Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Triều đại Tây Sơn bi hùng (Phần 2)


Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 38 Mộng bá vương Nguyễn Hữu Chỉnh làm mối. Gặp giai nhân Nguyễn Huệ đối văn.
Hôm sau Nguyễn Huệ và Trần Văn Kỷ theo Nguyễn Hữu Chỉnh đến điện vua Lê Hiển Tông. Vua Lê Hiển Tông lúc ấy đã bảy mươi tuổi, già yếu lắm rồi lại thêm phần vì lâm trọng bệnh, nghe Nguyễn Huệ đến vừa gắng gượng ngồi dậy định tiếp Huệ. Nguyễn Huệ thi lễ xong vội vàng đỡ vua nằm xuống giường ngủ rồi nói:
- Hạ thần đến ra mắt Bệ hạ là bổn phận con dân trong nước. Bệ hạ mình rồng bất an cử nằm yên nghỉ đừng vì hạ thần mà nhọc nhằn lòng thế. E rằng thần phải đắc tội với vua.
Vua Lê hỏi:
- Ngài có phải là Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân ra đây đó chăng?
Nguyễn Huệ kính cẩn đáp:
- Hạ thần là kẻ áo vải ở Tây Sơn nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ăn áo mặc nhưng thân bấy lâu vẫn kính mến thành đức. Nay được thấy long nhan thật thoả lòng mong ước. Họ Trịnh vô đạo giết chết Thái tử Lê Duy Vỹ, hiếp đáp Bệ hạ nên trời cao mới mượn tay thần chỉ trong vòng một tháng đánh đổ xong họ Trịnh suốt hai trăm năm bức bách Hoàng gia. Ấy là nhờ oai đức của Bệ hạ cả!
Vua Lê xua tay bảo:
- Ấy là võ công của tướng quân chứ quả nhân nào có tài đức gì?
Nguyễn Huệ khiêm tốn đáp:
- Hạ thần ra đây cốt vì nghĩa phò vua đâu dám kể công, nên trước truyền hịch tôn phò rồi mới kéo qua đi. Quả nhiên quân Trịnh là con dân trong nước của Bệ hạ nghe quân của thần đến để phò vua họ bèn quăng vũ khí không dám theo họ Trịnh chống là mệnh trời. Ấy chẳng phải là nhớ oai đức của Bệ hạ đó sao? Nay họ Trịnh đã diệt là ý trời muốn Bệ hạ cầm cương nảy mực, khiến cho trong ấm, ngoài êm hạ thần ở cõi xa cũng được ơn nhờ.
Vua Lê Hiển Tông nghe Huệ nói xong liền hỏi:
- Sao tướng quân lại nói là ở cõi xa? Chẳng phá tướng quân ở đây giúp trẫm lập lại kỷ cương ở đất Bắc Hà sao?
Nguyễn Huệ trầm ngâm đáp:
- Hạ thần đến đây diệt Trịnh xong phải đem quân về Nam phục mệnh vua anh nên không thể ở lại được!
Vua Hiển Tông bảo:
- Nếu tướng quân đem quân về Nam ngay là tướng quân đã hai nhà Lê ta, sao bảo là tôn phò.
Nguyễn Huệ hỏi:
- Nếu ở lâu e thiên hạ bảo thần là mượn tiếng phò vua mưu đồ lấy đất nên phải kéo quân về! Hạ thần diệt Trịnh trả nước cho nhà vua sao lại bảo là hại Bệ hạ?
Vua Hiển Tông đáp:
- Trẫm làm vua hắn bốn mười năm nay không tham gia việc triều chính, chẳng biết việc dân sinh xã tắc. Trăm quan làm việc đều ở dưới quyền họ Trịnh. Nay họ Trịnh diệt, bá quan đều bỏ trốn, triều đình trống rỗng, quân binh chẳng có. Nếu tướng quân để quân về Nam, nước của quả nhân không kỷ cương pháp luật tất là sinh loạn. Ấy chẳng phải là tướng quân đã hại trẫm rồi sao?
Vua buồn rầu ứa nước mắt, nói tiếp:
- Nếu con của trẫm là Thái tử Vỹ con sống thì may ra nhân dịp này lấy lại quyền hành của họ Lý mà định quốc an dân.
Nguyễn Huệ cảm động thưa rằng:
- Năm trước Tĩnh đô vương Trịnh Sâm sai Phạm Ngô Cầu vào ngục giết Thái tử. Nay Trịnh Sâm đã bị hồn Thái tử theo báo oán mà chết. Còn Phạm Ngô Cầu bị hạ thần bắt đem về Quy Nhơn luận tội giết Thái tử phải chịu bêu đầu. Ấy là mối thù của Thái tử đã được rửa, oan hồn Thái tử cũng tiêu diêu miền cực lạc, xin Bệ hạ chớ quá thương tâm. Còn việc quốc gia nếu Bệ hạ làm được điều này thì hạ thần xin ở lại Bắc Hà giúp Bệ hạ sửa sang giềng mối, lập lại kỷ cương phép tắc, xong mới kéo quân về.
Vua Lê Hiển Tông liền hỏi:
- Xin hỏi tướng quân ta phải làm điều gì tướng quân mới bằng lòng ở lại giúp cho?
Huệ phân giải rằng:
- Sở dĩ bá quan con trốn tránh vì họ nghĩ hạ thần ra đây mượn tiếng tôn phò để mưu đồ tư lợi. Nay Bệ hạ nên xuống chỉ dụ để hiệu triệu các quan, định ngày thiết triều. Các quan có chiếu chỉ của vua ắt là phải đến, lúc ấy hạ thần sẽ đem số bỏ dân binh, thuế khá điền trạch mà họ Trịnh chiếm giữ suốt hai trăm năm nay trao về cho Bệ hạ. Ấy là Bệ hạ lấy lại quyền hành của Tiên đế từ thuở gian lao đất Lam Sơn dấy nghĩa. Rồi trước mặt trăm quan Bệ hạ lệnh cho hạ thần trong giúp vua lập nên đế nghiệp, ngoài cứu dân khỏi cảnh lầm than, thì hạ thần mới danh chín ngôn thuận mà ở lại Bắc Hà, đến khi nước được yên ổn rồi sẽ quay về.
Vua Lê cả mừng nói:
- Lời tướng quân rất là hữu lý, việc này nào có khó gì?
Nói xong vừa liền ngồi dậy sai người lấy bút nghiên viết chiếu chỉ hiệu triệu bá quan, định ngày đến để thiết triều.
Nguyễn Huệ vừa đến tư dinh nơi phủ Chúa Trịnh, Trần Văn Kỷ nói riêng với Huệ rằng:
- Nếu vua Thái Đức không lên ngôi hoàng đế lúc này Tây Sơn ta đã danh chính ngôn thuận thống nhất sơn hà trong nước của vua Lê, ấy chẳng phải là công nghiệp xưa nay chưa từng có hay sao?
Nguyễn Huệ gạt đi bảo:
- Ấy là chí hướng của Hoàng huynh, Trần tiên sinh đừng bàn đến nữa. Ta chỉ nên làm những gì có thể được trong tình hình hiện tại mà thôi.
Nói rồi liền sai quân mở kho thóc Hữu Viên phát chẩn dân nghèo, hạ lệnh chiêu an bá tánh, quân không được mảy may xâm phạm của dân, gặp phường trộm cướp phải đem ra trước dân mà xử.
Đến hôm thiết triều, vua Lê Hiển Tông ngồi trên ngai vàng, quan văn kéo đến chầu được vài mươi người, còn võ tướng thì không ai dám đến. Các đại thần gồm có Trần Công Xán, Phan Lê Phiền, Uông Sĩ Điền đến đứng hầu ở hai bên ngai vua. Vua bảo các quan rằng:
- Họ Trịnh tiếng là phò Lê nhưng thực chất đã cướp quyền của nhà Lê ta suốt hai trăm năm này, các khanh đã biết chưa? Nay Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ từ nơi xa xôi lội suối trèo đèo đem quân đến đây diệt họ Trịnh trả nước cho ta các khanh đã biết chưa? Nay ta tuy tuổi già sức yếu không biết sống chết lúc nào nhưng cũng vì xã tắc mà gắng gượng ra gánh vác việc quốc gia được ngày nào hay ngày ấy. Vậy các quan trước ở chức gì hãy về chân ấy giúp trẫm định yên xã tắc.
Trần Công Xán bước ra hỏi dò Nguyễn Huệ rằng:
- Ý Long Nhương tướng quân diệt Trịnh trả nước cho vua tôi, vậy sao còn chưa rút quân về.
Chưa vội đáp lời Xán, Huệ gọi quân mang số bộ dân váo rồi kính cẩn dâng cho vua Hiển Tông, Huệ thưa rằng;
- Đây là số dân quân hộ tịch xin trao về Bệ hạ. Mong Bệ hạ hãy thay trời hành đạo đem ấm no về cho trăm họ.
Vua run run nhận sổ xong. Huệ quay sang bảo Trần Công Xán:
- Xin hỏi ngài có phải là Trần Công Xán ngươi làng Yên Vĩ, Tổng Yên Cảnh, Huyện Đông An, phủ Khoái Châu đó chăng
Xán đáp:
- Phải. Chính là tôi đây!
Huệ lại hỏi:
- Khi đạo binh tôn phò của tôi đánh lấy Vị Hoàng tôi nghe nói ngài bày mưu cho Trịnh Khải rằng: "Quân Tây Sơn từ nơi xa kéo quân đến đây ắt là mỏi mệt cứ nhử cho chúng vào sâu trong đất của ta rõ kéo quân đánh một trận ắt diệt được giặc". Xin hỏi ngài điều ấy có chăng?
Nghe Huệ nói, Phan Lê Phiền, Uông Sĩ Điền và các quan đều sợ thất sắc nghĩ rằng Nguyễn Huệ hoạch tội để giết Trần Công Xán. Xán vẫn thản nhiên đáp:
- Phải, người bày mưu ấy chính là tôi!
Nguyễn Huệ cười nói:
- Nếu ngài bảy mưu ấy cho Chúa Trịnh là ngài có ba điều không rồi vậy.
Xán hỏi lại Huệ rằng:
- Thế nào là ba điều không?
Nguyễn Huệ lại mỉm cười đáp:
- Quân Tây Sơn tôi phò vua Lê diệt Trịnh, ngài lại bày mưu cho Trịnh đánh quân phò vua, ấy là bất trung. Quân Trịnh nghe hịch tôn phò của tôi đều nhờ ơn vua quang gươm giáo mà không kháng cự, vả lại họ Trịnh lúc ấy tướng lười, bình kiêu, ngài lại bảo rằng nhử giặc vào sâu rồi đánh một trận là tiêu diệt được, ấy là bất trí. Bày mưu chúa Trịnh đánh vua Lê, nay chúa mất rồi còn mặt mũi nào mà theo về với vua, ấy là bất nghĩa. Bất trung, bất trí, bất nghĩa là ba điều không vậy.
Trần Công Xán tái mặt cãi lại rằng:
- Tướng quân truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân đến nước tôi. Trong lúc vàng thau lẫn lộn biết đâu là thật giả, ngộ nhỡ diệt được Trịnh rồi tướng quân không trả nước cho vua thì sao? Vậy tôi bày mưu cho Chúa đánh tướng quân để giữ nước cho vua sao bảo là bất trung. Nay Chúa Trịnh Khải dù đã diệt những còn dư đảng là Trịnh Lê, Trịnh Bồng. Vả lại nay được biết tướng quân thật đã tôn phò tôi mới phò vua mà không theo Trịnh sao bảo là bất nghĩa. Tôi bày việc quân cơ cho Chúa là kế hay, khác nào Đức thánh Trần Hưng Đạo nhử giặc Nguyên vào sâu, chỉ vì không có tướng tài để đánh một trận là diệt xong địch như nhà Trấn thuở trước, sao bảo là tôi bất trí.
Nghe Trần Công Xán nói xong Nguyễn Huệ cười lớn mấy hỏi rồi hỏi:
- Qua lời biện luận mới rõ ngài là người đại trung đại nghĩa, đại trí. Tôi thành thật xin lỗi vậy. Vậy tôi hỏi ngài, nay nếu tôi kéo quân về Nam ngay e dư đảng họ Trịnh kéo đến ăn hiếp vua thì tướng tài nào ra tay dẹp loạn? Bọn kiêu binh quân Trịnh còn đang lẩn trốn ngoài thành thừa dịp này cướp bóc của dân thì lấy ai cứu nguy trăm họ? Nếu ngài có kế hay định yên xã tắc, Huệ tôi lập tức rút binh.
Trần Công Xán đáp bừa rằng:
- Ngài cứ rút quân, người nước tôi tự có kế để giữ lấy nước mình.
Nguyễn Huệ lắc đầu nói:
- Ngài nghi ngờ tôi không thực bụng tôn phò mà nói thế. Nhưng lời ngài là vô căn cứ tôi không thể nghe theo. Tôi ra đây là để phò vua. Vậy việc về hay ở xin để cho Bệ hạ định đoạt.
Lúc này vua Hiển Tông mới bảo rằng:
- Trần Công Xán không được nhiều lời. Nay trước mặt ba quân ta phong Nguyễn Huệ chức Đại Nguyên soái, phù chính dực vận Uy Quốc Công, trao Nguyên soái bảo kiếm tiền trảm hậu tấu. Nguyên soái hãy lại đóng quân giúp trẫm định quốc an dân, lập lại các bộ, sửa sang giềng mối luân thường, chỉnh đốn kỷ cương phép tắc cho dân ngoan biết đến vua hiền, hưởng cuộc đời thái bình thịnh trị. Ấy là nhờ Tiền đế linh thiêng sai Nguyên soái tái tạo cho nhà Lê ta vậy. Chỉ tiếc rằng Thái tử Vỹ không còn sống mà thôi.
Nói xong vừa mui lòng sa nước mắt. Nguyễn Huệ cảm động thưa:
- Xin Bệ hạ ăn tâm, hạ thần xin hứa sẽ hết lòng phò vua đến khi nào người trăm họ đều thấm nhựa thành đức mới thôi.
Nói rồi từ biệt về dinh phủ. Đọc đường Nguyễn Huệ hỏi Trần Văn Kỷ rằng:
- Tiên sinh nghe Trần Công Xán luận về Trung, Nghĩa, Trí thế nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Luận về Trung, Nghĩa thì đúng, nhưng luận về Trí rõ là người bát trị nói càn.
Nguyễn Huệ nói:
- Các quan trong triều vua Lê lúc thiết triều không ai dám há môi mở miệng. Nghe ta bảo là Trần Công Xán bất trung, bắt nghĩa, bất trị thì sợ đà mất mật. Chỉ có Trần Công Xán tuy rằng bất trị nhưng là người trung liệt đáng khen.
***
Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh nghe Nguyễn Huệ hứa với vua Lê Hiển Tông sẽ đóng binh ở đất Bắc định yên xã tắc rồi mới quay về, Chỉnh về đến tư dinh bồn chồn ngồi đứng không yên. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Việc gì mà tướng quân lại lo lắng ưu phiền như thế?
Hữu Chỉnh thở dài đáp:
- Ta xui Nguyễn Huệ kéo quân ra diệt Trịnh. Những tưởng diệt Trịnh xong rồi Nguyễn Huệ sẽ kéo quân về giao binh cho ta ở lại Bắc Hà phò việc nhà Lê. Chẳng ngờ Nguyễn Huệ không nói gì đến việc ấy cả. Ta e rằng Nguyễn Huệ hiểu được bụng ta không thực lòng quy thuận nên vạn nhất Huệ có kéo binh về Nam cũng chẳng thể giao binh quyền cho ta nơi đất Bắc, thì cái chí lấy ngai của chúa Trịnh dùng sông Linh Giang chia đôi thiên hạ với quân Tây Sơn ắt chẳng thành.
Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Vậy tướng quân phải chịu theo hầu dưới trướng Nguyễn Huệ mãi sao?
Chỉnh đáp:
- Đời nào ta chịu yên như thế Ta có một kế có thể khiến Nguyễn Huệ phải chịu để cho ta mượn binh trấn thủ Bắc Hà.
Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Kế ấy là kế gì?
Chỉnh đáp:
- Ấy là mỹ nhân kế!
Rồi Chỉnh kề tai Tuyển nói nhỏ. Nghe xong Tuyển khen:
- Hay! Mỹ nhân là của ngươi khác lại dùng được để nên việc của ta. Thật là diệu kế.
Bàn với Nguyễn Viết Tuyển xong, Nguyễn Hữu Chỉnh liền soạn khăn áo sang bái yết vua Lê. Chỉnh tâu:
- Tâu Bệ hạ, lúc ban sáng Bệ hạ phong cho Nguyễn Huệ chức Đại Nguyên soái tước Uy Quốc Công, Nguyễn Huệ có về bảo với hạ thần rằng: Ta ra đây cốt để phò vua Lê. Nếu không nghĩ đến công của vua Thái Tổ đã ba trăm năm dựng nước thì ta muốn xưng đế xưng vương gì chẳng được? Nay vua lại đem cái chức Nguyên soái để phỉnh dụ ta. Hỏi cả tước Uy Quốc Công hão ấy ta được thêm gì? Nếu không nhận thì ra thất lễ với vua, mà nhận thì mang tiếng la người không biết gì! Tâu Bệ hạ, Nguyễn Huệ nói vậy đó!
Vua Lê thật thà ngỡ là thật, cả sợ hỏi Chỉnh:
- Rồi Nguyên soái còn nói gì nửa chăng?
Chỉnh đáp:
- Nguyên soái đòi kéo quân về Nam bỏ mặc Bắc Hà ra sao thì ra.
Vua Lê thất kinh nói:
- Nếu vậy thì nước ta loạn mất. Khanh trước là tớ của trẫm vì họ Trịnh bức bách phải bỏ nước theo vua Tây Sơn. Nay vì nghĩa cử có thể bày kế gì cho trẫm được chăng?
Chỉnh đáp:
- Hạ thần đến đây là vì an nguy của Bệ hạ và xã tắc đó.
Vua vội vàng hỏi:
- Nói vậy nghĩa là khanh đã có kế?
Chỉnh hiến kế rằng:
- Hạ thần nghe nói trong các công chúa có Ngọc Hân công chúa là sắc nước hương trời. Theo ý hạ thần Bệ hạ nên gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyên soái. Một là để tỏ thành ý với Nguyên soái để Nguyên soái không nghĩ rằng Bệ hạ dùng chức hão mà phỉnh dụ ông ta. Hai là lấy tinh thần lôi kéo Nguyên soái ở lại Bắc Hà giúp cho Bệ hạ. Ngộ nhỡ trong Nam Hà có biến, Nguyên soái phải kéo quay về, Bệ hạ hay xin cũng Nguyên soái cho hạ thần được cầm binh ở lại trả ơn Bệ hạ cho trọn nghĩa vua tôi khi trước. Nguyên soái khi ấy đã là rể của Bệ hạ, vì nghĩa nước tình nhà không thể không vâng.
Vua Lê Hiển Tông ngẫm nghĩ rồi bảo Hữu Chỉnh:
- Lời khanh có lý. Vả lại trong các con, Ngọc Hân là người trẫm thương yêu nhất. Nay có được một tấm chồng anh hùng hào kiệt như Nguyên soái ta cũng an tâm. Vậy phiền khanh hãy về dò ý của Nguyên soái xem sao rồi mau báo cho trẫm hay để trẫm khỏi lo lắng.
Vua nói xong nằm trên giường ngự mệt nhọc ôm ngực ho khan. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vua Lê trúng kế của mình bấm bụng cười thầm rồi cáo biệt ra về. Nguyễn Hữu Chỉnh lại đến tìm gặp Nguyễn Huệ nói:
- Vua Hiển Tông tiếng làm vua hơn bọn mười năm nhưng quyền hành đều trong tay họ Trịnh. Nhà vua tâm sự với tôi rằng tuy đã phong chức Nguyễn Soái cho Chúa công nhưng nhà vua thanh bạch không có gì ban thưởng cho Chúa công nên trong lòng lấy làm áy náy lắm.
Nguyễn Huệ gạt đi bảo:
- Ta đem binh ra dây cốt là diệt Trịnh để cứu dân. Nay đến đây mới thấy nhờ truyền hịch phò Lê mà lòng quân Trịnh hoang mang chưa đánh đã tan khiến quân ta chiến thắng dễ dàng. Xét lòng trăm họ có thương tiếc nhà Lê, vậy vì dân tại sao ta không thực bụng tôn phò? Vả lại nhà vua là người nhân hậu nhu mì, bị họ Trịnh áp chế tình cảnh thật đáng thương. Xét về nhân không nên lấn át. Vậy ta phải đến gặp vua phân cho rõ tấm lòng kẻo vua áy náy lo âu thì ta là người đặc tội.
Nói xong đứng dậy toan đi. Nguyễn Hữu Chỉnh ngăn lại nói:
- Xin Chúa công chớ vội, vua Lê sai tôi đến đây dò ý Chúa công.
Huệ ngạc nhiên hỏi:
- Dò ý ta về việc gì?
Chỉnh đáp:
- Số là nhà vua có một nàng công chúa tên là Ngọc Hân sắc đẹp như tiên giáng thế nên trong Hoàng gia thường gọi là Chúa Tiên. Chúa Tiên tính nết đoan trang, am tường ca cầm kỳ thi hoạ. Vua nhờ tôi dò ý Chúa công, nếu không chê, vua sẽ nhận Chúa công làm phò mã để tỏ lòng thành với Chúa công phò vua vực nước.
Nguyễn Huệ gạt đi bảo:
- Việc này ta thác không đảm nhận.
Chỉnh hỏi:
- Vì sao Chúa công lại từ chối lòng thành của nha vua?
Huệ đáp:
- Ta ra đây phò Lê không được lệnh của Hoàng huynh. Dù binh pháp có câu: "Tướng ngoài biên ải không nhất nhất phải nghe lệnh vua, nhưng Hoàng huynh có lý bắt ta về tội kháng lệnh. Nay ta lấy vợ mà không được phép của mẹ và anh, ấy là bất hiếu. Nếu ta làm thế tất Hoàng huynh ta vin vào tội bất hiếu càng khẳng định tội ta kháng mệnh bất trung. Đó là một lẽ.
Hữu Chỉnh dò hỏi:
- Còn điều thử hai là gì?
Huệ trầm ngâm đáp:
- Vua Lê vì ngại ta kéo quân về, Bắc Hà sẽ loạn nên vạn bất đắc dĩ mới gả công chúa để lấy lòng ta. Nếu thuận ý, hoá ra ta nhận lúc người cần mà ép người sao? Đó là hai lẽ. Vì hai lẽ đó, ta không thể thuận lòng.
Trần Văn Kỷ xen vào nói:
- Theo tôi việc này thật khó xử.
Huệ nói:
- Thế nào là khó xử.
Kỷ đáp:
- Chúa công đã nhận chức Nguyên soái của vua Lê, xét theo lẽ là nghĩa quân thần. Nay vua không xuống lệnh mà hạ mình trước dò ý Chúa công, nên Chúa công không nhận hoá ra là thất lễ với vua. Nhận cũng không được mà từ chối cũng không xong ấy là điều khó xử.
Nguyễn Huệ lo âu hỏi:
- Thật khó khăn cho ta, đằng nào cũng bị mang tiếng. Theo tiên sinh nên làm thế nào mới vẹn toàn.
Trần Văn Kỷ đáp:
- Tôi có kế khiến Chúa công dù chối ta cũng không thất lễ với vua.
Huệ mừng rỡ hỏi:
- Kế thế nào?
Kỷ e dè đáp:
- Xin Chúa công tha tội, tôi mới đám thưa.
Nguyễn Huệ bảo:
- Có kế hay xin tiên sinh cứ dậy. Đừng khách sáo giữ lẽ làm chi.
Văn Kỷ hiến kế:
- Ngươi Bắc Hà tự cho mình ở đất ngàn năm văn vật, xem quân Tây Sơn ta như man di mọi rợ. Côn chúa dù thông minh nhưng cũng là phận nữ nhi khuê môn bất xuất, tất cũng nghe lời đồn đại trong Hoàng gia mà không ngoại lệ khi nghĩ về Tây Sơn ta. Vậy Chúa công hãy đến gặp vua nói như vầy... như vầy. Khi ấy ắt công chúa sẽ chối từ, thì Chúa công khỏi thất lễ với vua. Lời tôi ngay thật xin Chúa công tha tội.
Nguyễn Huệ bảo:
- Tướng quân của ta có binh lính người Thượng nên những kẻ xấu thường thừa dịp bảo quân Tây Sơn ta là có quân man mọi. Việc nay ta có biết, tiên sinh nào có lỗi gì? Cám ơn tiên sinh bày diệu kế, ta phải lập tức thi hành.
Nói rồi liền cùng Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Chỉnh khăn áo sang chầu vua Lê.
***
Nói về vua Lê Hiển Tông, khi Nguyễn Hữu Chỉnh đi rồi vua liền gọi công chúa Ngọc Hân đến. Vua nói:
- Nay cha định gả con cho Nguyễn Huệ, chẳng biết ý con thế nào?
Công chúa kính cẩn hỏi:
- Thưa Phụ vương, việc này là do Nguyễn Huệ cầu hôn chăng?
Vua đáp:
- Việc này Nguyễn Huệ còn chưa biết.
Ngọc Hân lại hỏi:
- Vậy vì lẽ gì Phụ vương lại định gả con cho Nguyễn Huệ.
Vua đáp:
- Nguyễn Huệ đem quân đến đây diệt Trịnh trả nước cho nhà Lê ta. Nay nếu Nguyễn Huệ kéo quân về Nam, nước ta ắt loạn. Nên cha định gả con cho Nguyễn Huệ là lấy tình thật đãi người, ắt người cũng vì tình hết dạ giúp ta. Vả lại nay cha đã gần đất xa trời, thấy con lấy được một tấm chồng anh hùng kiết hiệt như Nguyễn Huệ cha mới yên lòng nhắm mắt.
Ngọc Hân thưa:
- Nếu là bậc anh hùng hào kiệt thì Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc Phụ vương mà kéo quân về Nam được. Phụ vương không cần gả con để giữ người.
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao con dám quả quyết như thế?
Ngọc Hân đáp:
- Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân đến đây, nay trong lúc nước ta con loạn lạc chưa yên mà bỏ mặc Phụ vương thì sao khỏi mang tiếng thất tín với thiên hạ. Nếu là bậc anh hùng hào kiệt ai lại làm điều thất tín, cần gì phải gả con. Còn nếu Nguyễn Huệ bỏ ta mà đi trong lúc này tất là người thất tín, cũng chỉ như phường thừa nước đục thả câu, tình gì mà phải giữ.
Vua giật mình nói:
- Con thật là sáng suốt. Nhưng cha đã sai Nguyễn Hữu Chỉnh đi dò ý Nguyễn Huệ, nếu Nguyễn Huệ bằng lòng thì con cũng nên ưng thuận cho cha được yên lòng.
Ngọc Hân an ủi rằng:
- Xin Phụ vương an tâm, Nguyễn Huệ đem quân đến đây vẫn một lòng tôn kính Phụ vương. Mở kho thóc họ Trịnh phát chẩn dân nghèo, quân không mảy mây xâm phạm của dân, bắt được cướp đem ra trước dân mà xử. Một đạo binh nghiêm kỷ như thế, thì tướng tất phải là người quang minh lỗi lạc. Nay việc đã lộ, cứ để xem ý Nguyễn Huệ thế nào con sẽ liệu mà xử sự.
Ngọc Hân vừa nói xong, quân canh vào báo:
- Tâu Bệ hạ, Nguyên soái xin vào yết kiến.
Vua bảo Ngọc Hân:
- Con hãy tạm lánh một sau bức bình phong. Để cha tiếp Nguyễn Huệ xem ý Huệ thế nào.
Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Trần Văn Kỷ vào đến thi lễ xong Huệ thưa:
- Tâu Bệ hạ, việc Bệ hạ nhận hạ thần làm phò mã thật thần không dám vâng lời.
Nhà vua buồn rầu nói:
- Nhà Lê của trẫm hai trăm năm này ví như là tù nhân được họ Trịnh cấp gạo cho ăn. Trẫm tiếng là vua, con gái trẫm tiếng là công chúa nhưng cảnh nhà thanh bạch thật là hữu danh vô thực. Trẫm biết thế nên đâu dám mời Nguyên soái đến hỏi thẳng, phải nhờ Hữu Chỉnh dò ý Nguyên soái. Chẳng ngờ Nguyên soái chê mà không thuận ý, nhà Lê của ta thật là vô phúc vậy.
Nguyễn Huệ thất kinh tâu:
- Xin Bệ hạ bình tâm cho thần tỏ đôi lời. Số là hạ thần không dám nhận làm phò mã; bởi thần ra đi vì nghĩa đối với vua đang bị họ Trịnh áp chế, vì nhân đối với dân đang cực khổ lầm than. Ấy là một lẽ. Nay nếu kể công mà nhận thưởng chẳng hoá ra là người giả nghĩa giả nhân ư? Ấy là hai lẽ. Còn công chúa nếu không ưng mà vâng lời Bệ hạ phải bằng lòng thì hoá ra hạ thần là kẻ ngu phu ư. Ấy là ba lẽ! Tâu Bệ hạ, vi ba lẽ ấy mà hạ thần không dám nhận. Xin Bệ hạ đừng nói tiếng chê mà thần phải mang tội khi quân thất kính.
Vua Lê vẫn dàu dàu hỏi:
- Nói đi nói lại rốt cuộc là Nguyên soái từ chối nhân duyên chứ gì?
Nghe vừa hỏi Huệ nghĩ thầm rằng, bây giờ có thể nói kế của Trần Văn Kỷ ra được rồi đây, bèn nói:
- Xin Bệ hạ cho thần được giáp mặt công chúa hỏi một câu. Nếu công chúa không chê hạ thần mới dám nhận, để khỏi mang tiếng là ép buộc nhân duyên.
Vua Lê cả mừng nói:
- Việc này nào có khó gì. Quân bay mau mời Ngọc Hân công chúa đến đây.
Ngọc Hân từ bình phong bước ra thi lễ với vua xong lại quay sang kính cẩn chào Nguyễn Huệ. Nguyên lúc Ngọc Hân ở sau bức bình phong nghe được cuộc đối đáp của Nguyễn Huệ với vua cha, nghe tiếng Nguyễn Huệ ngân như chuông, lời lẽ quang minh chính đại. Đến khi thấy Nguyễn Huệ mắt phượng mày tằm, ánh nhìn như chớp, tướng mạo phi phàm thì trong lòng sinh ra cảm phục. Còn Nguyễn Huệ thấy Ngọc Hân công chúa tóc mây, da tuyết, mày như lá liễu, mặt nhìn tựa sóng mùa thu, dung nhan cực kỳ diếm lệ thì nhìn mãi không thôi. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy mừng thầm nhắc khéo Nguyễn Huệ rằng:
- Thưa Chúa công, ấy chính là Ngọc Hân công chúa.
Nguyễn Huệ giật mình quở Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
- Ở nước ta, ngươi gọi ta là Chúa công đã đánh. Đây là ở nước Hoàng thượng, và ta đã nhận sắc phong của Hoàng thượng vậy là nghĩa tôi thần, ngươi còn gọi ta là Chúa công sao phải!
Rồi Huệ quay sang Ngọc Hân nói:
- Huệ tôi từ nơi xa đến đây, nghe thiên hạ đồn rằng công chúa Ngọc Hân sắc đẹp như tiên giáng thế nên người đời thường gọi là Chúa Tiên. Nay tôi đã thưa cùng Hoàng thượng xin cầu hôn công chúa. Chẳng hay ý công chúa thế nào?
Ngọc Hân cười nói:
- Cám ơn Chúa công đã có lòng đoái hoài. Nếu Chúa công đưa ra một lễ vật, thiếp nguyện suốt đời sửa túi nâng khăn.
Nguyễn Huệ hỏi:
- Tôi tuy không phải là người trong nước, nhưng nay đã nhan sắc phong của Hoàng thượng, xin công chúa hay gọi tôi theo sắc phong, chờ gọi là Chúa công theo thủ hạ của tôi. Công chúa muốn thách lễ cưới vật gì xin hãy nói ra.
Ngọc Hân đáp:
- Thiếp xin ra một vế đối, nếu Chúa công đối được ấy là Chúa công đã trao lễ vật vậy.
Nguyễn Huệ liền bảo:
- Điều thứ nhất xin công chúa chớ gọi tôi là Chúa công, Điều thứ hai xin hãy ra vế đối!
Ngọc Hân đáp:
- Nếu Chúa công đối được câu đối này thì thiếp sẽ không gọi là Chúa công mà gọi là Nguyên soái theo phong của Phụ hoàng thiếp. Vậy thiếp xin đọc vế đối:
Chúa công, Công chúa hội ngộ
Thiếp nghe nói Chúa công chỉ hay dùng văn Nôm mà không ưa văn Hán. Vậy Chúa công hay dùng văn Nôm mà đối lại câu văn Hán này.
Nghe Ngọc Hân công chúa nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh thất kinh hồn vía than thầm rằng:
- Cuộc nhân duyên chắc chắn lỡ làng, việc lớn của ta chẳng những bất thành. Nguyễn Huệ không đối được bị bẽ mặt, tính mạng ta e rằng khó giữ.
Nghĩ xong Chỉnh bèn kéo Trần Văn Kỷ ra xa hỏi nhỏ rằng:
- Công chúa ra câu đối hiếm như thế lại còn bắt dùng văn Nôm mà đối. Nếu Chúa công không đối được thì sao.
Trần Văn Kỷ cười đáp:
- Mục đích Chúa công đến đây là từ chối cuộc hôn nhân, nếu không đôi được thì càng tốt chứ sao.
Nghe Văn Kỷ nói Chỉnh lại càng rầu rĩ.
Còn vua Lê Hiển Tông kéo công chúa lại gần bảo:
- Nếu con không thuận ý thì thôi việc gì phải bày trò câu đối mà hạ nhục Nguyên soái. Con làm việc này là đã giết cha rồi đó.
Ngọc Hân đáp:
- Xin cha cứ an tâm, Nguyên soái không phải là người kém tài văn chương đâu.
Nói xong Ngọc Hân quay sang hỏi Nguyễn Huệ:
- Xin hỏi Chúa công có đối được chăng?
Bây giờ Nguyễn Huệ mới mỉm cười đáp:
- Bình sinh tôi chỉ tranh thắng thua nơi chiến trận, định kế mưu chém tướng đoạt thành. Trên lĩnh vực văn chương thật là mai một. Nay công chúa đã ra vế đối bằng văn Hán, bắt phải đối bằng văn Nôm, Huệ tôi tuy ít học nhưng để chứng tỏ văn Nôm của người Nam ta sao không đối được cùng văn Hán của người Tàu, nên cũng xin múa rìu qua mắt thợ.
Ngọc Hân nói:
- Vậy xin Chúa công hay đối đi cho.
Lúc ấy vua Lê Hiển Tông nghĩ Nguyễn Huệ không đối được sẽ kéo quân về Nam mà sợ toát mồ hôi hột, Nguyễn Hữu Chỉnh lo nhân duyên bất thành lại vạ đến thân, mặt không còn hột máu, chỉ Trần Văn Kỷ là bình thản như không. Bỗng nghe Nguyễn Huệ đáp lời Ngọc Hân rằng:
- Công chúa ra câu đối văn Hán: "Chúa công, Công chúa hội ngộ". Tôi xin đọc vế đối văn Nôm: "Một mai, mai một anh hùng".
Nguyễn Huệ vừa dứt lời, Nguyễn Hữu Chỉnh mừng quá buột miệng khen:
- Hay. Thật không còn vế đối nào hay và chỉnh hơn thế được!
Vua Lê Hiển Tông thở phào nói lớn:
- Nguyên soái thật là người hiếu trung gồm đủ, trí dũng có thừa, văn võ song toàn đó. Nguyên soái đã đối được vế đối, con còn gì để nói nữa chăng?
Ngọc Hân quỳ thưa:
- Nguyên soái đã trao lễ vật, xin Phụ vương cho con cùng người nên nghĩa Châu Trần.
Nguyễn Huệ cũng quỳ tâu:
- Đội ơn Bệ hạ đoái thương. Hạ thần xin được ra về nhờ người mai mối định ngày làm lễ tơ hồng.
Nói rồi vua Lê, Nguyễn Huệ, Ngọc Hân và Nguyễn Hữu Chỉnh vui vẻ chia tay. Chỉ có Trần Văn Kỷ là hãy còn thắc mắc. Về đến tư dinh, Văn Kỷ hỏi Nguyễn Huệ:
- Chúa công định từ cười hôn nhân, sao con đối vế đối của công chúa làm gì?
Nguyễn Huệ đáp:
- Lúc chưa gặp vua, mới nghe Hữu Chỉnh nói ta những tưởng vua vì bất đắc dĩ mới gả công chúa cho ta. Nếu nhận là ép người, bất nghĩa. Giờ tận mắt thấy vua thật lòng muốn nhận ta làm phò mã, nên chối từ hoá ra là khi quân thất lễ, nên ta phải thuận lòng. Vả lại, ta không bất nghĩa với vua Lê mà được làm phò mã thì càng danh chánh ngôn thuận phò vua nhà Lê, ắt có lợi cho việc tiến thoái về sau để thống nhất sơn hà. Văn Kỷ chớ nghĩ rằng ta say đắm nhan sắc của công chúa mới phải đối văn.
Trần Văn Kỷ vui vẻ nói:
- Trai anh hùng, gái thuyền quyền. Mối lương duyên này thật là do trời sắp đặt.
Đến ngày cưới, Nguyễn Huệ dâng lễ vật cho vua Lê, rước công chúa Ngọc Hân về soái phủ (Là phủ Chúa Trịnh lúc trước). Nhân dân ở thành Thăng Long hay tin đi xem đông như kiến, mọi người đều tấm tắc khen rằng:
- Công chúa con vua nước ta lại lấy em vua nước Tây Sơn. Thật trai tài gái sắc, xứng đôi phải lứa xứ này chưa từng thấy. Phò mã ắt phải giữ nước cho cha vợ, lo gì nước chẳng yên.
Rước Ngọc Hân về soái phủ rồi, Nguyễn Huệ hỏi Ngọc Hân rằng:
- Công chúa không thương thì thôi sao ra câu đối hiểm như vậy? Ngộ nhỡ tôi không đối được hoá ra công chúa muốn làm bẽ mặt tôi ư?
Ngọc Hân đáp:
- Khi ra về đối này thiếp đã nghĩ trước, chỉ có anh hùng trong thiên hạ mới đối được mà thôi. Phu quân là người anh hùng quan thế sao lại chẳng đối được câu này.
Nguyễn Huệ nắm tay Ngọc Hân nói:
- Mới gặp mặt lần đầu đã đoán biết anh hùng. Ta với nàng thật là tri kỷ. Anh hùng quán thế sánh duyên cùng tuyệt thế giai nhân, ấy chẳng phải là ý trời ư?
Nói rồi hai người cũng dắt tay nhau vào động phòng hoa chúc.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 39 Nguyễn Hữu Chỉnh thêm một lần bị đuổi khỏi nước. Nguyễn Long Nhương phải hai phen kháng lệnh vua anh.
Nói về vua Thái Đức nhà Tây Sơn ở Hoàng đế thành (thành Quy Nhơn) nghe quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ, Long Nhương tướng quân đã chiếm xong đất Thuận Hoá. Long Nhương sai quân mang thư báo tin thắng trận.
Vua Thái Đức mừng rỡ mở thư ra, đọc xong vua sa sầm nét mặt, đập tay xuống ngai quát:
- Nguyễn Huệ thật to gan!
Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
- Long Nhương tướng quân báo tin thắng trận vì sao Bệ hạ lại giận dữ nhà vậy?
Vua Thái Đức đáp:
- Ta lệnh cho Nguyễn Huệ đánh Thuận Hoá xong phải kéo quân về. Vậy mà Huệ sai người báo tin thắng trận lại báo luôn tin sẽ đem quân đi đánh Bắc Hà. Ấy chẳng phải là Nguyễn Huệ lộng quyền đã khinh thường ta, kháng mệnh hay sao?
Nguyễn Thung tâu:
- Long Nhương tướng quân xưa nay phàm làm việc gì cũng đặt quốc gia đại sự làm đầu, không kể về danh lợi, bản thân. Nay Long Nhương đem quân ra Bắc ắt không là ngoại lệ. Xin Bệ hạ bình tâm suy xét lại.
Nghe Nguyễn Thung nói, vua càng giận quát:
- Ngươi bao giờ cũng bênh vực cho Nguyễn Huệ cả. Ngươi tưởng rằng chức quan Ngự sử có thể can vua là ta không giết được người sao?
Thấy vua Thái Đức quá giận. Nguyễn Thung quỳ mọp dưới thềm không dám ngước lên. Vua gọi thái giám Vũ Tâm Can bảo:
- Ngươi hãy mau mang chiếu chỉ của ta ngay để ra thành Phú Xuân gọi Nguyễn Huệ về đây cho ta.
Vũ Tâm Can vâng lệnh đi ngay. Vừa bỏ mặc Nguyễn Thung quỳ dưới thềm đứng lên lui vào hậu cung. Vũ Tâm Can đi rồi tháng sau quay về báo:
- Tâu Bệ hạ, Long Nhương tướng quân và các tướng đã đem binh đánh Bắc Hà. Chỉ còn một mình Tiết chế Nguyễn Lữ ở lại trấn thủ Thuận Hoá mà thôi!
Vua Thái Đức hỏi:
- Huệ đem binh đi vào lúc nào?
Vũ Tâm Can đáp:
- Ngày trước Long Nhương sai người về kinh báo tin, ngày sau Long Nhương vội kéo quân đi.
Vua Thái Đức giận lắm, gằn giọng rằng:
- Nguyễn Huệ biết nếu xin lệnh của ta ắt ta sẽ không cho đi, nên nó chuẩn bị xuất binh trước rồi mới bảo ta hay. Đã đến nước này đành cho nó kéo binh về rồi sẽ hay. Lần này nếu ta không dùng phép nước mà trị tội nó thì còn gì là kỷ cương phép tắc.
Nghe vua Thái Đức nói, Vũ Tâm Can mừng lắm nhưng làm ra về buồn rầu rồi xin phép cáo lui.
Ít hôm sau quân lại vào dâng thư của Nguyễn Huệ và tâu với vua Thái Đức rằng:
- Tâu Bệ hạ, Long Nhương tướng quân đem binh vào Thăng Long đánh tan quân Trịnh. Long Nhương tướng quân sai người mang thư về xin Bệ hạ duyệt lãm.
Tiếp thư đọc xong, vua Thái Đức nói:
- Nguyễn Huệ mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc, nay đã đánh đến kinh thành Thăng Long. Huệ mượn cớ giúp vua Lê chỉnh đốn cõi Bắc mà đóng quân ở nơi ấy ít lâu rồi sẽ kéo quân về phục mệnh.
Vũ Tâm Can tâu:
- Long Nhương tướng quân chỉ trong một tháng mà lật đổ họ Trịnh làm Chúa ở Đàng Ngoài suốt hai trăm năm. Long Nhương hiện giờ vang danh khắp thiên hạ, trong tay nắm binh hùng tướng mạnh nên mới dám kháng lệnh của Bệ hạ. Long Nhương là người quyết đoán, nếu Bệ hạ không đích thân ra Bắc mà chỉ sai sứ giả đem chiếu đi triệu Long Nhương thì hạ thần e rằng chưa hẳn ông ấy đã vâng lời.
Vua Thái Đức nói:
- Lời ngươi thật là hữu lý, ta phải thân hành ra Bắc mới yên.
Nói rồi vừa thiết triều giao quyền cho con là Thái tử Nguyễn Bảo trông coi chính sự, việc binh nhung giao cho đại tướng Lê Trung. Vừa lại tuyển hai ngàn quân cấm vệ định ngày ra Thăng Long.
Quan ngự sử Nguyễn Thung biết việc ấy thì nghĩ thầm rằng: Càng ngày vua càng tin chắc rằng Long Nhương cậy công lấn quyền, phen này e Long Nhương nguy mất.
Nghĩ rồi bèn về nhà viết thư sai người tâm phúc ngày đêm đi gặp ra Thăng Long báo trước cho Nguyễn Huệ.
***
Nhắc lại ở thành Thăng Long, Nguyễn Huệ và Ngọc Hân công chúa thành thân được ít hôm thì vua Lê Hiển Tông lâm trọng bệnh. Vua cho vời Nguyễn Huệ và Ngọc Hân đến trăng trối:
- Nay ta biết mình không còn sống được nữa. Và sau khi ta mất đi Phò mã hãy đưa Hoàng tử tôn Lê Duy Kỳ lạ con trai Thái tử Lê Duy Vỹ lên kế vị. Duy Kỳ mới mười tám tuổi hãy còn nhỏ dại nhờ Phò mã hết lòng phò tá cho.
Nói xong vừa băng hà. Nguyễn Huệ đứng ra lo hậu sự cho vua rất trọng thể. Sau đó đưa Hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên ngôi. Lê Duy Kỳ lên làm vua lấy hiệu là Chiêu Thống (năm Bính Ngọ, 1786).
Việc vừa xong Nguyễn Huệ nghe quân vào báo:
- Thưa Long Nhương, có người tâm phúc của quan ngự sử Nguyễn Thung xin vào ra mắt.
Nguyễn Huệ giật mình nói:
- Nguyễn Thung sai người ra gặp ta tất có điều cơ mật. Mau cho vào.
Người nhà Nguyễn Thung vào dâng thư cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đọc xong trầm ngâm nói:
- Thật không ngoài dự liệu của ta. Nguyễn Thung mật báo cho ta hay, Hoàng huynh ngự giá ra Bắc triệu ta về kinh thành Quy Nhơn trị tội kháng mệnh. Ít hôm nưa Hoàng huynh sẽ đến đây.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Vậy Chúa công liệu tính thế nào?
Nguyễn Huệ đáp:
- Cứ để Hoàng huynh ta đến đây, rồi tuỳ theo thái độ của người thế nào ta sẽ liệu mà xử sự.
Vài hôm sau vua Thái Đức và hai ngàn quân cận vệ đến Thăng Long, Nguyễn Huệ cùng các tướng ra cổng thành Nam nghênh đón. Các tướng cũng quỳ tung hô vạn tuế, Nguyễn Huệ kính cẩn thưa rằng:
- Tâu Hoàng huynh, em chưa được lệnh của Hoàng huynh mà đã đem quân ra Bắc, khiến Hoàng huynh phải nhọc sức ngự giá đến đây. Em thật là đắc tội xin Hoàng huynh lượng thứ.
Vua Thái Đức an ủi rằng:
- Ta ở Hoàng đế thành nghe báo tin em chiếm Thuận Hoá xong liền đem quân ra đánh Bắc. Em đem binh đi đánh Thuận Hoá chỉ có hai vạn quân trong khi đó Bắc Hà đất rộng dân đông, binh họ Trịnh có hơn mười vạn, anh sợ em có điều sơ sảy là anh đã phụ lời di huấn của phụ thân, nên anh chẳng quản ngày đêm ra đến đây gọi em về đó.
Nói xong vua Thái Đức liền theo Nguyễn Huệ vào nội Trịnh phủ. Đêm ấy vua Thái Đức cho gọi đông đủ các tướng rồi bảo Nguyễn Huệ rằng:
- Em nhân danh Tây Sơn ta ra đây đánh Trịnh phò Lê. Nay họ Trịnh đã diệt, vậy em hãy lệnh cho ba quân tướng sĩ chuẩn bị quân trang ít hôm nữa thì kéo quân về.
Nguyễn Huệ thưa:
- Thưa Hoàng huynh, Chúa Trịnh tuy đã diệt nhưng dư đảng vẫn còn có Trịnh Lệ, Trịnh Bồng. Vả lại ngoài chúng dân loạn lạc, cướp bóc nổi dậy khắp nơi, nhân tình thật là thống khổ. Nay nước chưa yên mà ta đã vội kéo quân về thì đối với thiên hạ thật không đúng nghĩa tôn phò, e người đời đi nghĩ là Tây Sơn ta thất tín.
Vua Thái Đức vỗ án quát:
- Nguyễn Huệ thật to gan! Ngươi có hai tội đáng chết, ta nghĩ tình không bắt tội thì thôi, lại còn dám cãi nữa hay sao.
Huệ run run hỏi:
- Xin hỏi Hoàng huynh, em có hai tội gì gọi là đáng chết?
Vua cười gắn đáp:
- Ngươi còn giả vờ chưa biết thì hay nghe ta kể tội đây! Ta lệnh cho ngươi đem binh đánh Thuận Hoá dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi thiên hạ với họ Trịnh ở Bắc Hà. Ngươi lại dám cãi lời vua đem quân Bắc tiến. Tội thứ nhất là kháng mệnh bất trung. Phận làm con, việc hôn nhân là do mẹ cho định đoạt. Mẹ cha mất phải hỏi ý của anh. Nay mẹ vẫn còn đó, anh vẫn còn đây ngươi dám qua quyền mà tự tiện lấy vợ. Tội thứ hai là luân thường bất hiếu. Ta hỏi người bất trung bắt hiếu phải xử thế nào.
Nguyễn Huệ đập đầu thưa
- Hoàng huynh là người nhân đức, thích cảnh thái bình, ghét việc binh đao nên Hoàng huynh không muốn đem quân đánh Phú Xuân, Thuận Hoá. Đến lúc thấy nhân dân Thuận Hoá bị quân Trịnh áp bức không sống nổi phải trong vào nước ta nương nhờ thánh đức, Hoàng huynh liền xuống lệnh xuất quân. Ấy bởi Hoàng huynh không phải vì đất Thuận Hoá mà vì lòng nhân đức ra tay tế độ chúng dân. Khi em đánh chiếm Thuận Hoá xong rồi, đưa mắt nhìn ra ngoài cõi Bắc, thấy muôn dân cũng thống khổ lầm than, nên mới đem binh dẹp loạn. Xét về ly, tội là kháng mệnh, xét về tình là thi hành đức lớn của Hoàng huynh. Ấy là một lẽ.
Đi đánh Trịnh cứu dân phải mượn tiếng phò Lê. Vua Lê khăng khăng đòi nhận em làm Phò mã để danh chánh ngôn thuận mà vực nước cứu dân. Vua Lê lúc ấy đã lâm trọng bệnh chưa biết sống chết thế nào. Nếu nhà vua chẳng may khuất núi, việc hôn nhân ắt phải bất thành, thì còn đâu nghĩa cả giúp dân. Nếu em về Quy Nhơn xin phép mẹ và Hoàng huynh rồi lại trở ra, đường sá xa xôi núi sông cách trở mà vua Lê không cầm cự được lâu ngày, thành ra lỡ việc lớn, nên em buộc lòng phải tự quyết lấy. Quả nhiên, sau hôn lễ mấy ngày vua Lê đã băng hà. Sự thực là như thế, em nào dám gian dối. Xét theo lý, là qua quyền bất hiếu với mẹ cha, xét theo tình là hiếu với dân với nước. Ấy là hai lẽ. Xin Hoàng huynh hay vì hai tình ấy mà giảm cho hai tội chết kia.
Vua Thái Đức nói:
- Ngươi khá già mồm, giỏi biện luận. Ta vì tình cốt nhục mà tha cho tội chết chứ không phải vì những lời nguỵ biện ấy đâu.
Nguyễn Huệ thấy anh đã bớt giận bèn cố xin thêm:
- Hoàng huynh đã rõ em vì hai tình lớn mà phạm vào hai lỗi nhỏ, vậy xin Hoàng huynh cho đóng quân ở lại ít lâu giúp vua Lê cho vẹn tình trọn nghĩa tôn phò.
Vua Thái Đức gạt đi bảo:
- Ta tha cho ngươi tội chết, tội sống khó tha phải theo ta về Quy Nhơn phục mệnh.
Nguyễn Huệ thấy ý vua đã quyết không dám mở miệng. Nguyễn Hữu Chỉnh xen vào thưa:
- Long Nhương theo Bệ hạ về Quy Nhơn, cũng xin Bệ hạ hay cử tướng ở lại Bắc Hà phò giúp vua Lê là lòng dân xứ Bắc cũng chưa phải là không có lợi về sau.
Vua Thái Đức cười bảo:
- Hữu Chỉnh là tôi thần của vua Lê. Việc này ngoài ngươi ra còn ai có thể thuận lý hơn được nữa. Sau khi ta về Quy Nhơn sẽ để Hữu Chỉnh ở lại xứ Bắc giúp vua Lê.
Nguyễn Hữu Chỉnh mừng thầm lạy tạ lui ra. Bỗng nghe quân vào báo rằng:
- Tâu Bệ hạ, có vua Lê Chiêu Thống đến xin cầu kiến.
Vua Thái Đức hỏi Nguyễn Huệ:
- Ta định thu xếp việc trong nhà rồi sẽ sang bái yết vua Lê. Nay vua Lê lại đến đây trước, vậy phải làm thế nào cho phải?
Nguyễn Huệ đáp:
- Vua Lê hiện đang nhờ vả Tây Sơn ta, nay lại nghe tin Hoàng huynh đến đây nên vua Lê mới đến cầu kiến trước, ấy là việc phải làm của người thất thế. Những theo nghĩa ta lấy tiếng tôn phò để diệt Trịnh cứu dân, nếu để người ta cầu luỵ mình e rằng mất nghĩa. Xin Hoàng huynh xét lại.
Vua Thái Đức cười bảo:
- Ý em ta đã hiểu. Theo em là ta phải có bổn phận sang cầu kiến vua Lê cho đúng nghĩa tôn phò.
Nguyễn Huệ vội vàng đáp:
- Ý em không phải là như vậy.
Vua Thái Đức hỏi:
- Vua Lê sang cầu kiến ta thì ngươi bảo là e mất nghĩa. Vậy nếu ta không cầu kiến vua Lê thì là thế nào?
Huệ đáp:
- Vua Lê ở cung vua, Hoàng huynh ở phủ Trịnh vậy hai vua nên gặp nhau tại chính điện Kính Thiên là nơi dùng để thiết triều, thì không bên nào thất lễ với nhau. Hoàng huynh xem có tiện chăng?
Vua Thái Đức vừa ngáp vừa nói:
- Ta cũng gắng chiều ý ngươi cho trọn nghĩa tôn phò. Vậy hãy mau ra hẹn với vua Lê định ngày gặp nhau nơi chính điện.
Đến ngày hẹn, vua Thái Đức nhà Tây Sơn và vua Chiêu Thống nhà Lê gặp nhau tại chính điện Kính Thiên. Bên vua Lê chỉ toàn quan văn, bên Tây Sơn tinh là võ tướng. Sau khi thi lễ và phân ngôi chủ khách xong, vua Chiêu Thống nói:
- Bệ hạ từ Nam Hà lặn lội ra đến đây, tôi mới lên ngôi việc nước còn rối ren, không hay biết ra ngoài thành tiếp đón thật là thất lễ.
Vua Thái Đức khiêm tốn nói:
- Anh em tôi vì nghĩa tôn phò, đối với Bắc Hà là nước lớn, đối với Bệ hạ là kẻ bề trên. Tôi có bổn phận phải xin diện kiến với Bệ hạ, nếu để Bệ hạ tiếp đón e rằng không phải đạo.
Bỗng vua Chiêu Thống đứng dậy chắp tay nói:
- Được Bệ hạ ngự giá thân chinh đến tận nước tôi đem nghĩa tôn phò bố cáo cũng thiên hạ, ấy thật là hồng phúc của nước tôi vậy. Nay tôi có hai điều thỉnh cầu xin Bệ hạ thuận cho.
Vua Thái Đức hỏi:
- Hai điều ấy là điều gì?
Vua Chiêu Thống đáp:
- Điều thứ nhất là: Tôi còn nhỏ tuổi lại mới lên ngôi, thêm binh quyền không có, trong nước rối ren. Xin Bệ hạ cử tướng ở lại giúp tôi định quốc an dân rồi hãy quay về. Điều thứ hai là, nhà Lê tôi tiếng là làm vua, nhưng quyền hành đều trong tay họ Trịnh cảnh nhà thanh bạch không có gì để khao thưởng tướng sĩ. Vậy khi xong việc rút quân về, tôi xin dâng đất Nghệ An là nơi giáp giới với nước của Bệ hạ ở làm lễ khao quân. Chẳng hay ý Bệ hạ thế nào?
Vua Thái Đức cười đáp:
- Nguyễn Phúc Ánh vẫn ngấp nghé dấy loạn ở đất Gia Định nên nay tôi phải kéo quân về phòng khi có biến. Tôi sẽ để Hữu Chỉnh ở lại Bắc Hà giúp vua. Điều thứ nhất chắc chắn làm được. Quân Tây Sơn tôi ra đây vì nghĩa phò Lê diệt Trịnh, không vì lợi. Nếu là đất họ Trịnh một tấc cũng không để. Đất nhà Lê một tấc cũng không lấy. Xin Bệ hạ đừng nói điều cắt đất khao quân, tôi thật áy náy lắm.
Vua Chiêu Thống cả mừng nói:
- Ngày xưa Trịnh Sâm giết giết cha tôi. Nay Bệ hạ sai Nguyên soái kéo quân ra diệt Trịnh là đã trả giùm thù cha cho tôi rồi. Nhà Lê tôi bị họ Trịnh ở nên suốt hai trăm năm, nay được nắm giữ lấy vận mệnh nước nhà là Bệ hạ đã tái tạo cho nhà Lê tôi. Hai ơn ấy thật là ví như trời biển biết lấy gì báo đáp.
Vua Thái Đức xua tay nói rằng:
- Tôi ra đây vì nghĩa thì sao dám kể ơn. Xin Bệ hạ hay giữ lấy kỷ cương, lập lại giềng mối nối nghiệp Tiên đế để hai nước đời đời giao hảo là tôi đã thoả nguyện lắm rồi.
Nói xong vua Thái Đức cáo biệt vua Chiêu Thống cùng các tướng quay về phủ Chúa Trịnh.
Hôm sau vua Thái Đức gọi Nguyễn Huệ đến bảo:
- Em hãy lệnh cho các tướng chuẩn bị quân trang nửa đêm nay sẽ rút đại binh về nước!
Nguyễn Huệ hỏi:
- Nếu Hoàng huynh kéo binh về nước bỏ mặc vua Lê thì còn đâu là nghĩa tôn phò, e rằng thất tín với thiên hạ. Xin Hoàng huynh xét lại.
Vua Thái Đức gạt đi bảo:
- Nguyễn Hữu Chỉnh muốn mượn tay Tây Sơn ta đưa hắn về nước nên mới xui người mượn tiếng phò Lê đánh Trịnh. Ngươi không rõ bụng hắn vội nghe lời hắn kháng lệnh ta kéo quân ra Bắc. Nay ta lệnh cho ngươi lập tức kéo quân về. Có thất tín là thất tín với vua Lê và dân xứ Bắc chứ có thất tín với dân nước ta đâu mà ngại. Vả lại ta hứa với vua Lê rằng sẽ để Hữu Chỉnh ở lại Bắc Hà giúp vua Lê thì ta vẫn để Hữu Chỉnh lại đấy thôi. Sao bảo rằng ta thất tín.
Nguyễn Huệ biết anh đã quả quyết thế, không dám van nài bèn hỏi:
- Em vẫn biết Chỉnh muốn mượn quân Tây Sơn ta làm bá vương nơi cõi Bắc. Những em kéo binh ra đã là diệt Trịnh cứu dân không phải vì chẳng hiểu bụng Chỉnh. Chính vì vậy nên em định để tướng của ta ở lại Bắc Hà giúp vua Lê, chứ không phải là Hữu Chỉnh. Đã biết bụng Chỉnh sao Hoàng huynh còn cho hắn mượn binh ở lại Bắc Hà.
Vua Thái Đức đáp:
- Lệnh rút quân không được để lộ cho Hữu Chỉnh biết. Ta nào cho hắn mượn binh. Ngươi Thăng Long oán Chỉnh đến xương tuỷ. Ta chỉ muốn để hắn lại một mình không quản, không tướng, mượn tay người Bắc Hà giết hắn mà thôi.
Nguyễn Huệ hỏi:
- Vậy là Hoàng huynh không cho người ở lại giữ vua Lê?
Vua Thái Đức nghiêm mặt bảo:
- Ý ta đã quyết em chớ nhiều lời.
Nguyễn Huệ không dám cãi lời, lặng lẽ lui ra. Vua Thái Đức lại sai quân gọi Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh đến, vua cười nói:
- Ngọc Hân công chúa thật là xinh đẹp. Nguyễn Huệ mới ra đã được khanh làm mối cho một cô vẻ đẹp đến thế. Nay ta đã đến đây khanh có thể làm mối cho ta được chăng?
Hữu Chỉnh thấy vua Thái Đức vui vẻ, mạnh dạn thưa rằng:
- Nếu Bệ hạ không chê gái Bắc Hà thì thần sao dám tiếc công làm mối.
Vua Thái Đức vờ mừng rỡ bảo:
- Vậy ngày nay khanh phải ở lại đây với ta tâm sự hàn huyên. Ngày mai khanh phải khéo tìm cho ta một cô vợ nhé.
Nói rồi sai quân bày yến tiệc cùng Nguyễn Hữu Chỉnh chén tạc chén thù. Nguyễn Hữu Chỉnh ngỡ vua lấy lòng mình để nhờ mình tìm vợ nên chẳng nghi ngờ gì cả, cứ thật lòng ăn uống no say. Đến nửa đêm Nguyễn Hữu Chỉnh đã ngà ngà say. Vua Thái Đức nói:
- Trẫm sẽ sai người đưa khanh về đến tận bản doanh. Khanh muốn ở lại Bắc Hà, trẫm sẽ cho khanh được toại nguyện. Nhưng nhờ rằng ngày mai hay tìm cho trẫm một cô vợ đấy nhé.
Nguyễn Hữu Chỉnh mừng rỡ lậy tạ ơn rồi cáo biệt ra về. Đến nhà Nguyễn Hữu Chỉnh nói với thủ hạ là Nguyễn Viết Tuyển rằng:
- Nguyễn Huệ phen này phải theo vua Thái Đức về Quy Nhơn thọ tội kháng lệnh. Vua Thái Đức sẽ cho ta cầm binh ở lại định yên cõi Bắc, chí của ta phen này đã thành. Nguyễn Huệ bị tước quyền rồi hỏi trong thiên hạ còn ai anh hùng hơn ta được. Khi ở Phú Xuân ta xui Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc ấy là kế "nhất tiễn diệt song điêu" của ta vậy.
Nói rồi thích thú trong lòng nằm lăn ra mà ngủ.
Mấy tên quân đưa Hữu Chỉnh về rồi quay lại báo cùng vua Thái Đức:
- Nguyễn Hữu Chỉnh về đến nhà liền ngủ say không hay biết gì cả.
Vua Thái Đức bảo:
- Truyền lệnh ta lập tức rút quân về nước!
Nửa đêm hôm ấy quân Tây Sơn theo hai đường thuỷ, bộ lặng lẽ rút binh. Mờ sáng hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh còn đang mơ màng với giấc mộng Bá vương bỗng có người lay mình dậy và gọi lớn:
- Tướng quân dậy mau. Tướng quân dậy mau!
Chỉnh giật mình thức giấc, thấy người gọi mình là Nguyễn Viết Tuyển, bèn hỏi:
- Việc gì mà người hốt hoảng thế?
Nguyễn Viết Tuyển đáp:
- Quân Tây Sơn đã rút toàn quân về nước mất rồi!
Chỉnh trấn an Tuyển rằng:
- Làm gì có việc ấy. Ta vừa cùng vua Thái Đức uống rượu đến nữa đêm có nghe động tĩnh gì đâu?
Nguyễn Viết Tuyển thưa:
- Dân chúng trong thành đều truyền miệng nhau như vậy, ngoài kia đang náo động cả lên. Tôi vừa cho mấy tên quân do thám đến trại quân Tây Sơn xem thế nào, chắc gần về tơi.
Tuyển vừa dứt lời mấy tên quân do thám chạy vào báo rằng:
- Thưa tướng quân, người ngựa thuyền bè của quân Tây Sơn không còn một ai cả.
Lúc ấy Hữu Chỉnh thất kinh than:
- Nguyễn Nhạc lừa ta. Nguyễn Nhạc lừa ta. Hắn bỏ ta ở lại Bắc Hà không quân, không tướng để mượn tay người Bắc Hà giết ta đây mà.
Vừa than dứt lời đã nghe ngoài cổng tiếng người giục nhau rằng:
- Quân Tây Sơn đã đi rồi, ta mau giết Hữu Chỉnh đi để làm giương cho những kẻ dẫn giặc về phá nhà.
Hữu Chỉnh liền cùng Viết Tuyển và mấy tên quân đem gia quyến đi ngõ sau trốn ra phía bờ sông. Đến bến sông Nguyễn Viết Tuyển cướp được một chiếc thuyền lớn bèn đưa gia quyến xuống thuyền. Vừa lúc ấy có vài mươi người cầm vũ khí đuổi đến nơi, bị Nguyễn Hữu Chỉnh đứng trên bờ vung gươm giết sạch. Lên thuyền rồi Chỉnh sai quân giong buồm ra cửa bể. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Giờ tướng quân định đi đâu?
Chỉnh đáp:
- Đi theo quân Tây Sơn chứ còn đi đâu nữa!
Tuyển lại hỏi:
- Nguyễn Nhạc định mượn tay người Bắc Hà giết ta. Nay ta lại theo Nhạc, chắc gì Nhạc đã dùng?
Chỉnh đáp:
- Nếu Nhạc đang tâm giết ta cần gì phải mượn tay người. Vả lại không theo Nhạc con biết phải đi đâu?
Nói rồi truyền quân cứ cho thuyền thẳng hướng Nam mà chạy theo thuỷ quân Tây Sơn.
***
Về phần vua Lê Chiêu Thống nghe quân bảo rằng quân Tây Sơn đã rút cả về Nam. Vua thất kinh nói:
- Nguyễn Nhạc thật là xảo ngon thất tín. Hắn vừa hứa với ta sẽ cho tướng ở lại trợ giúp ta, nay lặng lẽ bỏ đi, lại lấy hết cả vàng bạc châu báu trong kho chúa Trịnh. Giờ trong nước trống rỗng, ngộ nhỡ sinh ra biến loạn thì lấy gì mà trị?
Trần Công Xán bàn rằng:
- Trước khi Tiên đế chưa băng hà, thần đã biết rằng quân Tây Sơn mượn tiếng tôn phò để mưu đồ tư lợi, hạng người ấy còn kế gì đến tín nghĩa. Ấy bởi do ta cả tin mà thôi. Việc đã lỡ trách họ cũng chẳng ích gì. Nay Bệ hạ nên hạ chiếu cần vương đem đi các trấn triệu các tướng về bảo vệ kinh thành để phòng sinh biến loạn.
Vua Chiêu Thống khen phải bèn y theo kế của Trần Công Xán mà làm. Quân các trấn nhận được chiếu cần vương của vua Chiêu Thống bên vin vào cớ ấy chiêu binh mãi mã, mỗi người hùng cứ một phương đánh giết lẫn nhau. Quân lính lại được dịp kết bè lập đảng cướp bóc của dân. Thân ôi! Trăm họ thêm lầm than, sinh linh càng điêu đứng, Nhân dân Bắc Hà vì lẽ ấy lại đâm oán Tây Sơn. Họ truyền với nhau rằng: Cứ dưới ách Chúa Trịnh đành rằng là sưu cao thuế nặng, nhưng vẫn còn chút pháp luật kỷ cương. Quân Tây Sơn mượn tiếng phò Lê, diệt Trịnh rồi lấy của cái kéo binh về để nước ta loạn lạc là do anh em Nhạc, Huệ vậy.
***
Nhắc lại anh em vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ theo đường bộ vào đến Nghệ An trời vừa sẩm tối. Vua liền truyền lệnh nghỉ đêm nội thành Nghệ An. Xảy nghe quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ, Nguyễn Hữu Chỉnh đem gia quyến theo ta xin được vào ra mắt.
Vua Thái Đức giật mình nói:
- Khá khen Hữu Chỉnh quyền biến. Ta bỏ hắn cho người Bắc Hà giết hắn, vậy mà hắn lại thoát chết chạy theo ta. Hữu Chỉnh tuy là người giảo quyệt nhưng chưa từng ra mặt phản ta, nay vô cớ giết đi thì không nỡ. Vậy theo Huệ phải làm thế nào?
Nguyễn Huệ đáp:
- Chỉnh vì bất đắc dĩ mới ở dưới trướng của ta Nguyễn Duy vừa theo hàng ta, hai người này trước sau gì mà chẳng phản ta. Nay Hoàng huynh nên lựa chừng một ngàn quân vừa mới tuyển được ở Bắc Hà cấp cho Hữu Chỉnh, Nguyễn Duy ở lại trấn thủ đất Nghệ An. Nếu họ không phản thì ta có được đất Nghệ An. Nếu họ phản thì ta cũng chẳng mất gì vì Nghệ An là đất của nhà Lê.
Vua Thái Đức hỏi:
- Lời em rất phải. Nhưng em một dạ phò Lê nay lại lấy đất của nhà Lê là thế nào?
Huệ đáp:
- Em phò Lê không phải vì nhà Lê, mà vì dân vậy.
Vua Thái Đức lại bảo:
- Vậy em hãy thay ta mà nói chuyện cùng Hữu Chỉnh. Ta không muốn gặp mặt Chỉnh.
Nguyễn Huệ vâng lời bái tạ đi ra ngoài. Gặp Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ nói:
- Hoàng huynh ta bất ngờ ra Bắc đem ta về trị tội kháng lệnh. Hoàng huynh lại không cử tướng ở lại giúp vua Lê khiến cho ta phải thất tín với thiên hạ. Còn ông vì tôi khuyên ta đi đánh Bắc Hà nên Hoàng huynh ta mới để ông ở lại cõi Bắc mà không muốn cho theo.
Nguyễn Hữu Chỉnh buồn rầu nói:
- Tướng quân bỏ về Nam không cử tướng giúp vua Lê khiến Bắc Hà loạn lạc. Lòng người xứ Bắc lại đổ tội cho tôi rước gấu về phá tổ ong. Nếu Hoàng thượng không cho theo mà để tôi ở lại xứ Bắc không quân không tướng thì chỉ có chết mà thôi. Tướng quân có cách gì cứu tôi chăng?
Nguyễn Huệ không đáp mà hỏi lại Chỉnh rằng:
- Ông có biết vì sao ta đem quân ra đánh Bắc Hà không?
Chỉnh đáp ngay:
- Chí của tướng quân là thống nhất giang sơn.
Huệ cười bảo:
- Khá khen ông biết chí của ta. Vậy ông có nghĩ rằng ta cũng biết chí của ông chăng.
Chỉnh đáp ngay:
- Tôi hiểu tướng quân thưa biết chí của tôi.
Huệ cười bảo:
- Ta cố van nài, Hoàng huynh ta đã bằng lòng cấp cho ông một ngàn quân mà ở lại trấn thủ Nghệ An. Ý ông thế nào?
Chỉnh dè dặt hỏi:
- Đã biết chí tôi là muốn xưng hùng đất Bắc, sao tướng quân còn cấp binh mã cho tôi trấn thủ Nghệ An?
Huệ trầm ngâm đáp:
- Sau khi ta bỏ vua Lê mà đi, Bắc Hà tất loạn. Nhân tài xứ Bắc chỉ mỗi mình ông. Ta cấp binh chống trấn thủ Nghệ An. Ít lâu sau nước loạn, vua Lê Chiêu Thống sẽ gọi ông đem quân về cứu giá, khi đó tất ông sẽ được toại chí. Nhưng nếu bạc đãi vua Lê bức bách hoàng gia, thì ta sẽ đem quân Tây Sơn ra Bắc lần nữa để trừ ông đó.
Hữu Chỉnh cả mừng đáp:
- Được vậy thì còn gì bằng. Ấy là nhờ ơn tái tạo của tướng quân, Chỉnh tôi xin tạc dạ ghi lòng. Chỉnh tôi muốn xưng hùng đất Bắc cũng chỉ vì muốn binh yên đất nước mà thôi. Xin tướng quân chớ nghi ngờ.
Nguyễn Huệ cười bởi:
- Biết lòng thành của ông, ta còn xin cho tướng theo giúp việc cho ông. Ông mà biết được còn vui mừng nhiều đấy.
Hữu Chỉnh lo Nguyễn Huệ cho tướng theo giám sát mình, dè dặt hỏi:
- Tướng ấy là ai?
Nguyễn Huệ đáp:
- Là huynh đệ đồng môn với ông, Nguyễn Duy tướng quân đó.
Nguyễn Hữu Chỉnh vờ khen Nguyễn Huệ rằng:
- Tướng quân thật sáng suốt. Nguyễn Duy trước cũng là tướng Trịnh, nay tướng quân để anh em tôi trấn đất Nghệ An thì mặt Bắc không phải lo gì nữa.
Sáng sớm hôm sau vua Thái Đức lại truyền quân lên đường về Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Duy ra cổng Nam thành Nghệ An đưa tiễn. Đi được một đoạn, Nguyễn Huỳnh Đức giục ngựa theo xe vua tâu:
- Tâu Bệ hạ, đành rằng Nguyễn Hữu Chỉnh chưa ra mặt phản ta, nhưng Chỉnh là người xảo trá không thể tin được. Nay cấp quân cho hắn ở lại Nghệ An khác nào thả hồ về rừng.
Vua Thái Đức nói:
- Ta vẫn biết thế nhưng người ta chưa phản giết đi thi không nỡ, Vả lại đất Nghệ An là của Lệ Trịnh. Chỉnh có phản ta, ta cũng chẳng mất gì.
Huỳnh Đức lại thưa
- Hạ thần đội ơn tha mạng của Bệ hạ chưa là được công gì trả đặng. Xin Bệ hạ cho được ở lại trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Duy để thăm dò động tĩnh và có cách kiềm chế họ.
Vua Thái Đức khen phải rồi bảo Nguyễn Huệ đưa Nguyễn Huỳnh Đức quay lại cùng Nguyễn Hữu Chỉnh. Dọc đường Nguyễn Huệ bảo Huỳnh Đức:
- Hoàng huynh ta để Huỳnh Đức ở lại trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh mới là thả hổ về rừng đó.
Huỳnh Đức giật mình hỏi:
- Long Nhương nói vậy là ý thế nào?
Huệ cười đáp:
- Đức gạt Hoàng huynh ta, chứ gạt ta sao được. Phen này ngươi đã bỏ ta mà đi rồi đó.
Nguyễn Huỳnh Đức ngồi trên ngựa với Nguyễn Huệ rồi nói:
- Ngày trước tôi bằng lòng hàng tướng quân là có điều giao ước. Nay nghe Chúa tôi đang ẩn náu tại Tiêm La Quốc, nên tôi xin ở lại trấn thủ Nghệ An để tìm đường theo Chúa. Xin Long Nhương chớ quên lời giao ước năm xưa.
Huệ cười bảo:
- Người quân tử nói phải giữ lời, ta quên sao được. Nhưng vì đâu ngươi không xin ta thả cho ngươi đi mà kiếm cớ ở lại Nghệ An?
Nguyễn Huỳnh Đức không nói, cười lớn lên mấy hồi. Nguyễn Huệ hỏi:
- Huỳnh Đức cười gì mãi thế.
Bảy giờ Nguyễn Huỳnh Đức mới đáp:
- Nếu tôi theo Long Nhương về Quy Nhơn, vua Thái Đức bắt tội kháng lệnh của Long Nhương, và con ai có thể thả cho tôi theo Chúa được. Phen này Long Nhương không bị tội chết cũng bị tước mất binh quyền thì còn ai là đối thủ của Nguyễn Vương. Tôi cười là do thế.
Nghe Huỳnh Đức nói xong, Nguyễn Huệ cũng ngửa mặt lên trời cười lên mấy hồi. Đức ngạc nhiên hỏi:
- Tôi nói không đúng sao mà Long Nhương cười mãi thế?
Nguyễn Huệ nín cười đáp:
- Tuy không có ta, nhưng ngươi quên mất một người là đối thủ của Nguyễn Phúc Ánh.
Đức hỏi:
- Người ấy là ai?
Huệ đáp:
- Người này đang trấn thủ đất Gia Định, ngày trước đã bắt sống ngươi tại cửa Hàm Luông. Ấy chính là Đô đốc Đặng Văn Long.
Nguyễn Huệ nói xong cũng vừa đến nơi. Huệ bèn giao Huỳnh Đức cho Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi quay ngựa chạy theo vua Thái Đức.
Khi đại binh Tây Sơn về đến Động Hải (Động Hải, Quảng Bình ngày nay), vua Thái Đức gọi Vũ Văn Nhậm đến bảo:
- Nay ta cho con năm ngàn binh mã trấn thủ Động Hải và luỹ Trường Dục. Nếu Nguyễn Hữu Chỉnh phản ta thì con hãy dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi thiên hạ với nhà Lê, và làm thế môi răng cùng Nguyễn Lữ ở Phú Xuân. Khi chưa có lệnh không được đem quân ra khỏi sông Linh Giang. Con nên cố gắng chớ phụ lòng ta.
Vũ Văn Nhậm hỏi:
- Con ở tiền biên trấn thủ Động Hải, Trường Dục. Tiết chế hoàng thúc trấn thủ thành Phú Xuân, và còn Long Nhương hoàng thúc thì thế nào?
Vua Thái Đức đáp:
- Ta phải đem Nguyễn Huệ về Quy Nhơn thọ tội kháng mệnh.
Nói rồi vua Thái Đức đem đại binh về Phú Xuân. Vũ Văn Nhậm trấn thủ Động Hải vui mừng nghĩ thầm rằng:
- Trong các tướng, tài của ta chỉ kém Long Nhương hoàng thúc. Nay Long Nhương theo Phụ hoàng về Quy Nhơn thọ tội, để Tiết chế hoàng thúc trấn thủ Phú Xuân. Tiết chế là người thật thà như nhược, vậy binh quyền ở đất Thuận Hoá này không về tay ta thì còn ai vào đây nữa.
Quân Tây Sơn về đến Phú Xuân thì trời vừa tối. Vua Thái Đức truyền quân nghỉ đêm tại thành Phú Xuân. Đêm ấy Nguyễn Huệ đi đi lại lại trong phòng, hết ngồi rồi đứng không sao ngủ được. Trần Văn Kỷ hỏi:
- Nguyễn Hữu Chỉnh nuôi mộng Ba Vương. Nguyễn Duy là người phản phúc. Nguyễn Duy trước bỏ Nguyễn hàng Trịnh, sau bỏ Trịnh hàng ta đều do Nguyễn Hữu Chỉnh lấy tình huynh đệ đồng sư môn mà thuyết cả. Nay Long Nhương lại cấp quân cho họ trấn đất Nghệ An khác nào xui họ làm phản ta sao.
Nguyễn Huệ đáp:
- Nhà Lê đã đến hồi mạt vận, không người tài giữ lấy kỷ cương. Tướng lĩnh Bắc Hà ai cũng mượn tiếng phò Lê, mưu đồ danh lợi. Ta rút binh về Bác Hà ắt loạn. Vậy nên tôi mới xin Hoàng huynh cho Hữu Chỉnh trấn đất Nghệ An được gần Thăng Long. Sớm muộn gì vua Chiêu Thống lại chẳng mật chiếu với Hữu Chỉnh về kinh giúp vua. Nhân tài Bắc Hà chỉ có Hữu Chỉnh là trội hơn cả, Chỉnh nắm quyền phò vua, may ra có thể tạm yên phần nào đất Bắc, trong khi ta con bận đối phó với Hoàng huynh ở mặt Nam.
Trần Văn Kỷ e dè hỏi:
- Long Nhương nói vậy nghĩa là...
Huệ tiếp lời:
- Vì muôn dân đại nghĩa, ta không thể nào theo Hoàng huynh về Quy Nhơn thọ tội. Tính Hoàng huynh ta đã biết, rất thương kẻ cũng đường nhưng không muốn ai hơn mình. Khi ta lần thứ hai kháng mệnh ai dám chắc rằng Hoàng huynh không dấy động can qua.
Sáng hôm sau Nguyễn Huệ dẫn các tướng đến gặp vua Thái Đức. Huệ tâu:
- Thưa Hoàng huynh, đất Thuận Hoá chưa yên lòng dân còn ly tán, xin Hoàng huynh cho em ở lại trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá lập lại kỷ cương...
Huệ chưa dứt lời vua Thái Đức vỗ án quát:
- Nguyễn Huệ to gan! Tội khi quân kháng lệnh của ngươi ta không giết thì thôi. Ta lệnh cho ngươi về Quy Nhơn thọ tội, ngươi lại xin ở lại Phú Xuân là thế nào.
Nguyễn Huệ khóc nói:
- Xin Hoàng huynh bớt giận mà bỏ lỗi cho, lần này em không thể nghe lệnh Hoàng huynh.
Vua Thái Đức hét lớn rằng:
- Quân bay mau bắt Nguyễn Huệ lại cho ta.
Nguyễn Huệ khóc lớn nói:
- Hoàng huynh nghĩ rằng lính của Hoàng huynh có thể bắt được em sao?
Lúc bấy giờ các tướng Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đều là người tâm phúc của Nguyễn Huệ cả. Bọn họ đều lặng lẽ cúi đầu. Vua Thái Đức biết các tướng nghe lời Nguyễn Huệ mà không nghe lệnh mình nhưng cũng gắng nạt thị oai:
- Các ngươi không nghe lệnh của ta ư? Muốn làm phản hay sao?
Các tướng vẫn lặng thinh. Nguyễn Lữ bước ra khóc hỏi:
- Long Nhương huynh vì Hoàng huynh và nhà Tây Sơn đánh Nam dẹp Bắc có tội gì mà Hoàng huynh bắt tội.
Rồi quay sang Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ thật thà khóc hỏi:
- Xưa nay Hoàng huynh chỉ lấy đạo nhà mà dậy có bao giờ dùng phép nước trị tội anh đâu. Sao ăn không theo Hoàng huynh về Quy Nhơn thọ tội, gây nên cảnh huynh đệ bắt hoa như thế này.
Bỗng Nguyễn Văn Tuyết bước ra hỏi lớn:
- Xin hỏi Bệ hạ, Long Nhương tướng quân có tội gì. Kể từ khi Tây Sơn Thượng dấy binh đến nay, ai đã vì Bệ hạ ra Bắc vào Nam dựng nên nghiệp lớn? Đánh thành Quy Nhơn xong Bệ hạ lại mượn lời di huấn của phụ thân không để Long Nhương xông pha nơi hiểm nghèo mà chẳng cho cầm quân Bắc tiến. Vậy tại sao gặp quân Tôn Thất Hương kéo binh ba vạn vào sông Lại Dương Giang Bệ hạ lại gọi Long Nhương đem quân làm tiên phong đánh giặc mà quên lời di huấn của phụ thân? Rồi ai đã đánh tan hai vạn quân Tống Phước Hiệp ở Phú Yên cứu Tây Sơn ta thoát khỏi thế lưỡng đầu thọ địch của hai nhà Trịnh -Nguyễn. Như vậy không phải vào chốn hiểm nghèo hay sao. Kể đến Long Nhương khuyên Bệ hạ vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Thuần, Bệ hạ hẹn lần hẹn lữa chẳng chịu xuất quân để khi Long Nhương phải giả du xuân ngã ngựa Bệ hạ liền sai Nguyễn Lữ đem binh Nam tiến. Ấy chẳng phải là Bệ hạ đố tài kiềm chế Long Nhương sao? Lại nữa, vì đâu khi vào Gia Định tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La hùm cọp, Long Nhương vội vã kéo quân về để cho anh khỏi sinh lòng ngờ vực. Nay ra Bắc Hà cũng một lòng vì dân vì nước, công không kể thì thôi, xin hỏi Bệ hạ, Long Nhương tướng quân có tội gì mà phải bắt?
Nguyễn Văn Tuyết nói một hồi, vua Thái Đức không biết trả lời thế nào, bèn vỗ án quát:
- Nguyễn Văn Tuyết! Ngày ngươi thích khách Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát không thành, cướp ngựa Xích kỳ mà trốn, ai đã cứu người thoát chết khỏi tay giặc dữ. Nay ngươi đủ lông đủ cánh là hùa theo Nguyễn Huệ mà phản ta sao.
Nguyễn Văn Tuyết khẳng khái đáp:
- Ơn Bệ hạ cưu mang Tuyết hạ thần sao đã quên. Nhưng ơn ấy là tình riêng, việc quốc dân là nghĩa chung, thần không thể vì tình riêng mà bỏ nghĩa chung được. Hẹn khi nào non nước bình yên thần sẽ đem mạng mình về Quy Nhơn trả cho Bệ hạ.
Vua Thái Đức đưa mắt nhìn các tướng rồi chậm rãi nói:
- Vậy là các ngươi đều một lòng ở lại đất Thuận Hoá phò Nguyễn Huệ phản lại ta. Nguyễn Lữ mau theo ta về Quy Nhơn.
Nói xong vua Thái Đức liền bước ra ngoài chính điện đem hai ngàn quân cấm vệ thẳng đường về Nam. Nguyễn Lữ vừa khóc vừa bái biệt Nguyễn Huệ và các tướng rồi lên ngựa chạy theo vua Thái Đức. Nguyễn Huệ nhìn theo anh và em mỗi lúc một xa hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Các tướng đều cúi đầu ứa lệ.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 40 Nhờ tình mẫu tử, Nguyễn Huệ lập kế can anh. Mượn nghĩa tôi thần, Nguyễn Hữu Chỉnh xin quân đánh giặc.
Về đến Quy Nhơn vua Thái Đức liền thiết triều. Vua giận dữ bảo các quan văn võ rằng:
- Nguyễn Huệ thật khinh ta quá lắm! Nó ỷ có quân đông tướng mạnh, dám ngang nhiên cãi lệnh ta không về Quy Nhơn mà đóng binh nơi Thuận Hoá. Các tướng mau kiểm điểm binh mã cùng ta cất quân đánh Thuận Hoá hỏi tội Nguyễn Huệ mới hả cơn giận của ta.
Nguyễn Lữ bước ra khóc nói:
- Xin Hoàng huynh bớt giận, hiện Long Nhương huynh có trong tay hai vạn tinh binh, các tướng giỏi từ lúc Tây Sơn Thượng dấy nghĩa như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc đều theo về dưới trướng. Vả lại tướng của ta ở kinh thành chỉ còn lại hai cha con Lê Trung, Lê Chất, quân sĩ của ta từ trước đến nay đều sợ ơn uy của Long Nhương huynh. Nay nếu Hoàng huynh gây cuộc binh đao huynh đệ tương tàn, em e rằng đã không thắng được mà tiếng nhơ còn để ngàn sau. Xin Hoàng huynh xét lại.
Vua Thái Đức quát lớn:
- Nhưng nó khinh ta ra mặt hôi ta nhịn sao cho nổi.
Thái giám Vũ Tâm Can bước ra thưa:
- Tâu Bệ hạ, ngày trước cha thần vì phạm tội uống rượu phải tự đâm cổ mà chết để tỏ rõ là quân pháp bật vị thân. Huống hồ nay Long Nhương đã hai lần kháng mệnh, khi quân phạm thượng. Nếu Bệ ha không cử binh vấn tội, thần e lòng người bất phục.
Nghe nói vậy, vua Thái Đức càng quả quyết bảo các quan rằng:
- Các khanh mau về kiểm điểm binh mã, chuẩn bị lương thảo đạn dược, ta sẽ thân chinh hỏi tội Nguyễn Huệ. Ý ta đã quyết không ai được can ngăn.
Nói xong vua truyền bãi triều. Các quan văn võ đều ra về thu xếp công việc. Quan ngự sử Nguyễn Thung vừa đi vừa nghĩ rằng, nếu Hoàng thượng cất binh ra đánh Long Nhương tướng quân thì hai bên đều hao binh tổn tướng, lòng người tan rã. Nhà Tây Sơn phen này nguy mất. Ta phải có cách gì ngăn vua mới được.
Về đến nhà, Nguyễn Thung cứ đi đi, lại lại nhăn trán cau mày mà chưa nghĩ ra cách gì. Bỗng có người tâm phúc vào thưa rằng:
- Thưa đại quân, tháng trước đại quan sai tôi đem mật thư ra Thăng Long cho Long Nhương tướng quân báo tin rằng Hoàng thượng ra bắt tội Long Nhương. Nay tôi đã hoàn thành sứ mạng xin về báo cho đã quân được rõ.
Nguyễn Thung hỏi:
- Long Nhương tướng quân có dặn điều gì chăng.
Người tâm phúc Nguyễn Thung đáp:
- Long Nhương có thư bảo trao cho đại quan.
Nguyễn Thung đọc thư xong mừng rỡ nói:
- Long Nhương tướng quân liệu việc không sai, ta phải mau theo kế ấy thi hành mới mong cản được vua dấy động can qua.
Nói rồi Nguyễn Thung liền tìm gặp Nguyễn Lữ. Thung hỏi Lữ:
- Long Nhương vì sợ tội nên không dám theo Hoàng thượng về Quy Nhơn. Hoàng thượng nghĩ rồi Long Nhương khi quân phạm thượng mà đem quân vấn tội. Nếu để hai người đánh nhau e rằng nhà Tây Sơn ta nguy mất. Tiết chế là anh em cốt ruột là không can được Hoàng thượng sao.
Nguyễn Lữ đáp:
- Chức Ngự sử là dùng để can vua. Ông ở chức ấy mà không can được vua, việc này là việc nước chữ chân phải việc nhà ông trách ta sao được. Vả lại Hoàng huynh đang giận lắm, tôi không dám can ngăn.
Nguyễn Thung nói:
- Nay Tiết chế có thể nhờ một người can được Hoàng thượng sao Tiết chế không làm.
Nguyễn Lữ cười báo:
- Người mà ông định nói ta đã biết. Phụ mẫu ta có thể can được Hoàng huynh. Nhưng dù sao cũng phận đàn bà cao tuổi, không nghĩ xa nên Long Nhương huynh phải phạm thêm tội bất hiếu!
Nguyễn Thung hỏi:
- Vì sao Thái hậu can không cho Hoàng thượng đánh Long Nhương thì Long Nhương lại phạm tội bất hiếu?
Nguyễn Lữ đáp:
- Phụ mẫu ta can được Hoàng huynh rồi tất muốn anh em phải hoà hiếu với nhau, người ắt gọi Long Nhương huynh về giải hoà cùng Hoàng huynh. Long Nhương huynh tội với vua quá nặng sao dám về, thì có phải là Long Nhương thêm tội bất hiếu nữa chăng. Vì lẽ ấy ta còn đắn do chưa cho mẹ hay.
Nguyễn Thung nói:
- Tiết chế hãy thưa cùng Thái hậu thế này... thế này... ắt Thái hậu sẽ không gọi Long Nhương về, thì không sợ Long Nhương mang tội bất hiếu!
Nguyễn Lư khen:
- Quan Ngự sử thật là cao kiến.
Nói xong Nguyễn Lữ liền đi tìm gặp mẹ.
Hôm sau nghe báo có Thái hậu thân hành đến tìm, vua Thái Đức ra ngoài nghênh đón, lậy chào mẹ xong vua hỏi:
- Những lần trước muốn gặp con, Thái hậu đều sai người đến gọi. Lần này có việc chi hệ trọng mà mà lại thân hành đến tìm con?
Thái hậu nhỏ nhẹ đáp rằng:
- Ta nghe con định cắt ruột của mẹ, nên đến cầu xin con tha cho mẹ?
Vua Thái Đức thất kinh hỏi:
- Sao mẹ lại nói cơn như thế?
Thái hậu mắng rằng:
- Các con đều là khúc ruột của mẹ, nay con định giết em con thì chẳng phải là cắt ruột mẹ sao?
Vua quỳ không dám ngẩng mặt lên. Vua nói:
- Do nó dám ra mặt phản con, nếu không trị thì còn gì phép nước. Xin mẹ hiểu cho!
Thái hậu hỏi:
- Vì sao cơn bảo rằng thằng Huệ phản con?
Vua đáp:
- Con thân hành ra Bắc bảo nó về Quy Nhơn thọ tội. Nó phản con cãi lệnh không về mà đóng quân lại Thuận Hoá.
Thái hậu lại hỏi:
- Nó tội gì mà còn phải đích thân ra Thăng Long bắt nó về Quy Nhơn thọ tội?
Vua đáp:
- Con sai nó mang quân đánh Thuận Hoá, nó cãi lệnh con đánh tới Bắc Hà.
Bây giờ Thái hậu mới lên tiếng rằng:
- Thuận Hoá và Bắc Hà đều của quân Trịnh, nó đánh giặc chưa báo cho mày, mày liền bắt tội. Vậy mà toan giết em mày mà không báo cho ta thì là tội gì?
Vua Thái Đức cả sợ cúi mặt làm thinh. Thái hậu vừa khóc vừa nói tiếp rằng:
- Tháng Huệ tài cao quyết đoán nhưng tính tình cương trực thẳng thắn, lúc nào cũng một lòng hiếu đễ, bởi tại con đem lòng ngờ vực nó, thân ra Thăng Long bắt tội nên nó sợ mà chẳng dám theo về. Nếu nó có lòng phản Chúa phụ anh thì mấy phen đem đại binh vào Gia Định nó lại không làm phản được sao? Từ ngày Tây Sơn khởi nghĩa đến nay nhờ nó đánh Nam dẹp Bắc, xông pha nơi hòn tên mũi đạn đưa mày lên ngôi vua, công sao mày không thưởng lại nhân lúc em mày đánh giặc chưa kịp báo tin liền ra bắt tội. Ta hỏi mày nó có tội gì mà mấy phải bắt?
Vua Thái Đức thầy mẹ giận càng sợ lắm không dám mở lời. Thái hậu quát:
- Ta nói mày có nghe không?
Vua Thái Đức giật mình đáp:
- Thưa mẹ, con xin vâng lời mẹ đây.
Thái hầu bảo:
- Hay truyền lệnh cho tướng sĩ lập tức bãi binh. Mày mau viết chiếu phong thằng Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá. Phong thằng Lữ làm Đông Định Vương trấn thủ Gia Định, Sài Côn. Mỗi đứa cai trị một nơi khởi động chạm sinh ra xích mích. Nếu con coi ta là mẹ thì chớ cãi lời. Anh em bất hoà đều do tính đố kỵ của mày mà ra cả. Xong việc rồi đến báo cho ta hay.
Nói rồi Thái hậu quày quả trở về hậu cung. Thái hậu đi rồi vua Thái Đức nói với thái giám Vũ Tâm Can rằng:
- Thường ngày Phụ thân ta không mang đến việc quốc gia. Sao nay lại biết phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn thủ Gia Định, Sài Côn? Việc này ắt là có kẻ bày kế cho đây.
Vũ Tâm Can tâu:
- Thường ngày quan Ngự sử Nguyễn Thung thường hay bênh vực cho Long Nhương tướng quân. Việc này có lẽ do quan Ngự Sử bày ra cho Thái hậu chăng.
Vua Thái Đức bảo:
- Ngày trước Nguyễn Thung và cha ngươi là anh em kết nghĩa cùng theo ta tụ nghĩa Tây Sơn. Và ngươi hãy lấy tình bác cháu gần gũi Nguyễn Thung dò xét hắn xem sao.
Vũ Tâm Can vâng lệnh lui ra.
***
Mùa đông năm Bính Ngọ (1786) niên hiệu Thái Đức thứ chín, vua Thái Đức phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ ải Hải Vân trở ra Bắc, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản từ ải Vân Phong (Đèo Cả) trở vào Nam. Vua Thái Đức tự xưng là Trung ương Hoàng đế cai quản bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên. Ba anh em nhà Tây Sơn từ ấy thoả thuận nhau chia ba lãnh thổ trị vì.
Nhắc lại ở Bắc Hà, khi quân Tây Sơn rút về Nam rồi vua Lê Chiêu Thống xuống hịch cần vương gọi quân các trấn về bảo vệ kinh thành. Lúc bây giờ ở Kinh Bắc có quàn Bồi tụng tên là Dương Trọng Tế nhận được hịch của vua, Tế bên lập vương thân là Trịnh Lệ lên làm Chúa rồi kéo quân về thành Thăng Long. Quân của Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế vừa đến nơi liền truyền hịch phò vua và xuống lệnh chiêu an bá tánh. Đồng thời Tế lại bố cáo cùng thiên hạ lập ngôi chúa Trịnh phù trợ nhà Lê định yên xã tắc.
Vua Lê Chiêu Thống biết việc ấy liền bàn cùng các cận thần rằng:
- Nguyễn Huệ dù vì lợi mượn tiếng tôn phò kéo đến đây nhưng cũng nhờ đó mà lật đổ được họ Trịnh đã hiếp đáp ta suốt hai trăm năm này. Điều may chưa kịp mừng thì thằng nghịch thần Dương Trọng Tế mượn tiếng phò vua hòng dựng lại ngôi chúa định áp bức ta nữa sao. Ta nay vừa mới lên ngôi, nước nhà loạn lạc, thực quyền không có vậy phải làm thế nào?
Trần Công Xán bàn rằng:
- Lúc trước họ Trịnh áp chế các Tiên đế vì họ Trịnh nắm hết quyền hành trong nước. Nay họ Trịnh đã đổ, Dương Trọng Tế muốn dựng lại ngôi chúa cho Trịnh Lệ ắt còn phải dò xét xem ý quân các trấn thế nào, vì còn cần Bệ hạ làm bức bình phong cho Trịnh Lệ. Nay Bệ hạ cứ cương quyết hạ chiếu chỉ quở trách Trịnh Lệ không cho lập lại ngôi chúa chắc Trịnh Lệ nhất thời không dám cãi lệnh. Xem thử ý Trịnh Lệ như thế nào rồi sẽ liệu sau.
Vua Chiêu Thống khen phải, nói:
- Phen này ta lên kế vị phải cương quyết lấy là oai quyền thiên twr, điều hành vận mệnh nước nhà. Nếu về sau trẫm lấy lại được đế quyền thì bọn nghịch thần như Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế phải giết hết không tha!
Nói xong vua liền viết chiếu chỉ sai sứ giả để sang phủ chúa Trịnh. Dương Trọng Tế và Trịnh Lệ quỳ nghe chiếu, sứ giả đọc chiếu xong, Dương Trọng Tế đứng phắt dậy giật tờ chiếu trên tay sứ giả. Tế xe tờ chiếu làm mấy mảnh quăng ngày trước mặt sứ giả rồi nói lớn:
- Mấy trăm năm nay nhà vua nhờ Chúa lo việc quốc gia nên mới ngồi không mà hưởng lộc. Quân Tây Sơn vừa đến giết hai chúa, nước không có chúa liền sinh ra loạn lạc. Ta lập lại ngôi chúa cho yên xã tắc vì sao vừa lại quở trách. Nhà vua mới lên ngôi từ còn nhỏ nên nghe lời xàm tấu của bọn văn nho. Ngươi hãy về thưa cùng Bệ hạ, ta sẽ đến điều tra cho rõ kẻ nào bày điều quấy cho vua liền đem ra chém tức thì.
Sứ giả thấy Dương Trọng Tế nổi giận liền vội và lui ra. Dương Trọng Tế quay lưng toan bước đi, Trịnh Lệ hỏi:
- Tướng quân định đi đâu?
Tế đáp:
- Tôi sang điện vua hỏi cho rõ việc này.
Tế vừa dứt lời xảy quân hớt hải vào báo:
- Thưa tướng quân. Có biến, có biến!
Dương Trọng Tế giật mình hỏi:
- Biến thế nào?
Quân đáp:
- Thạc quận công Hoàng Phụng Cơ và Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng phò Côn quận công Trịnh Bồng làm Chúa đem quân từ Sơn Tây về kinh, hiện đến cách cửa Tây thành hai mươi dặm.
Trịnh Lệ kinh hãi nói:
- Đinh Tích Nhưỡng trước làm trấn thủ Sơn Nam giỏi thuỷ chiến, Hoàng Phụng Cơ là cháu Hoàng Ngũ Phúc cũng là tướng tài cả. Nay hai người này theo phò Trịnh Bồng tranh ngôi chúa với ta, e rằng ta không địch nổi, vậy ta phải làm sao.
Dương Trọng Tế đáp:
- Xin Chúa thượng chớ lo, thần xin đem quân chặn đánh chúng ở ngoài thành.
Nói rồi liền kéo quân đi. Quân Dương Trọng Tế ra khỏi thành liền gặp Trịnh Bồng, Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phụng Cơ vừa dẫn quân tới. Hai bên xáp chiến. Dương Trọng Tế ít quân lại ô hợp, địch không nổi bị quân Trịnh Bồng giết chết rất nhiều.
Dương Trọng Tế bèn dẫn quân chạy vào thành, Trịnh Bồng xua quân đuổi theo. Quân Dương Trọng Tế tan vỡ cả. Trọng Tế chỉ kịp ghé qua phủ Trịnh gọi Trịnh Lệ, cả hai chỉ còn lại trăm quân hầu cận chạy ra cửa Bắc thành trốn về Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh).
Trịnh Bồng vào thành rồi, lại sai người xé bỏ cáo thị của Trịnh Lệ, dán hịch truyền chiêu an bá tánh phò vực vua Lê, rồi cùng Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng sang cung vua yết kiến vua Chiêu Thống. Thi lễ xong Hoàng Phụng Cơ tâu với vua rằng:
- Quân Tây Sơn kéo quân đến đây mượn tiếng phò vua giết chúa, rồi lại lấy hết kho tàng lương thực kéo quân về để nước ta loạn lạc. Vậy xin Bệ hạ hay phong Côn quận công tước vương, lập lại ngồi chúa cho ở lòng muôn dân, mới mong lập lại kỷ cương cho xã tắc.
Vua Chiêu Thống gạt đi bảo:
- Nếu các khanh một lòng phò vua giúp nước không vì lợi ích thì việc gì phải đòi phong vương. Hay cũng muốn lập lại ngôi chúa dựng riêng triều đình nắm quyền hành để áp chế ta.
Hoàng Phụng Cơ đáp:
- Oai đức của nhà vua là để an lòng trăm họ quyền hành nhà chúa là để hiệu triệu trăm quân. Xưa nay vẫn thế, nếu Bệ hạ muốn yên xã tắc thì không thể làm khác được.
Vua Chiêu Thống cương quyết nói:
- Nếu vậy người hay tự phong vương cho mình cần gì phải xin mệnh của ta.
Nói rồi vua liền đứng lên quày quả vào hậu cung bỏ mặc bọn Trịnh Bồng, Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng. Trịnh Bồng về phủ chúa hỏi Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng:
- Nay vừa không chịu phong vương và lập lại ngôi Chúa cho ta, vậy phải làm thế nào?
Đinh Tích Nhưỡng đáp liều rằng:
- Ta cho quân sang vay điện vua nói dối rằng bảo vệ Hoàng cung, không cho vua và Hoàng tộc ra ngoài đề phòng vua trốn ra khỏi thành xuống hịch cần vương chống lại ta. Rồi thần xin vào điện vua bức vua phải hạ chỉ phong vương. Có mệnh vua, Chúa thượng mới hiệu triệu được quân các trấn.
Trịnh Bồng bảo:
- Nếu muốn lập lại nhà chúa ta chỉ còn có cách ở mà thôi.
Nói rồi liền theo kế của Đinh Tích Nhưỡng mà làm.
***
Nhắc lại vua Lê Chiêu Thống lui vào hậu cung, Trần Công Xán hỏi vua rằng:
- Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng đều là bọn võ tướng ngu phu. Nay Bệ hạ căng thẳng quá e vũ phu ấy tham quyền làm liều thì sao?
Vua Chiêu Thống hỏi lại:
- Theo ý khanh thì phải thế nào. Không lẽ ta lập lại ngôi chúa cho bọn chúng hiếp đáp ta ư?
Trần Công Xán hiến kế:
- Theo thần nếu bọn Trịnh Bồng dùng uy vũ ép vua, Bệ hạ hãy vờ nghe theo lời hắn phong vương lập lại ngôi Chúa. Rồi Bệ hạ nên mật chiếu với một người mang quân về cứu giá diệt Trịnh Bồng.
Vua vội vàng hỏi:
- Người ấy là ai?
Xán đáp:
- Người ấy là Nguyễn Hữu Chỉnh hiện đang theo lệnh vua Thái Đức nhà Tây Sơn trấn thủ Nghệ An.
Vua Chiêu Thống hỏi:
- Nguyễn Hữu Chỉnh đã phản ta theo vua Tây Sơn thì làm gì nghe chiếu chỉ của ta mang quân về cứu giá.
Xán đáp:
- Năm xưa kiêu binh giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo phế vương tử Cán lập vương tử Khải lên làm Chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh là tay chân của Hoàng Đình Bảo nên sợ tội mà trốn theo vua Tây Sơn, thật lòng không muốn phản. Mới đây Chỉnh xui Nguyễn Huệ mượn tiếng tôn phò đem quân đến đây, ý muốn mượn tay Tây Sơn diệt Trịnh. Diệt được Trịnh rồi Chỉnh lại xin Tiên đế gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ và nhờ Tiên đế xin cho Chỉnh mượn quân ở lại Bắc Hà giúp vua. Không ngờ vua Thái Đức nhà Tây Sơn bất ngờ ra Bắc buộc Nguyễn Huệ phải kéo quân về, bỏ Hữu Chỉnh ở Bắc Hà không quân không tướng, làm đảo lộn mọi kế hoạch của Chỉnh và khiến cho Chỉnh suýt chết dưới tay dân chúng ở Thăng Long. Hữu Chỉnh lần thứ hai bất đắc dĩ phải theo vua Tây Sơn nhưng trong lòng rất oán. Nay Bệ hạ mật chiếu đến vời, Nguyễn Hữu Chỉnh nhất định nhân dịp này sẽ bỏ Tây Sơn đem quân về cứu giá.
Trần Công Xán vừa dứt lời, nghe quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ, Đinh Tích Nhưỡng đem quân vây kín Hoàng cung chẳng rõ là có ý gì?
Trn Công Xán trấn an vua:
- Xin Bệ hạ bình tâm, Đinh Tích Nhưỡng chỉ e Bệ hạ phong vương cho Trịnh Bồng mà thôi. Xin Bệ hạ cứ theo lời thần dặn mà làm!
Quả nhiên, Đinh Tích Nhưỡng vào đến, không lậy mà vịn tay vào đốc kiếm hỏi vua Chiêu Thống rằng:
- Việc Côn quận công xin phong vương, Bệ hạ định thế nào?
Vua Chiêu Thống vờ hoảng sợ nói:
- Quả nhân ngay bây giờ xuống chiếu phong vương.
Nói xong liền đem nghiên bút viết chiếu phong Trịnh Bồng làm Yến Đô Vương chức nguyên soái, rồi trao cho Đinh Tích Nhưỡng. Nhường cầm tờ chiếu trên tay cười lớn nói:
- Phải như thế! Chứ lẽ đâu có cái gương của Thái tử thời Tiên đế, Bệ hạ lại chẳng thấy hay sao (ý Đinh Tích Nhưỡng muốn nói việc Thái tử Vỹ là cha vua Lê Chiêu Thống bị Trịnh Sâm giết chết).
Nói xong Nhưỡng bỏ ra ngoài. Vua Lê Chiêu Thống nghe những lời của Nhưỡng, uất ức mà thổ huyết. Quân hầu đỡ vua dậy. Vua gạt đi bảo:
- Hay mang một tấm lụa đến cho ta.
Quân mang lụa đến. Vua Chiêu Thống ngồi xuống nền điện cho huyết thổ ra, lấy tay chấm vào huyết ấy mà viết mật chỉ. Viết xong vua bảo:
- Hãy lập tức sai người tâm phúc lén vào Nghệ An trao mật chiếu này cho Nguyễn Hữu Chỉnh.
***
Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh lúc ấy đang cùng Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trấn thủ Nghệ An. Nhận được mật chỉ của vua Lê Chiêu Thống, Chỉnh bảo sứ giả rằng:
- Ngài quay về trước tâu vua hãy hạ mình giữ gìn long thể. Tôi điểm binh rồi lập tức về kinh cứu giá.
Sứ giả vâng mệnh đi ngay. Nguyễn Viết Tuyển nói với Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
- Có mật chiếu của vua là ta có thể khiến được thiên hạ ở Bắc Hà. Vậy tướng quân mau đem binh về kinh.
Nguyễn Hữu Chỉnh bảo:
- Ta trấn thủ Nghệ An cùng Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức tất trên danh nghĩa vẫn là tôi nhà Tây Sơn. Nay nếu đem quân ra Bắc cũng phải xin lệnh của Bắc Bình Vương mới được.
Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Ta đã muốn bỏ Tây Sơn thì cần gì phải xin mệnh Bắc Bình Vương.
Chỉnh đáp:
- Ngươi cơ trí phải biết đường tiến thoái. Nếu ta tự tiện đem quân ra Thăng Long mà không xin lệnh Bắc Bình Vương, ngộ nhỡ không thắng còn quay lại được sao.
Tuyển lại hỏi:
- Nếu ta xin lệnh trước mà Bắc Bình Vương không cho đi thi làm thế nào?
Chỉnh đáp:
- Bắc Bình Vương có hai lẽ phải một dạ phù Lê. Nay nghe vua Lê hạ chiếu cần vương tất phải cho ta ra Bắc.
Tuyển hỏi:
- Vì hai lẽ gì mà Bắc Bình Vương phải một dạ phù Lê?
Chỉnh đáp:
- Lẽ thứ nhất Bắc Bình Vương là rể của họ Lê, nay nghe bên vợ kêu cứu lẽ nào mà không giúp. Lẽ thứ hai là Bắc Bình Vương lần trước ra Bắc mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh, nào ngờ vua Thái Đức ra bắt về khiến Nguyễn Huệ thất tín với thiên hạ, bẽ mặt với Ngọc Hân công chúa. Nay được dịp để chứng tỏ lòng thành, lấy lại uy tín thì làm gì không một một lần nữa truyền hịch phò Lê diệt Trịnh.
Viết Tuyển lại hỏi:
- Nhưng tôi vẫn e rằng Nguyễn Huệ không cho tướng quân cầm binh ra Bắc.
Chỉnh hỏi:
- Vì sao?
Tuyển đáp:
- Vì Nguyễn Huệ rất rõ chí của tướng quân.
Chỉnh cười đáp:
- Nguyễn Huệ biết rõ chí ta. Nhưng ta cũng biết rõ Nguyễn Huệ tất phải để ta đi không thể khác được, thế mới lạ kỳ.
Nói rồi liền viết mật thư sai người tâm phúc lập tức mang vào Phú Xuân trình Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ ở thành Phú Xuân nhận được thư Nguyễn Hữu Chỉnh liền hỏi Trần Văn Kỷ rằng:
- Ta này đã được trọn quyền lo mọi việc từ đèo Hải Vân ra Bắc, không phải chịu mệnh của Hoàng huynh. Quả như ta dự đoán khi theo Hoàng huynh rút khỏi Thăng Long là Bắc Hà sinh loạn. Nay Trịnh Bồng lấy lại ngai Chúa bức bách ấu quân. Vua Chiêu Thống mới lấy máu viết mật chỉ vời Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Nguyễn Hữu Chỉnh lại viết thư vào xin lệnh của ta, vậy theo ý Trung Thư ta phải thế nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Theo ý tôi Chúa công chớ nên cho Hữu Chỉnh cầm quân ra Bắc.
Huệ hỏi:
- Vì sao?
Kỷ đáp:
- Chí Hữu Chỉnh là muốn làm bá vương nơi đất Bắc, dùng sông Linh Giang chia cắt trời Năm. Nếu để Hữu Chỉnh ra Bắc phen này ắt hắn dựa vào tiếng phò Lê trước sau gì mà chẳng phản ta. Chi bằng ta sai tướng khác cầm quân ra Bắc vậy.
Nguyễn Huệ nói:
- Việc này không được.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Xin hỏi Chúa công vì sao lại không được?
Huệ đáp:
- Trên danh nghĩa đối với thiên hạ, Tây Sơn ta và Bắc Hà là hai nước hai vua. Vua Lê chỉ mật chiếu vời Hữu Chỉnh về cứu giá. Nay nếu ta giữ Hữu Chỉnh lại Nghệ An, sai tướng khác truyền hịch tôn phò đem quân ra Bắc, e rằng vua Lê sẽ hoảng sợ mà trốn khỏi kinh thành hạ chiếu cần vương mộ quân đánh lại Tây Sơn ta thì ta trở thành kẻ xảo ngôn vậy.
Trần Văn Kỷ lại hỏi:
- Dám hỏi Chúa công vì sao sai tướng khác ra phò Lê, giữ Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An thì vua Lê phải hoảng sợ mà trốn khỏi kinh thành.
Huệ đáp vẻ nuối tiếc:
- Lần trước Hoàng huynh ra Bắc triệu ta về Quy Nhơn thọ tội, khiến Tây Sơn ta phải thất tín với vua Lê và thiên hạ Đàng Ngoài. Vua Lê bây giờ tất sinh lòng ngờ vực, lại thấy ta giữ Hữu Chỉnh ở Nghệ An sai tướng khác cầm quân Bắc tiến, dù có truyền hịch phò Lê thì vua Lê ắt sẽ nghĩ ta thừa dịp mà đem quân cướp nước lại chẳng trốn khỏi Hoàng cung ư? Vì lẽ ấy nên trước kia ta để Chỉnh trấn thủ Nghệ An tất vua Lê sẽ gọi về cứu giá. Bởi chỉ mình Chỉnh mới đủ chính nghĩa phò Lê sau khi Tây Sơn ta thất tín ở Bắc Hà mà thôi.
Trần Văn Kỷ nói:
- Lời Chúa công rất phải. Vậy ta bắt đắc dĩ phải để Hữu Chỉnh đem quân ra Bắc. Nếu về sau hắn ra mặt chống lại ta thì sao.
Huệ cười đáp:
- Nguyễn Hữu Chỉnh có tài làm tướng mà lập chí bá vương, sớm muộn gì cũng sinh ra biến loạn ở Bắc Hà. Khi ấy ta sẽ danh chánh ngôn thuận thống nhất sơn hà.
Nói rồi Nguyễn Huệ liền viết thư thuận ý cho Nguyễn Hữu Chỉnh cầm quân Bắc tiến, sai người ra Nghệ An trao cho Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Hữu Chỉnh nhận được thư của Nguyễn Huệ bên cười to bảo Nguyễn Viết Tuyển rằng:
- Nguyễn Huệ đã thuận ý cho ta ra Bắc Hà diệt Trịnh phò Lê. Ngươi thấy ta liệu việc thế nào, ở sánh cùng Nguyễn Huệ được chưa?
Nguyễn Viết Tuyển đáp:
- Tướng quân liệu việc như thần. Thực tài nào có kém gì Nguyễn Huệ.
Hữu Chỉnh nghe Tuyển khen thích thú lắm cười nói:
- Ta ra Bắc phen này ắt cái chí dùng sông Linh Giang chia đôi thiên hạ với nhà Tây Sơn đã thành rồi vậy.
Nói xong bèn họp các tướng bàn việc quân. Chỉnh nói với Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức rằng:
- Nay Bắc Bình Vương sai tôi ra Bắc diệt Trịnh phò Lê. Tôi đi chuyến này nếu diệt được Trịnh Bồng ắt vua Lê Chiêu Thống không cho tôi về. Xin chia ta trước với hai ông vậy.

Nguyễn Duy thất kinh nói:
- Tôi trước bỏ Nguyễn theo Trịnh, sau bỏ Trịnh theo Tây Sơn đều làm theo ý của sư đệ cả. Nay sư đệ ra Bắc không về, Bắc Bình Vương tất nghĩ tôi với sư đệ thông đồng với nhau, ông ấy lại dùng tôi sao. Nếu sư đệ ra Bắc không về là đã hại tôi rồi vậy.
Nguyễn Huỳnh Đức hiểu bụng của Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Duy liền xen vào nói:
- Theo tôi, nếu hai ông liên kết lại làm thế môi răng thì không ai có thể hại được hai ông!
Nguyễn Duy hỏi:
- Ông nói vậy là ý thế nào?
Huỳnh Đức đáp:
- Nay ông Chỉnh mang quân ra Bắc là vâng mệnh của Bắc Bình Vương. Nếu thua binh thì chạy về và nương náu dưới quyền Bắc Bình Vương, nếu thắng thì tung hoành nơi đất Bắc ắt ông Duy phải luỹ đến thân. Vậy tại sao ông Chỉnh không dùng ông Duy lấy lại đất Nghệ dùng sông Linh Giang làm ranh giới đối chọi Bắc Bình Vương, ấy không phải là thượng sách ư?
Nghe Huỳnh Đức nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh tuốt gươm khỏi vỏ quát lên rằng:
- Quân bay mau bắt Nguyễn Huỳnh Đức lại, ta giải về cho Bắc Bình Vương trị tội.
Võ sĩ xông vào trói Huỳnh Đức. Đức cười lớn hỏi:
- Tôi có tội gì mà ông bắt tôi cho Bắc Bình Vương trị tội.
Chỉnh trợn mắt quát:
- Lòng ngươi mưu phản Bắc Bình Vương lại còn chối nữa hay sao.
Đức điềm nhiên đáp:
- Ngày xưa tôi bị Bắc Bình Vương bắt sống ở miền đất Gia Định. Bắc Bình Vương khuyên hàng đã có điều giao ước, ngày sau nghe Chúa Nguyễn Phúc Ánh ở đâu thì đi hay ở là tuỳ ý sở cầu. Mới đây vua Thái Đức đem Bắc Bình Vương về Quy Nhơn thọ tội, tôi bèn xin ông ấy cho ở lại Nghệ An với hai ông để tiện đường về với chúa. Nay tôi bày kế cho hai ông cũng là vì chúa của tôi. Bắc Bình Vương là người quang minh chính đại, lý gì mà bắt tội tôi được.
Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi:
- Ông vừa nói bày kế cho hai ta là vì chúa của ông. Vậy nếu đại sự mà thành thì chúa ông có lợi gì.
Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
- Sau khi thua trận ở Trường Đồn, Rạch Gầm, Chúa tôi đã sang ẩn náu ở Tiêm La Quốc mưu việc khôi phục cơ đồ nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Nay anh em Nhạc, Huệ, Lữ đã chia ba lãnh thổ ra mà cai trị. Lãnh thổ của Nguyễn Huệ chỉ vỏn vẹn có vùng Phú Xuân, Thuận Hoá đất hẹp dân nghèo. Nếu ông là Chúa ở Bắc Hà đất rộng dân đông thì Bắc Bình Vương ở Thuận Hoá không phải là đối thủ của ông. Khi ấy ông cho tôi mượn quân đánh đổ Tây Sơn có Đàng Trong dựng lại cơ nghiệp cho Chúa tôi. Khi diệt được Tây Sơn rồi ta lại dùng Linh Giang làm ranh giới, ông Đàng Ngoài, Chúa tôi Đàng Trong đời đời giao hiếu thế chẳng tốt hay sao?
Nguyễn Hữu Chỉnh mừng rỡ cởi trói cho Nguyễn Huỳnh Đức rồi nói:
- Từ xưa đến nay chỉ có mình ông nói ra điều mưu phản là không sợ tội mà thôi. Tôi vẫn biết ông có thế đặc biệt thế, nên mới giả vờ như vậy để ông nói ra hầu rõ lòng nhau mà thôi. Ngày sau nếu được như vậy thì Nguyễn Duy sư huynh muốn lấy tình sư đwj mà theo tôi học lấy nghĩa chúa cũ mà theo chúa Nguyễn là tuỳ ý sở cầu như Huỳnh Đức đã giao ước với Nguyễn Huệ vậy.
Nguyễn Hữu Chỉnh nói xong, ba tướng cùng bắt tay nhau thích thú cười vang. Bàn bạc xong Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức ở lại trấn thủ Nghệ An, con Nguyễn Hữu Chỉnh đem năm ngàn quân truyền hịch diệt Trịnh phò Lê lên đường ra Bắc.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 41 Mộng Bá Vương, Bằng Trung Công mượn tiếng phò vua. Vì đại nghĩa, Bắc Bình Vương cất quân đánh anh.
Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An đem quân theo gồm tướng Nguyễn Viết Tuyển, Lê Duật, Nguyễn Như Thái, Nguyễn Cảnh Thước cử binh lên đường ra Bắc. Hữu Chỉnh thúc quân đi cả ngày đêm, khi đến được núi Tam Điệp (đèo Ba Dội) mới cho quân nghỉ ngơi ăn uống. Sáng hôm sau chưa nghe Hữu Chỉnh truyền lệnh xuất quân Nguyễn Viết Tuyển hỏi:

- Từ Nghệ An đến đây tướng quân hối quân đi ngày đêm không nghỉ, giờ quân ta đã nghỉ qua đêm, sức lực sung mãn sao tướng quân chưa cho tiến binh.

Chỉnh đáp:

- Tây Sơn rút binh về, Bắc Hà trống rỗng không quân không tướng, từ Nghệ An đến Thăng Long chỉ có ải Tam điệp này là hiểm địa. Ai lấy được đèo này thì có thể chặn lui quân địch, còn từ Tam Điệp ra Thăng Long đất phẳng đường liền, mạnh được yếu thua nên ta gấp hối quân đi là vì lẽ ấy. Nay đã lấy được đèo rồi có gì mà phải gấp, để quân ta nghỉ thêm một vài hôm nữa rồi vào Thăng Long nào có muộn gì.

Nói rồi cho quân nghỉ ngơi. Hai hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh mới hạ lệnh tiến binh. Khi quân đi đến trấn Sơn Nam cách thành Thăng Long một trăm dặm thì gặp lúc tối trời, Chỉnh liền bảo quân hạ trại cạnh một ngôi làng. Bỗng một con chim Phượng hoàng từ đâu bay đến đậu trên cổng làng ấy hót lên ba tiếng vui mừng thánh thót rồi vỗ cánh bay đi. Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi:

- Cổng làng kia có tấm biển đề chữ gì vậy?

Nguyễn Viết Tuyển thưa:

- Tấm biển ấy đề hai chữ Bình Vọng là tên chữ của làng này, tục thường gọi là làng Bằng.

Hữu Chỉnh vui mừng nói:

- Ngày trước theo Hoàng Ngũ Phúc đánh Thuận Hóa về ta được Chúa Trịnh Sâm phong tước Bằng Lĩnh hầu. Nay kéo quân đến làng Bằng như tước phong của ta thì có Phượng hoàng ra đón, ấy thật là điềm lành vậy. Truyền lệnh ta, quân sĩ nghỉ ngơi ngày mai sẽ tiến vào Thăng Long!

Quân Chỉnh thấy điềm lành thế đều phấn chấn dạ ran.

*

* *

Nói về Trịnh Bồng ở thành Thăng Long nghe quân vào báo rằng:

- Tâu Chúa thượng! Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An truyền hịch phò Lê đem quân ra Thăng Long, hiện đang đóng ở làng Bằng cách thành một trăm dặm.

Trịnh Bồng hỏi quân do thám rằng:

- Binh Chỉnh được bao nhiêu người?

Quân đáp:

- Ở Nghệ An, Chỉnh chỉ có hơn năm ngàn quân. Trên đường qua Thanh Hóa, Vị Hoàng, Sơn Nam quân ta trước chạy lạc lúc giặc Tây Sơn ra Bắc nay đều theo Chỉnh nên quân lên đến hàng vạn.

Trịnh Bồng lo lắng hỏi các tướng rằng:

- Hữu Chỉnh trước dẫn Nguyễn Huệ ra Bắc phò Lê diệt Trịnh giết chết Đoan Nam Vương. Nay ta vừa mới kế vị ngôi Chúa, nó lại truyền hịch phò Lê kéo quân đến đây, vậy ta nên tiến thủ thế nào.

Hoàng Phùng Cơ đáp:

- Nguyễn Hữu Chỉnh trước cùng thần đều ở dưới trướng Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc, cũng là người đa mưu túc trí. Từ trấn Sơn Nam đến kinh thành không có núi sông hiểm trở để lập trận đánh địch. Vậy ta cứ ở trong thành cố thủ, chờ Chỉnh đem quân đến đây thần sẽ có cách khuyên Chỉnh lui binh. Chúa thượng không phải lo.

Vừa lúc ấy quân vào báo:

- Tâu Chúa thượng, quân Nguyễn Hữu Chỉnh đã đến gần cổng Nam thành. Xin Chúa thượng định liệu.

Hoàng Phùng Cơ liền truyền quân canh phòng cẩn mật rồi mặc giáp đeo gươm lên mặt thành gọi lớn:

- Bằng Lĩnh hầu kéo quân đến đây toan phản vua bội chúa chăng?

Hữu Chỉnh đáp lớn rằng:

- Các ngươi đều là tôi của vua Lê, đáng lẽ nên thừa lúc nhà chúa đã diệt mà phò vua mới phải, sao còn rước Trịnh Bồng về làm chúa? Hòng ép vua nữa chăng?

Hoàng Phùng Cơ đáp:

- Quân Tây Sơn mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh vào nước ta cướp của, rồi kéo quân về để nước ta loạn lạc. Vua bèn viết chiếu triệu Yến Đô Vương về làm chúa phò vua để yên thiên hạ sao lại bảo là ép vua. Vả lại ngày trước ngươi cũng chịu mệnh của chúa, được Tĩnh Đô Vương phong tước Bằng Lĩnh hầu, nay lại kéo về kinh thành phản vua bội chúa. Nay vua viết chiếu phong cho ngươi làm trấn thủ đất Thanh Hóa, mau kéo quân về cho rõ nghĩa tôi thần.

Hữu Chỉnh nói:

- Vậy xin mở cổng thành cho ta vào nhận chiếu của Bệ hạ rồi sẽ kéo quân đi ngay.

Hoàng Phùng Cơ bảo:

- Bởi trước ngươi đã theo quân Tây Sơn nên giờ vua không dám tin, vậy ngươi hãy rút quân về trước để tỏ lòng thành, rồi vua sẽ sai sứ giả đem chiếu chỉ đến sau.

Nguyễn Hữu Chỉnh nổi giận mắng rằng:

- Thằng giặc già kia, mày xem ta như con nít hay sao mà hòng lừa phỉnh. Ta vì bất đắc dĩ phải bỏ nước mà đi nhưng lòng lúc nào cũng trông về cố quốc. Người tín cẩn của ta đã kể cho ta biết việc mày và Đinh Tích Nhưỡng mượn chuyện Tĩnh Đô Vương giết Thái tử Vĩ dọa vua, buộc vua phải phong vương cho Trịnh Bồng. Nay còn dám giả mệnh vua để gạt ta. Đợi ta phá thành rồi sẽ bắt chúa tôi Yến Đô Vương của ngươi quỳ trước bệ rồng đối chất xem thật giả thế nào.

Hoàng Phùng Cơ biết không gạt được Hữu Chỉnh liền hô quân bắn tên xuống như mưa. Nguyễn Hữu Chỉnh gạt quân lui ra khỏi tầm tên rồi hạ lệnh tấn công. Quân Chỉnh đặt đại bác mà bắn. Súng nổ ầm ầm như sấm, cổng thành liền vỡ. Quân Trịnh Bồng bảo nhau rằng:

- Nguyễn Hữu Chỉnh mượn đại bác của quân Tây Sơn đánh thành ta địch sao cho nổi, mau chạy thoát thân.

Nói rồi mạnh ai nấy chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh xua quân vào thành chém giết như chỗ không người. Hoàng Phùng Cơ đương không nổi phải phò Trịnh Bồng ra cửa Tây thành chạy trốn về Sơn Tây.

Vào thành rồi Nguyễn Hữu Chỉnh liền vào cung yết kiến vua Lê Chiêu Thống, Chỉnh quỳ tâu:

- Nhận được mật chỉ, hạ thần lập tức đêm ngày mang quân về kinh cứu giá. Nhờ oai võ của Bệ hạ thần đã đuổi được bọn Trịnh Bồng chạy trốn hết cả. Nay đến đây quỳ dưới bệ rồng xin phục mệnh.

Vua Chiêu Thống mừng rỡ nói:

- Khanh về đây cứu giá đuổi loạn thần thật công lao rất lớn. Nay ta phong khanh làm Bình Chương quốc quân trọng sự, Đại tư đồ tước Bằng Trưng Công. Khanh hãy cầm trọng binh ở lại kinh thành giúp trẫm định yên xã tắc.

Nguyễn Hữu Chỉnh khấu đầu lạy tạ. Mưu sĩ Trần Công Xán bàn rằng:

- Nay Dương Trọng Tế và Trịnh Lệ vẫn hùng cứ ở Kinh Bắc, Hoàng Phùng Cơ vùng vẫy đất Sơn Tây, Đinh Tích Nhưỡng làm chủ đất Hải Dương. Vậy nhân khi chúng hãy còn ô hợp, quan Đại tư đồ nên chia quân đánh bắt, nếu để lâu chúng liên kết với nhau ba mặt đánh tới kinh thành, e rằng quân ta bất lợi.

Nguyễn Hữu Chỉnh khen phải liền sai Nguyễn Viết Tuyển đem binh đánh Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây, sai Nguyễn Cảnh Thước sang Kinh Bắc đánh Dương Trọng Tế và sai Nguyễn Như Thái xuống Hải Dương đánh Đinh Tích Nhưỡng.

Chẳng bao lâu quân Chỉnh đánh bắt dược Hoàng Phùng Cơ và Dương Trọng Tế giải đến kinh thành. Nguyễn Hữu Chỉnh xin mệnh vua Chiêu Thống rồi đem Hoàng Phùng Cơ và Dương Trọng Tế ra chém.

*

* *

Ngày ấy họp các tướng, Chỉnh tự đắc nói:

- Ta từ Nghệ An đem quân ra Bắc, đi đến đâu không ai dám kháng cự. Chém đầu Hoàng Phùng Cơ, phanh thây Dương Trọng Tế, chỉ còn Đinh Tích Nhưỡng đem Trịnh Bồng đi trốn ở hóc hẻm nào. Bọn ấy thì có sá gì! Nay ta phong Nguyễn Viết Tuyển làm trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Cảnh Thước làm trấn thủ Kinh Bắc, Nguyễn Như Thái trấn thủ Sơn Nam, Lê Duật trấn thủ Thanh Hóa. Đợi ít lâu nữa ta yên được đất Bắc chiêu binh mãi mã sẽ đối đầu với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xem ai là kẻ anh hùng.

Nói rồi sai quân bày yến tiệc, Chỉnh tự tay rót rượu tiễn các tướng. Nguyễn Viết Tuyển, Nguyễn Cảnh Thước và Nguyễn Như Thái liền bái biệt lên đường. Riêng Lê Duật hãy còn chần chừ chưa muốn đi. Chỉnh liền hỏi Duật:

- Ngươi còn muốn nói gì nữa chăng.

Duật hỏi lại Chỉnh:

- Đất Nghệ An do hai tướng Tây Sơn là Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trấn thủ, Thanh Hóa lại giáp giới đất Nghệ An. Nay tôi vào trấn thủ Thanh Hóa nếu Tây Sơn đem quân đến đánh thì nên tiến thủ thế nào?

Chỉnh cười lớn đáp:

- Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức tiếng là tướng của Tây Sơn nhưng đều là người nhà của ta ngươi không phải ngại.

Lê Duật nói:

- Tôi chịu ơn tri ngộ của tướng quân xin đem thân khuyển mã báo đền. Nhưng Nguyễn Duy là người phản phúc tôi vẫn lấy làm lo lắm. Mạng tôi nào có sá gì, chỉ e rằng thua binh làm nhục mệnh của tướng quân mà thôi.

Nguyễn Hữu Chỉnh an ủi Lê Duật rằng:

- Lòng trung của Duật thật đáng khen thay. Hiểu được bụng người trung nghĩa thì dễ, hiểu được lòng dạ của kẻ phản phúc mới là việc khó. Vậy mà ta hiểu được bụng của Nguyễn Duy đó. Nguyễn Duy ở cái thế phải phản Nguyễn Huệ mà không thể phản ta. Ngươi hãy an tâm mà đi đi. Nếu Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức mà đem quân đánh tới, ngươi cứ bỏ Thanh Hóa mà chạy về đây, có gì ta cũng không bắt tội.

Lê Duật liền thưa rằng:

- Tướng quân đã nói chắc thế tôi thật là an lòng. Tin ở lòng người là việc dễ, tin ở người tài mới là việc khó. Vậy mà tôi đã tin tài của tướng quân đó. Nếu tướng quân đoán lầm, Duật tôi quyết bỏ mình không bỏ đất.

Nói rồi từ biệt Hữu Chỉnh mà đi. Lê Duật đi rồi, con Chỉnh là Nguyễn Hữu Du bước ra hỏi:

- Nay các tướng đã được phong hầu, còn con đã từng theo cha xông pha trận mạc sao cha không phong tước cho con.

Chỉnh cười đáp:

- Ta sẽ phong cho con ngôi Thế tử .Ý con thế nào?

Nói rồi liền sai quân lập dinh thế tử cho Nguyễn Hữu Du đến ở. Vua Chiêu Thống hay tin ấy bèn nói với các quan tín cẩn rằng:

- Nguyễn Hữu Chỉnh ngày càng kiêu ngạo hống hách không coi ta ra gì cả. Hắn tự ý lập ngôi thế tử cho con mình, tự ý phong hầu cho các tướng. Tuy không tự xưng vương nhưng việc làm nào có khác gì họ Trịnh. Cũng mượn tiếng phò vua mà làm chúa đó thôi! Ta cũng muốn trừ Hữu Chỉnh lấy lại quyền thiên tử, các khanh có kế gì chăng.

Quan nội thị Ngô Vi Quý hiến kế:

- Bệ hạ lấy cớ Chỉnh đã trừ được Hoàng Phùng Cơ và Dương Trọng Tế, mời Chỉnh vào điện uống rượu rồi đánh thuốc độc mà giết đi thì có khó gì.

Vua Chiêu Thống gật đầu khen phải, toan theo kế ấy mà làm. Bỗng nghe có Trần Công Xán đến chầu vua liền đem kế ấy nói với Trần Công Xán. Xán thất kinh nói:

- Ai bày cho Bệ hạ kế ấy là hại Bệ hạ, nguy cho xã tắc rồi.

Vua Chiêu Thống hỏi:

- Vì sao giết Chỉnh lại hại ta và nguy cho xã tắc.

Xán đáp:

- Đành rằng là Hữu Chỉnh cậy công lộng quyền, còn hơn để bọn Cơ, Nhưỡng, Tế, Lệ, Bồng thay nhau áp chế Bệ hạ. Vả lại nhờ có Chỉnh mà kinh thành yên ổn, bọn vô lại không còn mượn tiếng cần vương giết hại lẫn nhau làm kinh động cửa khuyết, rối loạn nhân tâm. Nay nếu giết Chỉnh thì tay chân Chỉnh là Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc, Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Tây, Nguyễn Như Thái ở Sơn Nam, Lê Duật ở Thanh Hóa kéo về làm loạn thì Bệ hạ xử trí thế nào. Ấy chẳng phải là hại cho Bệ hạ và nguy cho xã tắc ư?

Vua Chiêu Thống giật mình nói:

- Lời khanh rất phải! Ta vì uất hận bởi những lũ tiểu nhân cứ đem nhà Lê ta ra làm bức bình phong tranh giành danh lợi mà suýt nữa đã làm lỡ việc quốc gia. Từ nay thôi không bàn đến việc ấy nữa.

Rồi vua ngửa mặt than rằng:

- Không lẽ ta đành cam để cho phường phản nghịch hiếp đáp mãi sao.

Trần Công Xán thương vua ứa nước mắt rồi cáo biệt lui ra. Xán đến gặp Nguyễn Hữu Chỉnh nói:

- Hoàng thượng là người cương quyết không muốn cho người áp chế nên khi ông vừa kéo quân đến đây Hoàng thượng đã phóng hỏa đốt Trịnh phủ. Sao ông còn giẫm lên bước chân của họ Trịnh, tự ý phong hầu cho các tướng lập ngôi thế tử, khiến Hoàng thượng giận nghe lời Ngô Vi Quý toan giết ông, ông đã biết chưa.

Nguyễn Hữu Chỉnh giận lắm nhưng cố nén hỏi Trần Công Xán rằng:

- Luyện Đường hầu vì vua hay vì tôi mà kể với tôi những lời ấy?

Xán đáp:

- Tôi vì vua vì ông nên không muốn vua và ông nghi kỵ bất hòa nhau, ấy là tôi vì xã tắc vậy.

Chỉnh lại hỏi:

- Thế ngộ nhỡ tôi giận mà hại vua thì ông nghĩ thế nào.

Xán đáp:

- Phò vua là bổn phận của bề tôi không thể kể là công. Ỷ công lấn quyền vua là trái đạo, việc trái do mình gây ra thì không được giận, nếu giận là bất nghĩa bất nhân. Tôi biết ông là người nhân nghĩa. Vả, nếu ông có giận mà hại vua thì mất chính nghĩa thiên hạ ắt loạn, ấy là việc làm của người bất trí. Ông là kẻ trí sao dám hại vua. Vì hai lẽ ấy nên tôi nói ra điều vua định giết ông mà không ngại.

Chỉnh đổi giận làm vui nói:

- Ông thật là xét việc sâu xa nhìn thấu lòng người. Việc tôi đã lỡ làm, nếu rút lại hóa ra làm trò cười cho thiên hạ, vậy xin ông hãy tâu vua xuống lệnh thuận phong. Ngoài việc ấy ra từ nay về sau làm việc gì tôi cũng sẽ vào xin mệnh của vua.

Trần Công Xán về tâu với vua Chiêu Thống những lời của Chỉnh. Vua thở dài nói:

- Ở với người bất nhân bất nghĩa mà có trí cũng còn hơn ở với kẻ bất nghĩa bất trí bất nhân.

Nói rồi vua Chiêu Thống viết chiếu thuận phong Thế tử cho con và tước hầu cho các tướng của Chỉnh. Chỉnh nhận được chiếu rồi từ ấy về sau làm việc gì cũng không cần bàn với vua nữa. Vua giận lắm tuy chẳng dám nói ra nhưng định bụng có dịp sẽ ra tay trừ Chỉnh.

*

* *

Lại nói về Nguyễn Huệ ở Phú Xuân, nhận được chiếu chỉ của vua Thái Đức phong làm Bắc Bình Vương cai quản từ ải Hải Vân trở ra rồi, Huệ bèn hội các tướng bàn việc nước. Huệ nói:

- Nay ta đã được tự lập riêng một cõi, không chịu sự kiềm chế của Hoàng huynh. Vậy ta phải tổ chức quân đội, các tướng phải chia binh phòng thủ các nơi, thường xuyên thao luyện quân sĩ lại giúp dân canh tác cấy cày. Ý các tướng thế nào?

Nguyễn Văn Tuyết bước ra thưa:

- Bọn hạ thần theo Chúa công dựng nghiệp cứu dân nào sá chi sinh tử hiểm nghèo. Nhưng bây giờ phải đi trấn nhậm thật chẳng an tâm.

Nguyễn Huệ cười hỏi:

- Ngày xưa Văn Tuyết một mình vác song đao thích khách Võ Vương cướp ngựa Xích kỳ không hề nao núng, sao nay đi trấn nhậm lại chẳng an tâm?

Tuyết đáp:

- Nay Chúa công tự lập riêng một cõi cùng Bệ hạ chia ranh giới ra cai trị. Bọn hạ thần theo Chúa công ở Phú Xuân, còn vợ con gia quyến chúng thần lại đang ở Quy Nhơn bảo chúng thần an tâm sao được?

Các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Vũ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Lộc cùng quỳ cạnh Nguyễn Văn Tuyết đồng thanh thưa:

- Xin Chúa công cho được đi đón gia quyến đến đây rồi sẽ lo việc nước cũng chẳng muộn gì.

Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:

- Vợ con ta cũng đang còn ở thành Quy Nhơn. Nay các tướng đã quyết lòng như thế, ta sẽ thảo thư xin Hoàng huynh cho gia quyến của bọn ta đến đây.

Nói xong Nguyễn Huệ liền viết thư sai người gấp mang vào Quy Nhơn trao cùng vua Thái Đức. Trước khi sứ giả lên đường Nguyễn Huệ căn dặn rằng:

- Ta có riêng bức mật thư ngươi hãy kín đáo mà đưa cho quan Ngự Sử Nguyễn Thung.

Sứ giả vâng lệnh mà đi.

Vua Thái Đức ở thành Quy Nhơn nhận được thư của Nguyễn Huệ, đọc xong vua đưa cho Vũ Tâm Can xem và hỏi:

- Theo ý ngươi thì thế nào.

Vũ Tâm Can đáp:

- Bắc Bình Vương và các tướng mưu toan làm phản sợ ta hại gia quyến nên mới lập kế đưa vợ con ra trước. Chi bằng ta giữ vợ con họ lại làm con tin, ắt là Bắc Bình Vương không dám cử động.

Vua Thái Đức nói:

- Ta cũng định như vậy, nhưng nếu mẫu thân ta hay được rằng ta bắt giam vợ con Nguyễn Huệ người lại quở trách ta thì làm thế nào.

Can đáp:

- Thái hậu đã già yếu, quanh năm không ra khỏi cung cấm sao biết được việc bên ngoài. Nay Bệ hạ nên cho người tâm phúc hộ vệ bên ngoài không cho ai vào thì việc chắc là không đến tai Thái hậu được.

Vua Thái Đức khen phải bèn theo kế ấy mà làm, sai quân bắt tất cả gia quyến của Nguyễn Huệ và các tướng giam lỏng một nơi. Nguyễn Thung hay tin ấy nhủ thầm rằng: Bắc Bình Vương bảo ta nếu vua bắt giam gia quyến làm con tin thì tâu lên Thái hậu. Vậy ta phải thân đến gặp Thái hậu mới được.

Nghĩ rồi bèn khăn áo mà đi. Đến cung Thái hậu quân canh chặn lại hỏi:

- Quan Ngự Sử vào cung Thái hậu có việc gì?

Nguyễn Thung đáp:

- Ngày trước khi chưa khởi binh ta và Thái hậu là chỗ hàng xóm với nhau, nay nhân đi ngang qua chợt nhớ định ghé thăm thôi mà. Các ngươi mau cho ta vào đi.

Quân canh nói:

- Thái hậu sức khỏe bất an, vua lệnh cho chúng tôi không được để ai vào.

Nguyễn Thung không biết làm sao đành lủi thủi ra về. Đến nhà chợt nghe quân vào báo có Vũ Tâm Can đến thăm. Thung mời vào. Vũ Tâm Can vào nhà hỏi Nguyễn Thung:

- Bá phụ vào thăm Thái hậu bị quân lính coi thường nên buồn bực chứ gì.

Nguyễn Thung đáp:

- Quân lính chỉ tuân theo mệnh vua cớ sao ta lại buồn bực họ.

Thung lại giật mình hỏi:

- Nhưng sao cháu lại biết việc này?

Vũ Tâm Can đáp:

- Cháu lúc nào cũng hầu hạ bên Hoàng thượng, nghe quân vào báo cùng Hoàng thượng việc bá phụ vào thăm Thái hậu nên cháu mới biết. Bá phụ gặp Thái hậu có việc gì cứ nói với cháu, cháu sẽ có cách giúp cho Bá phụ.

Nguyễn Thung nói:

- Bắc Bình Vương bảo ta tâu cùng Thái hậu nhờ Thái hậu khuyên Hoàng thượng thả gia quyến Bắc Bình Vương và các tướng về Phú Xuân. Nhưng ta không có cách gì báo cho Thái hậu hay được. Nếu Đông Định Vương còn ở Quy Nhơn ta sẽ nhờ Đông Định Vương vào bẩm với Thái hậu nhưng nay Đông Định Vương đã vào Gia Định biết phải làm sao?

Vũ Tâm Can nói:

- Việc này nào có khó gì. Bá phụ hãy viết một phong thư nói giả là của Đông Định Vương từ Gia Định gởi về cho Thái hậu. Quân canh ắt mang thư vào ngay, không nghi ngờ gì cả.

Nguyễn Thung hết kế và ngỡ Vũ Tâm Can ngay lòng nói thật, liền viết thư cầm vào nhờ quân canh trao cho Thái hậu.

*

* *

Hôm sau vua Thái Đức thiết triều cho đòi Nguyễn Thung đến hỏi:

- Lần trước có phải ngươi đã bày Thái hậu ngăn ta đem quân đánh Nguyễn Huệ. Và lần này ngươi đã bày Thái hậu bảo ta thả vợ con Nguyễn Huệ và mấy tên phản nghịch về Phú Xuân có phải chăng.

Nguyễn Thung thất sắc đáp:

- Việc này là do nơi Thái hậu, hạ thần không dám can dự.

Vua Thái Đức quăng lá thư xuống đất quát:

- Vậy lá thư này là thủ bút của ai đây. Ta vốn đã biết bụng ngươi nên cho Vũ Tâm Can bày kế lấy chứng cớ bắt tội ngươi cho được rõ ràng trước mặt trăm quan. Ngươi còn gì để nói nữa chăng!

Nguyễn Thung khóc rằng:

- Hạ thần làm thế là vì lòng trung với Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét cho.

Vua quát hỏi:

- A dua theo thằng Huệ phản ta sao bảo là trung.

Thung đáp:

- Nếu Bệ hạ thả gia quyến thì anh em hòa thuận. Bằng không sớm muộn gì Bắc Bình Vương cũng đem quân đánh tới. Xin Bệ hạ hãy nghe lời thần mà tha cho gia quyến họ.

Vua Thái Đức cười hỏi:

- Ta có con tin trong tay, Nguyễn Huệ và đồng bọn dám động binh hay sao.

Nguyễn Thung lại khóc rằng:

- Con chim trước khi chết hót ra lời thánh thót, con người trước khi chết thường nói đúng không sai. Thần nay tất phải chết có mấy lời sau cùng xin thưa cùng Bệ hạ. Bắc Bình Vương xét việc phải làm là ích nước lợi dân thì không có việc gì mà ông ấy chẳng dám làm. Nếu Bệ hạ nghĩ rằng dùng gia quyến của họ làm con tin mà có thể kềm chế được Bắc Bình Vương thì hãy đem hài cốt của tôi mà chặt làm chín khúc.

Nói dứt lời Nguyễn Thung đâm đầu vào cột rồng vỡ sọ mà chết. Các quan trông thấy không ai dám nói lời nào. Vua Thái Đức thấy Nguyễn Thung chết rồi liền truyền bãi triều.

Vũ Tâm Can về kể chuyện Nguyễn Thung chết cho Vũ Mẫu nghe. Vũ Mẫu buồn rầu hỏi:

- Nguyễn Thung xưa cùng cha con kết nghĩa huynh đệ. Lúc cha con bị Nguyễn Nhạc xử tội chết, chính ông ấy đã xin đem thi hài cha con về quê an táng. Ông ấy là người ơn của gia đình ta sao con lại lập mưu hại chết Nguyễn Thung.

Vũ Tâm Can đáp:

- Con vẫn biết vậy nhưng Nguyễn Thung cứ giúp anh em Nhạc, Huệ giải hòa nhau. Không hại ông ấy sao ta phá được nhà Tây Sơn của Nhạc, Huệ.

Vũ Mẫu hỏi:

- Nay Nhạc đã bắt giam vợ con Huệ cùng các tướng. Vậy Nguyễn Huệ phản ứng thế nào?

Can đáp:

- Con sẽ cho người ra báo tin cùng Nguyễn Huệ, sớm muộn gì anh em họ chẳng chém giết lẫn nhau.

Vũ Mẫu lại hỏi:

- Người của ta sao ra báo tin cho Nguyễn Huệ dược.

Vũ Tâm Can đáp:

- Trước con thường kết giao với một người là anh vợ của Nguyễn Huệ, lại là chú ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Khi Nguyễn Nhạc bắt gia quyến thì hắn trốn vào nhà con xin nương nhờ. Nay ta thả hắn về Phú Xuân tất hắn sẽ kể việc bắt giam gia quyến và giết chết Nguyễn Thung. Như vậy ta đã đạt mục đích mà hắn còn mang ơn ta nữa.

Vũ Mẫu vội hỏi:

- Người ấy là ai?

Can đáp:

- Hắn là Bùi Đắc Tuyên.

Nói xong Can liền quay đi sắp xếp ghe thuyền sai người tín cẩn đưa Bùi Đắc Tuyên đi trốn.

*

* *

Bùi Đắc Tuyên trốn được ra Phú Xuân xin vào yết kiến Nguyễn Huệ, kể chuyện vua Thái Đức bắt giam gia quyến và giết chết Nguyễn Thung cho Huệ và các tướng nghe. Nghe xong Huệ khóc lớn rằng:

- Thương thay Nguyễn Thung. Chính ta đã hại chết Nguyễn Thung rồi vậy. Hoàng huynh sao nỡ nhẫn tâm giết hại công thần như thế!

Trần Quang Diệu bước ra hỏi:

- Hoàng thượng khi trên người thì thi ân bố đức, cảm thấy kém người thì đố kỵ làm càn. Nay việc đã như vậy, Chúa công liệu tính làm sao?

Nguyễn Huệ gạt nước mắt đáp:

- Truyền lệnh ta, các tướng hãy chỉnh đốn binh mã theo ta vào Quy Nhơn đòi Hoàng huynh phải trả con tin.

Trần Văn Kỷ bước ra can:

- Thưa Chúa công có hai điều không nên làm việc ấy.

Huệ hỏi:

- Ấy là điều gì?

Trần Văn Kỷ đáp:

- Nếu Chúa công động binh đánh Quy Nhơn, Hoàng thượng tất nổi giận mà giết hết gia quyến, ấy là một lẽ. Hai bên đánh nhau tất hao quân tổn tướng làm suy yếu nhà Tây Sơn ta, ấy là hai lẽ. Vì hai lẽ ấy nên thần cúi xin Chúa công chớ động binh.

Nguyễn Huệ nói:

- Hoàng huynh vì giận làm càn nhưng người biết rõ tánh ta không vì tình nhà mà bỏ quên việc nước ắt là không dám giết gia quyến. Lẽ thứ nhất không phải lo. Hiện nay trấn thủ Quảng Nam là Đặng Mộng Kỳ, trấn thủ Quảng Ngãi là Lê Trung. Lê Trung trước từng theo ta vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh vốn chịu ân đức của ta lại dám chống lại ta sao? Đặng Mộng Kỳ văn võ song toàn biết điều lễ nghĩa, nay ta dùng nghĩa lý mà khuyên Đặng Mộng Kỳ phải lui quân, thì chẳng lo gì đến việc phải đánh nhau. Ấy là hai lẽ! Chẳng qua ta kéo binh vào làm áp lực buộc Hoàng huynh thả con tin không được kềm chế ta mà thôi. Nếu không như thế ta mãi chịu mệnh nhỏ của Hoàng huynh thì làm sao có thể thi hành được nghĩa lớn là thống nhất sơn hà. Việc này Văn Kỷ chớ lo!

Nói xong Nguyễn Huệ hạ lệnh:

- Trần Văn Kỷ mau soạn hịch kể tội Hoàng huynh ta truyền đi khắp các phủ trước, không được chậm trễ.

Trần Văn Kỷ vâng lệnh lui ra.

Nguyễn Huệ nhìn hết các tướng một lượt rồi bảo:

- Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú lãnh năm ngàn binh trấn thủ Phú Xuân. Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân theo đường thượng đạo đến Tây Sơn Thượng xuống đèo Mang bất ngờ đánh lấy ải Cù Mông. Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc đem năm ngàn thủy quân theo đường bể chiếm cửa biển Thị Nại và cửa Cách Thử uy hiếp mặt Đông. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân theo ta đi đường đại lộ tiến đến Quy Nhơn. Các tướng nên nhớ kỹ, khi ta kéo đến, quân Hoàng huynh tất lui về thành Quy Nhơn cố thủ, các ngươi không được chém giết, ai trái lệnh chém đầu.

Các tướng cùng bước lên lãnh lệnh. Trần Quang Diệu hỏi:

- Nếu quân Hoàng thượng kháng cự thì phải thế nào.

Nguyễn Huệ quả quyết đáp:

- Ta đã sai Trần Văn Kỷ đi trước truyền hịch khắp nơi, nay thấy binh ta đến chắc chắn các tướng của Hoàng huynh chẳng dám chống lại ta. Nếu gặp kháng cự cứ kéo quân về có gì ta cũng không bắt tội.

Nói rồi Nguyễn Huệ truyền lệnh xuất quân.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 42 Giấu mẹ hiền, vua Thái Đức bắt giam Nguyễn Lữ. Cầu Thái hậu, Đặng Văn Long bắn Tử Cấm Thành.
Nhắc lại việc Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn đánh vua Thái Đức.

Quân Nguyễn Huệ vượt ải Hải Vân vào đất Quảng Nam, quân tiền đồn chạy về phi báo cùng trấn thủ Quảng Nam là Đặng Mộng Kỳ. Kỳ bèn bàn với phó tướng là La Xuân Kiều rằng:

- Hoàng thượng bắt giam gia quyến của Bắc Bình Vương và các tướng theo Bắc Bình Vương ở lại Phú Xuân. Nav Bắc Bình Vương truyền hịch đến đây nói là chỉ kéo quân vào yêu cầu vua thả con tin chứ không có gì khác. Vậy theo ông ta nên xử trí thế nào?

La Xuân Kiều đáp:

- Hoàng thượng thấy uy đanh của Bắc Bình Vương lừng lẫy, sợ Bắc Bình Vương làm phản nên mới bắt giam gia quyến làm con tin. Theo tôi nếu Bắc Bình Vương có lòng tạo phản thì cứ thúc quân mà đánh cần gì phải truyền hịch trước, bọn chúng ta đâu phải là đối thủ của ông ấy!

Đặng Mộng Kỳ lại hỏi:

- Theo ông nay ta nên làm thế nào.

La Xuân Kiều đáp:

- Nay ta nên rút quân về Quảng Ngãi với Lê Trung xem thử ý Lê Trung thế nào rồi sẽ liệu mà xử sự.

Đặng Mộng Kỳ khen phải bèn bỏ Quảng Nam rút về Quảng Ngãi. Đọc tờ hịch của Bắc Bình Vương do Đặng Mộng Kỳ trao xong, trấn thủ Quảng Ngãi Lê Trung nói:

- Bọn chúng ta mà chọi với Bắc Bình Vương khác nào lấy trứng chọi đá. Bắc Bình Vương là người sống phải nghĩa phải tình ắt là không có ý hại anh, vả lại việc này do nơi Hoàng thượng mà ra. Vậy chi bằng ta hãy kéo quân về thành Quy Nhơn nói là đánh không lại Bắc Bình Vương, ắt Hoàng thượng cũng không thể bắt tội ta đrợc.

Nói rồi ba người liền bỏ Quảng Ngãi kéo quân về Quy Nhơn.

Vua Thái Đức ở trong thành Quy Nhơn ngày ấy nghe quân vào báo rằng:

- Tâu Bệ hạ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân theo lệnh Bắc Bình Vương đem quân theo đường Thượng đạo đánh lấy ải Cù Mông. Hiện quân Trần Quang Diệu đã vây kín mặt Tây Nam.

Quân do thám mặt Đông về báo:

- Bắc Bình Vương sai Đô đốc Tuyết và Đô đốc Lộc đem thủy binh vào chiếm cửa biển Cách Thử và cửa biển Thị Nại uy hiếp mặt Đông.

Vua Thái Đức còn đang bối rối chợt quân canh lại vào báo:

- Tướng quân Đặng Mộng Kỳ trấn thủ Quảng Nam và tướng quân Lê Trung trấn thủ Quảng Ngãi đã kéo quân về thành còn đang đợi mệnh.

Vua Thái Đức truyền cho vào. Vua quát hỏi:

- Tại sao giặc đánh tới hai ngươi chưa đánh mà đã lui binh?

Lê Trung đáp:

- Tâu Bệ hạ, trước hạ thần đã từng theo Bắc Bình Vương vào Nam đánh Nguyễn nên có biết tài của ông ấy. Bọn thần không phải là đối thủ của Bắc Bình Vương, nếu chống nhau với ông ấy chỉ có bại binh mà thôi, ấy là một lẽ. Bắc Bình Vương và Hoàng thượng là anh em cật ruột, binh tướng chúng ta đều là người một nhà cả đã từng đồng cam cộng khổ sinh tử có nhau, nay chém giết lẫn nhau máu chảy ruột mềm, lòng thần không nỡ, ấy là hai lẽ. Vả lại Bắc Bình Vương truyền hịch đi các nơi rằng chỉ đem binh vào xin Hoàng thượng thả gia quyến mà thôi. Xin Hoàng thượng hãy thả gia quyến của họ ra để tránh cho trăm họ phải cảnh can qua.

Vua Thái Đức giận lắm quát hỏi:

- Ngươi có dám chắc rằng sau khi thả gia quyến, nó không làm phản ta chăng?

Lê Trung đáp:

- Nếu Bắc Bình Vương có lòng tạo phản chúng thần xin cam tâm chịu chết.

Vua Thái Đức thét quân:

- Quân bay mau bắt giam Lê Trung, Đặng Mộng Kỳ và La Xuân Kiều vào ngục. Sau khi thả gia quyến mà thằng Huệ không chịu bãi binh thì ta đem ba ngươi làm lễ tế cờ rồi sẽ xuất quân!

Quân lôi ba tướng vào ngục xong, lại có tin báo:

- Tâu Bệ hạ, Bắc Bình Vương đã đem quân vây kín bốn mặt thành. Bắc Bình Vương mời Bệ hạ lên mặt thành nói chuyện.

Vua Thái Đức liền nai nịt lên mặt thành. Thấy bốn bên gươm giáo ngời ngời, tinh kỳ phấp phới, lại thấy Nguyễn Huệ mình mặt giáp trụ, đầu đội kim khôi cưỡi voi trước trận, vua giận lắm mắng rằng:

- Thằng phản chúa phụ anh kia, hiện mẹ còn đang ở trong thành mày lại đem quân vây đánh, thật là phường bất trung bất hiếu. Mày có giỏi thì cứ đánh đi, gọi ta lên nói chuyện để làm gì.

Nguyễn Huệ chắp tay nói:

- Em vì mặc giáp trụ không thể thi lễ được, xin Hoàng huynh miễn chấp. Em kéo quân đến đây cốt gặp mặt Hoàng huynh để nói một lời, xin Hoàng huynh trao trả con tin, em lập tức lui binh.

Vua Thái Đức cười lớn mấy hồi, cười đến rơi nước mắt rồi bảo:

- Ta biết ngươi có lòng tạo phản nên mới bắt gia quyến làm con tin. Quả nhiên ta có con tin mà ngươi còn đem quân đánh tới. Nếu ta thả con tin thì ngươi giết chúa hại anh nào có ngại gì. Ngươi không ngại tiếng đời thì cứ đánh đi, phen này ta quyết liều mạng với ngươi.

Nói rồi vua lệnh các tướng canh phòng cẩn mật, súng ống sẵn sàng, cung tên nước sôi gỗ đá đầy đủ, hễ địch tấn công thì liều chết mà đánh.

Nguyễn Huệ thấy vua Thái Đức quyết lòng giữ con tin liều chết thủ thành lấy làm lo ngại lắm.

Đêm ấy trong đại bản doanh Nguyễn Huệ hết đứng lên lại ngồi xuống rồi đi quanh quẩn trong phòng thở dài não ruột. Trần Văn Kỷ thấy vậy hỏi:

- Chúa công có điều lo lắng lắm sao mà nét mặt dàu dàu như thế.

Nguyễn Huệ buồn rầu đáp:

- Ta cứ ngỡ đem quân vây thành là Hoàng huynh sợ ta quyết đánh phải thả con tin. Nào ngờ Hoàng huynh lại càng giữ con tin liều chết cố thủ. Nay việc đã lỡ chỉ còn cách gọi Nguyễn Lữ về đây mới mong khuyên được Hoàng huynh thả gia quyến của ta và các tướng ra mà thôi.

Nói rồi Nguyễn Huệ liền viết thư sai người tâm phúc cấp tốc vào Sài Côn trao cho Nguyễn Lữ.

*

* *

Nguyễn Lữ ở thành Sài Côn nhận được thư Nguyễn Huệ, đọc xong Lữ oà khóc lớn nói rằng:

- Hai anh ta sao lại đến nỗi này.

Đặng Văn Long thất kinh nói:

- Việc gì mà nhị sư huynh lại tỏ ra bi thảm thế?

Nguyễn Lữ vẫn khóc nói:

- Hoàng huynh bắt giam gia quyến của Bắc Vương huynh và các tướng trong thành Quy Nhơn. Bắc Vương huynh đem quân vây hãm kinh thành buộc Hoàng huynh phải thả con tin. Hoàng huynh vì sợ thả con tin rồi Bắc Vương huynh làm phản đánh thành nên liều chết cố thủ. Nay Bắc Vương huynh viết thư gọi ta về Quy Nhơn vào thành báo cùng mẹ ta khuyên Hoàng huynh thả hết gia quyến, Bắc Vương huynh sẽ lập tức lui binh. Ta phải kíp đi ngay.

Đặng Văn Long nói:

- Việc này rất nghiêm trọng, tôi cũng phải theo nhị sư huynh về Quy Nhơn mới được!

Nói rồi Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long gọi quan Thái Báo tên là Phạm Văn Tham đến nói:

- Nay ta và Đặng Văn Long phải về Quy Nhơn hòa giải hai anh ta. Vậy ngươi hãy thay ta trấn thủ Gia Định Sài Côn, xong việc ta sẽ quay về.

Dặn dò Phạm Văn Tham xong, Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long liền lên ngựa nhắm hướng Bắc trực chỉ.

Đến Quy Nhơn ra mắt Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ ôm Huệ khóc rằng:

- Anh Huệ ơi. Vì sao phải đến nông nỗi này?

Nguyễn Huệ ôm em khóc nói:

- Hoàng huynh nghi ngờ anh có lòng tạo phản nên bắt giam gia quyến của anh và các tướng trong thành. Ngự Sử Nguyễn Thung can gián, Hoàng huynh lại giết chết Nguyễn Thung. Anh bất đắc dĩ phải đem quân vây thành yêu cầu Hoàng huynh thả con tin, không ngờ Hoàng huynh quyết giữ con tin liều chết cố thủ. Anh vì tình cốt nhục không thể động can qua. Nay em hãy vào thành báo cho mẹ hay, mẹ sẽ bảo Hoàng huynh thả con tin, anh kíp kéo quân về hàn gắn tình huynh đệ, cùng lo việc quốc gia. Việc này chỉ có mình em làm được mà thôi.

Nguyễn Lữ nghe lời Nguyễn Huệ liền quay đi. Nguyễn Huệ bước theo dặn dò Nguyễn Lữ rằng:

- Khi vào được thành em chớ để lộ việc báo mẹ hay cho Hoàng huynh biết, nếu không như thế việc ắt chẳng thành.

Nguyễn Lữ vâng lời gạt nước mắt mà đi. Nguyễn Lữ một mình một ngựa đến trước cổng thành gọi lớn:

- Quân bay mau vào báo cùng Hoàng thượng có ta là Đông Định Vương Nguyễn Lữ xin vào yết kiến.

Quân canh vào báo cùng vua Thái Đức. Vua đích thân lên mặt thành xem xét, thấy quả nhiên Nguyễn Lữ đứng dưới thành không quân không tướng. Vua bèn truyền mở cổng thành rồi đích thân xuống dưới thành đón Nguyễn Lữ. Anh em gặp mặt ôm nhau mà khóc. Tướng sĩ trông thấy đều bùi ngùi rơi lệ. Vua Thái Đức hỏi Nguyễn Lữ:

- Nay em nghe lời Nguyễn Huệ đến gặp anh có gì để nói.

Lữ quỳ lạy đáp:

- Em trấn thủ Sài Côn Gia Định, nghe hai anh có việc bất hòa, dấy cuộc binh đao lòng đau như cắt vội vã về đây dập đầu can gián. Xin hỏi Hoàng huynh, anh Huệ là người trung nghĩa dày công hạn mã giúp Hoàng huynh dựng nên nghiệp lớn, sao Hoàng huynh lại bắt giam gia quyến làm con tin.

Vua Thái Đức liền hỏi:

- Nó là người trung nghĩa sao kéo quân vây thành phản chúa phụ anh?

Nguyễn Lữ đáp:

- Anh Huệ bảo em xin Hoàng huynh hãy thả con tin anh ấy sẽ lui binh.

Vua Thái Đức đang nước mắt dầm dề bỗng cười to nói:

- Em thật thà nghe lời lừa phỉnh của nó. Ta có con tin nó còn đem quân vây thành. Nếu thả con tin nó bốn mặt công thành thì làm thế nào? Em hãy về bảo nó lập tức lui binh trước, ta sẽ thả con tin sau.

Nguyễn Lữ nghĩ thầm rằng: Anh Huệ lui quân, Hoàng huynh cho rằng giữ con tin là kềm chế được anh Huệ thì lại càng không thả con tin, vậy mối bất hòa này bao giờ mới dứt. Chi bằng ta báo mẹ là hơn. Nghĩ xong bèn nói:

- Anh Huệ đã quyết ý chưa có gia quyến thì nhất định chẳng lui binh dù em có nói thế nào cũng không lay chuyển được. Vậy em xin vào vấn an mẹ, việc này do hai anh tự xử với nhau vậy.

Nói xong dợm bước toan đi. Vua Thái Đức quát:

- Quân bay mau bắt Nguyễn Lữ lại cho ta.

Võ sĩ vâng lệnh bắt Nguyễn Lữ trói lại dưới thềm.

Lữ ngạc nhiên hỏi:

- Em có tội gì?

Vua Thái Đức đáp:

- Nếu em vào gặp mẹ cho mẹ biết việc này ắt mẹ sẽ buộc ta thả con tin ra. Khi ấy nó đánh thành thì ta lấy gì chống đỡ. Bởi vậy anh tạm giam em, khi nào thằng Huệ lui binh anh sẽ thả em ra.

Nguyễn Lữ bị võ sĩ lôi đi nói với lại rằng:

- Em chỉ vào vấn an mẹ, không nói tới việc này.

Vua Thái Đức đáp:

- Em thật thà không lường được bụng dạ thằng Huệ. Việc ấy lấy gì làm chắc.

Nguyễn Lữ khóc rống lên rằng:

- Hoàng huynh ơi! Anh đã lầm rồi!

Vào ngục rồi Nguyễn Lữ cứ ngồi khóc mãi không thôi.

Thấy vua Thái Đức bắt giam Nguyễn Lữ rồi, thái giám Vũ Tâm Can nhủ thầm rằng, nay ta báo tin này cho Nguyễn Huệ, chắc chắn Huệ sẽ hạ lệnh đánh thành. Anh em nó tàn hại lẫn nhau là ta đã báo được thù cha rồi vậy.

Đêm ấy Vũ Tâm Can quấn thư quanh thân tên rồi lén lên mặt thành nhắm vào quân Nguyễn Huệ mà bắn. Quân bắt được thư đem vào dâng lên Nguyễn Huệ. Huệ đọc xong bèn hội các tướng nói:

- Nguyễn Lữ để lộ việc báo tin cho mẹ nên đã bị Hoàng huynh bắt giam. Mẹ ta tuổi đã già ở mãi trong cung, Hoàng huynh lại chẳng cho ai vào, thành ra mẹ ta không hề hay biết việc Hoàng huynh bắt giam gia quyến và ta đã đem binh vây thành. Chỉ có cách báo mẹ ta hay mới giải quyết được việc này. Vậy ai có kế gì chăng?

Mưu sĩ Trần Văn Kỷ và các tướng còn đang suy nghĩ thì Đặng Văn Long bước ra nói:

- Hạ thần có một kế có thể báo được cho Thái hậu.

Nguyễn Huệ liền hỏi:

- Kế thế nào?

Long đáp:

- Ở gần phía Đông Nam thành có một hòn núi tên là núi Long Cốt. Ở trong thành có một vòng thành nhỏ gọi là Tử Cấm Thành để cho Hoàng thượng và Thái hậu ở. Núi Long Cốt cao hơn mặt thành chừng mươi trượng, thần xin đem vài khẩu đại bác đặt trên đỉnh núi Long Cốt thì chắc chắn tầm đạn bắn đến Tử Cấm Thành. Thái hậu nghe súng nổ đạn bay ắt phải dò cho ra lẽ, thì lo gì việc không thành.

Nguyễn Huệ cả mừng khen rằng:

- Đặng Văn Long thật trí dũng song toàn, kế này rất hay. Nhưng e rằng đạn lạc ngộ nhỡ mẹ ta và Hoàng huynh có mệnh hệ nào thì hối không kịp.

Đặng Văn Long đáp:

- Hạ thần trấn thủ Gia Định nghe Phúc Ánh lẩn trốn ở Tiêm La Quốc đang cầu viện quân Pháp Lang Sa định ngày trở lại, nên đã cùng quân sĩ ngày đêm luyện tập bắn súng đại bác không sai lệch bao giờ. Thần đem đại bác lên núi Long Cốt chỉ nhắm vào mặt thành của Tử Cấm Thành mà bắn. Dinh thự nhà cửa sẽ không hề hấn gì, xin đại sư huynh chớ ngại. (Lúc bấy giờ đạn đại bác không có sức nổ công phá. Đạn chỉ bay đến mục đích như một cục sắt mà thôi).

Nguyễn Huệ nói:

- Nếu vậy thì ta theo cách ấy mà làm. Phen này tứ sư đệ đã cứu ta rồi đó.

Đặng Văn Long kéo đại bác lên núi Long Cốt hướng nòng súng vào Tử Cấm Thành, ngắm nghía xong Văn Long sai quân nạp đạn nhồi thuốc mà bắn.

Bà Thái hậu đang ở trong cung bỗng nghe súng nổ ầm ầm, đạn bay lên mặt Tử Cấm Thành tới tấp. Thái hậu sợ hỏi a hoàn:

- Con ta Đông Định Vương Nguyễn Lữ đang trấn thủ Gia Định, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang trấn thủ Phú Xuân, vậy ở thành Quy Nhơn giặc nào đánh tới.

A hoàn tâu:

- Thưa Thái hậu chúng con không được rõ.

Thái hậu bảo:

- Hãy mau đưa ta sang ngự điện hỏi vua xem.

Bọn a hoàn dìu Thái hậu ra ngoài, gặp lính tuần canh, Thái hậu hỏi:

- Giặc từ đâu đánh tới. Vua hiện đang ở nơi nào?

Quân canh đáp:

- Bắc Bình Vương đem quân vây thành đã mấy tháng. Nay Bắc Bình Vương kéo đại bác nơi núi Long Cốt bắn vào Tử Cấm Thành.

Thái hậu thất kinh liền vội vã vào ngự điện, gặp vua Thái hậu vừa khóc vừa hỏi:

- Thằng Huệ đem quân vây thành đã mấy tháng sao con không cho mẹ hay.

Vua Thái Đức thất kinh quỳ lạy đáp:

- Thưa Thái hậu, con sợ mẹ không vui nên không dám nói.

Thái hậu lại hỏi:

- Vậy thì cớ gì nó lại đem quân vây thành?

Vua không dám giấu đáp:

- Con sợ thằng Huệ làm phản nên bắt giam gia quyến của nó và các tướng ở Phú Xuân làm con tin. Quả nhiên nó làm phản đem quân đánh tới.

Thái hậu nổi giận quát:

- Thảo nào mà mày giấu nhẹm không cho ta hay. Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, việc này do nơi lòng đố kỵ của ngươi gây ra đó. Nếu nó có lòng phản chúa phụ anh thì cứ bắn cho vỡ Hoàng đế thành rồi xua quân đánh giết việc gì phải kéo đại bác lên núi Long Cốt bắn đến Tử Cấm Thành làm chi. Ta chắc là nó mượn súng đại bác để báo tin cho ta hay vậy.

Vua Thái Đức thấy mẹ giận không dám mở miệng chỉ cúi mặt làm thinh. Thái hậu bảo:

- Giờ ta lên mặt thành gặp nó, mày hãy mau vào ngục đưa Quang Toản lên mặt thành ngay.

Vua Thái Đức khóc nói:

- Con xin vâng lời mẹ dạy.

Thái hậu chống gậy lên đứng trên mặt thành. Đặng Văn Long trông thấy liền bảo quân:

- Thái hậu đã đến rồi, mau ngừng bắn.

Nguyễn Huệ lúc ấy đang cưỡi ngựa trước trận trông thấy mẹ đứng trên mặt thành mà khóc thì thất kinh hồn vía liền quăng gươm xuống ngựa, lột bỏ nón kim khôi, cởi luôn giáp trụ khấu đầu mà lạy rồi gào lớn lên rằng:

- Con bất hiếu xin cúi đầu chịu tội!

Lúc ấy vua Thái Đức vừa dẫn Nguyễn Lữ và con Nguyễn Huệ là Quang Toản mới vừa năm tuổi lên mặt thành đứng cạnh Thái hậu. Quang Toản ngây thơ kêu lớn:

- Cha ơi. Sao không về với con?

Vua Thái Đức vừa khóc vừa nói:

- Nồi da xáo thịt sao em đành lòng!

Nguyễn Huệ dưới thành ngửa mặt nhìn lên, lệ tuôn lã chã nói vọng lên rằng:

- Xin mẹ và Hoàng huynh tha cho đại tội. Bởi tại trời cao xui nên nghịch cảnh, chứ em nào có lòng phản chúa phụ anh.

Quân tướng hai bên trông thấy cảnh này không ai là không rơi nước mắt. Nguyễn Huệ đứng lên quay lại bảo quân:

- Truyền lệnh ta lập tức lui binh.

Nguyễn Văn Tuyết hỏi:

- Hoàng thượng chưa thả con tin, sao Chúa công đã vội lui binh?

Huệ đáp:

- Việc này ngươi không phải lo, đã có mẹ ta ở đó.

Trên mặt thành Thái hậu bảo vua Thái Đức:

- Con còn chờ gì mà không thả con tin ra.

Vua Thái Đức vâng lời thả hết gia quyến. Nguyễn Huệ và các tướng đem gia quyến lặng lẽ rút binh về Phú Xuân. Trước khi đi Nguyễn Huệ gọi Đặng Văn Long đến bảo:

- Nhờ trí dũng của tứ sư đệ đã hòa giải được mối bất hòa của anh em ta. Vậy Văn Long hãy mau theo Nguyễn Lữ vào trấn đất Gia Định đề phòng Nguyễn Phúc Ánh rước ngoại xâm về giày xéo nước ta.

Đặng Văn Long đáp:

- Nay hạ thần không thể vào Gia Định được nữa.

Huệ hiểu mà vẫn hỏi:

- Vì sao?

Long đáp:

- Hoàng thượng vâng lời Thái hậu mà phải cùng Đại sư huynh giảng hòa, nhưng trong lòng vẫn còn uất hận vì uy quyền bị bất phục. Nếu thần về Gia Định e Hoàng thượng không dung. Xin Đại sư huynh cho thần theo về Phú Xuân mới được vẹn toàn.

Nguyễn Huệ thở dài:

- Nguyễn Lữ là người thật thà, nếu không có Văn Long trợ giúp e rằng Nguyễn Lữ không phải là đối thủ của Nguyễn Phúc Ánh.

Văn Long nói:

- Việc đến nước này chẳng thể khác được. Vả lại theo phò Đông Định Nhị sư huynh còn có Thái Bảo Phạm Văn Tham cũng là người tài trí. Nếu sau Phúc Ánh có rước giặc ngoài về ta sẽ liệu sau.

Nguyễn Huệ không biết làm thế nào đành để Đặng Văn Long theo về Phú Xuân.

Nguyễn Huệ rút quân đi rồi, vua Thái Đức liền sai quân thả La Xuân Kiều và Đặng Mộng Kỳ về trấn thủ Quảng Nam, Lê Trung về trấn thủ Quảng Ngãi. Phần Nguyễn Lữ vì khóc nhiều quá đến nỗi máu tuôn theo nước mắt, hai mắt sưng vù nên phải tĩnh dưỡng chờ khi lành bệnh mới vào Gia Định.

Lúc các tướng La Xuân Kiều, Đặng Mộng Kỳ và Lê Trung vào bái biệt lên đường, vua Thái Đức say khướt vừa cười vừa khóc bảo:

- Ai đã đựng cờ khởi nghĩa cứu dân, dựng nên cơ nghiệp. Các ngươi được như ngày nay là nhờ ai? Vậy mà em ta nó đã phản ta rồi!

La Xuân Kiều, Đặng Mộng Kỳ và Lê Trung cùng khóc lạy rồi ra đi.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 43 Lầm Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huỳnh Đức về theo Phúc Ánh. Trừ Nguyễn Hữu Chỉnh, Bắc Bình Vương cầu cứu Ngọc Hân
Nhắc lại Bằng Trung Công Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long nghe tin anh em nhà Tây Sơn đánh nhau, Chỉnh cả mừng nói:

- Ngày trước khi khuyên Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh phò Lê ta đã biết trước Nguyễn Nhạc tất đem lòng đố kỵ mà trị tội kháng mệnh của Nguyễn Huệ, thật quả không sai. Nhưng không ngờ Nguyễn Huệ xem nhẹ luân thường đạp trên đạo lý nên phản chúa phụ anh, điều này ta không lường trước được. Nay Nguyễn Huệ tất bị thiên hạ chê cười, mất lòng tin trăm họ thì dù có tài dùng binh như Tôn Ngô ngày trước cũng chẳng ích gì. Đây chính là lúc ta thu đất Nghệ An dùng sông Linh Giang chia hai thiên hạ như hai nhà Trịnh - Nguyễn trước kia thì Nguyễn Huệ chỉ còn có đất Thuận Hóa nghèo nàn chật hẹp sao sánh cùng ta được.

Con Chỉnh là Nguyễn Hữu Du hỏi:

- Cha làm thế nào thu phục được đất Nghệ An?

Chỉnh đáp:

- Trước khi đem quân ra Bắc ta có hẹn cùng hai tướng trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức khi ta chiếm được Bắc Hà, Du và Đức sẽ trở giáo theo ta đánh lại Tây Sơn. Ta đã có kế này không tốn một mũi tên hòn đạn, không những lấy được Nghệ An mà có thể thu phục Động Hải nữa là khác.

Hữu Du hỏi:

- Nguyễn Duy và Huỳnh Đức trước đã giao ước cùng ta vậy nay ta lấy đất Nghệ An là việc dễ. Nhưng làm thế nào có thể lấy được Cát Dinh, Động Hải mà không tốn một mũi tên hòn đạn.

Chỉnh kề tai Du nói nhỏ như vầy... như vầy... nghe xong Du khen:

- Cha thật là đa mưu túc trí. Nguyễn Huệ không thể bì kịp.

Nguyễn Hữu Chỉnh liền viết thư sai sứ giả đem vào Nghệ An trao cho Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức.

Nhận được thư Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Duy bàn với Nguyễn Huỳnh Đức rằng:

- Bằng Trung Công bảo ta viết thư cho trấn thủ Động Hải là Vũ Văn Nhậm, khuyên Nhậm làm phản Bắc Bình Vương rồi cùng hợp binh vào Phú Xuân đánh Bắc Bình Vương. Vậy ý ông thế nào?

Nguyễn Huỳnh Đức đáp:

- Kế này rất hay. Nguyễn Huệ vừa đánh nhau với Nguyễn Nhạc. Vũ Văn Nhậm lại là con rể của Nguyễn Nhạc tất sợ bị Nguyễn Huệ nghi ngờ sớm muộn gì cũng làm hại. Nay được liên mình với ta đánh Nguyễn Huệ lập công với cha vợ ắt phải thuận lòng.

Nguyễn Duy nghe lời ấy liền viết thư sai người tâm phúc vào Động Hải trao cho Vũ Văn Nhậm. Vũ Văn Nhậm nhận được thư của Nguyễn Duy nhủ thầm rằng: Bắc Bình Vương Hoàng Thúc là người kiệt hiệt, lại thêm các tướng đều trí dũng song toàn, dù ta liên minh cùng Nguyễn Duy và Huỳnh Đức cũng không dễ gì chống nổi ông ấy. Vả lại ta có nghe Trần Quang Diệu mở đường Thượng đạo ra đến Nghệ An. Nếu Bắc Bình Vương sai Diệu theo đường này chiếm lấy Nghệ An thì ta ở Động Hải lưỡng đầu thọ địch tiến thoái lưỡng nan ắt là phải chết. Chi bằng ta đem việc này tâu cùng Bắc Bình Vương để lấy lòng tin của ông ấy là hơn.

Nghĩ rồi liền thét võ sĩ chém đầu sứ giả, lại sai người vào Phú Xuân báo tin cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ liền bảo quân:

- Mau ra Động Hải truyền lệnh ta bảo Vũ Văn Nhậm cất quân đánh Nghệ An bắt Nguyễn Duy và Huỳnh Đức về đây cho ta.

Quân vâng lệnh đi ngay. Nguyễn Duy ở Nghệ An nghe thám mã về báo rằng:

- Vũ Văn Nhậm chém đầu sứ giả, lại vâng lệnh Bắc Bình Vương chỉnh đốn binh mã chuẩn bị tiến ra Nghệ An đánh ta. Xin tướng quân định liệu.

Nguyễn Duy thất sắc hỏi Nguyễn Huỳnh Đức:

- Nay ta phải liệu thế nào?

Huỳnh Đức đáp:

- Nay ta đã là người của Bằng Trung Công vậy ta hãy cầu ông ấy đem binh cứu viện.

Nguyễn Duy nghe lời bèn sai sứ giả cấp tốc ra Thăng Long báo cho Hữu Chỉnh hay và xin binh cứu viện.

Nhận được tin ấy Chỉnh nói với sứ giả:

- Ngươi hãy về thưa với Nguyễn Duy tướng quân rằng: việc này lộ ra là do Nguyễn Duy không kín đáo nên mới đến tai Bắc Bình Vương. Vậy Nguyễn Duy hãy tự lo lấy, việc Nghệ An không can dự gì đến ta.

Sứ giả về tâu cùng Nguyễn Duy, Duy thất kinh nói:

- Chỉnh hứa sẽ dung ta, bày ta kế liên minh cùng Vũ Văn Nhậm. Nay lại bỏ ta là cớ làm sao?

Huỳnh Đức điềm nhiên đáp:

- Vũ Văn Nhậm không dám phản Bắc Bình Vương nên mới lộ việc. Hữu Chỉnh sợ nếu cứu ta là ra mặt chống đối Bắc Bình Vương, nhỡ Bắc Bình Vương đem quân đánh ra thì không chống nổi nên mới bỏ ta.

Nguyễn Duy nổi giận quát:

- Thằng giặc Chỉnh thật là phường bất nhân bất nghĩa. Ta ít quân giữ cũng không được mà chạy theo Chỉnh cũng không xong. Vậy phải làm sao?

Huỳnh Đức làm ra vẻ bí mật đáp:

- Ta hãy còn có một con đường sống.

Duy hỏi:

- Ấy là đường nào?

Đức cười đáp:

- Ông trước là tôi của Chúa Nguyễn Định Vương, nay hãy cùng tôi trốn sang Tiêm La Quốc theo phò Chúa Nguyễn Vương Phúc Ánh. Ấy là con đường sống vậy.

Nguyễn Duy than:

- Đến nước này chỉ còn con đường ấy mà thôi.

Nói rồi Nguyễn Duy cùng Nguyễn Huỳnh Đức bỏ Nghệ An đem theo trăm quân tín cẩn xuống thuyền ra bể tìm đường sang Tiêm La Quốc.

*

* *

Đến Vọng Cát ra mắt Nguyễn Vương Phúc Ánh, Huỳnh Đức tâu:

- Tội thần là Nguyễn Huỳnh Đức ngày trước bị giặc Tây Sơn bắt ở cửa Hàm Luông, nay thoát được về đây xin ra mắt Thượng vương.

Phúc Ánh hỏi:

- Từ ngày ngươi bị bắt đến nay đã được bốn năm ở dưới trướng của giặc sao mãi đến nay mới về được.

Đức đáp:

- Hạ thần bị bắt, Nguyễn Huệ dụ hàng nhưng thần quyết chẳng nghe. Sau Huệ giao ước nếu về sau biết Thượng vương ở đâu thì đi hay ở là tuỳ ý sở cầu nên thần mới tạm hàng Nguyễn Huệ. Nay nghe Thượng vương ở Tiêm La Quốc bèn nhắc lời giao ước với Nguyễn Huệ rồi vượt biển đến đây.

Phúc Ánh chỉ Nguyễn Duy hỏi:

- Còn người này là ai?

Đức đáp:

- Đây là tướng quân Nguyễn Duy trước trấn thủ thành Trường Dục dưới thời Chúa Định Vương. Nay theo thần về phò Thượng vương.

Ánh nghiêm giọng chỉ mặt Nguyễn Duy nói:

- Ngươi là tôi của nhà Nguyễn ta, quân Trịnh đến thì theo hàng quân Trịnh, Tây Sơn đánh Trịnh thì bỏ Trịnh đầu Tây. Nay cùng đường lại theo về với ta. Loài phản phúc như ngươi để sống làm gì.

Nói rồi hô quân lôi Nguyễn Duy ra ngoài mà chém.

Võ sĩ lôi Nguyễn Duy đi xong, Phúc Ánh ngoảnh lại bảo các tướng rằng:

- Đó là kết cuộc của kẻ bất trung, các ngươi hãy lấy đó làm gương.

Nguyễn Huỳnh Đức dập đầu lạy thưa:

- Hạ thần không phải như Nguyễn Duy, xin Thượng vương xét lại.

Phúc Ánh đỡ Đức dậy an ủi rằng:

- Lòng trung của khanh ta đã biết, khanh không cần phải lo sợ. Khanh hãy nói rõ tình hình quân Tây Sơn như thế nào.

Đức đáp:

- Năm Bính Ngọ Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc, trong một tháng giết Trịnh Khải chiếm Thăng Long.

Phúc Ánh giật mình nói:

- Họ Trịnh binh hùng tướng mạnh lại là một nước đã nên gốc rễ hơn hai trăm năm. Vậy mà Nguyễn Huệ đem quân vào nước người chỉ trong một tháng đã diệt được họ Trịnh ư. Tài Nguyễn Huệ thật là đáng sợ. Rồi sau đó thế nào?

Huỳnh Đức đáp:

- Tâu Thượng vương, Nguyễn Nhạc thấy Nguyễn Huệ lập võ công hiển hách, uy danh lừng lẫy nên đem lòng nghi kỵ gọi về Quy Nhơn thọ tội, Huệ giận đem quân vây thành Quy Nhơn, Nhạc không chống nổi phải xin hòa. Từ ấy Nhạc phong cho Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ đèo Hải Vân trở ra Phú Xuân, Thuận Hóa và phong Nguyễn Lữ là Đông Định Vương cai quản từ đèo Vân Phong vào đến Gia Định, Sài Côn.

Nghe đến đây Phúc Ánh vui mừng reo lên rằng:

- Anh em Nhạc, Huệ, Lữ bất hòa chia ba lãnh thổ, Nguyễn Huệ lại trấn thủ mặt Bắc, thật là trời giúp ta rồi vậy.

Nguyễn Văn Thành xen vào nói:

- Nhưng trấn thủ Gia Định với Nguyễn Lữ còn có Đặng Văn Long. Đặng Văn Long trí dũng song toàn, ngày trước chính nó đã bắt sống Nguyễn Huỳnh Đức ở cửa Hàm Luông, sau lại chặn đường về của ta ở Rạch Gầm trên sông Tiền Giang. Gia Định còn Đặng Văn Long là còn một mối lo vậy.

Nguyễn Huỳnh Đức đáp:

- Đặng Văn Long là tay chân của Nguyễn Huệ. Nay Nhạc, Huệ bất hòa Long sợ Nhạc làm tội nên bỏ Gia Định theo về Phú Xuân với Nguyễn Huệ rồi.

Phúc Ánh lại vỗ tay giậm cẳng nói:

- Ấy thật là trời đã bày ra chuyện thằng buôn trầu Nguyễn Nhạc có tính đố tài để giúp cho ta khôi phục cơ đồ rồi vậy.

Nguyễn Huỳnh Đức bàn rằng:

- Nay Nguyễn Huệ và các tướng giỏi đều đã ở Phú Xuân cả, vậy Thượng vương nên nhân cơ hội này về nước chiêu binh mãi mã chiếm đất Gia Định khôi phục cơ nghiệp đừng bỏ lỡ thời cơ.

Phúc Ánh nói:

- Từ ngày ta cho con là hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc sang nước Pháp Lang Sa làm con tin để cầu viện đến nay đã hai năm mà chẳng thấy tin tức gì, ta thật lấy làm lo lắng. Để ta sai người đến Pháp Lang Sa liên lạc với Bá Đa Lộc xem sự thể thế nào rồi sẽ liệu sau.

Đoạn Phúc Ánh liền sai sứ giả kíp đi ngay sang nước Pháp Lang Sa tìm Bá Đa Lộc.

*

* *

Nhắc lại sau khi Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trốn đi rồi, tướng Tây Sơn trấn thủ Động Hải là Vũ Văn Nhậm kéo quân ra chiếm thành Nghệ An bỏ trống. Vào thành rồi Vũ Văn Nhậm tự đắc nói với tả hữu rằng:

- Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức mới nghe oai ta đã bỏ thành mà chạy. Nếu Bắc Bình Vương chẳng dặn trước là không được đánh ra Bắc thì ta đã kéo rốc ra Thăng Long bắt luôn Nguyễn Hữu Chỉnh cho thiên hạ biết tài.

Nói rồi Nhậm bèn sai quân về Phú Xuân báo tin thắng trận cho Nguyễn Huệ hay. Nguyễn Huệ nhận được thư báo tiệp của Vũ Văn Nhậm liền bảo với các tướng rằng:

- Nguyễn Hữu Chỉnh thật xảo quyệt. Hắn xúi Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức chống lại ta, khi lộ việc Vũ Văn Nhậm kéo quân ra đánh, hắn sợ không dám dung Nguyễn Duy nên Nguyễn Duy bất đắc dĩ phải theo Nguyễn Huỳnh Đức chạy theo phò Nguyễn Phúc Ánh.

Trần Văn Kỷ tâu:

- Dù Chỉnh có ra mặt dung túng Nguyễn Duy mà phản ta, ta cũng không phải vì cớ ấy mà cất quân đánh hắn được.

Các tướng đồng thanh hỏi:

- Vì sao ta lại không đánh Chỉnh được.

Huệ đỡ lời Trần Văn Kỷ:

- Vì Nguyễn Hữu Chỉnh đang nấp bóng phò Lê.

Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:

- Thằng giặc Chỉnh mấy phen được Chúa công cứu mạng lại cho mượn quân ra tung hoành trên đất Bắc, nay ra mặt làm phản ta thật tức chết đi được.

Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:

- Nếu muốn cất quân đánh Chỉnh ta phải nhờ đến một người mới được!

Các tướng đồng thanh hỏi:

- Người ấy là ai?

Huệ đáp:

- Ấy chính là Ngọc Hân công chúa!

Nói xong Nguyễn Huệ truyền bãi triều rồi lui về hậu cung. Ngọc Hân hỏi Huệ rằng:

- Việc nước có gì hệ trọng mà phu quân buồn rầu như thế?

Huệ thở dài nói:

- Lúc trước ta vâng lệnh Tiên đế đưa cháu của nàng là Lê Duy Kỳ tên ngôi vua Chiêu Thống. Nhưng ngặt nỗi Hoàng huynh ta thình lình ra Bắc triệu về Quy Nhơn thọ tội nên ta không thể nào ở lại Thăng Long phò tá vua Lê. Bởi vậy Trịnh Bồng mới đem quân về kinh ép vua phải lập lại ngôi Chúa, phong vương cho Trịnh Bồng. Vua uất hận lấy máu viết mật thư triệu Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Chỉnh đã đuổi được Trịnh Bồng đi, nhưng Chỉnh là người kiêu ngạo tham quyền lại đi theo vết cũ họ Trịnh, lập con làm thế tử, tự ý phong hầu cho các tướng, hiếp đáp vua Lê, khiến hào kiệt bất bình nổi dậy khắp nơi, làm trăm họ thật là điêu đứng. Ta vì danh nghĩa là người của nước Tây Sơn ở Đàng Trong không thể lấy lý gì mà đem quân ra Bắc. Thấy muôn dân đói khổ lầm than nên trong lòng đau đớn mà ưu phiền là thế.

Huệ nói xong mặt mày càng ủ dột. Ngọc Hân thương lắm đến gần Huệ an ủi rằng:

- Xin phu quân chớ quá thương tâm. Thiếp có một kế có thể khiến vua Chiêu Thống viết mật chỉ vời phu quân ra cứu giá, trừ Hữu Chỉnh giúp dân.

Nguyễn Huệ lắc đầu nói:

- Lúc Hoàng huynh ra Bắc buộc ta rút binh về thì Tây Sơn ta đã thất tín với vua Lê và thiên hạ Đàng Ngoài. Vua Chiêu Thống đã không tin thì làm gì dám gọi ta về cứu giá?

Ngọc Hân ngậm ngùi đáp:

- Thiếp là công chúa nhà Lê theo chồng xa cố quốc, nay thiếp viết thư về thăm Hoàng tộc, lại ngầm sai sứ giả nói với vua thế này... thế này. Ắt vua phải tin phu quân mà vời chàng về cứu giá.

Nguyễn Huệ mừng rỡ khen:

- Nàng thật là đa mưu túc trí. Phen này dân Bắc Hà nhờ nàng mà thoát vòng loạn lạc vậy.

Ngọc Hân khiêm tốn nói:

- Việc cứu dân Bắc Hà về sau là nhờ vào tài kinh bang tế thế của phu quân. Kế mọn của thiếp có đáng kể gì?

Nói rồi Ngọc Hân liền viết thư sai người tâm phúc ra Thăng Long trao cho vua Lê Chiêu Thống.

*

* *

Sứ giả ra đến Thăng Long vào Hoàng cung xin gặp vua, quân canh liền dẫn vào dinh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh hỏi:

- Ngươi là người ở đâu. Xin vào gặp vua có việc gì?

Sứ đáp:

- Tôi là người nhà của Ngọc Hân công chúa. Công chúa sai tôi mang thư ra dâng vua và thăm hỏi Hoàng tộc.

Chỉnh bảo:

- Phiền ngươi đưa thư cho ta xem trước thử có điều gì gian dối hay chăng?

Sứ giả vâng lời đưa thư cho Chỉnh. Chỉnh tiếp thư đọc thấy lời lẽ thăm hỏi bình thường không có ẩn ý gì, bèn bảo quân:

- Các ngươi mau lục soát khắp người hắn xem có giấu giếm gì chăng.

Quân soát xong chẳng phát hiện thấy vật gì, Chỉnh bèn trả thư cho sứ giả và nói:

- Hiện nay họ Trịnh đang cho tay chân tìm cách ám hại vua nên ta phải cẩn thận đề phòng. Ngươi đừng vì thế mà phiền lòng.

Đoạn Chỉnh cho phép sứ giả vào điện yết kiến vua Chiêu Thống. Đọc thư của công chúa Ngọc Hân xong vua Chiêu Thống hỏi sứ giả:

- Ngoài lá thư thăm hỏi này Hoàng cô còn nói gì nữa chăng?

Sứ giả đáp:

- Bắc Bình Vương và phu nhân có nhắn lời tạ lỗi cùng Bệ hạ.

Vua hỏi:

- Tạ lỗi thế nào?

Sứ đáp:

- Bắc Bình Vương bảo thần thưa cùng Bệ hạ rằng: Năm Bính Ngọ đem quân ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, Bắc Bình Vương những muốn đóng quân ở lại giúp Bệ hạ định quốc an dân. Chẳng ngờ vua Thái Đức thình lình ra Bắc buộc Bắc Bình Vương phải rút quân về, làm cho Bắc Bình Vương mang tiếng là người thất tín. Nay Bắc Bình Vương và phu nhân bảo hạ thần nhắn lời tạ lỗi cùng Bệ hạ là do thế.

Vua Chiêu Thống lại hỏi:

- Nếu Bắc Bình Vương thật lòng sao không tự viết thư mà phải nhắn miệng. Thật là họ khinh ta quá lắm.

Sứ vội vàng đáp:

- Xin Bệ hạ chớ khá hiểu lầm. Bắc Bình Vương biết Hữu Chỉnh áp chế Bệ hạ tất phải dò xét người có liên quan nên Bắc Bình Vương không dám viết thư. Quả nhiên khi hạ thần đến đây liền bị Hữu Chỉnh kiểm duyệt thư và lục soát khắp người. Bắc Bình Vương và phu nhân không dám viết thư tạ lỗi cùng Bệ hạ là do thế.

Vua Chiêu Thống bấy giờ mừng rỡ nói:

- Nay Bắc Bình Vương đã tự lập riêng một cõi không phải chịu mệnh vua Thái Đức và thật lòng như thế, vậy ta mau viết mật chỉ cho ngươi đem về trao Bắc Bình Vương đem quân ra giúp trừ Nguyễn Hữu Chỉnh.

Sứ giả tâu:

- Nếu có mật chỉ, Bắc Bình Vương nào dám không vâng. Nhưng khi hạ thần ra về e rằng Hữu Chỉnh sẽ lục soát rồi mới cho đi. Nếu Chỉnh phát hiện ra mật thư thì nguy cho Bệ hạ.

Vua ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Nay người của ta ra khỏi kinh thành đều bị Chỉnh kiểm soát. Vậy làm sao đưa mật chỉ cho Bắc Bình Vương được.

Sứ giả tâu:

- Phu nhân có dặn thần tâu cùng Bệ hạ kế này ắt việc sẽ thành.

Vua vội hỏi:

- Hoàng cô bày kế thế nào?

Sứ giả kề tai vua nói nhỏ:

- Bệ hạ vời Chỉnh đến nói như vầy… như vầy… ắt Chỉnh sẽ nghe lời mà đưa người của Bệ hạ vào Phú Xuân trao mật chỉ cho Bắc Bình Vương.

Vua mừng rỡ khen:

- Hoàng cô từ nhỏ đã nổi danh tài sắc vẹn toàn, nay xuất giá theo chồng mà còn lo lắng cho nước nhà. Thật đáng thương thay.

Sứ giả đi rồi Vua Chiêu Thống vời Chỉnh đến nói:

- Đất Nghệ An là nơi trọng yếu của nước ta nay Nguyễn Huệ đã lấy mất. Ta định bàn với khanh sai sứ giả vào đòi lại đất Nghệ An. Chẳng hay ý khanh thế nào.

Chỉnh nghi ngờ hỏi lại vua:

- Trước giờ không nghe Bệ hạ nói đến việc ấy. Nay bỗng dưng nảy ra ý định đòi lại đất Nghệ An là cớ làm sao?

Vua đáp:

- Lâu nay ta nghĩ Nguyễn Huệ là kẻ giảo quyệt nên ta không nói đến việc này. Nay Hoàng cô Ngọc Hân sai người tâm phúc ra nói với trẫm rằng: Năm Bính Ngọ vua Thái Đức ra Bắc buộc Nguyễn Huệ phải kéo quan về Quy Nhơn thọ tội cho nên Nguyễn Huệ đành thất tín với thiên hạ và nhà Lê ta. Bởi vậy Huệ giận mới cất quân đánh Nhạc. Nay biết Nguyễn Huệ không chịu mệnh vua Thái Đức lại thật lòng phò Lê, chắc chắn là Huệ phải trả đất Nghệ An cho ta. Vả lại, khanh sai sứ giả vào Phú Xuân đòi đất, ta sẽ cử thêm Hoàng thân Lê Duy Án nhân danh Hoàng tộc vào thăm Hoàng cô Ngọc Hân, xúi Ngọc Hân nói thêm vào. Nguyễn Huệ rất sùng ái Ngọc Hân lẽ nào chẳng bằng lòng.

Chỉnh cả mừng nói:

- Bệ hạ thật là sáng suốt. Phen này nước ta lại vẹn vẻ như xưa. Hạ thần xin theo kế ấy lập tức thi hành.

Nói xong Chỉnh từ biệt về dinh phủ sai Trần Công Xán cầm đầu sứ bộ định ngày vào Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ.

Phần vua Chiêu Thống viết mật chỉ rồi bảo Lê Duy Án cuộn tròn vào trong thắt lưng quần mà giấu. Đoạn vua đưa Lê Duy Án qua dinh Nguyễn Hữu Chỉnh và nói:

- Hoàng thân Lê Duy Án sẽ theo sứ bộ vào Phú Xuân gặp riêng Hoàng cô Ngọc Hân, nhờ Hoàng cô nói thêm vào. Nghĩa chung và tình riêng đều thuận cả, phen này nhất định Nguyễn Huệ phải trả đất Nghệ An.

Nguyễn Hữu Chỉnh không chút nghi ngờ. Tiễn sứ đoàn đi xong, Chỉnh tươi cười hớn hở bảo Nguyễn Hữu Du:

- Lần này cái chí dùng sông Linh Giang chia đôi đất nước của cha đã thành rồi đó.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 44 Nguyễn Hữu Chỉnh mắc mưu đòi đất Nghệ An. Nguyễn Huệ bất đắc dĩ giết Trần Công Xán.
Nói về Trần Công Xán vào Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ. Huệ hỏi:

- Tiên sinh đến đây có điều chi dạy bảo.

Xán đáp:

- Hạ thần vâng lệnh vua nước thần vào xin Bắc Bình Vương trả đất Nghệ An.

Nguyễn Huệ nói:

- Vua nước ngài kinh thành còn không giữ nổi để hết Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế lộng hành rồi đến Trịnh Bồng và Hoàng Phùng Cơ áp chế nên vua phải viết mật chỉ vời Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Nguyễn Hữu Chỉnh xin lệnh của ta, ta bèn sai Chỉnh đem quân ra Bắc cứu vua Lê. Nào ngờ xong việc Chỉnh lại ra mặt cấu kết với Nguyễn Duy và Huỳnh Đức làm phản. Tội ấy ta chưa hỏi, nay hắn lại mượn tiếng vua Lê đòi đất Nghệ An. Tiên sinh hãy về tâu với vua Lê rằng: đợi ta đem binh ra chém đầu Hữu Chỉnh rồi sẽ trả luôn đất Nghệ An cho vua Lê.

Trần Công Xán hỏi:

- Năm Bính Ngọ vua nước ngài ra Bắc gặp vua thần tại điện Kính Thiên có nói rằng: Đất họ Trịnh một tấc cũng không để, đất họ Lê một tấc cũng không lấy. Nay họ Trịnh đã diệt sao còn không trả đất Nghệ An.

Nghe Xán nhắc đến vua Thái Đức, Huệ liền nói hoãn:

- Phiền tiên sinh ra nghỉ ngoài công quán, đợi ta sai người về Quy Nhơn thỉnh ý Hoàng huynh rồi mới trả lời.

Trần Công Xán ra nghỉ ngoài công quán, đêm ấy bảo với Lê Duy Án rằng:

- Nguyễn Huệ nuốt lời không muốn trả đất Nghệ An. Vậy Hoàng thân hãy vào gặp Hoàng cô Ngọc Hân nhờ người nói giúp xem sao.

Lê Duy Án liền đi ngay đến hậu cung xin vào yết kiến Ngọc Hân. Án nói:

- Hoàng thượng có mật chỉ nhờ Hoàng cô trao cho Bắc Bình Vương.

Ngọc Hân đọc mật thư xong bèn nói:

- Quả nhiên Hữu Chỉnh theo vết xe họ Trịnh áp chế nhà Lê ta. Nay Hoàng thượng viết mật chỉ vời Bắc Bình Vương về cứu giá. Vậy Hoàng thân mau ra ngoài công quán kẻo Trần Công Xán nghi ngờ, ta sẽ trao mật chỉ cho Bắc Bình Vương ngay.

Ngọc Hân đến gặp Nguyễn Huệ, khóc nói:

- Nhà Lê của thiếp đã hai trăm năm bị họ Trịnh hiếp đáp, sau nhờ phu quân đem binh ra Bắc diệt Trịnh phò Lê, những tưởng đã nắm lấy quyền hành, nào ngờ nay Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành áp chế vua trẻ, xin phu quân hãy vì dân vì nước ra Bắc diệt Chỉnh, ơn ấy ngàn đời thiếp chẳng dám quên.

Nói xong Ngọc Hân trao mật chỉ cho Nguyễn Huệ rồi lấy vạt áo lau nước mắt. Nguyễn Huệ cảm động an ủi Ngọc Hân:

- Nàng chớ nên buồn phiền như thế. Nay có mật chỉ của vua Lê ta mới danh chính ngôn thuận ra Bắc trừ Nguyễn Hữu Chỉnh được.

Ngọc Hân mừng rỡ thưa:

- Cảm ơn phu quân đã có lòng đoái thương đến nhà Lê của thiếp. Ơn này thiếp xin tạc dạ.

Nói xong Ngọc Hân mủi lòng khóc mãi. Nguyễn Huệ vỗ về Ngọc Hân rằng:

- Nàng hãy về cung nghỉ trước, ta còn phải đi gặp người bàn việc nước.

Ngọc Hân hỏi:

- Phu quân định đi gặp ai vào giờ này?

Huệ đáp:

- Ta đi gặp Trần Văn Kỷ.

Nói xong Nguyễn Huệ tiễn Ngọc Hân về cung rồi sang nhà Trần Văn Kỷ, vừa đến cổng đã thấy Trần Văn Kỷ xăm xăm bước ra. Huệ hỏi Kỷ:

- Đêm đã khuya tiên sinh còn đi đâu đó?

Kỷ thi lễ rồi đáp:

- Tôi định sang yết kiến Chúa công. Không ngờ Chúa công lại đến đây, nên không kịp nghênh đón. Xin Chúa công miễn chấp.

Đoạn Kỷ mời Huệ vào nhà. An toạ xong Huệ hỏi:

- Chắc có điều gì hệ trọng nên tiên sinh mới định đến tìm tôi vào đêm khuya chăng.

Văn Kỷ đáp:

- Thần nghe có sứ giả của Chỉnh vào đòi đất Nghệ An, nên định sang hỏi Chúa công liệu tính thế nào?

Nguyễn Huệ đáp:

- Nguyễn Hữu Chỉnh quả nhiên trúng kế, nghe lời Lê Chiêu Thống sai sứ vào đòi đất Nghệ An. Vua Lê mới cho Hoàng thân Lê Duy Án theo sứ bộ đem mật chỉ vời ta ra cứu giá. Nay ta có mật chỉ của vua Lê tất có chính nghĩa cất quân ra diệt Chỉnh.

Trần Văn Kỷ hỏi:

- Vậy sau khi diệt Chỉnh rồi Chúa công liệu thế nào.

Huệ đáp:

- Ta ở lại giúp vua Lê ít lâu sau rồi lại kéo quân về.

Trần Văn Kỷ ung dung nói:

- Vậy mà tôi cứ ngỡ Chúa công nửa đêm đến đây là để nói về việc truất bỏ nhà Lê.

Nguyễn Huệ mừng rỡ bảo:

- Tiên sinh thật là hiểu ta đó.

Trần Văn Kỷ hỏi:

- Chúa công định dùng kế gì để truất nhà Lê.

Nguyễn Huệ cười đáp:

- Kế của tôi là “rung cây nhát khỉ”.

Trần Văn Kỷ cười theo, nói:

- Chúa công có chí tự cường nên mới dùng chữ Nôm là “rung cây nhát khỉ”. Kế này trong binh thư chữ Hán gọi là “Phạt thảo kinh xà” đó.

Nguyễn Huệ nắm tay Trần Văn Kỷ cười to nói:

- Tiên sinh thật là người tri kỷ của ta vậy. Nhưng việc này ta phải nói trước với Ngọc Hân mới được.

Văn Kỷ can:

- Ta phạt thảo, rung cây mà không ai biết, thì Chúa công chớ nên nói trước với công chúa làm gì. Ngộ nhỡ công chúa không bằng lòng truất bỏ nhà Lê rồi lộ việc thì làm thế nào?

Huệ trầm ngâm đáp:

- Ta đã có cách nói khiến công chúa phải bằng lòng cho ta truất bỏ nhà Lê.

Đoạn Nguyễn Huệ về hỏi Ngọc Hân:

- Vua Chiêu Thống là người như thế nào?

Ngọc Hân buồn rầu đáp:

- Nhà Lê thật là vô phước nên anh của thiếp là Duy Vỹ bị Trịnh Sâm giết chết, khiến Hoàng tôn Duy Kỳ mới kế vị ngôi vua là Lê Chiêu Thống. Chiêu Thống là người vô tài kém đức, đố kỵ nhỏ nhen. Nếu phu quân không ra tay cứu giúp, e Bắc Hà loạn lạc muôn đời.

Nguyễn Huệ lại hỏi:

- Chuyến này ta ra Bắc diệt Chỉnh xong, nếu kéo quân về thì Bắc Hà vẫn loạn. Nhược bằng đóng binh phò giúp vua tất phải tự quyền điều hành vận mệnh quốc gia thì nước mới yên được. Khi ấy e rằng vua kém tài mà muốn quyền cao lại cho ta là lộng hành thì sao. Khi ấy nàng có hiểu cho ta chăng?

Ngọc Hân lo sợ hỏi lại Huệ rằng:

- Vậy phu quân liệu tính thế nào?

Huệ trầm tư đáp:

- Ta ngày quên ăn đêm bỏ ngủ vì e rằng khi nói ra điều này nàng sẽ giận ta mà thôi.

Ngọc Hân nói:

- Thiếp với chàng nên nghĩa phu thê ấy là duyên kỳ ngộ. Lòng trung với dân hiếu với nước của chàng thiếp lại chẳng biết sao. Nay việc nên làm là thế nào chàng cứ nói ra đừng ngại ngần gì cả.

Nguyễn Huệ chậm rãi nói:

- Bấy lâu hào kiệt ở Bắc Hà chỉ mượn tiếng phò Lê, mỗi người hùng cứ một phương đánh giết lẫn nhau tranh giành danh lợi khiến trăm họ vô cùng thống khổ, lòng người chán ngán không biết đâu là thật giả. Cổ nhân có câu: Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Nay Lê Chiêu Thống bất tài kém đức sao đem được thái bình về cho trăm họ. Vận mệnh của nhà Lê đã hết, muốn thống nhất sơn hà dựng đời thịnh trị chỉ có cách duy nhất là truất phế nhà Lê mà thôi.

Nguyễn Huệ nói xong, Ngọc Hân thảng thốt kêu lên:

- Đành rằng như thế, nhưng lòng dân Bắc Hà vẫn còn thương tiếc công đức của vua Lê Thái Tổ, Thái Tông. Nếu không phò Lê, phu quân lấy danh nghĩa gì kéo quân ra Bắc?

Nguyễn Huệ đáp:

- Ta ra Bắc lần này vẫn lấy danh nghĩa diệt Chỉnh phò Lê.

Ngọc Hân ngạc nhiên hỏi:

- Phu quân muốn truất bỏ nhà Lê sao lại còn lấy danh nghĩa phò Lê?

Nguyễn Huệ đáp:

- Nay ta có chiếu chỉ của vua Lê vời về kinh cứu giá trình trước thiên hạ, ấy là ta có danh nghĩa phò Lê kéo quân ra Bắc đánh Chỉnh. Nhưng khi ta đánh Chỉnh vua Lê Chiêu Thống tất bỏ kinh thành mà chạy không dám ở ngôi vua, ấy là ta truất bỏ nhà Lê vậy.

Ngọc Hân lấy làm lạ hỏi:

- Nghe quân ta đem mật chỉ diệt Chỉnh phò Lê kéo quân ra Bắc, thì vua Lê phải ở kinh thành đón quân ta, cớ gì phải bỏ chạy.

Nguyễn Huệ đáp:

- Ta dùng kế “Phạt thảo kinh xà” thì đuổi vua Chiêu Thống bỏ nước mà chạy, còn đối với thiên hạ ta vẫn được tiếng phò Lê. Chỉ e rằng truất bỏ nhà Lê nàng sẽ oán ta mà thôi.

Ngọc Hân gạt nước mắt nói:

- Việc làm của phu quân là vì dân vì nước, thiếp dù thương tiếc cơ nghiệp tổ tiên cũng không thể oán phu quân được. Nhưng thiếp vẫn chưa hiểu thế nào là kế “Phạt thảo kinh xà”?

Nguyễn Huệ kề tai Ngọc Hân nói:

Ta cứ làm như vầy... như vầy... tất vua Lê Chiêu Thống phải sợ mà trốn khỏi kinh thành.

Ngọc Hân lại hỏi:

- Nhưng Trần Công Xán và Lê Duy Án là người vô tội.

Nguyễn Huệ phân trần rằng:

- Muốn đem giang san quy về một mối, cứu muôn dân Đàng Ngoài khỏi cảnh lầm than thì phải hy sinh Lê Duy Án và Trần Công Xán. Nếu làm thế nàng có cho ta là người sâu hiểm hay chăng.

Ngọc Hân bùi ngùi đáp:

- Phu quân là người đức cả tài cao, quang minh chính đại. Trước tha mưu sĩ Nguyễn Đăng Trường về với Định Vương, sau thả Nguyễn Huỳnh Đức theo cùng Phúc Ánh. Nay phu quân vì dân vì nước, bất đắc dĩ phải làm như thế thiếp sao dám cho chàng là người hiểm độc. Tuy là việc nên làm, nhưng những giọt nước mắt này là vì thương tiếc cơ nghiệp của tổ tiên. Xin phu quân rộng xét.

Nguyễn Huệ cả mừng nói:

- Truất bỏ nhà Lê, ta thật là khó xử nên mới đem ra bàn trước với nàng. Cảm ơn nàng đã thấu được lòng ta.

Đoạn Nguyền Huệ âu yếm lấy khăn lau nước mắt cho Ngọc Hân. Hai người mặt nhìn mặt, tay nắm tay dìu nhau vào phòng trong tâm sự hàn thuyên.

*

* *

Nói về Trần Công Xán hôm ấy đi dạo quanh phố rồi vê công quán lo lắng hỏi Lê Duy Án rằng:

- Hoàng cô Ngọc Hân hứa với ông thế nào mà ta nghe khắp kinh thành bàn tán xôn xao rằng Bắc Bình Vương đã sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đem năm ngàn binh mã ra Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm đánh Thăng Long phò Lê diệt Chỉnh. Vậy ông mau vào Hậu cung hỏi Hoàng cô xem sự thể thế nào?

Lê Duy Án đi một hồi rồi về báo:

- Quân canh bảo Hoàng cô đang ở Vương phủ với Bắc Bình Vương, không có nơi hậu cung.

Trần Công Xán lòng nóng như lửa đốt, bèn nói:

- Vậy ta phải vào Vương phủ diện kiến Bắc Bình Vương hỏi cho ra lẽ mới được.

Nói xong khăn áo vào chầu. Gặp Huệ, Xán hỏi:

- Việc vua của thần xin lại đất Nghệ An, Đại Vương liệu tính thế nào?

Huệ cười hỏi lại Xán:

- Tiên sinh vào đây đòi đất là theo mệnh vua hay Hữu Chỉnh?

Xán đáp:

- Xưa nay thần chỉ theo mệnh vua.

Huệ ôn tồn hỏi:

- Tiên sinh theo mệnh vua, vậy tại sao vua viết mật chỉ vời ta ra cứu giá trừ Nguyễn Hữu Chỉnh tiên sinh lại không biết.

Xán thản nhiên đáp:

- Xin Đại Vương đừng cậy thế hiếp người. Phàm làm việc gì cũng phải có chứng cứ hẳn hoi, chớ nghe lời xàm tấu.

Nguyễn Huệ đưa tờ mật chỉ của vua Chiêu Thống cho Xán rồi hỏi:

- Tiên sinh hãy nhìn cho rõ, đây chăng phải là thủ bút của vua sao? Dấu ấn này chẳng phải của triều đình nhà Lê sao. Vậy đây là chứng cứ hay lời xàm tấu?

Trần Công Xán sững sờ nhìn đăm đăm vào tờ mật chỉ, rồi bình tĩnh nói:

- Vua thần không có ý đòi đất Nghệ An. Vậy thần xin được về nước.

Huệ cười bảo:

- Nay ta đang sắp đặt binh mã ra đánh Chỉnh nếu tiên sinh về thì lộ việc quân cơ. Thôi, ta tạm giữ tiên sinh ở lại Phú Xuân, chờ lấy đầu Hữu Chỉnh xong sẽ cho tiên sinh về nước.

Trần Công Xán quả quyết nói:

- Nếu không được về nước Trần Công Xán này chỉ có chết mà thôi.

Nguyễn Huệ lại cười rằng:

- Ta nói đùa để thử lòng tiên sinh, quả nhiên ông là người trung nghĩa. Đêm nay ta sắp sẵn ghe thuyền, ngày mai sẽ sai người đưa tiên sinh cùng sứ đoàn về nước.

Khi đoàn thuyền đi đến vùng biển thuộc phủ Nghệ An, viên đô đốc Tây Sơn chỉ huy quân hộ tống gọi vài tên thuộc hạ đến bảo:

- Các ngươi mau lặn xuống biển đến đục thuyền Lê Duy Án và Trần Công Xán.

Quân xây Sơn vâng lệnh lập tức thi hành. Trần Công Xán và Lê Duy Án đang ở trong khoang, bỗng nước từ dưới đáy thuyền phun lên ào ào. Thuyền từ từ chìm xuống. Trần Công Xán tức tối vỗ đùi nói lớn:

- Nguyễn Huệ vì sợ lộ việc quân đã giết bọn ta trên đường về rồi vậy.

Lê Duy Án kinh hãi bảo:

- Không lý nào có việc ấy được, chắc do thuyền bị thủng mà thôi. Ta mau ra ngoài gọi thuyền hộ tống đến cứu.

Nói xong liền vội vã ra khỏi khoang thuyền gọi lớn:

- Các ngươi mau mau đến cứu ta.

Quân Tây Sơn chỉ nhìn mà không cứu. Nước tràn vào mỗi lúc một nhiều. Nước đã ngập hết lòng thuyền, Lê Duy Án vừa khóc vừa gào lên rằng:

- Nếu ta mất mạng, Bắc Bình Vương sẽ lấy đầu các ngươi ngay.

Viên đô đốc Tây Sơn cười to nói:

- Ngài có uất thì xuống Diêm vương mà kiện.

Lúc ấy nước đã đến thắt lưng, Trần Công Xán hướng mặt về phía Bắc lạy ba lạy rồi quay lại bảo Lê Duy Án:

- Được vì nước mà chết ông còn uất nỗi gì mà gào lên như thế?

Lê Duy Án hoảng loạn nói:

-Ta đem mật chỉ của Hoàng thượng vời Nguyễn Huệ về kinh diệt Chỉnh. Vậy cớ gì Nguyễn Huệ lại giết ta?

Nước đã ngập hết con thuyền, Trần Công Xán ngước mặt tránh sóng tràn vào mui rồi hét lên:

- Vậy Nguyễn Huệ giết ta đã đành, cớ gì lại giết cả ngươi.

Lê Duy Án dùng hết sức bình sinh ôm cột buồm leo lên khỏi làn nước gào khóc rằng:

- Nếu không đem quân diệt Chỉnh phò vua cũng chẳng can cớ gì phải giết chết ta.

Dứt lời Lê Duy Án và Trần Công Xán theo con thuyền chìm xuống biển sâu. Viên đô đốc Tây Sơn gọi mấy tên quân đến bảo:

- Các ngươi mau lội vào bờ lựa chỗ đông người phao tin này lên cho khắp nơi được biết.

Đoạn viên đô đốc Tây Sơn quay về tâu cùng Nguyễn Huệ. Huệ gọi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đến bảo:

- Văn Sở đem thủy binh, Văn Lân đem bộ binh đến Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm cứ y như trong thư ta dặn mà làm.

Sở và Lân lãnh mệnh đi ngay.

*

* *

Nhắc lại vua Lê Chiêu Thống và Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long ngày ấy đang đàm đạo trong trướng nghe quân vào báo:

- Tâu Bệ hạ, quân Tây Sơn lội vào bờ đến ranh giới đất Nghệ An và Thanh Hóa hô lên rằng: Sứ đoàn trở về nước bị bão đánh chìm thuyền đều chết hết cả. Quan trấn thủ Thanh Hóa sai thần về cấp báo.

Nguyễn Hữu Chỉnh giật mình nói:

- Nguyễn Huệ làm thế là có ý gì?

Vừa dứt lời quân thám mã thứ hai hớt hải chạy vào báo:

- Tâu Bệ hạ, tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân thống lĩnh một vạn binh tiến đánh Thanh Hóa. Tướng quân trấn thủ Lê Duật tử trận.

Chỉnh nghe qua như sét đánh ngang mày, nhưng cố giữ bình tĩnh nói:

- Như vậy Nguyễn Huệ đã lợi dụng tình chồng vợ bảo Hoàng cô nói gạt Bệ hạ là hắn thực bụng phò Lê rồi bất ngờ tiến đánh. Thần phải lập tức vào Thanh Hóa chống giặc mới được. Những tưởng đòi được đất Nghệ An nào ngờ lại mất luôn Thanh Hóa.

Đoạn Chỉnh hỏi tên quân rằng:

- Trước khi ra trận Lê Duật có nói gì chăng.

Tên quân đáp:

- Khi nghe quân Tây Sơn tiến đánh, Lê tướng quân có nói rằng: “Biết lòng người thì dễ, biết tài người mới là việc khó. Ta không biết tài bằng Trung Công vậy!”

Hữu Chỉnh than:

- Ta lại không biết tài Nguyễn Huệ vậy. Rồi Lê Duật ra trận thế nào?

Tên quân đáp:

- Lúc ấy có người khuyên Lê tướng quân bỏ thành Thanh Hóa lui về giữ ải Tam Điệp. Lê tướng quân bảo: Ta đã hứa với Bằng Trung Công là thà bỏ mạng không bỏ đất, nay bỏ thành mà chạy còn mặt mũi nào nhìn ai được nữa. Khi bị quân Tây Sơn vây, Lê tướng quân đâm cổ mà chết.

Nghe xong Chỉnh vừa đi vừa ứa nước mắt than:

- Thương thay lê Duật. Và ta không biết tài Nguyễn Huệ mà đã hại chết ngươi rồi!

Chỉnh đi rồi vua Chiêu Thống gọi Phan Lê Phiên đến bảo:

- Nguyễn Huệ bảo Hoàng cô lừa ta viết mật chỉ vời Huệ về kinh cứu giá. Có mật chỉ rồi hắn lại giết sứ của ta là cớ làm sao?

Phan Lê Phiên đáp:

- Việc này bởi do Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền nên Nguyễn Huệ mới thừa cơ dùng ly gián kế. Hắn muốn cướp nước ta mà không có cớ gì, nên mới lừa Hoàng cô Ngọc Hân đem tình nhà gạt Bệ hạ để hắn có mật chỉ của Bệ hạ. Được danh chánh ngôn thuận để xuất quân rồi hắn lại giết chết Trần Công Xán và Lê Duy Án, thật rõ là lòng gian dối. Việc đến nước này chỉ trông chờ vào tài dùng binh của Hữu Chỉnh mà thôi.

Vua Chiêu Thống hỏi:

- Ngộ nhỡ Chỉnh bại trận thì sao.

Phiên đáp:

- Thì ta phải bỏ Hoàng cung mà chạy. Nếu ở lại trước sau gì Nguyễn Huệ cũng hại đến Bệ hạ.

Vua tức tối đấm ngực kêu lên:

- Nguyễn Huệ lừa ta. Nguyễn Huệ lừa ta!

Tây Sơn bi hùng truyện
Phần IV - Chương 45 TRUẤT BỎ TRIỀU LÊ. Nguyễn Hữu Chỉnh háo danh mà thiệt mạng. Vũ Văn Nhậm hám lợi phải mất đầu.
Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh về dinh phủ gọi con là Nguyễn Hữu Du và tướng là Nguyễn Như Thái đến bảo:

- Hai người lãnh một vạn quân mau mau vào chiếm giữ đèo Tam Điệp. Nếu để quân Tây Sơn lấy mất thì binh ta thất thế. Ta sẽ gọi Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc và Nguyễn Viết Tuyển ở Tây Sơn về hợp quân rồi đem đại binh theo tiếp ứng.

Nguyễn Hữu Du cười bảo Chỉnh:

- Cha cứ an tâm ăn ngon ngủ yên. Con đi phen này sẽ lấy đầu Vũ Văn Nhậm về nộp dưới trướng.

Nói xong liền xuất quân. Nguyễn Hữu Du và Nguyễn Như Thái kéo quân vừa vượt Sông Vị Hoàng, xảy quân thám mã về báo:

- Thưa Thế tử, quân Tây Sơn đã chiếm đèo Tam Điệp hiện đang tiến cách quân ta chừng trăm dặm.

Nguyễn Hữu Du thất kinh nói:

- Quân Tây Sơn thế mạnh lại chiếm đèo Tam Điệp, chi bằng ta lui về bờ Bắc sông Vị Hoàng, dùng sông này làm hào chống nhau với giặc là hơn.

Nguyễn Như Thái bàn:

- Quân ta vừa mới vượt sông mà tiến, nghe giặc đến lại vượt sông mà lùi sao khỏi mất đi nhuệ khí. Theo tôi nhân lúc này ta bày trận Bối thủy quay lưng xuống sông mà chống nhau với giặc.

Nguyễn Hữu Du hỏi:

- Bày trận Bối thủy ngộ nhỡ thua binh chẳng phải là mình tự chặn đường về của mình sao?

Như Thái đáp:

- Quân ta một vạn, quân Tây Sơn do Phan Văn Lân làm tiên phong thống lãnh chỉ có năm ngàn, ta lại bày trận Bối thủy buộc quân ta phải liều chết mà đánh. Thế nhất định phải thắng.

Hữu Du còn e ngại nên bàn:

- Vậy ta sai quân đem chiến thuyền vận chuyển đến chỗ kín đáo giấu đi. Nếu lỡ thua binh thì dùng thuyền ấy thoát về bờ Bắc.

Nói xong hai người theo kế đã bàn mà làm.

Quân Hữu Du vừa bố trận xong, quân Tây Sơn rầm rộ kéo đến, đi đầu là tiên phong Phan Văn Lân. Nguyễn Như Thái trông thấy liền lướt ngựa đến hét lớn:

- Nguyễn Huệ hết tướng hay sao mà sai thằng thư sinh trói gà không chặt như ngươi ra trận. Mau xuống ngựa quy hàng ta sẽ tha chết.

Phan Văn Lân cả cười nói:

- Mày là đồ vô đanh tiểu tốt sao biết được oai ta. Hãy về hỏi Hữu Chỉnh xem thư sinh Đại tướng Phan Văn Lân lợi hại thế nào?

Nói xong hai bên liền giáp chiến. Quân Tây Sơn khí thế đang hăng, quân Bắc cùng đường liều chết mà đánh, tiếng hò reo vang dội. Đánh được mấy hiệp Nguyễn Như Thái cả kinh nghĩ thầm, thằng học trò này trông gầy gò ốm yếu mà sức mạnh vô cùng. Nó dùng thương lợi thế đánh xa, ta dùng đoản đao phải lừa thế đánh gần mới mong giết được nó. Nghĩ rồi chờ thương Văn Lân đâm tới, Thái dùng hết sức bình sinh hất mũi thương lên rồi hoành đao mà chém ngang hông Văn Lân. Chẳng ngờ Lân lanh lẹ bình thương đỡ lưỡi đao rồi trở đốc thương đâm Như Thái. Đốc thương đâm ngay vào miếng kính tâm trên áo giáp Như Thái mạnh đến nỗi Thái văng khỏi lưng ngựa hộc máu chết tươi. Nguyễn Hữu Du trông thấy Thái chết thì thất kinh quất ngựa mà chạy, đến bờ sông vội vã cướp thuyền sang sông về bờ Bắc. Quân sĩ thấy vậy vứt giáo quăng gươm, kẻ nào lên thuyền được thì lên, còn không bèn cởi giáp lội bộ qua sông chạy theo chủ tướng. Quân Tây Sơn đại thắng giết quân Bắc và thu lượm vũ khí rất nhiều. Phan Văn Lân thắng trận rồi bèn gò ngựa đứng nhìn dòng sông Vị Hoàng mênh mông, lại thấy trời đã tối Lân bèn bảo quân hạ trại chờ Vũ Văn Nhậm và Ngô Văn Sở đến rồi sẽ vượt sông.

Vừa lúc ấy Vũ Văn Nhậm dẫn bộ binh và Ngô Văn Sở đem thủy binh cùng đến Vị Hoàng. Vũ Văn Nhậm bàn:

- Quân do thám ta về báo rằng Chỉnh đã đem quân đến làng Bình Vọng. Từ đây đến Thăng Long đường bộ thời xa mà đường thủy thì gần. Vậy ông Sở hãy đem thủy quân theo sông Vị Hoàng tiến lên rồi bất ngờ đánh vào phía Tây thành Thăng Long. Chiếm được Thăng Long thì quân Chỉnh ở làng Bình Vọng sẽ không còn đường rút, ta và ông Lân đem đại bộ binh đánh ra ắt là bắt được Hữu Chỉnh.

Ngô Văn Sở y lệnh thống lãnh thủy quân tiến lên thượng lưu sông Vị.

*

* *

Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long triệu Nguyễn Cảnh Thước về rồi bèn thống lĩnh đại binh trợ chiến cho Nguyễn Hữu Du và Nguyễn Như Thái. Đại binh đi đến làng Bình Vọng, Chỉnh quay lại hỏi Nguyễn Viết Tuyển:

- Có phải làng Bình Vọng này tục gọi là làng Bằng đó chăng?

Tuyển đáp:

- Thưa ấy chính là làng Bằng.

Chỉnh ngậm ngùi nói:

- Ngày trước ta kéo quân ra diệt Trịnh Bồng ngang ra làng Bằng có chim Phượng ra đón. Nay chim Phượng ấy ở đâu?

Chỉnh vừa dứt lời bỗng một chim Phượng hoàng bay đến đậu trên biển danh của làng. Chẳng ngờ tấm biển đề hai chữ Bình Vọng ấy lâu ngày đã mục, chim vừa đậu lên, biển liền gãy đổ tan tành. Chim hốt hoảng kêu lên ba tiếng thất thanh rồi vỗ cánh bay đi.

Nguyễn Viết Tuyển nói:

- Chim Phượng hoàng năm cũ đã ra nhưng lại đạp vỡ cổng làng Bằng e là điềm gở. Xin Bằng Trung Công liệu tính.

Nguyễn Hữu Chỉnh trong lòng hồi hộp bèn nói:

- Giờ trời đã tối truyền lệnh ta đóng quân nghỉ tạm, ngày mai lại tiếp tục hành quân.

Vừa hạ trại xong quân canh vào báo cùng Hữu Chỉnh:

- Thưa Thượng công, Thế tử thua trận chạy về xin vào ra mắt.

Chỉnh đang ăn cơm quăng đũa đứng dậy bảo:

- Mau cho con ta vào đây.

Hữu Du vào đến quỳ thưa:

- Con kéo quân vượt sông Vị Hoàng thì quân Tây Sơn tiến đánh. Con liền bày trận Bối thủy chống nhau với giặc, không ngờ quân Tây Sơn dũng mãnh quân ta đương không nổi. Nguyễn Như Thái bị Phan Văn Lân đánh chết. Con may cướp được thuyền còn mấy trăm quân chạy về xin chịu tội.

Hữu Chỉnh hỏi:

- Ai bày ngươi lập trận Bối thủy.

Hữu Du đáp:

- Thưa cha, Nguyễn Như Thái.

Chỉnh vỗ đùi than:

- Quân Tây Sơn thiện chiến, còn quân ta mới mộ, phần thua nhiều hơn phần thắng lại bày trận Bối thủy triệt đường về của mình, khiến một vạn quân ta đều chết cả. Thật là đồ bất dũng vô mưu.

Nguyễn Viết Tuyển bàn:

- Từ đây đến kinh thành không núi sông hiểm trở e rằng ta không đương nổi với giặc Tây Sơn. Chi bằng ta rút quân về Thăng Long rồi đem vua chạy lên Sơn Tây tránh thế mạnh của giặc rồi sẽ liệu sau.

Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời liền lệnh quân nhổ trại lui binh.

Vua Chiêu Thống ở thành Thăng Long ngày ấy nghe lòng nóng như lửa đốt, hết ra lại vào trông tin Nguyễn Hữu Chỉnh. Bỗng quân thám mã về báo:

- Tâu Bệ hạ, Bằng Trung Công thua binh chạy về thành. Hiện đã ra cửa Tây thành chạy lên Sơn Tây.

Vua thất kinh nói:

- Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đi sao không bảo ta một tiếng.

Tên quân đáp:

- Giặc Tây Sơn đang đuổi sau lưng nên Bằng Trung Công không kịp vào yết kiến, người sai hạ thần đến báo cùng Bệ hạ.

Vua buồn rầu than:

- Đã đến nước này ta phải đem Hoàng tộc chạy lên Sơn Tây theo Nguyễn Hữu Chỉnh.

Phan Lê Phiên hầu cạnh vua can rằng:

- Việc ấy không nên.

Vua ngạc nhiên hỏi:

- Nếu không theo Hữu Chỉnh chẳng lẽ ở lại kinh thành cho Nguyễn Huệ hại ta ư.

Phiên đáp:

- Nay Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm truyền khắp thiên hạ mật chỉ phò Lê diệt Chỉnh do chính tay Bệ hạ viết ra. Vậy Bệ hạ chạy theo Chỉnh khác nào chạy vào chỗ chết.

Vua Chiêu Thống giật mình hỏi:

- Ở lại với Huệ cũng không được, theo Chỉnh cũng không xong. Vậy phải làm sao?

Phiên đáp:

- Bệ hạ nên chạy ra Kinh Bắc xuống hịch cần vương chiêu dụ quân các trấn Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang rồi đùng sông Như Nguyệt làm hào chống nhau với giặc Tây Sơn. Nếu quân ta yếu thế thì theo đường Lạng Sơn chạy sang đất Đại Thanh cầu viện vua Càn Long đem binh sang giúp tất có thể khôi phục được cơ nghiệp. Thần nay đã răng long đầu bạc không còn sức theo hầu Bệ hạ. Xin Bệ hạ bảo trọng.

Nói xong Phan Lê Phiên lạy từ biệt vua về nhà. Vua Chiêu Thống liền đem gia quyến chạy ra Kinh Bắc.

*

* *

Phần Hữu Chỉnh dẫn quân ra cửa Tây thành năm dặm bỗng gặp một đạo quân Tây Sơn xông ra cản đường, đi đầu là một viên dũng tướng. Viên tướng ấy vung đại đao lướt ngựa đến hét lên:

- Phản tặc Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đâu cho thoát. Có ta là Khổn Nghịch đại tướng quân Ngô Văn Sở đến đây.

Nguyễn Hữu Chỉnh quay lại bảo các tướng:

- Ngô Văn Sở đao pháp tinh thông. Năm Bính Ngọ ta dẫn Nguyễn Huệ ra phò Lê diệt Trịnh, chính Ngô Văn Sở một mình bắt sống hai tướng Ngô Cảnh Hoàn và Mai Thế Pháp trên sông Thúy Ái nên mới có tên là Khổn Nghịch đại tướng quân. Nay nó chặn đường rút của ta, vậy phải liều chết mà đánh mới dược.

Nói xong Chỉnh cùng Nguyễn Hữu Du, Nguyễn Viết Tuyển, Nguyễn Cảnh Thước đồng loạt xông lên. Ngô Văn Sở vẫy tay làm hiệu, đội xạ thủ lập tức bắn tên, Nguyễn Viết Tuyển và Nguyễn Cảnh Thước trúng tên độc ngã ngựa chết tươi. Bấy giờ Ngô Văn Sở mới hô quân giáp chiến. Quân Hữu Chỉnh không còn tinh thần chiến đấu, chưa đánh đã tan. Cha con Chỉnh liệu thế không xong bèn quất ngựa mà chạy. Văn Sở một mình thúc ngựa đuổi theo. Chạy một hồi cha con Hữu Chỉnh thấy Ngô Văn Sở không quân hộ vệ liền quay lại vây Văn Sở mà đánh. Ngô Văn Sở không hề nao núng vung đại đao cự chiến, khi quay bên tả chặn thương Hữu Du, lúc tràn bên hữu bạt kiếm Hữu Chỉnh. Đánh dược ba mươi hiệp Văn Sở hoành đao chém Hữu Du rơi đầu. Chỉnh chẳng còn hồn vía nào quay lưng toan chạy, Văn Sở hạ đao chém chân ngựa Hữu Chỉnh. Ngựa ngã qụy hất Chỉnh té nhào xuống đất. Văn Sở bèn trói Hữu Chỉnh đặt lên lưng ngựa rồi cắt đầu Hữu Du treo nơi cổ ngựa quay lại phía quân mình. Quân Tây Sơn trông thấy đồng thanh nói:

- Phản nghịch Nguyễn Hữu Chỉnh gặp Khổn Nghịch đại tướng quân thì chạy đâu cho thoát.

Vào thành Thăng Long, Văn Sở nộp Chỉnh dưới thềm. Vũ Văn Nhậm quát hỏi Chỉnh:

- Ngươi mượn tay Tây Sơn ta ra làm vương đất Bắc lại đem lòng bội phản Bắc Bình Vương. Tội đã đáng chết hay chưa?

Chỉnh điềm nhiên đáp:

- Ta chết đã đành, nhưng trước lúc chết ta muốn hỏi ngươi một điều.

Nhậm đáp:

- Ngươi cứ hỏi.

Chỉnh nói:

- Ta quản thúc vua Lê rất kỹ, sao vua Lê viết mật chỉ vời Nguyễn Huệ về kinh cứu giá lại lọt khỏi sự kiềm soát của ta?

Nhậm cười to đáp:

- Đến giờ này ngươi còn chưa biết mà dám kiêu ngạo tự cho mình ngang tài với Bắc Bình Vương. Tấm mật chỉ phò Lê diệt Chỉnh do Lê Duy Án trao cho Bắc Bình Vương khi theo Trần Công Xán vào đòi đất Nghệ An đó!

Nghe Nhậm nói xong, Chỉnh than dài một tiếng:

- Ta thật không sánh bằng Nguyễn Huệ vậy.

Vũ Văn Nhậm lại hỏi:

- Trước khi chết ngươi còn ân hận gì chăng?

Chỉnh đáp:

- Ta chỉ ân hận rằng lúc trước không đem quân giúp Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức giữ Nghệ An dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi thiên hạ với Nguyễn Huệ mà thôi.

Nhậm cười bảo:

- Ngươi trước lúc chết còn ngông cuồng nói lời càn rỡ. Về trí thì không biết lòng người nên mới xui ta làm phản Bắc Bình Vương. Về dũng thì hai cha con ngươi không cự nổi một đường đao của Ngô Văn Sở, thế mà dám nuôi chí chia đôi thiên hạ với Chúa ta. Người chết thật là đáng lắm. Quân đâu lôi ra ngoài chém.

Giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, Vũ Văn Nhậm sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đi khắp các nơi dán yết thị chiêu an bá tánh, còn Nhậm đích thân đi xem xét các kho tàng ở trong kinh thành. Thấy các kho đều trống rỗng không có vật gì đáng quý, Nhậm gọi tên quản kho đến bảo:

- Năm Bính Ngọ ta theo Bắc Bình Vương ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh thấy trong kho báu vật rất nhiều. Sao nay các kho đều trống rỗng là cớ gì?

Tên quản kho của vua Lê đáp:

- Thưa tướng quân, lúc tướng quân kéo đại binh đến, vua Lê và Bằng Trung Công nghe tin đã bỏ thành mà chạy. Dân chúng trong thành thừa dịp ấy bèn kéo nhau đến phá cửa kho lấy châu báu về làm của riêng hết cả rồi.

Vũ Văn Nhậm liền quay về dinh phủ gọi tên tùy tướng tên là Trần Đường đến bảo:

- Ngươi hãy dẫn quân đi soát khắp nhà dân trong thành. Nhà nào có châu báu trong kho tịch thu hết về đây cho ta.

Trần Đường vâng lệnh dẫn quân đi.

Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đang đem quân đi dán cáo thị diệt Chỉnh phò Lên chiêu an bá tánh, bỗng một lão già từ đâu chạy đến gào khóc kêu lên:

- Quân các ngươi đi cướp bóc của dân thì dán cáo thị chiêu an bá tánh làm gì!

Sở và Lân nhìn theo hướng chỉ tay của lão già, quả nhiên thấy một toán quân Tây Sơn đang khiêng hòm châu báu thật. Phan Văn Lân liền chặn viên tiểu tướng lại hỏi:

- Các ngươi là quân nào, khiêng hòm châu báu đi đâu?

Tên tiểu tướng đáp:

- Hạ thần tên Trần Đường vâng lệnh phò mã Tiết Chế Vũ Văn Nhậm đi lục soát nhà dân lấy lại châu báu dân cướp trong kho khi kinh thành bỏ trống.

Ngô Văn Sở thất kinh nói:

- Tiết chế phò mã sao lại làm như thế. Tây Sơn ta quân pháp nghiêm minh, nếu Bắc Bình Vương nghe được ắt phải chết.

Đoạn Sở và Lân tức tốc tìm gặp Vũ Văn Nhậm. Sở nói:

- Bọn tay chân của phò mã thừa lệnh làm càn, cho quân cướp bóc của dân. Vả lại bọn ta vâng lệnh Bắc Bình Vương ra đây là vì dân không vì lợi. Tiết Chế làm thế e rằng mất chính nghĩa Tây Sơn ta.

Nhậm phật ý đáp:

- Châu báu trong kho là của vua Lê, bọn gian tà lấy đi ta sai quân lấy lại có gì là không đúng. Nếu Hoàng thúc bắt tội ta xin chịu, các ông không phải lo.

Phan Văn Lân nói:

- Nhưng dân khắp kinh thành đều bảo phò mã cậy thế là rể vua làm điều trái đạo. Xin phò mã nghĩ lại.

Nhậm không đáp lời Lân, lại bảo Trần Đường:

- Ngươi hãy dẫn quân đi khắp kinh thành, ai đặt điều nói bậy chém chết cho ta.

Nói xong Nhậm quay gót vào hậu dinh bỏ mặc Sở và Lân nơi tiền sảnh. Về bản doanh Phan Văn Lân ức uất nói với Ngô Văn Sở rằng:

- Vũ Văn Nhậm thấy bạc vàng lóa mắt, tham quá hóa sân si. Hắn cậy là phò mã khinh anh em ta quá đáng. Ta ở dưới quyền, vậy làm sao ngăn hắn đừng sách nhiễu lương dân.

Ngô Văn Sở đáp:

- Ta phải mật báo với Chúa công mới được.

Nguyễn Huệ ở Phú Xuân nhận được mật báo của Ngô Văn Sở, liền bảo tả hữu:

- Mau sai quân sắp sẵn ngàn quân cấm vệ và năm mươi thớt voi. Ta phải lập tức lên đường ra Bắc.

Trần Văn Kỷ hỏi:

- Vũ Văn Nhậm phạm vào quân lệnh, sao Chúa công không viết chiếu lệnh triệu Nhậm về trị tội, cần gì phải thân hành ra Bắc?

Nguyễn Huệ lắc đầu đáp:

- Kể từ khi ta vào vây thành Quy Nhơn buộc Hoàng huynh phải thả con tin thì Vũ Văn Nhậm đã có ý ngờ ta. Nay Vũ Văn Nhậm nắm quyền ở Thăng Long, nếu ta viết chiếu chỉ gọi Nhậm về trị tội, ta sợ rằng Nhậm sợ tội mà làm phản. Việc này nếu ta không thân hành ra Bắc ắt không xong.

Nói rồi Nguyễn Huệ liền lên đường ra Bắc.

*

* *

Nguyễn Huệ đến Thăng Long đã quá nửa đêm. Đến dưới thành Huệ sai quân gọi lớn:

- Mau mở cổng thành, có Bắc Bình Vương đến!

Quân canh nhìn xuống thấy đèn đuốc sáng ngời, rõ ràng Nguyền Huệ ngồi trên bành voi oai phong lẫm liệt, bệ vệ uy nghi. Quân trong thành thất kinh vội vàng mở cổng. Vào thành rồi Huệ bảo quân:

- Các ngươi ai ở yên nơi ấy không được làm kinh động bá tánh.

Nguyễn Huệ vào dinh Vũ Văn Nhậm bảo bọn canh cửa:

- Các ngươi ai ở yên nơi ấy không được làm kinh động đến phò mã.

Quân sĩ vốn sợ uy Nguyễn Huệ, răm rắp vâng lời không đám động đậy. Nhậm lúc ấy vẫn đang ngủ say không hề hay biết. Huệ đến gần lay Vũ Văn Nhậm. Nhậm cựa mình gắt:

- Kẻ nào dám quấy rầy giấc ngủ của ta.

Nguyễn Huệ bình thản đáp:

- Thưa Tiết Chế phò mã, có Bắc Bình Vương đến.

Nhậm giật mình ngồi phắt dậy quát:

- Đứa nào dám đùa với ta thế?

Vừa dứt lời ngước lên thấy Nguyễn Huệ đứng sừng sững trước mặt, Vũ Văn Nhậm thất kinh sụp lạy:

- Cháu không biết là Hoàng thúc đến đây nên không kịp nghênh đón. Xin Hoàng thúc tha tội.

Nguyễn Huệ nghiêm giọng hỏi:

- Vũ Văn Nhậm! Ngươi có biết ta đang lo trăm công ngàn việc ở Phú Xuân lại phải cấp tốc ra Thăng Long là vì sao không?

Nhậm cúi đầu đáp:

- Thưa, cháu không được biết.

Huệ lại hỏi:

- Vậy ngươi có biết ai đã sai quân đi cướp bóc của nhân dân trong thành Thăng Long chăng?

Vũ Văn Nhậm sợ hãi đáp:

-Ấy là châu báu trong kho của vua Lê, dân chúng trộm đi nên cháu mới sai quân lấy lại sung vào công quỹ.

Lúc ấy Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân vừa đến, thi lễ với Huệ xong, Sở thưa:

- Chúa công nửa đêm đến đây chúng thần không được biết. Xin Chúa công thứ tội!

Nguyễn Huệ liền bảo:

- Hai ngươi mau đi bắt hết tòng phạm của Vũ Văn Nhậm về đây cho ta.

Rồi quay sang Nhậm, Huệ hỏi:

- Vậy số châu báu đang cất tại kho nào?

Nhậm run rẩy chỉ vào mấy chiếc hòm ở góc phòng, đáp:

- Cháu còn cất nơi đây chưa kịp đưa vào kho.

Nguyễn Huệ nạt:

- Quân bay mau trói Vũ Văn Nhậm lại cho ta.

Võ sĩ xông vào trói Nhậm. Nhậm cố van nài:

- Xin Hoàng thúc nghĩ tình Phụ vương mà tha cho cháu một lần.

Lúc ấy Phan Văn Lân vừa giải Trần Đường đến. Huệ bảo Vũ Văn Nhậm và Trần Đường rằng:

- Ngày mai ra trước dân, dân bảo tha thì ta tha, dân bảo chém thì ta chém.

Đoạn Huệ sai quân lập công đường ngoài dinh phủ chờ trời sáng sẽ đem Vũ Văn Nhậm ra trước dân mà xử. Sáng hôm sau nhân dân ở thành Thăng Long nghe tin rủ nhau đến xem, người đông nghìn nghịt. Vũ Văn Nhậm và Trần Đường bị trói quỳ trước án. Nguyễn Huệ hướng về phía dân cất tiếng sang sảng hỏi:

- Bá tánh hãy nhìn cho rõ, kẻ nào đã dẫn quân đi cướp của nhân dân trong thành?

Một cụ già bước ra nói:

- Thưa Bắc Bình Vương, tôi thay mặt bá tánh trong thành xin thưa rõ mọi chuyện.

Nguyễn Huệ kính cẩn khích lệ:

- Sự thật thế nào xin cụ cứ nói ra.

Cụ già chỉ mặt Trần Đường nói:

- Chính vị tướng quân này dẫn quân đi lấy cướp vàng bạc châu báu của dân.

Quay sang Trần Đường, Huệ hỏi:

- Trần Đường! Có đúng là ngươi đã dẫn quân đi cướp của dân chăng?

Trần Đường hoảng sợ lạy như tế sao:

- Xin Bắc Bình Vương tha mạng, kẻ hạ thần chỉ làm theo lệnh của phò mã mà thôi.

Nguyễn Huệ lại quay sang hỏi Vũ Văn Nhậm:

- Vũ Văn Nhậm! Ngươi theo Tây Sơn ta từ lúc mới dấy binh. Vậy quân lệnh của ta, cướp của dân phải xử thế nào ngươi có biết chăng?

Vũ Văn Nhậm kinh hồn bạt vía dập đầu thưa:

- Phải xử tội chết. Xin Hoàng thúc hãy nghĩ tình Phụ hoàng mà tha cho cháu một phen.

Nguyễn Huệ nghiêm giọng nói:

- Quân pháp bất vị thân. Nếu tha cho ngươi sao an được lòng dân, sao nghiêm minh quân kỷ!

Nhậm cố van nài:

- Ngày xưa khởi binh cháu chém đầu tham quan giữa chợ cho Phụ hoàng nhậm chức Biện lại Vân Đồn. Lại có công thả Hoàng tôn Dương, xạ tiễn cứu công chúa Thọ Hương. Cháu từng theo Hoàng thúc vào Nam ra Bắc, sinh tử có nhau. Nay vì một tội nhỏ mà Hoàng thúc nỡ quên tình xưa nghĩa cũ xử cháu vào tội chết hay sao? Xin Hoàng thúc thương tình nghĩ lại!

Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:

- Ngày trước ngươi chém đầu tham quan giữa chợ, sao nay làm quan lại còn cướp của hại dân. Xạ tiễn cứu Thọ Hương được phong làm phò mã ấy là công đã được trả. Nếu người có công ai cũng cậy công làm càn như ngươi thì trăm họ sẽ ra sao? Võ sĩ đâu đem Vũ Văn Nhậm và Trần Đường ra pháp trường xử trảm.

Nhậm thấy van nài không được bèn nói cứng:

- Hạ thần có tội đã đành, nhưng thần là Phò mã rể vua. Xin Hoàng thúc giải thần về Quy Nhơn cho Phụ hoàng xử tội.

Nguyễn Huệ bảo:

- Ngươi gây tội ở Thăng Long phải xử ở Thăng Long, có tội với dân phải trước dân mà xử, không thể đem ngươi về Quy Nhơn được.

Vũ Văn Nhậm thấy Nguyễn Huệ đã quyết ý hoảng sợ khóc rống lên rằng:

- Dù sao cháu cũng là người trong nhà. Hoàng thúc hãy nể Phụ hoàng, nghĩ tình Thọ Hương mà tha cho cháu một phen.

Thấy Nhậm cuống cuồng kêu khóc, Nguyễn Huệ ứa nước mắt rồi nghiêm giọng nói gằn từng tiếng:

- Pháp luật nghiêm minh! Chém!

Nhìn võ sĩ lôi Vũ Văn Nhậm và Trần Đường đi, hai hàng nước mắt Nguyễn Huệ chảy ròng ròng. Thấy vậy Trần Văn Kỷ khuyên:

- Ấy là vì thi hành pháp luật, xin Chúa công chớ quá thương tâm.

Nguyễn Huệ lau nước mắt đáp:

- Vũ Văn Nhậm đã từng cùng ta vào sinh ra tử, lại là cháu rể của ta. Nay phạm tội chết ta không đau lòng sao được!

Rồi Nguyễn Huệ bảo dân chúng rằng:

- Trong bá tánh ai bị Vũ Văn Nhậm lấy vật gì hãy đến khai rõ cùng quan Trung thư Trần Văn Kỷ sẽ được trả lại. Nếu phát hiện người nào khai gian tội khó dung tha.

Dân chúng bảo nhau rằng:

- Bắc Bình Vương xử trị nghiêm minh, hành pháp vô tư, đến phò mã còn bị đưa ra trước dân xử tội chết. Hãy lấy đó làm gương, mất vật gì phải khai cho thật.

Nội nhật hôm ấy Trần Văn Kỷ trả lại của cải bị mất cho dân không sót một tờ hào nào cả.

Xong việc ấy Nguyễn Huệ chia quân đi đồn trú khắp các trấn thủ ở Bắc Hà, lại truyền hịch rằng ai biết được chỗ trú ẩn của vua Lê Chiêu Thống để quân Tây Sơn đến rước vua về kinh trị vì trăm họ, thì kẻ đó sẽ được phong quan.
Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 46 Trần Văn Kỷ đón Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Huệ đuổi Đặng Trần Thường.
Lúc bấy giờ ở Thăng Long có một người tên Đặng Trần Thường. Ngày ấy nghe hịch quân Tây Sơn truyền ra, Thường nhủ thầm rằng:
- Nếu có kế rước được vua về kinh sẽ được phong quan. Vậy ta phải hỏi kế Ngô Thì Nhậm mới được.
Nghĩ rồi bèn lên ngựa đến phủ Thái Bình gặp Ngô Thì Nhậm. Phân ngôi chủ khách xong, Thường nói:
- Ngô huynh trước làm quan cho Chúa Trịnh sau vì tội mà đến đây ở ẩn. Nay đã đến lúc ra làm quan trở lại sao còn ở mãi trong chòi tranh chật hẹp nơi núi rừng hoang vắng như thế này.
Ngô Thì Nhậm hỏi:
- Đặng huynh nói vậy là ý thế nào?
Thường đáp:
- Vừa rồi Nguyễn Huệ ra thông báo, ai có kế rước được vua về kinh trị vì trăm họ sẽ được phong quan. Ngô huynh là danh sĩ bậc nhất Bắc Hà lại không có kế gì sao?
Nghe Thường nói xong, Nhậm hỏi:
- Nếu rước được vua về rồi, Đặng huynh sẽ làm quan với vua Lê hay với nhà Tây Sơn?
Thường đáp:
- Nguyễn Huệ phò Lê xong ít lâu sau lại rút quân về thì ta vẫn làm quan với nhà Lê vậy.
Nhậm lại hỏi:
- Thế ngộ nhỡ lần này Nguyễn Huệ chiếm luôn Bắc Hà không rút quân về trả nước cho vua Lê thì làm thế nào.
Thường đáp:
- Nguyễn Huệ phò Lê nên mới rước vua về trị vì trăm họ, sao có việc chiếm đất Bắc Hà.
Nghe Thường nói xong, Nhậm ôm bụng cười to. Thấy Nhậm cười mãi, Thường phật ý nhưng nén lòng hỏi:
- Cớ gì Ngô huynh cười mãi thế?
Nhậm nín cười đáp:
- Tôi cười vì Đặng huynh xét việc nông cạn, đến nước này mà còn bảo Nguyễn Huệ phò Lê. Nguyễn Huệ truyền hịch tìm vua Lê tức là đuổi vua Lê đó.
Thường ngạc nhiên hỏi:
- Ngô huynh nói vậy là ý thế nào.
Nhậm hỏi lại Thường rằng:
- Đặng huynh không nghe việc Ngô Duy Án và Trần Công Xán đi sứ về bị chết chìm ngoài biển hay sao?
Thường đáp:
- Việc này tôi có nghe. Nhưng đó là Nguyễn Huệ thấy Trần Công Xán có tài nên mới giết đi, việc đó nào có liên quan gì đến việc phò Lê hay không phò Lê.
Ngô Thì Nhậm lắc đầu bảo:
- Nguyễn Huệ đang thu phục lòng nho sĩ đất Bắc cớ gì phải giết Trần Công Xán. Vả lại Trần Công Xán tài gì mà Nguyễn Huệ phải giết đi, chẳng qua Nguyễn Huệ dùng kế “Phạt thảo kinh xà” để đuổi vua Lê Chiêu Thống chạy khỏi nước mà thôi.
Thường ngạc nhiên hỏi:
- Ngô huynh nói gì tôi vẫn chưa hiểu. Kế thế nào là “Thảo phạt kinh xà”?
Nhậm đáp:
- Trần Công Xán và Lê Duy Án ngoài theo lệnh Hữu Chỉnh đi sứ vào đòi đất Nghệ An. Trong khi đó Lê Duy Án lại giấu mật chỉ của vua Lê Chiêu Thống viết vời Nguyễn Huệ về kinh cứu giá trừ Chỉnh. Có mật chỉ rồi Nguyễn Huệ lại giết Lê Duy Án là tay chân của vua Lê, khiến vua Lê hoảng sợ. Nên khi Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê ra đánh Chỉnh vua Lê phải bỏ Hoàng thành mà chạy trốn. Trần Công Xán cầm đầu sứ đoàn nên phải chết theo Lê Duy Án chứ Nguyễn Huệ nào cố ý giết Trần Công Xán. Ấy chính là kế “Phạt thảo kinh xà” của Nguyễn Huệ vậy.
Đặng Trần Thường cãi:
- Vô lý! Nếu muốn đuổi vua Lê thì Nguyễn Huệ cứ đem quân ra đánh không nêu nghĩa phò Lê, ắt vua Lê cũng phải bỏ kinh thành mà chạy, cần gì phải giết Lê Duy Án và Trần Công Xán.
Nhậm đáp:
- Lê Duy Án theo lệnh vua Lê đem mật chỉ cứu giá trao Nguyễn Huệ. Vậy nếu Huệ không giết Lê Duy Án làm sao gây nghi sợ trong lòng vua Lê được. Dùng kế này Nguyễn Huệ đã đuổi được vua Lê lại có chính nghĩa phò Lê lấy lòng trăm họ. Nay nghe Nguyễn Huệ thông báo tìm vua Lê, vua Lê lại càng hoảng sợ mà lo chạy cho xa. Còn những kẻ sĩ như Đặng huynh cũng phải tin Nguyễn Huệ phò Lê, kể gì đến kẻ dân thường ít học. Thật là một mũi tên mà trúng hai đích vậy.
Đặng Trần Thường trầm trồ khen:
- Ấy thật là độc kế! Theo ý Ngô huynh Nguyễn Huệ là người thế nào?
Nhậm đáp:
- Theo tôi Nguyễn Huệ là một bậc anh hùng kiệt hiệt, mưu trí hơn người, xuất thân là nông dân áo vải giúp nước cứu dân dựng nên nghiệp lớn xưa nay hiếm thấy. Xét việc trị tội Vũ Văn Nhậm thật là một đấng minh quân. Cơ trời sắp đổi, vận mệnh nhà Lê đã hết, tôi định ra phò minh Chúa góp công định quốc an dân, nhưng e người đời hiểu lầm rằng mình tham danh hám lợi nên chưa biết tính sao.
Đặng Trần Thường cáo từ nói:
- Ngô huynh là Hồng Hạc chờ người ta đến đón, còn tôi chim sẻ phải tự lo kiếm ăn. Cảm ơn Ngô huynh đã chỉ cho chỗ sáng. Xin tạm biệt Ngô huynh, tôi ra làm quan với nhà Tây Sơn đây.
Rời khỏi chòi tranh Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường rong ruổi đến kinh thành. Tới nơi nghe dân chúng bảo nhau rằng:
- Bắc Bình Vương đưa Hoàng thân Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc. Hiện Bắc Bình Vương đang ở tại hoàng cung.
Đặng Trần Thường nghĩ thầm:
- Nguyễn Huệ đang ở tại Hoàng cung ắt phải về lại tư dinh. Vậy ta cứ phục trên đường về tất gặp được Nguyễn Huệ.
Nghĩ rồi bèn đến nằm dưới gốc cây bên vệ đường. Quả nhiên thoáng chốc đã thấy Nguyễn Huệ từ Hoàng cung đi về phía mình. Chờ Huệ đến gần, Đặng Trần Thường vừa nhịp chân vừa ca rằng:
Dân nhớ ơn vua Lê.
Người đuổi vua Lê.
Lại được lòng dân.
Đời thật oai oăm!.
Kế “Phạt thảo kinh xà”.
Quả là lợi hại.
Nguyễn Huệ nghe tiếng ca giật mình hỏi Trần Văn Kỷ:
- Người này là ai mà biết kế của ta?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Bắc Hà đất rộng dân đông, danh sĩ hằng hà, kẻ hạ thần không biết được.
Nguyễn Huệ liền xuống ngựa đến gần Đặng Trần Thường thi lễ rồi hỏi:
- Cao nhân quý danh là gì. Biết rõ kế của Huệ ắt phải là nhân tài bậc nhất ở Bắc Hà?
Thường đứng dậy vái chào Nguyễn Huệ rồi đáp:
- Thần dân họ Đặng tên Trần Thường, chỉ là một kẻ hủ nho nơi đất Bắc. Kế của Chúa công ngoài thần dân ra còn có một người biết nữa là hai.
Nguyễn Huệ liền hỏi:
- Người ấy là ai?
Thường đáp:
- Đó là Ngô Thì Nhậm, người làng Thanh Oai trấn Nam Sơn, làm quan chức Đốc Đồng ở Hải Dương. Trịnh Sâm thường khen là tài học không dưới người khác. Sau vì loạn kiêu binh nên bỏ về ở ẩn. Ngô Thì Nhậm cũng biết Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” truất bỏ nhà Lê. Nhậm định tìm gặp vua Lê Chiêu Thống khuyên vua quay về lại kinh thành ắt Chúa công vì lấy lòng dân xứ Bắc mà vẫn phải phò Lê. Nếu như thế e đại sự khó thành.
Nguyễn Huệ hỏi Đặng Trần Thường:
- Tiên sinh là người đa mưu trúc trí vậy có kế gì giúp ta chăng?
Thường đáp:
- Nay kẻ hạ thần quyết lòng bỏ chữ ngu trung ra giúp Chúa công định quốc an dân. Nếu Chúa công không chê hạ thần xin hiến một kế.
Nguyễn Huệ vui mừng nói:
- Huệ ta lúc nào cũng chiêu hiền đãi sĩ, ngưỡng mộ nhân tài. Được tiên sinh theo giúp còn hân hạnh gì hơn. Kế thế nào xin tiên sinh chỉ vẽ.
Đặng Trần Thường đáp:
- Trong lúc Ngô Thì Nhậm chưa đến tìm gặp vua Lê Chiêu Thống, ta ra tay trước là hơn.
Nguyễn Huệ kiên nhẫn hỏi:
- Thế nào là ra tay trước?
Thường đáp:
- Thần xin chỉ nơi ẩn náu của Ngô Thì Nhậm, Chúa công sai người đến giết Nhậm là xong.
Nguyễn Huệ nghe xong nói ngay:
- Xin mời tiên sinh về dinh cùng Huệ. Huệ tôi sắp xếp có chức gì phù hợp sẽ mời tiên sinh thọ chức.
Nói xong liền mời Đặng Trần Thường về cho nghỉ ngoài công quán. Đến tư dinh, Nguyễn Huệ hỏi Trần Văn Kỷ:
- Theo ý Trung thư, Đặng Trần Thường là người thế nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Thần xem Đặng Trần Thường không phải là người ngay. Mới gặp Chúa công đã bày chuyện hại người. Người này chớ nên dùng.
Nguyễn Huệ gật đầu nói:
- Ta nghe Ngô Thì Nhậm là danh sĩ bậc nhất ở Bắc Hà, trong lòng ngưỡng mộ từ lâu. Nay Trung thư có thể đến thuyết Nhậm theo giúp Tây Sơn ta được chăng?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Thần nghe Ngô Thì Nhậm tài hoa lỗi lạc, là kẻ thức thời, nay xin đến thuyết nhất định Nhậm sẽ theo về với Chúa công.
Hôm sau Ngô Thì Nhậm theo Trần Văn Kỷ đến yết kiến Nguyễn Huệ. Huệ mời ngồi hỏi:
- Ta nghe tiên sinh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, vẫn hằng mong được nghiêng mình chào đón. Nay tiên sinh đến đây thật là hồng phúc của nước nhà. Tiên sinh là bề tôi cũ của nhà Lê, nay ta truất phế nhà Lê, tiên sinh có oán ta chăng.
Ngô Thì Nhậm đáp:
- Vua Lê vô tài kém đức, để nước nhà loạn lạc muôn dân đói khổ lầm than, Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” truất nhà Lê cứu dân vực nước sao hạ thần lại dám oán Chúa công.
Nguyễn Huệ nói:
- Cảm ơn tiên sinh đã hiểu được Huệ ta. Nhưng có người bảo ta rằng tiên sinh định khuyên vua Lê Chiêu Thống quay lại Hoàng cung phá thế “Phạt thảo kinh xà” của ta. Chính vì lẽ ấy nên ta mới hỏi tiên sinh có vì nhà Lê mà oán ta chăng.
Ngô Thì Nhậm kinh ngạc hỏi:
- Ai bảo với Chúa công điều ấy?
Nguyễn Huệ đáp:
- Đó chính là Đặng Trần Thường!
Ngô Thì Nhậm lấy làm lạ hỏi:
- Đặng Trần Thường có đến hỏi thần về thế cuộc. Thần khuyên Thường ra giúp Chúa công, làm gì có việc thần định khuyên vua Chiêu Thống về lại kinh thành. Sao lại có sự lạ như thế?
Nguyễn Huệ trầm ngâm hỏi:
- Tiên sinh và Đặng Trần Thường có thù oán gì chăng?
Nhậm đáp:
- Mỗi khi gặp khó họ Đặng thường đến vấn kế của thần, làm gì có việc thù oán.
Nguyễn Huệ ngoảnh lại bảo quân:
- Mau đến công quán mời Đặng Trần Thường tới đây cho ta.
Quân đi rồi Nguyễn Huệ lại bảo Ngô Thì Nhậm:
- Tiên sinh cảm phiền nấp sau bức bình phong, ta có việc riêng cần hỏi Đặng Trần Thường ít câu.
Nhậm liền làm theo lời Huệ. Thường đến, Huệ hỏi:
- Đặng tiên sinh khuyên ta nên giết Ngô Thì Nhậm. Nay có người khuyên nên thuyết Nhậm bỏ Lê ra giúp ta. Vậy theo ý tiên sinh thì thế nào?
Đặng Trần Thường đáp:
- Làm gì có việc ấy. Chính hạ thần đã thuyết Nhậm ra phò Chúa công nhưng Nhậm không nghe kia mà!
Nguyễn Huệ cười bảo:
- Nhưng người này lại thuyết được Ngô Thì Nhậm chẳng phải là tài hơn Đặng tiên sinh sao. Để ta gọi người này ra cho Đặng tiên sinh gặp mặt.
Nói xong Huệ quay vào trong gọi:
- Ngô tiên sinh hãy ra di!
Ngô Thì Nhậm từ sau bức bình phong bước ra. Nhìn thẳng vào mặt Đặng Trần Thường, Nhậm hỏi:
- Tôi khuyên Đặng huynh ra giúp Tây Sơn. Sao Đặng huynh lập kế hãm hại tôi?
Đặng Trần Thường thất sắc chẳng biết đối đáp thế nào. Bỗng nghe Nguyễn Huệ vỗ án quát:
- Phường tiểu nhân đê tiện! Quân đâu, lôi Đặng Trần Thường ra ngoài chém chết cho ta.
Ngô Thì Nhậm vội can Nguyễn Huệ:
- Đại trượng phu là kẻ kính người quân tử, thương xót tiểu nhân. Xin Chúa công hãy thương xót mà tha cho họ Đặng một phen.
Nguyễn Huệ hầm hầm nói:
- Bình sinh ta rất ghét bọn người lấy oán trả ân. Nể lời Ngô Thì Nhậm tha chết cho ngươi, nhưng phải đánh hai mươi hèo làm gương cho kẻ khác.
Ngô Thì Nhậm lại can:
- Đặng Trần Thường là học trò sao chịu nổi hai mươi hèo. Xin Chúa công mở lượng hiếu sinh mà tha cho.
Nguyễn Huệ bảo Thường:
- Ngươi là học trò, vậy ta ra một vế đối. Nếu đối được thì tha, bằng không phải đánh hai mươi hèo.
Đặng Trần Thường thoát chết, hoàn hồn thưa:
- Xin Chúa công ra câu đối.
Nguyễn Huệ mỉm cười đọc rằng:
- Trần tục, tầm thường như Đặng Trần Thường, kẻ tiểu nhân làm gì nên đặng.
Đặng Trần Thường nhăn trán chau mày suy nghĩ sợ đà sởn gai ốc, đổ mồ hôi hột mà vẫn chưa tìm ra vế đối. Trong cơn nguy khốn chợt nghe Ngô Thì Nhậm nói:
- Người thượng quân từ sánh bằng cây trúc, người trung quân tử sánh với cây ngô đồng. Nhậm tôi thời đến được Chúa công trọng dụng cho nhậm chức, sự quân tử chỉ đáng sánh với cây ngô đồng mà thôi.
Thường nghe Nhậm nói xong mừng rỡ thưa cùng Nguyễn Huệ:
- Tiểu sinh xin đọc vế đối.
Huệ hất hàm bảo:
- Ngươi hãy đọc đi. Nếu đối được ta sẽ tha không đánh!
Đặng Trần Thường đối rằng:
- Thời đến, chức nhậm như Ngô Thì Nhậm, người quân tử đáng sánh cây ngô.
Nguyễn Huệ vỗ án quát:
- Câu đối của ngươi tuy chỉnh về văn nhưng không chỉnh về ý. Quân bay đè xuống đánh hai mươi hèo.
Thường thất kinh hỏi:
- Thưa Chúa công thế nào là không chỉnh ý?
Huệ đáp:
- Ngươi lấy oán trả ân toan hại Ngô Thì Nhậm. Nhậm không lấy đó làm hiềm, nhắc ý cho ngươi đối được câu đối của ta để cứu ngươi. Đó là thượng quân tử đáng sánh bằng cây trúc, sao bảo rằng chỉ sánh bằng cây ngô. Ấy là không chỉnh về ý. Quân bay đè xuống đánh ngay.
Đặng Trần Thường bị đánh hai mươi hèo lột da cháy máu đau đớn tủi hổ rời khỏi dinh. Thường nghĩ thầm:
- Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm hùa nhau làm nhục ta. Ta nghe Nguyễn Phúc Ánh đang khởi binh ở Gia Định chống nhau với Tây Sơn, vậy thì nên vào theo Chúa Nguyễn. Trước là lập công danh với đời, sau là báo tư thù mới hả dạ.
Nghĩ xong liền tìm thuyền vượt biển vào Gia Định.
Phần Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm, sau khi đuổi Đặng Trần Thường đi rồi, Nhậm hỏi:
- Lê Chiêu Thống bị Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” đuổi khỏi kinh thành, thần e rằng vua Lê sẽ sang Tàu cầu cứu vua Càn Long nhà Thanh. Nếu quân Thanh mượn cớ phù Lê sang xâm lược nước ta thì nguy. Xin Chúa công liệu trước.
Nguyễn Huệ khen Nhậm:
- Tiên sinh mới ra khỏi chòi tranh mà biết trước thời cuộc thật tài năng hiếm có. Đây là phong thư ta viết sẵn xin tiên sinh cất giữ, khi nào quân Thanh sang xâm lược nước ta thì tiên sinh hãy mở ra xem. Trong đó đã có kế chống nhau với giặc.
Đoạn Huệ trao thư cho Nhậm. Nhậm quỳ nhận thư, Huệ lại dặn:
- Việc ta giao mật thư này cho khanh không được tiết lộ cho một ai biết, kể cả Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Tuyết.
Ngô Thì Nhậm tò mò hỏi:
- Kế chống giặc thế nào mà hệ trọng thế?
Huệ cười đáp:
- Đợi quân Thanh sang khanh mới được giở ra, khi ấy khắc biết!
Dặn dò Ngô Thì Nhậm xong, Nguyễn Huệ hội các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết đến nói:
- Nay ta phong Ngô Văn Sở đứng đầu quan võ, Ngô Thì Nhậm cai quản quan văn, giao mười một trấn ở Bắc Hà cho các khanh định đoạt. Đừng nên phân biệt kẻ văn người võ, kẻ mới người cũ mà khích bác lẫn nhau. Nếu không có việc hệ trọng thì không cần tâu bẩm làm chi. Các khanh nên gắng sức chớ phụ lòng mong đợi của ta.
Sắp đặt mọi việc xong, Nguyễn Huệ liền cùng Trần Văn Kỷ trở về Phú Xuân.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 47 Võ Tánh bày điệu hổ ly sơn. Nguyễn Văn Trương dùng ly gian kế.
Nhắc lại Nguyễn Vương Phúc Ánh ở Tiêm La quốc chờ Bá Đa Lộc cầu viện nước Pháp Lang Sa đem binh thuyền đến giúp. Chờ mãi không thấy tăm hơi đâu cả, Ánh liền sai sứ tìm đường sang Pháp quốc dò la tin tức Bá Đa Lộc. Một ngày kia sứ giả về báo rằng:
- Tâu Thượng vương, nước Pháp Lang Sa có loạn nên vua Pháp không bằng lòng đem quân sang giúp. Bá Đa Lộc nói sẽ tự mình bỏ tiền mua súng đóng thuyền tuyển mộ binh lính rồi sẽ đến giúp Thượng vương.
Nguyễn Phúc Ánh buồn rầu nói:
- Ta không thể nào chờ Bá Đa Lộc được nữa, phải tự mình lo lấy mà thôi. Nhưng bây giờ trong tay chỉ có một ngàn quân sao về nước đánh Tây Sơn được. Các tướng ai có kế gì chăng.
Nguyễn Huỳnh Đức bước ra nói:
- Hiện nay Nguyễn Huệ cai trị từ ải Hải Vân trở ra Bắc. Anh em Nhạc - Huệ bất hòa đánh giết lẫn nhau. Đất Gia Định do Nguyễn Lữ trấn thủ. Nguyễn Lữ thật thà, bất tài, nhu nhược, Đặng Văn Long lại bỏ Nguyễn Lữ ra Phú Xuân theo Nguyễn Huệ. Ấy thật là trời giúp Thượng vương nên mới dành đất Gia Định cho Thượng vương đó. Đánh lấy Gia Định đất rộng dân đông là nương theo thiên thời mà giành địa lợi.
Nguyễn Vương chặn Đức lại hỏi:
- Nhưng quân ta chỉ có một ngàn, sao chiếm nổi Gia Định?
Đức đáp:
- Muốn giành địa lợi thì phải được nhân hòa.
Nguyễn Vương hỏi:
- Thế nào là nhân hòa?
Đức đáp:
- Nay ở Gia Định có một người nắm trong tay hàng vạn quân lập căn cứ trong rừng đang đánh nhau với quân Tây Sơn. Thượng vương thuyết người này về giúp lo gì không lấy được Gia Định.
Nguyễn Vương hỏi:
- Người ấy là ai. Lập căn cứ tại đâu?
Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
- Người này nổi danh là đệ nhất hùng trong Gia Định tam hùng. Đang lập căn cứ tại rừng Tam Phụ.
Nguyễn Vương lắc đầu nói:
- Ta trước giết Võ Nhân là anh ruột Võ Tánh, nên năm xưa ta sai Ngô Tùng Châu đến thuyết mà Võ Tánh không theo. Nay nói cách gì cho Võ Tánh giúp ta được?
Ngô Tùng Châu xen vào thưa:
- Võ Tánh là người trung quân ái quốc, nhưng e Thượng vương ngờ Võ Tánh còn nhớ thù nhà nên chưa đến giúp Thượng vương được đó thôi.
Nguyễn Vương hỏi:
- Ta thì ngại Võ Tánh còn nhớ thù anh. Võ Tánh thì sợ ta vì điều ấy mà không tin Tánh thực lòng theo giúp. Vậy phải làm sao hóa giải được nỗi hiềm nghi này.
Ngô Tùng Châu cười đáp:
- Trước Thượng vương cắt đứt ruột thịt người ta, nay Thượng vương nên đem ruột thịt của mình nhà thưởng cho họ, ắt Võ Tánh sẽ hết nghi ngờ.
Nguyễn Vương ngạc nhiên hỏi:
- Ngô tham mưu nói vậy là ý thế nào. Ta vẫn chưa hiểu?
Ngô Tùng Châu kề tai Phúc Ánh nói nhỏ một hồi. Nghe xong Nguyễn Vương mừng rỡ khen:
- Ngô tiên sinh thật là cao kiến. Vậy phiền tiên sinh tìm về cố quốc đến rừng Tam Phụ gặp Võ Tánh lần nữa.
Ngô Tùng Châu vâng lệnh đi ngay. Gặp nhau, Tánh hỏi Châu:
- Năm xưa tôi hẹn với Ngô huynh chờ mãn hạn tang anh sẽ đem quân theo giúp Chúa. Không ngờ Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định đuổi Chúa chạy sang Tiêm La quốc. Nay tôi muốn theo Chúa vậy phải tìm ở đâu?
Ngô Tùng Châu mừng rỡ đáp:
- Chẳng giấu gì Võ đệ, tôi vâng lệnh Chúa đến trao cho Võ đệ một vật để chứng tỏ rằng Chúa không hề nghi ngờ gì Võ đệ cả.
Võ Tánh hỏi:
- Ấy là vật gì?
Ngô Tùng Châu liền đưa cho Võ Tánh xem một bức tranh vẽ hình một người con gái dung nhan diễm lệ. Xem xong Tánh ngạc nhiên hỏi:
- Bức chân dung này của ai. Cho tôi xem có dụng ý gì.
Ngô Tùng Châu cười đáp:
- Đây là chân dung của quận chúa Ngọc Du là em ruột của Chúa. Nay Chúa muốn gả quận chúa Ngọc Du cho Võ đệ, ấy là muốn lấy tình thật mà đãi ngộ Võ đệ đó!
Võ Tánh xua tay nói:
- Tôi nay ra giúp Chúa vì đã mãn hạn tang anh không còn sợ mang tiếng là người bất hiếu. Nếu chờ Chúa gả em gái mới ra giúp sao bảo là trung được. Ngô huynh hãy về tâu với Chúa rằng khi nào Chúa về nước, Tánh tôi sẽ thân hành đem quân đến đón. Còn việc gả Quận chúa, Tánh tôi là kẻ vũ phu thật tình không dám nhận.
Tùng Châu hỏi:
- Chúa ta trong tay chỉ có năm ngàn quân sao dám đường đột về nước. Theo tôi Võ đệ hãy ra quân đánh lấy Trường Đồn, Hà Tiên. Chúa sẽ theo đường bể về Hà Tiên. Như vậy mới tiện.
Võ Tánh cười đáp:
- Một ngàn quân cũng đã chiếm được Hà Tiên. Nguyễn Lữ nghe Chúa ta ít quân tất đem quân tiến xuống Trường Đồn đánh Hà Tiên. Khi ấy tôi ở rừng Tam Phụ sẽ bất ngờ đánh chiếm Sài Côn, Nguyễn Lữ ở Trường Đồn sẽ lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Ấy là kế điệu hổ ly sơn đó.
Ngô Tùng Châu mừng rỡ khen:
- Ấy thật là diệu kế. Phen này phải bắt sống Nguyễn Lữ.
Nói xong Châu liền từ biệt Võ Tánh sang Tiêm La quốc thuật lại kế Võ Tánh cho Nguyễn Vương nghe.
Nguyễn Vương cảm khái nói:
- Võ Tánh thật là người trung hiếu vẹn toàn xưa nay hiếm thấy. Nghĩa thật là đáng kính, tài thật là đáng phục.
Đoạn Nguyễn Vương liền đem quân theo đường bể tiến đánh Hà Tiên.
*
* *
Bấy giờ Đông Định Vương Nguyễn Lữ ngày ấy ở trong thành Sài Côn nghe quân thám mã về báo rằng:
- Thưa Đông Định Vương, Nguyễn Phúc Ánh từ Tiêm La quốc đem quân về đánh chiếm Hà Tiên. Xin Đông Định Vương định liệu.
Nguyễn Lữ giật mình nói:
- Hai anh ta bất hòa khiến lòng người ly tán. Dân Gia Định chỉ một lòng về với Phúc Ánh. Vả lại Phúc Ánh ở Tiêm La về chiếm Hà Tiên chắc là có quân Tiêm La theo giúp. Chi bằng ta bỏ Gia Định về Quy Nhơn với Hoàng huynh là hơn.
Nguyễn Lữ vừa dứt lời bỗng nghe tiếng nói lớn:
- Xin Đông Định Vương chớ bỏ Gia Định.
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra người vừa nói là quan Thái bảo Phạm Văn Tham. Nguyễn Lữ hỏi:
- Văn Tham cho rằng ta có thể địch nổi với quân Tiêm La hay sao mà bảo đừng bỏ đất Gia Định.
Phạm Văn Tham đáp:
- Năm trước quân Tiêm La bi tiêu diệt ở Rạch Gầm, Trường Đồn, năm vạn quân còn lại mấy trăm ôm đầu chạy về nước. Từ ấy đến nay chúng nghe tiếng Tây Sơn ta đã kinh tâm tán đởm làm gì mà dám sang lần nữa. Xin Đông Định Vương chớ vội bỏ đất Gia Định.
Nguyễn Lữ chau mày nói:
- Dù quân Tiêm không sang thật, nhưng lòng dân Gia Định chỉ theo về Phúc Ánh, thành Sài Côn lại chẳng có núi non che chở e không chổng nổi với giặc. Ý ta đã quyết, Văn Tham đừng nói nữa.
Tham quỳ dưới án một mực cầu xin:
- Bệ hạ giao cho bọn ta trấn thủ Gia Định, giặc đến chưa đánh đã chạy sao đáng mặt làm tướng. Nếu Đông Định Vương muốn lui xin hãy tạm về đóng ở Trấn Biên cho an lòng quân sĩ. Tôi xin ở lại Sài Côn đánh Phúc Ánh. Nếu chẳng may Văn Tham tôi bỏ mạng thì Đông Định Vương từ Trấn Biên chạy về Quy Nhơn cũng chẳng muộn gì.
Nguyễn Lữ nghe vậy an tâm liền đem năm ngàn quân lui về giữ Trấn Biên.
Lúc bấy giờ ở trong quân Tây Sơn có một viên tiểu tướng tên là Nguyễn Văn Trương hay việc ấy bèn bảo bọn thủ hạ rằng:
- Đông Định Vương Nguyễn Lữ là người bất tài, sớm muộn gì đất Gia Định không mất về tay Chúa Nguyễn. Bọn ta đều là người Gia Định sao không theo về với Chúa Nguyễn lập công danh với đời.
Nói xong Trương đem ba trăm thủ hạ về Hà Tiên quy hàng Nguyễn Vương. Nguyễn Vương hỏi:
- Ngươi bỏ Tây Sơn theo ta lấy gì tin là thực.
Nguyễn Văn Trương đáp:
- Hạ thần xin hiến một kế khiến Nguyễn Lữ phải bỏ Trấn Biên mà chạy về Quy Nhơn, Phạm Văn Tham tất bị cô lập ở Sài Côn. Khi ấy Thượng vương lấy đất Gia Định như trở bàn tay, rồi tin thực hay không tùy Thượng vương phán quyết.
Nguyễn Vương hỏi:
- Kế thế nào?
Trương đáp:
- Thượng vương cứ làm như vầy... như vầy. Ấy là ly gián kế.
Nguyễn Vương nghi ngờ hỏi:
- Kế mọn này có thể lừa được Nguyễn Lữ sao.
Trương đáp:
- Phạm Văn Tham biết Nguyễn Lữ là người bất nhất, tất cả hai sẽ trúng kế. Thần xin đem đầu ra bảo đảm, xin Thượng vương chớ lo.
Nguyễn Vương nghe Văn Trương cả quyết thế liền theo kế thi hành.
Nhắc lại Phạm Văn Tham trấn thủ Sài Côn nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân, vua Thái Đức sai ngươi đi đường biển vào trao thư cho Đông Vương.
Phạm Văn Tham nói:
- Đông Vương không có ở đây, vậy ta phải mở thư ra xem vua dặn dò đánh giặc thế nào?
Tham mở thư ra đọc. Thư rằng:
Em quyết lòng rút binh mà Phạm Văn Tham nhất định xin ở lại trấn Sài Côn là có ý ở biên cương để dễ hàng gịăc. Đã biết ý của Tham như thế sao không giết đi còn tâu bẩm làm gì!
Phạm văn Tham xem thư xong thất kinh than:
- Ta một lòng vì nước sao Đông Vương nỡ ngờ ta như thế. Ta phải về Trấn Biên minh oan cùng Đông Vương mới đuợc.
Nói rồi Phạm Văn Tham chỉ đem vài trăm quân ra cửa Bắc thành Sài Côn, nhắm Trấn Biên trực chỉ. Nguyễn Lữ ở trong thành Trấn Biên nghe quân vào báo:
- Thưa Đông Vương, dân ở thành Trấn Biên xầm xì bàn tán rằng: Phạm Văn Tham đã dâng thành Sài Côn đầu hàng Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Lữ gạt đi bảo:
- Phạm Văn Tham là người trung nghĩa làm gì có việc phản ta.
Vừa dứt lời quân tín cẩn vào báo:
- Khắp trong thành ngoài nội đều đồn rằng Phạm Văn Tham sắp dẫn quân Nguyễn Phúc Ánh đến đánh ta.
Nguyễn Lữ liền đứng lên đi đi lại lại nghĩ thầm:
- Lẽ đâu Phạm Văn Tham muốn hàng nên mới một mực xin ta cho ở lại trấn thủ Sài Côn.
Lữ còn đang hoài nghi bỗng quân do thám hớt hải chạy vào báo rằng:
- Thưa Đông Vương, Phạm Văn Tham đang dẫn quân tiến về thành Trấn Biên. Chẳng hiểu là có ý gì?
Nguyễn Lữ giật mình kinh hãi nói:
- Phạm Văn Tham đã phản ta rồi dẫn quân Nguyễn Phúc Ánh đến đánh ta đó. Mau rút binh về Quy Nhơn.
Than rồi Lữ liền dần quân ra cửa Bắc thành mà chạy. Hay tin ấy Phạm Văn Tham than:
- Nếu vậy ta chỉ còn một cách là đánh thắng Phúc Ánh mới minh oan với vua Thái Đức và Đông Vương Nguyễn Lữ được mà thôi.
Đoạn Phạm Văn Tham lại dẫn quân quay về thành Sài Côn. Đến nơi Tham gọi tên thuộc tướng là Phạm Hổ tới bảo:
- Ta đã viết sẵn một phong thư, ngươi hãy gấp ra Phú Xuân báo cáo tình hình cùng Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Chỉ Bắc Bình Vương mới cứu ta được mà thôi.
Phạm Hổ vâng lời liền lên thuyền đi đường biển ra Phú Xuân. Hổ đi rồi, Tham bảo quân:
- Mau truyền lệnh ta đem toàn quân vào Trường Đồn đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Vương hay tin ấy bảo các tướng:
- Nguyễn Lữ và Phạm Văn Tham trúng kế ly gián của Nguyễn Văn Trương. Phạm Văn Tham kéo quân đến Trường Đồn ắt Sài Côn bỏ trống đúng như Võ Tánh dự đoán. Vậy ta phải mật sai Võ Tánh từ rừng Tam Phụ đánh chiếm Sài Côn. Khi ấy Phạm Văn Tham không còn đường rút tất phải đầu hàng.
Phạm Văn Tham ở Trường Đồn nghe quân vào báo:
- Võ Tánh ở rừng Tam Phụ đã đem quân đánh chiếm Sài Côn.
Tham thất kinh nói:
- Ta đã lầm mưu Nguyễn Phúc Ánh. Thành Sài Côn mất, ta ở Trường Đồn ba mặt đều thọ địch, nếu không sớm theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông theo đường biển rút quân về Bắc, ngộ nhỡ địch đem thủy binh chặn mất đường ấy thì làm thế nào.
Tham vừa dứt lời quân thám mã lại vào báo:
- Thưa tướng quân, thủy binh quân Nguyễn đã đóng thủy trại kín cả một dải Tiền Giang.
Phạm Văn Tham buồn rầu hạ lệnh:
- Ba quân canh phòng cẩn mật liều chết thủ thành chờ Bắc Bình Vương đem quân đến cứu.
Phạm Văn Tham lo lắng lên mặt thành Trường Đồn nhìn xuống sông Tiền Giang, chiến thuyền của quân Nguyễn giăng lớp lớp. Lại trông về phương Bắc tin quân cứu viện của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ còn trong làn sương khói xa mờ. Phạm Văn Tham thở dài than:
- Vái trời cho Phạm Hổ đến được Phú Xuân cầu cứu Bắc Bình Vương.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 48 Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm Gia Định. Lê Chiêu Thống cầu cứu Mãn Thanh.
Nói về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân ngày ấy nghe quân vào báo:

- Sứ giả của Thái Đức Hoàng Đế đem thư từ Quy Nhơn đến!

Nguyên Huệ liền sai quân lập hương án rồi quỳ tiếp chỉ. Đọc thư xong Nguyên Huệ khóc lớn kêu lên rằng:

- Nguyễn Lữ em ôi!

Đặng Văn Long và Vũ Văn Dũng giật mình đồng thanh hỏi:

- Nhị sư huynh thế nào mà Đại sư huynh đau lòng vậy?

Huệ gạt nước mắt đáp:

- Nguyễn Lữ thọ bệnh đau hai mắt đã mất tại Quy Nhơn!

Văn Long ngạc nhiên hỏi:

- Nhị sư huynh đang trấn thủ Gia Định cớ sao có mặt tại Quy Nhơn?

Huệ đáp:

- Trong thư Hoàng huynh bảo Nguyễn Phúc Ánh từ Tiêm La đem quân về đánh, Phạm Văn Tham dâng thành Sài Côn hàng giặc. Nguyễn Lữ phải bỏ chạy về Quy Nhơn lâm bệnh mà chết.

Huệ vừa dứt lời, quân lại vào báo:

- Thưa Chúa công, có sứ giả của tướng quân Phạm Văn Tham từ Gia Định xin vào ra mắt.

Huệ liền bảo:

- Mau cho vào.

Phạm Hổ vào đến quỳ khóc thưa:

- Tướng quân Phạm Văn Tham bị vua Thái Đức và Đông Định Vương nghi oan hàng Nguyễn Phúc Ánh nên không cho quân vào cứu Gia Định. Phạm tướng quân sai tôi vượt ngàn dặm biển đến đây cầu xin Bắc Bình Vương đem quân vào cứu. Nếu không Gia Định phải lâm nguy.

Nguyễn Huệ giật mình than:

- Nói vậy Nguyễn Lữ và Phạm Văn Tham đã bị ly gián kế của Nguyễn Phúc Ánh rồi. Hiện Phạm Văn Tham đang đóng quân tại đâu?

Phạm Hổ đáp:

- Hiện Phạm tướng quân đã kéo quân đến Trường Đồn chống nhau với quân Nguyễn Phúc Ánh ở Hà Tiên.

Nguyễn Huệ lại thở dài rằng:

- Thương thay Phạm Văn Tham. Kéo toàn quân đóng ở Trường Đồn thì Phạm Văn Tham nguy mất. Nếu quân Võ Tánh từ rừng Tam Phụ đánh chiếm Sài Côn thì Trường Đồn bốn mặt đều thọ địch phải liệu làm sao? Ôi. Thương thay Phạm Văn Tham!

Phạm Hổ dập đầu khóc:

- Xin Bắc Bình Vương mau cho quân vào cứu.

Nguyễn Huệ còn chau mày suy nghĩ, Vũ Văn Dũng lớn tiếng:

- Đại sư huynh hãy cho thần và sư đệ Văn Long vào Gia Định đánh Phúc Ánh cứu Phạm Văn Tham và báo thù cho Nhị sư huynh. Cứu binh như cứu hỏa, đại sư huynh còn ngẫm nghĩ nỗi gì.

Huệ trầm ngâm nói:

- Ngô Văn Sở ở Bắc Hà báo rằng vua Lê Chiêu Thống đã sang Tàu cầu viện vua Càn Long nhà Thanh. Đã một năm nay ta dồn hết nhân tài vật lực trong nước chuẩn bị đánh giặc ngoại xâm phương Bắc. Nay chúng sắp sang nên ta không thể cho hai em đem quân vào Nam được.

Vũ Văn Dũng lại lớn tiếng rằng:

- Nhị sư huynh vì thua Phúc Ánh mà chết, đại sư huynh lại chẳng muốn báo thù sao?

Huệ điềm tĩnh đáp:

- Nguyễn Lữ là em ruột của ta, ta không đau lòng sao được. Nhưng thù nhà là việc phụ, nước dân là vệc chính. Giặc Thanh rất đông, rất mạnh. Nước ta nhỏ phải địch nước lớn gấp mười lần, quân ta ít phải cự với giặc nhiều. Quân đã ít không đủ để chống giặc còn cứu được ai!

Phạm Hổ thất kinh hỏi:

- Nếu Bắc Bình Vương không cứu, Phạm tướng quân tôi phải tính thế nào?

Nguyễn Huệ chậm chạp nói:

- Nếu Nguyễn Phúc Ánh chưa lấy Sài Côn thì ngươi mau bảo Phạm Văn Tham bỏ thành Trường Đồn về giữ Sài Côn. Ta sẽ viết thư sai người vào Bình Thuận bảo Đặng Xuân Phong kéo quân vào Trấn Biên làm thế môi răng với Phạm Văn Tham ở Sài Côn thì không phải lo gì nữa.

Phạm Hổ hỏi:

- Nếu Sài Côn đã mất thì làm thế nào?

Huệ đau xót đáp:

- Nếu thế Văn Tham ở Trường Đồn bốn bề thọ địch, khi ấy ta e nước xa không cứu được lửa gần. Ngươi hãy bảo Phạm Văn Tham tạm quy hàng Phúc Ánh, chờ ta phá xong quân Thanh ở Bắc sẽ lập tức đem quân vào Nam đánh giặc Ánh. Khi ấy Phạm Văn Tham làm nội ứng là lập nên công lớn vậy.

Phạm Hổ không biết làm sao đành gạt nước mắt từ biệt Nguyễn Huệ đi ngay. Hổ đi rồi Nguyễn Huệ than:

- Hoàng huynh ta càng già càng lo hưởng thụ cầu an, thật là đáng tiếc! Ôi! Thương thay Phạm Văn Tham!

Phạm Hổ đến Gia Định nghe tin Phạm Văn Tham bị vây ở Trường Đồn, trong hết lương thảo, ngoài không quân cứu viện nên đã mở cửa thành ra hàng Phúc Ánh. Phạm Hổ cải trang tìm gặp Phạm Văn Tham thuật lại lời Nguyễn Huệ cho Tham nghe. Phạm Văn Tham than:

- Giờ chỉ còn cách ấy mà thôi. Ông trời sao bày cảnh éo le.

Phạm Hổ hỏi:

- Sao tướng quân lại nói thế.

Tham đáp:

- Nếu vua Thái Đức tài cao chí lớn như Bắc Bình Vương thì ta đâu lâm vào cảnh éo le như thế này!

Tham vừa dứt lời bỗng võ sĩ đập cửa xông vào bắt Phạm Văn Tham và Phạm Hổ trói lại. Nguyễn Phúc Ánh từ ngoài bước vô nói:

- Ta biết ngươi bất đắc đĩ mới ra hàng ắt có ngày tạo phản nên ngầm cho người theo dõi, quả nhiên là thực. Quân bay lôi ra chém!

Lúc đao phủ khai đao, Phạm Văn Tham ngửa mặt lên trời than rằng:

- Nếu Bắc Bình Vương là anh vua Thái Đức thì Phạm Văn Tham ta đâu chết thảm thế này!

Than xong đầu bèn lìa khỏi cổ.

*

* *

Lại nói về Đặng Xuân Phong đang thủ thành Bình Thuận được thư Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Phong liền đem quân vào giữ Trấn Biên. Đến nơi nghe tin Phạm Văn Tham đã hàng Phúc Ánh, thành Sài Côn đã mất, Phong bèn sai người về Quy Nhơn tâu vua Thái Đức xin đem quân vào đánh. Thái giám Vũ Tâm Can hầu cận bên vua, thừa lúc vua say rượu đang vui cùng mỹ nữ, Tâm Can nói gièm:

- Đặng Xuân Phong đang trấn thủ Bình Thuận, không có lệnh của Bệ hạ bỗng kéo quân vào Trấn Biên, chẳng khác nào Phạm Văn Tham cố xin Đông Định Vương trấn Sài Côn để dễ hàng giặc. Xin Bệ hạ lo liệu.

Vua Thái Đức lúc ấy đã quá say, ôm mỹ nữ trong lòng khề khà hỏi:

- Vậy phải làm sao?

Vũ Tâm Can đáp:

- Nên giết đi để trừ hậu hoạn.

Thái Đức phán:

- Ngươi hãy thay trẫm làm việc đó.

Đặng Xuân Phong ở Trấn Biên nghe quân vào báo có tướng quân Lê Trung đem lệnh vua đến. Đặng Xuân Phong hỏi:

- Kế sách đánh Phúc Ánh nhà vua liệu thế nào. Sao chỉ có mình ông đến đây và sao lại triệu tôi về kinh?

Lê Trung đáp:

- Hoàng thượng triệu ông về và sai tôi vào thay. Tôi với ông là chỗ thâm tình đã từng vào sinh ra tử nên tôi mới nói với ông điều này, tùy ông định liệu. Tôi e rằng nịnh thần trong triều che mắt Hoàng thượng toan hại ông chăng?

Đặng Xuân Phong nghĩ thầm rằng:

- Anh ta là Đặng Văn Long đã bỏ vua Thái Đức theo Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Ngộ nhỡ vua vì việc ấy mà hại ta thì sao.

Nghĩ rồi Đặng Xuân Phong bảo Lê Trung:

- Bắc Bình Vương trấn ngoài mặt Bắc, Hoàng thượng không chịu nhìn xa, Nguyễn Phúc Ánh thừa thời đem quân về lấy đất Gia Định. Ông là đại tướng hãy một lòng đánh giặc giúp vua. Tôi vì thế buộc nên phải ra đi, nếu về kinh thế nào cũng chết.

Lê Trung hỏi:

- Ông định đi đâu?

Phong đáp:

- Nếu không ra Phú Xuân cùng Bắc Bình Vương còn biết đi đâu nữa.

Nói xong Đặng Xuân Phong xuống thuyền vượt bể ra Phú Xuân. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân nghe Đặng Văn Phong kể đầu đuôi sự việc, Huệ thở dài nói:

- Hoàng huynh ta ngày càng bỏ bê chính sự, e rằng không địch nổi Nguyễn Phúc Ánh. Còn ta phải chờ phá giặc Thanh xong mới kéo quân vào Nam được. Không diệt Phúc Ánh khi đang xây dựng lực lượng, đợi hắn lớn mạnh càng khó khăn thêm.

*

* *

Nói về vua Lê Chiêu Thống bỏ thành Thăng Long chạy về Kinh Bắc rồi trốn lên vùng rừng núi Lạng Sơn. Vua Chiêu Thống sai bọn thị thần Lê Quýnh và Trần Danh Án sang cầu viện vua Càn Long nhà Thanh.

Lê Quýnh và Trần Danh Án ra mắt Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị. Lê Quýnh tâu:

- Nhà Lê của hạ thần làm vua ở nước An Nam đã ba trăm năm nay. Vua nào lên trị vì cũng đều sai sứ sang thiên quốc xin phong. Nay vua của hạ thần bị giặc Tây Sơn đánh đuổi phải trốn lên chốn rừng sâu nước độc, nếm mật nằm gai. Vua sai bọn hạ thần lội suối băng rừng tìm đến thiên quốc dập đầu dưới trướng cầu xin thiên quốc đem binh sang giúp đuổi giặc Tây Sơn đưa vua hạ thần về nước thì ơn ấy tạc dạ ghi lòng ngàn năm giữ phận con dân, trọn đời triều cống. Xin đại quan đoái thương tâu lên cùng Thiên tử.

Nói xong Quýnh và Án cùng dập đầu gào khóc.

Tôn Sĩ Nghị mân mê tóc đuôi sam bảo với sứ vua Lê:

- Hai ngươi hãy ra nghỉ ngoài công quán, ta sẽ cố sức tâu xin, thế nào Hoàng thượng cũng chuẩn y.

Lê Quýnh và Trần Công Án cả mừng lạy tạ lui ra. Còn lại một mình, Tôn Sĩ Nghị hất mạnh đuôi tóc ra sau lưng nói lớn:

- Ta mượn cớ giúp vua Lê tâu xin Hoàng thượng đem quân chiếm nước An Nam là lập nên đại công vậy.

Đoạn Tôn Sĩ Nghị viết biểu sai người về kinh dâng lên vua Càn Long. Vua Thanh bèn phong Tôn Sĩ Nghị làm Tiết Chế điều binh bốn tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây tổng cộng được ba mươi vạn quân sang đánh nước An Nam.

Tôn Sĩ Nghị hớn hở bảo các tướng:

- Nay ta tuân lệnh vua đem đại binh ba mươi vạn sang đánh An Nam. Các ngươi hãy cùng ta cố sức lập công lớn trả ơn vua lưu danh hậu thế.

Các tướng đồng thanh thưa:

- Xin Tiết Chế xuống lệnh, chúng tôi thề cố sức lập công.

Tôn Sĩ Nghị truyền:

- Ô Đại Kinh đem sáu vạn quân theo đường Tuyên Quang tiến xuống, Sầm Nghi Đống đem sáu vạn quân theo đường Cao Bằng tiến sang, ta sẽ đem mười tám vạn quân đi đường Lạng Sơn. Cả ba đạo cùng tiến sang làm cỏ nước Nam, hẹn gặp tại Thăng Long kinh đô của chúng.

Ô Đại Kinh và Sầm Nghi Đống bước ra lãnh lệnh. Tôn Sĩ Nghị lại truyền:

- Nay ta phong Trương Triều Long làm tiên phong đem năm vạn quân đi trước mở đường. Ta cùng Tả dực phó tướng Thượng Duy Thăng cùng đại binh đi sau tiếp ứng. Truyền lệnh ta, quân các đạo lập tức xuất binh.

Tháng 10 năm Mậu Thân (1788) quân Thanh chia làm ba mũi, tiến vào An Nam.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 49 Ngô Thì Nhậm khuyên tướng lui quân. Phan Văn Lân một mình chặn giặc
Tin quân Thanh kéo quân đến ải Nam Quan bay về tới Thăng Long. Ngô Thì Nhậm hay tin ấy nhủ thầm: Trước khi về Phú Xuân, Chúa công có trao cho ta một lá thư và dặn rằng khi nào quân Thanh sang đánh mới được mở ra xem, sẽ có kế chống giặc. Vậy ta mau xem thử trong thư ấy nói gì.

Nghĩ xong làm liền. Thư viết rằng:

Khi quân Thanh sang đánh, khanh nên khuyên Ngô Văn Sở bỏ Bắc Hà rút bộ binh về giữ ải Tam Điệp, đem thủy binh đóng tại cửa biển Biện Sơn, làm kế “không thành” trên toàn cõi Bắc Hà rồi ta sẽ có cách vây đánh chúng. Còn việc thuyết cho Ngô Văn Sở nghe theo, ta nghĩ rằng khanh thừa sức để làm việc đó!

Đọc thư xong Ngô Thì Nhậm lại nghĩ thầm:

- Sao Chúa công không lệnh cho Ngô Văn Sở làm theo kế ấy mà phải bảo ta thuyết Ngô Văn Sở. Ấy là Chúa công muốn ta lập công với Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết đây mà. Chúa công thật là chu đáo, ta dù phơi gan trải mật cũng quyết đáp đền ơn tri ngộ của Chúa công.

Nghĩ xong ngoảnh về Nam lạy ba lạy. Bỗng quân vào báo:

- Đại tư mã Ngô Văn Sở mời tiên sinh sang trướng phủ bàn việc quốc gia.

Ngô Thì Nhậm liền vội vã đi ngay. Đông đủ văn thần võ tướng, Ngô Văn Sở lo lắng nói:

- Chúa công giao cho bọn ta được trọn quyền điều xử mọi việc ở Bắc Hà. Nay quân Thanh mượn cớ phò vua Lê xua binh ba mươi vạn sang xâm lược nước ta. Vậy theo ý các ông ta nên tiến thủ thế nào?

Nguyễn Văn Tuyết bàn:

- Bọn ta là võ tướng hễ giặc đến thì đánh. Nay chúng kéo binh bằng ba đường xâm lược nước ta. Vậy ta phải chia quân làm ba đạo lên biên cương ngăn giặc.

Ngô Văn Sở lắc đầu bảo:

- Đánh giặc tất là phải đánh, nhưng chia quân làm ba đạo là việc không nên.

Tuyết vểnh râu hỏi:

- Vì sao không nên.

Văn Sở đáp:

- Quân ta ở Bắc Hà chỉ non hai vạn, nếu đem ra biên cương sao ngăn được ba mươi vạn quân địch.

Tuyết lại hỏi:

- Theo ý ông ta phải đánh thế nào?

Sở đáp:

- Giặc chia quân làm ba đạo tiến theo đường Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Nhưng ba đường này đều gặp nhau ở bờ Bắc sông Như Nguyệt mới đến được Thăng Long. Từ ngàn xưa đến nay ông cha ta đều dựa vào sông Như Nguyệt này làm hào chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Bài thơ do Lý Thường Kiệt làm ra giả là của thần để kích động tinh thần chiến đấu của quân sĩ rằng:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành đã định tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

cũng ở sông Như Nguyệt này đấy. Vậy ta nên lệnh toàn quân các trấn lui về cố thủ ở bờ Nam sông Như Nguyệt rồi cấp báo cho Chúa công đem đại binh ra đánh, đó mới là thượng sách.

Ngô Thì Nhậm khen Ngô Văn Sở:

- Ngô tướng quân đã có tài thao lược, thông kinh sử rành văn thơ thật là văn võ toàn tài. Nhưng theo tôi kế của tướng quân chưa phải là thượng sách.

Ngô Văn Sở nghi ngại hỏi:

- Theo Ngô mưu sĩ thế nào mới là thượng sách.

Ngô Thì Nhậm đáp:

- Ta nên bảo toàn lực lượng rút toàn quân về núi Tam Điệp, thủy binh về đóng tại cửa biển Biện Sơn, bỏ Bắc Hà và thành Thăng Long cho giặc. Đó mới là thượng sách.

Phan Văn Lân nãy giờ chưa bàn định gì, nghe Ngô Thì Nhậm nói xong Lân xen vào hỏi:

- Giặc đến chưa đánh đã lui, ngộ nhỡ Chúa công bắt tội bỏ đất cho giặc thì biết ăn nói thế nào. Tôi tuy bất tài cũng xin lãnh binh đến bờ Nam sông Như Nguyệt chặn giặc. Xin Ngô huynh thuận cho.

Văn Sở bảo:

- Văn Lân đừng nóng nảy, cứ để Ngô mưu sĩ nói hết ý xem sao.

Ngô Thì Nhậm giở bản đồ ra nói:

- Trong binh pháp giặc đến thì đánh, đánh không được thì giữ. Nay giặc đông ta ít, vả lại người Bắc Hà lắm kẻ còn trung quân mù quáng vẫn tin rằng nhà Thanh đem quân sang giúp Lê Chiêu Thống. Bởi vậy nên bấy lâu quân sĩ ta có người nào đơn độc đi vào đồng nội rừng hoang đều bị bọn người này giết chết. Quân ít, lòng dân không theo, đánh tất phải thua. Đánh không được còn giữ thì thế nào? Sông Như Nguyệt tuy sâu nhưng thành Thăng Long trống trải. Nếu ta đem quân chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt ngộ nhỡ quân Thanh đem thủy binh vào cửa Lục Đầu hoặc cửa Đại An theo sông Nhị Hà đánh chiếm Thăng Long thì quân ta ở sông Như Nguyệt tiến thoái lưỡng nan phải làm thế nào.

Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Tuyết chưa biết trả lời sao, Ngô Thì Nhậm liền nói tiếp:

- Chúa công còn ở tận Phú Xuân đường xa hàng vạn dặm mà quân Thanh ngấp nghé ải Nam Quan. Nước xa không cứu được lửa gần, đánh không được mà giữ cũng không xong, chi bằng ta rút binh lui về ải Tam Điệp. Đây là đường độc đạo muốn ra Bắc vào Nam đều phải qua ải này. Ta dựa vào thế núi hiểm trở chống giặc dù chúng có thiên binh vạn mã cũng chẳng hề chi. Trong có thể khích được lòng quân sĩ, ngoài có thể khiến giặc kiêu căng mà không phòng bị, đợi Chúa công kéo đại binh ra ta sẽ đuổi chúng đi. Ấy là kế “không thành” trên toàn cõi Bắc Hà, xem như ta cho chúng ngủ trọ một đêm nào có hại gì. Nếu Chúa công bắt tội, Ngô Thì Nhậm tôi xin chịu, các vị chớ lo.

Ngô Văn Sở trầm ngâm nói:

- Chúa công bắt tội cả bọn ta cùng chịu sao đổ lỗi một mình ông. Nhưng cách này mới là thượng sách. Vậy phiền Ngô mưu sĩ mau thảo một lá thư giảng hòa, tôi sai người tâm phúc đem dâng Tôn Sĩ Nghị làm kế hoãn binh để ta có đủ thời gian gọi quân các trấn lui về hội tại Thăng Long.

Ngô Thì Nhậm nghe lời lập tức thảo thư. Ngô Văn Sở lại gọi quân đến bảo:

- Hãy đem lệnh bài của ta đến gọi các quan trấn thủ phải kíp lui binh về Thăng Long. Trên đường rút có dừng quân nấu ăn rồi phải xóa ngay mọi dấu vết và vãi gạo sống đầy đường. Ai sai lệnh chém đầu.

Phan Văn Lân đứng lên nói:

- Tôi xin đem một ngàn tinh binh đến sông Như Nguyệt chặn giặc.

Nguyễn Văn Tuyết vội can Lân:

- Đại tư mã vừa hạ lệnh rút binh, ai sai lệnh chém đầu. Sao Văn Lân còn xin đi đánh giặc.

Lân đáp:

- Ấy là tôi làm theo lệnh rút quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở đó chứ.

Tuyết ngạc nhiên hỏi:

- Văn Lân nói vậy là ý thế nào.

Lân đáp:

- Quân các trấn ở Bắc Hà muốn rút về Nam đều phải về hội tại Thăng Long. Nếu ta không ngăn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt để quân Thanh tiến đến Thăng Long ắt quân ta ở các trấn không còn đường rút. Nay tôi xin đem quân chặn giặc cho quân ta ở các trấn kịp lui về . Ấy chẳng phải là làm theo lệnh của Đại tư mã Ngô Văn Sở ư.

Ngô Văn Sở nói:

- Phan đệ muốn đánh giặc Thanh và đã tìm được một lý do rất là chính đáng. Nhưng chỉ xin ngàn quân sao ngăn được giặc?

Lân đáp:

- Quân cốt giỏi chớ chẳng cốt nhiều. Nếu quân Thanh đến được Thăng Long trước quân các trấn của ta rút binh về, Văn Lân tôi xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.

Văn Sở bảo:

- Vậy Phan đệ hãy đi đi. Khi có tin báo quân ta đã lui kịp thì phải lập tức rút ngay.

Phan Văn Lân mừng rỡ lãnh lệnh mà đi.

*

* *

Nói về Tôn Sĩ Nghị đem đại binh đến ải Nam Quan gặp lúc tối trời liền dừng quân đóng trại. Chợt quân vào báo có sứ giả Tây Sơn đến xin ra mắt. Tôn Sĩ Nghị liền cho vào hỏi:

- Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì?

Sứ giả đáp:

- Chúa công tôi xin Đại tướng quân hãy rút binh về tránh cho hai nước khỏi nạn can qua. Chúa tôi xin lui quân về đất Tây Sơn, trả nước cho vua Lê. Đây là thư Chúa tôi viết, trình đại tướng quân duyệt lãm.

Tôn Sĩ Nghị cầm thư đắc ý cười lớn:

- Ta nghe người nước Nam ca tụng Nguyễn Huệ dùng binh như thần. Sao mới nghe tiếng ta đã mất mật xin giảng hòa. Phen này ta quyết bắt anh em thằng buôn trầu Nhạc - Huệ trị tội dám dấy loạn giết chúa đuổi vua thì cần gì phải xem thư Nguyễn Huệ.

Nói xong Nghị xé toạc thư quăng xuống đất rồi thét võ sĩ lôi sứ Tây Sơn ra chém tức thì. Lê Quýnh và Trần Danh Án là hai sứ thần của vua Lê Chiêu Thống thấy vậy quỳ tâu:

- Đại tướng quân thật là uy vũ anh minh.

Bỗng quân vào báo rằng:

- Thưa đại tướng quân, vua An Nam là Lê Chiêu Thống xin vào ra mắt.

Tôn Sĩ Nghị liền mời vào. Chiêu Thống vào đến, Lê Quýnh và Trần Danh Án cùng quỳ thi lễ rồi vua tôi ôm nhau ứa lệ. Vua Chiêu Thống nói:

- Nhờ hai khanh lội suối trèo đèo sang thiên quốc cầu viện nên đại tướng quân mới đem binh sang giúp. Phen này ắt là đuổi được giặc mạnh Tây Sơn phục hồi nước cũ của Tiên đế.

Chiêu Thống nói xong, Tôn Sĩ Nghị cười lớn mấy hồi. Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi:

- Đại tướng quân cười gì mãi thế.

Tôn Sĩ Nghị vừa cười vừa nói:

- Vua tôi các ngươi thật là bất tài nên mới cho Nguyễn Huệ là anh hùng, quân Tây Sơn là giặc mạnh. Đối với ta, chúng chỉ là loài chim chuột mà thôi. Vừa nghe quân ta tới ải Nam Quan, Nguyễn Huệ đã vội sai sứ đến cầu hòa. Ta vừa chém đầu sứ giả của Nguyễn Huệ đó!

Đoạn Nghị quay lại bảo quân:

- Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đưa Tân vương về nơi cố quốc.

Quân Thanh tiến liền một mạch đến bờ Bắc sông Như Nguyệt. Nhìn sang bờ Nam thấy đồn lũy quân Tây Sơn canh phòng cẩn mật, Tôn Sĩ Nghị cười bảo:

- Từ ải Nam Quan đến đây, quân Tây Sơn sợ chạy vắt giò lên cổ không dám dừng quân nấu ăn. Chúng lợi dụng sông Như Nguyệt vừa rộng vừa sâu lại là cửa ngõ của thành Thăng Long nên đóng quân ngăn binh thiên triều. Vậy ta hãy tạm nghỉ ngơi chờ hai đạo quân của Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh đến rồi cùng tiến đánh Thăng Long.

Lê Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi:

- Quân Tây Sơn nghe tiếng thiên binh đến đã sợ mà chạy về đây. Nhưng từ biên giới đến đây hết năm, bảy ngày đường chẳng lẽ chúng nhịn đói hay sao mà đại tướng quân bảo chúng không dám dừng quân nấu ăn.

Tôn Sĩ Nghị cười đáp:

- Bệ hạ còn nhỏ không rành binh pháp nên không biết đấy thôi. Trên đường tiến quân ta không thấy bếp lò của giặc mà chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Ấy là chúng không dám dừng quân nấu ăn, phải nhai gạo sống mà chạy đó.

Chiêu Thống vỡ lẽ tấm tắc khen:

- Đại tướng quân liệu việc như thần. Quân Tây Sơn quả nhiên sợ uy danh đại tướng quân như sợ cọp. Không biết Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh có biết việc này mà tiến binh cho nhanh chăng?

*

* *

Nói về Sầm Nghi Đống dẫn quân theo đường Cao Bằng tiến sang nước Nam mà không gặp một sự kháng cự nào. Sầm Nghi Đống bảo quân:

- Chúng bay dò xem trên đường rút chạy, giặc dừng quân nấu nướng ở đâu rồi báo cho ta hay.

Quân đi một hồi quay lại báo:

- Thưa tướng quân, chúng tôi chia quân lùng sục khắp nơi mà không thấy bếp lò nấu ăn của giặc.

Sầm Nghi Đống vừa ôm bụng vừa ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi. Tả hữu ngạc nhiên hỏi :

- Tướng quân cười gì mãi thế ?

Đống nín cười đáp:

- Trên đường tiến quân ta thấy giặc Tây Sơn để gạo rơi vãi đầy đường, giờ nghe báo không thấy bếp lò nấu ăn của giặc. Ta cười vì nghe quân ta đến đây, giặc Tây Sơn sợ đến nỗi không dám dừng quân nấu ăn phải nhai gạo sống mà chạy. Thật xưa nay chưa từng thấy oai nào lớn như vậy.

Đoạn Sầm Nghi Đống truyền quân thẳng tiến. Đến bờ Bắc sông Như Nguyệt gặp quân Tôn Sĩ Nghị. Nghị họp các tướng nói:

- Nếu ngày nay quân Ô Đại Kinh chưa đến kịp, ngày mai quân ta vẫn tiến đánh Thăng Long.

*

* *

Nói về Ô Đại Kinh dẫn quân theo đường Tuyên Quang tiến vào nước Nam. Trên đường tiến quân thấy gạo rơi vãi khắp nơi, Ô Đại Kinh nghĩ thầm rằng:

- Xưa nay người Nam nước nhỏ ít quân nên giỏi đánh phục binh. Trên đường tiến quân không thấy quân Tây Sơn dừng quân nấu ăn, chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Chẳng lẽ chúng nhai gạo sống mà chạy ư? Hay chúng dụ ta khinh thường đem quân vào sâu rồi phục binh đổ ra đánh. Ta phải đề phòng mới được.

Đoạn Ô Đại Kinh bảo quân:

- Mau dừng quân đóng trại canh phòng cẩn mật, cho quân thám mã đi trước dò la tin tức, có gì nghi hoặc phải lập tức phi báo.

Tả hữu hỏi:

- Quân Tây Sơn sợ ta đã bỏ trốn cả, sao tướng quân không gấp tiến vào Thăng Long trước để lập công đầu.

Ô Đại Kinh gạt đi bảo:

- Các ngươi biết gì mà bàn, cứ y lệnh mà làm, quân từ từ mà tiến đề phòng giặc mai phục.

*

* *

Nhắc lại tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân đem một ngàn tinh binh đến đóng ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Nhìn sang bờ Bắc thấy quân Thanh đông như kiến cỏ, tinh kỳ rợp đất, gươm giáo ngời ngời, Phan Văn Lân bảo quân:

- Các ngươi tuần phòng dọc sông cho nghiêm ngặt, nếu thấy giặc vượt sông lập tức báo ta hay.

Bờ Bắc sông Như Nguyệt Tôn Sĩ Nghị và các tướng ra khỏi doanh trại đi thị sát địa hình. Vua Chiêu Thống lo lắng hỏi:

- Giặc Tây Sơn rút chạy đã phá cầu và thuyền bè, làm cách nào quân ta vượt sông?

Không trả lời vua Chiêu Thống, Sĩ Nghị bảo quân:

- Truyền lệnh ta lập tức bắc cầu phao.

Quân Thanh chặt cây đóng cọc, kết tre làm ván hối hả bắc cầu. Quân Tây Sơn vào báo với Phan Văn Lân:

- Thưa tướng, quân giặc Thanh đang bắc cầu qua sông.

Lân ra ngoài xem xét thấy quân Thanh đã bắc cầu vào tầm đạn đại bác, Lân liền hạ lệnh:

- Mau tập trung súng bắn vào cầu ấy cho ta.

Súng Tây Sơn ầm ầm nhả đạn, cầu quân Thanh lọt vào tầm súng đều đổ vỡ cả. Quân Thanh liền chạy về báo cùng Tôn Sĩ Nghị. Nghị hạ lệnh:

- Thượng Duy Thăng đem một vạn quân chặt tre, chuối làm bè rồi làm hình nộm đặt lên bè, chờ đêm đến thả bè thuận gió bấc trôi sang trại địch.

Thượng Duy Thăng bước ra lãnh lệnh. Nghị lại bảo:

- Trương Triều Long đem năm ngàn quân lên thượng nguồn sông Như Nguyệt tìm chỗ nước cạn vượt sông rồi đánh vào sau lưng địch.

Trương Triều Long bước ra lãnh lệnh. Nghị hăm hở nói:

- Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đốc thúc toàn quân kết thật nhiều bè chờ Trương Triều Long phá địch ở bờ Nam xong, lập tức sang sông tiến đánh Thăng Long.

Các tướng đồng thanh thưa:

- Đại tướng quân liệu việc hơn người, chúng thần xin tuân mệnh.

Nói rồi ai vào việc nấy.

Bờ Nam sông Như Nguyệt, Phan Văn Lân đốc thúc quân tuần phòng dọc sông thật cẩn mật. Tả hữu hỏi Văn Lân:

- Quân ta chỉ có một ngàn, địch đông hơn hai mươi vạn. Nếu địch lên thượng nguồn đánh vào sau lưng ta thì sao, chi bằng ta rút về Thăng Long cùng Đại tư mã Ngô Văn Sở lui binh vào Tam Điệp là hơn.

Phan Văn Lân bảo:

- Ta nhận lệnh đến đây ngăn giặc cho đại binh ta rút lui. Chưa có lệnh của Ngô huynh ta lui binh sao được.

Xảy quân do thám vào báo rằng:

- Thưa tướng quân, quân Thanh cho chặt rất nhiều tre và chuối, lại ra đồng lấy rơm rạ rất nhiều, chẳng biết định làm gì. Xin tướng quân định liệu.

Phan Văn Lân cười ngất nói:

- Tre, chuối làm bè, rơm rạ làm hình nộm, mẹo vặt này sao lừa ta được. Đêm nay ta tương kế tựu kế đánh chúng một trận mới được.

Nói rồi, Phan Văn Lân sai quân bố trận…

Canh ba đêm ấy Thượng Duy Thăng sai quân cột dây vào bè đẩy ra sông rồi bảo:

- Bao giờ quân Tây Sơn bắn đại bác ra thì cầm dây kéo bè về. Quân Tây Sơn thôi bắn lại thả dây cho bè trôi về địch.

Thượng Duy Thăng quay lại thi lễ rồi thưa với Tôn Sĩ Nghị:

- Tháng mười một đang là mùa gió bấc, bè nghi binh của ta thuận gió thẳng tiến về địch. Phan Văn Lân phen này trúng kế. Chờ Trương Triều Long đánh tập hậu giặc tất phải tan, đại tướng quân thật là thần cơ diệu toán.

Tôn Sĩ Nghị đắc ý bảo:

- Ta đã từng học sách binh thư của tiền nhân nước ta như Tôn Võ binh pháp, Ngô Khởi binh pháp, Khổng Minh binh pháp thì kế mọn này nào đáng kể gì.

Đoạn Tôn Sĩ Nghị hỏi quân:

- Bè nghi binh của ta đã vào tầm đạn của giặc chưa?

Quân đáp:

- Thưa đã vào rồi.

Nghị giật mình nghĩ thầm, bè nghi binh đã vào tầm đạn, sao Phan Văn Lân không bắn. Không có lẽ kế của ta đã lộ rồi sao. Nghĩ xong, Nghị hạ lệnh:

- Thượng Duy Thăng mau đem năm ngàn quân lên thượng nguồn sông Như Nguyệt tiếp ứng cho Trương Triều Long, không được chậm trễ.

Thượng Duy Thăng lãnh quân đi ngay.

Nhắc lại Trương Triều Long đến phía sau doanh trại Tây Sơn thấy cờ quạt chỉnh tề, quân canh súng ống đều hướng xuống sông thì mừng rỡ nói:

- Quân Tây Sơn quả nhiên không phòng bị mặt sau. Ba quân tiến lên.

Quân Thanh hò hét xông thẳng vào. Đến nơi mới hay quân sĩ Tây Sơn toàn là hình nộm, còn súng ống toàn bằng cây gỗ. Trương Triều Long thất kinh than:

- Thôi ta đã trúng kế của quân Tây Sơn rồi. Mau rút quân!

Vừa dứt lời đã nghe một phát pháo lệnh nổ vang. Tên đạn quân Tây Sơn từ ba bên bắn vào như mưa. Quân Thanh năm ngàn hao hết một nửa. Trương Triều Long cầm khiên che tên liều mình dẫn quân theo đường cũ mà rút, bỗng thấy một viên tướng dáng dấp thư sinh, tay cầm trường thương, ngồi trên lưng bạch mã lướt đến chặn đường. Hai bên giáp chiến đánh nhau dữ đội, tiếng hò reo vỡ màn đêm tĩnh mịch. Quân Tây Sơn dũng mãnh, quân Thanh mỗi lúc một lùi. Trương Triều Long nghĩ thầm: Thằng học trò này đánh hăng quá, nếu không liều chết biết chạy đi đâu. Nghĩ rồi liền vung đao bảo quân:

- Giặc Tây Sơn chỉ có ngàn tên, các ngươi chớ sợ. Nay ta đã bị dồn vào mé sông, nếu không quyết đánh đành chịu chết hay sao?

Quân Thanh lại hò hét xông lên, hết lớp này đến lớp khác vẫn không sao mở được đường máu thoát thân. Trong cơn nguy khốn bỗng thấy phía sau quân Tây Sơn hàng ngũ rối loạn. Trương Triều Long mừng rỡ nói lớn:

- Quân ta có viện binh. Mau tiến lên.

Thượng Duy Thăng từ phía sau đánh tới, quân Thanh hai mặt giáp công. Quân Tây Sơn dần dần núng thế. Phan Văn Lân thét quân:

- Mau quay lại phá vây mà rút.

Nói rồi vung trường thương cầm đầu ba quân tả xung hữu đột. Đánh một hồi ngàn quân Tây Sơn dần dần chết cả. Phan Văn Lân đơn thân độc mã thúc ngựa nhắm hướng Nam mà đi, gặp tướng đánh tướng, gặp quân giết quân. Trường thương Văn Lân khi đâm tới xỏ lòi hai ba tên địch, lúc hoành thương lia ngang vỡ đầu đứt cổ năm bảy thằng quân, vung lên rồi bỏ xuống, gặp đao đỡ đao nhằm tên gạt tên vẫn bình tĩnh như đi vào chỗ không người. Quân Thanh sợ hãi không dám xáp lại gần. Thượng Duy Thăng thấy vậy giận lắm bèn vác đao ra chặn Văn Lân mà đánh. Văn Lân đâm lia đâm lịa làm Thượng Duy Thăng đỡ gạt liên hồi vã mồ hôi hột. Văn Lân không ham đánh liền đâm giả một thương rồi thúc ngựa phi ra khỏi trận. Thượng Duy Thăng hô quân đuổi theo. Chạy được vài dặm vừa ra khỏi một cây cầu nhỏ, Lân liền quay lại đứng chặn giữa cầu tay hờm sẵn cung tên. Duy Thăng vừa dẫn quân đuổi đến liền bị Văn Lân bắn một phát, mũi tên nhằm giữa miếng kính tâm, Thăng giật mình gò ngựa bên kia cầu hỏi quân:

- Thằng học trò thua quân còn lại một mình sao không chạy nữa mà chặn ta ở đây?

Tả hữu nghi hoặc đáp:

- Ngươi đâu mà to gan thế. Chúng có mẹo gì chăng. E rằng có mai phục.

Vừa dứt lời nhìn sang thấy một tên quân Tây Sơn phi ngựa từ hướng Nam về phía Văn Lân. Thượng Duy Thăng bảo quân:

- Quả nhiên là chúng có mẹo thật. Bọn bay mau đóng trại canh phòng chờ đại binh đến rồi đánh cũng chẳng muộn gì.

Bên kia cầu tên quân Tây Sơn nhảy xuống ngựa hỏi Phan Văn Lân:

- Quân ta đâu mà tướng quân chỉ có một mình?

Lân đăm đăm ngó sang phía quân Thanh, đáp:

- Ngàn quân ta bị vạn quân địch giết chết cả rồi. Ta thoát được về đây đứng chặn giặc ở cầu này.

Tên quân lại hỏi:

- Một mình sao địch nổi giặc. Sao tướng quân không chạy về Thăng Long.

Lân đáp:

- Ta nhận lệnh ngăn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt cho quân ta từ các trấn về hội tại Thăng Long. Nếu ta bỏ chạy, giặc tiến chiếm Thăng Long, quân các trấn ta tất không còn đường rút.

Tên quân bái lạy Văn Lân rồi nói:

- Lòng trung dũng của tướng quân thật đáng cho người đời khâm phục. Quân các trấn đã kịp rút lui, đại tư mã Ngô Văn Sở sai tôi đến gọi tướng quân lập tức về ngay.

Phan Văn Lân liền quày ngựa theo tên quân chạy về Thăng Long rồi theo đại binh rút về Tam Điệp.

Quân Thanh vượt sông Như Nguyệt vào thành Thăng Long như chỗ không người. Tôn Sĩ Nghị họp các tướng bàn việc quân, Thượng Duy Thăng nói:

- Ta kéo binh đến đâu quân Tây Sơn chỉ lui mà không đánh. Tôi e Nguyễn Huệ dùng kế “không thành”. Xin Đại tướng quân suy xét.

Sĩ Nghị cười bảo:

- Kế “không thành” là phục binh bốn phía chờ địch vào thành rồi đổ ra vây đánh. Nay giặc nghe oai thiên binh bỏ chạy một mạch vào ải Tam Điệp, bỏ toàn cõi Bắc Hà cho ta, thì quân nào đổ ra vây đánh mà bảo là kế “không thành”.

Trương Triều Long thưa:

- Trận Như Nguyệt, Phan Văn Lân tuy thua còn một mình một ngựa chạy về. Quân Tây Sơn chết chỉ một ngàn, còn quân ta hao mất mấy ngàn. Vậy chứng tỏ quân Tây Sơn không phải là không dũng mãnh. Nay chúng bỗng dưng chưa đánh đã rút đại binh về ắt không phải là vô cớ, xin đại tướng quân minh xét.

Tôn Sĩ Nghị hỏi:

- Nếu không phải chúng sợ ta mà chạy, vậy theo ngươi Nguyễn Huệ có kế gì?

Các tướng đều đưa mắt nhìn nhau không ai đoán ra là Nguyễn Huệ có kế gì. Sĩ Nghị nói tiếp:

- Ngô Văn Sở ít quân bỏ Bắc Hà Thăng Long chạy về trấn giữ Tam Điệp, Biện Sơn là nơi hiểm yếu. Đạo làm tướng ai không làm như Ngô Văn Sở, có gì mà các ngươi phải ngại. Nay ta đã sai Lê Chiêu Thống xuống hịch cần vương hiệu triệu dân chúng lập thành quân đội đi trước đánh nhau với quân Tây Sơn. Ấy là không nhọc sức mà lập công to vậy, kế này là kế "dĩ Việt trị Việt” mà tiền nhân nước ta sang đô hộ An Nam vẫn thường làm đó.

Nghe xong các tướng đều khen:

- Đại tướng quân liệu việc sâu sắc chúng tôi không sánh kịp.

Sĩ Nghị đắc ý bảo:

- Ngô Văn Sở nghe oai ta đã bỏ chạy vào Tam Điệp. Từ Tam Điệp đến Thăng Long đường bằng đồng trống không núi non hiểm trở, vậy ta phải lập đồn lũy canh phòng giặc tiến công. Nay ta lệnh cho Trương Triều Long đem ba vạn quân vào làng Hà Hồi cách thành Thăng Long năm mươi dặm đóng đồn lập trại. Thượng Duy Thăng đem năm vạn quân vào làng Ngọc Hồi cách thành Thăng Long hai mươi dặm đóng đồn hạ trại. Hai đồn này làm thế ỷ giốc tiếp ứng cho nhau phòng giữ mặt Nam. Ta nghe quân Tây Sơn là giống người mọi giỏi đánh đường núi, vậy Sầm Nghi Đống hãy đem ba vạn quân đến làng Khương Thượng cách phía Tây thành Thăng Long mười dặm đóng đồn hạ trại. Ta đóng đại binh ở Thăng Long sẽ tùy cơ tiếp ứng. Chờ quân Ô Đại Kinh đến đây ăn tết Nguyên đán xong, ta sẽ xua binh vào Phú Xuân bắt Nguyễn Huệ.

Các tướng cùng bước ra lãnh lệnh, ai vào việc nấy.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 5O Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế. Vua Quang Trung thỉnh cầu Phu tử.
Nói về Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết rút toàn quân lui về ải Tam Điệp cách thành Thăng Long ba trăm dặm đóng quân. Ngô Văn Sở nói:
- Theo kế Ngô mưu sĩ, binh ta rút an toàn về đây, vậy Nguyễn Văn Tuyết hãy mau về Phú Xuân cấp báo cho Chúa công được biết.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu lắc đầu nói:
- Về Phú Xuân cấp báo thì thiếu chi người sao lại sai tôi. Vả lại giặc đông ta ít nếu giặc đem quân đánh tới chỉ có hai ông chống đỡ, tôi không an tâm đi đâu.
Văn Sở an ủi Văn Tuyết:
- Ải Tam Điệp hiểm trở, quân Thanh dù thiên binh vạn mã cũng không thể đánh được ta. Tướng quân hãy an tâm mà đi đi. Vả lại ông có ngựa Xích kỳ ngày chạy ngàn dặm không biết mệt mới mau cấp báo cho Chúa ta đem quân ra đánh giặc cứu dân.
Vỡ lẽ Nguyễn Văn Tuyết nói:
- Nếu vậy tôi xin đi.
Tuyết tạm biệt Sở và Lân, Nhậm rồi lên lưng ngựa Xích kỳ nói lớn:
- Ngựa Xích kỳ! Ngựa Xích kỳ! Hãy phi mau về báo cho Chúa ta được rõ, rằng quân Thanh đã đem binh xâm lược nước ta.
Ngựa Xích kỳ lồng lên nhằm hướng Nam phi mau như gió. Đến Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ, Tuyết hổn hển quỳ thưa:
- Tâu Chúa công, vua Càn Long nhà Thanh sai Đại tướng Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn đại binh sang xâm lược nước ta!
Nghe Tuyết nói xong, các quan văn võ đều hết thảy giật mình. Nguyễn Huệ điềm nhiên nói:
- Nguyễn Phúc Ánh giết Phạm Văn Tham lấy đất Gia Định mà ta vẫn không đem quân vào đánh, ấy là còn lo việc đánh quân Tàu. Nay chúng sang đây cũng không ngoài dự liệu của ta, cớ sao mới nghe qua các khanh lại lo sợ như thế? Nguyễn Văn Tuyết bình tĩnh mà nghe ta hỏi: Chúng đem quân sang, ở Bắc Hà các ngươi đối phó thế nào?
Nguyễn Văn Tuyết đáp:
- Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn quân mượn cớ phò vua Lê Chiêu Thống về nước, chúng chia quân làm ba đạo, theo ba đường Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang sang đánh nước ta. Ngô Văn Sở lệnh toàn quân lui về ải Tam Điệp. Phan Văn Lân đem ngàn tinh binh ra chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt làm đoạn hậu cho đại binh rút lui. Vì ít quân bị giặc vây đánh, ngàn quân ta đều chết cả, Phan Văn Lân một mình một ngựa chạy về. Hiện toàn quân ta đã lui về Tam Điệp được an toàn. Thần vội vã về phi báo, xin Chúa công định liệu.
Nguyễn Huệ cười hỏi:
- Kế bảo toàn lực lượng lui về Tam Điệp có phải của Ngô Thì Nhậm chăng?
Tuyết đáp:
- Ấy chính Ià do Ngô Thì Nhậm bày ra.
Nguyễn Huệ lại hỏi:
- Còn kế xóa bếp lò, vãi gạo ra đường cho giặc khinh thường tưởng quân ta phải nhai gạo sống mà chạy có phải của Ngô Văn Sở chăng?
Tuyết đáp:
- Kế ấy là do Ngô Văn Sở bày ra.
Nguyễn Huệ cười lớn nói:
- Hai họ Ngô ở Bắc Hà làm rất tốt. Tôn Sĩ Nghị đã trúng kế “không thành” của ta. Bọn chúng sang xâm lược nước ta lần này chỉ chuốc lấy cái chết mà thôi.
Trần Quang Diệu hỏi:
- Dụ địch vào thành rồi bốn mặt đổ ra vây đánh mới là kế “không thành”. Còn bây giờ ta đã rút quân vào Tam Điệp bỏ Bắc Hà cho giặc chiếm đóng sao Chúa công bảo là kế “không thành”?
Các tướng đồng thanh:
- Lời Trần Quang Diệu rất phải. Xin Chúa công giảng giải.
Nguyễn Huệ ôn tồn đáp:
- Binh pháp xưa nay dụng kế “không thành” như Trần Quang Diệu nói là ta đánh địch khi địch còn trên mình ngựa mặc giáp mang gươm, dù ta có thắng địch nhưng tổn thất không phải là nhỏ. Kế “không thành” của ta là chờ cho giặc cởi giáp bỏ gươm, xuống ngựa nghỉ ngơi rồi mới đánh. Đánh như thế nào tiêu diệt được quân địch còn bên ta vẫn bình yên vô sự, ấy mới là phương châm đánh giặc của ta.
Đặng Văn Long hỏi:
- Ngô Văn Sở đã lui quân về Tam Điệp, còn đại sư huynh đang ở tại Phú Xuân, vậy quân nào phục binh bốn phía đánh địch như kế “không thành”?
Nguyễn Huệ đáp:
- Ấy chính là yếu tố bất ngờ để cho giặc xuống ngựa nghỉ ngơi, quăng gươm cởi giáp. Kế sách đánh giặc ta đã tính toán hết cả rồi, đợi đem đại binh ra Tam Điệp hợp cùng Ngô Văn Sở ta sẽ phân nhiệm sau. Truyền lệnh ta các tướng về kiểm điểm binh mã, ngày mai lập tức xuất quân.
Mưu sĩ Trần Văn Kỷ quỳ tâu:
- Xin Chúa công chớ vội xuất quân.
Nguyễn Huệ ngạc nhiên hỏi:
- Quân Thanh xâm lược nước ta tàn hại đồng bào mỗi một ngày có biết bao người chết. Ta muốn ngay lập tức tiêu diệt lũ giặc bạo tàn kia. Sao Trần trung thư lại bảo ta chớ vội xuất binh?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Nước Nam ta ngoài thì Lê Chiêu Thống rước giặc Thanh về giày xéo non sông đã rõ là một ông vua bán nước, trong thì vua Thái Đức nhu nhược cầu an khiến lòng người ly tán, nên nhân dân bốn cõi đều trông mong vào tài định quốc an dân của Chúa công. Vậy xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế cho an lòng trăm họ rồi cất quân đuổi giặc ngoại xâm cũng chẳng muộn gì.
Các quan văn võ cùng quỳ xuống đồng thanh nói:
- Lời Trần tiên sinh rất phải, xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế cho an lòng trăm họ mới mong đánh thắng được giặc dữ.
Nguyễn Huệ xua tay nói :
- Việc này thật không nên.
Các quan cùng hỏi:
- Vì sao không nên?
Huệ đáp:
- Ta vốn không có chí làm vua, chẳng qua do thời loạn nên mới giúp Hoàng huynh đánh Nam dẹp Bắc mong đem thái bình về cho trăm họ rồi sẽ mặc áo tơi mang giày cỏ mà ngao du khắp bốn cõi non sông. Nay nhà Tây Sơn đã có Hoàng huynh là vua Thái Đức, ta lại lên làm vua nữa hóa ra ta là kẻ háo danh và nước ta lại có hai vua là việc xưa nay chưa từng có. Vì vậy ta không thể nào lên ngôi được!
Trần Văn Kỷ thưa:
- Vua Thái Đức đã chia lãnh thổ cho Chúa công được quyền cai quản, việc binh bị, việc chính trị đều khác hẳn nhau thì không thể gọi là một nước. Vả lại Chúa công lên làm vua rồi đem quân ra đuổi quân Thanh lấy đất Bắc Hà là lấy ngôi vua Lê không can dự đến vua Thái Đức. Xin Chúa công chớ ngại.
Nguyễn Huệ lo lắng hỏi:
- Ta mấy phen cất quân ra Bắc diệt Trịnh trừ Chỉnh đều lấy tiếng phò Lê. Nay lại dứt Lê e mang tiếng là lừa dân chăng? .
Trần Văn Kỷ chưa kịp đáp bỗng nghe giọng đàn bà nói lớn rằng: .
- Chúa công lên ngôi vua không có gì là lừa dân cả!
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra chính là Ngọc Hân công chúa, Nguyễn Huệ liền hỏi:
- Nàng đang ở hậu cung sao đến đây?
Ngọc Hân quỳ vừa khóc vừa thưa:
- Thiếp vừa hay tin cháu thiếp là vua Lê Chiêu Thống rước giặc Thanh về tàn hại non sông nên mới đến đây hỏi Chúa công việc đánh giặc thế nào. Tình cờ nghe Chúa công phụ lòng trăm họ chẳng chịu lên ngôi nên có lời mạo phạm, xin Chúa công tha tội.
Nguyễn Huệ hỏi:
- Nàng cũng cho rằng ta lên ngôi là phải lẽ hay sao?
Ngọc Hân đáp:
- Chúa công ra Bắc một dạ tôn phò, trừ loạn thần trả nước cho nhà Lê. Bởi Lê Chiêu Thống bất tài nhu nhược, chẳng biết lo điều chính sự nên trong triều rối ren, ngoài bá tánh loạn lạc. Nay lại rước giặc ngoài về tàn hại dân ta, khiến trăm họ đều ngoảnh mặt trông về Chúa công. Nhà Lê nay không đáng làm vua nữa thì Chúa công lên ngôi cho thỏa lòng mong đợi của trăm họ sao gọi là lừa dân!
Các quan đồng thanh nói thêm vào:
- Lời phu nhân rất phải, xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế.
Nguyễn Huệ hỏi Ngọc Hân:
- Nàng khuyên ta lên ngôi là phải lẽ, vậy cớ sao nàng lại khóc?
Ngọc Hân lau nước mắt đáp:
- Thiếp khóc là vì xấu hổ bởi có đứa cháu là phường bán nước buôn dân, và vì thương tiếc cơ nghiệp của tổ tiên. Còn khuyên Chúa công lên ngôi là vì quốc gia dân tộc. Chỉ e rằng Chúa công lên ngôi là mắc tội với vua anh mà thôi!
Nguyễn Huệ đứng lên nói:
- Nàng còn dám vì nghĩa nước mà gạt bỏ tình nhà. Ta lại không sánh bằng một người nữ nhi hay sao!
Bá quan cùng quỳ xuống tung hô:
- Hoàng thượng vạn tuế! Hoàng thượng vạn tuế!
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu thân (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy đế hiệu là Quang Trung.
Vua Quang Trung phong Bùi phu nhân làm Chánh cung Hoàng hậu, phong công chúa Ngọc Hân làm Bắc cung Hoàng hậu, phong con của Chánh cung Hoàng hậu là Quang Toản làm Thái tử.
*
* *
Đêm ấy vua Quang Trung vào từ biệt Bắc cung Hoàng hậu để ngày mai ra trận. Hoàng hậu Ngọc Hân nói:
- Hoàng thượng ra Bắc lần này, nghe thế giặc mạnh thiếp lấy làm lo lắm.
Vua Quang Trung cười lớn bảo:
- Chẳng qua chỉ nội mười ngày là ta sẽ quét sạch ba mươi vạn quân Mãn Thanh mà thôi. Nàng chớ lo gì.
Hoàng hậu Ngọc Hân gọi tỳ nữ bưng một cái mâm đồng dâng lên tràng kỷ. Hoàng hậu thưa:
- Ngày mai tiễn Hoàng thượng lên đường giết giặc, trong dịp tết Nguyên đán này phu thê kẻ Nam người Bắc, thiếp tự tay gói bánh chưng dâng lên Hoàng thượng gọi là để vợ chồng ăn tết trước.
Vua Quang Trung nhìn đăm đăm vào chiếc bánh chưng đặt trong mâm đồng rồi suy tư hỏi:
- Bánh chưng này thay cơm dùng được năm ngày trong dịp tết, có phải chăng?
Lê Hoàng hậu đáp:
- Thưa phải!
Vua Quang Trung cầm cái bánh chưng hình vuông mân mê trong tay rồi bóp tròn lại vừa vặn tay cầm. Lê Hoàng hậu ngạc nhiên hỏi:
- Bánh này thiếp tự tay nấu cho Hoàng thượng dùng. Sao Hoàng thượng lại bóp nát đi?
Vua Quang Trung bảo:
- Ta vừa nói trong mười ngày là quét sạch quân Mãn Thanh ra ngoài bờ cõi vì còn phải dừng quân để nấu cơm ăn. Nay ta nấu sẵn bánh chưng này thành hình trụ cho vừa tay cầm để quân sĩ vừa hành quân vừa ăn uống không phải nghỉ để nấu cơm thì ta phá giặc chỉ nội năm ngày và ít phải hy sinh anh em nghĩa sĩ.
Lê Hoàng hậu khóc nói:
- Lúc đang ăn còn nghĩ đến việc quân. Tấm lòng vì dân vì nước của Hoàng thượng thật đáng động đến trời. Cầu trời cao phù hộ cho Hoàng thượng mau phá xong giặc dữ.
Vua Quang Trung tạm biệt Hoàng hậu Ngọc Hân. Người nói:
- Ấy chính là nhờ lòng chung thủy của nàng đã giúp ta nghĩ ra được mưu sâu phá giặc.
Hôm sau vua Quang Trung để Thượng Đạo tướng quân Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và Vũ Văn Dũng trấn thủ Phú Xuân, rồi đem Võ Đình Tú, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc kéo tám vạn quân theo vai đường thủy bộ nhằm hướng Bắc trực chỉ.
*
* *
Quân đi đến thành Nghệ An, vua Quang Trung cho dừng quân nghỉ ngơi. Vua bảo Trần Văn Kỷ:
- Ta từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa đến nay, lúc nào cũng một lòng chiêu hiền đãi sĩ, đã ba lần cầu La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp ra giúp nước. Nhưng cả ba lần Nguyễn Thiếp đều đưa thư thoái thác. Nay ta muốn nhờ khanh mang thư ta đến vời phu tử một lần nữa xem sao.
Trần Văn Kỷ bàn:
- Nguyễn Thiếp đã mười lăm năm ẩn dật, nghiên cứu Phật học, mắt không nhìn công danh, bỏ tai ngoài thế sự. Chí người đã muốn tu tiên, Hoàng thượng còn mời mọc làm chi.
Vua Quang Trung bảo:
- Nguyễn Thiếp trau dồi đức hạnh đang tu tiên chớ chưa phải là người tiên, bỏ tai ngoài thế sự mà trong lòng mong tế độ chúng sinh. Nếu không như thế sao Nguyễn Thiếp lại thi ân bố đức, nên bá tánh quanh vùng mới gọi là La Sơn Phu tử. Nay ta viết thư gồm mười bốn chữ, tin chắc đọc xong mười bốn chữ này phu tử phải ra. Khanh hãy cảm phiền giúp trẫm một phen nữa!
Trần Văn Kỷ quỳ tâu:
- Hoàng thượng đã xuống lệnh hạ thần nào dám không tuân. Cảm tấm lòng khẩn khoản cầu hiền của Hoàng thượng, Trần Văn Kỷ thần xin hứa hết lòng.
Nói xong Kỷ lãnh thư của vua Quang Trung đi đến Lục Niên Thành mời La Sơn Phu tử.
Đến Lục Niên Thành, Trần Văn Kỷ thấy non xanh nước biếc, đầy hoa thơm cỏ lạ. Trong cảnh bồng lai ấy hiện ra một ngôi nhà nhỏ, trước cổng đề ba chữ: “Hạnh am cốc”. Gặp một tiểu đồng Trần Văn Kỷ hỏi:
- Xin hỏi đây có phải là cư xá của La Sơn Phu tử.
Tiểu đồng hỏi lại Kỷ:
- Quý khách hỏi có việc gì.
Văn Kỷ đáp:
- Tôi xin được diện kiến Phu tử.
Tiểu đồng bảo:
- Xin quý khách cảm phiền chờ ngoài cổng. Thầy tôi đang tham thiền nhập định. Để tôi vào bẩm báo, bao giờ được phép sẽ mở cửa cho quý khách vào.
Tiểu đồng vừa dứt lời cửa nhà trong liền bật mở, một cụ già cốt cách tiên phong, bạc phơ râu tóc bước đến thi lễ cùng Trần Văn Kỷ, rồi vừa quỳ vừa nói:
- Hạ dân Nguyễn Thiếp xin tiếp chiếu chỉ của Hoàng thượng.
Trần Văn Kỷ liền đỡ Nguyễn Thiếp dậy hỏi:
- Tôi vận y phục dân thường sao Phu tử lại biết là sứ giả của vua?
Nguyễn Thiếp chắp tay đáp:
- Tôi mười lăm năm ở ẩn tuy không xuất gia nhưng thành tâm đầu Phật, học phép tham thiền biết quá khứ vị lai, nên mới rõ Hoàng thượng sai Trần Trung thư đến đây trao thư gọi hạ dân ra diện kiến.
Nghe Thiếp nói xong, Trần Văn Kỷ liền trao thư và nói:
- Nay quân Mãn Thanh xua binh ba mươi vạn sang xâm lược nước ta. Vua mới sai tôi trao thư kính cẩn mời Phu tử ra bày kế phá giặc cứu dân.
Nguyễn Thiếp tiếp thư rồi đặt lên tràng kỷ, bảo Trần Văn Kỷ:
- Xin quan Trung Thư Lệnh hãy ngồi nghỉ, tôi vào trong thu xếp rồi sẽ cùng ngài đến diện kiến Hoàng thượng.
Trần Văn Kỷ ngạc nhiên hỏi:
- Sao Phu tử không xem thư của Hoàng thượng.
Thiếp cười đáp:
- Tôi không đọc cũng biết thư vua viết chỉ vỏn vẹn mười bốn chữ:
Quốc gia đã đến lúc hưng vong,
Xin Phu tử bày cho diệu kế.
Trần Văn Kỷ thất kinh nói:
- Vua bảo tôi: Đọc mười bốn chữ này Phu tử phải ra. Hoàng thượng liệu việc như thần. Còn Phu tử quả là bậc thánh vậy.
Nguyễn Thiếp quay vào trong, tiểu đồng hỏi Thiếp:
- Bắc Bình Vương trước đã ba lần đưa thư mời, thầy đều không đến. Nay cớ gì ông ấy mới lên làm vua đưa thư mời, thầy vội vã đi ngay.
Nguyễn Thiếp đáp:
- Ta ba lần chối từ không ra giúp Tây Sơn vì đã không màng thế sự, xem nhẹ công đanh. Nhưng nay nhân dân cả nước đang sục sôi khí thế chống giặc ngoại xâm. Ta đã từng dạy cho thiên hạ là: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Vậy vua vời ta ra hỏi kế phá giặc, ta không đến hóa ra lại không bằng kẻ thất phu sao?
Tiểu đồng khóc hỏi:
- Phen này thầy theo giúp vua bao giờ mới về?
Nguyễn Thiếp cười đáp:
- Ta đến để khỏi mang tiếng với thiên hạ là kẻ thất phu rồi sẽ về ngay, con chớ lo.
Đoạn Thiếp ra xe theo Trần Văn Kỷ đến yết kiến vua Quang Trung. Vua Quang Trung trông thấy Nguyễn Thiếp liền quỳ trước xe thi lễ nói:
- Trẫm hằng trông Phu tử như trời hạn trông mưa. Nay Phu tử chịu ra thật là hồng phúc của muôn dân vậy.
Nguyễn Thiếp thất kinh vội vã xuống xe quỳ lạy vua Quang Trung và nói:
- Thần tuổi đã cao nên đã ba lần chối từ không ra giúp Hoàng thượng, để Hoàng thượng phải nhọc lòng tội thật đáng muôn chết.
Vua Quang Trung đỡ Nguyễn Thiếp dậy mời vào trong, vua chỉ vào áo Nguyễn Thiếp đang mặc rồi nói:
- Phu tử tuổi già sức yếu, nay tháng chạp là mùa Đông gió Bấc, Phu tử mặc cái áo cũ đã ngả màu này chắc là lạnh lắm.
Đoạn vua quay sang bảo quân:
- Mau mang áo mới đến đây cho Phu tử mặc.
Quân đem áo đến, vua Quang Trung tự tay mặc cho Nguyễn Thiếp. Mặc xong vua Quang Trung hỏi:
- Nay quân Tàu lại sang xâm lược nước ta, trẫm thân đem đại binh ra đánh. Xin Phu tử bày cho diệu kế phá giặc cứu dân.
Nguyễn Thiếp đáp:
- Kế phá giặc Hoàng thượng đã sắp đặt cả rồi, chẳng qua chỉ nội năm ngày là Hoàng thượng sẽ quét sạch ngoại xâm ra ngoài bờ cõi mà thôi!
Vua Quang Trung giật mình hỏi:
- Phu tử có biết quân số của giặc là bao nhiêu? Quân số của ta là bao nhiêu chăng?
Thiếp đáp:
- Thần không được biết.
Vua Quang Trung hỏi tiếp:
- Phu tử có biết Tôn Sĩ Nghị là người như thế nào chăng? Quân Thanh đóng binh ở nơi nào chăng?
Thiếp đáp:
- Hoàng thượng có quân thám mã nên biết được địch tình, còn thần ở ẩn chòi tranh nên không được rõ.
Vua Quang Trung lại hỏi:
- Phu tử không biết gì về thực lực hai bên, sao dám quyết rằng quân ta chỉ trong năm ngày là quét sạch quân Mãn Thanh?
Nguyễn Thiếp ôn tồn đáp:
- Thần chỉ dùng phép tham thiền của nhà Phật mà biết được quá khứ vị lai. Không cần tìm hiểu quân tình.
Vua Quang Trung ngạc nhiên nói:
- Nếu không tận mắt trông thấp sao trẫm dám tin Phu tử là thánh nhân như lời đồn được. Vậy xin Phu tử lưu lại trong trướng cùng trẫm bàn kế phá giặc.
Nguyễn Thiếp vòng tay nói:
- Thần chỉ biết mà không làm được. Còn Hoàng thượng là người làm mà biết trước ngày đại thắng ấy mới là bậc thánh. Kế phá giặc Hoàng thượng đã sắp đặt cả rồi, thần không còn gì để bàn nữa cả. Xin Hoàng thượng cho thần lui về tệ xá, ngày sau thay đổi quốc tự thần nhất định sẽ ra.
Vua Quang Trung thất kinh bảo:
- Phu tử thật là thánh nhân vậy!
Đoạn vua đứng lên tiễn Nguyễn Thiếp ra xe. Thiếp tâu :
- Thần xin trả áo lại cho Hoàng thượng.
Nói xong Thiếp toan cởi áo. Vua ngăn lại nói:
- Sá gì một cái áo mà Phu tử khách sáo thế.
Thiếp đáp:
- Không phải thần khách sáo mà do thần nay tuổi già sức yếu, lưng còng mỗi khi đi đều phải chống gậy. Do lưng của thần còng xuống nên vạt áo trước thấp xuống, vướng vào chân không đi được.
Vua Quang Trung liền nói:
- Phu tử cứ cầm gậy mà đi, trẫm xin đỡ vạt áo tiễn Phu tử ra xe.
Nói rồi vua Quang Trung nâng vạt áo trước đưa Nguyễn Thiếp ra tận xe. Tiễn Thiếp đi xong, vua Quang Trung lại dẫn quân Bắc tiến.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 51 Trần Danh Bính đốt tay đi sứ. Võ Đình Tú mượn ngựa diệt thù.
Ngày kia ở ải Tam Điệp, Ngô Văn Sở nghe quân vào báo có vua Quang Trung đem đại binh đến gần ải. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Ngô Thì Nhậm cùng chắp hai tay ra sau lưng, Sở bảo quân:
- Ngươi mau dùng dây trói bọn ta lại rồi giắt kiếm vào lưng để bọn ta ra chịu tội cùng vua.
Quân nghe lệnh lập tức thi hành. Ra ngoài cửa ải gặp vua Quang Trung đến, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhậm cùng quỳ xuống đồng thanh thưa:
- Thua binh chém tướng, xin Hoàng thượng trị tội!
Vua Quang Trung ngồi trên bành voi bảo quân:
- Mau cởi trói cho ba quan tướng cùng vào đại bản doanh, tội công sẽ luận.
Vào đại bản doanh, vua Quang Trung ngồi nơi hổ tướng, mưu thần, võ tướng đều đứng hầu hai bên, Sở, Lân và Nhậm vẫn quỳ mọp chịu tội. Vua Quang Trung bảo:
- Nay quân Mãn Thanh mượn tiếng phò Lê sang xâm lược nước ta. Quân địch đông mạnh, khí thế đang hăng, Văn Sở, Văn Lân ở Bắc Hà quân ít đánh tất phải thua. Các khanh biết bảo toàn lực lượng lui về giữ nơi hiểm yếu, trong thì khích lòng tướng sĩ, ngoài khiến giặc kiêu căng. Ấy là công sao bảo là tội. Mới nghe qua ta đã biết là kế của Ngô Thì Nhậm, kịp hỏi Văn Tuyết thật quả không sai. Ngô Thì Nhậm là một quan văn nhưng bày thượng sách đánh giặc không ai có thể cao hơn được nữa.
Nói xong vua tự tay rót ngự tửu ban cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm lạy tạ đón nhận, khóc nói:
- Ơn tái tạo của Hoàng thượng, Nhậm tôi dù phơi gan trải mật cũng không đền đáp được.
Đoạn Ngô Thì Nhậm quay sang Sở và Lân nói:
- Bọn ta đã thề rút về Tam Điệp có công cùng hưởng có tội cùng chia. Nay vua ban ngự tửu xin mời nhị vị tướng quân dùng trước.
Sở và Lân chưa kịp phản ứng, vua Quang Trung cười bảo:
- Nếu vậy Ngô Thì Nhậm hãy giữ chung rượu ấy chờ ta ban thưởng cho Văn Sở, Văn Lân xong, ba người cùng uống càng vui vẻ chớ sao.
Đoạn vua bảo Ngô Văn Sở:
- Khanh biết nghe lời nói phải, lui quân về Tam Điệp, lập kế xóa bếp lò vãi gạo ra đường khiến Tôn Sĩ Nghị kiêu căng khinh địch, rồi đây quân ta sẽ dễ dàng thủ thắng. Chung rượu này ban thưởng cho khanh.
Ngô Văn Sở đứng lên cầm lấy chung rượu. Vua Quang Trung rót chung thứ ba, Phan Văn Lân vẫn quỳ thưa:
- Hoàng thượng không bắt tội là may mắn lắm rồi, hạ thần sao dám nhận ngự tửu vua ban.
Vua Quang Trung hỏi:
- Sao Văn Lân lại nói thế ?
Lân đáp:
- Hạ thần phụng mệnh đem ngàn quân chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Thua binh ngàn quân đều chết cả. Tội không kể thì thôi, công gì mà thưởng.
Vua Quang Trung ôn tồn nói:
- Thắng bại là lẽ thường của binh gia, huống hồ Văn Lân chỉ có ngàn quân mà ngăn được hai mươi vạn quân địch, dù còn lại một mình vẫn trên cầu chặn giặc cho các đạo quân ta lui về Tam Điệp được an toàn. Lòng trung nghĩa can trường của Văn Lân không đáng để khen thưởng hay sao?
Phan Văn Lân khóc nói:
- Quân ta kể từ khi Tây Sơn dấy nghĩa đến nay lấy ít địch nhiều, bách chiến bách thắng. Nay thua binh để ngàn anh em nghĩa sĩ phải hy sinh, Văn Lân tôi đau đớn hổ thẹn trong lòng, thật tình không dám nhận thưởng.
Vua Quang Trung bước xuống đỡ Văn Lân dậy rồi an ủi:
- Quân Tây Sơn ta từ trước đến nay một chỉ địch được hai, ba. Nay Văn Lân đánh với giặc đông hơn hai trăm lần dù thua binh có gì mà phải hổ thẹn. Nay ta đem mười vạn đại binh đến đây nhất định tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh, bắt sống Tôn Sĩ Nghị báo thù cho ngàn anh em nghĩa sĩ của ta. Nhưng chiến công sau này là do các khanh ở Bắc Hà khéo sắp đặt trước, trong đó lại chẳng có công của Văn Lân ư? Hãy mau cầm chung rượu thưởng, chớ phụ lòng ta.
Phan Văn Lân thấy chối từ không tiện bèn đón lấy chung ngự tửu rồi cùng Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm nâng lên uống cạn. Mọi người an tọạ xong vua Quang Trung giở bản đồ ra nói:
- Tôn Sĩ Nghị chia quân đóng đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi ở mặt Nam thành Thăng Long, và đồn Khương Thượng ở mặt Tây thành Thăng Long. Đồng thời lại cho bọn cựu thần nhà Lê mộ quân đi trước gần ải Tam Điệp, Nghị cho quân do thám gần doanh trại của ta. Vậy chứng tỏ Nghị chưa phải đã tuyệt đối khinh địch. Nay ta muốn dùng khổ nhục kế khiến quân Thanh xếp giáp cất gươm ăn nghỉ no say mà không phòng bị. Khi ấy ta tiến đánh ắt dễ dàng tiêu diệt giặc và quân ta ít phải tổn thất. Ngặt vì không ai có thể lãnh mạng thi hành kế độc.
Các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết cùng đứng lên đồng thanh nói:
- Hạ thần xin vâng lệnh thi hành khổ nhục kế!
Vua Quang Trung xua tay bảo:
- Không được. Các khanh đều là đại tướng, nay mai đánh quân Thanh các khanh đều đã được phân sắp đâu đó cả rồi. Không thể làm việc này được!
Vua Quang Trung vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng nói lớn:
- Khổ nhục kế thế nào, hạ thần xin lãnh mạng sang đầu Tôn Sĩ Nghị.
Mọi người giật mình nhìn lại thấy một viên thư lại mặt trắng môi son dáng dấp thanh tao. Vua Quang Trung hỏi:
- Người này là ai?
Trần Văn Kỷ bước ra nói:
- Người này là cháu thần tên Trần Danh Bính, tuổi còn trẻ nhưng trung nghĩa thanh liêm. Thần biết vậy mới cho theo phụ việc văn thư.
Vua Quang Trung hỏi Trần Văn Kỷ:
- Việc này vô cùng quan trọng cho kế hoạch đánh quân Thanh của ta, nên không thể đường đột chọn người. Theo Trần trung thư thì Trần Danh Bính có đáng tin cậy mà giao trọng trách chăng?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Trần Danh Bính lòng trung kiên như Bắc Đẩu không dời, tính can trường tựa thái sơn không nhụt. Thần xin đem tánh mạng ra bảo đảm cho Trần Danh Bính.
Trần Danh Bính cởi áo giơ lưng ra nói:
- Xin hoàng thượng hãy sai người đánh thần để làm khổ nhục kế.
Vua Quang Trung bảo:
- Khổ nhục kế này không phải như kế xưa nay thiên hạ vẫn dùng. Kế khổ nhục này không phải ta đánh người của ta rồi sai người ấy mang thương tích trá hàng làm nội ứng, mà ngươi sẽ làm sứ giả mang thư trá hàng của ta đến dâng Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo ngươi để hỏi động tĩnh của ta ở Phú Xuân, ngươi cứ một mực khai rằng ta đang run rẩy ở Phú Xuân, sai ngươi đến xin hàng. Lần này chắc chắn Tôn Sĩ Nghị khinh địch mà xếp giáo cất gươm, ăn ngủ no say. Binh ta đến đánh chúng tất trở tay không kịp. Trọng trách nặng nề như thế ngươi có đảm đương nổi hay chăng? Nếu ngươi bị đau khai thật thì Tôn Sĩ Nghị biết ta đã đến Tam Điệp tất càng đề phòng hơn nữa, hóa ra là ta tự làm hỏng kế của ta. Việc quan trọng như thế nên ta phải dè đặt chọn người.
Trần Danh Bính đáp:
- Kẻ hạ thần có một cách khiến cho Hoàng thượng tin vào lòng can đảm của thần.
Nói xong Trần Danh Bính đốt một cây đèn bạch lạp rồi giơ ngón tay út của mình lên ngọn lửa của cây đèn bạch lạp ấy. Ngón tay bị đốt của Bính phồng dần lên đổi màu vàng và bay mùi khét. Trần Danh Bính mắt mở trừng trừng mồ hôi vã ra như tấm vẫn không hề kêu lên một tiếng. Đốt một hồi Bính lấy tay ra khỏi ngọn lửa thì ngón tay út đã cháy đen như một que củi. Người chứng kiến đều lè lưỡi lắc đầu. Có kẻ khen rằng:
- Gạn dạ như Trần Danh Bính dù Quan Vân Trường đời Hán cũng không sánh kịp.
Trần Danh Bính lấy vạt áo lau mồ hôi nói:
- Dù lóc thịt chặt xương cũng không thể đau đớn hơn thế được. Xin Hoàng thượng mau thi hành diệu kế!
Vua Quang Trung mừng rỡ bảo:
- Khanh thật là người trời sai xuống để giúp quân ta đó. Vậy khanh hãy mang thư ta đến gặp Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo khanh, khanh hãy gắng chịu đau mà nói thế này… thế này… tất Tôn Si Nghị sẽ xếp giáo cất gươm ăn no ngủ say cho quân ta đến đánh. Ấy là khổ nhục kế của ta vậy.
Trần Danh Bính tuân lệnh bèn tạm biệt lên đường.
Đến Thăng Long gặp Tôn Sĩ Nghị, Nghị hỏi Bính:
- Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì?
Bính đáp:
- Chúa công của kẻ hạ thần khiếp đảm oai trời trong lòng sợ hãi nên sai hạ thần dâng thư xin hàng. Mong Đại tướng quân dung nạp.
Đón thư đọc xong, Nghị cười lớn hỏi:
- Nguyễn Huệ xin ta đến hết Tết Nguyên Đán là ngày mùng sáu sẽ tự thân trói mình ra Thăng Long chịu tội. Vậy ta hỏi ngươi Nguyễn Huệ đang ở đâu. Nghe quân ta đến đây hắn phản ứng thế nào.
Bính vờ sợ hãi đáp:
- Chúa công của hạ thần ở Phú Xuân ngày quên ăn, đêm bỏ ngủ. Nghe Đại tướng quân đến đây người vội sai thần đem thư xin hàng. Đại tướng quân vừa đọc thư xong sao còn hỏi?
Nghị vỗ án quát:
- Láo xược! Ta nghe người nước Nam đồn rằng Nguyễn Huệ anh hùng lão luyện vào Nam ra Bắc xuất quỷ nhập thần. Sao nay lại dễ dàng quy hàng như thế? Ngươi mau khai thật, nếu không sẽ sai quân dùng cực hình tra khảo.
Trần Danh Bính run rẩy đáp:
- Anh hùng ở An Nam cũng không sánh bằng thất phu ở đất Bắc. Huống hồ Đại tướng quân là nhân tài kiệt hiệt, Chúa công của hạ thần dám đâu chống lại oai trời.
Tôn Sĩ Nghị bảo:
- Lời ngươi nói ta vẫn chưa tin. Võ sĩ mau chặt ngón tay của nó cho ta.
Quân võ sĩ nọc Bính ra chặt đứt một ngón tay. Bính đau đớn rên la cầu xin tha tội. Nghị quát hỏi:
- Nguyễn Huệ ở Phú Xuân động tĩnh thế nào. Mau khai ra?
Bính dập đầu thưa:
- Sự thật hạ thần đã nói rồi. Xin tướng quân tha cho!
Nghị vỗ án quát:
- Chặt tay nữa cho ta.
Võ sĩ chặt đứt chín ngón tay của Bính, Bính vẫn một mực khai như thế. Tôn Sĩ Nghị bảo quân:
- Mau lôi ra ngoài chém!
Bính hỏi:
- Hai nước đánh nhau không nên chém sứ, huống hồ Chúa của hạ thần đã xin hàng sao lại chém thần.
Nghị không đáp phất tay bảo quân:
- Mau đem ra chém!
Võ sĩ lôi Bính đi, Bính ngoảnh lại mắng:
- Tôn Sĩ Nghị! Mày là phường man di mọi rợ. Không ngờ Chúa ta lại chịu hàng một thằng mọi rợ như mày.
Quân đem đầu Trần Danh Bính vào dâng trước án. Nghị hỏi:
- Trước khi bị chém Bính có nói gì chăng.
Quân đáp :
- Hắn có nói rằng: Ta bị chết thảm cũng do ta phò Chúa nhu nhược ươn hèn.
Nghị vỗ tay cười lớn bảo:
- Nguyễn Huệ quả nhiên sợ ta như cọp không dám động binh. Truyền lệnh ta cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán, đợi đến mùng sáu tháng giêng năm Kỷ Dậu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Nguyễn Huệ.
Nói về vua Quang Trung trong đại bản doanh ở ải Tam Điệp nghe quân do thám về báo:
- Tôn Sĩ Nghị chém đầu quan Chánh Sứ Trần Danh Bính. Nghị lại cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán. Nghe quân Thanh đồn rằng mùng sáu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Bệ hạ.
Vua Quang Trung vỗ tay bảo:
- Tôn Sĩ Nghị quả nhiên trúng kế. Nhưng ta không ngờ nước Tàu tự xưng là văn hóa xem bốn bên là Bắc rợ, Nam man, Tây di lại đi chém sứ của ta. Thương thay Trần Danh Bính! Phen này phải bắt Tôn Sĩ Nghị báo thù Trần Danh Bính!
Đặng Văn Long hỏi:
- Vậy Bệ hạ còn chờ gì mà chưa xuống lệnh xuất quân?
Vua Quang Trung đáp:
- Chưa được!
- Vì sao chưa được?
- Hiện có năm mươi tên quân Thanh do thám ở cách ải Tam Điệp hai mươi dặm, nếu ta tiến binh bọn do thám này chạy về báo tin cho Trương Triều Long ở Hạ Hồi thì quân cơ bại lộ, và Trần Danh Bính phải chết vô ích. Vậy phải tiêu diệt bọn quân do thám này thì trong ngoài kín mít như bưng. Ta đến nơi mà Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết.
Phan Văn Lân bước ra thưa:
- Thần xin đem hai trăm quân đi giết hết bọn do thám này.
Vua Quang Trung xua tay nói:
- Không được. Quân Thanh cưỡi giống ngựa phương Bắc cao lớn chạy nhanh, ngựa của ta không thể nào đuổi kịp. Nếu Văn Lân tiến đánh thế, nhất định cũng có tên thoát được.
Võ Đình Tú bước ra tâu:
- Xin Bệ hạ cho thần mượn một vật. Thần sẽ đơn thân độc mã ra bắt năm mươi tên quân do thám ấy.
Vua Quang Trung hỏi:
- Đình Tú muốn mượn vật gì?
Tú đáp:
- Thần xin mượn ngựa Xích kỳ của Nguyễn Văn Tuyết!
Vua Quang Trung lại hỏi :
- Nếu khanh để quân do thám này có một tên thoát được làm lộ quân cơ của ta thì thế nào?
Tú đáp:
- Thần xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
Vua Quang Trung cả mừng nói:
- Phiền Văn Tuyết hãy cho Đình Tú mượn ngựa Xích Kỳ.
Nói xong rót rượu tiễn Võ Đình Tú. Tú cưỡi ngựa Xích Kỳ nhằm hướng Bắc trực chỉ. Gặp toán quân Thanh do thám, Tú chẳng nói chẳng rằng vung côn đồng xông vào đánh giết. Quân Thanh hò nhau vây Đình Tú vào giữa, Tú tả xung hữu đột côn lia đến đâu địch quân phọt óc vỡ đầu. Đánh một hồi quân Thanh chết hơn phân nửa, còn lại hai mươi tên hò nhau bỏ chạy. Ngựa Xích kỳ phi mau quá, quân Thanh hốt hoảng bỏ chạy tứ tán. Đình Tú nhanh tay lẹ mắt, gần thì vung côn đánh chết, xa thì trương cung xạ tiễn, năm mươi tên quân Thanh do thám đều tử trận dưới tay Tú. Tú liền nhảy xuống ngựa cắt năm mươi cái đuôi tóc của bọn quân Thanh rồi lên ngựa phi về báo với vua Quang Trung rằng:
- Tâu Hoàng thượng, thần đã giết xong năm mươi tên quân Thanh do thám.
Vua Quang Trung hỏi:
- Lấy gì làm chắc rằng khanh đã giết hết năm mươi tên quân Thanh do thám đó.
Đình Tú liền gọi quân mang vào bó tóc đuôi sam rồi nói:
- Đủ năm mươi cái không thiếu cái nào. Xin Hoàng thượng xem xét.
Vua Quang Trung mừng rỡ khen:
- Vũ dũng như Đình Tú thật là hiếm có. Khanh đã lập được công đầu trong cuộc đại phá quân Thanh rồi vậy. Các tướng hãy sẵn sàng nghe lệnh.
Mọi người đồng thanh nói:
- Chúng thần đang chờ lệnh giết giặc cứu dân.
Vua Quang Trung bảo:
- Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đem trăm đại thuyền và một vạn quân theo đường bể ra Bắc vào sông Lục Đầu. Đến nơi hai tướng chia quân làm hai cánh, Nguyễn Văn Tuyết dùng thủy binh đánh chiếm đất Hải Dương ở phía Đông thành Thăng Long, phô trương thanh thế làm kế nghi binh, khiến Tôn Sĩ Nghị sợ không dám theo đường biển chạy về nước. Nguyễn Văn Lộc đem quân bộ đi gấp lên Kinh Bắc đến làng Phương Nhãn chiếm núi Yên Thế rồi án binh bất động chờ Tôn Sĩ Nghị chạy về thì đổ ra đánh bắt cho được Tôn Sĩ Nghị.
Lộc và Tuyết bước ra lãnh lệnh. Vua Quang Trung dặn :
- Văn Lộc đến phục ở núi Yên Thế vào đêm mùng bốn tết. Nếu chậm hơn, chém!
Lộc sợ hãi quỳ tâu:
- Hoàng thượng muốn giết, thần xin được chết ở đây chứ hạ thần không dám lãnh trọng trách này.
Vua Quang Trung cười hỏi:
- Ta lựa người vũ dũng chặn đường về bắt Tôn Sĩ Nghị. Năm xưa Lộc bị Đông Sơn Đỗ Thành Nhân vây ở ấp Hòa Hưng một đánh hai mà lui được giặc, sao nay lại lo sợ thế?
Đoạn vua than rằng:
- Thế mới biết cái oai của nước Tàu thật là to lớn vậy!
Văn Lộc tức tối nói:
- Nước Tàu đã từng bị cha ông ta đánh ôm đầu chạy về nước thì có gì thần phải sợ chúng. Nhưng thần e rằng trong bốn ngày không thể đến được Yên Thế mà thôi.
Vua Quang Trung hỏi:
- Vì sao trong bốn ngày không đến được Yên Thế.
Lộc đáp:
- Thần và Nguyễn Văn Tuyết là hai tướng thủy binh nên rất rõ việc này. Nay đang là tháng chạp mưa phùn gió bấc, từ đây đến cửa Lục Đầu vào Yên Thế đường xa diệu vợi, ngược hướng gió không thể trong bốn ngày mà đến nơi cho được.
Vua Quang Trung hỏi:
- Nếu trong ngày mùng bốn có gió Đông nam thổi mạnh thì đến đêm có thể đến được Yên Thế được chăng.
Nguyễn Văn Lộc đáp:
- Nếu vậy chắc chắn là đến kịp để bày trận mai phục.
Vua Quang Trung hạ lệnh:
- Tuyết và Lộc hãy lãnh binh phù lập tức xuất quân. Gió Bấc nhẹ thì sai quân dùng chèo mà đi, gió Bấc mạnh thì dong buồm theo hình chữ chi mà tiến. Đầu giờ Ngọ ngày mùng ba tết sẽ có gió Đông nam thổi mạnh đến giờ Ngọ ngày mùng bốn tết. Nếu không đến nơi kịp chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị lệnh chém đầu.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu hỏi:
- Xin hỏi Hoàng thượng mùa này mưa phùn gió Bấc hơi lạnh cắt da thì lấy đâu ra gió Đông nam. Và nếu không có gió Đông nam thì thế nào?
Vua Quang Trung cười đáp:
- Nếu đến ngày ấy mà không có gió Đông nam hai tướng cứ kéo quân về. Ta lấy lý gì mà bắt tội hai tướng được.
Nguyễn Văn Lộc xen vào hỏi:
- Nếu đúng vậy thần sẽ chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị trong đêm mùng bốn. Vậy Hoàng thượng nghĩ rằng chỉ trong năm ngày ta đuổi quân Thanh ra khỏi Thăng Long sao? Trong lúc quân chúng đông gấp ba lần quân ta.
Không trả lời Văn Lộc, vua Quang Trung hỏi:
- Nếu trong năm ngày ta đuổi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi Thăng Long chạy về Yên Thế mà Văn Lộc không bắt được Tôn Sĩ Nghị thì thế nào?
Lộc đáp:
- Nếu Hoàng thượng làm được điều kỳ diệu thế, mà Lộc tôi không bắt được Tôn Sĩ Nghị, xin chịu tội theo quân pháp.
Vua Quang Trung trao binh phù cho Văn Lộc xong, quay sang Văn Long vua bảo:
- Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đem ba vạn quân theo đường núi ở phía Tây đường đại lộ, đến làng Nhân Mục đánh vào đồn Khương Thượng ở phía Tây nam thành Thăng Long. Chiếm được Khương Thượng rồi Long và Phong phải thừa thắng đánh Thăng Long, đuổi Tôn Sĩ Nghị. Mất Thăng Long, quân của Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi và Trương Triều Long ở Hà Hồi tất không còn đường rút. Phen này ta quyết tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh báo thù cho dân ta mới hả dạ. Đánh trận này là nhờ vào trọng trách của hai ngươi, phải tốc chiến tốc thắng. Nếu đến ngày mùng năm tết Kỷ Dậu không chiếm được thành Thăng Long, chém!
Đặng Văn Long nói mát rằng:
- Xét theo lẽ quân thần, hạ thần và Hoàng thượng là nghĩa vua tôi. Xét theo tình riêng, thần với đại sư huynh là huynh đệ đồng sư môn thọ giáo thầy Trương Văn Hiến thuở còn để chỏm. Nếu Đại sư huynh bảo chết, Văn Long tôi xin chết, cần gì phải mượn quân pháp để giết hạ thần.
Vua Quang Trung cười hỏi:
- Sao Văn Long lại bảo là ta muốn giết khanh?
Long đáp:
- Đường đến làng Nhân Mục là đường núi quanh co khúc khuỷu xa đến bốn trăm dặm thì làm sao đi trong bốn ngày mà đến nơi cho được. Chẳng phải là Đại sư huynh muốn giết Long tôi sao?
Vua Quang Trung lại hỏi:
- Đường đến Phương Nhãn, Yên Thế còn xa hơn Khương Thượng rất nhiều mà Nguyễn Văn Lộc dám lãnh mạng đi trong bốn ngày, sao đến Khương Thượng Văn Long lại không dám?
Đặng Văn Long cãi:
- Đường đến Yên Thế tuy xa nhưng đi bằng đường thủy có thể vừa ăn vừa tiến. Còn bộ binh phải dừng quân để nấu ăn, do vậy trong bốn ngày không thể đến nơi được.
Vua Quang Trung gọi quân mang vào một cái bánh, ngoài gói lá chuối đặt lên án rồi nói:
- Việc này ta đã liệu trước nên mới sai người nấu bánh chưng thành hình ống vừa vặn tay cầm gọi là bánh tét. Văn Long cứ việc hành quân, dùng bánh tét thay cơm không cần nghỉ ngơi để nấu ăn. Vậy trong bốn ngày có thể đến Khương Thượng được chưa?
Đặng Xuân Phong xen vào nói:
- Đành rằng bốn ngày có thể tới nơi, nhưng quân ta đi suốt ngày đêm tướng sĩ mỏi mệt sao đánh thắng quân Thanh đang nghỉ ngơi khỏe khoắn được. Binh pháp có câu không lấy quân mệt mà đánh quân khỏe. Xin Hoàng thượng xét lại.
Vua Quang Trung cười bảo:
- Binh thư là cái ai cũng có thể học được. Đánh giặc ngoài binh thư mới bất ngờ chắc thắng. Việc này ta đã tính trước nên mới sai người làm thật nhiều võng. Nay ta cấp cho đạo quân của ngươi, cứ ba người một cái võng; hai người khiêng một người nằm ngủ, thay phiên nhau mà đi. Một ngày gồm mười hai canh giờ, vậy một người vẫn ngủ được bốn canh giờ mà hành quân ngày đêm không nghỉ. Quân ta đến nơi đúng thời gian quy định mà tướng sĩ vẫn mạnh khoẻ như thường.
Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đồng thanh nói:
- Hoàng thượng liệu việc như thần. Danh tướng từ cổ chí kim không ai sánh kịp.
Nói rồi liền bước ra lãnh lấy binh phù.
Vua Quang Trung vỗ án đứng lên chỉ về phương Bắc cao giọng rằng:
- Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lãnh ấn tiên phong đánh hai thành Hà Hồi và Ngọc Hồi. Ta và Võ Đình Tú, Đặng Xuân Bảo cầm trung quân tùy cơ tiếp ứng. Hẹn ngày mùng năm tết cùng vào đến Thăng Long. Truyền lệnh ta quân các đạo lập tức xuất binh.
Quân Tây Sơn đúng giờ giao thừa năm Mậu Thân - Kỷ Dậu (1789) ngựa cất lạt, người ngậm tăm âm thầm mà tiến.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 52 Sầm Nghi Đống treo cổ gò Cây Đa. Tôn Sĩ Nghị chật cầu phao sông Nhị Hà.
Vua Quang Trung đem quân đến đồn Hạ Hồi vào lúc nửa đêm. Nhìn vào đồn thấy quân kỳ xiêu vẹo, điếm canh trống trải, trong ngoài im ắng, bốn bên phẳng lặng như tờ. Vua Quang Trung bảo Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân:
- Phan Văn Lân đem một cánh quân ra vây mặt Bắc, Ngô Văn Sở đem một cánh quân đến vậy mặt Đông, khi nào nghe loa của ta gọi hàng thì bảo quân đồng loạt dạ rân.
Sở và Lân tuân lệnh lập tức thi hành.
Nói về tướng tiên phong của quân Thanh là Trương Triều Long đem năm vạn quân đông ở đồn Hạ Hồi. Nhân dịp tết Nguyên đán, Trương Triều Long cùng các thuộc hạ ăn uống no say. Tả hữu can rằng:
- Đành rằng này là tết Nguyên đán ai cũng chào đón ăn mừng, nhưng xin tướng quân hay khá đề phòng quân Tây Sơn bất ngờ đánh tới.
Trương Triều Long cả cười nói:
- Ngươi quá lo xa đó thôi. Quân Tây Sơn nào dám đến đánh? Khi quân ta kéo đến ải Nam Quan, Ngô Văn Sở vắt giò lên cổ, không dám dừng quân nấu ăn, phải nhai gạo sống mà chạy một mạch về Tam Điệp. Nguyễn Huệ nghe Tôn Đại tướng quân định mùng sáu tết Kỷ Dậu sẽ cất quân vào bắt tội, sợ đã mất mật nên mới sai Trần Danh Bính làm sứ giả đến xin Tôn Đại tướng quân rằng: "Mùng sáu tết sẽ tự trói ra hàng". Tôn đại tướng quân thị uy chém đầu Trần Danh Bính, ta e rằng hiện Nguyễn Huệ đang lo sợ mà sinh bệnh đừng nói gì đến việc đánh ta. Vả lại ta đã sai năm mươi quân do thám dò xét địch tình ở Tam Điệp, thấy quân Tây Sơn vẫn án binh bất động, vậy các ngươi cứ cùng ta ăn uống no say chớ ngại gì cả.
Trương Triều Long vừa dứt lời bỗng nghe ngoài đồn có tiếng rền vang như sấm. Trương Triều Long thất kinh hỏi:
- Ngoài kia có chuyện gì thế?
Quân canh hớt hải chạy vào báo rằng:
- Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn đã bao vây tứ phía, bắc loa gọi hàng, tiếng quân giặc dạ ran như sấm. Quân ta đang say ngủ giật mình thức giấc sợ hãi rối loạn cả lên.
Trương Triều Long tỉnh rượu bàng hoàng than:
- Thôi chết. Ta đã trúng kế của Nguyễn Huệ rồi. Nhưng còn quân do thám của ta đâu, sao không thấy về báo tin?
Than rồi liền nai nịt cầm đao lên ngựa bảo quân:
- Chúng bay không được náo động, theo ta phá vây, chạy về Ngọc Hồi cùng Tả dực Thượng Duy Thăng.
Quân Thanh theo Trương Triều Long liều mình sống ra cửa Bắc, gặp tên, đạn quân Tây Sơn bắn vào chết thôi như rạ. Trương Triều Long cầm khiên đỡ tên đạn cùng quân tin cẩn cố phá vòng vây mà chạy. Bỗng nghe tiếng hét lớn:
- Trương Triều Long chạy đâu cho thoát!
Trương Triệu Long giật mình nhìn kỹ hoá ra là Phan Văn Lân lướt ngựa đến chặn đường. Trương Triều Long mắng Văn Lân rằng:
- Ta dù thất thế lại không giết được một thằng học trò như ngươi sao?
Phan Văn Lân cười lớn nói:
- Hôm trước ở bờ sông Như Nguyệt ta ít quân nên bại trận chạy về. Hôm nay ta sẽ cho ngươi biết học trò nước Nam dùng võ như thế nào!
Nói xong hai đàng kẻ vung đao, người khua thương xáp chiến. Mời vài hiệp Trương Triều Long bị Phan Văn Lân đâm một thương nhằm ngày yết hầu ngã ngựa chết tươi. Quân Thanh thấy chủ tướng chết liền vứt giáo xin hàng. Chiếm thành Hạ Hồi xong, vua Quang Trung lệnh quân thừa thắng tiến đánh Ngọc Hồi.
Tướng Thanh là Tả dực Thượng Duy Thăng đem năm vạn quân trấn giữ Ngọc Hồi. Sáng mùng ba tết Kỷ Dậu quân thám mã về báo cùng Thượng Duy Thăng:
- Thưa tướng quân, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy nửa đâm vây đánh Hạ Hồi, quân ta đang ngủ bị bất ngờ trở tay không kịp. Tướng quân Trương Triều Long tự trận, quân sĩ lớp chết, lớp hàng, không một ai chạy thoát. Hiện quân Tây Sơn đang tiến đến cách thành chừng vài dặm. Xin tướng quân định liệu.
Thượng Duy Thăng giật mình bảo tả hữu:
- Mau sai người về Thăng Long báo tin cùng Tôn Đại tướng quân và xin binh tiếp viện. Ba quân mau chỉnh đốn hàng ngũ phòng thủ kỹ càng.
Nói rồi Thượng Duy Thăng thân lên dài quan sát, thấy quân Tây Sơn đã tiến đến ngoài đồn.
Thượng Duy Thăng cầm cờ lệnh phất lên, súng lớn súng nhỏ quân Thanh nhất tề nhả đạn. Quân Tây Sơn không tiến lên được liền đặt đại bác bắn trả, súng nổ rầm trời, khắp chiến địa mịt mù khỏi lửa. Vua Quang Trung cưỡi voi đứng trên gõ cao quan sát nói với tả hữu rằng:
- Quân Thanh súng lớn bắn xa, hoả lực rất mạnh. Ta nên thu quân tìm kế khác đánh thành mới được.
Nói rồi truyền quân đánh trống thu binh lui năm dặm hạ trại. Vua Quang Trung bảo:
- Ngô Văn Sở mau kén lấy 600 tinh binh đảm lược, võ nghệ hơn người lập thành quân cảm tử sẵn sàng đợi lệnh.
Ngô Văn Sở tuân mệnh đi ngay. Vua lại truyền:
- Phan Văn Lân mau sai quân dùng ván gỗ đóng ghép lại thành từng tấm cao 5 thước, rộng 20 thước phải làm cho đủ 50 tấm, lại lấy rơm ướt che phủ mặt ngoài, xong việc đến đây nhận lệnh.
Phan Văn Lân lãnh lệnh đi ngay. Hồi lâu Ngô Văn Sở về báo:
- Tâu Hoàng thượng, quân cảm tử đã chọn xong đang chờ lệnh.
Phan Văn Lân về báo:
- Tâu Hoàng thượng, ván đã ghép xong, xin xuất lệnh xuất quân.
Vua Quang Trung bảo:
- Các ngươi cứ án binh bất động, dụng cụ chuẩn ở sẵn sàng, chờ có gió Nồm rồi mới đánh.
Phan Văn Lân nóng lòng hỏi:
- Quân bộ ta giáp chiến, mạnh được yếu thua, sa lại chờ gió Nồm?
Vua Quang Trung cười đáp:
- Quân ta đánh tất phải thắng. Nhưng ta muốn đánh thế nào khiến quân địch không còn đường rút và bị tiêu diệt hoàn toàn. Đánh như thế nào cho sau lần thua trận quân giặc sẽ kính hồn bạt vía, không còn dám lăm le dòm ngó nước ta. muốn vậy phải chờ có gió Nồm rồi mới đánh.
Võ Đình Tú hỏi:
- Vì sao có gió Nồm ta lại tiêu diệt hoàn toàn quân địch?
Vua Quang Trung chỉ tay ra hướng Đông đáp:
- Thuỷ binh Tuyết và Lộc đang chờ gió Nồm xuôi thuyền ra Bắc vào cửa Lục Đầu. Tuyết dùng quân thuỷ chặn mặt Đông, Lộc đem quân bộ mai phục tại núi Yên Thế. Các ngươi đã biết vì sao ta chờ gió Nồm rồi mới đánh hay chưa?
Đặng Xuân Bảo nghi ngờ hỏi:
- Nếu không có gió Nồm thì sao?
Bảo vừa dứt lời, quân cận vệ la lên:
- Đã có gió Nồm! Đã có gió Nồm!
Mọi người nhìn theo hướng chỉ tay của bọn quân sĩ. Lá cờ đỏ mặt trời vàng đã phấp phới trỏ ra hướng Bắc.
Ngô Văn Sở Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Đặng Xuân Báo đồng thanh tâu:
- Hoàng thượng thật là thánh sống, du Hưng Đạo Đại vương có sống lại cũng không thể nào bì kịp. Xin Hoàng thượng xuống lệnh tấn công!
Vua Quang Trung lại xua tay bảo:
- Chưa được!
Các tướng ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Vua Quang Trung nói:
- Tôn Sĩ Nghị không thể ngờ ta đoán biết gió Nồm điều thuỷ binh ra Bắc và hắn lại càng không thể ngờ trong bốn ngày quân ta có thể đến nơi đánh thành Khương Thượng. Nghị tất sẽ điều binh vào cứu viện Ngọc Hồi, bỏ trống thành Thăng Long cho Văn Long từ Khương Thượng đánh xuống. Hãy chờ thêm chờ thuỷ binh của Lộc và Tuyết đến nơi và Đặng Văn Long đánh Khương Thượng rồi ta sẽ tiến đánh Ngọc Hồi.
Các tướng lại đồng thanh bảo:
- Hoàng thượng dụng binh không mảy may sai lệch. Chúng thần xin bái phục!
***
Nói về đạo quân Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc đem thuỷ binh theo đường biển ngược sông gió chậm chạp tiến quân. Lộc bảo Tuyết:
- Nếu chèo mãi thế này biết bao giờ mới đến được Yên Thế chặn đường Tôn Sĩ Nghị?
Tuyết đáp:
- Hoàng thượng bảo ngày hôm nay sẽ có gió Nồm ta tất đến nơi đúng giờ quy định.
Tuyết vừa dứt lời, gió Bấc đang thổi mạnh bỗng giảm dần rồi ngừng hắn. Trời quang mây tạnh nắng ấm chói chang, gió Nồm từ đâu thổi đến lồng lộng. Nguyễn Văn Lộc phấn khích bảo:
- Hoàng thượng của ta đúng là tiên giáng thế. Quân bay lập tức càng buồm. Tôn Sĩ Nghị phen này ắt không còn đường thoát vậy!
Thuyền Tây Sơn thuận gió Nồm ào ào rẽ sóng tiến về hướng Bắc.
***
Nói về đạo quân Tây Sơn do đại Đô đốc Đặng Văn Long và đô đốc Đặng Xuân Phong theo đường núi mà tiến đến làng Nhân Mục. Quân Tây Sơn cứ ba người một cái vòng thay phiên nhau hai người khiêng một người nghỉ, hành quân đêm ngày không nghỉ, khi đói lột bánh tét mà ăn. Quân Tây Sơn vừa đi vừa bảo nhau rằng:
- Hành quân không dừng lại để ăn, ngủ mà vẫn được ăn, ngủ. Hoàng thượng thật là thần cơ diệu toán.
Đến gần đón Khương Thượng, Đặng Văn Long bảo quân:
- Mau đẹp bỏ võng, bí mật tiến đánh Khương Thượng.
Tướng Thanh giữ đón Khương Thượng là Sầm Nghi Đống đang ngủ bỗng giật mình thức giấc vì tiếng súng nổ ầm ầm, đạn bay đã vỡ. Quân hớt hải vào báo:
- Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn từ đâu đổ ra đánh phá dữ đôi. Xin tướng quân định liệu.
Sầm Nghi Đống kinh hồn bạt vía nói:
- Ngày 30 tết chúng án binh bất động ở Tam Điệp, nay mới mùng bốn tết sao chúng đến đây được. Tướng của chúng từ trên trời rơi xuống, quần của chứng từ dưới đất chui lên hay sao mà mau thế. Truyền quân mau theo ta ra ngoài nghênh chiến.
Quân Tây Sơn ùa vào thành như thác đổ, tung hoả hổ mà đốt, lửa cháy rực trời, tiếng trống rền vang, tướng quân reo tở mở. Quân Thanh đương không nổi bị giết rất nhiều, quăng gươm tháo chạy. Sầm Nghi Đống liệu thế không xong bên bờ đồn đem tàn quân chạy về Thăng Long. Đặng Văn Long xua quân đuổi theo truy sát. Thương thay sáu vạn quân Thanh ở Khương Thượng chết thôi như ra, người nó gọi người kia, thây chất thành đống, máu chạy thành khe, sát khí ngất trời, mùi tanh hôi vạn dặm.
Sầm Nghi Đống dẫn quân chạy được năm dặm, bỗng thấy một đạo quân Tây Sơn kéo ra chặn mất đường về, đi đầu là một viên dũng tướng mặc chiến bào đen, mặt đen như nhọ, cầm côn sắt đen, cưỡi ngựa đen. Tướng ấy quát lên như sấm:
- Sầm Nghi Đống chạy đâu cho thoát! Mau xuống ngựa quy hàng, có ta là đô đốc Đặng Xuân Phong chờ ngươi đã lâu.
Sầm Nghi Đống kinh hoàng than:
- Quả nhiên tướng Tây Sơn người mọi đến như than nên chúng đi đường núi mau quá chặn mất đường về, vậy phải liều diệt mà đánh mới được!
Đặng Xuân Phong cười ha hả nói:
- Ngươi bảo ta là mọi, vậy Uất Trì Cung hiệu Kính Đức tướng nhà Đường bên Tàu của ngươi cũng là mọi rợ hay sao?
(Vì câu nói ấy và thấy Đặng Xuân Phong bề ngoài giống Uất Trì Cung nên từ ấy trong quân thường gọi Đặng Xuân Phong là "Trại Kính Đức").
Nói đoạn, Đặng Xuân Phong xua quân đánh giết, phía sau lưng Đặng Văn Long đuổi tràn tời. Quân Tây Sơn thẳng tay tàn sát, quân Thanh không đường chống đỡ kêu khóc vang trời. Có tên quân bảo Sầm Nghi Đống rằng:
- Thưa tướng quân, ở bên đường có một cái gò đất trên gò ấy có cây đa cổ thụ mọc ùm tùm, người quanh vùng gọi là gò Cây Đa. Xin tướng quân mau chạy đến chỗ gò Cây Đa cố thủ chờ viện binh.
Sầm Nghi Đống liền té ngựa chạy về gò Cây Đa, chạy theo còn chừng ngàn quân tin cẩn. Đặng Văn Long trông thấy bảo Đặng Xuân Phong:
- Đệ đuổi theo vây bắt Sầm Nghi Đống, ta thừa thắng tiến đánh Thăng Long.
Nói đoạn anh em họ Đặng chia nhau mà đánh. Đặng Xuân Phong đem quân vậy Cây Đa, hô quân tiến lên giáp chiến. Sầm Nghi Đống liệu bề không thoát được bên bảo quân rằng:
- Phận ta làm tướng của nhà Đại Thanh thua binh chịu chết đã đành, còn các ngươi, sau khi ta chết đi ba quân hãy đầu hàng quân Tây Sơn may ra tìm được con đường sống.
Vài trăm quân hộ vệ quỳ lạy Sầm Nghi Đống, khóc rằng:
- Bọn chúng tôi mang nặng ơn sâu của tướng quân, sống theo tướng quân mà chết cùng theo tướng quân vậy.
Khi Đặng Xuân Phong dẫn quân đến nơi thì thấy Sầm Nghi Đống đã treo cổ trên cành đa mà tự tử, còn vài trăm quân cận vệ đều đâm cổ chết theo chủ tướng.
Đặng Xuân Phong cảm kích nói:
- Cuộc chiến nào cũng có kẻ tà người chính, kết cuộc phải có bên bại bên thắng. Nhưng tấm lòng trung dũng của tướng sĩ họ Sâm thật đáng phục thay!
Khi quân Nam đuổi được quân Thanh về nước, bọn trẻ chăn trâu ra gò Cây Đa thường hát rằng: "Ông Đống treo cổ cây đa!". Vì câu hát ấy, về sau quen miệng nên người nước Nam mới đặt tên gò ấy là gò Đống Đa. Về sau, người khách trú ở Thăng Long lập đền thờ ở ngõ Sầm Công sau Hàng Buồm.
Người đời sau là nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi đi ngang qua đến thờ Sầm Nghi Đống bên viết bài thơ vịnh rằng:

Ghé mắt trông qua thấy bảng treo.
Kìa đền thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được.
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!

Ấy là việc của đời sau!
***
Nhắc lại Tôn Sĩ Nghị đang vui đón tết ở Thăng Long. Trên bàn tiệc cao lương mỹ vị ê hề, trong trướng phủ mỹ nữ xiêm y lộng lẫy. Bỗng quân ở đồn Ngọc Hồi về cấp báo:
- Thưa Đại tướng quân, Nguyễn Huệ dẫn quân nửa đêm tiến lên vậy đồn Hạ Hồi không một ai hay biết. Tướng quân tiên phong Trương Triều Long tử trận. Nguyễn Huệ lại kéo quân đến đánh Ngọc Hồi, tướng quân Thượng Duy Thăng xin Đại tướng quân điều binh cầu viện.
Tôn Sĩ Nghị nghe qua như sét đánh ngang mày, giật mình nói:
- Trần Danh Bính bị tra khảo đến chết vẫn một mực khai rằng Nguyễn Huệ con run rẩy ở Phú Xuân chờ mùng sáu tết sẽ ra hàng. Sao nay Nguyễn Huệ lại tiến binh đánh ta? Nếu Huệ dùng khổ nhục kế để gạt ta thì kế khổ nhục này thật là kế lạ. Hứa Thế Hanh mau đem năm vạn quân cầu viện Ngọc Hồi.
Hứa Thế Hanh đi rồi quân thám mã mặt Đông về báo:
- Thưa Đại tướng quân, tướng Tây Sơn là đô đốc Nguyễn Văn Tuyết đem quân theo đường thuỷ chiếm lấy Hải Dương, hiện đang vào uy hiếp mặt Đông thành Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ ra lệnh:
- Tuỳ tướng Tôn Đường Bảo mau đem hai vạn quân ra phía Đông thành tìm chỗ hiểm yếu chặn giặc.
Tôn Đường Bảo chưa kịp nhận lấy binh phù, bỗng nghe phía Tây súng nổ ầm ầm, nhìn ra phía ấy thấy lửa cháy rực trời, quan hò reo inh ỏi. Một viên tiểu tướng hổn hển chạy vào bảo rằng:
- Thưa Đại tướng quân, tướng giặc Tây Sơn là đại Đô đốc Đặng Văn Long đem quân theo đường núi đánh úp đồn Khương Thượng. Tướng quân Sầm Nghi Đống đương không nổi phải treo cổ tự vẫn. Hiện quân Tây Sơn đã vào cửa Tây thành đánh giết lung tung, quân ta không còn tinh thần chiến đấu, hoảng loạn mà chạy. Xin Đại tướng quân định liệu.
Tôn Sĩ Nghị lực ấy không còn hồn vía nào nữa, bủn rủn chân tay, kinh tâm tán đởm, nhanh tay chụp lấy cái tráp đựng văn thư ấn tín rồi chạy ra ngoài nhảy lên mình ngựa cầm cương toan ra roi. Tôn Dương Bảo chạy theo hỏi:
- Sao Đại tướng quân không mặc giáp trụ?
Nghị đáp:
- Nước đã đến trôn mà còn mặc giáp trụ nỗi gì! Mau đem quân hộ vệ ta chạy về nước kéo không còn tính mạng.
Nói rồi nhằm cửa Bắc thành Thăng Long mà chạy, Tôn Đường Bảo không biết làm thế nào đành đem mấy trăm quân cận vệ chạy theo chủ tướng. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ quân mà chạy thì tán loạn chạy theo. quân Tây Sơn ùa vào thành tha hồ chém giết.
Đặng Văn Long bảo quân hô lớn rằng:
- Bắt sống Tôn Sĩ Nghị báo thù Trần Danh Bính.
Tôn Sĩ Nghị nghe vậy càng hoảng sợ, cắm cổ quất ngựa chạy dài. Ra khỏi thành rồi qua cầu phao bắc ngang sông Nhị Hà, Tôn Sĩ Nghị bảo Tồn Đường Bảo rằng:
- Sống Nhị Hà vừa rộng vừa sâu, ngươi hãy mà chặt dứt cầu này ắt quân Tây Sơn không thể truy đuổi kịp ta được.
Tôn Đường Bảo hỏi:
- Quân ta vừa qua cầu được chừng hơn một vạn nếu chặt đứt cầu còn tính mạng mười vạn quân ta bên ấy đành giao cho giặc Tây Sơn hay sao?
Nghị đáp:
- Quân Tây Sơn hành bình thần tốc, nếu không chặt cầu, chúng đuổi theo thì ta và ngươi phải chết kể gì quân sĩ. Mau theo lệnh ta quay lại chặt cầu.
Tôn Đường Bảo vâng lời quay lại chặt đứt cầu phao sông Nhị.
Thương thay hàng mấy vạn quân Thanh rớt xuống sông chết đuối nhiều đến nỗi sông Nhị Hà rộng đến mấy dặm mà bị nghẽn nước không chảy được.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 53 Thượng Duy Thăng vùi thây đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị bỏ ấn giữ thân.
Vua Quang Trung đóng quân tại phía Nam thành Ngọc Hồi. Ngày mùng bốn tết Kỷ Dậu (1789) quân do thám vào đại bản doanh báo rằng:
- Tâu Hoàng thượng, đại đô đốc Đặng Văn Long đã chiếm đón Khương Thượng, tướng giặc Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn. Hiện đại đô đốc Văn Long đang tiến đánh Thăng Long.
Vua Quang Trung vỗ tay bảo:
- Mất Khương Thượng tất Tôn Sĩ Nghị phải bỏ Thăng Long mà chạy. Năm vạn quân của Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi sẽ không còn đường rút. Thượng là cao, Thăng là bay, hắn muốn bay lên cao, ta sẽ vùi thây hắn tại đầm Mực cho người Tàu biết nước Nam ta đánh giặc như thế nào!
Đoạn vua gọi:
- Võ Đình Tú!
Tú đứng lên đáp:
- Có!
Vua hạ lệnh:
- Khanh hãy đem hai ngàn quân tinh nhuệ, dùng thuyền nhỏ theo sông Tô Lịch đến huyện Quỳnh Đô ở phía Bắc Ngọc Hồi rồi án binh bất động. Khi Thượng Duy Thăng thua trận chạy về thì khua chiêng nổi trống làm kế nghi binh, Thượng Duy Thăng tất theo đường đê Yên Duyên chạy vào đầm Mực. Khi thấy giặc chạy vào đến Yên Duyên rồi, Tú lập tức đem quân ra Bắc đánh quân tiếp viện của Hứa Thế Hanh.
Võ Đình Tú bước ra lãnh lấy binh phù. Vua Quang Trung gọi:
- Đặng Xuân Bảo!
Bảo bước ra đáp:
- Có!
Vua hạ lệnh:
- Khanh mau đem một ngàn quân và một trăm thớt voi theo đường núi Sơn Minh đến làng Đại Áng sau đó ra phục quân bên đầm Mực. Khi thấy Thượng Duy Thăng dẫn quân lội băng qua đầm Mực, lập tức lừa voi xuống dìm chúng trong đầm Mực cho ta.
Đặng Xuân Bảo lãnh lấy binh phù đi ngay. Đoạn vua tuốt gươm đứng lên nói lớn:
- Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đánh Ngọc Hồi. Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở cứ ý lời ta dặn mà làm.
Phan Văn Lân dùng một ngàn tinh binh, chia nhau cứ hai mươi người khiêng một tấm ván phủ rơm dàn hàng ngang đi trước. Ngô Văn Sở đem một vạn quân khom mình nắp sau tấm vẫn ấy tiến vào đồn Ngọc Hồi. Tướng Thanh là Thượng Duy Thăng thấy quân Tây Sơn cứ lừ lừ mà tiến, liền bảo quân:
- Chờ chúng đến gần tầm đạn rồi nhất tề nổ súng.
Quân Thanh bắn tên đạn ra như cát vãi. Quân Tây Sơn không hề nao núng cứ thế tiến lên. Thấy vậy Thượng Duy Thăng bảo quân rằng:
- Mau bắn tên lửa ra, ván gặp lửa tất phải bị cháy.
Quân Thanh lại dùng tên lửa nhằm quân Tây Sơn mà bắn. Tên lửa gặp rậm ướt phụ ngoài tấm ván liền tắt ngấm. Hai bên giáp trận, Phan Văn Lân hạ lệnh:
- Mau liệng ván giáp chiến.
Quân Tây Sơn xô ván, nhất loạt rút vũ khí tràn vào tựa nước vỡ bờ, thế như mãnh hổ. Quân Thanh rối loạn hàng ngũ, mạnh ai nấy chạy. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân thúc quân đuổi tràn theo, Thượng Duy Thăng đương không nổi bèn bỏ chạy về phương Bắc. Chạy đến sông Tô Lịch, tiền quân đến bảo:
- Thưa tướng quân, quân Tây Sơn chặn đường về thành Thăng Long, xin tướng quân định liệu.
Thượng Duy Thăng thất kinh than:
- Nay hai đều đều thọ địch, ta phải liệu làm sao.
Tả hữu hiến kế:
- Thưa tướng quân, theo thượng nguồn sông Tô Lịch có đê Yên Duyên dẫn đến đầm Mực. Đầm này nước không quá cổ, vậy ta nên theo đê Yên Duyên mà chạy rồi vượt quá đầm Mực tất thoát được về Thăng Long.
Thượng Duy Thăng liền bảo quân chạy về phía ấy. Thấy quân Thanh chạy về để Yên Duyên, Võ Đình Tú nói thầm rằng:
- Hoàng thượng liệu việc như thần. Quân Thanh quả nhiên chạy vào đầm Mực.
Tướng Tây Sơn là Đặng Xuân Bảo đem một trăm con voi phục dưới chân núi quanh đầm Mực. Thấy Thượng Duy Thăng dẫn tàn quân toan vượt đầm, Đặng Xuân Bảo nói:
- Hoàng thượng liệu việc như thần. Tượng binh lập tức xung trận.
Đặng Xuân Bảo lựa một trăm thớt voi tràn xuống đầm Mực. Voi gầm thét xông lên, dùng chân mà dày, dùng vòi mà quật, dùng ngà mà húc. Quân Tây Sơn ngồi trên bành voi thấy quân Thanh ở xa thì trương cung xạ tiễn. Thương thay hàng vạn quân Thanh bị dìm trong đầm mà chết. Nước đầm Mực vốn đen nay đỏ lên như máu.
Thượng Duy Thăng thực ngựa mà chạy, Đặng Xuân Bảo thúc voi đuổi theo. Con ngựa của Thượng Duy Thăng chạy cả ngày đã đuối sức, voi Xuân Bảo đuổi mỗi lúc một gần. Liệu bề không thoát, Thượng Duy Thăng ngửa mặt khóc than rằng:
- Cha mẹ đặt ta tên Thượng Duy Thăng nghĩa là bay lên cao. Không ngờ Thượng Duy Thăng ta phải chết trong bùn lầy ao tù ở nước An Nam.
Than xong liền đâm cổ tự vẫn.
Bây giờ tướng Thanh là Hứa Thế Hanh vâng lệnh Tôn Sĩ Nghị đem ba vạn quân tiếp cứu cho Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi. Vừa đem quân ra khỏi cổng Nam thành được vài dặm bỗng nghe ở Thăng Long súng nổ rền vang, lửa cháy rực trời, quân reo tở mở, Hứa Thế Hanh con đang lưỡng lự chưa biết nên tiến thoái thế nào. Bỗng vài tên quân từ hướng Bắc phi ngựa đến bảo:
- Thưa tướng quân, sau khi tướng quân dẫn binh đi rồi, tướng Tây Sơn là Đặng Văn Long bất ngờ đánh úp đồn Khương Thượng, tướng quân Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn. Quân Tây Sơn thừa thắng đánh vào cửa Tây thành Thăng Long, Tôn Đại tướng quân bất ngờ trở tay không kịp đã thua chạy về nước. Chúng tôi là quân giữ cửa Nam thành chạy ra không kịp nên mới chạy vào theo báo cho tướng quân được rõ.
Hứa Thế Hanh thất kinh nói:
- Thành Thăng Long mất, ắt ta chẳng còn đường rút, vậy phải vào hợp bình cùng Thượng Duy Thăng trấn thủ Ngọc Hồi chờ quân cầu viện.
Hanh vừa dứt lại, quân mặt Nam chạy về phi báo:
- Thưa tướng quân, Nguyễn Huệ đã chiếm Ngọc Hồi, tướng quân Thượng Duy Thăng tử trận. Hiện quân Tây Sơn đang đuổi đến nơi, xin tướng quân định liệu.
Hứa Thế Hành đang ngồi trên mình ngựa, thả cương vừa lấy tay vỗ đùi, thúc chân vào bụng ngựa vừa than:
- Ta đã thua mưu Nguyễn Huệ rồi!
Chẳng dè con ngựa được nới đây cương lại bị thúc vào hỏng ngỡ chủ bảo chạy, liền chồm lên phi nước đại. Hứa Thế Hanh bất ngờ mất đà té nhào xuống đất. Vừa lúc ấy tướng Tây Sơn là Võ Đình Tú lướt ngựa đến đập một côn, Hứa Thế Hành bể sọ vọt óc chết tươi. Quân Thanh thấy chủ tướng chết, đều vứt giáo xin hàng.
Nhắc lại đại Đô đốc Đặng Văn Long chiếm được thành Thăng Long rồi, nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân, Hoàng thượng đã tiêu diệt mười vạn quân Thanh ở Hạ Hồi và Ngọc Hồi. Hiện Hoàng thượng đang tiến quân về thành Thăng Long.
Đặng Văn Long bảo quân:
- Mau mở cổng Nam thành đón vua.
Nhân dân trong thành ngoài nội kéo ra chật hai bên đường, đồng thanh hỏi:
- Hoàng thượng đâu? Hoàng thượng đâu?
Tên quân đi trước lên chỉ vào vua đáp:
- Hoàng thượng đang ngồi trên lưng voi kia kìa. Các ngươi sao không tung hô con hỏi gì nữa.
Dân lại hỏi:
- Vua phải mặc hoàng bào chứ, người này mặc áo đen ắt không phải là Hoàng thượng.
Tên quân đáp:
- Hoàng thượng mặc hoàng bào ngự giá thân chinh ra trước trận tiền nên hoàng bào dạ nhuộm đen màu thuốc súng đó thôi.
Vừa lúc ấy Đặng Văn Long ra đón. Gặp vua, Long xuống ngựa quỳ tâu:
- Hoàng thượng vạn tuế!
Bá tánh trông thấy liền quỳ xuống hô vang rằng:
- Hoàng thượng vạn tuế! Đại đế muôn năm!
Vào thành rồi vua Quang Trung hạ lệnh:
- Đặng Xuân Phong và Đặng Xuân Bảo đem một vạn quân truy kích Tôn Sĩ Nghị. Đến Yên Thế gặp Nguyễn Văn Lộc chặn đường về của giặc thì hai mặt giáp công.
Phong và Bảo lãnh lệnh đi ngay.
Nói về Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân một vạn chạy về đến Yên Thế, tuỳ tướng Tôn Dương Bảo hỏi:
- Nơi này hai bên núi non hiểm trở, cỏ cây rậm rạp, chỉ có một con đường độc đạo mà đi, nếu quân Tây Sơn đem binh chặn ở nơi này thì ta nguy mất.
Tôn Sĩ Nghị bảo:
- Từ ải Tam Điệp đến Thăng Long đường xa năm trăm dặm mà Nguyễn Huệ vừa đi vừa đánh chỉ có năm ngày đã là thần tốc lắm rồi, đông tây kim cổ chưa tiếng nghe nói. Hoa may Nguyễn Huệ có thiên binh, thiên tướng mới chặn được ta ở ải này.
Tôn Sĩ Nghị vừa dứt lời bỗng nghe một tiếng pháo lệnh nổ vang, tức thì hai bên sườn núi tên bắn xuống như mưa. Quân Thanh trúng tên chết gần hết. Tôn Sĩ Nghị thất kinh hỏi:
- Nguyễn Huệ điều binh đi đường nào mà đến được Yên Thế chặn đường về của ta?
Tôn Dương Bảo đáp:
- Nguyễn Huệ chỉ có cách dùng thuỷ binh mới đưa quân đến đây được mà thôi!
Tôn Sĩ Nghị thở dài nói:
- Nếu vậy ắt Nguyễn Huệ phải biết ngày đổi gió Đông nam mới sắp đặt kế sách đánh ta. Ta thật không phải là đối thủ của Nguyễn Huệ. Ba quân phá liều chết phá vây mà chạy.
Tôn Đường Báo cùng đoàn quân hộ vệ cố gắng gạt tên che chở cho Tôn Sĩ Nghị chạy gần thoát khỏi hẻm núi. Chợt một viên tướng Tây Sơn đầu đội kim khôi, mình mặc giáp trụ, tay cầm trường thương lướt ngựa đến chặn đường. Tướng ấy hét lên rằng:
- Tôn Sĩ Nghị chạy đâu cho thoát, có ta là đô đốc Nguyễn Văn Lộc đợi ngươi đã lâu.
Tôn Sĩ Nghị quay lại thấy quân hộ vệ của mình chỉ còn tuỳ tướng Tôn Dương Bảo và vài mươi tên lính. Biết không thoát được, Nghị quăng gươm xuống ngựa chịu trói. Tôn Dương Bảo và bọn quân sĩ thấy vậy đều bỏ vũ khí xin hàng. Nguyễn văn Lộc đưa mắt ra hiệu cho quân mình, quân Tây Sơn liền đồng loạt vung gươm giáo giết hết Tôn Dương Bảo và bọn quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị thất kinh hỏi Nguyễn Văn Lộc:
- Bọn ta đã hàng sao còn giết hết đi?
Nguyễn Văn Lộc cười ha hả nói:
- Ta giết hết bọn quân sĩ của ngươi là muốn giữ mạng sống cho ngươi đó.
Nghị nghi hoặc hỏi:
- Tướng quân nói vậy là ý thế nào?
Nguyễn Văn Lộc cười ngạo nghễ nói:
- Ta muốn tha mạng cho của ngươi, không thèm giết làm gì cho bẩn thương của ta. Vậy lúc về nước bọn quân sĩ của ngươi lộ tin: ngươi bị ta bắt rồi thả cho đi, thì Càn Long lại tha mạng cho ngươi sao? Và tiếng hèn của ngươi ắt con để đến ngàn thu. Vì thế ta mới giết hết bọn quân sĩ của ngươi để giữ mạng và giữ gìn thanh danh cho ngươi đó.
Chúa hết ngờ vực, Nghị lại hỏi:
- Nhưng vì sao tướng quân lại tha cho ta?
Lộc cười lớn rồi đáp, giọng khinh bỉ:
- Ta tha cho ngươi chạy về để cả nước Đại Thanh biết rằng: Đại tướng Tôn Sĩ Nghị sang đánh nước Nam thua trận đến nỗi người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên tất tả chạy về. Chứ nếu ta giết ngươi thì người nước Tàu sao thấy cái oai của nước Nam ta được.
Nói xong Lộc lại cười to, Nghị cả thẹn cúi gầm mặt. Lộc nâng cằm Nghị lên bảo:
- Đáng lẽ ta giết ngươi để bá thù cho Trần Danh Bính. Những xét thấy nhà Thanh các ngươi là tổ Mãn cũng phường mọi rợ nên chẳng biết luật: Hai nước đánh nhau không nên chém sứ, thành ra ta mới mở lượng hiếu sinh mà tha cho kẻ chẳng biết gì. Và ngươi hãy lậy tạ ba lậy gọi là tạ lỗi cùng Trần Danh Bính rồi ta sẽ để cho ngươi đi.
Nghị còn đang do dự, Lộc vung thương quát:
- Lậy không thì bảo?
Nghị hoàng hồn sụp xuống chân ngựa của Lộc mà lậy. Chẳng dè trong lúc luống cuống cúi lậy, cái tráp Nghị giấu trong người rơi xuống đất. Lộc bảo quân lấy nộp lên. Thấy cái tráp sơn son thếp vàng ngoài đề mấy chữ: "Bình Nam Đại tướng quân Tôn Sĩ Nghị", Lộc nghiêm mặt hỏi:
- Tráp này đựng sắc thư ấn tín của Càn Long ban cho ngươi phải không?
Nghị chưa kịp đáp, Lộc lại bảo:
- Nay Đại tướng quân người không cần mặc giáp ngựa không cần đóng yên cũng đã bình được nước Nam rồi. Vậy Đại tướng quân hãy về nước ngay chớ kéo ta đổi ý thì nguy đó.
Nghị lấm lét nhìn sắc thư ấn tín nằm trong tay Lộc, rồi ngậm đắng nuốt cay nhảy lên mình ngựa toan ra roi. Bỗng nghe Lộc gọi giật:
- Hãy khoan!
Nghị tháo mồ hôi hột:
- Tướng quân con dậy thêm gì nữa chăng?
Lộc cười bảo:
- Ngươi về gặp vua Càn Long hay thưa là: phá vây thoát được chạy về. Chờ dại dột mà khai rằng bị bắt bị lột sạch sắc thư ấn tín rồi được tha cho đi đấy nhé. Nếu người khai như thế thì người nước ngươi sẽ cười Tôn Sĩ Nghị hèn nhát khóc than lậy lục mới được thả! Và vua Càn Long sẽ chặt đầu ngươi đó. Vả lại Tôn tướng quân chớ vội, ta sẽ đích thân đưa tướng quân về đến ải Nam Quan, kéo đi một mình ngộ nhỡ gặp dân ta bắt giết, thì Lộc ta phải mang tội với vua.
Đoạn Tôn Sĩ Nghị theo Nguyễn Văn Lộc đến ải Nam Quan, rồi một mình một ngựa lủi thủi về nước trong sự lo mừng của một người vừa thoát chết.
Tôn Sĩ Nghị đi rồi, Nguyễn Văn Lộc lệnh cho tả hữu:
- Mau truyền bảo quân sĩ nói phao lên rằng: sẽ đuổi sang biên giới bắt cho được Tôn Sĩ Nghị mới thôi!
Dân chúng Trung Hoa ở biên cương thấy Đại tướng quân Tôn Sĩ Nghị người không khôi giáp, ngựa chẳng áo yên hớt hải chạy về; lại nghe quân Tây Sơn kháo ầm lên như thế, người người dắt díu bồng bế nhau chạy trốn về phương Bắc. Cách ải Nam Quan hàng mấy trăm dặm tuyệt nhiên không một bóng người.
Nói về đạo quân Thanh do Ô Đại Kinh thống lãnh đi theo đường Tuyên Quang tiến đến trấn Sơn Tây ở phía Tây thành Thăng Long. Ô Đại Kinh nghe quân do thám báo:
- Thưa tướng quân, quân Tây Sơn tiến đánh Thăng Long, các tướng Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, Hứa Thế Hành, Sầm Nghi Đống đều tử trận. Tôn Đại tướng quân đã bỏ Thăng Long chạy về nước.
Ô Đại Kinh giật mình nói:
- Mau truyền lệnh ta lập tức rút binh. Nếu ta không dè dặt mà vội đi trước để tranh công ắt mạng chẳng còn.
Nói xong liền dẫn sáu vạn quân dưới trướng vội vã rút về.
Thế là trong vòng năm ngày, vua Quang Trung thống lãnh mười vận quân Tây Sơn tiêu diệt hơn hai mươi vạn quân Thanh, đuổi giặc ngoại xâm ra ngoài bờ cõi.
Nhắc lại Nguyễn Văn Lộc đuổi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi ải Nam Quan rồi, Lộc cắt tướng ở lại giữ ải, đoạn thu bình về Thăng Long ra mắt vua Quang Trung. Lộc quỳ thưa:
- Tâu Bệ hạ, Tôn Sĩ Nghị đã trốn thoát về nước. Thần bắt được sắc thư ấn tín của hắn xin dâng Bệ hạ duyệt lãm.
Nói xong Lộc dâng các chiến lời phẩm lên vừa. Các tướng Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú cùng quỳ thưa:
- Xin Bệ hạ tha tội cho Nguyễn Văn Lộc.
Vua Quang Trung cười hỏi:
- Vì sao các khanh lại xin ta tha tội cho Nguyễn Văn Lộc.
Phan Văn Lân đáp:
- Trước lúc xuất quân, Lộc tướng quân có nói nếu Bệ hạ trong năm ngày đuổi quân Thanh khỏi Thăng Long mà Văn Lộc không bắt được Tôn Sĩ Nghị thì sẽ chịu tội theo quân pháp. Nên chúng thần mới xin Bệ hạ tha tội cho Văn Lộc đó.
Vua Quang Trung lại mỉm cười hỏi:
- Đối nhà Trần, trong cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất, khi Thoát Hoan dẫn đại binh chạy về đến Vạn Kiếp vẫn còn đủ các đại tướng là Lý Hằng, Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán, vậy mà Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho quân kéo chạy mới thoát được về nước. Còn hôm nay khi Đặng Văn Long đánh vào cửa Tây thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị mới vội vàng tháo chạy, đến nỗi người không kịp mắc giáp, ngựa không kịp đóng yên. Trong khi do ta đã sai Nguyễn Văn Lộc đem quân phục sẵn ở Yên Thế. Núi Yên Thế hiểm trở chỉ có một con đường chạy về phương Bắc. Nếu một trong các tướng chặn đường này liệu Tôn Sĩ Nghị có chạy thoát được chăng?
Đặng Văn Long đáp:
- Vũ dũng như Văn Lộc lại chặn đường hiểm đi Yên Thế thì Tôn Sĩ Nghị sao có thể thoát được. Việc này chúng thần không hiểu nổi.
Vua Quang Trung cười lớn bảo:
- Văn Lộc! Khanh hay nói cho các tướng nghe xem vì sao Tôn Sĩ Nghị chạy thoát về nước được.
Bấy giờ Nguyễn Văn Lộc mới nói:
- Tôn Sĩ Nghị chạy thoát khỏi Yên Thế mà trở về nước là do thần đã thả hắn đó.
Nghe Lộc nói xong, các tướng sững sờ kinh ngạc. Võ Đình Tú hỏi:
- Tại sao ông dám cãi lệnh vua mà không bắt tướng giặc?
Lộc đáp:
- Số là lúc tôi nhận lệnh đem thuỷ binh cùng Nguyễn Văn Tuyết vào cửa Lục Đầu sau đó tôi đem quân lên Yên Thế chặn đón đường Tôn Sĩ Nghị. Nhưng trước khi đi vua có sai người trao cho tôi một bức mật thư bảo tôi bắt được Tôn Sĩ Nghị rồi phải tha cho hắn đi. Nếu hắn chết thì tôi phải tội! Nên tôi bắt được hắn xong phải hộ tống hắn đến ải Nam Quan mới dám quay về.
Đặng Xuân Bảo ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng vì sao phải tha Tôn Sĩ Nghị?
Lộc đáp:
- Việc này tôi không được biết, tôi chỉ làm theo lệnh mà thôi - Rồi quay sang vua Quang Trung, Lộc hỏi - Xin Bệ hạ giảng giải vì sao phải tha Tôn Sĩ Nghị?
Vua Quang Trung cười đáp:
- Đánh trận này ta sai Đặng Văn Long chiếm dồn Khương Thượng và thành Thăng Long trước, tất bốn viên đại tướng quân Thanh là Sầm Nghi Đống, Hứa Thế Hành, Thượng Duy Thăng và Trương Triều Long sẽ không còn đường thoát. Quả nhiên bốn tên này đều phơi thây tại trận. Vậy nếu ta không tha cho Tôn Sĩ Nghị thì lấy ai về báo kế sách đánh giặc của ta cho vua Càn Long nhà Thanh hay. Càn Long tất sợ rằng sai tướng sang đánh báo thù sẽ thua trận nữa, nên sẽ thuận lòng khi ta sai sứ sang cầu hoà. Thế là ta sẽ tránh cho dân nước ta được một trận can qua. Vì lẽ ấy nên ta mới tha Tôn Sĩ Nghị đó.
Nguyễn Văn Tuyết con tức lắm, vểnh râu hỏi:
- Nếu vậy ta tha cho vài tên tiểu tướng chạy về báo cùng được. Sao Bệ hạ lại tha cho Tôn Sĩ Nghị?
Vua Quang Trung lắc đầu đáp:
- Bọn tiểu tướng chỉ sai đâu đánh đó làm sao biết được sách lược hành binh. Một Đại tướng soái thua trận chạy về mà không biết bị đánh như thế nào thì Càn Long mới sợ. Có khi hắn sẽ sai người sang ta làm hoà trước cho các khanh xem.
Đặng Văn Long nghi ngờ hỏi:
- Càn Long là tay anh hùng kiệt hiệt ở phương Bắc, có lý đâu lại hạ mình cầu hoà với ta trước?
Quang Trung cười bảo:
- Thua trận này Càn Long đem quân đánh báo thù thì sẽ thua nữa, mà nhịn đi thi nhục. Càn Long sẽ sai người sang bảo ta hạ mình cầu hoà thì hắn sẽ cho hoà, thế Càn Long mới là tay anh hùng kiệt hiệt. Các khanh hãy nhớ lời ta xem ta nói đúng hay không nhé.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 54 Sợ Nam quân Phúc Kháng An sai sứ bảo giảng hoà. Giận Bắc Triều, Ngô Thì Nhậm viết thư bãi cống.
Nói về Tôn Sĩ Nghị thua trận chạy thoát về Bắc Kính quỳ trước triều chịu tội. Vừa Càn Long giậm chân quát:
- Võ sĩ! Lôi Tôn Sĩ Nghị ra chém tức thì!
Nghị vã mồ hôi hột, đập đầu van:
- Xin Hoàng thượng tha mạng. Chẳng phải hạ thần không hết lòng, nhưng vì quân Tây Sơn hùng mạnh, Nguyễn Huệ chước quý mưu thần bất ngờ tiến đánh làm hạ thần trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng minh xét!
Vua Càn Long nét mặt hầm hầm hỏi:
- Nguyễn Huệ dùng kế gì mà ngươi gọi là chước quỷ mưu thần, để đến nỗi bốn viên đại tướng và hai mươi vạn quân phải bỏ thây Nam quốc, làm nhục mệnh của ta?
Nghị lau mồ hôi đáp:
- Tâu Hoàng thượng, lúc quân ta kéo sang đưa vua Lê về nước, Nguyễn Huệ bảo quân bộ Bắc Hà rút về cố thủ ở đường độc đạo là ải Tam Điệp. Trên đường rút, quân Tây Sơn lại xoá hết bếp lò, vãi gạo ra đường khiến thần ngờ rằng quân Tây Sơn sợ đến nỗi phải nhai gạo sống mà chạy...
Ngắt lời Nghị, Càn Long quát:
- Rồi ngươi dương dương tự đắc vào Thăng Long như chỗ không người nên chẳng đề phòng chứ gì. Một kế mọn như thế mà cũng lầm để quân ta đại bại. Tội thật đáng chết.
Tôn Sĩ Nghị vội tâu:
- Đến Thăng Long hạ thần vẫn cẩn thận cho quân đóng đồn cảnh giới chờ ăn tết xong sẽ cất quân vào đánh Huệ. Chẳng ngờ bị trúng khổ nhục kế của Nguyễn Huệ mới không phòng bị.
Càn Long nghi ngờ hỏi:
- Khổ nhục kế như thế nào.
Nghị có gắng giảng giải:
- Nguyễn Huệ sai Trần Danh Bính làm sứ giả đem thư đến xin hàng. Hạ thần tra khảo Trần Danh Bính hỏi xem Nguyễn Huệ động tĩnh thế nào. Đến lúc chết Bính vẫn một mực khai rằng Huệ còn ở Phú Xuân đêm ngày lo sợ, sai sứ giả đến xin hàng, nên hạ thần mới tin rằng Nguyễn Huệ chưa đem quân đến thật mà xao nhãng việc canh phòng. Xin Hoàng thượng rộng xét.
Vua Càn Long dịu giọng bảo:
- Kế khổ nhục là ta tự đánh người của ta, rồi sai đi trá hàng. Kế khổ nhục này là giả hàng trước, cho địch đánh người của ta, ấy thật là kế lạ xưa nay chưa từng nghe nói. Nguyễn Huệ thật đa mưu túc trí. Nhưng khi mất Hạ Hồi thì các ngươi đã biết mà cẩn thận đề phòng, vì sao quân đông gấp ba lần mà thua một?
Nghị đáp:
- Nguyễn Huệ sai quân rút khỏi Thăng Long là dùng kế "không thành". Nhưng Huệ không mai phục bốn phía rồi đổ ra đánh vì sợ lộ, bởi lòng người còn thương mến nhà Lê. Huệ dùng khổ nhục kể cho thần không đề phòng rồi đưa quân từ Tam Điệp ra vây thành Thăng Long nên hạ thần trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng tha mạng.
Vua Càn Long lại vỗ ngai quát hỏi:
- Binh pháp có câu "Biết người biết ta trăm trả trăm thắng!", thế còn quân thám mã của ta ở đâu, để đến nỗi Nguyễn Huệ đưa quân vây thành mà không một ai biết.
Nghị cố phân trần:
- Đường từ Tam Điệp đến Thăng Long xa bốn trăm dặm. Đêm ba mươi tết thám mã còn về báo rằng quân Tây Sơn ở Tam Điệp vẫn án binh bất động, vậy mà đến ngày mùng bốn tết chúng đã có mặt ở Thăng Long lúc quân ta còn cất gươm cởi giáp chưa tỉnh cơn say nên trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng tha tội!
Càn Long lại hỏi:
- Nghĩa là chúng hành bình thần tốc khiến ngươi không lường được phải chăng?
Nghị đập đầu đáp:
- Đường đại lộ thì có Trương Triều Long đóng ở Hạ Hồi, Thượng Duy Thăng đóng ở Ngọc Hồi, nên Nguyễn Huệ mới cho một đạo quân theo đường núi dẫn vào phía Tây thành Thăng Long. Đường núi này xa ba trăm dặm, dù hành quân ngày đêm không nghỉ, không dừng lại ăn uống cũng phải hết bốn ngày đường là ít nhất, nên hạ thần không lường trước được.
Càn Long lấy làm lạ hỏi:
- Nguyễn Huệ hành binh bằng cách gì mà nhanh thế?
Nghị hổ thẹn đáp:
- Điều này quân ta không một ai hay biết.
Càn Long quay sang quần thần hỏi:
- Các ngươi hãy suy nghĩ xem Nguyễn Huệ hành quân bằng cách gì mà không dừng quân nấu ăn không cho quân nghỉ ngơi mà vẫn mạnh khỏe đánh thắng được quân ta?
Quần thần xôn xao bàn tán một hồi, Càn Long hỏi bọn quan văn:
- Các khanh đã nghĩ ra chưa.
Cận thần là Hoà Thân đáp:
- Chúng thần vẫn không nghĩ ra. Hoạ mà Nguyễn Huệ có tài sái đậu thành binh.
Càn Long quay sang hàng quan võ:
- Còn các khanh thì thế nào?
Võ quân Phục Khang An tâu:
- Sách bình thư chúng thần không rành bằng Bệ hạ nên vẫn nghĩ chưa ra.
Càn Long nghĩ thầm rằng: Thắng bại là lẽ của binh gia, nhưng từ xưa đến nay tướng thua trận chạy về phải biết được địch đánh thế nào khiến ta thua trận. Nay, việc Tôn Sĩ Nghị thua trận lại không biết Nguyễn Huệ hành bình như thế nào thì thật là lạ. Đã không biết người biết ta làm sao thắng được địch.
Tuy nghĩ vậy, vua Càn Long vẫn lạnh lùng hạ lệnh:
- Nay ta phong Phúc Khang An làm chánh tướng Thang Hùng Nghiệp làm phó tướng đem năm mươi vạn đại binh sang nước Nam đánh Nguyễn Huệ báo thù.
Nói xong Càn Long truyền bãi triều. Đi ngang qua mặt Phúc Khang An vua Càn Long bảo:
- Bình thư, thao lược khanh giỏi nhất trong các tướng của ta nên ta mới sai khanh sang đánh Nguyễn Huệ. Vậy có cảm thấy khó khăn điều gì hãy đến gặp riêng ta.
***
Đêm hôm ấy Phúc Khang An tìm đến yết kiến vua Càn Long. Càn Long hỏi:
- Khanh gặp khó rồi phải không.
An đáp:
- Thần đã học nhiều binh pháp của tiền nhân như Tôn Võ, Ngô Khởi, Khổng Minh, nhưng có điều chưa rõ nên đến đây thỉnh ý Hoàng thượng trước khi đem quân đánh Nguyễn Huệ.
Vua Càn Long bảo:
- Điều gì khanh cử hôi.
An hỏi:
- Trong binh pháp cầu nào là hệ trọng nhất đối với đạo làm tướng khi đối địch?
Càn Long đáp:
- Biết người biết ta trăm trận trăm thắng.
- Vậy xin hỏi Hoàng thượng: nay ta không biết Nguyễn Huệ hành binh bằng cách gì mà thần tốc từ cổ chí kim chưa từng có, vậy ta phải đối phó thế nào?
Vua Càn Long thở dài nói:
- Không biết người thì sao biết được ta nên làm thế nào để thủ thắng. Chẳng qua khanh là người tâm phúc của ta nên ta mới sai khanh đánh Nguyễn Huệ để báo thù đấy thôi.
Phúc Khang An hỏi:
- Vậy ý là Hoàng thượng còn cố ý gì chăng?
Càn Long gật đầu đáp:
- Ta sai khanh đánh Nguyễn Huệ vì tướng giỏi như khanh tất phải thấy lẽ được thua nếu lần nữa cất quân. Không đem quân đánh báo thù thì nhục, mà đem quân sang đánh tất phải thua.
Phúc Khang An hỏi:
- Vì lẽ ấy, trước triều Hoàng thượng phải sai thần sang đánh Nguyễn Huệ để thần đến nhận lệnh riêng của Bệ hạ?
Càn Long đáp:
- Nay ngoài mặt khanh cứ nhận lệnh giữa triều chỉnh đốn binh mã. Phía sau lưng khanh hãy sai sứ sang nước Nam nói với Nguyễn Huệ thế này... thế này... Huệ tất sẽ dâng biểu cầu hoà. Có biểu của Huệ ta lập tức bãi binh mà không phải hổ thẹn cùng thiên hạ.
Phúc Khang An mừng rỡ bái tạ khen:
- Hoàng thượng thật là cao kiến!
Nói xong An liền về tư dinh viết thư rồi sai người đem sang Nam quốc.
Phần vua Càn Long, sau khi Phúc Khang An về rồi, vua ngửa mặt than:
- Ta ở ngôi đã năm mươi năm, nay tuổi đã bát tuần mà chưa bao giờ gặp phải cảnh hoà cũng không được mà đánh cũng không xong như thế này. Thật đáng giận thay!
Nói về sứ giả vâng lệnh Phúc Khang An đến Nam quốc yết kiến vua Quang Trung. Sứ thưa:
- Tâu Hoàng thượng, thần là người thân tín của quan tả đạo Giang Tây Thang Hoàng Nghiệp. Vừa rồi Hoàng đế nước thần sai đại tướng Phúc Khang An và chủ hạ thần đem năm mươi vạn quân sang nước của Hoàng thượng đánh báo thù cho bọn tướng là Hứa Thế Hành, Sầm Nghi Đống, Trương Triều Long và Thượng Duy Thăng. Chủ hạ thần vì không muốn can qua nên sai thần đến đây khuyên Hoàng thượng chủ động cầu hoà để hai nước tránh khỏi nạn binh đao dân chúng an hưởng thái bình. Xin Hoàng thượng minh xét.
Vua Quang Trung xua tay nói:
- Hoàng đế Càn Long nhà Đại Thanh vốn là vua nước lớn, vừa rồi đem ba mươi vạn quân sang đánh nước ta bị thua, ắt vì tự ái mà quyết báo thù. Ta e rằng vua Càn Long không chịu cho hoà. Đã biết thế còn cầu khẩn làm gì thêm hao hơi tốn mực, ngươi về bảo với Thang Hùng Nghiệp và Phúc Khang An rằng: muốn đánh thì cứ đem quân sang đây. Nước Nam ta tuy nhỏ nhưng để giữ gìn độc lập không quản ngại chiến chinh.
Sứ giả thất kinh nói:
- Vì muôn vàn sinh linh nên chủ hạ thần mới sai thần đến đây cùng Hoàng thượng bàn việc hoà bình. Chủ thần xin hiến một kế khiến Hoàng thượng nước thần thuận ý cho hoà!
Vua Quang Trung hỏi:
- Thang Hùng Nghiệp bày kế thế nào?
Sứ giả đáp:
- Trong triều đại Thành của thần có Thái sử Hoà Thân. Thái sư bàn thế nào Hoàng đế thần đều chuẩn y. Nay Hoàng thượng một mặt lo lót vàng bạc cho Thái sư để Thái sư nói thêm vào, một mặt Hoàng thượng nể nước lớn hạ mình dâng biểu xin hoà trước việc ắt sẽ thành.
Nghe xong vua Quang Trung vỗ ngai quắc mắt quát:
- Lão xược, Mãn Thanh các ngươi tuy là nước lớn nhưng đối với nước Nam ta là hai nước hai vua. Ta từ Tây Sơn dấy nghĩa ngang dọc tung hoành, bốn lần vào Nam, ba lần ra Bắc. Tiêu diệt quân Tiêm La bạt vía Chiêu Tăng, đập tan quân Thanh các ngươi kinh hồn Tôn Sĩ Nghị. Giúp dân dựng nước, tế cáo trời đất lên ngôi không chịu thụ phong của vua Càn Long sao ngươi dám bảo phải chịu hạ mình. Quan bay lôi ra chém!
Sứ giả thất kinh hồn vía lậy như tế sao rằng:
- Xin Hoàng thượng tha mạng, thần vì muốn hạ nhục khỏi nạn binh đao mà nói là lời chữ nào đã dám xúc phạm đến oai võ của Hoàng thượng. Vả lại hai nước đánh nhau không nên chém sứ. Hoàng thượng không hoà thời thôi sao lại chém thần.
Vua Quang Trung làm bộ giận dữ hét lớn rằng:
- Ngươi bảo hai nước đánh nhau không nên chém sứ, vậy tại sao ta sai Trần Danh Bính đến gặp Tôn Sĩ Nghị xin hoà, đã không cho hoà con chém sứ của ta?
Sứ giả sợ đã mất mật gắng sức van xin rằng:
- Xin Hoàng thượng tha mạng. Hoàng thượng là đáng minh quân lẽ nào lại làm như Tôn Sĩ Nghị há sao. Xin Hoàng thượng tha mạng.
Vua Quang Trung cười rằng:
- Ta vì mong muốn bình an dân quốc mới để cho ngươi được sống. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, ta chịu hạ mình viết biểu cầu hoà, nhưng bạc vàng châu báu nước Nam ta Tôn Sĩ Nghị đã sang cướp hết cả rồi. Vậy người hãy về thưa cùng Thang Hùng Nghiệp bảo Tôn Sĩ Nghị đem vàng bạc châu báu mà lo lót cho Hoà Thân. Nếu không bằng lòng như thế chứ ngươi muốn đánh thì cứ kéo quân sang đây!
Sứ giả hoàn hồn lậy tạ rồi thưa:
- Đáp ơn Hoàng thượng, thần nào dám không vâng. Đây là thư của chủ thần Thang Hùng Nghiệp kính trình lên Hoàng thượng.
Tiếp thư xong vua Quang Trung bảo:
- Ngươi hãy về thưa cùng Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp, ta xem thư xong sẽ viết biểu cầu hoà nhờ chủ ngươi chuyển giúp đến vua Càn Long.
Sứ giả đi rồi, vua Quang Trung mà thư ra đọc. Trong đó có đoạn:

"Xét họ Lê bên An Nam thuần phục thiên triều đã lâu, một sớm bị họ Nguyễn Tây Sơn chiếm đoạt mất đô thành, nên Hoàng đế ta phải sai tướng g ra ngoài cửa ải khôi phục đất nước cho họ Lệ và cứ cho vẫn được nối chức chịu phong như trước. Chẳng dè Lê Duy Kỳ vô tài kém đức không làm nên trò trống gì cả cứ chạy trốn hoài, đến nỗi nhà Lệ không ngóc đầu lên được. Từ đây về sau thiên triều quyết chẳng đem nước An Nam giao cho Duy Kỳ nữa.
Họ Nguyễn Tây Sơn nhà ngươi nhân trước khi chưa có chỉ dụ, mau mau làm biểu đem sang đây gõ cửa kêu với Đại Hoàng đế của ta rằng: Lê Duy Kỳ không được dân vọng, nhân dân bơ vơ và tản đi bốn ngả, bất đắc dĩ thần phải đem binh ra thay nhà Lê vỗ về bá tánh. Nào ngờ dọc đường gặp quân nhà vua đụng ai giết nấy, tình thế dữ dội. Nếu chúng thần bó tay chịu trói thì thế nào cũng bị giết sạch. Vì vậy đám di binh di mục chúng thần phải hết sức chống cự, tự biết như thế là tội nặng lắm. Cúi xin Đại Hoàng đế đoái thương mọi rợ không biết gì mà tha thứ cho.
Nếu các ngươi biết điều nói như thế chắc được Đại Hoàng đế soi xét lòng thành mà cho chủ trì việc nước.
Thuận theo thì được phúc, trái nghịch vạ vào thân. Tuỳ ngươi định đoạt".
Đọc đến đây vua Quang Trung cười rằng:
- Quả nhiên Càn Long vì sợ thua nên mới bảo Phúc Khang An sang khuyên ta cầu hoà trước để giữ thể diện thiên triều. Vậy là kế tha Tôn Sĩ Nghị để doạ Càn Long của ta đã có tác dụng rồi đó.
Ngô Thì Nhậm hỏi:
- Đây phải chăng là ý của Phúc Khang An vì sợ phải cất quân sang bỏ thây ở nước Nam ta nên tự sai sứ để bảo ta cầu hoà, chứ lý đâu lại là lệnh của Càn Long?
Vua Quang Trung cười bảo:
- Nếu không có lệnh của Càn Long mà Phụ Khang An và Thang Hùng Nghiệp làm là khi quân sao tránh khỏi mất đầu. Mà việc bang giao giữa hai nước phải đâu là việc nhỏ. Phúc Khang An tất phải biết rằng sớm muộn gì cũng lộ việc lại dám làm ư?
Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ cùng tâu:
- Hoàng thượng anh minh. Quả nhiên là Càn Long sợ thua mới làm thế thật.
Vua Quang Trung bảo quần thần rằng:
- Mãn Thanh là nước lớn gặp mười lần ta. Ta tạm thời nhịn họ, đợi ta dưỡng uy sức nhuệ, nước mạnh dân giàu rồi sẽ cất quân sang đánh chúng lấy lại đất Lưỡng Quảng trước kia là của nước Nam ta về sau người Tàu đoạt đi. Nay dù nhịn chúng để giảng hoà nhưng không vì thế mà chịu nhục. Bọn chúng bảo ta là mọi rợ, ta viết thư miệt thị chúng xem chúng đã làm gì ta nào.
Nói xong vua Quang Trung liền sai lấy bút nghiên ra viết thư. Viết xong vua trao Ngô Thì Nhậm và bảo:
- Đây là thư ta gửi riêng Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp. Con viết biểu gửi Càn Long xin hoà ta giao cho Ngô Thì Nhậm được trọn quyền lo liệu. Trong cương có nhu, cương nhu phải lúc, không được làm nhục quốc thể nước Nam ta. Nay ta rút đại binh về Phú Xuân - giao cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết trong coi võ bị, việc ngoại giao với nhà Thanh giao cho Ngô Thì Nhiệm. Hay nhớ không được làm nhục mệnh của ta.
Đoạn vua Quang Trung rút đại binh về Phú Xuân.
Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp nhận được thư vua Quang Trung liền giở ra đọc. Trong thư có đoạn:

"Ôi! Quân tinh cốt ở hoà thuận không cốt đông, cần tinh nhuệ không cần nhiều. Ngươi khéo thắng là ở chỗ rất mềm dẻo chứ không phải lấy mạnh đè yếu, nhiều hiếp ít. Ví bằng chút tình trước không được bày tỏ, thiên triều không khoan dung một chút cứ muốn động binh gây chiến, thế là làm cho nước nhỏ không được phụng sứ nước lớn thì bây giờ đại quốc bảo gì tôi cũng xin vâng theo mà thôi".

Đọc đến đây Phúc Khang An hỏi:
- Nguyễn Huệ nói vậy là ý thế nào?
Nghiệp đáp nhỏ rằng:
- Đại ý nói rằng nếu ta muốn đánh thì hắn sẽ đánh cho mà xem. Còn viết như vậy chẳng qua là dùng lời hoa mỹ cho ra vẻ cũng thuận mà thôi.
Phước Khang An giận dữ bảo:
- Nguyễn Huệ thật vô lễ, dám coi khinh thiên triều không có tướng giỏi hay sao. Thật là đáng giận! Còn việc lo lót cho Hoà Thân, Huệ liệu thế nào?
Nghiệp đáp:
- Huệ bảo sứ ta về bấm lại rằng: vàng bạc trong nước Tôn Sĩ Nghị đã cướp hết cả đi nên hắn không còn gì để lo lót. Hắn nhờ ta bảo Tôn Sĩ Nghị cho xin vàng bạc lo lót cho Hoà Thân để xong việc nghị hoà.
An nổi giận vỗ án quát:
- Thật là lão xược. Nếu đã thế ta xua năm mươi vạn quân sang đánh xem ai thắng ai bại cho hay.
Nghiệp vội can:
- Xin tướng quân bớt giận. Nếu ta không lo xong việc giảng hoà thì tôi e mạng không còn giữ được, nói gì đến việc cầm quân đánh Nguyễn Huệ.
An hỏi:
- Ông nói vậy nghĩa là sao.
Nghiệp đáp:
- Ta viết thư sai sứ sang bày hắn xin hàng, bức thư ấy Nguyễn Huệ còn giữ. Nay nếu ta giận mà bỏ việc nghị hoà ngộ nhỡ Huệ đưa thư ấy cho vua ta. Vua ta tất sẽ bắt tội ta làm nhục quốc thể thì liệu tôi và tướng quân có thoát chết được chăng.
Phúc Khang An nghĩ thầm rằng, ta nhận mặt lệnh của vua nói với Thang Hùng Nghiệp rằng riêng ta chủ việc nghị hoà, nên Nghiệp mới ngờ rằng ta kháng mệnh khi quân làm nhục quốc thể.
Nghĩ rồi Khang An ngửa mặt than:
- Từ cổ chí kim chưa từng nghe nói thiên tử phải nhịn nước nước Nam nhỏ bé như thế bao giờ!
Thân xong, liền vào triệu yết kiến vua Càn Long. Phúc Khang An quỳ tâu:
- Muốn tâu Hoàng thượng, binh pháp có câu: Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Nay quân ta nghe Nguyễn Huệ đánh tan ba mươi van quan trong năm ngày khiến Tôn Đại tướng quân người không kịp mắc giáp, ngựa không kịp đóng yên phải quăng cả sắc thư ấn tín chạy về nước nên lòng người đều nao núng. Còn quân Nam khí thế đang hăng, muôn người như một e rằng ta sang đánh chưa hẳn đã dễ dàng thủ thắng. Ấy là một lẽ. Nay sắp sang mùa hạ, nước An Nam đầy lam sơn chướng khí, quân ta là người phương Bắc không hạp phong thổ tất sinh bệnh tật. Ấy là hai lẽ. Bởi hai lẽ bất lợi ấy mà nhân lúc Nguyễn Huệ cầu hoà, Hoàng thượng nên chuẩn tấu để tránh sự can qua. Đó là làm sáng tỏ đức độ của Hoàng thượng vậy. Đây là tở biểu cầu hoà của Nguyễn Huệ, kính trình lên Hoàng thượng. Xin Hoàng thượng duyệt lãm.
Vua Càn Long tiếp tờ biểu trên tay Phúc Khang An mà nét mặt chẳng vui, không muốn mở ra xem. Thấy vậy Hoà Thân bước ra quỳ tâu:
- Lời Phúc Khang An rất phải. Xin Hoàng thượng minh xét.
Vua Càn Long đổi giận làm vui giơ biểu ra xem. Trong đó có đoạn:

"Ôi! Kể ra nhân dân ở gốc biển này ai chẳng là con đỏ của thiên triều. Đại Hoàng đế là bậc thay trời hành đạo há lại ưa viển vông ham công lợi mà gây sự với nước nhỏ ở biên cương khiến dân nước tôi phải sa vòng tên đạn.
Ôi! Cứ kể nhân sĩ giáp bình ở một dải bờ biển này sánh cùng Đại quốc không được một phần muôn. Những sông sâu trước mặt, cọp dữ sau lưng nên lòng người sợ chết tất ai cũng phải cố gắng hăng hái! Bởi thế nên thần không tránh được tiếng quang chuột bể đồ bèn đem năm ba tên trái tráng trong làng ra Bắc.
Mùng Năm tháng Giêng nam Kỷ Dậu thần tiến đến Lê Thành, những mong Tôn Sĩ Nghị nghĩ lại, hoạ may đem đồ ngọc lụa thay đồ can qua, đổi binh xa làm hội xiêm áo. thần nhũn nhặn xin bái yết, Nghị không thèm trả lời.
Quá bữa sau quân Nghị xông ra đánh trước, vừa mải giao phong đã đổ vỡ chạy tan bốn ngả đè lên nhau mà chết. Thây phơi đầy đồng nội, xác dồn dập nghẽn sông. Còn những quân chạy trốn các thôn trang thì bị dân đánh giết gần hết, chứ thần nào đánh đấm gì đâu? Ấy là do Tôn Sĩ Nghị không dùng quân kỷ để chúng hiếp gái cướp chợ làm cho muôn dân căm hận đến tận xương tuỷ mà ra.
Trộm nghĩ: Việc binh đao là bất đắc dĩ của thánh nhân. Đại Hoàng đế thâm nghiêm ngủ ở cửu trường, những chuyện cương thường ở biên cương Tôn Sĩ Nghị không hề tâu rõ, Hắn che lấp tai mắt nhà vua làm cho mọi sự rối ren như thế. Châu chấu đá xe thần thật không dám. Song cửa vua xa cách muôn dặm thần bị kẻ ở biên thần hiếp đáp không sao nhịn nổi nên hình tích mới dường như chống cự.
Nay lòng trời đã chán nhà Lê. Xét nghĩ Đại Hoàng đế là bậc theo ý trời ban trị hoá. Xin ngài theo lẽ tự nhiên thứ cho cái tội đánh Tôn Sĩ Nghị, lập kẻ tư mục này để chăn dân, dựng nước phên dậu để vững thế, ban ơn mệnh cho thần được làm An Nam Quốc Vương đứng làm bình phong ở phía Nam, giữ cái chức phiên mục khiến cho bản quốc có người cầm đầu cai quản vậy".
Đọc xong vua Càn Long nói:
- Tờ biểu này lời văn khiêm tốn, lý lẽ sắc bén, hào khí tiềm ẩn. Nguyễn Huệ thật là người tâm thì hoà, thần thì minh, mà tính thì dũng vậy. Nhưng nếu ta đồng ý bãi binh thuận hoà hoá ra ta là nước lớn mà số nước nhỏ hay sao?
Hoà Thân bàn rằng:
- Hoàng thượng buộc Nguyễn Huệ phải cống hai người vàng như triều Lê lúc trước, Nguyễn Huệ muốn hoà tất phải bằng lòng. Vậy ta chiếm thế thượng phong không sợ mang tiếng nước lớn mà sợ nước nhỏ. Nguyễn Huệ vội vã nộp cống người vàng còn cảm ơn ta tha mà không đánh.
Vua Càn Long khen:
- Kế của khanh khiến ta vừa được ơn vừa được lợi, nhất cử lưỡng tiện thật là diệu kế.
Nói xong vua Càn Long liền sai viết chiếu cho sứ giả đem sang Nam quốc.
Vua Quang Trung nhận được thư vua Càn Long liền cho với Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ đến hỏi:
- Càn Long thuận hoà nhưng ra điều kiện buộc ta phải nộp cống hai người vàng như triều Lệ thuở trước. Khanh trước là tôi nhà Lê, vậy việc này là như thế nào.
Nhậm đáp:
- Ba trăm năm trước vua Lê Thái Tổ khởi binh Lam Sơn đánh đuổi quân Mình xâm lược giành độc lập cho nước ta có giết hai viên đại tướng của quân Minh là Liễu Thăng và Lương Minh ở tại Chi Lăng. Sau vua Lê Thái Tổ xin hoà, nhà Minh buộc vua Lê phải đền hai người vàng to bằng người thật hàng năm nộp cống để đền mạng cho Liễu Thăng và Lương Minh. Vua Lê Thái Tổ ta vì muốn tránh binh đao nên phải tuân theo. Về sau thành lể. Nay Càn Long bù tà phải theo lệ ấy mới thuận cho hoà để thu lợi lớn.
Vua Quang Trung gằn giọng bão:
- Thật là vô lý! Bọn chúng sang xâm lược nước ta tàn hại dân ta, chết là đáng lắm, chúng không đền mạng cho dân ta thời thôi, sao ta lại đi đền mạng cho chúng? Muốn hoà thời hoà, muốn đánh thời đánh, nhất định không nộp cống người vàng.
Các tướng Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu cũng đứng lên nói:
- Lời Hoàng thượng rất phải. Việc giảng hoà nhờ tài Ngô tiên sinh. Nếu họ không hoà đã có Tây Sơn thập hổ chúng thần và Hoàng thượng lo liệu. Nhất định không chịu cống người vàng.
Ngô Thì Nhậm nhìn các tướng rồi hỏi:
- Ở đây chỉ có bảy vị tướng quân sao bảo là Tây Sơn thập hổ tướng?
Vua Quang Trung cười đáp:
- Thế ba người đang trấn thủ Bắc Hà là Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết lại không phải là hổ tướng hả sao? Mười tướng này từ ngày khỏi bình ở Tây Sơn đến nay được bá quan tặng danh hiệu là Tây Sơn thập hổ đại tướng quân đó!
Vỡ lẽ, Ngô Thì Nhậm nói:
- Hồng hạc bay cao nhờ vây cánh. Chính nhà Tây Sơn nhờ thập hổ tướng mà Hoàng thượng điều binh thần tốc khiến tướng thiên triều phải thất kinh hồn vía mà xui ta giảng hoà. Thần xin cố sức múa bút cầu hoà nhưng không nộp cống người vàng. Nhất định không phụ mệnh Hoàng thượng và làm nhục quốc thể nước Nam ta.
Nói xong Nhậm liền lấy bút nghiên ra viết biểu. Viết xong dâng vua. Xem rồi vua Quang Trung khen:
- Giọng văn của tiên sinh viết đúng ý như phong thái của ta. Thật hiểu ta không ai bằng tiên sinh vậy. Tiên sinh làm cách nào mà viết đến mức xuất thần như thế được?
Nhậm vô tình đáp:
- Ngươi hành văn muốn viết xuất thần phải biết hoá thân. Khi mượn danh Hoàng thượng viết biểu, hạ thần hoá thân tư tưởng mình là Hoàng thượng nên mới viết được lời của Hoàng thượng đó.
Vua Quang Trung rót một chung rượu thưởng cho Ngô Thì Nhậm. Đoạn vua đóng ấn triện vào tờ biểu ấy và sai sứ sang Mãn Thanh trao cho vua Càn Long, đoạn vua truyền bãi triều.
Ra ngoài Trần Văn Kỷ nói riêng với Ngô Thì Nhậm rằng:
- Ông là danh sĩ người trong nước đều biết tiếng sao trước mặt vua nói không biết giữ lời, muốn mất đầu hay sao chứ?
Nhậm lại hỏi Văn Kỷ:
- Tôi nói gì mà bảo là muốn mất đầu?
Kỷ đáp:
- Ông bảo rằng tư tưởng mình là Hoàng thượng thì không phải là đáng tội chết ư? Nếu một mai thất sủng thì thế nào?
Ngô Thì Nhậm cười đáp:
- Hoàng thượng là người khoan dung rộng lượng đời nào cố chấp chuyện vô tình.
Kỷ hỏi:
- Ông tự cho rằng mình thấu hiểu Hoàng thượng đến thế sao.
Nhậm đáp:
- Nếu không thấu được lòng vua sao tôi có thể viết biểu cho Càn Long y như là lời và ý của vua được.
Nói xong Nhậm cáo biệt ra về. Trần Văn Kỷ vào gặp vua Quang Trung rồi quỳ tâu:
- Xin Hoàng thượng tha tội cho Ngô Thì Nhậm.
Vua Quang Trung cười hỏi:
- Ta có bắt tội Nhậm bảo giờ sao khanh lại vào xin tội?
Kỷ đáp:
- Lúc này trong triều Ngô Thì Nhậm có nói câu "tư tưởng làm Hoàng thượng." Xét theo lý là khi quân muốn ngang hàng với vua, những xét theo tin là lời ngày thật của kẻ cầm bút. Xin Hoàng thượng chớ để tâm làm gì.
Vua Quang Trung cười mà nói:
- Cảm ơn khanh đã dùng lời trung thực mà can gián trẫm. Nhưng trẫm đây há lại chẳng biết rằng kẻ sĩ muốn mệnh danh người nào để hạ bút xuất thần tất phải hoá thân làm người đó hay sao? Trẫm đời nào lại để tâm vì câu nói vô tình của Ngô Thì Nhậm chứ!
Trần Văn Kỷ ra về than rằng:
- Ta hãy còn thua Ngô Thì Nhậm một bậc vậy.
Nói về vua Càn Long nhận được biểu của Nam Vương bèn giở ra xem. Biểu đại ý rằng:

"Từ ngàn xưa đến nay Đại quốc với An Nam đã phân hai nước rõ ràng, tiếng nói phong tục đều khác, bờ cõi cương vực đã chia. Vậy nên sau khi đuổi nhà Minh lấy lại nước xong, vua Lê Thái Tổ có viết trong bài Bình Ngô Đại Cáo rằng: "Từ Đinh, Lê, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương". Chứng tỏ ý trời và lòng người đều muốn định phân địa lợi. Nhà Minh vì trên cãi ý trời, dưới nghịch lòng người mới đem Bắc quân xâm phạm Nam quốc. Đâu chính đâu tà, thần tôi trộm nghĩ dù không biện luận nhưng anh minh như Đại Hoàng Để tất đã thấu rõ. Bởi không được thiên thời, địa lợi, nhân hoà nên nhà Minh mới bại binh ở Nam Quốc. Vua Nam là Lê Thái Tổ thấy nước mình bé nhỏ sợ nước lớn hiếp đáp mới phải cầu hoà. Nhà Minh nhân cơ hội ấy muốn việc hai tướng Lương Minh và Liễu Thăng tử trận tại ải Chi Lăng mà buộc Nam quốc đúc hai người vàng, hàng năm nộp cống để đền mạng cho hai tướng ấy, mới thuận cho hoà. Ngươi Nam vì bắt đắc dĩ mới bỏ vàng bạc ra mua sự sống cho mình. Nhưng còn thượng quốc nhận cống người vàng thì điều phải trái nên suy nghĩ như thế nào? Nay Đại Hoàng đế lệnh cho thần hàng năm phải nộp cống người vàng theo lệ nhà Lrr thuở trước, mới thuận cho hoà. Thiết nghĩ nước thần nghèo, chinh chiến triền miên, vả lại vừa rồi Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang đây thả sức vơ vét khiến tài vật trong nước nay đã cạn kiệt mà mỗi năm phải kiếm cho ra bốn vạn lượng vàng đức người nộp cổng thật là quá sức. Trong lúc dân nước thần chưa an cư lạc nghiệp, người người đói khát mà thần buộc phải vơ vét để nộp cống cho thượng quốc thử hỏi nhân đạo như Đại Hoàng Để không đau lòng sao được? Thậm chí, Đại Hoàng Để bắt phải đúc bón người vàng thế mạng cho Hứa Thế Hành, Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Sầm Nghi Đống hàng năm nộp cống thì dân nước thần ắt là phải chết. Còn nếu không nộp, Đại Hoàng Bé sai tướng sang bắt tội cũng không sống được. Vậy dân thần xin chọn cái chết nhàn hơn, mau hơn và vinh hơn. Xin Đại Hoàng Để nghĩ lại mà tha cho tội không nộp cống người vàng".
Đọc xong vua Càn Long tấm tắc khen:
- Ta đã từng ngao du bốn cõi, kết giao hào kiệt mười phương nhưng chưa từng gặp người nào anh hùng như Nguyễn Huệ cả. Nếu ta không thuận hoà hoá ra ta là kẻ không biết điều nhân đạo hay sao.
Nói xong vua Càn Long bèn bãi lệ cống người vàng và tự tay viết chiếu phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.
Vua Quang Trung nhận được chiếu rồi bèn cười nói với Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ:
- Nay ta hoà được với Mãn Thanh và bỏ lệ cống người vàng mà nước Nam ta đã gánh chịu suốt ba trăm năm. Ấy là một thắng lợi lớn vậy. Ta đọc sử nghe rằng đất lưỡng Quảng xưa kia là của nước Nam ta, về sau người Tàu đuổi người Nam đi mà lấy đất ấy. Điều này có hay chăng?
Kỷ đáp:
- Thưa, đúng là như vậy!
Vua lại hỏi:
- Hai khanh đều là danh sĩ làu thông kinh sử, vậy ta hỏi hai khanh: từ xưa đến nay nước Nam ta đã có ai dám đánh nước Tàu chưa?
Ngô Thì Nhậm đáp:
- Thưa, đã có nhiều ví như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đều có công đánh quân Tàu giữ nước. Gần đây có vua Lê Thái Tổ đuổi quân Minh cũng là đánh quân Tàu cả.
Vua Quang Trung cười hỏi:
- Ấy là người Tàu sang xâm lược nước ta rồi ta mới đánh. Trẫm muốn hỏi đã có ai đem quân sang đánh nước Tàu chưa?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Hơn ngàn năm trước có Triệu Đà làm vua nước Nam Việt gồm cả đất Lưỡng Quảng đã đem quân sang đánh quân Trường Sa nước Tàu, sau Lưỡng Quảng mặt về tay người Tàu. Đời Lý có Đại tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân sang đánh Lưỡng Quảng cũng là sang đánh nước Tàu vậy!
Vua hỏi:
- Đánh Tàu rồi thắng bại thế nào.
Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm không biết ý vua muốn nói gì nên đưa mắt nhìn nhau. Nhậm dè dặt đáp:
- Hai người ấy sang đánh Tàu được toàn thắng nhưng phải vội kéo quân về.
Vua lại hỏi:
- Thế có ai sang đánh rồi chiếm đất của nước Tàu hay chưa?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Việc này xưa nay chưa ai làm được.
Vua Quang Trung vụt đứng lên vỗ án nói:
- Đợi vài năm nữa ta sẽ sang đánh và chiếm đất Lưỡng Quảng xưa là đất của nước Nam ta cho các khanh xem. Nhưng trước tiên cần phải tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở miền Nam, sau đó sẽ điều toàn binh ra Bắc đánh Mãn Thanh.
Nghe vua Quang Trung nói xong Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm một lần nữa đưa mắt nhìn nhau trong lòng hoài nghi mà không dám nói.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 55 Không phục kẻ thù, Nguyễn Phúc Ánh bị ngất. Hiểu được bụng Chúa, Lê Văn Quân phải chết.
Nói về vua Thái Đức ở Hoàng đế thành Quy Nhơn phủ nghe quân về báo:
- Tâu Hoàng thượng, quân Mãn Thanh ở nước Tàu đem ba mươi vạn đại binh xâm phạm Bắc Hà. Bắc Bình Vương liền lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra Bắc chống nhau với quân Thanh.
Vua Thái Đức thở dài nói:
- Quả nhiên thằng Huệ có chí làm vua. Thảo nào trước kia mới lần ta muốn lên ngôi là nó ba lần bảy lượt can ngăn. Nay nó lên ngôi vua, thật không xem ta ra gì nữa.
Vua vừa dứt lời quân thám mã lại về báo:
- Tâu Hoàng thượng, vua em Quang Trung kéo quân ra Bắc chỉ trong năm ngày tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh. Nguyên soái quân Thanh là Tôn Sĩ Nghị ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp một mình chạy thoát về nước.
Vua Thái Đức than rằng:
- Nguyễn Huệ quả nhiên tài ba tột bực, ta không thể nào sánh kịp. Nhưng dù nó tài ba đến đâu đi nữa sao dám coi khinh ta mà lên ngồi Hoàng đế chứ?
Đoạn vua sai quân mang rượu ra uống đến say mềm. Lúc quân hầu dìu vào giường ngủ vua Thái Đức con lảm nhảm rằng: "Thằng Huệ không xem ta ra gì nữa rồi!".
***
Phần Nguyễn Vương Phúc Ánh ở Gia Định, nghe quân vào báo:
- Tâu Thượng vương, vua Càn Long nhà Thanh sai đại tướng là Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn quân xâm phạm Bắc Hà. Nguyễn Huệ liền lên ngôi lấy để hiệu là Quang Trung rồi lập tức đem mươi vạn bình ra Bắc cự địch.
Nguyễn vương vỗ tay cười lớn nói:
- Nguyễn Huệ dù tài giỏi thế nào cũng không thể là đối thủ của quân Mãn Thanh. Nguyễn Nhạc cai quản từ ải Hải Vân trở vào, lại là người bất tài nhu nhược. Phen này thật là trời giúp ta rồi vậy. Quân bay mau mời các tướng đến bàn việc quốc gia.
Nguyễn vương vừa dứt lời thì các tướng Võ Tánh, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Tống Viết Phước, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Phạm Văn Sĩ, Nguyễn Huỳnh Đức, Hồ Văn Lân, lão tướng Nguyễn Nghi, mưu sĩ Ngô Tùng Châu, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức cũng đến. Mọi người cũng quỳ xuống tâu:
- Chúng thần xin chúc mừng Vương thượng!
Nguyễn vương ngạc nhiên hỏi:
- Sao các khanh lại vô cớ chúc mừng ta?
Ngô Tùng Châu thưa:
- Nguyễn Huệ nhất định phải bại binh ở Bắc Hà. Đã là cơ hỏi ngàn năm để Thượng vương khôi phục cơ đồ. Chúng thần chúc mừng Thượng vương là do thế.
Ngô Tùng Châu nói xong, Nguyễn Vương vùng ôm mặt khóc. Võ Tánh ngạc nhiên hỏi:
- Cớ gì Thượng vương lại khóc?
Nguyễn vương lau nước mắt đáp:
- Đành rằng ta với anh em thằng buôn trâu Nhạc Huệ thù không đội trời chung. Nhưng vua Càn Long nhà Thanh mượn tiếng đánh Tây Sơn mà xua quân tàn hại lương dân, hỏi ta không đau lòng sao được.
Mọi người đồng thanh nói:
- Đại đức của Thượng vương xưa nay hiếm thấy. Nhưng thời cuộc đã như thế, xin Thượng vương chớ quá đau lòng.
Nguyễn vương lấy vạt áo chấm nước mắt rồi cầm gươm lệnh giơ lên bảo:
- Các tướng mau chuẩn bị binh mã, nhận cơ hội này tiến đánh Bình Thuận, Diên Khánh.
Nguyễn vương vừa dứt lời, xây quân thám mã về báo:
- Tâu Thượng vương, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc chỉ nội năm ngày tiêu diệt hơn hai mươi vạn quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đông yên, quăng cả sắc thư ấn tín chạy trốn về nước.
Nguyễn vương nghe qua, tháo mồ hôi khắp người, bàng hoàng buông rơi gươm lệnh, các tướng đều giật mình kinh sợ. Bỗng Nguyễn vương mặt mày tái nhợt, chân tay co cứng ngã vật ra đất. Mỗi người vội vã đưa Nguyễn vương đến ngự nội long sàng rồi gọi quan ngự ý đến. Quan ngự ý xem mạch cho Nguyễn vương rồi bảo:
- Các ngài ra ngoài đứng đợi, đừng làm kinh động đến long thể.
Mọi người ra ngoài rồi, Nguyễn Vương vùng ngồi dậy bảo quan ngự y:
- Ngươi hãy ra nói với các tướng thế này... thế này... nếu sai lời phải chém.
Ngự y vừa mở cửa bước ra các tướng liền xúm lại hỏi:
- Thượng vương long thể thế nào?
Ngự y đáp:
- Thượng vương thình lình trúng cơn gió lạ, giờ đã khỏe hắn. Người bảo tôi thưa cùng chư vị tướng quân đến chờ nơi đại điện rồi người sẽ tới bàn việc quốc gia.
Lê Văn Quân nghi ngờ hỏi:
- Cơn gió gì mà làm Thượng vương ngắt đi như thế.
Ngự y ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Ngọn gió ấy mang khí độc chết người gọi là Hắc tuyến phòng, ai trúng phải gió này lập tức chết ngay. Nhờ Thượng vương có chân mệnh đế vương nên chẳng hề hấn gì.
Các tướng đều lè đầu lè lưỡi rồi kéo nhau đến đại điện chờ Nguyễn vương. Lát sau Nguyễn vương đến, Vương hùng dũng bước lên ngai rồi hạ lệnh:
- Truyền lệnh ta lập tức xuất đại binh Bắc phạt.
Ngô Tùng Châu can:
- Xin Thượng vương chờ xuất đại binh.
Nguyễn vương cau mày hỏi:
- Tại sao?
Châu đáp:
- Nguyễn Huệ đuổi được quân Thanh đã đem đại binh rút về Phú Xuân. Nếu ta xuất đại binh ra đến Bình Thuận ngộ nhỡ Nguyễn Huệ lại đem thuỷ quân vào cửa Cần Giờ tiến đánh Sài Côn thì liệu thế nào.
Nguyễn vương ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Lời khanh rất có lý. Vậy ta phải làm sao?
Ngô Tùng Châu đáp:
- Thượng vương nên đóng quân phòng thủ Sài Côn rồi sai tướng đem binh đánh lấy Bình Thuận. Đó là thượng sách!
Nguyễn vương bèn quay sang hỏi các tướng:
- Ai có thể lãnh binh ra đánh Bình Thuận?
Lê Văn Quân bước ra nói:
- Thần xin đi!
Võ Tánh cũng bước ra thưa:
- Thần cũng xin đi!
Nguyễn vương hạ lệnh:
- Nay ta phong Lê Văn Quân làm chánh tướng, Võ Tánh làm phó tướng, hai người mau đem binh Bắc tiến. Trước là lấy đất Bình Thuận, sau là dò xét xem quân Tây Sơn của Nguyễn Nhạc mạnh hay yếu thế nào.
Lê Văn Quân bước đến lãnh lệnh, còn Võ Tánh chần chừ chưa chịu đi. Nguyễn vương hỏi đùa rằng:
- Võ Tánh còn muốn điều gì chăng. Hay là sợ xa quận chúa Ngọc Du?
Võ Tánh nghiêm trang đáp:
- Lê tướng quân tuổi cao sức yếu, nếu phong là chánh tướng e tướng sĩ không phục.
Lê Văn Quân giận lắm lớn giọng rằng:
- Ta tuy giá thật nhưng trí dũng có thừa. Nếu không như thế sao mới mấy năm trước đây ta bắt sống Võ Nhân ở thành Sài Côn rồi đem quân đuổi Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập bỏ thành Trường Đồn trốn về rừng Tam Phụ.
Nghe Lê Văn Quân nói xong Võ Tánh giận tái mặt nói chẳng ra lời. Nguyễn vương vội can:
- Hai tướng dừng tranh nhau nữa. Nay ta phân Võ Tánh và Lê Văn Quân mới người được lãnh một đạo quân thuỷ hoặc bộ. Ai chiếm được Bình Thuận trước sẽ được phong làm chánh tướng. Hai người có bằng lòng chăng.
Lê Văn Quân và Võ Tánh cùng thưa:
- Thần bằng lòng!
Nguyễn vương lại hỏi:
- Vậy ai lãnh quân thuỷ, ai lãnh quân bộ.
Võ Tánh đáp:
- Nay đang mùa gió Đông nam thổi mạnh, quá thuỷ tất sẽ tiến mau hơn. Lê tướng quân đã cao tuổi xin nhường người lãnh quân thuỷ.
Nói xong Võ Tánh lành binh phù quân bộ, còn Lê Văn Quân lành binh phù quân thuỷ rồi quay đi. Nguyễn vương gọi Lê Văn Quân lại hỏi:
- Lê tướng quân năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ.
Văn Quân đáp:
- Thưa đã ngoài sau mươi!
Nguyễn vương trìu mến hỏi:
- Lê tướng quân đã hơn mười năm theo phò ta qua bao gian khó hiểm nguy này đã răng long đầu bạc. Tóc khanh bạc ta đã thấy rồi, vậy còn răng đã long chua.
Văn Quân cảm động đáp:
- Thưa đã rụng mất vài chiếc.
Nguyễn vương bảo:
- Răng cứng thì mau gẫy, lưỡi mềm mới còn nguyên. Ta khuyên tướng quân đừng nên cứng cỏi quá.
Lê Văn Quân cúi đầu không đáp rồi lậy mà đi.
***
Bấy giờ trấn thủ Bình Thuận là tướng Tây Sơn tên Lê Trung. Hôm ấy quân do thám Tây Sơn về bảo với Lê Trung rằng:
- Thuỷ quân Nguyễn Gia Miêu do Lê Văn Quân thống lĩnh đã đổ bộ vào phía Đông thành, bộ quân do Võ Tánh chỉ huy đã tiến gần rừng Lá. Xin báo cùng tướng quân định liệu.
Lê Trung bên gọi còn là Lê Chất đến bảo:
- Ở phía Nam thành có một khu rừng Lá âm u hiểm trở, con hay đem một đạo binh đến phục ở rừng này chờ bộ quân Võ Tánh. Cha sẽ đem quân bỏ thành Bình Thuận lui về Diên Khánh.
Lê Chất hỏi:
- Thanh Bình Thuận nhỏ, tường không cao, hào không sâu, có phải cha định dùng kế "không thành"?
Lê Trung cười đáp:
- Con còn nhỏ mà đã làu thông binh pháp, cha thật chẳng lo gì nữa.
Nói rồi cha con chia nhau mà đi. Lê Văn Quân dẫn quân đến gần thành, bỗng thấy cửa thành mở toang, một viên tướng dẫn quân xông ra đánh nhau. Đánh được vài hiệp Lê Văn Quân gạt đao tướng ấy rồi hỏi:
- Ngươi có phải trấn thủ Bình Thuận là Lê Trung?
Tướng ấy gắng gượng đáp:
- Phải, ta chính là Lê Trung.
Văn Quân cười lớn nói:
- Ta nghe Lê Trung trí dũng song toàn, nay một biết là hữu danh vô thực.
Nói rồi vung đao mà chém, tướng ấy đánh không lại bèn quay ngựa chạy vào thành. Lê Văn Quân thúc quân đuổi theo. Quân Tây Sơn không kịp đóng cổng thành, quân Nguyễn Gia Miêu ồ ạt trấn vào. Văn Quân đuổi theo tướng ấy đến cửa Bắc thành, tướng ấy lại dẫn quân chạy ra ngoài thành. Lê Văn Quân gò ngựa lại nói:
- Trời đã tối rồi không thêm đuổi nữa. Ta và thành rồi báo tin thắng trận cho Thượng vương hãy xem Võ Tánh còn dám tranh quyền với ta chăng.
Đoạn Lê Văn Quân sai lính canh phòng cẩn mật rồi vào tướng phủ nghỉ ngơi. Hôm sau, trời vừa tờ mờ sáng lính canh vào đánh thức Lê Văn Quân dậy nói:
- Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn đã bao vây bốn phía.
Văn Quân thất kinh lên mặt thành xem xét. Nhìn xuống thấy một viên đại tướng đầu đội kim khôi, mặc hồng bào, tay cầm đại đao ngồi trên bạch mã. Lê Văn Quân gọi vọng xuống hỏi:
- Lê Trung đã bị ta đánh chạy rồi. Tướng kia là ai mà dám đến chịu chết.
Tướng ấy vuốt chòm râu đen như mực cười lớn, nói:
- Lê Trung chính là ta đây. ngươi hôm quá đánh với người chỉ là một tên tiểu tướng của ta thôi. Lê Văn Quân, hôm này là ngày tận của ngươi sao còn chưa mở cửa ra hàng?
Văn Quân than thầm:
- Cũng do ta nôn nóng tranh công cùng Võ Tánh mà trúng kế "không thành" của Lê Trung.
Than xong Lê Văn Quân liền bảo lính sắp sẵn súng đạn cung tên, gỗ đã, nước sôi hễ quân Tây Sơn tấn công thì cố sức chống trả. Lê Trung trong thấy quân Nguyễn sửa soạn phòng thủ bèn cười lớn rằng:
- Ta không cần phải đánh ngươi, đừng phong để uổng công. Trước khi rút quân ta đã đem hết lương thực đi rồi. Vậy ta xem người sống được mấy ngày.
Lê Văn Quân giật mình gọi lính đi xem xét kho lương trong thành. Một lúc lính quay về báo:
- Quả nhiên Lê Trung dùng kế "không thành" nên đã đem lương thực đi trước rồi.
Lê Văn Quân thất kinh bảo tướng sĩ có sức chống giữ chờ quân cầu viện, đoạn gọi tuỳ tướng là Trần Kiến đến bảo:
- Nay ta bị giặc Tây Sơn vây khốn. Vậy ngươi có thế phá vây về báo cho bộ quân Võ Tánh đến cứu được chăng.
Trần Kiến đáp:
- Xin tướng quân chớ lo. Tôi quyết về gặp được Võ Tánh rồi mới chết.
Nói xong Kiến lên ngựa cầm giáo đem theo vài trăm quân mở cửa Nam thành xông ra. Quân Tây Sơn trong thấy liền kéo đến vây đánh. Quân Nguyễn thế cô lần lượt chết hết cả, một mình Trần Kiến tả xung hữu đột thoát ra khỏi trấn nhằm hướng Nam quất ngựa mà chạy. Vừa đến khu rừng Lá bỗng nghe tiếng quát lớn rằng:
- Tướng kia chớ chạy, có ta là Lê Chất đến đây.
Trần Kiến chẳng nói chẳng rằng vung đao đâm Lê Chất. Đánh nhau mới vài hiệp Kiến bị Lê Chất bắt sống. Chất hỏi Kiến:
- Ngươi một mình, một ngựa chạy đi đâu?
Kiến trừng mặt quát:
- Ta phá vây chạy về bảo bộ quân Võ Tánh đến cứu chủ ta là Lê Văn Quân ở thanh Bình Thuận. Nay bị người bắt được, muốn chém giết mặc lòng, cần gì mà hỏi lôi thôi.
Lê Chất hỏi:
- Có phải Võ Tánh là đệ nhất hùng trong Gia Định tam hùng đó chăng?
Kiến đáp:
- Nghe tiếng đệ nhất hùng trong Gia Định ta hùng người đã tháo mồ hôi chưa? Hãy mau giết ta đi nếu để ta thoát được bảo Võ Tánh đến đây ắt ngươi phải chết.
Lê Chất quay lại bảo quân:
- Mau cởi trói, cấp ngựa tha cho Trần Kiến đi.
Kiến được cởi trói ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao người lại thả ta đi?
Chất đáp:
- Ngươi hãy về báo cùng Võ Tánh kéo quân để đây thử sức một phen.
Kiền mừng rỡ lên ngựa mà đi. Tả hữu hỏi Lê Chất:
- Sao tướng quân lại thả Trần Kiên về báo tin cho Võ Tánh?
Lê Chất cười đáp:
- Ta thả Trần Kiến là để bắt Võ Tánh vậy.
Đoạn Lê Chất bảo quân:
- Truyền lệnh ta toàn quân đến phục ở rừng Lá chờ Võ Tánh đến cứu Lê Văn Quân thì đổ ra đánh.
Phần Trần Kiến chạy qua khỏi rừng Lá được mấy mươi dặm thì gặp Võ Tánh kéo quân đến. Trần Kiến xuống ngựa quỳ thưa:
- Tướng quân Lê Văn Quân bị tướng Tây Sơn là Lê Trung dùng kế không thành vây ở thành Bình Thuận rất ngặt. Lê tướng quân sai tôi phá vây để cầu tướng quân kịp đem quân cầu viện.
Võ Tánh hỏi:
- Cha con Lê Trung, Lê Chất đều là dũng tướng của Tây Sơn. Ngươi đơn thân độc mã sao có thể thoát được vòng vây mà đến gặp ta. Hay người đã hàng Lê Trung rồi đến dụ ta vào ổ phục kích của giặc.
Trần Kiến khích Võ Tánh rằng:
- Xin tướng quân chớ khá nghi ngờ Nguyễn tôi bị Lê Chất bắt sống. Nguyên tôi định đi cầu cứu tướng quân, Lê Chất cười bảo: "Võ Tánh bất tài vô dụng mà cũng tự xưng là Đệ nhất hùng trong Gia Định tam hùng". Rồi Chất tha tôi đi để báo cho tướng quân để đánh cho rõ thực hư.
Chẳng ngờ Võ Tánh quay lại bảo quân:
- Truyền lệnh ta dừng quân hạ trại.
Trần Kiến thất kinh hỏi:
- Nếu tướng quân không cứu thì chúa tôi nguy mất. Sao tướng quân chẳng chịu tiến binh.
Tánh đáp:
- Lê Chất thả người về khích ta, tất hẳn phục binh ở rừng Lá để đánh ta. Nếu ta tiến binh là và cho chết. Vậy người hãy kíp vào Sài Côn bão cho Thượng vương đem thuỷ binh ra cứu.
Trần Kiến nói rằng:
- Về Sài Côn cầu cứu tôi e nước xa không cứu được lửa gần. Giờ chỉ trông cậy vào tướng quân mà thôi.
Võ Tánh thoái thác rằng:
- Ta đem binh đến rừng Lá là vào chỗ chết, là không cứu được Lê Văn Quân. Ngươi về Sài Côn bảo Thượng vương sẽ sai tướng đường thuỷ thuận gió Đông Nam ra cứu như vậy có thể kịp.
Trần Kiến thấy Võ Tánh đã quyết bèn vội vàng lên ngựa bất kể ngày đêm chạy về Sài Côn báo tin cùng Nguyễn vương. Nguyễn vương họp các tướng đến hỏi:
- Võ Tánh biết Lê Chất phục binh ở rừng Lá nên không thể đem quân bộ đến cứu Lê Văn Quân. Trần Kiến về đây xin ta đem thuỷ binh ra cứu. Vậy ai có thể đi được?
Nguyễn Huỳnh Đức bước ra thưa:
- Thần và Nguyễn Văn Thành xin đến Bình Thuận cứu Lê Văn Quân.
Nguyễn vương mừng rỡ nói:
- Hai khanh đều là tướng trong Gia Định Tam hùng, hãy ra đánh một trận cho Lê Trung, Lê Chất biết tài.
Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức kéo quân đến Bình Thuận rồi đổ bộ lên bờ, chẳng dè Lê Trung phòng thủ kỹ càng, quân Nguyễn đánh mấy trận liền mà không thắng được. Nguyễn Văn Thành bảo Huỳnh Đức:
- Lê Trung tinh thông binh pháp, hắn đã cho quân án ngữ các nơi hiểm yếu ta không đành được. Phải tìm cách thông báo cho Lê lão tướng quân hẹn giờ mở của thành từ trong đánh ra, ta từ ngoài đán vào mới mong phá được vòng vây.
Trần Kiến bước ra thưa:
- Tôi xin liều mình vào thành báo cho chúa tôi được biết.
Nói rồi Trần Kiến lại cầm giáo lên ngựa xông vào thành. Vào đến gần thành Trần Kiến thương tích đầy mình. Biết sức đã cạn kiệt Trần Kiến bèn trương cung lắp tên bắn vào thành rồi liền bị quân Tây Sơn giết chết.
Lê Văn Quân trên mặt thành bắt được mũi tên thử của Trần Kiến với mở ra xem. Xem xong Lê Văn Quân khóc rằng:
- Võ Tánh không muốn cứu ta nên mới bắt Trả Kiến về Sài Côn cầu cứu. Thương thay Trần Kiến. Đáng giận thấy Võ Tánh!
Đoạn Lê Văn Quân đem toàn quân mở cửa cổng thành ra đánh, gặp Lê Trung đem quân chặn đường. Đánh một hồi quân Nguyễn chết trận gần hết mà Văn Quân vẫn chưa ra khỏi vòng vây. Trong cơn nguy khốn bỗng phía sau quân Tây Sơn hỗn loạn, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành đem quân đánh tới. Lê Trung trông thấy bèn vung đao chỉ về phía tả, tiền quân Tây Sơn liền chỉnh đốn đội ngũ lui về phía tả. Lê Trung lại gio đao chỉ về phía hữu, hậu quân Tây Sơn chỉnh đốn đội ngũ lui về phía hữu. Nhờ Lê Trung hai lần giơ đao điều binh mà Văn Quân thoát được vòng kiêm toả ở của đao pháp Lê Trung. Văn Quân quất ngựa chạy khỏi vòng vây. Gặp Văn Thành và Huỳnh Đức, Lê Văn Quân bẽn lẽn nói:
- Cám ơn hai vị tướng quân đã cứu mạng. Vậy ta nên thừa thắng tiến đánh Lẻ Trung lấy thành Bình Thuận.
Nguyễn Huỳnh Đức can:
- Lê Trung dùng binh quy củ không dễ gì đánh được. Theo tôi ta nên rút quân về báo cùng Thượng vương là hơn.
Quân Nguyễn rút binh về Sài Côn. Ra mắt Nguyễn vương, Lê Văn Quân quỳ tâu:
- Thần phụng mệnh đem quân đánh Bình Thuận chẳng may thua trận làm nhục mệnh Thượng vương. Xin Thượng vương trị tội.
Nguyễn Vương vỗ án quát:
- Trước khi đi ta đã dặn dò ngươi đừng nên cứng cỏi quá. Ngươi chẳng nghe lời, tham tranh công không tự lượng sức làm chết hết mấy ngàn quân của ta. Tội thật đáng chết.
Lê Văn Quân bình thản đập đầu lậy thưa:
- Thần đã biết tội. Nhưng ba ngàn quân ta bị chết ở Bình Thuận không phải tội của một mình thần.
Nguyễn vương hỏi:
- Vậy con tội của ai.
Văn Quân đáp:
- Bộ tướng của thần là Trần Kiến phá vây chạy về báo tin cho Võ Tánh. Võ Tánh không đem quân đến cứu mà buộc Trần Kiến phải về Sài Côn báo tin. Bởi thế lâu ngày quân của thần ở trong thành phải ăn mỗi ngày một nửa khẩu phần của mình, thành ra khi gặp giặc đánh không nổi mà phải chết. Tội này Võ Tánh cũng có một phần!
Nguyễn vương xua tay bảo:
- Tạm cho ngươi lui về nghỉ, ta sẽ triệu hồi Võ Tánh về đầy hỏi cho ra lẽ. Nếu Võ Tánh thực có tội ta quyết chẳng tha.
Nói xong Nguyễn vương truyền bãi triều.
Đêm ấy vợ Võ Tánh là quận chúa Ngọc Du tìm đến Hoàng cung gặp Nguyễn vương. Ngọc Du hỏi:
- Nghe nói Hoàng huynh đình triệu hồi chồng em về bắt tội. Xin hỏi Hoàng huynh điều ấy có chăng?
Nguyễn vương cười đáp:
- Võ Tánh có công đem binh giúp ta lấy lại đất Gia Định, lại là tướng trẻ tài năng, Võ Tánh lại là em rể của ta, sao ta bắt tội Võ Tánh cho được. Em chớ quá lo!
Ngọc Du hỏi:
- Nhưng Lê Văn Quân cứ một mực đòi quy tội cho chống em, vậy Vương huynh liệu tính thế nào?
Nguyễn vương đáp:
- Lúc trước ở đảo Côn lôn ta đặt tên trái bần là trái thuỷ liễu, Lê Văn Quân bảo ta là tham sang phụ khó. Ở đảo Phú Quốc ta gửi hoảng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, Lê Văn Quân bảo ta là bán nước cầu vinh. Rồi khi quân Tiêm La về giúp, nữ tặc Tây Sơn Bùi Thị Xuân bắn thư kẻ việc nó tha cho mẹ con ta ở cửa Hàm Luông để khích ta ra đánh, Lê Văn Quân lại bắt được thư ấy. Nếu tin này tiết lộ thật chẳng hay ho gì. Ta nhân lúc này trừ Văn Quân mới được.
- Nhưng Lê Văn Quân là công thần theo phò Vương huynh từ thuở long đong, nay lấy cớ gì trừ đi để khỏi mang tiếng với thiên hạ.
- Lê Văn Quân tính tình cứng cỏi; ta không bắt tội, nhưng có cách làm cho Lê Văn Quân phải chết.
Nói xong Nguyễn vương gọi sứ giả đến bảo:
- Ngươi hãy gọi Lê Văn Quân đến gặp ta.
Sứ giả đi một hồi rồi về báo:
- Thưa Thượng vương, Lê tướng quân lâm trọng bệnh không đi được, bảo hạ thần về thưa lại Thượng vương.
Nguyễn vương hỏi:
- Ngươi thấy Lê Văn Quân thần sắc thế nào?
Sứ giả đáp:
- Lê tướng quân thần sắc nhợt nhạt ắt là bệnh thật.
Nguyễn vương bảo:
- Ngươi hãy mang thư ta đến trao cho Lê Văn Quân, lấy ấn tín về đây cho ta.
Sứ giả vâng mệnh mang thư của Nguyễn vương trao cho Lê Văn Quân. Quân giở thư ra đọc, thư rằng:

"Nay ta định phong cho khanh làm Bình Bắc đại tướng quân đem binh đánh Tây Sơn, không ngờ khanh lại lâm trọng bệnh. Việc quân khẩn cấp, vậy khanh hay tạm trả ấn tín để ta sai tướng khác đánh giặc. Bao giờ khanh hết bệnh ta sẽ trả lại".
Đọc thư xong Lê Văn Quân liền lấy ấn tín trao cho sứ giả rồi nói rằng:
- Phiền ngài về thưa cùng Thượng vương rằng: "Thỏ non dù còn nhưng chó săn đã già cũng nên giết thịt". Thượng vương muốn ta chết thì ta xin chết vậy!
Nói rồi liền bưng chén thuộc độc mà uống. Uống vừa khỏi miệng Lê Văn Quân thổ huyệt chết ngay. Sứ giả về thuật lại việc Lê Văn Quân, Nguyễn vương bên sang ôm thây Lê Văn Quân khóc rằng:
- Lê lão tướng quân sao lại cố chấp đố tài như vậy, ta chỉ tạm mượn ấn tín mà thôi, nào có bạc đãi tướng quân bao giờ, sao lại nông nổi thế!
Các tướng thấy cảnh này đều bùi ngùi rơi lệ, rồi xúm lại khuyên can mãi Nguyễn vương mới thôi khóc, Nguyễn vương gạt nước mắt bảo:
- Truyền lệnh ta xuất công quỹ lo hậu sự cho Lê lão tướng quân theo lễ công hầu và lệnh các tướng sẽ đều phải để tang.
Việc hậu sự Lê Văn Quân xong, Ngô Tùng Châu đến gặp riêng Nguyễn vương nói:
- Thưa Thượng vương, dân trong thành đặt lời ca phản nghịch ạ.
Nguyễn vương hỏi:
- Thế nào là lời ca phản nghịch.
- Họ đặt thành câu ca rằng:

"Xin đừng được tướng bỏ quân
Hậu phò quên kẻ trước từng gian lao".
- Hai câu ấy là ý thế nào?
- Câu trên ý nói được tướng mới, bỏ Lê Văn Quân đã từng gian lao theo phò Vương thượng. Hậu phò trong ca được ám chỉ Hậu Quân phò mã Võ Tánh đây à.
Nguyễn vương thở dài hỏi:
- Theo khanh ta nên đối phó thế nào.
Châu đáp:
- Ta nên tìm người đặt câu ca ấy trị tội để làm gương cho kẻ khác.
Nguyễn vương bảo:
- Ấy không phải là thượng sách.
Tùng Châu hỏi:
- Hạ thần ngu muội không nhìn xa thấy rộng. Xin hỏi Thượng vương thế nào mới là thượng sách?
Nguyễn vương hỏi lại Ngô Tùng Châu rằng:
- Khanh đọc truyện xưa, vua Tống là Triệu Khuông Dân lúc con long đong chạy nạn ngang qua nơi diễn tuồng hát. Hôm ấy tuồng hát diễn đoạn vua Đường là Lý Thế Dân bị Cáp Tô Văn rượt đuổi, rồi Uất Trì Cung sẽ ra cứu giá. Triệu Khuông Dân dừng lại xem tuồng hát, thấy Cáp Tô Văn đuổi Lý Thế Dân nguy cấp mà Uất Trì Cung mãi chẳng thấy ra. Tức Khuông Dân bèn nghĩ thầm rằng, nếu ta không cứu Ly Thế Dân thì lấy ai lập nền nhà Đường. Nghĩ rồi liền trương cung lắp tên nhằm tên kép hát đóng vai Cáp Tô Văn mà bắn. Tên kép hát trúng tên chết tươi. Vậy ta hỏi khanh theo khanh nên xử Triệu Khuôn Dân thế nào?
Ngô Tùng Châu đáp:
- Nếu là người thường tất phải xử đền mang. Những Triệu Khuông Dân có chân mệnh đế vương nên người đời sau đã không xét việc Triệu Khuông Dân giết người mà còn luận rằng tên kép hát kia tới số chết.
Nguyễn vương cười ha hả đáp:
- Ta cũng có chân mệnh để vương nên ở đảo Côn lôn ta cầu nước trời liền cho nước. Quân Tây Sơn vô đạo, trời nổi bão đánh chìm. Nay ta nhắc lại chân mệnh đế vương của ta có thần tiên theo giúp không còn ai nghĩ đến việc Lê Văn Quân tự vẫn nữa.
Ngô Tùng Châu hỏi:
- Thượng vương định nhắc lại việc ấy bằng cách gì?
Nguyễn vương đáp:
- Hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc vừa từ Pháp về đem theo tàu đồng và súng lớn giúp cho ta. Ngươi ra còn có một vật có thể bay được trên trời gọi là khinh khí cầu. Nay ta cứ làm như vậy… như vậy... ắt việc phải thành.
Ngô Tùng Châu khen rằng:
- Thượng vương liệu việc như thần, thần xin bái phục.
Một ngày kia trời trong nắng ấm, Nguyễn vương đem theo vài mươi vệ sĩ đi dạo trong thành. Bỗng một đám mây trong như quá bóng từ trên trời sa xuống, dưới đám mây trong ấy có một vị tiên ông ngồi trong đèn lồng sắc mầu rực rỡ. Tiên ông từ lưng chừng trời cất tiếng như sấm rằng:
- Ngọc Hoàng giáng chỉ! Nước Hoàng giáng chỉ!
Nguyễn vương và bàn dân thiên hạ trông thấy thần tiên giáng thế hiện hiện giữa ban ngày thẩy đều rùng mình sởn ốc vội vàng quỳ xuống. Tiên ông đáp xuống đất phán rằng:
- Người nào tên là Nguyễn vương Phúc Ánh hãy theo ta lên trời nhận ấn kiếm của Ngọc Hoàng phong làm vua nước Nam.
Nguyễn vương bèn bước vào đèn lồng cạnh tiên ông, tức thì đám mây trong như quá bóng kia từ từ cất lên kéo theo đèn lồng có tiên ông và Nguyễn vương trong ấy bay lên cao, xa dần rồi mất hút. Dân chúng ngẩn ngờ nhìn theo rồi xì xầm bàn tán:
- Xưa nay chưa từng thấy điều như thế bao giờ. Nguyễn Vương thật là có chân mệnh đế vương!
Từ ấy thiên hạ xôn xao truyền nhau tin Nguyễn Vương được lên trời cùng thần tiên, không ai nhắc đến việc Lê Văn Quân tự vẫn nữa.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 56 An lòng dân, Thái Đức cầu Quang Trung. Mộng mở nước , Văn Dũng sang Mãn Thanh.
Nói về vua Tây Sơn là Thái Đức ở Hoàng đế thành Quy Nhơn phủ, ngày ấy đang uống rượu nghe đàn xem cung nữ múa hát. Bỗng quân vào báo:
- Tâu Hoàng thượng, quân do thám của ta về báo rằng: Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định được thần tiên rước lên trời phong làm vua nước An Nam. Hiện Ánh đang chỉnh đốn binh mã chờ mùa gió Đông Nam sẽ đem thuỷ quân ra đánh ta. Dân chúng ở Phú Yên Quy Nhơn, Quảng Ngãi nghe tin ấy náo động cả lên.
Vua Thái Đức giật mình quăng ly rượu, đuổi mỹ nữ ra ngoài rồi gọi con là Nguyễn Bảo đến hỏi:
- Tình hình như thế, theo con ta nên đối phó thế nào?
Thái tử Nguyễn Bảo quỳ tâu:
- Phụ vương nên truyền hịch vạch rõ âm mưu của Nguyễn Phúc Ánh để vô an bá tánh. Trong nước có yên thì mới mong thắng được giặc người. Xin Phụ hoàng minh xét.
Vua Thái Đức khen phải bèn theo cách ấy mà làm. Hịch truyền được mấy ngày vua Thái Đức gọi thái giám Vũ Tâm Can đến hỏi:
- Ta truyền hịch vỗ an bá tánh mấy hôm nay thiên hạ thế nào?
Vũ Tâm Can đáp:
- Tâu Hoàng thượng, hịch vua truyền ra lập tức dân chúng ai về nhà nấy yên ổn làm ăn, binh sĩ vững tâm quyết lòng giữ nước. Việc giặc Ánh đem quân đến đánh không phải lo gì nữa à.
Rủi thay vừa lúc ấy Thái tử Nguyễn Bảo bước vào. Nghe Vũ Tâm Can nói xong, Nguyễn Bảo lớn tiếng mắng Can rằng:
- Ngươi là thái giám kề cận bên vua, lại dùng lời dối trá che mặt thiên tử. Tội thật đáng chết!
Vua Thái Đức hỏi:
- Con nói vậy là ý làm sao?
Bảo quỳ tâu:
- Xin Phụ hoàng tha tội con mới đám thưa.
- Ý con thế nào cứ nói ta hay. Nếu lời ngay thật sao cha lại bắt tội con.
Bấy giờ Nguyễn Bảo mới quỳ tâu:
- Con giả dạng dân thường ra ngoài xem xét nghe thiên hạ bàn rằng: Lâu nay vua trời lên ngôi Hoàng để đã thoả nguyện thiên tử bỏ bê chính sự, chẳng nghĩ đến dân, không màng việc nước, nên Nguyễn vương mới có cả manh nha phục quốc. Nay Nguyễn Vương nhờ thế Pháp Lang Sa tướng mạnh binh hùng bọn ta không lo sao được. Tâu Phụ vương, có là điều con tai nghe mắt thấy; xin Phụ vương để tâm chăm lo việc nước, xa lánh nịnh thần, chém đầu Vũ Tâm Can làm gương cho kẻ khác. Ấy là hồng phúc của nước nhà vậy.
Vua Thái Đức vỗ án quát hỏi:
- Vũ Tâm Can! Sự thật như thế sao ngươi đám bảy trò tâu dối ta.
Vũ Tâm Can vờ sợ hãi đáp:
- Hạ thần sợ Hoàng thượng lo lắng mà long thể bất an nên mới nói như thế. Xin Hoàng thượng tha mạng.
Thái tử Nguyễn Bảo chỉ mặt Vũ Tâm Can mắng
- Tội hại nước dối vua là khi quân phạm thượng không thể dung tha.
Vua Thái Đức bảo:
- Vũ Tâm Can tội thật đáng chết, nhưng ta vì tin cha ngươi là Vũ Tất Thận theo ta dấy nghĩa ở Tây Sơn Thượng phạm quân lệnh mà phải tội chết. Vì vậy ta tha chết chỗ người nhưng đuổi khỏi Hoàng cung về làm dân dã, từ nay về sau chớ để ta thấy mặt.
Đuổi Vũ Tâm Can đi rồi, vua Thái Đức hỏi Thái tử Nguyễn Bảo:
- Ta đã hạ chiếu chiêu an bá tánh, sao thiên hạ lại chẳng tin ta.
Nguyễn Bảo đáp:
- Xưa nay người ta chỉ tin vào việc làm, không ở tin vào lời nói suông. Xin Phụ hoàng minh xét.
Vua Thái Đức hỏi:
- Vậy phải làm sao mới yên được lòng dân?
Báo đáp:
- Dân nước ta chỉ tin vào một người. Nay Phụ hoàng nên nhờ người ấy đứng lên soạn hịch thì sẽ an lòng bá tánh.
Vua Thái Đức vội hỏi:
- Người ấy là ai?
Thái tử Báo đáp:
- Người ấy chính là Hoàng thúc của con, là Quang Trung Hoàng đế.
Vua Thái Đức phật ý bảo:
- Thằng Huệ năm xưa phụ anh phản chúa và đánh ta ở Thành Hoàng để. Nay nó lên ngôi vua không kể gì đến ta. Nếu ta cầu nó đứng tên soạn hịch chiêu an bá tánh thì thiên hạ con xem ta ra gì. Việc này không thể được.
- Hoàng thúc xưa giúp cha chinh Nam phạt Bắc quân thù khiếp sợ là nhờ Hoàng thúc dùng ít đánh nhiều, trong một ngày là tiêu diệt quân địch. Chỉ trận đánh quân Mãn Thanh lâu nhất là năm ngày mà thôi. Sự thật phải thế chăng, thưa Phụ vương?
Vua ầm ừ rồi đáp:
- Đúng là như thế.
Thái tử Báo lại hỏi:
- Vậy khi Hoàng thúc đánh Phụ vương, người vầy thành Hoàng đế trong bao lâu.
Vua Thái Đức đáp:
- Nó vây ta suốt hai tháng trong thành.
Thái tử Bảo nói:
- Hoàng thúc dùng hai vạn quân tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La ở Rạch Gầm chỉ trong một đêm, tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh ở Thăng Long nội có năm ngày. Vậy tại sao thành Hoàng đế nhỏ nhoi này Hoàng thúc phải vây suốt hai tháng trời mà không hạ được? Thưa Phụ hoàng, ấy chẳng qua vì tình cốt nhục Hoàng thúc không đánh, chỉ xin Phụ hoàng thả gia quyến mà thôi, sao bảo là Hoàng thúc phụ anh phản chúa? Con khi quân Thanh sang xâm lược nước ta, một nước không có vua sao an lòng trăm họ mà chống giặc ngoại xâm? Phụ hoàng chỉ có chí làm vua bốn phủ Nam, Ngãi, Quy, Phụ nên mới chia đất từ Hải Vân ra Bắc cho Hoàng thúc, nên Gia Định mặt về tay Nguyễn Phúc Ánh, Phụ hoàng cũng không tính kế lấy lại, thì Phụ hoàng sao lại trách việc Hoàng thúc lên ngôi. Nay nếu không cầu Hoàng thúc vỗ án bá tánh con e rằng nước ta loạn mất.
Vua Thái Đức buồn rầu nói:
- Vậy con phải đích thân ra Phú Xuân cầu cứu chú con mới được.
Thái tử Bảo mừng rỡ vội vã đi ngay. Còn lại một mình, vua Thái Đức thứ dài than:
- Cuối cũng rồi ta cũng phải chịu thua nó!
Nói về vua Quang Trung ở thành Phú Xuân nghe quân vào báo:
- Tâu Hoàng thượng, có đại Thái tử Nguyễn Bảo từ Quy Nhơn đến xin yết kiến.
Vua Quang Trung giật mình đứng bật dậy thốt:
- Châu ta đích thân đến đây e Quy Nhơn có biến. Mau mời đại Thái tử vào!
Nguyễn Bảo vào tới không thi lễ mà kêu lên "chú ơi" rồi ôm chầm vua Quang Trung mà khóc. Vua vỗ về hỏi:
- Cháu hay bình tâm nói cho chú rõ, có phải Nguyễn Phúc Ánh đem quân đánh tới Quy Nhơn chăng?
Nguyễn Bảo gạt nước mắt kể lại đầu đuôi sự việc rồi nói:
- Nguyễn Phúc Ánh đang sắp đặt binh mã định đến mùa gió Nồm sẽ tiến đánh Quy Nhơn. Xin Hoàng thúc sai tướng đem quân vào giúp.
Vua Quang Trung liền sai lấy bút nghiên viết tờ hịch trao cho Nguyễn Bảo rồi nói:
- Cháu hay đem tờ hịch này về truyền khắp trong nước tất sẽ vỗ an bá tánh.
Nguyễn Bảo hỏi:
- Nếu quân Nguyễn đem quân đánh tới thì tiến thủ thế nào.
Vua Quang Trung không đáp mà hỏi lại Nguyễn Bảo rằng:
- Hiện nay ai trấn thủ Phủ Yên?
Bảo đáp:
- Tướng quân Nguyễn Quang Huy.
- Nguyễn Quang Huy là người thế nào?
- Huy là người Phú Yên nên rất rành địa thế trong vùng, Huy lại là tướng trí dũng song toàn. Theo cháu có Nguyễn Quang Huy trấn thủ thỉ Phú Yên không phải lo.
Vua Quang Trung bảo:
- Nếu vậy cháu hay gọi cha con Lê Trung, Lê Chất bỏ đất Bình Thuận, Diên Khánh đem quân về trấn thủ Quy Nhơn với cháu thì không phải lo gì nữa!
Nguyễn Bảo hờn dỗi hỏi:
- Hoàng thúc bảo bỏ đất Bình Thuận, Diên Khánh cho Nguyễn Phúc Ánh là ý muốn nói cha con cháu chỉ giữ được bốn phủ Nam, Ngài, Quý, Phú thôi chứ gì. Hoàng thúc không giúp thời thôi tự cháu sẽ lo liệu lấy. Sao chú lại khuyên lui quân bỏ đất cho giặc.
Vua Quang Trung cả mừng khen:
- Nếu cha cháu mà được như cháu thì chắc gì Nguyễn Phúc Ánh về được đất Gia Định. Chú khuyên cháu bỏ đất Bình Thuận, Diên Khánh cho Nguyễn Phúc Ánh lui về giữ từ Phú Yên trở ra vì Phụ Yên có đèo Vân Phong là hiểm địa án ngữ, mặt biển phía Đông đều có núi non làm thành trì che chở. Ta dựa vào địa hình hiểm trở chống giữ với quân Nguyễn Phúc Ánh trong mùa gió Nồm, đợi hết Hạ sang Thu đầu mùa gió Bấc chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh đều phải chết cả thì ta lấy lại cả miền Nam Gia Định chứ chẳng riêng gì đất Bình Thuận thôi đâu.
Nguyễn Bảo ngạc nhiên hỏi:
- Vì cớ gì hết Hạ sang Thu chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh đều phải chết.
Vua Quang Trung trầm ngâm đáp:
- Hết Hạ sang Thu đầu mùa gió Bấc ta sẽ đem đại binh vào Gia Định tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng việc này nếu Phụ hoàng của cháu không thuận lòng e đại sự khó thành.
Nguyễn Bảo càng ngạc nhiên hỏi:
- Vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh sao cho cháu lại không thuận lòng.
Vua Quang Trung đáp:
- Đánh Phúc Ánh phải dùng thuỷ bộ binh hai đạo. Bộ binh ta muốn vào Nam đánh Phúc Ánh phải qua đất của Hoàng huynh. Nếu Hoàng huynh không thuận thì làm thế nào?
Nguyễn Bảo vui mừng nói:
- Việc này Hoàng thúc chớ lo. Cháu đã có cách nói cho Phụ hoàng phải vui lòng thuận ý.
Vua Quang Trung cả mừng bảo:
- Việc tiêu diệt Phúc Ánh trừ hậu hoạ trăm sự đều nhờ cháu cả. Cháu hãy về thưa lại cũng Phụ hoàng xem sao. Cháu hãy mau báo tin cho chú bày sách lược hành quân.
Nguyễn Bảo bên từ tạ vua Quang Trung ra về. Đến Hoàng đế thành gặp vua Thái Đức, Bảo quỳ tâu:
- Hoàng thúc bảo rằng muốn an lòng dân Quy Nhơn, Quảng Ngãi phải truyền hịch, hẹn mùa gió Bấc đánh Phúc Ánh. Mà việc này không làm được, nếu Hoàng thúc chưa viết hịch truyền.
Vua Thái Đức thở dài than:
- Đem quân đánh Phúc Ánh thì có gì mà không làm được. Chẳng qua nó con oán ta việc năm xưa ta bắt giam gia quyến của nó trong thành Quy Nhơn nên không đánh Phúc Ánh giúp ta ấy mà.
Nguyễn Bảo liền nói:
- Đánh Phúc Ánh tất Hoàng thúc phải kéo quân qua Quảng Ngãi, Quy Nhơn, người sợ Phụ hoàng không cho mượn đường vào Nam thì việc đánh Phúc Ánh tất không thành được. Vì lẽ ấy nên Hoàng thúc ngài thất tín với thiên hạ mà không dám viết hịch truyền hẹn ngày đánh Phúc Ánh cho an lòng dân Quy Nhơn, Quảng Ngãi của ta.
Vua Thái Đức buồn rầu than:
- Bây giờ đến lúc nguy cấp ta mới thấy rằng ta là vật cản trên con đường thống nhất giang sơn của Hoàng thúc con. Ngày trước vì cha mà Hoàng thúc con trở ngại việc đánh đổ Trịnh lấy Bắc Hà. Ngày nay cha lại là vật cản trở của Hoàng thúc con trên đường tiêu diệt Phúc Ánh ư?
Nguyễn Bảo hỏi:
- Vậy này cha liệu thế nào?
Vua hỏi lại Nguyễn Bảo:
- Còn có phải là đối thủ của Phúc Ánh chăng?
Báo đáp:
- Ánh cầu viện quân Pháp Lang Sa, thế lực mỗi ngày một mạnh, con không thể sánh được.
Vua Thái Đức lại hỏi:
- Phúc Ánh so với Hoàng thúc con thì thế nào?
Bảo đáp:
- Hoàng thúc còn là tướng của vua Trời. Phúc Ánh người phàm mắt thịt sao sánh được với Hoàng thúc của con.
Vua Thái Đức cười hiền hậu bảo:
- Nay vua Trời định nhường nước cho Hoàng thúc con trị quốc, điều quân. Ý con thế nào?
Nguyễn Bảo mừng rỡ tâu:
- Con định khuyên Phụ hoàng như vậy mà chứ biết phải nói sao. Nay Phụ hoang đã quyết thế thì đó là hồng phúc của dân của nước đó.
Vua Thái Đức thở dài nói:
- Ta với Hoàng thúc còn là anh em một nhà. Nước Nam ta không thể có hai vua. Đợi tá viết thư này con hãy mang ra cho Hoàng thúc và bảo chú con mau xuống hịch chiêu an bá tánh.
Nguyễn Bảo đến Phú Xuân trao thư của vua Thái Đức cho vua Quang Trung. Đọc xong vua Quang Trung ứa nước mắt nói:
- Thương thay cho Hoàng đại huynh - Đoạn vua quay sang Nguyễn Bảo hỏi - Tờ hịch chú đã viết cho cháu đem về rồi. Sao trong thư cha cháu còn bảo cho mau viết hịch truyền.
Nguyễn Bảo đáp:
- Trong tờ hịch chữ hẹn rằng đầu mùa gió Bấc sẽ đem quân vào đánh Phúc Ánh, vậy nếu Phụ hoàng cháu không cho mượn đường thì có phải là chú thất tín với thiên hạ chăng. Vì lẽ ấy nên cháu chờ thuyết phục Phụ hoàng thuận ý hợp tác đánh Phúc Ánh rồi mới đưa ra. Dè đâu cha cháu lại thuận trao quyền định quốc cho Hoàng thúc. Ấy thật là hồng phúc của nước nhà.
Vua Quang Trung hỏi Nguyễn Bảo:
- Vậy cháu hãy mau về gặp kẻo Hoàng huynh cứ ta lo lắng. Cháu nên nhớ tờ hịch này chẳng những an lòng dân trong nước mà con làm rối loạn đất Gia Định của giặc Ánh. Cháu hãy gấp truyền ra.
Nguyễn Bảo về rồi, vua Quang Trung bảo quân:
- Mau gọi các tướng đến bàn việc quốc gia.
Tám tướng Vũ Văn Dũng, Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong đến, vua Quang Trung giở bản đồ ra hỏi:
- Giảng hoà với Mãn Thanh ở mặt Bắc xong, ta quyết định đợi vài tháng nữa đến mùa gió Bấc sẽ thân đem đại binh vào Gia Định tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh, đập tan âm mưu xâm lược của bọn Phá Lang Sa giả danh đạo sĩ. Vậy các tướng thử bàn xem ta phải đánh thế nào cho Nguyễn Phúc Ánh không còn đường chạy thoát.
Trần Quang Diệu nói:
- Xưa nay Hoàng thượng dụng binh tính toàn việc binh cơ, nước gió, địa lý, nhân văn chưa hề sai sót sao này bỗng nhiên lại hỏi chúng thần là có gì?
Vua Quang Trung đáp:
- Bởi trận này là trận then chốt, ta phải giết cho được Nguyễn Phúc Ánh thì kẻ sĩ trong thiên hạ nặng óc trung quân mới không còn cơ dấy loạn. Thắng thì nhất định là ta phải thắng, nhưng ta muốn hỏi các tướng bắt được Phúc Ánh thì phải đánh thế nào.
Đặng Văn Long đáp:
- Theo thần, trước ta cho thuỷ quân vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường về Hà Tiên của Phúc Ánh. Sau đó cho một đạo quân thuỷ vào cửa Cần Giờ tấn công mặt Đông thành Sài Côn, bộ quân ta từ Phú Yên tiến vào uy hiếp mặt Bắc thành Sài Côn. Như vậy có thể bắt được Phúc Ánh.
Vua Quang Trung hỏi:
- Con ai có kế sách nào khác chăng.
Các tướng đồng thanh nói:
- Chúng thần đều một ý với Bắng Văn Long.
Vua Quang Trung lắc đầu bảo:
- Đất Gia Định sông ngòi chằng chịt cửa biển nhỏ rất nhiều. Nếu đánh như thế thì Phúc Ánh lại theo lách nhỏ trốn ra ngoài hải đạo, hoắc trốn vào rừng rậm ở phía Tây thành Sài Côn thì làm sao bắt được.
Vua vừa dứt lời bỗng nghe tiếng hỏi lớn:
- Đánh Phúc Ánh sao dượng rể không cho tôi hay?
Mỗi người giật mình nhìn lại, thì ra người vừa nói ấy là nữ đô đốc Bùi Thị Xuân. Xuân quỳ lạy khóc nói:
- Nguyễn Phúc Ánh sống sót dấy loạn ở miền Nam là do tội của tôi. Nếu không cho tôi theo lập công chuộc tôi Xuân này chết không nhắm mắt.
Vua Quang Trung bực mình gắt:
- Ta đã bao lần khuyên nhủ không bắt được tướng giặc đâu phải là tội. Sao cô Xuân cứ lấy do làm điều.
Bùi Thị Xuân càng khóc lớn nghẹn ngào nói:
- Năm xưa Hoàng thượng còn là Long Nhương tướng quân vâng lệnh vua anh đem binh vào Gia Định bắt hai Chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương ở cửa Hàm Luông. Thần đuổi theo bắt được ba mẹ con Phúc Ánh ở bờ sông Tiền Giang. Mẹ con Phúc Ánh lậy lục xin thả, lúc ấy thần thấy Phúc Ánh hãy còn nhỏ dại không một tên quân nên động lòng trắc ẩn mới tha cho đi. Giờ hiểu ra bụng đàn bà làm hư việc lớn. Lâu nay sợ tôi chẳng dám mở lời, nếu giữ mãi trong lòng còn đau hơn cái chết. Giờ đập đầu khai thật, xin Hoàng thượng xuống lệnh giả hình.
Xuân nói xong nức nở mãi không thôi. Mọi người nghe qua đều bất ngờ sửng sốt. Trần Quang Diệu lặng lẽ đến quỳ bên vợ khấu đầu chịu tội. Vua Quang Trung hỏi:
- Việc này Quang Diệu có biết chăng?
Bùi Thị Xuân đáp:
- Thần quyết lòng giấu nhẹm nên chống không được biết. Xin Hoàng thượng giảng tội một mình thần.
Vua Quang Trung cười bảo:
- Lòng nhân đã rõ, khi khái anh hùng sao bảo là tội. Hai khanh mau đứng lên.
Vợ chồng Diệu, Xuân vẫn quỳ mọp dưới thêm. Xuân gạt nước mắt nói:
- Đội ơn Hoàng thượng tha mạng. Nhưng nếu Hoàng thượng không cho thần theo đánh giặc Ánh thì Xuân tôi sống khác gì là chết.
Vua Quang Trung cười bảo:
- Được! Lần này bắt Nguyễn Phúc Ánh công đã lại là của Diệu, Xuân vậy. Hãy mau đứng lên bàn việc quân cơ.
Vợ chồng Diệu, Xuân mừng rỡ lậy tạ rồi đứng lên ngồi vào bàn. Vua Quang Trung chỉ vào bản đồ nói:
- Nay nước Ai Lao và nước Cao Miên nghe oai đã thần phục Tây Sơn ta. Trước hết Diệu, Xuân lãnh đạo bộ quân đem theo tượng binh bằng đường thượng đạo sang Lào qua Cao Miên đến đường Tây Ninh đánh xuống phía Tây thành Sài Côn, Phúc Ánh bất ngờ ắt trở tay không kịp. Đạo quân bộ thứ hai do ba anh em Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong qua Quy Nhơn hợp cùng cha con Lê Trung, Lê Chất tiến đánh Bình Thuận, Trấn Biên. Ta sẽ đích thân đem thuỷ binh vào cửa Cần Giờ đánh lên mặt Đồng thành Sài Côn. Sau đó ba đạo quân hợp ở Sài Côn tiến đánh Trường Đồn, Hà Tiên, Long Hồ thì Nguyễn Phúc Ánh tất không còn đất sống.
Đặng Văn Long cười lớn:
- Đại sư huynh tiến đánh Trường Đồn thì Nguyễn Phúc Ánh theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông trốn ngoài hải đạo. Tiến đánh Hà Tiên thì Nguyễn Phúc Ánh ra biển Hà Tiên chạy sang Tiêm quốc. Thần e rằng đánh thế cũng không bắt được Phúc Ánh.
Vua Quang Trung gọi:
- Hai tướng thuỷ binh Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc.
Tuyết và Lộc đồng thanh đáp:
- Có thần.
Vua Quang Trung vỗ án truyền:
- Khi ấy ta sẽ cấp cho hai tướng đại bộ phần thuỷ binh chia thuyền tuần tiễu từ cửa Cần Giờ đến mũi Cà Mau vòng qua Phú Quốc, chặn lối Hà Tiên chờ Nguyễn Phúc Ánh chạy ra biển đón bắt đem về cho ta trị tội bán nước buôn dân.
Các tướng nghe xong vòng tay nói:
- Hoàng thượng liệu việc như thần, chúng thần mắt phàm không nhìn thấy được.
Bùi Thị Xuân mừng rỡ vỗ tay reo:
- Phen này Phúc Ánh chỉ có chết mà thôi. Xuân tôi mới yên tâm mà sống vậy.
Bỗng Vũ Văn Dũng lớn tiếng trách vua rằng:
- Tây Sơn thập hổ ai có việc nấy. Đại sư huynh chê thần bất tài hay sao mà không dùng đến?
Vua Quang Trung cười nói:
- Ta đâu dám chê Tam sự đệ bất tài. Kế hoạch đánh Phúc Ánh mấy tháng nữa mới thực hành, còn bây giờ ta giao trọng trách Văn Dũng phải lập tức đi ngay.
Vũ Văn Dũng hỏi:
- Ấy là việc gì.
Vua đáp:
- Văn Dũng có tài xem núi non sông núi mà vẽ lên địa đồ. Nay ta muốn nhờ Văn Dũng đi vẽ bản đồ.
Dùng hỏi:
- Đại sư huynh đã chinh chiến từ Nam ra Bắc. Nước Nam ta ở đâu chẳng có bản đồ? Còn sai thân vẽ nơi nào nữa?
Vua Quang Trung đáp:
- Văn Dũng sang Mãn Thanh vẽ bản đồ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
Văn Dũng cười to nói:
- Thần sang đất Lưỡng Quảng vẽ bản đồ ắt quân Mãn Thanh bắt thân mà chém. Thôi, thôi! Việc này không được đâu.
Vua Quang Trung vỗ vai Văn Dũng bảo:
- Ta sai sứ sang Mãn Thanh dâng biểu cầu hôn công chúa con vua Càn Long và xin lại đất Lưỡng Quảng xưa kia thuộc nước Nam ta. Nếu Càn Long thuận cho thì tốt, nhược bằng không ta sẽ mượn cớ để đánh Mãn Thanh lấy đất Lưỡng Quảng. Vậy nên nay ta sai Văn Dũng tháp tùng theo sứ bộ bí mật vẽ bản đồ hai tỉnh. Sau khi tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định xong, người cầm án tiên phong Bắc tiến chính là Tam sư đệ đó.
Văn Dũng lại cười rằng:
- Nếu vậy thì thần xin đi. Phen này cho vua tôi nhà Đường, nhà Tống hết khoe hùng.
Nói rồi Dùng lãnh lệnh đi ngay

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 57 Chí tự cường, Quang Trung thay quốc tự. Luận cơ trời, Hoàng hậu bình thơ.
Nói về Nguyễn vương ở Gia Định, ngày ấy nơi thành Sài Côn Nguyễn vương họp các tưởng nói:
- Nay đã đến mùa gió Nồm ta nên đem thuỷ quân thuận gió đánh Quy Nhơn. Các tướng ai có kế gì chăng?
Nguyễn vương vừa dứt lời. Xảy quân do thám vào báo:
- Tâu Thượng vương, đây là tờ hịch của vua em Tây Sơn là Quang Trung Nguyễn Huệ truyền cho dân chúng ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên. Kính trình Thượng vương duyệt lãm.
Nguyễn vương với đón lấy tờ hịch mở ra đọc, hịch rằng:

"Hịch truyền dân chúng ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên.
Kể từ ngày Tây Sơn dấy nghĩa đến nay nhờ dân ba phủ hết lòng giúp đã nên Hoàng Đại huynh ta mới dựng nên cơ nghiệp lớn. Công lao của nhân dân ba phủ thật đáng lưu truyền vào sử xanh.
Vua rồi nghe Nguyễn Phúc Ánh được bọn người Pháp Lang Sa theo giúp, lại được thần tiên rước lên trời khiến nhân dân nghi ngại bỏ việc nông tang, xôn xao bàn điều thế sự.
Thật ra ấy là bọn Pháp Lang Sa dùng khinh khí cầu bay được lên cao đem chuyện thần tiên phỉnh lừa bá tánh. Ta còn lạ gì khinh khi cầu của bọn chúng! Bọn người mắt xanh mũi lõ, nước da trắng bệch như một xác chết trôi ngoài biển Bắc kia nào có tài cán gì mà dân chúng phải sợ? Ta đã từng đốt cháy tàu của chúng trận sông Thất Kỳ Giang, đuổi Nguyễn Phúc Ánh lội bùn Gia Định mà chạy như một con vịt lạc. Đại quân ta, xưa nay đi đến đâu không kẻ thù nào dám chống cự, không thành trị nào ngăn cản được. Điều này hẳn dân ta cũng đã biết.
Nay đã đến mùa gió Nồm, dân chúng hãy hết lòng giúp đỡ Hoàng Đại huynh ta đề phòng Phúc Ánh đánh ra.
Đợi hết Hạ sang Thu đầu mùa gió Bấc ta sẽ thân chinh kéo đại binh vào Gia Định tiêu diệt bọn Pháp Lang Sa, giết cho được Nguyễn Phúc Ánh, để mầm mống phản loạn không còn manh nha quấy rối, cho nhân dân cả nước được an cư lạc nghiệp.
Nay chiếu.
Quang Trung Nguyên niên".
Xem xong Nguyễn vương toát mồ hôi nói:
- Ta những tưởng Nhạc - Huệ bất hoà nước ai nấy lo, không ngờ Huệ lại định đem quân giúp Nhạc đánh ta. Trăm vạn quân Tây Sơn ta không ngại, chỉ ngại có mình Nguyễn Huệ mà thôi.
Võ Tánh hỏi:
- Phải đến mùa gió Bắc Nguyễn Huệ mới đem quân vào đánh ta được. Nay ta nên thuận gió Nồm đánh Nhạc ở Quy Nhơn, hay cũng cố lực lượng chống Nguyễn Huệ.
Nguyễn vương lấy vạt áo lau mồ hôi trán rồi nghiến răng nói:
- Truyền lệnh ta lập tức xuất quân!
Tháng ba năm Nhâm Tý (1792) Nguyễn Vương đem đại binh theo đường biển thuận gió Đông Nam ra đánh Quy Nhơn. Thái tử Tây Sơn là Nguyễn Bảo và cha con Lê Trung, Lê Chất rút thuỷ quân vào đóng trong đầm Thị Nại rồi chia quân giữ các nơi hiểm yếu. Quân Nguyễn vương đánh mãi không được, Nguyễn vương đành kéo quân về Gia Định.
Đến Sài Côn thấy trên bến sông Thị Nghè các giáo sĩ người Pháp Lang Sa rộn ràng đem gia quyến xuống thuyền. Nguyễn vương gọi lại hỏi:
- Ta đã cho các ngài được tự do truyền đạo. Vậy có ai dám kháng lệnh quậy phá các ngài hay sao mà cả ngài lại bỏ đi?
Một giáo sĩ đáp:
- Nay đã gần đến mùa gió Bấc, chúng tôi phải di tản về nước tránh Nguyễn Huệ đem quân vào đánh!.
Nói rồi cả bọn liền từ biệt Nguyễn vương mà đi. Nguyễn Vương vào thành mời các tướng đến thương nghị. Nguyễn vương hỏi:
- Nay Nguyễn Huệ đã hoà với nhà Thanh. Huệ định đến mùa Thu sẽ đem quân đánh ta. Vậy ta nên tiến thủ thế nào.
Mưu sĩ Ngô Tùng Châu bước ra nói:
- Nguyễn Huệ đánh ta tất phải dùng cả thuỷ cả bộ, vậy ta phải chia quân ra giữ hai cửa biển Cần Giờ, Hàm Luông. Bộ quân ta tăng cường trấn thủ Trường Đồn ở phía Nam, Trấn Biên ở phía Bắc thì Thượng vương ở Sài Côn vững như bàn thạch vậy.
Nguyễn vương lo lắng nói:
- Kế này là kế năm xưa Ngô tiên sinh tiến cử Gia Định tam hùng trấn thủ các nơi ấy, nhưng khi Nguyễn Huệ tiến quân vào thì không ai giữ nổi. Nguyễn Huỳnh Đức giữ Hàm Luông thì bị Đặng Văn Long bắt sống, quân ta bại trận khắp nơi. Nay dùng kế ấy e cũng như năm xưa nào có khác gì.
Võ Tánh tức khí bước ra nói lên:
- Tuy kế sách chống giữ cũng như nhau nhưng quân tình có khác. Phen này phải đánh thắng Nguyễn Huệ mới được!
Nguyễn vương hỏi:
- Quân tình khác ở chỗ nào?
Tánh đáp:
- Lúc ấy quân ta mới mộ, còn này tướng sĩ đã thiện chiến. Lúc ấy vũ khí thô sơ, còn nay người Pháp giúp ta tàu đồng, đại bác. Vả lại lúc ấy thần cố an thân ở rừng Tam Phụ, nay thần đã quyết lòng đánh giặc lập công chuộc tội, báo đáp ơn trị ngộ của Thượng vương. Ấy là ba điểm khác nhau của quân tình vậy.
Nguyễn vương nghe thế tạm an lòng. Từ ấy ngày đêm rèn luyện quân sĩ chờ quân Tây Sơn đến đánh.
Nói về vua Quang Trung ở Phú Xuân sai Vũ Văn Dũng đi sứ Mãn Thanh rồi, vua bàn với Trần Văn Kỷ rằng:
- Quân ta từ trước đến nay chỉ là người tình nguyện xung phong làm lính. Nay ta muốn tuyển thêm quân để dự phòng đánh Mãn Thanh, vậy phải làm thế nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Số người còn lại không muốn đi lính vì nặng óc trung quân, cho rằng Hoàng thượng không phải dòng chính thống. Nay nếu ta cứ bắt lính bừa bài e náo động nhân tâm.
Vua hỏi:
- Vì sao lại náo động nhân tâm.
Kỷ đáp:
- Số người không muốn đầu quân khi bị bắt lính trốn từ làng này sáng làng khác. Nếu Hoàng thượng xuống lệnh bắt gắt gao e rằng bọn hương lý thừa cơ hội ấy sách nhiễu lương dân nên náo động nhân tâm là do thế.
Đêm ấy vua Quang Trung trằn trọc mãi. Hôm sau vừa gọi Trần Văn Kỷ đến hỏi:
- Nếu ta có cách bắt lính mà vẫn giữ được kỷ cương khiến kẻ nhút nhát không thể trốn việc đầu quân, và bọn hào lý không thể sách nhiều dân lành được thì thế nào?
Trần Văn Kỷ lại hỏi vua rằng:
- Xin hỏi Hoàng thượng ấy là cách nào?
Vua Quang Trung đáp:
- Ta lệnh cho dân trong nước mỗi người phải đeo một cái thẻ bài để bốn chữ "Thiên Hạ Đại Tín". Trong thẻ bài ấy phải ghi rõ tên, họ và tuổi tác. Hễ ai có thẻ bài là dân trong nước của ta, rồi cứ ba tráng đinh kén lấy một người đầu quân, nhờ đó không ai có thể trốn tránh được và hào lý địa phương cũng không có cớ gì sách nhiễu dân lương thiện có thẻ bài. Nếu vậy chắc chắn tuyển được thêm quân và kỷ cương pháp luật được giữ vững. Trần tiên sinh thấy thế nào?
Trẫm Văn Kỷ vòng tay nói:
- Ấy thật là kế sách vẹn toàn. Hoàng thượng có tài kinh bang tế thế xưa nay chưa từng thấy vậy.
Vua Quang Trung trầm ngâm nói:
- Nước Nam ta đất rộng dân thưa. Nay ta muốn mũ xuống hịch khuyến nông xuất ngân khố nhà nước giúp đỡ dân nghèo khai khẩn đất hoang thì mới mong dân giàu nước mạnh đề đối chọi với Mãn Thanh phương Bắc và bọn Pháp Lang Sa ở miền Nam được. Vậy phiền Trần tiên sinh hãy soạn hịch khuyến nông truyền khắp trong nước.
Trần Văn Kỷ tuân lệnh lập tức thi hành.
Hôm sau vua Quang Trung giả dạng dân thường đem theo Võ Đình Tú và Trần Văn Kỷ ra ngoài thành xem xét. Đến một thôn trang kia, thấy dân chúng trong thôn tụ tập ở sân đình nghe quan chánh thôn đọc chiếu khuyên nông.
Vua Quang Trung bảo Võ Đình Tú và Trần Văn Kỷ:
- Ta mau đến gần xem thử quan lại các cấp thi hành pháp lệnh thế nào.
Vua tôi tới nơi vừa lúc quan chánh thôn đã đọc xong bài hịch rồi. Một cụ già bước ra hỏi:
- Chiếu vừa ban ra quan trên đọc bảng tiếng Hán. Dan đen chúng tôi ít học nên không hiểu, nhờ quan trên dịch nghĩa Nôm cho thì dân chúng tôi mới biết trong chiếu vừa nói gì.
Quan chánh thôn đáp:
- Lệnh vua ban ra bảo đọc chiếu chứ không bảo dịch chiếu. Các ngươi muốn hiểu thì tự đi học lấy chữ Thánh hiền.
Nói xong quan chánh thôn liền bỏ về. Vua Quang Trung hỏi cụ giá ấy:
- Vậy cụ phải nhờ ai địch chiếu của vua.
Cụ già đáp:
- Nhờ quan chánh thôn chứ còn ai nữa.
Vua ngước nhìn hỏi:
- Lúc này quan đã không chịu dịch rồi kia mà.
Cụ già cười đáp:
- Cứ đến nhà riêng mang theo lễ vật, quân lập tức dịch ngay.
Nghe xong vua Quang Trung lẳng lặng ra về. Trên đường về Trần Văn Kỷ bàn:
- Hoàng thượng nên xuống hịch cho quan sở tại có bổn phận phải dịch Nôm cho dân chúng nghe thì tránh được tình trạng quan lại thừa kẽ hở của pháp luật mà nhận quà cáp của dân.
Vua Quang Trung bảo:
- Ta có cách không cần phải ra lệnh cho quan sở tại dịch Nôm, mà họ vẫn phải đọc chiếu của vua bằng tiếng Nôm của ngươi Nam ta cho dân chúng hiểu được.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Thưa, ấy là cách gì?
Vua Quang Trung vừa đi đến đoạn đường có nhánh cây to bằng bắp chân đâm ngang chặn lỗi, vua đưa tay vận sức bẻ nhánh cây ấy xuống và nói:
- Thay đổi quốc tự!
Văn Kỷ giật mình hỏi:
- Thế nào là thay đổi quốc tự?
Vua đáp:
- Từ nay về sau không dùng chữ Hán của người Tàu mà dùng chữ Nôm của ngươi Nam ta viết chiếu chỉ, văn thư.
Văn Kỷ lo lắng hỏi:
- Nhưng nước Nam ta từ mấy ngàn năm nay trải quả bao triều đại đều dùng chữ Hán làm quốc tự. Nay Hoàng thượng đổi quốc tự e không thuận lòng người. Xin Hoàng thượng nên thận trọng xem xét lại.
Vua Quang Trung ném nhánh cây xuống đất đáp:
- Ta đã suy xét từ lúc tóc còn để chỏm. Nay thả canh dần ta dùng chữ Hán làm quốc tự gặp bao điều rắc rối ta càng quyết tâm hơn. Văn Kỷ hãy truyền hịch khắp thiên hạ từ nay trở đi dùng chữ Nôm làm quốc tự.
Trần Văn Kỷ tuân lệnh theo ý vua mà làm. Chiếu lệnh được ban ra. Hôm sau vua Quang Trung và Võ Đình Tú, Trần Văn Kỷ lại giả dạng dân thường a ngoài thành xem xét. Đến chỗ đông người nghe một nho sĩ nói lên rằng:
- Vua Quang Trung không học sách Thánh hiền mà hạ lệnh dùng chữ Nôm làm quốc tự thay chữ Hán.
Võ Đình Tú nghe vậy nổi giận phừng phừng, vùng tung người nhảy đến chỗ tên nho sĩ vừa nói. Vua Quang Trung lẹ mắt nhảy vội theo chụp được bàn chân Võ Đình Tú kéo xuống đất. Vua quở:
- Khi chưa có lệnh ta không được làm càn.
Võ Đình Tú tức tối, nói:
- Tên hủ nho buông lời phạm thượng. Xin để thần bắt nó đến chỗ Hoàng thượng trị tội.
Vua Quang Trung gạt đi bảo:
- Đã nói họ là hủ nho còn chấp họ làm gì. Mau theo ta về cung.
Về cung, vua hỏi Trần Văn Kỷ:
- Kẻ hủ nho trong thiên hạ không phải là ít. Nay họ đặt điều nói gièm e không lợi cho ta. Theo tiên sinh ta phải đối phó bằng cách nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Việc này thật thần chưa từng gặp. Xin Hoàng thượng hãy vấn kế Ngô Thì Nhậm xem sao.
Vua trầm ngâm bảo:
- Ngô Thì Nhậm đang cùng Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết trấn thủ Bắc Hà. Ta phải triệu Thì Nhậm về ngay mới được.
Đoạn vua viết chiếu lệnh sai quân gặp ra Thăng Long. Về đến Phú Xuân gặp vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm hiến kế:
- Kẻ sĩ trong thiên hạ đều tâm phục khẩu phục một người, xem như bậc thầy tôn làm phụ tử, ấy là La Sen Nguyễn Thiếp. Nay Hoàng thượng mời Nguyễn Thiếp ra chủ trì việc thay đổi quốc tự, tất kẻ hủ nho không còn ai dám buông lời gièm xiểm.
Vua Quang Trung mừng rỡ vỗ tay khen:
- Ngô tiên sinh thật là cao kiến. Vậy phiền khanh đến mời phu tử một phen.
Ngô Thì Nhậm tuân lệnh sớm sứa lên đường.
Nói về La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp ở Hành Âm cốc ngày ấy đang tham thiền nhập định bỗng giật mình gọi tiểu đồng đến bảo:
- Ngươi mau dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị hương ở cho ta tiếp chỉ của vua.
Tiểu đồng vừa làm xong thì Ngô Thì Nhậm đến đọc chiếu mời của vua. Nguyễn Thiếp vui vẻ nói:
- Xin ngài chờ cho một lát. Tôi vào trong thu xếp rồi sẽ đi ngay.
Vào trong tiểu đồng hỏi Nguyễn Thiếp:
- Vua Quang Trung lần trước mời thầy vấn kế đánh Mãn Thanh, thấy đi rồi lại quay về. Lần này thầy đi bao giờ mới về?
Nguyễn Thiếp đáp:
- Hết Hạ sang Thu, đầu mùa gió Bấc ta sẽ quay về.
Tiểu đồng lại hỏi:
- Thày đi lo việc thay đổi quốc tự sao mới hai tháng quay về.
Thiếp buồn rầu đáp:
- Ta mười làm năm ở ăn học phép tham thiền biết điều quá khứ vi lại. Vua Quang Trung là người nhìn xa trông rộng, yêu nước thương dân, lo toan chính sự chuyên tâm cải cách. Nhưng ta định tâm nhìn vào tương lai thấy mọi sự đều bất thành. Thật là đáng tiếc.
Tiểu đồng ngạc nhiên hỏi:
- Thấy biết việc không thành sao còn nhận lời ra giúp vua.
Thiếp trầm ngâm đáp:
- Ta thường dạy học trò rằng: "Quốc giá hưng vong. Thất phu hữu trách". Việc vua thay đổi quốc tự dù không thành nhưng tiếng để ngàn thu. Nếu ta không giúp người đời sau sẽ bảo ta không bằng kẻ thất phu sao.
Nói rồi liền chống gậy ra xe theo Ngô Thì Nhậm về kinh yết kiến vua Quang Trung. Vua Quang Trung phong Nguyễn Thiếp làm viện trưởng Sùng Chính Viện, chiêu tập kẻ thức giả trong nước vào làm việc trong viện, dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để truyền dậy dân chúng. Kẻ sĩ lúc bây giờ bảo nhau rằng:
- La Sơn phu tử là người chẳng thiết công danh không màng sinh tử nên vua vời đã ba lần mà ông ta không ra giúp. Nay phu tử là bậc thầy của bọn ta lại ra giúp vua thay đổi quốc tự tất việc này phải có ý nghĩ gì đây. Bọn ta không hiểu thời thôi, chớ bình phẩm vô tội vạ kẻo thiên hạ cười ta là kẻ chẳng biết gì.
Vua Quang Trung nghe những lời ấy bèn đến Sùng Chính Viện thi lễ với Nguyễn Thiếp, vua nói:
- Xin thầy hãy nhận của trẫm một lạy này.
Thiếp thất kinh vội can:
- Hoàng thượng là thiên tử sao lại làm thế cho lão thần mang tội với trời đất.
Vua Quang Trung nói:
- Nhờ thầy ra giúp việc thay quốc tự mà kẻ sẽ trong thiên hạ không chê trẫm là người ít học, nên trẫm đến đây tạ ơn phu tử
Nguyễn Thiếp vừa đỡ vừa vua nói:
- Ấy là bổn phận của thần đối với dân với nước. Nay thần đã hoàn thành sứ mạng dùng chữ Nôm là quốc tự mà Hoàng thượng giao cho, vả lại lão thần tuổi cao sức yếu, xin Hoàng thượng cho về nơi nước biếc non xanh hưu trí tuổi già.
Vua khẩn khoản rằng:
- Nay trẫm mới lên ngôi, thiên hạ chưa định, việc nước chưa yên. Phu tử là người nhìn xa trông rộng lại bỏ trẫm mà đi, ngộ nhỡ trong nước có điều khó xử thì trẫm biết thỉnh cao ý của ai.
Nguyễn Thiếp đáp:
- Nói về tại kinh bang tế thế thì xưa nay không ai bằng Hoàng thượng. Vả lại giúp việc vẫn thì đã có Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ đều là tay tài hoa lỗi lạc. Lo việc võ thì đã có Tây Sơn thập hổ đều là tướng trí dũng song toàn. Song thành bại là do trời mà thôi!
Vua Quang Trung hỏi:
- Ý Phụ tử đã quyết trẫm không dám ép. Trước lúc chia tay trẫm có điều muốn hỏi, xin Phụ tử dậy cho!
Nguyễn Thiếp đáp:
- Xin Hoàng thượng cứ nói.
Vua hỏi:
- Trẫm đã sai sứ sang Mãn Thanh gặp vua Càn Long đòi đất Lưỡng Quảng xưa kia là lãnh thổ của nước Nam ta. Nếu Càn Long không thuận thì sau khi tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định xong, trẫm sẽ đem quân Bắc tiến đánh Mãn Thanh lấy đất cũ về cho nước ta. Xin hỏi Phu tử hai việc ấy thành bại thế nào?
Nguyễn Thiếp buồn rầu đáp:
- Lão thần định tâm nhìn vào tương lai thấy không có điều bình Nam, Bắc tiến. Lão thần có một bài thơ xin trao Hoàng thượng, đợi lão thần đi rồi Hoàng thượng hãy mở ra xem.
Nói rồi Thiếp vòng tay cáo biệt. Tiễn ra đến xe, vua Quang Trung cầm tay Nguyễn Thiếp hỏi:
- Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định chẳng qua nay mai trẫm chỉ đánh một trận là biết được mà thôi. Có việc đánh Mãn Thanh đòi Lưỡng Quảng, phu tử cho rằng trẫm không làm nổi ư?
Nguyễn Thiếp đáp:
- Cả hai việc ấy Hoàng thượng thừa sức làm.
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Vậy cớ gì thầy lại bảo không có điều bình Nam Bắc tiến?
Nguyễn Thiếp đáp:
- Thiên cơ bất khả lậu! Những gì có thể nói thần đều viết trong bài thơ ấy cả. Xin Hoàng thượng hãy giữ gìn long thể.
Đoạn Thiếp ứa nước mắt từ biệt vua mà đi. Còn lại một mình, vua Quang Trung liền giờ thơ ra đọc. Thơ rằng:

Một nước hai vua nặng vai già
Cuộc cờ phú quý pháo ngựa qua
Trời Nam mau gầy cây Sơn giống
Đất Bắc hãy còn cột Phúc Ba!
Con thú một sừng gần trở mặt
Mà người chột mắt vẫn không ra
Bao giờ Nhật Nguyệt quang minh hội
Khi ấy du ca rỡ giống nhà.

Đọc xong bài thơ ấy, vua Quang Trung nét mặt dàu dàu lặng lẽ lui về hậu cung, Hoàng hậu Ngọc Hân hỏi:
- Hoàng thượng có điều buồn bực chăng. Sao long nhan lại ủ dột như thế?
Vua Quang Trung đáp:
- Ta hỏi Phu tử về việc đánh Gia Định giết Phúc Ánh và việc đánh Mãn Thanh lấy đất Lưỡng Quảng. Phu tử bảo không thầy có điều binh Nam, Bắc tiến. Phu tử lại trao cho ta bài thơ này. Ta đọc chưa rõ ý ra sao nên trong dạ không vui.
Nói xong vua trao bài thơ cho Lê Hoàng hậu.
Hoàng hậu đọc xong suy nghĩ giây lát rồi bàn rằng:
- "Một nước hai vua nặng vai già,
Cuộc cờ phú quý pháo ngựa qua"

ý muốn nói rằng trong bàn cờ bá vương đã có vua em Quang Trung còn có vua anh Thái Đức. "Nặng vai già" có lẽ ý nói thầy Phu tử không kham nổi nên mới về ở ẩn chăng?
Vua đáp:
- Câu này ta cũng hiểu nghĩa chung là như thế. Vậy hai cậu tiếp theo ý thế nào?
Hoàng hậu đáp:
- Trời Nam mau gầy cây Sơn giống
Đất Bắc hãy còn cột Phúc Ba!

vậy Nguyễn Phúc Ánh không bị diệt nên phục quốc. "Gầy cây Sơn giống", ý muốn nói nên gìn giữ dòng giống của nhà Tây Sơn chăng?
Vua Quang Trung giục:
- Hoàng hậu cứ bàn tiếp xem câu thứ tư là ý thế nào.
Hoàng hậu đáp:
- Câu thứ tư là: "Đất Bắc hãy còn cột Phúc Ba!". Cột Phúc Ba lá cây cột mà hai ngàn năm trước tướng nhà Hán là Mã Viện trồng ở ranh giới nước ta và nước Tàu. Câu này nghĩa là cột Phúc Ba hãy còn đó thì không có điều Bắc tiến.
Vua Quang Trung trầm ngâm nói:
- Hai câu này đúng ý mà Phụ tử đã nói với ta. Còn các câu sau thế nào?
Lê Hoàng hậu bàn rằng:
- Trong rừng sâu có một loại thú dữ một sừng gọi là Tê giác còn có tên là con Tây. Nay nghe nói người Tây dương theo giúp Phúc Ánh ở Gia Định có lẽ ứng vào câu năm là "Con thứ một sừng gần trở mặt" chăng?
- Còn câu tiếp theo?
- Ba câu sau thiếp thật không hiểu là ý thế nào. Nhưng xét cho cùng lời Phu tử đã lấy gì làm chắc!
Vua Quang Trung buồn rầu nói:
- Lần trước Phu tử đoán trong năm ngày ta đã phá quân Thanh, quả nhiên không sai. Lời Phu tử không thể xem thường. Nhưng việc đang làm ta cứ làm, thành bại là do trời vậy.
Lê Hoàng hậu an ủi vua rằng:
- Việc đánh Phúc Ánh, đàn bà như thiếp cũng biết rằng trăm phần chắc tháng, sao Phu tử lại bảo là không có điều binh Nam? Thiếp e lần này Phu tử lầm lẫn làm cho Hoàng thượng phải phiền muộn. Xin Hoàng thượng hãy vào trong chờ thiếp hầu hạ đừng nên lo lắng làm gì.
Vua vừa đứng lên toan đi theo Lê Hoàng hậu, bỗng quân cận vệ vào báo:
- Tâu Hoàng thượng, tướng quân Đặng Xuân Phong và tướng quân Võ Đình Tú đang đánh nhau ở điện Thái tử.
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Có việc ấy thật sao?
Quân đáp:
- Thưa, hai tướng được lệnh Thái tử phải thí võ cho xem nên đánh nhau long trời lở đất.
Vua hầm hầm nổi giận lập tức đến điện Thái tử. Đến nơi thấy Võ Đình Tú dùng côn đồng, Đặng Xuân Phong dùng côn sắt quần nhau chí tử. Thái tử Quang Toản và quan nội thị Bùi Đắc Tuyên cũng bọn quân hầu vỗ tay reo hò inh ỏi. Vua Quang Trung quát lên như sấm rằng:
- Mau dừng tay lại!
Tú và Phong đang đánh nhau; hoảng hốt quăng côn, mọi người đều quỳ thi lễ. Vừa lớn giọng hỏi Tú và Phong:
- Hai khanh đều là đại tướng của ta. Đường côn khai quốc lại đem làm trò vui cho kẻ khác mà không biết thẹn hay sao?
Võ Đình Tú cúi đầu đáp:
- Thái tử lệnh cho thần và Đặng tướng quân đấu võ cho người xem, nên chúng thần không dám không vâng.
Vua gọi Quang Toản đến hỏi:
- Vì sao còn lại làm việc ấy?
Quang Toản lúc ấy mới mười tuổi, Toàn vừa chỉ quan nội thị Bùi Đắc Tuyên vừa tâu rằng:
- Thường ngày cậu theo chơi với con, thấy con phiền muộn cậu bày con gọi tướng quân Võ Đình Tú và Đặng Xuân Phong đấu võ cho con xem.
Vua Quang Trung cả giận quát Bùi Đắc Tuyên rằng:
- Ngươi là cậu ruột của Thái tử nên mới được phong làm quan nội thị trông nom Thái tử. Sao đã xui Thái tử làm điều xằng bậy khinh dễ công thần tội thật đáng chết. Quân bay lôi vào chém!
Quang Toản quỳ khóc van xin:
- Từ ngày Mẫu hậu mất đi, cậu thay mẹ trông nom lo lắng cho con. Nay Phụ hoàng giết cậu thì là ai lo cho con. Xin Phụ hoàng tha cho cậu một phen!
Vua Quang Trung ôm Quang Toản vào lòng nói:
- Nể tình Thái tử ta tha chết cho nhưng phải đánh hai mươi roi làm gương cho kẻ khác. Võ sĩ mau thi hành lệnh ta.
Bùi Đắc Tuyên bị đánh hai mươi rơi vào mông lột da chảy máu đau đớn lắm cà nhắc mà về nhà.

Tây Sơn bi hùng truyện
Phần V - Chương 58 PHỤ NGUYỄN PHỤC THỐNG. Cãi lời cha, Quang Toản tha cậu. Dối lòng mình, Nguyễn vương giết quân.
Nói về Bùi Đắc Tuyên bị đánh hai mươi roi đau đớn về nhà. Vừa đến nhà gặp một người ngồi quay lưng lại phía Tuyên. Người ấy nói rằng:
- Ngài là cậu ruột của Thái tử, đáng lẽ phải quyền nghiêng thiên hạ mới phải, cớ sao lại bị đồn đau như thế.
Bùi Đắc Tuyên nạt:
- Ngươi là ai vào nhà ta dám nói lời càn rỡ.
Người ấy vừa quay mặt lại vừa đáp:
- Ngày trước, vua em còn là Bắc Bình Vương bị vua Thái Đức bắt giam gia quyến ở Quy Nhơn. Tôi đưa ngài trốn khỏi Quy Nhơn về Phú Xuân báo cùng Bắc Bình Vương. Nay ngài đã quên tôi rồi ư?
Bùi Đắc Tuyên cả mừng nói:
- Thì ra là thái giám Vũ Tâm Can. Ơn ngài cứu tôi lần trước tôi quên sao được. Nay ngài đến đây có việc gì chăng?
Vũ Tâm Can làm bộ buồn rầu đáp:
- Vua anh Thái Đức biết việc ngày trước tôi tha cho ngài nên bắt tội tôi. May vua còn nghĩ tình cho tôi là Vụ Tất Thận nên người không giết mà đuổi tôi khỏi Hoàng cung. Tôi không nơi nương tựa nên mới đến đây nhờ ngài ít hôm vậy.
Tuyên vui vẻ nói:
- Ngài là người ơn và đối với tôi là cho thâm giao. Việc ấy nào khó gì. Cố tri âm tâm sự càng thích chớ sao.
Đoạn Tuyên sai quân bày rượu thịt. Rượu ngà ngà Vũ Tâm Can nói:
- Ngày xưa Trương Phúc Loan là cậu ruột của Vương Nguyễn Phúc Khoát làm đến chức Thái phó quyền uy tột đỉnh. Nay ngài là cậu ruột của Thái tử nếu ngày sau Thái tử lên ngôi thì ngài là cậu ruột của vua. Vậy cớ sao ngài chỉ làm chức Nội thị mà thôi, lại còn bị đòn đau thế. Tôi thật không thể nào ngờ được.
Tuyên cả thẹn nhưng cố giấu, đáp:
- Ta dù là anh vợ của Hoàng thượng, nhưng Hoàng thượng không tin cẩn người thân, chỉ trọng dụng hiền tài. Hoạ may khi Thái tử lên ngôi ta mới mong làm nên quan lớn.
Nói rồi hai người lại cùng nhau mời rượu, tâm đắc hàn huyên. Tối ấy Vũ Tâm Can tá túc trong tư dinh Bùi Đắc Tuyên.
Hôm sau Tuyên vào điện Thái tử nghe bọn cung nhân bàn tán rằng:
- Đêm rồi vua mắc bệnh, ngự y vua đến thăm bệnh cho vua xong.
Nghe được tin ấy Bùi Đắc Tuyên liền tìm gấp ngự y, Tuyên hỏi:
- Hoàng thượng long thể thế nào?
Ngự y đáp:
- Hoàng thượng mắc bệnh huyền vựng do cản hoả vượng nên xây xẩm mặt mày. Tôi vừa cho vua uống bài thuốc bình can tá hoả nên Hoàng thượng đã bình phục như thường.
Tuyên hỏi:
- Vậy là bệnh cảm mạo xoàng, không có gì nghiêm trọng chứ?
Ngự y đáp:
- Bảo xoàng thì không thể nói là xoàng, mà trầm trọng thì cũng không thể bảo là trầm trọng.
Bùi Đắc Tuyên lấy làm lạ hỏi:
- Bệnh tình gì mà lạ như thế?
Ngự y đáp:
- Trong lục phủ ngũ tạng của con người thi can chủ về huyết và điều tiết huyết lượng. Bệnh can hoả vượng là gan bị nóng mà khiến cho huyết lượng vận hành lên não nhiều quá, khiến mạch máu trên đầu không dung chứa nổi phải vỡ ra. Nếu đã đến tình trạng vỡ mạch máu não thì không có thuốc gì chữa khỏi nên không thể gọi bệnh xoàng là do thế. Cũng may Hoàng thượng mới phát bệnh tôi liền cho uống thuốc bình can tá hoả nên trở lại bình thường, bởi vây gọi là chưa trầm trọng là do thế.
Tuyên cười bảo:
- Hoàng thượng đã khỏi bệnh tất không phải là trầm trọng. Sao người lại lý luận dông dài thế?
Ngự y nói:
- Tạm thời là khỏi những nếu không giữ gìn sẽ tái phát ngày, hậu quả không lường trước được.
Tuyên hỏi:
- Giữ gìn như thế nào.
Ngự y đáp:
- Bệnh này không được nóng giận, không được dùng vật thực có chất kích thích mới khỏi tái phát. Ngài là quan nội thị nên để tâm chăm sóc cho Hoàng thượng mới được.
Nói rồi ngự y cáo biệt ra về.
Đêm ấy các tướng nghe vua Quang Trung bị bệnh lũ lượt kéo đến thăm. Vua mới mọi người vào ngự điện rồi cười nói:
- Ta chỉ hơi mệt trong giây lát, ngự y vừa cắt thuốc đã khỏi ngày. Sẵn dịp các tướng đến đông đủ ta nhắc lại việc này: Nay đã là cuối tháng bảy, cả tướng hãy chỉnh đốn binh mã chuẩn bị quân trang chờ gió Bấc sẽ cùng ta kéo đại binh vào Nam bắt Phúc Ánh.
Các tướng đều vâng lệnh. Vua quay sang hỏi Trần Văn Kỷ:
- Việc ta dùng chữ Nôm làm quốc tự và cấp thẻ bài cho dân, đến nay tiên sinh thấy bá tánh sinh hoạt thế nào.
Kỷ đáp:
- Tâu Hoàng thượng, nhờ ta áp dụng cách ấy mà đến nay dân giàu nước mạnh, trăm họ đều an cư lạc nghiệp.
Vua lại hỏi:
- Vũ Văn Dũng đi sứ sang Tàu tin báo thế nào.
Kỷ đáp:
- Sứ đoàn đã đến Lưỡng Quảng. Vũ Văn Dũng cần quan sát địa hình vẽ bản đồ đất ấy nên không thể ở mau được.
Vua bảo mọi người rằng:
- Các khanh hãy về ăn nghỉ. Ngày mai đến hạn thiết triều ta sẽ ra ngự triều nghe bá quan báo cáo tình hình trong nước.
Trần Văn Kỷ can:
- Hoàng thượng long thể bất an nên nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng...
Vua ngắt lời Văn Kỷ:
- Cũng nhờ ta mắc bệnh cảm xoang mà các khanh đến đây đông đủ. Để ta đánh bài đao này ắt các khanh sẽ không quá lo cho ta như thế nữa.
Đoạn vua bảo quân:
- Mau mang đao đến đây.
Hai tên quân khệ nệ khiêng đến một cây đao to lớn khác thường. Vua nhấc bổng đao lên hỏi Võ Đình Tú:
- Cây đao này có nặng bằng cây đao thời Quan Vân Trường trong nhà của Đình Tú ở Tây Sơn hay chăng.
Đình Tú đáp:
- Thưa nặng hơn thế nữa ạ.
Vua Quang Trung hoành đao bỏ bộ mà múa. Đao đi như chớp, hơi gió vi vu, khí lạnh rợn người. Múa xong vua dựng đao hỏi Đình Tú:
- Sức khỏe của ta có còn như lúc trước múa đao cầu Đình Tú đánh thành Quy Nhơn chăng?
Đình Tú mừng rỡ đáp:
- Sức khỏe Hoàng thượng vẫn như xưa.
Vua cười bảo:
- Chưa diệt xong Phúc Ánh ở Gia Định, chưa đo xong đất Lưỡng Quảng về cho nước Nam, ta sao có thể yên đi được. Thôi các khanh hãy về ăn nghỉ, ngày mai đến hạn thiết triều cùng bàn việc quốc gia.
Mọi người ra rồi, Trần Quang Diệu gọi Bùi Đắc Tuyên đến hỏi nhỏ:
- Từ lúc tôi theo Hoàng thượng đến nay chưa bao giờ thấy người hưng phấn như thế cả. Thật là lạ! Chú là quan nội thị nên trông nom Hoàng thượng cho cho đào. Nếu thấy càn thì gọi quan ngự y đến trực bên giường ngự. (Tuyên là chú ruột của Bùi Thị Xuân nên Diệu gọi Tuyên bằng chú). Dặn dò xong Điều mới ra về.
Đêm ấy trong cảnh ba đã điểm. Vua Quang Trung vẫn ngồi bên ngọn nến giở bài thơ của Nguyễn Thiếp ra xem. Vừa lầm bầm rằng:
"Trời Nam mau gầy cây Sơn giống
Đất Bắc hãy còn cột Phúc Ba!"

Không có điều binh Nam, Bắc tiến. Thật là lạ! Bỗng Bùi Đắc Tuyên đến bên vua tâu:
- Xin dâng Hoàng thượng chén trà ngon để cơn buồn ngủ.
Vua Quang Trung hỏi:
- Hôm quá ta đánh ngươi hai mươi roi, người không giận ta sao.
Bùi Đắc Tuyên đáp:
- Thưa, làm tôi không được giận vua.
Vua bảo:
- Tự hậu ngươi không được đem đại thần ra là trò vui cho Thái tử nữa!
Nói xong vừa bưng chén trà nhấp một miếng. Vua hỏi:
- Trà thơm ngon nhưng sao lại ngọt thế.
Tuyên đáp:
- Mỗi lúc thần làm việc khuya buồn ngủ hoặc trong người uể oải, thần thường uống trà đường cho tinh thần tỉnh táo. Nay thấy Hoàng thượng thức khuya nên thần mới dâng trà đường cho Hoàng thượng dùng.
Vua Quang Trung bên bưng chén trà đường uống cạn.
Nói về Hoàng hậu Lê Ngọc Hân, đâm ấy đang ngồi bên ngọn đèn may áo, bỗng dưng cơn buồn ngủ từ đâu ập đến. Không cưỡng được Hoàng hậu gục xuống án mà ngủ. Đang mơ màng Hoàng hậu nghe có người lay mình dậy và gọi:
- Hoàng hậu! Hoàng hậu!
Lê Hoàng hậu giật mình choàng tỉnh, thấy một người con gái mặt đẹp như hoa, xiêm y lộng lẫy đang đứng trước mặt mình. Hoàng hậu hỏi:
- Ngươi là ai đang đem đêm đến đây quấy rầy ta?
Người con gái ấy đáp:
- Ta cũng là công chúa con vua, về sau thành vợ vua, cũng làm Hoàng hậu như nàng. Thương nàng cùng cảnh ngộ nên mới đến thăm.
Ngọc Hân cười nói:
- Từ xưa đến nay ở nước Nam ta công chúa về sau làm Hoàng hậu chỉ có Trần Huyền Trân công chúa đã mất cách đây mấy trăm năm. Chẳng lẽ ngươi lại là Huyền Trân công chúa?
Người con gái ấy đáp:
- Phải! Ta chính là Huyền Trân công chúa đã chết mấy trăm năm nay, tiêu diêu miền cực lạc. Nhân đi ngang qua thấy Hoàng hậu còn thức may áo nên ghé thăm!
Ngọc Hân hoảng hốt toan sụp lạy, Huyền Trân đỡ dậy hỏi:
- Việc may vá đã có bọn a hoàn, sao Hoàng hậu lại thức khuya mà may áo vậy.
Ngọc Hân đáp:
- Hoàng thượng sắp vào Nam đánh Phúc Ánh và mùa gió Bấc. Vì vậy tôi may áo này tặng Hoàng thượng mặc khi trái giờ trở trời.
Trần Huyền Trân vùng cười lớn, cười đến chảy nước mắt rằng:
- Thương thay may áo lạnh cho chồng! Nhưng Hoàng thượng không vào Nam đánh giặc đâu. Hoàng hậu đừng quá lo như thế.
Ngọc Hân giận hỏi:
- Chồng ta là bậc anh hùng trong thiên hạ, mà lời đã nói bốn ngựa khó theo. Huống hồ người đã sai các tướng chỉnh đốn binh mã định ngày đánh Phúc Ánh, sao Huyền Trân công chúa lại bảo chồng ta không vào Nam đánh giặc. Hoá ra chồng ta là thiên tử lại nói đùa ư?
Huyền Trân đáp:
- Theo kế hoạch của Hoàng thượng trước diệt Nguyễn Phúc Ánh, sau lấy lại đất Lưỡng Quảng ngoài thì thao luyện binh sĩ, trong thì nghiêm pháp an dân. Vậy chẳng bao lâu nữa nước Nam ta sẽ hùng cường nhất trong bốn cõi. Nhưng tiếc thay không có điều binh Nam, Bắc tiến.
Ngọc Hân ngạc nhiên hỏi:
- Lời công chúa giống như lời Phu tử. Xin công chúa hãy cho biết vì sao lại như vậy?
Huyền Trân đáp:
- Vận nước chưa hùng, thiên cơ bất lậu. Lát nữa Hoàng hậu sẽ rõ!
Nói xong Huyền Trân nhẹ nhàng bước ra ngoài cửa mất dạng. Ngọc Hân giật mình thức dậy. Thì ra ấy là một giấc mơ! Còn đang bàng hoàng, bỗng a hoàn chạy vào báo:
- Hoàng hậu đi! Nguy rồi!
Ngọc Hân giật mình hỏi:
- Việc gì mà nguy.
A hoàn hổn hển đáp:
- Hoàng thượng làm bạo bệnh thình lình, mê mà bất tỉnh đang năm nơi ngự điện.
Ngọc Hân hoảng hốt vội chạy sang ngự điện. Đến nơi thấy các đại thần quây quần cạnh long sàng, Vừa Quang Trung nằm thiêm thiếp. Ngọc Hân phủ phục bên long sàng vừa khóc vừa hỏi:
- Hoàng thượng đang khoẻ mạnh cớ sao đến nỗi này?
Ngự y buồn rầu đáp:
- Hoàng thượng mắc bệnh huyền vựng nên huyết vận lên đầu nhiều quá đã vỡ mạch máu não. Thần e không có thuốc gì chữa khỏi. Giờ thần chỉ có thể châm cứu các huyệt hồi dương để Hoàng thượng tỉnh lại nói lời trăng trối mà thôi.
Nói xong, ngự y liền dùng kim châm vào các huyệt Nhân trung, Thừa tướng, Bách hội, Túc tam lý, Quang nguyên, Khí hải. Phút sau vua từ từ hé mặt hỏi:
- Bùi Đắc Tuyên đâu?
Tuyên quỳ đáp:
- Có thần!
Vua hạ lệnh:
- Võ sĩ lôi Bùi Đắc Tuyên ra ngoài chém!
Đắc Tuyên đập đầu lậy như tế sao, van xin rằng:
- Hạ thần vô tội sao lại chém?
Vua đáp:
- Ngươi cho ta uống nước gì mà trúng độc thế này.
Bùi Đắc Tuyên run rẩy phân trần:
- Thần chỉ dâng trà đường cho Hoàng thượng uống. Bình trà hãy con, trước mặt bá quan thần xin uống cạn.
Nói xong Tuyên bưng binh trà uống hết một hơi. Đoạn Tuyên quay sang các quan khẩn khoản:
- Xin các quan hay xin tôi giùm cho, kẻo oan cho thần quá.
Vua Quang Trung cố giơ tay lên ra dấu bảo im lặng, xong vua bảo:
- Dù trà không có độc cũng phải chém. Võ sĩ! Lập tức thi hành.
Võ sĩ lôi Bùi Đắc Tuyên ra ngoài. Thái tử Quang Toản và nữ tướng Bùi Thị Xuân vội chạy theo. Quang Toản bảo quân:
- Các ngươi tạm giam quan nói thi lại. Chờ ta vào xin tội với Phụ hoàng.
Võ sĩ nói:
- Thái tử tuổi còn nhỏ nên không rõ đó thôi. Xưa này Hoàng thượng chưa giết ai vô cớ bao giờ. Vua bảo chém thì thần phải chém còn chờ gì nữa.
Bùi Thị Xuân chen vào nói:
- Chú ta bị vua hiểu lầm rằng cho vua uống trà độc. Nếu trả cô độc thật chú ta tất cũng phải chết. Nếu chú ta không chết tất chú ta vô tội, việc gì phải chém. Ngươi cứ giam chú ta lại đó. Nếu vua bắt tội ta chết thay cho ngươi.
Võ sĩ nể Bùi Thị Xuân đành tạm giam Bùi Đắc Tuyên chờ lệnh. Thái tử Toản và Bùi Thị Xuân quay vào điện, vừa lúc ấy nghe vua hỏi:
- Trần Quang Diệu và Đặng Văn Long đau?
Diệu và Long cùng thưa
- Có thần!
Vua mở mắt bảo:
- Sau khi ta chết hai khanh phải giúp Thái tử dời đô về Nghệ An ngay lập tức.
Diệu hỏi:
- Vì sao phải dời đô về Nghệ An?
Vua đáp:
- Nghệ An đất rộng dân đông, hai bên có núi non làm thành trì che chở có chẳng khác gì phủ Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh nghe ta chết tất đem thuỷ quân ra đánh, Phú Xuân trống trải e rằng không giữ được. Sau khi ta chết các khanh phải giấu kín việc này, cho gọi Vũ Văn Dũng về đến và chuẩn bị việc dời đô xong mới được phát tang.
Trần Quang Diệu và Đặng Văn Long khóc lấy nhận lệnh.
Vua lại hỏi:
- Nguyễn Văn Tuyết đâu?
Tuyết thưa:
- Có thần!
- Khanh mau cưỡi ngay Xích kỳ theo sứ đoàn gọi Vũ Văn Dũng về ngày. Thật uổng thay vận nước ta không đòi được đất Lưỡng Quảng!
Nguyễn Văn Tuyết khóc lậy rồi ra đứng ngoài cửa không chịu đi, nước mắt tuôn như mưa. Thấy vậy Võ Đình Tú hỏi:
- Vua ra lệnh sao ông còn chưa đi?
Tuyết lấy vạt áo chùi hàm râu ướt đẫm nước mắt:
- Nếu Hoàng thượng băng hà thật tôi hẵng đi cũng chẳng muộn gì.
Bỗng nghe tiếng vừa gọi:
- Võ Đình Tú đâu?
Tú liền chạy vào thưa:
- Có thần!
Vua bảo:
- Ngươi có tại nhảy xa mau chạy đến gọi Bắc cung Hoàng hậu Ngọc Hân tới cho ta kẻo không còn kịp nữa!
Ngọc Hân nãy giờ lặng lẽ khóc, nghe vậy thét:
- Thần thiếp đã ở đây! Hoàng thượng cứ chỉ dạy!
Vua nắm tay Ngọc Hân nói:
- "Trời Nam mau gầy cây Sơn giống!". Nàng nhớ làm theo. Phu tử thật là bậc thánh vậy!
Ngọc Hân chỉ gật đầu mà khóc. Vua gọi Quang Toản hỏi:
- Võ sĩ đã chém Bùi Đắc Tuyên chưa?
Toàn đáp:
- Cậu con đã uống hết bình trà dâng Phụ hoàng mà vẫn bình an vô sự. Vậy cậu con vô tội sao lại chém?
Vua Quang Trung lúc ấy đã đuối sức gắng gượng nói:
- Dù vô tội cũng phải chém! Nếu không khi ta mất rồi ắt về sau…
Nói đến đây vua trào nước mắt rồi thổ huyết mà chết.
Tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung băng hà, vừa tròn bốn mươi tuổi.
Người đời sau có thơ khen vua Quang Trung rằng:

"Lưu truyền thanh sử Nguyễn Quang Trung
Cứu dân giúp nước dựng cờ hồng
Bốn lần vào Nam, truy Phúc Ánh
Ba lần ra Bắc, giết Trịnh Tôn
Rạch Gầm tan tác, quân Tiêm - Nguyễn
Đống Đa sành sạch bóng Lê - Thanh.
Ví thử trời thương dòng Âu Lạc
Ngờ đâu đoản mệnh đấng anh hùng!"

Vua Quang Trung mất rồi, Lê Hoàng hậu và bá quan văn võ cũng khóc thật thảm thiết. Nguyễn Văn Tuyết đang đứng ngoài cửa nghe vậy nhảy lên ngựa Xích kỳ nhằm hướng Bắc phi mau như gió!
***
Nói về Vũ Văn Dũng theo sứ đoàn sang Mãn Thanh. Hôm ấy Dũng đang đóng cửa vẽ bản đồ, Nguyễn Văn Tuyết bước vào nói:
- Thôi ông còn vẽ bản đồ Mãn Thanh làm chi nữa!
Vũ Văn Dũng ngạc nhiên hỏi:
- Tôi theo lệnh vua vẽ bản đồ đất Lưỡng Quảng sao ông lại bảo thế. Và vì sao ông lại đến đây?
Rơm rớm nước mắt, Văn Tuyết nói:
- Hoàng thượng bảo tôi cưỡi ngựa Xích kỳ gọi ông về gấp!
Văn Dũng ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại có việc ấy được. Vậy chiếu lệnh của vua đâu?
Văn Tuyết khóc lớn đáp:
- Hoàng thượng đã băng hà không kịp viết chiếu lệnh, chỉ sai tôi gặp ông nói miệng mà thôi.
Vũ Văn Dũng nghe qua như sét đánh ngang mày, vùng hét lên một tiếng rồi ngã ra mà ngất đi. Quân hầu xúm lại cứu chữa. Hồi lâu Dũng hồi tỉnh đứng dậy đây và lấy bản đồ vẽ dở xé tan rồi khóc rằng:
- Trời cho vua ta sống thêm mấy năm nữa, chúa tôi Đường - Tống hết khoe hùng. Đại sư huynh ơi! Uổng bao tâm huyết của sư huynh. Ôi! Thật là đáng tiếc!
Than xong Vũ Văn Dũng cố nén niềm đau, đem hai tờ biểu cầu hôn công chúa nhà Thanh và đòi đất Lưỡng Quảng đốt đi rồi ra lệnh cho sứ đoàn quay về nước.
Người đời sau tiếc việc vua Quang Trung đòi đất Lưỡng Quảng bất thành có hai câu thơ rằng:

"Liệt oanh nối chí triều Tây
Ai đòi Lưỡng Quảng về đây cho mình?"
Nói về vua Thái Đức ở Hoàng đế thành, Quy Nhơn phủ. Ngày ấy vua Thái Đức nói với con trai là Thái tử Bảo rằng:
- Ta đã thuận ý giao binh quyền cho Hoàng thúc của con đem quân vào Nam tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh. Sao đến bây giờ vẫn chưa thấy Hoàng thúc có động tĩnh gì.
Thái tử Bảo đáp:
- Hoàng thúc đợi đến mùa Thu đầu mùa gió Bấc mới thuận gió xuôi chiến thuyền vào Nam đánh Phúc Ánh. Nay mới đến tiết sau thu nên người chưa phát lệnh hành quân đó thôi.
Thái tử Bảo vừa dứt lời, xảy quân vào phi báo:
- Tâu Hoàng thượng, vua em Quang Trung ở Phú Xuân lâm bạo bệnh đã băng hà!
Vua Thái Đức nghe qua vùng hét lên: "Em ơi!", rồi ngã ra ngất đi. Ngươi hầu xúm vào cứu chữa. Vừa tỉnh lại khoe rằng:
- Nguyễn Huệ em oi! Kẻ từ ngày Tây Sơn dấy nghĩa nhờ có em chinh Nam phạt Bắc nên nhà Tây Sơn ta mới được như ngày nay. Cũng tại anh do ta làm chậm bước tiến của em trên con đường thống nhất giang sơn nên Nguyễn Phúc Ánh mới manh nha dấy loạn ở miền Nam. Nay anh đình nhường ngôi cho em để giang sơn quy về một mối, thì than ôi, em đã ra người thiên cổ! Đau đớn thay! Nguyễn Huệ em ơi!
***
Lại nói về Nguyễn vương ở thành Sài Côn ngày ấy đang cùng các tướng luyện võ trước điện, bỗng quân mừng rỡ chạy vào báo:
- Tâu Thượng vương, quân do thám ta từ Phú Xuân báo về vua em Tây Sơn là Quang Trung Nguyễn Huệ đã chết!
Nguyễn vương đang múa gươm nghe vậy hét lên một tiếng tung mình một cái nhảy vọt lên đứng trên nóc điện. Các tướng đều ngừng luyện võ vỗ tay reo hò như sấm dậy. Nguyễn Vương từ trên nóc điện nhảy xuống gọi tên tiểu tướng cận vệ đến hỏi:
- Vì sao ngươi lại vui mừng như vậy.
Tên tiểu tướng đáp:
- Thượng vương hàng ngày luyện võ là để làm gương cho tướng sĩ gắng sức tập luyện đề phòng Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh. Nay Nguyễn Huệ đã chết ta không còn phải lo quân Tây Sơn đến đánh nên thần vui mừng là thế.
Nguyễn vương cau mày bảo:
- Vậy hoá ra ngươi sợ giặc hay sao? Nguyễn Huệ tài cán gì mà phải sợ hắn. Ngươi đã làm giảm nhuệ khí ba quan. Võ sĩ lôi ra chém!
Chém tên tiểu tướng xong, Nguyễn vương hỏi các tướng:
- Còn các khanh vì sao lại mừng rỡ như vậy?
Ai này đều cúi đầu không dám nói. Lão tướng Nguyễn Nghi nhanh trí bước ra thưa:
- Chúng thần thấy Thượng vương chỉ nhảy một bước đã bay lên nóc điện nhẹ nhàng như chim nên mừng rỡ vỗ tay tán thưởng đấy ạ.
Nguyễn vương cười hỏi:
- Trong thiên hạ có ai nhảy được như ta chăng.
Trương Tấn Bửu thật thả đáp:
- Hạ thần nghe nói tướng Tây Sơn là Võ Đình Tú tài nhảy cao. Ngày xưa giặc Tây Sơn đánh thành Quy Nhơn nhờ Võ Đình Tú nhảy lên mặt thành dẫn quân kéo cầu treo nên giặc Tây Sơn mới tràn vào thành.
Nguyễn vương cau mày bảo:
- Lão tướng Nguyễn Nghi từng trải qua ba đời Chúa, từ Võ Vương, Định Vương rồi đến ta con không nghe đến việc ấy. Ngươi mới theo ta biết gì mà nói. Thôi mau giải tán chờ gió Nồm tiến đánh Tây Sơn.
Đoạn Nguyễn vương quày quả về vương phủ. Mọi người ra về rồi, Trương Tấn Bửu chạy theo hỏi Nguyễn Nghi:
- Không có việc Võ Đình Tú nhảy lên mặt thành Quy Nhơn thì thôi, sao Thượng vương lại giận tôi.
Nguyễn Nghi đáp giọng bí mật:
- May mà tướng quân thật thà chất phác nên Thượng vương chỉ giận mà thôi. Nếu kẻ khác ắt phải mất dần.
Trương Tấn Bửu lại hỏi:
- Sao lão tướng quân không xin Thượng vương nhảy lại lần nữa cho mọi người thưởng ngoạn?
Nguyễn Nghi kề tai Bửu nói nhỏ:
- Thượng tướng quân là người thật thà nên tôi mới căn dặn điều này. Thượng vương không bao giờ nhảy được lần hai đâu. Nếu tướng quân xin thế sao khỏi mất đầu.
Nguyễn Nghi đi rồi Bửu nói thầm rằng:
- Nếu không nhảy được lần hai, vậy nhờ đâu Thượng vương lại có sức mạnh thần sầu như thế. Ta thật không hiểu nổi?

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 59 Bùi Đắc Tuyên dùng kế thu quyền. Lê Thái hậu làm thơ minh oan.
Nhắc lại vua Quang Trung mất rồi, đình thần bèn phò Thái tử Toản mới mười tuổi lên ngôi vua. Quang Toản xưng đế hiểu là Cảnh Thịnh. Vua Cảnh Thịnh tuổi còn nhỏ chỉ nghe lời cậu ruột của mình là quan nội thị Bùi Đắc Tuyên, phong Tuyên làm Thái sư đứng đầu ba quan trong triều.
Tuyên mừng rỡ về nhà hỏi Vũ Tâm Can:
- Ta này được chức Thái sư là nhờ ấu quân ta phong nhưng e lòng người không phục. Vậy nên là thế nào để khiến chúng được.
Vũ Tâm Can cười đáp:
- Nếu Thái sư biết dùng nanh vuốt của mình thì quyền nghiêng thiên hạ đó.
Tuyên lấy làm lạ hỏi:
- Thế nào là biết dùng nanh vuốt?
Can đáp:
- Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân gọi Thái sư là chú ruột. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân xưa mang ơn nhà họ Bùi của Thái sư, họ đều là đại tướng anh hùng cả. Nếu Thái sư dùng họ làm nanh vuốt củng cố thế lực thì ai dám không nghe.
Tuyên lắc đầu hỏi:
- Diệu, Xuân dù cháu ta nhưng chưa hẳn đã lôi kéo được, làm thế nào sai khiến họ đây?
Vũ Tâm Can hiến kế:
- Thái sư cứ làm như vậy... như vậy... ắt bá quan sợ thế lực của Diệu, Xuân mà phải đến chúc mừng Thái sư. Ấy là kế cáo mượn oai hùm.
Bùi Đắc Tuyên mừng rỡ khen:
- Thật là diệu kế!
Nói rồi liền theo kế ấy thi hành.
Hôm sau vợ chồng Diệu, Xuân nhận được chiếu chỉ của vua Cảnh Thịnh vời đến tư dinh của Bùi Đắc Tuyên. Diệu ngạc nhiên hỏi Xuân:
- Vua gọi ta thì phải gọi vào ngự điện, sao lại gọi đến tư dinh Thái sư là cớ gì.
Bùi Thị Xuân đáp:
- Vua còn nhỏ chưa tháo triều nghi. Vả lại Thái sư là chú ruột của thiếp có gì mà chẳng phải ngại.
Diệu nghe xuôi tai liền theo vợ đến nhà Bùi Đắc Tuyên. Bá quan trọng thấy bảo nhau rằng:
- Thái sư là cậu ruột của vua lại là chú ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bùi Thị Xuân và chồng là quan thiếu phó thượng tướng Trần Quang Diệu đang nắm giữ binh quyền lại theo về với Bùi Thái sư. Vậy bọn ta nên đến chúc mừng Thái sư mới được.
Bàn rồi bá quan văn võ liền đến nhà riêng của Bùi Đắc Tuyên chúc mừng và dâng tặng vật. Khách về cả rồi, Vũ Tâm Can nói với Bùi Đắc Tuyên rằng:
- Tôi bày kế món cáo mượn oai hùm mà trăm quan thảy đều khiếp oai của Thái sư. Vậy Thái sư ban thưởng cho tôi vật gì đây?
Tuyên mặt dàu dàu đáp:
- Trăm quan đến chúc mừng ta không vui. Có mấy người chưa đến làm ta lo lắm.
Can liền hỏi:
- Mấy người ấy là ai.
Tuyên đáp:
- Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đang trấn thủ Bắc Hà thì chẳng nói làm chi. Con anh em Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, anh em Đặng Văn Long, Đăng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong và hai tướng thuỷ binh là Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết không thấy đến. Họ đều là danh tướng cùng Trần Quang Diệu Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân nổi danh là Tây Sơn thập hổ. Nay bọn họ không đến tức là không phục nên ta vẫn lấy làm lo lắm.
Vũ Tâm Can cười nói:
- Ta dùng kế cáo mượn oai hùm đe doạ chồn cáo, chứ hùm sao doạ được hổ. Nay Thái sư hãy làm như vậy... như vậy... tất đưa được bảy tướng ấy ra khỏi kinh thành và gọi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về làm vây cánh cho mình.
Bùi Đắc Tuyên khen:
- Ấy thật là diệu kế.
Hôm sau đến hạn thiết triều, vua Cảnh Thịnh hạ lệnh:
- Tiên đế vừa băng hà e rằng Nguyễn Phước Ánh nghe tin ấy thừa cơ đem thuỷ binh ra đánh các trấn dọc theo bờ biển của ta. Vậy nay ta lệnh cho Đặng Văn Long ra trấn thủ Nghệ An. Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết trấn thủ Thanh Hoá. Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong trấn thủ Thuận Hoá. Võ Văn Dũng và Võ Đình Tú ra trấn thứ Bắc Hà thay cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân.
Vũ Văn Dũng bước ra thưa:
- Tâu Hoàng thượng, địa hình nước Nam ta các trấn phủ đều nằm dọc theo bờ biển nên chia tướng trấn thủ đề phòng Nguyễn Phúc Ánh đem thuỷ binh ra đánh là rất đúng. Còn riêng Bắc Hà đã có Sở và Lân hùng tài trấn thủ sao lại phải thay anh em tôi.
Cảnh Thịnh lấp lửng đáp:
- Việc này trẫm không rõ. Thử hỏi Thái sư xem.
Bùi Đắc Tuyên xen vào nói:
- Tiên đế băng hà, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở Thăng Long chưa về chịu tang. Vậy tướng quân ra thay để hai tướng ấy về chịu tang Tiên đế. Vua đã có lệnh tướng quân lại chẳng tuân sao.
Vũ Văn Dũng nghe vậy chẳng biết nói sao đành cùng các tướng nhận lệnh mà đi. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân được triệu hồi kính. Ba quan trong triều lại bảo nhau rằng:
- Đại tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân trước kia mang ơn nhà họ Bùi của Thái sư cũng Trần Quang Diệu. Bùi Thị Xuân là anh em kết nghĩa. Nay hai người này được triệu về kinh còn các tướng khác bị đổi đi xa. Vậy quyền thế của Thái sư đã lớn làm rồi. Bọn ta nên về theo Thái sư mới là kẻ thức thời.
Từ ấy Bùi Đắc Tuyên làm việc gì cũng mượn danh thiên tử, Cảnh Thịnh còn nhỏ nhất nhất tuân theo, các quan lại a dua theo, Bùi Đắc Tuyên quyền uy tột đỉnh.
Ngày kia Bùi Đắc Tuyên nghe người thân tín về báo:
- Thưa Thái sư, thiên hạ trong thành bàn tán rằng Thái sư đầu độc Tiên đế.
Tuyên sửng sốt hỏi:
- Bọn họ suy luận thế nào mà dám nói lão như vậy?
Quần thân tín đáp:
- Họ bảo Thái sư đầu độc Tiên đế để nương theo ấu quân nên từ chức quan nội thị quèn nhảy lên làm Thái sư dễ dàng như Võ Đình Tú nhảy quá nóc nhà vậy.
Tuyên vỗ án quát:
- Bọn này láo! Mau đi tìm xem đứa nào nói bậy chém chết cho ta.
Vũ Tâm Can vội vã can:
- Chém người này thì con người khác nói, chẳng lẽ đem chém hết hay sao. Tôi có một kế dùng một mũi tên mà trúng hai con nhạn.
Tuyên hỏi:
- Kế thế nào.
Can đáp:
- Thái sư cho người phao tin rằng Thái hậu Lê Ngọc Hân đầu độc Tiên đế, rồi đem mẹ con Thái hậu ra làm tội. Ấy là đã rửa tiếng nhơ cho mình, lại trừ được đối thủ, chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện hay sao?
Bùi Đắc Tuyên khen rằng:
- Ấy mới thật là tuyệt diệu kế.
Đến hạn thiết triều, Bùi Đắc Tuyên rước vua Cảnh Thịnh ngự triều rồi sai quân đi mời Thái hậu Lê Ngọc Hân. Lê Thái hậu đến, Tuyên hỏi:
- Mới đây nghe bá tánh trong thành đồn rằng Tiên đế vì dứt nhà Lê, đuổi Lê Chiêu Thống chạy sang Mãn Thanh rồi lên ngôi Hoàng đế nên Thái hậu là công chúa nhà Lê mới oán hận đầu độc vua để trả thù. Thần trộm nghĩ không có lửa làm sao có khói nên vời Thái hậu đến hỏi cho ra lẽ.
Lê Thái hậu sửng sốt, nghẹn lời không nói được, Phan Văn Lân nổi nóng xen vào hỏi:
- Việc quy tội phải có tang chúng, sao lại tin vào lời đồn mà kết án người ta.
Bùi Đắc Tuyên quay lại bảo quân:
- Mau vời nhận chứng vào đây!
Quân đưa một người đến dưới bệ. Tuyên vỗ án hỏi:
- Tên kia? Ngươi quan hệ thế nào với Thái hậu. Mau khai ra.
Tên ấy đáp:
- Thần tên Hồ Bật, là người nấu bếp của Tiên đế. Thái hậu bảo thần đầu độc Tiên đế, thần lỡ dại nghe lời. Xin Bệ hạ giáng tội!
Bùi Đắc Tuyên quay sang hỏi Lê Thái hậu:
- Thái hậu còn chối cãi nữa chăng.
Lê Thái hậu khóc ngất, nghẹn ngào không thốt lên câu:
- Xin cho giấy bút viết lời tường thuật.
Tuyên mừng rỡ bảo:
- Quân mau đem giấy bút cho Thái hậu viết lời thú tội.
Quân đem giấy bút đến. Lê Thái hậu vừa khóc vừa viết liền một mạch xong bài thú tội. Bùi Đắc Tuyên cầm lấy bảo Trần Văn Kỷ:
- Quan Trung thu lệnh văn hay chữ tốt hãy đọc cho mọi người cùng nghe Thái hậu nhận tội thế nào?
Trần Văn Kỷ đón lấy đọc. Thơ rằng:
"Gió hắt hiu phòng tiêu lạnh lẽo.
Trước thềm lan hoa héo don don.
Cầu tiên khói toả đỉnh non.
Xe rồng thăm thẳm bóng loan dàu dàu!.
Nỗi niềm đau dễ hầu than thở.
Trách nhân duyên lỡ vỡ cớ sao?.
Sầu sầu thảm thảm xiết bao.
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!.
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc.
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Xe duyên vâng mệnh Phụ hoàng.
Thuyền lan chèo quế thượng đường vu quy.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước.
Chữ nghi gia mừng được phải duyên.
Sang yêu muôn đợi ơn trên.
Rõ ràng vẻ thuý, nỗi chen tiếng cầm!.
Lượng che chở vụng lắm nào kê.
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng biển đổi non dời.
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội.
Khắp tôn thân cũng đội ơn sang.
Miếu đường Lê vẫn tế thường.
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc đôi cành hoè quế.
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi.
Non Nam lấn chục tuổi trời.
Dâng câu đại thọ, ngỏ lời an khang.
Những ao ước trập trùng tuổi hạc.
Nguyện trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn biển vùi.
Lòng trời tráo trở. lòng người biệt ly!.
Đọc đến đây Trần Văn Kỷ lệ tuôn lã chã, đặt giấy lên án nói:
- Thần nghẹn lời không đọc được nữa. Xin người khác đọc thay cho!
Các quan đều ứa nước mắt nói:
- Thương thay cho Thái hậu!
Bùi Thị Xuân gạt lệ nói:
- Trần tiên sinh là văn sĩ nên lòng mềm yếu. Tôi xin đọc thay.
...Đoạn Xuân đọc tiếp rằng:
"Từ nắng Hạ, mưa Thu trái tiết.
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên…".
Thị Xuân vùng khóc kêu lớn:
- Tiên đế ơi! Tiên đế! Người định đến cuối Hạ sang Thu sẽ đem quân đánh Phúc Ánh thì đến lúc ấy người đã ra người thiên cổ. Ôi! Nắng hạ mưa thu trái tiết. Tiên đế ơi! Tiên đế!
Các quan nghe Thị Xuân nói thế cũng sụt sùi ngấn lệ. Bùi Thị Xuân cắn răng đọc tiếp:
"Từ nắng Hạ, mưa Thu trái tiết.
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ lo phiền.
Miêu thần đã đảo thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn thầy hay tìm rước.
Phương pháp nào đổi được cùng chăng.
Ngán thay mày tạo bớt bằng.
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!.
Cuốc tụ tán bi hoan kíp bấy.
Kể xúm vầy đã mấy năm nay.
Lênh đênh chút phận bèo mây.
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu.
Trằn trọc luống đêm thâu ngày tới.
Biết cậy ai giập nỗi bi thương.
Trông mong luống những mơ màng.
Mơ hồ như mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng.
Ngỡ hương trời lảng bảng còn đâu.
Vội vàng sửa áo lên chầu.
Thương ôi quạnh quẽ trước lầu nhện giăng!
Đọc đến đây Xuân lấy vạt áo lau nước mắt rồi đọc tiếp :
Khi bóng trăng lá in lấp lánh.
Ngỡ tàn vàng ngắm cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi.
Thương ôi vắng vẻ giữa trời tuyết sa!.
Nhớ hình dáng xót xa đòi đoạn.
Mặt rồng sao cách biệt lâu nay.
Có ai chốn ấy về đâY.
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành!.
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả.
Nghĩ đôi phen nồng nã đôi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên.
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

Đọc đến đây Xuân ôm mặt oà lên khóc. Các quan
cùng gạt lệ nhìn nhau bảo:
- Lòng Thái hậu thương Tiên đế đến thế lẽ nào bày việc hại vua!
Phan Văn Lân thấy Thị Xuân khóc không đọc được bèn bước đến nói:
- Chị vừa bảo Trần tiên sinh là văn sĩ mềm yếu, còn chị tuy là võ tướng cũng bụng đàn bà. Thôi đưa đây tôi đọc cho mọi người rõ lòng Thái hậu.
Nói xong Lân liền cầm bài thơ lên đọc tiếp rằng:
Nghe trước có đấng vương Thang Võ.
Đức càng sâu tuổi thọ càng cao.
Mà nay áo vải cờ đào.
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!.
Mới đọc được bốn câu Lân vùng khóc rống lên rằng:
- Tiên đế ơi! Tiên đế!
Vua Cảnh Thịnh cũng khóc theo:
- Phụ hoàng ơi! Phụ hoàng!.
Ngô Văn Sở thấy thế hỏi Văn Lân:
- Phan đệ chê chị Xuân bụng đàn bà sao vừa đọc bốn câu đã khóc rống lên vậy?
Văn Lân đáp:
- Trước Trần tiên sinh và chị Xuân đọc cảnh nhớ nhung, mây, nước, gió, trăng thì tôi không khóc. Nhưng bốn câu tôi vừa đọc làm tôi nhớ đến công lao dựng nghiệp của Tiên đế mà khóc đấy thôi!
Nói rồi Văn Lân đọc tiếp:
Nghe rành rành trước vua Nghiêu Thuần.
Công đức dày ngự vận càng lâu.
Mà nay lòng cả ơn sâu.
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần!.
Công thế ấy mà nhân dường ấy.
Tuổi thọ sao hẹp bấy hóa công.
Nếu cho chuộc được tuổi rồng.
Đổi thân này cũng thoả lòng riêng tôi!.
Đến đây Van Lân lại khóc rống lên rằng:.
- Tiên đế ơi! Tiên đế!.
Ngô Văn Sở thấy vậy nói:.
- Phan đệ tánh hay mủi lòng, đưa đây tôi đọc cho.
Ngô Văn Sở cầm lên đọc một mạch:
Buồn thay nhẽ! Sương rơi gió lọt.
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa.
Trùng lời di chúc thiết tha.
Khóc nào lên tiếng, thức mà cũng mê.

Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở.
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong.
Quyết liều mong vẹn chữ tòng.
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e!.
Con trứng nước thương vì đôi chút.
Chữ thâm tình chưa thoát được đi.
Vậy nên nấn ná đôi khi.
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo!.
Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo.
Theo buổi sau ngự nẻo Sông Ngân.
Theo xa thôi lại theo gần.
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh.
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao!.
Mơ màng thêm nỗi khát khao.
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi.
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ.
Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai.
Xưa sao sớm hỏi khuya bày.
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ.
Tình cô đơn ai kể xót đâu.
Xưa sao gang tấc gần chầu.
Trước sân phong nguyệt trên lầu sính ca!.
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi.
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
Nửa cung gãy phím cầm lành.
Nỗi con côi cút nỗi mình bơ vơ.
Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đôi lúc.
Tiếng Cuốc kêu thêm giục lòng thương.
Não người thay cảnh tiên hương.
Dạ thương quanh quất, mắt thương ngóng trông.
Trông mái Đông cánh buồm xuôi ngược.
Thấy mênh mông những nước cùng mây.
Trông Đông rồi lại trông Tây.
Thấy non cao ngất thấy cây rườm rà!.
Buồn trong trăng, trăng mờ thêm tủi.
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng.
Thiền duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn.
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
Trông chím càng dễ đoạn trường.
Uyên ương chiếc bóng, Phụng Hoàng lẻ đôi!.
Cảnh nào cũng bùi ngùi cảnh ấy.
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu.
Phút giây bãi bể nương dâu.
Cuộc đời là thế nài hầu được sao.
Chữ tình nghĩa trời cao đất rộng.
Nỗi đoạn trường càng sống càng đau.
Mấy lời tâm sự trước sau.
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho!.
Ngô Văn Sở đọc xong rồi, Bùi Đắc Tuyên bảo:
- Từ lâu nghe Thái hậu nổi danh cầm kỳ thi hoạ, xuất khẩu thành chương, nay tận mắt trong thấy thật quả không ngoa. Nhưng trong bài thơ ấy không nói đến việc hại vua là ý thế nào. Muốn chạy tội chăng?.
Lê Thái hậu chỉ khóc mà không đáp. Phan Văn Lân thôi khóc ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi.
Tuyên giận lắm quát hỏi Lân:
- Phan Văn Lân! Ngươi cười gì mãi thế?.
Lân nghiêm mặt đáp:
- Tôi cười Thái sư ít học nên không thấy được lời thuật việc hỏi Tiên đế trong bài thơ của Thái hậu.
Tuyên cố nén giận hỏi:
- Ngươi bảo lời thuật chỗ nào phải nói cho thông, bằng không phải chém!.
Văn Lân ung dung đáp:
- Thái sư hãy nhìn mọi người ở đây xem. Nghe bài thơ này ai nấy đều khóc lóc nhớ thương Tiên đế. Nếu Thái hậu hại vua sao trong phút chốc có thể viết lên bài thơ ai oán đó. Ấy chẳng phải là lời tự bạch cho nỗi oan của mình đó ư?.
Văn Lân vừa dứt lời trăm quan đồng thanh nói:
- Lời quan Nội hầu rất phải. Xin Thái sư xét lại kẻo oan cho Thái hậu.
Tuyên liệu bắt tội Lê Thái hậu không được bèn bước lại gần Hồ Bật bảo:
- Thái hậu vô tội, vậy là ngươi vu oan cho Thái hậu.
Nói xong Tuyên rút gươm đâm Hồ Bật một nhát chết tươi. Thấy vậy Phan Van Lân nói:
- Đáng lý nên giữ Hồ Bật hỏi cho ra lẽ, ai đã bày mưu hại Thái hậu. Sao Thái sư lại giết hắn đi. Ngộ nhỡ có kẻ nói gièm rằng Thái sư giết người diệt khẩu thì sao?
Tuyên vỗ án quát:
- Phan Văn Lân to gan dám đổ tội cho ta. Võ sĩ đâu lôi ra chém tức thì.
Võ sĩ xông vào trói Văn Lân toan lôi đi. Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở cùng quỳ xin tội. Quang Diệu thưa:
- Văn Lân vì xót thương Thái hậu nói lỡ lời, xin Thái sư tha mạng. Vả lại Văn Lân xưa cùng Tiên đế kết nghĩa đệ huynh, là một bậc khai quốc công thần, có công một mình chặn giặc Mãn Thanh trên sông Như Nguyệt. Xin Thái sư nghĩ tình ấy mà tha cho Văn Lân mặt phen.
Bá quan cũng đều quỳ xin tha cho Văn Lân. Bùi Đắc Tuyên bảo:
- Nể lời trăm quân tha cho ngươi một lần. Lần sau tái phạm giết chết không tha.
Nói xong Tuyên dắt vua Cảnh Thịnh về cung. Ra ngoài Phan Văn Lân bàn với Ngô Văn Sở:
- Tôi e Thái sư lập kế hại Thái hậu. Kế không thành mới giết người diệt khẩu. Việc này không làm cho ra lẽ thật là tức chết.
Ngô Văn Sở bác đi bảo:
- Đang nào Thái hậu cũng đã được minh oan. Vả lại cũng không chắc người chủ mưu là Thái sư. Hơn nữa, xưa anh em ta tá túc trong nhà họ Bùi thì Thái sư kẻ như là người ơn của ta, cũng không nên tra cứu làm gì.
Nghe Sơ nói xong, Văn Lân lẳng lặng ra về.
Bùi Đắc Tuyên về nhà nói với Vũ Tâm Can:
- Nếu không có Phan Văn Lân ta đã làm tội được Lê Thái hậu rồi, thật là tức chết! Xưa nó ở nhờ trong nhà ta này lại phản ta. Phải làm sao trừ Văn Lân mới được.
Vũ Tâm Can bản rằng:
- Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân là anh em kết nghĩa từ lúc con để chỏm theo Đô thống Ngô Mãnh bỏ Phú Xuân lánh nạn vào Quy Nhơn. Phan Văn Lân nóng nảy bộc trực, Ngô Văn Sở điềm đạm, trầm tĩnh biết tính thiệt hơn. Nay Thái sư có người con gái là Xuân Hoa nên đem gả cho Ngô Văn Sở. Phan Văn Lân tất sẽ phải bỏ quan ở ẩn, hoặc sẽ nông nỗi làm càn. Khi ấy Thái sư bắt tội giết đi là trừ được hoạ.
Tuyên trầm ngậm bảo:
- Ta chỉ e Ngô Văn Sở không bằng lòng.
Vũ Tâm Can nói:
- Ngô Văn Sở đọc một mạch hết bài thơ của Thái hậu mà không hề rơi nước mắt, chứng tỏ Sở tình ít mà trí thì nhiều, người không bị tình cảm lưng lạc tất sẽ sáng suốt mới theo về với ta.
Tuyên nghe lời liền gọi Ngô Văn Sở đến hỏi:
- Ngô tướng quân đã lớp gia thất chưa.
Sở đáp:
- Tôi từ nhỏ theo Tiên để chinh chiến triền miên nên chưa thành gia thất.
Tuyên bảo:
- Xưa tướng quân và ông nội là Đô thống Ngô Mãnh gặp nạn ở Phú Xuân vào nhà ta tá túc. Ta vẫn xem tướng quân nhà người nhà, nay có còn gái tên là Bùi Xuân Hoa muốn gả cho tướng quân. Chẳng hay tướng quân thế nào?
Ngô Văn Sở bái tạ thưa:
- Thái sư đã bàn ơn tôi nào dám không vâng.
Tuyên mừng rỡ đỡ Văn Sở dậy nói:
- Vậy ta định ngày làm lễ cưới, mời trăm quân dự linh đình cho thiên hạ biết con rể ta là một danh tướng trong Tây Sơn thập hổ.
Nói xong cả hai cùng tay bắt mặt mừng.
Nhắc lại Phan Văn Lân nhận được thiếp mời hôn lễ của Ngô Văn Sở và Bùi Xuân Hoa. Xem xong, Lân vào Bắc cung gặp Lê Thái hậu. Lân quỳ thưa:
- Thần này phải bỏ quan về ở ẩn. Xin Thái hậu nên bảo trọng.
Lê Thái hậu ngạc nhiên hỏi:
- Tướng quân là bề tôi ỷ trọng của triều đình, sao bỗng dưng lại từ quan?
Lân đáp:
- Ngô Văn Sở đã theo làm rể của Bùi Đắc Tuyên, vậy Văn Lân không còn đất dung thân nên phải ra đi.
Lê Thái hậu trầm ngâm nói:
- Ta có một kỷ vật của Tiên để muốn kỳ thác cho tướng quân giữ gìn. Chẳng hay tướng quân có vừa lòng chăng?
Lân khóc lấy thưa:
- Vật gì của Tiên đế xin Thái hậu cứ giao cho thần. Thần có thể mất đầu mà không mất vật.
Lê Thái hậu cả mừng liền vào trong ẵm một hai nhi ra. Thái hậu ứa nước mắt nói:
- Đây là Hoàng tứ Quang Thiệu, vừa tròn mười hai tháng, xin ký thác tướng quân.
Văn Lân thất kinh hỏi:
- Vì sao Thái hậu lại giao Hoàng tử cho thân. Triều đình có biến chăng?
Lê Thái hậu lệ tuôn lã chã đáp:
- Lúc Tiên đế còn tại thế định việc bình đất Gia Định, đòi đất Lưỡng Quảng mới vời La Sen Phu tử đến hội ý. Phu tử bảo không có điều binh Nam, Bắc tiến và khuyên vừa nên giữ gìn hậu đức của mình. Lúc ấy ta không tin, nay Tiên đế băng hà mới hay là thực. Đã đúng điều trước ắt nhằm điều sau, nên ta mới tìm người trung nghĩa gửi gắm Hoàng tứ. Nay xét thấy chỉ có tướng quân là đáng tin cậy mà thôi.
Phan Văn Lân hỏi:
- Nếu vậy thần xin vâng, nhưng làm sao đem được Hoàng tử ra khỏi cung cấm mà không bị nghi ngờ?
Lê Thái hậu gạt nước mắt đáp:
- Tướng quân vóc dáng thư sinh vậy hãy vở giả làm nhĩ nữ ẵm theo một trẻ trạc tuổi như Hoàng tử nói giả rằng người trong Hoàng tộc nhà Lê ở Thăng Long vào thăm Thái hậu. Vào rồi ta đánh tráo hai trẻ vậy khi đem Hoàng tứ ra khỏi Hoàng cung tất chân ai nghi ngờ.
Văn Lân nói:
- Vậy thần xin theo kế ấy lập tức thi hành.
Từ ấy về sau không ai biết Phan Văn Lân bỏ đi đâu và cũng không ai biết rằng Hoàng tử Quang Thiệu đang sống cùng Thái hậu là Hoàng tử giả.
Nghe tin Phan Văn Lân bỏ quan đi biệt tích, Vũ Tâm Can nói với Bùi Đắc Tuyên rằng:
- Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân là cháu ruột của Thái sư nên dưới mắt thiên hạ cặp vợ chồng danh tướng này đã là vây cánh của Thái sư rồi vậy. Giờ đến Đại tư mã Ngô Văn Sở là con rể của Thái sư, đến nỗi Phan Văn Lân sợ mà bỏ trốn hỏi còn ai dám chống lại Thái sư nữa.
Bùi Đắc Tuyên hớn hở bảo:
- Ấy là nhờ kế cáo mượn oai hùm của ngươi đó. Để đền ơn, ta tiến cử ngươi lên vừa làm quan nội thị thế chỗ ta ngày trước. Ý ngươi thế nào?
Vũ Tâm Can quỳ lạy tạ ơn.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 60 Lê Chất phá vây xin binh cứu viện. Thái Đức dặn con thoái vị nhường ngôi.
Nhắc lại Nguyễn Vương ở Gia Định nghe tin vua Quang Trung mất, đợi đến mùa gió Nồm bèn đem thuỷ binh tiến đánh Quy Nhơn.
Chiến thuyền quân Nguyễn tiến đến vùng biển phủ Quy Nhơn, bỗng thấy trên một hôn đào ngoài khơi khói lên nghi ngút, Nguyễn vương hỏi:
- Đảo này là đảo gì? Sao khỏi lại bốc lên thế?
Ngô Tùng Châu đáp:
- Đảo này tên là Thành Châu Dự (này là Cù Lao Xanh) Lê Trung cho quân đặt vọng gác ở đảo, hễ thấy quân ta đến thì đốt lửa làm hiệu cho quân trong thành biết mà đề phòng.
Nguyễn vương bảo:
- Truyền quân tiến vào cửa Thị Nại xem quân Tây Sơn động tĩnh thế nào.
Quân Nguyễn vào đến gần cửa biển thấy chiến thuyền Tây Sơn đã rút hết vào đầm Thị Nại. Nguyễn vương hỏi:
- Lê Trung chưa đánh đã lui là ý thế nào.
Võ Tánh đáp:
- Lê Trung giỏi dùng quân. Biết đóng thuỷ trại ngoài cửa biển sẽ bị ta thuận gió Nồm dùng hoả công mà đánh nên mới lui vào đầm Thị Nại.
Nguyễn vương lại hạ lệnh:
- Truyền quân tiến vào đầm Thị Nại.
Chiến thuyền quân Nguyễn lại ồ ạt tiến lên. Cửa biển hẹp, chiến thuyền kề nhau san sát. Bỗng nghe một phát pháo lệnh nổ vang, đại bác quân Tây Sơn tứ trên núi Phương Mai bắn xuống như mưa, thuyền quân Nguyễn đắm vỡ rất nhiều. Nguyễn vương đành lui ra ngoài biển lập thuỷ trại. Nguyễn vương hội các tướng nói:
- Đất Quy Nhơn hiểm trở, dọc theo bờ biển đều có núi non làm thành trì che chở. Cửa Thị Nại hẹp quân Tây Sơn từ cao bắn xuống không thể nào đánh được. Theo ta muốn đánh Quy Nhơn tất phải đánh Phú Yên trước.
Ngô Tùng Châu hỏi:
- Đánh Phú Yên thì sao đánh được Quy Nhơn?
Nguyễn vương đáp:
- Ta đem thuỷ binh quay trở vào đánh Phú Yên. Nguyễn Quang Huy ở Phú Yên ít quân tất gọi Lê Trung đem bộ binh vào cứu. Đợi Lê Trung tới nơi ta lại thuận gió Nồm xuôi thuyền ra đánh Quy Nhơn. Lê Trung dù đem quân trở lại cũng không còn kịp nữa.
Các tướng đồng thanh khen:
- Thượng vương liệu việc như thần, chúng thần xin bái phục.
Sáng hôm sau quân do thám Tây Sơn vào bảo với Lê Trung:
- Thưa tướng quân, quân Nguyễn đã rút binh hết cả rồi.
Lê Trung cười to nói:
- Nam xưa ta đã từng theo vua em Quang Trung vào Nam đánh Phúc Ánh. Hắn tài cán gì mà đánh nổi ta.
Ít hôm sau vua Thái Đức gọi Lê Trung vào báo:
- Nguyễn Phúc Ánh đem mười vạn quân vây thành Phú Yên rất ngặt. Nguyễn Quang Huy sa người về cầu cứu. Vậy khanh hay đem năm vạn qua đi cứu Phú Yên.
Lê Trung tức giận nói:
- Cha cha! Nguyễn Phúc Ánh thấy vừa em vua mất mới dám lộng hành. Thần sẽ đánh một trận cho nó biết tay.
Vua Thái Đức hỏi:
- Khanh đi nên đem theo tướng nào?
Trung đáp:
- Thần chỉ đi một mình mà thôi. Xin để con rể thần là Lê Chất ở lại cùng Thái tử Bảo thủ thành Quy Nhơn.
Vua Thái Đức nói:
- Phúc Ánh đánh Quy Nhơn không được nên mới vào đánh Phú Yên thì Quy Nhơn cần gì phòng thủ nữa. Vả lại một mình khanh vào thành đánh nhà với giặc binh đông tướng mạnh ta lấy làm lo lắm.
Lê Trung đáp:
- Kinh thành là trúng tâm của xã tức. Kinh thành còn thì xã tắc còn, kinh thành mất xã tắc mặt, không thể lơ là việc phòng thủ. Vả lại nếu ta đem hết binh tướng vào Phú Yên, ngộ nhỡ Phúc Ánh lại thuận gió Nồm đem thuỷ binh ra đánh Quy Nhơn thì sao? Khi ấy bọn thần quân bộ ngăn sông cách núi dù đem quân về cứu giá e không còn kịp nữa.
Nói rồi Trung lãnh lệnh đem binh vào cứu Phú Yên. Trước khi đi Trung gọi Lê Chất đến dặn:
- Khi cha đi rồi còn phải cùng Thái tử Bảo căn phòng cẩn mật các nơi hiểm yếu, đề phòng kế điệu hổ ly sơn của Nguyễn Phúc Ánh. Dù vua có bảo đi tiếp ứng cho cha cũng quyết không được đi.
Lê Chất thưa:
- Con xin vâng lời cha dạy.
Trung đi rồi, vua Thái Đức gọi Lê Chất đến bảo:
- Cha cháu vì quá lo xa, sợ Nguyễn Phúc Ánh quay lại đánh Quy Nhơn nên mới một mình đi cứu Phú Yên. Vậy cháu hãy lãnh một đạo quân đi tiếp ứng cho cha cháu mới được.
Lê Chất quỳ thưa:
- Trước khi đi cha thần có dặn không được bỏ Quy Nhơn mà đi tiếp ứng cho người. Nếu thần vâng lệnh Bệ hạ mà đi vào gặp cha thế nào cũng bị cha thần bắt tội. Xin Bệ hạ minh xét.
Thái tử Bảo bước ra thưa
- Lời Lê Chất hữu lý. Vậy con xin đi tiếp ứng cho Lê Trung tướng quân.
Lê Chất vội can:
- Mặt biển Quy Nhơn có ba cửa: cửa Thị Nại, cửa Cách Thử và cửa Đạm Thuỷ. Trước cha con thần và Thái tử Bảo ba người giữ ba nơi nên Nguyễn Phúc Ánh đánh không được phải quay vào đánh Phú Yên. Nay còn lại một mình thần làm sao có thể giữ được cửa không cho thuỷ quân giặc đổ bộ vào Quy Nhơn.
Vua Thái Đức bực mình gắt:
- Phúc Ánh đã đi rồi lý đâu còn quay lại mà ngươi phòng ngai. Nếu cha ngươi có điều sa sẩy ngươi là không mang tiếng là người bất hiếu hay sao. Ngươi sợ tội thì ta đã cho Nguyễn Bảo đi thay sao còn ngăn trở không cho tiếp ứng cha mình.
Lê Chất chẳng biết trả lời thế nào nên không dám mở miệng can ngăn. Nguyễn Bảo liền đem một đạo quân lập tức vào Phú Yên trợ chiến.
Ở thành Phú Yên tướng Tây Sơn là Nguyễn Quang Huy canh phòng cẩn mật.
Nguyễn vương sai quận công thành. Quang Huy bảo quân lăn gỗ đổ nước sôi xuống. Quân Nguyễn phải lui. Nguyễn vương chưa biết cách gì hạ thành Phú Yên thì quân do thám vào báo:
- Thưa Thượng vương, Lê Trung ở Quy Nhơn đem năm vạn quân vào cứu Phú Yên.
Nguyễn vương cả mừng bảo:
- Lê Trung quả nhiên trúng kế điệu hổ ly sơn của ta. Tống Việt Phước, Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương đâu.
Ba anh em họ Tống bước ra thưa:
- Có thần!
- Các ngươi hãy lãnh hai vạn quân ở lại cầm chân Lê Trung. Lệnh toàn quân xuống thuyền xuôi gió Nồm bất ngờ tiến đánh Quy Nhơn.
Quân Nguyễn đổ bộ vào cửa Cách Thư rồi đánh tập hậu quân Lê Chất ở cửa Thị Nại. Lê Chất thế cô thua binh phải chạy về cố thủ thành Quy Nhơn, Nguyễn vương tiến lên vây thành Quy Nhơn. Vua Thái Đức than:
- Bởi ta không nghe lời Lê Trung nên lầm kế của Nguyễn Phúc Ánh. Nay đành phải chờ Lê Trung và Nguyễn Bảo đem quân về cứu giá chứ biết làm sao.
Lê Chất nói:
- Thần e Nguyễn Phúc Ánh cho tướng giỏi trấn ở Cù Mông thì dù cha thần và Thái tử có thiên binh vạn mã cũng không về cứu được.
Vua Thái Đức hỏi:
- Vậy thì phải làm sao.
- Thần xin một mình đột phá vòng vây chạy ra Phú Xuân xin binh cầu viện.
- Nhưng cháu đi rồi lấy ai thủ thành.
- Chỉ còn một mình Bệ hạ mà thôi.
Vua than:
- Ta này tuổi giá sức yếu sao có thể chống lại quân Nguyễn hùng mạnh được.
Chất đáp:
- Thành Quy Nhơn vô cùng kiên cố, lương thực dồi dào quân sĩ thiện chiến. Chỉ cần Bệ hạ quyết chí kiên cường sẽ khiến quân ta hết lòng đánh giặc thì vẫn giữ được thành. Chờ thần đi xin binh cứu viện về sẽ giải vậy cho Bệ hạ.
Nói xong Lê Chất cầm thương lên ngựa xông ra cửa Bắc thành, gặp tướng đánh tướng, gặp quân giết quân giữa vòng gươm giao như chỗ không người. Nguyễn vương đứng trên đời cao trông thấy hỏi:
- Viên tướng kia là ai quả nhiên vũ dũng phi thường.
Võ Tánh đứng gần đáp:
- Ấy là Lê Chất con rể của Lê Trung. Chắc hắn định phá vây về Phú Xuân cầu cứu.
Nguyễn vương hỏi:
- Ai dám bắt Lê Chất.
Võ Tánh đáp:
- Thần xin đi.
Đoạn Tánh cầm thương lên ngựa xông ra chặn Lê Chất mà đánh. Hai tướng quần nhau như rồng bay phượng múa. Đánh một hồi Võ Tánh núng thế, Nguyễn vương liền sai Nguyễn Huỳnh Đức ra trợ chiến. Lê Chất trông thấy quất ngựa chạy dài. Nguyễn Huỳnh Đức đuổi theo hét lớn rằng:
- Lê Chất chạy đâu cho thoát!
Lê Chất giương cung lắp tên bất ngờ quay lại bắn một phát. Đức giật mình cúi đầu mà tránh, mũi tên cắm phập vào chóp nón của Đức. Đức kinh hãi không dám đuối theo. Lê Chất một mình ra khói vòng vây chạy thoát.
***
Lê Chất thúc ngựa đi đem ngày không nghĩ đến Phú Xuân ra mắt vua Cảnh Thịnh, Chất thưa:
- Nguyễn Phúc Ánh vây thành Quy Nhơn rất ngặt. Xin Bệ hạ đem quân vào cứu kẻo vua anh nguy mất.
Vua Cảnh Thịnh liền sai quân mời bá quan thiết triều nghị sự. Trần Quang Diệu tâu:
- Xin Bệ hạ hay lệnh cho Ngô Văn Sở đem một vạn quân theo đường đại lộ tiến vào qua Quảng Nam, Quảng Ngãi đánh vào mặt Bắc quân Nguyễn Phúc Ánh. Thần xin đem năm vạn quân theo đường thượng đạo vào Tây Sơn Thượng đánh vào mặt Tây quân địch. Nguyễn Phúc Ánh chắc chắn phải rút quân.
Cảnh Thịnh hỏi Bùi Đắc Tuyên:
- Ý Thái sư thế nào.
Tuyên làm ra về hiểu biết đáp liền:
- Ấy là kế sách vẹn toàn. Bệ hạ hãy làm theo lời Trần Quang Diệu.
Vua Cảnh Thịnh liền sai Ngô Văn Sở và Trần Quang Diệu đem mười lăm vạn quân chia làm hai đạo vào cứu vua Thái Đức. Lê Chất làm tiên phong trong đạo quân của Ngô Văn Sở.
Nói về Nguyễn vương đang vây thành Quy Nhơn. Vương dò biết trong thành chỉ còn một mình vua Thái Đức, bèn hạ lệnh cổng thành.
Nguyễn Vương sai quân kéo đại bác đến gần thành thì bị đại bác Tây Sơn trên mặt thành bắn xuống phải lui ra. Vương tức giận hạ lệnh công thành, quân Nguyễn ào ạt xông lên, vua Thái Đức lại sai đạo quân cung nỏ của người Thường bắn tên xuống. Quân Nguyễn Gia Miêu chết rất nhiều lại phải lui ra. Nguyễn Vương giận lắm nói:
- Lần này mà không bắt được thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc còn đợi đến bảo giờ.
Võ Tánh hiến kế:
- Thành Quy Nhơn trước là thành Đồ Bàn của vua Chiếm Thành, sau Nguyễn Nhạc sửa sang xây dựng lại rất kiên cố. Vả lại quân Tây Sơn rất thiện chiến giữa ban ngày đối mặt đánh nhau e khó thắng. Theo thần ta chờ đến đêm sai quân dùng khiên chê tên leo vào sắt chân thành rồi nhất loạt dùng thang leo lên thánh giáp chiến, như vậy tất chiếm được thành Quy Nhơn mà bắt Nguyễn Nhạc.
Nguyễn vương khen phải bèn bảo quân đánh trống thu binh chờ đến đem xuất kích.
Phần vua Thái Đức một mình giữ thành chờ quân cầu viện. Vua không dám chểnh mảng, tuần phòng trên mặt thành suốt ngày đêm. Bá quan thấy vậy hăng hái tinh thần, dũng mãnh chiến đấu, quân Gia Miêu đánh mãi không được.
Đêm ấy vua Thái Đức lâm bệnh mệt mỏi trong người. Vua bèn dựa lưng lên mặt thành rồi bảo ta lệu:
- Các ngươi hãy thấy nhau quan sát xem quân Gia Miêu có động tĩnh gì phải bảo ta hay.
Dặn dò rồi vua Thái Đức mệt quá thiếp đi, giây sau tả hữu lay vua dậy, thưa:
- Quân giặc thừa đêm tối cho quân bộ tiến sát chân thành. Xin Bệ hạ định liệu.
Vua Thái Đức choàng dậy đứng lên thị sát thấy trong đêm đen quân Nguyễn rùng rùng mà tiến.
Vua hạ lệnh đội xạ thủ bắn cung.
Quân Tây Sơn bắn cung tên xuống như mưa. Quân Gia Miêu vẫn nối nhau lặng lẽ tiến lên. Tả hữu thưa:
- Giặc dùng khiên chê tên định tiến lên leo vào thành giáp chiến, ta bắn tên không cần được và phải làm sao?
Vua bảo:
- Cử để giặc tiến vào không phải bắn nữa. Truyền quân chuẩn bị hoả hổ.
Tả hữu thấy địch quân đã tiến sát mà vua Thái Đức vẫn không phản ứng gì, bèn thưa:
- Giặc đang bắc cậu vượt hào...
Vua ngắt lời:
- Ta biết rồi!
Tả hữu lại thưa:
- Giặc đã vượt quá hào.
Vua bảo:
- Không có gì phải vội.
Giây sau tả hữu run run nói:
- Giặc bắc thang leo lên thành.
Bây giờ vua Thái Đức thét quân:
- Đốt!
Lệnh vua ban ra, quân Tây Sơn trên mặt thành liền nhất tề đốt đuốc rối tung hoả hổ. Trong đêm đen thành Quy Nhơn rực lửa. Quản Gia Miêu đang leo để nửa thang bị nhựa hoả hổ từ cao bắn xuống cháy áo phỏng mình, kêu khóc vang trời xô nhau mà chạy. Quản Gia Miêu lại bại trận. Nguyễn vương không biết làm sao đánh đánh trống thu binh. Còn đang buồn bực bóng quân do thám về báo:
- Tâu Thượng vương, tướng Tây Sơn là Ngô Và Sở đem mười vạn quân từ Phú Xuân vào cứu Quy Nhơn. Hiện giặc đã đến núi Thạch Tân.
Nguyễn vương còn đang băn khoăn thì quân do thám mặt Tây về báo:
- Quân Tây Sơn năm vạn từ Phú Xuân theo đường Thượng đạo vào cứu Quy Nhơn. Hiện giặc đã đến Tây Sơn Thượng.
Nguyễn vương giật mình hỏi:
- Ngươi thống lĩnh đạo quân ấy là ai?
Quân đáp:
- Thượng đạo tướng quân Trần Quang Diệu.
Nguyễn vương hạ lệnh:
- Truyền quân các đạo trong đem nay nhổ trại xuống thuyền về Gia Định.
Mờ sang hôm sau, vua Thái Đức vẫn cùng quân sĩ tuần phòng trên mặt thành không dám nghỉ. Trời vừa sáng tỏ đã thấy Lê Chất dẫn đầu một đạo quân đứng dưới thành. Lê Chất gọi lên rằng:
- Hoàng thượng chớ sợ! Thân dẫn Đại tư mã Ngô Văn Sở và Thượng đạo tướng quân Trần Quang Diệu đem binh vào cầu viện. Hiện Nguyễn Phúc Ánh đã lui quân.
Vua Thái Đức liền thét tả hữu:
- Mau mau mở cổng thành!
Dứt lời, vua ngã ra ngất đi.
Khi tỉnh lại, vua Thái Đức thấy mình ngự ở long sàng, bốn bên có Thái tử Nguyễn Bảo, Đại tướng Lê Trung, Đô đốc Lê Chất và hai tướng từ Phú Xuân vào cầu viện là Trần Quang Diệu và Ngô Văn Sở đứng hầu. Vua Thái Đức nắm tay Lê Trung, Lê Chất bảo:
- Bời ta không nghe lời tướng quân nên mới cho Thái tử Bảo vào Phú Yên tiếp viện cho khanh. Hoá ra là mắc kế điệu hổ ly sơn của giặc Ánh. Mấy nhờ có Lê Chất phá vây về Phú Xuân xin viện binh, nếu không thành Hoàng Đế đã mất về tay giặc và mang ta ở chẳng toàn. Thật cám ơn Lê Chất và xin lỗi Lê Trung.
Đoạn vừa gọi Trần Quang Diệu và Ngô Văn Sở đến gần bảo:
- Cảm ơn hai tướng đã tới giải vây cho ta.
Bốn tướng Diệu, Sở, Trung, Chất cũng vái lạy thưa:
- Ấy là bổn phận chúng thần. Xin Hoàng thượng hãy an tâm tĩnh dưỡng.
Vua Thái Đức thều thào nói:
- Ta nay sinh lực chẳng còn thì lấy gì mà tĩnh dưỡng. Mọi người đã biết bổn phận của mình, ta lại không biết bổn phận của ta sao.
Thái tử Bảo hỏi:
- Phụ hoàng nói vậy là ý gì.
Vua chảy nước mắt đáp:
- Ngày trước ta đã thoả thuận với Nguyễn Huệ em ta là sẽ giao hết binh quyền, để đến mùa gió Bấc, em ta sẽ vào Nam đánh Nguyễn Phúc Ánh. Ngờ đâu sự chưa thành em ta đã làm bạo bệnh qua đời.
Nói đến đây vừa lại khóc to kêu lên:
- Nguyễn Huệ em ơi! Cho anh theo với!
Thái tử Bảo thấy vua xúc động quá bèn cùng các tướng xúm vào khuyên giải. Hồi lâu vua gạt nước mắt bảo:
- Lê Chất hay đem sổ bộ dân binh của bốn phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Quảng Nam và Phú Yên đến cho ta.
Chất đem sổ bộ dân binh đến, vua gượng ngồi dậy đón lấy và trao cho Trần Quang Diệu, nói:
- Nay ta thoái vị nhường quyền cho cháu ta là Cảnh Thịnh. Hai tướng hãy đem sổ bộ này về Phú Xuân trao cho Cảnh Thịnh.
Trần Quang Diệu còn đang lưỡng lự, ngần ngại chưa dám nhận thì Ngô Văn Sở đã quỳ xuống đón lấy sổ bộ trên tay vua Thái Đức. Vua cười bảo Ngô Văn Sở:
- Ngươi là kẻ thức thời làm việc không bị tinh cảm chi phối. Vậy sau khi ta chết đi người nên để Lê Trung và Lê Chất trấn thủ Quy Nhơn. Đây là hả người tận trúng chí hiếu, ngươi không phải lo gì.
Ngô Văn Sở cúi đều nhận lệnh. Vua lại bảo Lê Chất, Lê Trung:
- Trước kia ta do tại vị kỷ, làm vật cản trên đường thống nhất giang sơn của Nguyễn Huệ em ta. Nay hai tướng hãy hết lòng phò tá cháu ta, thì ta dưới suối vàng mới an lòng được.
Trung và Chất cùng khóc lậy. Vua lúc ấy đã đuối sức, gắng nấm tay Thái tử Bảo trăng trối:
- Khuyên cha giao quyền cho Hoàng thúc là ý của con - Đoạn vừa dồn hết hơi tàn thét - Một nước không được có hai vua!
Hét xong vua liền tắt thở. Thái tử Bảo và Lê Trung, Lê Chất cùng than khóc một hồi. Trần Quang Diệu kéo Ngô Văn Sở ra ngoài bảo:
- Số bộ dân binh trước sau gì vua Thái Đức cũng giao cho ta. Sao Ngô đệ vội mà nhận liền làm ra vẻ đoạn tình lắm vậy.
Ngô Văn Sở đáp:
- Việc nên làm thì chớ vì tình riêng mà bỏ mất thời cơ.
Nghe Sở nói xong Trần Quang Diệu chỉ thở dài mà không nói gì.
Nam Quý Sửu (1793) vua Thái Đức nhà Tây Sơn mất, ở ngôi được mười sáu năm.
Tang lễ vua Thái Đức xong, Trần Quang Diệu và Ngô Văn Sở vào từ biệt Thái tử Bảo. Diệu nói:
- Nay giặc Ánh đã rút quân, vậy hai thần xin lui về Phú Xuân. Việc Thái tử thoái vị nhường quyền cho vua Cảnh Thịnh thần xin về tâu lại và xin vua xua quân vào Nam đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Nói đoạn Diệu và Sở để cha con Lê Trung, Lê Chất ở lại trấn thủ Quy Nhơn, còn mình thì rút binh về Phú Xuân.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 61 Ngô Văn Sở lộ mặt gian hùng. Bùi Thị Xuân ẩn mình giết chú.
Ngô Văn Sở và Trần Quang Diệu về đến Phú Xuân liền vào triệu yết kiến vua Cảnh Thịnh. Kể lại việc vua Thái Đức và Thái tử Bảo nhường quyền xong, Diệu tâu:
- Xin Hoàng thượng hãy phong cho Nguyễn Bảo tước Hiến Vương.
Ngô Văn Sở vội can:
- Anh Diệu làm việc hay vì tình. Theo thần Hoàng thượng chớ nên phong vương cho Nguyễn Bảo.
Diệu ngạc nhiên bảo:
- Vì sao lại thế?
Sở đáp:
- Ngày trước vua Lê vì phong vương cho họ Trịnh nên mới bị họ Trịnh đoạt quyền. Gần đây Trịnh Sâm toan đoạt ngôi vua may nhờ có Vũ Trần Thiệu lập kế sang Tàu cầu phong mà cản được, nên Trịnh Sâm chỉ làm đến tước Tĩnh đô vương mà thôi. Ấy là một việc. Con việc thứ hai là mới đây vua Thái Đức cắt đất phong cho Tiên đế ta làm Bắc Bình Vương nên Tiên đế ta mới tự do mà xưng đế. Tâu Hoàng thượng, lòng tham của con người vốn sâu không đáy. Được cao rồi muốn trèo cao hơn nữa. Nay Hoàng thượng phong vương cho Nguyễn Bảo e ngày sau Bảo lại nghĩ rằng mình là tước vương tất có quyền đòi cắt đất. Phong vương cho người là kích động lòng tham của ngươi, hoá ra thành mối hoạ. Hoàng thượng nên phong Nguyễn Bảo tước công mà thôi.
Vua Cảnh Thịnh hỏi Bùi Đắc Tuyên:
- Ý Thái sư thế nào?
Tuyên vui vẻ đáp:
- Ngô Văn Sở bàn rất phải lý. Xin Hoàng thượng hãy nghe lời Văn Sở.
Vua lại Trần Quang Diệu hỏi:
- Còn ý Quang Diệu thế nào.
Diệu cũng vui vẻ nói theo Tuyên:
- Lời Ngô Văn Sở rất phải.
Vua Cảnh Thịnh liền bảo Bùi Đắc Tuyên viết chiếu phong Nguyễn Bảo làm Hiến công cho ăn lộc ở huyện Tuy Viên. Viết rồi Tuyên sai sứ đem vào Quy Nhơn trao cho Nguyễn Bảo.
Xong việc, gia đình Bùi Đắc Tuyên từ biệt vua mà về. Ra ngoài Bùi Đắc Tuyên bảo Diệu:
- Nay nhà nước Tây Sơn thống nhất dưới quyền vua Cảnh Thịnh. Ta lại là cậu ruột của vua, Ngô Văn Dở rễ ta, Bùi Thị Xuân và Trần Quang Diệu cháu ta đều nắm giữ binh quyền. Vậy con ai dám chống lại ta nữa. Diệu hãy về tư dinh cùng chú mở tiệc ăn mừng.
Diệu viện cơ từ chối không đi. Về nhà Diệu kế sự việc cho vợ là Bùi Thị Xuân nghe, rồi nói:
- Ngô Văn Sở suy bụng ta ra bụng người mà can vua phong cho Thái tử Bảo tước vương vậy.
***
Nhắc lại cha con Tuyên, Sở về tư dinh cùng quan nội thị Vũ Tâm Can mở tiệc ăn mừng. Hết vài tuần rượu, chếnh choáng hơi men, Tuyên đắc ý hỏi:
- Rượu quý, mỹ nhân, nem công, chả phượng, theo các ngươi ta còn thiếu môn gì nữa chăng?
Vũ Tâm Can đáp:
- Tôi nghe có một vị quan ở nước Ai Lão được một viên ngọc rát quý nên mới đặt tên là Bửu Kỳ Châu.
Tuyên tò mò hỏi:
- Ngọc thế nào mà bảo là quý.
Can đáp:
- Viên ngọc Bửu Kỳ này ban đêm phát ra ánh sáng dùng soi đường mà đi, đeo trong người trời lạnh thấy ấm, trời nóng hoá mát, lại trừ được yêu ma và lục khí gây bệnh là phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả. Thật là một viên ngọc quý xưa nay chưa từng có.
Tuyên thèm thuồng hỏi:
- Làm sao có được viên ngọc ấy?
Can đáp:
- Vì quan ấy rao bán viên ngọc với giá vạn lạng vàng, có vàng là có ngọc.
Tuyên giật mình hỏi:
- Lấy đầu ra vạn lượng vàng.
Can cười đáp:
- Trương Phúc Loan làm thái phò dưới thời Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát vàng nhiều đến nỗi phải đúc gạch xây tường mà giấu. Nay Thái sư quyền lớn khác nào Trương Phúc Loan ngày trước sao là không có được vạn lượng vàng.
Tuyên hỏi:
- Làm sao có được số vàng ấy.
Can đáp:
- Mượn việc công, lấy của dân làm của tư.
Tuyên bực mình gắt:
- Thế là làm thế nào?
Can chậm rãi đáp:
- Ngày trước Tiên đế còn tại thế có phát cho mỗi người dân một cái thẻ bài để bốn chữ "Thiên hạ đại tín" dưới lại có ghi Quang Trung Nguyễn niên. Nay dưới thời vua Cảnh Thịnh, Thái sư cho đúc thẻ bài mới sửa lại bốn chữ dưới thành "Cảnh Thịnh Nguyễn niên", rồi hái sư lệnh cho dân phải mua thẻ bài mới, thu họ thẻ bài cứ, nếu không có thẻ bài mới là dân lậu. Như vậy mười vạn lượng vàng cũng có, kẻ gì là vạn lượng.
Tuyên mừng rỡ khen:
- Ngươi thật là cao kiến. Phen này ta nhất định phải mua được ngọc quý.
Hôm ấy vua Cảnh Thịnh đang cùng quan nội thị Vũ Tâm Can xem đá gà, bỗng một người xăm xăm bước vào điện nói lớn:
- Nước loạn đến nơi Hoàng thượng không lo, sa cử mai ham mẹ chuyện đá gà?
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra đó là quân Trung thu lệnh Trần Văn Kỷ. Vua Cảnh Thịnh đáp:
- Mọi chuyện đã có Thái sư lo rồi, sao thấy lại bảo là nước loạn?
Trần Văn Kỷ khóc nói:
- Thần vâng lệnh Tiên đế dậy văn cho Hoàng thượng chỉ mong Hoàng thượng anh minh trị quốc để thần khỏi phụ lòng Tiên đế. Nay Hoàng thượng cứ mải vui chơi trao quyền nhiếp chính cho Thái sư. Người làm cho nước loạn chính là Thái sư đó!
Vua Cảnh Thịnh đứng dậy hỏi:
- Thái sư làm gì mà nước loạn?
Văn Kỷ đáp:
- Thái sư lệnh cho thần viết chiếu truyền cho dân chúng mua thẻ bài mới đổi thẻ bài cũ. Ngày trước thẻ bài là do Tiên đế cấp cho dân. Nay sao lại lấy việc an dân bày trò mua bán. Chẳng phải là làm cho nước loạn ư?
Cảnh Thịnh bảo:
- Việc này không phải là chú ý của trẫm, thần hãy tìm Thái sư mà can gián.
Văn Kỷ lắc đầu ngao ngán nói:
- Ngoài Hoàng thượng ra con ai can gián ông Thái sư.
Vừa lúc ấy Bùi Đắc Tuyên bước vào thét:
- Quân đau lỗi Trần Văn Kỷ ra chém cho ta.
Võ sĩ xông vào bắt Kỷ lôi ra ngoài. Vua Cảnh Thịnh nắm vạt áo Bùi Đắc Tuyên nói rằng:
- Xin cậu hay vi tình ông ấy là thầy dạy học của trẫm mà tha cho ông ấy một phen.
Tuyên quay lại bảo Vũ Tâm Can:
- Truyền lệnh ta không giết nhưng cách chức đã đi làm lính giữ ngựa ở trạm Hoàng Giang.
Tuyên vừa dứt lời bỗng một người xồng xộc bước vào nói lên:
- Trạm Hoàng Giang ở nơi rừng sâu nước độc đất lam sơn chướng khi. Quan Trung thư lệnh tuổi già sứ yếu, đầy đến khác nào lãnh án tử hình. Vả lại quan Trung thu lệnh là cận thần tin cẩn của Tiên đế, xin Thái sư nể tình Tiên đế mà tha cho.
Mọi người giật mình nhìn lại, người vừa nói là thượng tướng Trần Quang Diệu. Bùi Đắc Tuyên giận quát Diệu:
- Ngươi chỉ là võ tướng sai đâu đánh đó không can dự vào việc triều chính. Ý ta đã quyết còn ai dám can ngăn, chém!
Nói xong Tuyên giũ áo ra về.
Về nhà Trần Quang Diệu bảo Bùi Thị Xuân rằng:
- Bùi Thái sư, chú của phu nhân quyền nghiêng thiên hạ, nắm quyền sinh sát trong tay. Vợ chồng ta là cháu của Thái sư ắt công danh phú quý không ai bì kịp.
Xuân nghe xong vùng ôm mặt khóc lớn. Diệu vờ hỏi:
- Chú ta được như vậy ta nên vui mới phải, sao phu nhân lại khóc?
Xuân nghẹn ngào đáp:
- Vợ chồng ta từng qua trăm trận sinh tử có nhau. Chàng còn thử thiếp làm chi!
Diệu lại vợ nước nhìn hỏi:
- Ấy là tôi nói thật lòng, sao phu nhân bảo là tôi thử rồi lại khóc lên như thế.
Xuân đáp:
- Thiếp khóc vì tự biết mình có hai tội lớn.
Diệu vờ ngạc nhiên hỏi:
- Phu nhân có hai tội gì?
Xuân gạt nước mắt đáp:
- Tôi thứ nhất tha cho Nguyễn Phúc Ánh. Tôi thứ hai không cho võ sĩ chém chú lúc Tiên đế lâm chung.
Nghe đến đây Diệu ứa nước mắt nói:
- Thương thay Tiên đế đến lúc chết con lo trừ mối nguy cho xã tắc. Cũng bởi vợ chồng ta vì tình ruột thịt có mắt không tròng nên cứ ngỡ Tiên đế lầm lỡ giết người vô tội.
Xuân buồn rầu hỏi:
- Việc đã đến nước này chàng tính thế nào.
Diệu vờ thất vọng lắc đầu nói:
- Chú cũng như cha, đành chịu vậy. Chứ tính thế nào nữa.
Bùi Thị Xuân mắt trừng trừng nói dằn từng tiếng:
- Chọn nước bỏ nhà, vì dân giết chú!
Diệu vội bùm miệng Xuân rồi kề tai nói nhỏ:
- Phu nhân nên cẩn thận gửi lời. Hiện nay chú có thể giết được ta mà ta không giết được chú. Xưa chú lợi dụng uy danh của ta để lôi kéo ba quân. Nay có vây cánh rồi chú nghi ngờ thường cho tay chân theo dõi vợ chồng ta. Nếu phu nhân không phải là cháu ruột của Thái sư thì đầu đã lìa khỏi cổ từ lâu.
Xuân lại khóc rằng:
- Nếu không giết được chú, tội của thiếp không sao chuộc nổi. E rằng chết không Nhắm mắt mà thôi.
Bây giờ Diệu mới mừng rỡ bảo:
- Nếu phu nhân đã quyết thế thì chẳng phải là không có cách.
Xuân vội hỏi:
- Cách thế nào?
Diệu đáp:
- Phu nhân cứ làm như vậy... như vậy là giết được Bùi Đắc Tuyên mà khỏi mang tiếng là giết chú ruột của mình.
Xuân mừng rỡ nói:
- Cám ơn phu quân bày cho diệu kế, thiếp lập tức thi hành.
Đoạn Xuân và Diệu đền gặp Bùi Đắc Tuyên. Xuân vờ hốt hoảng nói:
- Chú ơi. Phen này chú cháu ta nguy mất.
Tuyên giật mình hỏi:
- Thế nào là nguy?
Xuân đáp:
- Chú đầy Trần Văn Kỷ ra làm lính giữ trạm Hoàng Giảng là nguy đó!
Tuyên ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao đây Trần Văn Kỷ ra đó lại là nguy.
Xuân đáp:
- Trạm Hoàng Giang thuộc trấn Nghệ An. Nghệ An lại do Đặng Văn Long trấn thủ. Đặng Văn Long và Vũ Văn Dũng là huynh đệ đồng môn lại rất tin phục Trần Văn Kỷ. Nếu Dũng và Long biết việc này rồi lấy binh từ Bắc Hà vào đánh ta thì chẳng phải là nguy ư?
Tuyên lại giật mình hỏi:
- Ta thật là hồ đồ. Vậy phải làm sao trừ Văn Long, Văn Dũng.
Ngô Văn Sở xen vào đáp:
- Anh Diệu và chị Xuân đã ra mắt giúp nhạc phụ thì thật là đại phúc. Con việc trừ Văn Long, Văn Dũng nào có khó gì.
Tuyên vội hỏi:
- Ngươi có kế gì nói thử xem?
Sở đáp:
- Nhạc phụ dùng ngọc tỷ ấn của thiên tử viết chiếu triệu hồi Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long về kinh rồi bắt giết đi, việc dễ như trở bàn tay.
Bùi Thị Xuân nữa đùa nửa thật khen Ngô Văn Sở:
- Ngô đệ ngày xưa thâm trầm ít nói. Ngô đệ ngày nay mưu sâu kế lạ thật không ngờ
Sở tự đắc hỏi Xuân:
- Việc ấy theo ý chị Xuân thì thế nào.
Xuân đáp:
- Việc này tuỳ nơi chú và Ngô đệ. Nhưng vợ chồng tôi và Đặng Văn Long, Vũ Văn Dũng từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa sinh tử có nhau, nay vô lẽ thấy hai người ấy lâm nạn mà không can gián, vì thế xin cho vợ chồng tôi tránh mặt khỏi kinh thành để chú và Ngô đệ muốn xử Văn Dũng, Văn Long thế nào là tuỳ ý.
Tuyên cười ha hả nói:
- Miễn sao hai vợ chồng cháu không cản trở việc làm của ta là được rồi. Còn cháu muốn tránh tiếng không a dua theo ta cũng được nào có khó gì. Vậy hai cháu muốn tránh mặt đi đâu?
Xuân đáp:
- Nay quản Gia Miêu đã chiếm đất Diên Khánh lại đang lăm le dìm ngó Phú Xuân và Quy Nhơn. Vậy vợ chồng cháu xin đem quân vào đánh quân Nguyễn Phúc Ánh. Ấy là nhất cử mà lưỡng tiện vậy.
Tuyên mừng rỡ bảo:
- Được! Nay ta cấp cho Diệu, Xuân mười vạn quân lập tức vào Diên Khánh đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Diệu, Xuân lậy tạ lãnh lấy lệnh bài rồi lui ra. Ra ngoài Trần Quang Diệu lại hỏi Bùi Thị Xuân:
- Lúc ở nhà vợ chồng ta chỉ bàn việc giết chú. Nay Ngô Văn Sở không ngần ngại bày kế hại Văn Long, Văn Dũng. Vậy đối với Ngô Văn Sở nàng liệu thế nào.
Xuân đáp:
- Ngô Văn Sở đã thay đổi mà ra người như thế. Không dùng được nữa. Vậy phải làm sao trừ Văn Sở?
Diệu bàn:
- Ta cứ làm vầy.,. việc rất dễ.
Bàn xong vợ chồng lại quay vào thưa với Bùi Đắc Tuyên:
- Nếu gọi Vũ Văn Dũng thì phải gọi luôn Võ Đình Tú về mà giết đi để trừ hậu hoạ. Vậy nếu gọi có Dũng, Tú về cả thì lấy ai trấn thủ Bắc Hà? Chú nên phong Ngô Văn Sở làm trấn thủ Bắc Hà đem chiếc chỉ ra Thăng Long thế chức và gọi Tú và Dũng về. Về việc trấn thủ Bắc Hà ngoài Khổn Nghịch đại tướng quân Ngô Văn Sở không ai làm nổi.
Bùi Đắc Tuyên cả mừng nói với Diệu, Xuân:
- Ở kinh thành có chú cháu ta nắm quyền bính Bắc Hà có còn rể ta là Ngô Văn Sở cai quản. Vậy ai còn dám chống lại chú cháu ta nữa!
Nói xong Tuyên viết chiếu chỉ rồi lấy ngọc tỷ ấn đóng đấu triện vào, đoạn sai Ngô Văn Sở lên đường ra Bắc.
Ngô Văn Sở đi rồi, Bùi Đắc Tuyên hỏi Diệu:
- Nay Sở ra trấn Bắc Hà, hai cháu đem quân vào Nam đánh giặc. Vậy việc trấn thủ kinh thành phải giao cho ai.
Diệu đáp:
- Quan Tư Khấu Nguyễn Văn Huấn là người văn võ song toàn, có thể lãnh trọng trách này.
Tuyên lại hỏi:
- Nguyễn Văn Huấn là người thế nào. Có đáng tin cậy chăng?
Diệu cười vui vẻ đáp:
- Nguyễn Văn Huấn là người tâm phúc của cháu. Nếu chú tin vợ chồng cháu thì tin Huấn vậy.
Bùi Thị Xuân xen vào nói:
- Việc dùng Văn Huấn cháu xin bảo đảm. Xin chú chớ lo.
Bùi Đắc Tuyên mừng rỡ bảo:
- Hai cháu đã quả quyết thế, chú còn lo gì nữa.
Đoạn Bùi Đắc Tuyên lại thay vua viết chiếu phong Nguyễn Văn Huấn trấn thủ kinh thành.
Xong việc, Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân lãnh binh vào đánh thành Diên Khánh.
Nói về Ngô Văn Sở đến Thăng Long. Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú hay tin ra quý tiếp chiếu. Đoạn Dũng sai quân bày yến tiệc, sau vài tuần rượu, Dũng hỏi Sở:
- Tôi và Ngô huynh đều là huynh đệ đối với Tiên đế lại là bạn đồng liêu từng vào sinh ra tử với nhau kể từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa. Nay có việc muốn hỏi Ngô huynh xin chớ giấu nhau làm gì.
Sở đáp:
- Vũ huynh cứ hỏi, con khách sáo mà chỉ.
Dũng hỏi:
- Ngày trước Vũ Văn Nhậm vì lỗi gì mà Tiên đế xử Nhậm tội chết?
Sở đáp:
- Vũ Văn Nhậm cậy công lộng quyền, bất tuân thượng lệnh coi thường quân pháp, cho quân tín cẩn cướp bóc của dân, nên Hoàng thượng xử Nhậm tội chết.
Dũng lại hỏi:
- Vậy còn tội lợi dụng việc nước, bán thẻ bài lấy tiền của dân làm của tư thì đáng tội gì?
Sở giật mình đáp:
- Ấy là việc của Thái sư, Sở tôi không được biết.
Dũng vẫn trầm trầm giọng kể tội Sở:
- Rồi còn việc mạo danh thiên tử gọi bạn về kinh cho loạn thân hại bạn thì đáng tội gì.
Ngô Văn Sở vỗ bàn đứng dậy nói lớn:
- Ta vâng lệnh vua ra thay ông làm tổng trấn Bắc thành. Ông lại dùng lời quanh co bất tuân thánh chi toan làm phản hay sao?
Vũ Văn Dũng cầm ly rượu quăng xuống đất. Võ sĩ thấy hiệu lệnh liền xông vào bắt Ngô Văn Sở. Sở không đem binh khí trong người đánh bó tay chịu trói. Dũng trừng mắt quát:
- Ngô Văn Sở! Ta với ngươi cùng Trần Quang Diệu được người đời xưng tụng là Tây Sơn tam đao, từng cùng nhau vào sinh ra tử theo Tiên đế chinh Nam phạt Bắc. Nay Tiên đế vừa mới mất, ngươi tham bả vinh hoa, sinh lòng bội phản, bán bạn cầu vinh. Tội của ngươi thật là đáng chết! Nay ta chém đầu ngươi trước, rồi về kinh giết Bùi Đắc Tuyên trừ hại cho nước.
Ngô Văn Sở gắng gượng nói:
- Thái sư có Hoàng thượng trong tay người dám làm phản sao? Vả lại cháu Thái sư là vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân đem mười vạn quân và Nam đánh Nguyễn Phúc Ánh, nếu người làm càn liệu có đương đầu với Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân được chăng?
Dũng lấy trong ngực ra một phong thư quăng xuống đất trước mặt Ngô Văn Sở và nói:
- Ngươi hãy xem thư của Trần Quang Diệu gửi cho ta sẽ rõ!
Sở la lên rằng:
- Ngươi trói ta thế này sao ta đọc được!
Dũng liền bảo quân cầm bóc thử giở ra trước mặt Sở. Đọc xong Sở than rằng:
- Tên đạn quân thù không chết, lại chết dưới tay của người trong nhà. Anh Diệu chị Xuân đã giết ta rồi vậy!
Dũng bảo:
- Tội ngươi đáng chết còn trách được ai. Quân bay lôi ra chém!
Quân dâng đầu Văn Sở trước thềm. Vũ Văn Dũng trông thấy khóc rằng:
- Nghĩ mà thương thay Ngô Văn Sở. Bả vinh hoa làm luỵ anh hùng! Võ Đình Tú em ơi. Em hãy thay anh trấn thủ Bắc Hà, hãy một lòng vì nước vì dân. Anh phải về kinh lấy đầu Bùi Đắc Tuyên. Thương thấy Ngô Văn Sở! Nếu đại sư huynh không sớm mãn phần thì anh em ta đâu đến nỗi thế này.
Võ Đình Tú hối Dũng:
- Anh hay an lòng mà gấp đi mau, kẻo Đặng Văn Long vô tình về kinh trước thì nguy.
Vũ Văn Dũng vội vàng lên ngựa ra roi. Đến Nghệ An gặp Đặng Văn Long, Dũng hỏi:
- Sư đệ đã nhận được chiếu chỉ triệu hồi kinh của vua chưa?
Đặng Văn Long đáp:
- Đã có rồi. Những trước đó đã được thư của Trần Quang Diệu bảo chờ Tam sư huynh về rồi sẽ liệu, nên còn lần lữa chưa di.
Vũ Văn Dũng ứa nước mắt nói:
- Thương thay Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân vì tình chú ruột chẳng nỡ ra tay, nên mới gọi ta về trị loạn thần. Nếu anh Diệu chỉ Xuân ăn ở hài lòng như Ngô Văn Sở thì anh em ta đã đầu lìa khỏi cổ. Ơn này kết có ngậm vành cũng chẳng dám quên.
Văn Long hỏi:
- Con việc trừ Bùi Đắc Tuyên, Tam sư huynh liệu tính thế nào?
Dũng đáp:
- Ta cứ theo kế của Trần huynh mà làm.
Nói rồi Đặng Văn Long và Vũ Văn Dũng đem theo mươi quân hộ vệ về thành Phú Xuân. Đến nơi Dũng và Long tìm đến tư dinh của trấn thủ Nguyễn Văn Huấn. Quân canh cổng chặn lại hỏi:
- Các ngươi là dân thường ở đâu đang đêm đến dinh quan Tư Khấu?
Tên quân vừa dứt lời bỗng nghe tiếng quát:
- Bọn bay không được vô lễ!
Quân canh quay lại thấy Nguyễn Văn Huấn thì thất kinh vội vã lui ra. Huấn liền thi lễ với Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long rồi nói:
- Tôi vâng lệnh Thượng đạo tướng quân Trần Quang Diệu và nữ đô đốc Bùi Thị Xuân chờ hai vị tướng quân đã lâu.
Đoạn Huấn mời Dũng và Long vào trong bàn kế.
Đợi lúc nửa đêm Dũng và Long lấy năm trăm quân của Nguyễn Văn Huấn thẳng đến vay dinh phủ của Bùi Đắc Tuyên. Quân canh cửa Tuyên quát hỏi:
- Các ngươi là ai nửa đêm dám đến tư dinh của Thái sư. Muốn chết hay sao?
Dũng nạt lớn rằng:
- Ta là đại Đô đốc Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long về giết Bùi Đắc Tuyên đây.
Nói rồi Dũng vung đại đao phá cổng. Quân cánh cửa Tuyên chạy đến mấy trăm tên thấy Văn Dũng, Văn Long liền đứng lại bảo nhau rằng:
- Tây Sơn tam đao Vũ Văn Dũng và Thiết thủ Đặng Văn Long đến đây bọn ta sao dám chống cự. Vả lại hai ông ấy đem quân Bắc Hà về chiếm thành rồi nên mới đến được đây. Thôi bọn ta đầu hàng là hơn.
Bọn lính bàn xong liền bướng gươm giáo.
Đêm ấy, Bùi Đắc Tuyên chẳng hiểu cớ gì đã nôn nao không sao ngủ được. Bỗng nghe tiếng ồn ào người sân, Tuyên choàng dậy ra ngoài xem xét. Vũ Văn Dũng trong thấy liền nhảy đến nắm cổ áo Tuyên lôi ra giữa sân. Dũng nghiến răng trừng mắt quát:
- Tên loạn thần, nay ta quyết chặt đầu ngươi trừ hại cho dân, cứu nguy xã tắc.
Tuyên thất kinh hồn vía nhưng gắng gượng bảo:
- Ta là Thái sư hết lòng phò vua sao bảo là loạn thần.
Dũng nạt lớn:
- Thằng giặc già kia, mày con toan chối tội hả sao. Thế ai đầy Trần Văn Kỷ? Ai bán thẻ bài làm của tư. Ai triệu ta và Đặng Văn Long về kinh âm mưu hãm hại. Nói mau!
Tuyên biết không chối được đáp liều rằng:
- Ta là cậu ruột của vua, ngươi lại đám giết ta sao.
Dũng cười gằn đáp:
- Cậu ruột của vua lại càng nên giết!
Nói xong Dũng vung đại đao chém một nhất rụng đầu Bùi Đắc Tuyên.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 62 Chán hôn quân, Đặng Văn Long bỏ quan. Tìm minh Chúa, Bàng Đức Siêu dâng kế
Nhắc lại việc Vũ Văn Dũng chém Bùi Đắc Tuyên xong. Dũng và Long cùng vào Hoàng cung ra mắt vua Cảnh Thịnh rồi kể lại việc ấy. Vua Cảnh Thịnh khóc nói:
- Bùi Thái sư dù làm điều càn rỡ nhưng cũng là cậu ruột của trẫm. Sao khanh không đem cho trẫm xử mà tự tiện trảm đi.
Dũng quỳ lạy tâu:
- Nếu giao cho Bệ hạ, thần e rằng Bệ hạ vì tình riêng không nỡ ra tay nên hạ thần mới phải làm như thế. Vả lại thần chém Bùi Đắc Tuyên là theo lệnh của Tiên đế mà thôi. Xin Bệ hạ xét lại cho thần!
Cảnh Thịnh ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại bảo là làm theo lệnh của Tiên đế?
Dũng ứa nước mắt đáp:
- Trước lục lâm chung, Tiên đế ra lệnh chêm Bùi Đắc Tuyên. Nhưng Tiên đế băng hà, Bệ hạ lại không tuân lệnh Tiên đế nên mới tha cho Bùi Đắc Tuyên. Nay hạ thần giết Bùi Đắc Tuyên là làm theo lệnh của Tiên đế vậy!
Cảnh Thịnh hỏi:
- Lúc Tiên đế làm chung khanh đi sứ Mãn Thanh sao biết được việc này?
Dũng đáp:
- Vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân ăn năn vì đã cản không cho võ sĩ chém Bùi Đắc Tuyên nên kể lại việc này cho thần biết. Nay Bùi Đắc Tuyên dám mạo danh Bệ hạ gọi thần và Đặng Văn Long về để giết đi, tội Bùi Đắc Tuyên thật là đáng chết.
Cảnh Thịnh hỏi:
- Sao khanh biết Bùi Thái sư giả chiếu chỉ?
Dũng đáp:
- Ấy là nhờ có kẻ mật báo cho thân!
Cảnh Thịnh hỏi dồn:
- Kẻ ấy là ai?
Dũng giật mình đáp:
- Thần đã thề không tiết lộ tên người. Xin Bệ hạ tha tội!
Dũng nói xong, Cảnh Thịnh liền đuổi Dũng và Long ra ngoài. Còn lại một mình, Cảnh Thịnh hỏi Vũ Tâm Can:
- Theo ngươi ai đã mật báo cho Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long giết cậu ta và Ngô Văn Sở?
Can đáp:
- Ngươi vợ chồng Diệu, Xuân không còn ai khác!
Cảnh Thịnh hỏi:
- Bùi Thái sư là cậu ruột của ta và là chú ruột của Bùi Thị Xuân, lý đâu Bùi Thị Xuân lại xui kẻ khác giết chú ruột của mình?
Can đáp:
- Chính vì Thái sư là chú ruột của Xuân, nên Xuân mới xui Vũ Văn Dũng giết đi. Nếu không là chú ruột thì vợ chồng Diệu, Xuân sẽ tự tay giết chết Thái sư chứ cần gì phải xui ai!
Cảnh Thịnh bảo:
- Lời người cũng hữu lý, nhưng lấy gì làm chắc.
Vũ Tâm Can đáp:
- Thần có một kế có thể biết chắc Diệu, Xuân có xui Vũ Văn Dũng giết Thái sư hay không?
Cảnh Thịnh hỏi:
- Kế thế nào?
Can đáp:
- Diệu, Xuân kéo mười vạn quân vào Diên Khánh đánh Nguyễn Phúc Ánh. Bệ hạ sai người theo gọi Diệu, Xuân về cứu giá. Nếu Diệu, Xuân không về đánh Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long là Diệu, Xuân đã toa rập cùng Dũng, Long giết Thái sư vậy.
Cảnh Thịnh khen:
- Ấy thật là diệu kế.
Nói xong vua liền theo kế ấy thi hành. Ít lâu sau quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ! Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân nhận được chiếu chỉ của Bệ hạ gọi về cứu giá liền kéo quân về đóng ở bờ Nam sông Hương. Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long đem quân đóng ở bờ Bắc sông Hương. Hai bên bày binh bố trận chuẩn bị đánh nhau rất là nguy cấp. Xin Bệ hạ định liệu.
Cảnh Thịnh giật mình bảo Vũ Tâm Can:
- Nếu thế là Diệu, Xuân không toa rập cùng Long, Dũng giết cậu ta. Vậy ta phải can ngăn kẻo hai đàng đánh nhau hao binh tổn tướng thì nguy.
Vũ Tâm Can bàn rằng:
- Vậy là Long, Dũng đã hại Thái sư! Nếu vậy Bệ hạ giảng hoà rồi khi các tướng vào thành Bệ ha hãy ngầm bảo Diệu, Xuân giết Long, Dũng là ta đã báo thù được cho Thái sư vậy.
Cảnh Thịnh lại khen:
- Ấy thật là diệu kế.
Vua dứt lời, quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ, Đặng Văn Long xin ra mắt.
Vua truyền cho vào. Long vào đến, thi lễ tâu:
- Anh em thần vì xã tắc trừ gian thần chứ không cố ý khác. Vợ chồng Diệu, Xuân ngờ anh em tôi hại vua nên kéo đại quân về cự chiến. Xin Bệ hạ ra giữa trận tiền gặp Xuân, Diệu nói một câu làm chứng cho anh em thần để tránh việc huynh đệ tương tàn.
Vua Cảnh Thịnh liền theo Văn Long đến trước trận ở bờ Nam sống Hường, Trần Quang Diệu giận dữ gọi lớn:
- Bớ Vũ Văn Dũng, Đặng Văn Long mau ra đây trói mình chịu tội. Nếu không thì máu đổ đầy sông!
Nói xong Diệu sai quân nắp đạn vào súng đại bác sắp sửa bắn sang. Vua Cảnh Thịnh thấy vậy thất kinh bước lên gọi lớn rằng:
- Quang Diệu đừng bắn! Có trẫm ở đây!
Bùi Thị Xuân khoát tay ra hiệu cho quân không được bắn rồi hỏi liền:
- Có phải Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long muốn làm phản, quản thúc Bệ hạ đó chăng.
Cảnh Thịnh vội đáp:
- Văn Dũng, Văn Long chỉ giết loạn thần, đối với trẫm vẫn một lòng trung. Diệu, Xuân chớ khá hiểu lầm.
Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân vờ mừng rỡ kéo quân vào thành. Bái yết vua Cảnh Thịnh xong, vợ chồng Diệu, Xuân tìm đến tư dinh Vũ Văn Dũng. Gặp lúc Dũng, Long đang đàm đạo. Diệu, Xuân trong thấy liền quỳ nói:
- Xin nhị vị tướng quân nhận của vợ chồng tôi một lậy.
Nói rồi toan sụp lạy, Văn Dũng, Văn Long với đỡ Diệu, Xuân dậy rồi hỏi:
- Sao Trần huynh và Bùi tỷ lại làm như thế?
Xuân gạt nước mắt đáp:
- Chúa tôi là cậu ruột của vua nên mới làm chức Thái sư, nắm quyền nhiếp chính lại tham danh hám lợi hãm hại công thần khiến dân hờn nước loạn. Tôi là cháu ruột không thể tự tay giết chú, nên mới nhờ nhị vị tướng quân từ Bắc Hà về trừ loạn thần. Xin hai vị hãy nhận của vợ chồng tôi một lậy gọi là ơn cứu quốc.
Dũng vội cản lại và nói:
- Tấm lòng nhân nghĩa của Trần huynh, Bùi tỷ thật đáng để anh em tôi khâm phục biết bao. Ơn cứu mạng của anh chị chúng tôi chưa đáp tạ thì việc giết loạn thần sao dám gọi là ơn. Thôi chúng ta hay bỏ qua việc ơn nghĩa cũng ngồi vào bàn uống máu ăn thề kết tình huynh đệ, chung vài gánh vác giang sơn. Chẳng hay anh chị nghĩ thế nào?
Diệu gạt nước mắt nói:
- Nhờ bọn ta lập kế giả sắp đánh nhau ở sông Hương mà che mắt thiên hạ việc vợ chồng tôi đã mưu cùng nhị vị tướng quân giết chú. Nay vua cứ ngỡ việc giết Bùi Đắc Tuyên là do hai vì chủ mưu nên vua lệnh cho tôi phải giết hai vị. Giờ nghe Vũ huynh nói uống máu ăn thề, kết tình huynh đệ và nhớ đến lệnh vua nên Diệu tôi đau lòng mà phải khóc!
Diệu nói xong hai vợ chồng cũng sụt sùi khóc. Đang Văn Long hỏi:
- Việc đã như vậy Trịnh huynh tính thế nào.
Diệu đáp:
- Dù chưa uống máu ăn thế, nhưng Diệu tôi đâu phải là người chỉ biết nghe lời vua hại bạn. Bây giờ cũng chưa biết phải làm sao cho vua khỏi nghi ngờ là tôi kết thân cũng hai vị để gạt vua.
Diệu, Xuân, Dũng cũng bóp trán suy nghĩ. Đặng Văn Long nghĩ thầm: Ngày trước ta đi đầu quân Tây Sơn ngang qua chùa Thập Tháp gặp một ẩn sĩ nói lời tiên tri rằng: Khởi binh Tây Sơn thì nhổ cây Sơn, trận đầu ra quân trước dân xử tướng, tuy là việc nên làm nhưng ấy là điềm gở. Danh dù lưu hậu thế nhân sự nghiệp khó bền. Thật quả không sai! Nghĩ xong Đặng Văn Long nói:
- Tôi có một cách khiến hai ta khỏi chết mà Trần huynh, Bùi tỷ lại không bị liên luỵ.
Mọi người đồng thanh hỏi:
- Cách thế nào.
Long đáp:
- Anh em tôi về quê vui thú điền viên. Trần huynh và Bùi tỷ tâu vua rằng việc lộ ra nên ảnh em tôi bỏ trốn. Ấy là anh em tôi khói chết mà Trần huynh và Bùi tỷ lại không bị liên luỵ. Thế chẳng phải là thượng sách hay sao?
Nghe xong Vũ Văn Dũng nạt rằng:
- Tứ sư đệ hết kế hay sao mà lại bày kế của phường tiểu nhân như thế.
Văn Long hỏi:
- Sao tam sư huynh bảo kế của tôi là tiểu nhân.
Dũng gắt:
- Nước chưa yên, triều đình chưa định, tứ sư đệ lại bày kế bỏ vua mà đi chẳng phải là tham sống sợ chết là chí hướng của kẻ tiểu nhân ư?
Long đáp:
- Văn Long tôi vốn không có chí làm quan, vì thời loạn nên mới theo Tiên đế đại sư huynh đánh Nam dẹp Bắc. Phá quân Tiêm Nguyễn ở Rạch Gầm, đuổi quân Mãn Thanh ở Thăng Long cứu dân giúp nước sao bảo tôi là tham sống sợ chết. Nay nhà vua lấy việc đá gà chơi bời làm vui, bỏ bê chính sự, gắn bó gian nịnh, xa lánh trung thần. Anh em ta một lòng vì nước, vua lại muốn giết đi, thứ hỏi tới biết làm sao hơn nứa.
Văn Dũng nói:
- Ta mang nặng ơn sâu Tiên đế, quyết đập đầu trước bệ rồng can vua thay đổi tính tình sửa sang chính sự dù chết cũng cam. Theo tứ đệ vậy là sai sao?
Văn Long đáp:
- Giang sơn dễ đổi tính khí khó dời. Tam sư huynh một lòng can vua rất đáng khâm phục. Và Long tôi quyết chí ra đi vì không nghĩ rằng có thể can gián được vua.
Trần Quang Diệu nói:
- Nay Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định chiêu binh mãi mã cầu quân Pháp Lang Sa, thế lực mỗi ngày một mạnh. Văn Long là rường cột nước nhà lại bỏ vua mà đi sao đành.
Văn Long đáp:
- Trên thiên tử bắt mình, dưới tướng sĩ nản lòng. Trong rối loạn như thế, người còn đánh được ai. Xin Trần huynh, Bùi tỷ và Tam sư huynh tha tội bất trung, Văn Long tôi đi đây!
Đoạn Văn Long bái biệt ba người rồi lên ngựa mà đi. Vũ Văn Dũng giận dữ hét vọng theo rằng:
- Từ này về sau chờ gọi ta là sư huynh nữa!
Đặng Văn Long chỉ gạt nước mắt rồi lên ngựa ra roi. Bùi Thị Xuân trông theo bóng Văn Long xa dần rồi mất hút, Xuân ngậm ngùi hỏi Vũ Văn Dũng:
- Trên vua đã như vậy cũng không trách được Văn Long. Còn phần Vũ huynh ta nên tính thế nào?
Dũng hơi giận chưa nguôi liền đáp:
- Ta vào trước bệ rồng đập đầu can vua, dù chết cũng cam!
Nói rồi Dũng xồng xộc mà đi. Diệu, Xuân chẳng biết làm thế nào đành chạy theo Văn Dũng. Đến trước bệ rồng Vũ Văn Dũng quỳ hỏi lớn:
- Hạ thần và Đặng Văn Long có tội gì mà Bệ ha sai Trần Quang Diệu giết đi?
Vua Cảnh Thịnh thấy vợ chồng Diệu, Xuân quỳ cạnh Dũng liến thốt lên rằng:
- Hoá ra anh Diệu và chị Xuân đã hùa theo Vũ Văn Dũng mà bỏ trẫm rồi sao?
Diệu, Xuân chỉ cúi đầu không đáp. Dũng lại hỏi:
- Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền lấy việc công mưu đồ tự lợi, hãm hại công thần, đày Trần Văn Kỷ. Tuyên lại giả chiếu chỉ gọi anh em thần về kinh ở mưu ám hại. Thân biết việc ấy mới giết Tuyên trừ hại cho dân, cứu nguy cho nước. Đô đốc Bùi Thị Xuân từ phận đàn bà lại là cháu của Tuyên còn cho việc thần trừ Tuyên là phải, sao Bệ hạ lại ngầm ra lệnh giết thần và Đặng Văn Long? Khiến Văn Long buồn bỏ quan về ở ẩn, ấy chẳng phải là thiệt hại lớn cho quốc gia hay sao?
Vua Cảnh Thịnh thấy Vũ Văn Dũng giận, sợ hãi nói:
- Trẫm nhất thời hồ đồ, xin đại Đô đốc bớt giận. Từ nay về sau không nói đến việc này nữa. Thôi các khanh hay lui ra cho trẫm tĩnh tâm sám hối về các việc mình đã làm.
Dũng, Diệu, Xuân bái tạ ra về. Vua Cảnh Thịnh liền vỗ án bảo Vũ Tâm Can:
- Việc này cũng do Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân gây ra. Nếu có dịp ta quyết giết không tha!
Nghe vừa nói, Vũ Tâm Can ngoảnh mặt cười thầm.
***
Nói về Nguyễn vương ở Gia Định Sài Côn nghe quân thám mã về bảo việc nội bộ Tây Sơn, Nguyễn vương mừng rỡ vỗ tay réo:
- Ngô Văn Sở bị giết, Phan Văn Lân và Đặng Văn Long bỏ quan ở ăn. Tây Sơn thập hổ còn lại có ba người, nhất là Đặng Văn Long không còn vậy ta chẳng phải lo chi. Truyền đem đại quân ra đánh Phú Yên, Quy Nhơn!
Nguyễn vương đem quân theo hai đường thuỷ bộ lên đường Bắc tiến. Tướng Tây Sơn trấn thủ Phú Yên là Nguyễn Quang Huy canh phòng cẩn mật ải Vân Phong, hễ quân Nguyễn Gia Miêu tiến lên thì lấy gỗ đá lăn xuống. Bộ binh quân Gia Miêu không sao tiến được. Mặt biển Quy Nhơn cha con Lê Trung, Lê Chất chốt giữ các nơi hiểm yếu. Nguyễn vương lập thuỷ trại ngoài đảo Thanh Châu Dự, rồi lo lắng hỏi các tướng:
- Lê Trung và Nguyễn Quang Huy đều không nằm trong Tây Sơn thập hổ sao lại có tai điều binh như thế?
Ngô Tùng Châu đáp:
- Lúc Nguyễn Huệ ly khai với Nguyễn Nhạc các quan ở lại Phú Xuân mà không về Quy Nhơn theo mệnh của Nguyễn Nhạc, bấy giờ thiên hạ vì phục tài Huệ nên mới xưng tụng mười tướng theo Huệ là Tây Sơn thập hổ. Còn Nguyễn Quang Huy và Lê Trung ở lại Quy Nhơn nên không được danh ấy, nhưng họ đều là dũng tướng cả.
Nguyễn vương lại hỏi:
- Ai có kế gì phá quân Lê Trung và Nguyễn Quang Huy chăng?
Ngô Tùng Châu đáp:
- Có một người trước làm quan trải qua hai đời Chúa Võ Vương và Định Vương. Sau Tây Sơn đoạt nước, Định Vương chạy vào Sài Côn thì người ấy lui về ở ẩn. Nguyễn Nhạc nghe tiếng dùng lễ vật để cầu, nhưng người nhất định không ra giúp. Người nay văn chương như nước chảy, xuất khẩu thành thơ, thường tự ví mình như Quản Nhạc. Thượng vương nên sai sứ đến hỏi kế của ông ấy xem sao.
Nguyễn Vương vội vàng hỏi:
- Người ấy tên gì. Hiện ở đâu?
Cháu đáp:
- Người ấy tên Đặng Đức Siêu, tuổi trạc ngũ tuần quê ở huyện Bồng Sơn phủ Quy Nhơn.
Nguyễn vương giật mình hỏi:
- Đặng Đức Siêu ở trong đất của giặc Tây Sơn. Sao ta có thể tìm gặp được?
Châu đáp:
- Thần xin giả dạng dân thường tìm đến nhà Đặng Đức Siêu. Thượng vương hãy tạm lui quân về Diên Khánh chờ tin.
Nguyễn vương nghe lời liền rút quân về Diên Khánh.
Ít hôm sau Ngô Tùng Châu về đến thưa rằng:
- Đặng Đức Siêu đã đến đang chờ lệnh ở ngoài.
Nguyễn vương thân hành ra đón. Vừa gặp Siêu, Nguyễn vương thi lễ nói:
- Quả nhân nghe tiếng tiên sinh đã lâu. Ngặt nỗi tiên sinh ở trong đất của giặc Tây Sơn nên quân nhà không sao thân hành đến đón theo nghi lễ cầu hiền được. Xin tiên sinh bỏ quá cho.
Siêu vội vàng quỳ tâu:
- Thần nghe Thượng vương dấy binh ở Gia Định đã lâu nhang muốn theo về. Ngặt vì lúc ấy thần ở quân Tây Sơn quản thúc nên không trọn ý nguyện. Nay hạ thần đến đây xin hiến kế cho Thượng vương lấy đất Quy Nhơn.
Nguyễn vương vội hỏi:
- Kế thế nào tiên sinh mau nói xem.
Siêu đáp:
- Thượng vương dụ hàng Lê Trung, Lê Chất. Nếu Lê Trung chịu tất dâng thành đầu hàng, ta đã chiếm được Quy Nhơn mà không nhọc sức vậy. Quy Nhơn mất, Phú Yên tất phải mất theo vì hai đầu đều thọ địch.
Nguyễn vương hỏi:
- Nhưng làm sao dụ hàng cha con Lê Trung?
Siêu cười đáp:
- Muốn câu cá ắt phải có mồi.
Đoạn Siêu quay sang nói với Ngô Tùng Châu:
- Quan tả tham mưu hay đem mồi đến đây.
Ngô Tùng Châu ra hiệu cho quân sĩ. Quân liền giải vào hai người đàn bà đẩy cho quỳ dưới trướng. Nguyễn vương hỏi:
- Hai người này là ai?
Siêu đáp:
- Đây là hai mẹ con. Người lớn là vợ Lê Trung. Người trẻ là vợ Lê Chất, thần bắt được đem về. Nay Thượng vương bảo Lê phu nhân viết thư bảo Trung dâng thành đầu hàng. Ấy là vua được thành vừa được tướng giỏi vậy.
Nguyễn vương mừng rỡ khen:
- Thật là diệu kế! Nhưng làm sao tiên sinh biết được vợ con Lê Trung.
Siêu đáp:
- Hàng năm cứ đến rằm tháng tư là vợ con Lê Trung chỉ đem theo vài mươi quân hộ vệ ra khỏi thành đi chùa lễ Phật. Thần biết việc ấy nên sai gia binh phục bắt đem về hiến kế cùng Thượng vương.
Nguyễn vương bèn hỏi Lê phu nhân:
- Mụ kia, người có phải là vợ Lê Trung chăng.
Lê phu nhân đáp:
- Phải!
- Chồng người tuy theo giặc Tây Sơn, nhưng xét cho cùng không phải theo anh em thắng buôn trâu lúc mới khởi loạn. Bởi do thằng Nhạc mị dân xưng đế, nên người tài bị gạt theo phò. Nay ta đây xá tội cho gia đình ngươi. Vậy ngươi hãy viết thư khuyên chồng đầu hàng. Nếu nghe theo thì vợ chồng đoàn tụ vinh hoa phú quý. Nhược bằng không thì đứt cổ rơi đầu.
Nói xong truyền quân mang giấy bút đến. Lê phu nhân đón lấy viết một hồi rồi trao lại Nguyễn vương. Nguyễn Vương đọc xong giận dữ thét lên:
- Con mụ này lão. Truyền quân đem chém!
Đặng Đức Siêu can:
- Xin Thượng vương bớt giận. Ta chém vợ con hắn là hắn nuôi chí báo thù. Xin hỏi mụ ta viết gì mà Thượng vương tức giận như thế?
Nguyễn vương liền trao thư của Lê phu nhân cho Đặng Đức Siêu. Siêu đón lấy đọc. Thư rằng:

"Vua Quang Trung còn,
Sợ chẳng dám ra
Bèn mượn câu quản thúc
Vua Quang Trung mất
Đợi thời cơ bắt nạt đàn bà
Đáng khen thay Đặng Đức Siêu
Tài như Quản Nhạc!"

Siêu xem xong sắc mặt không hề thay đổi, phân trần với Nguyễn vương rằng:
- Thần trước đây bí giặc Tây Sơn quản thúc nên không thể đi theo phò Chúa thượng được, chứ chẳng phải là nay Nguyễn Huệ chết rồi mới ra giúp chúa. Xin Thượng vương chờ tin lời mụ.
Lê phu nhân xen vào mắng Đặng Đức Siêu:
- Nếu chồng ta quản thúc ngươi thì làm gì ngươi ra khỏi phủ Quy Nhơn chứ đừng nói đến việc bắt mẹ con ta, dùng kế của phường tiểu nhân. Ngươi chẳng qua là phường cơ hội. Khi vua em Quang Trung còn sống, sao Quản Nhạc kia chẳng chịu ra tài? Ta nhất định không viết thứ khuyên chồng phản nước. Nếu người dụ hàng được chồng ta, ta mới phục ngươi là tài như Quản Trọng, Nhạc Nghị đó.
Đặng Đức Siêu bị mắng vẫn bình tĩnh tâu với Nguyễn vương rằng:
- Xin Thượng vương hãy tạm giam mẹ con mụ lại. Dù mụ không viết thư, thần vẫn có cách dụ hàng được Lê Trung.
Nguyễn vương sai quân giải mẹ con Lê phu nhân đi. Lê phu nhân cười ngất ngoảnh lại bảo:
- Ngươi nói dụ hàng được chồng ta thì quả là ngươi chưa biết Lê Trung chồng ta là người như thế nào.
Nói xong cứ cười lớn mà đi theo quân võ sĩ. Nguyễn vương hỏi Đặng Đức Siêu:
- Khanh bảo có cách nào dụ hàng được Lê Trung?
Siêu đáp:
- Ta bắt vợ con Trung là buộc hắn lâm vào thế cùng phải đầu hàng chứ đâu phải dùng lẽ, phải thuyết phục mà cần vợ hắn khuyên nhủ. Vậy thư do vợ hắn hay do ta viết nào có khác gì.
Nguyễn vương khen:
- Lời khanh rất phải! Vậy phiền khanh hãy thảo thư. Xem Lê Trung phản ứng thế nào rồi sẽ liệu.
***
Nói về tướng Tây Sơn trấn thủ Quy Nhơn là Lê Trung, ngày ấy Trung than với con rể là Lê Chất rằng:
- Vợ con và mẹ con ra khói thành viếng chùa dâng hương bị Đặng Đức Siêu dẫn quân Nguyễn Gia Miêu bắt đi mất rồi. Đến nay chưa biết ra sao. Lê Chất con ơi! Con có kế gì cứu vợ và mẹ con chăng?
Chất đáp:
- Nguyễn Phúc Ánh bắt nhạc mẫu và vợ con ta sớm muộn gì sẽ sai sứ đến dụ hàng. Ta nên tương kế tựu kế ắt là bắt được Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng con e rằng nhạc mẫu và vợ con phải lâm nguy.
Lê Trung không chút do dự hỏi ngay:

"Người sinh ở đời ai không chết
Một tấm lòng sơn để sử xanh"

Kế thế nào con hay nói xem?
Chất kề tai Trung nói nhỏ:
- Cha cứ làm nhà vậy... như vậy ắt Nguyễn Phúc Ánh sẽ mắc kế "không thành" của ta.
Trung buồn rầu khen:
- Ấy thật là diệu kế.
Vua dứt lời quân vào báo:
- Thưa tướng quân, có sứ giả Nguyễn Phúc Ánh đến xin ra mắt.
Trung bảo:
- Mau mời sứ giả vào đây.
Sứ giả của Nguyễn vương vào đến vừa thi lễ vua nói:
- Phu nhân và lệnh ái vẫn bình an vô sự. Chúa tôi có thư trao cho tướng quân.
Tiếp thư đọc xong, Lê Trung bảo sứ giá:
- Phiền ngài về thưa cùng Nguyễn vương rằng đa tạ thu xếp xong sẽ hẹn ngày dâng thành đầu hàng.
Sứ giả hỏi:
- Tướng quân con chần chừ gì mà chẳng hàng ngay?
Trung đáp:
- Nguyễn Bảo là con vua Thái Đức bị vừa Cảnh Thịnh đoạt nước cho ăn lộc ở một huyện Tuy Viễn gọi là Tiểu triều. Nguyễn Bảo vốn oán hận Cảnh Thịnh. Ta xin thuyết Nguyễn Bảo về hàng Nguyễn vương luôn thể, nên xin Nguyễn vương thư thả cho ít ngày là do thế.
Sứ giả bảo:
- Nguyễn Bảo chỉ ăn lộc một huyện thì cần gì phải thuyết Nguyễn Bảo về hàng. Hay tướng quân có ý gì chăng?
Lê Trung cười đáp:
- Ngài nói thế là biết một mà không biết hai đó.
Sứ giả hỏi:
- Thế nào là biết một mà không biết hai.
Trung đáp:
- Nguyễn Bảo tuy chẳng còn quyền hạn gì nhưng lại là con Nguyễn Nhạc.
Sứ giả lai hỏi:
- Con Nguyễn Nhạc thì thế nào.
Trung đáp:
- Trăm họ đất Quy Nhơn vốn mang nặng ơn sâu của Nguyễn Nhạc nên mới tôn Nhạc là vua trời. Nếu Nguyễn Bảo về cùng Nguyễn Vương thì thiên hạ đều theo phục, thế chẳng phải là Nguyễn vương vừa được thành vừa được lòng người sao?
Sứ giả mừng rỡ nói:
- Tướng quân thật cao kiến, tôi xin quay về thưa cùng Chúa tôi chờ tướng quân báo tin vui.
Nói xong bái biệt ra về.
Sứ giá Nguyễn vương đi rồi Lê Trung bèn viết một phong thư sai người thân tín ra Phú Xuân dâng lên vua Cảnh Thịnh

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 63 Mế đá gà, Cảnh Thịnh giết Lê Trung. Bước đường cùng, Lê Chất đầu Phúc Ánh.
Nói về vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân nhận được thư Lê Trung. Đọc xong vua bảo Vũ Tâm Can:
- Lê Trừng mật bảo với ta rằng: Cho Lê Trung dâng thành Quy Nhơn hàng Phúc Ánh rồi ta đem thuỷ binh vào chân cửa Thị Nại. Bộ quân ta từ Quảng Ngãi đánh vào. Sai Nguyễn Quang Huy giữ vững Phú Yên, án ngữ ải Cù Mông, đồng thời cha con Lê Trung, Lê Chất ở trong thành làm nội ứng. Như vậy chắc chắn là bắt được giặc Ánh. Ngươi mau mời vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và Vũ Văn Dũng đến bàn việc quốc gia.
Vũ Tâm Can bàn rằng:
- Vợ con Lê Trung còn ở trong tay Nguyễn Phúc Ánh. Nếu Lê Trung bày kế ấy hoá ra hại chết vợ con mình sao? Theo hạ thần còn có điều đáng ngờ!
Cảnh Thịnh giật mình hỏi:
- Hay là Lê Trung lập kế gạt ta đem quân vào cho Nguyễn Phúc Ánh vây đánh. Theo ngươi nên bảo cho Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cũng bàn bạc chăng?
Can đáp:
- Không nên! Lúc trước Bệ hạ sai Trần Quang Diệu giết Vũ Văn Dũng và Đặng Văn Long. Diệu không nghe lại báo cho Long và Dũng biết. Dũng coi thường Bệ hạ mới dám giết Thái sư. Nếu hai người này nghe tin ấy không suy xét cặn kẻ vội tin lời Lê Trung hoá ra đem quân ta vào chỗ chết hay sao. Theo hạ thần chưa nên báo cho Diệu và Dũng hay.
Cảnh thỉnh gật gù hỏi:
- Lời người thật hữu lý, vậy phải làm sao phân tỏ thực hư?
Can đáp:
- Hạ thần xin sai người vào Quy Nhơn dò xét xem sao rồi sẽ liệu.
Vua Cảnh Thịnh chuẩn tấu. Vũ Tâm Can về nhà thưa chuyện cùng mẹ. Vũ mẫu bảo:
- Nếu Nguyễn vương mất rồi thì sao ta có thể phá nát cả nghiệp nhà Tây Sơn báo thù cho cha con.
Can hỏi:
- Vì lẽ ấy con mới cần Quang Toản chớ tin lời Lê Trung. Theo mẹ giờ phải làm sao?
Vụ mẫu đáp:
- Ta phải cứu Nguyễn vương!
Vũ Tâm Can liền viết mật thư sai người tin cẩn vào Diên Khánh trao cho Nguyễn vương. Nguyễn vương xem xong kinh ngạc nói:
- Lần này nếu không có Vũ Tâm Can báo tin ắt ta đã lầm kể Lê Trung. Vũ Tâm Can và ta không ơn nghĩa với nhau sao hắn lại giúp ta?
Đặng Đức Siêu bước ra thưa:
- Khi Nguyễn Nhạc dấy loạn ở Tây Sơn, cha Vũ Tam Can là Vụ Tất Thận hiệu Huyền Khê đem hết gia đình của cải theo giúp. Sau Huyền Khẻ vì phạm luật quân bị Nguyễn Nhạc xử tội chết. Từ đó về sau Vũ Tâm Can oán hận anh em Nhạc, Huệ quyết chí báo thù. Có lẽ vì thế mà Can mới cứu Thượng vương chăng.
Nguyễn vương thở pháo nói:
- Ấy thật là trời đã bày ra chuyện Huyền Khẻ bị giết mà giúp cho ta diệt nhà Tây Sơn vậy.
Đoạn Nguyễn vương giận đã vỗ án quát:
- Lê Trung trao trở. Quân bay đem vợ con nó ra chém hết cho ta!
Bằng Đức Siêu can:
- Xin Thượng vương bớt giận. Ta dùng thượng sách dụ Lê Trung dâng thành hàng không được thì ta dùng trung sách.
Nguyễn vương hỏi:
- Thế nào là trung sách?
Siêu đáp:
- Xui Cảnh Thịnh giết Lê Trung là trung sách.
Rồi Siêu kề tai Nguyễn Vương nói nhỏ. Nghe xong Nguyễn vương khen:
- Tuy là trung sách những vẫn là diệu kế vậy.
***
Ngày ấy nơi ngự điện tại kinh thành Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh đang xăm soi con gà sắc lông đen tuyền. Vua ra chiều thích thú bảo tên thái giám rằng:
- Con gà của ta mỗi khi gáy đều nhảy lên cành hoặc tường cao, không bảo giờ đứng dưới đất mà gáy. Trong sách tướng gà gọi đó là thần kê, chọi nhau không bao giờ chiến bại.
Tên thái giám nói:
- Thần nghe nói có một người dân nuôi gà hay có tiếng. Người ấy có một con gà mỗi khi ngủ đều nằm nghiêng một bên. Nghe đồn cũng không hề chiến bại.
Vua Cảnh Thịnh cả mắng bảo:
- Con gà ấy trong sách tướng gà gọi là tử mị kê đều là gà quý. Ngươi hãy lấy trăm lặng vàng đi rước con gà ấy về đây cho ta.
Tên thái giám vâng lệnh đi ngay. Vừa lúc ấy quân vào bẩm rằng:
- Tâu Bệ hạ, có một người xưng là quân dưới trướng của Lê Trung xin vào bẩm báo điều cơ mật.
Cảnh Thịnh liền truyền vào bảo:
- Ngươi là ai, bảo điều cơ mật gì?
Người ấy đáp:
- Thần là quân dưới trướng của Lê Trung, hay tin Lê Trung muốn cùng Nguyễn Bảo toan dâng thành đầu hàng Phúc Ánh. Thần vội ngày đêm về báo cùng Bệ hạ.
Cảnh Thịnh giật mình hỏi:
- Ngươi có bằng chứng gì chăng.
Tên quân đáp:
- Có thư do chính tay Lê Trung viết trao Phúc Ánh đi xin hàng. Kính trình Bệ hạ duyệt lãm.
Cảnh Thịnh xem rồi, trao thư cho Vũ Tâm Can. Đọc xong Can hỏi:
- Lê Trung trước là tay chân của Nguyễn Nhạc. Nay vợ con bị Phúc Ánh bắt nên mới mưu cùng Nguyễn Bảo hàng giặc. Vậy Bệ hạ tính thế nào?
Vừa lúc ấy tên thái giám mua con gà tử mị kê về đến, Cảnh Thịnh liền đem con thần kê ra cho hai gà đá nhau. Đã một hồi bắt phân thắng bại, bỗng con thần kê quay đầu chạy, Cảnh Thịnh vỗ tay bảo:
- Con thần kê giả thua dụ địch đuổi theo để đá đồn Hồi mã thương ấy mà.
Bỗng Vũ Tâm Can xen vào hỏi:
- Con việc Lê Trung, Bệ hạ tính thế nào.
Lúc ấy con thần kê cứ giả thua chạy mãi mà con tử mị kê đuổi cầm chừng chẳng chịu theo sát, thành ra con thần kê không đá được đòn Hồi mã thượng. Thấy vậy Cảnh Thịnh bảo:
- Gọi về. Gọi về nữa!
Can nghe vậy đáp:
- Thưa vâng.
Rồi lấy bút nghiên viết chiếu chỉ, lấy ngọc tỷ ấn đóng dấu triện rồi sai sứ vào Quy Nhơn gọi Lê Trung. Trung nhận được chiếu chỉ triệu hồi kinh bên bảo Lê Chất rằng:
- Nay cha phải về kinh phục mệnh vua. Con phải thay cha canh phòng cẩn mật các nói hiểm yếu không được sơ ý.
Lê Chất dò hỏi:
- Cha xin vua xuất quân để giả hàng dụ Phúc Ánh vào thành mà bắt. Sao vua không xuất quân lại gọi chạy về kinh?
Trung đáp:
- Có thể vua còn ngờ ta nên gọi ta về rồi mới xuất quân chăng.
Chất nói:
- Hoàng thượng tuổi còn nhỏ lại chẳng phải minh quân, cha nên khá đề phòng mới được.
Trung thở dài bảo:
- Ta phải về để tỏ lòng trung, việc phúc hoạ phó thác cho trời chứ đề phòng thế nào được!
Nói đoạn Lê Trung lên ngựa trực chỉ Phú Xuân.
Hôm ấy vua Cảnh Thịnh đang xem hai con thần kê và tử mị kê đá nhau. Con thần kê lại quay lưng bỏ chạy. Cảnh Thịnh bàn rằng:
- Hôm trước con thần kẻ giả thua dùng đòn Hồi mã thượng quay lại mà đã, may thay con tử mị kê ngã nghiêng mình tránh khỏi. Nay con thần kê giả thua vừa chạy vừa dẫm chân liên hồi, ắt sắp sửa đá đòn song long giáng hải. Không biết con tử mị kê sẽ chống đỡ thế nào?
Bỗng Vũ Tâm Can vào thưa rằng:
- Tâu Bệ hạ, Lê Trung đã đến đang quỳ trước sân rồng xin phục mệnh.
Vua lúc ấy con thần kê vùng tung người lên cao uốn một vòng từ trên cao chém hai chân xuống lưng con tử mị kê. Vua Cảnh Thịnh thấy vậy la lên rằng:
- Chém!
Họ vừa dứt lời hai cựa của con thần kê đá vào lưng con tử mị kê. Tử mị kê bị đòn độc tránh không được thủng phổi chết tươi.
Vũ Tâm Can nghe vua hô chém bên quay ra thét:
- Võ sĩ đâu! Hoàng thượng ra lệnh đem Lê Trung ra chém tức thì!
Võ sĩ đem đâu Lê Trung dâng trước thềm rồng. Cảnh Thịnh đang ôm con tử mị kê vào lòng mếu máo khóc than:
- Tuy rằng nó không bằng con thần kê thật nhưng cũng là gà quý. Thật đang tiếc thay! Mau đem đi chôn!
Quân sĩ nghe lệnh liền đem đầu Lê Trung và xác con tử mị kê ra ngoài.
***
Nói về Lê Chất ở thành Quy Nhơn ngày đêm lên mặt thành ngó về Nam than:
- Không biết Nguyễn Phúc Ánh có tin lời hoà bình của nhạc phụ ta chăng. Và đối xử với nhạc mẫu và vợ ta như thế nào?
Than rồi lại day mắt về Bắc thở dài nói:
- Còn nhạc phụ ta về phục mệnh vua, chẳng hay lành dữ thế nào mà chưa nghe tin tức?
Than vừa dứt lời, xảy quân chạy vào báo:
- Thưa đô đốc, Lê tướng quân về triệu bị vua Cảnh Thịnh sai quân đem chém. Hiện vua đang cho quân vào bắt đô đốc. Xin đô đốc định liệu.
Nghe xong Lê Chất hét lớn một tiếng ngã lăn ra đất. Tả hữu xúm lại đỡ dậy. Chất khóc ngất rằng:
- Thương thay nhạc phụ ta một lòng trung với chủ phút chốc phải chết oan! Nếu vua em Quang Trung không sớm băng hà thì gia đình ta đâu tan nát thế này!
Tả hữu hỏi:
- Xin đô đốc gác cơn phiền muộn. Nay việc đã như vậy, đô đốc liệu thế nào?
Lê Chất gạt nước mắt bảo:
- Đã đến nước nay ta chỉ còn một con đường về đầu Nguyễn Phúc Ánh để cứu vợ ta và nhạc mẫu mà thôi.
Nói xong Lê Chất đem vài trăm quân tin cẩn xuống thuyền vượt biển vào Diên Khánh đầu hàng Nguyễn Phúc Ánh.
Gặp Nguyễn vương, Chất quỳ tâu:
- Hàng tướng Lê Chất xin ra mắt Thượng vương!
Nguyễn vương thấy Lê Chất không tỏ vẻ gì là sợ sệt, bèn quát:
- Võ sĩ lôi ra chém!
Chất điềm nhiên hỏi:
- Thần đã thuận hàng sao lại chém thần?
Nguyễn vương hỏi lại rằng:
- Chẳng phải người giả hàng làm nội ứng hay sao.
Chất đáp:
- Nhạc phụ thần bị Cảnh Thịnh giết chết lại sai quân vào Quy Nhơn bắt thần. Sao bảo thần giả hàng!
Nguyễn Vương nạt:
- Nếu người thực hàng sao không dâng thành Quy Nhơn mà vào đây hàng làm gì?
Chất đáp:
- Cảnh Thịnh sai quân vào Quy Nhơn bắt thần, thần phải lo chạy thoát thân nên không thể báo cho Thượng vương hay được.
Nguyễn vương vỗ án quát:
- Lê Chất to gan! Ta bắt được gia quyến của ngươi, thương tình không giết, gọi cha con ngươi về đầu. Ngươi định dùng kế giả hàng bắt ta, thật là đáng chết. Nay ngươi cùng đường mới đến đây cũng là bất đắc dĩ mà thôi. Quân bay lôi ra chém!
Võ sĩ xông vào bắt Lê Chất. Chất ngửa mặt cười lên mấy hồi. Nguyễn vương hỏi:
- Ngươi cười gì mãi thế?
Chất đáp:
- Thần cười Thượng vương chỉ nhớ thù nhỏ mà quên lợi lớn.
Nguyễn vương nhíu mày hỏi:
- Thế nào là lợi lớn.
Chất đáp:
- Nếu Thượng vương giết thần vì trước thần lập kế hại Thượng vương ắt tướng sĩ Tây Sơn không ở dám hàng mà quyết lòng đánh nhau với Thượng vương tới chết mà thôi. Ấy là Thượng vương đã quên lợi lớn vậy.
Nguyễn vương cười đáp:
- Ta chỉ doạ Lê Chất một tý thôi. Chất không sợ hãi quả là một đấng anh hùng. Nay ta phong người chức tướng quân cũng theo ta đánh giặc lập công chuộc tội vậy ngươi có kế gì chiếm Quy Nhơn, Phú Yên chăng.
Chất đáp:
- Dụng binh cốt ở chỗ thần tốc. Nay tướng giữ Quy Nhơn là Vũ Thanh vừa được lệnh Cảnh Thịnh vào bắt thần. Vũ Thanh là kẻ bất tài, vả lại cha con thần vừa bị hại khiến lòng người ngờ vực không yên. Thượng vương nên lập tức đem thuỷ quân ra đánh, chỉ một hồi trống là chiếm được Quy Nhơn mà thôi. Quy Nhơn mất, Phú Yên tất phải lưỡng đầu thọ địch Nguyễn Quang Huy dù có tài cũng không thể nào giữ được. Nếu để lâu ngày Trần Quang Diệu hoặc Vũ Văn Dũng vào giữ thì thần e rằng quân ta không hể thắng được.
Nguyễn vương hỏi:
- Cha con ngươi so với Diệu, Dũng thế nào.
Chất đáp:
- Cha con thần tài trị hèn kém, không thể sánh cúng Diệu, Dũng được.
Nguyễn vương liền bảo:
- Truyền lệnh ta lập tức xuất quân!
***
Mùa hạ năm Kỷ Mùi (1799) Nguyễn vương đem thuỷ quân ra đánh Quy Nhơn. Quả như lời Lê Chất nói, quân Tây Sơn không dám chống cự lui vào thành cố thủ. Quản Gia Miêu tiến lên vây thành, tướng Tây Sơn giữ thành Quy Nhơn là Vũ Thanh sợ hãi mở cửa ra hàng. Vào thành rồi Nguyễn vương vui vẻ bảo các tướng:
- Đất Quy Nhơn là nơi phát tích của giặc Tây Sơn. Thành Quy Nhơn do thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc xây nên rồi đổi tên là Hoàng đế thành. Nay ta ở bình định được Quy Nhơn, trong khiến uy danh lừng lẫy, ngoài khiến địch lo sợ hoang mang. Cả hai khôi phục đã chắc lắm rồi. Vậy để đánh dấu bước ngoặt quan trọng đó, từ nay về sau đổi tên thành Quy Nhơn là Bình Định! (Địa danh Bình Định từ ấy xuất hiện trên nước Nam).
Nói xong Nguyễn vương hỏi Lê Chất:
- Chiếm thành Bình Định công đầu là của Lê Chất. Vậy Phú Yên phải đánh thế nào?
Chất đáp:
- Thượng vương cấp cho thần năm ngàn quân thần xin theo đường núi vòng qua phía Tây ải Cù Mông vào đánh Nguyễn Quang Huy tất chiếm được Phú Yên.
Nguyễn vương hỏi:
- Có phải con đường này ngày trước Nguyễn Huệ dùng đánh Tống lão tướng quân chăng.
Chất đáp:
- Thưa chính là đường ấy.
Nguyễn vương bảo:
- Nay ta cho Lê Văn Duyệt và ngươi đem năm ngàn quân vào đánh Phú Yên.
Lê Chất và Lê Văn Duyệt bèn bảo quân sĩ thấy y phục quân Tây Sơn rồi lặng lẽ theo đường núi mà đi, đến hòn núi cao chất ngất, đá dựng lởm chởm, Lê Văn Duyệt lo ngại hỏi:
- Nếu quân Tây Sơn mai phục ở đây thì liệu thế nào.
Chất đáp:
- Đây là núi Dương An hiểm trở cao lớn nhất ở Quy Nhơn, là sào huyệt của người Thượng. Nếu là quân lạ dù thiên binh vạn mà cũng không qua được núi này.
Chất vừa dứt lời bỗng nghe tiếng quát lớn:
- Bọn người kia là ai dám qua núi này?
Lê Chất bình tĩnh đáp:
- Bọn tôi là quân của vua Trời.
Người Thượng lại hỏi:
- Quân vừa trời đi đâu đây.
Chất đáp:
- Quân Chúa Nguyễn đã chiếm mất Thanh Hoàng đế nên bọn tôi phải vào Phú Yên cũng Ngân câu Bạch Mã đô đốc Nguyễn Quang Huy. Nếu quân Chúa Nguyễn đuổi theo nhờ dân làng chặn đánh giùm cho.
Quân người Thượng thấy bọn Chất, Duyệt vận y phục quân Tây Sơn ngỡ là thật bèn cho đi.
Nói về tướng Tây Sơn trấn thủ Phú Yên là Nguyễn Quang Huy ngày đêm canh phòng cẩn mật ải Vân Phong và ải Cù Mông khiến quân Nguyễn Gia Miêu không sao đánh được. Đêm ấy bỗng nghe súng nổ ầm ầm ở phía Tây thành, Nguyễn Quang Huy còn đang ngơ ngác thì quân hớt hải vào báo rằng:
- Lê Chất về hàng Nguyễn Phúc Ánh. Chất dẫn giặc theo đường núi Dương An đánh vào phía Tây thành. Hiện giặc đã vào thành, xin tướng quân định liệu.
Quang Huy bên cầm lấy Ngàn câu lên lưng Bạch Mã ra trước trận gặp Lê Chất. Chất vòng tay thi lễ nói:
- Cháu mình mắc giáp trụ không thể giá lễ được xin chú thứ lỗi. Nay vua Tây Sơn hôn muội làm lắm điều tàn bạo trái ý trái nghịch lòng dân, cơ sụp đổ đã rõ. Xin chú hãy theo về Nguyễn vương là hơn.
Nguyễn Quang Huy nạt rằng:
- Lê Chất! Cha con ngươi viết mật thư bảo ta hết sức chặn lối Cù Mông để cha con ngươi giả hàng bắt Phúc Ánh. Không ngờ ngươi lại gạt để đánh lén ta. Ngươi thật là phường phản chủ.
Chất cúi đầu đáp:
- Bởi hôn quân không tin theo kế ấy, gọi cha chạy về triều giết đi. Cháu phải bỏ chỗ tối theo chỗ sáng chứ không có ý gạt chú. Xin chú hãy bỏ nhà Nguyễn Tây Sơn theo nhà Nguyễn Gia Miêu may ra có đường sống.
Huy giận lắm trợn mặt hỏi:
- Nhà ngươi đã quên ơn Chúa cũ.
Chất khóc ngất đáp:
- Ngủ Tử Tư chỉ nhớ thù cha.
Nguyễn Quang Huy nghe xong liền vung móc câu đánh Chất và Duyệt. Đánh một hồi liệu không thắng được, Huy liền quay ngựa chạy về hướng Bắc. Lê Văn Duyệt bảo quân:
- Mau đuổi theo giết chết Nguyễn Quang Huy.
Lê Chất vội ngăn lại bảo:
- Xin tướng quân chớ giết Nguyễn Quang Huy.
Duyệt hỏi:
- Vì sao lại can không cho ta đuổi theo giết tướng giặc.
Chất nói:
- Nguyễn Quang Huy là tướng tài của Tây Sơn này Huy chạy về hướng Bắc ắt là chạy ra cố thủ ở Cù Mông. Phía Bắc ải Cù Mông là thành Bình Định mà Chúa ta vừa chiếm được. Vậy tôi và ông đem quân vây mặt Nam ải Cù Mông rồi báo cho chúa ta đem quân vào vây mặt Bắc. Nguyễn Quang Huy cùng đường tất phải đầu hàng. Ấy chẳng phải là Chúa ta lại được thêm một viên tướng giỏi hay sao.
Biết Lê Chất muốn cứu Nguyễn Quang Huy, Lê Văn Duyệt bảo:
- Cái tài và tình của ông thật đáng khâm phục.
Nói xong Duyệt viết mật thư sai quân ra Quy Nhơn trao cho Nguyễn vương, rồi kéo quân ra vậy mặt Nam ải Cù Mông.
Nguyễn Quang Huy chạy về ải Cù Mông. Đứng trên đỉnh đeo nhìn xuống mặt Nam, mặt Bắc thấy quân Nguyễn Gia Miêu dàn trận hàng hàng lớp lớp, tả hữu lo âu hỏi:
- Địch quân đóng đầy cả sao ta phá vây được?
Nguyễn Quang Huy vùng móc câu nói:
- Ta thà chết chứ không hàng Nguyễn Phúc Ánh.
Nói đoạn Quang Huy thúc bách mà xuống đèo. Đi theo chỉ còn lại trăm quân tin cẩn. Nguyễn Quang Huy gặp địch, đánh nhau, một hồi quân sĩ đi theo đều chết cả. Huy còn lại một mình gặp tướng đánh tướng gặp quân giết quân. Ngân câu vùng ra đâm chết vài tên, thu về móc câu cắt đầu mấy mạng, suốt dọc đường hai mươi dặm Huy tả xung hữu đột như chỗ không người. Nguyễn vương đứng trên gò cao trông thấy hỏi:
- Ngươi cưỡi ngựa trắng đang đánh quân ta có phải là Nguyễn Quang Huy chăng.
Tả hữu đáp:
- Thưa phải! Quân Tây Sơn thường gọi hắn là Ngân câu Bạch mã Nguyễn đô đốc.
Nguyễn vương than rằng:
- Tướng Tây Sơn có những kẻ như Nguyễn Quang Huy, Lê Trung; nếu Cảnh Thịnh là đấng minh quân thì ta mong gì khôi phục được cơ đồ!
Đoạn Nguyễn vương quay lại bảo quân:
- Truyền lệnh ta phải bắt sống, không được bắn.
Tả hữu thưa:
- Nghe nói Nguyễn Quang Huy còn có tài bắn cung rất giỏi. Xin Thượng vương hãy khá đề phòng.
Nguyễn vương cười nói:
- Từ nơi ta đứng đến chỗ Huy xa bằng hai tầm tên thì việc gì phải ngại.
Quang Huy trông thấy Nguyễn vương liền lấy cung đeo trên lưng mà bắn một phát. Nguyễn vương không để phòng bị tên trúng nhằm bả vai. Ôm vài lao đao Nguyễn vương hỏi:
- Quang Huy bắn tên gì mà đi xa thế.
Tả hữu đáp:
- Quang Huy dùng cung sắt không ai kéo nổi, tầm tên đi xa gấp mấy cung thường.
Nguyễn vương vừa nhổ tên vừa quát:
- Bắn chết nó cho ta!
Lệnh truyền ra, quân Nguyễn Gia Miêu liền nhả đạn. Thương thay Nguyễn Quang Huy trúng đạn ngã gục trên lưng bạch mã khi vừa đến ngã ba đường vào núi Dương An! (Nay là ngã ba Diêu Trì, Quy Nhơn).
Nguyễn vương thu quân vào thành Bình Định rồi gọi ngự y đến săn sóc vết thương. Thấy Nguyễn vương đau đớn, Đặng Đức Siêu bàn rằng:
- Nay đã hết mùa gió Nồm dùng thuỷ quân bất lợi. Bộ quân ta lại khó qua khỏi đèo Thạch Tân mà đánh Quảng Ngãi. Vả lại Thượng vương đang bị thương, vậy theo thần ta nên rút đại binh về Gia Định dưỡng sức rồi sẽ liệu sau.
Nguyễn vương ôm vai nhăn nhó bảo:
- Nhưng đất Quy Nhơn là nơi phát tích của giặc Tây Sơn. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng thế nào cũng đem quân vào đánh. Sao ta có thể lui về Gia Định được.
Ngô Tùng Châu bước ra thưa:
- Thần xin tiến cử một người trấn thủ Bình định thì có thể đối địch được với Diệu, Dũng.
Nguyễn vương hỏi:
- Người ấy là ai.
Cháu đáp:
- Ấy là Hậu quân phò mã Võ Tánh.
Nguyễn vương mừng rỡ nói:
- Có đệ nhứt hùng trong Gia Định tam hùng trấn thủ Bình Định thì ta con lo gì nữa. Nhưng trước khi về Gia Định ta muốn quật mồ thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc và tổ tiên nó lên làm tơi tả mới hả dạ.
Ngô Tùng Châu can:
- Thưa Thượng vương việc ấy không nên.
Nguyễn vương nghiêm mặt bảo:
- Anh em thằng buôn trâu Nhạc, Huệ giết hại họ hàng nhà ta, khiến ta phải bảo phen nằm gai nếm mặt. Lúc đảo Côn Lôn, khi Phú Quốc, lại có lúc phải sang cày ruộng đất Tiêm La. Thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc dù quật mồ lên mà xử cũng chưa hết tội sao khanh lại bảo là không nên.
Ngô Tùng Châu đáp:
- Đành rằng Nguyễn Nhạc tội rất lớn, nhưng dù sao cũng đã chết rồi, nếu Thượng vương làm thế hoá ra ta là người không khoan dung ư? E rằng lòng người không phục thì thật là bất lợi cho Thượng vương trên con đường khôi phục cơ đồ.
Nghe xong Nguyễn vương liền vui vẻ nói:
- Lời khanh rất phải, vậy nay ta phong khanh làm hiệp trấn cùng Võ Tánh trấn thủ thành Bình Định đem nhân nghĩa chiêu an bá tánh, thủ phủ ng người.
Ngô Tùng Châu và Võ Tánh cũng lậy tạ. Nguyễn vương rút đại binh về Gia Định.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 64 Chém loạn thần, Trần Quang Diệu xuất quân. Cứu kinh đô, Vũ Văn Dũng lầm kế.
Hôm ấy ở kinh thành Phú Xuân, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang song luyện đại đao, bỗng quân vào báo:
- Hoàng thượng mời nhị vị tướng quân đến thương nghị.
Diệu và Dũng liền bỏ đao sửa soạn khăn áo vào chầu. Gặp hai tướng, vua Cảnh Thịnh nói:
- Lê Chất đã về hàng Nguyễn Phúc Ánh, dẫn giặc Gia Miêu đánh chiếm Quy Nhơn và Phú Yên. Nay trẫm vời cho mời hai khanh đến bạn xem tiến thủ thế nào.
Nghe xong Diệu, Dũng cùng giật thót người. Diệu hỏi:
- Lê Trung, Lê Chất đều là tướng trí dũng và trung nghĩa. Lê Chất hàng giặc vậy còn Lê Trung đâu?
Cảnh Thịnh đáp:
- Lê Trung làm phản, trẫm đã triệu về triều chém rồi.
Diệu thất kinh hỏi:
- Ai bảo Lê Trung làm phản?
- Khanh hãy xem thư này sẽ rõ.
Nơi xong Cảnh Thịnh trao cho Diệu hai là thư. Một của Lê Trung gửi cho Cảnh Thịnh, một Lê Trung gửi cho Phúc Ánh. Diệu đọc xong dậm chân xuống đất, ngửa mặt lên trời than rằng:
- May thay cho Phúc Ánh. Thương thay cho Lê Trung!
Đoạn Diệu chỉ mặt Cảnh Thịnh nói:
- Cơ nghiệp Tiên đế dày công gây dưng bị chính tay Bệ hạ phá tan nát vậy!
Cảnh Thịnh sợ hãi hỏi:
- Trẫm đã làm gì sao khanh nói như thế.
Diệu nén giận cao giọng rằng:
- Việc lớn như vậy tại sao Bệ hạ không cho chúng thần hay, lại âm thầm giết chết Lê Trung rồi sai người vào giết Thái tử Bảo và Lê Chất. Lê Chất hàng giặc là do Bệ hạ dạ dồn công thần vào bước đường cùng đó. Nếu Lê Trung có bụng làm phản thì cần gì phải về kinh phục mệnh cho Bệ hạ giết đi. Phải chi lúc ấy Bệ hạ sang suốt nghe lời Lê Trung và cho chúng thần hay thì đã bắt được Phúc Ánh rồi. Thật uổng cho cơ hội ngàn năm có một. Đã không phá được giặc lại giết hai trung thần - Đoạn Diệu lại gào to lên rằng - Tiên đế ơi là Tiên đế! Hãy sống lại mà coi người kế tục sự nghiệp của Tiên đế đây này!
Cảnh Thịnh thấy Diệu đau thương như vậy đâm cuống lên, Vừa lúc Bùi Thị Xuân vào tới, Cảnh Thịnh cầm tay Xuân nói:
- Trẫm đã biết lỗi! Trẫm đã biết lỗi! Chị Xuân hãy xin anh Diệu bỏ quá cho!
Diệu vẫn chưa nguôi hỏi Cảnh Thịnh rằng:
- Ai đã xui Bệ hạ giết Lê Trung.
Cảnh Thịnh đáp liền:
- Ấy chính là Vũ Tâm Can.
Diệu thét:
- Võ sĩ đâu! Lôi Vũ Tâm Can ra chém!
Võ sĩ xông vào trói Vũ Tâm Can. Không chút sợ hãi Can cười lớn mấy hồi. Diệu gằn giọng hỏi:
- Ngươi cười gì?
Can nín cười đáp:
- Ngày trước Nguyễn Nhạc giết chết cha ta. Ta tự hứa sẽ phá nát nhà Tây Sơn để trả thù. Nay dù có chết cũng không ân hận.
Diệu lại thét:
- Lôi nó ra ngoài chém làm ba khúc!
Võ sĩ lỗi Can đi rồi, Cảnh Thịnh khóc nói:
- Việc đã lỡ rồi, nay Quy Nhơn đã mất về tay giặc. Vậy các vì tướng quân tính thế nào?
Bấy giờ Trần Quang Diệu mới quỳ lạy Cảnh Thịnh, khóc nói:
- Thần mang nặng ơn sâu Tiên đế, thế tan xương nát thịt đến ơn. Chúng thần xin mang quân vào đánh quân Nguyễn Gia Miêu lấy lại Quy Nhơn, chỉ xin Bệ hả gần đấng trung thần, xa phường xu nịnh. Được như thế thần dù chết cũng cam.
Nằm Canh Thân (1800) Trần Quang Diệu lãnh bộ bình, Vũ Văn Dũng lãnh thuỷ binh cũng vào đánh Quy Nhơn.
Trước khi đi Bùi Thị Xuân hỏi Diệu rằng:
- Vợ chồng ta từ lúc theo Tiên đế tới nay trải qua trăm trận sinh tử có nhau, sao lần này chẳng không cho thiếp đi theo.
Diệu đáp:
- Nay ta và Văn Dũug phải vào Quy Nhơn đánh giặc. Các tướng Văn Lộc, Văn Tuyết, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Võ Đình Tú đều trấn thủ phương xa. Và phu nhân phải ở lại giúp vua trấn thủ kinh thành.
Bùi Thị Xuân nghẹn ngào khóc nói:
- Binh Gia Miêu thế này rất mạnh, xin chàng nên cẩn thận.
Diệu bùi ngùi bảo:
- Lúc Tiên đế còn sông quân Tây Sơn ta khi ra quân hào khí ngút trời, khi thu quân khúc khải hoàn oanh liệt. Sao này trước lúc ra trận nàng lại bịn rịn như thế?
Bùi Thị Xuân nói:
- Thiếp chẳng phải sợ giặc, chỉ vì nghe câu hát vừa rồi của bá tánh mà khóc đó thôi.
Diệu hỏi:
- Câu hát thế nào mà khiến nàng phải ưu phiền như vậy.
Xuân giật mình nói:
- Chàng hãy nghe đi, có người hát câu ấy từ xa theo gió thoảng đến kia.
Trần Quang Diệu lắng nghe tiếng hát rằng:

Lậy trời cho chóng gió Nồm
Cho thuyền Chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra!

Nghe xong Diệu than rằng:
- Nay thiên thời, địa lợi, nhân hoà đều mất cả, nhưng phận ta làm tướng phải chết giữa sa trường chặn giặc.
Nói rồi Quang Diệu từ biệt vợ ra đi.
***
Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ thành Bình Định, ngày ấy nghe quân do thám về báo:
- Thưa tướng quân, tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu đem năm vạn bộ binh và Vũ Văn Dũng để năm vạn thuỷ binh cùng tiến vào đánh Bình Định. Xin tướng quân định liệu.
Ngô Tùng Châu bàn rằng:
- Quân ta ở Bình Định chỉ có hai vạn, không thể ra ngoài thành đối địch cùng giặc Tây Sơn. Vậy ta nên ở trong thành cố thủ rồi báo tin cho Thượng vương đem quân ra tiếp viện. Khi ấy Thượng vương ở ngoài đánh vào, ta từ trong đánh ra ắt là phá được giặc.
Võ Tánh nghe lời sai người về Gia Định cấp bảo rồi đóng cửa thành cố thủ. Trần Quang Diệu đem quân tới thấy Võ Tánh không ra đánh bên hô quân công thành. Quân Tây Sơn đặt đại bác định bắn phá thành, dè đâu chưa kịp bắn đã bị đại bác quản Gia Miêu từ trên mặt thành bắn xuống, súng quân Tây Sơn vỡ cả. Trần Quang Diệu nổi giận thúc quân bắc thang leo lên phá thành, Võ Tánh hối quân bắn tên, đạn, lăn gỗ đá, đổ nước sôi xuống. Quân Tây Sơn chết rất nhiều mà không phá được thành. Trời tối, cả hai bên đều đánh trống thu quân. Trần Quang Diệu thấy quân sĩ hào nhiều đang nóng lòng bực dọc thì có quân vào bảo có Vũ Văn Dũng đem thuỷ binh vào đóng ở cửa Thị Nại. Diệu mừng rỡ cho mời Vũ Văn Dũng tới thương nghĩ. Gặp nhau Diệu nói:
- Quân Gia Miêu đóng cửa thành cố thủ, Võ Tánh lại tinh thông binh pháp, tôi đánh mãi không được. Vũ huynh có kế gì chăng?
Vũ Văn Dũng theo Trần Quang Diệu đến trước trận. Trỏ vào thành, Dũng nói:
- Thành Quy Nhơn do vua Thái Đức nhà Tây Sơn ta xây vô cùng kiên cố. Nếu quân trong thành liền chết cố thủ thỉ quân ngươi khó lòng dùng sức mà đánh thắng được.
Diệu hỏi:
- Theo Vũ huynh thế là đành bó tay sao.
Dũng đáp:
- Trần huynh lãnh bộ quân chiếm giữ các nơi hiểm yếu, tôi lãnh thuỷ quân đông giữ cửa Thị Nại đề phong Nguyễn Phúc Ánh từ Gia Định đem binh ra cứu. Ta giữ vững trận địa vây thành Quy Nhơn, lâu ngày trong thành hết lương ắt phải đầu hàng. Ấy là thượng sách.
Trần Quang Diệu hết kế đành theo cách của Vũ Văn Dũng mà làm.
Trên thành, Võ Tánh trông thấy quân Tây Sơn đào chiến hào, đắp đồn luỹ, canh phòng quanh thành, Tánh bảo Ngô Tùng Châu rằng:
- Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đánh thần không thắng nên đắp luỹ vây thành. Nếu để lâu ngày quân ta hết lương biết liệu làm sao.
Ngô Tùng Châu đáp:
- Lương trong thành con dùng được mấy tháng nữa, khi ấy Nguyễn vương đem đại binh đến Diệu Dũng ắt phải lui.
Tứ ấy về sau Võ Tánh lệnh quân thay phiên lên mặt thành canh phòng cẩn mật chờ quân cầu viện.
Nguyễn vương ở thành Gia Định nghe tin thành Bình Định bị vây liền đem mười vạn đại binh theo đường thuỷ tiến ra cứu.
Quân Gia Miêu đến cửa Thị Nại thấy chiến thuyền Tây Sơn lui vào trong đám lập thuỷ trại. Nguyễn vương hỏi các tướng rằng:
- Thuỷ binh Tây Sơn đóng ngoài biển thì dễ phá, giặc lui vào trong đầm lại đặt đại bác trên núi Phương Mai và núi Sơn Chà. Nếu thuỷ binh ta tiến vào giặc từ trên hai núi này bắn xuống e rằng bất lợi. Các tướng có kế gì phá giặc hay chăng.
Đặng Đức Siêu hiến kế:
- Vũ Văn Dũng là danh tướng của Tây Sơn. Nay cố thủ không ra đánh, ta không thể phá được giặc mà giải vây cho thành Bình Định, cứu hai tướng Võ, Ngô. Theo thần ta phải dụ giặc đem chiến thuyền ra ngoài biển rồi vây đánh ắt là bắt được Vũ Văn Dũng.
Nguyễn vương hỏi:
- Làm cách nào dụ được Vũ Văn Dũng.
Đặng Đức Siêu kề tai Nguyễn vương nói nhỏ. Nghe xong Nguyễn vương vỗ tay khen:
- Đặng tiên sinh thật đáng sánh bằng Quản, Nhạc vậy.
Đoạn Nguyễn vương hạ lệnh:
- Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Trương lãnh năm vạn đại binh và năm trăm đại thuyền nấp ở đất Thanh Châu Dự chờ Vũ Văn Dũng đem thuỷ binh ra khỏi cửa Thị Nại lập tức đốt lửa báo hiệu rồi đánh vào sau lưng địch không cho chúng chạy vào trong đầm Thị Nại.
Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Trương bước ra lãnh lệnh.
Nguyễn vương lại hạ lệnh:
- Truyền lệnh ta, ba quân tướng sĩ nhổ neo nhà hướng Bắc trực chỉ.
***
Vũ Văn Dũng đông đại bản doanh bên đầm Thị Nại nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân, thuỷ binh Gia Miêu thấy quân ta canh phòng Thị Nại nghiêm ngặt nên không tiến đánh, lại giong buồm tháng ra hướng Bắc, chẳng hiểu là đi đâu.
Vũ Văn Dũng đang nằm vùng ngồi bật dậy bảo:
- Truyền lệnh ta lập tức nhỏ neo đuổi theo Phúc Ánh.
Tả hữu ngạc nhiên hỏi:
- Quân Nguyễn Phúc Ánh đi đâu mà tướng quân vội vã đuổi theo như thế?
Dũng đáp:
- Kinh thành Phú Xuân ít quân lại chỉ có một mình Bùi Thị Xuân trấn giữ, nếu Nguyễn Phước Ánh đem quân ra đánh Phú Xuân thì nguy.
Đoạn Dũng vừa mắc giáp vừa gọi tên quân đến bảo:
- Ngươi mau đến doanh trại tướng Trần Quang Diệu báo cho ông ấy biết rằng ta đã đem thuỷ quân về cứu kinh đô.
Nói rồi Vũ Văn Dũng xuống thuyền dẫn đầu thuỷ binh đuổi theo quân Gia Miêu. Quân Tây Sơn vừa qua khỏi đảo Thanh Châu Dự (Cù Lao Xanh) nhìn ra hướng Bắc thấy thấp thoáng thuyền quân Nguyễn từ xa, Dũng hỏi quân:
- Mau phụ buồm chèo gấp.
Hai đoàn thuyền đi ngược chiều chẳng mấy chốc gặp nhau. Vũ Văn Dũng ngạc nhiên hỏi:
- Thuyền giặc sao không đi ra mà lại quay ngược về phía quân ta. Ba quân chuẩn bị chiến đấu.
Dũng vừa dứt lời bỗng nghe súng nổ ầm ầm, tiếng quân reo inh ỏi phía sau lưng quân mình. Quân chạy đến bảo:
- Thưa tướng quân thuỷ binh giặc do Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Trương kéo ra chắn mất lối vào đầm Thị Nại.
Dũng thất kinh bấm bụng than thầm:
- Thôi ta đã trúng kế điệu hổ ly sơn của Nguyễn Phúc Ánh rồi!
Đoạn Dũng hạ lệnh:
- Quân sĩ không được hỗn loạn, mau phá vây chạy vào đầm Thị Nại.
Rồi Dũng quay thuyền đi trước, gặp đâu đánh đó, quân Tây Sơn theo chủ tướng chống trả dũng mãnh. Đánh một hồi vẫn chưa phá được vòng vây. Trong cơn nguy khốn bỗng một đoàn thuyền Tây Sơn từ trong đầm Thị Nại kéo ra đánh vào phía sau quân Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Trương. Quân Tây Sơn phá được vòng vây cứu Vũ Văn Dũng chạy vào trong đầm Thị Nại. Quân Nguyễn Gia Miêu hăng hái đuổi theo. Văn Dũng vào tới núi Phương Mai liền ghế thuyền vào bờ chạy lên trên núi. Đến nơi Dũng phất cờ làm hiệu, đại bác trên núi Phương Mai ầm ầm bắn xuống. Thuyền quân Nguyễn đắm vỡ rất nhiều, lại phải lui ra.
Lui được quân Nguyễn xong, Văn Dũng mới sực nhờ quay lại hỏi tả hữu:
- Người vừa cứu ta là ai vậy? Bỗng có tiếng trả lời rằng:
- Tôi tên Trần Hữu, là tuỳ tướng của thượng tướng Trần Quang Diệu. Ngươi sai tôi đem thuyền đi cứu tướng quân.
Dũng hỏi Hữu:
- Sao Trần tướng quân biết ta lâm nạn mà sai người đến cứu.
Trần Hữu đáp:
- Trần tướng quân bảo tôi đem thuỷ binh ra cửa Thị Nại, khí thấy khói bốc lên trên đảo Thanh Châu Dự là tướng quân bị vay ngoài biển, phải lập tức đem quân đến cứu.
Vũ Văn Dũng than:
- Trần huynh đã ba phen cứu mạng ta, ơn này biết lấy chi trả đặng. Xét về tài trí ta hãy còn thua Trần huynh một bức vậy. Ngươi hãy về thưa cũng Trần tướng quân rằng ta cám ơn cứu mạng. Và bảo với ông ấy Vũ Văn Dũng tuy thua trận nhưng ta còn đây thì quân Gia Miêu không thể nào vào được cửa Thị Nại.
Trần Hữu vâng lời về đại bản doanh của Trần Quang Diệu thuật lại lời Văn Dũng. Nghe xong Diệu bảo:
- Vũ huynh có công giết chú vợ ta là Bùi Đắc Tuyên, quyết đập đầu can ngăn vua mà không bỏ đi như Đặng Văn Long, sợ vua lâm nguy mà vội vã kéo quân về cứu, chưa kịp suy tính thiệt hơn nên mới lầm mưu của Nguyễn Phúc Ánh, Vũ huynh tài nào có kém ta, ông ấy thua trận này vì tính của ông ấy quá nhẹ mà thôi! Nếu ta có cái nhiệt tình như Vũ huynh thì ta đã giết chú vợ ta từ lâu rồi, xét về điểm nay ta có thua xa Vũ huynh vậy!

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 65 Cảnh Thịnh cắt áo bào chạy trước. Lê Chất đánh trống đuổi người xưa.
Nguyễn vương vào cửa Thị Nại không được bèn thu quân về đóng ở đảo Thanh Châu Dự.
Họp các tướng, Nguyễn vương nói:
- Nếu trận thuỷ chiến ở biển Quy Nhơn ta trừ được Vũ Văn Dũng tất phá vây cứu Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở thành Bình Định. Nay Văn Dũng cố thủ cửa Thị Nại thuỷ binh ta không sao vào được, vậy ở có kế gì phá giặc hay chăng?
Đặng Đức Siêu bước ra thưa:
- Thần có một kế có thể sớm tiêu diệt được nhà Tây Sơn.
Nguyễn vương hỏi:
- Kế ấy thế nào.
Đức Siêu đáp:
- Nay Trần Quang Diệu về Vũ Văn Dũng đã đem phần lớn lực lượng quân Tây Sơn vào vây thành Bình Định. Ở Phú Xuân chỉ còn một mình Bùi Thị Xuân trấn giữ, vậy ta nhân lúc này kéo đại thuỷ binh đánh lấy Phú Xuân. Phú Xuân là kinh đô của giặc Tây Sơn, nếu kinh đô mất quân Tây Sơn khắp nơi sẽ hoảng loạn thì lo gì không diệt được chúng.
Nguyễn vương suy nghĩ giây lâu rồi bảo:
- Kế này hay. Nhưng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu bị vây đã lâu, e rằng không còn cầm cự được đến khi ta cho quân vào cữu.
Siêu nói:
- Kế này gọi là "thí xe bắt tướng". Nếu quả vậy thì đành hy sinh Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Nguyễn vương lắc đầu bảo:
- Võ, Ngô theo phò ta từ lúc con long đong, nay đứng nhìn hai tướng bị nguy lòng ta sao nỡ:
Siêu lại thưa:
- Nhưng phá quân Diệu, Dũng giải vây thành Bình Định thì không phá nổi. Nay chỉ còn một cách ấy mà thôi. Xin Thượng vương minh xét, chờ bỏ qua cơ hôi này.
Nguyễn vương gạt nước mắt bảo:
- Truyền lệnh ta, toàn quân lập tức nhổ neo thừa gió Nồm xuôi thuyền tiến đánh Phú Xuân.
***
Thành Phú Xuân vào lúc nữa đêm, bỗng nghe súng nổ ầm ầm ở cửa Đông. Cửa thành vỡ toang, quân Nguyễn Gia Miêu reo hò xông vào. May thay lúc ấy nữ tướng Bùi Thị Xuân cưỡi voi một ngà dẫn toán nữ binh tuần phông gần nơi ấy. Xuân bên tuốt song kiếm thúc voi đến chặn ngang giữa cổng. Quân Nguyễn Gia Miêu xông lên, người nào gần thì bị voi quật, xa thì bị Xuân bắn tên chết cả nên không sao vào được trong thành.
Nguyễn vương đứng ngoài thành trông thấy hỏi Lê Chất rằng:
- Con nữ tặc ấy có phải là Bùi Thị Xuân chăng?
Lê Chất đáp:
- Ấy chính là Bùi Thị Xuân.
Nguyễn vương nghiến rằng bảo:
- Con nữ tặc này quả nhiên liều lĩnh lại võ nghệ hơn người. Nay nó đã dẫn quân chặn cửa thành quân ta không vào được. Truyền quân bắc thang leo lên mặt thành mà đánh, bắt được nó ta phải đem lóc thịt chặt xương thì mới hả giận.
Quân Gia Miêu tuân lệnh công thành. Bùi Thị Xuân vừa đánh vừa trông lên mặt thành thấy quân mình nao núng, bèn quay sang bảo người tuỳ tướng là Bùi Thị Cúc rằng:
- Em hãy đến Hoàng cung vời cho được Hoàng thượng lên mặt thành khích lệ ba quân. Nếu không kinh thành e khó giữ.
Bùi Thị Cúc vâng lệnh đi ngay. Vua Cảnh Thịnh theo Thị Cúc ra trước trận. Quân Tây Sơn trông thấy hô vang:
- Hoàng thượng ngự giá thân chinh, anh em quyết lòng giết giặc.
Quân Tây Sơn lại đánh lui quân Gia Miêu. Nguyễn vương thấy vậy tức giận quát:
- Đại bác bắn trước, bộ binh tiến sau, trận này không chiếm lại kinh đô thì con đợi bao giờ nữa.
Quân Gia Miêu lại hò hét xông lên, đạn bay tới tấp. Vua Cảnh Thịnh thấy địch quân thế mạnh, trong lòng nao núng muốn lui. Bùi Thị Xuân lúc ấy đã bảo quân đóng được cổng thành, Xuân bên nhảy lên mặt thành níu lấy vạt áo bảo vua Cảnh Thịnh nói:
- Xin Bệ hạ can đảm lên, đánh đến sáng ta sẽ có quân cầu viện. Nếu Bệ hạ chạy, quân sẽ nao lòng kinh thành sẽ mất.
Vua Cảnh Thịnh nghe lời Xuân vừa quay lại, bỗng viên đạn đại bác rơi bên cạnh vỡ mất mấy viên gạch. Cảnh Thịnh dậm chân toan chạy, Bùi Thị Xuân lại kéo vạt áo bảo vua van xin:
- Bệ hạ hay bình tâm đứng sau lưng thần. Nếu thần chết đi, Bệ hạ có chạy cũng chẳng muộn nào!
Xuân vừa dứt lời, vài viên đạn đại bác nữa bay lên. Vua Cảnh Thịnh bây giờ không còn hồn vía nào, quay lưng bỏ chạy. Thị Xuân nắm vạt áo kéo lại. Cảnh Thịnh rút gươm cắt vạt áo bào thoát khỏi tay Thị Xuân, cắm cổ mà chạy.
Quân Tây Sơn đang hăng hái chiến đấu thấy vua mình bỏ chạy, rùng rùng chạy theo. Bùi Thị Xuân không can được ngửa mặt lên trời khóc rằng:
- Tiên đế ơi là Tiên đế. Than rồi dẫn nữ binh chạy theo hộ vệ vua ra cửa Bắc thành. Quân Gia Miêu toàn thắng! Dẫn quân vào thành rồi Nguyễn vương hỏi:
- Quân ta không được nghỉ ngơi, phải thừa thắng tiến lên. Vậy ai lãnh trọng trách lãnh binh theo đường bộ vào đánh Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng cứu nguy cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu?
Tống Việt Phước, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương bước ra thưa:
- Năm xưa chính vợ chống Trần Quang Diệu ở bắn chết cha thần là Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay anh em thần xin đi lấy đầu Trần Quang Diệu trước là giải vây cho thành Bình Định sau là báo thù cha. Xin Thượng vương thuận cho.
Nguyễn vương mừng rỡ cấp binh phù cho đi, xong Nguyễn vương lại hỏi:
- Ai có thể đuổi theo truy bắt thằng con nít Cảnh Thịnh về cho ta trị tội.
Lê Chất bước ra thưa:
- Chính tên hôn quân này đã giết chết cha thần. Xin Thượng vương cho thần theo bắt nó về cho Thượng vương trị tội.
Nguyễn vương ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Được, ta cấp cho Lê Văn Duyệt và Lê Chất một đạo quân truy kích Cảnh Thịnh.
Lê Văn Duyệt và Lê Chất lãnh lệnh lập tức đi ngay. Hai tướng thúc quân theo mười dặm thì đuổi kịp vua tôi Cảnh Thịnh. Bùi Thị Xuân hỏi vua Cảnh Thịnh rằng:
- Bệ hạ hãy mau chạy về Động Hải có Đặng Xuân Phong trấn thủ tất sẽ an toàn.
Cảnh Thịnh hỏi:
- Còn nữ đô đốc thì sao.
Xuân đáp:
- Thần ở lại chặn giặc. Bệ hạ hãy kíp lẹ.
Nói xong Bùi Thị Xuân lại lên voi, vùng song kiếm lao vào phía quân Nguyễn Gia Miêu. Lê Văn Duyệt thấy Bùi Thị Xuân ít quân liền bảo Lê Chất:
- Tôi lãnh một cánh quân vây đánh Bùi Thị Xuân. Ông lãnh một cánh quân đuổi theo vua Tây Sơn. Nếu chậm trễ hắn sẽ chạy thoát.
Lê Chất mừng rỡ nói:
- Cám ơn tướng quân phen này chắc rằng tôi báo được thù cha.
Nói rồi dẫn quân đuổi theo vua Tây Sơn, còn Lê Văn Duyệt thúc quân vây Bùi Thị Xuân vào giữa. Bùi Thị Cúc hỏi Xuân rằng:
- Đô đốc chị ơi! Nay trên đường lý ra Bắc nơi nào cũng có quân Nguyễn Gia Miêu, vậy ta nên phá vây chạy về hướng nào?
Xuân chống kiếm lau mồ hôi đáp:
- Phá vây chạy về hướng Tây theo đường thượng đạo vào Quy Nhơn với chồng ta là Trần Quang Diệu rồi sẽ liệu sau.
Cúc hỏi:
- Con Lê Chất đang đuổi theo vua ta rất ngặt. Vậy phải làm sao.
Xuân đáp:
- Lê Trung, Lê Chất là người trung nghĩa. Lê Chất bất đắc dĩ mới hàng Phúc Ánh, chứ chưa hẳn đã quên ơn Tiên đế. Lúc này ta chỉ thấy một mình Lê Chất đuổi theo ắt là Chúa ta thoát được về Động Hải với Đặng Xuân Phong.
Dứt lời Bùi Thị Xuân dẫn quân nhằm hướng Tây mà phá trận. Đánh một hồi quân Tây Sơn lần lượt chết cả. Hai chị em Thị Xuân, Thị Cúc tả xung hữu đột, đi đến đâu quân Gia Miêu dạt ra đến đấy. Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Cúc thoát ra khói trận nhằm hướng Tây thúc voi mà chạy. Lê Văn Duyệt trông theo buột miệng khen:
- Tuy là cừu địch nhưng phải nhận rằng Bùi Thị Xuân thật đáng mặt anh hùng, đấng mày râu không dễ gì sánh kịp.
Đoạn Lê Văn Duyệt dẫn quân tiến theo Lê Chất.
***
Bấy giờ Lê Chất đang truy kích vua Tây Sơn. Quân đi đến đâu Chất sai quân thúc trống liền hỏi, tiếng dập dồn vang xa hàng mấy dặm. Vua Tây Sơn là Cảnh Thịnh nghe trống thúc quân của địch thì thất kinh hồn vía, quất ngựa chạy dài. Chạy đến trưa người, ngựa đều mệt, Cảnh Thịnh bảo quân đứng lại nghỉ ngơi ở ven đường, vừa mới xuống ngựa lại nghe tiếng trống của quân Nguyễn Gia Miêu, Cảnh Thịnh hoảng sợ chạy tiếp về Bắc. Trong một ngày bị trống đuổi mấy mươi lân như thế. Cảnh Thịnh lấy làm lạ hỏi:
- Tướng giặc đang đuổi theo ta là ai vậy.
Quân đáp:
- Thưa, đó là Lê Chất.
Cảnh Thịnh ứa nước mắt than:
- Thương thay Lê Chất! Thương thay Lê Chất!
Quân ngạc nhiên hỏi:
- Lê Chất dẫn quân giặc đuổi Bệ hạ, sao Bệ hạ là tiếc thương Lê Chất.
Cảnh Thịnh ngậm ngùi đáp:
- Lê Chất còn nhớ ơn nhà Tây Sơn, nên nay cứ đánh trống ầm ầm cho ta nghe mà chạy trước. Nếu Lê Chất muốn bắt ta thì việc gì phải khua chiến trong làm chi.
Quân cận vệ nghe xong nói:
- Thương thay cho Lê tướng quân.
Cảnh Thịnh bây giờ mới ôm mặt khóc rằng:
- Bởi trước kia ta ngu muội gần bọn gian nịnh, xa cách trung thần, giết oan Lê Trung nên Lê Chất cùng đường phải về hàng Phúc Ánh, khiến cơ đồ nay phải sụp đổ thế này.
Than vừa dứt lại lại nghe tiếng trống quân Gia Miêu nổi lớn. Cảnh Thịnh lên ngựa bảo:
- Mau về Động Hải cùng Đặng Xuân Phong.
Lê Chất dưới đến núi Hoành Sơn thì Lê Văn Duyệt vừa theo kịp, Lê Chất bảo Duyệt:
- Núi Hoành Sơn này tức gọi là đeo Ngang, thế núi hiểm trở chỉ có một đường độc đạo mà đi. Đăng Xuân Phong đóng quân trên đèo ta khó bề tiến được chi bằng hãy lập trại dưới đèo rồi báo cho Thượng vương đem đại binh ra đánh là hơn.
Lê Văn Duyệt khen phải bên đóng quân dưới núi Hoành Sơn.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 66 Bát giác lầu, Võ Tánh tự thiêu. Bức Tử Cốc, Tống Viết Phước bị đốt
Khi ấy thành Bình Định bị quân Tây Sơn vậy khốn. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu chờ mãi không thấy quân cầu viện. Đang lúc lo âu chợt võ sĩ dẫn một tên quân vào báo:
- Thưa tướng quân, tên lính này vừa ra khỏi trại cướp của dân, quân binh bắt được trình tướng quân xử tội.
Võ Tánh vỗ án đáp:
- Quân lệnh của ta là xâm phạm của dân phải tội bêu đầu ngươi đã biết chưa?
Tên lính quỳ lạy đáp:
- Thưa tôi có biết.
Tánh hỏi:
- Thế sao còn cướp bóc của dân.
Tên lính khóc đáp:
- Thưa tướng quân, lương trong thành hết sạch mấy ngày nay, quân ta phải làm thịt ngựa mà ăn.
Nay ngựa đã hết chúng tôi đói không chịu được nên bất đắc dĩ mới ra ngoài cướp của dân tìm cái ăn lót dạ. Xin tướng quân thương tình tha mạng.
Võ Tánh sai võ sĩ mở trói tha cho tên lính. Tuỳ tướng Võ Văn Lượng hỏi:
- Nếu không thi hành quân lệnh thì còn đâu quân kỷ. E trong quân loạn mất, thưa tướng quân.
Tánh bảo:
- Để quân đội khát là tội của ta.
Nói rồi Tánh đi xem xét quân tình. Quân sĩ trông thấy chủ tướng bèn xúm lại kêu khóc rằng:
- Tướng quân ơi! Chúng tôi không còn hơi sức để chiến đấu nữa, xin tướng quân tìm kế để thoát thân.
Nhìn quân sĩ lớp chết, lớp kiệt sức nằm ngổn ngang, Tánh ứa nước mắt nói:
- Các ngươi chớ lo, ta đã có kế, ngày mai các người sẽ được cơm gạo mà ăn.
Đoạn Võ Tánh quay gót về dinh rồi bảo Võ Văn Lương.
- Ngươi hãy sai quân đem củi khô chất quanh lầu Bát Giác, rồi đổ thuốc súng vào củi khô chờ lệnh của ta.
Võ Văn Lượng ngạc nhiên hỏi:
- Tướng quân định làm gì vậy?
Tánh đáp:
- Ấy là kế của ta cứu được van quân sĩ. Hãy lập tức thi hành không được hỏi lôi thôi.
Võ Văn Lượng vừa đi thi Ngô Tùng Châu đến hỏi Tánh:
- Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cảnh phong cẩn mật, Thượng vương không giải vây được cho ta. Tình thế rất nguy cấp, Võ đệ đã có kế gì chăng?
Tánh dẫn Ngô Tùng Châu ra ngoài chỉ lầu Bát Giác đã được Võ Văn Lượng cho chất đầy cúi khô, rồi nói:
- Tôi thần làm võ tướng cùng đường chỉ có kế ấy mà thôi! Diệu, Dũng đều là đáng anh hùng, Ngô huynh là quan văn ắt họ không làm hại. Vương huynh liệu mà xử sự.
Ngô Tùng Châu cười đáp:
- Tôi trung kể gì văn hay võ. Đệ có cách của đệ thì huynh cũng có cách của huynh.
Nói xong Ngô Tùng Châu đứng dậy ra về.
Hôm sau quân hầu hớt hải chạy vào báo cùng Võ Tánh rằng:
- Thưa tướng quân, hôm qua quan Hiệp trấn Ngô đại nhân về đến nhà đã uống thuốc độc mà chết rồi.
Võ Tánh thở dài nói:
- Ngô huynh đã đi trước ta rồi. Quân bay mau để thư này gửi cho Trần Quang Diệu.
Quân lãnh thư đi xong. Võ Tánh lại bảo:
- Võ Văn Lượng mau lên mặt thành kéo cờ trắng xin hàng!
Văn Lượng bịn rịn một hồi rồi mới tuân lệnh mà đi. Võ Tánh cấm một cây đuốc leo lên lầu Bát Giác. Đến nơi, Tánh ngồi ngay ngắn giữa lầu rồi quang cây đuốc đang cháy xuống lầu. Cây được rơi vào đống củi khô đã được rắc thuốc súng. Bát Giác lầu bùng cháy. Võ Tánh vẫn ngồi bất động trong ngọn lửa. Đến lúc Võ Tánh ngã ra, Bát Giác lầu sụp đổ!
Võ Văn Lượng trèo cờ trắng, trở về trông thấy cảnh ấy hét lên một tiếng rồi lao vào đống lửa chết theo chủ tướng. Quân Gia Miêu mở cổng thành lũ lượt ra hàng. Trần Quang Diệu kéo quân vào thành sai người mai táng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu theo lễ công hầu. Diệu lại lệnh quân phát lương thực cho hàng binh Gia Miêu.
Hôm sau, Diệu tập hợp một vạn hàng binh ở bãi cát bên cửa Thị Nại. Quân Gia Miêu thấy vậy khóc rống lên:
- Tướng Tây Sơn chắc là muốn giết bọn ta rồi lùa xác xuống biển mới đưa ta ra bãi cát này chứ gì.
Trần Quang Diệu đứng trên núi Sơn Chà nói vọng xuống rằng:
- Tướng quân Võ Tánh xin ta tha chết cho các ngươi. Nay ta đem các ngươi đến đây cấp cho thuyền bè, ai muốn về quê quán làm ăn hoặc theo Nguyễn vương Phúc Ánh đánh ta là tuỳ các ngươi.
Hàng binh Gia Miêu cũng quỳ lạy Quang Diệu đồng thanh nói:
- Xin đáp ơn tướng quân mở lượng hiếu sinh.
Lạy rồi bước xuống thuyền mà đi. Tả hữu hỏi Diệu:
- Bọn chúng không theo Tây Sơn ta thì nên giết đi. sao tướng quân lại thả chúng để sau này chúng lại đánh ta?
Diệu đáp:
- Họ không theo ta là do nhà Tây Sơn ta đã mất lòng dân. Nếu giết họ thi lại càng mất lòng dân hơn nữa. Được thua là ở lòng trời, sinh linh có tội tình gì ta nỡ đâu giết hại.
Diệu vừa dứt lại quân hớt hải đến báo rằng:
- Thưa tướng quân, nguy rồi, nguy rồi:
Diệu hỏi:
- Có việc gì hay bình tĩnh mà nói, đừng cuống lê như thế.
Tên quân đáp:
- Nguyễn Phúc Ánh đem đại thuỷ binh ra đánh Phú Xuân. Kinh thành thất thủ, nữ đô đốc Bùi phu nhân đã đem vua chạy về cùng Đặng Xuân Phong cổ thủ Động Hải. Xin tướng quân định liệu.
Trần Quang Diệu bảo:
- Hay mau đi mời tướng quân Vũ Văn Dũng để thương nghị.
Vũ Văn Dũng đến, Diệu nói:
- Vũ huynh hãy lãnh một đạo binh trấn thủ Quy Nhơn. Diệu tôi đem binh theo đường đại lộ qua Quảng Ngãi, Quảng Nam đánh chiếm lại kinh thành.
Vũ Văn Dũng khóc nói:
- Xưa còn Tiên đế đại sư huynh, quân ta hào khí hăng hái bao nhiêu thì nay nhuệ khí giảm sút bao nhiêu. Trần huynh đi nên thận trọng. Việc Quy Nhơn Trần huynh chớ lo. Văn Dũng còn, thành còn, và Dũng mất, thành mất!
Trần Quang Diệu bùi ngùi chia tay Vũ Văn Dũng rồi kéo quân đi.
Quân Diệu đi đến chân núi Thạch Tân (đèo Bình Đê) quân thám mã về báo rằng:
- Thưa tướng quân, tướng Gia Miêu là Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương và Tống Viết Phước đã chiếm Quảng Nam, Quảng Ngãi rồi đem quân chiếm đóng ải Thạch Tân.
Diệu thất kinh hỏi:
- Giặc sao chiếm được Quảng Nam, Quảng Ngãi nhanh thế?
Quân do thám đáp:
- Quân ta ở Quảng Nam, Quảng Ngãi nghe tin quân Gia Miêu đã chiếm kinh thành Phú Xuân đều hoảng sợ. Đến lúc thấy địch quân kéo vào liền ở chạy, chưa đánh đã tan.
Diệu liền bảo:
- Truyền lệnh ta lui về cách núi Thạch Tân năm dặm hạ trại.
Nói về ba anh em họ Tống tiến vào đến. núi Thạch Tân nghe quân do thám vệ bảo:
- Trần Quang Diệu đã chiếm thành Bình Định tướng quân Võ Tánh tự thiêu, mưu sĩ Ngô Tùng Châu uống thuốc độc mà chết. Hiện Diệu đã đem quân ra đóng dưới núi Thạch Tân.
Tống Việt Phước bàn rằng:
- Trời đã tối ta nên đóng trên ải nghỉ ngơi mai sẽ kéo quân xuống núi lấy đầu Trần Quang diệt báo thù cha.
Đêm ấy cứ khoảng một canh giờ; quân vào báo với Tống Việt Phước rằng:
- Quân Tây Sơn khoảng một trăm người bỏ Trần Quang Diệu sang hàng ta.
Phước bèn bảo quân nhốt bọn hàng binh ấy vào một nơi canh phòng cẩn mật đề phòng quân Tây Sơn giả hàng làm nội ứng.
Đến lần thứ hai quân vào bảo có quân về đầu hàng. Phước cười bảo:
- Quân Tây Sơn chưa đánh đã tan, Trần Quang Diệu phen này ắt là phải chết.
Lần thứ ba quân vào bấm:
- Trong số hàng binh có một tên quân xin vào báo điều cơ mật.
Phước liền cho vào. Tên quân vào quỳ lạy tâu:
- Tôi là quân dưới trướng của tướng quân Võ Tánh. Thành Bình Định thất thủ, Võ tướng quân tự thiêu, bọn quân lính chúng tôi vì hết lương phải xin hàng. Nay tôi lựa thời cơ bỏ Trần Quang Diệu về gặp tướng quân xin báo điều cơ mật.
Phước hỏi:
- Ngươi muốn báo việc gì?
Tên ấy đáp:
- Diệu sai quân bện rơm làm hình nộm dựng khắp doanh trại để nghi binh. Nội trong đêm nay Diệu sẽ rút quân về thành Bình Định.
Nghe xong Phước liền gọi hai anh là Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương dậy. Phước Khuông nói:
- Ta nên cẩn thận kéo lầm mưu Trần Quang Diệu. Hắn là danh tướng của Tây Sơn, đến phò mã hậu quân Võ Tánh còn phải tự thiêu mà chết thi lẽ đâu hắn lại dễ dàng bỏ chạy như vậy.
Viết Phước nóng nảy đáp:
- Lúc ấy địch chưa hay tin quân ta chiếm Phú Xuân nên con hăng hái, nay nghe tin ấy tướng sĩ Tây Sơn đều thối chí ngả lòng, nội trong một đêm chúng bỏ Diệu về hàng ta cả mấy trăm người, hắn thấy lòng quân tan rã tất phải bỏ chạy. Nếu hai anh sợ hắn, tôi sẽ một mình giết hắn báo thù cha.
Nói rồi Phước dẫn quân đi ngay. Khuông và Lương thấy em mình quyết ý và định giải hợp lý liền đem quân theo sau tiếp ứng.
Tống Việt Phước dẫn quân đến doanh trại Tây Sơn, thấy toàn là hình nhân bện bằng rơm cho mặc quần áo đội mũ cấm gậy đứng thành hàng ngũ lớp lang. Phước cười bảo tả hữu:
- Quả nhiên Diệu dùng nghi binh rồi thừa bóng đêm chạy trốn. Ta mau đuổi theo chớ cho nó chạy thoát.
Nói xong Phước lại truyền tiến quân. Đến một con đường hẻm giữa hai hòn núi, vách núi bên tả lại có một hang động, trên cửa hang có một hàng chữ lớn, dưới hàng chữ lớn lại có một câu đối nhỏ. Phước gò ngựa lại hỏi quân:
- Hay đến xem ấy là chữ gì?
Quân đi rồi quay lại thưa:
- Mấy chữ lớn ấy là "Bức tử cốc".
Phước lại hỏi:
- Còn đôi câu đối nhỏ là gì.
Tên quân ngập ngừng đáp:
- Thưa câu ấy là:

Cha thiệt mạng tại Vân Phong ải.
Con vùi thây nói "Bức tử cốc".

Nghe xong Phước giận mắng rằng:
- Thằng giặc Diệu sợ chạy vắt giò lên cổ nên bày chuyện viết câu đối doạ ta hòng dễ bề chạy trốn. Ta đâu dễ mắc lừa nó, quân mau đuổi theo!
Phước vừa dứt lời bỗng nghe một phát pháo lệnh nô vang. Quân Tây Sơn từ hai bên sườn núi băn tên xuống như mưa. Quân Gia Miêu chết gần hết. Tống Việt Phước vừa gạt tên vừa than:
- Thôi ta đã trúng kế của Trần Quang Diệu rồi. Nay trơ trọi giữa trời, giặc từ hai bên bắn xuống nhất định là phải chết.
Tả hữu khuyên:
- Thôi ta tạm lánh vào trong hang "Bức tử cốc" tránh tên, chờ hậu quân đến cứu ắt là thoát nạn.
Tống Việt Phước tiến thoái lưỡng nan đành chạy vào trong hang ẩn náu. Trần Quang Diệu đứng trên sườn núi bảo quân:
- Chúng bay đổ thuốc súng vào hang rồi phòng hoả!
Quân y lệnh mà làm. Xong việc Diệu lui quân về thành Quy Nhơn.
Nói về Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương dẫn hậu quân đến nơi thấy quân mình nằm chết ngổn ngang mà không thấy Tống Việt Phước. Gặp một tên quân con thoi thóp thở, Khuông hỏi:
- Tướng quân Tống Việt Phước ở đâu?
Tên quân đưa tay chỉ vào hang "Bức tử cốc" rồi tắt thở. Hai tướng bèn sai quân dập lửa rồi vào động tìm em. Khi đem được Phước ra khỏi động thì Phước chỉ còn là cái xác cháy đen. Khuông và Lương cùng khóc rống lên. Nhìn lên miệng hang "Bức tử cốc" thấy hai hàng câu đối:

Cha thiệt mạng tại Vân Phong ải.
Con vùi thây nói "Bức tử cốc".

Tống Phước Khuông gạt nước mắt than:
- Thừa lúc quân loạn để lập mưu dụ quân ta và chỗ chết. Anh em ta không phải là đối thủ của Trần Quang Diệu vậy.
Nói rồi truyền lệnh rút quân, đưa thi hài Tống Việt Phước về an táng tại chân núi Thạch Tân.
Nói về Trần Quang Diệu về thành Quy Nhơn bàn với Vũ Văn Dũng rằng:
- Nay từ Phú Xuân vào đến Thạch Tân đã mất về tay giặc. Thành Quy Nhơn lưỡng đầu thọ địch, vua ta chạy ra Bắc không biết thành bại thế nào. Chi bằng ta bỏ Quy Nhơn rồi đem quân theo đường Thượng đạo ra Nghệ An hợp với vua ta cự địch là hơn.
Vũ Văn Dũng buồn rầu đáp:
- Giờ chỉ còn cách ấy mà thôi!
Tháng ba năm Nhậm Tuất (1802) Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành Quy Nhơn theo đường Thượng đạo rút quân ra Bắc. Thế là một dải đất từ Đèo Ngang trở vào đều thuộc về quân Nguyễn Gia Miêu.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 67 Muốn cứu mẹ, Trần Quang Diệu ra hàng. Quyết theo vua, Vũ Văn Dũng bị bắt.
Nói về Nguyễn vương ở Phú Xuân nghe tin tướng Tây Sơn là Diệu và Dũng bỏ thành Quy Nhơn theo đường Thượng đạo rút quân ra Bắc; lắp tức cho hội bá quan văn võ, Nguyễn vương nói:
- Một dải giang sơn của nhà Nguyễn ta từ sông Linh Giang trở vào đã được khôi phục như xưa. Nay ta muốn đắp lại luỹ Trường Dục, dùng sông Linh Giang làm ranh giới không ra Bắc đánh Tây Sơn nữa. Chẳng hay ý các khanh thế nào?
Đặng Đức Siêu thất kinh bước ra thưa:
- Nay quân ta khí thế đang hăng, giặc Tây Sơn nghe hơi khiếp đảm chưa đánh đã tan. Lúc này là lúc ta nên thừa thắng kéo quân ra Bắc diệt giặc, sao Thượng vương lại định dùng sông Linh Giang là ranh giới mà bộ mất thời cơ thống nhất sơn hà!
Nguyễn vương xua tay bảo:
- Ta kéo quân ra Bắc diệt giặc Tây Sơn rồi Hoàng tộc vua Lê lại đòi đất của họ từ sông Linh Giang ra thì có phải là ta tốn công vô ích hay chăng?
Đặng Đức Siêu mỉm cười thưa:
- Hạ thần xin hiến một kế khiến cho Hoàng tộc nhà Lê không thể đòi lại đất Bắc được.
Nguyễn vương miễn cưỡng hỏi:
- Kế thế nào?
Siêu đáp:
- Nguyễn vương hãy lên ngôi Hoàng đế rồi kéo quân ra Bắc đánh giặc Tây Sơn. Vậy là ta đoạt nước trong tay nhà Tây Sơn, và Hoàng tộc nhà Lê thấy Thượng vương đã lên làm vua tất hiểu rằng là ta không có ý diệt Tây Sơn để phò Lê thì làm gì mà dám đòi lại nước.
Mỗi người đồng thanh khen:
- Đặng tiên sinh thật là cao kiến! Xin Thượng vương hãy lên ngôi Hoàng đế!
Nguyễn vương liền xua tay áo:
- Ta tại sớ đức kém sao dám lên ngôi. Việc này thật không nên.
Siêu lại tâu:
- Thượng vương quy tụ mưu thần, dùng tướng đi đến đâu giặc Tây Sơn tan đến đấy sao bảo là tại số? Hiện nay nhân dân khắp trong nước truyền từng ca hát rằng:
Lậy trời cho chóng gió Nồm.
Cho thuyền Chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra.
chứng tỏ bá tánh đều trông về Thượng vương thì sao bảo là đức kém? Xin Thượng vương trước hay lên ngôi cho an lòng tướng sĩ rồi đem quân Bắc tiến diệt Tây Sơn.
Bá quan văn võ đều quỳ xuống đồng thanh tâu:
- Xin Thượng vương hay lên ngôi cho an lòng trăm họ!
Nguyễn vương nhíu mày suy nghĩ giây lâu rồi bảo:
- Vì sự nghiệp thống nhất giang sơn ta đánh phải lên ngôi chứ thật lòng không muốn.
Các quan mừng rỡ cùng cúi lậy tung hô vạn tuế.
Tháng năm, năm Nhâm Tuất (1802) Nguyễn vương Phúc Ánh lập đàn tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế lấy đế hiệu là Gia Long đất tên nước là Việt Nam(*).
(*) Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh cử sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt, Tây Việt) nên đổi tên là Việt Nam.
Lên ngôi xong, vua Gia Long liền truyền lệnh xuất quân ra Bắc đánh Tây Sơn. Đặng Bức Siêu hỏi:
- Xưa nay các bậc thánh nhân khi lên ngôi chí tôn đều mở hội ăn mừng, đại xá thiên hạ. Hoàng thượng mới lên ngôi chúa làm việc ấy sao đã vội xuất chinh?
Vua Gia Long đáp:
- Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đã bỏ thành Bình Định kéo quân ra Bắc hợp quân với Cảnh Thịnh. Nếu để vua tôi chúng gặp nhau thì thật là bất lợi cho ta. Nên ta phải lập tức xuất quân chặn đường ra Bắc và đón bắt Diệu, Dũng. Trừ được hai tên này thì giặc Tây Sơn chưa đánh mà tan vậy.
Siêu lại hỏi:
- Đường Thượng đạo là do Trần Quang Diệu theo lối mòn của ngươi Thượng đi lại vài nhau mãi mà ra. Đường này núi non hiểm trở, người Thượng lại hết lòng giúp giặc Tây Sơn. Sao ta có thể chặn đường đó bắt Diệu, Dũng được?
Vua Gia Long cười đáp:
- Chính vậy nên mới phải lập tức xuất quân. Nếu ta chiếm được nơi này trước thì Diệu, Dũng ắt cùng đường.
Siêu lại hỏi:
- Ấy là nơi nào?
Vua Gia Long kề tai Siêu nói nhỏ. Nghe xong Siêu khen:
- Hoàng thượng liệu việc hơn người. Hạ thần xin bái phục!
Vua Gia Long liền hạ lệnh toàn quân theo hai đường thuỷ, bộ rầm rộ tiến quân ra Bắc.
Nói về tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành Quy Nhơn theo đường Thượng đạo định rút quân ra Bắc. Diệu thúc quân đi ngày đêm không nghỉ. Dũng bàn với Diệu rằng:
- Đường Thượng đạo núi non hiểm trở, quân ta lại mệt mỏi. Sao Trần huynh lại hôi quân đi gấp thế, ráng quân ta không chịu nói.
Diệu buồn bã than:
- Tôi vẫn biết vậy, những nếu quân ta đi chậm hơn Nguyễn Phúc Ánh là ta cùng đường đó.
Dũng lo lắng hỏi:
- Thế nào là chậm hơn Nguyễn Phúc Ánh?
Diệu thở dài đáp:
- Đường Thượng đạo chỉ ra đến Nghệ An là hết. Nếu Nguyễn Phúc Ánh tiến quân đánh lấy Nghệ an trước là ta không còn đường ra Bắc. Chính vì vậy mà ta phải hội quân đi mau lên mới được.
Dũng rầu rĩ bảo:
- Nhưng quân ta vừa mệt vừa đói, vả lại trời ở tối, ta nên dừng quân nghỉ ngơi mai hãy đi tiếp.
Diệu lại thở dài nói:
- E rằng ta đi chậm hơn Nguyễn Phúc Ánh mất. Nhưng đành phải thế mà thôi.
Nói xong Diệu, Dũng lệnh quân hạ trại nghỉ ngơi. Sáng hôm sau Diệu đến trại Dũng gọi:
- Vụ huynh mau dậy lên đường mau!
Diệu vừa dứt lời, quân vào báo:
- Thưa tướng quân, quân ta đói khát mệt mỏi, tinh thần rã rời, thừa đêm tối đã bỏ trốn hơn một nửa.
Dũng bảo quân:
- Ai bỏ trốn thì thôi không truy cứu làm gì. Còn lại lập tức lên đường.
Quân Tây Sơn lại trèo đèo lội suối mà đi, cực khổ trăm bề. Đi được một tháng đến vùng rừng núi thuộc đất Thuận Hoá, phía Tây kinh thành Phú Xuân, bỗng thấy hai viên nữ tướng từ hướng Bắc cưỡi voi đi đến. Vừa gặp nhau, hai người ấy liền nhảy khỏi bành voi, một người ôm lấy Diệu khóc kêu lên rằng:
- Phu quân ơi! Phu quân!
Diệu vội hỏi:
- Vua ta đâu, sao phu nhân lại đến nỗi này?
Bùi Thị Xuân gạt nước mắt đáp:
- Nguyễn Phúc Ánh đem binh tiến đánh kinh thành, thiếp có sức chống giữ. Chẳng dè vua bỏ trận mà chạy, quân hốt hoảng chạy theo. Kinh thành thất thủ. Thiếp và Bùi Thị Cúc đoạn hậu cho vua chạy ra Động Hải với Đặng Xuân Phong. Chị em thiếp bị Lê Văn Duyệt vây may mà phá vây thoát được, định theo đường Thượng đạo vào Quy Nhơn cũng phu quân và Vũ tướng quân. Nào ngờ gặp hai người ở đây...
Ngắt lời Xuân, Diệu hỏi:
- Vậy còn mẹ và con ta thế nào?
Xuân khóc lên đáp:
- Thiếp vì theo hộ giá Hoàng thượng nên không kịp đem theo mẹ và con. Hiện mẹ và con còn trong thành Phú Xuân không biết sống chết thế nào.
Trần Quang Diệu buông đao ngửa mặt lên trời than:
- Không ngờ bọn ta phải đến lúc nước mất nhà tan thế này.
Vũ Văn Dũng thở dài hỏi:
- Việc đến nước này Trần huynh, Bùi tỷ liệu tính làm sao?
Bùi Thị Xuân đáp:
- Nay ta phải gấp ra Nghệ An. Nếu để Phúc Ánh chiếm mất là ta không còn đường ra Bắc. E đại cuộc hỏng mất.
Nói đoạn ba tướng lại hối quân vượt núi băng rừng lặn lội mà đi. Lần hồi đến vùng rừng núi phía Tây Hà Trung (tính Hà Tĩnh ngày nay) Trần Quang Diệu bảo:
- Chỉ còn hơn trăm dặm nữa là đến Nghệ An. Ba quân hay cố gắng lên.
Diệu vừa dứt lời, bỗng từ trong bụi rậm một tên quân Tây Sơn chạy ra gào khóc kêu lên rằng:
- Tướng quân ơi! Tướng quân!
Dũng ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi là quân nào. Sao lại gạo khóc lên như thế?
Tên quân quỳ lạy đáp:
- Hạ thân là quân Hà Trung dưới trướng của tướng quân Đặng Xuân Bảo. Hà Trung thất thủ tướng quân Đặng Xuân Bảo vì đi đoạn hậu cho vua ta chạy thoát nên chẳng may bị quân Gia Miêu bắt. hạ thần phải chạy trốn lên rừng, may mà gặp các vị tướng quân ở đây.
Bùi Thị Xuân xen vào hỏi:
- Vậy còn Đặng Xuân Phong trấn thủ đèo Hoành Sơn ở đâu mà quân Gia Miêu có thể tiến đánh Hà Trung được?
Tổn quân đáp:
- Tướng quân Đặng Xuân Phong trấn thủ đèo Hoành Sơn, hai tướng Gia Miêu là Lê Văn Duyệt v Lê Chất không tiến lên được. Nào ngờ đêm ấy tướng quân Đặng Xuân Phong lâm bạo bệnh mà mất thình lình nên giặc mới chiếm được ải Hoành Sơn rồi thừa thắng tiến đánh Hà Trung.
Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe xong, đồng thanh thốt lên rằng:
- Thế là trời muốn tiệt nhà Tây Sơn ta rồi!
Đoạn Diệu hỏi:
- Hiện nay quân giặc đã tiến đến đâu rồi?
Tên quân đáp:
- Đã chiếm đất Nghệ An.
Diệu ngửa mặt than rằng:
- Thế là ta đã cùng đường rồi vậy!
Dũng nghiến răng bảo:
- Dù thế nào ta cũng phải tấn công chiếm là Nghệ An.
Diệu quay sang hỏi tả hữu:
- Quân ta hiện còn được bao nhiêu?
Tả hữu đáp:
- Thưa chỉ còn một vạn.
Diệu ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Giặc đã chiếm Nghệ An thì ta không còn gì ở vội vàng nữa. Truyền quân hạ trại nghỉ ngơi rồi ngày mai tiến ra đánh Nghệ An.
Sang sớm hôm sau quân tin cẩn chạy vào báo cùng Diệu, Dũng:
- Quân ta nghe giặc chiếm đất Nghệ An hoảng sợ thừa đêm tối bỏ trốn gần hết, quân sĩ còn lại có hai ngàn người.
Trần Quang Diệu bảo:
- Truyền lệnh ta lập tức điểm binh.
Quân Tây Sơn tập hợp giữa một trảng cỏ tranh. Diệu, Dũng, Xuân thấy quân mình xanh xao gầy ốm, quần áo tả tơi, giáo gươm sứt mẻ thì lòng đau như cắt. Diệu buồn rầu nói:
- Nay Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm mất Nghệ An là ta không còn đường ra Bắc theo vua, nếu đánh chiếm lại Nghệ An là điều không thể làm được. Ta nỡ đâu đưa các ngươi vào chỗ chết. Vậy nay ta giải tán quân binh, các ngươi hãy tìm đường trốn tránh về quê quán làm ăn và xin các ngươi đứng trách ta là tướng mà không bảo toàn được cho quân sĩ.
Nói đến đây Diệu ôm mặt khóc. Bùi Thị Xuân và Vũ Văn Dũng cầm lòng không được nức nở khóc theo. Hai ngàn quân Tây Sơn cũng quỳ xuống khóc lậy nói:
- Xin ba vị tướng quân bảo trọng!
Bỗng một viên tiểu tướng già bước ra gạt nước mắt rồi cầm tay Diệu, Dũng nói:
- Hạ thần theo tướng quân tứ lúc hai Tiên đế dấy nghĩa ở Tây Sơn, trước lúc chia tay xin có vài lời. Nhị vị tướng quân đem mười vạn bình vào đánh Võ Tánh và Ngô Tùng Châu chiếm lại thành Quy Nhơn, đến này quân lính bỏ trốn chỉ còn có hai ngàn người, chẳng phải quân ta vì cùng đường sợ chết bỏ tướng quân đi mà bởi vua ta nhu nhược hôn muội, gần kẻ nịnh thần làm điều tàn bạo giết hại tôi trung, khiến lòng người ly tán. Nếu chúng thần liều chết đánh lấy Nghệ An thu hồi vì chính nghĩa nào đây? Ấy chính là cái cơ diệt vong của nhà Tây Sơn ta vậy! Nay tướng quân cho chúng tôi đi, con ba vị tướng quân liệu tính thế nào?
Diệu ngẫm nghĩ đáp:
- Bọn ta giả dạng dân thường trốn ra Bắc theo vua tìm kế khôi phục.
Viên tiểu tướng già nói:
- Đã đến nước này, hạ thần e dù vua em Quang Trung sống lại cũng phải bó tay. Sao ba vị tướng quân không tìm cách giữ thân.
Dũng trợn mặt quát:
- Bọn ta là đại tướng sống chết với vua với nước. Người mau đi ngay chờ buông lời gièm xiểm, kẻo ta cho một đao rụng đầu.
Viên tiểu tướng già không hề sợ hãi, một lần nữa khóc lậy rồi bịn rịn ra đi. Diệu, Dũng, Xuân còn lại mấy tên quân tin cẩn lại dắt dìu nhau lần hồi ra Bắc.
Ngày ấy ba người ra đến Nghệ An. Diệu sai một tên quân đi do thám địch tính. Hồi lâu quân về hớt hải bảo:
- Trần tướng quân ơi. Nguy rồi!
Diệu hỏi:
.- Việc gì là nguy.
Quân đáp:
- Khắp thành Nghệ An đều dán cáo thị rằng: Vua Gia Long đã bắt được Trần mẫu và lệnh ái. Nếu Trần tướng quân và Bùi đô đốc ra hàng, vua Gia Long sẽ tha mạng cho mẹ và con, bằng không sẽ xử tội lăng trì.
Bùi Thị Xuân giật mình nói:
- Không ngờ Nguyễn Phúc Ánh bắt mẹ và con ta để gọi ta ra hàng. Phu quân ơi! Giờ phải liệu thế nào?
Diệu điềm nhiên đáp:
- Vợ chồng ta chỉ còn một cách ra hàng để cứu mẹ và con mà thôi.
Dũng trợn mắt hỏi:
- Trần huynh mong vẹn chứ hiểu, con chữ trung thì sao?
Diệu buồn rầu đáp:
- Diệu tôi đâu phải kẻ bất trung, dù có theo vua cũng đã sức cùng lực kiệt còn mộng gì xoay chuyển đại cuộc, nên chỉ còn cách ấy mà thôi. Vậy Vũ huynh liệu thế nào.
Dũng tức tối đáp:
- Tôi phải ra Bắc gặp vua mưu việc khôi phục. Dù chết cũng không hàng thằng tiểu nhân Phúc Ánh!
Nói xong Diệu, Dũng ôm nhau mà khóc rồi vĩnh biệt nhau đường ai nấy đi! Vũ Văn Dũng đi rồi, tuy tướng Bùi Thị Cúc nói với Diệu, Xuân rằng:
- Nhị vị chủ tướng vì chữ hiếu phải ra hàng giặc. Còn tôi chỉ chết vì chủ, cớ gì phải chịu nhục.
Nói xong Bùi Thị Cúc rút dao đâm cổ tự vẫn. Bùi Thị Xuân hết lên hai tiếng: "Em ơi", rồi ôm thây Cúc khóc thảm thiết.
Chôn Bùi Thị Cúc xong, Xuân bước đến vỗ vào vòi voi một ngà khóc rằng:
- Và chồng ta ra hàng giặc, nhận lấy cái chết để cứu mẹ giá, vậy ngươi hãy về với rừng sâu núi thẳm đừng quyến luyến làm gì. Tiên đế mất đi nên nghĩa cả bất thành, ấy là do lòng trời vậy. Công của ngươi giúp vua dựng nước hãy còn sử xanh ở đó.
Với một ngã quỳ xuống chạy hai hàng nước mắt, dập đầu lậy Thị Xuân ba lậy rồi rống lên một tiếng vang dội núi rừng. Đoạn voi đứng lên lao đầu vào vách núi mà chết.
Vợ chồng Diệu, Xuân thương tiếc ôm xác voi một ngà mà khóc sướt mướt. Khóc đến cạn khô nước mắt, vợ chồng dắt nhau đi trên lá khô xào xạc nơi núi rừng quạnh quẻ, đến thành Nghệ An hàng quân Nguyễn Gia Miêu.
Nói về tướng Gia Miêu giữ thành Nghệ An là Đặng Trần Thường, bắt được Diệu, Xuân rồi, Thường cả mừng bảo quân:
- Mau đem giảm vào đại lao chờ bắt được Vũ Văn Dũng rồi cùng giải về kinh cho vua ta trị tội.
Phần Vũ Văn Dũng giả dạng dân thường tìm đường ra Bắc. Ngày kia Dũng ghé vào một quán nước bên đường nghe dân chúng trong quán bàn với nhau rằng: Tướng Nguyễn Gia Miêu là Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem bộ quân, còn Nguyễn Văn Trương đem quân thuỷ tiến đánh Thanh Hoá. Gặp tướng Đặng Xuân Phong giữ mặt bộ, Nguyễn Văn Lộc giữ mật thuỷ nên quân Gia Miêu đánh mai không được. May thay Nguyễn Văn Lộc bỗng dưng lâm bạo bệnh mà mất đột ngột, vậy mặt thuỷ không còn tướng tài trân giữ, tất sớm muộn gì quân ta cũng chiếm được Thanh Hoá.
Nghe đến đây Vũ Văn Dũng vùng ngửa mặt lên trời hét rằng:
- Ấy thật là trời muốn diệt nhà Tây Sơn ta rồi đó!
Trong đám khách ở quán có hai người bàn nhỏ với nhau:
- Ngươi nổi cáu vừa rồi ắt phải là tướng Tây Sơn. Ta liền bảo quan quân đến bắt mà lãnh thưởng.
Người kia hỏi:
- Vậy nên vào Nghệ An báo cùng quan trấn thủ Đặng Trần Thường chăng.
Người nọ đáp:
- Nơi này giáp Thanh Hoá, tướng Lê Chất và Lê Văn Duyệt đang đóng đại bản doanh đánh nhau với giặc Tây Sơn. Ta đến đấy phi báo sẽ gần hơn.
Nói đoạn chia nhau, người theo dõi Văn Dũng người vội vàng đi báo quan quân. Nhận được tin bảo, Lê Chất hỏi tên dân:
- Người ấy hình dáng thế nào.
Tên dân đáp:
- Người này thân hình cao lớn, mắt xếch, râu quai nón, trong bộ dạng rất hùng dũng.
Lê Chất giật mình nói:
- Nhận dạng người này giống như Vũ Văn Dũng. Nhưng Vũ Văn Dũng sao lại lưu lạc một mình giả dạng dân thường như thế. Thật là vô lý?
Chất vừa dứt lời, xảy quân vào báo:
- Trấn thủ Nghệ An là Đặng Trần Thường báo rằng tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân đã ra hàng, xin tướng quân đón đường bắt Vũ Văn Dũng.
Nghe xong Lê Văn Duyệt vỗ đùi bảo:
- Vậy người này chính là Vũ Văn Dũng.
Đoạn Duyệt lại giật mình nói:
- Ta nghe Văn Dũng rất giỏi đánh đại đao đến nỗi thiên hạ thương báo rằng: Thắng hổ trên rừng đễ, thắng đao Văn Dũng khó. Vậy ta nên dùng súng mà bắn nó cho xong.
Nghe vậy Lê Chất liền hỏi tên dân:
- Ngươi có thấy người ấy đem theo vũ khí gì chăng?
Tên dân đáp:
- Không mang theo binh khí gì cả.
Chất quay sang bàn cũng Lê Văn Duyệt:
- Vũ Văn Dũng có đại đao trong tay là vô địch thiên hạ. Nhưng nay Dũng không mang theo vũ khí thì có đáng ngại gì, tướng quân chỉ cần mang theo vài mươi võ sĩ là bắt được Văn Dũng mà thôi.
Lê Văn Duyệt khen phải liền đích thân đem trăm quân tin cẩn đến quán trọ bắt Vũ Văn Dũng.
Đêm ấy Dũug mệt mỏi ngủ vùi trong quán trọ. Lê Văn Duyệt bí mật dẫn võ sĩ đến tận giường kề gươm vào cổ rồi hô quân trói lại giải đi. Về đền đại bản doanh Lê Văn Duyệt bảo quân tin cẩn:
- Mau áp giải tên tướng giặc này đến Nghệ An, rồi bắt luôn vợ chồng Diệu, Xuân đưa vào Phú Xuân cho vua ta trị tội. Đồng thời bảo Đặng Trần Thường hội quân Bắc tiến.
Quân vâng lệnh đi ngay. Duyệt lại sai bày yến tiệc cũng Lê Chất uống rượu ăn mừng. Rượu ngà ngà Duyệt hỏi Chất:
- Nếu tôi sai ông đi bắt Vũ Văn Dũng thì ông sẽ làm thế nào?
Chất đáp:
- Tôi sẽ xin tướng quân để được không đi.
Duyệt cười bảo:
- Biết ý ông thế nên tôi mới đích thân đi bắt Vũ Văn Dũng đó. Ông cũng là một bậc đại trượng phu vậy!
Đoạn Duyệt lại hỏi:
- Hiện ta còn bao nhiêu tên tù binh Tây Sơn.
Chất thẹn thùng đáp:
- Còn năm trăm tên.
Duyệt bảo:
- Bọn ta mau đến nơi nhốt tù.
Đến trại tù, Duyệt vờ say rượu lớn tiếng với bọn tù bình rằng:
- Ta vừa bắt được Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giải về kinh cho vua ta trị tội. Diệu, Xuân, Dũng chết rồi thì nhà Tây Sơn hết người, vì vậy ta cho bọn bay muốn đi đâu thì đi.
Nơi xong Duyệt liền bảo quân thả hết tù binh Tây Sơn. Về trại Lê Chất khen Lê Văn Duyệt:
- Tướng quân liệu việc hơn người. Năm trăm tù binh được thả này sẽ đánh tan quân Nguyễn Văn Tuyết ở Thanh Hoá vậy.
Duyệt cười bảo:
- Thật là hiểu tôi không ai bằng ông Chất đó!
Nói rồi vui vẻ nâng cốc cũng Lê Chất.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 68 Bởi vua hèn nhà Tây Sơn sụp đổ. Cứu bạn xưa Đặng Văn Long cướp tù.
Nói về vua Tây Sơn là Cảnh Thịnh thua trận liên tiếp, nhờ các trung thần xả thân đoạn hậu nên chạy về được tới Thanh Hoá cùng quan trấn thủ Nguyễn Văn Tuyết. Ngày ấy Tuyết tâu với vua Cảnh Thịnh rằng:
- Nay Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng còn đang có thủ Quy Nhơn, nên Nguyễn Phúc Ánh chưa thể do toàn lực đánh ta ở Thanh Hoá. Nhờ vậy thần và Nguyễn Văn Lộc mới cầm cự được...
Tuyết vừa dứt lời xảy quân hớt hải chạy vào báo:
- Tâu Bệ hạ, tướng quân Nguyễn Văn Lộc đang giữ mặt bể bỗng lâm bạo bệnh qua đời rồi.
Cảnh Thịnh nghe qua khóc rống lên:
- Bởi tại ta ngu muội nghe lời gian nịnh, hãm hại trung thần khiến trời cao oán hận muốn diệt nhà Tây Sơn ta rồi vậy!
Nguyễn Văn Tuyết thất kinh nói:
- Nguyễn Văn Lộc mất rồi, mặt biển không người trấn giữ thì Thanh Hoá sao giữ được. Ta mau bỏ Thanh Hoá đem quân về trấn ải Tam Điệp mới xong.
Tuyết vừa dứt lời quân lại vào báo:
- Thưa tướng quân, tướng giặc là Lê Văn Duyệt đã thả mấy trăm quân của ta bị bắt làm tù binh ra về. Hiện họ đã đến đây xin vào gặp tướng quân.
Cho bọn ấy vào rồi, Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu hỏi:
- Vì sao Lê Văn Duyệt lại tha cho các ngươi?
Mấy tên quỳ lạy thưa:
- Lê Văn Duyệt bảo Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân đều đã bị bắt thì chẳng cần giữ bọn tù binh như bọn thần làm gì nên mới tha cho về
Vua Cảnh Thịnh nghe vậy khóc rống lên rằng:
- Anh Diệu, chỉ Xuân ơi! Tướng quân Vũ Văn Dũng ơi! Chính vì ta mà các ngươi phải chết! Ôi! Tây Sơn thập hổ giờ chỉ còn lại Nguyễn Văn Tuyết và Võ Đình Tú mà thôi!
Nguyễn Văn Tuyết liền bảo quân:
- Truyền lệnh ta lập tức lui về giữ ải Tam Điệp.
Lúc lên đường, Tuyết dắt ngựa trao cho vua Cảnh Thịnh rồi nói:
- Đây là ngựa Xích kỳ ngày chạy ngàn dặm không biết mệt. Bệ hạ hay cưỡi nó chạy trước về Thăng Long bảo Võ Đình Tú lấy quân mười một trấn ở Bắc Hà đem vào giữ mặt biển Biện Sơn. Nếu chậm thì thần không thể nào giữ được ải Tam Điệp. Nếu mất Tam Điệp là đại cuộc ắt hỏng.
Cảnh Thịnh nghe lời liền lên ngựa ra roi. Quân Tây Sơn. đóng ở dọc đường ra Thăng Long thấy vua mình có trăm quan hộ vệ tất tả chạy về xầm xì bàn với nhau rằng:
- Con ngựa Xích kỳ này là của tướng quân Nguyễn Văn Tuyết, sao vua ta lại cưỡi chạy về? Hay tướng quân Nguyễn Văn Tuyết đã tử trận rồi. Nếu vậy quân ta sao chống được giặc?
Quân Tây Sơn hoang mang lo lắng truyền nhau như thế!
Vua Cảnh Thịnh vừa đến cổng Nam thành, bỗng cổng thành mở, Võ Đình Tú dẫn quân ra khói thành. Thấy vua, Tú xuống ngựa thi lễ. Cảnh Thịnh hỏi:
- Đình Tú đi đâu đó.
Từ đáp:
- Hạ thần ra thành duyệt binh định đem quân vào tiếp viện cho Nguyễn Văn Tuyết giữ Thanh Hoá.
Cảnh Thịnh vùng khóc rống lên rằng:
- Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân thua binh đều bị bắt. Nguyễn Văn Lộc lại lâm bạo bệnh qua đời. Nguyễn Văn Tuyết bỏ thành Thanh Hoá lui quân về giữ ải Tam Điệp. Võ Đình Tú hãy mau vào giữ cửa biển Biện Sơn. Nếu chận trễ mất Tam Điệp, Biện Sơn thì vùng đồng bằng Bắc Hà ta không thể đương đầu cùng giặc được.
Quân Tây Sơn đi theo Võ Đình Tú nghe vua Cảnh Thịnh nói xong hoảng sợ đưa mắt nhìn nhau. Võ Đình Tú vội bước đến gần Cảnh Thịnh nói nhỏ rằng:
- Việc không nên sợ mà sợ thì thiệt thân, việc không nên nói mà nói thì hại mạng. Bệ hạ nói ra điều ấy là quân ta rụng rời kinh sợ thì sao chống giặc được.
Cảnh Thịnh tỉnh ngộ nói:
- Ta thật là khờ khạo, xin tướng quân bỏ quá. Giờ tướng quân liệu thế nào?
Từ đáp:
- Bệ hạ hãy vào thành Thăng Long nghỉ ngơi. Thần phải vào tiếp viện cho Nguyễn Văn Tuyết.
Đoạn Tú quay lại bảo quân:
- Truyền lệnh ta đội ngũ chỉnh tề lập tức xuất quân.
Tả hữu khuyên Tú:
- Trời đã tối tướng quân nên hạ trại nghỉ ngơi ngày mai hãy tiến binh.
Tú bảo:
- Cứu quân như cứu hoả phải đi mau!
Nói xong Tú dẫn đầu quân Tây Sơn thẳng tiến Tam Điệp. Sáng sớm hôm sau hậu quân hớt hải chạy theo Đình Tú báo rằng:
- Quân ta nghe ba tướng Diệu, Dũng, Xuân bị bắt thì hoảng sợ thừa đêm tối trốn gần hết. Quân còn là chỉ có ngàn người. Xin tướng quân định liệu.
Võ Đình Tú ngửa mặt than:
- Tiên đế năm hai mươi tuổi đã tự lập dựng sự nghiệp, thân làm đại tướng biển nguy thành an. Nay con của Tiên đế cũng hai mươi tuổi được trao cho cả cơ đồ lại biển bình thành loạn vậy. Ta đi phen này thành bại đã rõ, những phải liều mình đền ơn Tiên đế.
Nói xong Tú vẫn cứ tiến quân.
Nhắc lại tướng Gia Miêu là Lê Văn Duyệt và Lê Chất, ngày ấy nghe quân thám mã về báo thành Thanh Hoá bỏ trống. Lê Văn Duyệt bên bảo Lê Chất và Đặng Trần Thường rằng:
- Nguyễn Văn Lộc chết, giặc Tây Sơn hết tướng nên Nguyễn Văn Tuyết mới bỏ Thanh Hoá về giữ ở Tam Điệp. Đặng Trần Thường mau đem quân hợp cùng Nguyễn Văn Trương rồi dùng thuỷ binh vào cửa Biện Sơn chặn phía sau ải Tam Điệp. Nguyễn Văn Tuyết cũng đường tất phải xin hàng.
Đặng Trần Thường khen là diệu kế rồi dẫn quân đi ngay. Nguyễn Văn Tuyết giữ ải Tam Điệp nghe quân thám mã về báo:
- Quân Gia Miêu đem thuỷ binh chiếm cửa Biện Sơn rồi đổ quân vây phía Bắc ải Tam Điệp. Xin tướng quân định liệu.
Nguyễn Văn Tuyết giật mình than:
- Vua ta đã chậm mất rồi. Truyền quân căn phòng cẩn mật chờ quân cầu viện.
Phần Võ Đình Tú đem ngàn quân đến núi Lính Sơn cách ải Tam Điệp năm mười dặm, bỗng nghe một phát pháo lệnh nổ vang, quân Gia Miêu từ hai bên sườn núi bắn tên xuống như mưa. Ngàn quân Tây Sơn bị tên chết hết cả. Đình Tú cầm lá đại kỳ có thêu bốn chữ vùng lên đỡ gạt liên hồi, không một mũi tên nào phạm được vào người Tú. Đặng Trần Thường trông thấy hỏi tả hữu:
- Võ Đình Tú cầm lá cờ có thêu chữ gì vậy.
Tả hữu đáp:
- Võ Đình Tú giỏi đánh côn đồng. Ngày trước lũ Nguyễn Huệ lên ngôi có tặng Võ Đình Tú lá cờ thêu bốn chữ "Thiết côn vô địch". Ấy chính là lá cờ Đình Tú đang dùng để gạt tên đó!
Đặng Trần Thường cười bảo quân:
- Mau tập trung súng mà bắn xem thử "Thiệt côn vô địch" có đỡ gạt được không.
Quân Gia Miêu theo lệnh Thường mà làm. Trúng đạn bị thương, Tú hét lên rằng:
- Tiên đế đi! Đình Tú tội đi vào chỗ chết để đền ơn Tiên đế!
Hét lên rồi lấy côn đồng đập vào đầu mà chết.
Phần Nguyễn Văn Tuyết chờ mãi không thấy quân cầu viện, Tuyết ngửa mặt than:
- Tiên đế ơi! Tuyết tôi nào tiếc thân mình, chỉ lo cho công lao dựng nghiệp của Tiên đế mà thôi!
Than rồi rút song đao cắt cổ tự vẫn!
***
Võ Đình Tú và Nguyễn Văn Tuyết chết rồi, các tướng Gia Miêu là Lê Văn Duyệt, Lê Chất lãnh bộ quân, Nguyễn Văn Trương, Đặng Tràn Thường đem thuỷ binh ồ ạt tiến ra Thăng Long. Quân Tây Sơn nghe tin kinh hoàng vứt gươm giáo bỏ trốn. Vua Cảnh Thịnh đem gia quyến và mấy người hầu giả lâm dân thường chạy trốn. Chạy đến bờ sông Như Nguyệt thì trời đã tối, thuyền bè lại không có để qua sông, em của Cảnh Thịnh là Quang Bàn mới mười ba tuổi bảo vua rằng:
- Ta nên vào nhà dân nghỉ tạm, mai hãy tìm đường sang kinh Bắc. Nhưng trong bất kỳ tình huống nào cũng không được để lộ tông tích.
Vua Cảnh Thịnh nghe lời liền men theo bờ sông tìm đến một ngôi nhà nhỏ. Vừa gõ cửa nhà ấy. Cửa mở, một người đàn ông thò đầu ra hỏi:
- Các ngươi là ai. Đang đêm gõ cửa có việc gì?
Cảnh Thịnh đáp:
- Chúng tôi là dân thường chạy loạn đến đây, xin ngủ nhờ một đêm ngày mai sẽ đi.
Người ấy bảo:
- Nhà vua có lệnh dân trong nước phải có thẻ bài "Thiên hạ đại tín", còn không có là kẻ gian. Nếu quý khách không có thẻ bài, thật tình tôi không dám chứa.
Cảnh Thịnh nghe vậy vui vẻ bảo:
- Nhà người thật là một công dân gương mẫu. Ta tuy không có thẻ bài những cổ vật này làm tin không phải là kẻ gian.
Nói xong Cảnh Thịnh mốc trong ngực áo ra một vật giở cho chủ nhà xem. Chủ nhà ngạc nhiên hỏi:
- Vật này là vật gì?
Cảnh Thịnh đáp:
- Ta là vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn. Đây là ngọc tỷ ấn.
Chủ nhà cười ha hả nói:
- Ta thấy bộ dạng của ngươi cao sang nghĩ là quân Tây Sơn chạy loạn nên mới mượn chuyện thẻ bài cho ngươi lộ tông tích, không ngờ lại là vua Tây Sơn. Anh em mau ra bắt nộp Chúa Nguyễn ắt là lãnh thưởng lớn.
Tên này vừa dứt lời, từ phía sau nhà mười người đàn ông lực lưỡng xông ra bắt anh em vua Cảnh Thịnh trói lại. Quang Bàn ngửa mặt khóc nói:
- Lúc nãy em đã dặn Hoàng huynh rồi. Sao Hoàng huynh lại nhẹ dạ cả tin thế.
Cảnh Thịnh điềm nhiên đáp:
- Anh em ta đã cũng đường mặt lộ, không bị bắt trước cũng bị bắt sau. Sống chết nào có kể chi, chỉ tiếc cho sự nghiệp của Phụ hoàng vì ta mà phải sụp đổ đấy thôi!
Nói xong Cảnh Thịnh tự chui vào cũi chỏ bọn người ấy khiêng giải đi.
Lê Văn Duyệt vào thành Thăng Long lại bắt được vua tôi Cảnh Thịnh. Duyệt bảo các tướng:
- Các võ tướng Tây Sơn đều đã bị diệt. Bọn quan văn trước lại là tôi thần của nhà Lê sau phò Nguyễn Huệ mà đứng đầu là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích. Vậy ta nên giải Cảnh Thịnh và gia quyến về Phú Xuân cho vua ta trị tội, rồi xin lệnh người xem phải xử bọn ấy thế nào.
Đặng Trần Thường bước ra nói lớn:
- Việc cỏn con này mà phải xin lệnh ấy là làm nhọc lòng vua ta vậy. Theo tôi, ta cứ đem bọn ấy ra chém quách rồi báo với Hoàng thượng sau nào có can hệ gì.
Lê Văn Duyệt bàn:
- Không nên! Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích đều là danh sĩ Bắc Hà. Việc đối xử với họ đều có ảnh hưởng đến lòng dân xứ Bắc, ta không được từ tiện.
Đặng Trần Thường cố nài:
- Ta cứ chém bọn tôi thần nhà Lê theo về Tây Sơn. Nếu có gì tôi xin chịu tội trước vua.
Duyệt gạt đi bảo:
- Ta nghe nói lúc trước ông có hiếm với Ngô Thì Nhậm, nay muốn mượn việc nước báo tư thù nên mới một mực đòi chém chăng.
Nghe Duyệt nói đúng thâm ý mình, Đặng Trần Thường hổ thẹn nín thinh. Duyệt quay sang hỏi Lê Chất:
- Vậy ông Chất lãnh binh áp giải vua Tây Sơn về Phú Xuân được chăng?
Chất chối từ rằng:
- Việc này Chất tôi không đảm đương nổi.
Duyệt ngạc nhiên hỏi:
- Cảnh Thịnh bất tài lại ngồi trong tù xa, còn ông lãnh binh mà áp giải, sao bảo là không làm nổi.
Chất cúi đầu đáp:
- Tôi gần đây trong người không khỏe, e đi xa không tiện. Xin tướng quân cứ người khác thay cho.
Duyệt cười bảo:
- Vua ta vốn căm thù vua Tây Sơn đến tận xương tuỷ. Ông trước là tướng Tây Sơn về đầu, nên tôi mới bảo ông áp giải vua Tây Sơn về nộp để lập công trước là cho vua ta tin tưởng, sau là trả được thù cha. Cơ hội này dù không được khỏe ông cũng cố mà đi mới phải chứ.
Chất đến gần Duyệt nói nhỏ:
- Cám ơn tướng quân thương tình giúp đỡ. Nhưng bắt chúa cũ nộp cho Chúa mới thật lòng tôi không nỡ.
Duyệt liền quay sang bảo Nguyễn Văn Trương:
- Ông mau lãnh binh áp giải Cảnh Thịnh về Phú Xuân và xin lệnh vua xem nên xử Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích thế nào?
Nguyễn Văn Trương lãnh lệnh đi ngay.
Lúc ấp giải tù, vua Cảnh Thịnh ngồi trong tù xa nói vọng ra với Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Trương:
- Ngựa Xích kỳ không có tội gì, lại là tuấn mã hiện có trên đồi. Các ngươi giữ để dùng, đừng giết đi mà uống.
Lê Văn Duyệt bảo Nguyễn Văn Trương:
- Ngựa Xích kỳ xưa là của Chúa Võ vương về sau bị Nguyễn Văn Tuyết cướp đi. Nay ông nên cưỡi nó về trả cho vua ta, tuỳ người xử sự.
Nguyễn Văn Trương nhảy lện lưng ngựa Xích kỳ toan cưỡi, chẳng dè ngựa lồng lên hát Trương té nhào xuống đất. Ai đến gần ngựa cũng lông lên tung võ đã túi bụi. Cảnh Thịnh ngồi trong tù xa nói vòng ra:
- Ai muốn cưỡi nó cứ gọi nó là Phí Mã đại tướng quân nó khắc sẽ cho lên lưng.
Trường đến gần ngựa nói lớn:
- Phí Mã đại tướng quân! Phí Mã đại tướng quân!
Ngựa Xích kỳ liền cúi đầu ngoan ngoãn cho Trương cưỡi đi. Đi đến ải Tam Điệp, Trương hôi Cảnh Thịnh:
- Vì sao gọi Phí Mã đại tướng quân, nó lại cho cưỡi.
Cảnh Thịnh đáp:
- Ngày trước đánh thành Quy Nhơn, bác ta là vua Thái Đức đã phong nó chức Phí Mã đại tướng quân.
Trương cười bảo:
- Nay ta gọi nó là phí mã đại tướng quân nó lại cho ta cưỡi, còn chủ nó ngồi trong tù xa.
Trường vừa dứt lời, ngựa Xích kỳ đã lồng lên hất Trường xuống đất. Nó phủ phục cạnh một xác mặc bô khôi giáp. Thấy ngựa Xích kỳ chảy hai hàng nước mắt, Trương giật mình bảo:
- Bên áo giáp có cặp song đao. Vậy xác kia là của Nguyễn Văn Tuyết chăng?
Trương vừa dứt lời, ngựa Xích kỳ kêu lên ai oán rồi từ trên đèo cao tung bốn vó nhảy xuống vực sâu mà chết. Cảnh Thịnh gạt nước mắt nói:
- Nguyễn Văn Tuyết mới là chủ của nó!
***
Nói về quân Nguyễn Gia Miêu đóng tù xa giải Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân từ Nghệ An về Phú Xuân. Nam trăm quân Gia Miêu giáo gươm rầm rộ đưa đoàn tử tù đến đĩa phận ải Hoành Sơn. Bỗng từ trong núi xông ra một toán vài mươi người, đi đầu toán quân này là một người bịt mặt sử dụng phương thiên hoạ kích. Hai bên xông vào giáp chiến, bọn cướp võ nghệ cao cường lại thêm kẻ cầm đầu dũng mãnh một mình đánh cả trăm quân như vào chỗ không người. Thoáng chốc quân Gia Miêu tan vỡ bỏ chạy lên ải Hoành Sơn. Ngươi bịt mặt phá cũi giải thoát cho Diệu, Xuân, Dũng. Ra khỏi cúi Vũ Văn Dũng hỏi:
- Có phải là Tứ sư đệ đó chăng?
Người bịt mặt tháo khăn rồi khóc đáp:
- Đệ chính là Đặng Văn Long đây!
Bốn người ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Dũng lại hỏi:
- Từ ngày đệ bỏ vua mà đi, rồi trú ẩn nơi nào? Sao biết bọn ta bị bắt mà đến cứu?
Văn Long đáp:
- Tôi vì bất đắc dĩ mới về chốn non cao núi thẳm vẫn nghe việc vua hèn nhu nhược, lòng người ly tán quân ta bại trận khắp nơi. Nghe các anh chị bị bắt giải về Phú Xuân tôi quy tụ vài mươi thủ hạ chặn đường giải thoát. Thôi! Chúng ta mau tránh đi kéo quân ở ải Hoành Sơn kéo xuống thì nguy.
Trần Quang Diệu bái tạ Văn Long rồi nói:
- Vợ chồng tôi ra hàng Phúc Ánh là để cứu mẹ và con đang bị bắt giam ở Phú Xuân. Nếu chúng tôi tẩu thoát ắt mẹ tôi phải chết. Thôi Vũ huynh và Văn Long hãy đi mau, tôi ở lại cho địch quân đến bắt.
Văn Dũng, Văn Long không nỡ bỏ đi. Bùi Thị Xuân giục:
- Tôi tội chết là đáng lắm, còn thương tiếc mà bị rịn làm chi.
Văn Long hỏi:
- Bùi tỷ nữ nhi anh kiệt, một lòng vì nước sao bảo là có tội
Xuân gạt nước mắt đáp:
- Nếu tôi không tha mạng Phúc Ánh ở Hàm Luông và nghe lời Tiên đế giết chú ruột của tôi là Bùi Đắc Tuyên thì nhà Tây Sơn ta làm gì mất nước. Sao bảo là tôi không có tội. Quân từ ải Hoành Sơn đã kéo xuống kia! Hai người mau đi cho!
Văn Dũng, Văn Long thấy vợ chồng Diệu, Xuân đá quyết không biết làm sao đành tránh mặt vào rừng. Trông chỗ nấp ngó ra thấy Diệu, Xuân ngoan ngoãn để cho quân Gia Miêu bắt giải đi, Dũng ứa nước mắt nói:
- Thương thay Trần huynh, Bùi tỷ! Tận trung chí hiếu như thế là cùng!
Rồi quay sang Long, Dũng hỏi:
- Ngày Tây Sơn dấy nghĩa thầy ta đoán câu sấm "Phụ Nguyễn phục thống" là một dòng họ Nguyễn khác sẽ thống nhất sơn hà, nên mới bảo đại sư huynh ta đổi họ Hồ ra họ Nguyễn. Nay nhà Nguyễn Tây Sơn của ta mất nước, vậy hoá ra câu sấm ấy là sai hay sao?
Đặng Văn Long đáp:
- Cơ trời biến hoá không lường, nếu đoán trước được sao bảo là cơ trời. Nay sự đã rõ, không phải câu sấm không dùng mà là thấy ta đã đoán sai.
- Vậy thế nào là đúng.
- Theo tôi câu "Phụ Nguyễn phục thống" là một nhánh phụ của dòng họ Nguyễn sẽ thống nhất sơn hà. Nay Nguyễn Phúc Ánh không phải dòng đích tôn chính thống đã làm nên việc này, thế chẳng phải là cậu sấm ấy đã ứng rồi ư?
Văn Dũng lại hỏi:
- Anh em ta mất nước nhà tan, giờ phải đi về đâu.
Long đáp:
- Ta theo đường Thượng đạo về Tây Sơn thượng nương náu với người Thượng thì lo gì địch tìm ra tung tích.
Văn Dũng than:
- Giờ chỉ còn cách ấy mà thôi.
Nói rồi Dũng và Long bằng rừng vượt núi về Tây Sơn thượng.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 69 Dạ hờn căm, vua Gia Long báo thù. Lòng trung trinh, Lê Thái hậu tự vẫn.
Nói về vua Gia Long ở thành Phú Xuân nghe quân báo đã giải Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân cùng Đặng Xuân Bảo về đến. Vua truyền giải vào. Vợ chồng Diệu, Xuân vừa đến liền quỳ mọp khấu đầu dưới trướng. Đặng Xuân Bảo thấy vậy mắng Diệu , Xuân:
- Ta nghe thiên hạ xưa nay bảo vợ chồng ngươi là đấng anh hùng. Nay đến đường cùng mới hay loài hèn hạ.
Diệu , Xuân bị sỉ nhục hổ thẹn cúi đầu. Vua Gia Long vỗ ngai quát:
- Đặng Xuân Bảo to gan. Trước mặt ta sao dám không quỳ!
Bảo trợn mắt mắng lại:
- Đặng Xuân Bảo ta chỉ quỳ dưới trướng của Quang Trung đại đế. Ngoài ra xưa nay chưa biết quỳ trước kẻ khác bao giờ!
Vua Gia Long cười gằn nói:
- Được! Ta tạm giam tụi bây vào ngục chờ giải Cảnh Thịnh về đây rồi sẽ đào mả lấy xương anh em thằng buôn trâu Nhạc, Huệ, Lữ, rồi sẽ xử tội kẻ sống lẫn người chết vua tôi nhà Tây Sơn bay một thể.
Võ sĩ xông vào lôi Diệu, Xuân và Bảo đi. Bảo vừa đi vừa mắng Diệu, Xuân rằng:
- Ngày trước nó quỳ khóc van xin nên vợ chồng ngươi tha chết cho nó. Nhưng ngày nay cầu xin thế nào cũng không khỏi chết được đâu. Đừng quỳ trước kẻ tiểu nhân mà mang nhục.
Diệu, Xuân chỉ cúi đầu lê bước mà không dám nói gì.
Vua Gia Long nổi giận quát lên rằng:
- Quân bay, đưa Đặng Xuân Bảo lên đây!
Võ sĩ lôi Bảo quay lại. Vua Gia Long quắc mắt hỏi:
- Chờ ta đem hài cốt của Nhạc, Huệ, Lữ về đây rồi đưa các ngươi đến trước tôn miếu của tiên vương ta trị tội thử xem làm cách nào mà ngươi không chịu nhục?
Bảo cười to đáp:
- Ta sẽ tự vẫn mà chết, nhất định không chờ đến ngày thọ nhục.
Nói xong Bảo há miệng toan cắn lưỡi. Nguyễn Văn Thành đứng gần nhanh tay bóp miệng Bảo, không cho Bảo cắn lưỡi tự vẫn. Vua Gia Long quát:
- Quân bây bẻ răng nó rồi trói chặt không cho nó có chỗ đập đầu, xem thử nó chết bằng cách nào.
Võ sĩ vâng lời đè Bảo ra cạy miệng bẻ răng. Bảo máu me đầy miệng vẫn cười to mắng Gia Long rằng:
- Thằng tiểu nhân đê tiện kia, ta sẽ nín thở mà chết, xem thử ngươi có cản được ta chăng?
Nói xong Đặng Xuân Bảo trợn mắt nín hơi không thở nữa. Mặt Bảo vốn đã đỏ, giờ đỏ lên như máu. Giây sau Bảo ngã vật ra mà chết. Vua Gia Long thất kinh than:
- Thật là một sự chết lạ xưa nay chưa từng thấy. Tướng Tây Sơn trung dũng hơn người. Nếu Cảnh Thịnh là một đấng minh quân e rằng ta khó mà phục quốc.
Đoạn vua Gia Long bảo:
- Mau truyền lệnh ta sai người đào mộ lấy cốt Nhạc Huệ, Lữ về cho ta trị tội.
Đặng Đức Siêu bước ra can:
- Tâu Bệ hạ. Việc ấy không nên.
Vua Gia Long hỏi:
- Vì sao lại không nên?
Siêu quỳ thưa:
- Tâu Bệ hạ, đành rằng Nhạc, Huệ có tội lớn với tiên vương, nhưng Nhạc, Huệ chết đã mười năm, vả lại lúc sinh thời cũng là vua một nước. Nếu Bệ hạ làm thế e rằng thiên hạ dị nghị ta quá cố chấp chăng?
Đang cơn giận vua Gia Long gắt:
- Anh em thằng buôn trầu giết hết cả nhà ta. Ta bao phen nếm mật nằm gai, lên rừng xuống bể, lênh đênh hải đảo, lưu vong nước người, trăm cay ngàn đắng. Nếu không đào mả lấy xương anh em nó làm tội sao thoả lòng oán hận của ta. Ý ta đã quyết, còn ai can ngăn, chém!
Đặng Đức Siêu sợ hãi lui ra. Vua Gia Long gọi giật:
- Đặng Đức Siêu!
Siêu giật mình đứng lại, Gia Long bảo:
- Khanh văn chương như nước chảy, hãy viết bài văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, chờ đến ngày làm tội vua tôi giặc Tây Sơn ta sẽ đem ra đọc cho mọi người cùng nghe.
Đặng Đức Siêu vâng lời bái tạ rồi lui ra.
Ít hôm sau, Nguyễn Văn Trương giải Cảnh Thịnh và Hoàng tộc Tây Sơn về đến, quân sĩ đem hài cốt ba anh em Tây Sơn là Nhạc, Huệ, Lữ về phục mệnh. Vua tôi Cảnh Thịnh quỳ trước linh vị các Chúa Nguyễn và bài vị Võ Tánh, Ngô Tùng Châu chịu tội. Vua Gia Long bảo Đặng Đức Siêu đọc bài văn tế. Siêu quỳ trước bài vị Ngô, Võ đọc rằng:

Than ôi!
Đạo thần tử hết lòng thờ Chúa, gian nan từng trải dạ trung thành.
Đấng anh hùng vì nước quyên sinh, điên bái chẳng sai lòng tiết nghĩa.
Ngọc dầu tan vẻ trắng nào phai.
Trúc dẫu cháy tiết ngay vẫn để.
Nhớ hai người xưa:
Thao lược ấy tài,
Kinh luân là chí.
Phò vạc Hán thuở ngôi trời chếch lệch, chém gai đuổi lũ hung tàn.
Vớt xe Đường khi thế nước chông chênh, cầm bút ra tay kinh tế.
Mối nghĩa sánh duyên gác tía, bước gian truân từng cậy dạ khuông phò.
Màn kinh giúp sức cung xanh, công mông dưỡng đã đành lòng uỷ ký.
Hậu quân thuở trao quyền tứ trụ, chữ ân uy lớn nhỏ đều phu.
Lễ bộ phen làm việc chánh khanh, bề trung ái sớm khuya chẳng trễ.
Ngoài cõi vuốt nanh ra sức, chí tiêm cừu đà rải xuống ba quân.
Trong thành then khoá chia lo, lòng ưu quốc đã thấu lên chín bệ.
Miền biên khổn hai năm chia sức giặc, vững lòng tôi bao quản thế là nguy.
Cõi Phú Xuân một trận khét oai trời, nặng việc nước phải lấy mình làm nhẹ.
Sửa áo mũ lạy về Bắc khuyết, ngọn quang minh hun mát tấm trung can.
Chỉ non sông giã với cô thành, chén tân khổ nhắp ngon mùi chánh khí.
Há rằng ngại một phen thỉ thạch, giải trùng vây mà tìm đến quân vương.
Bởi rằng thương muôn mạng tỳ hưu, thà nhất tử để cho toàn tướng sĩ.
Tiếng hiệu lệnh mơ màng trước gió, ấn tín xưa người bộ khúc thương tâm.
Bóng tinh trung thấp thoáng dưới đèn, phong nghi cũ kẻ liêu bằng sái lệ.
Cơ đãng định kíp chầy đành hẹn buổi, xót trướng doanh sao vắng mặt thân huân.
Phận truy tuỳ gang tất cũng đền công, tiếc nhung mạc bỗng thiệt tay trung trí.
Nay gặp tiết thu,
Bày đàn uý tế.
Hai chữ cương thường gánh nặng, rõ cổn hoa cũng thoả chốn u minh.
Ngàn thu hoà nhạc khí thiêng, giúp mao việt để mớ nền bình trị.

Siêu đọc xong, các quan đều rưng rưng ngấn lệ. Vua Gia Long ứa nước mắt nói:
- Ngô, Võ hai khanh!. Hãy xem ta trả thù cho hai khanh đây!
Đoạn vua chỉ vào ba cái sọ người rồi hỏi vua tôi Tây Sơn:
- Các ngươi có biết ba cái đầu lâu này là của ai chăng?
Cảnh Thịnh cũng ứa nước mắt đáp:
- Ấy là hài cốt các Tiên đế của ta.
Vua Gia Long bảo quân:
- Quân bay, đem ba cái đầu lâu của Nhạc, Huệ, Lữ lấy dây xích lại giam vào ngục, còn xương cốt đem nghiền nát bỏ vào lọ để trước cửa ngục làm đồ đựng nước tiểu cho quân sĩ.
Quân vâng lệnh mang ba bộ hài cốt đem đi. Cảnh Thịnh khóc theo:
- Hoàng bá, Phụ hoàng, Hoàng thúc ơi! Con thật là có tội với các Tiên đế!
Bùi Thị Xuân thấy cảnh ấy không dằn lòng được toan mở miệng mắng Gia Long. Trần Quang Diệu ngăn lại nói nhỏ:
- Vợ chồng ta ra hàng chịu nhục là để cứu mẹ. Nếu phu nhân mắng nó, nó giận giết mẹ ta thì sao?
Bùi Thị Xuân đành cắn răng ngậm miệng. Vua Gia Long thấy vợ chồng Diệu, Xuân nói nhỏ với nhau bèn hỏi:
- Trần Quang Diệu, giờ là lúc ta xử tội ngươi đây. Ngươi có điều gì cần nói chăng?
Diệu khấu đầu lạy rồi đáp:
- Tội của thần chết là đáng lắm. Mẹ thần nay đã ngoài tám mươi tuổi không thể làm hại cho xã tắc được. Xin Bệ hạ tha chết cho mẹ thần, thần dù tan xương nát thịt cũng muôn đội hoàng ân.
Vua Gia Long nhìn sang thấy Trần mẫu đã già nua lụ khụ bèn cười nói:
- Được! Ta mở lượng hiếu sinh tha cho mẹ ngươi được sống. Quân bay lôi Trần Quang Diệu xử lăng trì.
Nguyễn Văn Thành bước ra can:
- Lúc Trần Quang Diệu hạ thành Bình Định do hậu quân Võ Tánh trấn thủ, Diệu chẳng những không giết hại quân ta mà còn cấp cho ghe thuyền, lương thực cho quân ta về. Xin Bệ hạ giảm cho Diệu tội lăng trì.
Vua Gia Long suy nghĩ giây lâu rồi khoát tay bảo:
- Mang đi chém ngang lưng!
Trần mẫu nghe vậy vùng đứng lên giơ gậy chỉ mặt vua Gia Long mắng rằng:
- Thằng tiểu nhân kia! Chém đầu cũng chết việc gì phải chém ngang lưng cho phơi gan lòi ruột. Ta quyết không vì thân già này mà để cho các con ta chịu nhục.
Nói xong Trần mẫu đập đầu vào bậc cấp mà chết. Ngoài sân đao phủ khai đao, Trần Quang Diệu đứt làm hai đoạn! Bùi Thị Xuân đau đớn hét lên một tiếng rồi khóc rằng:
- Mẹ ơi! Vợ chồng con ra nộp mạng là để cứu mẹ. Sao mẹ lại huỷ hoại thân mình như thế!
Bỗng Thị Xuân vùng đứng dậy chỉ mặt vua Gia Long mắng rằng:
- Nay mẹ ta đã chết thì ta và ngươi vai vế ngang hàng. Ta nói cho ngươi biết, ngươi làm điều tàn bạo đào mộ các Tiên đế ta, dù ngươi là kẻ chiến thắng nhưng đời sau ai dám bảo ngươi là đấng anh hùng.
Vua Gia Long mỉm cười hỏi:
- Ngươi bảo ta không phải anh hùng, vậy ta hỏi ngươi, ta và Nguyễn Huệ ai hơn ai?
Xuân ung dung đáp:
- Tiên đế ta bốn lượt vào Nam, ba lần ra Bắc. Trong năm ngày đại phá ba mươi vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống cúi đầu cõng sang. Nội một đêm tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La do chính ngươi muối mặt rước về. Xét về tài, Tiên đế ta như hùm còn ngươi như cẩu việc gì mà phải hỏi.
Vua Gia long giận tái mặt nhưng vẫn ôn tồn hỏi:
- Còn xét về đức ta và Nguyễn Huệ thế nào?
Bùi Thị Xuân hăng hái lưu loát đáp:
- Tiên đế ta bắt Nguyễn Đăng Trường rồi thả cho đi, bắt Nguyễn Huỳnh Đức dù không hàng được cũng không nỡ giết. Đập đổ hai nhà Trịnh, Nguyễn, đi đến đâu trăm họ đều cơm no áo ấm, nhân nghĩa sáng ngời. Còn ngươi rước ngoại bang về tàn hại lương dân, bắt tướng đối phương thì tru di tam tộc. Người chết đã mười năm ngươi còn đào mả lấy xương làm tội. Xét về đức Tiên đế ta như đêm trăng rằm còn ngươi như đêm ba mươi cần gì phải hỏi.
Bầm gan tím ruột, vua Gia Long gằn giọng:
- Ngươi dám nhục mạ ta, không sợ ta lột da xẻ thịt ư?
Xuân ung dung đáp:
- Lột da xẻ thịt cũng chết là cùng có gì phải sợ! Ta chỉ sợ rằng chết xuống âm phủ gặp Tiên đế ta hỏi ta hai tội. Tội thứ nhất không vâng lệnh mà giết chú ta là Bùi Đắc Tuyên. Tội thứ hai là ở cửa Hàm Luông tha cho thằng tiểu nhân Phúc Ánh.
Bùi Thị Xuân nói xong, các tướng Gia Miêu đều rút gươm khỏi vỏ. Vua Gia Long ngăn lại bảo:
- Giết nó sao thấy được gan nó. Ta có cách này xem nó to gan đến đâu.
Đoạn vua Gia Long bảo võ sĩ:
- Truyền đem con gái Bùi Thị Xuân ra cho voi giày trước mặt nó.
Bỗng một người từ ngoài chạy vào nói lớn:
- Xin Hoàng huynh hãy tha chết cho con gái Bùi Thị Xuân.
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra là Quận Chúa Ngọc Du. Vua Gia Long ngạc nhiên hỏi Ngọc Du:
- Chồng nó là Trần Quang Diệu đánh thành Bình Định hại chết chồng em là Võ Tánh, sao em còn xin tha cho con gái của nó?
Quận Chúa Ngọc Du toan mở miệng, nhưng chợt nhớ ra điều gì bèn đến gần vua nói nhỏ:
- Ngày trước Bùi Thị Xuân tha cho ba mẹ con ta ở cửa Hàm Luông nên ta mới được như ngày nay. Xin Hoàng huynh nghĩ tình ấy mà tha cho con gái của Xuân.
Vua Gia Long lắc đầu đáp nhỏ với Ngọc Du:
- Ngày trước nó tha cho ta nên mất nước. Ngày nay ta lại bắt chước sự sai lầm của nó hay sao?
Đoạn quay sang bọn võ sĩ, vua vỗ án quát lớn:
- Nhổ cỏ tận gốc, giết rắn dập đầu. Quân bay mau đem con gái Bùi Thị Xuân ra hành hình!
Võ sĩ vâng lệnh, lập tức thi hành. Một con voi to lớn bước chậm rãi đến gần con gái Thị Xuân. Nàng ấy vừa mười bốn tuổi sợ hãi hét lên:
- Mẹ ơi cứu con!
Xuân nghiêm mặt quát:
- Con nhà tướng không được sợ chết! Con thà chết đi cùng cha mẹ còn hơn là sống với lũ tiểu nhân kia!
Xuân vừa dứt lời, voi đã dùng vòi quấn lấy con gái Xuân tung lên không. Khi nàng rơi xuống voi đưa cặp ngà ra hứng, ngà voi nhọn hoắt xuyên qua người, nàng quằn quại trên miệng voi mà chết. Voi lại cúi đầu vứt xác nàng xuống đất rồi dùng chân dày đạp lên. Thương thay con gái Bùi Thị Xuân chết nát tan thi thể. Mọi người mục kích đều lè lưỡi lắc đầu mà rơi nước mắt!
Thế nhưng, có một người đáng ra phải khóc, mà không khóc. Đó là Bùi Thị Xuân! Xuân kéo lê xích chân đi đến gần con voi vừa hành hình con gái mình. Tên nài voi giục voi quấn Xuân. Voi vừa vươn vòi, Xuân vùng hét lên một tiếng, voi thất kinh co vòi quay đầu mà chạy. Tên nài dùng búa đánh vào đầu voi bảo quay lại, voi vùng hất tên nài xuống đất rồi cắm cổ chạy ra khỏi pháp trường. Đội quân hành hình lại đưa voi khác vào thay, nhưng con nào cũng thế, khi đến gần nghe Xuân hét lên đều co vòi quay đầu chạy hết cả.
Tướng sĩ Gia Miêu tuy không hiểu vì lý do gì nhưng thấy vậy thảy đều khiếp đám. Vua Gia Long ngạc nhiên hỏi quần thần:
- Bùi Thị Xuân có tài gì mà có thể khuất phục được voi như thế?
Tả hữu có người biết chuyện thưa rằng: - Bùi Thị Xuân chuyên huấn luyện voi để lập đội tượng binh cho giặc Tây Sơn. Số voi này là của dịch do quân ta bắt được. Có lẽ nó nhận ra chủ cũ nên không dám làm hại chăng?
Vua Gia Long bảo:
- Nếu voi dày không được thì đem cho ngũ mã phanh thây. Nhất định phải cho nó chết không toàn thây!
Võ sĩ cột đầu và tứ chi của Bùi Thị Xuân vào năm con ngựa rồi bảo kỵ mã ra roi. Thương thay Bùi Thị Xuân! Đầu, mình, tay, chân mỗi phần một ngả!
Vua Tây Sơn là Cảnh Thịnh thấy gia đình Diệu, Xuân bị hành hình xong biết đến lượt mình thì thất kinh hồn vía. Cảnh Thịnh vọt miệng nói:
- Trước khi chết xin cho mâm cơm lót dạ kẻo phải làm ma đói.
Vua Gia Long ôm bụng cười một hồi rồi bảo quân dọn mâm cho Cảnh Thịnh. Hoàng đệ Quang Bàn hỏi Cảnh Thịnh:
- Cớ sao Hoàng huynh lại xin cơm của giặc?
Cảnh Thịnh cúi đầu đáp:
- Không phải anh muốn ăn, nhưng để kéo dài thời gian sống được giờ nào hay giờ ấy.
Cơm dọn lên, võ sĩ cởi trói cho Cảnh Thịnh cùng hoàng tộc. Cảnh Thịnh ngồi vào bàn cầm đũa, Quang Bàn liệng chén quát:
- Chết thì chết, việc gì phải đi ăn cơm thừa của giặc!
Cảnh Thịnh vừa ăn vừa rơi nước mắt. Quang Bàn ngửa mặt lên trời kêu rằng:
- Phụ hoàng ơi! Nhà Tây Sơn ta đổ là phải lắm rồi. Chỉ tiếc cho công lao dựng nghiệp của Phụ hoàng mà thôi!
Nói xong Quang Bàn dùng chiếc đũa đâm mạnh vào lỗ tai mà chết. Vua Gia Long thất kinh nghĩ thầm: Con của Nguyễn Huệ đến thằng nhỏ này cũng khí khái anh hùng như vậy mà Quang Toản là người nối ngôi lại hèn hạ u mê. Ấy thật là trời giúp ta!
Cảnh Thịnh ăn xong, vua Gia Long truyền đem ra cho ngũ mã phanh thây.
***

Làm tội vua tôi Tây Sơn xong, vua Gia Long lại hạ lệnh cho quân trấn thủ Bình Định lùng bắt bà con tông tộc của các tướng Tây Sơn đem làm tội. Vì việc ấy mà ở phủ Quy Nhơn người bị chém đầu lên đến hàng ngàn. Vua Gia Long lại hạ lệnh truy lùng tất cả sách vở dưới triều Quang Trung Nguyễn Huệ gom về đốt cả đi, và kẻ nào ghi chép bất cứ điều gì về nhà Tây Sơn phải bị tru di tam tộc. Vua Gia Long bảo:
- Ta muốn từ nay về sau dân ta không được nói về giặc Tây Sơn và anh em thằng buôn trầu Nhạc, Huệ nữa.
Vua vừa dứt lời, xảy quân vào báo:
- Tâu Hoàng thượng, quân ta vừa bắt được Lê Thái hậu vợ Quang Trung Nguyễn Huệ, xin giải về cho Bệ hạ xét xử.
Vua Gia Long hỏi:
- Ngọc Hân chết đã ba năm nay, có văn tế hẳn hoi thì làm gì còn Ngọc Hân nào đây nữa?
Quân đáp:
- Tâu Bệ hạ, các cung nữ hầu hạ trong Bắc cung dưới thời Nguyễn Huệ đều xác nhận người ấy là Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân.
Vua Gia Long lấy làm lạ bèn truyền cho vào. Quân đưa một thiếu phụ đến thi lễ dưới thềm. Vua Gia Long liếc nhìn, thiếu phụ cực kỳ diễm lệ. Lòng bồi hồi xúc động, vua Gia Long hỏi:
- Nàng kia! Nàng có phải là Ngọc Hân vợ Nguyễn Huệ không?
Nàng ấy đáp:
- Thưa tôi chính là Ngọc Hân công chúa nhà Lê, vợ Quang Trung Hoàng đế!
Vua Gia Long ngạc nhiên hỏi:
- Ngọc Hân đã chết năm Kỷ Mùi (1799) có văn tế của Cảnh Thịnh rành rành. Sao ngươi dám mạo nhận Ngọc Hân công chúa.
- Nguyên chồng tôi là Quang Trung Hoàng đế định đến cuối thu năm Nhâm Tý (1792) sẽ đem quân vào Gia Định tiêu diệt Bệ hạ, rồi sẽ cất quân đánh Tàu đòi đất Lưỡng Quảng xưa kia là của nước ta. Chồng tôi có hỏi ý của La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp. Phu tử bảo không có điều bình Nam, Bắc tiến. Đến khi chồng tôi băng hà tôi mới tin điều Phu tử nói là đúng, nên mới giả chết trốn đi. Chẳng ngờ nay lộ ra tông tích, tuỳ Bệ hạ muốn xử thế nào thì xử.
Vua Gia Long nhìn Ngọc Hân hồi lâu rồi bảo:
- Tuy nàng là vợ giặc Huệ tội đáng phải chết, nhưng nàng lại là công chúa nhà Lê, mà các tiên vương của ta trước cũng là tôi của vua Lê. Nghĩ tình ấy ta tha không giết.
Đoạn quay sang võ sĩ vua bảo:
- Truyền giam Ngọc Hân vào ngục, đối xử tử tế chờ xét sau.
Quân đưa Ngọc Hân đi rồi, Nguyễn Văn Thành hỏi:
- Bệ hạ định xử Ngọc Hân thế nào?
Vua Gia Long vui vẻ đáp:
- Ta sẽ tuyển nàng vào hậu cung.
Thành can:
- Bệ hạ là vua một nước thiếu gì cung phi mỹ nữ, cần gì phải lấy vợ thừa của giặc!
Vua Gia Long gạt đi bảo:
- Nước của nó ta còn lấy được, vợ của nó ta lại không lấy được hay sao?
Nói xong vua Gia Long lui về hậu cung rồi truyền đưa Ngọc Hân đến hầu. Đến nơi, biết ý vua Gia Long, Ngọc Hân mắng rằng:
- Ta là công chúa nhà Lê, lại là vợ Quang Trung đại đế. Nay ngươi muốn giết cứ giết, đời nào ta lại để thằng tiểu nhân như ngươi làm nhục hay sao!
Mắng rồi Ngọc Hân lao đầu vào tường mà chết.
Vua Gia Long sửng sốt một hồi, rồi gọi người tín cẩn nhất đến bảo:
- Ngươi mau đem xác Ngọc Hân bí mật chôn ở sau vườn thượng uyển, rồi ra ngoài thành phao câu ca như thế này… Nếu việc lộ ra lập tức mất đầu.
Người tín cẩn y lệnh thi hành.
Hôm sau khắp kinh thành ai nấy đều nghe lắm kẻ hát câu ca rằng:

Gái đâu có gái lạ lùng.
Con vua mà lấy hai chồng làm vua.

Bá tánh già trẻ bàn tán với nhau:
- Ngọc Hân công chúa nhà Lê đã là Bắc cung Hoàng hậu dưới triều Quang Trung Hoàng đế. Nay dù bị bắt thì nên chết đi mới phải sao lại chịu nhục mà làm thiếp cho vua Gia Long thế. Thật xấu hố thay!
Thương thay Thái hậu Ngọc Hân đã chết thảm còn mang tiếng nhơ oan ức!
Xong việc ấy, Nguyễn Văn Trương lại đến tâu:
- Tướng quân Lê Văn Duyệt sai thần giải Cảnh Thịnh về kinh cho Bệ hạ trị tội và xin lệnh Bệ hạ xét xử các văn thần nhà Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích sau theo giặc Tây Sơn phải tội như thế nào?
Vua Gia Long nhanh trí cười vui vẻ đáp liền: - Bọn họ trước là tôi thần của nhà Lê, mà ta đây rất quý nhà Lê. Vậy truyền tha tội chỉ đánh mỗi ngươi hai mươi trượng rồi đuổi về dân dã.
Nguyễn Văn Trương vâng lệnh lên đường ra Bắc. Ra ngoài thành, Trương nghe thiên hạ bàn tán rằng:
- Các tôi thần của Tây Sơn đều bị tru di tam tộc. Sao Gia Long lại tha tội chết cho bọn cựu thần nhà Lê là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích?
Kẻ khác lại bảo:
- Ấy là vì công chúa nhà Lê là Ngọc Hân đã về làm thiếp cho Gia Long, vì lấy lòng Lê Ngọc Hân nên vua mới tha chết cho bọn cựu thần nhà Lê đó.
Nói xong họ lại ca rằng:
Gái đâu có gái lạ lùng.
Con vua mà lấy hai chồng làm vua.
Nguyễn Văn Trương vừa đi vừa nghĩ:
- Lê Ngọc Hân thật chẳng ra gì.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 70 Ngô Thì Nhậm chết đòn vì đôi câu đối. Nguyễn Văn Thành bị giết bởi một bài thơ.
Nói về Nguyễn Văn Trương đem lệnh của vua Gia Long ra Bắc Hà trao cho Lê Văn Duyệt. Duyệt liền bảo Đặng Trần Thường:
- Ngày mai ông theo lệnh vua bắt bọn tôi thần nhà Lê theo Nhạc, Huệ đánh mỗi người hai mươi hèo rồi đuổi về dân dã.
Hôm sau Đặng Trần Thường sai quân giải các cựu thần nhà Lê ra nằm trước công đường chịu phạt trượng.
Đặng Trần Thường hỏi Ngô Thì Nhậm:
- Ngô huynh có thấy trời cao có mắt chăng?
Nhậm hỏi lại Thường:
- Thế nào là trời cao có mắt?
Thường đáp:
- Năm xưa cũng tại nơi này Nguyễn Huệ đánh tôi hai mươi hèo rồi đuổi về dân dã. Ngày nay vua tôi lại đánh Ngô huynh hai mươi hèo rồi đuổi về dân dã. Thế chẳng phải trời cao có mắt hay sao?
Nhậm đang nằm, ngẩng mặt lên bảo Thường:
- Năm xưa Chúa tôi đòi chém Đặng huynh. Nếu tôi không xin cho Đặng huynh thì đã mất đầu chứ đâu phải bị hai mươi roi mà thôi. Ơn không nhớ thời thôi, sao lại đem lòng kết oán?
Thường cười đáp:
- Nào tôi có đem lòng kết oán ông đâu. Nhưng người tài thường hay gặp nạn. Nay ông gặp nạn giống tôi ngày xưa, vậy tài tôi và ông ngang nhau vậy.
Nhậm nghe thế dằn lòng không được buột miệng nói:
- Tôi và Đặng huynh ngang tài nhau, nhưng chỉ có một mình tôi là biết được kế “Phạt thảo kinh xà" của Chúa tôi mà thôi.
Thường cười to hỏi:
- Vậy là ông vẫn tự cho rằng ông tài hơn tôi ư?
Nhậm giật mình đáp:
- Tôi không dám!
Thường nói tiếp:
- Tôi xin ra một vế đối, nếu ông đối được tôi mới phục rằng ông tài hơn tôi.
Nhậm mừng thầm nghĩ: "Nó ra vế đối, ta làm bộ không đối được ắt nó sẽ không cố tình làm tội ta". Nghĩ xong Nhậm nói:
- Xin Đặng huynh ra vế đối.
Thường ung dung đọc:
- Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai!
Nhậm nóng mắt đáp ngay:
- Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu, bởi thời thế, thế thì phải thế!
Nghe xong Thường lẳng lặng đến gần tên võ sĩ bảo:
- Lát nữa ta hạ lệnh đánh bọn này mỗi đứa hai mươi roi. Ngươi lãnh phần đánh Ngô Thì Nhậm, hãy đánh mạnh tay vào, nếu Ngô Thì Nhậm chết thì ngươi có thưởng.
Đến lúc thọ hình tên võ sĩ dùng hết sức mà đánh. Ngô Thì Nhậm đau đớn hét lên rằng:
- Đặng Trần Thường, hãy nhớ lấy lời ta. Ngươi hại ta chết, tất ngươi phải bị chết theo!
Nhậm hét xong thổ huyết mà chết.
Bá tánh thành Thăng Long biết tin ấy bàn với nhau rằng:
- Đã ra lệnh tha thời thôi lại còn bảo ngầm tay chân đánh chết danh sĩ Ngô Thì Nhậm. Vua Gia Long thật là người cố chấp.
Tin ấy bay về đến tai vua Gia Long ở Phú Xuân. Vua gọi Đặng Đức Siêu đến hỏi:
- Đặng Trần Thường vì thù riêng phạm vào thượng lệnh làm mang tiếng đến ta, phải xử thế nào?
Đặng Đức Siêu hỏi lại vua rằng:
- Dân Thăng Long ngỡ đấy là lệnh của Bệ hạ nên mới đem lòng oán Bệ hạ. Vậy muốn an lòng dân xứ Bắc phải làm như thế nào?
Vua Gia Long đáp:
- Phải xử tội Đặng Trần Thường ở Bắc Hà.
Đặng Đức Siêu lại bàn:
- Nhưng Tổng trấn Bắc thành là Lê Văn Duyệt cũng phải có phần trách nhiệm. Bệ hạ nên bố cáo trong dân triệu Lê Văn Duyệt về kinh trị tội và chém đầu Đặng Trần Thường thì mới an được lòng dân xứ Bắc.
Vua Gia Long bảo:
- Lê Văn Duyệt vô tội, lại là bậc khai quốc công thần sao lại vô cớ mà trị tội?
Siêu đáp:
- Ta bố cáo với dân chúng Bắc Hà như thế để an lòng bá tánh chứ nào trị tội Lê Văn Duyệt đâu mà Bệ hạ phải ngại?
Vua Gia Long lại nói:
- Vậy phải làm sao để khỏi gây bất bình cho Lê Văn Duyệt và các công thần?
Siêu đáp:
- Bệ hạ phong Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn Bắc thành, phong Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định thành là định yên xã tắc.
Vua Gia Long khen:
- Ấy thật là kế sách vẹn toàn.
Nói xong liền theo kế ấy thi hành.
Nguyễn Văn Thành lãnh lệnh bài ra làm tổng trấn Bắc thành, đem Đặng Trần Thường ra trước dân hành quyết. Lúc đao phủ khai đao, Thường ngửa mặt than rằng:
- Ngô Thì Nhậm thật đáng là bậc thầy của ta vậy!
Than dứt lời đầu lìa khỏi cổ.
Đặng Trần Thường bị chém và Lê Văn Duyệt bị đổi đi, dân Bắc Hà lại bàn với nhau rằng:
- Việc giết Ngô Thì Nhậm là do Đặng Trần Thường trả tư thù, đến nỗi Lê Văn Duyệt phải bị vạ lây. Vua Gia Long thật là công minh chính trực.
Vua Gia Long lại phong Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định thành. Các tướng khác đều được phong chức đi trẫm nhậm các phủ. Từ ấy bốn phương thiên hạ thái bình.
***

Hai năm sau, tả hữu tâu với Vua Gia Long rằng:
- Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn Bắc thành được hai năm mà bốn cõi yên vui, vạn nhà no ấm. Ông ấy đi đến đâu nhân dân Bắc Hà đều ra khỏi nhà nghênh đón. Công đức của ông ấy thật là to lớn vậy.
Vua Gia Long liền viết chiếu chỉ sai sứ giả ra Bắc triệu Nguyễn Văn Thành hồi kinh. Về Phú Xuân gặp vua Gia Long, Thành quỳ tâu:
- Thần là Nguyễn Văn Thành, xin về phục mệnh.
Vua Gia Long bảo Nguyễn Văn Thành ngồi rồi bảo:
- Nay đất Bắc đã yên nên trẫm triệu khanh về giữ chức Trung quân tham mưu kề cận bên ta lo việc quốc gia. Khanh có vui lòng chăng?
Thành lạy đáp:
- Thần xin muôn đội hoàng ân!
Nguyễn Văn Thành về đến tư dinh gặp con mình là Nguyễn Văn Thuyên đang sửa soạn bút nghiên, Thành hỏi:
- Con đang làm gì đó?
Thuyên đáp:
- Con có hai người bạn là Nguyễn Đức Thuận và Nguyễn Văn Khuê ở Thanh Hoá, nổi tiếng văn hay. Con định viết một bài thơ đợi khi cha con ta về Bắc Hà đi ngang Thanh Hoá sẽ gửi thơ mời hai người ấy đến chơi.
Nghe Thuyên nói xong, Thành hỏi:
- Gia đình ta không phải về Thăng Long nữa.
Thuyên ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao thế thưa cha?
Thành kể lại sự việc vừa gặp vua xong, Thuyên nói:
- Vua là người đa nghi. Con e vua thấy cha lớn quyền xứ Bắc đâm nghi sợ, nên mới triệu cha về kinh, cha phải cẩn thận mới được.
Thành nạt liền:
- Vua biết ta một dạ trung quân, sao ngươi dám buông lời gièm xiểm? Về sau còn tái phạm ta quyết trị không tha.
Nói xong trong lòng bực bội, Thành bỏ vào phòng riêng. Còn lại một mình, Thuyên liền viết ngay một phong thư và gọi người hầu là Trương Hiệu đến dặn rằng:
- Ngươi hãy mang bức thư này đến Thanh Hoá trao cho hai bạn ta. Đây là bạc lộ phí, hãy kíp đi ngay.
Chẳng dè Hiệu là đứa ham rượu, sẵn bạc của Thuyên đưa làm lộ phí, Hiệu uống rượu say rồi vừa đi vừa lải nhải rằng:
- Ta đi mời nhân tài đến giúp nhau xoay đổi hội cơ này!
Ngờ đâu quân tín cẩn của vua nghe được lời ấy bắt lấy Hiệu, hỏi:
- Ngươi vừa nói lời phản nghịch là ý thế nào?
Hiệu hoảng sợ liền đưa lá thư của Thuyên và thưa:
- Lời tôi nói là ở trong thư này, nào phải tôi tự đặt ra.
Quan quân hỏi:
- Thư này của ai. Nói mau, phải chém.
Hiệu liền đáp:
- Của Nguyễn Văn Thuyên con quan Trung quân tham mưu Nguyễn Văn Thành.
Quân tín cẩn của vua không dám quyết bèn giải cả Hiệu lẫn thư đến gặp vua Gia Long. Vua đọc thư rằng:
Ái Châu nghe nói lắm người hay.
Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
Ngọc phát Kinh sơn tài sẵn có.
Ngựa kỳ Ký Bắc biết lâu thay.
Mùi hương hang tối xa ngàn dặm.
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
Sơn tể phen này dù gặp gỡ.
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này.

Xem xong, vua Gia Long vỗ án quát:
- Quả nhiên lời nói của loạn thần. Quân bay mau bắt hết cả nhà Nguyễn Văn Thành cho ta.
Quân đưa Thành đến quỳ dưới thềm. Thành lo sợ và ngạc nhiên hỏi:
- Tâu Bệ hạ thần có tội gì?
Vua cười gằn bảo:
- Ngươi toan mưu làm phản, lại còn vờ không biết tội ư?
Thành thất kinh kêu:
- Oan cho thần lắm. Xin Bệ hạ chớ nghe lời sàm tấu mà bắt tội oan cho thần.
Vua Gia Long liền quăng thư của Nguyễn Văn Thuyên ra cho Thành. Đọc xong Thành than:
- Thuyên ơi, con đã hại cha rồi!
Đoạn Thành khóc lạy thưa:
- Thư này là bút tích của con hạ thần tên Nguyễn Văn Thuyên. Nhưng nó chẳng qua là trẻ con nói ngông mà thôi, xin Bệ hạ xét lại mà tha tội cho thần một phen.
Vua Gia Long bảo:
- Tội hay không phải giao cho viện pháp ty xét xử.
Nói xong vua truyền bãi triều. Nguyễn Văn Thành chạy theo níu áo vua khóc lớn rằng:
- Thần theo Bệ hạ từ thuở nhỏ, lúc còn đang long đong dựng nghiệp. Nay thần vô tội Bệ hạ không xét giùm mà giao cho pháp ty xử thì thần tránh sao khỏi tội. Bệ hạ nỡ lòng nào thấy thần chết mà không cứu!
Vua Gia Long mặc Thành kêu khóc, cương quyết dứt áo mà đi. Các quan trong pháp ty thấy vậy bàn với nhau rằng:
- Ta nên xét tội Nguyễn Văn Thành thế nào?
- Vua giao cho bọn ta xét, tất muốn Thành phải chết. Vậy ta còn dám không tuân sao?
Luận tội xong, quan pháp ty dâng bản án lên vua. Vua Gia Long bảo:
- Pháp ty luận tội cha con Nguyễn Văn Thành phải chém. Nhưng ta nghĩ Thành là khai quốc công thần, vậy cho được tự xử.
Nói xong vua sai người vào ngục dâng cho Thành một giải lụa, một thanh gươm và một chén thuốc độc. Thành trông thấy ngửa mặt than:
- Thỏ non đã hết, chó săn phải chết. Thương thay Lê Văn Quân. Thương thay Lê Văn Quân!
Dứt lời, Thành bưng chén thuốc độc uống vào thổ huyết chết ngay.
Hay tin ấy Lê Chất than rằng:
- Đến Nguyễn Văn Thành mà còn như thế. Một tướng cũ Tây Sơn như ta nào có đáng gì, phải liệu mà giữ mình. Đối đãi với công thần thật không ai bằng vua Quang Trung vậy.
Từ ấy về sau đất nước thống nhất, bốn phương thiên hạ thái bình, không còn cảnh binh đao khói lửa. Việc thành bại là ở lòng trời. Kẻ có công, người có tội, ai anh hùng, ai tiểu nhân xin để người đời sau bình luận vậy!
Đời sau có người tên Nguyễn Trọng Trì quê ở Vân Sơn, An Nhơn, Bình Định hoài cảm giai đoạn lịch sử này có viết bài thơ rằng:

Loạn thế anh hùng sản xuất đa.
Bắc Nam dược mã dự huy qua.
Thập niên huyết chiến thành hà sự.
Không thính ngư tiều tuý tửu ca!.

Tạm dịch:
Loạn đời sinh lắm anh hùng.
Thanh gươm yên ngựa vẫy vùng Bắc Nam.Mười năm(?) máu đổ (như) mây tuôn.
Người câu, hái củi ca buồn giọng say!.

Triều đại Tây Sơn bi hùng (Phần 1)

Không có nhận xét nào: