Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Triều đại Tây Sơn bi hùng (Phần 1)


Tây Sơn bi hùng truyện

Phàm là một người người ham mê lịch sử và văn chương, cầm cuốn sách này khó có thể dứt ra được. Rất giống cảm giác thuở học trò đọc Tam quốc diễn nghĩa hay Thủy hử, bạn sẽ bị cuốn sách lôi cuốn ngay cả khi đang ăn hay trước lúc đi ngủ. Sẽ rất nhiều người mải theo cách dẫn dắt của tác giả mà quên khuấy cả giấc ngủ trưa, thậm chí cho qua cả một đêm trắng.


Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh mô phỏng cách viết chương hồi của La Quán Trung, Thi Nại Am và những tiểu thuyết gia Trung Quốc xưa, một cách kể chuyện như lùa người đọc vào hết mê hồn trận này đến những bí sử kia, mang đến cho người đọc cái không gian, thời gian, những sự kiện lịch sử, những chân dung tiêu biểu… làm nên gương mặt xã hội Việt Nam đầy biến động và bi thương, hiển hách và bi tráng suốt nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Khác với tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ, tác phẩm của nhà văn Việt Kiều Nguyễn Mộng Giác, tái hiện khá thành công người anh hùng áo vải Tây Sơn và cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc, từng in ở Mỹ và mới in lại ở Việt Nam, Lê Đình Danh viết về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng kiệt xuất Nguyễn Huệ với một bối cảnh rộng lớn hơn, đặt các nhân vật của Tây Sơn trong mối quan hệ trực diện, đối nghịch, một mất một còn với chúa Nguyễn Đàng Trong, chúa Trịnh Đàng Ngoài và Vương quốc Đại Thanh thời vua Càn Long hùng mạnh.



Không phải ngẫu nhiên mà thoạt đầu tác giả đặt cho bộ tiểu thuyết hai tập hơn nghìn trang in với 5 phần 70 chương của mình cái tựa đề Nhị Nguyễn tranh hùng mà hai nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm là Nguyễn Huệ và Nguyễn Phúc Ánh. Có thể nói đó là hai nhân vật lịch sử, có vai trò cực kỳ quan trọng quyết định sự thành bại của hai dòng Nguyễn Tây Sơn và dòng Nguyễn thế gia vọng tộc Đàng Trong, quyết định khuynh hướng và bước ngoặt phát triển của dân tộc Việt từ đầu thế kỷ XIX. Đặt nhân vật Nguyễn Huệ vào trong bối cảnh chế độ phong kiến do các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã kiến lập hơn hai trăm năm, kể từ khi người anh hùng kiệt xuất Nguyễn Hoàng nhận ra dã tâm của Trịnh Kiểm, đã mang thân quyến và bộ hạ vào lánh nạn ở Thuận Quảng năm 1558, cho đến khi lộng thần Trương Phúc Loan lợi dụng sự mọt ruỗng của triều Nguyễn Đàng Trong định tiếm quyền, gây cho muôn dân lầm than cơ cực… mới thấy tài năng và sự xuất chúng tột bậc của người anh hùng áo vải trẻ tuổi. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (1773) do Nguyễn Nhạc khởi xướng, nếu không có Nguyễn Huệ, chắc chắn sẽ bị tiêu diệt từ trong trứng. Bởi khi ấy, mặc dù trong Nam, rường cột Chúa Nguyễn đã mục nát, nhưng lòng dân vẫn chưa hết ngưỡng vọng về một vương triều với 11 đời chúa kể từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng hơn hai trăm năm đã khai mở và củng cố đất Đại Việt suốt từ hận giới sông Gianh cho đến Sài Côn (Sài Gòn – Gia Định), Hà Tiên, Phú Quốc…, còn ở ngoài Bắc, mặc dù các chúa Trịnh tiếm quyền nhà Lê, dân tình cơ cực, nhưng hầu hết các sĩ phu Bắc Hà vốn ngu tín, ngu trung và muôn dân vẫn hướng về nhà Lê mà ánh hào quang Lê Lợi - Nguyễn Trãi suốt từ cuộc kháng chiến chống giặc Minh đầu thế kỷ XV vẫn còn tỏa sáng. Thu phục lòng dân đã khó, nhưng chiến thắng được hai thế lực phong kiến Nguyễn - Trịnh còn ngàn lần khó hơn. Vậy mà “Bốn lần vào Nam truy chúa Nguyễn; Ba lần ra Bắc diệt vương tông” với những trận đánh thần kỳ; rồi trận Rạch Gầm lừng danh phá năm vạn quân Xiêm, trận thắng Pháp đầu tiên trong lịch sử - đốt tàu chiến Pháp do Bá Đa Lộc trợ giúp cho Nguyễn Phúc Ánh, và kỳ diệu nhất là trận đại phá 20 vạn quân Thanh, đánh bại ý đồ xâm lược của ngoại bang phương Bắc… thì quả là một thiên tài quân sự tầm cỡ thế giới. Với tài năng và đức độ của Nguyễn Huệ, ông đã tập hợp quanh mình hàng loạt nhân vật kiệt hiệt nhất thời ấy, về văn có Trương Văn Hiến, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ, Nguyễn Thung, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp…, về võ hàng loạt các đại tướng kiệt hiệt mà tên tuổi mãi lưu truyền sử sách như vợ chồng Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo, Nguyễn Văn Tuyết, Phan Văn Lân, Ngô Văn Sở, Võ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú… (Nhân đây xin lưu ý các nhà lịch sử và các cấp chính quyền thành phố Hà Nội nên đổi lại tên phố Đặng Tiến Đông (ở bên gò Đống Đa) thành phố Đặng Văn Long, vì trong chính sử cũng như trong tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh không hề nhắc đến Đặng Tiến Đông mà chỉ có tên Đô đốc tài danh Đặng Văn Long).
Với Nguyễn Phúc Ánh (hay Nguyễn Ánh) dưới ngòi bút của Lê Đình Danh, cũng hiện lên như một anh hùng kiệt hiệt, 12 tuổi đã theo Võ vương Nguyễn Phúc Khoát “chống giặc Tây Sơn”, 16 tuổi khi quân Tây Sơn truy đuổi chúa Nguyễn ra cửa Hàm Luông, chúa Nguyễn Phúc Thuần bị chết, chỉ còn duy nhất tiểu võ tướng Nguyễn Phúc Ánh một mình một thuyền đưa mẹ và em gái chạy trốn khỏi sự truy sát của Bùi Thị Xuân mà Nguyễn Phúc Ánh được bảo toàn mạng sống, trở thành chủ soái gánh vác cả cơ đồ nhà Nguyễn đang tưởng chừng tan thành mây khói dưới sự truy đuổi quyết liệt của Nguyễn Huệ. Ở nhân vật này có dáng dấp của một tiểu Tào Tháo, đa mưu, túc kế, gian hùng. Từ một tiểu võ tướng, trở thành Nguyễn Vương, có lúc trong tay chỉ có vài trăm quân, phải lẩn trốn sang Xiêm quốc, rồi các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Đảo, Nguyễn Phúc Ánh đã dần dần củng cố lại thế lực nhà Nguyễn, thu phục dưới trướng mình nhiều tướng tài như Nguyễn Huỳnh Đức, Tống Việt Phước, Tống Viết Khuông, Châu Văn Tiếp, Lê Chất, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Đặng Đức Siêu…
Nhưng phải đến khi người anh hùng kiệt xuất Nguyễn Huệ bị gian thần Bùi Đắc Tuyên hãm hại, thì Nguyễn Phúc Ánh mới xoay chuyển được thế cờ. Cuộc trả thủ hèn hạ của Gia Long Nguyễn Ánh đối với hài cốt của Nguyễn Huệ và các bộ tướng Tây Sơn mãi mãi là vết nhơ trong lịch sử.


Tây Sơn bi hùng truyện thu hút người đọc không chỉ ở tư liệu lịch sử phong phú, kiến văn dồi dào, mà còn ở bút pháp dựng truyện, xây dựng nhân vật khá thành công. Ngoài hai nhân vật Nguyễn Huệ, Nguyễn Phúc Ánh, hàng loạt các nhân vật thuộc các phe Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn và cả các tướng Mãn Thanh đều được tác giả phác họa khi thì bằng một vài chi tiết đặc sắc, khi kỳ công dẫn dắt qua hàng loạt các sự kiện, mối quan hệ đan xen phức tạp, ví như các nhân vật Ngô Thì Nhậm, Ngọc Hân công chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Tuyết, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm, Võ Tánh, Bùi Đắc Tuyên, Lê Văn Duyệt, Đặng Trần Thường, Vũ Tâm Can v.v…
Đọc sách, mà như được xem một cuốn phim lịch sử đầy bi thương hùng tráng, được xúc động, yêu thương với người anh hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ. Giá như, với công nghệ điện ảnh hiện thời, Tây Sơn bi hùng truyện được đưa lên màn bạc, tin rằng con em chúng ta sẽ thêm một lần được học những bài học lịch sử sống động, và mỗi chúng ta sẽ càng thêm yêu thương đất nước, cội nguồn.
Hà Nội, 28-8-2005.
Nhà văn Hoàng Minh Tường.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 2
Thương lương dân, Hồ Nhạc buôn trầu
Ghét bạo chúa, Văn Tuyết thích khách.



Lúc bấy giờ ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn có một người nông dân tên là Hồ Nhạc tuổi vừa quá đôi mươi, mặt mày phúc hậu, tay dài quá gối, tướng mạo phi phàm.
Ngày kia Nhạc vào rừng săn bắn, bỗng gặp một người bị cọp đuổi. Nhạc bèn giương cung lắp tên bắn một phát nhằm giữa trán cọp, cọp giãy nảy, chết ngay.
Thấy người bị nạn kết tóc đuôi sam, vận y phục người Tàu, Nhạc hỏi:
- Tôi xem ông không phải người ở xứ này, sao một mình vào chốn rừng sâu để đến nỗi suýt bị cọp dữ hại tánh mạng như thế?
Người ấy lạy tạ ơn đáp:
- Chẳng dám dấu ân nhân, tôi tên Quách Đại vốn là thầy địa lý ở Quảng Đông sang đây để tìm long điềm huyệt, nên một mình vào chốn núi non hiểm trở. Chẳng ngờ gặp hổ dữ, nếu không có ân nhân ra tay cứu mạng ắt thân này đã vào trong miệng cọp.
Nhạc cả cười nói đùa rằng:
- Tôi thật xưa nay không tin việc ấy. Nhưng nếu ông muốn đi tìm long huyệt, tôi tình nguyện làm hướng đạo và bảo vệ cho ông. Nếu sau này ông có làm vua xin thưởng cho tôi thật nhiều vàng bạc để cứu giúp dân tôi thoát cảnh nghèo khổ là đủ rồi.
Quách Đại vui mừng chấp thuận. Từ ấy Nhạc đưa Quách Đại đi khắp chốn núi non phủ Quy Nhơn để tìm long huyệt.
Ngày ấy Nhạc đưa Quách Đại đến đèo Mang (đèo An Khê ngày nay), khi leo lên đến núi Hoành Sơn đứng nhìn ra bốn hướng, Quách Đại cả mừng hỏi Nhạc:
- Hòn núi này tên gọi là núi gì?
- Núi này gọi là núi Hoành Sơn, tục gọi là núi Ngang. Phía bên tả là núi Trưng Sơn thường gọi là núi Bút, phía bên hữu là núi Hợi Sơn thường gọi là núi Nghiên.
- Vì sao gọi là núi Bút và núi Nghiên?
- Vì hòn núi Trưng Sơn ở bên tả cao hơn và nhọn như một ngòi bút viết lên trời nên dân gian thường gọi là núi Bút. Còn hòn Hợi Sơn ở bên hữu gọi là núi Nghiên vì trên đỉnh có một hồ nước vừa rộng vừa sâu quanh năm trong vắt không bao giờ cạn như là một nghiên mực vậy.
Quách Đại lại chỉ xuống ba hòn núi nhỏ dưới chân Hoành Sơn hỏi:
- Có ba hòn núi kia tên gọi là gì?
- Ba hòn núi nhỏ ấy, một hòn giống hình quả chuông nên gọi là Chung Sơn, một hòn giống hình quả ấn nên gọi là Ấn Sơn, một hòn thấp và dài kia giống hình thanh gươm nên gọi là núi Kiếm Sơn.
Quách Đại mừng quá vỗ tay nói lớn:
- Long huyệt chính là nằm trong núi Hoành Sơn này đó!
Hồ Nhạc nghi ngờ hỏi:
- Sao thầy dám quả quyết long huyệt nằm trong núi Hoành Sơn?
- Ân nhân không thấy sao? Núi Hoành Sơn này bên tả thì có Bút mà bên hữu thì có Nghiên để cho vua viết chiếu chỉ. Trước mặt thì có chuông để đánh gọi bá quan đến chầu. Lại có ấn kiếm định vị ngôi vua. Vậy núi Hoành Sơn này không phải là Bệ Rồng thì là gì nữa?
Nói xong quày quả ra về. Đến nhà Hồ Nhạc, Quách Đại cáo từ nói:
- Nay tôi phải về bên Quảng Đông, ít lâu nữa lại sang. Từ xưa ở xứ này hẳn có người biết đây là long địa nên mới đặt các hòn núi này tên là Nghiên, Bút, Chuông, Ấn, Kiếm. Biết long địa là việc dễ, biết long huyệt mới là việc khó. Chỉ mình tôi là biết long huyệt mà thôi.
Nói rồi bái biệt ra đi.
Ít lâu sau Quách Đại quay lại nhà Hồ Nhạc, mang theo một chiếc tráp ngoài bọc lụa điều lúc nào cũng kè kè bên mình. Nhạc biết ấy là hài cốt của song thân Quách Đại, hỏi rằng:
- Thầy đến đây đã ba ngày sao không đem hài cốt ấy mà táng vào long huyệt?
Đại cười đáp:
- Vũ trụ biến hoá đều nằm trong vòng của Âm, Dương, Ngũ hành cả. Khi can và chi giáp lại là sáu mươi năm long huyệt mới mở một lần. Mỗi lần mở chỉ trong một canh giờ là đóng. Biết long huyệt đã khó mà biết ngày giờ của long huyệt mở lại càng khó hơn gấp bội. Đợi ít hôm nữa long huyệt mở tôi sẽ táng hài cốt phụ thân tôi vào nơi ấy.
Đêm ấy Hồ Nhạc trằn trọc không ngủ được, ngồi dậy nghĩ thầm rằng: Trên đời lại có việc lạ thế sao? Cái lộc của sông núi nước Nam ta, tội gì để người Tàu sang hưởng. Nếu là Đại long huyệt để người Tàu đoạt đi, khi ấy họ cường thịnh lại sang xâm lấn nước ta, hiếp đáp dân ta, ấy là ta có tội với dân với nước vậy.
Nghĩ rồi liền cầm gươm vác cuốc đứng dậy đi ngay ra khỏi nhà. Ít hôm sau Quách Đại một mình ôm tráp lẻn lên núi Hoành Sơn. Vừa đến chân núi bỗng một con hổ vằn to lớn từ trong bụi rậm xông ra. Đại kinh hồn bạt vía quăng tráp vắt chân lên cổ mà chạy không dám ngoái đầu lại. Hồ Nhạc từ trong lốt hổ chui ra lấy tráp mở ra đánh tráo bộ hài cốt trong tráp, xong việc liền mang lốt hổ vào trong rừng mà nấp. Quách Đại chạy một hồi không thấy hổ đuổi theo liền mon men quay lại chỗ hổ vồ. Đến nơi thấy hổ đã bỏ đi, tráp vẫn còn nguyên vẹn. Đại mừng lắm bèn đem cái tráp ấy lên núi Hoành Sơn.
Nhạc nấp trong bụi rậm thấy thế cười thầm nghĩ:
- Ta phải theo Quách Đại rình xem long huyệt nằm ở đâu trên núi Hoành Sơn. Để sau này còn biết được mà xây mộ cho phụ thân.
Nghĩ rồi liền theo rình Quách Đại lên núi. Đến một hòn đá to, một nửa nằm dưới đất, một nửa lộ thiên. Quách Đại cả mừng một mình nói lớn:
- Núi Hoàng Sơn là một con rồng, đây chính là hàm rồng vậy.
Nhạc nghe Đại nói thế chăm chú nhìn, thấy hòn đá ấy hình dạng trông giống như cái đầu rồng thật, hồi hộp chờ xem. Chờ đến đúng giờ Ngọ bỗng thấy hòn đá miệng rồng nơi giáp đất nứt ra, phía trong có lỗ trống, Quách Đại liền đặt tráp vào trong lỗ ấy. Một giờ sau hàm rồng bằng đá ngậm miệng lại vẫn liền nguyên như cũ.
Quách Đại mừng quá vừa chạy xuống núi vừa hét lên rằng:
- Ta về nước đợi ngày lên ngôi Thiên tử. Giờ có gặp cọp, cọp cũng phải phục xuống lạy ta.
Nói xong liền bỏ về Quảng Đông. Hồ Nhạc thấy cảnh tượng như vậy rùng mình sởn ốc nói thầm:
- Trên đời này lại có việc lạ thế thật sao?
Từ ấy Hồ Nhạc đêm ngày ôm ấp mộng làm vua!
Nhạc thường ngày đi đây đi đó, thấy cảnh dân nghèo khắp chốn không tiền nộp thuế bị quan binh dùng roi vọt mà đánh đập, bắt tù đầy, nơi phố phường người ăn xin đầy rẫy, chỗ nông thôn cũng lắm người chết đói, Nhạc thương xót lấy làm đau lòng lắm. Lúc bấy giờ ở trên đỉnh đèo Mang gọi là Tây Sơn Thượng là một vùng rừng hoang rộng hàng vạn dặm, quyền hạn binh triều không lên đến nơi này. Nhạc bèn lập kế giả dạng người đi buôn trầu, lên Tây Sơn Thượng (An Khê ngày nay) mua trầu của người Thượng rồi đánh xe ngựa về thành Quy Nhơn bán (thị trấn Đập Đá ngày nay). Được bạc Nhạc lại xuống chợ Giả (thành phố Quy Nhơn ngày nay) mua muối, đánh xe ngược lên Tây Sơn Thượng đổi cho người Thượng lấy trầu nguồn. Gặp những người dân cùng đường đói rách, Nhạc lén đem họ lên Tây Sơn Thượng chu cấp gạo muối cho khai khẩn đất hoang. Chẳng bao lâu số người Nhạc đem lên Tây Sơn Thượng lên đến mấy trăm thủ hạ. Mỗi khi chờ Nhạc đem gạo, muối tới, lâu không thấy, bọn thủ hạ thường đến đỉnh đèo Mang ngồi ngóng, đặt câu hát rằng:



Ơn ông Hồ Nhạc chí tình
Tây Sơn quạnh quẽ nhưng mình vẫn vui



Tiếng ca vang dội núi rừng Tây Sơn Thượng.
oOo
Lúc bấy giờ xa giá của chúa Võ vương đến nghỉ đêm tại phủ Quy Nhơn. Ngô Mãnh chia quân cấm vệ canh phòng cẩn mật, tự mình lúc nào cũng đeo gươm canh ngay cửa dinh của chúa.
Canh ba đêm ấy bỗng nghe lính gác la rân:
- Thích khách! Có Thích khách.
Ngô Mãnh lập tức tuốt gươm khỏi vỏ, quát quân lính vây bắt. Tên thích khách vung song đao loang loáng giết chết vài chục quân lính. Song quân canh đông quá vây lớp trong lớp ngoài dồn thích khách vào cạnh chuồng ngựa. Bỗng ngựa cất tiếng hí vang. Thích khách nghĩ thầm: Tiếng hí thật vô cùng hùng dũng, ắt phải là tuấn mã hiếm có trên đời, ta cướp lấy chạy mau mới mong thoát chết.
Chúa đang ngon giấc nghe tin thích khách, giật mình run cầm cập, không cho Ngô Mãnh rời khỏi phòng mình. Bỗng nghe tiếng ngựa hí, chúa liền hỏi Ngô Mãnh:
- Ngô tướng quân, ngựa Xích kỳ của ta làm sao thế?
Đang đứng ngoài trướng thị chiến, Mãnh quay vào đáp:
- Kính Chúa, tên thích khách đã cưỡi ngựa Xích kỳ hòng chạy thoát thân nhưng quân ta đang vây chặt, đao kiếm loạn xạ thế kia e quăng chuột bể đồ.
Chúa hổn hển bảo:
- Lập tức truyền lệnh của ta đánh bắt tên thích khách thế nào thì tùy nhưng không được hại đến ngựa quý. Nếu kẻ nào sai lệnh chém đầu.
Lệnh được truyền ra. Tên thích khách nghe thấy, liền múa song đao vùn vụt giết thêm vài chục tên lính nữa mà giáo gươm của binh cấm vệ chẳng phạm được vào người. Quân lính không dám chém chân ngựa, nhờ vậy mà thích khách vượt khỏi trùng vây chạy thoát.
Chúa lập tức cho mời quan trấn thủ phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên đến bảo:
- Ngươi lập tức phát lệnh cho toàn quân trong phủ huyện thấy kẻ nào cưỡi ngựa cao lớn toàn thân đỏ như lửa hãy giết chết, mang ngựa về đây cho ta. Hạn cho mười ngày nếu không có ngựa thì mang đầu ngươi về kinh thay thế.
Rồi chúa quay sang Ngô Mãnh:
- Ngươi hãy sửa soạn xe ngựa ngày mai xa giá hồi kinh.
Nói đến đây chúa vừa sợ vừa uất ngã ra bất tỉnh.
oOo
Nói về tên thích khách chạy đến đâu cũng bị quan quân truy đuổi. Bèn nhằm hướng núi rừng An Khê Tây Sơn Thượng mà chạy. Ngựa Xích kỳ dù tuấn mã nhưng chạy suốt đêm ngày không ăn uống nên đã đuối sức mà phía sau quan quân đuổi theo rất gấp. Trong cơn nguy khốn bỗng thấy một người từ đèo Mang đi xuống. Người này tuổi trạc hai lăm, mặt mày cương nghị dáng dấp oai phong, đi trước một cỗ xe chở toàn lá trầu có mười người theo sau áp tải. Người ấy thấy quan quân vài mươi người đuổi bắt một tên mặt vuông râu rậm. Biết tên này đã đuối sức, người ấy cùng đồng bọn đón bắt trói lại quăng lên xe trầu chờ quan quân đến nói:
- Chúng tôi là kẻ lái buôn xin bắt cướp giúp quan.
Quan quân đến gần liền bị người ấy cùng đồ đảng rút gươm giết sạch. Thích khách hỏi:
- Bắt ta cho bọn chúng, rồi lại giết chúng là cớ làm sao?
Người ấy cười lớn đáp:
- Anh chưa biết đấy thôi, ta đây là Hồ Nhạc quê ở ấp Kiên Thành, chuyên đi buôn trầu, người quanh vùng gọi là anh Hai trầu. Ta vốn rất ghét lũ quan quân triều đình tham lam tàn ác. Ta bắt anh dụ chúng đến gần cho dễ ra tay mà thôi. Còn anh vì sao bị chúng rượt đuổi đến đây?
Thích khách đáp.
- Tôi tên Nguyễn Văn Tuyết là kẻ không nhà ở huyện Tuy Viễn. Nghe chúa Nguyễn xa giá đến Quy Nhơn thì định làm như Kinh Kha thuở ấy, nhưng việc bại lộ mới chạy đến đây may gặp được ân nhân. Xin nhận lạy này tạ ơn cứu mạng.
Hồ Nhạc đỡ Tuyết dậy nói:
- Kiến nghĩa bất vi vô dòng giả, kể ơn nghĩa làm gì. Vừa rồi anh nói tên Nguyễn Văn Tuyết, có phải song đao Nguyễn Văn Tuyết lừng danh Tuy Viễn đó chăng?
Tuyết đáp:
- Người quanh vùng thường gọi tôi tên ấy!
- Giờ Văn Tuyết định đi về đâu?
- Tuyết tôi bị truy đuổi là do quân triều nhận dạng con ngựa Xích kỳ, nguyên là tuấn mã của chúa, tôi cướp được đêm rồi. Nếu bỏ ngựa thì có ai biết Tuyết là ai, nhưng bỏ ngựa hay thì uổng quá thành ra cũng chưa biết tính sao.
Hồ Nhạc cầm tay Nguyễn Văn Tuyết nói:
- Tôi vốn đang chiêu tập quân mã vài trăm người lập doanh trại ở Tây Sơn Thượng. Ấy là chốn núi rừng hiểm trở, quyền hành binh triều không với tới. Nay không chỗ nương thân, anh có thể cùng tôi lên ấy điều binh giúp người khốn khổ bị bức bách cùng đường được chăng?
Tuyết vái lạy thưa:
- Thú thật từ lâu tôi đã nghe danh chủ tướng là người tài đức vẹn toàn. Hôm nay gặp mặt đã thoả lòng mong ước. Nếu chủ tướng thương dùng, tôi nguyện đem chút tài mọn đáp đền ơn tri ngộ.
Nhạc cả mừng bảo quân áp tải xe trầu đi trước, rồi cùng Nguyễn Văn Tuyết hai ngựa song song ngược đường đèo Mang lên Tây Sơn Thượng.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 3 Thành Phú Xuân hoàng tộc tranh quyền Đất Quy Nhơn anh hùng hội tụ
Nói về chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, sau khi xa giá hồi kinh, phần tâm thần kinh động vì việc bị thích khách, phần vừa giận vừa tiếc vì bị mất ngựa quý nên bệnh trở nặng thêm. Chúa cho mời quan Quốc phó Trương Phúc Loan đến bảo:
- Đời người ai cũng phải chết, nay số ta đã hết, có mấy điều căn dặn, khanh hãy vì ta mà hứa hết lòng.
Phúc Loan nước mắt dầm dề tâu:
- Xin Chúa thượng hãy an tâm, xin thề có trời cao chứng giám, nếu thần phụ lòng Chúa thượng thì sẽ bị trăm quan bắt giao cho kẻ địch xử tội bêu đầu.
Chúa thều thào nói:
- Khi trước Thế tử Nguyễn Phúc Hiệu mất, Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương mới chín tuổi hãy còn nhỏ dại. Nay ta đã viết di chiếu truyền ngôi cho con thứ hai của ta là Nguyễn Phúc Luân lên kế vị… Đây là gươm lệnh, khanh chớ sai lời.
Nói xong chúa mất!
Sau khi mai táng chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, Trương Phúc Loan cho gọi bá quan văn võ thiết triều. Loan nói:
- Chúa chẳng may lâm bệnh qua đời. Trước khi nhắm mắt Tiên vương phó thác cho ta lập Thế tử Nguyễn Phúc Thuần lên kế vị. Đây là tờ di chiếu và ngọc ấn Tiên vương giao cho ta. Hãy đọc cho các quan cùng nghe.
Di chiếu truyền rằng:
Võ vương Nguyễn Phúc Khoát truyền chỉ.
Nay ta sắp theo về cùng các Tiên vương. Đúng lệ là Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là con Thế tử Nguyễn Phúc Hiệu lên kế vị. Nhưng quả nhân xét thấy Hoàng tôn mới chín tuổi hãy còn nhỏ dại không thế đảm đương được quốc gia đại sự. Vậy nay truyền chỉ phong Nguyễn Phúc Thuần làm Thế tử. Sau khi quả nhân qua đời Thế tử Nguyễn Phúc Thuần sẽ lên thay quyền kế vị trị quốc an dân.

Nay chiếu.

Chiếu đọc xong, Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân bước ra nói:
- Ngày trước Thế tử mất, Phụ vương thường nói ngày sau sẽ cho ta kế vị, sao trước lúc lâm chung lại có sự nhầm lẫm như thế? Vả lại, nói rằng Hoàng tôn mới chín tuổi còn nhỏ nên không lập, mà lại lập Nguyễn Phúc Thuần cũng mới mười hai tuổi, ấy chẳng phải là điều vô lý hay sao?
Trương Phúc Loan giơ gươm lệnh lên nói:
- Đây là gươm lệnh của Tiên vương. Thấy gươm như thấy chúa. Xin Hoàng tử đừng khi quân phạm thượng.
Nguyễn Phúc Luân đùng đùng nổi giận:
- Ngươi có gươm lệnh thì làm gì được ta nào. Có mặt trăm quan ở đây há để cho ngươi làm điều thoán đoạt hay sao. Bá quan nghĩ thế nào? Đây là tờ di chiếu giả.
Luân nói chưa dứt lời liền bị Loan thét võ sĩ lôi ra chém. Thái úy Trương Văn Hạnh bước ra nói:
- Xin Quốc phó bớt giận, Hoàng tử dù buông lời nói càn, nhưng tiên chúa mới qua đời nếu làm thế e thiên hạ dị nghị rằng: Mồ cha chưa xanh cỏ, con đã tranh giành nhau của cải. Xin Quốc phó tha cho.
Loan ngẫm nghĩ rồi nói:
- Nể lời quan Thái uý không giết nhưng hãy giam vào ngục chờ chọn ngày lành tháng tốt lập Thế tử Nguyễn Phúc Thuần lên kế vị, rồi xử trị thế nào do Tân vương định đoạt.
Bỗng hộ giá quan Ngô Mãnh bước ra nói:
- Tôi thường ngày hộ giá Tiên vương, thường được xem văn thư của chúa. Vậy xin cho xem di bút của tờ di chiếu.
Phúc Loan thấy Mãnh đeo gươm bên hông bèn trỏ mặt Mãnh quát rằng:
- Ngô Mãnh! Khi thiết triều trong cung điện không ai được mang vũ khí, sao ngươi dám đeo gươm bên mình là có ý gì?
Ngô Mãnh đáp:
- Lúc Tiên vương còn tại thế tôi làm Đô thống chỉ huy cấm vệ quân. Tiên vương cho phép tôi theo hầu ở bất cứ đâu, kể cả cung cấm của Tiên vương. Xin Quốc phó xét cho.
Loan cầm gươm lệnh giơ lên quát:
- Ngày trước ngươi làm chưởng cấm vệ quân chứ há phải ngày nay. Gươm của ngươi lại bằng gươm lệnh của chúa hay sao? Võ sĩ đâu lôi ra chém!
Võ sĩ xông ra bắt Ngô Mãnh trói lại. Thái úy Trương Văn Hạnh can:
- Thưa Quốc phó, Ngô Mãnh đeo gươm chẳng qua là sự vô tình. Nay Quốc phó đem ra giết đi, chẳng phải là cố chấp hay sao? Vả chăng Ngô Mãnh muốn xem di bút của Tiên chúa, Quốc phó chẳng cho xem lại mượn sự đeo gươm mà giết đi e thiên hạ dị nghị rằng có điều mờ ám.
Văn Hạnh nói chưa dứt câu, Phúc Loan lại vỗ đùi quát:
- Việc mờ ám chính là ngươi đó!
Văn Hạnh hỏi:
- Tôi làm việc gì mà gọi là mờ ám?
Loan đáp:
- Ngày trước chúa xa giá vào Nam, Ngô Mãnh tiến cử cháu ngươi là Trương Văn Hiến theo hộ giá để âm mưu hại chúa. Việc không thành Ngô Mãnh lại để mất ngựa quý nên chúa buồn giận mà mất. Nay lại phạm luật đeo gươm vào triều, hai tội ấy không đáng chết lắm sao? Nay ngươi còn đứng ra ngăn trở chẳng phải là đồng đảng đồng mưu ư?
Nói xong truyền quân giam Trương Văn Hạnh vào ngục và đem Ngô Mãnh ra chém.
Võ sĩ lôi Ngô Mãnh ra ngoài cung điện, có người tùy tướng của Ngô Mãnh là Phan Văn Long xông đến đâm chết mấy tên võ sĩ rồi cắt dây trói cho Ngô Mãnh. Long hối:
- Tướng quân mau chạy đi, để tôi ở lại chặn binh triều.
Mãnh than:
- Đã đến nước này đằng nào cũng mang tiếng bất trung. Ta trốn đi đã đành nhưng còn ngươi thì sao?
- Thần đội ơn tri ngộ của tướng quân, nay dù có xương tan thịt nát là dịp để báo đền. Binh triều kéo đến kìa, tướng quân mau về đem gia quyến trốn đi. Xin tướng quân bảo bọc con thần là Phan Văn Lân thì thần yên lòng nhắm mắt. Một lạy này xin vĩnh biệt tướng quân.
Nói xong Long vung thương xông đến phía binh triều. Ngô Mãnh chạy thoát về nhà. Phan Văn Long chặn binh triều giết chết trăm tên quân rồi trúng tên chết. Loan sai Chữ Đức bằm thây trăm mảnh. Ngô Mãnh chỉ kịp dắt theo con Phan Văn Long là Phan Văn Lân, và cháu nội mình là Ngô Văn Sở. Toàn gia quyến bị Loan bắt giết sạch. Nguyên Sở và Lân là con nhà võ tướng nên mới mười ba tuổi đã thạo nghề cưỡi ngựa. Ba ông cháu ra cổng Nam thành Phú Xuân nhắm hướng Nam mà chạy.
Ngô Mãnh dắt hai cháu lội suối trèo đèo, đêm ngày không nghỉ, lần hồi đến Quy Nhơn thì Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ngã bệnh, Mãnh đành phải ra giữa chợ hành khất để kiếm tiền chữa bệnh cho cháu. Bỗng có một phú nông họ Bùi đi ngang qua thấy lão ăn mày quắc thước và hai thiếu niên khôi ngô tuấn tú đem lòng thương, xuống ngựa hỏi Ngô Mãnh:
- Tôi xem cụ và hai cháu đâu phải kẻ hèn, cớ sao đến nông nỗi này?
Ngô Mãnh gạt lệ đáp:
- Tôi quê ở Phú Xuân, rủi gặp nạn phải dắt cháu ăn xin độ nhật. Xin ông thương tình bố thí để chữa bệnh cháu thơ.
Bùi ông nói:
- Tôi có thể giúp cụ, nhưng cháu bớt bệnh rồi thì tá túc vào đâu? Chi bằng cụ về tệ xá tại ấp Tây Sơn ở tạm, thuốc men đã có thầy nhà.
Nói rồi bèn đem ông cháu Ngô Mãnh về nhà mình đối đãi tử tế, lo thuốc men cho Sở và Lân đến khi hồi phục.
Một đêm kia Ngô Mãnh đang ngon giấc bỗng nghe la “cướp, cướp” liền tung cửa chạy ra. Thì ra bọn cướp độ chừng vài chục tên hành hung người nhà Bùi ông, toan giở trò đạo tặc. Ngô Mãnh nghĩ bụng, đây là lúc để ta đáp nghĩa ân nhân. Mãnh quát lên như sấm:
- Lũ cướp dừng tay!
Mãnh tay không xông vào bọn cướp đến đâu chúng ngã lăn ra đến đấy, đứa vỡ đầu lọi cẳng gãy tay, lạy lục xin tha. Ngô Mãnh khuỳnh tay quát:
- Ta lấy đức hiếu sinh tha cho chúng bay một lần. Hãy cải tà quy chánh, chớ đem lòng đạo tặc mà có ngày chuốc vạ vào thân.
Tha bọn cướp xong, Bùi ông mời lão Ngô vào nhà hỏi.
- Cụ tài đức vẹn toàn mà phải tha phương cầu thực ắt là có uẩn khúc chi đây? Nếu không nghi ngại có thể bày tỏ cho vơi nỗi lòng được chăng?
Ngô Mãnh đáp:
- Giờ này chẳng dám giấu ân nhân. Tôi tên Ngô Mãnh làm Đô thống ở thành Phú Xuân bị Quốc phó Trương Phúc Loan làm hại nên trốn vào đây, gặp ân nhân ra tay tế độ lòng rất áy náy bấy lâu không biết lấy chi đền đáp.
Nói xong quỳ lạy Bùi ông. Bùi ông đỡ dậy nói:
- Làm việc nghĩa ai lại nghĩ đến chuyện trả ơn. Nhưng nếu cụ muốn trả ơn cũng chẳng khó gì. Tôi có một con gái tên là Bùi Thị Xuân, tính ưa theo đòi cung kiếm, phiền cụ chỉ dạy cho cháu phòng khi hữu sự.
Nói xong gọi con ra bái Ngô Mãnh làm thầy, Ngô Mãnh thấy Bùi Thị Xuân mày tằm mắt phượng, môi nhỏ má hồng, dáng vẻ thanh tao mà thần sắc oai phong trong bụng rất mừng.
Từ ấy ông ngày đêm ra sức dạy võ nghệ binh thư cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Bùi Thị Xuân. Ngày qua tháng lại thấm thoát năm năm Xuân cùng Lân, Sở ba người đều võ nghệ siêu quần, tài trí hơn người, tiếng lành đồn khắp gần xa.
*
* *
Trong khi Ngô Mãnh thoát chết trốn vào phủ Quy Nhơn tá túc nhà Bùi ông ở ấp Tây Sơn thì Trương Văn Hạnh bị giam vào ngục, Phúc Loan lại cho quân vây nhà Văn Hạnh bắt hết gia quyến, người tùy tướng là Trương Văn Hiến đơn thương độc mã đột phá trùng vậy chạy thoát khỏi thành Phú Xuân nhắm hướng Nam mà chạy.
Lần hồi đến Quy Nhơn phủ thấy núi non hung vĩ cỏ cây sầm uất, Hiến nghĩ thầm:
- Nơi đây là thành Đồ Bàn cũ của vua Chiêm, sau lưng dựa vào núi non hiểm trở, trước mặt trông ra biển lớn, trong ngoài đều có đèo cao án ngữ, thật là đất dụng võ. Thảo nào ngày xưa vua Chiêm là Chế Bồng Nga lập kinh đô ở đất này đã làm nên võ công hiển hách. Địa linh ắt sinh nhân kiệt. Thôi thì ta tạm tìm nơi ẩn náu rồi sẽ liệu sau.
Nghĩ xong bỗng nghe tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng. Ngoảnh nhìn lại thấy một thanh niên vừa đánh vừa lui, một mình chống đỡ hơn mười tên mặt mày hung tợn. Xem người này yếu thế, đã thấm mệt, Hiến bèn xông ra nói lớn:
- Các người sao lại ỷ đông hiếp yếu thì đâu phải là người hào kiệt.
Tên đầu đảng quát:
- Bọn ta là cướp, cần bạc vàng chứ đâu cần làm hào kiệt. Giết!
Chúng vung đao chém bừa. Hiến chỉ múa vài đường roi bọn chúng văng vũ khí liền hò nhau bỏ chạy. Người thanh niên quỳ lạy tạ ơn. Hiến đỡ dậy hỏi:
- Đây là nơi hoang vắng, sao anh lại mạo hiểm đi một mình để gặp cướp thế này?
Người ấy đáp:
- Tôi tên Hồ Nhạc nhà ở ấp Kiên Thành thường đi buôn trầu ở Tây Sơn Thượng đem xuống thành Quy Nhơn bán, rồi lấy vàng bạc xuống chợ Giả ở cửa Bể mua muối chở lên bán cho người Thượng ở Tây Sơn Thượng. Nay giữa đường gặp cướp nếu không gặp ân nhân mạng ắt chẳng còn. Nghe tiếng nói ân nhân không phải là người địa phương, dám hỏi ân nhân quê quán ở đâu, vì sao phải đến chốn này?
Hiến ngậm ngùi đáp:
- Tôi tên Trương Văn Hiến quê ở thành Phú Xuân, thời loạn ly gặp đại nạn phải bỏ nhà trốn tránh nơi đây.
Nhạc hỏi:
- Giờ ân nhân định đi về đâu?
Hiến đáp:
- Giờ đây là kẻ không nhà chưa biết phải về đâu?
Nói xong khật khưỡng vừa đi vừa ca rằng:



Không nhà chẳng biết đói no
Khá khen tạo hóa bày trò trêu ngươi
Sự đời chỉ một trận cười
Ta theo trăng gió dạo chơi ngũ hồ.






Nhạc chạy theo quỳ trước mặt Hiến thưa:
- Xin ân nhân dừng bước. Tôi hiện còn một căn nhà trống ba gian, xin ân nhân hãy về ở tạm. Tài văn võ của tiên sinh nếu mở trường dạy học thì chẳng những đã có kế sinh nhai lại còn được người đời trọng vọng. Xin tiên sinh chớ chối từ.
Hiến xúc động nói:
- Cảm ơn tấm thịnh tình của anh. Nhưng ta từ phương xa đến đây, ai biết ta thế nào mà cho con em theo học?
Nhạc đáp:
- Việc ấy xin tiên sinh chớ ngại. Tôi tuy tài hèn nhưng người quanh vùng đều mến phục. Nay họ thấy tôi tôn tiên sinh làm thầy lo gì họ chẳng cho con em theo học.
Hiến bèn theo Nhạc về nhà. Hôm sau Nhạc đến gặp Hiến nói:
- Tôi vốn phụ thân đã mất nên phải thay cha lo kế sinh nhai. Hiện còn hai em trai, nay đem đến bái sư xin nhờ thầy giáo huấn.
Hiến nói:
- Anh khách sáo làm gì, hãy cho trẻ vào ra mắt.
Nhạc gọi hai em vào lạy chào. Nhạc trỏ hai em nói:
- Đây là Hồ Huệ, tên tục là Thơm tuổi mới mười ba, còn kia là Hồ Lữ tuổi mới mười hai.
Hiến ngắm Lữ thấy tay chân vạm vỡ mặt mày hiền lương chân chất lòng rất cảm thương, lại thấy Huệ tuy còn niên thiếu mà lưng hùm vai gấu, mặt vuông tai lớn, mắt sắc như gươm, ánh nhìn như chớp thì lấy làm lạ bèn hỏi:
- Vì sao Huệ lại có tên tục là Thơm?
Nhạc bảo Huệ:
- Em hãy bẩm với thầy xem.
Huệ kính cẩn thưa:
- Bẩm thầy, con nghe thân mẫu kể rằng lúc lâm bồn sanh con, hoa huệ trong vườn bỗng nở thơm ngát nên thân phụ mới đặt tên chữ là Huệ, tên tục là Thơm.
Hiến nghe tiếng nói của Huệ sang sảng như chuông, thất kinh nghĩ thầm, thằng bé này về sau nhất định là bậc anh hùng quán thế, tài trùm thiên hạ chứ chẳng phải là kẻ tầm thường.
Từ ấy Trương Văn Hiến giữ Huệ và Lữ ở lại nhà truyền văn thụ võ.
*
* *
Một hôm Trương Văn Hiến có việc đi ngang qua núi Hoành Sơn. Khi đến chân núi, Hiến gặp một cậu bé trạc mười hai, mười ba tuổi đang ngồi hí hoáy vẽ. Thỉnh thoảng cậu bé đứng dậy đăm đăm nhìn lên núi rồi lại ngồi xuống chăm chú vẽ. Hiến lấy làm lạ đến gần hỏi:
- Cháu bé kia! Cháu vẽ gì thế?
Cậu bé đáp:
- Cháu vẽ núi!
Hiến nhìn vào bản vẽ cười to bảo:
- Vẽ núi thì phải có cỏ, có cây, có mây, có nước mới nên phong cảnh đẹp. Hình vẽ của cháu chỉ có hình mấy dãy núi và quả núi, lại có mấy đường ngoằn ngoèo dẫn lên núi thì cần gì mà quan sát kỹ lưỡng thế?
Cậu bé cũng cười to đáp :
- Cỏ cây mây nước của ông thì ai cũng nhìn thấy được, còn những đường ngoằn ngoèo của cháu mắt phàm không thể trông thấy, nên cháu phải quan sát kỹ lưỡng là do thế.
Hiến ngạc nhiên hỏi:
- Những đường ấy là đường gì mà mắt phàm không thể nhìn thấy được?
Cậu bé hỏi lại Hiến:
- Thế ông nhìn lên núi có thấy những đường ngoằn ngoèo như trong bản vẽ của cháu chăng?
Hiến đáp:
- Ta chỉ thấy cỏ cây chứ làm gì có những đường ấy!
Cậu bé cười ngặt nghẽo nói:
- Ấy mắt ông cũng là mắt phàm vậy.
Hiến tò mò hỏi:
- Cháu hãy nói xem những đường ấy là đường gì? Nếu nói hay ta sẽ thưởng.
Bấy giờ cậu bé chỉ tay lên núi hỏi Hiến:
- Núi non cỏ cây sầm uất đều xanh thẫm một màu, vậy còn vùng núi màu xanh lợt kia là gì ông có biết không?
Hiến cười đáp:
- Ấy là trảng cỏ tranh bị cháy rồi nảy mầm non nên có màu xanh lợt. Việc ấy có gì mà không biết.
Cậu bé nói:
- Nai, mang, mển trong rừng thường đến vùng cỏ mới cháy để ăn mầm non, nên cháu vẽ đường lên trảng cỏ tranh ấy cho phường săn của ông Đặng Đồng Phụng đến bắt nai, mang.
Hiến hỏi:
- Cháu đã lên đấy chưa mà biết được đường?
Cậu bé lại cười to đáp:
- Nếu đã biết đường thì cần gì phải nhìn núi mà vẽ!
Hiến lấy làm lạ hỏi:
- Không biết đường sao vẽ được đường?
Cậu bé lại cười đáp:
- Cháu nhìn núi xem dốc đổ phía nào mà biết được dòng suối chảy vào mùa mưa. Nước chảy tất phải trôi mất đất, mà không còn đất chỉ còn đá, tất cây không mọc được. Tự nhiên nơi ấy sẽ thành đường đi trong rừng. Đó là cái mà ngoài cháu ra kẻ mắt phàm không nhìn thấy được.
Hiến mừng rỡ reo lên:
- Đây thật là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Quả nhiên đất Quy Nhơn địa linh sinh nhân kiệt.
Đoạn Hiến hỏi cậu bé:
- Cháu tên gì? Nhà ở đâu?
- Cháu tên Võ Văn Dũng! Nhà ở Tây Sơn Hạ!
- Cháu có muốn làm học trò của ta chăng?
Văn Dũng hỏi lại Hiến:
- Ông có tài gì mà đòi làm thầy của cháu?
Hiến chưa biết trả lời thế nào bỗng nghe sau lưng có tiếng quát lớn:
- Ta định nhận Văn Dũng làm học trò, ngươi là ai mà dám giành học trò của ta?
Hiến và Dũng giật mình quay lại thấy một ông già tuổi trạc lục tuần, tóc râu đã bạc nhưng thân thể hãy còn tráng kiện lắm. Võ Văn Dũng nói:
- Ấy là lão Đặng Đồng Phụng đầu phường săn.
Hiến hỏi lão Phụng:
- Vì sao tiền bối định nhận cháu Dũng làm học trò?
Lão Phụng đáp:
- Ta dạy võ nghệ cho nó mai sau lớn lên đi săn bắt thú rừng đem về thành bán cho quan quân. Như vậy cũng được phú quý.
Hiến hỏi Võ Văn Dũng:
- Còn ta sẽ dạy cho con văn võ binh thư, mai sau khôn lớn vẽ bản đồ sông núi nước Nam để dùng quân đánh đổ binh triều cứu nguy trăm họ. Vậy con muốn theo ai?
Võ Văn Dũng đáp:
- Con xin nhận thầy làm sư phụ.
Lão Phụng thấy vậy giận lắm quát lên:
- Nếu ngươi đánh thắng ta thì ta sẽ không giành học trò với ngươi nữa.
Quát xong xông vào đánh liền, Trương Văn Hiến đưa tay đỡ đòn. Hai tay chạm nhau, Hiến nghe tay mình đau buốt liền nhảy khỏi vòng chiến, Lão Phụng cả cười nói:
- Đặng Đồng Phụng ta được chân truyền về môn cương công. Ta tập luyện hai cánh tay như sắt, côn gỗ đánh vào còn không hề hấn gì thì tay ngươi sao chịu nổi. Vậy đã chịu thua chưa?
Hiến hỏi lại Lão Phụng:
- Nếu tôi đánh lại được tiền bối thì thế nào?
Lão Phụng cười to đáp:
- Ta sẽ nhường học trò cho ngươi, không giành nữa.
Văn Hiến mừng rỡ nói:
- Xin tiền bối chớ quên lời, vậy tiền bối hãy ra tay trước.
Đặng Đồng Phụng vung tay đánh Hiến. Hiến co ngón tay giữa nhô lên thành Độc giác chỉ điểm mạnh vào huyệt Hợp cốc ở hổ khẩu và huyệt Khúc trì ở khuỷu tay lão Phụng. Lão Phụng hai tay tê hại không cử động được, lão liền vung chân đá Hiến. Hiến lại co ngón tay giữa, điểm mạnh vào huyệt Ủy trung ở nhượng chân và huyệt Thừa sơn ở giữa bắp chân của lão Phụng. Lão Phụng cà nhắc một chân cúi đầu nói:
- Ông võ nghệ cao cường tôi xin bái phục. Xin hỏi vừa rồi ông sử dụng môn võ gì?
Hiến đáp:
- Môn cương công của tiền bối đã luyện tay chân cứng như sắt thật là vô địch thiên hạ. Muốn thắng được tiền bối tôi phải dùng nhu công điểm vào các yếu huyệt làm cho tay chân tê dại mà thôi!
Lão Phụng bảo Võ Văn Dũng:
- Ta mừng cho cháu gặp được thầy hay - rồi quay sang Trương Văn Hiến, Lão Phụng nói - Tôi có một đứa cháu nội tuổi trạc như Võ Văn Dũng tên là Đặng Văn Long. Cha nó chẳng may mất sớm, mẹ con nó được tôi nuôi dưỡng, nay xin gửi thầy theo học nghề văn võ mai sau giúp ích cho đời. Xin thầy vui lòng nhận cho.
Hiến vui vẻ chấp thuận.
Từ ấy hai cậu bé Võ Văn Dũng và Đặng Văn Long theo làm học trò Trương Văn Hiến.
Võ Văn Dũng và Đặng Văn Long gọi Hồ Huệ là đại sư huynh, gọi Lữ là nhị sư huynh. Huệ và Lữ gọi Văn Dũng là tam sư đệ và Đặng Văn Long là tứ sư đệ.
Trương Văn Hiến đem hết sở học truyền cho bốn học trò. Ngày qua tháng lại thấm thoát đã năm năm. Huệ, Lữ, Dũng, Long đã trở thành những trang thiếu niên anh kiệt. Tiếng lành đồn khắp gần xa.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 4 Thiếu quân lương, Huệ bày anh làm quan Thuận ý trời, Hiến khuyên trò đổi họ
Một hôm Hiến cùng Nhạc ngồi đàm đạo có Huệ và Lữ đứng hầu bên cạnh. Bỗng nghe tiếng đàn bà hát ru con rằng:
Chiều chiều én liệng Truông Mây
Cảm thương chàng Lía bị vây trong thành.
Huệ nghe vòng tay hỏi:
- Bẩm thầy, tên Lía trong chữ Hán viết như thế nào? Xin thầy chỉ dạy.
Hiến đáp:
- Tiếng Nam ta có nhiều từ mà chữ Hán không viết được. Ví như chữ Lía con vừa hỏi đó.
Huệ hỏi:
- Thế lúc Lía tập hợp dân khởi nghĩa ở Truông Mây, quan trấn thủ dâng sớ báo về triều thì viết chữ “Lía” như thế nào?
Hiến đáp:
- Điều này ta cũng không rõ, có lẽ viết tên Lía bằng chữ Nôm của nước Nam ta vậy.
Huệ lại hỏi:
- Thế tại sao triều đình không dùng chữ Nôm của nước ta, viết chiếu chỉ văn thư thay cho chữ Hán, để khi truyền đạt cho dân chúng không cần đến người dịch nghĩa. Theo con nghĩ như thế chẳng tiện hơn sao?
Hiến đáp:
- Từ xưa đến nay đã thành lệ như thế. Vả lại chưa thấy có ông vua nào có ý thay đổi quốc tự cả.
Huệ quay sang Nhạc thưa:
- Đại huynh, ngày sau đại huynh có làm vua nhất định phải đem chữ Nôm thay cho chữ Hán, chứ dùng văn tự của người Tàu thì làm sao gọi là quốc tự được.
Nhạc chỉ mặt Huệ mắng rằng:
- Ngươi là đứa con nít mới mười tám tuổi dám ngỗ nghịch nói càn. Quốc tự là việc lớn trong thiên hạ há để cho đứa con nít như ngươi bàn đến hay sao? Vả lại vua và chúa còn sờ sờ ra đó, muốn ta mất đầu hay sao mà buông lời xằng bậy. Mau ra ngoài cho ta hầu chuyện với thầy.
Huệ sợ hãi lui ra. Hiến nói :
- Ta thấy ý của Huệ là ý hay, nhưng không biết sau này có ai làm được hay không. Còn Huệ là em, chắc hiểu được được chí của anh nên mới nói thế chăng?
Nhạc vội vã thưa :
- Xin thầy chớ nghe lời trẻ con rồ dại. Tôi giữ phận con dân, chỉ biết đem trầu của miền ngược bán về miền xuôi, đem muối ở miền xuôi bán lên cho người Thượng, tần tảo thay cha nuôi em. Nếu nó có nói như thế ấy là ý của nó mà thôi. Xin thầy chớ để tâm làm gì.
Hiến trầm ngâm nói :
- Chẳng giấu gì anh, ta vốn là tùy tướng của quan Thái úy Trương Văn Hạnh. Quan Thái úy bị loạn thần Trương Phúc Loan làm hại phải chết, ta đành bỏ kinh thành trốn vào đây để giữ lấy thân. Nay ta thấy ở Đàng Ngoài vua Lê bị chúa Trịnh lấn áp. Trịnh - Nguyễn phân tranh lấy sông Linh Giang làm ranh giới nội chiến ngót trăm năm, dân tình thống khổ. Trong thì chúa Nguyễn chỉ lo hưởng lạc để trăm quan bóc lột lương dân. Gần đây Phúc Loan tham lam bạo ngược bá tánh lại càng thêm điêu đứng. Ta với anh có duyên hội ngộ, thân thế của ta từ lâu có dám thổ lộ với ai đâu. Người xưa có câu : “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, giấu nhau làm chi nữa. Vả chăng đem muối bán cho người Thượng chỉ là cái cớ, chẳng phải anh dự trữ một thứ lương thực không có gì thay thế được, mưu lấy vùng núi rừng Tây Sơn Thượng làm nơi dụng võ hay sao. Việc ấy chỉ che mắt kẻ khác chứ lừa được ta ư. Nếu anh đã có chí thay đổi cơ trời, ta xin giúp một tay, trước cứu muôn dân sau báo thù cho chủ tướng.
Nhạc thất kinh sụp lạy :
- Nhạc tôi có mắt không tròng, toan lấy vải thưa mà che mắt thánh. Thấy dân trong phủ lầm than, tiếng kêu oan đã thấu đến trời, tôi muốn làm như Lương Sơn Bạc quy tụ anh hùng định đánh đuổi quan trấn thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho thoả lòng nghĩa hiệp mà thôi, chứ thân chưa ra khỏi núi rừng, chưa biết được điạ lợi nhân hòa thì dám đâu thay đổi cơ trời. Nay việc đã lỡ cúi xin thầy anh minh dạy bảo.
Hiến đỡ Nhạc dậy hỏi :
- Hiện nay việc ấy anh đã làm đến đâu rồi ?
Nhạc thưa :
- Tôi quy tụ được năm trăm quân nghĩa đóng ở Tây Sơn Thượng, hiện đang giao cho Nguyễn Văn Tuyết trông coi việc phá rừng khai khẩn đất hoang tự lo lấy việc binh lương. Trong lúc ban đầu khai khẩn, thiếu lương thực nuôi quân, bạc tiền hết sạch, nếu để quân đói cướp bóc của dân thì còn gì là chính nghĩa. Thầy có cao kiến gì xin mách bảo cho.
Hiến còn đang suy nghĩ, bỗng Huệ bước vào chấp tay thưa :
- Bẩm thầy và đại huynh, con có một kế.
Nhạc tức giận toan quát, Hiến ngăn lại :
- Cứ để Huệ nói xem, anh đừng xem thường kẻ hậu sanh khả úy.
Nể lời thầy Nhạc nín thinh, Huệ nói :
- Hiện nay mỗi tháng Biện lại Vân Đồn thu thuế của dân lên đến trăm lạng vàng. Đại huynh lúc buôn trầu có quen biết Đốc Trưng Đằng trông coi thuế khóa trong phủ Quy Nhơn. Nay đại huynh lo lót cho hắn xin làm Biện lại Vân Đồn, ta thu thuế ba tháng, sau đó bỏ chức đem bạc vào nuôi quân. Lúc ấy ta khai khẩn rừng hoang ở Tây Sơn Thượng, đất đai hàng trăm dặm thì vạn quân còn nuôi nổi, cứ gì năm trăm quân. Xin đại huynh xét lại.
Hiến khen :
- Diệu kế ! Nhưng ta không đành làm cướp đêm, lại đi làm cướp ngày sao được ?
Huệ đáp :
- Dù đại huynh không nhận chức cũng có người khác làm thay e rằng càng khổ cho dân hơn nữa. Vả lại nhân dân vốn khiếp sợ quân quan triều đình. Quan sai người đến lấy thuế, dân lập tức nộp ngay để tránh đòn roi. Người nào không đủ tiến nộp thuế, phải bỏ quê lẩn trốn lên rừng. Năm trăm quân của đại huynh ở Tây Sơn Thượng đều là người nghèo trốn thuế cả. Ta lấy tiền thuế nuôi dân sao gọi là cướp ngày được. Dám xin thầy xét lại.
Nhạc khen :
- Em thật là sáng dạ hơn người. Nhưng việc này ta thấy có một điều khó, đó là, Biện lại Vân Đồn có người đang tại chức thì làm sao xin thế chân cho được ?
Huệ đáp :
- Việc tên Biện lại Vân Đồn háo sắc không còn tại chức đại huynh cứ để em lo.
Nhạc lại hỏi :
- Lo bằng cách nào ?
Huệ đáp :
- Xin đại huynh chớ hỏi, hẹn trong năm ngày đại huynh đến xin Đốc Trưng Đằng nhận chức.
Hiến xen vào nói :
- Thôi được, anh Nhạc cứ an tâm, ta làm thầy ắt rõ tính trò. Huệ đã nói chắc vậy thì ắt việc phải thành đừng bàn đến nữa. Nay ta có điều này định nói anh xem ý thế nào?
Nhạc hỏi :
- Có việc gì xin thầy cứ vui lòng dạy bảo.
Hiến nói :
- Muôn dân ở Đàng Trong mang nặng ơn chúa Nguyễn Hoàng khai phá đất đai mở mang bờ cõi. Vả lại xét trong lịch sử nước ta Hồ Quý Ly làm vua do soán ngôi nhà Trần không được lòng dân. Gần đây ta lại nghe thiên hạ truyền miệng nhau hai câu sấm : Một là : “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”. Nay Nhạc dấy binh ở đất Tây Sơn đã phù hợp với câu sấm này rồi vậy. Câu thứ hai là : “Phụ Nguyễn phục thống”, nghĩa là một họ Nguyễn khác sẽ thống nhất Giang Sơn. Vậy sau này Nhạc ra nhận chức Biện lại ở Vân Đồn thì nên đổi họ Hồ ra họ Nguyễn cho thuận ý trời. Ý Nhạc thế nào ?
Nhạc bái lạy :
- Lời thầy thật chí lý, tôi đâu dám không nghe.
Từ ấy anh em Nhạc, Huệ, Lữ đổi họ Hồ thành họ Nguyễn.
*
* *
Canh ba đêm ấy Huệ giắt kiếm vào lưng lẻn đến nhà toan giết chết Biện lại Vân Đồn. Đến cổng thấy vài chục tên lính nằm chết ngổn ngang, một người thanh niêm cầm gươm cắt vạt áo của xác tên Biện lại Vân Đồn rồi gói đầu hắn vào vạt áo ấy. Người này vừa đi vừa nói :
- Nay giết tên tham quan này, giờ có ra đầu thú cũng đã làm xong một việc có ích.
Huệ chặn người ấy lại nói :
- Hôm qua tên tham quan này hãm hiếp con gái nhà lành, tôi định cầm gươm đến lấy đầu hắn, không ngờ tráng sĩ đã lấy mất rồi. Tôi xem tài tráng sĩ có thể tung hoành trong thiên hạ, khí khái hơn người, sao vì một tên dâm tặc mà tự hủy thân mình, chẳng phải là việc làm nông nổi lắm ư ?
Người ấy đáp :
- Tôi tên Vũ Văn Nhậm quê quán ở phủ Quảng Nam, mồ côi cha mẹ. Đầu quân triều đình làm đội trưởng, bị quan trên chèn ép mới bỏ đến đây. Nghe tên quan này ban ngày ban mặt hãm hiếp con gái nhà lành mới giết đi định ra đầu thú. Bởi trong trời đất này không có chỗ dung thân ta nữa rồi. Còn cao nhân là ai, có thể cứu được kẻ cùng đường này sao mà hỏi những lời ấy ?
Huệ nói :
- Tôi tên Nguyễn Huệ, anh tôi là Nguyễn Nhạc dấy binh ở Tây Sơn, chiêu hiền đãi sĩ mong làm việc đại nghĩa cứu rỗi muôn dân. Nếu tráng sĩ không chê là phường đạo tặc thì có thể cùng nhau một phen lấp biển vá trời chăng?
Vũ Văn Nhậm bái tạ xin theo. Huệ bèn dẫn Nhậm về nhà ra mắt Nguyễn Nhạc, kể lại sự tình rồi nói :
- Nay tôi xin đến chiêu tập Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Bùi Thị Xuân đều là trang thiếu niên anh kiệt, vốn cùng tôi kết nghĩa đệ huynh, tình như thủ túc. Sau đó đại huynh đưa chúng tôi lên Tây Sơn Thượng xây dựng doanh trại, huấn luyện binh sĩ. Rồi đại huynh đệ về xin nhận chức Biện lại Vân Đồn. Hẹn ba tháng sau đón đại huynh lên đường cùng khởi sự.
Đêm hôm sau Nhạc dẫn Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Bùi Thị Xuân, trong tiết cuối đông trời se se lạnh dưới ánh trăng mờ mờ, nhắm hướng núi rừng Tây Sơn Thượng, sương trắng giăng giăng cùng nhau thẳng tiến.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 5 Thay quyền anh, Nguyễn Huệ nhổ cây thu phục Nguyễn Văn Tuyết. Tìm minh chủ, Trần Quang Diệu đánh cọp gặp gỡ Bùi Thị Xuân
Nhắc lại Nguyễn Nhạc dẫn hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cùng các thủ hạ lên Tây Sơn Thượng. Tuyết hay tin ra nghênh đón rồi tất cả cùng vào doanh trại.
Sau khi yên vị Nhạc nói:
- Ngày mai ta về Quy Nhơn để nhận chức Biện lại huyện Vân Đồn. Nguyễn Huệ em kế của ta sẽ thay ta điều binh khiển tướng, huấn luyện binh sĩ, xây dựng doanh trại để phòng thủ. Hẹn ba tháng sau ta mang lương thảo về rồi cùng nhau khởi sự.
Nguyễn Văn Tuyết hậm hực bước ra nói:
- Từ ngày tôi theo phò chủ tướng đã năm năm nay. Nguyện Huệ dù là em ruột của chủ tướng nhưng có tài cán gì, vả lại, tuổi còn nhỏ dại nay thay chủ tướng điều khiển ba quân tôi e có nhiều người không phục.
Huệ điềm đạm nói:
- Thưa đại huynh, việc người thay thế hãy khoan bàn đến, Xin đại huynh hãy cho duyệt binh xem quân thế uy dũng ra sao, tiến thoái thế nào?
Nhạc khen:
- Lời em rất phải.
Nói xong liền ra ngoài doanh trại tập hợp binh sĩ, bảo Nguyễn Văn Tuyết:
- Tướng quân chỉ huy binh sĩ luyện tập xem sao!
Huệ đứng nhìn thấy năm trăm quân hàng ngũ lộn xộn, chỉ luyện tập võ nghệ không có hiệu lệnh tiến thoái gì cả.
Chờ Tuyết luyện quân xong Huệ nói:
- Tướng quân võ nghệ hơn người nên luyện tập binh sĩ khí thế dũng mãnh một có thể địch hai, ba. Nhưng nếu dùng hiệu lệnh bảo quân tiến thì thế nào, lui thế nào và sang tả, hữu thì sao, xin tướng quân vui lòng chỉ dạy.
Tuyết ngập ngừng đáp:
- Tôi chỉ luyện quân gặp giặc thì đánh, địch ở đâu thì tiến về phía ấy vậy chẳng đúng hay sao?
Huệ nói:
- Binh pháp có dạy: quân ngũ phải chỉnh tề, quân pháp phải nghiêm minh, tiến thoái đúng theo hiệu lệnh thì nhuệ khí mới mạnh mẽ, ba quân vững dạ, địch quân trông thấy ắt là nao núng có khi chưa đánh đã tan. Xin tướng quân xét lại.
Tuyết chẳng nói gì. Nhạc xen vào hỏi:
- Theo ý em thì nên thế nào?
Huệ đáp:
- Lúc qua đèo Mang em quan sát địa hình thấy gần đỉnh đèo có hai hòn núi(1) ở hai bên đường cách nhau vài dặm. Ta cho quân đắp lũy nối hai núi này, đường đèo làm cổng lên Tây Sơn Thượng đề phòng binh triều đến đánh. Trong chỉnh đốn đội ngũ, cứ mười quân làm một toán, mười toán làm một đội, mười đội làm một cơ có toán trưởng, đội trưởng chưởng cơ đứng đầu. Tập binh tiến thoái theo hiệu cờ và trống lệnh. Người Thượng có tài bắn cung nỏ bách phát bách trúng, họ vốn mang ân đức của đại huynh đem muối lên phân phát. Nay ta chiêu mộ người Thượng lập thành đội xạ thủ, thì dù quân triều có thiên binh vạn mã cũng không thể vượt khỏi đèo Mang hiểm trở, nói gì đến việc lên vùng Tây Sơn Thượng.
Nhạc mừng rỡ nói:
- Em quả nhiên có tài thao lược. Nay có em điều binh khiển tướng ta mới yên lòng.
Nhạc quay sang Tuyết, cười hỏi:
- Chẳng hay ý song đao tướng quân Nguyễn Văn Tuyết thế nào?
Tuyết vòng tay đáp:
- Tôi thọ ơn chủ tướng chẳng dám sai lời, nhưng lòng này không phục.
Nhạc hỏi:
- Như thế nào tướng quân mới phục?
Tuyết hai tay vịn hai chuôi đao đeo sau lưng đáp:
- Nếu Huệ thắng được song đao của tôi, thì dù bảo nhảy vào lửa Tuyết cũng xin vâng.
Bỗng có tiếng quát:
- Một ngọn giáo của ta cũng đủ, cần gì phiền đến nhị ca.
Mọi người nhìn lại thấy Vũ Văn Nhậm đã vác giáo đứng giữa sân, Phan Văn Lân tiến đến can:
- Giáo của Vũ huynh vừa chém đầu tham quan giữa chợ ai cũng biết tài. Hãy để trường thương của tôi xem song đao vô địch biến hóa thế nào.
Tuyết thấy Văn Lân mặt mày trắng trẻo, dáng dấp thư sinh liền cười lớn:
- Song đao của ta đâu dùng để đánh tên học trò trói gà không chặt như ngươi!
Văn Lân thân người mảnh khảnh nhưng tính nóng như lửa, nghe Tuyết cười mình, hơi giận bốc lên vung thương toan xông đến. Huệ trừng mắt quát:
- Văn Lân không được vô lễ.
Lân hậm hực lui ra, Huệ trỏ vào một cây rừng ở giữa giáo trường hỏi Nhạc và Tuyết:
- Ở trước doanh trại nên dựng cột treo cờ cho thêm vẻ oai nghiêm. Dám hỏi đại huynh cùng tướng quân Văn Tuyết, cây hoang mọc trước doanh trại là cây gì? Vì sao không chặt đi?
Tuyết đáp:
- Ấy là cây sơn núi, giống cây này có nhựa màu đen nếu chạm phải nhựa ấy liền bị nhức nhối khắp mình. Nếu thế thôi thì cũng có thể chặt được, riêng cây này chẳng rõ vì sao lại rất độc, quân lính đã mấy phen chặt thử, nhưng mới chặt vào một dao, nhựa ứa ra hơi độc xông lên liền sưng phù mình mẩy, nhức nhối ngay tại chỗ nên không ai dám chặt. Vả lại tôi xét thấy cũng chẳng hại gì nên đành thôi vậy.
Huệ hỏi:
- Sao không chất lửa đốt đi?
Nhạc đỡ lời:
- Những cây sơn khác nếu đốt khói độc xông lên người ngựa đều mắc bệnh, huống hồ cây này, nên không dám đốt.
Huệ đến gần quan sát thấy cây độc cao vài chục thước, chu vi vừa tràm hai gang tay, bèn nói:
- Tôi có cách này không cần chặt, cũng không cần đốt lại có thể loại bỏ được cây độc.
Nhạc cùng các tướng đồng thanh hỏi:
- Cách nào?
Huệ đáp:
- Nhổ đi.
Tuyết vỗ tay cười lớn:
- Nãy giờ chỉ nghe ông nói thì hay lắm nhưng chẳng thấy làm. Nếu được như lời ta xin dập đầu bái phục.
Huệ chẳng nói chẳng rằng xắn tay áo, rùn chân xuống tấn ôm lấy thân cây, hét lên một tiếng nhổ bật cả gốc rễ, buông tay ra cây đã đổ ầm xuống đất. Ba quân vỗ tay hoan hô như sấm. Tuyết quỳ xuống vái lạy:
- Tôi có mắt không tròng, chẳng thấy núi Thái Sơn trước mặt, xin tướng quân miễn chấp. Nguyện một lòng tuân theo lời sai khiến của tướng quân.
Huệ đỡ Tuyết đứng dậy nói:
- Nếu tôi có điều gì mạo phạm ấy cũng vì lo đại cuộc mà thôi. Xin tướng quân chớ để bụng.
Nhạc mừng rỡ nói với các tướng:
- Ngày mai ta về thành Quy Nhơn nhận chức Biện lại Vân Đồn để lo việc lương thảo. Em ta là Nguyễn Huệ tạm thời thay ta điều binh khiển tướng. Còn ai không phục nữa chăng?
Tướng sĩ đồng thanh hô:
- Chúng tôi xin bái phục.
*
* *
Một hôm Huệ cùng các tướng Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Tuyết, Phan Văn Lân, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm đang luyện tập quân sĩ bỗng có quân canh vào báo.
- Bẩm tướng quân, có người Thượng ở trên đèo Măng Giang đến báo, có con voi trắng một ngà dẫn đầu đàn voi vào làng phá hoại nhà cửa, hoa màu rất dữ. Nhờ tướng quân đem quân giết voi cứu dân.
Huệ truyền lệnh:
- Văn Tuyết, Văn Nhậm, cô Xuân ở lại giữ doanh trại. Văn Lân, Văn Sỡ dẫn theo một trăm tên xạ thủ cùng ta đến đấy xem sao.
Nữ tướng Bùi Thị Xuân bước ra thưa:
- Ngày trước thầy tôi là ông nội của tướng quân Ngô Văn Sở, tên Ngô Mãnh, nguyên làm chức Đô thống cấm vệ quân của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, theo hộ giá chúa Nguyễn đến Quy Nhơn để mất ngựa Xích Kỳ của chúa. Phúc Loan mượn cớ làm tội, nên thầy tôi mới trốn vào ẩn ở Tây Sơn, dạy võ nghệ cho tôi cùng Văn Lân, Văn Sở. Thầy tôi có dạy cho tôi cách thuần phục voi rừng. Dù voi dữ cũng chớ giết đi mà uổng. Tôi xin đem theo một trăm quân đến tùy cơ ứng biến, nếu thuần phục được chúng lập thành đội tượng binh thì sức mạnh của quân ta tăng lên gấp bội. Xin tướng quân chấp thuận.
Huệ khen:
- Cô Xuân thật là nữ nhi hào kiệt đáng làm hổ thẹn đấng mày râu. Nhưng mình cô đi ta thật chẳng yên lòng. Văn Lân, Văn Sở hãy theo giúp nữ tướng Bùi Thị Xuân, nếu việc thành thì công lao của các ngươi thật là to lớn đó.
Văn Tuyết xen vào hỏi:
- Dám hỏi thầy của nữ tướng giờ đây sức khỏe thế nào?
Văn Sở đáp:
- Ông nội tôi lâm bệnh đã mất cánh đây hai năm rồi.
Tuyết bước đến cầm tay Sở, bùi ngùi nói:
- Ông nội tướng quân phải gian truân xa quê chết nơi đất khách chính là lỗi do tôi!
Văn Sở còn đang kinh ngạc thì Văn Lân hỏi:
- Tuyết tướng quân nói gì chúng tôi không hiểu?
Nguyễn Huệ đỡ lời:
- Ta nghe đại huynh kể lại rằng: Ngày trước chúa Nguyễn xa giá vào Quy Nhơn có tên thích khách chúa không thành bèn cướp ngựa Xích kỳ của chúa trốn đi chính là song đao Nguyễn Văn Tuyết đó. Nay nghe Đô thống Ngô Mãnh vì mất ngựa mà phải tội nên trong lòng áy náy đó thôi.
Văn Sở điềm đạm nói:
- Ông tôi dù còn sống cũng đâu vì thế mà trách cứ tướng quân. Có đáng trách là lũ quan tham bạo chúa để muôn dân oán ghét mà thôi. Âu cũng là ý trời muốn anh hung hội tụ đất Tây Sơn, chúng ta hãy bỏ qua chuyện cũ thề một lòng phò chủ tướng vì nước cứu dân.
Nguyễn Huệ rót rượu cho các tướng nâng ly đồng thanh hô lớn: “Xin thề.” Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân bái biệt lên đường.
Bùi Thị Xuân cùng Sở, Lân dẫn đầu đến nơi bỗng nghe tiếng voi gầm. Lân quay lại bảo xạ thủ:
- Quân sĩ chuẩn bị cung tên, voi dữ sắp đến.
Xuân lắng nghe rồi bảo:
- Tiếng gầm nghe bi ai đau đớn chắc là voi bị nạn, hai em có thấy thế không?
Văn Sở gật đầu nói:
- Chị Xuân nói rất đúng, loài voi tuy dữ nhưng rất có nghĩa, trọng ơn. Nếu cứu được chúng đó là trời giúp ta vậy.
Văn Lân hối:
- Nếu vậy anh Sở ở lại đây bố trí ba quân, tôi cùng chị Xuân lần theo tiếng voi gầm, vào đấy xem sao.
Nói xong vọt ngựa đi liền, Xuân giục ngựa đuổi theo. Đến gần tiếng voi gầm hai người thấy con voi trắng một ngà to lớn đang bị một con trăn dài chừng trăm thước, to ngót thân người quấn chặt. Voi không cựa quậy được gầm lên đau đớn. Không chút chậm trễ, Xuân liền lấy cung rút tên độc bắn một phát cắm ngập vào đầu trăn. Trăn quằn quại nhả dần, nhả dần rồi rơi xuống đất. Xuân nhảy xuống ngựa tiến lại gần voi. Voi một ngà quỳ hai chân trước cúi đầu co vòi lạy người cứu mạng.
Xuân đến gần nói:
- Ta không có ý hại ngươi, chỉ khuyên ngươi đừng nhiễu hại dân làng. Nếu hiểu được lời thì hãy theo ta về phò vua giúp nước.
Voi phủ phục cho Xuân leo lên cổ rồi ngoan ngoãn đứng dậy theo Văn Lân đang đi trước dẫn đường.
Bùi Thị Xuân cưỡi voi trắng một ngà cùng Văn Sở, Văn Lân về doanh trại. Nguyễn Huệ thân hành ra đón, khen rằng:
- Nhờ tài xạ tiễn cô Xuân thu phục được voi rừng, thật xưa nay hiếm có nữ nhi nào như thế. Nếu thời thế tạo anh hùng thì ắt có thể sánh bằng bà Triệu, bà Trưng ngày xưa vậy.
Thị Xuân khiêm tốn nói:
- Được như vậy là nhờ hồng phúc của chủ tướng mà thôi. Chứ nếu voi dữ không gặp nạn thì dễ gì đem được về đây?
Huệ nói:
- Còn việc thành lập đội tượng binh cô Xuân định làm thế nào?
Xuân đáp:
- Tướng quân chiêu mộ vài mươi quản tượng. Còn tôi, xin một mình dẫn voi trắng đầu đàn lên rừng thuần phục đàn voi ấy. Sau đó theo hiệu cờ và trống lệnh quản tượng sẽ dạy cho chúng tiến thoái thành đội ngũ. Như thế chắc rằng ta có thể thành lập nên một đội tượng binh hùng mạnh.
Huệ khen:
- Hay! Hay lắm đúng là nữ nhi anh kiệt, chưa ra trận đã tỏ rõ tài thao lược, đáng khen thay.
Nói đoạn lập tức sai người tuyển chọn quản tượng. Từ ấy về sau ngày ngày Thị Xuân cưỡi voi trắng vào rừng bắt voi hoang đem về doanh trại.
*
* *
Một hôm, Xuân vào rừng bỗng nghe tiếng cọp gầm rung chuyển núi đồi, lại nghe có tiếng người hét vang. Xuân cưỡi voi về phía ấy, thấy giữa trảng cỏ tranh một thanh niên tay cầm đại đao đang đánh nhau với cọp dữ. Phút chốc cọp bị đao chém chết ngay. Không ngờ một con hổ khác từ sau lưng vồ tới, người ấy lách mình tránh khỏi nhưng bị cọp tát văng mất đại đao. Người ấy không hề nao núng, tay không đánh nhau với hổ dữ suốt nửa giờ không phân thắng bại.
Bùi Thị Xuân ngồi trên bành voi gương cung lắp tên bắn một phát nhằm giữa trán hổ. Cọp dữ ngã ra chết ngay. Người ấy giật mình quay lại, thấy kẻ cầm cung là một thiếu nữ mặt hoa má phấn, mười phần xinh đẹp liền bước đến thi lễ.
- Tạ ơn nữ hiệp đã ra tay cứu giúp, nếu không mạng tôi chưa biết thế nào!
Xuân từ lưng voi nhảy xuống:
- Xin tráng sĩ đừng nên khách sáo, gặp nguy khốn giúp nhau là chuyện thường tình. Dám hỏi tráng sĩ là người phương nào, cớ sao một mình vào chốn rừng sâu?
Người ấy đáp:
- Tôi tên Trần Quang Diệu quê ở Bồng Sơn đi đường núi vào Tây Sơn tìm bạn nên gặp cọp giữa đường. Còn cô nương sao cưỡi voi vào rừng làm chi, thân nữ nhi coi thường nguy hiểm, bắn tên bách phát bách trúng thật làm Diệu tôi khâm phục vô cùng.
Thấy Trần Quang Diệu mày tăm mắt phụng tướng mạo khôi ngô, Xuân e thẹn trả lời:
- Tôi tên Bùi Thị Xuân quê ở Tây Sơn Hạ, theo chủ tướng là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ dấy binh ở Tây Sơn Thượng. Nay vào rừng săn voi mới tình cờ gặp tráng sĩ tay không đánh cọp, tài năng thật hiếm thấy trên đời. Tráng sĩ vào đây tìm bạn ở đâu, tôi có thể chỉ giúp được chăng?
Diệu mừng rỡ đáp:
- Nếu cô nương theo Nguyện Huệ dấy binh thì thật là may cho tôi quá, bạn tôi chính là Nguyễn Huệ đó.
Xuân vội đỡ lời:
- Hay quá! Vậy mời tráng sĩ cùng lên lưng voi về doanh trại.
Diệu ngập ngừng:
- Kẻ nam người nữ điều ấy có tiện hay chăng? Cô nương cứ để mặc tôi đi bộ theo sau cũng được rồi.
Xuân cúi đầu đáp:
- Vẫn biết rằng: “Nam nữ thọ thọ bất tương thân.” Nhưng từ đây về bản trại đi bộ mất nửa ngày đường mà trời đã xế chiều. Vả lại tráng sĩ chẳng nghe chuyện vị cao tăng cõng cô gái qua sông mà tâm chỉ nghĩ về Phật pháp hay sao. Nếu đã cùng nhau lo đại sự còn chấp nê chuyện nhỏ nhặt làm gì.
Quang Diệu chẳng biết nói sao đành lên lưng voi cùng Bùi Thị Xuân về doanh trại.
Đến nơi Quang Diệu vào yết kiến Nguyễn Huệ. Huệ mời ngồi rồi nói:
- Tôi có nghe cô Xuân kể rằng, gặp tráng sĩ đánh cọp giữa rừng lại tự xưng là bạn của Huệ. Huệ tôi không bao giờ dám quên tình xưa nghĩa cũ, nhưng quả thật không nhớ rằng đã gặp tráng sĩ ở đâu?
Diệu cười lớn:
- Tôi nghe tiếng Nguyễn Huệ là người thường vì kẻ khác quên mình, sức mạnh như thần, võ nghệ tuyệt luân, gồm tài thao lược đang chiêu hiền đãi sĩ nên vượt núi rừng đến xin kết bạn. Chẳng hay huynh trưởng chê tôi là người hèn mọn hay chăng?
Huệ cười ha hả nói:
- Kẻ anh hùng trong bốn biển đều là huynh đệ. Người đức độ ai cũng muốn bớt thù thêm bạn, nay có bậc hào kiệt đến kết giao chẳng phải là điều may mắn hay sao?
Nói xong sai quân đem rượu thịt thết đãi.
Quang Diệu nói:
- Chẳng giấu gì tướng quân, tôi hiện đang chiêu mộ được vài trăm tráng sĩ, hằng ngày có kết giao với Đặng Văn Long vốn cùng tướng quân là huynh đệ đồng môn. Nghe Văn Long nói tướng quân chiêu hiền đãi sĩ ở Tây Sơn nên trước đến xem sự thể thế nào, sau sẽ đem quân đến hầu trước tướng.
Huệ vội hỏi:
- Văn Long trước cùng tôi chia tay khi nghe tin mẹ bệnh. Có hẹn trước cùng nhau tụ nghĩa ở Tây Sơn, nay chẳng biết gia cảnh thế nào mà Văn Long chưa đến.
Diệu đáp:
- Mẹ Văn Long đã mất nên ở nhà chịu tang ba năm.
Huệ ngậm ngùi:
- Văn Long là người hiếu nghĩa, thích ngao du sơn thủy xem nhẹ công danh. Nay vì chữ hiếu đành chôn chí tang bồng hồ thỉ, thật đáng tiếc thay.
Chợt nhớ ra điều gì Huệ hỏi:
- Từ Bồng Sơn vào đây sao tướng quân không đi đường đại lộ qua thành Quy Nhơn rồi theo hướng Tây Sơn Hạ vượt đèo Mang lên Tây Sơn Thượng mà lại theo đường núi cho lắm gian nguy đến thế?
Diệu đáp:
- Tôi vốn mộ quân lập căn cứ ở núi rừng phía Tây Bồng Sơn nên có quen biết với người Thượng. Họ có đường băng rừng từ Quảng Ngãi có thể vào đến Tây Sơn, có thể ra đến Quảng Nam, Thuận Hoá. Nên tôi mới đi trước dò đường vì khi đưa hai trăm quân vào đây không thể nào qua thành Quy Nhơn mà chẳng bị sự truy cản của quan quân.
Huệ mừng rỡ nói:
- Trời đưa tướng quân về với ta chính là trời giúp ta vậy.
Diệu nói:
- Tôi có tài cán gì mà chủ tướng quá khen thế.
Huệ chợt hỏi:
- Không có tài cán gì mà tay không dám đánh nhau với cọp dữ? Nhưng tại sao tướng quân bị mất đao?
Diệu đáp:
- Tôi bị cọp vồ từ sau lưng, may mà tránh kịp, nhưng bị cọp tát văng mất đại đao.
Huệ trầm ngâm nói:
- Nếu ta có con đường thượng đạo ấy bất ngờ đánh vào sau lưng kẻ địch, ví như cọp vồ từ sau lưng tướng quân đó.
Diệu giật mình đứng dậy chắp tay.
- Lời Văn Long nói quả không sai, chủ tướng nhìn xa thấy rộng. Diệu tôi vô cùng bái phục.
Huệ nắm tay Diệu thân mật nói:
- Khi về tướng quân hãy vì tôi đem quân mở đường theo lối mòn của người Thượng từ Bồng Sơn vào đây rồi cùng hội quân ở Tây Sơn Thượng. Sau đó tôi sẽ cấp thêm quân lương cho tướng quân, cứ theo dãy núi Trường Sơn mở đường từ Nam ra Bắc, sau này đạo binh đi theo đường thượng đạo đánh vào sau lưng địch quân chính là của tướng quân đó. Bây giờ mời tướng quân hãy vào trong trướng nghỉ ngơi, ngày mai sẽ lên đường.
Diệu vâng lệnh lui ra.

Chú thích:

(1): Hai hòn núi này nay được mang tên là núi ông Nhạc và núi ông Bình (một tên khác của Nguyễn Huệ).

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 6 Mượn oai trời Nguyễn Nhạc dấy binh Giấu chân tướng Tây Sơn làm cướp
Một đêm kia, dân chúng trong vùng Tây Sơn Hạ đang ngon giấc bỗng nghe một tiếng nổ long trời lở đất, ngó vô trong chân núi đèo Mang bập bùng ánh lửa. Chốc chốc lại nghe một tiếng nổ vang lên. Suốt ba đêm, đêm nào cũng vậy. Mọi người tụ tập ở sân đình cùng nhau bàn tán xôn xao. Bỗng nghe tiếng nói sang sảng vang lên:
- Các người làm gì mà sợ hãi thế? Ta cứ rủ nhau đến đấy xem hư thực thế nào?
Mọi người ngoảnh lại nhìn ra là Nguyễn Nhạc. Một ông lão bước ra nói:
- Chúng tôi cũng muốn đến cho biết sự lạ gì. Hiềm một nỗi chẳng có ai dẫn đầu nên không một người nào dám đi cả.
Nhạc khẳng khái đáp:
- Dù là quỷ thần cũng đâu nỡ hại người ngay. Tôi tuy bất tài cũng xin đi trước để xem sự thể thế nào.
Nói rồi tuốt gươm cầm đuốc lăm lăm tiến bước. Hàng trăm trai tráng nô nức đi theo.
Đến chân núi, bốn bề rừng hoang vắng lặng chỉ thấy một đám lửa bập bùng trước tảng đá to. Bỗng một tiếng nổ long trời, cát bụi mịt mù. Bụi tan, tảng đá biến đâu mất, chỉ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ tay cầm thanh kiếm dáng dấp đạo cốt tiên ông. Mọi người kinh sợ lùi lại, chỉ có Nhạc vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Tiên ông cất tiếng sang sảng:
- Ta là sứ giả của Ngọc Hoàng. Trong các ngươi ai là Nguyễn Nhạc hãy đến đây nhận lệnh.
Nhạc bỏ gươm chắp tay tiến đến gần tiên ông. Tiên ông phán:
- Đây là kiếm báu Trời ban cho, ngươi hãy thay Trời hành đạo cứu giúp muôn dân.
Nhạc quỳ nhận kiếm báu rồi lui ra. Một tiếng nổ nữa vang lên cát bay mù mịt, bụi tan, tiên ông lại biến mất. Mọi người đổ xô vây quanh Nhạc. Nhạc trịnh trọng tuốt kiếm. Kiếm báu ánh lên nước thép sáng ngời.
Giữa lưỡi gươm rõ ràng bốn chữ “Nguyễn Nhạc Vi Vương”. Mọi người đồng thanh quỳ xuống hô vang:
- Nguyễn Nhạc Vi Vương! Vua trời Nguyễn Nhạc!
Nguyễn Nhạc dẫn đám trai tráng về đến sân đình, Nhạc nói:
- Các anh em ai về phía nấy, từ biệt gia đình mang theo hành lý, ai muốn theo ta đánh đuổi bọn tham quan ô lại thì rạng sáng ngày mai tụ họp ở sân đình này, rồi cùng ta lên Tây Sơn Thượng tụ nghĩa.
Trai tráng tản mạn đi cả. Nhạc toan quay lưng về nhà, bỗng nghe tiếng cười vang rồi một giọng nói lớn:
- “Nguyễn Nhạc Vi Vương” lừa dân như thế là cùng!
Nhạc giật mình quay lại thấy hai người tuổi trạc tứ tuần. Thấy hai người này phong cách khác thường, Nhạc dè dặt hỏi:
- Chẳng hay nhị vị là ai, nói vậy là có ý gì ?
Người cầm bầu rượu nói:
- Còn ý gì nữa. Ông tiên già là thầy giáo Hiến, tiếng nổ tan nát đá là do đốt thuốc súng. Quan Biện lại Nguyễn Nhạc lừa được đám ngu dân chứ lừa ta sao được!
Nhạc ung dung nói:
- Ngày trước vua Lê Thái Tổ khởi binh đánh giặc Minh, dùng mật viết: "Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần" lên lá rừng cho kiến đục theo vết mật, rồi thả lá rừng xuống sông cho trôi về xuôi, nên muôn dân đều gom về một mối, thiên hạ vững tin, nhờ vậy mới đánh giặc ra ngoài bờ cõi, cứu muôn dân khỏi ách nô lệ. Ta xin hỏi nhị vị ấy là vua Lê Thái Tổ lừa dân chăng?
Người kia bấy giờ mới nói:
- Xin tướng quân chớ ngại, Huyền đệ nói vậy chẳng qua để thử lòng nhau thôi chứ chẳng có ý gì khác. Tôi là Nguyễn Thung, còn đây là em kết nghĩa của tôi tên Vũ Tất Thận hiệu Huyền Khê tánh tình trung trực, nhưng phải tật thường hay uống rượu nói chẳng giữ lời. Xin tướng quân bỏ qua cho.
Nhạc vòng tay bái:
- Thì ra hai vị là Nguyễn Thung và Huyền Khê. Tôi đã nghe danh tiếng từ lâu, nay nhị vị tiên sinh đến đây có điều chi chỉ giáo?
Nguyễn Thung nói:
- Anh em tôi chiêu mộ được vài trăm tráng sĩ, trong nhà lương thảo chẳng thiếu chi. Nay đến đây để biết chí của tướng quân. Nếu tướng quân không chê, ngày mai xin đem quân tụ nghĩa dưới cờ.
Nhạc cả mừng:
- Được nhị vị đem quân hợp tác thật là hồng phúc của muôn dân. Nhạc xin thay mặt bá tánh cảm tạ nhị vị tiên sinh.
Hôm sau Nguyễn Nhạc cùng Trương Văn Hiến dẫn Nguyễn Thung, Huyền Khê cùng trai tráng vừa chiêu mộ được lên Tây Sơn Thượng. Dọc đường dân chúng nô nức đi theo rất đông, quân số lên đến ước ngàn người. Nguyễn Huệ hay tin đem các tướng ra đèo Mang nghênh đón.
Vào doanh trại Nguyễn Nhạc liền cho họp các tướng bàn bạc việc quân. Nguyễn Nhạc ngồi giữa Trương Văn Hiến bên tả, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ bên hữu.
Nhạc nói:
- Ta vừa bỏ chức Biện lại Vân Đồn đem vàng bạc thu thuế được mua lương thực để nuôi quân. Nay quân của ta đã lên đến hai ngàn. Các vị hãy cùng bàn bạc xem kế sách tiến thủ như thế nào để đánh đuổi binh triều, cứu nguy trăm họ!
Đoạn Nhạc quay sang Hiến hỏi:
- Chẳng hay thầy có cao kiến gì chăng?
Hiến đứng dậy vòng tay nói:
- Việc thầy trò là việc riêng, việc đại sự là việc chung. Nay trước mặt các anh hùng hảo hán cùng bàn việc đại sự, xin chủ tướng đừng xưng hô theo tình riêng như thế.
Nhạc do dự giây lâu rồi nói:
- Xin các vị hãy bình tâm nghe Nhạc tôi có đôi điều bày tỏ. Nguyên trước kia Nhạc chỉ là kẻ buôn trầu, người quanh vùng thường gọi là anh Hai trầu. Lúc ấy tôi thấy người nghèo không tiền nộp thuế phải chịu đòn roi của binh triều nên động lòng trắc ẩn, bèn đem họ lên trốn tránh ở nơi này chu cấp gạo muối cho khai hoang lập ấp. Những tưởng chúa hôn trong một lúc, ắt có ngày thức tỉnh, tôi sẽ đem họ về quê an cư lạc nghiệp giữ phận con dân. Ngờ đâu Tiên chúa mất, ấu chúa lên kế vị để Phúc Loan bạo ác tham tàn tăng thêm sưu thuế xây dựng cung điện Phấn Dương, bắt muôn dân phục dịch thật là thống khổ. Vì vậy người nghèo trốn thuế theo tôi mỗi lúc một đông, đến nỗi tôi không thể cung cấp đủ lương thực cho họ. Thầy Trương Văn Hiến bày kế cho tôi xin làm Biện lại Vân Đồn lấy tiền thuế trong ba tháng rồi bỏ chức, đem bạc về nuôi quân. Mới vài hôm trước đây, chỉ trong một ngày tôi chiêu mộ được ngàn quân là do kế của thầy Trương Văn Hiến cả. Thầy Trương Văn Hiến có công giáo huấn hai em tôi là Huệ và Lữ. Tôi dù không có thời gian theo hầu thầy dưới án nhưng lòng vẫn tôn kính như sư phụ. Nay lấy lý vì nghĩa chung không nên xưng hô theo tình riêng, thì xin hỏi các vị, Nhạc phải gọi thầy như thế nào cho danh chánh ngôn thuận đây?
Nguyễn Thung bước ra nói:
- Việc ấy theo tôi không có chỉ là khó. Có một cách xưng hô mà xét theo tình riêng hay nghĩa chung đều thuận cả.
Nhạc hỏi:
- Theo ý tiên sinh thì nên gọi thế nào?
Thung cười rằng:
- Từ hai tay trắng bày kế nuôi nổi ngàn quân, trong một ngày đêm mộ được ngàn quân. Mưu hay xưa nay hiếm có như thế, sao chủ tướng không gọi là quân sư, thì công tư vẹn cả đôi bề.
Các tướng cùng vỗ tay khen:
- Nguyễn Thung tiên sinh thật là cao kiến, ta nay vì dân dấy nghĩa ắt phải có quân sư.
Nhạc rót rượu mời Hiến:
- Các vị hãy cùng chúc mừng quân sư.
Văn Hiến thoái thác rằng:
- Tôi tài cán gì mà dám nhận chức ấy. Bày kế làm Biện lại Vân Đồn nuôi quân là của Nguyện Huệ. Giết tên biện lại cũ để chủ tướng thế chân là Vũ Văn Nhậm. Nay tôi nhận chức ấy té ra là tranh công của Huệ và Nhậm hay sao? Các vị há chẳng nghe người xưa nói: có ba điều nguy là:
Không có tài mà ở địa vị cao
Không có công mà hưởng bổng lộc nhiều
Không có đức mà bắt người phải phục
Tôi quyết chẳng làm việc nguy hiểm ấy đâu!
Huệ bước ra nói:
- Xin quân sư chớ khiêm tốn. Bọn chúng con đều là võ tướng hữu dũng vô mưu, nếu không có quân sư đảm nhận trọng trách ấy, e rằng đại sự khó thành.
Vũ Văn Nhậm cũng bước ra nói thêm vào:
- Hôm ấy tôi vì căm giận tên tham quan háo sắc nên lấy đầu hắn cho hả dạ trong một lúc. Nếu không có tôi thì tướng quân Nguyễn Huệ cũng đến lấy đầu của hắn vậy. Nếu không có tướng quân Nguyễn Huệ dẫn lối về Tây Sơn e mạng tôi giờ đã chôn sâu trong lòng đất. Ơn ấy chưa đem thân khuyển mã báo đền thì sao dám nhận là công được. Xin quân sư chớ khá chối từ cho an lòng tướng sĩ.
Các tướng đồng thanh nói:
- Xin quân sư chớ khá chối từ.
Trương Văn Hiến chờ các tướng lặng im rồi mới ôn tồn nói:
- Xưa nay trong thiên hạ có quân rồi mới có thần. Nay các vị tôn tôi làm quân sư thì ngôi chí tôn phải định thế nào đây?
Nguyễn Thung cười nói:
- Tôi thấy chủ tướng được trời sai sứ giả ban cho kiếm báu “Nguyễn Nhạc Vi Vương”. Ấy là số trời đã định cho chủ tướng làm vua. Chi bằng chủ tướng hãy xưng vương cho an lòng tướng sĩ, rồi truyền hịch đi các nơi đánh đổ hôn chúa, trừ nghịch Phúc Loan cứu nguy trăm họ. Trước là tỏ chính nghĩa quân ta, sau là thuận được cái lý quân thần, các vị thấy thế nào?
Nguyễn Huệ bước ra can rằng:
- Theo tôi đại huynh xưng vương và truyền hịch đánh đổ quân triều thì khác nào chuốc họa vào thân.
Thung hỏi:
- Vì sao tướng quân nghĩ thế?
Huệ đáp:
- Một là, nay quân ta chỉ mới có hai ngàn người, mà một ngàn người mới mộ chưa được huấn luyện thuần thục, thì binh lực hãy còn yếu kém. Nếu truyền hịch xưng vương ắt triều đình Phú Xuân cử đại binh vào chinh phạt thì tôi e rằng chính nghĩa của ta sẽ bị dập tắt khi còn trong trứng trước. Hai là nay lòng người dù oán ghét Phúc Loan bạo ngược nhưng vẫn nhớ ơn chúa Nguyễn khai sơn phá thạch mở mang bờ cõi. Còn quân ta đang ở núi rừng Tây Sơn Thượng chưa có công đức gì cho bá tánh thì lấy danh nghĩa gì để xưng vương? Nếu làm thế tôi e rằng thiên hạ chỉ cho ta là phường nghịch tặc mà thôi. Ấy không phải kế sách để thu phục lòng dân. Xin đại huynh xét lại!
Nghe Huệ nói, Nhạc tỏ ý không vui hỏi:
- Theo ý em thì phải thế nào?
Huệ thấy anh có ý không hài lòng bèn lựa lời nói:
- Tôi vốn là học trò của quân sư, nên hiểu tánh thầy. Quân sư có mưu hay thường uống chén trà ngon rồi mới nói!
Vừa nói Huệ vừa rót trà đem dâng Hiến. Huệ che người xòe lòng bàn tay của mình cho Hiến xem. Hiến thấy trong lòng tay Huệ có đề chữ “ Cướp”. Huệ lui về chỗ cũ. Hiến chậm rãi uống trà. Đặt tách trà xuống bàn Hiến nói:
- Tôi có một kế này nhất cử mà tam tiện!
Nhạc vội hỏi:
- Người xưa có câu “Nhất cử lưỡng tiện”, nay “Nhất cử tam tiện” mới nghe quân sư nói lần đầu. Quân sư có kế hay hãy mau nói ra, tôi nóng lòng rồi đây.
Hiến từ tốn đáp:
- Tôi xin nói về hai việc. Một là chủ tướng khởi binh ở Tây Sơn chúng ta hãy tôn chủ tướng là Tây Sơn trại chủ...
Nguyễn Thung ngắt lời Hiến:
- Quân sư xem quân ta như là quân cướp hay sao mà gọi là Tây Sơn trại chủ?
Văn Hiến đáp:
- Không phải tôi cho quân ta là cướp, mà tạm thời ta làm cướp bằng cách thế này: Chủ tướng hãy chia một ngàn quân tinh nhuệ đi cướp của bọn quan lại cường hào ác bá ở các làng quanh thành Quy Nhơn rồi lấy số bạc cướp được chia cho dân nghèo, còn lại đem về doanh trại để dự trữ quân lương, một là ta che giấu chân tướng của ta để tránh thế mạnh của địch lúc ban đầu, hai là thu phục được lòng dân, vốn oán hờn quan lại triều đình, ba là có thêm lương thực để nuôi quân. Đợi khi quân ta hùng tướng ta mạnh, lương thảo dồi dào đánh lấy thành Quy Nhơn rồi mới truyền hịch nói rõ chính nghĩa của ta thì đã có muôn dân ủng hộ chống lại binh triều. Làm cướp như thế, ấy chẳng phải là nhất cử mà tam tiện hay sao?
Nguyễn Nhạc vỗ tay khen:
- Hay lắm! Thật là diệu kế. Nếu không có quân sư chỉ vẽ chắc rằng ta đã tính sai một nước cờ. Các tướng hãy nghe lệnh: Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ ở lại giữ doanh trại huấn luyện tân binh. Ngô Văn Sở, Bùi Thị Xuân, Phan Văn Lân huấn luyện tượng binh. Ta cùng quân sư, Nguyễn Thung, Huyền Khê Vũ Tất Thận, Nguyễn Văn Tuyết, Vũ Văn Nhậm đem một ngàn quân tinh nhuệ, ngày mai cướp ở huyện Tuy Viễn theo kế quân sư. Vậy ai lãnh thẻ tiên phong?
Huyền Khê bước ra nói:
- Tôi xin đem quân bản bộ làm tiên phong.
Nguyễn Thung can:
- Xin trại chủ chớ cho!
Nhạc ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại thế?
Thung đáp:
- Em tôi võ nghệ hơn người, tính tình cương trực, nhưng phải tật hay uống rượu làm càn. Nếu cho làm tiên phong tự chỉ huy một cánh quân e rằng vì tật nhỏ mà hư việc lớn chăng?
Huyền Khê tức giận nhăn nhó:
- Sao Nguyễn huynh lại nói thế. Nhà có đạo nhà, nước có phép nước. Nay đem quân làm việc lớn, há vì chuyện trà dư tửu hậu mà xem thường quân pháp hay sao? Xin trại chủ đừng lo, mấy điều quân lệnh yết thị quanh doanh trại tôi lại đui mù không nhìn thấy hay sao: “Một là không uống rượu lúc hành quân, hai là không quầy nhiễu bá tánh, ba là không xâm phạm của dân nghèo. Bốn là…”
Huyền Khê đang thao thao, Nhạc ngăn lại.
- Thôi! Thôi đủ rồi! Nhưng tướng quân có biết vì sao điều không uống rượu lúc hành quân lại đặt ở hàng đầu chăng?
Huyền Khê hỏi:
- Dám hỏi chủ trại vì sao?
Nhạc đáp:
- Vì uống rượu say rồi tinh thần không tự chủ nên việc quấy nào cũng có thể sinh ra, bởi vậy ta đặt điều ấy ở hàng đầu là vậy đó. Tướng quân nên nhớ quân pháp bất vị thân, Nếu thấy có thể phạm luật quân thì đừng lãnh thẻ tiên phong.
Huyền Khê khẳng khái nói:
- Nếu phạm vào quân lệnh xin chịu mất đầu theo quân pháp.
Nguyễn Nhạc khen:
- Tướng quân thật khí khái hơn người, đáng khen thay. Các vị hãy lui về nghỉ, ngày mai cứ y lệnh mà làm.
Các tướng đồng thanh nói:
- Xin tuân lệnh trại chủ!
Ra ngoài Trương Văn Hiến hỏi Nguyễn Huệ:
- Sao con không nói rõ kế của mình cho đại huynh mà phải nhờ ta nói thay?
Huệ đáp:
- Bẩm thầy, lúc con dẫn quân ra đón thầy cùng Đại huynh ở đèo Mang, đại huynh thấy thành lũy vững chắc, quân binh hàng ngũ chỉnh tề, canh phòng cẩn mật thì rất vui nói không ngờ mới ba tháng mà quân ta đã mạnh lên một trời một vực so với trước. Nguyễn Văn Tuyết nói với đại huynh rằng: Được vậy là nhờ tài điều binh khiển tướng của tướng quân Nguyễn Huệ đó. Đại huynh hỏi Tuyết: Lúc ta giao quyền cho Nguyễn Huệ, ông tỏ ý bất bình, sao bây giờ lại thán phục em ta đến thế? Tuyết đáp: Lúc ấy tôi thấy Huệ còn nhỏ tuổi nên không phục. Nhưng khi biết Nguyễn Huệ gồm tài thao lược, sức khỏe như thần, đa mưu túc trí tướng sĩ đều phục chứ nào có phải riêng tôi. Chủ tướng hồng phúc rất lớn nên có người em là một bậc kì tài trong thiên hạ. Nghe Tuyết nói thế Đại huynh tỏ vẻ không vui. Nên lúc bàn việc quân con không dám nói rõ kế mình mới lên cắn tay lấy máu viết chữ “cướp” lên lòng bàn tay cho thầy xem. Con biết thế nào thầy cũng đọc được ý của con.
Nghe xong Văn Hiến thở dài chẳng nói gì.
*
* *
Từ ấy về sau Nguyễn Nhạc chia quân cướp của bọn cường hào ác bá, quan lại trong huyện Tuy Viễn lấy thóc gạo chia cho dân, nên người nghèo theo phục rất đông, chỉ trong một năm quân số đã lên đến vạn người. Binh của huyện quan sở tại không làm sao chống nổi, đành phải bỏ huyện lỵ chạy vào trong thành Quy Nhơn báo với quan trấn thủ là Nguyễn Khắc Tuyên.
Nguyễn Khắc Tuyên vỗ án quát mắng quan tri huyện:
- Ngươi thân làm huyện quan ở Tuy Viễn mà không dẹp nổi bọn giặc cỏ ấy, lại còn bỏ huyện lỵ mà chạy, tội có đáng chết không?
Huyện quan dập đầu lạy thưa:
- Bẩm Đại quan tha tội, bọn cướp này rất mạnh chứ chẳng phải như các bọn giặc cỏ lúc trước. Ban đầu chúng cướp của nhà giàu chia cho người nghèo nên bọn ngu dân theo phục rất đông. Nghe đâu chúng sắp sửa cướp thành Quy Nhơn, xin Đại quan hãy khá đề phòng. Binh của chúng rất thiện chiến, hàng ngũ chỉnh tề, quân pháp nghiêm minh. Tướng của chúng sức địch muôn người, nên tôi không chống nổi. Xin Đại quan tha cho tội chết.
- Tên đầu đảng của chúng tên gì?
- Bẩm, tên đầu đảng tên là Nguyễn Nhạc, nghe bọn chúng xưng tụng là Tây Sơn trại chủ.
Tuyên cười rằng:
- Thì ra là tên Nguyễn Nhạc trước làm Biện lại ở Vân Đồn đánh bạc thua hết tiền thuế, rồi trốn lên rừng làm cướp. Thằng ấy thì có tài cán gì, chẳng qua ngươi muốn nhẹ tội nên mới đặt điều nói chúng tài giỏi, làm giảm nhuệ khí binh triều, gây hoang mang trong dân chúng, tội thật đáng bêu đầu.
Nói xong thét võ sĩ lôi ra chém.
Tuyên bảo em ruột là phó tướng Nguyễn Hữu Thệ rằng:
- Ngươi hãy ngày đêm sai quân tuần phòng quanh thành cho nghiêm ngặt, và cho người ra phi báo cho hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn hãy cẩn thận đề phòng quân cướp. Bảo với Huyện quan hai huyện chỉnh đốn binh sĩ chờ ta sắp xếp hẹn ngày hợp quân đánh chiếm lại Tuy Viễn, tảo trừ bọn giặc cỏ cho chấn động thanh uy của binh triều.
Nguyễn Hữu Thệ tuân lệnh toan đi, Tuyên gọi lại bảo:
- Hãy khoan còn việc này nữa, ngươi mau sai người niêm yết cáo thị ở các nơi: Ai bắt hoặc giết chết Nguyễn Nhạc sẽ được trọng thưởng!

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 7 An lòng dân, Huyền Khê tự vẫn Thu tướng tài, Nguyễn Huệ múa đao
Hôm ấy phố sá trong thành Quy Nhơn nhộn nhịp kỳ lạ. Bá tánh bàn tán xôn xao về yết thị bắt tên cướp Nguyễn Nhạc. Có một người hình vóc cao lớn, vạm vỡ, râu ria từ chân tóc mai đến cằm. Trông thấy yết thị người ấy nói thầm rằng: “Giờ ta đến gặp thầy được rồi đây.” Nói rồi bèn ra khỏi thành tìm đến huyện lỵ Tuy Viễn yết kiến Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc mừng rỡ reo lên:
- Thì ra là Vũ Văn Dũng. Từ ngày chia tay ở Tây Sơn đến nay đã hơn một năm. Ta ngày đêm trông ngóng người hiền ra giúp rập, sao em đi đâu mà biệt tích? Nếu từ lúc khởi binh đến nay mà có em dưới trướng thì quân ta đã lấy được thành Quy Nhơn rồi, chứ đâu phải huyện lỵ Tuy Viễn này thôi.
Vũ Văn Dũng đáp :
- Lúc đại huynh đi nhận chức Biện lại Vân Đồn, thì sư huynh Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dẫn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lên Tây Sơn Thượng, thầy mới sai tôi đi vẽ bản đồ của các phủ Quy Nhơn, Quãng Ngãi, Phú Yên. Nay việc đã hoàn tất nên quay về ra mắt Đại huynh, quan trấn thủ phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho dán yết thị trọng thưởng cho kẻ nào bắt hoặc giết được đại huynh, đồng thời sai người hội quân hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn định ngày chinh phạt quân ta. Theo tôi lúc này nên đánh lấy thành Quy Nhơn làm bàn đạp tiến quân, không nên chậm trễ.
Dũng quay sang Trương Văn Hiến thưa :
- Đây là bản đồ của ba phủ con đã vẽ xong vô cùng chính xác, xin trình lên thầy duyệt lãm.
Hiến mở bản đồ xem, khen rằng:
- Thật là phương hướng rõ ràng, núi sông thành quách đầy đủ không thiếu chi cả. Lúc sai con đi ta biết ngoài con ra không có ai làm nổi. Ngay sau dùng binh đánh địch tranh thắng bại nơi ngàn dặm cũng không ngoài một thước vải này đây!
Nguyễn Nhạc nói với Hiến:
- Quân sư thật là nhìn xa trông rộng, tôi bái phục vô cùng. Nay tôi thấy đã đến lúc đánh thành Quy Nhơn làm nơi dụng võ, Quân sư có chước gì chăng ? Chứ nếu đem quân công thành mà quân triều canh phòng cẩn mật e rằng không thắng lại còn lại hao binh tổn tướng thì nguy!
Nguyễn Thung nói:
- Tôi có một kế có thể lấy thành Quy Nhơn ít hy sinh anh em nghĩa sĩ.
- Kế thế nào tiên sinh cứ nói xem sao?
Thung đáp:
- Nay Nguyễn Khắc Tuyên niêm yết cáo thị ai bắt được chủ tướng sẽ trọng thưởng. Vậy trại chủ hãy ngồi vào cũi gỗ rồi sai các tướng dũng mãnh đi theo nói rằng bắt được Nguyễn Nhạc, Tuyên ắt mở cổng thành cho vào. Vào đến nơi trại chủ phá cũi rồi cùng các tướng đánh binh triều không cho chúng đóng cổng thành, khi ấy quân ta ở ngoài tràn vào thành, như thế ắt là binh trong thành trở tay không kịp, tất phải bại vong.
Nghe xong Văn Hiến nói :
- Kế này hay nhưng mạo hiểm, các vị nên bàn cặn kẽ xem sao!
Nguyễn Nhạc bàn:
- Nếu tôi cùng Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đánh chặn không cho binh triều đóng cổng thành Quy Nhơn để cho quân ta tràn vào, việc này có thể làm được. Nhưng ngộ nhỡ quân trên mặt thành kéo cầu treo lên thì làm thế nào quân ta vượt hào sâu vào thành cho được. Nếu thế e rằng ta đem các tướng nộp trong hang hùm còn gì ?
Thung đáp:
- Vượt hào ta có thể sai quân vác ván làm cầu.
Văn Hiến nói:
- Nếu vác ván làm cầu phải dùng binh bộ không thể dùng binh mã. Mà từ nơi giấu quân đến cổng thành bộ binh chạy phải hơn một khắc. Trong thời gian ấy binh triều kéo đến đông quá, trại chủ cùng các tướng e rằng không chống đỡ được. Nếu dùng kế ấy nhất định phải đánh bằng binh mã mới bảo đảm thắng lợi và bảo vệ an toàn cho các tướng cảm tử, đồng thời phải làm sao ngăn chặn không cho toán quân ở trên mặt thành kéo cầu treo lên thì kỵ binh của ta mới tràn vào thành được.
Nguyễn Thung thất vọng nói:
- Nếu vậy kế này không dùng được rồi.
Bỗng Vũ Văn Dũng mừng rỡ reo lên rằng:
- Kế này dùng được! Nếu ta mời được một người hợp sức thì lo gì chẳng lấy được thành Quy Nhơn.
Mọi người đồng thanh hỏi:
- Người ấy là ai?
Văn Dũng đáp:
- Tôi có một người em họ tên là Võ Đình Tú, người Tây Sơn Hạ. Tú văn võ song toàn thường sử dụng cây côn bằng đồng vào nơi muôn tên ngàn giáo như chỗ không người. Người quanh vùng thường gọi là thiết côn vô địch.
Trương Văn Hiến hỏi:
- Nếu vậy cũng vũ dũng như Huệ, Tuyết, Dũng mà thôi, làm sao lên được mặt thành mà đánh quân kéo cầu treo?
Văn Dũng cười rằng:
- Nếu thế thôi thì tôi nói làm gì! Tú có tài lạ là dậm chân một cái có thể nhảy khỏi nóc nhà cao hơn vài trượng. Mấy chục tên quân giữ cầu treo, Tú chỉ dậm chân hai bước nhảy, vung một đường côn là chúng theo ông bà hết rồi. Lúc ấy kỵ binh của ta tha hồ xông thẳng vào thành.
Trương Văn Hiến vuốt râu bảo:
- Trên đời lại có người tài vậy sao?
Nguyễn Thung nói:
- Ấy là nhờ hồng phúc của trại chủ đó!
Nhạc mừng rỡ bảo:
- Nếu thế là trời giúp ta rồi vậy. Giờ ta sai người lên Tây Sơn Thượng gọi Huệ đem quân về hợp sức. Còn Đình Tú, phiền Văn Dũng đi thuyết phục một phen.
Vũ Văn Dũng tuân lệnh toan đi. Bỗng có tên quân hớt hải chạy vào báo :
- Tâu trại chủ, tướng quân Huyền Khê đã bị bắt!
Nguyễn Nhạc kinh ngạc hỏi :
- Ta sai Huyền Khê đem thóc gạo phát cho dân nghèo ở ấp Tây Sơn Hạ, nơi ấy đều thuộc quyền kiểm soát của quân ta sao lại bị bắt ?
Tên quân kể :
- Lúc chúng tôi đang phát thóc ở sân đình thì có một bô lão đem dâng Huyền tướng quân một vò rượu ngon. Tướng quân liền đem uống tại chỗ, quá chén thành say. Chợt thấy một người con gái đẹp đến nhận thóc, trong cơn say tướng quân quân buông lời ghẹo nguyệt trêu hoa. Người con gái ấy hoảng sợ vùng chạy chẳng may va đầu vào cột đình mà chết.
Nguyễn Thung vỗ đùi than rằng:
- Thôi chết, Huyền đệ đã phạm luật quân, còn gây ra án mạng. Tôi đã bao lần khuyên nhủ mà còn lầm lỡ. Nhưng rồi ai bắt Huyền Khê?
Tên quân đáp:
- Lúc ấy trong dân có một người thanh niên thấy thế nộ khí xung thiên xông vào đánh nhau cùng Huyền tướng quân. Mới ba hiệp Huyền tướng quân bị người ấy bắt trói giữa sân đình.
Nhạc hỏi:
- Còn ba quân các ngươi thì sao?
Tên quân đáp:
- Chúng tôi thấy việc lỡ như vậy, dân chúng mục kích ai nấy đều phẫn nộ nên không dám bênh vực làm càn mới vội chạy về đây báo cùng trại chủ.
Trương Văn Hiến nói:
- Huyền Khê đã làm mang tiếng quân ta, thật là đáng tội. Nhưng trước tiên hãy đến đó xem sao rồi sẽ liệu mà xử sự.
Nói xong Hiến cùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Thung, Vũ Văn Dũng phóng ngựa đến ấp Tây Sơn.
Đến nơi thấy Huyền Khê bị trói nằm giữa sân đình, một người thấy bọn Nhạc đến liền cưỡi ngựa bước ra. Người này tuổi còn rất trẻ, mặt như dồi phấn, môi tựa thoa son, mắt phụng mày tầm, dung mạo phương phi, cây côn đồng gác ngang lưng ngựa oai phong lẫm liệt. Người ấy hỏi:
- Các ngươi có phải là đồng đảng của thằng giặc này chăng? Để ta bắt trói cho chúng dân luận tội cho rồi.
Vũ Văn Dũng lướt ngựa lên nói lớn:
- Võ Đình Tú hiền đệ xin hãy bình tâm.
Nghe gọi tên, người ấy giật mình hỏi:
- Ngươi là ai mà gọi ta là hiền đệ?
Văn Dũng đáp :
- Huynh là Vũ Văn Dũng đây, đây hiền đệ đã quên rồi ư ?
Đình Tú lạnh lùng đáp:
- Trong lúc cơn giận chưa nguôi, nhất thời không nhận thấy hiền huynh. Nay hiền huynh theo phường đạo tặc này đánh nhau với tôi chăng?
Văn Dũng xua tay nói:
- Hiền đệ chớ khá hiểu lầm. Tây Sơn trại chủ dấy binh đánh đuổi bọn tham quan ô lại mong cứu nguy trăm họ ra khỏi vòng nước lửa. Tạm thời giả danh làm cướp lấy của bọn cường hào, quan lại phân phát cho dân nghèo. Nay một thủ hạ uống rượu làm càn mắc tội trước chúng dân. Nhưng đừng vì thế mà hiền đệ vội xem bọn ta là phường đạo tặc.
Đình Tú cười rằng:
- Hiền huynh nói thế là ta tin được ư? Việc sờ sờ ra đó thì phải hiểu thế nào đây?
Nguyễn Nhạc bấy giờ tiến lên gọi quân bảo:
- Các ngươi hãy đem thi hài người thiếu nữ về nhà mai táng chu đáo. Nói cùng gia quyến cho ta trị tội Huyền Khê trước bá tánh rồi sẽ đến tư gia xin chịu tội sau.
Đoạn Nguyễn Nhạc quay sang Huyền Khê nói:
- Huyền Khê! Ngươi đã biết tội của mình chưa?
Huyền Khê lúc này đã tỉnh rượu hai tay còn bị trói chặt quỳ xuống khóc rằng:
- Huyền Khê trong một chốc say sưa phạm vào quân lệnh làm điều xằng bậy, chỉ lấy cái chết mới rửa sạch vết nhơ này cho nghĩa quân mà thôi. Xin trại chủ xử theo quân pháp.
Nguyễn Thung xuống ngựa, đỡ Huyền Khê dậy, khóc nói :
- Huyền đệ có biết tội này phải xử thế nào không?
Huyền Khê cúi đầu đáp:
- Phải xử bêu đầu!
Rồi Huyền Khê bước ra trước ba quân nói:
- Tội ta chết thật là đáng lắm, nhưng trước khi chết có đôi lời nói cùng anh em. Hãy lấy đó làm gương. Nên nhớ rằng chỉ một tật nhỏ mà hư đại sự, phải chuốc lấy tiếng nhơ muôn đời. Đam mê trong một lúc mà phải lụy đến thân. Không được chết giữa sa trường thật là ân hận lắm thay, ân hận lắm thay !
Rồi quay sang Nguyễn Nhạc, Huyền Khê nói:
- Tôi đã biết tội. Xin trại chủ cho mở dây trói, tôi xin tự xử lấy mình.
Nguyễn Nhạc gật đầu. Nguyễn Thung mở dây trói cho Huyền Khê. Khê rút dao ngắn cầm tay nói:
- Sau khi tôi chết đi, xin trại chủ hãy gấp đánh thành Quy Nhơn làm bàn đạp, vì chân tướng của quân ta không thể giấu được nữa rồi. Lưỡi dao này xin tạ tội trước chúng dân.
Nói xong đâm cổ mà chết.
Nguyễn Thung ôm thây khóc thảm thiết. Ai trông thấy đều động lòng rơi lệ. Nguyễn Thung xin đem xác Huyền Khê về quê an táng.
Xong việc ấy Nguyễn Nhạc nói với Võ Đình Tú :
- Nhà có đạo nhà, nước có phép nước, xin tráng sĩ đừng lấy việc một người mà kết tội muôn người. Nay tôi muốn thay trời hành đạo đem lại công bằng cho trăm họ. Tráng sĩ có thể vì dân mà giúp một tay chăng?
Đình Tú khẳng khái đáp :
- Nếu là kẻ bất tài thì thôi, ngoài ra ai lại không muốn đem sở học ra làm điều đại nghĩa, vùng vẫy cho thoả chí nam nhi. Mời các vị hãy về chơi tệ xá, ta sẽ bàn đến việc ấy sau.
*
* *
Đến nhà, Tú dắt Nhạc, Hiến, Dũng vào một cái miếu nhỏ ngoài sân. Trong miếu dựng tượng thờ Quan Vân Trường đời Hán, cạnh tường dựng một cây Thanh long đao to lớn khác thường. Đình Tú nói :
- Trong các vị có ai cầm cây đao này múa hết một bài đao, thì tôi xin xách côn theo hầu dưới trướng. Nhược bằng không ai múa nổi thì tôi xin làm kẻ nhà quê đi cày xó núi vậy.
Mọi người ai cũng lấy làm lạ cầm đao múa thử, nhưng mới một đường đã đuối tay bèn lủi thủi ra về. Dọc đường Hiến nói:
- Cây đao này dù Quan Công sống lại cũng không múa nổi. Thu phục người này không có Nguyễn Huệ ắt không xong.
Ngày sau Nguyễn Huệ từ Tây Sơn Thượng về đến, nghe kể lại bèn một mình một ngựa đến nhà Võ Đình Tú. Huệ nói :
- Nghe nói tráng sĩ có cây đao nặng lắm. Huệ tôi xin múa thử vài đường.
Nói xong cầm đao lên múa vùn vụt, ánh thép loang loáng hơi gió lạnh người. Múa xong bài đao mà sắc mặt không hề thay đổi. Đình Tú đứng ngẩn ra nhìn rồi sụp lạy:
- Tướng quân thật là thần nhân. Tôi nguyện đem chút tài mọn cùng tướng quân định quốc an dân.
Huệ lấy làm lạ hỏi:
- Lẽ được thua trong thiên hạ là ở hai chữ Nhân và Trí. Sức mạnh cử đảnh như Hạng Võ ngày xưa sau cùng cũng chết dưới tay Hàn Tín gầy gò yếu đuối. Sao tráng sĩ lại chọn người có sức mạnh để theo phò?
Võ Đình Tú đáp:
- Điều này tôi há chẳng biết hay sao. Nguyên miếu và đao này phụ thân tôi lúc sinh thời lập ra để thờ Quan Vân Trường nhà Hán. Một hôm tôi nằm mộng thấy Quan Thánh hiển linh về báo rằng: Ngày sau nếu có kẻ nào cầm đao này múa nổi một bài đao thì theo giúp rập, lập nên chiến công hiến hách tiếng để ngàn thu. Nay được gặp tướng quân là mộng xưa đã ứng.
Nói xong Võ Đình Tú cầm côn theo Nguyễn Huệ về đầu quân Tây Sơn.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 8 Gặp tướng giỏi, Đình Tú thất thế. Nhờ ngựa hay, Văn Tuyết lập công
Một buổi sáng mùa xuân năm Quý Tỵ (1773), niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi tư, quân ở cổng phía Tây thành Quy Nhơn nghe tiếng người ngoài thành gọi:
- Xin quan binh mở cổng cho vào!
Quân lính trên mặt thành nhìn xuống thấy sáu người khiêng một cái cũi, lại có một người bị trói ngồi trong cũi, liền hỏi lớn:
- Các ngươi là ai. Kêu mở cổng thành có việc gì?
- Chúng tôi đọc cáo thị, nay bắt được tên cướp Nguyễn Nhạc đến nộp cho quan xin lãnh thưởng.
Quân vào phi báo cùng Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên. Tuyên cùng phó tướng Nguyễn Hữu Thệ gọi đốc trưng Trần Đằng đến nhận diện. Đứng trên mặt thành đốc trưng Trần Đằng nhìn kỹ người ngồi trong cũi rồi nói:
- Thằng này đúng là Biện lại Nguyễn Nhạc, nhưng lẽ đâu lại bị bắt dễ dàng như thế. Xin đại quan đề phòng xem có gian kế gì chăng ?
Khắc Tuyên nạt rằng:
- Lúc trước ngươi tiến cử hắn làm Biện lại Vân Đồn, nay ta bảo ngươi đến để nhận mặt hắn mà thôi. Ngươi chỉ trông coi thuế khóa biết gì việc quân cơ mà bàn bạc.
Khắc Tuyên nhìn kỹ hồi lâu rồi nói tiếp:
- Bọn chúng chỉ có sáu người, tên trong cũi là bảy lại không mang theo khí giới gì cả. Phó tướng Nguyễn Hữu Thệ! Ngươi hãy lệnh cho quân thả cầu treo và mở cổng thành bắt tên Nguyễn Nhạc vào đây cho ta trị tội.
Nguyễn Hữu Thệ tuân lệnh ra đi, sai quân mở cổng thành. Thấy cầu treo hạ xuống, cổng thành mở toang, Nguyễn Huệ, Vũ Văn Dũng, Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú liền khiêng cũi Nguyễn Nhạc thẳng vào thành. Vừa vào khỏi cổng các tướng Tây Sơn liền bỏ cũi xuống rút vũ khí giấu trong ống tre làm đòn khiêng, chém chết quân chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc cũng phá cũi xông ra. Phó tướng Nguyện Hữu Thệ trở tay không kịp bị Nguyễn Huệ chém một đao, đầu rơi xuống đất. Quân sư Trương Văn Hiến đứng trên gò cao quan sát thấy Nguyễn Nhạc đã vào thành bèn lấy cờ đỏ phất lên. Tướng quân Nguyễn Văn Tuyết trông thấy ám hiệu liền dẫn một ngàn binh mã hét vang xông thẳng vào thành. Nguyễn Lữ dẫn đại bộ binh theo sau tiếp ứng. Tiếng trống dồn, tiếng quân hò reo dậy đất vang trời.
Quan Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên thất kinh hồn vía hối quân kéo cầu treo lên. Bỗng đâu Võ Đình Tú nhún mình nhảy một cái lên đến mặt thành chỗ mấy tên quân kéo cầu treo. Nào ngờ viên tiểu tướng canh giữ cầu treo chặn Võ Đình Tú vừa đánh vừa hối quân kéo cầu treo cho mau. Quân canh kéo cầu treo cao khỏi đất đã năm thước mà Võ Đình Tú vẫn chưa thắng được tên tiểu tướng ấy, may thay ở ngoài thành, tướng quân Nguyễn Văn Tuyết cưỡi ngựa Xích kỳ phi mau như gió. Toán kỵ binh mới tới nửa đường mà Nguyễn Văn Tuyết đã đến nơi. Tuyết bèn thúc ngựa phóng thẳng lên cầu treo, vung song đao chặt đứt dây kéo. Cầu rơi xuống bắt ngang qua hào, nhờ vậy quân Tây Sơn tràn vào như nước lũ. Nguyễn Khắc Tuyên trong cơn hỗn loạn bỏ trốn, binh chúa Nguyễn triều không người chỉ huy như rắn mất đầu, đều bỏ khí giới xin hàng. Quân Tây Sơn Nguyễn Nhạc chiếm thành Quy Nhơn không hao một nhân mạng, không tốn một mũi tên.
Quân Tây Sơn lấy thành Quy Nhơn rồi mà trên mặt thành Võ Đình Tú vẫn đánh vùi cùng tên tiểu tướng. Võ Đình Tú côn đồng dũng mãnh, viên tiểu tướng thương pháp tinh vi, hàng trăm hiệp không phân thắng bại, thật là kỳ phùng địch thủ! Nhạc bèn sai Nguyễn Huệ lên mặt thành hợp sức cùng Võ Đình Tú. Đến nơi Huệ gọi:
- Đinh Tú đừng đánh nữa!
Tiểu tướng nghe tiếng Huệ gọi, và thấy Võ Đình Tú cầm côn nhảy khỏi vòng chiến liền quăng thương xuống đất nói với Nguyễn Huệ:
- Ta cũng thôi không đánh nữa! Tại sao các ngươi không hợp sức đánh ta mà bảo thôi không đánh nữa?
Huệ cười đáp:
- Hai hổ tranh nhau ắt phải có một con bị thương. Ấy chẳng phải là điều đáng tiếc hay sao? Tướng quân thật vũ dũng hơn người, nhưng Nguyễn Khắc Tuyên đã bỏ thành chạy chốn, ba quân chúa Nguyễn đã đầu hàng cả, một mình tướng quân có thể làm cột chống trời được sao mà đánh nhau mãi cùng Võ Đình Tú thế?
Tiểu tướng đáp:
- Ta vẫn biết quân đã thua thì một mình đánh nhau phỏng có ích gì. Nhưng từ trước đến giờ chưa ai có thể cự với Nguyễn Văn Lộc này nổi ba hiệp, mà nay có kẻ đánh với ta trăm hiệp không phân thắng bại, nên ta quyết chiến cũng vì muốn thử tài cao thấp của con nhà võ tướng mà thôi. Tiếc thay ta chỉ là một tên đội trưởng giữ cầu treo, chứ nếu là đại tướng giữ thành thì dễ gì các ngươi lấy được thành Quy Nhơn. Giờ hãy giết ta đi không phải nói nhiều nữa.
Nguyễn Huệ vỗ tay khen:
- Cái khí phách của tướng quân thật đáng để khâm phục lắm thay. Nhưng sao tài cao chí lớn thế mà chỉ làm viên đội trưởng mà thôi?
Nguyễn Văn Lộc vẫn ngang ngạnh nói:
- Bởi lũ quan triều đình chỉ biết ăn tiền đút lót, không tiến cử nhân tài nên…
Nguyễn Huệ liền chặn lại nói:
- Chính vì lẽ ấy nên bọn ta mới khởi binh ở Tây Sơn, thu phục nhân tài đánh đuổi bọn tham quan ô lại cứu muôn dân khỏi cảnh lầm than. Tướng quân sao không cùng chúng ta thay trời hành đạo thì có phải là không uổng tấm thân hữu dụng đó ư?
Nghe Huệ nói xong Nguyễn Văn Lộc như tỉnh ngộ liền quỳ bái tạ:
- Ơn tha mạng của tướng quân, xin đem thân khuyển mã báo đền.
Nguyễn Huệ đỡ Nguyễn Văn Lộc dậy nói:
- Gia quyến của tướng quân ở nơi nào để tôi cho người đến đón.
Nguyễn Văn Lộc ngậm ngùi đáp:
- Tôi mồ côi từ thuở nhỏ, chăn trâu cho nhà giàu ở chân núi Kỳ Sơn, được một dị nhân dạy cho võ nghệ. Sau tôi ra đầu quân mong đem chút tài mọn phò vua giúp nước. Ngờ đâu vua chúa bạo ác, quan lại tham tàn, trọng của khinh người, vùi dập nhân tài, nên không tiến thân được. Nghĩ phận hèn chưa thành gia thất, gia quyến chẳng có ai.
Nguyễn Huệ dẫn Nguyễn Văn Lộc vào dinh phủ thành Quy Nhơn ra mắt Nguyễn Nhạc. Võ Đình Tú quỳ tạ tội:
- Trại chủ giao cho trọng trách đánh quân kéo cầu treo để quân ta từ ngoài tràn vào mà tôi không làm tròn phận sự. Xin chủ tướng trị tội.
Nguyễn Nhạc nói:
- May nhờ có Nguyễn Văn Tuyết tiếp ứng kịp thời, chặt dây treo cầu. Nếu không có Văn Tuyết, ta cùng các tướng đã nộp mình vào miệng cọp. Đánh thành Quy Nhơn ghi Nguyễn Văn Tuyết công đầu.
Văn Tuyết cười đáp:
- Thật ra tôi chẳng có công gì cả! Ấy là nhờ con ngựa Xích kỳ chạy mau quá nên quân chúa Nguyễn không kéo cầu treo kịp mà thôi. Nếu có luận công thì công đầu chính là ở ngựa Xích kỳ đó.
Nguyễn Nhạc vỗ tay nói đùa rằng:
- Nếu vậy ta phong cho ngựa Xích kỳ của Vân Tuyết chức phi mã đại tướng quân. Còn Vũ Văn Dũng khen Võ Đình Tú cầm côn vào chỗ muôn tên ngàn giáo như chỗ không người sao lại không hạ được vài chục tên lính giữ cầu treo?
Nguyễn Huệ bước ra nói:
- Đình Tú không làm tròn trọng trách ấy chính là nhờ hồng phúc của đại huynh.
Nguyễn Nhạc ngạc nhiên hỏi:
- Sao Huệ lại nói lạ vậy?
Nguyễn Huệ đáp:
- Ấy là vì viên tướng giữ cầu treo dũng mãnh vô song đánh cùng Đình Tú trăm hiệp không phân thắng bại. Nay tướng ấy đã theo về với quân ta, thì đó chẳng phải là hồng phúc của đại huynh ư?
Nguyễn Văn Lộc quỳ tâu:
- Hàng binh Nguyễn Văn Lộc xin ra mắt trại chủ.
Nguyễn Nhạc mừng rỡ nói:
- Vậy là nhờ đánh thành Quy Nhơn ta được thêm hai dũng tướng là Võ Đình Tú và Nguyễn Văn Lộc. Thật đáng vui thay. Truyền quân mở tiệc khao quân.
Nguyễn Huệ can rằng:
- Việc quân chưa hoãn, xin đại huynh khoan bày yến tiệc. Trong lúc khí thế quân ta đang hăng, đại huynh nên sai tướng đuổi theo Nguyễn Khắc Tuyên chiếm hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn. Rồi thừa thắng đánh lấy đèo Thạch Tân để dựa vào thế núi hiểm yếu của đèo này chống giữ với binh triều ở mặt Bắc. Mặt Nam ta đánh chiếm đèo Cù Mông là con đường độc đạo đề phòng quân chúa Nguyễn từ Phú Yên đánh ra. Mặt Đông ta chiếm cứ cửa biển Thị Nại. Đóng đồn trên núi Phương Mai thuộc dãy núi Triều Châu nằm ở phía Bắc cửa Thị Nại. Phía Nam cửa Thị Nại ta cho đóng đồn trên núi Nhạn Châu Lãnh, thuộc dãy núi từ đèo Cù Mông đâm ngang ra biển. Ở giữa hai núi này cách bờ biển chừng vài dặm lại có một hòn núi tên là núi Sơn Chà như một bức tường thành trời cho để che chở cho thành Quy Nhơn ở mặt Đông. Ta cho đặt súng đại bác và cung tên trên ba ngọn núi này, trong đầm Thị Nại lại cho đóng thuyền luyện tập thủy binh, thì không phải lo giặc đánh ta bằng đường thủy vào thành Quy Nhơn. Mặt Tây là căn cứ của ta dựa vào núi rừng Tây Sơn Thượng. Đồng thời ta truyền hịch nói rõ chính nghĩa của mình để được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân. Lúc ấy ta tích thảo dồn lương, chiêu binh mãi mã, huấn luyện quân sĩ, rèn gươm đúc súng, xẻ gỗ đóng thuyền để chờ ngày Nam chinh, Bắc phạt. Ấy là kế sách lâu dài xin đại huynh xét lại.
Văn Hiến khen:
- Nguyễn Huệ thật có tài thao lược, dụng binh tính toán hơn người. Xin trại chủ nên theo kế sách mà làm.
Nguyễn Nhạc hỏi:
- Nhưng ta truyền hịch đánh đổ binh triều thì dựa trên chính nghĩa nào đây?
Văn Hiến đáp:
- Việc này tôi đã liệu tính từ lúc mới khởi binh ở Tây Sơn Thượng. Thiên hạ ngày nay ai cũng bất bình việc Trương Phúc Loan phế bỏ Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương mà lập Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa. Ấy là ta có được thiên thời. Nay ta dựa thiên thời ấy truyền hịch tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan, thì lo gì thiên hạ không theo. Ấy là ta lại giành thêm được nhân hòa. Rồi cứ theo cách dụng binh của Nguyễn Huệ mà làm, chiếm lấy phủ Quy Nhơn núi non hiểm trở đất rộng dân đông ấy là ta chiếm thêm phần địa lợi. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều có đủ, nghiệp ắt phải thành không nghi ngờ gì nữa!
Nguyễn Nhạc mừng rỡ nói:
- Quân sư liệu việc như thần. Vậy việc soạn hịch ngoài quân sư ra còn ai làm nổi. Đoạn quay sang các tướng: Các tướng nghe lệnh. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, lãnh một ngàn quân đánh chiếm đèo Cù Mông. Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng lãnh ba ngàn quân đánh chiếm hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn, rồi đánh lấy núi Thạch Tân. Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đem hai ngàn quân đánh thủy trại của địch ở cửa Giã. Rồi chia quân đóng đồn ở ba núi Nhạn Châu Lãnh, Phương Mai sơn và núi Sơn Chà. Các ngươi hãy thường cho thám mã báo cáo việc quân. Ta cùng Nguyễn Lữ, Võ Đình Tú và quân sư lãnh đại quân trong thành sẽ tùy tình hình mà chia quân tiếp ứng.
Nguyễn Văn Tuyết bước ra nói:
- Tâu trại chủ, đây chính là lúc quân ta đã công khai đối địch với đại binh của chúa Nguyễn triều. Tôi thấy tướng quân Nguyễn Huệ tuy còn nhỏ tuổi mà trí dũng song toàn. Nếu trại chủ cho cầm quân Bắc tiến thì các tướng đều phục, ba quân vững dạ, trên dưới một lòng thì mới mong dễ dàng toàn thắng.
Nguyễn Nhạc lắc đầu đáp:
- Ta không để Nguyễn Huệ cầm quân Bắc tiến vì hai lẽ. Một là quân thắng địch cốt ở chỗ tinh nhuệ, thiện chiến. Lúc còn ở Tây Sơn Thượng nhờ Nguyễn Huệ thao luyện binh sĩ thiện chiến nên quân ta đánh đâu thắng đó. Nay tân binh đầu quân mỗi lúc một đông, phải cần người huấn luyện tinh tường rồi mới đưa ra sa trường diệt giặc. Ấy chẳng phải là nguồn gốc của câu binh pháp “quân cốt giỏi chớ chẳng cốt nhiều” đó sao? Vả lại Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành Quy Nhơn mà chạy ra hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, quan quân ở hai huyện ấy đã kinh tâm tán đởm. Nay Dũng và Nhậm kéo quân ra chỉ một hồi trống cũng có thể đuổi chúng chạy ra đến phủ Quảng Ngãi rồi, cần gì phải Nguyễn Huệ ra tài. Ấy là một lẽ, - Rồi Nhạc ứa nước mắt nói tiếp - Lẽ thứ hai là trước lúc lâm chung thân phụ ta căn dặn rằng phải thay Người dưỡng dục hai em, nhất là Huệ lúc mới sinh ra, hoa Huệ trong vườn bỗng nở hoa thơm ngát nên phụ thân ta mới đặt cho tên là chữ Huệ, tục là Thơm, và tin rằng ngày sau Nguyễn Huệ sẽ làm nên điều tốt đẹp đem lại tiếng thơm cho tổ tông. Bởi vậy thân phụ thường bảo ta không được để cho Huệ xông pha nơi gian khổ, hiểm nghèo. Việc này thân mẫu và hai em đều biết, vậy ta không cho Huệ cầm quân Bắc tiến cũng là làm theo lời di huấn của thân phụ mà thôi.
Nguyễn Huệ bước đến cầm tay anh khóc rằng:
- Phụ thân chẳng may mất sớm, ơn dưỡng dục của đại huynh ví như trời biển. Xét theo đạo nhà là quyền huynh thế phụ, xét theo phép nước là nghĩa chúa tôi. Đại huynh dạy bảo thế nào em nhất nhất tuân theo, xin đại huynh cho em dời doanh trại tập binh từ Tây Sơn Thượng về Tây Sơn Hạ dưới chân đèo Mang để việc đưa tân binh về huấn luyện và đưa tinh binh đến sa trường được thuận tiện.
Nhạc nói:
- Lời em rất phải, các tướng cứ y lệnh mà làm.
Mọi người đều hăng hái đứng dậy. Huệ quay sang dặn Sở và Lân:
- Đèo Cù Mông là yết hầu phía Nam của thành Quy Nhơn. Nếu đánh chiếm được đèo này chẳng những giữ vững Quy Nhơn mà còn có thể dễ dàng lấy đất Phú Yên. Nhân khi quân giữ đồn chưa hay tin Quy Nhơn thất thủ hai em xuất kỳ bất ý đánh lấy đỉnh Cù Mông là làm nên công lớn vậy!
Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân xin vâng. Huệ quay sang dặn dò Nhậm và Dũng:
- Đánh hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn đúng như đại huynh nói chỉ một hồi trống là xong, nhưng đánh đèo Thạch Tân là việc khó. Em Dũng và ông Nhậm nên gắng sức đồng lòng.
Vũ Văn Nhậm cười lớn:
- Tướng quân quá lo xa đó thôi. Phù Ly và Bồng Sơn là hai huyện lớn còn đèo Thạch Tân là một đồn nhỏ chỉ có mấy trăm quân. Nếu ta lấy hai huyện xong thì quân trên đèo nghe tin ắt bỏ đồn mà chạy chứ khó là khó làm sao?
Huệ đáp:
- Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Chưa rõ địch tình ông đừng nên khinh địch mà tổn thất ba quân.
Nhậm chỉ cười mà không nói. Huệ quay sang Nguyễn Nhạc thưa:
- Nếu Dũng và Nhậm lấy xong huyện Phù Ly, đại huynh nên cho quân đóng đồn ở chân núi Bô Chinh Sơn (núi Bà ở Phù Cát) đề phòng quân Nguyễn đánh vào sườn ta bằng thủy binh ở cửa biển Cách Thử và cửa đầm Đạm Thủy (nay là cửa Đề Gi). Nếu lấy xong huyện Bồng Sơn nên cho quân đóng đồn ở núi Hương Sơn, đề phòng quân Nguyễn đánh vào cửa An Giũ (Hoài Hương). Còn các nơi không có cửa biển thì núi non hiểm trở làm thành trì che chở mặt Đông. Nếu được như thế và Dũng, Nhậm lấy được đèo Thạch Tân thì phủ Quy Nhơn của ta coi như là bất khả xâm phạm. Xin đại huynh lưu ý đến hai cửa biển này.
Nhạc cảm động an ủi Huệ:
- Em thật hết lòng lo lắng cho anh, nhưng mọi việc đã có anh và quân sư định liệu. Em hãy gắng sức huấn luyện tinh binh để chờ ngày Nam chinh Bắc tiến.
Huệ quay sang dặn dò Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc:
- Cửa Giã và đầm Thị Nại là nơi trọng yếu của thành Quy Nhơn. Tuyết và Lộc đừng nên khinh xuất.
Dặn dò xong Huệ mới an lòng bái biệt ra đi. Các tướng đều sửa soạn ai vào việc nấy.

ây Sơn bi hùng truyện
Chương 9 Bỏ tiểu tiết, Vũ Văn Dũng ra tài. Tham đại công, Chu Văn Tiếp ôm hận
Nói về Nguyễn Khắc Tuyên chỉ kịp dắt theo vài chục tên lính cận vệ ra cổng Bắc thành Quy Nhơn mà chạy. Ngặt nỗi Khắc Tuyên thân hình mập béo, ngựa nặng quá không chạy mau được, một giờ đi được ba mươi dặm. Lại thêm trời nắng chang chang, đi đến trưa người ngựa đều mệt, đến chân núi Bô Chinh Sơn, thấy cây cao bóng mát Khắc Tuyên hối quân xuống ngựa ngồi nghỉ. Bỗng thấy trong núi một đoàn người ngựa kéo ra, đi đầu là năm viên dũng tướng. Khắc Tuyên hoảng sợ than:
- Sau lưng giặc đuổi, trước mặt cướp chặn đường về, bởi trước giờ ta giết người vô tội, hà hiếp lương dân nên nay phải đền mạng ở nơi này. Ngựa đã đuối sức làm sao chạy kịp nữa.
Bỗng nghe một trong năm viên tướng ấy hỏi:
- Người ngồi ấy có phải là Tuần vũ phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên chăng?
Khắc Tuyên thất sắc chối:
- Không phải! Tôi là dân trong thành Quy Nhơn. Thành bị quân cướp Tây Sơn Nguyễn Nhạc cướp nên chúng tôi mới bỏ nhà chạy loạn đến đây.
Người kia ôn tồn nói:
- Tôi có nghe bá tánh bảo rằng Quan tuần vũ phủ Quy Nhơn hình dạng to lớn khác thường. Nay thấy người lại thấy cốt cách sang trọng hơn kẻ bình thường thì chẳng phải là đại quan đó sao?
Khắc Tuyên ấp úng chưa biết nói thế nào thì người ấy nói tiếp:
- Xin đại quan chớ ngại. Tôi là Chu Đoan Chữ, các em của tôi là Chu Văn Tiếp, Chu Đoan Chân, Chu Đoan Hãn và Phạm Văn Sĩ quê ở huyện Phù Ly tập hợp được năm trăm binh mã ở núi Bô Chinh Sơn định ngày đầu quân đánh thằng buôn trầu Nguyễn Nhạc. Nay nghe chúng cướp thành Quy Nhơn mới đem quân đến cứu mà thôi.
Khắc Tuyên lúc bấy giờ mới hoàn hồn, mừng quá liền hỏi:
- Ta chính là Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên. Thành Quy Nhơn bị chúng lấy mất, lũ giặc sắp sửa đuổi đến đây vậy phải làm sao?
Chu Văn Tiếp bước lên nói:
- Đại quan nên sai vài tên quân chạy về phi báo cho hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn, rồi bảo quan huyện Bồng Sơn kíp báo về cho quan tổng trấn dinh Quảng Nam là Nguyễn Phúc Nghiêm được biết mà đem đại binh vào đánh dẹp. Còn đại quan nặng quá ngựa không chở nổi đi đường bộ không tiện, tôi sẽ cho Phạm Văn Sĩ theo phò đại quan về phía Đông Bô Chinh Sơn rồi dùng thuyền ra cửa Cách Thử mà xuôi gió Đông nam về Bắc.
Chu Văn Tiếp nói đến đây bỗng nghe tiếng quân hò reo, tiếng trống dồn dập, liền hối:
- Phạm Văn Sĩ theo phò tá đại quan còn bốn anh em ta ở đây chặn giặc.
Khắc Tuyên vội vàng lên ngựa chạy theo Phạm Văn Sĩ. Chu Đoan Chữ hỏi:
- Giặc đông ta ít phải liệu thế nào?
Tiếp đáp:
- Quân cốt giỏi chẳng cốt nhiều. Ta chia quân làm hai cánh phục ở hai bên bìa rừng chờ chúng đến rồi đổ ra đánh ắt là phải thắng.
Khi ấy tướng Tây Sơn là Vũ Văn Dũng và Vũ Văn Nhậm kéo quân đến phía Nam núi Bô Chinh Sơn, thấy rừng rậm hoang vu, cỏ cây chằng chịt, Nhậm có ý lo ngại hỏi Dũng.
- Nơi này địa thế hiểm trở nếu địch cho mai phục rồi chờ quân ta đến hai mặt giáp công thì làm thế nào?
Văn Dũng cười đáp:
- Lúc đi ông nói với tướng quân Nguyễn Huệ rằng lấy sông Phù Ly và Bồng Sơn thì quân Nguyễn triều ở đèo Thạch Tân bỏ đồn mà chạy, nay mới đến núi Bô Chinh Sơn là địa đầu của huyện Phù Ly mà lại e ngại thế.
Văn Nhậm đáp:
- Không phải là tôi sợ, nhưng muốn thắng địch thì phải hiểu rõ tình hình địch. Nay cho quân tạm nghỉ rồi phái người dò xét tình hình, sau sẽ tùy cơ ứng biến.
Văn Dũng nói:
- Theo tôi không cần phải dò xét làm chi.
Nhậm hỏi:
- Binh pháp có câu: “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng”. Nay chưa dò biết địch tình cứ nhắm mắt mà tiến quân ngộ nhỡ có mai phục ắt là ta đem binh vào chỗ chết hay sao?
Dũng đáp:
- Trong binh gia phải biết nắm thời cơ. Nay quân ta khí thế đang hăng đi đến đâu dân ùn ùn theo đến đấy, binh triều chỉ nghe tiếng là đã bắt giò lên cổ mà chạy, ta cứ thừa quân thế như chẻ tre mà tiến ấy là việc lớn. Còn nếu chúng có mai phục nhưng lòng quân đã rã, cầm giáo tay run, trong lòng chực chạy. Binh như thế thì dù mưu mẹo thế nào cũng dễ hồ thắng được ta sao? Ấy là ta biết lấy cái lớn mà bỏ điều nhỏ vậy. Tôi xin dẫn năm trăm quân đi trước mở đường nếu có mai phục tôi sẽ cố sức mà đánh. Tướng quân đem toàn quân hai mặt giáp công lại binh mai phục của địch ấy là dùng kế của địch mà thắng địch vậy.
Văn Nhậm nói:
- Thôi được cứ theo kế ấy mà làm.
Văn Dũng quay lại nói với ba quân:
- Các ngươi theo ta đi tiên phong đánh quan quân chúa Nguyễn. Lúc còn ở Tây Sơn Thượng tướng quân Nguyễn Huệ huấn luyện cho các ngươi một đánh được hai, ba, vào chỗ giáo gươm không hề nao núng. Nay ở cánh rừng phía trước có quân mai phục, nếu chúng bắn tên thì dùng khiên mà đỡ, nếu chúng đến gần thì liều chết mà đánh. Chỉ có tiến chứ chẳng có lùi. Các ngươi có đồng lòng gắng sức cùng ta chăng?
Ba quân đồng thanh nói:
- Chúng tôi xin cùng sống chết với tướng quân.
Nhậm hỏi Dũng:
- Tướng quân quả quyết trong ấy có mai phục hay sao mà bảo quân chuẩn bị kỹ lưỡng thế?
Dũng đáp:
- Binh pháp có câu: “Đừng cậy là địch không đến, hãy cậy là địch đến ta đã có kế sách để đợi chúng rồi vậy”. Tôi dặn quân như thế là đề phòng trường hợp nguy nhất mà thôi.
Nói rồi cầm đại đao lăm lăm đi trước, năm trăm quân hùng dũng theo sau.
Chu Đoan Chữ, Chu Văn Tiếp, Chu Đoan Chân, Chu Đoan Hãn chờ quân Tây Sơn lọt vào ổ mai phục liền hô quân tiến lên. Văn Dũng lập tức chia quân làm hai cánh sẵn sàng nghênh địch, nhưng khi thấy đạo quân đối địch mặc toàn y phục dân thường Dũng bèn gò ngựa lại hỏi lớn:
- Các ngươi là ai? Có đánh lầm nhau chăng?
Chu Đoan Chữ chẳng nói chẳng rằng thúc ngựa xông tới chém Văn Dũng. Văn Dũng cúi mình tránh khỏi, thuận tay hoành đao chém một nhát, Đoan Chữ đầu rơi xuống đất. Chu Văn Tiếp thấy anh chết thảm, uất khí xông lên hét vang một tiếng cùng hai em vây Văn Dũng vào giữa mà đánh. Vũ Văn Dũng một mình chống đỡ ba anh em họ Chu không hề nao núng. Quân Tây Sơn vốn đã chuẩn bị khí thế rất hăng lại thêm võ nghệ tinh nhuệ đánh quân họ Chu mỗi lúc một lùi. Khi ấy Vũ Văn Nhậm nghe tiếng trống trận của quân mình liền thúc quân tiến lên. Chu Văn Tiếp thấy quân mình thua, lại thấy Tây Sơn có binh tiếp ứng liền hô lui quân, chạy vào sào huyệt ở trong núi Bô Chinh Sơn.
Đến nơi Tiếp nghiến răng khóc rằng:
- Giặc Tây Sơn giết chết anh ta thật là thê thảm. Thù này ta quyết chẳng đội trời chung.
Nói xong uất hận, ngã ra kêu gào thảm thiết. Chu Đoan Chân, Chu Đoan Hãn hết lời khuyên giải Tiếp vẫn chưa nguôi. Lúc ấy Phạm Văn Sĩ vừa về đến lựa lời khuyên nhủ:
- Nay việc đã lỡ, nhị ca dẫu có khóc than đại ca cũng không thể sống dậy được. Xin nhị ca tạm gác ưu phiền để cùng bàn kế sách về sau.
Chu Văn Tiếp gạt lệ hỏi:
- Quân ta còn được bao nhiêu?
Chu Đoan Chân đáp:
- Còn bốn trăm quân hao mất một trăm quân.
Văn Tiếp nói:
- Hãy cho người ra liên lạc với quan Trấn thủ dinh Quảng Nam Nguyễn Phúc Nghiêm đem quân vào đánh. Còn ta tuyển thêm quân, nếu giặc lấy Phù Ly và Bồng Sơn thì ta sẽ chặn đường về của chúng. Ấy chẳng phải là lập được đại công sao?
Phạm Văn Sĩ bàn:
- Nếu giặc lấy xong hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn thì quân ta nguy mất.
Văn Tiếp hỏi:
- Sào huyệt của ta trong núi Bô Chinh Sơn địa thế hiểm trở, giặc Tây Sơn không thể vào được, lương thảo của ta đủ dùng trong một năm. Nay nghe mất Quy Nhơn triều đình ắt lập tức đem binh thảo phạt, khi ấy ta xuất quân đánh giặc lập công thì nguy là nguy làm sao?
Văn Sĩ đáp:
- Nếu giặc lấy xong hai huyện tất đem quân đóng ở các cửa biển đề phòng binh triều đánh thủy binh. Nay đang là mùa khô nếu chúng dùng hoả công đốt núi khi ấy quân ta bốn mặt đều thọ địch thì chẳng phải là nguy ư!
Chu Văn Tiếp giật mình hỏi:
- Vậy giờ ta nên làm thế nào?
Văn Sĩ đáp:
- Nhân khi chúng chưa chiếm giữ cửa biển ta đem toàn quân xuống cửa Cách Thử mà chạy ra Quảng Nam đầu quân.
Văn Tiếp xua tay nói:
- Ta nhân lúc loạn tụ chúng thừa thời mà lập nên công lớn lưu danh hậu thế. Nếu ra Quảng Nam đầu quân chẳng qua chỉ làm một chức cai cờ là cùng. Ấy không phải là chí hướng của bậc đại trượng phu.
Phạm Văn Sĩ hiến kế:
- Ở phủ Phú Yên có một dãy núi tên là núi Trà Lang nằm về phía Nam đèo Mù Công. Thế núi rất là hiểm trở lại nằm án ngữ con đường độc đạo vào Nam. Nếu nhị ca không muốn đầu quân thì ta đi thuyền vào Phú Yên chiếm cứ núi này chiêu binh mãi mã truyền hịch phò chúa Nguyễn diệt Tây Sơn. Chặn đường Nam tiến của giặc Tây Sơn; ấy cũng là lập nên đại công đó!
Văn Tiếp khen:
- Diệu kế! Lời ấy rất hợp ý ta. Truyền quân mở đường theo chân núi ra cửa biển Cách Thử rồi xuống thuyền vào Phú Yên.
*
* *
Ngày ấy Nguyễn Nhạc và Trương Văn Hiến mở kho thóc phân phát cho dân trong thành Quy Nhơn vừa về dinh phủ, quân thám mã mặt Nam về báo rằng:
- Bẩm trại chủ, tướng quân Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đã chiếm đèo Cù Mông.
Lại có quân thám mã mặt Đông về báo:
- Bẩm trại chủ, tướng quân Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc toàn thắng ở Cửa Giã lấy được hàng trăm chiếc thuyền của binh triều.
Nguyễn Nhạc mừng rỡ nói:
- Hay lắm! Việc tranh lấy địa lợi còn chờ cánh quân mặt Bắc của Vũ Văn Nhậm và Vũ Văn Dũng lấy đèo Thạch Tân(1) nữa là xong. Không biết cánh quân mặt Bắc đã tiến đến đâu rồi?
Vừa nói xong quân thám mã về báo:
- Bẩm trại chủ, tướng quân Vũ Văn Nhậm và Vũ Văn Dũng đã chiếm được hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn.
Nhạc vội hỏi:
- Sao không thừa thắng đánh lấy đèo Thạch Tân?
Tên quân đáp:
- Đèo Thạch Tân binh triều canh phòng cẩn mật quân ta không tiến được. Tướng quân Vũ Văn Nhậm có thư trình trại chủ.
Nguyễn Nhạc giở thư ra, xem xong nói:
- Văn Nhậm gửi thư nói đèo Thạch Tân là con đường độc đạo, địch ở trên cao lăn gỗ đá bắn cung tên xuống như mưa, quân ta không làm sao tiến được. Lại có tin Tổng binh dinh Quảng Nam là Tôn Thất Hương đem ba vạn tinh binh đóng ở phía Bắc đèo Thạch Tân thuộc phủ Quảng Ngãi nay mai sẽ vượt đèo vào đánh quân ta. Nhậm và Dũng xin viện binh. Ý quân sư thế nào?
Trương Văn Hiến đáp:
- Nay quân ta trong thành được năm ngàn quân đem ra tiếp viện cho Vũ Văn Nhậm và Vũ Văn Dũng cả thảy chỉ có tám ngàn quân cũng chưa phải là đối thủ của ba vạn tinh binh triều. Quân của Sở và Lân, của Tuyết và Lộc cũng không thể điều ra mặt Bắc mà bỏ các nơi hiểm yếu ở mặt Đông và mặt Nam thành Quy Nhơn được.
Nguyễn Nhạc thở dài nói:
- Nếu lấy được đèo Thạch Tân thì quân ta có sợ gì ba vạn quân của chúng - Nhạc chợt nhớ điều gì liền hỏi - Nguyễn Huệ liệu việc không sai. Sao Huệ biết rằng đèo Thạch Tân lại khó đánh?
Hiến đáp:
- Đèo Thạch Tân địa thế hiểm trở, dễ giữ khó đánh. Ai lấy được đèo này phải từ trên đánh xuống, địch quân chỉ có một con đường độc đạo từ dưới đi lên, chẳng khác đèo Cù Mông ở phía Nam. Nhưng khi ta đánh thành Quy Nhơn thì Khắc Tuyên mở cổng Bắc thành mà chạy, nên binh triều ở đèo Thạch Tân hay được đã kíp đề phòng.
Nguyễn Nhạc nói:
- Theo ý tôi, ở địa giới huyện Phù Ly và Bồng Sơn có một đường đèo(2) nằm giữa hai ngọn núi Lại Khánh ở phía Tây và núi Bích Kê ở phía Đông. Ta đem năm ngàn quân đến phục ở hai sườn núi này, rồi truyền cho Nhậm và Dũng chờ quân Tôn Thất Hương đến thì ra đánh rồi giả thua mà chạy, nhử cho chúng lọt vào đèo này phục binh ta đổ ra đánh nhất định phải thắng. Quân sư thấy thế nào?
Văn Hiến đáp:
- Lúc tôi còn ở kinh thành có nghe anh em Tôn Thất Hương, Tôn Thất Tiệp đều là tướng trí dũng và trung nghĩa. Kế này chưa hẳn đã dụ được Tôn Thất Hương. Nhưng nếu Tôn Thất Hương không dám tiến binh thì ta dựa vào thế hiểm yếu của núi Lại Khánh và Bích Kê mà bảo toàn lực lượng, giữ vững từ huyện Phù Ly trở vào. Ấy cũng là thượng sách vậy. Trại chủ nên theo kế ấy mà làm.
Nguyễn Nhạc bèn để Nguyễn Lữ, Nguyễn Thung ở lại giữ thành Quy Nhơn rồi hạ lệnh xuất quân.

Chú thích:

(1)Nay là đèo Bình Đê, ranh giới giữa Bình Định và Quảng Ngãi.
(2)Nay là đèo Phủ Cũ.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 10 Nên nghĩa vợ chồng, Diệu - Xuân hết lòng vì chúa. Bày trận thủy hoả, Nguyễn Huệ diệu kế dụng binh
Nói về Tôn Thất Hương sai con là Tôn Thất Chính đem năm ngàn quân đi tiên phong vượt đèo Thạch Tân đánh quân Tây Sơn, tự mình dẫn đại quân đi sau tiếp ứng. Đạo quân tiên phong Tôn Thất Chính đi đến đâu quân Tây Sơn lui đến đấy. Tiến một mạch đến chân núi Bích Kê thấy núi non trùng điệp cây cỏ um tùm. Chính sợ phục binh bèn đóng đồn cách núi Bích Kê hai mươi dặm chờ đại binh trợ chiến. Tôn Thất Hương dẫn đại binh đến nói:
- Giặc không đánh trận nào mà chỉ lui quân. Chúng muốn bảo toàn lực lượng dụ ta vào eo núi này mà đánh. Kể ra cũng lắm mưu nhiều kế, nhưng lừa ta sao được.
Vừa nói dứt lời bỗng nghe tiếng trống dập dồn, tiếng quân hò reo vang trời dậy đất, quân Tây Sơn từ trong núi xông ra. Đi đầu là hai viên tướng đầu đội mũ lông thú, mình mặc giáp trụ uy nghi, toàn quân đều mặc áo đỏ, ào ào xông đến. Tôn Thất Hương sai quân dàn trận sẵn sàng đợi địch. Hai bên giáp chiến, chém giết rất hăng. Tôn Thất Hương thấy quân Tây Sơn dũng mãnh tiền quân núng thế liền sai con là Tôn Thất Đính chia hậu quân làm hai cánh tiến lên đánh vào hai bên sườn địch. Vũ Văn Nhậm trông thấy liền đánh trống thu quân. Quân Tây Sơn làm như hỗn loạn theo đường đèo mà chạy. Tôn Thất Chính xua tiền quân đuổi tràn theo. Bỗng nghe chuông thu quân liền quay ngựa lại hỏi:
- Thưa cha! Sao không nhân lúc thắng trận đuổi theo giặc đánh giết một trận rồi chiếm lại thành Quy Nhơn cho rồi?
Tôn Thất Hương nói:
- Con còn nhỏ chưa từng xông pha trận mạc nên không biết đấy thôi. Hãy nhìn xem hai bên sườn núi có phục binh.
Tôn Thất Đính ngơ ngác hỏi:
- Thưa cha, con có thấy phục binh nào đâu?
Tôn Thất Hương cười bảo:
- Nếu phục binh mà cho ta thấy thì sao gọi là phục được. Hãy quan sát thiên nhiên để biết điều nhân sự. Ở cánh rừng hai bên sườn núi rộng chừng vài dặm chim chóc tự nhiên bay lên hàng đàn thì trong ấy chẳng phải có phục binh đó ư!
Đính và Chính cùng nói:
- Cha liệu việc như thần. Giờ ta phải tính kế nào qua khỏi đèo này?
Hương đáp:
- Việc này ta đã có kế!
Nói xong bèn viết một phong thư sai sứ giả đem trao cho Tây Sơn Nguyễn Nhạc, rồi kéo đại binh lui về đóng đồn ở phía Nam sông Lại Dương.
*
* *
Nguyễn Nhạc nhận thư Tôn Thất Hương bèn hội các tướng bàn việc quân. Nhạc nói:
- Tôn Thất Hương biết kế mai phục của ta nên không đuổi theo tiền quân Nhậm và Dũng. Nay lại cho người đưa thư nói rằng: Quân ta khởi binh tôn phò Hoàng tôn Dương là thuận lòng trời hợp lòng người, hắn bất đắc dĩ nghe lệnh tổng trấn Quảng Nam dinh là Nguyễn Phúc Nghiêm nên phải đem quân chinh chiến chứ lòng chẳng muốn. Nguyễn Phúc Nghiêm rất thích ăn thú rừng, trong dinh lúc nào cũng nuôi vài mươi con để dùng dần. Nay nếu quân ta nộp cho hắn nai hươu, lợn rừng, mang mển, dê rừng, mỗi thứ hai mươi con, cả thảy một trăm con còn sống, hắn sẽ đem dâng cho trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Phúc Nghiêm, rồi lựa lời ngon ngọt để Nghiêm đừng hối thúc việc quân, ấy là kế hoãn binh. Sau đó hắn sẽ sai người tâm phúc ra kinh thành mật báo với Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương bỏ kinh thành vào với quân ta để đánh đổ Trương Phúc Loan. Không biết những lời ấy là thật hay có ẩn ý gì?
Nhạc nói xong có quân thám mã về báo:
- Địch lui về một trăm dặm đóng quân ở phía Nam sông Lại Dương.
Quân sư Trương Văn Hiến cười rằng:
- Tôn Thất Hương quả nhiên trí dũng hơn người, lại rất rành binh pháp. Nay đang là mùa hè nóng nực gió Nam thổi mạnh khí hậu khô rốc, nên hắn lui về đóng quân gần sông Lại Dương để nhờ hơi nước ẩm mát giữ gìn sức khoẻ tướng sĩ và tránh xa núi này để dễ đề phòng quân ta tập kích, đồng thời cho ta tin rằng hắn có thiện ý như đã viết trong thư, người như thế thật đáng là danh tướng.
Nguyễn Nhạc nghi ngờ hỏi:
- Quân sư nói vậy có nghĩa là hắn có mẹo gì ư?
Hiến trầm ngâm đáp:
- Núi rừng mùa khô rất dễ bị địch dùng hỏa công mà đốt. Nhưng quân triều đóng ở phía Bắc, mà gió Nam đang thổi ngược ra, nên Tôn Thất Hương không thể dùng hỏa công đốt núi. Nay nếu ta nộp đủ trăm con thú, hắn sẽ cho đại quân tiến sát rừng rồi bất ngờ thả thú có mang lửa và chất dẫn hoả trên mình. Thú rừng tất sẽ chạy vào rừng. Ấy là không thuận gió mà vẫn có thể dùng hoả công, khi ấy ắt là phục binh của ta sẽ làm mồi cho lửa.
Nguyễn Nhạc giật mình hỏi:
- Tôn Thất Hương quả nhiên lợi hại. Nếu ta không nộp thú cho hắn thì hắn làm thế nào?
Hiến đáp:
- Hắn tiên liệu rằng nếu ta không nộp thú ắt phải hẹn ngày để dùng kế hoãn binh. Ấy là hắn dùng kế hoãn binh của ta để làm kế hoãn binh của hắn. Rồi nhân lúc ta không đề phòng, hắn chia quân dùng thuyền nhỏ ra cửa biển An Giũ vượt qua núi Bích Kê vào cửa biển đầm Đạm Thủy rồi đổ bộ đánh vào sau lưng ta. Khi ấy hắn phóng hỏa đốt núi thì quân ta nguy mất.
Hiến vừa dứt lời viên tiểu tướng vào báo:
- Bẩm trại chủ, có hai viên tướng người Tàu tên là Lý Tài và Tập Đình đem quân vào cửa biển Đạm Thủy xin nương nhờ quân ta và xin lương thực. Tướng quân Nguyễn Văn Tuyết không dám quyết nên sai tôi đến xin lệnh trại chủ.
Nguyễn Nhạc hỏi:
- Hai viên tướng ấy hiện ở đâu?
- Một người theo tôi đến đây đang chờ ngoài doanh trại.
Nhạc liền cho mời vào hỏi:
- Chẳng hay tướng quân là người ở phương nào, vì sao phải đến đây nương nhờ Tây Sơn ta?
Người ấy đáp:
- Tôi tên Lý Tài và người anh em kết nghĩa tên Tập Đình quê ở Quảng Đông nguyên là thuộc tướng của nhà Minh. Chúng tôi dấy binh phản Thanh phục Minh, nên bị quân Thanh đánh đuổi, không còn đất dung thân phải theo đường bể chạy về đây. Hiện nay quân lương hết sạch xin Chúa công thương tình cho mảnh đất dung thân, cấp lương thảo qua cơn hoạn nạn. Nếu có gì sai bảo anh em tôi xin đem thân khuyển mã báo đền.
Nói xong khóc lạy. Nhạc động lòng nói:
- Việc ấy đối với ta chẳng khó gì. Nhưng từ Quảng Đông đến đây đường xa vạn dặm, sao tướng quân không vào Bắc Hà xin nương nhờ chúa Trịnh mà phải vượt sóng gió đến nơi này?
Lý Tài gạt nước mắt đáp:
- Ở Bắc Hà vua Lê chúa Trịnh đang chịu thụ phong và nộp cống cho nhà Thanh. Nếu tôi vào đất ấy thì có khác gì làm mồi cho kẻ muốn tâng công. Trên đường đi có ghé vào Phú Xuân thì bị quân chúa Nguyễn đánh đuổi bảo tôi là cướp bể. Rồi cứ thế đi lần vào phương Nam. Hôm tháng trước tình cờ gặp một toán quan quân đi thuyền ra Phú Xuân, hỏi ra mới biết đó là quan Trấn thủ thành Quy Nhơn bị Chúa công đánh đuổi. Tôi trộm nghĩ Chúa công vì dân nghèo dấy nghĩa ắt thương kẻ đường cùng, vả lại không lệ thuộc vào người nào ắt là nương nhờ được. Nên mới mạo muội đến đây xin Chúa công mở lượng hải hà.
Nói xong lại khóc lạy. Nguyễn Nhạc cảm động đỡ Lý Tài dậy hỏi:
- Tướng quân hiện có bao nhiêu quân, đang đồn trú ở đâu?
Lý Tài đáp:
- Tôi hiện còn một ngàn quân và năm mươi chiếc thuyền, hết lương nên cho thuyền vào cửa bể Đạm Thủy. Tướng quân Nguyễn Văn Tuyết đem quân ra đánh. Tôi treo cờ trắng và bỏ khí giới, Tuyết tướng quân cho đóng tạm trong đầm Đạm Thủy.
Nhạc quay sang hỏi Trương Văn Hiến:
- Ý quân sư thế nào?
Văn Hiến đáp:
- Thấy người cùng đường không cứu thì đâu phải là chính nghĩa. Xin trại chủ cấp cho họ một ngàn hộc thóc. Khi có việc cần nhờ họ giúp một tay, ấy là cả hai cùng có lợi vậy.
Nhạc nghe lời, nói với Lý Tài:
- Tướng quân hãy quay về tạm neo thuyền trong đầm Đạm Thủy, ta sẽ cho người vận tải lương thực, và lệnh cho Tuyết tướng quân trả khí giới cho binh sĩ của tướng quân. Hiện nay quân ta đang chống nhau với binh triều Nguyễn. Tướng quân cứ nghỉ cho khoẻ, khi cần có thể vì ta mà giúp một tay chăng?
Lý Tài mừng rỡ lạy tạ ơn:
- Ơn sâu của Chúa công nguyện kết cỏ ngậm vành. Dù nhảy vào dầu sôi lửa bỏng tôi quyết chẳng từ nan.
Nói rồi lạy tạ ra đi. Võ Đình Tú đứng lên nói:
- Thưa trại chủ, tôi thấy người này mắt lươn, môi mỏng, mũi thời nhọn, mà nhân trung thời ngắn ắt không phải người ngay. Xin trại chủ chớ khá tin dùng.
Văn Hiến cười khen Đình Tú:
- Đình Tú tuổi còn nhỏ mà biết xem tướng nhìn người, quả có mắt tinh đời. Ta cũng biết thế nhưng cứ đem ân đức mà cảm hoá ấy chẳng phải là con đường nhân đạo hay sao? Nếu về sau ăn ở hai lòng ta sẽ liệu sau, Đình Tú đừng ngại. Bây giờ trại chủ hãy đưa thư hẹn Tôn Thất Hương trong nửa tháng nộp đủ số thú rồi kíp sai người triệu Nguyễn Huệ đem quân hợp sức định ngày phá địch.
*
* *
Nói về Nguyễn Huệ sau khi lấy thành Quy Nhơn vâng mệnh anh về Tây Sơn Thượng cùng nữ tướng Bùi Thị Xuân dời trại luyện binh xuống miền Tây Sơn Hạ. Trần Quang Diệu đem năm trăm quân đến gia nhập nghĩa quân. Diệu nói:
- Tôi vâng lệnh tướng quân đem quân bản bộ mở đường Thượng đạo. Tôi theo lối mòn của người Thượng thông thương với nhau, nên đường núi này trong có thể vào đến Bình Thuận, ngoài có thể ra tới Nghệ An. Nay việc đã xong đem quân về phục mệnh.
Nguyễn Huệ mừng rỡ vỗ vai Diệu khen:
- Tướng quân thật là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Mở được con đường này coi như ta đã hoàn thành một nửa sứ mệnh đập đổ hai nhà Trịnh Nguyễn, xoá bỏ ranh giới Linh Giang, đem giang sơn về một mối, mang lại thái bình cho trăm họ rồi vậy. Nay quân ta chiếm thành Quy Nhơn, đang tiến ra thu phục hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, tôi vâng lệnh đại huynh dời doanh trại xuống miền Tây Sơn Hạ để huấn luyện tân binh. Tôi và cô Xuân phải gấp đi ngay, phiền tướng quân tạm ở lại đây chờ người Thượng mang voi đến nộp, rồi xuống hội quân ở Tây Sơn Hạ. Chẳng hay tướng quân có vui lòng chăng?
Trần Quang Diệu khẳng khái đáp:
- Đã là việc quân thì phải gạt bỏ tình riêng sao tướng quân lại hỏi vui hay không vui?
Nguyễn Huệ vờ hỏi:
- Sao tướng quân lại nói là gạt bỏ tình riêng? Có phải tướng quân còn phu nhân ở quê quán hay chăng?
Diệu thành thật đáp:
- Tôi chưa gặp được ý trung nhân nên chưa thành gia thất.
Huệ lại quay sang Bùi Thị Xuân hỏi:
- Còn cô Xuân quê nhà ở Tây Sơn Hạ, lâu nay vì việc quân mà phải xa nơi chôn nhau cắt rốn. Nay được về nơi ấy nên vui mới phải, sao nét mặt lại ưu phiền như thế?
Bùi Thị Xuân ngập ngừng đáp:
- Tôi lâu nay huấn luyện tượng quân ở nơi này có đôi phần quen người quen cảnh, nay ra đi cũng ít nhiều lưu luyến vài kỷ niệm mà thôi.
Huệ bật cười ha hả hỏi:
- Có phải kỷ niệm xạ tiễn giết hổ cứu người không?
Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân cùng thẹn thùng cúi mặt. Nguyễn Huệ cầm tay Diệu và Xuân nói:
- Nỗi lòng của hai người ta đã rõ. Nếu ta không làm cầu Ô Thước thì biết bao giờ Ngưu Lang, Chức Nữ mới gặp được nhau đây? Thôi tướng quân hãy cùng theo về Tây Sơn Hạ, ta sẽ xin phép Bùi ông tác hợp cho hai người.
Quang Diệu ái ngại hỏi:
- Vậy còn việc nhận voi của người Thượng phải tính thế nào?
Huệ cười đáp:
- Lão làng tự khắc sai người mang về Tây Sơn Hạ. Lúc nãy ta nói thế là lập mưu cho rõ lòng hai vị mà thôi.
Diệu và Xuân đồng thanh nói:
- Đa tạ tướng quân thương tình tác hợp.
Về đến Tây Sơn Hạ, Huệ đứng ra chủ hôn cử hành hôn lễ cho Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân. Việc vừa xong có quân đến đưa thư của Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ mời Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân đến giở bản đồ ra nói:
- Tổng binh Quảng Nam dinh là Tôn Thất Hương đem ba vạn quân vào đóng ở phía Nam sông Lại Dương. Đại huynh cùng quân sư đem toàn quân trong thành Quy Nhơn hợp với quân Nhậm và Dũng đóng tại núi Lại Khánh và núi Bích Kê chặn địch. Đại huynh bảo ta kíp đem quân hợp sức phá giặc. Nay hai người mới nên duyên gia ngẫu, vì việc quân khẩn cấp ta có việc muốn nhờ Diệu, trong lòng ái ngại lắm thay.
Diệu vòng tay nói:
- Tôi đã thưa với tướng quân, vì việc quân phải gạt bỏ tình riêng. Xin tướng quân xuống lệnh tôi dù phải phơi gan trải mật chẳng dám chối từ.
Huệ chỉ vào bản đồ nói:
- Phiền tướng quân đem năm trăm quân bản bộ ngược theo đường Thượng đạo ra huyện Bồng Sơn đến thượng nguồn sông Lại Dương đắp đập chặn nước rồi đốn cây thả ở trên đập, chờ khi nào thấy lửa cháy, nghe tiếng súng nổ ở hạ lưu Lại Dương Giang thì sai quân phá đập. Ta muốn mượn dòng nước này chặn đường lui quân của binh Nguyễn triều. Còn cô Xuân ở lại giữ doanh trại, huấn luyện tượng binh. Ta kíp đem quân hợp sức với đại huynh phá địch.
*
* *
Nguyễn Huệ dẫn quân đến phía Nam núi Bích Kê và núi Lại Khánh, quân Tây Sơn trông thấy hô vang:
- Tướng quân Nguyễn Huệ đến, lo gì giặc chẳng tan.
Nguyễn Nhạc ở trong doanh trại nghe tiếng ồn ào liền hỏi:
- Ngoài kia có việc gì mà binh sĩ náo động thế?
Quân canh đáp:
- Thưa trại chủ, tướng quân Nguyễn Huệ dẫn quân về, tướng sĩ trông thấy mừng rỡ hô vang rằng: Tướng quân Nguyễn Huệ đến, lo gì giặc chẳng tan đấy ạ!
Nguyễn Nhạc liền cho triệu Nguyễn Huệ cùng các tướng họp bàn việc quân. Huệ quỳ tâu:
- Em vâng lệnh đại huynh đến phục mệnh. Nghe nói Tôn Thất Hương đem đại binh đóng ở phía Nam sông Lại Dương. Thưa đại huynh việc ấy có không?
Nguyễn Nhạc chưa kịp trả lời. Vũ Văn Dũng bước ra nói:
- Đúng là như vậy. Lúc tôi cùng Vũ Văn Nhậm chiếm xong huyện Bồng Sơn, thì binh triều đem ba vạn quân vượt đèo Thạch Tân đánh xuống. Trại chủ lệnh cho tôi cùng Nhậm không được đánh mà cứ giả vờ sợ hãi chạy một mạch đến đây. Nay có sư huynh đến xin trại chủ cho chúng tôi cùng sư huynh ra huyết chiến một phen.
Nguyễn Huệ trấn an Văn Dũng:
- Sư đệ đừng nên nóng nảy. Đại huynh và quân sư ắt có kế rồi đây.
Rồi quay sang Hiến, Huệ hỏi:
- Nay kế phá giặc đại huynh và quân sư định liệu thế nào xin xuống lệnh, chúng tôi lập tức ra trận lập công.
Trương Văn Hiến trầm ngâm đáp:
- Tôn Thất Hương dùng kế hoãn binh bắt ta nộp cho hắn một trăm con thú, hắn sẽ lui binh. Ta sẽ tương kế tựu kế hẹn nửa tháng sẽ giao nộp đủ, rồi lệnh cho Nguyễn Văn Tuyết cùng Lý Tài phục thủy binh ở cửa biển đầm Đạm Thủy, nhất định hắn sẽ chia quân đi đường thủy vào cửa bể này đánh sau lưng doanh trại của ta. Đợi khi Tuyết phá địch ở đầm Đạm Thủy xong, đại binh của ta sẽ đánh vào đại bản doanh của chúng bên bờ sông Lại Dương, thì việc đuổi chúng ra khỏi đèo Thạch Tân nào có khó gì.
Nghe xong Nguyễn Huệ tâu:
- Đại huynh đưa thư hẹn với hắn cứ một ngày nộp mười con, trong mười ngày sẽ nộp đủ số thú rừng, để hắn khinh thường là ta đã trúng kế của hắn. Sau ba ngày tôi xin đem năm ngàn quân làm tiên phong đánh giặc. Nếu không phá được binh triều xin về đây chịu chém đầu theo tướng lệnh.
Nguyễn Nhạc nổi giận vỗ án quát:
- Ngươi là đứa con nít cứ cậy khoẻ nói càn, quân ta một vạn chưa dám ra giữa chiến trường đánh nhau với ba vạn quân địch. Cái đầu ngươi nào có sá gì, nhưng còn tính mạng năm ngàn quân của ta thì sao?
Văn Hiến đứng dậy can rằng:
- Xin trại chủ bớt giận. Huệ nói vậy ắt là có kế sách - Rồi quay sang hỏi Huệ - Con định đánh thế nào mà năm ngàn quân có thể phá được ba vạn quân của địch?
Huệ quỳ tâu:
- Thưa thầy, con sẽ cho quân đối mặt giáp chiến với binh triều.
Nói chưa dứt lời, Trương Văn Hiến lắc đầu, các tướng Nhậm, Dũng, Tú đều ngơ ngác nhìn nhau. Nguyễn Nhạc thấy thế lại vỗ án hét lớn:
- Sức ngươi đã bạt sơn cử đảnh như Hạng Võ ngày xưa chưa mà cậy khoẻ ngông cuồng?
Nguyễn Huệ sợ hãi quỳ lạy:
- Em chưa hết lời xin đại huynh bớt giận. Nguyên là nhờ hồng phúc của đại huynh, em vừa chế được một thứ binh khí, một quân ta có thể đánh được mười quân địch.
Nguyễn Nhạc nghi ngờ hỏi:
- Thứ vũ khí nào mà lợi hại thế? Nếu còn nói càn ta quyết trị tội không tha!
Nguyễn Huệ vội gọi quân mang vào một cây sắt vừa vặn tay cầm, dài chừng hai thước. Huệ cầm lên nói:
- Đây là cái ống bằng đồng, rỗng ở bên trong, có hai khoen dùng để gắn một cây đuốc ở ngay miệng ống. Trong ống đựng đầy một thứ nhựa cây, khi ra trận chỉ cần cầm ống này vung về phía địch, nhựa trong ống văng ra, gặp lửa ở miệng ống lập tức bốc cháy. Giặc bị phỏng tất phải văng gươm mà chạy. Thứ nhựa cây này văng đâu dính đó, phủi không rời, dập không tắt, sức nóng vô cùng, anh em ba quân gọi là hỏa hổ, xin đại huynh xem xét.
Văn Hiến lấy làm lạ hỏi:
- Thứ hỏa hổ này cổ kim chưa từng nghe nói. Huệ lấy đâu ra nhựa cây ấy?
Nguyễn Nhạc cầm ống hỏa hổ săm soi nói:
- Thứ nhựa cây của người Thượng lấy ở trên rừng, ban đêm cần ánh sáng thì thay dầu mà đốt. Ta từng sống với người Thượng bao nhiêu năm mà chẳng nghĩ ra. Nguyễn Huệ quả nhiên là thần cơ diệu toán. Truyền quân chuẩn bị xuất quân. Phong Nguyễn Huệ là tiên phong, Văn Dũng làm phó tướng đem năm ngàn quân đánh vào trại địch. Ta sẽ đem đại binh tiếp ứng.
Nguyễn Huệ nói:
- Em đã cho bộ tướng là Trần Quang Diệu đem năm trăm quân chặng đường về của địch. Ba vạn quân triều không thể nào chạy khỏi Lại Dương Giang. Đại huynh kíp ra chiếu lệnh truyền Lý Tài và Tập Đình dẫn một ngàn binh bản bộ đem chiến thuyền vào cửa biển An Giũ rồi án binh bất động, khi nào thấy lửa cháy ở bờ phía Nam sông Lại Dương thì đem quân theo bờ Bắc bất ngờ đánh lấy đèo Thạch Tân, ắt là toàn thắng.
Trương Văn Hiến xua tay nói:
- Tôn Thất Hương là đại tướng của chúa Nguyễn rất giỏi dụng binh, dù quân thua vẫn trật tự mà lui. Trần Quang Diệu đem năm trăm quân sao chặn được đường về của ba vạn quân địch.
Các tướng đều nói:
- Lời quân sư hữu lý.
Nguyễn Huệ giãi bày rằng:
- Tôi sai Trần Quang Diệu đem năm trăm quân lên thượng nguồn sông Lại Dương đắp đập chặn nước rồi đốn cây thả ở đầu dòng, hẹn thấy lửa cháy ở hạ lưu sông Lại thì phá đập. Nước và gỗ sẽ đổ xuống như thác, quân triều dù mọc cánh cũng không qua khỏi Lại Dương Giang.
Văn Hiến cười ngặt nghẽo nói rằng:
- Huệ ơi con đã tính nhầm rồi. Nay đang là mùa nắng hạn, sông Côn còn phải cạn trơ gò huống hồ là sông Lại Dương, thì nước đâu mà con đắp đập ngăn sông?
Nguyễn Huệ đáp:
- Thưa thầy, thông thường mùa này các sông đều khô cạn, nhưng đặc biệt con sông Lại Dương mùa mưa thì không bị lụt lớn, mùa nắng hạn nước vẫn tràn đầy. Bởi thế nhân dân trong vùng thường có câu hát rằng “Nước Lại Dương mênh mang mùa nắng, dòng sông Côn lai láng mùa mưa”. Xin thầy cùng đại huynh an tâm, đánh trận này nếu có một tên quân Nguyễn triều qua được bờ bắc Lại Dương Giang, Huệ tôi xin về chịu tội.
Trương Văn Hiến ngạc nhiên nói:
- Trong cõi trời đất này lại có con sông lạ lùng thế sao? Nếu quả vậy là trời giúp ta rồi đó. Nguyễn Huệ biết dùng cỏ cây, nước lửa thay cho quân lính thật là tài năng hiếm có trên đời. Ta trước dạy binh thư võ nghệ cho Huệ, nhưng tùy cơ mà ứng dụng binh pháp cũng không bằng Huệ vậy. Tâu trại chủ cứ theo kế ấy mà làm, trận này nhất định bắt sống cha con Tôn Thất Hương.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 11 Sông Lại Dương, cha con Tôn Thất Hương tận trung bỏ mạng. Núi Thạch Tân, anh em Lý Tài tàn sát hàng quân
Tôn Thất Hương đóng quân ở bờ Nam sông Lại Dương, có quân vào báo:
- Thưa tướng quân, chủ tướng Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai người dâng thư cho tướng quân.
Hương xem xong thư mừng rỡ cười lớn rằng:
- Nguyễn Nhạc quả nhiên trúng kế, phen này ta sẽ đốt quân mai phục của chúng trong núi Bích Kê và Lại Khánh thành tro bụi cho chúng biết tài dụng binh của ta.
Tôn Thất Đính tò mò hỏi:
- Trong thư giặc nói gì mà cha tỏ ra vui mừng thế?
Hương đáp:
- Nguyễn Nhạc xin mỗi ngày nộp mười con thú rừng, trong mười ngày sẽ đủ số thú rừng. Mười ngày sau một trăm con thú này sẽ thay ta đốt phục binh của chúng ở hai hòn núi kia vậy.
Tôn Thất Chính kính cẩn hỏi:
- Xin cha giảng giải rõ hơn, chúng con vẫn còn chưa hiểu.
Tôn Thất Hương dẫn hai con ra ngoài doanh trại, gọi quân mang đến một con ngựa, có một cái hòm bằng gỗ được đặt vừa vặn, nai nịt cẩn thận trên lưng ngựa. Đến gần con ngựa đó, Hương nói:
- Các con cứ cho đây là một con thú rừng. Trong chiếc hòm này đựng đầy than củi đang cháy, dưới than lửa lót một lớp tro cho khỏi nóng lưng thú. Ta cho đại binh tiến sát bìa rừng rồi thả chúng ra khỏi cũi, thú rừng ắt phải chạy vào rừng. Mùa này cây lá khô trong rừng chồng chất lên nhau, gặp một mồi lửa tức khắc bùng cháy, khi ấy đường đèo và hai ngọn núi kia sẽ biến thành biển lửa. Các con hiểu chưa?
Vỡ lẽ, Tôn Thất Đính mừng rỡ nói:
- Ngược hướng gió mà vẫn đánh được hỏa công, cổ kim chưa từng nghe nói. Cha thật là thần cơ diệu toán!
Nói rồi ba cha con hớn hở vào dinh.
*
* *
Ba hôm sau, Nguyễn Huệ đem năm ngàn quân tiến đánh. Quân vào phi báo, Tôn Thất Hương liền nai nịt cầm thương lên ngựa cùng hai con ra chiến trận. Đợi quân Tây Sơn vào vừa tầm tên, Hương ra lệnh cho quân xạ tiễn. Binh Nguyễn triều bắn tên ra như mưa, Nguyễn Huệ lệnh cho ba quân khom mình cầm khiên che tên cứ thế tiến lên. Hương bảo Tôn Thất Đính:
- Con mau dẫn một ngàn kỵ binh chuẩn bị giáp chiến, cha sẽ cho binh bộ tiếp ứng. Bọn giặc này quả nhiên liều lĩnh, có năm ngàn quân mà dám tấn công vào đại binh của ta.
Tôn Thất Đính vâng lệnh đi ngay. Hai bên giáp chiến hò reo vang dậy góc trời. Quân Tây Sơn đốt đuốc tung hỏa hổ, kỵ binh Nguyễn triều dính nhựa hỏa hổ, người ngựa đều bị cháy bỏng, hỗn loạn quay đầu mà chạy. Tôn Thất Đính ngăn cản không xuể, giận lắm một mình thúc ngựa xông lên, bị Nguyễn Huệ bắn cho một mũi tên nhằm giữa trán té nhào xuống ngựa chết tươi. Tôn Thất Hương thấy con chết thảm lòng đau như cắt, cố cầm nước mắt hối Tôn Thất Chính:
- Con mau dẫn hậu quân lui về bờ Bắc Lại Dương Giang. Cha cầm trung quân chặn giặc rồi sẽ từ từ mà lui.
Nói rồi nghiến răng vung thương thúc quân xông lên. Quân Nguyễn triều vừa xáp tới gần đã bị quân Tây Sơn tung hỏa hổ đốt, vội vàng cởi áo quăng gươm mà chạy, tiếng gào khóc vang lên thảm thiết. Tôn Thất Hương liệu bề không chống nổi liền thúc ngựa chạy theo. Phút chốc đuổi kịp hậu quân Tôn Thất Chính, cùng gặp nhau ở bờ Nam sông Lại Dương Giang, Hương nói:
- Không biết chúng dùng thứ vũ khí gì, lửa từ trong ống tuôn ra đốt quân ta không kịp trở tay không kịp. Con hãy cho thương binh bị lửa đốt vượt sông chạy trước. Ta mau rút về giữ đèo Thạch Tân, nếu chúng đuổi theo thì lấy gỗ đá lăn xuống, chứ giữa chiến trường mà đánh thì dù thiên binh vạn mã cũng phải bại binh!
*
* *
Khi quân Nguyễn triều thua chạy, Nguyễn Huệ lệnh cho quân không được đuổi theo. Vũ Văn Dũng hỏi:
- Sao sư huynh không cho quân thừa thắng đuổi theo?
Nguyễn Huệ ngậm ngùi chỉ thây quân Nguyễn nói:
- Binh triều lớp chết lớp bị thương ước nửa vạn người. Vì sự đấu tranh mà phải chém giết lẫn nhau, nhưng xét cho cùng đều chung dòng giống cả. Thấy tình cảnh thế này Dũng không xót dạ sao?
Vũ Văn Dũng cúi đầu thưa:
- Sư huynh thật dũng lược vượt xa Hạng Võ, nghĩa nhân trội hẳn Lưu Bang. Trước tấm lòng đại đức của sư huynh, Văn Dũng thấy mình nhỏ mọn lắm thay.
Huệ trầm tư nói:
- Giữa trận chiến phải hết lòng giết giặc để giành chiến thắng, giữ mạng sống cho mình ấy là điều tự nhiên của lẽ sinh tồn. Nhưng nếu thế không bị buộc thì đừng nên sát hại sinh linh - Rồi Huệ ngửa mặt lên trời khấn rằng - Lạy trời cho Trần Quang Diệu mở đập nước ở thượng nguồn khi quân Nguyễn triều chưa kịp vượt sông!
Vừa lúc ấy Nguyễn Nhạc dẫn đại binh đến hỏi Huệ rằng:
- Sao em không thừa thắng đuổi theo quân địch mà lại dừng quân ở đây?
Huệ vòng tay đáp:
- Thưa đại huynh, binh Nguyễn triều không thể nào vượt khỏi Lại Dương Giang, ta chia ba cánh bao vây ắt địch phải cùng đường. Nếu chúng cởi giáp quy hàng, xin đại huynh dung nạp cho rõ ràng đại nghĩa của ta.
Nguyễn Nhạc cười bảo:
- Ta năm ấy cũng vì thương kẻ cùng đường mới đưa dân lên vùng Tây Sơn Thượng, thì điều này ta há chẳng biết ư? Vả lại trong quân lệnh có điều cấm giết hàng quân. Ta là chủ tướng lại phạm vào quân lệnh hay sao?
Rồi quay lại ba quân, Nhạc nói:
- Các ngươi cùng ta đánh đổ binh triều, trừ diệt Phúc Loan, đem lại áo ấm cơm no cho cha mẹ vợ con gia quyến của các ngươi. Trong quân Nguyễn triều kia biết đâu chẳng có họ hàng của các ngươi trong đó. Nay ta bảo các ngươi, nếu địch bỏ khí giới không kháng cự thì các ngươi nên mở lượng hiếu sinh, chớ giết người vô tội.
Ba quân cùng quỳ xuống thưa:
- Vua trời đại đức. Chúa công đại đức. Chúng tôi một dạ vâng lời!
Nguyễn Nhạc liền hạ lệnh tiến quân.
*
* *
Khi ấy Trần Quang Diệu ở thượng nguồn sông Lại Dương Giang thấy lửa cháy ngút trời ở hạ lưu, lại nghe cả tiếng la hét, trống trận dập dồn liền truyền lệnh phá đập. Gặp lúc Tôn Thất Chính dẫn thương binh ra đến giữa sông, nước sông lúc ấy cạn không quá gối, quân bị bỏng nằm lăn dưới nước để dập lửa và cho đỡ nóng. Bỗng nước và gỗ cây tuôn xuống ầm ầm như thác đổ, quân Nguyễn triều bị cây bừa nước cuốn, người ngựa không còn một mạng!
Tôn Thất Hương ở trên bờ nhìn thấy con mình bị chết trong dòng nước bạc, như dao cắt ruột không dằn được nỗi đau hét lên một tiếng: Con ơi! Rồi té nhào xuống ngựa.
Tả hữu đỡ dậy, thấy quân Tây Sơn đã bao vây ba mặt, còn sau lưng nước đổ ầm ầm, ba quân đều vứt giáo xin hàng. Tôn Thất Hương khóc rằng:
- Con ta một đứa chết xác bị cháy thành tro, một đứa chết thây làm mồi cho cá, còn ta bị vây bốn mặt cùng đường. Nhà ta mấy đời đều làm khanh tướng, ta chỉ có chết đi để trọn nghĩa trung thần, vẹn tình phụ tử chứ còn sống trên đời làm chi nữa!
Nói xong rút gươm toan tự vẫn, bỗng sực nhớ điều gì liền quăng gươm đi về phía Nguyễn Nhạc quỳ nói:
- Tôi là tướng bại binh xin tướng quân thương tình tha cho tội chết.
Vũ Văn Nhậm thị oai nạt rằng:
- Đây là chúa công của Tây Sơn ta, sao ngươi dám gọi là tướng quân?
Tôn Thất Hương sợ hãi dập đầu lạy thưa:
- Bại tướng không biết là Chúa công. Xin Chúa công tha cho tội chết!
Nguyễn Nhạc cười lớn hỏi:
- Ngươi là đại tướng của chúa Nguyễn lại tham sống sợ chết đến thế sao? Ngươi dập đầu xin tha mạng nhưng bình sinh ta rất khinh ghét hạng người này.
Tôn Thất Hương vội đứng dậy nói:
- Tôi không phải kẻ tham sanh úy tử, lúc nãy đã định liều mình trả nợ quân vương. Nhưng nhìn thấy Chúa công tai to mặt lớn, tay dài quá gối tướng mạo phi phàm đúng là chân mệnh đế vương. Vả lại trong quân của Chúa công có kẻ kỳ tài bày ra trận đất lửa phía trước, trận nước phía sau thì nghiệp cả ắt thành. Nay được thấy dung nhan của Chúa công trong lòng đã thoả nguyện. Xin Chúa công cho biết vị nào đã bày kế đánh trận này, cho tôi được diện kiến thì dù Chúa công có giết cũng chẳng ân hận gì.
Nguyễn Nhạc chỉ Nguyễn Huệ cười nói:
- Ấy chính là em của ta, tên Nguyễn Huệ. Ngươi hãy xem thử tướng mạo em ta thế nào?
Tôn Thất Hương đăm đăm nhìn Nguyễn Huệ như quan sát tướng mạo rồi bất ngờ nhảy đến rút dao ngắn giấu trong người đâm Nguyễn Huệ. Huệ ngồi trên lưng ngựa vung chân đá một cước, Hương ngã nhào xuống đất. Hô quân trói lại, Nhạc hỏi:
- Cớ sao ngươi lập kế xin hàng rồi mưu giết em ta?
Tôn Thất Hương trợn mắt mắng:
- Ta muốn giết tên này để trừ mối nguy cho xã tắc. Nhà ta mấy đời khanh tướng lẽ đâu lại hàng lũ giặc cướp như ngươi sao!
Nói xong đập đầu xuống đất mà chết! Trương Văn Hiến thương xót nói:
- Tôi thường nghe nói Tôn Thất Hương là người tín nghĩa. Nay đến lúc chết còn lo trừ hại cho chúa, thật là một đấng trung thần. Xin Chúa công cho mai táng tử tế tỏ rõ lòn tông trọng người trung nghĩa của ta.
Nguyễn Huệ xuống ngựa, nhẹ nhàng đưa tay vuốt mặt Hương, nhưng mắt Hương vẫn mở trừng trừng. Thấy vậy Huệ nói:
- Tướng quân có cái lý trung với vua, tôi có cái lý hiếu với dân. Tuy rằng chí hướng khác nhau nhưng nghĩa khí của tướng quân, tôi một lòng tôn kính, thì vì đâu mà còn oán giận nhau đến thế!
Huệ vừa nói dứt lời, mắt Hương liền nhắm lại. Nguyễn Nhạc sai người lo hậu sự theo lễ công hầu, rồi sai Huệ, Dũng làm tiên phong, tự mình kéo đại binh dẫn theo quân sư Trương Văn Hiến, Vũ Văn Nhậm, Võ Đình Tú thừa thắng ra đánh phủ Quảng Ngãi.
*
* *
Nói về Lý Tài và Tập Đình đem quân vào cửa biển An Giũ (cửa Hoài Hương, Bình Định ngày nay) thấy lửa cháy ở bờ Nam sông Lại Dương bèn men theo bờ Bắc kéo quân ra tiến sát chân núi Thạch Tân. Quân Nguyễn trong các chòi canh trên đèo nói với nhau rằng:
- Tướng quân Tôn Thất Hương đem ba vạn quân đuổi giặc Tây Sơn chạy vào Quy Nhơn rồi. Ta ở đây bình an vô sự mà ăn ngon ngủ yên.
Nói rồi mạnh ai nấy lăn ra ngủ. Lý Tài sai quân lặng lẽ đến bên chòi canh giết hết quân canh. Quân Nguyễn trong đồn trên đỉnh đèo không hề hay biết. Quân Lý Tài bí mật vây đồn hò hét xông vào. Quân Nguyễn trong lúc ấy mất vía lũ lượt ra hàng. Lý Tài và Tập Đình bèn sai quân giết hết cả đi. Quân chết hàng mấy trăm người thây chất thành đống.
Nguyễn Huệ và Vũ Văn Dũng cầm quân tiên phong đến đèo Thạch Tân, thấy quân Nguyến chết thây nằm rải rác, doanh trại trên đỉnh đèo cờ Tây Sơn bay phấp phới, Huệ vui mừng bảo Dũng:
- Tập Đình, Lý Tài đã chiếm đèo Thạch Tân, anh em ta mau lên ấy xem sao.
Đi gần đến doanh trại lại thấy vài trăm xác quân Nguyễn chất thành đống, Nguyễn Huệ sắc mặt hầm hầm nói:
- Hai tên tướng Tàu này thật là vô đạo, giết người không biết gớm tay.
Vũ Văn Dũng can Huệ:
- Trong lúc đánh nhau giết quân địch là lẽ thường tình, sao sư huynh gọi người ta là vô đạo?
Huệ cắt nghĩa rằng:
- Từ dưới chân đèo đi lên thây nằm rải rác là người chết trong lúc đánh nhau. Còn gần doanh trại thây nằm thành đống là phường khát máu tàn sát hàng quân, chốc nữa hỏi Lý Tài nếu không phải thế thì Dũng chớ gọi ta là sư huynh.
Vừa lúc ấy Lý Tài và Tập Đình nghe quân báo có quân Tây Sơn kéo đến liền ra nghênh đón. Nguyễn Huệ chỉ tay vào đống thây người hỏi:
- Tướng quân thật tài tình, đánh như thế nào mà giết địch nhiều thế?
Lý Tài mỉm cười tự đắc nhưng giả vờ khiêm tốn nói:
- Tôi được lệnh Chúa công đem thủy quân vào cửa bể An Giũ, rồi án binh bất động, khi thấy lửa ở bờ Nam sông Lại Dương liền tiến đánh đèo Thạch Tân. Quân giữ đèo ỷ lại đại quân Tôn Thất Hương còn ở phía trước nên không đề phòng. Bị đánh bất ngờ và thấy quân của tôi mười phần oai dũng vội quăng khí giới xin hàng. Tôi liền cho giết sạch.
Vũ Văn Dũng nghe Lý Tài nói xong mới vỡ lẽ lời của Nguyễn Huệ là đúng, Dũng giận lắm cao giọng hỏi:
- Quân lệnh của Tây Sơn ta là không giết hàng quân. Tại sao ngươi đem cả mấy trăm quân giết hết cả đi?
Tập Đình đứng cạnh Lý Tài nghe Dũng hoạnh hoẹ quân mình liền lớn tiếng nói:
- Ngươi là gì mà dám bắt bẻ bọn ta. Nếu nói về quân lệnh hãy chờ Chúa công đến đây sẽ hay, ta không việc gì phải tâu bẩm với hạng vô danh tiểu tốt như các ngươi.
Nghe Tập Đình buông lời vô lễ, Văn Dũng bừng bừng nổi giận giơ đao chỉ mặt mắng rằng:
- Ngươi bảo ai là vô danh tiểu tốt. Bọn ngươi không còn đất sống vào lạy lục Chúa công ta xin nương nhờ nơi ở, bố thí miếng ăn, lại dám nói đại tướng quân Nguyễn Huệ em của Chúa công ta là vô danh tiểu tốt ư! Để ta chém hai ngươi trả thù cho sinh linh vô tội.
Tập Đình nghe Dũng nói, ngạo mạn cười vang:
- Ngươi tài cán gì mà đòi chém ta. Bọn ta dù thất thế cũng là đại tướng của Thiên triều. Ngươi hãy quăng đao đi kẻo ăn năn không kịp.
Văn Dũng giận điên người cầm đại đao toan xông đến. Huệ ngăn lại, rồi tiến lên chỉ Lý Tài nói:
- Ngươi thì mắt lươn, môi mỏng, lưỡng quyền cao. Ấy là gương mặt của hạng người nham hiểm - Rồi Huệ quay sang Tập Đình – Còn ngươi thì mày xếch mắt cú vọ, miệng thì vêu, hàm có ngạnh là gương mặt của kẻ hung tàn. Nay ta quyết giết hai ngươi để trừ hại cho dân Nam ta. Nếu cả hai ngươi cùng một lúc mà đỡ được một nhát đao của ta thì mới là đại tướng của Thiên triều.
Nguyên Nguyễn Huệ lúc thường tiếng nói ngân như chuông, khi nổi giận thì tiếng nói rền như sấm. Lý Tài và Tập Đình nghe giọng Huệ nói xong thì tâm thần bất định, lại thấy tia mắt như chớp quét sang thì cúi đầu bủn rủn tay chân. Huệ cho ngựa từ từ đi đến rồi hoành đại đao một vòng toan chém. Lý Tài và Tập Đình cả sợ, nhưng việc đã lỡ đành miễn cưỡng đưa đao chống đỡ. Bỗng nghe quân hô vang:
- Chúa công đến! Chúa công đến!
Nguyễn Huệ liền dừng đao xuống ngựa ra mắt Nguyễn Nhạc. Lý Tài và Tập Đình cúi đầu thi lễ rồi nói lớn:
- Xin Chúa công xét xử. Tôi vâng lệnh Chúa công đánh chiếm đèo Thạch Tân. Tướng quân Nguyễn Huệ vừa đến định giết chết anh em tôi.
Nguyễn Nhạc ngạc nhiên gọi Huệ hỏi:
- Vì sao lại có chuyện ấy?
Huệ giận lắm nhưng cố nén đáp lời anh rằng:
- Thưa đại huynh, quân lệnh của ta là không được giết hàng quân, mà Lý Tài và Tập Đình đem mấy trăm hàng quân giết sạch chất thây nằm thành đống. Thưa đại huynh hai tên này là người vô đạo, cho nên em mới quyết định giết đi trước là trừ hoạ cho dân, sau là thi hành quân lệnh, xin đại huynh minh xét.
Nhạc hỏi:
- Sao em biết Lý Tài giết hàng quân?
Huệ chỉ mặt Lý Tài nói:
- Thưa đại huynh, điều này chính do miệng Lý Tài nói ra lúc nãy.
Nhạc quay sang hỏi Lý Tài:
- Xin hỏi Lý tướng quân điều ấy có không?
Lý Tài sợ hãi đáp:
- Thưa Chúa công, xác quân Nguyễn đều chết trong lúc đánh nhau, nhưng khi tướng quân Nguyễn Huệ hỏi, tôi có ý tự đắc nói rằng quân Nguyễn thấy chúng tôi oai phong nên sợ hãi đầu hàng cả. Huệ tướng quân lại hỏi: Thế hàng quân đâu? Tôi chẳng biết trả lời thế nào đành đáp rằng: Giết hết cả rồi! Chỉ vì tôi có ý kiêu căng nói quá sự thật, chứ chẳng phải phạm vào quân lệnh, giết hết hàng quân. Xin Chúa công tha cho tội đại ngôn.
Huệ thấy Lý Tài tráo trở giận quá chỉ mặt mắng:
- Tội của ngươi không phải là đại ngôn mà là cuồng ngôn loạn ngữ, dám lừa dối cả anh ta. Xin đại huynh cho đem vài tên quân của Lý Tài đến tra xét thì sẽ rõ thực hư.
Nguyễn Nhạc liền xua tay nói:
- Thôi, thôi! Chẳng qua là Lý Tài trong lúc phấn chấn nói lời phóng đại mà thôi, ta bỏ qua chuyện này không phải tra xét làm gì.
Nghe Nhạc nói, Huệ tỏ ý thất vọng, rồi cương quyết thưa:
- Thưa đại huynh, quân lệnh nghiêm minh mới thành ra quân kỷ. Việc này phải làm cho ra lẽ để làm gương cho kẻ khác.
Nhạc hạ giọng bảo Huệ:
- Nếu truy xét mà Lý Tài và Tập Đình không phạm quân lệnh thì em mang tội vu khống người vô tội đấy!
Huệ vẫn khăng khăng:
- Nếu đúng vậy em xin chịu tội.
Nhạc ôn tồn nói:
- Nay Lý Tài và Tập Đình đã theo quân ta đánh giặc thì cũng là người một nhà, sao em lại quyết vạch lá tìm sâu như thế? Nếu quả Lý Tài và Tập Đình có lỡ phạm một lần mà chứng cứ chưa rõ ràng thì cũng nên bỏ qua để khỏi gây chia rẽ trong quân. Nay ta lệnh cho Lý Tài và Tập Đình lãnh ấn tiên phong, đem một ngàn quân bản bộ tiến đánh phủ Quảng Ngãi. Ta sẽ đem đại binh tiếp ứng.
Huệ mở miệng toan nói, Nhạc nạt rằng:
- Lời ta là tướng lệnh em chớ có nhiều lời. Hãy mau đem ấn ra đây.
Huệ sợ hãi lui ra. Trên đỉnh đèo giữa các tướng sĩ, Nhạc gọi quân đem rượu tự tay rót ban cho Lý Tài và Tập Đình, Nhạc nói:
- Em của ta tuổi còn nhỏ dại có điều mạo phạm, hai tướng đừng để bụng làm gì! Nay hai tướng hãy vì ta lãnh ấn tiên phong, đem quân Bắc tiến, đập đổ Nguyễn triều. Đợi khi thu phục kinh thành chúng ta cùng chung chia phú quý. Hai vị tướng quân có vui lòng chăng?
Lý Tài và Tập Đình cùng lạy tạ ơn, Lý Tài nói:
- Chúa công xét việc rõ ràng thật là một đấng minh quân. Anh em tôi nguyện phơi gan trải mật đáp đền ơn tri ngộ của Chúa công.
Nói rồi lãnh ấn dẫn quân lầm lũi xuống phía Bắc đèo Thạch Tân. Đi một đoạn Tập Đình nói:
- Thằng con nít Nguyễn Huệ nhất định đòi chiếu theo quân lệnh mà giết chết bọn ta, vì sợ ta tranh mất ấn tiên phong của hắn. Chẳng ngờ Chúa công biết bọn ta là đấng anh hùng, trao ấn tiên phong đánh giặc lập công, chắc thằng nhãi Huệ tức điên lên được.
Nói xong thích chí cười ha hả. Lý Tài nạt rằng:
- Ngươi thật là đồ hữu dũng vô mưu. Đi vào chỗ chết vui sướng lắm sao mà cười.
Tập Đình ngạc nhiên hỏi:
- Nghĩa huynh nói thế là ý gì?
Lý Tài trầm ngâm nói:
- Thật ra Nguyễn Nhạc cũng biết bọn ta giết chết mấy trăm hàng quân Nguyễn triều nhưng chưa chứng cứ nên không quy tội. Chẳng qua Nguyễn Nhạc lợi dụng anh em ta làm con tốt trong bàn cờ tranh bá đồ vương của hắn mà thôi. Nguyễn Huệ chỉ thấy việc trước mắt, còn Nguyễn Nhạc mới thật là người cơ trí.
Tập Đình giật mình hỏi:
- Thế mà tôi chẳng nghĩ ra. Vậy ta nên tính thế nào đây?
Lý Tài đáp:
- Đã là con tốt trong bàn cờ chỉ có tiến chứ chẳng có lùi.
Tập Đình lại hỏi:
- Quân ta dù tinh nhuệ nhưng quân số chỉ có một ngàn. Đánh với quân triều ngộ nhỡ Nguyễn Nhạc không đem quân tiếp ứng thì có phải là hắn mượn tay giặc giết ta không?
Lý Tài lắc đầu nói:
- Nguyễn Nhạc không phải là người như thế. Hắn biết ta là người Tàu không thể lấy danh nghĩa gì mà chiêu binh mãi mã được, thì hắn sợ gì ta mà mượn tay giặc để giết ta. Trước mắt hắn chỉ mượn ta để làm tấm khiên che tên của giặc mà thôi. Từ nay nghĩa đệ nói năng phải cẩn thận, ở dưới trướng người thì đừng có kiêu căng. Ta phải đợi thời có rồi sẽ liệu tính.
Về phần quân Tây Sơn, sau khi Lý Tài và Tập Đình đi rồi, Nguyễn Nhạc gọi Nguyễn Huệ cùng các tướng Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng đến bảo:
- Chẳng phải là ta không biết Lý Tài và Tập Đình giết hết hàng quân. Nhưng ta bỏ qua không truy cứu vì biết rằng về sau chúng sẽ không bao giờ dám tái phạm. Nếu giết Lý Tài và Tập Đình thì một ngàn quân người Tàu kia biết để vào đâu, không lẽ lại đem ra giết hết, còn giữ chúng trong quân khác nào nuôi ong tay áo. Chi bằng để cho chúng làm tiên phong đánh giặc, thế chẳng lợi hơn sao.
Huệ cúi lạy tâu:
- Em vì thấy cảnh thảm sát trước mắt nên trong lòng tức giận, chỉ muốn giết chết Lý Tài và Tập Đình báo oán cho dân ta mà thôi. Em ngu muội chỉ thấy điều trước mắt mà không biết việc về sau. Xin đại huynh rộng lòng tha thứ.
Trương Văn Hiến xen vào nói:
- Nay ba vạn quân triều của Tôn Thất Hương đã bị ta đánh tan, thì quân của phủ Quảng Ngãi và Quảng Nam không phải là đối thủ của ta. Chúa công hãy cho Nguyễn Huệ dẫn ba ngàn quân về đèo Cù Mông hợp cùng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đánh vào mặt Nam chiếm lấy thành Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận. Có hai điều cần thiết phải đưa Nguyễn Huệ về mặt Nam, một là cho an lòng Lý Tài và Tập Đình đang dẫn quân tiên phong đánh ra mặt Bắc, thứ hai là nếu quân triều lấy quân ba dinh là Long Hồ, Phiên Trấn, Trấn Biên ra hợp cùng quân ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh và Phú Yên mà đánh vào phía Nam thành Quy Nhơn thì e rằng Nguyễn Lữ không chống giữ được. Xin Chúa công minh xét.
Nguyễn Nhạc gật đầu bảo:
- Quân sư thật biết người biết ta, nhìn xa trông rộng. Lệnh cho Nguyễn Huệ đem ba ngàn quân vào hợp với quân Sở và Lân đánh vào Nam.
Nguyễn Huệ thưa:
- Thưa đại huynh cùng quân sư, tôi xin đem quân về hợp với Nguyễn Lữ giữ thành Quy Nhơn nhưng khoan đánh lấy Phú Yên.
Văn Hiến ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao con lại làm thế?
Huệ đáp:
- Thưa thầy binh pháp có câu: “Đánh thành thì dễ nhưng giữ thành mới là việc khó”. Hiện nay quân của ta còn ít mà phải chia nhau chống giữ ở các nơi hiểm yếu. Vả lại nước Nam ta từ Đàng Ngoài đến Đàng Trong các trấn phủ đều nằm dọc theo bờ biển. Nếu ta đánh lấy các phủ Phú Yên, Diên Khánh ngộ nhỡ quân Nguyễn đem thuỷ binh vào các cửa bể chặn đường về của ta rồi binh bộ từ Nam đánh ra, e rằng quân ta lúc ấy lưỡng đầu thọ địch thì nguy.
Văn Hiến hỏi:
- Theo con thì nay mặt Nam phải đánh thế nào?
Huệ đáp:
- Thưa thầy, địa hình của nước Nam ta thì việc dùng thủy binh là rất quan trọng. Con xin về trấn Quy Nhơn cùng Nguyễn Lữ đốc thúc dân binh xẻ gỗ đóng thuyền luyện tập thủy binh và cho đúc thêm thật nhiều súng đại bác là một thứ vũ khí đánh thành vô cùng hiệu quả. Đợi khi quân lực hùng mạnh ta sẽ đánh vào Nam bằng hai đường thủy, bộ. Khi ấy việc lấy một dải đất từ Quy Nhơn đến Gia Định chỉ một sớm một chiều mà thôi. Xin đại huynh cùng quân sư minh xét.
Trương Văn Hiến suy nghĩ giây lâu rồi nói:
- Lời Nguyễn Huệ rất là có lý, nhưng việc thành bại cốt yếu là ở thời cơ. Từ lúc khởi binh đến nay quân ta đi đến đâu muôn dân nô nức hưởng ứng đến đấy, ấy chẳng phải là ta được thuận lợi thời cơ đó sao? Nay Nguyễn Huệ đem ba ngàn quân chi viện mặt Nam sai Sở và Lân đánh lấy Phú Yên vỗ an bá tánh, mở kho thóc cướp được của quân Nguyễn phân phát cho dân nghèo, chiêu mộ thêm binh sĩ. Nếu quân Nguyễn từ Gia Định đánh ra mà Sở, Lân không chống được thì hãy bảo toàn lực lượng rút về Quy Nhơn cố thủ. Dù không giữ được thành Phú Yên nhưng lòng dân đã nên gốc rễ. Binh pháp có câu “chiếm thành không bằng chiếm lòng dân”, ấy là kế sách lâu dài vậy.
Nguyễn Nhạc tán thành nói:
- Người xưa có nói bậc đại thức giả thì thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tường nhân sự. Quân sư thật là người đã quán triệt cả ba điều ấy rồi vậy. Huệ hãy về Quy Nhơn theo sách lược của quân sư mà hành động.
Rồi Nhạc cùng Trương Văn Hiến, Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú ồ ạt dẫn quân Bắc tiến. Chẳng bao lâu đến cuối năm Quý Tỵ (1773) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34, quân Tây Sơn ở mặt Nam do Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân thống lĩnh đánh chiếm được Phú Yên, Diên Khánh rồi thừa thắng đánh chiếm thành Bình Thuận. Đi đến đâu dân chúng nổi dậy xin theo, quan quân giữ thành đều bỏ thành mà chạy.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 12 Trương Văn Hiến dụng kế nghi binh. Nguyễn Đăng Trường bày mưu chặn giặc.
Tin quân Tây Sơn làm chủ một vùng lãnh thổ rộng lớn từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận cấp báo về kinh thành Phú Xuân. Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần lập tức thiết triều mời bá quan văn võ bàn luận kế sách đánh giặc. Định vương nói:
- Nay giặc cướp Tây Sơn dụ dỗ đám dân đen lại mị dân truyền hịch tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đánh đổ Quốc phó. Quả nhân từ lúc lên ngôi chúa đến nay thiên hạ thái bình, mọi việc đã có Quốc phó lo toan, vả lại ta mới hai mươi tuổi chưa từng biết việc chiến chinh. Nay giặc cướp Tây Sơn chiếm đất đai của ta từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, còn định kéo ra đánh lấy kinh thành. Các khanh đã biết việc ấy hay chưa?
Quốc phó Trương Phúc Loan râu tóc bạc phơ bước ra nói:
- Kính Chúa thượng, lúc này thành Quy Nhơn bị giặc Tây Sơn cướp lấy, tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên chạy đường bể về đây phi báo, lão thần liền sai người về Quảng Nam lệnh cho tổng binh Quảng Nam dinh là Tôn Thất Hương đem quân ở dinh Quảng Nam và phủ Quảng Ngãi vào tiễu trừ giặc cỏ. Không ngờ cha con Tôn Thất Hương đều tử trận ở huyện Bồng Sơn, Quy Nhơn phủ. Nghe tin ấy lão thần đã sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi đem ba vạn quân vào Quảng Nam đánh giặc. Nay mai chắc có tin báo tiệp khải hoàn, xin Chúa thượng an tâm.
Chúa Định vương quở rằng:
- Việc trọng đại như thế sao Quốc phó lại không cho quả nhân được biết?
Trương Phúc Loan khúm núm thưa:
- Kính Chúa thượng, cung điện Phấn Dương vừa mới xây xong, Chúa thượng đang buồn bực vì nhân dân ta thán, lão thần sợ làm kinh động Chúa thượng nên không dám tâu trình.
Trong hàng quan văn bỗng nhiên có tiếng nói lớn:
- Nay ba vạn quân trấn thủ kinh thành đều đưa vào Quảng Nam đánh Tây Sơn. Lỡ như họ Trịnh ở Đàng Ngoài đem quân xâm phạm Châu Bố Chánh (Quảng Bình ngày nay) thì ta biết phải làm thế nào?
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra đó là quan văn tước Tĩnh Điệp Hầu, tên húy Nguyễn Đăng Trường. Võ quan chưởng cơ Nguyễn Văn Chính cười nói:
- Ngài là quan văn không rõ việc binh. Ranh giới của ta và họ Trịnh là sông Linh Giang. Sông Linh Giang vừa rộng vừa sâu, ở bờ Nam lại có lũy Trường Dục kiên cố, quân ta đêm ngày canh phòng cẩn mật thì quân Trịnh dễ gì xâm phạm. Tôi nói có phải không tướng quân Tôn Thất Tiệp?
Tôn Thất Tiệp đồng tình gật đầu đáp:
- Lời quan chưởng cơ rất phải, lâu nay họ Trịnh ở Bắc Hà chuyên quyền lấn áp vua Lê khiến trăm họ bất bình nổi lên làm loạn khắp nơi. Ở Hải Dương có Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ nổi dậy năm Canh Thân (1740). Rồi đến năm Quý Hợi (1743) Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất lại nổi dậy ở Hải Dương. Cũng năm Canh Thân lại có Nguyễn Danh Phương làm loạn ở Việt Trì, Tam Đảo, sau chiếm lấy Tuyên Quang, suốt mười năm sau là năm Canh Ngọ (1750) chúa Trịnh Doanh mới đánh dẹp xong. Lại có Hoàng thân là Lê Duy Mật nổi dậy ngót hai mươi năm ở huyện Thạch Thành. Rồi đến năm Giáp Tý (1764) Lê Duy Mật cầu cứu chúa Vũ Vương của ta, nhưng Tiên vương không muốn gây việc binh đao với họ Trịnh nên mới chối từ. Quan quân đánh dẹp mãi, hao binh tổn tướng mới yên. Trong nước đã rối ren như thế, thì tâm trí đâu mà dòm ngó cõi ngoài. Vả lại mới hai năm trước đây Thái tử Lê Duy Vỹ bị chúa Trịnh Sâm giết chết. Trời đất bỗng hôn u địa ám, muôn dân đóng cửa khóc thầm, Trịnh Sâm càng lo sợ trăm họ nổi lên, thì dám đâu cho quân đi đánh đất người. Vậy việc họ Trịnh xâm phạm sông Linh Giang xin Chúa thượng chớ lo.
Tôn Thất Tiệp nói một hơi nghe ra hữu lý, chúa Định Vương và Quốc phó Trương Phúc Loan vừa ý gật gù. Nguyễn Đăng Trường chậm rãi bước ra nói:
- Kính Chúa thượng, đành rằng là như vậy, nhưng lòng tham của con người vốn sâu không đáy. Chỉ e rằng Trịnh Sâm nghe tin quân Tây Sơn đánh phá phía Nam, hắn chỉ thấy cái lợi lấy đất ta ngay trước mắt, quên cái hoạ diệt vong trong nước phía sau lưng, mà đem quân xâm phạm mặt Bắc thì Kinh đô lưỡng đầu thọ địch. Vậy nay phải gấp dẹp cho xong giặc Tây Sơn, để lỡ có bề gì còn điều quân ra ngoài đánh Trịnh. Vả lại từ lâu nay trong dân gian có truyền câu sấm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm rằng: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” nay nghe giặc Tây Sơn làm loạn lòng trung quân rất là lo lắng. Xin Chúa thượng xét soi.
Chúa Định Vương liền hỏi:
- Vậy theo khanh thì nên làm thế nào?
Nguyễn Đăng Trường đáp:
- Kính Chúa thượng, quan trấn thủ dinh Long Hồ là lão tướng Tống Phước Hiệp gồm tài thao lược. Chúa thượng nên sai sứ giả vào đất Gia Định lệnh cho Tống Phước Hiệp lãnh binh ở ba dinh Long Hồ, Phiên Trấn, Trấn Biên. Lập tức đem quân Bắc tiến cho giặc Tây Sơn lưỡng đầu thọ địch, thì quân ta mới mong toàn thắng.
Chúa Định Vương vỗ tay khen:
- Thật là kế sách vẹn toàn. Tống Phước Hiệp trấn thủ nơi xa xôi ngàn dặm nếu không nhờ Tĩnh Điệp Hầu nhắc nhở thì ta đã quên mất ông ấy rồi! Nay ta phong cho Tĩnh Điệp Hầu làm tham tán quân cơ để cùng bàn việc quân.
Nói rồi liền viết chiếu phong Tống Phước Hiệp làm tổng binh Quản dinh Bình Tây Đại tướng quân, điều binh ba dinh ra Bình Thuận đánh Tây Sơn.
*
* *
Lại nói về Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi vâng lệnh Trương Phúc Loan đem quân vào đến phủ Quảng Ngãi, quân Tây Sơn lùi về đóng ở phía Nam sông Trà Khúc. Đồn lũy lập xong, trong đại bản doanh Nguyễn Nhạc hỏi Trương Văn Hiến:
- Nguyễn Văn Hoằng đem ba vạn quân đến đánh ta, tôi nghe lời quân sư lui một mạch đến phía Nam sông Trà Khúc. Sông này vừa cạn vừa hẹp, địa thế không có gì hiểm yếu, sao quân sư lại khuyên tôi lập đồn luỹ nơi đây?
Trương Văn Hiến cười nói:
- Nguyễn Văn Hoằng dù có gan dạ như Quan Vũ đời Hán cũng không dám vượt sông, xin Chúa công chớ ngại!
Vũ Văn Nhậm hỏi:
- Quân sư dựa vào đâu mà quả quyết như thế?
Hiến vuốt râu đáp:
- Nguyễn Huệ đã đem ba ngàn quân chi viện phía Nam, quân ta hiện chỉ có bảy ngàn quân, vả lại nhựa hỏa hổ đã hết, ở Quy Nhơn chưa vận chuyển ra kịp, nếu đánh nhau với ba vạn quân địch e rằng bất lợi, nên tôi mới khuyên Chúa công bảo toàn lực lượng lui quân. Vừa đến đây tôi đã cho thả cho một số quân Nguyễn triều bị bắt trong trận đánh ở sông Lại Dương lúc trước. Chủ ý của tôi là để bọn quân này về báo với Nguyễn Văn Hoằng vì sao ba cha con Tôn Thất Hương phải chết. Nay lại thấy quân ta lui về bờ Nam sông Trà Khúc, Nguyễn Văn Hoằng ắt sợ trận “Thủy hỏa ký tế” như Tôn Thất Hương, thì làm gì mà dám vượt sông!
Nguyễn Nhạc mừng rỡ khen rằng:
- Ấy thật là diệu kế!
Vừa nói xong bỗng có quân vào báo:
- Thưa Chúa công, quân triều đã kéo đến bờ Bắc sông Trà Khúc.
Nguyễn Nhạc cùng Văn Hiến, Văn Dũng, Văn Nhậm, Đình Tú liền lên ngựa ra ngoài quan sát thấy binh triều quân đông vô số, khí thế hung hăng. Nguyễn Văn Hoằng định hô quân vượt sông tiến đánh, bỗng có quân đến báo:
- Thưa tướng quân, chúng tôi bắt được mấy tên quân, chúng nói là lính của tướng quân Tôn Thất Hương, nên dẫn đến cho tướng quân tra xét.
Nguyễn Văn Hoằng liền cho đưa mấy tên quân đến. Hoằng trợn mắt nạt:
- Chúng bay có phải là quân gian chăng hãy mau khai thật, nếu không ta chém mất đầu?
Mấy tên quân quỳ lạy khóc:
- Thưa tướng quân, chúng tôi ở trong quân của tướng Tôn Thất Hương. Tướng Tôn Thất Hương cùng hai con tử trận, chúng tôi bị quân Tây Sơn bắt được lén trốn về đây. Xin tướng quân chớ khá vượt sông!
Hoằng nghi ngờ hỏi:
- Tại sao các ngươi khuyên ta đừng vượt sông đánh giặc?
Tên quân đáp:
- Thưa tướng quân, lúc tướng Tôn Thất Hương dẫn ba vạn quân vượt đèo Thạch Tân tiến đánh phủ Quy Nhơn giặc Tây Sơn chỉ lui mà không đánh, nhử quân ta vượt sông Lại Dương ở Bồng Sơn. Rồi chúng cho quân lên thượng nguồn sông Lại Dương đắp đập chứa nước, sau đó chúng từ huyện Phù Ly đánh ra. Quân của chúng có một thứ vũ khí vô cùng lợi hại ấy là một cái ống chứa lửa bên trong, khi giặc vung lên lửa từ trong ống bắn ra, giáo gươm chưa đụng được quân địch thì quân ta đã bị cháy áo phồng mình. Tướng quân Tôn Thất Hương dẫn chúng tôi chạy về sông Lại Dương, thì quân địch ở thượng nguồn phá đập, một nửa quân ta đang vượt sông bị nước cuốn trôi chết cả, lũ chúng tôi không còn đường chạy đành phải đầu hàng. Nay thấy tướng quân toan vượt sông đánh giặc nên mới đến đây dập đầu can gián.
Nghe tên quân kể xong Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi vã mồ hôi trán. Hoằng đưa vạt áo lên lau mồ hôi rồi nói:
- Thảo nào quân thua mà không thấy một người về báo. Đến lúc quân ở đèo Thạch Tân thua chạy về mới hay cha con Tôn Thất Hương thua trận, mà chẳng biết thua thế nào. Truyền quân không được vượt sông, lập tức lập đóng lũy ở bờ Bắc sông Trà Khúc chặn giặc.
Ở bờ Nam sông Trà Khúc, Nhạc thấy quân triều đóng đồn hạ trại ở bờ Bắc bèn vỗ tay cười lớn:
- Quả đúng như quân sư dự đoán, quân Nguyễn Văn Hoằng không dám vượt sông. Đợi ít hôm chúng sinh lười nhác ta đánh phá một trận ắt là toàn thắng.
Văn Hiến can:
- Xin Chúa công chớ vội đánh làm gì khi binh Nguyễn triều còn đang mạnh. Không lâu nữa chúng sẽ rút quân về, chừng ấy lấy đất Quảng Nam mà đỡ tốn xương máu của anh em nghĩa sĩ.
Văn Dũng, Văn Nhậm, Đình Tú cùng ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao vô cớ quân Nguyễn lại lui quân?
Văn Hiến vuốt râu đáp:
- Hơn một trăm năm nay họ Trịnh ở Đàng Ngoài lúc nào cũng có tham vọng thôn tính Đàng Trong của họ Nguyễn. Trong lịch sử của cuộc nội chiến này, cả bảy lần đánh nhau đều do họ Trịnh động binh trước, nhưng không lần nào quân Trịnh vượt khỏi sông Linh Giang. Nay chúa Trịnh Sâm nghe quân ta khởi binh đánh chiếm từ Bình Thuận đến Quảng Ngãi, quân Nguyễn triều đem ba vạn quân ở kinh thành vào chống giữ, Trịnh Sâm nhất định sẽ đem quân xâm phạm châu Bố Chánh, khi ấy Nguyễn triều chỉ còn một cách duy nhất là điều binh của Nguyễn Văn Hoằng ra ranh giới sông Linh Giang đánh Trịnh, chỉ để lại đây một lực lượng nhỏ mà thôi. Đối với Nguyễn triều dù sao quân Trịnh vẫn là kẻ thù nguy hiểm hơn ta. Khi ấy ta đánh chiếm Quảng Nam chẳng khó gì!
Nghe xong Nguyễn Nhạc mừng rỡ nói:
- Ta có quân sư khác nào ngày xưa Lưu Bị có Gia Cát Lượng, bày mưu lập kế, định quốc an dân. Nếu không có quân sư mở mang trí óc thì tầm nhìn của ta chắc không ra khỏi Quy Nhơn, Phú Yên, Quảng Ngãi, thì có đâu biết đến việc ở xứ Bắc Hà. Mượn quân người để làm quân mình, không đánh mà thắng, nếu không có quân sư chỉ vẽ ta cứ mang quân gặp địch bừa thì việc thành bại chưa biết phải ra sao! - Rồi quay sang các tướng Nhạc nói - Truyền quân: Án binh bất động, canh phòng cẩn mật, giữ vững doanh trại, ai trái lệnh chém đầu!
*
* *
Ngày ấy tại kinh đô Thăng Long, trong phủ chúa Trịnh Sâm thiết triều hội bá quan văn võ, Sâm nói:
- Trấn thủ đồn Hoành Sơn là Quyền Trung Hầu Hoàng Nghĩa Hồ vừa gửi mật thư cho ta nói rằng: Ở phủ Quy Nhơn có giặc Tây Sơn nổi lên đánh chiếm từ Bình Thuận đến Quảng Ngãi. Chúa Nguyễn phải sai tướng đem ba vạn quân ở kinh thành đi dẹp loạn, lính ở Phú Xuân không còn được bao nhiêu. Ta nên thừa cơ đem đại binh mở cuộc Nam chinh, thu phục đất Thuận Hoá. Cơ đồ của nhà Nguyễn phen này ắt là sụp đổ. Các khanh thấy thế nào?
Trịnh Sâm vừa dứt lời, trong hàng quan văn bỗng có tiếng nói lớn:
- Khải Chúa! Việc ấy không nên!
Mọi người cùng nhìn lại, thì ra ấy là Tứ Xuyên Hầu Phan Lê Phiên. Trịnh Sâm hỏi:
- Theo ý khanh tại sao ta không nên động binh?
Phan Lê Phiên bước ra quỳ tâu:
- Khải Chúa thượng, mấy chục năm nay trong nước giặc giã nổi lên làm trăm họ sinh linh rất là thống khổ. May nhờ hồng phúc của Chúa thượng nên năm năm nay bốn phương yên ổn. Xin Chúa thượng chớ nên động binh cho thiên hạ được hưởng cảnh thái bình. Vả lại đã hơn trăm năm nay nước ta với chúa Nguyễn lấy sông Linh Giang làm ranh giới, bờ cõi của ai thì người ấy trị vì. Vậy nên vào năm Giáp Thân (1764) niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai lăm, ở nước ta Lê Duy Mật làm loạn xứ Thanh Hoá có viết thư vào muốn cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Khoát, nhưng họ Nguyễn vì muốn cầu hoà với ta nên chẳng chịu động binh. Nay nhân lúc người ta có loạn mình đem quân xâm phạm e thiên hạ cười rằng là thừa cơ nước đục thả câu. Hơn nữa từ xưa đến nay phàm làm việc gì cũng danh chánh ngôn mới thuận, nay ta muốn mang quân đi đánh phía Nam thì lấy danh nghĩa gì để động binh? Xin Chúa thượng xét lại!
Phan Lê Phiên vừa dứt lời, các quan văn đồng thanh nói:
- Lời Tứ Xuyên Hầu rất phải, xin Chúa thượng chớ động binh!
Bỗng trong hàng quan võ có tiếng nói lớn:
- Lời Tứ Xuyên Hầu nói sai rồi!
Đó chính là đại tướng Hoàng Ngũ Phúc, tước Việp Quận Công. Phan Lê Phiên hỏi:
- Xin hỏi Việp Quận Công lời tôi nói sai chỗ nào?
Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đứng lên cười nói:
- Lời Tứ Xuyên Hầu sai ở chỗ: một là hơn một trăm năm nay dù rằng lấy sông Linh Giang làm ranh giới nhưng giữa chúng ta và họ Nguyễn đã bảy lần chinh chiến với nhau, sao lại gọi là bờ cõi của ai thì người ấy trị vì. Điều sai thứ hai, đây là dịp tốt trời cho, nếu ta động binh thì dễ dàng thống nhất sơn hà, làm bá chủ thiên hạ. Nay Chúa thượng động binh ấy chẳng phải gây hoạ binh đao, mà là mượn sự binh đao trong một lúc để muôn dân được thái bình mãi mãi về sau. Ấy là việc nên làm. Điều sai thứ ba là năm ấy Lê Duy Mật viết thư cầu cứu, chẳng phải chúa tôi họ Nguyễn có ý tốt với ta mà không đem quân đánh giúp Lê Duy Mật. Chẳng qua vì năm đó chúa Nguyễn Phúc Khoát tham dâm quá độ mắc bệnh nặng nề, tinh thần bải hoải, thì tâm trí đâu mà nghĩ đến việc chiến chinh. Nay, nếu ta xuất quân Nam chinh thì trên hợp ý trời, dưới thuận lòng người. Vả lại Quốc phó Trương Phúc Loan tham lam bạo ngược để dân Đàng Trong nheo nhóc lầm than, ta lấy danh nghĩa diệt trừ Phúc Loan thì ấy là danh chánh ngôn thuận vậy. Xin Chúa thượng đừng bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở này.
Trịnh Sâm mừng rỡ đứng lên nói:
- Lời của khanh rất hợp ý ta. Nay ta phong Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc lãnh chức Bình Nam thượng tướng quân, đem bốn vạn binh thủy bộ vào đánh châu Bố Chánh. Ta nán lại kinh thành sắp xếp việc triều chính xong sẽ điều binh các trấn về họp tại kinh thành, ta sẽ thân chinh đem đại binh tiếp ứng. Phen này nếu không diệt được nhà Nguyễn thì không còn cơ hội nào khác nữa.
Hoàng Ngũ Phúc quỳ lạy tạ ơn. Trịnh Sâm truyền bãi triều.
Tháng mười năm Giáp Ngọ (1774), niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba lăm, Hoàng Ngũ Phúc cùng các tướng là Hoàng Bình Thể, Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Bảo đem bốn vạn quân theo hai đường thủy bộ, hẹn gặp nhau ở sông Linh Giang để cùng đánh nhà Nguyễn.
*
* *
Nghe tin quân Trịnh đem bốn vạn quân đã đến gần sông Linh Giang, tại kinh thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Định Vương lập tức thiết triều. Chúa lo sợ trách rằng:
- Hôm trước ta nghe lời Nguyễn Văn Chính và Tôn Thất Tiệp bảo không lo quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. Nay ở trong thì giặc Tây Sơn đánh phá, ngoài thì họ Trịnh đem quân sắp tới Linh Giang. Ở kinh thành chỉ còn năm ngàn quân cấm vệ, vậy các ngươi phải liệu thế nào đây?
Trương Phúc Loan quỳ tâu:
- Kính Chúa thượng, ở lũy Trường Dục hãy còn năm ngàn quân của tướng quân Nguyễn Duy trấn thủ. Lũy Trường Dục thành cao hào sâu, năm xưa dưới thời Chúa thượng Phúc Lan, nội tổ của tôi là Trương Phúc Phấn chỉ có mấy ngàn quân trấn giữ lũy này chống nhau với quân Trịnh cả hàng mấy vạn chẳng hề hấn gì, đủ biết lũy Trường Dục hiểm trở thế nào! Quân Trịnh không dễ gì một sớm một chiều mà hạ được, xin Chúa thượng an tâm. Bây giờ ta lập tức điều hai vạn quân của Nguyễn Văn Hoằng ở Quảng Nam, sai Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính ra lũy Trường Dục tiếp viện, thì không phải lo gì nữa. Xin Chúa thượng mau mau xuống lệnh.
Định Vương vẫn lo lắng hỏi:
- Ta yên tâm thế nào được. Vậy nếu Nguyễn Văn Hoằng ở Quảng Nam chỉ còn một vạn quân e không phải là đối thủ của quân Tây Sơn!
Mọi người còn đang lo lắng thì Tĩnh Điệp Hầu Nguyễn Đăng Trường bước ra nói:
- Kính Chúa thượng, thần có một kế khiến quân Tây Sơn không thể tiến binh ở mặt Nam để ta rảnh tay điều quân ra Bắc đánh Trịnh.
Định Vương vội vàng hỏi:
- Tĩnh Điệp Hầu có kế gì hãy mau nói ra?
Nguyễn Đăng Trường chậm rãi nói:
- Trong lúc điều hai vạn quân ra Bắc, Chúa thượng nên sai một người vào Quảng Nam trấn giữ cùng Nguyễn Văn Hoằng thì nhất định quân Tây Sơn không dám tiến binh.
Mọi người đồng thanh hỏi:
- Ấy là người nào?
Nguyễn Đăng Trường đáp:
- Ấy chính là Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương!
Quốc phó Trương Phúc Loan vốn không ưa Nguyễn Đăng Trường, nay nghe vậy lạnh lùng hỏi:
- Tĩnh Điệp Hầu có đùa không đấy? Hoàng tôn Dương mới mười tám tuổi, chưa từng biết việc binh nhung, thì sao có thể cầm quân đánh giặc Tây Sơn?
Nguyễn Đăng Trường bình thản đáp:
- Nếu Hoàng tôn Dương vào trấn Quảng Nam thì không cần dùng đến binh đao. Quân Tây Sơn danh nghĩa tôn phò Hoàng tôn Dương đánh đổ quan Quốc phó để thu chúng động binh. Nay Chúa thượng hãy phong cho Hoàng tôn Dương làm Đông cung Thế tử, cho vào trấn đất Quảng Nam. Rồi sai Hoàng tôn Dương viết thư cho Nguyễn Nhạc nói rằng: Chúa thượng và Hoàng tôn lúc ấy đều nhỏ dại, việc soán nghịch là do quan Quốc phó chuyên quyền làm bậy, nay Chúa thượng đã thu giữ binh quyền, giáng chức Quốc phó về làm dân dã, phong Hoàng tôn làm Đông cung Thế tử, vào trấn đất Quảng Nam. Nếu làm như thế thì quân Tây Sơn không lấy danh nghĩa gì mà tiến quân cho được. Nếu chúng bỏ danh nghĩa tôn phò mà đánh quân Hoàng tôn ở Quảng Nam thì lòng người tan rã, việc ấy chắc chắn Nguyễn Nhạc không làm. Ấy là kế sách vẹn toàn, xin Chúa thượng chớ nên chậm trễ.
Định Vương mừng rỡ khen rằng:
- Ấy thật là diệu kế!
Bỗng Trương Phúc Loan quát:
- Nguyễn Đăng Trường to gan phạm thượng. Ngươi bảo ta là chuyên quyền làm bậy. Vậy ngươi dám bảo là Chúa thượng soán nghịch hay sao? Chúa thượng sao không lệnh chém đầu làm gương cho kẻ khác!
Đăng Trường không chút sợ hãi, nói:
- Thần không có ý đó. Ấy là ta mượn danh nghĩa Hoàng tôn Dương nói với giặc Tây Sơn như thế thôi. Xin Quốc phó hãy dẹp bỏ lòng tự ti vị kỷ mà lấy xã tắc làm trọng. Nếu không làm như thế thì chẳng còn cách nào có thể cứu chúa ta trong cơn nguy khốn được đâu!
Định Vương xen vào nói:
- Lời Tĩnh Điệp Hầu nói rất phải. Nay xã tắc ngả nghiêng, tình thế nguy ngập như ngàn cân treo sợi tóc. Nếu không dùng kế này thì cơ nghiệp của nhà Nguyễn ta ắt là sụp đổ. Quốc phó chớ nên nóng giận vì những lời trung nghĩa của Tĩnh Điệp Hầu.
Phúc Loan giận lắm nhưng vì có lệnh chúa nên đành bấm bụng ngồi im. Chúa Định vương liền sai người đi mời Hoàng tôn Dương đến bệ kiến. Định Vương vừa trông thấy liền ôm chầm lấy Nguyễn Phúc Dương khóc lớn:
- Cháu ơi! Cơ nghiệp nhà Nguyễn ta đến đây là tan nát mất rồi!
Nguyễn Phúc Dương dìu chúa đến ngai vàng an toạ rồi nói:
- Xin Chúa thượng đừng nên bi lụy. Cháu từ lâu không tham gia việc triều chính quốc gia, nhưng vẫn biết nước nhà đang trong cơn nguy khốn. Chẳng hay Chúa thượng cho gọi cháu có điều gì sai bảo?
Định Vương vẫn khóc, vỗ tay lên ngai nói:
- Cái ngai vàng này vốn là của cháu, nhưng lúc ấy cháu còn nhỏ dại, nên lúc lâm chung Phụ vương mới cho ta kế vị. Nay ta phong cho cháu làm Đông cung Thế tử vào trấn đất Quảng Nam chặn giặc Tây Sơn, còn ta sẽ đem quân ra sông Linh Giang đánh Trịnh. Đợi khi non nước bình yên ta sẽ thoái vị nhường ngôi chí tôn cho cháu vốn dòng chính thống. Cháu hãy vì cơ nghiệp nhà Nguyễn ta chớ khá chối từ.
Nguyễn Phúc Dương nghe nói được phong làm Đông cung Thế tử trong bụng mừng thầm, nhưng phải vào Quảng Nam đánh giặc Tây Sơn thì lo sợ hỏi:
- Đánh giặc Tây Sơn đã có tướng quân Nguyễn Văn Hoằng. Cháu chưa từng trải việc quân cơ, đánh nhau với Tây Sơn thế nào được?
Định Vương trấn an rằng:
- Nói là vào chặn Tây Sơn nhưng không phải cầm quân đánh giặc. Tĩnh Điệp Hầu Nguyễn Đăng Trường vừa thảo xong một bức thư, cháu cứ sai người mang thư này cho Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc tất phải nghe lời cháu mà không dám tiến binh.
Nói rồi liền trao thư cho Phúc Dương. Dương xem xong mừng rỡ reo lên:
- Ấy thật là diệu kế. Nhưng tại sao trong thư bảo giáng chức Quốc phó, cho về làm dân dã mà Quốc phó vẫn đứng hầu bên Chúa thượng vậy?
Trương Phúc Loan giận dữ mắng rằng:
- Thằng con nít không được vô lễ. Ta là Quốc phó nắm quyền nhiếp chính, muốn phong cho ngươi làm Thế tử hay giết ngươi là quyền của ta. Nếu không nể vì Chúa thượng thì ta đã lôi ngươi ra chém tức thì.
Phúc Dương quăng thư xuống đất nói:
- Nếu vậy thì ngươi cứ chém ta đi, rồi quân Tây Sơn sẽ kéo đến đây bằm ngươi làm trăm mảnh. Năm xưa ngươi giết chết Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân và Thái úy Trương Văn Hạnh, lại giam lỏng ta suốt chín năm nay. Nếu ta là Đông cung Thế tử thì không có Trương Phúc Loan làm Quốc phó.
Phúc Loan giận quá thét:
- Võ sĩ đâu lôi ra chém!
Quan Đô thống chưởng cấm vệ là Chữ Đức làm thinh, không hạ lệnh cho võ sĩ vào bắt Nguyễn Phúc Dương. Trương Phúc Loan run lên hét:
- Chữ Đức, ngươi có nghe lệnh ta không?
Chữ Đức đáp:
- Thưa Quốc phó, có!
Loan vênh mặt lên hỏi:
- Sao còn chưa tuân lệnh?
Đức cúi đầu đáp:
- Nếu giết Hoàng tôn chẳng may giặc kéo đến thì chúa tôi của ta cũng phải chết theo.
Phúc Loan lúc ấy già quá thét ít câu thì đã hụt hơi, vừa mệt run run hỏi:
- Ngươi chẳng sợ ta sao?
Chữ Đức lầm lì đáp :
- Sợ Quốc phó không bằng sợ giặc! Thần giờ chỉ nghe lệnh của Chúa thượng mà thôi.
Phúc Loan gắng gượng nói:
- Năm xưa chính ta đã lập kế đưa Đô thống Ngô Mãnh ra khỏi kinh thành, cất nhắc ngươi thay Ngô Mãnh làm Đô thống, nay ngươi lại trở mặt phản ta sao?
Nét mặt không thay đổi, Đức đáp:
- Không còn cách nào khác. Quân Tôn Thất Hương ba vạn bị Tây Sơn đánh một trận không một người chạy thoát. Nay điều hai vạn quân ra Bắc đánh Trịnh thì Nguyễn Văn Hoằng chỉ còn một vạn quân trấn giữ mặt Nam. Nếu không có Hoàng tôn Dương thì lấy ai khiển giặc? Thần không phải là phụ ơn Quốc phó, nhưng chỉ làm theo cái lẽ sinh tồn.
Nghe Chữ Đức nói xong Phúc Loan thất vọng thả mình xuống ghế chẳng nói ra lời. Các quan văn võ thấy thế đều khấp khởi mừng thầm. Nguyễn Đăng Trường bước ra nói:
- Kính Chúa thượng, nay Chữ Đức đã nghe lệnh của Chúa thượng, thật là hồng phúc của nước nhà. Thần xin tiến cử một người chặn được đường tiến binh quân Trịnh.
Chữ Đức vội vàng nói:
- Ta vốn sức mạnh hơn người, tinh thông võ nghệ nên thống lĩnh năm ngàn quân cấm vệ, chứ thật ra tài điều binh không thể bằng Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính được.
Nguyễn Đăng Trường cười nói:
- Tôi không tiến cử tướng quân đâu, người mà tôi tiến cử chính là quan Quốc phó đó!
Chúa Định vương ngạc nhiên hỏi:
- Quốc phó đã răng long đầu bạc còn đánh giặc nỗi gì?
Nguyễn Đăng Trường ung dung đáp:
- Quân Trịnh kéo quân đến Linh Giang đã cho người truyền hịch các nơi rằng: Chỉ đem quân vào bắt Quốc phó Trương Phúc Loan để trừ hại cho dân, chứ không có ý xâm phạm đất đai của ta. Vậy Chúa thượng nên bắt Phúc Loan mà nộp cho Trịnh Sâm, thì quân Trịnh lấy cớ gì để tiến binh được nữa. Chúng đã truyền hịch đi cùng khắp thiên hạ, lý đâu Trịnh Sâm quyền hơn vua một nước mà lại nuốt lời.
Các quan đồng thanh nói:
- Lời Tĩnh Điệp Hầu rất phải. Xin Chúa thượng nghe theo để giữ yên xã tắc.
Định Vương vốn cảm cái ơn Phúc Loan đưa mình lên ngôi chúa còn đang phân vân, thì Chữ Đức đã sai quân trói Phúc Loan, lột cân đai áo mão. Phúc Loan ngửa mặt lên trời than rằng:
- Lúc trước ta có thề trước mặt Tiên Vương là sẽ làm theo lời di chiếu. Không ngờ lời thề ấy nay lại thành sự thật. Trong cõi đời này lại có trời đất thật sao?
Chúa thấy các quan đều đồng lòng chẳng biết làm sao đành lệnh tạm giam Trương Phúc Loan, sai Nguyễn Văn Chính và Tôn Thất Tiệp vào Quảng Nam lãnh hai vạn binh điều ra mặt Bắc, lại trao ấn Đông cung Thế tử cho Nguyễn Phúc Dương vào Quảng Nam trấn thủ.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 13 Lũy Trường Dục, Nguyễn Hữu Chỉnh lập công. Thành Thăng Long, Trương Phúc Loan đền tội.
Nói về thủy quân Trịnh do Hoàng Đình Bảo thống lĩnh vào đóng ở cửa biển Nhật Lệ. Quân bộ do Hoàng Ngũ Phúc thống lĩnh, thấy thủy quân mình vào cửa Nhật Lệ và quân Nguyễn lui về lũy Trường Dục cố thủ, Ngũ Phúc liền cho quân vượt sông Linh Giang lập doanh trại ở Nam châu Bố Chánh.
Hoàng Ngũ Phúc dẫn các tướng ra các doanh trại chỉ vào lũy Trường Dục mà nói:
- Thành Trường Dục lũy cao hào sâu, quân Nguyễn lại đặt súng đại bác cung tên rất nhiều trên mặt thành. Theo các ngươi ta phải đánh thế nào mới hạ được thành?
Hoàng Đình Thể nói:
- Thưa thượng tướng, theo tôi ta nên tập trung súng đại bác bắn cho thành tan vỡ, rồi cho quân tràn vào thì chắc rằng sẽ chiếm được lũy Trường Dục.
Tiền Đình Hầu Hoàng Đình Thể vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng nói lớn:
- Nếu đánh thế không thể nào thắng được!
Mọi người nhìn lại thấy một người vừa mới nói tuổi trạc ba mươi, dáng dấp ung dung, mặt mày đĩnh ngộ. Hoàng Ngũ Phúc hỏi:
- Ngươi là ai?
Huy Đình Hầu Hoàng Đình Bảo bước ra nói:
- Thưa tướng công người này ở Châu Lộc Nghệ An, tên Nguyễn Hữu Chỉnh văn võ song toàn, năm mười sáu tuổi đã thi đỗ hương cống, lúc trước vẫn thường theo tôi đi đánh giặc bể, rất giỏi thủy chiến, hiện đang ở dưới trướng của tôi.
Hoàng Ngũ Phúc hỏi Chỉnh:
- Vì sao ngươi lại nói rằng đánh như thế thì không thắng được?
Chỉnh thi lễ rồi đáp:
- Luỹ Trường Dục này là do Đào Duy Từ xây dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên chống nhau với quân ta đến nay đã hơn một trăm năm. Thành này kiên cố vô cùng, vả lại súng đại bác của địch đặt trên mặt thành, đại bác của ta chưa bắn đến thành thì đã bị súng địch bắn ta rồi vậy.
Ngũ Phúc trầm tư nói:
- Thành Trường Dục này kiên cố thế ư? - Đội nhiên Phúc hỏi Chỉnh - Đào Duy Từ là người thế nào?
Chỉnh đáp:
- Đào Duy Từ lúc còn nhỏ chăn trâu thường ví mình như Gia Cát Lượng. Đến lúc chúa Sãi rước về phong làm Nội Tán tước Khê Lộc Hầu. Chúa Sãi có làm bài thơ tặng Đào Duy Từ rằng:
Vó ngựa sườn non tuyết lạnh lùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công
Đem câu tá Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng
Bờ cõi đón chia ba thế đất
Biên thùy ngăn cách một dòng sông
Nếu như không có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long
Xem thế đủ biết Chúa Sãi cũng ví Đào Duy Từ như Gia Cát Lượng đời Hán vậy.
Nguyễn Hữu Chỉnh nói thao thao. Ngũ Phúc nghe xong cười rằng:
- Việc hơn một trăm năm trước mà ngươi vẫn thuộc làu làu, thật là thông kim bác cổ. Còn việc ngày nay theo ngươi thì phải đánh lũy Trường Dục như thế nào?
Chỉnh đáp:
- Quan trấn thủ thành Trường Dục tên Nguyễn Duy cũng là người quê ở Nghệ An vốn cùng tôi là huynh đệ đồng môn. Nay tôi xin vào thành đem ba tấc lưỡi thuyết Nguyễn Duy về hàng thì quân ta đã vào được cửa ngõ Thuận Hoá mà không tốn công sức vậy.
Hoàng Ngũ Phúc mừng rỡ khen:
- Ngươi quả nhiên là đa mưu túc trí. Nếu đại sự mà thành thì ngươi là kẻ có công đầu trong cuộc Nam chinh đó!
Nói rồi cùng vào doanh trại truyền quân bày tiệc rượu khao Nguyễn Hữu Chỉnh đợi ngày mai vào thành Trường Dục.
Ngày hôm sau tướng Nguyễn giữ thành Trường Dục là Nguyễn Duy nghe quân vào báo:
- Có một người từ quân Trịnh sang xưng tên là Nguyễn Hữu Chỉnh xin ra mắt tướng quân.
Nguyễn Duy liền cho võ sĩ cầm gươm trần đứng giăng hàng hai bên rồi cho mời Hữu Chỉnh vào. Chỉnh vào đến trông thấy hàng võ sĩ mặt đằng đằng sát khí liền cười lớn:
- Cách nhau đã mười năm giờ mới hội ngộ, sư huynh lại dằn mặt nhau đến thế. Xin hỏi nếu sư huynh bệnh nặng, tôi mang thuốc đến sư huynh lại đối đãi tệ bạc đến thế ư?
Nguyễn Duy liền đuổi võ sĩ ra ngoài, mời Chỉnh ngồi rồi nói:
- Tôi cùng sư đệ vốn rất hiểu lòng nhau. Nhưng tôi vẫn mạnh khoẻ như xưa, sao Nguyễn đệ lại nói tôi bệnh nặng là ý làm sao?
Nguyễn Hữu Chỉnh lại cười nói:
- Hiện quân ở thành Trường Dục này của sư huynh chỉ có năm ngàn, còn quân Trịnh tôi hùng binh bốn vạn. Vả lại quân ở kinh thành Phú Xuân đã đưa cả vào Quảng Nam chống giặc Tây Sơn. Sư huynh ở cái lũy cỏn con này không binh cứu viện, ấy chẳng phải là chứng bệnh nan y đó sao?
Nguyễn Duy cũng cười lớn nói:
- Đành rằng là như vậy nhưng lũy này của Khê Lộc Hầu Đào Duy Từ đắp, đạn bắn không vỡ. Năm xưa Trương Phúc Phấn chỉ có mấy ngàn quân đánh nhau với đại binh của Trịnh Tráng vẫn giữ vững thành trì. Nay ta cứ canh phòng nghiêm ngặt không ra đánh thì quân Trịnh làm gì được ta?
Nguyễn Hữu Chỉnh nghe Duy nói xong càng cười to hơn nữa, cười đến chảy nước mắt. Nguyễn Duy ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao huynh lại cười mãi thế?
Chỉnh nghiêm nét mặt nói:
- Sư huynh nên xét lại. Thế cuộc mỗi ngày một khác nhau. Năm xưa quân Nguyễn trên dưới đồng lòng, từ quân đến tướng muôn người như một. Vả lại mấy ngàn quân của Trương Phúc Phấn liều mình chống giữ lũy Trường Dục vì tin rằng sớm chiều tất có viện binh. Quả nhiên viện binh của chúa Nguyễn kéo ra liền đánh lui quân Trịnh khỏi sông Linh Giang. Còn nay, trong triều thì Phúc Loan lộng quyền làm lắm điều xằng bậy khiến lòng người ly tán. Vậy nên ở đất Quy Nhơn giặc Tây Sơn mới nổi dậy đánh phá, chúa Nguyễn phải sai tướng đem toàn quân ở kinh thành cứu viện Quảng Nam. Thành Trường Dục tuy rằng kiên cố, nhưng ba quân đả chán, chúa nản lòng thì làm gì đem hết sức mà đánh giặc. Xem lại việc lúc thủy quân của chúa Trịnh tôi vào cửa bể Nhật Lệ thì thủy quân của sư huynh liền vào chạy vào thành cố thủ, ấy là minh chứng rõ ràng. Cái lẽ được thua ở thành Trường Dục này xem ra đã rõ. Vả lại cơ đồ của nhà Nguyễn đã đến hồi mạt vận, trong thì mục nát, ngoài thì hai đầu thọ địch, dẫu rằng Tôn Ngô sống lại cũng phải bó tay. Sư huynh là người thông minh hơn người lại chẳng thấy điều đó hay sao?
Nguyễn Duy buồn bã đáp:
- Chẳng phải là tôi không biết việc ấy. Những muốn theo về chúa Trịnh, nhưng còn phân vân người ta đối đãi với bại tướng ra sao...
Duy nói đến đây bỏ lửng. Hữu Chỉnh tươi cười bảo:
- Việc này sư huynh chớ lo, tôi xin tiến cử sư huynh lên thượng tướng công Hoàng Ngũ Phúc, thì danh lợi nào kém gì làm quan cho chúa Nguyễn.
Nguyễn Duy cả mừng nắm tay Chỉnh nói:
- Ơn của sư đệ chẳng bao giờ dám quên. Phiền sư đệ về thưa cùng Hoàng tướng công ngày mai tôi xin mở cửa ra hàng.
Hôm sau, tháng mười hai năm Giáp Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba lăm, Hoàng Ngũ Phúc lấy được thành Trường Dục không tốn một mũi tên hòn đạn. Phúc khen thưởng Hữu Chỉnh rất hậu và vẫn để Nguyễn Duy ở lại giữ thành, còn mình đem đại binh tiến lên đóng ở làng Hố Xá (Quảng Trị ngày nay).
Ngày ấy Hoàng Ngũ Phúc họp các tướng nói:
- Chúa Nguyễn vừa mới đưa thư cho ta hẹn trong mười hai ngày sẽ nộp Phúc Loan, và yêu cầu quân ta sau khi bắt được Phúc Loan thì hãy lui quân trả đất cho họ Nguyễn. Các ngươi thấy thế nào?
Hoàng Đình Bảo khoát tay nói:
- Mục đích của ta là chiếm đất nhà Nguyễn, diệt trừ Phúc Loan chỉ là cái cớ. Nay vô lẽ bắt được Phúc Loan lại lui quân trả đất, thì thật là tốn công vô ích!
Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ cùng nói:
- Lời Huy Đình Hầu nói rất phải. Nếu bắt được Phúc Loan rồi ta cứ tiến binh thì đã làm sao?
Ngũ Phúc lắc đầu bảo:
- Các ngươi nói sai rồi. Đại trượng phu phải lấy chữ tín làm đầu, huống chi ta vâng lệnh Chúa thượng truyền hịch khắp nơi là chỉ diệt trừ Phúc Loan chứ không xâm phạm đất đai của nhà Nguyễn. Nay nuốt lời tiến quân e rằng chúa ta mang tiếng thất tín với thiên hạ. Ngộ nhỡ chúa bắt tội thì ta biết ăn nói ra sao? Chi bằng ta án binh bất động rồi giải Phúc Loan về kinh đồng thời xin lệnh chúa thế nào!
Nguyễn Hữu Chỉnh đứng dậy thưa:
- Việc quân thành bại cốt ở thời cơ, nay thành Phú Xuân trống rỗng, ta mang đại binh vào đánh một trận ắt thu phục được kinh thành nhà Nguyễn. Nếu chờ họ giao nộp Phúc Loan rồi về kinh, lại chờ chiếu lệnh vào, mất ít thì cũng hơn một tháng. Lỡ họ lùi được quân Tây Sơn rồi điều binh ra ngoài cứu viện thì thật khó khăn cho ta. Theo ý tôi sau khi bắt được Phúc Loan, tướng công hãy truyền hịch và thư cho chúa Nguyễn rằng: Tuy bắt được Phúc Loan nhưng miền Trong hãy còn giặc Tây Sơn, ta xin đem quân vào Phú Xuân hợp sức dẹp giặc. Nếu chúa Nguyễn không bằng lòng thì ta đã có cớ để tiến binh. Tôi chắc rằng Chúa thượng hay được chẳng những không bắt tội mà còn trọng thưởng cho tướng công nữa.
Ngũ Phúc mừng rỡ khen:
- Hữu Chỉnh quả là cao kiến! Miễn làm sao có cớ để tiến quân, trên không mắc tội với chúa, dưới không ngượng miệng với dân. Dù ai đàm tiếu mặc lòng.
Nói xong truyền quân bày yến tiệc, lệnh cho tướng sĩ án binh bất động, chờ ngày quân Nguyễn giao nộp Phúc Loan.
*
* *
Khi ấy ở thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Định Vương sai quân bắt Phúc Loan bỏ vào tù xa mang ra nộp cho Hoàng Ngũ Phúc. Lúc ra khỏi hoàng cung dân chúng trong kinh thành đổ xô đến xem, người đông nghìn nghịt. Có kẻ mắng:
- Chính do mày mà dân tình thống khổ, đất nước ngửa nghiêng. Nay mày dù chết đi cũng chưa đền hết tội.
Kẻ khác lại nhạo:
- Ngày nào thì lên xe xuống ngựa, uy quyền tột đỉnh, muốn chém giết ai mặc lòng. Nay bị người khác giết lại ấy cũng là quả báo mà thôi!
Trương Phúc Loan nghĩ thầm:
- Năm xưa ta có thề với Tiên vương rằng: Nếu mà gian dối thì sẽ bị trăm quan bắt nộp cho địch quân xử tội bêu đầu. Nay lời thề xưa đã ứng. Thật là có quả báo không sai!
Hoàng Ngũ Phúc đã được Trương Phúc Loan rồi, sai quân giải về Thăng Long cho Trịnh Sâm xét xử. Trịnh Sâm truyền đem ra chém.
Giao nộp Phúc Loan xong chúa tôi nhà Nguyễn chờ tin quân Trịnh lui binh. Bỗng một hôm nhận được thư Hoàng Ngũ Phúc, chúa Nguyễn Định vương đọc xong quăng thư xuống đất nghiến răng trợn mắt quát:
- Thằng Hoàng Ngũ Phúc thật là quân bội tín. Ta giao nộp Quốc phó cho chúng những tưởng chúng sẽ lui quân, ngờ đâu nay chúng viết thư bảo: Trong Quảng Nam hãy còn giặc Tây Sơn, chúng sẽ đem quân vào Phú Xuân hợp sức cùng quân ta dẹp giặc. Thật là phường điêu ngoa dối trá. Nếu biết vậy cần gì phải hy sinh Quốc phó.
Thấy chúa nóng giận, Nguyễn Đăng Trường can:
- Xin Chúa thượng bớt giận, ta giao nộp quan Quốc phó ấy là kế hoãn binh chờ Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính điều binh ở Quảng Nam ra cứu viện, thì không phải là Quốc phó hy sinh vô ích. Nay có lẽ Tiệp và Chính cũng sắp về đến.
Trường vừa dứt lời có quân vào báo:
- Kính Chúa thượng, tướng quân Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính dẫn quân về đang đợi lệnh ở cổng Nam kinh thành.
Chúa Định Vương liền bảo:
- Hãy mau truyền hai tướng vào ngay!
Tiệp và Chính vào đến, chúa vội vàng nói:
- Hai tướng về thật là đúng lúc. Nay Nguyễn Duy đã mở cổng thành Trường Dục đầu hàng quân Trịnh. Quân địch chỉ cách kinh thành chừng vài trăm dặm, hai tướng hãy kíp đem quân ra Bắc đánh giặc.
Tôn Thất Tiệp thất kinh nói:
- Thôi chết! Lâu nay ta chống nhau với quân Trịnh cốt nhờ vào thành Trường Dục, nay thành đã mất e rằng khó giữ được kinh thành.
Nguyễn Đăng Trường trấn an hai tướng:
- Nhị vị tướng quân chớ nên lo sợ. Tuy thành Trường Dục đã mất, nhưng giặc chưa đến sông Bái Đáp Giang, xin Tôn tướng quân mau dẫn bộ binh và Nguyễn tướng quân mau đem thủy binh cùng đến sông Bái Đáp Giang (Bến Hải ngày nay) gắng sức chống giặc. Chờ lão tướng Tống Phước Hiệp dẹp xong giặc Tây Sơn rồi hợp quân đánh Trịnh ắt là khôi phục được cơ đồ.
Tiệp và Chính cùng khóc lạy chúa, Chính nói:
- Người xưa có nói: Nuôi quân ba năm dụng một giờ. Nhà chúng tôi đã mấy đời công hầu thọ ơn sâu của chúa. Giặc đến, phận làm tướng phải liều mình vì xã tắc, dù không thắng được giặc chúng tôi xin chết giữa sa trường để đền nợ quân vương.
Chúa cũng cầm tay hai tướng khóc:
- Nước loạn mới biết trung thần, nay xã tắc ngửa nghiêng, ta chỉ còn trông cậy vào hai tướng mà thôi. Hai khanh nên gắng sức, mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng quả nhân.
Tiệp và Chính lại khóc lạy, trước lúc ra đi còn bịn rịn không rời. Tôn Thất Tiệp dẫn bộ binh một vạn đến đóng đồn bố trận ở bờ Nam sông Bái Đáp Giang, còn Nguyễn Văn Chính dẫn thủy binh một vạn đến đóng thủy trại ở ngoài cửa bể Bái Đáp Giang.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 14 Bái Đáp Giang, Hoàng Ngũ Phúc điều binh. Phú Xuân thành, Tĩnh Điệp Hầu cứu chúa.
Nói về tướng Nguyễn là Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính đem quân thủy bộ đến đóng ở Bái Đáp Giang. Quân Trịnh về phi báo cùng Hoàng Ngũ Phúc, Phúc hội các tướng nói:
- Nay quân Nguyễn đem thủy bộ binh hai vạn đến chặn đường tiến quân của ta ở sông Bái Đáp Giang. Chứng tỏ chúa Nguyễn biết mẹo hợp quân Phú Xuân để đánh giặc Tây Sơn của ta là giả. Vậy nay chỉ còn một cách là tranh thắng bại giữa trận tiền mà thôi. Các tướng sẵn sàng nghe lệnh: Hoàng Phùng Cơ lãnh ấn tiên phong đem năm ngàn quân khi nào thấy lửa cháy phía sau lưng địch thì vượt sông đánh thẳng vào đồn địch, ta sẽ đem đại binh đáp ứng. Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh lãnh thủy binh đánh thẳng vào thủy trại địch ở Bái Đáp Giang. Quân Nguyễn miễn cưỡng ra trận, trong lòng chỉ nghĩ thua mà không nghĩ thắng. Quân ta chỉ có tiến chứ chẳng có lùi. Nếu ai không thắng thì đừng về đây gặp mặt ta. Hãy mau sửa soạn xuất quân.
Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh vâng lệnh ra đi. Hoàng Đình Thể không nghe gọi đến tên mình liền bước ra thưa:
- Năm xưa cháu đã từng theo chú xông pha trận mạc dẹp giặc khắp bốn phương Nam Sơn, Kinh Bắc, Hải Dương, Thanh Hoá. Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật nghe đến tên thảy đều khiếp sợ. Nay Bình Nam đánh Nguyễn các tướng đều được lãnh binh dẹp giặc, sao chú chê cháu là kẻ bất tài không cho ra trận?
Hoàng Ngũ Phúc nghe nói cả cười:
- Tài của cháu từ xưa ta đã biết thì lý đâu chê cháu bất tài.
Hoàng Đình Thể vẫn ấm ức hỏi:
- Thế thì vì lẽ gì không cho cháu ra trận lập công?
Phúc vờ lo lắng nói:
- Phùng Cơ và Đình Bảo cũng đều là cháu của ta, nhưng chỉ có cháu là dũng lược hơn cả. Nay ta muốn giao cho cháu một trọng trách, không biết cháu có làm nổi chăng?
Đình Thể nói:
- Dù việc khó đến mấy cháu cũng xin hoàn thành. Nếu không, xin thượng công cứ xử theo tướng lệnh.
Ngũ Phúc truyền lệnh:
- Nay quân Nguyễn đắp đồn đặt súng ở bên kia sông. Nếu quân ta tấn công trực diện nhất định là tổn thất lớn. Ớ phía Tây doanh trại của ta có một hòn núi, sau lưng hòn núi có con đường nhỏ, cháu hãy lãnh năm ngàn tinh binh đi theo đường này, bí mật vượt sông đánh sau lưng quân địch, chúng không phòng bị ắt trở tay không kịp tất phải đại bại. Khi ấy ta thừa thắng tiến thẳng vào Phú Xuân.
Hoàng Đình Thể vâng lệnh đi ngay.
*
* *
Nói về tướng Nguyễn là Tôn Thất Tiệp và đô đốc thủy binh Nguyễn Văn Chính đóng quân tại Bái Đáp Giang ngày đêm canh phòng cẩn mật. Một sớm tinh mơ bỗng thấy quân Trịnh dùng thuyền nhỏ định vượt sông. Tôn Thất Tiệp chờ quân Trịnh ra đến giữa sông mới lệnh cho quân bắn súng và tên ra như mưa. Thuyền quân Trịnh đắm vỡ rất nhiều, vội vã lui quân.
Tôn Thất Tiệp mừng quá cười nói với tả hữu rằng:
- Quân Trịnh đã lui quân. Ta cứ canh phòng cẩn mật thế này ắt chúng không thể nào vượt sông được. Chỉ lo cho thủy binh của Nguyễn Văn Chính mà thôi!
Vừa nói xong quân do thám về báo:
- Thưa tướng quân, lính trên thuyền quân Trịnh toàn là hình nộm cả.
Tiệp thất kinh chưa biết quân Trịnh dùng kế gì, chợt thấy hậu quân mình hỗn loạn, tiếng hò reo vang dậy, lửa cháy rực trời. Có tên quân hớt hải chạy về báo:
- Thưa tướng quân, quân Trịnh từ trong núi đổ ra đánh vào sau đồn của ta. Quân ta bị bất ngờ đánh không lại, xin tướng quân định liệu.
Tôn Thất Tiệp phi ngựa về phía hậu quân rút gươm hô:
- Ba quân bình tĩnh theo ta đánh giặc, ai sợ giặc mà lui, chém!
Vừa nói xong tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đã lướt ngựa đến quát:
- Quân của ta hai mặt giáp công, tướng Nguyễn sao chưa xuống ngựa đầu hàng.
Tôn Thất Tiệp quay nhìn phía trước đồn, thấy quân Trịnh đã vượt sông tràn vào như thác lũ, quân mình hoảng sợ vứt giáo chạy dài, Tiệp liền quay sang đánh cùng Hoàng Đình Thể định mở đường máu chạy thoát về kinh. Được vài hiệp Tôn Thất Tiệp bị Hoàng Đình Thể chém chết. Quân Trịnh thừa thắng giết quân Nguyễn chết không biết bao nhiêu mà kể, số còn sống tan hàng chạy trốn vào đồng hoang rừng rậm. Một số theo bờ sông chạy ra cửa bể đến với thủy quân Nguyễn Văn Chính. Ngờ đâu thủy trại quân Nguyễn bị thủy quân Trịnh do hai tướng là Hoàng Đình Bảo và Nguyễn Hữu Chỉnh đánh giết tơi bời. Nguyễn Văn Chính cố sức chống giữ nhưng lòng quân tan rã không còn bụng dạ nào đánh nhau với giặc. Nguyễn Văn Chính chống không nổi trúng tên chết. Quân Nguyễn thấy chủ chết liền xuôi thuyền chạy về Nam. Thủy bộ quân Nguyễn thảy đều đại bại, mười phần còn một chạy về kinh thành Phú Xuân. Hoàng Ngũ Phúc xua quân đuổi theo, thừa thắng tiến đánh Phú Xuân.
*
* *
Nói về chúa Nguyễn Định Vương ngày đêm bồn chồn lo lắng. Chợt bại binh chạy về báo:
- Chúa thượng ơi, nguy rồi! Thủy bộ quân của ta bị tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đánh tan cả. Tôn tướng quân và Nguyễn đô đốc đều tử trận. Hiện quân Trịnh đang tiến vào cách kinh thành năm mươi dặm.
Chúa Nguyễn nghe xong như sét đánh ngang mày, bàng hoàng khóc lớn rằng:
- Điều mà ta lo lắng nay đã thành sự thật. Tĩnh Điệp Hầu ơi! Giờ phải liệu làm sao?
Nguyễn Đăng Trường luôn túc trực bên chúa liền tâu:
- Xin Chúa thượng hãy bình tĩnh, lệnh cho Chữ Đức đem năm ngàn quân cấm vệ bảo vệ Chúa thượng cùng hoàng thân quốc thích đi đường bộ vào Quảng Nam hợp cùng quân Đông cung Nguyễn Phúc Dương tìm kế chống giữ. Một mình thần xin ở lại kinh thành chặn giặc.
Chữ Đức hỏi:
- Năm ngàn quân cấm vệ tôi đều mang theo để bảo vệ Chúa thượng. Trong thành không có một tên quân, Tĩnh Điệp Hầu làm sao ngăn được bốn vạn quân Trịnh.
Trường đáp:
- Việc gấp lắm rồi ông hãy mau hộ giá đi ngay. Tôi chỉ nhất thời ngăn giặc không cho chúng đuổi kịp Chúa thượng mà thôi, chứ không thể giữ được thành trì. Khi chúa vào đến Quảng Nam ông hãy lãnh ba ngàn quân ở lại trấn giữ ải Hải Vân. Ải này một bên núi cao hiểm trở, một bên vực sâu muôn trượng, đóng quân ở trên cao một có thể đánh trăm. Nếu ba quân đồng lòng gắng sức, quân Trịnh không thể nào vượt khỏi Hải Vân quan.
Rồi Trường ôm chân chúa khóc nói:
- Xin Chúa thượng lên đường bảo trọng. Nếu thần chết thì làm ma nhà Nguyễn, nếu còn sống thì dù ngàn dặm quan san cách trở, cũng tìm đường theo Chúa mà thôi.
Chúa đỡ Nguyễn Đăng Trường dậy, khóc rằng:
- Thế mới biết lòng trung dũng của quan văn có thua gì võ tướng. Nếu lúc trước ta đừng nghe lời Phúc Loan xây cung điện Phấn Dương tăng cao sưu thuế thì có đâu đến nỗi. Nay thì cả cơ đồ cũng đổ nát, kể gì đến cung điện Phấn Dương.
Nói rồi cùng Chữ Đức vội vã ra đi. Chờ chúa và hoàng thân quốc thích ra cổng thành Nam xong, Nguyễn Đăng Trường bèn sai người hạ hết cờ hiệu trên mặt thành, mở toang cổng thành phía Bắc, rồi cầm bút nghiên tự tay viết trước cổng thành mấy chữ rằng: "Mở cổng thành giết Hoàng Ngũ Phúc". Viết xong về nhà đỡ mẹ lên ngựa, Đăng Trường giả dạng thường dân, hai mẹ con lên lưng một con ngựa ra cổng thành Nam bôn ba theo chúa!
*
* *
Vừa lúc ấy Hoàng Ngũ Phúc dẫn đại binh đến cổng Bắc thành. Thấy trên mặt thành im lặng như tờ, không quân tướng, không cờ quạt, cửa thành lại mở toang, cầu treo hạ xuống sẵn sàng. Ngũ Phúc e ngại truyền quân dừng lại hỏi:
- Ở trước cổng thành có viết hàng chữ gì vậy?
Tiên phong Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể đến gần xem, về giận dữ nói:
- Thưa thượng công, quân Nguyễn thật là vô lễ. Xin thượng công cho anh em tôi dẫn quân vào thành đánh một trận xem hư thực thế nào?
Ngũ Phúc nghiêm mặt hỏi:
- Ta hỏi ngươi hàng chữ ấy là chữ gì?
Hoàng Đình Thể đáp:
- Chúng viết rằng: Mở cổng thành giết Hoàng Ngũ Phúc. Thưa chú theo cháu thì chúa tôi nhà Nguyễn đã bỏ thành trốn, mới viết hàng chữ này cho ta sinh nghi để khỏi đuổi theo chúng mà thôi. Xin chú...
Ngũ Phúc ngắt lời hỏi:
- Nét chữ viết như thế nào?
- Chữ viết đẹp như rồng bay phượng múa. Cháu chưa từng thấy ai viết chữ đẹp thế bao giờ. Theo cháu đây là nét chữ của quan văn chứ không phải là võ tướng, chứng tỏ chúa Nguyễn hết tướng bỏ thành mà chạy, cho quan văn ra viết chữ để làm kế nghi binh.
Ngũ Phúc hạ lệnh:
- Truyền các tướng không được mạo muội vào thành. Sai quân đắp đất bên ngoài rồi tập trung đại bác mà bắn vào thành khi nào thành vỡ mới được tiến quân.
Hoàng Phùng Cơ nóng ruột hỏi:
- Dám hỏi chú tại sao vì một hàng chữ ấy mà chú lại e ngại, không cho anh em cháu dẫn quân vào thành bỏ trống.
Phúc đáp:
- Các ngươi chỉ giỏi sức vóc đánh nhau mà chưa rành binh pháp, chưa nhìn sự việc mà biết được lòng người. Để ta giải cho các ngươi nghe. Nếu quan võ bỏ thành mà chạy thì quan văn còn bụng dạ nào mà cầm bút viết nên dòng chữ rồng bay phượng múa thế kia. Chẳng qua chúng tưởng ta là đứa hữu dũng vô mưu nên dùng hàng chữ này khích ta để trúng kế không thành của chúng mà thôi. Các ngươi không được nhiều lời, cứ y lệnh mà làm.
Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể bán tín bán nghi nhưng không dám nói, liền sai quân đắp đất thành ụ, kéo đại bác đặt trên ụ đất bắn vào thành. Đại bác quân Trịnh ầm ầm bắn vào thành cũng không thấy quân Nguyễn bắn trả. Đến lúc một đoạn thành bị vỡ, quân Trịnh tràn vào mới biết là thành bỏ trống, chúa tôi họ Nguyễn đã rút chạy tự bao giờ.
Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào thành khen rằng:
- Tấm lòng trung dũng của người viết hàng chữ này thật đáng để ta khâm phục biết bao!
Hoàng Ngũ Phúc cùng Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh vào tới. Hoàng Ngũ Phúc sai người mang thư báo tiệp đã thu phục được thành Phú Xuân cho chúa Trịnh Sâm biết, rồi truyền mở tiệc khao quân.
*
* *
Trong lúc quân Trịnh, Nguyễn đang đánh nhau ở thành Trường Dục thì trong doanh trại quân Tây Sơn ở bờ Nam sông Trà Khúc, quân do thám về báo cùng Nguyễn Nhạc:
- Tâu Chúa công, chúa Nguyễn phong Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung Thế tử. Hiện Đông cung đã vào trấn đất Quảng Nam. Đông cung Nguyễn Phúc Dương liền sai hai tướng là Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính điều hai vạn quân ra Bắc đánh Trịnh. Hiện ở bờ Bắc sông Trà Khúc chỉ còn một vạn quân cả thủy lẫn bộ do Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi thống lĩnh.
Nguyễn Nhạc mừng rỡ khen:
- Lúc trước quân sư dự đoán Nguyễn Văn Hoằng không dám vượt sông Trà Khúc quả nhiên là như thế. Nay quân Trịnh lại đánh vào mặt Bắc, chúa Nguyễn phải điều hai vạn binh ra Bắc đánh Trịnh cũng không ngoài dự đoán của quân sư. Quân sư thật là thần cơ diệu toán. Đã đến lúc ta đem quân đánh chiếm Quảng Nam.
Các tướng Võ Đình Tú, Vũ Văn Nhận, Lý Tài, Tập Đình, Vũ Văn Dũng hăng hái đứng dậy nói:
- Xin Chúa công xuống lệnh xuất quân, chúng tôi xin liều mình vì dân tử chiến.
Quân sư Trương Văn Hiến vội vã khoát tay can rằng:
- Xin Chúa công chớ nên động binh!
Nguyễn Nhạc ngạc nhiên hỏi:
- Lúc trước quân sư bảo: chờ khi quân Nguyễn điều binh ra Bắc đánh Trịnh, ta sẽ chiếm đất Quảng Nam chẳng khó khăn gì. Nay thời đã đến, sao quân sư lại nói chớ động binh?
Trương Văn Hiến trầm ngâm đáp:
- Chúa công dựng cờ khởi nghĩa ở đất Tây Sơn vốn lấy danh nghĩa tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan. Người nghèo khổ theo ta để có cơm no áo ấm, còn kẻ sĩ nặng óc trung quân thì theo ta để giành lấy ngai vàng nhà Nguyễn về cho Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là dòng chính thống. Vậy nên quân ta đi đến đâu mọi tầng lớp nhân dân đều nhất tề hưởng ứng. Nay Nguyễn Phúc Dương được phong làm Đông cung Thế tử, là người nối nghiệp chúa sau này lại vào trấn đất Quảng Nam, nếu ta động binh đánh Quảng Nam tức là đánh Hoàng tôn Dương. Mà đánh Hoàng tôn Dương tức là đi ngược danh nghĩa của quân Tây Sơn ta dùng để thu phục lòng người. Nếu ta động binh tôi e rằng dù chiếm được đất Quảng Nam nhưng mất lòng trăm họ thì lợi ít hại nhiều. Xin Chúa công nghĩ lại.
Nghe Hiến nói xong, Nhạc như tỉnh ngộ gật đầu nói:
- Ấy chính là lý do chúa Nguyễn lại phong Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung Thế tử, lại cho vào trấn đất Quảng Nam với ý đồ dùng Nguyễn Phúc Dương làm bình phong chặn đường tiến quân của ta. Theo ý quân sư nay ta phải làm thế nào?
Hiến đáp:
- Theo tôi, ta phải làm sao rước được Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương về với quân ta để làm chiêu bài điều khiển thiên hạ Đàng Trong. Đó là thượng sách.
Nhạc nôn nóng hỏi:
- Nhưng làm cách nào để rước được Nguyễn Phúc Dương về với ta?
Hiến vuốt râu đáp:
- Ta dùng ly gián kế - Rồi kề tai Nhạc nói nhỏ - Chúa công cứ làm như vầy... như vầy... nhất định Hoàng tôn Dương sẽ theo về với ta.
Nguyễn Nhạc nghe xong sáng mắt khen:
- Thật là diệu kế! Phiền quân sư lập tức thảo thư.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 15 Rước Đông cung, Trương Văn Hiến dùng kế. Phá bắc quân, Võ Đình Tú ra oai
Nói về Nguyễn Phúc Dương được chúa Nguyễn phong làm Đông cung Thế tử vào đến thành Quảng Nam, trong lòng rất lấy làm sung sướng nói với tả hữu rằng:
- Lúc ta lên chín tuổi thì Tiên chúa mất, Phúc Loan chuyên quyền giam lỏng ta trong cung điện suốt mười năm nay, dù cao lương mỹ vị, rượu ngon gái đẹp chẳng thiếu chi nhưng thật là tù túng. Nay ta làm đại trấn thủ đất Quảng Nam, uy quyền một cõi lại làm Đông cung Thế tử thì nối nghiệp nhà Nguyễn sau này không phải ta thì còn ai vào đây nữa!
Lúc bấy giờ một người hầu thân tín bước ra nói:
- Tôi trước từng theo hầu hạ cho Thế tử Nguyễn Phúc Hiệu là thân phụ của Thế tử. Tôi có đôi lời muốn nói, nếu không hài lòng mong Thế tử bỏ qua cho.
Đang lúc vui Nguyễn Phúc Dương liền bảo:
- Ngươi theo hầu ta từ lúc ta mới ra đời, lòng tận tụy của ngươi ta đã rõ. Có điều gì ngươi cứ nói đừng rào đón làm chi!
Nguyễn gia Hầu liền thưa:
- Thưa Thế tử, quân Tây Sơn nổi lên làm loạn ở đất Quy Nhơn đánh chiếm từ Bình Thuận đến Quảng Ngãi. Chúa ta phải sai Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi đem toàn quân ở kinh thành vào chống nhau với giặc. Quân Trịnh nhân cơ hội ấy mới động binh xâm phạm mặt Bắc. Chúa không còn cánh nào khác phải điều hai vạn quân ra Bắc đánh Trịnh, thì Nguyễn Văn Hoằng ở Quảng Nam chỉ còn một vạn quân không phải là đối thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn vốn lấy danh nghĩa đánh đổ Quốc phó tôn phò Thế tử để dấy binh, nên vạn bất đắc dĩ chúa phải phong Thế tử làm Đông cung sai vào trấn đất Quảng Nam, để chúa Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vì vướng nghĩa tôn phò mà không thể đem quân đánh tới. Chứ thật ra chúa nào yêu mến gì Thế tử. Nếu một mai quân Gia Định do Tống Phước Hiệp kéo ra dẹp được giặc Tây Sơn, tôi e rằng Thế tử phải lâm nguy!
Nguyễn Phúc Dương giật mình nói:
- Tuổi ta còn nhỏ chưa biết việc đời, nếu không nhờ ngươi nhắc nhở, một mai kia nước tới chân mới nhảy ắt là không kịp nữa. Theo ngươi giờ phải làm sao?
Gia Hầu chưa kịp trả lời, có quân vào dâng thư nói:
- Thưa Thế tử, chúa ở kinh thành sai người mang mật thư vào cho tướng quân Nguyễn Văn Hoằng.
Phúc Dương tiếp thư đọc xong, giận dữ quăng thư xuống đất nói:
- Quả đúng như lời ngươi nói. Chúa Định Vương mật báo cho Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi phải ngầm theo dõi hành tung của ta. Hắn sợ ta theo về với quân Tây Sơn phản lại triều đình. Đã thế này sao ta không nhờ Tây Sơn Nguyễn Nhạc kéo binh đến thẳng kinh thành lấy lại ngai vàng nhà Nguyễn cho ta. Theo ý ngươi thì ta nên làm thế nào?
Gia Hầu thưa:
- Tuy Thế tử mang tiếng là trấn thủ đất Quảng Nam, nhưng trong thành vỏn vẹn có năm trăm thủ hạ dưới quyền, binh quyền đều ở trong tay Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi ngoài chốn biên thùy. Nếu Tây Sơn còn thì Thế tử còn là Đông cung. Nếu Tây Sơn diệt tôi e rằng Thế tử không có đất để dung thân. Xem ra Thế tử không còn cách nào khác đành phải nhắm mắt đưa chân về với Nguyễn Nhạc. Nếu người ta thật lòng tôn phò, mình còn hy vọng lấy lại cơ đồ.
Phúc Dương hỏi:
- Nguyễn Nhạc là người thế nào?
Gia Hầu đáp:
- Bụng dạ của Nguyễn Nhạc thì tôi không biết được, còn việc làm của Nhạc thì toàn cõi Đàng Trong ai ai cũng rõ.
Dương lại hỏi:
- Nhạc làm những việc gì?
Gia Hầu đáp:
- Nguyễn Nhạc khởi binh đi đến đâu cũng nêu khẩu hiệu “Tôn phò hoàng tôn, đánh đổ Quốc phó”. Quân Nguyễn Nhạc lấy được đất nào đều mang lương thực phát cho dân nghèo vùng ấy, nên từ sĩ đến nông theo phục rất đông. Quân đi đến đâu liền đánh trống dồn dập, la ó vang trời, quan quân triều thất kinh hồn vía. Bởi lẽ ấy trong nhân dân thường có câu vè rằng: “Binh triều, binh Quốc phó. Binh ó, binh Hoàng tôn” là vậy đó!
Phúc Dương nghe xong bảo:
- Theo việc làm mà xét thì Nguyễn Nhạc là người tài đức vẹn toàn, trên trung với vua, dưới hiếu với dân. Người này chắc thực bụng tôn phò. Ngươi hãy vì ta sang doanh trại Tây Sơn dò ý một phen.
Nguyễn gia Hầu lãnh mệnh đi ngay.
*
* *
Ngày ấy trong doanh trại, Nguyễn Nhạc cùng Trương Văn Hiến đang đàm đạo, quân canh vào báo:
- Tâu Chúa công, có người tự xưng là sứ giả của Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương xin ra mắt Chúa công.
Nhạc bảo:
- Mau mau mời vào!
Quân canh lui ra. Nhạc hỏi Hiến:
- Không biết Nguyễn Phúc Dương sai sứ giả đến đây có dụng ý gì?
Hiến cười đáp:
- Theo tôi có lẽ Phúc Dương đã nhận thư của ta giả danh chúa Định Vương gởi cho Nguyễn Văn Hoằng nên sai người đến đây dò ý Chúa công đó!
Nhạc gật đầu tán đồng.
Gia Hầu vào đến chưa kịp thi lễ đã bị Nhạc quát hỏi:
- Ngươi là ai to gan lớn mật dám giả danh là sứ giả của Đông cung? Quân bay lôi ra chém!
Gia Hầu mất vía luôn miệng kêu rằng:
- Oan cho tôi lắm, xin tướng quân rộng xét, tôi chính là người thân tín của Đông cung.
Nhạc vờ chưa tin, gạn hỏi:
- Ngươi quả thật già mồm, sứ giả của Đông cung thì phải có y phục chỉnh tề, có kẻ theo hầu, còn ngươi một thân một mình, áo quần rách rưới, mặt mũi nhơ nhớp thế kia mà dám bảo là sứ giả của Đông cung.
Gia Hầu liền đáp:
- Xin tướng quân cho tôi được bày tỏ đôi lời. Nguyên Hoàng tôn vừa được phong làm Đông cung Thế tử, chúa Nguyễn Định Vương sai vào trấn thủ Quảng Nam. Nhưng chúa lại đem dạ nghi ngờ viết mật thư cho tướng Nguyễn Văn Hoằng phải quản thúc Đông cung. Nguyễn Văn Hoằng lại đóng binh ở biên cương đánh nhau với tướng quân. Nên tôi phải giả dạng thường dân băng rừng vượt suối mới toàn mạng ra mắt tướng quân. Mong tướng quân rộng xét.
Nhạc lại vờ hỏi:
- Ngươi có bằng chứng gì của Đông cung chăng?
Gia Hầu đáp:
- Thưa có! Đây là huyết thư có dấu ấn của Đông cung!
Nhạc tiếp thư xem xong vội vã bước xuống đỡ Gia Hầu dậy mời ngồi, sai quân bày yến tiệc, lại lấy nước trầm hương rửa mặt, lấy y phục cho thay.
Nhập tiệc, Gia Hầu hỏi Nhạc:
- Dám hỏi tướng quân, tại sao lại đối đãi với tôi tử tế như thế?
Nhạc vờ thật thà đáp:
- Tiên sinh sao hỏi lạ thế? Nhạc tôi dấy binh mong đánh tới kinh thành bắt Trương Phúc Loan và chúa Định Vương trị tội đã làm nhiều điều thoán đoạt, rồi phò Hoàng tôn lên ngôi chúa cho rõ nghĩa cương thường trong thiên hạ. Nhạc này dù chưa gặp mặt nhưng đã tự nhận là tôi của Hoàng tôn, còn tiên sinh là kẻ thân tín của Hoàng tôn ấy là người một nhà cả, sao lại không tử tế với nhau! Nhưng không hiểu sao Định vương lại phong cho Hoàng tôn làm Đông cung Thế tử, cho vào trấn đất Quảng Nam mà còn đem dạ nghi ngờ là cớ làm sao?
Gia Hầu nghe Nhạc nói trong bụng rất mừng, liền vui vẻ đáp:
- Tướng quân không rõ thật sao? Số là tướng quân dấy binh để phò Hoàng tôn, nên Định Vương mới phong Hoàng tôn làm Đông cung vào trấn đất Quảng Nam để chặn đường tiến binh của tướng quân đến kinh thành. Nhưng Định vương lại sợ nếu Hoàng tôn về với tướng quân, rồi sai tướng quân đem quân Bắc tiến thì ngai chúa của hắn sẽ lâm nguy. Vì lẽ ấy Định Vương mới mật thư cho Nguyễn Hoằng Văn quản thúc Đông cung.
Nhạc vờ mắng rằng:
- Định Vương thật là đứa xảo quyệt. Nay Hoàng tôn sai tiên sinh đến đây đã tính toán thế nào chưa?
Gia Hầu vội trình bày:
- Hoàng tôn bảo tôi nhờ tướng quân tiến đánh Nguyễn Hoằng Văn và Nguyễn Nghi, rồi vào thành Quảng Nam, Hoàng tôn sẽ truyền hịch bốn phương, danh chánh ngôn thuận cùng tướng quân kéo đến kinh thành.
Nguyễn Nhạc quay sang Hiến hỏi:
- Ý Hoàng tôn như thế, quân sư định liệu thế nào?
Trương Văn Hiến đáp liền:
- Tiên sinh hãy về bảo với Hoàng tôn rằng khi Nguyễn Văn Hoằng thua ắt chạy về thành Quảng Nam cố thủ, Hoàng tôn chờ quân Chúa công tôi đến, rồi sai người tâm phúc đốt lửa hiệu mở cổng thành. Chiếm được thành Quảng Nam xong Chúa công tôn Hoàng tôn lên ngôi chúa, cùng nhau thẳng tiến thu phục kinh đô.
Gia Hầu cả mừng nói:
- Ấy thật là hồng phúc của nhà chúa nên trời mới sai tướng quân giúp cho Hoàng tôn đó. Tôi xin lập tức quay về.
Nói xong rồi từ biệt ra đi. Nguyễn Nhạc liền sai quân mời các tướng đến nhận lệnh. Các tướng đến đông đủ. Nhạc nói:
- Nay quân Trịnh xâm phạm thành Trường Dục ở châu Bố Chánh, chúa Nguyễn phải điều hai vạn quân của Nguyễn Văn Hoằng ra Bắc. Hiện quân Nguyễn Văn Hoằng đối địch với ta chỉ còn một vạn. Đây là thời cơ để ta đánh chiếm Quảng Nam. Vậy ai lãnh ấn tiên phong?
Võ Đình Tú hăng hái bước ra nói:
- Tôi từ lúc theo Chúa công đến nay chưa lập được công trạng gì. Xin Chúa công cho tôi làm tiên phong đánh Nguyễn lập công!
Tập Đình cũng hùng hổ bước ra tranh với Võ Đình Tú rằng:
- Từ lúc đánh đèo Thạch Tân anh em ta đều lãnh ấn tiên phong. Ngươi tài cán gì mà tranh với ta!
Các tướng thấy Tập Đình hống hách trong lòng không ưa. Đình Tú trợn mắt vung côn quát:
- Nếu ngươi thắng được côn đồng của ta thì hãy lãnh ấn tiên phong.
Nguyễn Nhạc liền can:
- Có tranh thắng bại thì tranh giữa trận tiền với địch quân, người trong một nhà hơn thua mà chi. Nhưng trận này vô cùng quan trọng, nếu không thắng thì không rước được Hoàng tôn. Vậy ai dám kí cam đoan trạng quân thua chém tướng thì lãnh ấn tiên phong.
Tập Đình hăm hở bào Lý Tài:
- Nghĩa huynh mau ký quân lệnh trạng, anh em ta lãnh ấn tiên phong.
Lý Tài thoái thác:
- Mấy hôm nay sức khỏe ta bất an không thể nào ra trận được. Việc này tùy nơi nghĩa đệ.
Nghe Lý Tài nói vậy Tập Đình còn đang lưỡng lự thì Võ Đình Tú đã bước tới tiếp tờ quân lệnh trạng trên tay Nguyễn Nhạc vừa ký vừa nói:
- Người xưa có câu: Trường đồ tri mã lực, sự cửu thức nhân tâm, thật chẳng sai tí nào!
Nói xong Tú quay lưng cười lớn.
Tập Đình vừa giận vừa thẹn đành xấu hổ lui ra. Ra ngoài doanh trại, Lý Tài ngửa mặt lên trời than rằng: Người xưa có nói “Không ở lâu với người hiếu động, không bàn việc với kẻ đa ngôn”. Tập Đình là người vừa đa ngôn vừa hiếu động vậy!
*
* *
Mấy ngày sau Nguyễn Nhạc hạ lệnh tiến quân. Võ Đình Tú dẫn hai ngàn quân tiên phong vượt sông giáp chiến. Nguyễn Nhạc cùng các tướng đem đại binh theo sau trợ chiến. Nguyễn Văn Hoằng mặc giáp cầm đao lên ngựa xông ra, gặp Võ Đình Tú hai bên hỗn chiến. Được ba mươi hiệp Nguyễn Văn Hoằng mồ hôi ướt đẫm chiến bào, lại thấy quân mình càng đánh càng nao núng, liệu bề không chống nổi quất ngựa chạy dài. Võ Đình Tú càng đánh càng hăng hô quân rượt đuổi. Quân Nguyễn tan vỡ hỗn loạn tháo chạy. Nguyễn Nghi nghe tin bộ binh của Nguyễn Văn Hoằng thất thủ, liền dẫn thủy binh lui về đóng ở Sơn Trà. Nguyễn Văn Hoằng bại binh chạy về đến thành Quảng Nam, thấy chúa Định Vương đang ở trong thành thất kinh sụp lạy:
- Kính Chúa thượng, quân Tây Sơn dũng mãnh, tôi chống không nổi. Xin Chúa thượng trị tội. Dám hỏi vì sao Chúa thượng lại ở nơi này?
Chúa Định Vương khóc đáp:
- Nguyễn Duy đầu hàng dâng thành Trường Dục cho quân Trịnh. Hai tướng Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính tử trận ở Bái Đáp Giang, ta cùng Chữ Đức phải đem gia quyến bỏ kinh thành vào đây ấn náu. Hiện Chữ Đức còn mấy ngàn quân đóng ở Hải Vân. Hoàng Ngũ Phúc có lẽ đã chiếm lấy kinh thành, Tĩnh Điệp Hầu không biết sống chết thế nào? Nay quân ta tan tác lưỡng đầu thọ địch giờ phải làm sao?
Nói xong lại ôm mặt khóc lớn. Nguyễn Văn Hoằng đứng dậy trấn an:
- Cúi xin Chúa hãy dằn cơn bi lụy. Nguyễn Nghi đã lui thủy binh đóng ở Sơn Trà. Chúng ta nên tạm thời bỏ Quảng Nam đem toàn quân đến Sơn Trà hợp cùng quân Nguyễn Nghi xuôi thuyền vào Sài Côn để quân Tây Sơn với quân Trịnh đánh nhau rồi ta chiêu binh mãi mã chờ quân Trịnh diệt xong Tây Sơn thì có cơ thu phục lại kinh thành.
Hoằng vừa nói xong quân thám mã qua báo:
- Kính Chúa thượng, quân Tây Sơn tiến cách phía Nam thành hai mươi dặm, thanh thế rất lớn hiện đang ồ ạt kéo đến đây.
Định Vương cuống quít nói:
- Hãy đem toàn quân ra phía Đông thành kéo xuống Sơn Trà.
Đông cung Nguyễn Phúc Dương bước ra nói:
- Nếu bỏ trống thành, giặc vào rồi đuổi theo thì sao? Và mấy ngàn quân của Chữ Đức ở Hải Vân ắt là không còn lối thoát. Vậy tôi xin ở lại, lên mặt thành phủ dụ Tây Sơn, rồi phi báo cùng Chữ Đức kéo quân về sẽ chạy theo sau. Quân Tây Sơn vốn lấy nghĩa tôn phò tôi nay thấy tôi trấn thủ thành này chắc nhất thời chưa dám tấn công.
Chúa Định Vương cùng các tướng lúc ấy không còn bụng dạ nào hiểu được ẩn ý của Phúc Dương. Định Vương liền sai người tâm phúc ra Hải Vân triệu hồi Chữ Đức để Nguyễn Phúc Dương ở lại giữ thành, rồi cùng Nguyễn Văn Hoằng, Nguyễn Phúc Nghiêm đưa gia quyến ra cửa Đông thành Quảng Nam chạy đến Sơn Trà, xuống thuyền vào Sài Côn.
Chúa Nguyễn Định Vương đi rồi, Nguyễn Phúc Dương liền sai Nguyễn gia Hầu mở cửa thành đón quân Tây Sơn. Nhạc vào thành mời Nguyễn Phúc Dương ngồi trên ngôi cao, rồi cùng các tướng quỳ tung hô vạn tuế. Nguyễn Phúc Dương vội bước xuống đỡ Nguyễn Nhạc dậy, mừng rỡ nói:
- Ấy chính là hồng phúc Tiên vương, nên trời mới sai tướng quân dấy nghĩa tôn phò, nay Định Vương đã chạy trốn vào Nam. Chỉ còn Chữ Đức và mấy ngàn quân đóng tại ải Hải Vân. Ngày xưa chính Chữ Đức đã nghe lệnh Phúc Loan bắt giam Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân và Thái úy Trương Văn Hạnh, rồi đem quân bắt giết cả nhà Thái úy cùng Đô thống Ngô Mãnh. Chắc Chữ Đức cũng đang trên đường rút về Quảng Nam. Tướng quân hãy sai quân đón bắt về trị tội phản chúa cho rõ nghĩa cương thường.
Trương Văn Hiến liền nói:
- Xin chúa công lệnh cho Võ Đình Tú cùng Vũ Văn Dũng lập tức đón bắt Chữ Đức rồi sai quân đóng cũi giải về, còn Tú và Dũng hãy mau mau tiến ra chiếm lấy Hải Vân quan. Nếu quân Trịnh lấy mất thì binh ta thất thế.
Nguyễn Nhạc liền sai Tú và Dũng lập tức xuất quân. Đến nửa đường gặp Chữ Đức, Văn Dũng lướt ngựa lên quát lớn:
- Thành Quảng Nam đã bị Tây Sơn ta chiếm mất. Thằng nhãi Định Vương bỏ chạy vào Phiên trấn, Hoàng tôn cùng quân ta sắp tiến ra thu phục kinh thành, ba quân sao còn chưa bỏ giáo quy hàng.
Quân Nguyễn liền quỳ mọp đồng thanh nói:
- Chúng tôi xin quy hàng! Chúng tôi xin quy hàng!
Chữ Đức hồn phách phi tán, quất ngựa chạy trốn vào một đường nhỏ. Võ Đình Tú trông thấy tức tốc đuổi theo. Hai ngựa cách nhau chừng vài trượng, Võ Đình Tú nhún mình nhảy qua lưng ngựa Chữ Đức, từ phía sau nắm lấy thắt lưng Chữ Đức giơ hông lên rồi quăng xuống đất. Quân Tây Sơn bắt giải về thành Quảng Nam.
Vừa lúc ấy có quân do thám chạy về báo cùng Tú và Dũng:
- Thưa tướng quân, có một vạn quân Trịnh do tiên phong Hoàng Đình Thể chỉ huy để chiếm lấy Hải Vân hiện đang dẫn quân xuống đèo thẳng tiến về phía quân ta.
Nghe xong Đình Tú nói với Văn Dũng:
- Ở phía trước chừng mười dặm có một đường đèo nhỏ, đệ sẽ đem năm trăm kỵ binh đi gấp lên chiếm trước, rồi hiền huynh dẫn bộ binh đến sau. Ta chiếm lĩnh núi này chặn đường tiến binh quân Trịnh, rồi phi báo về cho Chúa công đem đại binh đến giúp.
Văn Dũng nói:
- Hiền đệ hãy kíp đi ngay!
Khi ấy Hoàng Đình Thể đã dẫn quân đến chiếm lấy núi trước rồi, nghe quân về báo:
- Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn đang kéo đến.
Hoàng Đình Thể nói:
- Quân Tây Sơn đã chiếm thành Quảng Nam. Từ lâu ta chỉ đánh với quân Nguyễn, nay đánh với quân Tây Sơn một chuyến xem thử thế nào!
Nói rồi liền sai con là Hoàng Đình Định đem hai ngàn quân phục ở bên tả núi, Hoàng Đình Vị đem hai ngàn quân phục ở hữu núi rồi chờ quân Tấy Sơn đến.
Võ Đình Tú dẫn năm trăm kỵ binh đến sát chân đèo, bỗng nghe một phát súng nổ vang. Quân Trịnh từ trong hốc núi kéo ra chặn đường. Hoàng Đình Thể đứng trên đỉnh đèo cười lớn:
- Các ngươi đã lọt vào trận mai phục của ta, mau khai tên họ rồi xếp giáp quy hàng!
Võ Đình Tú thất kinh nói:
- Bọn chúng đã đi trước ta một bước. Truyền quân chỉnh tề hàng ngũ mà lui.
Hoàng Đình Thể trên đèo lấy cờ phất lên, Hoàng Đình Định và Hoàng Đình Vị từ hai bên núi kéo ra chặn đường về. Võ Đình Tú bình tĩnh bảo ba quân:
- Quân giặc đã bao vây bốn mặt, các ngươi hãy cùng ta tử chiến một phen.
Nói xong rồi vung côn xông vào quân Trịnh. Nguyên năm trăm kị binh của Võ Đình Tú toàn là quân thiện chiến võ dũng hơn người, đánh quân Trịnh chết liền mấy lớp. Nhưng quân Trịnh đông quá cứ ồ ạt xông lên, Võ Đình Tú tả xung hữu đột, năm trăm quân hao gần một nửa, chiến bào Đình Tú ướt đẫm máu quân Trịnh mà vẫn chưa thoát khỏi trùng vây. Hoàng Đình Thể đứng trên đèo thị chiến nói với tả hữu rằng:
- Quân Tây Sơn thật là dũng mãnh, thảo nào quân Nguyễn phải bỏ Quảng Nam chạy vào Sài Côn.
Nói rồi lại hô lên:
- Quân bay tiếp tục thúc trống tiến quân!
Vừa nói xong bỗng thấy một đạo binh Tây Sơn do một tướng dẫn đầu đánh vào sau lưng quân Hoàng Đình Định và Hoàng Đình Vị. Quân Định và Vị rối loạn hàng ngũ, Đình Thể liền hối quân:
- Mau mau đánh trống thu binh!
Quân Trịnh nghe trống liền vội vã lui quân. Vũ Văn Dũng nóng lòng phá vây cứu Võ Đình Tú, dẫn đầu ba quân chém giết quân Trịnh tơi bời. Gặp Tú, Dũng liền hỏi:
- Hiền đệ có làm sao không? Thôi ta hãy lui về đóng đồn ngăn quân Trịnh, chờ Chúa công đến rồi sẽ hay.
Đình Tú nói:
- Giặc đều chiếm giữ các nơi hiểm yếu, ta đóng quân trơ trọi giữa đồng, giặc đông, ta ít, giặc ba bên đánh tới thì sao? Chi bằng đang lúc thắng thế ta đuổi theo giặc tiến lên đánh mấy đèo kia làm nơi cố thủ mới vẹn toàn.
Nói rồi dẫn ba trăm kỵ binh còn lại, người nào người nấy chiến bào đẫm máu vẫn ồ ạt xông lên, Vũ Văn Dũng thấy Đình Tú quyết ý liền vung đao nói với ba quân:
- Nếu hôm nay không chiếm được núi này, không về gặp mặt Chúa công.
Quân Tây Sơn hét vang nhất tề xông lên. Quân trịnh thấy Tây Sơn can đảm phi thường trong lòng nao núng không dám kháng cự chạy về đồn trên đỉnh đèo. Hoàng Đình Thể thấy quân Tây Sơn đuổi theo đến nửa đèo liền bảo ba quân: Hãy lăn gỗ đá xuống!
Quân thưa:
- Hai tướng Hoàng Đình Định và Hoàng Đình Vị dẫn quân chạy trước, quân Tây Sơn theo sau chém giết thì lăn gỗ đá thế nào được.
Hoàng Đình Thể đấm ngực than rằng:
- Ta cứ tưởng đánh trống thu binh thì chúng thoát chết không dám đuổi theo. Nào ngờ chúng lại còn thừa thắng xông lên. Quân cướp này thật là liều lĩnh. Truyền quân lui về trấn giữ Hải Vân quan.
Văn Dũng và Đình Tú chiếm được núi, sửa sang đồn lũy chặt cây gom đá dự trữ đề phòng quân Trịnh đánh tới, rồi sai người về Quảng Nam phi báo cùng Nguyễn Nhạc.
*
* *
Hôm ấy Hoàng tôn Dương, Nguyễn Nhạc và Trương Văn Hiến đang đàm đạo trong trướng. Quân canh vào báo:
- Hai tướng Văn Dũng và Đình Tú bắt được Chữ Đức sai quân giải về đang ở ngoại đợi lệnh.
Nhạc truyền:
- Mau dẫn vào!
Quân lôi Chữ Đức đến, Đức hai tay bị trói chặt vẫn đứng trơ trơ. Nguyễn Nhạc quát:
- Không được vô lễ. Trước mặt Hoàng tôn sao dám không quỳ?
Võ sĩ đè Chữ Đức quỳ xuống, Hoàng tôn Dương hỏi:
- Chữ Đức, ngươi đã biết tội của mình chưa?
Đức hỏi lại:
- Tôi có tội gì?
Phúc Dương gằn giọng:
- Ngươi còn hỏi tội gì ư? Ta hỏi ngươi mười năm trước ai đã nghe lệnh Phúc Loan hạ ngục Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân và Thái úy Trương Văn Hạnh rồi ép uống thuốc độc cho chết? Ai đã bắt giết cả nhà quan Trương Văn Hạnh và Đô thống Ngô Mãnh? Ai đã giam lỏng ta suốt mười năm trời? Rồi mới đây ngươi lại bắt Quốc phó Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh? Bao nhiêu việc ấy ngươi chẳng phải là phường bán chúa cầu vinh đó sao?
Chữ Đức bình thản đáp:
- Mười năm trước tôi nghe lệnh Phúc Loan vì Phúc Loan có gươm lệnh và chiếu chỉ của Tiên vương. Còn mới đây tôi bắt Phúc Loan là làm theo ý chúa Định Vương. Xét các việc tôi làm là làm theo lệnh chúa, thì sao lại bảo là bán chúa cầu vinh!
Phúc Dương ấp úng chưa biết trả lời làm sao, Trương Văn Hiến xen vào hỏi Chữ Đức:
- Năm xưa không biết chiếu chỉ của Phúc Loan là giả sao?
Chữ Đức đáp:
- Không biết!
Hiến lại hỏi:
- Nhưng gia quyến của Trương Văn Hạnh tội gì mà ngươi tàn sát từ già đến trẻ?
Chữ Đức đáp:
- Ấy cũng là theo lệnh Phúc Loan!
- Lúc ngươi tàn sát cả nhà Trương Văn Hạnh có ai thoát chết không?
- Có một người tùy tướng của Trương Văn Hạnh là Trương Văn Hiến võ nghệ siêu quần thoát khỏi trùng vây chạy thoát!
- Ngươi có biết Trương Văn Hiến nay ở đâu không?
- Không biết!
Hiến vả vào mặt Chữ Đức một tát như trời giáng, nghiến răng nói:
- Ta chính là tùy tướng của quan Thái úy Ý Đức Hầu Trương Văn Hạnh!
Phúc Dương mừng rỡ nói:
- Thì ra quân sư chính là Trương Văn Hiến. Thảo nào các khanh dấy nghĩa tôn phò. Nay ta xử Chữ Đức thế nào?
Văn Hiến nói với Chữ Đức:
- Theo ý ngươi những việc ngươi làm là trung quân phải vâng lệnh chúa, nay đến lúc chết mà không run sợ cũng đáng khen thay. Nhưng ngươi thờ chúa bằng trí óc ngu si và lương tâm độc ác của loài cầm thú. Loài cầm thú như ngươi còn để sống làm gì?
Nói rồi truyền võ sĩ lôi ra chém. Võ sĩ lôi Chữ Đức ra ngoài, bỗng có quân vào báo:
- Thưa Chúa công, lúc Chữ Đức dẫn quân chạy về thành Quảng Nam, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đã tiến chiếm Hải Vân quan đang bỏ trống, rồi sai Hoàng Đình Thể làm tiên phong tiến vào chiếm lấy hòn núi nhỏ cách Hải Vân quan hai mươi dặm. Tướng quân Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú đánh lui quân Hoàng Đình Thể chiếm lại núi này. Hiện quân Trịnh đã lui về đóng ở Hải Vân quan. Hai tướng Dũng và Tú xin tướng quân đem đại binh tiếp viện.
Nguyễn Nhạc truyền lệnh:
- Hãy cho mời các tướng đến thương nghị!
Vũ Văn Nhậm, Lý Tài, Tập Đình đến, Nhạc nói:
- Nay tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đem quân bốn vạn vào chiếm Hải Vân quan. Lý Tài vừa nhuốm bệnh hãy ở lại cùng Hoàng tôn giữ thành Quảng Nam. Ta với quân sư, Tập Đình và Vũ Văn Nhậm đem toàn quân ra trợ chiến với Văn Dũng và Đình Tú. Các tướng chỉnh đốn binh mã, sáng ngày mai lập tức xuất quân

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 16 Bỏ đất Quảng Nam, Nguyễn Nhạc nghe lời Trương Văn Hiến.
Nói về Nguyễn Nhạc kéo quân đến núi nhỏ của Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú trấn thủ. Nhạc đứng trên núi ấy nhìn ra Hải Vân quan trên mây dưới bể, trên thì núi non trùng điệp, đá dựng chênh vênh, nhiều hòn cao ngất đụng đến trời mây, dưới biển rộng mênh mông ầm ầm sóng vỗ vào chân đá dựng. Quân Trịnh đóng quân án giữ đường đèo lều trại san sát, thủy binh đậu ngoài biển ghe thuyền lố nhố. Nhạc chỉ tay ra nói với các tướng:
- Hải Vân quan quả nhiên hiểm trở, kỳ vĩ lạ thường. Nay quân Trịnh thủy bộ hai mặt án giữ đường ra kinh thành, quân sư và các tướng có kế gì phá địch hay chăng?
Võ Đình Tú bước ra nói:
- Thưa Chúa công, binh cốt giỏi chớ không cốt nhiều, tôi xin đem ba ngàn quân làm tiên phong đánh giặc. Nếu không thắng xin trị tội theo tướng lệnh.
Nguyễn Nhạc vỗ vai Đình Tú cười bảo:
- Qua trận vừa rồi ta mới biết Đình Tú là người dũng lược. Nhưng trên vai còn mang vết thương thế kia ngộ nhỡ ra trận có điều gì sơ sẩy e hối không kịp!
Đình Tú cứng cỏi đáp:
- Thưa Chúa công, hôm trước tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đem một vạn quân tiến chiếm núi này. Tôi chỉ có năm trăm kỵ binh đi trước, hiền huynh Vũ Văn Dũng dẫn một ngàn năm trăm bộ binh đi sau mà đánh lui một vạn quân của Hoàng Đình Thể chạy về Hải Vân quan. Đại trượng phu một lời đã nói bốn ngựa khó theo, tôi đâu phải là hạng người chỉ khua môi múa mép mà không dám kí vào quân lệnh trạng!
Nghe Đình Tú nói, Tập Đình tức khí bước ra thưa:
- Lần trước tôi không kí quân lệnh trạng là e rằng mang tiếng tranh quyền tiên phong với tướng quân Đình Tú. Nay tôi xin đem quân bản bộ cướp trại địch, nếu không thắng xin Chúa công xử theo tướng lệnh.
Đình Tú cầm tay Tập Đình nói:
- Tôi một lòng vì Chúa công nên nói thế, vô tình xúc phạm đến tướng quân. Xin tướng quân vì sự đoàn kết trong quân đừng để bụng làm gì! Lúc đánh đèo Thạch Tân đã biết oai võ của tướng quân, nay thấy tướng quân khí khái hơn người, Tú tôi rất lấy làm cảm phục.
Nghe Đình Tú khen mình Tập Đình lại ngạo mạn nói với Nguyễn Nhạc:
- Tôi dù thất thế theo về với Chúa công nhưng cũng là đại tướng của Thiên triều, thì sá gì lũ quân Trịnh tôm tép kia. Xin kí vào quân lệnh trạng thua binh chém tướng.
Nguyễn Nhạc cả mừng nói:
- Nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Có mọi người đều nghe lời tướng quân làm minh chứng, thôi không phải ký tá làm gì. Tướng quân mau ra oai võ của Thiên triều.
Tập Đình lãnh lệnh hùng hổ đi ngay.
Tập Đình đem một ngàn binh bản bộ đến trước doanh trại quân Trịnh dưới chân Hải Vân quan. Quân do thám vào báo cùng Hoàng Ngũ Phúc:
- Thưa đại tướng quân, có một đạo quân toàn là người Tàu đang tiến gần doanh trại quân ta.
Ngũ Phúc hỏi:
- Bọn chúng là quân nào thế? Khoàng bao nhiêu người, dùng thứ vũ khí gì?
Tên quân đáp:
- Thưa, bọn chúng ước một ngàn quân, đều cởi trần, đầu vấn khăn vàng, tay cầm khiên, tay cầm đao, bộ tướng trông rất dữ dằn.
Ngũ Phúc lấy làm lạ hỏi Hoàng Đình Thể:
- Hôm trước ngươi đánh nhau với quân Tây Sơn có thấy quân này không?
Đình Thể đáp:
- Hôm trước quân Tây Sơn toàn là người Đàng Trong, quân thì mặc áo đỏ, tướng thì đội mũ lông, không thấy có lũ quân này!
Hoàng Ngũ Phúc hỏi các tướng:
- Ai xung phong ra trận hỏi xem chúng là bọn cướp phương nào? Nếu dung nạp được thì cho làm tiền quân đi đánh Tây Sơn.
Có một viên tiểu tướng bước ra thưa:
- Bọn cướp đường này thì phiền gì các tướng quân phải ra trận cho nhọc sức. Tôi tuy tài hèn mọn, xin ra trận chặn bọn chúng hỏi cho rõ sự tình!
Ngũ Phúc hỏi:
- Người này là ai?
Đình Thể đáp:
- Đây là tùy tướng của tôi tên Vũ Tá Kiên.
Ngũ Phúc mừng rỡ đáp:
- Được! Ta cho ngươi hai ngàn tinh binh ra trận. Chưa rõ lai lịch của chúng thì chớ giết bừa.
Vũ Tá Kiên vâng lệnh đi ngay. Hai bên giáp mặt thấy đạo quân người Tàu dàn đội hình chiến đấu, Vũ Tá Kiên thúc ngựa đến hỏi lớn:
- Các ngươi là giặc cướp phương nào? Có phải quân Tây Sơn chăng?
Nghe địch hỏi, Tập Đình biết địch quân không biết mình là quân Tây Sơn, giả vờ nói:
- Ở phía Nam thành Quảng Nam có khu phố Hội An là phố của người Tàu chúng tôi sinh sống. Chẳng may quân Tây Sơn đem quân đánh chiếm Quảng Nam sát hại chúng tôi. Gặp quân chúa Nguyễn cũng bảo chúng tôi theo Tây Sơn nên đánh đuổi. Chúng tôi không còn đất dung thân nên mới chạy đến đây, xin tướng quân dung nạp.
Vũ Tá Kiên cả tin nói:
- Ngươi hãy tạm đóng binh ở nơi này để ta thu quân về bẩm cùng đại tướng quân sẽ thu nạp các ngươi.
Nói xong liền lui quân. Chờ quân Trịnh mới quay lưng không đề phòng, Tập Đình hô quân xông tới hét lớn:
- Ta là tiên phong của Tây Sơn đây!
Vũ Tá Kiên thất kinh hô quân quay lại đánh.
Quân Trịnh bất ngờ trở tay không kịp bị quân Tây Sơn đánh giết rất nhiều. Vũ Tá Kiên mới ra trận lần đầu, cố sức mà đánh, Tập Đình lỡ hứa cùng Nguyễn Nhạc quyết thắng không lui. Hai đàng đánh nhau bất phân thắng bại. Quân của Tập Đình đánh hăng quá, quân Trịnh càng đánh càng tử vong, nao núng muốn lui. Hoàng Ngũ Phúc bèn sai Hoàng Đình Thể đem kỵ binh trợ chiến. Hoàng Đình Thể cùng hai người con đem năm trăm kỵ binh xung trận. Hoàng Phùng Cơ đem bộ binh tiếp chiến. Tập Đình không chống nổi bèn cùng đám quân tín cẩn quay ngựa chạy trốn vào rừng. Đạo binh người Tàu tan vỡ chạy về núi nhỏ cùng quân Tây Sơn. Tập Đình ngửa mặt lên trời than rằng:
- Chỉ tại ta kiêu căng háo thắng, trước mặt Nguyễn Nhạc đòi ký quân lệnh trạng quân thua chém tướng. Lý huynh từng nhắc nhở mà ta vẫn không chừa thói ngạo mạn, nên mới ngu muội đưa các ngươi vào chỗ chết. Nay ăn năn đã muộn, muốn quay về cũng không được, biết làm sao đây!
Nói rồi ôm mặt khóc. Có tên quân quỳ thưa:
- Việc đã đến nước này, tướng quân sầu thảm cũng chẳng ích gì. Chi bằng chúng ta hãy tìm lối băng rừng lần ra ngoài cửa bể, rồi tìm thuyền về nơi quê quán ở Quảng Đông an phận cuốc cày, không màng thế sự chẳng thanh thản hơn ư.
Tập Đình gạt nước mắt nói:
- Giờ chỉ có đường sống ấy mà thôi!
Rồi cùng mươi quân tín cẩn tìm đường về Quảng Đông. Đến nơi bị quan quân nhà Thanh bắt được đem chém.
*
* *
Nói về quân Trịnh đánh tan quân Tập Đình thừa thắng tiến đánh núi nhỏ, bị quân Tây Sơn từ trên núi lăn gỗ đá xuống không sao tiến được. Gặp lúc tối trời Hoàng Ngũ Phúc hạ lệnh đóng đồn, rồi họp các tướng bàn kế sách đánh Tây Sơn. Hoàng Đình Thể bàn rằng:
- Quân Tây Sơn từ trên cao lăn gỗ đá xuống, quân ta từ dưới đánh lên thật là thất thế. Xin đại tướng quân hãy lệnh cho Hoàng Đình Bảo và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh vào đánh lấy thành Quảng Nam, rồi từ Quảng Nam đánh ra. Quân Nhạc lúc bấy giờ không còn đường lui ắt phải đầu hàng. Nhược bằng Nhạc không hàng, nếu dễ thì ta hai mặt giáp công, nếu chúng liều chết cố thủ thì ta cứ vây chặt, tuyệt đường binh lương, Nguyễn Nhạc không hàng chẳng lẽ chịu chết đói hay sao?
Hoàng Ngũ Phúc khen:
- Kế này rất hay!
Nói rồi sai người đem mật lệnh cho Hoàng Đình Bảo và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh theo đường bể vào đánh thành Quảng Nam.
*
* *
Trong đêm ấy bên doanh trại Tây Sơn, Trương Văn Hiến bàn rằng:
- Quân Trịnh quân đông thế mạnh, Hoàng Ngũ Phúc lại rất giỏi dụng binh. Binh ta ít, nhựa hỏa hổ khó tìm từ Quy Nhơn chưa vận chuyển ra kịp. Nếu ta cứ đồn binh ở đây cố thủ với Hoàng Ngũ Phúc, ngộ nhỡ chúng đem thủy binh theo đường bể vào đánh thành Quảng Nam, e rằng Lý Tài với một ngàn quân bản bộ đương không nổi. Nếu mất thành Quảng Nam thì ta tiến thoái lường nan.
Nguyễn Nhạc bèn hỏi:
- Theo ý quân sư thì phải thế nào?
Hiến chậm rãi đáp
- Cái thế yếu của quân ta là không có thủy binh thật khó bề chống giữ. Vả lại lương thực lấy được của quân Nguyễn ta đã đem phân phát cho dân nghèo. Chi bằng ta hãy tạm lui quân bỏ Quảng Nam về giữ Quảng Ngãi. Lúc bấy giờ ta chia quân ra giữ cửa sông Trà Khúc, thì không phải lo quân Trịnh đem thủy binh vào các cửa bể thọc vào sườn rồi đánh vào sau lưng ta. Đợi hết xuân sang hạ quân Trịnh sẽ khắc lui binh.
Đình Tú, Văn Dũng, Văn Nhậm đồng thanh hỏi:
- Cớ gì hết xuân sang hạ chúng lại lui binh?
Hiến trầm ngâm đáp:
- Quân Trịnh vốn là người phương Bắc ngại nóng ưa lạnh. Nay đang xuân khí trời mát mẻ, chúng còn mạnh khỏe hung hăng, đợi sang hè khí nghịch hỏa xông gió Nam khô nóng, tạng người không hợp ắt sinh bệnh tật. Vả lại tôi xem khí tượng thấy gần đây vùng trời đất Quảng Nam đêm đêm thấp khí rất nhiều. Đến mùa hè thì hỏa nhiệt thịnh. Hễ khí tượng mà sinh ra thấp nhiệt thì con người sẽ bị bệnh nơi trường vị mà sinh chứng tả lỵ triền miên. Thưa Chúa công ta cứ bỏ Quảng Nam cho quân Trịnh, nhất định sang mùa hạ Hoàng Ngũ Phúc sẽ bỏ đất Quảng Nam mà lui binh. Nếu không như thế Hiến tôi xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
Nguyễn Nhạc nghi ngờ hỏi:
- Xin hỏi quân sư việc làm ấy có chắc lắm không?
Hiến bình tĩnh đáp:
- Tôi xin đem tánh mạng ra bảo đảm. Xin Chúa công đừng ngại.
Nguyễn Nhạc vẫn bán tín bán nghi, nhưng không có kế nào khác bèn hạ lệnh cho toàn quân trong đêm ấy bỏ đất Quảng Nam lui về giữ phủ Quảng Ngãi.
Trương Văn Hiến tuổi già sức yếu dầm sương dãi gió chinh chiến triền miên về đến Quảng Ngãi thì lâm trọng bệnh. Vào dinh phủ thấy Văn Hiến hơi thở thỏn mỏn, Nhạc lo sợ hỏi:
- Quân sư cảm thấy trong người có khỏe không?
Hiến thều thào đáp:
- Mạng tôi đến đây là hết. Chúa công hãy gắng sức vì muôn dân bá tánh dựng nghiệp Võ Thang.
Nhạc vừa khóc vừa kể:
- Kể từ ngày Tây Sơn dấy nghĩa, quân sư ngày quên ăn đêm bỏ ngủ lo bàn mưu định kế, lại chẳng quản gió sương cùng Nhạc tôi xông pha trận mạc, nên quân ta mới được như bây giờ. Nay đại sự chưa thành mà quân sư nỡ bỏ ra đi. Đương lúc quân ta tình thế nguy nan, ngoài thì Hoàng Ngũ Phúc đánh vào, trong thì Tống Phước Hiệp đánh ra. Nghĩa binh ta lưỡng đầu thọ địch, không có quân sư tôi biết liệu thế nào đây?
Hiến gắng gượng đáp:
- Chúa công hãy yên tâm, xin cho vời Nguyễn Huệ đến đây. Tôi còn đôi điều chưa dạy cho Huệ xong, muốn dặn dò Huệ vài lời mới yên lòng nhắm mắt.
Nói xong mệt quá lịm đi. Nguyễn Nhạc bảo Vũ Văn Dũng trông nom Văn Hiến, rồi sai người cấp tốc vào Quy Nhơn triệu Nguyễn Huệ.
*
* *
Lại nói về tôi thần của chúa Nguyễn Định Vương là Tĩnh Điệp Hầu Nguyễn Đăng Trường giả dạng thường dân đưa mẹ vượt bao gian khổ hiểm nghèo lội suối trèo đèo chạy theo chúa Định Vương, lần hồi đến phủ Quy Nhơn. Chẳng may có một tên dân trước là quân Nguyễn nhận dạng Nguyễn Đăng Trường bèn vào thủ phủ báo cùng Nguyễn Huệ:
- Thưa tướng quân, có một người là quan tham tán quân cơ của chúa Nguyễn đang ở trong thành, tôi xin vào bẩm báo tướng quân.
Huệ hỏi:
- Sao ngươi biết?
Tên dân đáp:
Lúc trước còn trong quân chúa Nguyễn có thời gian tôi làm cấm vệ trong thành nên có biết ông ấy!
Huệ quay sang hỏi Nguyễn Thung:
- Tiên sinh có biết ông ấy là người thế nào chăng?
Thung đáp:
- Ông ấy làm tham tán quân cơ bàn mưu tính kế cho Định Vương, tước Tĩnh Điệp Hầu, tên Nguyễn Đăng Trường, tính người trung nghĩa thờ mẹ rất có hiếu. Lúc quân Trịnh vào đánh Phú Xuân ông ấy khuyên chúa đem gia quyến chạy vào Quảng Nam. Một mình ông ta ở trong thành chặn giặc, ông ấy mở toang cổng Bắc thành đề bảy chữ “Mở cổng thành giết Hoàng Ngũ Phúc”. Phúc thấy thế nghi ngại không dám đem quân đuổi theo chúa, nhờ vậy chúa thoát được vào Quảng Nam. Sau đó ông ấy một mình phò tá mẹ, nên không kịp chạy theo chúa vào Quảng Nam xuống thuyền vào Gia Định. Có lẽ ông ấy muốn đi đường bộ vào Nam nên mới lánh nạn đến đây!
Huệ bảo tên dân:
- Ta cho vài mươi tên quân theo ngươi đến nơi ẩn náu của Nguyễn Đăng Trường vời ông ấy về đây cho ta hầu chuyện.
Tên dân vâng lệnh đi ngay. Quân dẫn Nguyễn Đăng Trường và mẹ đến. Huệ mời ngồi hỏi:
- Xin hỏi, tiên sinh có phải là quan tham tán quân cơ của chúa Định Vương?
Biết tông tích bại lộ, Trường đáp:
- Phải, ta chính là Tĩnh Điệp Hầu Nguyễn Đăng Trường!
Huệ ân cần hỏi:
- Nay tiên sinh định đưa Nguyễn mẫu đi đâu?
Trường thản nhiên đáp:
- Ta định đưa mẹ vào Gia Định cùng chúa, chẳng may bọn giặc Tây Sơn các ngươi bắt được, muốn làm gì thì làm chớ hỏi lôi thôi.
Huệ ôn tồn nói:
- Quân Tây Sơn tôi dấy binh đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan, đưa ngôi chí tôn trả về cho Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Nay đại huynh tôi đang tôn phò Hoàng tôn đánh nhau với quân Trịnh mong chiếm lại kinh thành, thu phục cơ đồ cho nhà chúa Nguyễn, sao tiên sinh lại gọi quân Tây Sơn tôi là giặc?
Nghe Huệ nói, Nguyền Đăng Trường cười lớn:
- Hoàng tôn Dương tuổi còn nhỏ dại chưa từng trải việc đời, nên mới bị các ngươi đem nghĩa tôn phò ra lừa dối chứ gạt ta sao được!
Huệ kính cẩn đáp:
- Tôi nào dám nói gạt tiên sinh.
Trường lớn tiếng nói;
- Chẳng qua bọn giặc các ngươi thừa dịp triều đình có biến, mượn tiếng tôn phò, thu chúng mị dân, mưu định bá đồ vương. Ta là một kẻ sĩ trong thiên hạ, đâu phải như lũ ngu dân kia hòng cho mi dối gạt!
Huệ vẫn dịu giọng rằng:
- Nếu đại huynh tôi định bá đồ vương đem ấm no về cho thiên hạ lại không đúng hay sao?
Trường cười nhạt báo:
- Thừa nước loạn dấy binh phản chúa, ta nói ngươi đúng ở chỗ nào?
Huệ không đáp lời Trường mà hỏi lại:
- Muôn dân đói khổ lầm than, quân Tâm Sơn tôi khởi nghĩa đi đến đâu muôn dân đều có cơm ăn áo mặc nên thiên hạ đều phục. Dám hỏi tiên sinh, so với vua Lê Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn thì đại huynh tôi khởi nghĩa ở Tây Sơn khác nhau ở chỗ nào?
Trường lại cười lên ha hả:
- Bọn các ngươi thật là lũ nông dân ít học. Hỏi một câu mà đứa con nít cũng phải bật cười!
Nghe Trường buông lời vô lễ, tả hữu rút gươm khỏi vỏ. Huệ ngăn lại vẫn kính cẩn nói:
- Anh em tôi thật là nông dân, vì dân dấy nghĩa. Xin tiên sinh giảng giải vì sao tôi hỏi thế, đứa con nít cũng phải bật cười?
Trường trịch thượng đáp:
- Ngày xưa vua Lê Thái tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn là đánh đuổi quân Minh ở nước Tàu ra ngoài bờ cõi, chính nghĩa rạng ngời. Còn các ngươi thừa lúc triều đình có biến đấy binh phản chúa, mượn tiếng mị dân kẻ thức giả ai mà không biết. Hai việc khác nhau một trời một vực lại ngây ngô hỏi rằng khác ở chỗ nào, bảo ta không cười sao được?
Nghe Trường nói xong Huệ bèn nói tránh:
- Anh em tôi vừa mới cai quản phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi chưa biết phép trị dân, vừa rồi có một kẻ ỷ mạnh đánh một người hàng xóm rất dã man, lại có một người cha đánh một đứa con cũng rất dã. man. Cả hai nạn nhân đều thương tích như nhau. Xin tiên sinh dạy cho phải xử người nào tội nặng hơn?
Trường đáp:
- Phải xử người cha đánh con tội nặng hơn!
Huệ ung dung hỏi:
- Vì sao?
Trường cao giọng rằng:
- Vì cha con là tình thâm cốt nhục, còn hai kẻ kia là người dưng nước lã. Cha mà đánh con dã man như người dưng là ác tâm hơn, phải xử tội nặng hơn!
Bẩy giờ Huệ bẻ lại rằng:
- Cảm ơn tiên sinh vui lòng dạy bảo Vậy xin hỏi tiên sinh giặc Minh là người Tàu khác dòng khác giống sang xâm chiếm nước ta, đàn áp bóc lột dân ta ấy là lẽ thường tình. Còn như chúa tôi họ Nguyễn là cha mẹ của dân, sao quan lại thì dinh thự đồ sộ, cổng kín tường cao, ra ngoài thì lên xe xuống ngựa, trong nhà gấm lụa thiếu chi! Còn muôn dân đói cơm rách áo, không tiền nộp thuế phải chịu roi vọt tù đày, kẻ ăn xin đầy rẫy phố phường, người chết đói dọc đường nhan nhản. Xin hỏi tiên sinh ấy chẳng phải là chúa tôi nhà Nguyễn ác tâm hơn lũ giặc Minh xâm lược kia sao? Mà ác tâm hơn thì chẳng phải là đáng tội hơn sao?
Trường bất ngờ bị Huệ bẻ lại chưa biết đối đáp thế nào, Huệ liền nói tiếp:
- Tội đã nặng như thế thì không đáng để đánh đổ hay sao? Anh em ta khởi binh ở Tây Sơn cứu giúp muôn dân đánh đổ bạo tàn, trên thuận ý trời dưới hợp lòng dân sao dám gọi là không sáng ngời chính nghĩa. So với vua Lê Thái Tổ khởi binh ở đất Lam Sơn nào có khác gì? Có khác chăng là xưa nay kẻ sĩ trong thiên hạ nặng óc nhân trung, cho nên ta mới mượn tiếng tôn phò. Tiên sinh là người thức giả ta chẳng giấu làm gì. Nhưng người thức giả thì phải hiểu câu: “Chim khôn chọn cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ”. Nay chúa Nguyễn hôn muội, quan lại tham nhũng bạo tàn, tiên sinh là người trung nghĩa thanh liêm lại quyết một lòng theo chúa Định Vương sao?
Đăng Trường khăng khăng đáp:
- Ta chỉ biết câu: “Tôi trung không thờ hai chúa”, sống làm tôi nhà Nguyễn, chết làm ma nhà Nguyễn, muốn chém giết mặc lòng!
Huệ cười lớn nói:
- Tấc lòng trung hiếu của tiên sinh Huệ tôi rất lấy làm cảm phục. Tiên sinh muốn đi Huệ tôi xin cấp ghe thuyền lương cho tiên sinh vượt biển vào Gia Định theo chúa.
Trường nghi ngờ hỏi:
- Ngươi thả cho ta đi thật ư?
Nghe Trường nói, Huệ lại cười lớn rồi khẳng khái đáp:
- Nếu muốn giết tiên sinh tôi cứ giết ở đây nào có sợ gì. Tiên sinh chớ ngại, Huệ tôi là người quang minh chính đại không dối gạt tiên sinh dâu!
Đoạn Nguyễn Huệ sai quân sắp sẵn một chiếc thuyền lớn và vật dụng lương thực đầy đủ. Đến bến sông Huệ tự tay đỡ Nguyễn mẫu và Đăng Trường lên thuyền hỏi: Tiên sinh đi chuyến này nghĩ rằng mình có thể xoay chuyển lại trời đất lần nữa được sao?
Trường cảm khái đáp:
- Xin cảm ơn tướng quân mở lượng hiếu sinh, tôi rất lấy làm khâm phục kẻ anh hùng, nhưng tôi sống ở đời không thể mang tiếng bất trung Sau này hai người hai chiến tuyến, nếu có dịp tôi nhất định trả ơn.
Huệ lại hỏi:
- Ngộ nhỡ tiên sinh bị tôi bắt lần nữa thì thế nào?
Trường đáp:
- Nguyễn Đăng Trường tôi chỉ có chết mà thôi!
Nói rồi vòng tay bái biệt mà đi, giong buồm ra cửa bể. Trường đi rồi, Nguyễn Thung hỏi Huệ:
- Người vô lễ ngạo mạn thế, sao tướng quân không giết quách cho rồi?
Huệ đáp:
- Giết Trường thì được lợi gì? Thiên hạ ai cũng biết Đăng Trường là người trung hiếu. Ta phải tôn kính Đăng Trường để tỏ lòng chiêu hiền đãi sĩ của ta chứ!
- Nhưng Đăng Trường là người đa mưu túc trí, theo về chúa Nguyễn ắt chống lại quân ta thì lợi ít hại nhiều đó!
Huệ cười rằng:
- Đăng Trường đã đa mưu túc trí như Gia Cát Vũ Hầu chưa? Thế sự bây giờ dù Gia Cát Lượng có sống lại thì đã làm gì được ta nào?
Nói rồi Huệ quay lưng vào thủ phủ. Bỗng có quân đến báo:
- Thưa tướng quân có ba người xưng là huynh đệ đồng môn của tướng quân xin vào ra mắt.
Huệ cho mời vào. Vừa trông thấy họ, Huệ reo lên:
- Đặng Văn Long tứ đệ! Từ ngày ta lên Tây Sơn Thượng dựng cờ khởi nghĩa, anh em ta chia tay đã ba năm sao giờ tứ đệ mới đến?
Đặng Văn Long vòng tay nói:
- Ngày ấy đệ hay tin mẹ bệnh nên không kịp lên Tây Sơn tụ nghĩa. Về nhà chăm sóc mẹ ít lâu, chẳng may mẹ bệnh nặng qua đời, phải ở nhà cư tang cho mẹ ba năm. Nay đã mãn hạn tang vội đến tìm đại sư huynh mong đem chút tài hèn mọn ra cứu dân.
Huệ mời ngồi rồi hỏi Đặng Văn Long:
- Còn hai vị này là ai?
Văn Long đáp:
- Người mặt đen tên là Đặng Xuân Phong. Người mặt đỏ tên Đặng Xuân Bảo cùng với đệ là huynh đệ đồng đường, đều là hào kiệt cả. Xin hỏi đại sư huynh thầy và nhị sư huynh Nguyễn Lữ, tam sư huynh Vũ Văn Dũng đang chinh chiến ở nơi nào?
Huệ đáp:
- Nguyễn Lữ hiện đang trấn giữ ải Cù Mông. Thầy và Vũ Văn Dũng đang cùng đại huynh ta đánh nhau với quân Trịnh ở Quảng Nam…
Huệ chưa dứt lời có quân vào dâng thư. Tiếp thư đọc xong, Huệ nói:
- Quân Trịnh tiếng đánh Quảng Nam, đại huynh lui về Quảng Ngãi, thầy ta lại lâm trọng bênh. Đại huynh triệu ta phải kíp ra ngay!
Văn Long giật mình:
- Thôi chết. Tính mạng thầy ắt phải lâm nguy!
Huệ trách Văn Long:
- Tứ đệ thường ngày xuất ngôn nho nhã, sao nay lại nói năng hồ đồ thế!
Long lo lắng đáp:
- Trên đường đến đây ngang qua chùa Thập Tháp đệ gặp một cao nhân nói lời tiên tri nên bàng hoàng thốt chẳng giữ lời, xin đại huynh lượng thứ!
Huệ vội hỏi:
- Ngươi ấy nói thế nào?
- Người này cốt cách tiên phong, gặp ba anh em đệ liền nói: “Vừa mãn tang mẹ, đến để tang thầy”. Nay đại sư huynh nói thầy bệnh nặng, vừa nghe qua trong lòng thảng thốt...
Huệ trấn an Văn Long:
- Chẳng qua người ấy biết tứ đệ vừa để tang mẹ xong nên buông lời nói ngông đó thôi!
Long lắc đầu:
- Đệ với người này vốn chưa từng quen biết thì sao rõ gia cảnh của đệ được. Người ấy còn hỏi anh em đệ đi đâu? Đệ đáp: tòng quân Tây Sơn đánh giặc. Người ấy bảo: khởi binh Tây Sơn thì nhổ cây Sơn, trận đầu ra quân, trước dân xử tướng, dù là việc nên làm nhưng ấy là điềm gở. Danh là lưu hậu thế, nhưng sự nghiệp khó bền.
Huệ thất sắc bảo:
- Nếu nói vậy thì thầy ta nguy mất! Nay ba anh em tứ đệ hãy ở lại thành phụ tá Nguyễn Thung tiên sinh, trông coi mọi việc ở Quy Nhơn, ta phải lập tức đi ngay.
Nói xong vội vã lên đường.
Đến Quảng Ngãi, Huệ vào ra mắt Văn Hiến. Vũ Văn Dũng đang ở cạnh giường Hiến ôm lấy Huệ khóc rằng:
- Đại sư huynh! Thầy khó lòng qua khỏi!
Hiến cựa mình hỏi:
- Chúa công đâu?
Huệ cầm tay Hiến đáp:
- Thưa thầy đại huynh con đang đi nhắc các tướng canh phòng chiến trận cho cẩn mật.
Hiến bảo Huệ:
- Đại huynh con là người nhân nghĩa, nhưng không phải tài cao, chí lớn. Việc thống nhất sơn hà về sau con nên hết lòng giúp đỡ đại huynh.
Huệ nước mắt ròng ròng nói:
- Xin thầy hãy bình tâm tịnh dường, vì muôn dân con hứa hết lòng!
Huệ vừa nói xong Nhạc về đến. Hiến thều thào hỏi Huệ:
- Tình hình mặt trận phía Nam thế nào?
Huệ kính cẩn đáp:
- Tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp lãnh binh ở ba dinh Long Hồ, Phiên Trấn, Trấn Biên thuộc đất Gia Định cả thảy hai vạn quân tiến ra đánh Bình Thuận. Con đã lệnh cho Nguyễn Lữ và Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân bỏ Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên lui về trấn giữ ải Cù Mông.
Hiến giật mình hỏi lớn:
- Vì sao chưa đánh mà lui?
Huệ vội trấn an:

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 17 Thương vua Lê, Vũ Trần Thiệu bỏ mình gián chúa. Lo xã tắc, Lê Quý Đôn cầu thuốc danh y.
Nói về quân Trịnh sau khi Tây Sơn bỏ đất Quảng Nam lui về giữ Quảng Ngãi, Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào thành Quảng Nam bỏ trống truyền ba quân mở tiệc khao thưởng tướng sĩ. Rượu ngà ngà say, Phúc đắc ý nói:
- Ta vâng chiếu chỉ đem quân đánh một trận là thu phục được đất Thuận Hóa, chiếm lấy Phú Xuân, đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Rồi đối đầu với giặc Tây Sơn, giặc chưa đánh đã bỏ Quảng Nam mà chạy. Oai danh vang dội khắp thiên hạ. Thật từ trước đến nay trong đời làm tướng của ta chưa bao giờ thỏa nguyện như bây giờ. Nay đang là mùa hè nóng bức, gió Nam khô róc, quân ta là người phương Bắc, không quen phong thổ. Ta có nghe tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp từ Gia Định kéo ra chiếm lại đất Phú Yên, đuổi Tây Sơn chạy về Quy Nhơn. Vậy đang khi trái gió trở trời ta án binh bất động dưỡng uy sức nhuệ chờ quân Nguyễn và Tây Sơn đánh nhau, một bên chết, một bên tất bị thương, khi ấy ta chỉ ra một trận oai hùm thì một dải đất Nam Hà kia không thuộc về chúa ta hỏi còn ai vào đây nữa?
Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Bảo, Hoàng Đình Thể, Nguyễn Hữu Chỉnh cùng nâng ly khen:
- Thượng tướng công thật liệu việc như thần.
Cuộc vui chưa tàn bỗng có quân vào báo:
- Thưa thượng tướng công, quân ta bỗng nhiên sinh chứng đau bụng tả lỵ rất nhiều. Xin vào bẩm báo.
Phúc bảo:
- Ấy chẳng qua là do rượu thịt no nê nên tích nhiệt tại nơi trường vị sinh bệnh tả lỵ mà thôi. Truyền quân từ nay về sau không được uống rượu.
Nói xong bảo quân hầu dẹp ngay bàn tiệc của mình để làm gương, rồi thân ra các trại xem xét bịnh trạng quân sĩ.
Mấy hôm sau số binh sĩ bị bệnh càng tăng, Hoàng Ngũ Phúc lấy làm lo lắng, cho mời các tướng vào thương nghị. Bỗng có quân canh vào báo:
- Thượng tướng công, có sứ giả của quân Tây Sơn xin vào yết kiến.
Phúc cho mời vào. Đến nơi, Nguyễn Thung thi lễ nói:
- Thưa tướng quân, tôi là sứ giả của Tây Sơn. Xin ra mắt tướng quân.
Không thèm ngó mặt Nguyễn Thung, Phúc ngoảnh nơi khác bảo:
- Hai bên đang đánh nhau, quân Tây Sơn các ngươi bỏ Quảng Nam mà chạy. Nay Nguyễn Nhạc sai ngươi đến đây để cầu hòa chăng?
Thung nhìn thẳng mặt Phúc đáp lớn:
- Hai đàng binh hùng, tướng mạnh như nhau, muốn tránh cho sanh linh khỏi nạn binh đao mới giảng hòa với nhau. Còn Tây Sơn tôi là những người dân nghèo khổ bởi chúa Nguyễn áp bức mới nổi dậy đấu tranh, đâu dám tự cho mình bằng quý quốc mà nói chuyện giảng hòa!
Phúc quay lại hỏi:
- Vậy Nguyễn Nhạc sai ngươi đến đây để làm gì?
Thung đáp:
- Chủ tướng tôi vốn biết uy danh của tướng quân. Vả lại nghĩ phận mình là con dân trong nước do vua Lê Thái Tổ khởi binh sáng lập. Thêm trong lòng mến phục Tĩnh Đô Vương nên dám đâu chống lại binh trời. Nay chủ tướng tôi sai tôi đến đây có ít lễ vật dâng lên tướng quân gọi là chút lòng thành, nhờ tướng quân tâu cùng chúa Tĩnh Đô Vương xin cho chủ tướng tôi được làm tiên phong đánh Nguyễn. Về sau diệt được nhà Nguyễn non sông đều quy về một mối thì công lớn này không phải của tướng quân sao? Và chủ tướng tôi khi ấy được làm một chức quan nhỏ thì ơn của tướng quân tạc dạ ghi lòng dù chết cũng để bụng mang theo.
Nói rồi gọi người mang lễ vật vào. Ngà voi năm cặp, vàng bạc trăm cân, lụa gấm nghìn thước. Hoàng Ngũ Phúc thấy lễ vật rất nhiều, lại thêm Nguyễn Thung nói lời khiêm tốn dễ nghe, luôn miệng tán dương công đức danh uy của mình, trong lòng rất đẹp. Phúc vui vẻ bảo:
- Được! Ngươi cứ về tâu lại Nguyễn Nhạc, ta sẽ hết lòng dâng sớ xin phong. Nếu chúa Tĩnh Đô Vương thuận ý, ta sẽ sai người đem ấn kiếm vào cho Nguyễn Nhạc lãnh chức tiên phong.
Nguyễn Thung mừng rỡ bái tạ ra về. Nguyễn Hữu Chỉnh bước ra thưa:
- Nguyễn Nhạc tuy là kẻ cùng đinh nổi dậy, nhưng xét việc hắn làm, lúc yếu thế thì mượn tiếng tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Nay trong thì Tống Phước Hiệp đánh ra, ngoài thì quân ta đánh vào nên mới giảng hòa với ta, để rảnh tay đối phó với Tống Phước Hiệp. Người như thế không phải là kẻ tầm thường, xin thượng tướng công hãy khá đề phòng.
Phúc cười nói:
- Điều này ta há chẳng biết sao? Ta cứ tương kế tựu kế chờ cho ngao cò tranh nhau, ta làm ngư ông thủ lợi, đợi thời cơ bắt hết cả hai nào có nhọc sức gì?
Nói rồi liền lấy giấy bút viết thư sai người hỏa tốc mang về Thăng Long thỉnh ý chúa Trịnh Sâm.
*
* *
Lúc ấy ở kinh thành Thăng Long, Trịnh Sâm ngày đêm mê đắm phi tần Đặng Thị Huệ. Thị Huệ sắc đẹp nghiêng thành, tiếng nói thánh thót như tiếng chim hót.
Hôn ấy, trong vườn thượng uyển trên lầu ngũ giác, Trịnh Sâm cùng Đặng Thị Huệ đờn ca xướng họa, chén tạc chén thù. Sâm vòng tay ôm Thị Huệ vào lòng, bỗng Thị Huệ lấy từ trong ngực của Sâm ra một viên ngọc. Thị Huệ nũng nịu hỏi:
- Thưa Chúa thượng đây là ngọc gì vậy?
Sâm vội đỡ lấy tay Thị Huệ đáp:
- Ấy! Đây là viên ngọc Minh Châu ban đêm thường phát ra ánh sáng, ta yêu quý vô cùng lúc nào cũng mang theo trong người. Nàng hãy cầm nhè nhẹ tay.
Thị Huệ rất lấy làm thích, cầm viên ngọc ngắm nghía mãi. Sâm nhắc:
- Nàng hãy nhè nhẹ tay kẻo xước viên ngọc quý của quả nhân.
Thị Huệ vùng quăng ngọc xuống sàn dậm chân khóc rằng:
- Chúa thượng nói yêu thiếp hơn tất cả mọi thứ trên đời. Vậy mà thiếp vừa cầm viên ngọc mới có một tý đã sợ hư ngọc. Hóa ra là chúa quý vật hơn người, thôi thì để thiếp chết đi cho rồi.
Nói xong chạy ra thành lầu toan lao đầu xuống đất. Trịnh Sâm chạy theo níu lại năn nỉ:
- Nàng làm gì mà mau hờn dỗi thế! Chẳng qua ta muốn giữ ngọc cho đẹp để tặng nàng ấy mà.
Nói rồi liền cầm ngọc giao cho Thị Huệ. Thị đổi giận làm vui, kéo Trịnh Sâm vào giường trong ân ái. Thừa lúc Trịnh Sâm đang vui Thị Huệ thủ thỉ:
- Nước ta từ lúc nhà Lê Trung Hưng đến nay, tuy tiếng là họ Lê làm vua, nhưng vua Lê thật là bất tài nhu nhược, việc gì cũng trông cậy vào nhà chúa. Nay ân đức của chúa đã thấm nhuần khắp trong ngoài, sao chúa không lên ngôi Thiên tử cho xứng dáng với công đức của mình, tội gì cứ làm kẻ giữ chùa để cho thiên hạ đem lễ vật vào dâng lên bàn Phật?
Sâm cao hứng nói:
- Lời nàng rất hợp ý ta, nếu sau này ta lên ngôi Thiên tử thì ngôi Chánh cung hoàng hậu nhất định sẽ dành cho nàng đó!
Thị Huệ mừng rỡ lạy tạ. Trịnh Sâm liền về dinh phủ gọi Phạm Ngô Cầu đến bảo:
- Ngày trước ta bức tử Thái tử Lê Duy Vỹ không có ai dám làm. May nhờ có khanh một lòng trung với ta nên mới đem thuốc độc vào ngục ép Thái tử uống. Nay ta có một việc muốn nhờ khanh, chẳng hay khanh có vui lòng chăng?
Ngô Cầu quỳ lạy nói:
- Ngô Cầu này một lòng trung với chúa, việc giết Thái tử còn dám làm thay. Có điều gì xin Chúa thượng cứ xuống lệnh, Ngô Cầu dù chết chẳng từ nan.
Trịnh Sâm mừng rỡ vẫy Ngô Cầu đến gần bảo:
- Ngày mai là đến hạn thiết triều, trước bá quan văn võ khanh hãy nói như vậy... như vậy... nếu việc mà thành thì ngôi tể tướng là của khanh đó.
Cầu mừng rỡ lạy tạ xin vâng.
Hôm sau thiết triều nơi phủ chúa, Sâm hỏi bá quan văn võ:
- Trong nước có việc gì quan trọng, các khanh cứ mạnh dạn tâu trình.
Các quan đều thưa:
- Muôn dân no ấm, bốn phương thiên hạ thái bình không có việc gì lạ cả!
Bỗng Tạo Quận Công Phạm Ngô Cầu đứng lên nói:
- Xin hỏi các quan, muôn dân no ấm, thiên hạ thái bình, bờ cõi lại mở mang về phương Nam chiếm lấy đất Thuận Hóa, kinh thành Phú Xuân của họ Nguyễn, đuổi Định Vương chạy vào Gia Định là nhờ công đức của ai?
Bá quan bất ngờ nghe hỏi, lại thấy Trịnh Sâm lộ vẻ hài lòng, liền đồng thanh đáp:
- Ấy chính là nhờ công đức của Chúa thượng!
Ngô Cầu hăm hở nói tiếp:
- Nay vua Lê ở ngôi ba mươi sáu năm, tuổi đã già, sức đã yếu, mà không có công đức gì cho trăm họ. Mọi việc lớn nhỏ trong nước đều do nơi Chúa thượng của ta, vua Lê chỉ ngồi không mà hưởng lộc, ở trên đời sao lại có việc bất công như thế. Chi bằng chúng ta sẵn dịp đông đủ trăm quan kéo qua điện vua Lê, bảo nhà vua thoái vị nhường ngôi Thiên tử cho chúa thì lẽ cương thường mới gom về một mối. Chứ trong nước đã có vua lại còn có chúa, từ quan đến dân đều theo lệnh chúa thì vua ngồi đó để làm gì? Trăm quan nghe thử lời tôi nói có đúng chăng?
Bây giờ quan trong triều phần đông đều là tay chân của Trịnh Sâm nghe vậy đồng thanh nói:
- Lời Tạo Quận Công rất phải, chúng ta hãy qua điện vua bảo vua Lê thoái vị cho rồi!
Nói xong đồng loạt đứng dậy toan đi. Bỗng có một người bước ra nói lớn:
- Việc ấy không nên!
Mọi người giật mình nhìn lại, hóa ra kẻ vừa nói là quan Thị lang Vũ Trần Thiệu. Ngô Cầu nổi giận mắng Thiệu:
- Ngươi chỉ là một chức quan nhỏ dám kháng lệnh chúa hay sao?
Vũ Trần Thiệu bình thản đáp:
- Chúa chưa xuống lệnh sao gọi là kháng lệnh? Vả lại người xưa có câu: “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Nay thấy họa diệt vong của chúa lẽ nào tôi nhắm mắt làm ngơ.
Trịnh Sâm giận lắm nhưng cố nén hỏi:
- Ngươi nói thử xem họa diệt vong của ta là ở chỗ nào?
Thiệu bình thản đáp:
- Khải Chúa, tuy rằng truất ngôi vua Lê là điều trên thuận ý trời, dưới hợp lòng dân. Nhưng từ xưa đến nay người nước Tàu bao giờ cũng lăm le chờ có cơ hội là sang xâm chiếm nước Nam ta đặt làm quận huyện. Nếu Chúa thượng phế ngôi vua, ngộ nhỡ vua Càn Long nhà Thanh mượn cớ ấy đem quân sang đánh, thì không phải là bá quan đem cái họa diệt vong về cho chúa hay sao?
Sâm đổi giận làm vui hỏi:
- Lời khanh rất đúng! Vậy theo khanh thì phải thế nào?
Thiệu hiến kế:
- Theo ý thần thì ta nên viết một tờ cáo đại ý rằng: Muôn dân ở nước Nam đều mong ngóng nhà chúa được lên ngôi Thiên tử trị vì trăm họ, hoàng tộc nhà Lê không còn ai xứng đáng để làm vua nữa, rồi bá quan đồng ký tên vào tờ cáo ấy. Thần tuy bất tài cũng xin cầm tờ cáo ấy đi sứ sang Tàu trình với vua Càn Long nhà Thanh, xin được phong cho chúa làm An Nam quốc vương, khi ấy ta truất phế vua Lê để Chúa thượng lên ngôi hoàng đế đã muộn màng gì?
Trịnh Sâm nghe xong khen:
- Ý của khanh thật là chu đáo. Nếu việc lớn mà thành thì công của khanh không nhỏ.
Nói rồi liền sai Vũ Trần Thiệu viết tờ cáo, rồi bảo các quan đều ký tên vào. Xong việc, Trịnh Sâm truyền bãi triều. Ra ngoài Phạm Ngô Cầu bảo Vũ Trần Thiệu:
- Lúc nãy ta hiểu lầm ý ông nên buông lời không phải. Thật không ngờ ông trung với chúa chẳng kém gì ta.
Thiệu cười nói:
- Ông không nghe người xưa nói rằng: “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần” hay sao?
Nói rồi liền quay lưng về nhà thu xếp chờ ngày đi sứ sang Tàu.
Vũ Trần Thiệu và đoàn tùy tùng đi rồi, Trịnh Sâm ngày đêm trông ngóng tin vui, mơ ngày lên ngôi Cửu Ngũ.
Ngày kia Trịnh Sâm thiết triều, quân canh vào báo:
- Khải Chúa, sứ đoàn đã trở về xin vào ra mắt.
Sâm mừng khấp khởi bảo:
- Mau mau cho vào!
Sứ đoàn vào đến. Không thấy Vũ Trần Thiệu, Sâm hỏi:
- Vũ Trần Thiệu đâu rồi?
Viên phó sứ sợ hãi quỳ thưa:
- Xin Chúa thượng tha tội!
Sâm gắt:
- Việc thế nào hãy nói mau?
Quan phó sứ vẫn quỳ mọp đáp:
- Khải Chúa! Lúc sứ đoàn đi đến Động Đình Hồ thuộc đất Lưỡng Quảng thì quan Chánh sứ Vũ Trần Thiệu đem tờ cáo đốt đi rồi uống thuốc độc mà chết. Quan chánh sứ để lại một bức thư phong kín cẩn thận, ngoài đề gửi cho Chúa thượng. Hạ thần không biết làm thế nào đành phải quay về. Đây là thư của Vũ Trần Thiệu xin Chúa thượng duyệt lãm.
Trịnh Sâm nghe qua như sét đánh ngang mày tiếp thư đọc, thư đại ý rằng: Ngày trước chúa giết chết Thái tử, nay lại toan làm điều soán nghịch. Trăm quan trong phủ chúa đều là tay chân của chúa, biết bụng chúa mới hòng truất phế nhà vua. Nhưng ngoài trăm họ đều nhớ ơn vua Lê Thái Tổ, Thái Tông. Nếu không như thế thì ngày xưa sao Bình An Vương Trịnh Tùng có thể dứt được nhà Mạc mà lập nên nhà Lê Trung Hưng? Nay chúa hòng giẫm lên bước chân của Mạc Đăng Dung ngày trước, trên cãi ý trời, dưới nghịch lòng dân thần e rằng chúa phải mang tiếng bất nhân và gây họa binh đao làm khổ cho bách gia trăm họ. Hôm ấy sống không thể mở miệng can ngăn, nay thần lấy cái chết để viết lời khuyên giải. Tuy rằng chúa tiếng không phải là vua, nhưng quyền thì đã nghiêng thiên hạ. Đừng quá tham danh trong một lúc, mà để hại cho nước non dân tộc về sau. Dưới tuyền đài khuyên chúa hãy bình tâm suy xét lại.
Sâm đọc xong vò nát thư nắm trong tay, vừa giận vừa thẹn bảo quan phó sứ:
- Truyền cho ngươi lui! Từ nay về sau cấm không ai được nhắc đến việc này nữa.
Quan phó sứ liền lui ra mồ hôi toát đầm đìa!
Xong việc ấy quân canh lại vào báo:
- Khải Chúa! Có thư của Bình Nam thượng tướng từ Quảng Nam gửi về, trình chúa duyệt lãm.
Trịnh Sâm tiếp thư đọc xong nói:
- Thượng tướng Hoàng Ngũ Phúc dâng biểu xin phong cho Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm trấn thủ hai phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi để Nhạc đem quân đánh Nguyễn ở phương Nam. Chờ chúng đánh nhau cho kiệt sức ta sẽ đem quân thôn tính toàn cõi Đàng Trong. Các quan thấy thế nào?
Quan đại học sĩ Lê Quý Đôn bước ra thưa:
- Tâu Chúa thượng, nay nhân lúc Tây Sơn đang ở thế lưỡng đầu thọ địch, chúng phải chia quân ra giữ hai mặt Bắc và Nam, tất lực lượng phải bị phân tán, Chúa thượng nên lệnh cho Hoàng Ngũ Phúc lập tức tấn công tiêu diệt. Nếu ta lầm kế giảng hòa của Nguyễn Nhạc để chúng rảnh tay tập trung lực lượng đánh Nguyễn xong, rồi Nhạc lại đem toàn quân ra Bắc chống nhau với ta thì e rằng ta bỏ lỡ thời cơ hiếm có. Vả lại trong dân gian có truyền câu sấm rằng: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”. Xin Chúa thượng hãy khá đề phòng giặc Tây Sơn.
Trịnh Sâm nói:
- Nhưng trong thư Hoàng Ngũ Phúc tâu rằng, chiếm Quảng Nam xong, gặp lúc mùa hè nóng nực quân ta bị bệnh, dịch tả lỵ rất nhiều không thể ra trận được. Còn những câu sấm kia, ấy chẳng qua là chuyện hoang đường lấy gì cho là thực? Từ trước đến nay các Tiên vương đánh nhau với họ Nguyễn bảy lần đã có lần nào vượt khỏi sông Linh Giang chưa? Nay tướng của ta mới ra oai một trận đã chiếm đất Thuận Hóa thu phục kinh thành Phú Xuân, đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Gặp Tây Sơn chưa đánh, giặc nghe tiếng đã bỏ Quảng Nam mà chạy trốn vào Quảng Ngãi. Nay dang là mùa hè nóng nực cứ để quân ta dưỡng uy sức nhuệ, chờ chúng đánh nhau tay chân sứt mẻ, rồi ta đem quân khỏe đến bắt vào có khó gì? Quân bay đem bút nghiên ra, ta viết chiếu phong quan cho Nguyễn Nhạc.
Lê Quý Đôn quỳ xuống can:
- Xin Chúa thượng hay mau diệt Tây Sơn rồi thống nhất sơn hà!
Sâm bực tức quát rằng:
- Không làm vua được thì cần gì phải thống nhất sơn hà! Ý ta đã quyết, ai còn can ngăn, chém!
Đôn sợ hãi lui ra. Viết chiếu phong quan cho Nguyễn Nhạc, rồi sai người mang trao Hoàng Ngũ Phúc xong, Sâm truyền bãi triều. Ra ngoài phủ chúa Lê Quý Đôn lập tức đến nhà danh y Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Đôn nói với Trác:
- Xin thầy viết cho toa thuốc trị bệnh tả lỵ.
Hữu Trác cười vuốt hàm râu bạc phơ, hỏi Đôn:
- Đại quan ngồi cho tôi xem mạch chẩn đoán định bịnh rồi bốc thuốc về nhà uống, cần gì mà phải viết toa?
Đôn đáp:
- Không phải tôi bị bệnh!
Trác cười nói:
- Nếu người nhà bị tả lỵ, tôi xin bốc thuốc biếu đại quan, đem về không cần phải viết toa.
Đôn suy tư đáp:
- Bệnh tả lỵ này cả hàng mấy ngàn người mắc phải, liệu tủ thuốc của danh y có đủ không?
Trác giật mình hỏi:
- Nếu nói vậy ắt ở địa phương nào bị dịch tả lỵ chăng?
Đôn gật đầu đáp:
- Tướng quân Hoàng Ngũ Phúc đem bốn vạn quân vào đến Quảng Nam thì quân bị dịch tả lỵ nên tôi mới đến xin toa thuốc của danh y, cứu nguy quân ta.
Lê Hữu Trác nhẩm tính:
- Năm nay là năm Ất Mùi thuộc âm kim. Đại trường (ruột già) ứng kim có bệnh. Mùa hè hành hỏa nhiệt thịnh, Tiểu trường (ruột non) ứng hỏa tích nhiệt, gặp phải thấp khí bốc lên ứng vào hành thổ của tỳ vị (dạ dày, lách). Nếu trong năm nay vào mùa hè ở địa phương nào có nhiều thấp khí bốc lên, nhất định là thấp nhiệt tích nơi trường vị mà sinh dịch bệnh tả lỵ triền miên.
Lê Quý Đôn lo lắng hỏi:
- Vậy danh y có thuốc gì chữa khỏi bịnh này chăng?
Hữu Trác đáp:
- Có ba loại cỏ thường mọc khắp nước Nam ta ấy là Lệ trường thảo, Thủy tinh thảo và Mã xĩ thảo. Hái lá tươi giã nhỏ vắt lấy nước mà uống lập tức khỏi ngay. Nhưng theo tôi có hai điều khó, một là từ Thăng Long mang bài thuốc vào đến Quảng Nam có nhanh nhất cũng hết mười ngày, thì số người đang mắc bệnh ắt phải tử vong, hai là nếu nơi ấy ban đêm khí trời nóng bức, ban ngày màu nắng vàng vọt là thấp khí vẫn bốc lên nhiều, thì phải lập tức rời khỏi vùng đất ấy ngay mới mong bảo toàn tánh mạng.
Lê Quý Đôn ngửa mặt than:
- Nếu thế là số trời đã giúp quân Tây Sơn rồi vậy!
Nói xong Đôn vòng tay cáo từ Lê Hữu Trác ra về. Đến nhà Đôn lập tức viết thư sai người thân tín ngày đêm đi gấp vào Quảng Nam trao cho Hoàng Ngũ Phúc.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 18 Lừa Đông cung, Nguyễn Huệ dùng kế nghi bình. Lầm Tây Sơn, Tổng Phước Hiệp thua quân bỏ mạng
Nói về Hoàng Ngũ Phúc đóng quân trong thành Quảng Nam ngày kia nhận được chiếu chỉ của Trịnh Sâm, bèn hội các tướng nói:
- Ta vừa nhận được lệnh chúa phong Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng, trấn thủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi. Vậy ai có thể mang ấn kiếm vào Quy Nhơn? Trước là thừa lệnh chúa phong quan cho Nguyễn Nhạc, sau là dò xét tình hình quân Tây Sơn mạnh yếu thế nào?
Nguyễn Hữu Chỉnh đứng lên nói:
- Tôi xin lãnh mệnh vào Quy Nhơn làm sứ giả!
Phúc cả mừng nói:
- Nguyễn Hữu Chỉnh thông kim bác cổ, ứng đối như lưu, lại có tại dụng binh. Nay tướng quân lãnh trọng trách này, thật ta chẳng lo gì nữa.
Nói xong rót rượu tiễn Nguyễn Hữu Chỉnh.
Hôm ấy Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn nghe quân vào bảo:
- Tâu Chúa công, có sứ giá của chúa Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh đến gọi Chúa công ra tiếp chiếu.
Nhạc cả mừng nói:
- Ngày trước Nguyễn Thung tiên sinh đem lễ vật dâng Hoàng Ngũ Phúc cầu hoà. Nay quân Trịnh lại sai sứ giả đến bảo ta tiếp chiếu ắt lá thuận ý rồi đây!
Nói rồi truyền quân mời sứ giả vào. Chỉnh vào đến thấy Nguyễn Nhạc vẫn ngồi yên trên bệ, hai bên các tướng đứng hầu, liền nói:
- Tôi vâng lệnh chúa đêm chiếu chỉ và ấn kiếm đến đây cho tướng quân thọ chức. Sao tướng quân không quỳ mà lĩnh chiếu?
Nhạc nghiêm mặt hỏi:
- Từ xưa đến nay chỉ nghe nói tiếp chiếu của vua chưa nghe nói tiếp chiếu của chúa bao giờ. Nay nghe ngài bảo là vâng lệnh chúa nên Nhạc tôi còn lưỡng lự chưa biết phải làm sao?
Chính liền đáp:
- Từ thời Lê Trung Hưng đến nay các vua Lê đã giao cho các chúa thay quyền nhiếp chính, điều hành mọi việc trong nước, bất cứ việc gì cũng không phải xin lệnh của vua. Nếu tướng quân không nhận chiếu chỉ của chúa, Chỉnh tôi xin về tâu lại.
Nhạc với bước xuống bệ nói:
- Ấy! Chẳng qua tôi là người nước người nên không hiểu lệ ấy mà thôi. Nếu vua đã trao quyền cho chúa thì chiếu của chúa là chiếu của vua.
Nói rồi liền cũng các tướng quỳ nghe chiếu, Chỉnh đọc:
"Nước Đại Việt niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi sáu. Tĩnh Đô Vương hạ chiếu:
Nay sắc phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng trấn thủ hai phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, lệnh cho Tây Sơn hiệu trưởng đem quân hai phủ tiền đánh giặc Nguyễn ở phương Nam, đem non sông gom về một mối. Tiếp được chiếu này lập tức thi hành chớ phụ lòng mong đợi của quả nhân.
Nay chiếu"
Nhạc nghe xong lậy ba lậy nhận ấn kiếm của Chỉnh trao cho, rồi truyền quân bày yến tiệc. Nhập tiệc Nhạc rót rượu mời Chỉnh. Nhạc nói:
- Nay tôi được sắc phong của Tĩnh Đô Vương và cùng với ngài là bạn đồng liêu, xin mời ngài một chén.
Chỉnh nâng chén uống cạn hỏi:
- Đã nhận sắc phong rồi, vậy hiệu trưởng định bao giờ xuất quân đánh Nguyễn?
Nguyễn Huệ liền đứng lên đỡ lời Nhạc:
- Xin ngài về thưa cùng chúa, đại huynh tôi hẹn trong mười ngày sẽ đánh tan hai vạn quân của Tôn Phước Hiệp chiếm lấy Phú Yên.
Chỉnh thấy Huệ còn rất trẻ mới đắn đo rằng:
- Hay lắm! Những việc quân thắng bại là lẽ thường tướng quân sao đã vội định ngày? Vả lại Tôn Phước Hiệp là một lão tướng của Nguyễn Định Vương, tướng quân đừng nên khinh địch mà chuốc lấy bại vong đó.
Nói rồi vòng tay cáo biệt ra về. Nhạc quở trách Huệ:
- Trước mặt Hữu Chỉnh em đã vội hứa trong mười ngày phá xong địch chiếm Phú Yên. Ngộ nhỡ trong mười ngày mà việc không xong hoá ra ta nói khoác với họ thì còn mặt mũi nào?
Huệ thưa:
- Xin đại huynh chớ lo, trận này em xin lãnh binh phá địch, nếu trong mười ngày không thắng xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
Huệ vừa nói xong bỗng có một người xồng xộc bước vào nói lớn:
- Nguyễn Nhạc sao dám lừa dối ta. Ông hứa đánh Trịnh chiếm lại Phú Xuân tôn phò ta lên ngôi chúa, mà nay đi nhận sắc phong của họ Trịnh là nghĩa làm sao?
Mọi người nhìn lại hoá ra là Đông cung Nguyễn Phúc Dương. Huệ thấy Đông cung Dương đã biết cơ mưu của mình liền đáp rằng:
- Xin Đông cung Thế tử chớ khá hiểu lầm. Đại huynh tôi buộc phải giả hoà với quân Trịnh để là kế hoãn binh, vì không thể đem hết toàn quân r Quảng Nam đánh Trịnh. Bởi ở Phú Yên Tống Phước Hiệp đã đem đại binh hai vạn lăm le đánh chiếm Quy Nhơn, Đông cung Thế tử đã biết chưa?
Nguyễn Phúc Dương đáp:
- Việc nay ta có biết.
Huệ lại nói:
- Giờ xin Thế tử hay viết một bức thư nói rõ ý tôn phò của đại huynh tôi cho Tống Phước Hiệp được biết yêu cầu ông ấy lui bình. Nếu Tống Phước Hiệp cho nghe lệnh Định Vương Nguyễn Phúc Thuần mà không nghe lệnh Thế tử thì quân Tây Sơn ta phải đánh Tống Phước Hiệp trước, sau đó sẽ dốc toàn lực quay sang đánh Trịnh, mới có cơ thu phục được kinh thành đưa Thế tử lên ngôi chúa. Chẳng hay ý Thế tử thế nào?
Nguyễn Phúc Dương còn nhỏ tuổi thật thà, nghe Huệ nói thế tỏ ý ăn năn đáp:
- Ta thật là hồ đồ, chút nữa đã hiểu lầm tấm lòng trung nghĩa của các vị tướng quân. Để ta viết thư cho Tống Phước Hiệp xem thứ ý ông ấy thế nào?
Nguyễn Phúc Dương viết xong, Nhạc bèn sai Nguyễn Thung đem thư sang Phú Yên cho Tống Phước Hiệp.
Nói về Tống Phước Hiệp lúc ấy đã ngoài sáu mươi tuổi, được chúa Định Vương phong làm tổng binh quản dinh Bình Tây đại tướng quân, bèn lấy quân ở ba dinh Long Hồ, Phiên Trấn, Trấn Biên tổng cộng hơn hai vạn dân. Các con là Tống Phước Khương, Tống Phước Lương, Tống Viết Phước, Tống Viết Nghĩa ồ át xua quân ra Bình Thuận. Quân Nguyễn tiến đến đâu quân Tây Sơn chỉ lui mà không đánh.
Chỉ trong vòng hai tháng Tống Phước Hiệp đã chiếm lại ba thành Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên. Chiếm thành Phú Yên, Tống Phước Hiệp đích thân cưỡi ngựa đến ải Cù Mông xem xét. Thấy núi non trùng điệp đá dựng hiểm trở, chỉ có một con đường độc đạo lên đến đỉnh đèo, Hiệp nói với các con:
- Ải Cù Mông hình thế hiểm trở quân Tây Sơn lại đóng ở trên đỉnh đèo có lợi thế từ cao đánh xuống. Dù ta có thiên bình vạn mã cũng không thể nào qua khỏi ải này. Các con hãy chia quân đóng giữ các nó hiểm yếu cho binh sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức rồi ta sẽ tính kế sau.
Người con nhỏ của Hiệp là Tống Viết Nghĩa hỏi:
- Thưa cha ải này không cao và hiểm trở bằng ải Vân Phong (đèo Cả). Ải Vân Phong ta con lấy được dễ dàng thì ải Cù Mông này sao cha lại ngại?
Tống Phước Hiệp vuốt râu cười:
- Ải Vân Phong tuy rằng hiểm trở nhưng giặc Tây Sơn chỉ lui mà không đánh nên ta mới chiếm được dễ dàng. Còn ải Cù Mông này con hãy nhìn xem trên sườn núi dọc theo đường đèo lều trại san sát, mỗi một khúc quanh đá đều gom thành đống, chứng tỏ chúng phong bị rất kỹ càng, không thể nào đánh được.
Nói xong liền quay ngựa về doanh trại. Vừa đến nơi có quân canh vào bảo:
- Thưa đại tướng quân, có sứ giả quân Tây Sơn xin vào yết kiến.
Phước Hiệp cho vào. Đến trước án, Nguyễn Thung thi lễ nói:
- Tôi là sứ giả của Tây Sơn xin được ra mắt tướng quán.
Hiệp vênh mặt hỏi:
- Tây Sơn các người đánh nhau với ta thua quá bỏ luôn ba dinh Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên mà chạy về Quy Nhơn. Nay cùng đường Nguyễn Nhạc sai ngươi đến cầu hoà phải chăng?
Thung ung dung đáp:
- Chủ tướng tôi bỏ ba dinh lui về Quy Nhơn không phải vì thua quân, mà vì chủ tướng tôi với tướng quân đều là tôi trong một nước nên không muốn chém giết lẫn nhau do thôi!
Hiệp vỗ bàn quát:
- Láo xược! Nguyễn Nhạc khởi loạn ở Tây Sơn kéo ra đánh Quảng Nam đuổi chúa ta chạy vào Gia Định sao dám bảo ta với hắn là tôi trong một nước? Nhà ngươi nói không ra lẽ, ta giết chết không tha.
Không chút sợ hãi, Thùng đáp rằng:
- Chủ tướng tôi khởi binh ở Tây Sơn đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan chuyên quyền làm lắm điều tàn bạo, tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương vốn dòng chính thống bị Phúc Loan truất phế. Nay Đông cung sai chủ tướng tôi đem quân Bắc tiến thu phục kinh thành Phú Xuân về chỗ chúa Nguyễn. Ấy chẳng phải chủ tướng tôi là tôi của chúa Nguyễn rồi ư?
Hiệp suy nghĩ giây lát rồi bảo:
- Điều ngươi vừa nói nghe ra hợp lý, nhưng việc Nguyễn Nhạc tôn phò Đông cung lấy gì để làm bằng?
Thùng lấy thư trong ngực ra dâng Phước Hiệp rồi nói:
- Đây là thư của Đông cung gửi cho tướng quân. Xin tướng quân xem lấy làm bằng.
Tống Phước Hiệp tiếp thư đọc xong nói:
- Trong thư Đông cung bảo ta phải lui binh, để Nguyễn Nhạc tin tưởng dồn toàn lực ra Quảng Ngãi đánh Trịnh. Nhưng nếu ta lui binh thì các người thừa cơ chiếm lại Phú Yên thì làm sao?
Thùng ngạc nhiên hỏi:
- Trong thư có dấu ấn của Đông cung, tướng quân vẫn chưa tin ư?
Hiệp vuốt râu cười đáp:
- Ngộ nhỡ các ngươi dùng vũ lực ép Thế tử viết thư để lừa ta, bảo ta tin sao được? Nếu thật lòng người về thưa cùng Đông cung, chờ ta sai người ra Quy Nhơn diện kiến, nếu đúng là ý của Đông cung ta lập tức lui binh.
Nguyễn Thung cáo biệt ra về. Ngày sứ giả của Tống Phước Hiệp đến, Nguyễn Nhạc, mời Nguyễn Phúc Đường ngồi giữa, Nhạc và các tướng đứng hầu hai bên, rồi truyền cho sứ giả vào. Sứ giả vào đến trông thấy Nguyễn Đường liền sụp lậy tung hô:
- Kính chúc Thế tử sức khoẻ an khang!
Nguyễn Phúc Đường ân cần nói:
- Tống Phước Hiệp không tin thư ấy là của ta, nên mới sai người đến xem hư thực thế nào có phải vậy chăng?
Sứ giả đáp:
- Đúng là như vậy, dám hỏi Thế tử sự thể thế nào?
Nguyễn Phúc Dương bảo:
- Tống tướng quân cẩn thận vậy là đúng! Ngươi hãy về thưa cùng Tống tướng quân đem đại binh quay về Gia Định truất phế Định Vương Nguyễn Phúc Thuần thì ta mới yên tâm đem toàn quân ra Quảng Nam đánh Trịnh. Có như thế sau khi đuổi Trịnh ra khỏi sông Linh Giang, thu phục kinh thành Phú Xuân, tất cơ đồ nguyên vẹn như xưa, nghĩa cương thường gom về một mối, thì công của Tống tướng quân rất lớn. Ta đã viết sẵn một phong thư, ngươi hãy kíp mang về tâu lại cùng Tống tướng quân.
Sứ giả vâng lệnh quay về dâng thư của Phúc Đường cho Tống Phước Hiệp. Hiệp xem thư xong cười rằng:
- Đông cung tuổi còn nhỏ chưa trải việc đời, nên mới bị Nhạc dối gạt. Ta chưa có kế gì đánh chúng thì chúng tự đem thân nộp mạng cho ta.
Mấy người con Tống Phước Hiệp cũng thưa:
- Cha nói vậy là nghĩa gì, chúng con không hiểu?
Hiệp đáp:
- Ta đã sai người dò xét tình hình quân địch. Chờ cho thám mã về bảo, các con khắc rõ.
Vừa nói xong quân thám mã về bảo:
- Thưa đại tướng quân, giặc Tây Sơn đang chưa bị bịnh mà định ngày tiến đánh quân ta.
Hiệp vuốt râu bảo:
- Đúng như điều ta dự đoán, Nguyễn Nhạc mượn tiếng tôn phò Đông cung, giả danh đánh Trịnh để ta không đề phòng rồi bất ngờ tiến đánh. Chúng tưởng ta cũng khờ khạo như Đông cung sao?
Nói xong cười lớn. Tống Viết Nghĩa hỏi:
- Thưa cha vậy ta nên liệu tính thế nào?
Hiệp đáp:
- Ta tương kế tự kế đánh cho chúng một trái không còn manh giáp.
Nói rồi liền viết thư sai một tên quân đem sang ải Cù Mông báo cho quân Tây Sơn hẹn trong năm ngày sẽ rút quân về. Hiệp bảo Tống Viết Nghĩa rằng:
- Tống Viết Nghĩa và Tống Viết Phước hai con lãnh một vạn tinh binh ra phía Bắc thành mai phục quân Tây Sơn từ ải Cù Mông tiến vào thì cứ để cho chung đi qua, đợi khi nào quân ta mở cổng thành giao chiến, hai con lập tức đánh vào sau lưng giặc.
Tống Viết Phước và Tống Viết Nghĩa lãnh lệnh lui ra. Tống Phước Hiệp xuống lệnh:
- Tống Phước Khương lãnh năm ngàn quân ra canh phòng ở cửa bể đề phòng chúng đánh ta bằng thuỷ binh. Tống Phước Lương ngày đêm cho quân canh phòng cẩn mật ở mặt Bắc thành, chúng chỉ có thể đánh ta bằng hai con đường ấy mà thôi.
Nói về Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn nhận được thư của Tống Phước Hiệp mở ra xem nói:
- Tống Phước Hiệp hẹn trong năm ngày sẽ kéo quân về Gia Định truất phế Định Vương Nguyễn Phúc Thuần. Vậy nhân lúc chúng không đề phòng ta bt ngờ tiến đánh ắt là toàn thắng.
Nguyễn Huệ can rằng:
- Xin đại huynh hay khoan. Nếu ta đem quân qua ải Cù Mông theo đường đại ộ đánh Phú Yên nhất định sẽ gặp quân mai phục của Tống Phước Hiệp.
Huệ vừa dứt lời quân thám mã về báo:
- Tâu Chúa công, Tống Phước Hiệp sai con là Tống Viết Nghĩa đem một vạn quân mai phục ở phí Bắc thành Phú Yên chờ quân ta đến thì đổ ra đánh. Tống Phước Khương đêm năm ngàn quân canh phòng mặt bể.
Nghe xong Nhạc giật mình hỏi Huệ:
- Sao em biết rằng Tống Phước Hiệp nhất định cho quân mai phục?
Huệ đáp:
- Tống Phước Hiệp là một lão tướng đa mưu túc trí. Hắn biết ta giả hoà để bất ngờ tiến đánh, nên tương kế tựu kế cho quân mai phục chờ ta tiến đánh rồi hai mặt giáp công.
Lý Tài bước ra cười hỏi:
- Nếu tướng quân đã biết thế thì sao còn giả kế giảng hoà, để quân Nguyễn càng cẩn mật đề phòng thì quân ta càng khó bề thủ thắng?
Huệ cũng cười bảo:
- Nhưng Tống Phước Hiệp chỉ đề phòng phía trước mặt mà không che chắn ở sau lưng. Tôi làm thế để chia quân của địch ra mai phục ở mặt Bắc ta thừa cơ đem binh tiến đánh phía sau lưng.
Nhạc ngạc nhiên hỏi:
- Em làm cách nào mà đánh được ở sau lưng quân Nguyễn?
- Thưa đại huynh, ở phía Nam thành Quy Nhơn có một con đường núi của các bộ tộc người Thượng thông thương với nhau. Con đường này đi vòng qua phía tây ải Cù Mông vào đến thành Phú Yên. Nay ta bí mật theo đường này đánh lấy Phú Yên, chặn đường rút của một vạn quân Tống Viết Nghĩa mai phục. Khi ấy không những ta chiếm được Phú Yên mà con tiêu diệt được hai vạn quân Nguyễn đang uy hiếp ta ở mặt Nam. Ấy là kế giương Đông kích Tây, xin đại huynh xuống lệnh xuất quân.
Lý Tài cười hỏi:
- Nếu là giương Đông kịch Tay, thì ta làm kế ngh bình ở ải Cù Mông, rồi theo đường này mà đánh việc gì phải cho Đông cung làm kế giải hoà?
Huệ ung dung đáp:
- Lúc Tống Phước Hiệp đánh lấy Bình Thuận Diên Khánh, Phú Yên của ta, hắn cho thuỷ binh làm kế nghi binh nói phao rằng sẽ đem thuỷ binh đánh vào các cửa bể, khiến ta sợ quân mình lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch nên phải lui quân về giữ ải Cù Mông bỏ ba dinh cho quân Nguyễn, chứng tỏ Tống Phước Hiệp không phải là kẻ vô mưu. Nếu chỉ dùng kế kế nghi binh thường tình như Lý tướng quân nói sao lừa được Tống Phước Hiệp.
Lý Tài lại cãi:
- Nếu chỉ dùng kế nghi binh như tôi vừa nói, mà hắn không biết có con đường núi kia thì ắt chẳng đề phòng. Còn bây giờ dù có cho Đông cung Thế tử là kẻ giả hoà mà hắn biết có con đường núi ấy tất hắn lại càng đề phòng hơn nữa!
Nguyễn Huệ cười lớn đáp:
- Ta làm kế giả hoà để cho hắn đề phòng. Nay hắn đem một vạn quân mai phục ở mặt Bắc, để năm ngàn quân phòng thủ ở mặt Đông, trong thành còn lại năm ngàn quân. Chứng tỏ hắn không biết rằng ở phía Tây có con đường núi bí mật này. Ấy chẳng phải là biết người biết ta trăm trận trăm thắng đó sao?
Lý Tài nghe xong không còn bắt bẻ vào đâu nữa. Nguyễn Thung bước ra nói:
- Mưu của Nguyễn Huệ thật là diệu kế thập toàn. Xin Chúa công cho Nguyễn Huệ điều binh khiển tướng đánh trận này mới mong đập tan lực lượng của địch quân.
Nguyễn Nhạc y lời nói:
- Nay có đông đủ các tướng, ta phong Nguyễn Huệ làm chánh tướng điều binh khiển tướng. Có ai không phục chăng?
Các tướng vui vẻ đồng thanh nói:
- Chúng tôi đều phục!
Chỉ có Lý Tài là chẳng nói gì. Nguyễn Huệ dõng dạc bước lên nhận gươm lệnh của Nhạc trao cho rồi quay lại lấy trong mình một phong thư gọi tên quân đến bảo:
- Ngươi lập tức đến ải Cù Mông trao cho Nguyễn Lữ, Cứ y như trong thư ta dặn mà làm.
Tên quân lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại truyền:
- Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đem hai mươi thớt voi kéo theo một trăm khẩu đại bác cùng năm trăm quân hoả hổ đi trước mở đường, ta sẽ đem đại binh tiếp ứng. Trận này nếu không tiêu diệt được hai vạn quân Nguyễn thề không về gặp mà Chúa công!
Nói rồi hạ lệnh xuất quân. Năm ngàn quân Tây Sơn ngựa cất lạt người ngậm tăm, lặng lẽ theo đường núi tiến vào Phú Yên. Nguyễn Huệ chờ đến nửa đêm cho quân áp sát thành, quân Nguyễn vẫn không hề hay biết. Bố trận xong, Huệ hạ lệnh tiến quân. Quân Tây Sơn đặt đai bác nhằm cổng thành mà bắn. Cổng thành vỡ, Huệ cho bộ binh tràn vào tung hoả hổ đốt phá trại địch trong thành. Tống Phước Lương đang chia quân canh phòng cổng Bắc, bổng nghe phía Tây thành đại bác nổ ầm ầm, rồi thì lửa cháy rực trời, quân hò reo vang dậy, trống trận dậy dồn. Lương thất kinh hồn vía chạy vào thủ phủ tìm cha. Đến nơi thấy Tống Phước Hiệp vừa mặc giáp xong đang cầm thương lên ngựa. Hiệp lo âu hỏi:
- Giặc từ đâu đánh thẻ?
Lương hớt hải đáp:
- Phía Bắc thành không nghe động tĩnh. Con vừa nghe súng nổ ở phía Tây thành vội chạy đến tìm cha ngay.
Hiệp liền bảo:
- Màu về phía ấy xem sao!
Nói rồi ra roi thúc ngựa về phía Tây thành. Đến nơi thấy quân Tây Sơn đã tràn vào như thác lũ, còn quân mình bàng hoàng vừa tỉnh cơn mê, không biết đường nào chống đỡ hỗn loạn mà chạy, bị quân Tây Sơn chém giết rất nhiều.
Cha con Tống Phước Hiệp liệu bề không chống lại bên quay ngựa nhắm cổng Nam thành mà chạy. Nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân đầu vấn khăn lụa, mình mặc áo bà ba, ngồi trên lưng voi một ngà trông thấy hét lớn:
- Tống Phước Hiệp chạy đâu cho thoát!
Hét xong giương cung lắp tên bắn một phát trúng tay trái Tống Phước Hiệp. Hiệp nghiến răng nhổ tên, nằm mọp trên lưng ngựa quất ngựa chạy dài. Trần Quang Diệu thúc ngựa xua quân đuổi theo. Hai tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Khoa Kiên khua đao rượt đánh Trần Quang Diệu cho Tống Phước Lương phò tá Hiệp chạy trước. Hiền và Kiên bị Trần Quang Diệu vung đại đao chém trong một lúc, đầu Hiền và Kiên cũng rơi xuống đất. Ra khỏi thành chỉ chừng chừng trăm tên quân chạy theo cha con Tống Phước Hiệp. Chạy về gần đến ải Vân Phong bỗng thấy một đạo quân từ trong đường hẻm kéo ra, Tống Phước Lương giật mình nhìn lại, thì ra anh mình là Tống Phước Khương. Khương chạy đến ôm Hiệp khóc, quỳ tạ tội rằng:
- Cha bị nguy con không cứu kịp, đến nơi cha bị trọng thương, tội con đáng chết!
Nói rồi hai anh em đỡ cha xuống ngựa nằm nghỉ dưới gốc cây bên vệ đường. Hiệp hỏi Khương:
- Sao con về được đến đây?
Khương đáp:
- Con thấy lửa cháy ngút trời lại nghe súng nổ ầm ầm ở thành Phú Yên, biết có biến vội kéo quân về tiếp viện. Mới đến nửa đường gặp tàn quân của ta chạy đến nơi: Cha đã bỏ thành chạy về ải Vân Phong nên con bèn đi đường tắt đến đây.
- Chẳng hay Việt Phúc và Việt Nghĩa đâu không thấy?
Lương đỡ lời cha đáp:
- Thưa đại ca, hai em ta đã đem một vạn quân mai phục ở phía Bắc thành. Nay quân Tây Sơn đã chiếm mất thành, tất hai em ta không còn đường lui, nếu giặc từ ải Cù Mông đánh ra e rằng hai em ta nguy mất!
Tống Phước Khương liền nói với Tống Phước Lương:
- Nhị đệ mau dìu cha về cố thủ ải Vân Phong, để ta đem năm ngàn quân đánh cứu hai em.
Tống Phước Hiệp lúc ấy tuổi đã già lại bị thương máu ra nhiều sức đã kiệt, gắng gượng hỏi:
- Tướng Tây Sơn điều khiển đánh trận này là ai?
Khương đáp:
- Thưa cha, nghe nói là Nguyễn Huệ em và Nguyễn Nhạc mời vừa hai mươi mốt tuổi.
Hiệp nghe xong bảo:
- Hai con hãy mau cho vài mươi người thân tín ở đường bể lẻn ra Quy Nhơn phao tin lên rằng quân Trịnh sắp đem quân vào đánh Quảng Ngãi. Nguyễn Nhạc tất gọi Nguyễn Huệ đem quân về đề phòng mặt Bắc.
Tống Phước Khương y lời gọi quân đến dặn dò. Quân đi xong, Khương nói:
- Xin cha cho con đem quân giải cứu hai em!
Hiệp bảo:
- Sau khi cha chết đi hai con lập tức đem tàn quân về giữ ải Vân Phong, không được liều lĩnh đánh nhau cùng Nguyễn Huệ. Các con không phải là đối thủ của nó. Con hai em con sống chết đánh phó thác cho trời không còn cách nào khác đâu!
Nói rồi Hiệp than:
- Ta đã hơn ba mươi năm làm tướng, nay đã quá tuổi lục tuần mà phải thua mưu của một thằng con nít miệng con hơi sữa, để đến nỗi bị một đứa con gái đuổi theo bắn trọng thương. Nhục nhã thay!
Than xong lại khóc:
- Hai con đi! Biết hai con đang nguy khốn mà đành bó tay không cứu được, lòng cha đau xót lắm thay!
Nói rồi vừa đau thường vừa uất ức, Tống Phước Hiệp thổ huyết mà chết.
Tống Phước Khương, Tống Phước Lương khóc rống một hồi, rồi đưa thi hài Tống Phước Hiệp và lui quân về ải Văn Phong.
Trong đêm Nguyễn Huệ đem quân theo đường núi chuẩn bị đánh thành Phú Yên, thì Tống Viết Nghĩa và Tống Viết Phước mai phục ở phía Bắc thành, bỗng thấy quân Tây Sơn ở trên ải Cù Mông đánh trống dập dồn, đốt đuốc sáng rực. Tống Viết Nghĩa nói với Tống Viết Phước:
- Cha của ta thật là thần cơ diệu toán, quân Tây Sơn quả nhiên trúng kế...
Nói chưa dứt lại bỗng nghe ở phía thành Phú Yên súng nổ ầm ấm chuyển đất. Ngoảnh lại nhìn thấy lửa cháy sáng rực mây trời. Tống Viết Phước la lên:
- Nguy rồi, ta đã trúng kế giương đông kích tây của giặc rồi. Anh em ta mau kéo binh về cứu cha.
Việt Nghĩa nói:
- Em đem năm ngàn quân đi trước, anh đem năm ngàn quân đi sau đoạn hậu đề phòng giặc ở Cù Mông đánh ra.
Nói rồi liền quay ngựa hối hả dặn quân quay lại thành Phú Yên. Trời vừa hửng sáng, Việt Nghĩa đến nơi thì cửa thành đã mở toang, trong thành một đạo quân áo đỏ xông ra, đi đâu là ba viên dũng tướng, một viên tướng tuổi còn rất trẻ diện mạo khôi ngô quát lớn:
- Có ta là Tây Sơn đại tướng Đặng Văn Long ở đây, sao các ngươi con chưa xuống ngay quỳ hàng?
Tống Viết Nghĩa thất kinh than:
- Thành đã mất về tay giặc rồi. Chẳng biết cha và anh ta sống chết ra sao! Chúng đánh bằng cách nào mà nhanh thế!
Nói xong liều chết vung đao hò quân giáp chiến. Đặng Văn Long lướt ngựa khua kích rượt đánh. Quân Tây Sơn càng đánh càng hăng. Quân Nguyễn lòng đã hoang mang không còn tinh thần chiến đấu bị Tây Sơn giết chết vô số. Tống Viết Nghĩa đánh được mươi hiệp bị Đặng Văn Long vung kích chém chết. Quân Nguyễn vỡ tan bỏ chạy, tiếng khóc la vang trời dậy đất. Đặng Xuân Bảo và Đặng Xuân Phong thừa thắng xua quân đuổi theo. Văn Long ngăn lại nói:
- Hai em đừng nên truy sát làm chi, để chúng chạy ra sẽ gặp nhị sư huynh Nguyễn Lữ từ Cù Mông kéo đến. Chúng cùng đường ắt phải xin hàng.
Nói rồi lệnh cho quân, địch chạy đến đầu đuổi theo đến đấy không được giết hại.
Nhắc lại tướng Nguyễn là Tống Viết Phước đi sau đoạn hậu, bỗng thấy tiền quân mình rối loạn, có tên quân đến bảo:
- Thưa tướng quân, tướng quân Tống Viết Nghĩa đã tử trận. Hiện giặc đang đuổi theo truy sát.
Phước thất kinh hồn vía bảo quân sĩ:
- Phía Bắc có một vùng núi non hiểm trở mà chạy đến đấy mau!
Phước dẫn quân chạy đến chân núi đã thấy quân Tây Sơn chặn đường. Tướng Tây Sơn là Nguyễn Lữ thét to:
- Các ngươi không còn đường thoát thân, sao ngoan cố chưa chịu quy hàng.
Tống Viết Phước hét lên rằng:
- Ta dù bại binh cũng quyết sống mái một trận đời nào lại đi hàng lũ giặc các ngươi.
Phan Văn Lân đang ở sau lưng Nguyễn Lữ nghe Phước gọi quân mình là giặc nổi giận vung thương thúc ngựa xông ra đánh nhau với Tống Viết Phước. Đánh mới vài hiệp Tống viết Phước vã mồ hôi hột. Thêm mặt Nam Đặng Văn Long đem quân đuổi đến dồn quân Nguyễn vào giữa vòng vậy. Trong cơn nguy khốn bỗng thấy từ trong núi một đạo binh trương cờ đề bốn chữ "Lương Sơn tá quốc", cầm đầu là bốn viên dũng tướng hùng hổ đánh vào sau lưng quân Tây Sơn. Vòng vây được mở, Tống Viết Phước liền thúc ngựa chạy về phía ấy. Phan Văn Lân thúc ngựa đuổi theo. Một viên tướng trong đạo quân Lương Sơn xông ra hét lớn:
- Giặc Tây Sơn kia chớ giết hại binh triều, có ta là Châu Đoan Hãn đến đây!
Hét xong hắn vung đao đón đánh Phan Văn Lân. Nhờ vậy Tống Viết Phước và vài trăm quân chạy thoát được về phía quân Lương Sơn. Châu Văn Tiếp bảo:
- Phạm Văn Sĩ mau đưa Tống tướng quân lui về doanh trại, anh em ta ở lại chặn đánh giặc Tây Sơn.
Nói vừa dứt lời ngoảnh lại đã thấy Châu Đoan Hãn bị Phan Văn Lân đâm một thương ngã nhào xuống ngựa. Châu Văn Tiếp hét lên một tiếng cùng em là Châu Đoan Chân lướt ngựa đến vây đánh Văn Lân. Nguyễn Lữ trông thấy liền sai Ngô Văn Sở vác đại đao xông ra trợ chiến. Quân Tây Sơn ồ ạt tiến lên. Châu Văn Tiếp liệu bề không chống nổi đành rút quân về sào huyệt trong núi Trà Lang. Quân Tây Sơn toàn thắng bắt được hàng binh và vũ khí rất nhiều. Đến rạng sáng hôm ấy, toàn phủ Phú Yên đều thuộc về Tây Sơn cả.
Nguyễn Huệ chiếm được Phú Yên bèn hạ lệnh chiêu an bá tánh kêu gọi quân Nguyễn còn đang lần trốn ra đầu thú, cho quân nghỉ ngơi kiểm điểm binh mà định ngày tiến đánh ải Vân Phong

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 19 Cái số trời, Hoàng Ngũ Phúc mạng vong. Khuyên xuất quân, Nguyễn Huệ giá bệnh.
Ngày ấy Nguyễn Nhạc ở thành Quy Nhơn nghe quân về báo:
- Tâu Chúa công, tướng quân Nguyễn Huệ trong một đêm đã chiếm xong toàn phủ Phú Yên.
Nguyễn Nhạc thở dài buột miệng nói:
- Nguyễn Huệ thật là tài năng xuất chúng, ta không thể nào sánh kịp!
Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
- Nay ta đã phá được thế lưỡng đầu thọ địch của họ nhà Trịnh, Nguyễn, ấy là nhờ tài thao lược của Nguyễn Huệ. Chúa công nên vui mới phải sao lại thở dài?
Nguyễn Nhạc giật mình cười đáp:
- Ta thở dài bởi thương Huệ phải vì ta mà xông pha nơi hòn tên mũi đạn. Vả lại Huệ đem quân đánh Phú Yên, ngộ nhỡ quân Trịnh thừa cơ đánh Quảng Ngãi e rằng Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú ít quân không địch nổi thì sao!
Vừa nói xong có quân vào báo:
- Tâu Chúa công, có tin đồn rằng quân Trịnh nay mai sẽ tiến vào đánh Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Dân chúng trong thành ngoài phủ bàn tán xôn xao.
Nguyễn Thung nghe xong nói:
- Tống Phước Hiệp mới bại binh, hai vạn quân tan vỡ, quân Nguyễn sợ ta thừa thăng đánh thẳng vào Nam, nên mới bày kế này để ta triệu hồi Nguyễn Huệ đem quân về phòng thủ mặt Bắc để giải nguy cho chúng mà thôi. Xin Chúa công chớ vội tin.
Nhạc nghiêm mặt hỏi:
- Nếu ngộ nhỡ quân Trịnh thất tín đem quân đánh thật thì ông liệu thế nào?
Thung không biết nói sao đánh nín thỉnh. Nhạc liền sai người vào Phú Yên gọi Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn. Huệ để Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lãnh hai ngàn quân ở lại giữ Phú yên. Lúc sắp kéo quân về Văn Sở hỏi:
- Tướng quân cấp hai ngàn quân giao trọng trách cho chúng tôi giữ Phú Yên. Nếu quân Nguyễn từ Gia Định kéo đại binh ra đánh thì làm thế nào?
Huệ đáp:
- Quân Nguyễn sợ ta tiến đánh nên mới lập kế phao tin rằng quân Trịnh sắp sửa tiến đánh Quảng Ngãi. Đại huynh ta lầm kế của giặc nên mới triệu ta về. Năm ngàn quân của Tống Phước Khương ở ải Vân Phong còn chưa hoàn hồn. Tướng chúng dù muốn đánh, quân chỉ hòng chực chạy, binh như thế thì có đánh được ai? Còn quân của chúng ở Gia Định, ta sẽ đánh chúng trước khi chúng kịp chỉnh đốn binh mã. Các em không phải lo.
Ngô Văn Sở nghi ngờ hỏi:
- Tướng quân đánh địch ở Gia đình bằng cách nào?
Huệ cười đáp:
- Việc quân cơ không thể lộ. Nếu các em còn lo lắng, thì khi nào quân Nguyễn kéo đến các em hay bỏ Phú Yên về Quy Nhơn, ta xin chịu tội trước đại huynh.
Ngô Văn Sở nói:
- Nếu vậy chúng tôi an lòng trấn thủ Phú Yên.
Phan Văn Lân xen vào hỏi:
- Sao tướng quân không sai người về Quy Nhơn nói rõ kế của quân Nguyễn rồi thừa thắng đánh thẳng vào Nam, việc gì phải kéo đại quân về?
Huệ lắc đầu bảo:
- Chỉ có một người có thể nói được với đại huynh ta. Nay người ấy không còn, dù có nói cách nào đại huynh cũng chẳng nghe, lại còn cho ta là kháng lệnh thì nguy.
Lân hỏi:
- Dám hỏi tướng quân người nói cho Chúa công nghe được là ai?
Huệ đáp:
- Người ấy là thầy ta, Quân sư Trương Văn Hiến!
Nói rồi Nguyễn Huệ đem ba ngàn quân rút về Quy Nhơn. Đến Quy Nhơn, Huệ ra mắt Nguyễn Nhạc, hỏi:
- Quân ta đang thắng sao đại huynh lại triệu hồi em về?
Nhạc vô vai Huệ thân mặt nói:
- Ta nghe dân chúng đồn rằng quân Trịnh sẽ đem quân vào đánh Quảng Ngãi, Quy Nhơn, nên mới gọi em về phòng khi hữu sự
Huệ nắm tay anh thân mật bảo rằng:
- Lúc trước Trịnh Sâm phong đại huynh làm Tây Sơn hiệu trưởng bảo ta đánh quân Nguyễn. Nay đại huynh nên sai người sang Trịnh báo tin thắng trận rồi dò la động tĩnh thế nào?
Nhạc khen phải và viết thư sai Nguyễn Thung đi sứ sang Trịnh.
Nguyễn Thung sang đất Quảng Nam yết kiến Hoàng Ngũ Phúc nói:
- Thưa đại tướng quân, Nguyễn hiệu trưởng đánh tan hai vạn quân chúa Nguyễn ở Phú Yên, sai tờ dâng thư báo tiệp cũng đại tướng quân.
Phúc tiếp thu xem xong vui vẻ nói:
- Hay lắm! Ta vâng lệnh Tĩnh Đô Vương kéo quân vào đây cốt là đánh Nguyễn. Nay hiệu trưởng đã đánh được chúng, ta kéo quân về trấn thủ Thuận Hoá, phong Nguyễn hiệu trưởng làm đại trấn thủ ba dinh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
Nguyễn Thung mừng rỡ tạ ơn. Nguyễn Hữu Chỉnh nói đùa rằng:
- Hôm ấy Nguyễn Huệ hẹn trong mười hôm sẽ phá được Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay đã trễ hẹn một ngày lại không có lời xin lỗi với ta sao?
Nguyễn Thung nửa đùa nửa thật đáp lại:
- Tướng quân Nguyễn Huệ đánh tan hai vạn quân Tống Phước Hiệp chiếm đất Phú Yên chí trong ba ngày, một ngày từ Phú Yên về Quy Nhơn báo tiệp, ba ngày tới từ Quy Nhơn đến Quảng Nam, tướng quân tính xem có đúng không nào?
Nói rồi cáo biệt ra về. Nguyễn Thung đi xong, Chỉnh hỏi Phúc:
- Nguyễn Nhạc ngoài mặt hoà ta đánh Nguyễn nhưng trong lòng vẫn muốn làm vua một cõi, sao thượng tướng quân bỏ đất Quảng Nam cho hắn?
Phúc vuốt râu cười bảo:
- Quân ta hiện đang bị bệnh dịch tả lỵ chết mà mấy ngàn người, số còn lại đều gầy còm suy nhược. Vả lại ta vừa nhận được thư của quan đại học sĩ Lê Quý Đôn, cho toa thuốc của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, ông ấy khuyên ta nên rút quân khỏi vùng đất bị địch tả lỵ. Nhất cứ lưỡng tiện ta mà giao đất Quảng Nam cho Tây Sơn để ban ơn cho Nguyễn Nhạc.
Nói rồi liền sai quân tìm ba vị thuốc là Thuỷ tinh thảo, Lệ trường thảo và Mã sĩ thảo cho quân sĩ uống. Quân uống vào nội nhật hôm ấy liền cầm chứng tả lỵ ngay. Quân sĩ trầm trồ khen:
- Hay quá thuốc tiên! Hai Thượng Lãn Ông thật là thần y xưa nay hiếm có.
(Từ ấy về sau thiên hạ truyền nhau bài thuốc này để chữa bệnh tả lỵ, đi người ra máu mủ rất là thần hiệu, bằng ba loại cỏ mộc khắp nước Nam: Thuỷ tinh thảo là cỏ sữa, Lệ trường thảo là có mực, Mã sĩ thảo là rau sam).
Hoàng Ngũ Phúc thấy quân mình bớt bệnh liền hỏi các tướng đến thương nghị. Phúc nói:
- Nay quân ta nhờ bài thuốc tiên của thần y Hải Thượng Lãn Ông mà bớt bệnh. Ta định thôi không rút binh khỏi Quảng Nam nữa, đợi quân ta dưỡng sức khỏe mạnh như xưa, rồi nhân lúc Nguyễn Nhạc dồn toàn lực đánh nhau với quân Nguyễn ở phương Nam ta xuất kỳ bất ý tiến đánh Quảng Ngãi ắt là toàn thắng. Các ngươi thấy thế nào?
Phúc vừa dứt lời bỗng nghe trong bụng đau quặn thắt, Phúc ôm bụng rên la ngã vật ra đất, các tướng hoảng hốt vội dìu Phúc ra hậu dinh tĩnh dưỡng. Ngày hôm ấy Hoàng Ngũ Phúc đi tả lỵ triền miên. Quân hấu lấy ba vị thuốc Thuỷ tinh thảo, Lệ trường thảo, Mà sĩ thảo cho Phúc uống, suốt ba ngày không khỏi. Các tướng xúm lại hối hận. Hoàng Đình Thể buột miệng nói:
- Bài thuốc này hàng vạn quân bị bệnh uống và tức khắc khỏi ngay, sao đại tướng quân uống đã ba ngày mà không khỏi bệnh?
Phúc mệt mỏi hỏi:
- Các ngươi thấy màu nắng ngoài trời thế nào?
Nguyễn Hữu Chỉnh đáp:
- Mấy ngày trước thời tiết trong sáng. Ngày nay khí trời bỗng trở nên nóng bức, màu năng vàng vọt như có sương mù che phủ.
Phúc bảo:
- Các tướng hay lệnh cho quân sĩ chuẩn bị quân trang. Rạng sáng ngày mai lập tức rút binh về Phú Xuân!
Các tướng vâng lệnh ra đi. Hoàng Ngũ Phúc than:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thật là trời đã giúp cho quân Tây Sơn rồi vậy!
Ngày hôm sau Hoàng Ngũ Phúc nằm trên xe, Hoàng Đình Bảo theo sau hộ tống. Quân Trịnh người mạnh cáng người bệnh lục đục bỏ Quảng Nam rút về Phú Xuân. Về đến Phú Xuân, Hoàng Ngũ Phúc mất, thọ bảy mươi tuổi. Hoàng Đình Bảo, Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ, Nguyễn Hữu Chỉnh, sai quân đưa linh cữu về Thăng Long. Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương thương tiếc vô cùng, mai táng rất là trọng thể, rồi sai Bùi Thế Đạt vào thay Hoàng Ngũ Phúc làm trấn thủ giữ đất Thuận Hoá.
Lại nói đến Nguyễn Thung về tới Quy Nhơn nói với Nguyễn Nhạc:
- Hoàng Ngũ Phúc bỏ đất Quảng Nam cho ta, lui về trấn thủ tại ải Hải Vân trở ra Thuận Hoá. Tôi nghĩ hắn chẳng có bụng tốt gì, chẳng qua vì quân Trịnh bị địch tả lỵ mà chết rất nhiều nên mới bỏ đất ấy mà thôi.
Nghe Thung nói xong, Nhạc vùng ôm mặt khóc lớn. Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
- Quân Trịnh bị địch tả lỵ mà chết, Ngủ Phúc rút khỏi Quảng Nam ấy là trời giúp ta. Chúa công nên mừng mới phải, sao lại khóc?
Nhạc nghẹn ngào không nói được. Các tướng đều ngơ ngác nhìn nhau. Nguyễn Huệ ứa nước mắt nói:
- Các vị chưa rõ do thôi. Nguyên trước lúc lâm chung thầy tôi có khuyên đại huynh nên rút khỏi Quảng Nam, bỏ đất ấy cho quân Trịnh. Thầy xem khí tượng đoán biết rằng, sang mùa hè nhất định quân Trịnh bị bệnh dịch tả lỵ mà chết rất nhiều tự khắc sẽ lui binh. Nay quả đúng như vậy, nên đại huynh tôi thương thầy mà khóc đây thôi.
Nghe Huệ nói, Nhạc càng khóc lớn, kêu lên:
- Quân sư ơi! Quân sư!
Mọi người trông thấy đều bùi ngùi rơi lệ! Nguyễn Huệ bước ra nói:
- Xin đại huynh hãy vì việc nước mà nén lại tin riêng. Nay quân Trịnh đã rút khỏi Quảng Nam, tướng Trịnh chỉ có Hoàng Ngũ Phúc có tài, nay Phúc ở chết thì mặt Bắc ta không còn lo gì nữa. Xin đại huynh hay kíp cho quân vào Gia Định đánh chúa Nguyễn Định Vương chiếm lấy toàn cõi Nam Hà, xây dựng lực lượng để chờ ngày đem quân Bắc tiến.
Nhạc lau nước mắt đáp:
- Việc ấy thì không phải vội gì. Quân ta từ ngày khởi bình đến nay chinh chiến triền miên, nên cho tướng sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức, đợi đến mùa đông gió bắc thổi mạnh, ta sẽ đem quân theo hai đường thuỷ bộ vào bắt chúng nào có muộn gì!
Nói xong Nhạc truyền bãi triều.
Nói về Lý Tài sau ngày Tập Đình chết, biết mình không còn được Nguyễn Nhạc tin dùng trong lòng buồn bực. Hôm ấy trên đường về tư dinh Lý Tài bỗng gặp Đông cung Nguyễn Phúc Dương xăm xăm đi đến, Tại chặn lại hỏi:
- Thế tử đi đâu mà gấp thế?
Dương hầm hầm nói:
- Ta đến hỏi Nguyễn Nhạc xem, Tống Phước Hiệp đã thuận ý đem quân về Gia Định truất phế Nguyễn Phúc Thuần để Nguyễn Nhạc rảnh tay đem quân ra đánh Trịnh, cớ sao lại thừa cơ Tống Phước Hiệp không phòng bí mật đem quân đánh lấy Phú Yên?
Lý Tài cười hỏi:
- Thế tử lấy quyền gì mà bắt bẻ Chúa công tôi?
Dương gằn giọng đáp:
- Ta là Đông cung Thế tử, thiên hạ theo Nguyễn Nhạc vì Nguyễn Nhạc phò ta. Theo lệ ấy là nghĩ chúa tôi, ta lại không bắt lỗi Nguyễn Nhạc được sao?
Lý Tài ôm bụng cười ngặt nghèo. Dương giận lắm hỏi:
- Ngươi cười gì mãi thế?
Lý Tài vụt nín cười đáp:
- Tôi cười Thế tử tuổi nhỏ ngây thơ, lần trước Chúa công tôi nhận sắc phong của họ Trịnh bị Thế tử quở, Chúa công tôi không dám nói gì vì còn nhờ Thế tử lừa Tống Phước Hiệp để sai tướng quân Nguyễn Huệ đánh lấy Phú Yên. Nay Tống Phước Hiệp đã thua binh mà chết, hai vạn quân còn lại mấy ngàn người về giữ ải Vân Phong. Bảy giờ thì Chúa công tôi đâu cần đến Thế tử nữa. Nếu Thế tử không biết phận mình nói chẳng giữ lời, lỡ Chúa công tôi nổi giận thì nguy.
Nguyễn Phúc Dương giật mình nói:
- Nghe ông nói ta mời vỡ lẽ. Ta đã bị anh em Nhạc Huệ lợi dùng, ví như bù nhìn bị giam lòng mà thôi! Xin cảm ơn ông!
Nói rồi Nguyễn Phúc Dương quay lưng toan ra về. Lý Tài gọi lại hỏi:
- Thế tử bị người ta giam lỏng để lợi dụng cũng đành chịu thế ư?
Dương dò xét đáp:
- Ta như cá chậu chim lồng biết phải làm sao. Còn ông là tay chân của Nguyễn Nhạc sao hỏi ta những lời ấy?
Lý Tài kéo Phúc Dương đến chỗ kín đáo sụp lậy nói:
- Chẳng giấu gì Thế tử, tôi vốn chiêu mộ được hơn ngàn nghĩa sĩ. Nghe Nguyễn Nhạc tôn phò Đông cung nên mới đem quân theo giúp. Nào ngờ Nguyễn Nhạc mưu định bá đồ vương, giam lỏng Thế tử để lại dùng. Lâu nay tôi đã biết bụng Nguyễn Nhạc, nhưng hắn chưa để lộ hành tung, nên tôi dù thường kính Thế tử cũng khó mở lời. Nay Nguyễn Nhạc đã lộ mặt giả nghĩa tôn phò, sớm muộn cũng hại đến Thế tử, xin Thế tử hay khá giữ mình, chờ khi nào có dịp tôi sẽ đưa Thế tử vào Gia Định cùng nhau khôi phục cơ đồ.
- Tôi có một kế khiến Nguyễn Nhạc không thể hại để Thế tử được. Chẳng hay Thế tử muốn nghe chăng?
Phúc Dương vội hỏi:
- Kế thế nào xin ông chỉ bảo!
Lý Tài mỉm cười đáp:
- Nguyễn Nhạc có một người con gái tên là Thọ Hương, nhan sắc hơn người nhưng bản chất thật thà, Thế tử cứ làm như vậy... như vậy.. Nguyễn Nhạc tất không nghi ngờ gì mà hại đến Thế tử.
Dương mừng rỡ nói:
- Thật là diệu kế! Nếu không gặp ông chỉ vẽ thì tôi nguy mất. Gặp được ông là trời giúp ta vậy!
Nói rồi hai người chia tay nhau.
Hôm sau Nguyễn Phúc Dương đến tư dinh Nguyễn Nhạc. Dương lừa lúc thuận tiện nói:
- Nghe nói tướng quân có một người con gái tên là Thọ Hương tuổi vừa đôi tám nhan sắc hơn người. Xin tướng quân hãy nhận tôi làm nghĩa tế.
Nhạc dò hỏi:
- Quân ta vừa đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp chiếm đất Phú Yên, Thế tử đã biết chưa?
Phúc Dương vui vẻ đáp:
- Việc này tôi có biết. Nhưng ấy là do Tống Phước Hiệp giả vờ nghe lời tôi về Gia Định phế Người Phúc Thuần, rồi lại cho quân mai phục. Tướng quân đã biết việc ấy nên mới đánh đuổi Tống Phước Hiệp đi. Nhưng việc ấy tướng quân đều vì tôi mà làm cả tôi sao trách được tướng quân.
Nguyễn Nhạc nghe xong mừng rỡ nói:
- Cảm ơn Thế tử hiểu được lòng tôi. Mai sau định yên xã tắc, cả giảng sơn này đều là của Thế tử thì có xá gì một đứa con gái mà tôi dám không vâng lời.
Đường cung mừng rỡ nói:
- Vậy khi nào tướng quân cho phép thành thân?
Nhạc đáp:
- Xin Thế tử hay thư thả, đợi khi nào thu phục được kinh đô, Thế tử lên ngôi chúa, thì Thế tử và Thọ Hương làm lễ thành thân cũng chẳng muộn gì. Nếu bây giờ hai người tác hợp tôi e thiên hạ dị nghị rằng tôi dùng mỹ nhân kế để mê hoặc Thế tử chăng?
Phúc Dương suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Tướng quân nói rất phải, nhưng mai sau xin chớ quên lời!
Nói rồi bái biệt ra về. Từ ấy về sau Nguyễn Dương thường say mê tửu sắc, lấy việc săn bắn ngoạn cảnh làm vui, không bàn đến việc đại sự. Nguyễn Nhạc thấy thế nghĩ rằng Dương đã tin tưởng mình, không nghi ngờ gì cả.
Đến mùa đông năm ấy Nguyễn Huệ không nghe Nguyễn Nhạc nói gì đến việc vào Gia Định đánh Nguyễn, nhân lúc thiết triều Huệ hỏi Nhạc:
- Lần trước đại huynh bảo đợi đến mùa đông gió Bắc thổi mạnh sẽ đem quân theo hai đường thuỷ bộ vào Gia Định đánh Nguyễn. Nay đã gần hết mùa đông sao không nghe đại huynh nói gì đến việc xuất binh?
Nhạc đáp rằng:
- Uớc nguyện của ta lúc khởi binh ở Tây Sơn Thượng là làm vua một cõi của ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên. Nay đã được như thế là thoả mãn lắm rồi, việc gì phải chém giết chinh chiến làm chi cho nhọc sức!
Huệ thất kinh sụp lạy tâu:
- Thưa đại huynh, chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định xuống hịch cần vương, chiêu binh mãi mã thu nạp nhân tài, ngày đêm rèn luyện sĩ tốt mưu toan khôi phục cơ đồ. Nếu ta không đành họ, ắt họ đến đánh ta, thì sự thanh bình của nhân dân ba phủ liệu có còn chăng? Vả lại đất Gia Định phì nhiêu màu mỡ lương thảo dồi dào, nếu họ Nguyễn xây dựng lực lượng đối địch cùng ta, em e rằng ba phủ nhỏ bé này không thể sánh kịp. Xin đại huynh suy xét lại.
Nhạc lại nói:
- Nhưng ải Vân Phong dễ giữ khó đánh. Ai giữ ải này một có thể chống lại trăm. Nay ải Vân Phong về tay quân Nguyễn, ta làm sao tiến binh được.
Huệ liền thưa:
- Thưa đại huynh, việc này em đã tính từ trước nên mới sai Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc ngày đem luyện tập thuỷ binh. Nay quân ta đầy đủ có thuyền to, súng lớn, em xin đem thuỷ binh theo đường bể vào cửa Cần Giờ đánh thành Sài Côn rồi tiến quân ra đánh Trấn Biên, Bình Thuận, Diên Khánh. Ấy là ta không cần phải vượt ải Vân Phong mà vẫn bình định được một dải đất Nam Hà. Xin đại huynh chớ nên chậm trễ.
Nguyễn Nhạc lưỡng lự hỏi:
- Nhưng ngộ nhỡ ta kéo đại binh vào Nam, quân Trịnh thừa cơ xâm phạm mặt Bắc thì làm sao trở tay kịp?
Huệ luận rằng:
- Chính vì lẽ ấy, nên em mới xin đại huynh đừng nên chậm trễ mà lỡ mất thời cơ. Nay quân Trịnh vì bị dịch tả lỵ chết mấy ngàn người, họ xem Quảng Nam là vùng đất chết, không dám xâm phạm, lại thêm Hoàng Ngũ Phúc vừa mới mất, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ không màng đến việc binh nhung. Ấy là trời giúp ta rảnh tay đập đổ nhà Nguyễn làm bàn đạp cho việc thống nhất sơn hà về sau. Xin đại huynh đừng bỏ lỡ thời cơ.
Các tướng cũng đứng lên nói:
- Lời Nguyễn Huệ tướng quân rất phải. Xin Chúa công xuống lệnh xuất quân, chúng tôi hết lòng đánh giặc.
Nguyễn Nhạc thấy các tướng đồng lòng thế mà vẫn tìm cớ thoái thác:
- Nay đã gần đến tết nguyên đán cũng chưa vội gì. Đợi ăn tết xong ta sẽ hạ lệnh xuất quân.
Nói rồi truyền bãi triều. Ra ngoài các tướng lấy làm lạ hỏi nhau:
- Vì cớ gì Chúa công lại không muốn xuất binh?
Có người bàn rằng:
- Hay vì Chúa công đã nhận Đông cung làm có rể nên ngài đánh Nguyễn sẽ mất lòng Đông cung?
Kẻ khác lại bảo:
- Vô lý! Đánh Phúc Thuần trả ngôi chúa cho Đông cung thì sao lại mất lòng Đông cung được? Có lẽ Chúa công ngại Trịnh đánh thình lình nên không dám để quân vào Nam đánh Nguyễn?
Bỗng Đặng Văn Long tủm tỉm cười nói:
- Việc này chỉ có đại sư huynh tôi mới xin được Chúa công xuất lệnh xuất quân.
Mọi người đều bảo:
- Văn Long nói lạ! Tướng quân Nguyễn Huệ đã mấy lượt khẩn cầu mà Chúa công vẫn không chấp thuận kia mà!
Long cười đáp:
- Bởi đại sư huynh tôi không biết cách nói mà thôi!
Nói xong liền tìm gặp riêng Nguyễn Huệ, Long nói:
- Tôi có một kế khiến Chúa công lập tức xuất quân!
Huệ buồn bã nói:
- Kẻ của tứ đệ ta đã biết. Có phải Lòng bảo ta giả bệnh thì đại huynh lập tức sai người khác vào đánh Gia Định chăng? Nhưng không có ta đi thi làm sao bắt được Nguyễn Phúc Thuần? Vả lại đại sư huynh vừa nói là sau tết Nguyên đán sẽ hạ lệnh xuất quân. Nên kẻ này phải sau tết mới thực hiện được để tránh tiếng cho đại sư huynh ta.
Văn Long vong tay bái Nguyễn Huệ rồi nói:
- Tài trí và lòng trung nghĩa của đại sư huynh thật đáng để Văn Long tôi kính phúc lắm thay!
***
Mùng năm tết Nguyên đán năm sau Nguyễn Lữ đến báo cùng Nguyễn Nhạc:
- Thưa đại sư huynh, anh Huệ đi du xuân ngã ngựa, hai chân bị trặc đi lại không được.
Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Lữ đến thăm Nguyễn Huệ. Nhạc ân cần hỏi:
- Em đi chơi thế nào để đến nỗi này? Có đau lắm không em?
Huệ cầm tay Nhạc ứa nước mắt đáp rằng:
- Chỉ có một chấn thương nhỏ mà anh đã lo lắng cho em như vậy, lòng em cảm động vô cùng.
Nói rồi ba anh em chuyện trò rất là thân mật. Bỗng Nhạc hỏi:
- Nay ta định cho quân vào Gia Định đánh Nguyễn em bị thương thế này làm sao xuất binh cho được?
Nguyễn Lữ xen vào nói:
- Anh Huệ bị thương không đi được, đại huynh khinh em Lữ này bất tài sao?
Nhạc đáp:
- Ta không bảo rằng em bất tài. Nhưng em hàng ngày làm việc thường không cẩn thận. Nay em lãnh mạng mang quân đi đánh đất người, ta lấy làm lo lắm.
Huệ cười thưa:
- Đại huynh cứ để cho Nguyễn Lữ cầm quân đánh giặc. Em xin tiến cử một người theo giúp thì không phải lo gặp điều gì sơ sót.
Nhạc hỏi:
- Ngươi ấy là ai?
Huệ đáp:
- Ngươi này cũng là học trò của thầy cũng với em và Nguyễn Lữ là huynh đệ đồng môn. Ấy là tứ sư đệ Đặng Văn Long.
Nguyễn Lữ mừng rỡ nói:
- Nếu có Đặng Văn Long đi cũng thì lo gì không thắng quân Nguyễn.
Vừa nói xong bỗng nghe ngoài ngõ xôn xao tiếng người. Thì ra các tướng Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Trương Văn Đa, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong và mưu sĩ Nguyễn Thung nghe tin Huệ bệnh kéo nhau đến thăm. Huệ nói:
- Vừa nhắc Văn Long, Văn Long đã đến. Việc đánh Nguyễn xin đại huynh thiết triều hãy nói, chớ bàn ở nơi này.
Các tướng vào đến, anh em chúa tôi nói vui vẻ chuyện đời thường. Đợi mọi người về hết cả Đặng Văn Long nói với Nguyễn Huệ:
- Tôi xem cách cư xử thấy Chúa công tỏ ra ra thương yêu đại sư huynh. Chúa công là người khoan dung độ lượng với kẻ dưới, nhưng lại đố kỵ với kẻ tài đức hơn mình. Thật đáng tiếc thay!
Huệ làm thinh không nói gì!

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 20 Bị vây ấp Hoà Hưng, Văn Lộc to gan nên toàn thắng. Làm chủ thành Sài Côn, Nguyễn Lữ nhụt chí lui binh
Mùa xuân năm Bính Thân (1776) niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi bảy, Nguyễn Nhạc thấy Nguyễn Huệ bệnh không ra trận được liền sai Nguyễn Lữ làm chánh tướng, Đặng Văn Long làm phó tướng cũng các đô đốc là Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong lãnh một trăm đại thuyền, thuỷ binh một vạn theo đường biển rầm rộ kéo vào Gia Định.
Lúc chiến thuyền quân Tây Sơn chạy quá mũi Đại Lãnh, Tống Phước Khuông đứng trên ải Vân Phong nhìn ra bể thấy cờ bay đỏ nước, chiến thuyền lớp lớp ào ào rẽ sóng. Tống Phước Khuông thất kinh nói với Tống Phước Lương:
- Quân Tây Sơn lấy đâu ra chiến thuyền to lớn thế? Nay chúng định kéo vào Gia Định đánh thành Sài Côn chăng? Nếu vậy thì chúa ta nguy mất!
Nói xong liền gọi vài tên quân đến bảo:
- Các ngươi hay lập tức phi ngựa ngày đêm vào thánh Bình Thuận báo cho tổng trấn Nguyễn Văn Hoằng gấp đem quân về Gia Định cứu chúa, không được chậm trễ.
Quân lãnh lệnh đi ngay. Tống Phước Lương thở dài nói:
- Quân Tây Sơn thật là lợi hại, chúng thấy ải Vân Phong đèo cao hiểm trở khó lòng đánh thắng, nên mới đem thuỷ binh vượt biển bất ngờ tiến đánh Gia Định. Chúa ta chắc không lường trước ắt chẳng đề phòng. Đúng như lời cha ta đã nói, anh em Nhạc, Huệ, Lữ không phải là kẻ tầm thường.
Nói xong Khuông truyền quân đêm ngày canh phòng cẩn mật ải Vân Phong.
Ngày ấy nơi nội điện trong thành Sài Côn, chúa Nguyễn Định vương bảo các quan văn võ:
- Ta từ ngày bỏ kinh thành chạy vào đây để ngày lo việc khôi phục cơ đồ. Ta đã xuống hịch cần vương thu nạp hiền sĩ, chiêu binh mãi mã. Kế đến là nghe lão tướng quân Tống Phước Hiệp bại binh ở Phú Yên mà chết. Hai con là Khuông và Lương đem ta quân về giữ ải Vân Phong phủ Diên Khánh. Ta nghe lời Đăng Trường sai Nguyễn Văn Hoằng đem quân ra giữ ải Bình Thuận để làm thành viện cho Khuông và Lương. Từ ấy đến nay không thấy quân Tây Sơn động binh là cớ làm sao?
Nguyễn Đăng Trường đáp lại Định Vương:
- Thân nghe nói trước lúc chết lão tướng quân Tống Phước Hiệp cho người ra Quy Nhơn phao lên rằng, quân Trịnh sắp đem quân vào đánh Quảng Ngãi. Nguyễn Nhạc liền triệu hồi Nguyễn Huệ đem đại binh về Quy Nhơn phòng quân Trịnh đánh tới. Vì lẽ ấy nên quân Tây Sơn không tiến đánh ải Vân Phong.
Định vương bùi ngùi nói:
- Thương thay cho Tống lão tướng quân đến lúc chết còn bày ra diệu kế đuổi quân Tây Sơn phải rút binh về. Tống lão tướng quân tài giỏi thế, sao lại lầm mưu thua binh với Nguyễn Huệ. Tĩnh Điệp Hầu được Nguyễn Huệ thả cho đi, khanh thấy hắn là người thế nào?
Bằng Trường dè dặt đáp:
- Thần đã gặp người này nên có biết Nguyễn Huệ vừa mới hai mươi mốt tuổi mà võ nghệ tuyệt luân, sức mạnh vô cùng, giỏi dụng binh, tinh thông thao lược làm mưu nhiều kế lại có tại hùng biện. Về sau các tướng đối địch với Nguyễn Huệ nên thận trọng mới được!
Vừa nói xong bỗng nghe quân hớt hải chạy vào báo rằng:
- Kính Chúa thượng, thuỷ binh Tây Sơn vượt bể vào cửa Cần Giờ đang tiến đến gần đến Thị Nghè. Quân đồn trấn sai về cấp báo cùng Chúa thượng!
Bình Vương rụng rời tay chân nói:
- Ta đã sai Nguyễn Văn Hoằng đem quân trấn thủ Bình Thuận để làm thành viên cho Tống Phước Khuông đang giữ ải Vân Phong. Không ngờ chúng lại đem thuỷ binh vào đánh. Nay trong thành chỉ có mấy ngàn quân, biết phải làm sao?
Nguyễn Đăng Trường nói:
- Đồn Thị Nghè án ngữ đường sông, là cửa ngõ của thành Sài Côn. Đồn Thị Nghè mất, Sài Côn không thế giữ nói. Vậy Chúa thượng hay cho Nguyễn Nghi đem ba ngàn quân ra cố thu dọn Thị Nghè, chân đường tiền của quân Tây Sơn. Đông thơi sai người đem chiều lệnh đến hai đình Long Hồ và Trấn Biên mang quân về cứu giá.
Định Vương nghe lời sai Nguyễn Nghi lập tức xuất quân. Nguyễn Nghi vâng lệnh dẫn quân đến đồn Thị Nghè thì đã thấy quân Tây Sơn đem thuyền chiến đến dàn kín sông phía trước mặt thành. Nguyễn Nghi lệnh cho quân bắn cung và súng trường xuống thuyền Tây Sơn.
Tên đạn quân Nguyễn bay ra như cát vãi. Tướng tiền quân Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết liền cho lui thuyền ra khỏi tầm tên quân Nguyễn, rồi hạ lệnh tấn công. Súng đại bác ở trên thuyền quân Tây Sơn ầm ầm nhả đạn, tiếng nổ rền trời. Quân Nguyễn trên mặt đồn đang bắn tên xuống bỗng nghe súng Tây Sơn nổ vang như sấm sét, các điếm canh trên mặt đồn trúng đạn đều đổ cả. Quân Nguyễn hồn phí phách tán quăng súng, cung mà chạy. Nguyễn Nghi thấy quân mình hoảng sợ rùng rùng tháo lui liền rút gươm ra hét:
- Ba quân quay lại liều chết mà đánh, kẻ nào sợ chạy, chém!
Nói rồi vung gươm chém chết vài tên quân. Bỗng một viên đạn đại bác rồi nhằm lưng ngựa Nguyễn Nghi đang cưỡi. Ngựa ngã quỵ hất Nghi ngã nhào xuống đất. Bá quan thấy thế lại càng kinh hãi cùng nhau tháo chạy, Nguyễn Nghi không biết làm sao đành hoà trong đám loạn quân chạy về thành Sài Côn. Quân Tây Sơn đổ bộ xong lên chiếm đồn Thị Nghè.
Chạy về ra mắt chúa Định Vương, Nguyễn Nghi hớt hải tâu:
- Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn, bạn và đồn Thị Nghè quân ta không chống nổi. Xin Chúa thượng trị tội.
Đăng Trường nói:
- Đồn Thị Nghè mất, thành này không thể nào giữ nổi. Chúa thượng hãy mau bỏ Sài Côn lui về Trấn Biên cũng quan trấn thủ Hồ Văn Lân, rồi gọi Nguyễn Văn Hoằng từ Bình Thuận đem quân về hợp sức. Sau đó do ta mất chiếu sai trấn thủ Long Hồ là Lê Văn Quân đem quân đánh ra, ta từ Trấn Biên đánh vào, quân Tây Sơn ắt phải lui binh khỏi thành Sài Côn.
Trường vừa nói xong đã nghe súng đại bác Tây Sơn nổ ầm ầm ở mặt Đông thành. Chúa tôi vội dẫn quân ra cửa Bắc thành chạy về Trấn Biên. Quân Tây Sơn toàn thắng. Nguyễn Lữ vào thành Sài Côn ra lệnh chiêu an bá tánh, cấm quân lính không được xâm phạm của dân. Đặng Văn Long bàn:
- Nhị sư huynh hãy ở lại giữ thành Sài Côn, sai Tuyết và Lộc chia thuỷ binh giữ các ngả sông. Tôi xin đem năm ngàn quân đuổi theo Nguyễn Phúc Thuần đánh thành Trấn Biên (Biên Hoà). Rồi kéo rốc ra đánh lấy Bình Thuận, Diên Khánh ắt là bắt được chúa tôi Nguyễn Phúc Thuần, khi ấy một dải đất từ Quảng Nam đến Phiên Trấn đều thuộc về ta cả. Xin nhị sư huynh thuận cho.
Nguyễn Lữ lắc đầu nói:
- Việc ấy có hai điều chưa thể làm được!
Long lấy làm lạ hỏi:
- Hai điều chưa được là hai điều gì?
Lữ đáp:
- Điều thứ nhất là nếu tứ sư đệ kéo quân ra Trấn Biên thì quân Nguyễn từ Long Hồ đánh ra Sài Côn Tuyết và Lộc dù giỏi thuỷ chiến nhưng không rành địa hình sông ngòi chằng chịt ở đất Gia Định e rằng bất lợi. Điều thứ hai là quân ta chiếm được đồn Thị Nghè và Sài Côn dễ dàng vì Phúc Thuần điều binh ra giữ Bình Thuận, Diên Khánh đề phòng ta ở Quy Nhơn đánh chúng bằng đường bộ, nên quân trấn thành Sài Côn không còn được bao nhiều. Nay chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy ra Trấn Biên ắt gọi Nguyễn Văn Hoằng từ Bình Thuận đem quân vào cứu viện. Chúng tất phòng bị sẵn sàng không dễ gì đánh được.
Đặng Văn Long nói:
- Việc tranh thắng bại ở trận tiền cốt ở lòng can đảm. Nay quân ta khí thế đang hăng muôn lòng như một, chỉ một hồi trống là hạ được thành Sài Côn. Xét việc tam sư huynh Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú chỉ có hai ngàn quân mà đánh lui một vạn quân Trịnh của Hoàng Đình Thể hồi năm trước, xem thế đủ biết tinh thần chiến đấu quan trọng như thế nào. Vả lại quân Nguyễn ở thành Sài Côn yếu, thì quân ở Long Hồ không thể nào mạnh được. Bởi thành Sài Côn là cửa ngõ của Long Hồ không có lý gì Văn Tuyết và Văn Lộc lại ngại thế giặc ở Long Hồ. binh chúng có mạnh chẳng là từ Trấn Biên trở ra đến Bình Thuận, Diên Khánh. Về mặt này Văn Long tôi xin đảm nhận trọng trách, xin nhị huynh chớ ngại.
Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc cũng nói:
- Lời Văn Long rất phải, xin tướng quân cho chúng tôi ra trận lập công.
Nguyễn Lữ do dự hồi lâu nói:
- Các đệ đã quyết thế thì hãy về kiểm điểm binh mã, rạng sáng ngày mai xuất trận. Còn phần ta sẽ mở kho lương phát chẩn cho dân nghèo. Ấy là đúng với câu binh pháp, chiếm thành không bằng chiếm lòng dân vậy!
Đặng Văn Long can:
- Việc ấy không nên!
Lữ ngạc nhiên hỏi:
- Quân Tây Sơn ta từ lúc khởi binh đến nay ở đến đâu đều phát chẩn cho dân nghèo nên thường họ đều theo phục. Nay ta cũng làm theo cách ấy để thu phục lòng dân, sao Văn Long lại bảo không nên?
Long đáp:
- Nhân dân ở các phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Quảng Nam, bị quan lại cướp bóc thậm khổ nên khi ta phát chẩn người người đều hưởng ứng. Còn ở đất Gia Định này, đồng ruộng phì nhiêu, lúa thóc làm một mùa ăn ba năm không hết. Xuống sông thường là bắt được cá, ra vườn với tay là bắt được chim. Nhà nhà đều lúa thóc đầy bồ thì làm gì có người nhận phát chẩn của ta.
Lữ cười bảo:
- Văn Long nói sai rồi! Lòng tham con người vốn sâu không đáy. Như vua quan nhà Nguyễn dinh thự đồ sộ, vàng bạc gấm lụa đầy rẫy, cao lương mỹ vị rượu ngon gái đẹp rất là dư dả sao còn thả sức vơ vét của nhân dân? Vậy dân chúng trong thành Sài Côn đã được dư dật như thế chưa mà không nhận phát chẩn của ta?
Nói rồi liền sai quân thông báo cho dân trong thành được biết và mở kho lương lập tức phát chẩn. Quả như lời Văn Long nói, kho lương mở từ sáng đến tối chỉ có vài người đến nhận thóc. Nguyễn Lữ liền triệu các tướng đến nói:
- Nhân dân ở thành Sài Côn không nhận phát chẩn, chứng tỏ ta không được sự ủng hộ của bá tánh lòng dân đã như vậy e rằng khó giữ được thành, còn nói gì đến việc đem quân đi đánh Trấn Biên, Bình Thuận. Theo ý tôi, ta nên lấy hết lương thực ở trong thành rút về Quy Nhơn bẩm báo cho đại huynh được biết rồi sẽ liệu sau.
Đặng Văn Long can:
- Tôi đã dự đoán trước nhân dân đất Gia Định không nhận phát chẩn của ta bởi nhà nhà đều cơm no áo ấm, chứ chưa hẳn là bá tánh ở đất Gia Định ở chống đối lại ta. Nay ta cho người truyền hịch đi các nơi rõ nghĩa tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đánh đổ Định vương Nguyễn Phúc Thuần rồi sau ở sẽ tiến binh ra đánh thành Trấn Biên, Bình Thuận thì lo gì thiên hạ không phục. Nếu bây giờ ta lấy hết thóc gạo rút về Quy Nhơn e rằng thiên hạ bảo ta là quần cướp mà thôi. Xin nhị sư huynh xét lại.
Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong đồng thanh nói:
- Lời Văn Long rất phải!
Nguyễn Lữ thấy các tướng đồng lòng lại gật đầu bảo:
- Vậy ta hay sai quân mau mau truyền hịch nói rõ nghĩa tôn phò.
Bấy giờ ở đất Tam Phụ ngoại thành Sài Côn thuộc dinh Phiên Trấn, có một người tên là Đỗ Thành Nhân, giỏi võ nghệ có tài thao lược, lợi dụng vùng sông ngòi chằng chịt, cây cối um tùm ở đất Tam Phụ, Đỗ Thành Nhân ứng nghĩa cần vương chiêu binh mãi mã ước năm ngàn người để chống nhau với quân Tây Sơn. Thánh Nhân lại dựng cờ thêu hai chữ "Đông Sơn" tỏ ý đối nghịch với Tây Sơn.
Ngày ấy nghe tin quân Tây Sơn đi truyền hịch các nơi nói nghĩa tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương đánh đổ Định vương Nguyễn Phúc Thuần, Nhân nổi giận nói:
- Quân Tây Sơn kia lợi dụng Đông cung giả nghĩa tôn phò dối gạt thiên hạ. Từ khi chúa bỏ kinh thành chạy vào Gia Định truyền hịch cần vương, ta chiêu binh mãi mã đợi ngày phò vua tá quốc, nay giặc Tây Sơn lại vào chiếm thành Sài Côn. Đây là lúc ta đánh giặc lập công với nước trả ơn vua.
Nói rồi liền sai anh em Võ Nhân, Võ Tánh đem một ngàn quân làm tiên phong, Đỗ Thành Nhân dân đại binh đi sau nhằm thành Sài Côn thẳng tiến. Đến cách thành Sài Côn chừng mười dặm, bỗng thấy mấy người dân gồng gánh từ phía thành đi tại. Thành Nhân gọi lại hỏi:
- Các ngươi là dân nơi nào, gồng gánh đi đâu thế?
Dân đáp:
- Chúng tôi là dân trong thành Sài Côn. Mấy hôm trước quân Tây Sơn chiếm được thành, tướng Tây Sơn là Nguyễn Lữ mở kho lương phát chẩn cho dân nghèo. Mấy người chúng tôi đến nhận thóc của quân Tây Sơn, về nhà bị hàng xóm mắng nhiếc thậm tệ lấy làm xấu hổ nên rủ nhau về quê sinh sống.
Dân nói xong bỏ đi. Võ Tánh hiến kế:
- Quân Tây Sơn phát chẩn là muốn chiếm lòng dân. Nay ta dùng kế điệu hổ ly sơn ắt là phá được chúng.
Võ Tánh kề tai Đỗ Thành Nhân nói nhỏ:
- Cười tướng cứ làm như vậy... như vậy...
Thành Nhân khen:
- Thật là diệu kế. Võ Tánh còn nhỏ tuổi mà đa mưu túc trí, về sau ắt làm nên danh tướng.
Nói rồi xuống lệnh:
- Võ Nhân đem một ngàn quân mai phục ở cánh rừng phía Đông ấp Hoà Hưng, Đỗ Nhàn Trập một ngàn quân mai phục ở cánh rừng phía Tây ấp Hoà Hưng. Ta cùng Võ Tánh đem ba ngàn quân vào trong ấp chờ giặc.
Hôm sau có mấy người dân vào thành Sài Côn thưa cùng Nguyễn Lữ:
- Thưa tướng quân, gần đây có tên cướp tên là Đỗ Thành Nhân quy tụ lâu la hàng ngàn người thường ngày vào thôn ấp cướp phá hãm hiếp dân lánh. Chúng tôi không bao giờ sống được yên ổn. Quan quân nhà Nguyễn ươn hèn không dẹp được, nay nghe tướng quân mến dân nhờ tướng quân cho người đánh cướp cứu dân.
Nguyễn Lữ liền hỏi:
- Hiện giờ bọn chúng đang ở đâu?
Dân đáp:
- Bọn chúng hiện đang cướp ở ấp Hoà Hưng huyện Bình Dương ở phía Nam thành Sài Côn.
Nguyễn Lữ hỏi các tướng:
- Nay dân đang gặp cướp bóc vậy ai xung phong đánh cướp cứu dân.
Nguyễn Văn Tuyết bước ra nói:
- Tôi xin đi!
Nguyễn Văn Lộc cũng bước ra nói:
- Tôi xin cùng Tuyết tướng quân đánh cướp cứu dân.
Nguyễn Lữ liền cấp cho Tuyết và Lộc hai ngàn quân lập tức ra ngoài thành đến ấp Hoà Hưng đánh cướp (Quận X Sài Côn ngày nay). Tuyết và Lộc dẫn quân đến cánh đồng trong đầu làng bỗng nghe một phát súng nổ vang, từ trong làng một đạo binh hùng hổ xông ra, đi đầu là hai viên đại tướng cùng lá cờ đề hai chứ "Đông Sơn". Nguyễn Văn Tuyết dừng ngựa vểnh râu quát hỏi:
- Các ngươi là giặc cướp phương nào dám vào làng nhiễu hại lương dân?
Viên tướng ấy cười to bảo:
- Ta là Đông Sơn Đỗ Thành Nhân dấy binh đánh giặc Tây Sơn giúp chúa. Các ngươi đã trúng kế điệu hổ ly sơn của ta, sao còn chưa xếp giáp quy hàng?
Đỗ Thành Nhân nói vừa dứt lời bỗng nghe ngoài rừng hai bên cánh đồng pháo lệnh nổ vang, quân reo inh ỏi. Hai đạo quân từ trong rừng xông ra vậy quân Tây Sơn vào giữa. Nguyễn Văn Tuyết nói với Nguyễn Văn Lộc:
- Giặc ba mặt vây ta vào giữa, tình thế rất nguy tôi và ông phải liều chết phá vây chạy về thành!
Lộc tức giận đấm ngực nói.
- Từ ngày tới theo Chúa công đến nay chỉ huấn luyện thuỷ binh ở Quy Nhơn chưa được đánh trận nào. Nay trận đầu ra quân mà bại trận thì còn mặt mũi nào nhìn ba quân tướng. Dù có rút binh về cũng phải hàng ngũ chỉnh tề, đánh chúng một trận cho đáng mặt anh hùng, dù chết cũng cam.
Tuyết nói:
- Vậy tôi và ông chia làm hai mặt vừa đánh vừa lui.
Nói rồi Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy hậu quân làm tiền quân quay lại phá vây. Nguyễn Văn Lộc chỉ huy tiến quân làm hậu quân đi sau đoạn hậu. Hai bên đánh nhau rất dữ dội tiếng hò reo vang dậy góc trời. Tiền quân Nguyễn Văn Tuyết vung sống đao đánh cùng Võ Nhân, Đỗ Nhàn Trập không nè nào nung. Quân Tây Sơn cùng đường lông lên như hổ dữ, đánh vẹt quân Đông Sơn phá vòng vây. Nguyễn Văn Tuyết dùng hết sức bình sinh vùng sống đao cũng một lúc chém Võ Nhân và Đỗ Nhàn Trập. Hai tướng Đông Sơn đưa đao lên đỡ, chẳng ngờ Nguyễn Văn Tuyết chém mạnh quá Võ Nhân và Đỗ Nhàn Trập bủn rủn tay chân, ngựa lui liền mấy bước. Nguyễn Văn Tuyết thừa cơ thoát được, dẫn quân nhằm hướng thành Sài Côn mà chạy. Chạy được một đoạn quay lại không thấy Nguyễn Văn Lộc đâu, Tuyết bảo bá quan:
- Tướng quân Nguyễn Văn Lộc đi sau đoạn hậu cho chúng ta chạy thoát, hiện ông ấy con bị vây trong trận. Các ngươi hãy cũng ta chỉnh đốn hàng ngũ quay lại liều chết giải vây. Không cứu được Lộc tướng quân thề quyết không về.
Quân Tây Sơn dạ ran, sắp xếp đội ngũ theo Nguyễn Văn Tuyết quay lại ấp Hoà Hưng. Khi ấy Nguyễn Văn Lộc đang dũng mãnh đánh cùng Đỗ Thành Nhân và Võ Tánh. Nguyễn Văn Lộc không chút sợ hãi đánh liền nửa canh giờ. Thành Nhân và Võ Tánh đổ mồ hôi hột lui ra. Lộc thấy tiền quân Nguyễn Văn Tuyết đã ra khỏi vòng vây bèn thúc ngựa đuổi theo hai tướng Đông Sơn. Đỗ Thành Nhân thất kinh quát:
- Ba quân chặn giết tướng giặc cho ta!
Quân Đông Sơn vây Nguyễn Văn Lộc vào giữa. Lộc lồng lên như mãnh hổ vung trường thương tả xung hữu đột giết quân Đông Sơn thây nằm lớp lớp. Lộc tháo thắt lưng vung lên làm hiệu, tiền quân Tây Sơn trông thấy hiệu lệnh, liền chia nhau lập thành một vòng tròn khép kín, giữa vòng vây Đông Sơn như một bức thành đồng. Quân Đông Sơn thấy quân Tây Sơn can đảm phí thường, không dám giáp chiến. Đỗ Thành Nhân lệnh quân xạ tiến. Quân Đông Sơn bốn mặt bắn tên như mưa. Quân Tây Sơn dùng khiên mà đỡ chẳng mảy may thương tích. Có tên quân hỏi Nguyễn Văn Lộc:
- Sao tướng quân không ra lệnh phá vây. Đến tối quân ta đói khát sao địch nổi giặc?
Lộc lăm lăm trường thương đáp:
- Các ngươi chớ lo, Nguyễn Văn Tuyết dẫn quân quay lại tức thì. Đánh lui giặc ta mới quay về.
Vừa dứt lời bỗng thấy vòng vây quân Đông Sơn phía Bắc hỗn loạn. Nguyễn Văn Tuyết dẫn đoàn quân Tây Sơn xung trận. Võ Nhân và Đỗ Nhàn Trập ngăn không nổi dẫn quân chạy vào hai cánh rừng. Nguyễn Văn Lộc trông thấy liền thúc ngựa hô quân tiến về phía Đỗ Thành Nhân mà đánh. Thành Nhân thấy trận mình đã vỡ bèn thúc trống thu quân vào trong ấp Hoà Hưng. Đỗ Thành Nhân nói với mọi người:
- Quân Tây Sơn thiện chiến, tướng Tây Sơn đều mạnh lại giỏi dùng quân, thế mới biết hữu mưu vô dũng cũng không giành phần thắng được!
Võ Tánh bước ra nói:
- Quân Tây Sơn hữu dũng ta không thể diệt chúng được. Tôi xin hiến một kế có thể khiến Nguyễn Lữ rút quân khỏi thành Sài Côn.
Đỗ Thành Nhân hỏi:
- Kế thế nào Tánh hay nói ta nghe thử xem?
Võ Tánh kề vai Nhận nói nhỏ:
- Chủ tướng hay làm như vậy... như vậy. Nguyễn Lữ ắt sẽ mà bỏ Sài Côn rút về Quy Nhơn. Chủ tướng vào thành Sài Côn rồi cho người đi rước chúa về, thì công đầu không phải của chủ tướng thì công ai vào đây nữa?
Nhận mừng rỡ khen:
- Thật là diệu kế!
Nói rồi liền viết một phong thư sai người tâm phúc mang đi ngay.
Phần Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc thu quân về thành Sài Côn, dọc đường Tuyết hỏi Lộc:
- Tôi đã phá được vòng vây sao ông không chịu lui quân?
Lộc cười đáp:
- Có thể ông mới đem quân quay lại liều chết mà đánh lui được giặc. Dù không diệt được chúng, ta cũng thắng trận trở về.
Nói xong hai tướng Tây Sơn cũng cười vang. Vào thành Sài Côn nghe Tuyết kể xong Nguyễn Lữ khen:
- Lộc tướng quân trí dũng song toàn thật đáng khâm phục. Xin hỏi tướng quân, binh pháp nào đã dàn quân thành vòng tròn giữa vòng vây giặc?
Lộc cười đáp:
- Tướng quan há chẳng biết rằng võ roi ở xứ Quy Nhơn ta có thế võ còn gọi "Trâu dằn" là bắt chước của loài trâu đó sao?
Lữ lấy làm lạ hỏi:
- Thế võ "Trâu dằn" người Quy Nhơn ai mà không biết. Nhưng có liên quan gì đến việc lập trận này?
Lộc lại cười đáp:
- Việc nhỏ này cần gì đến binh pháp, lúc nhỏ tôi nhà nghèo vào rừng chăn trâu cho nhà giàu trong núi Kỳ Sơn. Tôi quan sát thấy mỗi lần gặp cọp hay sói, trâu đều vây thành vòng tròn nghênh sừng ra trước cọp và sói đều không dám vào. Tôi chỉ bắt chước trò luyện quân lập trận ấy mà thôi!
Đặng Văn Long cười to nói:
- Đỗ Thành Nhân mà nghe ông nói chắc phải xấu hổ chết mặt thời!
Các tướng đều cười rất vui vẻ, Nguyễn Văn Lộc nói:
- Ngày mai tôi cùng Tuyết tướng quân xin đem quân đến ấp Hoà Hưng dẹp lũ giặc Đông Sơn mới hả dạ.
Lộc vừa dứt lời có quân thám mã về báo:
- Chúng tôi đi do thám ngoài thành gặp một tên gian tế, tên này thấy quân ta liền bỏ chạy, chúng tôi bắn tên giết chết, lục trong người thấy có mật thư xin trình lên tướng quân.
Nguyễn Lữ tiếp thư xem xong băn khoăn nói:
- Thư này của quân trấn thủ Long Hồ là Lê Văn Quân gửi cho chúa Định Vương. Quân bảo rằng đã cầu viện được vua Cao Miên đem binh sang giúp. Chưa hẹn ngày xuất binh, Lê Văn Quân từ Long Hồ dẫn ra, Định Vương từ Trấn Biên đánh vào, Cao Miên từ hướng Tây đánh xuống. Thành Sài Côn của ta ba mặt thọ địch, thật là nguy khốn. Theo tôi ta nên bỏ thành Sài Côn rút về Quy Nhơn để bảo toàn lực lượng, bẩm báo cùng đại huynh rồi sẽ liệu sau.
Đặng Văn Long can:
- Theo tôi nước Cao Miên và nước Tiêm La xưa nay thường đánh lẫn nhau luôn. Quân Cao Miên yếu thế nước mình còn lo không giữ được, lẽ đâu lại đem qua giúp cho nhà Nguyễn. Ấy chẳng qua là kế của giặc mà thôi, xin nhị sư huynh xét lại chớ vội lui quân.
Nguyễn Văn Lộc hăng hái nói:
- Dù chúng có sang thật, ta lại sợ chung sao? Tướng quân cứ cho Nguyễn Văn Tuyết trấn mặt Nam thành, Đặng Văn Long tiến đánh Trấn Biên, tôi xin đem quân án ngữ mặt Tây, tướng quân và Đặng Văn Bảo, Đặng Xuân Phong giữ thành tuỳ tình hình mà đem quân tiếp viện, thì có sợ gì chúng.
Lữ nói:
- Chẳng phải là ta sợ giặc. Nhưng lẽ được thua là cốt ở lòng dân. Nay dân trong thành không nhờ phát chẩn của Tây Sơn ta, ngoài thành thì kẻ vô danh như Đỗ Thành Nhân cũng chiêu mộ được mấy ngàn binh mã đối địch cùng ta. Xem thế đủ biết lòng dân ở đất Gia Định này không phục Tây Sơn ta. Mà kia quân Nguyễn kéo đến nhân dân đều nhất tề theo giặc thì ta làm thế nào?
Văn Long bàn rằng:
- Đỗ Thành Nhân chiêu binh mãi mã lúc Định vương mới vào Sài Côn xuống hịch Cần vương. Nhân dân ở Gia Định chỉ nghe lời nhà chúa mà không biết chính nghĩa của ta, nên ta mới chiếm Sài Côn đã không nhận thóc phát chẩn. Nay ta đã truyền hịch tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương. Binh ta quân kỷ nghiêm minh, không mảy may xúc phạm của dân đã phần nào chứng tỏ là đạo binh nhân nghĩa. Thiên hạ còn bán tín bán nghi ắt khoanh tay chờ có xem hư thực thế nào mà thôi. Về mặt nhân hoà binh ta chưa hẳn là thất thế, ấy là một lẽ. Nói về thực lực, quân Nguyễn đánh đâu thua đó, tướng lãnh bất tài, lòng quân nao núng ắt không phải là đối thủ của ta, ấy là hai lẽ. Quân Cao Miên là người man rợ nếu đem binh sang giúp nhà Nguyễn tắt sanh lòng đạo tặc mà cướp bóc của dân khiến lòng người sẽ ngả về ta, ấy là ba lẽ. Xét ba điều ấy, ta nên đánh chứ chẳng nên lui.
Nguyễn Lữ lại bảo:
- Lúc xuất quân đại huynh có căn dặn ta rằng đánh Sài Côn lần này là để phá rối hậu cứ của quân Nguyễn, không cho chúng điều binh ra đánh Phú Yên. Nay Nguyễn Văn Hoằng từ Bình Thuận đem quân về Trấn Biên viện binh cho chúa Định Vương là đã đúng với ý đồ chiến lược của ta. Vậy ta đã hoàn thành sứ mạng sao chẳng rút binh về? Đất Gia Định không có núi non hiểm trở, nếu ở lâu nơi thành Sa Côn trơ trọi này ngộ nhỡ có điều sơ sảy e mắc tội với đại huynh. Ý ta đã quyết Văn Long đừng nói nữa!
Nói xong truyền quân lấy hết lương thực trong thành ước trăm vạn hộc, xuống thuyền rút bình về Quy Nhơn. Lúc quân kéo buồm nhổ neo, Nguyễn Văn Tuyết nói:
- Tướng quân Nguyễn Lữ là người không quyết đoán, thật đáng tiếc thay!
Đặng Văn Long than:
- Nếu đại sư huynh Nguyễn Huệ đi chuyến này thì bình đất Gia Định như trở bàn tay. Thật là đáng tiếc!
Quân Tây Sơn rút đi rồi, Đỗ Thành Nhân đem quân vào thành Sài Côn không mặt một mũi tên hòn đạn. Thành Nhân liền cho người đi mời chúa Định Vương.
Định Vương đem Hoàng thân quốc thích về lại thành Sài Côn, phong Đỗ Thành Nhân làm Tổng trấn Sài Côn kiêm phụ chính. Chúa chia các tướng trấn giữ các nơi ở đất Gia Định. Mạc Thiên Tứ trấn thủ Hà Tiên, Lê Văn Quân trấn thủ thành Trường Đồn. Hồ Văn Lân trấn thủ thành Trấn Biên. Nguyễn Văn Hoằng trấn thủ thành Bình Thuận. Tống Phước Khuông trấn thủ thành Diên Khánh. Tống Phước Lương đón trấn ải Vân Phong. Nguyễn Nghi trấn đồn Thị Nghè. Chúa Định Vương chiêu binh mãi mã mà trong lòng vẫn canh cánh tiêu diệt quân Tây Sơn, đêm ngày lo toan việc khôi phục cơ đồ.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 21 Quấy Gia Định, Nguyễn Huệ dựng mưu sâu. Hiềm Lý Tài, Đỗ Thành Nhân làm phản
Lại nói về Nguyễn Lữ không nghe lời can gián của Đặng Văn Long kéo quân về thành Qui Nhơn báo cáo tình hình Gia Định cho Nguyễn Nhạc. Nghe Lữ nói xong, mưu sĩ Nguyễn Thung bước ra thưa:
- Nay Chúa Nguyễn Định Vương ngày đêm xây dựng lực lượng mưu toan việc khôi phục cơ đồ. Nếu ta không đập đổ nhà Nguyễn ở phương Nam, đợi khi binh của chúng mạnh lên ắt Tây Sơn ta lại lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch của hai nhà Trịnh – Nguyễn như hồi năm trước thì nguy. Xin Chú công hãy gấp lệnh cho Nguyễn Huệ đem đại binh vào Gia Định lần nữa. Lần này phải chiếm hết toàn cõi đất Nam Hà, bắt cho được Định Vương Nguyễn Phúc Thuần để trừ hậu hoạ. Ấy là việc nên làm.
Nguyễn Nhạc thấy các tướng sĩ đều mến phục Nguyễn Huệ, trong lòng không muốn, còn đang lưỡng lự thì Nguyễn Huệ bước ra nói:
- Theo tôi việc ấy không nên làm!
Thung ngạc nhiên hỏi:
- Vì lý do gì tướng quân lại bảo việc đánh Nguyễn ở Nam Hà là không nên làm?
Huệ đáp:
- Vừa rồi Hoàng Ngũ Phúc mất, Chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào làm trấn thủ đất Thuận Hoá, lại sai quan văn là Lê Quí Đôn cùng vào lo việc trị dân. Bùi Thế Đạt là một lão tướng ở Đàng Ngoài. Năm Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi, chính Bùi Thế Đạt đã đem quân dập tắt cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật ở Trấn Ninh, Nghệ An. Còn Lê Quí Đôn đã từng khuyên Trịnh Sâm đem đại binh đánh ta, lúc ta xin hoà với Trịnh để đánh tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay họ Trịnh sai hai người này vào trấn thủ Thuận Hoá, Phú Xuân là có ý dòm ngó Tây Sơn ta. Vả lại quân Trịnh ở Phú Xuân còn những mấy vạn, ta không nên sơ xuất mà đem đại binh vào đánh Nguyễn ở phương Nam, để đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc.
Thung lại hỏi:
- Thế sao tháng trước tướng quân lại xin cho Nguyễn Lữ đem đại quân vào Nam Hà đánh Nguyễn?
Huệ cười nói:
- Thế của Tây Sơn ta là lưỡng đầu thọ địch, cho nên việc hành binh của ta phải tốc chiến tốc thắng mới có thời gian đối phó kịp thời với địch ở hai mặt Bắc Nam. Lúc Nguyễn Lữ kéo đại binh đi, quân Trịnh vừa rút khỏi Quảng Nam, binh lính bệnh hoạn mệt mỏi, chúng lo rằng ta thừa cơ tiến đánh còn nói gì đến việc đánh người khác. Nhưng lúc này tình hình quân Trịnh đã đổi khác ta không thể không đề phòng.
Thung lo âu hỏi:
- Nếu không đánh Nguyễn lúc này sớm muộn gì chúng chẳng đánh ta?
Huệ đáp:
- Tôi có một kế không cần phải động binh có thể làm hao mòn lựu lượng của quân Nguyễn và làm rối loạn đất Gia Định khiến chúng không thể nào dòm ngó đất Phú Yên của ta được!
Nguyễn Nhạc liền hỏi:
- Kế thế nào Huệ nói mau xem?
Huệ ung dung đáp:
- Kế của tôi là thả hổ về rừng!
Đặng Văn Long xen vào nói:
- Ngày xưa thời Tam Quốc, Lưu Bị mượn câu: “Thả hổ dễ, bắt hổ khó” để xui Tào Tháo giết Lã Bố. Trong binh pháp chỉ nghe kế “Điệu hổ ly sơn” là dụ hổ rời núi chứ chưa từng nghe nói kế thả hổ về rừng là gì. Đại sư huynh hãy nói rõ hơn xem.
Huệ giảng giải rằng:
- Từ ngày Tập Đình thua quân Trịnh ở Hải Vân quan, phạm vào cam đoan trạng bỏ trốn về Tàu, Lý Tài biết mình không được đại huynh tin dùng. Lý Tài ở với quân ta khác nào cọp ở trong lồng. Nay ta thả Lý Tài ra, ắt Lý Tài theo về cùng chúa Nguyễn Định Vương. Ấy chính là kế thả hổ về rừng đó.
Nguyễn Nhạc thắc mắc hỏi:
- Thả Lý Tài cho Nguyễn là thêm vây cánh cho địch, sao ta lại dùng kế ấy?
Huệ chậm rãi thưa:
- Hiện Lý Tài còn hai ngàn quân bản bộ toàn là người Tàu thiện chiến, lại thêm Lý Tài tánh kiêu ngạo tham quyền. Đỗ Thành Nhân vừa mới lập công, được chúa Nguyễn phong làm Tổng trấn Sài Côn kiêm phụ chính, nay lại thấy kẻ khác tranh quyền với mình nhịn sao cho nổi. Nay ta thả Lý Tài vào Gia Định chắc chắn Lý Tài và Đỗ Thành Nhân sẽ sinh ra bất hoà mà chém giết lẫn nhau. Ấy là kế thả hổ về rừng cho hai hổ tranh nhau vậy.
Nguyễn Thung nói:
- Nếu đúng như vậy thì thật là độc kế. Nhưng ngộ nhỡ Lý Tài hạ mình theo về với giặc hợp sức đánh ta thì sao?
Huệ lắc đầu đáp:
- Lý Tài bất đắc dĩ hết lương thực mới theo về cùng ta. Con người của Lý Tài luôn nuôi trong đầu mộng bá vương, nay trong tay có hai ngàn quân dưới trướng đời nào chịu ở dưới quyền kẻ khác. Nếu Lý Tài và Đỗ Thành Nhân không chém giết lẫn nhau tôi xin dâng đầu mình trước án. Xin đại huynh chớ ngại.
Nguyễn Nhạc gật đầu nói:
- Lâu nay ta nuôi Lý Tài khác nào nuôi ong tay áo, Lý Tài không có tội gì giết đi thì sợ mang tiếng với thiên hạ. Nhưng phải thả Lý Tài bằng cách nào?
Huệ hiến kế:
- Đại huynh cho gọi Lý Tài đến nói như vầy... ắt Lý Tài tin ngay. Thế là ta đã thả được Lý Tài rồi đó!
Nguyễn Nhạc liền cho quân mời Lý Tài đến, Nhạc nói:
- Ta vừa nghe tin quân Nguyễn sắp đem quân theo hai đường thuỷ bộ tiến đánh Phú Yên. Bộ binh của ta đã có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân chỉ huy, nhưng ở Phú Yên chưa có thuỷ binh. Vậy phiền tướng quân đem quân bản bộ đi đường thuỷ vào trấn giữ mặt bể. Chẳng hay tướng quân có vui lòng chăng?
Lý Tài nghe qua mừng thầm trong bụng nhưng không dám lộ ra mặt giả vờ nói:
- Nuôi quân ba năm dụng một giờ. Lâu nay tôi chịu ơn sâu của Chúa công, có gì cần Chúa công cứ sai bảo, tôi dù nhảy vào lửa cũng chẳng dám từ nan.
Nói xong Lý Tài lãnh lệnh đi ngay. Giong buồm ra ngoài cửa bể, Lý Tài ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi. Tả hữu hỏi:
- Tướng quân cười gì mãi thế?
Lý Tài phấn khích đáp:
- Ta nghe nói Nguyễn Huệ nhìn thấu được lòng người, nay mới biết là hữu danh vô thực. Nếu Huệ hiểu lòng người ắt can Nguyễn Nhạc không cho ta vào trấn Phú Yên. Thật là Nhạc, Huệ phen này đã thả hổ về rừng.
Nói rồi Lý Tài truyền quân không cho thuyền ghé Phú Yên mà chạy thẳng vào Gia Định, Sài Côn. Lý Tài đóng thuỷ binh tại cửa Cần Giờ rồi sai người tâm phúc đến thành Sài Côn yết kiến Định Vương. Sứ giả vào thành gặp Định Vương nói:
- Thần là sứ giả của tướng quân Lý Tài. Chủ tướng thần muốn theo phò chúa thượng đánh giặc Tây Sơn. Mong được chúa thượng dung nạp!
Định Vương dò hỏi:
- Lúc Tây Sơn làm loạn, Lý Tài ở dưới trướng Nguyễn Nhạc nay vì sao lại phản Nguyễn Nhạc theo về với ta?
Sứ giả đáp:
- Lúc ấy do Trương Phúc Loan chuyên quyền làm lắm đều tàn bạo, Nguyễn Nhạc giả tiếng tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan. Lý tướng quân tưởng thật mới đem quân theo giúp Nguyễn Nhạc. Nay Nguyễn Nhạc rước được Đông cung Dương về, lại giam lỏng ở thành Qui Nhơn, không nói gì đến việc tôn phò, nên Lý tướng quân mới bỏ Nguyễn Nhạc đem hai ngàn quân bản bộ vào theo về cùng Chúa thượng mong khôi phục lại cơ đồ nhà Nguyễn.
Đỗ Thành Nhân nạt:
- Nếu Lý Tài vâng mệnh Nguyễn Nhạc giả hàng rồi ở trong thành làm nội ứng thì sao?
Sứ giả ung dung đáp:
- Tướng quân nói thế chứng tỏ là không hiểu được thực lực của quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn hiện nay hùng binh ba vạn, hàng trăm viên đại tướng đều trí dũng song toàn. Chiến thuyền lớn hàng ngàn chiếc, súng đại bác hơn vạn khẩu, voi chiến trăm con. Nếu Nguyễn Nhạc đem quân vào Gia Định thì tôi e không có thành trì nào có thể đứng vững dưới làn mưa đạn đại bác của quân Tây Sơn. Quân của chúng thiện chiến một có thể địch được hai, ba. Nếu đại bác chúng bắn vỡ thành rồi thì khi giáp chiến liệu binh ta có phải là địch thủ của quân Tây Sơn chăng? Thực lực đôi bên đã rõ ràng như thế thì cần gì phải sai người mạo hiểm làm nội ứng làm chi? Xin tướng quân xét lại kẻo oan cho tướng quân tôi!
Đỗ Thành Nhân ngạo mạn cười lớn bảo:
- Ngươi khéo già mồm! Quân Tây Sơn tài giỏi thế nào mà một người có thể địch được hai, ba?
Nguyễn Đăng Trường xen vào nói:
- Đỗ tướng quân chưa biết đấy thôi! Năm trước quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy có năm ngàn quân mà đánh tan ba vạn quân ta ở sông Lại Dương thuộc phủ Qui Nhơn, khiến ba cha con Tôn Thất Hương tử trận. Năm sau Nguyễn Huệ lại đem năm ngàn quân vào Phú Yên đánh tan hai vạn quân ta, khiến Tống lão tướng quân uất ức mà chết. Người này không có ý dối ta đâu!
Đỗ Thành Nhân lại gạt đi bảo:
- Nhưng việc hệ trọng không thể tin bừa. Xin hỏi sứ giả ý tốt của tướng quân có chi làm bằng?
Sứ giả lấy ở trong người ra một phong thư trao cho Định Vương nói:
- Trước khi bỏ Nguyễn Nhạc mà đi, Lý tướng quân vẫn thường trao đổi với Đông cung. Đây là thư của Đông cung dặn Lý tướng quân trao cho Chúa thượng.
Định Vương đọc xong mừng rỡ bảo:
- Theo trong thư cua Đông cung thì việc Lý Tài theo về với ta là thực. Vậy phiền sứ giả về nói với Lý Tài rằng ta thuận ý, bảo ông ấy mau dẫn quân về Sài Côn cùng hợp sức đánh giặc Tây Sơn.
Sứ giả vâng mệnh ra về thuật lại việc với Lý Tài. Lý Tài bèn đem chiến thuyền đến đậu ở sông Thị Nghè. Chúa Định Vương nghe quân báo Lý Tài có thuyền to súng lớn liền đích thân dẫn Nguyễn Đăng Trường, Nguyễn Nghi, Đỗ Thành Nhân đến xem. Lý Tài lên bờ lạy chào Chúa Định Vương. Vương mừng rỡ nói:
- Tướng quân là người của Đông cung tức là tôi của nhà Nguyễn ta rồi – Đoạn Vương chỉ chiến thuyền của Lý Tài nói tiếp – Thật xưa nay chưa thấy chiến thuyền nào to, súng nào lớn như thế này cả. Tướng quân lấy ở đâu ra thế?
Lý Tài đáp:
- Nhờ hồng phúc của Chúa thượng nên Lý Tài tôi cướp được của quân Tây Sơn vượt bể về theo Chúa thượng.
- Tướng quân có biết quân Tây Sơn học ở đâu cách đúc súng, đóng thuyền lớn thế này không?
Lý Tài nhanh trí vờ than rằng:
- Thuyền to súng lớn này là ở bên Trung Quốc thần lánh nạn giặc Thanh qua đất Qui Nhơn mới bày vẽ cho Nguyễn Nhạc làm ra. Giờ biết bụng Nguyễn Nhạc, ăn năn thì đã muộn!
Định Vương xua tay bảo:
- Tướng quân chớ có phiền muộn. Giờ về với ta, tướng quân hãy bày vẽ cho quân ta đóng thuyền, đúc súng lớn như thế là lập công chuộc tội rồi. Tướng quân cho quân lính bắn thử một phát súng đại bác xem sao!
Lý Tài vâng lệnh sai quân nhồi thuốc nạp đạn, nhắm cây cổ thụ trên bờ mà bắn. Súng nổ mật tiếng long trời, đạn bay trúng một cành cây cổ thụ, cây liền gãy lìa làm đôi. Định Vương cùng các quan đều giật mình kinh hãi. Vương nói:
- Súng đại bác này thật lợi hại. Thảo nào quân Tây Sơn đánh đâu thắng đó. Phiền tướng quân hãy đóng tạm ở sông Thị Nghè, ta về thành Sài Côn sẽ theo nghi lễ mà tiếp đón. Nhất định ta sẽ phong khanh làm ĐạI tướng quân điều binh khiển tướng đánh giặc Tây Sơn.
Nói rồi liền về thành. Về phần Đỗ Thành Nhân, đến tư dinh, Nhân tức giận nói với thủ hạ là Võ Nhân, Võ Tánh, Đỗ Nhàn Trập rằng:
- Công lao quân Đông Sơn ta vào sinh ra tử đuổi quân Tây Sơn đi lấy được Sài Côn rước Chúa thượng về đây. Nay Lý Tài chân ướt chân ráo mới đến hàng, Chúa thượng định phong cho hắn làm Đại tướng quân điều binh khiển tướng, không thèm đếm xỉa gì đến ta cả. Thật tức chết đi được.
Đỗ Nhàn Trập bàn:
- Nay trong thành Sài Côn do quân Đông Sơn ta kiểm soát, chủ tướng truyền quân đóng cửa thành không cho Lý Tài vào thành xem hắn làm gì được ta.
Thành Nhân tán thành nói:
- Được! Các ngươi mau truyền lệnh cho ba quân, bao giờ có lệnh ta mới được mở cổng thành, ngoài ra không nghe lệnh của bất cứ ai, kể cả Chúa thượng!
Võ Tánh can:
- Nếu làm thế e rằng ta can tội khi quân. Xin chủ tướng xét lại.
Thành Nhân hậm hực bảo:
- Can tội khi quân thì Chúa làm gì được ta nào?
Võ Tánh cúi đầu thận trọng thưa:
- Chúa không làm gì được ta. Nhưng ở Trường Đồn thì có Lê Văn Quân trấn thủ, Trấn Biên, Bình Thuận thì có Hồ Văn Lân, Nguyễn Văn Hoằng. Gần đây là đồn Thị Nghè thì có trấn đồn Nguyễn Nghi lại thêm Lý Tài mới về hàng trợ giúp. Nếu ba bên đánh tới thì Đông Sơn ta ở thành Sài Côn nguy mất.
Thành Nhân cười rằng:
- Chúa thượng ở trong tay ta thì quân các trấn dám động binh sao? Các ngươi không phải nói nữa, cứ y lệnh mà làm!
Võ Tánh, Võ Nhân, Đỗ Nhàn Trập vâng lệnh lui ra. Sáng hôm sau, Chúa Định Vương cùng Nguyễn Đăng Trường ngồi cùng một cỗ xe, lại sắp sẵn một cỗ xe trống đi sau. Cỗ xe này chúa Định Vương dùng để rước Lý Tài cho đúng lễ cầu hiền. Chúa tôi ra cổng thánh Đông, quân giữ cổng ngăn lại. Định Vương quát hỏi:
- Chúng bay chẳng thấy ta sao, còn chưa mở cổng thành!
Quân canh bình thản đáp:
- Xin Chúa thượng bớt giận, chúng thần được lệnh của quan Trấn thủ phụ chính không được mở cổng thành cho bất cứ ai.
Định Vương giận quát lớn:
- Chúng bay muốn làm phản hay sao?
Nói xong toan rút gươm, Nguyễn Đăng Trường ngăn lại can:
- Xin Chúa thượng bớt giận. Bọn chúng là quân sĩ chỉ nghe lệnh chủ tướng, lỗi này là ở Đỗ Thành Nhân. Chi bằng ta hãy về cung gọi Đỗ Thành Nhân hỏi cho ra lẽ.
Định Vương bấm bụng quay về cung gọi Đỗ Thành Nhân đến hỏi:
- Vì sao ngươi lệnh cho quân sĩ đóng cổng thành không cho ta đi?
Nhân đáp:
- Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho giặc Tây Sơn, nên hạ thần đóng cổng không cho Lý Tài đem quân vào thành.
Vương nén giận hỏi:
- Nhưng Lý Tài đã có thư tiến cử của Đông cung?
Nhân đáp:
- Lòng người khó đoán, dù có moi tim cũng dễ hồ biết thật hay giả, sá gì một tờ giấy lộn mà Chúa thượng cả tin. Thần làm thế là để bảo toàn cơ nghiệp cho Chúa thượng mà thôi!
Nói rồi quay ra truyền quân canh phòng cẩn mật không cho Định Vương cùng hoàng tộc ra ngoài cung cấm.
Định Vương hỏi Nguyễn Đăng Trường:
- Vì sao Thành Nhân lại phản ta?
Trường ngao ngán đáp:
- Chúa thượng định phong Lý Tài làm Đại tướng quân, Đỗ Thành Nhân sợ Lý Tài tranh mất quyền mình nên làm phản.
Vương lại hỏi:
- Bây giờ phải làm thế nào?
Trường buồn rầu nói:
- Bây giờ ngoại bất nhập, nội bất xuất không thể liên lạc với quân các trấn bên ngoài đành khoanh tay ngồi chờ vậy.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 22 Thả Đông cung, Vũ Văn Nhậm được vợ. Bỏ Tây Sơn, Nguyễn Phúc Dương đoạt ngôi
Nói về Nguyễn Nhạc ở thành Qui Nhơn đêm đêm nằm mộng thấy mình mặc áo hoàng bào ngồi trên ngai vàng có kẻ hầu người hạ như một bậc đế vương. Mộng xong thường ngồi dậy quát gọi quân hầu. Quân hầu chạy đến thưa:
- Mấy đêm liền Chúa công thấy chiêm bao, nửa đêm giật mình ngồi dậy. Tiểu nhân xin đi mời quan thái y đến thăm bệnh Chúa công.
Nguyễn Nhạc gạt đi bảo:
- Không cần! Ngươi hãy đi mời mưu sĩ Nguyễn Thung đến dây cho ta.
Nguyễn Thung vội vàng khăn áo chỉnh tề đến, thi lễ xong hỏi Nhạc:
- Có việc quan trọng đến thế nào mà nửa đêm Chúa công cho gọi Nguyễn Thung này?
Nhạc đáp:
- Mấy đêm liền ta nằm mộng thấy mình làm vua không đêm nào ngủ được, nên cho mời tiên sinh đến hỏi xem có cao kiến gì để ta lên ngôi vua được chăng?
Nguyễn Thung suy nghĩ giây lâu rồi can:
- Quân dân ở phủ Qui Nhơn vẫn thường gọi Chúa công là vua trời. Dù Chúa công chưa lên ngôi nhưng trong lòng dân Chúa công đã là vua rồi vậy. Vả lại quân Tây Sơn ta lấy nghĩa tôn phò để dấy binh. Nay Đông cung Nguyễn Phúc Dương vẫn ở trong quân ta mà Chúa công xưng vương e rằng mất nghĩa tôn phò thì không thu phục được lòng dân. Đợi khi bình Nam dẹp Bắc xong, Chúa công lên ngôi Hoàng đế nào có muộn gì!
Nhạc buồn rầu hỏi:
- Không có cách nào làm vua sớm hơn được sao?
Nguyễn Thung đành nói hoãn:
- Hiện thời chưa có kế gì. Tôi xin về suy nghĩ lại rồi sẽ bẩm Chúa công sau.
Nói rồi Thung cáo biệt ra về. Nguyễn Thung không về nhà mà tìm đến tư dinh Nguyễn Huệ, quân canh vào báo với Huệ:
- Thưa tướng quân, có mưu sĩ Nguyễn Thung đến xin gặp tướng quân.
Nguyễn Huệ còn bận đồ ngủ vội ra ngoài nghênh tiếp. Mời Thung vào nhà, Huệ hỏi:
- Chẳng hay có việc chi hệ trọng mà nửa đêm tiên sinh đến gặp tôi?
Nguyễn Thung kể lại việc nằm mộng của Nguyễn Nhạc cho Huệ nghe. Nghe xong Huệ cười nói:
- Việc này nào có khó gì, xin tiên sinh về dinh an nghỉ. Ngày mai tôi cùng tiên sinh đến gặp đại huynh thì đâu vào đấy cả.
***
Sáng hôm sau, Nguyễn Thung, Nguyễn Huệ đến gặp Nguyễn Nhạc. Huệ cầm tay Nhạc nói:
- Hiện nay đại huynh chưa thể lên ngôi Hoàng đế. Nhưng đại huynh có thể xưng Vương được!
Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
- Quân ta lấy nghĩa tôn phò Đông cung. Chúa nhà Nguyễn chỉ mới có tước Vương. Nay Chúa công xưng Vương còn đâu nghĩa tôn phò?
Huệ quay lại trả lời Thung rằng:
- Lúc mới khởi binh thế lực còn yếu nên ta mới mượn cớ tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương để thu phục lòng người. Nay ta binh hùng tướng mạnh chính là lúc cần nói rõ chính nghĩa của Tây Sơn là đập đổ hai nhà Trịnh – Nguyễn, đem giang sơn qui về một mối, mang thái bình lại chi trăm họ. Con cờ Đông cung ta không dùng đến nữa. Thả Lý Tài vào Gia Định quả như tôi dự đoán, Lý Tài và Đỗ Thành Nhân tranh giành quyền nhau. Hiện Đỗ Thành Nhân quản thúc Định Vương trong thành Sài Côn không cho Lý Tài đầu hàng. Lý Tài bơ vơ tiến thoái lưỡng nan. Nay ta thả Đông cung Nguyễn Phúc Dương, Dương tất theo về với Lý Tài, Lý Tài tất có chính nghĩa để đem quân đánh Đỗ Thành Nhân. Khi ấy thành ra Chúa Định Vương và Đông cung tranh quyền đánh giết lẫn nhau, lòng người sẽ sinh ra chán ngán mà hướng về đại huynh. Khi ấy, đại huynh chính thức xưng Vương thì không phải là hợp lẽ hay sao?
Nguyễn Nhạc lắc đầu nói:
- Lâu nay Nguyễn Phúc Dương không màng chính sự, đam mê tửu sắc lấy trò săn bắn làm vui, chỉ trông cậy vào ta đánh Nam dẹp Bắc để đưa hắn lên ngôi chúa. Thì cớ gì Nguyễn Phúc Dương lại bỏ Tây Sơn ta mà chạy vào Gia Định?
Huệ cười đáp:
- Đại huynh chưa tường bụng dạ của Đông cung. Số là từ khi đại huynh nhận sắc phong của quân Trịnh đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, thì hắn biết rằng đại huynh không thực bụng tôn phò, nên giả vờ ngây thơ như thế để đại huynh không chú ý rồi thừa dịp trốn đi đấy thôi! Nay ta thả lỏng hắn mà hắn không trốn đi, Nguyễn Huệ tôi xin dâng đầu dưới trướng. Xin đại huynh chớ khá nghi ngờ!
Nguyễn Thung vỗ tay khen:
- Thật là biết người biết ta diệu kế thập toàn, Nguyễn Thung tôi xin cúi đầu bái phục.
Nguyễn Nhạc mừng rỡ nói:
- Nhờ mưu của em, ta đã được xưng Vương rồi. Nhưng ta phải thả Đông cung như thế nào cho hắn nghĩ rằng tự hắn trốn khỏi Tây Sơn ta như Lý Tài vậy?
Huệ hiến kế:
- Đại huynh hãy cho sửa sang lại thành Qui Nhơn, nguyên là thành Đồ Bàn của vua cũ Chiêm Thành. Ta viện cớ sửa thành đem Đông cung ra ở chùa Thập Tháp. Chùa Thập Tháp ở phía Bắc thành, lại gần sông. Nguyễn Phúc Dương chắc chắn sẽ xuống thuyền ra cửa biển Cách Thử mà trốn vào Gia Định.
Nguyễn Nhạc y lời sai quân gọi Nguyễn Phúc Dương đến nói:
- Nay quân ta chưa đủ mạnh để đánh Trịnh chiếm lại kinh thành Phú Xuân. Tôi định cho người sửa sang lại thành Đồ Bàn thành đất đế kinh. Vậy phiền Thế tử tạm ra ở chùa Thập Tháp, đợi khi nào sửa xong thành sẽ rước Thế tử về chính thức xưng Vương, không phải dùng vương hiệu của Định Vương Nguyễn Phúc Thuần nữa. Chẳng hay ý Thế tử thế nào?
Nguyễn Phúc Dương mừng thầm trong bụng nói:
- Tướng quân vì tôi phải lao tâm khổ trí. Tướng quân sắp xếp thế nào tôi nhất nhất tuân theo.
Nói xong liền về tư dinh sửa soạn hành lý. Nguyễn Nhạc sai Vũ Văn Nhậm làm hộ vệ cho Nguyễn Phúc Dương. Trước khi đi, Nhạc dặn Nhậm:
- Ngươi hãy mang một trăm quân theo hộ vệ Nguyễn Phúc Dương ra ở chùa Thập Tháp, rồi làm như sơ hở để Dương thừa cơ trốn đi. Đến chùa Thập Tháp, Nguyễn Phúc Dương bàn với người hầu già là Nguyễn Gia Hầu:
- Nguyễn Nhạc nghĩ rằng ta tin hắn thật sự tôn phò, nên không nghi ngờ mới cho ta ra ở nơi này. Ta nhân dịp này trốn vào Gia Định với Lý Tài thì có cơ khôi phục cơ đồ.
Nguyễn Gia Hầu nói:
- Tôi thấy việc Nguyễn Nhạc cho Đông cung ra ở chùa Thập Tháp là có ẩn ý gì đây!
Dương giật mình hỏi:
- Ngươi nói thế là thế nào?
Gia Hầu đáp:
- Vũ Văn Nhậm là một đại tướng của Tây Sơn rất giỏi võ nghệ, theo lệnh Nguyễn Nhạc theo hộ vệ nhưng kỳ thực là quản thúc Đông cung. Nếu Nguyễn Nhạc không nghi ngờ ta sao còn làm như thế?
Dương lại hỏi:
Vậy ta phải làm sao mới thoát được Nguyễn Nhạc?
Gia Hầu đáp:
- Tôi có một kế khiến Vũ Văn Nhậm bó tay đứng nhìn ta thoát vào Gia Định.
Dương hối thúc:
- Kế thế nào nói mau xem!
Gia Hầu từ tốn thưa:
- Nguyên từ ngày Nguyễn Nhạc hứa sau này sẽ gả con gái mình là Thọ Hương cho Thế tử. Tôi nhận thấy Thọ Hương phải lòng Thế tử và thường tơ tưởng chuyện nhân duyên. Nay ta cứ làm thế này... thế này... thì không những thế tử thoát được vào Gia Định, còn khiến cho Nguyễn Nhạc phải tức uất mà chết!
Nguyễn Phúc Dương mừng rỡ khen:
- Ngươi thật là đa mưu túc trí. Nếu sau này ta tự chủ dựng nghiệp thì ngươi sẽ là quân sư của ta đó!
Nói xong liền bảo Gia Hầu lập tức quay về thành Qui Nhơn. Nguyễn Gia Hầu đến gặp tiểu thư Thọ Hương, nói:
- Thế tử ra ở chùa Thập Tháp mới có mấy ngày không được trông thấy tiểu thư mà lâm bệnh. Nếu tiểu thư không đến thăm e rằng Thế tử chết mất.
Thọ Hương đau xót nói:
- Tuy rằng cha tôi hứa gả tôi cho Thế tử, nhưng chưa phải là nên nghĩa phu thê. Nếu tôi đến thăm Thế tử e rằng phạm vào chữ hạnh trong tứ đức của người phụ nữ thì sao?
Nói xong lau nước mắt. Gia Hầu biết Thọ Hương đã xiêu lòng, liền quì mọp cầu khẩn:
- Thế tử chưa được lệnh của Tây Sơn chủ tướng nên không dám quay về. Nếu tiểu thư không đến Thế tử ắt tương tư mà chết.
Tiểu thư Thọ Hương bằng lòng nói:
- Thôi được ông hãy vế trước! Ta sẽ trốn cha ta đến gặp Thế tử một phen!
Thọ Hương đi rồi, quản gia vào báo cùng Nguyễn Nhạc. Nhạc thất kinh nói:
- Thôi chết, con ta đã bị Nguyễn Phúc Dương lừa mất rồi!
Nói xong liền lên ngựa đem theo vài tên hộ vệ lập tức đuổi theo. Lúc ấy Vũ Văn Nhậm đang ngủ trong tự quán nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân có Chúa công thân hành đến chùa.
Vũ Văn Nhậm thất kinh ra đón. Nhạc hỏi:
- Thọ Hương con gái ta đâu?
Văn Nhậm sợ hãi đáp:
- Chúa công dặn phải để Phúc Dương trốn thoát, nên tôi chẳng chủ tâm theo dõi, không biết tiểu thư ra đến nơi này.
Tên quân canh bước ra nói:
- Tôi vừa trông thấy Thế tử cùng tiểu thư cưỡi ngựa ra bến sông.
Nguyễn Nhạc cùng Vũ Văn Nhậm liền đuổi theo đến bờ sông. Đến nơi thấy Phúc Dương và Thọ Hương đã ở trên thuyền, Nguyễn Nhạc cho quân trương cung lắp tên. Nhạc gọi lớn:
- Thế tử muốn đi hãy đi một mình, hãy để con gái ta ở lại.
Phúc Dương liền rút gươm kề cổ Thọ Hương nói trả:
- Nếu ngươi xạ tiễn ta sẽ giết chết Thọ Hương!
Đoạn Dương bảo Gia Hầu hối quân chèo gấp. Nguyễn Nhạc chưa biết làm thế nào, Vũ Văn Nhậm liền giương cung lắp tên bắn một phát trúng vào cổ tay cầm gươm của Nguyễn Phúc Dương. Dương đau quá buông gươm ôm lấy tay. Tiểu thư Thọ Hương trên mạn thuyền mất đà té nhào xuống sông. Vũ Văn Nhậm liền nhảy xuống nước bơi ra dìu Thọ Hương vào bờ. Ba quân trông thấy tài thiện xạ của Vũ Văn Nhậm nói với nhau rằng:
- Vũ tướng quân bắn cung thật tài tình, chẳng khác Dưỡng Do Cơ ngày xưa vậy!
Từ ấy trong quân thường gọi Vũ Văn Nhậm là tiểu Dưỡng Do Cơ. Về thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc hội các tướng đến nói:
- Nguyễn Phúc Dương không biết rằng ta cố tình thả hắn nên lập mưu bắt con gái ta làm con tin để chạy vào Gia Định. May nhờ có Vũ Văn Nhậm trổ tài thiện xạ cứu được con ta. Vả lại ta thiết nghĩ nam nữ thọ thọ bất thân, mà Nhậm đã ôm con gái ta dìu vào bờ khác nào tình chồng vợ. Vậy nay ta định tác hợp Nhậm và Thọ Hương nên nghĩa phu thê. Chẳng hay ý Nhậm thế nào?
Vũ Văn Nhậm quì lạy tạ ơn. Nguyễn Nhạc liền định ngày làm lễ thành hôn cho Vũ Văn Nhậm và Thọ Hương.
***
Nói về Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương dong thuyền chạy vào Gia Định. Đến sông Thị Nghè gặp Lý Tài, Dương hỏi:
- Lý tướng quân đã yết kiến Chúa thượng hay chưa? Sao còn đóng thuỷ trại nơi này?
Lý Tài đáp:
- Thưa Thế tử, tôi đã đưa thư tiến cử của Thế tử đến Chúa thượng. Chúa thượng hẹn sẽ đón vào thành dung nạp. Đến nay đã gần hết một tuần trăng sao chẳng thấy động tĩnh gì?
Dương hỏi:
- Tướng giữ đồn Thị Nghè là ai?
Lý Tài đáp:
- Là Nguyễn Nghi!
Nguyễn Phúc Dương bèn cùng Lý Tài đi thuyền đến gần đồn. Dương gọi Nguyễn Nghi ra hỏi:
- Nguyễn tướng quân có nhận ra ta chăng?
Nguyễn Nghi trông thấy Dương liền vội vàng nghênh đón vào trong đồn, quì lạy hỏi:
- Nghe tin Thế tử bị quân Tây Sơn bắt sao thoát được về đây?
Dương đáp:
- Ta cùng Lý Tài hẹn nhau trốn khỏi Qui Nhơn vào đất Gia Định mưu khôi phục cơ đồ. Sao Chúa thượng không dung nạp Lý Tài?
Nghi đáp:
- Chúa thượng có ý phong Lý Tài làm đại tướng quân điều binh khiển tướng. Chẳng ngờ vào trong thành không thấy nói gì đến việc Lý Tài cả. Tôi đã sai người về thành Sài Côn hỏi ý, nào ngờ quân trong thành không cho vào, chẳng hiểu là ý gì?
Phúc Dương, Lý Tài liền cùng Nguyễn Nghi đem theo một trăm quân cưỡi ngựa đến thành Sài Côn gọi Đỗ Thành Nhân. Nghi gọi lớn:
- Đỗ tướng quân mau mở cổng thành, có Đông cung Thế tử xin vào yết kiến Chúa thượng.
Đỗ Thành Nhân trên mặt thành nói vọng xuống:
- Tôi là người Gia Định đem quân Đông Sơn đuổi Tây Sơn giúp chúa, không biết mặt Đông cung Thế tử. Vậy có chi làm bằng người ấy là Đông cung Thế tử?
Nghi nói:
- Vậy phiền tướng quân cho mời Chúa thượng lên mặt thành nhận diện.
Nhân đáp:
- Chúa thượng long thể bất an không thể rời khỏi long sàng.
Nguyễn Phúc Dương bảo Đỗ Thành Nhân:
- Trong hoàng tộc có một người cháu của Định Vương tên là Nguyễn Phúc Ánh. Tướng quân hãy cho gọi người này lên thành nhận diện, không phải phiền đến Chúa thượng.
Đỗ Thành Nhân đích thân đi gọi Nguyễn Phúc Ánh. Nhân thấy Ánh vừa mới mười lăm tuổi, làn da trắng trẻo, mặt nhỏ, mắt tròn, vóc người lanh lẹ, liền bào Ánh:
- Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho Tây Sơn, tôi can gián mãi Chúa thượng không nghe, bất đắc dĩ mới không cho Chúa thượng đón Lý Tài vào thành. Nay Lý Tài dẫn một người đến dưới thành xưng là Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương, mời hoàng điệt lên thành nhận diện để vào yết kiến Chúa thượng, xin cho Lý Tài đem quân vào thành. Nếu Lý Tài vào thành rồi làm nội ứng cho giặc Tây Sơn thì chúa ta nguy mất, vậy khi lên mặt thành, hoàng điệt chớ nhìn Đông cung Thế tử, đuổi chúng đi cho rồi. Nếu không như thế thì tôi không bảo toàn tính mạng cho Chúa thượng và hoàng tộc được đâu.
Phúc Ánh giận dữ nói:
- Tôi xin vào trong lấy cây cung tôi thường sử dụng, bắn bọn chúng cho hả dạ!
Nói rồi liền quay vào lấy cung tên theo Đỗ Thành Nhân lên mặt thành. Nguyễn Phúc Dương trông thấy Ánh liền gọi lớn:
- Ta là Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương đây! Phúc Ánh hoàng đệ có nhận ra ta chăng?
Nguyễn Phúc Ánh quát lớn:
- Ngươi là kẻ vô danh nơi nào dám nhận là Đông cung Thế tử! Hãy xem thần tiễn của ta đây!
Nói rồi dương cung lắp tên bắn một phát nhằm ngay chóp nón Nguyễn Phúc Dương. Dương giật mình kinh hãi nhổ tên ra, thấy có bức thư dán cẩn thận quanh thân tên. Nhìn lên mặt thành lại thấy Phúc Ánh nháy mắt làm hiệu, Dương hiểu ý liền dẫn quân về đồn Thị Nghè. Đỗ Thành Nhân khen Nguyễn Phúc Ánh:
- Hoàng điệt tuổi còn niên thiếu mà sáng suốt hơn người, lại giỏi nghề cung kiếm. Thật trí dũng song toàn, đáng khen thay!
Phúc Ánh cười thầm chẳng nói gì.
Nguyễn Phúc Dương về đồn Thị Nghè giở thư Phúc Ánh ra đọc. Thư rằng:
Đỗ Thành Nhân làm phản quản thúc Chúa thượng. Thế tử hãy họp quân các trấn đánh thành Sài Côn cứu Chúa thượng cùng hoàng thân quốc thích.
Dương đọc xong nói:
- Nguyễn Phúc Ánh mới mười lăm tuổi mà trí dũng song toàn thật đáng khen. Nếu không nhờ Phúc Ánh đưa tin, thì ta không rõ tại sao Chúa thượng ở trong thành Sài Côn lại nội bất xuất, ngoại bất nhập như thế. Lý Tài và Nguyễn Nghi cùng hợp quân tiến đánh Sài Côn. Ta sẽ sai người gọi Nguyễn Văn Hoằng, Hồ Văn Lân ở Trấn Biên, Bình Thuận kíp đem quân tiếp viện.
Nguyễn Nghi can:
- Đỗ Thành Nhân dùng Chúa thượng làm con tin để khống chế các trấn. Nay nếu ta đem quân đánh Sài Côn, e rằng Đỗ Thành Nhân bức tử Chúa thượng cùng hoàng tộc thì sao?
Phúc Dương ngẫm nghĩ rồi nói:
- Đỗ Thành Nhân dùng Chúa thượng để khống chế chúng ta. Nay ta cứ giả vờ như không nghe lệnh Chúa thượng, Đỗ Thành Nhân thấy con tin không còn giá trị ắt chẳng bức Chúa thượng cùng hoàng tộc làm chi.
Nói rồi truyền Lý Tài và Nguyễn Nghi đem toàn quân tổng cộng được năm ngàn, tiến về vây thành Sài Côn. Phúc Dương nói riêng với Lý Tài:
- Nếu Đỗ Thành Nhân bức tử Chúa thượng thì ta đường đường nối nghiệp tổ tiên khôi phục cơ đồ.
Đến thành Sài Côn, Lý Tài cho quân đem đại bác bắn phá khắp thành. Quân Đông Sơn chống không nổi, từng tảng đá trên mặt thành bị đạn đại bác bắn đổ rào rào. Đỗ Thành Nhân liệu bề đánh không lại liền đem Định Vương Nguyễn Phúc Thuần lên mặt thành. Phúc Dương trông thấy liền bảo Lý Tài lệnh quân ngừng bắn. Đỗ Thành Nhân lên mặt thành nói lớn:
- Có Chúa thượng ở đây, các người định làm phản hay sao?
Nguyễn Phúc Dương cười lớn nói:
- Ngươi ngu muội tưởng có Định Vương là khiển được chúng ta hay sao? Ta đây là Đông cung Thế tử mới là dòng chính thống. Định Vương năm xưa chẳng qua do Trương Phúc Loan chuyên quyền làm điều soán nghịch mà thôi. Quân ta bắn phá được thành sẽ bắt ngươi cho tứ mã phanh thây.
Nguyễn Phúc Thuần thất kinh khóc lớn:
- Năm xưa Trương Phúc Loan phế truất cháu, thì ta chẳng qua là con cờ của Phúc Loan mà thôi. Bởi vậy ta mới phục chức cháu là Đông cung Thế tử. Nay cháu và các tướng không phục ta thì cũng nghĩ đến tình cốt nhục mà lui binh. Nếu không Đỗ Thành Nhân sẽ giết chết hoàng thân trong thành thì cháu cũng mang tiếng là người bất nhân vậy!
Đỗ Thành Nhân nghe Phúc Thuần nói xong liền tiếp lời:
- Nếu ngươi lui binh về đồn Thị Nghè, ta sẽ thả Chúa thượng cùng hoàng tộc, bằng nếu lòng quyết đánh, ta giết hết không tha!
Nguyễn Nghi nói với Phúc Dương:
- Nay Đỗ Thành Nhân cùng đường e nổi giận làm càn. Chi bằng ta lui quân về đồn Thị Nghè, cho hắn thả hoàng tộc rồi sẽ đánh lấy Sài Côn sau.
Phúc Dương nghe lời liền thu quân về. Lý Tài nhăn mặt hỏi riêng Phúc Dương:
- Nếu ta tiếp tục đánh Sài Côn, Đỗ Thành Nhân nổi giận bức tử Định Vương thì Thế tử lên ngôi tôn nắm quyền nhiếp chính, ta lại trừ được phản tặc Đỗ Thành Nhân, lấy thành Sài Côn. Một công lợi đôi ba việc, sao Thế tử không làm?
Dương trầm ngâm đáp:
- Nếu ta làm thế e rằng mang tiếng bất nhân, sợ các tướng không phục mà sinh nội biến, ấy là một lẽ. Chúa thượng là người nhu nhược, ta bảo ông ấy thoái vị nhường ngôi ông ấy ắt phải nghe, thì ta vẫn nắm quyền nhiếp chính, ấy là hai lẽ. Sau khi thả hoàng tộc xong, Đỗ Thành Nhân tất phải bỏ Sài Côn mà chạy, thì ta vẫn lấy được thành mà không phải hao binh tồn tướng, ấy là ba lẽ. Vì ba điều lợi ấy nên ta mới thu binh về đồn Thị Nghè.
Lý Tài mừng rỡ khen:
- Thế tử liệu việc thật sâu sắc, không còn ngây thơ như trước nữa rồi. Vậy tôi xin đem quân bản bộ xuống phía Nam thành Sài Côn mai phục ở cánh rừng cạnh làng Hoà Hưng, đợi Đỗ Thành Nhân đến đó đánh một trận mà diệt trừ hậu họa.
Nguyễn Phúc Dương y lời, Lý Tài dẫn quân đi ngay.
Lúc ấy Đỗ Thành Nhân ở trong thành Sài Côn nói với thủ hạ:
- Ta tưởng có Định Vương trong tay là sai khiến được tướng sĩ, nào ngờ Đông cung Thế tử lại thoát khỏi tay quân Tây Sơn quay về Gia Định làm đảo lộn toàn bộ kế sách của ta. Các tướng có kế gì xoay chuyển tình thế được chăng?
Võ Tánh bàn:
- Nay Nguyễn Phúc Dương lui quân về đồn Thị Nghè, ta hãy mau bỏ thành Sài Côn rút về căn cứ Đông Sơn ta ở đất Tam Phụ. Nếu chậm trễ chúng điều binh của Lê Văn Quân ở Long Hồ, Hồ Văn Lân ở Trấn Biên, ba mặt cùng giáp công thì ta không còn đường thoát.
Đỗ Thành Nhân nghiến răng nói:
- Đang được phong làm phụ chính dưới quyền chúa, bỗng chốc phải bỏ trốn vào rừng. Cơ sự cũng do thằng giặc Tàu Lý Tài mà ra. Thù này có ngày ta phải trả.
Nói rồi mở cửa Nam thành Sài Côn đem năm ngàn quân Đông Sơn rút về vùng rừng Tam Phụ.
Quân Đông Sơn mới đi đến cánh đồng trống ở đầu ấp Hoà Hưng, bỗng nghe pháo lệnh nổ vang, súng đại bác từ hai cánh rừng ầm ầm bắn ra, tiếp theo là trận mưa tên đổ xuống. Quân Đông Sơn trúng tên đạn chết rất nhiều.
Đỗ Thành Nhân thất kinh than:
- Ta đã bị Lý Tài mai phục mất rồi!
Nói rồi dẫn quân chạy một mạch không dám ngoái đầu lại. Về đến rừng Tam Phụ, Thành Nhân kiểm điểm binh mã thấy hao hết một ngàn quân, số còn lại áo quần rách rưới, thương tích đầy mình. Thành Nhân nghiến răng trợn mắt hét vang:
- Bớ Lý Tài! Thù này ta quyết chẳng đội trơi chung!
Quân Đông Sơn đi rồi, Nguyễn Phúc Dương vào thành Sài Côn ngự nơi chính điện, cho mời Nguyễn Phúc Thuần đến. Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Đăng Trường đến thấy Dương ngự trên ngai chúa, dưới thì võ sĩ hai hàng mặt đằng đằng sát khí. Thuần thấy vậy ngao ngán nói:
- Ta bất tài kém đức nên lòng người không phục. Chính vì Quốc phó Trương Phúc Loan đưa ta lên ngôi chúa nên Tây Sơn mới thừa cơ dấy loạn, xã tắc ngả nghiêng. Vậy nay ta thoái vị nhường ngôi cho cháu nắm quyền nhiếp chính đánh giặc Tây Sơn khôi phục cơ đồ nhà Nguyễn ta.
Năm Bính Thân (1776), niên hiệu Cảnh Hưng thứ Ba mươi bảy, Nguyễn Phúc Dương tôn Định Vương Nguyễn Phúc Thuần làm Thái Thượng Vương, còn mình tự xưng làm Tân Chính Vương cùng lo việc khôi phục cơ nghiệp nhà Nguyễn. Từ ấy họ Nguyễn ở Gia Định có một lúc hai chúa, nhưng quyền hành đều ở trong tay Tân Chính Vương cả. Thiên hạ thấy trong lúc đất nước như ngàn cân treo sợi tóc mà các chúa tranh quyền với nhau, đều lắc đầu chán ngán.

Tây Sơn bi hùng truyện
Phần II - Chương 23 ĐẬP TAN NHÀ NGUYỄN. Lo nước xa, Lê Quý Đôn trổ tài. Sợ ma gần, Phạm Ngô Cầu bày kế.
Trong lúc chúa tôi họ Nguyễn ở Gia Định đang đánh giết lẫn nhau, quân do thám Tây Sơn về Qui Nhơn báo cùng Nguyễn Nhạc. Nhạc liền cho mời các tướng đến thương nghị. Nhạc nói:
- Quả nhiên không ngoài dự đoán của Nguyễn Huệ, ta thả Lý Tài và Thế tử Nguyễn Phúc Dương vào Gia Định, làm cho Lý Tài và Đỗ Thành Nhân đánh giết lẫn nhau, Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng tranh ngôi chúa. Hiện nay Thuần và Dương đều xưng Vương hiệu cả khiến tướng sĩ nản chí, lòng dân tan rã. Nay lòng người ở Đàng Trong đều mong ngóng vào chính nghĩa của Tây Sơn ta. Vậy đây là lúc ta phải xưng Vương hiệu cho an lòng mong mỏi của bá tánh.
Nguyễn Huệ can rằng:
- Xin đại huynh chớ vội. Hễ bứt dây thì phải động rừng!
Nhạc phật ý hỏi:
- Lúc trước Huệ bảo ta thả Hoàng tôn Dương cho Dương và Phúc Thuần tranh quyền lực đánh giết lẫn nhau khiến lòng người chán ngán thì ta xưng Vương là hợp lẽ. Nay thời thế đúng như vậy, ta định xưng Vương thì Huệ lại nói bứt dây động rừng là nghĩa làm sao?
Nguyễn Huệ quỳ đáp:
- Thưa đại huynh, hợp lẽ là hợp lẽ ở Đàng Trong, còn đối với họ Trịnh ở Đàng Ngoài thì đại huynh đang thụ phong chức Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Nay đại huynh xưng Vương, họ Trịnh sẽ vin vào cớ ấy mà xuất binh đánh ta. Hiện thời ta chưa diệt được họ Nguyễn ở Gia Định mà phải dấy động can qua với họ Trịnh ở mặt Bắc thì thật là thất sách. Xin đại huynh xét lại.
Nhạc miễn cưỡng hỏi:
- Vậy ta phải làm thế nào?
Huệ vẫn quỳ dưới đất tâu:
- Từ khi Hoàng Ngũ Phúc bị bệnh tả lỵ bỏ đất Quảng Nam mà rút về Phú Xuân Thuận Hoá, thì quân ta ở Qui Nhơn do Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú chỉ huy đã tiến ra đánh chiếm lại Quảng Nam. Nay đại huynh hãy sai người khéo nói đi sứ sang Trịnh xin phong làm Quảng Nam trấn thủ để dò xét xem ý tứ của họ thế nào rồi ta sẽ liệu bề tiến thủ.
Bất đắc dĩ, Nhạc bảo:
- Việc này không phải Nguyễn Thung tiên sinh thì còn ai làm nổi!
Nguyễn Thung bước ra thưa:
- Tôi xin vì Chúa công đi sứ sang Trịnh lần nữa!
Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Thung:
- Lần trước tiên sinh đi sứ sang Trịnh gặp Hoàng Ngũ Phúc, đại huynh tôi liền được phong làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Lần này tiên sinh sang gặp Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn ắt phải bị đuổi về, nhưng nếu tiên sinh đi thẳng ra Thăng Long yết kiến Trịnh Sâm, thì buộc lòng Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn phải để cho tiên sinh đi.
Nguyễn Thung lấy làm lạ hỏi:
- Huệ nói thế nghĩa là thế nào? Thật tình tôi không hiểu?
Huệ nói nhỏ với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Thung:
- Đại huynh cứ bảo Nguyễn Thung tiên sinh làm như vầy... như vầy... thì sẽ ra được Thăng Long mà dò ý Trịnh Sâm.
Nhạc và Thung đồng thanh khen:
- Thật là diệu kế!
Nguyễn Thung đến Phú Xuân gặp Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn nói:
- Thưa quan trấn thủ, Tây Sơn hiệu trưởng sai tôi sang dâng sớ xin phong, phiền quan trấn thủ mở cổng thành cho đi qua!
Bùi Thế Đạt nói:
- Trời đã tối, sứ giả hãy về nghỉ nơi công quán. Ngày mai ta sẽ mở cổng thành cho đi.
Nguyễn Thung lui ra, Bùi Thế Đạt liền vời quan tham thị Lê Quý Đôn đến hỏi:
- Nay Nguyễn Nhạc sai sứ ra Thăng Long gặp Chúa thượng dâng sớ xin phong. Theo ông là ý thế nào?
Lê Quý Đôn suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Năm xưa Chúa thượng vì lợi dụng quân Tây Sơn đánh họ Nguyễn ở phương Nam, trong lúc quân ta bị dịch tả lỵ ở Quảng Nam nên mới phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Nay quân Tây Sơn đã tiếp quản đất Quảng Nam bỏ trống, lại muốn đem đại binh vào tiêu diệt họ Nguyễn, nhưng sợ ta thừa cơ xâm phạm mặt Bắc, nên Nguyễn Nhạc mới sai sứ xin phong để dò ý Chúa ta như thế nào mà tuỳ cơ ứng biến đó thôi. Ta nhân dịp này khuyên Chúa ta đánh giặc Tây Sơn. Vậy ngài hãy đuổi sứ giả Nguyễn Nhạc về, đừng cho họ ra Thăng Long gặp Chúa xin phong.
Hôm sau Bùi Thế Đạt mời Nguyễn Thung đến hỏi:
- Trước khi đem ra Thăng Long cho Chúa thượng, xin sứ giả cho xem sớ xin phong.
Nguyễn Thung lấy tờ sớ trong tay áo trao cho Bùi Thế Đạt. Đạt đọc xong cười lớn nói:
- Nguyễn Nhạc đã được phong làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân, đem binh đi đánh họ Nguyễn ở phương Nam. Nay Chúa Nguyễn đang hùng cứ đất Gia Định, sao Nguyễn Nhạc không đem binh thảo phạt, lại thừa cơ lúc quân ta bị dịch tả lỵ rút khỏi Quảng Nam, mà đem quân chiếm đất Quảng Nam bỏ trống, ấy là ra mặt đối nghịch với Chúa ta. Thế mà dám dâng sớ xin phong làm Quảng Nam trấn thủ là ý thế nào? Ngài hãy về thưa lại cùng Nguyễn Nhạc, ta thừa lệnh của Chúa tự quyết mọi việc ở đất Quảng Nam Thuận hoá, đừng hoài công đến Thăng Long làm gì?
Nguyễn Thung ung dung đáp:
- Khi tướng quân Hoàng Ngũ Phúc sợ dịch tả lỵ mà lui khỏi đất Quảng Nam, Tây Sơn hiệu trưởng ra giữ đất này cứu dân khỏi bệnh, vỗ an bá tánh, phân phát lương thực cho dân nghèo để tỏ rõ đức độ trị quốc an dân của Chúa Tĩnh Đô Vương, thì sao lại bảo là ra mặt đối nghịch cùng Chúa thượng? Vả lại nay tôi vận lệnh Tây Sơn hiệu trưởng đem sổ bộ dân của các tình Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên ra kinh thành Thăng Long dâng cho Chúa thượng. Mỗi phủ bao nhiêu huyện, mỗi huyện gồm bao nhiêu ấp, mỗi ấp được bao nhiêu gia đình đều ghi rõ trong sổ bộ dân này. Tây Sơn hiệu trưởng chiếu theo sổ bộ ấy thu thuế của dân sai tôi đem ra kinh thành nộp cho Chúa thượng. Nay ngài đuổi tôi về, ngộ nhỡ Chúa bắt tội Tây Sơn hiệu trưởng không nộp thuế như hồi họ Nguyễn làm khi xưa, lúc ấy ngài có đứng ra chịu trách nhiệm cho hiệu trưởng được chăng?
Bùi Thế Đạt bảo:
- Nếu Tây Sơn hiệu trưởng nộp sổ bộ và thuế, tôi sẽ sai quân áp tải ra kinh. Ngài cứ quay về không ngại gì cả!
Nguyễn Thung cười nói:
- Ngài nói thế sai rồi! Phàm xưa nay quan các trấn thủ mỗi khi nộp thuế đều tự áp tải về kinh. Chưa từng nghe nói đến việc phải giao cho trấn khác áp tải bao giờ. Nếu ngài cản trở không cho đi tôi xin quay về báo cùng Tây Sơn hiệu trưởng vậy!
Nói rồi vòng tay bái tạ toan lui ra. Lê Quý Đôn bước ra ngăn lại:
- Xin tiên sinh hãy khoan đi, vui lòng cho tôi coi qua sổ bộ xem thử có điều gì gian dối chăng?
Nguyễn Thung liền gọi quân mang sổ bộ vào, Lê Quý Đôn xem qua một lượt, trả lại cho Nguyễn Thung rồi bảo:
- Xin tiên sinh tạm về công quán nghỉ ngơi. Nguyên lúc Hoàng tướng quân chiếm được thành Phú Xuân có tịch biên được sổ bộ dân lưu trữ của các phủ Đàng Trong. Đợi tôi sai ngườI tìm lại rồi ngày mai ngài đem sổ bộ của ngài ra đối chiếu. Nếu quả đúng như vậy sẽ để ngài áp tải số thuế ra kinh.
Nguyễn Thung đi rồi Lê Quý Đôn nói với Bùi Thế Đạt:
- Nay Nguyễn Thung áp tải số thuế của các phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên ra kinh. Nếu ta ngăn trở, Chúa thượng hay được sẽ bắt tội khi quân, nên không thể không cho hắn đi. Nếu Nguyễn Thung đến được Thăng Long gặp Chúa ta, ắt chúa ta thấy cái lợi trước mắt mà phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ. Câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” đã ứng rồi vậy. Tôi e sau này nước ta nguy mất!
Bùi Thế Đạt nói:
- Nói vậy nghĩa là không có cách nào ngăn họ đi sứ ra kinh. Nhưng theo tôi được biết lúc lúc Chúa Nguyễn bỏ thành Phú Xuân đã mang theo sổ bộ dân của các phủ Đàng Trong chạy vào Gia Định, làm gì có việc Hoàng Ngũ Phúc tịch biên được sổ bộ dân. Vậy sao ông bảo Nguyễn Thung ngày mai đem sổ bộ dân ra đối chiếu là ý thế nào?
Đôn buồn bã đáp:
- Sau khi phong Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ rồi, chúa ta sẽ không đề phòng quân Tây Sơn. Chủ ý của tôi là muốn cho Nguyễn Nhạc biết rằng đất Bắc hà ta không hiếm người tài. Để sau này khi diệt xong nhà Nguyễn, Nhạc dù muốn dòm ngó nước ta cũng dè dặt mà không dám dấy động can qua.
Đôn nói rồi gọi quân đem bút nghiên đến viết một mạch từ đầu đến cuối bốn quyển sổ bộ dân của bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Viết xong, Đôn nói:
- Ngày mai ta cứ nói dối rằng đây là sổ bộ dân lưu trữ ở thành Phú Xuân mà Hoàng tướng quân tịch biên được năm xưa. Xin cam đoan không sai sót một chữ nào.
Bùi Thế Đạt thất kinh nói:
- Từ nhỏ đã nghe danh ông là thần đồng nhớ giỏi. Nay tận mắt thấy trí nhớ của ông, thật là quỉ khốc thần sầu!
Ngày sau Nguyễn Thung đem sổ bộ dân ra đối chiếu quả nhiên không sai một chữ nào. Nguyễn Thung tháo mồ hôi hột, vòng tay bái Lê Quý Đôn:
- Nét mực vừa mới ráo, chứng tỏ ngài vừa viết xong. Mới đọc qua sổ bộ một lần mà chép lại không sai một chữ. Tài của ngài thật đáng sợ thay!
Đôn cười bảo:
- Ấy là việc vặt nào có tài cán gì. Đất Bắc Hà còn lắm người tài năng gấp bội. Tôi vì bất tài nên không được ở chốn kinh thành mới vào trấn nhậm Phú Xuân. Ông chớ khen quá lời tôi lấy làm xấu hổ lắm!
Nguyễn Thung vòng tay cáo biệt cùng đoàn tuỳ tùng lên đường ra Thăng Long. Trên đường đi, Thung nói với tả hữu:
- Nếu không nhờ Nguyễn Huệ bày mưu nộp thuế, thì làm gì ta được đi sứ Thăng Long.
***
Ngày ấy ở kinh thành Thăng Long, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có việc ra ngoài phủ. Sâm bèn bảo quân sắp sẵn xe tứ mã, dùng nghi lễ như một vị vua. Sâm vừa bước lên xe bỗng nhiên trời đất tối sầm, gió thổi ào ào, mây đen vần vũ. Từ trong đám gió bụi kia xảy một người bước ra chặn trước đầu xe. Người ấy mặt mũi khôi ngô, mình mặc áo hoàng bào, đầu vấn khăn vàng, chân đi hài tía. Sân tức giận quát hỏi:
- Ngươi là ai sao dám chặn đường ta?
Người ấy quát lớn:
- Thằng nghịch tặc, ta là Thái tử Lê Duy Vĩ đến đòi mạng ngươi đây!
Nói xong vung gươm chém Trịnh Sâm. Sâm hoảng sợ nhảy tránh, té xuống xe. Quân hậu vệ vội vàng chạy đỡ Sâm dìu vào tướng phủ. Phạm Ngô Cầu lúc nào cũng theo hầu bên cạnh Sâm. Sâm hỏi Phạm Ngô Cầu:
- Khi cơn gió lạ nổi lên ngươi có thấy Thái tử Lê Duy Vĩ hiện ra chăng?
Ngô Cầu ngạc nhiên đáp:
- Cơn gió lạ này rất giống cơn gió lạ lúc hạ thần vào ngục ép Thái tử Lê Duy Vĩ uống thuốc độc mà chết. Nhưng cơn gió lúc nãy hạ thần không trông thấy Thái tử.
Sâm buồn rầu than:
- Ngày trước tuổi trẻ ngông cuồng ta giết chết Thái tử. Nay Thái tử chết oan về tìm ta đòi mạng. Thật là gieo nhân nào gặt quả ấy vậy!
Nói rồi bảo Phạm Ngô Cầu dẹp bỏ nghi lễ thiên tử mình đang dùng. Ngô Cầu rùng mình sởn gai ốc liền vội vã đi ngay. Trịnh Sâm lại sai người tìm tìm những nơi phong cảnh tốt tươi khắp trong thành, ngoài nội xây dựng chùa chiền, lệnh quan sở tại ngày đêm thay nhau cầu đảo luôn luôn cho hồn Thái tử được siêu thoát.
***
Ngày ấy ở kinh thành Thăng Long, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có việc ra ngoài phủ. Sâm bèn bảo quân sắp sẵn xe tứ mã, dùng nghi lễ như một vị vua. Sâm vừa bước lên xe bỗng nhiên trời đất tối sầm, gió thổi ào ào, mây đen vần vũ. Từ trong đám gió bụi kia xảy một người bước ra chặn trước đầu xe. Người ấy mặt mũi khôi ngô, mình mặc áo hoàng bào, đầu vấn khăn vàng, chân đi hài tía. Sân tức giận quát hỏi:
- Ngươi là ai sao dám chặn đường ta?
Người ấy quát lớn:
- Thằng nghịch tặc, ta là Thái tử Lê Duy Vĩ đến đòi mạng ngươi đây!
Nói xong vung gươm chém Trịnh Sâm. Sâm hoảng sợ nhảy tránh, té xuống xe. Quân hậu vệ vội vàng chạy đỡ Sâm dìu vào tướng phủ. Phạm Ngô Cầu lúc nào cũng theo hầu bên cạnh Sâm. Sâm hỏi Phạm Ngô Cầu:
- Khi cơn gió lạ nổi lên ngươi có thấy Thái tử Lê Duy Vĩ hiện ra chăng?
Ngô Cầu ngạc nhiên đáp:
- Cơn gió lạ này rất giống cơn gió lạ lúc hạ thần vào ngục ép Thái tử Lê Duy Vĩ uống thuốc độc mà chết. Nhưng cơn gió lúc nãy hạ thần không trông thấy Thái tử.
Sâm buồn rầu than:
- Ngày trước tuổi trẻ ngông cuồng ta giết chết Thái tử. Nay Thái tử chết oan về tìm ta đòi mạng. Thật là gieo nhân nào gặt quả ấy vậy!
Nói rồi bảo Phạm Ngô Cầu dẹp bỏ nghi lễ thiên tử mình đang dùng. Ngô Cầu rùng mình sởn gai ốc liền vội vã đi ngay. Trịnh Sâm lại sai người tìm tìm những nơi phong cảnh tốt tươi khắp trong thành, ngoài nội xây dựng chùa chiền, lệnh quan sở tại ngày đêm thay nhau cầu đảo luôn luôn cho hồn Thái tử được siêu thoát.
***
Nói về Nguyễn Thung cùng đoàn tuỳ tùng áp tảI xe vàng bạc lúa thóc ra Thăng Long nộp thuế, thấy khắp nơi đều tấp nập chặt cây, chẻ đá xây dựng chùa chiền, Thung lấy làm lạ hỏI dân:
- Vì sao trong thành ngoài nộI lạI xây cất chùa chiền nhiều như thế?
Dân đáp:
- Năm xưa chúa Trịnh giết chết Thái tử Lê Duy Vĩ, nay Thái tử về đòi mạng chúa, nên chúa lệnh các nơi xây cất chùa chiền cầu đảo cho hồn Thái tử được siêu thoát. Việc này khắp kinh thành ai mà không biết!
Nguyễn Thung quay về nói vớI tả hữu:
- Ấy chẳng qua là làm điều tàn bạo, lương tâm bất ổn, nên tưởng tượng sinh ra mộng mị, chứ làm gì có việc ngườI chét đi lạI về đòi mạng.
Nói xong vào phủ chúa xin yết kiến Trịnh Sâm. Thung dâng sổ bộ dân và sổ bộ thuế bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Sâm xong trong lòng rất vui, cườI nói hỉ hả.
Thừa lúc chúa đang vui, Nguyễn Thung dâng sớ của Nguyễn Nhạc xin phong. Sâm xem xong còn chưa quyết, chợt Phạm Ngô Cầu vào báo:
- KhảI Chúa! Có một lão già bày dân hát lờI nhạo báng Chúa thượng, tộI đáng bêu đầu. Hạ thần đã bắt về đây cho Chúa thượng trị tội.
Sâm nhướng mắt hỏI:
- Hát lờI nhạo báng ta như thế nào?
Cầu khúm núm:
- Thưa! Hạ thần không dám nói. Xin giảI hắn vào cho Chúa thượng tra xét.
Nói xong liền lôi tộI nhân vào. TộI nhân là một lão già tuổI quá tám mươi, râu tóc bạc phơ. Sâm quát hỏI:
- Lão già kia! Ngươi bày vẽ dân chúng hát lờI nhạo báng ta là lờI gì?
Lão già thản nhiên đáp:
- Già thấy dân chặt cây đục đá làm chùa chiền buột miện ca rằng: “Dầu xây chín bực phù đồ. Không bằng làm phúc cứu cho một ngườI”. MọI ngườI nghe xong liền bắt chước ca theo. Thật tình già không dám nhạo báng Chúa thượng.
Sâm dịu giọng hỏI:
- Ngươi ca hai câu ấy nghĩa là gì?
Lão già đáp:
- Xin chúa tha tộI, ý già nói rằng trước đây nếu chúa không giết chết Thái tử thì ngày nay cần gì phảI xây dựng chùa chiền khắp nơi như thế.
Sâm hỏI:
- Ngươi không sợ chết sao?
***
Nói về Nguyễn Thung cùng đoàn tuỳ tùng áp tải xe vàng bạc lúa thóc ra Thăng Long nộp thuế, thấy khắp nơi đều tấp nập chặt cây, chẻ đá xây dựng chùa chiền, Thung lấy làm lạ hỏi dân:
- Vì sao trong thành ngoài nội lại xây cất chùa chiền nhiều như thế?
Dân đáp:
- Năm xưa chúa Trịnh giết chết Thái tử Lê Duy Vĩ, nay Thái tử về đòi mạng chúa, nên chúa lệnh các nơi xây cất chùa chiền cầu đảo cho hồn Thái tử được siêu thoát. Việc này khắp kinh thành ai mà không biết!
Nguyễn Thung quay về nói với tả hữu:
- Ấy chẳng qua là làm điều tàn bạo, lương tâm bất ổn, nên tưởng tượng sinh ra mộng mị, chứ làm gì có việc người chết đi lại về đòi mạng.
Nói xong vào phủ chúa xin yết kiến Trịnh Sâm. Thung dâng sổ bộ dân và sổ bộ thuế bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Sâm xong trong lòng rất vui, cười nói hỉ hả.
Thừa lúc chúa đang vui, Nguyễn Thung dâng sớ của Nguyễn Nhạc xin phong. Sâm xem xong còn chưa quyết, chợt Phạm Ngô Cầu vào báo:
- Khải Chúa! Có một lão già bày dân hát lời nhạo báng Chúa thượng, tội đáng bêu đầu. Hạ thần đã bắt về đây cho Chúa thượng trị tội.
Sâm nhướng mắt hỏi:
- Hát lời nhạo báng ta như thế nào?
Cầu khúm núm:
- Thưa! Hạ thần không dám nói. Xin giải hắn vào cho Chúa thượng tra xét.
Nói xong liền lôi tội nhân vào. Tội nhân là một lão già tuổi quá tám mươi, râu tóc bạc phơ. Sâm quát hỏi:
- Lão già kia! Ngươi bày vẽ dân chúng hát lời nhạo báng ta là lời gì?
Lão già thản nhiên đáp:
- Già thấy dân chặt cây đục đá làm chùa chiền buột miệng ca rằng: “Dầu xây chín bực phù đồ. Không bằng làm phúc cứu cho một người”. Mọi người nghe xong liền bắt chước ca theo. Thật tình già không dám nhạo báng Chúa thượng.
Sâm dịu giọng hỏi:
- Ngươi ca hai câu ấy nghĩa là gì?
Lão già đáp:
- Xin chúa tha tội, ý già nói rằng trước đây nếu chúa không giết chết Thái tử thì ngày nay cần gì phải xây dựng chùa chiền khắp nơi như thế.
Sâm hỏi:
- Ngươi không sợ chết sao?
Lão già không chút sợ hãi đáp:
- Năm ấy Thái tử mới ngoài ba mươi tuổi còn không sợ chết thay, lão nay đã ngoài tám mươi còn sợ chết nỗi gì!
Phạm Ngô Cầu nổi giận toan lôi ra chém. Sâm khoát tay bảo:
- Hãy tha cho lão được sống. Việc này là do lỗi ở ta – Nói xong nét mặt dàu dàu tâm thần bất định. Sâm bảo Nguyễn Thung:
- Ngươi hãy ra nghỉ ngơi ngoài công quán. Việc Nguyễn Nhạc xin phong ngày khác sẽ bàn đến – Nói xong truyền bãi triều.
Phạm Ngô Cầu về tư dinh nghĩ đến việc hồn Thái tử báo oán, trong lòng lo lắng bèn nói với vợ:
- Năm ấy Tĩnh Đô Vương giết chết Thái tử, nhưng chính ta là người mang thuốc độc vào ngục ép Thái tử uống. Nay Thái tử về đòi mạng chúa ắt sớm muộn gì cũng đến lượt ta.
Vợ Ngô Cầu bàn:
- Thiếp nghe nói hồn ma chỉ quanh quẩn gần nơi bị chết không thể đi xa được. Vậy phu quân hãy xin chúa đi trấn nhậm phương xa thì hồn Thái tử không thể nào theo được.
Cầu than thở:
- Nhưng chúa rất tin cậy ta, Năm ấy giết Thái tử chúa chỉ sai ta. Rồi khi gợi ý các quan về việc sang Tàu xin phong làm vua, chúa cũng bảo ta khởi xướng. E rằng chúa chẳng cho ta đi trấn nơi xa đâu!
Vợ Ngô Cầu hiến kế rằng:
- Nay chúa đang lo lắng vì hồn Thái tử theo báo oán. Phu quân hãy nhờ người nói với chúa rằng hồn Thái tử theo báo oán phu quân nên làm kinh động đến ngọc thể. Vậy chúa hãy cho phu quân đi trấn nhậm phương xa. Hồn Thái tử sẽ theo phu quân mà không ở gần Chúa thượng, thì lo gì mà chúa chẳng cho đi.
Cầu khen:
- Không ngờ nàng lại đa mưu túc trí, nhưng việc này phải nhờ ai?
- Vợ Cầu đáp:
- Phu quân đã bao năm được phong tước Tạo quận công, trong các bạn đồng liêu lại không tin cậy được ai sao?
Bỗng Phạm Ngô Cầu reo lên rằng:
- Đã có một người! Đã có một người!
Nói xong liền đến công quán gặp Nguyễn Thung. Phân ngôi chủ khách xong, Cầu hỏi Thung:
- Việc Tây Sơn hiệu trưởng xin phong làm Quảng Nam trấn thủ, Chúa thượng đã thuận lòng chưa? Sao ông còn ở mãi không về?
Nguyễn Thung đáp:
- Từ hôm ấy đến nay đã mấy ngày rồi tôi xin vào yết kiến nhưng Chúa thượng chẳng tiếp ai. Tôi rất nóng lòng nhưng chẳng biết phải làm sao?
Cầu nói:
- Tôi có một kế khiến Chúa thượng lập tức thuận phong cho Tây Sơn hiệu trưởng.
Thung vội hỏi:
- Kế thế nào xin ông làm ơn chỉ vẽ. Hiệu trưởng ngày sau sẽ hậu tạ quận công!
Cầu kế tai Nguyễn Thung nói nhỏ:
- Ông cứ làm như vầy... như vầy..., ắt chúa sẽ vui mừng thuận cho Tây Sơn hiệu trưởng làm trấn thủ Quảng Nam.
Nguyễn Thung cả mừng nói:
- Xin cảm ơn quận công bày kế, ơn này thật chẳng dám quên.
Ngày sau Nguyễn Thung đến phủ chúa xin vào ra mắt Trịnh Sâm. Quan nội thị bảo:
- Chúa đang bệnh không tiếp ai cả.
Thung nói:
- Nhờ ngài vào bẩm báo cùng Chúa thượng, có sứ giả của Tây Sơn hiệu trưởng xin vào thăm bệnh Chúa thượng.
Quan nội thị vào trong một hồi rồi quay ra mời Nguyễn Thung vào nội phủ. Sâm miễn lễ cho Nguyễn Thung rồi hỏi:
- Có phải tiên sinh nói vào đây thăm bệnh cho ta?
- Thung đáp:
- Chúa thượng thần sắc nhợt nhạt, nhãn quan không định ấy là do tâm thần bất ổn, bởi yêu ma quấy phá. Bệnh này dùng thuốc không thể khỏi!
Sâm lo lắng hỏi:
- Vậy phải làm thế nào?
Thung đáp:
- Việc này không thể nói cho người khác nghe được!
Sâm liền đuổi hết tả hữu ra ngoài. Thung đưa mắt nhìn Phạm Ngô Cầu không nói. Sâm hiểu ý đuổi cả Phạm Ngô Cầu. Bấy giờ Thung mới nói:
- Thần nghe nói năm xưa chính Ngô Cầu đã ép Thái tử uống thuốc độc mà chết. Nay hồn Thái tử về báo oán Phạm Ngô Cầu làm kinh động đến Chúa thượng. Vả lại sách xưa có nói rằng: “Hễ người tướng quí thì kỵ yêu ma”. Tôi xét thấy có quan trấn thủ Bùi Thế Đạt là dũng lược hơn người, oai phong lẫm liệt, lại thêm quan thị lang Lê Quý Đôn là quan thanh liêm, tâm hồn cao thượng. Vậy Chúa thượng hãy vời hai người này về hầu hạ bên cạnh sẽ trấn được yêu ma. Đồng thời Chúa thượng cho Ngô Cầu vào làm trấn thủ Phú Xuân Thuận Hoá, thì hồn Thái tử sẽ theo Ngô Cầu vào Phú Xuân đòi mạng. Chúa thượng tất bình an vô sự.
Trịnh Sâm mừng rỡ khen:
- Cảm ơn tiên sinh bày cho diệu kế trừ yêu ma. Vậy tiên sinh muốn vật chi ta sẵn sàng ban thưởng.
Thung đáp:
- Thần vì vận mệnh quốc gia chứ không có lòng tham vàng ngọc. Xin hỏi Chúa thượng xét việc Tây Sơn hiệu trưởng xin phong như thế nào, để thần sớm được quay về quê quán?
Sâm liền lấy bút nghiên viết chiếu phong Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên uý đại sứ, Cung quận công rồi trao ấn chiếu cho Nguyễn Thung. Thung lạy tạ lui ra. Sâm lại gọi Phạm Ngô Cầu phong làm trấn thủ đất Thuận Hoá, Nguyễn Lệnh Tân làm tham thị vào thay Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn. Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn được triệu hồi về Thăng Long.
Về đến công quán, Nguyễn Thung vui mừng nói với tả hữu:
- Phạm Ngô Cầu là người tàn ác tham lam và nhu nhược. Nếu Ngô Cầu vào trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, là trời đã bày ra chuyện yêu ma mà giúp cho Chúa công ta vậy.
Nguyễn Thung đem chiếu và ấn về Qui Nhơn dâng lên Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ nói:
- Trịnh Sâm không được làm vua nên chẳng màng đến việc mở mang bờ cõi về phía Nam. Phạm Ngô Cầu bất tài nhu nhược thì ta không lo bị tấn công ở mặt Bắc. Vậy là đại huynh xưng Vương và phát đại binh vào Gia Định tiêu diệt Chúa Nguyễn được rồi đó!
Năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi tám, Nguyễn Nhạc xưng làm Tây Sơn Vương.
Các tướng sĩ đều theo công trạng mà thăng thưởng. Luận công tướng sĩ xong, Nguyễn Thung nói:
- Nay Chúa công vừa mới xưng Vương nên sai tướng đem đại binh vào Gia Định dẹp yên họ Nguyễn, thống nhất toàn cõi Đàng Trong để tỏ rõ chí hướng của Chúa công cho thiên hạ biết vậy.
Nguyễn Nhạc gật đầu nói:
- Tiên sinh nói rất phải, phen này phải đập tan họ Nguyễn ở đất Gia Định, bắt cho được hai chúa Thái thượng vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương. Vậy ai dám lãnh trọng trách này?
Các tướng đồng thanh nói:
- Ngoài tướng quân Nguyễn Huệ không ai làm nổi!
Nhạc hỏi Huệ:
- Em có dám lãnh trọng trách này chăng?
Huệ bước ra đáp:
- Nếu không bình định được đất Gia Định, thống nhất cõi Đàng Trong, bắt chúa nhà Nguyễn, Huệ tôi thề quyết không về.
Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lãnh thuỷ binh hai vạn, đem theo các tướng Nguyễn Lữ, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Đặng văn Long, Bùi Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Phạm Ngạn, Nguyễn Uy và Lê Chu vượt biển tiến vào Gia Định đánh chúa Nguyễn.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 24 Dạ con nít, Đỗ Thành Nhân treo xác Lý Tài. Bụng đàn bà, Bùi Thị Xuân tha mạng Phúc Ánh.
Nói về Nguyễn Huệ vâng lệnh Nguyễn Nhạc đem hai vạn thuỷ binh vào Gia Định đánh chúa Nguyễn. Đến cửa bể Cần Giờ, Nguyễn Huệ cho dừng quân, mời các tướng lên soái thuyền nhận lệnh. Huệ giở bản đồ ra rồi hạ lệnh:
- Nguyễn Lữ làm chánh tướng, Đặng Văn Long phó tướng cùng Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo và Phạm Ngạn dẫn một vạn quân theo sông Đồng Nai, tiến đánh chiếm thành Trấn Biên rồi Lữ và Long chia binh làm ba cánh. Một là cho Đặng Xuân Bảo lãnh một ngàn quân đi đường tắt đến con đường sang nước Cao Miên ở phía Tây thành Sài Côn đốt lửa làm kế nghi binh, không cho Lý Tài ở thành Sài Côn chạy trốn sang Cao Miên. Cánh thứ hai là Nguyễn Lữ và Phạm Ngạn lãnh ba ngàn quân ở lại giữ Trấn Biên đề phòng tiếp ứng cho Đặng Xuân Bảo. Cánh thứ ba là Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đem sáu ngàn binh mã tiến ra đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh và ải Vân Phong.
Nguyễn Lữ nghe xong lãnh lấy lệnh bài. Nguyễn Huệ lại truyền:
- Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Uy lãnh bốn ngàn quân vào cửa biển Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến lên đánh lấy thành Trường Đồn (nay là Mỹ Tho). Chiếm được thành rồi, ba tướng phải canh phòng cẩn mật không cho quân của Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên đem binh tiếp viện, đồng thời chẹn đường rút binh của chúa Nguyễn từ thành Sài Côn về Hà Tiên, làm cho chúng hai đầu không cứu ứng với nhau được. Các tướng nên nhớ trận này vô cùng quan trọng, phải tốc chiến tốc thắng tiêu diệt bằng được họ Nguyễn ở Gia Định rồi lập tức rút binh về Qui Nhơn đề phòng họ Trịnh đánh ta nơi mặt Bắc.
Các tướng đều hăng hái nhận lệnh đi ngay. Bỗng Trần Quang Diệu bước ra nói:
- Các tướng đều đã dẫn quân ra trận. Còn thành Sài Côn do Lý Tài trấn giữ, vợ chồng tôi xin lãnh binh tiên phong chiếm thành.
Nguyễn Huệ cười rằng:
- Thành Sài Côn không cần phải đánh, ta chỉ đem chiến thuyền và hai ngàn quân tiến theo sông Thị Nghè làm kế nghi binh. Đợi khi Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long chiếm xong thành Trấn Biên, Lý Tài ắt phải bỏ thành Sài Côn mà chạy vào Trường Đồn. Nơi này có vùng rừng Tam Phụ do quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân hùng cứ.
Thành Nhân mà nghe Lý Tài chạy đến đây ắt sẽ đem quân đón đánh báo thù năm trước Lý Tài đuổi Đỗ Thành Nhân khỏi thành Sài Côn, lấy mất binh quyền. Ấy là ta không đánh mà địch quân phải hao binh tổn tướng gấp hai lần vậy. Đợi hai con hổ này đánh nhau sức cùng lực kiệt xong, dù chúng có tài dời non lấp biển, cũng không thể nào thoát khỏi vòng vây của ta!
Trần Quang Diệu nghe xong nói:
- Tướng quân dùng binh như thần. Nhưng kể từ ngày đến Tây Sơn tụ nghĩa, vợ chồng tôi chịu ơn tướng quân sâu nặng, mà chưa lập được công trạng gì để trả nợ nước. Nay vào đến đất Gia Định này cũng không được cầm quân ra trận thật đáng buồn thay!
Huệ vỗ vai Quang Diệu thân mật nói:
- Quang Diệu chớ buồn, đánh trận này chính vợ chồng Diệu – Xuân là lập nên đại công vậy!
Bùi Thị Xuân hỏi lẫy rằng:
- Không cầm quân ra trận dám hỏi dượng rể sao lại lập nên đại công?
Huệ chỉ vào bản đồ nói:
- Khi chúa tôi nhà Nguyễn chạy vào Trường Đồn thì Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết tất đã chiếm được thành Trường Đồn triệt đường về Hà Tiên của địch. Lúc ấy chúa Nguyễn chỉ còn một con đường là xuống thuyền theo sông Tiền Giang ra các cửa bể Cung Hầu và cửa bể Hàm Luông hòng chạy trốn ra ngoài hải đảo mà thôi. Vậy Diệu – Xuân hãy lãnh bốn ngàn binh chia quân mai phục ở các cửa bể này chờ hai chúa Nguyễn chạy ra đón bắt, thì không phải là lập được đại công đó sao.
Diệu và Xuân mừng rỡ tạ ơn rồi lãnh lệnh đi ngay. Ngày hôm sau, Nguyễn Huệ mới gọi Lê Chu và hai ngàn quân dưới quyền mình theo sông Thị Nghè từ từ tiến về Sài Côn.
Lúc ấy trong thành Sài Côn quân thám mã hớt hải chạy về phi báo cùng Nguyễn Phúc Dương. Dương cuống cuồng lo sợ gọi Lý Tài đến hỏi:
- Hai vạn quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy hiện đang đóng ở cửa biển Cần Giờ, sớm chiều sẽ tiến đánh Sài Côn. Tướng quân đã có kế sách đánh giặc hay chưa?
Lý Tài nói cứng:
- Thần đã có cách tiến thủ, xin Tân vương chớ lo!
Dương lại hỏi:
- Cách tiến thủ thế nào mau nói ta nghe thử?
Tài đáp:
- Thần đã cho người hoả tốc đến Trường Đồn gọi Lê Văn Quân, Trấn Biên gọi Hồ Văn Lân, Bình Thuận gọi Nguyễn Văn Hoằng mang quân về cứu viện. Hiện thần đã cho quân đặt đại bác trên mặt thành thì không dễ gì Nguyễn Huệ lấy thành được. Chờ ít lâu viện binh về đến, Nguyễn Huệ tất lui binh, lúc ấy ta đem quân đuổi đánh ắt là toàn thắng.
Phúc Dương hoàn hồn nói:
- Ấy thật là kế sách vẹn toàn, nhưng Nguyễn Huệ mưu mẹo vô cùng, dùng binh rất lạ. Nhớ năm xưa hắn chỉ dùng có năm ngàn quân mà đánh tan ba vạn quân của Tôn Thất Hương ở núi Bích Kê sông Lại Dương, Qui Nhơn phủ. Năm sau hắn đem năm ngàn quân lại đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay Nguyễn Huệ vào Gia Định đem hùng binh tới hai vạn nên ta lấy làm lo lắng lắm.
Lý Tài trấn an Dương:
- Xin Tân vương bình tâm. Năm xưa Tôn Thất Hương bất tài, Tống Phước Hiệp khinh địch nên mới lầm mưu sâu mà bại dưới tay Nguyễn Huệ. Sao đem Lý Tài này so sánh với hai người ấy được. Nay đồn Thị Nghè là yết hầu của thành Sài Côn đã có tướng Nguyễn Nghi trấn đóng, thần xin đem toàn quân ra hợp với Nguyễn Nghi giữ Thị Nghè thì Tân vương ở trong thành Sài Côn như ngồi trên bàn thạch vậy.
Nói rồi liền dẫn quân đi. Lý Tài đi rồi, quân thám mã về báo với Dương: Thưa Tân vương, quân Tây Sơn đã đánh chiếm thành Trấn Biên, quan trấn thủ Hồ Văn Lân bỏ thành chạy trốn.
Nguyễn Phúc Dương hoảng hốt định sang dinh phủ Nguyễn Phúc Thuần, vừa lúc thấy Phúc Thuần và Nguyễn Đăng Trường đến. Dương không kịp mời ngồi hỏi ngay:
- Quân Tây Sơn chiếm lấy Trấn Biên, Thái Thượng vương đã biết chưa?
Nguyễn Đăng Trường đỡ lời nói:
- Thượng vương đã biết nên mới sang đây bàn bạc với Tân vương.
Dương hỏi:
- Vậy ta phải làm thế nào?
Trường đáp:
- Nay quân Tây Sơn đã lấy mất Trấn Biên thì Nguyễn Văn Hoằng không thể đem quân về cứu viện. Nguyễn Huệ lại từ cửa Cần Giờ đánh tới Thị Nghè, thành Sài Côn không thể nào giữ nổi. Hai Chúa hãy mau bỏ thành Sài Côn mà lui về Trường Đồn. Nếu Tây Sơn đánh tới Trường Đồn ta còn đường chạy về hà Tiên nương nhờ Mạc Thân Tứ, chứ ngồi ở thành Sài Côn này, ngộ nhỡ Nguyễn Huệ lại cho một cánh quân đánh lấy Trường Đồn, thì quân ta bốn bề thọ địch, khác nào cá nằm trong rọ vậy.
Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Đăng Trường liền đem gia quyến bỏ thành Sài Côn nhằm hướng Nam mà chạy.
Trong đêm ấy Nguyễn Huệ thừa lúc nước lớn cho chiến thuyền tiến sát đồn Thị Nghè đánh trống tưng bừng. Lý Tài và Nguyễn Nghi lệnh quân bắn đại bác xuống thuyền Tây Sơn, Nguyễn Huệ liền cho thuyền lui ra khỏi tầm súng. Một đêm mấy lần như thế, quân Lý Tài bằn hết đạn đại bác thì trời vừa hừng sáng. Bỗng quân từ thành Sài Côn chạy về phi báo: Quân Tây Sơn đã chiếm Trấn Biên. Hai chúa Tân vương và Thượng vương đã bỏ thành Sài Côn chạy về Trường Đồn.
Lý Tài thất sắc nói:
- Quân Tây Sơn sao chiếm được Trấn Biên nhanh thế. Tân vương chạy về Trường Đồn sao không bảo ta một tiếng!
Nói rồi truyền quân bỏ đồn Thị Nghè chạy theo hai chúa.
Lúc ấy sào huyệt quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân ở rừng Tam Phụ cạnh thành Trường Đồn. Đỗ Thành Nhân nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân, chúa Thái Thượng vương và Tân Chính vương bỏ thành Sài Côn vừa chạy ngang qua nơi này. Hiện Lý Tài cũng sắp sửa đến nơi.
Đỗ Thành Nhân mừng rỡ nói:
- Đây là dịp để ta báo thù năm trước, truyền lệnh xuất quân.
Lý Tài dẫn quân chạy đến rừng Tam Phụ bỗng nghe một phát pháo lệnh nổ vang, quân Đông Sơn từ hai bên rừng bắn tên ra như mưa. Quân Lý Tài dùng khiên mà đỡ. Đỗ Thành Nhân thấy quân Lý Tài chẳng chết bao nhiêu liền hô quân giáp chiến. Võ Nhân, Võ Tánh từ bên phải xông ra, Đỗ Thành Nhân, Đỗ Nhàn Trập từ bên trái đánh tới. Lý Tài cùng đường bèn quay lại bảo quân sĩ:
- Các ngươi hãy cùng ta quyết đánh một trận. Thắng quân Đông Sơn là chúng ta thoát nạn. Nếu quay lại gặp quân Tây Sơn thì chỉ còn con đường chết mà thôi.
Nói xong rồi vung đao xông tới. Hai bên giáp chiến, quân Lý Tài thất thế chống không nổi bị giết thây nằm chật đất. Lý Tài ngửa mặt than:
- Không ngờ Lý Tài ta cùng đường chết thảm nơi này!
Than xong đâm cổ tự vẫn. Đỗ Thành Nhân toàn thắng, tàn sát quân Lý Tài không còn một người nào cả. Nhân kiểm điểm binh mã thấy tổn thất cả ngàn quân, tức giận bảo quân lấy xác Lý Tài treo lên cây ven rừng, đoạn Nhân chỉ vào thây Lý Tài đang treo lủng lẳng trên cây mắng:
- Nếu không có mày đến đây thì giờ này ta đang làm phụ chính trong thành Sài Côn thống lãnh binh quyền phò tá chúa. Chính mày làm chúa tôi ta mỗi người đi một ngả, nghi kỵ lẫn nhau, làm rối loạn đất Gia Định này. Tội mày chết vẫn chưa trả được.
Nói xong liền chia nhau đi tìm chúa Nguyễn.
***
Lúc ấy hai chúa đem gia quyến chạy khỏi rừng Tam Phụ cách thành Trường Đồn hai mươi dặm. Bỗng thấy một đám tàn quân từ thành Trường Đồn chạy đến. Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương đón quân ấy lại hỏi:
- Các ngươi là lính của trấn nào?
Quân ấy đáp:
- Kính Chúa thượng, chúng thần là quân ở thành Trường Đồn, thành Trường Đồn bị quân Tây Sơn đánh chiếm, tướng quân Lê Văn Quân không rõ trốn tránh nơi nào. Chúng thần định chạy về Sài Côn báo cho chúa biết chẳng ngờ gặp chúa nơi bày.
Tân vương thất kinh hỏi Nguyễn Đăng Trường:
- Tây Sơn chiếm thành Trường Đồn là ta không còn đường chạy về Hà Tiên. Nay bốn bên địch vây phủ vậy phải làm sao?
Trường vẫn cần mẫn đáp:
- Ta chỉ còn một con đường là theo đường sông ra cửa bể Hàm Luông chạy ra ngoài hải đảo mà thôi!
Nói đoạn chúa tôi đưa gia quyến xuống thuyền xuôi dòng sông hòng ra cửa bể. Trong đoàn thuyền lánh nạn ấy có chiếc thuyền chở người cháu nội Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, con Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân bị Phúc Loan giết chết trong ngục ở Phú Xuân cùng Ý đức hầu Thái uý Trương Văn Hạnh năm xưa. Người này tên gọi Nguyễn Phúc Ánh cùng mẹ và em gái là tiểu thư Ngọc Du đang ở trong thuyền, bỗng thuyền bị gãy cột buồm nên đi chậm lại một đoạn khá xa. Phúc Ánh giật mình đứng trên mũi thuyền nói thầm rằng:
- Ta nghe nói tướng ra trận gãy cờ là điềm gở. Thuyền đang đi gãy buồm chắc là việc chẳng lành!
Vừa nói xong bỗng thấy phía trước đoàn thuyền chúa Nguyễn xuất hiện một đoàn thuyền chiến Tây Sơn từ trong ngả rẽ ào ào xông ra. Tướng Tây Sơn đứng trên mũi thuyền là Trần Quang Diệu quát:
- Hai chúa đừng chạy nữa, tôi chờ hai chúa ở cửa sông này đã lâu!
Nói xong Diệu liền hô quân vây bắt hai chúa Nguyễn. Tân vương ngoảnh lại thấy mình chỉ còn vỏn vẹn mười chiếc thuyền nhỏ và một trăm tên quân, biết không thoát được đành bó tay chịu trói. Thượng vương Nguyễn Phúc Thuần liền chạy ra sau lái thuyền gào to lên rằng:
- Phúc Ánh cháu ơi mau chạy đi!
Gào xong nhảy xuống sông tự vẫn. Nguyễn Đăng Trường hét lên một tiếng đâm đầu theo Phúc Thuần. Trần Quang Diệu sai quân lặc xuống nước vớt Thuần và Trường lên thuyền. Về phần Nguyễn Phúc Ánh ở nơi xa thấy hai chúa bị Tây Sơn bắt liền quay thuyền hối quân chèo gấp. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân lướt thuyền theo đuổi bắt. Chạy được một đoạn Phúc Ánh liệu bề ở dưới sông không chạy kịp liền bảo quân quay thuyền vào bờ dìu mẹ và em gái lên đất liền chạy trốn. Bùi Thị Xuân cũng tấp thuyền vào cùng mươi nữ hộ vệ đuổi theo Phúc Ánh. Vì vướng mẹ và em nhỏ chạy chẳng thoát, ngoảnh lại thấy quân đuổi theo toàn là nhi nữ, Ánh bèn quay lại vung gươm rượt đánh. Được vài hiệp, Thị Xuân chờ giáo Phúc Ánh đâm tới, liền đưa tay chụp lấy mũi giáo kẹp vào trong nách mình. Phúc Ánh dùng hết sức rút giáo về nhưng cánh tay Bùi Thị Xuân như sắt không sao rút được. Thị Xuân kề gươm vào cổ Ánh hô nữ binh trói lại. Lúc ấy mẹ Ánh và em gái Ánh là tiểu thư Ngọc Du cũng vừa bị giải đến. Mẹ Ánh quỳ lạy Thị Xuân và khóc rằng:
- Nay dòng họ Nguyễn của tiên vương chỉ còn một mình nó là trai. Xin bà hãy bắt mẹ con tôi về làm tội, hãy tha thứ cho Phúc Ánh để nó lo việc tế tự tổ tiên về sau.
Nói xong khóc lóc thảm thiết. Tiểu thư Ngọc Du lúc ấy vừa tròn mười bốn tuổi cũng quỳ cạnh mẹ mà lạy Thị Xuân. Thị Xuân ngoảnh mặt gạt đi:
- Không van xin gì cả! Quân bay giải về hết cho ta!
Lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh mới quỳ lạy Thị Xuân ba lạy nói:
- Tôi tuy còn nhỏ nhưng là nam nhi, vì nước loạn mà chết chẳng ân hận gì. Bất đắc dĩ phải lạy nữ tướng quân ba lạy, xin nữ tướng hãy thả cho mẹ và em tôi được sống. Mẹ tôi đã già, em tôi là nữ nhi thường tình không thể làm hại cho xã tắc được, xin nữ tướng quân mở lượng hiếu sinh.
Thị Xuân quay lại bảo:
- Được! Ta tha cho mẹ và em ngươi. Quân bay giải Phúc Ánh đi!
Mẹ Ánh ôm chân phải Thị Xuân khóc rống lên rằng:
- Cả dòng họ chỉ còn mình nó là trai. Nó chết đi mẹ con tôi còn sống làm gì nữa.
Tiểu thư Ngọc Du ôm chân trái Thị Xuân khóc nức nở cầu xin:
- Bà cũng là phụ nữ, cũng làm mẹ cũng có con, ắt hiểu được tấm lòng của mẹ con tôi. Vậy xin bà hãy tha cho anh tôi được sống.
Hai mươi nữ binh của Thị Xuân trông thấy cảnh này đều rơi nước mắt. Thị Xuân động lòng nói với em mình là Bùi Thị Cúc:
- Nếu ta tha Phúc Ánh, ngộ nhỡ Chúa công bắt tội biết ăn nói làm sao?
Thị Cúc đáp:
- Việc này chỉ có chị em ta cùng hai mươi vệ quân thân tín, ta giấu đi sao Chúa công biết được. Chỉ e rằng Phúc Ánh là dòng hoàng tộc nếu sau này khởi binh báo thù thì nguy cho xã tắc mà thôi!
Thị Xuân cười bảo:
- Cả một cơ đồ còn phải sụp đổ thay, huống gì thằng con nít này trong tay chẳng một tên quân thì làm gì ta được.
Nói rồi liền ra lệnh tha cho ba mẹ con Phúc Ánh. Phúc Ánh cùng mẹ và em rối rít lạy tạ ơn, rồi vội vàng dìu nhau đi về làng dân gần đó. Ngọc Du hỏi Ánh:
- Anh ơi! Nay không cửa không nhà, không người thân thích biết phải về đâu?
Ánh vỗ về Ngọc Du:
- Trời đất này là của nhà Nguyễn ta, nay ta lại không có chỗ dung thân sao? Ta sẽ về với Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn mẫu hỏi:
- Ngày trước Thành Nhân quản thúc Thượng vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn. Nay theo về với hắn để làm tù nhân ư. Thà mẹ sống làm một người dân hạ tiện còn hơn về với Đỗ Thành Nhân!
Ánh trấn an mẹ và em rằng:
- Mẹ cứ an tâm! Lần trước quản thúc họ nhà ta trong thành Sài Côn hắn tưởng rằng con khờ dại nên mới bảo con lên mặt thành vờ không nhận Đông cung Thế tử Dương. Nhờ vậy con bắn tên đưa thư cho Thế tử Dương thông báo việc Thành Nhân làm phản. Đến nay Thành Nhân vẫn nghĩ rằng con tin hắn một dạ trung thành ắt vui vẻ mà đón tiếp mẹ con ta. Vả lại Thành Nhân dấy binh lấy tên Đông Sơn là có ý cho rằng binh hắn đối dịch với Tây Sơn. Nay có mẹ con ta hắn ắt mừng vì có nghĩa tôn phò, không hậu tiếp con sao được? Mẹ chớ lo!
Nói rồi liền dìu mẹ và em ngày đi đêm nghỉ bước thấp bước cao cực khổ trăm bề, tìm đến rừng Tam Phụ nương náu Đỗ Thành Nhân.
***
Nói về tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ vào thành Sài Côn rồi. Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân dẫn Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương, Tĩnh điệp hầu Nguyễn Đăng Trường về nộp dưới trướng. Nguyễn Huệ cười hỏi Phúc Dương:
- Đại huynh tôi sửa thành Đồ Bàn, tạm mời Đông cung Thế tử ra chùa Thập Tháp, chờ sửa xong thành sẽ rước Thế tử về xưng vương. Sao Thế tử lại chạy vào Gia Định để nhà Nguyễn ta có một lần hai chúa vậy?
Phúc Dương đáp:
- Ta thoát được về Gia Định mưu khôi phục cơ đồ. Nay việc không thành là do lòng trời vậy. Muốn chém giết mặc lòng, chớ hỏi lôi thôi.
Nguyễn Huệ truyền quân đem tạm giam Dương và Thuần, rồi tự tay mở trói cho Nguyễn Đăng Trường hỏi:
- Ngày trước chia tay ở Qui Nhơn, tiên sinh ra đi định xoay chuyển lại đất trời. Nay tiên sinh bị tôi bắt lần nữa, cỗ xe cầu hiền tôi vẫn dành cho tiên sinh đó. Chẳng hay ý tiên sinh thế nào?
Trường lạnh lùng đáp:
- Ngày nay chỉ có chết mà thôi!
Huệ cười bảo:
- Nếu thả tiên sinh lần nữa, chỉ e rằng lần sau quân lính của Huệ lại tốn thêm một sợi dây trói chứ lợi ích gì?
Nói rồi Huệ truyền quân lôi Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương và Nguyễn Đăng Trường ra chém. Chém xong Huệ lại sai quân tống táng theo nghi lễ vương hầu.
***
Nói về Nguyễn Lữ lấy xong thành Trấn Biên rồi, bèn sai Đặng Văn Long đem sáu ngàn binh mã tiến đánh Bình Thuận. Quân Tây Sơn trước đặt đại bác bắn vỡ thành rồi xung phong giáp chiến. Quân Nguyễn nghe súng nổ, trống đánh vang trời đã kinh hồn bạt vía bèn bỏ thành chạy trốn vào rừng. Nguyễn Văn Hoằng lúc ấy đã ngoài năm mươi tuổi, lên ngựa mặc giáp cùng vài trăm quân tín cẩn đến cửa thành cản địch, bị Đặng Xuân Phong chém một đao rơi đầu. Đặng Văn Long thừa thắng kéo quân ra thẳng thành Diên Khánh. Đồn trại quân Nguyễn dọc đường bị quân Tây Sơn tung hoả hổ mà đốt, khắp nơi lửa cháy ngút trời. Bại binh quân Nguyễn đổ xô chạy về thành Diên Khánh, tên nào tên nấy áo rách tả tơi, kẻ phồng mình, người gãy tay, sứt trán kêu khóc xin mở cửa thành. Quan trấn thủ Diên Khánh là Tống Phước Khuông kinh hãi đốc thúc quân canh phòng cẩn mật. Bỗng nghe trống trận Tây Sơn dồn dập từ xa, quân của Khuông run lên bần bật. Khương nổi giận vung gươm chém một tên quân vì sợ hãi mà rơi mất giáo. Khuông quát:
- Giặc tới phải liều chết mà đánh, nếu ai sợ ta giết chết không tha.
Vừa dứt lời quân Tây Sơn ở dưới thành đặt đại bác bắn vào. Súng nổ ầm ầm, đạn bay vèo vèo lên mặt thành, trúng vào đâu gạch đá vỡ tan. Quân Khuông hò nhau bỏ chạy. Khuông ngăn không được bèn hoà trong đám loạn quân bỏ thành mà trốn. Chiếm được thành Diên Khánh, Đặng Văn Long nói với Đặng Xuân Phong:
- Nay từ Qui Nhơn vào Gia Định chỉ còn quân Nguyễn đóng trên ải Vân Phong. Chiếm được ải này là từ Quảng Nam đến Sài Côn đã thuộc về Tây Sơn ta vậy!
Nói rồi truyền quân tiến đánh ải Vân Phong. Quân Tây Sơn đến chân đèo, thấy trên đèo tĩnh mịch như tờ, không một bóng người. Long liền cho vài tên quân lên dò thám, đến nơi mới hay tướng giữ Vân Phong là Tống Phước Lương và toàn quân đã bỏ trốn mà trốn tự bao giờ!
Quân Tây Sơn khắp nơi toàn thắng. Nguyễn Huệ liền để Lê Chu giữ thành Sài Côn, Nguyễn Uy giữ thành Trường Đồn, Phạm Ngạn giữ Trấn Biên, Đặng Xuân Phong giữ Bình Thuận, Diên Khánh rồi hợp binh các đạo tại cửa Cần Giờ định ngày rút về Qui Nhơn. Văn Long hỏi Huệ:
- Nay ta mới bình chứ chưa yên được đất Gia Định. Lê Chu, Nguyễn Uy, Phạm Ngạn đều là người hữu dũng vô mưu không biết phép trị dân, nay ở lại trấn Gia Định e lòng người không phục.
Huệ đáp:
- Ta cũng biết thế, nhưng lúc xuất binh ở Qui Nhơn đại huynh dặn dò ta khi chiếm được Gia Định phải để ba người này trấn thủ ba dinh, rồi rút đại binh về Qui Nhơn để phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. ta để Lê Chu, Phạm Ngạn, Nguyễn Uy trấn thủ ba dinh là làm theo lệnh đại huynh mà thôi.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
- Nguyễn Uy, Lê Chu, Phạm Ngạn là do Chúa công lập trường đấu võ tuyển dụng ra. Chúa công đố tài tướng quân nên để ba người này trấn Gia Định để làm vây cánh ở cõi ngoài mà thôi.
Huệ ôn tồn bảo Văn Tuyết:
- Tuyết nói sai rồi! Chẳng qua đại huynh ta thấy các ông đều là hào kiệt nên muốn cùng ta về Qui Nhơn đề phòng quân Trịnh. Tuyết chớ nói càn mà mang tội khi quân.
Văn Tuyết quỳ tâu:
- Tướng quân là người trung hậu, tình nhà nghĩa nước vẹn đôi bề. Đối với Chúa công hết dạ trung thành, chúng tôi rất lấy làm kính phục. Bản thân Tuyết tôi chịu ơn cứu mạng của Chúa công, nguyện đem thân này ra đáp trả. Nhưng Tuyết tôi nghĩ sao thì nói vậy, Chúa công là người nhân hậu, vì thương người nghèo mà dấy nghĩa cứu dân, nhưng Chúa công tánh hay đố kỵ người tài trí hơn mình, e bất lợi cho đại sự, tướng quân nên tính trước. Tuyết tôi nói thế là vì quốc dân mà thôi. Xin tướng quân tha tội.
Nguyễn Huệ trợn mắt quát:
- Văn Tuyết to gan! Nếu không nghĩ ngươi là một công thần theo đại huynh ta từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa, ta giết chết không tha.
Nói rồi đuổi Văn Tuyết ra ngoài, truyền quân xuất phát đem đại binh về Qui Nhơn.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 25 Đánh Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc lên ngôi. Nương Thành Nhân, Phúc Ánh làm chúa.
Ngày kia thiết triều, Nguyễn Nhạc trang trọng nói:
- Nguyễn Huệ đem đại binh vào Nam Hà đánh một trận giết được hai chúa nhà Nguyễn, toàn bộ đất đai từ Quảng Nam vào Gia Định đều thuộc nhà Tây Sơn ta cả. Thành Đồ bàn vừa mới sửa xong, ý ta muèn lên ngôi Hoàng đế các khanh nghĩ thế nào?
Nguyễn Huệ vội bước ra can:
- Xin đại huynh chớ lên ngôi Hoàng đế!
Nguyễn Nhạc phật ý nói:
- Nay ta đã tiêu diệt xong nhà Nguyễn, thống nhất toàn cõi Đàng Trong, sao lại không lên ngôi Hoàng đế được?
Huệ quỳ xuống nói:
- Thưa đại huynh, dân nước Nam ta vẫn còn nhớ ơn vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Minh, nên trong lòng trăm họ chỉ có họ Lê làm vua mà thôi. Đến như họ Trịnh nắm quyền ở Đàng Ngoài, quyền nghiêng thiên hạ còn không dám truất bỏ nhà Lê. Họ Nguyễn ở Đàng Trong tự chủ hơn một trăm năm cùng họ Trịnh bảy lần giao chiến, cũng chỉ dám xưng Vương mà thôi. Nay nhà Tây Sơn ta mới dấy binh, ân đức cùng bá tánh chưa rộng khắp, nếu đại huynh lên ngôi Thiên tử e lòng người nhớ ơn nhà Lê mà oán Tây Sơn ta, ấy là một lẽ. Đại huynh đang nhận sắc phong của họ Trịnh làm Quảng Nam trấn thủ, nếu đại huynh lên ngôi Hoàng đế, Trịnh Sâm ắt mượn tiếng vua Lê cử đại binh vào đánh ta, ấy là hai lẽ. Hiện thời dù ta đã tiêu diệt được họ Nguyễn nhưng thủ hạ của chúng không phải không còn. Như Đỗ Thành Nhân rút vào căn cứ ở rừng Tam Phụ, các tướng Nguyễn là Lê Văn Quân, Hồ Văn Lân, Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương vẫn đang lẩn trốn trong rừng thừa cơ nổi dậy. Nếu nghe đại huynh lên ngôi vua dù dòng họ Nguyễn không còn ai nhưng chúng sẽ mượn tiếng phò Lê như ngày trước ta mượn tiếng tôn phò Hoàng tôn Dương vậy, ấy là ba lẽ. Vì ba điều bất lợi ấy nên em dập đầu xin đại huynh chớ lên ngôi Hoàng đế.
Nguyễn Nhạc giận lắm nạt:
- Ngày trước ta có ý xưng Vương, ngươi ba lần bảy lượt can ngăn. Nay binh ta hùng, tướng ta mạnh, ta định lên ngôi Hoàng đế ngươi lại viện đủ lý do quyết lòng cản trở là ý làm sao?
Nguyễn Huệ sợ hãi dập đầu dưới trướng thưa:
- Xin đại huynh bớt giận, em chỉ vì đại cuộc mới nói lời ngay thật mà thôi! Chờ ít năm nữa ta yên được lòng dân Gia Định, cho không còn mầm mống phản loạn bên trong, rồi ta mượn tiếng phò Lê đem quân diệt Trịnh thống nhất sơn hà, xoá bỏ ranh giới Linh Giang, cho dân một nước không còn cảnh binh đao khói lửa, anh em dòng giống không còn chém giết lẫn nhau, thì ân đức của đại huynh sẽ ngàn sau lưu truyền cùng sử sách. Nếu bây giờ đại huynh lên ngôi Hoàng đế, e rằng trong nước sẽ sinh ra biến loạn, quân Tây Sơn ta phải thọ địch khắp nơi. Xin đại huynh xét lại!
Nguyễn Nhạc nổi giận quát lớn:
- Nguyễn Huệ to gan dám bảo ta lên ngôi thì trong nước sẽ sinh ra biến loạn sao? Quân bây đâu lôi ra ngoài cho đánh ba mươi trượng cho chừa thói xàm ngôn phạm thượng.
Quân vệ sĩ vốn sợ uy Nguyễn Huệ đang còn chần chừ, Nguyễn Lữ bước ra quỳ bên cạnh Nguyễn Huệ khóc rằng:
- Xin đại huynh bớt giận, anh Huệ chỉ vì quốc dân mà nói lỡ lời. Xin đại huynh hãy nghĩ đến công lao hãn mã của anh Huệ mà tha cho anh ấy một phen. Từ ngày thân phụ mất đi, đại huynh nuôi dạy hai anh em, công lao ấy tạc dạ ghi lòng. Nếu anh Huệ có lỗi xin đại huynh dùng đạo nhà mà trị, chứ nếu lấy phép nước mà đánh anh Huệ ba mươi trượng thì còn gì xương thịt mà phụ mẫu tạo ra!
Nghe Lữ nói xong, Huệ ôm em mà khóc. Các tướng trông thấy đều quỳ xuống xin tha cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc trông thấy hai anh em ôm nhau quỳ khóc dưới trướng động lòng ứa nước mắt nói:
- Nể lời các tướng ta tha cho lần này. Nhưng đạo nhà không thể không trị!
Dứt lời Nhạc truyền quân đem roi mây đến, bắt Huệ nằm giữa điện tự tay cầm roi đánh vào mông ba mươi roi. Đánh xong bước lên ngai, Nhạc bảo:
- Ý ta đã quyết, còn ai can ngăn. Chém!
Năm Mậu Tuất (1778) Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Thái Đức, đổi tên thành Qui Nhơn thành Hoàng Đế Thành, phong con là Nguyễn Bảo làm Thái tử, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Vũ Văn Nhậm, Trương Văn Đa làm Phò mã, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đều phong làm đô đốc.
Việc lên ngôi của Nguyễn Nhạc vừa xong, các tướng Nguyễn Văn Tuyết, Văn Lộc, Văn Long rủ nhau đến tư dinh thăm Nguyễn Huệ. Huệ tươi cười mời vào nhà hỏi:
- Nay có việc chi mà các ông đến nhà Huệ đông thế?
Nguyễn Văn Lộc đáp:
- Hôm ấy Hoàng thượng giận đánh tướng quân ba mươi roi mây vào mông. Nghe nói tướng quân bị đau không ngồi được nên chúng tôi đến thăm tướng quân chớ không có việc gì cả!
Huệ cười nói:
- Hôm ấy Hoàng huynh tôi giận đòi đánh tôi ba mươi trượng. Nhưng Hoàng huynh rất thương yêu tôi đời nào lại đánh tôi như thế. Còn việc dùng roi mây giáo huấn, Nguyễn Huệ tôi từ nhỏ nhờ đại huynh răn dạy nay mới được nên người thì có chi là đau đớn. Các ông xem tôi vẫn ngồi được như thường đấy thôi!
Thấy Văn Tuyết nhìn quanh quất, Huệ hỏi:
- Văn Tuyết tìm ai thế?
Tuyết lại hỏi Huệ:
- Tiết chế Nguyễn Lữ đâu chẳng thấy?
Huệ đáp:
- Hoàng huynh cùng Lữ đệ thăm tôi vừa mới ra về.
Khi ấy Văn Tuyết mới nói:
- Hôm ấy nếu không nhờ Tiết chế đem tình cốt nhục ra can gián và anh em chúng tôi không đồng lòng xin hộ thì Hoàng thượng làm sao rút lời. Thế có phải là Long Nhương tướng quân bị ba mươi trượng xương tan thịt nát rồi không?
Huệ cười to đáp:
- Văn Tuyết nói sai rồi! Hoàng huynh ta thừa biết rằng ta bị tội các tướng tất phải xin cho. Hoàng huynh vì giận mà nói thế chứ nào cố làm tội ta.
Văn Long xen vào nói:
- Hoàng thượng là người nhân đức, thấy việc nghĩa dám quên mình, xem tướng sĩ như huynh đệ, phụ tử khiến người dưới quyền đều mến phục. Đến nỗi Hoàng thượng nới lên ngôi tôi đã nghe quân đồn trấn ải Cù Mông đặt câu ca rằng:
Ơn vua Thái Đức chí tình
Cù Mông vắng vẻ nhưng mình vẫn vui Xem thế đủ biết ân đức của Hoàng thượng đã rộng khắp phủ Qui Nhơn. Nhưng Hoàng thượng có hai tật nhỏ làm lu mờ đức lớn, thật đáng tiếc thay!
Văn Lộc hỏi:
- Hai tật nhỏ của Hoàng thượng là tật gì mà đến nỗi làm lu mờ đức lớn như thế?
Long đáp:
- Thứ nhứt là mộng làm vua khiến kẻ sĩ trong thiên hạ nghĩ rằng Hoàng thượng mưu định bá đồ vương mà giả nhân, giả nghĩa. Thứ hai là tánh đố tài không dám mạnh dạn cho Long Nhương tướng quân điều binh khiển tướng, làm chậm đi bước tiến của quân Tây Sơn ta trên con đường thống nhất giang san. Nếu Hoàng thượng cứ chuyên tâm trau dồi đức độ, giao binh quyền cho Long Nhương như ngày xưa Lư Bị giao quyền cho Gia Cát vũ hầu thì việc thống nhất giang san chỉ trong một sớm một chiều mà thôi.
Nghe Long nói xong Nguyễn Huệ nạt:
- Văn Long không được nhiều lời. Đại huynh ta giờ là vua một cõi Đàng Trong há để cho các ngươi đem ra bình phẩm hay sao? Nếu Hoàng huynh ta nghe được liệu cái đầu của ngươi có còn nằm yên trên cổ không?
Long sợ hãi vòng tay nói:
- Chẳng qua là đệ lấy làm tiếc cho sự nghiệp của nhà Tây Sơn ta mà thôi. Xin đại huynh bớt giận.
Nguyễn Huệ nét giận hầm hầm nói:
- Ngày trước Hoàng huynh ta tôn thầy làm sư phụ. Nhưng bây giờ dù thầy ta còn sống cũng không dám buông lời bình phẩm như ngươi vừa nói. Ta nể tình huynh đệ đồng sư môn mà tha cho ngươi một lần đó. Từ giờ trở đi nếu có kẻ nào còn đàm tiếu đại huynh thì đừng có trách ta là huynh đệ vô tình. Nói xong liền đuổi Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đi về. Ba tướng sợ hãi bái tạ lui ra.
Trên đường về, Đặng Văn Long nói với Văn Tuyết và Lộc:
- Long Nhương tướng quân bị Hoàng thượng đố tài kiềm chế mà không oán, bị anh đánh oan giữa chỗ đông người mà không giận vẫn một lòng hiếu đễ, thật đáng phục thay!
***
Nói về Nguyễn Phúc Ánh băng rừng lội suối về rừng Tam Phụ nương náu Đỗ Thành Nhân. Nghe tin Nguyễn Huệ rút đại binh về Qui Nhơn, Ánh bảo Đỗ Thành Nhân:
- Nguyễn Huệ tưởng rằng đã giết hết nhà Nguyễn ta, nên rút đại binh về Qui Nhơn đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc, hắn để Nguyễn Uy ở lại giữ Trường Đồn, Lê Chu giữ Sài Côn, Phạm Ngạn giữ Trấn Biên. Vậy tướng quân hãy sai người đi khắp các nơi liên lạc với các tướng hiện đang lẩn trốn, bảo họ đem quân về họp tại căn cứ Tam Phụ của ta rồi chỉnh đốn binh mã lấy lại đất Gia Định, đừng nên bỏ lỡ thời cơ.
Đỗ Thành Nhân suy tư nói:
- Ngày trước lúc tôi làm phụ chính ở thành Sài Côn vì sợ Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho giặc, nên mới giữ không cho chúa Định vương ra thành đón Lý Tài. Vì việc ấy mà các tướng bảo tôi làm phản quản thúc Chúa thượng. Nay tôi triệu tập các tướng làm gì họ chịu đến đây?
Ánh cười bảo:
- Việc này tướng quân chớ lo. Tôi sẽ viết mật thư cho người đi gọi. Các tướng biết tôi còn sống ắt sẽ đến ngay.
Thành Nhân cả mừng nói:
- Vậy phiền Hoàng điệt viết thư nói rõ tấm lòng trung quân của tôi để các tướng dẹp bỏ thành kiến, cùng quyết tâm khôi phục cơ đồ là Hoàng điệt giải oan cho tôi rồi vậy.
Nguyễn Phúc Ánh liền viết mật thư trao cho quân đi triệu tập các tướng. Ít lâu sau Lê Văn Quân, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Nguyễn Nghi đem tàn quân về hội ở rừng Tam Phụ. Phúc Ánh ôm các tướng khóc rằng:
- Chú tôi là Thái Thượng vương, anh họ tôi là Tân Chính vương, cùng hoàng thân quốc thích và Tĩnh điệp hầu Nguyễn Đăng Trường đều bị quân Tây Sơn bắt giết hết cả rồi. Chỉ còn mình tôi tả xung hữu đột đưa mẹ và em vượt khỏi trùng vây chạy thoát mới viết mật thư triệu tập các tướng đến đây cùng nhau khôi phục cơ đồ mà tiên vương đã tốn bao công sức mới dựng nên.
Các tướng cùng khóc nói:
- Họ hàng vợ con chúng tôi đều bị quân Tây Sơn giết cả. Thù này không trả được còn sống trên đời làm gì nữa!
Đỗ Thành Nhân khuyên giải:
- Xin Hoàng điệt và các vị hãy bình tâm, dẹp bỏ ưu phiền để cùng nhau mưu bàn đại sự. Nay tuy hai chúa đã bị hại nhưng hoàng tộc hãy còn có Hoàng điệt Phúc Ánh. Vậy ta hãy tôn Hoàng điệt làm nhiếp chính quốc, Bình Tây đại Nguyên Soái cho an lòng tướng sĩ rồi sẽ khởi binh chiếm lại đất Gia Định tính kế lâu dài.
Ánh thoái thác:
- Tôi tuy là Hoàng điệt nhưng mới mười bảy tuổi, tài cán gì mà dám nhận chức ấy. Xin các vị hãy cử người khác cho.
Lê Văn Quân nói:
- Người xưa có câu: “Tài không đợi tuổi”, Hoàng điệt không có tài sao một mình có thể thoát khỏi trùng vây của giặc Tây Sơn được. Nếu Hoàng điệt không nhận chức ấy, thì sao gom được lòng dân về một mối mà chống giặc Tây Sơn?
Đỗ Thành Nhân thêm vào:
- Lời Lê tướng quân rất phải! Xin Hoàng điệt hãy thuận cho. Nếu ngại về việc điều binh khiển tướng đã có tôi đây bàn mưu định kế. Xin Hoàng điệt chớ lo!
Nói rồi liền ra hiệu cho các tướng quỳ xuống tung hô:
- Chúng tôi ra mắt Bình Tây đại Nguyên Soái!
Lúc ấy Ánh mới nói:
- Thôi các tướng đừng thi lễ nữa. Ta đâu dám phụ lòng các tướng. Vậy các vị hãy đứng lên cùng bàn việc khởi binh.
Nguyễn Ánh và các tướng cùng ngồi vào bàn.
Thành Nhân hỏi:
- Tuy Nguyễn Huệ đã rút đại binh về Qui Nhơn, nhưng quân Tây Sơn rất là thiện chiến. Muốn chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên, ta nên dùng mưu chớ nên dùng sức, các vị có kế gì chăng?
Bàn qua tính lại mãi vẫn chưa có kế gì đánh quân Tây Sơn, bỗng nghe ngoài bản doanh có tiếng quân cười nói xôn xao. Nhân gọi quân vào hỏi:
- Ngoài kia có việc chi mà ồn ào thế?
Tên quân đáp:
- Thưa tướng quân! Trong quân của ta có một tên lính dung mạo giống tướng quân như tạc. Lúc đầu mọi người cứ ngỡ là tướng quân. Sau vỡ lẽ lấy làm lạ bèn xúm nhau mà coi nên bàn tán xôn xao thế!
Thành Nhân nhíu mày hỏi:
- Ngươi bảo dung mạo giống ta như tạc ư?
Tên quân đáp:
Thưa phải!
Nhân truyền:
- Đem hắn vào đây cho ta!
Võ sĩ dẫn tên quân vào. Quả nhiên người này vóc dáng nhỏ hơn, nhưng dung mạo giống Thành Nhân như tạc.
Thành Nhân trợn mắt bảo:
- Trên đời sao có sự lạ thế! Truyền quân đem chém!
Tên quân hoảng sợ van xin:
- Xin tướng quân tha mạng! Tôi chẳng may trời sinh giống tướng quân. Chứ từ trước đến nay chưa phạm tội gì. Xin tướng quân thương tình tha mạng!
Thành Nhân đáp:
- Trùng tên vua chúa là phạm huý, phải đổi tên khác. Mặt giống vua chúa là phạm mạo, phải đổi mặt khác. Không chém đầu ngươi sao tra đầu khác vào được?
Nói xong mặc tên lính khóc lạy van xin, Thành Nhân hô quân lôi ra chém! Bỗng một người bước ra nói:
- Tôi có một kế chiếm lại đất Gia Định như trở bàn tay!
Phúc Ánh hỏi Nhân:
- Người này là ai thế?
Thành Nhân đáp:
Người này trí dũng song toàn, là thuộc tướng của tôi tên là Võ Tánh.
Ánh thấy Võ Tánh tướng mạo đường đường, mặt mày cương trực khôi ngô trong lòng rất thích hỏi:
- Kế thế nào tướng quân hãy nói xem?
Tánh đáp:
- Tiểu tướng xin đem hai trăm quân vào thành Trường Đồn trá hàng. Nguyên Soái và các tướng phục sẵn bên ngoài khi nào thấy lửa hiệu và cổng thành mở thì đem quân tràn vào mà đánh. Phải lưu ý chớ cho quân chạy thoát thành về Sài Côn báo với Lê Chu. Chiến xong Trường Đồn ta dùng y phục quân Tây Sơn về Sài Côn lừa Lê Chu mở cổng thành. Nếu dùng kế này có thể chiếm được Trường Đồn, Sài Côn dễ dàng.
Thành Nhân cười bảo:
- Ta e rằng ngươi vào Trường Đồn xin hàng, Nguyễn Uy sợ trá hàng mà giết ngươi trước thì sao?
Võ Tánh đáp:
- Ta làm khổ nhực kế, Nguyễn Uy tất sẽ tin mà cho tôi quy hàng.
Ánh hỏi:
- Khổ nhục kế thế nào?
Tánh quỳ lạy Đỗ Thành Nhân nói:
- Tướng quân tha tội tiểu tướng mới dám thưa!
Nhân bảo:
- Vì đại cuộc sao bảo là tội! Ngươi cứ nói thử xem?
Tánh đáp:
- Khổ nhục kế chính là cái đầu của tên quân vừa bị chém đó. Ta cứ làm như vầy... như vầy... Nguyễn Uy ắt phải lầm mưu.
Thành Nhân khen:
- Thật là diệu kế. Nhưng ngươi nên cẩn thận, quân Tây Sơn rất thiện chiến. Nhớ năm trước thằng vô lại Văn Tuyết và thằng chăn trâu Văn Lộc mắc kế điệu hổ ly sơn, bị ta vây ở ấp Hoà Hưng mà vẫn vũ dũng dùng hai ngàn quân đánh lui năm ngàn quân của ta. Võ Tánh chớ nên khinh địch, hãy theo kế ấy lập tức thi hành.
Võ Tánh lãnh lệnh đi ngay.
***
Ngày ấy trong thành Trường Đồn, tướng Tây Sơn Nguyễn Uy nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân có một viên tướng dẫn hai trăm quân xưng là thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân đứng dưới thành xin hàng.
Nguyễn Uy bảo tả hữu:
- Lúc Long Nhương tướng quân rút đại binh về Qui Nhơn có căn dặn ta rằng: “Đất Gia Định dễ đánh mà khó giữ, nên dùng ân đức để thu phục lòng dân”. Nay có tướng địch ra hàng nên ta dung nạp để tỏ rõ lòng khoan dung của Tây Sơn ta vậy!
Trong quân hầu cận có người nói:
- Đành rằng như thế nhưng làm thế nào để phân biệt thật giả? Ngộ nhỡ giặc trá hàng vào thành làm nội ứng thì sao?
Uy bảo:
- Ta cứ lên mặt thành xem hư thực thế nào rồi sẽ liệu sau!
Nói rồi nai nịt lên mặt thành quan sát. Thấy viên tiểu tướng dẫn hai trăm quân đứng dưới thành, Uy hỏi lớn:
- Nếu ngươi muốn về với Tây Sơn ta, thì có chi làm bằng không phải là gian kế chăng?
Viên tiểu tướng đáp:
- Tôi tên là Võ Tánh, là thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân. Vừa rồi tôi khuyên Đỗ Thành Nhân ra hàng, Thành Nhân không nghe lại toan giết tôi, tôi bèn chém chết Đỗ Thành Nhân rồi cắt thủ cấp đem đến xin hàng.
Đoạn Võ Tánh giơ thủ cấp lên nói:
- Đây là thủ cấp của Đỗ Thành Nhân xin tướng quân xem lại.
Nguyễn Uy cả mừng bảo tả hữu:
- Ngươi mau đi gọi mấy tên quân trước ở trong quân của Đỗ Thành Nhân đến đây cho ta!
Vài tên quân đến, Uy hỏi:
- Các ngươi hãy nhìn xem thủ cấp kia có phải của Đỗ Thành Nhân chăng?
Tên quân đáp:
- Người cầm thủ cấp chính là Võ Tánh thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân. Còn thủ cấp kia do người chết không giống người sống, nên ở xa chúng tôi không dám quyết.
Nguyễn Uy liền xuống thành, dàn quân làm hai hàng, tự mình cưỡi ngựa cầm đao đứng giữa rồi cho mở cổng thành. Võ Tánh vào thành rồi quỳ mọp dưới ngựa Nguyễn Uy dâng thủ cấp. Nguyễn Uy hỏi quân:
- Chúng bay xem cho kỹ có phải là thủ cấp của Đỗ Thành Nhân chăng?
Mấy tên quân nhìn tới nhìn lui một hồi rồi nói:
- Thưa tướng quân! Đây đúng là dung mạo của Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn Uy lại hỏi:
- Không thể lầm lẫn chứ?
Quân đáp:
- Chúng tôi thường ở trong quân Đỗ Thành Nhân mấy năm trời không thể lầm lẫn được!
Lúc ấy Nguyễn Uy nhảy xuống ngựa đỡ Võ Tánh dậy nói:
- Ngươi chớ lo sợ, ta làm thế chẳng qua là sợ gian kế mà thôi. Nay biết ngươi thật bụng, ta lại chẳng thật lòng hậu đãi hay sao?
Võ Tánh lạy tạ ơn. Uy lại hỏi:
- Thường ngày ngươi có tài gì?
Tánh cung kính đáp:
- Tôi theo đòi võ nghệ cũng thạo nghề cung kiếm.
Uy đang vui vẻ liền bảo:
- Bình sanh ta rất thích võ nghệ. Vậy ngươi hãy biểu diễn vài đường cho ba quân biết vũ dũng của ngươi đi.
Tánh vâng lời liền cầm thương bỏ bộ mà múa. Đường thương linh hoạt lui tới nhịp nhàng trông rất là ngoạn mục. Ba quân thấy thế vỗ tay reo hò cổ vũ.
Uy hứng chí nhảy ra nói:
- Đánh võ một người sao hứng thú. Ta với ngươi thử sức cho vui.
Nói rồi cầm đao đánh với Võ Tánh. Kẻ đánh người đỡ, kẻ tiến người lui. Qua năm mươi hiệp bất phân thắng bại. Nguyễn Uy vờ núng thế bỏ bộ quay lưng tháo lui. Võ Tánh mừng rỡ nghĩ bụng: “Ta nhân dịp này giết chết Nguyễn Uy ắt là hàng được quân sĩ vậy”. Nghĩ xong nhảy theo đâm một thương trí mạng, chẳng ngờ Nguyễn Uy quay lại, một tay chụp lấy mũi thương, một tay vung đại đao chém hậu. Đao vừa đến cổ Võ Tánh, Nguyễn Uy liền dừng lại. Võ Tánh tháo mồ hôi hột phân trần rằng:
- Trong lúc đấu võ phải trổ hết tài nghệ. Nếu tướng quân không đánh thế võ này, thì đường thương của Tánh tôi vừa đến áo giáp của tướng quân liền dừng lại. Xin tướng quân chớ khá hiểu lầm.
Nguyễn Uy thu đao về cười lớn:
- Điều này ta há chẳng biết sao? Cũng như đường đao của ta vừa đến cổ ngươi liền dừng lại. Ngươi dùng thương pháp ắt phải có thế Hồi mã thương. Thế đà đao của người Qui Nhơn ta thường gọi là phản bối đao vậy!
Võ Tánh bái lạy:
- Tướng quân võ nghệ siêu quần, Tánh tôi rất lấy làm khâm phục.
Nguyễn Uy cả cười nắm tay Võ Tánh vào trong tướng phủ.
Đêm ấy nhân lúc Nguyễn Uy ngủ say, Võ Tánh lén chia quân mở bốn cửa thành, phóng hoả ở nhà chứa cỏ cho ngựa rồi chạy ra cửa Bắc thành đón quân mình.
Quân Nguyễn Phúc Ánh thấy lửa cháy trong thành Trường Đồn, lại thấy cửa thành mở toang liền ồ ạt xông vào thành. Nguyễn Uy đang ngủ nghe tiếng quân hò reo inh ỏi, giật mình thức dậy, lại thấy lửa cháy ngút trời. Uy thất kinh vội vàng mặc giáp cầm đao lên ngựa đem theo vài mươi tên quân tín cẩn nhắm cửa Bắc thành mà chạy. Gần đến cổng thành, Uy nghe Võ Tánh nói với quân Tây Sơn đang chiến đấu rằng:
- Quân ta đã chiếm được thành, các ngươi còn ngoan cố hay sao? Các ngươi đều là người Gia Định cả. Ơn chúa Nguyễn chưa đền sao theo giặc Tây Sơn? Còn không mau bỏ giáp quy hàng, ta hứa bảo toàn tính mạng cho các ngươi.
Nghe Võ Tánh nói quân Tây Sơn đều đầu hàng cả. Nguyễn Uy thấy vậy hơi giận ngút trời, chẳng nói chẳng rằng vung đao xông tới chém Tánh. Tánh đưa thương lên đỡ. Nguyễn Uy trong cơn giận sức mạnh vô cùng, Võ Tánh đánh không lại bị Uy chém một nhát trúng tay liền quay ngựa bỏ chạy.
Uy đuổi theo hét vang:
- Thằng súc sinh lừa đảo kia chạy đâu cho thoát!
Bỗng từ bên phải có tiếng rằng:
- Tướng giặc chớ hung hăng, có ta là Đỗ Thành Nhân đến đây.
Nguyễn Uy giật mình quay lại thấy một người cưỡi ngựa dung mạo giống hệt thủ cấp Võ Tánh dâng lúc ban ngày. Uy thất kinh nghĩ bụng, thằng này đã chết rồi sao lại còn đây. Võ Tánh nhân lúc Uy phân tâm liền quay lại đâm một thương vào giữa bụng Nguyễn Uy. Đâm xong Tánh bảo:
- Đây là thế Hồi mã thương của ta đấy!
Nguyễn Uy dùng hết hơi tàn gắng gượng nói:
- Nếu biết bụng ngươi quyết giết ta lúc thử võ, ta dùng phản bối đao chém chết cho rồi!
Nói xong nhào xuống ngựa mà chết. Quân Nguyễn chiếm được thành Trường Đồn, quân Tây Sơn thấy chủ tướng chết đều đầu hàng cả. Thấy Võ Tánh bị thương, Đỗ Thành Nhân để Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ Trường Đồn cùng Võ Tánh, còn mình đem đại quân cùng Nguyễn Phúc Ánh tiến ra Sài Côn. Trước khi đi, Võ Tánh nói riêng với Đỗ Thành Nhân rằng:
- Nguyên Soái là người khôn ngoan sắc sảo, không phải thật thà nhu nhược như chúa Định vương ngày trước. Dù binh quyền ở trong tay chủ tướng, cũng xin chủ tướng hãy thật lòng phò tá, chớ để cho Nguyên Soái nghi ngờ.
Nhân cười đáp:
- Tánh thật là lo xa quá đấy. Lúc quản thúc Định vương trong thành Sài Côn, ta đã biết Nguyên Soái là người như thế nào rồi. Vả lại đường đường nắm giữ binh quyền không phải là ta thì còn ai vào đây nữa, việc gì ta lại không thực bụng tôn phò. - Nói rồi không chút nghi ngại dẫn quân đi.
***
Một đêm kia quân Tây Sơn ở cổng Nam thành Sài Côn nghe tiếng gọi: Mau mau mở cổng thành!
Quân canh nhìn xuống thấy một đạo binh đều vận quân phục của Tây Sơn cả. Liền hỏi:
- Binh nào! Ở đâu đang đêm gọi cổng thành!
Quân dưới thành đáp:
- Ta là Nguyễn Uy giữ Trường Đồn đây! Quân Nguyễn đánh Trường Đồn dân trong thành theo giặc nổi dậy, ta phải bỏ thành chạy về đây. Các ngươi hãy gọi tướng Lê Chu mau mở cổng thành.
Lê Chu lên mặt thành trông thấy toàn quân mình liền bảo quân mở cổng. Đỗ Thành Nhân, Võ Nhân dẫn binh vào thành đánh giết quân Tây Sơn. Nguyễn Phúc Ánh, Hồ Văn Lân, Lê Văn Quân, Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương nấp ở cánh rừng ngoài thành liền hò quân xông lên tiếp ứng. Quân Nguyễn tiến vào thành như thác, tiếng hò reo vang dậy đất trời. Quân Tây Sơn bất ngờ trở tay không kịp bị giết rất nhiều. Tướng Tây Sơn là Lê Chu mắc lừa quân Nguyễn phải bỏ thành thoát thân chạy về Trấn Biên. Nguyễn Ánh vào thành Sài Côn đến nhà Thái miếu, thấy linh vị Tiên vương đều bị quân Tây Sơn đập phá, nhang tàn khói lạnh. Ánh thề rằng:
- Thù này không trả được thề chẳng làm người, cùng anh em thằng buôn trâu Nhạc – Huệ quyết chẳng đội trời chung.
Thế rồi sai người sửa sang thái miếu đặt lại linh vị thờ cúng tiên vương.
Lúc bấy giờ Lê Chu chạy về Trấn Biên nói với quan trấn thủ là Phạm Ngạn:
- Tôi với ông và tướng quân Nguyễn Uy, ba chúng ta đều do Hoàng thượng chọn trong trường thi võ mà cho vào trấn đất Gia Định. Nay Nguyễn Uy tử trận ở Trường Đồn, tôi lại để mất Sài Côn. Tội của tôi đã đành, nhưng ngộ nhỡ Hoàng thượng hỏi vì sao ông không đem binh cứu viện thì ông trả lời thế nào?
Phạm Ngạn hỏi lại Lê Chu:
- Giờ ta phải làm sao?
Chu đáp:
- Ông hãy ở lại giữ thành Trấn Biên. Hiện tôi còn được hai ngàn quân. Ông vui lòng cho tôi mượn thêm một ngàn quân mã và năm mươi khẩu đại bác. Tôi sẽ đem binh chiếm lại Sài Côn. Khi ấy Hoàng thượng có hỏi là hỏi tội tôi chứ ông không có tội gì cả!
Phạm Ngạn nghe xong lấy làm phải cho Lê Chu mượn quân, Lê Chu liền dẫn binh đi ngay. Nào ngờ có một tên quân dưới trướng Phạm Ngạn vốn người Gia Định nghe lén được cuộc nói chuyện giữa Lê Chu và Phạm Ngạn, mới lẻn trốn về Sài Côn báo cho Phúc Ánh hay. Ánh liền cho quân mai phục. Lê Chu dẫn quân đi được nửa đường đến một đoạn đường vắng bỗng nghe tiếng hò reo vang dậy, quân Nguyễn từ bốn mặt xông ra.
Lê Chu thất kinh than:
- Thôi ta đã lọt vào trận mai phục của giặc rồi!
Than rồi quay lại liều chết phá vây. Lê Chu tả xung hữu đột giết quân Nguyễn máu đỏ chiến bào, nhưng vòng vây dày quá, Lê Chu đánh một hồi thấm mệt mà chưa ra khỏi trận. Lê Chu liệu bề không thoát được, lấy gươm đâm cổ tự vẫn. Nguyễn Phúc Ánh thừa thắng sai Lê Văn Quân đem quân tiến đánh Trấn Biên. Tướng Tây Sơn giữ Trấn Biên là Phạm Ngạn thấy thanh thế quân Nguyễn lớn quá phải bỏ thành Trấn Biên chạy về Bình Thuận. Từ ấy đất Nam Hà, Gia Định lại thuộc về quân Nguyễn cả.
***
Ngày ấy Nguyễn Phúc Ánh ở trong thành Sài Côn họp các tướng bàn việc quốc gia.
Đỗ Thành Nhân quỳ tâu:
- Nay quân ta đã thu phục được đất Gia Định. Vậy Nguyên Soái hãy mau mau xưng Vương hiệu, kế tục nối nghiệp Tiên vương cho an lòng tướng sĩ. Rồi danh chánh ngôn thuận kéo quân ra trị tội Nguyễn Nhạc dám ngông cuồng lên ngôi Hoàng đế.
Nguyễn Phúc Ánh hỏi:
- Đối với các tướng ta có đáng được xưng Vương chăng?
Tống Phước Khuông nói:
- Nguyên Soái mới khởi binh mà đã khiến cho lòng người qui thuận. Đi đến đâu anh hùng hào kiệt đều xin theo dưới cờ, đánh một trận đã chiếm xong ba thành ở Gia Định. Tài thế ấy, đức thế ấy, chính nghĩa thế ấy sao không đáng để xưng Vương?
Rồi quay sang các tướng bảo:
- Chúng ta cùng tôn Nguyên Soái lên ngôi Vương.
Khuông nói xong mọi người đều quỳ cả. Riêng Thành Nhân vừa quỳ vừa nói:
- Nguyên Soái lên ngôi Vương là thuận lý. Vì chỉ có một mình Nguyên Soái là con cháu nhà chúa mà thôi.
Nguyễn Ánh lên ngôi Vương, phong Đỗ Thành Nhân làm Ngoại hữu – phụ chính – Thượng tướng công và thăng thưởng cho các tướng.
Từ ấy về sau nhân dân gọi nhà Nguyễn của vua Thái Đức là nhà Nguyễn Tây Sơn. Vì vua Thái Đức phát tích ở ấp Tây Sơn, phủ Qui Nhơn. Gọi nhà Nguyễn của Nguyễn Vương là nhà Nguyễn Gia Miêu. Vì họ nhà chúa Nguyễn phát tích ở ấp Gia Miêu, phủ Thanh Hoá. Và gọi giai đoạn lịch sử ấy là thời: Nhị Nguyễn tranh hùng!

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 26 Võ Tánh náu thân rừng Tam Phụ. Nguyễn Vương đại bại Thất Kỳ Giang.
Nguyễn Phúc Ánh được Đỗ Thành Nhân và các tướng tôn lên ngôi chúa xong. Hôm sau Nguyễn Nghi yết kiến nói riêng với Phúc Ánh:
- Lúc Lý Tài bỏ Tây Sơn theo chúa Định vương ở thành Sài Côn, nhưng Đỗ Thành Nhân ở trong thành quản thúc chúa Định Vương, khiến cho nội bất xuất ngoại bất nhập. Kế đến Đông cung Thế tử trốn khỏi Quy Nhơn đến đồn Thị Nghè. Chính thần và Đông cung đến xin vào thành Sài Côn. Lúc ấy có phải chính Thượng vương đã xa tiễn trao thư báo tin Thành Nhân làm phản?
Ánh đáp:
- Chính ta đã xạ tiễn trao thư cho Đông cung báo tin Đồ Thành Nhân làm phản.
Nguyễn Nghi hỏi tiếp;
- Vậy tại sao khi viết mật thư triệu tập các tướng về rừng Tam Phụ, Thượng vương lại bảo rằng Đỗ Thành Nhân vì sợ Lý Tài giả hàng làm nội ứng, nên Thành Nhân bất đắc dĩ không cho Định Vương ra ngoài thành mà đón Lý Tài. Vậy té ra lúc xạ tiễn trao thư bảo Thành Nhân làm phản là Thượng vương đã lầm lẫn chăng?
Ánh đáp:
- Lúc ấy Thành Nhân làm phản, quản thúc Định vương, ta xạ tiễn trao thư không hề lầm lẫn.
Nghi hỏi:
- Vậy bây giờ Thượng vương bảo Thành Nhân lũ ấy không có bụng làm phản, là bây giờ Thượng vương lầm lần chăng?
Ánh cười đáp:
- Ta không hề lầm lẫn!
Nghi lại hỏi:
- Cả hai điều trái ngược nhau mà không có điều nào lầm lẫn là Thượng vương có ý gì chăng?
Ánh nghe xong, khen Nghi rằng:
- Khanh thật là có mắt tinh đời. Lúc quân ta bị Nguyễn Huệ đánh tan tành, mọi người lẩn tranh mọi nơi, hai chúa đều bị bắt, chỉ có binh Đỗ Thành Nhân ở rừng Tam Phụ là chưa bị tổn thất gì cả. Ta muốn mượn thế lực Đỗ Thành Nhân khôi phục cơ đồ, nên mới viết mật tư triệu tập các tướng về hội quân như thế, Đỗ Thành Nhân yên tâm mà điều binh đuổi quân Tây Sơn khỏi đất Gia Định. Trong các đại thần theo chúa Định Vương từ Phú Xuân đến đây chỉ còn lại có mỗi mình khanh. Khanh thấy Thành Nhân là người thế nào?
Không chút do dự Nghi đáp:
- Thành Nhân tôn phò Thượng vương để thu phục nhân tâm mưu đồ bá vương.
Ánh nghiêm mặt hỏi:
- Dựa vào đâu mà khanh quả quyết thế?
Nghi tâu:
- Lúc tôn Thượng vương làm Nguyên soái, Thành Nhân nói rằng việc điều binh khiển tướng đã có hắn lo liệu. Ấy là tự cho mình tài hơn Thượng vương. Lúc giết tên quân dung mạo giống mình, Thành Nhân nói: "Mặt giống vua chúa là phạm mạo". Ấy là trong lòng đã có chí làm vua chúa. Rồi mời đây Thượng vương xưng vương, Thành Nhân lại nói: Chỉ có một mình Thượng vương là con cháu nhà chúa mà thôi. Ấy chẳng phải là Thành Nhân vì bất đắc dĩ mới ở dưới quyền của Thượng vương sao? Xét ba điều ấy nếu để Thành Nhân lấn quyền sớm muộn gì cũng sinh ra tai hoạ!
Ánh gật đầu nói:
- Lời khanh rất hợp ý ta. Nhưng hiện nay trong thành Sài Côn toàn là quân Đông Sơn cả, vả lại ở Trường Đồn còn có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trấn giữ. Nếu giết Thành Nhân e rằng quân Đông Sơn làm loạn thì sao?
Nghi hiến kế:
- Hiện trong thành Sài Côn còn có thần, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương mở người đều có hơn ngàn thủ hạ. Vả lại quân Đông Sa theo Thành Nhân vì Nhân tôn phò Thượng vương. Nếu kết tội Thành Nhân làm phản đem giết đi thì quân Đông Sơn ắt theo về cùng Thượng vương. Việc Sài Côn không đáng lo, chỉ lo Võ Tánh và Đỗ Nhàn Tráp ở Trường Đồn mà thôi!
Ánh nói:
- Sau khi giết Đỗ Thành Nhân rồi ta lập tức xuống chỉ sai người vào Hà Tiên bảo Mạc Thiên Tứ tiến quân ra, ta từ Sài Côn tiến vào vây Trường Đồn bắt Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập để tiệt trừ hậu hoạ. Khanh thấy thế nào?
Nghi mừng rỡ thưa:
- Kế ấy rất hay. Ta nên thi hành ngay, đừng chậm trễ.
Hôm sau Phúc Ánh cho mời Đỗ Thành Nhân đến nơi cung. Nhân không nghĩ ngơ gì cả, ung dung vào ra mắt Nguyễn Ánh. Ánh hỏi:
- Nay quân ta đã chiếm được ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Vậy việc đem quân ra tiêu diệt Tây Sơn Nguyễn Nước, thượng tướng công đã có kế sách gì chưa?
Nhân đáp:
- Thần có quên một đạo sĩ người Pháp Lang Sa tên là Bá Đa Lộc. Người này từ Tây Dương đến giảng truyền đạo Hoà Lan (kito giáo) ở nước Nam ta. Đạo sĩ Bá Đa Lộc có mượn cho thần mấy chiếc tàu đồng to và súng đại bác lớn, hẹn trong một tuần trăng nữa sẽ từ Pháp Lang Sa vượt biển vào Sài Côn giúp cho ta. Thần định cho họ đem tàu đồng súng lớn sang đã rồi sẽ định ngày đem quân Bắc tiến.
Ánh hỏi:
- Việc hệ trọng như thế sao thượng tướng còn không cho ta hay?
Nhân cười bảo:
- Thượng vương cứ ngồi trên ngai chúa gọi người hầu hạ. Mọi việc đã có hạ thần lo!
Ánh tức giận vỗ án, quát:
- Thành Nhân to gan. Người từ khi có công đã xem ta như con nít hay sao mà buông lời xúc phạm. Võ sĩ đâu trói lại cho ta.
Võ sĩ liền xông ra trói Thành Nhân lại. Thành Nhân lúc ấy mời hoảng sợ van xin:
- Hạ thần nói thế vì không muốn cho Thượng vương phải hao tâm khổ trí. Xin Thượng vương tha tội.
Ánh cười đáp:
- Tha cho ngươi lần này, lần sau ngươi có tha cho ta chăng? Ngươi tưởng rằng ta không biết bụng ở của ngươi sao? Đến như chúa Định Vương và hoàng thân quốc thích người con dám quăn thúc trong thành Sài Côn để khống chế quân các đạo. Tội của ngươi thật là đáng chết.
Thành Nhân ngạc nhiên nói:
- Ngày trước vì sa Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho Tây Sơn, nên hạ thần bất đắc dĩ phải làm như thế. Khi ấy chính Thượng vương cũng đồng ý với hạ thần nên mới lên mặt thành bắn tên đuổi Đông cung Thế tử đi kia mà! Sao này bỗng dưng lại đổ lỗi cho hạ thần làm phản?
Ánh cười mỉa mai nói:
- Trò dối trá của ngươi tưởng rằng có thể lừa được ta sao? Đến nay ngươi vẫn nghĩ rằng ta tin là ngươi thật dạ trung thành ư? Ta nói cho người biết, hôm ở mũi tên ta bắn trúng nón của Đông cung Thế tử trong mũi tên ấy có phong thư của ta nói ngươi làm phản, nên Đông cung và Lý Tài mới hợp quân các trấn tiến đánh Sài Côn đuổi ngươi về rừng Tam Phụ. Giờ người đã rõ chưa?
Thành Nhân bây giờ mới nói:
- Trong thành Sài Côn còn có thủ hạ của thần là Võ Nhân và mấy ngàn binh mã. Ở Trường Đồn còn có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trấn thủ. Nếu Thượng vương giết th ần e rằng thành Sài Côn sẽ thành biển lửa.
Ánh đập bàn quát:
- Ngươi còn hăm doạ ta sao! Thật là lòng mưu phản tự miệng ngươi nói ra rồi đó. Ngươi bảo trong thành sẽ chìm trong biển lửa ư? Ngươi chớ lo, mọi việc ta lo liệu cả rồi - Ánh vừa dứt lờ, Hồ Văn Lân vào báo:
- Thần vừa vây nhà bắt được Võ Nhân. Xin đem về cho Thượng vương xét xử!
Phúc Ánh liền sai quân đem Đỗ Thành Nhân và Võ Nhân ra chém. Lúc đao phủ sắp khai đao hành quyết, Thành Nhân ngửa mặt than rằng:
- Đỗ Thành Nhân ta một thời ngang dọc. Bởi ta không nghe lời Võ Tánh nên phải thua trí mà chết dưới tay một thằng con nít.
Nói xong giương cổ chịu hình. Giết Đỗ Thành Nhân xong, Nguyễn Phúc Ánh liền sai người đi mời đạo sĩ Bá Đa Lộc đến yết kiến. Ánh nói:
- Nghe nói Giám mục định giúp cho tướng của ta tên là Đỗ Thành Nhân tàu đồng và súng đại bác, điều này có chăng?
Bá Đa Lộc đáp:
- Thưa có! Vài hôm nữa tàu chiến sẽ đến đây.
Ánh lại hỏi:
- Đỗ Thành Nhân đã chết rồi, Giám mục đã biết chưa?
Lộc giật mình đáp:
- Điều này tôi chưa được biết. Dám hỏi vì sao Đỗ tướng quân lại chết?
Ánh trầm ngâm nói:
- Lúc trước ta giao cho Thành Nhân tìm cách liên lạc với người nước Pháp Lang Sa của ngài mua cho được tàu đồng súng lớn đánh giặc Tây Sơn phục quốc cho nhà Nguyễn ta. Nào ngờ Thành Nhân lòng đầy tham vọng lợi dụng việc ấy mưu dùng vũ khí của các ngài làm quân đội riêng toan phản ta để đoạt quyền. Ta hay được mới giết đi. Nay cho mời ngài đến đã nói cho rõ việc ấy mà thôi!
Bá Đa Lộc thất sắc quỳ xuống lậy thưa:
- Việc Thành Nhân mưu phản tôi không được biết. Xin Thượng vương lượng cả xét soi.
Ánh đỡ Lộc dậy mời ngồi, an ủi:
- Việc ấy không can gì đến ngài. Chỉ mời ngài để nói rằng từ này về sau việc mua khí giới của nước Pháp Lang Sa ngài cứ trực tiếp bàn bạc với ta, để tránh sự hiểu lầm về sau. Chẳng hay ý ngài thế nào?
Bá Đa Lộc đáp:
- Nếu được vậy thật là diễm phúc cho tôi quá. Tôi là kẻ truyền đạo không màng đến vật chất, nên việc đem tàu đồng súng lớn sang đây là giúp cho Thượng vương đánh lũ giặc Tây Sơn để phục quốc thật lòng không nói đến việc mua bán. Chỉ xin Thượng vương cho những kẻ hành đạo nhà chúng tôi được truyền bá đạo lành của Đức Chúa trời để loài người biết thương yêu nhau mà thôi. Xin Thượng vương chấp thuận cho!
Ánh cả mừng nói:
- Việc này nào có khó gì. Ngài cứ giúp tàu chiến và vũ khí cho ta đánh giặc Tây Sơn, khi lãnh thổ của ta đến đâu, thì quyền truyền đạo của các ngài rộng ra đến đó. Ta lấy tư cách là vua trong một nước mà hứa với ngài!
Nói rồi Ánh liền trao cho Bá Đa Lộc một cái thẻ bài nói:
- Đây là hiệu lệnh của ta, có hiệu lệnh này ngài ở bất cứ đâu trên lãnh thổ của ta mà không ai có quyền ngăn cản. Nếu có kẻ nào gây khó dễ, ngài cứ đem hiệu lệnh này đến trình quan trấn thủ sẽ cho quân trị tội chúng ngay.
Trao thẻ bài cho Bá Đa Lộc xong, Ánh lại cho bày tiệc thết đãi, của ngon vật lạ cao lương mỹ vị chẳng thiếu món gì. Ánh lại sai người sửa sang công quán cho tươm tất mời Bá Đa Lộc đến nghỉ. Bá Đa Lộc vui mừng cảm tạ ra về. Bỗng các tướng Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương bước vào đồng thanh quỳ nói:
- Xin chức mừng Thượng vương!
Ánh ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao các khanh lại chúc mừng ta?
Nguyễn Nghi đáp:
- Cái hoạ trong tâm phúc là Đỗ Thành Nhân đã trừ được rồi. Thượng vương lại mượn được tàu đồng súng lớn của người Pháp Lang Sa thì cái cơ khôi phục cơ đồ xem như đã chắc mười phần rồi vậy. Bởi thế nên chúng thần mới đến đây chúc mừng Thương vương.
Ánh suy tư nói:
- Tuy đã diệt được Đỗ Thành Nhân nhưng có cháu Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập, em Võ Nhân là Võ Tánh đang trấn thủ Trường Đồn. Chưa trừ được hai người này, ta lấy làm lo lắm.
Nghi tâu:
- Bởi biết Thượng vương lo việc ấy nên chúng thần mới đến đây cũng bàn việc này.
Ánh xuống lệnh:
- Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông đem năm ngàn quân mã tiến đánh Trường Đồn. Ta đã sai người ào Hà Tiên triệu Mạc Thiên Tứ đem quân hợp sức.
Hai đạo binh hai mặt giáp công ắt phải chiếm được thành, hai tướng nên hết lòng mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng quả nhân.
Hồ Văn Lân và Tống Phước Khuông lãnh lệnh đi ngay.
***
Nói về Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trong thành Trường Đồn ngày ấy nghe quân vào báo:
- Có người nhà của thượng tướng công xin vào ra mắt nhị vị tướng quân có điều cơ mật.
Võ Tánh bảo:
- Lập tức mời vào!
Người nhà Đỗ Thành Nhân vào, đến ôm chậm lấy Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh khóc rằng:
- Thượng tướng công Đỗ Thành Nhân và tướng quân Võ Nhân đã bị Thượng vương giết chết cả rồi!
Đỗ Nhàn Trập đau đớn quá hét lên hai tiếng "Chú ơi" rồi ngã lăn ra đất. Võ Tánh sửng sốt hỏi:
- Vì cớ gì Thượng vương lại giết chết thương tướng công và anh ta?
Người nhà đáp:
- Thượng vương bát tội thương tướng công lúc trước làm phản, quản thúc chúa Định Vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn. Lại sai người đang đêm vào nhà bắt Võ Nhân rỗi đem chém hết cả đi. Tôi may mắn thoát được vội đến báo tin cho nhị vị tướng quân được rõ.
Đỗ Nhàn Trập vùng đứng dậy nghiến răng mắng:
- Thằng con nít Nguyễn Phúc Ánh kia, lúc trốn thoát khỏi tay quân Tây Sơn, đói cơm rách áo cù bất cù bơ. Nhờ có chú ta đem về phò tá, mang quân đi đánh chiếm lại đất Gia Định đưa nó lên ngôi chúa. Thằng khốn nạn ấy không nghĩ đến công ơn lại còn đem lòng đố kỵ mà giết chết chú ta. Thù này không trả được thề không phải là người.
Nói rồi Tráp quay sang hỏi Võ Tánh:
- Còn anh của ông là Võ Nhân cũng bị thằng giặc Ánh giết chết. Ông còn chờ có gì nữa mà không cùng tôi mang quân đánh Sài Côn bắt thằng Phúc Ánh trả thù cho hai người ấy?
Tánh gạt nước mắt đáp:
- Đứt tay thì đau ruột, anh tôi chết tôi không đau lòng sao được. Nhưng phàm làm việc gì nên suy tính phải trái thiệt hơn. Theo tôi nghĩ, Thượng vương giết chủ tướng và anh tôi tất sớm muộn gì cũng đem quân tiến đánh Trường Đồn bắt hai ta để tiệt trừ hậu hoạ. Tôi và ông ở đây chỉ có ba ngàn quân mã, không thể chống nổi với đại binh ở thành Sài Côn. Nếu để họ kéo binh đến đây chặn mất đường về căn cứ của ta ở rừng Tam Phụ, rồi Thượng vương lại sai Mạc Thiên Tứ đem quân từ Hà Tiên đánh ra thì ta không còn đường thoát thân. Vậy ta hãy mau mau bỏ thành Trường Đồn đem ba ngàn quân về cố thủ trong rừng Tam Phụ rồi sẽ liệu sau.
Nói rồi Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập liền dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ thành Trường Đồn lui về căn cử Tam Phụ. Tống Phước Khuông và Hồ Văn Lân đem quân đến thành Trường Đồn thì Mạc Thiên Tứ đã chiếm được thành rồi. Hai người bèn để Mạc Thiên Tứ trấn thủ Trường Đồn rồi kéo binh về Sài Côn báo cùng Nguyễn Phúc Ánh. Ánh con chưa quyết bỗng quân vào báo:
- Thưa Thượng vương, quân do thám của ta về báo rằng: Quân Tây Sơn đang chuẩn bị lực lượng tiến vào đánh Gia Định. Xin Thượng vương định liệu.
Ánh bảo các tướng:
- Hay tạm gác việc Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập lại. Ta nên luyện tập binh mã cũng cố lực lượng để chống nhau với quân Tây Sơn vậy.
Vừa dứt lời có quân vào báo:
- Thưa Thượng vương, có đạo sĩ Bá Đa Lộc xin và yết kiến.
Ánh mừng rỡ reo lên:
- Cứu tinh của ta đã đến rồi đây, mau mời vào.
Bá Đa Lộc vào đến Ánh mời ngồi, đón hỏi:
- Dám hỏi đạo sĩ có phải tàu đồng của ta đã đến tới đây rồi chăng?
Bá Đa Lộc đáp:
- Thưa Thượng vương, tôi vừa mượn được hai chiếc tàu đồng và hai trăm quân của nước Pháp Lang Sa do viên đô đốc tên là Mạn Hòe (Manuel), chỉ huy dẫn đầu tại sông Thị Nghè chờ có lệnh Thượng vương.
Ánh liền nói:
- Chúng ta hãy đến đấy xem tàu chiến như thế nào?
Nói rồi liền cùng các tướng theo Bá Đa Lộc đến sông Thị Nghè. Đến nơi thấy hai chiếc thuyền vừa cao, vừa rộng, vừa dài. Sức lớn của nó ước chừng gấp năm lần thuyền gỗ nước Nam. Toàn thân tàu được đúc bằng đồng sáng loáng. Mọi người lên tàu thấy sàn tàu cũng được bọc bằng đồng đều trầm trồ khen ngợi. Viên tướng chỉ huy hai chiếc tàu tên là Mạn Hòe ra mắt Ánh xong ngạo mạn nói:
- Tàu đồng của chúng tôi đạn bắn không thủng, lửa đốt không cháy. Giặc ở xa thì dùng súng lớn bắn một phát đắm vỡ một tàu. Giặc đến gần thì dùng súng nhỏ, đạn bay vừa xa vừa chính xác. Cung tên của các ngài đối với nước Pháp Lang Sa của chúng tôi đã trở thành vô dụng rồi. Xin Thượng vương cứ an tâm, hai chiếc thuyền của tôi là bất khả xâm phạm, quân Tây Sơn là lũ giặc nào mà dám đến đây.
Phúc Ánh cả mừng liền phong cho Mặn Hoè là chức tướng quân và ban thưởng rất hậu, lệnh cho Hòe đậu ở bến Thị Nghè chờ có lệnh. Ánh lại cho quân lập một đồn canh trên núi Cấp (Vũng Tàu ngày nay). Nhiệm vụ quân đồn này là ngày đêm thay phiên nhìn ra biển, hễ thấy thuyền chiến Tây Sơn đến lập tức đốt lửa báo cho quân ở Sài Côn biết để kịp thời ứng chiến. Xong việc Ánh vui vẻ bảo:
- Giờ ta có thể ăn ngon ngủ yên, chờ có giặc Nguyễn Huệ đến đánh một trận cho chúng biết lợi hại tàu đồng súng lớn của nước Pháp Lang Sa.
***
Trong lúc Phúc Ánh ở Gia Định đem ngày xây dựng quân đội chờ quân Tây Sơn, thì ngày ấy trong thành Hoàng Đế vua Thái Đức nhà Tây Sơn đang đánh cờ với một viên thái giám tên là Vũ Tâm Can, chợt nghe quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ có Long Nhương tướng quân xin vào yết kiến.
Vua Thái Đức bảo:
- Hãy gọi em ta vào đây!
Nguyễn Huệ vào đến quỳ tâu:
- Thưa hoàng huynh, quân thám mã từ đất Gia Định về báo rằng, cháu Định vương Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Phúc Ánh còn sống sót quy tập những tướng lãnh còn đang lẫn trốn nơi đây đánh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Tướng của ta là Lê Chu và Nguyễn Uy tử trận, Phạm Ngạn phải bỏ thành Trấn Biên lui về cố thủ ở Bình Thuận. Phúc Ánh lại cầu viện người Pháp Lang Sa đem tàu đồng súng lớn đóng ở sông Thị Nghè xây dựng lại lực lượng hòng đánh lại quân ta để khôi phục cơ đồ. Hoàng huynh nên sớm lo liệu.
Vua Thái Đức nghe Huệ nói xong quăng cờ đứng dậy tức giận nói:
- Thằng con nít Phúc Ánh dám lộng hành giết chết hai tướng ta tuyển từ trong trường thí võ. Không bắt được Phúc Ánh trị tội thì còn gì oai võ vua trời.
Nói xong liền hạ lệnh thiết triều. Các tướng đến đông đủ, vua nói:
- Ta những tưởng đã tiêu diệt hết dòng họ Nguyễn Gia Định, ngờ đâu cháu Định Vương là Phúc Ánh lại còn sống sót dấy binh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Nay ta định ngự giá thân chính đem đại binh vào Gia Định một phen. Các tướng chuẩn bị xuất chinh.
Nguyễn Huệ bước ra thưa:
- Tâu hoàng huynh, đánh Nguyễn Phúc Ánh thì cần gì đến hoàng huynh phải ngự giá thân chính cho nhọc nhằn lòng thế. Em xin đem mười ngàn quân thuỷ bộ vào Gia Định bắt Nguyễn Phúc Ánh đem về đây cho hoàng huynh trị tội. Việc đánh quân Nguyễn ở Nam Hà là việc dễ, nhưng việc giữ đất Gia Định vỗ an bá tánh để lòng dân không nghĩ đến chúa Nguyễn mới là khó.
Vua Thái Đức nghĩ ngợi hồi lâu nói:
- Được! Vậy Nguyễn Huệ hãy vì ta vào Gia Định lần nữa. Nhưng Phúc Ánh là người xảo quyệt cứu viện người nước Pháp Lang Sa về chống lại ta. Em chỉ đánh bằng thuỷ binh thì e rằng không bảo đảm toàn thắng. Vậy ta nên sai tướng đem một vạn quân bộ vào Bình Thuận tiến đánh Trấn Biên như thế mới nắm được phần thắng. Tướng nào có thể lãnh bộ binh Nam tiến.
Nguyễn Huệ nói:
- Em xin tiến cử hai người lãnh bộ binh Nam tiến.
Vua Thái Đức hỏi:
- Hai người ấy là ai?
Huệ đáp:
- Từ ngày Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo em vào đánh Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, thì Sở và Lân trấn thủ Phú Yên đến nay. Ngô Văn Sở tính tình điềm đạm làm việc cẩn thận, dụng binh quy củ. Phan Văn Lân vũ dũng phi thường bá quan đều mến đức sợ uy. Nếu dùng hai người này lãnh bộ binh Nam tiến thì không phải lo có điều gì sơ sảy.
Vua Thái Đức nghe lời liền sai người vào Phú Yên triệu hồi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Huệ lại nói:
- Đất Gia Định vốn là nước của ngươi Chân Lạp được thiên nhiên ưu đãi, không bao giờ xảy ra lụt lội hạn hán, đất đai bằng phẳng màu mỡ phì nhiêu. Chúa nhà Nguyễn mới đem dân vào khai hoang lập ấp, các quan lại dẫn dân, binh vào nói đất khách xa xôi ngàn dặm, đều là người trung quân ái quốc tràn đầy nhiệt huyết cả. Vả lại trong thời gian lập ấp ở xứ người thường bị tộc Chân Lập đánh phá, bởi vậy nên tướng sĩ xem nhau như phụ tử, quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng chống lại người Chân Lạp để được sanh tồn. Chính vì lẽ ấy nên đến nay người ở đất Gia Định được cơm nó áo ấm đều nhờ ở chúa nhà Nguyễn. Thế cho nên dòng họ Nguyễn còn, nhân dân Gia Định liền nổi dậy đi theo. Ấy chính là điều khó nhất của ta trong việc bình định đất Gia Định vậy. Vua hỏi:
- Theo em, thì nên phải làm thế nào?
Huệ đáp:
- Nay có một người trí dũng song toàn, kính người già như cha mẹ, thương trẻ nít như con. Múa kích thì có thể giết được hổ dữ, xuất ngôn nho nhã khiến kẻ sĩ phải tuân. Sau khi dẹp được giặc Phúc Ánh, nếu ở người này làm tổng trấn Gia Định, thì lo gì không yên được cõi Nam Hà.
Vừa hỏi:
- Người ấy là ai?
Huệ đáp:
- Người ấy chính là đô đốc Đặng Văn Long!
Vua Thái Đức vỗ trán nói:
- Đặng Văn Long là học trò của quân sư Trương Văn Hiến. Ngày trước quân sư còn sống vẫn thầm khen Văn Long như thế. Ta vì lo nhiều việc mà quên mất Văn Long.
Rồi vua xuống lệnh:
- Các tưởng hãy về kiểm điểm binh mã, chờ có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về đến sẽ xuất binh Năm phát.
Nói xong truyền bãi triều. Quan thái giám Vũ Tâm Can nói với vua Thái Đức rằng:
- Đành rằng là nên đánh giặc người, xin Bệ hạ cũng phải đề phòng các hoạ bên trong!
Vua Thái Đức trầm ngâm hỏi:
- Ngươi nói vậy là ý thế nào?
Tâm Can đáp:
- Hạ thần muốn nói về Long Nhương tướng quân đó. Xin Bệ hạ xét lại. Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân là cháu vợ của Long Nhương. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lại chịu ơn nhà của Bùi Thị Xuân cùng Long Nhương uống máu ăn thề tính nhà thủ túc. Nay Long Nhương lại xin Bệ hạ cho hai người ấy vào Nam giữ binh quyền Nam phát là có ý gì? Vũ Văn Dũng, Đặng Văn Long đều là học trò quân sự Trương Văn Hiến, cũng với Long Nhương là huynh đệ đồng môn. Nay Long Nhương lại xin cho Văn Long trấn thủ đất Gia Định là có ý gì? Các người này lại chỉ biết có Long Nhương mà không biết có Bệ hạ, nếu để họ lớn quyền như thế chẳng đáng ngại làm ư?
Vua Thái Đức giật mình nói:
- Vậy ta phải ngự giá thân chính để hạn chế Huệ mới được. Và đạo quân bộ phải cho Vũ Văn Nhậm chỉ huy.
Năm Nhâm Dần (1782) niên hiệu Thái Đức thứ tư, vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem hai vạn quân theo hai đường thuỷ bộ tiến vào Nam. Vua Thái Đức và Long Nhương cũng các tướng Đặng Văn Long, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trương Văn Ba đi đường thuỷ vào cửa Cần Giờ. Khi đến ngoài khơi cửa Cần Giờ thấy trên hơn núi nhỏ trên đất liền khói lên nghi ngút, vua Thái Đức hỏi rằng:
- Trên hòn núi này bỗng khói lên nghi ngút là cớ làm sao?
Nguyễn Huệ đáp:
- Ấy là Nguyễn Phúc Ánh lập đồn canh trên ở nhìn ra biển, hễ thấy quân ta tiến vào, quân đồn trú đốt lửa làm hiệu để Phúc Ánh ở thành Sài Côn hay được kịp thời ứng phó mà thôi.
Vua hơi lo lắng hỏi:
- Vậy là Phúc Ánh đã có chuẩn bị, ta phải tiến quân như thế nào?
Huệ cương quyết đáp:
- Hoàng huynh cứ cho quân tiến binh vào cửa Cần Giờ rồi sẽ tuỳ cơ mà ứng biến.
Vua liền hạ lệnh:
- Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, kịp đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân đi trước mở đường.
Nguyễn Văn Tuyết lãnh lệnh đi ngay. Khi ấy Nguyễn Phúc Ánh ở thành Sài Côn nghe quân hốt hoảng vào báo rằng:
- Thưa Thượng vương, quân ta trên núi Cấp ngoài cửa bể đốt lửa làm hiệu. Xin Thượng vương định liệu.
Phúc Ánh nạt rằng:
- Hễ giặc đến thì ta đã có kế sách mà đánh, việc gì ngươi sợ hãi thế. Nếu tự hậu còn như thế nữa ta giết chết không tha.
Tên quân hoảng sợ lui ra. Phúc Ánh liền đem toàn quân được hơn vạn người xuống thuyền theo sống Sài Côn ra cửa Cần Giờ cứ địch. Khi chiếc thuyền ra đến một đoạn sông rộng lớn ngả rẽ chằng chịt, Phúc Ánh hỏi tả hữu rằng:
- Sông này là sông gì?
Tả hữu đáp:
- Đoạn sông này có năm nhánh nối liền với các sông Tiền Giang ở Nam và sống Đồng Nai ở Bắc cộng với thượng lưu và hạ lưu của dòng sông chính tạo thành ngã bảy sông nên có tên gọi là Thất Kỳ Giang (này là sông Ngã Bảy).
Phúc Ánh liền cho đóng thuỷ trại ở Thất Kỳ Giang và hạ lệnh:
- Nguyễn Nghi đem hai ngàn quân và hai mươi đại chiến thuyền tiến ra cửa Cần Giờ, hễ gặp quân Tây Sơn đến thì đánh, chỉ được thua chứ không được thắng. Đợi cho giặc vào đến Thất Kỳ Giang rồi quay thuyền lại mà đánh.
Nguyễn Nghi hăm hở lãnh lệnh đi ngay. Phúc Ánh lại hạ lệnh:
- Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân, Mạn Hòe, mọi người lãnh một ngàn năm trăm quân mai phục ở bốn ngả sông. Ta cũng đạo sĩ Ba Đa Lộc lãnh ba ngàn quân mai phục hai ngã năm thượng lưu, chờ giặc đến cùng nhất tề đổ ra mà đánh. Trận này nhất định phải bắt cho được anh em Nhạc - Huệ.
Các tướng hăng hái lãnh lệnh và đồng thanh khen rằng:
- Thượng vương tuổi còn trẻ mà mới nhìn qua địa hình đã biết bày ra thế trận. Không biết bát trận ở của Gia Cát ngày xưa là có thật hay chăng. Con ngả này anh em Nhạc, Huệ lọt vào thất trận do của Thượng vương ắt là chết chẳng toàn thây!
Nói rồi cũng chia nhau bố trận. Lúc ấy Nguyễn Nghi dẫn hai ngàn quân và hai mươi đại thuyền đi tiên phong ra đến cửa Cần Giờ gặp đoàn thuyền tiên phong của Đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Văn Tuyết. Nguyễn Nghi trông thấy đại bác Tây Sơn đặt trên thuyền bề thế uy nghi nghĩ thầm rằng:
- Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn nếu mà giáp chiến giả thua e rằng không thoát khỏi bọn này. Chi bằng ta từ xa bắn trước vài phát súng, chờ cho chúng bắn đại bác ra, rồi làm bộ hoảng sợ quay thuyền bỏ chạy, dụ chúng vào Thất Kỳ Giang rồi sống mái một trận cũng chẳng muộn gì!
Nghĩ rồi dàn thuyền truyền quân khai hoả mà bắn. Quân Nguyễn bắn được vài phát đại bác, tầm bắn chưa đến được thuyền Tây Sơn đã nghe đại bác Tây Sơn nổ ầm ầm, đạn bay trúng thuyền quân Nguyễn vỡ liền máy chiếc. Nguyễn Nghi thất kinh hồn vía, quay thuyền mà chạy. Nguyễn Văn Tuyết không đuổi theo lại lệnh quân neo thuyền chờ đại binh Tây Sơn. Đến nơi vua Thái Đức hỏi Nguyễn Văn Tuyết:
- Sao không tiến binh mã dừng quân nói cửa bể?
Tuyết đáp:
- Tâu Bệ hạ, thần vừa đến đây gặp một đoàn hai mươi đại thuyền của giặc Nguyễn Gia Miêu. Quân ta mới bắn vài phát đạn chúng đã bỏ chạy. Thần e có mai phục nên không dám đuổi theo mới đóng quân đây chờ thượng lệnh.
Nguyễn Huệ khen:
- Văn Tuyết cẩn thận như thế là đúng. Quân Nguyễn đốt lửa trên núi báo hiệu tất chúng đã có phòng bị. Đã phòng bị sao chưa đánh đã chạy, tất dụ ta vào trận mai phục.
Huệ giở bản đồ ra nói tiếp:
- Hoàng huynh hãy xem, nhất định là chúng mà phục ta ở sông Thất Kỳ Giang này.
Vua Thái Đức hỏi:
- Vậy theo em ta phải đánh thế nào?
Huệ chỉ vào bản đồ nói:
- Tại sông Thất Kỳ Giang nhất định Ánh cho giấu thuỷ quân trong các ngả sông chờ chiến thuyền ta lọt vào ổ phục kích rồi đổ ra mà đánh. Hoàng huynh cứ mạnh dạn tiến binh chia quân làm sáu cánh, mỗi cánh đánh vào một ngả sông nơi quân Nguyễn mai phục. Chúng chia quân mai phục thì ta chia quân mà đánh chỗ chúa tôi Phúc Ánh tan tác chẳng nhìn thấy nhau.
Vua Thái Đức trao bảo kiếm cho Nguyễn Huệ nói:
- Em đã một lần đánh vào Gia Định nên tỏ tường địa thế sông ngòi. Ta giao cho em được trọn quyền điều binh khiển tướng. Em mau hạ lệnh tiến binh.
Huệ chậm rãi nói:
- Xin Hoàng huynh chớ vội. Bây giờ thuỷ triều đang rút chạy, ta tiến quân mệt sức, chốc lát nữa nước cạn sẽ có thuyền quân Gia Miêu đến khiêu chiến. Khi ấy nước thuỷ triều lên ta theo sức nước mà đuổi theo giặc thì thuyền đi đã mau, mà quân lại khỏe.
Vua Thái Đức nghe lời đóng binh chờ quân Nguyễn.
***
Nói về Nguyễn Nghi đem quân ra khiêu chiến bị tướng Tây Sơn là Đô đốc Tuyết bắn vỡ vài chiếc đại thuyền liền quay đầu chạy một mạch về Thất Kỳ Giang. Không thấy quân Tây Sơn đuổi theo, Nghị đến đại bản doanh gặp Phúc Ánh, tâu:
- Thưa Thượng vương, quân Tây Sơn thuyền to súng lớn. Đạn thuyền của thần bắn chưa đến được thuyền giặc, thì đã bị đại bác Tây Sơn bắn vỡ mất hai đại thuyền. Thần vội chạy về đây, không rõ vì lý gì giặc chẳng đuổi theo!
Khi ấy Mạn Hòe vì nóng lòng lập công khoe tàu đồng súng lớn. Mạn Hòe theo Nguyễn Nghi vào gặp Phúc Ánh, thưa:
- Tôi xin đem hai chiếc tàu đồng ra cửa biển dụ giặc. Nếu chúng đuổi theo thì ta dụ vào Thất Kỳ Giang mà đánh. Nếu chúng sợ thì tôi sẽ bắn vỡ thuyền chúng ở cửa Cần Giờ cho khỏi nhọc sức Thượng vương.
Phúc Ánh y lời phong Mạn Hòe làm tiên phong, đem hai chiếc tàu đồng và hai mươi đại thuyền cùng hai ngàn quân ra cửa Cần Giờ khiêu chiến. Mạn Hòe hùng hổ kéo quân đi ngay. Đến gần thuỷ trại Tây Sơn, vua Thái Đức trong thấy bảo:
- Quá đúng như Nguyễn Huệ tiên đoán, ngoài cả quân Nguyễn lại ra khiêu chiến, lần này chúng có hai chiếc tàu đồng lớn, có phải của người Pháp Lang Sa chăng?
Nguyễn Huệ nói, giọng rền như sấm:
- Cái lũ người mắt xanh mũi lõ này, mượn tiếng truyền đạo có ý đồ dòm ngó nước ta. Trận này phải đốt hai chiếc tàu đồng này cho chúng biết quân Tây Sơn ta hùng mạnh thế nào!
Nói rồi sai Nguyễn Văn Tuyết làm tiên phong, phò mã Trương Văn Đa làm hậu quân Đô đốc, bảo vệ vua Thái Đức, còn mình đem toàn quân giáp chiến. Tiến vừa tầm đạn, quân Tây Sơn nhất tề khai hoả, đại bác nổ ầm ầm, đạn bay tới tấp trên thuyền quân Nguyễn. Mạn Hòe cầm đầu hai chiếc tàu đồng đi trước liền bắn trả. Nhưng quân Tây Sơn đông quả lại tập trung hoả lực vào hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe, chẳng mấy chốc súng đại bác trên tàu đồng của Mạn Hòe đều bị đạn quân Tây Sơn bắn hỏng cả. Mạn Hòe liền hạ lệnh lui binh. Quân Tây Sơn ồ ạt đuổi theo. Vừa đến Thất Kỳ Giang, Nguyễn Huệ ra lệnh:
- Đặng Văn Long đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ nhất. Nguyễn Văn Lộc đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ hai. Ngô Văn Sở đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ ba. Phan Văn Lân đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ tư, Trần Quang Diệu lãnh hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ năm.
Các tướng lãnh lệnh chia quân đi ngay. Nguyễn Huệ cùng Bùi Thị Xuân cầm trung quân đốc chiến thúc quân tiến lên vây hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe vào giữa. Quân Pháp Lang Sa trên tàu thấy Tây Sơn giáp chiến liền lấy súng nhỏ mà bắn. Quân Tây Sơn lấy khiên đồng đỡ đạn lầm lũi tiến lên. Đến gần tàu đồng Mạn Hòe, quân Tây Sơn tung hoả hổ mà đốt. Nguyên nhựa hoả hổ của Tây Sơn văng đâu dính đó, sức nóng vô cùng. Hoả hổ bắn tung tóe như mưa lên tàu Mạn Hòe, hai chiếc tàu đồng của quân Pháp Lang Sa bốc cháy. Mạn Hòe cùng hai trăm quân người Pháp Lang Sa đều bị chết cháy cả. Các cánh quân mai phục của Nguyễn Gia Miêu đều bị Tây Sơn đánh tan tác, chiến thuyền đắm vỡ gần hết, quân chết thôi vô số. Các tướng Nguyễn Phúc Ánh là Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân, Nguyễn Nghi đều theo lạch nhỏ mà chạy trốn. Lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh thấy thuyền Tây Sơn lọt vào Thất Kỳ Giang trong bụng mừng lắm nói:
- Anh em Nhạc, Huệ quả nhiên trúng kế, chờ chúng vào hết trong trận sẽ nhất tề tiến đánh.
Nói vừa dứt câu lại thấy quân Tây Sơn chia thuyền làm sáu cánh, mỗi cánh tiến vào một ngả sông. Ánh giật mình nói với Bá Đa Lộc rằng:
- Sao quân Tây Sơn lại bố trận như thế. Không lẽ quân cơ của ta đã lộ rồi chăng?
Bá Đa Lộc lại thất sắc kêu Ánh:
- Quân Tây Sơn vây hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe. Xin Thượng vương mau hạ lệnh tiến quân giải vây cho Mạn Hòe.
Phúc Ánh liền hô quân xung trận. Thuyền quân Nguyễn vừa mới xông ra đã bị đạn đại bác Tây Sơn bắn chìm liền mấy chiếc. Quân Nguyễn thấy vậy hoảng sợ không dám tiến, Ánh ở phía sau tuốt gươm hét:
- Quân bay mau tiến lên liều chết mà đánh, đứa nào sợ lui ta chém chết không tha.
Ánh hết vừa dứt lời nhìn vào giữa trận thấy hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe bốc cháy, quân sĩ cả kinh đều quay thuyền chạy cả. Ánh ngăn không nổi đành cũng Bá Đa Lộc tất tả chạy theo.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 27 Khuyên Đỗ Nhàn Trập, Võ Tánh một dạ trung quân. Trốn Bùi Thị Xuân, Nguyễn Vương hai lần thoát hiểm
Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh đánh cùng quân Tây Sơn ở Thất Kỳ Giang bị thua trận, bèn cùng Bá Đa Lộc quay thuyền mà chạy.
Nữ Đô đốc Tây Sơn Bùi Thị Xuân trông thấy nói với Nguyễn Huệ:
- Chiếc thuyền rồng kia chắc của Nguyễn Phúc Ánh, tôi xin đuổi bắt giết chết nó cho rồi.
Nói xong Xuân qua một chiếc dài thuyền dẫn đầu nữ binh đuổi theo Phúc Ánh. Phúc Ánh trông thấy hồn phi phách tán, nghĩ thầm rằng: Con tiện tỳ này võ nghệ siêu quần sức khỏe vô song. Nếu phen này mà nó bắt được ta thì dù cố vạn lậy mòn đầu gối nó cũng chẳng tha.
Nghĩ xong hối quân chèo gấp. Thị Xuân đuổi theo, Ánh liệu bề ở trên thuyền không chạy khỏi, bảo quân ghé thuyền vào bờ lên đất liền mà trốn. Bùi Thị Xuân cũng lên bờ đuổi theo. Bá Đa Lộc dẫn Ánh chạy vào trong một xóm đạo, đến nhà thờ lớn Lộc bảo máy đạo sĩ:
- Mau mau tìm chỗ cho vua nấp, kẻo giặc đuổi tới nơi.
Nói vừa xong người canh cổng vào bảo rằng;
- Có đạo binh toàn là con gái, gươm giáo lăm lăm đang lùng sục khắp nơi.
Đạo sĩ giữ nhà thờ nói:
- Xin vua và giám mục mau ra trốn nơi hậu quân.
Ánh và Lộc liền chạy ra hậu quân. Vừa vào trong đã nghe tiếng Bùi Thị Xuân quát ở ngoài rằng:
- Các ngươi hay lục soát khắp nơi bắt kỳ được Phúc Ánh cho ta.
Ánh chẳng còn hồn vía nào, nhận thấy mấy người đàn bà đang hộ sanh cho một phụ nữ đang trở dạ, liền cùng Bá Đa Lộc chui xuống gầm giường ấy mà trốn. Bùi Thị Xuân mở cửa bước vào thì vừa lúc đứa trẻ chào đời khóc oa oa. Thị Xuân thấy vậy liền vội vã lẩn ra ngoài. Bùi Thị Cúc hỏi:
- Vì sao chị vừa vào đã vội ra ngày?
Xuân đáp:
- Trong ấy có người phụ nữ vừa sanh con. Ta làm người đẻ sợ hãi lên máu sản hậu mà chết nên phải ra ngày.
Cúc lại hỏi:
- Thế ngộ nhỡ Phúc Ánh chui xuống gầm giường ấy mà trốn thì sao?
Xuân cau mày đáp:
- Nguyễn Phúc Ánh đến nỗi nào mà hèn như thế được! Vả lại nếu ta vào lục soát, người mẹ mới sanh con kia sẽ sợ hãi lên sản hậu mà chết. Lòng ta sao nỡ! Thôi! Mau đi tìm ở hướng khác.
Tìm đến tối vẫn không thấy tăm dạng Phúc Ánh đâu, Bùi Thị Xuân đành quay về báo cùng Nguyễn Huệ:
- Thưa tướng quân, Phúc Ánh chạy thoát chính la lỗi do tôi.
Huệ cười bảo:
- Việc gì mà cô Xuân phải tạ lỗi. Đất Gia Định sông ngòi chằng chịt, rừng rậm um tùm, hắn đã chạy trốn thì dễ gì mà kiếm cho ra. Vả lại số của Ánh chưa tàn mà thôi. Nay Phúc Ánh trốn thoát chạy vào thành Sài Côn, vợ chồng Diệu và Xuân hãy đem hai ngàn quân chia nhau chân ở hai cửa Cung Hậu và Hàm Luông do sông Tiền Giảng đổ ra. Đợi Vũ Văn Nhậm đem bộ binh tiến đánh Trấn Biên, Ánh tất bỏ Sài Côn mà chạy về Trường Đồn. Ta đã sai Nguyễn Văn Lộc tiến đánh Trường Đồn, Nguyễn Văn Tuyết đánh Long Hồ. Phúc Ánh chỉ còn một con đường là lợi dụng vùng sông ngòi chằng chịt theo sông Tiền Giang trốn ra hải đảo mà thôi. Lần này có thể vợ chồng Diệu Xuân lại lập công to như lần trước bắt hai chúa Thái Thượng vương và Tấn Chính vương của nhà Nguyễn vậy. Hai người nên cố gắng tiêu diệt được Phúc Ánh, xem như ta đã bình được đất Gia Định vậy.
Bùi Thị Xuân ân hận nói:
- Nguyễn Phúc Ánh thoát được là do lỗi ở Xuân này. Xin tướng quân trị tội.
Huệ cười hỏi:
- Ta chưa từng nghe nói có điều quân lệnh nào là bảo rằng không bắt được tướng giặc là có tội. Cô Xuân đừng nên bứt rứt như thế.
Bùi Thị Xuân không dám kể rằng chính mình đã tha mạng cho Phúc Ánh năm xưa lúc bắt hai chúa Nguyễn, bên cáo từ Nguyễn Huệ rồi cùng chồng là Trần Quang Diệu lãnh lệnh ra đi.
Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh thấy Bùi Thị Xuân dẫn nữ binh đi rồi, liền cùng Bá Đa Lộc chui ra khỏi gầm giường. Ánh bồng đứa bé mới sinh trên tay và nói:
- Ngươi chính là người trời sai xuống cứu vua. Và ta phong cho ngươi làm hộ giá đại tướng quân. Ngày sau phục quốc nhất định tìm mà ban thưởng.
Đoạn Phúc Ánh chia tay với Bá Đa Lộc rồi tìm đường về thành Sài Côn. Đến nơi thấy Lê Văn Quân cũng kéo quân về tới. Ánh giật mình hỏi Quân:
- Khanh đang thủ thành Trấn Biên sao lại kéo quân về đây?
Vâm Quân quỳ tạ lỗi:
- Giặc Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy từ Bình Thuận kéo vào đánh rất dũng mãnh. Binh ta không địch nổi, thần đành phải chạy về đây hợp quân cùng Thượng vương cố thủ đất Sài Côn.
Ánh bảo:
- Binh ta đã bị quân Tây Sơn đánh tan ở Thất Kỳ Giang. Mạn Hòe tử trận, các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân đều thất lạc cả. Nay nếu giặc ba bề đánh tới thì làm gì mà cố thủ Sài Côn. Bây giờ chỉ còn có một đường là bỏ thành mà chạy vào Trường Đồn với Mạc Thiên Tứ mới mong bảo toàn tính mạng.
Vừa dứt lời nghe quân hớt hải vào báo:
- Thưa Thượng vương, Vũ Văn Nhậm đem quân đánh đến cửa Bắc thành.
Phúc Ánh cả kinh liền sai Lê Văn Quân đem một ngàn quân đoạn hậu, còn mình đích thân dìu mẹ và em lên xe tứ mã mở cửa thành Nam mà chạy.
Nhắc lại từ khi Đỗ Thành Nhân bị Phúc Ánh giết chết, thuộc hạ của Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ Trường Đồn về tránh ở căn cứ là rừng Tam Phụ.
Ngày ấy quân thám mã về báo cùng Đỗ Nhàn Trập:
- Thưa tướng quân, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đem quân thuỷ bộ vào đánh Gia Định. Thượng vương Phúc Ánh bị thua to ở Thất Kỳ Giang. Bộ quân Tây Sơn do phò mã Vũ Văn Nhậm đã đánh chiếm thành Trấn Biên. Hiện Thượng vương và tướng quân Lê Văn Quân đã lui về cố thủ Sài Côn.
Đỗ Nhàn Trập nghe xong liền quay sang Võ Tánh nói:
- Từ ngày anh ông là Võ Nhân và chú tôi bị Phúc Ánh bắt giết chết, tôi và ông phải về ẩn náu ở nơi này, lúc nào tôi cũng nuôi chí báo thù. Nay quân Tây Sơn sắp sửa đánh chiếm thành Sài Côn, Phúc Ánh không thể nào địch nổi sớm mượn gì thành Sài Côn cũng mất về tay quân Tây Sơn. Tôi với ông đều là bậc hào kiệt, vậy ta nên theo về với Tây Sơn đánh Phúc Ánh báo thù cho chúa. Chẳng hay ý ông thế nào?
Võ Tánh lắc đầu nói:
- Nếu ta đầu Tây Sơn đánh Thượng vương thì không phải là ta báo thù mà sẽ phụ lòng chủ tướng nói suối vàng vậy.
Nhàn Trập hỏi:
- Phúc Ánh giết chủ tướng. Nay ta đánh Phúc Ánh để báo thù sao lại bảo là phụ lòng chủ tướng.
Tánh không đáp, hỏi lại Nhàn Trập:
- Xin hỏi ông vì sao chủ tướng ứng nghĩa cần vương giúp chúa Định Vương lại lấy tên quân ta là Đồng Sơn.
Trập đáp:
- Chú tôi lúc ấy lấy tên Đông Sơn là tỏ ý đối nghịch với Tây Sơn.
Tánh hỏi:
- Vậy nay ta đầu hàng Tây Sơn thì chẳng phải là phụ lòng chủ tướng sao?
Trập đáp:
- Ngươi xưa có nói: Chim khôn chọn cây mà đỗ, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay Phúc Ánh tâm địa nhỏ nhen, mượn tay người rồi lại giết người, mới đặng chim đã vội vàng bẻ ná. Vả lại Phúc Ánh muốn tranh lấy ngôi vàng nhà chúa mà không màng đến điều hại của quốc dân, nên mới mượn binh của nước Pháp Lang Sa, đổi lại cho Bá Đa Lộc được tuyên truyền tà đạo, người như thế đâu phải là minh quân. Vả chăng Phúc Ánh vốn có lòng muốn giết hai ta ở tiệt trừ hậu hoạ nên mới sai Mạc Thiên Tứ từ Hà Tiên đánh ra, Lê Văn Quân và Hồ Văn Lần từ Sài Côn đánh vào lúc hai ta còn trấn thủ ở Trường Đồn. Nay nếu ông ra phò Phúc Ánh có dám chắc rằng bảo toàn tính mạng được chăng? Tôi có nghe vua Thái Đức Tây Sơn là người nhân nghĩa, ban quân pháp không được giết hàng quân, đi đến đâu đều cứu giúp dân nghèo. Đến như năm xưa chúa Định Vương bỏ Quảng Nam vượt bể vào Gia Định, vua Tây Sơn bắt được Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường, cảm mến lòng trung hiếu của Tính Điệp hầu, vua Tây Sơn lại cấp ghe thuyền cho Tính Điệp hầu vào Gia Định theo chưa. Người như thế không phải là đại nhân dài đức hay sao? Này nếu ta cứ câu nệ hai chữ trung quân không đầu quân Tây Sơn, thì đối với Phúc Ánh cũng mang tiếng là phản chúa. Chẳng lẽ ông lại để cho mấy ngàn quân Đông Sơn ở mãi trong rừng Tam Phụ này sao?
Võ Tánh bác lời của Đỗ Nhàn Trập:
- Thượng vương giết chủ tướng là do chủ tướng cậy công mà xem thường tiểu chúa, làm anh tôi phải bị chết oan, thì sao lại đổ lỗi cho Thượng vương được. Ấy là một lẽ! Thượng vương mượn binh Pháp Lang Sa mong khôi phục cơ đồ ấy là điều đúng. Đạo do Bá Đa Lộc tuyên truyền cũng dậy người làm điều thiện thì sao lại bảo lả tà đạo? Ấy là hai lẽ. Thượng vương muốn giết chết hai ta để trừ hậu hoạ vì hai ta là thuộc hạ của chủ tướng, ở trong cương vị này ai cũng phải làm như thế mà thôi. Phận làm tôi không được đem lòng oán chúa. Ấy là ba lẽ! Vả lại tôi không ở trong thành Trường Đồn để Thượng vương bắt làm tội cho trọn câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" mà về ẩn thân nơi rừng Tam Phụ vì nghĩ rằng thân này còn có ngày giúp chúa đánh Tây Sơn. Tôi cũng như Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường chỉ biết câu: "Tôi trung không thờ hai chúa" mà thôi. Lẽ đâu lại đi hàng thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc, vả lại quân Tây Sơn mượn tiếng tôn phò giả nhân giả nghĩa nên mới thả cho Tính Điệp hầu để lấy lòng hiền sĩ. Nếu không thế, tại sao lúc bắt Tính Điệp hầu lần thứ hai lại không cảm lòng trung hiếu tha cho mà bắt giết đi. Xin ông chớ có lầm anh em thằng buôn trâu là người nhân nghĩa.
Đỗ Nhàn Trập nghĩ thầm rằng: Võ Tánh đã quyết như thế ta có nói thế nào cũng không lay chuyển được, chi bằng ta làm hoà rồi thừa cơ trốn đi là hơn. Nghĩ xong làm như giật mình tỉnh ngộ, Tráp nói:
- Nếu không nhờ ông phân giải, tôi đã làm quân Tây Sơn. Nhưng Thượng vương cứ muốn giết hai ta thì làm sao mà ra giúp chúa cho được?
Tánh bàn rằng:
- Hiện giờ ta chưa thể chứng minh lòng trung của ta được. Nay tôi và ông hay kéo quân đến thành Sài Côn giúp chúa chống Tây Sơn. Lẽ nào chúa chẳng tin ta?
Trập vội can:
- Nếu làm như thế tôi e rằng quân ta chưa đến nơi thì Thượng vương đã bỏ thành mà trốn.
Tánh ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao ông lại nói thế?
Trập vờ lo lắng nói:
- Nay Sài thành mặt Bắc thì bộ binh Vũ Văn Nhậm đang uy hiếp, mặt Đông thì thuỷ binh Nhạc, Huệ tấn công. Nếu quân do thám về báo với chúa rằng có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập đem quân Đông Sơn tiến đánh mặt Nam thì Chúa thượng lại ngồi yên trong thành được sao? Ông làm thế thành ra hại chúa vậy!
Tánh gật đầu hỏi:
- Theo ông nay tôi phải làm sao?
Trập hiến kế:
- Nay chỉ còn có cách là chờ có chúa thất thủ Sài Côn ắt phải chạy vào Trường Đồn cùng Mạc Thiên Tứ, vào Trường Đồn tất phải chạy ngang qua rừng Tam Phụ của ta. Khi ấy ta kéo quân ra đánh Tây Sơn đang đuổi theo để cứu chúa. Chỉ có như vậy mới chứng tỏ được lòng trung của mình cho chúa biết mà thôi.
Tánh thở dài nói:
- Biết chúa lâm nguy mà không ra giúp được, phải chờ cho chúa bại binh. Nhưng không còn cách nào khác đành phải vậy thôi!
Trập bảo:
- Tôi xin đem một ngàn quân bản bộ làm tiên phong ra ngoài rừng đến ven đường mai phục. Ông chỉnh đốn hàng ngũ vạn chuyển binh lương cũng toán binh đến sau.
Nói rồi Trập từ biệt Võ Tánh đi ngay.
Nói về Nguyễn Phúc Ánh bỏ thành Sài Côn mà chạy đến gần khu rừng Tam Phụ, xảy thấy vài tên quân mình từ hướng Nam chạy đến bảo:
- Thưa Thượng vương, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc đem quân theo đường bé vào cửa Hàm Luông chiếm lấy Trường Đồn. Nguyễn Văn Tuyết theo sông Tiền Giang đánh chiếm Long Hồ. Tổng trấn Mạc Thiên Tứ đã bỏ Trường Đồn chạy về cố thủ Hà Tiên.
Phúc Ánh thất kinh than:
- Nay hai đầu địch quân đánh tới biết phải chạy về đâu?
Vừa than dứt lời bỗng thấy một đạo binh trong rừng xông ra. Viên tướng cầm đầu đạo binh ấy hết lớn:
- Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát. Hôm nay ta quyết giết ngươi để trả thù cho chúa ta là Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn Phúc Ánh tâm thần bấn loạn nói:
- Quân Đông Sơn lại kéo đến đánh, Lê Văn Quân mau chặn Đỗ Nhàn Trập lại cho ta.
Quân vội vàng nói:
- Chúa thượng mau phò quốc mẫu chạy vào con đường nhỏ ở hướng Đông lánh nạn. Thân xin ở lại liều mình chết cùng Đỗ Nhàn Trập.
Văn Quân nói xong hô quân cự chiến với Đỗ Nhàn Trập. Binh Nguyễn bị Tây Sơn đuổi chạy tướng sĩ người ngựa mệt mỏi đều quẳng giao bỏ trốn. Lê Văn Quân cũng vài mươi tuỳ tùng quất ngựa chạy theo Phúc Ánh. Đỗ Nhàn Trập quyết chí báo thù thúc ngựa đuổi theo. Văn Quân chạy một hồi thấy xa giá quốc mẫu và Phúc Ánh phía trước mà sau lưng Đỗ Nhàn Trập vẫn rượt nã theo. Trong cơn nguy khốn bỗng nghe một tiếng hét vang:
- Quân giặc kia không được hại chúa!
Người vừa hét mặt đen như than, thân hình cao lớn tay cấm đại đao từ đâu xông đến chặn Nhàn Trập mà chém. Nhàn Trập giơ thương lên đỡ nghe rủn cả tay, hoảng kinh quát ngựa mà chạy. Nhờ vậy nên Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân mới thoát nạn. Phần Đỗ Nhàn Trập thì dẫn quân về thành Sài Côn đầu hàng quân Tây Sơn.
Nói về viên tướng mặt đen sau khi đuổi Đỗ Nhàn Trập đi rồi bèn quay ngựa lại ra mắt Phúc Ánh. Ánh hỏi:
- Tráng sĩ tên họ là gì, quê quân ở đâu? Sao biết ta lâm nạn nơi này mà cứu?
Tướng ấy đáp:
- Thần dân tên Trương Tấn Bửu, quân làng Hiệp Hưng, Tổng Tân An, Châu Định Viễn ở gần đây. Nay quân Tây Sơn bủa vây bọn phía, xin mời chúa hãy lẩn về nhà thần dân nghỉ tạm qua đêm rồi sẽ liệu sau!
Phúc Ánh và Lê Văn Quân liền đưa quốc mẫu về nhà Trương Tấn Bửu. Mẹ con Phúc Ánh và Lê Văn Quân mỏi mệt quá đánh nằm trên giương rơm, dưới ánh đèn dầu leo lét, trong túp lều tranh lụp xụp ngủ vùi. Sáng sớm hôm sau nghe Trương Tấn Bửu gọi:
- Đỗ Nhàn Trập về hàng quân Tây Sơn, hiện đang dẫn giặc đi lùng sục khắp nơi. Xin Chúa thượng mau đi tránh.
Phúc Ánh mệt mỏi lo lắng hỏi:
- Nay quân ta tan tác chỉ còn có vài người tuỳ tùng. Giặc đuổi đến biết tránh đi đâu?
Bửu trấn an rằng:
- Xin Chúa thượng chớ lo. Thân dân ở vùng này rất rành địa thế, xin đưa chúa qua ở cồn vắng bên kia sông thì không lo giặc tìm ra tông tích.
Nói xong Bửu dùng thuyền nhỏ đưa mẹ con Phúc Ánh qua cù lao giữa sông mà tránh. Đến nơi quốc mẫu lại kêu đói. Ánh bảo Tấn Bửu:
- Phiền ngươi đi tìm thức vật cho mẹ con ta lót dạ.
Tấn Bửu đi một hồi quay lại nói:
- Thần dân định về nhà lấy cơm dâng quốc mẫu và Chúa thượng, nhưng ngắt nỗi quân Tây Sơn đang lùng sục trong làng nên không tiện quay về. Xin chúa cùng quốc mẫu dùng tạm quả này cho đỡ đói.
Nói xong Bửu dâng quả rừng cho Phúc Ánh. Ánh cắn thử một miếng thấy vị vừa chưa vừa chát liền hỏi Trương Tấn Bửu:
- Quả này tên gọi quá gì?
Bửu thưa:
- Cây này thường mọc bên bờ sông, tên gọi cây bần.
Ánh tò mò hỏi:
- Vì sao gọi là cây bần?
Bửu đáp:
- Vì quả này thương những người nghèo khó thiếu cơm mới ăn qua bữa, nên có tên lá cây bần.
Ánh bèn bảo:
- Họ nhà ta làm chúa cả thiên hạ, nay phải ăn trái bần lót dạ. Từ nay cấm không gọi là trái bần nữa.
Bửu hỏi ngày:
- Thưa chúa vậy phải gọi là trái gì?
Ánh ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Từ nay phải gọi là cây Thuỷ Liễu!
Ánh nói xong liền dâng trái Thuỷ Liễu cho mẹ dùng. Hôm sau Trương Tấn Bửu lại đem về một chiếc thuyền lớn nói với Phúc Ánh:
- Nay giặc Tây Sơn đi lùng sục khắp nơi, sớm mượn gì cũng đến nơi này. Vậy mới Chúa thượng mau lên thuyền chạy ra ngoài hải đảo lạnh nạn mới yên.
Phúc Ánh nói:
- Năm xưa hai chúa cũng vì chạy ra hải đảo lánh nạn nên mới bị nữ tướng của giặc là Bùi Thị Xuân bắt ở cửa Hàm Luông. Nay nếu ta chạy theo đường đó làm gì mà không bị đón bắt như hai lần trước?
Bửu đáp:
- Xin Chúa thượng chớ lo, kênh rạch vùng này thân dân rất rành. Thân dân sẽ cho thuyền theo rạch nhỏ mà đi ra ngoài biển. Giặc Tây Sơn không thể nào biết được.
Phúc Ánh và Lê Văn Quân nghe lời đưa quốc mẫu và công chúa Ngọc Du lên thuyền theo Trương Tấn Bửu mà đi. Bửu cho ghe luồn lách trong rạch nhỏ quả nhiên không gặp quân Tây Sơn. Nhưng vừa ra cửa bể bỗng gặp nữ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân đem vài chiến thuyền đi tuần tiễu trông thấy. Bùi Thị Xuân gọi lớn:
- Chiếc thuyền kia mau dừng lại cho quân ta tra xét.
Trương Tấn Bửu không đáp, giong buồm cho thuyền chạy ra khơi. Thị Xuân nói:
- Long Nhương tướng quân đoán không lầm. Quả nhiên là thuyền Phúc Ánh chạy trốn. Mau đuổi theo!
Phúc Ánh trông thấy Bùi Thị Xuân đuổi theo liền trương cũng lắp tên bắn một phát. Thị Xuân lẹ mắt chụp được mũi tên ấy, rồi lấy cung bắn trả. Tên bay xé gió trúng dây buồm dứt lìa. Thuyền Phúc Ánh đứt dây buồm không chạy được. Ánh cả kinh than:
- Lần nào ta chạy trốn cũng bị con tiện tỳ này rượt đuổi. Số của ta phải chết dưới tay đàn bà sao?
Than vừa dứt lời bỗng trời mây vần vũ, rồi mưa tờ gió lớn nổi lên. Bùi Thị Xuân liền hối quân chạy thẳng vào bờ nấp bão, lạ lùng thay chiếc thuyền nhỏ của Phúc Ánh trong giông bão giữa biển khơi lại chẳng hề hấn gì. Bão tan chẳng thấy thuyền quân Tây Sơn đâu nữa. Nhờ vậy Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu thoát được chạy ra đảo Phủ Quốc ẩn náu.
Nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân sau cơn bão không thấy thuyền Phúc Ánh bèn thu quân về thành Sài Côn ra mắt vua Thái Đức, tâu:
- Thần dẫn quân đi tuần ngoài cửa bể Hàm Luông, gặp thuyền Phúc Ánh chạy trốn thần đuổi theo gần kịp, bỗng một cơn bão nổi lên thần đành cho thuyền vào bờ núp bão. Khi bão tan không thấy Phúc Ánh, đành kéo quân về ra mắt Bệ hạ.
Vua Thái Đức nói:
- Ở giữa biển lại gặp bão tố, thuyền Phúc Ánh làm gì mà không bị đắm. Phen này ắt là đã diệt xong dòng họ chúa Nguyễn. Phúc Ánh chết các tướng sĩ quân Nguyễn chạy trốn ắt là như rắn mất đầu ta có lo gì nữa.
Đoạn vua bảo các tướng:
- Hay chuẩn bị quân trang định ngày xa giá hồi kinh!
Nguyễn Huệ hỏi vua:
- Vậy hoàng huynh đệ Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định chứ?
Vua Thái Đức suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Đỗ Nhàn Trập vừa mới hàng ta. Trập là người Gia Định ắt hiểu rõ nhân văn địa lý vùng này, ta cho Trập trấn thủ Gia Định là hợp lý. Vả lại, Trập vừa mới hàng ta, ta trọng dụng Trập lại càng tỏ rõ đức độ của ta. Thế chẳng phải là nhất cứ lưỡng tiện hay sao?
Vua Thái Đức nói xong liền để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đất Gia Định. Nguyễn Huệ không dám cãi đành theo Nguyễn Nhạc đem đại binh về Quy Nhơn!
Nói về chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh nhờ cơn bão mà thoát khỏi tay nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân chạy ra đảo Phủ Quốc. Hay tin vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ rút đại binh về, Lê Văn Quân bàn:
- Nay anh em Nhạc, Huệ đã rút đại binh về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đã Gia Định. Ta nên thừa cơ hồi này hưng binh khôi phục đất Gia Định.
Ánh buồn rầu hỏi:
- Nay ta ở đây chỉ có ngươi và Trương Tấn Bửu cùng mấy tên quân. Còn các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân không biết đang lẩn trốn nơi nào thì làm sao hội quân mà khôi phục đất Gia Định?
Quân hiến kế:
- Nay Chúa thượng nên viết chiếu chỉ mời mọi người đem quân vào Gia Định. Các tướng của ta hiện đang lẩn trốn nghe người ấy có mệnh của chúa ta hội tàn quân về theo thì có thể chiếm lại Gia Định.
Ánh hỏi ngay:
- Người ấy là ai?
Quân đáp:
- Ngươi này tên là Chu Văn Tiếp, quê ở huyện Phù Ly phủ Quy Nhơn. Lúc Nguyễn Nhạc làm loạn ở Tây Sơn, Tiếp mộ quân ở núi Bô Chinh Sơn kéo vào cứu quan trấn thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên, chẳng may thua trận, anh của Tiếp là Châu Đoan Chữ tử trận. Tiếp bèn đem quân về đóng ở núi Trà Lang phủ Phú Yên. Sau Nguyễn Huệ lại đem quân vào Phú Yên đánh lão tướng Tống Phước Hiệp. Tiếp lại cứu được con Tống lão tướng quân là Tống Viết Phước. Trận ấy chẳng may em Tiếp là Châu Đoan Hãn lại bị tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân giết chết. Chu Văn Tiếp có thù sâu với giặc Tây Sơn. Hiện Chu Văn Tiếp còn hơn ngàn quân ở núi Trà Lang giữa lòng đất địch mà vẫn giữ vững núi ấy thật đáng là danh tướng. Nay Chúa thượng nên viết mật chiếu triệu Chu Văn Tiếp vào Gia Định mới mong khôi phục cơ đồ.
Phúc Ánh nghe lại liền viết mật thư sai người ý tâm phúc đi đường bằng lên ra Phú Yên đến núi Trà Lang trao cho Chu Văn Tiếp.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 28 Chu Văn Tiếp trương cờ "Lương Sơn tá quốc". Ngô Tùng Châu tiến cử "Gia Định tam hùng".
Lại nhắc đến Chu Văn Tiếp ở trong núi Trà Lang ngày ấy nghe quân vào báo:
- Tướng quân Tống Viết Phước đi dọ đường đã về đến xin vào ra mắt tướng quân.
Tiếp cho vào, Tống Viết Phước nói:
- Tôi vâng lệnh tướng quân đi dọ đường này việc đã xong nên về bẩm báo.
Tiếp nói:
- Ta muốn đem quân vào Gia Định hợp sức với chúa chống giặc Tây Sơn. Ngặt nỗi thuyền bè không có, không thể đi đường biển được, nên mới nhờ tướng quân đi dọ đường vào Gia Định. Nay việc ấy thế nào?
Phước đáp:
- Lúc theo cha tôi là Tống Phước Hiệp đem quân từ Gia Định ra đánh Tây Sơn chiếm lại Bình Thuận, Diên Khánh, Phú yên, tôi nhận thấy từ thành Trấn Biên đến Quy Nhơn chỉ có một con đường đại lộ dọc theo miền duyên hải mà thôi. Con ở hướng Tây toàn là núi non rừng rậm. Nay ta bí mật mở một con đường theo sườn núi phía Tây đi là vào được Trấn Biên như đường đại lộ vậy. Tiếp do dự hỏi:
- Nhưng việc mở đường e rằng khó quá!
Phước vung tay nói:
- Tôi vì nóng lòng báo thù nhà đến nợ nước xin đem quân đi trước mở đường. Nếu không như thế ta đành ở mãi trong núi Trà Lang này sao?
Phước vừa dứt lời có quân vào báo:
- Chúng tôi bắt được một người xưng là kẻ tâm phúc của Nguyễn Phúc Ánh xin được vào gặp tướng quân.
Tiếp liền cho vào. Tên quân đến quỳ thưa:
- Chúa thượng thua binh ở Gia Định phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Ngươi sai tôi trình mật thư cho tướng quân Chu Văn Tiếp.
Tiếp nhận thư, xem xong mừng rỡ nói:
- Nay chúa viết mật chiếu phong ta làm Bình Tây đại Nguyên soái, bảo gấp đem quân vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập chiếm lại Sài Côn. Phen này Chu Văn Tiếp ta đã lập được đại công rồi vậy, thể chẳng uổng công ta phải nằm chờ thời cơ trong núi Trà Lang suốt mấy năm nay. Và chẳng uổng công Tốn tướng quân ọ đường vào Gia Định.
Nói xong liền sai Tống Viết Phước đem năm trăm quân đi trước mở đường, còn Tiếp cùng em là Chu Đoan Chân và bộ tướng là Phạm Văn Sở đem toàn quân cùng băng rừng vào Gia Định.
Chu Văn Tiếp nóng lòng chiếm Sài Côn, nhận chức Bình Tây đại Nguyên soái, Tống Viết Phước mang nặng thù nhà ai nấy đều hết lòng thúc quân mở đường. Tiếp chia quân làm năm đội, đội nào mệt đi sau nghỉ ngơi, đội khoẻ lại lên trước chặt cây xẻ núi. Cứ như vậy luân phiên nhau suốt mấy tháng trời vào được đến khu rừng phía Tây thành Sài Côn.
Chu Văn Tiếp hội các tướng bàn việc đánh chiếm Sài Côn. Phạm Văn Sở hiến kế:
- Vừa rồi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem thuỷ binh vào đánh quân chúa ở sông Thất Kỳ Giang, các tướng đều tan tác mỗi người một ngã, chúa và Lê Văn Quân phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Theo tôi các tướng Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tôn Phước Lương, Nguyễn Nghi hiện đang lẩn trốn ở phía Đông Nam thành Sài Côn. Nay ta sai người lên các nơi ấy bảo các tướng hội quân nơi đây uy hiếp Thị Nghè. Đỗ Nhàn Trập ắt phải đem quân trong thành ra đồn Thị Nghè ở mặt Đông mà chống giữ không đề phòng ở phía Tây thành. Khi ấy ta bất ngờ từ hướng Tây đánh tới chắc là chiếm được thành.
Chu Văn Tiếp khen:
- Phạm Văn Sở thật là cao kiến. Nhưng việc liên lạc với các tướng phải cậy ai bây giờ?
Tống Viết Phước ra nói:
- Tôi mang ơn tướng quân cứu mạng, nay xin lãnh trọng trách này. Và chăng năm xưa cha tôi là Tống Phước Hiệp, anh tôi là Tống Viết Nghĩa bị Nguyễn Huệ đánh chết, lửa báo thù còn nung nấu tâm can. Nay hai anh là Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương lại bị anh em Nhạc, Huệ đánh ở Thất Kỳ Giang chưa biết sống chết thế nào, tính cốt nhục dày vò gan mật. Vậy tôi xin lặn lội đi tìm các tướng trước là do đại sự, sau là vì tình riêng. Xin tướng quân thuận cho.
Văn Tiếp cả mừng nói:
- Nếu tướng quân lãnh nhận trọng trách này ta con lo gì nữa!
Nói rồi rót rượu tiễn Tống Viết Phước.
Tống Viết Phước đem theo vài người thân tín tìm đường về ấp Hoà Hưng thì trời vừa tối. Phước bèn gõ cửa một ngôi nhà xin vào tá túc. Chủ nhà ra mở cửa là một cụ già râu tóc bác phơ tinh thần quắc thước, cốt cách tiên phong. Cụ già hỏi:
- Khách lạ người phương nào, đi đâu trong đêm vắng gõ cửa tệ xá có điều gì chăng?
Phước cung kính đáp:
- Tôi vì đi tìm người thân, lỡ đường trời tối. Xin tiên sinh cho tạm ngủ qua đêm, sáng mai lại đi tiếp.
Cụ già mời Phước vào nhà. May thay lúc ấy hai tướng Tống Phước Lương và Tống Phước Khuông lại đang tá túc nhà sau, nghe tiếng người lạ, Khuông và Lương lên nhìn quá khe cửa thì thấy em mình là Tống Viết Phước. Khuông và Lương vội chạy ra ôm chầm lấy Phước. Anh em bất ngờ hội ngộ mừng mừng tủi tủi. Khuông hỏi:
- Từ ngày anh em ta theo cha ra Phú Yên đánh giặc Tây Sơn. Sau Nguyễn Huệ dùng mưu dương Đông kích Tây đánh lấy thành Phú Yên. Cha bị trúng tên của con nữ tặc Bùi Thị Xuân, uất hận mà chết, hai em thì bị vây ở chân núi Trà Lang anh không làm sao cứu được, lòng vô cùng đau đớn. Đến nay đã sáu năm, vì sao em mới về được đến đây, còn tam đệ Tống Viết Nghĩa ở đâu?
Phước gạt nước mắt đáp:
- Lúc ấy em và tam ca Tống Viết Nghĩa phục ở phía Bắc thành dưới chân núi Trà Lang, nghe ở thành Phú Yên súng nổ ầm ầm, lửa cháy rực trời liền kéo quân về cứu cha, không ngờ thành đã bị chiếm mất rồi tam ca bị tướng giặc là Đặng Văn Long chém chết. Em liều mình tử chiến trong cơn tuyệt vọng. May thay có tướng quân Chu Văn Tiếp chiêu binh mãi mã lập căn cứ trong núi Trà Lang đem quân cứu em cùng mấy trăm binh sĩ. Nay em tìm đường về đây là theo lệnh Chúa thượng Nguyễn Phúc Ánh, đi tìm các tướng mời khởi binh khôi phục lại thành Sài Côn.
Lương lấy làm lạ hỏi:
- Sau khi thua trận ở Thất Kỳ Giang chúa tôi thất lạc mỗi người một ngả. Nay chúa đang ở đâu mà em vâng lệnh chúa được?
Phước lấy mật thư của Nguyễn Phúc Ánh trao cho hai anh rồi nói:
- Chúa chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn, cũng không rõ các tướng đang ẩn náu nơi đâu, nên người mới sai kẻ tâm phúc mang mật thư ra Phú Yên gọi tướng quân Chu Văn Tiếp đem binh vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập. Hiện Chu tướng quân đáng giấu quân ở cánh rừng phía Tây thành Sài Côn. Em mới lãnh mạng đi tìm các tướng hội quân theo lệnh Chu tướng quân đánh giặc.
Khương mừng rỡ hỏi:
- Chu tướng quân có bao nhiêu binh mã?
Phước đáp:
- Có một ngàn năm trăm binh mã.
Khuông lắc đầu nói:
- Quân Đỗ Nhàn Trạp có tới bốn ngàn người lại trong thành Sài Côn vững chắc, lương tháo dồi dào thì một ngàn năm trăm quân của Chu Văn Tiếp là sao đánh thành cho được.
Nghe Khuông nói xong, cụ già chủ nhà cười hỏi:
- Sau năm trước Nguyễn Huệ chỉ dùng có năm ngàn quân mà trong một đêm đánh thắng hai vận quân của Tống lão tướng quân. Đến nỗi anh em phá ly tán sáu năm mới gặp mặt là vi đâu?
Khuông quay sang cụ già đáp:
- Lúc ấy do cha tôi lầm kế giương Đông kích Tây của Nguyễn Huệ nên mới bại binh.
Cụ già lại nói:
- Vậy tại sao nay không dùng lại kế ấy để dùng một ngàn năm trăm quân Chu Văn Tiếp đánh bố ngàn quân của Đỗ Nhàn Trập. Việc này còn dễ hơn năm xưa Nguyễn Huệ dùng năm ngàn quân đánh hai vạn quân của Tống lão tướng quân rất nhiều.
Khuông liền hỏi:
- Dám hỏi tiên sinh kế thế nào là giương Đông kích Tây?
Cụ già đáp:
- Thành Sài Côn tiếng là bốn mặt, nhưng thực chất chỉ có hai vùng. Mặt Tây, Bắc là vùng đất bằng rừng rậm, mặt Đông, Nam là vùng kênh rạch sông ngòi. Nay quân ta vừa mới thua ở sông Thất Kỳ Giang, Đỗ Nhàn Trập ắt đề phòng tàn quân của ta nơi đây ở mặt Đông, Nam mà không đề phòng mặt Tây, Bắc. Vậy các tướng nên thu thập tàn quân thừa lúc đêm tối đột kích đồn Thị Nghè làm kế nghi binh, Đỗ Nhàn Trập tất đem quân cứu đồn Thị Nghè. Lúc ấy Chu Văn Tiếp dẫn binh đánh vào mặt Tây, thành Sài Côn không phòng bị chắc chắn là chiếm được thành. Ấy chẳng phải là kế giương Đông kích Tây đó sao? Tướng quân Tống Viết Phước lặn lội đi tìm các tướng chẳng phải là để thi hành kế độc này sao?
Tống Viết Phước giật mình hỏi:
- Tôi đến đây chính là vì kế ấy! Dám hỏi tiên sinh cao danh quý tánh là chi mà nhìn xa thấy rộng như thế?
Tống Phước Lương đỡ lời đáp:
- Tiên sinh đây tên huý là Võ Trường Toàn, hiệu là Sùng Đức ở trường dạy học ở ấp Hoà Hưng đã lâu. Dạy học trò trung quân ái quốc, tuy về ở ẩn mà vẫn hết lòng vì chúa, nên hai anh thua trận mới về tá túc trong nhà.
Phước hỏi:
- Tiên sinh học rộng tài cao, đa mưu túc trí sao không ra giúp chúa, cứu nước nhà đang lúc hưng vong.
Võ Trường Toàn đáp:
- Lão này tuổi tác đã cao, mở trường dậy học không màng đến việc thiên hạ. Nhưng không lâu nữa sẽ cho học trò ra giúp chúa khôi phục cơ đồ.
Tống Phước Khuông nói:
- Ý tiên sinh như thế không nên nói ép làm chi. Ngày mai em hãy quay về thưa cùng Chu tướng quân hẹn ngày khởi sự.
Nhắc lại Đỗ Nhàn Trập về hàng Tây Sơn được vua Thái Đức phong là tổng đốc trấn thủ đất Gia Định, ngày ấy ở trong thành Sài Côn nghe quân vào báo:
- Thưa tổng đốc, các tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông Tống Phước Lương, thua binh ở Thất Kỳ Giang nay lại nổi lên tụ tập tàn quân tập kích đồn Thị Nghè tình thế rất nguy. Xin tổng đốc định liệu.
Đỗ Nhận Trập nghe báo liền đích thân đem hai ngàn quân ra tiếp viện đồn Thị Nghè, để thuộc tướng là Đỗ Thành Tôn thủ thành Sài Côn. Đỗ Nhàn Trập kéo binh đến đồn Thị Nghè thì quân Nguyễn đã lui binh. Bỗng có quân từ thành Sài Côn chạy đến báo rằng:
- Thưa tổng đốc, quân Nguyễn từ hướng Tây bất ngờ đánh tới quân ta ở trong thành trở tay không kịp nên bại binh. Tướng quân Đỗ Thành Tôn đã tử trận. Xin tổng đốc định liệu.
Đỗ Nhàn Trập thất kinh than:
- Thôi ta đã lầm gian kế của giặc rồi!
Nói xong Trập dẫn quân chạy về cố thủ thành Trấn Biên. Chu Văn Tiếp và Phạm Văn Sở, Chu Đoan Chân chiếm được thành Sài Côn liền trường cờ bốn chữ "Lương Sơn Tá Quốc lên mặt thành. Các tướng Nguyễn là Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Tống Viết Phước cũng về hội quan trong thành, binh thế lại mạnh lên. Chu Văn Tiếp một mặt sai người ra đảo Phú Quốc đón chúa Nguyễn Phúc Ánh, một mặt sai Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân đem binh đánh Đỗ Nhàn Trập ở Trấn Biên. Đỗ Nhàn Trập đánh không lại phải chạy về cùng Phẩm Ngàn trấn thủ Bình Thuận rồi sai người ra Quy Nhơn cấp bảo. Từ ấy đất Gia Định từ Trấn Biên vào đến Hà Tiên lại về tay quân Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh về Sài Côn rồi liền xuống chỉ cầu hiện. Nhân tài đất Gia Định theo giúp rập rất đông như Lê Văn Duyệt, Hồ Công Siêu, Dương Đông Trừng, Nguyễn Văn Quý. Con cháu trong hoàng tộc lại có thêm Tôn Thất Mẫn và Tôn Thất Dụ đều là võ tướng anh hùng cả. Trong các võ tướng Nguyễn Phúc Ánh thấy Lê Văn Duyệt nhỏ người thấp bé tỏ ý không mấy quan tâm. Lê Văn Duyệt hiểu ý tâu rằng:
- Thưa Thượng vương, quân Tây Sơn đã ba phen vào đánh Gia Định, lần nào quân ta cũng đại bại là bởi do ta tổ chức phòng thủ không chu đáo mà nên cơ sự như thế
Ánh hỏi:
- Theo ngươi tổ chức như thế nào mới là chu đáo?
Duyệt giở bản đồ chỉ vào đáp:
- Quân Tây Sơn vào Gia Định luôn theo cửa Cần Giờ đánh vào thành Sài Côn. Đồn Thị Nghè là cửa ngõ trấn giữ mặt thuỷ của thành Sài Côn. Đồn tuy vững chắc những nằm trơ trọi một mình mà sông ngòi chằng chịt, giặc có thể dùng thuyền nhỏ theo kênh rạch rồi đổ bộ tấn công cả ba mặt, nên đồn Thị Nghè phải thất thủ là do thế. Nay Chúa thượng nên cho đắp ba đồn là đồn Bến Nghé, đón Thảo Câu và đón Dác Ngư, các nơi này đều quan trọng vì là cửa ngõ của các cửa sông đến thành Sài Côn. Đồng thời ta thao luyện thuỷ binh để chặn binh Tây Sơn từ cửa Cần Giờ. Nếu thuỷ binh ta yếu thế có thể lui về các đồn này cố thủ, làm thành thế ỷ giốc, như vậy sẽ có thể đối địch được với giặc Tây Sơn.
Phúc Ánh nghe xong giật mình nói:
- Nếu không nhờ ngươi mách bảo, ta chỉ lo thao luyện thuỷ quân mà quên mất việc về thành cố thủ. Ngươi tuy vóc người nhỏ nhắn mà thật là trí dũng song toàn.
Nói xong liền trọng dụng phong Lê Văn Duyệt làm tả tham mưu, luôn giữ bên mình bàn mưu định kế.
Một hôm Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Duyệt đi thuyền trên sông Bến Nghé quan sát các đồn mới đắp, bỗng nghe trong bờ sông có tiếng ca vọng ra:
Thảo Câu, Bến Nghé, Dác Ngư
Hàm rồng bỏ ngỏ cũng như không làm.
Phúc Ánh ngạc nhiên lệnh quân quay thuyền vào bờ tìm người vừa ca ấy. Quân giải một người tư cách phong lưu, tướng mạo khoan thai nho nhã đến. Ánh hỏi:
- Tiên sinh có phải là người vừa mới ca đó chăng?
Người ấy đáp:
- Thưa chính là thần dân.
Ánh hỏi:
- Tiên sinh cao danh là gì. Quê quán ở đâu?
Người ấy đáp:
- Thần dân tên Ngô Tùng Châu quê quán miền Quy Nhơn phủ, vào đất Gia Định tìm thầy học chữ thánh hiền, vốn là học trò cùng Đức, Võ tiên sinh.
Ánh cung kính hỏi:
- Nay ta cho đắp thêm ba đồn Thảo Câu, Bến Nghé, Dác Ngư cùng đồn Thị Nghè làm thế ỷ giốc trấn giữ thành Sài Côn, sao tiên sinh lại bảo " Hàm rồng bỏ ngỏ cũng như không làm", là cố ý gì?
Ngô Tùng Châu ung dung đáp:
- Nay Chúa thượng cho đắp thêm ba đồn Thảo Câu, Bến Nghé, Đắc Ngư là đề phòng thủ thành Sài Côn. Nếu Tây Sơn lại đi thuyền vào cửa bể Hàm Luông đánh lên Trường Đồn (Mỹ Tho), rồi lại kéo ra đánh vào mặt Nam thành Sài Côn. Khi ấy liệu bỏ đồn này có thể giữ được thành Sài Côn chăng. Vì cửa Hàm Luông là nơi trọng yếu của thành Trường Đồn nên thần dân mới nói Hàm Rồng bỏ ngỏ là do thế.
Lê Văn Duyệt giật mình tâu với Phúc Ánh:
- Kẻ sách đắp đồn giữ Sài Côn của thần là kế nhỏ, việc giữ yên đất Gia Định mới là kế lớn. Chúa thượng nên trọng dụng người này.
Nguyễn Phúc Ánh liền mời Ngô Tùng Châu về thành tiếp đãi trọng hậu. Ánh nâng ly mời rượu Châu rồi hỏi:
- Vậy theo tiên sinh thì phải thế nào?
Châu cạn ly hiến kế:
- Chúa thượng nên cho người hùng tài kiệt hiệt vào trấn thủ thành Trường Đồn chặn giữ Hàm Luông thì có thể yên tâm mà dưỡng uy sức nhuệ chờ ngày Bắc phạt.
Ánh hỏi:
- Hiện quân tướng của ta con ít nếu chia quân và giữ Hàm Luông, ngộ nhỡ Tây Sơn lại đánh cửa Cần Giờ thì làm thế nào?
Châu đáp:
- Thành Sài Côn và cửa Cần Giờ đã có nguyên soái Chu Văn Tiếp, ba anh em họ Tống, tướng quân Lê Văn Duyệt, Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu đồn giữ. Trấn Biên thì đã có Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân trấn thủ che chở mặt Bắc. Nay xin tiến cử ba người trấn thủ đất Trường Đồn chặn cửa Hàm Luông ở mặt Nam thì Chúa thượng không phải lo gì nữa!
Ánh vội hỏi:
- Ba người ấy là ai?
Châu cười hỏi lại Ánh:
- Chúa công khởi binh ở đất Gia Định đánh Tây Sơn không biết ở Gia Định văn thì có Gia Định Tam Gia, võ thì có Gia Định Tam Hùng hay sao?
Ánh khiêm tốn nói:
- Ta tầm nhìn hạn hẹp, xin tiên sinh chỉ giáo!
Châu thưa rằng:
- Thầy của thần dân là Sùng Đức Võ tiên sinh mở trường dạy học, tuổi đã già không ra giúp chúa, nay người sai thần dân tìm đến diện kiến Chúa thượng. Thầy còn ba người học trò có thừa lòng trung quân ái quốc, văn chương như nước chảy, trí tuệ tựa Thái Sơn. Ấy là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh được người đời xưng tưng là Gia Định Tam Gia. Nay Chúa thượng nên mời ba người này ra giúp nước trị quốc an dân. Dân có yên thì quân mới mạnh. Xin Chúa thượng minh xét.
Phúc Ánh cả mừng liền viết chiếu sai người đi triệu Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh. Xong việc Ánh lại hỏi:
- Ấy là văn, còn võ thì thế nào?
Châu đáp:
- Đất Long Hồ vùng Ba Thắc thì có Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức dấy binh. Ơ Tam Phụ giữ Trường Đồn thì có Võ Tánh hùng cứ. Lúc Chúa thượng chạy ra Phú Quốc ba người này vẫn một lòng đánh giặc Tây Sơn. Quân Tây Sơn thường gọi Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh và Đỗ Thành Nhân là Gia Định Tam Hùng. Sau Đó Thành Nhân làm phản Chúa thượng đã trừ đi. Xét về tài thì Nguyễn Văn Thành nào kém Đỗ Thành Nhân! Nay Chúa thượng nêm xuống chỉ dụ phong chức Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức chặn lối Hàm Luông, cho Võ Tánh làm Trường Đồn trấn thủ. Nếu được ba người này làm thành trì che chở mặt Nam, thì đất Gia Định, Nam Hà ta yên như bàn thạch vậy!
Ánh ngẫm nghĩ rồi nói:
- Hai người kia thì được, còn Võ Tánh không xong.
Châu lấy làm lạ nhướng mắt hỏi:
- Vì sao lại không xong?
Ánh thở dài đáp:
- Lúc trước Đỗ Thành Nhân và Võ Nhân làm phản, ta bất đắc dĩ phải giết đi. Võ Nhân là anh Võ Tánh. Hay tin đó, Tánh và Đỗ Nhàn Trập bỏ thành Trường Đồn đem quân Đông Sơn lui về rừng Tam Phụ ẩn náu. Rồi Đỗ Nhàn Trập lại về hàng giặc Tây Sơn, được Nguyễn Nhạc phong làm Trấn thủ Gia Định. Vừa rồi nhờ có Chu Văn Tiếp đánh đuổi Nhàn Trập đi lấy lại đất Gia Định. Việc như thế ta làm sao dám tin dùng Võ Tánh. Vả lại dù ta có tin dùng hồ dễ Võ Tánh lại đâm ra giúp. Việc này thật là khó!
Ngô Tùng Châu khoát tay nói:
- Xin Chúa thượng cứ xuống chỉ dụ. Thần dân xin vì Chúa thượng đi mời Gia Định Tam Hùng về giúp.
Ánh lại hỏi:
- Ngộ như Võ Tánh vì nhớ thù nhà mà hại đến tiên sinh thì sao?
Châu đáp:
- Tánh có thời gian theo hầu dưới trướng Sùng Đức Võ tiên sinh, cũng với thần dân có tình cố cựu. Võ Tánh này vì bất đắc dĩ mới bỏ Chúa thượng và ẩn ở rừng Tam Phụ, chứ Võ Tánh là người hết lòng trung quân. Việc này xin Chúa thượng chớ lo!
Nói rồi Ngô Tùng Châu từ biệt Nguyễn Phúc Ánh đi chiêu mộ Gia Định Tam Hùng. Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thánh nhân được chỉ dụ phong chức tướng quân liền đem quân đóng đồn canh phòng ở bến Hàm Luông. Thu phục Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành xong, Ngô Tùng Châu lại bôn ba đến rừng Tam Phụ diện kiến Võ Tánh. Võ Tánh mừng rỡ mới ngồi nói:
- Tôi từ ngày giã biệt thầy theo Đông Sơn chủ tướng đánh giặc Tây Sơn giúp chúa, đến nay mới gặp lại Ngô huynh. Chẳng hay Ngô huynh này đến đây có việc gì?
Châu lạnh lùng đáp:
- Tôi vâng lệnh thấy đến đây truyền đạt lời của thấy nhắn cùng Võ đệ!
Võ Tánh nghe nói có thầy chuyển lời liền quỳ xuống hỏi:
- Dám hỏi Ngộ huynh thấy nhắn gửi điều gì?
Ngô Tùng Châu lên tiếng rằng:
- Thấy bảo tôi nói cùng Võ tướng quân rằng: Ta không có người học trò nào tên là Võ Tánh cả. Từ nay về sau, xin Võ tướng quân chớ nhận thầy dậy và cho mình là Sùng Đức tiên sinh Võ Trường Toàn.
Võ Tánh thất kinh nói:
- Đôi với thấy, Tánh tôi vẫn một lòng tôn kính, vì cớ gì thầy lại từ tôi?
Tùng Châu làm mặt giận bảo:
- Thầy bảo rằng thấy đã từng dậy: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Chúa cho người đến Trường Đồn bắt, Võ đã lại dám bỏ thành mà trốn về Tam Phụ. Đó là một lỗi! Rồi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vào đánh, Võ đã không đem quân cứu chúa, để đến nỗi chúa phải trốn tránh từ Sài Côn ra đến ngoài Phú Quốc. Ấy là hai tội! Đã không giúp chúa còn để cho Đỡ Nhàn Trập về hàng Tây Sơn. Ấy là ba tội! Với ba tội ấy thầy bảo với tôi rằng Võ Tánh bất trung nên không nhận tình thầy trò cùng Võ được nữa.
Võ Tánh nghe xong khóc ngất nói:
- Xin sư huynh về thưa cùng thầy kẻo oan cho Tánh tôi quá. Nguyên tôi không ở thành Trường Đồn chờ chúa đến bắt tội vì nghĩ thân này còn có ngày đánh Tây Sơn giúp chúa. Nên không màng câu: "Quân xử thần tử" mà kéo quân tạm tránh về rừng Tam Phụ, ấy là một lẽ! Chúa giết anh tôi, lại ngờ tôi cố ý báo thù, nếu tôi ra giúp chúa chắc gì chúa đã nhận, ấy là hai lẽ! Đỗ Nhàn Trập tự ý ra hàng không phải lỗi do tôi, ấy là ba lẽ! Nếu không có giặc Tây Sơn, Tánh tôi thà chết chứ đời nào lại chịu mang tiếng bất trung. Xin Ngô huynh về bẩm cùng thầy hộ tôi với.
Châu đỡ Tánh đứng lên nói:
- Việc ấy tôi sẽ với thưa với thấy minh oan cho tướng quân. Con việc đem quân ra giúp chúa đánh Tây Sơn thì sao?
Tánh gạt nước mắt đáp:
- Đánh Tây Sơn lúc nào tôi lại không đánh. Có ra giúp chúa bây giờ có hai điều e rằng chưa được!
Châu liền hỏi:
- Hai điều ấy là gì?
Tánh lại ứa lệ nói:
- Điều thứ nhất là chúa vẫn nghĩ rằng tôi làm phản, kéo binh về Tam Phụ đề báo thù anh. Điều thứ hai là bốn câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" còn có câu: "Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu". Anh tôi là Võ Nhân thay cha nuôi tôi từ thuở nhỏ thì cũng như là quyền huynh thế phụ. Nay cha chết chưa được mãn tang đã theo phò tá người giết cha mình thì chẳng mang tiếng là người bất hiếu hay sao? Bởi thế ngay bây giờ tôi chưa thể ra phò tá chúa được!
Ngô Tùng Châu trầm ngâm:
- Lời Võ đệ nghe ra có lý! Chẳng giấu gì Võ đệ tôi theo lệnh chúa đi chiêu mộ Gia Định Tam Hùng. Hiện Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đá quy thuận đem quân đóng giữ ở cửa biển Hàm Luông. Chỉ còn có Võ đệ nữa là tôi đã làm tròn sứ mạng, bây giờ Võ đệ chưa thể ra giúp chúa được sao?
Tánh chưa xót đáp:
- Tiếng bất trung sớm muộn gì tôi cũng rửa được những nếu chưa mãn hẳn tang anh mà ra giúp chúa thì tiếng nhơ bất hiếu đến ngàn thu còn đó làu làu. Tánh tôi thà chết chứ đời nào lại làm người bất trung bất hiếu!
Ngô Tùng Châu không biết nói sao đánh cáo biệt ra về, thuật lại lời Võ Tánh cho Nguyễn Phúc Ánh, nghe xong Ánh nói:
- Nếu sau khi mãn tang Võ Nhân mà Vô Tánh không đem quân ra giúp là có ý ngờ ta.
Nó rồi bảo Ngô Tùng Châu chờ mãn tang Võ Nhân sẽ đến đón Võ Tánh. Ngô Tùng Châu vâng lệnh lui ra.
Từ ấy về sau Nguyễn Vương ngày đêm sai quân xây thành đắp luỹ, đãi sĩ cầu hiền, đóng thuyền đúc súng, tích thảo đồn lương, chiêu mộ binh lính, chờ có cô h6i là đánh Tây Sơn phục quốc!

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 29 Nguyễn Hữu Chỉnh cùng đường theo về Tây Sơn. Chu Văn Tiếp thua binh chạy sang Tiêm Quốc.
Nói về chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngày ấy nhận thấy trong người sảng khoái, Trịnh Sâm liền bảo với phi tần Đặng Thị Huệ:
- Nhờ sứ giả của Tây Sơn Nguyễn Nhạc bày kế triệu Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn về để nhờ tướng quý của hai người này xua đuổi yêu ma. Từ ấy đến nay ta không thấy hồn Duy Vỹ theo báo oán nữa. Thật là trời giúp ta vậy!
Sâm vừa dứt lời, quân vào báo:
- Tâu Chúa thượng, lão tướng Bùi Thế Đạt và đại học sĩ Lê Quý Đôn lâm trọng bệnh qua đời.
Sâm giật mình hỏi:
- Hai người ấy mất lúc nào?
Quân đáp:
- Bùi tướng quân mất giờ Hợi. Đại học sĩ mất giờ Tý. Cùng trong một đêm.
Sâm ngửa mặt than:
- Ơi! Trời đã hại ta rồi!
Đêm ấy, Trịnh Sâm đang mơ màng giấc điệp bỗng thấy Thái tử Vỹ mặc hoàng bào, chân đi giầy tía khoanh tay đứng trên đầu giường nhìn chằm chạp vào mắt mình, Sâm kinh khiếp la hoảng giữa đêm khuya. Từ ấy về sau không đêm nào Trịnh Sâm ngủ yên được, thần sắc xanh xao, thân hình tiều tuỵ. Biết mình không sống được, Trịnh Sâm gọi Đặng Thị Huệ vào cạnh giường nói:
- Trước khi chết ta muốn viết di chiếu phế con lớn là Trịnh Khải, truyền ngôi cho con nàng là Trịnh Cán. Nhưng ngắt nỗi Trịnh Cán tuổi còn nhỏ, vả lại việc phế lập sau khi ta chết e rằng triều đình sinh biến, vậy phải cậy ai cho yên việc bây giờ?
Đặng Thị Huệ khóc thưa:
- Trong các tướng giỏi kể từ khi Việp quận công mất đi, chỉ có Huy quận công Hoàng Đình Bảo là hùng tài mọi người đều sợ phục. Nay Hoàng Đình Bảo đang trấn thủ đất Nghệ An, Chúa thượng nên triệu hồi Bảo về giao trọng trách thì lo gì không xong việc.
Sâm bảo:
- Lúc Tiên vương khởi binh đánh họ Mạc khôi phục cơ đồ cho nhà Lê Trung Hưng là ở đất Nghệ An nhờ dân binh ở xứ này mà làm nghiệp cả. Binh ở ở phủ Nghệ An, Thanh Hoá, Hả Tĩnh có công nên được gọi là lính "Tam phủ ưu binh". Bọn ưu binh ở kinh thành cậy có công lại thường hay làm loạn. Dân Nghệ An cậy có công lại thường hay yêu sách coi thường phép nước. Bởi vậy ta mới để Hoàng Đình Bảo trấn thủ Nghệ An, dùng uy mà uý lạo dân chúng.
Ta há chẳng biết Hoàng Đình Bảo la kẻ hùng tài sao? Nay nếu triệu Hoàng Đình Bảo về kinh thì phải cử ai vào thay Hoàng Đình Bảo trấn thủ Nghệ An?
Thị Huệ đáp:
- Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc có một người em rể là trung Hàu Vũ Tá Dao. Chúa thượng nên cho người này vào thay Hoàng Đình Bảo. Vả lại thủ hạ của Đình Bảo la Hữu tham quân nắm giữ binh ở Nghệ An tên là Nguyễn Hữu Chỉnh lại là em rẻ Vũ Tá Dao. Nay cho Vũ Tá Dao vào trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh thì kẻ mới người cũ đều là anh em một nhà dễ dàng cộng sự với nhau hơn, ta không phải lo biến loạn ở trấn xa.
Trịnh Sâm khen phải, làm y theo lời Đặng Thị Huệ. Huy quận công Hoàng Đình Bảo về đến kinh thành liền vào yết kiến chúa Trịnh, Trịnh Sâm giao di chiếu cho Bao rồi truyền:
- Khanh hãy vì ta hết lòng phó Trịnh Cán lên kế vị. Có vậy ta mới yên lòng nhắm mắt.
Nói xong Sâm chết. Ấy là vào tháng chín năm Nhâm Dần niên hiệu Lệ Cảnh Hưng thứ bốn mươi ba. Sâm chết khi tròn bốn mươi bốn tuổi.
Triều đình lo hậu sự của Trịnh Sâm xong, Huy quận công Hoàng Đình Bảo bên phò Trịnh Cán, lúc ấy mới sáu tuổi lên thay quyền kế vị. Lúc bây giờ các quan trong triều thấy Đình Bảo làm điều phế lập, Trịnh Cán lại còn nhỏ tuổi nên lắm người không phục. Huy quận công Hoàng Đình Bảo, (người đường thời thường gọi là Quận Huy), hay qua lại bên cung Chánh cung Đặng Thị Huệ bàn bạc việc giữ ngôi cho ấu chúa Trịnh Cán. Một hôm từ cung Đặng Thị Huệ về, Huy quận công Hoàng Đình Bảo nghe quân báo:
- Thưa Quận công, dân chúng trong thành đặt lời ca phản nghịch ạ!
Bảo nhíu mày hỏi:
- Lời ca thế nào là phản nghịch?
Quân lấm lét cúi đầu thưa:
- Dân chúng khắp kinh thành đều ca rằng:
Trăm quan có một như mù
Để cho Huy quận vào rờ chính cung
Xin tâu cùng quận công định liệu.
Đình Bảo vỗ án quát:
- Đứa nào dám cả gan đặt lời càn rỡ. Ngươi hạ truyền lệnh ta sai quân mỗi người đem theo một cái móc đi khắp kinh thành, hễ nghe ai ca lời ấy đem móc kéo lưỡi ra mà cắt cho ta.
Quân vâng lệnh đi lùng sục tìm người ca lời ấy trị tội. Bỗng một cụ già say rượu ngất ngường hát:
Trăm quan có một như mù
Để cho Huy quận vào rờ chính cung
Quân lính nghe thấy liền dùng móc kéo lôi cụ già ra cắt rời lưỡi đi. Cụ già ôm miệng máu chạy về nhà rồi chết. Con ông già ấy tên Nguyễn Bằng làm chức biện lại trong quân "tam phủ ưu binh". Thấy cha chết thảm Nguyễn Bằng giận căm gan, liền tụ họp mấy người có uy tín trong quân tam phủ ưu binh, Nguyễn Bằng nói:
- Tiên chúa mới mất quận Huy đã tư thông với Chánh cung Đặng Thị Huệ, bỏ trưởng lập thứ. Trần Cán còn nhỏ, quyền hành ở trong tay quận Huy, quận Huy lại là người cương cường thường hay đối nghịch với tam phủ ưu binh ta, e rằng ta không thể yêu sách như lúc trước được. Chỉ bằng ta rủ nhau vào phủ chúa giết Hoàng Đình Bảo. Phế thứ Trịnh Cán, lập trưởng Trịnh Khải lên ngôi chúa thì sau này bọn ta muốn gì mà không được!
Mấy người kia khen phải. Nguyễn Bằng nói lại:
- Vậy chúng ta hay chia nhau vận động khắp trong quân tam phủ. Hẹn ngày mai tôi đến trước phủ chúa đánh ba hồi tróng, mọi người nghe trống lệnh hãy xúm lại giết quận Huy.
Hôm sau vừa tờ mờ sáng, nơi phủ chúa bỗng nghe ba hồi trống vang dội khắp nơi. Quân tam phủ tụ tập gần đó liền kéo đến vây phủ chúa, đông đến vài ngàn người. Quân vào phi báo cùng Hoàng Đình Bảo. Bảo mặc giáp cầm gươm mang cung tên lên voi dẫn theo vài mươi quân hộ vệ ra trước điện chúa. Bảo tuốt gươm quát:
- Ai xui các ngươi làm điều càn rỡ khinh lờn phép nước. Nay ta bảo các ngươi ai ở đâu thì về nơi ấy, ta sẽ tâu vua bỏ qua việc này, nếu không tội chết khó dung.
Quân tam phủ vốn sợ oai Hoàng Đình Bảo, vả lại không người chi huy ai nấy đều khép nép lui ra. Nguyễn Bằng lại nói với đồng bọn:
- Quận Huy tuy là người hữu dũng những trong tay chỉ có mấy mươi cận vệ thì làm gì được bọn ta. Nếu ta không làm tới nơi tới chốn mà nghe lời hắn bỏ đi, rồi hắn phụng mệnh chúa điều binh các trấn về bắt bọn ta, chừng ấy ai bênh vực cho bọn ta được?
Quân tam phủ nghe Bằng nói xong nhao nhao:
- Phải đó! Phải đó! Chỉ có lập chúa mới thì bọn ta đã vô tội lại còn có công. Mau xong lên giết chết quận Huy.
Nói xong muôn người như một nhất tề xông lên. Hoàng Đình Bảo thấy thế lấy cung mà bắn chẳng ngờ cung gấy, lấy súng nạp đạn mà bắn thuốc, đạn đốt lại không cháy. Bảo bèn vung gươm ngồi trên bành voi chém xuống, quân tam phủ chết vài mươi người. Bọn chúng liền dùng móc câu kéo Đình Bảo té xuống đất đâm chết. Chúng chia người đi đón Trịnh Khải để trên chiếc mâm đồng khiêng sang phủ chúa đặt lên ngai. Trịnh Khải nhờ quân tam phủ làm loạn được lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương, phe Trịnh Cán xuống làm Cung quận công. Đoan Nam Vương lại sai quân tam phủ đi lùng bắt đồng bọn của Hoàng Đình Bảo mà giết. Bọn lính tam phủ thừa dịp ấy đi khắp trong thành ngoại nội cướp bóc của nhân dân. Tiếng kêu oán thán vang dậy đất trời.
Lúc bây giờ thủ hạ của Hoàng Đình Bảo có một người tên là Nguyễn Viết Tuyển trốn thoát được chạy vào Nghệ An tìm gặp Nguyễn Hữu Chỉnh, nói:
- Thưa tướng quân, bọn kiêu binh ở kinh thành nơi đây giết chết Huy quận công, bắt Thái phi Đặng Thị Huệ giảm vào ngục, phế chúa Trịnh Cán xuống làm Cung quận công, phò Trịnh Khải lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương. Sớm muộn gì Đoan Nam Vương cũng mật chiếu sai người vào bắt tướng quân vì tôi và tướng quân đều là người của Huy quận công. Tôi mấy thoát được vào đây báo cùng tướng quân hãy lo liệu sớm.
Chỉnh liền giấu Nguyễn Viết Tuyển trong nhà rồi sang đinh trấn thủ Nghệ An là Dao trung Hầu, Vũ Tá Dao. Chỉnh hỏi Đào:
- Ở kinh thành quân tam phủ đã giết chết quận Huy, phe Trịnh Cán, lập Trịnh Khải làm Đoan Nam Vương, chẳng hay trung hầu đã biết chưa?
Vũ Tá Dao thở dài đáp:
- Nay lại có việc này nữa sao? Thật triều đình không còn kỷ cương gì nữa cả. Từ xưa đến nay cha từng nghe nói quân lính nào lại nổi loạn giết vua quan như bọn tam phủ này cả. Rồi sự việc thế nào?
Chỉnh đáp:
- Đoan Nam Vương sai người tìm giết phe đảng của Huy quận công Hoàng Đình Bảo, ắt sớm muộn gì cũng có mật chỉ đến bắt tôi.
Đạo hỏi:
- Vậy nay ông tính thế nào?
Chỉnh đáp:
- Huy quận công Hoàng Đình Bảo, phó tướng trấn thủ Thuận Hoá là Hoàng Đình Thể và tôi trước là thuộc tướng của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Nay tôi xin khuyên Hoàng Đình Thể giết chết trấn thủ là Phạm Ngô Cầu chiếm lấy đất Thuận Hoá là một tay cứu viện. Còn ông giữ lấy trấn Nghệ An giữ thế môi và răng cùng các tướng Thuận Hoá, rồi đóng trọng binh ở các nơi hiểm yếu, tích thảo đồn lương thì có thể giữ được lâu dài. Còn việc phòng giữ mặt biển Chỉnh này xin cáng đáng hết cả.
Vũ Tá Dao suy nghĩ rất lâu chẳng nói gì, Chỉnh nóng ruột hỏi:
- Trung hầu tính thế nào?
Đào đáp:
- Việc này là ra mặt phản lại triều đình, tự lập riêng một cõi thật là điều đại sự. Hãy thư thả cho ta suy nghĩ rồi sẽ nói.
Chỉnh thấy Vũ Tá Dao ý không dám làm liền nói:
- Chờ ông suy nghĩ xong chắc là triều đình đã có mật chỉ vào bắt tôi rồi đấy!
Nói rồi bỏ về nhà hối thúc gia quyến thu xếp hành lý đưa vợ con xuống một chiếc thuyền lớn. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Tướng quân định tránh nơi nào lại đi bằng thuyền?
Chỉnh cười đáp:
- Trời đất bao la lại không có chỗ cho ta dung thân sao? Nay chúa không dùng ta thì ta vào cùng Tây Sơn Nguyễn Nhạc!
Nói xong dong buồm đi thẳng vào Quy Nhơn ra mắt vua Thái Đức. Gặp vua, Chỉnh quỳ lậy, vua Thái Đức vội vàng đỡ dậy và hỏi:
- Ông đến đây ắt là có chiếu chỉ của chúa. Vậy ta phải quỳ tiếp chiếu mới phải sao ông lại quỳ là cớ làm sao?
Chỉnh không dám đứng lên, cúi lấy thưa:
- Nay bọn kiêu binh làm loạn ở Thăng Long giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán và Trịnh Khải lên ngôi chúa. Trịnh Khải lại ra lệnh tập nã tay chân của Huy quận công, nên thần phải trở vào đây xin Bệ hạ dung nạp.
Vua Thái Đức lại hỏi:
- Tây Sơn ta là nước nhỏ, ông là người của nước lớn. Nếu ta dùng ông ngộ nhỡ chúa Trịnh đem binh vào vấn tội thì ta biết liệu làm sao?
Chỉnh đáp:
- Bệ hạ đã có chí tự lập không nhận sắc phong của họ Trịnh nên mới lên ngôi Hoàng đế, việc tiến thủ ắt đã có kế sách thì Bệ hạ có sợ gì họ Trịnh mà mượn cớ thoái thác. Nếu Bệ hạ không dùng, Chỉnh tôi xin được chết tại nơi này!
Vua Thái Đức cười bảo:
- Ta chỉ thử Hữu Chỉnh một tý mà thôi. Ta và ông vốn là cô nhân trong lúc đánh Định Vương Nguyễn Phúc Thuần sao nỡ bỏ nhau khi hoạn nạn.
Nói xong vua sai quân bày yến tiệc khoản đãi Nguyễn Hữu Chỉnh. Rượu vào vài chén, Chỉnh nói:
- Nay ở đất Bắc Hà, họ Trịnh hiếp đáp vua Lê khiến thiên hạ bất bình. Vừa rồi Trịnh Sâm chết, hai còn là Trịnh Khải và Trịnh Cán lại tranh ngôi chia phe đảng giết hại lẫn nhau. Cương thường đã mất, giềng mối đã lìa, lại thêm nói bình kiêu dân oán không còn ra thể thống gì cả. Nếu Bệ hạ nhân dịp này mà đem binh ra đánh một trận thì đất Bác Hà không thuộc vào Bệ hạ thì con ai vào đây nữa!
Vua Thái Đức nói:
- Bắc Hà là nước của vua Lê sao ta lại đem binh xâm phạm được? Vả lại họ Trịnh từ khi lấy được đất Thuận Hoá rồi dùng ải Hải Vân làm ranh giới nước ai người ấy giữ, sao ta lại dấy động can qua làm khổ cho lê dân trăm họ? Nay ông đã đến đây, đối với ta là thượng khách sống an nhàn há chẳng hơn sao?
Vừa vừa dứt lời quân do thám về báo:
- Tâu Bệ hạ, Chu Văn Tiếp từ Phú Yên đi đường núi vào Gia Định đánh lấy Sài Côn, tướng quân Đỗ Nhàn Trập thua chạy về Bình Thuận. Chu Văn Tiếp đón Phúc Ánh từ Phú Quốc về hưng binh đánh chiếm đất Gia Định. Tướng quân Đỗ Nhàn Trập sai người về báo cùng Bệ hạ định liệu.
Vua Thái Đức liền sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ, tiết chế Nguyễn Lữ, tướng quân Lê Trung, phò mã Trương Văn Đa đem một trăm chiếc đại thuyền và một vạn quân vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vua Thái Đức bàn đánh Nguyễn ở phương Nam nên đành thôi không xin vua đem quân đánh Trịnh ở mặt Bắc nữa.
Bây giờ là mùa xuân, tháng hai, năm Quý Mão (1783), nội thành Sài Côn Nguyễn vương họp các tướng bàn quốc sự. Nguyễn vương lo lắng hỏi:
- Quân do thám của ta từ Quy Nhơn báo tin về rằng:
Nguyễn Huệ đang chuẩn bị binh thuyền vào đánh ta. Vậy theo các khanh ta nên đối phó như thế nào?
Chu Văn Tiếp bước ra thưa:
- Tâu Thượng vương, bộ quân ta đã có Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thủ thành Trấn Biên. Nay ta cho tướng đem quân tăng cường yểm trợ cho Hồ Văn Lân thì mặt Bắc không phải lo gì nữa. Cửa Hàm Luông thì Ngô mưu sĩ đã tiến cử Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Huỳnh Đức chặn giữ, vậy mặt Nam đất Gia Định cũng chẳng phải lo. Đáng lo nhất vẫn là cửa Cần Giờ tiến đến Thất Kỳ Giang vỗ mặt đồn Thị Nghè uy hiếp mặt Đông thành Sài Côn. Đạo quân này chắc chắn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Nếu ta đánh thắng được đạo quân của Nguyễn Huệ, các đạo khác tự khắc sẽ tan.
Nguyễn vương lại hỏi:
- Quân Tây Sơn rất thiện chiến, Nguyễn Huệ là giỏi dùng quân. Lần trước ta phục binh ở Thất Kỳ Giang mà không lừa được Nguyễn Huệ nên bị thua trận. Vậy nay phải đánh thế nào?
Chu Văn Tiếp cười đáp:
- Quân Tây Sơn lần trước đánh Thượng vương Thất Kỳ Giang dùng hoả hổ đốt tàu đồng của người Pháp Lang Sa. Vậy trên thuyền của giặc lúc nào cũng có chất dẫn hoả. Theo tơi ta nên dĩ độc trị độc!
Nguyễn vương vội hỏi:
- Thế nào là dĩ độc trị độc?
Tiếp vui vẻ hoạt bát đáp:
- Đất Gia Định chỉ có hai mua: từ tháng ba để tháng tám là mùa mưa, gió Năm từ biển thổi vào, từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc, mà người Gia Định thường gọi là gió Chướng từ đất liên thổi ra. Nay là tháng hai mùa khô gió Chướng, ta lợi dụng sức gió nên dùng hoả công mà đánh. Quân Tây Sơn lại có chất dẫn hoả trên thuyền, ấy chẳng phá là dĩ độc trị độc đó ư? Xin Thượng vương suy xét!
Nghe xong Nguyễn vương mừng rỡ nói:
- Chu Nguyên soái thật có tài đại tướng, ta còn lo gì không thắng được Nguyễn Huệ. Nay ta giao trọn quyền điều binh cho khanh. Mau báo tiệp khai hoả cho ăn lòng ta Văn Tiếp nhé!
Chu Văn Tiếp lãnh lệnh, bái tạ Nguyễn vương rồi dẫn thuỷ binh đến Thất Kỳ Giang bày trận.
Đến sông Thất Kỳ Giang gặp lúc nước thuỷ triều đang lai láng, gió Chướng lồng lộng từ đất liền thổi ra biển, Tiếp phấn khích hạ lệnh:
- Châu Đoan Chân lãnh án tiên phong đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân ra cửa Cần Giờ đánh giặc, giả thua chạy vào Thất Kỳ Giang.
Châu Đoan Chân lạnh lệnh đi ngay. Tiếp lại bảo Phạm Văn Sở:
- Ngươi hãy dẫn quân đem một ngàn bè cỏ phục hai bên bờ sông, chờ Châu Đoan Chân giả thua chạy qua khỏi rồi phóng hoả bè cỏ đẩy ra giữa sông chặn thuyền quân Tây Sơn mà đốt.
Phạm Văn Sở lạnh mệnh xuất quân. Tiếp ngoảnh lại bảo các tướng:
- Các ngươi chuẩn bị binh thuyền, chờ ta đốt xong thuyền Tây Sơn thì đổ ra vây bắt Nguyễn Huệ.
Tống Phước Lương vòng tay nói:
- Nếu Nguyễn Huệ vào Thất Kỳ Giang chắc chắn sẽ bị Chu đô đốc đời nay dùng hoả công mà đánh cho tan tán, khác nào Chu đô đốc ngày xưa đốt Tào Tháo trên sông Xích Bích vậy!
Nói rồi Phước cùng các tướng chia nhau bố trận.
Phần Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn đến ngoài khơi cửa Cần Giờ, nhìn vào núi Cấp thấy khói bốc lên nghi ngút, Huệ cười bảo:
- Lại đốt lửa báo hiệu trên núi Cấp rồi phục binh ở Thất Kỳ Giang như cũ chớ gì!
Nói rồi Huệ hạ lệnh:
- Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo đem ba mươi đại thuyền và ba ngàn quân vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường Nguyễn Phúc Ánh từ Sài Côn chạy về Hà Tiên.
Hai tướng Long và Bảo lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại tuốt gươm chỉ vào cửa Cần Giờ bảo:
- Trương Văn Đa lãnh ấn tiên phong, lệnh toàn quân tiến đánh Sài Côn.
Quân Tây Sơn hùng dũng tiến lên!
Vào đến cửa Cần Giờ bỗng gặp thuyền quân Nguyễn do Châu Đoan Chân tiến ra. Hai bên giáp chiến, vừa mới giao phong Châu Đoan Chân hô quân tháo lui. Nguyễn Huệ thấy vậy cười bảo:
- Lại giả thua dụ ta vào trận mai phục như lần trước chứ gì! Truyền đánh trống thu binh!
Nguyễn Lữ nghi ngại hỏi:
- Nay là mùa khô, gió chướng từ bờ thổi ra, quá ta nghịch gió. Nếu tiến binh ngộ nhỡ Chu Văn Tiếp đánh hoả công thì làm thế nào? Bởi thế anh mới đánh trống thu binh chớ gì?
Nghe Lữ nói xong, Nguyễn Huệ gật đầu rồi bảo:
- Truyền lệnh dừng quân lập thuỷ trại!
Quân Tây Sơn neo thuyền ngoài cửa Cần Giờ nghỉ ngơi. Đến lúc nước lớn đầy, gió bấc chướng vẫn lồng lộng từ đất liền thổi ra. Nguyễn Lữ nói:
- Nếu lúc này ta tiến quân ắt giờ này vào Thất Kỳ Giang đã bị Chu Văn Tiếp dùng hoả công mà đốt mất rồi!
Nguyễn Huệ chỉ mỉm cười mà không nói. Nước triều lên đầy rồi lại chảy, bấy giờ Nguyễn Huệ lại truyền lệnh tiến quân. Nguyễn Lữ bèn can:
- Nước vẫn còn đang chảy, gió bấc chướng thổi ra; phần tiến quân ngược nước gió, phần thì địch thuận lợi dùng hoả công, sao anh lại tiến binh vào lúc này?
Nguyễn Huệ cười đáp:
- Chu Văn Tiếp thì biết gì mà đánh hoả công. Vả lại nếu nói gió bấc chướng sợ giặc đánh hoả công chẳng lẽ lại rút quân về? Cứ truyền lệnh ta lập tức tiến quân.
Nguyễn Lữ vội can.
- Xin anh đừng nên khinh địch. Hãy sai quân do thám rồi tiến binh cũng chẳng muộn nào.
Nguyễn Huệ gạt đi báo:
- Địch tình ta đã nắm rõ thì cần gì do thám.
Nói rồi không nghe lời Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ bảo quân:
- Ngược nước chèo đổ mồ hôi. Gặp giặc, không đổ máu mã giặc phải tan!
Quân sĩ Tây Sơn không rõ vì cớ gì, nhưng vốn tin phục Nguyễn Huệ nên gắng sức mà chèo!
***
Nói về Chu Văn Tiếp thấy Châu Đoan Chân giả thua chạy về mà không thấy quân Tây Sơn đuổi theo. Tiếp bảo Chu Đoan Chân rằng:
- Bây giờ nước đang lớn hãy cho quân nghỉ ngơi, đợi sang ngày mai nước chảy sẽ đem quân ra dụ địch.
Nước lên đến trưa thì đầy; đầy xong lại chảy; chảy đến chạng vạng tối thì đã gần cạn kiệt. Trong bóng đêm chập choạng, bỗng thấy thuyền Tây Sơn lừ lừ tiến vào trận Thất Kỳ Giang, Chu Văn Tiếp ngạc nhiên nói:
- Nguyễn Huệ sao lại tiến binh vào lúc nước đang chảy. Chắc hẳn sợ mai phục nên ngược nước để đánh bất ngờ chăng?
Đoạn Tiếp ngước nhìn trời, trời còn gió bấc chướng, cúi nhìn nước, nước vẫn chạy riu riu. Tiếp mừng rỡ nói:
- Quân Tây Sơn cậy mạnh, Nguyễn Huệ cậy có tài mà khinh địch, phen này ắt bại dưới tay ta.
Đoạn Tiếp truyền lệnh:
- Quân bay thuận nước thuận gió phóng hoả bẻ cỏ đẩy ra giữa sông!
Quân Gia Miêu lập tức thi hành! Một ngàn bè cỏ cất cao ngọn lửa rần rật trôi về phía quân Tây Sơn. Nguyễn Lữ thất kinh than:
- Em đã can rồi mà anh còn khinh địch. Giờ giặc đánh hoả công phải chạy cho mau.
Nguyễn Huệ lại cười nói:
- Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt thuyền quân Nguyễn đây. Em chớ lo!
Lúc ấy gió bấc chướng mỗi lúc một giảm dần, bè lửa trôi chầm chậm về phía quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ vỗ tay cười ngất bảo quân:
- Truyền đánh trống thu binh!
Chu Văn Tiếp thấy quân Tây Sơn lui, liền xua đại binh theo sau bè lửa mà tiến. Tiếp bảo các tướng:
- Chờ bè lửa đốt thuyền giặc xong, hay tiến truy bắt Nguyễn Huệ.
Tiếp vừa dứt lời trời bỗng nhiên lặng gió, mặt sông phẳng lặng như tờ. Bấy giờ nước thuỷ triều lại lớn lên, bè lửa theo nước trôi ngược về thuyền quân Nguyễn.
Chu Văn Tiếp con đang bàng hoàng ngơ ngác, bỗng trời nổi gió nồm nam từ biển thổi vào rất mạnh. Ngàn bè lửa thuận gió, thuận nước chạy ào ào về đốt thuyền quân Nguyễn. Chu Văn Tiếp ở phía sau thấy vậy ngửa mặt lên trời hét rằng:
- Trời hại ta rồi! Trời hại ta rồi!
Hét xong vội vã cùng các tướng quay thuyền mà chạy.
Thuyền quân Nguyễn Gia Miêu bị đốt cháy tan tác, khói lửa ngút trời. Bên quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ bảo Nguyễn Lữ:
- Anh đã bảo Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt quân chúa Nguyễn giờ em đã thấy chưa?
Nói rồi Huệ truyền quân thúc trống tiến binh. Các tướng Nguyễn tan hàng mạnh ai nấy chạy trốn, Chu Văn Tiếp được em mình là Châu Đoan Chân hộ vệ chạy về hướng Sài Côn. Bỗng thấy một chiếc thuyền Tây Sơn giong buồm đuổi theo, một viên tướng Tây Sơn đứng trên mui thuyền quát lớn:
- Tướng giặc kia chớ chạy, có ta là phò mã Trương Văn Đa đến đây!
Chu Đoan Chân bảo Tiếp:
- Anh hãy dùng thuyền nhỏ chèo vào bờ lên đất liền mà chạy. Em ở đây chặn giặc rồi sẽ theo sau.
Tiếp nghe lời liền cùng Phạm Văn Sở xuống thuyền nhỏ vào bờ. Đến nơi, nhìn ra sông thấy Chu Đoan Chân đã bị Trương Văn Đa đâm chết, Tiếp khóc lớn rằng:
- Ba anh em của ta đều bị giặc Tây Sơn giết chết. Thù này không trả được, Chu Văn Tiếp ta đâu đáng là người. Đoạn Chân em ới, trời đổi gió đã hại chết em rồi!
Tiếp đau lòng than khóc mãi. Phạm Văn Sở can gián một hồi, Tiếp gạt nước mắt bảo:
- Quân Tây Sơn đi thuyền tiến đánh Sài Côn, ta đi đường bộ về thành không kịp. Vậy phải làm sao?
Phạm Văn Sở hiến kế:
- Theo tôi ta nên băng rừng đến thành Trấn Biên hợp cùng Hồ Văn Lân và Nguyễn Nghi đem binh và chiếm lại Sài Côn.
Chu Văn Tiếp khen phải liền tất tả đi ngay. Đến đoạn đường lớn giữa thành Sài Côn và Trấn Biên, bỗng thấy vài tên quân từ hướng Bắc chạy vào, Tiếp chặn lại hỏi:
- Các ngươi là quân ở đâu lại chạy đến đây?
Tên quân đáp:
- Chúng tôi ở dưới trướng tướng quân Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân. Thành Trấn Biên bị tướng Tây Sơn là Đặng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập chiếm mất, hai tướng Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân không biết trốn tránh nơi nào.
Lại thấy vài tên quân từ hướng Nam chạy đến bảo:
- Thưa đại Đô đốc, Nguyễn Huệ đem quân đánh thành Sài Côn, các tướng giữ đồn Thảo Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư đều tử trận. Chúa thượng đã bỏ thành Sài Côn chạy vào Trường Đồn.
Chu Văn Tiếp thất kinh than:
- Quân ta bại trận khắp nơi. Thành Sài Côn và Trấn Biên đều mặt về tay giặc, ta biết phải đi đâu?
Phạm Văn Sở lại hiến kế:
- Tôi có nghe ngày trước chúa ta và vua nước Tiêm La kết giao sẽ cứu giúp nhau khi hoạn nạn. Nay ta hãy tìm đường sang Tiêm quốc. Xin Tiêm vương đem thuỷ quân sang Hà Tiên đến Trường Đồn hợp cùng Chúa thượng đánh Tây Sơn.
Chu Văn Tiếp khen phải liền cùng Phạm Văn Sở và vài mươi tên quân băng rừng nhằm hướng Tây tìm đường sang Tiêm quốc.
Nói về Nguyễn Phúc Ánh trong thành Sài Côn nghe quân ở đồn Thị Nghè về báo:
- Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ đánh tan quân của Chu nguyên soái ở Thất Kỳ Giang. Chu nguyên soái chưa biết sống chết thế nào. Nguyễn Huệ lại chia quân làm bốn cánh đánh bốn đôn Thảo Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư Tướng của ta giữ đồn Thị Nghè là Hồ Công Siêu tử trận.
Quân đồn Bến Nghé về báo:
- Thưa Chúa thượng, tướng quân giữ đồn Bé Nghé là Dương Công Trừng bị Nguyễn Lữ chém chết. Quân Tây Sơn đã chiếm lấy đồn.
Phúc Ánh con đang bàng hoàng, lại nghe quân đồn Dác Ngư về cấp bảo:
- Thưa Chúa thượng, tướng Tây Sơn là Lê Trung tiến đánh đồn Dác Ngư, tướng quân Nguyễn Văn Quý tử trận, hiện quân Tây Sơn đang ồ ạt tiến về thành Sài Côn.
Phúc Ánh hoảng hốt hối quân:
- Hai tướng Lê Văn Duyệt và Trương Tấn Bửu lãnh ba ngàn quân đi đoạn hậu. Mau mở cửa Nam thành chạy về cố thủ Trường Đồn.
Nguyễn Huệ và các tướng dẫn quân chiếm thành Sài Côn bỏ trống. Nguyễn Lữ hỏi Huệ:
- Trận Thất Kỳ Giang sao anh biết rằng Chu Văn Tiếp sẽ đánh hoả công mà lợi dụng sức gió đốt thuyền quân Nguyễn?
Huệ đáp:
- Nay là tháng hai ở Quy Nhơn là mùa xuân, mưa thuận gió hoà, khí hậu mát mẻ. Nhưng ở đất Gia Định lại là mùa nắng to khô ráo thì làm gì Chu Văn Tiếp lại không dùng hoả công mà đánh ta. Nên ta mới nói đùa cũng Nguyễn Lữ rằng Chu Văn Tiếp là nội ứng cho ta đốt thuyền quân chúa Nguyễn đấy.
Trương Văn Đa lại hỏi:
- Thúc phụ đã biết Chu Văn Tiếp dùng hoả công sao còn tiến quân? Nếu lúc đó trời không trở giờ có phải là quân ta đã bị đốt thành tro bụi rồi chăng.
Nguyễn Huệ cười to nói:
- Ấy là ta biết trước giờ đổi gió nên mới tiến binh, sao Văn Đa lại bảo là may gặp lúc trời đổi gió.
Trương Văn Đa và Lệ Trung đồng thanh hỏi:
- Làm cách nào thúc phụ biết trước giờ đổi gió?
Nguyễn Huệ liền treo trên vách một tờ lịch và nói:
- Các ngươi hãy nhìn cho rõ, sẽ biết giờ đổi gió.
Lịch viết rằng:
Tháng 2 và tháng 8 thuỷ triều là ngày: 03, 17, 29.
Tháng 3 và tháng 9 thuỷ triều là ngày: 13, 27
Tháng 4 và tháng 10 thủy triều là ngày: 11, 25
Tháng 5 và tháng 11 thuỷ triều là ngày: 09, 23
Tháng 10 và tháng chạp thuỷ triều là ngày: 07, 21
Tháng 7 và tháng giêng thuỷ triều là ngày: 05, 19
Nguyễn Lữ xem xong thắc mắc hỏi:
- Thuỷ triều là ngày gì? Sao biết được giờ đổi gió?
Huệ giải rằng:
- Đất Gia Định chỉ có hai mùa. Từ tháng ba để tháng tám là mùa mưa gió nồm Nam từ biển thổi vào. Từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc chướng từ đất thổi ra. Chu Văn Tiếp định lợi dụng mùa khô gió bấc chướng dùng hoả công đốt thuyền ta đó.
Nguyễn Lữ nôn nóng hỏi:
- Nhưng vì sao anh lại biết giờ đổi gió mà tương kế tựu kế đốt lại thuyền quân chúa Nguyễn?
Nguyễn Huệ chỉ vào tờ lịch đáp:
- Ngày thuỷ triều là ngày chuyển giao giữa hai con nước, mỗi tháng có hai con nước nên có hai ngày thuỷ triều. Riêng tháng hai và tháng tám lại có ở ngày thuỷ triều là ngày 3, ngày 17 và ngày 29. Con nước thứ ba mà ngày thuỷ triều là ngày 29 gọi là nước giao mùa. Gặp nước giao mùa gió bị ảnh hưởng của thuỷ triều, hệ nước chảy thì gió bấc chướng từ bờ thổi ra, hễ nước triều lên gió nồm Nam từ biển thổi vào. Ta chọn thời gian vào Cần Giờ lúc hạ tuần tháng hai, tức là nhằm con nước giao mùa. Ta lựa ngày nước phát lên xuống mạnh nhất trong con nước giao mùa mới tiến binh, vì ngày đó khi nước lên sẽ có gió nồm Nam. Bởi thế ta phải tiến quân vào lúc nước chảy, trời con bấc chướng, tất đến Thất Kỳ Giang khi nước sắp lên. Ấy là ta nhử Chu Văn Tiếp thấy cơn bấc chướng mới dùng hoả công. Tiếp phóng bè lửa xong, lúc sẩm tối nước thuỷ triều sẽ lớn lên, trời tất đổi gió nồm Nam quay lại đốt thuyền quản Gia Miêu. Bởi lúc sấm tối nước lên, lặng bấc trở nồm, nên dân vùng biển thường có câu vè rằng "Bắc lặng hôm, nồm lặng mai" đó. Đánh trận này ta đã tính trước cả sao lại bảo lá may gặp lúc trời trở gió!
Nghe Huệ nói xong, các tướng bấy giờ mới vỡ lẽ đồng thanh khen:
- Long Nhương đánh giặc liệu cả việc nắng mưa, nước gió, dụng binh thật quỷ thân cũng không tính trước. Chúng tôi xin bái phục.
Vừa lúc ấy quân do thám vào báo rằng:
- Thưa tướng quân, trấn thủ Bình Thuận là Đăng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập đem quân đến chiếm Trấn Biên. Tướng Nguyễn là Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thua binh bỏ trốn.
Nguyễn Huệ ra lệnh:
- Nguyễn Lữ lãnh hai ngàn binh ở lại giữ Sài Côn. Ta cũng Trương Văn Đa, Lê Trung đem bốn ngàn quân truy kích quân Nguyễn. Trận này phải bắt cho được Nguyễn Phúc Ánh. Giống cỏ gấu này không nhổ tận gốc cứ nảy ra hoài thật là đáng ghét.
Nói rồi Nguyễn Huệ liền đem quân đuổi theo Nguyễn Phúc Ánh.
Nói về Phúc Ánh dẫn quân chạy về đến Trường Đồn (Mỹ Tho), tướng giữ Trường Đồn là Mạc Thiên Tứ mở cổng thành đón vào. Vừa lúc ấy Nguyễn Huệ dẫn quân đuổi theo thấy Phúc Ánh đã vào thành bèn nói với Trương Văn Đa và Lê Trung:
- Trước khi vào cửa Cần Giờ ta đã sai Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn, chắn đường rút binh của Nguyễn Phúc Ánh. Chúa Phúc Ánh đã sai tướng giỏi chắn cửa Hàm Luông, nên Long và Bảo chưa đến được nơi này. Vạy ta mau đánh lấy Trường Đồn rồi đem quân xuôi đồng Tiền Giang đánh vào sau lưng địch ở cửa Hàm Luông.
Nói rồi Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công Trường Đồn.
Quân Tây Sơn đặt đại bác bắn phá thành. Lê Văn Quân nói với Phúc Ánh rằng:
- Chúa thượng mau đem gia quyến theo Mạc Thiên Tứ lui về Hà Tiên. Thân cùng Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu thủ thành cản đường tiến quân của giặc.
Nguyễn Phúc Ánh nghe lời theo Mạc Thiên Tứ chạy về Hà Tiên, Lê Văn Quân lên mặt thành thúc quân cố sức chống trả. Một lúc sau thành vỡ, quân Tây Sơn tràn vào thành chém giết. Quân Nguyễn chết thôi không biết bao nhiêu mà kể, số còn lại lớp hàng, lớp quăng gươm giáo bỏ trốn. Lê Văn Quân, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu vội vàng lên ngựa chạy về Hà Tiên theo Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh về Hà Tiên vừa vào dinh phủ chưa kịp ngồi đã thấy Lê Văn Quân, Văn Duyệt, Tấn Bửu theo đến nơi. Người nào cũng mang thường tích trên mình, quần áo tả tơi mặt mày hốc hác. Ánh giật mình hỏi:
- Ta vừa mới đến đây, các khanh đã thua trận chạy về, quân Tây Sơn sao lấy được thành nhanh thế?
Lê Văn Quân quỳ thưa:
- Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy công thành rất dữ. Chúng thần không chống nổi, thành vỡ thua binh phải chạy thoát thân. Xin Chúa thượng trị tội.
Ánh đứng dậy và nói:
- Mất Trường Đồn thì quân của Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành ở Hàm Luông nguy mất. Các tướng mau thu thập tàn quân chỉnh đốn hàng ngũ theo ta tái chiếm Trường Đồn.
Ngô Tùng Châu bước ra nói:
- Xin Chúa thượng bình tâm. Quân ta ở trong thành, giặc từ xa kéo đến, ta còn không giữ nổi thành, huống gì quân ta nay mười phần còn một tướng sĩ đều mệt mỏi, thương tích đầy mình. Nếu bây giờ giặc đem quân đánh tới, thành Hà Tiên e rằng không giữ nổi nói gì đến việc tái chiếm Trường Đồn.
Phúc Ánh nghe xong ngồi xuống hỏi:
- Vậy nay ta nên chống giữ thế nào?
Tùng Châu đáp:
- Nguyễn Huệ vừa chiếm được Trường Đồn ắt là chuẩn bị đánh ta ở Hà Tiên, sớm muộn gì cũng kéo binh đến đây. Vậy Chúa hãy mau sai người lên mất báo cho Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đang trấn giữ cửa Hàm Luông, kéo quân về đánh vào sau lưng Trường Đồn. Nếu lúc ấy Nguyễn Huệ kéo đại binh đến đánh Hà Tiên, thì Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành có thể chiếm lại Trường Đồn. Nếu Đức và Thành chiếm lại được Trường Đồn thì Nguyễn Huệ lại lâm vào thễ lưỡng đầu thọ địch. Khi ấy Nguyễn Huỳnh Đức từ Trường Đồn đánh tới, ta từ Hà Tiên đánh ra thế nào cũng phá được giặc.
Phúc Ánh khen:
- Ấy thật là diệu kế.
***
Lúc ấy Nguyễn Huệ vào thành Trường Đồn, Lê Trung nói:
- Tôi xin đem quân đuổi theo Phúc Ánh đến Hà Tiên bắt Phúc Ánh về cho Long Nhương trị tội, cho tiết nòi cỏ gấu ấy đi!
Huệ bảo:
- Hà Tiên là thành trì cuối cùng của Phúc Ánh. Nếu ta đem quân đánh tới, Ánh chỉ con đường chạy ra biển mà thôi. Hiện Phúc Ánh như cả nằm trong chậu, ta muốn bắt lúc nào chẳng được, việc đánh Hà Tiên chẳng vội gì. Kế hoạch của ta là cho Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo đánh chiếm Trường Đồn trước, chặn đường về Hà Tiên để sớm bắt được Phúc Ánh. Nhưng Lòng và Bảo vẫn chưa đến được nơi này ắt là Phúc Ánh đã cho tướng giỏi chặn Văn Long ở cửa Hàm Luông. Vậy Lê Trung hay lãnh hai ngàn tinh binh theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông dẫn vào sau lưng trại địch. Phá giặc ở Hàm Luông xong, Trung cùng Văn Long đem quân về đây hợp sức đánh Hà Tiên bắt Phúc Ánh cũng chẳng muộn gì!
Lê Trung lãnh mệnh đi ngay.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 30 Cửa Hàm Luông, Nguyễn Huỳnh Đức thua mưu bị bắt. Đảo Côn Lôn, Nguyễn Phúc Ánh nhờ bão thoát thân.
Nói về Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức theo mệnh chúa Nguyễn Phúc Ánh đem quân đóng ở cửa biển Hàm Luông. Ngày ấy được tin quân Tây Sơn do Đặng Văn Long chỉ huy tiến vào cửa Hàm Luông, Nguyễn Văn Thành liền hỏi Nguyễn Huỳnh Đức:
- Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn lại rất là thiện chiến, còn quân ta mới mộ chưa được huấn luyện thuần thục, e rằng không chống nổi với địch ông có kế gì chặn giặc hay chăng?
Đức suy nghĩ giây lâu đáp:
- Nguyễn Huệ sai Đặng Văn Long vào cửa Hàm Luông ý muốn theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường rút quân của chúa ta ở thành Sài Côn. Tôi có nghe Đặng Văn Long là danh tướng của Nguyễn Huệ, trí dũng song toàn, lầu thông kính sử. Nay ta lập tức sai người đem vài cọc gỗ vót nhọn hai đầu, cắm xuống lòng sông. Ta bảo quân cắm như thế nào để khi nước lên các cọc gỗ này sẽ bị long gốc nổi lên mặt nước, rồi ta cứ làm như vậy... như vậy... Đặng Văn Long ắt sợ mà phải lui binh!
Nguyễn Văn Thành khen:
- Ấy thật là diệu kế!
Nói rồi lập tức thi hành.
Khi ấy tướng Tây Sơn là đô đốc Đặng Văn Long đem chiến thuyền vào cửa biển, thúc quân tiến đánh thuỷ trại của quân Nguyễn. Nguyễn Huỳnh Đức đem chiến thuyền ra cự địch, quân Nguyễn đánh không lại xem đã núng thế, Đức liền hạ lệnh lui quân. Quân Nguyễn giả thua mà chạy, Đặng Văn Long thúc quân đuổi theo, lúc ấy thuỷ triều đang lớn, nước đang lai láng, Nguyễn Huỳnh Đức hối quân:
- Truyền lệnh ta chèo gấp khỏi tầm đại bác của giặc. Qua khỏi khúc sông này nước thuỷ triều rút giặc sẽ rút theo.
Lúc ấy Đặng Văn Long đang đứng trên mui thuyền cầm đầu quân Tây Sơn đuổi theo quân Nguyễn, bỗng chốc lại thấy vài cọc gỗ hai đầu vót nhọn từ dưới đáy sông trồi lên khỏi mặt nước, tất cả được hơn vài mươi cọc gỗ, lại thấy xa xa một đoàn chiến thuyền cắm cờ quân Nguyễn từ thượng lưu sông Tiền Giang kéo xuống, Đặng Văn Long liền bảo quân:
- Mau truyền lệnh ta đánh trống thu binh.
Đặng Xuân Bảo ngạc nhiên hỏi:
- Quân ta đang thắng, giặc thua chạy sao đại huynh lại ra lệnh lui quân?
Văn Long đáp:
- Ngày xưa Ngô Quyền dùng mưu đóng cọc xuống lòng sông Bạch Đằng rồi thừa lúc nước lớn cho thuyền ra khiêu chiến nhử quân Nam Hán đến đoạn sông đóng cọc rồi chặn đánh, đến khi nước cạn thuyền giặc bị đâm thủng đều đắm cả. Quân Nam Hán đại bại, tướng giặc là Hoàng Thao bị chém. Nay Nguyễn Huỳnh Đức giả thua mà chạy rồi lại cho thuyền ra tiếp ứng, chẳng phải là dùng mưu Ngô Quyền ngày trước hay sao? May cho ta là quân Nguyễn nôn nóng đóng cọc dưới lòng sông không được chắc chắn, nên lúc nước lớn vài mươi cọc bị nhổ mà trồi lên mặt nước, nên ta mới rõ mưu của Nguyễn Huỳnh Đức mà kịp lui quân.
Đặng Xuân Bảo khen:
- Đại huynh thật là rảnh cả cô kim binh pháp và Nguyễn Huỳnh Đức quá không họ đánh là một tròn Gia Định Tam Hùng.
Nói rồi anh em họ Đặng rút quân khỏi khúc sông nghi ngờ có cọc, lập thuỷ trại.
Lúc ấy Nguyễn Văn Thành theo kế Nguyễn Huỳnh Đức đem vài trăm quân chật tre và chuối làm bè, trên bè cắm đầy cờ xí khiến Đặng Văn Long ở xa ngỡ là chiến thuyền quân Nguyễn tiếp ứng sợ lâm mưu cắm cọc phải lui binh. Nguyễn Văn Thành dẫn quân chèo bè tre đến nói:
- Đặng Văn Long quả nhiên trúng kế chạy dài. Sao ông không thừa tháng đuổi theo?
Đức nhíu mày suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Ta vì yếu thế mới tạm dùng kế này lui giặc. Để khi nước cạn Đặng Văn Long không thấy cọc gỗ cắm ở lòng sông, tất biết lầm mưu tức giận lại đem quân đến đánh. Vậy ta cứ đem bè tre cắm đây cờ xí làm kế nghi binh đóng thuỷ trại nơi này. Tôi và ông đem binh mai phục, chờ Đặng Văn Long kéo đến sẽ đổ ra vây đánh. Như vậy có thể phá được giặc.
Nguyễn Văn Thành lại khen:
- Ấy thật là diệu kế!
Nói về Đặng Văn Long lui ra khỏi khúc sông nghi có cọc, lập thuỷ trại, lúc nước cạn không thấy cây cọc nào cắm giữa lòng sông cả. Đặng Văn Long khen rằng:
- Nguyễn Huỳnh Đức thật đa mưu túc trí. Thực lực không bằng quân ta nên mượn chuyện xưa làm kế nghi binh buộc ta phải lui binh. Đáng khen thay! Đáng khen thay!
Đặng Xuân Bảo tức giận nói:
- Anh cứ đề cao địch làm giảm nhuệ khí quân ta. Tôi xin đem quân tiên phong đánh trại địch, nếu không thắng xin chịu tội theo quân lệnh.
Đặng Văn Long dắt Bảo ra ngoài thuyền chỉ về hướng thuỷ trại quân Nguyễn nói:
- Em không thấy thuỷ trại giặc cờ xí rợp trời, chiến thuyền lớp lớp hay sao mà đòi đem quân đánh địch?
Bảo đáp:
- Ấy là Nguyễn Huỳnh Đức dùng kế nghi binh để gạt ta. Nếu thực lực như thế sao con giả bày kế cắm cọc lòng sông đuổi đại huynh chạy dài. Nếu không có đại huynh tôi không cần biết Ngô Quyền nào cả, cứ thúc quân đánh bừa ắt là bắt được Huỳnh Đức rồi.
Văn Long nói:
- Được, đêm nay Bảo đem một ngàn quân đến thuỷ trại của địch, trận này nhất định phải bắt sống Nguyễn Huỳnh Đức.
Xuân Bảo hỏi:
- Con đại huynh thì thế nào?
Long đáp:
- Khi em đến đánh thuỷ binh trại địch, nếu bị vây thì chớ sợ, đã có anh tiếp cứu.
Nói xong Long kề tai Bảo nói nhỏ. Bảo nghe xong anh em cũng cả cười rồi chia nhau sửa soạn chờ đến đêm xuất kích.
Đêm ấy Đặng Xuân Bảo đem chiến thuyền áp sát thuỷ trại quân Nguyễn. Thấy thuỷ trại địch toàn là bè tre bè chuối cắm cờ, đốt đèn sáng choang, Đặng Xuân Bảo nghĩ thầm rằng, đại huynh ta liệu việc không sai, thì vừa hay đã thấy hai cánh quân Nguyễn từ thượng lưu và hạ lưu xông ra vây Xuân Bảo vào giữa. Nguyễn Văn Thành ở thượng lưu quát lớn:
- Tướng giặc đã trúng kế quân ta, sao con chưa quy hàng?
Xuân Bảo cười ngất đáp:
- Mẹo vặt của các ngươi sao lừa đại huynh ta được. Hãy nhìn xem ai trúng kế của ai nào?
Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức nhìn ra đã thấy quân Tây Sơn lướt thuyền ào ào xông tới. Nguyễn Huỳnh Đức thất kinh than rằng:
- Thôi rồi, Đặng Văn Long biết kế của ta mà tương kế tựu kế. Phen này nguy mất.
Than rồi hối quân quay thuyền phá vòng vây. Đặng Văn Long trông thấy cười to quát:
- Nguyễn Huỳnh Đức chạy đâu cho thoát!
Quát xong liền cho thuyền chặn Huỳnh Đức mà đánh. Đặng Xuân Bảo đem quân tấn công Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Văn Thành nhờ ở thượng lưu vòng vây quân Tây Sơn mỏng ra sức tả xung hữu đột, phá được vòng vây thừa bóng đêm chạy trốn, quân Nguyễn bị quân Tây Sơn giết sạch. Cánh quân do Nguyễn Huỳnh Đức chỉ huy cũng bị đánh tan tác cả. Quân Tây Sơn nhảy sang thuyền Huỳnh Đức, Đức vung đao chém chết cả mấy chục mạng. Đặng Văn Long thấy vậy nổi giận vác kích nhảy sang đánh cùng Huỳnh Đức. Đánh một hồi Nguyễn Huỳnh Đức đuối sức bị Đặng Văn Long đánh văng mất đao. Long liền hô quân trói lại. Đức bảo:
- Ta đã bại trận sao chẳng giết đi con trói làm gì?
Long nói:
- Khá khen cho người là người trung dũng, ta bắt ngươi đem về chúa ta xử trí.
Nói rồi liền hô quân thẳng tiến Trường Đồn. Thuyền vừa đi được một đoạn đã thấy Lê Trung dẫn quân đến. Long hỏi Trung:
- Long Nhương tướng quân đã chiếm được Trường Đồn rồi chăng?
Trung đáp:
- Phải! Long Nhương bảo tường quân ít gặp tướng giỏi của Phúc Ánh chặn đường nên Người sai tôi đêm quân tiếp cứu.
Long nói:
- Không chiếm được Trường Đồn để Phúc Ánh chạy thoát là tội của tôi vậy!
Nói rồi từ trói tay mình, vào thành Trường Đồn, Long và Bảo quỳ xuống thưa:
- Tướng quản giao trọng trách đánh chiếm Trường Đồn, chặn đường lui quân của Phúc Ánh, tôi không làm tròn sứ mạng. Xin tướng quản trị tội!
Nguyễn Huệ sai quân mở trói cho Long và Bảo hỏi:
- Có phải Văn Long gặp tướng giỏi chặn đánh chăng?
Long liền thuật lại việc đánh nhau với Nguyễn Huỳnh Đức trên sông Tiền Giang rồi nói:
- Nguyễn Huỳnh Đức thật là người trí dũng song toàn. Nay tôi đã bắt được Huỳnh Đức về đây tự tướng quân định liệu.
Nguyễn Huệ liền sai quân giải Huỳnh Đức vào. Đức vào vẫn đứng trơ trơ giữa điện. Huệ vỗ án quát:
- Bại tướng to gan. Trước mặt ta sao dám không quỳ?
Đức cười to nói:
- Phận làm tướng thua binh, cam chịu chết. Sao lại quỳ?
Huệ bảo:
- Quân lệnh của Tây Sơn là không giết hàng quân. Nếu người chịu hàng cớ gì phải chết?
Đức quát lên rằng:
- Ta là tôi nhà chúa Nguyễn, chỉ có chết chẳng có hàng!
Huệ thấy Huỳnh Đức diện mạo khôi ngô, hình dung kỳ vĩ, lại mười phần trung dũng trong lòng rất thích, liền bước xuống tự tay mở trói cho Huỳnh Đức, nói:
- Bình sanh ta rất mến mộ đấng anh hùng. Nguyễn Phúc Ánh tài đức gì mà tướng quân quyết một lòng chết vì Phúc Ánh thế?
Đức lớn giọng bảo:
- Giặc Tây Sơn các ngươi dấy binh phản chúa. Ta giúp chúa khôi phục cơ đồ, chẳng may sa cơ bị bắt chỉ có chết mà thôi.
Huệ dịu giọng hỏi:
- Tây Sơn ta dấy binh cứu dân thoát cảnh lầm than đói khổ sao lại bao là giặc?
Đức hỏi lại Huệ rằng:
- Đất Gia Định ta từ ngày được chúa Nguyễn vào đuổi người Chân Lạp khai hoang lập ấp đến nay đời đời no ấm, sao lại bảo là nhân dân đói khổ lầm thân?
Huệ không biết trả lời thế nào đành lệnh giam Huỳnh Đức vào ngục. Quân dẫn Đức đi xong, Huệ nói với các tướng:
- Trong sự nghiệp thống nhất giang san của nhà Tây Sơn ta có hai trở ngại lớn, một là đất Gia Định được cơm nó áo ấm nên bá tánh còn mang ơn chúa Nguyễn, hai là lòng trung quân mù quáng từ ngàn xửa đến nay đã thấm sau vào tiềm thức kẻ sĩ khó mà gột rửa được.
Trương Văn Đa hỏi:
- Thưa thúc phụ, vậy không có cách gì bình được đất Gia Định sao?
Huệ trầm ngâm nói:
- Muốn bình đất Gia Định phải dùng hai cách một là ta dùng ân mà trị dân để dần dần trăm họ sẽ quên ơn chúa Nguyễn. Sau này nếu ta rút đại binh về Quy Nhơn, sẽ để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, hai người đều có tài văn võ, biết nghe lời nói phải, kính trên nhường dưới, thương dân như con thì có thể lấy được lòng dân. Ấy là một trong hai cách vậy!
Văn Long hỏi:
- Con cách thứ hai thì thế nào?
Huệ lạnh lùng đáp:
- Cách thứ hai là kẻ sĩ trong thiên hạ còn nặng óc ngu trung. Nay ta không cho họ có chúa xem họ ngu trung vào đâu.
Rồi Huệ đứng dậy vỗ tay xuống án nói lớn:
- Đặng Văn Long, Lê Trung đem bốn ngàn quân tiến đánh Hà Tiên!
Đặng Văn Long và Lê Trung lãnh mệnh xuất quân. Huệ lại bảo Trương Văn Đa:
- Quân ta tiến đánh Hà Tiên, Phúc Ánh ắt thu binh mã chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn, vậy ta mà đem thuỷ binh ra đảo Phú Quốc trước. Ngươi hay để chiến thuyền vào chỗ kín đáo giấu hết cả đi, rồi để quân phục sẵn trên đảo chờ có Phúc Ánh đến thì đổ ra mà đánh. Như thế chắc là diệt được Phúc Ánh.
Trương Văn Đa lại lãnh lệnh xuất thuỷ binh.
***
Lại nói Phúc Ánh ở Hà Tiên nói cùng các tướng:
- Ta đã sai người mặt báo cho Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức lên đánh vào sau lưng Trường Đồn nếu Nguyễn Huệ tiến đánh Hà Tiên. Đến nay vẫn không thấy Nguyễn Huệ động bình, và không nghe tin tức gì của Văn Thành và Huỳnh Đức cả là cớ làm sao?
Ánh vừa dứt lời nghe quân vào báo:
- Thưa Chúa thượng, có tướng quân Nguyễn Văn Thành từ Hàm Luông về xin ra mắt.
Ánh liền bảo:
- Mau cho vào!
Nguyễn Văn Thành vào đến quỳ tâu:
- Thưa Chúa thượng chúng thần vâng lệnh Chúa thượng giữ cửa Hàm Luông. Tướng Tây Sơn là Đặng Văn Long tiến đánh, chúng thần dùng kế nghi binh lừa được giặc, những sau đó lại lầm mưu thất trận, Nguyễn Huỳnh Đức bị Đặng Văn Long bắt sống. Thần may mắn thoát được về đây báo tin cùng Chúa thượng.
Nguyễn Văn Thành nói xong lại nghe quân thám mã:
- Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ kéo đại binh tiến đánh Hà Tiên, hiện còn ở cách thành năm mươi dặm.
Phúc Ánh nói:
- Vậy là Nguyễn Huệ trước là đã cho tướng vào cửa Hàm Luông đánh Văn Thành và Huỳnh Đức, nay Văn Thành và Huỳnh Đức thua trận, Huệ mới tiến đánh ta ở Hà Tiên. Nguyễn Huệ thật đáng sợ, không có kế nào của ta có thể che mặt hắn được. Hà Tiên là nơi cố thủ cuối cùng của ta, nay Huệ lại đem binh tiến đánh, các tướng có cách gì chặn giặc chăng?
Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Lê Văn Quân cùng bước ra nói:
- Xin Chúa thượng chớ lo, chúng thần nguyện liều mình chống giặc.
Các tướng vừa nói xong quân lại vào báo:
- Thưa Chúa thượng, quân sĩ của ta nghe tin Nguyễn Huệ kéo đại binh đến đánh sợ hãi rủ nhau ở trốn nửa phần. Xin Chúa thượng định liệu, kéo để chúng trốn hết thì nguy.
Nguyễn Văn Thành nói:
- Xin Chúa thượng hạ lệnh canh phòng cẩn mật, kẻ nào bỏ trốn lập tức chém đầu, như thế hoạ may quân mới không bỏ trốn.
Ánh xua tay bảo:
- Quân bỏ trốn là do lỗi ở ta không chống được giặc để yên lòng quân thì sao lại chém họ. Vả lại quân đã không còn tinh thần chiến đấu, bắt ở lại cũng chẳng ích gì.
Ánh lại gọi Mạc Thiên Tứ hỏi:
- Lâu nay khanh vốn trấn thủ Hà Tiên ắt rành địa thế sông ngòi. Vậy khanh có chước gì phá giặc chăng?
Mạc Thiên Tứ đáp:
- Thưa Chúa thượng, xưa này chưa từng nghe nói địa thế hiểm trở mà lòng quân tan rã lại có thể thắng giặc bao giờ!
Ánh lại hỏi:
- Vậy theo khanh này nên làm thế nào?
Tứ đáp:
- Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ đã hai lần vào Gia Định đánh ta, lần nào chiếm được đất xong cũng vội vàng rút quân về vì sợ họ Trịnh xâm phạm mặt Bắc, chỉ để một lực lượng nhỏ ở lại phòng thủ mà thôi. Lần thứ ba này ắt cũng thế, vậy ta nên tạm ra đảo Phú Quốc ở phía Tây Hà Tiên lánh nạn, rồi cho người ở lại Hà Tiên phao lên rằng chưa đã chạy trốn sang Tiêm La quốc. Nghe tin ấy Nguyễn Huệ tất không dò la tin tức của chúa, mà rút quân về Quy Nhơn. Lúc ấy ta lại tìm kế khôi phục cơ đồ.
Mạc Thiên Tứ vừa nói xong, quân hớt hải vào báo:
- Thưa Chúa thượng, quân Tây Sơn đã kéo đến cách thành chừng năm dặm.
Phúc Ánh với đứng lên bảo:
- Nay chỉ còn cách là làm theo lời Mạc Thiên Tứ mà thôi!
Nói rồi Ánh truyền lệnh bỏ thành Hà Tiên, xuống thuyền ra đảo Phú Quốc. Khi lên thuyền kiểm quân còn chưa đến ngàn người, Ánh đậm chân chỉ tay lên trời thề rằng:
- Nguyễn Phúc Ánh ta thề cùng anh em thằng buôn trâu Nhạc, Huệ không đội trời chung.
Nói rồi truyền quân nhỏ neo nhằm đảo Phú Quốc trực chỉ. Quân Nguyễn Ánh cập thuyền vào bờ, chúa tôi tướng sĩ vừa lên đảo bỗng nghe chiêng trống vang trời, quân Tây Sơn ba bên xông đến. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa thét lớn:
- Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát, ta vâng lệnh Long Nhương tướng quân chờ ngươi đã lâu!
Phúc Ánh chẳng còn hồn vía nào hỏi các tướng:
- Mau quay lại ra thuyền chạy trốn!
Trương Văn Đa thúc quân đánh giết. Các tướng cố sức chống đỡ bảo vệ Phúc Ánh xuống được thuyền, còn quân sĩ lớp chết lớp xin hàng hết cả. Trương Văn Đa thúc quân lên thuyền đuổi theo, Nguyễn Phúc Ánh lên thuyền rồi cứ nhằm ra khơi mà chạy. Nhìn đi nhìn lại chỉ còn mấy người hầu cận, Lê Văn Quân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Mạc Thiên Tứ và con Mạc Thiên Tứ là Mạc Tử Sinh người nào cũng mang thương tích cả, Nguyễn Phúc Ánh than:
- Nguyễn Huệ thật là lời hại. Hắn biết ta sẽ chạy ra đảo Phú Quốc nên cho tướng ra phục sẵn. Nếu không nhờ các khanh hết lòng phò tá, ắt là ta đã ở giặc bắt rồi. Nay quân sĩ không còn một mạng, cả khanh đều thương tích đầy mình, nếu giặc đuổi theo kịp biết liệu làm sao?
Mạc Thiên Tứ nói:
- Ở phía trước có một hòn đào tên là đảo Côn Lôn, ta nên ghé thuyền vào đảo ấy lánh nạn, kẻ lênh đênh giữa biển dễ bị giặc nhìn thấy.
Phúc Ánh khen phải liền ghé vào đào Côn Lôn. Đến nơi ai này đều đói bụng cồn cào. Lê Văn Quân nói:
- Lúc hỗn loạn ở đảo Phú Quốc, ta lên nhằm chiếc thuyền không có lương thực. Giờ biết lấy gì lót dạ?
Ánh nói:
- Trên thuyền có một con ngựa hãy giết thịt mà ăn.
Lê Văn Quân hỏi:
- Con ngựa này để cho chúa đi lại đỡ chân, nay giết đi thì làm thế nào?
Trương Tấn Bửu nói:
- Lần trước dẫn chúa đi trốn tôi có hái trái bần cho chúa đừng qua bữa. Vậy để tôi đi tìm xem trên đảo này có trái bần chăng?
Ánh nhíu mày bảo Trương Tấn Bửu:
- Ta đã bảo khanh không được gọi là trái bần. Hãy gọi là trái Thuỷ Liễu, khanh đã quên rồi sao?
Trương Tấn Bửu tạ tội rồi vội vã đi ngay. Lê Văn Quân hỏi Phục Ánh:
- Thưa, sao trái bần lại gọi là trái Thuỷ Liễu?
Ánh cương quyết đáp:
- Nhà Nguyễn ta làm chúa thiên hạ đã gần hai trăm năm này, ăn thiếu gì cao lương mỹ vị, nay vì gặp nạn mới ăn đến quả này, gọi tên bần nghe hèn quá nên ta mới đổi tên là trái Thuỷ Liễu.
Lê Văn Quân vô tình hỏi:
- Nếu Chúa thượng đổi tên như vậy e Trương Tấn Bửu ngại rằng Chúa trọng phú, khinh bần mà không hết lòng phò tá chăng?
Ánh phật ý hỏi lại Lê Văn Quân:
- Ý ngươi muốn bảo ta là người tham sang phụ khó chứ gì?
Quân vội vàng tạ lỗi nói:
- Hạ thần vì lo cho chúa thượng, nói thành thực lỡ lời chứ không có ý gì khác. Xin Chúa thượng tha tội.
Ánh cau mày xua tay ra hiệu cho Quân lui ra. Một lúc sau Bửu quay lại nói:
- Thưa Chúa thượng, trên đảo này không có cây Thuỷ Liễu.
Ánh bảo:
- Thôi đành làm thịt ngựa ăn tạm vậy!
Phúc Ánh cũng mẹ, vợ con, em gái và các tướng ăn xong người hầu lại tâu:
- Thưa Chúa thượng, trên thuyền không còn nước uống.
Lê Văn Quân nói:
- Chúa thượng hãy nghỉ tạm dưới bóng cây cùng quốc mẫu và gia quyến, chúng thần chia nhau mỗi người một ngả đi tìm xem trên đảo này có nước uống chăng.
Nói rồi các tướng và bọn hầu cận liền đi ngay.
Một hồi lâu tên hầu quay về mừng rỡ tâu:
- Thưa Chúa thượng, trên tảng đá đằng kia có một hồ nước cạn, nước trong vắt, tiểu nhân múc về dâng Chúa thượng.
Phúc Ánh liền cùng mẹ, em và vợ con chia nhau uống ngay. Uống xong Ánh bảo:
- Ngươi hãy đem ta đến hồ nước ấy xem sao!
Tên hầu nói:
- Ngựa đã giết thịt rồi, chân chúa lại bị đau, tiểu nhan xin cõng Chúa thượng đến nơi ấy.
Tên hầu vất vả cõng Phúc Ánh đến hồ nước. Nhìn hồ nước vừa bằng miệng chậu, nước trong leo lẻo. Ánh bảo:
- Ngươi hãy tát nước trong hồ ra ngoài xem sao.
Tên hầu vâng lời, khom mình dùng nón mà tát.
Nước mạch từ trong đã tuôn ra hoài, tát mãi vẫn không cạn. Ánh lại bảo:
- Ngươi mau đi tìm một hòn đã vừa miệng hố đậy lên hố nước cho ta.
Tên hầu vâng lệnh làm theo lời Ánh bảo. Xong việc tên quân hỏi:
- Xin hỏi Chúa thượng sai tiểu nhân làm thế là có dụng ý gì chăng?
Ánh cười đáp:
- Ngươi theo hầu ta đã lâu, âu cũng là người tâm phúc, nên ta cũng không ngại nói cho ngươi hay. Nay quân ta thực là sức cùng lực kiết e rằng các tướng nản chí mà không hết lòng phò tá. Nay ta định là như vậy... như vậy..., các tướng ắt tin ta có chân mệnh đế vương, tất một dạ tôn thờ.
Tên hầu kính cẩn khen:
- Chúa thượng thật là anh minh xưa nay hiếm có.
Chợt Ánh bảo:
- Nhưng nếu việc này tiết lộ thì ta làm trò cười cho thiên hạ sao.
Tên hầu sợ hãi nói:
- Việc này chỉ có Chúa thượng và tiểu nhân biết. Chúa tôi ta không nói ra thì sao tiết lộ được.
Ánh trầm ngâm bảo:
- Lấy gì làm chắc rằng ngươi sẽ không nói ra? Chỉ có mình ta biết mới bảo toàn bí mật được mà thôi!
Nói xong Ánh rút gươm chém tên hầu. Tên này sợ hãi lui ra bị mũi gươm chạm xả ngực loạng choạng trượt chân mép vực té nhào xuống biển.
Nguyễn Phúc Ánh an tâm đi về chỗ cũ. Đến nơi các tướng cũng vừa tới, Lê Văn Quân buồn rầu tâu:
- Thưa Chúa thượng, chúng thần đã tìm khắp đảo không thấy nơi nào có nước ngọt cả.
Phúc Ánh chị tay bảo:
- Các tướng hay theo ta đến tảng đá cao đằng kia quan sát xem, nếu không thấy thuyền giặc thì lập tức lên thuyền đi nơi khác tìm nước uống.
Khi đến tảng đá ấy, nhìn ra biển thấy thuyền quân Tây Sơn thấp thoáng ngoài khơi xa, Ánh quỳ xuống ngửa mặt lên trời khấn:
- Nếu trời chưa diệt dòng họ Nguyễn, thì xin cho tôi đâm mũi kiếm xuống tảng đá này sẽ có nước ngọt mà uống. Bằng không chúa tôi ta đánh chết khát nơi đây.
Khấn rồi đứng lên rút gươm nhằm mép hòn đá dày trên hồ nước mà đám xuống. Ánh rút gươm lên thấy mũi gươm có nước, Ánh và mừng rỡ réo lên:
- Mau cậy tảng đá này lên ắt là có nước uống.
Các tướng cùng nhau cây tảng đá lên, quả nhiên thấy cái hố vừa bằng miệng chậu, nước trong leo lẻo. Mọi người liền lấy tay vốc nước mà uống. Uống xong các tướng quỳ xuống lậy Phúc Ánh và đồng thanh nói:
- Chúa thiêng thật là có chân mệnh Đế vương nên trời ban cho nước uống. Vậy nghiệp cả ắt thành.
***
Nói về Trương Văn Đa đem chiến thuyền đuổi theo Phúc Ánh, nhưng không thấy thuyền Phúc Ánh đâu cả bên sai quân do thám khắp nơi. Hôm ở Trương Văn Đa đi thuyền đến gần đảo Côn Lôn bỗng thấy một người ôm khúc cây to lênh đênh trên biển, Đa bèn sai quân vớt người ấy lên. Cứu chữa cho người ấy xong Văn Đa hỏi:
- Ta xem ý phục của ngươi đúng là quân của Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh ở đâu, sao người một mình trời đất giữa biển, trên mình lại mang thương tích là vì đâu?
Người ấy khóc đáp:
- Tôi thật là người hầu của chúa Nguyễn vương. Chúa tôi trốn lên đảo Côn Lôn, không còn nước uống, tôi tìm được một hố nước đem về dâng Nguyễn vương uống. Chẳng ngờ Nguyễn Vương lại muốn giết tôi. May tôi trượt chân nơi mép vực rơi xuống biển lại vớ được cây to lênh đênh giữa biển, nhờ tướng quân cưu mang.
Văn Đa ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao Phúc Ánh lại toan giết người?
Tên quân kể lại mưu của Phúc Ánh, Đa nghe xong trợn mắt quát:
- Thật là loại độc ác sâu hiểm, bội nghĩa vong ơn. Lần này ta vây đảo Côn Lôn bắt nó, xem có trời nào cứu nó được chăng?
Nói rồi Văn Đa đem toàn chiến thuyền tiến đến chia nhau vây kín đảo. Quân Tây Sơn dùng thuyền nhỏ sắp sửa đổ bộ vào đảo, các tướng Nguyễn trên đảo trông thấy đều đưa mắt nhìn nhau. Phúc Ánh thất kinh nói:
- Trời vừa cho nước uống cứu ta lẽ nào bây giờ trời lại bỏ ta sao?
Ánh vừa dứt lời trời đang nắng to bỗng mây đến vần vũ, mưa tuôn như trút, giông to nổi lên. Trương Văn Đa kinh hãi lệnh quân dẫn thuyền về phía kín gió mà núp bão. Đến lúc gió lặng bão tan, chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh thấy chiến thuyền quân Tây Sơn dồn về một phía, bèn xuống thuyền phía không có quân Tây Sơn vây chạy trốn. Khi ấy thuyền nhỏ quân Tây Sơn đều bị sóng đánh đắm cả, chỉ còn lại hai mươi đại thuyền và một ngàn quân. Trương Văn Đa bèn đem đoàn quân trở về thành Trường Đồn ra mắt Nguyễn Huệ kẻ rõ sự tình. Nghe xong Huệ thở dài nói:
- Lần trước Phúc Ánh bị Bùi Thị Xuân truy đuổi ở cửa biển Hàm Luông cũng nhờ bão mà thoát nạn, lần này cũng thế. Con người Phúc Ánh thật tiểu nhân đê tiện sao trời lại giúp cho nó thế.
Nói xong Huệ lệnh toàn quân theo hai đường thuỷ bộ rút về thành Sài Côn. Đến nơi Huệ họp các tướng nói:
- Ta phải rút binh về Quy Nhơn đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. Nay phong Trương Văn Đa làm chánh tướng, Đặng Văn Long làm phó tướng cùng nhau trấn thủ đất Gia Định. Hai tướng nên dùng lễ mà đãi kẻ sĩ, dùng ân đức mà trị dân, đồng thời gắng dò thêm Phúc Ánh lẩn trốn nơi đâu, để quân bắt giết tiệt trừ hậu hoạ, như vậy mới có thể bình được đất Gia Định.
Trương Văn Đa bước ra nói:
- Đặng tướng quân văn võ gồm đủ, trí dũng song toàn tôi không sánh được, nên đám đâu nhận là chánh tướng.
Nguyễn Huệ nói:
- Văn Đa là người biết nghe lời nói phải, tánh lễ phép khiêm cung, biết kính trên nhường dưới nên ta mới để Đa làm chánh tướng. Văn Long là người vì dân vì nước không màng danh lợi chẳng tranh công quyền, nên ta mới để Văn Long làm phó tướng trợ giúp Văn Đa thì mọi việc sẽ vẹn toàn.
Văn Đa lại tâu:
- Thưa thúc phụ, cháu đang là phò mã, đối với Phụ hoàng và thúc phụ là tinh nhà. Nay không có tài mà thúc phụ cho ở địa vị cao, hoá ra thúc phụ mang tiếng là thiên vị ư? Như thế lòng người sao phục?
Văn Long xen vào nói:
- Trường tướng quân nói thế là còn ngại Văn Long này ư? Những lời tướng quân vừa nói thật là của người đức độ đáng làm Văn Long tôi kính phục lắm thay.
Nguyễn Huệ bảo:
- Việc chánh phó là việc nhỏ, việc nước dân là việc lớn. Hai người lòng chỉ lo việc lớn mà quên việc nhỏ thường tình ta thật là an tâm lắm. Vả lại ấy là việc của đại huynh dặn dò ta lúc xuất binh vào Gia Định, Văn Đa chớ có kháng lệnh.
Trương Văn Đa nghe vậy, bấy giờ mới chịu lui ra.
Mùa hè năm Quý Mão (1783) niên hiệu Thái Đức thứ sáu. Nguyễn Huệ để Trương Văn Đa và Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định, rồi rút đại binh về Quy Nhơn.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 31 Cậy thế Tiêm La, Chu Văn Tiếp báo thù mà bỏ mạng. Mượn oai Long Nhương, Đặng Văn Long doạ giặc để cứu dân.
Nói về Nguyễn Phúc Ánh, nhờ bão chạy thoát khỏi tay tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa ở đảo Côn Lôn, đang lênh đênh giữa biển bỗng thấy một chiếc tàu lớn tiến lại gần. Hoá ra đó là thuyền của giáo sĩ Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc đem chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh lên tàu xong, nói:
- Từ ngày thoát khỏi tay con nữ tặc Bùi Thị Xuân ở Thất Kỳ Giang, thấy quân Tây Sơn mạnh quá ta bèn chạy về nước cầu cứu vua nước tôi giúp chúa khôi phục cơ đồ. Xin chúa hãy về đất liền ta sẽ bàn kỹ việc này.
Phúc Ánh bảo:
- Từ ngày chia tay với giáo sĩ ta phải chạy trốn ra đảo Côn Lôn gian nan cực khổ trăm bề. Sau Nguyễn Huệ rút binh về Quy Nhơn, nhờ các tướng dấy binh lấy lại đất Gia Định. Nào ngờ Nguyễn Huệ lại dẫn đại binh vào đánh quân ta tan tác cả. Nay ta không một mảnh đất dung thân biết phải về đâu?
Mạc Thiên Tứ nói:
- Trương Văn Đa bỏ đảo Phú Quốc đuổi theo ta đến đảo Côn Lôn. Vậy ta lại chạy về Phú Quốc ắt an toàn.
Bá Đa Lộc khen phải, cho tàu cập bến đảo Phú Quốc. Đến nơi tìm hang đá tạm trú xong, Ánh hỏi Bá Đa Lộc:
- Giáo sĩ cầu cứu vua nước ngài thế nào? Xin ngài mau phân tỏ.
Bá Đa Lộc đáp:
- Vua nước tôi đồng ý giúp chúa tàu đồng, súng ống lương thực và binh sĩ. Những khi lấy được nước rồi chúa phải để phố Hội An cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn được thuộc quyền cai trị của nước tôi, và chỉ cho người của nước tôi được độc quyền buôn bán và truyền đạo trên đất An Nam. Chẳng hay ý chúa thể nào?
Phước Ánh cả mừng đáp:
- Nếu lấy lại được nước đã mất, bấy nhiêu ấy nào có nghĩa gì? Ta xin viết giấy làm bằng nhờ giáo sĩ về tâu cùng vua của ngài mau đem binh sang giúp.
Phúc Ánh viết xong trao cho Bá Đa Lộc. Lộc lại nói:
- Đành rằng lòng chúa ngay thực, nhưng e vua tôi ngài rằng khi lấy lại nước rồi chưa nuốt lời thì là thế nào?
Ánh suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Nay ta đã mất tất cả lấy gì cho vua của ngài là tin được! Hoạ chăng ta chỉ có một đứa con duy nhất lá Thế tử Cảnh mới vừa bốn tuổi. Nay ta cho Thế tử Cảnh sang ở với vua nước ngài để làm con tin. Vậy có được chăng?
Bá Đa Lộc cả mừng nói:
- Nếu được vậy vua tôi nhất định cho quân sang giúp.
Ánh năm tay Lộc bảo:
- Vậy ngài hay ra tàu nghỉ ngơi rồi định ngày về nước, tâu cùng vua nước ngài. Ta sẽ sửa soạn cho Thế tử Cảnh theo ngài sang nước Pháp Lang Sa.
Bá Đa Lộc đi rồi, Lê Văn Quân quỳ tâu:
- Thần xem Bá Đa Lộc không phải là người tốt, Chúa thượng nên khá đề phòng!
Ánh phật ý hỏi:
- Giáo sĩ Bá Đa Lộc sang nước ta giảng truyền đạo giáo, vì thương ta bị giặc Tây Sơn cướp nước, nên mới lặn lội thỉnh cầu vua nước Pháp Lang Sa sang giúp sao người lại bảo ông ấy không phải là người tốt?
Lê Văn Quân đáp:
- Thần thấy có hai điều đáng ngờ. Một là nếu Bá Đa Lộc không có lệnh của vua nước Pháp Lang Sa sao dám tự quyền đặt điều kiện trao đổi đất đai với ta? Hai là nếu Bá Đa Lộc chỉ vào Gia Định giảng truyền đạo giáo sao biết được phố Hội An và Đà Nẵng là nơi giàu có sầm uất nhất ở Đàng Trong mà đặt điều đánh đổi. Chính vì vậy mà thần ngờ rằng Bá Đa Lộc được lệnh vua nước Pháp Lang Sa cố ý dòm ngó nước ta.
Ánh nghiêm giọng hỏi:
- Nếu vậy thật thì sao?
Lê Văn Quân đáp:
- Xin chúa nói với Bá Đa Lộc rằng sau khi lấy lại nước, ta sẽ trả bằng vàng ngọc châu báu chứ đừng đánh đổi đất đai.
Ánh nén giận hỏi:
- Ngỡ như họ không chấp thuận thì sao?
Văn Quân nhẫn nại đáp:
- Thì ta tự lo lấy việc nước, không cần phải nhờ viện binh của họ.
Ánh gằn giọng rằng:
- Tự lo lấy làm sao! Nguyễn Huệ đã ba lần vào đánh Gia Định, hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương phải chết. Ta ba lần trốn chui trốn nhủi hết nơi này sang nơi khác, còn các tướng phải bỏ thành mà chạy thoát thân. Văn thì Ngô Tùng Châu và Gia Định Tam Gia còn lẩn trốn ở Hà Tiên. Võ thì Nguyễn Huỳnh Đức là một trong Gia Định Tam Hùng bị Tây Sơn bắt sống, Ta thì cơm không có ăn, nước không có uống, may nhờ bão đánh đắm thuyền giặc hai lần mà thoát chết. Còn người đã có kế sách gì phá giặc hay chưa mà bảo rằng tự lo lấy?
Lê Văn Quân thấy chúa giận nhưng gắng gượng quỳ tâu:
- Thưa, Chúa thượng có chân mệnh Đế vương. Ở đảo Côn Lôn không có nước uống chúa cầu nước, trời liền cho nước, ấy là điềm được nước. Giặc đến đánh trời làm bão nhấn chìm thuyền. Lòng trời đã giúp chúa như thế, trước sau gì cũng lấy lại nước Nếu bây giờ đổi đất lấy viện binh Pháp Lang Sa, e người sau đàm tiếu rằng chúa tôi ta bán nước cầu vinh. Xin Chúa thượng xét lại.
Phúc Ánh xua tay bảo:
- Ngươi hãy ra ngoài cho ta suy nghĩ lại.
Lê Văn Quân đi rồi Ánh nghĩ thầm rằng: Thằng tướng già này lúc ở đảo Côn Lôn ta đặt tên trái bần là trái Thuỷ Liễu, thì bảo ta là tham vọng phụ phó. Nay ở đảo Phú Quốc lại bảo ta là bán nước cầu vinh, thật là quá quắt. Nếu ta không đang cần người phò tá nhất định giết chết không tha.
Vừa lúc ấy lại có quân vào báo rằng:
- Kính Chúa thượng, tướng quân Chu Văn Tiếp sau khi thua trận ở Thất Kỳ Giang chạy sang nước Tiêm La, nay Chu tướng quân sai người về nước tìm Chúa thượng dâng mật thư.
Phúc Ánh tiếp thư, xem xong bảo quân:
- Hãy mau đi mời Bá Đa Lộc đến chỗ ta bàn việc.
Bá Đa Lộc đến, Ánh hỏi:
- Nay một viên tướng của ta là Chu Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu viện. Vua Tiêm La đã đồng ý cho quân sang giúp. Ta nghĩ đường về nước ngài xa xôi cách trở, mà nước Tiêm La lại ở gần bên, nên ta định sang gặp vua Tiêm La cầu viện trước để sớm dẹp giặc Tây Sơn khôi phục cơ đồ. Nếu việc không thành sẽ nhờ đến ngài, chẳng hay ý ngài thế nào?
Bá Đa Lộc đáp:
- Vậy xin Chúa thượng hãy kịp đi ngay. Tôi cùng theo chúa sang Tiêm La, xin vua Tiêm La cho lập giáo sớ để truyền đạo. Một là vì đất Gia Định đã bị quân Tây Sơn chiếm, tôi vì giúp chúa nên có thù với họ không thể đến nơi ấy được, hai là được ở gần chúa, nếu việc cầu viện vua Tiêm không thành, tôi sẽ lên đường về Pháp quốc cầu viện vua tôi.
Nói xong chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh và giáo sĩ Bá Đa Lộc xuống thuyền sang nước Tiêm La, đến kinh đô Vọng Các (Băng Cốc) Tiêm vương được tin sai người đi đón, rồi mời Phúc Ánh vào nội điện bày yến tiệc khoản đãi. Bỗng Chu Văn Tiếp ở ngoài chạy vào ôm chân Phúc Ánh mà khóc. Ánh động lòng ứa nước mắt, Tiếp vừa khóc vua nói:
- Thần được Chúa thượng trọng dụng phông là Bình Tây đại Đô đốc lại không chống nổi giặc, để nỗi chúa tôi mọi người thất lạc một nơi, ấy là tội của thần. Nhà thần có bốn anh em theo phò tá chúa, nay ba người đều bị giặc Tây Sơn đánh chết, Chúa thượng hãy cầu viện binh của Tiêm vương, thần xin đem ta quân đi trước. Trước là trả nợ nước sau là báo thù nhà cho tỏ chí khí của người trung nghĩa trượng phu.
Phúc Ánh đỡ Văn Tiếp dậy nói:
- Ta nhận được mật thư của khanh sang đây cũng vì việc ấy.
Tiêm vương thấy chúa tôi Phúc Ánh ôm nhau khóc, động lòng liền thuận ý viện binh.
Tiêm vương sai Chiêu Tăng làm đại tướng quân, Chiêu Sương làm tiên phong thống lĩnh ba vạn thuỷ quân và trăm chiến thuyền. Đạo quân này do Nguyễn Phúc Ánh và Chu Văn Tiếp đem một ngàn quân đích thân dẫn đường. Tiêm vương lại sai Sa Uyển và Lục Côn đem hai vạn quân bộ thẳng đường sang Chân Lạp họp với tướng Chân Lạp là Chiêu Thuỷ Biện rồi cùng tiến sang đường Châu Đốc đánh nước An Nam.
Mùa hạ năm Giáp Thìn (1784) niên hiệu Thái Đức thứ bảy, quân Tiêm La thuỷ bộ gồm năm vạn rầm rộ tiến sang làm cỏ đất Gia Định.
Lúc ấy ở thành Sài Côn, Trương Văn Đa nhắn tin cấp báo liền hỏi Đặng Văn Long:
- Nay quân Tiêm La năm vạn do Phúc Ánh đương hùng hổ tiến sang xâm lược nước ta. Theo tướng quân nên tiến thủ thế nào?
Long đáp:
- Hiện thành Sài Côn ta có năm ngàn quân, còn lại đều chia nhau giữ các nơi hiểm yếu ở Trường Đồn, Hà Tiên, Châu Đốc. Tính cả thẩy không đầy một vạn, e không thể nào chặn giặc ở biên cương được!
Trương Văn Đa hỏi:
- Trước khi về Quy Nhơn, thúc phụ có dặn rằng: Sông Tiền Giang là ranh giới, thành Trường Đồn là cửa ngõ của hai dinh Long Hồ và Phiên Trấn. Ý tướng quân muốn bảo rằng nên bỏ dinh Long Hổ hợp binh về cố thủ Trường Đồn để giữ Phiên Trấn, Sài Côn chăng?
Đặng Văn Long đáp:
- Trường tướng quân thật là tuổi trẻ tái cao. Ý của tôi chính là như vậy.
Nói rồi Đặng Văn Long và Trương Văn Đa vào Trường Đồn lập đón luỹ canh phòng cẩn mật, động thời sai quân mang lệnh cho quân các trấn Châu Đốc, Hà Tiên, Trấn Giang (Cần Thơ), Ba Thắt kíp bảo toàn lực lượng đem quân về hội ở Trường Đồn (Mỹ Tho). Nói về thuỷ, quân Tiêm La tiến đến đâu quân Tây Sơn lui đến đấy. Tiến một mạch đến Đông Khẩu gặp lúc trời tối liền dừng quân đóng trại. Trong đại bản doanh Chiêu Tăng tự đắc nói với chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh:
- Tôi nghe chúa Nguyễn vương nói rằng quân ta rất mạnh, thế mà quân ta tiến sang giặc chỉ lui mà không dám đánh, chẳng mấy chốc đã chiếm hết cả một vùng đất rộng lớn từ sông Tiền Giang trở vào. Chẳng qua là do chúa tôi Nguyễn vương không có người tài mà thôi chứ quân Tây Sơn đối với quân Tiêm ta thật là hữ danh vô thực.
Nói xong cả cười. Phúc Ánh can:
- Xin tướng quân đừng nên khinh địch. Ngươi Huệ đã đem đại binh về Quy Nhơn, chỉ để Trương Văn Đa và Đặng Văn Long trấn thủ đất Gia Định, quân chưa đầy một vạn nên Đặng Văn Long mới đổ quân cố thủ Trường Đồn chặn đường tiến quân của ta về Sài Côn. Ấy là quân Tây Sơn đã có kế sách phòng thủ để chờ Nguyễn Huệ đem đại binh vào rồi phản công lại ta. Vậy tướng quân nên kịp phá giặc Trường Đồn. Ta chiếm được Trường Đồn coi như đã chiếm xong toàn cõi Gia Định. Xin tướng quân hãy khá tiến binh.
Chiêu Tăng cười lớn nói:
- Nguyễn Huệ tài cán gì mà xem ra chúa sợ Huệ đến thế, hãy thư thả cho quân ta nghỉ ngơi dưỡng sức, chờ Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn kéo vào bây giờ ta mới tiến đánh bắt hết cả, khỏi phải nhiều lần nhọc sức, thế chẳng hơn sao.
Chúa tôi Phúc Ánh thấy Chiêu Tăng không nghe lời mình, đành về doanh trại chờ quân Tiêm La muốn đánh lúc nào thì đánh chứ chẳng biết phải làm sao. Chiêu Tăng, Chiêu Sương thả quân hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc vơ vét của cải dân lành, dân chúng phải bỏ làng mạc trốn vào bưng biền rừng rậm, tiếng oán thán vang dậy đất trời. Nguyễn Phúc Ánh nghe tin ấy liền sang doanh trại Chiêu Tăng nói:
- Thưa tướng quân, lẽ được thua là cốt ở lòng dân. Quân ta chỉ tiến một mạch chiếm được nửa đất Gia Định, quân Tây Sơn chỉ lui mà không dám phục binh chặn đường tiến binh của ta, vì sợ rằng nếu phục binh sẽ bị nhân dân tố giác. Nay tướng quân thả binh sĩ cướp bóc của dân, trong thì quân khinh nhờn binh pháp, ngoài thì trăm họ oán ghét, làm sao mà thắng giặc cho được. Xin tướng quân xét lại.
Chiêu Tăng bảo:
- Vậy tôi hỏi chúa, vua tôi sai tôi kéo năm vạn binh sang đây biết bao nhiêu là nhân mã, khí giới quân lương để được cái gì? Nếu chỉ để đưa chúa lên ngai vàng mà thôi, thì ai làm vua ở nước Nam này chẳng được, việc gì mà nước tôi phải nhọc sức? Binh pháp có nói làm tướng giỏi thưởng phạt phải nghiêm minh. Nay binh sĩ có công mà không thưởng thì sao cho họ hết lòng đánh giặc. Nếu không để quân ta cướp của dân, vậy nhà chúa lấy gì để nuôi quân và thường cho binh sĩ của ta đây.
Phúc Ánh nghe Chiêu Tăng nói càn như thế, đánh bấm bụng ra về than cùng các tướng:
- Quân Tiêm La ngày càng tàn ác, e rằng mà lòng dân thật bất lợi cho ta!
Lúc Nguyễn Phúc Ánh dẫn quân Tiêm La về nước, Ngô Tùng Châu và Gia Định Tam Gia là Ngô Nhơn Tĩnh, Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định kéo đến theo phò. Nghe Phúc Ánh than thở, Ngô Tùng Châu bước ra thưa rằng:
- Nhân dân Gia Định vẫn một lòng chung với chúa. Cướp bóc của nhân dân là tội của quân Tiêm La, trăm họ có oán là oán quân Tiêm La cớ gì oán chúa được.
Lê Văn Quân bàn:
- Nếu ta cứ lệ thuộc quân Tiêm mãi ắt họ muốn làm gì thì làm. Nay quân của ta mộ được đã đến hai ngàn người, vậy thần xin đem thuỷ binh tiến đánh Trường Đồn, ắt Chiêu Tăng sẽ cho quân theo giúp, nhờ vậy mà quân Tiêm sẽ không được rảnh rang cướp bọc của nhân dân.
Ngô Tùng Châu hỏi:
- Hiện quân Tiêm La đang ham lợi mà quên nghĩa vụ lân bang. Vậy lấy gì làm chắc rằng họ sẽ cho quân theo giúp? Nếu họ không giúp thì hai ngàn quân của ta đi đánh Trường Đồn khác gì lấy trứng mà chọi đá. Nếu họ không giúp, ta lại không dám tiến quân Chiêu Tăng lại cười ta là nói khoác mà thôi.
Lê Văn Quân ung dung nói:
- Xin Chúa thượng hay sai người sang nói với Chiêu Tăng rằng ngày mai quân ta sẽ tiến về Trường Đồn đánh Tây Sơn. Nếu Chiêu Tăng không cử tướng theo giúp, Lê Văn Quân xin dâng đầu trước án.
Nguyễn Phúc Ánh nghĩ thầm rằng: Lê Văn Quân một lần bảo ta tham sang phụ khó, một lần bảo ta bán nước cầu vinh, ta đang muốn giết đi mà không có cớ gì. Nay ta nghe theo kế của nó, nếu đúng như thế thì ta đỡ mang tiếng với dân. Nhược bằng không thì ta đã giết được nó vậy. Nghĩ xong Ánh cả mừng nói:
- Được! Cứ ý theo lời Văn Quân mà làm. Nếu Chiêu Tăng không giúp, ta tất không thể tiến binh thì ta kẻ tội tướng quân tự ý làm để quân Tiếp không cười ta được. Khi ấy tướng quân có chết cũng đừng oán ta đấy nhé!
Lê Văn Quân đáp:
- Phận làm tôi tận trung vì chúa, chẳng dám oán hờn.
Nguyễn Phúc Ánh liền viết thư sai người sang doanh trại quân Tiêm báo cho Chiêu Tăng biết ngày mai sẽ xuất binh. Chiêu Sương bàn với Chiêu Tăng:
- Nay chúa tôi Nguyễn vương nóng lòng xuất binh, ngày mai họ tiến đánh Trường Đồn. Nguyễn Vương chỉ cơ hai ngàn quân trong tay, nếu để họ thua quân Tây Sơn mà chết hết thì lấy ai làm hướng đạo cho ta. Sau đó nếu quân Tây Sơn lại tiến đánh ta, ta không rành địa hình thì biết tiến thủ thế nào?
Chiêu Tăng cười bảo:
- Phúc Ánh chỉ giả vờ làm thế để buộc ta phải tiến đánh mà thôi, chứ làm gì dám mạo muội xua quân. Ta cứ án binh bất động cướp của chở về nước, xem thử ngày mai Phúc Ánh có dám tiến quân chăng?
Chiêu Tăng nói:
- Hiện vùng đất từ sông Tiền Giang trở vào quân ta vơ vét của cải chở về nước cũng đã hết. Vả lại Phúc Ánh vì sợ mang tiếng với dân e cùng đường liều lĩnh. Nếu chúa tôi Phúc Ánh chết cả thì ta không người hướng đạo cũng thật bất lợi. Vậy ngày mai tôi xin đem quân giúp Nguyễn vương tiến đánh Tây Sơn. Chiếm được đất mới ta có lợi mới, lại có ân với chúa tôi họ, chẳng phải là nhất cử, lưỡng tiện hay sao?
Chiêu Tăng khen phải, liền sai người sang báo cho Phúc Ánh ngày mai hội quân tiến đánh Tây Sơn.
Được tin, Phúc Ánh liền từ tay rót rượu thưởng Lê Văn Quân. Ánh nói:
- Lê tướng quân đám lấy cái chết bảo đảm bày kế hay cho chúa. Ly rượu này thưởng cho lòng trung của tướng quân.
Lê Văn Quân bưng rượu uống cạn. Ánh rót ly thứ hai nói:
- Ly rượu này thưởng cho tướng quân bày điệu kế khiến Chiêu Tăng phải chịu xuất binh đánh Tây Sơn.
Lê Văn Quân liền uống cạn. Ánh rót ly thứ ba nói:
- Nhờ kế của tướng quân nên muôn dân thoát cảnh bị quân Tiêm cướp bóc. Ly rượu nay ta thây mặt bá tánh cảm tạ Lê tướng quân.
Lê Văn Quân cần nốt ly thứ ba. Ánh lại truyền:
- Nay ta phong Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại Đô đốc, Lê Văn Quân làm phó tướng, chuẩn bị ngày mai hợp quân cùng Chiêu Tăng phá giặc.
Lúc bây giờ có một tên quân Nguyễn quê quán ở Hà Tiên bị quân Tiêm là hãm hiếp vợ mình đến chết nên đem lòng oán hận. Nhân biết được việc liên minh Tiêm, Nguyễn chuẩn bị đánh Tây Sơn, trong đem ấy tên quân bèn trốn sang doanh trại Tây Sơn ở đồn Trà Tân cách thành Trường Đồn hai mươi dặm bẩm báo.
Lúc ấy Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đang thị sát đồn Trà Tân. Hay tin ấy Đặng Văn Long nói với Văn Đa:
- Tướng quân hãy sai Đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn cấp báo cùng Hoàng thượng xin viện binh. Tôi và ông đem quân mai phục ở rách Mân Thít chờ giặc đến đó ra mà đánh để làm tiêu hao lực lượng và chặn đường tiến quân của địch.
Trương Văn Đa liền viết mật thư sai Đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn cấp báo, Đặng Văn Trấn nói:
- Tôi thân làm tướng ngoài biên ải giặc đến chưa kịp đánh đã được lệnh tướng quân rút một mạch về đây. Nay hai tướng đã đến những tưởng được ra trận đánh giặc cứu dân bảo quốc, nào ngờ lại bị sai về Quy Nhơn đưa thư. Việc đưa thư thì thiếu chi người sao là sai tôi?
Văn Đa an ủi Đặng Văn Trấn rằng:
- Ta thưa biết lòng trung dũng của Đô uý cũng như toàn quân ta trước cảnh non sông đang bị giặc xăm lăng tàn phá. Nhưng ngoài việc đưa thư Đô uý còn phải trình bày tình hình chiến sĩ của quân ta và quân địch ở Gia Định. Nếu không phải Đô uý thì ai làm được việc này. Đại Long Nhương tướng quân kéo đại binh vào đây ông đi theo đánh giặc Tiêm nào có muộn gì?
Đặng Văn Trấn nghe xong vỡ lẽ liền lãnh thư đi ngay. Trong đem ấy Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đem chiến thuyền mai phục ở các rạch nhỏ trên sông Mân Thít chờ quân Tiêm - Nguyễn.
Nói về quân Nguyễn do Chu Văn Tiếp và Lê Văn Quân thống lĩnh, được tướng Ngm là Thát Si Đa đem năm ngàn quân và năm mươi chiến thuyền đi sau phô trương thanh thế, liên quân Tiêm - Nguyễn ào ạt theo sông Tiền Giang tiến xuống. Vừa đến sống Mân Thít bỗng nghe pháo lệnh nổ vang, quân Tây Sơn dùng thuyền nhỏ xông ra. Bên phải Trương Văn Đa thống lĩnh, bên trái Đặng Văn Long chỉ huy đổ ra đánh rất hăng, tướng Tiêm La là Thát Si Đa trong thấy liền nói với tả hữu:
- Cứ để hai bên đánh nhau, đợi Tây Sơn để thuyền lớn xung trận bây giờ ta sẽ tiến binh.
Nói xong Thát Si Đa truyền quân dừng thuyền ở ngoài xa thị chiến. Khi ấy tướng Nguyễn là Chu Văn Tiếp nói với Lê Văn Quân:
- Ta đã lọt vào trận mai phục của giặc Tây Sơn, tôi và ông chia quân làm hai cánh chống đỡ. Lát nữa quân Tiêm trợ chiến ắt giặc phải tan.
Nói rồi Lê Văn Quân đón đánh Đặng Văn Long, Chu Văn Tiếp chặn Trương Văn Đa cự chiến. Hai bên đánh nhau dữ dội, quân Nguyễn thúc quân khua chiêng, quân Tây Sơn đốc binh nổi trống tiếng hò reo rền trời. Chu Văn Tiếp thấy tướng Tây Sơn là phò mã Trương Văn Đa tuổi còn rất trẻ mặt trắng môi son nghĩ thầm rằng, tháng con nít này thúc quân đánh hăng quá, nếu ta không giết nó e binh ta phải bại trận. Nghĩ xong bèn tiến lên áp sát thuyền Trương Văn Đa. Trương Văn Đa trông thấy thuyền quân Nguyễn có đề bốn chữ "Lương sơn tá quốc" lại có dải kỳ đề "Bình Tây đại Đô đốc", Đa nghĩ thầm rằng, ta nghe nói Chu Văn Tiếp khởi binh ở núi Trà Lương nên trương cờ "Lương sơn tá quốc". Tá quốc sao con rước giặc Tiêm La về giầy xéo non sông. Quân Tiêm La sang tàn hại dân ta, cũng do thằng bất tài tham công này gây ra. Phen nay ta quyết giết chết nó trừ hại cho dân. Nghĩ xong chờ thuyền Chu Văn Tiếp gần, Đa quát hỏi:
- Thằng giặc kia, mí có phải là Chu Văn Tiếp đó chăng?
Tiếp trấn mặt hét:
- Thằng con nít kia đã biết oai ta sao không xưng danh rồi chịu chết.
Đã nạt:
- Xưng danh với thằng cầu viện ngoại bang buôn dân bán nước như ngươi ta thật lấy làm xấu hổ. Nhưng ta e rằng lát nữa chết đi xuống âm phủ gặp anh em ngươi hỏi ngươi bị ai giết lại không biết đường trả lời thì cũng tội cho ngươi. Hay lắng tai mà nghe cho rõ, ta là Tây Sơn phò mã Trương Văn Đa mà quyết giết loại chó săn như ngươi đấy!
Chu Văn Tiếp nghe lời nhục mạ, khí uất xông lên. Lại nghe đánh xưng là phò mã Trương Văn Đa, Tiếp chợt nhớ mùa xuân năm trước khi dùng hoả công bị gió thổi ngược, em mình là Chu Đoan Chân cũng bị người xưng phò mã Trương Văn Đa giết chết. Không dằn được lửa hận, Tiếp hét vang vung đao nhảy qua thuyền địch. Văn Đa chờ Tiếp vừa đáp xuống sân thuyền liền đâm một thương nhằm giữa bụng. Đã rút thương, Tiếp tế nhào xuống nước. Bộ tướng của Tiếp là Phạm Văn Sở nghĩ thầm: Tướng Tây Sơn thằng nào cũng giỏ võ, đến thằng con nít này cũng múa thương như rồng bay phượng múa. Năm trước quân Pháp Lang Sa là Mạn Hòe bị Nguyễn Huệ đánh chết ở Thất Kỳ Giang ta có lấy được một cây súng dài. Để ta bắn xem nó có đỡ gạt được không?
Nói rồi lấy súng nạp đạn mà bắn. Trương Văn Đa trúng đạn bị thương, liền hối quân đánh trống thu binh. Nhờ vậy Phạm Văn Sở sai quân vớt được Chu Văn Tiếp lên thuyền. Khi ấy bên trái Đặng Văn Long thúc quân đánh rát quá, quân Nguyễn chết rất nhiều. Lê Văn Quân chống không nối lại chẳng thấy quân Tiêm La ứng chiến bèn truyền lui quân. Thát Si Đa đang ở xa thị chiến thấy thuyền Tây Sơn toàn là thuyền nhỏ mới truyền lệnh tiến quân cứu quân Nguyễn. Đặng Văn Long thấy tướng kỳ trên thuyền quân Tiêm, lại thấy một viên tướng đứng trên thuyền ấy, cạnh những thùng gỗ lớn. Đặng Văn Long nghĩ thầm, mấy thùng gõ kia chắc là thùng thuốc súng chăng? Nghĩ rồi rút tên lửa nhằm vào thùng ấy mà bắn. Tên lửa bắt thuốc súng cháy bùng lên, Thát Si Đa đứng gân đó bị lửa táp cháy vào phồng mình liền nhảy xuống sông. Chiếc soái thuyền của Thát Si Đa chạy lui. Quân Tiêm La vớt Thát Si Đa lên thuyền mình mẩy đều phồng hết cả, đau đớn rên la. Hai bên đều đánh trống thu binh.
Nhắc lại Phạm Văn Sở vớt Chu Văn Tiếp lên thuyền thấy mau loang đó cả vạt áo. Văn Sở liền cởi áo Chu Văn Tiếp, băng bó vết thương ở bụng Tiếp. Văn Sở lo lắng hỏi:
- Đại đô đốc thấy trong người thế nào?
Chu Văn Tiếp ngồi bắt dậy hét lên:
- Trời chưa cho ta bình Tây tặc hay sao?
Văn Tiếp hét to quá đến nỗi ruột lòi ra ngoài vết thương nơi bụng mà chết. Phạm Văn Sở ôm thây khóc mãi không thôi, rồi cùng Lê Văn Quân và Thát Si Đa lui binh về đại bản doanh ở Đông khâu (Sa Đéc).
Nói về tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa bị thương cùng Đặng Văn Long thu binh về đồn Trà Tân.
Đặng Văn Long bàn với Trương Văn Đa:
- Nay quân Tiêm - Nguyễn cả thuỷ lẫn bộ hùn binh năm vạn, quân ta ở đón Trà Tân này có mấy ngàn người. Vả lại tướng quân bị thương, theo tôi ta nên bỏ đồn Trà Tân lui về cố thủ Trường Đồn mới là thượng sách.
Trương Văn Đa vung tay hỏi:
- Tôi chỉ bị thương ở vai nào có hề hấn gì mà Đặng tướng quân phong ngại. Vả chăng giặc tiến ta lại lui, nếu bỏ đón Trà Tân, giặc lại tiến đánh Trường Đồn ta lui nữa hay sao?
Long ôn tồn nói:
- Trường Đồn thành cao hào sâu, quân Tiêm Nguyễn muốn đánh chỉ có hai con đường độc đạo mà thôi, một là đường bộ từ Trà Tân tiến xuống, hai là đường thuỷ theo sông Tiền Giang đánh tới. Trương tướng quân lãnh bộ binh về giữ Trường Đồn, tôi để thuỷ binh án ngữ sông Tiền Giang, thì giặc không ở gì đánh được. Nếu chúng đến đánh ta chỉ có chết chẳng có lùi. Nếu Trường Đồn mà mất, thành Sài Côn dinh Phiên Trấn không thể nào giữ nổi.
Bàn bạc xong Đặng Văn Long và Trương Văn Đa lệnh quân chuẩn bị quân trang để ngày mai bỏ đồn Trà Tân lui về cố thủ Trường Đồn. Chẳng ngờ dân chúng trong vùng hay tin đó, trong đêm ấy rủ nhau kéo đến đồn Trà Tân xin gặp quan trấn thủ. Đặng Văn Long và Trương Văn Đa nghe báo liền ra trước dân hỏi:
- Đang đêm các ngươi kéo đến đây có việc gì?
Một cụ già bước ra đáp:
- Quân Tiêm La đi đến đâu cũng tàn sát người già, con nít, hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc của cải dân lành. Nay tướng quân định bỏ đồn mà đi, thì quân Tiêm kéo đến chúng tôi ắt là phải chết. Xin tướng quân hãy ở lại đánh giặc. Nhân dân chúng tôi già trẻ lớn bé xin tình nguyện làm lính đánh quân Tiêm La.
Dân chúng đồng thanh hô vang:
- Xin tướng quân ở lại đánh giặc! Xin tướng quân ở lại đánh giặc!
Chờ dân chúng lắng im, Đặng Văn Long ứa nước mắt nói:
- Nguyễn Phúc Ánh rước giặc Tiêm La về tàn hạ dân ta. Hiện binh của chúng đông hơn ta gấp bội, đồn Trà Tân lại trống trải không thể giữ được lâu dài nên ta định lui về cố thủ Trường Đồn, chờ Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem đại binh vào sẽ đánh đuổi chúng đi. Xin bá tánh hiểu cho chúng tôi không phải là sợ giặc, chỉ tránh thế mạnh giặc lúc đầu đề bảo toàn lực lượng mà thôi.
Dân cũng nói:
- Nếu tướng rút quân về Trường Đồn, dân chúng tôi đành phải bỏ xóm làng theo về thành Trường Đồn lánh nạn vậy.
Nói rồi dân chúng về nhà thu dọn hành ly, già trẻ lớn bé gồng gánh đều dìu nhau chạy về thành Trường Đồn. Trương Văn Đa nói với Đặng Văn Long rằng:
- Nay dân chúng bỏ làng mạc theo quân ta, vậy tôi và ông phải tạm thời ở lại trấn thủ Trà Tân cho khi dân chúng đến nơi rồi ta sẽ rút binh sau.
Đặng Văn Long gật đầu bảo:
- Sáng ngày mai quân Tiêm - Nguyễn sẽ tiến đánh ta, ắt đêm nay chúng sẽ cho quân do thám đến gần đồn dò xét. Vậy ta dùng kế nghi binh, giặc tạm thời sẽ không dám tiến quân.
Trương Văn Đa hỏi:
- Sao tướng quân dám chắc rằng ngày mai chúng sẽ tiến đánh ta?
Văn Long trầm ngâm đáp:
- Chu Văn Tiếp bị tướng quân đâm chết, Thát Si Đa bị tôi đốt cháy khắp mình, Chiêu Tăng tất nổi giận mà đánh báo thù. Ngặt vì đêm nay nước thuỷ triều đang lớn, chúng tiến xuống sẽ ngược dòng nước chảy. Rạng sáng ngày mai nhân lúc nước rút chúng sẽ xuôi dòng tiến đánh quân ta. Ngay bây giờ ta cứ làm như vậy... như vậy... Nguyễn Phúc Ánh ắt sợ mà khuyên Chiêu Tăng án binh bất động dò xét thực hư khi ấy nhân dân quanh vùng đã về đến Trường Đồn rồi. Bấy giờ ta có rút binh cũng chẳng muộn gì.
Trương Văn Đa khen:
- Long Nhương tướng quân thật là sang suốt mới để Đặng tướng quân ở lại cùng tôi trấn đất Gia Định.
Nói xong Trương Văn Đa đến các doanh trại bộ binh. Đặng Văn Long xuống nơi thuỷ trại. Hai người bảo quân sĩ đồng thanh họ lớn: Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tán. Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tàn.
Trong đem tĩnh mịch tiếng hô vang dội xa hàng mấy dặm.
Nói về Nguyễn Phúc Ánh ở Đông Khẩu nghe tin quân bại trận, Đô đốc Chu Văn Tiếp bỏ mạng, Thát Si Đa bị thương bỏng nặng. Phúc Ánh khóc Tiếp rằng:
- Thương thay Chu Văn Tiếp, khi thì từ Phú Yên vào Gia Định giúp chúa, khi thì lặn lội sang Tiếm quốc viện binh. Nhà có bốn anh em đều vì ta mà chết cả. Ôi thương thay Chu Văn Tiếp!
Khóc rồi sai quân mai táng trọng thể. Chiêu Tăng thấy Thát Si Đa bị bỏng khắp mình nổi giận quát rằng:
- Lũ giặc có Tây Sơn dám đốt tướng của ta. Nay ta sai Chiêu Tăng đem một vạn thuỷ binh tiến đánh thuỷ trại của giặc, và Lục Côn, Sa Uyển đem một vạn bộ binh tiến đánh đồn Trà Tân. Vậy phiền chúa hạ cho tướng theo dẫn đường.
Phúc Ánh mừng rỡ nói:
- Tướng quân tiến đánh Tây Sơn là may cho ta lắm, việc dẫn dường nào có khó gì.
Nói xong Ánh bảo tướng của mình rằng:
- Nay ta phong Lê Văn Quân thay Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, dẫn đường bình thuỷ đánh Tây Sơn. Phong Lê Văn Duyệt làm tả quân đô đốc dẫn đường binh bộ đánh Trà Tân.
Phúc Ánh và Chiêu Tăng phân công đâu đó xong xuôi chờ ngày mai xuất kích.
Rạng sáng hôm sau quân Tiêm - Nguyễn, thuỷ bộ hai đạo hàng ngũ chỉnh tề chờ có nước xuống sẽ xuất quân. Bỗng quân do thám hớt hải về báo rằng:
- Thưa Chúa thượng, quân Tây Sơn trong đồn Trà Tân và thuỷ trại trên sông Tiền Giang đồng hô vang rằng: Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tan. Chúng thần nghe thấy vội về báo cùng Chúa thượng được rõ.
Phúc Ánh giật mình:
- Nay Nguyễn Huệ đã đem binh vào đến Trà Tân, ắt là có phòng bị. Theo ý ta nên dồn binh để xem thực lực của Huệ thế nào rồi xuất binh tiến đánh cũng chẳng muộn gì.
Chiêu Tăng cau mày bảo:
- Lúc ta chưa muốn tiến binh thì chúa hối thúc để đến nỗi tướng của ta bị cháy bỏng khắp mình. Nay ta muốn đánh báo thù thì chúa lại ngăn trở là ý là sao? Thì ra là chúa sợ Nguyễn Huệ đến thế ư?
Ánh chống chế:
- Chẳng phải là ta sợ Nguyễn Huệ không đã tiến binh. Nhưng binh pháp có câu: Biết người biết ta trăm trận trăm thăng. Quân Tây Sơn có Nguyễn Huệ thật là kiết hiệt đa mưu túc trí, dụng binh rất lạ không ai có thể lường trước được. Nhớ năm xưa sông Lại Dương hắn bày mưu đốt lửa ngăn sông, chỉ dùng có năm ngàn quân tiêu diệt ba vạn quân ta do Tôn Thất Hương thống lĩnh. Rồi ở thành Phú Yên hắn cũng chỉ dùng năm ngàn binh lập kế nghi binh đánh tan hai vạn quân ta do Tống Phước Hiệp chỉ huy. Sau đó hắn ba lần đem quân vào Gia Định, lần đấu bắt sống hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương, lần thứ hai đốt cháy tàu quân Phá Lang Sa sang cầu viện cho ta, lần thứ ba đợt thuyền Chu Văn Tiếp ở Thất Kỳ Giang. Hắn lại biết trước ta thế nào cũng chạy ra Phú Quốc mới sai tướng phục sẵn nơi đảo này, ta chạy thoát sang đảo Côn Lôn tướng của hắn là Trương Văn Đa, đem chiến thuyền vậy đảo. May nhờ trời giúp cho, nổi gió đánh đắm gần hết thuyền giặc nên ta mới thoát chết sang cầu viện Tiêm vương. Nay hắn lại kéo đại binh vào đây ta không thể không đề phòng. Xin tướng quân nghĩ lại.
Chiêu Tăng nghe Ánh nói xong bực mình bảo:
- Truyền lệnh ta bãi binh. Sai quân do thám tình hình quân địch xem sao rồi sẽ liệu.
Nói xong Chiêu Tăng quày quả ra về đại bản doanh. Bên doanh trại Tây Sơn, Trương Văn Đa nghe tin ấy khen Đặng Văn Long:
- Quá đúng như tướng quân dự đoán, quân Tiêm - Nguyễn không dám tiến binh. Đặng tướng quân thật liệu việc hơn người.
Văn Long nhún nhường nói:
- Trương tướng quân khen quá lời, tôi nào có tài cán gì. Chẳng qua ấy là nhờ uy danh của Long Nhương tướng quân mà thôi.
Nói xong Trương Văn Đa và Đặng Văn Long bỏ đồn Trà Tân đem binh lui về giữ Trường Đồn.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 32 Bùi Thị Xuân bắn tên mắng Nguyễn Vương. Nguyễn Long Nhương sai sứ hoà Tiêm quốc.
Nhắc lại Đô đốc Đặng Văn Trấn vâng lệnh Trương Văn Đa về Quy Nhơn cấp báo cùng vua Thái Đức.
Vua Thái Đức liền sai quân nổi trống thiết triều. Đủ mặt bá quan văn võ, vua nói:
- Đô uý Đặng Văn Trấn từ Gia Định về báo rằng: Phúc Ánh cầu viện nước Tiêm La. Hiện quân Tiêm La đem thuỷ bộ binh năm vạn tiến sang. Phò mã Trương Văn Đa và đại Đô đốc Đặng Văn Long lui binh về giữ Trường Đồn. Nghe giặc Tiêm La sát hại đồng bào, hãm hiếp phụ nữ, vơ vét của cải, ta thật thương lương dân gặp nạn, giận lũ giặc tham tàn. Vậy nay ta lệnh cho Long Nhương Nguyễn Huệ làm chánh tướng, Tiết chế Nguyễn Lữ làm phó tướng được trọn quyền điều động binh lương. Huệ và Lữ hãy lập tức xuất binh đuổi ngoại xâm ra khỏi biên thuỳ, cứu muôn dân thoát vòng nước lửa, chớ phụ lòng mong đợi của ta.
Các tưởng cũng quỳ tâu:
- Xin Bệ hạ an lòng, chúng thần nguyện một lòng quét sạch quân Tiêm ra ngoài bờ cõi, bắt Phúc Ánh về cho Bệ hạ trị tội bán nước buôn dân.
Bỗng Vũ Văn Dũng từ ngoài chạy vào nói lớn:
- Xin Bệ hạ cho thần vào Nam đánh quân Tiêm - Nguyễn chứ thần làm võ tướng mấy năm nay trấn thủ Quảng Nam, không được đánh đấm gì cả, thật là chân ngứa ngáy vô cùng.
Nguyễn Huệ bước ra hỏi:
- Tam sư để Vũ Văn Dũng đang cùng Võ Đình Tú trấn thủ Quảng Nam vì sao lại có mặt ở kinh thành?
Dùng vung tay đáp:
- Tôi từ Quảng Nam về đây bẩm báo tình hình biên ải. Từ ngày Phạm Ngô Cầu vào trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, lấy đèo Hải Vân làm ranh giới án binh bất động, không có ý dòm ngó đất Quảng Nam ta. Nào ngờ mới về đến đây nghe Phúc Ánh cõng rắn cắn gà nhà, rước giặc Tiêm La giày xéo nước ta. Tôi nghe như lửa đốt trong lòng. Xin Bệ hạ và đại sư huynh cho tòng chinh vào Nam đánh giặc.
Nguyễn Huệ ôn tồn khuyên Vũ Văn Dũng:
- Quân Trịnh ở Phú Xuân, Thuận Hoá còn hai vạn binh tinh nhuệ đang chờ có dịp xâm phạm đất Quảng Nam ta, thế nên việc trấn thủ đất Quảng Nam phòng quân Trịnh, ngoài Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú có ai làm nổi. Dũng nên nhớ rằng có yên được mặt Bắc thì mới đánh thắng mặt Nam. Vậy Văn Dũng hãy trở về cùng Võ Đình Tú trấn thủ Quảng Nam, ấy là đã lập nên công lớn đó.
Vũ Văn Dũng vâng lệnh lui ra.
Hôm sau Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh hai trăm chiến thuyền và hai vạn tinh binh cùng các tướng Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Văn Trấn đi đường bể vào Nam đánh giặc. Vua Thái Đức đích thân ra đến tận cửa Thị Nại tiễn đưa. Vua tự tay rót rượu cho Huệ và Lữ rồi nói:
- Hai em đã vì anh xông pha nơi hòn tên mũi đạn chinh Nam phạt Bắc. Chuyến này vào Gia Định hãy gắng công mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng anh.
Huệ và Lữ cùng nâng chén uống cạn. Huệ nói:
- Xin hoàng huynh chớ nên lo lắng. Em đi đánh giặc phen này xin hứa sẽ quay về ăn tết Ất Tỵ.
Vua Thái Đức nghi ngờ hỏi:
- Nay đã là ngày hai mươi tháng mười một năm Giáp Thìn, chỉ còn bốn mươi ngày nữa là đến tết Ất Tỵ. Tính thời gian đi ra đi vào mắt hết hai mươi ngày, chỉ còn hai mươi ngày em nghĩ răng có thể phá được giặc sao?
Huệ đáp giọng tự tin:
- Khi hay tin Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đem toàn quân về cố thủ Trường Đồn thì kế sách đánh giặc em đều tính toán cả rồi. Quân ta vào phen này chỉ đánh một trận là tiêu diệt xong quân Tiêm - Nguyễn mà thôi. Xin hoàng huynh chớ ngại.
Nói rồi bái biệt toan bước xuống thuyền, bỗng nghe tiếng gọi lớn:
- Long Nhương tướng quân xin dừng bước!
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra nữ đô đốc Bùi Thị Xuân đang lướt ngựa xông đến. Bùi Thị Xuân nhảy xuống ngựa thi lễ với vua Thái Đức. Xuân nói:
- Xin Bệ hạ cho thần được tòng chinh vào Nam đánh giặc Tiêm - Nguyễn.
Vua bảo:
- Ta đã trao quyền điều binh khiển tướng cho Nguyễn Huệ, việc này do Huệ định đoạt vậy.
Nguyễn Huệ nói đùa cùng Xuân rằng:
- Ta vào Nam chuyến này tinh binh hai vạn, hổ tướng có thừa. Cô Xuân là nữ nhi anh kiệt thiên hạ đểu biết tiếng còn xin theo chinh chiến làm gì?
Bùi Thị Xuân nét mặt đau đáu đáp:
- Chẳng phải tôi muốn làm nữ nhi anh kiệt. Nhưng Nguyễn Phúc Ánh rước quân Tiêm La về tàn hại dân ta là do tội của tôi. Nay tôi xin theo tướng quân đánh giặc, quyết trừ Phúc Ánh mới lấy công chuộc tội của tôi được. Nếu Long Nhương không cho tôi quyết quỳ mãi nơi này.
Nguyễn Huệ hỏi Trần Quang Diệu:
- Có Xuân đã quyết lòng như thế, ý Trần Quang Diệu thế nào?
- Năm xưa phu nhân tôi hai lần truy đuổi đều để cho Phúc Ánh chạy thoát, nên trong lòng áy náy tự cho rằng mình có tội. Nay Phúc Ánh rước giặc Tiêm La tàn hại dân lành, phu nhân tôi lại càng bị lương tâm cắn rứt. Xin tướng quân hay cho phu nhân tôi tòng chinh ắt trong lòng sẽ thảnh thơi hơn. Ấy là tướng quân đã ban ơn cho vợ chồng tới đó. (Nguyên lần tha Nguyễn Phúc Ánh, Bùi Thị Xuân giấu cả chống mình là Trần Quang Diệu nên Diệu chỉ biết có hai lần, một lần Phúc Ánh chui xuống giường sản phụ mà trốn, một lần ở cửa Hàm Luông, Phúc Ánh nhờ bão thoát thân).
Nghe Diệu nói xong, Nguyễn Huệ vui vẻ cho Bùi Thị Xuân tòng chinh. Xuân mừng rỡ khóc lậy tạ ơn. Nguyễn Huệ cảm động hỏi:
- Ta đã bao lần nói với cô Xuân rằng: xưa nay có sách binh thu nào nói không bắt được tướng giặc là có tội bao giờ. Sao cô lại cố chấp tự làm khổ mình như vậy!
Bùi Thị Xuân chỉ gạt lệ không đáp.
Nguyễn Huệ hạ lệnh xuất binh. Hai trăm chiến thuyền và hai vạn quân Tây Sơn giong buồm ra cửa bể thẳng đường Nam tiến. Nguyễn Huệ đi rồi thái giám Vũ Tâm Can tâu với vua Thái Đức:
- Long Nhương tướng quân vào Nam phen này đem theo các tướng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đều là tay chân của Long Nhương cả. Điều ấy không đáng ngại hay sao?
Vua Thái Đức giận lắm nạt:
- Giặc Tiêm La đang hại dân ta, nếu không phải là Nguyễn Huệ cầm quân thì liệu ai có thể phá được năm vạn binh lang sói ấy. Trong lúc bá quan tướng sĩ đều vì nước vì dân, xả thân chinh chiến ngoài biên ải ngươi lại bướng lời gièm xiểm, thật là đáng chết.
Nói xong vua truyền quân lôi Vũ Tâm Can ra chém. Võ sĩ lôi Vũ Tâm Can đi xong, vua Thái Đức ngh lại rằng: Năm xưa cha nó là Huyền khê Vũ Tất Thận vì uống rượu phạm vào quân lệnh bị ta xử tội trước dân ở ấp Tây Sơn mà phải tự vẫn mà chết. Từ ấy ta tự nguyện nuôi nó như con. Nay nếu giết đi chẳng hoá ra ta là người bất nhân bất nghĩa hay sao?
Nghĩ xong liền hối quân xá tội cho Vũ Tâm Can, rồi quay về ngự điện. Vũ Tâm Can thoát chết về nhà hỏi mẹ:
- Những lần trước con nói gièm rằng, nên đề phòng Nguyễn Huệ đem nanh vuốt ra ngoài biên ải thì Nguyễn Nhạc giật mình liền cho người tam phủ theo để chia binh quyền với Nguyễn Huệ. Sao lần na Nguyễn Nhạc lại toan giết chết con?
Vũ mẫu đáp:
- Nguyễn Nhạc có tính hay đố kỵ người tài đức hơn mình, nhưng lại rất thương kẻ cùng đường cô thế. Lần này Nguyễn Nhạc chỉ nghĩ đến việc nhân dân Gia Định bị quân Tiêm La tàn hại, mà quên việc Nguyễn Huệ lấn quyền. Lần sau nếu muốn báo thù cha, còn phải lựa thời mà nói.
Vũ Tâm Can thưa:
- Con xin vâng lời mẹ dậy! Nguyễn Nhạc những ngày khởi binh ở Tây Sơn Thượng nhờ cha con đem hết gia đình của cải theo giúp. Cha con chỉ vì phạm tội uống rượu mà phải bị Nguyễn Nhạc xử tội chết. Con thề sẽ phá tan có nghiệp của anh em Nhạc, Huệ báo thù cha mới thoả lòng căm hận.
Nói về Nguyễn Huệ đem hai vạn binh vào Nam lần này Huệ không vào cửa Cần Giờ lên thành Sài Côn mà cho chiến thuyền vào cửa biển Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến vào thành Trường Đồn. Phò mã Trương Văn Đa và Đô đốc Đặng Văn Long hay tin tự trói mình ra đón Nguyễn Huệ. Trương Văn Đa quỳ thưa:
- Quân Tiêm sang xâm lược nước ta. Cháu và đại đô đốc Đặng Văn Long không chống nổi phải để toàn quân về cố thủ Trường Đồn, bỏ hết một nữa đất đai Gia Định về tay giặc. Xin thúc phụ trị tội!
Nguyễn Huệ sai quân mở trói cho hai tướng rồi an ủi:
- Tránh thế mạnh của địch lúc ban đầu, bảo toàn lực lượng quân ta lui về giữ nơi hiểm yếu, ấy thật là thượng sách. Lần trước rút binh về Quy Nhơn ta đã để Đặng Văn Long ở lại giúp Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, vậy kế này có phải của Đặng Văn Long chăng?
Trương Văn Đa đáp:
- Thưa thúc phụ, kế này chính là do Đặng đô đốc bày ra.
Nguyễn Huệ hạ lệnh:
- Trương Văn Đa đã lập nên công lớn giết chết thằng bán nước Chu Văn Tiếp, vả lại Đa đang bị thương và ta lệnh cho ngươi quay về trấn thủ thành Sài Côn để dưỡng thương - Đoạn quay sang Đặng Văn Long, Huệ nói - Đặng Văn Long quay về thành Trường Đồn trấn thủ. Các tướng sĩ không được nghĩ ngợi theo ta tiến lên đồn Trà Tân đánh quân Tiêm - Nguyễn.
Đặng Văn Long can rằng:
- Quân ta đi đường xa mới đến ắt có phần mỏi mệt. Quân Tiêm - Nguyễn đóng một nơi an nhàn mạnh khỏe, lấy quân mệt đi đánh quân khỏe e rằng bất lợi. Xin đại huynh xét lại.
Huệ cười đáp:
- Ta hẹn với hoàng huynh về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ, mà này đã là mùng một tháng chạp! Ta gấp rút đem quân tiến đánh là muốn phô trương thanh thế quân ta và xem thực lực của giặc mà thôi. Ta đâu dại đem quân mình vào chỗ chết. Tứ sư đệ chớ lo!
Nói rồi không nghe lời Văn Long, Huệ lệnh quân thừa lúc nước thuỷ triều đang lớn thẳng tiến về đồn Trà Tân.
Nơi đại bản doanh Tiêm - Nguyễn, quân do thám về báo cùng Nguyễn Phúc Ánh và Chiêu Tăng.
- Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đang tiến đánh quân ta.
Phúc Ánh giật mình nói với Chiêu Tăng:
- Quân Tây Sơn chủ động tấn công trước chắc là Nguyễn Huệ đã đem đại binh vào đến nên chúng mới dám to gan như vậy.
Nói rồi Ánh liền cùng Chiêu Tăng đích thân ra ngoài thuỷ trại xem xét. Đến nơi thấy từ xa thuyền Tây Sơn lớp lớp, ào ào lướt sóng tiến về phía quân mình, lại thấy chiếc soái thuyền dẫn đầu đoàn quân Tây Sơn trương cờ đề "Long Nhương đại tướng quân", Phúc Ánh lại giật mình nói với Chiêu Tăng:
- Xin tướng quân hay lệnh quân sĩ giữ vững đoạn trái, dùng thuỷ trại và đồn Trà Tân làm thế ỷ giốc với nhau. Nếu quân Tây Sơn tiến đánh thuỷ trại, thì đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống giặc ắt phải lui.
Chiêu Tăng nhếch mép cười bảo:
- Việc gì mà chúa lại sợ Huệ đến thế. Lần trước Đặng Văn Long giả danh cho quân sĩ họ lên rằng: "Long Nhương tướng quân đến", khiến chúa sợ bóng sợ gió không dám tiến binh, nên Đặng Văn Long mới lui về Trường Đồn được an toàn. Rồi khi quân do thám của ta về bảo rằng giặc Tây Sơn ở đồn Trà Tân về cố thủ Trường Đồn thì chúa lại báo rằng: "E Nguyễn Huệ dùng kế không thành". Lần hồi mãi đến nay mới chiếm lấy Trà Tân bỏ trống. Ấy thật là chúa vì sợ, thấy gà hoá cuốc làm chậm bước tiến của quân ta mà thôi.
Phúc Ánh xấu hổ chẳng biết trả lời thế nào. Chiêu Tăng lại nói tiếp:
- Nay trời đã xế chiều xuất quân không tiện, ta cứ án binh phòng thủ xem Nguyễn Huệ làm gì được ta nào.
Chiêu Tăng vừa nói xong đã thấy chiến thuyền Tây Sơn tiến sắt thuỷ trại. Nguyễn Huệ đứng trên soái thuyền hạ lệnh tiến công. Quân Tây Sơn bắn đại bác ầm ầm vào thuỷ trại quân Tiêm - Nguyễn. Chiêu Tăng phất cờ hiệu, đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống và đại bác trong thuỷ trại quân Tiêm bắn ra. Chiến thuyền nhỏ quân Tây Sơn trúng đạn vỡ mất vài chiếc. Nguyễn Huệ liền hô quân lui ra khỏi tầm đại bác. Huệ bảo các tướng:
- Quân Tiêm rất đông và mạnh, thuyền và súng đại bác của chúng chẳng kém quân ta. Chúng lại lấy thuỷ trại dưới sông Tiền Giang và bộ binh trên đồn Trà Tân làm thế ỷ giốc với nhau. Nếu chúng không ra đánh, ta thật khó mà thủ thắng. Phải làm sao dụ chúng ra khỏi trại mà tiêu diệt mới xong.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
- Để tôi bảo quân sĩ gọi thằng bán nước ra mà chửi xem thử nó có chịu ra đánh hay chăng?
Nói xong Văn Tuyết bảo quân đồng thanh hô lên rằng:
- Thằng bán nước Phúc Ánh, có giỏi thì ra mà đánh với ta! Thằng bán nước Phúc Ánh, có giỏi thì ra mà đánh với ta!
Trong doanh trại, nghe quân Tây Sơn chửi, Phúc Ánh nói với các tướng:
- Cứ án binh bất động, lát nữa nước triều rút, chúng cũng sẽ rút theo.
Quân Tây Sơn chửi mãi mà quân Tiêm - Nguyễn vẫn không ra. Trời tối nước triệu rút, Nguyễn Huệ truyền lệnh thu binh. Khi quân lui về đến nửa đường từ Trà Tân đến Trường Đồn, lòng sông bắt đầu mở rộng chừng vài dặm, Huệ bảo:
- Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc, hai người hãy lãnh ba ngàn quân và ba chục chiếc đại thuyền lập thuỷ trại giăng ngang sống cố thủ nơi này. Hễ sáng thuỷ triều lên thì đem binh đến trại địch khiêu chiến. Đến khi thuỷ triều rút thì lại lui về đây. Nếu giặc đem đại binh tiến đánh thì lập tức lui quân về Trường Đồn. Khi chưa có lệnh ta cứ như vậy mà làm.
Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết vâng lệnh đem chiến thuyền giăng ngang sông lập thuỷ trại.
Nguyễn Huệ lại tiếp tục đem chiến thuyền lui về Trường Đồn. Đến đoạn sông có một nhánh sông nhỏ đâm ngang nơi tả ngạn, lòng sông lại mà rộng hơn, giữa sông nổi lên một cù lao dài chừng mấy dặm. Huệ hỏi các tướng:
- Các tướng có biết sông và cù lao này tên gọi là gì chăng?
Đô uý Đặng Văn Trấn thưa:
- Nhánh sông nhỏ này tên gọi là sông Rạch Gầm. Cù lao này là cù lao Thới Sơn.
Huệ lại hỏi:
- Các ngươi có biết vì sao ta quân tâm đến đoạn sông này chăng?
Các tướng đều đáp:
- Chúng tôi không được biết! Xin Long Nhương giải cho!
Huệ trỏ tay xuống sông nói lớn:
- Nay là mùng một tháng chạp. Các ngươi hãy nhớ lấy lời ta, ngày mùng chín tháng chạp ta sẽ giết giặc ở đoạn sông này!
Nguyễn Lữ hỏi:
- Em không hiểu vì sao lại là ngày mùng chín. Xin anh cắt nghĩa rõ hơn?
Huệ nhíu mày, vầng trán đầy nếp nhăn rồi chậm rãi nói:
- Đợi chín ngày nữa tháng giặc rồi anh sẽ giải.
Nói xong Nguyễn Huệ xuôi về Trường Đồn lập đã bản doanh.
Hôm sau trời vừa hửng sáng nước thuỷ triều lên mạnh, Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc lại đem chiến thuyền đến Trà Tân khua chiêng trống inh ỏi. Quân Tiêm - Nguyễn vẫn cố thủ không ra đánh. Quân Tây Sơn tiến đến gần lại bị súng đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống phải lui ra. Tuyết và Lộc lại bảo quân gọi tên Phúc Ánh mà chửi. Quân Tây Sơn hét vang:
- Thằng Phúc Ánh bán nước buôn dân, mau ra đã chịu chết!
Chửi mãi đến lúc nước triều rút chảy quân Tây Sơn phải kéo nhau về. Lộc bảo Tuyết:
- Quân Tiêm - Nguyễn chỉ thủ mà không đánh. Ta cứ tiến lên rồi lại lui về thật hoài công vô ích.
Văn Tuyết nhăn nhó nói:
- Long Nhương cần đến ta chưa có lệnh cứ như vậy mà làm. Ngày mai lại khiêu chiến nữa xem sao.
Lộc bảo:
- Đêm nay ta sai người về bẩm báo cùng Long Nhương xem người có kế gì chăng?
Nói rồi sai quân mang thư về Trường Đồn dâng Nguyễn Huệ. Huệ xem xong cười bảo:
- Tuyết và Lộc thấy giặc cố thủ không ra đánh nóng ruột xin lệnh tấn công. Quân bay quay về bảo đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc cứ y lời ta dặn mà làm. Nếu trái lệnh chém đầu.
Bùi Thị Xuân bước ra thưa:
- Xin Long Nhương cho tôi ngày mai theo đô đốc Tuyết và Lộc ra trận. Tôi có kế dụ Nguyễn Phúc Ánh phải ra đánh.
Huệ lắc đầu bảo:
- Phúc Ánh nghe ta đến đây, dù gan trời cùng chẳng dám xuất quân.
Bùi Thị Xuân hỏi:
- Nếu tôi khích được Phúc Ánh ra trận thì Long Nhương tính thế nào?
Huệ cả cười đáp:
- Nếu được thế ta nhường quyền điều bình khiển tướng cho có Xuân. Nhược bằng không từ giờ về sau ta sai đâu thì phải y lệnh không được xin xỏ gì cả!
Xuân cương quyết nói:
- Xin dượng rễ chớ có quên lời, phen này dượng rễ ắt là phải thua cuộc rồi.
Sáng ngày thứ ba, Bùi Thị Xuân theo Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc ra trận. Đến thuỷ trại quân Tiêm - Nguyễn thấy soái thuyền Phúc Ánh từ xa, Bùi Thị Xuân quấn một phong thư quanh thân tên rồi nhằm thuyền Phúc Ánh mà bắn. Lúc ấy Lê Văn Quân đứng trên mui thuyền bắt được tên thư bèn giở ra xem. Thư viết rằng:
"Nay đô đốc Tây Sơn là Bùi Thị Xuân gửi Nguyễn vương Phúc Ánh.
Năm xưa Chúa ta hát được hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương ở cửa Hàm Luông. Ta đuổi theo bắt được mẹ con ngươi. Thương mẹ và em ngươi làm phận đàn bà, lại thấy ngươi là thằng con nít nên ta mới tha chết cho ngươi; Ngờ đâu ngày trước ngươi quỳ lạy dưới gấu quần của ta nay lại giở thói hèn hạ ấy quỳ lạy Tiêm La rước giặc về tàn hại dân lành. Ta bảo ngươi, nay ta định đây quyết bắt ngươi để chuộc tội ngày xưa thả cho thằng tiểu nhân đê hèn bán nước cầu vinh. Ngươi hãy bảo quân Tiêm La đem binh thuyền ra giữa chiến trường huyết chiến một phen, đừng chui rúc trong hàng như loài chim chuột, thân nhi nữ khuê môn bất xuất như ta cũng lấy làm xấu hổ lắm thay!
Lê Văn Quân xem xong rồi đem vào dâng lên Phúc Ánh, Phúc Ánh giở thư ra đọc xong xé nát thư, đỏ mặt nói:
- Con tiện tỳ này ngày trước đuổi ta ở Hàm Luông, nhờ bão nên ta và ngươi cùng Trương Tấn Bửu mới chạy thoát. Nay Nguyễn Huệ thấy ta cố thủ không ra đánh, mới sai Bùi Thị Xuân đặt điều nói bậy để khích ta mà thôi.
Phúc Ánh nói xong xua tay ra hiệu cho Lê Văn Quân ra ngoài. Quân đi xong Ánh nghĩ thầm: Việc Bùi Thị Xuân tha chết cho ta chỉ có ba mẹ con ta biết. Nay thêm Lê Văn Quân, nữa là người thứ tư.
Bùi Thị Xuân bắn tên đứa thư cho Phúc Ánh xong, chờ mãi vẫn không thấy quân Tiêm - Nguyễn ra đánh bèn sai quân gào lên: "Nguyễn Phúc Ánh ra mà lậy, nữ đô đốc sẽ tha chết cho".
Trong doanh trại quân Tiêm - Là, Chiêu Tăng nghe vậy nói với thủ hạ:
- Quân Tây Sơn đã ba ngày liền kêu tên Phúc Ánh chửi mắng mà Phúc Ánh vẫn không xin ta ra đánh chứng tỏ Phúc Ánh sợ Nguyễn Huệ đến dường nào.
Chiêu Sương hỏi:
- Kế sách đánh Tây Sơn tướng quân như thế nào?
Chiêu Tăng đáp:
- Quân Tây Sơn mới tới khí thế đang hăng, ngả nào cũng ra khiêu chiến. Ta cứ án binh bất động, lau ngày chúng nản lòng ắt sinh lười nhác, khi ấy ta thừa cơ tiến đánh tất phải thắng.
Ngoài sông Tiền Giang quân Tây Sơn chửi mãi đến lúc nước rút lại kéo nhau về. Bùi Thị Xuân về Trường Đồn yết kiến Nguyễn Huệ, nói:
- Tôi dùng mọi cách để khiêu khích, Phúc Ánh vẫn cố thủ không ra đánh.
Nguyễn Huệ cả cười bảo:
- Con người của Phúc Ánh dám cam tâm lậy lục ngoại bang về tàn hại dân nước mình, thì chửi như nào mà không chịu được, có chửi mắng thế nào cùng vô ích mà thôi!
Nói rồi Nguyễn Huệ gọi tên quân đến bảo:
- Ngươi mau tới thuỷ trại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc truyền lệnh ta: Bắt đầu từ ngày mai án binh bất động canh phòng cẩn mật không phải đến trại địch khiêu chiến nữa.
Quân lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại hỏi:
- Nay ta muốn giảng hoà với quân Tiêm La, Phan Văn Lân có thể vì ta đi sứ được chăng?
Phan Văn Lân bước ra hỏi lại Nguyễn Huệ:
- Tôi thân làm võ tướng gặp giặc thì đánh, sao Long Nhương lại sai tôi đi sứ?
Huệ cười hỏi:
- Văn Lân có can trường của võ tướng những lại có vóc dáng của một thứ sinh, ắt Chiêu Tăng không nghi ngờ rằng ta sai tướng sang do thám địch tình. Văn Lân lại không làm được việc này sao?
Phan Văn Lân đáp:
- Nếu là tướng lệnh, há tôi lại sợ chúng hay sao!
Huệ cả mừng nói:
- Hay lắm! Vậy Văn Long hãy kíp sang doanh trại Tiêm La gặp Chiêu Tăng nói như vậy... như vậy... Chiêu Tăng ắt sẽ trúng kế của ta. Nhất định ngày mùng chín hắn sẽ đem binh tiến đánh.
Nơi về Chiêu Tăng, ngày hôm sau không thấy quân Tây Sơn đến khiêu chiến, liền mời Phúc Ánh đến nói:
- Nguyễn Huệ vừa kéo binh đến đây, ba ngày liền cho quân khiêu chiến, hôm nay lại không thấy để chẳng biết là có ý gì?
Phúc Ánh chưa kịp đáp xảy quân vào báo:
- Thưa đại tướng quân, có sử giả quân Tây Sơn xin vào ra mắt.
Chiêu Tăng hỏi:
- Sứ giả Tây Sơn xin vào gặp ta hay gặp chúa Nguyễn vương?
Tên quân đáp:
- Sứ giả nằng nặc đòi gặp riêng đại tướng quân.
Chiêu Tăng bảo Phúc Ánh:
- Phiền chúa hãy tạm lánh mặt để tôi tiếp sứ xem Nguyễn Huệ muốn gì.
Ánh liền đến nắp sau bức bình phòng, Chiêu Tăng cho gọi sử giả vào. Phan Văn Lân vào tới, Chiêu Tăng nạt thị oai:
- Tên học trò kia không sợ chết sao mà dám vào đồn đây gặp đại soái?
Phan Văn Lân điềm nhiên đáp:
- Long Nhương tướng quân tôi vì sợ chết nên mà sai tôi đến đây gặp đại soái xin giảng hoà.
Chiêu Tăng cười to nói:
- Nguyễn Huệ to gan dám phạm oai trời, ba ngày liền cho quân khiêu chiến chửi mắng suốt ngày. Nay thấy không thắng nổi quân ta mới giảng hoà chăng?
Văn Lân đáp:
- Quân Tây Sơn tôi chỉ kêu Phúc Ánh mà chửi chứ đâu phạm đến oai trời. Nay Long Nhương tướng quân sai tôi đến đây thưa với đại soái rằng: Việc của chúa Nguyễn Phúc Ánh và vua Tây Sơn là việc của nước tôi. Vua tôi với Tiêm Vương vốn không thù oán việc gì đại soái phải gây cuộc đại chiến cho tổn hại sinh linh. Nếu đại soái bằng lòng rút binh về nước để người nước tôi tự giải quyết lấy chuyện riêng thì sau khi an bình, vua nước tôi theo lệ hằng năm nộp cống. Ấy chẳng phải là được lợi cả đôi bên sao?
Nghe Văn Lân nói xong, Chiêu Tăng giả vờ ngẫm nghĩ rồi nói:
- Lời ông cũng hữu lý. Vậy phiền ông hãy về trước thưa cùng Long Nhương tướng quân chờ ta suy nghĩ lại rồi sẽ sai sứ sang bàn bạc với Long Nhương sau.
Nói rồi Chiêu Tăng ân cần sai quân tiễn đưa Phan Văn Lân ra về. Nguyễn Phúc Ánh từ sau bình phong bước ra lo lắng nói:
- Xin tướng quân chớ nghe lời dối trá của Nguyễn Huệ. Năm xưa hắn làm loạn ở đất Tây Sơn lấy danh nghĩa là đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan, tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Vậy mà về sau bắt được Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Huệ liền giết chết. Đến như việc cả thiên hạ đều biết họ còn trơ mặt, thì một lời hứa suông đã lấy gì làm chắc. Nay tướng quân lui binh về nước bỏ mặc tôi, nếu sau này Nguyễn Huệ nuốt lời, tướng quân lại một lần nữa đem binh sang hỏi tội hay sao? Khi ấy chúa tôi của Ánh này không còn nữa thì tướng quân lấy danh nghĩa gì để động binh. Và lấy ai dẫn đường cho tướng quân đánh Tây Sơn?
Nghe Phúc Ánh nói xong. Chiêu Tăng cười to bảo:
- Việc gì mà chúa phải hoảng lên như thế? Đời nào ta nghe lời Nguyễn Huệ rút binh. Nay Nguyễn Huệ thấy ta hùng mạnh liệu không thắng nổi mà phải xin hoà. Ta giả vờ ưng thuận làm kế hoãn binh rồi bàn với chúa xem có kế gì phá giặc hay chăng?
Phúc Ánh đáp:
- Tôi thật tình xin lỗi vì đã hiểu lầm ý tốt cứ tướng quân. Theo tôi tướng quân cứ giả vờ hoà cùng Nguyễn Huệ, hẹn ngày rút binh về nước, Nguyễn Huệ ắt lơ đễnh việc phòng bị, khi ấy ta bất ngờ đem thuỷ bộ binh hai đạo cũng tiến đánh tất phải phá được Nguyễn Huệ.
Chiêu Tăng vỗ tay nói:
- Ý của ta cũng như ý chúa vậy. Phen này phải phá tan giặc Tây Sơn để Nguyễn Huệ biết tài thao lược của ta.
Nói rồi Chiêu Tăng bèn sai tướng là Chiêu Thuỷ Biện sang doanh trại Tây Sơn gặp Nguyễn Huệ nói chuyện giảng hoà. Thấy sứ Tiêm La đến, Nguyễn Huệ và mừng rỡ sai quân bày yến tiệc tiếp đãi rất trọng hậu. Chiêu Thuỷ Biện nói:
- Nay đại tướng quân sai tôi sang đây nói với tướng quân, xin hẹn ngày rút binh về nước. Sau khi dẹp được Phúc Ánh, xin tướng quân chớ quên lời nộp cống hàng năm.
Huệ hỏi Chiêu Thuỷ Biện:
- Vậy Chiêu tướng quân định bao giờ sẽ rút binh về?
Biện đáp:
- Nay là ngày mùng năm tháng chạp, đại tướng quân tôi xin hẹn đến ngày mươi lăm sẽ rút binh.
Nghe Biển nói xong, Nguyễn Huệ cười thầm trong bụng, sai người tiễn sứ ra về. Chiêu Thuỷ Biện đi rồi, Nguyễn Huệ tủm tỉm cười mãi. Nguyễn Lữ hỏi:
- Vì cớ gì anh cười mãi thế?
Huệ vẫn cười vui vẻ đáp:
- Đúng như ta dự đoán, Chiêu Tăng hẹn mười lăm sẽ rút binh, ắt trong đêm mùng chín chúng sẽ tiến binh đánh ta. Phen này ta quyết tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La, trả thù cho dân ta mới hả dạ. Nguyễn Lữ lại hỏi:
- Vì sao anh lại quyết đoán rằng chúng sẽ tiến đánh vào đem mùng chín?
Các tướng đồng thanh hỏi:
- Phải! Vì sao tướng quân đoán chắc là ngày ấy?
- Đến hôm ấy các em sẽ rõ vì sao chúng sẽ tiến quân đánh ta vào đem mùng chín. Khi ấy ta sẽ phục binh ở đoạn sông Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn tiêu diệt quân Tiêm - Nguyễn.
Nói xong Nguyễn Huệ cùng các tướng xuống thuyền đi thị sát trên sông Tiền Giang. Đến thuỷ trại đô đốc Lộc và Tuyết, Huệ bảo hai tướng rằng:
- Bắt đầu từ ngày nay trở đi Tuyết và Lộc cứ làm như vậy... như vậy... Đêm mùng chín Chiêu Tăng và Phúc Ánh sẽ đem thuyền tiến đánh. Hai tướng vờ như bị đánh bất ngờ giả thua mà chạy, đến đoạn sông Xoài Mút thì quay lại cố sức mà đánh. Ta sẽ đích thân đem quân tiếp ứng.
Đặng Văn Long hỏi:
- Vậy đại sư huynh hãy lệnh cho chúng tôi chia quân mai phục sẵn. Ngộ nhỡ chúng tiến đánh ta sớm hơn ngày mùng chín thì sao?
Huệ cười đáp:
- Liên quân Tiêm - Nguyễn chỉ có thể tiến đánh ta vào đêm của ngày mùng chín. Không thể sớm hơn hoặc muộn hơn được. Việc quân cơ phải tuyệt đối bí mật. Ta cho quân mai phục trước, nếu lộ việc quân thì kế ta ắt hỏng. Khi ấy ba vạn quân ta muốn thăng năm vạn quân Tiêm - Nguyễn tất phải hao binh tổn tướng rất nhiều. Ta muốn đánh thế nào cho năm vạn binh giặc không đường chạy thoát, còn quân ta vẫn bình yên vô sự ấy mới là phương châm đánh giặc của ta. Các tướng hãy yên tâm, điều ta tính toán không thể nào sai được. Đợi đến rạng sáng ngày mùng chín ta đem quân mai phục, đêm của ngày mùng chín sẽ tiêu diệt giặc cũng chẳng muộn gì!
Nguyễn Lữ thật thà hỏi:
- Ngày xưa em và anh cũng học với thầy Trương Văn Hiến, chưa nghe nói thầy dạy cho anh thuật bói toán bao giờ. Anh dựa vào đâu và dám cả quyết giặc sẽ tiến đánh ta vào đêm mùng chín?
Nguyễn Huệ cả cười bảo:
- Ấy là ta tính toán việc quân cơ, chứ ta nào có bói toán bảo giờ! Thôi không hỏi nhiều lời nào, cả tướng cứ y lệnh của ta mà làm.
Mỗi người đều thắc mắc nhưng chẳng dám hỏi. Nguyễn Huệ liền quay thuyền về đại bản doanh ở Trường Đồn.
***
Nói về sứ Tiêm La là Chiêu Thuỷ Biện quay về gặp Chiêu Tăng thuật lại lời hẹn với Nguyễn Huệ rồi nói:
- Khi nghe tôi hẹn ngày mười lăm rút binh Nguyễn Huệ rất mừng bày yến tiệc thết đãi. Xem ra Nguyễn Huệ đã tin lời thuận hoà của ta.
Chiêu Tăng cả mừng nói:
- Hay lắm! Hãy cho quân do thám xem quân Tây Sơn động tĩnh thế nào?
Hôm sau quân do thám Tiêm La về báo với Chiêu Tăng:
- Tiền thuỷ binh của Tây Sơn do đô đốc Tuyết và Lộc thống lĩnh suốt ngày bày rượu thịt ăn uống, rủ nhau đờn ca hát xướng không đề phòng gì cả.
Chiêu Tăng cả mừng bảo quân:
- Hay lắm! Mau cho mời chúa tôi Nguyễn Vương đến thương nghị.
Chúa tôi Phúc Ánh đến. Chiêu Tăng phân ngôi chủ khách mới ngồi rồi nói:
- Nguyễn Huệ đã tin lời hẹn ước rút binh của ta nên tiền thuỷ binh Tây Sơn mới lơ đễnh việc canh phòng. Nay ta xuất kỳ bất ý đem đại binh ngay mà tiến đánh ắt là phá được Nguyễn Huệ. Nếu để lâu ngày e lộ việc quân cơ.
Nguyễn Phúc Ánh dè dặt nói:
- Theo ta Nguyễn Huệ có gian kế gì chăng, chứ lẽ đâu hắn lại đi mắc lừa như vậy?
Chiêu Tăng nóng nảy lớn tiếng:
- Gian kế như của Đặng Văn Long bày quân hô vang Long Nhương tướng quân đến, khiến chúa sợ bóng sợ gió không dám tiến đánh Trà Tân để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa lui khỏi đón Trà Tân được an toàn. Lúc đồn Trà Tân đã bỏ trống chúa cũng không dám tiến binh sợ lầm kế thông thành của Nguyễn Huệ. Nếu chúa sợ hắn bày gian kế thì tôi rút binh về nước, tuỳ chúa muốn liệu thế nào thì liệu.
Phúc Ánh sợ Chiêu Tăng rút binh về thật, bèn nói hoãn:
- Xin tướng quân chớ vội giận. Ý ta muốn nó rằng ngày mai ta chưa thể tiến quân được thì nên tiếp tục cho quân do thám dò xem Nguyễn Huệ có gian kế gì chăng?
Chiêu Tăng kiên nhẫn hỏi:
- Vì sao ngày mai lại chưa thể tiến binh?
Ánh ôn tồn giảng giải:
- Nay là mùng bảy, đang là ngày đói con nước cứ thuỷ triều, nên mức nước sông không lên không xuống trong ba ngày là ngày mùng sáu, mùng bảy, mùng tám. Nếu ta xuất quân trong các ngày này thì không thể lợi dụng sức nước để tiến binh thần tốc được. Vì lẽ đó ta mới nói ngày mai chưa thể xuất quân được đó mà.
Chiêu Tăng nghe Phúc Ánh nói hợp lý liền hỏi tiếp:
- Vậy theo chúa ngày nào xuất quân được thuận lợi?
Ánh đáp:
- Chỉ cần ta hoãn lại một ngày, đến ngày mùng chín nước phát, thuỷ triều lên xuống rất mạnh ta sẽ tiến binh, Nguyễn Huệ bất ngờ ắt trở tay không kịp. Nếu ta tiến binh sớm hơn ngày mùng chín thì không lợi dụng được sức nước, muộn hơn ngày mùng chín thì e Nguyễn Huệ thấy nước chảy mạnh tất sẽ phòng bị.
Chiêu Tăng vỗ tay khen:
- Chúa thật liệu việc hơn người, sao lại còn e Nguyễn Huệ đến thế
Nói rồi truyền cho các tướng chuẩn bị hai ngày nữa là ngày mùng chín sẽ xuất quân. Nguyễn Phúc Ánh về đến doanh trại hỏi các tướng nói:
- Kế hoạch của ta thật là chu đào. Nhưng ta vẫn lấy làm lo lăm.
Ngô Tùng Châu hỏi:
- Xin hỏi chúa lo về việc gì?
Ánh nói giọng ngờ vực:
- Lần này sao Nguyễn Huệ lại dễ mắc lừa như thế?
Ngô Tùng Châu đáp:
- Lần này Nguyễn Huệ bị mắc lừa là vì hai lẽ: một là xưa nay Nguyễn Huệ ra trận chỉ có thắng chẳng có thua, nên ngờ rằng quân Tiêm La cũng sợ hắn mà chịu giảng hoà rút binh, hai là hắn thấy nay đang là ngày nước kém nên cho rằng ta chẳng thể tiến binh. Vì hai lẽ ấy nên Nguyễn Huệ mới không phòng bị.
Phúc Ánh lại bảo:
- Xưa nay Nguyễn Huệ dụng binh thần tốc lại rất là cẩn thận. Việc này dự tính của ta tuy rằng kỹ lưỡng nhưng ta vẫn lấy làm lo lắm.
Lê Văn Quân bước ra thưa:
- Năm xưa thần làm trấn thủ dinh Long Hồ, nên có biết ít nhiều địa thế vùng này. Nếu Nguyễn Huệ có gian kế thì chỉ có thể cho quân mai phục ở đoạn sông Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn mà thôi. Nay ta đã tính ngày mùng chín sẽ tiến quân thì ngày mai sai quân đến đấy do thám xem có quân Tây Sơn mai phục chăng. Nếu ngày mai mùng tám không có quân Tây Sơn mai phục ở cù lao Thới Sơn, ắt lần này Nguyễn Huệ phải lâm mưu, ngày mùng chín ta tiến binh trăm phần chắc thắng.
Nguyễn Phúc Ánh khen phải liền cho quân do thám đi ngay.
sáng sớm hôm sau mùng tám tháng chạp, Nguyễn Huệ đang ngủ trong trướng nghe phía ngoài lao xao tiếng người liền gọi quân hỏi:
- Việc gì mà người kia ồn ào thế?
Quân đáp:
- Thưa Long Nhương, tiết chế Nguyễn Lữ và các tướng Đặng Văn Long, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Bùi Thị Xuân đều đến xin ra mắt.
Huệ ngồi dậy bảo quân:
- Mau mời em ta cùng các tướng vào đây!
Các tướng vào đến, Huệ cười vui vẻ hỏi:
- Các em vì nóng lòng phá giặc nên đến gặp ta chăng?
Nguyễn Lữ nói lẫy:
- Giờ này mà anh còn cười được sao? Hôm trước anh bảo rằng quân Tiêm - Nguyễn sẽ đánh ta vào đêm mùng chín, nay đã là mùng tám rồi sao không thấy anh bày binh bố trận nên chúng tôi rủ nhau để hỏi cho rõ.
Huệ vẫn cười bảo:
- Ấy là do các tướng nóng lòng quá mà thôi. Hôm trước ta có bảo là đêm mùng chín giặc sẽ tiến đánh ta, sáng mùng chín ta sẽ bày trận mai phục, nay mới là ngày mùng tám kia mà.
Đặng Văn Long cẩn thận hỏi:
- Sao đại sư huynh không cho chúng tôi đem quân mai phục trước một ngày nào có hại gì?
Huệ lại cười đáp:
- Ngày nay nếu ta cho quân mai phục, giặc sai người đến do thám thì sao. Nếu bắt quân do thám của giặc lại, Phúc Ánh không thấy quân trở về ắt không dám tiến binh. Còn nếu thả chúng quân cơ bại lộ Phúc Ánh lại dám tiến binh sao? Sáng nay các tướng đã đến đây hãy cùng ta uống rượu giết thời gian, sáng ngày mai sẽ bày binh giết giặc.
Nói rồi Huệ sai quân đem rượu thịt, lên mặt thành cùng các tướng ăn uống không lo lắng gì cả.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 33 Trận Rạch Gầm, quân Tiêm La đại bại. Thành Vọng Các, Nguyễn Phúc Ánh lưu vong.
Sáng sớm hôm sau, ngày mùng chín tháng chạp năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ hội các tướng nói:
- Hôm này là ngày quân Tây Sơn ta giết giặc cứu dân. Các tướng hãy sẵn sàng nghe lệnh!
Các tướng đồng thanh nói:
- Chúng tôi xin chờ lệnh!
Huệ truyền:
- Cách thành Trường Đồn năm dặm có một cánh rừng dừa, đường đại lộ từ đồn Trà Tân đi đến Trường Đồn phải xuyên giữa cánh rừng dừa này. Vậy vờ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đem năm ngàn quân bộ đến rừng dừa mai phục. Quân Tiêm La kéo đến cứ để chúng đi qua, khi nào chúng thua trận chạy về thì Diệu, Xuân chặn đường về của chúng mà đánh.
Trần Quang Diệu bước ra lãnh lệnh. Bùi Thị Xuân hỏi:
- Thưa Long Nhương, trong đạo quân bộ này có Nguyễn Phúc Ánh hay chăng?
Huệ cười đáp:
- Hôm trước cô Xuân cuộc với ta nếu không khích được Phúc Ánh ra trận thì ta sai đâu phải tuân đó kia mà.
Bùi Thị Xuân đành làm thinh cùng chồng là Trần Quang Diệu đi ngay.
Nguyễn Huệ lại quay sang bảo Nguyễn Lữ:
- Em hay lãnh ba ngàn quân ở lại giữ thành Trường Đồn. Đêm nay quân Tiêm La đến đánh em cứ ở trên thành sai quân bắn tên xuống đừng ra đánh làm chi, đợi ta phá tan thuỷ binh của giặc trên sông Tiền Giang, quân bộ của chúng sẽ vội vã rút chạy. Em hay mở cửa thành đuổi theo truy sát, đã có Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân chặn đường về của chúng. Binh ta hai mặt giáp công giết cho hết loài lang sói cho ta. Đêm nay ta đích thân thống lãnh thuỷ binh tiêu diệt giặc trên sông Tiền Giang.
Phân công quân bộ xong Nguyễn Huệ lại truyền:
- Ngô Văn Sở đem một ngàn quân và một trăm khẩu đại bác đến phục ở cù lao Thới Sơn. Phan Văn Lân đem một ngàn quân và một trăm khẩu đại bác đến phục ở bờ sông phía bên kia cù lao Thới Sơn tả ngạn sông Tiền Giang, khi nào nghe pháo lệnh của quân ta thì hai người từ hai phía bắn đại bác xuống huyền quân Tiêm - Nguyễn.
Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân lãnh lệnh toan đi, Huệ gọi lại dặn:
- Hai tướng bố trận xong bảo quân nghỉ ngơi cho khỏe, đến lúc trăng gần lặn khoảng nửa đêm đầu giờ Tý gọi quân dậy sẵn sàng diệt địch. Không việc gì phải nôn nóng làm chi. Ngô Văn Sở hỏi:
- Thế ngộ nhỡ chúng đến trước nửa đêm trăng lặn thì sao?
Huệ cười đáp:
- Làm gì có việc đó! Mà nếu thật vậy thì ta không bắt tội hai tướng.
Sở và Lần nghe vậy an lòng lãnh lệnh đi ngay. Phân công Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân điều động pháo binh xong, Nguyễn Huệ đứng dậy toan đi. Đặng Văn Long kéo áo Huệ hỏi:
- Đại sư huynh đi đâu?
Huệ nén cười đáp:
- Ta phải đích thân đến tiền thuỷ binh của Lộc và Tuyết dặn dò hai tướng theo mưu hành động.
Đặng Văn Long tức tối hỏi:
- Nhị sư huynh Nguyễn Lữ và các tướng đều được phân công ra trận. Đặng Văn Long tôi đâu phải bất tài, sao đại sư huynh chê mà không dùng đến?
Nguyễn Huệ ôn tồn bảo:
- Ta đâu dám nói tứ sư đệ bất tài. Chẳng qua là còn một trọng trách lớn lao ngoài Văn Lộc ra không ai làm nổi.
Long nói:
- Tôi và Trương Văn Đa vì ít quân nên đành rút toàn quân về cố thủ Trường Đồn, chờ có đại sư huynh dẫn đại binh vào sống mái với giặc một phen. Đã có tới đây đại sư huynh còn đi gọi Nguyễn Văn Lộc làm gì?
Huệ xua tay đáp:
- Thắng giặc thì dễ, những tiêu diệt giặc mới là việc khó. Khi quân Tiêm - Nguyễn lọt vào trận mai phục của ta nhất định phải bại binh mà chạy. Ta sẽ đi gọi Văn Lộc đem thuỷ binh mai phục ở Rạch Gầm đợi khi giặc thua chạy thì đổ ra chặn đường về của chúng. Trận này phải bắt cho được thằng bán nước Nguyễn Phúc Ánh.
Đặng Văn Long lại hỏi:
- Việc như thế sao đại sư huynh không sai tôi mà lại đi gọi Nguyễn Văn Lộc?
Huệ cười đáp:
- Vì ngươi lãnh sứ mạng chặn đường về của giặc chỉ cần dùng sức chẳng phải dùng mưu. Năm xưa Nguyễn Văn Lộc theo Nguyễn Lữ vào đánh Gia Định lần thứ nhất, bị Đỗ Thành Nhân dùng kế điệu hổ ly sơn vây ấp Hoà Hưng. Nguyễn Văn Tuyết đã phá vây được mà Lộc vẫn không chịu rút quân, dũng mãnh chống trả giữa vòng vây giặc để Văn Tuyết quay là hợp sức thắng giặc. Nay giặc bị chặn đường về ắt cùng đường hung hãn. Trọng trách này nếu không ở Văn Lộc đảm đương thì con ai làm nổi.
Đặng Văn Long tức tối nói lớn:
- Cây kích của tôi đã từng chém đầu Tống Viết Nghĩa ở Phú Yên. Cửa Hàm Luông bắt sống một trong Gia Định Tam Hùng là Nguyễn Huỳnh Đức là không phải là dũng mãnh hay sao?
Làm như không quan tâm, Huệ đáp:
- Ở Phú Yên chém Tống Viết Nghĩa thì quân ta đang thắng thế. Cửa Hàm Luông bắt Nguyễn Huỳnh Đức là tứ sư đệ dùng mưu, chưa dũng mãnh bằng Nguyễn Văn Lộc giữa vòng vây của giặc.
Đặng Văn Long càng tức tối nói to lên rằng:
- Tôi xin biểu diễn một môn võ bí truyền để đại sư huynh xem thử Văn Long này có vũ dũng bằng Nguyễn Văn Lộc hay chăng?
Nói rồi Đặng Văn Long nắm tay Nguyễn Huệ kéo ra ngoài doanh trại. Long gọi tên quân đến bảo:
- Ta cho ngươi cầm côn mà đánh. Nếu đánh không hết sức lập tức chém đầu.
Tên quân vâng lệnh cầm côn đánh Văn Long. Long chỉ dùng hai tay không mà đỡ chẳng hề đánh trả. Tiếng côn đập vào đôi tay của Văn Long chan chát. Đánh một hồi tên quân đổ mồ hôi hột, mệt thở chẳng ra hơi mà Văn Long vẫn điềm nhiên như không. Bá quan mục kích reo hò vỗ tay như sấm dậy.
Nguyễn Huệ bảo Văn Long:
- Thầy của ta là Trương Văn Hiến thì giỏi về nhu công. Ta có nghe dòng họ Đặng của Văn Long chân truyền về môn cương công, những lâu nay chưa được chứng kiến. Nay ta mượn việc đi gọi Nguyễn Văn Lộc để khích Văn Long trổ tài, chứ phải đâu ta không biết tài vũ dũng của tứ sư đệ. Nay được tận mắt thấy quả nhiên là tứ sư đệ có cánh tay như sắt vậy. (Từ ấy về sau quân thường gọi Long là: Thiết thu đại đô đốc Đặng Văn Long).
Long hỏi Huệ:
- Vậy cái vũ dũng của tôi đã cầm binh chặn đường về của liên quân Tiêm - Nguyễn được chưa?
Nguyễn Huệ mừng rỡ nói:
- Hay lắm! Phen này có bắt được Nguyễn Phúc Ánh chăng là ở trọng trách này đây. Ta cấp cho Văn Long một trăm đại thuyền và một vạn quân. Và Long đem binh thuyền đến phục ở nhánh sông Rạch Gầm. Khi thuỷ binh Tiêm - Nguyễn tiến quân hãy chờ cho chúng đi qua. Lúc chúng lọt vào trận mai phục Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc sẽ quay thuyền lại đánh, Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở sẽ bắn đại bác xuống chiến thuyền địch. Đợi đến lúc đó Văn Long đem binh thuyền từ nhánh sông Rạch Gầm đổ ra chặn đường lui của giặc trên sông Tiền Giang. Bấy giờ chúa tôi Phúc Ánh và quân Tiêm La như cá nằm trong nơm. Có bắt được cá chăng là do người cầm nơm vậy, Văn Long nên cố sức lập đại công.
Đặng Văn Long lãnh lệnh đi ngay. Phân công đâu đó xong xuôi, Nguyễn Huệ lại xuống thuyền đến thuỷ trại của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc. Huệ bảo Tuyết và Lộc:
- Hai tướng cứ giả vờ lơ đễnh việc canh phòng. Đêm nay cuối giờ Tuất đầu giờ Hợi (tức 21-22 giờ ), chúng sẽ đến đánh. Tuyết và Lộc giả thua vừa đánh vừa chạy nhử cho quân Tiêm - Nguyễn lọt vào trận mai phục dùng vào giữa giờ Tý. Khi ấy là trăng lặn nước triều sẽ lớn, quân ta phản công xong sẽ thuận nước tiến đánh Trà Tân. Hai tướng nên gắng sức, trận này ta có tiêu diệt được năm vạn quân Tiêm La chăng là nhờ công của hai tướng vậy!
Dặn dò xong Nguyễn Huệ lại quay thuyền về đại bản doanh ở Trường Đồn.
Lúc ấy trong doanh trại quân Tiêm - Nguyễn, quân do thám về báo cùng Phúc Ánh rằng:
- Tâu Chúa thượng, chúng thần đi do thám ở Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn mãi đến đêm hôm qua là ngày mùng tám vẫn không thấy quân Tây Sơn mai phục, lại thấy ở thành Trường Đồn, Nguyễn Huệ cùng các tướng lên mặt thành bày yến tiệc không phòng bị gì cả.
Phúc Ánh mừng rỡ reo lên với Chiêu Tăng:
- Nguyễn Huệ quả nhiên trúng kế giương đông kích tây của ta. Xin tướng quan hạ lệnh xuất quân.
Chiêu Tăng hạ lệnh:
- Lục Côn, Sa Uyển đem hai vạn quân bộ theo tả ngạn sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn.
Lục Côn và Sa Uyển cùng bước ra lãnh lệnh. Chiêu Tăng lại dặn:
- Hai tướng đi đường bộ tất chậm hơn thuỷ quân vậy hãy lập tức xuất quân, chờ đến nửa đêm thuỷ binh ta theo nước triều tiến xuống đánh thuỷ trại của Nguyễn Huệ, hai người sẽ tấn công thành Trường Đồn, làm cho chúng thuỷ, bộ không thể cứu ứng lẫn nhau.
Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho tướng của mình rằng:
- Lê Văn Quân đem một ngàn quân đi tiên phong dẫn đường cho hai tướng Lục Côn và Sa Uyển tiến đánh Trường Đồn.
Hai tướng Tiêm là Lục Côn, Sa Uyển và tướng Nguyễn là Lê Văn Quân lãnh lệnh đi ngay.
Chiêu Tăng lại bảo:
- Chiêu Thuỷ Biện và Thát Si Đa lãnh năm ngã quân ở lại giữ doanh trại, ta cũng Chiêu Sương sẽ dẫn đại thuỷ binh tiến đánh thuỷ trại của giặc Tây Sơn.
Phúc Ánh hăng hái nói:
- Ta còn trong tay vài mươi viên đại tướng và năm ngàn quân sĩ, xin làm tiên phong dẫn đường cho đại binh của tướng quân. Phen này nếu không bắt được Nguyễn Huệ, cũng phải đánh cho quân Tây Sơn không còn manh giáp.
Đêm hôm ấy, trời vừa chạng vạng tối, trăng đứng giữa đỉnh đầu, nước thuỷ triều vừa rúng chảy, ba vạn thuỷ binh Tiêm - Nguyễn, trên ba trăm đại chiến thuyền xuất phát. Chiến thuyền thì tắt hết đèn đuốc, quân sĩ miệng ngậm tăm, âm thầm theo dòng nước chảy tiến đánh trại Tây Sơn.
Tiền thuỷ binh Tây Sơn do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết và đô đốc Nguyễn Văn Lộc thống lĩnh cho quân thắp đèn đuốc sang cả mặt sông, lại đem nước lã đổ vào bình rượu ngồi uống cười nói huyên thuyền. Đến gần hết giờ Tuất, Nguyễn Văn Lộc hỏi Nguyễn Văn Tuyết:
- Long Nhương dặn ta đêm nay cuối giờ Tuất đầu giờ Hợi quân Tiêm La sẽ tiến đánh. Vậy đã tới giờ sao không thấy chúng đến đánh?
Lộc vừa dứt lời, Nguyễn Văn Tuyết chỉ tay về thượng nguồn sông Tiền Giang nói:
- Long Nhương tướng quân thật là thánh nhân. Quả nhiên quân Tiêm La đến thật.
Phía xa xa dưới ánh trăng mờ mờ thuyền Tiêm -Nguyễn ào ào tiến tới. Chờ quân địch đến gần tầm súng, Tuyết và Lộc lệnh quân bắn vài phát đại bác rồi rút chạy. Nguyễn Phúc Ánh trông thấy thế nói với các tướng:
- Quân Tây Sơn quả nhiên không phòng bị. Mau đuổi theo.
Quân Tây Sơn vừa đánh vừa chạy. Liên quan Tiêm - Nguyễn rầm rộ đuổi theo, không hay rằng đang đi vào chỗ chết.
Lúc ấy Ngô Văn Sở phúc pháo binh ở cù lao Thới Sơn đợi đến nửa đêm nhủ thầm:
- Long Nhương dặn ta đến nửa đêm trăng lặn quân Tiêm - Nguyễn sẽ lọt vào trận, sao đến bây giờ vẫn chưa thấy?
Vừa nghĩ xong đã thấy tiền thuỷ binh Tây Sơn trá bại chạy về. Ngô Văn Sở buột miệng khen:
- Long Nhương của ta thật là bậc thánh. Ba quân cứ án binh bất động, bao giờ có lệnh ta mới được nổ súng.
Phan Văn Lân phục pháo binh trên tả ngạn sông Tiền Giang, thấy thuỷ binh Tiêm - Nguyễn bắt đầu lọt vào trận đúng giờ trang lên, Lân tấm tắc khen:
- Long Nhương tướng quân liệu việc như thần. Ba quân chờ pháo lệnh mới được nổ súng.
Đô đốc Tuyết và Lộc dẫn quân chạy đến sông Xoài Mút thì thấy Nguyễn Huệ đem đại binh đã đợi sẵn. Quân Tiêm - Nguyễn vô tình hăng hái đuổi theo. Bỗng nghe ba phát pháo lệnh nổ vang, chiến thuyền quân Tây Sơn nhả đạn về phía thuyền quân Tiêm -Nguyễn, pháo binh của Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở ở tả ngạn sông Tiền Giang và cù lao Thái Sơn bắn xuống. Quân Tiêm - Nguyễn đang thừa thắng đuổi theo bỗng nghe súng nổ ầm ầm như sấm sét, đạn lớn đạn nhờ đổ xuống như mưa thì tán đởm, kinh tâm, hồn phí phách lạc không biết đường nào mà chống đỡ. Nguyễn Phúc Ánh rụng rời tay chân than:
- Thôi chết. Phen này lại thua mưu Nguyễn Huệ nữa rồi. Mau rút quân!
Quân Tiêm - Nguyễn thua to, ba trăm đại chiến thuyền bị đại bác Tây Sơn bắn chìm gần hết, quân sĩ chết không biết bao nhiêu mà kể. Đại bác bắn xong Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công. Chiến thuyền Tây Sơn lúc bấy giờ mới ào ạt tiến lên truy sát. Quân Tiêm -Nguyễn là khóc vang trời, thây người trôi lềnh bềnh đầy sông, mau loang đó nước.
Nguyễn Phúc Ánh và các tướng Tiêm La là Chiêu Tăng, Chiêu Sương vội vàng tháo chạy, ba vạn còn không đầy năm ngàn quân. Đến gần nhánh sông Rạch Gầm lại thấy chiến thuyền Tây Sơn giăng ngang sông chặn mất đường về. Trên soái thuyền Tây Sơn thấy cờ thêu năm chữ "Đô đốc Đặng Văn Long" bay phấp phới. Nguyễn Văn Thành than:
- Đặng Văn Long là danh tướng của Tây Sơn. Năm trước chính nó đã bắt sống Huỳnh Đức ở cứ Hàm Luông, nay nó lại chặn mặt đường về của quân ta, phen này e khó thoát.
Chiêu Tăng ôm Chiêu Sương ứa nước mắt nói:
- Nguyễn Huệ thật là ghê gớm. Không ngờ anh em ta lại bỏ thây ở xứ người.
Phúc Ánh nghiến răng bảo:
- Ta phải liều chết mà đánh, mới tìm ra đường sống mà thôi.
Nói rồi hô quân xông lên. Quân Tiêm - Nguyễn cùng đường chết hết lớp này tiến lên lớp khác. Văn Long nói lớn bảo bá quan:
- Giặc Tiêm La tàn hại dân ta, nay cùng đường liều chết mà đánh. Vậy ta phải giết nó báo thù cho dân ta.
Quân Tây Sơn hô vang:
- Giết quân xâm lược báo thù cho dân ta!
Đánh một hồi quân Tiêm - Nguyễn chết quá nửa. Chúa tôi Phúc Ánh và hai tướng Tiêm La sợ Đặng Văn Long trông thấy bèn vớt thây quân mình rồi cởi bỏ áo bào vua tướng, mặc áo quân sĩ vào toàn tìm đường chạy trốn, nhưng quân Tây Sơn vậy chặt quá không thể nào ra khỏi, phía sau lưng Nguyễn Huệ lại xua quân đánh tới. Quân Tây Sơn hô vang:
- Lệnh Long Nhương tướng quân phải giết cho được Phúc Ánh.
Phúc Ánh ngửa mặt than:
- Phen này ắt phải chết. Trời cứu ta ở đảo Côn Lôn làm gì để giờ đây phải chết thêm mấy vạn sinh linh!
Ánh vừa than dứt lời bỗng trời đổ mưa như trút. Trương Tấn Bửu nói:
- Trời mưa to đèn đuốc đều tắt cả, trong đem tối địch, ta không phân biệt được. Quân Tây Sơn thuyền lớn ở sau, vậy ta nên dùng thuyền nhỏ men theo bờ cạn ra khỏi vòng vây.
Phúc Ánh khen phải. Chúa tôi và hai tướng Tiêm La dầm mưa ngồi trên thuyền con men theo bờ cạn mà đi. Quân sĩ đi theo chỉ còn có vài mươi người thoát khỏi vòng vây quân Tây Sơn chạy về đồn Trà Tân. Nguyễn Phúc Ánh thoát rồi trời liền dứt mưa. Nguyễn Huệ ở phía trước, Đặng Văn Long ở phía sau hai đạo binh ập lại bắt hết quân Tiêm - Nguyễn. Kiểm điểm lại không thấy Phúc Ánh và các tướng Nguyễn đâu cả.
Đặng Văn Long nói:
- Chắc chúa tôi Phúc Ánh đều chết dưới dòng sông Tiền Giang cả rồi. Chứ vòng vây của ta con cá cũng không lọt lẽ nào Phúc Ánh lại chạy thoát được?
Không đáp lời Đặng Văn Long, Nguyễn Huệ hạ lệnh:
- Truyền quân thừa thắng tiến đánh Trà Tân truy kích Phúc Ánh!
Nói về đạo binh bộ Tiêm - Nguyễn do hai tướng Tiêm La là Lục Côn, Sa Uyển thống lĩnh và tướng Nguyễn là Lê Văn Quân dẫn đường theo tả ngạn sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn. Hai vạn bộ binh Tiêm - Nguyễn đánh thành Trường Đồn lúc trăng gần lặn. Ngó lên mặt thành thấy quân Tây Sơn cờ xí nghiêm trang, quân canh hàng chỉnh tề, Lê Văn Quân nghĩ thầm: Nguyễn Huệ bị mắc mưu sao quân trong Trường Đồn canh phòng cẩn mật thế?
Vừa xong liền nghe Nguyễn Lữ trên mặt thành nói vọng xuống:
- Quân Tiêm - Nguyễn kia, phen này chúng bay đã lầm kế mai phục của ta, nếu không xuống ngựa quy hàng chỉ có còn đường chết mà thôi.
Nói rồi Nguyễn Lữ lệnh quân bắn tên đạn xuống như mưa. Lục Côn và Sa Uyển liền lui ra khỏi tầm tên, Sa Uyển nói:
- Ta tạm đóng bình ngoài thành, chờ có thuỷ binh của đại tướng quân tiến đánh thuỷ trại của địch, bấy giờ ta sẽ tấn công thành Trường Đồn.
Quân Tiêm - Nguyễn chưa kịp hạ trại bỗng nghe dưới sông Tiền Giang súng nổ rền trời, quân reo dậy đất, trống trận dập dồn, lửa cháy sáng cả một vùng. Lê Văn Quân thất kinh nói:
- Thôi chết, thuỷ binh ta đã lọt váo trận mai phục của Nguyễn Huệ ở Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn. Đêm trước ta đã cho quân do thám thấy quân Tây Sơn vẫn án binh bất động nên ta mới tiến quân. Sao Nguyễn Huệ lại biết được quân cơ của ta mà điều binh tài tình thế, Bô binh ta phải lập tức rút quân.
Lê Văn Quân vừa dứt lời liền thấy quân Tây Sơn mở cổng thành xông ra, quân Tiêm - Nguyễn hoảng loạn rút chạy. Chạy về đến rừng dừa bỗng một phát pháo lệnh nổ vang, tên đạn quân Tây Sơn từ trong rừng dừa bắn ra như cát vãi, quân Tiêm - Nguyễn trúng tên chết không biết bao nhiêu mà kể. Lục Côn, Sa Uyển và Lê Văn Quân liều chết gạt tên mà chạy. Vợ chồng Trần Quang Diệu vung đại đao, Bùi Thị Xuân múa song kiếm xua quân xông ra đánh giết, sau lưng Nguyễn Lữ đuổi tràn tới, quân Tiêm - Nguyễn chết thây phơi như rạ, máu chảy thành khe. Các tướng Tiêm La là Lục Côn, Sa Uyển, tướng Nguyễn là Lê Văn Quân thoát được, quất ngựa chạy dài. Vợ chồng Xuân - Diệu đuổi theo truy sát. Trần Quang Diệu trương cung lắp tên bắn một phát nhằm chân con ngựa của Lục Côn. Lục Côn chạy không kịp bị Bùi Thị Xuân lướt đến chém một gươm đầu rơi xuống đất. Bỏ quân Tiêm - Nguyễn hai vạn còn lại mấy trăm quân theo chủ tướng chạy về đồn Trà Tân. Đến nơi, trái vừa hửng sáng bỗng thấy mấy tên quân đang cưỡi ngựa chạy như bay đến, Lê Văn Quân chặn lại hỏi:
- Các ngươi là thuỷ binh ta bại trận chạy về, và chúa ta và hai tướng Tiêm La quốc ở nơi đâu?
Mấy tên quân dừng ngựa, một tên nói lớn rằng:
- Ta là Thượng vương Phúc Ánh và các tướng chạy về đây, Văn Quân không nhận ra sao?
Lê Văn Quân và Sa Uyển thất kinh xuống ngựa quỳ lạy tả tơi:
- Bởi Chúa thượng và các tướng thay y phục quân sĩ, trên mặt lại đầy bụi đất nên chúng thần không nhận ra. Xin Chúa thượng và đại tướng quân tha tội.
Chiêu Tăng hổ thẹn nói:
- Ta lầm mưu Nguyễn Huệ, ba vạn thuỷ binh đã chết hết cả. Bọn ta may nhờ trời đổ mưa bên thay y phục quân sĩ, trát bùn lên mặt mới hòng chạy thoát về đây. Còn bộ binh hai tướng thế nào?
Sa Uyển cúi gằm mặt đáp:
- Hai vạn bộ binh ta bị quân Tây Sơn mai phục đánh chết hết cả. Lục Côn bị con nữ tặc Tây Sơn chém chết, tôi và Lê Văn Quân may thoát được về đây ra mắt đại tướng quân.
Nguyễn Phúc Ánh hỏi Lê Văn Quân:
- Con nữ tặc đó có phải là Bùi Thị Xuân chăng?
Lê Văn Quân đáp:
- Ấy chính là Bùi Thị Xuân!
Nguyễn Phúc Ánh liền nói với Chiêu Tăng:
- Thưa đại tướng quân, chúng ta hay mau mà đem mấy trăm quân trong đồn Trà Tân theo đường bộ bỏ chạy về Tiêm quốc. Nếu chậm trễ quân Tây Sơn theo hai đường thuỷ bộ đuổi đến thì nguy.
Chiêu Tăng vội vã dân tàn quân và chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh lập tức lên đường, đêm ngày không dám nghỉ, theo đường bộ chạy sang nước Chân Lạp rồi tìm đường về Tiêm Quốc.
Thế là chỉ trong một đem, Nguyễn Huệ thống lĩnh hai vạn binh Tây Sơn đánh một trận tiêu diệt hết năm vạn quân Tiêm La hùm cọp, đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.
Các đạo quân Tây Sơn đều toàn thắng, thu binh về thành Trường Đồn. Nguyễn Huệ bảo các tướng:
- Trước khi xuất quân vào Nam, ta đã hứa với hoàng huynh rằng sẽ thắng giặc rút binh về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ. Nay ta đã quét sạch giặc Tiêm La ra ngoài bờ cõi, chỉ còn nửa tháng nữa là đến tết Ất Tỵ, ta phải kịp rút binh về Quy Nhơn. Vậy ta để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa ở lại trấn thủ đất Gia Định. Văn Long nên dò xem Nguyễn Phúc Ánh trốn tránh nơi nào, kịp bắt giết đi để tiệt trừ hậu hoạ.
Đặng Văn Long hỏi:
- Thưa Long Nhương, chẳng phải là Nguyễn Phúc Ánh đã chết trong đám loạn quân làm mồi cho cá dưới sông Tiền Giang rồi sao?
Nguyễn Huệ đăm chiêu đáp:
- Đất Gia Định chỉ có hai mùa mưa và nâng. Từ tháng chín đến tháng hai là sáu tháng nắng không một giọt mưa. Nay trong đêm mùng chín tháng chạp lúc ta sắp bắt được chúa tôi Phúc Ánh trời bỗng đổ mưa như trút. Ta e rằng Phúc Ánh thừa cơ hội ấy trốn đi, nếu đúng như thế là cả ba lần trời đều làm mưa bão mà cứu Phúc Ánh cả. Thật ta vẫn lấy làm lo lắm!
Đặng Văn Long nói:
- Xin đại sư huynh yên tâm, tôi nguyện hết sức truy tìm tông tích của Phúc Ánh.
Bỗng Nguyễn Lữ bước ra hỏi:
- Long Nhương thật liệu việc như thần, lúc xuất bình đi đã định được ngày về. Nhưng trong trận Rạch Gầm vừa rồi sao Long Nhương biết được rằng lúc trăng lặn trong đêm mùng chín giặc sẽ tiến đánh ta?
Huệ đáp:
- Lúc xuất quân ở đất Quy Nhơn ta đã biết được rằng sẽ tiêu diệt giặc trong đêm mùng chín tháng chạp nên mới hẹn với hoàng huynh sẽ về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ, chứ đâu phải kéo quân vào đất Gia Định này mới biết rằng giặc sẽ tiến đánh ta vào đêm mùng chín.
Các tướng đồng thanh hỏi:
- Dựa vào đâu mà Long Nhương biết trước để ngày giờ diệt giặc. Xin tướng quân phân giải?
Huệ đáp:
- Ba lần trước đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, ta đã cho người vẽ bản đồ đất Gia Định đề phòng khi dùng tới. Đến khi nghe đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo rằng: Đặng Văn Long và Trương Văn Đa rút quân các trấn về chặn giặc ở Trường Đồn, ta đã nghĩ đến việc mai phục diệt giặc quân bộ thì phục ở Rừng Dừa, thuỷ binh thì phục ở cù lao Thới Sơn và Rạch Gầm trên sông Tiền Giang. Nhưng để giặc lọt vào trận mai phục, ta phải giả vờ sợ giặc, xin giảng hoà với quân Tiêm La. Chiêu Tăng và Phúc Ánh ngờ rằng ta tin quân Tiêm La sẽ rút quân về Tiêm quốc mà không phòng bị nên bất ngờ tiến đánh ta. Ta tương kế tựu kế phục binh đánh một trận, quả nhiên chỉ trong một đêm mà tiêu diệt cả năm vạn binh thuỷ, bộ của liên quân Tiêm - Nguyễn.
Nguyễn Lữ nôn nóng hỏi:
- Nhưng em muốn hỏi anh rằng, vì cớ gì lại đoán trước được giặc sẽ tiến đánh ta vào đêm mùng chín tháng chạp.
Huệ cả cười hỏi lại:
- Chậm rãi rồi anh sẽ giải thích. Khi ta sai sứ giảng hoà với Chiêu Tăng lá ngày mùng mấy?
Nguyễn Lư đáp:
- Ấy là ngày mùng bốn tháng chạp.
Bấy giờ Nguyễn Huệ liền treo tờ lịch lên vách rồi chỉ tay vào tờ lịch, Huệ nói:
- Đây là lịch của các ngày thuỷ triều trong tháng. Các tướng hãy nhìn cho rõ.
Mọi người đều nhìn vào tờ lịch viết rằng:
Tháng 2 và tháng 8 các ngày thuỷ triều là 3, 17, 29
Tháng 3 và tháng 9 các ngày thuỷ triều là 13, 27
Tháng 4 và tháng 10 các ngày thuỷ triều là 11, 25
Tháng 5 và tháng 11 các ngày thuỷ triều là 9, 23
Tháng 6 và tháng chạp các ngày thuỷ triều là 7, 21
Tháng 7 và tháng giêng các ngày thuỷ triều là 5, 19
Chờ các tướng xem tờ lịch thuỷ triều xong, Nguyễn Lữ hỏi:
- Đây là tờ lịch thuỷ triều mà năm trước đốt thuyền Chu Văn Tiếp ở Thất Kỳ Giang, Long Nhương huynh đã đem ra để luận giờ đổi gió. Còn hôm na anh luận thế nào mà biết được ngày giờ giặc sẽ tiến đánh ta để phục binh diệt giặc?
Nguyễn Huệ cười rồi chậm rãi nói:
- Ngày thuỷ triều là ngày chuyển giao giữa hai con nước. Vào những ngày này nước thuỷ triều không lên không xuống nên việc lợi dùng sức nước để bất ngờ tiến binh cho nhanh không được thuận lợi. Ta đem quân đánh Trường Đồn nhằm ngày mùng một từ là thượng tuần tháng chạp, ắt thuỷ triều là ngày mùng bảy. Mùng bốn ta sai sứ giảng hoà với Chiêu Tăng, chúng liền cho quân do thám thấy ta chểnh mảng việc canh phòng mới lập mưu bất ngờ tiến đánh. Nhưng ngày mùng sáu và mùng tám là hai ngày cạn thuỷ triều, nước lên xuống rất kém không lợi cho việc thuỷ binh của chúng tiến đánh bất ngờ. Đến ngày mùng chín nước sẽ bỗng nhiên phát lên rất lớn, ắt đến đêm sẽ chảy rất mạnh. Giặc sợ để lâu e lộ việc quân cơ tất phải tiến đánh ta vào đêm mùng chín. Các tướng đã rõ vì sao ta biết được ngày giờ để phục binh tiêu diệt giặc hay chưa?
Các tướng đồng thanh thưa
- Long Nhương thật là bậc thánh, dẫu Tôn Ngô sống lại cũng chẳng bị kịp. Chúng tôi xin đập đầu bái phục!
Đặng Văn Long hỏi:
- Long Nhương liệu việc như thần thì lo gì không trừ được Phúc Ánh.
Nguyễn Huệ nói:
- Đánh thắng giặc là việc của ta. Nhưng giết được Phúc Ánh là mệnh của trời, ta không lường trước được.
Nói rồi Nguyễn Huệ để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, rồi rút đại binh về Quy Nhơn. Vua Thái Đức sai mở tiệc khao quân nhằm vào tết năm Ất Tỵ.
***
Nhắc lại chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh theo Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy sang Vọng Các là kinh đô của Tiêm quốc. Chiêu Tăng và Phúc Ánh quỳ tạ tội, vua Tiêm than:
- Nếu biết quân Tây Sơn hùng mạnh thế thì ta đâu vì ham lợi nhỏ mà khiến cho hơn bốn vạn quân của ta phải bỏ thây ở xứ người.
Phúc Ánh cố nói:
- Xin Tiêm Vương chớ lo buồn. Quân ta bại trận là do Chiêu tướng quân thả quân cướp bóc của dân khiến lòng người oán hận. Ta phục binh thì lộ, giặc phục binh thì không người nào tố giặc. Vì lẽ ấy nên ta mới bị Nguyễn Huệ mai phục đánh thua. Nay xin Bệ hạ ban hành quân lệnh nghiêm minh, cho quân sang đánh báo thù ắt là phải thắng!
Tiêm Vương nói:
- Được! Ta sẽ cấp binh lương cho Chiêu Tăng và Chiêu Sương sang nước An Nam lần nữa đánh Tây Sơn báo thù cho quân ta. Ý hai tướng thế nào?
Chiêu Tăng lưỡng lự rồi thưa:
- Bệ hạ đã xuống lệnh, hạ thần xin tuân mệnh.
Tiêm vương truyền bãi triều. Lúc ra về Chiêu Sương tìm đến nhà Chiêu Tăng hỏi:
- Tướng quân một lần nữa đem binh đưa Nguyễn vương về nước, liệu có thắng được quân Tây Sơn chăng?
Chiêu Tăng đáp:
- Quân Tây Sơn hùng mạnh, Nguyễn Huệ lại rất giỏi dụng binh. Nay họ vừa thắng trận khí thế đang hăng, quân ta vừa mới bại, nhuệ khí giảm sút, cái lẽ được thua là rõ, sao người còn phải hỏi.
Chiêu Sương ngạc nhiên hỏi:
- Vậy tại sao giữa triều, tướng quân lại tuân lệnh Bệ hạ đem quân sang đất An Nam lần nữa?
Chiêu Tăng thở dài nói:
- Ta thân làm đại tướng đem quân sang đánh đất người, bị lầm kế Nguyễn Huệ thua binh, quân nay vẫn còn lại mấy trăm người băng rừng chạy về nước. Giữa triều nếu chối từ thượng lệnh, e vua bắt tội thua binh chém tướng thì biết liệu làm sao? Bởi vậy nên ta mới tạm thời tuân lệnh vừa rồi sau sẽ tìm kế khuyên vua bãi binh. Nếu cãi lời vua không ra trận cũng chết, mà mang quân sang đánh với Nguyễn Huệ thì cũng chết mà thôi. Ta thật chưa biết phải tính sao cho thoát nạn này.
Chiêu Sương nói:
- Tôi có một kế khiến vua ta phải ra lệnh bãi binh mà không bắt tội tướng quân được.
Chiêu Tăng liền hỏi:
- Kế thế nào ngươi hãy mau nói xem. Nếu ta thoát khỏi nạn này thì ngươi là an nhân của ta vậy.
Chiêu Sương hiến kế:
- Tướng quân hãy vờ như hăng hái, lệnh cho quân các doanh trại chuẩn bị quân trang để chờ ngày kéo quân sang nước An Nam đánh báo thù. Quân sĩ của ta ắt sẽ như vậy... như vậy... Nhà vua hay được tin đó nhất định sẽ bại binh.
Chiêu Tăng mừng khấp khởi khen:
- Ấy thật là diệu kế.
Nói rồi liền theo kế thi hành. Đêm hôm ấy, Tiêm vương cũng Nguyễn vương đang đàm đạo, bỗng quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ không hiểu vì cớ gì mà nghe quân cả trại nhốn nháo, than khóc om sòm. Xin tâu cùng Bệ hạ được rõ.
Tiêm vương và Nguyễn Phúc Ánh ngạc nhiên thân hành ra các doanh trại xem xét. Đến nơi nghe quân khóc lóc than thở với nhau:
- Quân Tây Sơn rất là hùng mạnh, chỉ trong một đếm đánh năm vạn quân, ta còn lại mấy trăm người mang đầy thương tích lủi thủi chạy về nước. Nay vua sai Chiêu đại tướng quân đem bọn ta sang An Nam đánh báo thù. Bọn ta xa vợ xa còn đi viễn chinh phen này chỉ có chết mà thôi.
Tiêm vương nghe thấy những lời ấy bèn quay về ngự điện nói với Nguyễn vương:
- Quả nhân những muốn cất quân sang đánh Tây Sơn báo thù thua trận ở Rạch Gầm và đưa Nguyễn vương về nước, không ngờ lòng quân khiếp sợ như thế thì còn đánh được ai. Thôi thì quả nhân xin cấp đất cho tướng sĩ Nguyễn vương nương náu chờ có cơ hội rồi sẽ liệu sau.
Nguyễn Vương buồn bã nói:
- Cám ơn lòng tốt của Bệ hạ. Phúc Ánh tôi cùng đành phải thế chứ chẳng biết làm sao hơn.
Nói rồi chúa tôi Nguyễn vương theo người hướng đạo ra trú ngụ ở đất phía Tây thành Vọng Các. Nguyễn vương nói cùng các tướng:
- Sau trận Rạch Gầm người Tiêm La sơ giặc Tây Sơn như cọp, không mong gì nhờ vả họ được nữa. Và ta nên mời Bá Đa Lộc đến bàn việc cầu viện người Pháp Lang Sa đem quân sang giúp mới mong khôi phục cơ đồ.
Nói rồi sai người đi mời Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc đến, Nguyễn vương nói:
- Vua Tiêm La từ khi thua trận, sợ Nguyễn Huệ không dám hưng binh giúp cho ta. Vậy xin Giám mục hãy đem con ta là Thế tử Cảnh sang nước ngài là tin cầu vua ngài đem quân sang giúp. Sau khi đuổi được giặc Tây Sơn lấy lại nước, vua nước ngài muốn gì Ánh này cũng xin vâng.
Bá Đa Lộc bảo:
- Vậy xin chúa hãy làm tờ cam kết có điều khoản rõ ràng, để về sau cứ theo tờ cam kết ấy mà thi hành.
Nguyễn vương bằng lòng cùng Bá Đa Lộc làm tờ cam kết gồm các điều khoản sau:
Nước Pháp Lang Sa đồng ý giúp Nguyễn Vương:
- Năm mươi chiếc tàu đồng, trên tàu trang bị đã đủ súng đại bác.
- Hai trăm khẩu súng đại bác trang bị cho quân bộ.
- Hai ngàn binh lính và vũ khí cá nhân để hướng dẫn sử dụng số tàu đồng và đại bác nói trên.
- Lương thực đủ để quân dùng trong 6 tháng.
Đổi lại Nguyễn vương bằng lòng giao cho nước Pháp Lang Sa:
- Trọn quyền sử dụng cửa Đà Nẵng, phố Hội An và đảo Côn Lôn.
- Để người Pháp Lang Sa được độc quyền sang buôn bán và truyền đạo trên lãnh thổ nước Nam.
Tờ cam kết viết xong, Bá Đa Lộc liền từ tạ Nguyễn vương đem Thế tử Cảnh lên đường về nước. Chúa tôi Nguyễn vương ở lại nước Tiêm La cày cấy nuôi nhau, chờ ngày Bá Đa Lộc đem binh thuyền đến giúp!

Tây Sơn bi hùng truyện
Phần III - Chương 34 LẬT ĐỔ HỌ TRỊNH. Nguyễn Huệ nhắc kế Nguyễn Hữu Chỉnh. Triệu Bình Tiệp xem tướng Phạm Ngô Cầu.
Nhắc lại tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ đem hai vạn binh vào đánh quân Tiêm La do Nguyễn vương Phúc Ánh cầu viện. Quân Tiêm La năm vạn còn lại mấy trăm người trốn về nước, từ ấy không dám dòm ngó nước Nam nữa. Đuổi quân Tiêm La xong, Nguyễn Huệ đem đại binh về Quy Nhơn phục mệnh vua Thái Đức. Vua sai mở tiệc khao quân. Trước các tướng, vua Thái Đức nói:
- Nguyễn Huệ lúc xuất chinh có hẹn trước với ta sẽ về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ. Nay ta mở tiệc khao quân nhằm vào tết năm Ất Tỵ, lời Nguyễn Huệ thật quả không sai. Vậy em muốn ta ban thưởng vật gì ta cũng chiều theo ý em.
Nguyễn Huệ quỳ tâu rằng:
- Em không muốn ban thưởng vật gì cả, chỉ có một điều thỉnh cầu, xin Hoàng huynh thuận cho.
Vua Thái Đức bảo:
- Điều gì em cứ nói.
Huệ thưa:
- Lần trước vào Nam đánh Phúc Ánh em có bắt được tướng của Phúc Ánh là Nguyễn Huỳnh Đức đem về đây xin Hoàng huynh giam vào thiên lao cho cơ hội dụ hàng. Nay Nguyễn Phúc Ánh chưa biết sống chết hay phiêu dạt nơi đâu, ấy chính là cơ hội dụ hàng Nguyễn Huỳnh Đức. Nếu Huỳnh Đức chịu quy thuận, ấy là hồng phúc của nước nhà và Hoàng huynh lại được thêm một viên tướng giỏi. Xin Hoàng huynh cho em vào thiên lao dụ hàng Huỳnh Đức. Vua bảo:
- Việc này nào có khó gì, lát nữa tiệc tàn em cứ đi dụ hàng Huỳnh Đưa. Ta biết ý em dụ hàng Huỳnh Đức là để thu phục lòng dân đất Gia Định, chứ Huỳnh Đức lại sánh bằng Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo, Vũ Văn Nhậm của ta sao?
Vua Thái Đức vừa dứt lời bỗng một người bước ra nói lớn:
- Bệ hạ khinh thân là nữ nhi thường tình hay sao mà không kể đến?
Vua vỗ trán cả cười nói:
- Bởi tướng giỏi của ta đông quá, nên ta sơ xuất mà quên mất nữ kiệt Bùi Thị Xuân, ba lần đuổi Nguyễn Phúc Ánh chạy vắt giò lên cổ, xạ tiễn trọng thương Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, mới đây là chém tướng Tiêm La là Lục Côn rơi đầu, thì sao ta là dám bảo cô Xuân là nhi nữ thường tình.
Nói rồi vua cũng nâng chén uống mừng đại thắng Tiêm La và vui tết năm Ất Tỵ.
Tiệc tan ai về nhà nấy, Nguyễn Huệ tìm đến thiên lao gặp Nguyễn Huỳnh Đức, Huệ hỏi Đức:
- Đã hơn năm nay tướng quân còn sống ở tại thiên lão là do Huệ tôi hết lòng xin Hoàng huynh đừng giết kẻ anh hùng. Việc ấy Huỳnh Đức có biết chăng?
Đức ngồi trong ngục bình thản đáp:
- Việc này tôi có biết.
Nguyễn Huệ lại hỏi:
- Nguyễn Vương Phúc Ánh bán nước cầu vinh, viện quân Tiêm La về hại dân lành Huỳnh Đức có biết chăng?
Đức đáp:
- Chúa ta viện quân về đánh giặc Tây Sơn lấy là nước là điều đúng. Tàn hại dân lành là tội của quân Tiêm La, sao đổ tội cho Chúa ta được.
Nghe Đức gọi Tây Sơn là giặc, Nguyễn Huệ vẫn điềm nhiên hỏi:
- Ta vừa đem quân vào đất Gia Định đánh một trận tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La, quét sạch ngoại xâm ra ngoài bờ cõi. Nguyễn vương Phúc Ánh chưa biết sống chết thế nào, tướng quân đành đem tấm thân hữu dụng mà tìm cái chết hay sao.
Đức cười đáp:
- Nếu Nguyễn vương không còn, Đức này nguyện sẽ chết theo. Nếu Nguyễn vương còn sống mà vua Thái Đức không bằng Tào Tháo đã thả Quan Vân Trường ngày xưa, thì Đức này đành cam tâm chỉ chết chứ nhất định không hàng.
Nghe Nguyễn Huỳnh Đức nói xong Nguyễn Huệ bảo:
- Tướng quân lại không bằng một câu nói của Mạnh Tử gần ngàn năm trước vậy.
Nói rồi Nguyễn Huệ quay gót về dinh. Huệ đi rồi Nguyễn Huỳnh Đức nói thầm rằng: Mạnh Tử có nói câu: "Dân vì quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" ý Nguyễn Huệ bảo ta là ngu trung vậy!
Trên đường về nhà Nguyễn Huệ gặp quân ngự sử Nguyễn Thung. Nguyễn Thung hỏi:
- Tướng quân đem binh vào Nam đánh một trận đuổi giặc Tiêm La ra ngoài bờ cõi, uy danh lừng lẫy thì nên vui mới phải, cớ gì nét mặt lại dàu dàu như thế?
Huệ lắc đầu đáp:
- Năm trước ta bắt được tướng tài của Nguyễn Phúc Ánh tên Nguyễn Huỳnh Đức. Ta thương tài mến nghĩa không nỡ giết, đã mấy phen dụ hàng mà Đức không quy thuận nên đâm ra buồn bực trong lòng. Nguyễn Thung nói:
- Tôi xin vì tướng quân vào thiên lao khuyên Huỳnh Đức quy hàng.
Đoạn Nguyễn Thung đến gặp Huỳnh Đức nói:
- Tôi là thuyết khách của Long Nhương tướng quân.
Đức cười đáp:
- Đến cái chết ta còn không sợ, thì điều gì có thể lay chuyển được ta.
Nguyễn Thung cũng vô cùng rằng:
- Không sợ chết chưa hắn đã là người quân tử.
Nguyễn Huỳnh Đức nghiêm mặt hỏi:
- Vậy thế nào mới là người quân tử?
Thung ung dung đáp:
- Khi thất thủ ở Hạ Bị, Quan Văn Trường lúc ấy nếu chọn cái chết, thì làm gì tiếng để đến ngàn thu thì làm gì có việc phò nhị tẩu, qua ngũ quan trảm lục tướng, về sau lại trấn thủ đất Kinh châu uy danh lừng lẫy. Vì nghĩ đến tấm thân hữu dụng của mình, sau phò Chúa nên Quan Văn Trường mới giao ước ba điều tạm hàng Tào Mạnh Đức. Nay Nguyễn vương chưa biết sống chết, hoặc lưu lạc nơi nào, nếu tướng quân chọn cái chết ngộ nhỡ Nguyễn vương con sống, hưng binh khôi phục cơ đồ thì ắt là thiếu đi một tướng tài phò tá, ấy là tướng quân trung nhưng là trung chưa trọn vẹn vậy. Tình thế của tướng quân bây giờ thì chẳng khác gì Quan Văn Trường ngày xưa. Sao tướng quân không noi theo gương ấy, đến lúc nghe Chúa còn sống thì đi hay ở là tuỳ ý của tướng quân, ấy chẳng phải là kẻ thức thời biết tiến thoái để giữ lại tấm thân hữu dụng ư? Long Nhương tướng quân là người bách chiến bách thắng, tính khí lại ngang trời dọc đất, thế mà lại không giết tướng quân, rõ là vì thiên hạ thương tiếc anh hùng. Nếu tướng quân là hàng chim chuột thì Long Nhương tướng quân đâu phải nhọc lòng sai tôi đến đây!
Nghe Nguyễn Thung nói xong Huỳnh Đức hỏi:
- Tôi bằng lòng hàng Tây Sơn. Nhưng khi nghe Nguyễn vương con sống tôi nhất quyết theo Chúa cũ. Vậy Nguyễn Huệ có bằng lòng chăng?
Thung cười đáp:
- Lúc quân Tây Sơn ta mới khởi binh chỉ lấy được đất Quy Nhơn, Quảng Ngãi, binh lực con non yếu. Ngoài thì địch Hoàng Ngũ Phục ở Quảng Nam, trong thì cự Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Trong lúc lưỡng đầu thọ địch thế mà Long Nhương tướng quân còn dám tha mạng quan tham tán quân cơ đa mưu túc trí của chúa Nguyễn là Tĩnh Diệp hầu Nguyễn Đăng Trường, huống hồ gì ngày nay Long Nhương lại không giữ lời hứa mà thả tướng quân sao?
Huỳnh Đức nói:
- Nếu thế phiền ông về thưa cùng Long Nhương tướng quân tôi thuận ý xin hàng.
Nguyễn Thung quay về nói với Nguyễn Huệ rằng:
- Nguyễn Huỳnh Đức giao ước một điều nếu tướng quân bắng lòng Đức sẽ quy hàng.
Huệ hỏi:
- Đức giao ước điều gì?
Thung đáp:
- Huỳnh Đức thuận ý quy hàng, nhưng khi nào biết Nguyễn vương ở đâu sẽ bỏ Tây Sơn ta đi theo Chúa.
Huệ cười bảo:
- Việc này nào có khó gì. Phiền quan Ngự sử vời Huỳnh Đức đến đây.
Nguyễn Thung đưa Đức đến. Đức vòng tay thi lễ nói:
- Đức tôi giao ước Long Nhương tướng quân có bằng lòng chăng?
Huệ đáp:
- Ta bằng lòng nên mới vời Huỳnh Đức đến đây.
Đức nói:
- Vậy khi nào biết Chúa ở đâu, tôi quyết lòng theo Chúa. Lúc ấy xin tướng quân chớ khá quên lời.
Huệ cười bảo:
- Một lời đã nói, bốn ngựa khó theo. Huỳnh Đức muốn làm Quan Văn Trường đời nay, ta lại không bằng Tào Mạnh Đức ngày xưa sao?
Nói xong truyền quân bày yến tiệc thết đại huynh Đức. Từ ấy Nguyễn Huệ giữ Huỳnh Đức ở luôn trong quân.
***
Nhắc lại tướng Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh năm ấy vì loạn kiêu binh đứa Trịnh Khải lên ngôi Chúa, Chỉnh sợ luỵ đến thân, bỏ đất Nghệ An theo về Quy Nhơn nương nhờ vua Thái Đức.
Ngày ấy Hữu Chỉnh tâu vua Thái Đức rằng:
- Ngày nay Bệ hạ diệt xong nhà Nguyễn làm cho một cõi Đàng Trong uy danh lừng lẫy. Nhưng đất đai họ Nguyễn gồm cả đất Thuận Hoá, nay đất ấy đã bị họ Trịnh lấy mặt, Bệ hạ hãy đem quân lấy lại đất này, dùng sông Linh Giang làm ranh giới như ngày xưa hai nhà Trịnh - Nguyễn đã làm, thì Bệ hạ ở Đàng Trong như ngồi trên bàn thạch mà hưởng lộc vậy.
Vua Thái Đức xua tay nói:
- Vì thương lê dân lâm cảnh đói nghèo nên ta khởi binh ở đất Tây Sơn cứu trăm họ thoát chốn lầm than. Nay thiên hạ đại thái bình muôn dân đã no ấm, họ Trịnh lấy đèo Hải Vân làm ranh giới không xâm phạm chủ quyền của ta, việc gì ta phải dấy động can qua, làm khổ cho sinh linh thật lòng ta không nỡ!
Nguyễn Hữu Chỉnh lại tâu:
- Nay đất Thuận Hoá do Phạm Ngô Cầu trấn thủ. Ngô Cầu là người tham lam tàn bạo vơ vét của cải dân lành, nếu Bệ hạ đem quân Bắc tiến ắt trăm họ một lòng hưởng ứng thì chỉ một hồi trống là lấy xong đất Thuận Hoá mà thôi. Ấy là không phải Bệ hạ dấy động can qua làm khổ bá tánh mà là đem nhân nghĩa để cứu dân đó.
Vua Thái Đức gạt đi bảo:
- Đèo Hải Vân hiểm trở lại do quân Trịnh chiếm đóng, Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá còn những hai vạn binh tinh nhuệ thì tài gì một hồi trống có thể đuổi được họ đi. Vả lại dân ở Thuận Hoá khổ sở thế nào ta chỉ nghe người nơi mà thôi, nếu động binh, cứu dân nghèo đâu chưa thấy chỉ thấy quân ta lại thêm hao binh tổn tướng một lần nữa. Quân của ta lúc dấy binh đến nay chinh chiến triền miên, lòng người đều mong cảnh thái bình. Nay đã thái bình lại còn gây chinh chiến làm chi. Ý ta đã quyết ngươi chớ nhiều lời.
Nói xong vua đuổi Nguyễn Hữu Chỉnh ra ngoài. Về nhà Chỉnh nói với thủ hạ là Nguyễn Viết Tuyển rằng:
- Ta những muốn mượn tay Tây Sơn đem quân đánh Trịnh đẹp yên xứ Bắc, rồi sẽ mượn cớ phò Lê xin anh em Nhạc - Huệ cho ta ở lại vỗ yên Bắc Hà. Khi ấy ta sẽ chiêu binh mãi mã thì làm Chúa Đàng Ngoài không phải là ta hỏi còn ai vào đây nữa? Ngặt nỗi vua Thái Đức chí nhỏ tài sơ đã mấy phen khẩn cầu mà không dám động binh. Ngươi có kế gì cho họ xuất quân chăng?
Viết Tuyển bàn rằng:
- Vua Thái Đức càng già càng thụ động cầu an, là có tính đố tài không muốn cho Nguyễn Huệ đem quân ra ngoài cõi. Tôi có nghe năm xưa Nguyễn Huệ xin cất quân vào Nam đánh Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Nhạc vì ngại cho Huệ cầm quân chuyên quyền cõi xa còn không cho Huệ cầm binh thì chẳng có cớ gì nên chẳng chịu xuất quân. Về sau Nguyễn Huệ phải giả bệnh, Nguyễn Nhạc mới nhận cơ hội ấy sai Nguyễn Lữ vào Nam đánh Định vương Nguyễn Phúc Thuần. Vậy tướng quân nên đốc thúc Nguyễn Huệ cầm quân Bắc tiến, may ra Nguyễn Huệ sẽ có cơ khuyên Nguyễn Nhạc xuất binh.
Nguyễn Hữu Chỉnh khen phải, liền đến tư dinh Nguyễn Huệ. Chỉnh nói với Nguyễn Huệ rằng:
- Từ ngày tướng quân vào Nam đánh quân Tiêm La đến nay đã hơn một năm, quân ta đã đủ thời giờ để dưỡng uy sức nhuệ. Nay Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá không phòng bị, sao tướng quân không xin vừa đem quân Bắc tiến.
Huệ hỏi lại Chỉnh:
- Hoàng huynh tôi đã cao tuổi ngại việc chinh chiến, tôi cầu xin chưa chắc người đã nghe. Ông là thượng khách của Hoàng huynh tôi sao không xin giúp một lời.
Chỉnh đáp:
- Tôi đã mấy lượt khẩn cầu những vua không thuận ý.
- Ông viện cớ gì để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân?
- Tôi xin vua nên đánh lấy đất Thuận Hoá dùng sông Linh Giang và luỹ Trường Dục làm ranh giới như chúa Nguyễn lúc trước thì có thể an nhàn mà hưởng lộc.
Nguyễn Huệ cười to nói:
- Hoàng huynh tôi vì thấy trăm họ lầm than mà dựng cơ khởi nghĩa. Ông lại đem cái lợi để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân, thảo nào Hoàng huynh tôi chẳng chịu nghe theo.
Nguyễn Hữu Chỉnh lại nói:
- Tôi có tâu với vua rằng lương dân ở Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đàn áp bóc lột, xin người cất quân đánh Trịnh cứu dân. Nhưng nhà vua vẫn để ngoài tai.
- Lời ông nói lấy gì để Hoàng huynh tôi tin là nhân dân ở Thuận Hoá thật sự bị bóc lột khổ sở. Hay là ông muốn vin vào cớ ấy để muốn quân Tây Sơn ta đưa ông về Bắc Hà?
Chỉnh thất sắc nói:
- Ngày trước còn là tôi nhà chúa Trịnh, tình hình đất Bắc Hà thế nào tôi rất rõ, nên mới xin tướng quân đánh Trịnh cho bá tánh được nhờ ơn mưa móc.
Còn việc cầm quân Bắc tiến, tôi có tài cán gì mà thống lĩnh binh quyền để mượn binh của nhà vua về xứ Bắc. Xin tướng quân xét lại.
Thấy Nguyễn Hữu Chỉnh lo sợ, Nguyễn Huệ an ủi rằng:
- Dù ông có muốn quân của Hoàng huynh tôi ra có diệt Trịnh phò Lê thì tình giao hảo giữa nước của nhà Lê và nhà Tây Sơn ta càng thêm gắn bó, có gì mà ông phải ngại. Từ ngày đánh tan quân Tiêm La do Nguyễn Phúc Ánh rước về đến nay đất Gia Định đã bình yên. Tôi cũng muốn đem quân đánh lấy đất Thuận Hoá, những Hoàng huynh tôi ngại việc chiến chinh, nên chưa dám xin quân Bắc tiến. Nay nhờ có ông xin hộ, Hoàng huynh tôi ắt sẽ bằng lòng đánh Trịnh.
Hữu Chỉnh ngạc nhiên nói:
- Tôi vừa thưa với tướng quân, tôi đã mấy lượt cầu xin mà nhà vua không thuận ý kia mà.
Huệ cười bảo:
- Người xưa có câu: "Trăm nghe không bằng mắt thấy. Ông hay đưa Hoàng huynh tôi ra đất Thuận Hoá để người được tận mắt chứng kiến cảnh muôn dân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu áp bức bóc lột. Hoàng huynh tôi là người đại đức, thấy việc nghĩa dù nhảy vào lửa cũng chẳng từ nan. Nếu người được thấy tận mắt cảnh nhân dân cùng khổ ắt sẽ lập tức xuất quân.
Chỉnh ngẫm nghĩ rồi hỏi:
- Nhưng làm cách nào mà đưa Bệ hạ ra Thuận Hoá cho được?
Huệ mỉm cười nói:
- Ông là người đa mưu túc trí của đất Bắc Hà lại nghĩ không ra cách, thì tôi làm sao mà biết được.
Thấy nét mật Chỉnh lộ vẻ thất vọng, Huệ vỗ vai Chỉnh bảo:
- Việc này cũng chưa vội gì, sớm muộn ông cũng nghĩ ra kế. Giờ hay theo tôi đến trại quân xem tướng sĩ tập binh giải sầu.
Nói rồi Huệ liền đưa Hữu Chỉnh đến các trại quân. Đến nơi thấy quân lính đang háo hức luyện võ nghe. Chỉnh đứng nhìn một hồi rồi nói:
- Tôi từ nhỏ theo dõi cung kiếm, tuy không dám sánh cùng các tướng Tây Sơn nhưng thập bát ban võ nghệ cũng từng học qua. Về quyền thuật thì Hổ Quyền, Long Quyền, Hầu Quyền, Xa Quyền cũng khá tính thông nhưng chưa từng trông thấy loại quyền thuật nào là như bài quyền mà quân lính đang tập cả. Tướng quân có thể cho biết bài quyền này xuất xứ ở đâu chăng?
Huệ đáp:
- Bài quyền này tên là Hùng Kê Quyền chưa tìm có trong võ thuật cổ truyền. Nó do em tôi là Tiết Chế Nguyễn Lữ nghiên cứu các thế võ của gà rừng chọi nhau mà sáng tạo nên. Bởi vậy mới có tên là Hùng Kê Quyền đó!
Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao không là gà chọi mà phải của gà rừng?
Huệ mỉm cười đáp:
- Ông không thấy sao. Người sử dụng bài quyền này chuyên dùng các ngón tay và ngón chân điểm vào các yếu huyệt của đối phương. Trong khi ra đón thân pháp lại lanh lẹ bay nhảy như chim, nếu không phải của gà rừng thì làm gì có được sở trường đó? Chín nhờ bài quyền thuật này mà từ lúc Tây Sơn tôi khởi binh đến nay mới biến thua thành thắng, dùng ít địch nhiều đều nhờ công lao của Nguyễn Lữ cả đây.
Hữu Chỉnh lấy làm lạ lại hỏi:
- Vậy Tiết chế phải cất công lên tận rừng sâu xem gà rừng đá nhau ư? Vả lại giữa rừng rộng mênh mông thì làm sao tìm thấy được một cặp gà trống đá nhau.
Nguyễn Huệ cười lớn một hồi mà không đáp. Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
- Long Nhương tướng quân cười gì mà cười mãi thế?
Huệ cố nín cười nói:
- Tôi nghe người ta bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh huyện Chân Lộc phủ Nghệ An nổi danh là văn võ song toàn, đa mưu túc trí, năm mươi sau tuổi đã thi đỗ Hương Cống lại không nghĩ ra cách để nhìn thấy gà rừng đá nhau sao?
Hữu Chỉnh vẫn chưa hiểu ý, liền hỏi:
- Tôi thật tình không nghĩ ra. Xin tướng quân chỉ bảo.
Huệ mỉm cười đáp:
- Ta chỉ cần đặt bẫy bắt nhiều gà rừng về nhốt trong nhà ắt chúng sẽ đã cho ta xem chứ có gì là khó. Nếu không đến nơi xem được thì đem chúng về cho ta xem. Có thế mà ông chẳng nghĩ ra.
Nghe Huệ nói xong, Chỉnh lầm bầm một mình rằng:
- Không đến nơi xem được thì đem về nhà! Không đến nơi xem được thì đem về nhà!
Rồi quay sang Huệ, Chỉnh nói:
- Cấm ơn tướng quân đã cho tôi xem một bài quyền bổ ích. Xin cáo biệt tướng quân.
Nói rồi Hữu Chỉnh quay gót ra về. Tên hầu cần hỏi Nguyễn Huệ:
- Theo tiện nhân được biết bài Hùng Kê Quyền này là Tiết chế xem thế đá của gà chọi mà sáng tạo ra, sao tướng quân lại bảo với Nguyễn Hữu Chỉnh là của gà rừng?
Nguyễn Huệ đáp:
- Việc nay ta há chẳng biết sao. Ta nói vậy là có dụng ý ngươi không hiểu được đâu! Lát nữa về tư dinh ngươi hãy thử xắp những vật dụng cần thiết chuẩn bị theo ta đem quân Bắc tiến.
***
Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh đến nhà rồi, Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Nguyễn Huệ có kế gì khuyên vua Thái Đức xuất quân chăng mà trông tướng quân vui vẻ thế?
Chỉnh đáp:
- Lần này Nguyễn Huệ chẳng có kế gì hay cả. Nhưng nhờ Huệ đưa ta đi xem các trại tập binh nên tình cờ ta nghĩ ra một kế có thể kích động lòng nhân của vua Thái Đức khiến ông ấy phải đồng ý xuất quân.
Nguyễn Viết Tuyển liền hỏi:
- Xin hỏi tướng quân ấy là kẻ gì.
Chỉnh đáp:
- Ấy là khổ nhục kế!
Rồi Chỉnh kề tai Tuyển nói nhỏ. Nghe xong Tuyển khen:
- Nếu vua Thái Đức là người đức lớn như đế hiệu của ông ấy thì đây là kế hay vậy. Tôi chịu ơn tướng quân cưu mang bấy lâu, nay tôi xin vì tướng quân chọn thêm vài người tin cẩn thi hành kế này.
Nói rồi Tuyển gọi mấy tên quân tâm phúc vào. Bọn Tuyển cởi trần quỳ giữa nhà, Hữu Chỉnh tự tay cầm roi mây mà đánh. Người nào trên lưng cũng hằn đấy vết roi cả. Đánh xong Chỉnh đỡ đám thủ hạ dậy rồi quỳ xuống khóc nói:
- Ta vì muốn về nước nên bất đắc dĩ mới phải dùng kế này. Nếu được về tung hoành ngang dọc Bắc Hà chính là nhờ ơn của các ngươi vậy! Khi vào gặp Thái Đức các ngươi nhớ nói rằng mình là dân Thuận Hoá, không được nhận là người nhà của ta. Nếu việc bị lộ ra là mắc tội khi quân, ta và các người không tranh khói mất đầu.
Nói xong Chỉnh liền sửa soạn khăn áo dẫn theo bọn Tuyển vào chầu vua Thái Đức. Chỉnh thưa:
- Tâu Bệ hạ, có mấy người dân ở Thuận Hoá ở Phạm Ngô Cầu sai quân cướp bóc đánh đập nên mới đi đường biển trốn đến Quy Nhơn vào nhà hạ thần tá túc. Hạ thần không dám tự tiện nên vội đến tâu cùng Bệ hạ được rõ.
Vua Thái Đức hỏi:
- Những người dân ấy hiện ở đâu.
Chỉnh đáp:
- Thưa, đang đứng đợi bên ngoài.
Vua Thái Đức liền bảo quân:
- Hãy mau gọi họ vào đây cho ta dạy việc.
Bọn Nguyễn Viết Tuyển vào đến, vua ôn tồn hỏi:
- Các ngươi là dân xứ nào. Vì sao phải lưu lạc đến đây?
Nguyễn Viết Tuyển vờ khóc to rồi đáp:
- Tâu Bệ hạ, thần dân là người ở Phú Xuân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đặt sưu cao thuế nặng không đủ tiền nộp thuế, nên bị quan quân nhà Trịnh đánh đập dã man chẳng thể nào sống nổi. Nghe vua là người đức lớn nên liều mình bỏ trốn vào theo nương nhờ ơn mưa móc.
Nói xong bọn Tuyển cùng khóc rống lên rất là thảm thiết. Vua cảm động bước xuống ngai tự tay đỡ bọn Tuyển đứng lên. Thấy quần áo bọn Tuyển rách tả tơi, vua thương hại nói:
- Năm xưa ta vì thương dân nghèo bị quan quân nhà Nguyễn bóc lột thậm khổ nên mới khởi nghĩa đất Tây Sơn. Nay các ngươi bất luận ở đâu đó đói khổ mà bỏ quê quán đến đây thì là con dân trong nước của ta.
Nói rồi liền bảo quân mang quần áo mới vào cho bọn Tuyển thay. Bọn Tuyển vừa cởi áo ra, nhìn thấy lưng người nào cũng hằn đầy vết roi ứa máu, vua liền chộp lấy nghiên mực trên bạn quăng xuống đất vỡ tan. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng bọn Tuyển thấy đều thất kinh hồn vía. Vua giận dữ quát lớn:
- Thằng giặc Phạm Ngô Cầu thật là tàn ác. Năm xưa nó vì ham quyền tước mà nghe lời Trịnh Sâm giết chết Thái tử, nhờ vậy được Trịnh Sâm phòng tước Tạo quận công, cất nhắc làm đại tướng trấn thủ đất Thuận Hoá. Nay lại vì ham lợi mà hà hiếp bóc lột đàn áp lương dân. Nếu ta không đem quân vượt Hải Vân quan bắt Phạm Ngô Cầu về đây trị tội bán vua hại dân thì ta đâu phải là vừa trời Thái Đức.
Nghe vua nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh và bọn Tuyển đổi sợ làm vui, khắp khởi mừng thăm. Vua lại bảo quân:
- Hay truyền lệnh ta, ngày mai với bá quan văn võ lập tức thiệt triều.
Hôm sau thiết triều, đông đủ các quan văn võ, vua Thái Đức nói:
- Nay tướng của họ Trịnh là Phạm Ngô Cầu trấn thủ đất Thuận Hoá tham lam tàn ác hà khắc lương dân. Ta những muốn đem quân đuổi quân Trịnh ở khỏi sông Linh Giang. Trước là cứu muôn dân Thuận Hoá, sau là lấy lại đất đai của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Nhưng quân Trịnh ở thành Phú Xuân còn hai vạn tinh binh lại chiếm lấy đèo Hải Vân hiểm trở các khanh ai có kế gì lấy đất Phú Xuân, Thuận Hoá mà ít phải hy sinh binh sĩ hay chăng?
Nguyễn Hữu Chỉnh bước ra thưa:
- Đèo Hải Vân hiểm trở, ai chiếm đóng đèo này một có thể địch được trăm. Vậy ta đánh bằng quân bộ e rằng bắt lợi. Theo hạ thần ta nên đem thuỷ binh vượt bể vào cửa Tư Hiền (cửa Thuận An ngày nay) đánh lấy thành Phú Xuân. Thành Phú Xuân mất ắt quân trấn thủ ở Hải Vân quân tấn thôi lưỡng nan tất phải đầu hàng.
Chỉnh vừa dứt lời, Nguyễn Huệ bước ra nói:
- Mục đích của Hoàng huynh tôi là đánh như thế nào để chiếm được thành mà ít phải tổn hao binh sĩ. Tuy rằng Phạm Ngô Cầu là kẻ bất tài nhu nhược nhưng phó tướng Hoàng Đình Thế là một tay kiệt hiệt từng theo Hoàng Ngũ Phúc xông phá trăm trận ắt thành Phú Xuân được phỏng thủ kỹ lưỡng. Sách lược của ông Chỉnh chắc chắn là thắng nhưng nhất định tổn thất không phải nhỏ.
Vua Thái Đức hỏi:
- Vậy theo em phải đánh thế nào?
Huệ đáp:
- Ngày trước quan Ngự sử Nguyễn Thung tiên sinh đi sứ ra Thăng Long xin Trịnh Sâm cho Hoàng huynh làm đại chức Trấn thủ đất Quảng Nam. Nguyễn tiên sinh có biết việc Phạm Ngô Cầu vì sợ hồn Thái tử Duy Vỹ theo báo oán nên Cầu mới bày kế cho Nguyễn tiên sinh mách cùng Trịnh Sâm cho Cầu vào trấn đất Thuận Hoá, đồng thời với Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn lúc ấy đang trấn thủ Thuận Hoá về Thăng Long, hầu hạ cánh Trịnh Sâm để nhờ tướng quý của hai người này đuổi hồn ma Thái tử, cho Ngô Cầu vào Thuận Hoá. Vậy nay ta cho một người ra Phú Xuân nói với Ngô Cầu như vậy... như vậy... ắt Phạm Ngô Cầu sẽ làm theo mà lơ đễnh việc canh phòng. Sau đó ta bất ngờ tiến đánh, tin chắc quân Trịnh ở Phú Xuân sẽ trở tay không kịp thì tổn thất của ta chẳng đáng kể gì.
Vua Thái Đức khen:
- Hay lắm. Em thật là đa mưu túc trí. Sang sứ Phạm Ngô Cầu, ai có thể làm được việc này.
Nguyễn Thung bước ra thưa:
- Ngày trước ra Thăng Long thần có biết rõ Phạm Ngô Cầu là người hay tin vào những điều huyễn hoặc nhưng lại không nghĩ ra kế này. Long Nhương tướng quân quả nhiên chước quỷ mưu thần. Việc sang sứ Phạm Ngô Cầu thần xin tiến cử một người.
Vua Thái Đức hỏi:
- Người ấy là ai?
Thung đáp:
- Người này tên là Triệu Đình Tiệp, rất giỏi tử vi tướng số, tinh thông dịch lý. Nay ta nhờ người nay sang gạt Phạm Ngô Cầu mới không sợ có điều sơ sảy. Triệu Đình Tiệp cùng với thần là chỗ thâm giao, thần xin vì Bệ hạ đi vời Tiệp một phen!
Vua cả mừng bảo:
- Ấy là trời đã giúp ta ra tay cứu bá tánh ở đất Thuận Hoá vậy. Phiền quan Ngự sử hãy đi ngay cho.
Nói xong vua truyền bãi triều.
Ra ngoài Nguyễn Huệ nạt Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
- Cống Chỉnh to gan khi quân phạm thượng. Ông dám bày khổ nhục kế gạt Hoàng huynh ta xuất binh Bắc phạt mà không sợ mất đầu ư?
Chỉnh thất kinh nói nhỏ với Huệ rằng:
- Ai mách với tướng quân như thế. Những người ấy đều là dân ở Thuận Hoá bị Phẩm Ngô Cầu đàn áp trốn vào đây mà thôi.
Huệ nghiêm mặt bảo:
- Ông xem tôi là con nít hay sao. Để tôi vào thưa cùng Hoàng huynh đem những người dân ấy ra tra hỏi xem hư thực thế nào?
Nói xong Huệ quay lưng toan đi. Nguyễn Hữu Chỉnh thất kinh níu áo Huệ lại van xin:
- Ôi! Nếu tướng quân đã biết tới cũng không đã giấu. Chẳng qua vì tôi nóng lòng báo thù cho chúa, trị tội bọn kiêu binh ở Bắc Hà, nên bất đắc dĩ mới dùng kế ấy. Vả chăng tướng quân cũng đã bảo tôi tìm cách c khuyên vua xuất quân Bắc tiến sao, bây giờ lại toan hại tôi như thế?
Bảy giá Huệ mới cười rằng:
- Nào tôi cố ý hại ông. Chẳng qua tôi muốn biết ai bày kế hay cho ông nên mới nói thế mà thôi.
Chỉnh vô tình đáp:
- Chẳng ai bày kế cho tôi cả. Bởi hôm ấy đi xe quân tập bài Hùng Kê Quyền, tướng quân có nói câu: "Không lên rừng xem gà rừng đá nhau được thì bắt chúng về nhà đá cho ta xem", nên tôi mới nghĩ ra được kế này.
Nguyễn Huệ khen Hữu Chỉnh:
- Ông không hổ danh là nhân tài đất Bắc vậy.
Nguyễn Hữu Chỉnh cáo từ ra về. Nguyễn Huệ bấm bụng cười mỉm.
***
Nói về đại tướng trấn thủ Thuận Hoá là Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, ngày ấy ở tư dinh trong thành Phú Xuân nghe quân hầu vào báo:
- Thưa tướng quân, tiện nhân nghe quân đồn đại ở ngoài phố có một người coi tử vi rất giỏi, thiên hạ rủ nhau đi xem rất đông. Sao tướng quân không xem một quẻ thử hậu vận thế nào.
Ngô Cầu vốn rất ưa thích việc bói toán, nghe tên hầu nói thế liền cái trang thành thường dân đến gặp người thầy bói hỏi:
- Nghe nói thấy xem tử vi đoán biết việc quá khứ vị lai. Vậy tử vi là thế nào?
Thầy bói nhìn Ngô Cầu rồi đáp:
- Xem tử vi là theo năm, tháng, ngày, giờ sinh mà an các sao vào mười hai cung là Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quân, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Thê, Huynh gọi là lá số. Rồi theo lá số ấy mà đoán thì có thể biết vận mệnh, sinh tử, tiền tài, danh vọng, nhà cửa, bạn bè, tai nạn, vợ con của người ấy trong suốt cuộc đời sẽ như thế nào.
Ngô Cầu hỏi:
- Nhưng tôi không biết được ngày giờ sinh của mình thì làm thế nào?
Thầy bói đáp:
- Hễ thiếu một trong bọn yếu tố của ngày, giờ tháng, năm sinh thì không thể xem được tử vi. Nhưng chẳng hề gì, tôi có thể xem tướng cho ngài cũng được.
Ngô Cầu mừng rỡ hỏi:
- Vậy thầy hãy xem thử tôi là người thế nào?
Người thầy bói ngắm thấy diện mạo Phạm Ngô Cầu, mắt ốc bươu, mũi lõ, miệng rộng đến tận mang tai, răng hô, tai to và nhăn như tai heo. Thầy bói nghĩ thầm rằng: Ta đang đình tìm cách vào dinh Phạm Ngô Cầu thi hành độc kế chẳng lẽ hắn lại tìm đến đây? Nghĩ xong liền nói:
- Tướng của ngài không là đại tướng thì cũng là công hầu!
Ngô Cầu kinh ngạc bảo:
- Lời đồn quả thật không sai. Ta là trấn thủ đất Thuận Hoá, chức đại tướng, tước quận công. Thầy đoán hai điều đều đúng cả hai vậy.
Nói xong liền mời thấy tướng vào dinh phủ. Đến nơi, Cầu hỏi:
- Dám hỏi thầy dựa vào đâu mà đoán chính xác thế?
Thầy tướng đáp:
- Diện mạo tướng quân thì mắt lộ, mũi to, răng hô, miệng rộng, tai vênh ấy là tướng ngũ lộ. Người có tướng này nhất định danh vọng thênh thang, phú quý tột bực. Việc này rất dễ coi bí quyết của khoa toán số hoặc tử vi là nơi đúng về hậu vận mới hay.
Cầu liền hỏi:
- Vậy thầy hãy đoán xem hậu vận của ta thế nào?
Thầy tướng đáp:
- Tướng quân đang có nạn. Nếu qua khỏi nạn này ắt là đường hoạn lộ không ai bì kịp!
Cầu giật mình hỏi:
- Thấy bảo ta có nạn, ấy là nạn gì?
Thầy tướng đáp:
- Nhãn quang của tướng quân bất định, thần sắc lại nhợt nhạt. Nếu tôi đoán không lầm ắt là có âm hồn theo báo oán.
Phạm Ngô Cầu kinh hãi hỏi ngay:
- Lời thầy nói quả không sai. Ngày trước ta có giết lầm một người, nay chắc là oan hồn người đó theo báo oán ta chăng? Vậy thầy có cách gì xua đuổi hồn oan ấy được không?
- Ngươi này chết oan rất là thảm thiết nên trong lòng uất hận thành ra oan hồn rất dữ. Nếu muốn đuổi được đi phải lựa nơi ngoài thành đất bằng rộng rãi đủ chỗ cho một ngàn người đứng. Rồi đắp đàn cho cao triệu thầy pháp cao tay lên đàn cầu đảo. Trong khi cầu đảo một ngàn quân phải đeo tang, hàng ngũ chỉnh tề đứng như pho tượng không được cử động. Từ sáng đến chiều thì thay quân khác cho quân cũ ra ở uống nghỉ ngơi cho đến sáng lại đến lượt mình. Sau bảy ngày bảy đêm như thế thì chắc chắn đuổi được hồn oan giải nạn cho tướng quân.
Phạm Ngô Cầu vẫn còn lo âu nói:
- Ta sẽ làm ý theo lời chỉ dạy của thấy. May ra có thể đuổi được âm hồn theo báo oán.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 35 Mở đường Thượng đạo Trần Quang Diệu nổi danh. Can tội giết vua Phạm Ngô Cầu bị chém.
Ngày ấy trong Hoàng đế thành (thành Quy Nhơn) vua Thái Đức thiết triều. Đủ mặt bá quan, vua nói:
- Triệu Đình Tiệp về báo tin rằng đã lừa được Phạm Ngô Cầu lập đàn cầu đảo giải oan hồn Thái tử Vỹ theo báo oán. Vậy nay ta phong Nguyễn Lữ là chánh tướng được trọn quyền điều động binh lương. Em hãy cất quân lấy đất Thuận Hoá và đuổi quân Trịnh ra khỏi Luỹ Thầy, dùng sông Linh Giang làm ranh giới, bắt Phạm Ngô Cầu về cho ta trị tôi giết vua hại dân. Nếu được thế thì ta đã dựng nên nghiệp lớn là vừa nghênh ngang một cõi, so với họ Trịnh ở Bắc Hà nào có kèm gì? Lữ hãy mau lãnh lấy binh phù.
Nguyễn Lữ thật thà nói:
- Lấy đất Thuận Hoá là việc trọng đại, e rằng em không dám đương nổi. Xin Hoàng huynh giao cho anh Huệ điều binh.
Nguyễn Lữ vừa dứt lời, bỗng một người bước ra nói lớn:
- Nếu Tiết chế Hoàng thúc thoái thác, thần xin lãnh binh đánh giặc.
Mọi người giật mình nhìn lại thì ra là phò mã Vũ Văn Nhậm. Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu xen vào nói:
- Tâu Bệ hạ, người thống lĩnh ba quân phải được tướng sĩ đồng lòng, mến đức sợ uy. Xem ra việc này ngoài Long Nhương tướng quân không ai làm nổi.
Vũ Văn Nhậm do mặt tía tai nói:
- Long Nhương Hoàng thúc vừa đánh quân Tiêm La về xong còn phải nghỉ ngơi. Tiết chế Hoàng thúc chối từ trọng trách. Vả chăng Phạm Ngô Cầu đâu phải là kẻ bất tài, việc gì phải cần đến Long NHương Hoàng thúc ra tay.
Vua Thái Đức can hai tướng rằng:
- Tuyết và Nhậm chớ cãi nhau nữa. Quả thật việc đánh Thuận Hoá nếu không do ta ngự giá thân chinh thì phải do Nguyễn Huệ điều binh đánh giặc mới yên. Vậy Huệ có thể vì ta mà vất vả một phen nữa chăng?
Nguyễn Huệ kính cẩn đáp:
- Hoàng huynh đã xuống lệnh, vì muôn dân xã tắc dù phải phơi thây ngoài cỏ nội em chẳng dám từ nan.
Vũ Văn Nhậm thẹn vì không được giao quyền điều binh khiển tướng ben hỏi Huệ rằng:
- Theo Hoàng thúc ta nên đánh bằng thuỷ binh hay quân bộ?
Huệ đáp:
- Đường bộ đến Phú Xuân có Hải Vân quân hiểm trở, chỉ nên dùng quân bộ làm kế nghi binh. Chủ lực chiếm Phú Xuân phải bằng thuỷ binh.
Vũ Văn Nhậm thư với vua Thái Đức:
- Xin Phụ hoàng cho con lãnh đạo quân bộ, nếu ai vào Phú Xuân trước là người ấy lập công đầu.
Nguyễn Huệ hỏi:
- Đường bộ đến Phú Xuân phải qua Hải Vân quá hiểm trở, dù thiên binh vạn mã cũng khó lòng đánh thắng. Nhậm nghĩ rằng có thể đến Phú Xuân trước thuỷ binh sao?
Nhậm đáp liều:
- Nếu tôi không đến Phú Xuân trước thì cũng phải đến cùng lúc với Hoàng thúc vậy.
Nguyễn Huệ mỉm cười bảo:
- Ta tin tài của Nhậm có thể vượt Hải Vân qua dễ dàng. Xin Hoàng huynh hãy cho Vũ Văn Nhậm lãnh bộ binh đi trước.
Vua Thái Đức xua tay bảo:
- Không được!
Huệ hỏi:
- Thưa Hoàng huynh, vì sao không được?
Vua Thái Đức đáp:
- Quân Trịnh chiếm Hải Vân quân từ cao đánh xuống một có thể địch trăm. Nếu cược như thế Vũ Văn Nhậm nóng lòng xua quân tiến đánh tất quân ta phải tổn thật lớn. Việc này thật không nên.
Nguyễn Huệ tâu:
- Hoàng huynh hãy yên tâm. Em xin bảo đảm rằng Vũ Văn Nhậm sẽ có cách vượt Hải Vân quân mà không tổn tướng hao quân.
Vua Thái Đức hỏi:
- Nếu Vũ Văn Nhậm làm tổn thất quân ta thì thế nào.
Huệ đáp:
- Nếu vậy em xin chịu tội thay cho Nhậm.
Vua Thái Đức bảo:
- Được. Tin lời Huệ ta lệnh cho Vũ Văn Nhậm đem một vạn quân bộ tiến đánh ải Hải Vân. Nguyễn Huệ đem một vạn thuỷ binh tiến đánh Phú Xuân, ai vào Phú Xuân trước sẽ lập được công đầu.
Vũ Văn Nhậm lãnh binh phù hăm hở đi ngay.
Nguyễn Huệ lãnh binh phù rồi lui ra. Ra ngoài Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi Huệ:
- Tướng quân cuộc với Hoàng thượng và phò mã phen này là Vũ Văn Nhậm lập được công đầu là tướng quân lại mắc tội với vua vậy.
Nguyễn Huệ cười hỏi:
- Ông Chỉnh nói vậy là ý thế nào.
Chỉnh đáp:
- Vũ Văn Nhậm sẽ xua một vạn quân đánh Hải Vân quan dù tổn thất những chắc phải thắng. Tổn thất thì tướng quân lãnh tội, Nhậm vào thành trước thì được công. Ấy chẳng phải là tướng quân thiệt hoàn toàn ư?
Huệ cười bảo:
- Vũ Văn Nhậm sẽ không tổn thất một mũi tên hòn đạn mà vẫn vượt Hải Vân quân thì ta sao bị tội được. Nhậm sẽ chiếm được thành trước nhưng không dám nhận là công. Ta muốn mượn việc này cho Nhậm một bài học, hầu bỏ bớt tật kiêu căng hiếu thắng.
Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại có việc lạ như thế.
Huệ cười đáp:
- Đợi vào thành Phú Xuân ông sẽ rõ.
Chỉnh hồ nghi nhưng không dám hỏi, bèn bái tạ ra về. Nguyễn Huệ liền gọi Trân Quang Diệu và Bùi Thị Xuân đến bảo:
- Hai người mau lãnh một ngàn tinh binh theo đường Thượng đạo đi vòng qua phía Tây ải Hải Vân rồi bắt ngó đánh úp chiếm lấy ải. Xong việc phải lấy đầu Hoàng Nghĩa Hồ rồi dẫn quân vào rừng ẩn nấp. Bao giờ thấy ở thành Phú Xuân treo cờ Tây Sơn thì hay đem đầu Hoàng Nghĩa Hồ vào gặp ta.
Trân Quang Diệu và Bùi Thị Xuân tuân lệnh đi ngay.
Xong mọi việc Nguyễn Huệ mới lệnh truyền thuỷ binh Bắc tiến.
Mùa hè năm Bình Ngọ (1786) niên hiệu Thái Đức thứ chín, quân Tây Sơn thuỷ bộ hai đạo rầm rộ tiến đánh Phú Xuân, Thuận Hoá.
Nguyễn Huệ và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thuỷ binh vào cửa biển Tư Hiền, thuỷ binh quân Trịnh bị bắt ngờ trở tay không kịp bỏ thuyền chạy vào thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ bảo quân:
- Truyền lệnh ta lập thuỷ trại ngoài cửa biển không được đuổi theo.
Nguyễn Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
- Sao tướng quân không thừa thắng tiến đánh thành Phú Xuân mà lại đóng binh ở đây?
Huệ chỉ lên hòn núi cạnh cửa biển rồi đáp:
- Núi Quý Sơn án ngữ đường thuỷ vào thành Phú Xuân. Ta đóng quân ngoài cửa biển tất Hoàng Đình Thể sẽ đem quân chiếm núi Quý Sơn chống nhau với thuỷ binh của ta ở mặt Đông, bỏ trống mặt Nam cho Vũ Văn Nhậm chiếm thành. Nhậm chiếm thành rồi Hoàng Đình Thể tiến thoái lưỡng nan tất phải đầu hàng. Ấy là quân ta không tốn bao nhiêu công sức mà bình được Thuận Hoá vậy.
Chỉnh nói:
- Tôi e Vũ Văn Nhậm vượt qua Hải Vân quan hao quân tổn tướng không đủ sức để chiếm thành. Khi ấy là tướng quân bỏ lỡ thời cơ tốt.
Huệ cười bảo:
- Ông liệu việc sai rồi. Vũ Văn Nhậm chiếm ải Hải Vân mà không tốn một mũi tên hòn đạn nào đâu.
Chỉnh không cãi nhưng trong lòng không phục.
***
Nói về Phạm Ngô Cầu đem một vạn quân thay phiên nhau lập đàn cầu đảo ở phía Tây Năm thành Phú Xuân, ngày đêm thành khẩn cầu cho hồn Thái tử Vỹ được siêu thoát. Đến ngày thứ bảy quân lính mỏi mệt ra rời, Phạm Ngô Cầu bảo quân:
- Chỉ còn ngày nay nữa là xong việc. Ta sẽ cho các ngươi ăn uống nó say, nghỉ ngơi thoả thích, để bù cho bảy ngày đêm cực nhọc quá chừng.
Cầu vừa dứt lời thì một tên quân hớt hải chạy vào phi báo:
- Thưa đại tướng quân, phó tướng Hoảng Đình Thể sai người đến bảo rằng, giặc Tây Sơn đem thuỷ binh vài cửa biển Tư Hiền uy hiếp mặt Đông thành Phú Xuân.
Cầu giật mình kinh hãi nói:
- Thôi chết! Quân Tây Sơn thừa lúc ta bận cầu đảo không phòng bị nên tiến đánh bất ngờ. Truyền quân mau về thành.
Vào thành, Cầu hỏi Hoàng Đình Thể rằng:
- Phó tướng có kế gì chống giặc chăng?
Thể đáp:
- Tôi có một cách khiến giặc phải chết không còn một mạng.
Cầu vội hỏi:
- Kế thế nào. Nếu hay ta lập tức thi hành!
Thế đáp:
- Đại tướng quân cứ lập đàn mới thầy pháp về cầu đảo ắt giặc phải tan.
Cầu buồn rầu nói:
- Ta đã biết lỗi, việc đến nước này trách nhau phỏng có ích gì. Tướng quân hay vì xã tắc mà định kế chống giặc cho.
Bấy giờ Hoàng Đình Thể mới nói:
- Nguyễn Huệ đem thuỷ binh đồng ở cửa biển Tư Hiền, tôi xin đem binh chiếm núi Quý Sơn cản đường tiến quân của địch. Đại tướng quân ở lại giữ thành.
Cầu hỏi lại:
- Thế ngộ nhỡ bộ binh của giặc từ phía Nam đánh tới thì sao?
Thế đáp:
- Phía Nam thành có ải Hải Vân hiểm trở, một quân ta có thể địch trăm quân giặc. Ải Hải Vân lại do Quyền Trung Hầu Hoàng Nghĩa Hồ trấn thủ thì giặc không thể nào vượt khỏi Hải Vân quân.
Cầu bảo:
- Nếu vậy ta an tâm thủ thành, tướng quân mu đi đi.
Hoàng Đình Thể liền cùng hai con trai là Hoàng Đình Vị, Hoàng Đình Đình, tuy tướng Vũ Tá Kiên đem một vạn quân ra phía Đông thành chiếm đóng núi Quý Sơn. Bố trận xong Hoàng Đình Thể chỉ tay xuống thuỷ trại Tây Sơn nói với hai con mình rằng:
- Nguyễn Huệ là danh tướng của giặc Tây Sơn, sẽ vào cửa biển Tư Hiền mà không chiếm núi Quý Sơn trước. Thật là lạ. Ta e rằng Nguyễn Huệ có kế gì đây! Các con phải canh phòng cẩn mật mới được.
***
Phần Vũ Văn Nhậm dẫn bộ quân đến ải Hải Vân. Nhậm đứng quân dưới núi rồi sai quân len lên ải do thám. Quân do thám về báo rằng:
- Quân Trịnh trên ải Hải Vân đã bỏ trốn không còn một ai cả. Doanh trại đều bỏ trống.
Vũ Văn Nhậm tự đắc nói với tả hữu rằng:
- Hoàng Nghĩa Hồ vừa nghe oai Tây Sơn phò mã Vũ Văn Nhậm ta đã kinh hoàng bỏ trốn mất rồi.
Nói xong thích chí cười ha hả. Đoạn Nhậm bảo quân do thám:
- Các ngươi mau đi trước đến thành Phú Xuân dò xét xem sao.
Nhậm hạ lệnh tiền quân chiếm ải Hải Vân. Quân do thám lại về bảo với Nhậm rằng:
- Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem thuỷ binh vào cửa Tư Hiền. Tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đã đem toàn quân chiếm núi Quý Sơn chống nhau với thuỷ quân của Long Nhương. Trong thành Phú Xuân còn lại một vạn quân do Phạm Ngô Cầu trấn giữ.
Nhậm lại hỏi:
- Quân Phạm Ngô Cầu mạnh yếu thế nào?
Quân đáp:
- Vạn quân này theo Phạm Ngô Cầu lập đàn cầu đảo mất ăn mất ngủ suốt bảy ngày đêm, hiện đang rất là mỏi mệt.
Nhậm cả mừng nói:
- Ấy thật là trời giúp ta rồi vậy. Truyền quân bí mật tiến đánh thành Phú Xuân.
Quân Nhậm lặng lẽ thừa lúc tối trời tiến sát cổng Nam thành Phú Xuân. Quân Trịnh trong thành không hề hay biết. Nhậm sai quân đặt đại bác bắn phá thành, Phạm Ngô Cầu đang đêm nghe súng nổ rền trời, thất kinh nói:
- Hoàng Nghĩa Hồ trấn ải Hải Vân sao không thấy về báo việc quân. Sao giặc Tây Sơn chiếm ải Hải Vân tài tình thế? Đến nước này ta đầu hàng là hơn, may ra con đường sống.
Nói xong Cầu sai quân mở cửa ra hàng.
***
Phần Nguyễn Huệ lập thuỷ trại ở cửa biển Tư Hiền, thấy quân Trịnh kéo ra đóng quân ở núi Quý Sơn, Huệ cười bảo Chỉnh:
- Hoàng Đình Thể quả nhiên đem quân ra khỏi thành đóng ở núi Quý Sơn để chặn quân ta. Nếu Vũ Văn Nhậm chiếm được thành chẳng phải Hoàng Đình Thể cùng đường sao?
Chỉnh cười thưa:
- Núi Quý Sơn là yết hầu của Phú Xuân. Bậc làm tướng giỏi tất phải chiếm lấy Quý Sơn, và phải thấy rằng Vũ Văn Nhậm vượt ải Hải Vắn tất không còn đủ binh lực chiếm lấy thành Phú Xuân.
Huệ hỏi:
- Nếu ông là Hoàng Đình Thể thì ông sẽ điều bình như thế nào?
Chỉnh đáp:
- Tôi cũng đem binh chiếm núi Quý Sơn.
Huệ cười bảo:
- Kẻ cầm quân muốn trăm trận trăm tháng thì phải thấy được cái mà người làm tướng bình thường không nhìn thấy.
Huệ vừa dứt lời đã thấy cờ đỏ mặt trời vàng bay phấp phới trên mặt thành Phú Xuân. Huệ vỗ tay cười nói:
- Vũ Văn Nhậm đã chiếm được thành Phú Xuân. Vậy Hoàng Đình Thể không phơi cùng đường là gì.
Nguyễn Hữu Chỉnh kinh ngạc hỏi:
- Tướng quân liệu việc như thần. Sao tướng quân đoán trước được Vũ Văn Nhậm vượt Hải Vân quân và chiếm thành Phú Xuân nhanh thế?
Huệ lại cười rồi đáp:
- Chờ vào thành gặp Vũ Văn Nhậm ông sẽ rõ. Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đánh Hoàng Đình Thể ở núi Quý Sơn.
Quân Tây Sơn ồ ạt tiến lên. Quân Trịnh thấy thành Phú Xuân mất, hoảng sợ rối loạn hàng ngũ. Cha con Hoàng Đình Thể và tuỳ tướng Vũ Tá Kiên cố sức chống giữ, sau cùng thất thế chết trong đám loạn quân.
Nguyễn Huệ toàn thắng dẫn quân vào thành. Huệ cùng các tướng vào nơi phủ, Vũ Văn Nhậm ra đón mới vào. An toạ xong Nhậm hỏi Huệ:
- Lúc xuất quân ở thành Quy Nhơn, Hoàng thượng có bảo, ai chiếm thành trước sẽ lập công đầu, được trao quyền điều binh khiển tướng lấy Thuận Hoá. Nay cháu đã chiếm thành trước, vậy ý Hoàng thúc thế nào?
Huệ cười đáp:
- Lời ta đã hứa trước Hoàng huynh ta quên sa được. Nhưng Nhậm đánh ải Hải Vân thế nào. Nếu hao quân tổn tướng ta sẽ về thọ tội với Hoàng huynh.
Nhậm tự đắc đáp:
- Cháu đem quân đánh ải Hải Vân được toàn thắng, chém đầu Hoàng Nghĩa Hồ, tiêu diệt toàn bộ địch quân, bên ta không mất một nhận mạng. Xin Hoàng thúc chớ lo có tội.
Nhậm vừa dứt lời, Huệ vỗ án quát:
- Vũ Văn Nhậm thật là láo xược. Ngươi kéo quân đến, ải Hải Vân đã bỏ trống, sao dám bảo là đánh chiếm ải, chém đầu Hoàng Nghĩa Hồ?
Nhậm giật mình nhưng cố chống chế:
- Nếu không phải cháu đánh chiếm Hải Vân quan, sao có thể chiếm thành Phú Xuân được. Xin Hoàng thúc xét lại.
Huệ hỏi:
- Ngươi chém Hoàng Nghĩa Hồ, vậy thủ cấp của Hoàng Nghĩa Hồ đâu?
Nhậm đáp:
- Cháu không đem theo làm gì nên đã quang thả Hoàng Nghĩa Hồ xuống vực.
Huệ quay lại bảo quân:
- Hay bảo Trần Quang Diệu mang thủ cấp Hoàng Nghĩa Hồ đến đây cho ta.
Trần Quang Diệu đem vào một cái đầu người dâng dưới trướng. Huệ hỏi Nhậm:
- Ngươi hãy nhìn xem, đây có phải là thủ cấp cứ Hoàng Nghĩa Hồ chăng?
Nhậm thất kinh đáp:
- Đây là lá thủ cấp của Hoàng Nghĩa Hồ. Nhưng sao Trần Quang Diệu có được?
Huệ cười trả lời Nhậm rằng:
- Ta đã nói với Hoàng huynh rằng nếu người đánh ải Hải Vân mà hao quân tổn tướng thì ta xin chịu tội với Hoàng huynh. Vậy nếu ngươi tham tranh cổng, cứ thúc binh đánh bừa tất đưa quân ta vào chỗ chết, nên ta trước đã sai Trần Quang Diệu lén đem binh đánh úp sau lưng ải Hải Vân chém đầu Hoàng Nghĩa Hồ rồi dẫn quân vào rừng mà nấp. Nay Trần Quang Diệu đã đem đầu Hoàng Nghĩa Hồ đến để làm bằng, ngươi còn xảo ngôn để tranh công nữa chăng?
Nhậm nghi ngờ hỏi:
- Làm gì có còn đường nào có thể đi được đến sau lưng ải Hải Vân?
Huệ cười đáp:
- Ngươi chưa biết đấy thôi. Trần Quang Diệu đã mở một con đường núi dọc theo dãy Trường Sơn gọi là đường Thượng đạo. Đường này trong có thể vào đến Bình Thuận, ngoài có thể ra đến Nghệ An. Quang Diệu theo đường này đánh vào sau lưng thành Phú Xuân cũng được, cứ gì ải Hải Vân. Nhưng nếu không đánh ải Hải Vân chém Hoàng Nghĩa Hồ trước, tất Vũ Văn Nhậm vì tham công tranh quyền sẽ xua quân theo đường đại lộ lên ải là quân ta hy sinh vô ích. Vũ Văn Nhậm! Giờ người đã rõ vì sao ngươi đem quân đến ải Hải Vân bỏ trống hay chưa?
Vũ Văn Nhậm sợ hai quỳ đáp:
- Cháu đã biết tội, xin Hoàng thúc tha cho!
Huệ đỡ Nhậm dậy nói:
- Ta vì muốn cho người biết, tài năng của bậc làm tướng phải thế nào mới không đưa quân vào chỗ chết nên trước đã sai Trần Quang Diệu dọn đường cho ngươi lập công đó. Từ nay về sau làm việc gì cũng phải vì dân vì nước, chết vì lợi riêng mà làm tổn hại bá quan.
Nhậm hổ thẹn lui về chỗ ngồi. Nguyễn Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi Trần Quang Diệu:
- Đường Thượng đạo này từ cổ chí kim chưa từng nghe nói. Sao tướng quân biết được mà mở đường này?
Diệu khiêm tốn đáp:
- Tôi vốn sinh trưởng ở vùng rừng núi huyện Bồng Sơn phủ Quy Nhơn nên thường giao lưu với người Thượng. Đường Thượng đạo này vốn là lối mòn của các bộ tộc người Thượng đi lại với nhau, tôi theo lối mòn ấy mà mở ra đường này, chữ có gì là lạ.
Nghe xong Chỉnh quay sang Huệ nói:
- Có Trần Quang Diệu mở đường Thượng đạo ra đến Nghệ An thì việc đánh Bắc Hà như trở bàn tay. Xin tướng quân đem quân ra lấy Bắc Hà.
Nguyễn Huệ bảo:
- Hoàng huynh ta đã dặn dò chỉ đem quân ra lấy đất Thuận Hoá mà thôi. Việc tiến quân ra Bắc hà khoan bàn đến. Nay ta lệnh cho Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú đem năm ngàn quân tiến đánh Cát Doanh, Động Hải và luỹ Trường Dục, gom thâu Thuận Hoá!
Nhậm, Dũng, Tứ cùng bước ra lãnh lệnh. Nguyễn Huệ lại dặn dò ba tướng rằng:
- Ba viên tướng họ Võ nên gắng lập công. Đồn Cát Doanh, Đông Hải trơ trọi, một hồi trống ắt lấy được thành, nhưng luỹ Trường Dục ngày xưa do Đào Duy Từ đắp rất là vững chắc các ngươi nên thận trọng.
Hữu Chỉnh xen vào nói:
- Tôi có một kế chiếm luỹ Trường Dục không tốn một mũi tên hòn đạn.
Huệ hỏi:
- Kế thế nào?
Chỉnh đáp:
- Tướng giữ luỹ Trường Dục tên Nguyễn Duy trước cùng tôi là sư đệ đông môn. Nay tôi xin gửi một phong thư thuyết Nguyễn Duy. Nguyễn Duy nhất định phải hàng.
Huệ cả mừng bảo:
- Vậy phiền Hữu Chỉnh hãy thảo thư cho.
Vũ Văn Nhậm cất quân đi xong, Nguyễn Huệ sai quân đóng gông giải Phạm Ngô Cầu về Quy Nhơn. Vua Thái Đức hỏi:
- Nay người bị tội trảm có ân hận gì chăng?
Ngô Cầu thất kinh van lậy rối rít:
- Xin Hoàng thượng tha mạng. Thần có nghe quân lệnh của Hoàng thượng là không giết hàng quân nên mở cửa thành đầu hàng. Sao Hoàng thượng không dùng mà lại giết?
Vua Thái Đức cười rằng:
- Đã đành quân lệnh của Tây Sơn ta là không giết hàng quân. Những cũng phải phân biệt hạng nào nên giết, hạng nào không. Nếu chẳng như thế vô lẽ kẻ làm điều hùng ác đều đến hàng, hoá ra nhà Tây Sơn ta là nói chứa chấp đồ vô đạo thì con ra thể thống gì nữa.
Ngô Cầu run run hỏi:
- Vậy thần là hạng vô đạo hay sao?
Vua trợn mắt quát:
- Năm xưa vì ham quyền tư lợi, ngươi nghe lời Trịnh Sâm giết Thái tử lại không phải là vô đạo ư?
Phạm Ngô Cầu van xin:
- Năm xưa Nguyễn Thung tiên sinh đi sứ ra Thăng Long xin cho Hoàng thượng làm Quảng Nam đại trấn thủ. Nếu không nhờ thần bày kế chắc gì Chúa Trịnh đã thuận phong. Xin Hoàng thượng nghĩ tình ấy mà tha cho thần một phen.
Vua cười lớn bảo:
- Nam ấy ngươi bày kế cho Nguyễn Thung là để Nguyễn Thung xin cho ngươi vào trấn thủ đất Thuận Hoá hòng tránh xa khỏi hồn ma Thái tử theo báo oán. Ngươi là kẻ phải chịu ơn còn lên giọng kể ơn. Người nên nhớ lưới trời lồng lộng, gieo nhân thì gặt quả. Đêm rồi Thái tử về báo mộng cho ta, đúng giờ Ngọ hôm nay đem ngươi ra pháp trường Thái từ sẽ hiển linh về chém đầu ngươi báo oán!
Nói rồi truyền võ sĩ lôi Phạm Ngô Cầu ra pháp trường. Võ sĩ trói Phạm Ngô Cầu vào cột hành quyết cũng vừa đúng Ngọ. Vừa lúc ấy bỗng mặt luồng gió lạ nổi lên. Ngô Cầu trông thấy hiển hiện Thái tử Lê Duy Vỹ mặc Hoàng bào, đầu chít khăn vàng, chân đi hài tía, tay cầm bảo kiếm từ trong luồng gió ấy bước ra. Thái tử vung gươm chém Phạm Ngô Cầu, vừa vặn lúc đao phủ khai đao. Đầu Phạm Ngô Cầu liền rơi xuống đất.
***
Nói về Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú dẫn quân gần đến đón Cát Doanh. Tướng giữ đồn là Ninh Tốn nghe tin nhủ thầm rằng: Thành Phú Xuân gồm hai vạn tinh binh, quân Tây Sơn chỉ đánh trong một đêm là lấy được thành, bắt sống Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, giết cha con Tiền đình hầu Hoàng Đình Thế. Nay họ lại kéo quân đến đây, ta ở đồn Cát Doanh trơ trọi này có mấy ngàn quân sao chống nổi giặc? Nghĩ rồi liền bỏ thành dẫn quân chạy về đồn Động Hải. Tướng giữ đồn Động Hải là Phái vị hầu thấy Ninh Tốn chạy về hoảng sợ, bàn với Ninh Tốn rằng:
- Nay thành Phú Xuân thất thủ, nếu ta ở đây chống với giặc khác nào lấy trứng chọi đá, chi bằng hãy bỏ Động Hải về hợp quân cũng Nguyễn Duy trấn giữ luỹ Trường Dục, xin binh cầu viện ở Nghệ An, ấy mới là thượng sách.
Phái vị hầu vừa nói xong nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân, có quân ở luỹ Trường Dục vào xin gặp tướng quân có điều cơ mật.
Ninh Tốn truyền cho vào. Tên quân thưa:
- Tôi ở luỹ Trường Dục dưới trướng Nguyễn Duy. Tôi tình cờ nghe lỏm được việc Nguyễn Hữu Chỉnh sai người theo đường biển đưa thư khuyên Nguyễn Duy về hàng Tây Sơn, lại dặn dò Nguyễn Duy chặn đường rút quân của ta ở Động Hải, Cát Doanh, nên vội vàng trốn về đây báo cho tướng quân hãy sớm lo liệu.
Ninh Tốn thất kinh nói:
- Nếu vậy ta phải mau theo đường bể chạy ra Nghệ An cũng Đường trung hầu Bùi Thế Toại. Nếu để chúng nhanh chân chặn mất đường thì ta chỉ còn có đường chết mà thôi.
Nói xong hai tướng liền đem toàn quân xuống thuyền chạy ra Nghệ An.
Thế là Vũ Văn Nhậm không tốn một mũi tên hòn đạn đã lấy xong Cát Doanh, Động Hải và Trường Dụ. Lấy luỹ Trường Dục xong Nhậm liền sai người giải Nguyễn Duy về Phú Xuân cho Nguyễn Huệ xét xử.
Nguyễn Huệ ngắm Nguyễn Duy một hồi nghĩ thấm rằng: Nguyễn Duy trước là tôi họ Nguyễn Gia Miêu, nghe Hữu Chỉnh về hàng Chúa Trịnh. Nay lại nghe Chỉnh về hàng Tây Sơn ta. Nguyễn Duy lưỡng quyền quá cao mà nhân trung quá ngắn là gương mặt của loại phản phúc. Nay xét việc hắn thấy kẻ nào mạnh thì theo kẻ ấy, mới hay người xưa xem tướng biết lòng người thật quả không sai. Nghĩ rồi Huệ hỏi Nguyễn Huỳnh Đức rằng:
- Huỳnh Đức thấy ta đánh Thuận Hoá thế nào?
Đức đáp:
- Long Nhương dụng binh như thần, Chúa Nguyễn vương của tôi không thể nào sánh được.
Nguyễn Huệ lại chỉ Nguyễn Duy hỏi Huỳnh Đức rằng:
- Hai người đều là tôi nhà Nguyễn, vậy có biết nhau chăng?
Huỳnh Đức đáp:
- Nguyễn Duy tướng quân trấn thủ ở luỹ Trường Dục là tôi của chúa Định vương Phúc Thuần, còn tôi đóng giữ cửa Hàm Luông dấy binh phò Nguyễn vương Phúc Ánh. Kẻ Nam người Bắc, kẻ trước người sau nên không được biết!
Huệ cười bảo:
- Hai người quả là hai tính cách khác nhau, kẻ quá thức thời người cố chấp, nay đều ở dưới trướng của ta âu cũng là duyên số vậy.
Nói rồi Nguyễn Huệ phong Nguyễn Duy chức tướng quân, lưu lại ở trong quân cùng Nguyễn Huỳnh Đức.
Tối hôm ấy Trần Quang Diệu đến gặp riêng Nguyễn Huệ hỏi:
- Huỳnh Đức tạm hàng ta nhưng lòng vẫn trông về Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Duy là người phản phúc sao Long Nhương lại để hai người này ở cạnh nhau. Tôi thật chẳng yên lòng.
Huệ cười đáp:
- Ở gần nhau trong binh của ta là chẳng có binh quyền, thì có gì đáng ngại. Nếu để Nguyễn Duy giữ luỹ Trường Dục nếu nó phản phúc chẳng đáng ngại sao.
Trần Quang Diệu chịu và phải lui ra.

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 36 Tìm minh chủ, Trần Văn Kỷ làm thơ. Vĩ đại nghĩa, Nguyễn Huệ ra Bắc.
Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh về đến tư dinh, thủ hạ Nguyễn Viết Tuyển hỏi Chỉnh rằng:
- Tướng quân những muốn mượn tay quân Tây Sơn mà về đất Bắc. Nay Nguyễn Huệ đã lấy xong Thuận Hoá nhưng không tiến quân khỏi sông Linh Giang thì làm sao ta về Bắc được?
Chỉnh trầm ngâm đáp:
- Ngày mai ta sẽ khuyên Nguyễn Huệ mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh. Nếu Nguyễn Huệ nghe lời ta nghĩ là ta đã bắn một mũi tên trúng hai mục đích đó.
Tuyển hỏi:
- Thế nào là một mũi tên trúng hai đích?
Chỉnh đáp:
- Nguyễn Nhạc chí nhỏ, tài sơ nhưng quyền hành lớn. Nguyễn Huệ chí cả tài cao mà lại ở dưới quyền Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ nghe lệnh Nguyễn Nhạc nhưng trong lòng ắt là bất phục. Nguyễn Nhạc dùng Nguyễn Huệ tránh sao khỏi nghi ngờ. Nay nếu Nguyễn Huệ nghe lời ta mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc. Diệt Trịnh rồi Huệ rút quân về tất phải cử người ở lại Bắc Hà để phò Lê. Người ấy không phải là ta thì còn ai cho hợp lý hợp tình hơn nào. Ấy là một mục đích.
Viết Tuyển hỏi:
- Ấy thật là diệu kế. Còn mục đích thứ hai là gì?
Chỉnh không đáp mà hỏi lại Tuyển:
- Theo người trong thiên hạ ngày nay ai là kẻ anh hùng?
Tuyển đáp ngày:
- Theo tôi Nguyễn Huệ thật là bậc anh hùng trong thiên hạ.
Chỉnh nói:
- Nguyễn Huệ đánh Nam dẹp Bắc chước quỷ mưu thần đạp đổ nhà Nguyễn ở Đàng Trong, bốn lần và Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh không còn manh giáp, trong một đêm tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La thật đáng mặt anh hùng. Nhưng đoán anh hùng từ lúc hàn vi mới là thức giả. Vậy ta muốn hỏi người ai chưa nên sự nghiệp mà đáng mặt anh hùng, sánh cùng Nguyễn Huệ?
Tuyển đáp:
- Tôi là người hèn mọn chẳng thấy việc cao xa. Xin tướng quân chỉ dạy.
Chỉnh trầm ngâm nói:
- Nếu Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc tất Nguyễn Nhạc vốn sẵn đã nghi ngờ sẽ bắt tội kháng lệnh, dù nghĩ tình ruột thịt cũng tước mất binh quyền. Ấy là ta không đành mà trừ được Nguyễn Huệ. Chẳng phải là địch thứ hai sao?
Nguyễn Viết Tuyển vòng tay bái nói:
- Hùng tài của tướng quân thật đã sánh cùng Nguyễn Huệ.
Nguyễn Hữu Chỉnh cười lớn rằng:
- Sau khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc thì trong thiên hạ chỉ còn lại một mình ta là đáng anh hùng.
Rồi Chỉnh đến gặp riêng Nguyễn Huệ nói:
- Nay Chúa công kéo quân đến đây chỉ đánh một trận gom châu Thuận Hoá uy danh lừng lẫy. Chúa công nên thừa lúc thế quân như chẻ tre đem quân Bắc tiến cho non sông quy về một mối, xoá bỏ ranh giới Linh Giang mà hai nhà Trịnh - Nguyễn đã dựng nên suốt hai trăm năm này. Ấy chẳng phải là công nghiệp chưa từng có hay sao?
Nguyễn Huệ điềm nhiên hỏi:
- Từ ngày vừa Lê Thái Tổ dựng nước đến nay đã ba trăm năm lòng người đời đời nhớ ơn, đến như họ Trịnh hung tàn còn không dám truất bỏ. Nay ta lấy lý gì để kéo quân vào đất ấy được?
Chỉnh đáp:
- Họ Trịnh bao đời nay hiếp đáp vua Lê, thiên hạ đều bất bình. Vả lại quân nhà Trịnh thêm nạn kiêu binh muôn dân hờn oán, nếu Chúa công dùng chiếc bài phò Lê diệt Trịnh thì nhân dân Bắc Hà ai là chẳng theo.
Huệ nói:
- Ta hỏi thế là để thử tài ông mà thôi. Tám năm trước đã biết trước sẽ có ngày đêm quân Bắc tiến diệt Trịnh phò Lê, nên ta mới khuyên Hoàng huynh cho lên ngôi Hoàng đế. Nếu lúc ấy Hoàng huynh nghe lời ta thì hôm nay ta ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh đường đường chính chính đóng quân ở Bắc Hà thống nhất giang sơn dựng đời thịnh trị. Ngặt nỗi Hoàng huynh ta này đã xứng đế hiệu lập riêng một nước nếu muốn thống nhất sơn hà chỉ có cách phế bỏ nhà Lê, bằng không phải kéo quân về trả nước cho họ. Nếu vậy ta đem quân ra Bắc được lợi lộc gì?
Chỉnh đáp:
- Thánh nhân dựng nghiệp chỉ nói về nghĩa không kể về lợi. Nay Hoàng thượng lên ngôi là mất nghĩa để thống nhất giang sơn thì Chúa công phải tự lập mà dựng nên nghiệp lớn. Nay Chúa công để quân ra Bắc diệt Trịnh phó Lê lại cứu dân khỏi ách họ Trịnh ấy là được nghĩa. Vua Lê nhu nhược, trăm họ mến đức nhưng bá quan lại chẳng sợ uy làm gì mà nước không sinh loạn. Thừa lúc nước loạn Chúa công cử người ở lại mượn tiếng phò Lê định yên cõi Bắc rồi sẽ tuỳ thời mà liệu việc, cũng chưa hẳn là không lợi cho nghiệp đế về sau.
Huệ cười hỏi:
- Lời ông cũng phải, vậy theo ông sau khi ta rút quân về ai có thể ở lại định yên cõi Bắc?
Chỉnh giả vờ hỏi lại rằng:
- Dưới trướng chúa công nhiều tướng giỏi chẳng biết người sẽ chọn ai.
Huệ đáp:
- Việc này chỉ có ông là làm được mà thôi.
Chỉnh thất sắc nói:
- Tôi bất tài dám đâu nhận trọng trách ấy.
Huệ vờ nói lảng sang chuyện khác rằng:
- Ta chỉ vâng lệnh Hoàng huynh đánh Thuận Hoá. Nếu đem quân ra Bắc e mang tội kháng lệnh thì sao?
Chỉnh đáp:
- Binh pháp có câu: "Tướng ngoài biên ải không cần phải nhất nhất tuân lệnh của vua".
Huệ ngẫm nghĩ hôi lâu rồi bảo:
- Những điều ông nói đều đúng, riêng việc này ta cần suy nghĩ lại. Và có một điều ta cấm ông không được gọi ta bằng hai tiếng "Chúa công"!
Hữu Chỉnh đáp:
- Hai tiếng Chúa công tôi vô tình thốt ra bằng lòng kính phục. Bởi chí Hoàng thượng không bằng chí của tướng quân, xin tướng quân tha tội. Tự hậu không còn dám hồ đồ như thế nữa.
Nói rồi Nguyễn Hữu Chỉnh cáo lui.
Nguyễn Hữu Chỉnh về rồi, Nguyễn Huệ cứ đi đi lại lại trong phòng, hết ngồi lại đứng, không ngớt thở dài, suốt đêm chẳng tài nào ngủ được.
Hôm sau Huệ đem theo vài người hậu cận ra khói thành đến cầu Trường Tiền bắc ngang sông Hương ngắm dòng nước chảy suy nghĩ đăm chiêu. Trên mặt sông phẳng lặng vài chiếc thuyền con chở than đi bán nhẹ nhàng lướt sóng. Bỗng trong những chiếc thuyền ấy cất lên giọng ca trong trẻo rằng:
Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?
Huệ giật mình bảo quân:
- Hãy mau gọi những chiếc thuyền ấy lại cho ta!
Quân chưa kịp gọi thì những chiếc thuyền ấy đã qua khỏi khúc quanh mất hút.
Nguyễn Huệ liền vội vã về dinh gọi đô đốc Nguyễn Văn Tuyết lên một chiếc thuyền lớn cứ ngược dòng Sông Hương mà đi. Gặp chiếc thuyền bán thân nào Huệ cũng gọi lại hôi rằng:
- Xin cho hỏi các ngươi có biết kẻ bản than nào lúc sáng ca rằng: " Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?" hay chăng?
Những người bán than đều lắc đầu bảo: "Không biết!". Đến chiều tối người ca hai câu phú ấy vẫn bặt tăm. Huệ thất vọng ra về. Các tướng nghe Huệ gặp điều buồn bực liền đến vấn an. Vừa trông thấy Huệ, Trần Quang Diệu giật mình hỏi:
- Mới không gặp một ngày sao Long Nhương mặt mày hốc hác, thần sắc xanh xao như thế?
Huệ đáp:
- Ta có việc lo buồn suốt đem trằn trọc thành ra như vậy.
- Long Nhương có thể cho chúng tôi biết được hay chăng.
- Việc này các ngươi không thế hiểu được đâu.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu xen vào hỏi:
- Có phải vì tìm không gặp tên nho sinh ca ban sáng mà Long Nhương buồn bực hay chăng. Để tôi ở tìm bắt nó về cho Long Nhương trị tội.
Huệ gạt đi bảo:
- Văn Tuyết chớ nói càn. Việc ta lo buồn không phải do người ca ấy. Ta muốn tìm người ca ấy, hoạ may người này có thể giải được nỗi lo của ta!
Trần Quang Diệu bàn rằng:
- Ngươi ca hai câu phú ấy ắt không phải là kẻ tầm thường, chí muốn giúp đời không phải người ở ấn. Ta không biết kẻ sĩ ở đâu để dùng lễ cầu hiền. Cao nhân ai lại nhận mình là cao nhân. Dù nhận để giúp đời tránh sao khỏi thế thái hiểu lầm là tham danh hám lợi. Theo tôi người này nhất định ở trong đoàn thuyền bán than ấy nhưng vì tự trọng nên không thể nhận mình là người ca câu phú ấy mà thôi.
Huệ hỏi:
- Ta không biết chỗ ở để cầu. Hiền sĩ vì sĩ mà không thể đến. Vậy phải làm sao?
Diệu hiến kế:
- Những người bán than đều ở thượng lưu cầu Trường Tiền. Nay Long Nhương cứ đem một chiếc thuyền chặn ở cầu Trường Tiền rồi cứ làm như vậy... như vậy... người ấy tất phải ra.
Nguyễn Huệ khen rằng:
- Ấy thật là diệu kế.
Nguyễn Huệ thân hành đem vài chiếc thuyền đến cầu Trường Tiền, sai Trần Quang Diệu đón phường bán than ở thượng lưu xuống, nói:
- Ta sẽ ra đầu đề, nếu trong các ngươi có ai làm được một bài thơ phú thì ta sẽ cho qua cầu bán than bằng không thì phải quay về.
Phường bán than năn nỉ rằng:
- Chúng tôi nghèo hẹn ít học chỉ biết chèo thuyền bán than, không biết làm thơ phú. Nếu tướng quân không cho qua chắc phải chết đói.
Trần Quang Diệu nhất định bảo quân chặn lại không cho đi. Đến chiều cũng chẳng có ai chịu làm thơ phú cả. Nguyễn Văn Tuyết bực dọc nói lớn rằng:
- Thu phục võ tướng thì dễ, cầu kẻ sĩ sao mà khó thế?
Lúc ấy có một chiếc thuyền bán than cũng vừa chèo đến. Người mới đến thân mình đen đủi bụi thân, nhưng đôi mắt sáng quắc, toát lên vẻ ung dung từ tại. Người ấy nói với Trần Quang Diệu rằng:
- Tôi dốt nát nhưng trong nhà đã hết gạo nên đánh liều múa rìu qua mắt thợ. Nếu không hay xin tướng quân tha tội.
Trần Quang Diệu mừng thầm nhưng vờ nạt:
- Phải đọc thơ phú bằng tiếng Nam ta, không đọc bằng tiếng Hán. Đọc hay cho qua, đọc dở đuổi về.
Người ấy nói:
- Xin tướng quân ra đề.
Nguyễn Huệ xen vào ôn tồn bảo:
- Ai cũng muốn qua cầu bán than. Vậy ra đâu đề là qua cầu bán than.
Người ấy ứng khẩu đọc ngay một bài thơ Nôm rằng:
"Thương người lạnh, ta bán than.
Lòng nhân đã mỏi, con mang cho đầy.
Neo thuyền đậu dưới cầu này.
Nhân tình thế thái đổ đầy hai vai.
Thuyền ta xuôi ngược sông dài.
Đời như dòng nước chảy hoài ngàn năm!
Nhen khó cháy chẳng mua lầm.
Lửa lòng nguội tắt lạnh căm đó mà.
Thân hầm chẳng phải than hoa.
Dẫu cùng nhơ nhớp như gà tranh ăn!
Hồn tương tư, cánh chim Bằng.
Trời cao đổi gió, ngậm trăng no sấu.
Than đen vẽ sóng bạc đấu.
Thì thôi lỡ nhịp qua cầu mà chi?
Đời như nước gánh về đi.
Cầm bằng ném ngọc lưu ly đáy hồ!

Người ấy đọc xong, Nguyễn Huệ tấm tắc khen:
- Hay! Quả nhiên là xuất khẩu thành thơ. Chẳng phải anh hùng thì không thể làm được bài thơ này. Oán thán thay! Mà hùng tráng thay! Giọng điệu này ắt hắn phải là kẻ anh hùng lỡ vận.
Nói rồi Nguyễn Huệ liền mời người ấy lên thuyền hỏi:
- Chẳng hay tiên sinh cao danh là gì. Quê quân ở đâu?
Người ấy đáp:
- Tôi tên Trần Văn Kỷ.
Nguyễn Huệ mừng quá ngắt lời Trần Văn Kỷ rằng:
- Lục lâm chung thấy tôi có dặn, ngày sau tiến quân đến Phú Xuân phải mời cho được Trần tiên sinh ra giúp rập. Tôi nghe lời ấy nên vừa đến đã sai quân đến làng Văn Trình tìm kiếm, nhưng tiên sinh đã dời nhà đi, hỏi thăm không ai biết. Nay được diện kiến dung nhan thật là duyên hạnh ngộ.
Vẫn Kỷ hợi:
- Thầy của tướng quân có phải là quân sư Trương Văn Hiến chăng?.
- Trương Văn Hiến chính là thầy tôi đó.
Văn Kỷ nói:
- Tới đối với Trường tiên sinh là hàng hậu bối. Lúc Trường tiên sinh còn ở Phú Xuân vẫn thường cùng tôi luận bàn thế sự, khinh Chúa tôi nhà Nguyễn mà chẳng ra ứng thi. Nay nghe Trường tiên sinh mất sớm thật thương tiếc vô cùng. Con phần tôi về sau họ Trịnh vào chiếm Phú Xuân, tôi ra thi do Giải Nguyên. Nhưng sau thấy Chúa Trịnh ở ngoài chẳng khác nào Chúa Nguyễn ở trong, lại thêm trấn thủ Phạm Ngô Cầu ngu si, tàn ác, tham lam nên tôi từ quan lui về ở ẩn. Lòng vẫn hàng mong được gặp minh quân đem chút tài hèn ra giúp dân giúp nước.
Huệ hỏi Văn Kỷ:
- Có phải hôm trước tiên sinh ca hai câu phú rằng: " Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?" đó chăng?
Văn Kỷ nói phải. Huệ lại hỏi:
- Tiên sinh ca hai câu phú ấy là có ý gì?
Văn Kỷ ngạc nhiên hỏi lại Huệ rằng:
- Thế chẳng phải tướng quân sắp sửa đem quân Bắc tiến mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh thống nhất sơn hà đó sao, mà còn hỏi tôi những lời ấy?
Huệ giật mình đáp:
- Đúng là tôi sẽ đem quân Bắc tiến... Nhưng không được. Phải! Phải thống nhất sơn hà. Nhưng e rằng không được!
Trần Văn Kỷ cười lớn rằng:
- Tướng quân ngôn ngữ bất nhất tất tâm thần bất định. Tướng quân ở trong tình thế phải chọn một trong hai.
Huệ hỏi:
- Thế nào là chọn một trong hai?
Văn Kỷ đáp:
- Nếu chọn nước chọn dân, phải phụ anh, phụ Chúa. Hoặc ngược lại. Ấy là chọn một trong hai vậy.
Huệ kinh ngạc nói:
- Sinh tôi là cha mẹ, hiểu tôi có hai người, xưa là Trương quân sư thầy tôi, nay là Trần tiên sinh vậy! Đó chính là điều mà mấy hôm này tôi mất ăn mất ngủ. Theo tiên sinh nếu tôi kéo quân ra Bắc diệt Trịnh phò Lê thống nhất sơn hà, Hoàng huynh tôi không thể bỏ qua tội kháng lệnh cho tôi sao?
Văn Kỷ đáp:
- Kháng lệnh là cái cớ, không phải tội của tướng quân.
Huệ hỏi:
- Vậy thế nào là tội?
Văn Kỷ đáp:
- Tôi tướng quân là tài cao chí lớn hơn vua.
Huệ lại hỏi;
- Dám hỏi sao tiên sinh lại nghĩ rằng chí Hoàng huynh không lớn?
Trần Văn Kỷ cười lớn một hồi, rồi đáp:
- Ngươi đời sau bình luận về thời Hán - Sở tranh hùng rằng: Lưu Bang không có tài trị nước bằng Tiêu Hà, không có tài quân sự bằng Hàn Tín, không có tài chính trị bằng Trương Lương, vậy tại sao ba người này đều thần phục Lưu Bang? Bởi Tiêu Hà chỉ lập chí làm thừa tướng, Hàn Tín chỉ lập chí làm nguyên soái Trương Lương chỉ lập chí báo thù cho nước Hán không có ai lập chí làm vua như Lưu Bang cả. Ấy là chuyện xưa ở nước Tàu. Còn chuyện nước ta ngày nay chí thống nhất sơn hà là chí lớn, chí làm vua lại là chí nhỏ. Năm ấy Thái Đức Hoàng thượng lên ngôi là chỉ nghĩ đến việc lấy đất họ Nguyễn ở Đàng Trong mà lập riêng một nước. Nếu nghĩ đến việc thống nhất sơn hà ắt biết có ngày phải diệt Trịnh phò Lê thì không được lên ngôi vua mới là thượng sách. Xem thế mới biết chí của Thái Đức Hoàng thượng là chí nhỏ vậy.
Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
- Trần tiên sinh lập luận rất sâu sắc, thật có mắt tinh đời. Nay nếu ta muốn thống nhất sơn hà phải đem quân Bắc tiến. Vậy đối với Hoàng huynh ta nên thế nào?
Văn Kỷ đáp:
- Tướng quân ra Bắc lần này phải mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh. Diệt Trịnh xong thì phải kéo quân về, trả nước cho vua Lê, vì nước của tướng quân là nước của vua Thái Đức ở Đàng Trong. Khi tướng quân kéo quân về, Hoàng thượng sẽ mượn cớ kháng lệnh mà bắt tội, ít nhất cũng tước hết binh quyền của tướng quân. Vậy muốn thống nhất sơn hà, tướng quân chỉ còn một cách là bất tuân thành chỉ, ở lại Phú Xuân không được về Quy Nhơn phục mệnh.
Huệ buồn rầu hỏi:
- Vậy là ta phải mang tiếng phản Chúa phụ anh.
Trần Văn Kỷ đáp:
- Nếu bây giờ tướng quân sợ tội kháng lệnh, thay vì kéo quân ra Bắc lại quay về Quy Nhơn thì chẳng bao giờ còn có cơ hội thống nhất sơn hà, định yên xã tắc, dựng đời thịnh trị. Đó là ý của tôi, tuỳ tướng quân quyết định.
Nguyễn Huệ ứa nước mắt nói:
- Nếu về Quy Nhơn thì xót thương lê dân ở Bắc Hà, đem quân Bắc tiến thì mắc tội với anh. Anh ta thay cha nuôi dậy ta từ nhỏ, nay phải phụ anh lòng ta sao nỡ.
Trần Văn Kỷ vòng tay nói:
- Dù không đem quân ra Bắc cũng xin tướng quân hãy vì dân trong nước vua Thái Đức. Tôi xin phép cáo từ.
Nguyễn Huệ ngạc nhiên hỏi:
- Mới gặp nhau chưa thoả lòng cầu hiền, sao tiên sinh định bỏ tôi mà đi.
Trần Văn Kỷ đáp:
- Tướng quân kéo binh về Quy Nhơn thì những điều tôi vừa nói với tướng quân nếu Hoàng thượng nghe được ắt cái đầu tôi không còn trên cổ. Nên tôi xin được về cùng non nước, đi trong gió mây mà tránh tai hoạ vậy.
Huệ nắm tay Văn Kỷ nói:
- Xin tiên sinh chớ vội. Tôi đã quyết định rồi, sẽ đem quân Bắc tiến.
Hôm sau Nguyễn Huệ họp các tướng nói:
- Nay ta định đem quân Bắc tiến, mượn tiếng phò Lê cứu dân lành thoát tay họ Trịnh bạo tàn. Nhưng ngặt nỗi nếu về Quy Nhơn xin lệnh và lương thực của Hoàng huynh e Hoàng huynh không cho đi. Nếu không đủ lương thực sao đánh được Bắc Hà. Các tướng có kế gì chăng?
Nguyễn Văn Lộc hỏi:
- Thành Phú Xuân ta vừa chiếm được lương thực dồi dào, sao Long Nhương lại bảo là không có lương?
Huệ buồn rầu đáp:
- Chúa tôi họ Trịnh hà khắc để lương dân đói rách lầm than. Mấy năm gần đây thêm thiên tai hạn hán mất mùa dân tình càng thêm điêu đứng. Nay ta vừa lấy đất Thuận Hoá, liền mở kho lương phát cho dân nghèo, nên hiện nay lương thực ở thành Phú Xuân chỉ đủ để dự trữ cho dân đến mùa thu hoạch không thể dùng vào việc quân. Ấy là nỗi lo của ta.
Nghe Nguyễn Huệ nói định đánh Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh mừng lắm liền rút từ tay áo ra một tấm bản đồ. Giở bản đồ trên bàn, Hữu Chỉnh nói:
- Đây là bản đồ đất Bắc, nếu ta đem thuỷ quân vào cửa Ba Lạt theo sống Nhị Hà đánh lấy Vị Hoàng thì có thể giải quyết việc quân lương.
Huệ hỏi:
- Tại sao đánh lấy Vị Hoàng thì có thể giải quyết việc quân lương?
Chỉnh đáp:
- Vì ở Vị Hoàng có một kho lương thực. Kho này chứa thóc của các trấn Thận Hoá, Nghệ An, Thanh Hoá gồm trăm vạn hộc. Nhưng nếu ta đem thuỷ quân đánh lấy Vị Hoàng là đơn độc vào sâu trong đất địch e rằng mạo hiểm.
Nguyễn Huệ mừng rỡ nói:
- Có quân lương ta chẳng lo gì nữa. Con việc đánh lấy Vị Hoàng có gì là mạo hiểm.
Hữu Chỉnh hỏi:
- Từ sông Linh Giang trở ra phải quá hai thành Nghệ An, Thanh Hoá, đường xa hàng mấy trăm dặm mới đến Vị Hoàng. Nếu Bùi Thế Toại ở Nghệ An chặn được bộ binh ta rời quân ở Thanh Hoá do Tạ Danh Thuỳ tiến ra và quân ở Thăng Long tiến vào đánh quân ta ở Vị Hoàng, thì lúc ấy ta lưỡng đầu thọ địch sao bảo là không mạo hiểm.
Huệ cười bảo:
- Quân ở Nghệ An thiên binh thiên tướng gì mà có thể ngăn được bộ binh ta. Còn việc vào sau đất địch ư? Ta bốn lần vào Gia Định, từ ải Vân Phong phải qua Bình Thuận, Trấn Biên, Sài Côn, Phiên Trấn mới đến Trường Đồn đường xa hàng ngàn dặm đều từ trong lòng địch. Vậy mà ta vẫn sai tướng trước đem thuỷ quân đánh lấy Trường Đồn chặn đường lui quân của giặc. Nay đánh lấy Vị Hoàng ở Bắc Hà, so với việc đánh lấy Trường Đồn ở Nam Hà ngày xưa có đáng gì mà bảo là mạo hiểm. Việc này ông Chỉnh chớ lo. Nay ta phong Hữu Chỉnh chức Hữu quân tiên phong đem tám ngàn quân và tám chục đại thuyền tiến đánh Vị Hoàng, chiếm khó lương. Ta sẽ cho Đô đốc Nguyễn Văn Lộc và Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết là hai tướng giỏi thuỷ binh của ta theo trợ giúp. Ba người hay cùng nhau bàn bạc việc quân, nếu gặp giặc cứ để Tuyết, Lộc đi đầu không ngại gì cả.
Rồi quay sang Nguyễn Văn Lộc, Huệ hỏi:
- Từ Phú Xuân đến Vị Hoàng phải hết mấy ngày đường?
Lộc đáp:
- Nay đang là tháng năm, gió Đông Nam thổi mạnh, đi đến nơi nhiều nhất là năm ngày đường.
Huệ liền bảo:
- Ta cho đạo quân của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc năm ngày lương. Đến nơi đánh thắng giặc lấy lương mà ăn.
Hữu Chỉnh thất kinh hỏi:
- Việc quân thắng bại là thường. Nay Long Nhương chỉ cấp lương đủ dùng trên đường đi, ngộ nhỡ không thắng giặc là Long Nhương đem chúng tôi và chỗ chết hay sao?
Nguyễn Huệ lại cười bảo:
- Quân dưới quyền của ta trải qua hàng trăm trận đánh Nam dẹp Bắc chỉ có thăng chẳng biết thua. Vả lại Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc đều là tâm phúc của ta. Ta lại đem tâm phúc của ta vào chỗ chết hay sao mà ông phỏng ngại. Nếu Hữu Chỉnh không đi thi Tuyết và Lộc lập tức xuất quân.
Nguyễn Hữu Chỉnh vội vàng nói:
- Quân ta thiện chiến tiến binh thần tốc như vậy tôi còn ngại gì mà chẳng đi.
Nguyễn Huệ gọi Trần Quang Diệu bảo:
- Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân hãy lãnh năm ngàn tinh binh theo đường thượng đạo đánh lấy Nghệ An.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Quân của Ninh Tốn ở Cát Doanh và Phái vị hầu ở Động Hải đã rút về hợp cùng Bùi Thế Toại trấn thủ Nghệ An. Quân Trịnh ở Nghệ An hai vạn người, tướng quân Trần Quang Diệu chỉ có năm ngàn quân làm sao thắng giặc?
Nguyễn Huệ cười đáp:
- Trần tiên sinh chưa biết đó thôi. Nguyên Trần Quang Diệu đã từng tay không đánh cọp giữa rừng mở đường Thượng đạo. Quân ta hạ thành Phú Xuân trong một đêm chính là nhờ Trần Quang Diệu theo đường Thượng đạo từ hướng Tây đánh xuống. Từ ấy trong quân thường gọi Diệu là Thượng đạo tướng quân Trần Quang Diệu đó.
Nói xong Nguyễn Huệ lại gọi Nguyễn Lữ bảo:
- Tiết chế Nguyễn Lữ! Em lãnh ba ngàn quân ở lại giữ thành Phú Xuân. Tứ sư đệ tướng quân hợp cùng Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú đang đóng giữ luỹ Trường Dục đem quân Bắc tiến. Các tướng hay lãnh lấy lệnh bài!
Nguyễn Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Quang Diệu đều bước ra lãnh lệnh. Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu hỏi:
- Bọn võ tướng chúng tôi đều lãnh lệnh cầm gươm lên ngựa ra trước trận tiền. Vậy con Trần tiên sinh sẽ làm gì?
Trần Văn Kỷ cười đáp:
- Đâu phải chỉ biết cấm gươm mới là đánh giặc. Ngày xưa vua Lê Thái Tổ khởi binh đánh giặc Mình xâm lược, Ức trai Nguyễn Trãi dùng một ngòi bút mà thăng Vương Thông ở thành Thăng Long, đuổi giặc Mình ra ngoài bờ cõi, rồi Nguyễn Trãi lại dùng văn tài của mình cứu đất nước khỏi nạn binh đao do quân Minh định kế trả thù, ấy chẳng phải chiến công của người cầm bút hay sao?
Nguyễn Văn Tuyết lại hỏi:
- Việc này tôi có biết. Còn Trần tiên sinh đã cầm bút đánh giặc được hay chưa?
Trần Văn Kỷ lấy từ trong ngực ra một tờ thư trao cho Nguyễn Huệ, Kỷ nói:
- Đây là tờ hịch phò Lê diệt Trịnh tôi đã sao xong, trình tướng quân duyệt lãm!
Nguyễn Huệ tiếp tờ hịch xem, đến một đoạn Huệ thích thú đọc lớn lên rằng:
Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?
Hai câu phú này là tiên sinh đã ca trên dòng sông Hương đây mà.
Trần Văn Kỷ nói:
- Thưa phải.
Nguyễn Huệ lại đọc tiếp rằng:
"Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn.
Bình tức khắc lại giương buồm Bắc Hải.
Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sửa chính dẹp tà.
Vào đất Quan hét ngựa Hán Hoàng, quyết chí lấy nhân trừ bạo.
Truyền lệnh ta các tướng đánh đến đâu phải truyền hịch này cho muôn dân đến đó.
Nguyễn Huệ lại gọi quân vào trao thư và dặn:
- Ngươi mau đem thư của ta về Quy Nhơn trao cho Hoàng thượng bảo người hay ta đem quân Bắc tiến.
Nói rồi Nguyễn Huệ xăm xăm bước ra ngoài chính điện. Các tướng lấy làm lạ liền vội vã bắt đầu theo. Ra ngoài Nguyễn Huệ quay mặt về hướng thành Quy Nhơn lạy ba lậy nhủ thầm rằng: Nếu Hoàng huynh có bắt tội, nếu em Huệ này phụ lòng Hoàng huynh cũng bởi vì quốc gia dân tộc phải làm điều bất đắc dĩ mà thôi!
Lậy rồi Huệ đủng lên rưng rưng hai giọt lệ bảo các tướng rằng:
- Các tướng ai lo việc nấy. Truyền lệnh ta lập tức xuất binh!

Tây Sơn bi hùng truyện
Chương 37 Giận lời khích tướng, Ngô Văn Sở bắt tướng. Lầm kế bất trung, Lý Trần Quán chết trung.
Nhắc lại Ninh Tốn và Phái vị hầu hậu bỏ đồn Cát Doanh và Động Hải chạy về Nghệ An ra mắt Đường trung hầu Bùi Thế Toại kể lại việc mất Thuận Hoá. Bùi Thế Toại liền sai người hoả tốc mang thư về kinh thành Thăng Long báo cùng Đoan nam vương Trịnh Khải. Trịnh Khải liền thiết triều hỏi bá quan văn võ bàn việc quốc gia. Trịnh Khải hỏi:
- Đường trung hầu Bùi Thế Toại trấn thủ Nghệ An báo tin về, quân Tây Sơn đã đánh lấy Thuận Hoá. Tạo quận công Phạm Ngô Cầu bị bắt, Tiền đình hầu Hoàng Đình Thể tử trận. Nay giặc Tây Sơn đã tiến đến sông Linh Giang, các quan bàn bạc xem ta nên tiến thủ thế nào?
Trần Công Xán trong hàng quan văn bước ra thưa:
- Việc mất đất Thuận Hoá là điều may, Chúa thượng nên mừng chớ nên lo.
Chúa Trịnh Khải ngạc nhiên hỏi:
- Đất của ta mất về tay giặc sao Trần Công Xán bảo ta nên mừng là ý thế nào?
Trần Công Xán đáp:
- Đất Thuận Hoá trước là do Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc lấy được trong tay nhà Nguyễn. Nơi này đường sá xa xôi, núi sông cách trở đất đai cằn cỗi chật hẹp. Mười mấy năm nay ta chiếm đóng xứ này hao binh tổn tướng mà chẳng được lợi lộc gì. Nay đất ấy mất, khỏi nhọc sức cho quân đi đồn trấn phương xa, ấy là điều may vậy. Nay ta cứ lấy sông Linh Giang cứ làm ranh giới hai miền Nam - Bắc. Cõi Đàng Trong giao cho họ Nguyễn và giặc Tây Sơn muốn làm thế nào thì làm, không can hệ đến ta, cho nên giữ lấy đất Nghệ An trở ra là đất đai của Tiên vương mà thôi.
Chúa Trịnh Khải lại hỏi:
- Lời khanh cũng phải. Vậy theo khanh ta nên dùng kế sách gì giữ vững đất Nghệ An?
Trần Công Xán đáp:
- Nghệ An có Đường trung hầu Bùi Thế Toại trấn đóng là đã vững như bàn thạch vậy. Bùi Thế Toại gồm tài thao lược, đất Nghệ An lại hiểm trở. Trước thì có sông Linh Giang làm hào, sau thì có núi Phượng Hoàng, Dũng Quyết làm luỹ. Thành Nghệ An chắc chắn, đất hiểm, tướng tài lại không giữ vững được sao. Vả lại quân Tây Sơn là bọn giặc mới ở núi cao thừa thời nổi loạn, nay chiếm được hết đất đai của họ Nguyễn đã cho đó là may, làm gì có tham vọng xâm lấn nước của ta. Về việc đất Nghệ An xin Chúa thượng chớ lo!
Nghe Trần Công Xán nói xong, Chúa Trịnh Khải vẫn dùng dằng chưa hết lo âu. Bỗng nghe trong hàng quan võ có tiếng hỏi lớn:
- Lấy gì làm chắc rằng quân Tây Sơn không xâm phạm đất Nghệ An ta. Giặc đem đại binh hai vạn đánh Phú Xuân trong một đêm, nếu chúng lại tiến đánh Nghệ An, Đường trung hầu Bùi Thế Toại sao chống nổi giặc.
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra ấy là Thái đình hầu Trịnh Tự Quyền. Chúa Trịnh Khải hỏi Trịnh Tự Quyền rằng:
- Theo ý khanh thì thế nào?
Quyền đáp:
- Đất Thuận Hoá là do Tiên vương sai Việp quận công cất bốn vạn quân vào lấy được đã mười mấy năm nay. Nay đất của ta mất về tay giặc thì lại bảo là may. Giặc đã lăm le ngoài biên ải thì vô cớ lại bảo rằng giặc không có tham vọng lấy đất Nghệ An. Ấy là luận điệu của kẻ trói gà không chặt, nhác việc binh đao, xin Chúa thượng chớ nghe theo mà hại cho xã tắc. Vả lại binh pháp có câu: "Chờ cậy rằng: giặc không đến. Cứ cho là giặc sẽ đến ta đã có kế sách đánh chúng rồi vậy". Nói như Trần Công Xán tiên sinh thì là chưa từng biết việc binh gia. Trong các tướng dưới trướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc năm xưa còn có ai hùng tài hơn Tiền đình hầu Hoàng Đình Thể? Vậy mà quân Tây Sơn trong một đêm đã lấy được thành, cha con Tiền đình hầu đều bỏ mình bảo quốc. Nay Đường trung hầu Bùi Thế Toại mật báo về kinh ý xin binh cầu viện, ta lại bảo là giặc không tham vọng lấy đất Nghệ An chẳng chịu xuất quân. Ngộ nhỡ chúng đem quân đánh đất Nghệ thật, Trần Công Xán tiên sinh có dám đem đầu mình bảo đảm rằng Bùi Thế Toại thắng trận hay chăng.
Trịnh Tự Quyền nói một hồi, Trần Công Xán không biết trả lời thế nào đánh nín thinh rồi len lén lui ra. Chúa Trịnh Khải hỏi lại rằng:
- Vậy theo ý Thái đình hầu nên tiến thủ thế nào?
Trịnh Tự Quyền đáp:
- Thần làm võ tướng giặc đến thì đánh. Thần tuy bất tài cũng xin đem quân vào đất Nghệ An chống giặc Tây Sơn.
Trịnh Khải cả mừng nói:
- Lời khanh rất hợp ý ta. Nay ta phong khanh làm Bình Nam đại tướng quân, lập tức đem binh và Nghệ An chống giặc.
Trịnh Tự Quyền tâu:
- Xin Chúa thượng cho thần thu xếp trong năm ngày mới xuất quân được.
Trịnh Khải hỏi:
- Cứu binh như cứu hoả, sao khanh không đi ngay mà phải đợi đến năm ngày.
Quyền đáp:
- Khải Chúa, từ ngày bọn lính tam phủ phá cung quận công Trịnh Cán đưa Chúa thượng lên ngôi chúng cậy công coi thường phép tắc. Nay thần đã vâng mệnh Chúa thượng nhưng không dễ gì hợp binh liền được nên xin hẹn đến năm ngày.
Trịnh Khải than rằng:
- Lời khanh rất phải, ta nhờ lính tam phủ mà được ngôi, nhưng lại không khiến được chúng. Xã tắc phen này e nguy mất.
Năm ngày sau Trịnh Tự Quyền hiệu triệu được ba vạn quân bèn vào phủ Chúa từ biệt Chúa Trịnh lên đường. Vừa vào đến nơi nghe quân vào báo rằng:
- Khải Chúa thượng, có trấn thủ Thanh Hoá là Thuỳ trung hầu Tạ Danh Thuỳ xin vào ra mắt.
Trịnh Khải ngạc nhiên nói:
- Thuỳ trung hầu đang trấn thủ Thanh Hoá sao bỗng dưng lại bỏ về đây. Mau cho vào!
Tạ Danh Thuỳ vào đến dập đầu thưa:
- Khải Chúa thượng, quân Tây Sơn đã tiến đánh chiếm kho lương ở Vị Hoàng, hiện còn cách kinh thành hai trăm dặm.
Trịnh Khải thất kinh hỏi:
- Chúng đánh thế nào mà nhanh thế. Còn binh tướng các ngươi ở hai trấn Nghệ An, Thanh Hoá thì sao?
Tạ Danh Thuỳ đáp:
- Hạ thần ở Thanh Hoá nghe tin Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn đánh chiếm kho lương ở Vị Hoàng, thần định đem binh ra lấy lại Vị Hoàng. Không ngờ Nguyễn Huệ đem bộ binh tiến đánh Nghệ An, trấn thủ Bùi Thế Toại phải bỏ thành chạy trốn. Nghệ An và Vị Hoàng đều mất, thần ở Thanh Hoá lưỡng đầu thọ địch phải bỏ thành bảo toàn lực lượng theo đường bộ chạy về đây báo cùng Chúa thượng. Xin Chúa thượng trị tội.
Trịnh Khải liền hô quân lôi Tạ Danh Thuỳ ra chém. Trịnh Tự Quyền can rằng:
- Tình hình như vậy, dù ai trấn thủ Thanh Hoá cùng phải thế mà thôi. Xin Chúa thượng tha tội cho Tạ Danh Thuỳ đoái công chuộc tội. Nay giặc đã tiến đến Vị Hoàng, hạ thần phải đem toàn quân gia lấy Sơn Năm, Chúa thượng mau sai Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng đem thuỷ quân án ngữ trên sông Nhị Hà. Như thế may ra có thể chặn được giặc.
Chúa Trịnh y lời, sai Quyền và Nhưỡng dẫn quân đi ngay.
Lúc ấy bên quân Tây Sơn hợp binh ở Vị Hoàng. Nguyễn Huệ hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
- Ta nghe nói đất Bắc Hà ngàn năm văn vật, đầy rẫy anh tài. Vậy mà ta kéo binh một hồi ra đến Vị Hoàng không thấy sự kháng cự nào đáng kể là cớ làm sao?
Hữu Chỉnh cười đáp:
- Nhân tài đất Bắc chỉ có một mình Chỉnh tôi mà thôi. Nay tôi đã bỏ đi, nước tất trống không. Xin tướng quân chớ ngại.
Huệ nửa đùa nửa thật rằng:
- Không có ai để ngại hoá ra chẳng phải là ngại mỗi mình ông Chỉnh đó sao?
Chỉnh thất sắc đáp:
- Tôi tự biết mình tài hèn những tôi nói thế là để chứng tỏ rằng Bắc Hà không có người tài mà thôi.
Thấy Chỉnh có vẻ lo sợ Huệ an ủi rằng:
- Lúc kéo quân đi đánh Vị Hoàng, ông e rằng quân ta vào sâu trong đất địch là mạo hiểm. Giờ ông đã thấy chưa, quân ta đánh giặc đều cân nhắc kỹ, không mạo hiểm bao giờ. Nay quân ta đã đến đây còn ngại gì mà không tiến. Nói rồi hạ lệnh tiến đánh quân Trịnh ở Nam Sơn. Quân Tây Sơn thuỷ bộ hai đạo ào ạt tiến lên. Thuỷ quân Tây Sơn theo sông Nhị Hà tiến đến khúc sông Lục Môn Giang thì gặp quân Trịnh. Tướng Trịnh là Đinh Tích Nhưỡng đứng trên soái thuyền chờ chiến thuyền quân Tây Sơn đến vừa tầm đạn sẽ nổ súng. Ngờ đâu quân Tây Sơn súng lớn bắn xa bất ngờ nổ súng trước, đại bác Tây Sơn ầm ầm bắn tới, quân Trịnh thất kinh hồn vía quay thuyền mà chạy về thành Thăng Long. Đinh Tích Nhưỡng không chống nổi đành phải chạy theo. Nguyễn Huệ hô quân truy kích. Quân Tây Sơn thần tốc đuổi theo. Quân Trịnh ở dưới sông liều bề không chạy kịp liền bỏ thuyền lên bờ chạy về đồn quân bộ của Trịnh Tự Quyền. Bộ binh Trịnh Tự Quyền thấy thuỷ binh Đinh Tích Nhưỡng tan vỡ, hoảng sợ rối loạn hàng ngũ mạnh ai nấy chạy. Trịnh Tự Quyền ngăn không nổi đành hoà trong đám loạn quân mà trốn.
Nguyễn Huệ thừa thắng hô quân theo sông Nhị Hà thẳng tiến về thành Thăng Long. Khi thuỷ quân tiến đến sông Thuý Ái bỗng gặp một đạo quân Trịnh gồm vài mươi chiếc thuyền nhỏ và mấy trăm quân xông ra cản đường. Đi đầu là hai viên dũng tướng tay cầm đại đao chém giết quân Tây Sơn rất hăng.
Quân Tây Sơn đồng loạt bắn tên, hai viên tướng dùng đại đao gạt tên hô quân tiến lên giáp chiến. Hai người này đao pháp tinh thông đánh quân Tây Sơn chết hàng mấy lớp. Nguyễn Huệ đứng trên soái thuyền trông thấy ngạc nhiên hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
- Ta từ Thuận Hoá kéo quân đến đây quá Nghệ An, Thanh Hoá, Vị Hoàng, Sơn Nam, quân Trịnh đông hàng mấy vạn vừa mới giao tranh đã vỡ tan mà chạy. Nay mới gặp mấy trăm quân của hai tướng này tinh thần chiến đấu thật là dũng mãnh thật đáng khen thay! Hữu Chỉnh có biết hai người này chăng?
Nguyễn Hữu Chỉnh đáp:
- Đây là hai viên tiểu tướng đồn quân nơi bến sông Thuý Ái. Một người tên là Ngô Cảnh Hoàng, một người tên là Mai Thế Pháp. Cả hai đều tinh thông đao pháp cả.
Nguyễn Huệ nói:
- Nếu đại tướng bên Trịnh cầm quân kỷ luật như hai người này thì dễ gì ta kéo quân đến đây được - Nói xong quay lại bảo quân - Truyền lệnh ta không được bắn súng, phải bao vây bắt sống hai người này cho ta!
Lệnh truyền ra, quân Tây Sơn lập tức thi hành. Thấy mấy trăm quân của mình đều chết trận cả, quân Tây Sơn lại bao vây bốn phía, Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng vẫn đứng trên thuyền tả xung hữu đột. Bỗng quân Tây Sơn nới rộng vòng vây gọi lớn:
- Hai tướng kia hãy mau đầu hàng, Long Nhương tướng quân sẽ tha cho mạng sống!
Ngô Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp dựng đại đao đồng hét lớn rằng:
- Bọn ta thà chết chẳng quy hàng.
Trên soái thuyền Tây Sơn, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy bước ra thưa cùng Nguyễn Huệ:
- Ơn tướng quân tha mạng chưa có dịp báo đền, nay chúng tôi xin ra trận bắt Ngô Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp gọi là đáp ơn tri ngộ của tướng quân.
Nói rồi Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy cũng vác đao lướt thuyền ra trước trận. Nguyễn Huỳnh Đức nhảy lên thuyền địch đánh với Ngô Cảnh Hoàng, Nguyễn Duy tranh tài cùng Mai Thế Pháp. Hai bên đánh nhau hơn năm mươi hiệp bất phân thắng bại. Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy xem chừng đuối sức vội nhảy sang thuyền mình chạy về nói với Nguyễn Huệ:
- Ngô Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp đao pháp tinh thông, sức mạnh vô cùng. Chúng tôi không đánh lại.
Võ Đình Tú và Phan Văn Lân cùng bước ra thưa:
- Chúng tôi xin đi bắt tướng giặc!
Nguyễn Huệ nhìn Ngô Văn Sở rồi bảo Võ Đình Tú và Phan Văn Lân rằng:
- Hai người này dùng đại đao, ta phải lấy đại đao mà trị. Hai tướng đại đao của ta là Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu hiện theo quân bộ không có ở đây. Xem ra muốn bắt sống hai tướng nay ta phải thân hành mới xong. (Nguyễn Huệ nói vậy vì sở trường cũng sử dụng đại đao).
Ngô Văn Sở bước ra nói lớn:
- Ngô Văn Sở tôi cũng sở trường đánh đại đao, sao không nghe Long Nhương nhắc đến, lại chỉ nói về Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu thôi.
Nói xong không cần đợi lệnh liền vác đại đao nhảy xuống thuyền mà đi. Nguyễn Huệ liền gọi Phan Văn Lân bảo:
- Ta nói vậy là để khích Ngô Văn Sở. Không ngờ Ngô Văn Sở thường ngày điềm đạm, nay vì tự ái mà nổi nóng như vậy. Phan Văn Lân mau theo ứng giúp Ngô Văn Sở, để Văn Sở một chọi hai e có điều sơ sảy.
Phan Văn Lân tuân lệnh cầm trường thương đi ngay. Khi Phan Văn Lân đến nơi thì Ngô Văn Sở đã đánh rớt đao Mai Thế Pháp, Lân bèn nhảy lên thuyền bắt Mai Thế Pháp trói lại. Ngô Cảnh Hoàng cũng bị Ngô Văn Sở bắt sống. Sở và Lân đem Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng đến soái thuyền nộp cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huỳnh Đức khen Ngô Văn Sở rằng:
- Đao pháp cửa Ngô tướng quân thật thần sầu xưa nay hiếm thấy.
Ngô Văn Sở vẫn còn giận Nguyễn Huệ, nói mát:
- Ông nội tôi là Ngô Mãnh từng làm Đô thống dưới thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, đao pháp chưa từng có địch thủ. Chỉ một mình Long NHương tướng quân chê mà không dùng đến.
Nguyễn Huệ cả cười rằng:
- Hổ tướng của ta đông quá, từ ngày khởi binh đến nay ai cũng đua nhau lập được công đầu, chỉ có Ngô Văn Sở tính tình điềm đạm không tranh quyền ra trận lập công. Ta vẫn biết thế nên sẵn dịp này mới nói khích cho Văn Sở ra trận một mình bắt hai tướng để tỏ rõ dũng lực của mình mà thôi. Nào ta có bảo đao pháp của Sở thua Diệu và Dũng bao giờ. Ba tướng của ta thật đáng gọi là Tây Sơn tam đao vậy!
(Từ ấy trong quân thường gọi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở là Tây Sơn tam đao, lại tặng Ngô Văn Sở biệt đanh ở Khổn nghịch Đại tướng quân).
Lúc ấy hai tướng Trịnh là Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng bị trói trên thuyền, thừa lúc mọi người lơ đễnh, hai người bèn lao mình xuống sông tự vẫn.. Các tướng Tây Sơn bất ngờ đều ngơ ngác nhìn nhau. Nguyễn Huệ thương tiếc nói:
- Long trung dũng của hai người này thật đáng phục thay!
Lúc ấy ở thành Thăng Long, chúa Trịnh Khải nghe tin hai đạo quân thuỷ bộ của mình đã thua trận ở trấn Sơn Nam, Khải liền lên voi dẫn quân cấm vệ ra cửa Tây Luông đánh giặc. Quân Tây Sơn tiến đến, chúa thúc quân ra đánh, quân Trịnh lúc ấy khiếp sợ, người này đưa mắt nhìn người kia không ai dám tiến. Đến khi nghe tiếng súng nổ, tiếng rèo hò, tiếng trống trận của quân Tây Sơn thì quân Trịnh không còn hồn vía nào mạnh ai nấy trốn. Các quan văn võ thảy đều trốn cả, đi theo chúa chỉ còn vài tên hầu cận nhằm hướng Sơn Tây mà chạy. Ra khỏi thành được vài dặm tên quân hầu nói:
- Nay ta thua trận mà chạy còn có mấy người. Xin Chúa hay bỏ voi và thay y phục, kẻo những kẻ ăn ở hai lòng bán Chúa cầu vinh, nhận được Chúa rồi ba quân Tây Sơn thì nguy.
Trịnh Khải nghe lời liền bỏ voi, thay đổi y phục.
Chúa tôi đi đến làng Giao Cốc trời đã xế chiều, ai nấy đều mệt và đói. Chúa Trịnh Khải bảo quân:
- Hôm trước quân Tây Sơn đánh lấy Vị Hoàng, ta đã xuống hịch cần vương sai quan Thiên lại là Lý Trần Quán về Sơn Tây mộ quân ở tại làng này. Vậy ngươi hãy mau đi vời Lý Trần Quán đến đây cho ta dậy việc. Ta sẽ tạm ngồi đợi ở quân nước bên đường.
Tên quân hầu vâng lệnh đi ngay. Lát sau Lý Trần Quán đến, thấy Chúa Trịnh, Quán toan sụp lạy. Chúa nhảy mắt ra hiệu gọi Quán đến gần bảo:
- Ngươi không cần phải giữ lễ như thế. Bây giờ nước mất nhà tan, vàng thau lẫn lộn nhỡ kẻ ăn ở hai lòng biết ta là Chúa báo cho giặc thì sao? Ngươi mộ quân đã được nhiều ít gì chưa? Hãy đưa ta đến thành Sơn Tây cũng Thạc quận công Hoàng Phụng Cơ rồi sẽ liệu kế đánh giặc.
Lý Trần Quán thưa rằng:
- Có người làm chức Tuần đinh trong làng tên là Nguyễn Trang đem vài mươi tráng binh theo thần. Thần bảo Trang phò Chúa lên Sơn Tây trước, còn thần mộ thêm quân sẽ đến sau.
Chúa Trịnh Khải lo lắng hỏi:
- Ngươi này có tin cậy được không.
Quân đáp:
- Nguyễn Trang vốn là học trò của thần có thể tin cậy được, xin Chúa chớ ngại.
Chúa Trịnh Khải nghĩ thầm rằng: Ta với Trịnh Cán vốn là anh em cật ruột, vì tranh giành ngôi báu mà còn hãm hại lẫn nhau. Tuy ta tin Lý Trần Quán, nhưng học trò ông ấy lấy gì làm chắc là có thể tin được.
Thấy Chúa còn do dự, Lý Trần Quán thưa:
- Thần xin đem tính mệnh ra bảo đảm. Xin Chúa thượng an lòng.
Rồi Lý Trần Quán quay sang Nguyễn Trang bảo:
- Ngươi mau phò Chúa lên Tây Sơn trước. Ta có việc ở lại rồi sẽ đến sau.
Nói xong Quân từ biệt Chúa Trịnh quay lại vào làng. Lý Trần Quán đi rồi Nguyễn Trang sai thủ hạ dắt ngựa Chúa Trịnh Khải đi. Chúa ngạc nhiên hỏi:
- Sao không đi về hướng Tây đến Sơn Tây mà dắt ngựa ta về hướng Đông.
Nguyễn Trang đáp:
- Về hướng Đông để đến kinh thành gặp quân Tây Sơn.
Chúa kinh hãi hỏi:
- Chúng mấy toan làm phản hay sao?
Nói xong liền rút kiếm chém bọn Nguyễn Trang. Lúc ấy Chúa Trịnh Khải đã đói và mệt đánh không lại bị bọn Trang tuốt kiếm bắt trói lại đóng cũi khiêng đi. Mấy tên quân theo hầu Chúa cũng đều bị giết. Một tên quân cướp được ngựa chạy vào làng gọi Lý Trần Quán. Quân một mình một ngựa tất tả đuổi theo bọn Trang. Gặp Trang, Quán hỏi:
- Ta là thầy của anh, anh làm thế không sợ mang tiếng là phản sư sao. Chúa là Chúa của thiên hạ anh không thương Chúa mà làm điều bán Chúa cầu vinh ư?
Trang trâng tráo đáp:
- Sợ thấy không bằng sợ giặc, thương Chúa không bằng thương mình.
Nói rồi Nguyễn Trang gọi thủ hạ giải Chúa đi. Lý Trần Quán ngăn lại khóc lóc năn nỉ Nguyễn Trang rằng:
- Ngươi hay nên tính ta là thầy của ngươi mà tha cho Chúa một phen.
Nguyễn Trang đáp:
- Việc đã đến nước này, nếu tha cho Chúa, ngộ nhỡ quân Tây Sơn đến hỏi tội tôi dung dưỡng Chúa thì tôi chỉ có chết mà thôi!
Quán bảo:
- Ngươi tha cho Chúa về Sơn Tây tất quân các trấn Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Kinh Bắc đều kéo đến phò đánh đuổi giặc đi thi ngươi sợ gì quân Tây Sơn bắt tội?
Trang đáp:
- Nếu đuổi giặc Tây Sơn đi rồi Chúa lại tha tội cho tôi được sao? Tha cho Chúa đằng nào tôi cùng chết. Chỉ có nộp Chúa cho quân Tây Sơn là tôi mới còn đường sống mà thôi.
Quán nổi giận mắng rằng:
- Thằng nghịch tặc kia. Nếu ngươi nộp Chúa cho Nguyễn Huệ mà Nguyễn Huệ không chém đầu ngươi thì hay trở về làng Giao Cốc này đào mả ta mà đổ xuống sông đi.
Nguyễn Trạng đỏ mặt nói:
- Nếu không nể tình thầy dạy tôi, tôi giết chứ không tha.
Nói rồi lệnh cho thủ ha khiêng cũi Chúa đi liền. Lý Trần Quán chạy theo khóc với Chúa Trịnh rằng:
- Hạ thần ngờ là cứu Chúa, không ngờ đã giết Chúa rồi.
Chúa Khải rơi nước mắt bảo Quán:
- Long trung của khanh ta đã biết. Sống chết là bởi mệnh trời đừng tự dằn vặt mình như thế, khanh hãy về đi. Ta là Chúa của thiên hạ đâu có thể làm nhục đến tổ tông.
Nói rồi rút dao ngắn trong người đâm cổ tự vẫn. Nguyễn Trang lẹ mắt giật con dao trong tay Chúa rồi hét quân đi mau. Lý Trần Quán ngỡ Chúa đã chết liền rút dao ngắn trong người đâm cổ chết theo.
Bọn Nguyễn Trang dẫn chúa Trịnh Khải đến gần thành Thăng Long Chúa vẫn chưa chết. Chúa Trịnh nghĩ thầm rằng:
- Lúc nãy Nguyễn Trang giật mất lưỡi dao nên vết thương cạn quá. Nếu ta con sống gặp giặc Tây Sơn chúng làm nhục mệnh thì sao?
Nghĩ xong liền thò ngón tay vào vết thương nơi cổ họng móc cho rộng ra. Khi Nguyễn Trang đem Trịnh Khải đến nộp cho Nguyễn Huệ nơi phủ chúa ở kinh thành Thăng Long thì Khải đã chết rồi. Nguyễn Huệ hỏi Trang:
- Ngươi chỉ có mấy mươi thủ hạ sao bắt được Trịnh Khải.
Nguyễn Trang vô tình cứ y như việc ở làng Giao Cốc mà kể. Nghe xong Huệ hỏi:
- Vì sao người lại bắt Chúa nộp cho ta?
Trang khúm núm đáp:
- Tướng quân kéo binh đến đây diệt Trịnh phò Lê. Thảo dân là con dân của vua Lê nên bắt Chúa Trịnh nộp cho tướng quân.
Nguyễn Huệ khen rằng:
- Ngươi thật là người trúng nghĩa biết vì vua vì nước. Nay ngươi đã làm một việc tốt cho nước, và hãy về nhà mà lo phần con dân.
Nguyễn Trang ngập ngừng thưa:
- Xin tướng quân thưởng công cho.
Huệ ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao người lại bảo ta thưởng công?
Nguyễn Trang đánh bạo hỏi lại rằng:
- Chẳng phải tướng quân đã ra thông báo rằng: "Ai bắt Chúa Trịnh đem nộp sẽ được thưởng công sao?
Huệ nghiêm mặt đáp:
- Chính ta ra thông báo như vậy.
Nguyễn Trang mừng rỡ thưa:
- Vậy là kẻ thảo dân tất được thưởng công.
Nguyễn Huệ quắc mắt bảo:
- Nếu ngươi bỏ đi mà không đòi thưởng công là nộp chúa để phò vua, ta tự khắc sẽ gọi lại thưởng công. Giờ ngươi đòi thưởng công rõ là phường phản sư, bán chúa, tội phải trừng, công gì mà thưởng. Võ sĩ đâu lôi ra chém.
Võ sĩ lôi Nguyễn Trang ra ngoài. Trang mếu mão than khóc rằng:
- Ngỡ rằng được sống làm công hầu, ngờ đâu phải chết làm quỷ không đầu. Lý Trần Quán thầy của ta thật là cao kiến.
Chém Nguyễn Trang xong, Nguyễn Huệ sai người theo vương lễ tống táng Trịnh Khải.
Xong việc ấy Nguyễn Huệ gọi Nguyễn Hữu Chỉnh đến bảo:
- Lúc mới chiếm được thành ta đã sai người sang phủ vua bảo vệ vua Lê cùng Hoàng gia. Nay mọi việc đã tạm yên ta nên đến yết kiến vua Lê cho rõ nghĩa tôn phò.

Triều đại Tây Sơn bi hùng (Phần 2)

Không có nhận xét nào: