Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?

PHẦN 1: KINH DỊCH - DI SẢN SÁNG TẠO CỦA VIỆT NAM
 
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo.
Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam.
Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng.
Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn.
Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch.
1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc:
Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93).
Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579).
Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng.
2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc:
Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ.
Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó.
3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch.
Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh sáng.
Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam.
Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý:
a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả.
b) Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên.
c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo).
4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết
Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc).
Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ.
Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ.
5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch:
a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành.
Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật.
b) Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu.
c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc).
Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.
Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi.
6/ Kết luận:
Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch.
Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được.
Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau.
Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam.

PHẦN 2: CHIẾC GẬY THẦN - DẠNG THỨC NGUYÊN THỦY CỦA HÀO ÂM, HÀO DƯƠNG

Bat-quai.gif
Kinh Dịch được xưng tụng vào hàng kỳ thư của thế giới là do người làm ra Dịch biết vận dụng một cấu trúc độc đáo làm ngôn ngữ diễn đạt.
Ngôn ngữ của Dịch chỉ có hai ký tự: một hào âm và một hào dương. Hào dương là một vạch liền (-), hào âm là một vạch đứt (--). Đó là hai ký hiệu biểu trưng cho hai năng lực đối lập trong vũ trụ phối hợp với nhau tạo nên vận động của vũ trụ.
Vũ trụ được quan niệm như một thái cực, thái cực có hai năng lượng âm dương (lưỡng nghi) cọ xác nhau, đun đẩy nhau, biến hoá sinh thành tám dạng thức (tám quẻ đơn hay tám kinh quái).
Tám dạng thức này có hai đường vận động:
Tám quẻ đơn vận động trên vòng tròn tạo thành ba thiên đồ: Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ. Trung Quốc chỉ lưu hành hai đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Trung Thiên Đồ không được lưu hành ở Trung Quốc vì Trung Quốc không thể nào tìm được thiên đồ này, lý do là Việt Nam cha đẻ Kinh Dịch đã giấu biệt không cho Trung Quốc biết. (Xin xem Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam cùng tác giả).
Tám quẻ đơn chồng lên nhau từng đôi một, tạo thành 64 quẻ kép (hay 64 biệt quái).
Ba Thiên Đồ và 64 quẻ kép bao quát hết mọi qui luật vận động của vũ trụ giúp con người có thể hiểu biết thế giới, cũng như hiểu biết chính mình, qua đó quán chiếu được vận mệnh của mình và của vũ trụ.
Hai hào âm dương có công năng đa trị như thế chẳng khác chi chiếc gậy thần có phép biến hoá giúp con người có khả năng quán thông mọi sự, mọi việc.
Hai hào âm dương tuy đơn giản nhưng lại là phát minh quan trọng có tính quyết định. Đó là cách hệ thống thuyết âm dương, chuyển thành biểu tượng, nhờ biểu tượng - một phương pháp đặt thù của Kinh Dịch - con người có thể đạt đến minh triết.
Có thể nói không có hào âm, hào dương không có Kinh Dịch.
Do đâu người xưa sáng tạo được hai hào âm dương thần kỳ như vậy? Đây là thắc mắc mà nhiều người muốn được giải thích. Vương Ngọc Đức tổng kết một số kiến giải của các triết gia Trung Quốc:
"Dịch. Hệ từ hạ trả lời: "Xưa Bào Hy thị làm vua thiên hạ, ngẩng lên trời quan thiên tượng, cúi xuống đất xem địa pháp, quan sát muông thú và chất đất, gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật. Vậy là sáng tạo ra bát quái". Người ta không thoả mãn với lời giải đáp này, vì nó không nói được mối quan hệ giữa các hiện tượng của trời đất với quái hình của bát quái.
Khổng Dĩnh Đạt đời Đường trong "Chu Dịch chính nghĩa - Tự” giải thích: "Thánh nhân ngày xưa vẽ vạch cương, vạch nhu cho bát quái, tượng trưng cho hai khí. Sắp xếp ba vị trí, tượng trưng cho âm khí và dương khí"...
Quách Mạt Nhược trong "Trung Quốc cổ đại nghiên cứu" chỉ ra rằng, bát quái tượng trưng cho bộ máy sinh dục nam nữ, nguồn gốc của bát quái, ta thấy rất rõ đó là tàn dư của sự sùng bái sinh thực khí thời cổ. Nét - tượng trưng dương vật của nam, chia làm hai -- tượng trưng cho âm hộ của nữ, từ đó mà có quan niệm về nam nữ, cha mẹ, âm dương, cương nhu, trời đất" (1,tr 45).
Trên đây là cách giải thích của người Trung Hoa về phương cách lập thành hai hào âm dương. Kiến giải này nặng về tính dục.
Để xác định nguồn gốc của biểu tượng hào dương và hào âm, các nhà Dịch học Trung Quốc còn xướng thuyết "Dịch hào khởi nguyên từ phệ số".
Có người cho rằng Dịch hào do bói cỏ thi mà ra. Người ta dùng 50 cọng cỏ thi, bỏ 1 còn 49, sau ba lần biến họ được các con số: 36, 32, 28, 24, đem các số này chia cho 4, kết quả sẽ được 4 con số: 9, 8, 7, 6. Số 9 và số 7 là số lẻ thuộc dương tương đồng với hào dương vạch liền (-), số 8 và 6 là số chẵn thuộc âm tương đồng với hào âm vạch đứt (- -). Do đó họ kết luận hào dương hào âm xuất phát từ phệ số cỏ thi. Ta thấy rõ đây là lối giải thích quá khiên cưỡng kiểu thấy người sang bắt quàng làm họ. Số và tượng chỉ mới có mối tương đồng chứ không thể là một, đường ai nấy đi, gặp nhau chỉ là chuyện tình cờ. Số là số, tượng là tượng. Đối với Dịch chỉ có tượng mới qui định số, chứ số không thể chuyển hoá thành tượng nếu không được qui định.
Ở đây ta thấy có một sự song hành giữa bói cỏ thi và Dịch. Bói cỏ thi dùng phệ số, được số rồi phải đi tìm lời đoán, phệ số dừng lại ở định mức này không thể tiến xa hơn để phát triển thành triết học. Trong khi đó Dịch khởi nguyên từ tượng, có tượng hào âm hào dương mới có Dịch, không có tượng hào âm hào dương không thể khai sinh ra Dịch. Có tượng rồi mới có số, chỉ có số không thể tạo ra Dịch, thì làm thế nào Dịch lại từ bói cỏ thi mà ra.
Bói cỏ thi là môn bói toán thịnh hành thời nhà Chu Trung Quốc.
Dịch là của Việt Nam truyền qua. (Lưu ý: Dịch được đề cập ở đây là Kinh Dịch nguyên thuỷ không kể Dịch Truyện là phần tinh hoa của Trung Quốc do chịu ảnh hưởng của Dịch nguyên thuỷ phát triển thành. Trung Quốc gộp chung Dịch Kinh và Dịch truyện thành Kinh mà họ gọi là Chu Dịch).
Bói cỏ thi đang bế tắc vì không có hào từ qui định gặp được Dịch như cây gặp đất lành, cây lớn rất nhanh, phát triển thành rừng che kín cả đất. Về sau người ăn cây trái chỉ biết có cây, có rừng quên hẳn Đất. Đây cũng là chiến thuật trước ở ngoài sân sau lần vào bếp, mượn của người làm của mình, rồi soán đoạt luôn.
Bói cỏ thi dựa vào Dịch, rồi biến Dịch thành công cụ, sau đó đồng hoá sáp nhập. Kẻ đi vay mượn trở thành chủ nhân. Bói cỏ thi được Dịch nuôi dưỡng trở mặt thành cha đẻ của Dịch.
Gần đây, Trương Chính Lãng căn cứ vào những chữ số khắc trên những mảnh giáp cốt của đời Thương, đào được ở An Dương cũng khẳng định bát quái bắt nguồn từ phệ số, cho rằng hào dương là do số lẻ biến thành và hào âm là do số 6 (chữ lục) biến thành.
Trên giáp cốt văn hay trên kim văn người ta phát hiện có những nhóm chữ số kỳ lạ, gồm có ba chữ số hoặc sáu chữ số tạo thành. Điều này khiến người ta liên tưởng đến các quẻ Dịch cũng do 3 hào hay 6 hào tạo thành. Rõ ràng là mối tương đồng này chỉ mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để kết luận đấy là quẻ Dịch.
Trương Chính Lãng cho rằng trong các quẻ phệ số tìm được, chữ số 1 (chữ nhất -) và chữ số 6 (chữ lục, thời cổ đại viết là /\) sau này chữ nhất biến thành hào dương (-) và chữ lục /\ biến thành hào âm (--) do đó mặc dầu các chữ phệ số có nhiều số khác như 5, 7, 8 vẫn tuỳ theo số chẵn hay lẻ đều có thể đổi thành âm hoặc dương. Đây cũng là cách chặt đầu chặt chân để bỏ cho vừa rọ. Thuyết của Trương Chính Lãng cũng chỉ là thuyết khiên cưỡng như bói cỏ thi. Nhóm Chu Bá Côn đã thẳng thắn bác bỏ thuyết này:
"Cách lý giải cho rằng quái tượng và hào tượng do chữ số biến hoá mà thành xem ra rất hợp lý. Song về khía cạnh lôgic, chúng không thể giải quyết được vấn đề kết cấu của "Kinh Dịch". Chúng ta đã biết, bản thân cuốn sách Kinh dịch là do Bát quái và Lục thập tứ quái (64 quẻ) tạo thành, vì thế cho nên sẽ là 8 kinh quái, 64 biệt quái, hơn nữa đơn vị cơ bản cấu thành chúng là sự gắn chặt của (-) và (--). Bởi vì hai loại nét ngang liền và nét ngang đứt đoạn được chồng 3, chỉ có thể có 8 đồ hình khác nhau, xét trên góc độ toán học thì là 2.2.2 = 8. Còn 8 loại đồ hình khác nhau khi được bình phương lên thì cũng chỉ có 64, tức là 8.8 = 64. Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1, 5, 6, 7, 8 v.v... không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biệt quái". (2,tr. 63)
Đó là sự cách biệt một trời một vực giữa phệ số và Dịch, không thể đồng hoá phệ số là Dịch, cũng không thể nói số lẻ số chẵn dễ dàng chuyển hóa thành vạch liền vạch đứt được.
Trong khi người Trung hoa còn đang lúng túng về khởi nguyên của dạng hào vạch, thì trên trống đồng Đông Sơn của quê hương Việt Nam hào âm, hào dương và quẻ được khắc rất rõ khắp nơi trên mặt trống, trên tang trống, trên thân trống với nguyên hình, nếu chịu nhìn là nhận ra ngay.
Trên đồ đồng Đông Sơn ta thường gặp những hình tượng biểu lộ tín ngưỡng phồn thực nhưng đối với người Văn Lang tính dục không phải là mối bận tâm hàng đầu, vì thế hình tượng sinh thực khí không phải là nguyên mẫu ảnh hưởng đến người sáng tạo ra Dịch. Những họa tiết hoa văn trên trống đồng Đông Sơn cho ta một cách tiếp cận khác, thực tế hơn.
Nhìn những chiếc thuyền trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ, ta không khỏi tự hỏi: Tại sao trên mạn những chiếc thuyền này có vẽ những hoa văn vạch và chấm? Đó có phải là hình những chiếc nan tre gợi ý thuyền làm bằng tre đan, điều này khó thành hiện thực vì đầu thuyền và đuôi thuyền đều được uốn cong lên và có chạm tỉa hình đầu chim rất tỉ mỉ, chứng tỏ thuyền phải làm bằng gỗ. Có người cho rằng những đường vạch ngắn đó tượng trưng cho việc ghép những mảnh ván gỗ. Kiến giải này khó chấp nhận vì những vạch ngắn ở đây thường nằm đứng mà gỗ ghép thuyền thì phải nằm ngang theo chiều dài của thuyền. Đáng chú ý nhất là những đường vạch chấm chấm có mặt ở đây, không thể nói đây là những hàng đinh đóng. Vậy thì những hàng chấm chấm này biểu trưng cho cái gì?
Một khi ta đã ý thức rằng những hoạ tiết hoa văn trên trống đồng có liên hệ đến Dịch, ta sẽ nhận ra sự việc hết sức đơn giản rằng đó chỉ là hình tượng những hào âm, hào dương. Hào dương vạch liền, hào âm vạch chấm chấm. Trên thuyền chỗ nào cũng đầy những con mắt Dịch (xin xem "Con mắt Dịch" cùng tác giả), thì thân thuyền trang trí đầy những hào quẻ không có gì lạ chẳng qua tất cả đều nằm trong một hệ thống.
Có sự khác biệt giữa hình dạng hào đang lưu hành và hình dạng hào nguyên thuỷ.
Người Trung Hoa giữ nguyên trạng hào dương một vạch liền nhưng đã cải biến hào âm thay vì vạch nhiều chấm họ đã đổi thành một vạch đứt. Có cách thay đổi này có thể là để vẽ cho nhanh.
Không phải đợi đến thời kỳ Đông Sơn hào âm dạng nhiều chấm mới xuất hiện, thật ra hào âm nhiều chấm đã có mặt từ thời văn hoá Phùng Nguyên trước hào âm dạng vạch đứt cả nghìn năm.
Khi những triết gia Văn Lang muốn tìm một hình ảnh để biểu tượng cho hào dương họ không phải mất nhiều thời gian, trong tay họ thường ngày vẫn cầm nắm những dụng cụ lao động: ngọn giáo đi săn, cây đâm trống, những dụng cụ này gợi ý cho họ chọn một vạch liền để tượng trưng cho hào dương. Nhưng với hào âm thì có thể phải mất nhiều thời gian suy tư.
Triết gia thời cổ đại không ngồi trong phòng giấy để suy tưởng. Minh triết của họ gắn liền với thao tác lao động. Họ làm việc, thâm nhập vào cuộc sống, suy gẫm từ cuộc sống.
Một buổi sớm mai trời còn mờ mờ, nhà hiền triết Văn Lang đã cầm ngọn giáo theo đoàn người lên nương, hôm nay họ trồng một loại ngũ cốc. Một người đàn ông đi giật lùi, vừa đi người đàn ông đó vừa cắm mạnh ngọn giáo xuống đất, rồi giựt mạnh ngọn giáo lên, một cái lỗ nho nhỏ hiện ra, một người đàn bà tay ôm bọc đậu bước lần theo, bàn tay kia bốc một hạt đậu khom lưng xuống tra hạt đậu vào lỗ. Cứ thế một người đi lui, một người bước tới, họ tỉa đậu một cách nhịp nhàng.
Nhìn những người anh em hăng say canh tác, xa xa có tiếng suối reo vọng về hoà lẫn tiếng chim hót líu lo trong lúc ánh bình minh đang lên, lòng nhà hiền triết dâng lên một một niềm vui rộn rã, khoan khoái, bỗng một tia chớp vụt loé sáng, nhà hiền triết cảm thấy như đang ngập tràn trong niềm hạnh phúc vô biên. Ngài cắm mạnh ngọn giáo xuống đất, ngắm đi, ngắm lại cái lỗ nhỏ vừa được tạo ra. Ngài sung sướng lẩm bẩm với chính mình: "Đây rồi!".
Nhà hiền triết như thấy được ngày mai, từ cái lỗ nhỏ những cây đậu mọc ra những lá mầm xanh mơn mởn, chẳng khác gì hình ảnh những bà mẹ hoài thai sinh ra những đứa con xinh xắn. Vạn vật theo giòng năm tháng sinh sôi nảy nở.
Nhà hiền triết Văn Lang, cha đẻ của Kinh Dịch, thở phào nhẹ nhỏm, ngài đã tìm ra hình ảnh tượng trưng cho hào âm, đấy là những chấm nhỏ nối nhau như những lỗ tra hạt giống.
Phát minh của nhà hiền triết Văn Lang được khắc ghi lại trên đồ gốm Phùng Nguyên và hậu duệ của ngài tiếp tục truyền thống đó ghi lại trên trống đồng. Những vạch chấm đó được vẽ trên hình chim, trông mường tượng như lông chim khiến hậu thế hiểu lầm. Với chim thì còn giống, còn dễ lầm nhưng với bò trên trống đồi Ro những hình trang trí đó cũng gọi là lông bò được sao, và cả trên hình thuyền trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ, chẳng lẽ là lông thuyền!
Quan sát một mẫu thuyền trên trống Miếu Môn (Hình 1), trích từ (3,tr 206), ta thấy rất nhiều hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm chấm được trang trí trên mạn thuyền. Vì là trang trí nên khó xác định được quẻ, nhưng các nhà thiết kế thường dùng nhiều quẻ Càn 3 vạch liền. Vạch chấm chấm nằm rải rác nên ta có thể đọc được rất nhiều dạng quẻ tuỳ vị trí của nó như quẻ Đoài có một vạch chấm chấm ở trên và hai vạch liền ở dưới, quẻ Ly có một vạch chấm chấm ở giữa và hai vạch liền hai bên, quẻ Tốn có một vạch chấm chấm ở dưới và hai vạch liền ở trên.
Các vạch hào âm dương này cũng được trang trí trên chim đang săn mồi cạnh thuyền.
Trên lưng chim còn có hình con mắt một vòng tròn có chấm ở giữa đó là hình dạng quẻ Ly, chấm giữa và vòng tròn bên ngoài là hào dương, vòng trắng ở giữa chính là hào âm.
Theo Kinh Dịch quẻ Ly có các biểu tượng là con chim, con bò, lưới săn.
Trên đầu những người ngồi trên thuyền có đội mũ hình ba vạch đó là tượng quẻ Càn (trời), không phải là lông chim, đây là loại mũ Dịch dùng để đội khi tế lễ.
Tất cả những hoạ tiết trên trống đồng thường được gọi là lông đều nằm trong một hệ thống. Đấy là những hào âm, hào dương, biểu tượng của Dịch.
Những chiếc mũ trên đầu người trên trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ không phải là những chiếc mũ lông chim như vật trang trí của những bộ lạc Di Địch quanh Trung Quốc, mà đấy là biểu tượng của Dịch, một nét đặc thù của người Văn Lang. Nếu là lông chim thì toàn bộ chỉ là những đường sọc kéo xuống sao lại còn có những đường chấm chấm kéo xuống? Đường nhiều chấm là hào âm, đường liền là hào dương. Cho nên ta có thể nói những chiếc mũ đó là những chiếc mũ Dịch thường được dùng để đội mỗi khi hành lễ.

Trong hình vũ sĩ (hình 2) trích từ (3,tr 207) trên trống Miếu Môn ta có thể tìm thấy một cách rõ ràng các quẻ Ly trên tấm mộc, quẻ Càn trên mũ vũ sĩ, quẻ Đoài trên áo vũ sĩ, quẻ Đoài tượng trưng cho sự hoan lạc. Cũng trong trang này (3,tr 207) ta thấy nhiều quẻ ở hình 3:
Dải băng trắng và dải băng có chấm chấm là hào âm. Dải băng có hình tam giác và dải băng có hình hai vòng tròn có chấm ở giữa là hào dương. Cứ ba băng làm thành một quẻ đơn ta có thể đọc lần lượt từ trên xuống quẻ Chấn/Lôi, quẻ Khảm/Thuỷ, quẻ Cấn/Sơn. Nếu đọc theo quẻ kép ta có hai quẻ: Lôi Thuỷ Giải và Thuỷ Sơn Kiển (Quẻ Khảm/Thuỷ nằm giữa vừa thuộc quẻ trên vừa thuộc quẻ dưới, do yêu cầu trang trí tỉnh lược).

Hình 4:Hoa văn trên trống Đồi Ro

Trên thân bò khắc trên trống Đồi Ro hay trống Làng Vạc I có hình những con bò rất đặc biệt (hình 4), trích từ (3,tr 216), con nào cũng có lông là hình khắc vạch các hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm chấm. Ta có thể tìm thấy nhiều nhất là hình dạng các quẻ Tốn. Đây có thể là hình những con bò được đem làm lễ tế vì quẻ Tốn, quẻ thứ 41, hào Lục Tứ có câu: điền hoạch tam phẩm. Theo Vương Bậc - Chu Dịch chú: "tam phẩm là ba loại thịt dùng để tế tự, để đãi tân khách, và để đưa vào nhà bếp". Cái u trên lưng bò có hình con mắt Dịch tức là quẻ Ly - hình vòng tròn có chấm. Ta biết, theo Dịch Ly có tượng là con bò.
Bên cạnh con bò còn có quẻ Lôi Thuỷ Giải và Thuỷ Sơn Kiển vẽ theo dạng đứng. Giải Kiển tức là Giải nạn, nạn hạn hán hay là lũ lụt. Vậy đây là những con bò dùng trong lễ hiến tế để cầu giải hạn.
Trên trống Ngọc Lũ hay trống Hoàng Hạ có những ngôi nhà sàn mái hình vòng cung vồng lên (sống lồi) hay võng xuống như ở trống Sông Đà (sống võng), mặt trước nhà có trang trí những hình vòng tròn có chấm, có hay không có tiếp tuyến (hình 5).

http://tusach-img.thuvienkhoahoc.com/images/d/dd/Trongdong1.gif
Hình 1:Hoa văn trên trống Miếu Môn
http://tusach-img.thuvienkhoahoc.com/images/e/e1/Trongdong2.gif
Hình 2:Hoa văn trên trống Miếu Môn
http://tusach-img.thuvienkhoahoc.com/images/6/66/Trongdong3.gif
Hình 3: Hoa văn trên trống Miếu Môn
Nguyễn Văn Huyên và Hoàng Vinh cho đó là ngôi nhà có liên quan đến nghi lễ tôn giáo, đề nghị gọi là "nhà cầu mùa" và dẫn thêm ý kiến của những tác giả khác:
"Pac-măng-chi-ê gọi đó là vật hình vòng cung (arche). (H.Parmentier - Anciens tambours de bronze.BEFEO T.XVIII. Hà Nội. 1918 P.5)
Đào Duy Anh tán thành ý kiến của Gô-lu-bép cho đây là cảnh đánh chiêng (Đào Duy Anh - Văn hoá đồ đồng và trống đồng Lạc Việt. Hà Nội, 1957, tr.34)
Văn Hựu xem đó là những tấm phên (Văn Hựu - Cổ đồng cổ đồ lục. Bắc Kinh, 1957)
Nguyễn Ngọc Chương cho đó là ngôi nhà để tiến hành nghi lễ có liên quan đến việc cầu mùa (Nguyễn Ngọc Chương - Tìm hiểu một số hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ, "Nghiên cứu Lịch Sử" số 141, Hà Nội 1971)" (3,tr.2)
Rất có thể đây là nhà cầu mùa hay nhà cầu giải hạn, đúng như các tác giả đã nói là ngôi nhà có liên quan đến nghi lễ tôn giáo, theo thiển ý ngôi nhà này có nhiều liên hệ đến Dịch, tư tưởng chủ đạo của thời Hùng Vương chi phối mọi sinh hoạt của cư dân Văn Lang thời ấy.
Các ngôi nhà trên cả ba trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà đều có điểm chung là dùng các hào dương vạch liền, hào âm vạch chấm chấm và vòng tròn có liên quan đến Dịch để trang trí.
Các vòng tròn ở đây không thể quan niệm là những chiếc chiêng có núm được vì trên lưng hai con chim trên nóc nhà trống Hoàng Hạ cũng có vòng tròn có chấm này và tất nhiên chim đó không thể mang chiêng trên mình nó. Lại thêm những vòng tròn có chấm trên trống Sông Đà có tiếp tuyến không thể xem đó là những sợi dây buộc chiêng được.
Hai con chim trên nóc nhà trống Hoàng Hạ có thể gọi là hai con chim Dịch, một con lớn và một con nhỏ, như một trống một mái, hai con đang cọ mỏ vào nhau tượng cho âm dương giao hoán theo nghĩa giao dịch của Kinh Dịch.
Hai cột trang trí hai bên hông nhà không thể là hai trụ cột vì nó nằm nghiêng và không chấm đất, chỉ có thể là hai cột trang trí, các cột nay trên cùng có hình các vòng tròn đồng tâm, vòng tròn có thể xem là biến thái của chấm, tượng trưng cho nguyên lý âm, vòng tròn có chấm ở giữa tượng trưng cho nguyên lý dương.
Các vòng tròn nhỏ có chấm giữa là những con mắt Dịch, biểu tượng của Dịch Văn Lang (sẽ giải rõ hơn trong bài "Con mắt Dịch" cùng tác giả).
Các chấm và các vạch ngang dùng để trang trí gợi nhắc đến hào âm và hào dương. Đường tiếp tuyến chính là hào dương-cây gậy thần nối những con mắt Dịch dẫn đưa trí tuệ của Dịch Văn Lang lan tỏa khắp không gian.
Vì những liên hệ đó với Dịch có thể gọi đây là Nhà Bói Dịch hay đúng hơn là Nhà Bói Diệc (Chữ Dịch còn đọc là Diệc, chỉ một loại Cò, xin xem "Đi tìm định nghĩa Dịch trên trống Đông Sơn" cùng tác giả). Cư dân Văn Lang tìm đến những ngôi nhà này để hỏi về cát hung, về cách giải quyết các vấn đề của cuộc sống, các nhà lãnh đạo đến những ngôi nhà này để cầu mùa, cầu giải hạn, giải quyết những vấn đề nhân sinh.
Cảnh sinh hoạt được khắc hoạ trên trống đồng chính là cảnh sinh hoạt của một ngày hội Dịch. Không những con người hân hoan rộn ràng ca múa chào đón ngày Hội, mà cả sinh vật cũng hoà chung niềm vui với con người, từng đàn chim Dịch bay lượn, từng đàn hươu Dịch con âm con dương nối bước nhau diễn quanh trống đồng theo chiều quay của trái đất. Không chỉ vui riêng cho mình, người Văn Lang còn đưa không khí Dịch đến từng sự vật con thuyền, mái chèo, ngọn giáo, đâu đâu cũng trang hoàng ký hiệu của Dịch: những con mắt Dịch, hào Dịch, quẻ Dịch. Người và vật cùng say sưa, ngây ngất trong mùa Hội Dịch hay đúng hơn là Hội Diệc bất tận đi mãi cùng thời gian.
Sưu tầm: Nguyễn Thiếu Dũng theo thanhnienonline.com.vn

Không có nhận xét nào: