩn bị kỹ lưỡng.
Cha Hoàng nhắn vào sẵn
sàng ra trước tòa biện hộ cho Hai Long. Anh chuyển lời cảm ơn và khuyên ông bình
tâm, không phải nhọc mình vì chuyện đó. Một kíp luật sư chọn lọc của khối Công
giáo tuyên bố tình nguyện biện hộ cho anh không điều kiện, Hai Long cũng chuyển
lời cảm ơn và khước từ. Nhưng đối với anh chị em trong lưới, anh bàn nên thuê
những luật sư danh tiếng nhất của Sài Gòn thuộc khuynh hướng tiến bộ, những
người đối lập với Thiệu, những người có cảm tình với lực lượng thứ ba. Nhiều
luật sư như Trần Văn Tuyên, Trần Ngọc Liễng, Phan Tấn Chức, Lâm Lễ Trinh, Vũ Văn
Huyền, Phan Thành Hy, Trần Văn Trai, Trương Tiến Đạt, Lê Thế Hùng, Lê Nguyên
Phu, Dương Hồng Lương, Dương Mỹ Linh... lần lượt tới nhà lao gặp họ, và nhận
lời.
Họ đã có thêm nhiều đồng minh chiến đấu trong trận đánh sắp tới. Nhưng
họ vẫn tự xác định mình là những mũi chiến đấu chủ lực. Hai Long chuẩn bị cho
các bạn những tài liệu cần thiết như những thủ bút của những nhân vật Mỹ, của
Thiệu, cáa cha cố viết cho anh, để các bạn bất thần phơi bày trước tòa, không
cho bọn chúng kịp ứng phó. Với những tài liệu, chứng cớ đã chuẩn bị, họ nhận
thấy không một cơ quan quan trọng nào của Mỹ - ngụy, không một tổ chức tôn giáo,
đảng phái, đoàn thể nào ở miền Nam là không dính líu vào vụ án này.
Hai Long
bàn với Trọng thảo một bản tuyên bố gửi luật sư Lê Thế Hùng, là người sẽ biện hộ
cho anh, sẽ công bố trước phiên tòa và phân phát cho báo chí.
Chiến thuật
của họ tại phiên tòa là nhận làm những việc mà kẻ địch đã phát giác, do yêu cầu
của chính Hai Long với tư cách là cố vấn của tổng thống, một người ngày đêm kề
cận với tổng thống, đồng thời là một nhà lãnh đạo có uy tín của Thiên chúa giáo.
Hai Long đã thu hút mọi nguy hiểm về phía mình, vì anh là người chịu trách nhiệm
cao nhất trong lưới. Anh tin rằng, đối với cá nhân mình, địch sẽ có phần dè dặt.
Anh cũng đã chuẩn bị chu đáo mọi biện pháp tiếp tục tiến công kẻ địch và đồng
thời để cứu mình. Anh tin vào hiệu quả của đòn đánh trả trong cuộc chiến đấu sắp
tới. Anh không hoàn toàn hết hy vọng có thể tiếp tục công tác. Nhưng lòng anh
chợt se lại mỗi khi nghĩ tới trường hợp xấu nhất vẫn có thể xảy ra - một tấm
băng đen bịt mắt và mấy phát đạn bên cọc hành hình! Như vậy có nghĩa là sự kết
thúc vĩnh viễn. Anh đã sẵn sàng hy sinh từ lúc lên đường nhận nhiệm vụ. Nhưng
anh chưa muốn kết thúc giữa lúc thua thiệt này, sự thua thiệt chỉ vì một sai sót
nhỏ chứ không phải vì tài trí trong cuộc chiến đấu với kẻ địch. Anh biết dù có
đạt thắng lợi cao nhất tại phiên tòa, anh cũng sẽ không tránh khỏi cuộc sống tù
đày. Nhưng cuộc sống tù đày với hy vọng ngày trở về tiếp tục chiến đấu vẫn triệu
lần đẹp hơn cái chết.
Văn phòng quản đốc nhà lao tới báo với Hai Long, có một
luật sư đợi gặp anh ở phòng luật sư của nhà lao. Mình đã bao lần từ chối rồi mà
họ vẫn cứ tới.
Hai Long hơi ngỡ ngàng khi nhận thấy những người đang ngồi chờ
mình là vợ chồng Tú Uyên.
Chị nhìn thân hình gầy guộc của anh với vẻ vừa xót
xa vừa trách móc. Chị đã làm tất cả cho anh, mà anh vẫn cứ cố tình không chịu
tránh cảnh này.
Người chồng sốt sắng:
- Tụi em theo dõi tin tức từng ngày
và rất lo cho anh. Còn gặp anh đây, là quá mừng rồi. nhưng vì sao anh không chịu
nhận luật sư biện hộ? Vợ chồng em đã bàn kỹ với nhau, em tình nguyện làm việc
này vì anh. Em đã trao đổi với nhiều bạn bè, trường hợp của anh không phải đã
hết hy vọng. Anh hãy tin ở em. Như lời khuyến cáo của anh, em đã bắt đầu hoạt
động cho lực lượng thứ ba...
- Cảm ơn anh chị, tôi hoàn toàn không tin ở cán
cân công lý của chính quyền này, nên thấy không nên nhờ người biện hộ.
Tú
Uyên nói:
- Đúng là như vậy, nhưng anh không nghĩ dù sao có luật sư vẫn hơn
ư? Anh hãy tin vào sự chân thành và cố gắng của vợ chồng em. Hôm nay em tới đây
với tư cách thư ký của một luật sư. Em sẽ thực sự làm công việc đó. Anh Ba Vân
gửi lời thăm anh (chị nói lướt nhanh như một hơi gió thoảng)... Anh phải nhận
lời đề nghị của anh Tường em đi...
Hai Long làm ra vẻ đắn đo. Anh cố giấu sự
ngạc nhiên. Tú Uyên là một đồng đội của anh ư...? Hay Trung tâm thấy Tường là
một luật sư tiến bộ nên tới nhờ bênh vực cho anh tại phiên tòa? Anh đã báo cáo
về quan hệ của mình với Tú Uyên... Anh không thể bộc lộ với vợ chồng chị quyết
định của anh chính là một phương sách cuối cùng để giúp anh còn có thể tiếp tục
cuộc chiến đấu.
- Tôi đã cân nhắc rất nhiều... Tôi phải từ chối sự biện hộ
của luật sư để hoàn toàn phủ nhận quyền xét xử của chế độ này đối với
mình.
Trong gói quà của Tú Uyên để lại, anh tìm được một lá thư ngắn của Ba
Vân nằm trong bao thuốc lá. Trung tâm chỉ thị cho anh duy trì tới cùng vị trí
tôn giáo của mình, và biến phiên tòa thành một diễn đàn tố cáo Mỹ - ngụy, chuyển
thành một vụ án chính trị.
Đây là ngày đẹp nhất sau 4 tháng trời anh bị bắt.
Trung tâm vẫn luôn luôn ở lên anh, tiếp tục chỉ đạo anh từng bước, và tin vào
đội ngũ chiến đấu của anh.
2.
3.
Cả hội trường rì rầm bàn tán,
bình phẩm về vẻ người và thái độ của những bị can, bỗng lặng đi khi có tiếng
chuông báo hiệu vụ xét xử bắt đầu.
Những người dự phiên tòa theo dõi
thái độ các bị can khi nghe đọc bản cáo trạng có liên quan tới sinh mệnh mình,
thấy họ đều tỏ vẻ thản nhiên. Đôi lúc, họ còn đưa mắt nhìn nhau và hơi nhếch mép
cười. Người ta cho rằng họ không lo sợ vì có đủ những bằng chứng và những luận
cứ chắc chắn để bác lại những lời buộc tội.
Từng can phạm lần lượt ra trước
tòa.
Vũ Ngọc Nhạ được gọi tên đầu tiên. Anh mỉm cười đứng lên rời ghế bị cáo,
đi cùng tên lính quân cảnh ra trước vành móng ngựa.
Viên chánh thẩm đọc một
đoạn dài trong bản cáo trạng rồi hỏi anh có phải là người cầm đầu lưới tình báo
A.22, được Bắc Việt tung vào Việt Nam cộng hòa từ năm 1954, với âm mưu lấy cắp
những tin tức chiến lược để cung cấp cho phía bên kia hay không?
Hai Long đáp
gọn bằng một tiếng:
- Đúng.
Sự nhận tội dễ dàng của anh khiến những người
dự phiên tòa đều ngạc nhiên.
Viên chánh thẩm lại đọc tiếp một đoạn khác nói
về việc anh đã tổ chức đưa nhiều người vào Phủ tổng thống, bố trí vào những
cương vị trọng yếu, đưa người vào Tòa đại sứ Mỹ, đưa người sang Hoa Kỳ để thu
thập những tài liệu, tin tức cho mình, rồi hỏi anh có công nhận đã làm những
việc đó không.
Hai Long đáp:
- Công nhận.
Viên chánh án đọc tới đoạn
liệt kê những tài liệu cơ mật Hai Long đã lấy cắp và chuyển giao cho phía bên
kia, nửa chừng y ngập ngừng, dường như đụng tới một vấn đề mà y chợt nhận thấy
đưa ra giữa một cử tọa đông đảo như thế này không có lợi.
Hai Long
nhắc:
- Xin đọc tiếp.
Y cúi đầu giương mắt nhìn Hai Long bên trên cặp kính
viễn với vẻ khó chịu, rồi lại đọc tiếp, và hỏi anh có nhận đã làm những việc đó
không.
Hai Long đáp:
- Có.
Những tiếng “Đúng”, “Phải”, “Có” được lặp đi
lặp lại trong quá trình trả lời, lúc đầu làm mọi người ngạc nhiên, nhưng sau đó
họ rì rầm bàn tán và đôi lúc ồ lên trước những lời nhận tội quá đơn giản, dễ
dàng của anh.
Hai Long đứng ung dung với nụ cười bất tận trên môi và tập giấy
trắng từ khi tới tòa anh vẫn cầm trong tay, không biết để làm gì. Người ta cảm
thấy anh không nghe những lời buộc tội mà chỉ chờ đọc hết rồi trả lời cho
qua.
Viên chánh thẩm chợt nhận thấy với thái độ và cách trả lời đó, bị cáo
đang biến cuộc xét xử “trang nghiêm” thành một trò cười. Y trỏ thẳng ngón tay
vào mặt anh.
- Ông là một người nguy hiểm quá! Ông đã xâm nhập vào hàng ngũ
chúng tôi để đâm sau lưng chúng tôi!
- Đây không phải là một câu hỏi và tôi
không có nhiệm vụ trả lời! - Hai Long điềm đạm đáp lại.
Viên chánh thẩm hơi
sững sờ. Viên thiếu tá ngồi ghế ủy viên chính phủ tìm cách đỡ đòn:
- Ông đã
làm cách nào để có cảm tình của tổng thống Thiệu?
- Cái đó chỉ giữa tôi và
ông Thiệu biết.
Nhiều tiếng cười.
Ủy viên chính phủ hơi mất bình tĩnh:
- Tại sao ông lại chui vô được Phủ tổng thống làm tới chức cố vấn?
Hai
Long nhìn y giây lát. Lần đầu người ta thấy anh có vẻ cân nhắc không trả lời
ngay. Rồi anh nói:
- Dinh nguyên thủ quốc gia là một nơi canh phòng nghiêm
mật, không ai dễ “chui” vô! Tôi chỉ tới đó sau 3 lần ông Thiệu cử người vô nhà
thờ Bình An, chuyển lời thỉnh cầu khẩn thiết. Người giúp ông Thiệu làm việc đó
là cha Trần Ngọc Nhuận và ông Nguyễn Văn Kiểu, bào huynh của ông Thiệu.
Ủy
viên chính phủ ngồi im. Viên chánh thẩm hỏi tiếp:
- Ông đã lợi dụng các linh
mục thế nào để gây quan hệ với tổng thống Thiệu?
- Nếu các vị muốn, các vị
vẫn có quyền đặt câu hỏi theo cách đó. Trong thực tế, tôi có nhiệm vụ giúp đỡ
các lịnh mục cũng như giáo hội, vì tôi là một con chiên. Còn ông Thiệu thì lại
rất cần sự giúp đỡ của giáo hội và các linh mục. Tôi có thể đưa ra ngay tại đây
thư khen của Tòa thánh Vatican và thư cảm ơn của ông Thiệu về những việc tôi đã
làm.
Y chuyển sang một vấn đề khác:
- Ông không phủ nhận mình là điệp viên
của Bắc Việt được cử vô Nam, vậy ông có nhận là đã móc nối với ông Lê Hữu Thúy
(tức Thắng) làm điệp viên để thu thập tin tức cho Cộng sản không?
- Ở cương
vị cố vấn đặc biệt của tổng thống, tôi có đủ mọi loại tin tức, không cần tới sự
giúp đỡ của ông Thúy. Tôi chỉ có quan hệ với ông Thúy trên quan điểm phục vụ
quốc gia dân tộc, của những giáo dân có nhiệm vụ thực hiện cuộc vận động hòa
bình của Tòa thánh Vatican. Xin các vị lưu ý tới những điều tôi đã trả lời cơ
quan an ninh không được nhắc tới trong bản báo trạng. Tôi đã từ chối sự giúp đỡ
của các luật sư, và cũng không hề có ý định tự biện hộ tại phiên tòa này. Những
việc tôi làm chỉ có lịch sử phán xét...
Thấy anh tỏ thái độ sẽ khước từ trả
lời những câu hỏi như vừa rồi, và sự đối đáp của anh mỗi lúc càng gây nhiều
phiền toái, viên chánh thẩm nói đề kết thúc:
- Ông là một điệp viên Cộng sản
cực kỳ nguy hiểm!
Hai Long lại mỉm cười, nhẹ nhàng đáp lại:
- Tôi còn xa
mới xứng đáng với danh hiệu một chiến sĩ Cộng sản...
Phiên tòa tạm dừng. Màn
đầu đã diễn ra hết sức hấp dẫn, hứa hẹn sẽ tiếp tục những chuyện ly kỳ. Tiếng
bàn tán ồn ào khắp hội trường, ngoài hành lang. Can phạm chính khước từ sự biện
hộ trước những tử tội do tòa án nêu ra. Phong thái ung dung, nụ cười bất tận,
những câu trả lời điềm đạm chứa đựng những điều nhiều người chưa hề biết, đã đem
lại cho họ sự băn khoăn và những cảm tình đối với đương sự.
Những người bị
ghép tội “phản nghịch quốc gia” không hề bắt gặp một ánh mắt hận thù nào trong
đám đông tới dự phiên tòa. Bà Cả Nhiễm, hộp thư của Hai Long, một bà má miền Nam
đã ngoài 60, bộ mặt đôn hậu, tươi cười vẫy đứa cháu gái nhỏ lại gần. Bố cháu,
anh Lê Trung Hiếu, con trai bà, cũng ngồi trên ghế bị can. Bà đưa cho cháu chiếc
khăn tay bà đã thêu trong những ngày ở nhà tù. Chiếc khăn viền xanh có một nhành
hoa và con chim bồ câu với hai chữ Kim Chi, tên đứa cháu gái nội, thêu bằng chỉ
đỏ ở góc. Nhiều ký giả xúm lại đề nghị được coi chiếc khăn.
4.
Trọng
là người thứ hai được gọi ra trước vành móng ngựa.
Những nhân vật chính đã trở thành quen thuộc với người dự. Tất cả bị can
vẫn vui vẻ, tươi cười như ngày hôm trước trong y phục tề chỉnh. Những cô gái ăn
vận còn có phần chải chuốt hơn. Họ hẳn biết cái gì đang chờ họ? Từ giới luật sư
tin đồn đã lan ra: những can phạm chính khó thoát án tử hình?
Thắng rồi Hòe
lần lượt ra trước vành móng ngựa. Bọn thẩm vấn đã khôn ngoan hơn ngày đầu, chúng
rút kinh nghiệm và cố tránh chọc vào tổ ong bò vẽ. Nhưng chúng vẫn không tránh
được. Thắng đã dựa vào đường lối vận động hòa bình của Vatican và sự hiểu biết
sâu rộng các tôn giáo, đảng phái ở Nam Việt Nam, đưa tất cả vào cuộc và khẳng
định những lần gặp gỡ trao đổi của anh với người phía bên kia vì mục đích hòa
hợp, hòa giải dân tộc, không thể bị coi là tội lỗi!
Hòe xác nhận đã gần bó
với Nhạ từ lâu trong nhiều hoạt động cho giáo hội, vì Nhạ là một nhà lãnh đạo
Công giáo đức độ, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho giáo hội. Anh đã cung
cấp cho Nhạ một số tài liệu về bình định nông thôn, ngân sách quốc gia, kinh tế
hậu chiến, vì cho rằng Nhạ là một lãnh tụ Công giáo, trong lúc giáo hội đang
chuẩn bị đưa người ra chấp chính, Nhạ cần có sự hiểu biết về mọi mặt tình hình
của quốc gia. Anh đã đưa tài liệu bình định nông thôn cho Nhạ vào lúc Nguyễn
Khánh cử Trần Thiện Khiêm tới nhà thờ Bình An khẩn cầu Nhạ ra làm tư lệnh địa
phương quân, sau đó Nhạ đã kiên quyết khước từ. Theo cách đánh giá của anh thì
những tài liệu này đối với Nhạ không có gì quan trọng, vì Nhạ đã từng làm cố vấn
cho Ngô Đình Nhu, Nhạ thường xuyên quan hệ với cả Khánh và Khiêm. Anh kể đã có
lần Nhạ cho mình xem chứng minh thư của Tổng bộ tự vệ Phát Diệm với chức danh là
tình báo viên, do linh mục Hoàng ký. Cho tới lúc này, anh vẫn tin rằng nếu Nhạ
là tình báo thì đó là công việc cần cho giáo hội chứ không phải là Mặt trận Giải
phóng. Nhạ có quan hệ với người từ mật khu vào, người này anh đã gặp một vài
lần, là nhằm mưu cầu sự hòa hợp, hòa giải dân tộc, hướng tổng thống Thiệu đi
theo đường lối vận động cho hòa bình của Tòa thánh Vatican, chứ không phải là để
làm gián điệp cho Việt Cộng! Anh cũng kể công mình đã hết lòng làm theo ý Nhạ để
đưa Thiệu lên chấp chính.
Được sự cổ vũ của nhiều bạn bè có mặt trong giới
báo chí, Hòe hưng phấn nói thêm:
- Trong vụ án này, tôi tự coi mình là người
của giáo hội Việt Nam, cùng với ông Thiệu chuẩn bị cho một giải pháp thương
lượng về Việt Nam, nay nếu phải hy sinh, tôi sẵn sàng nhận hậu quả, tôi không
bao giờ phản lại quyền lợi của dân tộc, của đất nước, và không bao giờ phản lại
ai hết! Những tuần trước khi bị bắt, CIA luôn luôn bám xe theo tôi và ông Nhạ
mỗi lần vào Bình An, cả ông Nhạ và tôi đều biết sinh mệnh mình đang bị đe dọa,
nhưng chúng tôi không hề có ý nghĩ né tránh.
Những can phạm tiếp theo được
thẩm vấn rất nhanh. Nhưng vì số người quá đông nên kéo dài tới buổi
chiều.
Các luật sư biện hộ trở nên lúng túng trước nhiều sự kiện bất ngờ xuất
hiện vào giờ chót, và những bị can đều đã phủ nhận mọi lời buộc tội bằng những
lập luận chặt chẽ, đặc biệt là những bằng chứng không thể bác bỏ.
Luật sư
Trần Bá Thiệp, người được chỉ định biện hộ cho những can phạm không mướn luật sư
biện hộ, lên tiếng trước:
- Các bị can Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy đều không
chối tội, từ chối biện hộ nên tôi không muốn cãi cho vụ này, nhưng vì bị chỉ
định, nên tôi phải làm nhiệm vụ của một luật sư. Các thân chủ của tôi bị kết tội
phản nghịch đã không hề chối tội, không thỉnh cầu tha bổng hay khoan hồng, như
thế vấn đề luật pháp không còn nêu lên làm gì, chỉ còn lại vấn đề lương tâm của
quý tòa. Nhưng cũng xin quý tòa lưu ý những yếu tố chính trị, những chuyển biến
của tình hình trong thời gian gần đây...
Luật sư Trần Ngọc Liễng nói:
-
Là luật sư đứng ra biện hộ vụ này, tôi như con ếch ngồi đáy giếng mà miệng giếng
đã bị tổng thống Thiệu đậy lại mất rồi. Đáng lẽ phải mời tổng thống ra làm nhân
chứng, nhưng chắc chắn là tổng thống không ra. Vì vậy, các luật sư như những con
ngựa bị người cầm cương che đôi mắt bằng hai cái lá đa, chỉ nhìn thấy phía trước
mà thôi! Trước đây Ga-li-lê[1] tuyên bố là quả đất tròn, người đời lúc đó đòi
đốt nhà ông, nhưng quả đất tròn thật. Tháng 8 năm 1963, tôi đã phải cãi cho
trung tá Phan Trọng Chinh về vụ đảo chính hụt Ngô Đình Diệm năm 1960, ủy viên
chính phủ đã xỉ vả như tát nước vào mặt Chinh. Trung tá Chính bị đầy ra Côn Đảo.
Nay trung tá Chinh đã lên cấp tướng và được coi như một anh hùng dân tộc! Phải
chăng đây là chuyện của một người bán nước chanh đã chỉ cốt vắt chanh bán cho
khách lấy lời, còn vỏ chanh vứt xuống đất và không thèm biết số phận nó ra
sao...?
Luật sư Lê Thế Hùng nói:
- Tất cả những “điệp vụ” mà người ta gán
ghép cho thân chủ tôi[2] thực ra chỉ là những công vụ, mà bất cứ ai là phụ tá
cho tổng thống cũng phải làm!... Ông Trọng đã nói: “Phải hy sinh cá nhân khi hợp
tác với tổng thống Thiệu”. Ông nói là trước khi nhận lời làm phụ tá chính trị
cho tổng thống, tổng thống Thiệu và ông đã đồng ý tìm sự hòa hợp dân tộc để đi
tới hòa bình. Ông Trọng đã nói trước Tòa rằng ông không coi “hòa bình, liên hiệp
là đầu hàng...”.
Luật sư Lâm Lễ Trinh nói:
- Đây không phải là một vụ án
gián điệp, mà là vụ án chính trị, một vụ án chính trị không những quan trọng mà
còn phức tạp... Phụ tá chính trị Huỳnh Văn Trọng đã thi hành nhiệm vụ của ông
rất chu toàn và hữu hiệu. Vì hữu hiệu, nên mỉa mai thay, Huỳnh Văn Trọng phải
vác chiếu ra tòa!
Lúc 20 giờ. Việc thẩm vần của tòa án và phần biện hộ của
luật sư kết thúc. Bị can và người dự phiên tòa nghỉ trong hai tiếng chờ tuyên
án.
Đến 22 giờ khuya. Tòa nhóm họp trở lại. Hội trường vẫn đông nghịt. Đội
ngũ ký giả, những người quay phim vô tuyến truyền hình sau hai ngày làm việc mệt
nhoài, bỗng năng động hẳn lên. Thời điểm quyết định đã tới.
Những can phạm
được gọi tên ra đứng xếp hàng trước vành móng ngựa chờ nghe tuyên án. Hàng chục
máy quay phim truyền hình và rất nhiều máy ảnh hướng vào họ. Nhiều bị can bỗng
quay về phía sau giơ cao tay vui vẻ đùa giỡn trước những ống kính thu hình.
Những máy ảnh chớp lia lịa, vì sợ giây lát sau đây khi đã tuyên án, hình ảnh này
không còn lặp lại.
Viên lục sự tòa án đọc án từng người
Vũ Ngọc Nhạ,
Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Xuân Hòe đều bị kết án chung thân khổ sai.
Tám người khác bị kết án khổ sai từ 5 năm tới 20 năm.
Mỗi bị can sau khi
nghe tuyên án đều quay lại tươi cười giơ tay vẫy chào những người tới chứng
kiến. Tiếng cười mỗi lúc một to. Cuối cùng, tất cả đều quay lại reo hò. Hai Long
nắm tay Trọng giơ cao chào mọi người. Những máy quay phim, thu hình, máy ảnh làm
việc liên tục, ánh chớp liên hồi. Tất cả những người lĩnh án đều có nụ cười rộng
mở như họ vừa may mắn giành một phần thưởng lớn. Thắng rồi Hòe nói to:
-
Chúng tôi được vinh dự ra tòa lãnh án!
- Rất tiếc là không có án tử hình!...
Trọng nói:
- Tôi rất hài lòng. Tôi tưởng có ai bị án tử hình chớ!
-
Xin đừng quên là tôi đã từng nhận giấy ban khen của Đức Giáo hoàng về công tác
vận động hòa bình! - Hai Long nói.
Quân cảnh đưa họ dần dần ra khỏi phòng
xử, lên xe trở về khám.
Hai Long hướng về những người thân nói lớn:
- Vụ
tụi tôi chỉ có lịch sử phán xét... Các bạn cứ chờ xem, một trang mới sắp lật
qua! Không còn lâu nữa đâu!
Quay về phía những ký giả và phóng viên nước
ngoài, anh nói bằng tiếng Pháp:
- Ma mission est possible mais maintenant est
impossible.[3]
Rồi nói tiếp với những ký giả trong nước:
- Cho tôi gửi lời
về thăm ông Thiệu!
Anh đứng trên xe giơ tay kéo từng người lên.
Hòe vừa
lên xe vừa quay lại nói bằng tiếng Pháp:
- Quelques mois seulement, nous
reviendrons au Palaisde l'Indépendance![4]
Thắng cũng nói:
- Chỉ vài
tháng nữa thôi'! Phải về đây thì mới hoạt động được!
Trọng tiếp lời anh:
-
Chúng tôi sẽ trở lại Thủ đô về thẳng dinh Độc Lập làm việc trước Tết!
Hòe
đập tay vào thùng xe, nói lớn với các con qua cánh cửa sắt:
- Cười đi con!
Cười đi con! Ba sẽ trở về!
Rồi anh lại nói tiếp một tràng tiếng Pháp:
-
Mission accomp1ie, Ça nous paye, la mission pour notre pays sauveg rde pour
l'indépendance.[5]
Hòe muốn sửa lại lời nói lạc quan quá mức ban nãy của anh
với những ký giả nước ngoài.
Xe chuyển bánh. Hai Long bám vào lưới sắt, nói
to:
- Xin chào các bạn. Hẹn gặp lại!
Trong ánh đèn huỳnh quang, anh chợt
nhìn thấy bé Liên đứng giữa mấy người bạn gái. Cho tới lúc anh đứng ở cửa xe, bé
Liên vẫn còn vui vẻ giỡn bố bằng những câu đùa: “Ba được chụp hình nhiều quá!...
Bữa nay ba cười rất trẻ!...”. Chắc bé Liên không biết có bố đứng sau mạng lưới
sắt dày tối om. Anh nhận thấy đôi mắt của con gan góc, đượm buồn, đang cố dõi
nhìn theo. Vợ anh không tới được phiên tòa vì chị lại sắp tới ngày sinh
nở.
Phiên tòa tiếp tục họp sang ngày 29-11 còn thu hút đông
đảo người tới dự hơn cả ngày mở đầu. Mọi người đều muốn biết những điều mới lạ
đầy rẫy trong vụ án, và đặc biệt là tấn kịch lớn này sẽ kết thúc ra
sao?
Báo Thời Thế ngày
1-12 đưa tít lớn: “Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại đã kết thúc”.
Báo Hòa
Bình cùng ngày đưa tít lớn: “Vụ án Impossible đã kết thúc”. Mấy tiếng “vụ án
Impossible” được nhiều báo nhắc tới để biểu lộ sự hoài nghi về tính chất của vụ
án.
Các báo đăng tường thuật tỉ mỉ về phiên tòa, kèm thêm ảnh những can
phạm. Những tấm ảnh đều rất đẹp. Không một can phạm nào lộ vẻ lo lắng, đăm
chiêu. Nhiều người có nụ cười rộng mở.
Báo Chính Luận viết: “Vụ án này rất
căng thẳng và quan trọng, vì qua hồ sơ, không một đảng phái chính trị nào, một
nhân vật chính trị nào mà không liên quan ít nhiều đến vụ án, xấp hồ sơ đó nặng
gấp 200 lần so với bản cáo trạng đã đọc...”.
Báo Sài Gòn Mới viết: “Báo chí
ghi nhận lần đầu tiên trong lịch sử pháp đình đã không có chút không khí buồn
thảm nào sau khi Tòa tuyên bố những bản án phạt nặng nề. Lần đầu tiên trong một
vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề, người ta không hề ghi nhận một
tiếng khóc nào hoặc một sự than vãn nào mà chỉ thấy những gương mặt vui thân và
nghe những tiếng cười...”.
Đáng chú ý là bài xã luận của báo Chính Luận ngày
2-12. Dưới đầu đề: “Còn gì nữa? Sẽ ra sao?”, bài xã luận viết: “Vụ án được gọi
là vụ án gián điệp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. Thế
nhưng sự kết thúc này không giống như sự kết thúc của bất cứ một vụ án nào
khác... Căn cứ vào nội dung vụ án đã được công khai xét xử, tính chất của vụ án
rất quan trọng. Đây là những hành động phản nghịch có quy mô rộng lớn nhằm tạo
điều kiện để đối phương thành công về chiến lược mà mục đích tối hậu là “đặt
miền đất nước này dưới quyền đô hộ của họ”... Thật vậy, về tầm mức vụ án, một
luật sư biện hộ cho một bị can chủ chốt, khi nhận định về tội trạng của thân chủ
đã phải ước lượng: “trong tình thế nghiêm trọng này khó thoát tử hình...”. Thế
nhưng không có bị can nào bị xử tới mức độ đó và dù rằng nếu đem mà so sánh thì
cái giật mình của cựu bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mắc Na-ma-ra[6] đã đưa tới một
án tử hình, đã cao giá hơn là vụ phản nghịch hiển nhiên ngày nay đe dọa đến vận
mạng của toàn quốc gia Việt Nam... Đối với đại sứ Bân-cơ[7], người đại diện
chính thức cho nước Mỹ tại Sài Gòn, sự kết thúc của vụ án càng làm ông hài
lòng... Tổng thống Thiệu cũng phải có cảm tưởng nhẹ nhõm về sự kết thúc của vụ
án, nhất là một trong số bị cáo chủ chốt đã từng được ông bổ nhiệm giữ chức cố
vấn... Sự nhẹ nhõm do sự kết thúc vụ án đem lại thật ra còn rộng rãi hơn. Bởi vì
vụ án không phải chỉ liên hệ tới một số cá nhân, mà còn liên hệ tinh thần tới
toàn thể tôn giáo, đoàn thể chính trị, tới cơ quan lập pháp và ít nữa là một xu
hướng chính trị đang hình thành trong sự băn khoăn lựa chọn dứt khoát. Thế nhưng
dù sao đi nữa, dù rằng thành tố được hưởng cảm giác nhẹ nhõm có đông đảo thế nào
thì so tới toàn thể nhân dân miền Nam hiện còn đương đổ máu chiến đấu để hy vọng
được một tương lai khá hơn, đó cũng chỉ là một phần nhỏ. Cái cảm giác của đại đa
số là cái cảm giác bất an chợt nổi bật lên day dứt hơn, cái cảm giác đó không hề
liên quan gì tới các yếu tố pháp lý, cũng không dính dáng gì tới các uẩn khúc
chính trị. Nó rất mơ hồ nhưng lại rất thực tế: Còn gì nữa và rồi sẽ ra
sao?...”.
Họ hài lòng vì đã đạt được một kết quả ngoạn mục, đã đánh trả địch
một đòn gây chấn thương toàn thân vào lúc đã bị chúng đưa ra xét xử. Hai Long
cảm thấy anh vẫn còn những điều kiện để tiếp tục hoạt động.
[2] Tức Huỳnh Văn Trọng
[3] Sứ mạng của tôi có thể
hoàn thành nhưng nay thì không thể.
[4] Chỉ vài tháng nữa, chúng tôi sẽ trở
lại dinh Độc Lập.
[5] Đây là cái giá mà chúng tôi phải trả cho một sứ mạng đã
hoàn tất, bảo vệ nền độc lập của đất nước.
[6] McNamara
[7]
Bunker
Giữa
tháng 8, một nhân viên an ninh lại tới nhà giam mời anh lên văn phòng.
Ngồi ở
bàn làm việc là một người Mỹ lạ mặt.
Y đứng lên khi anh bước vào, cúi đầu
chào với vẻ lịch thiệp.
- Tôi xin tự giới thiệu: Tôi là phó giám đốc cơ quan
tình báo trung ương Mỹ mới từ Washington sang Sài Gòn. Nhân
ngày lễ Đức Mẹ lên Trời của Thiên chúa giáo, tôi xin được gặp ông để chúc lành,
và có một câu chuyện muốn trao đổi với ông.
- Xin cảm ơn.
- Xin hỏi thăm
trước tiên về tình hình sức khỏe của ông?
- Ông thấy đó, tôi đang bị phù
thũng, một chân tê bại phải bám, lần tường mới đi được.
- Tôi thành thật xin
lỗi ông về vụ một nhân viên CIA, làm cố vấn cho Tổng nha Cảnh sát Việt
Nam cộng hòa, đã vô lễ và
thô bạo trực tiếp nhúng tay vào việc tra tấn ông. Chúng tôi đã khiển trách.
Hai tháng sau đó, bọn công an trả anh về khám Chí Hòa.
Bệnh phù nề và tê chân của Hai Long đã gần khỏi.
Viên quản đốc, một thầy tu
xuất, đối xử với anh có phần trọng nể.
Hai Long nhanh chóng tìm cách liên lạc
với tổ chức bí mật của Đảng ở lao Chí Hòa và được xếp vào sinh hoạt trong một tổ
Đảng gồm 3 người. Anh cùng tham gia vào cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà
tù.
Một buổi không hiểu vì sao một linh mục Mỹ thuộc phe Bồ câu được phép vào
thăm anh.
Ông linh mục đưa tặng Hai Long một tập Kinh thánh bằng tiếng Latin
và tiếng Anh.
Ông mời anh cùng ăn kẹo và hút thuốc lá. Ông ngắm chòm râu dài,
thái độ trầm tĩnh, ung dung, lạc quan của anh, rồi nói:
- Tôi không có cảm
giác gặp một chiến sĩ đấu tranh cho hòa bình ở trong tù, mà thấy như mình đang
ngồi trước mặt một nhà thơ Á đông.
Hai Long mỉm cười:
- Cảm giác của cha
không lầm, tôi vừa làm xong một bài thơ.
- Ông có thể cho tôi xem qua được
không?
Hai Long đọc cho ông linh mục nghe mấy câu thơ anh vừa làm chơi sáng
nay:
Sáng ra được mẩu bánh mì,
Chỉ dăm con kiến tha đi cũng vừa.
Ăn thì
cổ đắng miệng chua,
Không ăn thì phụ người đưa cho mình!
Nghe anh dịch ý
mấy câu thơ, ông linh mục cả cười, rồi ngồi trao đổi với anh sửa thành một bài
thơ hoàn chỉnh. Hai Long kể cho ông nghe về chế độ vô nhân đạo ở nhà tù. Ông
linh mục nói:
- Tôi rất khổ tâm, rất nhục nhã vì hành động xâm lược của chính
quyền Mỹ, vì những tội ác ghê gớm mà người Mỹ đã gieo rắc ở Việt Nam. Chiến
tranh Việt Nam cần phải kết thúc trong thời hạn sớm nhất vì để kéo dài tới bây
giờ đã là quá muộn... Tôi hứa là sẽ vận động đòi phải cải thiện chế độ lao tù ở
Việt Nam...
Hai Long tìm cách nhắn tin cho cha Hoàng. Viên trung úy Trương
Văn Bộ vừa bị bắt trong vụ thương phế binh xuống đường, sốt sắng nhận giúp Hai
Long. Anh muốn tìm hiểu thái độ cha Hoàng đối với mình qua hơn một năm xa cách.
Chi vài ngày sau, viên quản đốc xuống nhà giam, mời Hai Long lên phòng riêng
của mình gặp cha Hoàng.
Cha Hoàng mở to mắt nhìn Hai Long bước vào với bộ
râu dài chấm ngực. Ông ôm lấy anh, giọng nói lạc đi vì thương cảm:
- Mình
ngày đêm lo lắng bọn Mỹ hại thầy rồi! Bữa qua được tin thầy, suốt đêm chỉ mong
chóng sáng chạy vô đây.
Ông đặt hai tay lên vai anh, chân bước lùi, ngắm nhìn
anh thật lâu như để bù lại những ngày xa cách, rồi nói:
- Đúng như lời phán
bảo của Chúa, thầy “hiền lành như bồ câu và khôn lanh như rắn”!
- Con nóng
lòng được gặp cha từ lâu, nhưng không thể gặp sớm hơn. Con vừa ra khỏi nơi biệt
giam một tuần nay. Con đã tuân theo ý Chúa.
- Chúa đã bảo vệ, che chở cho con
chiên của Chúa tới mức nào mà thầy sống tới ngày nay!
Viên quản đốc mời cha
Hoàng và Hai Long lại bàn dùng trà y vừa pha xong. Y nói:
- Trình cha Tổng
khỏi lo. Thầy Hai ở với con cũng như ở gia đình. Con vẫn tự coi mình như bậc học
trò của thầy Hai.
Cha Hoàng có vẻ ngạc nhiên và vui mừng trước thái độ kính
nể của viên quản đốc đối với Hai Long.
Anh nói:
- Chín tháng qua, bọn Mỹ
giam con ở phủ Đặc ủy tình báo. Họ định hại con không xong, cuối cùng, họ quay
lại mua chuộc con, đề nghị con ra Tòa đại sứ Mỹ cộng tác với CIA, họ đưa ra món
lễ vật đầu tiên là hai triệu đô-la. Con đã khước từ. Họ đành trả con về
đây.
- Chúa chưa muốn con làm thì cứ nằm chơi xơi nước, muốn ăn uống gì, muốn
đọc sách gì, bảo mình, mình lo cho. Bên ngoài có cần gì, mình sẽ vào đây ngay để
trao đổi với thầy.
Ông kể đủ chuyện đạo, chuyện đời, bàn tính với anh chẳng
khác chi ngày anh chưa bị bắt. Mấy lần, ông nhắc lại, không biết anh khôn lanh
tới mức nào mà vượt được hết những thử thách vừa qua.
Viên quản đóc nhiều lúc
ngồi không chớp mắt trước những cử chỉ, lời nói quý trọng, thân thiết của cha
Hoàng đối với Hai Long.
Sau đó, hầu như tuần nào cha Hoàng cũng vào khám
thăm anh, ngồi ở phòng khách của viên quản đốc, chuyện trò say sưa cả buổi. Lần
nào ông cũng mang theo quà. Trong dịp lễ Giáng sinh, ông đem tói một gói quà lớn
gồm cả bánh kẹo, thức ăn, thuốc lá và rượu ngon, những thứ ông rất ít khi dùng
tới. Tình nghĩa của ông với anh vẫn như xưa. Ông ngạc nhiên vì Hai Long mặc dù ở
trong nhà tù vẫn am hiểu tình hình bên ngoài, và ý kiến vẫn sắc sảo.
Tại lao
Chí Hòa chỉ còn lại Hai Long cùng với Trọng và Thắng. Những tù nhân bị án dài
hạn đều phải đưa ra Côn Đảo. Hòe, Ruật, kể cả Hiếu và Bửu Chương, những người đã
ít nhiều giúp đỡ cho họ, đều bị đưa ra đảo. Những người trong gia đình và bạn bè
vẫn luôn luôn vào thăm họ. Chị Hòe cho biết chồng chị vừa báo tin về đã bắt được
liên lạc với ban chỉ đạo của đảo và chờ anh ra. Cha Hoàng khuyên Hai Long nên ở
lại khám Chí Hòa, để gần gụi mình, luôn luôn có dịp trao đổi. Ông sẽ vận động
Trần Thiện Khiêm, mới thay vị trí thủ tướng của Trần Văn Hương, và tin là Khiêm
sẽ phải đồng ý. Nhưng Hai Long nói với ông cứ để mình ra Côn Đảo, không nhận bất
cứ sự ban ơn nào của chế độ Thiệu, và khi cần, anh vẫn có cách để sớm trở về Sài
Gòn. Anh khuyên vợ và các con gắng chịu đựng một thời gian nữa vì ngày thắng lợi
không còn xa.
Giữa tháng 3, cha Hoàng vào khám Chí Hòa dẫn theo cả
O’Connor.
Ông linh mục Mỹ vẫn hồn nhiên, vui vẻ như trước đây:
- Tôi rất
tiếc là trong thời gian qua đã không làm được gì để giúp đỡ giáo sư. Tôi không
còn là đặc phái viên của tổng thống Mỹ nữa, mà đã trở về với sứ mạng của một
người tu hành, một linh mục tuyên úy của Hải quân Mỹ. Sau khi Đức Hồng y
Spellman qua đời, tiếng nói của tôi trong giáo hội cũng không còn được coi
trọng, vì tôi có một số quan điểm mới đối với cuộc chiến tranh này không được
những người nào đó ưa thích. Nhưng tôi luôn luôn ở bên giáo sư.
O’Connor quay
sang nói với viên trung tá quản đốc khám đang ngơ ngác vì sự xuất hiện bất ngờ
của ông tại nhà lao.
- Giáo sư Nhạ, cố vấn của tổng thống Thiệu, là một nhà
lãnh tụ Thiên chúa giáo mà cá nhân tôi và nhiều người Mỹ rất quý trọng.
Viên
quản đốc phục vụ vị khách Mỹ rất chu đáo, nhưng đồng thời cho người gọi điện
thoại báo cáo về bộ Nội vụ. O’Connor đi thăm Hai Long không có giấy phép của cơ
quan an ninh mà chỉ do lính gác nể cha Hoàng nên cho vào.
Trong khi trao đổi
với O’Connor, Hai Long được biết quân ngụy sẽ phối hợp với quân Mỹ mở một cuộc
hành quân lớn đánh phá dường mòn Hồ Chí Minh ở Nam Lào. Ông linh mục tiên đoán
kết quả sẽ lại giống như cuộc hành quân Junction City.
Hai vị khách vừa ra về
thì nhân viên an ninh tới. Bộ Nội vụ cảnh cáo viên quản đốc. Y nói với Hai Long
từ nay trở đi sẽ không được tiếp bất cứ người Mỹ nào trong khám, và đề nghị anh
thông cảm với mình.
Hai Long đã hội ý với ban chỉ đạo nhà tù về tin tức quan
trọng mà O’Connor vừa nói với anh.
5.
7.
Cơn sốt trên các báo chí vẫn tiếp tục.
---
[1]
Galileo Galilei (1564 - 1642): nhà toán học, thiên văn, vật lý học người Ý, cha
đẻ môn động lực học
Chương 13
HAI TRIỆU DOLLAR
1.
Tên nhân viên
công an nói:
- Thưa ông, Tổng nha mời ông sang bển vì có một vài việc muốn
hỏi ông thêm.
Thái độ hòa nhã, lích sự của hắn làm Hai Long cảnh giác.
-
Tôi là tù nhân đã ra tòa lãnh án tù chung thân của các ông rồi, tôi khước từ mọi
cuộc thẩm vấn tiếp tục.
- Những vấn đề Tổng nha muốn hỏi hoàn toàn không liên
quan tới vụ án vừa qua và tội trạng của ông. Chúng tôi chỉ nhờ ông giúp cho một
đôi việc mà ông biết.
- Tôi đã là người thuộc trung tâm cải huấn Chí Hòa, do
bộ Nội vụ quản lý. Nếu các ông muốn mời tôi sang đó thì phải làm đầy đủ mọi thủ
tục “mượn” người, kể cả sự chứng nhận tình trạng sức khỏe của tôi hiện
nay.
Tất nhiên, tất nhiên, thưa ông. - Hắn nhanh nhẩu đáp.
Tên công an làm
xong các giấy tờ, có ghi rõ tình trạng thân thể và sức khỏe của Hai Long bình
thường trước khi rời khám Chí Hòa.
Chiếc xe Jeep chở anh tới ngôi nhà số 3
Bến Bạch Đằng. Đây là phủ Đặc ủy trung ương tình báo. Anh bị giam trong xà lim
số 6. Chỗ nằm là một chiếc bệ xi măng. Ăn uống hằng ngày rất tồi tệ. Anh ăn theo
chế độ 3, chế độ thấp nhất đối với những người bị giam giữ.
Anh nằm suốt tuần
không ai hỏi han. Tại sao ra tòa mới được 5 ngày, chúng đã vội đưa anh về đây
biệt giam? Chúng cần ở anh điều tên công an đã nói, hay sợ anh ở khám Chí Hòa dễ
tiếp xúc với bên ngoài, hay có ý định thủ tiêu anh...?
Người gặp Hai Long
đầu tiên là một viên cố vấn Mỹ. Anh không giấu vẻ ngán ngẩm khi ngồi trước mặt
y.
- Chúng tôi cần được sự giúp đỡ của ông. Ông biết gì về ông Nguyễn Trọng
Hoành, một điệp viên Cộng sản Bắc Việt?
- Tôi không biết ông Hoành là ai. Tôi
chưa hề nghe nói tới cái tên đó.
Y nhìn anh bằng cặp mắt xoi mói rồi lại
hỏi:
- Chắc ông biết ông Lê Đại?
- Ông hỏi không đúng chỗ, cả ông Đại cũng
vậy.
Viên cố vấn đành để anh trở về nhà giam. Cứ cách ít ngày, y lại mời anh
lên một lần, hỏi tiếp về một vài người khác. Hai Long lắng nghe xem có người nào
của mình sa vào tay chúng, rồi nhất loạt trả lời là không biết.
Y biểu thị
thái độ không bằng lòng:
- Rõ ràng là ông không có ý định giúp đỡ chúng
tôi!
- Tốt nhất là ông nên chấm dứt những cuộc gặp gỡ này, trả ngay tôi về
trung tâm cải huấn Chí Hòa. Tôi khước từ mọi hình thức hỏi cung tiếp tục.
Y
không gặp anh nữa. Anh như bị bỏ quên trong xà lim suốt ba, bốn tháng. Chế độ
giam cầm tồi tệ hủy hoại sức khỏe của anh. Người anh phù nề. Chân phải gần như
bại đi. Nhưng gạo mục, cá ươn và bệnh tật cũng không làm anh đau khổ bằng sự cô
đơn, cách biệt với thế giới bên ngoài.
Một hôm, trung sĩ Sen, người Việt gốc
Khơ-me, dẫn anh đi tắm. Y ngắm nhìn vẻ mặt hiền lành của anh rồi hỏi:
- Thầy
làm ăn chi mà vô đây ngồi miết vậy?
- Làm cố vấn cho tổng thống.
- Thầy
nói mần cái chi? - Viên. trung sĩ ngạc nhiên hỏi lại.
- Làm cố vấn cho tổng
thống Thiệu.
- Trời! Ông là ông Nhạ. Xử án rồi sao lại vô đây?
- Tôi cũng
không hiểu. Có thể là bọn Mỹ tiếp tục bày trò hãm hại tôi.
- Ông có cần giúp
đỡ chi không?
- Nếu thỉnh thoảng ông cho mượn tờ báo xem biết tin tức cho đỡ
buồn thì rất tốt.
- Đem báo vô nhà giam không được. - Viên trung sĩ ngẫm nghĩ
rồi nói tiếp - Bữa nào đến lượt gác, tôi sẽ đem ra-đi-ô theo. Tôi ngồi ở cửa xà
lim của ông, mở ra-đi-ô nghe. Ông cùng nghe luôn...
Sen giữ đúng lời hứa.
Phiên gác nào y cũng mang chiếc máy thu thanh bán dẫn theo. Anh ta mở cả đài BBC
của Anh và đài VOA của Mỹ. Có lúc anh ta đặt đài trên ghế rồi ra sân chơi hoặc
lên phòng sĩ quan đọc báo.
Hàng ngày, Toàn, viên y sĩ của trại giam, đi thăm
bệnh nhân, chỉ dừng lại trước cửa hỏi một câu buông sõng, ném vào mấy viên thuốc
rồi đi. Y chẳng buồn ghé mắt nhìn bệnh nhân ra sao, cũng có phần vì trong xà lim
quá tối.
Bữa nay, y đứng ngoài bỗng quát rất to:
- Nói gì mà nhí nhí trong
họng, bắt người ta phải chui vào nghe anh kể bệnh hay sao?
Hai Long hơi ngạc
nhiên. Toàn chưa hỏi gì anh, và anh chưa hề nói một lời về bệnh trạng.
Mặt
viên y sĩ hiện lên áp vào cửa sổ. Tiếng y rất nhỏ:
- Ông là Vũ Ngọc Nhạ, vụ
án Huỳnh Văn Trọng năm ngoái phải không?
- Đúng.
- Cụ ở đây ư? Cụ khai
bệnh nhiều vào, sáng mai tôi mời lên chích thuốc.
Đúng 8 giờ sáng hôm sau,
Toàn mang giấy của phòng an ninh xuống xà lim dẫn anh lên phòng y tế.
Toàn
vừa khám bệnh cho anh vừa nói:
- Thiệu nó phản cụ, người ta chửi nó ăn cháo
đái bát! Thiệu là tên chó đẻ, tên phản bội, không có Kỳ râu thì Nguyễn Chánh Thi
xơi tái nó rồi, thế mà không biết ơn còn dùng Trần Văn Hương chặt tay chân ông
Kỳ! Ở đây có thiếu úy Phong, cũng người ngoài ta, dễ chịu lắm, nó đang ăn phở ở
căng tin. Còn những người khác thì cụ phải coi chừng! Chốn này rất nghiêm ngặt.
Phải giữ mồm giữ miệng. Nhiều nhân viên an ninh đã bị họ lôi đi. Hằng ngày, cụ
lên đây chích ít mũi nữa là khỏi. Phải chờ thời cụ ạ...
Toàn nhét vào túi Hai
Long hai gói nhỏ trước khi đưa anh trở về xà lim. Anh lấy ra xem. Trong một gói
có bao thuốc lá Ruby và bốn phong bánh đậu Bảo Hiên - Rồng Vàng, loại bánh đậu
gốc gác từ Hải Dương miền Bắc. Trong gói kia là một túi ni lông đựng cà phê sữa
còn ấm.
Trung sĩ Sen cho Hai Long biết quê Toàn ở ga Gôi, Nam Định, trước là
thượng sĩ ở nha hiến binh, người thuộc phe Nguyễn Cao Kỳ. Qua Toàn, anh biết
tình hình sôi động bên ngoài, sinh viên, học sinh đấu tranh, thương phế binh
xuống đường, mâu thuẫn giữa Thiệu, Kỳ, Hương rất gay gắt.
Hai Long làm thân
được với một trung sĩ vốn là giáo dân Phát Diệm di cư. Y ở phòng an ninh, thường
tới dẫn tù nhân đi tắm hoặc cắt tóc. Anh nhờ y bắt liên lạc với cha Nhuận, nhắc
cha xúc tiến tổ chức đại hội đoàn nghĩa sĩ công lý, một cách gián tiếp thông báo
cho ông biết mình đang bị cầm giữ bí mật ở đây. Cha Nhuận chuyển lời thăm, chúc
lành anh, và trả lời là tình hình chưa thuận lợi. Anh biết ông sợ. Viên trung sĩ
người Phát Diệm thường lén lút đem cà phê và thuốc lá cho anh.
2.
Đã
hơn 8 tháng Hai Long bị giam giữ tại xà lim của phủ Đặc ủy trung ương tình báo.
Anh vẫn chưa hiểu vì sao chúng đưa mình về đây đầy ải. Chúng không dễ thủ tiêu
anh. Anh còn hồ sơ lưu giữ tại khám Chí Hòa. Ít nhất cũng có một người đã biết
anh ở đây là cha Nhuận. Theo lời y sĩ Toàn, báo chí tiếp tục đăng những chuyện
về vụ án Huỳnh Văn Trọng. Dư luận vẫn cho rằng đây là một vụ án chính trị còn
đầy nghi vấn. Mặc dù được Toàn chú ý chăm sóc thuốc men, nhưng chế độ giam cầm
nghiệt ngã, suốt ngày đêm sống như con chuột trong bóng tối ẩm lạnh, thức ăn chỉ
có gạo mục, cá khô, bệnh phù thũng của anh vẫn không khỏi, một chân còn tê, sức
khỏe anh ngày càng kém. Hai Long để râu dài. Trông anh như một cụ già.
- Dù sao đó là chuyện đã qua... Tôi không hiểu tại sao tôi đã bị kết án là
tù chính trị mà lại bị giam giữ ở đây với cách đối xử vô nhân đạo thế này?
-
Tôi hứa sẽ can thiệp với chính quyền Việt Nam cộng hòa chấm dứt sự vô lý này.
Bữa nay, tôi muốn được trao đổi với ông như một đồng nghiệp mà cá nhân tôi rất
kính trọng...
Hai Long lặng thinh chờ xem y nói gì.
Y vẫn vòng vo chưa
chịu vào chuyện:
- Tôi rất khâm phục bà Vũ Ngọc Nhạ. Bà đã cam chịu một cuộc
sống rất nghèo nàn, mặc dù chồng bà ở tột đỉnh danh vọng, quyền thế bên cạnh
tổng thống Thiệu. Ông là một người lãnh đạo chính trị, một con chiên ngoan đạo
của Thiên chúa giáo mà bà không cầu xin sự giúp đỡ nào của các linh mục và giáo
hội... Tôi hiểu ông có trình độ tri thức, có tài năng cao, chính trị giỏi. Ông
đã làm cố vấn cho tổng thống Thiệu, cho giám mục Lê, linh mục Hoàng là những
lãnh tụ chống Cộng nổi tiếng. Chúng tôi kính nể đạo đức, uy tín của ông. Tôi
cũng biết ông là người có bản lĩnh phi thường, đã lãnh đạo toàn những chuyên gia
có hạng. Ông Hòe là chuyên gia kinh tế, tài chính. Ông Thắng là chuyên gia tình
báo, đã từng học cùng một lớp với Hoàng Đạo (!). Ông Trọng là chuyên gia hành
chính, ngoại giao. Ông Ruật là chuyên gia về chính trị, đảng phải ở Việt Nam
cộng hòa.
Y không tiếc lời khen ngợi. Y cón muốn chứng tỏ đã nghiên cứu sâu
từng người trong lưới.
Rồi y bắt đầu đi vào mục đích cuộc gặp gỡ:
- Tôi
xin đề nghị ông sẽ cộng tác với chúng tôi.
- Tôi có thể làm được gì cho các
ông trong lúc này? - Hai Long hỏi lại.
- Ông sẽ dùng uy tín, ảnh hưởng của
mình để nắm vững khối Thiên chúa giáo, và hướng dẫn khối này theo đường lối của
tổng thống Nixon.
- Từ trong xà lim ư?
- Tất nhiên không thể như vậy.
Chúng tôi sẽ đưa ông về Tòa đại sứ Mỹ với danh nghĩa là người dạy tiếng Việt và
tiếng Pháp cho những nhân viên Tòa đại sứ, và sẽ tìm cách xóa sớm bản án để ông
trở lại tự do.
Hai Long muốn nhân cơ hội này kiểm tra ảnh hưởng hiện nay của
mình trong khối Thiên chúa giáo.
- Tôi nghĩ là các ông có thể bị lầm. Từ một
năm nay, tôi sống trong xà lim, cách biệt với thế giới bên ngoài, người ta đã
tìm mọi cách bôi nhọ tôi, tôi không hiểu các linh mục và đồng bào Thiên chúa
giáo nghĩ về tôi như thế nào?
- Ông hoàn toàn yên tâm. Tuyệt đại đa số linh
mục và tín đồ Thiên chúa giáo bạn bè của ông mà chúng tôi đã thăm dò, đều biểu
lộ cảm tình sâu sắc, mến phục và luyến tiếc ông. Họ quý trọng đức tin Công giáo
và trí thông minh của ông. Uy tín ông không mất mát gì trong thời gian qua. Trái
lại, ông còn nổi bật lên với tinh thần “tử vì đạo”. Nhiều người nghĩ là ông chết
rồi. Họ đang oán hận người Mỹ đã ám hại ông. Nếu ông trở về sẽ là một sự hân
hoan đối với họ. Và ông thừa hiểu ông sẽ giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trước dư
luận...
Rồi y lại tiếp tục ca ngợi anh:
- Ông quả là một tay nhà nghề điêu
luyện. Riêng một lưới tình báo của ông đã thu thập những tin tức tình báo chiến
lược rất quan trọng thuộc nhiều lĩnh vực. Ông còn hoạt động chi phối cả chính
phủ Sài Gòn. Cũng vào dịp này năm ngoái, chúng tôi đã điên đầu vì hàng loạt tin
tức đảo chính. Tôi không thể nghĩ đó là chính ông làm. Khó có thể tưởng tượng ra
những việc ông dám làm! Nghề nghiệp của chúng ta chỉ xoay quanh mấy danh từ: suy
nghĩ và hành động. Chúng tôi có những người suy nghĩ giỏi nhưng hành động vụng
về, hoặc ngược lại. Tôi đánh giá ông là một người cả suy nghĩ và hành động đều
hoàn hảo... Ông cho biết ý kiến về lời đề nghị của tôi.
Hai Long đáp:
-
Sức khỏe của tôi đang ở trong tình trạng tồi tệ. Tôi không thể nhận lời ông vì
tôi cần có thời gian yên ổn để suy nghĩ.
- Ông sẽ được phục hồi sức khỏe một
cách nhanh chóng nhất để có thể làm việc ngay. Ông cần có sức khỏe, gia đình ông
cần thoát khỏi cảnh nghèo nàn túng thiếu và có ông ở bên. Chúng tôi muốn ông
nhận lời. Ông sẽ được trả lương bổng cao hàng tháng, theo chế độ lương và phụ
cấp của người Mỹ phục vụ tại nước ngoài, không kể tiền thưởng cho mỗi sứ vụ tùy
theo tính chất và mức độ thành công của sứ vụ đó.
Thấy Hai Long im lặng, y
nói tiếp:
- Chỉ cần ông nhận lời, chúng tôi sẽ mở ngay cho ông một trương
mục 2 triệu dollar Mỹ ở bất cứ ngân hàng quốc tế nào mà ông tin cậy, không tính
vào lương tháng và tiền thưởng cho mỗi sứ vụ... Ông có thể suy nghĩ và hành động
gì khi còn ở trong nhà tù?
Hai Long mỉm cười:
- Ông cho rằng tôi nằm
trong xà lim không suy nghĩ và hành động được sao? Dù tình trạng có xấu hơn thế
này, tôi vẫn suy nghĩ và hành động được, ít ra là cho tôi. Lao tù thích hợp cho
đời sống tâm linh của tôi hiện nay. Tôi muốn có thời giờ suy nghĩ về quá khứ và
chờ đợi ngày hòa bình tự do.
- Tôi không phải là đồng chí nhưng là đồng
nghiệp của ông. Về tinh thần, tôi thành thực cảm phục tài năng và khí phách của
ông. Nhưng tôi muốn nhắc ông một câu trong nghề chúng ta: “Đi sâu mất lối về!”.
Nghề chúng ta có định luật riêng của nó. Là điệp viên tài, phải chết yếu! Dù
chiến tranh Việt Nam có kết thúc, ông cũng không hy vọng trở về sống với gia
đình. Ông nên nhớ: 13 điệp viên của Bắc Hàn vẫn còn bị giam giữ ở Nam Hàn mặc dù
chiến tranh Cao Ly đã kết thúc từ năm 1953! Ngưỡng mộ ông, tôi mới ngỏ ý mở
đường giải thoát cho ông. Thật đáng tiếc một đời tài hoa nếu để uổng phí trong
lao tù!
- Cảm ơn. Hoàn cảnh Cao Ly khác với Việt Nam. Ông vẫn chưa hiểu nước
Việt Nam và con người Việt Nam. Rồi ra ông sẽ hiểu, tôi ước mong như vậy. Tôi sẽ
trở về gia đình khi người Mỹ ra đi khỏi Việt Nam. Ông có nghĩ rằng ngày ấy không
còn xa?
- Thời gian sẽ trả lời ông hay tôi nói đúng. Đề nghị của tôi vẫn
được để ngỏ.
- Tôi sẽ không thay đổi quyết định của mình.
Viên phó giám
đốc CIA mỉm cười gượng gạo:
- Tôi thành thực lấy làm
tiếc...
3.
Sau cuộc gặp viên phó giám đốc CIA, chế độ ăn uống của Hai
Long ở nhà giam bắt đầu khá hơn. Anh không còn phải ăn gạo mục, bữa cơm có rau
và một chút thịt cá. Y sĩ Toàn như vừa nhận một chỉ thị mới, công khai chăm sóc
chữa chạy cho anh.
Đã gần 2 năm qua, Hai Long không có quan hệ
với Tòa Khâm sứ. Những lời khai của Trọng, Hòe và Thắng ở phiên tòa có thể đã
gây phiền phức cho Tòa Khâm sứ và Vatican. Đài phát thanh của Vatican từng ngày
trong khi tòa xử án đã phải lên tiếng cải chính hoặc nói rõ thêm về công cuộc
vận động hòa bình mà những giám mục ở Việt Nam đang tiến hành không có liên quan
tới lời khai của những bị cáo... Anh băn khoăn không hiểu có chuyện gì.
Ông
linh mục ngồi đợi ở văn phòng với vẻ trân trọng.
Sau khi chúc lành Hai Long,
ông nói:
- Tôi vâng mệnh Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre tới thông báo
cho thầy biết: Nhân dịp kỷ niệm ngày lễ đăng quang của Đức Giáo hoàng Phao-lồ đệ
lục 23-6-1971, ở Rô-ma có đại lễ cầu nguyện cho những ân nhân của giáo hội và
Giáo hoàng. Thầy Phê-rô Vũ Ngọc Nhạ đã được ghi nhận là “người con hiếu thảo của
Chúa, vệ sĩ nhiều công đức của giáo hội, ân nhân của Giáo hoàng Phao-lồ đệ lục”
được ban ơn chết lành. Thầy được tặng bằng khen và huy chương của Giáo hoàng
tặng thay mặt cho Giáo hội Công giáo La Mã.
Linh mục đưa cho Hai Long xem
thông báo của Tòa thánh La Mã, bằng khen và huy chương rồi đề nghị anh ký nhận.
Hai Long nói:
- Con là một con chiên đã phó thác phần hồn và phần xác nơi
Chúa, nguyện là người vệ sĩ trung thành của Đức Thánh Cha, sẵn sàng hy sinh mạng
sống của mình vì đạo Chúa, vì giáo hội, nay ở chốn lao tù nằm trong tay kẻ dữ mà
vẫn được Đức Thánh Cha rủ lòng thương, lại ban cho những phần thưởng vô cùng cao
quý, con hết sức cảm kích và đội ơn. Con nguyện sẽ không sờn lòng trước mọi thử
thách dù hiểm nghèo thế nào để phò trợ giáo hội, thực hiện triệt để đường lối và
những lời răn dạy của Đức Thánh Cha.
Chờ Hai Long ký xong, ông linh mục thu
lại tấm bằng và tấm huy chương có hình Giáo hoàng rồi giải thích:
- Theo ý
của Đức Khâm sứ thì hiện nay thầy đang ở trong tay quân hung dữ, kẻ nghịch thù
với giáo hội và Giáo hoàng, tính mạng khó an toàn, nay lại mang trong người
những bảo vật của giáo hội và Giáo hoàng, thì khác nào kích thích, chọc tức quân
hung dữ cho nó càng trở nên hung dữ hơn, càng thù nghịch với giáo hội và Giáo
hoàng thêm, mạng sống của thầy sẽ càng mong manh. Tòa Khâm sứ sẽ nhận bảo quản
những bảo vật này, chờ khi thầy thoát khỏi tay bọn hung dữ trở về, sẽ tới lãnh
đem về nhà.
Rồi ông linh mục lại nói thêm:
- Năm ngoái, trong cuộc hành
hương của Giáo hoàng sang Á châu, chính Người đã bị kẻ dữ mưu sát tại Manila. Vì
thoát nạn nên Người đặc biệt thương xót và ghi công đức những con cái của Người
còn ở trong cảnh ngục tù. Kẻ hung dữ dám mưu tính ám hại Đấng Cha chung thì
chúng sẽ không ngần ngại gì đối với mạng sống một con chiên lành của Chúa! Thầy
nên nhớ việc trao những phần thưởng cao quý của Giáo hoàng trong ngày vinh quang
nhất của Người, mang ý nghĩa thiêng liêng là Đức Thánh Cha đã tưởng nhớ tới
những người con của mình trong cảnh tù đày hay bị ám hại... Đức Khâm sứ không
dám làm thầy mang họa thêm vì cử chỉ ưu ái của Giáo hoàng đối với thầy.
- Con
rất cảm tạ lòng thương và sự quan tâm của Đức Khâm sứ đối với sự bằng an của
con, nhưng con vẫn xin Ngài cho giữ lại tấm huy chương trong vài ngày, để được
an ủi, vỗ về và chiêm ngưỡng hình ảnh của Giáo hoàng, rồi sẽ gửi lại Tòa Khâm sứ
giữ cho con. Con xin hứa sẽ giữ gìn kín đáo không để cho kẻ dữ nhìn thấy.
Ông linh mục đồng ý để lại cho Hai Long tấm huy chương rồi ra về.
Chỉ ít
giờ sau, tin Hai Long được Giáo hoàng Paul VI tặng bằng khen và huy chương nhân
ngày lễ đăng quang đã lan ra khắp nơi trong khám, rồi lan ra bên ngoài.
Những
người bị bắt vì hoạt động chính trị chống đối, vì hoạt động cho lực lượng thứ ba
kéo tới chúc mừng anh. Nhiều lời bàn tán, Hai Long, người của Giáo hoàng Paul
VI, không chóng thì chầy sẽ trở thành một nhân vật cầm đầu lực lượng thứ ba.
Ngày 25-6-1971, viên quản đốc
cho người xuống nhà giam mời Hai Long lên gặp một linh mục đại diện cho Đức Khâm
sứ Tòa thánh Vatican tại Sài Gòn.
Sự chỉ hai
ngày sau đó. Hai Long, Trọng và Thắng bị gọi cùng một lúc xuống tàu ra Côn Đảo.
Viên quản đốc khám cũng ngơ ngác vì lệnh này. Những tù nhân từ khám Chí Hòa
chuyển ra Côn Đảo bao giờ cũng được báo trước một thời gian để gia đình chuẩn bị
cho họ những thứ cần dùng trước khi đi xa. Gia đình những người ra đảo chuyến
này đều đã được báo tin, và biết cả ngày giờ tàu nhổ neo rời bến. Tên Hai Long,
Trọng và Thắng chỉ được bộ Nội vụ ra quyết định bổ sung danh sách vào những giờ
phút cuối cùng.
Tàu rời bến buổi chiều.
Lúc xuống tàu, Hai Long và Trọng
bị còng chung trong một chiếc khóa số 8 có ghi dòng chữ Anh “Made in USA”[1].
Hai người đứng trên cầu tàu nhìn về bến Bạch Đằng đông nghịt người ra tiễn.
Họ cố tìm một bóng người thân quen, nhưng chẳng thấy ai. Cuối cùng, họ cũng làm
như những người khác, giơ cao tay vẫy chào đám đông.
Tù nhân bị dồn cả xuống
hầm tàu. Hai Long và Trọng tình cờ ngồi bên một cửa sổ.
Tiếng máy chạy ầm ầm
át cả tiếng sóng vỗ vào mạn tàu. Những con sóng bạc đầu chuyển động dữ dội, trải
ra đến tận chân trời. Con tàu nhỏ chỉ còn như chiếc lá nổi trôi trên đại dương.
Những luồng sáng vàng của mặt trời chiều tan dần trong sóng hay là chìm
xuống đáy sâu của biền cả. Trời và biển nhanh chóng hòa làm một trong bóng đêm.
Biển không ngủ, vẫn cồn cào trăn trở, làm tung bay tấm áo choàng mượn của trời
sao. Bầu trời trong trẻo với muôn ngàn những vì sao xa xăm yên tĩnh. Cái yên
tĩnh kia lại chính là cái đang chuyển động, chuyển động rất dữ dội mà đôi mắt
con người với cuộc đời ngắn ngủi không bao giờ nhận ra.
Trọng ngồi dán mũi
vào cửa sổ. Hai Long bỗng thấy chạnh lòng thương anh. Bỗng dưng anh lại gắn bó
với mình. Cuộc đời anh năm qua diễn ra như một giấc chiêm bao. Từ một người thất
nghiệp, túng thiếu bỗng chốc trở thành phụ tá của tổng thống, có nhà, có xe hơi,
cầm đầu một phái đoàn công du Mỹ quốc kẻ đón người đưa, bây giờ thì ngồi trong
hầm tàu giữa đám tù nhân lưu đày với chiếc còng số 8. Anh đã tỏ ra kiên nghị,
vững vàng từ khi bị bắt. Nhưng Hai Long đã bắt gặp ở anh những thoáng buồn rầu
như lúc này đây. Anh đang nghĩ gì...? Chắc là anh đang nhớ tới người vợ còn trẻ
có nhan sắc và mấy đứa con nhỏ ở lại Sài Gòn. Anh đã lớn tuổi rồi nên thời gian
không chờ đợi. Anh có tiếc là đã gặp mình không? Chắc anh chưa chuẩn bị cho một
tai ương như thế này. Mình sẽ nói với anh là ngày thắng lợi không còn xa. Chính
anh còn nhiều hy vọng hơn cả mình để nhìn thấy ngày đó. Anh cùng bị một án tù
như mình, nhưng kẻ địch không đánh giá anh là một đối tượng nguy hiểm. Hy vọng
đối với mình mong manh hơn nhiều... Nhưng chưa nên nói gì với anh lúc
này.
Hai Long nghĩ tới ngày mai khi vợ con anh vào thăm thấy anh đã biến khỏi
khám đường. Anh hình dung rõ thái độ của những người thân lúc đó. Anh bỗng cảm
thấy buồn. Từ ngày ra đi tới nay, chưa bao giờ anh mang lại cho vợ con những
phút vui trọn vẹn. Nhưng anh không lo lắng nhiều. Gia đình anh đã qua nhiều cơn
sóng gió. Tất cả sẽ giống như những cây lau sậy yếu ớt oằn đi trước dông tố, chờ
gió thổi qua rồi lại gan góc đứng thẳng.
Vì bọn chúng đưa anh đi quá nhanh
nên Tòa Khâm sứ không kịp cho người vào khám thu lại tấm huy chương. Anh vẫn
mang theo bảo vật của Giáo hoàng.
Trong quá trình vận động bầu cử tổng thống, trước những hành động quá trắng
trợn của Thiệu, Kỳ đã nhiều lần rắp tâm đảo chính lật đổ Thiệu. Kỳ tin có những
lực lượng trong quân đội ủng hộ mình, và đảo chính sẽ thành công. Nhưng Kỳ ớn
CIA đã cài tay chân khắp nơi, sẽ phát hiện âm mưu của mình trước khi hành sự. Kỳ
đành bó tay.
Mỹ không thích trò chạy đua một ngựa, sẽ bóc trần bộ mặt dân chủ
giả tạo ở Nam Việt Nam. Nhưng Thiệu, với tính tham lam nhỏ nhặt, thiếu tự tin
của y, đã làm lơ trước lời khuyên bảo của quan thầy. Y bất chấp mọi dư luận,
quyết tâm gạt hết các đối thủ để giành thắng lợi. Kỳ bị tước mọi quyền hành, chỉ
còn mỗi chức thiếu tướng không quân trước đây. Y đành phải lui về ngôi nhà trong
căn cứ Tân Sơn Nhất, khuây khỏa bằng những canh mạt chược hoặc những trận đá gà,
đôi lúc lái máy bay tới giải sầu tại đồn điền ở Khánh Dương.
Hai Long nảy ra
ý viết cho Kỳ một lá thư. Nhưng sau đó anh chỉ viết thư cho cha Nguyễn Quang
Lãm, người được khối Thiên chúa giáo trao nhiệm vụ làm cố vấn cho Kỳ. Trong thư,
Hai Long tả cảnh một đêm thu ở Côn Đảo, trăng nhô đỉnh núi, sóng biển rì rào,
một mình ngồi trên mỏm đá đầu ghềnh, động cảnh sinh tình, nhớ thương cha Lãm có
hai người con, một con đẻ, một con nuôi[3], nay đều chưa làm nên công trạng gì!
Một đứa lưu đày ngoài đảo xa, một đứa chịu quản thúc ở phi trường Tân Sơn
Nhất...
“Nhưng Nã Phá Luân[4] ngày xưa đã bị lưu đày ở đảo Elbe chỉ một năm
sau lại vượt biển trở về tiếp tục những trang sử huy hoàng của nước Pháp, con dù
bị Chúa thử thách vẫn giữ niềm tin có ngày sẽ trở lại, chỉ chạnh lòng mỗi lần
nghĩ tới Kỳ.
Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận
đa![5]
Cha cho con gửi lời thăm Kỳ râu kẽm, khuyên Kỳ đừng thoái chí, noi
gương người xưa tiếp tục mài gươm dưới trăng, và “trăm trận đá, trăm trận
thắng”[6].
Con xin gửi tặng Kỳ râu mấy câu thơ:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ
người.
Nhớ dinh Độc Lập, nhớ lời Kỳ râu...
Vừng trăng ai xẻ làm
đôi
Nửa trôi Côn Đảo, nửa vùi sân bay...”.
Không hiểu cha Lãm có nói gì
thêm, nhưng theo lời ông thuật lại, sau khi xem thư, Kỳ nói: “Tôi chịu Vũ Ngọc
Nhạ là bậc thầy!”.
Cha Lãm là một người khá sắc sảo về chính trị. Đúng vào
dịp bầu cử tổng thống, ông cho đăng tải trên tờ báo Xây Dựng của mình, suốt hơn
40 kỳ liền, một phóng sự điều tra với tựa đề: “Xây Dựng dở chồng hồ sơ bí mật vụ
điệp báo chấn động Huỳnh Văn Trọng, phụ tá đặc biệt của tổng thống Thiệu”. Tác
giả thiên điều tra nói mình đã bỏ ra 5 tháng để thu thập và nghiên cứu tài liệu.
Tác giả đưa ra những luận cứ chứng minh Huỳnh Văn Trọng được CIA chú ý từ lâu,
đã được bồ trí đúng lúc vào bên Thiệu để “âm thầm tiến hành một công tác được
xếp đặt, kế hoạch hóa và thực hiện cùng một lượt với một số công tác khác quan
trọng tương đương và chỉ có tòa Bạch ốc và Ngũ giác đài mới biết được”. Qua
Huỳnh Văn Trọng, tòa Bạch ốc và CIA đã “nắm vững tim gan óc não” của tổng thống
Thiệu, lèo lái Thiệu thực hiện “tân chính sách hòa dịu” với khối Cộng sản quốc
tế, “bắt tay với Cộng sản ở Việt Nam cũng như ở mọi nơi trên thế giới”. Phụ tá
Huỳnh Văn Trọng đã giữ một vai trò sáng chói trong số các phụ tá của dinh Độc
Lập và tin chắc là mình sẽ trở thành thủ tướng. Ngược lại, Thiệu đã dùng Trọng
để theo dõi những mưu tính của Hoa Kỳ “đang có hoặc có thể thay đổi về Việt Nam
xa hơn thế nữa, mà cần thiết hơn là về cá nhân tổng thống Thiệu... Cái chết thê
thảm của cố tổng thống Ngô Đình Diệm còn đó. Nó quá đắt giá”. “Huỳnh Văn Trọng
vào tù vì bị tiết lộ là gián điệp đôi hay chỉ là một diễn xuất ngoạn mục mà đoạn
kết còn lâu mới tới?”... Tác giả bài báo nhiều lần chĩa mũi nhọn vào Thiệu:
“Chắc ông không đến nỗi u tối quá hoặc kiêu căng quá để không nhận biết rằng so
với cố tổng thống Diệm ông chỉ là một ánh đèn le lói trước mặt trời!”. “Tổng
thống Thiệu đã đối phó với các phần tử quốc gia bằng chính những thủ đoạn sâu
độc và những biện pháp cứng rắn đáng lẽ chỉ có thể dành cho đối thủ chung của
quốc gia là Cộng sản và ngoại bang bóc lột”. Thiệu bị đánh giá là thiếu đạo đức,
luôn luôn thất tín, kiến thức chính trị nghèo nàn, lý luận rất yếu kém, Thiệu
quá nhỏ bé không tạo nên được sự tín nhiệm của dân chúng...
Rõ ràng là “vụ án
chính trị” ngày càng gây bất lợi cho Thiệu.
Khá nhiều nhân vật thuộc lực
lượng thứ ba bị Thiệu giam giữ tại Côn Đảo, tìm cách bắt liên lạc với Hai Long.
Họ có cảm tình với anh qua cuộc đấu tranh tại phiên tòa và những dư luận tiếp
tục kéo dài trên báo chí. Tại khám đường, mọi người coi anh như người cầm đầu
của lực lượng thứ ba đang phát triển theo đà phát triển của Hội nghị hòa đàm
Paris.
Tháng 6-1972, cha Thụy làm lễ tại nhà thờ Côn Đảo công bố huy chương
và bằng khen của Giáo hoàng Paul VI khen thưởng Hai Long. Cả họ đạo cầu nguyện
cho anh. Cha xứ tổ chức tiệc mừng long trọng tại họ đạo.
Lễ này mang lại một
thanh thế lớn cho Hai Long.
Tết Trung thu tới. Đột nhiên có tin Nguyễn Văn
Kiểu ra đảo “nghỉ mát”. Cha Thụy tìm Hai Long, nói Kiểu muốn tới thăm anh tại
nhà thờ Côn Đảo.
Kiểu gặp anh với thái độ cầu cạnh như lần đầu y tới nhà thờ
Bình An nhờ anh vận động cho Thiệu ra làm tổng thống.
Kiểu đưa ra một tấm
bánh trung thu Đông Hưng Viên rất lớn, nói đó là quà của vợ chồng Thiệu gửi biếu
anh.
Y nói:
- Từ ngày vắng ông giáo ở Phủ tổng thống, chú Thiệu như mất
một cánh tay. Mỗi lần gặp khó khăn, vợ chồng chú đều nhắc tới ông giáo.
- Ở
đây tôi vẫn luôn luôn cầu nguyện cho ông bà Thiệu.
- Việc ông giáo phải ra
đây làm chú Thiệu rất khổ tâm, và bỗng nhiên chuốc lấy những lời oán trách nặng
nề. Các cha nói chú Thiệu là vong ân bội nghĩa đối với ông giáo, đặt quyền lợi
của đảng Đại Việt trên quyền lợi của giáo hội Công giáo. Ông giáo không thể
tưởng tượng được CIA đã gây áp lực với tổng thống ra sao trước khi chúng bắt
ông. Chúng đưa ra những tài liệu mà chú Thiệu dù biết ông giáo bị oan vẫn không
có cách nào bác lại.
- Chuyện qua rồi nhắc lại làm chi! Chỉ cần ông Thiệu
hiểu tôi đã hết lòng vì ông là được rồi. Gặp ông ra đây, mang theo quà của ông
Thiệu là tôi quên hết mọi chuyện cũ. Xin hỏi thăm tình hình sức khỏe vợ chồng
ông Thiệu dạo này ra sao?
- Cảm ơn ông giáo, vợ chồng chú Thiệu đều mạnh. Sở
dĩ phải nhắc tới chuyện cũ vì từ đó tới nay mới được gặp ông giáo. Và cũng có
một vấn đề liên quan, muốn đề nghị với ông giáo... Chú Thiệu mong ông giáo viết
ít lời minh oan cho chú về việc vừa qua với các cha.
Gia đình chú Thiệu vẫn
luôn luôn nhắc tới ông giáo và liên hệ với các cha như ngày trước. Các cha hiểu
lầm, chú Thiệu khổ tâm lắm!
- Tôi nghĩ rằng sự thật như thế nào, sớm muộn rồi
các cha cũng hiểu. Tôi không muốn viết gì trong lúc này.
- Nếu ông giáo ngại
viết thì đề nghị ông giáo nói đôi lời vào máy ghi âm, tôi sẽ ghi băng đưa
về.
- Nói hay viết cũng như vậy thôi. Có nói và viết gì trong hoàn cảnh mất
tự do thì cũng không giải quyết được gì tốt cho ông Thiệu...
Kiểu cố nằn nì,
nhưng anh vẫn kiên quyết chối từ. Kiểu đành gượng gạo chia tay
anh.
4.
5.
Sự đề phòng của Tòa Khâm sứ không có gì quá đáng.
---
[1]
Sản xuất tại Hoa Kỳ
Chương 14
CON KỲ NHÔNG
1.
Những ngày đầu
tới Côn Đảo, Hai Long và Trọng được đưa về trại số 5 cùng với một số tù nhân. Họ
bị giam trong những buồng riêng biệt, chỉ tới bữa ăn mới gặp mặt nhau.
Ba
ngày sau, viên trưởng ban an ninh của trung tâm cải huấn tới tìm. Y còn rất trẻ,
nói năng lễ độ.
- Tôi là Sáu Long, ông Hòe và ông Ruật ở gần nhà tôi. Hai ổng
nói đã thu xếp xong chỗ ở, xin mời ông và ông Trọng cùng sang đó.
Ngồi trên
xe về chỗ ở mới, họ được biết Hòe là bạn thân của bố viên quản đốc trung tâm cải
huấn Côn Đảo hiện thời là Cao Minh Tiếp.
Cả lưới vui mừng gặp lại nhau. Bốn
người ở chung trong một căn nhà lá thoáng mát, chung quanh có hàng rào dây thép
gai.
Cao Minh Tiếp thỉnh thoảng lại ghé vào thăm họ. Báo chí đưa nhiều tin
tức về vụ án Huỳnh Văn Trọng và nêu tên những huyền thoại chung quanh nhân vật
Vũ Ngọc Nhạ nên khi tiếp xúc với anh, y có mặc cảm tự ti.
Tiếp nói:
- Tôi
so với ông Trọng chỉ vào hàng con cháu. Với ông cố vấn Vũ Ngọc Nhạ, tôi vào loại
đàn em, học trò. Các ông nay bị lưu đày ra đây, nhưng chưa biết chừng ngày mai
lại được mời về Sài Gòn, giữ những trọng trách trong chánh phủ. Ông cố vấn thấy
tôi giúp đỡ được gì xin cứ biểu.
- Sau ngày xử án, người Mỹ đã chính thức cử
người từ Washington sang mời
chúng tôi ra làm việc, nhưng chúng tôi đã khước từ và quyết định ra đây. Ông
quản đốc giúp cho được ăn ở như thế này là thỏa đáng. Chỉ cần ông lưu ý thêm, đa
phần chúng tôi là con chiên, chúng tôi muốn hàng tuần được làm bổn phận đối với
Chúa.
- Ở Côn Đảo cũng có khá nhiều giáo dân, nhưng tiếc rằng không có cha
làm lễ nên nhà thờ từ lâu tới nay vẫn bỏ không.
- Nếu vậy tôi sẽ can thiệp
với Đức Tổng giám mục và Đức Khâm sứ ở Sài Gòn.
Tiếp rụt rè hỏi:
- Theo
chỗ tôi được nghe, thì vụ án này do CIA trả đũa ông Thiệu đã bắt Trần Ngọc Châu
là người của Mỹ. Vậy sự vật ra sao?
Hai Long không trả lời thẳng vào câu
hỏi:
- Tôi là một trong số những người Việt Nam hiểu Mỹ nhất, và dám đương
đầu với Mỹ khi quyền lợi của dân tộc bị xâm phạm. Tôi có đầy đủ tin tức Mỹ chơi
mình, nhưng không thèm trốn tránh, thử xem nó chơi mình tới mức nào. Tội nghiệp
cho ông Thiệu khó xử và từ nay phải đơn thương độc mã trong cuộc chơi với
Mỹ.
Tiếp tỏ vẻ mừng rỡ:
- Được gặp ống cố vấn là một dịp rất may đối với
tôi. Hiện nay Mỹ đang xây cất nhiều công trình trên đảo, tôi thường xuyên phải
làm việc với những nhà thầu Mỹ. Tôi tự thấy lấy mình tầm cỡ quá thấp. Nhờ ông
mách bảo cho vài miếng nhà nghề để làm ăn kiếm chác với họ.
- Về kinh tế thì
ông Hòe là một chuyên gia đại tài, đã công khai tranh luận trên báo chí với
những chuyên gia kinh tế Mỹ có hạng. Ông nên xin khuyến cáo của ông Hòe. Tôi chỉ
góp với ông một ý kiến nhỏ. Người Mỹ rất thực dụng. Làm áp phe với Mỹ thì cứ đặt
thẳng vấn đề, không úp úp mở mở. Tôi ký, anh làm, nguyên tắc thông thường là
chia đôi, sòng phẳng. Mỹ gọi là “Half and half”, Pháp gọi là “Moitié –
moitié”.
Tiếp nghe tỏ vẻ phục Hai Long.
Hòe và Ruật ra đảo trước đã bắt
liên lạc với Ban chỉ đạo tổ chức Đảng hoạt động bí mật tại nhà lao. Sau khi Hai
Long tới, Ban chỉ đạo gợi ý anh tham gia vào Ban và làm việc với “bộ phận lãnh
đạo bên ngoài”; ở đây thiếu người vì có một số đồng chí mãn hạn tù trở về đất
liền. Anh nói mình rất mong mỏi và sẵn sàng nhận công tác, nhưng do tính chất
nhiệm vụ, trong khi chưa nhận được chỉ thị về phương thức hoạt động ở đảo, xin
để mình đứng ngoài họ phận lãnh đạo, và trao cho một việc làm cụ thể. Ban chỉ
đạo phân công anh theo dõi tình hình địch và đóng góp với chỉ đạo về những chủ
trương đấu tranh của tù nhân trên đảo.
Theo quy định của chính quyền Sài Gòn,
những người bị đày ra Côn Đảo đều phải nhận công việc khổ sai. Hòe giỏi về kinh
tế, tài chính, nhận làm cố vấn cho trưởng đặc ty ngân khố của đặc khu hành chính
Côn Đảo. Ruật làm cố vấn cho trưởng ty giáo dục. Thắng nhận giữ sổ sách kế toán
cho viên phó quản đốc trại. Với công việc này, anh có thể biết được số lượng
người bị giam trong trại, số người làm việc ở các sở, tình hình lương thực, thực
phẩm của khu trung tâm.
Sáu Long tới gặp Hai Long, chuyển lời của Tiếp muốn
bố trí anh và Trọng làm công tác hành chính hay giáo dục. Hai Long nói:
- Nhờ
anh về thưa lại với đặc khu trưởng rằng chúng tôi không muốn bêu xấu thêm tổng
thống.
Tiếp cũng lờ đi và không nhắc tới công việc khổ sai của họ nữa.
Hai
Long viết thư cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, xin cử một linh mục ra làm cha
xứ họ đạo Côn Đảo. Cha Bình chuẩn y ngay lời yêu cầu của anh, cử linh mục Tâm ra
đảo. Nhưng ông linh mục này chỉ ở được vài tuần là chán cảnh đảo, trở về Sài
Gòn. Hai Long lại viết thư cho cha Bình, đề nghị Tòa Tổng giám mục cần lựa chọn
linh mục để đưa ra xứ đạo xa xôi này. Ít lâu sau, cha Phạm Gia Thụy ra đảo. Cha
Thụy được linh mục Chân Tín, chủ tịch ủy ban chống chế độ lao tù, cử ra công tác
tại Côn Đảo; Tòa Tổng giám mục nhân đó cử ông trông coi luôn họ đạo ở
đây.
Cha Thụy và Hai Long nhanh chóng trở nên một đôi bạn ý hiệp tâm đầu. Ông
thuộc dòng tu Chúa Cứu thế[1] mới xuất hiện từ thế kỷ 18 cùng với sự phát triển
của chủ nghĩa đế quốc, không bảo thủ như những dòng tu thành lập từ trước, rất
nhạy cảm với những vấn đề chính trị. Cá nhân cha Thụy lại rất hiếu động. Ông vào
trong các trại giam làm thánh lễ và thăm người tù. Ông tìm gặp những sinh viên
bị bắt và tù khổ sai.
Ban chỉ đạo trao nhiệm vụ cho Hai Long vận động cha
Thụy tham gia vào cuộc đấu tranh đòi Mỹ - ngụy cải thiện chính sách, chế độ lao
tù, đòi cho tù nhân được nhận tiền bạc, thuốc men, quần áo từ đất liền, đòi được
ăn uống, chăm sóc thuốc men đúng tiêu chuẩn, chống phát gạo mắm hư mục, chống
cai ngục ăn chặn, ăn bớt của tù nhân, đòi được trao đổi thư từ và cho thân nhân
ra đảo thăm nuôi tù nhân, mãn án phải được trả tự do ngay v.v... Cha Thụy tham
gia rất hăng hái. Nhờ đề nghị tích cực của ông, Ủy ban đấu tranh đòi cải thiện
chế độ lao tù quyên góp được một số thuốc men gửi ra đảo. Cha Thụy mang tất cả
chia cho trại. Địch đối phó lại bằng cách thu giấy phép của ông, không cho ông
đi vào các trại giam như trước.
Hai Lượng dựa vào cha Thụy, thường xuyên
liên hệ với Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, cha Nhuận, cha Hoàng, và mở rộng thêm
quan hệ với những linh mục ở Sài Gòn, như các cha Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan,
Trương Bá Cần, Trần Ngọc Thao... Cha Thao có liên hệ với nhóm thượng nghị sĩ
McGarven và phe Bồ câu Mỹ. Các cha ở Sài Gòn gửi sách báo Công giáo, chính trị,
thần học cho anh, như báo của Tòa thánh Observator Romano, La Croix, Témoignage
Chrétien, Missi, ICI[2], nguyệt san Sacerdos của linh mục, giám mục... Qua cha
Hoàng, Hai Long gửi thư tới Hồng y Pignedoli, Tổng thư ký ở bộ Truyền giáo
Vatican, đề nghị gửi cho mình bản thông tin KIPA của Tòa thánh. Pignedoli không
những đã gửi cho anh bản thông tin này, mà còn gửi cà biên bản khóa họp hội đồng
giám mục thế giới ở Roma tháng 10-1971.
Do có nhiều thời giờ đọc sách báo,
kiến thức về Thiên chúa giáo, giáo lý, thần học của Hai Long được nâng lên khá
nhiều. Các cha cố tiếp xúc với anh trực tiếp cũng như qua thư từ đều ngạc nhiên.
Với các cha cố, Hai Long thường nhắc tới Thiệu, Kỳ, Khiêm với thái độ khoan dung
của một tu sĩ hay một triết gia. Anh nói là vẫn cầu nguyện ơn trên phù hộ cho
họ, và nhắn gửi lời khuyên răn “phải rất khôn lanh đối với những người bạn Mỹ
của chúng ta”. Đây chính là lời Hai Long thường nói với Thiệu trước kia.
Hai
Long cùng với Trọng ở tại một căn nhà biệt lập thuộc trú khu an ninh. Sự biệt
đãi của viên quản đốc trung tâm cải huấn đối với họ cho phép anh mở rộng giao
tiếp với nhiều người trong bộ máy chính quyền ở đảo, giúp anh nắm được kịp thời
những biến chuyển tình hình của quân đội, chính quyền, và những âm mưu, ý đồ, kế
hoạch của ban quản đốc trung tâm đối với tù nhân. Anh đã báo cáo thường xuyên
với ban chỉ đạo ở đảo.
2.
Tháng 9-1971, miền Nam lại có bầu cử tổng
thống nhiệm kỳ mới. Thời gian qua, với sự ủng hộ của Nixon và đặc biệt của CIA,
Thiệu đã tước hết quyền hành, quét sạch vây cánh của Kỳ trong bộ máy chính
quyền, nắm chắc lực lượng công an, cảnh sát. Minh Lớn và Kỳ là hai đối thủ chủ
yếu của Thiệu trong cuộc tuyển cử. Thiệu đưa ra những đạo luật bầu cử hạn chế
tới mức tối đa những người ra tranh cử. Ví dụ như người muốn ứng cử phải đại
diện cho một đảng lớn, nếu không, họ phải được từ 40 nghị sĩ, dân biểu giới
thiệu và bảo đảm, hoặc là được sự giới thiệu của 100 ủy viên hội đồng tỉnh,
trong khi tất cả những tổ chức này đều bị Thiệu kiểm soát và khống chế chặt chẽ.
Cuối cùng, Minh và Kỳ đều phải bỏ cuộc. Thiệu ứng cử một mình không có đối thủ.
Sang tháng 10, nhiều tàu chiến
của Hạm đội 7 Mỹ ghé vào đảo. Ban đêm, đèn sáng rực trên mặt biển như có một
thành phố mới xuất hiện. Sĩ quan, binh lính thủy quân lục chiến Mỹ rong chơi
từng đàn trên bãi cát dọc bờ biển.
Một buổi sáng, Hai Long ngồi đọc sách trên
chiếc ghế đá cạnh phòng chánh cha xứ nhà thờ Côn Đảo. Anh buông sách lơ đãng
nhìn ra bờ biển chỉ còn lẻ tẻ những đám sĩ quan Mỹ đi dạo.
Anh đã ra đảo được
hơn một năm. Cuộc sống của anh ở đây không đến nỗi quá thiếu thốn và buồn chán.
Nhưng nó đã mất di cái hồn. Anh không còn giúp ích được gì trực tiếp cho quân
đội, cho cuộc chiến đấu đang đi vào giai đoạn quyết định. Anh nghĩ tới miền Bắc
không còn những trái bom rơi. Những đoàn quân nô nức đi giữa ban ngày ra tiền
tuyến. Anh nghĩ đến tình hình chính trị nhốn nháo ở Sài Gòn. Và cảm thấy nỗi
buồn của những người ngồi khoanh tay trong lao tù chờ ngày được giải phóng. Anh
còn dư sức lực, dư tâm huyết để đi tiếp chặng đường cuối cùng của chiến tranh.
Nhưng số phận run rủi đã trói buộc anh ở nơi đảo xa này. Anh sẵn sàng đánh đổi
một nửa số năm còn lại của cuộc đời, hoặc hơn thế, nếu được trở về tiếp tục hoạt
động.
Anh bỗng nhận thấy mảng rêu ở chân tảng đá trước mặt mình cử động.
Định thần nhìn kỹ, anh nhận ra một con kỳ nhông. Con vật nhỏ, đầu băng bó như
một chiến sĩ bị thương, đang giương cặp mắt đầy cảnh giác quan sát chung quanh.
Anh nhớ tới một câu ca mà trẻ em hay hát:
Con kỳ nhông
Là ông con kỳ
đà
Con kỳ đà
Là cha con cắc ké
Con cắc ké
Là mẹ con kỳ nhông
Con
kỳ nhông...
Con vật nhỏ này khác với đồng loại của nó, phần đông to lớn hơn,
không phải là do nó có cuốn băng kỳ dị trên đầu, mà do nó có thể biến màu phù
hợp với môi trường. Chính vì vậy mà mặc dù không có khả năng tự vệ trước những
con vật khác hung dữ, nó vẫn tồn tại, trong khi những con khủng long khổng lồ to
lớn gấp nó hàng vạn lần từ rất lâu chỉ còn là những bộ xương hóa thạch hiếm hoi
trong viện bảo tàng. Nó có thể sống giữa rừng rú, chống chọi được với luật rừng.
Nó cũng có thể tồn tại giữa sa mạc hoang vu, khô cằn bốn bề cát bỏng. Ở đâu cũng
chỉ với một phương thức tự bảo vệ: biến màu phù hợp với môi trường.
Con kỳ
nhông nháy một mắt. Nó cũng biết nháy mắt như người!
Anh chợt nảy ra một sự
so sánh: trong nhiều năm qua mình đã tồn tại giữa môi trường chiến đấu ác liệt
giống như con vật bé nhỏ đáng thương này. Anh cũng là một con kỳ nhông. Anh chưa
một lần dùng tới vũ khí tự vệ. Phương thức hoạt động duy nhất của anh, cũng là
phương thức để tồn tại là nhanh chóng biến màu. Anh cảm thấy người ta đã bất
công khi dùng tên con vật kỳ diệu này gắn cho những kẻ hoạt đầu. Kẻ hoạt đầu bao
giờ cũng xấu xa, nguy hiểm trong cuộc sống giữa đồng loại. Chúng nhằm những mục
đích thấp hèn. Con kỳ nhông biến màu để tồn tại cho mục đích tồn tại của nó,
giữa môi trường hủy diệt...
Một sĩ quan thủy quân lục chiến từ phía bãi biển
rảo bước đi lại. Không phải một sĩ quan vì người đó mặc chiếc áo cổ cao của một
linh mục tuyên úy. Anh ngỡ ngàng nhận ra chính là O’Connor.
Ông linh mục chạy
lao lại ôm hôn Hai Long, rồi ghì chặt anh vào lòng. Hồi lâu ông mới buông anh,
tiếp tục nắn tay, sờ sườn, vuốt tóc, véo nhẹ má anh như nựng một đứa
trẻ.
Viên sĩ quan Mỹ đeo quân hàm thượng tướng đi cùng O’Connor lững thững
bước tới, ngơ ngác nhìn hai người.
O’Connor giới thiệu đó là Lewis Walt, tư
lệnh thủy quân lục chiến Mỹ, và giới thiệu với Walt, Hai Long là giáo sư, một
người bạn rất thân thiết với mình.
Hàn huyên chừng 15 phút, O’Connor xin lỗi
anh, ra nói nhỏ điều gì với Walt. Walt hẹn đi một lát, sẽ quay về đón O’Connor.
Ông linh mục cho anh biết mình đã có chủ định tới Côn Đảo phải tìm gặp được
anh. Ông nói lâu ngày không vào Bình An, vì vắng anh, thiếu người tranh luận về
thời cuộc nên cũng buồn. Ông hỏi:
- Thầy ở đây có điều kiện theo dõi sát
tình hình không? Chiến tranh Việt Nam đang đi tới kết thúc.
Hai Long vào
phòng khách lấy ra một tập báo. Ông linh mục rất ngạc nhiên khi nhìn thấy những
số News Week[7] mới nhất và một tờ Star - Stripes[8] vừa ra ngày hôm trước.
Những báo này do một người tù chuyên cắt tóc cho binh sĩ Mỹ tại căn cứ LORAN và
sân bay Cỏ Ống lấy về hàng ngày cho Hai Long. Anh đưa tiếp cho O’Connor xem tờ
Observator Romano và tờ KIPA.
- Báo chí không thiếu lắm, tôi còn đọc kỹ hơn
hồi ở Sài Gòn. Nhưng tôi vẫn không hiểu tình hình thực sự về khúc ngoặt chiến
tranh đang diễn ra.
- Giáo hoàng Paul VI đóng góp rất nhiều vào việc kết thúc
chiến tranh Việt Nam, chính phủ Mỹ cũng phải chịu ơn Giáo hoàng. Hội nghi Paris
sắp kết thúc, một hiệp định sẽ được ký nay mai. Quân đội Mỹ sẽ rút khỏi Việt
Nam, và chắc chắn chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Sẽ có một chính phủ ba thành
phần. Thầy cứ yên lòng, vì Mỹ sẽ bảo đảm sự tồn tại của Thiệu. Thiệu đứng đầu
một thành phần, được Mỹ tiếp tục giúp đỡ, củng cố thành thành phần mạnh nhất
trong chính phủ liên hiệp ở Nam Việt Nam. Mỹ sẽ ra đi trong thế mạnh của Thiệu.
Thầy có ý kiến gì về ba thành phần này?
- Tôi không có đủ những yếu tố để
nhận xét, nhưng nếu trong ba thành phần đó còn Thiệu, thì đương nhiên là tôi rất
hoan nghênh. Nhưng không hiểu Thiệu có tin vào sự bảo đảm của Mỹ hay không? Và
Mỹ đâu có những biện pháp nào để bảo đảm cho Thiệu trong chính phủ ba thành
phần?
- Thiệu tin tưởng nhiều hay ít vào sự bảo đảm của Mỹ là do giáo hội
Công giáo Việt Nam quyết định phần lớn, vì biện pháp hữu hiệu nhất của Mỹ là duy
trì và tăng cường sự hậu thuẫn của giáo hội Thiên chúa giáo cũng như những tổ
chức chính trị chống Cộng ở Nam Việt Nam đối với Thiệu, trước khi có chính phủ
ba thành phần. Mỹ phải xây dựng cho Thiệu một lực lượng quân sự thật mạnh để tự
bảo vệ sự tồn tại của mình trước những thế lực khác. Theo văn bản ký kết giữa 4
bên, Bắc Việt Nam cũng như Việt Cộng phải công nhận và cùng bảo đảm sự tồn tại
của Thiệu. Điều cần tính toán là Thiệu phải mạnh!
- Hiện nay ở Nam Việt Nam
có hai chính phủ, chính phủ Thiệu được Mỹ ủng hộ như vậy mà vẫn bấp bênh, thì
tránh sao khỏi bấp bênh hơn trong tương lai, khi chỉ là một trong ba thành phần
của một chính phủ liên hiệp không còn sự hỗ trợ trực tiếp của quân Mỹ?
Cuộc chiến đấu của nhân dân ta kéo dài gần 30 năm, cuối cùng đã vượt
qua thành trì bảo thủ của Thiên chúa giáo được xây dựng qua bao thế kỷ. Mười bảy
năm trước, anh đã xuống tàu cùng với một triệu giáo dân miền Bắc sẵn sàng rời bỏ
nơi chôn nhau cắt rốn vì không chấp nhận chung sống với những đồng bào đã chọn
con đường của chủ nghĩa Cộng sản để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Ngày
đó, trên bến cảng Hải Phòng, anh gặp những vị linh mục từ Vatican sang. Ngày nay,
Vatican đã rời bỏ bàn tay vấy máu của chủ nghĩa đế quốc để trở về với lý tưởng
bác ái của Chúa.
Bộ truyền giáo La Mã đã nhìn thấy ở anh một giáo dân không
bảo thủ, có thể tiếp thụ được đường lối hòa bình của Giáo hoàng Paul VI. Hai
Long lập tức viết thư cho cha Hoàng, thuyết phục ông đi theo con đường trung
lập, hòa hợp và hòa giải dân tộc, gửi kèm theo cả thư của Pignedoli. Anh cũng
đồng thời gửi thư cho linh mục Chân Tín, cha Lãm, cha Thao. Cha Hoàng đọc tới
nhàu nát những lá thư của anh được bé Liên chuyển tới. Ông để dành quà chờ bé
Liên vào. Ông nói với con gái anh: “Bố mày ở ngoài đó cứ ăn rồi nằm dài ra mà
viết thư, tao đọc quên cả kinh kệ!”. Cha Lãm viết thư khen anh là người mở đường
cho giáo hội Việt Nam. Đức cha Bình khen anh là vệ sĩ có công lớn với giáo hội.
Nhiều cha gọi anh là “thầy tiên tri”. Nhưng vui mừng nhất vẫn là cha Hoàng. Ông
khoe với cha cố các giáo khu là Phát Diệm được ân sủng đặc biệt của Tòa thánh
Vatican và Giáo hoàng Phao-lồ đệ lục thương yêu cách riêng, Phát Diệm thời nay
có Vũ Ngọc Nhạ là magnifnique leader, được nhận trực tiếp thánh chỉ từ La
Mã.
Hai Long lấy danh nghĩa lực lượng thứ ba công khai hoạt động tuyên truyền
cho đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc của ta, lúc này cũng là
đường lối của Giáo hoàng Paul VI.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được 4 bên tham gia ký
kết. Ngày hôm sau, lệnh ngưng bắn có hiệu lực. Hai Long, Trọng, Hòe, Thắng, Ruật
và Hiếu, cùng với cha Thụy tổ chức một bữa liên hoan đón chào hòa bình.
Anh
đã ở tròn hai năm trên đảo. Không một tổ chức tôn giáo nào, một linh mục thân
quen nào trước đây rời bỏ anh. Trái lại, tất cả càng gần gũi anh hơn. Hai năm ở
đảo đã giúp anh trở thành một linh mục với sự hiểu biết về giáo lý vững vàng,
với cách làm lễ thành thạo, cách rao giảng Kinh thánh ngọt ngào, lôi cuốn giáo
dân. Tấm huy chương và bằng khen của Giáo hoàng Paul VI đã nâng anh lên một địa
vị mới trong giáo hội. Anh đã trở thành người của lực lượng thứ ba...
Anh cảm
thấy mình trở về với một tư thế vững vàng. Kẻ địch lại muốn chơi anh một vố
khác, nhưng trong tình hình chính trị hiện nay, chúng không dễ gì làm được
chuyện đó. Ra tới đảo anh mới biết trong những tháng anh bị giam ở phủ Đặc ủy
tình báo số 3 Bến Bạch Đằng, rất nhiều tổ chức Thiên chúa giáo quốc tế, tổ chức
Ân xá quốc tế, hội Nhân quyền, hội Hồng thập tự quốc tế... đã gửi điện hỏi Phủ
tổng thống, bộ Nội vụ hiện thời anh bị giam giữ ở khám nào, sức khỏe ra sao? Hai
nơi này lại sao những bức điện gửi khám Chí Hòa hoặc Tổng nha Cảnh sát. Những
bức điện không bao giờ được trả lời này đã góp phần kìm giữ bàn tay tội ác của
chúng đối với anh. Khi đó anh còn là kẻ bị bọn chúng đặt ra ngoài vòng pháp
luật. Nhưng ngày nay anh đã được những cơ sở pháp lý của Hiệp định Paris bảo vệ.
Nếu chúng định đưa anh về Sài Gòn để hại anh, thì một lần nữa chúng lại phạm sai
lầm. Anh không lo lắng cho mình và Trọng, mà chỉ thấy thương Thắng và Hòe còn bị
chúng đày ải trên đảo. Những người đồng chí của anh không hề mệt mỏi, đã tiếp
tục cuộc chơi rất đẹp đúng như lời giao ước giữa họ với nhau. Họ lại vừa lập nên
một chiến công mới góp phần bảo vệ sinh mạng bao nhiêu chiến sĩ cho độc lập tự
do, trong đó có bản thân mình. Những người đồng chí tận tình, luôn luôn say sưa
với nghề nghiệp, trong bất cứ hoàn cành nào cũng không bỏ lỡ thời cơ đánh địch.
Ngày nào họ mới sẽ gặp lại nhau...? Anh cảm thấy bùi ngùi.
Lần này, họ trở về
Sài Gòn bằng máy bay. Cặp mắt của Trọng lung linh sau làn kính trắng. Có lẽ anh
đang vui vì nghĩ tới giờ phút gặp lại vợ con.
Trọng quay sang ghé vào tai Hai
Long:
- Hồi mình ra đây, sáng hôm sau bà nhà tôi vô khám Chí Hòa, bả đứng
giữa khám chửi chúng một hồi ghê lắm. Chúng đã ăn lờn mép quà của bả, mà khi
mình chuyển đi lại không báo trước! Bọn chúng im thin thít... Anh Hai à, tôi có
cảm giác đêm sắp về sáng rồi.
Hai Long mỉm cười gật gù chia vui với
anh.
[2] Information Catholique Internationale
[3] ý nói Kỳ
không phải giáo dân Công giáo.
[4] tức Napoléon I (1769-1821), danh tướng,
Hoàng đế Pháp 1804-1815
[5] “Bần tiện gặp thời lên cũng dễ, Anh hùng lỡ bước
ngẫm càng cay” (Phan Kế Bính dịch). Hai câu trong bài thơ Cảm hoài của Đặng
Dung, một danh tướng thời Hậu Trần.
[6] Hai Long nhắc vui tới thú chơi đá gà
của Kỳ
[7] Tuần Tin tức
[8] Sao - Vạch
[9] tù chính trị
- Được điện từ ngoài
đảo báo hai ông sẽ về chuyến này, ban quản đốc khám bân bố trí hai ông ở khu AB
là nơi dành riêng cho ngoại kiều, các tướng tá và những nhà chính trị quốc gia.
Thiếu tá Đỗ Cao Đẳng, cháu ruột của trung tướng Đỗ Cao Trí xin được đón hai ông
về phòng mình. Phòng của thiếu tá Đẳng có tiện nghi đầy đủ nhất khám Chí Hòa...
Các ổng bên đó đang chờ đón hai ông.
Thiếu tá Đẳng bị bắt về tội buôn dollar.
Đẳng thuộc loại ăn chơi cự phách ở Sài Gòn. Đẳng tới ban quản đốc đón và dẫn hai
người về phòng mình.
Mặc dù đã được báo trước, nhưng Hai Long và Trọng vẫn
ngạc nhiên khi nhìn những tiện nghi trong căn phòng. Ngoài giường nệm, bàn làm
việc, bàn tiếp khách, bàn đọc sách, còn có quạt máy, tủ lạnh, TV, cát-xét và máy
chiếu phim cỡ nhỏ. Đẳng đã tự mua sắm tất cả những thứ này. Một vài thứ, luật
nhà lao cấm dùng. Nhưng khu AB là đất cấm. Khi nào có các phái đoàn tới thăm thì
bọn tay chân của Đẳng cất giấu những thứ đó sang một chỗ khác, lát sau lại đưa
về. Đẳng thường tiếp các cô tình nhân ở đây. Cứ đến tối thứ bảy, hai cô vợ của
Đẳng lại luân phiên nhau đem ô tô tới rước Đẳng về nhà, gần sáng mới đem trả lại
khám.
Hai người vừa uống cạn ly bia lạnh thì khách tấp nập kéo tới. Đó là
những tướng tá, bộ trưởng, dân biểu bị án tù. Có chuẩn tướng Vũ Văn Giai, bị kết
tội phản chiến, đào ngũ tại mặt trận Quảng Trị hồi 1972, trung tá Marcel Nguyễn
Văn Minh, con trai cựu thủ tướng Nguyễn Văn Thinh, can tội hành hung cố vấn Mỹ,
Nguyễn Anh Tuấn, nguyên bộ trưởng Tài chính, luật sư Nguyễn Long, nhóm Tín Nghĩa
ngân hàng Nguyễn Tấn Đời, đại tá hải quân Thăng, trung tá Vọng, nguyên tỉnh
trưởng tỉnh Bình Định...
Người tù ở khu AB gọi nhau theo chức vụ cũ, đối xử
với nhau theo tôn ti đàng hoàng. Hai Long được gọi là “ông Cố vấn”, Trọng là
“ông Phụ tá” hoặc “ông Bộ”, vì chức vụ phụ tá tổng thống của Trọng ngang hàng
với chức bộ trưởng.
Đẳng và Marcel Minh bàn nhau tổ chức ngay một cuộc liên
hoan mừng hai người trở về, có sự tham gia của chánh, phó quản đốc khám Chí Hòa,
chuẩn tướng Giai, đại tá Thăng, trung tá Minh, nhà tư bản kếch sù Nguyễn Tấn Đời
và dân biểu X.
Marcel Minh nói:
- Mọi người đều cho rằng ông Cố vấn và
ông Phụ tá được chuyển về Sài Gòn là một biến cố rất quan trọng có liên quan tới
chính phủ ba thành phần nay mai. Chúng tôi nhận thấy ông Cố vấn đang ở vào một
thế mạnh hiếm có hiện nay, mong nhờ cậy ông sẽ cứu giúp chúng tôi trong tư thế
mới của mình.
Tướng Giai trong đà hưng phấn đứng dậy:
- Nhân danh chuẩn
tướng sư trưởng sư đoàn 3, tôi trao nhiệm vụ cho thiếu tá Đẳng làm sĩ quan giao
tế, trung tá Minh làm sĩ quan cận vệ cho ông Cố vấn đặc biệt của tổng
thống.
Đẳng và Marcel Minh cùng đứng phắt dậy:
- Tuân lệnh!
Một tràng
vỗ tay vui vẻ.
Tướng Giai hỏi:
- Xin ông cố vấn cho biết: nếu được trao
trả tự do thì ông cố vấn sẽ về đâu?
- Lộc Ninh, Paris hoặc Roma chứ không
phải Sài Gòn.
Mọi người đều có vẻ ngơ ngác
Đại tá Thăng nói:
- Ông cố
vấn dù có ở đâu thì chúng tôi cũng thiết tha đề nghị nhớ tới những em út ở đây,
tìm cách móc chúng tôi ra để cùng góp công sức hoạt động cho lực lượng thứ
ba...
Hai Long và Trọng tranh thủ báo tin cho gia đình tới thăm, để công khai
hóa việc họ đã trở về Sài Gòn, đồng thời báo tin cho cha Hoàng và các cha Chân
Tín, Nhuận, Lãm... ngăn chặn âm mưu địch đưa họ sang CIA, hoặc chuyển qua một
trại giam khác. Hai Long cũng bàn với Đẳng và Minh kế hoạch thông báo kịp thời
cho các cha trước khi địch kịp làm thủ tục chuyển họ tới bất cứ một nơi nào. Hai
người sẽ đấu tranh kiên quyết đòi được ở lại khám Chí Hòa trước khi trao
trả.
Ngày 6-5, vợ con Hai Long và vợ con Trọng vào thăm chồng.
Chị Hai vui
vẻ kể chuyện:
- Từ hôm anh về, bọn công an bố trí gác mật các ngả đường. Em
và con Liên ra chợ, tới trường, đi bất cứ đâu cũng có người bám theo. Bé Liên
thấy chúng theo quá quen mặt, nói với chúng: “Các chú ngồi Hon-đa cả ngày làm
chi cho mệt xác!”. Chúng cười, tăng tốc vọt lên, rồi chờ ở ngã tư, hai mẹ con đi
qua lại tiếp tục bám theo. Bé Liên nói đùa: “Tôi có bồ rồi, mấy anh theo tôi
hoài, bồ của tôi biết thì buồn tôi lắm đó!”. Vừa rồi, chúng theo em và con tới
khám dường, nói nhỏ với người ở trong này chắc là để bảo theo dõi
tiếp.
Marcel Minh nói:
- Tôi sẽ chỉ mấy thằng chó đẻ đó cho ông cố vấn
biết hết mặt.
Lời của tướng Giai bữa trước tưởng như nói vui, không ngờ thành
sự thật. Marcel Minh luôn luôn bám theo Hai Long với ý thức và trách nhiệm của
một sĩ quan cận vệ. Anh có cảm giác nếu kẻ nào đe dọa an ninh của mình thì viên
trung tá sẽ xả thân bảo vệ. Với thân hình cao to như Minh Lớn, có mặt ở nhà tù
vị tội hành hung có vấn Mỹ, Marcel Minh ở bên Hai Long đã làm cho bọn mật vụ
phải nể sợ. Thiếu tá Đẳng đã làm nhiệm vụ sĩ quan giao tế một cách cực kỳ chu
đáo. Người tới thăm Hai Long rất đông. Đẳng phải bố trí lịch cho anh tiếp khách.
Lần lượt cha Hoàng, cha Nhuận, cha Lãm, cha Phan Thu, cha Trần Ngọc Thảo, cha
Trần Ngọc Thụ, bí thư của Tòa Khâm sứ hàng ngày tới khám đường gặp Hai Long. Có
lúc xe hơi của những người tới thăm anh để thành hàng bốn, năm chiếc trước cổng
khám. Những cán bộ cao cấp ở nhà tù, khi có bạn đồng liêu, đồng cấp tới thăm,
cũng mời Hai Long tới nói chuyện như một lãnh tụ Thiên chúa giáo hoặc một người
cầm đầu lực lượng thứ ba.
Những người sốt sắng đón tiếp anh từ khi mới đặt
chân trở về khám đường, không khỏi tự hào mình đã không lầm.
Hai Long thường
nói với mọi người:
- Tôi không hề mưu tính danh lợi mà đã từ bỏ chức vị cao
sang, quên thân xác mình để phục vụ cho giáo hội, chịu tù đày tra tấn vì giáo
hội, là kẻ đi bước trước theo ý Chúa và tuân theo lời phán dạy của Giáo hoàng
Pôn VI, ai ủng hộ tôi tức là cùng tôi thực hiện đường lối của tòa thánh
Va-ti-căng.
Nguyễn Tấn Đời, Nguyễn Anh Tuấn gọi khu AB là trụ sở của lực
lượng thứ ba. Tướng Giai, đại tá Thăng gọi khu AB là Chiến khu bất khả xâm phạm
của lực lượng thứ ba.
Đầu tháng 7-1973, Tổng giám mục Hussler, phụ trách
CARITAS[1] ở Tây Đức vào thăm Hai Long. Sau khi chuyện trò, ông cho biết mình
sắp tới gặp Thiệu, sẽ can thiệp với Thiệu để Hai Long ở lại Sài Gòn. Anh từ
chối, nói nếu như vậy không thuận lợi cho việc thực hiện đường lối của Giáo
hoàng Paul VI, hẹn sẽ gặp lại Tổng giám mục ở Paris hoặc Born.
Sau bữa cơm chiều, buổi tối, các đồng chí trong
ban tổ chức Trung ương Cục, đại diện chính quyền và Mặt trận Miền gặp mặt những
người mới trở về.
Người anh lâng lâng. Hai chục năm rồi anh mới lại được ngồi
trong một cuộc họp giữa những người đồng chí đông đúc. Một cuộc họp trong gian
phòng chan hòa ánh điện, không sợ tiếng máy bay, không lo bị tập kích bất ngờ.
Nếu trong những năm qua anh chỉ mơ ước được sống một ngày hoàn toàn tự do thì
ngày đó đã tới.
Sau lời chào mừng những người đi chiến đấu mới trở về của đại
diện chính quyền và Mặt trận, một đồng chí trong Ban Liên hiệp bốn bên hỏi:
- Trong danh sách trao trả của Sài Gòn hôm nay, có một vị linh mục Giải
phóng, xin cho biết là vị nào?
Mọi người nhìn nhau. Hai Long hơi ngỡ ngàng
giây lát. Chúng đã không dám gọi anh bằng cái tội chúng đã quy kết cho anh tại
phiên tòa! Anh đứng dậy, đáp:
- Thưa, tôi ạ.
Những cặp mắt đều dồn về
phía anh. Có những người hơi mỉm cười. Nhưng không một ai cười thành tiếng.
Những người mà Sài Gòn trao trả không phải đều là cán bộ của ta, mà có cả những
vị linh mục, những nhà sư thật sự, bị coi là lực lượng thứ ba.
Đồng chí trong
Ban liên hiệp nói tiếp:
- Lát nữa mời “vị” về nghỉ với chúng tôi trong khu
nhà xứ.
Phòng làm việc của Ban liên hiệp được bố trí ngay tại khu nhà xứ nhà
thờ Lộc Tấn. Về tới nơi, qua thái độ của Hai Long, đồng chí trong Ban liên hiệp
chuyển cách xưng hô:
- Chúng tôi đã thông báo với nhà thờ bữa nay có anh trở
về... Cha xứ ở đây mới đi Sài Gòn. Các dì phước đã nhận lời đón anh về nghỉ bên
đó.
Hai Long nói:
- Mỗi nhà thờ đều có một cha sở quản lý, nay cha sở đi
vắng thì phải chờ ông về.
- Nếu vậy thì anh nghỉ tại căn phòng cạnh nơi làm
việc của chúng tôi.
Hai Long đang ngồi uống nước thì mấy dì phước tới. Một dì
nói:
- Trình ông đại diện, chúng tôi tới đón cha về. Nhà thờ đã chuẩn bị sẵn
sàng để đón cha.
Đồng chí đại diện Ban liên hiệp hướng về Hai Long:
- Cha
về đây rồi.
Mấy dì phước cung kính chắp tay:
- Lạy cha ạ! Mời cha về với
chúng con.
Hai Long nói:
- Tôi được biết cha sở hiện thời đi vắng.
Một
dì phước đứng tuổi nói:
- Con được cha sở trao cho quản lý nhà thờ. Mời cha
sang ở phòng cha xứ cho chúng con được chăm sóc, vì chúng con biết cha mới từ
Côn Đảo trở về, cha bị tù đầy ngoài đó đã lâu ngày. Nếu không đón được cha, khi
cha xứ về, chúng con sẽ bị quở trách.
Hai Long nói:
- Các con cứ yên tâm,
sức khỏe của cha không đến nỗi nào. Chờ khi cha sở về, cha sẽ sang cũng chưa
muộn. Cha không muốn các con vì cha mà vi phạm luật lệ của nhà thờ, vì phải cha
sở mới có quyền quyết định.
Các dì phước đành phải ra về.
Anh đã đứng trên
miền đất tự do của Tổ quốc. Những đe dọa đối với an toàn của anh đã lùi xa. Lúc
này không còn phải lo những tên mật vụ của Thiệu, của CIA. Nhưng anh vẫn chưa
hoàn toàn tự do. Không hiểu sao chế độ Sài Gòn khi trao trả đã khoác cho anh bộ
áo linh mục? Và có lẽ anh cứ phải tạm giữ chiếc áo này cho tới khi gặp lại tổ
chức. Anh chợt hiểu rằng chừng nào cuộc đấu tranh này chưa kết thúc thì anh chưa
thể trở về với cuộc sống của một người dân bình thường.
Sáng hôm sau, cánh
cửa phòng ngủ của Hai Long ở nhà xứ chợt mở. Một người lao vào ôm chầm lấy anh.
Đồng chí Ba Vân!
Họ buông nhau ra, rồi lại tiếp tục nhìn ngắm nhau hồi lâu.
Cả hai đều cả cảm thấy có cái gì cay cay nơi khóe mắt. Đã gần 6 năm qua. Một
khoảng thời gian dài khủng khiếp. Vừng trán rộng của anh Ba cao gấp rưỡi. Anh đã
hói nhiều. Chỉ còn riêng nụ cười là vẫn trẻ.
- Mình vẫn tín sẽ gặp lại cậu -
Ba Vân nói – nhưng không nghĩ là ngày hôm nay... Hồi đó mình không hiểu tại sao
các cậu lại đề nghị cho tiếp tục ở lại? Tin cậu bị bắt tới giữa lúc mình nằm
điều trị ở Viện, hôm sau mình chảy máu dạ dày.
- Chúng tôi không muốn bỏ dở
công tác nửa chừng, và tin rằng sẽ được giáo hội và giáo dân bảo vệ. Không ngờ
mấy tên CIA ở Sài Gòn làm quá! Khi chúng muốn sửa thì mọi chuyện đã lỡ rồi.
-
Liệu anh em ta có được chúng trao trả hết không?
- Tôi nghĩ là không. Chúng
định đưa tôi và anh Trọng về Sài Gòn để trao cho CIA. Nhưng hằng ngày các cha và
những nhân vật thuộc lực lượng thứ ba kéo tới thăm quá đông, chúng đành đẩy vội
tôi về đây.
- Từ ngày về Sài Gòn đã gặp lại chị và các cháu chưa?
- Nhà
tôi và các cháu đã vô khám thăm ngay sau khi tôi về.
- Cuộc sống của chị và
các cháu ra sao?
- Nhờ bà con đùm bọc cũng không đến nỗi nào.
- Tôi nghĩ
đã tới lúc báo tin với gia đình cậu ở ngoài Bắc... Việc này để bọn mình
lo.
Họ tiếp tục chuyện trò với nhau suốt một ngày. Ba Vân rất mừng rỡ khi
thấy anh vẫn còn đầy đủ những điều kiện để tiếp tục công tác. Anh phải làm ngay
một báo cáo gửi gấp về Trung tâm. Trong khi chờ đợi quyết định về công tác mới,
anh hãy tiếp tục vai trò “linh mục Giải phóng” để tuyên truyền, giải thích chính
sách tín ngưỡng của Mặt trận và đường lối đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa
giải dân tộc của Vatican với giáo dân quanh vùng Lộc Tấn.
Hai Long tìm hiểu
biết cha xứ ở Lộc Tấn là một linh mục người Pháp, tên là Witt, giáo dân trong
vùng thường gọi là cha Uých. Ông đang xin phép chính quyền và Mặt trận cho trở
về Pháp vì đã ở Việt Nam đã lâu ngày. Mấy bữa nay ông đi Sài Gòn để làm các thủ
tục.
Tối thứ bảy, cha Uých từ Sài Gòn trở về Lộc Tấn. Ngay sáng hôm sau, ông
cho dì phước tới mời Hai Long sang nhà thờ. Ông linh mục tiếp Hai Long ở phòng
áo, tỏ vẻ mừng rỡ. Sau đôi lời hàn huyên, ông nói:
- Sắp tới giờ làm lễ, cha
là cha khách, xin mời cha mặc áo ra làm lễ sáng nay cho giáo dân gặp mặt. Các dì
phước nói ai cũng muốn được biết mặt và nghe cha Giải phóng giảng đạo Chúa.
Cha Uých có nhã ý muốn cho Hai Long được hưởng món tiền “xin lễ” của bển đạo
để chi dùng sau khi ở nhà tù ra.
Hai Long nhận lời. Nhưng tới khi mặc áo thì
thấy áo quá dài và quá rộng. Anh đành trao lại áo cho cha Uých và nhận làm phụ
lễ, đọc kinh giảng trước bàn thờ.
Trước giờ làm lễ, cha Uých nói nhỏ với anh:
- Tôi phải rất khôn lanh, tỏ ra giác ngộ cách mạng, phục tùng pháp luật của
chính quyền Giải phóng. Mình cứ lịch sự, lễ phép và tỏ ra biết điều với cán bộ
giải phóng là được mọi sự dễ dàng thôi. Cộng sản nhất định thắng, Thiệu và Mỹ
không thể trở lại vùng này. Tôi đã xin họ cho quay lại Sài Gòn để chuẩn bị trở
về Pháp. Cha nên thuận chiều với họ mà ở lại làm lễ cho mấy nhà thờ quanh vùng
này. Tín đồ ở đây khá đông và không nghèo lắm, cha sẽ đủ sống qua ngày mà làm
nhiệm vụ linh mục.
Sau buổi lễ, cha Uých mời Hai Long cùng dùng bữa trưa. Mấy
dì phước làm cơm rất ngon để mừng hai cha. Ông Uých chuyện trò cởi mở. Ông khen
cán bộ giải phóng tới tiếp xúc với mình đều là những người trí thức, lịch thiệp,
nói tiếng Pháp thạo. Chính quyền mới tỏ ra khoan dung, biết tôn trọng tín
ngưỡng. Những cán bộ nói với ông nếu cần gì thì cử thành thật trình bày. Họ
thường giúp đỡ phương tiện xe cộ, xăng dầu cho ông đi làm lễ những khi trời mưa
gió. Ông khuyên anh nên ở lại đây, còn mình nhất định phải về Pháp để sống với
một bà chị góa chồng từ lâu đã mong đợi ông. Ông cho Hai Long địa chỉ, dặn khi
có đi qua Pháp thế nào cũng tới thăm mình.
Cha Uých trở về ngay Sài Gòn. Hai
Long bắt đầu chính thức thay ông làm lễ, làm các phép thánh cho tín đồ. Anh tiếp
xúc với giáo dân và các dì phước quanh vùng Lộc Tấn, giáo dục, động viên họ yên
tâm làm ăn sinh sống trong vùng giải phóng.
Nhưng chỉ một tuần sau, Hai Long
đã được đón về trại 7 dành riêng cho những người thuộc lực lượng thứ ba. Bản báo
cáo của anh đã được chuyển tới Miền. Trong trại có dãy nhà của sinh viên, trí
thức, có cả Niệm Phật đường dành cho các nhà sư. Mỗi sáng chủ nhật, lại có xe
tới đón Hai Long đi làm lễ tại nhà thờ.
Tháng 7, Thắng được trao trả về Lộc
Ninh. Anh được biết tin Hòe vẫn bị giam cấm cố ở Côn Đảo, Trọng bị đưa khỏi khám
Chí Hòa về cầm giữ tại tiểu khu Hậu Nghĩa.
3.
Những tháng cuối năm
1973, Hai Long trở về làm việc tại Phòng 2 của Miền. Anh hiểu rằng mọi thủ tục
kiểm tra của tổ chức đối với một cán bộ tình báo chiến lược hoạt động sâu trong
lòng địch, bị bắt suốt 4 năm, do địch trao trả, đã được hoàn tất một cách nhanh
chóng nhất.
Anh nhận được rất nhiều yêu cầu báo cáo của Trung tâm cũng như
những cơ quan lãnh đạo của Đảng về tình hình ngụy quân, ngụy quyền, tình hình
chính trị ở Sài Gòn, tình hình các tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo. Thời
gian viết báo cáo, những cuộc gặp gỡ báo cáo trực tiếp với những đồng chí lãnh
đạo đã chiếm gần hết quý I năm 1974. Nhiệm vụ mới của anh vẫn chưa rõ ràng. Lúc
đầu, trên dự định để anh đứng trong lực lượng thứ ba và sẽ tham gia chính phủ ba
thành phần. Nhưng khả năng thành lập một chính phủ liên hiệp ở miền Nam ngày
càng ít. Nixon lại được tái cử một nhiệm kỳ nữa. Với sự tiếp tục có mặt của
Nixon ở Nhà Trắng, Thiệu công khai phá hoại Hiệp định Paris, chống lại đường lối
hòa giải và hòa hợp dân tộc. Y thúc đẩy quân ngụy liên tiếp mở những cuộc hành
quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Tiếng súng lại tiếp tục nổ trên khắp miền
Nam. Hòa bình lâu dài của nhân dân ta chỉ có thể có được với quyết tâm chiến đấu
xóa bỏ ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn đất nước.
Đầu tháng
4-1974, nhiệm vụ của Hai Long được xác định với việc thành lập một cụm tình báo
chiến lược. mới do anh làm cụm trưởng kiêm bí thư chi bộ. Trung tâm quyết định
cho Hai Long trở lại hoạt động hợp pháp, dựa vào cương vị đã có trong Thiên chúa
giáo, xây dựng lực lượng thứ ba, đưa người vào nội bộ địch, chuyển biến lực
lượng chính trị của địch thành lực lượng chính trị của ta, góp phần tạo thời cơ
cho cách mạng giành toàn thắng. Trung tâm chỉ thị cho anh phải xây dựng lực
lượng thật mạnh, xây dựng căn cứ thật vững, chuẩn bị nơi ăn ở bí mật tại Sài
Gòn, có nhà, có phương tiện đi lại thích hợp với công tác bí mật, và xây dựng
căn cứ ở ngoại thành, có lực lượng bảo vệ để đưa cán bộ, sinh viên từ nội thành
ra huấn luyện rồi tung về Sài Gòn hoạt động.
Hai Long trở lại Củ Chi với
niềm vui phơi phới. Anh đã khá quen thuộc vùng đất này. Vùng đất thép ven Sài
Gòn tiếp tục đứng vững suốt bao năm chiến tranh trước những trận đánh hủy diệt
của cả quân Mỹ và quân ngụy. Căn cứ bàn đạp của cơ quan tình báo của ta vẫn tồn
tại ở đây.
Việc đầu tiên là phải nối lại đường dây giao thông với nội thành.
Anh tới Phú Mỹ Hưng triển khai công tác, bàn với cơ sở ta ở địa phương xây dựng
vùng này thành một lõm chính trị.
Điều khiến Hai Long băn khoăn là sau khi
anh được trao trả về Lộc Ninh, qua 8 tháng trời đứt liên lạc, không hiểu những
cha cố dã từng gắn bó mật thiết với anh hiện nay nghĩ về mình như thế nào. Liệu
khi đã trở về vùng giải phóng rồi, anh còn có được sự tin cậy như xưa hay không?
Lẽ ra anh không nên để gián đoạn quan hệ trong một thời gian dài.
Chỉ sau một
tuần, chuyến giao thông đầu tiên vào Sài Gòn đã diễn ra êm đẹp. Ba tuần sau đó,
anh lần lượt và nhanh chóng nhận được hồi âm cửa cha Hoàng, cha Nhuận, cha Lãm
và một số linh mục khác. Anh đã nối lại được hầu hết những mối quan hệ cũ. Hình
như trong tình hình chính trị mới rất rối ren ở Sài Gòn, mọi người đều mong
ngóng trông chờ anh. Bé Liên đã trở thành một cô gái 18 tuổi, giúp anh khá đắc
lực trong việc nối lại quan hệ với cha Hoàng. Anh biết bọn mật vụ chắc chắn
không ngừng theo dõi gia đình mình từ khi anh ra vùng tự do. Nhưng anh tin vào
sự khôn lớn của con. Liên đã trở thành một chiến sĩ giao liên hợp pháp.
Cuối
tháng 6, cha Hoàng gửi quà mừng ra và báo tin nhà thờ Bình An đã làm lễ cầu
nguyện cho anh nhân ngày lễ thánh bổn mạng. Mối tình cảm của ông linh mục chống
Cộng đối với anh vẫn chưa phai nhạt. Anh vẫn còn là con chiên ngoan đạo của
Thiên chúa giáo.
Qua thư từ của các quan hệ, anh đã nắm được tình hình mới ở
Sài Gòn. Linh mục Trần Hữu Thanh đang kích động trên hầu khắp các thành phố ở
miền Nam một phong trào Công giáo chống chế độ Thiệu tham nhũng, đòi Thiệu cải
tổ guồng máy hành chính. Sài Gòn sôi động vì những cuộc hội thảo, xuống đường
của những đoàn thể, những hội, những phong trào đòi quyền sống, đòi tự do báo
chí, bảo vệ quyền lợi... của Phật giáo, Công giáo, thương phế binh, sinh viên,
học sinh, ký giả, nhân văn, lực lượng thứ ba, nhân dân lao động.
Phong trào
càng trở nên sâu rộng, sôi động hơn sau khi Thiệu bày trò tu chỉnh hiến pháp, ép
quốc hội thông qua. Với hiến pháp đã tu chỉnh, tổng thống có quyền tái cử ba
nhiệm kỳ, tăng thời gian nhiệm kỳ tổng thống từ 4 lên 5 năm. Thiệu nắm quyền chỉ
định đô trưởng, thị trưởng và bổ nhiệm thẩm phán tại tối cao pháp viện. Bốn mươi
nghị sĩ, dân biểu đã phản đối sự tu chỉnh này, làm rối loạn cả cuộc họp quốc hội
Sài Gòn.
Riêng với Thiên chúa giáo, Thiệu đang tính gạt Nguyễn Văn Huyền, chủ
tịch thượng viện, cất chức bộ trưởng cựu chiến binh của Phạm Văn Đổng (người của
Phát Diệm), cho khám xét tòa báo Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm, đàn áp
biểu tình của tín đồ Thiên chúa giáo, kịch liệt công kích các cha cố nhân những
buổi rao giảng đạo Chúa chống Thiệu, thúc đẩy tín đồ xuống đường đấu tranh. Hai
tờ báo của Thiên chúa giáo là Xây Dựng và Hòa Bình đã tự động đóng cửa để phản
đối luật 007 của Thiệu nhằm bóp nghẹt tự do báo chí. Thiệu đã đi vào vết xe đổ
của Diệm, Nhu trước đây, và có phần còn hung hăng hơn.
Nhưng có một số cha có
quan hệ với Hai Long vẫn chưa trực tiếp tham gia vào những phong trào này. Theo
chỉ thị của trên, Hai Long viết thư cho các quan hệ thúc đẩy cuộc đấu tranh
chống Thiệu. Anh bàn với cha Hoàng yểm trợ ngầm cha Trần Hữu Thanh trong phong
trào đấu tranh chống chế độ Thiệu tham nhũng, đòi cải tổ guồng máy hành chính.
Anh gợi ý linh mục Nguyễn Quang Lãm kết hợp với linh mục Thanh Lãng, chủ tịch
hội Văn bút Việt Nam, cùng hội Ký giả đòi tự do báo chí, linh mục Lãm cần giữ
vai trò tiên phong. Anh bàn với cha Nhuận tập hợp giáo dân thật hùng hậu, nắm
vững thanh niên, sinh viên Công giáo, phối hợp với thương phế binh sẵn sàng
xuống đường khi cần. Anh trao đổi với nhóm linh mục Chân Tín dấn mình vào lực
lượng thứ ba, liên kết với Phật giáo và nhân sĩ hình thành và phát triển lực
lượng thứ ba... Anh nhắc lại với các cha dư luận nhiều lần tố cáo Thiệu, coi
Thiệu là Tam điểm, là Đại Việt, Thiệu đã phản Công giáo, Thiệu lừa thầy phản
bạn, bàn tay Thiệu cũng dính máu Diệm, Nhu, cả một đời làm tổng thống chỉ lo
củng cố địa vị cá nhân, vơ vét vàng bạc, châu báu, ham mê sắc dục. Đặc biệt, anh
nhấn vào điều Thiệu đã bất hiếu cưỡng lại lời khuyên dạy của Giáo hoàng, cần
phải chối bỏ Thiệu như cắt bỏ một nhành nho sâu để bảo vệ cây nho xanh
tốt.
Hai Long nhận thấy không thể chỉ thúc đẩy phong trào qua thư từ mà phải
trực tiếp gặp những nhân vật chủ chốt để cùng bàn bạc. Anh cần gặp cha Hoàng,
cha Lãm và cha Thụy là những người hăng hái có thể tác động tốt vào cuộc đấu
tranh. Lúc này, địch đang tập trung đối phó với phong trào nội đô, kiểm soát gắt
gao nội thành và vùng ven đô. Cha Hoàng nhận lời đi gặp anh, nhưng đã mấy lần
tới nửa đường lại phải quay về vì địch kiểm soát quá ngặt. Ông đã trả lời đồng ý
với những ý kiến anh đề xuất. Ông đang tiếp xúc với các tướng lãnh trong đó có
Khiêm, Minh, Kỳ, bàn tính cách lật đổ Thiệu. Ông cũng đã thỏa thuận với cha
Thanh huy động toàn lực lượng Công giáo Sài Gòn biểu tình lớn vào ngày 30-10 đòi
lật đổ Thiệu...
Từ tháng 6, nhiều phái đoàn quân sự Mỹ lần lượt kéo nhau tới
thăm đảo Côn Đảo. Cuộc hòa đàm tại Paris đang có chiều tiến triển. Mỹ tăng cường
củng cố căn cứ LORAN trên đảo. Cặp mắt của Lầu Năm góc, trong những ngày tàn
cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu hướng ra biển Đông. Liệu Côn Đảo có trở thành
một “Đài Loan nhỏ” đối với Việt Nam hay không?
Từ giữa năm 1971, trên báo ICI và Missi của Tòa thánh Vatican
bắt đầu xuất hiện những bài nói về hòa bình ở Việt Nam, vai trò của Phật giáo và
nhân vật Dương Văn Minh. Không lâu sau đó, Hai Long nhận được thư của Hồng y
Pignedoli gợi ý nghiên cứu vận động giáo hội ở Nam Việt Nam gác bỏ ý thức hẹp
hòi, kỳ thị tôn giáo, và cộng tác với Dương Văn Minh khi tình thế xoay
chiều.
Hai Long và Trọng rời đảo không giống như những
người tù mãn hạn trở về đất liền. Họ không kịp nói một lời từ biệt với bao người
thân trên đảo. Họ lại bị còng chung một chiếc khóa số 8 đưa ra sân bay.
Chiều 23-7, máy
bay hạ cánh xuống Lộc Ninh. Xe ô tô Ban đón tiếp của Miền đưa những người được
trao trả về trụ sở ở Lộc Tấn.
Hai Long nóng lòng muốn gặp cha Hoàng. Anh bàn
với con gái một kế hoạch tỉ mỉ. Trên đường từ Sài Gòn ra căn cứ phải qua bốt
Trung Hòa cách quận lỵ Củ Chi 8 km, Liên cần đóng vai một nữ học sinh đi dạy
thêm để kiếm tiền, qua lại đây nhiều lần cho bọn lính gác quen mặt. Liên đã làm
được việc đó. Đôi lần Liên đã gặp những chàng sĩ quan hào hoa mời lên xe Jeep
chở đi giúp một quãng. Nếu lọt được qua mắt bọn mật vụ theo dõi ở nhà thờ Bình
An, bé Liên sẽ dẫn cha Hoàng qua bốt Trung Hòa với lý do đi thăm một giáo dân ốm
bại liệt ở ấp chiến lược gần đó. Cha Hoàng vốn có dáng vẻ của một vị linh mục
lão mạo không để cho bọn lính gác nghi ngờ. Nếu gặp kẻ nào quen mặt ông, biết rõ
quá khứ của ông, hắn lại càng không dám nghi. Và ông thừa cách đối phó khi bị
chúng xét hỏi. Liên sẽ dẫn ông đi qua một vài ấp chiến lược tới một ngôi nhà nhỏ
nằm giữa cánh đồng. Tại đây ông sẽ cởi bỏ áo thầy tu, cải trang thành một bác
nông dân, lên xe trâu và được giao thông viên của ta đưa về nơi gặp Hai Long,
cũng là một chiếc lều nằm không xa đó trên cánh đồng. Lực lượng vũ trang của ta
sẽ cảnh giới sát những bốt gác của địch và trên dọc đường đề phòng bất trắc.
Giao thông viên của ta là bác Hai Bạn, nông dân ở Củ Chi lâu năm, chiếc xe trâu
của bác thường qua lại trên cánh đồng. Kế hoạch đã được bố trí khá chu đáo. Liên
sẽ báo trước một ngày trước khi đưa khách ra.
Từ sáng mồng 9 tháng 11, Hai
Long đã bố trí xong xuôi việc đón khách. Giao thông viên hợp pháp của ta thường
xuyên nắm tình hình địch ở đồn Trung Hòa, đồn Lào Táo và các ấp chiến lược,
thông báo kịp thời cho bộ dội đóng ở Mũi Ràng. Một số chiến sĩ bám sát dọc đường
từ ấp chiến lược Trung Hòa ra. Anh đặt ngay tại nơi mình ở một trạm viễn
tiêu.
Lúc 10 giờ sáng, đồng chí trung đội trưởng phụ trách bàn đạp báo cáo xe
trâu đã tới Mũi Ràng, đang tiến về căn cứ. Hai Long cảm thấy trong người rạo
rực. Từ sáng tới giờ, mặc dù con gái anh đã báo tin hôm nay cha Hoàng sẽ ra,
nhưng anh vẫn chưa thật tin. Một ông linh mục ngoài 70 đầu, liệu có thể vượt qua
một chặng đường ngặt nghèo, vất vả ra tới vùng tranh chấp để gặp mình, với biết
bao nguy hiểm từ cả nhiều phía sẵn sàng đón chờ trên dọc đường? Tình cảm của ông
dành cho anh qua bao biến cố vừa rồi liệu còn tới mức đó không... ?
Nghe
tiếng xe trâu lọc cọc lăn bánh trên bờ ruộng, Hai Long từ trong lều nhìn ra qua
hàng dậu thưa, thấy rõ cha Hoàng đang ngồi hai tay ôm đầu gối, lưng dựa vào
thành xe, chăm chú theo dõi từng bước trâu đi.
Xe dừng trước ngõ. Bác Hai
xuống xe dắt mũi trâu. Hai Long vội chạy ra đỡ ông xuống xe. Chặng đường dài 8
km trên đường ruộng gập ghềnh với chiếc xe không êm ái này, hẳn làm cho xương
cốt của ông đau nhừ và người rất mệt mỏi. Nhưng vừa nhìn thấy anh, sắc mặt ông
bỗng trở nên tươi rói. Ông ôm chặt anh, áp má mình vào má anh ba bốn lần. Ông
vẫn mừng rỡ và hồn nhiên như ngày vào khám Chí Hòa đón anh mới từ Côn Đảo trở
về.
Cha Hoàng nói ngay:
- Con bé Liên khôn lanh thật! Chúa dẫn đàng chỉ
lối cho nó. Mình cứ nhắm mắt mà đi theo. Nó bảo sửa soạn đi thì mình đi, bảo
quay trở lại thì mình quay trở lại. Chả là hôm ấy vừa họp bàn với cha Thanh tuần
sau đưa lực lượng ta xuống đường, đòi Thiệu phải từ chức thì Thiệu nó biết, nó
cách chức luôn tướng Thuần, làm vỡ cả kế hoạch. Nó bắt đầu cho công an chìm đeo
mình miết. Bữa nay, bé Liên bảo đi, không ngờ mà đi thoát! Chẳng biết con bé dẫn
đi lối nào để gặp bố nó? Nó bảo lên ô tô, rồi lại xuống ô tô, đi bộ, đi qua bốt,
qua chợ. Nó bảo cởi áo chùng thâm ra, trùm khăn, đội nón lá, nó dìu mình lên xe
bò, ngồi một lát mới biết là xe trâu! Rồi xe cứ lắc la lắc lư bò trên bờ ruộng,
lắm lúc nghiêng như đổ tới nơi, người lật sấp lật ngửa. Cụ đánh xe ngồi đàng
trước quay lại hỏi: “Cha có sao không? Cha cứ cố bám vào thành xe không sao đâu,
hằng ngày tôi vẫn đánh xe đi trên con đàng này”. Chốc chốc con Liên lại hỏi:
“Cha có mệt lắm không? Mệt thì cho xe dừng lại”. Mình bảo cứ đi, chỉ mong cho
chóng tới nơi, gặp nhau một tí, sao lại dừng? 4 giờ chiều nay phải về để kịp gặp
tướng Thuần bàn tiếp công chuyện. Mình ngủ gà ngủ vịt, đói cả bụng mà mãi chưa
tới nơi. Hỏi đây là đâu? Con Liên bảo đây là xã Trung Lập. Tên đúng như vậy hay
mình mới đặt ra?
- Thưa cha đây là xã Trung Lập Thượng, còn chỗ cha lên xe
là xã Trung Lập Hạ, tên đặt đã từ lâu dời.
- Cái tên hay nhỉ! - ông cười tươi
rồi nói tiếp - Đây là đất Cối Kê của chúng mình... Xe cứ bò giữa đồng không mông
quạnh, mặc con bé muốn đưa đi đâu thì đi, cứ gặp bố nó là được rồi. Chúa còn phó
mặc cho người ta dẫn đi nữa là!
Nắm chặt hai tay cha Hoàng, Hai Long cũng
ngỡ ngàng vì những ý nghĩ đơn giản của ông. Ông không hề nghĩ là từ lúc trút bỏ
chiếc áo thầy tu, ngồi lên xe trâu, ông đã phó thác sinh mệnh chính trị và cả
mạng sống của mình vào tay bố con anh!
3.
- Tôi vừa nói, điều đó
còn phải tiếp tục tính toán. Cũng vì vấn đề đó mà tôi muốn nêu với giáo sư một
đề nghị... Không nên oán hận Thiệu nữa, việc cũ qua rồi, phải cùng nhau nhìn về
phía trước mà tiến bước. Nếu cần, tôi sẽ có tiếng nói hòa giải giữa thầy với
Thiệu.
- Tôi thấy mình chưa nên làm gì, và chưa thể làm gì trong lúc này. Mọi
việc đã có giáo hội và tôi thuận theo những chỉ dẫn của Giáo hoàng Paul
VI.
Hai Long vào phòng cha xứ lấy huy chương ra đưa O’Connor xem. Ông linh
mục mừng rỡ:
- Có huy chương cao quý này mà ủng hộ Thiệu thì sức mạnh tinh
thần nào bằng! Tôi xin đảm nhiệm sứ mệnh hòa giải.
- Đề nghị cha hãy khoan,
chờ tôi được bàn với cha Hoàng và giáo hội. Chính vì tấm huy chương này mà chỉ
sau hai ngày, tôi đã bị đưa từ khám Chỉ Hòa ra Côn Đảo...
Tướng Walt quay trở
lại với hai tút thuốc lá Philips và một gói kẹo trong tay. O’Connor đỡ lấy rồi
đưa tặng Hai Long. Walt cũng tặng anh một chiếc bật lửa có khắc chữ ký của mình.
Hai Long tặng lại Walt một tấm ảnh anh chụp trước phòng tuyên úy Công giáo Côn
Đảo, và tặng O’Connor một tấm ảnh anh đứng trước hang đá Đức Mẹ nhìn ra
biển.
Hai vị khách đề nghị anh cùng chụp ảnh làm kỷ niệm trước khi chia
tay.
4.
Mười
hai ngày sau khi ký Hiệp định, đồng chí Xuân Thủy tới Roma thăm viếng và cảm ơn
Giáo hoàng Paul VI đã góp nhiều công sức vào việc kết thúc chiến tranh, kiến tạo
hòa bình ở Việt Nam. Giáo hoàng đón tiếp trọng thể và chụp ảnh chung với đồng
chí Xuân Thủy tại đền thánh Pierre. Sự kiện này càng làm cho nhiều cha cố và
giáo dân tin rằng Hai Long nhận một sứ mạng đặc biệt của Vatican ở miền Nam Việt
Nam. Nhiều phe nhóm và cá nhân mệnh danh là lực lượng thứ ba, như Phật giáo Ấn
Quang, nhóm Hòa bình Công lý, nhóm Công giáo và dân tộc, Dương Văn Minh, Nguyễn
Văn Huyền, Trần Ngọc Liễng, Trương Đình Dzu, bà Ngô Bá Thành, các linh mục Chân
Tín, Trương Bá Cần lần lượt tìm cách liên lạc với Hai Long.
Nhân dịp Tết Quý
Sửu, Hai Long nhờ người chụp và in bưu ảnh mừng Xuân hòa bình, có hình Giáo
hoàng Paul VI cùng với tấm huy chương của anh trên nền một cành mai. Anh ghi địa
chỉ ở khám đường Côn Đảo, rồi gửi hàng trăm tấm bưu ảnh cho cha cố và giáo dân ở
Sài Gòn. Ở đảo, cha Thụy gợi ý cho các sĩ quan, công chức tới phòng khách cha xứ
chúc mừng Hai Long. Cha Thụy giới thiệu anh là lãnh tụ Công giáo thuộc lực lượng
thứ ba, hoạt động theo đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc của Đức
Giáo hoàng Phao-lồ đệ lục. Nhiều người tỏ ra kính nề anh. Họ cho rằng với thời
thế đang xoay chiều, một ngày không xa, Hai Long sẽ trở về với một chức vụ lớn ở
Sài Gòn.
Anh bắt đầu thường xuyên giúp giúp cha Thụy làm lễ ở nhà thờ Côn Đảo
để tranh thủ vận động tuyên truyền giải thích về đường lối vận động cho hòa bình
ở Việt Nam của Giáo hoàng.
Nhưng một đám mây đen lại xuất hiện. Ban chỉ đạo ở
nhà tù cho biết Thiệu có âm mưu không trao trả tù dân sự[9] theo điều khoản đã
được ký kết trong Nghị đinh thư ở Paris. Thiệu biết hàng vạn cán bộ này khi trở
về sẽ vô cùng nguy hiểm cho y trong cuộc đấu tranh chính trị đang diễn ra gay
gắt. Ban chỉ đạo trao cho Hai Long nhiệm vụ điều tra, thu thập những tin tức,
tài liệu cụ thể. Anh đã sử dụng cả lưới vào công việc này và tự mình cũng tích
cực tham gia.
Trong số tù nhân là sĩ quan ngụy, có một thanh niên tên là
Nghĩa. Nghĩa bị kết án chung thân khổ sai vì lỡ tay đánh chết một người bạn.
Nghĩa thông minh, tháo vát nên được Tiếp rất tin dùng. Tiếp đưa Nghĩa về nhà
riêng, cho làm các việc như: lái xe, chạy áp phe, chụp ảnh và dạy vợ Tiếp học
ngoại ngữ. Nghĩa hiểu rành rẽ mọi việc trên đảo. Một lần ngồi nói chuyện với Hai
Long, Nghĩa tâm sự chỉ có một cuộc đổi đời của cách mạng mới giải phóng được cho
cuộc sống lao tù của mình. Anh động viên, giáo dục Nghĩa, từng bước đặt kế hoạch
cho Nghĩa sưu tầm tài liệu, như chụp ảnh các trại giam, cảnh tra tấn phụ nữ,
những người bại liệt nằm ở xà lim và các phòng biệt giam trại số 7... Nghĩa hoàn
thành rất tốt những việc anh trao.
Thắng, Hòe, Ruật, Hiếu ở những vị trí công
việc khổ sai của mình, đã lấy được nguyên bản hoặc sao chép lại nhiều văn thư,
tài liệu báo cáo về số lượng, danh sách tù nhân, gồm chính trị phạm, quân phạm,
thường phạm, số phụ nữ ở từng trại, từng sở, từng phòng giam, tình hình di
chuyển tù chính trị và tù dân sự. Họ nhận thấy thủ đoạn chính của địch là chuyển
tù chính trị giấu đi nơi khác, biến họ thành thường phạm, để không phải trao
trả. Anh em ta còn lấy cả những con số về tình hình tiếp tế lương thực, thực
phẩm nuôi tù nhân để chứng minh thêm.
Tất cả những tài liệu, hình ảnh đã được
chuyển tới phái đoàn ta ở Paris và linh mục Chân Tín trong tháng 3 và tháng 4
năm 1973. Nhiều báo chí ở Sài Gòn, Paris, Roma và các thành phố lớn ở nước Mỹ
đều đăng những tài liệu này.
Sau khi ký Hiệp định Paris, Thiệu đi thăm Mỹ,
Tây Đức, Ý, tới thủ đô nước nào cũng bị tố cáo là ngoan cố, dã man, vô nhân đạo
đối với tù chính trị. Khi Thiệu tới yết kiến Giáo hoàng tại Roma, Thiệu ra sức
biện bạch những dư luận về mình đối với vấn đề tù chính trị là không có căn cứ.
Giáo hoàng Paul VI đưa ra một bản danh sách tù chính trị đang bị giam ở Côn Đảo.
Thiệu tím mặt không còn cách chối cãi.
Trở về Sài Gòn, Thiệu tức giận phái
liên tiếp bốn đoàn điều tra của Phủ thủ tướng, bộ Nội vụ, công an tình báo, Tổng
nha Cải huấn ra Côn Đảo. Các bạn của Hai Long làm mọi việc rất sạch tay, không
để lại dấu vết. Bốn đoàn điều tra của Thiệu đều không tìm ra manh mối. Tài liệu
mật nằm trong văn phòng ban quản đốc. Chúng đành kết tội những kẻ chịu trách
nhiệm. Trung tá Phô, chỉ huy trưởng kiêm quản đốc đặc khu Côn Đảo, Thượng, phó
đốc phủ sứ, phó quản đốc đều bị ngưng chức đưa về Sài Gòn. Năm Thân, chánh văn
phòng, bị điều tra và thuyên chuyển.
Linh mục Thụy cũng bị điều tra, bao vây
và theo dõi.
Tuy không tìm ra chứng cớ, nhưng búa rìu của chúng vẫn nhằm vào
nhóm Hai Long. Thắng, người đã lấy được nguyên bản báo cáo mật của ban quản đốc,
bị đẩy ra trại Chuồng Bò. Hòe bị đưa đi biệt giam cấm cố. Riêng Hai Long, cả bốn
phái đoàn đều thống nhất quy kết là chủ mưu, quyết định chuyển anh về Sài Gòn để
đưa qua CIA điều tra khai thác.
Linh mục Thụy lập tức báo tin này cho linh
mục Chân Tín cùng với một số cha quen thân với Hai Long ở Sài Gòn sẵn sàng kế
hoạch bảo vệ anh.
5.
---
[1]
Rédemptoristes
Chương 15
LINH MỤC GIẢI PHÓNG
1.
Viên phó quản đốc
khám Chí Hòa tiếp Hai Long và Trọng một cách niềm nở.
Hai Long
lại viết thư cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, nhắc nhở ông mạch dạn ủng hộ lực
lượng thứ ba, và tích cực hành động cho đường lối hòa giải, hòa hợp dân tộc bằng
cách đưa giáo hội tách khỏi vòng lệ thuộc vào đường lối chính trị của Mỹ -
Thiệu. Anh kịch liệt phê phán Thiệu là một tín đồ không nghe lời giáo hội thực
hiện đường lối hòa hợp dân tộc, cứ tiếp tục chống đối lực lượng thứ ba, cứ hẹp
hòi, thiển cận, tự cô lập mình, gây ảnh hưởng không tốt đẹp cho giáo hội vào
giai đoạn sau Hiệp định Paris...
Cha Hoàng đọc lá thư này trước khi anh gửi
đi, tỏ vẻ rất tâm đắc. Ông nói:
- Giáo hội sắp tới lúc buộc phải gạt bỏ con
bài Nguyễn Văn Thiệu đã lỗi thời, nếu không muốn chìm tàu cùng với Thiệu!
Ông tiếp tục khuyên Hai Long nên ở lại Sài Gòn, và nói đó cũng là ý muốn của
Tòa Khâm sứ và Tòa Tổng giám mục. Ông tin rằng sẽ giải quyết dễ dàng với Thiệu
và Khiêm chuyện này. Hai Long viết thư cho cha Nguyễn Văn Bình và Hồng y
Pignedoli trình bày những lý lẽ là nếu mình ở Roma, Paris hay Lộc Ninh thì sẽ
hoạt động có hiệu quả hơn cho lực lượng thứ ba. Cha Hoàng đều đọc những thư này.
Và cuối cùng, ông cũng đồng ý
với anh.
Suốt 2 tháng ở khám Chí Hòa, Hai
Long thấy địch chưa có hành động gì đặc biệt đối với mình ngoài việc cho mật vụ
bám riết anh và những người trong gia đình. Dường như thực tế tình hình không
cho phép chúng có những hành động thô bạo đối với anh. Nhưng chúng không thể để
kéo dài tình trạng này. Khám đường Chí Hòa đã trở thành một ổ chống đối nguy
hiểm đối với chính quyền Thiệu. Vậy chúng có thể đưa anh đi đâu? Những người
tình báo chiến lược như anh không dễ gì được chúng trao trả. Nhưng chúng cũng có
thể phải trao trả anh cùng với những người đầu tiên, vì chúng cần đẩy anh xa Sài
Gòn. Anh đang khao khát ngày đó. Ngày được thở hít bầu không khí tự do sau 4 năm
bị giam cầm, sau 19 năm nằm sâu trong lòng địch. Anh muốn được nhìn thấy dải đất
yên lành, bầu trời xanh trong của vùng giải phóng trong những ngày hòa bình dầu
tiên. Và cần hơn cả, anh muốn gặp lại tổ chức. Việc đó ở đây lúc này, hầu như
không thể làm được. Bọn mật vụ theo dõi anh và gia đình quá sít sao. Anh không
muốn lặp lại những sai lầm trong quá khứ. Tú Uyên không hề xuất hiện lại sau
buổi gặp anh trước ngày xử án. Anh đã chú ý thử tìm chị trong suốt phiên tòa.
Anh cũng có ý chờ chị trong những ngày về đây. Có thể chị cảm thấy nguy hiểm. Sự
im lặng của chị làm tăng lên trong anh ý nghĩ có thể chị đã trở thành một cơ sở
của ta?... Anh rất cần nhận những chỉ thị mới của tổ chức. Anh tin rằng mình đã
chuẩn bị khá chu đáo cho một chặng đường chiến đấu mới.
Mặc dù anh đã chuẩn
bị tư tưởng cho ngày đó, nhưng nó vẫn tới rất bất ngờ.
Một buổi sáng hạ tuần
tháng 7, mấy tên cảnh sát từ bộ Nội vụ tới, đưa giấy tờ nói anh nằm trong danh
sách tù chính trị được trao trả về Lộc Ninh đợt này. Chúng hối thúc anh hoàn tất
nhanh chóng mọi thủ tục ở khám đường rồi ra xe. Cũng như khi rời Côn Đảo, anh
không có cả thời giờ để bắt tay từ biệt mọi người.
2.
4.
Cha Hoàng hứa sẽ ra thăm Hai Long trước ngày Công
giáo tổ chức cuộc biểu tình lớn đòi lật đổ Thiệu. Nhưng bé Liên không thực hiện
được kế hoạch. Thiệu đã phát hiện được dự định của ông. Bọn mật vụ bám riết ông
mỗi lần rời nhà thờ Bình An.
Căn lều của bác Hai cùng mấy người bạn
điền được dựng lên bằng những chiếc cột cháy dở và những tấm tôn lỗ chỗ vết đạn,
không đủ che nắng mưa cho họ trú những buổi làm đồng. Quanh lều lèo tèo mấy bụi
chuối xơ xác. Đây là vành đai trắng hoang vắng mà bom đạn của cả đôi bên có thể
giội lửa bất cứ lúc nào.
Cha Hoàng hoàn toàn không để ý đến khung cảnh, mắt
không rời Hai Long, vui vẻ hỏi:
- Có gì ăn không? Mình thấy đói bụng rồi!
Liên bày ra phản bánh mì, bơ, phó mát, cam, táo, những thức ăn thích hợp với
khẩu vị của cha Hoàng.
Hai Long mời ông đọc kinh, rồi cùng làm dấu Thánh giá
trước khi ăn. Đã hơn 4 năm, anh lại mới có dịp cùng ngồi ăn với ông. Bữa ăn gợi
nhớ tới những ngày anh sống ở nhà thờ Bình An.
Vẫn là thói quen ngày xưa, mỗi
lần bắt đầu trao đổi, ông thường nói một thôi dài:
- Ngày 23 tháng 10, mình
không ra được thật là đáng tiếc! Theo ý thầy, mình tạm đi với cha Thanh trong
phong trào chống tham nhũng. Mình đã huy động lực lượng Công giáo di cư ở vùng
Hố Nai, Biên Hòa. Cha Thanh và phong trào lấy nhà thờ Tân Sa Châu làm điểm xuất
phát cho các vụ xuống đường và truyền lệnh cho giáo dân, y như phong trào Phật
giáo năm 1963 lấy chùa Ấn Quang và Viện Hóa đạo làm trung tâm điểèm. Kế hoạch
định làm một đợt từ 30 tới 31 tháng 10 trùng với ngày đảo chính Diệm năm 1963,
chọn ngày 31 là cao điểm lật đổ Thiệu. 30 tháng 10 bắt đầu biểu tình. 31 tháng
10, người biểu tình nêu khẩu hiệu đòi Thiệu từ chức, xô xát dữ dội giữa giáo dân
với cảnh sát, hàng trăm người của cả đôi bên bị thương. Mình bàn với cha Thanh
phát động tuần lễ đấu tranh bất bạo động, đồng thời bắt tay với Phật giáo, liên
minh hành động với thượng tọa Thích Giác Đức. Dương Văn Minh vẫn dựa vào Phát
Diệm như hồi 1963. Minh, Khiêm, Kỳ cho Phạm Quốc Thuần, tư lệnh vùng 3 chiến
thuật liên hệ với mình tính kế hoạch đảo chính Thiệu, nhưng mình chưa hiểu ý đồ
nhóm này ra sao nên do dự. Thiệu được CIA báo tin, biết âm mưu, lập tức cách
chức Thuần. Thuần tuy bị cách chức vẫn tiếp tục liên lạc với mình. 4 giờ chiều
nay, mời mình gặp ở nhà riêng. Mình phải ráng gặp thầy trước khi gặp
Thuần...
Hai Long chưa vội lên tiếng, vì biết những điều cha Hoàng định trao
đổi với anh không phải chỉ có như vậy.
Ông lại thao thao:
- Cha Thanh vừa
rồi gặp mình, hỏi nên chọn ai thay Thiệu? Thanh nói đã liên lạc với Nguyễn Văn
Huyền, nhưng Huyền né tránh vì sợ Thiệu, hỏi Trần Minh Tiết, Tiết cũng chưa nhận
lời. Nhưng Tiết lại tìm mình, nói nếu được mình ủng hộ thì hắn sẽ nhận lời cha
Thanh. Mọi khi có thầy cùng bàn, bây giờ vắng thầy, mình rất khó quyết. Một anh
tướng Công giáo Mỹ, tên là Stennis, khuyên mình đừng có đứng vào phe linh mục
Thanh, cứ để Thanh làm một mình, vào giai đoạn chót hãy tính! Sau vụ biểu tình
ngày 1 tháng 11, Thiệu nói với mình sẽ ra đi trong danh dự, yêu cầu mình giúp và
bảo đảm. Thiệu cũng nói như vậy với cha Nhuận. Có lẽ Thiệu không muốn mất mạng
vì lo bị Mỹ giết. Mình nên trả lời hắn thế nào?
Hai Long định trả lời thì
ông lại nói tiếp luôn:
- Cha Thanh chỉ quen tố cáo suông! Chống tham nhũng
phải kết hợp với hành động cách mạng. Đáng lẽ tố vụ kho gạo ở Bình Thuận của chị
gái Thiệu thì phải đấu tranh đòi đem gạo ấy chia cho dân nghèo, như ngày xưa
mình chiếm kho gạo của Nhật ở Kim Sơn năm 1945, lấy được gạo đem phân phát luôn
cho dân cứu đói. Mình cũng muốn cho Thiệu ra đi, nhưng chớ nên bạo động mà mắc
mưu Mỹ! Ta đi với Mỹ nhưng không thể là tôi tớ của Mỹ! Thiệu định từ nay đến
cuối tháng 11 sẽ thẳng tay đàn áp các vụ biểu tình xuống đường. Mình có cha Bình
và giáo dân ủng hộ, không sợ Thiệu đàn áp. Mình định tập hợp giáo dân 11 hạt
thuộc giáo khu Sài Gòn, yêu cầu Thiệu rút lui, đồng thời ra kiến nghị đòi thầy
về Sài Gòn, thầy tính sao?
Ý kiến của ông nhiều chỗ mâu thuẫn nhau, chứng tỏ
ông đang bối rối trước tình hình chính trị phức tạp ở Sài Gòn. Hai Long chậm rãi
đáp:
- Con không chủ trương sang Pháp hoặc Ý chính là để sớm có dịp trở về
Sài Gòn, vì tình hình thay đổi tới nơi rồi, cần phải có mặt ở đó để kịp thời
hành động. Tòa thánh Vatican đã lên án Thiệu, Mỹ đang tiến hành kế hoạch thay
Thiệu, vậy Công giáo phải chớp lấy thời cơ lật Thiệu cho bằng được, hoặc biểu
tình, bạo động đòi Thiệu phải từ chức, hoặc đảo chính, hoặc thuyết phục Thiệu êm
ả ra đi, bằng bất cứ cách nào có hiệu quả một cách sớm nhất. Sở dĩ giáo hội phải
giành lấy việc lật đổ Thiệu, chính là để cứu Thiệu khỏi phải chết thảm như Diệm,
để thành lập một chính quyền Công giáo, hoặc thân Công giáo, sẵn sàng đi theo
đường lối của Vatican là hòa bình, trung lập, canh tân, hòa giải. Nếu bây giờ
cha đứng ra lãnh đạo phong trào Công giáo lật đổ Thiệu như ý cha vừa nói, thì
con thấy hơn ai hết, cha hội tụ đủ yếu tố thành công. Tỉ dụ như Vatican không
tán thành Thiệu vì e Thiệu hiếu chiến, độc tài, sẽ gieo tai họa cho Công giáo
Việt Nam, Vatican sẽ ủng hộ cha. Cha cần có cha Thanh để đạt mục đích của giáo
hội, thì Mỹ cũng đang cần có sự hợp tác giữa cha với cha Thanh vì mục đích của
họ. Pháp và lực lượng thân Pháp cũng sẽ kết hợp với cha, vì Thiệu từ xưa tới nay
vẫn chống đối chính sách của Pháp đối với chiến tranh Việt Nam. Những người
thuộc lực lượng thứ ba sẽ tập hợp ngay chung quanh cha vì họ đang là đối tượng
đàn áp của Thiệu chỉ sau có Việt Cộng. Thế lực Phật giáo hiện thời còn chia rẽ,
chưa đủ sức chống Thiệu, thấy cha phất ngọn cờ, chắc sẽ không ngần ngại liên kết
với cha, vì nhiều thượng tọa, đại đức đã đứng vào lực lượng thứ ba chứ không thể
đi đôi với Thiệu. Những phong trào của Phật giáo như lực lượng hòa giải dân tộc
của Vũ Văn Mẫu, phong trào thanh niên Phật tử chống tham nhũng rất phù hợp với
đường lối vận động cho hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc của Giáo hoàng Paul
VI. Các đoàn thể đòi quyền sống, các hội đoàn thương phế binh đang chống Thiệu
nhất định sẽ dựa vào thế của cha để dẩy mạnh đấu tranh. Cộng sản Bắc Việt, Việt
Cộng trong chiến lược, sách lược của họ hiện nay, nếu không lên tiếng ủng hộ
cha, thì cũng đứng ngoài mặc cho Công giáo hành động lật Thiệu, vì họ đang giao
hảo với Vatican và Giáo hoàng Paul VI.
Nét mặt cha Hoàng dãn ra. Ông ngồi yên
một lát sau khi Hai Long nói, giọng của ông không sôi nổi như lúc đầu:
-
Thời cơ thuận lợi lắm đấy! Mình phải bàn đi tính lại với nhau hàng ngày, hàng
giờ như hồi trước hoặc ngồi trao đổi với nhau như hôm nay thì mới đủ khôn ngoan
mà hành động. Thời buổi nay nói sai, làm sai là mắc tội với giáo hội, với lịch
sử. Mấy hôm nay Thiệu bối rối lắm, mình cũng bối rối, chưa biết Mỹ nó lật Thiệu
để làm gì? Rồi nó đưa ai lên?
- Mỹ chẳng muốn lật Diệm, lật Thiệu làm gì!
Song Mỹ phải gạt những trở ngại để thực hiện đường lối, chiến lược mới của họ.
Nixon không thể deo đuổi mãi cuộc chiến tranh này. Mỹ ngụy trang rất khéo việc
thực hiện ý đồ của họ. Cha đã thấy Mỹ bày ra vụ Phật giáo hạ Diệm, Nhu, kỳ thật
là nhằm đưa quân Mỹ vào Việt Nam. Mỹ bày ra vụ Công giáo nằm vạ ở dinh Gia Long,
đòi hạ bệ Phan Huy Quát vì quy chế tôn giáo của Quát, nhưng thực ra là để gạt
chính quyền dân sự, lập nên một chính quyền quân sự mạnh để ào ạt đưa quân
vào!
- Mỹ lắm mưu nhiều kế, ta không khéo thì mắc bẫy nó như chơi!
Như
chợt nhớ ra, ông hỏi:
- Ngày nó trao trả thầy về Lộc Ninh, thái độ của Mặt
trận đối với thầy thế nào?
Lần đầu, anh thấy ông nhắc tới những tiếng “Mặt
trận”, trước đây ông chỉ gọi là “Việt Minh”.
Hai Long mỉm cười:
- Sài Gòn
ghi trong danh sách trao trả, con là linh mục Giải phóng. Tới nơi, con được đưa
ngay về nhà thờ Lộc Tấn. Cha sở ở đây là ông Uých đang xin trở về Pháp, trao lại
nhà thờ cho con.
- Mình biết ông Uých.
- Con phải làm lễ ở nhà thờ Lộc
Tấn và những nhà thờ trong vùng. Con nghĩ rằng họ đã trọng vọng con một cách đặc
biệt sau khi tìm hiểu, biết con là người của Vatican và có ảnh hưởng lớn với lực
lượng thứ ba. Họ xa xôi thúc đẩy con tham gia hoạt động cho lực lượng thứ ba để
thực hiện đường lối của Vatican. Tại nhà khách của họ có hẳn một khu dành riêng
cho những người thuộc lực lượng thứ ba bị Sài Gòn trao trả. Họ tin rằng sớm muộn
sẽ ngồi chung với con trong chính phủ liên hiệp ba thành phần.
- Khôn lanh
lắm, có thể mới sống nổi tới ngày nay!... Nhưng theo ý thầy, trong tình hình
này, Mỹ sẽ chọn ai thay Thiệu?
- Con gần đây không tiếp xúc với các cha Mỹ
nên không thật sát tình hình... Cha chỉ cần điều tra qua cha Thanh là biết ý đồ
của Mỹ. Cha Thanh kích dộng giáo dân chống Thiệu, đòi thay thế Thiệu, lại gặp
luật sư Huyền, luật sư Tiết, thăm dò việc ra thay Thiệu, thì thấy rõ cha gắn
liền với Mỹ. Nhưng dó là chuyện của Mỹ! Còn ta phải tính chuyện của ta. Giáo hội
Việt Nam luôn luôn phải tuân theo thánh ý của Đức Giáo hoàng là thúc đẩy Mỹ loại
trừ Thiệu càng sớm càng tốt, đòi Mỹ, Thiệu phải công nhận lực lượng thứ ba theo
tinh thần Hiệp định Paris. Cha Tổng dựa theo Hiệp định Paris mà làm, là đúng ý
của Giáo hoàng, mà lại có cơ sở pháp lý để chống lại sự đàn áp của Thiệu. Phong
trào chống Thiệu đang lên rất mạnh, lực lượng nhiều, nhưng có nhược điểm lớn là
phân tán, rất cần một ngọn cờ tập hợp lại thì mới có đủ sức mạnh lật nhào Thiệu.
Con muốn cha Tổng sẽ là ngọn cờ. Cha Tổng sẽ xứng đáng là một lãnh tụ tài ba,
một môn đệ trung tín của Chúa, cha Tổng sẽ đi vào lịch sử của đất nước là một
chiến sĩ hòa bình, đi vào lịch sử của giáo hội là đem bình an của Chúa cứu thế
ban bố cho mọi người.
Bộ mặt cha Hoàng bừng sáng:
- Mình nên đưa nhân vật
Công giáo nào ra lập chính phủ, hoặc thay thế Thiệu, hoặc tham gia chính phủ cải
tổ?
- Cụ thể thì con xin nghiên cứu và trả lời cha sau. Nhưng về nguyên tắc
thì đã rõ, người thay thế Thiệu phải tán thành hòa bình, hòa hợp và hòa giải dân
tộc, nên lựa chọn trong lực lượng thứ ba. Công giáo ta phải nắm lực lượng thứ ba
và xây dựng thành lực lượng mạnh nhất trong chính phủ ba thành phần. Cha Tổng
cần điều tra ý đồ của Mỹ trong cuộc gặp tướng Thuần chiều nay. Tướng Dương Văn
Minh đã được Vatican nhắc tới trên báo chí của Tòa thánh, cũng là một nhân vật
có thể cộng tác trong chính phủ tương lai. Theo ý con, muốn lật Thiệu thì cần
phải loại bỏ ngay mấy mưu sĩ của y là Ngô Khắc Tỉnh, Đặng Văn Quang, nhất là
Hoàng Đức Nhã, cháu của Thiệu. Nhã gần đây điên cuồng chống Hiệp định tới mức Mỹ
cũng phải ghét.
Cha Hoàng hơi mỉm cười:
- Nó dùng cháu nó là Hoàng Đức
Nhã làm cho một số người ở xa lầm là thầy vẫn tiếp tục cộng tác với nó!
Hơn
hai giờ vừa ăn uống, trò chuyện, bàn luận công việc cởi mở khiến cha Hoàng rất
thoải mái.
- Đường sá gập ghềnh quá xấu, cha Tổng tuổi già sức yếu lại phải
đi bằng xe trâu, qua nhiều đồn bốt, qua vành đai trắng, cha có ngại không?
-
Mình rất nhớ thầy, muốn gặp gỡ luôn, dù xa xôi nguy hiểm vất vả mấy cũng không
ngại. Chỉ cầu nguyện cho thầy bình an, mạnh khỏe và mau chóng trở về Sài Gòn để
thường xuyên bàn bạc kẻo lỡ thời cơ. Mình đã chuẩn bị sẵn một số chỗ để thầy có
thể về ngay. Cha Lý ở Bùi Môn, cha Sự ở Gò Vấp, cha Chính ở Xuân Lộc, cha Tân ở
Long Thành, đều là những nơi có thể bảo đảm an toàn cho thầy. Thầy thấy đâu
thuận tiện thì ở. Mình sẽ dẫn con Liên đi một vòng giới thiệu cho nó nhận các
cha, nhận nơi ở, rồi đón bố nó về. Lần này về, mình sẽ bàn với các cha và giáo
dân làm kiến nghị đòi Thiệu, Khiêm xóa bản án năm 1969 của thầy. Cả giáo hội đòi
thì Thiệu cưỡng lại thế nào được! Về ngay Sài Gòn mà xem Mỹ nó tính cái gì?...
Dìu cha Hoàng lên xe trâu, Hai Long nhận thấy rõ sự lưu luyến trên nét mặt
ông, trong cái bắt tay của vị linh mục già ngoại 70 tuổi có bệnh hen suyễn mãn
tính. Ông quả thật nặng tình với mình!
Anh đứng nhìn theo chiếc xe trâu mờ
dần với làn bụi trắng của gió cát trên cánh đồng Củ Chi.
Cuối tháng
Giêng, cơ quan chỉ đạo trao nhiệm vụ cho anh trở lại nội thành để bám sát các
đối tượng vì tình hình sắp có biến chuyển lớn.
Từ đầu mùa Xuân năm 1975,
những sự kiện lớn trên chiến trường miền Nam diễn ra dồn dập.
Ngày 6 tháng
Giêng, bộ đội ta tiến công và giải phóng thị xã Phước Long. Thiệu điên cuồng kêu
gào quân ngụy phải tái chiếm thị xã. Nhưng quân ngụy không làm được việc đó.
Thiệu đành bó tay với quyết định để tang Phước Long. Điều quan trọng là Mỹ không
có phản ứng gì.
Được sự ủng hộ của cha Hoàng, chiến dịch chống tham nhũng của
linh mục Thanh tiếp tục phát triển. Sáu tờ báo ở Sài Gòn tuyên bố sẽ đăng tài
liệu tố cáo những vụ tham ô của chính quyền Thiệu, có liên quan tới cả thủ tướng
Trần Thiện Khiêm.
Sự tham nhũng vốn có gốc rễ từ lâu trong ngụy quyền. Nhưng
nó đã phát triển tới một mức ghê gớm từ ngày Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh
Việt Nam. Mỹ đã đổ vào chiến trường Việt Nam hàng trăm tỷ dollar.
Không phải nhiều thứ hàng viện trợ của Mỹ đã rơi vào tay bọn tham nhũng tại chỗ,
mà một số khá lớn đã không tới được Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ trong nhiệm kỳ làm
thủ tướng của y, đã phát hiện ra số lượng dược phẩm, đặc biệt là thuốc trụ sinh,
nhập khẩu từ Mỹ, có thể thỏa mãn nhu cầu của cả châu Á, số lượng xi măng nhập
khẩu từ Mỹ có thể dùng đúc nền bê-tông cho toàn bộ diện tích nước Việt Nam.
Nhưng tại miền Nam Việt Nam những thứ này đều không phải là thừa thãi. Vì trong
thực tế phần lớn số lượng hàng này đã không bao giờ được chở tới Nam Việt Nam.
Tháng 8 năm 1967, một ủy ban của chính phủ Hoa Kỳ đã tiết lộ trong việc xuất
khẩu mọi mặt hàng từ Hoa Kỳ sang Việt Nam cộng hòa, người nhập khẩu đều được
hoàn lại một số tiền hoa hồng, và có nhiều vụ mua bán, số hàng ghi trong hóa đơn
là 10.000 dollar nhưng hàng thực tế gửi tới Nam Việt Nam chỉ có giá trị 700
dollar mà thôi! Sự tham nhũng đã bắt đầu ngay từ trên đất Mỹ với những công ty
được nhà nước Hoa Kỳ đặt hàng khuyến khích.
Nguyễn Cao Kỳ hấp tấp gặp Cao Văn Viên, tổng tham mưu
trưởng quân đội. Kỳ đề nghị tập trung không quân và pháo binh cùng với hai trung
đoàn dù hoặc biệt động quân thiện chiến, trao cho mình chỉ huy đánh chiếm lại
Buôn Ma Thuột. Viên báo cáo với Thiệu, Thiệu gạt đi. Thiệu không muốn và cũng
không tin Kỳ làm được việc này. Viên phàn nàn với Kỳ, Thiệu gần đây không còn
tin mình, và tự quyết định nhiều việc không tham khảo ý kiến của tổng tham mưu
trưởng. Viên đã mấy lần xin từ chức nhưng không được Thiệu chấp thuận.
Thiệu
triệu tập các tướng họp ở Cam Ranh, quyết định cho tướng Phú rút khỏi Công Tum
và Plây Cu, lập một phòng tuyến ở phía Nam Buôn Ma Thuột với ý đồ sẽ chiếm lại
thị xã này. Cuộc rút lui của quân ngụy từ Tây Nguyên về, bị bộ đội ta chặn đánh,
đã biến thành một cuộc tháo chạy tán loạn và cuối cùng hoàn toàn tan rã.
Cả
Tây Nguyên bị mất. Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn I và vùng I chiến thuật,
vội tập trung quân về bảo vệ Đà Nẵng. Vùng I chiến thuật là nơi có những đơn vị
mạnh nhất của quân ngụy, như sư đoàn thủy quân lục chiến, sư đoàn dù, sư đoàn bộ
binh 1 và những lực lượng không quân, thiết giáp hùng hậu nhất miền Nam.
Sự
đổ vỡ nhanh chóng trên mặt trận Tây Nguyên, cửa ngõ phía Tây của Sài Gòn bị đe
dọa khiến Thiệu kinh hoàng. Thiệu hối thúc cha Nhuận tìm mọi cách gặp Hai Long.
Anh thấy chưa nên gặp cha Nhuận ở Sài Gòn, viết thư cho ông để trả lời những
điều Thiệu hỏi: “Trong lúc thế quân Giải phóng đang mạnh, Thiệu phải lo giữ
người, đừng lo giữ đất. Pháp thua ở Điện Biên Phủ nhưng hồi đó không mất ngay cả
đồng bằng Bắc Bộ, vì Pháp biết bỏ một số thành phố giữ lấy quân. Khi tình hình
cấp bách, thì phải cho binh sĩ tùy nghi di tản, sau đó sẽ tập hợp lại, người của
ta sẽ không mất đi đâu... Riêng về sự an toàn của Thiệu, cha nói Thiệu cứ tin ở
con. Con không xao lãng trách nhiệm đối với Thiệu, không để tái diễn cảnh ông
Diệm, ông Nhu ngày xưa. Khi cần phải rút lui, con xin hứa sẽ báo tin thật kịp
thời để Thiệu ra đi an toàn...”.
Thiệu ra lệnh cho Ngô Quang Trưởng đưa sư
đoàn thủy quân lục chiến về bảo vệ Sài Gòn, ít ngày sau lại rút tiếp sư đoàn dù
ở Đà Nẵng. Y cho rằng không thể giữ được vùng I chiến thuật tiếp giáp với miền
Bắc, nên có chạy lấy ít vốn.
Ngày 19-3, xe tăng và bộ binh ta vượt sông Thạch
Hãn tiến vào giải phóng thị xã Quảng Trị. Thiệu ra lệnh cho Trưởng bỏ cố đô Huế,
lập một phòng tuyến ngăn chặn trên đèo Hải Vân trì hoãn bước tiến của quân ta.
Trưởng đánh điện về Sài Gòn xin từ chức, Thiệu không chấp thuận. Ba tỉnh Thừa
Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi nhanh chóng lọt vào tay quân ta trong cảnh tháo
chạy cực kỳ hỗn loạn của quân ngụy. Ngày 25-3, Thiệu mất toàn bộ vùng I chiến
thuật.
Nguyễn Cao Kỳ đã ôm hận nằm im suốt 3 năm, thấy đây là thời cơ giành
giật chiếc ghế tổng thống từ tay Thiệu. Ngày 27-3, Kỳ cùng với linh mục Trần Hữu
Thanh công bố sự ra đời của một tổ chức gọi là Mặt trận cứu nguy dân tộc, với ý
định rõ ràng là sẽ tìm mọi cách, kể cả tiến hành đảo chính, để lật đổ
Thiệu.
Thiệu biết Kỳ đã rút dao kề sẵn sau lưng mình. Đêm nào Thiệu cũng
chuyển chỗ ngủ, đề phòng bị mưu sát. Và Thiệu gấp rút tiến hành những biện pháp
loại trừ Kỳ.
Chức tư lệnh không quân của Kỳ trước đây đã bị Thiệu chuyển cho
Minh con[1]. Đại sứ Mỹ đã bảo Minh không được liên kết với Kỳ, và hứa trả công
cho Minh bằng cách đưa cả gia đình Minh sang Mỹ nếu Sài Gòn rơi vào tay Việt
Cộng. Kỳ không sử dụng được là bài quen thuộc của mình. Nhưng Kỳ đã móc nối với
một số tướng tá bất bình với Thiệu, và cùng họ nhanh chóng hoạch định một âm mưu
đảo chính. Cả bọn thấy cần tiến hành gấp vì những tỉnh miền Trung liên tiếp rơi
vào tay đối phương.
Một bữa, một viên phi công của Kỳ hớt hải chạy vào báo
cáo y vừa bắt được một kẻ khả nghi. Tên này lượn lờ quanh vành đai căn cứ với vẻ
dò xét. Y hỏi thì hắn ta bỏ chạy. Y đuổi theo bắt được, nhưng lại thấy trong
người hắn có giấy tờ ra vào căn cứ hợp lệ. Y đã giữ hắn lại ở bên ngoài. Kỳ bảo
viên phi công đưa hắn vào.
Sau một hồi lâu bị Kỳ tra hỏi, kết hợp cả dọa nạt
với dỗ dành, tên này khai:
- Đa phần chúng tôi đều ủng hộ thiếu tướng, nhưng
chúng tôi làm việc dưới quyền trung tướng Quang, chúng tôi phải làm theo lệnh
của ông ấy. Tôi còn có vợ con...s
Đặng Văn Quang, người hiện làm cố vấn an
ninh cho Thiệu, là người đã bị Kỳ sa thải vì tội tham nhũng khi Kỳ còn làm thủ
tướng.
- Thiệu hết thời rồi. Quang cũng sập đi theo Thiệu. Tôi biết bọn họ
đang muốn gì. Nhưng anh sẽ không ra khỏi đây nếu không khai rõ bọn anh có những
ai và tướng Quang sai anh làm chi?
- Xin thiếu tướng hãy ở trong nhà. Thiếu
tướng mà đi ra ngoài là có thể bị ám sát. Tướng Quang đã giao người làm việc
này.
- Bọn chúng là những tên nào, nói tiếp đi...
Kỳ tập hợp ngay những
tay chân tin cẩn, tổ chức một cuộc “hành quân” quy mô, hốt trọn những kẻ đang đe
dọa tính mạng mình. Y đồng thời cũng họp phe nhóm xúc tiến âm mưu đảo chính.
Thiệu rất rung động vì vụ này.
Một buổi sáng, Kỳ nhận được một cú điện thoại
từ Tòa đại sứ Mỹ. Đầu đây đằng kia là tiếng một người bạn khá thân với y:
-
3 giờ chiều nay, tôi muốn tới thăm thiếu tướng được không?
- Sao lại không?
Lâu ngày chúng ta chưa gặp nhau.
- Tôi bận quá mà. Tôi muốn dẫn theo một viên
chức cao cấp, thiếu tướng đồng ý chứ?
- Được quá! - Kỳ đồ chừng đó là người
cầm đầu CIA ở Sài Gòn.
Lúc 3 giờ chiều, người bạn của Kỳ tới cùng một “viên
chức cao cấp”. Kỳ kinh ngạc khi thấy người đó lại là đại sứ Mỹ Martin. Martin
già sọm đi với đôi mắt trũng sâu đỏ ngầu quanh vành mi. Nhưng vẻ kiêu căng, tự
phụ của một viên thái thú thì vẫn nguyên vẹn.
Martin lại nói:
- Trước kia tôi cũng là.
phi công
Cách mở đầu câu chuyện theo kiểu tình cảm của viên đại sứ khó chơi
này, làm cho Kỳ bỗng thấy hy vọng, và nhận thấy Martin cũng có những nét đáng
mến. Đôi bên trao đổi cởi mở về tình hình chiến sự đang diễn biến và những vấn
đề gay cấn mà chính quyền miền Nam phải đương
đầu.
Cha Hoàng ngồi tại
phòng áo của nhà thờ Gò Vấp với vẻ mặt nóng nảy. Ông mừng rỡ khi thấy Hai Long
bước vào:
- Mình rất lo cho thầy, sợ có chuyện chi xẩy ra trên dọc đường.
Sao thầy không về ở hẳn đây hay một nhà thờ nào khác có thuận tiện không?
-
Con không muốn liên lụy tới các cha. Con đang ở tại gia đình của một người thuộc
lực lượng thứ ba, yên tâm về mặt an toàn.
- Mình đã bàn với cha Lãm về việc
giáo hội ra kiến nghị đòi xóa bản án cho thầy để thầy được tự do hoạt động.
Nhưng cha Lãm và một số cha đều nói Thiệu không còn xứng đáng để giáo hội và các
cha phải kiến nghị về vụ án oan của thầy. Thiệu sắp hết vai trò rồi.
- Con
cũng nghĩ như vậy. Tình hình đang biến chuyển rất nhanh. Không còn mấy ngày nữa
bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng sẽ tiến vào Sài Gòn, một sự “ân xá” của Thiệu sẽ
không lợi cho tư thế của con.
- Tại sao quân ta thua nhanh quá như vậy?
-
Vì Mỹ đã dứt khoát bỏ rơi Việt Nam cộng hòa, Thiệu đã bị dân chúng quá chán ghét
lại phạm phải nhiều sai lầm ngay từ ngày đầu trong đối phó với cuộc tiến công
của đối phương, để quân lính thiệt hại quá nhiều nên họ mất hết tinh thần chiến
đấu.
- Giáo dân mình sẽ đi tới đâu nếu làn sóng đỏ tràn ngập?
- Đức Thánh
Cha đã trù liệu trước tình hình này. Đức Thánh Cha đã trở thành người bạn được
tôn kính và biết ơn của cả Bắc Việt và Việt Cộng. Giáo hội Việt Nam cần tránh
vết xe cũ để không chết chìm với Thiệu. Nếu Thiệu tuân theo thánh ý của Đức
Thánh Cha, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Paris thì đâu có tình hình hôm nay!
Giáo hội Việt Nam muốn tồn tại phải hòa mình vào dân tộc như ý của Giáo hoàng.
Muốn cứu Thiệu thì chỉ có cách buộc Thiệu phải từ chức và ra đi. Còn giáo hội ta
phải bám vào Giáo hoàng Paul VI, phải lấy đường lối của Cộng đồng Vatican II làm
con đường sống cho giáo hội. Trước tình trạng hiện nay ở Sài Gòn, phải ổn định
tâm trạng của giáo dân, chống di tản, chống lưu vong, chống những tư tưởng và
hành động tuyệt vọng. Cần noi gương Giáo hoàng Paul VI “canh tân hòa giải”, gạt
bỏ mọi mặc cảm, sống hòa hợp với đồng bào khi quân Giải phóng tới.
Nét mặt
cha Hoàng lộ vẻ suy nghĩ rất lung. Rồi ông nói:
- Có việc rất gấp cần trao
đổi trực tiếp với thầy. Mỹ vẫn còn chùng chình chưa muốn thay Thiệu ngay. Chính
quyền Thiệu còn phải kéo dài cơn hấp hối. Khiêm và Đán đã xin từ chức. Thiệu
định đưa Nguyễn Bá Cẩn thay Khiêm. Cẩn đến vận động mình ủng hộ, vô đề nghị mình
làm cố vấn cho nó. Ý kiến thầy thế nào?
- Tất cả chỉ còn là chuyện mây bay
gió thoảng. Nhưng con nghĩ cha nên nhận lời giúp Cẩn, vì giúp Cẩn tức là giúp
Thiệu, để cứu Thiệu khỏi chết, cho Thiệu ra đi an toàn... Đề nghị cha nói với
Thiệu, cầu Chúa tha tội cho ông ta, con đã ở tới phút cuối cùng bên Ngô Đình
Nhu, con cũng sẽ ở bên Thiệu cho tới phút cuối cùng, con không bỏ bạn bè khi
hoạn nạn. Con sẽ bảo đảm cho Thiệu ra đi đúng lúc và an toàn.
Trung tâm vừa
chỉ thị cho anh, cần duy trì tình hình rối loạn hiện thời của ngụy quyền, cho
tới khi bộ đội ta áp sát chung quanh Sài Gòn. Thiệu ra đi lúc nào là do ta.
-
Thầy có về Bình An với mình bây giờ được không? - Cha Hoàng hỏi.
- Bữa nay
thì chưa tiện. Con chỉ xin đi cùng cha một quãng trong thành phố. Cũng sắp tới
ngày cha con ta được ngồi uống rượu lễ với nhau ở Bình An rồi. Con sẽ viết thư
cho các cha nói về những điều con vừa thưa với cha.
- Tôi buồn lắm thầy ạ...
Mình tưởng đã đi xa nhưng rồi cuối cùng vẫn gặp lại họ!
- Biết tính sao nếu
đó là ý muốn của Chúa!
Cha Hoàng lái xe thả anh ở một quãng đường vắng với
lời chúc lành. Hai Long biến vào trong một hẻm tối.
Ít ngày sau, ngày 8-4,
Tòa Tổng giám mục Sài Gòn ra thông cáo:
“Để giúp cho người Công giáo tránh
được những thái độ tiêu cực hoặc cực đoan bất lợi trong hoàn cảnh hiện tại, Tòa
Tổng giám mục Sài Gòn nhận thấy có trách nhiệm nhắn nhủ anh chị em tín hữu mấy
điểm quan trọng sau đây:
1. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người Công giáo cũng
phải cố gắng tự chủ, bình tĩnh nhờ Đức tin của mình để có thể nhận định thời
cuộc một cách sáng suốt. Thái độ hốt hoảng chỉ có thể làm cho tình thế thêm trầm
trọng và gây thêm nhiều hậu quả tai hại cho chính mình.
2. Giáo hội Công giáo
Việt Nam tha thiết ước mong tình hình sớm được ổn định và an ninh của dân chúng
được bảo đảm khắp nơi. Tuy nhiên không bao giờ Giáo hội chủ trương hay tán thành
việc võ trang các giáo xứ hoặc thành lập các đạo quân Công giáo. Giáo hội cũng
không hề chủ trương di dân lánh nạn ra ngoại quốc như nhiều tin đồn vô căn cứ
được tung ra.
3. Tích cực hơn nữa, người Công giáo cũng như hết mọi người
dân, đều phải cố gắng góp phần vào công việc vãn hồi hòa bình và hòa giải giữa
người Việt Nam. Đó là một nhu cầu khẩn thiết của tình thế đồng thời cũng là một
đòi hỏi của Tin Mừng Ki-tô giáo “mọi sự đến từ Thiên chúa, Đấng đã hòa giải
chúng ta với Ngài, nhờ Đức Ki-tô, và đã giao cho chúng ta sứ mạng hòa
giải”.
Chính vì thế mà Giáo hội cũng ước mong việc thi hành Hiệp đinh Ba-lê
một cách thành tín và công bình bởi hết mọi thành viên liên hệ, cuộc chiến đấu
hiện tại được chấm dứt và cuộc sống hết mọi thành viên dân tộc được thực sự bảo
đảm.
Phao-lồ Nguyền Văn Bình
Tổng giám mục Sài Gòn.
Bản thông cáo của
Tòa Tổng giám mục đã khiến cho những linh mục nhận thư của Hai Long lầm tưởng
anh được sự chỉ đạo riêng của Vatican.
Cũng ngày hôm đó, một máy bay ngụy bất
thần trút hai trái bom xuống dinh Độc Lập rồi bay thẳng ra vùng vừa được giải
phóng. Hai Long viết thư cho các cha nói đó là phe đối lập ném bom để cảnh cáo
Thiệu, và nhắc lại một số điểm trong thông cáo của Tòa Tổng giám mục để minh
chứng cho những điều mình đã nói trước đó.
Ngày 14-4, Nguyễn Bá Cẩn thành lập
nội các mới. Trần Văn Đôn được cử giữ chức tổng trưởng Quốc phòng, cha Hoàng làm
cố vấn.
Nhiều cha cố và giáo dân viết thư cho Hai Long tỏ sự bất bình về việc
cha Hoàng nhận làm cố vấn cho nội các của Cẩn.
Ngày 19-4, Hai Long nhận được
cùng một lúc cả thư của cha Hoàng và cha Lãm. Những bức thư đều viết vội với
những gạch đầu dòng cho từng vấn đề.
Cha Hoàng viết:
“1.Đã phát hiện Trần
Hữu Thanh là tay sai của Việt Minh, đã bắt được tài liệu chứng minh sự liên lạc
với phe Việt Minh.
2. Nguyễn Văn Huyền nghiêng về Việt Minh, Thiệu muốn ra đi
trong danh dự nhưng chưa hề đi được vì như thế Sài Gòn sẽ rối loạn.
3. Trần
Minh Tiết là một trong số nhân vật được dự trù thay Thiệu.
4. Weyand sang Sài
Gòn hội đàm với Thiệu, áp lực Thiệu dùng biện pháp làm dịu tình hình rối loạn
(hai giờ sau nội các Trần Thiện Khiêm từ chức). Mình tương đồng tư tưởng với Cẩn
là trong tình hình hiện nay cần phải ủng hộ Thiệu phục hồi và trấn tĩnh binh sĩ
đang hoang mang xuống dốc.
5. Nguyễn Cao Kỳ tiếp tục muốn lật đổ Thiệu.
6.
Ném bom dinh Độc Lập ngày 8-4-75 là ngu!
7. Đã chuyển lời thăm Thiệu. Thiệu
rất cảm động, mong nhận được những khuyến cáo kịp thời. “Thầy đã đưa Thiệu lên
thì sẽ đưa Thiệu xuống an toàn, Thiệu không mong gì hơn!”.
Thư cha Lãm viết:
“- Vẫn thường xuyên liên lạc với cha Thanh và Kỳ. Mỹ rất xảo quyệt và thâm
hiểm. Cha Thanh đã hết vai trò. Tòa đại sứ Mỹ đang tìm mọi cách để hạn chế
Kỳ.
- Cha Hoàng nhận làm cố vấn cho Cẩn, chủ trương ủng hộ Thiệu (dù là chỉ
trong một thời gian trước mắt) gây sự bất bình của các cha và nhiều giáo
dân.
- Đã triệu tập được rất đông giáo dân để lật Thiệu. Đã dư sức để thay
thế cha Hoàng. Sẽ cử cha Thụ tới bàn kỹ.
Chúc lành. “Pierre, con là
đá!”[2].
- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Kỳ hỏi người bạn.
Người
ở đầu dây cỏ vẻ ngập ngừng:
- Trong lúc này, chúng tôi bị bó tay. Khó vô
cùng, tế nhị vô cùng! Xin ông cắt dây nói, chờ chúng tôi sẽ cho ông biết
sau...
Tay chân của Kỳ từ dinh Độc Lập mang tin về Thiệu sắp từ chức. Kỳ
không tin, vì cho rằng nếu có chuyện đó thì Martin phải thông báo ngay cho mình,
để mình cùng Mặt trận cứu nguy dân tộc hành động. Qua cuộc gặp gỡ với Martin, Kỳ
vẫn đinh ninh người thay thế Thiệu chỉ có thể là mình. Giữa lúc đó, người bạn ở
Tòa đại sứ Mỹ xuất hiện.
Kỳ mừng rỡ chưa kịp cất tiếng thì y đã đưa ra mọt
câu hỏi đột ngột:
- Có đúng là một số tướng người Bắc như ông đang âm mưu
đảo chính không?
Kỳ lúng túng không biết trả lời ra sao.
- Tôi muốn nói
một hành động chống Minh Lớn? - Y nói tiếp.
Kỳ ngây ngô:
- Tôi không biết
gì. Nhưng tại sao lại liên quan tới Minh Lớn? Tại sao chúng tôi lại phải chống
ông ta? Ông đâu phải là người trong chính quyền?
- Vậy thì tôi cho rằng mình
có nhiệm vụ phải nói với thiếu tướng, nếu ông quả có một hành động chống Minh
Lớn thì Washington và Hà Nội sẽ trách cứ ông về bất cứ điều gì xảy ra sau này!
Kỳ giận dữ:
- Nếu Minh Lớn làm tổng thống thì Việt Nam cộng hòa sẽ sụp
đổ trong 24 giờ! Tại sao Cộng sản lại thương thuyết với Minh Lớn? Ông ta hiện
nay không được lòng dân và sẽ chẳng bao giờ được lòng dân...
Nhưng người bạn
Mỹ của Kỳ không tranh luận cũng như giải thích thêm, vội vàng chào ra
về.
Ngày hôm sau, 21-4, Thiệu xuất hiện trên đài vô tuyến truyền hình với bộ
quần áo ký giả và bộ mặt thiểu não, một hình ảnh hoàn toàn trái ngược với lúc
Thiệu đội khăn vàng, mặc áo gấm đỏ thêu rồng đi trong dinh Độc Lập. Bài nói của
Thiệu kéo dài cả tiếng đồng hồ, đầy những lời cay cú, hằn học, oán trách Mỹ
thiếu quyết tâm, bội ước, không làm tròn nhiệm vụ với đồng minh. “Các ông bỏ
chạy, để mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi không
có gì hết, thế mà các ông lại muốn chúng tôi hoàn thành cái điều mà các ông
không hoàn thành nổi... Khi ký Hiệp định hòa bình, Mỹ đã thỏa thuận sẽ thay thế
vũ khí trên cơ bản một đổi một. Nhưng Mỹ không giữ lời. Ngày nay còn ai có thể
tin vào lời hứa hẹn của Mỹ nữa không?..”.
Bài diễn văn từ chức của Thiệu
giống như những tiếng rên la trong khi tiếng súng đại bác từ vùng chung quanh
Sài Gòn vọng về.
Kỳ tuyệt vọng tự lái xe Jeep tới dinh tổng thống tìm Hương.
Y phải chờ suốt một giờ mới được Hương tiếp.
Kỳ nài nỉ:
- Xin tổng thống
bổ nhiệm tôi làm tư lệnh quân lực. Xin cho tôi một chức vụ chính thức để có thể
nêu cao danh dự của một quân nhân.
Ông già Hương cất giọng nói the thé:
-
Tôi không thể làm như vậy. Một người đã từng làm phó tổng thống, làm thủ tướng,
không thể bỗng nhiên trở lại làm tư lệnh quân lực! Không thể được đâu. Nhưng có
lẽ vài ngày nữa tôi có thể bổ nhiệm thiếu tướng làm phụ tá đặc biệt về quân
sự.
- Nhưng tổng thống không thể đợi được vài ngày đâu. Tôi không cần nghi
thức. Tôi muốn lãnh nhiệm vụ ngay bây giờ.
Ông già Hương một mực lắc dầu. Ông
già cũng chỉ còn ngồi làm vì chờ người ta bảo ra đi.
Ngày 23-4, Nguyễn Bá Cẩn
và toàn bộ nội các xin từ chức.
Không khí Sài Gòn trở nên hỗn loạn và kinh
hoàng.
Sáng 25-4, Hai Long nhận được thư của linh mục Liên, phụ tá của cha
Nhuận.
“Cha nói thử hỏi ông giáo mấy điều, ông giáo cho biết càng sớm càng
hay:
1. Sài Gòn có bị đánh không?
2. Hà Nội thực sự có thanh trừng
không? Tình hình sẽ ra sao?
3. Phương thức cai trị miền Trung ra sao?
4.
Hiện tại Bắc Việt và Giải phóng có bất đồng ý kiến với nhau không?
5. Nguyễn
Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Quỳnh Hoa có phải là Cộng sản không?
6. Hiện tình
đất nước rồi sẽ đi về đâu?
7. Cố thu xếp để Đức cha Hòa về Phan Thiết, Đức
cha Nghi về Sài Gòn.
8. Liên lạc mới có thể liên lạc với ai? Ở đâu?
Chào
mến. Chúc bằng an trong Chúa.”
Hai Long trả lời vắn tắt:
“1. Sài Gòn sẽ
được giải phóng. Cứ bám sát đài Mặt trận Giải phóng, Ủy ban Mặt trận hiệu triệu
đồng bào đến đâu là giải phóng đến đó.
2. Không có vấn đề thanh trừng.
3.
Miền Trung cai trị theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính sách
của Mặt trận đối với vùng giải phóng
4. Không có bất đồng ý kiến nào giữa
Bắc Việt và Giải phóng.
5. Ba vị trên đều là trí thức yêu nước.
6. Đất
nước sẽ hoàn toàn giải phóng. Mỹ sẽ chịu thua và rút khỏi Việt Nam.
7. Sẽ cố
thu xếp thực hiện ý kiến của cha.
8. Liên lạc mới cứ giữ vững với Liên trong
bất cứ tình huống nào”.
Ngày 26-4, những quân đoàn của ta từ 5 hướng đồng
loạt mở cuộc tiến công về Sài Gòn. Khắp nơi quân ngụy chiến đấu một cách tuyệt
vọng.
Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài Gòn sang Đài Loan, nơi anh ruột của
Thiệu đang còn làm đại sứ. Thiệu mang theo 5 va li chứa đầy dollar. Trước đó,
Thiệu đã mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi Việt Nam
17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quý mà gia đình y đã vơ vét được sau 2 nhiệm
kỳ làm tổng thống.
Hai Long quàng tay vào
lưng cha Hoàng đưa ông vào trong lán, mời ông ngồi trên tấm phản mộc mới được
trang bị thêm cho cuộc “hội kiến”.
Linh mục Thụy rồi linh mục Lãm lần lượt ra vành đai thăm Hai
Long.
Cha Thụy vẫn tiếp tục ở Côn Đảo. Ông cho biết anh chị em tù ở đảo vẫn
an toàn sau khi anh rời khỏi đây, nhưng tù chính trị khó được trao trả tiếp vì
Thiệu đã biến họ thành những thường phạm. Ông còn cho biết Thiệu đã nhượng Côn
Đảo cho Mỹ dùng làm nơi khai thác dầu hỏa, Mỹ đang biến nửa đảo này thành căn cứ
quân sự, gấp rút xây dựng sân bay Cỏ Ống. Những cha tuyên úy trong quân đội Mỹ
nói Thiệu sẽ bị thay thế trong năm 1975 bằng một hội đồng quân lực, tùy theo
biến chuyển tình hình, nhưng có thể là vào tháng 4-1975. Ông bàn với Hai Long
cần tìm mọi cách để bảo đảm an toàn cho anh em tù chính trị ở Côn Đảo, và mong
được gặp anh mỗi tháng một lần vào dịp ông từ Côn Đảo trở về Sài Gòn. Hai Long
nhờ ông báo cho Hòe biết tin mình, và đặc biệt chú ý tới những người bạn của anh
còn ở trên đảo. Ông linh mục thực sự vui mừng khi gặp lại anh.
Cha Lãm tỏ ra
là một người sắc sảo về chính trị, nhạy cảm với thời cuộc hơn cả cha Hoàng. Ông
chê cha Hoàng không nắm vững đường lối của Giáo hoàng Paul VI, không có khả năng
tập hợp đông đảo các lực lượng trong cuộc đấu tranh loại bỏ Thiệu.
Đầu tháng
Giêng năm 1975, linh mục Nhuận báo tin hồi trung tuần tháng 12 năm vừa qua,
trong cuộc họp với các tư lệnh quân đoàn ở dinh Độc Lập, Thiệu nhận định là Bắc
Việt và Việt Cộng chưa có khả năng mở tiến công lớn về quân sự trong năm
1975.
Hai Long nhận thấy phải có mặt sớm ở nội thành Sài Gòn. Cha Hoang đã
chuẩn bị chu đáo cho anh ở tại một số nhà thờ hoặc tu viện. Nhưng ở đây sẽ không
thuận tiện liên lạc với tổ chức. Hai Long thấy không nên dựa vào nhà thờ mà sẽ ở
tại một cơ sở của ta trong nội thành. Anh cần có một căn cước mới và sẽ sống bất
hợp pháp cho tới khi khối Thiên chúa giáo vận động xong với chính quyền Thiệu
mời anh về. Cần phải đề phòng CIA. Chúng có thể kiên quyết loại trừ khi thấy anh
xuất hiện trở lại trên chính trường miền Nam.
Ngày 10-3-1975, tiếng súng tiến công của bộ đội ta bất thần
nổ ra tại thị xã Buôn Ma Thuột. Thị xã này hoàn toàn mất liên lạc với Sài Gòn.
Thiệu ra lệnh cho quân đoàn 2 tử thủ Buôn Ma Thuột, và tập trung toàn bộ sư đoàn
23 và liên đoàn biệt động quân 21 phản kích khi được tin bộ đội ta đã chiếm thị
xã. Thiệu choáng váng không thể tin là một thị trấn cửa ngõ ở phía Tây Sài Gòn
có thể thất thủ nhanh như vậy. Hồi đầu năm, thị trấn Phước Long ít quan trọng
hơn, binh lực yếu, còn có thể tự chống cự trong gần nửa tháng. Nhà báo Pháp Paul
Léandri loan tin Buôn Ma Thuột thất thủ ở Sài Gòn, bị gọi tới và bị bắn chết
ngay tại sở cảnh sát.
Những cuộc biểu tình chống Thiệu vẫn liên tiếp nổ
ra tại Sài Gòn khiến cho đường phố nhiều lúc bị tắc nghẽn.
Nguyễn Cao Kỳ chờ
đỏ mắt vẫn không nhận được tín hiệu của Martin. Ở nhà Kỳ có một đường dây điện
thoại riêng trực tiếp chạy tới Tòa đại sứ Mỹ. Chiếc máy không bao giờ réo
chuông. Người bạn của Kỳ ở đó cũng mất hút. Cuối cùng, Kỳ đành phải chủ động gọi
dây nói cho anh ta:
Cơn
hoảng loạn bắt đầu từ những đám binh lính, những đám dân chúng thoát chết từ
miền Trung, từ Tây Nguyên đổ về. Nỗi hoảng sợ của họ không phải do xe tăng và
pháo 130 ly của quân Giải phóng gây ra mà là sự khiếp đảm vì những quang cảnh họ
đã tham gia và chứng kiến trên đường rút chạy. Hàng vạn người điên cuồng giành
giật nhau một chỗ ngồi trên một chiếc máy bay, một chiếc tàu nhỏ, một chiếc xe
đò. Những người bám càng trực thăng bị rớt từ trên cao xuống. Những chiếc xe đò
lật nhào vì chở quá nhiều người và phóng quá nhanh. Những chiếc xuồng và những
chiếc tàu bị sóng biển Đông nuốt chửng. Khắp thành phố loan truyền sẽ có những
cuộc tắm máu khi Việt Cộng vào thành phố. Những người di cư lo bị xâu tay, xiềng
chân, đi bộ trở về miền Bắc. Những cô gái lo bị rút hết móng tay vì tội đã dùng
kem đỏ. Những luận diệu tuyên truyền chống Cộng hoang đường do bọn tâm lý chiến
tạo nên đã quay trở lại làm hại chính cho chúng. Không còn cái gì có thể làm
giảm bớt sự hốt hoảng lan tràn khắp thành phố.
Sự hốt hoảng càng tăng lên khi
tiếng đại bác nổ gần và những chiếc trực thăng từ hạm đội Mỹ ở ngoài khơi bay
vào di tản những người Mỹ. Họ cũng hoảng sợ không kém, vội vã ra đi, bỏ lại
những building lộng lẫy, những cửa hàng còn đầy ắp hàng hóa. Rợp trời Sài Gòn
những chiếc trực thăng Mỹ thực hiện cuộc hành quân “Người liều mạng”. Trực thăng
hạ cánh trên nhưng nóc nhà cao tầng, lấy khách rồi bay ra biển. Bốn mươi lính
thủy đánh bộ Mỹ, tiểu liên lăm lăm trong tay, không giữ được trật tự trước đoàn
người đông như kiến vây quanh hàng rào của Tòa đại sứ Mỹ kêu khóc, gào thét,
giầy xéo lên nhau cố lọt vào trong khuôn viên Tòa đại sứ để được ông chủ cho
cùng chạy trốn.
Bọn cảnh sát và mật vụ đã biến mất trên đường phố Sài Gòn.
Chúng có những lý do đích thực để sợ hãi. Cuộc hôi của bắt đầu từ những ngôi nhà
người Mỹ đã di tản, những kho tàng không còn người cai quản, nhanh chóng biến
thành những cuộc cướp phá khắp nơi. Binh lính ngụy chạy trốn từ các mặt trận về
trở thành những kẻ dẫn đầu trong các vụ hôi của, ăn cướp. Những chiếc xe ba
bánh, xe gắn máy chở đầy của hôi phóng như điên để kịp quay lại làm thêm những
chuyến mới. Có đủ mọi thứ từ tủ lạnh, máy giặt, hòm rượu, tới bàn ghế, giường
nệm và cả những tủ đựng hồ sơ. Nhiều chú bé cũng hăng hái như người lớn. Có em
thồ trên người cả một tấm nệm mút. Có em khoác trên vai mấy khẩu tiểu
liên.
Đối với chính quyền ngụy, Martin vẫn không tỏ ra vội vàng. Trần Văn
Hương còn ngồi ở ghế tổng thống gần trọn một tuần sau khi Thiệu từ chức. Ngày
27-4, quốc hội ngụy mới ra biểu quyết trao quyền cho Dương Văn Minh làm tổng
thống để tiến hành thương lượng với Mặt trận Giải phóng.
Ngày 28-4, Dương Văn
Minh nhậm chức, cử Nguyễn Văn Huyền làm phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm thủ
tướng, Cao Văn Viên, Nguyễn Bá Cẩn cùng với 60 nghị sĩ vội chạy ra nước ngoài.
Ba giờ chiều, 5 chiếc máy bay A.37 của Mỹ do phi công ta lái, ném bom và nã súng
liên thanh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy hàng chục máy bay đỗ trên mặt
đất. Đạn liên thanh bắn trúng chiếc xe Jeep của Nguyễn Cao Kỳ chạy trên đường
băng. Kỳ thoát chết vì nhảy kịp khỏi xe náu xuống một hố trú ẩn bên đường
băng.
Sài Gòn bắt đầu những trận mưa rào mùa hè. Từng lúc, những trận mưa lại
bất thần ập xuống. Hai Long trùm chiếc áo mưa gần kín người và đeo chiếc kính
râm to sậm màu đi trên đường phố nhớp nháp, đầy ngập rác rưởi bốc hơi nồng nặc.
Những kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đều đã tháo chạy. Nhưng anh vẫn phải thận
trọng. Anh đã đi gần trọn chặng đường cuối cùng của chiến tranh. Ngày hôm nay,
Dương Văn Minh đã ra thông báo đòi Mỹ rút hết nhân viên, đóng cửa Tòa đại sứ Mỹ
trong 24 giờ. Như vậy có nghĩa là người Mỹ sắp di tản hết, giờ cuối cùng của Mỹ,
ngụy đã điểm. Tiếng pháo lớn nổ dồn dập phía sân bay Tân Sơn Nhất. Kho nhiên
liệu tại sân bay bốc cháy, lửa khói mù mịt một góc trời. Khắp các phía chung
quanh Sài Gòn đều ran tiếng súng. Anh được biết sớm muộn trong ngày mai quân ta
sẽ có mặt tại Sài Gòn. Một ngày rất gần anh sẽ gặp lại Hòe và Trọng. Những ngày
sôi nổi của mình sắp chấm dứt. Còn vài năm nữa anh sẽ bước vào tuổi 50. Có những
người bạn của anh lại lên đường ra đi. Nhưng với anh, cuộc chơi đã đi vào giai
đoạn kết thúc. Anh chỉ mong những tập hồ sơ của mình và các bạn ở những bộ phận
lưu trữ của chính quyền ngụy còn nguyên vẹn... Tối nay, anh còn một việc cuối
cùng phải làm, anh sẽ gặp tướng Dương Văn Minh. Trung tâm muốn trong ngày mai,
30-4-1975, anh sẽ có mặt ở dinh Độc Lập với tư cách một người của lực lượng thứ
ba.
Anh hòa vào dòng người đông đặc, nhớn nhác, hốt hoảng, lòng bình thản và
bâng khuâng.
Anh dừng chân trước ngôi nhà cao tầng quét vôi màu vàng ở phố
Duy Tân. Ngôi nhà vẫn vắng vẻ như lần anh đến trước. Anh chậm rãi leo lên cầu
thang, tay đặt trên thành cầu thang bằng đá mát lạnh. Anh muốn dành sớm cho chị
một niềm vui bất ngờ. Để tới ngày mai thì mọi chuyện đã quá rõ ràng. Anh muốn
chị nhận ở đây lời cảm ơn thầm lặng của mình.
Cô hầu gái mở cửa ngơ ngác:
- Thưa, ông hỏi ai...?
Cô ta không nhận ra anh, vì anh chỉ tới đây có
một lần.
- Tôi muốn gặp ông bà luật sư.
Người hầu gái có vẻ lúng
túng.
- Tôi đã tới đây. Cô còn nhớ bà đã sai cô đi mua kem và trái cây về cho
tôi không? Lâu ngày mới có dịp lại thăm.
Cô ta ngước mắt nhìn anh, rồi
nói:
- Thưa ông, ông bà con di tản 2 ngày nay rồi.
- Đi đâu?
- Qua
Mỹ.
Anh tự hỏi mình tới đây có chậm không rồi tự an ủi: quả đất vẫn tròn và
trở nên quá nhỏ trong thời đại ngày nay, biết đâu có ngày anh sẽ gặp lại chị...
5.
---
[1]
Tổ chức Viện trợ Công giáo quốc tế
Chương 16
SÀI GÒN 1975
1.
Bánh xe lịch sử
quay nhanh.
Năm 1967, theo ước tính của viên
chức Mỹ, có khoảng nửa triệu tấn gạo đã bị đánh cắp tại Nam Việt Nam. Một đoàn
60 xe tải chở xi măng nhập khẩu, thì 42 chiếc bị đánh cắp. Tại chợ Quy Nhơn, có
thể mua bất cứ thứ gì, từ khẩu phần lương thực, quần áo của binh sĩ đến máy
giặt, lựu đạn, súng được bán với giá từ 25 đến 30 dollar một khẩu, và sẵn sàng
có người dàn xếp bán cả xe bọc thép và trực thăng. Tòa đại sứ Mỹ có tài liệu
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh các lực lượng ở đồng bằng sông Cửu Long, đã lấy
cắp 8.000 đài vô tuyến, 24.000 vũ khí cá nhân do Mỹ trang bị và phần lớn đều bán
cho Việt Cộng.
Muốn mua một chức trưởng ty cảnh sát quận Năm (Chợ Lớn), phải
hối lộ đúng chỗ 15 triệu đồng. Ở quận Năm có 10 vạn người trốn quân dịch, mỗi
người này phải hối lộ 100.000 đồng. Bà vợ những nhà cầm quyền đánh xì phé, khi
đặt tiền thường nói: “Tôi tố thêm một tân binh quân dịch” thay cho câu “đặt thêm
100.000”.
Thiệu được coi là một nhân vật đứng hàng đầu trong chuyện tham
nhũng. Người ta nhận thấy điều đó qua những chuỗi kim cương trên cổ vợ Thiệu và
những dinh cơ to lớn Thiệu xây dựng ở Pháp và Thụy Sĩ. Nhưng số vàng, dollar,
hột xoàn... những tài sản quý mà vợ chồng Thiệu giấu, lớn hơn thế rất nhiều.
Thiệu rất đau đầu vì chiến dịch chống tham nhũng.
Nhưng tình hình quân sự từ
đầu năm nay còn khiến y bối rối hơn nhiều.
Đầu tháng Giêng, Thiệu đã tập
trung lực lượng 5 sư đoàn không quân gồm 116 máy bay khu trục và 160 máy bay
trực thăng, đánh phá suốt 5 ngày liền để đối phó không có hiệu quả với cuộc tiến
công Phước Long.
Trung tuần tháng Giêng, Thiệu được báo cáo bộ đội ta chuyển
quân về phía Nam Tây Nguyên. Y chỉ thị cho tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn
II và vùng II chiến thuật và tướng Lê Trung Tường, tư lệnh sư đoàn 23 bảo vệ
Buôn Ma Thuột đề phòng ta tiến công.
Ngày 20 tháng Giêng, Thiệu quyết định
ngừng giải ngũ 3 vạn lính đã mãn hạn quân dịch, và cấm trại 100% binh lính trong
dịp Tết âm lịch. Cuối tháng Giêng, Thiệu ra lệnh giải tán ngay lập tức toàn bộ
lực lượng bảo an Hòa Hảo khoảng 10 vạn tên, vì lo lực lượng này nhân lúc rối ren
sẽ gây khó khăn cho mình.
Đầu tháng 2, Thiệu điều 3 lữ đoàn thuộc lực lượng
tổng dự bị mới thành lập về bảo vệ vành đai Sài Gòn.
Trung tuần tháng 2,
Thiệu được tin bộ đội chủ lực ta có mặt ở Quảng Đức, Đắc Lắc và Đức Cơ. Trước
đó, đã có tin bộ đội ta xuất hiện ở Quảng Trị và Huế. Thiệu phán đoán ta đánh
Công Tum và Plây Cu. Y điều 5 liên đoàn biệt động quân về giữ khu vực này, và mở
một cuộc tiến công bằng không quân vào đường hành lang phía tây để ngăn
chặn.
Tuy nhiên, Thiệu vẫn phấp phỏng lo cho Sài Gòn. Sau khi đã điều 3 lữ
đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị về canh giữ vành đai Sài Gòn, Thiệu quyết định
đưa tướng Nguyễn Văn Tòng thay Dư Quốc Đống, tư lệnh quân đoàn 3 gần đây không
còn được Thiệu tín nhiệm.
Tấn thảm kịch của Thiệu mới chỉ sắp sửa bắt
đầu.
2.
- Chắc ông ngạc nhiên
lắm khi thấy một người như tôi tới nhà?
Kỳ đáp lại bằng nự cười rồi mời viên
đại sứ và người bạn uống trà.
Martin bỗng hỏi:
- Thiếu tướng nghĩ gì về ông Thiệu trong cương vị
hiện nay?
- Ủy ban chúng tôi chỉ muốn một điều là Thiệu phải từ chức và được
thay thế bằng một chính phủ mạnh, có hiệu lực, để tổ chức chiến đấu chống Cộng
sản.
- Tôi xin hỏi một câu có tính giả thuyết, nếu như ông có thể lập chính
phủ mới, ông sẽ đối xử với tổng thống Thiệu như thế nào?
- Tôi căm ghét ông
ta, vì ông ta có ảnh hưởng xấu tới vận mệnh đất nước tôi, nhưng tôi không có ý
định trả thù một người như Thiệu, tôi sẽ để cho ông ta ra đi...
Dường như
tiếc rẻ, Kỳ nói tiếp:
- Đúng ra, phán xét ông Thiệu và chính phủ của ông là
nhiệm vụ của dân chủng, đó không phải là vấn đề của tôi. Tôi chỉ muốn có chính
quyền để tổ chức chiến đấu.
- Thiếu tướng đã suy nghĩ gì về việc thành lập
một chính phủ mới chưa?
Kỳ nêu tên một số nhân vật mà y đã dự kiến cho chính
quyền mới, rồi nói tiếp:
- Nếu có một chính phủ như tôi mong muốn, chỉ trong
ít ngày tôi có thể tổ chức kháng chiến có hiệu quả. Tình thế không cho phép
chúng tôi trì hoãn nữa. Mỗi ngày qua là thêm một ngày đến gần thảm bại.
-
Thiếu tướng nói sẽ chiến đấu, nhưng nói và làm rất khác nhau. Tôi biết là thiếu
tướng có rất nhiều tin tức, nhưng ông sẽ chiến đấu bằng cái gì? Xin hãy nghĩ đến
những mất mát của các ông chỉ riêng ở Đà Nẵng thôi!
- Những thảm bại như ở
Đà Nẵng có thể là rất tai hại, chắc chắn chúng tôi đã mất một kho dự trữ khổng
lồ ở ngoài đó, nhưng theo tin tức của tôi, thì vẫn còn đủ súng dạn dùng trong 3
tháng. Tôi biết rằng có thể cầm cự được không phải mãi mãi, nhưng đủ để tạo ra
một không khí mới giúp chúng tôi ở trong tư thế mạnh khi thương thuyết hòa
bình.
- Vậy thì bằng cách nào?
Người bạn của Kỳ nhanh nhẹn trải một tấm
bản đồ mà y đem theo ngay trên nền nhà.
Kỳ cúi xuống nhìn tấm bản đồ, vốn
quen biến báo, y vạch đại một đường bút chì ở phía bắc vịnh Cam Ranh, khoảng vĩ
tuyến 13, cắt ngang từ Nha Trang.
- Chúng tôi phải chặn đứng Cộng sản ở đây.
Nếu chúng tôi có thể cầm chân địch ở đây, đồng thời có một ban lãnh đạo mới và
mạnh, thì sẽ tạo nên một bầu không khí mới và tôi cam đoan với ông sẽ được toàn
dân ủng hộ. Khi ấy chúng tôi sẽ ở trong thế mạnh để tiến hành thương thuyết hòa
bình với quân thù.
- Liệu binh sĩ có chiến đấu không?
- Dĩ nhiên là có...
Những sĩ quan ở Đà Nẵng về, tới nhà tôi đều khao khát được phục thù. Bất chấp
những lời tường thuật của báo chí, người Việt Nam không phải là những kẻ hèn
nhát. Với lại, còn có sự lựa chọn nào khác đâu?
Sau hai giờ chuyện trò,
Martin đứng lên cáo từ. Y bắt tay Kỳ nói:
- Tôi nghĩ là ông có lý. Ông Thiệu
sẽ rất khó khăn nếu tình hình cứ tiếp tục phát triển xấu. Ông tính còn có thêm
những ai trong chính phủ mới?
- Người không đến nỗi quá thiếu!
Ra tới
cửa Martin nói thêm:
- Ông cũng biết không phải là dễ. Xin cho tôi vài ngày
rồi tôi sẽ liệu xem có thể thu xếp thế nào.
Kỳ đã phơi bầy hết ruột gan với
Martin. Y chỉ còn chưa nói tới dự kiến kế hoạch dùng lực lượng dù và lực lượng
đặc biệt để tiến hành đảo chính.
Sau khi gặp Martin, Kỳ lập tức triệu tập bộ
tham mưu của mình, vui vẻ thuật lại nội đung và tuyên bố:
- Giờ đây mọi sự đã
thay đổi. Điều cần làm trước tiên là hủy bỏ cuộc đảo chính đã dự định.
Một
viên phụ tá của Kỳ giội vào đầu y một gáo nước lạnh:
- Không tin được
Martin. Martin có thể chơi trò hai mang để gạt chúng ta.
- Tôi không nghĩ như
vậy! - Kỳ phản ứng.
Viên phụ tá không rút lui ý kiến:
- Martin đến chỉ
nhằm ru ngủ chúng ta dừng hành động. Tại sao ông ta lại bất thần đến thăm ông?
Đó chẳng qua chỉ cốt tỏ ra đại sứ Mỹ đã ở sau lưng chúng ta, chúng ta chẳng việc
gì còn phải đảo chính!
Một phụ tá khác nói:
- Martin đến thăm ông chỉ
cốt để dò xét sức mạnh phong trào của chúng ta.
Kỳ cố tình không muốn tin vào
những lời khuyến cáo đó. Y kiên nhẫn ngồi đợi Tòa đại sứ Mỹ hành động trong khi
những tỉnh miền Trung tiếp tục lần lượt thất thủ, bộ đội ta ngày càng tới gần
cửa ngõ Sài Gòn.
3.
Linh mục Thụy từ Côn Đảo viết thư về nói theo nguồn tin của Mỹ ở đây
thì Thiệu sắp bị lật đổ, tình hình ở đảo khẩn trương, sinh mệnh của tù chính trị
rất đáng lo ngại.
Linh mục Chân Tín và bà Ngô Bá Thành gửi nhiều tài liệu về
lực lượng thứ ba.
Trung tâm chỉ thị cho Hai Long hối thúc Thiệu từ chức ngay
bằng cách trao quyền lại cho Trần Văn Hương, vô hiệu hóa chính quyền ngụy một
thời gian. Tình hình rất khẩn trương. Người thay Thiệu có thể là Minh
Lớn.
Hai Long viết thư cho cha Hoàng và cha Nhuận: “Thiệu cần từ chức ngay,
nếu không sẽ bị lật đổ bằng đảo chính quân sự, tính mệnh sẽ khó an toàn. Con
đường rút lui danh dự và an toàn là kịp thời tuyên bố từ chức và trao quyền lại
cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Sau khi Thiệu rút, cha nên tách ngay khỏi
Cẩn. Người có khả năng thay thế là Dương Văn Minh, vì Minh được sự chấp nhận của
Vatican và có cảm tình của Mặt trận Giải phóng.
4.
5.
Hai Long thả mình vào dòng người hỗn loạn trên
đường phố Sài Gòn. Anh muốn được chứng kiến những giờ tàn của Mỹ - ngụy.
Nguyễn Cao Kỳ lái trực thăng tới Bộ Tổng
tham mưu. Vợ Kỳ đã di tản ngày hôm trước bằng một máy bay Mỹ khi đường băng sân
bay Tân Sơn Nhất chưa bị không quân ta phá hỏng. Y vẫn cố níu lấy chút hy vọng
mong manh cuối cùng, có thể liên lạc được với những đơn vị quân ngụy ở đồng bằng
sông Cửu Long. Ngôi nhà lầu của Bộ Tổng tham mưu cực kỳ vắng vẻ. Trong văn phòng
tổng tham mưu trưởng chỉ có viên tướng 3 sao Đồng Văn Khuyên ngồi ủ rũ. Khuyên
cho biết tổng tham mưu trưởng đã từ chức và rời Sài Gòn trước đây 2 ngày. Y được
chỉ định làm quyền tổng tham mưu trưởng, nhưng đã mất liên lạc với hầu hết những
người chỉ huy các đơn vị quân ngụy. Kỳ biết tình hình đã trở nên hoàn toàn tuyệt
vọng. Kỳ quay xuống cầu thang thì gặp Ngô Quang Trưởng, cựu tư lệnh vùng I chiến
thuật.
- Anh làm gì ở đây?
- Tôi cũng không biết phải làm gì nữa!
-
Vậy thì đi với tôi.
Kỳ bay trở về ngôi nhà ở sân bay Tân Sơn Nhất. Tiếng đại
liên của quân Giải phóng nổ cách đó khoảnh nửa dặm. Đầy trời trực thăng Mỹ đang
chen chúc nhau có kết thúc nhanh cuộc di tản trước khi trời tối. Gần một chục
phi công xô nhau lên chiếc trực thăng của Kỳ. Y vội vàng bay ra biển.
Sài Gòn
đầy những đám đông chạy xuôi ngược và lốm đốm những đám lửa màu da cam. Trên mặt
biển xanh chi chít tàu, thuyền đủ loại, có những chiếc thuyền chèo bằng tay nhỏ
xíu của những người đang rút chạy.
Chiếc trực thăng hạ cánh xuống tàu Blue
Ridge. Một viên đại tá Mỹ đã đứng chờ, đón họ bằng tiếng quát lớn:
- Tất cả
lại đây!
Cả bọn được dẫn tới trước một chiếc bàn.
- Cảm phiền các ông cho
khám người.
Khi đưa Kỳ về căn phòng nhỏ trên tàu, viên đại tá hỏi:
- Ông
là ông Kỳ phải không?
Kỳ chỉ còn biết gật đầu.
Đại sứ Mỹ Martin cũng
xuống tàu này. Kỳ nhận thấy ông ta, đôi mắt trũng sâu, khoác chiếc áo tắm màu
xanh, đứng trên boong tàu đang ăn một quả táo. Người hầu của Martin, tay dắt con
chó lông xù, đứng gần đó. Lúc này, họ không còn gì để nói với nhau. Martin đã
hấp tấp rời Tòa đại sứ, bỏ quên cả tấm ảnh của Nixon có mang chữ ký và lời đề
tặng: “Để ghi nhớ sự nghiệp to lớn của ông ở Đông Dương”.
Viên đại tá chỉ huy
tàu lại đến gặp Kỳ. Y không còn nhịn được, nói:
- Tôi hiểu rằng ông có thể
nghi ngờ, nhưng xét cho cùng, chúng tôi đã hy sinh tất cả cho cuộc chiến tranh
này. Chúng tôi có thể (!) đã thua, nhưng không phải chỉ riêng chúng tôi thua -
người Mỹ các ông cũng thua. Điều mà tôi không hiểu được là tại sao ông lại đối
xử với chúng tôi như ông đã làm? Dầu sao chúng ta cũng là bạn chiến đấu. Chúng
tôi không phải là Cộng sản, ông biết mà!
Viên đại tá xin lỗi.
Các phóng
viên có mặt trên tàu yêu cầu Kỳ họp báo. Martin hay tin này đến buồng thuyết
phục Kỳ khước từ.
Những tiếng nhộn nhịp trên con tàu bắt đầu lắng xuống khi
hệ thống phóng thanh trên tàu vang lên giọng nói quen thuộc: “Bây giờ, hãy nghe
đây...”. Tiếng ông mục sư tuyên úy Hải quân ngọt ngào: “Hỡi các anh em, các anh
em đã giải thoát những đứa con sinh sau đẻ muộn nhất của dân tộc Do Thái. Bây
giờ tôi muốn các anh em hãy cầu nguyện cho Việt Nam, và sau đó tôi muốn rằng tất
cả các anh em hãy vui đùa đôi chút...”.
Kỳ hỏi viên sĩ quan quân y xin vài
viên thuốc ngủ. Viên sĩ quan mang tới đưa Kỳ một viên thuốc và một cốc nước,
đứng chờ cho tới khi y uống xong mới rời khỏi căn buồng. Y lo Kỳ tự tử. Nhưng Kỳ
không có ý định đó.
Chiều ngày 29-4-1975.
Chiếc xe tăng
tiến vào xô đổ cánh cổng sắt của dinh Độc Lập. Từ trên xe nhảy xuống một tổ
chiến sĩ Quân Giải phóng trẻ măng, mặc quân phục màu lá cây, cầm lá cờ màu đỏ
xanh có ngôi sao vàng, lao nhanh về phía dinh.
Những thành viên của chính phủ
Dương Văn Minh mới nhậm chức ngày hôm trước, tề tựu tại phòng họp chính của dinh
Độc Lập, đứng dậy khi những người cán bộ của Quân đoàn 2, mặt sạm khói súng và
bụi đường xa bước vào. Họ đã tiến quân qua nhiều thành phố suốt dọc bờ biển miền
Trung tới đây.
Dương Văn Mình nói:
- Toàn thể chính phủ Việt Nam cộng hòa
đều có mặt, đợi các ngài tới để bàn giao chính quyền.
Một cán bộ nói:
-
Các ông còn gì nữa để bàn giao! Các ông phải đầu hàng vô điều kiện.
Hai Long
đừng gần kề Dương Văn Minh. Từ sáng anh đã có mặt ở dinh Độc Lập với tư cách một
người đại diện cho lực lượng thứ ba. Người anh ngây ngất khi nhìn những lá cờ
sao như những ngọn đuốc thắp sáng cả thành phố Sài Gòn. Ba mươi năm trước anh đã
chứng kiến giờ phút rừng cờ Cách mạng xuất hiện ở Thủ đô Hà Nội. Mắt anh nhòa
đi. Anh nhớ tới Người. Bác không còn để cùng vui với chúng con trong ngày sự
nghiệp của Người đã hoàn tất, ước mơ lớn của Người đã trở thành hiện thực. Anh
nhớ tới các bạn. Thắng đã được trao trả từ tháng 7-1973, nhưng Hòe vẫn còn bị
cầm giữ tại Côn Đảo. Trọng đã bị chúng đưa về giam tại tiểu khu Hậu Nghĩa. Họ đã
đi trọn chặng đường, nhưng liệu họ có còn gặp nhau đông đủ không...?
[2] một câu trong Kinh thánh
Ở ngoài cuộc đời, những nhân vật chính của tôi đều là những người ít lời. Vì yêu cầu nghề nghiệp, các anh đã cố tạo cho mình một dòng máu lạnh. Họ có thói quen tránh nói nhiều về những công việc mình đã làm. Bù lại, tôi đã được cung cấp một nguồn tài liệu khá phong phú. Đó là những báo cáo của các anh từ bên kia chiến tuyến gửi về trong những năm chiến tranh. Những bản tổng kết. Toàn bộ hồ sơ Mật về “Cụm tình báo chiến lược A.22” mà Tổng nha Cảnh sát quốc gia của ngụy quyền không kịp hủy trước ngày giải phóng. Những chồng báo chí ở Sài Gòn vào năm đó. Những tập hồi ký, ký sự ở trong nước và nước ngoài về những sự kiện, nhân vật có liên quan, kể cả những phim, ảnh, thư từ, bút tích nguyên bản... Nếu không có những cuộc hành quân thần tốc của các chiến sĩ ta năm 1975 và chiến thắng giải phóng trọn vẹn đất nước, chắc chắn tôi không có được sự may mắn này.
Thành phố rợp màu cờ đỏ nhân ngày quốc khánh mừng 2-9. Tôi rời phố H. náo nhiệt, rẽ vào căn hẻm yên tĩnh. Cánh cửa sắt hé mở. Bé Liên, giờ đây đã là một bác sĩ, đón tôi với nụ cười:
- Chú mới vô.
Tôi ngạc nhiên khi thấy cả lưới A.22 đều có mặt tại phòng khách của anh Hai Nhạ.
- Sao lại có may mắn gặp đông đủ các anh chị thế này?
Thắng nhanh nhảu:
- Mỗi năm một lần, cứ vào ngày này, chúng tôi lại gặp nhau ở nhà đồng chí trưởng lưới.
Tôi nhìn một chị lạ mặt, mặc bộ quần áo bà ba, có dáng dấp người ngoại thành. Anh Hai giới thiệu:
- Đồng chí Út Dẻo.
- “Chết bỏ không khai!”. - Tôi làm quen với chị.
Chị hơi mỉm cười.
Anh Hai cho biết, sau chiến tranh chị đã xuất ngũ, trở về với bà má ở đất Củ Chi. Tôi hỏi thăm sức khỏe của má.
- Má em vẫn mạnh.
- Chị được mấy cháu rồi?
Chị im lặng. Tôi cảm thấy mình đã lỡ lời. Anh Hai nói đỡ:
- Cô Út vẫn ở một mình...
Thắng nói:
- Các cô gái đã bị chúng tra tấn, khi trở về không thể nghĩ tới chuyện chồng con.
Các anh chị hỏi tôi về những chuyện ngoài Bắc. Không ai nhắc gì về những năm chiến tranh. Họ gặp nhau không phải để ôn lại những kỷ niệm cũ. Họ cần gặp nhau để động viên nhau tiếp tục phấn đấu trong bối cảnh đất nước đang đi lên, với muôn vàn khó khăn gian khổ, và còn vì cứ qua một vài năm, đội ngũ của họ lại vắng thêm.
Anh Nhạ đưa tôi vào chào chị Hai ở nhà trong. Vừa ngồi nói chuyện thì Liên cầm một gói nhỏ trong tay hớt hải chạy vào:
- Ba ơi, cô Út đi rồi!
- Con đạp xe đuổi theo cô, nói quà gửi về biếu má.
Vì sao cô Út vội vã ra đi...?
Ở những người chiến sĩ trên mặt trận thầm lặng này còn một cái gì đó rất giống nhau. Đó là cái mà tôi chưa thật hiểu. Đây cũng là điều tôi muốn nói với bạn đọc khi kết thúc tập hồ sơ này.
H.M.
6.
7.
Lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975.
---
[1]
tức trung tướng Nguyễn Văn Minh
Để kết thúc
Mười hai năm sau. Tháng 9-1987.
Tôi trở lại Sài Gòn lấy thêm tài liệu để hoàn chỉnh tập bản thảo đã được chuẩn bị từ 4 năm qua.
Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh
1987 - 1988
Phụ lục 2
Chuyện về tấm căn cước của Nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ
Nhờ có sự giúp đỡ của người dân vùng tề làng Cổ Ninh, ông Vũ Ngọc Nhạ đã có được một tấm căn cước giả, biến ông trở thành người phía bên kia. Chính tấm căn cước làm năm 1951 này đã bắc cây cầu đầu tiên đưa ông vào sự nghiệp tình báo hiển hách của mình.
Thôn Cổ Ninh có một ngôi nhà, từ đấu trụ, rường cột, cánh cửa, đều thửa bằng gỗ lim. Nhà trước kia là của cụ Chánh Kì bên Cổ Am, cụ Nguyễn Đăng Ý mua về dựng lại trên đất Cổ Ninh. Ngôi nhà ấy nơi lưu giữ bao chuyện hấp dẫn, huyền thoại, về tấm căn cước của nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ.
Cụ Nguyễn Đăng Ý năm nay 95 tuổi, người đào căn hầm nhỏ trong buồng ngôi nhà cổ nuôi người tình báo; rồi cùng với ông Đỗ Đăng Bính, ông Vũ Ngọc Khoa (em ruột ông Nhạ) bàn mưu tính kế làm tấm thẻ căn cước cho Vũ Ngọc Nhạ bắc cây cầu đầu tiên vào nghề tình báo, sau này làm nên bao chuyện kinh thiên động địa qua các thời kỳ tổng thống của ngụy quyền Sài Gòn.
Năm 1951 làng Cổ Ninh đã tề, giặc đóng bót Niềm ngay đầu làng. Vũ Ngọc Nhạ đã tìm sự an toàn nhất cho mình vào trong lòng địch đào hang giấu mình ngay buồng nhà cụ Ý.
Sau hội nghị tổng kết chiến tranh du kích toàn quốc ở Việt Bắc (10-1951) về, một buổi tối ông Vũ Ngọc Nhạ từ dưới hầm bí mật chui lên gọi ông Đỗ Đăng Bính đến bàn bạc "Anh được giao nhiệm vụ đặc biệt, chẳng những ở Thái Bình, còn ở Hà Nội hoặc đi xa hơn nữa". Giọng ông thật nghiêm cẩn, ông Bính không dám hỏi lại, rồi ông tiếp: "Anh cần tấm thẻ căn cước dân tề người làng Cổ Ninh để dễ bề hoạt động. Muốn có căn cước phải có giấy khai sinh, nơi ở, nơi làm việc, tất cả nhờ vào chú Bính, chú Khoa và cụ Ý bên Cổ Ninh mới được".
Sau hôm ấy ông Bính đã tìm đến nhà Nguyễn Ngọc Trúc, Mai Doãn Thăng là chánh, phó lý làng Cọi, để lên phủ Kiến Xương xin tờ khai hợp thức cho ông Nhạ, giấy khai theo nguyên mẫu của ngụy quyền, áp triện hình chữ nhật hằn phẩm xanh. Có giấy tờ rồi cụ Ý, ông Khoa, ông Bính tìm đường đi, nước bước tiếp theo; Việc đầu tiên ông Bính dẫn ông Nhạ đi chụp hình ở hiệu ảnh Hồng Phát phố Lê Lợi thị xã Thái Bình. Hiệu ảnh mở ngay góc đường vào nhà thờ tỉnh bây giờ. Hồng Phát hồi ấy là thông phán tỉnh Thái Bình đứng tên. Sau này hiệu ảnh đổi thành hiệu Á Đông. Ông Nhạ đã chọn cửa hàng ông thông phán chụp tấm hình đi làm nghề tình báo. Không ngờ tấm ảnh chụp được, nhà hàng thấy đẹp, phóng to làm mẫu treo quảng cáo câu khách, anh em ông Khoa - Bính cùng cụ Ý lo lắm, mãi mới tìm cách gỡ được tấm ảnh đó khỏi cửa hiệu.
Thời ấy tên tuổi ông Nhạ cứ mờ mờ ảo ảo, người ta chỉ biết tên chứ không biết người. Ông Khoa là em ruột ông Nhạ, hai người rất giống nhau, cách nhau dăm bẩy tuổi, các ông bàn nhau để ông Khoa đến gặp chánh Tuân hương chủ làng Cổ Ninh làm căn cước thay cho ông Nhạ. Ông Khoa phải đối đầu với Chánh Tuân, một tay ghê gớm. Hôm ông Khoa đến cậy việc, thấy đầu "cụ Chánh" gối lên chiếc gối bông trắng, mắt "cụ" thật sắc sảo. "Cụ" bắc chân chữ ngũ, kéo thuốc phiện kêu ro ro, thơm phức. Chiếc tẩu dài được ghé sát ngọn đèn dầu mỡ chó. Dầu mỡ chó là thứ dầu quý hiếm, đây là lối chơi ngông của dân bàn đèn nhà quê. Mỡ chó vàng thơm hơn mỡ lợn, mỡ gà, dầu lạc. "Cụ bảo kéo thuốc phiện đốt bằng dầu mỡ chó mới khoái".
Chánh Tuân giọng hanh hách tay hắn sờ lên mặt hộp khảm đựng hạt na nói ra rả. Ông Khoa khom lưng lắng nghe giả vờ như nuốt lấy từng lời "cụ" dạy, hai tay ông dâng tờ giấy bạc 5 đồng Đông Dương thưa: "Thầy cháu bên nhà xin có chút đỉnh hầu cụ tiền trà nước", mắt hắn lim dim hất hàm hỏi :
- Cụ Khóa bên Cọi phải không?
- Dạ thưa phải, rồi ông Khoa lựa lời tiếp: Bên cháu không được yên ổn. Bên cụ đã quy quốc gia, cháu sang xin cụ cái căn cước là người làng bên này, để đi học trường Yersin (tên vị bác sĩ người Pháp).
"Cụ cầm tờ giấy bạc gấp bỏ tráp, ký luôn vào giấy cho làm thẻ, miệng "cụ" gọi anh Sáng chánh bảo an cùng ông Khoa mang giấy tờ vào bót Niềm cho đồn trưởng ký, rồi về phủ Kiến Xương xin dấu nổi.
Bước ra ngõ, ông Khoa nhớ lời anh Nhạ dặn dúi tiền vào tay Sáng. Vào bót đưa biếu đồn trưởng 20 đồng hắn chẳng kịp xem, ký ngay và dặn:
- Sau này công thành danh toại nên nhớ đến tôi đấy!
Thế là người trong ảnh, và người ngoài đời khác nhau mà chẳng đứa nào biết, cứ tưởng căn cước cấp cho Khoa nhưng chánh Tuân đã manh nha biết sự gian lận giữa Nhạ và Khoa, ông ta bảo: "Tao nom ảnh trong căn cước là Nhạ đâu phải là mày" nhưng Tuân đã cầm tiền rồi, vả lại ông Khoa và chánh Tuân đều là cháu cụ Ý cả, lẽ nào móc mãi chuyện...
Tấm thẻ màu vàng nhạt, in giấy cứng cấp cho Vũ Ngọc Nha (tức là Khoa) trong thẻ ghi 20 tuổi hợp với tuổi ông Khoa, sau ông cố vấn đã vặn nhỏ đèn ở nhà cụ Ý tự tay ngoắc cái móc vào đầu số 0 thành số 6. Chữ Nha thêm dấu nặng thành Nhạ, có lúc lại đổi thành Nhã là vậy.
Có tấm căn cước ông Nhạ lên nhà ông Ba ngõ 21 Hàng Chuối Hà Nội để ở nhờ, rồi đi dự thi vào làm kế toán cơ quan phòng nhì Pháp. Với tấm căn cước ấy nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ đưa vợ con vào Sài Gòn trên chiếc tàu Esperanel cập bến tại Sài Gòn Khánh Hội 2-1955, có con bác Đệ ra đón để đi vào sào huyệt giặc.
Khi đi ông Nhạ để lại tặng ông Khoa chiếc bút Sa-tô -đô, ngòi vàng, khắc chữ ở thân bút "Tặng em Thanh Hùng" và chiếc khăn len là hai kỷ vật nay ông Khoa vẫn còn lưu giữ.
Tấm căn cước do cụ Ý - ông Khoa, ông Bính tạo dựng trong căn nhà cổ gỗ lim ở thôn Cổ Ninh, đã đưa ông Nhạ thành người phía bên kia rồi. Nếu không có tấm căn cước ấy, chắc chắn ông Nhạ trở thành con người khác, không là người theo giặc thì đâu phải để các đồng chí trong Thị ủy Thái Bình khai trừ ông ra khỏi Đảng!
Người ta bảo ông theo giặc phản Đảng, nhưng ông cứ ngâm nga câu thơ: "Cái còn thì vẫn còn nguyên/Cái tan thì tưởng vững bền vẫn tan (thơ Trần Đăng Khoa).
Đúng vậy, có thời tưởng chính quyền Sài Gòn vững bền, nhưng vẫn tan. Còn ông đối với Đảng bao giờ cũng là hòn máu tươi rói trong người ông nguyên vẹn. Làm tình báo như ông là chấp nhận sự nguy hiểm, nhiều lúc giáp ranh với cái chết, ông bị tra tấn bị treo tới 32 lần. Nhưng rồi vượt qua đó là sự gan dạ, trung thành của ông đối với Đảng, với dân tộc.
Phố Đậu, 3-2003
BÁ CƯỜNG
(Báo Tiền phong)
Phụ lục 1
Vĩnh biệt "Ông Cố vấn", Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ
Trận chiến đấu thật sự của nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ bắt đầu vào một buổi sáng tháng 12-1958. Bị Tá Đen, một tên chiêu hồi chỉ điểm, anh đã bị bọn mật vụ thuộc đoàn công tác đặc biệt của Ngô Đình Cẩn bắt. Sau hơn một tháng bị giam giữ tại một địa điểm bí mật ở đường Bến Vân Đồn, quận 4, TP Hồ Chí Minh, Vũ Ngọc Nhạ bị bọn mật vụ chuyển ra trại Tòa Khâm (Huế). Suốt tám tháng trời, mọi ngón nghề khai thác, lừa bịp, mị dân của đối phương vẫn không làm lộ diện con người thật của Vũ Ngọc Nhạ. Trước sau, chúng chỉ biết những gì tổ chức đã chuẩn bị sẵn khi đưa anh vào sống trong lòng địch: Tên thật: Vũ Đình Long, sinh ngày 30-3-1928 tại xã Vũ Hội, Vũ Thư, Thái Bình; tham gia Việt Minh sau ngày Toàn quốc kháng chiến; vào Đảng Cộng sản năm 1947, năm 1951 trở thành Thị ủy viên của thị xã Thái Bình. Bị kỳ thị vì xuất thân gia đình là địa chủ, Công giáo nên anh bỏ Việt Minh, về sống ở quê ngoại tại Phát Diệm, Ninh Bình. Giai đoạn này, anh tham gia "Tổng bộ tự vệ Phát Diệm" do giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo, trở thành phụ tá của hai vị thầy tu khét tiếng chống Cộng này. Sau năm 1954, anh theo quân Pháp rút về nước, hy vọng tiếp tục được theo học ở phương Tây. Vỡ mộng vì chỉ kiếm được một công việc độ nhật tại một trang trại trồng nho trên đất Pháp, anh trở về Việt Nam đưa vợ con di cư vào Sài Gòn làm ăn lương thiện và phụ giúp việc đạo cho linh mục Hoàng Quỳnh tại giáo xứ Bình An (Sài Gòn) cho đến ngày bị bắt. Bảo bối chứng minh cho lời khai là một bức ảnh chụp chung với giám mục Lê Hữu Từ và giám mục Jean Cassaigne - Tổng tuyên úy Pháp tại Đông Dương, chụp tại Phát Diệm năm 1952.
Bản lý lịch trên là một sự pha trộn tuyệt vời giữa thực và bịa để che mắt địch. Kỳ thực, vị catholique de coeur (Công giáo tại tâm) Vũ Ngọc Nhạ đã trải một đoạn đường đời có rất nhiều điểm khác: Anh đã từng là một trong 300 đại biểu kháng chiến được mời về dự Hội nghị chiến tranh du kích đồng bằng Bắc Bộ. Tại đó, sau vài lần gặp gỡ chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn anh vào hàng ngũ những người tiên phong làm công tác tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài với Mỹ - ngụy, anh được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh phái vào Nam hoạt động. Để tạo vỏ bọc, người cán bộ Cộng sản Vũ Ngọc Nhạ đã được hóa thân vào quân đội Liên hiệp Pháp và có cơ hội chụp ảnh chung với cha Lê, cha Cassaigne tại Hải Phòng, vào cuối năm 1954, trước khi lên tàu di cư vào Nam không lâu lắm. Tại Sài Gòn, nhờ kiến thức tôn giáo uyên bác, thầy Bốn (được phong 7 chức thánh và trở thành linh mục) Vũ Ngọc Nhạ đã được linh mục Hoàng Quỳnh tin cậy, không hề nghi ngờ gì việc anh có từng cộng tác với Tổng bộ Phát Diệm trong quá khứ hay không.
Trong trại Tòa Khâm, Vũ Ngọc Nhạ bắt được liên lạc và được "anh Mười" - tức đồng chí Trần Quốc Hương - giao nhiệm vụ trèo cao, chui vào chính quyền Sài Gòn. Với một bản tường trình phân tích kỹ bốn nguy cơ "đe dọa chế độ mà Ngô Tổng thống đã dày công vun đắp", anh đã khiến Ngô Đình Cẩn, sau đó là cả Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm quan tâm, chú ý. Khi được hỏi, Vũ Ngọc Nhạ đã khéo léo hé cho anh em họ Ngô biết rằng tất cả những ý kiến trong tờ trình đều là chủ kiến của giám mục Lê Hữu Từ, anh chỉ là người lĩnh hội và được thừa nhiệm báo nguy chế độ. Đánh giá rất cao "trách nhiệm" và sự sâu sắc của "bản báo nguy chế độ", đồng thời tưởng nắm được cơ hội bằng vàng để tranh thủ sự ủng hộ của khối Công giáo di cư do giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo, anh em Diệm - Nhu đã mời Vũ Ngọc Nhạ về làm cố vấn. Trong khi đó nhờ anh, mối bất hòa giữa Phát Diệm với anh em Ngô Tổng thống cũng được dỡ bỏ nên cha Lê, cha Hoàng cũng hởi lòng, coi Vũ Ngọc Nhạ như người cật ruột. Linh mục Hoàng Quỳnh đã lấy họ mình đặt cho anh tên mới là Hoàng Đức Nhã.
Tại Dinh Độc Lập, những ý kiến sâu sắc về sách lược, chiến lược và chiến thuật đối phó với thời cuộc sâu sắc của Vũ Ngọc Nhạ đã khiến anh em Diệm - Nhu vì nể. Chẳng bao lâu, anh đã trở thành một người tâm phúc, thường xuyên được cùng bàn bạc những vấn đề cơ mật, sinh tử với anh em họ Ngô, trở thành "con rồng thứ 5" trong gia đình quyền lực nhất miền Nam này, với tên gọi là Hoàng Long, do chính Ngô Đình Nhu đặt tặng. Bốn "con rồng" kia là Hồng Long (Ngô Đình Thục), Bạch Long (Ngô Đình Diệm), Thanh Long (Ngô Đình Nhu) và Hắc Long (Ngô Đình Cẩn).
"Điệp viên siêu hạng"
Mở được cánh cửa quyền lực của anh em họ Ngô, Vũ Ngọc Nhạ nhanh chóng liên kết với các đồng chí của mình như Lê Hữu Thúy, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hòe... hình thành nên một lưới tình báo (lưới A22) nắm giữ các vị trí chóp bu trong ngụy quyền Sài Gòn để khai thác tin tức chiến lược phục vụ đấu tranh cách mạng. Thành công ngoạn mục nhất của cụm tình báo A22 là tổ chức được Huỳnh Văn Trọng, một người giàu tình cảm dân tộc, vào lưới và giữ chức phụ tá tổng thống cho Nguyễn Văn Thiệu. Huỳnh Văn Trọng từng là một bộ trưởng dưới thời Bảo Đại. Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Ngô Đình Diệm bị bỏ rơi hoàn toàn nên tỏ ra bất mãn. Vũ Ngọc Nhạ đã vẽ đường đi nước bước cho Huỳnh Văn Trọng tạo dần thanh thế, rồi dùng uy tín của mình trợ giúp Nguyễn Văn Thiệu chạy đua vào ghế Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, được Thiệu vừa hàm ơn vừa sủng ái đặt vào ghế phụ tá tổng thống (tương đương bộ trưởng). Ở vị trí này, Huỳnh Văn Trọng đã có điều kiện tiếp xúc và lấy được hàng loạt văn kiện, chính sách tối mật của Mỹ - ngụy, giao lại cho Vũ Ngọc Nhạ để chuyển cho Trung ương Cục Miền Nam, kịp thời có đối sách đấu tranh. Tháng 8-1968, dưới sự sắp xếp và tham mưu của Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn Văn Thiệu đã cử Huỳnh Văn Trọng cầm đầu một phái đoàn của Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ Johnson đối với cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Chính những thông tin này đã góp một phần vô giá cho Cách mạng trước khi ngồi vào bàn đàm phán tại Paris với Mỹ.
Thành công của phái đoàn Huỳnh Văn Trọng lớn tới mức chính Nguyễn Văn Thiệu cũng lấy làm hả hê, không hay biết rằng sứ mạng của Việt Nam Cộng hòa đã được đặt trọn vào tay "tình báo Việt Cộng"!
Với bề ngoài là một con chiên kính Chúa, luôn sẵn sàng tử vì đạo, con người có công với mọi chế độ quyền lực ở miền Nam này vẫn không hề nhận bất kỳ một ân sủng, chức tước, bổng lộc nào của những kẻ đứng đầu chế độ mong muốn ban tặng, trả ơn. Bù lại, sự tin cậy của chế độ đã giúp anh lấy được hàng loạt tài liệu chiến lược, sách lược tuyệt mật, từ kế hoạch xây đựng ấp chiến lược, kế hoạch Stanley Taylor... thời Diệm, đến kế hoạch Bình định nông thôn, kế hoạch Phượng Hoàng, kế hoạch đổ quân của Mỹ, sách lược chiến tranh đặc biệt.,. thời Thiệu v.v... để Đảng kịp thời có đối sách lãnh đạo đường lối đấu tranh.
Thêm một điều oái oăm nữa là, cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng trong trận Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968, theo kế hoạch, chính Vũ Ngọc Nhạ sẽ là người chỉ huy biệt động thành tấn công Dinh Độc Lập, bắt hoặc tiêu diệt Nguyễn Văn Thiệu. May cho ông Thiệu đã cùng vợ con về quê ngoại (Tiền Giang) ăn Tết nên không có mặt. Đêm giao thừa, để chuẩn bị, khi tiếng súng tổng tấn công nổi lên khắp nơi, Vũ Ngọc Nhạ - đang nhận lời thay Thiệu "trực" tại Dinh Độc Lập - đã chủ động cho mở hầm rượu của Tổng thống để "úy lạo anh em binh sĩ khiến lực lượng phòng vệ trong Dinh say bò lăn bò càng. Tuy nhiên, do hợp đồng chiến đấu có thay đối nên cuộc tấn công vào Dinh đã không nổ ra, để kết quả là sau Tết, Nguyễn Văn Thiệu đã hết lời khen và cảm ơn "ông Cố vấn" với sáng kiến mở hầm rượu "lên dây cót anh em", cho nên Dinh Độc Lập đã được giữ nguyên lành, trong khi Tòa đại sứ Mỹ ở cách đó chỉ 300m thì đã bị quân Giải phóng giã nát!
Từ "Điệp vụ bất khả thi" đến "Vụ án chính trị lớn nhất thời đại"
Do những sơ hở trong khâu lấy tin, CIA đã đánh hơi và sau đó khám phá được lưới tình báo A22. Ngoại trừ đồng chí Trần Quốc Hương, người chỉ huy cao nhất của lướt đã kịp thời rút lui an toàn ra vùng giải phóng, còn lại từ Vũ Ngọc Nhạ, toàn bộ các điệp viên đến các liên lạc viên đều bị cảnh sát đặc biệt ngụy bắt giữ vào trung tuần tháng 7-1969.
Sau hơn một tháng giam giữ, cảnh sát ngụy và CIA đã dồn xuống thể xác nhỏ nhắn của Vũ Ngọc Nhạ 32 trận đòn tra tàn bạo nhất nhưng anh vẫn tuyệt nhiên không khai báo một câu. Đau đớn về thể xác, Vũ Ngọc Nhà còn chịu đựng được, nhưng nỗi vò xé về tinh thần thì không chịu nổi: toàn bộ hoạt động của lưới tình báo, kẻ địch đã nắm được quá đầy đủ, quá chi tiết. Để cứu những người bị bắt oan, đồng thời để có cơ hội tiếp tục đấu tranh công khai khi phiên tòa được mở, Vũ Ngọc Nhạ quyết định thừa nhận những gì mà kẻ địch đã có đủ bằng chứng.
Hy vọng Vũ Ngọc Nhạ chịu hợp tác, CIA đã cử người đến gặp anh, đề nghị Vũ Ngọc Nhạ nhận mình là CIA! Lời đề nghị này tưởng chừng là một nước cờ cao: vừa nâng uy tín CIA, vì lúc này cái tên Vũ Ngọc Nhạ và lưới tình báo A22 đã nổi tiếng, vừa có cơ may tháo dần mớ bòng bong chính trị đang ngày càng rối tung lên do vụ bê bối đưa đến. Nước cờ cao nên cái giá không thể thấp: khởi điểm CIA sẽ trả cho riêng Vũ Ngọc Nhạ 2 triệu USD, trương mục mở vào bất kỳ ngân hàng nào đo anh yêu cầu, cộng với khoản lương tháng cực cao được tính từ khi Nhạ gật đầu. Nhưng Vũ Ngọc Nhạ đã không gật. Anh cũng từ chối mọi thiện chí giúp đỡ của các luật sư từ chối biện hộ trước tòa để biến phiên tòa xử các anh thành vô giá trị.
Vậy là từ thắng lợi vì phá được một "vụ án gián điệp lớn nhất mọi thời đại", CIA và ngụy quyền Sài Gòn rơi tõm vào sự thảm bại của một vụ bê bối chính trị không có lối gỡ. Mọi công việc của các bị cáo đều là do... Tổng thống hợp hiến ủy thác hoặc ra lệnh. Nhân chứng quan trọng nhất của "vụ án" chắc chắn tòa sẽ không triệu tập được vì đó chính là... Tổng thống.
Tất cả mọi vụ việc, tình tiết có thể nêu tên đều hoàn toàn là chính sách, chú trương công việc của chính phủ, và đều dính tới các chóp bu chính quyền từ tổng thống, bộ trưởng đến dân biểu, CIA, thậm chí dính đến cả... Tổng thống Mỹ. Ở một khía cạnh khác, Nguyễn Văn Thiệu cũng nhảy dựng lên: Chính CIA cố tình dàn cảnh để chặt tay, chặt chân của Thiệu.
Chưa hết, Tòa thánh Vatican và cộng đồng Thiên Chúa giáo di cư cũng cho rằng, đây là âm mưu của CIA và chính quyền Thiệu nhằm làm Thiên Chúa giáo Việt Nam suy yếu "Điệp vụ bất khả thi" nhanh chóng vỡ ra thành một đống lùi nhùi không lối thoát, thành "vụ áp chính trị lớn nhất thế kỷ".
Mớ bòng bong đã khiến những kẻ ngồi ghế quan tòa lúng túng, không hề dám tuyên bố một án tử hình nào. Cả 4 người chủ chốt gồm: Nhạ, Trọng, Thúy, Hòe đều bị kêu án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo. Ngoạn mục hơn nữa, ngày 23-6-1971, tại Roma có một đại lễ cầu nguyện cho những ân nhân của Giáo hoàng, Phêrô Vũ Ngọc Nhạ đã được ghi nhận "người con hiếu thảo của Chúa, vệ sĩ nhiều công đức của Giáo hội, ân nhân của Giáo hoàng Paul VI", được Đức Thánh Cha ban ơn chết lành, tặng bằng khen và huy chương của Giáo hoàng. Hai ngày sau, 25-6, một linh mục khâm sai của Vatican đã vào tận khám Chí Hòa trao tặng các phần thưởng cho Vũ Ngọc Nhạ.
Sự tưởng lệ của Giáo hoàng Paul VI đã giúp Vũ Ngọc Nhạ dù đang ngồi tù, uy tín vẫn tăng vùn vụt. Suốt những năm nhà tình báo chịu cảnh lưu đày tại Côn Đảo, hàng loạt dân biểu, chính khách, chức sắc tôn giáo và cả cha tuyên úy trong quân đội Mỹ đều viết thư, nhắn hoặc ra tận nơi để thăm hỏi và xin Vũ Ngọc Nhạ cho ý kiến!
Chiều ngày 23-7-1973, Vũ Ngọc Nhạ được trao trả tại Lộc Ninh, với danh xưng là "linh mục Giải phóng". Cho đến lúc đó, khắp miền Nam Việt Nam vẫn không một kẻ nào nghi ngờ vị trí, ảnh hưởng của anh trong chính trường miền Nam. Linh mục Hoàng Quỳnh và nhiều vị chức sắc khác của nhà thờ Vatican vẫn đều đặn từ Sài Gòn liên lạc với anh ở vùng giải phóng. Niềm tin lớn đến mức, ngày 12-11-1974, vị linh mục chống Cộng khét tiếng Hoàng Quỳnh còn sẵn lòng theo chân Liên - con gái lớn của Vũ Ngọc Nhạ - ra vùng căn cứ của ta ở Đồng Lớn (Trung Lập Thượng, Củ Chi) để cùng anh bàn bạc về lực lượng thứ 3 và chính phủ ba thành phần ớ miền Nam theo Hiệp định Paris.
Và chính với tư cách của một người thuộc lực lượng thứ 3, trưa ngày 30-4-1975, Vũ Ngọc Nhà đã đứng cạnh Dương Văn Minh khi viên Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn tuyên bố đầu hàng Cách mạng vô điều kiện. Vào phút đó, với tâm trạng rối bời, Tổng thống cuối cùng đã không hề để ý thấy một chi tiết: Con người nhỏ bé đứng bên cạnh ông ta đang nở một nụ cười, nhẹ nhàng nhưng rất tươi tắn và mãn nguyện - nụ cười của người chiến thắng.
NGUYỄN ĐỨC VINH (Báo An ninh thế giới)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 1)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 2)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 3)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 1)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 2)
Ông cố vấn - Hữu Mai (Phần 3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét