Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013

Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 2

Chương 9
Ké bong hoàng đế

Lệ cùng chồng dọn đến một biệt thự nhỏ ở đường Hoa Hồng, Đà Lạt chẳng bao lâu thì có tin cựu hoàng Bảo Đại sắp trở về nước.
Cuối tháng ba năm 1949, Bảo Đại rời hẳn Hồng Kông trở về Việt Nam, theo lời yêu cầu của các nhóm chính trị quốc gia và sự vận động của Pháp, đang cần khoác cho cuộc viễn chinh tái chiếm thuộc địa một chiêu bài danh nghĩa.
Những cuộc "hành quân cảnh sát" cũng như bao nhiêu trận càn quét tấn công đại qui mô của quân đội Liên hiệp Pháp phải tiêu hao trước sức kháng chiến của chiến tranh du kích. Chiến tranh không giới tuyến từ Bắc đến Nam, tràn lan khắp nơi. Các thành phố lớn cũng lâm vào tình trạng bất an vì những hoạt động quấy rối của Việt Minh ở nội thành.
Cựu hoàng Bảo Đại trở về với địa vị Quốc trưởng, đóng đô luôn ở Đà Lạt và chú trọng đến các cuộc săn bắn, giải trí tại vùng Cao nguyên hơn các vấn đề chính trị rắc rối mà Pháp và các thuộc hạ quốc gia đều giành lấy để giải quyết.
Ý thức rõ vai trò quốc trưởng của mình ngày nay cũng không khác gì địa vị hoàng đế trước ngày thoái vị. Bảo Đại tiếp tục cuộc sống bên lề chính trường, mải mê theo các thú vai tiêu khiển đế vương dành sẵn cho một ông vua trị vì, được chung quanh khuyến khích, tổ chức. Người ta cũng chỉ mong Bảo Đại đừng lưu tâm đến chính trị mà chỉ biết có: săn bắn, nuôi chó và đàn bà.
Phủ Cao uỷ Pháp, theo ý kiến của các giới thực dân và mật thám Pháp kỳ cựu ở Đông Dương, phái một cựu nhân viên Việt Nam của Ngân hàng Đông Dương, làm Đổng lý văn phòng cho quốc trưởng.
Một dược sĩ thân Pháp đã sang Hồng Kông chung sống cùng Bảo Đại trong thời kỳ lưu vong được giới thiệu ra làm quản gia tin cậy cho quốc trưởng kiêm chức thủ hiến Trung Việt.
Ngoài ra, những ai có thể lui tới gần quốc trưởng cũng đều được trực tiếp hay gián tiếp có tình cảm với Pháp, hoặc liên hệ với Phòng Nhì Pháp, có nhiệm vụ "trông nom cẩn thận" cho đời sống của vị quốc trưởng Việt Nam không bị xao động bởi chính trị.
Đời sống phi chính trị của ông vua cuối cùng nhà Nguyễn trôi qua bên những lạc thú vật chất, từ biệt điện Đà Lạt đến khu nhà đi săn ở Buôn Mê Thuộc, trong khi bà hoàng hậu Nam Phương cùng các con ở bên trời Âu.
Lệ sống ở chốn Lâm Viên, vẫn nghe đến những lời bàn tán chung quanh nếp sống phóng túng, hưởng thụ của vị quốc trưởng khỏe mạnh, đa tình.
Lợi tức nhà sửa chữa xe hơi của chồng nàng hùn vốn không được dồi dào. Lệ phải nhờ hình thức chuyển ngân hàng tháng cho sinh viên du học ở Pháp mà kiếm thêm tiền để tiêu xài. Trong công việc xin "cát" để chuyển ngân hợp pháp rồi bán lại số tiền quan, Lệ đã nhờ vị Đổng lý văn phòng quốc trưởng giúp đỡ có hiệu quả.
Ông Đổng lý Nguyễn Huynh là bạn cũ ngày trước của anh chồng nàng hồi làm Tuần vũ Bình Thuận và có người em gái sắp sửa trở thành vợ Nhu nếu không có Lệ tranh mất người chồng đã đính hôn.
Cô tiểu thư bị tranh mất chồng, con thứ cụ án, em gái ông Đổng lý sau ngày đám cưới Nhu và Lệ đã âm thầm nương mình vào dòng tu kín, ngày nay đã trở thành "mẹ" bề trên tại một ngôi thánh đường ở Đà Lạt.
Vợ chồng Lệ nhận thấy ông Đổng lý chẳng những đã quên hẳn hiềm khích xưa mà còn tỏ ra sốt sắng giúp đỡ Lệ, được các đặc ân dễ dàng, và đi lại vui vẻ với ông bà Trần. Từ độ rời Hà Nội vào biệt thự đường Hoa Hồng.
Bà Trạng đang vận động đi Paris giữ chức nghị sĩ Liên hiệp Pháp đã được Phủ Cao uỷ Đông Dương chấp thuận, chỉ còn đợi sự chuẩn y của Quốc trưởng. Ông Đổng lý Nguyễn Huynh hứa hẹn sẽ tổ chức một cuộc hội kiến giữa Quốc trưởng và vị phu nhân cựu ngoại trường, nghị sĩ Liên hiệp Pháp tương lai.
Thế rồi, một buổi sáng, trong lúc bà Trạng đang quanh quẩn với khóm hoa hồng ở trước nhà thì nhận được giấy của ông Đổng lý vắn tắt mời vào biệt điện gặp Quốc trưởng, vừa đi săn ở Buôn Mê Thuộc về tới hôm qua.
Bà Trạng trang sức nhã lệ, đúng mười giờ, ngồi vào xe đi vào biệt điện. Ông Đổng lý đã chực sẵn đón bà Trạng rồi đưa thẳng luôn vào phòng khách đặc biệt của Quốc trưởng, bảo bà ngồi đợi ngài sắp ra và lặng lẽ biến đi.
Người quản gia của biệt điện, anh em họ với bà Từ cung, tự tay bưng một khay trà đặt trước mặt khách, rồi kín đáo bước qua phòng bên. Bà Trạng mải ngắm chiếc đầu con bò tót treo trên tường rồi nhìn đến con cọp to lớn đứng giữa nhà với đôi mắt già long lanh, những con vật tự tay chủ nhân đã bắn được thành vật trang trí, tạo nên một không khí đặc biệt ở khách thính.
Một giá gỗ đựng ống điếu thuốc Lào năm chiếc, ống nứa lên nước bóng như ngà với nét chạm gọt tinh vi, chứng tỏ chủ nhân có một thị hiếu đặc biệt, ham chuộng những đồ vật mộc mạc, man dại hơn đồ sứ, chén ngọc.
Người thiếu phụ kiều diễm hồi hộp chờ đợi, mở ví soi lại làn phấn nét son trong chiếc gương con, sửa lại mái tóc bồng bềnh, rồi vội ngẩng lên khi nghe tiếng chân lại gần.
Quốc trưởng với đôi kính đen muôn thuở, nở một nụ cười nửa miệng khi thấy vị phu nhân diễm lệ trong nhan sắc mùa thu.
- Bà ngồi. Mấy năm rồi hỉ? Tôi nhớ hồi ở Huế, bà Bộ trưởng Ngoại giao có vô trong nội, chào tôi trước khi về Bắc, thời Việt Minh khởi nghĩa, có phải không?
- Dạ, bẩm Hoàng thượng có trí nhớ lâu thật. Đúng thế đấy ạ.
- Hồi ấy, ông nhà làm ngoại giao, còn bây giờ, tới phiên bà tính đi làm nghị sĩ…
- Dạ, bẩm trăm sự cũng còn nhờ ở Hoàng thượng.
- Tôi nghe ông Đổng lý nói như rứa. Được rồi, với bà tôi tiếc chi một chữ ký. Bao giờ bà đi?
- Dạ, bẩm còn tuỳ ở quyết định của Hoàng thượng.
- Răng lại tuỳ ở tôi?
Bảo Đại mỉm cười chua chát, im lặng một lúc rồi nói:
- Chút nữa rồi ông Đổng lý đưa giấy tờ cho bà. Như rứa thì lương nghị sĩ Liên hiệp Pháp được bao nhiêu một tháng?
Cuộc hội kiến giữa nữ nghị sĩ Liên hiệp Pháp và Quốc trưởng kéo dài hơn một tiếng đồng hồ trong phòng khách đặc biệt. Ông Đổng lý đi tới đi lui ngoài hành lang, nghe ngóng xem đồng hồ, rồi bước vào văn phòng, bấm chuông gọi tài xế riêng lên, bảo đánh xe đến ngay đường Hoa Hồng, rước Lệ vào có việc cần.
- Nói riêng với cô ấy là sẽ gặp riêng đức Quốc trưởng đấy nhé.
Không đầy hai mươi phút sau, chiếc xe bóng nhoáng của dinh Quốc trưởng quay về, chở một thiếu phụ trang phục lộng lẫy. Lệ tươi cười bước xuống đã thấy ông Đổng lý đon đả xuống tận thềm đón vào.
Ông hạ giọng nói một bên tai Lệ:
- Đức Quốc trưởng có ra lệnh cho tôi mời bà vào, có chuyện cần muốn gặp riêng bà đấy.
Lệ khấp khởi nghe câu nói từ chính cửa miệng vị Đổng lý văn phòng Quốc trưởng thốt ra, thấy lòng rộn rã như tiếng thông rào rạt chung quanh biệt điện. Nàng cảm thấy run rẩy bước lên dãy tầng cấp hồng cẩm thạch, vừa đến giữa hành lang thì thấy một người đàn bà từ trong phòng khách ra.
Ánh nắng ban mai rực rỡ chiếu xiên vào bóng lá thông, gió thổi chập chờn in trên vách rung rinh làm cho Lệ choá mắt không kịp nhận ra ngay là mẹ mình. Dáng đi yểu diệu và màu áo hồ thuỷ quen thuộc, những bước chân thoăn thoắt mất hút dần vào ngõ hành lang đưa ra cửa xuống một bên biệt điện. Lệ ngạc nhiên toan cất tiếng gọi, chợt ông Đổng lý đi trước nàng quay lại nói:
- Cô vào phòng khách ngồi chờ một chút, tôi vào báo với Quốc trưởng.
Lệ đang xôn xao với cuộc hội kiến bất ngờ sắp đến, cũng không còn đầu óc nào thắc mắc về sự có mặt của mẹ nàng vừa rồi. Trông thoáng qua, Lệ đã nhận thấy mẹ có một vẻ khác lạ: mái tóc hơi xoã, màu son phấn nhạt, vạt áo nhàu nếp… từ trong kia ra.
Bước vào phòng khách, Lệ còn ngửi phảng phất mùi nước hoa quen thuộc của mẹ thoang thoảng đâu đây. Ông Đổng lý thoáng nhận biết nên bảo Lệ:
- Bà Trạng vừa ở đây, gặp đức Quốc trưởng về việc bổ nhậm bà làm nghị sĩ Liên hiệp Pháp.
- Dạ, còn tôi, ông có biết Quốc trưởng cho mời về việc gì không?
- Tôi cũng không được rõ. Hình như ngài muốn mời cô dạy đàn cho công chúa thì phải. Để tôi vào báo tin cô đến.
Ông Đổng lý quay lưng vào, Lệ nhìn thấy nụ cười tinh quái chạy thoáng qua trên khuôn mặt nhỏ thó, trơ lạnh.
Lệ nhìn bóng mình mơ hồ trong tấm tranh sơn mài lớn in rõ một nửa thân hình trên. Nàng sửa lại mái tóc xoã bên trán, che kín vết bớt nhỏ mà phấn mấy lớp thoa lên không làm chìm nhạt được hẳn. Màu áo huyết dụ với chiếc cổ tròn cắt theo kiểu mới làm cho cổ cô có vẻ bớt ngắn đi, phô bày hai bên bờ vai tròn lẳng và bên trên làn ngực nâng cao.
Lệ đang tự ngắm nghía, vị Đổng lý trở ra:
- Mời cô theo tôi vào đây, Quốc trưởng đang chờ.
Theo sau vị Đổng lý, Lệ bước vào một gian phòng bên trong, thấy Quốc trưởng đang ngồi ở chiếc ghế bành lớn, hai con chó boxer lớn nằm nép dưới hai bên chân.
Trong khi Quốc trưởng ngắm Lệ từ đầu đến chân qua đôi kính râm. Ông Đổng lý lặng lẽ lui ra.
Bên ngoài trời đang nắng bỗng ùn ùn mây đen kéo đến, tối sầm cả một góc rừng núi, tiếng sấm ầm dậy, rồi mưa tuôn xối xả trong những tiếng sét rung chuyển.
Sau trận mưa giông ồ ạt, Lệ từ tư phòng biệt điện bước ra, chiếc xe hơi của dinh Quốc trưởng chực sẵn đưa về đến tận nhà.
Hôm sau nhiều tiếng thì thầm từ các biệt thự truyền đi khắp Đà Lạt rằng hai mẹ con bà Trạng vào hầu Quốc trưởng, chạm trán nhau tại biệt điện. Những miệng lưỡi thóc mách còn loan: ông Đổng lý Nguyễn Huynh đã trả được mối thù cho gia đình ngày xưa, kẻ đã từ hôn em gái ông, dâng vợ ngủ với Quốc trường để dọn đường tiến thân. Bà mẹ vợ cũng xin vào hầu Quốc trưởng để được ngài ban cho chức nghị sĩ Liên hiệp Pháp. Người ta còn phao tin rằng cả hai mẹ con còn suýt đánh ghen với nhau tại biệt điện nếu không có Quốc trưởng đứng ra bắn súng chỉ thiên giải tán. Câu chuyện "một ngày dựa mạn thuyền rồng" được thêu dệt thổi phồng thành một đề tài "trà dư tửu hậu" chung quanh các giới kế cận vị nguyên thủ quốc gia.
Lệ tỏ ra phớt tỉnh trước mọi lời đồn đại, và sau hôm vào biệt điện, mỗi chiều vẫn có xe dinh Quốc trưởng đến đón nàng. Lệ bảo với chồng là nàng đã nhận lời dạy dương cầm cho công chúa Phương Liên, mỗi ngày hai giờ. Nhu im lặng trước lý lẽ vững vàng của Lệ, song không khỏi nhận thấy có sự đổi thay ở người vợ trẻ mà chàng vẫn một lòng tin yêu.
Sự thực, tâm trạng của Lệ lúc bấy giờ ra sao?
Cuộc tiếp xúc với vị Quốc trưởng đa tình, khỏe mạnh, phong nhã đã có một ảnh hưởng dữ dội đối với Lệ. Một cái gì mới lạ, sôi động như một cơn bão táp, sấm sét, đảo lộn tận đáy lòng nàng. Từ trước, Lệ chỉ gần gũi với người chồng mềm yếu, bạc nhược, nay bỗng dưng nàng gặp một người đàn ông thực sự, một giống đực chinh phục, gợi lên cho nàng tất cả khoái lạc, đắm say, châm ngòi cho ngọn núi lửa bấy lâu nàng vẫn ấp ủ trong lòng mà không hay biết. Và ngọn lửa âm ỉ dưới lớp tro tàn dồn ép, được khơi dậy, bốc lên ngùn ngụt, như muốn đốt cháy cả con người Lệ.
Những tiềm lực thể chất và tinh thần của Lệ bỗng nhiên tăng lên gấp bội biến nàng thành một ngọn đuốc đam mê. Lệ say sưa đắm mình vào trong nguồn khoái lạc mới mẻ, bất chấp mọi tai tiếng chung quanh. Người thiếu phụ lâu nay còn e dè, gìn giữ, từ đây lao mình vào con đường tình dục lôi cuốn nàng đi như dòng thác lũ.
Khoảng không cách biệt chung quanh biệt điện có thể che đậy kín đáo những cuộc hoan lạc, hiến thân của Lệ cho vị hoàng đế hưởng thụ sống không xa đàn bà quá một ngày, song những việc âm thầm trong tư dinh Quốc trưởng dần dần đưa đến tai Nhu, người chồng muôn thuở là kẻ sau cùng hay biết vợ ngoại tình.
Sau thái độ trầm lặng, lầm lì của Nhu, Lệ cảm thấy ấp ủ một sự ghen tuông sâu sắc, âm thầm ác liệt của chồng, qua vài sự nhận xét hay những câu nói lửng lơ mỗi khi Lệ ở biệt điện trở về. Hơn một lần, bà Trạng lưu ý về sự thay đổi của nàng cũng như những lời thì thào bàn tán chung quanh.
Song Lệ gần như thách thức, vượt qua mọi dư luận, và trái lại, nàng còn có vẻ hãnh diện trở thành người tình của Quốc trưởng.
Một tối, Lệ nằm ở ghế xích đu đọc sách, nghe chồng cùng một người bạn ở Huế mới vào bàn tán đến Bảo Đại.
Nhu nói:
- Suốt đời hắn chỉ làm bù nhìn để hưởng thụ. Dù cho hắn có quyền thực sự, hắn cũng không làm nên trò trống gì. Có lẽ hắn cũng biết vậy, nên chỉ lo săn bắn với gái. Hiện giờ, chung quanh hắn chỉ toàn là bọn tay chân, mật thám Tây và ma cô, từ lão Đổng lý đến Thủ hiến Trung Việt. Pháp không muốn gì hơn mà còn khuyến khích là khác nữa…
Tiếng người bạn trọ trẹ phụ hoạ:
- Đúng, hắn ta có số đỏ làm vua thật. Anh có rõ lai lịch của Quốc trưởng nhà mình không?
- Không, tôi chỉ nghe nói là hắn thiệt ra không phải con của Khải Định.
- Chà, anh sinh trường ở Huế mà không rõ thì thiệt lạ. Khải Định cũng như Tự Đức, liệt dương thì làm sao mà có con được? Rứa anh không nghe cụ Thượng hồi còn sanh tiền nói cho biết à?
Trước sự im lặng của Nhu, người bạn kể lể:
- Khải Định chỉ là một ông hoàng thất cơ lỡ vận, nợ như chúa Chổm vì đánh bạc, được bọn Pháp đem ra làm vua hồi đày Thành Thái và Duy Tân, mà cụ Thượng nhà ta không chịu ký tên, nên mới có câu: "Đày vua không Khả, đào mả không Bài". Anh không nhớ à? Đời muốn cha truyền con nối làm vua, nên mới nhận bừa đứa con người hầu của mình làm Đông cung Thái tử. Người đàn bà tốt phước được làm mẹ vua đó, nguyên là một mụ bán hến, quê quán ở Mỹ Lợi (Hương Cần) có tiếng về quít ngon, trong khi đi bán vô ra ở trong thành nội, tằng tịu có chửa với người hầu Khải Định, rồi được đưa vô ở trong cung. Đến khi sinh được con trai, bà ta liền được Khải Định nhận lấy làm con mình, đặt tên là Vĩnh Thuỵ và phong cho bà làm Từ Cung. Nguồn gốc vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn đầu đuôi như vậy đó. Hiện thời, người quản gia họ Hoàng của Quốc trưởng là anh em họ với bà Từ Cung, cậu vua Bảo Đại đó.
Tiếng nói ngừng một lúc rồi tiếp:
- Xem Bảo Đại có gì giống Khải Định không thì biết. Được số may mắn như vậy mà hắn chỉ lo ăn chơi thôi. Làm vua trong bao nhiêu năm rồi đến Tối cao Cố vấn của Việt minh, và ngày nay Quốc trưởng Việt Nam mà chung qui chỉ làm bù nhìn cho người ta giật dây.
Nhu ngắt lời:
- Vậy anh muốn cho Bảo Đại làm gì bây giờ?
- Làm gì thì làm, chớ không lẽ đứng đầu một nước trong lúc biến loạn như vầy mà chỉ biết có ăn chơi cho thoả thích lấy riêng một mình? Anh có biết tam cung lục viện của ông ta có bao nhiêu người không?
- Tam cung lục viện ở đâu?
- Bảo Đại không có tam cung lục viện - như mấy ông vua thời trước vì thời đại ngày nay không còn hợp thời nữa, song thiệt ra số cung tần mỹ nữ của đương kim hoàng đế cũng không kém gì xưa đâu. Bao nhiêu gái đẹp ở đâu, Thủ hiến họ Phan đều tìm đủ cách để tiến vua, thay đổi món luôn cho hoàng thượng khỏi chán. Không kể cả các bà mệnh phụ phu nhân tự ý hiến dâng cho hoàng thượng để cầu cạnh mở đường tiến chức thăng quan cho chồng.
Lệ thấy nóng bừng cả mặt khi nghe nói đến đây, toan lên tiếng mỉa mai người bạn Huế đã luôn miệng nói không ngớt:
- Hoàng đế như vậy, đến hoàng thái hậu cũng không vừa. Anh có biết Thủ hiến Trung Việt nào muốn ngồi lâu tại chức cũng phải được lòng bà Từ Cung không? Họ Phan hiện giờ là "cục cưng" của đức Từ đó! Tuy bà ta đã luống tuổi, song sâm nhung tẩm bổ nhiều vào y như đang độ hồi xuân, thái giám hầu hạ toàn đàn ông, trai tơ chớ không còn là hoạn quan mới được đưa ra vào nội cung như thời xưa.
Những lời lẽ vạch trần đả kích như được sự im lặng tán thành của Nhu khiến Lệ xốn xang quẳng sách đứng lên, tiến về phía chồng:
- Nãy giờ nghe hai anh nói khá nhiều về đời tư của ông Bảo Đại và bà Từ Cung, không biết là định lật đổ triều Nguyễn hay có ý gì khác?
Giọng nửa đùa nửa thật của Lệ khiến Nhu khó chịu, chưa biết trả lời ra sao. Người bạn Huế ngỡ Lệ thực tình góp chuyện liền đáp:
- Một ông vua hộp đêm như Bảo Đại, dù có thí đi, cũng khỏi sợ mang tai tiếng bất trung. Nhưng tôi thấy Bảo Đại có hay không cũng chẳng quan hệ gì cả. Xét cho cùng, trước sau ông ta cũng chỉ là một con người bù nhìn, dân chúng không ai tin tưởng, đến cả người Pháp đã đặt ông ta lên, có lẽ họ cũng chỉ coi là một cái bình phong để che đậy những âm mưu của họ mà thôi.
Lệ hỏi gặng:
- Anh đã biết rõ về ông Bảo Đại, vậy ví dụ ở địa vị của ông ta trong lúc này thì anh sẽ làm gì?
Câu hỏi bất ngờ của Lệ làm cho Nhu và người bạn Huế cũng không biết trả lời sao cho xuôi.
- Tôi nhường cho anh Nhu nói trước. Ừ, ví anh là Bảo Đại, anh sẽ làm gì khác hơn nếu không ham săn bắn, nuôi chó và thích đàn bà?
Nhu đâm ra lúng túng rồi gượng cười:
- Nhu tôi có phải là Bảo Đại đâu.
Lệ dồn dập nói:
- Thế sao lại chê trách ông ta! Tôi thấy dù các anh ở vào hoàn cảnh ấy cũng không làm gì khác hơn được. Vì bị bao vây, và Pháp có để cho mà làm đâu. Còn nguồn gốc ông ta, dù không phải huyết thống hoàng tộc, xuất thân dân đã đi nữa cũng chẳng làm sao. Ông ta ngồi ở ngai vàng bao lâu nay, mọi người công nhận là vua, thế là đủ rồi, có cần gì phải kê khai gia phả mới được coi là chân mạng đế vương?
- Chị Nhu bảo hoàng ghê hỉ?
Lời nói của người bạn Huế như khích động Lệ, trước nụ cười khó hiểu của Nhu.
- Anh không biết là tôi có dòng máu hoàng tộc à? Bà ngoại tôi là con gái của vua Kiến Phước, dĩ nhiên tôi phải bảo hoàng rồi. Nhưng đó là một vấn đề khác. Nghe câu chuyện của các anh, tôi chỉ muốn hỏi tại sao lại thù ghét ông Bảo Đại đến thế?
Nhu ngắt lời:
- Việc gì mà thù ghét Bảo Đại? Dễ thường phê bình ai là phải thù ghét hay sao?
Người bạn Huế tiếp theo:
- Chúng tôi chỉ phân tích những sự việc, chứng liệu về con người chính trì bất lực của Bảo Đại.
Lệ cãi lại:
- Nhưng Bảo Đại có phải là con người chính trị không mà bảo ông ta bất lực?
Nhu không ngờ vợ mình chằm chặp bênh vực con người mà chàng vừa thiếu thiện cảm, vừa ngấm ngầm có mặc cảm chống đối, nhất là từ khi mang máng nghe những lời bàn tán về Lệ trong biệt diện quốc trưởng. Song chàng không muốn bộc lộ ý nghĩ của mình trước mặt người bạn Huế, nên chỉ nói:
- Dù muốn hay không, Bảo Đại cũng không thể đứng ra ngoài vòng chính trị, vì ông ta là Quốc trưởng, và phải biết mình là lá bài của Pháp đưa ra để chống lại Việt Minh, rồi Mỹ dùng để đương đầu với Pháp.
Lệ không chịu thua:
- Thế chẳng phải Bảo Đại đã đòi hỏi được Pháp nhượng bộ nhiều điểm hơn là ông Hồ Chí Minh hay sao?
Nhu cười nhạt:
- Phải, Pháp đã nhượng bộ cho Bảo Đại những điểm mà họ đã từ chối với ông Hồ Chí Minh, vì họ thấy rõ Bảo Đại không có ảnh hưởng gì trong dân chúng và những điểm nhượng bộ trên nguyên tắc giấy tờ chỉ là hữu danh vô thực, mọi quyền hành vẫn ở trong tay người khác. Họ đưa Bảo Đại ra để làm bình phong cho dễ dàng tiếp tục chiến tranh chiếm lại xứ này mà thôi. Bảo Đại có thể làm một ông vua bù nhìn, nhưng nếu vô ý thức đến độ không biết mình là lợi khí để cho Pháp lợi dụng mà chống lại xứ sở thì không thể chối cãi tội trạng đối với lịch sử được.
- Anh cho là Bảo Đại có thể vô ý thức đến độ ấy hay sao?
Nhu nhìn vợ một lúc rồi đáp:
- Điều đó cũng còn đợi xem sao đã.
- Anh theo đuổi chính trị, anh Thượng cũng hay tiếp xúc với ông Bảo Đại, sao không nói rõ những điều đó ra?
Nhu im lặng thở khói thuốc lá rồi trầm trầm nói:
- Anh Thượng có nói cho ông Bảo Đại biết chớ, song ông ta không tỏ ý ra sao cả, và cũng vì vậy nên anh Thượng mới đi Mỹ.
Lệ có vẻ thắc mắc thành thật hỏi:
- Anh nghĩ ông Bảo Đại chỉ có thể là một thằng cha ngốc hay sao?
Thấy câu chuyện đã xoay qua một hướng khác, người bạn Huế lên tiếng:
- Có lẽ Bảo Đại chịu mang lấy tiếng ngốc để ăn chơi, hưởng thụ cho thoả thích thì đúng hơn.
Hai hôm sau, Lệ bảo chồng là nàng đi chơi rừng với cô học trò dương cầm, công chúa Phương Liên, đến tối mịt mới về. Nhu không tỏ vẻ nghi ngờ và cũng không để ý đến những dư luận chung quanh việc Lệ vào biệt điện mỗi chiều dạy âm nhạc, có xe dinh Quốc trưởng đón rước. Vị Đổng lý họ Nguyễn thỉnh thoảng gặp Nhu vẫn chuyện trò như không có việc gì xảy ra.
Cuộc sống êm đềm của gia đình Nhu như cảnh rừng núi lặng lẽ chốn cao nguyên bình thản trôi qua. Bỗng một chiều, Nhu nhận được một phong thư bảo đảm đề tên chàng trong đó có hai bức ảnh. Nhu tưởng mình hoa mắt trông nhầm khi thấy Lệ mặc quần áo tắm ngồi bên cạnh Quốc trưởng ở bên bờ suối. Tấm hình thứ hai, chụp cảnh trần truồng của hai người ở một góc rừng.
Nhu thoáng nghĩ đây có thể là những hình chắp nối theo lối xảo thuật của nhiếp ảnh ngày nay, song lòng ghen dữ dội của người chồng thấy rõ vợ ngang nhiên ngoại tình không kềm giữ được chàng ở trong thái độ trầm tĩnh hàng ngày được nữa.
Đầu óc Nhu quay cuồng lên, nghĩ đến những hình thức trừng trị vợ và báo thù kẻ đã cắm sừng lên đầu mình, song đến khi thấy Lệ từ xe dinh Quốc trưởng bước vào nhà, có vẻ ngạc nhiên trước đôi mắt sắc lạnh của chồng, Nhu chỉ lặng lẽ trao hai tấm ảnh cho vợ.
Lệ thoáng nhìn hai tấm ảnh, liếc qua chồng, rồi thong thả buông mình xuống ghế, im lặng đợi chờ. Nhu không bỏ qua một cử chỉ nào của Lệ, nhìn thẳng vào mặt vợ như dồn đối thủ vào chân tường. Hai người như hai con thú rừng đang giữ miếng sắp vồ nhau.
Trong im lặng nặng nề, nghe rõ cả hơi thở của mình, Nhu căm hận nhìn Lệ đang tức tối ngồi lỳ rồi vùng xé nát hai tấm ảnh.
Nhu cười gằn, lạnh lùng nói:
- Xé tan ảnh, nhưng có tiêu tan được tiếng ngủ với trai không?
Lệ chẳng khác nào một con thú dữ mắc bẫy, chồm lên:
- Phải, tôi ngủ với trai, rồi sao nữa?
Thái độ và giọng khiêu khích của Lệ khiến Nhu cau mày, khinh bỉ nhiếc mắng:
- Ngủ với trai, ngoại tình, đẹp lắm chớ còn sao! Có giống mà, mẹ nào con nấy, thiên hạ biết tiếng, danh giá lắm, ngủ với Quốc trưởng mà!
Những lời chua cay của Nhu như làm cháy bùng người vợ phạm tội, khiến Lệ điên tiết lên, to tiếng:
- Tôi có cần chối cãi đâu? Tại sao tôi lại ngủ với trai? Làm chồng phải biết tại sao vợ đi ngủ với trai chứ?
Nhu không chờ đợi ở một sự phản ứng bất ngờ như vậy, giận sôi lên, uất nghẹn:
- Tại sao?
Lệ nhấn mạnh từng tiếng trả lời:
- Còn tại sao nữa? Tại vì anh bất lực!
Nhu không còn dằn được bình tĩnh trước lời nói như đốt vào mặt người chồng mọc sừng, xông lại tát Lệ túi bụi rồi giận dữ bỏ đi ra ngoài.
Lệ cũng như chồng đều không rõ hai bức ảnh kia do ai gởi đến, và kẻ đã tò mò chụp trộm là ai.
Trong khi đó ông Đổng lý Nguyễn Huynh vẫn thản nhiên như không hề biết việc gì.
Nhu dò la mãi về sau mới biết tác giả đã đưa đẩy vợ mình vào tay Quốc trưởng, lén chụp các tấm ảnh trấn truồng rồi gởi đến cho chàng không ai khác hơn là họ Nguyễn trả thù chàng đã vì Lệ mà phụ hôn cô em gái ông ta, khiến cô buồn tủi phải đi tu, đồng thời mang tai tiếng cho gia đình cụ án Nguyễn.
Mối hiềm khích bao nhiêu năm như không còn nhớ đến, ông Đổng lý đã chọn vào lúc bất ngờ nhất, âm thầm dấy lại, gây nên bão táp phá vỡ yên vui hạnh phúc gia đình như gieo những lời đồn đại mỉa mai, theo đuổi giày vò mãi Nhu không biết đến bao giờ.
Nhu đang sống trong tình trạng khủng hoảng gia đình thì nhận được thư của anh từ Mỹ gởi về, kèm theo những mẩu cắt trong báo Mỹ, nhắn nhủ kín đáo cho Nhu rõ Hoa Thịnh Đốn bắt đầu chú trọng đặc biệt đến Bảo Đại, từ khi hồng quân Trung Hoa tiến tới biên giới Bắc Việt.
Giữa lúc đó, Ngô Đình Luyện, người em út Nhu từ Sài Gòn lên Đà Lạt gặp anh trước khi đi Pháp. Câu chuyện của hai anh em xoay quanh vấn đề thời cuộc đang biến chuyển.
Luyện nói:
- Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh đã bước vào một giai đoạn mới, từ khi quân của Mao Trạch Đông tràn xuống biên giới nước mình. Pháp và Mỹ muốn quốc tế hoá vấn đề Đông Dương trong khuôn khổ cuộc xung đột giữa hai khối Tây phương và Cộng sản. Nhờ đó Bảo Đại ngày nay trở nên "lá bài của Mỹ" theo sự tham gia viện trợ của Mỹ vào chiến tranh ở đây.
Nhu đưa ra mấy bài báo vừa nhận được "của anh Thượng gởi".
- Theo đây, dư luận Mỹ trước cho Bảo Đại là một kẻ đào ngũ, truỵ lạc, một ông vua hộp đêm, ngày nay đã thay đổi hẳn, bắt đầu gọi Bảo Đại là "kẻ vô địch bảo vệ pháo đài tự do đang bị Công sản đe doạ".
Luyện góp ý kiến:
- Mỹ càng viện trợ càng can thiệp vào Việt Nam thì uy thế Bảo Đại càng tăng. Anh Thượng đang vận động bên kia, Mỹ có đưa về chấp chính cũng phải có sự đồng ý của Bảo Đại. Như vậy, ở đây chúng mình cần làm sao để gây ảnh hưởng đối với Bảo Đại thì việc trở về của anh Thượng cũng được dễ dàng thêm.
Lệ ngồi lắng nghe anh em chồng bàn bạc, lên tiếng nói:
- Nếu cần gây thiện cảm với ông Bảo Đại, tôi đang dạy cho công chúa Phương Liên, tôi sẽ lãnh công tác ấy.
Luyện không rõ ẩn tình của chị dâu và thấy Nhu im lặng, liền tán thành:
- Có chị giúp một tay để ngoại giao vận động cho anh Thượng thì hay lắm.
Nhu vẫn không nói gì, Lệ nghĩ chàng đã ưng thuận và cũng không biết làm sao để ngăn cản nên sau đó, nghiễm nhiên trở thành nữ nhân vật vận động bên cạnh Quốc trưởng cho địa vị Thủ tướng tương lai của anh chồng.
Cuộc dan díu tình dục của Lệ khoác lên một màu sắc chính trị, khiến cho nàng tự gánh lấy một vai trò quan trọng.
Thái độ im lặng, lạnh lùng của Nhu khiến cho Lệ càng tự ý phóng túng.
Lệ bắt đầu chú ý đến các nữ nhân vật liên hệ đến chính trị và mải mê đọc tiểu sử những Marie Stuart, Catherine de Médicis, Cléopatre, Marie - Antoinette, Lucrèce Borgia... Lệ đã tự tay chọn mua lấy những sách chữ Pháp này trong các chuyến về Sài Gòn.
Từ ngày thấy rõ tính nết lăng loàn quá độ của vợ, Nhu càng trở nên bình thản thâm trầm, lạnh lùng ít nói trong khi nghiền ngẫm theo đuổi con đường chính trị tương lai. Chàng ít khi ra ngoài và càng mải miết đọc sách, ghi chép bên cạnh bàn đèn á phiện.
Nhu có thể mượn chất ma túy để quên được tâm trạng khốn khổ của người chồng biết vợ ngoại tình không? Tại sao chàng lại không quyết liệt ngăn chặn vợ ngang nhiên đi lại với người đàn ông khác?
Thực ra, Nhu không đủ cường lực, do ở trạng thái bất lực của chàng. Mặc cảm không chinh phục được Lệ trong đời sống chăn gối đã làm giảm cả nhuệ khí của người chồng trước mặt vợ. Nhu không còn đủ sức chi phối, thiếu uy quyền của người đàn ông răn bảo được Lệ. Tình trạng nhu nhược trước một người vợ đòi hỏi nhiều mà không được thỏa mãn khiến Nhu đâm ra lặng lẽ, ít nói ít cười, luôn luôn có mặc cảm tự ti về sinh lý. Tư tưởng thầm kín về sự yếu đuối của Nhu càng bộc lộ rõ rệt trong đời sống đôi lứa, từ sau ngày chàng nhận hai tấm ảnh quái ác tố cáo cảnh tượng ngoại tình của Lệ. Nhưng làm thế nào mà Nhu có thể đóng vai "chồng chúa vợ tôi" trước một người đàn bà vẫn bất mãn, tuyệt vọng chứng kiến sự bất lực của chồng?
"Matrimonium non consummatum est" - cuộc hôn phối không thành tựu - Nhu nhớ đến câu chữ La-tinh đã đọc qua trong một cuốn tình sử vua chúa thời còn đi học ở trường dòng Chartres và người chồng bất lực không có được sự bảo vệ nào trước người vợ phóng túng.
Nhu có thể viện ra lý lẽ để kêu gọi Lệ đừng tiếp tục phạm vào các điều răn thứ sáu (chớ làm sự dâm dục) và thứ chín (chớ muốn vợ chồng người) trong 10 điều răn của Chúa không có ảnh hưởng gì đối với Lệ là người theo đạo vì lễ nghi hình thức bắt buộc trong khi lấy chồng, chớ không phải vì tín ngưỡng.
Nhưng nguyên nhân chính việc ngoại tình há chẳng phải là sự bất lực của Nhu và sự không thoả mãn của Lệ hay sao? Trong điên cuồng tình dục, Lệ trở thành một người đàn bà tuyệt vọng đáng thương hay đáng nguyền rủa? Đời sống lứa đôi thiếu quân bình không có giá trị tình cảm, tinh thần nào bù đắp đã xô đẩy Lệ đi tìm kiếm những khoái lạc thoả mãn mà Nhu đã không đưa lại cho nàng.
Tình trạng bi đát này kéo dài càng làm cho Nhu thêm lầm lỳ, khốn khố, với những lời lẽ thị phi chung quanh thị trấn Đà Lạt nhỏ.
Trong khi ấy, thời cuộc bên ngoài càng dồn dập: chiến tranh bùng nổ ở Triều Tiên, Mỹ tăng cường viện trợ ở Đông Dương, tham dự vào những quyết định chính trị và quân sự.
Nhu lại tiếp tục được thư anh từ Hoa Thịnh Đốn gởi về báo tin đã được Giáo hội Mỹ, qua sự đỡ đầu của Hồng y Spellman ủng hộ cho công cuộc vận động của Ngô Đình Diệm.
Dịp tốt đã đến với Nhu để rời bỏ không khí nặng nề của Đà Lạt. Chàng bảo Lệ:
- Mỹ đã nhất quyết nhảy vô vòng chiến ở xứ mình, viện trợ thêm nhiều, thế nào rồi cũng lấn át ảnh hưởng của Pháp và thay thế họ trong tương lai. Anh Thượng vừa biên thư cho hay có nhiều hy vọng sẽ được Mỹ đưa về cầm quyền.
- Thế còn ông Bảo Đại?
- Ông Bảo Đại dù sao cũng đã đi sâu với Pháp, lại không được dân chúng tín nhiệm mấy, có thể chỉ còn giữ danh vị Quốc trưởng thôi. Chứ quyền hành thực sự tất nhiên Mỹ sẽ giao cho người họ tin cẩn. Nhân vật có uy tín, chống Pháp, được lòng Mỹ, Hoa Thịnh Đốn đã chọn không lầm, đó là anh Thượng. Giáo hội Mỹ cũng lên tiếng ủng hộ anh Thượng, theo tin trong thư anh vừa nhận được. Như vậy, anh tính phải về ở Sài Gòn.
Lệ ngạc nhiên trước quyết định bất ngờ của chồng:
- Về Sài Gòn làm gì?
Nhu trình bày kế hoạch của mình:
- Đi đôi với cuộc vận động của anh Thượng ở bên Mỹ, ở trong nước mình phải tạo nên một lực lượng để làm hậu thuẫn ủng hộ anh Thượng trở về cầm quyền chớ. Chương trình và sách lược hoạt động, trước đây anh đã bàn kỹ với anh Giám mục, anh Thượng, chú Luyện rồi, bây giờ đã đến lúc phải đem ra thi hành.
Lệ nhìn chồng, nhận thấy con người nhu nhược trong đời sống chăn gối đã trở nên hoạt bát, sâu sắc khi đề cập chính trị và lòng nàng không khỏi cảm mến, hy vọng ở tương lai mà chồng có thể mang lại. Nhu nói tiếp:
- Xét tình hình hiện thời, có Mỹ nhúng vào, thế nào rồi chiến tranh cũng không còn kéo dài lâu nữa và ngày anh Thượng trở về không còn xa. Anh định về Sài Gòn, một mặt liên kết, tập hợp các bạn hữu, đồng chí, một mặt vận động ra một tờ báo để làm cơ quan cho công cuộc vận động chính trị này. Em sẽ có thể giúp anh được nhiều trong việc tổ chức, liên lạc, hoạt động dọn đường cho anh Thượng về cầm quyền.

Lệ nhìn chồng một cách cảm mến, quên hẳn mặc cảm bất lực của Nhu và nàng cũng bị lôi cuốn theo những lời nói trầm trầm đang tạo ra ảo ảnh cho một ngày mai quyền thế sáng chói của anh em họ Ngô, mà Lệ là người đàn bà độc nhất đứng giữa.

Chương 10
Những ngày vận động

Sau nhiều ngày chạy vạy tiền bạc của Lệ và xoay xở bài vở của Nhu, tạp chí XÃ HỘI ra mắt.
Nhu dự định dùng cơ quan này để cổ động cho chủ nghĩa cần lao nhân vị mô phỏng theo học thuyết personnalisme( chủ nghĩa nhân vị) của Pháp, với tham vọng đặt căn bản tư tưởng cho đường lối hoạt động của chàng. Đồng thời Lệ và Nhu liên lạc, tập hợp được một số bạn hữu Công giáo làm ủng hộ viên cổ động cho "chí sĩ Ngô Đình Diệm" về nước.
Trong các buổi họp ở căn nhà nhỏ đường Ypres. Nhu đem phổ biến các mẩu báo "của anh Thượng" từ Mỹ gởi về, tán dương việc đưa Diệm về Việt Nam cầm quyền.
Sài Gòn 1953 đang sống trong không khí một thủ đô giữa chiến tranh. Khói lửa khắp Việt Nam tràn lan qua Ai Lao, bùng cháy cả bán đảo Đông Dương. Chính trị xen kẽ với chiến tranh sôi sục khắp nơi. Ba Lê và Hoa Thịnh Đốn chăm chú theo dõi biến chuyển thời cuộc ở Việt Nam.
Tình hình quân sự kéo dài bất lực trước cuộc kháng chiến dẻo dai của cả một dân tộc đang lớn mạnh, bao nhiêu tướng tài danh của Pháp đã phải thúc thủ. Các chính giới Pháp bắt đầu đề cập việc thương thuyết, lo ngại trước viễn ảnh đe doạ; dù có thắng, Pháp cũng sẽ phải từ bỏ Đông Dương trước áp lực của viện trợ Mỹ và đòi hỏi phải hoàn thành việc trao trả độc lập cho các quốc gia. Các phe quốc gia Việt Nam mà Pháp chỉ muốn lợi dụng để chống Việt Minh cũng đòi cho xứ sở được hoàn toàn độc lập.
Mặc dầu những quyền lợi lớn lao của các giới tư bản Pháp do sự chuyển ngân đồng bạc, qua viện trợ đô-la của Mỹ, các giới chính trị Ba Lê bắt đầu nhận thấy rõ rệt tám năm chiến tranh mù quáng sắp đưa đến một kết quả tai hại khó tránh khỏi, cần phải sớm chấm dứt gánh nặng ghê gớm, trong khi dư luận báo chí, dân chúng, nghị trường tán thành một giải pháp chính trị để nước Pháp kịp dừng chân trước vực thẳm chiến tranh Đông Dương, phiêu lưu không lối thoát, hy sinh phi lý, điên cuồng.
Giữa lúc này, Nhu bàn tính với kẻ phụ trách tuyên truyền của phe ủng hộ "chí sĩ Ngô Đình Diệm" là Cao Xuân Vỹ, mang phổ biến những tin tức "chí sĩ họ Ngô sắp về nước" và các bài báo ngoại quốc đả kích Bảo Đại.
Lệ hỏi chồng:
- Mình cần tuyên truyền cho việc anh Thượng trở về chớ công kích Bảo Đại làm gì?
Nhu cười nhạt đáp:
- Em không rõ, mặc dù Mỹ ủng hộ anh Thượng, song Bảo Đại vẫn là Quốc trưởng, cho nên mình cần phải tạo ra một dư luận: dân chúng không thích Bảo Đại, như vậy, gián tiếp nâng cao uy tín của anh Thượng, để rồi Mỹ sẽ chỉ còn chú trọng đến anh Thượng mà thôi. Bằng đủ mọi cách, mình cần đánh ngã gục ảnh hưởng còn sót lại của Bảo Đại. Đến khi anh Thượng về nước lập chính phủ, càng dễ dàng được dân chúng nghe theo.
Nhu còn giải thích thêm cho các ủng hộ viên về tình hình nội bộ quốc gia:
- Hiện giờ các đảng quốc gia cũng như các giáo phái ta không có gì đáng ngại. Trước dân chúng cũng như đối với Mỹ họ đã bị brulés (đốt cháy) vì theo Pháp và Bảo Đại lâu nay, hoặc không có người lãnh đạo đáng kể. Vì vậy, vừa rồi họ tổ chức MẶT TRẬN QUỐC GIA ĐOÀN KẾT rồi tham dự HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC theo ý của Bảo Đại, tôi từ chối không hợp tác và khuyên anh em nên đứng ngoài. Mình phải giữ cho cái carte (lá bài) của phe "chí sĩ Ngô Đình Diệm" không bị dính líu gì đến những "cú" mưu mô lúc này, dễ nói chuyện nay mai. Lúc này, sắp đến thời cơ của anh em chúng ta rồi, cần phải làm cao và có liên lạc với phe phái nào đó cũng chỉ là hợp tác hình thức, giai đoạn mà thôi. Toàn một bọn xôi thịt, tranh giành địa vị, đánh hơi thấy đâu có thể kiếm ăn được, chúng nó nhào tới. Nghe anh Thượng tôi được Mỹ ủng hộ sắp đưa về, chúng nó đang tìm đủ mọi cách phá, đồng thời muốn chìa tay ra hợp tác để mong kiếm chỗ đứng sau này! Không! Tôi không bao giờ chịu đi với bọn đó.
Nhu ngừng lại rồi nói tiếp:
- Lúc này một mặt anh em cần làm việc cho dân chúng chờ đợi ở "chí sĩ Ngô Đình Diệm" và một mặt phải hạ uy thế Bảo Đại đối với trong nước cũng như với Mỹ.
Nhu đưa ra các bài báo ngoại quốc đã định sẵn, in giấy ronéo cho Cao Xuân Vỹ mang đi phân phát.
Người ta đọc thấy trong các truyền đơn ấy những dòng sau đây:
"Nếu ở Việt Nam có một vùng Việt Minh và, một vùng Bảo Đại, thật khó khăn mà gặp được một người Việt theo Bảo Đại, trừ ra kẻ ấy có tham dự chính quyền hoặc có lợi lộc gì nhờ đi với Bảo Đại mà thôi. Có một sự kiện hiển nhiên: Bảo Đại đã thất bại ở chỗ Hồ Chí Minh thành công, Bảo Đại tỏ ra bất lực không tập hợp được dân chúng quanh mình. Nước Việt Nam của Bảo Đại càng ngày càng giống nước Tàu của họ Tưởng với những vụ tai tiếng xấu xa và chính khách chuyên quyền. Đây là xứ mà những tài sản của các ông Bộ trưởng tăng lên gấp bội trong vài tiếng đồng hồ, một chứng chỉ y tế cho một thanh niên khỏi bị động viên giá 10.000 đồng. Tất cả những âm mưu chính trị đều biến thành những số tiền kếch xù ở những ngân hàng và cuộc phát động sôi nổi của báo chí chống lại việc hạ giá đồng bạc đột nhiên đứt ngang trước sự đe doạ tố cáo những vụ chuyển ngân mới rồi ở Viện Hối đoái của các nhân vật cao cấp… Chế độ Bảo Đại không có ngoại giao, quân đội lệ thuộc viễn chinh và tài chính thì hoàn toàn do Pháp, chế độ thuộc địa tan rã giống như chế độ Tưởng Giới Thạch. Như vậy gán cho chế độ Bảo Đại có một nếp sống quốc gia, điều ấy hoàn toàn sai. Tự thuỷ chí chung nó là một bộ phận xa lạ với Việt Nam. Nhưng nói về sự tan rã, nó còn vượt xa Quốc dân Đảng Trung Hoa; chế độ của họ Tưởng bị sự thối nát xâm chiếm và làm hư hỏng. Chế độ Bảo Đại do sự thối nát đẻ ra.
Việc kê khai số Bộ trưởng và tay chân chủ yếu của ông vua sa đoạ chẳng khác nào lật thêm chồng thẻ của Sở Lục Hình Pháp ở Đông Dương ngày trước. Nguyễn Văn Tâm, Thủ tướng - con trai Nguyễn Văn Hinh, Tổng tư lệnh quân đội Bảo Đại trước năm 1947, đã từng làm nhân viên cảnh sát mật thám. Vĩnh Cẩn, anh em họ Bảo Đại. Phan Văn Giáo, Thủ hiến Trung Việt, tướng Xuân, Trần Văn Hữu, hai vị cựu Thủ tướng đứng hàng đầu những kẻ đã chuyển vô khối bạc sang Pháp cao hơn cả Bảo Đại nửa.
Những phần đất do đạo quân viễn chinh kiểm soát và Bảo Đại "cai trị đều trở lại một tình trạng phong kiến mà chưa hề có một dân tộc Á Đông nào phải chịu đựng đến thế.
Vài tiểu lãnh chúa đánh giặc thuê được đạo quân viễn chinh mua chuộc để tăng thêm quân số của Bảo Đại, bằng cách trao cho họ một vùng đất đai Việt Nam, với những tính mạng và tài sản dân chúng tại đó.
Nhưng sự hiện diện của đạo quân này cũng không đủ bảo vệ trật tự, người ta nhờ đến những trại tập trung và đủ mọi hình thức khủng bố phát xít. Một đạo luật của Bảo Đại cho phép bắt giam, không cần phải xét xử, tất cả mọi kẻ bị tình nghi trong một thời gian vô hạn định. Đối với một "sĩ quan của Bảo Đại, kẻ bị tình nghi có thẻ bỏ nhiều tiền ra để lo lót sẽ được trả tự do. Còn công an Bảo Đại thì thôi khỏi phải nói đến!
Trong chế độ bùn lầy và thối nát lạ lùng này, tất cả đều bán chác, từ tên tuỳ phái đến Quốc trưởng - dĩ nhiên giá cả tuỳ theo cấp bậc, và có vị bộ trưởng đã bán một tài liệu mật của quốc gia cho hai ký giả ngoại quốc với giá chưa đầy 100.000 quan (10.000 đồng bạc).
Nghĩ rằng dân tộc Việt Nam có thể một ngày kia chấp nhận được chế độ này thật là điều vô liêm sỉ".
Sau các bài báo trích dịch ở PARIS - PRESSE LES TEMPS MODERNES, Nhu đã kết luận bản truyền đơn bằng lời kêu gọi dân chúng chờ đợi ở một chí sĩ quốc gia sắp sửa từ hải ngoại trở về cứu nước.
Trong khi đó, nhờ sự giao thiệp với mấy người bạn Mỹ ở Sài Gòn, qua những giới thiệu gởi gắm của các nhân vật đỡ đầu "anh Thượng" tại Hoa Kỳ. Nhu hay tin Pháp đang tính chuyện điều đình với đối phương.
Trong cuộc hội họp hàng tuần với các đồng chí, Nhu đứng ra trình bày tình hình theo những tin tức đã thu nhận được.
Tháng hai 1953, Pinay có gởi thơ cho Bửu Hội và Raphael Leygues sang Rangoon để gặp đại biểu của ông Hồ Chí Minh. Lập trường của Việt Minh là chỉ nhận lời tiếp xúc với điều kiện chính phủ Pháp phải có thiện chí thương thuyết rõ rệt và giao phó cho các nhân vật trách nhiệm.
Pháp lúc này biết mình không thể thắng được trong chiến tranh, mà cũng không muốn mất, nhưng lại không dám quốc tế hoá, vì sợ mất Đông Dương vào tay Mỹ.
Tâm trạng đó, mới rồi ngoại trưởng Georges Bidault sang Hoa Thịnh Đốn gặp Foster Dulles có nói rằng: "Chiến tranh Cao Ly xong. Chiến tranh Đông Dương đang còn. Phải chấm dứt cả hai cuộc chiến tranh một lúc. Hoà bình hay dễ lây. Mỹ đã chấm dứt chiến tranh Cao Ly vì chú trọng đến dư luận dân chúng. Pháp cũng phải chú trọng đến dư luận dân chúng của mình, Pháp không thể tiếp tục chiến tranh một mình. Pháp không bỏ qua một phương tiện nào để chấm dứt chiến tranh nhưng Pháp không muốn chấm dứt bằng bất cứ phương tiện nào. Đặc biệt là không thương thuyết trực tiếp với ông Hồ Chí Minh". Theo đó, Pháp muốn lôi kéo Mỹ vào.
Tổng thống Eisenhower vừa xin được quốc hội chấp thuận 400 triệu đô-la "dành để tổ chức một quân đội Việt Nam thực sự". Bảo Đại mới ký sắc lệnh tổng động viên.
Nhu nhìn qua các bạn, đôi mắt sáng lên:
- Mỹ càng viện trợ nhiều Pháp phải nhượng bộ thêm. Nghĩa là thời cơ của chúng ta càng gần vì theo tin tôi vừa nhận được sáng nay, anh Thượng đã đi từ Mỹ qua Pháp. Mỹ bỏ tiền ra, tất nhiên Pháp phải nghe theo. Bộ trưởng tài chính Pháp vừa bỏ ra một trăm tỷ quan cho kế hoạch Navarre. Được Mỹ viện trợ, chiến đấu chẳng những không hao tổn mà còn lợi nhiều cho Pháp nữa, vì máu của binh sĩ được trả bằng đô-la, chính phủ Pháp trục lợi được nhiều nhất trong việc chuyển ngân đồng bạc, Pháp vừa đánh sụt giá đồng bạc còn 10 quan cũng vì thế. Tình hình này tiếp diễn, chỉ trong nay mai Pháp phải nghe theo Mỹ sẽ đưa anh Thượng về, Đô đốc Radford, Tổng tư lệnh Hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương vừa ghé qua đây.
Cao Xuân Vỹ lên tiếng:
- Thấy báo chí Pháp nói Navarre đang gài một cái bẫy lớn ở Điện Biên Phủ đâu ngoài Bắc, định tiêu diệt quân Việt Minh.
Nhu mỉm cười nói:
- Pháp đang muốn kiếm một ưu thế quân sự để cho dễ việc điều đình với Việt Minh. Nhưng nhận xét toàn bộ, ta thấy Pháp muốn tiếp tục chiến tranh, bắt buộc phải nhờ cậy thêm Mỹ, mà muốn điếu đình cũng phải có hậu thuẫn của Mỹ, trong khi Trung Cộng đứng sau lưng Việt Minh. Còn về nội bộ quốc gia, Bửu Lộc vừa lên thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm, có thể nói Tâm là lá bài chót của Bảo Đại với Pháp. Anh em hiểu ý tôi muốn nói chi không? Bảo Đại lúc này đang ở Cannes, chắc sẽ ở luôn bên Pháp. Vì thực ra, Mỹ cũng như Pháp đều muốn cho ông ta đừng biết gì đến tình hình Việt Nam cả.
                               ***

Ngô Đình Diệm sau cuộc du hành cùng người anh Giám mục đi La Mã, rồi sang Ba Lê, Bruxelles, tiếp xúc với các bạn hữu lưu vong tại Pháp và Bỉ, vận động cho địa vị cầm quyền tương lai ở chính trường Việt Nam. Nhờ sự đỡ đầu của Đức Hồng y Spellman, Diệm được giới thiệu vào ở trường dòng Maryknoll Seminaries ở Ossining (Nữu Ước) và Lakewood, New Jersey.
Trong thời gian lưu vong trên đất Mỹ, Diệm ra sức tuyên truyền cho chủ trương quốc gia chống cộng, chống Pháp thực dân bằng các buổi nói chuyện ở các đại học đường Mỹ. Tổ chức Thiên chúa giáo Hoa Kỳ giúp đỡ nhiều cho Diệm hoạt động, và các trường học ở Michigan, Ohio, New York lần lượt tổ chức các cuộc nói chuyện để mời Diệm đến trình bày đường lối chính trị của mình.
Diệm đã được giới thiệu tiếp xúc với một số nhân vật Mỹ ở Quốc hội Mỹ chú trọng đến vấn đề Á châu như bác sĩ Watter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, John F. Kennedy.
Cũng trong thời kỳ này, Diệm làm quen với tổ chức chống cộng của linh mục Raymond de Jaegher.
Giữa lúc Mỹ chịu hai phần ba tổn phí chiến tranh ở Đông Dương, một phái bộ quân sự Mỹ thiết lập tại Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn sắp cấp thêm ba trăm tám lăm triệu đô-la để trang bị quân đội các quốc gia liên kết. Diệm được tin Pháp đang tính mở cuộc điều đình với Việt Minh trước ngày chiến trận Điện Biên Phủ bắt đầu.
Sau buổi lễ sáng, Diệm vừa ở nhà thờ ra về, cầm lấy tờ NEW YORK TIMES đọc thấy một bài phỏng vấn ông Hồ Chí Minh của một ký giả Thụy Điển trích ở báo EXPRESSE.
Lãnh tụ Việt Minh tuyên bố sẵn sàng nghiên cứu mọi đề nghị ngừng bắn nếu Pháp muốn chấm dứt chiến tranh. Diệm gạch bút chì đỏ câu trả lời của ông Hồ Chí Minh: "Cuộc thương thuyết đình chiến chỉ liên hệ đến chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam", rồi ghi một bên: "Mỹ chịu phần lớn tổn phí chiến tranh có để cho Pháp thương thuyết với cộng sản không?"
Câu hỏi ấy, Diệm thắc mắc đưa ra hỏi mấy nhân vật quen biết người Mỹ có thẩm quyền và đều được trả lời đại khái: "Không, Mỹ không thể cho Đông Dương lọt vào tay Cộng sản!"
Trong khi đó, ở thủ đô Ba Lê dư luận chính giới phản ánh qua báo chí, đột nhiên nhận thấy gánh nặng chiến tranh ở Việt Nam quá nặng nề, khó mang nổi và viện trợ Mỹ mặc dù hết sức lợi lộc, dồi dào tiếp tế ngoại tệ lớn lao cho Pháp người ta không còn muốn nhận lấy vai trò "tiên phong của thế giới tự do" mà Hoa Thịnh Đốn muốn cho Pháp giữ ở Đông Nam Á. Nhất là tình hình các thuộc địa Pháp ở Bắc Phi đang lộn xộn. Tại Việt Nam, nhiều phản ứng trái ngược nhau. Bảo Đại tuyên bố với đặc phái viên nhựt báo Le Monde: "Những lời của ông Hồ Chí Minh nếu có thật đi nữa cũng ở ngoài thẩm quyền định đoạt của chính phủ và Quốc trưởng Việt Nam".
Trái lại Thủ tướng đương thời Nguyễn Văn Tâm cho rằng không nên bỏ qua những lời lẽ của ông Hồ Chí Minh do Đài phát thanh Việt Minh đã loan lại, và cần phải đưa ra những đề nghị ràng buộc ông Hồ Chí Minh xác nhận việc hưu chiến.
Theo dõi tin tức các đài phát thanh và báo chí, cùng tiếp xúc với vài chính khách Mỹ, Diệm nhận thấy khó tránh khỏi một cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Việt Nam. Giữa lúc có tin Mạc Tư Khoa chấp thuận đề nghị của Tây phương, họp hội nghị Tứ Cường tại Berlin, và Anh, Pháp, Mỹ sắp gặp nhau tay ba tại đảo Bermudes.
Diệm đâm ra luống cuống thêm khi được một người bạn ở cơ quan dọ thám F.B.I cho hay tin Tổng trưởng quốc phòng Pháp René Pleven vừa phái nghị sĩ xã hội Alain Savany đi tiếp xúc với Việt Minh qua ngả Mạc Tư Khoa.
Rồi tin từ Sài Gòn của Nhu đưa qua cho hay Bảo Đại vừa trở về nước. Các phe quốc gia nhận thấy hiểm họa của một cuộc thương thuyết giữa Pháp và Việt Minh sau bài phỏng vấn ông Hồ Chí Minh đòi hỏi Quốc trưởng thải hồi Nguyễn Văn Tâm và lập một chính phủ quốc gia thực sự, đồng thời đòi Pháp phải sớm kiện toàn nền độc lập.
Diệm liền đi gặp mấy chính khách đỡ đầu và cố vấn Mỹ để đặt vấn đề mình trở về nước thì được tin Bảo Đại vừa cử Bửu Lộc, Cao uỷ ở Pháp về làm Thủ tướng.
Trong các chính giới và báo chí ở Hoa Thịnh Đốn lúc này, Diệm nhận thấy nhiều dấu hiệu lo âu trước những lời yêu cầu liên tiếp của Pháp xin viện trợ. Người Mỹ bắt đầu ý thức là Pháp đã kiệt lực ở Đông Dương và kế hoạch mới của tướng Navarre không thấy mang lại triệu chứng gì khả quan, trong khi Việt Minh càng ngày càng thắng thế. Các giới quân sự có ảnh hưởng lớn với đô đốc Redford, Tổng tham mưu liên quân, một người bạn ủng hộ Diệm, và toàn thể phái hữu Đảng Cộng hoà do Tổng thống Nixon cầm đầu đều nhãn mạnh về tính chất nghiêm trọng và lên tiếng hô hào người Mỹ phải ra tay nếu không muốn thấy cảnh Cộng sản tràn ngập xuống Đông Nam Á.
Diệm mừng rỡ thấy thời vận của mình sắp đến, viết thư về Sài Gòn cho Nhu báo tin sắp từ giã Hoa Kỳ.
Trong một cuộc họp bàn với các nhân vật đỡ đầu Mỹ, Diệm được nghe những lời đảm bảo ủng hộ nồng nhiệt.
Trước những sự bất lực của Bảo Đại và các phe quốc gia, cũng như trước bao nhiêu sự thối nát, hư hỏng ở chính trường Việt Nam đương thời, các chính khách Mỹ thành thật đặt tin tưởng ở vị cựu đại thần nhà Nguyễn đang được Vatican và Đức Hống y hết lòng nâng đỡ. Đồng thời có một lực lượng dân chúng Công giáo Việt Nam ngót hai triệu người chắc chắn sẽ sẵn sàng hưởng ứng làm hậu thuẫn.
Với những triển vọng đầy hứa hẹn ấy, Ngô Đình Diệm đáp máy bay đi Paris.
Nhìn xuống khoảng không xanh đậm bao la của Đại Tây Dương qua ô kính máy bay đang vượt không gian, Diệm trầm ngâm hồi tưởng lại cả một quãng thời gian vừa sống trên đất Mỹ, rồi những hình ảnh từ thời thiếu niên, những biến cố trên đường hoạn lộ thăng trầm, lưu vong như sống lại qua lời nói đều đều của Diệm kể lại tiểu sử của mình với Richard Thomas, giáo sư đại học đường Michigan, biên tập viên của tạp chí Washington Montly.
Cùng đi một chuyến sang Âu châu, Thomas đã có lần gặp Diệm trong một buổi nói chuyện ở trường Michigan, nay lại thành bạn đường ngồi cạnh nhau trong chiếc phi cơ của hàng không Mỹ.
Thomas chú ý đến các vấn đề Á Đông, từ sau khi quả bom nguyên tử đầu tiên ném xuống Hiroshima, và nghiên cứu về tình hình Á châu từ ngày hồng quân Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa Trung Hoa. Việt Nam là một phần quan trọng trong cuốn sách khảo cứu của Thomas đang dự định viết về Đông Nam Á.
Diệm như bắt gặp được bạn tâm sự khi nghe Thomas nói đến ý định muốn tìm hiểu các nhân vật chính khách Việt Nam, rồi thao thao bất tuyệt nói về mình. Giọng nói của Diệm trầm đều như là kẻ đang xưng tội, rì rầm như tiếng của động cơ máy bay đưa đến tai người Mỹ ngồi bên cạnh.
Thomas đã viết lại trong cuốn sách phân tích về "chính trị và quân sự về hai miền Việt Nam ghi những lời ở Diệm tự thuật:
"Tôi sinh ngày mồng 3 tháng giêng năm 1901, trong một gia đình quan lại ở miền Trung, quê quán xã Đại Phương, tỉnh Quảng Bình.
Thân sinh tôi là Ngô Đình Khả, làm quan đến Thượng thơ Bộ lễ kiêm Nhiếp chính cận thần của vua Thành Thái (1889 - 1907). Ông cụ tôi không chịu ký tên vào việc người Pháp bảo hộ đày hai vua Thành Thái và Duy Tân, được dân chúng truyền tụng qua câu "đày vua không Khả, đào mả không Bài". Ông Bài, tức Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư Bộ lại, người đạo gốc, cũng như họ Ngô nhà tôi, là cha đỡ đầu của tôi, đồng thời là cha vợ của người anh cả tôi, Ngô Đình Khôi.
Ông bà cụ tôi sinh được cả thảy chín người con, sáu trai, ba gái, tôi đứng vào hàng thứ tư, sau người anh cả làm Tổng đốc, người anh thứ hai làm Giám mục, một bà chị thứ ba đã mất.
Gia đình tôi theo đạo dòng, tổ tiên tôi đã có người tử vì đạo dưới triều vua Tự Đức. Sống trong không khí đạo giáo, khắc khổ từ nhỏ, hồi 15 tuổi ở nhà dòng tôi đã có lần tự nguyện: một là tốt hai là xấu, đối với tôi con người không thể khác hơn. Ngày nay tôi vẫn giữ vững quan niệm: Một là "có tất cả", hai là "không gì hết", chứ không có sự lưng chừng ở giữa. Tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo cộng với Thiên Chúa giáo trong đời sống, tôi chủ trương phải quyết liệt tuyệt đối.
Khi ông cụ tôi cáo quan về, tôi đến ở nhà người cha đỡ đầu, ông Nguyễn Hữu Bài, bấy giờ đang làm Thượng thư Bộ lại, tôi bắt đầu vào trường Quốc học Huế, nơi 10 năm trước, ông Hồ Chí Minh đã theo học. Sau đó, tôi ra học trường Hậu bổ ở Huế, được tiếng là học trò giỏi. Năm 1921, tôi ra trường đậu đầu trong số 20 thí sinh được bổ làm tri huyện.
Năm 1929, vào lúc 28 tuổi, tôi được thăng chức Tuần vũ ở Phan Thiết, nơi 8 năm về trước ông Hồ Chí Minh đã dạy học. Cũng tại đây tôi đã đương đầu với đám thanh niên có những tư tưởng mới du nhập từ Hương Cảng, Quảng Đông và Sài Gòn đến. Đó là những phần tử cách mạng quá khích và cộng sản. Trong thời gian cầm quyền cai trị, tôi đã được tiếng là liêm khiết cương trực. Năm 1922, ông Bảo Đại ở Pháp về, muốn thay đổi bộ mặt triều đình quan lại cũ mời tôi về Huế giữ chức Lại bộ Thượng thơ. Vì chủ trương quyết liệt của tôi, người Pháp không bằng lòng, mới sinh ra việc chống báng giữa ông Thượng thơ Bộ học Phạm Quỳnh, người của phủ Toàn quyền Đông Dương, nghịch với tôi, và được Bảo Đại ủng hộ nên tôi mới từ chức.
Rút ra khỏi quan trường, tôi trở về ở ẩn tại Huế, liên lạc với cụ Phan Bội Châu bấy giờ bị giam lỏng tại Bến Ngự và Kỳ ngoại hầu Cường Để đang ở Nhật. Đó là mấy nhân vật quốc gia có tư tưởng chống thực dân mà ông cụ tôi cũng như các anh tôi đã tiếp xúc, có cảm tình, cùng chung một đường lối phục quốc.
Năm 1945, Việt Minh nổi lên, anh cả tôi cùng đứa con trai bị họ bắt giết tại Huế. Các em trai tôi trốn thoát được. Bấy giờ tôi đang ở Sài Gòn, ra đến Tuy Hoà thì bị Việt Minh bắt, đưa ra giam ở Tuyên Quang, miền rừng núi Bắc Việt, sau đó thì được lệnh tha. Tôi phải ẩn tránh nhờ các giáo sĩ Gia Nã Đại và chỉ ra mặt sau ngày 6 tháng ba 1946 khi Việt Minh ký hiệp ước sơ bộ với Pháp, rồi phóng thích các nhân vật chính trị đối lập như tôi đã bị bắt giữ từ hồi khởi nghĩa. Tôi trở về Huế thăm gia đình rồi lại trở ra Hà Nội, hoạt động liên lạc với Bảo Đại. Chiến tranh toàn quốc bùng nổ trong khi tôi ở Hà Nội.
Trung thành với chủ trương hoặc là "có tất cả" hay "không gì hết", tôi cùng mấy anh em tôi, thành lập ở Nam và Trung Việt Nam một đảng chính trị gọi là PHONG TRÀO CÁCH MẠNG quốc gia với chủ trương chống Pháp và chống cả Việt Minh. Chương trình của phong trào kháng chiến này là: "Tổ chức lại và tăng cường lực lượng Công giáo để làm hậu thuẫn cho sự thống nhất và độc lập của Việt Nam". Đến khi phong trào đã vững mạnh rồi, sẽ liên lạc với các nước bạn tự do nhất là Hoa Kỳ để nhờ giúp đỡ về kinh tế và ngoại giao.
Đối với Pháp, phong trào vẫn giữ thái độ thân hữu, trong khi Pháp còn có thể giúp ích được để chống cộng. Hoa Kỳ sẽ can thiệp để thay thế Pháp không còn đủ sức đảm đương nổi cuộc chiến tranh Đông Dương. Phong trào của anh em tôi sáng lập ra đời sớm quá trong một hoàn cảnh chưa thuận tiện nên không được ảnh hưởng mấy. Tháng tám 1950, tôi cùng anh Giám mục tôi sang Nhật để gặp Kỳ ngoại hầu Cường Để với mục đích phát triển cho phong trào quốc gia kháng chiến. Tôi có xin yết kiến Đại tướng Mac Arthur. Trong lúc bận rộn về chiến cuộc Triều Tiên, cùng các vấn đề chính trị và quân sự, ông Mac Arthur không còn có thì giờ để quan tâm đến các chính khách lưu vong Á Đông. Tuy vậy tôi đã gặp được một số người Mỹ khác tại Đông Kinh như giáo sư trẻ tuổi Wesley Fishel, dạy về chính trị kinh tế học ở Michigan. Trong thời gian hai tháng, 9 và 10 ở Nhật, các bạn Mỹ tiếp xúc với tôi đều khuyên tôi nên sang thẳng Mỹ để trình bày chủ trương tranh đấu cho Việt Nam độc lập.
Có lẽ lúc bấy giờ người Mỹ sau khi thí nghiệm bất thành ở Đông Dương từ năm 1942 đến 1945, không còn muốn nhúng tay vào đây nữa, nhất là phải chống lại với Pháp.
Anh Giám mục tôi nhờ quen biết sẵn với Đức Hồng y Spellman, qua hệ thống của Giáo hội, được người lưu tâm đến, hết dòng nâng đỡ và tổ chức Công giáo tiến hành ở Mỹ cũng ra sức ủng hộ cho tôi.
Chúng tôi mới từ Nhật đi sang La Mã. Anh Giám mục tôi ở lại đây để vận động với các giới thân cận Toà thánh, xin ra mắt Đức Giáo hoàng, trình bày công cuộc hoạt động của anh em chúng tôi, nhờ vào hậu thuẫn lực lượng Công giáo để phát triển đạo Thiên Chúa tại Việt Nam. Rồi tôi qua Ba Lê và Bruxelles, tiếp xúc với các giới người Việt lưu vong, liên lạc cùng với các vị giáo sĩ thuộc hội truyền giáo ở Đông Nam Á.
Năm 1951, tôi sang Mỹ, trú ngụ ở nhà dòng Maryknoll Seminaries tại Ossining (Nữu Ước) và ở Lakewood, New Jersey.
Tại Mỹ, tôi đã được dịp trình bày về đường lối của tôi tại các học đường Michigan, Ohio, New York. Chủ trương của tôi là Việt Nam chẳng những chống Cộng sản, mà còn phải vượt khỏi sự chi phối của Pháp. Chỉ có chủ nghĩa quốc gia chân chính mới có thể thành công ở chỗ Pháp đang thất bại. Các giới thính giả người Mỹ, sinh viên, trí thức, chính khách… đều tỏ vẻ xúc động trong các buổi nói chuyện của tôi. Một số nhân vật cao cấp, các nghị sĩ chuyên nghiệp nghiên cứu về Á Đông, như bác sĩ Watter H. Judd, thượng nghị sĩ Mike Mansfield, John F. Kennedy… đã tán thành lập trường của tôi, và cổ võ cho chủ trương của tôi trong chính giới Mỹ. Tôi hy vọng rằng trong tương lai, khi trở về Việt Nam cầm quyền lãnh đạo, tôi sẽ không phụ lòng tin cậy của người Mỹ. Hoa Kỳ đối với tôi là một tổ quốc thứ hai.
Diệm nói không ngớt, chỉ ngừng lại lúc chiêu đãi viên mang thức ăn uống và thuốc lá đến, rồi lại tiếp tục say sưa, không để cho người lắng nghe nói chen vào.
Thomas kiên nhẫn nghe Diệm kể về mình và xem chừng nghe mãi đã mệt, mới lên tiếng hỏi:
- Ông nghĩ sao về tình hình hiện thời ở Việt Nam? Pháp có đánh bại được Việt Minh không?
Diệm không nghĩ ngợi, đáp liền:
- Một mình Pháp không giải quyết nổi đâu. Tôi nghĩ rằng để cho Pháp và Việt Minh cùng mệt mỏi trong cuộc chiến tranh kéo dài, đến lúc ấy Mỹ can thiệp vào giúp cho phe quốc gia chúng tôi đứng ra thì mới yên được. Đương đầu với Việt Minh chúng tôi có cả một khối gần hai triệu người công giáo và lực lượng quốc gia chống Cộng, không kể những người đang kháng chiến chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh, mà đa số không phải là cộng sản.
- Chương trình hoạt động của ông hiện thời như thế nào?
- Tôi đi Pháp, chờ xem thời cuộc thuận tiện sẽ trở về Việt Nam.
- Ông sẽ về nước để cầm quyền?
Diệm ngập ngừng một lúc rồi đáp:
- Tôi sẽ gặp Quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp để bàn tính việc ấy.
Câu chuyện đứt ngang vì tiếng nói của máy phóng thanh trong phi cơ yêu cầu hành khách thắt lại dây nịt bụng vì phi cơ sắp hạ xuống phi trường Orly. Trong khi dụi điếu thuốc lá đang hút dở, Diệm để ý đến dòng chữ in đậm trên tờ nhựt báo Mỹ nói về chiến sự Việt Nam của đặc phái viên thường trực của hãng thông tấn Associated Press từ Hà Nội điện đi.
Tướng Cogny tuyên bố: "Bộ chỉ huy Pháp chắc chắn Việt Minh phải thất bại nặng nề ở Điện Biên Phủ. Chúng tôi đang chờ đợi các trận giao chiến ác liệt và lâu dài. Chúng tôi sẽ thắng".
                               ***

Giữa lúc Ngô Đình Diệm từ chiếc phi cơ bước xuống Ba Lê, ở một góc núi rừng Việt Bắc, nhà văn Anh Graham Green cũng từ một chiếc máy bay nhà binh Pháp đặt chân lên lòng chảo Điện Biên Phủ.
Thung lũng này, người Thái vẫn gọi là Mường Thanh, dài mười bảy cây số, rộng năm cây, gồm có lối một trăm bản, dân số độ mười ngàn người ở theo dòng sông Nam Um chảy ngang. Trên các đỉnh núi cao lối 700 thước, rải rác những xóm người Mèo sinh sống bằng cách trồng cây thẩu.
Pháp đã biến vùng xa xôi yên tĩnh miền rừng núi Việt Bắc gần giáp Ai Lao thành một vị trí chiến lược, cho rằng kẻ chiếm giữ được Điện Biên Phủ sẽ chế ngự cả Việt Bắc, Thượng Lào và một vùng quan trọng Đông Nam Á. Đại tướng Navarre, vị tân Tổng tư lệnh quân đội ở Đông Dương tạo nên pháo đài nơi đây với chủ đích nhử quân địch kéo đến để tiêu diệt. Kế hoạch Điện Biên Phủ được tung ra để chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài từ tám năm nay.
Cầu hàng không Hà Nội - Điện Biên Phủ chuyên chở binh sĩ, súng đạn, thiết giáp, trọng pháo, thực phẩm, thuốc men, dây kẽm gia biến nơi này thành một pháo dài khổng lồ thách thức đối phương một trận quyết định cuối cùng. Từ Ba Lê đến Sài Gòn, các giới cao cấp quân sự, chính trị Pháp đều đặt tin tưởng vào Điện Biên Phủ nơi xảy ra trận đánh quyết định, mà chiến thắng chắc chắn đã nắm trong tay. Báo chí Pháp in đậm những lời tuyên bố của Bộ chỉ huy Điện Biên Phủ: "Sẽ cho Việt Minh và mọi người biết rõ chúng tôi".
Nhà văn Graham Green trước khi đến viếng Điện Biên Phủ đã thu thập ghi được những con số chung quanh cuộc chiến tranh ở Việt Nam và nhận thấy từ lúc có triệu chứng Pháp sẽ thua trận, những công ty mỏ, xi-măng, dệt vải, đồn điền cao su đã lần lượt chuyển của cải và cổ phần đi các nơi khác trên thế giới. Số vốn Pháp còn để lại ở Đông Dương không bằng một năm tổn phí chiến tranh: sáu trăm tỷ và 100 thanh niên sĩ quan. Cứ mỗi ba năm phải hy sinh một khoá sĩ quan Saint Cyr vào chiến trường ở Việt Nam.
Từ ngày khởi chiến đến nay, Pháp đã mất 3 đại tướng, 6 đại tá, 18 trung tá, 69 thiếu tá, 341 đại uý, 1.140 trung uý và chuẩn uý, 2.683 hạ sĩ quan và 6.008 lính Pháp, 12.019 Lê dương, 14.090 quân địa phương, không kể trên 20.000 mất tích, 100.000 bị thương.
- Điện Biên Phủ sẽ đảo ngược tình thế! Chúng ta đang ở trên một căn cứ tấn công!
Những lời sôi nổi của đại tá chỉ huy De Castries đưa đến tai Graham Green trong khi bước vào câu lạc bộ sĩ quan.
Nhà văn Anh đang nhìn những đám mờ trên các ngọn núi chơm chởm bao chung quanh bỗng quay lại vì tiếng đấm bàn của De Castries sau khi quăng tờ báo Le Monde xuống, giận dữ nói:
- Dám viết rằng Điện Biên Phủ là một cái hố sư tử. Thằng cha Robert Guillain láo thật!
Trước vẻ thắc mắc của Graham Green, vị chỉ huy Điện Biên Phủ dịu giọng lại:
- Ông là ký giả. Ông nên biết, nếu ông Guillain còn đến đây, ông ta sẽ không ra khỏi máy bay được đâu. Tôi sẽ cho bốn người cầm súng giữ lại. Thế mà ông ấy uống cô-nhắc của chúng tôi đấy!
- Đại tá này, tôi có biết Guillain…
- Viết rằng Điện Biên Phủ là một vận động trường mà Việt Minh chiếm những ghế trên một cái hố nhốt sư tử?
- Đó chỉ là một hình ảnh thôi. Với lại cũng khỏng hẳn là sai.
De Castries lại to tiếng:
- Thế ông cũng như những người khác nữa à? Hãy để cho chúng tôi yên tâm làm việc. Nếu Việt Minh tấn công, ông sẽ thấy chúng tôi đón tiếp ra sao. Tất cả đều sẵn sàng cả rồi. Ông thử lấy một chiếc xe Jeep đi mà xem. Đại tướng Navarre đã tuyên bố trước mặt tướng Ely rằng: "Điện Biên Phủ được chọn với tất cả sự thông suốt về quân sự, và chúng tôi sẽ thắng trận ở đây".
Trong khi quanh một vòng các cứ điểm phòng thủ, nhà văn Anh nhìn thấy máy bay rải truyền đơn như bươm bướm xuống các khu rừng núi chung quanh. Hỏi ra mới biết là vị chỉ huy Pháp đang khiêu khích đối phương, lặp lại những lời phát thanh từ Bộ tham mưu Điện Biên Phủ ngày đêm liên tiếp loan đi nhắn nhủ Việt Minh: "Các người còn đợi gì nữa mà không đánh nếu các người không phải là quân hèn nhát? Chúng tôi đang đợi đấy. Chúng tôi đã sẵn sàng. Các người đông lắm mà, có giỏi thì lại đây?"
Ngồi bên cạnh sĩ quan phụ tá De Castries, trên chiếc xe Jeep chạy nhồi như sóng qua các điểm tựa, giữa mùi khói cay nồng của lá cây rừng đất cháy khai hoang lòng chảo Điện Biên Phủ, Graham Green nhớ đến hình ảnh cuộc chiến đấu mà ông Hồ Chí Minh đã mô tả cùng ký giả Mỹ, David Schoenbrun bên lề hội nghị Fontainebleau năm 1946: "Đây sẽ là một cuộc chiến đấu giữa cọp với voi. Nếu con cọp ngừng lại thì sẽ bị voi lấy ngà đâm. Có điều là cọp ban ngày lẩn vào rừng đến đêm lại hiện ra. Con cọp sẽ vồ lấy lưng voi mà cào xé từng mảnh thịt rồi lại lẩn trốn vào rừng. Như vậy con voi sẽ phải chịu chết vì kiệt sức và ra máu.
Green kể lại rồi hỏi sĩ quan phụ tá Seguins Pazzis:
- Navarre có lực lượng lớn lao tại đây như voi, song liệu có ngăn được con cọp Giáp đang chực vồ mình không?
- Ước mơ của đại tá De Castries và toàn Bộ tham mưu là dụ cho Việt Minh xuống lòng chảo này. Nếu họ xuống đây là bị vào tay chúng tôi. Cuộc va chạm có thể gay go, nhưng chúng tôi sẽ chặn đứng họ lại. Rốt cuộc chúng tôi sẽ có một mục tiêu tập trung để đập tan. Đại tướng Navarre cho rằng đây là một cơ hội bất ngờ để tiêu diệt Việt Minh: Sự thắng lợi là một người đàn bà chỉ tự hiến dâng cho ai biết cách chiếm đoạt.
Vào lúc này, cách Điện Biên Phủ nửa ngày đi, gần con đường nườm nượp những đoàn dân công và binh sĩ sư đoàn 316 đang đi qua, dưới một mái chòi khuất lẩn với lá cây rừng, một người đàn ông ngoài bốn mươi, mặc áo quần nhà binh màu xanh, không mang phù hiệu đang lặng yên chăm chú vào tấm bản đồ lớn treo trước mắt. Mắt không rời địa đồ vòng đỏ quanh chữ Điện Biên Phủ, ông lên tiếng hỏi mấy người chung quanh, những sĩ quan Bộ tham mưu Tổng tư lệnh, rồi lại im lặng.
- Trận đánh quyết định sẽ xảy ra ở Điện Biên Phủ. Chúng ta sẽ chiến thắng tại đây, với bất cứ giá nào!
Con người vừa thốt ra câu ấy là tướng Võ Nguyên Giáp, cùng quê quán với Ngô Đình Diệm, cùng vùng cát trắng Quảng Bình.
Sĩ quan phụ tá ghi vội những lời mật lệnh của Đại tướng Tư lệnh động viên binh sĩ và dân chúng, theo quyết định của Trung ương Đảng.
Trước đây, khi toàn thể Bộ tham mưu của tướng Võ Nguyên Giáp đều đồng ý về cuộc giao phong ở Điện Biên Phủ, mọi người đều nhận thấy những khó khăn, trở lực về địa thế rừng núi, thiếu đường vận tải. Kinh nghiệm của trận Na Sản vừa rồi nêu lên một câu hỏi lớn: làm sao có đủ lương thực để nuôi được cả sư đoàn và vận chuyển võ khí đến nơi?
Cục trưởng quân nhu đã không ngần ngại trả lời: "Phải huy động toàn thể nhân dân, kêu gọi đến sự hy sinh của tất cả mọi người; cần huy động năm chục ngàn dân công đàn ông và đàn bà, hàng ngàn con ngựa (mỗi con bằng bốn người gánh) hàng trăm chiếc thuyền chở những tấn gạo và đạn dược, xe cam nhông để chở trọng pháo, một số lớn xe đạp Peugeot đã mua sẵn từ Hà Nội biến thành xe thồ có thể mỗi chiếc chở được ba trăm ký… để đưa gạo và đạn dược đến tận nơi.
Trước quyết định quan trọng này, Trung ương Đảng đã nhóm họp khẩn cấp giữa các lãnh tụ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp ở một góc rừng Việt Bắc để biểu quyết.
Lúc ấy Nguyễn Hiền, tham mưu trưởng trung đoàn 57, thuộc sư đoàn 304 đang ở Thanh Hoá, sau những ngày hành quân tính đi bộ đã được lối một ngàn cây số, bỗng nhận được lệnh đi về phía Điện Biên Phủ. Khẩu hiệu mật từ đây phải đổi tên Điện Biên Phủ là Trần Đình, Đại tướng Giáp là Ngọc.
Cũng vào lúc bấy giờ ở Sài Gòn, Ngô Đình Diệm được tin phái bộ Pleven sang thanh tra tình hình quân sự ở Đông Dương, sau khi ghé thăm Điện Biên Phủ, trở lại Thủ đô miền Nam ngày 19 tháng 2 năm 1954, đã cùng đại tướng Ely ra Cấp. Tổng trưởng quốc phòng Pháp viện cớ đi nghỉ mát ở Vũng Tàu để cùng tướng Ely thảo một bản phúc trình, song sự thực đã hẹn hò gặp đại biểu Việt Minh để bàn bạc về việc chấm dứt chiến tranh.
Không gặp được người của đối phương gởi đến tiếp xúc, Pleven thất vọng đáp máy bay trở về Pháp, giữa lúc Ba Lê đang đón chờ mùa xuân.
Nhiều tin tức hốt hoảng truyền miệng sang tai ở trong hành lang quốc hội Pháp, Tổng trưởng quốc phòng Pleven triệu tướng Salan, thanh tra quốc phòng, trao cho xem bản phúc trình rồi hỏi:
- Có thể làm thế nào để cứu được Điện Biên Phủ?
Ngô Đình Diệm sau khi ghé Paris được tin trong hậu trường chính trị Pháp nói về cuộc hội nghị Genève đang sửa soạn, vội vã đáp xe lửa đi Bỉ.
Tại Bruxelles, Diệm đến ở nhà dòng Benedictine tại Saint André des Bruges, trung tâm của các giáo sĩ hoạt động tại Đông Nam.
Giữa lúc Diệm ráo riết vận động các giáo sĩ, chính khách ở trời âu thì Lệ từ Sài Gòn lên Đà Lạt, đến biệt điện Quốc trưởng. Người hầu cận bảo Lệ ngồi đợi ở phòng ngoài vì Quốc trưởng còn đang bận tiếp khách.
Những tiếng nói lớn từ bên trong vẳng đến tai Lệ, nghe giọng quen thuộc, khiến nàng không khỏi chú ý, lắng theo dõi:
- Đ. m! Xin lỗi Quốc trưởng, đ.m! Quốc trưởng phải để cho tôi bắn nát óc Phan Văn Giáo, vì hắn nói tôi là tướng cướp, Bình Xuyên là quân lâu la… Có phải như vậy là hắn phạm thượng, khi dễ cả Quốc trưởng không? Dù sao tôi cũng là thiếu tướng được Quốc trưởng ban cho… Mỗi ngày huê lợi của hai sòng Kim Chung và Đại Thế Giới tôi đều dâng đủ cho Quốc trưởng chi phí về công việc quốc gia. Vậy mà đ.m, thằng Giáo, xin lỗi Quốc trưởng, đ.m, nó dám bảo anh em Bình Xuyên tôi là bọn ăn cướp?
- Bảy Viễn đừng có nóng. Để ta xử cho. Này, kêu thằng Giáo vô đây ta biểu.
Sau câu nói của Bảo Đại, Lệ nghe một tiếng "dạ" rồi thấy người hầu cận tất tả đi ra, theo lối hành lang phía bên phải.
Một lát sau, Lệ trông thấy y trở lại với bà Từ Cung và Phan Văn Giáo theo sau: Lệ lễ phép đứng lên chào bà Từ Cung đi ngang qua và thấy họ Phan liếc nhìn nàng mỉm cười một cách ranh mãnh.
Từ bên trong khách thính biệt điện, Lệ nghe văng vẳng những câu nói đưa ra:
- Viễn, đưa cây súng đây cho ta.
Tiếp theo lời Bảo Đại, tiếng của bà Từ Cung cất lên:
- Thôi, các con cùng là anh em quốc gia với nhau, đừng có xích mích mà làm buồn lòng mẹ đây. Giáo nó có lỡ lời thì sẵn trước mặt Quốc trưởng với mẹ, xin lỗi Bảy Viễn đi, rồi anh em đừng có sinh sự với nhau nữa.
- Dạ, đ.m, xin lỗi Đức Bà, đ.m, xin lỗi Quốc trưởng! Tôi xách súng đi kiếm nó suốt cả buổi sáng nay, nếu không có Đức Bà và Quốc trưởng can thì tôi bắn chết mẹ nó rồi! Giáo, sao mày nói tao là ăn cướp trả lời cho tao coi.
- Thôi, mẹ xin các con! Bỏ qua đi cho rồi. Trước mặt mẹ với Quốc trưởng, đừng có gây gổ nhau nữa!
- Giáo, Viễn, mẹ ta đã nói rứa, hai người không chịu hoà thuận với nhau răng?
Sau lời Bảo Đại, Lệ nghe tiếp những tiếng nói nhỏ của Phan Văn Giáo và Bảy Viễn làm lành bắt tay với nhau.
Mười phút sau, người hầu cận Bảo Đại ra mời Lệ vào gặp Quốc trưởng.
Lệ được giữ lại dùng bữa trưa hầu ngài ngự, và đến xế chiều, khi từ phòng riêng biệt điện ra về, sau mấy giờ ngả ngớn trong tay Quốc trưởng, Lệ mang theo lời hứa hẹn của Bảo Đại:
- Được, trẫm sẽ cho Diệm về làm Thủ tướng, nhưng nhớ biểu Diệm phải trung thành với trẫm mới được.
Vào lúc Lệ thoả thích bước ra ngôi biệt điện Quốc trưởng, lặng ngắm nắng chiều tắt dần trên rừng núi Đà Lạt, sương mờ đang phủ xuống thì ở một ngọn núi xa giữa khu rừng Việt Bắc, một thanh niên dừng bước lại giữa lưng chừng núi, đặng ngắm cảnh bên dưới thung lũng, sững sờ một lúc, rồi quay nhìn xuống phía đoàn người đông đảo đang khó nhọc hì hục kéo đẩy mấy khẩu trọng pháo lên dốc cao, một người thét lên:
- Điện Biên Phủ kia rồi!
Gã thanh niên vừa kêu lên, hí hửng khoa tay múa chân, là một chàng trai thuộc loại tếu của Hà Nội đã tham gia kháng chiến, hiện đang ở trong Bộ tham mưu trung đoàn 57. Thành phần tiểu tư sản và trí thức của anh, Nguyễn Hiền, đã làm cho người uỷ viên chính trị phê bình luôn, song đầu óc thông minh của người trai Hà Nội cần thiết cho công tác quân sự của đơn vị, nên Hiền vẫn được trọng dụng, và được phần đông anh em đồng đội chỉ biết "đánh Tây" thích thú.
Tiếng "Điện Biên Phủ kia rồi!" vừa thoát ra cửa miệng Hiền, như một luồng điện chuyền vào cả trung đoàn xô đẩy mấy "voi" và "trâu (tiếng lóng gọi đại bác lớn và nhỏ) lên dốc núi.
Mệt nhoài, thèm ngủ luôn mấy ngày đêm liền, thèm một thẻ đường đen hay kẹo chê lam, thèm đủ tất cả, muốn lăn nằm ngay cho bõ bao nhiêu ngày đêm lặn lội khó nhọc băng rừng trèo núi, nhưng Hiền chỉ muốn thức. Anh lấy cuốn sổ tay ở túi áo trên ra ghi: "4-2-1954 đến Điện Biên Phủ".
Hiền lặng yên ngắm thung lũng dưới ánh trăng lưỡi liềm, với những pháo đài kiên cố dưới đó có 12 tiểu đoàn tinh nhuệ của Pháp đang chờ đợi. Anh chú ý nhất đến ánh đèn quá sáng trên sân bay mà bao nhiêu năm nay anh chỉ thấy ngọn đèn dầu lạc hay bó đuốc trong đêm tối. Bên cạnh ánh sáng hơn cả ban ngày của phi trường Điện Biên Phủ, ngọn đèn nhỏ của Hiền làm bằng chiếc hộp đồng cũ đựng kẹo ho Valda với một ít bông gòn tẩm dầu hôi cùng chiếc van xe đạp làm ngọn bấc để thỉnh thoảng trong đêm hành quân dừng bước, thắp lên để viết nhật ký. Hiền thấy chẳng khác nào con đom đóm với mặt trăng, và không khỏi bật cười khi có ý nghĩ so sánh đó.
Biết bao gian khổ, ngày đi đêm nghỉ hay ngủ ngày đêm đi, từng chặng từ ba chục đến năm chục cây số, Hiền đã băng rừng, leo núi, lội suối trèo non, đi về phía Điện Biên Phủ. Đi từ hừng đông đến mặt trời lặn, hay từ chập tối đến sáng sớm để tránh máy bay. Hiền tự ví mình như một con kiến trong đàn kiến kiên nhẫn, cần cù, với túi gạo đầy quấn ngang bụng, ống tre đựng muối, bầu nước đeo một bên mình, ba-lô trên lưng, súng vác vai, tay cầm gậy, chân đi dép lốp xe hơi, vượt qua rừng rậm, tiến vào rừng sâu, đi giữa rừng già, bất kể ngày đêm, từng lúc bước nhịp theo tiếng hát quân hành, ăn cơm muối, uống nước suối, đến mỗi chặng nghỉ tự tay đào lấy hầm núp máy bay, quấn mình trong tấm vải ni lông rồi lăn ra ngủ như chết, mặc muỗi cắn, vắt đeo.
Gặp dòng sông, quãng suối tạm dừng chân, Hiền tưởng chừng như trút được bao nhiêu gánh nặng nhọc của đường dài sau khi ngâm cả người dưới nước lên.
Tiếng cười đùa hồn nhiên của các bạn đồng đội làm cho Hiến có cảm tưởng toán quân mình là một đoàn hướng đạo sinh đi cắm trại.
Có khi khúc sông rộn lên vì gặp gỡ các đoàn dân công tải gạo tiếp tế cho mặt trận.
Đặc biệt, các đoàn xe đạp thổ buộc thêm giá gỗ tre ở khung sắt, có thể chở nặng đến hơn 100 kí-lô, bằng cả chục dân công, ngang với sức của một con voi có thể kéo lên núi đá tai mèo. Hiền nghe nói có đến hai ngàn chiếc xe đạp Peugeot mua từ Hà Nội ra đang dùng để chở những đạn dược, lương thực, theo các con đường mòn đưa đến chiến trường Điện Biên Phủ. Cộng thêm với năm chục ngàn dân công tiếp tế gạo cho binh sĩ các sư đoàn đổ xô về đây.
Trong cuốn sổ tay hành quân Hiến đã ghi: "Bộ tham mưu Pháp có để ý rằng một chiếc xe đạp ta có thể biến thành một lợi khí chuyển vận được 300 kí-lô gạo hay đạn dược qua rừng núi không? Trường võ bị Tây phương có dạy họ đến yếu tố bất ngờ này không. Họ có nghĩ rằng "lòng tin có thể dời núi chuyển non thì sức người có thể vác cả "voi" từ dưới chân lên tới đỉnh núi không?"
Khi viết những lời này, đại uý Nguyễn Hiền ở Bộ tham mưu trung đoàn 57 cũng như bao nhiêu chiến sĩ vừa vượt qua đèo Pha Đin, phấn khởi gần kế Điện Biên, vì sắp được tham gia một trận đánh quyết định với Pháp.
Hò dô ta nào!
Kéo pháo ta vượt qua đèo.
Tiếng hát theo gió chiều thổi mạnh vẳng đến tai Hiến, anh không nhìn thấy toán người đang kéo đẩy trọng pháo bên kia triến núi, từ chiều đến giờ, cố hết sức vượt từng tấc một, để vác voi vào ổ đào sẵn trong lòng đá, chĩa xuống lòng chảo Điện Biên.
Những tiếng phụ hoạ "dô ta nào!" vang dậy lên sau câu hò đưa sức rồi im lặng theo sau. Hiền đoán biết nòng đại bác 105 ly đã đặt vào đích. Anh quay trở lại, về phía tiếng hát thấy các binh sĩ thuộc sư đoàn trọng pháo 351 từ hầm sâu đục trong núi đá chui ra, và đoàn quân 57 của anh đang giơ súng, giơ tay chào mừng đơn vị bạn. Hiền nhận thấy vẻ mặt mọi người biến đổi vì xúc động, và tự nhiên hai mắt anh chớp chớp, không giấu nổi sự cảm kích, rồi im lặng quay đi.
Điện Biên Phủ kia rồi?
Tối hôm ấy, sau khi đào xong hầm, Hiền mệt nhoài, song cũng chưa muốn lăn ra ngủ như các bạn chung quanh.
Dưới ánh trăng lưỡi liềm, anh lần bước đến chỗ cành lá ngụy trang che khẩu đại bác sờ vào nòng thép 105 ly như không tin ở mắt mình.
Trên dốc đứng 45 độ, khẩu trọng pháo đặt trên bánh xe cao su có thể được chuyển vô ra khoảng hầm đào sâu trong lòng núi đá, không biết đã phải tốn bao nhiêu công sức mới mang lên được đây, mỗi giờ chỉ đẩy lê đi được 50 thước, một ngày không quá nửa cây số, và chỉ di chuyển trong ban đêm vì sợ máy bay quan sát nhìn thấy.
Hiền nghe kể lại có một chiến sĩ đã lăn xả người ra để chặn bánh xe đại bác khi bị đứt dây kéo bắt đầu lăn xuống dốc núi, và khi giữ được khẩu trọng pháo thì anh ta đã nát bẹp cả người.
Giờ đây, đứng bên cạnh khẩu đại bác, nhìn xuống khoảng rộng lớn đen tối của lòng chảo Điện Biên Phủ đang phủ sương mờ, Hiền có cảm tưởng như mình đang ở trong tổ loài chim phượng hoàng vẫn làm trên triền núi cao cheo leo, hiểm trở, chân người không đến được.
Lặng ngắm dưới kia, Hiền nhận thấy hàng rào dây thép gai chằng chịt, các khẩu trọng pháo ngẩng lên trời đen ngòm, rồi bỗng nhiên nhớ đến tờ truyền đơn anh nhặt được ở dọc đường hôm kia, có câu của De Castries, chỉ huy Điện Biên Phủ, nhắn bảo anh và các bạn là "quân hèn nhát".
Hiền quay về hầm, thao thức không ngủ với ý nghĩ trong đầu, anh đã ghi lại trong cuốn nhật ký hành quân: "Ngày mai đây sẽ thấy rõ ai hèn nhát. Đói, rét không sờn, chúng ta sẽ thắng".
Trong khi đó, ở trại Điện Biên Phủ như thường lệ, khắp nơi binh sĩ chơi bóng chuyền rồi đi tắm ở sông.
Vào giờ ăn tối, ở câu lạc bộ chỉ huy, đặc phái viên báo Dépêche du Midi(1) ngồi giữa các sĩ quan uống rượu và nói chuyện về tình hình.
- Dù sao nếu Việt Minh có trọng pháo…
- Nên biết rằng phải có cả một trung đoàn để đẩy một khẩu đại bác 75 ly lên một ngọn đồi. Muốn đem đại bác đến đây qua hàng trăm cáy số, phải tưởng tượng là có hằng hà sa số cu-li mới được.
Sĩ quan Bộ tham mưu De Castries trả lời rồi nói luôn:
- Nếu không đánh nhau thì sẽ là một bài học. Đây là một cơ hội độc nhất để đè bẹp Việt Minh.
Đại uý Capeyron chỉ huy đại đội 3, ngực đeo mề đay Lorraine xanh, dấu hiệu danh dự của quân đoàn 18, cất tiếng cười phụ hoạ:
- Chúng nó chắc có một hai khẩu đại bác gì đó, song phần lớn đại bác không nổ. Toàn nói dóc cả.
Đặc phái viên tờ Dépêche du Midi, René Mauriès lặp lại nguồn tin nói rằng, Việt Minh mỗi ngày chuyên chở từ năm đến sáu chục tấn tới Điện Biên Phủ và có bắt được ở một tù binh bản đồ một nơi che giấu đại bác, qua sự tiết lộ của tướng Cogny ở Hà Nội.
Đại tá Berteil tỏ vẻ ngạc nhiên, ngắt lời:
- Các phi công lái những chiếc Bearcat đã mạo hiểm bay sát sạt các vùng tình nghi đặt giàn trọng pháo, và những tấm hình chụp được không có gì chứng tỏ là có đại bác của Việt Minh cả.
- Nên phòng ngừa trọng pháo đối phương. Việt Minh có thể sử dụng đại bác như quân Tàu ở Cao Ly dưới các hầm xây tròn khéo che đậy và bắn trực xạ.
Đại tá Piroth, chỉ huy pháo binh trả lời ngay:
- Đại tá De Castries đã nghĩ đến rồi, Việt Minh có bộ binh bắn lợi hại thật, song bảo chúng có trọng pháo thì thật là chuyện phì cười. Nếu chúng có trọng pháo và đặt quanh đây, ta sẽ phá tan ngay phát đầu tiên của chúng bắn ra, còn máy bay của chúng ta nữa để làm gì mà không dội bom luôn cho tan? Dù cho chúng có đặt được đại bác đi nữa thì có được bao nhiêu phát đạn để bắn ra? Chỉ đợi cho chúng bắn hết đạn cũng chẳng mấy chốc.
Tiếng cười của trung tá Gaucher, chỉ huy các tiểu đoàn Lê dương vang lên:
- Việt Minh có trọng pháo thiệt mà? Song hình như những đại bác 105 ly của chúng đều làm bằng gỗ!
Ký giả Ren Mauriês kết thúc buổi mạn đàm quân sự bằng câu nhắc lại của Tổng trưởng quốc phòng Pleven vừa ghé viếng Điện Biên Phủ mới đây: "Nước Pháp đang để mắt đến các bạn…".
Bên tai đặc phái viên Pháp như còn văng vẳng tiếng nói của Pleven trả lời mấy nhà báo tại Nhà Pháp ở Hà Nội vừa rồi.
Đáp lại Brigitte Fiang hỏi có sợ những khó khăn do tin hội nghị Genève sắp họp không, vị Bộ trưởng Quốc phòng Pháp đã nói rất gọn:
- Việt Minh không thể nào thắng được đâu, cô ơi! Nếu tôi ở địa vị của Giáp, tôi sẽ hết sức lo âu chính vì tin hội nghị Genève sắp nhóm.
Ký giả báo Dépêche du Midi cũng liên tưởng đến cuộc họp báo ở Sài Gòn vừa qua của đại tướng Navarre.
Đặc phái viên nhựt báo Le Monde, Robert Guiltain đã tiết lộ việc bắt được các tin tức của Việt Minh về kế hoạch tiếp tế gạo cho 90.000 người ở Việt Bắc, trong số có 70.000 chung quanh Điện Biên Phủ. Một tin khác nữa của Bộ chỉ huy Pháp nhận được cho hay Việt Minh sẽ tấn công Điện Biên Phủ trong đêm 13 rạng ngày 14 tháng ba 1954. Và lực lượng binh sĩ cùng phương tiện của đối phương biết được là: 27 tiểu đoàn lục quán, 20 đại bác 105 ly, 18 đại bác 75 ly, 80 trọng pháo 37, 100 đại liên phòng không 12 ly 7, không kể số súng cối. Số đạn dược tối thiểu: 5.000 đạn đại bác 75, 15.000 đạn đại bác 105, 44.000 đạn 37 ly D.C.A(2), 24.000 đạn moóc-chê trong số có 8.000 viên cỡ 120, và 200 tấn khí cụ chở tới khoảng từ 8 đến 15 tháng ba này. Về lương thực, mỗi ngày có đến 60 tấn.
Cục Quân nhu đã tải đến hai tấn thuốc men và nhiều cáng thương binh.
Trước những con số của Phòng Nhì quân đội viễn chinh Pháp đã tiết lộ nhà báo nêu câu hỏi, đại tướng tư lệnh Navarre, cha đẻ kế hoạch Điện Biên Phủ chỉ lạnh lùng đáp:
- Việt Minh đã đến cực điểm tham vọng của chúng và vừa chứng tỏ rạng chúng đã vượt quá những khả năng của họ. Điện Biên Phủ đã được chọn làm chiến trường và ta nắm tất cả sự hiểu biết về quân sự, cho nên chính tại đây chúng ta đã chiến thắng.
Đang lúc đồn luỹ Điện Biên Phủ ở trong thế chờ đợi; sáng rực giữa đêm tối vì những trái hoả châu của máy bay thả xuống như một đám cháy lớn thấy rõ cả ngọn cả lá cây, thì cách đó ba trăm cây số đường thay vào lúc trăng lặn khi 2 giờ sáng đêm mồng 4 rạng ngày 5 tháng tư, phi trường Gia Lâm bị một toán Việt Minh xung phong giả dạng làm phu đột nhập đặt chất nổ phá huỷ lối mười phi cơ vận tải và một xưởng sửa chữa máy bay. Rồi tiếp đến đêm sau, sân bay quân sự ở Cát Bi gần Hải Phòng cũng bị phá hoại mất 4 chiếc B26 và 6 chiếc Morane giữa vòng canh giữ của lính Lê dương.
Cũng trong hai đêm này, ở Sài Gòn nhân dịp Nhu đi Vĩnh Long gặp người anh giám mục, Lệ đi nhảy suốt sáng với đại tá Trần Văn Đôn, người tình thứ hai trong quân đội, sau tướng Nguyễn Văn Hinh mà nàng hy vọng lôi cuốn để ủng hộ cho ghế Thủ tướng của anh chồng nàng trong nay mai.
Cùng lúc ấy, ở Ba Lê trời đã sáng - vì cách bảy giờ với Việt Nam - hoàng thân Bửu Lộc, Thủ tướng đương thời gặp ngoại trưởng Bidault để điều đình về việc Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam, ngập ngừng nói:
- Tôi sang đây để điều đình. Lập trường của Việt Nam trong cuộc thương thuyết này, tôi có thể tóm tắt là: hoàn toàn độc lập, tự chủ toàn diện, rồi liên hiệp với Pháp.
Trong giờ này, tại vùng ngoại ô Ba Lê, Diệm đang chăm chú đọc nhựt báo Le Monde, bài của đặc phái viên từ Sài Gòn điện về. Từ hôm được tin hội nghị tứ cường nhóm ở Berlin, Mỹ - Nga - Anh - Pháp đồng ý mở hội nghị quốc tế về Đông Dương, Diệm vội từ Bruxelles đi Ba Lê để theo dõi tình hình.
Qua báo chí và các cuộc tiếp xúc, Diệm nhận thấy rõ là hôm Mỹ tỏ thái độ dè dặt qua lời xác định của Tổng thống Eisenhower không muốn bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh toàn diện ở Đông Dương hoặc Đông Nam Á, Pháp càng xúc tiến mở cuộc thương thuyết. Những cố gắng của Thủ tướng Laniel vận động với Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn chấp nhận nguyên tắc tìm kiếm một giải pháp ở Đông Dương, qua sự trung gian của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa, đã được ngoại trưởng Dulles và Eden chú trọng. Cuộc gặp gỡ tứ cường ở thủ đô nước Đức phân ly trở thành cơ hội tốt cho ông Bidault lôi cuốn Molotov thoả thuận với Tây phương để đem lại hoà bình ở Đông Dương. Hội nghị định họp tại Genève ngày 26 tháng tư, và sẽ mời những đại biểu của Mỹ, Pháp, Anh, Nga, Trung Cộng và các quốc gia liên hệ.
Bản thông cáo hội nghị tứ cường loan đi thì Diệm đến Ba Lê, được lời hứa hẹn của ngoại trưởng Dulles, đảm bảo vận động cho Diệm về nước làm Thủ tướng, một khi Pháp bắt đầu thoả hiệp với Việt Minh tại Genève.
Cũng vào lúc ấy, tại Mạc Tư Khoa, phái viên của Thủ tướng Laniel, nghị sĩ xã hội Alain Savany từ Ba Lê qua, gặp đại sứ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng, đề nghị muốn tiếp xúc với ông Hồ Chí Minh.
Nhà du thuyết Pháp chỉ nhận được các câu trả lời mơ hồ:
- Chủ tịch chúng tôi còn đợi xem tình hình quân sự tiến triển ra sao đã rồi sẽ tiếp chuyện ông.
Câu nói lạnh lùng như gió tuyết ở Công Trường Đỏ thổi bên tai nghị sĩ xã hội Savany, khiến ông ta thất vọng đứng lên. Nhà du thuyết Pháp không khỏi chua xót nhớ lại lời của ngoại trưởng Bidault mới tháng trước đây đã ngăn cản cuộc hành trình thương thuyết còn văng vẳng:
- Hồ Chí Minh đã gần đến chỗ phải đầu hàng, chúng ta sắp đánh bại ông ta. Đừng có tiếp thêm sức cho ông ta bằng các tiếp xúc kiểu này.
Cũng vào thời gian này, tại Hạ nghị viện Pháp, cuộc tranh luận về Đông Dương vừa chấm dứt.
Thủ tướng Laniel đã được tín nhiệm với 333 phiếu thuận và 271 phiếu chống.
Bước vào phòng làm việc, Thủ tướng Laniel và Bộ trưởng quốc gia liên kết Marc Jacquet đều nhìn thấy trên bàn giấy tập phúc trình của đại tướng Ely, Tổng Tham mưu trưởng quân lực, đại tướng Blanc, Tham mưu trưởng lục quân, và đại tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân vừa đi thanh tra các mặt trận ở Đông Dương và nghiên cứu tình hình quân sự tại chỗ.
Cả ba vị tướng đều đưa ra một kết luận chung rất rõ ràng: mặc dầu tướng Navarre có những phương tiện quan trọng về hải lục không quân, cũng không thể đạt đến một quyết định quân sự được nữa.
Quân đội viễn chinh có được tăng cường lớn lao thêm cũng không thể thay đổi được tình thế. Vả lại, nỗ lực quân sự của chính quốc đã hết mức rồi. Tất cả những gì lúc này Pháp có thể mong ước là tạo ra những điều kiện quân sự thuận lợi nhất để giải quyết cuộc chiến tranh bằng một giải pháp quân sự.
Đại tướng Blanc quyết liệt nhấn mạnh: phải tìm giải pháp cho vấn đề Đông Dương ngay trong năm 1954, vì nước Pháp đã suy kiệt về vật chất cũng như tinh thần, nhất là thiệt hại về sĩ quan và hạ sĩ quan ngày một thêm nặng nề. Tiếp tục chiến đấu ở trung châu, mồ chôn binh sĩ chúng ta, sẽ là một tội ác đối với quân đội chúng ta, cũng như đối với dân chúng không đánh nhau.
- Theo ý tôi, cần tìm một giải pháp có thể giúp chúng ta rút ra khỏi "tổ ong vò vẽ Bắc Việt" và dồn lực lượng về Ai Lao và phần đất Việt Nam ở dưới con đường Đông Hà - Savanakhet, có thể bình định được. Phải thương thuyết theo giải pháp đó và tôn trọng những cam kết của chúng ta với sự thoả thuận của Việt Nam, quốc gia bên cạnh, vừa duy trì được ưu thế quân sự của chúng ta.
Tướng Blanc đã nói lên ý nghĩ chung của các vị tướng lãnh cao cấp vừa ở Đông Dương về, phù hợp với đề nghị của Tổng trưởng quốc phòng Pleven vừa phúc trình: cần phải vận dụng tất cả mọi khả năng có thể đưa đến hội nghị Genève để tìm một giải pháp phải chăng cho chiến tranh Đông Dương.
Thủ tướng Laniel nhận thấy không còn trì hoãn được nữa, đang nhờ có dịp lên tiếng thì gặp ngay cơ hội để quyết định thái độ: Thủ tướng Ấn Độ Nehru đề nghị một cuộc ngừng bắn ở Đông Dương.
Triệu tập liền Quốc hội, Thủ tướng Laniel đưa ra những điều kiện để ngừng bắn.
Tổng trưởng Pleven đề nghị thành lập một Hội đồng chiến tranh hạn chế để ứng phó với tình thế. Phải sửa soạn hội nghị Genève trong nội bộ Pháp với Việt Nam và cả Mỹ nữa.
Nhận được tin Việt Minh chấp thuận những đề nghị của Pháp, Hội đồng chiến tranh nhóm họp phiên quan trọng ngày 11 tháng ba.
Ông Pleven đề nghị chính phủ phái đại tướng Ely sang Hoa Thịnh Đốn để trình bày về thực trạng quân sự, giải thích cho các giới lãnh đạo Mỹ hiểu rõ tình thế mà đừng đề cập đến Hội nghị Genève với tin tưởng là Pháp còn có thể thắng được trong trận chiến tranh Đông Dương.
Hội đồng cũng quyết định tướng Ely sẽ yêu cầu Hoa Thịnh Đốn bảo đảm cho không quân Mỹ can thiệp tức khắc một khi đối phương tung máy bay ra chiến trường.
Trong khi ấy Tổng trưởng quốc phòng Pleven tỏ ý lo ngại:
- Vài chiếc MIG 15 xuất hiện trên vùng trời Đông Dương có thể làm đảo lộn tình hình trong một tuần lễ, vì hiện giờ chúng ta trông cậy lớn lao ở phi cơ chuyên chở và oanh lạc.
Sự tăng cường và tiến bộ về cao xạ phòng không của Việt Minh đã có một ưu thế tuyệt đối khiến không quân của chúng ta phải lo ngại.
Ở Sài Gòn, Bộ Tổng tư lệnh được tin Việt Minh có thể bắn vào lòng chảo Điện Biên Phủ những trái đạn 105 ly bằng phốt-pho do Trung Quốc tiếp viện. Thứ trái phá lân quang này sẽ tạo ra một lớp mây dày đục làm cho khó thở và chảy nước mắt có thể gây nên một phản ứng tâm lý tai hại đối với binh sĩ, tướng Navarre đánh điện cho Cogny báo động với đại tá De Castries và yêu cầu Ba Lê gởi gấp 15.000 mặt nạ phòng hơi ngạt cho Điện Biên Phủ vì ở Đông Dương không có.
Tại Ba Lê, giữa phiên họp hạn chế của Hội đồng chiến tranh chỉ gồm có Thủ tướng ngoại trưởng, Tổng trưởng quốc phòng và các Bộ trưởng quân sự, đang lúc tướng Fay thốt ra câu: "Đối với tôi ở Điện Biên Phủ, chúng ta đang đi đến thảm hoạ" thì ở điểm tựa Beatrice người ta nhìn qua ống nhòm thấy lính Việt Minh nhảy tránh đạn đại bác 105 ly, rồi đào xúc đất lên để nấp: Khói đạn mù mịt bao phủ bên ngoài mấy cứ điểm đầu.
- Đào hầm! Chúng nó đào hầm!
Tin truyền đi khắp các trại, đại tá De Castries gọi điện thoại cho tướng Cogny ở Hà Nội hay dấu hiệu địch sắp tấn công.
Tướng Navarre ra lệnh cho vị chỉ huy không quân chuẩn bị sẵn 40 chiếc Dakota ở trung châu Bắc Việt và 15 chiếc ở căn cứ Seno để chở ngay 3 tiểu đoàn lính nhảy dù thả xuống Điện Biên Phủ.
Vào lúc này, 3 trong những hầm nắp rộng bên dưới mặt đất, ở những trạm dọc theo đường tỉnh số 41, cũng như khắp các đơn vị rải rác ẩn núp chung quanh lòng chảo Mường Thanh, khuất dưới lá cây rừng, mọi người đều như thức tỉnh bởi luồng điện kêu gọi: Trận Điện Biên Phủ sắp bắt đầu.
Tại Ba Lê, trong lúc này, Ngô Đình Diệm và người em út Ngô Đình Luyện theo dõi sát những biến chuyển của tình hình, từ sau khi đọc bản thông cáo của Hội nghị tứ cường ở Bá Linh, thảo một kế hoạch trao tận tay các chính khách Pháp, Mỹ.
Sau khi trình bày thực trạng của chế độ quốc gia làm thối nát tình hình chính trị, không tạo nổi một quân đội khả dĩ có thể liên minh với Pháp đương đầu lại Việt Minh, anh em họ Ngô kết luận:
"Yếu tố độc nhất thay đổi được tình trạng suy yếu hiện thời là phải có một chính phủ có khả năng được dân chúng ủng hộ, mang lại một tin tưởng mới cho quân đội quốc gia thực sự. Cần phải tìm ra một nhân vật mới có thể mang lại một luồng sinh khí mới cho Việt Nam, đương đầu với hiểm hoạ Cộng sản".
Con người hùng của thời đại được gợi ra đây, gián tiếp nhắc đến "chí sĩ Ngô Đình Diệm".
Ở Sài Gòn, Lệ và Nhu nhận được bản vận động này đúng vào giữa lúc tướng Nguyễn, Tham mưu trưởng quân đội quốc gia vừa đọc xong bản thống kê của Bộ Tư lệnh Navarre: Từ năm 1945 đến mùa xuân 1953, quân đội viễn chinh đã thiệt mất 34.641 binh sĩ, trong số có 28.141 người Bắc Phi và Lê dương, 32.000 người Việt, Miên và Lào bị giết. Chiến tranh đã hao tổn gần 2.000 tỷ. Từ 1952, Mỹ đã cung cấp trên 1.000 tỷ viện trợ.
Tối hôm ấy, giữa lúc toán xung phong Việt Minh len lỏi vào phi trường Điện Biên Phủ, đặt chất nổ dưới hàng rào sắt để phá sân bay cùng rải truyền đơn bằng chữ Pháp và chữ Đức: "Điện Biên Phủ sẽ là mồ chôn các người" thì Lệ đang uốn éo trong tay tướng Hinh ở một căn phòng điều hoà không khí của khách sạn Majestic, nàng nũng nịu:
- Anh phải giúp em một tay, tức là giúp nhà chồng em để cầm quyền nay mai. Dĩ nhiên là anh nắm giữ về quân sự, Tư lệnh quận đội quốc gia, Bộ trưởng quốc phòng… anh muốn gì cũng được cả, miễn là anh ở gần em…
Tướng Hinh chưa kịp trả lời thì đôi môi của Lệ đã bịt lấy miệng chàng, vị tướng trẻ tuổi quên tất cả, đắm chìm khoái lạc với người đàn bà hoả diệm sơn và gật đầu chấp thuận hết.
Cũng trong giờ này, tại Điện Biên Phủ, cha tuyên uý Trinquard tai còn váng vì những phát đại bác 105 ly đầu tiên của Việt Minh bắn vào sân bay suýt trúng chiếc phi cơ chở tướng Cogny đến thanh sát cất cánh trở về Hà Nội làm cháy hư hết hai chiếc Morane đậu ở trên san.
Trong buổi họp tối giữa các vị chỉ huy những điểm tựa, chung quanh đại tá De Castries, linh mục hay tin vào lúc 5 giờ rưỡi chiều một chiếc Bearcat bị đạn cao xạ của đối phương bắn trúng, và số tổn thất từ hôm thiết lập đồn trại ở Điện Biên Phủ đến nay: 7 sĩ quan, 19 hạ sĩ quan và 125 người bị giết, 2 sĩ quan, 9 hạ sĩ quan và 70 người mất tích, 29 sĩ quan, gần 100 hạ sĩ quan và 675 người bị thương.
Vị linh mục tự hỏi: Họ chết cho ai và hy sinh vì mục đích gì?
Cha tuyên uý điểm tựa Isabelle nhớ chủ nhật tuần trước trong buổi lễ đã đọc đến câu trong Kinh Thánh: Circum cludere me gemi tus morlis (những tiếng kêu than của chết chóc đang vây quanh ta)…
Giờ đây, đang tối thứ sáu, đến sáng ngày kia mới chủ nhật có lễ, linh mục Trinquard muốn kêu lên:
- Exsurge, Domille, adjava nos ét liberu nos! (Xin Chúa đứng lên để cứu vớt chúng tôi và giải thoát chúng tôi).
Mùa Phục sinh chưa tới, song ý nguyện của cha tuyên uý đã hướng về sự cứu rỗi bằng đau khổ và chết chóc vì nghe nói Việt Minh thường bắt đầu các cuộc đánh lớn vào tối thứ bảy. Hơn nữa, linh tính như báo cho linh mục ở Điện Biên Phủ tiên cảm những đau thương ghê gớm sắp xảy ra. Trăng thượng tuần đã lặn sớm sau rặng núi, những đêm sắp tới phấn lớn đều tối, dễ bề cho đối phương hoạt động.
Sau câu nói bế mạc buổi họp của đại tá chỉ huy De Castries: "Các bạn, đến mai, 17 giờ!", các sĩ quan chia tay nhau, qua những lời lẽ bâng quơ, tin là chưa có chuyện gì đáng ngại, cha Trinquard trở về phòng riêng nằm thao thức.
Linh mục Trinquard trông nom một nhà thờ nhỏ ở Meaux, từ Pháp mới qua Đông Dương, làm cha tuyên uý cho đoàn quân Lê dương thứ 13.
Nghĩ đến sự cuồng nhiệt của binh sĩ đối phương lao mình vào lửa đạn đại bác, súng liên thanh, trái phá, bom lửa, linh mục tuyên uý tự hỏi không biết sức mạnh gì thúc đẩy họ hy sinh như vậy? Phải chăng họ đổ máu, phơi xương, làm phân bón cho những mùa màng sắp tới vì mùa lúa sẽ do dân chúng gặt hái chứ không thuộc về đám quan lại nữa? Họ lăn xả vào cuộc chết vì không muốn vùng ruộng đất Thái Bình - Nam Định bao la chỉ nằm trong tay mười ba địa chủ?
Nhưng còn những thanh niên học thức, con cháu nhà giàu, quan lại tri thức, ở trong hàng ngũ Việt Minh, có cả những người Công giáo, Phật giáo, tin tưởng ở Chúa, Phật, chắc chắn là họ không ưa được Cộng sản rồi, vì Cộng sản nhất định không thích gì họ, nhưng tại sao họ cũng ở trận tuyến bên kia?
Cha Trinquard bấy lâu gần kề bên cái chết mỗi ngày, lại thắc mắc không hiểu những binh sĩ đủ màu da trong quân đội viễn chinh mang thân đến chốn hẻo lánh rừng núi xa xôi này bởi lý do gì? Những danh từ đẹp đẽ, văn minh, tự do… không chứng minh được. Bao nhiêu đau thương, bi thảm ghê gớm đưa đến cho con người trong lửa đạn chiến tranh.
Chúa đã đổ máu, xả thân, chịu đóng đinh trên thập tự giá vì chỉ muốn cứu rỗi, chuộc tội cho loài người, muốn cho con người yêu thương nhau. Còn ở đây, con người là chó sói cắn giết lẫn nhau, trong này với ngoài kia, rình rập bắn giết nhau, quyết tâm hạ thủ nhau, tại sao…?
Đang lúc vị linh mục tuyên uý thao thức băn khoăn cho đến khi trời rạng sáng, mơ màng thiếp ngủ, bỗng choàng người dậy vì những phát đại bác rung chuyển cả lòng chảo Điện Biên Phủ.
Tiếng gà rừng vừa gáy sáng, vượn hót ở đầu núi, vẳng xuống thung lũng đang im lìm trong sương mờ thì trọng pháo Việt Minh bắt đầu nhả đạn tràn lấp hết mọi âm thanh rừng núi hừng đông bằng những tiếng trái phá 105 ly.
Phi trường Điện Biên Phủ mặc dầu được một lớp khói nhân tạo thường xuyên che khuất vẩn bị những phát đạn đầu tiên phá huỷ tại chỗ hai chiếc Dakota. Hai phóng viên của Sở Thông tin Tư lệnh Pháp mải mê chụp cảnh cháy chiếc Curtis Commando của hãng Aigle Azus sắp cất cánh bỗng bị một loạt đạn moóc chê. Nhiếp ảnh viên Martinoff chết tại trận, điện ảnh gia André Lebon mất một bên chân được đưa đến bác sĩ Grauwin cưa tại chỗ và chở ngay về Hà Nội trong khi chiếc Dakota thứ ba bị bốc cháy.
Phi trường và máy bay trên sân lòng chảo nằm dưới lằn đạn, chiếc Bearcat đầu tiên cháy như một ngọn đuốc rớt xuống gần điểm tựa Béatrice. Năm chiếc Morane, một trực thăng và sáu phi cơ săn giặc trên đường bay Điện Biên Phủ không cất cánh được vì xăng trong bình lẫn với nước.
Trọng pháo ở các vị trí trong lòng chảo bắn ra vu vơ vì không tìm được những ổ bắn của đối phương đã khéo che đậy ở trong lòng núi. Mưa phùn mờ mịt lại ngăn trở những khu trục cơ và oanh tạc cơ Pháp ở trung châu bay lên tiếp ứng.
Trọng pháo từ mấy phía núi rớt xuống, nhắm vào sân bay, các cứ điểm kiên cố mang những tên mỹ miều của các thiếu nữ Pháp biến lòng chảo Điện Biên Phủ thành một thung lũng khói lửa đỏ rực trong những tiếng nổ long trời lở đất.
Cha tuyên uý Trinquard ở trong hầm nấp điểm tựa Béatrice váng óc vì đạn đại bác rung chuyển cả mặt đất, đếm từ 15 đến 18 phát nổ mỗi phút xé toang cả chung quanh, không còn nghe ở máy phóng thanh những lời gì rõ rệt hơn là tiếng "chết" và tin các cứ điểm Béatrice, Gabrielle, Anne - Marie bị trúng đạn, bị bốc cháy hoặc không trả lời nữa.
Một loạt đạn 105 ly dội tung đất lên, đèn điện tắt ngấm, linh mục Trinquard ôm lấy bờ hầm, đến khi ngẩng lên nhìn thấy qua ánh đèn bấm, một bóng người trắng như ma, tựa vào cánh cửa, áo quần tả tơi đầu tóc rũ rượi, mặt mũi đầy đất bụi như kẻ vừa ở địa ngục chui ra: đại tá Vadot, tham mưu trưởng đạo quân Lê dương, phều phào nói:
- Chỉ huy trưởng đại tá Gaucher chết rồi!
Cha Trinquard bò ra khỏi hầm, lần mò đến trạm cứu thương thấy bác sĩ Grauwin cùng cha tuyên uý Heinrich đang vuốt mắt cho đại tá Gaucher, chỉ còn một cánh tay, mình đầy máu. Vị chỉ huy toàn thể các tiểu đoàn Lê dương của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo số phận của ba sĩ quan phụ tá chết tại chỗ, trong giờ đầu trận đánh.
Bên tiếng đạn réo nổ không ngừng ở phòng mổ, bác sĩ đại uý Grauwin mình cởi trần, đang cúi xuống cưa chân, mổ bụng, xẻ óc cho các thương binh. Hàng trăm người bị đạn, kêu rên chung quanh.
Nhà xác cạnh đó đã chất đầy binh sĩ tử thương.
Nhìn ra ngoài, lửa bốc đỏ rực trời, lửa cao ngọn trên đường sân bay soi sáng lòng chảo như miệng núi lửa, rồi bỗng chốc kho xăng và bom xăng đặc nổ cháy bùng lên giữa cảnh lửa đạn ầm ĩ, lẫn những tiếng hét rùng rợn của lớp lớp sóng người vượt qua mưa đạn, tràn ngập các cứ điểm phía bắc, sau những tiếng nổ bộc phá đánh vỡ toang hàng rào dây kẽm gai.
Dưới ánh sáng chói loà của hoả châu do máy bay thả xuống ba điểm tựa Béatrice, Gabrielle, Anne Marie chế ngự hệ thống phòng thủ phía bắc Điện Biên Phủ lần lượt bị các đợt tấn công Việt Minh tràn chiếm.
Các giàn trọng pháo ở lòng chảo phản công vô hiệu quả, vì không tìm ra đại bác đối phương chôn giấu phía nào ở triền núi vây quanh. Đại tá Piroth chỉ huy lực lượng pháo binh thấy tất cả sự bất lực của mình, ứa nước mắt uất hận trước mặt đại tá nhảy dù Langlois, nghẹn ngào nói:
- Hỏng rồi! Tôi đã báo với De Castries phải thôi. Chúng ta đã đi tới chỗ bị tàn sát, do lỗi tại tôi.
Rồi giữa không khí kinh hoàng, hoang mang của hầu hết binh sĩ, qua trận đánh đầu tiên thất bại chua cay, đại tá Piroth về phòng riêng, rút lựu đạn cài ở lưng ra, lấy răng mở rồi đặt ở một bên tim.
Trong lúc vị chỉ huy pháo binh tự sát, lòng chảo vẫn không một phút nào ngừng tiếng súng, đại tá chỉ huy De Castries ngồi ở hầm tư lệnh viết thư cho vợ để gởi theo chuyến bay sắp cất cánh: "Quân Việt tấn công bọn anh từ hôm qua. Tình hình trái hẳn với sự mong muốn của bọn anh. Trọng pháo đang rót vào. Một trung tâm kháng cự đã bị mất vì vị chỉ huy bô mạng. Thời tiết xấu, phi trường bị đặt dưới hoả lực của địch. Nhiều máy bay bị cháy và vì thế nên không có một chiếc nào dám hạ xuống".
Trong khi ấy đại tướng Navarre, Cao uỷ Đông Dương Deanjean cùng các Bộ tham mưu ở Hà Nội và Sài Gòn không giấu vẻ nghi ngờ gì nữa: trận đánh thua mất rồi! Trừ ra có một sự can thiệp mạnh mẽ từ bên ngoài, không thì Điện Biên Phủ chẳng còn hy vọng gì nữa!
Tại Sài Gòn, nghe thấy dư luận xôn xao, lo ngại, Lệ vội tìm đến tướng Hinh để hỏi thăm tin tức. Nàng được người tình cho hay:
- Ông Deanjean vừa gặp đại sứ Mỹ và phái bộ quân sự Mỹ để xin gởi gấp mấy máy bay thả bom, săn giặc, và chuyên chở (B26, F8F, C47) thả bom napalm xuống chung quanh Điện Biên Phủ. Muốn cứu nơi này, cần phải có thêm nhiều máy bay để đánh phá phía sau địch, cắt đứt các đường đưa đến Điện Biên Phủ, ngăn trở sự tiếp tế, dội bom xuống các kho của chúng, phá nát các giàn đại bác, giữ chặt quân địch một chỗ dưới đất, bằng cách tưới napalm chung quanh lòng chảo…
- Như vậy là Pháp cần nhờ đến Mỹ lúc này lắm phải không?
- Pháp cần nhờ đến máy bay Mỹ để giải cứu Điện Biên Phủ cũng không có gì đáng vui, tại sao trông toa có vẻ hí hửng như vậy?
Lệ cười nhoẻn miệng nói:
- Toa không hiểu là Pháp càng cần đến Mỹ bao nhiêu thì ước mong của moa càng sớm thực hiện bấy nhiêu.
Tướng Hinh ngây người ra, lắc đầu tỏ vẻ ngạc nhiên trước câu nói của Lệ khiến nàng phá lên cười một cách thích thú như đã đưa ra được một bài toán khó giải đáp.
- Toa muốn moa cắt nghĩa thì phải chịu cho moa cái gì nào?
Hinh nhìn Lệ, cười cười nói:
- Thì moa chịu "mở luôn hai mặt trận" liên tiếp với toa hôm nay, có được không?
Lệ ứ lên một tiếng, véo vào vai Hinh, rồi nghiêm mặt nói:
- Toa cứ có thói hay bỡn cợt trong lúc moa nói chuyện đứng đắn, ghét mặt toa lắm? Toa ngốc, mới không hiểu Pháp cần nhờ đến Mỹ, tất nhiên phải nghe theo Mỹ, chịu điều kiện của Mỹ đặt ra mới giúp. Như vậy là lá bài của anh chồng moa sắp đưa ra đánh rồi.
Hinh chợt rõ ý nghĩa thái độ hớn hở của Lệ, bèn mở lời trêu chọc:
- Anh chồng toa có được Mỹ vận động cho về làm thủ tướng, thì toa ăn thua gì vào đó?
- Sao lại không?
- Moa vẫn không hiểu toa muốn nói gì.
Lệ đang lúc hứng khởi, không dè dặt nói:
- Thì anh chồng moa về làm thủ tướng, chồng moa sẽ ở bên cạnh, tất nhiên là phải có moa.
Tướng Hinh cố lấy vẻ mặt trịnh trọng bảo Lệ:
- Nếu thế thì moa sẽ đấu súng với anh chồng toa, thủ tướng tương lai…
Hinh ngừng lại thấy Lệ thắc mắc nhìn mình, đằng hắng rồi lên giọng:
- Moa nhất định sẽ đấu súng với anh chồng toa, một khi y về đây, toa không hiểu tại sao à? Toa mong cho y về làm thủ tướng như vậy mà không đoán được hả? Vì moa ghen ghê lắm! Ghen với toa!
Lệ ngầm hiểu lời nói châm chọc, nhảy xô lại cấu véo vào đùi Hình đang vận quần cụt, miệng không ngớt nói:
- Đểu! Toa đểu lắm!
Trong lúc tướng Hình đùa bỡn với Lệ ở văn phòng Tổng tham mưu tại Sài Gòn thì tại Buôn Mê Thuộc cách dinh nghỉ mát Quốc trưởng bên hồ Hoàng triều cương thổ lối một giờ voi đi, tại cánh đồng rừng cỏ cao ngập đầu người, Bảo Đại cùng người đẹp Mộng Điệp ngồi trên bành voi, bảo người nài Thượng cho voi dừng lại, nổ súng bắn ngã một con bò rừng cách ba chục thước.
Trên lòng chảo Điện Biên Phủ giờ ấy, chiếc Dakota chở tướng Cogny bay vòng muốn đáp xuống sân bay đang ở dưới lằn đạn của Việt Minh, đành phải quay trở về Hà Nội. Vị tướng chỉ huy Bắc Việt muốn nhảy dù xuống để mang lại tinh thần cho binh sĩ 12 tiểu đoàn trọng pháo đài bị bao vậy, song lại sợ bị kẹt, vì phi trường - ngõ thoát độc nhất - đã bị hoả lực bất ngờ đối phương chế ngự đặt ở các cứ điểm chiếm được ngay từ lúc đầu trận đánh. Phi cơ chở thương binh cũng không cất cánh được và bao nhiêu máy bay còn lại đều lần lượt bị bắn cháy, đường bay bị đạn trái phá cày nát. Trọng pháo của Việt Minh, đại bác 105 ly, súng cối hạng nặng 120 ly, cao xạ 37 ly, và đại liên làm thành một vòng lửa đạn khép chặt lấy Điện Biên Phủ.
Giữa lúc vị tướng sắt đá Cogny nuốt nước mắt uất hận trên đường về Hà Nội thì đại tướng Ely từ Ba Lê bay sang Hoa Thịnh Đốn xin cứu viện, đang ngồi ở văn phòng Ngũ giác đài, đối điện với đô đốc Radford, vị tư lệnh hạm đội hùng mạnh nhất thế giới ở Thái Bình Dương, bạn thân của Tổng thống Eisenhower, con người say sưa chú trọng đến chiến trường Đông Dương từ sau ngày chấm dứt chiến cuộc Triều Tiên.
- Tôi đề nghị cho không quân can thiệp Điện Biên Phủ. Lối sáu chục chiếc oanh tạc cơ hạng nặng B29 từ căn cứ Clarkfleld (gần Manille), với 150 khu trục cơ trên hàng không mẫu hạm của đệ thất hạm đội hộ tống, sẽ có thể đè bẹp Việt Minh ở Điện Biên Phủ: mỗi lần oanh tạc được 450 tấn bom.
Tướng Ely ngần ngại hỏi:
- Bắt đầu từ ngày nào?
- Để tôi nghiên cứu ngay.
Sau câu trả lời cương quyết của đô đốc Radford, tướng Ely vội trở về sứ quán Pháp, đánh điện mật báo động với thủ tướng. Trong đầu óc Ely lúc lấy giờ, đề nghị của đô đốc Radford về những phi cơ B29 có nghĩa là sẽ liệng xuống núi rừng Điện Biên Phủ thứ bom A, mà mười năm trước đã bắt Nhật phải đầu hàng, chiến dịch chưa có tên, và tướng Ely không hay là mình đang trở về Ba Lê giữa mùa xuân ướt lạnh với một con chim kền kền đậu ở trên vai.
Tại Ba Lê, Ngô Đình Diệm đi gặp ngoại trưởng Geoges Bidault, lãnh tụ Mặt trận Bình dân (MRP) của phe Công giáo Pháp, để nhắc nhở về sự ủng hộ của lực lượng này dùng áp lực với Bảo Đại để cho mình được về cầm quyến, trước ngày mở hội nghị Genève.
Ở toà lầu đường Orsay(3) ra, Diệm đi thẳng về nhà trọ thấy Ngô Đình Luyện cũng vừa đi về.
- Em vừa gặp một người bạn ở văn phòng Quốc trưởng cho hay là đầu tháng tư này Bảo Đại sẽ qua đây.
Diệm nói:
- Anh cũng vừa gặp ông Bidault cho biết thế nào ông Bảo Đại qua đây, ông ta cũng vận động cho anh về làm thủ tướng. Lần này thì chắc chắn rồi.
Rồi Diệm kể lể:
- Ông Bidault có khuyên anh nên làm sao đừng có sự trở ngại về phía ông Bảo Đại. Lần Nguyễn Văn Tâm thôi, đáng lẽ anh lên làm thủ tướng chớ có phải Bửu Lộc đâu. Theo đề nghị của ông Bidault, song ở bên nhà, chú Nhu với anh Giám mục làm sao để ông Bảo Đại nghi kỵ là anh muốn vận động các giáo phái Cao Đài Hoà Hảo và cả Bình Xuyên nữa, đưa anh lên cầm quyền chống lại ông ta. Anh nghĩ có lẽ là chú Nhu không khéo léo sao đó, để cho mấy phe quốc gia gần ông Bảo Đại ngầm xúc xiểm phá anh. Vậy lần này, sẵn chú có quen biết với mấy người ở văn phòng Quốc trưởng tại đây, chú nên nói khéo với họ, để họ đừng phá mình, đâm thọc với ông Bảo Đại.
Diệm lại nói tiếp:
- Vẫn biết rằng anh được hậu thuẫn mạnh của các phe Công giáo Mỹ và Pháp, cùng các nhân vật trọng yếu của hai nước này, nhưng dù sao cũng phải qua sự uỷ nhiệm chính thức của ông Bảo Đại mới ra lập chính phủ được. Lúc này, bằng đủ mọi cách, làm sao cho ông Bảo Đại đừng nghi ngại từ chối.
Luyện lên tiếng:
- Em có nói với bà Trần, với tư cách nghị sĩ Liên hiệp Pháp, và quen biết trước với ông Bảo Đại, sẽ xin gặp riêng để nói vào thêm cho anh.
- Vừa rồi, thư thím Nhu gởi qua cũng nói được gặp ông Bảo Đại ở Đà Lạt, có nhắc đến việc anh, ông Bảo Đại tỏ ý thuận. Anh chỉ ngại ông Bảo Đại vốn không ưa anh từ hồi anh từ chức Thượng thơ Bộ lại và hay nghe mấy người chung quanh, nhất là mấy tay chính trị lăng xăng ở Sài Gòn, sợ anh ra thì họ mất quyền lợi nên cố vây quanh ông Bảo Đại để cản trở cho ông ta đừng nhận anh. Song lần này, anh tin là ông Bảo Đại cũng khó từ chối.
Diệm nói tiếp bằng một giọng cả quyết:
- Pháp đang bị kẹt ở Điện Biên Phủ, đúng vào lúc đang cần có một thế mạnh quân sự, để dự hội nghị nay mai ở Genève, đã phải cầu viện Mỹ, Mỹ định can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, gởi phi cơ ở các căn cứ Phi Luật Tân, Đài Loan, Nhật Bản và hạm đội thứ bảy đến Việt Nam giải vây cho Pháp ở Điện Biên Phủ, Mỹ lại vừa giúp thêm một ngân khoản 500 tỷ quan cho chiến trường ở Việt Nam, Mỹ cung cấp tiền bạc và vật liệu, dĩ nhiên họ phải có tiếng nói mạnh.
Tướng O Daniel quen biết anh hồi ở bên Mỹ, sắp cầm đầu một phái bộ đặc biệt sang nước mình. Ông Bidault cũng vừa cho anh hay là cứ theo tình hình tiến triển hiện nay, Mỹ không đứng ngoài lâu được nữa và sớm muộn gì Mỹ cũng phải nhảy vào giúp Pháp để ngăn chặn Cộng sản tràn xuống phía Nam.
Như vậy, nước cờ chính trị ở Việt Nam phải thay đổi, chắc chắn là anh ta lập chính phủ mới…
Trong lúc anh em họ Ngô tiếp tục bàn đến viễn ảnh cầm quyền tương lai thì Hội đồng chiến tranh Pháp triệu tập phiên khẩn cấp để quyết định về CHIẾN DỊCH KỀN KỀN, cứu nguy Điện Biên Phủ.
Các yếu nhân lãnh đạo chính phủ và các tướng hiện diện đều nhận thấy rằng theo chủ trương để không quân Mỹ trợ lực tham chiến thì đây là hành động trực tiếp can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương có thể lôi cuốn theo một phản ứng dữ dội của Trung Cộng, đưa đến những "rắc rối quốc tế" song không còn có cách nào để cứu được pháo đài bị bao vây, và theo lời của tướng tư lệnh Navarre, chỉ còn có một điều kiện độc nhất là can thiệp lớn lao cấp tốc bằng không quán Mỹ mới có thể vãn hồi tình thế ở Điện Biên Phủ.
Hội đồng chiến tranh tán thành chiến dịch Kền Kền cử ông Maurice Schumann đi triệu đại sứ Mỹ Doulas Dillon ở Matignon. Đến 11 giờ rưỡi đêm, Thủ tướng Laniel tiếp đại sứ Mỹ, trước sự hiện diện của ngoại trưởng Bidault, nhân danh chính phủ Pháp, nhờ ông Dillon xin với chính phủ Mỹ cho máy bay hạng nặng có thể chở 2.000 ký hoặc hơn nữa can thiệp gấp để cứu pháo đài Điện Biên Phủ.
Tại Hoa Thịnh Đốn, tham mưu trưởng đô đốc Radford và ngoại trưởng Dulles vận động các nhận vật trong chính phủ và thuyết phục các nghị sĩ chấp thuận giải pháp dội bom xuống Điện Biên Phủ, song bị các lãnh tụ Quốc hội cương quyết từ chối, và Tổng thống Eisenhower cũng không tán thành.
Sáng hôm sau, ngoại trưởng Bidault tiếp được điện trả lời của ngoại trưởng Dulles: Mỹ không thể hành động tham chiến ở Đông Dương, nếu không có thoả thuận chính trị với Pháp và các nước khác, và không có sự chấp thuận của Quốc hội.
Giữa lúc chiến dịch Kền Kền bị gạt bỏ ở Hoa Thịnh Đốn thì tại Mạc Tư Khoa nhà du thuyết Alain Savany, nản lòng chờ đợi dấu hiệu của ông Hồ Chí Minh để khai mào cuộc thương thuyết, lên đường trở về Ba Lê. Tin tức báo chí và hành lang chính trị cho nghị sĩ xã hội Savany nhận thấy rõ là nhiệm vụ của ông đã bắt đầu trễ quá rồi, và trong lúc này mọi việc đều đang đánh cuộc tại Điện Biên Phủ.
Ở lòng chảo Điện Biên Phủ, cha tuyên uý Heinrich làm lễ ở trong hầm núp trước một số binh sĩ thất thần, quần áo lấm láp, râu không cạo, mặt mũi hốc hác, thảm hại:
- Xin Chúa hãy đoái thương đến tôi vì tôi đã kiệt sức rồi, vì xương tôi đã rã rời và linh hồn tôi bối rối đến cực điểm!
Trong những đường hào đưa đến bệnh viện đám tàn quân Algérie và Marocain đã chạy thoát các cứ điểm Eliane và Dominique, đang tụ tập quỳ ở trong bùn. Bác sĩ Grauwin nghe tiếng họ kêu than, từ phòng mổ bước ra:
- Thưa đại tá, ngài là cha chúng tôi, chúng tôi đến để hầu ngài, giúp ngài làm y tá, làm bồi. Đối với chúng tôi thế là hết rồi. Ở trên kia, có nhiều người chết quá. Tại sao? Vợ chúng tôi, con chúng tôi cần chúng tôi ở quê nhà.
Bác sĩ Grauwin thấy lòng se lại, dịu dàng bảo họ trở về các đơn vị cũ Nhưng các đơn vị của họ ở đâu? Phần lớn các sĩ quan chỉ huy họ đã bị loại khỏi vòng chiến.
Grauwin trở lại với các dụng cụ giải phẫu, bước qua những xác thương binh người ta đẩy đến bàn mổ, bỗng nghe tiếng nức nở, người nữ hộ tá bị mắc kẹt từ ba hôm nay, Geneviève de Galard đang đứng tựa cửa hầm nấp nức nở.
Các phòng mổ đầy thương binh và xác chết. Mùi máu tanh lợm giọng. Các y tá phải hút thuốc để cho khỏi nôn. Những xương hàm gãy những con mắt lòi, những đùi bị xé đứt, những bả vai lìa, những tiếng kêu rên đau đớn giữa lũ ruồi xanh bấu vào vết thương và dòi bò nhung nhúc khắp nơi.
Đứng giữa cảnh bi thảm ngổn ngang này, nhà bác sĩ khỏe mạnh như không còn đủ sức lực chịu đựng được nữa. Đau khổ đã trở thành bánh ăn, nước uống. Bầu không khí nồng thối làm cho mọi người nghẹt thở. Đây không phải là chiến tranh nữa mà là con đường đưa xuống hoả ngục.
Trong thung lũng nước mắt, đau thương và chết chóc này, Grauwin chỉ còn biết kêu cầu với Chúa, nhưng ở hoả ngục không thương xót này, Chúa có đến không? Trong lúc Điện Biên Phủ ngày đêm các sĩ quan ngủ ngồi ở lỗ hầm, bên cạnh những xác chết binh sĩ chất đống, mùi thối xông ra ghê gớm, và dòi, lằn, ruồi xanh sinh nở khắp các chiến hào đầy phân, nước tiểu, những mảnh thịt người mổ xẻ bỏ đi… tại Hà Nội cuộc xung đột ngấm ngấm giữa hai tướng Navarre và Cogny bùng nổ.
Những tin tức từ lòng chảo Điện Biên Phủ đưa về đặt các Bộ tham mưu trước một thực trạng bi thảm. Tai hoạ gây nên cần phải có kẻ chịu trách nhiệm.
Chiều hôm ấy, vào lúc bốn giờ hơn tại biệt thự của Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở cạnh Hồ Tây đang chìm đắm dưới mưa phùn. Cogny đến gặp Navarre ở văn phòng.
Tướng Navarre gượng cười mở đầu:
- Chúng ta đã viết cho nhau nhiều điều khó chịu rồi. Bây giờ phải bình tĩnh mà tranh luận.
Sự tức giận dồn ép bấy lâu ở tướng Cogny, tư lệnh chiến trường Bắc Việt như gặp dịp bùng lên:
- Tôi không muốn làm việc dưới quyền ông nữa, tuỳ ý ông quyết định cất chức tôi ngay cũng được. Ông là Tổng tư lệnh trận đánh, Điện Biên Phủ mở ra do ý muốn của ông. Thế mà ông bảo tôi phản ông bằng cách tố cáo những lỗi lầm của trận đánh này với các nhân vật cao cấp sang đây. Thậm chí lại để cho vợ ông mang bức thơ ông viết về tôi để khoe với mọi người trong một khách thính ở Ba Lê, là: "Thằng khốn kiếp Cogny phản tôi luôn luôn…". Có bà tướng Catroux làm chứng việc ấy.
Cogny nói như hét lên:
- Nếu ông không phải là đại tướng bốn sao thì tôi cho bàn tay này vào mặt ông rồi.
Tướng Navarre tái mặt. Phòng bên cạnh người nữ thơ ký nghe tiếng cãi lẩy ồn ào, song không còn có ai ngoài hai vị tướng lãnh.
Cogny trở lại bình tĩnh. Navarre nói:
- Tôi yêu cầu ông giữ kín việc này giữa hai chúng ta.
- Tôi cho đó là một bổn phận của tôi.
Cogny trả lời rồi khép chân lại chào.

                                       ***

Chiếc máy bay bốn động cơ riêng của Bảo Đại chở đội chó boxer từ Đà Lạt về Sài Gòn để theo Quốc trưởng đi Pháp.
Lệ muốn tiễn đưa nhắn gởi thêm về việc anh chồng nàng song lại ngần ngại vì Nhu có vẻ không ưa, và từ hôm nghe tin Bảo Đại về Sài Gòn, thỉnh thoảng chàng nhìn Lệ một cách khó hiểu, hỏi nàng đi đâu mỗi khi thấy vợ ra ngoài.
Sáng hôm ấy, Lệ đang trang điểm, Nhu đưa cho nàng xấp điện văn báo chí ngoại quốc của một người bạn thường ngày cung cấp cho Nhu biết rõ tình hình, Lệ đọc phần Nhu đã gạch bút chì đỏ một bên của đặc phái viên tờ PARIS SOIR.
"Sài Gòn 10 tháng tư 1954.
Hoàng đế Bảo Đại lên đường đi Pháp để chứng tỏ ngài là hiện thân của tất cả lực lượng trong nước.
Người ta có cười được tấn hài kịch chính trị dẫn dắt đến thảm kịch chết chóc không? Chỉ có Cao uỷ Pháp, chính phủ và một tham mưu của hoàng thượng mới biểu lộ hay làm ra vẻ biểu lộ sự kính trọng đối với Bảo Đại.
Từ ngày có tin hội nghị Genève sắp nhóm, quân đội Bảo Đại bước vào tình trạng tan rã. Những lệnh gọi nhập ngũ không được thi hành. Chỉ có mặt những thanh niên không trốn thoát hoặc những sinh viên chắc chắn thành sĩ quan, hy vọng được địa vị tốt.
Trong 94.000 lệnh gọi nhập ngũ năm nay, chỉ có 5.400 người trình diện. Để lấp vào chỗ trống, người ta mở cuộc ruồng bắt ở thôn quê và trong thành phố, chở những thanh niên lượm được đến các trại huấn luyện. Nội đầu tháng tư 1954, đã có 3.848 kẻ đã đào ngũ trong quân đội Bảo Đại.
Trong các cuộc chiến đấu, tỉ số binh sĩ mất tích gấp năm lần số chết và bị thương, trong khi ở hàng ngũ quân đội viễn chinh, có đến 63.000 người Việt Nam, số đó chỉ có 10 phần trăm. Sáu tháng sau khi thành lập các tiểu đoàn khinh binh, một phấn tư quân số đã tan biến. Binh sĩ của quân đội Bảo Đại đi chết cho ai?
Các tướng của Bảo Đại đi xe hơi Hoa Kỳ và mở tiệc tùng không màng đến số phận của xứ sở họ đang lâm nguy. Họ oán ghét Cộng sản bởi sợ mất những quyền lợi đang được hưởng thụ: bơ sữa, gái, tiền bạc.
Một bộ trưởng duy nhất không có tiền chuyển ngân gởi ở ngân hàng ngoại quốc đã thú thật với một số sĩ quan cao cấp Pháp: "Tôi chán sống lương thiện lắm rồi".
Ừ, ngoài ra những Cao uỷ Pháp và những bộ trưởng chính phủ theo đuổi bơ sữa, chuyển ngân, có ai dám tin rằng người ta có thể xả thân cho hoàng đế Bảo Đại?".
Lệ đọc xong, thấy chồng còn ngồi nhìn mình, như đang dò xem phản ứng, liền nói:
- Anh chàng phóng viên này chắc không được hối lộ nên mới gắt gao như vậy.
- Em cho là những nhận xét ấy không đúng à?
- Em không đồng ý về việc phê bình ông Bảo Đại. Thử hỏi nếu ở vào địa vị của ông ta, thì có thể làm gì được hơn, vì tất cả đều do người Pháp nắm giữ hết. Tất cả lỗi lầm đều là tại Pháp?
Trong lúc ấy, tại Hoa Thịnh Đốn, ngoại trưởng Dulles nhất quyết chủ trương "hoà bình bằng võ lực" đưa ra kế hoạch liên hợp Pháp, Mỹ, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan và Phi Luật Tân để hành động chống lại bước tiến của Cộng sản tại Đông Nam Á. Trước Uỷ ban ngoại giao Hạ nghị viện bàn về chương trình ngoại viện, ông Dulles lên tiếng về vấn đề Đông Dương:
- Trước hội nghị Genève, Cộng sản đang nỗ lực để đánh tan tinh thần chiến đấu của Pháp và các nước Đồng Minh, thế giới tự do phải tỏ ra đoàn kết và chú trọng đến quyền lợi sinh tử ở vùng này. Nước Pháp và các quốc gia liên kết đừng nghĩ rằng họ cô độc trong giờ phút quyết định này. Mưu toan Cộng sản sẽ vấp phải một quyết định chung, và nếu cần đến một hành động chung.
Để lôi cuốn Quốc hội cho phép can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, ông Dulles nhấn mạnh ràng sự tham gia của Trung Cộng ở Điện Biên Phủ "giống ghê gớm" một sự can thiệp trực tiệp vào chiến cuộc sự có mặt của đại tướng Ly Chen Hoa ở Tổng hành dinh của Giáp gần Điện Biên Phủ, với một nhóm hai chục cố vấn chuyên môn, nhân viên Trung Cộng thiết lập và sử dụng hệ thống điện thoại của Việt Minh, những súng cao xạ 37 ly có ra-đa của Việt Minh đều do Trung Cộng điều khiển, 1000 cam nhông của Việt Minh trong vùng đều do tài xế Trung Cộng lái v.v…
Rồi ông Dulles kết luận: "Những phản ứng của Mỹ trước sự can thiệp của Trung Cộng ở Đông Dương sẽ không chỉ giới hạn ở vùng này mà thôi".
Lời cảnh cáo hứa hẹn đưa đến một cuộc chiến tranh rộng lớn đã gây nên nhiều nỗi lo âu ở Pháp và Anh, bộc lộ qua báo chí. Hội đồng chiến tranh Pháp họp ngay cứu xét đề nghị thiết lập nhóm phòng thủ Đông Nam Á của ông Dulles, và Ba Lê quyết định từ chối, trong bộ Tổng tham mưu Pháp ở Sài Gòn lên tiếng đính chính là Điện Biên Phủ không nhận thấy có một cố vấn quân sự, một chuyên viên, một thương binh, một tử sĩ, một tù binh nào là người Trung Cộng.
Bảo Đại đặt chân xuống Ba Lê vào lúc ngoại trưởng Mỹ Dulles có mặt tại thủ đô Pháp để bàn tính cùng hai ngoại trưởng Bidault và Eden về chiến thuật đối phó với hội nghị Genève sắp khai mạc.
Ngô Đình Diệm xin gặp Foster Dulles, được xác nhận lời hứa của Mỹ ủng hộ: Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, Donald Heath, đã được chỉ thị sang dự hội nghị Genève, sẽ gặp riêng Bảo Đại để vận động trao chức thủ tướng cho Diệm.
Tin này được truyền miệng trong giới người ủng hộ họ Ngô với hy vọng được đền bù sự cộng tác vận động bằng một địa vị xứng đáng trong chính phủ nay mai.
Tại Sài Gòn, vợ chồng Lệ cùng người anh Giám mục được tin do người thân tín từ Ba Lê về, càng xúc tiến việc tuyên truyền và vận động trong các giới, hứa hẹn để lôi cuốn các phần tử ủng hộ "Ngô chí sĩ về nước".
Vài nhà giàu có con đang học ở Pháp, bỏ tiền ra cho vợ chồng Lệ mượn để hoạt động với hy vọng sẽ được họ Ngô trả ơn bằng chức giám đốc, bộ trưởng cho con cháu.
Ngôi nhà nhỏ của Lệ ở đường Ypres bỗng trở nên chật chội vì khách khứa lui tới, từ ngày có tin loan truyền bán chính thức là "chí sĩ Ngô Đình Diệm" sắp về làm thủ tướng.
Lệ đột nhiên thấy mình trở nên quan trọng, được nhiều người ngọt ngào chào đón, và nhất là tiêu xài tiền bạc không phải dè dặt tính toán nữa.
Nước hoa, phấn son được nhiều bà đem biếu, số áo dài của Lệ mỗi ngày một tăng thêm, treo đầy cả tủ kính. Thuộc hạ trung thành, Cao Xuân Vỹ, càng tỏ ra đắc lực trong công cuộc tuyên truyền miệng cho "chí sĩ họ Ngô" đưa về một chiếc xe hơi bóng lộn của một bác sĩ "đồng chí ủng hộ Ngô chí sĩ" cho Lệ mượn đi hoạt động.
Huế, Sài Gòn, Vĩnh Long… ba anh em họ Ngô ở ba tỉnh này được một số người đánh hơi thời cuộc xúm lại bàn tán, hội họp, vỗ ngực tình nguyện: "tranh đấu ủng hộ chí sĩ Ngô Đình Diệm" về nước cầm quyền.
Lệ giao du càng rộng, từ ngày nàng học lái xe hơi, từ sáng đến khuya bận rộn hẹn hò, gặp gỡ, giao thiệp với các sĩ quan cao cấp trẻ tuổi mà nàng bảo là đã lôi cuốn được họ, mang quân đội quốc gia làm hậu thuẫn cho "Ngô chí sĩ".
Mỗi khi thấy vợ trang điểm lộng lẫy, một mình lái xe hơi đi, Nhu có hỏi thì Lệ cười rất tươi trả lời:
- Em đi giao thiệp vận động cho anh Thượng. Điểm chính yếu trong kế hoạch của Nhu là gây ảnh hưởng với các cấp chỉ huy quân đội Bảo Đại. Lệ đã tỏ ra đắc lực, làm quen với tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng đại tá Đôn, chỉ huy một binh đoàn trấn giữ Sài Gòn. Tài ngoại giao khôn khéo của Lệ có thể tạo nên một lực lượng đáng kể sẵn sàng hưởng ứng với chính quyền họ Ngô.
Lệ đã thu hút các tướng tá bằng cách nào, Nhu cũng không dè, tưởng là tiếng tăm của "Ngô chí sĩ" đã lôi cuốn được cảm tình ủng hộ.
Trong những ngày hoạt động đầu tiên, Lệ cũng không ngờ nàng đã đóng góp một vai trò đắc lực, mang thân xác ra để gầy dựng uy thế chính quyền họ Ngô.
Giữa lúc Lệ đắm mình trong các cuộc ái ân ngoại giao, vận động, thì Nhu nằm bên bàn đèn thiết lập kế hoạch để sửa soạn cho ngày anh trở về cầm quyền.
Trong thời gian đó, những tin tức dồn dập từ Sài Gòn đưa qua Ba Lê báo động rằng pháo đài Điện Biên Phủ đang ở trong một tình trạng tuyệt vọng. Ông Foster Dulles ghé lại Ba Lê trên đường đi phó hội Genève gặp ngoại trưởng Pháp Bidault trao cho xem một bản thông điệp của tướng Navarre, nói rằng nếu không phát động chiến dịch Kền Kền ngay thì Điện Biên Phủ không còn chống giữ được nữa, trung châu Bắc Việt cũng mất theo ngày Genève nhóm.
Tình hình nguy ngập như vậy bắt buộc Pháp phải tìm đủ mọi cách gấp rút để ngừng chiến. Tuy nhiên, mọi việc còn có thể cứu vãn được nếu chính phủ Mỹ quyết định cho máy bay B29 đang ở Phi Luật Tân can thiệp vào.
Trong bữa tiệc tối thứ bảy 24 tháng tư 1954 hôm ấy do Bộ Ngoại giao Pháp đãi, ông Dulles mời riêng ngoại trưởng Anh sang phòng bên, cho hay:
- Chúng tôi đã sẵn sàng can thiệp bằng quân sự ở Đông Dương vào giữa tuần tới, lục quân Mỹ sẽ đổ bộ lên để quốc tế hoá cuộc chiến tranh tại Đông Nam Á. Hai hàng không mẫu hạm Boxes và Essex của Đệ thất hạm đội đã chực sẵn ở vịnh Bắc Việt, Pháp đã yêu cầu, chúng tôi chỉ còn đợi sự đồng ý của Anh là bắt đầu chiến dịch Kền Kền…
Nghe tiếng chiến dịch Kền Kền, ông Eden hoảng hốt nghĩ ngay đến bom nguyên tử và chiến tranh thứ ba, với tất cả những hậu quả tai hại cho quyền lợi còn lại của Anh ở Đông Nam Á, vội nài nỉ:
- Khoan đã, xin ông chớ ra lệnh hành động gì hết, trước khi có sự thoả thuận của chúng tôi.
Rồi ngay đêm ấy ông Eden vội vã bay về Luân Đôn. Nội các Anh họp phiên bất thường vào sáng chủ nhật hôm sau với sự có mặt của các tướng lãnh tham mưu.
Ngoại trưởng Anh ghi lại trong hồi ký về ngày lịch sử "trên bờ vực thẳm" chiến tranh thứ ba:
"Điện Biên Phủ không còn có thể cứu được nữa. Hôm qua đô đốc Radford đã nói như thế với tôi trước mặt ngoại trưởng Dulles. Các nhà chuyên môn quân sự Anh cũng không tin là cuộc oanh tạc có hiệu quả vì địa thế chiến trường trắc trở, mà dội bom xuống hậu cứ Việt Minh lại càng không kết quả nữa. Chiến dịch Kền Kền mang lại hậu quả đầu tiên là phá cuộc ngưng chiến ở Đông Dương, và chỉ làm cho chiến tranh lan rộng, Pháp và Mỹ trong lúc này lại không sẵn sàng để thắng được. Trong những điều kiện đó, chính sách thiết thực duy nhất là tìm kiếm ngay ở Genève một thoả hiệp ngừng chiến".
Bữa chiều, Eden đáp máy bay đi Genève.
Hôm sau, đại sứ Pháp Massigli được chỉ thị của Thủ tướng Laniel, vận động một lần cuối cùng với Thủ tướng Churchill: Mỹ đã sẵn sàng can thiệp cứu Điện Biên Phủ và chỉ còn đợi Anh đồng ý.
Lão chính khách miệng không rời điếu xì gà ngắt ngang câu chuyện: ông không muốn biết đến khía cạnh quân sự của vấn đề.
Rồi liền sau đó, Churchill đi thẳng đến Hạ nghị viện đang xôn xao vì những cuộc vận động tới tấp của các yếu nhân Pháp và Mỹ liền mấy hôm nay:
- Chính phủ hoàng gia không sẵn sàng cam kết bất cứ một điều gì trong vấn đề hoạt động quân sự ở Đông Dương trước khi biết những kết quả của hội nghị Genève.
Tại Ba Lê, Ngô Đình Diệm mua ấn bản giờ chót của nhựt báo France Soir, đọc bức điện tín của phái viên ở Luân Đôn nói về sự từ chối của Anh không chịu tán thành đề nghị liệng bom A xuống Điện Biên Phủ, bực tức nói với Nguyễn Bửu Lộc, anh vợ Nhu:
- Thằng Anh sợ mất thị trường Trung Cộng mà nó đã nhìn nhận năm 1950 cùng sợ mất lòng Ấn Độ nên mới phản lại Đồng Minh như vậy.
Cùng hôm ấy, toàn thể đường bay Điện Biên Phủ mất hẳn. Ba trung đoàn Việt Minh chiến đấu trong một tháng trường nay đã chiếm nốt ba điểm tựa còn lại ở lòng chảo.
Trước đó mấy hôm, tướng Cogny nói chuyện bằng vô tuyến với đại tá Castries báo tin cho vị tư lệnh Điện Biên Phủ được vinh thăng chức tướng.
- Tôi gởi cho ông hai sao và rượu uống mừng. Cả thế giới đang nhìn về ông. 52 ký giả quốc tế hiện ở Hà Nội để theo dõi ông.
Binh sĩ được lệnh lục lọi tất cả những đồ thả dù xuống trong các vị trí song không tìm thấy hai sao tướng ở đâu, nghĩ là đã theo với phần lớn đồ tiếp viện rơi về phía bên địch. De Castries ra lệnh giũa hai ngôi sao tại chỗ, trong một xưởng thợ máy Lê dương. Rồi trong khi nâng cấc rượu nhạt để mừng được phong tướng, De Castries nghe đài Việt Minh phát thanh là vừa nhận được các hộp đựng Bắc đẩu bội tinh mế đay, huy chương, sao, với những chai rượu cô nhắc.
Điệp khúc đĩa hát "Du Kích" tiếng Pháp lại văng vẳng lên với nhịp hoà ca của quân sĩ Việt Minh hát theo.
Bạn ơi có nghe tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen.
Trên đồng bằng.
Bạn ơi có nghe tếng kêu âm thầm của xứ sở.
Bị xiềng xích…(4)
Điệu hát ngày đêm chập chờn trên thung lũng sặc mùi chết chóc và chiến bại. Người ta không còn đủ sức chôn lấp những xác chết mà xô đẩy ra ngoài chiến hào, đùn xuống những hố đạn cho rửa thối. Mùi thối ghê gớm của bao nhiêu thây ma sình nát bốc lên theo ngọn gió Lào phừng phực như lửa len lỏi toả ra khắp nơi.
Những đại uý, trung uý của đoàn quân viễn chinh phải bó gối ngủ ngồi trong hầm từ hơn nửa tháng nay, ngày đêm bị ám ảnh bởi những tiếng cuốc xẻng đào đất của đối phương đang bao vây tiến sát chung quanh. Trong những trạm giải phẫu và cứu tế tiểu đoàn, các y sĩ không còn đủ sức giết những con dòi bọ nhung nhúc khắp mọi chỗ.
Cho đến trong giấc ngủ hốt hoảng họ cũng thấy những đoàn dòi bò khấp vách, khắp giường bệnh và băng ca, bu đầy lên vết thương của quân sĩ nằm đơ như đã chết rồi.
Trước ngày 12 tháng ba 1953, khi chưa giao chiến, quân số có gần 11.000 người, sau đó thả dù thêm bốn tiểu đoàn, và mỗi ngày thêm một trăm binh sĩ nhảy dù xuống nữa để lấp những lỗ trống.
Song giờ đây mới có một tháng mấy ngày giao tranh, còn được bao nhiêu người đủ sức đương cự? Trung tá nhảy dù Langlais kiểm điểm lại quân số mà rùng mình, nhìn thấy trong tất cả những chiến hào đưa đến bệnh viện, những toán quân thảm hại giẫm lên xác những bạn đồng đội khuất nửa người ở dưới bùn lầy, những kẻ bị thương không lên được nữa, không một ai còn có thể trông nom đến, đành xem như là bỏ đi, đành vùi xác chưa chết ở trong bùn lẫn nước tiểu, phân, thây ma. Lòng gã sĩ quan nhảy dù đã từng chinh chiến ngang dọc trên nhiều chiến trường, vừa được vinh thăng đại tá, bỗng nổi lên căm hận lạ lùng; muốn gào thét lên nỗi nhục nhã tột độ của đạo quân viễn chinh:
- Vinh quang của Điện Biên Phủ mà báo chí thế giới tự do không ngớt lời ca ngợi, vinh quang chiến đấu trên vũng lầy thối tha đầm máu nhất ở Á Đông, nhân danh Tây phương và nhân danh tình yêu các thiếu nữ xinh đẹp đã đưa tên đặt cho các vị trí không còn nữa.
Đại tá Langlais đến xưng tội với linh mục Heinrich:
- Chúng ta đang đi đến thảm hoạ.
- Phải nhận lấy điều đó để đền bù lại những tội lỗi của chúng.
- Không phải thế? Con không yêu cầu cha an ủi theo lối đó. Cha hãy bảo là con lầm, chúng ta còn có hy vọng. Cần đến, cha hãy xin một phép lạ.
Gần đây, cha tuyên uý Trinquard lo cho những toán quân đến xin giải tội và chịu lễ sát bên bệnh viện, đứng ở dưới hầm làm dấu thánh giá, kêu lên: không phải chiến thắng đang đến, mà là cái chết!
Tại hầm bộ chỉ huy, tướng Castries nói qua vô tuyến điện với vợ: "Em đừng lo. Anh đã từng bị bắt làm tù binh rồi. Anh sẽ có cách xoay xở…".
Ở Sài Gòn và Hà Nội, đại tướng Tổng tư lệnh Henri Navarre và tướng chỉ huy Bắc Việt René Cogny vẫn tiếp tục trao đổi điện tín đổ trách nhiệm cho nhau về chiến trường Điện Biên Phủ và tự hỏi Điện Biên Phủ còn chống giữ được bao lâu nữa trong khi chờ đợi các phi đoàn B29 mang bom A đến giải cứu. Phép lạ mà đại tá nhảy dù Langlais ở Điện Biên Phủ mong mỏi cũng giống như điều mà hai vị thượng tướng chỉ huy dàn quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đang ngong ngóng đã không bao giờ đến.
Tướng Partridge, chỉ huy không quân Mỹ ở Viễn Đông và tướng Calsera ở phòng Hành quân Bộ tham mưu không quân Mỹ với những phi dội B29 chở mỗi chiếc 8 tấn bom đã sẵn sàng cất cánh từ phi trường Clark (Manilla) bay thẳng đến Điện Biên Phủ nhưng không bao giờ có lệnh khởi hành.
Con Kền Kền mang bom nguyên tử đã bị Thủ tướng Churchill nhốt vào lồng ở Luân Đôn. Ở Hoa Thịnh Đốn, Tổng thống Eisenhower chấm dứt thẳng chiến dịch nguy hiểm này bằng một lời tuyên bố rõ rệt trước Hội đồng an ninh:
- Chính phủ Mỹ đợi xem kết quả hội nghị Genève ra sao trước khi có sáng kiến mới giúp Pháp ở Đông Dương. Mỹ không muốn làm hư những cơ hội có thể đưa đến một thoả hiệp chấp nhận được tại Genève.
Lời tuyên bố của Thủ tướng Anh và Tổng thống Mỹ như một hồi chuông báo tử pháo đài Điện Biên Phủ giữa lúc những trận mưa rào tràn ngập cả chiến hào, đoàn quân viễn chinh ẩn núp trong nước bùn ngập tới đầu gối.
Bộ chỉ huy Pháp hoang mang, tính chuyện rút binh sĩ khỏi châu thổ Bắc Việt trước khi bị đối phương bám sát để tiêu diệt. Các báo xuất bản tại Hà Nội đăng tít lớn, lời Bảo Đại phản đối dự định rút khỏi Bắc Việt của quân đội viễn chinh và tố cáo nước Pháp phản bội, trong khi Cao uỷ Pháp vẫn một mực cả quyết không bao giờ có vấn đề đó.
Đúng là một nghệ thuật dối gạt đến cực điểm.
Tại Ba Lê, bản tuyên bố chung Pháp - Việt được đưa ra. Pháp và Việt Nam (chính phủ bù nhìn) khẳng định sự thoả thuận giải quyết những liên lạc giữa hai nước trên căn bản hai hiệp ước cơ sở.
Hiệp ước thứ nhất nhìn nhận nền độc lập hoàn toàn và chủ quyền trọn vẹn của Việt Nam. Hiệp ước thứ hai thiết lập một sự thân hữu Pháp - Việt trong Liên hiệp Pháp, căn cứ trên sự bình đẳng và nhằm phát triển sự hợp tác giữa hai nước. Trong khi bản hiệp ước này chưa được ký kết, vào ngày hôm ấy, 29 tháng tư 1954, bên bờ hồ Leman, hội nghị Genève bắt đầu họp, khởi bàn về vấn đề Triều Tiên.
Trước những tin tức hậu trường chính trị quốc tế, bàn tính chia cắt Việt Nam theo kế hoạch của Anh, văn phòng Bảo Đại ở Ba Lê đưa ra một bản thông cáo cho hay rằng trong lúc này chính phủ Việt Nam quyết định không ký kết hai hiệp ước Pháp thừa nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập và Việt Nam gia nhập Liên hiệp Pháp, vì không nhận được những lời cam kết cụ thể đảm bảo cho sự thống nhất và độc lập của Việt Nam. Đồng thời tố cáo những kế hoạch nhằm chia cắt Việt Nam, và cuộc thương thuyết sắp tới giữa Pháp với những kẻ nghịch lại quốc gia Việt Nam hay với các cường quốc thù ghét Việt Nam, bỏ rơi hoặc hy sinh các quốc gia liên kết cùng Pháp, trái với nguyên tắc của Liên hiệp Pháp.
Còn đối với Hội nghị Genève, bản thông cáo khẳng định rằng:
"Quốc trưởng cũng như chính phủ Việt Nam sẽ không nhìn nhận bị ràng buộc bởi những quyết định đi ngược với nền độc lập và thống nhất của xứ sở".
Ông Bộ trưởng quốc gia liên kết Jacquet đến Cannes mở cuộc vận động riêng; Bảo Đại vẫn tỏ vẻ ỡm ở không cho biết là có nhận lời tham dự hội nghị Genève không.
Qua những cuộc nói chuyện bằng điện thoại, nhẫn nại, bực tức chờ đợi, một hôm sau ngày hội nghị Genève, ông Bidault vội phái Đổng lý văn phòng Pierre Falaise đi Cannes, yêu cầu Bảo Đại cử ngay một phái đoàn và trả lời về sự thừa nhận Việt Minh ở hội nghị.
Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, ông Donald Heath, có mặt bên cạnh Bảo Đại lên tiếng đề nghị ủng hộ của Pháp.
Sau một hồi nhũng nhẵng, Bảo Đại đặt điều kiện:
- Việt Nam sẽ đi Genève để thảo luận về Việt Minh tham dự hội nghị nếu có giấy mời của ba cường quốc Tây phương, mà phái đoàn Việt Nam muốn có một cuộc hội kiến trước.
Thì giờ gấp rút, ông Bidault giục giã nhưng Bảo Đại vẫn làm ngơ nhắc lại:
- Trong khi chưa nhận được thư mời của Pháp, Anh, Mỹ không có một người của quốc gia đến Genève.
Lời yêu cấu được chấp thuận, Trưởng phái đoàn Nguyễn Quốc Định qua Thuỵ Sĩ ngày mùng 10 tháng năm, và sau đó hội họp riêng với ba ngoại trưởng Pháp - Mỹ - Anh.
Ông Bidault tin là hội nghị Genève có thể nhóm liền, trước cuối tuần, bỗng nhận được lời yêu cầu "làm sáng tỏ" và "đảm bảo" sự thống nhất Việt Nam của Bảo Đại, nghi ngờ Pháp đang hướng tới giải pháp chia cắt. Sốt ruột về tình hình hấp hối ở Điện Biên Phủ cần sớm họp để nói chuyện với Việt Minh về vấn đề những binh sĩ bị thương đang mắc kẹt, ngoại trưởng Bidault đành phải nhận lời viết thư cho Bảo Đại, cam kết: "Chính phủ Pháp sẽ thường xuyên hội ý với chính phủ Việt Nam ở Genève. Hiện thời Pháp không tính tìm kiếm tại đây một sự giải quyết chính trị vĩnh viễn, nhiệm vụ của chúng tôi, như bản thông cáo của hội nghị Bá Linh đã tiên liệu là thiết lập hoà bình ở Đông Dương.
"Mục đích của chúng tôi nhằm đạt đến một sự ngưng bắn trong khuôn khổ một cuộc đình chiến mang lại những đảm bảo cần thiết cho ba quốc gia ở Đông Dương, nước Pháp và các cường quốc Đồng Minh mà quyền lợi chung đều gần bó với nhau ở Đông Nam Á. Cuộc đình chiến này không được tiên liệu sự giải quyết vĩnh viễn có thể sẽ đề cập đến sau này, khi đã có đủ những điều kiện hoà bình và tự do để tổ chức tổng tuyển cử.
"Ngay từ bây giờ, tôi có thể xác nhận với Hoàng thượng rằng không có gì trái ngược hơn với ý định của chính phủ Pháp là chuẩn bị thiết lập hai quốc gia có tính cách quốc tế, bất chấp sự thống nhất của Việt Nam…"
Giữa lúc không khí sôi nổi chung quanh hội nghị Genève về Đông Dương sắp mở màn, ở Điện Biên Phủ, những trận mưa đầu mùa xối xả ngày đêm biến bãi chiến trường này thành mót lòng chảo bùn, và các trận tấn công cuối cùng của Việt Minh diễn ra sau những cơn vũ bão sắt và lửa, cả trọng pháo những ngừng tưới xuống mấy cứ điểm còn lại. Những lời kêu cứu rộn ràng của lực lượng Pháp vang lên trên những đường điện thoại giữa bộ chỉ huy và các điểm tựa, trong khi ở phía Việt Minh những tiếng reo hò ca hát thắng trận vang dội.
Mặt lòng chảo rung chuyển dội tung lên vì cả ngàn tấn chất nổ của mìn Việt Minh công phá vị trí cuối cùng. Tất cả binh sĩ đoàn binh viễn chinh đang ở trong tình trạng hoảng sợ tuyệt vọng giữa những tiếng cuốc xẻng đào đất của Việt Minh ngày đêm siết gần, thắt chặt vòng váy. Bỗng họ dậy lên hy vọng khi nghe những tiếng đạn réo kéo dài một cách khác thường.
Hy vọng đột nhiên hoà lẫn với kinh hoàng khi họ thấy những loạt đạn đầu tiên rơi về phía vị trí mình. Có những tiếng mừng rỡ kêu lên: "Quân Crèvecoeur!"
Trên vẻ mặt phờ phạc thất sắc, tuyệt vọng của những binh sĩ trong hầm bùn lầy ngập tới đầu gối, bỗng lóe lên tia sáng vui mừng, mọi người đều như nín thở chỉ chực reo hò lên. Họ tin là dàn quân tiếp viện của đại tá Crèvecoeur liên lạc vô tuyến điện với pháo đài từ nhiều ngày nay, từ phía thượng Lào tiến tới giải vây, đã từ núi rừng xuất hiện đổ xuống thung lũng với những tiếng súng mở đường kinh dị hét vang lên khủng khiếp. Quân sĩ Pháp không biết nên kêu thét lên hay oà khóc vì sung sướng. Nhiều người chui ra khỏi miệng hầm, những kẻ hăng hái vượt chạy đi đón đoàn quân cứu viện bị mưa đạn réo lên quật ngã, cày nát những ổ cầm cự cuối cùng.
Không phải đoàn quân Crèvecoeur phép lạ của mọi người mong đợi mà là những "phong cầm Staline". Việt Minh lần đầu tiên sử dụng thứ trọng pháo gồm mười ống khạc phi đạn mang tên nhịp nhàng của nhạc khí để bắn phá cứ điểm trung ương và dọn đường cho cuộc tấn công cuối cùng.
Những cứ điểm mang tên thiếu nữ Gabrielle, Anne Marie, Béatrice, Dominique, Huguetle, Françoise, Claudine đã lần lượt lọt vào tay Việt Minh. Đến lượt Eliane, cứ điểm cuối cùng sau bản hoà tấu lửa đạn của cây phong cầm tuôn ra những âm thanh phi đạn, những đám người ẩn núp trong rừng núi chung quanh, từng lớp trùng trùng điệp điệp, đông như đoàn kiến xanh, như lá cây rừng, như nước lũ đổ xuống tràn ngập khắp ngọn đồi Eliane, trong tiếng hò reo chiến thắng rung chuyển cả lòng chảo lầy lội, nồng thối mùi thây ma, xác chết vắt ngang rào kẽm gai tràn ngập các chiến hào, chồng chất thành gò đống.
Những mảnh vải trắng cắm vào đầu sậy nổi lên khắp mọi phía, giữa vài tiếng súng nổ lẻ loi cầm cự vào giờ chót. Một lá cờ trắng to lớn kéo lên phấp phới trên hầm Bộ chỉ huy De Castries trong ánh chiều đang phủ xuống thung lũng Điện Biên Phủ.
- Giơ tay lên?
- Chúng đến rồi!
Những âm thanh bất ngờ vang lên giữa chiến trường bắt đầu im tiếng súng.
Vào lúc 17 giờ 15, tại Bộ chỉ huy, tướng De Castries liên lạc vô tuyến điện với tướng Cogny tư lệnh Bắc Việt lần cuối cùng:
- Giờ phút chót đang tới gần rồi. Chúng tôi chiến đấu đến cùng. Chúng tôi sẽ phá huỷ đại bác và vô tuyến điện. Xin chào trung tướng.
Tiếng Cogny ở đầu dây sôi nổi:
- A lô! A lô! Castries? A lô? Castries?
- Trung tướng nói gì?
- Này ông bạn ạ, phải chấm dứt lúc này, chắc hẳn như thế rồi.
- Nhưng, có điều chắc chắn là tất cả những gì ông bạn đã làm cho đến giờ đây đều tuyệt cả. Đừng có làm hỏng hết bằng cách kéo cờ trắng lên. Bị đối phương tràn ngập, nhưng không có đầu hàng, không có kéo cờ trắng.
Castries ngập ngừng một lúc, trả lời bằng giọng thảm hại:
- Thưa trung tướng, thế à, vâng. Song, tôi muốn giữ cho những thương binh.
Chiếc cờ trắng to tướng đã kéo lên rồi, trong lúc các vị chỉ huy đang chờ đợi đối phương đến dẫn đi.
De Castries thay áo sơ mi, quần dài, mang một dãy huy chương trước ngực, không đeo khí giới đứng trong hầm Bộ chỉ huy, miệng ngậm thuốc lá, đầu đội ca-lô đỏ, đợi chờ. Khi thấy binh sĩ Việt Minh đẩy cửa hầm vào, súng tiểu liên chĩa thẳng vào ngực mình, vị tướng tư lệnh Điện Biên Phủ kêu lên: "Xin đừng bắn tôi", rồi ngoan ngoãn đi theo kẻ chiến thắng ra xe Jeep đưa đến phòng quân báo đối phương.
Vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ sáu mồng 8 tháng năm năm 1954, trong khi bóng tối phủ dần xuống lòng chảo Điện Biên Phủ, tất cả mọi tiếng súng cầm cự đều ngưng bắn. Một không khí im lặng khác thường bao trùm khắp nơi chỉ còn nghe tiếng kêu rên của những kẻ bị thương trong bóng tối, lập lòe trong ngọn đuốc.
Trên trời, vài chiếc máy bay đảo lộn quanh vùng, chực thả hoả châu hay bom xuống lòng chảo vì chưa hay tin pháo đài Điện Biên Phủ đã đầu hàng.
Qua đêm đầu tiên được yên lành thở khí trời, mười ngàn binh sĩ sống sót, sau 57 ngày đêm ở Điện Biên Phủ nhìn thấy ánh sáng hồng đầu ngọn núi chung quanh mình, không còn nghe tiếng súng nữa. Tại Ba Lê, do thì giờ cách biệt, vào lúc gần 17 giờ, Thủ tướng Laniel lên diễn dàn Quốc hội, cố giữ giọng bình tĩnh, loan tin: Điện Biên Phủ đã thất thủ.
Nỗi kinh hoàng chiến bại đè nặng lên thủ đô nước Pháp. Những điện tín từ Sài Gòn gởi đến tới tấp. Nhựt báo France Soir ra một án bản đặc biệt, kéo dài tin kinh động trên 8 cột: "Điện Biên Phủ đã mất". Báo Le Monde loan tin chiếc phi cơ của Bảo Đại vừa thoát khỏi một tai nạn ở Côte d Azur, trách Quốc trưởng kéo dài cuộc nghỉ mát, làm chậm trễ cuộc thương thuyết chở thương binh ở Điện Biên Phủ từ mấy hôm nay.
Sáng ngày thứ bảy, từ Sài Gòn, một hãng thông tấn đánh điện lời tuyên bố của tướng Nguyễn Văn Hinh:
"Hồ Chí Minh và chung quanh không biết là giờ lâm nguy của họ đã điểm vì Việt Minh đã bị rất nhiều thiệt hại trong trận đánh Điện Biên Phủ, sẽ khó tránh khỏi thất bại nặng nề trong các chiến dịch thu đông sắp đến… Điện Biên Phủ đã đảo lộn thế quân bình lực lượng có lợi cho chúng ta".
Cùng một lúc với nhật lệnh đại tướng Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Navarre chính thức báo tin pháo đài Điện Biên Phủ do tướng De Castries chỉ huy phải ngừng chiến đấu với 56 ngày giao chiến liên tiếp. Nhật báo France Soir đăng một bản tin đặc quyến của phái viên ở Hồng Kông điện về Ba Lê: "Cuộc giao chiến ở Điện Biên Phủ kéo dài từ 13 tháng 3 đến 6 tháng năm 1954, trong 56 ngày đêm, toàn bộ hệ thống phòng ngự 49 đồn và 2 sân bay trên một khu vực 12 cây số bề dài và 6 cây số bề ngang đã bị tan rã.
Theo những tin tức đầu tiên Việt Minh đã loại ra ngoài vòng chiến 17 tiểu đoàn bộ binh và nhảy dù, 3 tiểu đoàn pháo binh và nhiều đơn vị thiết giáp, công binh, vận tải, không quân… tổng số trên 21 tiểu đoàn và trên 10 đại đội gồm trên 16.000 binh sĩ.
Số quân ở pháo đài lúc đầu có 12 tiểu đoàn bộ binh và nhảy dù và 3 tiểu đoàn trọng pháo, được tiếp viện thêm về sau 5 tiểu đoàn nhảy dù, tăng quân số ở Điện Biên Phủ lên 21 tiểu đoàn và 10 đại đội.
Toàn bộ tổng chỉ huy Điện Biên Phủ, ba bộ chỉ huy ba tiểu khu, ba bộ chỉ huy ba đoàn quân lưu động và những chỉ huy trưởng tất cả các tiểu đoàn đều bị bắt làm tù binh, bị thương hay bị giết.
Thiếu tướng De Castries, tư lệnh pháo đài Điện Biên Phủ bị bắt làm tù binh.
Số sĩ quan cao cấp Pháp bị giết hay bị bắt gồm 16 đại tá và 353 thiếu uý, trung uý, đại uý, thiếu tá, 1396 hạ sĩ quan, bị giết hay bị bắt làm tù binh. Tổng số tù binh có lối mười ngàn người Pháp, Việt, Đức Bắc Phi, Sénégalais, Thái, Miên… thuộc quân đội viễn chinh Pháp.
Điện Biên Phủ thất thủ bao trùm Paris và Genève trong một không khí bi thảm, giữa nắng ấm mùa uấn. Trong các chính giới người ta bàng hoàng nhắc đến Waterloo, Stalingrad, lo ngại rằng thất bại lớn lao ở Điện Biên Phủ báo hiệu sự sụp đổ của đế quốc Tây phương.
24 giờ sau, hội nghị Genève khai mạc, ngoại trưởng Pháp Georges Bidault nghẹn ngào lên tiếng đề nghị ngừng chiến ở Đông Dương.
Trong khi ấy, ở Sài Gòn, Lệ đang ngồi ở trên đi-văng nhà riêng tướng Hinh, mở đầu cuộc thuyết phục:
- Moa biết toa có nhiều liên lạc mật thiết với Pháp, dân Tây vợ đầm, xuất thân từ trường võ bị Pháp, và địa vị toa ngày nay cũng do sự tín nhiệm của người Pháp. Nhưng toa cũng nên hiểu, dù sao toa cũng là người Việt, trong người toa chảy một dòng máu Việt Nam… Như vậy, thật tình toa muốn phụng sự Việt Nam hay nước Pháp?
Tướng Hinh không trả lời, lặng lẽ nâng ly rượu whisky lên uống.
Lệ như được trớn nói tiếp:
- Vì tình cảm với toa, nên moa mới chân thành đặt vấn đề với toa. Toa phụng sự cho Việt Nam không ai có thể buộc tội là toa phản bội nước Pháp. Moa cũng theo quốc tịch Pháp nhưng bổn phận chính đáng của moa là phải làm cho Việt Nam. Moa đề nghị toa nhận chức Bộ trưởng quốc phòng, trong chính phủ của anh Diệm sắp thành lập, toa nghĩ sao?
Tướng Hinh đứng lên, ngồi lại gần một bên Lệ, nhìn thẳng vào mặt nàng, thong thả nói:
- Toa muốn đóng vai bà mẹ phải không? Người như toa không nên nhúng vào việc chính trị. Toa đến với moa vì chính trị hay vì thích moa?
Lệ mỉm cười:
- Có lẽ cả hai. Nhưng tại sao toa lại phản đối moa bàn đến chính trị? Toa cũng đã rõ anh chồng moa cũng sắp về tổ chức chính phủ, moa đề nghị với toa giúp một tay, cũng như toa giúp moa vậy, toa từ chối hay sao?
Tướng Hinh ậm ừ đáp:
- Trong lúc này, chúng mình nên bàn chuyện khác hay hơn, vì moa muốn toa hơn là muốn địa vị của toa vừa nói.
Nói rồi tướng Hinh ôm choàng lấy Lệ hôn và quật nàng lên đi-văng, mặc cho tiếng điện thoại reo trong gian phòng đã khép kín cửa.
Vào lúc ấy tại Ba Lê, Ngô Đình Diệm vừa nghe một chính khách Việt Nam thuật lại lời bàn tán của một nhân vật ngoại giao Mỹ nói về mình, nhân việc vận động về làm thủ tướng của Diệm.
- Ông Diệm và người anh Giám mục hồi qua Mỹ có đến Bộ Ngoại giao nói chuyện với chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy nên để ông Giám mục làm chính trị, và để ông Diệm làm Giám mục thì dúng hơn.
Diệm nghe kể lại, giận sôi lên, song nhớ đến lời đảm bảo che chở của ngoại trưởng Dulles trong chuyến qua Ba Lê vừa rồi, Diệm lại vững lòng tin cậy, nói:
- Nhờ ơn trên phù hộ, tôi chắc chắn sắp trở về nước chấp chính, chỉ còn đợi sự chấp thuận của Quốc trưởng nữa thôi.
Diệm bộc lộ ý nghĩ thầm kín trước tình thế:
- Điện Biên Phủ thất thủ đã giúp tôi rất nhiều.
Trước sự ngạc nhiên của người đối thoại, Diệm trầm tĩnh nói:
- Pháp thua ở Điện Biên Phủ, không còn đủ sức một mình đương đầu với Việt Minh nữa, bắt buộc phải thương thuyết ở Genève. Nhưng ở vào thế yếu, sợ đối phương bắt chẹt, Pháp cần phải nhờ đến Mỹ ủng hộ, để có một thế ngoại giao mạnh. Chính Bidault đang vận động với Mỹ nhận lời "đe doạ can thiệp vào chiến cuộc Đông Dương, nếu Việt Minh không tỏ ra biết điều". "Cho Việt Minh nghè "tiếng sấm dậy" mà không để rơi tiếng sét xuống đầu họ" như lời của Bidault nói với ông Bedell - Smith, trưởng phái đoàn Mỹ Genève. Mỹ nhận giúp Pháp với điều kiện, Pháp phải nghe theo lời khuyên của Mỹ, trong đó có việc tôi ra làm Thủ tướng. Mỹ muốn có một người cương quyết chống Cộng sản để đương đầu với tình thế Việt Nam đang suy sụp.
Trong giới chính trị Việt ở Ba Lê và Sài Gòn, tin Ngô Đình Diệm sắp về chấp chính được loan truyền sau ngày Bidault ngỏ lời với Bảo Đại đề nghị cử họ Ngô làm Thủ tướng.
Từ Evian trở về lâu đại vương giả Thorence ở bờ biển Cannes, Bảo Đại nghe ngoại trưởng Pháp rồi đến đại sứ Mỹ ở Việt Nam tiến cử cựu thần họ Ngô, tỏ vẻ không vui, vắn tắt đáp:
- Để tôi xét lại đã.
Ngỏ lời với các thuộc hạ, Bảo Đại lo ngại họ Ngô sẽ không trung thành với mình, và thắc mắc nghĩ đến vùng săn bắn lý tưởng của Hoàng triều cương thổ, những nguồn lợi thu ở các sòng bạc Kim Chung và Đại Thế giới, khu chứa gái Vườn Lài.
Mặc dầu số lớn tiền của đã chuyển ra nước ngoài từ lâu gởi ở những ngân hàng chắc chắn, Bảo Đại cũng ngần ngại trước kẻ bề tôi mà ông đã cho là "có đôi mắt không thẳng thắn".
Thái độ do dự của Bảo Đại trước áp lực vận động của cả Pháp lẫn Mỹ kéo dài trong mấy hôm liền, khiến họ Ngô ở Ba Lê trông ngóng tin tức hết sức sốt ruột.
Diệm bàn tính cùng mấy người bà con cậu em út Ngô Đình Luyện, anh cột chèo của Nhu luật sư Nguyễn Hữu Châu, chú vợ Nhu, bác sĩ Trần Văn Đỗ… rồi nói thẳng với nhân vật Mỹ:
-        Quốc trưởng chúng tôi có lẽ muốn có một sự đền bù cụ thể mới chịu chấp nhận đề nghị cử tôi về làm Thủ tướng.
Chính khách Mỹ, vốn thực dụng trong các cuộc mặc cả chính trị, gật đầu trước nhận xét hợp lý của Diệm, vội điện hỏi ý kiến Hoa Thịnh Đốn, và tức tốc về Ba Lê đi Cannes.
Thế rồi trong khi cuộc thương thuyết kéo dài ở hội nghị Genève, tại lâu đài Quốc trưởng Việt Nam trên bờ biển Pháp, một nghi lễ long trọng cử hành trước sự hiện diện của Hoàng hậu Nam phương, nhiều nhân vật quốc gia, các chính khách Pháp, Mỹ.
Trong bộ quốc phục, Ngô Đình Diệm đội khăn đóng, khoác áo rộng xanh, lạch bạch tiến lên trước mặt Bảo Đại và Hoàng hậu, quỳ xuống, trịnh trọng thề:
- Trước mặt Quốc trưởng Hoàng đế và Hoàng hậu, thần xin long trọng thề hết lòng trung thành và nguyện bảo vệ ngôi báu cho Đông cung Thái tử Bảo Long, quyết một lòng một dạ tận trung báo quốc trong khi thần còn được cầm quyền Thủ tướng do Quốc trưởng uỷ thác, cấu xin ơn Trên phù hộ và chứng minh cho lời của thần.
Diệm đứng dậy, vòng tay toan sụp lạy Bảo Đại và Nam phương thì được khoát tay miễn lễ.
Sau buổi lễ thề nguyện trung thành với vị hoàng đế cuối cùng triều Nguyễn, Ngô Đình Diệm được chính thức uỷ nhiệm làm Thủ tướng Việt Nam.
Giữa lúc tại hội nghị Genève, phái đoàn quốc gia của chính phủ Bửu Lộc bỗng thấy mình bơ vơ lạc loài như một đứa con vô thừa nhận, đang bị hy sinh cho ván bài quốc tế, các Đồng Minh Pháp phản bội, Anh bỏ rơi, Mỹ lạnh lùng.
Công việc đầu tiên của Diệm là về ngay Ba Lê đánh điện về Sài Gòn cho vợ chồng Nhu hay tin, rồi cử người em út Ngô Đình Luyện làm cố vấn phái đoàn đi Genève với bác sĩ Trần Văn Đỗ, giữ chức ngoại trưởng tân chính phủ, và luật sư Nguyễn Hữu Châu, anh vợ của Nhu.
Ông bà Trạng Trần Văn Chương, bố mẹ vợ Nhu cũng được Diệm mời đến, nhờ giữ chức đại sứ nay mai ở Mỹ.
Nắm được uỷ nhiệm thư thành lập chính phủ mới, Diệm nghĩ ngay đến việc loại bỏ những người quốc gia bấy lâu Diệm vẫn không ưa thích và lo chọn người cộng tác trong số bà con, thân hữu, hoặc do các linh mục giới thiệu.

Chương 11
Quyền hành trong tay

Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước được thưa thớt người đón tiếp
 Giữa phòng khách vắng vẻ sau giáo đường, ở trong khu nhà thờ Cha Tam, tại Chợ Lớn, vào một buổi chiều vừa dứt trận mưa hè, Giám mục Thục, đầu tóc bạc, cắt ngắn ngồi chính giữa, đưa đôi mắt sáng quắc nhìn qua ba người em trai cùng cô em dâu đang ngồi quanh, rồi gật gù bộ mặt béo hồng, cất tiếng đanh thép:
- Chú Thượng lãnh trách nhiệm ra lập chính phủ. Việc là việc nước, song cũng như việc nhà, anh em mình phải lo đảm đương gánh vác trước khi nhờ đến người ngoài. Anh cả chúng ta đã về chầu Chúa, anh lấy tư cách "quyền huynh thế phụ" mà khuyên nhủ các em. Ít khi anh em hợp mặt đông đủ, chỉ còn thiếu chú út Luyện đương lo công việc ở Genève, mà rồi đây cũng để cho chú ấy hoạt động ở nước ngoài, còn ở trong nước, chú Nhu với chú Cẩn phải cố sức mà giúp cho chú Thượng. Anh vì đã khoác áo tu hành, không thể công nhiên làm việc phần đời, song anh cũng theo dõi để giúp được chừng nào hay chứng ấy. Anh nghĩ lúc này giữa anh em mình nên phân công cho rành rọt. Theo ý anh thì ở gần bên chú Thượng có chú thím Nhu còn ở miền Trung thì giao cho chú Cẩn phụ trách. Còn anh, đứng trong phạm vi tôn giáo, cũng có thể góp sức ủng hộ về mặt tinh thần. Cả khối Công giáo từ Bắc chí Nam là một lực lượng hậu thuẫn mạnh cho chính phủ công giáo đầu tiên ở nước mình. Ấy chưa kể đến sự nâng đỡ của Giáo hội khắp nơi và Toà thánh.
Người anh tu hành vừa dứt lời, Nhu mở cặp đưa ra một xấp chương trình dài gồm những kế hoạch đối phó, mua chuộc, liên kết với các nhóm quốc gia, lực lượng giáo phái rồi chậm rãi nói:
- Lúc này, anh Thượng sắp chính thức ra cầm quyền, họ còn đợi coi sao mới phản ứng. Kể ra thì Pháp cũng còn mạnh, song với áp lực của Mỹ, mình có thể kềm giữ được. Thế Pháp phải nhượng bộ Việt Minh ở hội nghị Genève, mình đòi cho quốc gia được độc lập hẳn hoi, rồi cũng dễ gây ảnh hưởng mạnh. Tôi thấy cần đối phó trước hết là các lực lượng theo Pháp với Bảo Đại. Mình có thể dùng tiền Mỹ để mua chuộc, chia rẽ hàng ngũ các giáo phái đang kết hợp trong cái Mặt trận Toàn lực quốc gia, và cần đến thì tiêu diệt từng dám một. Có một lực lượng đáng kể hiện thời là Cao Đài liên minh của Trịnh Minh Thế, còn ở trong khu chủ trương chống cả Pháp lẫn Việt Minh, được Mỹ giúp đỡ, mình cần liên lạc để lôi cuốn hợp tác. Ở thành, đáng ngại chỉ có bọn Bình Xuyên, chúng có tiền, được Pháp và Bảo Đại che chở hiện nắm giữ công an trong tay, mình phải tính chuyện loại ảnh hưởng bọn này trước. Về phía quân đội quốc gia, mới có một phần theo mình, còn một số đang lưng chừng, nghe theo tướng Nguyễn Văn Hinh, người của Pháp trung thành với Bảo Đại.
Lệ góp lời chồng:
- Em thấy có thể lôi kéo quân đội không khó, khi anh Thượng đã chính thức cầm quyền trong tay. Quân đội phải tuân theo kỷ luật, lẽ tất nhiên phải nghe lời Thủ tướng. Tướng nào dám chống lại mà ngại? Anh Thượng tính bữa mô ra dinh Gia Long, để em lo sửa soạn trước cho gọn.
- Tôi mới về được một bữa, tạm ở đây cho đỡ để bàn tính công việc vài ba bữa thôi, chớ ở trong khu nhà thờ lâu không tiện.
Cẩn nhai trầu bỏm bẻm lên tiếng:
- Rứa anh Thượng tính bữa mô về Huế thăm mạ? Cũng sắp tới ngày kỵ thầy rồi.
- Ừ để đến ngày kỵ thầy anh về thăm mạ luôn. Bấy lâu nhờ có chú ở một bên mạ, anh cũng yên tâm.
Lệ hỏi:
- Anh Thượng xa nhà lâu, có thích món chi để em bới vô đây cho. Anh còn thích ăn mắm tôm chua không?
Nhu ngắt lời:
- Việc gia đình để bàn tới sau. Bây giờ anh Thượng quyết định coi danh sách những người mình mời tham gia chính phủ, giữ ai lại, loại bỏ ai để tiến hành cho mau việc lập nội các đặng ra mắt đi. Trong số các anh em bấy lâu theo ủng hộ mình, giúp đỡ tinh thần hay vật chất, những người có thể tin cậy được ở lòng trung thành của họ, tôi kê riêng ra một bên, với khả năng từng người, và đề nghị cử họ đảm nhận trách vụ gì trong chính phủ. Ngoài số người tin cẩn được còn số người có uy tín, có bằng cấp, có cảm tình với mình, tôi sắp hạng riêng, với đề nghị về mỗi người. Tôi nghĩ rằng lúc đầu, trong nội các giao thời này, mình chỉ giữ các bộ chính do tay chân tín cẩn, còn để cho các đại diện giáo phái chạy theo mình vài bộ, cho có tính cách liên hiệp, rồi sẽ tuỳ cơ đối phó.
Diệm gật gù:
- Tôi đồng ý với chú Nhu. Anh Giám mục nghĩ sao?
- Được chú Nhu có bàn tính với tôi rồi.
Cẩn chen vào:
- Mấy anh nhớ cho người của em đề nghị với nghe.
Diệm mỉm cười nói:
- Chú khỏi lo điều đó. Tuy là việc nước song do anh em mình định đoạt. Tôi đã tính để cho chú làm Cố vấn chỉ đạo ở miền Trung còn chú Nhu làm Cố vấn chính trị ở bên tôi. Anh Giám mục làm cố vấn tối cao cho chính phủ. Còn chú út Luyện chuyên lo ngoại giao ở bên ngoài với ông bà Trần.
- Thím Nhu giúp chúng tôi về mặt ngoại giao ở trong nước. Như vậy cả nhà mình đều nấm giữ mọi trọng trách, lo gì không thành công? Mỹ đã quyết lòng ủng hộ đến cùng, mình không sợ gì thằng Pháp hay Việt Minh cả. Lúc này mình chỉ cần dè dặt đề phòng bọn quốc gia nó phá đám thôi, chớ củng cố đâu vào đó rồi thì không lo nữa.
Lệ bỗng nhiên hỏi:
- Ở ngoài người ta đồn là Ba Lê nhận 80 triệu của Mỹ mới chịu để cho anh về, mình phải nói sao?
- Ở lúc đầu Bảo Đại không chịu giao chức Thủ tướng cho tôi, mặc dầu ông Bidault, lãnh tụ mặt trận Thiên Chúa giáo Cộng hoà Bình dân lấy tư cách ngoại trưởng mà đế nghị, rồi đến Mỹ yêu cầu, đòi phải có một chính phủ quốc gia thực sự mới chịu đảm bảo viện trợ. Mỹ đã thúc giục Pháp trao trả quyền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, chịu nhìn nhận Việt Nam có thể tách ra khỏi Liên hiệp Pháp, rồi ông Donald Heath đại sứ Mỹ đến Cannes hôm 16, nằn nì mà ông Bảo Đại cũng cứ lưng chừng không nhận lời. Tôi cho ông Bảo Đại muốn kéo dài ngày giờ để yêu sách, trong khi thấy nội các Laniel Bidault đổ vì cuộc thương thuyết ở Genève bế tắc, Mendès France được lên làm Thủ tướng nhờ cam kết đem lại hoà bình trong vòng một tháng. Hơn nữa, ông Bảo Đại thấy Mỹ hết lòng ủng hộ tôi, lại sợ tôi không bảo vệ quyền lợi riêng của ông ta sau này, nên mới nhùng nhằng đề buộc Mỹ phải trả giá cao.
Nhu chen lời nhận xét mỉa mai:
- Như vậy là Bảo Đại đã buôn chiếc ghế Thủ tướng Việt Nam lấy đô la Mỹ ở trên đất Pháp, cũng là một hành động lịch sử lắm!
Diệm tiếp tục kể:
- Sau ba ngày điếu đình, trả giá, đến 19, ông Bảo Đại mới chịu uỷ nhiệm cho tôi thay thế Bửu Lộc, và chỉ mấy giờ sau khi Pháp tân phong Thủ tướng Mendès Franee. Không đầy một tuần lễ trước khi về đây, tôi chỉ vừa đủ thì giờ với chú Luyện để sắp đặt phái đoàn mới qua Genève thay bọn cũ.
- Chú Luyện giữ chức cố vấn, đại diện cho tôi, với bác sĩ Trần Văn Đỗ(1) mà tôi tạm cử làm ngoại trưởng và luật sư Nguyễn… Mấy người chủ chốt toàn chỗ bà con tin cậy được cả.
Nhu thắc mắc hỏi:
- Anh liệu hội nghị Genève có đi đến đâu không?
Diệm suy nghĩ rồi đáp:
- Mendès France thay thế Bidault, muốn tìm một lối thoát cho Pháp ở Đông Dương tại hội nghị này, có thể nhượng bộ, thoả hiệp với Việt Minh, hy sinh phe quốc gia. Vấn đề chia cắt nước mình tôi nghe họ đặt ra thành giải pháp cho cuộc thương thuyết hiện thời.
Mỹ cũng đã thấy rõ như vậy rồi nên tôi mới về đây để liệu bề đối phó trong trường hợp Việt Nam trở nên Cao Ly, Đức, thì có một chính phủ quốc gia mạnh, được Mỹ hết lòng ủng hộ mà đương đầu với cộng sản.
Đối với Pháp, do hiệp ước nhìn nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập Mỹ sẽ thay thế đảm nhiệm huấn luyện, đào tạo cho quân đội quốc gia và sẽ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam. Ngoài ra Mỹ đang xúc tiến một hiệp ước phòng thủ chung ở Đông Nam Á, và đã triệu tập bí mật ở Hoa Thịnh Đốn hồi đầu tháng này, năm nước Mỹ, Anh, Pháp, Úc và Tân Tây Lan. Hiệp ước này sẽ giúp mình chống lại áp lực của Việt Minh cộng sản. Cho nên, ở Genève, dù Pháp với Việt Minh có liên kết với nhau, mình cũng đã có thể đối phó, và Mỹ không để cho Cộng sản lấn lướt quá được.
Nhu tỏ vẻ lo ngại:
- Tôi sợ không tránh khỏi việc chia cắt nước mình, căn cứ vào cái hội nghị Yalta trước đây, giữa Roosevelt, Churchill và Staline, Mỹ dù có muốn giúp mình, song thế Pháp về mặt quân sự hiện thời chỉ lo chống đỡ, và chỉ muốn rút chân cho khỏi sa lầy thêm nữa, sợ rồi phải làm compromis(2) với Việt Minh, mà Mỹ cũng phải nghe theo. Anh từ giã Ba Lê hôm 25, vậy anh có được tin tức chi về bữa 23 tại Berne, giữa Mendès Franee với Chu Ân Lai, Molotov ở toà đại sứ Pháp không?
Diệm lắc đầu:
- Không, tôi không được Pháp chính thức thông báo chi cả. Song chú Luyện có nghe ngóng là giải pháp "chia cắt quân sự" đã được các giới quan sát chính trị coi như giải pháp duy nhất để chấm dứt chiến tranh, và Pháp đang cố bám lấy. Nghe đâu, trước đó, Tạ Quang Bửu, thứ trưởng quốc phòng Việt Minh đã bí mật gặp riêng tướng Pháp Delteil liên tiếp mấy lần để bàn về việc này.
Giám mục Thục tỏ vẻ lo lắng:
- Họ tính chia cắt Việt Nam, vậy còn mấy giáo khu Phát Diệm, Bùi Chu chú có nghe định đoạt ra sao không?
- Không, chưa có gì chính thức cả, song hình như Pháp họ muốn trung lập hoá hai vùng Công giáo này.
Nhu tiếp lời:
- Tôi sợ về mặt quân sự Pháp không còn đủ sức mà giữ mấy nơi này nữa, và dường như Bộ Tư lệnh Pháp ở đây đang tính chuyện rút bỏ cả miền trung châu Bắc Việt, để tập trung về giữ Hà Nội và con đường Hà Nội - Hải Phòng. Nhiều người ở Phát Diệm, Bùi Chu đã lo chạy đi Hải Phòng và Hà Nội, đủ biết tình thế tại đó ra sao rồi.
Diệm nói:
- Chú bi quan quá, chớ hôm kia đây, tôi cũng có nêu vấn đề các giáo khu ở Bắc ra, mấy người Pháp trong Bộ quốc gia liên kết cả quyết với tôi rằng "Không bao giờ quân đội Pháp lại bỏ rơi mấy vùng Công giáo lọt vào tay Việt Minh".
Giữa lúc cuộc hội họp chính trị gia đình họ Ngô đang diễn ra ở phòng khách nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn, sau hôm Diệm trở về, thì tại Bắc Việt những binh sĩ đoàn quân viễn chinh được lệnh rời bỏ ngay các vùng Phát Diệm, Bùi Chu, tập trung về dọc theo đường Hà Nội - Hải Phòng, theo các toán quân đóng rải rác ở trung châu đã rút lui về trấn giữ chung quanh thủ đô miền Bắc.
Bộ Tư lệnh Pháp mở chiến dịch Auvergne, theo quyết định hồi giữa tháng năm của Hội đồng Quốc phòng thời chính phủ Laniel, trước tình hình nguy ngập của trung châu sau ngày mất Điện Biên Phủ.
"Vị Tổng tư lệnh phải coi chừng tránh cho Hà Nội khỏi trở nên một Điện Biên Phủ mới, và phải tự quyết định tại chỗ tuỳ theo biến chuyển quân sự. Chính vị Tổng tư lệnh phải chọn lấy ngày giờ và phương tiện rút lui về Hà Nội nếu tình thế bắt buộc".
Dân chúng ở hai vùng giáo khu sáng sớm mở mắt dậy, kinh hoàng thấy bao nhiêu đồn trại của quân đội Liên hiệp Pháp trống rỗng, mấy chuyến tàu cuối cùng rút lui còn vướng víu với những gia đình muốn theo chồng con binh sĩ chạy đi. Những tiếng kêu gào, khóc lóc nguyền rủa, uất hận của giáo dân vang dậy trên bờ, bất lực, tuyệt vọng nhìn theo các chuyến tàu chở quân Liên hiệp Pháp bỏ rơi họ.
Trong các nhà thờ những hồi chuông đổ dồn, tiếng kinh cầu nguyện rì rào như sóng biển dâng lên, trong lúc cờ đỏ sao vàng bay phất phới trên các cứ điểm giáo khu.
Tại Sài Gòn, tin điện của các thông tín viên ngoại quốc đánh đi:
"Pháp đã rút quân khỏi nam trung cháu Bắc Việt, Phát Diệm, Bùi Chu, quê hương Thiên Chúa giáo lọt vào tay Việt Minh".
Ngô Đình Diệm đang ngồi uống trà ở tư phòng nhà thờ cha Tam thấy Giám mục Thục cùng Lệ vào báo tin, không dằn được tức giận, dập mạnh tách nước xuống bàn, hầm hừ:
- Pháp nó phản, nó đâm vào sau lưng tôi!
Vào lúc ấy tại Ba Lê, tân Thủ tướng Mendès France cũng kinh ngạc bất ngờ trước tin bất lợi cho nước cờ ngoại giao đang tiến triển, do quyết định của nội các trước. Tuy lo âu về chiến sự Đông Dương, Mendès France không dè tình thế suy sụp như phúc trình của các tướng Guillaume và Blanc vừa cho hay: "Quân đội bị đe doạ thảm bại thực sự trong mấy tuần lễ trước đầu mùa mưa. Hà Nội về mặt thực tế không thể chống giữ được, con đường Hải Phòng nguy ngập, một trận giao chiến khốc liệt và đẫm máu để rút lui sắp xảy ra… Và quân đội Pháp bị tan tành rối loạn đến độ phải mất không biết bao nhiêu năm nữa mới tổ chức lại được thành một đạo quân quốc tế ".
- Thật là không thể tưởng tượng được… Tân Thủ tướng Pháp bàng hoàng lẩm bẩm rồi bảo với nhà ngoại giao Jean Chaùvel:
- Trong khi chúng ta đòi trung lập hoá các giáo khu, bọn nhà binh lại rút quân đi, thế nào Việt Minh chẳng bảo chúng ta định "bán" những nơi không còn thuộc về mình nữa.
Trong lúc này, ở Genève, giữa không khí trầm tĩnh như mặt hồ lớn Thuỵ Sĩ, các cuộc tiếp xúc bí mật giữa Pháp và Việt Minh bên lề hội nghị bỗng mắc nghẽn vì đề nghị phản đối của Việt Minh trong việc qui định vĩ tuyến chia cắt Việt Nam.
Ở biệt thự Bella Việt, trụ sở của phái đoàn quốc gia, Ngô Đình Luyện thâu nhận những tin tức chung quanh vấn đề Pháp và Việt Minh bàn tính chia đôi Việt Nam, làm báo cáo gởi theo lối ngoại giao về Sài Gòn.
Tấn kịch phân ly Việt Nam đã diễn biến ra sao?
Ngày 25 tháng năm, trong một phiên họp thu hẹp, trưởng phái đoàn Việt Minh, Phạm Văn Đồng đưa ra đề nghị giới hạn các khu vực để ngừng bắn, căn cứ trên việc trao đổi lãnh thổ chiếm đóng giữa đôi bên. Đại biểu Pháp, ngoại trưởng Bidault và Jean Chauvel vội ghi lấy rồi cử đại tá Brébisson gặp riêng đại tá Việt Minh Hà Văn Lâu sau một phiên họp của tiểu ban quân sự, để bàn về nghị định này.
"Trao đổi lãnh thổ", theo lời của Phạm Văn Đồng, có nghĩa là thế nào, và những sự trao đổi này có thể áp dụng thêm ở ngoài phạm vi chiến lược và chiến thuật không" Đáp lại ý muốn của đại biểu Pháp, một cuộc gặp gỡ bí mật đã diễn ra ban đêm tại một biệt thự xa vắng ở ngoại ô Genève giữa Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Minh và đại tá Hà Văn Lâu cùng tướng Delteil và đại tá Brébisson.
Mở tấm bản đồ Việt Nam trải trên bàn, Tạ Quang Bửu đặt cả bàn tay trùm lên nửa phía trên bán đảo chữ S, nói giọng quả quyết:
- Phần này phải thuộc về chúng tôi… Chúng tôi phải có một quốc gia, phải có một thủ đô cho quốc gia của chúng tôi, phải có một hải cảng cho một thủ đô của chúng tôi… với miền Trung gồm cả Huế…
Tướng Delteil nhìn theo cử chỉ của đối phương đang rạch ngang Việt Nam đến vĩ tuyến 13, ngắt lời:
- Đề nghị của các ông như thế có nghĩa là phán Việt Nam ra làm đôi?
- Đây chỉ là một sự phân chia tạm thời, có tính cách quân sự, vì sẽ có tuyển cử trên khắp Việt Nam để thống nhất, và chúng tôi đòi phải có tổng tuyển cử.
- Đổi lại quân đội Liên hiệp Pháp rời bỏ Bắc Việt, các ông sẽ đền bù cho chúng tôi những phần lãnh thổ nào?
- Chúng tôi sẽ trả lời sau.
Trước sự dè dặt của đại biểu Việt Minh, tướng Pháp nói:
- Ba Lê cũng như Sài Gòn chỉ có thể chấp nhận đề nghị của các ông với điều kiện, quân đội Pháp Việt giữ trọn phần dưới vĩ tuyến 18.
Đôi bên trao đổi, mặc cả đến quá nửa đêm mới chia tay. Tạ Quang Bửu nói:
- Chúng ta họp bàn tay đôi kín đáo như thế này tốt hơn thảo luận trước hội nghị, với sự can thiệp của 9 nước. Các ông có đồng ý là cần phải giữ bí mật cuộc tiếp xúc này không?
Tướng Delteil cười đáp:
- Lẽ tất nhiên, chúng ta phải giữ bí mật cho nhau.
Đại tá Brébisson đưa đại biểu Việt Nam ra tận cửa, nói nhỏ:
- Các ông cần hoà bình hơn chúng tỏi, vì nếu hội nghị Genève bết thành thì chiến cuộc Đông Dương sẽ quốc tế hoá. Mỹ sẽ nhảy vào tham chiến.
Thấy Hà Văn Lâu mỉm cười, Brébisson nói thêm:
- Không phải tôi nói thế để doạ các ông đâu, mà thật tình cầu nói giữa chúng ta với nhau.
Rồi không ngại khuya khoắt, hai đại biểu quăn sự Pháp đến biệt thự của đại sứ Chauvel và tổng trưởng quốc gia Liên hiệp đang có mặt tại Genève, đập cửa vào lúc ba giờ sáng, báo cho biết đề nghị của Tạ Quang Bửu mà mọi người đều nhìn nhận là mới mẻ và táo bạo nhất từ khi bắt đầu hội nghị Genève. Liên tiếp năm cuộc tiếp xúc bí mật giữa bốn đại biểu quân sự đã mở đường cho Pháp và Việt Minh thoả hiệp với nhau chính thức hoá chia cắt Việt Nam tại hội trường Vạn quốc để ngừng chiến ở Đông Dương.
Chung quanh Genève không khí phập phồng trong chờ đợi, và "một tháng để mang lại hoà bình" của Thủ tướng Pháp đánh cá tại Quốc hội cũng đã đến ngày cuối cùng.
Mendès France đã cùng Eden khôn khéo thuyết phục, lôi cuốn Foster Dulles đồng ý với chủ trương của Pháp, cũng không khác mấy kế hoạch "bảy điểm" của Mỹ đã đưa ra. Anh và Mỹ không muốn chiến tranh lan rộng vì Việt Nam, Chu Ân Lai và Molotov cũng muốn chấm dứt chiến cuộc ở Á Đông.
Những khó khăn đã vượt qua, những mặc cả đã xong, ngày thứ ba 20 tháng bảy, Medès France còn phải tranh đấu đòi đối phương nhượng bộ về đường giới tuyến phân chia, kéo dài ngày tổng tuyển cử ở Việt Nam, thời hạn triệt thoái binh sĩ.
Chiều ngày cuối cùng, tại biệt thự Bocage của phái đoàn Pháp, trong gian phòng khách rộng lớn, đồng hồ trên tường chỉ gần năm giờ ghế bày ngấn ngang quanh một chiếc bàn lớn, các ông Eden, Mesès France, Molotov và Chu Ân Lai vây quanh Phạm Văn Đồng, ướt đẫm mỗ hôi nghiêng mình trên tấm bản đồ Đông Dương.
Chung quanh điểm đen chỉ thành phố Huế nhiều đường vạch ngang dọc trên và dưới cố đô Việt Nam, vằn vện cả mặt bản đồ. Mấy chính khách đứng quanh bản đồ Việt Nam có vẻ như là đám y sĩ giải phẫu đang bàn tính mổ con bệnh.
Trưởng phái đoàn Nga Molotov vẫn lạnh lùng chờ đợi đến lúc cần thiết để can thiệp, làm trọng tài phân xử cho đôi bên: Việt Minh đòi đến vĩ tuyến 13 hay 14, Pháp nằn nì ở vĩ tuyến 18, Molotov đề nghị ở vi tuyến 16, ranh giới đã qui định thành hai khu vực cho quân đội Anh và Trung Hoa đến tiếp thu Nhật đầu hàng.
Chu Ân Lai ở sát cạnh Molotov, có vẻ mặt bình thản, nhưng không chú trọng lắm đến sự giằng co tranh giành từng cây số trên bản đồ trải ở trên bàn. Thực ra, trong cuộc thương thuyết ở Genève, ngoại trưởng Trung Cộng lần đầu tiên góp mặt với chính trường Tây phương không bận tâm đến một lãnh thổ Cộng sản rộng hẹp đôi chút ở phía Nam, mà chỉ muốn sát cạnh biên giới không có một căn cứ quân sự nào của Mỹ, Pháp, đã làm vừa lòng họ Chu bằng các điều khoản có vẻ như trung lập hoá các quốc gia Đông Dương, và Hoa Thịnh Đốn đến giờ chót đã thôi phản đối.
Chiếc đồng hồ treo từ từ buông năm tiếng, như giục giã mọi người đi đến quyết định cuối cùng: Vĩ tuyến 17.
Trong khi ở Genève những cuộc trả giá cuối cùng diễn ra chung quanh đường chia cắt, mấy điện văn cuối cùng của tướng Ely từ Sài Gòn đánh đi yêu cầu Pháp thoả hiệp cấp tốc với đối phương vì tình hình quân sự ở Việt Nam nguy ngập: ở Bắc 120 tiểu đoàn trang bị đầy đủ của Việt Minh có thể tung ra đánh 80 tiểu đoàn Liên hiệp Pháp đang hoang mang.
Quân đội viễn chinh có thể tập trung về Hải Phòng với một giá máu rất đắt; chính thống chế Juin đã đề nghị rút khỏi Hà Nội ngày mồng 6 tháng 7. Ở Trung Việt đối phương vừa thắng một trận lớn tại An Khê, khắp miền Nam, du kích nổi lên hoạt động ác liệt.
Ở Sài Gòn, Ngô Đình Diệm đi gặp đại sứ Mỹ, cho hay:
- Nếu có được sự ủng hộ của Mỹ, tôi sẵn sàng chống lại những hiệp ước đang mưu tính ở lời cam kết của Việt Nam đối với Pháp.
Đồng thời Diệm bảo bí thư Bùi Xuân Đệ đánh điện cho phái đoàn Việt Nam trong Uỷ ban Quân sự ở Genève: "Đòi Việt Minh phải rút hết quân khỏi trung châu, chỉ để cho họ chiếm đóng miền thượng du Bắc Việt thôi".
Giữa lúc đó, các thông tấn viên quốc tế ở Genève đánh điện đi khắp thế giới: đêm nay, 20 tháng bảy, tại Toà Vạn Quốc sẽ ký hiệp ước đình chiến và chấp thuận bản tuyên bố cuối cùng của 9 quốc gia.
Vào giờ chót, kim đồng hồ ở điện Vạn Quốc ngừng lại ở con số 12, rắc rối cuối cùng do trưởng phái đoàn Cao Miên thu xếp xong. Tại phòng lễ ký hiệp ước, đồng hồ đã quá 8 giờ sáng, song Mendès France đã sẵn sâng để ký kết, Phạm Văn Đồng rảo bước đến, trán đẫm mồ hôi, vẻ mặt căng thẳng dừng bước lại ở ngưỡng cửa cho các nhiếp ảnh viên chụp, đi vào bên trong rồi lại trở ra liền.
3 giờ 20, chỉ còn các đại diện quân sự ở lại, các chính khách sẽ họp ngày mai để bế mạc hội nghị.
Tạ Quang Bửu, đại diện Việt Minh, đặt bút ký xong hiệp ước ngưng bắn cùng tướng Delteil, đứng lên, tươi cười nói với đại biểu Pháp:
- Bây giờ thiếu tướng có thể nhận lời uống với chúng tôi một ly rượu sâm banh chứ?
Trưởng phái đoàn Uỷ ban Quân sự Pháp đứng lên theo, tái mặt đáp:
- Xin ông hiểu cho, tôi không thể nhận lời được.
Ở hành lang, tiếng nổ sâm banh trào bọt trước những nét mặt đăm chiêu và vui vẻ. Bên ngoài, trời bắt đầu hừng sáng.
Ngày 21 tháng bảy 1954, tiếng súng sẽ không còn nổ ở Đông Dương sau chín năm chiến tranh, 400.000 người chết, ba tháng thương thuyết, một quốc gia chia đôi.
Các nhân vật phái đoàn Việt Nam quốc gia theo dõi cuộc điều đình như đứa con ghẻ đứng ở nhà ngoải có cuộc tranh chia gia tài người chết.
Sau một đêm thức trắng, trưởng phái đoàn quốc gia Trần Văn Đỗ đã khóc chống đối việc chia xẻ đất nước tại hội nghị ba hôm trước, còn đủ nghị lực ra mắt báo chí chiều ngày 21, phát một bản tuyên ngôn phản đối Pháp và Việt Minh đã ký kết với nhau mà không đếm xỉa đến phái đoàn quốc gia.
Giữa lúc ấy, Quốc trưởng Bảo Đại vẫn an nhiên ở lâu đài Thorence trên bờ bể Cannes, tỏ ý lo ngại với một đại biểu trong đám chính khách giáo phái sang "trợ chiến tinh thần" cho phái đoàn quốc gia ở hội nghị Genève trở về:
- Không biết Pháp có lo giữ cho miền Nam với Hoàng triều cương thổ được yên để cuối năm ta về đi bắn chơi không?
Tại Sài Gòn, sau hai tuần lễ chính thức cầm quyền, ngày hôm ấy, ở dinh Gia Long, Diệm đang ngồi cùng bàn ăn với vợ chồng Nhu và Giám mục Thục, người hầu cận đưa bản "Tin mật" vào. Diệm đọc thấy lời tuyên bố của Tổng thống Eisenhower bình luận về hiệp ước Genève trong cuộc họp báo ở Hoa Thịnh Đốn: "Tôi không có gì chỉ trích chống lại sự việc đã xảy ra ở Genève vì tôi không có giải pháp nào để đề nghị thay vào đó".
Tiếng nói của Diệm bỗng trở nên gay gắt:
- Mỹ không phá hiệp ước Genève thì mình cũng khó mà chống đối ra mặt được, song chúng ta không thể tha cho Pháp ở miền Nam này. Một tuần trước khi tôi chấp chính, Pháp rút khỏi Phát Diệm, Bùi Chu, bỏ giáo dân ủng hộ tôi rơi vào tay Việt Minh rồi mười lăm ngày sau chúng nó lại đi đôi với những kẻ đã giết anh cả nhà mình mà chia hai lãnh thổ, để lại cho tôi nửa phần này, với đám tay chân của chúng…
Nhu bình tĩnh nói:
- Mình có kế hoạch đối phó, không ngại, miễn là được sự ủng hộ vững vàng của Mỹ. Tôi chủ trương lúc này phải mở ra ba mặt trận:
1. "Chống phong kiến", nhằm tiêu diệt các giáo phái, tổ chức tay sai của Pháp và Bảo Đại.
2. "Chống thực dân", loại dần ảnh hưởng của Pháp và đòi quân đội viễn chinh rút về, theo hiệp ước Pháp đã nhìn nhận Việt Nam là một nước hoàn toàn độc lập.
3. Chống Cộng sản, tức là phá đổ uy thế của Việt Minh trong dân chúng, củng cố chính quyền mình với lực lượng hậu thuẫn căn bản là Công giáo. Phát động phong trào di cư ở miền Bắc, lôi cuốn dân chúng vô Nam, ủng hộ cho mình. Việc phải lo trước là vấn đề di cư.
Giám mục Thục tiếp lời:
- Chú thủ tướng lo với Mỹ về phương diện tàu bè, máy bay chuyên chở, còn tôi liên lạc với các đức Cha ở Bùi Chu và Phát Diệm, đức Khâm Mạng ở Hà Nội, Hội truyền giáo ở Ba Lê, Thiên Chúa giáo Mỹ và Toà thánh…
Lệ lên tiếng:
- Anh thủ tướng nói có bàn với Mỹ để mượn tiền viện trợ trước, họ hứa ra sao?
- Thím nhắc tôi mới nhớ, Mỹ đã nói với nhà băng Đông Dương ứng cho mình trước 500 triệu bạc để lo công việc rồi. Trong vòng 24 giờ nữa sẽ có số tiền đó.
- Hôm nay có chuyến tàu đầu tiên chở dân chúng Phát Diệm di cư đi từ ngoài ấy bữa 17, cách 4 hôm nay, sắp cập bến Sài Gòn, em đã biểu tổ chức đón rước, anh có đi gặp họ một chút không?
- Thôi, thím liệu sắp đặt giùm, tôi có hẹn lát nữa gặp mấy ông Mỹ. Thím thay mặt giúp cho tôi, đi với anh Giám mục…
Lệ vội trở về phòng sửa soạn trang điểm lại, thay quần áo, để lần đầu tiên đại diện Thủ tướng ra mắt dân chúng.
Trên đường Catinat, chiếc xe hơi đen bóng cắm cờ quốc gia chạy ra phía bờ sông chở Lệ ngồi một mình, đi sau chiếc xe Giám mục Thục ngừng lại ở bờ sông Sài Gòn, trước nhà hàng Majestic.
Chuyến tàu chở dân cư vừa cập bến, Lệ tiến lên trước hàng máy ảnh và quay phim, nghe tiếng nói từ phía đám phóng viên ngoại quốc vẳng đến, trầm trồ về mình:
-        The first Lady! (Đệ nhất phu nhân).

Chương 12
Những người tình võ biền

Trong khi những làn sóng người lũ lượt trên các nẻo đường đổ về, Hải Phòng và Hà Nội, bắt đầu di cư theo đường máy bay Hà Nội Sài Gòn và tàu Hải Phòng - Sài Gòn, trung bình mỗi ngày lối 4.000 người đặt chân đến thủ đô miền Nam theo thời hạn 300 ngày di cư ấn định trong hiệp định Genève, anh em họ Ngô định tung ra ở miền Bắc các khẩu hiệu và truyền đơn lừa bịp dân chúng.
"Miền Bắc sắp bị tiêu diệt vì bom nguyên tử Mỹ".
"Chúa đã di cư vào Nam".
Hình ảnh Đức Mẹ nhỏ những giọt lệ máu tung bay khắp trong giáo dân với những lời thì thầm truyền miệng.
- Chúa và Đức Mẹ đã đi vào Nam, Mỹ sẽ thả bom nguyên tử sau khi quân Pháp rút đi. Trong vài tháng nữa không còn có linh mục nào làm lễ ở nhà thờ nữa.
- Mỗi người dân di cư vào miền Nam sẽ được cấp năm mẫu ruộng, hai con trâu và một vạn bạc do Mỹ giúp.
Hàng trăm ngàn người hoảng sợ, từ bỏ nhà cửa ruộng nương mồ mả tồ tiên, có nơi giáo dân đốt sạch, phá sạch xóm làng, gồng gánh ra đi theo các cha hướng dẫn vào Nam.
Trên chín trăm ngàn giáo dân, theo con số chính thức của Tổng uỷ Di cư(1) đã lên đường vào Nam.
Nhu thấy điểm đầu kế hoạch lôi kéo hàng ngũ giáo dân đoàn kết với số phận của chế độ anh mình đã có kết quả, với sự ủng hộ nhiệt thành của Mỹ.
Đạo quân phòng vệ cùng một số sĩ quan theo Diệm từ buổi đầu, với võ khí tối tân trang bị đầy đủ, được mấy đại tá Mỹ lãnh đạo, đã có đủ sức chống lại các lực lượng đối lập trong lúc này. Bộ Tổng tham mưu theo Pháp, Bình Xuyên theo Bảo Đại, mấy giáo phái lưng chừng.
Cao Đài liên minh của Trịnh Minh Thế được sự giúp đỡ của Mỹ trong những ngày chống cả Pháp lẫn Việt Minh trước đây, Nhu phái thuộc hạ Huỳnh Hữu Nghĩa đi liên lạc mời về hợp tác.
Trước đó, Nhu bàn tính với anh:
- Lực lượng Cao Đài liên minh của Trịnh Minh Thế tuy chỉ chừng 2.000 người song uy tín đáng kể, vì đã kháng chiến chống Pháp mà lại không theo Việt Minh, các giáo phái rất nể. Lôi cuốn được họ về hợp tác, thì Cao Đài, Hoà Hảo cũng dễ ngả theo mình lắm. Như vậy một công mà được đôi ba việc. Lại còn thêm võ khí, tiền bạc của Mỹ lâu nay giúp cho quân của Thế, rối đây cũng phải qua tay mình, khi Thế mang quân về sát nhập. Lợi đủ mấy mặt, trong khi vừa củng cố chính quyền vừa tạo thêm ảnh hưởng cho mình đối với hàng ngũ quốc gia và làm cho Mỹ càng tín nhiệm ở anh.
Diệm thắc mắc:
- Nghe nói Thế cũng khó tánh lắm, không biết Huỳnh Hữu Nghĩa nói là bạn thân từ trước với nó có chắc nó nghe mà đem quân về không?
- Tôi cũng đã tính kỹ rồi nên mới để cho thằng Nghĩa cái ghế Bộ trưởng Lao động, nó phải sống chết hết sức mà lôi kéo Trịnh Minh Thế về với mình, để giữ địa vị chớ. Với lại còn số tiền mình đưa ra biếu riêng Thế cùng vợ hắn nữa.
- Chú liệu chừng mấy?
- Mình trích trong số 12 triệu đô-la lấy của Mỹ, nói để mua chuộc các giáo phái, cho Trịnh Minh Thế 2 triệu, anh nghĩ sao?(2)
- Hai triệu đô-la đổi ra tiền mình lúc này bao nhiêu?
- Theo giá chánh thức, một đô-la ăn 35 đồng bạc của mình, song giá ngoài chợ đen cao gấp mấy. Cho là mười lăm, hai mươi triệu bạc đi nữa, mà mua sống Trịnh Minh Thế cũng không mắc đâu.
- Ừ tuỳ chú tính sao cho được việc. Tiền của Mỹ bỏ ra, mình tiêu phí cũng không ngại chi… Nhưng chú tính giao tiền bạc cách nào?
- Tôi viết sẵn một cái séc giao cho thằng Nghĩa đưa cho Trịnh Minh Thế, dặn xong xuôi đâu đó rồi mới chìa ra. Mình vẫn nắm đằng chuôi, Thế có muốn lãnh được tiền thì phải về hợp tác đường hoàng đã vì tôi dặn trước nhà băng, trước khi phát, phải kêu điện thoại hỏi lại tôi.
Diệm tỏ vẻ hài lòng nói:
- Chú cẩn thận như vậy, Thế nó có muốn lôi thôi cũng không được.
Cánh cửa phòng riêng của Diệm bỗng mở, mùi nước hoa thoắng vào khi Lệ hiện ra.
- Cho em một phút thôi, em muốn hỏi hôm nào thì dọn về dinh Norodom để cho em lo liệu thu xếp?
Diệm nhìn cô em dâu lộng lẫy rồi quay về phía Nhu:
- Có phải đến mốt không chú? Pháp nó nói tới mồng bảy tháng chín làm lễ trao trả dinh Toàn quyền.
Nhu lật xem tập lịch để trên bàn rồi đáp:
- Phải, đến mốt, tướng Ely Cao uỷ Pháp đứng ra bàn giao lại cho anh.
Lệ nói thêm một câu trước khi ra:
- Đại tá Landsdale có nhờ em nhắc xin đặt một phòng giấy ở dinh Norodom để làm việc cho tiện.
Diệm gật đầu:
- Phải, thím nói tôi mới nhớ, nhờ thím thu xếp cho họ. Lão đại tá Mỹ ấy say sưa với công việc giúp mình lắm.
Lệ nhún nhẩy bước xuống tầng cấp dinh Gia Long, gật đầu chào Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ trưởng Lao động đang đi lên, khúm núm cúi rạp đầu chào bà cố vấn.
Từ hôm về dinh thủ tướng, đóng vai cố vấn phu nhân, giữ địa vị người đàn bà độc nhất bên cạnh nhà lãnh đạo quốc gia, Lệ bỗng thấy mình trở nên quan trọng.
Trước mắt nàng tiền bạc, uy quyền, danh giá cùng đến một lúc ồ ạt đầy dẫy quanh mình.
Những sự tâng bốc, bợ đỡ bao vây lấy Lệ, bác sĩ, kỹ sư, dược sĩ, thạc sĩ đốc phủ sứ, những người mệnh danh là trí thức, thượng lưu xã hội, cùng các bà vợ muốn giao thiệp để vận động, xin xỏ địa vị cho chồng, cho tình nhân, chạy theo, bu quanh lấy Lệ để nhờ tiến cử với chồng và anh chồng ban cho họ một địa vị, một chức tước trong chính phủ. Một số quân nhân, chính khách tư sản, thương gia cũng ùa theo đón chờ, mời mọc, mong ở Lệ một câu nói, một cái nhìn.
Những tặng vật ùn ùn chở đến, cửa trước, cửa sau, cửa bên hông, tràn ngập cả gian phòng Lệ, đồng hồ Thuỵ Sĩ bọc bạch kim, nạm kim cương, nước hoa thượng hảo hạng của Pháp, gấm Thượng Hải, lụa Tứ Xuyên, hàng chục màu áo dài đắt tiền, chuỗi ngọc trai Nhật Bản, hộp phấn bằng vàng y sư tử, dây chuyền vàng mang thành giá đặt tận La Mã, ví da các sấu Phi Châu làm bên Đức, khăn choàng nhiễu Cachemire, sâm Bắc Cao Ly… và hoa, hoa hồng từ Ba Lê chở máy bay sang, hoa lay ơn đủ màu ở Đà Lạt đưa về, mỗi buổi sáng như biến chung quanh Lệ thành một chợ hoa, và phòng ngủ của Lệ - một gian phòng tầm tầm - với đủ mọi thứ tặng phẩm.
Mấy ngày đầu, Lệ không khỏi ngợp vì số tặng vật quá nhiều và số son phấn, nước hoa, áo dài, nàng tưởng chừng có thể đem bày mở một tiệm lớn nhất ở đường Catinat.
Không kể những đề nghị về áp phe, xin xuất cảng, nhập cảng các món hàng đặc biệt, có thể mang đến cho Lệ số tiền hàng trăm hàng triệu bạc với một cái môn bài xuất nhập cảng.
Chỉ một lời nói của Lệ, để có một chữ ký của Bộ trưởng Kinh tế là có người mang cả số tiền khổng lồ đến dâng nàng. Lệ còn có thể biến số bạc triệu ấy ra thành ngoại tệ, gởi các ngân nước ngoài, miễn là nàng chịu khó nhắc máy điện thoại lên, nhắn bảo thuộc của anh chồng nàng một câu.
Có ai trong chính phủ mà dám trái ý Lệ, khi họ đã biết ảnh hưởng của nàng đối với anh em họ Ngô?
Song buổi đầu, Lệ thấy mình bỗng dưng có thể sử dụng được hàng triệu đô-la một cách dễ dàng, nàng chưa bị lai cuốn theo sự đam mê tiền bạc, không bận tâm lắm đến việc làm tiền, mà tin là rồi đây muốn bao nhiêu cũng có được, miễn là củng cố địa vị cho anh chồng nàng vững bền.
Lệ nhận thức, chỉ có lực lượng quân sự mới có thể lật đổ được uy quyền của họ nhà chồng hiện nay, và đã tính trước, giao du thân mật với tướng Nguyễn Văn Hinh đang làm tham mưu trưởng chỉ huy quân đội quốc gia, có thể trở nên một kẻ đối thủ lợi hại do ảnh hưởng của Pháp. Các vị tá hiện có binh sĩ trong tay bảo vệ cho Sài Gòn, Lệ cũng đã gây cảm tình riêng lôi cuốn họ ủng hộ anh chồng nàng.
Lúc này, chỉ có mấy vị tá trẻ tuổi Mỹ đã tỏ ra sốt sắng với chính quyền họ Ngô, Lệ cần phải chinh phục, ràng buộc họ nhất là đại tá Landsdale, con người nổi tiếng lợi hại, có ảnh hưởng quyết định đến thời cuộc.
Lệ đã mang ảnh hưởng riêng của mình để lôi kéo tướng Nguyễn Văn Hinh, có lần nàng thỏ thẻ đề nghị chàng giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ của anh chồng, song không lay chuyển được người quân nhân bướng bĩnh, vẫn tỏ thái độ chống đối họ Ngô.
- Tôi ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại không phải phục vụ cho quốc gia hay sao? Bộ ông Diệm muốn lập một quân đội riêng để dựng nên một triều đình riêng hả?
Trước câu hỏi vặn của tướng Hinh, Lệ không khỏi lúng túng, thấy người tình mà nàng có nhiều hy vọng thuyết phục có vẻ trơ trơ, liền thay đổi chiến lược. Trong khi tướng Hinh, với hậu thuẫn của quân đội Pháp, có thể trở thành đối thủ lợi hại chống lại chính quyền anh chàng nàng, tại sao Lệ không liên kết với những quân nhân có thể là đồng minh, ủng hộ phe nàng. Đại tá Landsdale đã nổi danh là triệt để "chống thực dân" từng giúp Tổng thống một quốc gia Á châu dẹp yên những kẻ chống đối mạnh mẽ hiện có mặt tại Sài Gòn và sẵn sàng góp sức phá tan những trở lực muốn phá phách anh chồng Lệ.
Lệ học nói tiếng Anh đã khá, nàng có thể trực tiếp giao du, chinh phục cảm tình viên đại tá kia, hấp dẫn y lăn xả vào trong cuộc.
"Trong khi người đàn ông có thể có nhiều tình nhân, thích thay đổi mới lạ, và xem cuộc tình duyên như là một thành tích - có thêm một người yêu được coi như là một chinh phục mới - thì tại sao người đàn bà lại chịu thiệt thòi, và lại sợ tai tiếng ở chỗ mà người đàn ông tự lấy làm vinh dự. Người đàn ông có thể coi người đàn bà đẹp như là một đồ chơi, một vật để tiêu khiển và luôn luôn muốn đổi món, thì tại sao người đàn bà lại không thể làm như vậy? Ai có quyền lên án một Catherine de Médicis, một Võ Tắc Thiên, khi những người đàn bà phi thường của lịch sử dám vượt qua quan niệm thông thường hẹp hòi của mọi người, và mọi người đàn ông cũng chỉ là một ưu vật, như người đàn bà dưới mắt đàn ông".
Những lời ghi trong nhật ký, Lệ đem ra thực hành trong đời sống và theo quan niệm đặc biệt ấy, nàng xem các cuộc chinh phục đàn ông trở thành tình nhân của nàng như những thắng lợi.
Trong số tướng tá bị Lệ lôi cuốn, đại tá Landsdale cũng như các người tình võ biền của Lệ, đều tự lấy làm hãnh diện được đệ nhất phu nhân để ý đến và thoả mãn xác thịt đòi hỏi vô cùng của người đàn bà hoả diệm sơn.
Đang lúc Lệ mang thân xác hoạt động, giao du để củng cố địa vị của anh chồng, thì Nhu tập hợp các tay chân thân tín trong Cần Lao, như Cao Xuân Vỹ, Bùi Kiện Tín, Lý Trung Dung, Trần Kim Tuyến… y sĩ bác sĩ, luật sư, công chức cao cấp đang nắm giữ các địa vị chủ yếu, hoạt động chính trị và kinh tài để củng cố chính quyền họ Ngô. Giám mục Thục gởi mấy thuộc hạ khoác áo chùng thâm đến tham dự để nhận chỉ thị của cố vấn chính trị.
Với giọng thâm trầm, Nhu trình bày kế hoạch về vấn đề đang nóng hổi hiện thời.
- Tôi nghiên cứu những tin tức và tài liệu thu thập được, phân tích kỹ, thấy rõ rằng Việt Cộng bề ngoài làm ra vẻ ngăn cản đồng bào ở Bắc di cư vô Nam, song sự thực họ muốn đẩy mạnh phong trào để cho những người mà chúng cho là ăn hại chớ không có ích lợi gì phải ra đi.
Đó là những phần tử Việt Cộng đã xếp hạng là "năm công": công an, công chức, công tử, con công đệ tử và công giáo. Chúng ta chỉ có thể trông cậy những dân cư công giáo, biến thành lực lượng hậu thuẫn cho chính quyền chớ còn bọn công kia, những phần tử mà tiếng Pháp gọi là "Con"(3) ăn tục, nói phét, hạng người mà xã hội nào cũng coi là bọn hưởng thụ mà không sản xuất, bọn tầm gởi, Việt Cộng xua họ hết vào trong Nam để xáo trộn, làm hư thối tình hình ở đây. Đối với những phần tử đó, không cần phải bảo, họ cũng kéo vào Nam cả, chúng ta bắt buộc phải chịu đựng và cần có kế hoạch đối phó, sử dụng họ được phần nào hay phần ấy, làm sao biến họ thành những phần tứ gây rối, phá rối trong hàng ngũ các giáo phái, phe đảng đối phương. Phương diện thứ hai của vấn đề di cư mà ta triệt để khai thác, có lợi cho Đảng ta, là viện trợ Mỹ. Một ngân quỹ hơn 55 triệu đô-la được dành cho công cuộc cứu trợ dân di cư: 16 triệu đã dùng để mua lều vải dụng cụ và sườn nhà, còn khoảng 39 triệu đô-la, tức là lối một tỷ 856 triệu bạc được sử dụng cho cuộc tiếp tế định cư trong niên khoá 1954-1955, niên khoá tới sẽ có nhiều hơn nữa.
Ngoài ra, còn những viện trợ về tiền bạc và dụng cụ của Pháp, các cơ quan tình nguyện của Mỹ, như cơ quan cứu trợ công giáo War Relief Service của Đức Cha Harnett, tổ chức CARE, hội bảo trợ Nhi đồng Unicef, hội chống phân biệt chủng tộc Uier, Hồng Thập Tự, Thanh Thương Hội Quốc Tế… Không kể các phong trào tự phát của các nước tự do.
Tính ra với tiền bạc và vật dụng viện trợ, mỗi gia đình di cư có một căn nhà trên một khu đất có thể làm vườn, chăn nuôi, con cái đi học được trợ cấp 300 đồng mỗi tháng… thêm thuốc men, y tá hay bác sĩ trông nom. Như vậy, người dân di cư có một đời sống vật chất tính ra bằng hạng trung lưu ở Bắc.
Chúng ta chỉ rút bớt đi một phần của mỗi đầu người vào Nam có được 15.000 đồng, với số tiền ấy, dùng để gây quỹ cho đảng hoạt động, phát triển mạnh… anh em nghĩ sao?
Bùi Văn Thiện đầu tiên lên tiếng hưởng ứng:
- Ông cố vấn đã cứu xét thấu đáo vấn đề di cư, nhận thấy rõ thực trạng là càng có nhiều người rời bỏ đất Bắc thì miền Nam càng thêm lúng túng vì phải lo nuôi số người thặng dư bất ngờ đó, song đã có viện trợ Mỹ chu cấp rồi, mà phong trào di cư rộng lớn chừng nào, số tiền của Mỹ giúp lại càng tăng thêm. Tôi tính theo những con số, thí dụ mỗi người dân di cư, ta chỉ bớt cho họ một phần ba thôi, cũng không ai biết đấy vào đâu cả, với 500 ngàn đầu người, số tiền cũng có thể lên tới 2 tỷ 500 triệu bạc, nếu tính theo con số viện trợ chính thức chia đều ra đổ đồng mỗi người di cư được 15 ngàn.
Song trên thực tế, tôi nhận thấy cứ mỗi người xuống tàu đặt chân vào Nam chỉ cần cho họ vài hộp sữa với mấy trăm bạc bỏ túi hay giúp đỡ thêm cho họ chút ít nữa trong khi chờ đợi phân tán định cư họ cũng đã mừng lắm rồi. Mà viện trợ Mỹ thì chủ trương tiếp tục giúp đỡ cho đến khi dân di cư có thể tự túc sinh sống có nhà cửa, vườn tược đầy đủ, con em có tiền trợ cấp hàng tháng mỗi đứa mấy trăm để học hành nữa, như vậy số tiền tổng quát lớn lao biết là chừng nào. Tất cả những ngân khoản viện trợ đó, tính ra từ niên khoá 1954-1955 đến niên khoá sau có hàng trăm triệu đô-la, tức là bao nhiêu tỷ bạc.
Nhu gục gặc đầu:
- Anh nói chí lý.
Bùi Văn Thiện sướng tê người trong khi các đồng chí nhao nhao xin phát biểu ý kiến.
Cao Xuân Vỹ nói vội như sợ cướp mất lời:
- Thưa cố vấn, tôi xin có ý kiến…
Nhưng Nhu gạt đi và ra lệnh cho Thiện nói tiếp.
Bùi Văn Thiện sung sướng đỏ dừ người, vừa gãi tóc vừa nói:
- Dạ, ông cố vấn đã có lòng thương đến, với lại trên có cụ Ngô, cũng như bậc sanh thành, có sai bảo thế nào, hàng con em đâu dám trái ý. Dù có lăn vào lửa đạn đi nữa, đã nguyện một lòng một dạ sống chết với cụ Ngô, trung thành với ông cố vấn lãnh đạo đảng ta, tôi cũng không từ. Dạ, nhân thể tôi cũng báo tin để ông cố vấn mừng cho: tôi đã xin rửa tội theo đạo rồi…
Trong lúc hứng khởi, họ Bùi khoái chí toan đưa cả hai tay lên hô khẩu hiệu "muôn năm" để chứng tỏ lòng nhiệt thành có dư của mình đáp lại sự bổ nhậm bất ngờ của Cố vấn chính trị thì Bùi Kiện Tín, y sĩ bán dầu gió bản xứ, được chính quyền họ Ngô công nhận là bác sĩ và giao chức Bộ trưởng Thông tin nhờ khéo ủng hộ tiền bạc trong thời kỳ "Ngô chí sĩ" gần về nước - ngăn lại, nói tranh:
- Thưa cố vấn, tôi thấy trong vấn đề di cư công việc tuyên truyền ở miền Bắc cần phải cổ động rầm rộ, cho dồn mạnh là mỗi người di cư vào Nam sẽ có một ngôi nhà, năm mẫu ruộng, một đôi trâu và một vạn bạc làm vốn do Mỹ trợ cấp, có thể nói là dân Bắc đua nhau mà đi vơi cả ngoài đó. Rồi mình xin Mỹ viện trợ cho họ, đến khi ấy chỉ cần lấy một phần mười trong số quỹ di cư thôi, đảng ta cũng có hàng chục tỷ bạc. Mặt khác, riêng đối với Công giáo, nhờ các cha xứ truyền miệng là chính phủ cụ Ngô là của Công giáo.
Nhu ngắt ngang:
- Kế hoạch của bác sĩ Tín, về mặt công giáo vận, tôi đã có bàn với đức Giám mục anh tôi, và công việc đã giao cho bác sĩ Tuyến phụ trách rồi.
Trần Kim Tuyến, nguyên là một thầy xuất, nửa chừng tu hành hoàn tục, được chính phủ Ngô phong làm bác sĩ, phụ trách phòng chính trị mật vụ riêng của Nhu, nghe nhắc đến mình vội lên tiếng:
- Vâng, công việc của cố vấn giao phó, tôi đã thi hành chu đáo rồi. Khắp các xứ miền Bắc, những vùng đông giáo dân từ Quỳnh Lưu, ba làng ở Vinh, Thanh Hoá đến Phát Diệm, Bùi Chu, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên… có cả một hệ thống vận động, truyền tin luân lưu không sót một họ đạo nào, nhờ các thầy, các cha giúp sức. Hai triệu truyền đơn hình Đức Mẹ nhỏ nước mắt máu với câu Chúa đã vào Nam đã truyền tay phân phát đi khắp nơi cho giáo dân miền Bắc. Đồng thời các khẩu hiệu tuyên truyền cũng được phổ biến mình trong các khu nhà thờ: "Đức Mẹ đã từ bỏ đất Bắc", "Di cư vào Nam theo Chúa". Ngoài ra, với dân thường thì tuyên truyền là Mỹ sẽ thả bom nguyên tử sau khi Pháp rút đi. Tôi xin báo cáo thêm là trong dịp này, đã đặt được một số cơ sở ở lại hoạt động trong đòng địch. Như ông cố vấn đã nhận định, chúng ta chỉ trông cậy phần lớn ở số người di cư Công giáo, là thành phần chắc chắn làm hậu thuẫn cho chế độ, về phương diện này, có thể nói là chúng ta đã thành công, với 80 phần trăm dân số di cư mỗi chuyến là người Công giáo. Theo cái đà này, con số di cư có thể lên tới cả triệu… Việc kinh tài cho Đảng ta theo đó có cơ hội được dễ dàng, nhờ viện trợ tài chính rộng rãi của Mỹ.
Từ cuối phòng, một người vận áo tu sĩ yên lặng theo dõi buổi họp, đứng lên:
- Tôi đề nghị là đối với giáo dân di cư, mỗi họ, mỗi xứ đều phải có linh mục chăn dắt, từ lúc bắt đầu ra đi cho đến nơi định cư, lập nghiệp, vậy nên giao phó cho các cha mọi trợ cấp để phân phát lại cho con chiên. Từ tinh thần đến vật chất, sự liên hệ giữa giáo dân và các cha do đó càng thêm mật thiết, các cha đi đâu con chiên theo đó, mỗi họ, mỗi nhà xứ vào đây, sau này vẫn tiếp tục sống quanh nhà thờ, tức là thành những căn cứ trung kiên làm hậu thuẫn cho cụ Ngô.
Trong kế hoạch định cư, tôi nghĩ là nên phân tán các họ Công giáo, khắp miền Nam, chiếm giữ các vùng trọng yếu để về sau khi cần đến, có thể biến những khu vực ấy thành những pháo đài chống Cộng rải rác từ vĩ tuyến 17 vào đến Cà Mau, cho nên tôi xin ông cố vấn lưu ý để cho các cha có được toàn quyền trích lấy trong số tiền giúp giáo dân di cư để xây nên mỗi nơi định cư một nhà thờ, tuỳ theo họ lớn nhỏ. Như vậy công việc đạo lẫn đời đều được tốt đẹp, và mỗi khu Công giáo là một cơ sở của chính quyền Công giáo chúng ta.
Nhu lật một tập báo có đánh dấu bút chì đỏ, nhìn qua rồi nói:
- Y kiến của cha, cũng như kế hoạch của bác sĩ Tuyến đã thi hành, dẫu rất hay song có điểm mà chúng ta cần phải tránh, đừng để bị dị nghị, đối phương có thể lợi dụng để phản tuyên truyền, nói là mình lợi dụng đạo Chúa, làm sai lạc ý nghĩa tinh thần Công giáo.
Đây tôi đọc cho nghe lời của một linh mục Pháp R.P Avril đã viết trong tờ L Express, phản đối các lối chơi lôi cuốn giáo dân di cư của chúng ta, như vầy:
"… Làm cho người ta tin rằng Chúa chỉ có mặt ở một địa phương nào đó và việc thờ phụng Chúa chỉ có thể ở một vùng nhất định, tức là trực tiếp đi ngược lại lời tuyên bố của đấng Christ: ngày giờ đã đến mà các người thờ phụng đức Chúa Cha không phải ở trên ngọn núi này, hay ở Jérusalem…" (Jean IV, 21).
Như vậy, tuyên truyền Chúa và Đức Mẹ đã di cư vào Nam, chỉ là nói miệng với giáo dân thôi.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên khôn khéo hoạt động để cho dân chúng ngoại đạo đừng nhận thấy là chính quyền chỉ chú trọng đến người Công giáo mà bỏ quên họ. Lúc này các giáo phái ở Nam, với dân số theo họ cũng khá đông, thiệt tình không ưa chi mình, tôi cho là nên tránh mâu thuẫn, để mình vững vàng, bắt họ phục tùng rồi hẳn hay. Tôi có cả một chương trình đã bàn tính kỹ với Đức Giám mục sẽ lần hồi tiến tới chỗ mà hội Truyền giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả miền Nam này sẽ theo Công giáo hết.
Sau buổi họp, một linh mục ở lại nói riêng với Nhu giới thiệu một người có thể gởi các số tiền lớn vào ngân hàng ngoại quốc và chuyển thành ngoại tệ.
- Anh ta là một người mới vô đạo, ông cố vấn cũng đã từng quen biết: Huỳnh Văn Sang.
Nhu nhớ là Sang trước đây đã lấy tiền nhà vợ giàu có ủng hộ cho anh mình trong thời kỳ còn lưu vong ở Ba Lê, và gần đây vẫn thậm thọt lui tới dinh phục vụ.
- Để tôi xét lại coi. Nếu không có gì trở ngại, tôi sẽ đề nghị cho làm giám đốc Viện Hối đoái. Nhưng cha cũng đã rõ, phải là người của đảng ta mới có thể giữ được các nhiệm vụ quan trọng.
- Tôi xin đảm bảo giới thiệu anh ta vào đảng vì tôi biết rõ tư cách và khả năng có thể giúp được nhiều việc cho đảng, nhất là về mặt kinh tài.
Đã khuya, Nhu tự lái xe hơi về dinh Gia Long với một người hộ vệ võ trang ở phía sau. Bước vào phòng thấy các con đã ngủ hết, hỏi đến vợ, nghe nói chưa về, Nhu có vẻ bực bội, đi qua phòng làm việc bảo lấy cà phê pha rượu Rhum, rồi ngồi ở bàn giấy lật xem đống hồ sơ.
Nửa giờ sau. Lệ một mình tự lái xe về, bước vào phòng chồng, tươi cười nói:
- Em sắp đặt xong ở dinh Norodom rồi. Đến mai chúng mình dọn vô đó. Em cũng có dành một văn phòng cho mấy đại tá Mỹ theo lời anh dặn. Còn việc xây hầm kiểu bunker Hitler(4) ở trong dinh, em để anh em biểu cho người ta làm cho vừa ý anh.
Nhu đưa ra trước mt vợ một tấm chi phiếu với một dọc những con số không, rồi cười bảo:
- Trả công cho em đó.
Lệ chìa tay ra cầm lấy, thoáng nhìn qua dòng chữ số, reo lên:
- Hai triệu!
Rồi chồm đến ôm lấy chồng hôn tới tấp vào má, vừa nói:
- Anh đã dành cho em một thích thú bất ngờ!
Qua giây phút hứng khởi, Lệ ngồi lên tay ghế ngả ngớn đầu vào vai chồng, hạ giọng hỏi:
- Tiền ở đâu anh cho em nhiều thế?
Nhu trịnh trọng bảo vợ:
- Đây chỉ là mới bắt đầu, em sẽ còn có nhiều gấp bao nhiêu lần thế nữa. Nếu anh muốn, em sẽ thành triệu phú trong nay mai. Nhưng anh không muốn em làm triệu phú…
- Anh chê tiền hay sao mà không muốn cho vợ thành triệu phú?
- Anh chê địa vị triệu phú thì đúng hơn, vì giàu có bạc triệu ngày nay cũng không có gì là hơn người, và anh không muốn em chỉ là triệu phú mà phải là tỷ phú.
- Tỷ phú? Anh tham vọng hơn cả em nữa. Thôi anh cứ làm cho em trở nên bà triệu phú cũng tạm được rồi.
Nhu cười tự đắc:
- Không, anh không thèm cho em làm bà triệu phú đâu mà em là tỷ phú, mà tỷ phú quốc tế nữa là khác. Và anh đã nói là phải làm được.
Trước vẻ cảm phục của vợ, Nhu bắt đầu cắt nghĩa cho Lệ hiểu đường lối nào có thể mang lại những số tiền khổng lồ cho hai vợ chồng trở nên giàu có lớn một cách dễ dàng, trong một thời gian ngắn.
- Anh đã sắp đặt kỹ đâu vào đó rồi: số tiền trích trong ngân quỹ viện trợ di cư, với danh nghĩa cho Đảng Cần Lao hoạt động, có thể lên tới hàng tỷ bạc, anh đã có cách chuyển thành ngoại tệ, gởi ở ngân hàng nước ngoài, trong chương mục tên em hay là tên anh.
Ngoài mấy người tin cậy anh đã giao phó riêng lo công việc này thì không ai biết được là mình có tiền đâu. Đến như em, lúc này mà anh không nói ra thì em đâu biết được là em đã có bao nhiêu triệu đô-la gởi ở nhà băng Thuỵ Sĩ không?
Lệ đi từ ngạc nhiên này đến bất ngờ thích thú khác, quàng riết lấy đầu chồng ép vào ngực phập phồng của mình, sung sướng thốt ra:
- Anh làm cho em thành người đàn bà sung sướng nhất đời!
Nhu không giấu được vẻ hân hoan trước sự thán phục biết ơn của vợ, ngước nhìn thẳng vào mắt Lệ từ từ nói:
- Anh chỉ mong em đừng làm điều gì buồn lòng anh.
Lời nói chân thành chứa đựng trách móc, tha thứ của người chồng nhẫn nhục thốt ra trong giây phút này khiến Lệ ứa nước mắt, tỏ vẻ cảm động, chân thành, áp má vào má Nhu mà thỏ thẻ:
- Em sẽ không làm buồn lòng anh nữa đâu?
Có lẽ trong giầy phút đó, Lệ tâm sự một cách thành khẩn với người chồng rất mực yêu chiều vợ, nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc Lệ ở sát người chồng đã đưa đến cho nàng địa vị cao sang và giàu có bất ngờ.
Rồi bản chất tự nhiên của Lệ luôn luôn khát vọng những sự ham muốn mà Nhu vẫn không làm thoả mãn được lại trở về với người đàn bà phóng đãng, coi nhẹ sự thuỷ chung trong tình nghĩa vợ chồng.
Trưa hôm sau, Lệ đã quên hẳn lời nàng mới tỉ tê với Nhu khi thấy đại tá Landsdale bước vào.
Qua riềm mi hé hé mở, Lệ thấy ông ta đứng ở ngưỡng phòng sững sờ ngắm nhìn mình. Có lẽ vị sĩ quan trẻ kia cũng vừa dọn tới văn phòng riêng của mình ở trong dinh, đã đi lạc vào phòngLệ đang ngủ cho nên dừng bước trộm nhìn người đẹp lồ lộ qua làn tơ mong manh như trái cấm ngon lành phô bày hiến dâng.
Thời gian như ngừng lại trong buổi trưa nồng đang ầm ĩ tiếng sấm của cơn ghen ngoài trời và trong lòng của người sĩ quan đứng trước cảnh tượng bất ngờ, "đi thời cũng dở, ở không xong".
Trong thoáng qua, Lệ he hé đôi mắt nhìn thấy suốt cả tâm trạng của đại tá Landsdale, người sĩ quan mà nàng đã có cảm tình và muốn chinh phục, đang tê dại ngắm nàng với đôi mắt mở rộng như muốn nuốt chửng con người Lệ phây phay qua làn "voan" hồng.
Lệ bỗng vờ choàng mắt, thấy Landsdale với dáng điệu luống cuống của đứa trẻ bị bắt gặp đang trèo cây hái trộm trái, liền nhấc nửa người lên theo một dáng ngồi hớ hênh, trong khi viên sĩ quan ấp úng một câu:
- Tôi rất tiếc… tôi đi lạc… trong khi tìm văn phòng của tôi… xin lỗi tôi rất tiếc.
Lệ nhoẻn miệng cười rất tình tứ:
- Ông đừng lấy thế làm điều… tôi không trách đâu… kia… ông ngồi xuống đây…
Rồi nàng trỏ cho vị đại tá cái ghế bọc nhung đặt cạnh giường phía cuối chân. Landsdale nhìn Lệ bằng một đôi mắt vô cùng biết ơn.
Lệ nhìn nửa thử thách, nửa mời mọc, khiêu khích, lôi cuốn người sĩ quan vào một trận thế mê hồn. Vị đại tá trẻ tuổi như một con nai tơ ngờ nghệch trước miệng hổ cái đang vờn mồi.
Thế rồi trong dinh Norodom, Lệ như một con trăn quấn riết Landsdale, bắt đầu cuộc phối hợp chặt chẽ giữa nàng và quân nhân cố vấn thì ở dinh Gia Long một đại tá quốc gia đến báo cáo cho Nhu hay âm mưu của tướng Nguyễn Văn Hinh đi đôi với Bình Xuyên sắp lật đổ chính phủ họ Ngô. Một buổi họp kín diễn ra liền sau đó, Nhu đề nghị với anh áp dụng lối "hoãn binh chi kế" để đối phó với đối phương đang liên kết chống lại mình còn yếu, đồng thời dọn ngay vào dinh Norodom, song mặt ngoài vẫn tỏ ra còn ở trong dinh Gia Long, để đánh lạc hướng bên địch.
Nhu nói:
- Tướng Hinh còn nhiều ảnh hưởng đối với quân đội quốc gia, lại được ủng hộ của quân đội Pháp hiện nay tập trung từ Bắc vào tăng gấp đôi, lại trong lúc này mình chưa loại bỏ được hắn khỏi chức Tổng Tham mưu trưởng, vậy anh nên triệu tập một cuộc họp để đặt vấn đề rõ rệt đã, rồi anh sẽ nhân danh Thủ tướng toàn quyền về chính trị và quân sự mà quyết định. Chớ bây giờ quân đội chưa ở cả trong tay mình nếu cất chức tướng Hinh ngay thì hắn dám làm bậy lắm, rắc rối thêm khó xử.
Tiếng máy phát thanh ở đài Quân đội như đáp lại lời Nhu, giọng của tướng Hinh vang ra:
- Tôi hoàn toàn không đồng ý với chánh sách của Thủ tướng Diệm. Muốn chiến thắng Cộng sản phải có một chính phủ mạnh đi sát với dân chúng, chớ không phải là một chính phủ bất lực, gia đình trị…
- Tắt đi!
Diệm gắt lên, viên đại tá tâm phúc vội đến đưa tay xoay nút radio trong khi Thủ tướng giận dữ nói:
- Chú nghe đó, nó hỗn hào như vậy mà chú biểu tôi tiếp chuyện sao được.
Nhu bình tĩnh đáp:
- Anh không nên nóng giận mà hư việc lớn. Anh cứ nghe tôi, đối với thứ võ biền hữu dũng vô mưu đó, mình sẽ có cách trị.
Tối hôm đó, tại dinh Gia Long, một cuộc hội kiến đã diễn ra giữa Diệm và tướng Hinh, thủ lãnh Bình Xuyên và tướng Nguyễn Văn Xuân. Diệm khôn khéo đề nghị trung tướng Xuân giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng quốc phòng, để làm dịu không khí xung đột giữa chính phủ và quân đội quốc gia do tướng Hinh chi phối.
Tướng Xuân gật gù đầu tóc bạc phơ trước vẻ mặt lầm lì của Diệm, trả lời:
- Tôi có tham chánh cũng chỉ có mục đích là ngăn chặn cuộc nội chiến mà thôi.
Sau lời tuyên bố ấy không khí nặng nề vẫn không giảm nhạt.
Đài "Tiếng nói quân đội" của tướng Hinh vẫn tiếp tục đả kích họ Ngô, Diệm căm giận nghe thấy những lời xỉ vả, hạ thấp uy thế của mình, liền hạ lệnh cho hiến binh võ trang kéo đến chiếm Đài phát thanh ở sát thành Cộng Hoà, trông ra cuối đường Hồng Thập Tự.
Tướng Hinh đề phòng trước, đã gởi sẵn một trung đội mang súng máy bố trí ngăn chặn mọi cuộc chiếm phá đài.
Lệ hay tin lồng lộn lên, phóng xe hơi đi tìm tướng Hinh để trách mắng, song không gặp được người tình, trở về huy động lối một ngàn dân di cư, biểu tình tuần hành ủng hộ chính quyền.
Từ bến Bạch Đằng, ngược đường Tự Do, đoàn người di cư được Cao Xuân Vỹ nhận lệnh của Lệ đứng ra tổ chức, mang biểu ngữ kẻ khẩu hiệu trung thành với chính phủ họ Ngô.
Đám người di cư sắp hàng năm, định kéo đến trước dinh Norodom, khi qua trụ sở Công an, trước nhà thờ Đức Bà thì bị toán Công an xung phong dội mũ xanh của Bình Xuyên nổ súng ngăn lại và giải tán.
Lực lượng công an, cảnh sát lúc bấy giờ còn ở trong tay Tư Sang, một trong bộ ba Bình Xuyên (Viễn, Tài, Sang). Nhận thấy có dịp chứng tỏ uy quyền của mình, Bảy Viễn ra lệnh cho thuộc hạ dàn áp những người tán dương họ Ngô. Thấy đoàn biểu tình do mình chủ trương bị phá, Lệ nhảy xuống xe hơi, xông ra trước, hò hét, lao mình thách thức để động viên đám người di cư được thuê đi biểu tình đã tản mác khi nghe tiếng súng nổ.
Trước những ống máy ảnh và máy quay phim của các ký giả quốc tế Lệ càng hăng thêm, múa may hô hào, dẫn đầu đám bộ hạ và số người chưa lãnh tiền biểu tình còn lại xông lên. Toán công an mũ xanh chỉ được lệnh giải tán và bắn súng chỉ thiên, thấy đám đông đã tan rã, cũng bỏ ngơ cho người đàn bà liều mạng với mươi kẻ rời rạc kêu gào suông.
Chiều hôm ấy, thủ lãnh Bình Xuyên trên chuyến máy bay từ Pháp qua, nói với phóng viên các báo và đám bạn bè đi rước ở phi trường Tân Sơn Nhất:
- Tôi có gặp Quốc trưởng Cannes. Tôi mang về đây chỉ thị của ngài để thành lập một chính phủ Liên hiệp.
Tại dinh Norodom, Diệm vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh, lầm lì trước những tin tức bất lợi tới tấp đưa đến. Đến khi thấy cô em dâu đi về mệt nhọc đầu tóc bơ phờ, áo đẫm mồ hôi dính sát vào người, nét mặt tức tối cho hay vừa bị công an Bình Xuyên đàn áp, Diệm không dằn được nữa đập vỡ chén nước trà đang uống, bảo người hầu cận:
- Mời ông cố vấn ra đây gấp.
Thấy Lệ tức nghẹn ngào không nói được, muốn ứa nước mắt ra, Diệm càng điên tiết, đợi Nhu vừa ở phòng bên đi ra liền nói:
- Bọn Bình Xuyên nó lộng quá, ăn hiếp cả thím, nổ súng giải tán đoàn di cư biểu tình ủng hộ tôi.
Nhu bình thản nói:
- Cao Xuân Vỹ đã báo tin cho tôi biết rồi. Nhưng tôi thấy việc đang lo lúc này là tướng Hình chớ không phải bọn Bình Xuyên. Thằng Hinh nó mới đánh điện cho Bảo Đại yêu cầu phân xử về cuộc xung đột mà hắn nói là giữa quân đội quốc gia với chính phủ. Tôi cũng vừa được tin mật là hắn đợi Bảy Viễn ở Pháp về bữa nay, để xúi giục sinh chuyện. Hắn không dám đứng ra làm đảo chánh vì đại sứ Mỹ đã cho hắn biết: nếu có cuộc đảo chánh của quân đội quốc gia thì viện trợ kinh tế và quân sự bị cắt ngay. Hắn không làm được nên biểu Bình Xuyên khiêu khích, mình không khéo hắn lấy cớ là quân đội có phận sự bảo vệ an ninh để can thiệp vào, rồi gây áp lực đối với mình. Đừng để mắc mưu chúng nó!
Diệm gật gù suy nghĩ rồi đáp:
- Chú tính phải. Nhưng mình phải làm sao mà bứng sớm mấy cái gai trước mắt đó đi chớ.
- Thì tôi đã bàn tính với anh là chúng nó dựa vào Pháp để chơi mình, mình đã có Mỹ ủng hộ đến cùng rồi, lo gì. Thượng nghị sĩ Mike sắp qua đây, rồi đại tướng Collins, nhân danh đại sứ đặc biệt của Tổng thống Mỹ cũng tới Sài Gòn; đó là dịp tốt để mình vận động với họ buộc Bảo Đại kêu tướng Hinh sang Pháp, đòi tướng Ely với quân Pháp đứng ở ngoài cuộc tranh chấp. Đến khi đã nắm quân đội quốc gia ở trong tay rồi thì mình muốn lật đổ cả Bảo Đại cũng không khó, huống hồ là bọn Bình Xuyên. Lúc này mình cứ làm bộ phớt lơ đi, mặc kệ chúng nó lăng xăng.
Lệ lên tiếng:
- Nhưng để chúng công khai phá đám mình, em tức chịu không được.
Nhưng cười bảo vợ:
- Anh nghe kể lại sáng nay em cũng không vừa gì khi bọn Bình Xuyên ngăn cản đoàn biểu tình. Mà thôi, em chịu khó kiên nhẫn một chút, rồi dẹp bọn nó không khó khăn đâu.
Diệm hỏi:
- Còn Cao Đài với Hoà Hảo, công việc chú thu xếp đến đâu rồi?
Nhu đáp:
- Nghe tin Trịnh Minh Thế về với mình các tay cầm đầu Cao Đài Hoà Hảo ngán quá rồi. Họ đã nhờ người liên lạc với tôi, tỏ ý muốn hợp tác. Tôi tính cho mỗi giáo phái vài ghế không quan trọng trong chính phủ, cả hai tướng Phương và Năm Lửa, cũng là uỷ viên Hội đồng Quốc phòng, và mỗi phe một số tiền.
- Chú tính cho họ bao nhiêu?
- Hôm nọ, với tướng Thế, tôi đưa 2 triệu đô-la. Còn với Cao Đài, Hoà Hảo đông người hơn, tôi tính cho Trần Văn Soái 3 triệu đô-la, Nguyễn Thành Phương 3 triệu rưỡi đô-la. Riêng Cao Đài, tôi có hứa là hàng tháng, sẽ trả thêm lương cho binh sĩ của họ nữa.
Diệm ngắt lời:
- Như vậy 12 triệu đô-la lấy của Mỹ, còn được bao nhiêu nữa đâu!
Nhu nói:
- Mình cốt cho được việc đã. Với đô-la, với địa vị trong chính phủ, mình đã thực hiện được kế ly gián, chia rẽ Mặt trận thống nhất của họ, vậy là thành công rồi. Còn vấn đề tiền bạc anh đừng bận trí làm chi cho mệt.
- Không, tôi nói là nói vậy thôi chớ đã giao cho chú tính rồi. Chú cứ tuỳ ý thu xếp, miễn sao được việc lớn là tốt.
Nhu đứng lên:
- Tôi còn về bàn công việc với đại tá Landsdale đang đợi.
Rồi quay bảo vợ:
-        Em về thay quần áo, rồi qua anh nhờ một chút.
-       
Giữa lúc bị đối phương bao vây, quấy phá, Lệ nhận thấy anh chồng nàng chốc chốc lại đến quỳ ở ghế cầu nguyện, ngước nhìn tượng ảnh Đức Mẹ, đăm đăm cầu nguyện. Nàng vẫn không hiểu được tại sao cứ mỗi lấn gặp việc khó khăn, hoặc trước khi giải quyết vấn đề gì quan trọng là anh chồng lại cầu nguyện một lúc mới quyết định.
Trong khi ấy, Lệ cắm đầu vào giấy tờ, hoặc bàn tính mưu kế đối phó cùng mấy người cộng tác thân tín. Nhiều tin đồn đại chung quanh việc khuynh đảo chánh quyền họ Ngô bao trùm dinh Norodom trong một không khí nặng nề. Sài Gòn đang trải qua cơn sốt chính trị giữa nhịp rộn rịp của các chuyến tàu và máy bay mỗi ngày chở hàng vạn dân di cư đặt chân xuống thủ đô miền Nam. Đạo quân phòng vệ cùng đám sĩ quan theo họ Ngô từ buổi đầu, không đủ sức để chống lại phe đối nghịch, có sự ủng hộ ngầm của Pháp mà quân sự, chính trị và kinh tế miền Nam đang còn ở trong tay. Các đại biểu giáo phái mà anh em họ Ngô đã nhân nhượng mời làm Bộ trưởng, cũng gián tiếp chịu ảnh hưởng của Pháp, đỡ đầu cho các tổ chức của họ từ trước đến nay.
Trong cảnh bấp bênh, nghiêng ngả của anh em họ Ngô phải đương đầu với chung quanh, Lệ bỗng thấy vị cứu tinh xuất hiện mà anh chồng nàng vẫn ngày đêm cầu nguyện mong mỏi.
Một buổi tối, Lệ bước vào phòng chồng, nhận thấy vẻ mặt Nhu tươi vui khác hẳn mọi hôm. Nhu đưa lên cho nàng thấy một tấm chi phiếu ghi một hàng dài con số không.
- Một trăm triệu đô-la đây!
Rồi Nhu nói với Lệ:
- Đại tướng Lawton Collins, đại diện Tổng thống Eisenhower với tư cách là đại sứ đặc biệt đã qua đây. Ngoài việc viện trợ tiền bạc, như em đã thấy, Mỹ còn buộc quân đội quốc gia phải hoàn toàn đặt dưới quyền Thủ tướng…
Lệ ngắt lời chồng:
- Vậy tướng Hinh thì sao?
- Mỹ đã vận động buộc Bảo Đại gọi hắn sang Pháp, nói là để hỏi ý kiến, song sự thực là một lối cách chức khéo, tống cổ hắn đi khỏi xứ này theo đề nghị của anh đã bàn với Thủ tướng.
- Nhưng tướng Hinh không chịu đi thì anh tính làm sao?
- Không chịu đi sao được một khi Pháp đã đồng ý với Mỹ rồi, đến Bảo Đại cũng không còn quyền hành gì nữa, chớ đừng nói là tay chân của Bảo Đại. Tướng Nguyễn Văn Hinh không còn quân đội trong tay nữa thì không bảo hắn cũng phải lo cao chạy xa bay.
Tiếng cười đắc ý điểm thêm cho câu nói của Nhu.
- Anh đã bảo ký nghị định cho tướng Hinh sang Pháp nghỉ 6 tháng để nghiên cứu và buộc phải lên đường trong 24 tiếng đồng hồ, tức là vào trưa chủ nhật ngày mốt. Máy bay đi Pháp cũng đã dành sẵn chỗ cho hắn rồi.
Đợi chồng dứt lời, Lệ đứng lên, kiếm cớ ra ngoài, một mình lái xe đi tìm Hinh. Nàng muốn từ biệt người tình trong một không khí đằm thắm, không muốn cho vị tướng trẻ tuổi mang theo ác cảm đối với mình.
Lệ đến mấy nơi, rồi kêu điện thoại cũng không bắt được liên lạc với tướng Hinh.
Qua hết ngày thứ bảy, Lệ vẫn không có tin tức gì về tướng Hinh. Đến chiều chủ nhật nàng được tin là chuyến phi cơ chở hành khách của hãng Air France rời phi trường Tân Sân Nhất đi Ba Lê, còn một chiếc ghế bỏ trống mà Thủ tướng dành riêng cho tướng Nguyễn Văn Hinh.
Sáng thứ hai, tướng Hinh vẫn có mặt tại Bộ Tổng tham mưu trước sự mừng rỡ của hầu hết sĩ quan quân đội quốc gia. Ở dinh Norodom, Nhu lật xấp điện tín báo chí của các thông tín viên ngoại quốc từ Sài Gòn đánh đi Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn, Hồng Kông… đọc thấy những dòng tít sau đây:
"Thủ tướng Ngô Đình Diệm phen này đã mất mặt".
"Ngô Đình Diệm bị một vố đau chưa từng thấy".
"Uy quyền của Ngô Đình Diệm hoàn toàn sụp đổ".
"Diệm đã thua trận đầu trong cuộc xung đột với quân đội quốc gia".
Lệ trở về dinh thấy chồng đang im lặng bực tức đi lại trong phòng và anh chồng đang quì ở ghế gục đầu cầu nguyện.
Đang lúc ấy, có tin báo "Đức Cha" ở Vĩnh Long lên. Lệ chào người anh chồng Giám mục rồi tự tay lái xe hơi đi.
Không lôi kéo được tướng Hinh nghe theo, Lệ đang chinh phục được một đại tá Mỹ, có thể giúp cho họ nhà chồng đắc lực về mặt chống đảo chánh và gây thêm uy thế đối với cánh cố vấn quân sự. Song lúc này, điều cần là có người chỉ huy chắc chắn tin cậy được trong quân đội quốc gia, để lôi cuốn binh sĩ ủng hộ chính quyền họ Ngô. Nhu và anh chồng Lệ đã nhiều lần bàn tính bên tai nàng về việc mua chuộc các tướng tá đang bị ảnh hưởng của Pháp chi phối hoặc dè dặt ngờ vực đối với chính phủ mà tướng Hinh đã gọi là "gia đình trị". Lệ đã lấy lòng được đại tá tham mưu Trần Văn Đôn quốc tịch Pháp, ngả về phe nàng rồi, song ảnh hưởng cũng chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ.
Trong trường hợp nội chiến bùng nổ, lực lượng phòng vệ dinh Thủ tướng không đủ để chống cự lại Bình Xuyên và quân giáo phái ở các nơi.
Lệ nhớ lại câu nói của chồng nàng nhắc với người anh thủ tướng quá chủ quan đặt hết tin tưởng vào sự ủng hộ của Mỹ, có thể vượt qua mọi trở lực chính trị và quân sự.
- Nếu bây giờ Bình Xuyên nó đánh, tướng Hinh đem quân đội quốc gia hưởng ứng theo. Mỹ có đứng ra can thiệp cũng chỉ bằng lời nói, Pháp cứ ỡm ở kéo dài đề cho tay chân nó thịt mình xong, thì mới đối phó ra sao đây?
Diệm đã ngây mặt trước nhận định xác thực của Nhu ấp úng không biết tính sao, cuối cùng thốt ra một câu mà Lệ không khỏi ái ngại:
- Nếu tình thế nguy ngập, phe mình không chống lại nổi thì anh em mình chạy đến toà đại sứ Mỹ lánh nạn, rồi đợi họ can thiệp giúp cho Pháp nhượng bộ chớ chú tính còn cách nào nữa?
Bản tính ngổ ngáo, quật cường của Lệ khiến nàng khỏng chịu đóng vai trò thụ động, mọi việc đều trông cậy ở người, nên sau đó, Lệ bàn tính với chồng tìm cách lôi kéo các tướng tá quốc gia đang ở trong tình trạng lưng chừng.
Lệ xông xáo đi gặp thẳng đại tá Đỗ Cao Trí, đang chỉ huy quân đoàn nhảy dù, đơn vị thiện chiến, có thể đảo ngược tình thế lúc lâm nguy.
Từ sau cuộc biểu tình bị công an mũ xanh Bình Xuyên ngăn chặn, Lệ đã mạnh dạn xông lên, bất chấp hiểm nguy, và cảm thấy mình có thể, khi biết can đảm, liều mạng, nên hăm hở tiến tới trước những trở lực đang bày ra trước mắt. Lệ đã nói với bà cô goá phụ làm bí thư cho nàng:
- Trong lúc này, nếu cháu nhút nhát không dám đóng vai trò đứng trước đầu sóng ngọn gió thì bỏ lỡ cơ hội hiếm có ngàn năm có một thuở hay sao?
Bà cô thật thà hỏi:
- Cháu định cầm quân đi đánh nhau thiệt à?
- Cháu không cần phải cầm quân mà cháu chỉ cầm đầu mấy tướng tá cầm quân là đủ rồi.
Và Lệ đã thực hiện được mong muốn của nàng. Đại tá Đỗ Cao Trí, trước những màu mè quyến rũ của bà cố vấn, đã trở thành một người tình ngoan ngoãn đối với người đàn bà hiến thân xác ra để xây đắp cho chính thể họ Ngô.
Với tiền bạc lấy ở quỹ viện trợ Mỹ, với các mối tình tướng tá chinh phục được Lệ bỗng cảm thấy mình có vai trò quan trọng trên sân khấu chính trị miền Nam. Bên cạnh anh em chồng Thủ tướng, Giám mục, cố vấn, Lệ là người đàn bà duy nhất nắm giữ giềng mối trong chính quyền họ Ngô, nhưng Lệ vẫn thấy lòng chưa thoả mãn.
Trong cuốn nhật ký, Lệ đã ghi: "Năm 1954, nếu Chúa có mặt ở trần gian này, dù Chúa có yêu thương, bao dung mấy đi nữa cũng không thể làm thinh được trước một bọn khoác áo tu hành, nhân danh Chúa để đi làm những công việc bẩn thỉu được. Tôi phải nói to lên rằng đó là "quân trộm cướp mặc áo thầy tu" ngày ngày đến xin xỏ chạy chọt tiền bạc, áp phe với anh chồng và chồng tôi. Chúng nó có đứa lại còn lên mặt tu hành, đạo đức giả, dám nói động về tôi. Không, một ngàn lần không, dù tôi có sao đi nữa, tôi cũng không giả dối, che đậy con dao sau lớp áo thầy tu như bọn chúng nó.
"Lạy Chúa, Chúa đã phán hãy đuổi bọn con buôn ra khôi thánh đường tôi cũng muốn lập lại rằng: "hãy lánh xa bọn trộm cướp khoác áo tu hành.
"Hơn lúc nào hết, sau khí réveillion tôi còn nghe kể lại một cha vào dinh năn nỉ với anh chồng tôi xin một "áp phe" tôi càng thấy muốn nôn mửa. Mặc dù người khoác áo tu hành đó là do Đức Cha, anh chồng tôi giới thiệu.
"Không một ngày nào không thấy bóng những cái áo thâm chùng vô ra dinh, tôi có cảm tưởng như một bầy quạ đen lờn vờn bay qua miếng mồi để kiếm ăn.
"Hãy tránh xa đi, hỡi lũ diều quạ kền kền! Tôi sẽ xua đuổi chúng phải bay đi hết!"
Lệ tức giận thấy những quyền lợi có thể về tay nàng bị san sẻ, giành giựt nên đâm oán hận những kẻ được sự che chở của Giám mục Thục, chạy theo anh chồng nàng để vận động áp phe. Nàng không giấu nổi bực tức trước những bóng đen thậm thọt vô ra dinh Thủ tướng và bất lực không ngăn cản được họ xông vào mà Lệ vẫn bảo với con gái mỗi khi thấy họ thấp thoáng:
- Bọn đạo dực giả đến kìa!
Một lần Lệ ví họ với những kẻ mà nàng ghét cay ghét đắng thường gọi là "bọn cướp Bình Xuyên" và không dè lời nói của Lệ bay đến tai người ngoài, đồn rộng ra: Những kẻ cướp khăn áo thầy tu!
Câu ví von của Lệ gây phản ứng mạnh trong giới tu hành chán chính bất bình trước những lời lẽ hỗn láo, vô trách nhiệm. Giám mục Thục là người chịu hậu quả đầu tiên của cô em dâu quá quắt.
Trong một buổi họp đặc biệt của các chức sắc tu hành cao cấp, tại một khu di cư ở Sài Gòn khi thấy Giám mục Thục đến, một vị đã cung kính bước đến chào và nói:
- Chúng tôi xin đồng kính đảng trường kẻ cướp!
Giám mục Thục không khỏi kinh ngạc thấy vị áo tím thốt ra lời nói bất ngờ trong một khung cảnh trang nghiêm như vậy, sửng sốt hỏi:
- Sao Đức Cha lại bảo như vậy?
- Thì người ta bảo chúng tôi là kẻ cướp khoác áo thầy tu, tất nhiên Đức Cha lớn chức hơn hết, chúng tôi phải bầu lên làm đảng trưởng kẻ cướp.
Giám mục Thục lặng người đi nghe kể lại đầu đuôi sự tình, không khỏi ngượng ngùng ngỏ lời xin lỗi các vị tu hành tha thứ cho kẻ lộng ngôn.
Tối hôm ấy, trong một cuộc họp mặt gia đình giữa ba anh em họ Ngô và Lệ, câu chuyện sáng ngày được nhắc đến, Lệ bướng bỉnh nói:
- Tại sao người ta lại tự nhận là tôi ám chỉ họ? Tôi nói: "Những kẻ cướp khoác áo thầy tu" là tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo chạy chọt áp phe làm tiền, để mang tiếng cho nhà thờ và cả chính phủ, mà ai cũng nói là chính phủ của Công giáo. Chớ tôi có nói "những người tu hành đi ăn cướp" đâu mà người ta lại trách tôi ăn nói hàm hồ, phạm thượng Đức Cha với anh Thủ tướng nghĩ lại coi có phải không?
Lời lẽ biện luận của Lệ thốt ra một cách gay gắt khiến cả ba anh em họ Ngô đều im lặng đưa mắt liếc nhìn nhau rồi đành bỏ qua câu chuyện.
Lệ cho là mình đã đắc thắng trên mặt trận chống "các cha làm áp phe" và cách đó mấy hôm, nàng lại lên tiếng trong một bài diễn văn nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng, xỉ vả "những kẻ khoác áo thầy tu mang giấu dao găm trong người". Lệ tức tối vì không phải tự tay nàng kiểm soát những số tiền khổng lồ viện trợ di cư, mà lại qua tay người anh chồng mình, khiến nàng không giành được quyền chặn bớt những nguồn lợi lớn lao cho riêng mình. Trong khi đó đám thuộc hạ của Lệ không ngớt trình báo cho nàng hay, dân di cư mỗi người chỉ có nhận được mấy trăm bạc và mấy hộp sữa phát tại bến tàu, dân định cư được ít gạo ăn…
Lệ ghi một dọc câu hỏi để đưa ra chất vấn Nhu và anh chồng, sau khi thu thập những tài liệu chung quanh những con số viện trợ cho dân di cư về tiền bạc và vật chất.
- Theo chương trình viện trợ Mỹ và Pháp đã chấp thuận cho Phủ Tổng uỷ di cư, căn cứ vào 130 dự án đã được cơ quan viện trợ Mỹ chấp thuận và giải toả tiền bạc, dân di cư ngoài số tiền được lãnh ngót ngàn bạc khi tới miền Nam với 10 ngày tiếp tế lúc đầu rồi đến nhà ở và đồ dùng hàng ngày, lương thực cấp cho đến khi đồng bào làm ăn thu hoạch vào đều, nào là dụng cụ, nông cụ, hạt giống, nông súc, gia súc, phân bón v.v… Bao nhiêu những khoản tiền bạc và vật liệu tính thành tiền đố đã đi vào tay ai mà không thấy có mấy người di cư nhận được? Hàng trăm triệu bạc này chạy đi đâu? 16 triệu đô-la của ông Lelaud Barrows đưa cho để mua lều vải giúp dân di cư, ai lãnh và đã mua được mấy cái lều? Hàng chục triệu bột mì, bơ, pho mát, sữa… bao nhiêu tấn quần áo phát không cho dân di cư… tại sao lại thấy bày bán khắp các chợ Sài Gòn - Chợ Lớn, và ai chủ chốt thầu bán những tặng phẩm này? Tôi cho điều tra mới ngao ngán chớ.
Các anh có biết ai "ăn cướp cơm chim" của dân di cư không? Mấy tổ chức đội lốt tôn giáo đó - Tôi sợ mai mốt đây Đức Hồng Y bên Mỹ sang, tiếng tăm này sẽ đến tai ông, cũng như các tổ chức CIA, USDM… rồi báo chí Mỹ họ vạch ra, anh em nhà mình đứng ra mà nhận lãnh lấy hậu quả? Vậy mà người ta còn trách tôi nói sự thật.
Lệ được thể nói một hồi, và mỗi lời của nàng như một mũi tên xỉa xói vào người anh chồng đã tỏ ra đồng loã với "các cha" hàng ngày lui tới, nhất là người anh lớn trong gia đình mà không một ai dám ngờ vực: "Đức Cha".
Lệ còn doạ là vì quyền lợi chung và uy tín của chính quyền nàng sẽ không ngần ngại tố cáo ra trước dư luận, nếu tình thế này cứ kéo dài.
Diệm im lặng đi đến ghế, quỳ xuống khấn nguyện, trong khi Nhu vẫy vợ vào phòng giấy. Cuộc phản công của Lệ đã đưa lại kết quả mong muốn: nàng có quyền tham dự vào việc phán phối tiền bạc viện trợ và bắt đầu Nhu dành riêng cho nàng một số tiền năm triệu bạc, để yêu cầu Lệ chấm dứt sự xung khắc với "các Cha" và "Đức Cha".
Cuộc xung đột giữa chính quyền họ Ngô với sự ủng hộ của Mỹ một bên, và phe Bảo Đại cùng các nhóm phái đối lập với sự đồng tình ngấm ngầm của Pháp, vào cuối năm 1954 bắt đầu nghiêng chiều trước áp lực mạnh của Hoa Thịnh Đốn.
Trong một cuộc họp của đảng bộ Cần Lao, Nhu khích lệ các đồng chí có vẻ hoang mang trước tình thế.
- Tôi xin nói cho anh em rõ là chúng ta đang thắng thế. Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, sau khi viếng Sài Gòn, đã phúc trình về là cương quyết bảo vệ lãnh tụ đảng ta, Ngô chí sĩ, để chống Cộng, chống thực dân và phong kiến. Sự có mặt của tướng Collins, đại sứ đặc biệt của Tổng thống Mỹ bên cạnh Ngô Thủ tướng là một đảm bảo lớn. Đức Hồng y Spellman cũng sắp qua đây để xem xét công cuộc di cư, và ngài chẳng những là bạn thân của Đức Cha chúng ta, mà còn là người đỡ đầu cho Ngô chí sĩ về nước chấp chính. Với tư thế vững chắc đó, lãnh tụ chúng ta đã vận động đấu tranh buộc Pháp trao trả Ngân hàng Đông Dương, Viện Hối đoái, và từ đầu năm 1955, Pháp không còn quyền kiểm soát viện trợ Mỹ giao thẳng cho chính phủ ta. Về quân sự, chỉ huy và huấn luyện binh sĩ Việt Nam, Pháp phải trao lại cho Mỹ.
Cao Xuân Vỹ đưa tay lên xin nói:
- Còn thằng tướng Hình nghịch với mình thì sao?
Ngô Đình Nhu cười đáp:
- Số phận hắn đã định đoạt xong rồi. Bảo Đại đã đánh điện kêu hắn sang Pháp…
- Nhưng nếu nó không chịu đi…?
- Nó không chịu đi cũng không được, vì Bảo Đại cũng đã bắt buộc phải ký sắc lệnh huyền chức Tổng tham mưu quân đội quốc gia của nó. Trong 24 tiếng đồng hồ nữa, nếu nó không đi khỏi xứ này, sẽ bị coi là "một kẻ nguy hiểm "bất tuân kỷ luật"… Không, nó không dám ngang ngược nữa đâu, vì đến quan thầy của nó cũng đành chịu khuất phục, trong khi phải ngửa tay ra xin đô-la để trả lương cho quân đội viễn chinh…
Nhìn qua bộ mặt hớn hở của đám đảng viên Cần Lao, Nhu nói:
- Quân đội quốc gia mất hắn, tất nhiên sẽ như rắn không đầu, phải lệ thuộc chính phủ. Còn các lực lượng bổ sung như Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo, Pháp không cấp tiền cho để trả lương binh lính, không đánh cũng tan. Chỉ có bọn Bình Xuyên, nhờ hai sòng bạc và nhà chứa gái, có đủ tiền tự túc, và đang được Bảo Đại với Phòng Nhì cùng đám sĩ quan Pháp ủng hộ, mình cần phải thanh toán trước. Chúng nó lại đang nắm giữ công an, cảnh sát đô thành… Nhưng rồi ra chúng nó không đứng vững được lâu đâu, anh em cứ yên trí. Tôi đã có cách…
Hôm sau buổi họp đặc biệt của nhóm Cần Lao trung ương, Lệ đang ngồi ở trong phòng dinh Độc Lập với đống hồ sơ thì bác sĩ Lý Trung Dũng - nguyên thấy xuất và y sĩ trong binh chủng địa phương thuộc quân đội Liên hiệp Pháp hớt hải vào thưa:
- Thưa bà cố vấn, tôi vừa ở Tân Sơn Nhất về đây, tướng Hinh trước khi lên máy bay đi Pháp còn nói với các sĩ quan ra tiễn như vầy: "Các bạn hãy tin tôi. Dầu tình thế có ra sao, nội trong ba tuần lễ là lâu lắm, tôi sẽ trở lại với các bạn". Dạ, tôi lặp lại đúng nguyên văn như vậy xin trình để bà cố vấn tường.
Mất một tướng Hinh, Lệ cũng không buồn bã gì trong khi nàng sẵn có ba người tình đại tá cả Việt lẫn Mỹ đều ngoan ngoãn đối với nàng. Lại gặp lúc bận rộn với những số tiền lớn lao bắt đầu đưa đến cho nàng, Lệ không có thì giờ thương tiếc vẩn vơ nên đã tiếp nhận tin tướng Hinh ra đi một cách thờ ơ, và trái lại, còn khoan khoái vì đã bớt một đối thủ lợi hại có thể gây nên việc bất ngờ nguy hiểm đối với chính quyền của nhà chồng nàng:
- Để xem tướng Hinh có trở lại được không?
Con người thấp bé của bác sĩ họ Lý như co rút lại trong khi gập mình vái chào sau cái gật đầu của Lệ.
Vào lúc Đức Hồng y Spellman từ Nữu Ước qua Sài Gòn để thanh sát các đoàn giáo dân di cư, anh em họ Ngô nhận thấy đã có đủ hậu thuẫn vững chắc để mở cuộc tấn công đối phương, bèn phát động chiến dịch lành mạnh hoá xã hội, mở đầu bằng hai việc đóng cửa hai sòng bạc Đại Thế Giới Chợ Lớn, Kim Chung ở Sài Gòn, xóm chứa gái điếm ở Vườn Lài do Bình Xuyên chủ trương.
Hai cơ sở cờ bạc công khai do Pháp giao cho Bảy Viễn tổ chức lấy tiền nuôi đám bộ hạ lối 3.000 người, để chống khủng bố của Việt Minh trong châu thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Thủ lãnh Bình Xuyên nhận thấy thời tung hoành của mình đã hết, do áp lực của Mỹ buộc Pháp, nên cũng đành lòng nhượng bộ, nhận lấy số tiền bù bỏ túi, tiếc rẻ nhìn các nguồn lợi nuôi sống phe mình lọt qua tay họ Ngô.
Trong lúc ép buộc Bình Xuyên phải nhận lời đóng cửa hai sòng bạc, gây thêm uy tín cho chính quyền, anh em họ Ngô đã phòng ngừa những phản ứng của các nhóm phái độc lập, nên xúc tiến trở về hợp tác của Thủ lãnh Cao Đài liên minh.
Một lễ long trọng được tổ chức ngày 13 tháng hai 1955 ở đại lộ Nguyễn Huệ để đón rước đoàn quân Cao Đài liên minh trở về hợp tác Ngô Đình Diệm đứng ra gắn huy hiệu vinh thăng quân nhân trẻ tuổi Trịnh Minh Thế lên hàng thiếu tướng quân đội quốc gia trước sự hiện diện của các đại diện ngoại giao và các vị tướng lãnh Pháp, Mỹ.
Mười hôm sau, các tướng Năm Lửa, Trần Văn Soái, chỉ huy lực lượng Hoà Hảo và Nguyễn Giác Ngộ lục đục theo về ủng hộ chính quyền họ Ngô.
Mặc dầu phải miễn cưỡng nhận 8 người của giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo giữ các chức Bộ trưởng, Tổng trưởng trong chính phủ, và trả tiền lương cho các nhóm qui thuận, họ Ngô đã thấy quyền uy đã vững, bèn phát động chiến dịch chống thực dân, phong kiến và thối nát.
Kế hoạch của Nhu đã bàn tính với anh nhằm ba mục đích:
1. Chống thực dân để đả phá những quyền lợi của Pháp còn lại và buộc Pháp phải nhượng bộ nhiều điều.
2. Chống phong kiến và sửa soạn lực lượng tấn công các nhóm phái võ trang.
3. Chống thối nát để loại bỏ những phần tử có hại cho chế độ.
Với chiến dịch ba mặt chống kẻ thù, Diệm nghĩ ngay trước tiên đến tình địch hai mươi năm về trước, đã cướp mất người yêu đầu tiên chỉ vì viên cựu Lại bộ Thượng thư đã quá nhút nhát trước người đẹp nên bị nhà dược sĩ họ Phan mạnh dạn tranh lấy. Hơn nữa, họ Phan vẫn là người tin cậy của Bảo Đại sau một thời gian khá lâu giữ chức Thủ hiến Trung Việt, đã "một tay bẻ biết mấy cành Phù Dung" nổi tiếng chinh phục đàn bà, con gái và xoay xở làm tiền trở nên giàu có vào bậc nhất Việt Nam. Nhưng tội đáng kể nhất là họ Phan háo sắc đã cắm sừng cho "Cố vấn chính trị Thủ tướng" mà vẫn còn dám rêu rao là mình đã ngủ với em dâu họ Ngô.
Chống thối nát, anh em Nhu nhắm ngay họ Phan để trả mối hận tình cũ, đồng thời hạ uy thế Bảo Đại bằng cách giam kẻ thân tín quản lý tài sản Quốc trưởng ở trong và ngoài nước.
Song lệnh truy nã vừa đưa ra, họ Phan đã được Phòng Nhì Pháp mở đường cho cao chạy xa bay sang Ba Lê.
Sổng mất cựu tình dịch, họ Ngô ra oai bắt người tình của cựu Thủ tướng thân sinh ra tướng Hình, bà Lê, gán cho tôi cậy quyền ỷ thế chồng con để buôn bán chợ đen, và đưa ra toà kết án năm năm tù.
Trong khi anh em họ Ngô bắt đầu tác oai tác phúc và sửa soạn đàn áp các phe đối lập, ở Pháp Bảo Đại nhận được nhiều điện tín và phúc trình tố cáo chính phủ họ Ngô chuyên quyền, bất công, đàn áp nhiều người và đảng phái quốc gia.
Biết mình bị Pháp bỏ rơi, Mỹ không ngó ngàng, Bảo Đại không rời khỏi lâu đài Thorence ở Cannes, song trước sự thúc giục của các sứ giả từ nước nhà sang, và mơ hồ hy vọng ở tình thế có thể biến đổi, vị Quốc trưởng lưu vong lên tiếng tuyên bố ý định muốn trở về Sài Gòn để giải quyết tình trạng hỗn độn trong nước.
Nỗi lo ngại của vị hoàng đế cuối cùng triều Nguyễn đã bộc lộ qua lời tâm sự với một cựu cận thần:
- Coi bộ thằng Diệm hắn muốn cướp ngôi để lên làm vua chắc!
Phản ứng nhu nhược của Bảo Đại đã bị sức cản trở của Mỹ ngăn lại và cuối tháng hai, Quốc trưởng đành phái hoàng thân Vĩnh Cẩn về Sài Gòn với chỉ thị kêu gọi họ Ngô cùng các giáo phái thống nhất để kiến quốc.
Diệm đưa cho Nhu xem lời nhắc nhủ của Bảo Đại trước mặt Lệ, rồi hai anh em cùng cười nhạt. Nhu nhìn Lệ mà nghĩ đến người đã từng ôm ấp vợ mình, uất hận thốt ra:
- May cho Bảo Đại không về đây, không thì cũng đến phải truy nã hắn như thằng Phan Văn Giáo, rồi cho vào tù như "con mèo" của thằng Tâm.
Diệm nói:
- Thứ hôn quân vô đạo ấy, có thí đi cũng không ai tiếc. Mà cũng không cho hắn trị vì mãi được!
Lệ lên tiếng:
- Dù sao Bảo Đại cũng đang là Quốc trưởng, các anh nên xử sự sao cho khỏi mang tiếng "thí chúa đoạt ngôi".
Nhu cười gằn:
- Hôn chúa có thí đi cũng không sợ mang tiếng bất trung, nhưng trước khi truất phế Bảo Đại, cũng phải thanh toán xong mấy phe phái ủng hộ lão ta đã.
Trước quyết tâm chia rẽ để tiêu diệt những lực lượng đối lập của anh em họ Ngô, các phái Cao Đài, Hoà Hảo và Bình Xuyên nhận thấy nguy cơ tan rã, bèn liên kết hàng ngũ với nhau, để làm áp lực với chính quyền. Hộ pháp Phạm Công Tắc tuyên cáo thành lập Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia, với chủ lực nồng cốt là hai giáo phái cùng Bình Xuyên. Các nhóm Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng, Dân chủ tự do cũng lần lượt tham gia.
Mặt trận nhìn nhận quyền tối cao của Bảo Đại, gởi ba sứ giả sang Pháp trao kiến nghị, thỉnh cầu Bảo Đại:
1. Lấy lại toàn quyền quân sự và dân sự đã trao cho Ngô Đình Diệm.
2. Giao cho Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia lập tân chánh phủ.

Trong khi những làn sóng người lũ lượt trên các nẻo đường đổ về, Hải Phòng và Hà Nội, bắt đầu di cư theo đường máy bay Hà Nội Sài Gòn và tàu Hải Phòng - Sài Gòn, trung bình mỗi ngày lối 4.000 người đặt chân đến thủ đô miền Nam theo thời hạn 300 ngày di cư ấn định trong hiệp định Genève, anh em họ Ngô định tung ra ở miền Bắc các khẩu hiệu và truyền đơn lừa bịp dân chúng.
"Miền Bắc sắp bị tiêu diệt vì bom nguyên tử Mỹ".
"Chúa đã di cư vào Nam".
Hình ảnh Đức Mẹ nhỏ những giọt lệ máu tung bay khắp trong giáo dân với những lời thì thầm truyền miệng.
- Chúa và Đức Mẹ đã đi vào Nam, Mỹ sẽ thả bom nguyên tử sau khi quân Pháp rút đi. Trong vài tháng nữa không còn có linh mục nào làm lễ ở nhà thờ nữa.
- Mỗi người dân di cư vào miền Nam sẽ được cấp năm mẫu ruộng, hai con trâu và một vạn bạc do Mỹ giúp.
Hàng trăm ngàn người hoảng sợ, từ bỏ nhà cửa ruộng nương mồ mả tồ tiên, có nơi giáo dân đốt sạch, phá sạch xóm làng, gồng gánh ra đi theo các cha hướng dẫn vào Nam.
Trên chín trăm ngàn giáo dân, theo con số chính thức của Tổng uỷ Di cư(1) đã lên đường vào Nam.
Nhu thấy điểm đầu kế hoạch lôi kéo hàng ngũ giáo dân đoàn kết với số phận của chế độ anh mình đã có kết quả, với sự ủng hộ nhiệt thành của Mỹ.
Đạo quân phòng vệ cùng một số sĩ quan theo Diệm từ buổi đầu, với võ khí tối tân trang bị đầy đủ, được mấy đại tá Mỹ lãnh đạo, đã có đủ sức chống lại các lực lượng đối lập trong lúc này. Bộ Tổng tham mưu theo Pháp, Bình Xuyên theo Bảo Đại, mấy giáo phái lưng chừng.
Cao Đài liên minh của Trịnh Minh Thế được sự giúp đỡ của Mỹ trong những ngày chống cả Pháp lẫn Việt Minh trước đây, Nhu phái thuộc hạ Huỳnh Hữu Nghĩa đi liên lạc mời về hợp tác.
Trước đó, Nhu bàn tính với anh:
- Lực lượng Cao Đài liên minh của Trịnh Minh Thế tuy chỉ chừng 2.000 người song uy tín đáng kể, vì đã kháng chiến chống Pháp mà lại không theo Việt Minh, các giáo phái rất nể. Lôi cuốn được họ về hợp tác, thì Cao Đài, Hoà Hảo cũng dễ ngả theo mình lắm. Như vậy một công mà được đôi ba việc. Lại còn thêm võ khí, tiền bạc của Mỹ lâu nay giúp cho quân của Thế, rối đây cũng phải qua tay mình, khi Thế mang quân về sát nhập. Lợi đủ mấy mặt, trong khi vừa củng cố chính quyền vừa tạo thêm ảnh hưởng cho mình đối với hàng ngũ quốc gia và làm cho Mỹ càng tín nhiệm ở anh.
Diệm thắc mắc:
- Nghe nói Thế cũng khó tánh lắm, không biết Huỳnh Hữu Nghĩa nói là bạn thân từ trước với nó có chắc nó nghe mà đem quân về không?
- Tôi cũng đã tính kỹ rồi nên mới để cho thằng Nghĩa cái ghế Bộ trưởng Lao động, nó phải sống chết hết sức mà lôi kéo Trịnh Minh Thế về với mình, để giữ địa vị chớ. Với lại còn số tiền mình đưa ra biếu riêng Thế cùng vợ hắn nữa.
- Chú liệu chừng mấy?
- Mình trích trong số 12 triệu đô-la lấy của Mỹ, nói để mua chuộc các giáo phái, cho Trịnh Minh Thế 2 triệu, anh nghĩ sao?(2)
- Hai triệu đô-la đổi ra tiền mình lúc này bao nhiêu?
- Theo giá chánh thức, một đô-la ăn 35 đồng bạc của mình, song giá ngoài chợ đen cao gấp mấy. Cho là mười lăm, hai mươi triệu bạc đi nữa, mà mua sống Trịnh Minh Thế cũng không mắc đâu.
- Ừ tuỳ chú tính sao cho được việc. Tiền của Mỹ bỏ ra, mình tiêu phí cũng không ngại chi… Nhưng chú tính giao tiền bạc cách nào?
- Tôi viết sẵn một cái séc giao cho thằng Nghĩa đưa cho Trịnh Minh Thế, dặn xong xuôi đâu đó rồi mới chìa ra. Mình vẫn nắm đằng chuôi, Thế có muốn lãnh được tiền thì phải về hợp tác đường hoàng đã vì tôi dặn trước nhà băng, trước khi phát, phải kêu điện thoại hỏi lại tôi.
Diệm tỏ vẻ hài lòng nói:
- Chú cẩn thận như vậy, Thế nó có muốn lôi thôi cũng không được.
Cánh cửa phòng riêng của Diệm bỗng mở, mùi nước hoa thoắng vào khi Lệ hiện ra.
- Cho em một phút thôi, em muốn hỏi hôm nào thì dọn về dinh Norodom để cho em lo liệu thu xếp?
Diệm nhìn cô em dâu lộng lẫy rồi quay về phía Nhu:
- Có phải đến mốt không chú? Pháp nó nói tới mồng bảy tháng chín làm lễ trao trả dinh Toàn quyền.
Nhu lật xem tập lịch để trên bàn rồi đáp:
- Phải, đến mốt, tướng Ely Cao uỷ Pháp đứng ra bàn giao lại cho anh.
Lệ nói thêm một câu trước khi ra:
- Đại tá Landsdale có nhờ em nhắc xin đặt một phòng giấy ở dinh Norodom để làm việc cho tiện.
Diệm gật đầu:
- Phải, thím nói tôi mới nhớ, nhờ thím thu xếp cho họ. Lão đại tá Mỹ ấy say sưa với công việc giúp mình lắm.
Lệ nhún nhẩy bước xuống tầng cấp dinh Gia Long, gật đầu chào Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ trưởng Lao động đang đi lên, khúm núm cúi rạp đầu chào bà cố vấn.
Từ hôm về dinh thủ tướng, đóng vai cố vấn phu nhân, giữ địa vị người đàn bà độc nhất bên cạnh nhà lãnh đạo quốc gia, Lệ bỗng thấy mình trở nên quan trọng.
Trước mắt nàng tiền bạc, uy quyền, danh giá cùng đến một lúc ồ ạt đầy dẫy quanh mình.
Những sự tâng bốc, bợ đỡ bao vây lấy Lệ, bác sĩ, kỹ sư, dược sĩ, thạc sĩ đốc phủ sứ, những người mệnh danh là trí thức, thượng lưu xã hội, cùng các bà vợ muốn giao thiệp để vận động, xin xỏ địa vị cho chồng, cho tình nhân, chạy theo, bu quanh lấy Lệ để nhờ tiến cử với chồng và anh chồng ban cho họ một địa vị, một chức tước trong chính phủ. Một số quân nhân, chính khách tư sản, thương gia cũng ùa theo đón chờ, mời mọc, mong ở Lệ một câu nói, một cái nhìn.
Những tặng vật ùn ùn chở đến, cửa trước, cửa sau, cửa bên hông, tràn ngập cả gian phòng Lệ, đồng hồ Thuỵ Sĩ bọc bạch kim, nạm kim cương, nước hoa thượng hảo hạng của Pháp, gấm Thượng Hải, lụa Tứ Xuyên, hàng chục màu áo dài đắt tiền, chuỗi ngọc trai Nhật Bản, hộp phấn bằng vàng y sư tử, dây chuyền vàng mang thành giá đặt tận La Mã, ví da các sấu Phi Châu làm bên Đức, khăn choàng nhiễu Cachemire, sâm Bắc Cao Ly… và hoa, hoa hồng từ Ba Lê chở máy bay sang, hoa lay ơn đủ màu ở Đà Lạt đưa về, mỗi buổi sáng như biến chung quanh Lệ thành một chợ hoa, và phòng ngủ của Lệ - một gian phòng tầm tầm - với đủ mọi thứ tặng phẩm.
Mấy ngày đầu, Lệ không khỏi ngợp vì số tặng vật quá nhiều và số son phấn, nước hoa, áo dài, nàng tưởng chừng có thể đem bày mở một tiệm lớn nhất ở đường Catinat.
Không kể những đề nghị về áp phe, xin xuất cảng, nhập cảng các món hàng đặc biệt, có thể mang đến cho Lệ số tiền hàng trăm hàng triệu bạc với một cái môn bài xuất nhập cảng.
Chỉ một lời nói của Lệ, để có một chữ ký của Bộ trưởng Kinh tế là có người mang cả số tiền khổng lồ đến dâng nàng. Lệ còn có thể biến số bạc triệu ấy ra thành ngoại tệ, gởi các ngân nước ngoài, miễn là nàng chịu khó nhắc máy điện thoại lên, nhắn bảo thuộc của anh chồng nàng một câu.
Có ai trong chính phủ mà dám trái ý Lệ, khi họ đã biết ảnh hưởng của nàng đối với anh em họ Ngô?
Song buổi đầu, Lệ thấy mình bỗng dưng có thể sử dụng được hàng triệu đô-la một cách dễ dàng, nàng chưa bị lai cuốn theo sự đam mê tiền bạc, không bận tâm lắm đến việc làm tiền, mà tin là rồi đây muốn bao nhiêu cũng có được, miễn là củng cố địa vị cho anh chồng nàng vững bền.
Lệ nhận thức, chỉ có lực lượng quân sự mới có thể lật đổ được uy quyền của họ nhà chồng hiện nay, và đã tính trước, giao du thân mật với tướng Nguyễn Văn Hinh đang làm tham mưu trưởng chỉ huy quân đội quốc gia, có thể trở nên một kẻ đối thủ lợi hại do ảnh hưởng của Pháp. Các vị tá hiện có binh sĩ trong tay bảo vệ cho Sài Gòn, Lệ cũng đã gây cảm tình riêng lôi cuốn họ ủng hộ anh chồng nàng.
Lúc này, chỉ có mấy vị tá trẻ tuổi Mỹ đã tỏ ra sốt sắng với chính quyền họ Ngô, Lệ cần phải chinh phục, ràng buộc họ nhất là đại tá Landsdale, con người nổi tiếng lợi hại, có ảnh hưởng quyết định đến thời cuộc.
Lệ đã mang ảnh hưởng riêng của mình để lôi kéo tướng Nguyễn Văn Hinh, có lần nàng thỏ thẻ đề nghị chàng giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ của anh chồng, song không lay chuyển được người quân nhân bướng bĩnh, vẫn tỏ thái độ chống đối họ Ngô.
- Tôi ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại không phải phục vụ cho quốc gia hay sao? Bộ ông Diệm muốn lập một quân đội riêng để dựng nên một triều đình riêng hả?
Trước câu hỏi vặn của tướng Hinh, Lệ không khỏi lúng túng, thấy người tình mà nàng có nhiều hy vọng thuyết phục có vẻ trơ trơ, liền thay đổi chiến lược. Trong khi tướng Hinh, với hậu thuẫn của quân đội Pháp, có thể trở thành đối thủ lợi hại chống lại chính quyền anh chàng nàng, tại sao Lệ không liên kết với những quân nhân có thể là đồng minh, ủng hộ phe nàng. Đại tá Landsdale đã nổi danh là triệt để "chống thực dân" từng giúp Tổng thống một quốc gia Á châu dẹp yên những kẻ chống đối mạnh mẽ hiện có mặt tại Sài Gòn và sẵn sàng góp sức phá tan những trở lực muốn phá phách anh chồng Lệ.
Lệ học nói tiếng Anh đã khá, nàng có thể trực tiếp giao du, chinh phục cảm tình viên đại tá kia, hấp dẫn y lăn xả vào trong cuộc.
"Trong khi người đàn ông có thể có nhiều tình nhân, thích thay đổi mới lạ, và xem cuộc tình duyên như là một thành tích - có thêm một người yêu được coi như là một chinh phục mới - thì tại sao người đàn bà lại chịu thiệt thòi, và lại sợ tai tiếng ở chỗ mà người đàn ông tự lấy làm vinh dự. Người đàn ông có thể coi người đàn bà đẹp như là một đồ chơi, một vật để tiêu khiển và luôn luôn muốn đổi món, thì tại sao người đàn bà lại không thể làm như vậy? Ai có quyền lên án một Catherine de Médicis, một Võ Tắc Thiên, khi những người đàn bà phi thường của lịch sử dám vượt qua quan niệm thông thường hẹp hòi của mọi người, và mọi người đàn ông cũng chỉ là một ưu vật, như người đàn bà dưới mắt đàn ông".
Những lời ghi trong nhật ký, Lệ đem ra thực hành trong đời sống và theo quan niệm đặc biệt ấy, nàng xem các cuộc chinh phục đàn ông trở thành tình nhân của nàng như những thắng lợi.
Trong số tướng tá bị Lệ lôi cuốn, đại tá Landsdale cũng như các người tình võ biền của Lệ, đều tự lấy làm hãnh diện được đệ nhất phu nhân để ý đến và thoả mãn xác thịt đòi hỏi vô cùng của người đàn bà hoả diệm sơn.
Đang lúc Lệ mang thân xác hoạt động, giao du để củng cố địa vị của anh chồng, thì Nhu tập hợp các tay chân thân tín trong Cần Lao, như Cao Xuân Vỹ, Bùi Kiện Tín, Lý Trung Dung, Trần Kim Tuyến… y sĩ bác sĩ, luật sư, công chức cao cấp đang nắm giữ các địa vị chủ yếu, hoạt động chính trị và kinh tài để củng cố chính quyền họ Ngô. Giám mục Thục gởi mấy thuộc hạ khoác áo chùng thâm đến tham dự để nhận chỉ thị của cố vấn chính trị.
Với giọng thâm trầm, Nhu trình bày kế hoạch về vấn đề đang nóng hổi hiện thời.
- Tôi nghiên cứu những tin tức và tài liệu thu thập được, phân tích kỹ, thấy rõ rằng Việt Cộng bề ngoài làm ra vẻ ngăn cản đồng bào ở Bắc di cư vô Nam, song sự thực họ muốn đẩy mạnh phong trào để cho những người mà chúng cho là ăn hại chớ không có ích lợi gì phải ra đi.
Đó là những phần tử Việt Cộng đã xếp hạng là "năm công": công an, công chức, công tử, con công đệ tử và công giáo. Chúng ta chỉ có thể trông cậy những dân cư công giáo, biến thành lực lượng hậu thuẫn cho chính quyền chớ còn bọn công kia, những phần tử mà tiếng Pháp gọi là "Con"(3) ăn tục, nói phét, hạng người mà xã hội nào cũng coi là bọn hưởng thụ mà không sản xuất, bọn tầm gởi, Việt Cộng xua họ hết vào trong Nam để xáo trộn, làm hư thối tình hình ở đây. Đối với những phần tử đó, không cần phải bảo, họ cũng kéo vào Nam cả, chúng ta bắt buộc phải chịu đựng và cần có kế hoạch đối phó, sử dụng họ được phần nào hay phần ấy, làm sao biến họ thành những phần tứ gây rối, phá rối trong hàng ngũ các giáo phái, phe đảng đối phương. Phương diện thứ hai của vấn đề di cư mà ta triệt để khai thác, có lợi cho Đảng ta, là viện trợ Mỹ. Một ngân quỹ hơn 55 triệu đô-la được dành cho công cuộc cứu trợ dân di cư: 16 triệu đã dùng để mua lều vải dụng cụ và sườn nhà, còn khoảng 39 triệu đô-la, tức là lối một tỷ 856 triệu bạc được sử dụng cho cuộc tiếp tế định cư trong niên khoá 1954-1955, niên khoá tới sẽ có nhiều hơn nữa.
Ngoài ra, còn những viện trợ về tiền bạc và dụng cụ của Pháp, các cơ quan tình nguyện của Mỹ, như cơ quan cứu trợ công giáo War Relief Service của Đức Cha Harnett, tổ chức CARE, hội bảo trợ Nhi đồng Unicef, hội chống phân biệt chủng tộc Uier, Hồng Thập Tự, Thanh Thương Hội Quốc Tế… Không kể các phong trào tự phát của các nước tự do.
Tính ra với tiền bạc và vật dụng viện trợ, mỗi gia đình di cư có một căn nhà trên một khu đất có thể làm vườn, chăn nuôi, con cái đi học được trợ cấp 300 đồng mỗi tháng… thêm thuốc men, y tá hay bác sĩ trông nom. Như vậy, người dân di cư có một đời sống vật chất tính ra bằng hạng trung lưu ở Bắc.
Chúng ta chỉ rút bớt đi một phần của mỗi đầu người vào Nam có được 15.000 đồng, với số tiền ấy, dùng để gây quỹ cho đảng hoạt động, phát triển mạnh… anh em nghĩ sao?
Bùi Văn Thiện đầu tiên lên tiếng hưởng ứng:
- Ông cố vấn đã cứu xét thấu đáo vấn đề di cư, nhận thấy rõ thực trạng là càng có nhiều người rời bỏ đất Bắc thì miền Nam càng thêm lúng túng vì phải lo nuôi số người thặng dư bất ngờ đó, song đã có viện trợ Mỹ chu cấp rồi, mà phong trào di cư rộng lớn chừng nào, số tiền của Mỹ giúp lại càng tăng thêm. Tôi tính theo những con số, thí dụ mỗi người dân di cư, ta chỉ bớt cho họ một phần ba thôi, cũng không ai biết đấy vào đâu cả, với 500 ngàn đầu người, số tiền cũng có thể lên tới 2 tỷ 500 triệu bạc, nếu tính theo con số viện trợ chính thức chia đều ra đổ đồng mỗi người di cư được 15 ngàn.
Song trên thực tế, tôi nhận thấy cứ mỗi người xuống tàu đặt chân vào Nam chỉ cần cho họ vài hộp sữa với mấy trăm bạc bỏ túi hay giúp đỡ thêm cho họ chút ít nữa trong khi chờ đợi phân tán định cư họ cũng đã mừng lắm rồi. Mà viện trợ Mỹ thì chủ trương tiếp tục giúp đỡ cho đến khi dân di cư có thể tự túc sinh sống có nhà cửa, vườn tược đầy đủ, con em có tiền trợ cấp hàng tháng mỗi đứa mấy trăm để học hành nữa, như vậy số tiền tổng quát lớn lao biết là chừng nào. Tất cả những ngân khoản viện trợ đó, tính ra từ niên khoá 1954-1955 đến niên khoá sau có hàng trăm triệu đô-la, tức là bao nhiêu tỷ bạc.
Nhu gục gặc đầu:
- Anh nói chí lý.
Bùi Văn Thiện sướng tê người trong khi các đồng chí nhao nhao xin phát biểu ý kiến.
Cao Xuân Vỹ nói vội như sợ cướp mất lời:
- Thưa cố vấn, tôi xin có ý kiến…
Nhưng Nhu gạt đi và ra lệnh cho Thiện nói tiếp.
Bùi Văn Thiện sung sướng đỏ dừ người, vừa gãi tóc vừa nói:
- Dạ, ông cố vấn đã có lòng thương đến, với lại trên có cụ Ngô, cũng như bậc sanh thành, có sai bảo thế nào, hàng con em đâu dám trái ý. Dù có lăn vào lửa đạn đi nữa, đã nguyện một lòng một dạ sống chết với cụ Ngô, trung thành với ông cố vấn lãnh đạo đảng ta, tôi cũng không từ. Dạ, nhân thể tôi cũng báo tin để ông cố vấn mừng cho: tôi đã xin rửa tội theo đạo rồi…
Trong lúc hứng khởi, họ Bùi khoái chí toan đưa cả hai tay lên hô khẩu hiệu "muôn năm" để chứng tỏ lòng nhiệt thành có dư của mình đáp lại sự bổ nhậm bất ngờ của Cố vấn chính trị thì Bùi Kiện Tín, y sĩ bán dầu gió bản xứ, được chính quyền họ Ngô công nhận là bác sĩ và giao chức Bộ trưởng Thông tin nhờ khéo ủng hộ tiền bạc trong thời kỳ "Ngô chí sĩ" gần về nước - ngăn lại, nói tranh:
- Thưa cố vấn, tôi thấy trong vấn đề di cư công việc tuyên truyền ở miền Bắc cần phải cổ động rầm rộ, cho dồn mạnh là mỗi người di cư vào Nam sẽ có một ngôi nhà, năm mẫu ruộng, một đôi trâu và một vạn bạc làm vốn do Mỹ trợ cấp, có thể nói là dân Bắc đua nhau mà đi vơi cả ngoài đó. Rồi mình xin Mỹ viện trợ cho họ, đến khi ấy chỉ cần lấy một phần mười trong số quỹ di cư thôi, đảng ta cũng có hàng chục tỷ bạc. Mặt khác, riêng đối với Công giáo, nhờ các cha xứ truyền miệng là chính phủ cụ Ngô là của Công giáo.
Nhu ngắt ngang:
- Kế hoạch của bác sĩ Tín, về mặt công giáo vận, tôi đã có bàn với đức Giám mục anh tôi, và công việc đã giao cho bác sĩ Tuyến phụ trách rồi.
Trần Kim Tuyến, nguyên là một thầy xuất, nửa chừng tu hành hoàn tục, được chính phủ Ngô phong làm bác sĩ, phụ trách phòng chính trị mật vụ riêng của Nhu, nghe nhắc đến mình vội lên tiếng:
- Vâng, công việc của cố vấn giao phó, tôi đã thi hành chu đáo rồi. Khắp các xứ miền Bắc, những vùng đông giáo dân từ Quỳnh Lưu, ba làng ở Vinh, Thanh Hoá đến Phát Diệm, Bùi Chu, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên… có cả một hệ thống vận động, truyền tin luân lưu không sót một họ đạo nào, nhờ các thầy, các cha giúp sức. Hai triệu truyền đơn hình Đức Mẹ nhỏ nước mắt máu với câu Chúa đã vào Nam đã truyền tay phân phát đi khắp nơi cho giáo dân miền Bắc. Đồng thời các khẩu hiệu tuyên truyền cũng được phổ biến mình trong các khu nhà thờ: "Đức Mẹ đã từ bỏ đất Bắc", "Di cư vào Nam theo Chúa". Ngoài ra, với dân thường thì tuyên truyền là Mỹ sẽ thả bom nguyên tử sau khi Pháp rút đi. Tôi xin báo cáo thêm là trong dịp này, đã đặt được một số cơ sở ở lại hoạt động trong đòng địch. Như ông cố vấn đã nhận định, chúng ta chỉ trông cậy phần lớn ở số người di cư Công giáo, là thành phần chắc chắn làm hậu thuẫn cho chế độ, về phương diện này, có thể nói là chúng ta đã thành công, với 80 phần trăm dân số di cư mỗi chuyến là người Công giáo. Theo cái đà này, con số di cư có thể lên tới cả triệu… Việc kinh tài cho Đảng ta theo đó có cơ hội được dễ dàng, nhờ viện trợ tài chính rộng rãi của Mỹ.
Từ cuối phòng, một người vận áo tu sĩ yên lặng theo dõi buổi họp, đứng lên:
-                                    Tôi đề nghị là đối với giáo dân di cư, mỗi họ, mỗi xứ đều phải có linh mục chăn dắt, từ lúc bắt đầu ra đi cho đến nơi định cư, lập nghiệp, vậy nên giao phó cho các cha mọi trợ cấp để phân phát lại cho con chiên. Từ tinh thần đến vật chất, sự liên hệ giữa giáo dân và các cha do đó càng thêm mật thiết, các cha đi đâu con chiên theo đó, mỗi họ, mỗi nhà xứ vào đây, sau này vẫn tiếp tục sống quanh nhà thờ, tức là thành những căn cứ trung kiên làm hậu thuẫn cho cụ Ngô.

Trong kế hoạch định cư, tôi nghĩ là nên phân tán các họ Công giáo, khắp miền Nam, chiếm giữ các vùng trọng yếu để về sau khi cần đến, có thể biến những khu vực ấy thành những pháo đài chống Cộng rải rác từ vĩ tuyến 17 vào đến Cà Mau, cho nên tôi xin ông cố vấn lưu ý để cho các cha có được toàn quyền trích lấy trong số tiền giúp giáo dân di cư để xây nên mỗi nơi định cư một nhà thờ, tuỳ theo họ lớn nhỏ. Như vậy công việc đạo lẫn đời đều được tốt đẹp, và mỗi khu Công giáo là một cơ sở của chính quyền Công giáo chúng ta.
Nhu lật một tập báo có đánh dấu bút chì đỏ, nhìn qua rồi nói:
- Y kiến của cha, cũng như kế hoạch của bác sĩ Tuyến đã thi hành, dẫu rất hay song có điểm mà chúng ta cần phải tránh, đừng để bị dị nghị, đối phương có thể lợi dụng để phản tuyên truyền, nói là mình lợi dụng đạo Chúa, làm sai lạc ý nghĩa tinh thần Công giáo.
Đây tôi đọc cho nghe lời của một linh mục Pháp R.P Avril đã viết trong tờ L Express, phản đối các lối chơi lôi cuốn giáo dân di cư của chúng ta, như vầy:
"… Làm cho người ta tin rằng Chúa chỉ có mặt ở một địa phương nào đó và việc thờ phụng Chúa chỉ có thể ở một vùng nhất định, tức là trực tiếp đi ngược lại lời tuyên bố của đấng Christ: ngày giờ đã đến mà các người thờ phụng đức Chúa Cha không phải ở trên ngọn núi này, hay ở Jérusalem…" (Jean IV, 21).
Như vậy, tuyên truyền Chúa và Đức Mẹ đã di cư vào Nam, chỉ là nói miệng với giáo dân thôi.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên khôn khéo hoạt động để cho dân chúng ngoại đạo đừng nhận thấy là chính quyền chỉ chú trọng đến người Công giáo mà bỏ quên họ. Lúc này các giáo phái ở Nam, với dân số theo họ cũng khá đông, thiệt tình không ưa chi mình, tôi cho là nên tránh mâu thuẫn, để mình vững vàng, bắt họ phục tùng rồi hẳn hay. Tôi có cả một chương trình đã bàn tính kỹ với Đức Giám mục sẽ lần hồi tiến tới chỗ mà hội Truyền giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả miền Nam này sẽ theo Công giáo hết.
Sau buổi họp, một linh mục ở lại nói riêng với Nhu giới thiệu một người có thể gởi các số tiền lớn vào ngân hàng ngoại quốc và chuyển thành ngoại tệ.
- Anh ta là một người mới vô đạo, ông cố vấn cũng đã từng quen biết: Huỳnh Văn Sang.
Nhu nhớ là Sang trước đây đã lấy tiền nhà vợ giàu có ủng hộ cho anh mình trong thời kỳ còn lưu vong ở Ba Lê, và gần đây vẫn thậm thọt lui tới dinh phục vụ.
- Để tôi xét lại coi. Nếu không có gì trở ngại, tôi sẽ đề nghị cho làm giám đốc Viện Hối đoái. Nhưng cha cũng đã rõ, phải là người của đảng ta mới có thể giữ được các nhiệm vụ quan trọng.
- Tôi xin đảm bảo giới thiệu anh ta vào đảng vì tôi biết rõ tư cách và khả năng có thể giúp được nhiều việc cho đảng, nhất là về mặt kinh tài.
Đã khuya, Nhu tự lái xe hơi về dinh Gia Long với một người hộ vệ võ trang ở phía sau. Bước vào phòng thấy các con đã ngủ hết, hỏi đến vợ, nghe nói chưa về, Nhu có vẻ bực bội, đi qua phòng làm việc bảo lấy cà phê pha rượu Rhum, rồi ngồi ở bàn giấy lật xem đống hồ sơ.
Nửa giờ sau. Lệ một mình tự lái xe về, bước vào phòng chồng, tươi cười nói:
- Em sắp đặt xong ở dinh Norodom rồi. Đến mai chúng mình dọn vô đó. Em cũng có dành một văn phòng cho mấy đại tá Mỹ theo lời anh dặn. Còn việc xây hầm kiểu bunker Hitler(4) ở trong dinh, em để anh em biểu cho người ta làm cho vừa ý anh.
Nhu đưa ra trước mt vợ một tấm chi phiếu với một dọc những con số không, rồi cười bảo:
- Trả công cho em đó.
Lệ chìa tay ra cầm lấy, thoáng nhìn qua dòng chữ số, reo lên:
- Hai triệu!
Rồi chồm đến ôm lấy chồng hôn tới tấp vào má, vừa nói:
- Anh đã dành cho em một thích thú bất ngờ!
Qua giây phút hứng khởi, Lệ ngồi lên tay ghế ngả ngớn đầu vào vai chồng, hạ giọng hỏi:
- Tiền ở đâu anh cho em nhiều thế?
Nhu trịnh trọng bảo vợ:
- Đây chỉ là mới bắt đầu, em sẽ còn có nhiều gấp bao nhiêu lần thế nữa. Nếu anh muốn, em sẽ thành triệu phú trong nay mai. Nhưng anh không muốn em làm triệu phú…
- Anh chê tiền hay sao mà không muốn cho vợ thành triệu phú?
- Anh chê địa vị triệu phú thì đúng hơn, vì giàu có bạc triệu ngày nay cũng không có gì là hơn người, và anh không muốn em chỉ là triệu phú mà phải là tỷ phú.
- Tỷ phú? Anh tham vọng hơn cả em nữa. Thôi anh cứ làm cho em trở nên bà triệu phú cũng tạm được rồi.
Nhu cười tự đắc:
- Không, anh không thèm cho em làm bà triệu phú đâu mà em là tỷ phú, mà tỷ phú quốc tế nữa là khác. Và anh đã nói là phải làm được.
Trước vẻ cảm phục của vợ, Nhu bắt đầu cắt nghĩa cho Lệ hiểu đường lối nào có thể mang lại những số tiền khổng lồ cho hai vợ chồng trở nên giàu có lớn một cách dễ dàng, trong một thời gian ngắn.
- Anh đã sắp đặt kỹ đâu vào đó rồi: số tiền trích trong ngân quỹ viện trợ di cư, với danh nghĩa cho Đảng Cần Lao hoạt động, có thể lên tới hàng tỷ bạc, anh đã có cách chuyển thành ngoại tệ, gởi ở ngân hàng nước ngoài, trong chương mục tên em hay là tên anh.
Ngoài mấy người tin cậy anh đã giao phó riêng lo công việc này thì không ai biết được là mình có tiền đâu. Đến như em, lúc này mà anh không nói ra thì em đâu biết được là em đã có bao nhiêu triệu đô-la gởi ở nhà băng Thuỵ Sĩ không?
Lệ đi từ ngạc nhiên này đến bất ngờ thích thú khác, quàng riết lấy đầu chồng ép vào ngực phập phồng của mình, sung sướng thốt ra:
- Anh làm cho em thành người đàn bà sung sướng nhất đời!
Nhu không giấu được vẻ hân hoan trước sự thán phục biết ơn của vợ, ngước nhìn thẳng vào mắt Lệ từ từ nói:
- Anh chỉ mong em đừng làm điều gì buồn lòng anh.
Lời nói chân thành chứa đựng trách móc, tha thứ của người chồng nhẫn nhục thốt ra trong giây phút này khiến Lệ ứa nước mắt, tỏ vẻ cảm động, chân thành, áp má vào má Nhu mà thỏ thẻ:
- Em sẽ không làm buồn lòng anh nữa đâu?
Có lẽ trong giầy phút đó, Lệ tâm sự một cách thành khẩn với người chồng rất mực yêu chiều vợ, nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc Lệ ở sát người chồng đã đưa đến cho nàng địa vị cao sang và giàu có bất ngờ.
Rồi bản chất tự nhiên của Lệ luôn luôn khát vọng những sự ham muốn mà Nhu vẫn không làm thoả mãn được lại trở về với người đàn bà phóng đãng, coi nhẹ sự thuỷ chung trong tình nghĩa vợ chồng.
Trưa hôm sau, Lệ đã quên hẳn lời nàng mới tỉ tê với Nhu khi thấy đại tá Landsdale bước vào.
Qua riềm mi hé hé mở, Lệ thấy ông ta đứng ở ngưỡng phòng sững sờ ngắm nhìn mình. Có lẽ vị sĩ quan trẻ kia cũng vừa dọn tới văn phòng riêng của mình ở trong dinh, đã đi lạc vào phòngLệ đang ngủ cho nên dừng bước trộm nhìn người đẹp lồ lộ qua làn tơ mong manh như trái cấm ngon lành phô bày hiến dâng.
Thời gian như ngừng lại trong buổi trưa nồng đang ầm ĩ tiếng sấm của cơn ghen ngoài trời và trong lòng của người sĩ quan đứng trước cảnh tượng bất ngờ, "đi thời cũng dở, ở không xong".
Trong thoáng qua, Lệ he hé đôi mắt nhìn thấy suốt cả tâm trạng của đại tá Landsdale, người sĩ quan mà nàng đã có cảm tình và muốn chinh phục, đang tê dại ngắm nàng với đôi mắt mở rộng như muốn nuốt chửng con người Lệ phây phay qua làn "voan" hồng.
Lệ bỗng vờ choàng mắt, thấy Landsdale với dáng điệu luống cuống của đứa trẻ bị bắt gặp đang trèo cây hái trộm trái, liền nhấc nửa người lên theo một dáng ngồi hớ hênh, trong khi viên sĩ quan ấp úng một câu:
- Tôi rất tiếc… tôi đi lạc… trong khi tìm văn phòng của tôi… xin lỗi tôi rất tiếc.
Lệ nhoẻn miệng cười rất tình tứ:
- Ông đừng lấy thế làm điều… tôi không trách đâu… kia… ông ngồi xuống đây…
Rồi nàng trỏ cho vị đại tá cái ghế bọc nhung đặt cạnh giường phía cuối chân. Landsdale nhìn Lệ bằng một đôi mắt vô cùng biết ơn.
Lệ nhìn nửa thử thách, nửa mời mọc, khiêu khích, lôi cuốn người sĩ quan vào một trận thế mê hồn. Vị đại tá trẻ tuổi như một con nai tơ ngờ nghệch trước miệng hổ cái đang vờn mồi.
Thế rồi trong dinh Norodom, Lệ như một con trăn quấn riết Landsdale, bắt đầu cuộc phối hợp chặt chẽ giữa nàng và quân nhân cố vấn thì ở dinh Gia Long một đại tá quốc gia đến báo cáo cho Nhu hay âm mưu của tướng Nguyễn Văn Hinh đi đôi với Bình Xuyên sắp lật đổ chính phủ họ Ngô. Một buổi họp kín diễn ra liền sau đó, Nhu đề nghị với anh áp dụng lối "hoãn binh chi kế" để đối phó với đối phương đang liên kết chống lại mình còn yếu, đồng thời dọn ngay vào dinh Norodom, song mặt ngoài vẫn tỏ ra còn ở trong dinh Gia Long, để đánh lạc hướng bên địch.
Nhu nói:
- Tướng Hinh còn nhiều ảnh hưởng đối với quân đội quốc gia, lại được ủng hộ của quân đội Pháp hiện nay tập trung từ Bắc vào tăng gấp đôi, lại trong lúc này mình chưa loại bỏ được hắn khỏi chức Tổng Tham mưu trưởng, vậy anh nên triệu tập một cuộc họp để đặt vấn đề rõ rệt đã, rồi anh sẽ nhân danh Thủ tướng toàn quyền về chính trị và quân sự mà quyết định. Chớ bây giờ quân đội chưa ở cả trong tay mình nếu cất chức tướng Hinh ngay thì hắn dám làm bậy lắm, rắc rối thêm khó xử.
Tiếng máy phát thanh ở đài Quân đội như đáp lại lời Nhu, giọng của tướng Hinh vang ra:
- Tôi hoàn toàn không đồng ý với chánh sách của Thủ tướng Diệm. Muốn chiến thắng Cộng sản phải có một chính phủ mạnh đi sát với dân chúng, chớ không phải là một chính phủ bất lực, gia đình trị…
- Tắt đi!
Diệm gắt lên, viên đại tá tâm phúc vội đến đưa tay xoay nút radio trong khi Thủ tướng giận dữ nói:
- Chú nghe đó, nó hỗn hào như vậy mà chú biểu tôi tiếp chuyện sao được.
Nhu bình tĩnh đáp:
- Anh không nên nóng giận mà hư việc lớn. Anh cứ nghe tôi, đối với thứ võ biền hữu dũng vô mưu đó, mình sẽ có cách trị.
Tối hôm đó, tại dinh Gia Long, một cuộc hội kiến đã diễn ra giữa Diệm và tướng Hinh, thủ lãnh Bình Xuyên và tướng Nguyễn Văn Xuân. Diệm khôn khéo đề nghị trung tướng Xuân giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng quốc phòng, để làm dịu không khí xung đột giữa chính phủ và quân đội quốc gia do tướng Hinh chi phối.
Tướng Xuân gật gù đầu tóc bạc phơ trước vẻ mặt lầm lì của Diệm, trả lời:
- Tôi có tham chánh cũng chỉ có mục đích là ngăn chặn cuộc nội chiến mà thôi.
Sau lời tuyên bố ấy không khí nặng nề vẫn không giảm nhạt.
Đài "Tiếng nói quân đội" của tướng Hinh vẫn tiếp tục đả kích họ Ngô, Diệm căm giận nghe thấy những lời xỉ vả, hạ thấp uy thế của mình, liền hạ lệnh cho hiến binh võ trang kéo đến chiếm Đài phát thanh ở sát thành Cộng Hoà, trông ra cuối đường Hồng Thập Tự.
Tướng Hinh đề phòng trước, đã gởi sẵn một trung đội mang súng máy bố trí ngăn chặn mọi cuộc chiếm phá đài.
Lệ hay tin lồng lộn lên, phóng xe hơi đi tìm tướng Hinh để trách mắng, song không gặp được người tình, trở về huy động lối một ngàn dân di cư, biểu tình tuần hành ủng hộ chính quyền.
Từ bến Bạch Đằng, ngược đường Tự Do, đoàn người di cư được Cao Xuân Vỹ nhận lệnh của Lệ đứng ra tổ chức, mang biểu ngữ kẻ khẩu hiệu trung thành với chính phủ họ Ngô.
Đám người di cư sắp hàng năm, định kéo đến trước dinh Norodom, khi qua trụ sở Công an, trước nhà thờ Đức Bà thì bị toán Công an xung phong dội mũ xanh của Bình Xuyên nổ súng ngăn lại và giải tán.
Lực lượng công an, cảnh sát lúc bấy giờ còn ở trong tay Tư Sang, một trong bộ ba Bình Xuyên (Viễn, Tài, Sang). Nhận thấy có dịp chứng tỏ uy quyền của mình, Bảy Viễn ra lệnh cho thuộc hạ dàn áp những người tán dương họ Ngô. Thấy đoàn biểu tình do mình chủ trương bị phá, Lệ nhảy xuống xe hơi, xông ra trước, hò hét, lao mình thách thức để động viên đám người di cư được thuê đi biểu tình đã tản mác khi nghe tiếng súng nổ.
Trước những ống máy ảnh và máy quay phim của các ký giả quốc tế Lệ càng hăng thêm, múa may hô hào, dẫn đầu đám bộ hạ và số người chưa lãnh tiền biểu tình còn lại xông lên. Toán công an mũ xanh chỉ được lệnh giải tán và bắn súng chỉ thiên, thấy đám đông đã tan rã, cũng bỏ ngơ cho người đàn bà liều mạng với mươi kẻ rời rạc kêu gào suông.
Chiều hôm ấy, thủ lãnh Bình Xuyên trên chuyến máy bay từ Pháp qua, nói với phóng viên các báo và đám bạn bè đi rước ở phi trường Tân Sơn Nhất:
- Tôi có gặp Quốc trưởng Cannes. Tôi mang về đây chỉ thị của ngài để thành lập một chính phủ Liên hiệp.
Tại dinh Norodom, Diệm vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh, lầm lì trước những tin tức bất lợi tới tấp đưa đến. Đến khi thấy cô em dâu đi về mệt nhọc đầu tóc bơ phờ, áo đẫm mồ hôi dính sát vào người, nét mặt tức tối cho hay vừa bị công an Bình Xuyên đàn áp, Diệm không dằn được nữa đập vỡ chén nước trà đang uống, bảo người hầu cận:
- Mời ông cố vấn ra đây gấp.
Thấy Lệ tức nghẹn ngào không nói được, muốn ứa nước mắt ra, Diệm càng điên tiết, đợi Nhu vừa ở phòng bên đi ra liền nói:
- Bọn Bình Xuyên nó lộng quá, ăn hiếp cả thím, nổ súng giải tán đoàn di cư biểu tình ủng hộ tôi.
Nhu bình thản nói:
- Cao Xuân Vỹ đã báo tin cho tôi biết rồi. Nhưng tôi thấy việc đang lo lúc này là tướng Hình chớ không phải bọn Bình Xuyên. Thằng Hinh nó mới đánh điện cho Bảo Đại yêu cầu phân xử về cuộc xung đột mà hắn nói là giữa quân đội quốc gia với chính phủ. Tôi cũng vừa được tin mật là hắn đợi Bảy Viễn ở Pháp về bữa nay, để xúi giục sinh chuyện. Hắn không dám đứng ra làm đảo chánh vì đại sứ Mỹ đã cho hắn biết: nếu có cuộc đảo chánh của quân đội quốc gia thì viện trợ kinh tế và quân sự bị cắt ngay. Hắn không làm được nên biểu Bình Xuyên khiêu khích, mình không khéo hắn lấy cớ là quân đội có phận sự bảo vệ an ninh để can thiệp vào, rồi gây áp lực đối với mình. Đừng để mắc mưu chúng nó!
Diệm gật gù suy nghĩ rồi đáp:
- Chú tính phải. Nhưng mình phải làm sao mà bứng sớm mấy cái gai trước mắt đó đi chớ.
- Thì tôi đã bàn tính với anh là chúng nó dựa vào Pháp để chơi mình, mình đã có Mỹ ủng hộ đến cùng rồi, lo gì. Thượng nghị sĩ Mike sắp qua đây, rồi đại tướng Collins, nhân danh đại sứ đặc biệt của Tổng thống Mỹ cũng tới Sài Gòn; đó là dịp tốt để mình vận động với họ buộc Bảo Đại kêu tướng Hinh sang Pháp, đòi tướng Ely với quân Pháp đứng ở ngoài cuộc tranh chấp. Đến khi đã nắm quân đội quốc gia ở trong tay rồi thì mình muốn lật đổ cả Bảo Đại cũng không khó, huống hồ là bọn Bình Xuyên. Lúc này mình cứ làm bộ phớt lơ đi, mặc kệ chúng nó lăng xăng.
Lệ lên tiếng:
- Nhưng để chúng công khai phá đám mình, em tức chịu không được.
Nhưng cười bảo vợ:
- Anh nghe kể lại sáng nay em cũng không vừa gì khi bọn Bình Xuyên ngăn cản đoàn biểu tình. Mà thôi, em chịu khó kiên nhẫn một chút, rồi dẹp bọn nó không khó khăn đâu.
Diệm hỏi:
- Còn Cao Đài với Hoà Hảo, công việc chú thu xếp đến đâu rồi?
Nhu đáp:
- Nghe tin Trịnh Minh Thế về với mình các tay cầm đầu Cao Đài Hoà Hảo ngán quá rồi. Họ đã nhờ người liên lạc với tôi, tỏ ý muốn hợp tác. Tôi tính cho mỗi giáo phái vài ghế không quan trọng trong chính phủ, cả hai tướng Phương và Năm Lửa, cũng là uỷ viên Hội đồng Quốc phòng, và mỗi phe một số tiền.
- Chú tính cho họ bao nhiêu?
- Hôm nọ, với tướng Thế, tôi đưa 2 triệu đô-la. Còn với Cao Đài, Hoà Hảo đông người hơn, tôi tính cho Trần Văn Soái 3 triệu đô-la, Nguyễn Thành Phương 3 triệu rưỡi đô-la. Riêng Cao Đài, tôi có hứa là hàng tháng, sẽ trả thêm lương cho binh sĩ của họ nữa.
Diệm ngắt lời:
- Như vậy 12 triệu đô-la lấy của Mỹ, còn được bao nhiêu nữa đâu!
Nhu nói:
- Mình cốt cho được việc đã. Với đô-la, với địa vị trong chính phủ, mình đã thực hiện được kế ly gián, chia rẽ Mặt trận thống nhất của họ, vậy là thành công rồi. Còn vấn đề tiền bạc anh đừng bận trí làm chi cho mệt.
- Không, tôi nói là nói vậy thôi chớ đã giao cho chú tính rồi. Chú cứ tuỳ ý thu xếp, miễn sao được việc lớn là tốt.
Nhu đứng lên:
- Tôi còn về bàn công việc với đại tá Landsdale đang đợi.
Rồi quay bảo vợ:
-        Em về thay quần áo, rồi qua anh nhờ một chút.

Giữa lúc bị đối phương bao vây, quấy phá, Lệ nhận thấy anh chồng nàng chốc chốc lại đến quỳ ở ghế cầu nguyện, ngước nhìn tượng ảnh Đức Mẹ, đăm đăm cầu nguyện. Nàng vẫn không hiểu được tại sao cứ mỗi ln gặp việc khó khăn, hoặc trước khi giải quyết vấn đề gì quan trọng là anh chồng lại cầu nguyện một lúc mới quyết định.
Trong khi ấy, Lệ cắm đầu vào giấy tờ, hoặc bàn tính mưu kế đối phó cùng mấy người cộng tác thân tín. Nhiều tin đồn đại chung quanh việc khuynh đảo chánh quyền họ Ngô bao trùm dinh Norodom trong một không khí nặng nề. Sài Gòn đang trải qua cơn sốt chính trị giữa nhịp rộn rịp của các chuyến tàu và máy bay mỗi ngày chở hàng vạn dân di cư đặt chân xuống thủ đô miền Nam. Đạo quân phòng vệ cùng đám sĩ quan theo họ Ngô từ buổi đầu, không đủ sức để chống lại phe đối nghịch, có sự ủng hộ ngầm của Pháp mà quân sự, chính trị và kinh tế miền Nam đang còn ở trong tay. Các đại biểu giáo phái mà anh em họ Ngô đã nhân nhượng mời làm Bộ trưởng, cũng gián tiếp chịu ảnh hưởng của Pháp, đỡ đầu cho các tổ chức của họ từ trước đến nay.
Trong cảnh bấp bênh, nghiêng ngả của anh em họ Ngô phải đương đầu với chung quanh, Lệ bỗng thấy vị cứu tinh xuất hiện mà anh chồng nàng vẫn ngày đêm cầu nguyện mong mỏi.
Một buổi tối, Lệ bước vào phòng chồng, nhận thấy vẻ mặt Nhu tươi vui khác hẳn mọi hôm. Nhu đưa lên cho nàng thấy một tấm chi phiếu ghi một hàng dài con số không.
- Một trăm triệu đô-la đây!
Rồi Nhu nói với Lệ:
- Đại tướng Lawton Collins, đại diện Tổng thống Eisenhower với tư cách là đại sứ đặc biệt đã qua đây. Ngoài việc viện trợ tiền bạc, như em đã thấy, Mỹ còn buộc quân đội quốc gia phải hoàn toàn đặt dưới quyền Thủ tướng…
Lệ ngắt lời chồng:
- Vậy tướng Hinh thì sao?
- Mỹ đã vận động buộc Bảo Đại gọi hắn sang Pháp, nói là để hỏi ý kiến, song sự thực là một lối cách chức khéo, tống cổ hắn đi khỏi xứ này theo đề nghị của anh đã bàn với Thủ tướng.
- Nhưng tướng Hinh không chịu đi thì anh tính làm sao?
- Không chịu đi sao được một khi Pháp đã đồng ý với Mỹ rồi, đến Bảo Đại cũng không còn quyền hành gì nữa, chớ đừng nói là tay chân của Bảo Đại. Tướng Nguyễn Văn Hinh không còn quân đội trong tay nữa thì không bảo hắn cũng phải lo cao chạy xa bay.
Tiếng cười đắc ý điểm thêm cho câu nói của Nhu.
- Anh đã bảo ký nghị định cho tướng Hinh sang Pháp nghỉ 6 tháng để nghiên cứu và buộc phải lên đường trong 24 tiếng đồng hồ, tức là vào trưa chủ nhật ngày mốt. Máy bay đi Pháp cũng đã dành sẵn chỗ cho hắn rồi.
Đợi chồng dứt lời, Lệ đứng lên, kiếm cớ ra ngoài, một mình lái xe đi tìm Hinh. Nàng muốn từ biệt người tình trong một không khí đằm thắm, không muốn cho vị tướng trẻ tuổi mang theo ác cảm đối với mình.
Lệ đến mấy nơi, rồi kêu điện thoại cũng không bắt được liên lạc với tướng Hinh.
Qua hết ngày thứ bảy, Lệ vẫn không có tin tức gì về tướng Hinh. Đến chiều chủ nhật nàng được tin là chuyến phi cơ chở hành khách của hãng Air France rời phi trường Tân Sân Nhất đi Ba Lê, còn một chiếc ghế bỏ trống mà Thủ tướng dành riêng cho tướng Nguyễn Văn Hinh.

Sáng thứ hai, tướng Hinh vẫn có mặt tại Bộ Tổng tham mưu trước sự mừng rỡ của hầu hết sĩ quan quân đội quốc gia. Ở dinh Norodom, Nhu lật xấp điện tín báo chí của các thông tín viên ngoại quốc từ Sài Gòn đánh đi Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn, Hồng Kông… đọc thấy những dòng tít sau đây:
"Thủ tướng Ngô Đình Diệm phen này đã mất mặt".
"Ngô Đình Diệm bị một vố đau chưa từng thấy".
"Uy quyền của Ngô Đình Diệm hoàn toàn sụp đổ".
"Diệm đã thua trận đầu trong cuộc xung đột với quân đội quốc gia".
Lệ trở về dinh thấy chồng đang im lặng bực tức đi lại trong phòng và anh chồng đang quỳ ở ghế gục đầu cầu nguyện.
Đang lúc ấy, có tin báo "Đức Cha" ở Vĩnh Long lên. Lệ chào người anh chồng Giám mục rồi tự tay lái xe hơi đi.
Không lôi kéo được tướng Hinh nghe theo, Lệ đang chinh phục được một đại tá Mỹ, có thể giúp cho họ nhà chồng đắc lực về mặt chống đảo chánh và gây thêm uy thế đối với cánh cố vấn quân sự. Song lúc này, điều cần là có người chỉ huy chắc chắn tin cậy được trong quân đội quốc gia, để lôi cuốn binh sĩ ủng hộ chính quyền họ Ngô. Nhu và anh chồng Lệ đã nhiều lần bàn tính bên tai nàng về việc mua chuộc các tướng tá đang bị ảnh hưởng của Pháp chi phối hoặc dè dặt ngờ vực đối với chính phủ mà tướng Hinh đã gọi là "gia đình trị". Lệ đã lấy lòng được đại tá tham mưu Trần Văn Đôn quốc tịch Pháp, ngả về phe nàng rồi, song ảnh hưởng cũng chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ.
Trong trường hợp nội chiến bùng nổ, lực lượng phòng vệ dinh Thủ tướng không đủ để chống cự lại Bình Xuyên và quân giáo phái ở các nơi.
Lệ nhớ lại câu nói của chồng nàng nhắc với người anh thủ tướng quá chủ quan đặt hết tin tưởng vào sự ủng hộ của Mỹ, có thể vượt qua mọi trở lực chính trị và quân sự.
- Nếu bây giờ Bình Xuyên nó đánh, tướng Hinh đem quân đội quốc gia hưởng ứng theo. Mỹ có đứng ra can thiệp cũng chỉ bằng lời nói, Pháp cứ ỡm ở kéo dài đề cho tay chân nó thịt mình xong, thì mới đối phó ra sao đây?
Diệm đã ngây mặt trước nhận định xác thực của Nhu ấp úng không biết tính sao, cuối cùng thốt ra một câu mà Lệ không khỏi ái ngại:
- Nếu tình thế nguy ngập, phe mình không chống lại nổi thì anh em mình chạy đến toà đại sứ Mỹ lánh nạn, rồi đợi họ can thiệp giúp cho Pháp nhượng bộ chớ chú tính còn cách nào nữa?
Bản tính ngổ ngáo, quật cường của Lệ khiến nàng không chịu đóng vai trò thụ động, mọi việc đều trông cậy ở người, nên sau đó, Lệ bàn tính với chồng tìm cách lôi kéo các tướng tá quốc gia đang ở trong tình trạng lưng chừng.
Lệ xông xáo đi gặp thẳng đại tá Đỗ Cao Trí, đang chỉ huy quân đoàn nhảy dù, đơn vị thiện chiến, có thể đảo ngược tình thế lúc lâm nguy.
Từ sau cuộc biểu tình bị công an mũ xanh Bình Xuyên ngăn chặn, Lệ đã mạnh dạn xông lên, bất chấp hiểm nguy, và cảm thấy mình có thể, khi biết can đảm, liều mạng, nên hăm hở tiến tới trước những trở lực đang bày ra trước mắt. Lệ đã nói với bà cô goá phụ làm bí thư cho nàng:
- Trong lúc này, nếu cháu nhút nhát không dám đóng vai trò đứng trước đầu sóng ngọn gió thì bỏ lỡ cơ hội hiếm có ngàn năm có một thuở hay sao?
Bà cô thật thà hỏi:
- Cháu định cầm quân đi đánh nhau thiệt à?
- Cháu không cần phải cầm quân mà cháu chỉ cầm đầu mấy tướng tá cầm quân là đủ rồi.
Và Lệ đã thực hiện được mong muốn của nàng. Đại tá Đỗ Cao Trí, trước những màu mè quyến rũ của bà cố vấn, đã trở thành một người tình ngoan ngoãn đối với người đàn bà hiến thân xác ra để xây đắp cho chính thể họ Ngô.
Với tiền bạc lấy ở quỹ viện trợ Mỹ, với các mối tình tướng tá chinh phục được Lệ bỗng cảm thấy mình có vai trò quan trọng trên sân khấu chính trị miền Nam. Bên cạnh anh em chồng Thủ tướng, Giám mục, cố vấn, Lệ là người đàn bà duy nhất nắm giữ giềng mối trong chính quyền họ Ngô, nhưng Lệ vẫn thấy lòng chưa thoả mãn.

Trong cuốn nhật ký, Lệ đã ghi: "Năm 1954, nếu Chúa có mặt ở trần gian này, dù Chúa có yêu thương, bao dung mấy đi nữa cũng không thể làm thinh được trước một bọn khoác áo tu hành, nhân danh Chúa để đi làm những công việc bẩn thỉu được. Tôi phải nói to lên rằng đó là "quân trộm cướp mặc áo thầy tu" ngày ngày đến xin xỏ chạy chọt tiền bạc, áp phe với anh chồng và chồng tôi. Chúng nó có đứa lại còn lên mặt tu hành, đạo đức giả, dám nói động về tôi. Không, một ngàn lần không, dù tôi có sao đi nữa, tôi cũng không giả dối, che đậy con dao sau lớp áo thầy tu như bọn chúng nó.
"Lạy Chúa, Chúa đã phán hãy đuổi bọn con buôn ra khôi thánh đường tôi cũng muốn lập lại rằng: "hãy lánh xa bọn trộm cướp khoác áo tu hành.
"Hơn lúc nào hết, sau khi réveillion ( tối đêm Giáng Sinh hay Tân niên)  tôi còn nghe kể lại một cha vào dinh năn nỉ với anh chồng tôi xin một "áp phe" tôi càng thấy muốn nôn mửa. Mặc dù người khoác áo tu hành đó là do Đức Cha, anh chồng tôi giới thiệu.
"Không một ngày nào không thấy bóng những cái áo thâm chùng vô ra dinh, tôi có cảm tưởng như một bầy quạ đen lờn vờn bay qua miếng mồi để kiếm ăn.
"Hãy tránh xa đi, hỡi lũ diều quạ kền kền! Tôi sẽ xua đuổi chúng phải bay đi hết!"
Lệ tức giận thấy những quyền lợi có thể về tay nàng bị san sẻ, giành giựt nên đâm oán hận những kẻ được sự che chở của Giám mục Thục, chạy theo anh chồng nàng để vận động áp phe. Nàng không giấu nổi bực tức trước những bóng đen thậm thọt vô ra dinh Thủ tướng và bất lực không ngăn cản được họ xông vào mà Lệ vẫn bảo với con gái mỗi khi thấy họ thấp thoáng:
- Bọn đạo dực giả đến kìa!
Một lần Lệ ví họ với những kẻ mà nàng ghét cay ghét đắng thường gọi là "bọn cướp Bình Xuyên" và không dè lời nói của Lệ bay đến tai người ngoài, đồn rộng ra: Những kẻ cướp khăn áo thầy tu!
Câu ví von của Lệ gây phản ứng mạnh trong giới tu hành chán chính bất bình trước những lời lẽ hỗn láo, vô trách nhiệm. Giám mục Thục là người chịu hậu quả đầu tiên của cô em dâu quá quắt.
Trong một buổi họp đặc biệt của các chức sắc tu hành cao cấp, tại một khu di cư ở Sài Gòn khi thấy Giám mục Thục đến, một vị đã cung kính bước đến chào và nói:
- Chúng tôi xin đồng kính đảng trường kẻ cướp!
Giám mục Thục không khỏi kinh ngạc thấy vị áo tím thốt ra lời nói bất ngờ trong một khung cảnh trang nghiêm như vậy, sửng sốt hỏi:
- Sao Đức Cha lại bảo như vậy?
- Thì người ta bảo chúng tôi là kẻ cướp khoác áo thầy tu, tất nhiên Đức Cha lớn chức hơn hết, chúng tôi phải bầu lên làm đảng trưởng kẻ cướp.
Giám mục Thục lặng người đi nghe kể lại đầu đuôi sự tình, không khỏi ngượng ngùng ngỏ lời xin lỗi các vị tu hành tha thứ cho kẻ lộng ngôn.
Tối hôm ấy, trong một cuộc họp mặt gia đình giữa ba anh em họ Ngô và Lệ, câu chuyện sáng ngày được nhắc đến, Lệ bướng bỉnh nói:
- Tại sao người ta lại tự nhận là tôi ám chỉ họ? Tôi nói: "Những kẻ cướp khoác áo thầy tu" là tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo chạy chọt áp phe làm tiền, để mang tiếng cho nhà thờ và cả chính phủ, mà ai cũng nói là chính phủ của Công giáo. Chớ tôi có nói "những người tu hành đi ăn cướp" đâu mà người ta lại trách tôi ăn nói hàm hồ, phạm thượng Đức Cha với anh Thủ tướng nghĩ lại coi có phải không?
Lời lẽ biện luận của Lệ thốt ra một cách gay gắt khiến cả ba anh em họ Ngô đều im lặng đưa mắt liếc nhìn nhau rồi đành bỏ qua câu chuyện.
Lệ cho là mình đã đắc thắng trên mặt trận chống "các cha làm áp phe" và cách đó mấy hôm, nàng lại lên tiếng trong một bài diễn văn nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng, xỉ vả "những kẻ khoác áo thầy tu mang giấu dao găm trong người". Lệ tức tối vì không phải tự tay nàng kiểm soát những số tiền khổng lồ viện trợ di cư, mà lại qua tay người anh chồng mình, khiến nàng không giành được quyền chặn bớt những nguồn lợi lớn lao cho riêng mình. Trong khi đó đám thuộc hạ của Lệ không ngớt trình báo cho nàng hay, dân di cư mỗi người chỉ có nhận được mấy trăm bạc và mấy hộp sữa phát tại bến tàu, dân định cư được ít gạo ăn…
Lệ ghi một dọc câu hỏi để đưa ra chất vấn Nhu và anh chồng, sau khi thu thập những tài liệu chung quanh những con số viện trợ cho dân di cư về tiền bạc và vật chất.
- Theo chương trình viện trợ Mỹ và Pháp đã chấp thuận cho Phủ Tổng uỷ di cư, căn cứ vào 130 dự án đã được cơ quan viện trợ Mỹ chấp thuận và giải toả tiền bạc, dân di cư ngoài số tiền được lãnh ngót ngàn bạc khi tới miền Nam với 10 ngày tiếp tế lúc đầu rồi đến nhà ở và đồ dùng hàng ngày, lương thực cấp cho đến khi đồng bào làm ăn thu hoạch vào đều, nào là dụng cụ, nông cụ, hạt giống, nông súc, gia súc, phân bón v.v… Bao nhiêu những khoản tiền bạc và vật liệu tính thành tiền đố đã đi vào tay ai mà không thấy có mấy người di cư nhận được? Hàng trăm triệu bạc này chạy đi đâu? 16 triệu đô-la của ông Lelaud Barrows đưa cho để mua lều vải giúp dân di cư, ai lãnh và đã mua được mấy cái lều? Hàng chục triệu bột mì, bơ, pho mát, sữa… bao nhiêu tấn quần áo phát không cho dân di cư… tại sao lại thấy bày bán khắp các chợ Sài Gòn - Chợ Lớn, và ai chủ chốt thầu bán những tặng phẩm này? Tôi cho điều tra mới ngao ngán chớ.
Các anh có biết ai "ăn cướp cơm chim" của dân di cư không? Mấy tổ chức đội lốt tôn giáo đó - Tôi sợ mai mốt đây Đức Hồng Y bên Mỹ sang, tiếng tăm này sẽ đến tai ông, cũng như các tổ chức CIA, USDM… rồi báo chí Mỹ họ vạch ra, anh em nhà mình đứng ra mà nhận lãnh lấy hậu quả? Vậy mà người ta còn trách tôi nói sự thật.
Lệ được thể nói một hồi, và mỗi lời của nàng như một mũi tên xỉa xói vào người anh chồng đã tỏ ra đồng loã với "các cha" hàng ngày lui tới, nhất là người anh lớn trong gia đình mà không một ai dám ngờ vực: "Đức Cha".
Lệ còn doạ là vì quyền lợi chung và uy tín của chính quyền nàng sẽ không ngần ngại tố cáo ra trước dư luận, nếu tình thế này cứ kéo dài.
Diệm im lặng đi đến ghế, quỳ xuống khấn nguyện, trong khi Nhu vẫy vợ vào phòng giấy. Cuộc phản công của Lệ đã đưa lại kết quả mong muốn: nàng có quyền tham dự vào việc phán phối tiền bạc viện trợ và bắt đầu Nhu dành riêng cho nàng một số tiền năm triệu bạc, để yêu cầu Lệ chấm dứt sự xung khắc với "các Cha" và "Đức Cha".
Cuộc xung đột giữa chính quyền họ Ngô với sự ủng hộ của Mỹ một bên, và phe Bảo Đại cùng các nhóm phái đối lập với sự đồng tình ngấm ngầm của Pháp, vào cuối năm 1954 bắt đầu nghiêng chiều trước áp lực mạnh của Hoa Thịnh Đốn.
Trong một cuộc họp của đảng bộ Cần Lao, Nhu khích lệ các đồng chí có vẻ hoang mang trước tình thế.
- Tôi xin nói cho anh em rõ là chúng ta đang thắng thế. Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, sau khi viếng Sài Gòn, đã phúc trình về là cương quyết bảo vệ lãnh tụ đảng ta, Ngô chí sĩ, để chống Cộng, chống thực dân và phong kiến. Sự có mặt của tướng Collins, đại sứ đặc biệt của Tổng thống Mỹ bên cạnh Ngô Thủ tướng là một đảm bảo lớn. Đức Hồng y Spellman cũng sắp qua đây để xem xét công cuộc di cư, và ngài chẳng những là bạn thân của Đức Cha chúng ta, mà còn là người đỡ đầu cho Ngô chí sĩ về nước chấp chính. Với tư thế vững chắc đó, lãnh tụ chúng ta đã vận động đấu tranh buộc Pháp trao trả Ngân hàng Đông Dương, Viện Hối đoái, và từ đầu năm 1955, Pháp không còn quyền kiểm soát viện trợ Mỹ giao thẳng cho chính phủ ta. Về quân sự, chỉ huy và huấn luyện binh sĩ Việt Nam, Pháp phải trao lại cho Mỹ.
Cao Xuân Vỹ đưa tay lên xin nói:
- Còn thằng tướng Hình nghịch với mình thì sao?
Ngô Đình Nhu cười đáp:
- Số phận hắn đã định đoạt xong rồi. Bảo Đại đã đánh điện kêu hắn sang Pháp…
- Nhưng nếu nó không chịu đi…?
- Nó không chịu đi cũng không được, vì Bảo Đại cũng đã bắt buộc phải ký sắc lệnh huyền chức Tổng tham mưu quân đội quốc gia của nó. Trong 24 tiếng đồng hồ nữa, nếu nó không đi khỏi xứ này, sẽ bị coi là "một kẻ nguy hiểm "bất tuân kỷ luật"… Không, nó không dám ngang ngược nữa đâu, vì đến quan thầy của nó cũng đành chịu khuất phục, trong khi phải ngửa tay ra xin đô-la để trả lương cho quân đội viễn chinh…
Nhìn qua bộ mặt hớn hở của đám đảng viên Cần Lao, Nhu nói:
- Quân đội quốc gia mất hắn, tất nhiên sẽ như rắn không đầu, phải lệ thuộc chính phủ. Còn các lực lượng bổ sung như Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo, Pháp không cấp tiền cho để trả lương binh lính, không đánh cũng tan. Chỉ có bọn Bình Xuyên, nhờ hai sòng bạc và nhà chứa gái, có đủ tiền tự túc, và đang được Bảo Đại với Phòng Nhì cùng đám sĩ quan Pháp ủng hộ, mình cần phải thanh toán trước. Chúng nó lại đang nắm giữ công an, cảnh sát đô thành… Nhưng rồi ra chúng nó không đứng vững được lâu đâu, anh em cứ yên trí. Tôi đã có cách…
Hôm sau buổi họp đặc biệt của nhóm Cần Lao trung ương, Lệ đang ngồi ở trong phòng dinh Độc Lập với đống hồ sơ thì bác sĩ Lý Trung Dũng - nguyên thấy xuất và y sĩ trong binh chủng địa phương thuộc quân đội Liên hiệp Pháp hớt hải vào thưa:
- Thưa bà cố vấn, tôi vừa ở Tân Sơn Nhất về đây, tướng Hinh trước khi lên máy bay đi Pháp còn nói với các sĩ quan ra tiễn như vầy: "Các bạn hãy tin tôi. Dầu tình thế có ra sao, nội trong ba tuần lễ là lâu lắm, tôi sẽ trở lại với các bạn". Dạ, tôi lặp lại đúng nguyên văn như vậy xin trình để bà cố vấn tường.
Mất một tướng Hinh, Lệ cũng không buồn bã gì trong khi nàng sẵn có ba người tình đại tá cả Việt lẫn Mỹ đều ngoan ngoãn đối với nàng. Lại gặp lúc bận rộn với những số tiền lớn lao bắt đầu đưa đến cho nàng, Lệ không có thì giờ thương tiếc vẩn vơ nên đã tiếp nhận tin tướng Hinh ra đi một cách thờ ơ, và trái lại, còn khoan khoái vì đã bớt một đối thủ lợi hại có thể gây nên việc bất ngờ nguy hiểm đối với chính quyền của nhà chồng nàng:
- Để xem tướng Hinh có trở lại được không?
Con người thấp bé của bác sĩ họ Lý như co rút lại trong khi gập mình vái chào sau cái gật đầu của Lệ.
Vào lúc Đức Hồng y Spellman từ Nữu Ước qua Sài Gòn để thanh sát các đoàn giáo dân di cư, anh em họ Ngô nhận thấy đã có đủ hậu thuẫn vững chắc để mở cuộc tấn công đối phương, bèn phát động chiến dịch lành mạnh hoá xã hội, mở đầu bằng hai việc đóng cửa hai sòng bạc Đại Thế Giới Chợ Lớn, Kim Chung ở Sài Gòn, xóm chứa gái điếm ở Vườn Lài do Bình Xuyên chủ trương.
Hai cơ sở cờ bạc công khai do Pháp giao cho Bảy Viễn tổ chức lấy tiền nuôi đám bộ hạ lối 3.000 người, để chống khủng bố của Việt Minh trong châu thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Thủ lãnh Bình Xuyên nhận thấy thời tung hoành của mình đã hết, do áp lực của Mỹ buộc Pháp, nên cũng đành lòng nhượng bộ, nhận lấy số tiền bù bỏ túi, tiếc rẻ nhìn các nguồn lợi nuôi sống phe mình lọt qua tay họ Ngô.
Trong lúc ép buộc Bình Xuyên phải nhận lời đóng cửa hai sòng bạc, gây thêm uy tín cho chính quyền, anh em họ Ngô đã phòng ngừa những phản ứng của các nhóm phái độc lập, nên xúc tiến trở về hợp tác của Thủ lãnh Cao Đài liên minh.
Một lễ long trọng được tổ chức ngày 13 tháng hai 1955 ở đại lộ Nguyễn Huệ để đón rước đoàn quân Cao Đài liên minh trở về hợp tác Ngô Đình Diệm đứng ra gắn huy hiệu vinh thăng quân nhân trẻ tuổi Trịnh Minh Thế lên hàng thiếu tướng quân đội quốc gia trước sự hiện diện của các đại diện ngoại giao và các vị tướng lãnh Pháp, Mỹ.
Mười hôm sau, các tướng Năm Lửa, Trần Văn Soái, chỉ huy lực lượng Hoà Hảo và Nguyễn Giác Ngộ lục đục theo về ủng hộ chính quyền họ Ngô.
Mặc dầu phải miễn cưỡng nhận 8 người của giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo giữ các chức Bộ trưởng, Tổng trưởng trong chính phủ, và trả tiền lương cho các nhóm qui thuận, họ Ngô đã thấy quyền uy đã vững, bèn phát động chiến dịch chống thực dân, phong kiến và thối nát.
Kế hoạch của Nhu đã bàn tính với anh nhằm ba mục đích:
1. Chống thực dân để đả phá những quyền lợi của Pháp còn lại và buộc Pháp phải nhượng bộ nhiều điều.
2. Chống phong kiến và sửa soạn lực lượng tấn công các nhóm phái võ trang.
3. Chống thối nát để loại bỏ những phần tử có hại cho chế độ.
Với chiến dịch ba mặt chống kẻ thù, Diệm nghĩ ngay trước tiên đến tình địch hai mươi năm về trước, đã cướp mất người yêu đầu tiên chỉ vì viên cựu Lại bộ Thượng thư đã quá nhút nhát trước người đẹp nên bị nhà dược sĩ họ Phan mạnh dạn tranh lấy. Hơn nữa, họ Phan vẫn là người tin cậy của Bảo Đại sau một thời gian khá lâu giữ chức Thủ hiến Trung Việt, đã "một tay bẻ biết mấy cành Phù Dung" nổi tiếng chinh phục đàn bà, con gái và xoay xở làm tiền trở nên giàu có vào bậc nhất Việt Nam. Nhưng tội đáng kể nhất là họ Phan háo sắc đã cắm sừng cho "Cố vấn chính trị Thủ tướng" mà vẫn còn dám rêu rao là mình đã ngủ với em dâu họ Ngô.
Chống thối nát, anh em Nhu nhắm ngay họ Phan để trả mối hận tình cũ, đồng thời hạ uy thế Bảo Đại bằng cách giam kẻ thân tín quản lý tài sản Quốc trưởng ở trong và ngoài nước.
Song lệnh truy nã vừa đưa ra, họ Phan đã được Phòng Nhì Pháp mở đường cho cao chạy xa bay sang Ba Lê.
Sổng mất cựu tình dịch, họ Ngô ra oai bắt người tình của cựu Thủ tướng thân sinh ra tướng Hình, bà Lê, gán cho tôi cậy quyền ỷ thế chồng con để buôn bán chợ đen, và đưa ra toà kết án năm năm tù.
Trong khi anh em họ Ngô bắt đầu tác oai tác phúc và sửa soạn đàn áp các phe đối lập, ở Pháp Bảo Đại nhận được nhiều điện tín và phúc trình tố cáo chính phủ họ Ngô chuyên quyền, bất công, đàn áp nhiều người và đảng phái quốc gia.
Biết mình bị Pháp bỏ rơi, Mỹ không ngó ngàng, Bảo Đại không rời khỏi lâu đài Thorence ở Cannes, song trước sự thúc giục của các sứ giả từ nước nhà sang, và mơ hồ hy vọng ở tình thế có thể biến đổi, vị Quốc trưởng lưu vong lên tiếng tuyên bố ý định muốn trở về Sài Gòn để giải quyết tình trạng hỗn độn trong nước.
Nỗi lo ngại của vị hoàng đế cuối cùng triều Nguyễn đã bộc lộ qua lời tâm sự với một cựu cận thần:
- Coi bộ thằng Diệm hắn muốn cướp ngôi để lên làm vua chắc!
Phản ứng nhu nhược của Bảo Đại đã bị sức cản trở của Mỹ ngăn lại và cuối tháng hai, Quốc trưởng đành phái hoàng thân Vĩnh Cẩn về Sài Gòn với chỉ thị kêu gọi họ Ngô cùng các giáo phái thống nhất để kiến quốc.
Diệm đưa cho Nhu xem lời nhắc nhủ của Bảo Đại trước mặt Lệ, rồi hai anh em cùng cười nhạt. Nhu nhìn Lệ mà nghĩ đến người đã từng ôm ấp vợ mình, uất hận thốt ra:
- May cho Bảo Đại không về đây, không thì cũng đến phải truy nã hắn như thằng Phan Văn Giáo, rồi cho vào tù như "con mèo" của thằng Tâm.
Diệm nói:
- Thứ hôn quân vô đạo ấy, có thí đi cũng không ai tiếc. Mà cũng không cho hắn trị vì mãi được!
Lệ lên tiếng:
- Dù sao Bảo Đại cũng đang là Quốc trưởng, các anh nên xử sự sao cho khỏi mang tiếng "thí chúa đoạt ngôi".
Nhu cười gằn:
- Hôn chúa có thí đi cũng không sợ mang tiếng bất trung, nhưng trước khi truất phế Bảo Đại, cũng phải thanh toán xong mấy phe phái ủng hộ lão ta đã.
Trước quyết tâm chia rẽ để tiêu diệt những lực lượng đối lập của anh em họ Ngô, các phái Cao Đài, Hoà Hảo và Bình Xuyên nhận thấy nguy cơ tan rã, bèn liên kết hàng ngũ với nhau, để làm áp lực với chính quyền. Hộ pháp Phạm Công Tắc tuyên cáo thành lập Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia, với chủ lực nồng cốt là hai giáo phái cùng Bình Xuyên. Các nhóm Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng, Dân chủ tự do cũng lần lượt tham gia.
Mặt trận nhìn nhận quyền tối cao của Bảo Đại, gởi ba sứ giả sang Pháp trao kiến nghị, thỉnh cầu Bảo Đại:
1. Lấy lại toàn quyền quân sự và dân sự đã trao cho Ngô Đình Diệm.
2. Giao cho Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia lập tân chánh phủ.
Bảo Đại đang phân vân trước yêu cầu của các bầy tôi trung thành thì nhận được một bức thư riêng của Tổng thống Eisenhower xác nhận một lần nữa quyết tâm của Mỹ ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm, gián tiếp nhắn Quốc trưởng Việt Nam không nên can thiệp vào nội tình đang tiến triển và khuyên đừng về nước trong lúc này.
Bảo Đại buộc lòng từ chối điều thỉnh cầu của Mặt trận ủng hộ mình giữa lúc anh em họ Ngô bắt đầu mở cuộc tấn công hàng ngũ quốc gia chống đối.
Ngày 8 tháng ba năm 1955 bảy tiểu đoàn có pháo binh và xe thiết giáp yểm hộ tiến đánh toán quân ly khai chiếm đóng vùng rừng núi phía tây Quảng Trị, chiến khu Ba Lòng ngày trước của Việt Minh, đã trở thành căn cứ của đảng viên Đại Việt hoạt động ở miền Trung, giang sơn của lãnh chúa Ngô Đình Cẩn, người anh em trai áp út của họ Ngô, đang giữ chức cố vấn lãnh đạo tối cao tại Huế.
Đồng thời họ Ngô điều động ba tiểu đoàn lính Nùng ở Song Mao (Phan Thiết) cùng bốn tiểu đoàn nhảy dù ở Nha Trang kéo về Sài Gòn để thị uy.
Thấy chính quyền ráo riết chuẩn bị quân sự. Mặt trận các giáo phái cũng dàn quân đối phó tại khu vực Bình Xuyên bên kia cầu chữ Y một Bộ tham mưu hành quân được thành lập, đặt dưới quyền của Bảy Viễn chỉ huy trưởng và Ba Cụt chỉ huy phó.
Tình hình căng thẳng ở thủ dô miền Nam trong khi các tổ chức ám sát của Bình Xuyên và anh em họ Ngô gây nên nhiều vụ khủng bố đối với người Pháp và người Mỹ, rồi đổ tội cho nhau.
Ngày 21, Mặt trận gởi một tối hậu thư cho Diệm, đòi thành lập một chính phủ Liên hiệp trong thời hạn năm ngày, với bảy chữ ký: Hộ pháp Phạm Công Tắc (Cao Đài), trung tướng Trần Văn Soái (Hoà Hảo), trung tướng Nguyễn Thành Phương (Cao Đài), thiếu tướng Lê Văn Viễn (Bình Xuyên), thiếu tướng Lâm Thành Nguyên (Hoà Hảo), thiếu tướng Trịnh Minh Thế (Cao Đài liên minh), thiếu tướng Lê Quang Vinh tức Ba Cụt (Hoà Hảo).
- Anh em họ Ngô thấy có tên Trịnh Minh Thế trong tối hậu thư, liền cho mời riêng thủ lãnh Cao Đài liên minh vào dinh Độc Lập.

Ngày hôm sau, trên các báo có lời đính chánh công khai của họ Trịnh: "Tôi vừa trở về hợp tác với Thủ tướng Ngô Đình Diệm, như vậy tôi không thể hành động trái lại bằng cách gia nhập một tổ chức không ủng hộ chánh phủ của chỉ sĩ họ Ngô".
Trả lời cho Mặt trận, Diệm dùng kế trì hoãn, bảo phải thống nhất các lực lượng quân đội và hứa giúp đỡ tiền bạc.
Nhu bàn với anh:
- Với tình thế này, bọn 8 tên của Cao Đài, Hoà Hảo mà mình đã nhận cho làm tổng trưởng và bộ trưởng thế nào chúng nó cũng từ chức để gây áp lực. Còn những phần tử thân Pháp ở trong chính phủ, quân đội, chúng cũng đang chờ gặp lúc mình khó khăn để rút lui, vậy mình phải tính trước mới được. Cái ghế Tổng trưởng quốc phòng tôi bàn với anh nên để cho thằng Trần Trung Dung, nó vừa là cháu rể nhà mình, vừa là đảng viên Đại Việt, có thể tin cậy được.
Diệm nói:
- Nhưng còn Hồ Thông Minh đã từ chức Tổng trưởng quốc phòng đâu mà chú biểu cho Dung thay.
Nhu lạnh lùng đáp:
- Thằng cha Hồ Thông Minh coi bộ cũng khó tin lắm. Thà "phụ người trước hơn để người phụ mình". Anh cứ ra lệnh cho Hồ Thông Minh phái quân đội đi lấy lại quyền điều khiển và kiểm soát công an cảnh sát đô thành đang ở trong tay Bình Xuyên, để coi hắn có chịu thi hành hay không thì rõ. Hắn chịu làm, thì cho ở lại, mà không thì hắn tự ý xin rút lui. Như vậy là dứt khoát.
Dự đoán của Nhu đã thành sự thật. Tám Tổng trưởng, bộ trưởng của hai giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo theo nhau từ chức sau ngày 25, khi cuộc hội kiến ở dinh Độc Lập giữa phái đoàn Mặt trận và Ngô Đình Diệm bất thành, và hai bức điện của Bảo Đại từ Pháp gởi về kêu gọi đôi bên không được hưởng ứng.
Hồ Thông Minh cũng xin rút lui, và không làm theo lời yêu cầu của Diệm, lấy lại quyền hành ở đô thành còn trong tay Bình Xuyên.
Ngày 28, đại tá Đỗ Cao Trí chỉ huy đoàn quân nhảy dù, được lệnh Diệm chiếm Nha Cảnh sát đô thành ở đại lộ Trần Hưng Đạo mà quân mũ xanh công an xung phong của Bình Xuyên không chịu rút đi.
Lệ đi gặp riêng người tình đại tá, kích thích Trí hành động quyết liệt, để trả thù cho nàng đã bị Bình Xuyên làm nhục độ nào. Lệ nhắc lại lệnh tấn công của họ Ngô đã đưa ra, hứa hẹn với Trí những giờ phút gặp gỡ say sưa sau khi chiếm xong cơ sở Bình Xuyên đang án ngữ chính giữa trung tâm Sài Gòn - Chợ Lớn.
Đại tướng Ely, Tổng tư lệnh quân đội Pháp được tin cuộc tấn công chiếm đóng khu vực Cảnh sát trung ương, vội vàng can thiệp, yêu cầu ngừng hoãn vì lý do sinh mạng tài sản của Pháp kiều ở chung quanh có thể bị nguy hại.
Hộ pháp Phạm Công Tắc đánh điện sang Pháp cho Bảo Đại cầu cứu: "Chúng tôi lo ngại trước sự khiêu khích của ông Diệm đang nắm trọn quyền hành trong tay".
Chiều 29, Lệ một mình lái xe đi gặp Đỗ Cao Trí và Trần Văn Đôn khuyến khích hai người tình trước giờ phút quyết liệt sắp diễn ra. Trong không khí rộn rịp của thành phố về chiều, Lệ đứng trên lầu cao, tựa vào vai Trần Văn Đôn, trỏ Sài Gòn - Chợ Lớn ở phía dưới, thỏ thẻ:
- Đánh đuổi Bình Xuyên ra khỏi, anh sẽ lập một chiến công lớn, chẳng những đối với quốc gia mà eòn riêng đối với em đã tự nguyện hiến dâng cho người anh hùng chiếm lại thủ đô.
Trong khi Lệ ôm hôn đại tá Đôn, ở dinh Độc Lập anh em họ Ngô đang tức giận quanh một bức thư vừa nhận được.
Nhu nói:
- Hồ Hữu Tường nó viết trong bức thư công khai để đáp lời tuyên bố của anh trên Đài phát thanh hôm rồi, nó nói anh là bá đạo, bịt miệng báo chí, lường gạt lực lượng theo ủng hộ, mưu mẹo không trả lương cho họ… Nó lại còn cho tôi dốt nữa. Đây, anh nghe đoạn này: "Thưa cụ, cụ nghe lời một số cố vấn xuất thân các đại học, cụ đặt "vấn đề then chốt". Cụ nói: Vì thực ra, chỉ có một vấn đề duy nhất mà khi giải quyết được xong mới giải quyết mọi vấn đề khác, đó là vấn đề tổ chức quân đội và lập trường của một số đoàn thể võ trang đối với việc đó. Rồi xây dựng "chương trình" không khác nào lập một học thuyết toán Pháp, cụ sang từ định lý này đến định lý khác cho đến cái biện pháp thực tiễn là săn sóc đến "quyền lợi của các đoàn thể võ trang", như cụ đã nói trong lời tuyên bố truyền thanh. Nếu đã đến cái kết luận nọ, trong khi trước toà án, cụ lên án những cuộc hối lộ của kẻ sa cơ, những hối lộ từ dưới lên trên, rồi chính cụ nêu thành "quốc kế" một cuộc hối lộ khổng lồ từ trên xuống dưới, có phải chăng là một học thuyết nọ dẫn đến một tủi nhục lớn cho dân tộc, và có phải chăng là các cố vấn đại học của cụ mới tập tễnh, nên đặt vấn đề không trúng phép chăng?"
Diệm tức giận lớn tiếng:
- Sao chú không cho bắt cổ giam nó lại, nó dám hỗn láo múa mép như vậy?
Nhu quay lại bảo Trần Kim Tuyến, bác sĩ mật vụ đang đứng sau lưng:
- Toa cho người đi mượn nó chưa?
Bác sĩ bước đến gần Diệm, thưa:
- Bẩm cụ, con đã cho người đi lùng Hồ Hữu Tường ngay sau khi nhận được bức thư công khai quay rô-nê-ô của nó phát ra, nhưng nó đã chạy qua bên kia cầu chữ Y rồi.
- Hắn chạy theo Bình Xuyên làm quân sư cho Bảy Viễn hả? Toa để lọt Hồ Hữu Tường mất rồi, phải lo tóm cổ đứa trí thức còn lại muốn sinh chuyện, tụi nó hay lôi thôi lắm!
Trước lời trách cứ của Diệm, bác sĩ Trần Kim Tuyến xoa tay nói:
- Bẩm cụ, con đã có danh sách bọn trí thức chống đối, còn tình cảm với Bình Xuyên cũng chẳng còn mấy đứa. Đám quân sư chính trị của Bảy Viễn, đáng kể nhất là Hoàng Giang Giũ, hiện ở Pháp, Trần Văn Ân thì còn ở trong khu vực Bình Xuyên, còn mấy tên khác không đáng kể. Như Nguyễn Đức Quỳnh, hắn chạy theo Bảy Viễn, song thực ra là người của Cousseaux, thuộc Phòng Nhì Pháp.
Nhu ngắt lời:
- Có phải hắn thuộc nhóm trốt-kit Hàn Thuyên trước đây ở Hà Nội không?
- Vâng, nhưng hắn đã từ bỏ đệ tứ quốc tế lúc ở trong khu mà theo cộng sản đệ tam, rồi khi trở về thành hẳn lại bỏ đệ tam quốc tế mà vào dê nhị phòng. Tôi thấy thứ người hay thay đổi như vậy có thể mua chuộc được dễ dàng để làm tay sai cho mình len lỏi trong hàng ngũ địch.
Nhu gạt đi:
- Tôi không ưa thứ phản bội đội lốt trí thức, văn hoá, vì rồi nó cũng tráo trở với mình?
Tối hôm ấy giữa lúc Sài Gòn - Chợ Lớn chìm đắm trong đêm, đời sống dân chúng tiếp diễn như thường lệ mặc dù không khí nặng nề khác thường của sự bố trí, chuẩn bị giữa quân đội quốc gia và công an xung phong Bình Xuyên, trong khi Nhu đang đắm mình trong khói thuốc phiện, và anh chồng quỳ ở ghế cầu nguyện thì Lệ đang trò chuyện với đại tá Landsdale.
Biết rõ giờ nổ súng vào giữa khuya đêm nay, Lệ cảm thấy trong người xao động lạ thường, như chính tự tay nàng sẽ đứng ra bắn hoả lệnh để mở cuộc tấn công.
Mặc dù ban ngày nàng đã ngả ngớn liên tiếp trong hai tay người tình đại tá chỉ huy chiến cuộc đêm nay, Lệ vẫn thấy xác thịt rạo rực đòi hỏi. Nàng rủ người tình Mỹ đi dạo rồi đưa vào phòng riêng đại tá ở trong dinh.
Trong trận đồ đêm nay, chính đại tá Landsdale giữ một vai trò quan trọng trong chiến thuật.
Lệ lôi cuốn chàng vào trong bão táp của tình dục, trước giờ khai hoả, hai người đang say sưa quên cả trời đất chung quanh, bỗng nghe những tràng súng nổ đầu tiên vẳng lại.
Landsdale vội vã khoác quân phục chạy đi, trong khi Lệ vận lại quần áo trở về phòng riêng.
Nghe ả xẩm nói lại, chồng và anh chồng nàng vừa cho gọi đến, Lệ vội sửa lại mái tóc, tô lại môi son, rồi bước ra.
Đứng trên lầu cao dinh Độc Lập nghe những tiếng súng nổ từ những phía dội đến, nhìn qua đầu những ngọn cây và mái phố xa xa về phía Chợ Lớn, thấy lửa bốc cháy sau các tiếng nổ lớn của trọng pháo, Ngô Đình Diệm quay lại bảo các em, vợ chồng Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và cháu rể Trần Trung Dung, tân Bộ trưởng quốc phòng đang đứng quanh mình, bằng một giọng đắc chí:
- Phen này chúng nó phải tiêu! Dẹp xong bọn giặc này rồi rảnh tay đối phó với bọn tàn quân giáo phái mất hết tinh thần.
Nhu nói tiếp:
- Đến lượt chúng ta trị vị!
Trần Trung Dung lên tiếng phụ hoạ:
- Chỉ ba hôm là đánh đuổi bọn Bình Xuyên ra khỏi Sài Gòn - Chợ Lớn.
Lệ không giấu nổi hân hoan tràn ngập lòng mình theo nhịp tiếng súng nổ giòn, át cả tiếng chuông nhà thờ Đức Bà ở trước dinh Độc Lập thong thả buông 12 tiếng đều đặn. Mấy quả tạc đạn nổ ầm ở phía vườn Tao Đàn, rồi tiếp đến mấy tiếng trái phá nổ trong hoa viên làm Lệ giật mình, theo anh em họ Ngô đi vào trong, song Lệ vững lòng ngay khi nhớ rằng chính đại tá Trần Văn Đôn giữ nhiệm vụ bảo vệ dinh Độc Lập.
Nhìn người anh chồng Thủ tướng và người chồng cố vấn đang chăm chú trên bản đồ lớn đô thành với những dòng đỏ trải rộng trên bàn, Lệ ngửa người vào lòng ghế bành, toàn thân lồ lộ qua lớp tơ lụa mỏng manh, như một nữ hoàng thời thượng cổ ngự trị trên đám cận thần và tướng tá đang chinh phục đất đai, báu vật và nô lệ để mang về dâng tặng nữ chúa. Giang sơn anh em họ Ngô đang ra công chiếm đoạt há không phải sẽ thuộc về tay nàng, người đàn bà duy nhất có ảnh hưởng chi phối cả gia đình họ Ngô?
Giữa những tiếng súng nổ vang rộn cả châu thành, Lệ bước vào phòng riêng ghi nhật ký của nàng:
"Đêm 29 rạng 30 tháng 3-1955.
Thế là cuộc tấn công Bình Xuyên đã bắt đầu. Chiến thắng lũ cướp này với bọn giáo phái phong kiến cũng không khó khăn gì, vì đã có Mỹ hết lòng ủng hộ, và quân đội dân chúng đang tin tưởng làm hậu thuẫn.
Nhất định họ Ngô phải trì vì nước này, và ta sẽ trở nên một Catherine de Russie, đồng thời là một Marie Antoinette, một Cléopêtre như lòng ta vẫn ôm ấp mong muốn.
Mộng nữ hoàng thời con gái của ta đã bắt đầu thực hiện. Ta sẽ là người đàn bà mà mọi người phải nghiêng mình khi trong đi qua, thiên hạ phải nhắc nhỡ, lịch sử phải ghi nhớ.
Thời đại quân chủ đã qua, song với dòng máu hoàng tộc trong người ta sẽ là nữ hoàng trong các nữ hoàng.
Ta tự thấy có thể chinh phục chung quanh để bước lên địa vị mà bất cứ người đàn bà nào có nhan sắc, thông minh đều ước ao, mơ tưởng đến: Đệ nhất phu nhân!
Dù có trở lực, khó khăn, ta quyết sẽ làm tất cả để vượt qua mà thực hành câu "muốn là được". Những người thân yêu xa hay gần của ta sẽ giúp ta thành công.
Tiếng súng đêm nay mở đầu một trang sử mới cho xứ sở Việt Nam và cũng bắt đầu một giai đoạn mới cho đời ta".

Tiếng súng bên ngoài liên tiếp nổ gần đến lúc chuông nhà thờ đổ sáng mới chấm dứt. Dân chúng ở chung quanh vùng giao chiến như vừa qua một cơn mơ hoảng đầy lửa đạn. Sau hơn bốn giờ súng nổ, binh sĩ cả đôi bên lẫn thường dân bị thiệt mạng 26 người và 112 người bị thương.
Trước thảm trạng tang tóc, sáng ngày lại, Ngô Đình Diệm và Bảy Viễn đều lên tiếng đổ lỗi cho nhau đã gây ra cuộc đổ máu.
Phạm Công Tắc nhân danh "Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia" gởi điện văn sang Pháp cho Bảo Đại:
"Thủ tướng Diệm đã hạ lệnh tấn công vào cơ sở trong khu vực Bình Xuyên, súng nổ dữ dội hồi 23 giờ 30 ngày 29-3-55 chấm dứt hồi 4 giờ sáng 30-3-55. Có 10 người bị chết và 30 người bị thương bên Bình Xuyên. Mặt trận chúng tôi quyết định phong toả Sài Gòn.
Kính cẩn thỉnh cứu Quốc trưởng thâu lại toàn quyền của Ngô Đình Diệm".
Sau đêm nổ súng, dân chúng đô thành nhốn nháo mua lương thực tích trữ vì những tin đồn phong toả Sài Gòn - Chợ Lớn vì bọn buôn bán lậu tung ra để đầu cơ gạo, cá khô, nước mắm, than củi…
Tại tổng hành dinh Cái Vồn ở miền Tây, tướng Năm Lửa vuốt râu cong trên mép tuyên bố đầy tự hào:
- Tôi hạ lệnh phong toả một cái là Sài Gòn không có một trái ớt mà ăn!
Bộ Tổng tư lệnh Pháp có trách nhiệm bảo vệ an ninh ở phía dưới vĩ tuyến 17 đứng ra can thiệp yêu cầu đôi bên ngưng bắn.
Anh em họ Ngô ngờ Pháp đã ngấm ngầm giúp Mặt trận các giáo phái, trong khi có tin đồn là Bình Xuyên đã nhờ sĩ quan Pháp bày vẽ chiến thuật trong đêm nổ súng, và bộ chỉ huy Pháp đã từ chối không cấp đạn dược cho quân đội quốc gia, không cho mượn xe cộ để chở mấy tiểu đoàn nhảy dù ở Nha Trang vào Sài Gòn tiếp viện.
Đại tướng Collins, đại sứ của Tổng thống Mỹ nhận lời điều đình với tướng Ely, Cao uỷ Pháp, buộc đôi bên ngừng chiến, nhưng đồng thời đòi phải giao quyền cảnh sát công an khắp miền Nam cho Thủ tướng Diệm.
Các thông tín viên báo Pháp có mặt ở Sài Gòn đã đánh điện về Ba Lê, loan tin: Diệm khước từ thoả hiệp với các đoàn thể võ trang, cả chục tổng, bộ trưởng theo nhau từ chức, chính quyền miền Nam do Diệm cùng anh em, con cháu họ Ngô đảm trách. Gia đình cầm quyền này được người Mỹ trợ giúp, đặt ngay trụ sở làm việc tại dinh Norodom. Ngoài ra, còn có sự hợp tác của các đại tá trẻ tuổi trong mấy cơ quan Mỹ.
Trong thời gian ngừng bắn, anh em họ Ngô vận động phá vỡ "Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia" bằng cách mua chuộc, chia rẽ các lực lượng giáo phái. Một trăm triệu bạc được tung ra để nhử các tướng tá đang hoang mang trước thế lực của họ Ngô, được Mỹ ra mặt ủng hộ triệt để, trong khi Pháp lưng chừng đóng vai trung lập ở ngoài, thờ ơ ngay với cả nhóm Bình Xuyên mà họ đã trực tiếp đỡ đầu bấy lâu.
Tại tổng hành dinh Bình Xuyên, bên kia cầu chữ Y, trên con kinh chảy vào Chợ Lớn ngăn cách Sài Gòn với vùng sình lầy hoang vu chạy thẳng ra Rừng Sác, gió từ Vũng Tàu lồng lộng thổi vào không làm loãng được không khí nặng nề đang bao trùm chung quanh Bảy Viễn. Dưới mái tóc hớt ngắn, vẻ mặt lầm lì của thủ lãnh Bình Xuyên càng nặng trình trịch sau làn da đen nám rượu bốc sẫm hứng, đôi mắt đỏ ngầu nhìn xuống, qua những tin bất lợi dồn dập. Nghe tiếng Lại Hữu Tài đi về, Bảy Viễn hất hàm hỏi:
- Năm, sao mậy?
"Cố vấn chính trị" Bình Xuyên vẫn "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao" như thường ngày, lấy vẻ mặt nghiêm trọng nói oang oang khi bước đến:
- Đ.m tụi nó phản rồi, anh Bảy à?
Rồi Năm Tài hạ giọng khi thấy mấy tay "quân sư" xúm lại:
- Phòng Nhì cho hay Diệm đã bỏ ra một trăm triệu để mua Nguyễn Thành Phương và Năm Lửa rồi. Ngày mai thằng chó chết "phản Trụ đầu Châu" đó đem quân Chợ Lớn bán cho họ Ngô đây. Đ.m, tôi đã nói trước anh Bảy không nghe, không thể tin cái thằng lính khố xanh làm tướng đó được mà!
Bảy Viễn buồn rầu im lặng một hồi lâu rồi nói:
- Có nghe Đức Hộ pháp nói sao không?
Lại Hữu Tài đáp:
- Hay tin thằng Phương nó phản đạo, phản thấy, ông Tắc rầu lắm và sợ anh Bảy phiền, nên tính cử thiếu tướng Lê Văn Tất đại diện cho quân lực Cao Đài trong chủ tịch đoàn Mặt trận.
Tiếng nói của Năm Tài lại oang oang lên:
- Nói cho anh Bảy mừng, tôi đã liên lạc với tướng Nguyễn Văn Thành ở khách sạn Majestic, rủ về phe mình; tướng Thành có vẻ chịu lắm, vì đang bất mãn bị Diệm bỏ rơi. Như vậy, mình có mất tướng Phương, có tướng Thành cũng là tướng Cao Đài, và hiện chức thiếu tướng quân đội quốc gia, anh Bảy đừng buồn nữa.
Ngày 31, hai hôm sau nổ súng giữa quân đội họ Ngô và Bình Xuyên, Nguyễn Thành Phương nhân danh trung tướng Cao đài, rút khỏi Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia mang 50 thuộc hạ vào dinh Độc Lập.
Anh em Diệm tổ chức lễ tiếp đón đám tướng sĩ Cao Đài qui thuận và sát nhập lực lượng võ trang Cao Đài tuỳ thuộc Nguyễn Thành Phương vào hàng ngũ quân đội quốc gia.
Trong khi binh sĩ Cao Đài sắp hàng biểu diễn, thì tướng Trịnh Minh Thế, thủ lãnh Cao Đài Liên minh tuyên bố một lần nữa lòng trung thành với chính phủ họ Ngô.
Lôi cuốn được quân lực Cao Đài và mua chuộc xong Trần Văn Soái nằm yên ở Cái Vồn với lực lượng Hoà Hảo, anh em họ Ngô cùng một lúc đã làm tan rã Mặt trận các giáo phái chống đối, và cô lập hẳn Bình Xuyên, chỉ còn là một nhóm võ trang bị Pháp bỏ rơi.
Trước tình thế nghiêng ngả đó, một Uỷ ban Nhân dân hoà giải xuất hiện, mong làm im dịu không khí căng thẳng cực độ sắp nổ bùng lần nữa hai phe họ Ngô và Bình Xuyên.
Tin tưởng ở lực lượng hùng hậu đã chiếm giữ các vị trí trọng yếu với 4 tiểu đoàn nhảy dù sẵn sàng giao chiến, bốn tiểu đoàn dự bị và binh sĩ tăng cường ở miền Trung có thể đưa vào, cùng sự khuyến khích của các tướng tá Mỹ, anh em họ Ngô quyết định ra tay tiêu diệt Bình Xuyên gồm 2000 bộ hạ võ trang ở Sài Gòn - Chợ Lớn và lối 2000 nữa ở bên ngoài.
Anh em Diệm đã nắm giữ được thế mạnh, không muốn biết đến Uỷ ban Nhân dân hoà giải cũng như Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia không còn đáng kể nữa, mà chỉ thấy có một đối phương cần phải thanh toán là Bình Xuyên.

Những tiếng súng nổ lẻ tẻ đêm nay trong đô thành, các cuộc đụng độ giữa Bình Xuyên và quân lực họ Ngô vẫn tiếp diễn, trong khi công an xung phong của Bảy Viễn vẫn bám trụ ở trụ sở đường Catinat, Đakao… kiểm soát sân bay, bến tàu, điều khiển cảnh sát, an ninh ở đô thành.

Ngày 24, Diệm ký sắc lệnh bãi chức tổng giám đốc cảnh sát, công an của Lại Văn Sang, cánh tay mặt của Bảy Viễn, và cử đại tá Nguyễn Ngọc Lễ thay thế.

Trong 48 tiếng đồng hồ nếu Sang không tuân lệnh bàn giao nhân viên và nhiệm sở, sẽ bị đưa ra toà án quân sự.

Quyết định của họ Ngô có tính cách một tối hậu thư buộc Bình Xuyên phải rút ra khỏi châu thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Lại Văn Sang đã chạy về bên kia cầu chữ Y, song đám bộ hạ vẫn còn trấn giữ ở các quận bót rải rác trong đô thành.
Bộ Tư lệnh Pháp đứng ra can thiệp để tránh chiến tranh xảy ra có thể nguy hại đến tính mạng Pháp kiều đang ở Sài Gòn.
Tình thế khẩn trương từng giờ, từng phút, dân chúng đô thành sống trong hồi hộp chờ đợi cuộc xung đột khó tránh khỏi giữa hai lực lượng đã bố trí, hờm nhả đạn vào nhau.

1 giờ ngày 28, tiếng súng bắt đầu nổ dữ dội, mở đầu cuộc giao tranh thực sự.
Giữa lúc hai phe họ Ngô và Bình Xuyên quyết liệt thanh toán nhau bằng súng đạn, biến Sài Gòn - Chợ Lớn thành trận địa giao tranh, từ Cannes, Bảo Đại nhân danh Quốc trưởng lên tiếng triệu tập đại diện chủ yếu ở Việt Nam lập tức sang Pháp "ra khỏi nơi xung đột để thảo luận về tình hình trong nước". Đồng thời ký sắc lệnh bổ nhiệm thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ giữ chức tư lệnh quân đội quốc gia, và quân đội tạm cầm quyền thay thế Thủ tướng. Bảo Đại cũng ra lệnh cho tướng Nguyễn Văn Hinh trở về Việt Nam với nhiệm vụ tiếp xúc các thủ lãnh giáo phái.
Những quyết định của Bảo Đại được sự tán đồng của chính phủ Pháp, vẫn còn nuôi hy vọng có thể lay chuyển được lập trường của Mỹ. Trước đó, đại sứ Pháp Couve de Murville đã gặp ngoại trưởng Mỹ rồi sau đại tướng Collins, đại sứ của Tổng thống Eisenhower được triệu về Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ý kiến. Ngày hôm sau cuộc chiến tái diễn ở Sài Gòn, thủ tướng Pháp Edgar Faure tuyên bố trong một buổi họp báo là chính phủ Ngô Đình Diệm không đủ sức làm tròn nhiệm vụ, nhưng lại được nhà cầm quyền Mỹ nỗ lực tiếp tục ủng hộ Diệm thay thế Bảo Đại.
Pháp lo ngại cho những ảnh hưởng còn lại có thể tiêu tan trước một chính quyền thân Mỹ trong khi Bảo Đại nhận thấy nguy cơ có thể bị họ Ngô tiếm vị sau khi chiến thắng Bình Xuyên và thu phục các giáo phái. Văn phòng Quốc trưởng liền được lệnh đánh một công điện triệu Thủ tướng Ngô Đình Diệm sang Pháp để Bảo Đại tham khảo ý kiến và dự hội nghị đặc biệt ở Cannes, và một công điện cử thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng tư lệnh quân đội.
Chính giới Mỹ phản ứng sôi nổi qua các báo. Báo "Nữu Ước diễn đàn" loan tin rằng Hoa Kỳ không thể bỏ tiền ra để giúp cho những kẻ thối nát, tay sai thực dân Pháp, võ trang chống lại chính quyền trong sạch, đạo đức, lý tưởng chống Cộng và Công giáo của Thủ tướng Diệm. Lời tuyên bố trước đây của ngoại trưởng Foster Dulles được nhắc nhở: không thể thay thế được Diệm. Các thượng nghị sĩ đầy thế lực Mansfield và Humphrey lên tiếng dứt khoát:
- Nếu không có đủ chỗ cho hai người ở trong chính phủ miền Nam Việt Nam, Bảo Đại phải rút đi.
Ủng hộ cho lá bài Diệm chống lại Bảo Đại, New York Times đăng bài phỏng vấn các tướng Phương, Thế và Nguyễn Giác Ngộ qui thuận họ Ngô, gọi tướng Vỹ là con búp bê của thực dân Pháp giựt dây, mong gây rối loạn để đặt lại thuộc địa ở Việt Nam.
Tại dinh Độc Lập, anh em họ Ngô vừa nhận được báo cáo của đại tá Trần Văn Đôn cho hay kết quả cuộc tấn công trong những giờ đầu đã thu hoạch được thắng lợi: Các ổ công an xung phong của Bình Xuyên ở đô thành đang lần lượt bị chiếm. Tổng hành dinh Bảy Viễn bên kia cầu chữ Y đã bị bích kích pháo bắn trúng phát cháy hồi 23 giờ 40.

Lệ hớn hở nhìn thấy người tình trong bộ quân phục chiến đấu kể lại các chiến công đầu, muốn ôm choàng lấy hôn để khen thưởng, song trước mặt chồng và anh chồng, nàng đành giữ vẻ nghiêm trang, chỉ thốt ra một câu khích lệ:
- Chúc đại tá sớm thành công?
- Chúng tôi đã đánh bật Bình Xuyên ra khỏi Sài Gòn - Chợ Lớn trong vòng 48 giờ.
Sau khi vị chỉ huy trưởng hành quân ở đô thành chào ra, người cận vệ mang vào một bức công điện. Nhu mở đọc xong, cười nhạt bảo anh:
- Bảo Đại đòi anh sang Pháp và cử tướng Vỹ lấy lại toàn quyến quân sự của anh đây.
Nhìn thấy vẻ mặt lầm lì của Diệm tức giận nổi cả gân trán, Nhu nói:
- Rõ thằng ngốc thật! Bảo Đại nó tưởng lường được mình như đã triệu tướng Hinh sang Pháp để lột chức chắc?
- Chú tính đối phó ra sao?
- Có khó gì đâu đối với mưu mẹo con nít của thằng ngốc này, Bảo Đại nó đã muốn trở mặt thì mình cho nó biết tay, đừng có trách. Mình chỉ có dịp như vầy để tính sổ luôn cho rồi Bảo Đại đi.
Trước vẻ thích thú bất ngờ của chồng, Lệ thắc mắc hỏi:
- Anh tính sao mà có vẻ vui như vậy?
Diệm cũng không khỏi ngạc nhiên trước thái độ của Nhu nhắc lại:
- Chú có cách gì rồi đó?
Đợi cho chung quanh sốt ruột hỏi dồn, Nhu chậm rãi nói:
- Anh cứ việc trả lời Bảo Đại là tình thế nước nhà không cho phép Thủ tướng vắng mặt bỏ đi đâu được. Rồi trong dịp này, mình mượn người khác truất phế Bảo Đại, lập anh lên.
Diệm không giấu nổi vui mừng, ngỡ ngàng nói:
- Chú biểu lập tôi lên thay Bảo Đại làm vua à? Tôi sợ rồi mang tiếng thí chúa đoạt ngôi, thiên hạ người ta dị nghị cho.
Nhu cười ngắt lời:
- Không phải truất phế Bảo Đại để rồi lập lại chế độ quân chủ, mà tôi tính cho tổ chức một Hội đồng cách mạng phủ nhận uy quyền của Quốc trưởng, giải tán luôn chính phủ thành lập do sắc lệnh của Bảo Đại, rồi uỷ nhiệm cho anh đứng ra thành lập chính phủ lâm thời theo chế độ cộng hoà. Như vậy, chẳng những mình lật đổ Bảo Đại mà còn loại bỏ luôn bọn tay chân nữa.
Nhu nói tiếp trong lúc thấy anh đắn đo suy nghĩ:
- Mình đang đánh thắng Bình Xuyên, lại nắm toàn quyền ở trong tay, muốn làm gì mà không được? Phía quân đội quốc gia còn một số sĩ quan theo Pháp, song Pháp cũng không chuyển lại được tình thế, vì Mỹ đã bỏ tiền trả lương cho binh sĩ, Mỹ đã triệt để ủng hộ mình rồi, còn sợ trở lực nào nữa? Tướng Vỹ mà Bảo Đại muốn bổ làm Tổng tư lệnh quân đội quốc gia, anh để đó tôi xử cho mà coi.
- Chú tính nhờ ai tổ chức Hội đồng truất phế Bảo Đại?
- Tôi giao cho hai tướng Phương và Thế lo việc này phối hợp với mấy phần tử đảng phái quốc gia. Họ đứng ra thì dư luận quần chúng cũng không nói vào đâu được, vì chính những người của giáo phái, phe đảng quốc gia đòi lật đổ Bảo Đại.
Kế hoạch của Nhu thay đổi chế độ được mang ra thi hành ngay hôm ấy.
Từ trưa ngày 30, tin đồn truyền miệng trong các giới là vào lúc 4 giờ chiều sẽ có một cuộc mít tinh lớn lao tại toà Đô Sảnh do các lực lượng dân chủ đứng ra triệu tập với lối 200 đại biểu của tám đảng phái quốc gia, để quyết định một chuyển hướng quan trọng trước tình thế lịch sử.
Mặc dù có sự tuyên truyền vận động của phe họ Ngô phối hợp với các đảng phái ủng hộ Diệm vào "giờ thứ 25" vì những hứa hẹn trợ cấp của Nhu đưa ra, không khí hội họp ở trên lầu toà Đô Sảnh có vẻ gượng ép, giả tạo, trước lối một trăm người tò mò và ủng hộ viên.
Bốn giờ chiều, Hội đồng Cách mạng ra mắt với Nguyễn Bảo Toàn, đại diện Cách mạng Dân xã, Hồ Hán Sơn, đại diện Cao Đài, Nhị Lang đảng viên Việt Quốc.
Sau bài diễn văn của chủ tịch họ Nguyễn, nêu rõ lý do buổi họp, hô hào truất phế Bảo Đại, giải tán chính phủ Ngô Đình Diệm đã thành lập theo lệnh Quốc trưởng Bảo Đại, và tín nhiệm Ngô chí sĩ thành lập chính phủ lâm thời, những tiếng vỗ tay rời rạc hưởng ứng theo các khẩu hiệu "đả đảo" và "hoan hô" có vẻ sắp đặt một cách máy móc, vụng về. Đại tá Sơn tiếp lời, hăng tiết kêu gọi đả đảo Bảo Đại trong khi một kẻ trên ra ban công tháo gỡ bức ảnh Bảo Đại đóng khung quẳng từ cao xuống mặt đường, kính vỡ tan tành. Một số người được tổ chức theo để "hoan hô, đả đảo" như sực nhớ tới phận sự thi nhau gào "truất phế Bảo Đại!"
Mấy phóng viên ngoại quốc ngồi ở hàng đầu, chứng kiến tấn trò truất phế đã dàn cảnh một cách vụng về, ghé hỏi nhau:
- Tấn hài kịch này được trả bao nhiêu?
- Bốn triệu!
- Bằng đô-la hay đồng bạc?
- Bằng đồng bạc. Lật đổ một ngai vàng như thế kể cũng quá rẻ?
Trong khi ấy, để cho đúng với thủ tục, cái hội đồng mệnh danh là cách mạng ấy cử phái đoàn để vào dinh Độc Lập.
Tại đây, thông tín viên báo và các hãng thông tấn ngoại quốc đã được mời đến đông đảo để nghe những lời tuyên bố quan trọng.
Anh em họ Ngô cùng các thuộc hạ có đủ mặt.
Khi ba nhân viên của phái đoàn Hội đồng Cách mạng, Nguyễn Bảo Toàn chủ tịch, Hồ Hán Sơn phó chủ tịch và Nhị Lang, tổng thư ký đến nơi đã thấy thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ và cả tướng Lê Văn Tỵ đang ở vào thế bị bao vây. Cố vấn Ngô Đình Nhu ra lệnh cho hai tướng Phương và Thế đảm nhận việc canh giữ hai nhân vật quân sự cao cấp có thái độ chống đối.
Chủ tịch Hội đồng Cách mạng trình bày công việc truất phế Bảo Đại vừa rồi và tuyên bố uỷ nhiệm Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới. Đại tá Sơn lên tiếng yêu cầu tướng Vỹ phải tuyên bố phủ nhận Bảo Đại và tán thành quyết định của Hội đồng Cách mạng.
Trước mũi súng sáu của Tổng thư ký Hội đồng Cách mạng kề ngay một bên hông, tướng Vỹ biết không thể ương ngạnh được, đành riu ríu nghe theo, tuyên bố không công nhận sắc lệnh của Quốc trưởng bổ nhiệm mình làm Tổng tư lệnh quân đội quốc gia, đả đảo Bảo Đại và ủng hộ Hội đồng Cách mạng, cương quyết thanh toán thực dân và tay sai Pháp ở Việt Nam.
Giữa lúc tấn hài kịch chính trị quân sự đang diễn ra, một cận vệ đến bảo nhỏ bên tai Diệm có điện thoại khẩn cấp. Ở đầu dây, đại tá Đỗ Cao Trí cho hay là nếu thủ tướng không trả tự do cho tướng Nguyễn Văn Vỹ và Lê Văn Tỵ thì các sĩ quan và binh sĩ Bình Xuyên sẽ nổi loạn tại chỗ.
Cuộc hội họp tại dinh Độc Lập giải tán ngay sau đó, Diệm cùng Nhu và các cố vấn Mỹ họp bàn cách đối phó.
Lệ nghe lén được sự bàn định của chồng và anh chồng thủ tướng, vội về phòng kêu điện thoại riêng cho đại tá Trần Văn Đôn, đòi gặp ngay tình nhân trong hôm đó.
Giữa những tiếng súng nổ dồn dập vào đêm, trên đường vắng, Lệ một mình lái xe thẳng ra phía bờ sông, đậu ở cuối đại lộ Nguyễn Huệ, rồi đi vào khách sạn Majestic.
Đại tá Đôn đã chực sẵn ở bàn rượu cuối phòng đợi nàng. Thấy Lệ bước vào đang đưa mắt tìm kiếm, Đôn vội vã đứng lên, vẫy tay lên tiếng gọi.
Lệ vừa kiểu cách ngồi xuống, Đôn đã hỏi:
- Có việc gì quan trọng lắm mà em bắt anh phải bỏ cả công việc đang chỉ huy mặt trận đi gặp em?
Lệ cười rất lẳng, nhìn thẳng vào đôi mắt người tình, khẽ đáp bằng tiếng Pháp theo thói quen của nàng.
- Thưa thiếu tướng. Em có một tin mừng cho anh…
- Sao em lại gọi anh là thiếu tướng trong khi anh vẫn còn đeo phù hiệu đại tá?
- Đó là tin mừng mà em đích thân mang đến cho thiếu tướng của em dù biết anh đang bận rộn trận mạc.
Đôn sốt ruột hỏi:
- Em hãy nói rõ cho anh nghe đi.
Lệ liếc nhìn quanh các bàn đấy khách ngoại quốc rồi nói nhỏ:
- Ở đây có nhiều kẻ tò mò, chúng mình phải kiếm nơi nào vắng để cho anh còn mừng với em về chức tước mới của anh, phải không ông tướng của lòng em?
Đôn tuy chỉ mới nhấp nửa ly whisky đã cảm thấy say sưa lảo đảo trước người đẹp và tin vui bất ngờ, vội đến quầy bảo dành cho một phòng riêng có máy lạnh và mang sâm banh đến, rồi quay lại đưa Lệ lên lầu.
Giữa lúc Lệ cùng người tình đại tá sắp được vinh thăng thiếu tướng vui say trong hoan lạc thì tại dinh Độc Lập anh em họ Ngô cùng các cố vấn tu sĩ áo đen, áo tím, bàn bạc kế hoạch trị vì.
Nhu nói:
- Việc truất phế Bảo Đại như vậy cũng kể là xong, trong khi chờ đợi mình tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để hợp thức hoá việc loại bỏ Bảo Đại cho được "danh chánh ngôn thuận". Việc thanh toán dứt khoát Bình Xuyên chỉ còn là vấn đề thời gian năm mười bữa nữa thôi. Nhất định chúng nó phải tan rồi? Bây giờ mình chỉ còn lo làm sao quét sạch bọn Hoà Hảo ở miền Tây nữa là yên. Có tin tướng Hình trở về phối hợp với bọn đó, nhất là Ba Cụt, Le Roy… phải coi chừng chúng nó gây rối ở lục tỉnh cũng phiền.
Để lấy lòng quân đội, hôm sau anh em họ Ngô tổ chức một buổi lễ gắn huy chương cho hai đại tá tư lệnh Sài Gòn - Chợ Lớn và chỉ huy phòng vệ dinh Độc Lập thăng chức thiếu tướng Lê Văn Tỵ lên trung tướng.
Vị trung tướng bị dồn vào thế phải hợp tác với Hội đồng Cách mạng đưa ra một thông cáo tuyên bố "Các lực lượng Cách mạng dân chủ và quân đội cương quyết ủng hộ và trung thành với chính phủ Ngô Đình Diệm". Về phần Bình Xuyên, để đối phó lại họ Ngô, Bảy Viễn cũng ráo riết chuẩn bị. Nhưng thật sự quân đội Bình Xuyên sống bằng gá bạc, chứa gái, buôn lậu, cậy thế hống hách bất nạt dân lành, làm tiền những thương gia giàu có, thâu thuế những hộp đêm, khách sạn, tiệm nhảy, đầu cơ lúa gạo, cá thịt, thuốc phiện, cầm đầu chuyên chở xe đò, cho nên khi thủ lãnh Bình Xuyên lên tiếng kêu gọi dân chúng, đòi phong toả Sài Gòn - Chợ Lớn, chống lại chính quyền họ Ngô, không có một hưởng ứng nhỏ nào. Người ta xem cuộc xung đột như là việc riêng của đôi bên tranh giành quyền lợi với nhau, một phe tiếm vị cướp quyền và một phe cướp bóc thất thế.
Bảy Viễn trước khi rút lui về Rừng Sác, tuyên bố với Raymond Cartier, đặc phái viên tạp chí Paris Match:
- Tôi rút quân về chiến khu cũ chỉnh đốn lại binh sĩ để trường kỳ kháng chiến, tiếp tục đánh Diệm ít lắm… cũng mười năm.
Danh từ "kháng chiến trường kỳ" thốt ra ở cửa miệng thủ lãnh Bình Xuyên đã không có một tiếng vang, hay gây được một tin tưởng nào ngay trong đám tham mưu theo Bảy Viễn chạy về Rừng Sác, cũng như đám tàn quân bại tẩu vứt súng bỏ đi.
Bốn hôm, sau buổi trưa nổ súng, quân họ Ngô đã hoàn toàn làm chủ tình thế ở đô thành, chiếm đóng trọn vùng Bình Xuyên, từ cầu chữ Y vùng Hiệp An.
Sáng sớm ngày mồng 3, nhiều cánh quân của Diệm dàn trận từ Phú Lâm.
Tướng Vỹ bị họ Ngô cất khỏi chức Tổng tư lệnh quân đội quốc gia, lặng lẽ rời khỏi Sài Gòn chiều hôm ấy đi Đà Lạt. Ngự lâm quân của Bảo Đại ở cao nguyên cũng trở cờ theo họ Ngô, tướng Vỹ hoàn toàn bị cô lập đành phải tìm đường ra bưng cùng tướng Hình vừa từ Pháp trở về miền Tây, qua ngã Cao Miên.
Họ Ngô giải quyết xong việc truất phế Bảo Đại và loại được tướng Vỹ rồi, liền tập trung lực lượng để thanh toán Bình Xuyên.
Nhu đề nghị với tướng Trịnh Minh Thế chỉ huy cuộc hành quân chặn đường rút lui của Bình Xuyên, mang quân Cao Đài liên minh đóng dài ở bên cầu Tân Thuận.
Bảy Viễn cùng Bộ tham mưu đã rút vào đồn Rạch Đỉa, sau hôm nổ súng Tổng hành dinh ở cầu chữ Y bị bích kích pháo bắn phá.
Các ổ cầm cự của Bình Xuyên ở đô thành dần dần rút bỏ, sau 24 giờ chiến đấu, chỉ còn lại mặt trận cuối cùng ở khu vực đường Pétrus Ký cầm cự trong một tình trạng tuyệt vọng.
Sự tan rã mau chóng của lực lượng Bình Xuyên, về mặt quân sự do kém kỹ thuật chiến đấu, thiếu sĩ quan chỉ huy giỏi, trang bị súng đạn thua sút đối phương. Nhưng nguyên nhân chính yếu là đám võ trang này chỉ là một nhóm ô hợp, mang nặng tính chất cướp bóc, chém mướn đánh thuê theo tinh thần anh chị du côn. Từ xóm Củi, Chánh Hưng dọc theo bờ Kinh Đôi đến Tân Quí Đông, thẳng ra bờ sông Sài Gòn và cầu Tân Thuận là mức cuối cùng trận địa tảo thanh tàn quân Bình Xuyên bị đánh bật khỏi Sài Gòn - Chợ Lớn.
Buổi chiều, tướng Trịnh Minh Thế được lệnh của anh em họ Ngô đi thanh sát mặt trận ở dốc cấu Tân Thuận. Lãnh tụ Cao Đài liên minh vừa xuống xe đi bộ đến dốc cầu, thấy một chiếc tàu nhỏ đang chạy trên sông Kinh Đôi quay mũi ngược lại, toan ra lệnh bắt ngừng, bỗng có tiếng súng nổ. Tướng Thế ngã quay xuống mặt cầu. Một viên đạn lẻ loi từ phía sau bắn tới trúng cạnh vành tai xuyên thẳng ra trước mặt làm bể óc.
Trịnh Minh Thế chết không kịp kêu một tiếng. Căn cứ vào vết đạn chạy xéo, các chuyên viên khám nghiệm tử thi tướng Thế chứng nhận rằng viên đạn chỉ có thể bắn rất gần của kẻ đứng sau lưng vị thủ lãnh Cao Đài liên minh, chớ không phải dưới tàu chạy trên sông bắn lên.
Nhiều người sửng sốt trước tin tướng Thế tử nạn bất ngờ. Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng (The quiet American) của Graham Greene đã được vài nhân viên Mỹ thầm kín ủng hộ từ mấy năm nay, nuôi tham vọng cát cứ một cõi chống đối bằng phương pháp khủng bố, lãnh tụ "lực lượng thứ ba" Cao Đài liên minh này trở thành nạn nhân của một mưu mô chính trị.
Dư luận các giới thông thạo cho rằng anh em họ Ngô đã áp dụng các phương pháp của mấy giáo chủ La Mã thời Phục Hưng sát hại dần các nhân vật chướng ngại chung quanh để củng cố uy quyền.
Thi hài tướng họ Trịnh được chở ngay về tẩm liệm tại tư dinh đường Eyriaud des Vergnes (sau đổi là Trương Minh Giảng). Ngô Đình Diệm đích thân đến viếng, đứng trước quan tài Trịnh Minh Thế đưa tay làm dấu thánh giá, xong rồi tỏ vẻ xúc động, ngất xỉu đi, khiến mấy sĩ quan đứng cạnh đất phải xúm lại đỡ.
Chứng kiến cảnh tượng này, một nhân vật thuộc toà đại sứ Anh, Donald Lancaster đã ghi lại trong cuốn sử như sau:
"Tấn trò ngất xỉu của Diệm đóng thật vụng về trước quan tài tướng Thế chứng tỏ sự đắc ý của Diệm đã hạ được một đối thủ lợi"(5).
Để dập tắt những dư luận bàn tán nghi ngờ chung quanh cái chết của họ Trịnh, họ Ngô truy tặng thủ lãnh Cao Đài liên minh lên cấp trung tướng và cho đưa linh cữu đến quàn tại toà Đô Sảnh để cử hành theo nghi lễ quốc táng một chiến sĩ trận vong. Tướng Thế có ảnh hưởng lớn đối với Hội đồng Cách Mạng, đang nuôi nhiều tham vọng, sau khi giúp Diệm truất phế Bảo Đại. Họ Ngô đã thủ tiêu được đầu não, liền mời khéo ban lãnh đạo dời văn phòng ra khỏi dinh Độc Lập.
Giữa lúc quân Bình Xuyên theo ngả đồn Rạch Đỉa, đi quanh một vòng lớn phía dưới Nhà Bê để vượt qua sông Sài Gòn chạy ra Rừng Sác thì ở miền Tây, tướng Hinh cùng Bộ tham mưu và đại tá Le Roy, nguyên chỉ huy quân đội Công giáo trong vùng Bến Tre chống đối với giám mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long, và đại uý Phạm Xuân Giai, đã theo tướng Hinh từ buổi đầu, làm cố vấn quân sự cho các tướng Hoà Hảo, Năm Lửa, Trần Văn Soái cùng Lê Quang Vinh (Ba Cụt).
Binh sĩ của Ba Cụt vẫn đánh phá ở miền Tây, để hưởng ứng lực lượng Bình Xuyên chống lại quân họ Ngô.
Ngày 29 tháng ba, nữ tướng Hoà Hảo ở tổng hành dinh Cái Vồn Lê Thị Gấm - Phàn Lê Huê, tức Năm Lửa phu nhân - triệu tập một cuộc mít tinh lớn đón rước tướng Hinh ở Pháp về, với chỉ thị của Quốc trưởng Bảo Đại, liên kết các lãnh tụ giáo phái chống lại Diệm.
Sự hiện diện của tướng Hinh ở miền Tây đã gây lại tinh thần hăng hái cho quân đội Hoà Hảo. Nhân danh kẻ sáng lập quân đội quốc gia, nguyên Tổng Tham mưu trưởng, và là một chiến hữu chống Cộng, tướng Hinh cho phổ biến một "bức tâm thư" gởi cho "toàn thể anh em trong quân đội quốc gia và các lực lượng quân sự của các đoàn thể tôn giáo" và "chính trị", kêu gọi:
"Có lý nào anh em lại nghe theo luận điệu mị dân của bọn người đa trốn nhiệm vụ trong thời quốc biến để cầm súng bán lại những chiến hữu đã cùng chúng ta kháng Cộng, chống thực dân! Hờn sông Gianh và hận Bến Hải còn in sâu trong tâm trí người Việt Nam sau hơn 10 năm tang tóc đau thương, nhân dân Việt Nam có quyền được hưởng một cuộc đời sống an nhàn dưới một chế độ dân chủ, công bằng, tự do bác ái, và tất cả hình thức đế quốc thực dân, độc tài chuyên chế phong kiến bóc lột cần phải đạp đổ.
Muôn người như một, chúng ta nhất định thành công!
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH
VIỆT NAM 25-5-55"
Anh em họ Ngô hay tin tướng Nguyễn trở về hoạt động ở miền Tây, một mặt gởi thư cho chính phủ Ba Lê và Bộ Quốc phòng Pháp trao trả vị sĩ quan cao cấp không quân của Pháp là tướng Nguyễn Văn Hinh cho quân đội Pháp, và một mặt ra lệnh chuẩn bị mở mặt trận tấn công các nhóm giáo phái miền Tây, song song với chiến dịch tảo trừ Bình Xuyên ở Rừng Sác. Họ Ngô đã bỏ ra nhiều triệu để mua chuộc Năm Lửa, song binh sĩ Hoà Hảo vẫn nghe nữ soái Phàn Lê Huê và tướng Ba Cụt, rút vào bưng tiếp tục chống đối. Lệ nghe tin tướng Nguyễn Văn Hinh đang làm cố vấn quân sự chống lại họ Ngô, và khi nhìn thấy một tấm ảnh chụp chung tướng Hinh ngồi bên cạnh một thiếu phụ trẻ đẹp người Nam, với hai vị tá trong Bộ tham mưu, nàng không dằn được ghen tức, thốt ra:
- Quăn phản loạn! Phải tiêu diệt mới được!
Lệ nhớ lại những giờ phút trong tay tướng Nguyễn, các cuộc vận động thuyết phục liên tiếp của nàng thất bại mà uất hận. Hơn nữa, giờ đây tướng Hinh lại có một người đẹp bên mình và đang ra mặt chống đối lại phe nàng. Sự tức giận lẫn ghen tuông của Lệ đã nổ bùng với "Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng" tảo trừ các toán quân phản loạn ở miền Tây. Một tuấn lễ sau ngày tướng Hinh phát bức tâm thư, anh em họ Ngô ra lệnh mở cuộc tấn công vào sào huyệt các nhóm Hoà Hảo, bắt đầu bằng những đoàn xe lội nước tiến chiếm Cái Vồn, vương quốc của tướng Năm Lửa:
Ông tổng Cái Vồn tức Tổng tư lệnh Trần Văn Soái mang một số quân trung thành cùng phu nhân, biệt danh Phàn Lê Huê, dẫn đám nữ binh chạy về phía Thất Sơn giáp giới Cao Miên. Tại đây, sứ quân vùng Châu Đốc, Lâm Thành Nguyên có dự trữ võ khí và lương thực, và Ba Cụt thoát vòng bao vây của quân Diệm cũng đã về đây. Tướng Hinh rồi tướng Vỹ lần lượt đến nơi nhập bọn, làm cố vấn quân sự.
Hành dinh của Bộ Tổng tham mưu đặt trên một chiếc ghe di chuyển, không ngừng qua các con sông bổ nhánh khắp miền Hậu Giang.
Thiếu tiếp viện Pháp, không có sự ủng hộ của dân chúng thờ ơ, đám quân Trần Văn Soái dần dần tan rã vì sự phân hoá của một số chỉ huy, chán nản hết tiền, mất tin tưởng ở cuộc chiến đấu vô vọng.
Trong khi ấy, họ Ngô tung 30 tiểu đoàn hành quân đại qui mô ở miền Tây lưu vực sông Cửu Long, tấn công thẳng vào sào huyệt đối phương đồng thời kêu gọi qui hàng. Không đầy hai tuần lễ sau ngày khai diễn chiến trận miền Tây, tướng Nguyễn Giác Ngộ đưa năm tiểu đoàn về quy thuận, và trong khi các tướng Nguyễn Văn Vỹ và Năm Lửa chạy sang Cao Miên, tướng Lâm Thành Nguyên tìm đường về Sài Gòn.
Chỉ còn lại một mình Ba Cụt - Lê Quang Vinh, cùng đám quân trung thành, thiện chiến, cương quyết cầm cự, giữa lúc cuộc chiến ở Rừng Sác đang tới hồi kết thúc.
Đang lúc xuất quân mấy mặt tấn công các nhóm võ trang chống đối, anh em họ Ngô tiến hành mặt trận chính trị, cương quyết loại trừ chướng ngại vật duy nhất còn lại: Bảo Đại.
Việc truất phế Bảo Đại, tại toà Đô Sảnh Sài Gòn do Hội đồng Cách mạng thực hiện, chỉ mới là bước đầu. Trong dư luận quần chúng, cũng như về mặt pháp lý, họ Ngô cần phải triệt hạ tận cùng, mới có thể "danh chính ngôn thuận" trị vì được.
Sau khi ra chỉ thị ngầm cho các báo chí đua mở cuộc tấn công lật tẩy bêu xấu "ông vua hộp đêm" chỉ có biết tiền, gái và ăn chơi truỵ lạc, Ngô Đình Nhu với tư cách cố vấn Thủ tướng cho mời ban lãnh đạo Hội đồng Cách mạng đến để nhờ tiếp tục giúp ông việc hạ bệ Bảo Đại.
Trước đó, trưởng ban mật vụ Trần Kim Tuyến đã báo cáo cùng Nhu:
- Giai đoạn này, mình nên dùng Hồ Hán Sơn, phó thủ tịch Hội đồng Cách mạng, để đưa ra Huế tổ chức "truất phế Bảo Đại" vì các lẽ sau đây: Trước hết hắn còn trẻ, đang hăng tiết, ít có rắc rối, mình dễ xúi biểu. Hắn lại là người Trung, đã từng đi kháng chiến.
Nhu ngắt lời hỏi:
- Toa đã lập được hồ sơ Hồ Hán Sơn rõ ràng chưa?
Tuyến trả lời không do dự:
- Hắn tên thật là Hồ Mậu Đề, 29 tuổi, người tỉnh Nghệ An, từ khu Tư về Hà Nội năm 1950, sau đổi tên là Hồ Hán Sơn, khi hắn viết cuốn "Nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh".
- Hắn giữ chức gì ở trong khu?
- Sinh viên khoá 3 trường lục quân Trần Quốc Tuấn.
- Hắn là sinh viên, sao lại viết được cả một cuốn sách nói về chỉ đạo chiến tranh?
- Đó là những bài hắn đã học thuộc lòng, chép được của Mao Trạch Đông, Nguyễn Sơn, rồi về thành, hắn chỉ sửa đổi lại chút ít, rồi cho in thành sách, để lòe thiên hạ. Hắn đã học được lối ăn nói của cán bộ Việt Minh nên cũng dễ được lòng người ở thành lắm. Bằng chứng rõ rệt nhất là hắn từ Hà Nội vào Sài Gòn thời kỳ hội nghị toàn quốc, chạy theo Bình Xuyên ít lâu không xong, nhảy vô Cao Đài chẳng mấy chốc thì mang lon đại tá. Hắn vẫn đi lại với tướng Phương.
Nhu trầm ngâm nói:
- Dùng thằng con nít này để hoan hô, đả đảo thì được, song toa cũng nên coi chừng nó còn trẻ quá, dễ biến chứng.
- Cố vấn yên tâm, tôi đã tính trước rồi. Bảo nó đi Huế lấn này để hô hào truất phế Bảo Đại, rồi về cho nó một ít tiền lấy vợ, là thôi.
- Moa giao cho toa lo liệu làm sao nên việc là được.
Sau cuộc hội kiến giữa Ngô Đình Nhu và trưởng ban mật vụ, tại cố đô Huế ngày 15 tháng sáu, tấn trò truất phế cựu hoàng Bảo Đại diễn ra trước mắt Phú Văn Lâu.
Một số công chức, dân chúng ủng hộ họ Ngô được huy động đến, để chứng kiến một thanh niên thấp bé, mặt còn non sữa được giới thiệu là phó chủ tịch Hội đồng Cách mạng, ngỏ lời cùng đồng bào đất Thần kinh.
Đại tá Hồ Hán Sơn trọ trẹ lên tiếng lặp lại bài hô hào truất phế Bảo Đại, và tín nhiệm Ngô chí sĩ đứng ra dìu dắt quốc gia.
Những tràng pháo tay có tổ chức và những khẩu hiệu kêu gào vang lên hưởng ứng.
Rồi người ta thấy một bà cụ bước lên khán đài đến trước máy vi âm. Hai người đàn ông đi kèm theo đó, một tay chân thân tín của cố vấn lãnh đạo miền Trung Ngô Đình Cẩn, và một kẻ hoàng tộc, trường nam của ông Hoàng Chín. Dân chúng không khỏi ngạc nhiên khi nghe giới thiệu bà cụ là Đức bà Từ Cung, thân mẫu Quốc trưởng Bảo Đại, và càng thêm sửng sốt lúc thấy bà mẹ cựu hoàng run rẩy, mếu máo kêu lên:
- Đả đảo Bảo Đại! Truất phế Bảo Đại!
Tưởng chừng như máy vi âm không phát được lớn tiếng kêu yếu ớt của bà thái hậu bắt buộc phải lên tiếng phủ nhận con trai hoàng đế. Vĩnh Phò - con trai của ông Hoàng Chín - gào to lên:
- Đại diện cho hoàng tộc, cho Tôn nhơn phủ, tiếp theo lời Đức bà Từ Cung, tôi yêu cầu đồng bào cựu đế đô hô to: "Đả đảo Bảo Đại! Truất phế Bảo Đại! ủng hộ Ngô chí sĩ!"
Đang lúc tấn hài kịch truất phế diễn ra dưới cột cờ Phú Văn Lâu, thì ở Phú Cam tại tư dinh họ Ngô, bà cụ Thượng, đã ngoài tám mươi, mắc chứng nghễnh ngãng từ lâu, nghe người trong nhà thầm nhắc đến Bảo Đại, mới hỏi con trai:
- Trà của Đức bà Từ Cung ban cho tao còn không? Răng lâu không thấy thằng Thượng về thăm? Hắn có phải sang Tây chầu Đức Bảo Đại không mà ít về nhà rứa?
Ngô Đình Cẩn ậm ừ đáp:
- Dạ, anh con mắc việc nước có con hầu bên cạnh mạ rồi.
Bà cụ Thượng cười móm mém nói:
- Ờ, cha nào con nấy, nhà thật có phước. Thời cha chúng bay làm Thượng thơ cũng hết lòng trung với vua, với nước. Thằng Thượng anh mày ngày ni cũng rứa, tao vui lắm.
Bà cụ Thượng Ngô Đình Khả vẫn nghĩ rằng con mình đang giữ chức Thượng thơ Bộ lại, trung thành với Bảo Đại, và ngưỡng mộ Đức bà Từ Cung bấy lâu vẫn lưu ý đến gia đình họ Ngô hai đời phục vụ nhà Nguyễn, thỉnh thoảng ban cho trà Tàu, quế Thanh, sâm Cao Ly.
Anh em họ Ngô nhận thấy sự lú lẫn của bà mẹ già, đành chịu ý theo mà dặn dò các kẻ hầu cận bà cụ Thượng là những trà, quế, nhung đều do Đức bà Từ Cung gởi biếu, và Ngô Đình Diệm vẫn là kẻ bề tôi trung kiên của Hoàng đế Bảo Đại.
Một người đầy tớ gái sơ ý, lỡ miệng nói đến việc bà Từ Cung đả đảo Bảo Đại ở trong nhà, đã bị Ngô Đình Cẩn nổi xung bạt tai đuổi đi luôn.
***
Song song với các chiến dịch tảo trừ Bình Xuyên ở Rừng Sác và Hoà Hảo ở miền Tây, anh em họ Ngô kiên quyết quét sạch những phần tử chống đối còn có thể tồn tại gây rối, là những kẻ dân Tây đang sống rải rác ở miền Nam.
Ngày 6 tháng tám 1955, Ngô Đình Diệm buộc Pháp ký một qui ước về vấn đề quốc tịch liên hệ đến 7.000 người Việt dân Tây bấy lâu vẫn là hậu thuẫn trung kiên cho Pháp ở Việt Nam. Những người Việt có quốc tịch Pháp này phải chọn lựa trong vòng 6 tháng giữa Pháp và Việt Nam. Nếu họ theo Pháp thì không còn có thể ở trong chính phủ Việt nữa. Điều khoản ấy giúp cho Diệm loại bỏ một số tướng tá, sĩ quan, Tổng trưởng, đại sứ, công chức cao cấp dân Tây ở trong chính quyền, mà nước Pháp chỉ còn có cách là đưa họ lưu vong sang Ba Lê, theo chân những chính khách, nhân vật thân Pháp đã lần lượt bị họ Ngô đuổi đi lánh nạn ở trời Táy.
Cùng hôm quyết định loại bỏ những người thân Pháp, Ngô Đình Nhu ra lệnh cho tướng Nguyễn Thành Phương kéo quân lên Táy Ninh để thanh toán những phần tử Cao Đài chống đối còn lại.
300 binh sĩ canh giữ Toà thánh bị tước khí giới, hai người con gái của Đức Hộ pháp bị bất, chỉ có giáo chủ Phạm Công Tắc là thoát khỏi, tìm đường lẩn tránh rồi chạy sang Cao Miên.
Dẹp xong Bình Xuyên, mua chuộc được Cao Đài và dồn Hoà Hảo vào thế qui hàng, anh em họ Ngô còn lại một mình làm chủ tình thế miền Nam, tiếp được điện văn của Bảo Đại từ Pháp đánh sang chấm dứt nhiệm vụ Thủ tướng của Ngô Đình Diệm ngày 18 tháng 10, liền tổ chức ngay năm hôm sau một cuộc trưng cầu dân ý.
Anh em họ Ngô đưa ra hai câu hỏi trong ngày 23-10-1955, với mục đích quật ngã đối phương. Trong hai tấm phiếu in hình người để dân chúng lựa chọn, dưới hình Ngô Đình Diệm có câu: "Tôi suy tôn chí sĩ Ngô Đình Diệm làm Tổng thống với sứ mạng thiết lập chánh thể Cộng hoà Việt Nam". Và dưới hình Bảo Đại: "Tôi bỏ thăm cho Bảo Đại là bằng lòng chế độ phong kiến".
Sau một chiến dịch bôi nhọ Bảo Đại trên báo chí, phô bày những thối nát của chế độ quân chủ phong kiến, rồi phát động một sự ngấm ngầm đe doạ những ai không bỏ phiếu cho mình, họ Ngô còn cho người tổ chức gian lận cuộc đầu phiếu.
Đặc phái viên nhật báo Pháp Le Figaro, Max Clos tường thuật kết quả cuộc trưng cầu dân ý ở thủ đô, cho biết rõ những con số tố cáo trò bịp bợm trắng trợn của họ Ngô: 450.000 cử tri chánh thức đi bỏ phiếu ở Sài Gòn - Chợ Lớn, đến lúc khui thùng ra, lại có đến 605.025 phiếu, tức là thừa 155.025 phiếu ma, do tay chân họ Ngô đã trung thành quá trớn dồn vào.
Bài báo trình bày sự thật về cuộc trưng cầu dân ý lật đổ Bảo Đại của Max Clos đã khiến cho anh em họ Ngô giận dữ, ra lệnh trục xuất ký giả quốc tế đã lật tẩy Diệm phải lập tức rời khỏi Việt Nam.
Rồi Diệm lên ngôi Tổng thống, tuyên bố thành lập chính thể Cộng hoà, bắt đầu từ 12 giờ trưa ngày 26 tháng mười 1955.
Hợp thức hoá và củng cố xong địa vị, được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm đòi lại Ngân hàng Đông Dương và yêu cầu Pháp triệt thối quân đội viễn chinh.
Một chính khách Pháp nhận định về "số đỏ" của Diệm từ ngày trở về nước cho đến khi nắm trọn mọi quyền hành trong tay:
- Mỗi lần Diệm gặp khó khăn với nhà cầm quyền Pháp, thì Tổng thống Eisenhower, ngoại trưởng Foster Dulles, nghị sĩ Mansfield, đại tướng Collins, Hồng y Giáo chủ Spellman đến cứu trợ, rồi mọi việc lại đâu vào đấy: nhờ gan lì, Diệm đã thắng lợi.
Biết bao nhiêu lấn người ta tưởng Diệm bị lật đổ. Lật đổ bởi tướng Hình, lật đổ bởi cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu, lật đổ bởi Bảy Viễn và các giáo phái ở ngay Sài Gòn, lật đổ bởi chính phủ Pháp chỉ công nhận Ngô Đình Diệm ở đầu môi, lật đổ bởi Bảo Đại, vị hoàng đế điêu toa và hay thay đổi ở xa xứ sở. Gặp hồi phong ba ngặt nghèo nhất, khi những kẻ âm mưu xoa tay khoan khoái vì Diệm bị lung lay, người ta thấy một vị đại tướng hoặc một chức sắc đạo giáo Mỹ đáp máy bay xuống Sài Gòn. Ngày hôm sau, Diệm được vớt lên. Được sự ủng hộ của Mỹ đảm bảo, Diệm trở thành kẻ bất khả xâm phạm(6).
Triều đại họ Ngô thực sự bắt đầu sau ngày Diệm tự phong làm Tổng thống và Lệ trở thành đệ nhất phu nhân.
Đầu năm 1956, trong một cuộc họp gia đình của anh em họ Ngô cùng mấy thuộc hạ thân tín tại dinh Độc Lập, Ngô Đình Nhu bày tỏ ý kiến:
- Đến cuối tháng ba này, quân đội Pháp rút hết khỏi Việt Nam, tôi nghĩ là mình cũng nên giải quyết dứt khoát hấn tình thế quân sự cho xong xuôi đi. Bọn Bình Xuyên đã bị đánh tan ở Rừng Sác, Bảy Viễn với hai anh em Sang, Tài chạy sang Pháp rồi, song mình cần phải cho lập một phiên toà quân sự để xử tử khiếm diện chúng nó và tịch thu tài sản để trừ hẳn hậu hoạ. Đám quân sư và tay chân Bình Xuyên ra đầu hàng, mình cũng phải cho pháp luật kết tội, đưa cả chúng nó đi Côn Đảo cho tiệt hết mầm mống đi. Còn Hoà Hảo ở miền Tây, Năm Lửa và Ba Cụt vẫn tiếp tục quấy rối, mình dùng giải pháp quân sự thì không biết lúc nào mới dẹp xong. Họ không có chương trình chính trị song nhờ sự cuồng tín của tín đồ, nên dù bị quân ta đánh tan đại bộ phận, một số lớn chỉ huy qui thuận, mấy thủ lãnh còn lại vẫn gây được giặc chòm giặc xóm. Tôi thấy mình phải bày kế để dụ họ mới dẹp yên cái nạn sứ quân này được.
Bác sĩ mật vụ Trần Kim Tuyến lên tiếng:
- Tôi đề nghị cử một người làm sứ giả đi gặp Năm Lửa và Ba Cụt để điều đình mời họ về hợp tác.
- Toa định nhờ ai?
- Dạ, thưa cố vấn, tôi thấy người có đủ điều kiện để nhận lãnh việc du thuyết này, hiện không ai hơn là ông Nguyễn Ngọc Thơ đang làm đại sứ ở Nhật. Theo chỗ tôi điều tra, ông ta là người Long Xuyên, có bà con với Ba Cụt và quen biết với Năm Lửa.
Nhu nói:
- Năm Lửa đã già rồi, dụ hàng không khó, mình cứ hứa cho nhiều tiền là có thể lôi kéo được. Còn Ba Cụt, tôi thấy hắn tráo trở hay lắm. Hắn đã 4 lần đầu hàng Pháp, rồi trở lại phản Pháp. Nhưng tôi đã có cách đối phó rồi. Ngày mai đánh điện mời Nguyễn Ngọc Thơ về cho tôi.
Tuyến hỏi:
- Thưa cố vấn, còn với tướng Phương, cố vấn quyết định dứt khoát ra sao?
- Hắn mấy lần xin gặp tôi để nhắc nhở số tiền tôi hứa cho hồi kéo quân về hàng, song tôi không cho gặp. Bây giờ hắn không còn gì đáng kể nữa: quân không còn vì đã sáp nhập vào hàng ngũ quốc gia rồi, hậu thuẫn của tín đồ Cao Đài cũng mất vì người ta cho hắn là phản đạo, bắt hụt Phạm Công Tắc và doạ hắn về Tây Ninh thì bị giết. Như vậy, mình còn dùng hắn được việc gì nữa đâu. Nếu hắn không biết thân, thì toa cứ cho lục soát nhà hắn, thế nào cũng còn một ít súng ống, lấy xe hơi sung công rồi đưa hắn ra toà về tội oa trữ võ khí bất hợp pháp và trộm xe hơi.
Sau hôm ấy, đại sứ Nguyễn Ngọc Thơ ở Đông Kinh được công điện triệu về giao phó công tác làm cố vấn cho chiến dịch miền Tầy.
Hai tháng sau, 30 tháng hai, tại tổng hành dinh Cái Vồn (Cần Thơ) trước mặt báo chí quốc tế và trong nước, sứ thần Nguyễn Ngọc Thơ đại diện họ Ngô và thiếu tướng Dương Văn Minh tư lệnh chiến dịch miền Tây, tướng Năm Lửa, Trần Văn Soái vận âu phục dân sự đưa 4.659 binh sĩ mang võ khí đủ loại, từ các bưng biền Hậu Giang ra hàng phục.
Trái với sự qui phục dễ dàng của Tổng Tư lệnh quân đội Hoà Hảo, mắc mưu hứa hẹn của anh em họ Ngô, Ba Cụt nhận lời gặp sứ giả thương thuyết, song đưa điều kiện yêu sách:
- Phải được thăng lên chức trung tướng và được quyền kiểm soát về hai mặt quân sự và hành chánh trong miền Tây Nam phần.
Nghe sứ thần phúc trình đòi hỏi của Ba Cụt, Ngô Đình Nhu cười gằn bảo:
- Toa cứ trả lời thuận theo hắn đi, mời hấn ra thương thuyết rồi cho quân mai phục vây bắt, nếu cần bắn chết cũng không sao.
Thế rồi ngày 13 tháng tư, gần một tháng rưỡi sau khi thủ lãnh quân đội Hoà Hảo qui thuận, vào lúc 6 giờ sáng, Ba Cụt đi cùng 10 binh sĩ hộ vệ từ chiến khu ra gặp sứ giả Ngô triều.
Chiếc ghe nhỏ từ miền Hồng Ngự đổ xuống Long Xuyên, vừa cặp bến Chắc Cà Đao, ở phía tây tỉnh ly, Ba Cụt cùng toán hộ vệ vừa mới đặt chân lên bờ thì có tiếng súng nổ. Một toán quân bao vây chĩa súng vào người Ba Cụt đang sa cơ thất thế.
Bị bắt trói đưa về Tư lệnh chiến dịch miền Tây đặt tại tỉnh lỵ Long Xuyên, hai tháng sau Ba Cụt bị đưa ra toà Đại hình và bị kết án xử tử vì tội giết người, cướp của, hãm hiếp kể dầy ba bán cáo trạng.
Một tháng sau, vào lúc 5 giờ 40 sáng ngày 13 tháng 7, Ba Cụt, Lê Quang Vinh bị chém đầu tại nghĩa địa quân nhân Cần Thơ, như một tên cướp không hơn không kém.

Chương 13

Trưa hôm Ba Cụt rơi đầu trên máy chém, tại dinh Độc Lập, một bữa tiệc lớn tụ họp anh em họ Ngô nhân dịp lễ thánh bổn mạng đứa con trai đầu của hai vợ chồng Lệ.
Diệm gọi cháu trai đến bên mình vỗ vai nói:
- Cháu lớn lên rồi bác nhường ngôi Tổng thống lại cho.
Lệ cười nói:
- Anh làm như ghế Tổng thống là ngôi hoàng đế truyền tử lưu tôn không bằng.
- Chớ thím nghĩ không phải sao? Tôi ngồi chức Tổng thống hai nhiệm kỳ cũng mười năm, rồi nhường lại cho chú, thêm mười năm nữa thì vừa cháu lớn lên, đủ tuổi tiếp tục ba cháu để trị vì, nối dõi cho họ Ngô. Còn ai vô đó nữa?
Với tâm trạng tự cho mình có sứ mạng thiêng liêng, như một vị thiên tử từ xưa, Ngô Đình Diệm xem địa vị Tổng thống không khác nào ngôi vua dành riêng cho gia đình họ Ngô, với tất cả những quyền tối thượng.
Một cố vấn chính trị Mỹ, giáo sư Bernard Fall, thuộc tổ chức Liên phòng Đông Nam A đưa ra nhận xét:
- Ngày trước, Hoàng đế lãnh sứ mạng của Trời cho dân chúng chỉ có biết tuân theo. Ngày nay Diệm cũng tự cho mình mang trọng trách đó nên không chịu chấp nhận bất cứ một lời phê bình nào. Người Mỹ phải nằn nì gợi ý cho Diệm vài thể thức "dân chủ" bề ngoài để Diệm đóng vai nhân vật trung thành của thế giới tự do. Eisenhower, Collins thỉnh thoảng lại phải thúc giục, nhắc nhở Diệm là ở thời đại ngày nay người ta không thể trị vì mà không có một hình thức mị dân là đặt ra quốc hội và hiến pháp.
Diệm bực mình bất đắc dĩ phải nghe theo Ngô Đình Nhu với tư cách Cố vấn chính trị của Tổng thống, đưa ra một hiến pháp trao cho Tổng thống có quyền chỉ định tất cả Tổng trưởng, bộ trưởng, chỉ có trách nhiệm trước Tổng thống. Ngoài ra, Tổng thống có quyền ban hành sắc luật trong trường hợp khẩn cấp, chiến tranh, nổi loạn, khủng hoảng kinh tế hay tài chính cùng ban bố tình trạng khẩn cấp, báo động và giới nghiêm.
Mọi sự quyết định của quốc hội đều phải có sự chuẩn y của Tổng thống mới được thi hành.
Về tự do, điều khoản 98 ghi rõ: "Trong nhiệm kỳ thứ nhất Tổng thống có thể ký sắc lệnh tạm thời ngừng thi hành các sự tự do đi lại và cư trú, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do nghiệp đoàn và quyền đình công.
Tổng thống có quyền bỏ tù, bắt giam bất cứ ai bị coi như là nguy hại cho sự phóng thủ quốc gia và an ninh chung.
Diệm nhắc lại cho Lệ nghe, rồi đắc chí nói:
- Với những lợi khí hợp pháp này của chú đã có công đặt ra, họ Ngô có thể danh chánh ngôn thuận trị vì đến muôn năm. Thím có để ý đến chế độ Franco ở Tây Ban Nha không? Cũng là một nước đã bị nội chiến. Cộng sản phá phách, nhưng biết trị vì bằng bàn tay sắt thì duy trì mãi được. Franco cũng là người Công giáo, nhưng không có được viện trợ mạnh của Mỹ như mình đây. Chú và tôi khéo phối hợp hai yếu tố này thì chính quyền bất di bất dịch. Thím coi, hiện trong chính phủ có 41 người là Công giáo, chiếm hết hai phần ba số Tổng trưởng, bộ trưởng và các chức vụ quan trọng mà có ai dám phản đối nói gì đâu? Mình đã mượn tay quân đội diệt trừ yên các giáo phái võ trang, dùng bọn chính trị chạy theo mình để truất phế Bảo Đại, dẹp xong ảnh hưởng của Pháp, thâu gồm tất cả về một mối rồi còn lực lượng nào chống đối mình nữa? Như vậy, việc tôi nói với cháu, trong tương lai sẽ nối chí tôi và ba cháu làm Tổng thống không phải là việc nói chơi cho vui đâu. Đức Cha chỉ có một mình, tôi thì không vợ con, tất nhiên con của chú thím có quyền được thừa hưởng chớ còn ai vô đây?

Diệm còn nói nhiều, nhiều nữa, trong lúc cao hứng nhấp một ít rượu mạnh, nhưng Lệ không còn tâm trí để nghe, vì nghĩ đến cuộc hẹn hò với tướng Đôn ở Đà Lạt. Lệ lấy cớ cho các con đi Đà Lạt đổi gió mấy hôm, và đã nhắn tin cho người tình võ biền lên trên ấy gặp nàng. Chuyến phi cơ riêng chở Lệ và các con "ông cố vấn" sẽ cất cánh vào chiều nay. Ngồi trên máy bay Lệ lấy cuốn sách mang theo, tiểu sử Marie Antoinette của Stefan Zweig, nhìn bức tranh nữ hoàng danh tiếng thời Cách mạng Pháp, để ý chiếc áo mặc hở cổ rộng của người đẹp, liền bảo với bà dì ruột kỹ sư, bí thư của Lệ:
- Dì xem, tôi mặc áo kiểu này có đẹp không?
Ngắm nghía bức tranh rồi nhìn Lệ, bà bí thư đáp:
- Bà cố vấn hợp với kiểu áo như thế này lắm. Để về Sài Gòn tôi sẽ đưa mẫu này bảo thợ may cắt cho bà cố vấn mặc thử. Bà cố vấn có thể lăng xê mốt áo này cho phụ nữ ta bắt chước theo đó.
Lệ có vẻ hài lòng nói:
- Ừ dì lo sao cho sớm để đến đêm dự tiệc đãi khách ngoại quốc vào tối thứ bảy này tôi kịp có mặc thì hay lắm.
- Vâng, còn hai hôm nữa. Như vậy tôi phải trở về Sài Gòn ngay mới kịp được. Máy bay đến Đà Lạt, tôi sẽ trở về Sài Gòn luôn, bảo thợ may cắt gấp, đến trưa thứ bảy bà cố vấn về, cho thử, đến tối có. Bà cố vấn chọn màu gì?
- Tôi sẵn có mấy xấp tơ lụa thượng hạng người ta biếu để ở dinh, dì về biểu lấy mà đưa đi may. Bảo cắt luôn ba chiếc áo màu khác nhau.
- Vâng, tôi sẽ dặn người thợ may quen cẩn thận theo kích thước đã có sẵn của bà cố vấn.
Lệ hỏi:
- Nên đặt cho kiểu áo này tên gì?
- Sao không lấy tên "kiểu áo của bà cố vấn.
Lệ cười gật đầu bằng lòng, rồi đưa tay lật qua những trang sách.
Nàng bỗng để ý chương hai cuốn Marie Antoinette với tiểu tựa "Bí mật phòng trung".
Lệ lướt mắt qua nhanh những dòng chữ, nhận thấy cuộc đời sinh lý của hoàng đế Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette có những điểm y hệt như nàng với chồng. Nhất là Louis XVI sao giống anh chồng nàng đến thế! Lệ mỉm cười trao cho bà bí thư xem đoạn nói về thực trạng cơ thể của Louis XVI, vì yếu hèn về sinh lý, bị dồn ép, nên thường tỏ ra vụng về, nhút nhát, cả thẹn, tránh những cuộc hội họp đông đảo và nhất là xa lánh đàn bà.
Bà dì kỹ sư goá chồng, tiêm nhiễm Tây học khá nhiều, được Lệ mời vào dinh làm bí thư, xem như là một nữ quan hầu cận công nương ngày xưa ở Âu châu, và thường nhỏ to tâm sự. Lệ vẫn trò chuyện bằng tiếng Pháp và gọi bà là "ma confidente"(1), nhất là về các chuyện tâm tình, riêng tư, và tin cậy vào sự kín đáo, dè dặt của người em ruột mẹ nàng.
Bà bí thư nhỏ nhẹ, khéo léo, luôn làm vừa lòng đứa cháu gái tánh nết ngang ngạnh, kiêu kỳ, động cỡn, và lắm lúc bạo mồm bạo miệng lạ lùng. Bà không còn ngạc nhiên trước những ham thích mới lạ thay đổi của Lệ và thường giữ một thái độ vô cùng điềm đạm đối với những hành vi hay những lời nói của Lệ. Bà cũng không phụ lòng Lệ cậy của Lệ, và đoán trước những sở thích đòi hỏi để làm vừa lòng. Thấy Lệ bỗng nhiên đề cập đến người anh chồng mà dư luận trong nước xầm xì là bất lực, không thể gần gũi đàn bà, mà so sánh với vua Louis XVI bà chỉ mỉm cười đáp:
- Cũng có thể như thế được. Song có gì làm bằng chứng cụ thể trong trường hợp đó được? Nhưng cô (mỗi lần thân mật bà vẫn gọi Lệ bằng cô) so sánh Tổng thống với vua Louis XVI là có ý định muốn nói gì?
Lệ không trả lời thẳng vào câu nói, mà đưa một đoạn sách cho bà bí thư đọc như sau:
"Gần như luôn luôn có một định mệnh bí mật định đoạt số phận những việc rõ rệt ở đời; hầu như những biến cố trên thế giới đều là phản ánh của những xung đột thầm kín.
Một trong những điều bí mật nhất của lịch sử là qui cho các sự kiện thầm kín nhiều hậu quả không lường, và đây không phải là lần cuối cùng mà quái trạng dục tình của một cá nhân làm đảo lộn cả chung quanh".
Đợi bà dì đọc xong, Lệ thân mật hỏi:
- Cô nghĩ thế nào?
Bà bí thư không biết trả lời thế nào trước câu hỏi tinh nghịch và bất ngờ của cô cháu, cười cười nói:
- Cô làm cho mọi sự thêm rắc rối về nhận xét lạ lùng của cô. Có thể là đúng mà cũng có thể là sai. Cô không có đủ yếu tố để quả quyết nên không có ý kiến chắc chắn được.
Lệ nghiêm chỉnh nói:
- Cháu chỉ muốn hỏi ý kiến của cô đối với những lời phân tích của tác giả đối với Louis XVI.
Bà bí thư thoái thác trả lời:
- Ừ việc đời có thể như vậy lắm. "Nếu cái mũi của Cléopatre dài thêm một tí nữa", có lẽ cục diện thế giới ngày nay đã biến đổi khác. Lịch sử nhiều lúc đảo lộn, có khi chỉ vì "bí mật phòng khuê" (secret d’ alcôve) như tác giả nói ở đây. Cô cho tôi mượn cuốn Marie Antoinette này đọc nhé.
Lệ nói:
- Cháu phải giao cho cô cuốn sách này để cô đưa về Sài Gòn cho thợ may theo đó mà cả kiểu áo chứ.
- Cô rõ ngốc thật.
Câu chuyện chiếc áo cổ rộng của Lệ phỏng theo Marie Antoinette chấm dứt khi chiếc phi cơ đảo quanh hạ xuống sân bay Liên Khương.
Trong khi Lệ cùng các con về biệt thự riêng ở Đà Lạt thì bà dì bí thư trở về Sài Gòn để lo đốc thúc may kiểu áo hở cổ cho "bà cố vấn" kịp mặc vào buổi dạ tiệc thứ bảy.
Ngồi trên chiếc máy bay trở về, bà bí thư ngẫm nghĩ về thái độ của cháu gái, nhận thấy Lệ đã dần dà rời xa khỏi con đường làm vợ, làm mẹ của một người đàn bà con nhà gia thế.
Các vụ ngoại tình của Lệ gần đây với các vị tướng tá, bà cũng đều nghe biết, và lấy tư cách của một người dì ruột, đã xa xôi nói cho Lệ biết để phòng ngừa những tiếng tăm nguy hại, nếu không phải là kêu gọi nàng trở về với bổn phận. Nhưng Lệ vẫn làm ngơ và có lần còn tỏ vẻ khó chịu, không muốn cho một ai can dự vào đời tư mình.
Từ sau đó, bà bí thư dè dặt tránh hết mọi sự khuyên nhủ cháu gái, ngoài một bức thư gửi cho Bà Trạng Trần, bóng gió nhờ chị ruột viết về ngăn cản Lệ. Song rồi cũng chẳng thấy gì, bà nghĩ có lẽ bà Trạng ở vào một trường hợp có thể khuyên bảo con gái đừng ngoại tình.

Với tư cách bí thư, bà chỉ lo hoàn thành những công việc của Lệ giao phó, đành lòng không biết đến những cuộc phiêu lưu tình ái của Lệ. Thỉnh thoảng Lệ có tâm sự hay hỏi han gì về dư luận bên ngoài đối với nàng, bà giữ một thái độ khách quan trình bày lại những điều nghe thấy không thêm ý kiến riêng hoặc nhận xét của bà, tỏ vẻ hoàn toàn đứng ngoài cuộc đời tư của cháu gái.
Trước sự kín đáo, tế nhị của cô ruột, Lệ càng tỏ ý tin cậy bà hơn và những việc bí mật, quan trọng, nhiều khi Lệ cũng không giấu diếm. Ngoài số lương tháng hậu hĩnh, thừa đủ cho bà ăn ở tại một khách sạn lớn sang trọng cạnh bờ sông Sài Gòn và một chiếc xe hơi riêng có tài xế túc trực, thỉnh thoảng Lệ còn giúp bà một món tiền đáng kể, trích ở số hoa hồng lớn lao của áp-phe.
Goá chồng luống tuổi, bà kỹ sư bí thư cũng không còn đòi hỏi gì hơn, nhất là bà chỉ có một mụn con gái, đang được chu cấp ăn học tại Nhật Bản. Ngoài ra bà không thể lay chuyển được Lệ mà tâm tính càng ngày càng biến đổi theo với quyền hành và tiền bạc quá nhiều ở trong tay.

Một hôm, chồng Lệ đã mời bà vào văn phòng riêng để hỏi chuyện. Nhìn thấy vẻ mặt cháu rể hơi nghiêm trọng, bà đã hơi lo ngại, song đến khi thấy "ông cố vấn" đầy quyền hành, kiêu hãnh, tự cao, kể lể bằng một giọng tâm sự về những hành động ngang trái của vợ và ngỏ lời nhờ bà tìm cách khuyên răn, để tránh tiếng chung cho Lệ và họ Ngô, bà đâm ra mủi lòng, rơm rớm nước mắt bảo Ngô Đình Nhu:
- Cháu cũng nên hiểu cho địa vị khó xử của cô. Vợ cháu thì nóng nảy, nông nổi, nhưng dù sao cô cũng hết sức để khuyên nhủ vợ cháu.
Sau đó, bà đem chuyện này kể lại cho Lệ nghe, để gián tiếp khuyên nàng và dò xem phản ứng ra sao. Lệ chỉ cười nhạt nói:
- Tại sao tôi lại đi yêu người khác? Anh ấy cứ tự hỏi lấy mình thì biết chứ! Có phải tôi muốn thế đâu!
Rồi nàng hạ giọng, tâm sự:
- Cô ơi, cô là đàn bà, cô cũng hiểu rằng tại sao người đàn bà có chồng, có con tử tế mà lại ngoại tình. Cháu cũng khổ tâm lắm chớ. Cháu có vui sướng gì mà nay yêu người này mai yêu người khác. Nhưng số cháu như vậy, biết làm sao? Tại sao cháu lại không có được một người chồng đúng như ý muốn?
Nghe những lời của Lệ thốt ra và rơm rớm nước mắt, bà bí thư thấy ái ngại, không còn hiểu thế nào là phải nữa.
Người chồng có vợ ngoại tình đến nhờ bà, người vợ phiêu lưu đưa ra những lý lẽ bào chữa mơ hồ song không phải là hoàn toàn sai. Ở giữa, với địa vị người dì ruột có thể thay mặt mẹ, bà phải nói với Lệ ra sao đây?
Sau nhiều ngày suy nghĩ, một hôm gặp lúc Lệ đang vui, một mình ở văn phòng, bà đến gần, lấy giọng hết sức dịu dàng, thân ái, rào trước đón sau, mở lời hỏi Lệ vì sao mà phải làm như thế, tiền bạc trong tay, muốn gì được nấy.
- Phải, tôi có nhiều quyền hành, nhiều tiền bạc, nhiều thứ mà mọi người đàn bà đều mong ước và lấy đó làm thoả mãn, cho thế là đẩy đủ mãn nguyện lắm rồi, nhưng tôi thành thật hỏi dì, và cũng mong dì thành thật trả lời tôi, là giàu sang, danh vọng có mang lại hạnh phúc không? Địa vị của tôi hiện giờ, đường đường một vị đệ nhất phu nhân, ai cũng cho là sung sướng tột bậc rồi và có lẽ dì cũng nghĩ như thế, chắc hẳn một người đàn bà được đến chỗ cao sang như vậy còn mong muốn gì hơn nữa? Nhưng đối với tôi thì không? Dì muốn bảo là cháu của dì có nhiều tham vọng quá đáng, có nhiều đam mê tưởng tượng, hay tâm hồn quá mơ mộng, lãng mạn… hoặc dì có thể nghiêm khắc buộc tội cháu là hư hỏng, "mẹ nào con nấy" - (telle mère telle fille - nguyên văn lời nói tiếng Pháp của Lệ) - quen thân mất nết đi rồi, thì cháu cũng đành chịu… Song dì bấy lâu ở gần cháu, thân thiết với cháu còn hơn là mẹ cháu nhiều lắm, và dì là người đàn bà mà cháu thật tình mến hơn cả mẹ cháu nữa… dì có học thức khá, từng trải ở đời, đứng tuổi, chắc chắn là dì phải có nhận định hơn những người đàn bà thường tình khác, cháu hỏi thật dì nếu dì ở vào chỗ của cháu thì dì có như cháu không, dì sẽ ra sao?
Những lời nói dồn dập, có vẻ đầy chân thành của Lệ thốt ra không ngớt, như dồn bà kỹ sư - bí thư họ Trần - vào chân tường tình cảm. Bà cũng không dè đứa cháu gái lại quá ác đẩy cô vào một góc cạnh tâm tình éo le như vậy. Trước tâm trạng phô bày không che đậy của Lệ, bà không thể đáp lại bằng lối giả dối né tránh hoặc trả lời qua loa cho xong chuyện là được. Lệ đã quý mến, chân thành tâm sự hỏi han, lẽ nào bà dì ruột mà Lệ đã xác nhận là nàng thấy thân cận hơn mẹ, lại không đối xử thật tình? Dù Lệ có không bằng lòng vì những lời lẽ của bà, hoặc có xảy ra những gì phương hại đến địa vị "bí thư của bà cố vấn" do sự sứt mẻ tình cảm chăng nữa vì thái độ ngay thật của bà, thì bà cũng phải nói ra. Lòng tự ái của một phụ nữ học thức, tình yêu thương đối với cháu, sự khôn ngoan của bà goá phụ kỹ sư và kinh nghiệm sống của một phụ nữ đài các, con nhà thi lễ, nho giáo, đã tiêm nhiễm sâu đậm nếp sống Tây phương, bao nhiêu yếu tố phức tạp ở người đàn bà xuân sắc đã ngoài bốn mươi nhưng chưa phải là già, khiến bà hồi tưởng lại thời còn trẻ trung, tràn đấy nhựa sống và tình yêu của mình.
Nghĩ đến người chồng kỹ sư chết sớm, vì thiếu sức khỏe, bỗng nhiên bà đâm ra ân hận, nghĩ là mình đã có trách nhiệm một phần nào khiến cho người bạn trăm năm nửa chừng lìa bỏ cuộc sống. Trong bao nhiêu nguyên do phải chăng là vì nhiều lúc dường như ông kỹ sư cố vấn để làm thoả mãn những đòi hỏi của bà vợ đầy xuân sắc, rồi do đó mà kiệt sức thành lao đến đỗi mệnh một?
Trong thoáng qua, nỗi ân hận của người đàn bà thương chồng, cương quyết ở vậy không chịu tái giá, dù lắm khi bị những thôi thúc bên ngoài và ở nội tâm, bà góa phụ kỹ sư nghĩ đến Nhu hình như đã phải nghiền chất ma tuý để làm thoả mãn vợ, mà đâm ra thương hại lạ lùng. Bà nghĩ đến bao nhiêu cố gắng đè nén những đòi hỏi xác thịt của bản thân mình, từ sau khi chồng chết, nhất là vào độ hồi xuân mà không khỏi rùng mình.
Ngày nay, đã quá nửa đời người, mái tóc dài đen mướt đã chen lẫn những sợi bạc, mà đôi khi lòng bà còn rung động khác thường, qua vài hình ảnh, đôi ba trang sách gợi nhớ lại thời son trẻ. Trong khi bà thuộc vào thế hệ cũ, câu "tam tòng tứ đức" và khuôn mẫu người đàn bà "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" in sâu vào đầu óc đã khởi sự học vỡ lòng bằng kinh sách chữ Hán "nhân chi sơ tánh bản thiện", đúng theo nền nếp con nhà vọng tộc. Dòng dõi đại gia, quý phái đã kềm giữ, ràng buộc bà trong đường lối nghiêm ngặt đến khắt khe của lễ giáo cổ truyền, từ lúc còn con gái đến về nhà chồng, cho tới sau khi chồng chết. Mặc dù ông cụ thân sinh là Đồng Các Đại Học Sĩ, nho học tinh thông, bà là một người thấu hiểu văn hoá Tây phương, qua bảy năm trời học hỏi và sống tại Ba Lê, có nhiều tư tưởng phóng khoáng, tiến bộ, và sống một cuộc đời rộng rãi, tự nhiên. Nhưng nếp sống nho phong trong gia đình và hoàn cảnh chung quanh đã làm cho bà thuần phục với những hình thức truyền thống từ thời thơ dại. Những năm theo học chữ Pháp, ảnh hưởng của văn hoá Tây phương không biến đổi được con người phụ nữ Đông phương ở bà và đến lúc về làm vợ nhà kỹ sư đầu tiên của Việt Nam mà thiên hạ gọi là "ông bác vật" bà cũng giữ mình như vậy.

Tính chất thuần thục, chịu đựng của phụ nữ Á Đông dường như đã ảnh hưởng sâu đậm đến tâm trạng của bà, khiến bà không khỏi kinh ngạc rồi đau xót khi nghe thấy người chị ruột cùng cha, một mẹ, cũng một dòng máu với mình, bà Trạng Trần, lại có thể vượt khỏi lề lối đã vạch sẵn cho người đàn bà phương Đông. Bà đã âm thầm buồn khổ trước những hành động quá lãng mạn của chị ruột, mà không biết làm cách nào ngăn cản, rồi nay đến lượt con gái của chị.
Những lời lẽ bộc lộ của Lệ làm cho bà không khỏi băn khoăn, ngỡ ngàng. Rồi trong thoáng qua, bao nhiêu thắc mắc, kỷ niệm quá khứ hiện ra, bà im lặng suy nghĩ hồi lâu, rồi thong thả nói:
- Trước hết, với tư cách là dì ruột của cháu, dì xin thành thật nói với cháu là dì cũng đã sống qua tâm trạng của một người vợ không được thoả mãn, nhưng dì thuộc vào lớp người đàn bà xưa, bắt đầu đi học bằng chữ nho. Ông ngoại cháu đã cho mẹ cháu với dì đi học chữ Pháp, đến độ nói năng được trôi chảy như dì đang nói với cháu đây, song có hấp thụ văn minh Tây phương dì cũng là thế hệ của phụ nữ Á Đông, do đó mà lối suy nghĩ cũng như tâm hồn, nếp sống của dì khác xa cháu nhiều. Cháu là người của thế hệ sau, gần gũi với đời sống mới, không bị ảnh hưởng ràng buộc của lễ giáo cổ kính xưa.
Lệ ngắt lời, hỏi đột ngột:
- Thế còn mẹ cháu thì sao? Mẹ cháu cũng cùng một thế hệ như dì, tuổi lớn hơn dì nữa, tại sao lại không giống như dì, mà còn có các cuộc phiêu lưu lãng mạn, và vẫn có lẽ đa tình lắm vậy?
Bà goá phụ phân vân một lúc, rồi đáp:
- Mẹ cháu tuy cũng đã học chữ nho như dì, và mẹ cháu còn giỏi hơn nữa, làm được cả thơ Đường luật bằng chữ Hán, song mẹ cháu gặp một hoàn cảnh khác, tiêm nhiễm qua nhiều nếp sống Tây phương, lại không lấy được người chồng theo như lý tưởng mơ mộng của mình, nên mới sinh ra những chuyện này nọ. Dì vẫn thấy thương hơn là trách mẹ cháu, mặc dù không khỏi xót xa vì những lời thiên hạ đàm tiếu đến gia phong nhà họ Trần. Cho nên, vừa rồi cháu hỏi dì mà thật tình dì cũng không biết nói sao cho nó phải. Mỗi người có một hoàn cảnh, một lối sống, có thể nào bắt ai giống ai được đâu? Ở đời, có ai dám tự cho mình là hoàn hảo để lên tiếng chê trách người khác. Dì chỉ lấy tình thân thích ruột rà mà cầu mong cho cháu tránh được mọi tiếng tăm không hay, ngày nay đường đường cháu là mệnh phụ, đệ nhất phu nhân…
Những lời nói khôn khéo, ngọt ngào của bà kỹ sư ngỏ với Lệ như khích động đến yếu điểm tình cảm của nàng khiến Lệ gục đầu thổn thức mà không nói. Một lúc lâu, Lệ ngước lên, đôi mắt long lanh, cương nghị nói:
- Cháu xin cám ơn dì. Dì nên hiểu cho rằng cháu không phải là hạng đàn bà thường tình, và cháu quyết không bao giờ cam chịu số phận nhẫn nhục, hèn yếu. Cháu có những hoài bão, những tham vọng riêng… Tại sao cháu không trở nên một Catherine de Russie, một Marie Stuart cầm đầu thiên hạ?
Bà kỹ sư nhỏ nhẹ hỏi:
- Cháu có tin tưởng ở Chúa không?
Lệ ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Dì cũng rõ: cháu theo đạo từ ngày về nhà chồng. Tin ở Chúa hay không, thật tình cháu cũng không đặt thành vấn đề, vì cháu chỉ là người đạo mới. Lúc này cháu chỉ biết rằng gia đình nhà chồng sùng đạo, và Công giáo là cả một lực lượng quan trọng, có thể làm hậu thuẫn mạnh cho chánh quyền, cho địa vị họ Ngô. "Noblesse oblige" (phú quý sinh lễ nghĩa), cháu cũng phải tỏ ra là mình ngoan đạo.
- Dì muốn hỏi cháu có tin ở Chúa không, vì nếu dì không lầm thì lẽ đạo có những điều mà cháu cần phải lưu ý thận trọng.
Lệ bỗng phá lên cười:
- Xin lỗi dì cho phép cháu cười, vì trông vẻ mặt nghiêm trọng của dì cháu sực nhớ đến bộ điệu như thế của một ông cha mà cháu đã xưng tội, và sau đó chính ông ta nhờ cháu để xin áp phe. Dì vì thương cháu mà chân thành nghiêm nghị, còn vị linh mục kia…
Lệ lại cười, rồi nói tiếp:
- Cháu thấy anh chồng sớm tối cầu kinh như là mua "tích-kê" để dành sau này lên thiên đàng, và cứ gặp việc khó khăn quan trọng gì cũng ra ghế cầu nguyện một lúc rồi mới giải quyết… Thật cháu cũng lấy làm khó hiểu quá.
Rồi như thắc mắc điều gì, Lệ bỗng hỏi bà dì:
- Dì có biết lịch sử gia đình Giáo chủ Borgia?
Những giây phút tâm sự giúp cho bà dì hiểu thêm cháu gái, tính nết ngày một biến đổi quá quắt theo những quyền hành càng vững chắc, toả rộng của anh em họ Ngô, mà Lệ có một ảnh hưởng mạnh mẽ.
Trong khi chồng nàng lặng lẽ, kín đáo nắm giữ quyền hành thống trị thực sự bên cạnh người anh Tổng thống với một hệ thống tổ chức chặt chẽ chi phối mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao… đặt tất cả dưới quyền vô hình của Đảng Cần Lao Nhân vị mà không Lệ là linh hồn, thì Lệ cũng thành lập riêng một triều đình nhỏ trong dinh Độc Lập.
Khác hẳn với đạo quân phòng vệ Tổng thống phủ theo kiểu vệ binh hoàng đế La Mã và đạo binh mật vụ theo tổ chức Gestapo thời Hitler của chồng, đạo quân của Lệ chuyên chú hoạt động về kinh tài, với thành phần gồm các nhân vật cao cấp trong ngành kinh tế, ngoại thương, quan thuế, hối đoái… các tay kinh doanh áp phe, đám dược sĩ, nghị sĩ, đại sứ, bộ trưởng, giám đốc… cùng những "bà lớn" tình nguyện đầu quân làm thuộc hạ "bà cố vấn".
Mỗi ngày bà bí thư xếp vào hồ sơ bao nhiêu kế hoạch, chương trình, đề nghị của đạo quân kinh tài trình lên bà cố vấn xét.
Một chữ bút phê trên giấy, một lời nói ở điện thoại của Lệ, không phải chỉ "đáng giá ngàn vàng" như nụ cười của người đẹp kề cận quân vương ngày xưa, mà có giá trị hàng chục triệu đồng.
Cạnh bên Tổng thống, một sự đồng ý, chấp thuận của Lệ để cho một cái môn bài xuất nhập cảng, cũng có thể mang lại cho nàng một số tiền hoa hồng đáng giá bao nhiêu triệu bạc, trong khi kẻ thụ hưởng (phần lớn là ngoại kiều Hoa thương) được lãi gấp bội.
Hoạt động kinh tài chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã đem lại cho Lệ một số tiền lớn lao ở các trương mục ngân hàng, và phần lớn nàng cho chuyển thành ngoại tệ.
Với sắc lệnh tịch thu tài sản của Bảo Đại và Bảy Viễn, trong khi chồng nàng lấy không 2 tấn thuốc phiện của Bình Xuyên, Lệ chiếm làm của riêng biệt điện cựu hoàng ở Đà Lạt, nhường dinh thự săn bắn ở hồ Buôn Mê Thuộc của Quốc trưởng cho chồng.

Phân bì với chị chồng, bà goá phụ Cả Lễ giành độc quyền buôn bán, chuyên chở từ Sài Gòn ra Huế, và đấu thầu khắp miền Trung mỗi tháng có thể kiếm lợi hàng bao nhiêu triệu, Lệ còn đòi anh chồng Tổng thống và buộc chồng phải để cho mình trông nom kinh tài của gia đình. Nghĩa là xem xét tất cả mọi công cuộc về ngoại thương, phân phối tiền viện trợ Mỹ, tìm cách thâu lợi cho gia đình.
Việc cung cấp than củi và rau cải cho hai triệu dân ở Sài Gòn - Chợ Lớn, Lệ cũng dành cho tay chân của nàng. Mấy thuộc hạ trung thành từ buổi đầu như đại sứ Mai Văn Hàm, dược sĩ Hoàng được Lệ tín nhiệm giao phó các công việc kinh doanh lớn, liên lạc với ngoại quốc.
Đạo binh má chín mới xuất hiện với triều lưu đô-la, đặt dưới quyền chỉ huy của Lệ, hoạt động từ trong nước qua các chi nhánh nguỵ trang dưới các toà tổng lãnh sự, đại sứ khắp nơi từ Vọng Các, Hương Cảng, Đông Kinh qua Ba Lê, Luân Đôn, Hoa Thịnh Đốn…
Để củng cố ảnh hưởng lớn lao của mình, buộc người anh chồng Tổng thống phải hoàn toàn lệ thuộc, cũng như chồng nàng. Một hôm Lệ nhờ đến bà dì bí thư giúp một tay, Lệ dặn dò:
- Tối nay dì ở lại trong dinh, cháu có chút việc cần nhờ đến. Chỉ có dì là có thể giúp cháu được việc nên cháu mới giao phó cho dì, mà cháu biết là tin cậy được.
Bà dì bí thư chưa rõ việc gì song nhận thấy vẻ nghiêm trọng, đắn đo của Lệ, cảm thấy một điều gì khác thường, liền nói:
- Cô đã nhờ đến dì, dù khó khăn dì cũng phải làm. Cô có thể yên trí mà nói cho dì biết.
Lệ mở ngăn kéo bàn giấy lấy ra một chiếc máy ảnh mới, kiểu tối tân của Đức, chỉ bảo cho bà dì bí thư cách chụp rồi nói:
- Máy ảnh này có thể chụp ban đêm cũng rõ như thường, và loại phim đặc biệt này không cần có ánh sáng cũng thu hình rất rõ. Dì đã nhớ kỹ cách thức chụp chưa?
- Rồi. Dì cũng biết chụp ảnh, và cách sử dụng máy ảnh này không khác mấy với máy của dì. Nhưng cháu muốn bảo dì chụp những gì?
- Dì ở lại trong dinh đêm nay, và dì nằm ngủ ở phòng của cháu vào lối khuya, lúc nào cháu ra hiệu thì dì cứ việc hé cửa phòng ngủ của cháu ra để chụp. Dì có thấy những gì trước mắt cũng vậy, dì cứ việc bấm chụp, hết cả cuộn phim càng tốt. Điều cần thiết là dì phải bình tĩnh mà chụp, nhắm vào người cháu mà chụp, dì nhớ rõ chưa?
Bà dì bí thư không dám hỏi thêm, và không khỏi thắc mắc, chẳng hiểu cô cháu gái mình sắp sửa bày trò gì đây.
Chiều hôm ấy, bà thấy Lệ cho gọi máy ả xẩm Hồng Kông chuyên môn sửa sắc đẹp, uốn tóc, đấm bóp cho "bà cố vấn" vào phòng riêng trang điểm cho Lệ.
Tối đến, Lệ lộng lẫy đi ra, mình vận một bộ quần áo voan mỏng màu hồng, nửa kín, nửa hở, như phô bày thêm những đường cong, hình nổi trên người: Mái tóc chải bồng, loã xoã trên trán, hai mắt như lớn đen thêm dưới môi mày tô đậm, làn môi đỏ thắm ươn ướt nồng nàn.
Thường ngày trong dinh Độc Lập, Lệ vẫn trang phục như một vũ nữ Ba Lê (danh từ của Nhu trách vợ) đi qua lại các phòng, mặc các nhân viên cận vệ, phục dịch phải nhìn tránh đi. Ông anh chồng Tổng thống không vợ, thấy cô em dâu lồ lộ qua lớp tơ lụa mỏng manh, có khi ngang nhiên đi vào bàn giấy đứng thẳng trước mặt, khiến Diệm cả thẹn phải quay mặt đi, không biết nói sao.

Một lần "Đức Cha" ở Vĩnh Long lên, thấy Lệ tự nhiên trong lớp quần áo bộc lộ mơ hồ khêu gợi đon đả lại gần chào hỏi, ông không dám nhìn thẳng Lệ, tay cầm chặt chiếc thánh giá lủng lẳng trước ngực áo tím.
Từ chồng đến các anh chồng Tổng thống, tổng giám mục không ai lên tiếng quở trách hay chỉ trích, Lệ càng yên trí thêm trong sắc phục khêu gợi, loã lồ kín hở. Chiếc "xì-líp" và hai "coóc-xê" ren thêu hiệu "scandale" ôm sát hai bộ phận cần che đậy của người đàn bà, là còn ngăn Lệ không phô bày toàn vẹn thân xác mình trước mắt chung quanh. Lớp voan trong suốt chập chờn làm cho toàn thân Lệ khi ẩn khi hiện, tạo nên một cảnh khêu gợi hư ảo lạ lùng với mùi nước hoa phảng phất quyến rũ như không khí trong chuyện Liêu Trai với hồn hoa hay hồ ly tinh hiện hình người đẹp cám dỗ đàn ông.

Lệ là người đàn bà độc nhất có thể lui tới gần người anh chồng nhút nhát, xa lánh phụ nữ, từ sau khi vỡ mộng yêu đương đầu tiên và những toan khoác áo tu hành.
Từ nhỏ lớn lên trong khung cảnh sùng đạo, chế ngự thể xác, rồi thất vọng vì tình, Ngô Đình Diệm sống trong một khuôn khổ trái tự nhiên, không tu hành mà phải dồn ép những ham muốn tự nhiên, chịu đựng khổ hạnh của hạng người yếm thế, mộ đạo, rồi dần dà đi đến trạng thái khắc khổ, ẩn ức.
Lệ đã ví anh chồng với vua Louis XVI trong buổi đầu thành hôn cùng Marie Antoinette, bà dì bí thư mới nghe còn ngạc nhiên, song đến khi để ý về lối sống quái lạ của Diệm, nhận thấy lời của Lệ là đúng:
- Anh chồng tôi là một người bị dồn ép.
Lợi dụng nhược điểm ấy, Lệ dùng ma lực của nàng để chi phối Diệm. Lối trang phục hấp dẫn của Lệ và những lời thỏ thẻ của nàng sát bên tai, thường làm cho Diệm lúng túng, cuống quít, nhất là mỗi khi Lệ đứng sau lưng, người nàng đụng chạm vào vai anh chồng, khiến Diệm đờ đẫn, đỏ mặt. Lúc ấy Lệ đưa ra giấy tờ gì bảo ký, Diệm cũng không từ chối, hoặc nàng đề nghị xin xỏ gì đều được Diệm gật đầu luôn.
Hơn một lần, bà dì bí thư nhận thấy thái độ tinh nghịch, quái ác của cháu gái đối với anh chồng ẩn sức sinh lý mà thương hại cho vị Tổng thống nhút nhát, ngoan ngoãn trước cô em dâu gợi tình, khêu khích ỡm ờ, nhất là những lúc chỉ có một mình Diệm.
Một bận, người hầu cận Tổng thống kể lại với bà dì: "Có lần con vừa bước đến cửa văn phòng, chợt thấy "bà cố vấn" đang ngồi trên thành ghế bành của ông cụ. Ông cụ quay lưng ra không thấy con vô, nhưng bà cố vấn liếc ra, cau mày lại, quắc mắt như xua đuổi, con sợ hãi vội vàng lui ra".
Sợ bà cố vấn nổi cơn lôi đình, người hầu cận Tổng thống chạy đi tìm bà dì bí thư thuật lại sự việc và năn nỉ, cầu khẩn nhờ xin dùm với bà cố vấn bỏ qua cho. Bà bí thư dặn dò người hầu phải kín miệng, không được kể lại những điều trông thấy với bất cứ ai.
Sau đó, không thấy Lệ tỏ vẻ gì, bà bí thư cũng thôi không nhắc đến lời van xin của người hầu cận. Lệ đã quen đi, hay là bất chấp chung quanh?

Những hành động táo bạo của Lệ đối với anh chồng có vẻ quá tự nhiên khiến bà dì bí thư cũng đâm ra ngỡ ngàng khó hiểu, không khỏi ân hận là mình ngờ oan cháu gái, gán cho những cử chỉ cởi mở, hồn nhiên của nàng một ẩn ý ám muội.
Cho đến hôm Lệ yêu cầu ở lại đêm trong dinh và đưa chiếc máy ảnh nhờ chụp, bà bí thư biết không thể viện cớ gì để từ chối và không khỏi hồi hộp trong khi chờ đợi bà sẽ chụp những gì đây?
Suốt tối hôm ấy, bà ngả lưng ở ghế dựa trong phòng Lệ, tay cầm cuốn tiểu thuyết trinh thám của Simenon mà không đọc quá mấy trang, vì đầu óc bấn loạn không biết mình sắp chứng kiến những gì mà Lệ có vẻ bí mật không cho bà hay trước.
Thấy Lệ trang sức lộng lẫy, ngào ngạt mùi nước hoa quyến rũ, rồi khoác kimono lên giường vào lúc mười giờ, bà hơi ngạc nhiên thấy nàng đi nằm sớm khác lệ thường.
Theo lời Lệ dặn, bà để sẵn chiếc máy ảnh trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh, quay ngọn đèn đọc sách lại gần, ngửa người trên ghế vải, lặng yên nghĩ ngợi.
Trong im lặng, bỗng nghe tiếng nói của Lệ cất lên:
- Dì ơi, theo ý của dì, đối với người đàn bà cái gì là đáng kể trước hết? Tình yêu, hôn nhân, tiền bạc, danh vọng, quyền thế chọn cái nào trước?
Bà bí thư chưa kịp trả lời bỗng thấy Lệ ngồi nhổm lên, lặng lẽ đẩy cửa ra ngoài. Các con Lệ đang ngủ ở phòng riêng bên kia, chồng nàng đi Ban Mê Thuộc săn bắn từ chiều hôm qua cùng một cố vấn Mỹ, chỉ còn lại một mình "ông cụ" có lẽ đang còn thức ở văn phòng.
Trong lòng phập phồng, bà bí thư nghi ngại cô cháu quái ác đang sắp đặt một trò oái oăm gì đây, và bắt bà phải chứng kiến, thu chụp vào máy ảnh.
Bà đang thắc mắc lo ngại thì Lệ từ ngoài vào, vặn tắt hết đèn, ngồi ở thành giường im lặng. Tiếng chuông đồng hồ nhà thờ Đức Bà vẳng lại mười hai tiếng ngân nga trong đêm yên vắng. Bà bí thư ngồi yên, lắng nghe tiếng dép lẹp xẹp của "ông cụ" đi đến giữa phòng ngoài ngừng lại, rồi tiếng rầm rì đọc kinh.
Trong im lặng nghe rõ cả tiếng thở của mình, lối mười phút, bà bỗng thấy Lệ đứng lên, hét một tiếng rồi vụt chạy ra ngoài.
Qua cửa phòng hé mở, bà thấy Lệ đang ôm chầm lấy anh chồng vừa đứng lên trước ghế cầu nguyện. Lệ chỉ khoác lên người một chiếc kimono mỏng tanh ghì chặt lấy "ông cụ", gục vào vai người đàn ông luống cuống mà thất ra những tiếng dứt quãng:
- Em mơ… sợ quá… anh ơi…
Bà bí thư đưa máy ảnh lên bấm lia lịa, không còn kịp xúc động phản ứng trước cảnh tượng bất ngờ trước mắt.

Dưới ánh sáng mơ hồ từ vách tường hắt ra giữa gian phòng rộng mênh mông bóng láng như một sàn nhảy, "ông cụ" dìu cô em dâu trang phục lộ liễu bám víu lấy người, trông như đôi lứa đang mê man trong một điệu luân vũ.
Bà bí thư chụp gần chọn cuốn phim, vội khép nhẹ cửa phòng lại, đặt máy ảnh lên bàn, rồi ngả người trên ghế, thở ra như vừa trút xong một gánh nặng.
Nằm thiếp đi, bà bí thư không rõ mình chợp mắt được bao lâu, đến lúc chợt tỉnh đã thấy Lệ ở trên giường vẻ mặt tươi tỉnh.
Ngắm nhìn cháu gái mái tóc loà xoà trên trán, bà bí thư tự hỏi không biết những mưu toan gì ở trong đầu óc kia đã xúi Lệ bày đặt ra cảnh dị thường vừa rồi?
Trong lúc Lệ lôi cuốn anh chồng vào cạm bẫy của mình thì ở rừng Cao nguyên, dưới mái lều vải căng dựng bên bờ suối có đám sĩ quan cận vệ canh phòng chung quanh, sau cuộc săn bắn bò rừng hồi chiều, Ngô Đình Nhu cùng cố vấn Lajinsky vừa uống cà phê Rhum vừa bàn luận chính trị.
Cố vấn Lajinsky nhắc lại những lời phê bình của một số báo chí Mỹ gần đây, nói:
- Họ cho rằng nền tảng xã hội và chính trị của chế độ hiện nay, căn cứ vào mấy yếu tố sau đây:
1, Tầng lớp phong kiến, địa chủ, quan lại ở Bắc vào, cộng thêm hàng ngũ phong kiến ở Trung và Nam.
2, Tầng lớp mại bản trước đây chạy theo Pháp và lớp kinh doanh mới chạy theo đô-la.
3. Tầng lớp ô hợp, phiêu lưu, thông ngôn, phát sinh với viện trợ Mỹ, thành bộ máy đàn áp của chế độ.
4. Tầng lớp Công giáo di cư.

Tầng lớp phong kiến thì tham lam, chia rẽ, chứa đầy mâu thuẫn, lớp mại bản thân Mỹ giành chiếm mọi công cuộc kinh doanh lớn, đa số giáo dân di cư nghèo, chán nản chính quyền, còn bọn phiêu lưu ô hợp, thông ngôn ngày càng lộng hành, tiền viện trợ Mỹ dùng để nuôi chúng thành một đạo quân trong bộ máy đàn áp, khủng bố lớn lao của chế độ.
Những điểm phân tích và chỉ trích trên đây, không đáng ngại bằng dư luận phản đối trong giới Công giáo ở Sài Gòn. Theo tin tức của cơ quan CIA thu thập được thì các tầng lớp giáo dân ở thủ đô, vốn rộng rãi và cởi mở, thích tư tưởng mới, ghét hệ thống đẳng cấp và không ưa một chính phủ chịu ảnh hưởng nếp phong kiến quân chủ, theo tinh thần thời trung cổ. Họ trách chính phủ ông Diệm như vậy đó ông cố vấn nghĩ sao?
Ngô Đình Nhu trầm ngâm suy nghĩ, rồi hỏi:
- Có bằng chứng gì cụ thể không?
Cố vấn Mỹ đáp:
- Tôi nhận thấy bằng chứng rõ rệt là Cha sở họ Sài Gòn, linh mục Hồ Văn Vui đã nói lên trong một lần giảng tại nhà thờ Đức Bà sau lần than phiền bị chính quyền đàn áp, lên tiếng kêu gọi giáo dân "Cầu nguyện Chúa nhổ những cỏ dại xâm chiếm chúng ta". Cha Vui còn yêu cầu giáo hữu đừng đi bỏ phiếu bấu cử Quốc hội nữa, tôi tưởng ông cố vấn cũng đã biết rõ việc đó rồi. Như vậy mà Tổng thống không khéo thu xếp, lại để cho ông Chủ tịch Quốc hội viết thư phản đối và đưa linh mục Vui ra toà. Do đó phát sinh mâu thuẫn, xung đột giữa Đức Cha Thục với Đức Giám mục Phạm Ngọc Chi, Nguyễn Văn Hiền, Lê Hữu Từ…
Tôi nghĩ rằng ông cố vấn phải can ngăn Đức Cha, kẻo rồi có thể sinh sự lôi thôi ở ngay trong hàng ngũ các chức sắc Công giáo đối với Đức Cha. Như trường hợp Đức Cha Nguyễn Văn Hiền được Toà thánh Vatican phong làm tổng Giám mục Sài Gòn mà bị làm khó dễ, giấy tờ phong chức Đức Cha Hiền bị giữ tại bưu điện ba hôm, báo chí được lệnh không được nói đến tin đó. Đức Cha Thục lại bay đi La Mã để vận động bãi bỏ quyết định của Toà thánh mà không xong. Rồi đến nỗi các Cha phải loan tin cho giáo dân biết ở nhà thờ, và Đức Cha Hiền phải lên tiếng về vấn đề này, nhắc tới việc rút phép thông công, khi ấy chính phủ mới chịu công nhận. Tôi tự hỏi tại sao ông cố vấn lại để cho sự việc xảy ra đến như vậy, làm mất ảnh hưởng và gây mâu thuẫn lớn ngay chính trong hàng ngũ Công giáo, những người đáng lẽ phải ủng hộ chính phủ do một giáo hữu giữ chức Tổng thống.
Ngừng một lúc, cố vấn Lajinsky nói tiếp:
- Ngoài vấn đề tôn giáo, tôi thấy ông cố vấn nên lưu ý đến những hoạt động kinh tài gần đây của một số người tự xưng là nhân viên của bà cố vấn. Tôi nghe cơ quan CIA đã có nắm giữ được một số tài liệu về những vụ đó rồi. Nói cho ông cố vấn rõ để phòng ngừa.
- Dù Công giáo hay không mà đối lập thì phải trừ đi?
Với chủ trương đó, anh em họ Ngô sau khi loại trừ và tịch thu tài sản các Tổng trưởng, tướng lãnh của Bảo Đại hoặc thân Pháp, cùng các thủ lãnh giáo phái và Bình Xuyên xoay qua đàn áp các linh mục có thái độ độc lập đối với chánh quyền.
Cha sở Gia Định, Huỳnh Văn Của bị bắt giam và kết án 18 tháng tù về tội "để cho xe hơi bất hợp pháp đậu ở trong địa phận nhà thờ Gia Định". Linh mục di cư Vũ Đình Trác, chủ nhiệm tuần báo "Đường Sống" cũng bị giải toà, kêu án 18 tháng tù vì đăng một bài báo "làm hại đến tinh thần dân chúng" đã viết: "… nhiều trại di cư có tổ chức các buổi đọc kinh cầu nguyện Chúa ban sức khỏe và duy trì sự sáng suốt cho Tổng thống để dân chúng giữ được tín nhiệm buổi đầu đối với người…".
Đồng thời với công cuộc triệt hạ những phần tử đối lập, anh em họ Ngô đưa ra chiêu bài "Tố Cộng" để trừ khử các môn đồ trung thành của các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo còn ngấm ngầm hoạt động ở Hậu Giang và Tây Ninh.
Các chức sắc Cao Đài có khuynh hướng ủng hộ giáo chủ Phạm Công Tắc đã lưu vong sang Cao Miên, đều lần lượt bị bắt. Hàng ngàn tín đồ bị đưa đi trại tập trung.
Để phản đối chính sách khủng bố của họ Ngô cho binh sĩ chiếm đóng vùng Tây Ninh, hàng vạn tín đồ Cao Đài đã biến một đại lễ ở Toà thánh thành một cuộc biểu tình khổng lồ chống lại phái đoàn chính phủ cùng đoàn quay phim Mỹ.
Mặc dầu bị đàn áp gắt gao, khí thế của giáo phái Cao Đài vẫn mạnh mẽ, khiến đầu năm 1957, anh em họ Ngô phái đại diện đi Nam Vang gặp giáo chủ Phạm Công Tắc để thương thuyết, mời về hợp tác.
Vị giáo chủ Cao Đài đưa điều kiện đòi Diệm phải thả hết những người Cao Đài bị giam giữ chấm dứt chiến dịch gọi là Tố Cộng để dễ bắt bớ những tín đồ các tôn giáo, ngưng hẳn đàn áp chống các giáo phái, ban hành các tự do dân chủ và thành lập một chính phủ Liên hiệp quốc gia.
Không mua chuộc, dụ dỗ được giáo chủ Phạm Công Tắc, anh em Diệm tiếp tục chính sách kỳ thị tôn giáo, song vẫn triệt hạ được sức chống đối ngấm ngầm của các tín đồ Hoà Hảo, Phật Giáo, Minh Nhơn ở miền Tây, và Cao Đài ở miền Đông.
Với chính sách dùng mật vụ, công an và quân đội để củng cố giữ vững chính quyền, anh em họ Ngô đã thành công trong buổi đầu dưới sự che chở của Mỹ.
Vượt qua mọi dư luận trong và ngoài nước, phủ nhận tổng tuyển cử để thống nhất Nam Bắc theo hiệp định Genève, gia đình họ Ngô từ đây một mình chế ngự miền Nam, qua sự ca ngợi hàng ngày của báo chí mà bác sĩ mật vụ đã biến thành những tay sai chuyên môn tâng bốc chính quyền.
Một tháng sau ngày 20 tháng bảy 1956, Ngô Đình Nhu cùng anh đưa ra nghị định buộc những người Hoa kiều ở Việt Nam phải bỏ quốc tịch để xin Việt hoá. Rồi tiếp theo, một sắc lệnh cấm ngoại kiều hành nghề có phương hại cho dân bản xứ.
Nhu bàn tính cùng anh:
- Các biện pháp này vừa nhằm mục đích chính trị và kinh tế. Trước hết là chứng tỏ tinh thần quốc gia của chính phủ, thứ đến nhờ đó mà mình chiếm lại những vị trí thương mại cho bà con tay chân. Theo những số liệu Hoa kiều hiện nay có lối một triệu, riêng ở Sài Gòn - Chợ Lớn có 2.684 hộ công nghiệp, 653 về thực phẩm và 625 về tơ sợi, 3.979 nhà hàng và nhà ăn.
Biện pháp của họ Ngô thi hành vào lúc chính phủ Tưởng Giới Thạch đang gặp khó khăn với Mỹ, vấp phải phản ứng của những thương gia Hoa kiều ở Chợ Lớn. Họ đua nhau lấy hết tiền ở các ngân hàng, ước lượng một tỷ rười bạc, tức là 1 phần 6 số tiền lưu thông hàng ngày trên thị trường Việt Nam. Những Hoa kiều ở Hương Cảng, Tân Gia Ba phản đối theo bằng cách tẩy chay hàng hoá của miền Nam Việt Nam. Đồng thời ngân hàng Hoa kiều dời về Đài Loan, thanh niên Hoa kiều phản đối đi lính cho Việt Nam.
Trước những phản ứng quyết liệt với sự phiền trách của chính quyền Đài Loan đã được Mỹ trở lại nâng đỡ, anh em họ Ngô phải nhân nhượng, để cho Hoa kiều trở lại những tiệm buôn với tên mượn của người Việt.
Chiến dịch kinh tế của anh em họ Ngô nhằm tập trung vào quyền lợi nội thương và ngoại thương ở trong tay gia đình và bọn thủ hạ, đẻ ra thêm mấy sắc lệnh để bóp nghẹt những thương gia ở ngoài.
20.000 cơ sở xuất nhập cảng đã thành lập để tiêu thụ hàng hoá Mỹ theo viện trợ bỗng phải ngừng lại vì một nghị định của họ Ngô buộc mỗi nhà phải ký quỹ 350 ngàn đồng và phải có nhà kho chứa hàng.
Với một sắc lệnh, anh em họ Ngô đã chặn đứng những hoạt động phân chia hàng hoá theo viện trợ Mỹ. 20.000 nhà xuất nhập cảng phải đóng cửa, chỉ còn lại 777 nhà, trong số có 584 nhà thuộc quốc tịch Việt, hầu hết là đám thuộc hạ và các đảng viên Cần Lao, Phong trào Cách mạng quốc gia.
Nguồn lợi lớn lao nhập cảng và bán lại hàng hoá ngoại quốc tập trung vào gia đình họ Ngô và tay chân trung thành, cộng thêm với sự độc quyền nội thương, dưới hình thức hợp tác xã, các tổ chức chánh phủ cho vay mượn… thâu gom về một mối, từ rau Đà Lạt bán về Sài Gòn, gạo miền Nam chở ra Trung, than lục tỉnh đưa về Thủ đô…
Độc quyền chi phối và kinh doanh thương mại, công kỹ nghệ trong tay những kẻ cầm quyền và các đoàn thể, nhân vật thủ hạ của anh em họ Ngô đã biến cả miền Nam thành một tổ chức hoạt động kinh tài lớn lao cho gia đình Tổng thống.
Miến Trung thuộc về "Cố vấn lãnh đạo chính trị" ở Huế và bà chị thầu khoán, miền Nam thuộc về vợ chồng Lệ, cả toàn quốc thì ở dưới quyền khai thác kinh tế của Đức Cha. Uy quyền tối cao của Tổng thống Ngô Đình Diệm với những tổ chức mật vụ đặc biệt, công an, cảnh sát, quân sự… phối hợp công khai bảo vệ cho mọi công cuộc kinh tài của dòng họ và bè đảng.
Ngồi ở địa vị Đệ nhất phu nhân, Lệ ngự trị bao trùm lên tất cả như một vị nữ hoàng, cầm đầu triều đại họ Ngô.

Mới ba năm trị vì, những hoạt động kinh tài dưới danh nghĩa "Đức tổng giám mục", "Ông bà cố vấn "Ông cậu" diễn ra một cách bán công khai, trong khi Ngô Đình Diệm hô hào "bài trừ hối lộ, tham nhũng". Bất chấp dư luận trong nước, anh em họ Ngô trái lại sợ tiếng tăm đối với người Mỹ, nhất là các báo ngoại quốc, cho nên khi thấy một tờ báo Pháp đề cập đến những lời đồn đại "Đức Cha" tậu bin-đinh khai thác khách sạn mở mang đồn điền, "Ông bà cố vấn chính trị" gởi nhiều tiền ở ngân hàng Thuỵ Sĩ, mua xí nghiệp tại nước ngoài… thì bỗng dưng ngày 24 tháng 10 năm 1957, người ta đọc thấy lời đỉnh chính của vợ chồng Lệ đăng trên các nhật báo xuất bản ở Sài Gòn:
"Vợ chồng chúng tôi xin thanh minh là không gởi một số tiền nào ở ngân hàng ngoại quốc và tuyên bố phủ nhận không hề để cho ai lợi dụng danh nghĩa chúng tôi để hoạt động kinh tài. Chúng tôi cực lực đính chánh những lời đồn đại vô căn cứ có phương hại đến danh dự Cố vấn chính trị Tổng thống của chúng tôi".
Lời thanh minh của vợ chồng Lệ nhằm chặn đứng các bài báo tiết lộ thực trạng miền Nam của mấy ký giả Mỹ. Tố cáo việc sử dụng ám muội viện trợ Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đòi triệu hồi đại sứ giám đốc viện trợ Mỹ về Hoa Thịnh Đốn để chứng minh những hoạt động của họ tại Sài Gòn trước một Uỷ ban thượng nghị viện, ký giả Colegrove còn vạch trần những sự thối nát và độc tài của chính phủ Diệm và tuyên bố sẵn sàng đưa ra tất cả danh tánh những kẻ trong cuộc.
Loạt bài báo tố cáo có thể làm lung lay, sụp đổ cả gia đình họ Ngô trong trường hợp Mỹ xét lại công cuộc viện trợ, song may nhờ anh em họ Ngô khéo léo vận động nên Tổng thống Eisenhower không chịu đưa những tài liệu tố cáo trước Thượng nghị viện.
Đồng thời với công cuộc ngấm ngầm hoạt động ở Hoa Thịnh Đốn, qua trung gian của ông bà đại sứ Trần Văn Chương, vợ chồng Lệ mua chuộc được thêm một người Mỹ ở Sài Gòn, trao cho trông nom tờ nhựt báo Anh ngữ (Việt Nam Thời báo" (The Time of Vietnam) viết những bài ca ngợi chế độ họ Ngô.
Người Mỹ này trạc 40 tuổi, tên Gene Gregory, cựu tuỳ viên báo chí Sở Thông tin Hoa Kỳ (USIS) ở Sài Gòn, trước đây có phận sự theo dõi và coi chừng những hoạt động của vợ chồng Lệ. Biết được điều ấy, Lệ cùng chồng đã bỏ tiền bạc và quyền lợi ra mua chuộc Gregory, biến thành tay chân đắc lực của mình, đóng vai bênh vực cho anh em họ Ngô trước dư luận của người Mỹ.
Dưới bút hiệu Ngô Nhi, Gregory dùng tờ Time of Vietnam làm diễn đàn bảo vệ chính quyền Diệm.
Đền đáp lại công ơn Gregory, Lệ giao phó cho người vợ Anne Gregory, trông nom về quản lý nhựt báo được trợ cấp trọng hậu, và vào dinh dạy dỗ con cái Lệ học Anh ngữ, dịch các bài diễn văn của Lệ ra tiếng Anh. Trong khi ấy Gene Gregory luôn luôn được mời tiệc tùng trong dinh, thỉnh thoảng được vợ chồng Lệ cấp cho một vài áp phe khá tiền.
Chẳng mấy chốc, Gregory trở nên thuộc hạ trung thành đóng vai mật vụ cho Cố vấn chính trị Tổng thống bên cạnh những người Mỹ, đặc biệt là các ký giả Mỹ tại Sài Gòn.
Cũng nhờ đó, Lệ bắt đầu mua chuộc được một số ký giả ngoại quốc bằng tiền và bằng tình.



Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 1
Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 3
Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân - Phần 4

Không có nhận xét nào: